Thiên Hạ Kiêu Hùng 17

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thiên Hạ Kiêu Hùng

Tác giả: Cao Nguyệt

Thể loại: Lịch Sử Quân Sự

Nhóm dịch: Quan Trường

Nguồn dịch: Mê Truyện

Ebook by: Kiếm Giới

Creator by: Thủy Hỏa Thần

-------o0o-------

  Chương 801 : Kế ly gián

- Bệ hạ! Thần lo lắng nhất là ông ta khống chế quân đội, năm người con trai của ông ta Giai, Hoằng, Chỉnh, Hằng, Tể Giai nắm giữ binh quyền trong quân đội, cẩn thận chu đáo. Thần tuy là Phó tướng, thực sự từ trước tới giờ không nắm binh quyền. Nếu Lai Hộ Nhi thực sự cùng triều Đường có kết cấu, một khi ông ta phát động binh biến, Tây Lương gặp nguy rồi. Bệ hạ! Không thể sơ suất.

Tiêu Tiển trầm tư một lúc lâu, trong mắt lóe lên sát ý hung ác. Y lạnh lùng nói:

- Ông ta cho rằng bản thân có công lao lớn thì có thể tùy ý làm bậy sao? Sự nhẫn nại của Trẫm là có mức độ, nếu ông ta muốn chết, Trẫm có thể giúp đỡ ông ta.

Vừa đi mấy bước, Tiêu Tiển nói với Tiêu Lãng:

- Ra lệnh thủ hạ của ngươi bí mật bắt Đường Sứ, sau khi bắt giữ lập tức áp giải cho Trẫm.

- Thần tuân chỉ!

Tiêu Lãng lui xuống rồi, Tiêu Tiển chắp tay đứng trước cửa sổ, không chịu được đã cúi đầu thở dài:

- Vì sao thành ý của Trẫm, luôn không đổi lại được sự trung thành của đại thần?

Trên Cống Thủy bên ngoài thành Dự Chương, lặng lẽ đậu hàng trăm tàu chiến, trong một chiếc thuyền chủ to lớn, thị vệ thân binh của đệ nhất quyền thần Lai Hộ Nhi nước Lương đứng la liệt.

Lai Hộ Nhi trong thành Dự Chương cũng có phủ đệ, nhưng ông ta có nhiều lúc đều thích ở trên thuyền. Hôm nay cũng không ngoại lệ, ở trong một buồng nhỏ sáng sủatrên thuyền, Lai Hộ Nhi cùng Đường Sứ Chu Thiệu Đức ngồi đối diện nhau.

Chu Thiệu Đức là cháu trai của đại tướng Chu Pháp Thượng thân tín của Lai Hộ Nhi, cha của y Chu Pháp Minh cũng từng là Đại tướng thủ hạ của Tiêu Tiển. Sau này hàng Đường, bởi vì Chu gia và Lai Hộ Nhi mấy đời thân nhau, tình cảm qua lại thắm thiết, cho nên Lý Uyên phái Chu Thiệu Đức tới khuyên bảo Lai Hộ Nhi.

- Thế thúc còn không biết hiểu con người Tiêu Tiển người này sao? Lòng dạ hẹp hòi, trong lòng nghi ngờ rất sâu. Năm đó Đổng Cảnh Trân trong quân đội cực kỳ có uy vọng, y không thể dung, ra lệnh Trương Tú giết. Thấy được công lao to lớn của Trương Tú, y lại quay đầu giết Trương Tú. Hôm nay thế thúc nắm quân quyền, công chấn chủ, với tính cách nghi kỵ của y, y có thể dễ dàng chịu đựng Thế thúc sao?

Lai Hộ Nhi cúi đầu không nói, một lát sau thở dài nói:

- Ông tổ ta chính là Lương thần, ta tiếp tục kế thừa Tổ nghiệp, thành tâm cống hiến sức lực cho triều Lương, chính là hi vọng xây dựng lại nước Lương. Tiêu Tiển mặc dù lòng dạ hẹp hòi, nhưng ngài cũng là anh hùng kiệt suất có hoài bão tham vọng. Mà đối đãi với ta không lạnh nhạt, anh ta hẳn hiểu rõ ta bây giờ là trụ cột ở Đại Lương, sẽ không thể dễ dàng động tới ta. Bây giờ triều Lương phục hồi khó khăn, chính là lúc ta tận tâm đền đáp, mời chuyển cáo tới Đường chủ, ta Lai Hộ Nhi cảm tạ ý tốt của Ngài.

Chu Thiệu Đức hết lần này đến lần khác khuyên bảo, Lai Hộ Nhi chỉ lắc đầu không chịu. Chu Thiệu Đức thấy không nói được Lai Hộ Nhi, trong lòng cực kỳ bất dắc dĩ, chỉ đứng dậy cáo từ.

Lai Hộ Nhi tiễn y tới khoang thuyền, mấy người tùy tùng hộ vệ của Chu Thiệu Đức từ mạn thuyền bước xuống thuyền nhỏ, thuyền nhỏ trong đêm đen lắc lư trôi đi.

Lai Hộ Nhi vẫn nhìn theo thuyền nhỏ đi xa, lúc đó tâm sự mới trầm xuống trở về khoang thuyền. Lúc đó con trai lớn Lai Giai đã đi tới, Lai Giai khoảng bốn mươi tuổi. Lúc trong triều Tùy y chính là Lang tướng Hổ Bí, theo cha Nam chinh Bắc chiến, cũng là Đại tướng thủy quân nổi tiếng trong quân Tùy.

- Phụ thân trả lời Chu Thiệu Đức rồi chứ?

Lai Giai có chút lo lắng về sự lựa chọn của cha, thực sự y ngược lại không phải là trung thành với Tiêu Tiển. Nếu như để y lựa chọn, y thà rằng về Tùy, trước đó không lâu Dương Nguyên Khánh phái người bí mật tiếp xúc với y. Y có chút động lòng rồi, chỉ là phụ thân không chịu, y cũng không thể làm thế nào được.

Lai Hộ Nhi khoát tay:

- Ta sẽ không đầu hàng Lý Uyên. Trước đây y đầu hàng Đột Quyết, dẫn người của Đột Quyết xâm phạm biên giới Phong Châu, bản thân lại nhân cơ hội chiếm lĩnh Quan Trung. Kiểu người này lấy đại nghĩa dân tộc để gây dựng cơ nghiệp. Ta từ trong xương cốt coi thường y, cho nên ta kiên quyết từ chối.

- Vậy phụ thân vì cớ gì lại không chịu quy về Tùy vậy?

Lai Giai vội vàng truy hỏi.

Lai Hộ Nhi thở dài một cái nói:

- Năm đó ta là cấp dưới của Dương Tố, được Dương Công đối đãi ân đức. Nhưng Dương Huyền Cảm tạo phản, ta toàn lực trấn áp, Dương Huyền Cảm đã viết thư hỏi ta, vì cớ gì không nhớ ân đức của người trước. Ta không để ý tới y, mà Dương Nguyên Khánh là con của Dương Huyền Cảm, trong lòng ta có bất an.

- Thế nhưng phụ thân cũng biết, Dương Nguyên Khánh và phụ thân Huyền Cảm luôn bất hòa. Huyền Cảm tạo phản, hắn vẫn chủ động cùng phụ thân cắt đứt quan hệ. Hắn làm sao có thể vì chuyện của Huyền Cảm hận phụ thân phải không? Hài nhi nghe nói hắn phát triển mạnh thủy quân tại quận Bắc Bình, chính là lúc dùng người, hơn nữa chúng ta vốn dĩ chính là tướng Tùy, quy về Tùy cũng là lẽ bất di bất dịch, phụ thân vì sao không suy xét? Hơn nữa Tiêu Tiển người này chỉ có thể chung hoạn nạn, không thể cùng phú quý. Vết xe đổ của Đồng Cảnh Trân và Trương Tú, phụ thân quên rồi phải không?

Lai Hộ Nhi thấy con trai lo lắng, không chịu được cười phá lên:

- Con không nên lo lắng, ta làm tướng hơn mười năm, Tiêu Tiển là người như thế nào ta làm sao có thể không biết chứ?

Lai Hộ Nhi nghĩ đến sự vô tình của Tiêu Tiển, y thở dài nói:

- Cho nên cha mang huynh đệ các ngươi sắp xếp vào trong quân đội, khống chế quân quyền, chỉ có nắm giữ quân quyền, Tiêu Tiển mới có thể không gây khó dễ cho các con được. Còn về triều Tùy, vì cha đã già nua, không muốn lại vì tranh bá thiên hạ mà tận sức lo nghĩ. Vì cha chỉ muốn sống bình an lúc tuổi già tại quê hương, bây giờ đều đã mang mấy huynh đệ các con tới, ta sẽ ẩn lui. Về phần tương lai các con muốn đi đâu? Vi phụ thân cũng không thể can thiệp.

Lai Giai lúc này mới hiểu được tâm tư của phụ thân, y cúi đầu không nói, cân nhắc tương lai của bản thân.

Chiếc thuyền nhỏ mà Chu Thiệu Đức ngồi đã cập bờ. Chu Thiệu Đức cùng mấy tên tùy tùng đã lên bờ, y nhìn xung quanh, ở chỗ này y đã sắp xếp mấy tên tùy tùng dẫn ngựa đứng chờ, làm sao không có người nào?

Đúng lúc này, bỗng nhiên từ trong rừng cây cách mấy chục bước xông ra một đám binh sĩ, vây quanh Chu Thiệu Đức và tùy tùng của y.

Tiêu Lãng toàn thân áo giáp sắt, ngựa chiến cầm sóc đi ra khỏi rừng rậm, dùng mã sóc chỉ vào Chu Thiệu Đức, cười nhạt:

- Hóa ra là mày tên phản tặc này! Đầu hàng triều Đường, còn dám trở lại Dự Chương, chán sống phải không?

Tiêu Lãng vung tay lên:

- Bắt lấy cho ta!

- Khoan đã!

Chu Thiệu Đức hô to một tiếng:

- Không cần đánh, ta đi theo các ngươi là được rồi.

Nếu như có thể gặp được Tiêu Tiển, cho dù y bị giết chết, y cũng có thể vì triều Đường lập công lớn, tạo ơn cho con cái ông ta.

Mấy tên thị vệ đẩy Chu Thiệu Đức vào phòng của Tiêu Tiển, bị bọn thị vệ ấn quỳ xuống. Tiêu Tiển chớp mắt quan sát Chu Thiệu Đức, trong ánh mắt lộ ra ý cười nhạo châm biếm:

- Hóa ra là Chu Thiệu Đức, lâu không gặp vẫn khỏe chứ!

Chu Thiệu Đức hừ một tiếng, không nói lời nào, Tiêu Tiển đi lên trước quan sát y một chút, vừa cười vừa nói:

- Xem ra ở triều Đường tất cả vẫn tốt mà! So với trước béo ra rồi, dường như cũng trắng hơn, lẽ nào khí hậu của Quan Trung còn dễ chịu hơn Kinh Tương sao?

- Là nhân đức của Thánh Thượng Đại Đường dễ chịu, sống rất hài lòng thoải mái, tự nhiên sẽ béo.

Tiêu Tiển biến sắc, lạnh lùng nói:

- Ngươi là đang mỉa mai sự thất đức của ta phải không?

- Ngươi có đức hạnh hay không, bản thân ngươi đều rõ hơn ai hết phải không?

Tiêu Tiển giận giữ, lập tức ra lệnh nói:

- Kéo xuống tra tấn, hỏi y và Lai Hộ Nhi đã nói cái gì?

Mấy tên thị vệ dũng mãnh như hổ báo kéo Chu Thiệu Đức ra. Không lâu sau, trong đêm đen truyền tới tiếng kêu thảm thiết của Chu Thiệu Đức.

Khoảng sau nửa tiếng, Tiêu Lãng vội vã đi vào, khom mình hành lễ nói:

- Bệ hạ, y nhận tội rồi.

- Y nói như thế nào?

Tiêu Tiển quay đầu lại hỏi, trong lòng y cực kỳ quan tâm Chu Thiệu Đức và Lai Hộ Nhi đã nói chuyện gì.

- Y nói y nhiều lần khuyên Lai Hộ Nhi đầu hàng triều Đường, nhưng thái độ của Lai Hộ Nhi mập mờ, đưa ra điều kiện của Quốc Công. Nếu Đường đế có thể phong ông ta thành Quốc công, khi điều kiện thích hợp nhất ông ta sẽ đầu hàng Đường.

Tiêu Tiển giận giữ, “rầm” một tiếng y đập lên bàn, nghiến răng nghiến lợi mắng:

- Trẫm phong ông ta thành Quận vương không muốn, rõ ràng muốn làm Quốc công triều Đường. Ông ta rốt cục làm nhục nhã Trẫm như vậy.

Mặc dù Tiêu Tiển trong lòng cực kỳ hận Lai Hộ Nhi, nhưng y cũng không lộ vẻ mặt. Lai Hộ Nhi và con trai của y đang nắm giữ đại quyền quân Lương. Bây giờ y vẫn không thể trở mặt với Lai Hộ Nhi, mấy ngày liền, y giống như không có chuyện gì xảy ra.

Y đang đợi cơ hội diệt trừ con trai của Lai Hộ Nhi.

Tối hôm nay, Tướng quốc Sầm Văn Bản từ Giáo Lương quận Lư Lăng trở về, liền lập tức tới gặp Tiêu Tiển:

- Bệ hạ! Thần nghe nói Lý Hiếu Cung dẫn đại quân Kinh Tương tới phía Bắc Trung Nguyên, binh lực trấn thủ Kinh Tương chưa đến ba mươi ngàn người, cơ hội tốt như vậy, chúng ta không thể bỏ qua!

Tiêu Tiển tất nhiên biết, Lai Hộ Nhi mấy lần tỏ thái độ, yêu cầu dẫn quân Tây phạt Kinh Tương, đều bị Tiêu Tiển lạnh lùng từ chối. Y làm sao có thể đáp ứng thỉnh cầu của Lai Hộ Nhi.

 Chương 802 : Lựa chọn của Lý Uyên

Một khi Lai Hộ Nhi bắt được Kinh Tương, thế lực của y càng mạnh hơn, càng khó tập hợp. Nói không chừng, đây là lúc cái gọi là thời cơ thích hợp nhất của y.

Bây giờ đối với Tiêu Tiển mà nói, giành Kinh Tương cũng không quan trọng, quan trọng là y lấy lại được quân quyền. Y dù là chủ nhưng nếu không có quân quyền, tất cả đều là vô cùng nguy hiểm.

- Trẫm bây giờ tạm thời không lo lắng Tây chinh, vừa mới kết thúc chiến trận của Lâm Sĩ Hoằng, nên ổn định đại cục trước mới đúng.

- Nhưng Bệ hạ!

Sầm Văn Bản lo lắng trong lòng, y còn muốn khuyên nữa, lại bị Tiêu Tiển không do dự ngắt lời:

- Trẫm hơi mệt rồi, hôm nào lại nói nhé!

Thành Trường An, Phiêu Kỵ Tướng quân Vũ Văn Sĩ Cập dẫn đầu mấy người tùy tùng, một mạch đánh ngựa chạy như bay tới, xông vào Minh Đức môn. Vũ Văn Sĩ Cập từ sau khi quy về Đường, Lý Uyên nhớ tình bạn cũ, liền phong y làm Tần Vương phủ Phiêu Kỵ Tướng quân.

Tướng quân Phiêu Kỵ chỉ là một chức quan, tương đương với người hầu của Tần vương, giống như đám người Uất Trì Cung, Khâu Hành Cung, Đoàn Chí Huyền… cũng là Tướng quân Phiêu Kỵ, có thể mang quân đánh trận, cũng có thể quản lý sổ sách.

Vũ Văn Sĩ Cập chính là một chức văn chức quan quân, nhưng đại thần Tùy Đường đa số văn võ song toàn. Vũ Văn Sĩ Cập mặc dù quản lý chức quan văn, nhưng y cũng có thể mang quân đánh trận, phụ thân Vũ Văn Thuật cũng đã dạy y võ nghệ.

Vũ Văn Sĩ Cập là phụng lệnh của Tần Vương Lý Thế Dân, khẩn cấp chạy về triều đình gặp mặt Thánh thượng. Nhưng hai ngày đó, tâm hồn của y không yên, y nhận được một tin tức, vợ của y đã theo Tiên Hậu trở về Tùy.

Y đương nhiên biết, bởi vì cái chết của Dương Quảng, cảm tình của y và vợ đã không có cách bù đắp đầy đủ, thù nước hận nhà, y cũng không trông mong vợ có thể trở lại bên cạnh y. Nhưng y không yên tâm con trai Thiện Sư của mình, tình thân cha con liệu có vì nguyên nhân đó một đao đứt thành hai đoạn hay không?

Vũ Văn Sĩ Cập thở dài thở ngắn trong lòng, chỉ là thế cục của Lạc Dương khiến cho y không rảnh rỗi bận tâm tới vợ, bỗng nhiên quất một roi vào ngựa chiến, tăng tốc độ xông vào bên trong Hoàng thành.

Vũ Văn Sĩ Cập đã vào Hoàng thành, chạy thẳng một mạch tới cửa cung thành. Y xoay người xuống ngựa, bước nhanh đi tới trước cửa cung nói với thị vệ:

- Nhờ thay ta thông báo với Thánh Thượng, nói là Vũ Văn Sĩ Cập phụng lệnh Tần vương từ Lạc Dương tới, muốn gặp Thánh Thượng khẩn cấp bẩm báo quân tình.

Thị vệ không dám chậm trễ, chạy vội vào trong cung.

Bên trong ngự thư phòng, Lý Uyên đang đứng trước một cái sa bàn Trung Nguyên, cùng Tướng quốc Tiêu Vũ thương lượng quân cơ đại sự. Sau khi chiến dịch Lạc Dương bùng nổ, toàn bộ tâm tư của Lý Uyên đều đặt trong trận chiến dịch này, đối với sự việc của triều đình y cũng không hỏi đến, toàn bộ giao cho Thái tử Lý Kiến Thành chủ quản.

Phần lớn thời gian mỗi ngày của y đều trước sa bàn quan tâm sự phát triển của chiến cuộc, lo lắng việc quân, thật sự là trận chiến Trung Nguyên này đối với Đại Đường có vai trò quan trọng.

Nếu nắm giữ được Trung Nguyên, như vậy toàn bộ đại cục thiên hạ y đã chiếm năm phần ưu thế. Dương Nguyên Khánh chiếm ba phần, Lý Uyên chiếm hai phần.

Nếu như trận chiến Trung Nguyên thất bại, như vậy ưu thế của y chỉ còn lại có bốn phần. Mà Lý Mật và thế lực khác của y vẫn là chiếm hai phần, có thể xuất hiện kiểu tình hình ba phần thiên hạ. Đây là kết quả Lý Uyên tuyệt đối không muốn thấy.

- Tiêu Tướng quốc, Dương Nguyên Khánh xuất binh, Lạc Dương đã là thế cục đã định. Theo tình báo của chúng ta, Dương Nguyên Khánh tại Hoàng Hà đã bố trí bốn đến năm mươi nghìn đại quân. Trẫm nghi ngờ y không chỉ là muốn đánh Lạc Dương, hơn nữa còn muốn cướp đoạt Trung Nguyên. Đại chiến lần này không phải là chuyện đùa đâu!

Tiêu Vũ nhíu mày:

- Lẽ nào Dương Nguyên Khánh cũng nhìn ra, Lý Mật cũng có ý chuyển đồ Giang Hoài sao?

Lý Uyên gật đầu:

- Hẳn là như vậy, chúng ta có thể nhìn thấy Lý Mật mang lương thực quân binh dời đi hướng Nam. Lẽ nào Dương Nguyên Khánh không nhìn ra? Lý Mật chủ yếu di chuyển hướng Nam, Trung Nguyên nhất định trống vắng. Y làm sao có thể không nắm lấy cơ hội lần này.

Tiêu Vũ trầm tư một lúc, y là quý tộc triều Tây Lương. Ngược lại mà nói, y càng quan sát chú ý tới tình hình của phía Nam. Lần này Lý Hiếu Cung dẫn quân Đường ở Kinh Tương với quy mô lớn tới Bắc Trung Nguyên. Như vậy vùng Kinh Tương sẽ trở nên trống rỗng, khiến y rất lo lắng.

Y dùng cây gỗ chỉ vùng quận Dự Chương:

- Bệ hạ! Quận vương Tây An dẫn quân Đường ở Kinh Tương lên phía Bắc, khiến cho vùng Kinh Tương trống rỗng. Thần rất lo lắng Tiêu Tiển nhân cơ hội này phản công, chúng ta có nên phái Ích Châu Trương Trường Tốn dẫn quân tiến về phía Đông, bổ sung binh lực cho Kinh Tương.

Lý Uyên cười cười:

- Tiêu Tiển người này nghi kỵ quá nặng, y khó bỏ qua cho Lai Hộ Nhi. Lúc này y đang bận rộn chiến đấu nội chiến, không có lòng dạ nào suy nghĩ Kinh Tương, thực sự không cần suy nghĩ nhiều về y.

Tiêu Vũ hơi ngẩn người, kinh nghiệm của y cực kỳ phong phú, liền lập tức đoán được Lý Uyên nhất định động tay chân giữa Tiêu Tiển và Lai Hộ Nhi.

Y do dự một lúc lại nói:

- Đậu Kháng đóng giữ binh lực quân Kinh Tương chỉ có hai mươi nghìn người. Thần chỉ là có chút lo lắng ngộ nhỡ, dù sao Kinh Tương đối với chúng ta cực kỳ quan trọng. Thánh Thượng không thể không chú ý.

Lý Uyên gật đầu:

- Tiêu Tướng quốc nói có lý, Trẫm quả thực có chút lơ là. Vậy để Ích Châu Trương Trường Tốn trưng mộ binh lính của tù trưởng ở Ba Đông, có thể có được mấy chục nghìn người. Trương Trường Tốn dẫn đầu bọn họ đi chi viện Kinh Tương. Như vậy có thể bảo đảm chắc chắn Kinh Tương không việc gì.

Đúng lúc này, một tên thị vệ ở cửa bẩm báo:

- Khởi bẩm Bệ hạ, Tướng quân Phiêu Kỵ Vũ Văn Sĩ Cập từ Lạc Dương chạy về, có quân tình khẩn cấp bẩm báo.

Lý Uyên ngẩn ra, lập tức nói:

- Báo y yết kiến.

Chỉ chốc lát, thị vệ dẫn Vũ Văn Sĩ Cập vội vã đi vào ngự thư phòng. Vũ Văn Sĩ Cập thật sâu thi lễ:

- Thần Vũ Văn Sĩ Cập tham kiến Ngô Hoàng Bệ hạ! Bệ hạ vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế!

- Vũ Văn không cần đa lễ!

Giao tình của Lý Uyên và Vũ Văn Sĩ Cập rất tốt, đối với y so với các đại thần khác đơn giản không giống nhau, giữa ngôn ngữ càng thêm thân mật. Ví dụ như y gọi Tiêu Vũ là Tiêu Tướng quốc. Lấy chức vụ, xưng hô với đại thần khác thành Ái khanh, nhưng đối với Vũ Văn Sĩ Cập y lại luôn gọi tên thật.

Nhưng có Tiêu Vũ bên cạnh, cách xưng hô của y lại lập tức thay đổi:

- Vũ Văn ái khanh từ Lạc Dương tới rồi, có việc gì gấp không?

- Bệ hạ! Quân Tùy toàn bộ đã vượt qua Hà Nam, tình thế tương đối cấp bách!

Vẻ mặt của Lý Uyên thoáng cái căng thẳng hẳn lên, ông ta đi tới trước trước la bàn nói:

- Ngươi nói cho Trẫm, quân Tùy xuất binh thế nào?

Tiêu Vũ cầm cây thước gỗ đưa cho Vũ Văn Sĩ Cập, Vũ Văn Sĩ Cập chỉ vào quận Đông nói:

- Bây giờ Đại tướng Tần Quỳnh dẫn ba mươi nghìn quân từ Lê Dương vượt sông. Đây là quân Đông lộ, đã chiếm lĩnh quận Đông.

Cây gỗ của y lại chuyển sang hướng Tây chỉ hướng Huỳnh Dương:

- Đường thứ hai là Huỳnh Dương, khoảng chừng cũng là ba mươi nghìn người. Do Trường sử Lý Tĩnh của quân Tùy dẫn đầu, tiến quân Huỳnh Dương, đã phản công Hổ Lao quan. Chúng ta vừa mới chiếm được Hổ Lao quan lại bị cướp đi, Lão tướng quân Khuất Đột và Triệu Vương Điện hạ lạc đâu không rõ.

Lý Uyên giật mình, vội vàng hỏi:

- Thất lạc không rõ, đó là chuyện gì?

- Bẩm báo Điện hạ, là Triệu Vương Điện hạ đã trúng kế kích tướng của quân Tùy, ra khỏi thành ứng chiến. Quân Tùy nhân cơ hội tấn công vào trong thành. Khuất Đột Lão tướng quân lao ra thành đi nghĩ cách cầu cứu Triệu Vương, cùng Triệu Vương thất lạc không rõ. Hẳn là đã cứu Triệu Vương, nhưng đi hướng nào không rõ.

Lý Uyên khẽ thở dài:

- Cũng thật là trung thần! Trẫm mất Triệu Vương, còn có con trai khác, nhưng Trẫm mất Khuất Đột, lại không có Lão tướng thứ hai trung thành như vậy, cầu trời xanh phù hộ y vô sự.

Vũ Văn Sĩ Cập nói:

- Bệ hạ! Còn có nhánh quân Tùy thứ ba.

Thoáng cái đã ngắc nhở Lý Uyên, Lý Uyên vội vàng nói:

- Vũ Văn ái khanh mời nói!

Vũ Văn Sĩ Cập mang cây thước gỗ chỉ hướng huyện Thiểm:

- Bệ hạ! Quân Tùy đường thứ ba là từ huyện Thiểm qua sông ở chỗ này, do Đại tướng Từ Thế Tích dẫn đầu hai mươi nghìn quân, đã chiếm lĩnh được Hàm Cốc quan.

- Cái gì!

Lý Uyên kinh ngạc, y cũng không phải là kinh ngạc đội quân qua sông bao nhiêu, mà là địa điểm qua sông của đội quan thứ ba này, lại là ở huyện Thiểm.

Y quay lại hỏi Tiêu Vũ:

- Trẫm nhớ trước đây chúng ta và Tùy Đường kí hiệp ước hòa giải. Phần trên có một điều khoản, là quân Đường không tới Đồng Quan, quân Tùy cũng không tới phía tây Lạc Dương để qua sông, là như thế phải không?

- Bệ hạ, chính là như vậy, cho nên chúng thần mới từ Thượng Lạc xuất binh, không ngờ quân Tùy liền phá vỡ dễ dàng như vậy.

Tiêu Vũ cũng chau mày, y không hiểu quân Tùy vì sao không tuân thủ chữ tín, phá vỡ thỏa thuận trước ư?

Lý Uyên có chút tức giận, y chắp tay sau lưng đi mấy bước trong phòng, căm giận nói:

- Dương Nguyên Khánh không ngờ bội bạc như vậy, Trẫm vì tiến công Trung Nguyên còn còn giúp hắn đánh thông Nam Dương, phí xe phí gạo, đường vòng mà đi. Y lại sao chứ, trực tiếp đánh huyện Thiểm. Vậy hiệp ước đó còn có ý nghĩa gì, không phải là nói láo sao?

 Chương 803 : Thời cơ chín muồi

Lý Uyên thân phận tự kiêu, cũng không thể dễ dàng nói lời thô tục. Hôm nay y lại không nhẫn chịu đựng được, Tiêu Vũ biết bây giờ cần bình tĩnh, không phải là lúc nổi giận. Vũ Văn Sĩ Cập từ Lạc Dương chạy tới, cũng không thể vẻn vẹn bẩm báo sự việc này, tất nhiên còn có chuyện quan trọng khác.

- Bệ hạ, có thể để Vũ Văn Tướng quân tiếp tục nói hay không.

Tác dụng của Tiêu Vũ chính là ở thời điểm then chốt khuyên Lý Uyên. Lý Uyên kìm nén sự phẫn nộ trong lòng, nói với Vũ Văn Sĩ Cập:

- Vũ Văn ái khanh mời nói tiếp.

Vũ Văn Sĩ Cập thực sự là mang sứ mệnh quan trọng tới, y lại dùng cây thước gỗ chỉ vào Hàm Cốc quan nói:

- Khởi bẩm Bệ hạ, hiện tại quân Tùy từ huyện Thiểm vượt sông. Mặc dù chỉ có hơn hai mươi nghìn người, nhưng mười mấy nghìn quân tinh nhuệ của Dương Nguyên Khánh lại vẫn chưa qua sông. Tần Vương suy đoán, đội quân của Dương Nguyên Khánh tất nhiên là từ Minh Tân vượt sông, dồn thẳng xuống Lạc Dương. Trong thành Lạc Dương còn có mấy chục nghìn quân của Vương Thế Sung. Như vậy thì đã hình thành thế bao vây ba mặt quân Đường, tình thế vô cùng bất lợi.

Lý Uyên chau mày thành một đường thẳng, sự lo lắng trong ánh mắt trở nên dày đặc lên. Y đã nhìn ra sự bố trí chiến lược của Dương Nguyên Khánh. Đầu tiên Lý Tĩnh xuất binh ở quận Huỳnh Dương, lấy lại Hổ Lao quan, cắt đứt mối liên hệ của Lý Hiếu Cung và Tần Vương lúc đó.

Tiếp theo Từ Thế Tích từ Tây lộ nam hạ, một mặt uy hiếp lực lương đạo chủ lực của quân Đường, mặt khác từ phía Tây bọc đánh, cắt đứt đường lui của chủ lực quân Đường. Sau đó Dương Nguyên Khánh từ Minh Tâm vượt sông, phối hợp phản kích cùng Vương Thế Sung. Ba tuyến giáp công, nhốt toàn bộ đội quân của Tần vương ở thành Lạc Dương.

Điều này khiến cho Lý Uyên không thể không thở hổn hển, y vội vã nói:

- Vậy phương án ứng phó của Tần vương ra sao?

- Bệ hạ, Tần vương Điện hạ có hai phương án ứng phó. Phương án thứ nhất là rút quân, tạm thời vứt bỏ tấn công Lạc Dương, chiếm lĩnh quận Hoằng Nông, chờ cơ hội lại cướp Lạc Dương. Phương án thứ hai là hi vọng Triều đình tăng cường tám mươi nghìn quân. Đơn giản là ở Lạc Dương cùng quân Tùy quyết, người thắng làm vua.

Phương án thứ hai của Lý Thế Dân khiến Lý Uyên và Tiêu Vũ đưa mắt nhìn nhau. Hiện nay quân Đường tại Quan Trung chỉ có một trăm nghìn binh sĩ. Tần vương lại yêu cầu xuất binh tám mươi ngàn. Điều này chẳng khác nào chính là dốc hết binh lính mà đánh, thắng thì có thể đạt được thiên hạ, nhưng nếu thất bại thì sao?

Thất bại thì có nghĩa là triều Đường bị tiêu diệt. Cái này đánh cược rất lớn khiến Lý Uyên ngập ngừng đứng lên, y vẫn chưa dứt khoát điều này.

Tiêu Vũ bên cạnh nói:

- Bệ hạ, hậu quả của dốc hết binh lính dồn về rất rõ ràng. Nếu chúng ta thắng, Dương Nguyên Khánh lui về Phong Châu, nếu Dương Nguyên Khánh thắng, chúng ta rút lui xuống phía Nam Ba Thục, không có lựa chọn thứ ba. Nhưng Thần cho rằng, bây giờ không phải là lúc quyết chiến, chúng ta chiếm Kinh Tương, sức mạnh quốc gia đã đang dần tăng cường. Nếu lại chờ hơn hai, ba năm nữa, tình thế càng có lợi với chúng ta. Bây giờ quyết chiến chỉ có thể toại nguyện ý của Dương Nguyên Khánh.

Lý Uyên lại đi tới trước sa bàn, nhìn chăm chú vào địa hình vùng Lạc Dương. Nếu như là từ bỏ Lạc Dương, quân đội rút tới phía Nam huyện Y Khuyết, vậy thu hoạch của chiến dịch này chính là quận Tương Thành và quận Dục Dương, mà mất đi quận Hoằng Nông.

Ngược lại mà nói, y càng xem trọng quận Hoằng Nông, chiếm lĩnh quận Hoằng Nông, thì không khác nào biên giới phía Đông của Đại Đường đổ lên tuyến Hàm Cốc quan.

Nếu như Lý Hiếu Cung giành thắng lợi ở tuyến phía Đông, như vậy bao quát quận Toánh Xuyên, quận Huỳnh Dương, quận Tương Thành và quận Dục Dương…Quận huyện của Trung Nguyên đều biến thành lãnh thổ của Đại Đường. Trên thực tế Lạc Dương đã bị vây quanh rồi, khi đó lại cướp đoạt Lạc Dương, thì dễ như trở bàn tay.

Nghĩ vậy, Lý Uyên dứt khoát nói:

- Trẫm đồng ý phương án thứ nhất, rút quân về quận Hoằng Nông.

Cuộc chiến tấn công thành Lạc Dương đánh vô cùng kịch liệt. Vương Thế Sung tự mình chỉ huy ba mươi nghìn quân tinh nhuệ lên thành chiến đấu ác liệt. Cùng lúc đó, Thái tử Vương Ứng Huyền vừađộng viên năm mươi nghìn dân phu nhập vào trong thành trì phòng ngự.

Vương Thế Sung vô cùng tức giận, nói với Vương Nhân Tắc:

- Việc này ta giao cho ngươi, trong một canh giờ, tất cả người muốn đầu hàng quân Đường bắt giữ toàn bộ.

- Ty chức tuân mệnh.

Vương Nhân Tắc mang quan quân nhanh chóng xuống dưới.

Răng của Vương Thế Sung cắn tới mức vang lên tiếng khanh khách. Ai dám đầu hàng Đường, đều giết chết luôn… Trong một tòa nhà phía Tây Lạc Dương, mười hai tên quan quân đang cùng nhau bí mật bàn bạc kế hoạch đầu hàng Đường. Bọn họ đã không thể lại chờ đợi tiếp, nhất trí đồng ý đêm nay đầu hàng Đường. Mọi người vô cùng hưng phấn, ngươi một lời ta một câu, đã bàn bạc hành động tỉ mỉ.

Đúng lúc đó, bên ngoài sân bỗng nhiên truyền tới một tiếng hét, các quan quân phản ứng nhanh chóng, dều nhảy dựng lên. Mấy tiếng ầm ầm liên tiếp vang to, cửa sổ bị ném vỡ, vô số nỏ cứng từ trong cánh cửa bắn ra ngoài, ngắm đúng vào bọn họ:

- Tất cả quỳ xuống! Nếu không thì giết chết bất luận có tội hay không.

Trong sân truyền tới tiếng quát chói tai của Vương Nhân Tắc.

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, đều giơ tay quỳ xuống, lập tức xông vào đám binh sĩ rộng lớn, mang mười hai người quan quân giữ chặt tay buộc vào.

Vương Thế Sung đằng đằng sát khí chạy vọt vào sân, kể cả một tên Lang tướng bị bắt lúc trước, mười ba tên quan quân toàn là mất tinh thần quỳ trong sân, hai tay trói sau lưng.

Vương Thế Sung xông tới trước mặt bọn họ, lạnh lùng mà quan sát đám quan quân này. Sau đó y đi tới trước mặt một tên quan quân, dùng roi ngựa giơ lên trước mặt y:

- Hóa ra là ngươi.

Tên quan quân này là binh mã từ trước của Vương Thế Sung, tên là Trương Thuận Tử, bây giờ là một tên giáo úy. Vương Thế Sung hận tới mức mắt sắp tóe ra lửa:

- Ngay cả ngươi cũng muốn phản bội ta phải không?

Trương Thuận Tử cúi đầu, một lúc sau nói:

- Thành phá sắp được, tất cả mọi người đều muốn đầu hàng, đâu chỉ một mình ta?

- Thằng khốn!

Vương Thế Sung giận giữ quất một roi ngựa vào mặt y, ra lệnh với Vương Nhân Tắc:

- Toàn bộ mười ba người trảm đầu, đầu người treo lên trên thành cho mọi người, người dám nghĩ đầu hàng, đây là để cảnh cáo...

Mười ba đầu người máu chảy đầm đìa treo trên tường thành, nhưng trong lòng Vương Thế Sung lại lạnh lẽo. Mười ba đầu người có khiến tướng sĩ kinh hãi hay không thì không biết nhưng chúng đã trở thành cây rơm cuối cùng đè bẹp nội tâm Vương Thế Sung.

Vương Nhân Tắc vội vàng chạy lên trên đầu thành, khom người thi lễ:

- Thúc phụ tìm cháu trai phải không?

Vương Thế Sung chắp tay chăm chú nhìn đại doanh quân Tùy phía xa. Trong mắt hiện ra vẻ vô cùng thương cảm. Một lát, y mới thản nhiên nói:

- Ngươi lập tức qua sông đi bảo cho Dương Nguyên Khánh, ta đáp ứng điều kiện của hắn, từ bỏ niên hiệu.

Buổi chiều cùng ngày, Vương Thế Sung hạ chiếu, chính thức hủy bỏ niên hiệu, đổi tên thành Trịnh vương, tất cả hoàng tộc từ bỏ Vương tước, vật phẩm cấm thiêu hủy hàng loạt. Lập tức, Lạc Dương chính thức xin đầu hàng triều Tùy… Thực sự vẫn không cần Vương Nhân Tắc tới thông báo, ngay sau lúc Vương Thế Sung hạ chiếu hủy bỏ niên hiệu, một con diều hâu liền mang đại sự trong thành Lạc Dương truyền tới Hà Dương.

Tin tức này Dương Nguyên Khánh đã đợi lâu rồi, Dương Nguyên Khánh lập tức hạ lệnh quân đội vượt xuống Hà Nam. Một nghìn thuyền chiến đã chứa đầy năm mươi nghìn quân Tùy cùng mấy chục nghìn ngựa chiến chạy tới về phía bờ bên kia sông Hoàng Hà. Hàng nghìn cánh buồm thi đua phất lên, vô cùng tráng lệ.

Lúc này đã là cuối tháng sáu, nhưng thời tiết vẫn là nắng chói chang. Nắng nóng cháy mặt, trên mặt sông có gió, gió sông tạt vào mặt, có chút cảm giác mát lạnh. Dương Nguyên Khánh đầu đội mũ vàng, thân mặc áo giáp, lưng khoác đao chiến, ánh mắt chăm chú dừng ở bờ phía Nam Hoàng Hà.

Đứng bên cạnh hắn là Binh Bộ Thị Lang Tạ Tư Lễ. Tạ Tư Lễ cùng lúc đảm nhiệm Tư Mã chinh nam hành quân, y nói nhỏ với Dương Nguyên Khánh:

- Điện hạ, ty chức có chút lo lắng Lý Tĩnh, y chỉ có ba mươi nghìn quân, phải tách ra trấn thủ Hổ Lao quan, còn muốn đánh tám mươi vạn quân của Lý Hiếu Cung, có đủ binh lực hay không?

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Vấn đề này ta cũng nghĩ tới rồi, ta đã lệnh cho Tần Quỳnh chia mười nghìn quân cho Lý Tĩnh, khiến binh lực của y tới bốn mươi nghìn, còn có huyện Quản Thành có khoảng một vài nghìn quận binh, binh lực tạm thời có thể đối phó.

Ngừng một chút, Dương Nguyên Khánh có chút lo lắng nói:

- Thực ra lo lắng của ta không phải là Lý Tĩnh. Điều ta lo lắng là Tiêu Tiển ở phía Nam. Lý Hiếu Cung đã xuất binh Trung Nguyên hơn mười ngày rồi, bên kia của y lại không có chút động tĩnh gì. Vậy mà không thừa dịp lúc binh lực của quân Đường trống rỗng lấy lại Kinh Tương. Ta không rõ y đang suy nghĩ cái gì? Ta nghi ngờ nội bộ của bọn họ có thể xảy ra vấn đề.

Nói đến đây, Dương Nguyên Khánh quay đầu lại hỏi Tạ Tư Lễ:

- Ngươi đã từng đi sứ qua Kinh Tương, theo ngươi cảm thấy, triều Lương sẽ xuất hiện vấn đề không?

Tạ Tư Lễ trầm tư một lúc nói:

- Ty chức và Tiêu Tiển đã nói qua hai lần, cảm thấy lòng nghi kỵ của người này rất lớn, không quá dễ chung sống. Người nước Lương cũng là nói y như vậy, nói y có thể chung hoạn nạn, mà không thể chung phú quý, có dã tâm kiêu hùng, nhưng lòng dạ lại không kiêu hùng.

 Chương 804 : Bí mật của mạch đao

Dương Nguyên Khánh cũng thở dài một tiếng:

- Năm đó Vương Mặc trung thành và tận tâm với hắn, vì Nam Hoa Hội và hắn chạy ngược chạy xuôi. Nhưng nước Lương thành lập, Tiêu Tiển lại đem Vương Mặc bức tử đầu tiên, còn có thủ hạ Đại tướng từ lúc y bắt đầu khởi binh, đều nhất nhất bị y tru sát. Nguyên lão hầu như không còn, cho nên quân Đường mặc dù chỉ là công phá Giang Lăng, nhưng toàn bộ triều Lương lại dâng nước đầu hàng, chính là nguyên nhân này, ta chính là lo lắng y không rút ra kinh nghiệm, tật khó sửa. Nếu là như vậy, Lai Hộ Nhi nguy rồi!

Tạ Tư Lễ lặng lẽ, thực sự y nghĩ tới là Lai Hộ Nhi có thể nghĩ ra vấn đề rồi, công cao lấn chủ. Tiêu Tiển sao có thể khoan dung cho y. Nếu triều Đường lại có ý gây xích mích, nước Lương tất nhiên xuất hiện nội chiến, quả nhiên là người không làm được việc lớn.

Nghĩ tới đó, Tạ Tư Lễ oan than nói:

- Điện hạ thì làm rất tốt, tấm lòng phóng khoáng, bao dung người trong thiên hạ, cứ có tài là cử lên. Đây là may mắn của chúng thần.

Dương Nguyên Khánh cười nhạt một tiếng:

- Thực ra tính tình của ta cũng là ân oán phân minh. Năm đó đối phó với Hạ Nhược Bật, đối phó với Vũ Văn Thuật, đối phó Ngu Thế Cơ, đều là tâm tính tuổi trẻ, có thù báo thù, chỉ là đã làm ở vị trí này, tự nhiên vì vậy mà đã có thay đổi. Có lòng lấy được thiên hạ, thì tất nhiên có lòng tha thứ người trong thiên hạ.

Hắn lại quay đầu nhìn lại hướng Tây, nghĩ tới đối thủ Lý Uyên:

- Thực sự một chút này Lý Uyên cũng làm rất tốt, khoan nhượng với người ngoài, không cùng dân tranh lợi, khéo cân bằng, vừa có thể lo lắng lợi ích của Quan Lũng quý tộc, cũng có thể chú ý tới được mất của sĩ tộc địa phương. Đồng thời lại có tâm cơ cẩn thận mật bí mật, mưu tính sâu xa, Lý Uyên mới là địch lớn nhất của ta.

Mặc dù nói như vậy, thực sự Dương Nguyên Khánh rất rõ ràng từng nhược điểm của Lý Uyên. Lý Uyên người này bề ngoài khoan dung phuc hậu, nhưng nội tâm lại thâm độc hẹp hòi. Để bảo vệ ngôi vị Hoàng đế, thậm chí đối với con trai của mình còn không bao dung.

Trong lịch sử, y nâng đỡ Lý Thế Dân kìm kẹp Lý Kiến Thành, khiến Lý Thế Dân lập phủ Thiên Sách, khiến Lý Thế Dân dần dần ngồi cao. Lúc đó thiên hạ bình an, y lại muốn mượn tay tước binh quyền của Lý Thế Dân, sau đó trực tiếp gây ra vụ chính biến cửa Huyền Vũ. Người đời chỉ biết vụ chính biến cửa Huyền Vũ môn là Lý Đại, Lý Nhị (Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân) tranh chấp, không biết phía sau lại là Lý Uyên đang thao túng tất cả.

Khi Dương Nguyên Khánh đang trầm tư, bỗng nhiên có binh sĩ chỉ vào trước mặt sông hô to:

- Tổng quản, tiền phương có nguy hiểm.

Thuyền lớn nhanh chóng chậm lại. Dương Nguyên Khánh bước nhanh tới đầu thuyền, phát hiện phía nam cách hạm đội một dặm, cây cối bên bờ bị thiêu trụi, mấy nghìn quân Đường đứng bên bờ, giương cung kéo nỏ, sẵn sàng trận địa đón quân địch.

Nhưng nguy hiểm lúc này cũng không phải đến từ mấy nghìn quân Đường ở trên bờ, mà là một tầng dầu đen dày trên mặt sông. Hắn đã cố giữ cho hạm đội an toàn nhưng vẫn có nửa thân thuyền đi vào giữa vùng dầu trên mặt sông. Đầu thuyền và hai bên mép thuyền đều dính đầy dầu.

Dương Nguyên Khánh âm thầm kinh hãi, đây là biện pháp lần trước hắn đối phó với Lý Mật, bây giờ lại bị quân Đường dùng đối phó lại. Chỉ là lúc đó ban đêm, khó có thể phát hiện ra, mà hiện tại là ban ngày, hắnvẫn có thể kịp thời thoát hiểm. Dương Nguyên Khánh lập tức hạ lệnh:

- Đội thuyền khởi hành, nhanh rời khỏi khu dầu.

Thuyền lớn chậm rãi quay đầu chạy về hướng đông. Chỉ trong chốc lát Dương Nguyên Khánh đã điều khiển những thuyền lớn rời khỏi khu dầu đang lan rộng. Hắn quay đầy nhìn bốn phía thuyền lớn cùng vài chiến thuyền cũng đã rời khỏi khu dầu, những chiếc thuyền khác cũng không ngừng chạy khỏi khu dầu.

Dương Nguyên Khánh lúc này quyết đoán, hô:

- Châm lửa thiêu dầu!

Mệnh lệnh vừa ra, hơn mười hỏa tiễn đã bắn tới những khu dầu đang không ngừng lan rộng trên mặt sông, chỉ nghe một tiếng ‘Bùng’, toàn bộ khu dần bốc cháy, khói đen cuồn cuộn, một dặm bờ nam sông biến thành một biển lửa.

Thiêu đốt mặt sông là cảnh cáo tốt nhất. Đội thuyền trên bờ nam sông không đi tiếp, đợi lửa ngừng lại. Trận đại hỏa cháy gần một canh giờ cũng dần dần tắt.

Đội tàu bắt đầu chấn hưng cờ trống, dựa sát vào bên bờ, nhất thời tiễn bay như mưa, hai bên chiến đấu kịch liệt tại bến Minh Tân.

- Ngăn cản quân Tùy!

Chủ tướng Vương Hoài Văn của quân Đường lớn tiếng hô:

- Không được để quân địch lên bờ!

Tại bến Minh Tân có hơn năm nghìn quân Đường, ba nghìn cung nỏ quân và hai nghìn kỵ binh. Bọn họ ở bên ngoài bến đò đã trút xuống sông hơn một nghìn thùng dầu hỏa, hình thành phòng tuyến thứ nhất. Sau đó hai bên bờ bố trí hơn ba nghìn người bắn nỏ, đợi lúc chiến thuyền quân Tùy chậm rãi cặp bờ thì quân Đường trên bờ loạn tiễn cùng phát, những mũi tên dày đặc như mưa sẽ bắn đến thuyền lớn, trong hỗn loạn còn có vô số hỏa tiễn.

Trên chiến thuyền của quân Tùy cũng phát động phản kích. Những mũi tên như mưa bắn từ phía bờ thì uy lực cũng không bằng pháo đá trên thuyền. Kèm theo một tiếng vang thật lớn, một hòn đá nặng hơn mười cân bay về phía quân Đường ở trên bờ , mỗi khối đá lớn đều đánh trúng mấy người. Những tiếng kêu thảm thiết trên bờ vang lên, quân bắn nỏ của quân Đường bị thương vong vô cùng nghiêm trọng.

Dưới tiến công dày đặc của pháo đá, quân cung nỏ của quân Đường bị ép lui về phía sau, cơ hội lên bờ của quân Tùy liền xuất hiện. Dương Nguyên Khánh đứng trên một chiếc thuyền lớn nhìn chăm chú vào chiến cuộc, hắn đã sớm thấy cách bờ khoảng mấy trăm bước đã có hai nghìn kỵ binh xếp hàng, hiển nhiên là chuẩn bị phát động tiến công khi quân Tùy vừa lên bờ.

- Năm trăm trọng giáp mạch đao quân tiến lên trước!

Mện lệnh của Dương Nguyên Khánh vừa hạ xuống, cờ chỉ huy trên thuyền được huy động, năm trăm mạch đao binh sĩ từ hai chiến thuyền dẫn đầu cặ bờ, trên tay mỗi người đều cầm mạch đao, đón tên lên bờ, bắt đầu xếp thành hàng hướng quân Đường phát động công kích.

Những mũi tên của quân Đường không có cách nào xuyên thủng trọng giáp của mạch đao quân. Đại bộ phận binh sĩ quân Đường là lần đầu tiên nhìn thấy mạch đao quân của quân Tùy, bị những binh sĩ không sợ gì này làm cho hoảng sợ bước lui về phía sau. Trong trận doanh liền xuất hiện rối loạn.

Chủ tướng Vương Hoài Văn từng là tướng Tùy, y biết đây là trọng giáp bộ binh, tay cầm mạch đao. Dưới thời kỳ Ngụy Tấn, những trọng giáp bộ binh này chỉ dùng để đối phó các dân tộc du mục, chỉ là trong tay quân Tùy cầm lưỡi đao dài hơn.

- Tướng quân, sợ rằng kỵ binh sẽ gặp bất lợi!

Một gã thiên tướng cũng cảm giác được có chuyện không ổn, gã vội vã nhắc nhở Vương Hoài Văn.

Vương Hoài Văn chăm chú nhìn một lát, dứt khoát hạ lệnh:

- Kỵ binh xuất kích!

Hai nghìn kỵ binh được phát động, tiến công những trọng giáp bộ binh mới lên bờ của quân Tùy, ý đồ dùng tốc độ và lực đánh nhanh chóng hạ trọng giáp bộ binh ở Hoàng Hà.

Nhưng kết cục những kỵ binh của quân Đường chính là bị thương nặng. Trọng giáp bộ binh chống đỡ tấn công của kỵ binh quân Đường, mạch đao chém xuống, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi. Năm trăm bộ binh như tường đẩy mạnh, thi thể người ngựa chồng chất, máu chảy thành sông.

- Tướng quân, rút lui thôi!

Tất cả tướng lĩnh đều lo lắng hô to, cuối cùng Vương Hoài Văn nhìn thoáng qua năm trăm trọng giáp bộ binh, trong ánh mắt lộ ra vẻ chán nản, không ngờ bọn họ không thể bắt giữ được một tên trọng giáp bộ binh nào, hơn nữa hai nghìn kỵ binh lại tổn thất thảm trọng, bị đánh cho tan tác. Trong lúc đó, càng nhiều binh sĩ trường mâu của quân Tùy cũng bước lên đất liền.

Vương Hoài Văn bất đắc dĩ hạ lệnh:

- Toàn quân rút lui!

Hơn một nghìn kỵ binh và không đến ba nghìn người bắn nỏ nhanh chóng rút lui khỏi chiến trường.

Bởi không có chủ lực quân Đường tham chiến, trận chiến ở bến đò Minh Tân chỉ là một chiến dịch nhỏ gây hỗn loạn đã được định trước. Nó chỉ có tác dụng trì hoãn thời gian quân Tùy lên bờ, nhưng cũng không có cách nào ngăn cản chủ lực quân Tùy lên đất liền. Càng ngày càng nhiều quân Tùy lên bờ, đại tướng Vương Hoài Văn của quân Đường nhìn thấy đại thế đã mất liền suất lĩnh quân đội nhanh chóng rút khỏi bến sông, lui lại về phía Nam.

Năm vạn đại quân của triều Tùy bắt đầu lên đất liền. Lúc này, trên phong hỏa đài châm lên ba ngọn lửa, nhanh chóng thông báo chủ lực quân Tùy đã xuất hiện truyền tin đến đại doanh quân Đường ở Lạc Dương ... Sáng sớm ngày hôm sau, Vương Hoài Văn suất lĩnh quân Đường lui về đại doanh ở Lạc Dương, bắt đầu nhổ trại chuẩn bị rút lui thì nghe Lý Thế Dân nói đến tin tức Vương Thế Sung bỏ đi niên hiệu, y lập tức ý thức được chủ lực quân Tùy muốn xuất binh. Tất nhiên việc bỏ niên hiệu chính là điều kiện mà Dương Nguyên Khánh đưa ra.

Quân Tùy xuất binh, chiến cuộc bắt đầu trở nên vi diệu. Lúc đầu là cục diện Đường mạnh Trịnh yếu, nhưng tình thế bắt đầu xoay chuyển, quân Đường gặp bất lợi. Từ Thế Tích suất hai vạn quân Tùy đóng quân tại Hàm Cốc Quan, mà mấy vạn quân chủ lực do Dương Nguyên Khánh suất lĩnh đánh tới huyện Yển Sư. Quân Đường khuyết thiếu chiến lược thọc sâu, trận chiến này nhất định thất bại.

Trong lều lớn, Lý Thế Dân cùng mấy tên đại tướng đang nghe Vương Hoài Văn thuật lại chi tiết trận chiến ở Minh Tân, nhất là về mạch đao trọng giáp bộ binh. Tất cả mọi người đều nghe hết sức chăm chú.

- Đối phương chỉ dùng năm trăm trọng giáp bộ binh nhưng sức chiến đấu lại cường đại. Lưỡi đao của bọn họ không phải là lưỡi đao mà chúng ta biết, nó dài hơn, dường như còn sắc bén hơn. Năm trăm người bị kỵ binh tấn công nhưng vẫn đứng vững, sau đó cùng nhau tác chiến, giết chết hai nghìn kỵ binh, tổn thất thảm trọng vô cùng.

 Chương 805 : Quân Tùy Tây lộ (p1)

Lúc này, một gã binh sĩ đi vào lều lớn, trong tay cầm một thanh mạch đao kiểu cũ. Trên thực tế đây là một cây đao một mũi hai lưỡi.

Vương Hoài Văn tiếp nhận thanh đao nặng gần ba mươi cân, tiếp tục nói với mọi người:

- Cây đao của quân Tùy dài hơn ba thước so với cây đao này, lưỡi đao dài hơn hai thước, lại nhẹ nhàng linh hoạt, lưỡi dao màu bạc nhưng lại có cảm giác phi thường cứng rắn và sắc bén. Ta không thấy tận mắt nhưng ta cảm giác được muốn chế tạo một thanh đao tốt như quân Tùy cần loại chất liệu tốt và thợ rèn giỏi nhất, sợ rằng thợ rèn của chúng ta cũng không chế tạo được.

Lúc này, lại có một gã thân binh tiến đến, trong tay gã cũng cầm một thanh đao nhưng dài hơn, mảnh hơn thanh vừa rồi, giống hệt như những gì Vương Hoài Văn miêu tả. Rất nhiều tướng lĩnh giật mình kinh hô.

Con mắt Vương Hoài Văn trừng lớn, y chậm rãi tiếp nhận cây đao dài này, vung múa hai đao, hưng phấn nói với các tướng:

- Chính là nó, giống như đúc cây đao của quân Tùy, quả nhiên là đao tốt!

Y bỗng nhiên nghi hoặc, cây đao này từ đâu tới đây? Y có chút không giải thích được, hỏi Lý Thế Dân:

- Đây là vật điện hạ thu được từ quân Tùy sao?

Lý Thế Dân tiếp nhận phách nhận, lắc đầu nói:

- Kỳ thực cây đao này là Quân khí giám của chúng ta mới chế tạo ra.

Trong lều lớn một mảnh kinh hô, thợ rèn của bọn họ không ngờ cũng có thể chế tạo loại đao này. Vương Hoài Văn phi thường hưng phấn nói:

- Điện hạ, như vậy chúng ta có thể thành lập một đội quân mạnh như trọng giáp bộ binh của quân Tùy sao?

Lý Thế Dân cười khổ một chút, thở dài nói:

- Ta cũng mong muốn như vậy nhưng đây không phải hiện thực. Cây đao này chính xác mà nói cũng không phải đao chém, mà là mạch đao, vô luận là tài liệu chế tạo hay kĩ thuật rèn đều có yêu cầu cực cao. Hơn một năm trước chúng ta đã lưu ý đến trọng giáp mạch đao quân của quân Tùy, nên ta đã tập trung những người ưu tú nhất trong Quân khí giám tại Trường An.

Nói đến đây, Lý Thế Dân có điểm nhụt chí, gã thở dài lại nói:

- Đáng tiếc chúng ta không có đao nào ra hồn, cũng không có kỹ thuật rèn. Triều Tùy bảo mật cực nghiêm đối với chuyện này, Đường Phong hao hết sức chín trâu hai hổ cũng không thu hoạch được gì. Những tình báo đến với chúng ta đều giống như tình báo của tướng quân, chỉ biết nó dài hơn, lại cực kỳ sắc bén và cứng rắn, còn những cái khác hoàn toàn không biết, cho nên hơn một năm qua, cuối cùng chúng ta cũng chỉ chế tạo được một thanh mạch đao. Còn trọng giáp của bọn họ chúng ta cũng đã tìm hiểu nhưng vấn đề này chúng ta không có nhiều thời gian và những thợ rèn ưu tú như vậy, cho nên muốn có một đội trọng giáp mạch đao ba nghìn người, chí ít cũng mất tới hai năm, hao hết tài lực của Đại Đường, lúc đó mới có thể thành công.

Lời nói của Tần vương khiến mọi người trong lòng có chút nặng nề, Uất Trì Cung không khỏi hiếu kỳ, hỏi:

- Điện hạ, trọng giáp mạch đao quân của quân Tùy lẽ nào không địch nổi, không có biện pháp nào khắc chế sao?

- Không! Trọng giáp mạch đao quân của quân Tùy cũng có thiên địch. Lúc đánh đại doanh của Đậu Kiến Đức, Đậu Kiến Đức đã sử dụng sàng nỏ, nghe nói bắn chết mấy trăm tên trọng giáp mạch đao quân, có lẽ có điểm khoa trương nhưng thiết tiễn của sàng nỏ xác thực có thể bắn xuyên áo giáp hạng nặng của binh sĩ trọng giáp mạch đao. Đây là biện pháp ta tìm được để đối phó với trọng giáp bộ binh.

Nói đến đây, Lý Thế Dân mỉm cười:

- Kỳ thực biện pháp còn có rất nhiều, tỷ như chúng ta đào một hố to, để cho bọn họ ngã xuống, sau đó dùng dầu hỏa thiêu cháy bọn chúng thì bọn chúng chỉ có thể chết hết. Vạn vật trên thế gian đều có thiên địch, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, không có gì là thiên hạ vô địch. Quân Tùy không có khả năng chỉ dựa vào một đội trọng giáp bộ binh là có thể quét ngang thiên hạ. Chỉ cần chúng ta có sự cảnh giác, thì thương vong có thể áp xuống mức nhỏ nhất.

Bầu không khí trong lều quân sôi trào hẳn lên. Lúc này, một gã binh sĩ chạy vào bẩm báo:

- Khởi bẩm điện hạ, quận Hoằng Nông gửi tình báo khẩn cấp!

Lý Thế Dân tiếp nhận tình báo nhìn một lần, sắc mặt trở nên ngưng trọng:

- Từ Thế Tích suất quân giết vào quận Hoằng Nông, muốn chặt đứt đường lui của chúng ta.

Lý Thế Dân thở dài, chuyện tới nước này, gã cũng không thể không rút quân. Gã lập tức ra lệnh:

- Truyền mệnh lệnh của ta, đại quân rút lui đến quận Hoằng Nông...

Vì đại quân của Dương Nguyên Khánh đã qua sông nên quân Đường ý thức được bọn họ không có cách nào chiếm thành Lạc Dương. Để không bị quân Tùy chặn đường lui, Lý Thế Dân bị ép buộc phải hạ lệnh bảy vạn đại quân của quân Đường rút lui đến quận Hoằng Nông, chuyển chiến trường đến quận Hoằng Nông. Quân Đường rút lui khỏi Lạc Dương, cũng không có nghĩa là bọn họ buông tha Trung Nguyên. Quận Hoằng Nông là điểm quan trọng của quân Đường nên bọn họ phải cố gắng bảo vệ. Một hồi đại chiến giữa Dương Nguyên Khánh và Lý Thế Dân lại mở màn....

Từ sau khi Dương Nguyên Khánh túc chỉnh quân kỷ với quy mô lớn ở quận Hà Dương, Từ Thế Tích còn chưa cười qua một lần. Đây là sỉ nhục lớn nhất từ lúc y cầm quân tới nay. Đương nhiên, lần sỉ nhục này không phải là do Dương Nguyên Khánh, mà là vì y quá khoan dung với các tướng sĩ, mới gây nên cơ sự như vậy.

Không ngờ quân đội mà Từ Thế Tích thống trị, lại xuất hiện hai phái Đậu Tử Cương và Hồ Cao Kê. Đây là hai phái lớn nhất trong quân của y. Quan trọng hơn, y đối với cái này lại không biết cái gì cả. Khiến cho y rất thống hận mình vô năng.

Trên thực tế, cứ chỗ đông người là có sự phân chia bang phái. Từ xưa đến nay, bất kỳ một đội quân nào đều có phe phái, đều có việc tranh đoạt lợi ích. Cho dù không có phái Đậu Tử Cương và phái Hồ Cao Kê, thì cũng có các phái lấy tên khác, chẳng hạn như phái Hà Đông và phái Hà Bắc.

Trong các bang phái, đều có quy củ của riêng mình. Một khi bang quy và quân kỷ phát sinh xung đột, thì tất nhiên sẽ xuất hiện sự bao che. Nói chung, chỉ cần không phá hại quân kỷ, chủ tướng trong quân cũng mắt nhắm mắt mở, không quan tâm đến.

Loại trường hợp này trong quân đội thường thấy, tòng quân gần được hai mươi năm Dương Nguyên Khánh làm sao không biết? Kỳ thực, hắn chỉ mượn đề tài này để nói chuyện của mình, nhằm củng cố lại quân kỷ, giảm bớt tính kiêu căng của binh sĩ.

Từ Thế Tích ít nhiều cũng minh bạch điều này. Chỉ là y lại không biết trong quân tồn tại những bang phái này. Hơn nữa, y là một người tích cực, theo đuổi sự hoàn mỹ. Lần này, Dương Nguyên Khánh xử phạt nghiêm khắc, làm y cảm thấy cực kỳ sỉ nhục cùng tự trách.

Nhưng Dương Nguyên Khánh cũng không trách y. Mà vẫn như cũ bổ nhiệm y làm chủ tướng quân Tây Lộ. Điều này khiến trong lòng Từ Thế Tích cực kỳ cảm động.

Lần này xuất binh đi quận Hoằng Nông, Dương Nguyên Khánh tương tự cho Từ Thế Tích quyền lực tự quyết định cuộc chiến. Từ Thế Tích sớm đã tích đủ một bụng tức giận. Y muốn dùng chiến dịch này để trở mình một cách triệt để, cọ rửa sỉ nhục trên người.

Một đội quân Tùy gồm hai mươi nghìn người đang hành quân trên đồi núi phía bắc quận Hoằng Nông. Xa xa là một khu rừng rậm rạp cùng đồi núi trập trùng, rộng lớn vô bờ. Một tòa thôn trang phân bố sát ở biên giới đồi núi cùng bình nguyên. Vùng này không gặp quá nhiều chiến sự, nên nhân khẩu còn tương đối đông đúc.

Lúa mạch đã thu hoạch hết, trên đồng ruộng giờ tràn ngập màu xanh của mạ non. Thỉnh thoảng có thể thấy những người nông dân đang bận rộng canh tác. Bọn họ ở xa xa ngẩng đầu lên, kinh ngạc nhìn đội quân đi nhanh về hướng tây. Trong mắt bọn họ tràn ngập sự ưu tư. Lẽ nào chiến tranh ở Lạc Dương sắp lan sang tới tận quận Hoằng Nông rồi sao?

Quân đội đã đi qua huyện Hoằng Nông, tiếp tục tiến tới huyện Trường Uyên cách đây hơn ba mươi dặm. Huyện Trường Uyên là nơi chứa lương thảo hậu cần cực kỳ trọng yếu của quân Đường. Ở đây trữ hàng phần lớn là lương thảo cùng vật tư quân dụng.

Lúc này, phó tướng Cao Tử Khai cưỡi ngựa chạy vội tới, đi song song với Từ Thế Tích. Y lo lắng hỏi:

- Từ tướng quân, tổng quản bảo chúng ta trấn giữ Hàm Cốc quan, ngăn trở viện quân của Đồng Quan. Hiện tại chúng ta lại rời khỏi Hàm Cốc quan, vòng sang huyện Trường Uyên. Nhỡ đâu có viện quân của Đông Quan từ hướng đông tiến tới, chả phải chúng ta phạm vào tội làm loạn quân lệnh sao?

Từ Thế Tích đã tính trước, thản nhiên nói:

- Tổng quản lệnh chúng ta phòng thủ Hàm Cốc quan, kỳ thực cũng không phải để phòng ngự viện quân của Đồng Quan. Mà điều tổng quản muốn là tạo thế, bức quân đội của Lý Thế Dân lùi về phía tây. Chỉ cần quân đội của Lý Thế Dân lùi, như vậy áp lực tới Lý Tĩnh ở Huỳnh Dương cũng giảm bớt. Không còn phải lo nghĩ phía sau, ông ta có thể thong dong xuống phía nam tác chiến cùng quân của Lý Hiếu Cung. Trên thực tế, nhiệm vụ của chúng ta là muốn hấp dẫn quân đội của Lý Thế Dân đến quận Hoằng Nông. Không để cho bọn hắn đến quận Tương Thành ở phía nam.

Ở giữa Quận Hoằng Nông và quận Toánh Xuyên là quận Tương Thành. Quận Tương Thành nằm ở phía nam Lạc Dương. Nếu như quân đội của Lý Thế Dân lùi về quận Tương Thành ở phía nam, thì có khả năng giúp đỡ quân của Lý Hiếu Cung, từ đó tạo thành tình huống một cộng một bằng hai.

Ngược lại, nếu như hấp dẫn được Lý Thế Dân tới quận Hoằng Nông, như vậy sẽ khiến Lý Thế Dân và Lý Hiếu Cung mất đi liên hệ. Bọn họ đành phải tự tác chiến, rất có lợi cho quân Tùy.

 Chương 805 : Quân Tùy Tây lộ (p2)

Cao Tử Khai có thể lý giải ý tứ của Từ Thế Tích, y khẽ cau mày nói:

- Nhưng Lý Thế Dân chả nhẽ không nghĩ đến điều đấy? Bên người của y có nhiều mưu sĩ tài ba như vậy, bọn họ làm sao lại không nghĩ ra?

Trên mặt Từ Thế Tích rốt cuộc lộ ra vẻ tươi cười hiếm thấy nói:

- Đương nhiên Lý Thế Dân cũng dự đoán được. Những mưu sĩ của y, như Phòng Huyền Linh, Trưởng Tôn Vô Kỵ càng thấu đáo nhưng có một số việc, bọn họ cũng thân bất do kỷ.

Nói đến đây, Từ Thế Tích chỉ vào những nông dân hướng xa xa nói:

- Vài ngày trước đó chính là lúc gieo mạ. Các dân phu mà quân Đường trưng tập đều đã về nhà gieo trồng lúa nước rồi. Không ai thay bọn họ vận chuyển lương thảo vật tư, bọn họ lại càng không dám cưỡng chế dân phu quận Hoằng Nông. Nếu kích động dân biến, bọn họ làm sao chịu trách nhiệm? Chả nhẽ mặc kệ quân lương hậu cần, trực tiếp đi quận Tương Thành sao?

Cao Tử Khai chợt hiểu, thì ra là thế, y suy nghĩ một chút lại nói:

- Nhưng bọn họ có thể chia quân. Chẳng hạn như để hai mươi nghìn quân ở lại huyện Trường Uyên bảo vệ lương thảo. Còn lại mấy mươi nghìn quân thì đi quận Tương Thành. Như vậy cũng được mà?

Từ Thế Tích chậm rãi lắc đầu:

- Như vậy càng nguy hiểm. Nếu quân chủ lực của tổng quản không thèm để ý quân ở quận Tương Thành, mà tập trung binh lực tiêu diệt hai mươi nghìn quân ở Trường Uyên. Ngươi cho rằng Lý Thế Dân sẽ làm như vậy sao?

Cao Tử Khai cứng họng, y rốt cục minh bạch. Chỉ cần quân hậu cần của quân Đường còn ở huyện Trường Uyên, Lý Thế Dân cũng chỉ phải rút quân quay về quận Hoằng Nông.

Từ Thế Tích khe khẽ thở dài:

- Ta nghĩ đây là quyết sách sai lầm của Lý Đường. Không nên phân binh mà đánh Trung Nguyên. Nếu như đại quân của Lý Hiếu Cung ngay từ đầu đến trợ giúp đánh Lạc Dương, Lạc Dương sớm đã bị mất trong tay bọn họ. Chỉ cần bọn họ hợp binh, quân đội sẽ lên tới hai trăm nghìn người. Bắt được Lạc Dương, lại tập trung binh lực phòng ngự quân Tùy xuống phía nam. Khi đó chúng ta sẽ rơi vào thế bị động.

Kỳ thực, Từ Thế Tích phân tích cũng không hoàn toàn chính xác. Bởi vì ngay từ đầu, quân Đường không có dự định chiếm Trung Nguyên. Bọn họ chỉ muốn chiếm đoạt Lạc Dương. Bởi vì Lý Mật bại lộ ý đồ dời về phía đông, mới khiến quân Đường nổi lòng tham. Ra lệnh cho Lý Hiếu Cung lên phía bắc đánh quận Toánh Xuyên.

Mà quan trọng là, quân Tùy vì hậu phát chế nhân, liên tục điều binh quấy nhiễu, cắt đứt khả năng hợp binh của Lý Hiếu Cung và Lý Thế Dân.

Lúc này, một người binh sĩ bản địa chỉ hướng xa xa hô to:

- Từ tướng quân, người xem bên kia, có phải là Dương Gia thôn!

Từ Thế Tích cũng đã thấy. Cách chỗ này năm dặm, có một đồi núi thấp, trên đồi núi là rừng cây rậm rạp. Men theo rìa khu đồi, có một toà thôn trang lớn gồm hơn ba trăm hộ. Hơn nữa, các ngôi nhà ở thôn trang này, được xây dựng khá chỉnh tề, khí phái. Có vẻ là một thôn trang giàu có.

Từ Thế Tích có chút cảm khái. Vốn nơi này là quê hương của tổng quản. Năm đó quyền thần Dương Tố cũng sinh ra ở đây. Tổ tiên của Tùy Dương Đế là Dương Trung cũng tự xưng là Hoằng Nông Dương thị. Các đời hoàng tộc triều Tùy ít nhiều có dấu ấn của Dương Gia thôn này.

Cao Tử Khai nhìn một lát, thấp giọng nói:

- Tướng quân, nếu đi ngang qua đây, chúng ta có nên thắp một nén hương cho từ đường Dương thị hay không?

Từ Thế Tích lắc đầu:

- Tổng quản chắc không muốn chúng ta liên quan gì tới dòng họ Dương thị. Tốt nhất là không nên nhiều chuyện.

Từ Thế Tích quay đầu ngựa lại, tiếp tục đi. Mới đi chưa được bao lâu, phía trước có một binh lính báo lại:

- Từ tướng quân, phía trước có vài người trong thôn cầu kiến. Người dẫn đầu tự xưng là tộc trưởng họ Dương.

- Bảo bọn họ đến!

Từ Thế Tích xoay người xuống ngựa. Y không dám chậm trễ, là tộc trưởng họ Dương tự mình tới, mình phải cho ông ta chút mặt mũi.

Chỉ chốc lát, binh sĩ mang theo vài người nam tử đi tới. Dẫn đầu là một người trung niên khoảng hơn bốn mươi tuổi, khuôn mặt có góc cạnh rõ ràng, đi lại thong dong, mỗi cử động đều có vài phần uy nghiêm. Ông ta chính là tộc trưởng hiện nay của họ Dương, Dương Văn Tấn. Anh của ông ta Dương Thiện chính là tướng quốc triều Tùy.

Dương Văn Tấn tiến lên chắp tay cười nói:

- Nghe nói quân Tùy đến, Hoằng Nông Dương thị đặc biệt chuẩn bị một chén rượu vì tướng quân đón gió, thể hiện lòng hiếu khách của thôn.

Từ Thế Tích cũng vội vã đáp lễ nói:

- Tại hạ là Từ Thế Tích, đang chấp hành mệnh lệnh của Sở Vương. Tại hạ đi qua Hoằng Nông, đáng nhẽ phải đến thắp hương cho từ đường. Chỉ là nhiệm vụ khẩn cấp, không thể đi vào, mong tộc trưởng thứ lỗi!

- Không sao! Không sao!

Dương Văn Tấn miễn cưỡng cười nói:

- Chỉ cần Từ tướng quân có cái tâm này là được. Có thắp hương hay không, cũng không quan trọng.

Dương gia thôn tuy là tổ địa của Dương Nguyên Khánh. Nhưng trên thực tế, Dương Nguyên Khánh từ nhỏ đến lớn, chưa một lần đến đây. Cho nên Từ Thế Tích cho dù vào thắp hương, cũng không tìm thấy tung tích của Dương Nguyên Khánh, ngược lại sẽ càng thêm khó xử.

Có binh lính rải một chiếc chiếu bên đường, Từ Thế Tích cùng Dương Văn Tấn ngồi xuống. Một người tộc nhân rót một chén rượu, Dương Văn Tấn đem chén rượu đưa cho Từ Thế Tích nói:

- Chén rượu này, Từ tướng quân nhất định phải uống. Đây cũng là lời chúc phúc của Dương gia cho quân Tùy.

Từ Thế Tích có chút làm khó. Y vốn xuất thân Ngõa Cương, tâm tư nhạy bén. Kiểu mời rượu không minh bạch này, đương nhiên không thể uống. Y tiếp nhận chén rượu cười nói:

- Quân kỷ sâm nghiêm, trong thời gian chiến tranh không thể uống rượu, nếu không sẽ rơi vào tội chết. Vì vậy tại hạ sẽ nhận chén rượu này nhưng không uống.

Nói xong, y chậm rãi đổ rượu xuống mặt đất, đem chén rượu trả lại cho Dương Văn Tấn:

- Đa Tạ gia chủ!

Dương Văn Tấn thấy y không chịu uống rượu, cũng không có cách nào, chỉ phải tiếp nhận chén rượu cười cười nói:

- Nếu ta đoán không sai, tướng quân là muốn đi đánh Trường Uyên phải không?

Trong lòng Từ Thế Tích khẽ động. Họ Dương là danh gia vọng tộc ở quận Hoằng Nông, lẽ nào bọn họ có cách giúp mình sao?

- Đúng vậy, gia chủ có gì chỉ giáo sao?

Dương Văn Tấn ha hả cười:

- Không nói đến chỉ giáo, nhưng có thể giúp tướng quân một chút.

Ông ta vẫy tay, một người thanh niên đứng phía sau tiến tới, ông ta nói với Từ Thế Tích:

- Người này gọi là Trương An, là người tài năng của họ Dương. Cậu ta chỉ mới mười chín tuổi. Phụ thân của cậu ta là Trương Hoằng Bang, cũng xuất thân từ Dương gia, hiện đang giữ chức Huyện thừa huyện Trường Uyên. Cho nên, cậu ta đối với việc phân phối vật tư lương thực trong kho rất là rõ ràng.

Từ Thế Tích nhất thời minh bạch. Trong lòng đại hỉ, vội vã chắp tay tạ ơn nói:

- Đa Tạ gia chủ giúp đỡ.

- Ha ha! Không cần khách khí.

Dương Văn Tấn cười híp mắt lại. Ông ta đã sớm có tính toán. Từ trước đến nay, Dương Nguyên Khánh còn chưa đi quan Hoằng Nông Dương thị. Ông ta mong chờ Dương Nguyên Khánh có thể trở về nhìn một lần. Cho dù là không chính thức trở về nhận tổ tiên. Nhưng chỉ cần lén trở về một chuyến, cũng coi như là khích lệ rất lớn cho gia tộc họ Dương. Đồng thời có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với Hoàng Nông Dương thị.

Ngày hôm nay ông giúp quân Tùy một lần, vị Từ tướng quân này tất nhiên sẽ nói cho Dương Nguyên Khánh. Không biết Dương Nguyên Khánh có thừa nhận ân tình này mà trở về Dương gia thôn một chuyến không?

Trong lòng Dương Văn Tấn đã có so đo. Ông ta quay đầu nói với người thanh niên Trương An:

- Còn không chào hỏi Từ tướng quân?

Trương An liền tiến lên một bước, khom người thi lễ:

- Học sinh Trương An, sớm nghe nói uy danh của Từ tướng quân, nguyện cống hiến vì quân Tùy.

Từ Thế Tích thấy tướng mạo của y tuấn lãng, có vẻ khôn khéo, trong lòng cũng thích, vội vàng nói:

- Trương thiếu lang không cần đa lễ như vậy. Lần này còn muốn thỉnh cầu thiếu lang giúp đỡ quân Tùy.

- Trương An nguyện toàn lực giúp đỡ, thỉnh tướng quân an bài.

Dương Văn Tấn cáo từ rời đi, Từ Thế Tích gọi một thủ hạ đắc lực tới, viết một phong thơ đưa cho y, dặn dò:

- Ngươi cải trang làm tùy tùng, cùng Trương thiếu lang đi huyện Trường Uyên gặp phụ thân cậu ta. Rồi thay ta đưa bức thư này cho ông ta.

- Ty chức tuân lệnh!

Thủ hạ đi theo Trương An, Từ Thế Tích lại hạ lệnh nói:

- Toàn quân dừng lại, nghỉ ngơi tại chỗ.

Có Trương An làm gián điệp, Từ Thế Tích liền có một kế hoạch mới.

Huyện Trường Uyên nằm tận cùng phía đông bắc của quận Hoằng Nông, gần với quận Hà Nam. Huyện Trường Uyên nằm ở vị trí chiến lược vô cùng trọng yếu. Vừa khéo nằm ở vị trí hiểm giữa quận Hoằng Nông và Lạc Dương. Do quân Đường muốn tấn công Lạc Dương, nên huyện Trường Uyên liền thành nơi cất giữ lương thảo hậu cần của quân Đường.

Lý Thế Dân cực kỳ coi trọng sự an toàn của lương thảo hậu cần. Y liền ra lệnh cho Sử Đại Nại suất lĩnh mười nghìn quân đội đóng ở huyện Trường Uyên. Đại doanh canh gác vật tư của quân Đường nằm ở phía đông cách thành Trường Uyên ba dặm. Đây là doanh trại xây theo kiểu hàng rào, diện tích mấy trăm mẫu. Mười nghìn quân Đường ở thành Trường Uyên, thì có một nửa đóng quân ở trong thành, còn một nửa thì ở trong đại doanh.

Huyện Trường Uyên là một huyện trung bình, nhân khẩu vào khoảng ba nghìn hộ. Huyện lệnh họ Tưởng, người Lạc Dương, Huyện thừa là Trương Hoằng Bang, người quận Hoằng Nông. Ông ta chính là nội ứng mà Dương gia giới thiệu cho Từ Thế Tích.

 Chương 806 : Món lợi nhỏ

Trương Hoằng Bang tuổi chừng bốn mươi, từ nhỏ gia cảnh đã bần hàn. Nhưng ông ta là người thông minh hiếu học. Hai mươi lăm năm trước được Dương gia nhìn trúng, liền đưa tới khu dạy học của Dương gia, tận lực bồi dưỡng.

Có Dương gia làm hậu trường, Trương Hoằng Bang từng bước lên làm quan. Trước đảm nhiệm Công Tào, sau là Huyện Lệnh. Năm Đại Nghiệp đầu tiên, được Dương Tố đề cử làm Trường Sử quận Hoằng Nông, còn đảm nhiệm chức Ti Nông Tự Thiểu Khanh.

Năm Đại Nghiệp thứ chín, do liên quan tới việc Dương Huyền Cảm tạo phản, bị biếm làm Huyện thừa huyện Trường Uyên. Sau khi Vương Thế Sung đăng cơ, đã mời ông ta đi Lạc Dương làm Ti Nông Tự Khanh, nhưng ông ta mượn cớ ốm không tới.

Buổi sáng, Trương Hoằng Bang đang ở huyện nha xử lý công vụ. Chiến sự mấy ngày nay ở Lạc Dương rất khẩn trưởng, ông ta cũng bận bịu hơn trước. Lúc này, một người nha dịch tiến lên bẩm báo nói:

- Huyện thừa, công tử tới!

Trương Hoằng Bang có một trai một gái, con gái đã xuất giá. Con trai Trương An hiện đang học ở Dương học. Ông ta coi đứa con trai như viên ngọc quý, nghe nói con trai tới, ông ta hả hả cười nói:

- Bảo An nhi vào đi!

Chỉ chốc lát, Trương An mang theo một người tùy tùng đi vào phòng của phụ thân. Trương An tiến lên đi thi lễ:

- Con đến viếng an cha!

Trương Hoằng Bang vuốt râu gật đầu hỏi:

- Đang rảnh rỗi hay sao mà tới đây?

- Hồi bẩm phụ thân, là gia chủ bảo con tới đây.

Hóa ra là gia chủ Dương gia bảo nhi tử đến đây. Trương Hoằng Bang nao nao, ông ta liếc mắt nhìn người tùy tùng, thấy y có thân hình cao lớn, cường tráng, hai cánh tay rắn chắc, không giống là người trong thôn, liền hỏi nhi tử:

- Người này là ai?

Trương An tiến lên nói vào tai phụ thân vài câu, Trương Hoằng Bang mới biết, hóa ra là quân Tùy đã tới. Ông ta đứng dậy đi vào trong buồng nói:

- Các ngươi đi theo ta!

Trong buồng, người tùy tùng tiến lên thi lễ nói:

- Tại hạ là thân binh dưới quyền của Từ tướng quân. Phụng mệnh Từ tướng quân, đưa cho Trương Huyện thừa một phong thơ.

Nói xong, người tùy tùng lấy ra một bức thư đưa cho Trương Hoằng Bang. Trương Hoằng Bang biết Từ Thế Tích là vị tướng quân trẻ tuổi nhất dưới trướng của Dương Nguyên Khánh. Y chỉ lớn hơn con mình hai ba tuổi, đúng là tuổi trẻ đầy hứa hẹn. Y suất đại quân đến huyện Trường Uyên này, chắc là liên quan tới lương thảo vật tư của quân Đường.

Ông ta mở phong thư nhìn một lúc, mới trầm ngâm nói:

- Không biết Từ tướng quân hiện ở nơi nào?

- Quân đội hiện đang ở đồi Vong Ưu, cách đây hai mươi dặm.

Hai mươi dặm cũng không phải là xa. Trương Hoằng Bang bèn nói:

- Như vậy đi! Ta đi gặp Từ tướng quân của các ngươi một lần.

Mấy người một đường chạy gấp. Hơn nửa canh giờ sau, Trương Hoằng Bang đã chạy tới nơi nghỉ ngơi của quân Tùy. Từ Thế Tích tự mình ra lều lớn nghênh đón. Y biết Trương Hoằng Bang cũng từng làm qua quan lớn triều đình. Cho nên đối với ông ta cực kỳ khách khí.

Hai người đi vào lều lớn ngồi xuống, Từ Thế Tích ra lệnh thân binh mang trà tới, lúc này mới áy náy nói:

- Không nghĩ tới còn muốn làm phiền sứ quân tự mình đến đây, Thế Tích cảm thấy rất xấu hổ!

Trương Hoằng Bang thấy Từ Thế Tích tuy tuổi còn trẻ, nhưng cử chỉ thong dong, nói năng cơ trí, rất giống như một vị văn tướng. Trong lòng ông ta có chút tán thưởng, liền vuốt râu cười nói:

- Từ tướng quân không cần khách khí. Hiện tại là thời kỳ rối ren, mọi người đều lấy đại cục làm trọng. Trương mỗ là Tùy thần, tự nhiên tâm luôn hướng triều Tùy, ta sẽ kiệt lực giúp đỡ quân Tùy. Không biết có thể làm gì giúp tướng quân?

Từ Thế Tích biết trong lòng ông ta đã có tính toán, cũng không khách khí, đi thẳng vào vấn đề nói:

- Chúng ta là vì trọng địa lương thảo hậu cần của quân Đường mà tới.

Trương Hoằng Bang nhíu mày, cúi đầu trầm ngâm không nói. Từ Thế Tích thấy khuôn mặt của ông ta lộ vẻ khó khăn, liền cười nói:

- Nếu như Trương Huyện thừa thấy khó, ta tuyệt đối sẽ không miễn cưỡng.

Trương Hoằng Bang thở dài nói:

- Thực không dám đấu diếm, nơi cất giữ lương thảo vật tư của quân Đường được bảo vệ rất là nghiêm ngặt. Từ đầu đến giờ, ta cũng chỉ mới qua đó một lần, còn bị lục soát. Nếu như tướng quân muốn tiến vào doanh đốt lương, ta xác thực rất khó giúp đỡ.

Từ Thế Tích lắc đầu:

- Trương sứ quân hiểu lầm rồi. Ta không tính toán đến việc đốt lương thực, mà là muốn tạo thế. Bức chủ lực của Lý Thế Dân lùi về phía tây. Đương nhiên, nếu có thể tạo cho quân địch một ít tổn thất, thì càng tốt.

Trong lòng Từ Thế Tích cũng rõ ràng, Lý Thế Dân lưu lại mười nghìn trọng binh trấn thủ đại doanh hậu cần, bọn họ rất khó công phá được. Còn nếu chỉ cần phô trương thanh thế, cũng không cần sự giúp đỡ của Trương Hoằng Bang.

Mấu chốt chính là, y muốn khiến quân địch có tổn thất. Lần này đi huyện Trường Uyên, không thể tay không mà về. Chí ít kiếm được một chút lợi nhuận nhỏ, nên mới nhờ tới Trương Hoằng Bang.

Trương Hoằng Bang giờ mới hiểu được ý tứ của Từ Thế Tích, ông ta cười cười nói:

- Vậy ngươi muốn ta giúp cái gì?

Từ Thế Tích đã tính toán từ trước, không chút hoang mang nói:

- Ta nghĩ trước hỏi sứ quân tình hình cụ thể của quân Đường.

Đêm tới, bóng đêm phủ khắp đại địa, trên bầu trời lơ lửng những đám mây che khuất mặt trăng, khiến trời đã tối càng thêm đen đặc. Nhưng đại doanh hậu cần của quân Đường lại thắp đèn đuốc sáng trưng. Mấy trăm cây đuốc khiến trước cửa doanh trại sáng như ban ngày.

Mấy trăm binh lính bảo vệ đi đi đi lại trước cửa doanh. Còn có các đội chia nhau tuần hành khắp doanh, không cho bất cứ kẻ nào tới gần.

Cách phía nam đại doanh năm dặm là một đồi núi dài, gọi là đồi Hồi Long. Cây cối trên đồi mọc rất là tươi tốt, tạo thành một khu rừng rậm rạp. Lúc này, trong rừng đang có hai mươi nghìn quân Tùy ở đó. Bọn lính chia thành tốp năm tốp ba, dựa vào cây yên tĩnh nghỉ ngơi.

Ở trên đầu ngọn đồi, Từ Thế Tích đứng dưới một gốc cây đại thụ, nhìn chăm chú vào đại doanh quân Đường phía xa xa. Quy mô của Đường doanh rất lớn, rộng xấp xỉ cả thành Trường Uyên. Bốn phía được bao vây bởi tường lũy. Cứ cách ba mươi bước lại có một trạm canh gác, đề phòng cực kỳ sâm nghiêm.

Đứng ở chỗ cao, có thể nhìn rõ ràng toàn cảnh doanh trướng. Trong đó đang cất giữ hai trăm nghìn thạch lương thực cùng hơn mấy trăm nghìn bó cỏ khô, còn có vô số lều vải, quân giới.

Từ Thế Tích khẽ thở dài một cái. Về mặt chiến thuật, đương nhiên là y muốn hủy diệt hậu doanh quân Đường này. Nhưng về mặt chiến lược, lại phải bảo lưu nó, mới có thể hấp dẫn đại quân của Lý Thế Dân tới quận Hoằng Nông. Nếu như không có hậu doanh này, chủ lực của Lý Thế Dân sẽ đi vòng đến quận Toánh Xuyên.

Lúc này, có một bóng đen đi lên đồi. Rất nhanh đã tới đỉnh đồi. Có hai người binh sĩ đi theo bóng đen. Đây là một người nhà tâm phúc của Trương Hoằng Bang. Y tới là để truyền tin cho Từ Thế Tích. Y có mang theo tín vật của Trương Hoằng Bang làm chứng.

- Lão gia nhà ta bảo ta tới chuyển cáo cho tướng quân, chủ tướng của quân Đường là Sử Đại Nại hiện giờ đang ở trong thành. Lão gia nhà ta hỏi, thời gian cụ thể để hành động.

Từ Thế Tích nhìn nhìn bầu trời, bèn nói:

- Xin chuyển cáo cho Trương sứ quân, giờ hợi là bắt đầu phát động!

- Ta đã biết, giờ ta trở về chuyển cáo cho lão gia.

Người đó thi lễ rời đi, Từ Thế Tích nhìn bóng lưng dần xa của y, dứt khoát hạ lệnh nói:

- Truyền lệnh của ta, toàn quân chuẩn bị tác chiến!

Bởi bên trong doanh trại chứa quá nhiều vật tư, không thể chứa hết mười nghìn binh sĩ. Nên quân Đường chia làm hai đội, một nửa năm nghìn người đóng ở trong doanh, một nửa khác thì đóng trong thành. Ở hai nơi đều có nơi ở cho chủ tướng quân Đường là Sử Đại Nại. Nhưng phần lớn thời gian, y đều ở trong thành.

Sử Đại Nại là quý tộc của Tây Đột Quyết, tên đầy đủ là A Sử Na Đại Nại. Năm Đại Nghiệp thứ năm, Tây Đột Quyết Xử La Khả Hãn bị Xạ Quỹ Khả Hãn đánh bại, Xử La Khả Hãn liền mang theo người còn lại đến triều Tùy tị nạn. Sử Đại Nại cũng đi theo đến đây, thủ hạ của y có ba nghìn quân đội của bộ tộc.

Lý Uyên khởi binh ở Thái Nguyên, Sử Đại Nại liền đầu phục quân Đường. Bộ tộc của y cũng trở thành một đội toàn người Đột Quyết nằm trong quân Đường.

Sử Đại Nại rất được Lý Thế Dân tín nhiệm. Lần này, y được bổ nhiệm là chủ tướng hậu cần, chưởng quản mười nghìn đại quân. Sử Đại Nại cũng không dám coi thường, toàn tâm toàn lực bảo vệ hậu doanh.

Buổi tối, Sử Đại Nại ngồi một mình trong phòng uống rượu. Rượu là ham mê lớn nhất của y. Nếu bình thường, một ngày y có thể uống năm sáu cân rượu. Nhưng hiện tại đang chiến tranh, y cũng chỉ dám uống vài chén.

Đây cũng là nguyên nhân mà y không ở trong doanh trại. Trong doanh trại nghiêm cấm uống rượu, ở trong thành thì tự do một chút.

Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng thân binh bẩm báo:

- Tướng quân, Trương Huyện thừa có việc gấp cần cầu kiến!

- Ừ! Bảo ông ta vào đi.

Chỉ chốc lát Huyện thừa Trương Hoằng Bang vội vã đi vào, khom người thi lễ nói:

- Sử tướng quân, hạ quan có việc trọng yếu cần bẩm báo.

- Có chuyện gì?

- Tướng quân, người nhà của hạ quan mới từ dưới nhà tới, nói rằng ở phía tây của thành phát hiện ra một đội kỵ binh Tùy.

- Quân Tùy?

Sử Đại Nại nhất thời kinh hãi, vội vàng hỏi:

- Ở nơi nào, có bao nhiêu quân Tùy?

- Ở phía tây bắc của thành, cách đây hai mươi dặm. Khoảng chừng có ba nghìn người.

 Chương 807 : Bị ép lùi về phía Tây (p1)

Sử Đại Nại đã không còn tâm tình uống rượu. Trong lòng y bắt đầu căng thẳng. Quân Tùy bỗng nhiên xuất hiện ở huyện Trường Uyên, chắc chắn là có liên quan tới bọn họ. Tuy nhiên nhân số không nhiều lắm, điều này khiến tâm tình của y thoáng buông lỏng. Sử Đại Nại trầm ngâm một chút hỏi:

- Khoảng chừng lúc nào thì phát hiện ra quân Tùy?

- Người nhà vừa đến, khi phát hiện quân Tùy, hẳn là vào lúc chạng vạng tối.

Sử Đại Nại lại lo lắng. Nếu như vậy, quân Tùy hẳn đã tới nơi. Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng gấp gáp của binh sĩ:

- Khởi bẩm tướng quân, có khoảng chừng ba nghìn quân Tùy tấn công về phía tây bắc của đại doanh. Quân Tùy sử dụng tên lửa, chỗ đấy đang rơi vào nguy hiểm.

Sử Đại Nại lập tức đứng lên, lớn tiếng ra lệnh:

- Quân đội lập tức tập trung, cùng ta ra khỏi thành cứu viện đại doanh!

Trương Hoằng Bang gật đầu không nói. Trong mắt hiện lên vẻ cười nhạt.

Cửa thành mở, Sử Đại Nại đi đầu mang theo năm nghìn quân Đường chạy gấp về hướng đại doanh cách năm dặm. Đối phương chỉ có ba nghìn kỵ binh, y như lời Trương Huyện thừa nói. Đây hiển nhiên là quân Tùy tới đánh lén đại doanh.

Đây kỳ thực là một loại đánh vào tâm lý. Đầu tiên, Trương Hoằng Bang nói cho Sử Đại Nại là có ba nghìn quân Tùy. Sau đó đại doanh lại phát hiện có ba nghìn quân Tùy đến đánh. Hai loại ám chỉ đều tới, rất dễ khiến người hiểu lầm rằng quân Tùy chỉ có ba nghìn người, do đó mà mất đi cảnh giác.

Trong đêm đen, năm nghìn quân Đường chạy gấp. Con đường này, bọn họ đã rất quen thuộc. Cự ly năm dặm, bọn họ chỉ mất một khắc là chạy hết.

Đi được ba dặm, phía trước là một sông nhỏ rộng mấy trượng. Trên sông có một cây cầu gỗ, ở xa xa có thể mơ hồ thấy tường chắn đen nháy của đại doanh.

Đội ngũ thả chậm tốc độ, bắt đầu từng người qua cầu. Đội ngũ qua cầu chưa được nửa, bỗng nhiên, vang lên tiếng mõ. Cách đó mấy chục bước xuất hiện hàng chục nghìn mũi tên bắn tới. Tên lao như gió, bắn về phía quân Đường đang qua sông.

Tập kích tới đột nhiên khiến quân Đường rơi vào đại loạn. Ở chỗ bụi cỏ cách bọn họ năm mươi bước, bỗng nhiên xuất hiện những bóng đen, chừng mấy nghìn người. Bọn họ xếp thành một hàng dày đặc, tay cầm cung nỏ, từng mũi tên đoạt mệnh liên tục bắn ra.

Tiếng kêu, tiếng rên thảm thiết vang lên khắp dòng sông nhỏ. Vòng tên thứ nhất, quân Đường đã có gần một nghìn người rơi vào dòng sông. Máu chảy ra nhuộm đỏ cả cả dòng sông. Rất nhanh, đợt tên thứ hai gồm mấy nghìn mũi tên lại phóng tới. Quân Đương sợ đến hồn phi phách tán, quay lại phía sau chạy tứ tán. Sử Đại Nại bị một mũi tiến bắn vào vai trái, liền rơi xuống ngựa.

Do y mặc giáp kiên cố, nên vai trái bị thương không ảnh hưởng tới tốc độ. Sử Đại Nại hô lên như sấm, ý đồ xông về phía trước liều chết. Nhưng vài tên binh sĩ mạnh mẽ kéo y chạy về phía tây cầu.

Đúng lúc này, mặt đất dưới chân bọn họ rung lên. Xa xa truyền tới tiếng vó ngựa như sấm rền, có binh sĩ hô to:

- Là kỵ binh Tùy đánh tới!

Sử Đại Nại quay đầu lại nhìn. Chỉ thấy phía tây nam có rất nhiều kỵ binh đánh tới, chừng hơn mười nghìn người, chỉ còn cách bọn họ không tới trăm bước. Sát khí lạnh thấu xương khiến ánh trăng cũng phải ảm đạm. Quân cung nỏ phục kích phía trước, phía sau thì có binh đuổi tới, binh lực lại nhiều hơn gấp mấy lần. Quân Đường đã hoàn toàn suy sụp.

Sử Đại Nại dùng hết sức hô to:

- Xếp thành hàng! Xếp thành hàng!

Thế nhưng không ai nghe lời y nói. Sự sợ hãi đã bao phủ đến từng binh sĩ. Bọn họ liều mạng chạy dọc theo bờ sông về hướng bắc. Cự ly trăm bước đối với kỵ binh mà nói, chỉ là trong nháy mắt. Hơn mười nghìn kỵ binh lao tới, vung đao giết chóc, cực kỳ hung hãn. Một ít binh sĩ chạy trốn bị kỵ binh chém chết, tiếng kêu thảm thiết vang lên.

Sử Đại Nại nhảy vào giữa sông, tay cầm sóc, dựa vào một cây trụ của cầu. Bốn phía toàn là thi thể của các chiến sĩ bộ tộc y. Ba nghìn binh lính thuộc bộ tộc của y đã bị tên bắn dày đặc chết rất thảm trọng.

Ánh mắt của Sử Đại Nại hung ác nhìn chằm chằm vào đội kỵ binh trên bờ. Y hận đến nỗi nghiến răng kèn kẹt. Lúc này đội kỵ binh đã truy đuổi đi xa, trên bờ chỉ còn lại mấy trăm người.

Sử Đại Nại bỗng nhiên phát hiện, mười mấy tên kỵ binh vây quanh một người đại tướng Tùy đang chậm rãi đến gần. Tựa hồ bọn họ muốn qua cầu sang bờ bên kia. Đây có lẽ là chủ tướng của quân Tùy.

Đặc tính dũng liệt của người Đột Quyết khiến Sử Đại Nại rất khó bình tĩnh. Mong muốn báo thù đang thiêu đốt hừng hực trong lòng y. Y xiết chặt cây sóc, cẩn thận từng bước đi đến bờ.

Người đại tướng Tùy này chính là Từ Thế Tích. Y chia quân làm hai đường, một đường do Cao Tử Khai suất lĩnh ba nghìn người đánh nghi binh đại doanh, hấp dẫn quân của Sử Đại Nại trong thành đi ra cứu viện. Một đội khác do tự mình suất lĩnh mười bảy nghìn người mai phục ở trên đường đến hậu doanh.

Mười bảy nghìn người phục kích năm nghìn người, không thắng mới là lạ. Từ Thế Tích suất lĩnh mấy trăm người thị sát chiến trường. Lúc này y định lên cầu sang bờ bên kia. Bờ bên kia là chỗ quân Đường bị giết nhiều nhất.

Y vừa đi tới đầu cầu, bỗng nhiên nghe tới một tiếng rống như sấm sét vang tới. Một bóng đen từ dưới cầu nhảy lên hét:

- Tướng Tùy, để mạng lại.

Một cây sóc đâm mạnh về hướng Từ Thế Tích. Trong đêm đen, người này xuất hiện quả thật đột ngột, khiến các thân binh đứng xung quanh trở tay không kịp, chỉ đành phải kinh hô. Nhưng Từ Thế Tích phản ứng nhanh hơn, vung trường sóc trong tay lên, ngăn lại cây sóc kia đâm tới.

Từ Thế Tích là người văn võ song toàn. Một cây mã sóc cũng dùng đến xuất quỷ nhập thần. Nhưng trong số những dũng tướng của thiên hạ, y chỉ đứng ở thứ hai mươi. Chủ yếu là vì sức mạnh của y hơi yếu. Chỉ nghe một tiếng keng vang lên. Cây sóc đâm trúng vào trường sóc của Từ Thế Tích, liền bị văng ra ngoài.

Sức đến thật lớn, khiến bàn tay của Từ Thế Tích tê dại, mã sóc như muốn tuột tay. Nhưng do Sử Đại Nại bị thương quá nặng, trên vai trúng tên, dùng quá sức khiến vết thương bị rạn.

Đau đớn kích liệt khiến Sử Đại Nại không cầm được cây sóc. Binh khí tuột tay, y liền rơi xuống mặt đất, đau đớn khiến y co người lại.

Thân binh của Từ Thế Tích lúc này mới phản ứng, liền lao lên, vung đao chém xuống. Từ Thế Tích hô to:

- Để mạng của y lại!

Bọn lính đè Sử Đại Nại lại, trói chặt. Đau đớn khiến Sử Đại Nại bị ngất đi. Vài cây đuốc soi trước mặt y, đây là một người Đột Quyết tóc vàng. Từ Thế Tích thấy cây Độc cước đồng nhân sóc bên cạnh, y liền biết người này là ai.

- Người này được xưng là dũng tướng đệ nhất của Tây Đột Quyết, Sử Đại Nại. Bảo quân y tới trị thương cho y!

Có thể bắt được Sử Đại Nại, coi như là một thu hoạch nho nhỏ. Đúng lúc này, một gã kỵ binh chạy vội tới:

- Bẩm báo Từ tướng quân, Cao tướng quân xin chỉ thị. Đại doanh của quân Đường có cần tiếp tục tấn công hay không.

Từ Thế Tích trầm ngâm một chút, mục đích của anh ta đã đạt được. Lý Thế Dân hẳn là rất nhanh sẽ biết huyện Trường Uyên gặp chuyện không may. Thế thì sẽ không cần thiết phải dừng lại.

Nghĩ vậy, Từ Thế Tích lập tức lệnh nói:

- Ra lệnh đình chỉ đánh. Bảo y mang theo thi thể các huynh đệ tử trận, lùi lại về hướng huyện Hoằng Nông.

Một loạt mệnh lệnh truyền xuống, kỵ binh truy kích quân Đường lục tục trở về, chuẩn bị lùi lại phía tây. Từ Thế Tích thấy cha con Trương thị đã đi tới, liền tiến lên chắp tay hướng Trương Hoằng Bang tạ ơn:

- Lần này nhờ có Trương sứ quân hiệp trợ, quân Tùy mới có khả năng đại thắng. Thế Tích vô cùng cảm kích.

Trương Hoằng Bang cũng đáp lễ, cười cười nói:

- Ta vốn là Tùy thần, trợ giúp quân Tùy cũng là bổn phận. Chức quan nhỏ này hạ quan không muốn làm, mà muốn quay về Dương gia dạy học. Hạ quan có một chuyện, có thể nhờ Từ tướng quân hỗ trợ hay không?

- Sứ quân cứ nói, Thế Tích nhất định làm theo.

Trương Hoằng Bang kéo nhi tử lại nói:

- Khuyển tử biết đôi chút việc viết lách, thân thể cũng cường tráng. Hạ quan muốn cho nó đi theo Từ tướng quân, hỗ trợ việc chỉnh lý công văn, thay các binh sĩ viết thư về nhà. Không biết tướng quân có nhận nó hay không?

Trương Hoằng Bang nhìn ra được Từ Thế Tích là người văn võ song toàn, tuổi trẻ đầy hứa hẹn. Tương lai nhất định là trụ cột của triều đình Đại Tùy. Nếu nhi tử có thể đi theo anh ta, thì cũng có thể làm được một sự nghiệp vẻ vang. Trong mắt ông ta tràn ngập vẻ chờ mong.

Từ Thế Tích mỉm cười, tiến lên vỗ vỗ vai của Trương An nói:

- Quân đội của chúng ta muốn lui lại, ngươi nguyện ý đi theo chúng ta không?

Trương An rất là kích động, thi lễ thật sâu nói:

- Vãn bối nguyện dốc sức vì tướng quân.

- Không phải dốc sức vì ta, mà là dốc sức vì Sở Vương điện hạ.

Từ Thế Tích lập tức mệnh lệnh thân binh bên cạnh:

- Cho cậu ta một bộ quân phục để thay!

Rất nhanh, Trương An đã thay một bộ quân phục của quan văn. Y ngắm nghía bộ quân phục, trong lòng có chút kích động. Y tiến liền quỳ gối trước phụ thân nói:

- Phụ thân, lần này hài nhi đi, có thời gian nhất định sẽ trở về thăm phụ thân. Hy vọng phụ thân bảo trọng thân thể!

Trong lòng Trương Hoằng Bang có chút thương cảm, ông ta nâng nhi tử đứng dậy nói:

- Hài tử, đứng lên đi! Trong lòng ta thấy vi mừng cho con.

Rồi lại miễn cưỡng cười nói:

- Lên ngựa đi! Cố gắng lập thật nhiều công lao.

Ông ta lại chắp tay hướng Từ Thế Tích nói:

- Từ tướng quân, con hạ quan xin giao cho ngài rồi.

 Chương 807 : Bị ép lùi về phía Tây (p2)

Từ Thế Tích gật đầu:

- Sứ quân yên tâm, ta sẽ coi cậu ta như em trai.

Anh ta thấy binh sĩ đều đã quay lại, liền vung tay lên ra lệnh:

- Xuất phát!

Đại đội quân Tùy rời khỏi huyện Trường Uyên, đi về hướng tây bắc. Trương Anh phất tay từ biệt phụ thân, thân ảnh dần dần biến mất trong đêm tối. Trương Hoằng Bang nhìn nhi tử đi mất, thở dài nói:

- An nhi đã lớn rồi!

Quân Tùy phát động tập kích bất ngờ tới đại doanh chứa hậu cần của quân Đường, rồi nhanh chóng rút lui khỏi huyện Trường Uyên, chạy về hướng tây huyện Hoằng Nông. Quân Đường bị tổn thất thảm trọng. Chủ tướng Sử Đại Nại thì bị bắt. Tin tức này nhanh chóng truyền tới Lạc Dương.

Lúc này, Lý Thế Dân đang suất lĩnh chủ lực của quân Đường tới thành Tam Nguyên. Đây là trạm trung chuyển của hậu cần quân Đường. Cũng là nơi có chứa một bộ phận nhỏ lương thảo vật tư.

Trong phòng, tâm tình của Lý Thế Dân rất trầm trọng. Y chắp tay phía sau đi lại. Trên thực tế, y đã nhìn ra sách lược của quân Tùy. Tập kích hậu doanh huyện Trường Uyên, là buộc y quay về quận Hoằng Nông. Nếu cứ như vậy, quân đội của y cùng quân đội của Lý Hiếu Cung muốn hội quân ngày càng khó.

Rõ ràng, quân Tùy muốn chia bọn họ làm hai, không muốn bọn họ hợp binh lại một chỗ. Tuy ý đồ của quân Tùy rất rõ ràng, nhưng Lý Thế Dân cũng đành bất lực. Y chỉ có thể trừng mắt nhìn quân Tùy dắt đi.

Lý Thế Dân nhìn chăm chú vào sa bàn, nhịn không được thở dài. Lúc này, Phòng Huyền Linh xuất hiện ở cửa:

- Điện hạ, thần có thể vào không?

- Tiên sinh mời vào!

Phòng Huyền Linh đi vào gian phòng cười nói:

- Khuất Đột lão tướng quân và Triệu Vương đều bình an tới quận Toánh Xuyên. Điện hạ nên vui vẻ mới đúng, vì sao lại mặt mày ủ rũ như vậy?

Lý Thế Dân cười khổ một tiếng nói:

- Dương Nguyên Khánh thận trọng, buộc chúng ta phải theo cách hắn bài bố. Hết lần này tới lần khác, chúng ta lại bất lực. Tiên sinh nói, làm sao ta có thể vui vẻ được.

- Điện hạ muốn nói tới việc quân Tùy ban đêm đánh đại doanh ở huyện Trường Uyên sao?

- Đúng vậy! Sử Đại Nại bị bắt, sinh tử không biết. Ta biết rõ ràng đây là quân Tùy muốn ta quay về. Nhưng ta vô kế khả thi, thực sự rất uể oải.

Phòng Huyền Linh trầm ngâm một chút nói:

- Điện hạ, ty chức có một lời, chẳng biết có nên nói hay không?

- Tiên sinh cứ nói đừng ngại!

Lý Thế Dân khoát tay, nói:

- Tiên sinh vừa ngồi vừa nói!

Phòng Huyền Linh ngồi xuống, lo lắng nói:

- Kỳ thực ty chức không lo lắng âm mưu của Dương Nguyên Khánh. Âm mưu của hắn tuy lợi hại, nhưng không phải không thể phá. Cùng lắm thì rút về Quan Trung là được. Ty chức chỉ lo lắng quan hệ giữa điện hạ và Thái Tử bị Dương Nguyên Khánh nắm được. Hắn đã bắt đầu lợi dụng rồi.

Lý Thế Dân ngẩn ra:

- Vì sao tiên sinh lại nghĩ như vậy?

- Điện hạ có nghĩ tới hay không, Dương Nguyên Khánh vì sao không e ngại quân Đường ở Đồng Quan xuất binh viện trợ về phía đông, mà trực tiếp ra lệnh cho Từ Thế Tích tập kích hậu doanh Trường Uyên.

- Ý của tiên sinh là, Dương Nguyên Khánh biết rất rõ quân Đồng Quan sẽ không tới cứu viện phải không?

Phòng Huyền Linh gật đầu:

- Quân đội Đồng Quan là quân của Thái Tử. Chủ tướng quân Đồng Quan là La Nghệ càng chỉ nghe lệnh của Thái Tử. Nếu như La Nghệ chỉ cần xuất vài nghìn binh lính tạo thanh thế là Từ Thế Tích cũng không dám xuống phía nam đơn giản như vậy. Nhưng quân Đồng Quan không có một điểm động tĩnh. Chứng tỏ, Dương Nguyên Khánh không hề để ý đến quân Đồng Quan. Nếu như không phải La Nghệ và Dương Nguyên Khánh cấu kết, thì chính là Dương Nguyên Khánh biết quân Đồng Quan khẳng định sẽ không xuất binh. Tóm lại, điều này chứng minh Dương Nguyên Khánh đang lợi dụng mối quan hệ bất hòa của điện hạ với Thái Tử.

Lý Thế Dân trầm mặc một lát nói:

- Biết vậy nhưng làm sao được. Tiên sinh có biện pháp nào không?

Phòng Huyền Linh nhẹ nhàng cười:

- Ty chức chỉ muốn nói cho điện hạ nghi vấn này. Bất luận như thế nào, điện hạ cần phải đem quân quyền nắm chặt trong lòng bàn tay. Nếu như để Thái Tử bắt được một phần quân quyền, tương lai thế lực của điện hạ tất nhiên sẽ bị hủy trong một bộ phận chưa nắm giữ này.

Ngay khi quân Đường rút lui khỏi Lạc Dương, Dương Nguyên Khánh suất lĩnh năm trăm ngàn đại quân liền tiến giết thành Lạc Dương.

Cách phía Bắc thành Lạc Dương vài dặm, quân Tùy đang xây dựng đại doanh ở bờ nam Cốc Thủy. Ngoài cửa doanh, ba nghìn kỵ binh sắp xếp đội hình chỉnh tề, nghi thức uy vũ, Dương Nguyên Khánh mặc kim khôi áo giáp, tay cầm chiến đao, ánh mắt nhìn chăm chú về phía Huy An Môn cách đó vài dặm.

Lúc này, cửa thành phía bắc Lạc Dương mở rộng ra, âm nhạc vang lên, từng đội nhạc trống cùng đội cổ vũ nối đuôi nhau đi ra. Thế tử của Vương Thế Sung là Vương Ứng Huyền mang theo mười mấy tên văn võ đại thần từ bên trong thành đi ra, nhưng không thấy bóng dáng của Vương Thế Sung.

Vương Ứng Huyền nguyên là Thái Tử triều Trịnh. Khi Vương Thế Sung bỏ đi chức hoàng đế, y liền trở thành thế tử, bất quá việc này không ảnh hưởng đến quyền lực của y ở Lạc Dương, y vẫn nắm giữ triều chính như cũ.

Vương Ứng Huyền dưới sự bảo hộ của binh sĩ, đi tới trước mặt Dương Nguyên Khánh liền quỳ xuống, đám đại thần đi theo phía sau cũng quỳ xuống. Vương Ứng Huyền rưng rưng nói:

- Điện hạ cứu chúng ta khỏi nguy nan, đại ân đại đức này chúng ta khắc sâu trong tâm khảm, lúc này lấy sự trung thành hồi báo ân đức của điện hạ.

Đến đây, y liền cầm một cái bình bằng vàng chứa đầy bùn đất của Lạc Dương giơ lên, cao giọng nói:

- Đây là đất của Lạc Dương, đặc biệt hiến cho Đại Tùy Sở Vương điện hạ, coi như là sự trung thành của Trịnh Vương đối với Đại Tùy.

Ánh mắt của Dương Nguyên Khánh trở nên ôn hòa. Hắn xoay người xuống ngựa tiếp nhận kim bình giao cho thân binh, nâng Vương Ứng Huyền dậy, khẽ cười nói:

- Ta có thể hiểu được sự trung thành của Trịnh Vương, không biết Trịnh Vương điện hạ vì sao không thấy?

Vương Ứng Huyền thở dài:

- Gia phụ chỉ huy quân đội giữ thành chống lại quân Đường, đã qua năm ngày đêm không chợp mắt. Quân Đường bỏ chạy, ông ấy liền ngã bệnh. Bệnh của gia phụ rất khó trị nên không thể tự mình ra nghênh đón, mới bảo ta chuyển đạt sự áy náy của ông ấy đến điện hạ.

Dương Nguyên Khánh đương nhiên biết Vương Thế Sung chỉ muốn lấy cớ không gặp mặt mình, hắn cũng có thể hiểu được tâm tình hiện giờ của Vương Thế Sung. Từ hoàng đế giáng cấp xuống làm vương, loại sỉ nhục này người bình thường vốn đã khó tiếp thu nổi, Vương Thế Sung không hổ là một đời kiêu hùng, vậy mà cũng có thể thản nhiên chấp nhận.

Bất quá như vậy cũng tốt, hắn cùng Vương Thế Sung nếu gặp mặt cũng chỉ khiến hai bên xấu hổ, Dương Nguyên Khánh liền gật đầu nói:

- Cũng thỉnh thay ta ân cần thăm hỏi Trịnh Vương điện hạ, ta mong rằng thân thể của ông ấy có thể sớm ngày khang phục, để đi Thái Nguyên yết kiến Hoàng đế bệ hạ!

- Ta nhất định hướng gia phụ chuyển lời thăm hỏi của điện hạ. Mặt khác, quân Đường tản về phía tây, chẳng hay điện hạ có muốn chúng ta xuất binh tương trợ hay không?

Đây mới là vấn đề chính mà Vương Ứng Huyền quan tâm nhất, bọn họ còn có thể nắm giữ trong tay quân quyền hay không. Nếu như Dương Nguyên Khánh muốn bọn họ hiệp trợ, vậy rất có khả năng là muốn cướp đoạt quân quyền của họ.

Nếu như không cần, vậy thì bọn họ còn có thể bảo trì độc lập. Hiện tại Dương Nguyên Khánh giống như dao thớt, bọn họ là thịt cá, tương lai của bọn họ không thể tự làm chủ được, việc liên quan đến vấn đề sinh tử, trái tim của Vương Ứng Huyền liền đập kịch liệt.

Dương Nguyên Khánh minh bạch sự lo lắng của y, cười nhạt nói:

- Binh lực của các ngươi không nhiều lắm, đi theo cũng không có tác dụng gì, cứ lưu lại phòng ngự vậy!

Vương Ứng Huyền đại hỉ. Đây là Dương Nguyên Khánh đồng ý bọn họ tiếp tục nắm binh quyền, y kính cẩn thi lễ nói:

- Đa tạ ân nghĩa của điện hạ. Chúng ta nhất định thủ vững Lạc Dương, tuyệt đối sẽ không để Lý Đường Đông tiến một bước.

Trở lại đại doanh, Tạ Tư Lễ có chút tiếc nuối thở dài:

- Ngày hôm nay, điện hạ vì sao không nhân cơ hội này cướp đọat Lạc Dương, lại để cho Vương Thế Sung tiếp tục lĩnh binh. Vương Thế Sun là hạng kiêu hùng, dã tâm hừng hực, liệu y có thể thực sự thuần phục Đại Tùy hay không?

Dương Nguyên Khánh cười cười:

- Sao ta lại không biết? Nhưng Vương Thế Sung chỉ có hai quận Lạc Dương cùng Hoằng Nông, thế lực của y có thể phát triển đến đâu? Lưu lại y, thì y vĩnh viễn là cái đinh cắm trước cửa triều Đường, khó mà quấn lấy được. Vương Thế Sung là kẻ gian trá giảo hoạt, y so với ai khác càng minh bạch đạo sinh tồn. Nếu y ly khai ta, y lập tức sẽ bị triều Đường bóp chết như một con rệp.

- Thế nhưng hôm nay y dám lấy cớ không gặp điện hạ, vậy thì quá vô lễ rồi.

Trong lòng Tạ Tư Lễ vẫn có một chút lo lắng.

Dương Nguyên Khánh chắp tay cười:

- Dù sao y cũng là hạng kiêu hùng, có dũng khí bỏ đi chức vị hoàng đế đã không dễ, đối nhân xử thế phải giữ lại ba phần thuần tâm, chúng ta không nên ép buộc y quá, coi như cho y một chút mặt mũi.

Vương Thế Sung rời khỏi hoàng cung dọn đến trong phủ Trịnh Vương, vốn là nhà cũ của Tề Vương Dương Giản. Vương Thế Sung tuy làm người âm hiểm giả dối, nhưng quả thực y cũng có chỗ hơn người, chí ít lời nói và việc làm của y đi đôi với nhau.

Tuy rằng y bị bức phải rời bỏ ngôi vị hoàng đế, nhưng nếu đã đáp ứng rồi, y sẽ làm rất triệt để không chút hàm hồ.

 Chương 808 : Bắc Mang tế tổ

Vương Thế Sung không chỉ thiêu hủy tất cả vật phạm lệnh cấm, còn phong bế cửa cung, dọn về phủ Trịnh Vương, thậm chí mấy cung nữ mà y sủng ái nhất cũng không dẫn về.

Trong phòng, Vương Thế Sung ngồi dựa vào giường êm, lắng nghe thế tử Vương Huyền Ứng báo cáo những lời nói với Dương Nguyên Khánh. Vương Thế Sung xác thực vì thủ thành mà bị cảm nhẹ, nhưng không đến nỗi không thể đi gặp mặt Dương Nguyên Khánh, chỉ là y không thể rũ bỏ thể diện.

Vương Thế Sung từng là hoàng đế, giờ trở thành Trịnh vương. Nếu y đi gặp Dương Nguyên Khánh, sẽ giống như các quan lại khác quỳ lễ nghênh kiến, hoặc là phải hướng Dương Nguyên Khánh khúm núm, nịnh bợ, y làm không được, mượn cớ ốm không gặp là cách tốt nhất.

- Phụ thân, hài nhi nghĩ Dương Nguyên Khánh này thực sự là người khoan dung, không giống như những lời đồn đại là thích gây sự.

Vương Huyền Ứng có ấn tượng tốt với Dương Nguyên Khanh, cho nên y lấy lại niềm tin về tiền đồ phía trước.

- Khoan dung?

Vương Thế Sung cười lạnh một tiếng:

- Đó là do ngươi không biết hắn, bị bề ngoài của hắn lừa dối thôi. Năm đó ở Giang Đô, hắn như thế nào đối phó với Trương Vân Dịch, ta biết rõ hơn ai hết, thủ đoạn độc ác khiến cả ta cũng mặc cảm. Hiện tại ta trở thành chó trông cửa cho hắn, mà chó trông cửa không thể nhổ hàm răng. Chờ đến một ngày hắn không cần ta nữa thì sẽ không chút do dự mổ xẻ ta, cho ta một cái tội danh tạo phản rồi xử lý giống như Trương Cẩn. Muốn gán tội cho người khác, sợ gì không có lý do!

Vương Ứng Huyền trầm mặc một lát mới nói:

- Theo như phụ thân nói, sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ chết trên tay hắn phải không?

- Vậy thì cũng không nhất định!

Vương Thế Sung âm trầm cười:

- Đợi thế cục không ổn, vương gia chúng ta có thể đi ra nước ngoài kiến quốc giống như Lưu Cẩn, giống như Lâm Ấp vậy. Hiện tại, mấu chốt là chúng ta cần bồi dưỡng một nhóm tử sĩ trung thành tuyệt đối, nhân số không vượt quá ba nghìn, đây là công việc mà chúng ta cần làm nhất về sau.

Cách nam thành Lạc Dương mười lăm dặm có một tòa thôn gọi là thôn Lạc Nam. Thôn này bị thế núi bao quanh, rất ít người phát hiện nên không bị nạn chiến tranh ảnh hưởng tới. Thôn làng tương đối yên bình, nơi này cũng được dân bản xứ gọi là thôn Trịnh gia.

Vài năm trước, nhân Lý Mật suất quân Ngõa Cương chiếm lĩnh Huỳnh Dương, Huỳnh Dương Trịnh thị mang cả tộc dời đến Lạc Dương. Một bộ phận sống trong thành, một bộ phận khác thì ở chỗ thôn Lạc Nam này.

Nhưng từ khi triều Đường thành lập, vì Thái Tử phi là con cháu Trịnh thị nên gia chủ Trịnh Nguyên Chú được phong làm Thái thường khanh của triều Đường, việc này khiến gia tộc Trịnh thị dần dần dời về Trường An.

Lại vì trong hai năm này Lạc Dương liên tục mất mùa, phần đông dân chúng ly khai, đại bộ phận tộc nhân của Trịnh gia đều bỏ chạy về Trường An, đến Ngự Sử Đại Phu Trịnh Đĩnh của Vương Thế Sung cũng bỏ quan về Trường An, chỉ còn lưu lại hơn mười hộ gia đình Trịnh thị ở thôn Lạc Nam.

Buổi chiều, hơn một nghìn quân Tùy bỗng nhiên phong tỏa toàn thôn trang này, Dương Nguyên Khánh dưới sự hộ vệ của mấy trăm thân binh đi tới một tòa nhà lớn trong thôn.

Trước cửa nhà, hơn mười người con cháu Trịnh gia đã chờ ở đây một lúc lâu, đây đều là những tộc nhân có địa vị thấp trong Trịnh thị. Dưới quyền uy áp chế của Dương Nguyên Khánh, bọn họ có vẻ nơm nớp lo sợ, hai chân run lên.

Trong đó có một gã lớn tuổi tiến lên thi lễ nói:

- Tiểu dân Trịnh Hoàn, tham kiến Sở Vương điện hạ!

Dương Nguyên Khánh đương nhiên không phải đến tìm những còn cháu Trịnh thị này, hắn lạnh lùng nói:

- Ta tìm Dương thị, vợ của Trịnh Hoằng, bảo nàng ấy ra đây.

Sớm đã có vài con cháu Trịnh thị chạy vào trong nhà. Trong chốc lát, một thiếu phụ trẻ tuổi được con cháu Trịnh thị mời ra, nàng dắt theo một cô gái nhỏ chừng ba tuổi. Thiếu phụ trẻ tuổi nhìn thấy Dương Nguyên Khánh, liền đứng sững tại chỗ. Nước mắt của nàng bỗng nhiên chảy, nàng lấy tay che miệng, nấc lên thấp giọng khóc. Nàng chính là em gái của Dương Nguyên Khánh, Dương Kiều Nương.

Dương Kiều Nương là ấu nữ của Trịnh phu nhân, nhưng nàng không kế thừa tính cách hung ác của mẫu thân, mà trái lại, nàng luôn giúp đỡ mọi người. Cả Dương phủ từ trên xuống dưới đều thích nàng, kể cả Dương Nguyên Khánh cũng rất thích người em gái cùng cha khác mẹ này.

Nhưng bởi vì quan hệ của Dương Nguyên Khánh cùng Trịnh thị rất ác liệt, nên Dương Kiều Nương cũng không dám tiếp xúc nhiều với người anh cả này, vì vậy tình cảm huynh muội của bọn họ cũng dần dần phai nhạt. Sau khi Dương Nguyên Khánh ly khai Dương phủ, hai người không còn gặp nhau nữa.

Năm Đại Nghiệp thứ chín, bởi vì Dương Huyền Cảm tạo phản, Trịnh thị sợ con gái bị liên lụy liền vội vã gả nàng cho cháu trai Trịnh Hoằng. Dương Kiều Nương rất bất mãn đối với việc hôn nhân mà mẫu thân an bài, cho nên quan hệ với mẫu thân cũng trở nên gay gắt.

Trượng phu của Dương Kiều Nương là con trai trưởng của Trịnh gia, nhưng y là người lắm bệnh, đã qua đời vào năm trước. Dương Kiều Nương chỉ có một đứa con gái, liền mang theo con gái ở lại Trịnh gia thủ tiết.

Trong hai năm này, đại bộ phận tộc nhân của Trịnh gia đều bỏ chạy đến Trường An, nhưng nàng không chịu đi. Nàng không muốn lại thấy mẫu thân của mình, liền ở lại thôn trồng trọt vài mẫu đất cằn sống qua ngày, cuộc sống vô cùng khổ cực.

Hiện tại, Dương Kiều Nương nằm mơ cũng không nghĩ ra, người anh cả Dương Nguyên Khánh đã vài chục năm không thấy lại đến tìm mình. Trong lòng nàng đau khổ vạn phần, ủy khuất dồn nén trong nhiều năm trời phút chốc vỡ òa, quỳ xuống mặt đất ôm con gái khóc rống lên.

Dương Nguyên Khánh đi tới trước mặt nàng rồi ngồi xuống, trong lòng hắn cũng có chút thương cảm. Tuy rằng hắn rất căm hận Trịnh thị, nhưng vị em gái này lại khác, trong người nàng và hắn cùng chảy một dòng máu.

Dương Nguyên Khánh thấy trâm gài tóc của nàng chỉ là một thanh gỗ, quần áo có chút cũ kỹ, trong lòng hắn càng khổ sở, thấp giọng nói:

- Theo ta về Thái Nguyên, có ta ở đây, muội sẽ không còn phải chịu khổ.

Dương Kiều Nương kéo tay anh cả, khóc rống lên.

- Mẹ, ông ấy là ai vậy?

Tiểu cô nương sợ hãi hỏi.

Dương Kiều Nương lau đi nước mắt, trên mặt cố lộ ra vẻ tươi cười nói:

Đây là cậu của con, tiểu Mai, mau hướng cậu dập đầu!

Cô bé rất hiểu sự, lập tức quỳ xuống, dập đầu trước Dương Nguyên Khánh một cái, giọng trẻ con nói:

- Tiểu Mai thỉnh an cậu!

Dương Nguyên Khánh ôm cô bé vào lòng, lại nâng muội muội đứng dậy, cười nói cô bé:

- Cậu dẫn cháu đến một nơi rất vui vẻ, có rất nhiều ca ca cùng tỷ tỷ chơi với cháu, có muốn đi hay không?

Cô bé vui mừng vỗ tay cười nói:

- Tiểu Mai muốn đi!

Lúc này, Dương Nguyên Khánh lạnh lùng liếc mấy con cháu của Trịnh gia nơm nớp lo sợ đứng cạnh đấy. Hắn hỏi muội muội:

- Kiều Nương, bọn họ có khi dễ muội không?

Dương Kiều Nương thở dài:

- Châm chọc là có, nhưng dù sao bọn họ vẫn sợ mẫu thân hỏi tới mới không dám làm quá mức, chỉ chẳng quan tâm mà thôi.

Dương Nguyên Khánh hừ một tiếng:

- Các ngươi gặp may đấy. Nếu các người từng có nửa điểm khi nhục Kiều Nương, ta sẽ đem Trịnh gia chém tận giết tuyệt!

Đám con cháu Trịnh gia đều sợ đến trắng bệch, cả người run rẩy, ai cũng không dám nói một lời. Dương Nguyên Khánh ra lệnh cho hai nữ binh giúp muội muội lên xe ngựa, rồi lập tức ra lệnh:

- Đi đến Bắc Mang Sơn!

Đại đội nhân mã quay đầu ngựa lại, chạy gấp về Mang Sơn ở phía bắc Lạc Dương.

Đường đi Bắc Mang Sơn đã bị phong tỏa, mấy nghìn quân Tùy chia nhau phòng thủ nghiêm ngặt. Dương Nguyên Khánh dẫn theo Dương Nguy cùng muội muội Kiều Nương đi tới trước mộ Dương Tố, cung kính dập đầu trước mộ của tổ phụ dập đầu lạy ba cái.

Dương Nguyên Khánh cắm ba nén hương vào lư hương, trầm giọng nói:

- Tôn nhi Dương Nguyên Khánh mong rằng tổ phụ trên trời có linh thiêng, Nguyên Khánh không phụ kỳ vọng của tổ phụ. Tâm nguyện của tổ phụ lúc sinh thời sẽ thành hiện thực trong tay của tôn nhi. Mong rằng tổ phụ dưới suối vàng mỉm cười, nhắm mắt ngủ yên.

Một ngày hè, sau cơn mưa, khí trời trở nên oi bức, trên lá cây vẫn còn tích đầy nước mưa, cực kỳ chói mắt dưới ánh mặt trời chiếu xuống. Con ve đã bị nước mưa gột ướt sũng, tiếng kêu càng thêm vang dội, khí nóng bốc lên từ mặt đất khiến mọi người rất khó chịu.

Mùa hè năm nay so với mọi năm càng thêm nóng bức. Người già nói đấy là vì chiến tranh liên miên, nhiều người chết khiến oán khí không chịu tản đi.

Huyện Úy Thị nằm ở tận cùng phía bắc của quận Toánh Xuyên, đây cũng là một khu bình nguyên rộng lớn, chỉ có vài ngọn núi xuất hiện, khiến phong cảnh đơn điệu của bình nguyên thêm phần điểm xuyết.

Cách phía tây thành huyện Úy Thị mười mấy dặm, có một ngọn núi đứng sừng sững rộng khoảng ba dặm, gọi là đồi Hạc Minh, có người nói ngọn núi này là do một chú chim hạc của thần tiên nhảy múa kêu ra mà thành tên.

Gò núi cao một trăm xích (hơn 30 mét), ở giữa có một khe rãnh thật sâu, trong đó mọc lên một khu rừng rậm rạp. Nước trên núi chảy xuống róc rách, càng khiến người chú ý là một cây thụ già cao mười trượng thẳng tắp, tán cây tỏa rộng, chắc đã nghìn năm tuổi.

Lúc này trong khe núi, một đám ngựa chiến lẳng lặng đứng ở cạnh dòng suối nhỏ uống nước ăn cỏ. Cách dòng suối nhỏ không xa là mười mấy binh sĩ Tùy uể oải ngồi nghỉ dưới tán cây thụ già, phần lớn mọi người vẫn mặc nguyên nón giáp, nằm ngủ say sưa.

Đây là một đội thám báo Tùy gồm hai mươi người, nhiệm vụ của bọn họ là tra xét tình báo của quân Đường ở huyện Úy Thị. Tám mươi nghìn chủ lực của quân Đường đã đẩy mạnh đến phía bắc quận Toánh Xuyên, thám báo của quân Đường cũng đã tiến vào cảnh nội của quận Huỳnh Dương.

 Chương 809 : Phát hiện tung tích địch

Thế cục bây giờ là quân Đường khống chế quận Toánh Xuyên, mà quân Tùy thì khống chế quận Huỳnh Dương. Thế lực hai bên đều đóng quân ở biên giới hai quận, hình thành trạng thái giằng co, mà việc tra xét hành động của đối phương là nhiệm vụ chủ yếu của thám báo hai bên.

Nhóm thám báo quân Tùy này đã ở huyện Úy Thị tìm kiếm ba ngày. Các loại dấu hiệu đều cho thấy huyện Úy Thị hẳn là có một nhánh quân địch, nhóm thám báo này đang nghi ngờ nhánh quân Đường ở ngay trong thành huyện.

Bởi khí trời cực kỳ nóng bức, thám báo quân Tùy đều là ngày nghỉ đêm đi. Ban ngày nghỉ ngơi hồi phục thể lực, còn ban đêm thì đi dò xét.

Thủ lĩnh thám báo là một vị Lữ soái họ Triệu. Bởi vì trách nhiệm nặng nề nên y không thể giống như nhóm binh sĩ dễ dàng nghỉ ngơi như vậy, y dựa vào gốc cây đại thụ, phác họa kết quả tra xét hai ngày qua xuống đất.

Bỗng nhiên, bút than trong tay y dừng lại, y phát hiện ra bọn họ đã tra xét thiếu sót một chỗ, chính là Trần gia thôn ở phía tây bắc. Ba ngọn núi hình thành một hình tam giác bao quanh Trần gia thôn, diện tích ước chừng mười dặm.

Triệu Lữ soái khẽ cau mày, y suy nghĩ vì sao lại bỏ mất việc tra xét ở Trần gia thôn. Một lát sau y mới nhớ ra, là bởi vì lúc đó bọn họ phát hiện ra một đội trinh sát của quân Đường, vì phòng ngừa bên kia phát hiện nên bọn họ mới phải rút lui.

Nếu bên kia có quân Đường đi trinh sát, chứng tỏ Trần gia thôn rất có thể có quân Đường đóng quân.

Đúng lúc này, một lính gác trên đại thụ gọi:

- Lữ soái, nhóm của Tam Lang đã trở về!

Rất nhanh, hai gã thanh niên mặc trang phục thương nhân đi vào khe núi. Bọn họ cũng là thám báo quân Tùy, phụng mệnh giả trang làm thương nhân đến huyện thành tra xét tình huống. Triệu Lữ soái đứng lên, đi ra đón:

- Tình hình trong huyện thành như thế nào rồi?

Một gã thám báo nói:

- Không có chủ lực của quân Đường, chỉ có mấy trăm trú quân.

Triệu Lữ soái cau mày, nếu như huyện thành không có trú quân, như vậy quân Đường rất có khả năng ở Trần gia thôn. Y đã không đợi được đến buổi tối, liền ra lệnh nói:

- Tất cả mọi người đứng lên, lập tức xuất phát!

Một khắc sau, hai mươi người thám báo quân Tùy cưỡi ngựa chạy ra khỏi khe núi, đi về hướng tây bắc…

Chỗ Trần gia thôn gọi là đồi Tam Long. Ba ngọn núi tạo thành hình tam giác, phía tây bắc có một nơi trống trải mênh mông, ở giữa là bình nguyên rộng mấy nghìn mẫu, dưới chân núi ven bình nguyên có một tòa thôn trang.

Thôn trang này chính là Trần gia thôn. Nhân khẩu của thôn này vốn có hơn hai trăm hộ, nhưng vào năm Đại Nghiệp thứ tám, sau khi bị hai nhánh loạn phỉ đánh cướp hầu như không còn gì, thôn này trở thành nơi hoang vắng.

Hai năm nay, các thế lực dần dần không cướp bóc giết chóc như trước kia, một ít thôn dân chạy trốn tha hương đã lục tục trở về. Sơn thôn dần dần có chút sinh cơ, hiện nay đã khôi phục tới năm mươi hộ.

Nhưng mấy ngày nay, một đội quân Đường đến đây đóng trại, doanh trại quân đội quá lớn khiến thôn trang cỏn con trông thảm hại. Chỗ doanh trại này đóng mười nghìn quân Đường, do thủ hạ của Lý Hiếu Cung là đại tướng Mao Văn Lợi suất lĩnh.

Thám báo quân Tùy đã đi lên đỉnh của một ngọn núi. Bọn họ từ trên cao nhìn xuống, có thể thấy rõ đại doanh quân Đường. Triệu Lữ soái cẩn thận đếm lều trướng, tính toán diện tích doanh trại, từ những chi tiết này có thể suy đoán ra được quy mô của quân Đường.

Màn đêm buông xuống, hai mươi người thám báo Tùy dựa vào bóng đêm yểm hộ nhanh chóng ly khai ngọn núi. Bọn họ chia làm hai đường, một đường do vài tên thám báo trở về đưa tin, còn một đường do Triệu Lữ soái tiếp tục suất lĩnh giám thị hướng đi của quân Đường…

Đại doanh chủ lực của quân Tùy nằm ở phía nam của huyện Quản Thành, cách đó tám mươi dặm. Hai ngày trước, đại tướng Ngưu Tiến Đạt phụng mệnh Tần Quỳnh, suất lĩnh mười nghìn quân từ quận Đông tới hội quân với quân đội Lý Tĩnh, cùng với mấy ngàn hàng quân của huyện Quản Thành, quân đội của Lý Tĩnh hiện giờ đã đạt tới bốn mươi lăm ngìn người.

Bất quá, quân đội phải phân ba nghìn người phòng thủ Hổ Lao quan, cùng rất nhiều binh lính phòng ngự các huyện Quản Thành, Huỳnh Dương, vì vậy chủ lực quân Tùy trú trong đại doanh còn bốn mươi nghìn người.

Lý Tĩnh toàn quyền phụ trách tác chiến ở Đông tuyến. Ông ta chia chiến dịch Đông tuyến làm hai bước, bước thứ nhất là cướp đoạt cùng củng cố Hổ Lao quan, ổn định hậu phương.

Đợi cho Dương Nguyên Khánh suất chủ lực quân Tùy qua sông, bức Lý Thế Dân rời khỏi Lạc Dương, Lý Tĩnh mới suất quân xuống phía Nam bắt đầu bước thứ hai.

Trong lều lớn trung quân, Lý Tĩnh đang cùng La Sĩ Tín, Vương Quân Khuếch, Ngưu Tiến Đạt, Trình Giảo Kim, các chư tướng thương nghị quân tình, trong lều bày một cái sa bàn.

Lý Tĩnh dùng cây gỗ chỉ vào góc tây bắc huyện Uất Trì, nói với chúng tướng:

- Vừa nhận được tin từ thám báo, ở đồi Tam Long phát hiện một đội quân Đường hơn mười nghìn người đang đóng trại. Đây là nhóm quân Đường gần với chúng ta nhất, chỉ cách có năm mươi dặm. Các vị có ý kiến gì không?

Mọi người trầm mặc trong chốc lát, đầu tiên là Vương Quân Khuếch nói:

- Trưởng sử, mạt tướng cho rằng nhánh quân Đường này ẩn dấu sâu như vậy, có thể là muốn chặn đường lui của chúng ta, đợi chúng ta đánh huyện Quản Thành thì cắt đứt đường cung ứng lương thảo.

Lý Tĩnh thấy La Sĩ Tín muốn nói lại thôi, liền cười hỏi:

- La tướng quân nghĩ như thế nào?

La Sĩ Tín cười cười nói:

- Có lẽ là do ta nghĩ nhiều, ta nghĩ đây là kế chia binh của quân Đường.

- Mời La tướng quân nói tiếp!

La Sĩ Tín tiếp nhận cây gỗ, chỉ hướng huyện Hứa Xương:

- Chủ lực của quân Đường nằm ở huyện Hứa Xương, cách chúng ta sáu mươi dặm, đáng nhẽ bọn họ không cần phải chia mười nghìn người đến huyện Úy Thị. Hiện tại, vấn đề lớn nhất của chúng ta là quân đội chỉ bằng một nửa quân Đường. Nếu chúng ta lại chia mười nghìn người đi đối phó với quân Đường ở huyện Úy Thị, như vậy binh lực đóng ở doanh trại chỉ còn lại ba mươi nghìn người, mà binh lực của đối phương là bảy mươi nghìn người, ưu thế càng thêm rõ ràng. Vì thế ta cho rằng, đây là kế chia binh của quân Đường.

Lý Tĩnh gật đầu, lại hỏi Ngưu Tiến Đạt cùng Trình Giảo Kim:

- Hai vị tướng quân thì sao?

Ngưu Tiến Đạt làm người tương đối ít nói, nhưng lại rất có chủ kiến. Tuy thấy La Sĩ Tín nói có đạo lý, nhưng y vẫn có cách nghĩ của mình.

- Mạt tướng cho rằng quân Đường trú quân mười nghìn ở huyện Úy Thị là vì kiềm chế chúng ta xuống phía Nam. Một khi chủ lực của chúng ta cùng chủ lực quân Đường còn giằng co, thì mười nghìn quân Đường ở huyện Úy Thị sẽ quấy nhiễu phía sau của chúng ta. Không chỉ có việc cắt đường lương thảo, mà còn hình thành thế nam bắc giáp công, chúng ta liền rơi vào thế bị động.

Ngưu Tiến Đạt vừa mới dứt lời, Trình Giảo Kim liền kêu lên nói:

- Thương lượng nửa ngày cũng không có hành động, tụ lại đây chỉ toàn bốc phét, nếu đã phát hiện rồi thì đánh luôn đi! Bốn mươi ngàn chọi với mười ngàn, đánh cho bọn nó tè ra quần!

Tuy rằng vẫn biết tính Trình Giảo Kim thích ăn nói bậy bạ, nhưng giọng y hét lên như búa bổ, lại đanh đá chua ngoa khiến mọi người tức giận, đều quay lại trợn mắt nhìn y.

Lý Tĩnh chỉ cảm thấy nhức đầu. Bây giờ ông ta mới hiểu được, vì sao mỗi lần thương nghị quân vụ tổng quản đều muốn phái người này đi ra ngoài, một cái miệng thối của y thực sự làm người người tức giận.

- Cái này… Trình tướng quân, không thể nói như vậy. Nếu như chúng ta không nhìn thấu dụng ý của quân địch, tùy tiện đến đánh, vậy thì đại doanh làm sao bây giờ? Chủ lực của quân địch cách chúng ta cũng không xa, đây rất có thể là kế điệu hổ ly sơn của bọn họ, không thể không đề phòng.

Trình Giảo Kim ha hả cười:

- Ta chỉ đưa ra kiến nghị, Trưởng sử thấy không thích hợp thì đừng tiếp thu là được.

Lúc này, Vương Quân Khuếch trầm giọng nói:

- Trưởng sử không cần phiền não, ty chức chỉ cần ba nghìn kỵ binh liền có thể đánh tan quân Đường ở huyện Úy Thị. Nếu không thể thắng, ty chức liền đem đầu trở về.

La Sĩ Tín cũng ngạo nghễ thỉnh lệnh:

- Trưởng sử, ta cũng chỉ cần ba nghìn kỵ binh là có thể đánh thắng.

Lý Tĩnh nhìn thoáng qua hai người, cười nói:

- La tướng quân đã lập công lao ở Hổ Lao quan, vậy thì trận này giao cho Vương tướng quân vậy!

Ông ta lại nói với Vương Quân Khuếch:

- Cứ theo lời tướng quân, ta cho tướng quân ba nghìn kỵ binh tinh nhuệ. Nếu không thắng được quân Đường ở huyện Úy Thị, ta cũng không cần đầu của tướng quân, mà chỉ cần ngài ghi nhớ lần bại này.

Vương Quân Khuếch ôm quyền nói:

- Mạt tướng tuân lệnh!

Sau nửa canh giờ, Vương Quân Khuếch điều ba nghìn kỵ binh Tùy tinh nhuệ, như cuồng phong lao ra cửa doanh trại, chạy về hướng huyện Úy Thị…

Đại doanh chủ lực của quân Đường nằm ở phía bắc huyện Hứa Xương, cách đại doanh quân Tùy sáu mươi dặm. Lý Hiếu Cung suất lĩnh tám mươi nghìn quân Tương Dương của triều Đường đã xuất binh gần hai mươi ngày.

Đối với Lý Hiếu Cung mà nói, lần bắc thượng Trung Nguyên này cũng chia làm ba bước. Bước thứ nhất là củng cố hai quận Hoài An cùng Nhữ Nam, đổi quan lại ở hai quận này thành quan của Đường, bảo đảm quyền khống chế hai quận nằm trong tay triều Đường.

Bước thứ hai là bắc thượng quận Toánh Xuyên, cố gắng chiếm lĩnh quận Toánh Xuyên. Đây cũng là nhiệm vụ mấu chốt mà triều đình giao cho y, binh tiến Trung Nguyên, chiếm lĩnh phía nam quận Toánh Xuyên.

Trải qua nửa tháng nỗ lực, quân đội của y đã chiếm lĩnh hơn nửa quận Toánh Xuyên, đang vững chắc đẩy mạnh về phía Bắc.

 Chương 810 : Úy Thị kịch chiến

Nếu như có thể đánh bại quân Tùy, bọn họ có thể chiếm lĩnh quận Huỳnh Dương, đóng binh ở bờ nam Hoàng Hà.

Đương nhiên, Lý Hiếu Cung cũng biết y sẽ gặp phải phản kích mạnh mẽ của quân Tùy, nếu y thoáng mất cảnh giác thì đến quận Toánh Xuyên cũng không thể giữ.

Buổi chiều, Lý Hiếu Cung đang ở lều lớn viết một tấu chương tường thuật quân tình cho Thánh Thượng. Đây cũng là nhiệm vụ mà Thánh Thượng giao cho y, cứ ba ngày viết một phong thư, Lý Hiếu Cung chỉ có quyền chiến đấu chứ không có quyền quyết định chiến lược.

Lý Thế Dân cũng không có quyền đó, các quyết sách trọng đại đều phải hướng Lý Uyên thông báo. Giống như việc Lý Thế Dân sách lược muốn đình chỉ đánh Lạc Dương, tây triệt quận Hoằng Nông, cũng phải do Lý Uyên đồng ý thì mới được thực hiện.

Ở điểm này, quân Tùy rõ ràng chiếm ưu thế. Dương Nguyên Khánh tự mình chỉ huy toàn bộ chiến dịch, nên hắn có thể căn cứ vào những biến hóa của tình thế mà nhanh chóng đưa ra quyết định.

Lý Hiếu Cung đang lúc trầm tư viết báo cáo, thì có một thân binh đứng ngoài trướng bẩm báo:

- Khởi bẩm Vương gia, Khuất Đột lão tướng quân có chuyện quan trọng cần cầu kiến…

Khuất Đột Thông cứu Triệu vương Lý Huyền Bá chạy về hướng đông phá vòng vây, một đường nam hạ tìm được quân đội của Lý Hiếu Cung. Thương thế của Lý Huyền Bá rất nặng, được đưa về Trường An điều dưỡng, mà Khuất Đột Thông thì được Lý Hiếu Cung níu kéo mới đồng ý lưu lại quận Cố Xuyên.

Quan trọng hơn là, nếu quận Cố Xuyên bị mất, quân Tùy có thể tiến nhanh xuống phía nam, uy hiếp hai quận Nhữ Nam cùng Hoài An, Lý Hiếu Cung phải lo lắng đến hậu quả vấn đề này.

Không chỉ có như vậy, mọi chiến lược của y đều phải do Thánh Thượng phê chuẩn mới có thể chấp hành. Lý Hiếu Cung bất đắc dĩ thở dài:

- Kiến nghị của lão tướng quân ta rất đồng ý, nhưng chỉ là không thực tế cho lắm.

Khuất Đột Thông ngẩn ra, ông ta có chút thông cảm, liền khuyên nhủ:

- Điện hạ, đơn giản là điều phối quan viên các loại, điện hạ không cần lo lắng đến vấn đề này. Chỉ cần đánh bại quân Tùy, chiếm được quận Dĩnh Xuyên, việc này có thể thong thả an bài.

- Lão tướng quân, không chỉ là vấn đề này, muốn điều chỉnh chiến lược trọng đại như vậy cần phải bẩm báo Thánh Thượng, còn bên Tần Vương cũng phải bẩm báo Thánh Thượng, hai nơi được Thánh Thượng phê chuẩn thì mới có thể chuyển dời quân đội đến quận Tương Thành, ta không thể tự ý quyết định.

- Nhưng như thế sẽ lỡ mất thời cơ chiến đấu. Điện hạ, đừng lỡ mất đại sự!

Khuất Đột Thông có chút lo lắng nói.

Lý Hiếu Cung rất bất đắc dĩ:

- Nếu ta tự ý làm chủ, thắng không nói làm gì, nếu thua, ta thực sự không gánh nổi trách nhiệm, mong rằng lão tướng quân hiểu cho tình cảnh khó xử của ta.

Khuất Đột Thông thở dài:

- Triều Đường là tân vương triều, thế mà hành động lại cứng nhắc, làm sao có thể tranh đoạt thiên hạ?

Trong lòng ông ta vạn phần uể oải, mới cảm thán nói vậy.

Lý Hiếu Cung nhìn bóng lưng ông ta đi xa, trong lòng y cũng cảm thấy nặng nề, đến lão thần như Khuất Đột Thông còn nói vậy, trận này làm sao có thể đánh?

….

Huyện Úy Thị, Trần gia thôn, một đội thám báo quân Đường chạy gấp tới, đến trước đại doanh liền cao giọng bẩm:

- Có quân tình khẩn cấp, mau báo cho tướng quân!

Cửa lớn của quân doanh mở ra, vài tên thám báo chạy vội vào đại doanh, đi hướng lều lớn trung quân. Đại tướng Mao Văn Lợi suất lĩnh mười ngàn quân này là người quận Thục, phụ thân cũng là tướng quân, y đã từng nhậm chức Đô Úy quận Giản Dương. Lúc Lý Hiếu Cung phòng thủ phía nam Ba Thục, Mao Văn Lợi liền đi theo làm thủ hạ, rất được Lý Hiếu Cung yêu thích.

Mao Văn Lợi tuổi chừng bốn mười, vóc người trung bình, có một đôi mắt dài mang vẻ giảo hoạt, y là một lão thành tinh dày dặn kinh nghiệm, đương nhiên kinh nghiệm cầm binh của y cũng rất phong phú. Bất quá, mười năm qua đất Thục không có chiến sự, kinh nghiệm chiến tranh không nhiều, Mao Văn Lợi chỉ tham gia một hồi chiến dịch vây công quận Giang Lăng trong chiến dịch tấn công Trung Nguyên. Mao Văn Lợi có chút lo lắng, y cũng biết quân Tùy tinh nhuệ, tác chiến sắc bén, mà quân đội của y phần lớn là Thục binh. Tuy được huấn luyện tốt, quân dung chỉnh tế, trang bị hoàn mỹ, nhưng lại thiếu kinh nghiệm tác chiến. Nếu đối diện với giết chóc thảm liệt, không biết bọn họ có chịu đựng được không, trong lòng Mao Văn Lợi cũng không nắm chắc.

Đúng lúc này, binh sĩ ngoài lều bẩm báo:

- Thưa tướng quân, thám báo có quân tình khẩn cấp.

- Nói! Xảy ra chuyện gì?

- Thám báo phát hiện một đội kỵ binh Tùy khoảng chừng ba nghìn người đang chạy tới hướng chúng ta, còn cách hai mươi dặm.

Mao Văn Lợi cả kinh, điều y lo lắng nhất rốt cục đã xảy ra. Y lập tức ra lệnh nói:

- Mệnh lệnh toàn quân chỉnh đốn, rời núi nghênh chiến!

Trong thung lũng không thể triển khai chiến trường, mười nghìn quân Đường đi ra đồi Tam Long, dựa vào núi mở trận hình. Bọn họ đi lại xen kẽ bày trận hình, chỉ thấy một đám bụi từ phía xa xa, lốm đốm điểm đen xuất hiện trên bình nguyên.

Đối phương càng ngày càng gần, những điểm đen này cũng càng nhìn rõ, chừng mấy nghìn người, thanh thế to lớn, nhưng tốc độ chậm dần, còn cách quân Đường ba dặm thì dừng lại, không hề lập tức phát động tấn công.

Mười nghìn quân Đường này bao gồm tám nghìn bộ binh cùng hai nghìn kỵ binh. Lý Hiếu Cung lo lắng đến việc Thục binh không quen cưỡi ngựa bắn cung nên mới ghép bộ binh Thục với kỵ binh Lũng Hữu. Trong mười nghìn quân Đường này, hai nghìn kỵ binh chính là từ Lũng Hữu.

Mà trong tám nghìn bộ binh, có ba nghìn cung nõ thủ cùng ba nghìn trường mâu binh, hai nghìn còn lại là đao thuẫn binh. Bọn họ sắp xếp đội hình tương đối chỉnh tề, trong hai cánh thì mỗi cánh do một nghìn kỵ binh hộ vệ. Mặt trước là ba nghìn cung nỏ thủ, nỏ đứng trước cung đứng sau, sau nữa là ba nghìn trường mâu thủ, cuối cùng là hai nghìn đao thuẫn thủ áp trận.

Cách ba dặm, bụi đất dần dần lắng, khiến tầm nhìn trở nên rõ ràng hơn. Chỉ thấy đội kỵ binh Tùy chỉ có ba nghìn người, nhưng người nào người nấy đều thân hình to lớn, khôi ngô, mặc áo giáp sáng bóng, trường mâu như rừng, ngựa chiến thì mạnh mẽ như rồng. Mỗi một người kỵ binh đều là dũng sĩ thiện chiến, bọn họ tụ tập cùng một chỗ giống như một bức tường thép, không gì phá nổi.

Vương Quân Khuếch cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao, lạnh lùng nhìn chăm chú về phía quân Đường xa xa. Từ trận hình có thể thấy, nhánh quân Đường này được huấn luyện có bài bản, đội hình chỉnh tề, nhưng trên người bọn họ lại thiếu một loại sát khí. Giống như một pho tượng, lại vừa giống như một thanh bảo kiếm chưa từng giết người, bề ngoài mặc dù chế tạo tinh xảo, nhưng lại không đủ độ cứng.

Khóe miệng Vương Quân Khuếch lộ ra một tia trào phúng. Ông ta ngẩng đầu nhìn lên mặt trời chói chang, vẫn không có ý phát động tấn công, mà ra lệnh một tiếng:

- Xuống ngựa, nghỉ ngơi tại chỗ!

Ba nghìn kỵ binh nhất tề xuống ngựa, ngồi dưới bóng của ngựa chiến bảo trì thể lực. Bọn họ đã có chuẩn bị, mỗi người mang theo hai túi nước, thỉnh thoảng đút nước cho ngựa yêu của mình, rồi lại đổ nước trên người chúng nó, xua bớt cái nắng nóng.

Nắng gắt như lửa, như muốn đốt cháy mặt đất, phải phơi nắng dưới ánh mặt trời chói chang này, đúng là một loại khảo nghiệm quá lớn với tất cả binh sĩ. Cung tiễn thủ của quân Đường đều buông cung cùng nỏ xuống, ngồi chồm hổm trên mặt đất. Trường thương binh cũng theo thế ngồi xuống, lau đi mồ hôi đang đổ nhễ nhại trên trán. Bộ binh không có túi nước, đành phải cố nhịn khát. Mặt đất nóng hôi hổi, thực giống như lò hấp khiến người ta khó thở.

Lúc này, kỵ binh Tùy thong thả kéo ngựa đi đến. Quân Đường đồng thời đứng lên, lần thứ hai kéo cung nỏ, trường mâu giơ lên, khẩn trương nhìn về quân Tùy đang tới gần. Nhưng quân Tùy đi được một dặm lại ngừng lại, ngồi xuống xếp bằng như trước.

Chủ tướng quân Đường Mao Văn Lợi có chút khẩn trương. Y cũng nhìn ra ý đồ của quân Tùy, là muốn quân Đường bị phơi nắng dưới ánh nắng mặt trời chói chang, khiến sĩ khí bên mình tiêu hao. Đây chính là chiến thuật bì lao (mệt mỏi).

Khoảng chừng nửa canh giờ sau, rốt cuộc có binh sĩ không chịu được nắng nóng mà té xỉu, quân Đường vô luận là thể lực hay là sĩ khí đều rơi xuống mức thấp nhất. Đúng lúc này, Vương Quân Khuếch giơ lên kèn lệnh, hướng lên trời thổi mạnh.

- Ô…

Ngay sau đó, một trăm cái kèn lệnh đồng thời kêu lên:

- Ô…

Tiếng kêu trầm thấp vang lên khắp bình nguyên. Đây là tín hiệu chiến đấu, ba nghìn kỵ binh Tùy cùng lúc xoay người lên ngựa, đổ nốt số nước còn lại lên đỉnh đầu, để ngựa chiến cũng được tắm rửa, rồi bọn họ đồng thời rống lên một tiếng thật to.

Ba nghìn kỵ phát động tấn công, tiếng vó ngựa kịch liệt rung động mặt đất. Sát khí trên người bọn họ tỏa ra như cuồng phong cuồn cuộn thổi tới, ùn ùn kéo đến hướng về quân Đường, tựa như sóng to gió lớn, có thể phá hủy tất cả.

Cung nõ thủ của quân Đường cũng đều tỉnh lại, giơ cung, nỏ lên nhắm về phía quân Tùy đang xông lên. Nhưng do bị phơi nắng thời gian dài, khiến thể lực của bọn họ tiêu hao, đã không còn ý chí chiến đấu chống lại, rất nhiều người đều đầu váng mắt hoa, uể oải không chịu nổi.

Kỵ binh Tùy trong nháy mắt vọt tới gần trăm bước. Tiếng trống vang lên, ba nghìn tay cung nỏ đồng thời bắn ra, mũi tên dày đặc bắn về hướng quân Tùy. Binh sĩ Tùy đều giơ lên thuẫn ngăn lại, bảo hộ ngựa chiến của mình, tên liên tục cắm lên trên thuẫn.

Không ngừng có ngựa chiến kêu thảm, ngã xuống đất. Loại tiễn trận này đối với dân tộc du mục mà nói rất có lực sát thương, nhưng đối với kỵ binh Trung Nguyên vốn được huấn luyện chu đáo thì lực sát thương lại không

 Chương 811 : Ba cách chọn một

Vô luận cung nỏ đều là ngắm lên cao xạ kích, tên sẽ từ trên cao bắn xuống. Để đối phó, quân Tùy chỉ cần giơ tấm chắn lên, canh đúng góc tên bắn xuống che chắn thân thể binh sĩ cùng đầu ngựa, như thế có thể giảm bớt lực sát thương vào trước ngực và chi trước của ngựa.

Tiễn bắn không thể ngăn được quân Tùy trùng kích. Mặc dù sau một vòng tên bắn đã tổn thất gần hai trăm binh sĩ Tùy, nhưng quân Tùy cũng đã đi đến cách quân Đường ba mươi bước. Ngựa chiến chạy chồm tới, sát khí tận trời.

Trận hình của quân Đường cũng phát sinh biến hóa. Cung nỏ quân lùi về sau, ba nghìn trường thương binh đi ra nghênh chiến. Lúc này, kỵ binh Tùy đã giết vào quân đội địch, lực đánh vào thật lớn khiến quân Đường đều ngã khuỵu. Ngựa chiến chạy ào vào, tốc độ không giảm, dọc đường không ngừng chém đao, đâm mâu, giết thành một đường máu.

Vương Quân Khuếch cưỡi ngựa đi đầu, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao vung lên, đao phong sắc bén, máu tươi văng khắp nơi. Trong lòng Vương Quân Khuếch vốn nghẹn đã lâu, giờ này liền dùng đao phát tiết. Ông ta xuất thân là cướp đường, nên danh tiếng không được tốt.

Nhưng trong đám cướp đường cũng phân chia đẳng cấp, giống như Từ Thế Tích cùng Trình Giảo Kim xuất thân từ trại Ngõa Cương, Từ Thế Tích chính là Tứ đương gia của trại Ngõa Cương, nhưng bọn họ vẫn được trọng dụng. Còn như ông ta chỉ ở Thái Hành Sơn cướp bóc, rất khó được trọng dụng.

Đây cũng không phải do Dương Nguyên Khánh bất công, mà là cả thiên hạ đều đánh giá Vương Quân Khuếch như vậy. Thể hiện rõ nhất là trong mười đại dũng tướng của thiên hạ, Đơn Hùng Tín đứng thứ chín, nhưng Đơn Hùng Tín hai lần đều bại trong tay ông ta, thế mà Vương Quân Khuếch vẫn như cũ, không có danh tiếng gì.

Cỗ ác khí nghẹn trong lòng đã lâu, khiến Vương Quân Khuếch hôm nay quyết định thỉnh lệnh, chỉ dùng ba nghìn người đánh mười nghìn quân Đường. Ông ta cần một trận chiến này để tạo nên uy danh của mình, gột sạch nỗi sỉ nhục trên người.

Vương Quân Khuếch đã từng suất lĩnh ba trăm tên cướp đường đánh bại hai nghìn quan binh, nên ông ta biết rõ mấu chốt trong việc lấy ít thắng nhiếu, chính là phải giết chết chủ tướng của quân địch.

Vương Quân Khuếch nhìn chằm chằm vào chủ tướng quân Đường Mao Văn Lợi đã lâu. Mao Văn Lợi đang đứng dưới soái kỳ, được hai nghìn đao thuẫn bảo vệ.

Chiến dịch diễn ra rất kịch liệt. Mặc dù thể lực cùng kinh nghiệm của quân Đường đều kém đối phương, nhưng bọn họ được huấn luyện rất bài bản, đánh trận có kết cấu rõ ràng. Trường thương binh dàn hàng ngay chính diện ngăn chặn kỵ binh Tùy, cung nỏ thì ở phía sau bắn từ xa, còn kỵ binh bao vây hai cánh, cùng đao thuẫn binh tùy thời bổ sung lỗ hổng.

Trận hình của quân Đường bảo trì được rất tốt. Trường thương trận vài lần bị kỵ binh Tùy tách ra, rất nhanh lại được tập kết lại. Hơn nữa, số lượng quân Đường đông gấp ba quân Tùy, về binh lực rõ ràng là chiếm ưu thế, khiến kỵ binh Tùy rơi vào trở ngại.

Kỵ binh Tùy mãnh liệt trùng kích trận trường thương dày đặc của quân Đường. Cung nỏ phía sau trường thương trận cũng không ngừng bắn tên. Càng khó khăn chính là kỵ binh hai cánh của Đường xung phong liều chết. Bọn họ là tinh nhuệ Lũng Hữu, cưỡi ngựa thành thạo, sức chiến đấu rất cao, khiến kỵ binh phòng hộ của Tùy dần dần không chống đỡ được.

- Tướng quân!

Một gã thiên tướng chạy như bay đến, lớn tiếng nói:

- Kỵ binh Đường ở hai cánh rất là dũng mãnh, các huynh đệ có phần trụ không nổi rồi.

Vương Quân Khuếch giận dữ, mắng chửi y nói:

- Ta là chủ tướng còn không sợ chết, ngươi sợ cái gì. Dù chỉ còn là một người, cũng phải đứng vững!

- Tuân mệnh!

Thiên tướng cắn răng một cái, thúc ngựa chạy vội đi. Tuy rằng Vương Quân Khuếch mạnh mẽ ra lệnh kỵ binh hai bên sườn ngăn chặn quân Đường, nhưng trong lòng ông ta cũng biết quân Đường đã dần dần thành thế bao vây. Nếu không thể đột phá, trận chiến này kỵ binh Tùy sẽ toàn bộ bại vong.

Vương Quân Khuếch lấy ra kèn lệnh, lần thứ hai ngửa mặt lên trời thổi mạnh.

- Ô…ô…

Đây là mệnh lệnh tập kết, năm trăm kỵ binh nhanh chóng tập kết bên cạnh Vương Quân Khuếch. Ông ta hét lớn một tiếng, một đao chém chết một tướng Đường, đem theo quân đội đánh sâu vào trường thương trận. Thanh Long Yển Nguyệt Đa tung hoành khắp nơi, chém phải bổ trái, giết binh sĩ Đường từng người từng người gã xuống, tứ chi bay tứ tung.

Thấy chủ tướng dũng mãnh tuyệt luân, năm trăm kỵ binh Tùy như được kích thích, đều lao lên bất kể sống chết, đánh cho quân Đường liên tục lùi xuống.

Đây cũng là một ưu điểm của quân Tùy, ý chí kiên cường. Đối mặt với sống chết, bọn họ thường dẫm lên cái chết mà hồi sinh, họ không sợ chết, một mực tiến lên.

Mà phần lớn binh sĩ Đường đều không có trải qua màn giết chóc thảm thiết này. Đối mặt với tử vong, bọn họ trở nên khiếp nhược. Hơn nữa do bị phơi nắng, khiến thể lực của bọn họ tiêu hao quá lớn. Sau một lúc chiến đấu kịch liệt, cánh quân do Vương Quân Khuếch suất lĩnh năm trăm kỵ binh phá một lỗ hổng rộng hơn hai mươi trượng.

- Giết!

Vương Quân Khuếch lớn tiếng quát lên, vung đao giết tới đao thuẫn quân, mục tiêu của ông ta là chủ tướng Đường. Chém soái kỳ, giết chủ tướng, quân Đường chắc chắn tan vỡ. Năm trăm kỵ binh đi sát phía sau, bọn họ giống như một cú đấm sắt, mãnh liệt hướng điểm yếu của quân Đường xông tới.

Điểm yếu của quân Đường là cung nỏ quân cùng đao thuẫn quân. Đối phó với kỵ binh sắc bén, đao thuẫn binh thì trái ngược với trường mâu quân, bọn họ không thể nào tập kết dày đặc để đâm mâu, cho nên trong nháy mắt liền bị kỵ binh Tùy giết thành một đường máu.

Gia tộc của Mao Văn Lợi đời đời làm tướng nên y được đọc rất nhiều binh thư, giỏi về bài binh bố trận. Nhưng y cũng có nhược điểm, đó là thiếu kinh nghiệm thực chiến.

Lúc đầu giao chiến, trận hình mà y bày ra rất có lợi cho việc cản trở quân Tùy tấn công, thậm chí đã bao vây được quân Tùy bao vây. Nhưng nhờ sự dũng mãnh của Vương Quân Khuếch mà quân Tùy có thể đột phá vòng vây, khiến quân Đường trở nên bị động.

Lúc này, việc thiếu kinh nghiệm thực chiến khiến y không thể so sánh với Vương Quân Khuếch từng kinh qua bách chiến. Vương Quân Khuếch biết làm sao có thể đánh thắng trận này, mà Mao Văn Lợi chỉ biết liều mạng điều động đội hình, ý đồ cho trường mâu binh phân thành hai nhánh, vây lại năm trăm kỵ binh Tùy này.

Y không nhận ra rằng, nguy hiểm đã tới bên người.

Lúc này, vài tên thân binh hô to:

- Mao tướng quân, cẩn thận bên cạnh!

Mao Văn Lợi vừa quay đầu. Chỉ thấy một gã đại tướng Tùy cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao đang liều chết xông tới. Mao Văn Lợi thất kinh, vung sóc lên đâm. Vương Quân Khuếch nghiêng người né tránh, liền vọt tới bên cạnh Mao Văn Lợi. Ông ta vung trường đao lên, đao phong sắc bén. Chỉ thấy máu tươi văng lên, đầu của Mao Văn Lợi bị đao của Vương Quân Khuếch chém rời.

Vương Quân Khuếch phóng ngựa chạy gấp, lớn tiếng hô lớn:

- Chủ tướng quân Đường đã chết!

Soái kỳ của quân Đường cũng bị kỵ binh Tùy chém đứt, ầm ầm rơi xuống. Rất nhiều đao thuẫn binh đều tận mắt thấy Mao Văn Lợi bị giết. Bọn họ liền không có tâm tư ham chiến, liền quay đầu chạy tứ tán.

Đao thuẫn binh chạy trốn kéo theo cung nỏ binh, sau đó là trường mâu binh cũng theo nhau chạy trốn. Cuối cùng chỉ còn lại kỵ binh Đường.

Hai gã thiên tướng thống suất kỵ binh Đường nhìn thấy soái kỳ đã gãy, chủ tướng bị giết, bộ binh thì tứ tán chạy trốn. Bọn họ cũng bất lực, quay đầu ngựa lại, chạy về hướng tây nam.

Kỵ binh Tùy liền truy kích phía sau, giết được quân Đường thi thể khắp nơi, vô số người đầu hàng. Một trận chiến này, quân Tùy lấy ít thắng nhiều, dùng ba nghìn kỵ binh đánh bại mười nghìn quân Đường, bắt sống hai nghìn, nhưng kỵ binh Tùy cũng bị tổn thất khá lớn.

Một trận chiến ở huyện Úy Thị này, đã mở màn cho đại chiến tranh giành Trung Nguyên.

Cùng lúc với Vương Quân Khuếch suất lĩnh ba nghìn kỵ binh đại chiến quân Đường ở huyện Úy Thị, Lý Tĩnh cũng suất lĩnh quân chủ lực đi về phía nam. Cách huyện Hứa Xương hai mươi dặm thì ngừng lại xây đại doanh, đối chiến với bảy mươi ngàn chủ lực quân Đường do Lý Hiếu Cung suất lĩnh ở cách đó mười dặm.

Nhưng Lý Tĩnh cũng không nóng lòng cùng quân Đường quyết đấu, ông ta cần đợi tin tức của quân Tùy ở tây lộ. Ở chiến dịch này, Lý Tĩnh cũng không phải đơn độc tác chiến.

Chính như Khuất Đột Thông lo lắng, quân Tùy đã hình thành ba tuyến liên động. Hai mươi nghìn quân của Từ Thế Tích vào quận Tương Thành, tùy lúc trợ giúp hai tuyến còn lại, khiến quân Đường bị rơi vào uy hiếp của tây tuyến.

Huyện Hứa Xương, trong lều lớn đại doanh quân Đường, Lý Hiếu Cung giống như kiến bò chảo nóng, chắp tay phía sau đi lại. Y vừa nhận được tình báo, quân Đường ở huyện Úy Thị đã đại bại, mười nghìn quân đội lại bị ba nghìn kỵ binh Tùy đánh cho chối chết, tâm phúc ái tướng của y, Mao Văn Lợi cũng vong trận.

Tin tức này khiến trong lòng y lạnh buốt. Ưu thế duy nhất của y là có binh lực nhiều gấp đôi quân Tùy, nhưng tin tức này vừa truyền đến khiến ưu thế duy nhất của y đã biến mất.

Quân Tùy có thể dùng ba nghìn người đánh bại mười nghìn người, đây cũng giống như bốn mươi nghìn người đánh bại tám mươi nghìn người của y, mặc dù giờ chỉ còn lại bảy mươi nghìn.

Còn có hai mươi ngàn quân Tùy do Từ Thế Tích suất lĩnh ở quận Tương Thành. Trên thực tế, binh lực Tùy Đường đã đạt tới sáu mươi nghìn chọi với bảy mươi nghìn. Quân đội của y đã không còn một chút ưu thế, hơn nữa sức chiến đấu càng không bằng quân Tùy.

Lý Hiếu Cung lúc này mới ý thức được những lời cảnh cáo của Khuất Đột Thông chính xác đến cỡ nào. Nếu cứ như vậy đánh tiếp, chiến dịch giành Trung Nguyên này coi như đã xác định y tất bại.

 Chương 812 : Tần vương cầu viện

Tin tức thảm bại ở huyện Úy Thị đã không còn phong tỏa được. Lý Hiếu Cung chỉ đành phải hạ lệnh nói dối tình hình chiến đấu, nói rằng binh lực quân Tùy đánh huyện Úy Thị là mười lăm nghìn người, quân Đường do không chống lại được số đông mới bị đánh bại. Như vậy, chí ít có thể hòa hoãn lại sĩ khí của binh lính.

Lúc này, một gã binh sĩ đứng ngoài lều bẩm báo:

- Điện hạ, Khuất Đột lão tướng quân tới rổi!

Lý Hiếu Cung cuống quít nói:

- Mau mời vào!

Khuất Đột Thông là do y phái người mời tới. Y muốn biết, bây giờ còn có kế sách nào bù đắp không.

Khuất Đột Thông đi vào lều lớn, khom người thi lễ:

- Tham kiến điện hạ!

Ngữ khí của ông ta rất bình thản, Lý Hiếu Cung tìm ông ta là nằm trong dự liệu. Quân Đường thảm bại ở huyện Úy Thị, mở đầu một trận ác liệt, đánh sâu vào sĩ khí quân Đường, khiến sĩ khí quân Đường bị đả kích trầm trọng, về sau rất khó đánh.

Lý Hiếu Cung thở dài một tiếng nói:

- Lão tướng quân chắc cũng biết tin tức rồi! Huyện Úy Thị bị thảm bại, khiến ta giờ không biết làm thế nào. Ta muốn mời lão tướng quân thay ta bày mưu tính kế, xem có biện pháp nào có thể xoay chuyển thế cục hay không?

Khuất Đột Thông trầm ngâm một chút nói:

- Tình thế bây giờ tuy rằng đối với quân Đường bất lợi, nhưng chưa đến nỗi nghiêm trọng nhất. Nếu có thể xử lý đúng lúc, còn có thể chuyển cơ, nhưng không biết điện hạ có dám quyết đoán hay không?

Lý Hiếu Cung đại hỉ:

- Lão tướng quân mời nói, ta chăm chú lắng nghe.

Khuất Đột Thông vươn ba đầu ngón tay, chậm rãi nói:

- Ta có thượng, trung, hạ ba cách cho tướng quân chọn. Thượng sách là lập tức rút quân, như vậy có thể bảo trì thực lực của quân đội, giữ được hai quận Nhữ Nam và Hoài Anh. Tuy bị mất quận Toánh Xuyên, nhưng coi như chúng ta có thu hoạch, không tính là thất bại.

Lý Hiếu Cung trầm tư một lúc lâu. Thượng sách này đối với y mà nói có quá nhiều áp lực, hơn nữa y cũng không có quyền quyết định. Chưa đánh đã triệt, cần phải được Thánh Thượng đồng ý, hơn nữa Tần vương bên kia cũng phải đồng thời rút quân. Bằng không, ba đường quân Tùy giáp công, quân Đường tây lộ tất bại.

Lý Hiếu Cung không tỏ thái độ, lại nói:

- Thỉnh lão tướng quân nói về trung sách.

- Điện hạ, trung sách là phái một viên đại tướng suất lĩnh hai mươi nghìn tinh nhuệ đi tới quận Tương Thành cùng Từ Thế Tích quyết chiến, chúng ta bên này tử thủ thành Toánh Xuyên. Chỉ cần có thể đánh bại đội Từ Thế Tích, như vậy chúng ta có năm phần hy vọng chiến thắng Lý Tĩnh. Đại chiến Trung Nguyên, một trận có thể ổn định toàn cục. Nếu như Lý Tĩnh bị đánh bại, như vậy Dương Nguyên Khánh cũng chỉ có thể rút lui khỏi Trung Nguyên, chúng ta đạt được toàn thắng.

Ánh mắt của Lý Hiếu Cung lộ ra vẻ mong chờ, y thở dài nói:

- Thế nhưng nếu phái binh đi quận Tương Thành, ta lại lo lắng bên triều đình.

- Sở dĩ nói điện hạ có dám quyết tâm, là nói điện hạ đừng lo lắng phía triều đình và Thánh Thượng, đánh xong quận Tương Thành rồi nói.

Lý Hiếu Cung suy nghĩ một chút lại hỏi:

- Vậy xin hỏi lão tướng quân, hạ sách là như thế nào?

Khuất Đột Thông lắc đầu:

- Hạ sách rất đơn giản. Lập tức phát động tấn công quân đội Lý Tĩnh, khiến Từ Thế Tích không thể đến kịp trợ giúp, triệt để đánh bại quân Tùy, nhưng ta chỉ nắm được hai phần thắng. Hơn nữa, nếu mà bại, liền có nghĩa chiến dịch của quân Đường tại Trung Nguyên tuyên cáo thất bại. Điện hạ cứ nghĩ đi!

Lý Hiếu Cung chắp tay phía sau, nhiều lần đánh giá thượng trung hạ ba cách. Thượng sách, y không có quyền quyết định. Hạ sách, y không dám mạo hiểm. Chỉ có trung sách là có chút hợp lý.

Lúc này, Khuất Đột Thông lại nói:

- Kỳ thực, còn có cách thứ tư. Đó chính là điện hạ phòng thủ chặt thành Toánh Xuyên, không cùng quân Tùy tác chiến. Đợi tin tức phía tây lộ của Vương Đại Quân, nếu Tần vương thắng thì hợp binh, Tần vương bại thì chúng ta lập tức rút quân.

Lý Hiếu Cung trầm tư một lúc lâu, dứt khoát nói:

- Ta không chọn thượng sách, cũng không tuyển hạ sách, cách thứ tư thì làm dự bị, ta muốn chọn trung sách. Thỉnh lão tướng quân suất lĩnh hai mươi nghìn quân Đường tấn công quận Tương Thành, nếu có thể đánh bại cố nhiên là tốt. Nếu như không thể, cũng thỉnh lão tướng quân lập tức lui về, chấp hành cách thứ tư, tử thủ huyện Toánh Xuyên, giải thích với bên triều đình tất cả do ta gánh chịu.

Khuất Đột Thông thấy y rốt cục xuất ra quyết đoán, không khỏi cười cười:

- Ty chức nguyện vì điện hạ phân ưu!

Trên chiến trường phía tây, quân chủ lực của Dương Nguyên Khánh đóng quân tại huyện Nghi Dương thuộc quận Hà Nam, cách huyện Trường Uyên thuộc quận Hoằng Nông chỉ có sáu mươi dặm đường.

Lý Thế Dân cũng đã dẫn quân lui về huyện Trường Uyên.Y dẫn một trăm ngàn đại quân tiến đánh Lạc Dương, giờ đã bị tổn thất hai mươi lăm ngàn người mà Lạc Dương vẫn sừng sững không suy chuyển. Kết cục này khiến y cảm thấy vô cùng thất vọng.

Trong lều lớn, Lý Thế Dân đứng nhìn chăm chú vào sa bàn một lúc lâu không nói gì. Y đã cảm thấy rõ mình bị Dương Nguyên Khánh dắt mũi, đánh hay không đánh đều do hắn quyết định.

Tình thế hiện tại khiến y cảm thấy rất bị động. Nếu như không giải quyết được vấn đề bị động này, trận chiến này của triều Đường sẽ rủi nhiều hơn may.

Lúc này, Trưởng Tôn Vô Kỵ chậm rãi tiến lên phía trước nói:

- Điện hạ, hiện giờ cách tốt nhất chính là xin viện binh từ triều đình. Một khi viện binh đến thì có thể phá vỡ cục diện bế tắc hiện nay.

Lý Thế Dân thở dài:

- Ta cũng từng hy vọng phụ hoàng phái viện binh đến, tiếc rằng phụ hoàng lại từ chối.

- Điện hạ, ty chức cho rằng trong việc này chắc là đã có hiểu lầm, chứ không phải là Thánh Thượng không chịu gửi viện binh đâu.

- Hiểu lầm?

Lý Thế Dân liếc nhìn ông ta:

- Hiểu lầm chuyện gì?

- Ty chức còn nhớ trước đây Điện hạ yêu cầu viện binh là muốn quyết chiến với quân Tùy, thắng thì triều Đường sẽ có được thiên hạ, bại thì triều Đường sẽ bị diệt vong. Thánh Thượng không thể chấp nhận được kết quả như vậynên mới lần lữa mãi không chịu phái viện binh. Đây mới chính là mấu chốt của vấn đề.

- Thế nhưng đây là thực tế. Triều Đường có ba trăm ngàn đại quân, gần như đã có hai trăm ngàn quân được đưa ra chiến trường, phái thêm viện binh nữa, hai ba mười ngàn người thì chẳng có nghĩa lý gì, ít nhất cũng phải năm mươi ngàn người trở lên. Như vậy chẳng phải là khuynh quốc chi quân sao?

Nói đến đó, Lý Thế Dân dùng một cây gỗ chỉ vào quận Diên An:

- Quân Tùy có mười ngàn quân đóng tại quận Diên An, tại quận Hà Đông cũng có mười ngàn quân chiếm đóng, nếu viện binh của chúng ta quá nhiều, dẫn đến Quan Trung trống rỗng, nếu hai đội quân cùng lúc tiến vào Quan Trung thì sẽ gây áp lực rất lớn cho Quan Trung. Khi đó ta chỉ sợ là cả ba tuyến đều sẽ bị đánh bại.

Lý Thế Dân thở dài một tiếng:

- Thực ra, ta nghĩ rằng cách tốt nhất hiện nay chính là lui binh, lui về Quan Trung để bảo tồn thực lực. Tạm thời để Trung Nguyên cho quân Tùy.

- Nhưng Thánh Thượng có chịu hay không?

- Vấn đề chính là chỗ này.

Lý Thế dân trong lòng lo lắng nói:

- Ta lo lắng chính là phụ hoàng ở triều đình trên cao không nhìn thấy được tình hình nghiêm trọng hiện nay. Phụ hoàng không biết hiện nay quân Đường đã lâm vào thế bị động. Kỳ thực ta không hề lo lắng về phía ta, cùng lắm là ta giữ vững trận tuyến, không tác chiến với quân Tùy, ta có đủ lương thực để đánh lâu dài. Điều ta không yên tâm chính là bên Hiếu Cung, đội quân của ông ta chủ yếu là lấy từ quân Thục, không thể chiến đấu lâu dài, không chắc có thểđịch nổi đội kỵ xạ tinh nhuệ của quân phía bắc được hay không. Nếu như ông ta bại trận, Lý Tĩnh sẽ điều quân trở về Hoằng Nông, ta ở bên này cũng không trợ giúp được.

- Dường như Dương Nguyên Khánh cũng thấy được điểm này.

Trưởng Tôn Vô Ky nói.

Lý Thế Dân lắc đầu:

- Không phải là hắn ý thức được điều này mà là hắn cố tình sắp đặt như thế. Ngươi xem, bây giờ hắn đóng quân ở huyện Nghi Dương, giằng co ở xa với ta, cũng không có ý đánh với ta một trận. Từ đó có thể thấy hắn cũng đang đợi tin thắng lợi từ chiến trường phía đông. Rõ ràng là hắn cũng như ta đều hiểu điểm yếu của của mỗi bên là ở đâu?

Nói đến đây, Lý Thế Dân cuối cùng đã hạ quyết tâm:

- Ta vẫn phải thuyết phục phụ hoàng xuất binh. Cho dù là hai ba mươi ngàn quân, chỉ cần từ Đồng Quan tạo áp lực cho quân Tùy, may ra có thể thay đổi thế bị động của chúng ta hiện nay.

Đúng như Lý Thế Dân đã phán đoán, Dương Nguyên Khánh đúng là đang đợi tin tức từ Lý Tĩnh ở chiến trường phía đông. Một trận chiến lớn cũng không phải hai quân cùng lên một lúc. Sau cuộc chiến, ai thắng ai thua là kết thúc.

Trận đại chiến này ảnh hưởng đến tình hình toàn cuộc, liên quan đến toàn bộ lợi ích và tổn thất của Trung Nguyên, thậm chí quan hệ đến sự suy yếu toàn bộ thực lực của một nước cho nên Dương Nguyên Khánh cũng có một áp lực rất lớn. Hắn cũng không muốn hành động thiếu suy nghĩ.

Trong lều lớn, Dương Nguyên Khánh nói với Ngụy Trưng -đặc sứ đến từ Thái Nguyên:

- Ngươi quay về Tử Vi Các chuyển lời với các Tướng quốc rằng trận chiến này sẽ không thể kết thúc một cách nhanh chóng như vậy đâu, nhanh thì một tháng, chậm thì hai tháng, hi vọng triều đình có thể toàn lực hỗ trợ trận này. Một khi chúng ta chiến thắng, chúng ta có thể chiếm hơn một nửa Trung Nguyên.

Ngụy Trưng khom lưng cười nói:

- Mọi người cũng không phải là đẩy nhanh tình hình chiến sự, chỉ có điều Điện hạ ở Trung Nguyên đã lâu, nên có ít nhiều ảnh hướng đối với việc triều chính, có rất nhiều việc do thiếu sự phê chuẩn của Điện hạ nên không thể thực hiện. Hơn nữa còn có một số việc lớn cần Điện hạ tham gia thảo luận.

 Chương 813 : Xâm phạm lợi ích (p1)

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Vấn đề này ta cũng hiểu. Ta sẽ ủy quyền lại ở một mức độ nào đó sẽ cho Tử Vi Các thêm nhiều quyền quyết định. Còn một số chuyện lớn cần thảo luận thì bảo bọn họ chờ một chút. Sau khi trở về ta sẽ giải quyết. Ngoài ra, ta nghe nói sứ giả Đột Quyết đến, có chuyện này không?

- Khởi bẩm Điện hạ, quả thực có sứ giả Đột Quyết đến, nói là Xử La Khả Hãn bị bệnh nặng. Chỉ có điều tin tức mà chúng thần nghe được lại không giống với lời của sứ giả Đột Quyết.

Dương Nguyên Khánh nhíu mày:

- Các ngươi nghe được tin tức từ đâu?

Ngụy Trưng nói:

- Chúng thần nhận được tin tức từ bộ lạc Đột Quyết dời đến hồ Phục Khất, nói là vì Xử La Khả Hãn tiến hành một cuộc tấn công quy mô lớn vào Bắc Đột Quyết, trong một lần giao chiến đã bị tên bắn trúng vào trán, hiện tại vết thương rất nặng, rất có khả năng không giữ được mạng. Đột Quyết đang đứng trước một sự kiện trọng đại, nghe ý tứ của sứ giả, thì Đột Quyết đang cân nhắc việc thay Khả Hãn rồi.

Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng hồi lâu không nói gì. Trong lịch sử, sau khi Xử La Khả Hãn chết vì bệnh thì Hiệt Lợi Khả Hãn đăng cơ. Đó là một người có dã tâm rất lớn, cũng là một Khả Hãn rất có tài, sẽ đem lại sự hưng thịnh cho Đột Quyết.

Đột Quyết dưới sự cai trị của ông ta bắt đầu xâm lượt Trung Nguyên. Hiện tại Ô Đồ bộ gần như đã phân tán sụp đổ, không còn sự kiềm chế trong nội bộ Đột Quyết, tối đa hai hoặc ba năm sau, bắc Trung Nguyên sẽ xuất hiện một thế lực Đột Quyết hùng mạnh.

Tuy rằng lịch sử có một bước ngoặt nhỏ vì sự nổi dậy của Ô Đồ nhưng nó cũng không gây ra sự thay đổi phương hướng lớn. Dưới quy luật sinh tồn mạnh được yếu thua trên thảo nguyên, bao giờ cũng luôn có những cuộc nổi dậy không ngừng của các tộc người du mục.

Theo tình hình trên thảo nguyên lúc này, Đột Quyết thế nào cũng sẽ nổi dậy một lần nữa, trước hết là một mối đe dọa rất lớn đối với triều Tùy.

Nghĩ vậy, Dương Nguyên Khánh chậm rãi nói với Ngụy Trưng:

- Ngươi quay về thông báo cho Tử Vi Các, chúng ta phải giúp đỡ cho Ô Đồ trở nên lớn mạnh càng nhanh càng tốt, đồng thời phải ngăn chặn việc trao đổi mua bán trong dân gian, tuyệt không cho phép bất cứ một chút vật tư chiến lược nào rơi vào tay Đột Quyết.

Ngụy Trưng rời đi, Dương Nguyên Khánh đứng trước sa bàn trâm tư không nói gì. Mặc dù Ngụy Trưng không nói rõ, nhưng ông ta đã nói đến trong nội bộ Tử Vi Các đã bắt đầu có sự bất đồng đối với cuộc chiến Trung Nguyên lần này.

Cũng cho thấy rằng nội bộ triều Tùy bắt đầu nảy sinh sự chán ghét chiến tranh, hơn nữa còn lên tiếng phản đối khá kịch liệt, mới dẫn đến Ngụy Trưng xuống phía nam.

Lúc này, Tạ Tư Lễ đứng bên cạnh hắn nói:

- Điện hạ cũng nên hiểu cái khó của triều đình. Hiện tại Hà Bắc bên kia bị tàn phá tan hoang, triều đình vì muốn trấn an nạn dân, khôi phục sinh sản, đã hao tổn một lượng lớn sức người sức của, nay Điện hạ lại muốn đưa cục diện rối rắm này đến Trung Nguyên, làm tăng thêm gánh nặng cho triều đình, nhiều đại thần có ý chống đối như thế cũng là điều dễ hiểu.

Dương Nguyên Khánh khẽ thở dài:

- Ta có thể hiểu được sự bất mãn của bọn họ, nhưng có một số việc không thể bỏ qua chỉ vì khó khăn, nếu muốn đoạt thiên hạ, Trung Nguyên chính là mấu chốt quan trọng.

Đến đây, hắn nhịn không được cười lạnh một tiếng:

- Ta hiểu được suy nghĩ của một số đại thần. Bọn họ hy vọng triều Đường có thể chiếm lấy Trung Nguyên, để triều Đường hao tổn tiền của, khôi phục lại sức sống cho Trung Nguyên rồi chúng ta sẽ trở lại tiếp tay. Nhưng thế gian nào có chuyện thuận lợi như thế, một khi triều Đường chiếm cứ Trung Nguyên rồi mà muốn cướp đoạt từ trong tay triều Đường thì gần như là điều không thể thực hiện được. Khi đó triều Đường sẽ càng cường mạnh hơn, chúng ta căn bản không có khả năng tranh giành.

- Vậy Điện hạ có thể đẩy nhanh thời gian tiến công, nhanh chóng kết thúc cuộc chiến ở Trung Nguyên, để dập tắt một số lời dị nghị của triều đình.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Người muốn làm việc lớn thì không thể nôn nóng chỉ vì việc nhỏ. Sở dĩ ta lần lữa không tiến công là vì ta cần thời gian để làm một số chuyện.

- Điện hạ nói chính là…

Tạ Tư Lễ hình như đã hiểu được.

Dương Nguyên Khánh chắp tay cười nhạt:

- Trường An đã bắt đầu có trò hay mở màn rồi.

Thành Trường An, cũng giống như triều Tùy, nội bộ triều Đường cũng bắt đầu xảy ra tranh luận với cuộc đại chiến Trung Nguyên lần này. Chiến trường phía tây của quân Đường thất bại trong việc chiếm đoạt thành Lạc Dương, buộc phải rút lui về quận Hoằng Nông, mà thông tin quân Đường tuyến đông bị đánh bại ở Úy Thị cũng đã truyền tới Trường An.

Tình hình chiến sự bất lợi khiến triều đình càng thêm bất mãn. Trong đó dẫn đầu là Thái tử Lý Kiến Thành kịch liệt phê bình biểu hiện bất lợi của Tần Vương trong tình hình cuộc chiến tranh.

Bên trong ngự thư phòng, Điện Võ Đức, Vũ Văn Sĩ Cập lại một lần nữa phụng mệnh Tần Vương đến đây thuyết phục Lý Uyên. Hai ngày nay, tâm trạng Lý Uyên quả thực khá âm trầm. Tiền tuyến không thuận lợi mang lại áp lực rất lớn cho ông ta, ông ta cũng ý thức được chính mình đã phạm phải một sai lầm có tính chiến lược.

Ông ta đã phán đoán sai tình thế, đánh giá quá thấp thực lực của Vương Thế Sung, kết quả khiến cho trong cuộc tấn công vào Lạc Dương binh lực của quân Đường quá ít, tiến đánh Lạc Dương mất rất nhiều thời gian, dẫn đến việc quân Đường buộc phải rút lui khỏi Lạc Dương.

Về phương diện khác, ông ta cũng vô cùng lạc quan, cho rằng thế cục Trung Nguyên là tất phải có được, lệnh cho Lý Hiếu Cung xuất binh chiếm Trung Nguyên trước. Chính là trong quyết định quan trọng này ông ta đã phạm sai lầm. Nếu như lúc đó ra lệnh cho lý Hiếu Cung trợ giúp Lạc Dương, cùng đội quân Tần Vương hợp lại làm một thì đã sớm chiếm được Lạc Dương, cũng sẽ không có cục diện bị động như ngày hôm nay rồi.

- Bệ hạ, ý của Tần Vươnglà rút quân quay về Quan Trung để bảo tồn thực lực. Lần sau chúng ta có thể một lần nữa tiến đánh Lạc Dương. Rút kinh nghiệm từ bài học này, nhất định sẽ thành công.

Lý Uyên thở dài:

- Trẫm cũng hiểu chỗ khó của ông ta. Chỉ là một khi chúng ta rút quân thì quân Tùy sẽ chiếm lĩnh Trung Nguyên, muốn cướp lại thì khó càng thêm khó.

Ông ta chắp tay sau lưng đi vài bước, lại nói:

- Trên thực tế, chúng ta chưa đánh trận nào với quân Tùy trên chiến trường phía tây, hơn nữa binh lực còn chiếm ưu thế hơn một chút. Nếu vì sợ hãi mà rút lui thì bất kể là đối với triều đình hay đối với toàn thể dân chúng cũng đều khó ăn nói. Trẫm vẫn hy vọng Tần Vương có thể nỗ lực một chút, có thể đánh bại Dương Nguyên Khánh, bảo vệ các quận phía nam Hoằng Nông.

Những lời Lý Uyên vừa nói rất khéo léo. Vũ văn Sĩ Cập vừa nghe đã hiểu. Thực ra Thánh Thượng chính là không đồng ý việc Tần Vương lui binh, hy vọng Tần Vương có thể đánh bại Dương Nguyên Khánh. Vũ Văn Sĩ Cập trong lòng thở dài một tiếng, thái độ của Thánh Thượng đã như Tần Vương dự liệu.

Nếu Thánh Thượng không chịu rút quân, Vũ Văn Sĩ Cập chỉ có thể thối lui mong lần sau:

- Bệ hạ, nếu như lui quân thực sự khó khăn thì có thể tăng thêm binh không. Tần Vương hy vọng có thể xuất hai mươi hoặc ba mươi ngàn quân, từ Đồng Quan xuất binh, để gây áp lực cho đội quân Dương Nguyên Khánh từ phía tây, như vậy chúng ta có thể nắm chắc phần thắng nhiều hơn.

- Việc này…

Binh lực ở Quan Trung không phải ít, còn muốn tăng thêm quân nữa, Lý Uyên có phần khó xử, lát sau mới nói:

- Việc tăng thêm quân trẫm sẽ suy nghĩ thêm một chút!

Quân Đường hiện tại đã đưa ra tổng cộng ba trăm ngàn quân, tổng cộng được chia làm sáu phái, một phái là Quan Tây do do Lý Thế Dân dẫn đầu , khoảng một trăm ngàn người, phái khác là Lý Hiếu Cung ở Ba Thục và Kinh Tương, cũng có khoảng một trăm ngàn người. Hai phái lớn này hợp thành chủ lực của quân Tùy, được mọi người gọi là phái Tần Vương.

Tiếp theo còn có bốn phái nhỏ, một là phái Quan Đông do của Lý Kiến Thành, khoảng chừng ba mươi ngàn người, tiếp đến là phe Quan Nội và Hà Tây của Lý Thần Thông ở, cũng có ba mươi ngàn người, tiếp đó nữa là phái Tân Quân của Lý Nguyên Cát, cũng có ba mươi ngàn người, cuối cùng là phe Trường An Cửu Thành của Sài Thiệu, khoảng hai mươi ngàn người, phụ trách giữ gìn an ninh trật tự ở Trường An.

Trong bốn phe phái nhỏ, ngoại trừ Sài Thiệu là từ Long phái ra, còn lại ba phái kia đều là thế lực của Lý Kiến Thành, toàn bộ đều được gọi là Thái Tử hệ.

Quân đội Đại Đường ngoài sáu phái lớn này ra, còn có mấy chục ngàn ngự lâm quân của Lý Uyên. Lần này Lý Thế Dân yêu cầu tăng binh, chỉ có thể lấy từ hai nơi, hoặc là sẽ điều quân từ quân của Lý Kiến Thành, hoặc sẽ chiêu mộ tân binh.

Màn đêm buông xuống, một cỗ xe ngựa dừng trước phủ Tề Vương Lý Nguyên Cát. Từ sau sự kiện Đồng Quan, Lý Nguyên Cát bị giáng chức làm thường dân để dập tắt sự phẫn nộ của quân đội.

Nhưng dù sao anh ta cũng là dòng chính của Lý Uyên, trừng phạt anh ta cũng chỉ là hình thức mà thôi, không bao lâu sau, anh ta lại lặng lẽ khôi phục lại vương tước, lập tức được phái đi Bá Thượng huấn luyện tân binh.

Hai ngày nay, vừa lúc Lý Nguyên Cát trở về Trường An đang nghỉ ngơi trong phủ.

Xe ngựa đứng trước cửa phủ đợi trong chốc lát, một quản gia đi nhanh ra, đứng trước xe ngựa chắp tay cười nói:

- Vương gia cho mời Thị Lang vào trong phủ.

 Chương 813 : Xâm phạm lợi ích (p2)

Cửa xe mở, Nội sử Thị Lang Phong Đức Di từ trong xe ngựa đi ra, mỉm cười nói:

- Không mời mà đến, đã quấy rầy Vương gia nhà ngươi nghỉ ngơi rồi.

- Đâu có! Đâu có! Vương gia trước giờ rất hiếu khách, rất hoan nghênh Thị Lang đến thăm.

Quản gia đưa tay ra:

- Mời Thị Lang!

Phong Đức Di chắp tay sau lưng, thong thả theo quản gia đi vào Vương phủ, thấy trước bậc tam cấp Lý Nguyên Cát đã đích thân ra nghênh đón.

Lý Nguyên Cát mặc cẩm bào trắng thêu rồng, đầu đội kim quan, trên thắt lưng có một cái đai ngọc bích. Từ sau khi Lý Nguyên Cát bị giáng làm thường dân, Lý Uyên liền giao cho Thái tử Lý Kiến Thành quản thúc anh ta.

Gần một năm qua, Lý Nguyên Cát vô cùng trầm lặng. Những chuyện như cưỡng đoạt dân nữ, phóng ngựa đả thương người khác cũng không xảy ra. Lý Uyên rất hài lòng đối với những thay đổi của anh ta, phong thêm cho anh ta làm Quán Quân Đại tướng quân, phụ trách huấn luyện tân binh ở Trường An.

Lý Nguyên Cát đã từng gặp Phong Đức Di hai lần. Anh ta biết phụ hoàng rất tin tưởng vị cựu Đệ nhất Ngự Bút Đại Tùy này. Người như thế này rất hữu dụng với bản thân anh ta cho nên anh ta đặc biệt đứng chờ trước bậc tam cấp. Anh ta thấy Phong Đức Di đến liền bước lên phía trước thi lễ:

- Nguyên Cát không thể ra cửa nghênh tiếp, xin Phong Thị Lang bỏ quá cho.

Phong Đức Di cười lớn:

- Điện hạ đã quá lời rồi, là hạ quan không mời mà đến, đã làm phiền Điện hạ nghỉ ngơi.

- Phong Thị Lang nói lời này thật quá khách sáo, vị khách như Thị Lang ta có mời cũng mời không được, sao dám nói hai chữ “làm phiền”, mời Thị Lang vào trong!

Lý Nguyên Cát dẫn Phong Đức Di vào phòng khách rồi sai thị nữ dâng trà, hai người hỏi han vài câu, Phong Đức Di liền đi vào vấn đề chính.

- Hôm nay Thánh Thượng và hạ quan có nói tới tình hình chiến sự ở Lạc Dương. Thánh Thượng rất lo lắng cho cuộc chiến ở Lạc Dương.

- Hừ!

Lý Nguyên Cát lãnh đạm hừ lạnh một tiếng:

- Đó là do có người bất tài, mang theo một trăm ngàn quân xuất chinh mà vẫn không thể công kích Lạc Dương, phụ sự kỳ vọng của phụ hoàng, làm cho cả Đại Đường phải hổ thẹn. Đã bất tài như vậy còn giữ chức vụ cao làm cái gì?

Phong Đức Di có phần lúng túng cười:

- Điện hạ, dù sao thì đây cũng là một trận chiến rất quan trọng, Thánh Thượng lo lắng cũng là chuyện bình thường. Hiện tại Tần Vương thỉnh cầu Thánh Thượng gửi viện quân, Thánh Thượng cảm thấy rất khó xử.

- Viện quân?

Trên mặt Lý Nguyên Cát lộ ra vẻ khinh thường:

- Gã đã nắm một trăm ngàn đại quân, bên Lý Hiếu Cung còn có tám mươi ngàn đại quân, đã vượt xa binh lực của quân Tùy rồi, gã lại còn muốn viện quân, như thế mà gã cũng mở miệng ra được sao?

- Thế nhưng Thánh Thượng cũng nhắc tới Điện hạ.

Lý Nguyên Cát ngạc nhiên, ngay lập tức sa sầm nét mặt:

- Phụ hoàng nhắc tới ta làm gì?

Phong Đức Di lãnh đạm nói:

- Thực ra cũng không phải Thánh Thượng nhắc tới Điện hạ mà là Thánh Thượng nói Quan Trung không có binh lực để phái đi, Vũ Văn Sĩ Cập lại nhắc tới Tân quân!

- Khốn nạn!

Lý Nguyên Cát đứng dậy, quát to:

- Gã nắm một trăm ngàn quân còn chưa đủ, lại còn muốn lấy quân của ta, thật chưa bao giờ thấy một người vô liêm sỉ như vậy.

- Điện hạ bớt giận.

Phong Đức Di vội xua tay, giải thích với anh ta:

- Chuyện này Thánh thượng cũng không đồng ý, Thánh thượng chỉ nói cần phải xem xét lại. Hạ quan đến chỉ là muốn nhắc nhở Điện hạ, nếu Thánh thượng triệu kiến Điện hạ, Điện hạ hãy hiểu những khó khăn của Thánh thượng, không nên làm người quá tức giận bởi Thánh thượng người bây giờ có áp lực rất lớn.

Lý Nguyên Cát nén cơn giận trong lòng , chắp tay nói:

- Đa tạ Phong Thị Lang đã nhắc nhở. Ta sẽ không chọc giận phụ hoàng đâu.

Phong Đức Di cáo từ rời đi. Lý Nguyên Cát ngồi một mình trên ghế, sắc mặt tái nhợt, lửa giận hiện lên trong ánh mắt, lão nhị kia lại dám có ý với quân mới của mình, điều này khiến anh ta không thể nhịn được.

Từ nhỏ Lý Nguyên Cát và Lý Thế Dân không ghét bỏ gì nhau, mối quan hệ thời gian qua rất tốt nhưng việc Lý Thế Dân bắn chết Lý Trí Vân khiến anh ta cảm thấy lạnh người. Ngay cả huynh đệ của mình mà cũng có thể hạ độc thủ như vậy, người này quả thực lòng dạ độc ác. Gã là em trai anh ta, nói không chừng có một ngày gã cũng có thể ra tay với chính anh ta?

Chính là vì chuyện của Lý Trí Dân khiến trong lòng Lý Nguyên Cát nảy sinh cảnh giác đối với Lý Thế Dân. Ngược lại, đại ca Lý Kiến Thành là người rộng lượng, đối xử với anh ta rất coi trọng tình huynh đệ. Điều này khiến cho một người luôn luôn lạnh lùng như Lý Nguyên Cát cũng cảm động.

Quan trọng hơn là trong sự kiện Đồng Quan, Lý Thế Dân ủng hộ Lý Hiếu Cung chống lại anh ta, cuối cùng dẫn đến việc anh ta bị giáng chức làm thường dân. Chính chuyện này đã khiến cho Lý Nguyên Cát và Lý Thế Dân kết thù hận. Anh ta bắt đầu toàn lực ủng hộ cho đại ca Kiến Thành.

Lý Nguyên Cát suy nghĩ một lúc lâu, anh ta không chút do dự đứng dậy nói:

- Chuẩn bị xe ngựa, ta muốn đi Hàm Dương.

Lúc này Lý Kiến Thành cũng không ở kinh thành mà đang đi thị sát vụ gieo hạt mùa hè ở Hàm Dương. Đại chiến Trung Nguyên lần này Lý Kiến Thành cũng không tham dự quá nhiều. Một mặt là vì công việc triều chính của anh ta nặng nề. Một mặt là cuộc chiến Trung Nguyên lần này đều là binh lực của Tần Vương, anh ta không muốn tham dự quá nhiều.

Vụ gieo hạt mùa hè ở Quan Trung chậm hơn so với Hà Nam mấy ngày, ruộng lúa ngập đầy nước, những người nông dân thì bận rộn cấy mạ trong khu đất của mình, khắp nơi ở Quan Trung đều thấy cảnh bận rộn.

Lý Kiến Thành đầu đội nón, mặc một chiếc áo ngắn giống như nông dân, ống quần xắn cao, anh ta vừa cấy được nửa mẫu ruộng. Đang ngồi bên mép bờ ruộng cùng vài lão nông uống nước nói chuyện phiếm.

Một gã thị vệ đưa cho anh ta một bát to nước trà lạnh:

- Điện hạ, mời uống nước!

Lý Kiến Thành nhận lấy bát trà cười lớn hỏi mấy lão nông:

- Vụ thu hoạch hè ở Hàm Dương hôm nay thế nào?

Lý Kiến Thành tuy là Thái tử, nhưng anh ta rất bình dị dễ gần, chung vai cùng nông dân cày bừa trồng trọt, mọi người cũng không sợ anh ta. Một lão nông thở dài nói:

- Năm nay là năm thiếu, các cây nông nghiệp nói chung thu hoạch không được tốt lắm, ngay cả trái trên cây cũng thưa thớt. Lúa mì năm nay so với năm ngoái sản lượng giảm hai mươi phần trăm, chắc là vụ mùa thu cũng sẽ không được tốt. Điện hạ, lão có câu này không biết có nên nói hay không.

Lý Kiến Thành gật đầu:

- Lão trượng cứ nói!

- Điện hạ, có thể xin triều đình thay đổi một chút về thuế đất không, chẳng hạn như năm thiếu thì sản lượng giảm sút, thuế đất cũng có thể giảm bớt một chút hay không.

Lão nông nói ra kiến nghị này, các lão nông còn lại đều tán thành, đã nói ra lời nói từ đáy lòng bọn họ. Lý Kiến Thành trầm ngâm một chút nói:

- Mọi người nói rất có lý, chuyện này ta quay về sẽ trao đổi cùng các quan đại thần, sau đó sẽ đưa ra một phương án hợp lý, cố gắng thuyết phục Thánh thượng đồng ý.

Các lão nông vui mừng khôn xiết, rối rít cảm tạ. Lúc này, một người nông dân rốt cục nhịn không được nói:

- Điện hạ, lão có một việc muốn phản ánh một chút.

Lý Kiến Thành cười cười:

- Xin cứ nói, đừng ngại!

- Lão có đứa cháu trai, tham gia trận chiến Triều Tiên bị bắt, ở Triều Tiên lao động vất vả, mấy tháng trước được quân Tùy cứu. Sau đó trở về nhà, còn mang về một con ngựa mà triều Tùy cho nó. Như thế, nó mang lòng cảm kích đối với triều Tùy cũng là lẽ thường tình , thỉnh thoảng hay nói tốt về triều Tùy. Không ngờ lại chọc giận quan phủ nói nó làm trinh thám của triều Tùy. Quan phủ tới bắt người, ngựa cũng bị quan phủ tịch thu, người bây giờ vẫn còn bị nhốt ở huyện nha, không biết Điện hạ có thể giúp cho hay không.

- Làm sao lại có chuyện như thế chứ?

Sắc mặt Lý Kiến Thành lúc này liền trầm xuống, anh ta lấy ra tấm kim bài giao cho tên thị vệ đứng phía sau:

- Nói là lệnh của ta, lệnh cho huyện nha lập tức thả người, ngựa cũng đem trả lại cho người ta, không cho phép chuyện tương tự như vậy xảy ra lần nữa.

Lão nông dân liền quỳ xuống, trong lòng vô cùng cảm kích:

- Đa tạ Điện hạ đã ra tay cứu giúp!

Lý Kiến Thành vội nâng lão nông dậy:

- Không cần đa lễ. Chuyện này là do ta quản không nghiêm. Ta sẽ lệnh cho quan phủ các nơi không được bắt giữ những binh lính được thả về từ Triều Tiên. Triều Tùy cứu người, nhưng chúng ta lại bắt người, như vậy không phải sẽ khiến lòng người trong thiên hạ nguội lạnh sao?

- Điện hạ là người rộng lượng, mong sao các quan viên Đại Đường cũng giống như Điện hạ, đó chính là phúc đức của chúng tôi.

Đang nói, một tên thị vệ chạy tới, bẩm báo nói:

- Thái tử Điện hạ, Tề Vương tới, nói có chuyện khẩn cấp.

Lý Kiến Thành trông thấy trên quan đạo cách đó không xa có một chiếc xe ngựa, hai bên còn có hơn trăm thị vệ cưỡi ngựa, liền đứng lên đi về phía xe ngựa, không lâu sau đã đến trước xe ngựa. Lý Nguyên Cát bước xuống từ xe ngựa, anh ta thấy đại ca Kiến Thành toàn thân mặc trang phục nông dân, chân vẫn còn dính bùn, không nhịn được cười nói:

- Đại ca, làm sao lại trở thành lão nông dân rồi?

Lý Kiến Thành thở dài nói:

- Không làm việc cày cấy thì không hiểu được nông dân. Nếu hàng ngày đều ngồi trong triều đình, làm sao biết nỗi khổ của người dân. Thôi, không nói chuyện này nữa. Đệ có chuyện quan trọng gì sao?

- Mời đại ca lên xe ngựa nói chuyện, có liên quan đến quân đội của đệ.

 Chương 814 : Thỏa hiệp viện binh

Hai huynh đệ cùng nhau lên xe ngựa, Lý Nguyên Cát liền đem chuyện tối qua Phong Đức Di tìm mình kể lại một lần nữa. Lý Kiến Thành nheo mắt, đột nhiên hỏi:

- Đệ và Phong Đức Di có qua lại thân thiết sao?

- Đệ đã gặp ông ta hai lần, quan hệ rất bình thường, không tốt như quan hệ giữa ông ta và Vũ Văn. Nhưng Vũ Văn cũng đã từng tố cáo đệ một lần, tối qua đệ cũng cảm thấy rất kỳ lạ, tại sao ông ta lại tới tìm đệ, tại sao lại nói cho đệ biết chuyện này.

Lý Kiến Thành chậm rãi lắc đầu, khóe miệng lộ ra một nụ cười nhạt:

- Ông ta không phải tìm đệ, ông ta thực ra là vì ta mà đến, đệ hiểu chưa? Ông ta biết đệ sẽ tới tìm ta.

Lý Nguyên Cát lúc này mới chợt tỉnh, anh ta nhất thời có cảm giác bị lợi dụng, hồi lâu căm hận nói:

- Đệ cứ nghĩ làm sao ông ta lại bỗng nhiên nhiệt tình với mình như vậy, hóa ra chỉ là muốn đệ nhắn lại, thế mà lại không nói rõ ra. Người này lại có tâm cơ như vậy, thật khiến người ta phát ghét.

Lý Kiến Thành khẽ cười nói:

- Điều này rất bình thường. Đệ cũng không nên trách ông ta. Phụ hoàng quá tin tưởng ông ta, nếu như ông ta đường đường chính chính tới tìm ta, sẽ khiến phụ hoàng sinh nghi, sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ của ông ta. Người này rất biết cách làm việc.

- Được rồi! Cho dù đệ không trách ông ta, vậy chuyện này nên làm sao bây giờ? Lão nhị có ý muốn lấy Tân quân của đệ, đệ nên đối phó thế nào?

Lý Kiến Thành cười nhạt một tiếng:

- Anh ta là muốn nhân cơ hội trận chiến Trung Nguyên lần này để đoạt lấy toàn bộ binh quyền trước đây. Hôm nay là Tân quân của đệ, vài ngày sau là quân Quan Đông, trong lòng anh ta nghĩ gì ta đều biết rất rõ. Hừ! Anh ta đừng hòng được toại nguyện.

Khu vực Quan Trung là do ba quận hợp thành, phía tây là quận Phù Phong, chính giữa là phủ Kinh Triệu, phía đông là quận Phùng Dực. Trong đó quân đội quận Phù Phong là thế lực của Lý Thế Dân, được gọi là quân Quan Tây, còn quân đội quận Phùng Dực thì được gọi là quân Quan Đông, đương nhiên là thế lực của Lý Kiến Thành.

Quân đội quận Phùng Dực đóng quân chủ yếu ở ba nơi, một là Vĩnh Thông Thương, có mười ngàn quân do Đại tướng Thịnh Ngạn Sư suất lĩnh, thứ hai là đóng ở Bồ Tân Quan cũng có mười ngàn quân do Đại tướng Thường Hà suất lĩnh, cuối cùng là Đồng Quan, có mười ngàn quân, do Đại tướng La Nghệ suất lĩnh.

Sau khi La Nghệ trở về triều Đường, gặp phải sự lạnh nhạt của triều đình nhà Đường , Lý Uyên cho ông ta một chức quan nhàn hạ, vương tước cũng không có, nhưng Thái tử Lý Kiến Thành lại nhiều lần tiến cử ông ta, cuối cùng cũng thuyết phục được Lý Uyên.

Thái tử đề nghị sắc phong ông ta làm chủ tướng Đồng Quan, La Nghệ cũng báo đáp lại, chủ động quy thuận phe Lý Kiến Thành, trở thành thủ hạ đắc lực của Lý Kiến Thành.

Vậy là Thịnh Ngạn Sư, Hà Thường cùng với La Nghệ tạo thành thế lực kiềng ba chân dốc sức báo đáp khiến cho Lý Kiến Thành có được đội quân chính thống của chính mình.

Lại thêm ba mươi ngàn tân quân của tứ đệ Nguyên Cát và ba mươi ngàn quân Quan Nội của thúc phụ Lý Thần Thông, Lý Kiến Thành có gần một trăm ngàn quân, còn có các quan lại trong triều ủng hộ, khiến cho thế lực của anh ta mạnh hơn nhị đệ Lý Thế Dân.

Nhưng lúc này Lý Kiến Thành lại lo lắng hơn. Bỗng nhiên anh ta phát hiện Tần Vương lại lợi dụng cơ hội đại chiến Trung Nguyên, bắt đầu tiến hành chiếm đoạt thế lực quân đội của anh ta, khiến anh ta cực kỳ bất mãn. Lý Kiến Thành cũng không còn tâm trí để tiếp tục thị sát vụ gieo hạt mùa hè nữa, ngay trong ngày liền quay trở về Trường An.

Lý Kiến Thành về thẳng đến hoàng cung. Lúc này đã là buổi chiều, thời tiết vô cùng nóng bức, Lý Kiến Thành đứng chờ ở trước điện Võ Đức mà trán đầy mồ hôi. Lúc này, một lão thái giám hấp tấp chạy tới:

- Thái tử Điện hạ!

Lão thái giám chạy tới gần thở hồng hộc, rồi thi lễ:

- Đã để Điện hạ chờ lâu, Thánh Thượng mời Điện hạ yết kiến.

Lý Kiến Thành lau mồ hôi trên trán, đi nhanh về phía ngự thư phòng. Anh ta dường như nghĩ đến chuyện gì, bước chân chậm lại, chờ lão thái giám đi lên trước, nhỏ giọng hỏi:

- Về việc tăng binh, Thánh thượng đã quyết định chưa?

Lão thái giám hạ giọng nói:

- Hình như là chưa ạ.

Lý Kiến Thành trong lòng hiểu rõ, chuyện này phụ hoàng còn muốn nghe ý kiến của anh ta, anh ta liền bước nhanh hơn.

Hoàng đế triều Đường và triều Tùy không giống với Hoàng đế triều Thanh. Hoàng đế hai triều Tùy Đường không thể độc đoán, mà y đều phải nghe ý kiến của trọng thần phía dưới, thậm chí còn phải vất vả thuyết phục các Tướng quốc ủng hộ mình, nếu nếu không thì sẽ Nội sử tỉnh và Môn hạ tỉnh sẽ không đóng dấu, ngay cả thánh chỉ của Hoàng đế cũng không thể truyền ra được.

Tất nhiên, Hoàng đế cũng có quyền lực của mình. Nếu Tướng quốc thực sự không chịu thỏa hiệp, thì ông ta sẽ bỏ Tướng quốc cũ thay Tướng quốc mới, đổi thành một vị Tướng quốc nghe lời hơn. Ví dụ Lý Lâm Phủ và Dương Quốc Trung thời Trung Đường vậy.

Đến cuối triều đại nhà Đường, Hoàng đế vì muốn khuếch trương vương quyền, không ngần ngại dùng đến thái giám để tạo quyền lực giả , kết quả chính mình ngược lại trở thành bù nhìn trong tay thái giám. Chuyện này nói tiếp thì quá dài, hãy nói về Lý Uyên trước.

Lúc này Lý Uyên cũng đang chờ Thái tử quay về. Sở dĩ ông ta không lập tức đồng ý việc tăng binh với Vũ Văn Sĩ Cập chính là vì ông ta biết, nếu muốn tăng binh thì phải nhận được sự ủng hộ của của Thái tử nhưng ông ta biết rõ các phe phái bè cánh trong quân đội.

Là Hoàng đế, Lý Uyên cũng không phản cảm với kiểu phe phái thế lực này. Hơn nữa ông còn rất ủng hộ sự tồn tại của loại phe phái này, đây là cốt lõi của nghệ thuật làm vua, phân hóa hạ thần . Như thế các thần chỉ có sự đấu đá lẫn nhau chứ không có tâm trí tiến lên. Từ xưa đến nay, những người lãnh đạo đều am hiểu nghệ thuật này.

Dĩ nhiên, Lý Uyên cũng phải tuân thủ quy tắc. Đã là thế lực của Lý Kiến Thành, ông ta sẽ phải được sự đồng ý của Lý Kiến Thành mới có thể suy xét đến việc tăng binh. Hơn nữa ý tứ đó cũng không thể nói một cách rõ ràng mà chỉ có thể nói quanh co bóng gió, nói ra một số lý do chính. Cái này chính là chính trị. Những điều nói ra trên đài luôn luôn chỉ là một cái cớ, chỉ có thể thông qua kết quả cuối cùng mới có thể biết được chân tướng sự việc.

Lý Kiến Thành đi vào ngự thư phòng, cúi mình thi lễ:

- Nhi thần tham kiến phụ hoàng!

Lý Uyên thấy anh ta bắt nắng, da dẻ có phần ngăm đen, liền mỉm cười:

- Đi Hàm Dương thị sát thế nào?

- Khởi bẩm phụ hoàng, hiện tại là thời điểm bận rộn, nhi thần cũng cùng các nông dân xuống ruộng cấy lúa, có thể biết được nỗi khổ của việc nhà nông, rất có nhiều thu hoạch.

Lý Uyên nghe con trai lại cùng nông dân xuống ruộng cấy lúa, cảm thấy an ủi, liền gật đầu cười nói:

- Hoàng nhi có thể đi sâu vào dân gian như vậy, nhận biết được nỗi khó khăn của người dân, trẫm rất vui mừng. Trẫm hi vọng con cháu Lý Thị cũng có thể giống như hoàng nhi, có thể thăm thú dân gian, không nên chỉ biết ngồi trên cao mà xa rời quần chúng. Mấy hôm nữa trẫm sẽ phải nói với bọn chúng về chuyện này.

- Phụ hoàng có lòng như vậy chính là phúc đức của bá tánh Đại Đường.

Hai người trao đổi mấy câu, Lý Uyên liền chuyển sang đề tài chiến dịch Trung Nguyên, ông ta thở dài nói:

- Hiện tại đại chiến Trung Nguyên đang gặp bất lợi, hậu cần trọng địa huyện Trường Uyên bị quân Tùy đánh lén, chủ tướng Sử Đại Nại bị bắt làm tù binh, bên kia huyện Thị Úy Hiếu Cung lại thất bại thảm hại. Tuy rằng cả hai không làm tổn hại đến đại cuộc nhưng lại ảnh hưởng đến sĩ khí của binh lính. Ngay cả trẫm cũng cảm thấy rất mệt mỏi, càng không cần phải nói đến các tướng sĩ trong quân. Tình hình rất bất lợi cho chúng ta!

- Vậy phụ hoàng tính thế nào, quyết định rút quân về, hay là tiếp tục đánh?

Lý Kiến Thành thận trọng hỏi.

Lý Uyên trầm ngâm một lát:

- Nhị đệ của con Hiếu Cung cũng muốn rút quân nhưng trẫm không muốn từ bỏ như vậy. Nếu như không đánh một trận, trẫm cũng khó có thể ăn nói với người dân cả nước, thế nhưng lại không nắm chắc phần thắng. Ý của nhị đệ con là, hy vọng chúng ta có thể gửi thêm quân một cách thỏa đáng, có thể là hai mươi ba mươi ngàn quân, hoàng nhi thấy có được hay không? Trẫm muốn nghe ý kiến của con.

Dọc đường Lý Kiến Thành đã suy nghĩ, trong lòng cũng sớm đã có dự tính. Anh ta không thể nói không tăng binh, bằng không nếu như Tần Vương thất bại thì sẽ vì thế mà đẩy mọi trách nhiệm lên anh ta.

Nhưng anh ta cũng không thể dễ dàng đáp ứng được. Như thế thì thế lực của anh ta cũng do đó mà suy yếu. Biện pháp tốt nhất chính là rút quân về, nhưng rõ ràng phụ hoàng không chịu rút quân, như vậy anh ta cũng chỉ còn một phương pháp linh hoạt.

- Phụ hoàng, kỳ thực việc nhi thần lo lắng nhất chính là Dương Nguyên Khánh làm cho quân chủ lực của chúng ta đều kéo hết ra ngoài chiến trường Trung Nguyên, sau đó hắn dùng mấy chục ngàn tinh binh từ Quan Nội tiến thẳng tới Trường An. Lúc đó Trường An hoàn toàn trống rỗng, làm thế nào chúng ta có thể chống lại?

- Việc này…

Lý Uyên cũng hơi do dự. Điều này quả thực là một vấn đề cần lưu ý. Quân Tùy đã phá hủy hiệp nghị đình chiến trước, như vậy việc bọn họ đánh lén Trường An cũng có thể xảy ra.

Lý Kiến Thành lại nói:

- Cho dù là quân Tùy binh ít, không tấn công được Trường An nhưng chỉ cần bọn họ tiến vào Quan Trung thì điều này đối với quân Đường ở Trung Nguyên mà nói, sẽ là đả kích rất lớn. Khi đó sĩ khí quân Đường đã loạn, quân chiếm giữ hoảng sợ rút lui, ngược lại bị quân Tùy truy kích, tất sẽ thảm bại, nếu quân chủ lực của quân Tùy dọc đường đuổi theo vào Quan Trung, tình thế sẽ vô cùng nguy hiểm.

 Chương 815 : Tam quản gia (p1)

Hồi lâu sau, trên mặt Lý Uyên lộ ra vẻ thất vọng, miễn cưỡng hỏi:

- Ý của hoàng nhi nói là, ủng hộ cho bọn họ rút quân?

Lý Kiến Thành lắc đầu:

- Nhi thần không phải có ý này, là nhi thần muốn nói, để chi viện quân cho Đồng Quan cũng không nhất định phải tham chiến, chủ yếu là lấy khí thế áp bức quân Tùy, đồng thời tăng sĩ khí quân Đường, đóng quân ở huyện Văn Hương hoặc Hàm Cốc quan. Một khi Quan Trung nguy cấp, có thể lập tức rút quân, không biết phụ hoàng nghĩ như thế nào?

Lý Uyên hiểu ý của Lý Kiến Thành, anh ta là sợ thế lực của bản thân bị Tần Vương chiếm lấy. Lúc này, ông ta đột nhiên nảy sinh ra một ý nghĩ trong đầu. Lẽ nào Tần Vương yêu cầu tăng binh chính là có chủ ý này sao?

Nghĩ thông suốt được điểm này, trong lòng Lý Uyên có chút tức giận. Bây giờ đã là lúc nào rồi, chuyện liên quan đến sự an nguy trong tương lai của Đại Đường, hai huynh đệ bọn chúng còn đang hục hặc với nhau, mà hoàn toàn không để ý đến đại cục.

Huynh đệ Lý Thị bất hòa, kỳ thực ở một mức độ nào đó có liên quan rất lớn đến Lý Uyên vì chính ông ta đã cố ý gây hiềm khích giữa bọn họ. Nhưng đến thời khắc quan trọng, Lý Uyên lại hy vọng huynh đệ bọn họ có thể vứt bỏ những hiềm khích trước đây, đồng tâm hiệp lực. Cái này gọi là đạo lý vừa hy vọng ngựa chạy nhanh hơn lại vừa hy vọng ngựa không ăn cỏ.

Giận thì giận, nhưng Lý Uyên cũng đành chịu. Ông ta biết Kiến Thành đã nhượng bộ. Nếu như mình còn không đồng ý thì e rằng các quan văn võ trong triều sẽ đến gây áp lực, yêu cầu rút quân.

- Được rồi! Hoàng nhi nói cũng có lý, cứ làm theo lời con đi.

Lý Kiến Thành lập tức nói:

- Nhi thần xin đề xuất Nguyên Cát dẫn ba mươi ngàn tân quân đến Đồng Quan trợ giúp quân Đường ở Hoằng Nông.

Lý Kiến Thành suy nghĩ thận trọng, anh ta biết nếu như để La Nghệ dẫn quân đi, với người ác độc quả quyết như nhị đệ, có nhiều khả năng sẽ giết người đoạt binh quyền, còn để cho tứ đệ đi, sẽ không gặp phải kết cục này.

Lý Uyên suy nghĩ một lúc lâu, ông không đồng ý với đề xuất của Lý Kiến Thành:

- Để Nguyên Cát đi không thích hợp, hay là đổi một viên chủ tướng khác.

Mặc dù viện quân chỉ là để phô trương thanh thế, kiềm chế quân Tùy, nhưng chỉ sợ vào lúc tình thế nguy cấp, khi cần hỗ trợ, nếu như Nguyên Cát làm chủ tướng, có khả năng sẽ bỏ mặc Tần Vương, cuối cùng dẫn đến thất bại.Điểm này Lý Uyên không hề hồ đồ, trong lòng ông ta hiểu rất rõ.

Phụ thân phản đối khiến cho Lý Kiến Thành hơi thất vọng. Anh ta suy nghĩ một chút:

- Vậy nhi thần xin đề nghị để Hà Thường làm chủ tướng.

……

Sau một phen mặc cả chuyện tăng viện binh tại nội bộ triều Đường, cuối cùng cũng đã đạt được thỏa hiệp. Lý Uyên lập tức bổ nhiệm Hà Thường làm Tả Vệ Đại tướng quân, đóng ở Bồ Tân Quan, dẫn ba mươi ngàn quân đến Đồng Quan trợ giúp quân Đường ở Hoằng Nông, khiến cho cuộc chiến Trung Nguyên tăng thêm vài biến số.

Cùng lúc đó, việc Đậu Kiến Đức khống chế Thanh Châu cũng làm nảy sinh một số vấn đề. Tại huyện Lịch Thành, một bài hát thiếu nhi được truyền đi khắp các xóm làng và tửu quán “ U Châu có yêu đạo, nói rằng phục ma thần, cưỡi mây ra Bạch Hải, xuống trần làm Thanh Đế.”

Bài hát thiếu nhi này có chút kỳ lạ, giống như là một lời tiên tri. Sau mấy ngày lưu truyền trên phố, cuối cùng cũng đã truyền tới tai Đậu Kiến Đức.

Đại chiến Trung Nguyên bùng nổ, là một người ngoài cuộc, Đậu Kiến Đức luôn theo dõi chặt chẽ tình hình phát triển của cuộc chiến, kỳ vọng lớn nhất của ông ta là quân Tùy bị đánh bại, tàn binh lui về Hà Đông, lúc này Hà Bắc trống rỗng, ông ta lại có thể một lần nữa quay về Hà Bắc, khôi phục đế nghiệp.

Đậu Kiến Đức đã bị Dương Nguyên Khánh làm cho mất hết can đảm. Cho dù lúc này binh lực Hà Bắc thực sự trống rỗng, chỉ có Đại tướng Tần Quỳnh dẫn hai mươi ngàn quân chiếm đóng tại phía quận Đông, nhưng ông ta vẫn không dám đi qua sông Hoàng Hà, trừ khi Dương Nguyên Khánh bị quân Đường đánh bại, khi đó ông ta mới có thể nảy sinh dũng khí.

Trong phòng, Đậu Kiến Đức đứng trước sa bàn thận trọng phán đoán các kết quả có thể xảy ra của cuộc đại chiến Trung Nguyên nhưng kết quả phán đoán quả thực làm cho ông ta có phần chán nản. Ông ta cũng phát hiện quân Đường đang ở tình thế bất lợi, quân Tùy đã nắm được thế chủ động.

Lúc này, ngoài cửa có thân binh bẩm báo:

- Vương gia, Khổ tiên sinh đã tới.

Đậu Kiến Đức gạt bỏ suy nghĩ qua một bên, Khổng Đức Thiệu đến tìm ông ta là có một chuyện quan trọng khác. Ông ta liền gật đầu:

- Mời tiên sinh vào.

Cửa mở ra, Khổng Đức Thiệu đi đến trước mặt Đậu Kiến Đức, khom người thi lễ nói:

- Ty chức tham kiến Vương gia!

- Tiên sinh không cần đa lễ, mời ngồi!

Đậu Kiến Đức mời Khổng Đức Thiệu ngồi xuống, rồi sai người mang trà lên. Lúc này ông ta mới lấy từ trên bàn ra một bản báo cáo, đưa cho Khổng Đức Thiệu:

- Gần đây trong huyện Lịch Thành xuất hiện một lời tiên tri, có chút kỳ lạ. Ta không thể nào lý giải được, xin tiên sinh có thể giải thích cho ta được không.

Khổng Đức Thiệu nhận lấy báo cáo, chỉ thấy trên đó viết : “ U Châu có yêu đạo, nói rằng phục ma thần, cưỡi mây ra Bạch Hải, xuống trần làm Thanh Đế.”

Những lời tiên tri này Khổng Đức Thiệu sớm đã có nghe nói, y đã ở nhà cẩn thận nghiên cứu qua, nhận lấy bản báo cáo, Khổng Đức Thiệu liền lắc đầu nói:

- Vương gia, tại hạ đoán trong chuyện này có âm mưu.

Sắc mặt Đậu Kiến Đức liền trầm xuống, Khổng Đức Thiệu chỗ nào cũng tốt, đầu óc nhạy bén, tầm nhìn bao quát, chính là việc “Nói việc này có âm mưu” làm cho y không thích, y thấy Khổng Đức Thiệu lại bắt đầu nói chuyện về âm mưu, trong lòng cố nén bất mãn nói:

- Không cần nói về âm mưu, mà hãy giải thích những lời tiên tri này cho ta.

Khổng Đức Thiệu cảm giác được Đậu Kiến Đức không hài lòng, y vội mỉm cười nói:

- Thực ra lời tiên tri này cũng không phải là khó hiểu, câu đầu tiên U Châu có yêu đạo, là nói người này xuất thân ở U Châu, được gọi là yêu đạo, Vương gia hãy nghĩ xem yêu đạo là nói về người như thế nào?

Đậu Kiến Đức suy nghĩ một lúc, lắc đầu:

- Ta nghĩ không ra.

- Vương gia, thực ra điều này không phải là nói yêu đạo, mà là nói yêu đao.

Đậu Kiến Đức bất chợt phản ứng:

- Tiên sinh muốn nói Tống Kim Cương?

Tống Kim Cương được thiên hạ gọi là Tứ Đại Kỳ Tướng, tên hiệu là “Yêu Đao”, vậy Tống Kim Cương không phải là người quận Thượng Cốc U Câu sao? Đậu Kiến Đức cau mày, điều này có nghĩa là gì?

Khổng Đức Thiện tiếp tục nói:

- Vương gia, thực ra câu thứ hai cũng đã rõ ràng, tự xưng phục ma thần, phục ma thần ở đây không phải chính là Kim Cương sao?

Đậu Kiến Đức có phần tỉnh ngộ, quả thực là nói đến Tống Kim Cương:

- Vậy cưỡi mây ra Bạch Hải, xuống trần làm Thanh Đế, là có ý gì?

- Vương gia, Bạch Hải là chỉ Bắc Hải, “Cưỡi mây ra Bạch Hải, xuống trần làm Thanh Đế”, nói cách khác người này xuất hiện từ quận Bắc Hải, sau đó làm vua Thanh Châu.

Sắc mặt Đậu Kiến Đức trở nên đặc biệt khó coi, ý nghĩa của lời tiên tri này đúng là nói Tống Kim Cương tạo phản. Từ bản thân mà suy luận ra, chỉ là y cũng không lấy gì làm khó hiểu, hiện tại Tống Kim Cương thực ra đã ở tình trạng bán độc lập.

Mỗi nhà đều có khó khăn riêng, Thanh Châu cũng không ngoại lệ. Đậu Kiến Đức y tuy là người đứng đầu Thanh Châu, nhưng thực tế thiện hạ Thanh Châu được chia làm ba phần, Đậu Kiến Đức y chiếm quận Tề, quận Lỗ, quận Cao Mật. Lưu Hắc Thát khống chế quận Lang Gia, Tống Kim Cương khống chế quận Bắc Hải.

Đáng lẽ y có thể hợp nhất với quân Lưu Hắc Thá, nhưng vì cháu gái của y là Đậu Tuyến Nương đào hôn, làm cho kế hoạch của y thất bại, Lưu Hắc Thát trở mặt với y. Nhưng y và Lưu Hắc Thát lớn lên cùng nhau, còn chưa đến mức có ý muốn giết y.

Nhưng Tống Kim Cương thì khác, trước đây người này là bạn Vương Bạt Tu, có tin đồn Vương Bạt Tu là bị gã giết chết, tiếp đó lại phản bội Lưu Vũ Chu, cuối cùng cùng đường mới dựa vào mình. Người này trong tâm có lòng phản nghịch, nếu như gã muốn dựa vào Bắc Hải lấy Thanh Châu, là điều hoàn toàn có thể.

Tống Kim Cương là người cực kỳ xảo quyệt, nhất định không chịu rời khỏi quận Bắc Hải một bước, chính y đã từng ba lần mời gã đến quận Tề, gã nhất định không chịu đến. Muốn dùng kế giết gã, nhưng rất khó làm được, chỉ có thể dùng sức mạnh để tấn công.

Đậu Kiến Đức tái mặt đi tới đi lui trong phòng, Khổng Đức Thiệu biết y đang suy nghĩ chuyện gì. Liền dè dặt hỏi:

- Vương gia, tại hạ cho rằng lời tiên tri này lai lịch không rõ ràng, có lẽ thực sự có vấn đề, có thể có… âm mưu gì hay không?

Khổng Đức Thiệu do dự một chút, cuối cùng mới nói ra hai chữ “âm mưu”. Tuy rằng Đậu Kiến Đức không muốn nghe, nhưng y cảm thấy nhất định là như vậy.

Đậu Kiến Đức lạnh lùng hừ lạnh một tiếng:

- Điều tiên sinh nói là âm mưu gì đó, vậy tiên sinh nói thử ai là người gây nên việc này, là Dương Nguyên Khánh sao? Hắn ở quận Hoằng Nông đánh nhau với Lý Thế Dân, thời gian đâu lo lắng tới ta, hay là Lý Mật, y khiêu khích ta thì có tác dụng gì. Tiên sinh nói là âm mưu, nên hiểu rõ không có lửa làm sao có khói, cái thứ tiên tri này, không nên nói càn là âm mưu.

Sắc mặt Khổng Đức Thiệu trở nên trắng bệch, lời tiên tri luôn luôn huyền bí. Thông thường những người có quyền lực đều kiêng kỵ, nhưng cũng dễ dàng bị người khác lợi dụng.

 Chương 815 : Tam quản gia (p2)

Thực ra y cũng biết giữa Đậu Kiến Đức và Tống Kim Cương vẫn luôn có mâu thuẫn, chẳng qua mâu thuẫn đã được che đậy.

Mặc dù Tống Kim Cương tỏ ý bằng lòng tuân theo chỉ thị của Đậu Kiến Đức, nhưng không có người lãnh đạo nào lại bằng lòng ở dưới quyền khống chế của người khác trong địa bàn riêng của mình, quân đội của mình. Mâu thuẫn giữa Đậu Kiến Đức và Tống Kim Cương sớm muộn gì cũng sẽ bùng nổ, có lẽ vì lời tiên tri này, đã mở ra cái nắp che đậy sự mâu thuẫn của bọn họ.

Đậu Kiến Đức chắp tay nhìn nóc nhà một lúc, mới lạnh lùng nói:

- Chuyện này ta đã biết rồi, đa tạ tiên sinh đã lý giải, chuyện Tống Kim Cương ta sẽ tự mình suy nghĩ.

Khổng Đức Thiệu hiểu rõ trong lòng Đậu Kiến Đức đã nổi lên sát khí, y không dám nhiều lời nữa, không biết làm thế nào đành phải rời đi.

Trong phòng, Đậu Kiến Đức trong lòng vô cùng phiền não, đôi khi bản thân y cũng lơ là, bất kể Lưu Hắc Thát hay Tống Kim Cương đều là thuộc hạ của y, chẳng qua là không cùng phe phái, trước đây trong quân của y có rất nhiều phe phái, không phải cũng tương tự do y điều khiển theo ý y sao? Tương tự phụng y làm Chủ công, không phải là một vấn đề gì lớn.

Nhưng lời tiên tri này giống như một ly rượu độc, làm cho y có thể tỉnh táo lại từ chỗ mất cảm giác, phải đối mặt với hiện thực. Tống Kim Cương và Lưu Hắc Thát từ trước đã không cùng một phe, chẳng qua ngoài mặt bọn họ nghe theo y, trên thực tế đã tự mình làm vương. Đậu Kiến Đức y nếu muốn xây dựng lại giang sơn, hai người này ở bên cạnh chẳng những chính là hai tảng đá lớn, mà còn là người cần phải giải quyết trước tiên.

Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến một hồi tiếng bước chân có vẻ vội vã, có người ngoài cửa giọng gấp gáp bẩm báo:

- Vương gia, có người đến từ quận Bắc Hải cầu kiến, nói là tam quản gia ở phủ Tống Kim Cương, nói có việc hệ trọng muốn bẩm báo với Vương gia.

Đậu Kiến Đức giật mình, tức khắc ra lệnh nói:

- Dẫn người đó tới đây.

Trong phút chốc, mấy tên thị vệ dẫn một người đàn ông trung niên đi vào, người đàn ông này có cái mũi nhỏ và đôi mắt ti hí, dáng điệu có vẻ đăm chiêu ủ dột, gã vừa đi vào liền quỳ xuống, phủ phục dưới đất:

- Tiểu dân Lý A Phúc, khấu kiến Vương gia!

Đậu Kiến Đức đưa mắt quan sát gã, người này vừa nhìn đã thấy là hạng tiểu dân tầm thường, liền hỏi gã:

- Ngươi là quản gia trong phủ Tống Kim Cương?

- Hồi bẩm Vương gia, tiểu nhân là tam quản gia trong phủ của y, phụ trách các công việc lặt vặt trong phủ.

- Uhm! Ngươi có việc hệ trọng gì muốn bẩm báo với ta.

Đậu Kiến Đức ngồi xuống, nhấp một ngụm trà hỏi.

- Vương gia, khoảng năm ngày trước, Tống Kim Cương bí mật tiếp kiến một vị khách, con gái tiểu nhân phụ trách việc rót trà, nó nghe nói, Tống Kim Cương gọi người này là Tạ tiên sinh, là quan viên đến từ triều Tùy.

Bàn tay Đậu Kiến Đức thoáng dừng lại, y chậm rãi đem chén trà đặt lại trên bàn, nhìn thẳng gã quản gia hỏi:

- Người họ Tạ đó hình dáng trông như thế nào?

- Là một gã văn sĩ, khoảng hơn ba mươi tuổi, rất gầy, bên trái mũi có một cái nốt ruồi rất lớn.

Đậu Kiến Đức biến sắc, y biết người này là ai, chính là Tạ Tư Lễ, là người thân tín bên cạnh Dương Nguyên Khánh, vẻ mặt Đậu Kiến Đức âm trầm đáng sợ, một lát sau lại hỏi:

- Có biết bọn họ nói nói về chuyện gì hay không?

Tiểu nhân không biết, Tống Kim Cương đuổi hết toàn bộ đầy tớ ra ngoài, đóng chặt cửa chính và cửa sổ, tất cả xung quanh đều là thân binh của ông ta, không cho phép bất cứ ai lại gần, bọn họ nói chuyện khoảng chừng một canh giờ.

- Khốn kiếp!

Đậu Kiến Đức giận dữ đập tay xuống bàn, trong lòng phẫn nộ suýt nữa làm cho y đứng dậy quát lên. Tống Kim Cương và Dương Nguyên Khánh quả thực bí mật cấu kết với nhau, không cần phải nói, nhất định là Dương Nguyên Khánh đã ban cho y quan to lộc hậu gì đó, Tống Kim Cương lại định phản bội mình.

Lồng ngực y phập phồng một cách kịch liệt, một hồi lâu sau, y mới kiềm chế được cơn thịnh nộ hỏi gã quản gia:

- Vì sao ngươi lại phản bội Tống Kim Cương?

Gã quản gia dập đầu, rưng rưng nói:

- Buổi tối ngày hôm trước, Tống Kim Cương uống rượu say đã làm nhục con gái của tiểu nhân, con gái tiểu nhân cố hết sức phản kháng, đã chọc giận y, y liền đem con gái tiểu nhân thưởng cho các thân binh, con gái tiểu nhân không chịu được sự sỉ nhục, sau khi trở về liền treo cổ tự tử, tiểu nhân đi tìm y nói lý lẽ, lại bị y đánh cho một trận, đuổi ra khỏi cửa phủ.

Nói đến đây, gã quản gia bắt đầu run rẩy vén quần áo lên, chỉ thấy trên lưng y chằng chịt lằn roi, máu thịt lẫn lộn, làm người khác không nỡ nhìn, gã quỳ dưới đất, bật khóc lớn tiếng:

- Con gái bất hạnh của tiểu nhân!

Đậu Kiến Đức thấy tình hình ấy, trong lòng hoàn toàn tin tưởng, y là một người rộng lượng, y thấy gã quản gia này bị đánh quá thê thảm, trong lòng thương xót, liền lệnh cho thị vệ:

- Dẫn y xuống phía dưới trị thương. Thưởng thêm cho y một trăm lượng bạc!

Gã quản gia liên tục dập đầu:

- Đa tạ Vương gia! Đa tạ Vương gia!

Thị vệ đưa gã quản gia xuống phía dưới, Đậu Kiến Đức chắp tay đứng trước sa bàn, nhìn chăm chú vào quận Bắc Hải không nói gì, trong mắt lóe hung quang. Lúc này, y đã hoàn toàn tin Tống Kim Cương phản bội mình, điều quan trọng là Tống Kim Cương sao lại cấu kết với Dương Nguyên Khánh? Y sẽ hành động như thế nào?

Lúc này, lại có thị vệ đến bẩm báo:

- Vương gia, Tôn Tướng quân tới, có quân tình quan trọng cần bẩm báo.

- Lệnh cho y vào!

Ngay sau đó, một gã đại tướng vội vã đi vào, người này là đại tướng dưới quyền Đậu Kiến Đức, tên là Tôn Phúc Lăng, chịu trách nhiệm trinh sát tuần tra xung quanh quận Tề. Gã khom người thi lễ:

- Khởi bẩm Vương gia, ty chức phát hiện thấy một số chuyện khác thường.

- Chuyện gì?

- Hai ngày nay ty chức nghe ngư dân cho biết, các thuyền lớn ở ngoài biển tăng nhanh, đa số là thuyền chiến, ty chức cảm thấy rất lạ, nên đặc biệt tới bẩm báo.

- Thuyền chiến?

Đậu Kiến Đức cau mày, đây là nơi nào mà lại có thuyền chiến, đột nhiên, y hình như nghĩ tới điều gì, bước nhanh tới trước bức tường, xoạt một tiếng giật tấm màn che xuống, trên tường là một bức địa đồ lớn, phạm vi rộng hơn nhiều so với sa bàn, bao gồm Hà Bắc và Liêu Đông.

Đậu Kiến Đức nhìn chăm chú vào quận Bắc Hải, vịnh Lai Thủy ở đó là cảng biển lớn nhất Thanh Châu, ánh mắt y vẫn nhìn về phía bắc, cuối cùng dừng lại ở cửa sông quận Bắc Bình. Cửa sông là bến cảng của quân Tùy, nơi ấy có một trăm thuyền chiến. Các thuyền chiến trên biển Thanh Châu là từ đâu tới đây? Chỉ có thể là thuyền chiến của quân Tùy.

Tại thời điểm này, suy nghĩ của Đậu Kiến Đức chợt rõ ràng hơn, y biết quân Tùy sẽ làm thế nào để tấn công vào Thanh Châu, là tấn công từ đường thủy, như vậy Dương Nguyên Khánh mua chuộc Tống Kim Cương cũng là chuyện hợp tình hợp lý.

Mà quân đội của mình chủ yếu tập trung ở phía tây quận Tề và bờ Hoàng Hà, phía sau lưng lại trống rỗng, một khi quân Tùy từ đường biển lên bờ, sẽ tạo thành thế gọng kìm tấn công từ hai phía, lúc đó, Thanh Châu sẽ gặp nguy hiểm!

Đậu Kiến Đức nhất thời toát mồ hôi, y biết chỉ cần quân Tùy đánh xong chiến dịch Trung Nguyên, bước tiếp theo là đối phó với mình, đồng thời tấn công từ đường thủy và đường bộ, thời gian còn lại của y không nhiều.

Nghĩ vậy, không thể ngồi chờ được nữa, lền quát to ra lệnh:

- Chuẩn bị xe ngựa, lập tức đi đến quân doanh!

……..

Quản gia Lý A Phúc, mang một trăm lượng bạc từ trong phủ Đậu Kiến Đức đi ra, gã luôn luôn cúi đầu, cảm tạ thiên ân rồi hướng về phía ngoài thành mà đi.

Nhưng rời khỏi phủ Đậu Kiến Đức không bao lâu, vẻ ti tiện trên mặt gã đã không còn sót lại chút gì, lạnh lùng hừ một tiếng, bước đi một mạch. Đi tới trước một cửa hiệu bán gạo, nhìn bốn phía xung quanh, thấy không có ai, liền từ cửa hông tiến vào trong.

Đi tới hậu viện, một gã thanh niên thân hình cường tráng thi lễ với y:

- Lý Giáo Úy, mọi việc thành công chứ?

Gã gật đầu:

- Hiện tại đã thành công, nhưng vẫn phải chú ý tình hình xem chừng Đậu Kiến Đức triệu tập quân đội, một khi phát hiện quân đội của y tập hợp lại, thì ngay lập tức thông báo cho Thái Nguyên.

- Tuân lệnh!

Hai ngày sau, năm mươi ngàn quân của Đậu Kiến Đức đã tập trung tại huyện Lịch Thành, nhanh chóng xuất phát về hướng quận Bắc Hải. Đậu Kiến Đức cuối cùng cũng hạ quyết tâm, ra tay tiêu diệt Tống Kim Cương trước. Lúc này, có một con chim ưng cất cánh từ huyện Lịch Thành, bay về hướng Thái Nguyên.

Phía bờ bắc Nhữ Thủy quận Tương Thành, một đám quân Đường chừng hai vạn người đang theo dòng sông về hướng Đông Bắc. Đội ngũ này là quân Đường tuyến phía Đông do Khuất Đột Thông thống lĩnh. Mục tiêu của Khuất Đột Thông rất rõ ràng, tìm kiếm quân đội của Từ Thế Tích đồng thời một mẻ đánh tan hoặc tiêu diệt chúng.

Nhưng tình hình của thám báo hình như không ủng hộ cho dã tâm của Khuất Đột Thông. Tới giờ y vẫn chưa thể phán đoán chính xác quân đội của Từ Thế Tích rốt cuộc đang ở chỗ nào?

Điều này khiến y vô cùng khó khăn. Nếu như y không thể tìm thấy quân Tùy trong vòng năm ngày, vậy thì số lương thảo mà y mang theo hầu như là không còn. Trên thực tế thì y chỉ có thời gian ba ngày, y không thể ôm cái bụng đói quay trở về được.

Ngày hôm qua cuối cùng y cũng có được chút manh mối, có người nói với thám báo của y rằng hai ngày trước phát hiện quân Tùy ở vùng gần huyện Nhữ Nam. Tin tức này khiến Khuất Đột Thông mừng rỡ như điên, y lập tức chỉ huy quân xuất phát về hướng huyện Nhữ Nam.

 Chương 816 : Khuất Đột trúng kế

Huyện Nhữ Nam không liên quan gì tới quận Nhữ Nam ở phía nam cả. Quận trì quận Nhữ Nam gọi là huyện Nhữ Nam, gần với Tương Dương. Nhưng huyện Nhữ Nam ở đây chỉ là một huyện nhỏ của quận Tương Thành, nằm ở phía nam Nhữ thủy, thành trì cũ nát, dân cư thưa thớt, mấy năm nay lại bị đạo phỉ cướp sạch nên hiện giờ còn chưa tới ba trăm hộ.

Buổi chiều ngày thứ hai, Khuất Đột Thông dẫn hai vạn quân Đường tới một huyện nhỏ ở khu bình nguyên này. Khuất Đột Thông híp mắt quan sát tòa thành rách nát bé xíu phía xa xa vài dặm. Tường thành thấp bé, chu vi chưa tới bảy tám dặm, một vài pháo đài quân sự còn to hơn tòa thành này.

Lúc này, hơn mười thám báo quân Đường vội chạy tới, Lữ soái dẫn đầu chắp tay bẩm báo:

- Khởi bẩm lão tướng quân, trong thành gần như đã trống trơn, quân Tùy đã ở trong thành này chừng hơn mười ngày.

Khuất Đột Thông nhướng mày:

- Sao lại có thể là thành trống?

Lữ soái quay đầu lại phất tay một cái, vài tên binh sĩ dẫn một ông lão tới. Ông lão nơm nớp lo sợ nói:

- Khởi bẩm tướng quân, quân Tùy như hổ sói, người trong thành đều sợ hãi bỏ trốn hết rồi, chỉ còn lại mười mấy lão già không muốn rời đi thôi.

Khuất Đột Thông có chút khó hiểu:

- Quân Tùy chẳng phải luôn quân kỷ nghiêm minh sao, sao lại trở nên như sói như hổ được?

- Haizz!

Ông già thở dài:

- Lúc đầu còn tốt. Nhưng mà hai ngày trước, quân Tùy cần nhiều lương thực tài vật nên bắt tráng đinh. Những phụ nữ còn trẻ tuổi cũng phải đi phục vụ quân, cả thành loạn lạc. Vốn dĩ dân số trong thành đã không nhiều, bây giờ ai nấy cũng s bỏ chạy rồi.

- Vậy quân Tùy chạy đi đâu rồi?

Khuất Đột Thông trong lòng có vẻ uể oải, lại tới chậm một bước rồi.

Ông già kia lắc đầu:

- Cái này tiểu nhân không rõ, chiều qua bọn họ đã rời đi rồi, đi rất vội vàng.

Xem ra quân Tùy phát hiện bọn họ tới nên đã nhanh chóng rút lui rồi. Khuất Đột Thông không thể xác định được hướng rút lui của quân Tùy, đành phải đợi thám báo dò thám tình hình xung quanh đây rồi mới tính tiếp. Y ngẩng đầu lên nhìn thì thấy trời đã về chiều, y liền hạ lệnh:

- Truyền lệnh của ta, đại quân vào thành nghỉ ngơi.

Hai vạn đại quân quân Đường tiến vào trong thành, trong chốc lát cả tòa thành nhỏ bé đã chật kín người. Tuy rằng có hơi đông nhưng miễn cưỡng vẫn có thể ở được.

Bọn họ đã chiếm được không ít lương thảo, đây là điều khiến họ vô cùng ngạc nhiên. Bọn họ phát hiện quân Tùy đã bỏ lại không ít đồ dùng, ngoài một ít quân giới còn có cả hơn ngàn thạch gạo và hai ngàn bó cỏ khô nữa. Vừa hay vấn đề khẩn cấp của bọn họ đã được giải quyết.

Khuất Đột Thông cưỡi ngựa đi trong thành thị sát. Theo như bày bố của nhà Tùy thì loại thị trấn nhỏ như vậy chỉ có thể có hai cửa thành, một cửa phía nam và một cửa phía bắc. Hai cửa này cách nhau chừng ba dặm, nó cũng trở thành con đường lưu thông chính trong thành.

Phòng xá trong thành đa số đều rách nát, rất nhiều căn do lâu không được tu sửa nên đã sụp đổ hết. Mỗi gian có mười binh sĩ ở, Khuất Đột Thông nhìn thấy một binh sĩ đang ở cạnh giếng múc nước chuẩn bị làm cơm.

- Giếng nước đã kiểm tra chưa?

Khuất Đột Thông cao giọng hỏi, y vô cùng cẩn thận, giếng nước phòng ở đều cẩn thận kiểm tra, phòng ngừa việc quân Tùy hạ độc, cũng là phòng quân Tùy chất giữ những đồ dễ bắt lửa như củi khô, lưu huỳnh.

Nhưng mà vẫn may là bọn họ không phát hiện ra điều gì dị thường cả.

Bọn lính thấy chủ tướng tới, liền đáp:

- Bẩm báo tướng quân, giếng nước đã được kiểm tra rồi, không có gì khác thường cả.

Khuất Đột Thông gật gật đầu, tiếp tục cưỡi ngựa đi tới các nơi khác tuần tra.

…..

Màn đêm dần dần phủ xuống, đám quân Đường hành quân hai ngày trời vô cùng mệt mỏi uể oải nên đã sớm ngủ say rồi. Cửa thành cũng đã đóng, từng tốp quân Đường đi tuần tra trong thành, canh phòng nghiêm ngặt. Bên ngoài thành, gần trăm tên thám báo quân Đường đi dò xét trong phạm vi mười dặm để xem có gì khả nghi không.

Đêm nay trời đầy mây, không có trăng sao, những đám mây đen kịt che kín cả bầu trời, bóng đêm dày đặc khiến mặt đất cũng trở nên đen kịt.

Khoảng canh một, một đội hai mươi quân thám báo đang nhanh chóng chạy vào trong thành. Bọn họ phát hiện ra cái gì đó khác lạ nên đang gấp rút chạy về thành bẩm báo. Lúc này họ chỉ còn cách thành chừng năm dặm.

Nhưng hai mươi người họ cưỡi ngựa qua một sườn núi, đột nhiên những tiếng mũi tên xé không gian vang lên, những mũi tên dày đặc từ hai bên phóng tới chỗ bọn họ, hai mươi người kêu thảm rơi xuống ngựa. Sau hai đợt tên bắn xuống thì không còn ai sống sót nữa.

Lúc này, hơn hai vạn quân Tùy đã dần tiến sát tới hai cửa thành, với sự yểm hộ của màn đêm đen kịt, những quân sĩ trông coi trên thành không thể phát hiện ra được quân Tùy đang tới gần. Tuy nhiên trong quá trình triển khai chậm chạp, một vạn cung nỏ binh đã phong tỏa cửa thành.

Lúc này, mấy trăm công sự binh dựng một thứ gì đó trên vùng đất bằng phẳng cách thành chừng hai trăm bước. Bọn họ mang theo linh kiện, dùng những miếng gỗ lớn và dây thừng làm thành loại vũ khí có thể bắn được từ xa. Khoảng nửa giờ sau, mười quái vật to lớn đã xuất hiện phía ngoài thành, những chiếc tháp chống cao lớn thậm chí còn cao hơn cả tường thành nữa.

Khi công cuộc xây dựng chuẩn bị hoàn thành thì quân giữ thành cuối cùng cũng phát hiện điều lạ thường. Có binh sĩ vội chạy xuống thành, đi báo cho Khuất Đột Thông biết.

Khuất Đột Thông vừa mới chợp mắt nhưng vẫn còn chưa ngủ hẳn. Mặc dù y cũng vô cùng mệt mỏi nhưng áp lực của Chủ tướng khiến y không thể ngủ yên được. Mười mấy năm tòng quân nên thường có dự cảm trước nguy hiểm.

Y cũng cảm thấy tòa thành này có điều gì đó không đúng nhưng lại không nói ra được chỗ nào có vấn đề. Ngoài những điểm khả nghi mà y đã kiểm tra ra, thậm chí y còn đào đất lên ba thước xem dưới đất có chôn giấu thứ gì không nhưng đều không tìm thấy gì cả. 

Khuất Đột Thông nằm trên chiếc ghế dài, trong đầu suy nghĩ về tất cả những gì diễn ra ban ngày, y nhất định phải tìm ra sự bất an của mình tới từ đâu?

Bỗng nhiên, Khuất Đột Thông dựng người lên, y đã nghĩ ra vấn đề rồi. Ban ngày ông già đó nói trước khi quân Tùy rời đi một ngày đã dốc sức đi cướp giật lương thảo, vơ vét tài sản, nhưng tại sao họ lại để lại một ngàn thạch lương thực và hơn hai ngàn bó cỏ khô nữa, chuyện này có chút kì lạ.

Quân Tùy có những thái độ trái với quân kỷ như vậy, chỉ có một mục đích, đó chính là ép buộc dân chúng trong thành phải chạy đi. Bọn họ không dùng cách khuyên bảo, nếu dùng cách khuyên bảo sẽ khiến cho mình cảnh giác. Vậy quân Tùy muốn làm cái gì? Đuổi hết dân chúng trong thành đi, để lại một tòa thành không cho mình.

Khuất Đột Thông thoáng rùng mình, y đã mơ hồ đoán ra dụng ý của quân Tùy. Lúc này, phía ngoài sân có tiếng bước chân chạy nhanh tới.

- Chúng ta có việc gấp muốn bẩm báo tướng quân!

- Thế nhưng lão tướng quân đã nghỉ ngơi rồi, ông ấy quá mệt rồi, ngày mai hãy bẩm báo không được sao?

- Không được, e rằng đợi đến ngày mai sẽ không kịp nữa rồi!

Khuất Đột Thông đứng lên mở cửa:

- Xảy ra chuyện gì?

Binh sĩ tuần tra chạy tới bẩm báo:

- Khởi bẩm lão tướng quân, chúng tôi phát hiện bên ngoài thành có điều lạ thường.

Khuất Đột Thông có chút giật mình trong lòng, mặc dù y không biết bên ngoài đã xảy ra chuyện gì nhưng y cũng đã cảm nhận được bọn họ đã trúng kế của quân Tùy khi vào trong tòa thành này. Y chỉ xét tới tường thành là một nơi phòng hộ an toàn, có thể phòng ngừa quân Tùy đánh lén ban đêm nhưng quên rằng tường thành cũng là một sự ràng buộc.

Khuất Đột Thông bước nhanh tới đầu thành, y hướng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy phía ngoài thành chừng hai trăm bước có mười mấy tòa tháp đứng sừng sững, nó phải cao tới hai trượng năm tấc, còn cao hơn cả những chỗ thấp của tường thành này tới một trượng. Trong màn đêm mờ mịt vẫn còn có thể lờ mờ nhìn thấy một cánh tay vô cùng dài.

Đây là loại máy bắn đá cỡ lớn, những giọt mồ hôi lạnh từ trên trán Khuất Đột Thông rơi xuống. Y đã hiểu trận đồ của quân Tùy rồi, y liền quay đầu hô lớn:

- Mau gõ chuông báo động!

- Keng ! Keng! Keng !

Những tiếng chuông chói tai vang lên trong huyện thành nhỏ nhưng cùng lúc tiếng chuông cảnh báo này reo vang thì những cỗ máy bắn đá cỡ lớn của quân Tùy bắt đầu hoạt động.

Đây là mười cỗ máy bắn đá đơn giản, không có bánh xe, không có cái gì phức tạp xung quanh, cũng không có bàn kéo. Nó chỉ dùng mười mảnh gỗ lớn cột chặt lại mà thành, mỗi một chiếc máy bắn đá đều có hai trăm người kéo ném.

Trong tiếng cảnh báo chói tai, mười thùng dầu hỏa cùng lúc bay ra, lướt qua tường thành bay vào trong thành. Các thùng dầu bay đập vào mái nhà và mặt đất liền vỡ ra, những dòng dầu đen sì chảy đầy mặt đất. Tiếp đó, đợt thùng dầu thứ hai bay tới, mười mấy thùng dầu ùn ùn ném vào trong thành.

Mấy trăm cung thủ quân Tùy chạy vội tới trước thành, cùng nhau phóng tên. Hàng trăm hỏa tiễn phóng lên trên trời, hướng thẳng vào trong thành. Trong thành đã bắt đầu xuất hiện các đốm lửa, có dầu hỏa bắt lửa nên ngọn lửa đang bắt đầu cháy rất mạnh.

Trong thành Nhữ Nam, từng đội quân Đường đã xếp thành hàng. Dưới sự chỉ huy của Khuất Đột Thôg, bọn họ không hề hoảng loạn, điều quan trọng hơn là ngọn lửa lớn trong thành hiện giờ mới tới gần tường thành chứ chưa đốt tới trung tâm thành.

Trong lòng Khuất Đột Thông hiểu rõ, hiện giờ sự uy hiếp lớn nhất đối với bọn họ không phải là đại hỏa mà là thương vong khi phá vòng vây. Nếu như thương vong quá ba phần vậy thì trận này chắc chắn bại rồi.

 Chương 816 : Khuất Đột trúng kế

Huyện Nhữ Nam không liên quan gì tới quận Nhữ Nam ở phía nam cả. Quận trì quận Nhữ Nam gọi là huyện Nhữ Nam, gần với Tương Dương. Nhưng huyện Nhữ Nam ở đây chỉ là một huyện nhỏ của quận Tương Thành, nằm ở phía nam Nhữ thủy, thành trì cũ nát, dân cư thưa thớt, mấy năm nay lại bị đạo phỉ cướp sạch nên hiện giờ còn chưa tới ba trăm hộ.

Buổi chiều ngày thứ hai, Khuất Đột Thông dẫn hai vạn quân Đường tới một huyện nhỏ ở khu bình nguyên này. Khuất Đột Thông híp mắt quan sát tòa thành rách nát bé xíu phía xa xa vài dặm. Tường thành thấp bé, chu vi chưa tới bảy tám dặm, một vài pháo đài quân sự còn to hơn tòa thành này.

Lúc này, hơn mười thám báo quân Đường vội chạy tới, Lữ soái dẫn đầu chắp tay bẩm báo:

- Khởi bẩm lão tướng quân, trong thành gần như đã trống trơn, quân Tùy đã ở trong thành này chừng hơn mười ngày.

Khuất Đột Thông nhướng mày:

- Sao lại có thể là thành trống?

Lữ soái quay đầu lại phất tay một cái, vài tên binh sĩ dẫn một ông lão tới. Ông lão nơm nớp lo sợ nói:

- Khởi bẩm tướng quân, quân Tùy như hổ sói, người trong thành đều sợ hãi bỏ trốn hết rồi, chỉ còn lại mười mấy lão già không muốn rời đi thôi.

Khuất Đột Thông có chút khó hiểu:

- Quân Tùy chẳng phải luôn quân kỷ nghiêm minh sao, sao lại trở nên như sói như hổ được?

- Haizz!

Ông già thở dài:

- Lúc đầu còn tốt. Nhưng mà hai ngày trước, quân Tùy cần nhiều lương thực tài vật nên bắt tráng đinh. Những phụ nữ còn trẻ tuổi cũng phải đi phục vụ quân, cả thành loạn lạc. Vốn dĩ dân số trong thành đã không nhiều, bây giờ ai nấy cũng s bỏ chạy rồi.

- Vậy quân Tùy chạy đi đâu rồi?

Khuất Đột Thông trong lòng có vẻ uể oải, lại tới chậm một bước rồi.

Ông già kia lắc đầu:

- Cái này tiểu nhân không rõ, chiều qua bọn họ đã rời đi rồi, đi rất vội vàng.

Xem ra quân Tùy phát hiện bọn họ tới nên đã nhanh chóng rút lui rồi. Khuất Đột Thông không thể xác định được hướng rút lui của quân Tùy, đành phải đợi thám báo dò thám tình hình xung quanh đây rồi mới tính tiếp. Y ngẩng đầu lên nhìn thì thấy trời đã về chiều, y liền hạ lệnh:

- Truyền lệnh của ta, đại quân vào thành nghỉ ngơi.

Hai vạn đại quân quân Đường tiến vào trong thành, trong chốc lát cả tòa thành nhỏ bé đã chật kín người. Tuy rằng có hơi đông nhưng miễn cưỡng vẫn có thể ở được.

Bọn họ đã chiếm được không ít lương thảo, đây là điều khiến họ vô cùng ngạc nhiên. Bọn họ phát hiện quân Tùy đã bỏ lại không ít đồ dùng, ngoài một ít quân giới còn có cả hơn ngàn thạch gạo và hai ngàn bó cỏ khô nữa. Vừa hay vấn đề khẩn cấp của bọn họ đã được giải quyết.

Khuất Đột Thông cưỡi ngựa đi trong thành thị sát. Theo như bày bố của nhà Tùy thì loại thị trấn nhỏ như vậy chỉ có thể có hai cửa thành, một cửa phía nam và một cửa phía bắc. Hai cửa này cách nhau chừng ba dặm, nó cũng trở thành con đường lưu thông chính trong thành.

Phòng xá trong thành đa số đều rách nát, rất nhiều căn do lâu không được tu sửa nên đã sụp đổ hết. Mỗi gian có mười binh sĩ ở, Khuất Đột Thông nhìn thấy một binh sĩ đang ở cạnh giếng múc nước chuẩn bị làm cơm.

- Giếng nước đã kiểm tra chưa?

Khuất Đột Thông cao giọng hỏi, y vô cùng cẩn thận, giếng nước phòng ở đều cẩn thận kiểm tra, phòng ngừa việc quân Tùy hạ độc, cũng là phòng quân Tùy chất giữ những đồ dễ bắt lửa như củi khô, lưu huỳnh.

Nhưng mà vẫn may là bọn họ không phát hiện ra điều gì dị thường cả.

Bọn lính thấy chủ tướng tới, liền đáp:

- Bẩm báo tướng quân, giếng nước đã được kiểm tra rồi, không có gì khác thường cả.

Khuất Đột Thông gật gật đầu, tiếp tục cưỡi ngựa đi tới các nơi khác tuần tra.

…..

Màn đêm dần dần phủ xuống, đám quân Đường hành quân hai ngày trời vô cùng mệt mỏi uể oải nên đã sớm ngủ say rồi. Cửa thành cũng đã đóng, từng tốp quân Đường đi tuần tra trong thành, canh phòng nghiêm ngặt. Bên ngoài thành, gần trăm tên thám báo quân Đường đi dò xét trong phạm vi mười dặm để xem có gì khả nghi không.

Đêm nay trời đầy mây, không có trăng sao, những đám mây đen kịt che kín cả bầu trời, bóng đêm dày đặc khiến mặt đất cũng trở nên đen kịt.

Khoảng canh một, một đội hai mươi quân thám báo đang nhanh chóng chạy vào trong thành. Bọn họ phát hiện ra cái gì đó khác lạ nên đang gấp rút chạy về thành bẩm báo. Lúc này họ chỉ còn cách thành chừng năm dặm.

Nhưng hai mươi người họ cưỡi ngựa qua một sườn núi, đột nhiên những tiếng mũi tên xé không gian vang lên, những mũi tên dày đặc từ hai bên phóng tới chỗ bọn họ, hai mươi người kêu thảm rơi xuống ngựa. Sau hai đợt tên bắn xuống thì không còn ai sống sót nữa.

Lúc này, hơn hai vạn quân Tùy đã dần tiến sát tới hai cửa thành, với sự yểm hộ của màn đêm đen kịt, những quân sĩ trông coi trên thành không thể phát hiện ra được quân Tùy đang tới gần. Tuy nhiên trong quá trình triển khai chậm chạp, một vạn cung nỏ binh đã phong tỏa cửa thành.

Lúc này, mấy trăm công sự binh dựng một thứ gì đó trên vùng đất bằng phẳng cách thành chừng hai trăm bước. Bọn họ mang theo linh kiện, dùng những miếng gỗ lớn và dây thừng làm thành loại vũ khí có thể bắn được từ xa. Khoảng nửa giờ sau, mười quái vật to lớn đã xuất hiện phía ngoài thành, những chiếc tháp chống cao lớn thậm chí còn cao hơn cả tường thành nữa.

Khi công cuộc xây dựng chuẩn bị hoàn thành thì quân giữ thành cuối cùng cũng phát hiện điều lạ thường. Có binh sĩ vội chạy xuống thành, đi báo cho Khuất Đột Thông biết.

Khuất Đột Thông vừa mới chợp mắt nhưng vẫn còn chưa ngủ hẳn. Mặc dù y cũng vô cùng mệt mỏi nhưng áp lực của Chủ tướng khiến y không thể ngủ yên được. Mười mấy năm tòng quân nên thường có dự cảm trước nguy hiểm.

Y cũng cảm thấy tòa thành này có điều gì đó không đúng nhưng lại không nói ra được chỗ nào có vấn đề. Ngoài những điểm khả nghi mà y đã kiểm tra ra, thậm chí y còn đào đất lên ba thước xem dưới đất có chôn giấu thứ gì không nhưng đều không tìm thấy gì cả. 

Khuất Đột Thông nằm trên chiếc ghế dài, trong đầu suy nghĩ về tất cả những gì diễn ra ban ngày, y nhất định phải tìm ra sự bất an của mình tới từ đâu?

Bỗng nhiên, Khuất Đột Thông dựng người lên, y đã nghĩ ra vấn đề rồi. Ban ngày ông già đó nói trước khi quân Tùy rời đi một ngày đã dốc sức đi cướp giật lương thảo, vơ vét tài sản, nhưng tại sao họ lại để lại một ngàn thạch lương thực và hơn hai ngàn bó cỏ khô nữa, chuyện này có chút kì lạ.

Quân Tùy có những thái độ trái với quân kỷ như vậy, chỉ có một mục đích, đó chính là ép buộc dân chúng trong thành phải chạy đi. Bọn họ không dùng cách khuyên bảo, nếu dùng cách khuyên bảo sẽ khiến cho mình cảnh giác. Vậy quân Tùy muốn làm cái gì? Đuổi hết dân chúng trong thành đi, để lại một tòa thành không cho mình.

Khuất Đột Thông thoáng rùng mình, y đã mơ hồ đoán ra dụng ý của quân Tùy. Lúc này, phía ngoài sân có tiếng bước chân chạy nhanh tới.

- Chúng ta có việc gấp muốn bẩm báo tướng quân!

- Thế nhưng lão tướng quân đã nghỉ ngơi rồi, ông ấy quá mệt rồi, ngày mai hãy bẩm báo không được sao?

- Không được, e rằng đợi đến ngày mai sẽ không kịp nữa rồi!

Khuất Đột Thông đứng lên mở cửa:

- Xảy ra chuyện gì?

Binh sĩ tuần tra chạy tới bẩm báo:

- Khởi bẩm lão tướng quân, chúng tôi phát hiện bên ngoài thành có điều lạ thường.

Khuất Đột Thông có chút giật mình trong lòng, mặc dù y không biết bên ngoài đã xảy ra chuyện gì nhưng y cũng đã cảm nhận được bọn họ đã trúng kế của quân Tùy khi vào trong tòa thành này. Y chỉ xét tới tường thành là một nơi phòng hộ an toàn, có thể phòng ngừa quân Tùy đánh lén ban đêm nhưng quên rằng tường thành cũng là một sự ràng buộc.

Khuất Đột Thông bước nhanh tới đầu thành, y hướng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy phía ngoài thành chừng hai trăm bước có mười mấy tòa tháp đứng sừng sững, nó phải cao tới hai trượng năm tấc, còn cao hơn cả những chỗ thấp của tường thành này tới một trượng. Trong màn đêm mờ mịt vẫn còn có thể lờ mờ nhìn thấy một cánh tay vô cùng dài.

Đây là loại máy bắn đá cỡ lớn, những giọt mồ hôi lạnh từ trên trán Khuất Đột Thông rơi xuống. Y đã hiểu trận đồ của quân Tùy rồi, y liền quay đầu hô lớn:

- Mau gõ chuông báo động!

- Keng ! Keng! Keng !

Những tiếng chuông chói tai vang lên trong huyện thành nhỏ nhưng cùng lúc tiếng chuông cảnh báo này reo vang thì những cỗ máy bắn đá cỡ lớn của quân Tùy bắt đầu hoạt động.

Đây là mười cỗ máy bắn đá đơn giản, không có bánh xe, không có cái gì phức tạp xung quanh, cũng không có bàn kéo. Nó chỉ dùng mười mảnh gỗ lớn cột chặt lại mà thành, mỗi một chiếc máy bắn đá đều có hai trăm người kéo ném.

Trong tiếng cảnh báo chói tai, mười thùng dầu hỏa cùng lúc bay ra, lướt qua tường thành bay vào trong thành. Các thùng dầu bay đập vào mái nhà và mặt đất liền vỡ ra, những dòng dầu đen sì chảy đầy mặt đất. Tiếp đó, đợt thùng dầu thứ hai bay tới, mười mấy thùng dầu ùn ùn ném vào trong thành.

Mấy trăm cung thủ quân Tùy chạy vội tới trước thành, cùng nhau phóng tên. Hàng trăm hỏa tiễn phóng lên trên trời, hướng thẳng vào trong thành. Trong thành đã bắt đầu xuất hiện các đốm lửa, có dầu hỏa bắt lửa nên ngọn lửa đang bắt đầu cháy rất mạnh.

Trong thành Nhữ Nam, từng đội quân Đường đã xếp thành hàng. Dưới sự chỉ huy của Khuất Đột Thôg, bọn họ không hề hoảng loạn, điều quan trọng hơn là ngọn lửa lớn trong thành hiện giờ mới tới gần tường thành chứ chưa đốt tới trung tâm thành.

Trong lòng Khuất Đột Thông hiểu rõ, hiện giờ sự uy hiếp lớn nhất đối với bọn họ không phải là đại hỏa mà là thương vong khi phá vòng vây. Nếu như thương vong quá ba phần vậy thì trận này chắc chắn bại rồi.

 Chương 817 : Bắt hổ không dễ

Kết quả này khiến Khuất Đột Thông vô cùng đau xót, y như một người thợ săn đau khổ đang đi tìm mãnh thú nhưng cuối cùng lại bị mãnh thú săn lại vậy.

- Lão tướng quân, chúng ta nhất định phải xông ra sao?

Phó tướng Tần Võ Thông cưỡi ngựa chạy lên lớn tiếng hỏi, y cũng ý thức được việc đột phá vòng vây sẽ tổn thất rất lớn.

Khuất Đột Thông nhìn hỏa thế càng ngày càng gần, càng ngày càng mạnh, y lạnh lùng nói:

- Chỉ cần nửa canh giờ nữa thì cả tòa thành sẽ biến thành biển lửa.

Toàn bộ tướng lĩnh đều buồn bã trong lòng, họ cắn chặt môi. Trong lòng Khuất Đột Thông tính toán thời gian cần để xông ra khỏi thành, chỉ đi một cửa thành thì e rằng không kịp. Y liền quay đầu nói với Tần Võ Thông:

- Tần tướng quân, tướng quân có thể dẫn tả quân phá vòng vây từ phía nam được không, chúng ta sẽ gặp nhau ở sườn núi ba dặm về phía đông thành.

- Tuân lệnh!

Tần Võ Thông hét lớn một tiếng

- Các huynh đệ tả quân đi theo ta.

Vô số quân Đường quay đầu chạy về hướng cửa phía nam, Khuất Đột Thông đợi một lát rồi hạ lệnh:

- Mở cửa thành, thả cầu treo.

Cửa thành ầm ầm mở ra, chiếc cầu treo cũng chậm rãi buông xuống. Bộ binh quân Đường giơ cao giáo mác xếp thành hàng dày đặc.

Chừng một trăm bước phía ngoài thành bắc, Từ Thế Tích dẫn năm ngàn cung nỏ thủ đã chờ đợi từ lâu. Trong đó hai ngàn trọng cung thủ đứng hàng đầu tiên, cứ hai người thành một nhóm, một ngàn bộ trọng nỏ lạnh lùng chuẩn bị hành động.

Nếu như nói cuộc chiến ở huyện Trường Uyên chẳng qua là để cho Từ Thế Tích xả ra buồn phiền, vẫn không đủ để y trở mình triệt để trong sự việc quân kỷ. Như vậy, quận Tương Thành có giữ được hay không có quan hệ đến tiền đồ của y, quan hệ với địa vị của y trong quân Tùy.

Trong toàn bộ chiến dịch Trung Nguyên, Từ Thế Tích không đảm nhiệm vai trò chủ lực, mà đảm nhiệm sự ràng buộc và kết nối hai bên giữa hai chiến trường chính, tương đương với phần thắt lưng trên cơ thể.

Nói thẳng ra, chính là đội quân hai mươi ngàn người này của Từ Thế Tích, khiến cho quân Tùy sống lại trong bố cục của toàn bộ ván cờ. Lấy việc lùi trước tiến sau, đã có thể giành được quyền chủ động của toàn bộ chiến dịch.

Từ Thế Tích luôn để ý đến động tĩnh của đại quân Lý Hiếu Cung, lúc Khuất Đột Thông dẫn hai mươi ngàn quân tiến về phía tây, y lập tức nhận được tin tức tình báo. Trận này chính là cuộc chiến đối phó với Khuất Đột Thông, trên thực tế là y lấy ám đối minh, y trốn từ một nơi bí mật gần đó còn Khuất Đột Thông ở ngoài chỗ sáng.

Vừa mới bắt đầu y đã chiếm được tiên cơ, chiếm được địa lợi, lúc ẩn lúc hiện dụ dỗ Khuất Đột Thông, lợi dụng nhược điểm lương thực không đầy đủ của Khuất Đột Thông, bày ra một cái bẫy ở huyện Nhữ Nam, cuối cùng là đem vị lão tướng thân từng trải qua trăm trận này dẫn vào cái bẫy đã bố trí sẵn trong một cái thành nhỏ của huyện Nhữ Nam.

Trên thực tế cũng là do Khuất Đột Thông khinh địch. Ở trong quân Đường, lão dần dần đạt được địa vị quân thần, ánh mắt sắc bén, tầm nhìn sâu xa, khiến cho hai thủ lĩnh quân đội là Lý Thế Dân và Lý Hiếu Cung đều nhìn lão với vẻ mặt tôn sùng.

Hơn nữa lão dùng trí đoạt Hổ Lao Quan, không mất một binh một tốt nào đã khiến cho Đại tướng quân Tùy La Sĩ Tín bỏ quan mà đi. Thành tích như vậy cũng khiến cho người như lão có chút lâng lâng.

Trong cuộc chiến ở quận Tương Thành, lão cũng không coi trọng một người có xuất thân từ trại Ngõa Cương như Từ Thế Tích, dùng hai mươi ngàn đấu hai mươi ngàn, lão cho rằng chỉ cần tìm được quân Tùy, không cần phải nghi ngờ, trận này lão tất thắng. Đây rõ ràng là một loại ý nghĩ khinh địch.

Kiêu binh tất bại. Sự khinh địch của Khuất Đột Thông đã khiến cho lão rơi vào cái bẫy mà Từ Thế Tích đã bày ra. Lúc này, trong lòng Từ Thế Tích cũng không tránh khỏi có chút kích động. Nếu y đánh bại, có lẽ có thể bắt sống Khuất Đột Thông, với công lao như vậy, chắc chắn y sẽ vang danh thiên hạ, tiến vào hàng ngũ danh tướng.

Ánh mắt lợi hại của Từ Thế Tích nhìn thẳng vào quân Đường đang ra khỏi thành. Đao thuẫn binh của quân Đường xếp thành hàng năm người, tay cầm cự thuẫn lần lượt ra khỏi thành tạo thành một hàng dài. Đây là đội quân tiên phong, trách nhiệm của chúng là phá tan trận hình cung nỏ của quân Tùy, để kỵ binh ở phía sau có thể đột phá vòng vây xông ra.

Từ Thế Tích cũng phải bội phục kinh nghiệm tác chiến của Khuất Đột Thông, đây chính là biện pháp tốt nhất để đột phá vòng vây. Lấy đao thuẫn binh làm tiên phong, kỵ binh làm trung phong, trường thương binh ở cuối, kết cấu chặt chẽ. Có điều đây không phải là trận hình phá vây nữa rồi, phải là trận hình tiến công mới đúng.

Nhưng Khuất Đột Thông không ngờ là Từ Thế Tích mang đến một loại lợi khí chuyên dùng để đối phó với tấm chắn. Từ Thế Tích cười lạnh một tiếng, thét lên ra lệnh cho thuộc hạ:

- Trọng nỗ năm hàng đứng bắn, chuẩn bị!

Hai ngàn trọng nỗ binh chia làm năm hàng, vẻ mặt lạnh băng, đồng loạt giơ lên một ngàn bộ trọng nỗ. Đầu tên sắt sắc bén nhắm ngay thẳng vào thành lũy đao thuẫn binh của quân Đường. Trong bóng tối, đầu mũi tên tỏa ra hơi thở tử vong.

Đao thuẫn binh của quân Đường đã ra khỏi cầu treo. Còn hơn trăm bước, Từ Thế Tích ra lệnh:

- Bắn!

“Tùng! Tùng Tùng!...” Những tiếng trống vang lên liên hồi, ngay sau đó là hàng loạt âm thanh ken két. Hai trăm mũi thiết tiễn mang theo sức mạnh không gì cản nổi bắn thẳng vào chính diện và hai cánh của quân Đường.

Chỉ nghe thấy hàng loạt tiếng vỡ của những tấm chắn, ngay sau đó là những tiếng kêu thảm thiết của quân Đường. Thiết tiễn bắn thủng tấm chắn, đâm vào thân thể binh lính quân Đường, thậm chí còn xuyên qua thân thể.

Năm người hàng đầu tiên và hơn mười người ở hai bên đều kêu lên thảm thiết trước khi ngã xuống đất. Ngay sau đó là hai trăm mũi thiết tiễn thoát khỏi dây cung, nhanh như chớp lao về phía quân Đường. Lại có hơn chục quân Đường bị bắn gục.

Năm lượt liên tiếp, quân Đường tử thương gần hai trăm người. Bởi vì quân Tùy tiến hành một cách liền mạch, lưu loát, thêm nữa là thời gian quá ngắn nên quân Đường cũng không kịp có phản ứng gì.

Năm hàng thay phiên bắn hoàn tất, nhất thời quân Đường bị dọa đến hồn phi phách tán. Loại thiết tiễn này có khả năng bắn xuyên tấm chắn, xuyên qua xương cốt của cơ thể. Nó sinh ra lực sát thương vô cùng lớn, khiến cho binh sĩ quân Đường hoảng sợ. Bọn chúng vội vàng quay đầu bỏ chạy vào bên trong thành, quan quân ở phía sau liên tục gào thét nhưng cũng không cản được.

Một loạt bắn đổi phiên của quân Tùy lại bắt đầu. Lần này, Từ Thế Tích cho đổi lại thành bắn ba hàng, thiết tiễn dày đặc và mạnh mẽ nhắm thẳng vào cổng thành. Bên trong cổng thành đen nhánh phát ra tiếng kêu rên thảm thiết, thi thể chồng chất, máu tươi sền sệt từ lỗ tò vò chảy ra thành dòng.

Ánh mắt Từ Thế Tích lạnh lùng chăm chú quan sát quân địch đang bị giết chóc, y hạ lệnh:

- Châm lửa!

Hơn mười mũi hỏa tiễn bay lên trời, nhằm vào rãnh nước khô cạn. Huyện Nhữ Nam là thành nhỏ, không có sông đào bảo vệ thành, chỉ đào một cái rãnh cạn phía dưới cầu treo, sâu khoảng hai trượng mang tính tượng trưng.

Lúc này, dưới rãnh cạn đã bị quân Tùy đổ đầy dầu hỏa. Hơn mười hỏa tiễn bắn vào rãnh cạn, ngọn lửa lập tức bốc lên, khói đặc cuồn cuộn, nhanh chóng bốc cháy dữ dội.

Thế lửa bên trong thành Nhữ Nam càng lúc càng lớn, quân Tùy liên tục bắn dầu hỏa vào bên trong thành, thế lửa thiêu đốt quá nhanh, quá mạnh, vượt xa dự liệu của Khuất Đột Thông.

Lão vốn cho rằng phải cần khoảng một canh giờ thì đại hỏa mới có thể nuốt hết huyện thành. Nhưng nhìn tốc độ lan tràn của lửa lúc này, xem ra tối đa là nửa canh giờ, tất cả sẽ chìm trong biển lửa.

Thế lửa chỉ còn cách tiên phong của quân Đường hơn trăm bước. Lửa đỏ thè lưỡi thiêu đốt từng căn nhà dân, thế lửa ngất trời, sóng nhiệt cuồn cuộn thiêu đốt binh sĩ quân Đường, chiến mã hí vang hoảng sợ, kỵ binh phải liều mạng giữ chặt dây cương. Nội tâm toàn bộ binh lính đều sinh ra một loại cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng.

Mồ hôi trên trán Khuất Đột Thông không ngừng rơi xuống, không phải do nóng mà là khẩn trương và lo lắng. Áp lực cực lớn khiến tâm của lão loạn cả lên. Lão tòng quân đã ba mươi năm, chưa từng đối mặt với thảm bại. Sớm đã nghe nói về việc quân Tùy giỏi dùng hỏa công, lão lại thua dưới đại hảo.

Lúc này Khuất Đột Thông đã không còn tin vào khả năng chuyển bại thành thắng. Lão biết toàn quân hiện giờ đã không còn chút sĩ khí nào, bây giờ chỉ còn trông cậy vào khả năng bảo tồn binh lực nhiều hay ít. Khuất Đột Thông phóng ngựa vào dòng quân đội đang chạy trốn, giọng khàn khàn hô to:

- Không nên loạn, ổn định trận hình, mọi người có thề còn mạng!

Uy vọng của Khuất Đột Thông trong quân có thể miễn cưỡng ổn định được trận hình quân Đường. Lúc này, chỗ cửa thành nổi lên một trận náo loạn, mấy ngàn quân đao thuẫn binh tan tác đào thoát vào thành, khiến cho đội hình rối loạn. Khuất Đột Thông giận dữ, xông lên quát mắng:

- Vì sao lại chạy về?

Một gã Thiên tướng vội vã tiến đến, trình lên một mũi thiết tiễn:

- Lão tướng quân, quân Tùy có cung nỏ mạnh, các huynh đệ tử thương thảm trọng!

Khuất Đột Thông cầm lấy mũi thiết tiễn, dưới ánh lửa đỏ, mũi thiết tiễn dường như được bao phủ bởi một lớp máu tươi. Khuất Đột Thông hít vào một hơi khí lạnh, đây phải là cường nỏ thất thạch trở lên mới có khả năng bắn ra mũi tên này, không ngờ quân Tùy lại mang theo loại trọng nỏ như vậy. Lúc này, trong lòng lão cũng hiện lên một loại cảm giác tuyệt vọng. Xem ra, hôm nay lành ít dữ nhiều rồi.

 Chương 818 : Tù nhân dưới trướng (1+2)

- Tướng quân!

Một gã Giáo Úy vội vã chạy tới, sợ hãi hô to:

- Quân Tùy châm lửa vào chiến hào, đại hỏa đã nuốt sống cầu treo!

Khuất Đột Thông giật nảy người, trong lòng hoảng loạn, tay nắm thiết tiễn như vô lực, để mũi tên rơi xuống đất.

Nếu như cầu treo bị thiêu hủy, lửa ở chiến hào không tắt, tất cả bọn họ chắc chắn sẽ chôn thân trong biển lửa. Giờ khắc này, Khuất Đột Thông đã chẳng còn quan tâm đến cái gọi là chiến thuật và kết cấu, có thể chạy ra được bao nhiêu người thì tốt bấy nhiêu.

Lúc này, lão thét lên:

- Kỵ binh xung phong, không cho phép quay đầu lại!

Đao thuẫn binh vội vã lùi ra sau, ba ngàn kỵ binh tiến lên phía trước. Theo tiếng nổ lớn, ba ngàn kỵ binh hò hét, thúc giục chiến mã phóng ra khỏi thành.

Ngoài thành tên bay như mưa, kỵ binh bị bắn đến người lật ngựa ngã, tử thương thảm trọng. Nhưng vì mạng sống, bọn họ vẫn liều lĩnh xung phong về phía trước, muốn mở ra một con đường sống.

Lúc này, Từ Thế Tích biết là đã đến lúc thay đổi chiến thuật, y dứt khoát hạ lệnh:

- Cung nỏ binh lùi về phía sau, kỵ binh giết lên, trường mâu binh rút về!

Kèn lệnh vang lên, tiếng trống giục giã. Mấy ngàn cung nỏ binh vội vã lùi về phía sau. Ba ngàn kỵ binh lập tức xông lên, hai ngàn trường mâu binh điều khiển máy bắn đá yểm trợ hai bên, một bộ phận cung nỗ binh chuyển thành trường mâu binh, chuẩn bị chặn giết quân Đường đột phá vòng vây.

Mặc dù quân Đường trả giá hơn một ngàn kỵ binh đã chạy ra khỏi thành Nhữ Nam, nhưng lúc này, bọn họ đã mất đi cái tâm chiến đấu. Ý muốn tranh đấu hầu như không còn, trong đầu mọi người chỉ có hai chứ: “Giữ mạng!”

Bọn họ đã không có đội ngũ, không có kết cấu, giống như những con ruồi, chi chít nhưng không có người chỉ huy, liều mạng đột phá vòng vây, bỏ chạy tứ tán. Loại dục vọng cầu sinh này sản sinh ra một loại sức mạnh liều mạng, khiến cho quân Tùy cũng không ngăn cản hết.

Từ Thế Tích thấy quân Đường đã hoàn toàn tan vỡ, dùng phương pháp chặn đường tiêu diệt ngược lại lại khiến cho quân mình bị thương một cách không cần thiết. Vừa mới ra lệnh đuổi giết, y lập tức sửa lại mệnh lệnh:

- Rút lui, khai thông đường!

Tiếng kèn tiếp tục vang lên, đây là mệnh lệnh nhường đường. Các tướng sĩ quân Tùy đều vội vã ra lệnh cho binh sĩ mau tránh sang một bên.

Giống như nước sông đang tăng vọt bỗng tìm được chỗ thoát. Quân Đường từ các lỗ hổng thoát ra bỏ chạy toán loạn, ngày một mạnh mẽ. Quân Tùy ở phía sau truy sát, giết cho thi thể nằm đầy mặt đất, người đầu hàng vô số.

Nhưng Từ Thế Tích lại nhìn chằm chằm vào Khuất Đột Thông, y thấy Khuất Đột Thông được hơn trăm binh lính hộ vệ từ mặt bên chạy ra, y vội hét lớn:

- Doanh kỵ binh số một theo ta!

Từ Thế Tích suất lĩnh năm trăm kỵ binh đuổi giết Khuất Đột Thông. Cưỡi ngựa chạy như bay, dần dần đuổi sát Khuất Đột Thông. Kỵ binh quân Tùy ở phía sau không ngừng bắn cung, có thể thấy tùy tùng của Khuất Đột Thông ngày càng ít. Khuất Đột Thông dẫn theo tùy tùng liều mạng chạy trốn đến một khu ruộng lúa mạch hoang vu.

Bỗng nhiên, chiến mã của Khuất Đột Thông bước đúng vào một cái hang chuột đồng, chân ngựa bị bẻ gãy, chiến mã hí lên một tiếng kinh hoàng rồi ngã ra đất, quăng Khuất Đột Thông văng xa đến mấy trượng.

Mà chiến mã thân binh của lão lại không dừng lại, vẫn lao lên hơn chục bước mới dừng lại. Khi bọn chúng quay đầu ngựa lại chạy về phía Khuất Đột thông thì kỵ binh quân Tùy cũng đã chạy tới, trong nháy mắt đã tách rời Khuất Đột Thông khỏi tùy tùng. Sau khi bao vây mười mấy tên thân binh còn sót lại, một trận trường mâu đâm đến, toàn bộ thân binh của Khuất Đột Thông đã bỏ mạng.

Dù sao thì Khuất Đột Thông cũng đã sáu mươi tư tuổi, cú ngã vừa rồi đã khiến cho xương cốt của lão gãy đoạn. Lúc lão giãy dụa muốn đứng dậy, một cây trường sóc đã chỉ thẳng vào yết hầu của lão. Từ Thế Tích lạnh lùng nói:

- Còn dám cử động ta lập tức đâm thủng cổ ngươi!

Khuất Đột Thông thở dài một tiếng, ngửa mặt nằm xuống, trong lòng tràn ngập bi thương. Thiên đạo tuần hoàn, báo ứng thật khó chịu, cuối cùng lão cũng chịu thảm bại trong tay quân Tùy.

Lúc này, lão bỗng nhiên nhớ tới hoàn cảnh lúc trước sau khi đầu hàng Đường Vương, đi chiêu hàng Nghiêu Quân Tố.

Lúc đó lão vừa thương cảm vừa xấu hổ, đứng dưới thành, mặt đầy nước mắt hô to:

- Quân Tố, quân Tùy đã bại, Đường Vương hưng khởi. Đại thế của triều Tùy đã mất, ngươi hãy đầu hàng đi!

Nghiêu Quân Tố đứng trên đầu thành, lạnh lùng nói:

- Chiến mã ngươi đang cưỡi là của Thánh Thượng ban tặng, hiện tại ngươi còn mặt mũi nào cưỡi con ngựa này?

Khuất Đột Thông bi thảm hô to:

- Quân Tố, là ta sức lực đã tận mới đầu hàng!

- Hừ! Sức lực đã tận cũng phải chết vì tổ quốc cũng không làm ch săn cho người Đường. Một ngày nào đó, ngươi sẽ có báo ứng. Trời xanh tự có công đạo!

Khuất Đột Thông thống khổ, nhắm hai mắt lại. Nước mắt khuất nhục trong mắt cuồn cuộn chảy ra. Lão hô to:

- Từ Thế Tích, ngươi giết ta đi!

Nhưng ngoài dự đoán của mọi người, Từ Thế Tích thu lại mã sóc, thản nhiên nói:

- Ta rất muốn giết ngươi, nhưng ta không có cái quyền này. Ngươi đi mà cầu xin Sở Vương Điện hạ tha thứ!

Ngay sau khi an bài ổn thỏa, Từ Thế Tích lập tức phái năm trăm kỵ binh áp giải Khuất Đột Thông, sử dụng tốc độ nhanh nhất đưa đến đại doanh quân Tùy ở huyện Nghi Xương.

Lúc này, chiến dịch Trung Nguyên đã tiến hành được hơn một tháng. Chiến dịch giống như một cái trục tâm, trục tâm vừa chuyển động lập tức ảnh hưởng đến các mặt khác.

Ngoại giao, tình báo, nội chính của song phương tranh đoạt quyền lực đều có thu hoạch. Nhưng theo chiến dịch Trung Nguyên, quân cờ ngoại thương giao tranh kịch liệt, không ngừng thâm nhập, ván cờ của hai bên đã đến thời khắc kịch liệt nhất.

Lúc này, Dương Nguyên Khánh nhận được tin tình báo từ Thái Nguyên chuyển tới, mâu thuẫn nội bộ Thanh Châu cũng trở nên gay gắt, đã trở thành nội chiến. Quân đội của Đậu Kiến Đức và quân đội của Tống Kim Cương chiến đấu kịch liệt tại quận Bắc Hải.

Rõ ràng đây là một tin tình báo thắng lợi. Cứ nhìn Dương Nguyên Khánh tỉ mỉ đi từng nước cờ, đều là những bước then chốt trong chiến dịch Trung Nguyên. Thanh Châu nội chiến đồng nghĩa với việc Đậu Kiến Đức không còn khả năng xâm lấn Hà Bắc, quân Tần Quỳnh ở nhà đã không còn lo lắng.

Lúc này, Dương Nguyên Khánh truyền đạt mệnh lệnh, lệnh cho hai mươi ngàn quân của Tần Quỳnh theo quận Đông nhanh chóng tiến về quận Toánh Xuyên, trở thành cánh phải của Lý Tĩnh.

Hơn nữa, giả như có thêm hai mươi ngàn quân của Từ Thế Tích thì quân đội của Lý Tĩnh đã tăng lên tám mươi ngàn, đã nhiều hơn quân Đường của Lý Hiểu Cung ở Tương Dương, cán cân tiểu ly đã nghiêng về phía quân Tùy.

Đã tiến vào tháng bảy, khí trời đã không còn quá nóng bức, buổi sớm và chiều muộn cũng trở nên mát mẻ, người dân ra khỏi cửa cũng nhiều hơn.

Tuy rằng chiến tranh vẫn chưa kết thúc, nhưng người Trung Nguyên đã sớm trải qua nhiều cuộc chiến tranh rèn luyện, đã không còn sợ hãi chiến tranh, bọn họ vẫn sinh hoạt như trước, sống cuộc sống của mình.

Huyện Nghi Dương là một huyện phía tây quận Hà Nam, cách huyện Trường Uyên chỉ khoảng năm mươi dặm. Muốn đến phía tây quận Hoằng Nông bắt buộc phải đi qua con đường này.

Vị trí thuận lợi này khiến cho thương nghiệp của vùng này tương đối phồn thịnh. Trên quan đạo, người buôn bán qua lại nối liền không dứt.

Lúc này, một đội kỵ binh khoảng năm trăm người của quân Tùy từ phía nam nhanh như chớp chạy tới. Binh sĩ ở phía trước hô to:

- Người phía trước mau tránh ra!

Nhưng người đang đi trên quan đạo đều sợ hãi, vội vàng tránh sang một bên nhường đường. Kỵ binh quân Tùy hăng hái chạy qua, nhằm thẳng hướng đại doanh quân Tùy ở huyện Nghi Xương lao đi, chỉ còn cách đại doanh vài dặm, đã có thể nhìn thấy một cách loáng thoáng.

Đại doanh quân Tùy ở phía bắc huyện Nghi Dương, một dãy hàng rào kiểu quân đội bao trọn một vùng diện tích khoảng tám trăm mẫu. Nơi này chính là chủ doanh của quân Tùy trong chiến dịch Trung Nguyên, cũng là trung tâm chỉ huy của toàn bộ chiến dịch.

Ở trung tâm đại doanh là một mảnh đất rộng khoảng hai trăm mẫu dùng làm giáo trường. Lúc này, trên giáo trường đang có tiếng hô như sấm, mười mấy tên tướng sĩ đang thi đấu so tài cưỡi ngựa bắn cung, mấy chục ngàn binh lính chia ra ngồi xung quanh giáo trường, hò reo cổ vũ tướng lĩnh doanh mình.

Đây là truyền thống của quân Tùy, từ lúc còn ở Phong Châu đã có loại so tài cưỡi ngựa bắn cung này rồi. Toàn thể tướng sĩ, không kể chức vụ cao thấp, từ Tổng quản Dương Nguyên Khánh cho tới binh sĩ phổ thông đều có thể báo danh tham gia thi tài. Trải qua tầng tầng lớp lớp thi đấu chọn lọc, cuối cùng chỉ còn lại hai mươi người tiếp tục thi đấu với nhau.

Đây cũng chính là một hình thức tiêu khiển của binh sĩ. Hầu như mọi người đều tham gia tỷ thí, vì thế tất cả mọi người đều rất quan tâm xem chiến thắng cuối cùng rơi vào nhà nào.

Tuy nhiên hiện tại cũng không phải là cuộc so tài chính thức của quân Tùy, không có đội quân ở phía Đông và đội quân ở Thái Nguyên tham dự, đây chỉ là một cuộc thi tài tiêu khiển của đội quân phía Tây. Mặc dù chỉ như vậy nhưng cũng đủ khơi dậy hứng thú của năm mươi ngàn tướng sĩ quân Tùy, đều chạy tới giáo trường hò hét trợ uy.

Chiến mã bên trong khu vực quy định chạy gấp, người cưỡi ngựa giương cung nạp tên, dây cung được kéo căng như trăng tròn đầy tháng, tên bắn như sao rơi, nhằm thẳng mục tiêu ngoài trăm bước bay tới.

Cuộc thi tài thi hành một loại chế độ chọn lọc khốc liệt. Đầu tiên là bắn người cỏ ở ngoài tám mươi bước, nếu không bắn trúng yết hầu của người cỏ thì lập tức bị loại. Sau đó là bắn cây gỗ ở ngoài trăm bước, bắn không trúng cũng bị loại.

Sau hai đợt sàng lọc liền chỉ còn lại có có bảy tám người. Trong số bảy tám người này, binh sĩ đặc biệt chú ý đến hai người. Một người được quân Tùy xưng là Đệ nhị tiễn, chính là Á tướng Tạ Ánh Đăng. Người còn lại là một tiễn thủ mới, tuổi còn khá trẻ, chính là Giáo úy Tiêu Diên Niên.

Trong quân Tùy, ngoại trừ thiên hạ đệ nhất tiễn Dương Nguyên Khánh ra, những cao thủ có tài bắn cung cũng không ít, như Tô Định Phương, Bùi Hành Nghiễm, Tạ Ánh Đăng, Vương Quân Khuếch, Tần Quỳnh …

Trong số đó, dĩ nhiên là Tạ Ánh Đăng có tài bắn cung cao minh nhất, có thể bắn trúng mục tiêu ngoài trăm bước, được quân Tùy xưng là Đệ nhị tiễn, trình độ cũng gần với Dương Nguyên Khánh.

Lần này, những đại tướng có tài bắn cung cao cường đều không có mặt ở đại doanh, đại bộ phận binh lính đều cho rằng Tạ Ánh Đăng sẽ dễ dàng giành chiến thắng, không ngờ nửa đường lại xuất hiện một Giáo úy trẻ tuổi tên Tiêu Diên Niên, tài bắn cung không thua gì Tạ Ánh Đăng lập tức khơi dậy hứng thú cuồng nhiệt trong binh lính.

Chuyện cổ tích về cô bé lọ lem (*TQ mà sao có cái sự tích này???) thường làm cho người khác cảm thấy hứng thú. Ngoại trừ một số ít người ở ngoài, không ai biết Tiêu Diên Niên chính là nhi tử của Vũ Văn Thành Đô.

Dương Nguyên Khánh cùng hơn chục văn chức quan quân ngồi trên khán đài, hắn phát hiện tài bắn cung của Tiêu Diên Niên qua mỗi lần thi đấu càng thêm tiến bộ liền vừa cười vừa nói với Dương Nguy ở bên cạnh:

- Bàn Tam Lang, chúng ta đánh đố chứ hả?

Dương Nguy gãi đầu, có chút khó xử nói:

- Không phải Tổng quản hạ lệnh cấm đánh cuộc sao?

- Ha ha! Ta nói là đánh đố, không có quan hệ đến đánh cuộc. Ngươi cho rằng Tiêu Diên Niên và Tạ Ánh Đăng, ai sẽ thắng?

Dương Nguy suy nghĩ một chút rồi nói:

- Tuy rằng thoạt nhìn thì tiễn pháp của Tiêu Diên Niên cao minh không kém gì Tạ Ánh Đăng, nhưng kinh nghiệm và khí thế của y còn kém một chút, thuộc hạ cho rằng Tạ Ánh Đăng thắng.

- Vậy được rồi! Ta đánh cuộc Tiêu Diên Niên thắng. Nếu như ta thắng, bình kim ti pháp lang mà cha vợ ngươi cho ngươi thuộc về ta.

Cha vợ của Dương Nguy là Khang Ba Tư, hai năm trước trở về Tát Ma Nhĩ Hãn. Dương Nguy cũng rất ham đánh cuộc, từ nhỏ đã ham đánh cược rồi, y nhất thời hưng phấp đứng lên:

- Tốt! Nếu thuộc hạ thắng, trong hai bình rượu nho Đại Lợi cực phẩm, ngài phải cho ta một lọ.

Dương Nguyên Khánh mỉm cười:

- Một lời đã định!

Trong lúc hai người bọn họ đánh đố, ngoài giáo trường vang lên tiếng hoan hô như sấm dậy. So tài cưỡi ngựa bắn cung đã đến giai đoạn làm nhiều việc cùng lúc. Ngoài trăm bước, ở hai bên trái phải đặt hai cọc gỗ to bằng cổ tay, trong thời gian bảy tiếng trống vang lên, phải cùng lúc bắn ra hai mũi tên về phía mục tiêu.

Tạ Ánh Đăng trèo lên ngựa trước, vừa tiến vào khu xạ kích, tiếng trống nhanh chóng vang lên. “Đông! Đông! Đông…”, từng tiếng trống vang lên một cách gấp gáp. Tạ Ánh Đăng sớm đã rút ra hai mũi tên, đặt lên trên ngón tay. Một mũi tên bay về bên trái, lực bắn rất mạnh.

Nhưng y không đợi xem kết quả, xoay người vừa giương cung vừa lắp tên, vẫn giữ nguyên tốc độ, một mũi tên lại được bắn ra. Lúc tiếng trống cuối cùng vang lên cũng đã bắn xong hai mũi tên, chạy ra khỏi khu tác xạ.

Âm thanh ủng hộ từ hai bên vang lên như sấm, hai mũi tên đều bắn trúng mục tiêu. Ánh mắt Tạ Ánh Đăng nhìn về phía sau, y muốn xem Tiêu Diên Niên biểu diễn thế nào.

Tiêu Diên Niên cắn chặt môi, trong lòng có chút khẩn trương, y thầm hít xâu một hơi, phóng ngựa ra, trong nháy mắt đã lướt qua vạch xuất phát, tiến vào khu xạ kích. Tiếng trống cũng gấp gáp vang lên, y cũng rút ra hai mũi tên, dùng răng cắn chặt một mũi tên. Lúc tiếng trống thứ ba vang lên thì y cũng giương cung bắn ra mũi tên thứ nhất.

Sau đó lập tức chuyển thân sang bên trái, giương cung cài tên. Lúc tiếng trống thứ sau vang lên thì cũng là lúc tên được bắn ra, động tác thuần thục thoải mái, như nước chảy mây trôi, cũng bắn trúng mục tiêu là hai cây gỗ ở hai bên.

Nhất thời, binh sĩ ở hai bên nổi lên tiếng hoan hô như sấm, ngay cả Tạ Ánh Đăng cũng phải thốt lên cảm thán:

- Đẹp!

Dương Nguy thở dài một tiếng:

- Hiện tại đúng là hậu sinh khả úy, so với chúng ta năm đó thì mạnh hơn nhiều. Cái tên Tiêu Diên Niên này rất có phong thái của phụ thân y là Vũ Văn Thành Đô. Còn có nhi tử Tần Quỳnh là Hoài Ngọc cũng là một tướng môn hổ tử (con hổ nhà tướng). Chỉ mới mười lăm tuổi mà võ nghệ không thua gì cha nó, ngay cả ta cũng bại trên tay nó.

Trưởng tử của Tần Quỳnh là Tần Hoài Ngọc được chân truyền của phụ thân, võ nghệ cao cường, năm nay mới mười lăm tuổi. Mới năm ngoái đã một lòng theo cha nhập ngũ tòng quân.

Nhưng từ lâu Dương Nguyên Khánh đã sửa chưa lại luật pháp, qua mười sau tuổi mới được phép tòng quân, hiện tại y đang ở Sùng Văn Quán Thái Nguyên học tập binh pháp, cũng là một tiểu tướng thiếu niên văn võ song toàn.

Dương Nguyên Khánh cười đắc ý:

- Còn lần đấu cuối cùng, bắn chuông vàng, nếu Tiêu Diên Niên và Tạ Ánh Đăng vẫn bình thủ, mà Tiêu Diên Niên mới có mười bảy tuổi, trong khi Tạ Ánh Đăng đã hai mươi tám tuổi, dưới tình huống này, hẳn là thắng lợi thuộc về Tiêu Diên Niên. Lúc đó, bình kim ti pháp lang thuộc về ta.

Lúc này Dương Nguy mới có phản ứng, y oán hận nói:

- Dù sao người chế định quy tắc là ngươi. Cứ coi như Tạ Ánh Đăng thắng, đến lúc đó ngươi lại bổ sung một quy tắc, Đô Úy trở lên không tính, vậy thì người thắng là Tiêu Diên Niên. Đánh đổ với ngươi, ta thật đúng là chiếm đại tiện nghi.

Dương Nguyên Khánh cười ha hả, vỗ vỗ bờ vai y:

- Ta còn chưa đến mức vô lý như vậy.

Lúc này, một binh sĩ chạy vội tới, ghé tai Dương Nguyên Khánh nói nhỏ vài câu. Dương Nguyên Khánh ngẩn ra, ánh mắt lộ rõ vẻ vui mừng:

- Người đang ở nơi nào?

- Hiện đang ở phó trướng trung quân.

Dương Nguyên Khánh không kìm được hưng phấn trong lòng, không còn lòng dạ nào tiếp tục theo dõi cuộc so tài cưỡi ngựa bắn cung, lập tức đứng dậy đi về hướng phó trướng trung quân.

Tạ Tư Lễ ở bên cạnh chẳng hiểu chuyện gì, y thấy Dương Nguyên Khánh biểu hiện khác thường, vội vã đứng dậy đi theo.

- Điện hạ! Đã xảy ra chuyện gì?

- Từ Thế Tích lập cho ta một đại công, đánh bại toàn bộ hai mươi ngàn quân của Khuất Đột Thông ở quận Tương Thành, bắt sống Khuất Đột Thông.

Tạ Tư Lễ giật mình, cũng trở nên hưng phấn dị thường:

- Nói như vậy, thời cơ quyết chiến ở đông tuyến đã chín muồi.

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Hiện tại chỉ chờ quân đội của Tần Quỳnh đến thôi.

Hai ngươi vừa nói vừa bước nhanh về phía lều lớn.

Trong lều phó trung quân, hơn mười thân vệ dùng ánh mắt lạnh lùng nghiêm nghị chăm chú nhìn Khuất Đột Thông đang ngồi trên giường. Dây thừng trên chân Khuất Đột Thông đã được cởi bỏ.

Nhưng hai tay vẫn bị trói ra sau lưng, mắt bị bịt vải đen. Lão đang từ từ hoạt động đôi chân đã tê rân vì bị trói.

Lúc này trong lòng lão cũng đã trở nên bình tĩnh. Lão biết thân mình đã ở dưới đất, không sợ cũng không lo lắng. Lão nhìn sinh tử bằng ánh mắt lãnh đạm. Lão đã ngoài sáu mươi tuổi, có chết cũng xem như thọ rồi.

Lúc này, phía ngoài lều vang lên tiếng bước chân vội vã. Mành trướng được vén lên, hơn mười thị vệ vây quanh Dương Nguyên Khánh từ bên ngoài đi vào.

Dương Nguyên Khánh liếc mắt nhìn thấy Khuất Đột Thông đang ngồi trên giường. Hắn và Khuất Đột Thông vô cùng quen thuộc, năm đó bình định loạn Hán Vương, tổ phụ Dương Tố chính là chủ soái, Khuất Đột Thông chính là đại tướng dưới trướng.

Sau này hắn tự lập ở Phong Châu, Dương Quảng liền phái Khuất Đột Thông suất lĩnh năm mươi ngàn quân tiến về quận Quan Bắc chế trụ hắn.

Dương Nguyên Khánh yên lặng nhìn Khuất Đột Thông một lát, sau đó lệnh cho thuộc hạ:

- Cởi dây trói và vải bịt mắt.

Vài tên thân vệ tiến lên cởi bỏ dây trói và miếng vải bịt mắt cho Khuất Đột Thông. Hai mắt Khuất Đột Thông hơi nheo lại, nhẹ nhàng hoạt động cổ tay, không nhìn Dương Nguyên Khánh cũng không nói một lời.

- Khuất Đột Công, chúng ta đã lâu không gặp!

Dương Nguyên Khánh mỉm cười.

Khuất Đột Thông chậm rãi mở mắt, hai mắt dần thích ứng với ánh sáng. Ánh mắt lợi hại nhìn Dương Nguyên Khánh, cười lạnh nói:

- Hóa ra là Dương Tổng quản, đúng là đã lâu chúng ta không gặp nhau.

Dương Nguyên Khánh cũng không lảng tránh ánh mắt của lão, thản nhiên nói:

- Hiện tại Khuất Đột Công là tù nhân dưới trướng ta. Hiện tại ngươi dự định thế nào?

- Muốn giết cứ giết. Muốn lăng trì cứ lăng trì, ta quyết không nhăn mặt.

Dương Nguyên Khánh trầm tư mộ chút rồi nói:

- Được rồi! Ta cho ngươi hai con đường, ngươi tự chọn lấy.

Hai nước Tùy Đường vốn chung một mạch, đối với đại thần bị bắt của hai bên cũng tương đối rộng lượng, chỉ cần không phải đã từng phục vụ cho các thế lực nổi loạn, hoặc là loại nghịch tặc như Vũ Văn Hóa Cập, Vương Thế Sung, thanh danh vấy bẩn, bình thường cũng sẽ trọng dụng.

Đối với danh tướng có kinh nghiệm phong phú như Khuất Đột Thông, Dương Nguyên Khánh đầu tiên là tận lực mượn sức, cho dù là không thể lưu lại trong quân thì cũng có thể đặt ở quốc tử học giảng dạy học sinh, bồi dưỡng trù bị nhân tài.

Dương Nguyên Khánh nhìn chăm chú vào lão, chậm rãi nói:

- Con đường thứ nhất, ngươi vốn là tướng Tùy, do hoàn cảnh bắt buộc mà phải hàng Đường. Ta không so đo ngươi đi con đường quanh co, nếu như ngươi khẳng định về Tùy, ta sẽ tiếp tục trọng dụng ngươi.

Khuất Đột Thông thở dài một tiếng:

- Ta bỏ Tùy hàng Đường đã là bất trung. Nếu lại bỏ Đường hàng ngươi, đó là bất nghĩa. Làm người bất trung bất nghĩa, Khuất Đột Thông ta còn mặt mũi nào đi gặp tổ tiên.

 Chương 819 : Ép phải lựa chọn

- Đây không phải là bất trung bất nghĩa mà là ngươi tỉnh ngộ, chỉ có như vậy, tổ tiên ngươi ở trên trời có linh thiêng mới có thể tha thứ cho ngươi.

Khuất Đột Thông cười khổ một tiếng:

- Nam bắc lưỡng triều mười năm lập quốc, tổ tiên lấy gì trách ta?

Lão lại trở nên thâm sâu, nhìn thoáng qua Dương Nguyên Khánh:

- Đường Đế đối với ta không tệ, ta sẽ không phản bội ông ta. Con đường này ngươi không cần nói nữa, nói tiếp con đường thứ hai đi.

Dương Nguyên Khánh thở dài:

- Ta không muốn cho ngươi đi con đường thứ hai. Ta cho ngươi thời gian ba ngày, hay suy nghĩ cho thật kỹ.

Nói xong, Dương Nguyên Khánh phân phó thân binh:

- Không cần trói, chăm sóc Khuất Đột Công cho tốt.

Hắn xoay người đi ra ngoài. Mặc dù Dương Nguyên Khánh biết khả năng thuyết phục Khuất Đột Thông đầu hàng là không lớn, nhưng hắn vẫn muốn làm hết sức mình.

Trở lại lều lớn trung quân, Tạ Tư Lễ tiến lên đón, ân cần hỏi:

- Điện hạ! Y đồng ý quy hàng?

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Y nói Lý Uyên đối với y không tệ, không muốn phản bội, nguyện ý chết làm ma triều Đường. Hừ! Tiên đế đối với y cũng không bạc, vì sao không chết vì Tùy.

- Có thể y nghĩ còn có khả năng trở về Đường, dù sao y là Binh bộ Thượng thư triều Đường. Ty chức cho rằng, nhất định triều Đường sẽ dùng một số tiền lớn để chuộc y về. Chẳng hay Điện hạ…

Tạ Tư Lễ có chút thiên hướng thu lấy tiền chuộc của triều Đường. Y biết Khuất Đột Thông rất quan trọng với triều Đường.

Nhưng với vấn đề này, Dương Nguyên Khánh nói một cách nghiêm túc:

- Nếu như thiên hạ đệ nhất dũng tướng Lý Huyền Bá nằm trong tay ta, ta thà cho y chuộc Lý Huyền Bá cũng tuyệt đối không cho chuộc Khuất Đột Thông. Lý Huyền Bá chẳng qua chỉ là một tên thất phu, nhiều lắm cũng chỉ có thể làm tổn thương trăm người của quân ta, nhưng nếu để cho Khuất Đột Thông trở về sẽ trở thành ác mộng của mấy vạn huynh đệ. Nếu y không hàng, ta đành phải giết.

Tạ Tư Lễ kịp thời im miệng, không dám khuyên Dương Nguyên Khánh dùng Khuất Đột Thông đổi lấy tiền chuộc. Dương Nguyên Khánh đi đến trước sa bàn, lúc này hắn không còn quan tâm Khuất Đột Thông lựa chọn thế nào, điều hắn quan tâm lúc này chính là chiến dịch đông tuyến.

Cuộc chiến ở quận Tương Thành là bước ngoặt của cả chiến dịch. Trận chiến này giành được thắng lợi đồng nghĩa với việc hắn có thể thu lưới.

Dương Nguyên Khánh ngồi vào bàn viết một bức quân lệnh, sau đó đưa cho thân binh ở bên cạnh:

- Dùng phương pháp nhanh nhất, lập tức chuyển cho Lý Trưởng Sử.

Một loại cảm giác bất an bao phủ bầu trời Hoàng cung Trường An. Trên sân rộng của điện Võ Đức, hai gã hoạn quan đi trước dẫn đường. Phía sau hai người bọn họ, bốn gã thị vệ có vóc người cường tráng mang một người ngồi trên kiệu nhanh chóng đi qua mảnh sân rộng, tiến đến phía trước bậc thang của điện Võ Đức.

Lý Kiến Thành ngồi trên kiệu, nhíu mày. Phụ hoàng triệu kiến y nói có việc khẩn cấp. Mặc dù hoạn quan nói cũng không biết là việc gì, nhưng bọn chúng lại biết tâm trạng của Thánh thượng rất kém, khiến cho Lý Kiến Thành có cảm giác bất an. Y mơ hồ đoán được, hẳn là chiến cuộc Trung Nguyên xảy ra tình huống bất lợi.

Đi tới trước bậc thang, thị vệ cẩn thận hạ kiệu xuống:

- Xin Điện hạ cẩn thận!

Lý Kiến Thành đứng dậy, bước nhanh trên các bậc thang, một đường tiến thẳng vào bên trong điện. Một gã hoạn quan tiến đến nghênh đón:

- Mời Điện hạ trực tiếp vào Ngự thư phòng, Thánh Thượng đang chờ Điện hạ.

Lý Kiến Thành thấy bọn thị vệ đều đứng ở xa, y cũng không quay đầu lại, trực tiếp giấu đi giọng nói nghi vấn:

- Đã xảy ra chuyện gì?

Lão hoạn quan tiến lên hai bước, thấp giọng nói:

- Hình như là quận Tương Thành đã xảy ra chuyện gì đó.

Trong lòng Lý Kiến Thành có chút buông lỏng, chỉ cần không phải là quận Tân gặp chuyện không may, y sẽ không khẩn trương như vậy.

Đi tới phía trước Ngự thư phòng, một hoạn quan thay y bẩm báo:

- Khởi bẩm Thánh thượng, Thái tử Điện hạ đã đến.

- Cho nó vào!

Trong phòng truyền ra giọng nói của Lý Uyên, thanh âm vô cùng uể oải. Từ giọng nói có thể thấy sự việc hết sức nghiêm trọng. Lý Kiến Thành hít sâu một hơi, ổn định tâm thần, đi vào bên trong Ngự thư phòng.

Trong phòng, vài tên hoạn quan đang thu dọn những mảnh sứ vỡ bề bộn dưới mặt đất, nước cũng đã được lau khô. Lý Uyên chắp tay say lưng đứng trước cửa sổ, lưng quay về phía cửa chính khiến cho Lý Kiến Thành lại càng hoảng sợ. Phụ hoàng đập vỡ cái chén trà, đã xảy ra sự kiện trọng đại gì?

Trong lòng y dâng lên cảm giác khẩn trương, vội bước nhanh tới thi lễ:

- Nhi thần tham kiến phụ hoàng!

- Các ngươi lui cả ra!

Lý Uyên trầm giọng nói.

Vài tên hoạn quan hoảng hốt lui xuống. Lý Kiến Thành cẩn cẩn thận thận hỏi:

- Phụ hoàng! Ở Trung Nguyên đã xảy ra chuyện gì sao?

Một lát sau, Lý Uyên thở dài một tiếng:

- Vừa nhận được tin, quận Tương Thành thảm bại, hai mươi ngàn quân bị tiêu diệt, Khuất Đột Thông bị bắt.

Lý Kiến Thành giật mình kinh hãi:

- Là quân đội ở tuyến đông sao?

- Là quân Đường ở đông tuyến. Còn chưa nhận được báo cáo của Lý Hiếu Cung, trẫm chỉ nhận được ưng báo của Tần Vương.

- Phụ hoàng, như vậy, quân đội của Hiếu Cung bên kia cũng chỉ có năm mươi ngàn người.

Tâm trạng Lý Uyên hết sức trầm trọng. Kể từ khi Úy Thị thảm bại, Lý Uyên đã ý thức được, quân đội song phương đã tới thời khắc quyết định, bọn họ không thể lại trải qua một lần thất bại nữa.

Nhất định bọn họ phải liên tục thắng lợi sau này mới có thể lấy được thắng lợi cuối cùng ở chiến dịch Trung Nguyên. Nhưng điều mà y chờ đợi là tin tức thắng lợi không đến, ngược lại còn là một tin tức thảm bại. Lúc đó Lý Uyên vô cùng tức giận, đập vỡ chén trà mà y yêu thích nhất.

Sau khi nổi giận là cảm giác mất mát cùng mệt mỏi. Lý Uyên tới trước sa bàn, đưa mắt nhìn quận Toánh Xuyên mà không nói một lời.

Nhưng Lý Kiến Thành vô cùng bất mãn nói:

- Sao y dám tự ý tấn công quận Tương Thành? Phụ hoàng chấp thuận cho y sao?

Người mà Lý Kiến Thánh ám chỉ chính là Lý Hiếu Cung. Đối với việc Lý Hiếu Cung ủng hộ nhị đệ Tần Vương, Lý Kiến Thành vẫn luôn bất mãn. Lần trước huyện Úy Thị thảm bại, y sợ tâm tình của mình ảnh hưởng đến đại cục bèn nhẫn nại không phát ra, không chỉ trích Lý Hiếu Cung

Nhưng lúc này, Lý Hiếu Cung lại làm trái với kế hoạch đã vạch ra, tự ý đánh quận Tương Thành dẫn đến thảm bại. Lần này Lý Kiến Thành đã không khống chế được nội tâm bất mãn của mình.

Lý Uyên lắc đầu:

- Hiện giờ không phải là lúc truy cứu tránh nhiệm. Trẫm tìm con đến, là muốn cùng con thương nghị một chút, bước tiếp theo chúng ta nên làm gì?

Mặc dù người xưa đã nói “không ai hiểu con hơn cha”, nhưng mặt khác, “không ai hiểu cha bằng con”. Lý Kiến Thành hiểu rõ phụ hoàng, vốn là nhị đệ và Lý Hiểu Cung đều đưa ra ý kiến rút quân nhưng phụ hoàng nhất định không chịu mới dẫn đến việc Tương Thành đại bại.

Hiện tại phụ hoàng hối hận, nhưng nếu ra lệnh rút quân lại sợ ảnh hưởng đến thanh danh, nói lên quyết sách lần trước là ngu xuẩn, do đó mới tìm mình đến để mình nói ra chủ ý rút quân, sau đó tuyên bố với đại thần là Thái tử kiên trì muốn rút quân, phụ hoàng không còn cách nào đành phải đồng ý.

Lúc này, Lý Uyên dùng ánh mắt đầy ẩn ý liếc nhìn Lý Kiến Thành, thở dài nói:

- Ai! Nếu lần trước trẫm kiên trì rút quân thì đâu có sự tình này.

Câu nói này khiến cho Lý Kiến Thành sửng sốt. Rõ ràng lần trước phụ hoàng nhất định không chịu rút quân, tại sao bây giờ lại biến thành “Nếu kiên trì rút quân?”

Tâm niệm vừa chuyển, Lý Kiến Thành bỗng nhiên bừng tỉnh, hóa ra là phụ hoàng muốn y thay người gách chịu trách nhiệm thất bại do lần trước không rút quân, nếu không, sự việc trọng đại như vậy, phụ hoàng không triệu nhóm người Tướng quốc lại thương nghị, mà lại tìm mình tới trước tiên làm gì?

Đã hiểu rõ điểm này, Lý Kiến Thành liền biết mình gánh trách nhiệm chỉ là hình thức. Mặc dù trách nhiệm này y cũng không nguyện ý gánh, nhưng thân là Thái tử, y không thể tự làm chủ.

Lý Kiến Thành tỏ ra áy náy nói:

- Phụ hoàng, lần trước nhi thần không nên kiên trì tái chiến. Nhi thần xin phụ hoàng lập tức hạ chỉ rút quân, bảo tồn thực lực.

Ánh mắt Lý Uyên lộ ra một tia tán thưởng. Thái tử hiểu được lý lẽ, thay mình gánh vác trách nhiệm này. Thân là Hoàng đế, dĩ nhiên là y không thể gách chịu bất kỳ trách nhiệm thất bại nào.

Lý Uyên trầm ngâm một chút rồi nói:

- Trẫm lập tức mời họp hôi nghị quân quốc, chính thức thương nghị rút quân, con cũng tham gia đi!

- Nhi thần tuân chỉ. Mặt khác, sự việc Khuất Đột Thượng thư, cũng mong phụ hoàng không nên buông bỏ.

- Cái này trẫm hiểu. Trẫm đã hạ lệnh cho Tần Vương, nói nó không tiếc bất cứ giá nào cũng phải đưa Khuất Đột Thượng thư trở về.

Thời gian ba ngày đã trôi qua. Ngày còn chưa sáng, sắc trời không rõ, khiến cho đại doanh quân Tùy bao phủ bởi một tầng nhàn nhạt màu xanh lá. Điểm mão (điểm danh) đã kết thúc, các Đại tướng dẫn người về doanh, binh lính bắt đầu một ngày huấn luyện. Lúc này, một gã binh lính thủ vệ ở cửa đại doanh vội vã chạy đến trước lều lớn trung quân, nói với thân binh:

- Xin bẩm báo Tổng quản, sứ giả quân Đường ở ngoài cửa doanh cầu kiến.

Y lấy ra một cái danh thiếp giao cho thân binh. Thân binh lập tức vào lều lớn, trong quân trướng, Dương Nguyên Khánh đang phê duyệt tấu chương khẩn cấp mới từ Thái Nguyên đưa tới. Thân binh dừng trước cửa bẩm báo:

- Khởi bẩm Tổng quản, ngoài doanh có sứ giả triều Đường cầu kiến, đã đưa lên danh thiếp.

 Chương 820 : Không dùng cho ta

Thân binh trình danh thiếp lên. Dương Nguyên Khánh nhìn thấy mặt trên viết ‘Đường Phiêu Kỵ Tướng quân, Thiên Sách Phủ Ký thất tham quân Vũ Văn Sĩ Cập’, hóa ra là y. Dương Nguyên Khánh bèn gật đầu:

- Đưa y vào chờ ở thiên trướng.

Trong thiên trướng, Vũ Văn Sĩ Cập chắp tay sau lưng đi qua đi lại, trong lòng y đang vô cùng lo lắng.

Vũ Văn Sĩ Cập nhận lệnh của Tần Vương Lý Thế Dân, đến đại doanh quân Tùy gặp Dương Nguyên Khánh thương lượng việc chuộc Khuất Đột Thông và Sử Đại Nại.

Lý Thế Dân tạo cho y áp lực rất lớn, nói y cần phải thuyết phục Dương Nguyên Khánh thả Khuất Đột Thông và Sử Đại Nại ra, y đồng ý đưa ra điều kiện rất phong phú.

Trong lòng Vũ Văn Sĩ Cập biết rõ Khuất Đột Thông quan trong với Lý Thế Dân nhường nào. Khuất Đột Thông là Binh bộ Thượng thư, là một trong số ít trọng thần của Tần Vương trong triều. Nếu như mất đi Khuất Đột Thông, đối với Lý Thế Dân mà nói, không chỉ tổn thất trên mặt quân sự mà tổn thất trên mặt trận chính trị lại càng to lớn hơn.

Về phần Sử Đại Nại, Lý Thế Dân cũng cần tên đại tướng trung thành và tận tâm này.

Chẳng qua là y làm thế nào mới có thể thuyết phục Dương Nguyên Khánh? Vũ Văn Sĩ Cập không có chút manh mối nào. Dương Nguyên Khánh sẽ đưa ra loại điều kiện gì?

Lúc này, ngoài trướng truyền đến giọng nói của Dương Nguyên Khánh:

- Vũ Văn Tham quân ở trong trướng sao?

- Hồi bẩm Tổng quản, Vũ Văn Tham quân đã chờ lâu rồi.

Dương Nguyên Khánh vén màn trướng lên đi vào. Vũ Văn Sĩ Cập vội vàng đứng dậy thi lễ thật sâu:

- Vũ Văn Sĩ Cập tham kiến Sở Vương điện hạ.

Dương Nguyên Khánh lần đầu tiên thấy Vũ Văn Sĩ Cập vào năm Nhân Thọ thứ tư. Lúc đó hắn từ Phong Châu về kinh trừng phạt ba người con trai của Hạ Nhược Bật. Sau đó đi gặp Thái Tử Dương Chiêu, Vũ Văn Sĩ Cập lúc đó đang ở cùng công chúa Nam Dương.

Mới thoáng đó đã qua mười ba năm, Dương Nguyên Khánh đã gần ba mươi. Vũ Văn Sĩ Cập cũng từ một thiếu niên phong lưu hà phóng, nay đã trở thành một đại thúc trung niên.

Nhất là mối thù dây dưa mười mấy năm nay giữa Dương Nguyên Khánh và gia tộc Vũ Văn, làm hắn cũng không có ấn tượng tốt lắm với Vũ Văn Sĩ Cập.

Tuy nhiên, Vũ Văn Sĩ Cập đã đầu nhập triều Đường. Hôm nay, y là thay mặt Lý Thế Dân mà đến, không có quan hệ gì với bản thân y.

- Vũ Văn Tham quân mời ngồi!

Dương Nguyên Khánh tủm tỉm cười mời Vũ Văn Sĩ Cập ngồi xuống. Hắn cũng ngồi trên một cái ghế, một gã thân binh mang hai chén trà đi vào. Vũ Văn Sĩ Cập vội vàng nhận chén trà, hạ thấp người nói:

- Mong điện hạ không trách tại hạ mạo muội, có thể cho tại hạ gặp Khuất Đột Thượng thư trước một chút được không?

Dương Nguyên Khánh vốn đang muốn cùng y trò chuyện vài câu. Không ngờ Vũ Văn Sĩ Cập lại nóng lòng không dằn được trực tiếp nói tới vấn đề chính.

Thần sắc tươi cười của Dương Nguyên Khánh dần dần biến mất, nâng chén trà lên thản nhiên nói:

- Khuất Đột Thông là tù binh chiến tranh. Giao tình giữa ta và Lý Thế Dân cũng không đến mức tùy ý thả tù binh như vậy đâu!

Vũ Văn Sĩ Cập ngẩn người, trong lòng thầm mắng mình không biết nói chuyện, vội vàng nói:

- Mong điện hạ thứ lỗi cho sự lỗ mãng của tại hạ, tại hạ không nên hấp tấp đưa ra yêu cầu này.

Nói xong y lấy ra một phong thư, hai tay dâng lên cho Dương Nguyên Khánh:

- Đây là do chủ công của tại hạ tự tay viết gửi cho Sở Vương điện hạ, mời điện hạ xem qua.

Dương Nguyên Khánh nhận lấy thư do Lý Thế Dân tự tay viết. Mở ra nhìn một chút, trong thư ngữ khí của Lý Thế Dân rất khiêm tốn. Trước tiên là cảm tạ hắn đã cứu binh sĩ Quan Trung từ trong tay Triều Tiên. Binh sĩ Quan Trung rất mong muốn hai triều Tùy Đường duy trì quan hệ. Tuy trong thời chiến, cũng không vì chiến tranh mà trở thành một phế nhân luân thường đạo lí.

Cuối thư có nhắc tới việc Khuất Đột Thông cùng Sử Đại Nại. Giọng điệu rất thành khẩn nói “Khẩn cầu điện hạ thả cho hai người họ được trở về, để xum vầy cùng gia đình cho trọn đạo làm người.”

Dương Nguyên Khánh xem xong thư. Tiện tay đặt lên bàn, thở dài một hơi nói:

- Ta rất hiểu Tần Vương rất quan tâm che chở đối với thuộc hạ của mình. Quân Tùy cũng là đội quân nhân nghĩa, sẽ không ngược đãi tù bình đâu.

Hắn lập tức ra lệnh nói:

- Dẫn Sử Đại Nại tướng quân tới!

Một gã thân binh vội vã chạy đi. Dương Nguyên Khánh quay qua Vũ Văn Sĩ Cập nói:

- Thật có lỗi, Sử tướng quân tính tình hình như không được tốt lắm, cho nên để để bảo đảm an toàn cho y, chúng ta đành phải hạn chế thân thể của y.

Vũ Văn Sĩ Cập lo lắng chính là Khuất Đột Thông. Môi y thầm giật giật, cố gắng kiềm chế. Đợi đến lúc thấy Sử Đại Nại trước rồi nói tiếp.

Chỉ một lát, vài tên binh sĩ đã dẫn Sử Đại Nại vào. Chỉ thấy Sử Đại Nại trên vai bị thương, sắc mặt rất tiều tụy, hai tay thì bị trói sau lưng.

Sử Đại Nại vừa vào trướng đã muốn mắng to, nhưng liếc mắt thấy được Vũ Văn Sĩ Cập, trong lòng sửng sốt một chút, nhất thời hiểu được. Đây là Tần Vương cho người tới cứu gã, gã rất cảm động, con mắt đỏ lên, nước mắt như muốn trào ra.

Gã hướng Vũ Văn Sĩ Cập quỳ xuống, cao giọng nói:

- Mong Vũ Văn Tham quân chuyển lời cho Tần Vương điện hạ. Sử Đại Nại một lòng trung thành, thà chết không khuất phục.

Vũ Văn Sĩ Cập gật gật đầu nói:

- Ta nhất định sẽ chuyển lời cho điện hạ. Cũng mong Sử tướng quân không nên có những phản kháng không cần thiết. Tần Vương điện hạ nhất định sẽ nghĩ biện pháp cứu ngài ra.

Dương Nguyên Khánh vung tay lên, binh sĩ lập tức dẫn Sử Đại Nại đi. Dương Nguyên Khánh lúc này mới nhàn nhạt cười nói:

- Theo lý mà nói, Tùy Đường trong lúc đình chiến, có thể hiệp nghị trao đổi tù binh. Để cho Vũ Văn Tham quân trực tiếp đưa Sử tướng quân về cũng không có vấn đề gì. Tuy nhiên cứ như vậy, ta cũng không thể ăn nói với các huynh đệ khác. Như vậy đi, nếu Sử Đại Nại đã là quý tộc Đột Quyết, vậy chúng ta cứ dựa theo quy củ của người Đột Quyết mà làm. Quân Đường có thể chuộc gã về.

Vũ Văn Sĩ Cập rất mừng. Chỉ cần Dương Nguyên Khánh chịu đưa ra điều kiện, thì chút nữa nói chuyện về Khuất Đột Thông cũng dễ dàng hơn, nên vội vã hỏi:

- Chẳng hay điện hạ muốn chúng ta dùng cái gì để chuộc y?

Dương Nguyên Khánh suy nghĩ một chút nói:

- Bảng giá chuộc thân của tướng lĩnh Tùy Đường chúng ta cũng không có quy định cụ thể. Nếu có cơ hội thì Binh Bộ hai bên có thể ngồi xuống thống nhất lại quy củ. Hiện tại, Sử Đại Nại nếu đã xuất thân từ Đặc Lặc Đột Quyết. Chúng ta cứ dựa theo quy củ của người Đột Quyết mà làm. Khả Hản chuộc một triệu dê. Diệp Hộ thì chuộc hai trăm ngàn dê. Còn Đặc Lặc thì tám mươi ngàn dê. Nhìn trên sự thành ý của Tần Vương các ngươi, ta cũng sẽ nhường một bước, vậy thì năm mươi ngàn dê để chuộc Sử Đại Nại đi.

Vũ Văn Sĩ Cập trong lòng thầm tính toán. Năm mươi ngàn dê có giá mười vạn lượng bạc. Tần Vương chỉ cấp cho mình một vạn lượng bạc, hiện tại giá đưa ra đã gấp mười lần rồi.

Y trong lòng thâm kêu khổ, cũng không biết làm thế nào đành nói:

- Tại hạ sẽ trở về thương lượng với Tần Vương, sẽ nhanh chóng có một câu trả lời thuyết phục cho điện hạ.

Ngừng một chút, y nói tiếp:

- Điện hạ có thể bàn về việc Khuất Đột lão tướng quân không? Trước tiên, có thể cho tại hạ gặp mặt lão một chút.

Dương Nguyên Khánh thở dài nói:

- Gặp một lần đương nhiên không có vấn đề. Tuy nhiên, lúc trước nghe nói Khuất Đột lão tướng quân lúc bị té xuống, xương sườn đã bị đứt đoạn, đâm vào trong cơ thể. Thương thế rất nặng, không thể di chuyển được. Lão bây giờ vẫn còn ở quận Tương Thành, chỉ sợ trong thời gian ngắn, ngươi cũng không thấy được lão.

Vũ Văn Sĩ Cập kinh hãi nói:

- Điện hạ nói là thương thế Khuất Đột lão tướng quân rất nặng?

Dương Nguyên Khánh gất đầu:

-Ta rất lấy làm tiếc, ta đã đưa phái quân y giỏi nhất đi chữa trị cho lão. Nhưng lão thương thế quá nặng, tuổi tác lại cao, ta cũng đành bất lực. Nhưng ta cam đoan lão vẫn bình yên vô sự.

Vũ Văn Sĩ Cập cảm thấy mình như rơi xuống vực sâu. Nói như vậy nếu như Khuất Đột Thông có chết, cũng là việc bình thường. Nhưng y cũng không biết có nên tin tưởng Dương Nguyên Khánh hay không.

Tuy nhiên, cho dù là không tin thì cũng chả có cách nào, chỉ đành khổ sở nói:

-Vậy được rồi! Tại hạ sẽ trở về bẩm báo lại với Tần Vương. Đợi đến khi Khuất Đột lão tướng quân thương thế tốt hơn thì chúng ta sẽ bàn lại.

Nói đến đây, Vũ Văn Sĩ cập có chút do dự, khom người nói:

- Mặt khác tại hạ cũng có một việc riêng, muốn mong được điện hạ đồng ý.

- Ngươi cứ việc nói, chỉ cần ta có thể làm, ta cũng sẽ không làm khó dễ ngươi.

- Là việc thê nhi của tại hại, nếu điện hạ có thể thả cho bọn họ quay trở về Trường An, Sĩ Cập sẽ vô cùng cảm kích.

Thê tử Vũ Văn Sĩ Cập là công chúa Nam Dương. Nhi tử là Vũ Văn Thiền Sư. Hai người bọn họ vốn tình cảm phu thê rất sâu đậm, nhưng bởi vì cái chết của Dương Quảng nên phu thê bọn họ đã trở mặt thành thù.

Mặc dù như vậy, nhưng Vũ Văn Sĩ Cập vẫn rất yêu thê tử. Cũng mong nhi tử có thể trở về ở bên cạnh mình, gia đình đoàn tụ.

Dương Nguyên Khánh nghe nói là chuyện này, không khỏi nở nụ cười:

- Công chúa Nam Dương và nhi tử ngươi hiện nay đang ở cùng Thái Hậu ở Tấn Dương cung. Ngoại trừ Thái Hậu việc liên quan đến quốc thể, không thể tùy ý xuất cung. Thê nhi người thì hoàn toàn tự do, ngươi có thể cho người đón họ quay về Trường An, ta cũng không ngăn cản.

 Chương 821 : Thua một nước cờ (1)

Vũ Văn Sĩ Cập cúi đầu thật sâu. Y làm sao không muốn đón thê nhi về. Nhưng y cũng biết thê tử sẽ không tha thứ cho mình, cũng sẽ không trở về.

Nghĩ đến quãng thời gian lúc trước hai phu thê ân ái mặn nồng. Hiện tại thì ly tán cùng thê tử, mỗi người một phương. Cuộc đời này không biết còn có thể gặp lại hay không.Trong lòng y cảm thấy cực kỳ bi thương, con mắt cũng đỏ lên, nước mắt cũng chảy ra.

Dương Nguyên Khanh vốn bởi vì phụ thân Vũ Văn Thuận của y mà đối với y không có bao nhiêu hảo cảm. Hiện tại, thấy y đúng trước mặt mình rơi lệ, trong lòng hắn cũng cảm thấy có vài phần thương hại.

Âm thầm thở dài một hơi, Dương Nguyên Khánh liền vỗ vỗ vài y, chân thành nói:

- Ngươi cứ tìm một cớ đi Thái Nguyên một chuyến. Chẳng hạn như bàn về việc quy củ chuộc thân này nọ. Rồi từ từ khuyên nhủ cô ấy, Ta cũng hy vọng phu thê các ngươi gương vỡ lại lành, phụ tử đoàn tụ.

Vũ Văn Sĩ Cập lau nước mắt, gật đầu, thanh âm có chút nghẹn ngào nói:

- Đạ ta điện hạ đã quan tâm. Sĩ Cập xin cáo từ trước.

Y đứng lên thi lễ thật sâu. Dương Nguyên Khánh liền cho thân binh đưa y ra khỏi doanh trại.

Đến khi Vũ Văn Sĩ Cập rời đi, trời cũng đã sáng. Dương Nguyên Khánh lại quay trở về đại tướng trung quân. Đứng trước sa bàn trầm tư chốc lát rồi phân phó thân binh.

- Đi đưa Tạ Thị lang đến đây.

Chỉ chốc lát, Tạ Tư Lễ vội vã tới, khom người thi lễ:

- Điện hạ có gì phân phó!

- Thời gian ba ngày đã qua. Ngươi đi hỏi Khuất Đột Thông lão đã suy xét như thế nào rồi?

-Ty chức ngày hôm qua đã qua hỏi lão, lão nói không có gì phải suy xét hết.

- Hừ..!

Dương Nguyên Khánh hừ lạnh một tiếng nói:

- Ngươi hỏi lão lại lần nữa, cho lão một cơ hội cuối cùng.

- Ty chức đã rõ!

Tạ Tư Lễ xoay người rời đi. Dương Nguyên Khanh chắp tay để sau lưng đi đi lại lại trong phòng. Hắn đương nhiên biết Lý Thế Dân phái Vũ Văn Sĩ Cập đến đây không phải vì Sử Đại Nại mà là vì Khuất Đột Thông.

Nhưng làm sao mà hắn có thể đem Khuất Đột Thông giao cho Lý Thế Dân được. Dùng cái gì để trao đổi cũng không có khả năng, một khi hắn bị tiền bạc đánh động, tương lai người sẽ đem binh đánh vào Thái Nguyên, rất có khả năng chính là Khuất Đột Thông. Con người này hoặc là sử dụng cho mình, hoặc là chết, không có con đường thứ ba.

Qua một hồi lâu, Tạ Tư Lễ mới vội vàng trở lại, thở dài một hơi:

- Điện hạ, ty chức đã nói hết lời nhưng lão chỉ nói một câu.

- Nói cái gì?

- Lão nói, chỉ mong điện hạ cho lão được toàn thây.

Những lời này khiến thân thể Dương Nguyên Khanh hơi run lên một chút. Sau một lúc, Dương Nguyên Khanh cuối cùng cũng thở dài một hơi. Đây là ý trời, hắn cũng không thể làm trái.

Dương Nguyên Khanh từ trong hộc bàn lấy ra một bình ngọc màu hồng. Đưa cho Tạ Tư Lễ nói:

- Đây là chất kịch độc ‘Mạt mạt mộc’ của người Túc Đặc, vào miệng sẽ chết ngay. Rồi nói với lão cứ an tâm, ta sẽ đưa lão hậu táng ở Bắc Mang sơn!

Bên trong trướng vải, Khuất Đột Thông đầu tóc rối tung, hướng về phía Tây Bắc dập đầu ba cái rồi ngồi xuống khoanh chân lại. Lão đã tắm rửa sạch sẽ, thay một bộ quần áo màu trắng sạch sẽ.

Tổ phụ của lão là người Khương ở Hà Tây. Mặc dù bản thân lão không sống ở Hà Tây. Nhưng lão biết quy củ của tổ tiên truyền lại, phải mặc đồ trắng, không được đem theo bất cứ vật gì khác.

Trên bàn trước mắt lão có đặt một chén rượu, hai bên trái phải có đặt bình ngọc đỏ tươi như máu, cao khoảng một tấc. Khất Đột Thông đưa chén rượu lên ngửi ngửi, nở nụ cười nói:

- Đây là rượu nho tốt nhất của Sở Vương điện hạ sao?

Một gã thân binh ở bên cạnh nói:

- Đây là rượu nho cực phẩm của chủ công ta. Thiên hạ này chỉ có hai bình, ngài biết Khuất Đột công rất thích rượu, cho nên đặc biệt đưa tới cho ngài một lọ.

Khuất Đột Thông đưa bát rượu lên thật cao, híp mắt lại khen:

- Rượu ngon,rượu ngon! Được uống thử rượu này, có chết cũng không tiếc. Đa tạ Sở Vương.

Lão uống rượu ừng ực, muốn dùng rượu tẩy đi hết những dơ bẩn trong cơ thể.

- Thật sảng khoái!

Khuất Đột Thông cầm bát rượu nằm ngổn ngang trên bàn. Đưa t lấy bình ngọc mở nắp ra, lão đưa mắt nhìn dịch thể sền sệt màu xanh đậm, bỗng nhiên ngửa đầu thở đài một tiếng:

- Ta Khuất Đột Thông đã sai lầm một lần, sẽ không có khả năng sai lầm thêm lần nữa.

Lão cầm chất độc trong bình uống cạn một hơi “Lạch cạch” cái bình rơi xuống đất, Khuất Đột Thông tự sát mà chết.

Trận chiến quận Tương Thanh gây nên ảnh hưởng rất nặng. Nó tuy chỉ là một địa phương nhỏ trong cuộc đọ sức trên bàn cờ nhưng nó cũng rất trọng yếu, nó là mấu chốt trong cuộc chiến khiến toàn bộ quân Đương bị rơi vào thế bị động. Khuất Đột Thông bị bắt khiến dân chúng Đường triều chấn động, cũng khiến cho cao tầng Đường triều ý thức được cuộc chiến Trung Nguyên đã rơi vào tình thế bất lợi.

Hai ngày sau khi Khuất Đột Thông bị bắt, hoàng đế Đại Đường Lý Uyên chính thức hạ thánh chỉ, lệnh cho quân Đương toàn bộ rút khỏi Trung Nguyên.

Nhưng đây là thời Tùy mạt một nghìn bốn trăm năm trước, cho dù có chim ưng truyền tin khẩn cấp, nhưng những quyết định quan trọng truyến đến, cần phải do người truyền tin đưa đến.

Nếu không thấy được thánh chỉ có đóng đại ấn, bất kể là Lý Thế Dân hay Lý Hiểu Cung, cũng không dám nhận trách nhiệm trọng đại là rời bỏ Trung Nguyên.

Thánh chỉ từ Trường An đưa ra, đi với tốc độ nhanh nhất đến huyện Trường Uyên cũng mất ba ngày. Đến huyện Hứa Xương thì cần năm ngày. Trong khi chờ đợi tin tức đến thì mọi thứ cũng đã phát sinh.

Hai vạn quân Tùy tại đồng bằng Trung Nguyên hăng hái hành quân, dọc theo Dĩnh Thủy đi về hướng Đông Nam.

Cánh quân Tùy này là của Từ Thế Tích tại quận Tương Thành đã đánh bại hai vạn quân Đường của Khuất Đột Thông. Dương Nguyên Khánh hạ lệnh đưa y bố trí vào lộ quân phía Đông của Lý Tĩnh. Đến lúc này, Tần Quỳnh và Từ Thế Tích đều do Lý Tĩnh thống nhất chỉ huy.

Hai vạn quân Từ Thế Tích phụng lệnh Lý Tĩnh len vào giữa quận Toánh Xuyên, quấy nhiễu phía sau Lý Hiếu Cung, cắt đường lui của quân Đường. Đây cùng là một nước cờ cực kỳ trọng yếu.

Dương Nguyên Khánh trước khi xuất binh, đã truyền đạt mệnh lệnh cho Lý Tĩnh chủ yếu là cố hết sức tiêu diệt thật nhiều cánh quân Lý Hiếu Cung. Làm suy yếu binh lực phía Nam của Đường triều, ngăn cả Đượng Triều lại bành trướng ở hướng Đông Nam.

Dĩnh Thủy là một con sông cực kỳ trọng yếu ở Hà Nam cho nên tên quận mới được gọi là quận Dĩnh Xuyên.

Sau khi trải qua nhiều cuộc chiến loạn, một vùng ven sông đã từng giàu có và đông đông đúc trở nên hoang vắng. Các làng mạc thua thớt cũng rất vắng vẻ người ở. Những cánh đồng hoang vu kéo dài đến hướng Đông như bị hòa tan vào cái nóng, phảng phất như biến mất.

Ở đây thuộc trung tâm quận Toánh Xuyên, huyện Phồn Xương cách chủ lực quân Đường ở huyện Toánh Xuyên chừng tám mươi dăm. Quân đội sau hai ngày hành quân gấp gáp có chút mệt mỏi. Tốc độ cũng đã chậm lại.

Lúc này bầu trời âm u bắt đầu rớt lất phất từng giọt mưa phùn, tựa như cái sàng đang sàng qua sàng lại. Từng giọt nhỏ dày đặc rơi xuống trên đầu quân sĩ. Rất lạnh lẽo.

Từ Thế Tích ngồi trên lưng ngựa, che tay lên trán nhìn về hướng xa. Ở phía xa xa, một tòa thành đang đứng sừng sững trong cơn mưa phùn. Đó là thị trấn Phồn Xương.

Thị trấn nơi này rất trọng yếu với Từ Thế Tích. Bọn họ bỏ hết quân nhu lương thảo lại, chỉ mang theo lương khô trong ba ngày, nhẹ nhàng đi nhanh tới.

Mà lính trinh sát đã dò xét rõ. Trong thị trấn Phồn Xướng có khoảng ba vạn thạch lương thực, chỉ có một ngàn người canh giữ. Từ Thế Tích hạ lệnh xuống:

- Hành quân nhanh hơn nữa,chiếm lấy huyện Phồn Xương!

Hai vạn quân Tùy tăng tốc độ hành quân lên. Không lâu sau, đại quân đã đến thị trấn, cửa lớn của thị trấn đã mở sẵn. Huyện lệnh dẫn hơn mười quan viên ở bên ngoài thành chờ, cũng không thấy có một quân lính nào phòng thủ.

Khi Từ Thế Tích còn ở trên chiến mã, Huyện Lệnh đã vội vã cùng tất cả mọi người quỳ xuống:

- Huyện lệnh huyện Phồn Xương Trần Vũ nghênh đón thiên quân của Tùy triều. Khẩn cầu thiên quân lòng mang nhân nghĩa, đối xử tử tế với muôn dân trong huyện.

Lý Hiếu Cung coi trọng việc xây dựng Trung Nguyên. Những quan huyện chủ yếu trong huyện tất nhiên đều thay thành quan viên Đường triều. Bởi vậy, thực tế Trần huyện lệnh là quan nhà Đường.

Tuy nhiên Từ Thế Tích cũng không để ý tới. Y hiện giờ quan tâm tới chính là lương thực. Từ Thế Tích hỏi:

- Quân thủ thành đâu? Lương thực trong thành còn bao nhiêu?

- Hồi bẩm tướng quân, quân thủ thánh thấy thiên quân đã đến, tất cả đã bỏ chạy tứ tán. Toàn bộ lương thục đều được niêm phong cất trong kho, ước chừng khoảng ba vạn thạch.

Từ Thế Tích nghe xong trong lòng buông lỏng xuống, chỉ cần có lương thực thì hết thảy đều không quan trọng. Y xoay người xuống ngựa, nâng Huyện lệnh dậy cười nói:

- Huyện lệnh xin hãy đứng lên. Quân Tùy là đội quân nhân nghĩa. Tuyệt đối không làm phiền dân chúng.

Y lập tức hạ lệnh:

- Ba nghìn quân lập tức vào thành, còn lại đại quân đóng ở bên ngoài thành.

Ba ngìn quân Tùy trùng trùng điệp điệp tiến vào trong thành. Mà một vạn bảy ngàn quân Tùy còn lại thì đóng quân bên ngoài thành. Các bồng trướng được dựng lên sừng sững.

Một hồi lâu sau, có vài tên kỵ binh báo tin đã chạy gấp về hướng Bắc.

Đại doanh quân Tùy đã tiến lên Toánh Xuyên hơn hai mươi dặm. Quân Đường vì thảm bại tại quận Tương Thành, quân lính đã giảm xuống, chỉ còn hơn năm vạn người. Quân Tùy do được quân Tần Quỳnh ở quận Đông Thành tiếp viện, cho nên quân lính đã tăng lên sáu vạn người.

 Chương 821 : Thua một nước cờ (2)

Cứ như vậy, tình thế hai quân Tùy Đường bắt đầu ngịch chuyển. Quân Tùy chiếm ưu thế, hơn nữa bất luận phương diện thể lực, sĩ khí hay kinh nghiệm chiến đầu đều vượt trội hơn so với quân của Lý Hiếu Cung.

Hơn nữa Lý Tĩnh chỉ huy rất có phương pháp. Cán cân thắng lợi đã nghiêng về quân Tùy trong chiến dịch phía đôngTrung Nguyên.

Bên trong doanh trại chủ soái quân Tùy, có một mô hình thành trì làm bằng đất sét, dài rộng khoảng một trượng. Trên đó có đặt một tòa thành làm bằng gỗ. Nếu người tinh mắt sẽ nhận ra được đó là thị trấn Toánh Xuyên thu nhỏ.

Đây là do Lý Tĩnh đặc biệt chỉ dẫn dùng sa bàn để tạo thành mô hình thành trì. Căn cứ vào hai trăm lính trinh sát, thu thập tin tức hoàn chỉnh số liệu thị trấn Toánh Xuyên trong mười ngày mà chế tác thành, nhìn hết sức giống thật, Đây cũng là trợ lực rất lớn cho việc thảo phạt thị trấn Toánh Xuyên.

Xung quanh mô hình thị trấn có hơn mười đại tướng. Lý Tĩnh tay cầm cây gỗ, đang phân tích vị trí của thành trì.

- Trước mắt Lý Hiếu Cung đang cố thủ thị trấn nhưng rất có thể sẽ rút quân về phía. Tạm thời chúng ta tính toán một chút khả năng giành lấy thị trấn khi gã cố thủ.

Lý Tĩnh cầm cây gỗ chỉ vào tường thành, chậm rãi nhìn mọi người nói:

- Huyện Toánh Xuyên là huyện lớn ở Trung Nguyên. Thành trì trải dài khoảng ba mươi dặm, tường thành cao hai trượng năm thước, rất kiên cố. Bên trong thành rộng lớn đủ để chứa được năm vạn binh lính. Dựa theo tình hình thành trì mà nói, thành này rất khó công. Sáu vạn quân của chúng ta, lương thảo đầy đủ, nếu muốn đánh hạ thành có hơn năm vạn quân lính trấn thủ đại thành mà nói gần như không có khả năng.

Lúc này, Tần Quỳnh ở bên cạnh trầm giọng nói:

- Nhưng quân của Lý Hiếu Cung chắc gì sẽ sẵn lòng tử thủ thành trì.

Lý Tĩnh gật đầu:

- Đây cũng chính là vấn đề then chốt. Ta vừa nhận được in tức khẩn cấp của Tổng quản. Triều đình nhà Đường rất có thể sẽ vứt bỏ Trung Nguyên, rút quân về Tương Dương. Nghĩa là trong vòng hai ngày, Lý Hiếu Cung sẽ rút quân về phía Nam. Nhưng nếu chúng ta gấp rút tiến lại gần, trái lại sẽ khiến quân Đường không dám rút quân. Do đó ta nghĩ, chúng ta cần phải lui về huyện Hứa Xương phía Bắc cho Lý Hiếu Cung một cơ hội để lui binh về miền Nam.

Lý Tĩnh nhìn thoái qua mọi người hỏi:

- Ý kiến của mọi người như thế nào?

La Sĩ Tín trầm ngâm một chút nói:

- Ty chức sợ bọn họ rút quân quá nhanh sẽ làm chúng ta không đuổi kịp.

Lý Tĩnh hơi nở nụ cười:

- Vấn đề này ta đã nghĩ đến. Ta đã hạ lệnh cho Từ Thế Tích nhanh chóng chạy tới huyện Phồn Xương, chặt đứt đường lui của quan Đường. Đoán chùng giờ này y đã tới nơi rồi. Sẽ nhanh có tin tức truyền đến thôi.

Tần Quỳnh vui mừng nói:

- Nếu như Từ Thế Tích đã chờ ở phía Nam thì trận chiến này chúng ta sẽ thắng chắc rồi. Ty chức tán thành biện pháp này, trước tiên, chúng ta sẽ lui về huyện Hứa Xương ở phương Bắc cho quân Đường cơ hội lui về Nam.

Lý Tĩnh nhìn những người còn lại nói:

- Còn mọi người có tán thành không?

Lúc mọi người nhao nhao tán thành. Bên ngoài trướng có bình sĩ bẩm báo:

- Khởi bẩm Trưởng sử, Từ tướng quân cho người đưa tin khẩn cấp.

Lý Tĩnh trong lòng run lên nói:

- Nhanh cho bọn họ vào.

Hai gã binh sĩ báo tin đi vào trong đại trướng, quỳ một gối xuống bẩm báo:

- Bẩm báo Trưởng sử, Từ tướng quân đã thống lĩnh hai vạn quân chiếm được huyện Phồn Xương. Bên trong thị trấn cũng có lương thực, nên đặc biệt phái chúng ty chức đến đây báo cho Trưởng sử.

Lý Tĩnh thấy đã đủ điều kiện, liền hạ lệnh nói:

-Truyền mệnh lệnh của ta, đại quân nhổ trại Bắc thượng, đến đóng quân ở huyện Hứa Xương.

Một lúc lâu sau, sáu vạn quân Tùy thu thập doanh trướng, nhổ trại, khởi binh đi hơn ba mươi dặm về huyện Hứa Xương.

Sau khi quân Tùy lui quân về phía bắc được một ngày, sứ giả từ Trường An cũng đã đến huyện Toánh Xuyên mang theo thánh chỉ của Lý Uyên đến, lệnh cho Lý Hiếu Cung lui quân về Tương Dương, vứt bỏ Trung Nguyên.

Lý Hiếu Cung chắp hai tay đứng trên tường thành nhìn về phương Bắc thật lâu. Y biết vì sao quân Tùy lại rời khỏi huyện Hứa Xương. Quân thủ thành ở huyện Phồn Xương trốn về nói cho hắn biết có một cánh quân đã chặt đứt đường lui của y.

Tất nhiên đây là quân Từ Thế Tích từ quận Tương Thành. Trong lòng Lý Hiểu Cung lúc này cũng đau khổ không thôi.

Hơn nửa tháng trước, người cực lực chủ trương rút quân là y, bởi y ý thức được tình hình đã trở nên bất lợi. Nhưng Thánh Thượng lại không chịu rút quân.

Mà ngày hôm nay của nửa tháng sau, khi hắn ý thức việc rút quân sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, Thánh Thượng lại hết lần này đến lần khác đưa ra thánh chỉ hạ lệnh rút quân. Việc này khiến cho Lý Hiếu Cung không biết nên nói cái gì cho phải, chỉ có thể thở dài một hơi.

Hắn nghĩ tới một câu cổ ngữ nói ‘ Mò trăng đáy nước’ . Tình hình hiện nay không phải là như vậy sao? Hiện tại thời cuộc đã phát sinh biến hóa. Quân Tùy đã hoàn thành chiến lược bao vây. Đã không còn khả năng rút quân, chỉ có thể thủ vững thành trì. Quân Tùy không thể công, còn có thể tranh thủ một chút thời gian.

Nhưng thánh chỉ lại vô tình, làm cho hắn không có đường lựa chọn. Lúc này, Trưởng sử Độc Cô Hoài Ân tiến lên nói:

- Điện hạ, chúng ta có thể nói rõ tình huống hiện tại cho Thánh Thượng. Chúng ta hiện tại đang bị quân Tùy bao vậy, tử thủ trong thành mới là biện pháp sáng suốt nhất.

Lý Hiếu Cung thở dài :

- Điều này cũng không phải là thủ dụ của Thành Thượng, mà là quyết định chính thức của triều đình. Bên trên thánh chỉ có con ấn của Nội Sử Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh. Quan trọng hơn, quân sĩ Tần Vương ở phía Tây đã rút lui, chúng ta làm gì còn viện binh.

Lý Hiếu Cung dừng một chút ở hướng Tây, y bỗng nhiên nảy ra một ý niệm. Có phải Lý Thế Dân vì không muốn gánh chịu trách nhiệm cứu viện cho mình, nên mới nhanh chóng lui quân?

Lý Hiếu Cung trong lòng lạnh run một hồi, chậm rãi nói:

- Một ngày đại quân Tần Vương lui về Quan Trung, năm vạn quân chủ lực của Dương Nguyên Khánh từ hướng Tây tới. Khi đó, mười ba vạn đại quan bao vây huyện Toánh Xuyên. Một ngày thành bị phá, chắc chắn toàn quân sẽ bị diệt. Cho dù ta và ngươi có may mắn chạy được về Quan Trung thì làm thế nào có thể giải thích với triều đình đây? Bởi vì kháng chỉ nên dẫn đến việc toàn quân bị diệt!

- Nhưng đi cũng không đúng, đánh cũng không được. Tiến thoái lưỡng nan, chúng ta nên làm gì trong cái tử cục này?

Độc Cô Hoài Ân oán hận nói.

Lý Hiếu Cung cười khổ một tiếng nói:

- Kỳ thực lúc trước Khuất Đột Thông đã dự đoán trước. Lúc trước, lão đã từng nói qua với ta, nếu ta chậm trễ rút quân, quân Đường sẽ rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Tình hình ngày hôm nay đã hoàn toàn bị lão đoán trúng. Lúc đó lão cho ta ba kế sách. Thượng sách là lập tức rút quân, lúc trước là cơ hội duy nhất của chúng ta. Thừa dịp quân Tùy còn chưa hoàn thành bao vây xong, quyết đoán rút quân để bảo toàn thực lực. Nhưng hiện tại thời cơ đã qua đi.

Nói đến đây, trong lòng Lý Hiếu Cung cũng tràn đầy phiền muộn. Thật ra thì do chế độ quyết sách có vấn đề. Người nắm giữ quyết định lại là người không hiểu rõ tình hình thực tế. Mà đại tướng đang chiến đấu lại không có quyền được lựa chọn. Có thể đây là lí do mà Dương Nguyên Khánh phải tự mình xuất chiến.

Vào ban đêm, sau khi lo lắng suy tính một ngày một đêm, Lý Hiếu Cung cuối cùng cũng quyết định rút quân. Vào giờ hợi, cửa thị trấn Toánh Xuyên mở rộng, năm vạn đại quân mang theo đồ quân nhu trùng trùng điệp điệp rút về hướng Nam.

Rút lui còn có thể bảo tồn năm phần binh lực, còn cố thủ cuối cùng sẽ bị diệt toàn quân. Quan trọng hơn là, cho dù rút quân thất bại cũng là do quyết định sai lầm của triều đình, mà không phải do Lý Hiếu Cung hắn tác chiến bất lực.

Vào thời khắc Lý Hiếu Cung rút lui khỏi huyện Toánh Xuyên, trinh sát quân Tùy cũng lập tức báo cáo tình hình tới huyện Hứa Xương. Lý Tĩnh lập tức suất lĩnh sáu vạn đại quân đuổi theo một đường.

Quân lính đã vào trong huyện Phồn Xương, chỉ còn cách thị trấn khoảng hai mươi dặm. Vào lúc nửa đêm, trên con đường phía nam Toánh Xuyên tối thui một mảnh. Trăng sao đều bị tầng mây che khuất, tầng tầng lớp lớp mây bao phủ phía trên tựa như một cái lồng hấp khiến cho hơi nóng trên mặt đất không có cách nào tản ra, khiến khí trời rất nóng bức.

Không có lấy một cơn gió, không khí ngưng trọng tựa như trước khi bão tố đến. Đột nhiên, có một tia sáng vạch ngang các tầng mây, tia chớp khiến cả bình nguyên cùng rừng rậm chấn động.

Khi tia chớp sáng lên trong chớp mắt, cả con đường trở nên sáng như tuyết. Chỉ thấy trên con đường tập trung đầy những quân lính. Một chiếc xe ngựa chứa đầy lương thực cùng với những đồ quân dụng đang khó khăn đi về hướng Nam.

Hai bên xe ngựa có một hàng người binh sĩ đi theo. Đại đa số là bộ binh, trong đó cũng có xen lẫn kỵ binh ở giữa. Tia chớp chói mắt khiến một đám súc vật kinh hoảng nhao nhao lồng lên, chạy loạn lên khắp nơi, khiến cho đội ngũ loạn lên.

Lý Hiếu Cung ở trong trung tâm đội ngũ. Y thỉnh thoảng nhìn lên bầu trời đêm, thấy bão tố gần sắp nổi lên khiến trong lòng y nặng trịch. Y cảm thấy đây là điềm báo về việc lui về Nam của y sẽ gian nan nguy hiểm.

Lúc này, Độc Cô Hoài Ân cưỡi ngựa đuổi theo gọi

- Điện hạ!

Lý Hiếu Cung giảm tốc độ lại. Y rất tôn trọng Độc Cô Hoài Ân. Không phải chỉ bởi vì Độc Cô Hoài Ân thân phận cao quý, gã là cháu của Độc Cô hoàng hậu Đại Tùy, cũng là Công Bộ Thượng Thư của Đại Đường, quyền cao chức trọng.

 Chương 822 : Truy kích trong đêm .

Quan trọng hơn, Độc Cô Hoài Ân là con trai trưởng của Độc Cô gia tộc. Đằng sau gã là Độc Cô gia tộc lớn mạnh. Gã một trong những người đại biểu cho lợi ích của Độc Cô gia tộc. Với thân phận đệ nhị quý tộc Quan Lũng, Độc Cô Hoài Ân cũng đủ để được hoàng tộc Lý thị tôn trọng.

- Điện hạ, nếu cứ như vậy hành quân tiếp, sợ rằng sẽ không ổn!

Độc Cô Hoài Ân lo lắng nói.

Lý Hiếu Cung quay đầu nhìn lại phía sau. Đúng lúc một tia chớp xẹt phía chân trời, y thấy rõ ràng hàng ngũ kéo dài hơn mười dặm. Nếu như lúc này quân Tùy từ phía sau đuổi theo thì quân sĩ phía sau sẽ lập tức tan tác.

Lý Hiếu Cũng cũng ý thức được sự nguy hiểm, y nhìn xung quanh đánh giá. Cách đó chừng ba dặm, có một khoảng không tối đen. Y nhớ rõ đó là một mảnh hắc tùng lâm rộng mấy trăm mẫu.

- Truyền lệnh của ta, binh sĩ tất cả vào Hắc Tùng lâm trú mưa.

Tất cả đội ngũ ly khai đường lớn đi vào vùng quê trống trải. Binh sĩ vội vàng chạy bên trong cánh đồng bát ngát, chạy về hướng Hắc Tùng lâm. Nhưng những chiếc xe quân nhu lại khó có thể di chuyển ở nơi hoang dã. Các xa phu ra sức điều khiển, khiến cánh đồng bát ngát loạn thành một đoàn.

Lúc này, từng giọt mưa lớn rơi lộp độp xuống. Cơn mưa to cuối cùng cũng đã tới. Cơn mưa trắng xóa bao phủ khắp nơi, bên trong không khí tràn ngập mùi tanh của bùn đất.

Đám binh sĩ quát lên một tiếng rồi chạy về hướng tùng lâm. Ngay cả phu xe cũng xuống xe ngựa, dùng vải dầu phủ sơ thùng xe lại, rồi bỏ lại xe ngựa chạy vào tùng lâm.

Mưa càng ngày càng lớn, trời đất cũng một mảnh mờ mịt, mười bước xung quanh mình đều không thấy gì. Năm vạn quân Đường chen chúc tại mấy trăm mẫu rừng rậm, trong lòng bất an chờ đợi mưa tạnh. Tùng lâm giống hệt một nơi trú mưa tự nhiên. Tuy lâu lâu cũng có nước mưa rơi trúng, nhưng đỡ hơn bên ngoài rất nhiều.

Lý Hiếu Cung ngồi trên một tảng đá lớn. Y mặc dù sắc mặt rất bình tĩnh, nhưng trong mắt thỉnh thoảng lại hiện lên một tia bất an. Nhưng thực sự trong lòng hắn lại đang tính xem vị trí của quân Tùy vào lúc này.

Quân Tùy tuy ở huyện Toánh Xuyên cách đây hơn năm mươi dặm.Từ đó đến nơi này khoảng một trăm ba mươi dặm. Tuy tin tức của quân Tùy có chậm chạp đi nữa nhưng bọn chúng là khinh binh, truy đuổi một ngày một đên cũng được hơn một trăm dặm. Nói vậy, truy binh quân Tùy hẳn cách bọn họ rất gần, xa nhất cũng chỉ khoảng ba mươi dặm.

Đúng lúc này, trong cơn mua to quay trở về hai gã trinh sát. Mưa to khiến bọn họ trở nên ướt sũng. Bọn họ được dẫn đến bên cạnh Lý Hiểu Cung, quỳ một gối xuống bẩm báo:

-Bẩm điện hạ, quân Tùy chủ lực không đem theo quân nhu, khinh binh đuổi theo. Hiện tại… đang trong rừng rậm cách đây khoảng hơn hai mươi dặm.

Lý Hiếu Cung nghe xong cả kinh, nếu như mưa ngừng lại. Quân Tùy không phải đã đuổi kịp mình rồi sao? Y không dám ngồi nữa, đứng dậy đưa ra lệnh nói:

- Nhanh chóng truyền mệnh lệnh của ta, toàn bộ toàn bộ thiên tướng trở lên nhanh chóng tập trung lại đây.

….

Tình báo của quân Đường quả thực rất chính xác. Chủ lực quân Tùy đúng là đang ở trong rừng cách nơi đây hơn hai mươi dặm. Trước mắt gần sắp đuổi kịp quân Đường, nhưng đột nhiên trời lại đổ mưa xối xả làm cho bọn hắn phải dừng lại. Hơn sáu vạn đại quân trốn ở trong một phiến rừng rậm, chỉ chờ mưa ngừng rơi.

Tại một chỗ trống bên trong rừng rậm, có một lều trướng được dựng lên. Lý Tĩnh cùng hơn mười người đại tướng đang thương nghị cuộc chiến sắp tới. Bên trong trướng có một cái sa bàn, bên trên có địa hình của vùng này.

- Hơn hai mươi dặm phía trước có một mảnh hắc tùng lâm.

Lý Tĩnh chỉ vào một mảnh tùng lâm được làm từ lá thông nói:

- Phiến hắc tùng lâm này rộng khoảng ba bốn trăm mẫu. Mưa lớn như vậy, Lý Hiếu Cung cũng không có biện pháp nào khác, chỉ có thể ở trong mảnh tùng lâm này tránh mưa. Xung quanh tùng lâm đều là bình nguyên, rất thích hơp để khai chiến.Ta nghĩ lúc này Lý Hiếu Cung cũng đã phát hiện ra chúng ta. Y nhất định sẽ không tiếp tục đi mà sẽ bày trận ngoài tùng lâm.

Lý Tĩnh liếc mắt nhìn mọi người, trong lòng y có chút hứng phấn không thể kiềm nén:

- Chúng ta đã đấu với nhau hơn một tháng. Trận chiến cuối cùng cũng đã gần đến.

Mọi người nghe xong đều xoa xoa hai tay, trên mặt hiện ra vẻ chờ mong. Bị đè nén hơn một tháng, cuối cùng đại chiến cũng đã đến. Lúc này Tần Quỳnh đột nhiên hỏi:

- Xin hỏi Trưởng Sử, quân của Từ Thế Tích hiện tại đang ở nơi nào?

Lý Tĩnh mỉm cười nói:

-Ta nghĩ, gã nhất định sẽ xuất hiện ở thời khắc quan trọng.

…………..

Mưa rơi tầm tã suốt một đêm, cánh đồng bát ngát cũng đọng lại đầy nước mưa. Trên mặt đường trở nên lầy lội, nếu không chú ý sẽ bị trượt chân. Mấy nghìn đồ quân nhu trên xe ngựa qua một đêm mưa tầm tã cùng mấy con ngựa đã trở nên mệt mỏi. Rất nhiều con bò già đã ngã luôn vào trong đống bùn lầy lội.

Vào lúc này, quân Đường cũng không quan tâm gì tới đồ quân nhu trên xe. Bọn họ bày ra đại trận ở phía trên hướng Bắc hắc tùng lâm, cũng đang chờ cuộc đại chiến sắp tới.

Bầu trời mờ mịt đã ánh lên một tia nắng ban mai trong trẻo. Đây cũng là một ngày mát mẻ nhất từ lúc vào hạ đến này. Trên trời vẫn còn rơi xuống những giọt mưa phùn. Trên đầu những binh sĩ vẫn còn vương đầy nước mưa. Phía trên rừng rậm bao phủ một tầng khói xanh. Giống như một mảnh lụa xanh mỏng phủ lên trên rừng rậm, trông như ẩn như hiện.

Tại một buổi sáng yên tĩnh, một tiếng lại một tiếng trống vang lên “ Tùng … Tùng…Tùng!” đơn điệu mà khô khan. Nhưng mỗi một thanh âm như gõ vào trong lòng của đám binh sĩ, nhắc nhở cho bọn họ cuộc đại chiến đã đến gần.

Lý Hiếu Cung đứng ở một nơi xa. Y mơ hồ đã trống thấy một đại quân đông nghịt hiện ra cách đây vài dặm. Thời khắc này, trong lòng y chợt trở nên bình tĩnh. Y cuối cùng cũng không tránh khỏi một kiếp này. Đây là số trời đã an bài, đã định bọn họ phải cùng quân Tùy đành một trận.

Lý Hiếu Cung hít sâu một hơi. Dũng khí trong người y bắt đầu bùng lên,bất luận là thắng hay thua thì cũng phải tận lực mà chiến đấu. Để bảo vệ danh dự của quân Đường, bản thân y không được chùn bước.

Hắn chậm rãi rút đại đao ra, lớn tiếng hét lên:

- Đây là thời khắc quyết chiến,mọi người hãy cố lấy dũng khí, reo hò một tiếng thắng lợi.

Năm vạn quân Đường vung tay hô lớn, thanh thế xông thẳng lên tầng trời. Lý Hiếu Cung cưỡi ngựa chạy nhanh, đưa đại đao lên lần nữa hô to:

- Thắng lợi!

- Thắng lợi!

Một tiếng hét lên khiến cho toàn bộ quân Đường bắt đầu phấn chấn trở lại. Trường mâu đưa lên cao, chiến đao rút khỏi vỏ, sĩ khí tăng vọt…

Lý Tĩnh dẫn sáu vạn quân Tùy, dừng lại cách quân Đường khoảng hai dặm. Gã cũng không có hô to khẩu hiệu, mà yên lặng quan sát trận hình và binh chủng của quân Đường. Quân Tùy cũng giống như quân Đường, một trận mưa to cũng đã làm cho cung nỏ đều mất đi sức sát thương . Binh sĩ bắn cung cũng biến thành binh sĩ dùng mâu, đứng bên trái trận.

Mà chính diện lại có khoảng một vạn năm nghìn kỵ binh, chỉnh tề thành thạo xếp thành ba trận hình. Bên phải còn lại là binh sĩ dùng đao thuẫn, khoảng chừng một vạn người. Còn có mấy nghìn quân trinh sát trải đều bốn phía.

Quân Đường với Quân Tùy trang bị tương tự nhau. Giáp trụ cùng binh khí cũng giống nhau, bất đồng duy nhất là kỵ binh của quân Tùy hơn đối phương một vạn người. Trong đó còn có ba nghìn trọng giáp kỵ binh. Đây là do Dương Nguyên Khánh đích thân sắp đặt. Bộ binh trọng giáp ở hướng tây, còn kỵ binh trọng giáp được đặt tại hướng đông.

- Tần tướng quân ở đâu?

Lý Tĩnh quát lớn một tiếng nói.

Tần Quỳnh tiến lên khom người thi lễ:

- Có mạt tướng!

- Ta bổ nhiệm ngươi làm Chủ tướng hữu quân, suất lĩnh năm nghìn kỵ binh đánh với đao thuẫn binh. Không được nóng lòng xung phong liều mạng. Đợi sau khi trung quân chiến đấu kịch liệt mới bắt đầu tấn công quân địch.

- Mạt tướng tuân lệnh!

Lý Tĩnh nhìn thoáng qua La Sĩ Tín, quát lớn lệnh nói:

- Tướng quân La Sĩ Tín ở đâu?

- Có mạt tướng!

Lã Sĩ Tín bước ra khỏi hàng, thanh âm dõng dạc nói.

- Ta cho người một vạn năm nghìn trường mâu binh ở cánh trái, cũng đánh với trường mâu binh của quân địch. Cũng giống như cánh quân bên phải, không được nóng lòng tác chiến. Đợi đến sau khi trung quân đã chiến đấu kịch liệt mới phát động tấn công.

- Tuân lệnh!

Lý Tĩnh nhất nhất an bài mọi tướng lĩnh, sau cùng gã mới nhìn thật sau vào trận doanh của phe đối phương, lớn tiếng quát:

- Nổi trống, trọng kỵ binh ra trận!

- Tùng! Tùng! Tùng! Tùng!

Hơn năm trăm mặt trống lớn đồng thời vang lên. Tiếng trống long trời lở đất, khiến cho trời đất cũng phải biến sắc. Kỵ binh quân Tùy giống như một gợn nước xông ra, tản ra hai bên. Một đạo nhân mã cả người mặc trọng giáp chính là đội ngũ trọng kỵ binh, mỗi người trên tay cầm giáo dài.

Tiết Vạn Triệt bất thình lình hét vang lên một tiếng:

- Sát a!!!!!

- Sát a!!!

Bên trong tiếng trống khiến tâm hồn chấn động. Ba nghìn trọng giáp kỵ binh bỗng di chuyển. Tiếng vó ngựa khiến cho mặt đất phải run lên từng đợt. Sát khí của đội kỵ binh tản ra tận trời. Một loại sức mạnh vô địch không gì không phá hướng trung tâm quân Đường mà lao tới.

………..

Lý Hiếu Cung sắc mặt đại biến. Y không ngờ bên trong quân Tùy lại có thể xuất hiện trọng giáp kỵ binh. Y mặc dù có nỏ dùng để đối phó trọng giáp kỵ binh nhưng không có lấy từ trên xe quân nhu ra. Quan trọng hơn, qua một đêm mưa rơi tầm tã, dây cung cũng đã mềm ra, sàng nỏ cũng không thể nào sử dụng.

 Chương 823 : Đột phá đông tuyến (p1)

Lý Hiếu Cung phản ứng cực nhanh,y lập tức hét lên ra lệnh:

- Đẩy binh xa ra ngăn cản!

Trọng giáp kỵ binh tốc độ cũng không nhanh.Bọn họ mạnh ở chỗ sức phá hoại lớn. Quân Đường mang lên mấy trăm binh xa. Nhưng còn chưa kịp mở ra, trọng giáp kỵ binh đã như cơn sóng lớn liều mạng xông đến.

Mặc dù có hơn mười chiến mã mang giáp bị binh xa đánh ngã, nhưng ba nghìn trọng giáp ky binh vẫn mang theo một lực cực mạnh đụng nát bấy binh tướng xa. Ba nghìn trọng giáp kỵ binh chạy vọt vào trong giữa đại trận của quân Đường.

Sau nửa tháng tích lũy thế lực, trận chiến quyết định Trung Nguyên cuối cùng cũng diễn ra tại cánh đồng bát ngát phía bắc huyện Phồn Xương. Cuộc chiến bộc phát sau khi trận mưa rà vừa dừng lại.

Nhìn ba nghìn trọng giáp kỵ binh quân Tùy xông vào trong đại trận quân Đường. Lý Tĩnh chậm rãi nheo mắt lại, bọt nước đang nằm trên hàng lông mày nhíu thành một mảnh, khiến ánh mắt gã trở nên mơ hồ.

Lý Tĩnh cũng không có lau đi bọt nước, lúc này suy nghĩ của hắn đang ở phía nam. Có thể chiến đấu tới đó hay không. Đại quân một đường xuống nam, sát nhập Kinh thành Tương Dương?..

Gã biết quân Đường tại kinh thành Tương Dương nhân số cũng không còn nhiều, trên cơ bản cũng chỉ tương đương gã thôi. Đoán chừng cũng là từ Ba Thục điều quân tới, đây cũng là một dịp tốt.

Lý Tĩnh trong xương tủy cũng rất kiêu ngạo. Nhưng lần này đại chiến Trung Nguyên, gã thục sự bội phục Dương Nguyên Khánh sát đất.

Các chiến lược được an bài trong các chiến dịch đều là thủ đoạn sắp đặt của Dương Nguyên Khánh. Hắn tựa như một cao thủ đánh cờ đã tính toán hết mọi thứ rồi mới di chuyển quân cờ, suy nghĩ toàn cục. Dùng loại mưu kế công khai, từng bước từng bước đưa quân Đường vào tuyệt lộ.

Nhất là việc lợi dụng mâu thuẫn giữa Đậu Kiến Đức cùng Tống Kim Cương, khéo léo dùng kế li gián, gây ra cuộc chiến giữa Đậu, Tống, giải quyết nỗi lo phía Hà Bắc, khiến cho cánh quân của Tần Quỳnh đầu nhập trận chiến Trung Nguyên. Từ đó binh lực của quân Tùy vượt hơn quân Đường, đạt được thắng lợi cuối cùng.

Cùng lúc ở nơi đây cũng đang đồng thời diễn ra cuộc chiến. Dương Nguyên Khánh đưa ra chiến lược Đông công Tây thủ. Đông tuyến tác chiến, Tây tuyến giằng co. Đem tinh binh tập trung lại Đông tuyến, mà ở Tây tuyến chỉ còn lại binh lính yếu hơn.

Chính vì chiến lược như vậy, cho nên Lý Tĩnh suất lĩnh bốn vạn tinh binh, đa phần là các lão binh kinh nghiệm chiến đấu phong phú đã từng đi theo Dương Nguyên Khánh.Tất cả đều là tinh nhuệ của quân Tùy.

Vào mùa xuân, trong trận chiến tấn công Đậu Kiến Đức, bọn họ cũng tham gia chiến đấu. Bọn họ chính là cánh quân đã tiến nhập vào đại doanh của Đậu Kiến Đức. Một lần hành động đã đánh tan quân Đậu Kiến Đức.

Trái ngược với bố cục chiến lược bao quát, phóng khoáng của Dương Nguyên Khánh, bố cục chiến lược của Lý Tĩnh thì biến hóa hơn. Mặc dù bọn họ đã hai lần chiến thắng quân Đường. Nhưng hắn vẫn không có chút nào có ý khinh thường quân Đường

Quân Đường cũng được trang bị rất hoàn mỹ. Có thể bọn họ tác chiến kinh nghiệm kém hơn một chút nhưng cũng chỉ vừa đủ mạnh hơn quân của Lưu Vũ Chu nhưng đem so với quân Tùy thì còn kém xa.

Nhưng bọn họ được huấn luyện rất chỉnh tề, làm cho bọn họ trong trận chiến cao hơn người khác một bậc về khả năng tác chiến. Cho nên đó là lí do vì sao Lý Tĩnh phải sử dụng trọng giáp kỵ binh để làm loạn trận hình của quân Đường.

Lý Tĩnh nhìn chăm chú vào trọng giáp kỵ binh đang xung kích, khi trong giáp kỵ binh binh đụng nát đám binh xa, hắn lập tức quát lên ra lệnh:

- Kỵ binh chuẩn bị!

Cờ chiến vung lên, hai vạn kỵ binh rầm rầm đưa trường mâu lên, động tác rất đều. Thể hiện rất tốt tố chất của một người quân lính tinh nhuệ.

- Xếp thành hàng tấn công!

Hai vạn kỵ binh chia làm một trăm nhóm, mỗi nhóm hai trăm người, chỉ trong giây lát đội ngũ đã chỉnh tề, tựa như đã đo đạc từng li từng tí một. Ngoài trường mâu bên ngoài, bọn họ mỗi người bên hông phải còn đeo năm đoản mâu. Mỗi một đoản mâu nặng khoảng chừng bảy cân, được tinh chế bằng sắt, có thể dùng tay ném mạnh ra xa. Khoảng cách ngoài hai mươi bước có thể đâm thủng quân địch.

Đây là do trong mưa không thể sử dụng cung tiễn, cũng là một loại lợi khí dùng để giết địch từ xa.

Kỵ binh bắt đầu tấn công, hai tay chắp mâu lại phóng ngựa chạy tới, tiếng kêu ầm trời. Trường mâu lợi hại trên tay giơ lên, lóe lên ánh hồng quang.

Cánh quân này có nhiệm vụ tấn công vào trung quân của quân địch. Kỵ binh này là cánh quân tinh nhuệ nhất của quân Tùy. Là đội quân đầu tiên ở Phong Châu, đã chiến đấu nhiều năm với người Đột Quyết. Có kinh nghiệm tác chiến rất phong phú.

Bọn họ được trang bị kỵ cung rất tốt, có tầm sát thương trong trăm bước. Khuyết điểm duy nhất là không để sử dụng trong mưa. Để bù đắp nhược điểm này, mỗi người trong họ đều được trang bị năm đoạn mâu ngắn do tinh cương chế tạo thành, thích hợp dùng phóng trong cự ly ngắn, thứ hai là đao, trường mâu, thuẫn đều được trang bị đầy đủ hết.

Ba nghìn trọng giáp kỵ binh vọt vào trong đại trận quân Đường, trong trận doanh không ngừng chém giết lung tung, không ngừng xé rách trận hình phòng ngự của quân Đường. Giết quân Đường thây rải khắp nơi, kêu rên đầy trời.

Mặc dù Lý Hiếu Cung là lần đầu tiên cùng quân Tùy chiến đấu, cũng là lần đầu tiên cùng trọng giáp kỵ binh giao phong nhưng do kinh nghiệm tác chiến phong phú, nên liếc mắt cũng đã nhìn ra được ưu khuyết của trọng giáp kỵ binh, cũng nhìn ra được ý đồ tác chiến của Lý Tĩnh.

Trọng giáp kỵ binh chủ yếu dùng để tấn công đầu trận tuyến, chống đỡ được cung tiễn. Nhưng hôm nay không có cũng tiễn, khiến bọn họ không thể nào phát huy được ưu thế lớn nhất của bọn họ. Còn nhược điểm của bọn họ là không có khả năng chiến đấu lâu dài. Bọn họ cũng không có khả năng liên tục xung kích bên trong quân lính.Tất nhiên họ cũng không tấn công vào trận địa của địch quá sâu.

Tất nhiên, trọng giáp kỵ binh này cũng chỉ là mồi nhử hấp dẫn sự chú ý của quân Đường. Uy hiếp thật sự của bọn họ là từ phía kỵ binh.

Phía sau hai vạn kỵ binh đã như một trận cuồng phong đánh tới. Lý Hiểu Cung sắc mặt có chút hay đổi. Kỵ binh chạy rất nhanh nhưng vẫn có thể duy trì đội ngũ chỉnh tề. Ngay cả Quan Lũng kỵ binh của quân Đường cũng không bằng.

Hiển nhiên bọn họ phối hợp cực kỳ thành thạo, chặt chẽ kín đáo. Dựa vào điểm này, bọn họ cũng xứng đáng là một kẻ địch mạnh nhất mà y đã từng gặp.

Thứ hai, bọn họ không có sử dụng cung tiễn nhưng mỗi người đều có năm đoạn mâu. Ngoài năm cây đoản mâu, còn có một cây trường mâu. Từ đó có thể đoán ra, đoản mâu của bọn là một loại vũ khí dùng để ném đi cực mạnh. Mặc dù tầm bắn không bằng cung tên, nhưng nếu tiến lại gần mà ném mạnh thì lực sát thương rất kinh người.

Hơn nữa ngựa của bọn họ cao to mạnh khỏe, so với Thanh Hải mã của Hà Lũng còn lợi hại hơn. Đây là từ trong đám ngựa tinh nhuệ của Đột Quyết mà chọn ra. Rõ ràng so với Hà Lũng mã của quân Đường còn trên một bậc.

Từ trên người cánh quân kỵ binh tinh nhuệ này, Lý Hiếu Cung bỗng nhiên hiểu ra được chiến lược của Dương Nguyên Khánh. Chiến lược của Dương Nguyên Khánh đặt trọng điểm ở Đông tuyến. Hắn chỉ giả vờ suất lĩnh quân ở Tây tuyến mà thôi.

Cái này giống như việc cho ngựa chạy đua. Để ngựa tốt đấu với ngựa xấu. Hắn dùng quân tinh nhuệ nhất đánh với quân Đường có lực lượng yếu để có thể bảo toàn thực lực.

Còn chính hắn thì dẫn quân yếu phô trương thanh thế ở Tây tuyến, lợi dụng tính tình muốn bảo tồn thực lực chính mình của Tần Vương, giằng co mà không đánh.

Lúc này, Lý Hiếu Cung có cảm nhận sâu sắc cảm giác bị đối phương đùa bỡn trong lòng bàn tay. Chỉ là y cũng không có thời gian để cảm nhân sự nhục nhã bị đùa bỡn này.

Y nhất định phải tìm kiếm được điểm yếu của đối phương để tập trung tấn công. Bằng không trong vòng một canh giờ y sẽ không chống đỡ được nữa.

Lý Hiếu Cung không nhìn ra được nhược điểm của kỵ binh quân Tùy nhưng y nghĩ tới ưu thế của quân Đường, hắn cao giọng quát:

- Khôi phục trận hình.

Quân kỳ Đường triều vung lên. Trống trận ù ù, bắt đầu nhanh chóng chỉnh đón lại trận hình. Đây cũng là ưu thế lớn nhất của quân Đường, huấn luyện rất có bài bản. Bọn họ nhanh chóng tập kết, lại một lần khôi phục lại trận hình đã bị trọng giáp kỵ binh làm rối loạn.

Loại trận hình này cũng không có kết cấu gì đặc biệt mà là quân phải tìm được tướng, tướng phải tìm được quân. Giáo Úy phải điều khiển Lữ Soái, Lữ Soái phải thống lĩnh đội chính, phải cam đoan hệ thống tác chiến của quân hoàn chỉnh.

Lúc này quân Đường đã không thèm để ý đến sự uy hiếp của trọng giáp kỵ binh. Toàn bộ lực chú ý đều được chuyển đến kỵ binh của quân Tùy đang chuẩn bị tới gần.

Một vạn năm nghìn Quan Lũng kỵ binh của quân Đường cũng chậm rãi tiến lên phía trước.Một tay giương trường mâu lên, một tay cầm cự thuẫn, hai chân thì dùng để điều khiển chiến mã, vẫn duy trì trận hình như cũ. Hai quân càng ngày càng gần, âm thanh hò hét đan xen thành một mảnh. Tiếng trống rung động ầm ầm vang lên, cổ vũ sĩ khí của binh sĩ.

Hai trăm bước, một trăm năm mười bước, một trăm bước. Quân Tùy đã vọt vào trong phạm vi sát thương của cung tiễn quân Đường.

Nhưng trong mưa bụi dày đặc, quân Đường cũng không có cung nỏ để xạ kích. Lý Hiếu Cung ra lệnh một tiếng, quân Đường soàn soạt nâng trường mâu lên. Chuẩn bị đều có thể nghênh đóng quân Tùy tấn công bất cứ lúc nào.

Lý Tĩnh cũng không có gấp gáp hạ lệnh phóng mâu. Ánh mắt gã nhìm chằm chằm vào thuẫn của quân Đường.Tựa như nhìn thấu những tấm chắn này… những tấm chắn này chắc chắn không thể nào chống lại cương mâu của quân Tùy.

 Chương 823 : Đột phá đông tuyến (p2)

Khoảng cách năm mươi bước, Lý Tĩnh cũng không có hạ lệnh. Có không ít đại tướng của quân Tùy đều đã đổ mồ hôi lạnh đầy tay. Đây là việc trước giờ tác chiến bọn họ còn chưa thấy. Phương pháp dùng đoản mâu để công kích đối phương từ xa là chiến thuật do Lý Tĩnh nghĩ ra.

Vào lúc này, quân Tùy đột nhiên tăng tốc. Mà kỵ binh quân Đường cũng gấp rút lui về phía sau. Trong khoảng thời gian này, đội ngũ quân Đường cũng bắt đầu lui về. Đây cũng là chỗ thông minh của Lý Hiếu Cung. Tại thời điểm sau cùng, lại đem quân lính lui về. Như vậy sức sát thương của đoản mâu quân Tùy sẽ giảm tới thấp nhất.

Chiến mã lao nhanh, ky binh quân Tùy thét lên một tiếng, ùn ùn lao tới chém giết quân Đường. Ba mươi bước, Lý Tĩnh đưa chiến đao lên hết lớn một tiếng :

- Phóng!

Tiếng trống vang lên ầm ầm như sấm, phía trước kỵ binh quân Tùy hàng nghìn đoản mâu trong phút chốc đã phóng ra. Hàng nghìn đoản mâu được phóng ra theo hình vòng cung. Đoản mâu như mưa rào, gào thét đâm về hướng kỵ binh của quân Đường.

Mặc dù Lý Hiếu Cung đã nghĩ đến sự lợi hại của đoản mâu nhưng kết quả lại khiến hắn phải thống khổ nhắm mắt lại.

Cương mâu mạnh mẽ đan xen thành một mảnh, bay lượn trên không trung, thanh thế to lớn, đâm xuyên qua tấm chắn của kỵ binh quân Đường, bắn thủng áo giáp, xuyên thấu cơ thể. Chiến mã ngã bổ nhào xuống đất, kỵ binh cũng lập tức ngã theo kêu la thảm thiết. Trong nháy mắt ngựa ngã người đổ, gần bốn trăm người bị trúng ngã nhào.

Đợt đoản mâu hung mãnh đã khiến sĩ khí của quân Đường trùng xuống. Ngay sau đó, lại thêm hàng nghìn đoản mâu được phóng ra dày đặc, đâm tới trong kỵ binh quân Đường.

Chỉ ngắn ngủi hai đợt đoản mâu, quân Đường đã tổn thất gần tám trăm người. Sau khi phóng xong hai đợt đoản mâu, trong nháy mắt, kỵ binh quân Tùy hung mãnh chạy qua đầu trận tuyến đã loạn vọt thẳng vào trong đại trận của quân Đường.

Quân Tùy hiển nhiên cũng không tính toán sẽ hỗn chiến cùng quân Đường. Bọn họ cứ trăm người hình thành một đội, tự mình linh hoạt tác chiến.Tận lực dùng uy lực của đoản mâu quấy nhiễu đầu trận tuyến của quân Đường.

Bọn họ lúc thì phối hợp với nhau hợp thành một đoàn, lúc thì phân tán ra tự mình chiến đấu.Tuy rằng nhìn qua rất hỗn loạn, nhưng phảng phất như có một sợi dây buộc bọn họ vào một chỗ. Sợi dây đó chính là chiếc cờ chỉ huy của quân Tùy. Cờ xí không ngừng biến ảo ra các loại tổ hợp, chỉ huy tiết tấu tấn công của quân Tùy.

Mà trận hình hoàn mỹ của quân Đường không ngừng bị quân Tùy đánh tan, lại không ngừng tụ hợp, chống lại sự tấn công của quân Tùy.

Phương thức chiến đấu nhanh nhẹn của quân Tùy với những cơn mưa mâu dày đặc đã chém giết rất nhiều địch nhân, sau đó đột nhiên tan rã. Đây hiển nhiên là chiến thuật tác chiến được thiết lập để nhằm vào sự co cụm binh của đối phương.

Nếu đánh với quân đội được huấn luyện yếu kém của Lưu Vũ Chu hoặc Đậu Kiến Đức, có lẽ phương thức tác chiến rất linh hoạt, sắc bén này của quân Tùy có thể sẽ đạt được hiệu quả cực kỳ tốt.

Nhưng quân Đường được huấn luyện bài bản, phòng ngự nghiệm mật lại có khả năng chống đỡ phương thức tác chiến này của quân Tùy. Ưu thế của mỗi bên được thể hiện ra vô cùng nhuần nhuyễn trong trận kỵ binh đại chiến này.

Lúc này, cánh quân Tần Quỳnh bên phải có năm nghìn kỵ binh, cùng cánh quân La Sĩ Tín bên trái có một vạn trường mâu binh cũng lén đánh tới. Bọn họ cũng công kích hai bên cánh của quân Đường.

Hai cánh đại quân kịch liệt chiến đấu trong mưa bụi mờ mịt. Trên mặt đất bùn lầy lội cùng vô số những vũng nước đọng khiến cho trận chiến này càng thêm mệt mỏi.

Lúc này đội ngũ năm vạn quân Đường đã hoàn toàn bị áp chế. Mà bên quân Tùy vẫn còn có hai vạn binh sĩ đang chờ mệnh lệnh.

Mặc dù quân Tùy cũng không áp chế toàn bộ mọi tuyển nhưng quân Đường đã có dấu hiệu bại trận. Dấu hiệu đầu tiên ở chỗ một vạn binh đao thuẫn của quân Đường đánh với năm nghìn kỵ binh do Tần Quỳnh suất lĩnh.

Binh chủng đã rơi vào hoàn cảnh xấu, lại thêm việc từng nhóm nhỏ quân Tùy linh hoạt tấn công nhiều nơi khiến cho đầu trận tuyến của quân Đường đã bắt đầu rối loại. Bọn họ dần dần giống quân Tùy chia ra từng nhóm nhỏ chiến đấu. Bọn họ đều là chân chính tự mình lập trận, không có chỉ huy thống nhất, cũng không có phối hợp với nhau, có vẻ rất mất trật tự. Đao thuẫn binh của quân Đường rõ ràng đã bị rơi vào thế hạ phong.

Lý Tĩnh lúc này thấy thời cơ đã đến lập tức hạ lệnh:

- Bắn hỏa tiễn!

Một đoàn hỏa tiễn bay lên trời kéo theo một đoàn khói đen thật dài xẹt qua không trung. Đột nhiên từ trong Hắc Tùng lâm phía sau quân Đường, có ba nghìn trọng giáp kỵ binh quan Tùy đánh ra. Bọn họ đội ngũ chỉnh tề, xếp thành một trận hình hoàn chỉnh. Chiến mã thì hăng hái, sát khí tận trời, chạy về phía một vạn đao thuẫn binh ở cánh trái.

Cánh quân Tùy này sắc bén, sức lực vẫn còn ở trạng thái tốt nhất giết ra. Quân Tùy trước sau công kích. Đao thuẫn binh của quân Đường cuối cùng cũng không chống đỡ được, sĩ khí mất hết, bắt đầu loạn lên.

Ba quân tác chiến quân trọng nhất là sự phối hợp, không thể để bị mất một cánh quân nào. Chỉ cần trong đó có một cánh quân bị tan vỡ thì loại tan vỡ này giống như bệnh dịch, trong nháy mắt sẽ truyền nhiễm khắp toàn quân.

Từ khi cánh trái đao thuẫn binh bị tan rã, quân đội của Lý Hiếu Cũng cũng lập tức tan rã toàn diện. Trận đại chiến Trung Nguyên này cuối cũng cũng đã tới lúc kết thúc….

Tin tức về quân Tùy ở đông tuyến đã tiêu diệt toàn bộ quân đội của Lý Hiếu Cung, đã truyền tới đại bản doanh quân Tùy ở phòng tuyến phía tây. Trong đại doanh quân Tùy được một phen vui mừng.

Giằng co hơn một tháng, cuối cùng quân Tùy đã lùi một bước để đánh trả đối phương. Kết quả là dành được thắng lợi huy hoàng, tàn quân bị Từ Thế Tích chặn lại, Trưởng sử Độc Cô Hoài Ân bị bắt, Lý Hiếu Cung dẫn không tới ngàn quân chạy về Tương Dương.

Đây là trận chiến quyết định toàn bộ bố cục Trung Nguyên. Kết thúc trận chiến này có ý nghĩa là thế lực nhà Đường bị đuổi hoàn toàn ra khỏi Trung Nguyên. Lý Mật lui về phía đông. Đậu Kiến Đức nội chiến, Vương Thế Sung một thủ Cô thành. Điều này chứng tỏ Trung Nguyên sắp trở thành lãnh thổ nhà Tùy.

Trong đại bản doanh, binh sĩ quân Tùy ca múa vui mừng. Đúng lúc này thì trong lều trung quân lại vô cùng yên tĩnh. Cửa lều hai lớp trong ngoài đều buông xuống. Ánh sáng trong lều lóe lên những tia lờ mờ. Dương Nguyên Khánh một mình đứng ở trước sa bàn c, đang nhìn xuống đó, nhưng trong đầu lại có muôn vàn suy nghĩ.

Mặc dù thắng lợi đông tuyến khiến mọi người phấn chấn, nhưng là người cầm đầu toàn quân, ở vào thời khắc mấu chốt này, đòi hỏi Dương Nguyên Khánh phải giữ được bình tĩnh.

Trận thắng ở Trung Nguyên, trong dự đoán của hắn, hắn phòng thủ nghiêm ngặt, mưu tính sâu xa từng bước đi một cho tới hôm nay. Nếu như còn nói vẫn có thể thất bại, thì chỉ có thể chứng minh Lý Tĩnh chẳng có tài cán gì.

Lúc này, cái mà Dương Nguyên Khánh cực kì quan tâm chính là bước đi tiếp theo. Hắn mới nghe tin, Giang Đô Trần Lăng đã đầu hàng Lý Mật. Điều này có nghĩa, thế lực Lý Mật di chuyển về đông, đã bước ra một bước đi quan trọng.

Song song với chuyện này, hắn đồng thời phải quan tâm tới một tin tức khác. Ba trăm ngàn quân Đỗ Phục Uy tại huyện Từ Thành quận Hạ Bì bị Đơn Hùng Tín đánh bại. Đỗ Phục Uy chỉ dẫn khoảng mấy trăm người quay về Lịch Dương.

Việc đầu hàng của Trần Lăng và sự thất bại của Đỗ Phục Uy, khiến kết cục ở Giang Đông có sự biến đổi lớn. Thế lực Lý Mật mạnh lên, làm chủ ở Giang Đông là kết cục đã định.

Mà thất bại của triều đình nhà Đường tại Trung Nguyên cũng sẽ khiến cho Lý Uyên áp dụng thủ thế, Lý Mật sẽ chuyên tâm khai thác Giang Đông. Vậy bước tiếp theo Dương Nguyên Khánh sẽ phải làm gì?

Tuy rằng, trong lá thư Lý Tĩnh gửi cho hắn, kiến nghị mở rộng ưu thế, chiếm giữ Kinh Tương. Nhưng Dương Nguyên Khánh lại cực kì bình tĩnh. Chiến tuyến kéo quá dài, việc mở rộng bành trướng là mù quáng, không thực tế. Rốt cục cũng chỉ dẫn đến toàn tuyến của hắn tan tác mà thôi.

Nếu như phải lựa chọn, thà rằng hắn chọn tiêu diệt Đậu Kiến Đức, giải trừ hậu họa về sau ở Hà Bắc còn hơn.

Lý Tĩnh không rõ lắm áp lực của triều đình. Nhưng Dương Nguyên Khánh thì nắm rõ hơn so với y. Ngụy Trưng vì sao lại đến, chính là bởi vì sự phân kỳ trong nội bộ triều đình vì nam hạ Trung Nguyên xảy ra sự bất đồng lớn.

Năm nay nông nghiệp mất mùa. Nhìn chung thu hoạch thấp, mà quân tây Đột Quyết thì không ngừng mở rộng xuống hướng đông, uy hiếp nghiêm trọng tới sự an toàn của Phong Châu. Điều này khiến cho triều đình phải di dân với số lượng lớn từ Phong Châu trở lại Hà Bắc. Khiến cho việc canh tác ở Phong Châu giảm mạnh. Sản lượng lương thực năm nay thật đáng lo.

Sự đổ nát ở Hà Bắc hiện nay mà triều đình phải gánh vác là rất lớn. Trong thời gian một hai năm, thì khó có thể khôi phục lại như ban đầu. Trên thực tế, Triều Tùy toàn bộ dựa vào sự chống đỡ của vùng Hà Đông, phải duy trì quân lương của hai trăm ngàn đại quân, lại còn phải chi viện nhiều cho Hà Bắc. Hơn nữa, thu hoạch năm nay không được nhiều, triều đình cực kì bị áp lực.

Dành được Trung Nguyên, chẳng qua chỉ là thắng lợi về mặt quân sự. Nhưng đối với kinh tế mà nói, thì đây lại là một đảm nhiệm thật lớn của triều Tùy, không thua kém gì Hà Bắc.

Sự tấn công tạo phản của nông dân cuối triều Tùy đã khiến cho các khu kinh tế ở Trung Nguyên bị tàn phá nặng nề. Lương thực dự trữ của triều Tùy trong ba mươi năm đã không còn sót lại chút gì.

 Chương 824 : Quân Đường lui về phía tây

Nhà kho Lê Dương, Lạc Khẩu chiếm giữ đều chỉ là trống rỗng. Ruộng đồng hoang vắng. Nhân dân trôi giạt khắp nơi.

Lý Mật di chuyển xuống phía nam, mang đi lượng lương thực lớn. Trọng trách cứu tế nạn đói ở Trung Nguyên lại đổ lên đầu triều Tùy, mà cuộc chiến với Trung Nguyên đã tiêu hao về tài lực và vật lực của triều Tùy với khối lượng lớn. Lương thực tồn đọng của Thái Nguyên chỉ còn lại có mười vạn thạch.

Đây chính là nguyên nhân khiến cho rất nhiều những đại thần trong triều phản đối chiếm giữ Trung Nguyên, dành giật thiên hạ, cũng không đơn thuần chỉ một phương diện là các hành động về quân sự. Nếu thực lực của một nước không hùng hậu để chèo chống thì việc mở rộng quân sự cũng không thể đi xa được.

Có thể nói thẳng ra là sau chiến dịch Trung Nguyên, đã khiến tài lực triều Tùy gần như cạn kiệt. Về căn bản thì không còn sức để có thể tiếp tục tiến hành chiến tranh nữa.

Một vấn đề lớn khiến Dương Nguyên Khánh đau đầu sau khi ba quân dành thắng lợi, đó chính là hắn lấy cái gì ra để khao thưởng cho quân sĩ đây?

Dương Nguyên Khánh chắp tay sau mông đi qua đi lại trong gian phòng. Hắn cân nhắc tới cục diện rối rắm sau khi nắm được Trung Nguyên. Hắn đã uống xong chén rượu ngon mừng thắng lợi, vậy kế tiếp hắn sẽ phải chống đỡ với những áp lực cực lớn mà cục diện rối rắm của Trung Nguyên mang đến.

Tất cả đều nằm ở vấn đề lương thực. Lương thực trong thời đại này chính là chìa khóa vạn năng. Chỉ cần nắm lương thực trong tay, hắn có thể trấn an dân đói, có thể khao thưởng tam quân, có thể dẹp cơn lửa giận của các đại thần trong triều.

Thế nhưng trong thời gian rất cần lương thực này thì ngay lập tức phải giải quyết như thế nào? Dương Nguyên Khánh cảm thấy lo lắng không yên.

Lúc này, một gã thân binh ở ngoài trướng bẩm báo:

- Khởi bẩm tổng quản, Đệ nhị phong chiến của Lý Trưởng Sử tới rồi.

Sáng sớm chiến báo chỉ có vài từ. Hắn đang rất cần thật nhiều tin tức, Dương Nguyên Khánh lập tức nói:

- Thế thì cầm vào đây!

Thân binh đi vào lều lớn và đem theo một mẩu tin ưng trình lên. Dương Nguyên Khánh cầm lấy thư, lấy mẩu giấy từ trong bì thư ra. Lần thứ hai đã báo tin về tình hình kết quả kiểm kê trận chiến, hơn hai vạn tù binh, thu được hàng loạt lương thảo quân tư.

Thu được bấy nhiêu lều vải, quân giới, Dương Nguyên Khánh cũng không có hứng thú. Lúc này, cái mà hắn đang rất quan tâm là vấn đề lương thực. Lương thực quân Tùy đã thu được ba vạn thạch. Mặt khác, thu được quân lương chưa chở đi được ở huyện Toánh Xuyên là mười vạn thạch, tổng cộng ở đây có mười ba vạn thạch.

Dương Nguyên Khánh biết tại huyện Trường Uyên, trong đại doanh quân Đường chí ít còn hai mươi vạn thạch quân lương, Lý Thế Dân rút về Quan Trung, không có khả năng chở những lương thực này đi. Thế thì trên tay hắn có hơn ba mươi vạn thạch lương thực, những lương thực này có thể dùng để cứu tế dân đói ở Hà Nam.

Có ba mươi vạn thạch lương thực làm đảm bảo, Dương Nguyên Khánh thấy lòng nhẹ nhõm hơn một chút.

Lúc này, lực chú ý của hắn một lần nữa lại chuyển đến quân đội của Lý Thế Dân. Trước hai ngày, quân đội Lý Thế Dân xuất hiện một chuyện khác thường, tám mươi ngàn đại quân Lý Thế Dân ngày hôm trước rút lui theo hướng tây bắc. Nhưng mới vừa đi được hơn mười dặm, thì lại quay đầu trở lại đại doanh Trường Uyên. Việc này Dương Nguyên Khánh có chút không giải thích được, rốt cục đã xảy ra chuyện gì?

Hiện ở trong tay Lý Thế Dân có tám mươi ngàn đại quân. Tám mươi ngàn quân đều là quân tinh nhuệ của quân Đường. Sức chiến đấu vô cùng mạnh mẽ. Dương Nguyên Khánh chỉ có trong tay năm mươi ngàn người, về binh lực yếu hơn quân Đường, mà chiến đấu cũng không phải mạnh mẽ.

Quân đội của hắn cũng không phải là quân chủ lực của quân Tùy. Lực lượng này đều là tân binh và là một bộ phận thuộc Lưu Vũ Chu. Trong hàng ngũ quân Tống Kim Cương mà quân Tùy chuyển tới, sức chiến đấu tương đối yếu kém, duy nhất có thể lấy ra được, đó là năm nghìn trọng giáp bộ binh.

Cũng chính biểu hiện xuất sắc của đội trọng giáp bộ binh khi lên bờ đã đánh lừa thành công Lý Thế Dân, khiến cho y trong lòng nghi ngờ, không dám chính quyết chiến với hắn.

Đối lập với ưu thế tuyến phía đông, tuyến phía tây quân Tùy lại không lạc quan. Năm mươi ngàn quân Tùy của Dương Nguyên Khánh không chỉ phải đối mặt tám mươi ngàn tinh binh của Lý Thế Dân, mà còn phải đối mặt với ba mươi ngàn quân tiếp viện của quân Đường ở huyện Thiểm. Hơn nữa, hai mươi ngàn người của Từ Thế Tích từ phía đông cũng trợ giúp quyết chiến phía đông của quận Toánh Xuyên.

Điều này lại khiến cho Dương Nguyên Khánh đối mặt với tình thế rất nghiêm trọng. Nhưng cuối cùng, hắn cũng vượt qua được sự thử thách. Phải nói đây là thắng lợi về sách lược chính trị của hắn. Hắn thắng lợi ở chỗ, đã lợi dụng thành công việc tranh dành quyền lực trong nội bộ nhà Đường.

Hiện tại Lý Hiếu Cung thất bại thảm bại. Như vậy, Lý Thế Dân lại càng không thể tùy tiện gây chiến với hắn. Tám mươi ngàn quân này là thế lực chính trị cuối cùng của Lý Thế Dân. Nếu như tám mươi ngàn quân này bị suy yếu, thì hắn e rằng số phận của Lý Thế Dân sẽ sớm kết thúc.

Lợi dụng yếu tố tâm lí tích chiến này của Lý Thế Dân, năm mươi ngàn quân của Dương Nguyên Khánh đã tiến đánh thành công một trăm mười ngàn quân Đường, bảo đảm đại thắng của đông tuyến.

Bây giờ đã tới giai đoạn thu quan cuối cùng trên ván cờ Trung Nguyên. Dương Nguyên Khánh hết sức cẩn thận. Hắn không để xảy ra bất cứ việc gì ngoài ý muốn.

Chính lúc này, ngoài trướng lại có binh sĩ bẩm báo:

- Khởi bẩm tổng quản, quân Đường huyện Trường Uyên một lần nữa rút lui theo hướng tây bắc, đồ dùng quân nhu chỉ chở vẻn vẹn một ngàn xe ngưạ.

Tin tức này tới rất đúng lúc. Dương Nguyên Khánh liền hạ lệnh nói:

- Lệnh cho Tạ Ánh Đăng dẫn năm nghìn kỵ binh hoả tốc chạy tới huyện Trường Uyên, cần phải chiếm đại doanh quân Đường.

... .

Lý Thế Dân gần như không có lo lắng quá đối với một trận tử chiến cùng quân Tùy. Y dẫn quân tiến binh vào Trung Nguyên là để sắp tới đánh Lạc Dương, chứ không phải quyết chiến với Dương Nguyên Khánh. Do vậy, sau khi nghe được tin Dương Nguyên Khánh dẫn quân qua bến Minh Tân liền quyết định dứt khoát, tha không đánh Lạc Dương, lui binh về quận Hoằng Nông.

Kiến nghị sớm nhất của Lý Thế Dân là đánh Lạc Dương. Lý Uyên đưa ra kết luận cuối cùng cũng là kết quả mà y nhiều lần khuyên bảo. Nếu Lý Uyên giành lấy Lạc Dương là vì nhổ cái đinh trong mắt, mở ra cánh cửa lớn tiến về phía đông của nhà Đường, thì Lý Thế Dân yêu cầu đánh Lạc Dương vì có mục đích chính trị sâu xa.

Y đương nhiên cũng muốn nắm giữ Lạc Dương, bởi Lạc Dương mang tới cho y lợi thế chính trị lớn vô cùng. Nhưng y cũng biết, Dương Nguyên Khánh nhất định sẽ xuất binh can thiệp. Trước tình huống như vậy, y càng mong lợi dụng Dương Nguyên Khánh xuất binh, sẽ gây áp lực cho triều đình, làm cho phụ hoàng phái binh tới viện trợ.

Trong lòng y hiểu rất rõ, lúc này đội quân ở lại Quan Trung, hầu hết đều là phe phái của Thái Tử. Một khi phụ hoàng đồng ý phái binh, chắc chắn sẽ là phái đội quân phe Thái Tử đi. Nắm được cơ hội này, y sẽ chiếm lấy đội quân Quan Đông của Thái Tử, nắm hết binh quyền trong tay.

Cho nên Lý Thế Dân đưa ra việc dùng binh của cả nước để quyết chiến với Dương Nguyên Khánh, cũng là xuất phát từ suy xét này. Đương nhiên sẽ không mạo hiểm quyết chiến cùng Dương Nguyên Khánh. Một khi y đã nắm giữ quân đội trong tay, y sẽ lui về Đồng Quan.

Nhưng y thật không ngờ phụ hoàng lại bị hấp dẫn bởi việc Lý Mật dời về phía đông, phái Lý Hiếu Cung dẫn quân Đường ở Tương Dương tiến quân vàoTrung Nguyên. Điều này làm cho y cảm thấy một loại áp lực rất lớn. Nếu có một ngày, Lý Hiếu Cung bị thua quân Tùy, thế thì thế lực của y cũng suy yếu mạnh.

Kết quả này là khiến Lý Thế Dân dự liệu không kịp. Y chỉ biết hối hận ở trong lòng. Ngay cả Phòng Huyền Linh và Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng đều không nói.

Trên quan đạo phía tây Huyện Trường Uyên, một đội quân có thanh thế lớn chậm rãi rút lui từ về hướng tây bắc. Đội quân này do Lý Thế Dân dẫn đầu rút lui về phía tây với tám mươi ngàn quân chủ lực của y. Y cũng nắm được tin tức của chim ưng truyền tới, đội quân của Lý Hiếu Cung đang hoảng sợ rút lui về phía nam.

Phía bắc có đội quân với sáu mươi ngàn người của Lý Tĩnh theo sau. Phía nam có hai mươi ngàn quân của Từ Thế Tích chặn lại, không cần nghĩ y đã biết kết quả là gì, Lý Hiếu Cung tất nhiên sẽ đại bại.

Trước tình hình như vậy, Lý Thế Dân không cần phải tiếp tục giằng co với Dương Nguyên Khánh. Y phải bảo toàn được tám mươi ngàn quân. Đây là lực lượng chính cực kì quan trọng của y.

Nhưng hôm qua lại xảy ra một chuyện khác khiến y có chút uể oải. Tề Vương Nguyên Cát chạy suốt đêm tới huyện Thiểm. Tiếp nhận quyền chỉ huy ba mươi ngàn tân quân từ tay của Thường Hà.

Lý Thế Dân không nghĩ tới sẽ phát sinh thêm loại biến cố này. Điều này chỉ có thể nói rõ vì một chuyện nào đó, phụ hoàng đã nhượng bộ Thái Tử Kiến Thành.

Bất kể nguyên nhân là gì, thì điều này đã làm đảo lộn kế hoạch của Lý Thế Dân, khiến cho ý định chiếm lấy Tân quân trở thành bọt nước.

Lúc này, Phòng Huyền Linh và Trưởng Tôn Vô Kỵ cưỡi ngựa tới, hỏi:

- Điện hạ, tìm chúng tôi đến có chuyện gì sao?

Lý Thế Dân trầm ngâm một chút nói:

- Ta nghĩ trước tiên dẫn năm nghìn kỵ binh trở về Đồng Quan!

Trưởng Tôn Vô Kỵ ngẩn ra, liền vội la lên:

- Điện hạ, Dương Nguyên Khánh thăm dò chúng ta từ phía sau, nên việc rời khỏi Hoằng Nông sẽ không thuận lợi. Lúc này mà điện hạ tách quân, sợ rằng sẽ gây ảnh hưởng tới lòng quân. . .

 Chương 825 : Nội chiến Đồng Quan

Trong giọng nói Trưởng Tôn Vô Kỵ có chút bất mãn. Trong khoảng thời gian này, rất nhiều chuyện Tần vương cũng không bàn bạc cùng bọn họ. Ngày hôm qua, đại quân rút lui về huyện Thiểm, không ngờ, mới đi được hơn mười dặm thì nghe tin quân viện binh của Tề vương đến đại doanh. Thế nên đại quân lại quay về đại doanh Trường Uyên. . .

Sáng sớm hôm nay, cũng không có bất cứ dấu hiệu gì, Tần vương hạ lệnh rút lui khỏi Đồng Quan. Bây giờ, lại muốn dẫn quân đi tới trước Đồng Quan. Điều này đã khiến Trưởng Tôn Vô Kỵ gần như không thể nhịn thêm được nữa.

Phòng Huyền Linh ở bên cạnh cũng hiểu được suy nghĩ của Lý Thế Dân. Y muốn làm chủ Đồng Quan trước Lý Nguyên Cát. Ngược lại, điều này cũng rất khả thi.

Phòng Huyền Linh cười cười nói:

- Không sao, Dương Nguyên Khánh mặc dù đang thăm dò chúng ta, nhưng binh lực của hắn không đủ, tuyến phía tây viện quân chưa tới, thì sẽ không dám mạo hiểm truy kích chúng ta. Nếu điện hạ muốn đi tới Đồng Quan trước, thì cứ đi. Chúng thần sẽ dẫn đội quân chạy theo sau.

Trưởng Tôn Vô Kỵ tới đây mới hiểu rõ, trong lòng y có chút bất đắc dĩ. Vốn y tưởng rằng việc tranh giành của Thái Tử và Tần vương sẽ không ảnh hưởng tới hoạt động quân sự triều Đường nhưng trên thực tế, việc này ảnh hưởng lại rất lớn.

Dương Nguyên Khánh chỉ có năm mươi ngàn quân, mà Tần vương thì có tám mươi ngàn quân. Hơn nữa, lại có thêm ba mươi ngàn quân mới. Quân Đường có tổng cộng một trăm mười ngàn quân. Nếu như đồng tâm hiệp lực, thì hoàn toàn có thể tập trung binh lực đánh bại Dương Nguyên Khánh. Nhưng hết lần này tới lần khác, trong nội bộ có những bất hòa như thế này, dẫn đến việc phải rút quân bất đắc dĩ.

Những kiểu phiền muộn nén ở trong lòng như thế này khiến Trưởng Tôn Vô Kỵ chỉ còn cách gật đầu:

- Chúc điện hạ đi đường thuận buồm xuôi gió, sớm làm chủ Đồng Quan.

Lý Thế Dân thấy hai người đều đồng ý, liền vui vẻ nói:

- Mọi việc tiếp theo phải làm phiền hai vị rồi!

Lý Thế Dân lập tức mang theo Uất Trì Cung, dẫn đầu năm nghìn kị binh tinh nhuệ chạy gấp về phía Đồng Quan.

...

Ngay sau khi đại quân Lý Thế Dân rời khỏi đại doanh huyện Trường Uyên khoảng hai canh giờ thì Dương Nguyên Khánh thống lĩnh đại đội cả người lẫn ngựa đã đến đại doanh trống không của quân Đường.

Lúc này, mấy trăm đại doanh của quân Đường đã bị Tạ Ánh Đăng dẫn năm nghìn kỵ binh quân Tùy từng bước chiếm lĩnh.

Đúng lúc quân Dương Nguyên Khánh đến được đại doanh quân Đường thì Tạ Ánh Đăng đã chờ ở cửa từ rất lâu rồi. Y liền bước lên phía trước thi lễ.

- Ty chức tham kiến tổng quản!

Dương Nguyên Khánh xoay người xuống ngựa, nhìn đại doanh rộng lớn này một lượt thật kĩ. Ngoại trừ lá cờ chiến là mang đi theo, còn lại hầu như không có gì thay đổi cả. Ngay cả trạm canh gác cũng như trước đây, đứng sừng sững hai bên trong đại doanh.

- Có bắt được tên lính nào không?

Dương Nguyên Khánh hỏi.

- Bẩm tổng quản, bắt được hơn một trăm binh sĩ, còn có một tên Thương Tào của quân Đường.

Tạ Ánh Đăng vung tay lên. . .

- Dẫn tới!

Tên lính của quân Tùy dẫn một viên quan lên phía trước. Người này ước chừng trên dưới bốn mươi tuổi, to béo ục ịch, mặc áo quan màu đỏ. Theo như vẻ bề ngoài thì không giống với một gã quan viên, ngược lại, giống với một người quản lí của cửa hàng.

Vẻ mặt y sợ hãi, bước tiến lên rồi quỳ xuống:

- Tiểu nhân Cung Ái Dân, làm chức Thương Tào. Cầu xin điện hạ tha mạng!

Dương Nguyên Khánh nhìn y một cái, thản nhiên nói:

- Ngươi không phải sợ, ta sẽ không giết ngươi. Chỉ cần ngươi giúp người của ta đem số sổ sách chiếm được làm cho rõ ràng thì ta sẽ tha cho ngươi.

Thương Tào liên tục dập đầu:

- Đa tạ điện hạ. Tiểu nhân nhất định sẽ làm hết sức mình.

Khi Dương Nguyên Khánh và mọi người cùng đi vào đại doanh quân Đường, lều vải của đại doanh vẫn còn lưu lại một nửa. Trong trướng của binh sĩ mọi thứ hỗn độn, có thể thấy được không thể cầm những vật phẩm lớn. Dương Nguyên Khánh nhướng mày:

- Những doanh trướng này, vì sao quân Đường không mang đi theo?

Thương Tào của quân Đường vừa mới bắt tay vào làm đã vội vã khom người dưới Tòng Sự nói:

- Khởi bẩm điện hạ, chủ yếu là súc vật quân Đường không đủ để kéo. Quân lính thu thập khắp nơi, chỉ có hơn một ngàn súc vật. Ngay cả ngựa chiến cũng không vận chuyển được vật tư nhiều như vậy. Bốn ngàn quân trướng nhưng chỉ mang đi một nghìn tám trăm. Ngay cả binh sĩ cũng phải đeo vũ khí trên lưng.

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Tới kho lương!

Đoàn người lại đi vòng tới nơi chứa lương thực. Ở phía bắc đại doanh, do mấy trăm cái lều vải tạo thành. Nơi này là kho lương của quân Đường. Ở trong mấy trăm lều, hắn thấy lương thực chồng chất như núi, đều chứa trong bao tải, xếp ngay ngắn gọn gàng.

Dương Nguyên Khánh trong lòng vô cùng vui mừng. Quả nhiên đúng như hắn dự liệu, quân Đường không thể mang theo lương thực, cũng không phá hủy những lương thực này. Việc này khiến đầu óc hắn thấy thoải mái hơn một chút.

Tạ Tư Lễ kiểm tra những cái lều lớn một cách tỉ mỉ. Hắn có chút hiếu kỳ, liền hỏi:

- Ta thấy những lương thực này hình như không mang theo một chút nào, vì sao lại thế?

Tòng Sự cười khổ một tiếng nói:

- Thật sự là không có cách nào mang đi được. Toàn bộ súc vật kéo xe ngựa đều mang đầy vũ khí, tiền bạc và lều vải. Ngay cả vải lều cũng còn lại phân nửa, thì nói gì tới mang theo lương thực. Tuy nhiên, toàn bộ vũ khí và tiền đều mang đi hết.

- Chuyện này có chút bất thường!

Tạ Tư Lễ lẩm bẩm:

- Vũ khí và tiền bạc thì muốn mang đi, lương thực lại không muốn. Lẽ nào đối với quân Đường mà nói, lương thực không quan trọng sao?

Dương Nguyên Khánh cười cười nói:

- Chuyện này rất bình thường. Chỉ có vũ khí, tiền bạc, mới có thể tiếp tục chiêu mộ tân binh. Về phần lương thực, ta nghĩ Quan Trung hẳn là còn có không ít tồn lương, cho nên sẽ không cần lương thực lắm.

Dương Nguyên Khánh lại hỏi Tòng Sự:

- Trong quân doanh tổng cộng còn bao nhiêu lương thảo?

- Bẩm điện hạ, còn khoảng hai trăm ba mươi ngàn thạch lương thực. Cỏ khô là năm trăm ngàn bó.

Dương Nguyên Khánh gật đầu, nói với Tạ Tư Lễ:

- Kiểm kê vật tư thì giao cho ngươi, từng việc đều phải ghi sổ sách, sau cùng thì báo cáo từng phần cho ta.

- Ty chức tuân mệnh!

... . . .

Thế lực đội quân Thái Tử Lý Kiến Thành lệ thuộc chủ yếu ở Quan Đông, cũng chính là phía đông Quan Trung. Bao gồm chủ yếu cả kho thóc Quảng Thông, cả Tân Quan và Đồng Quan. Đội quân ước chừng khoảng ba mươi ngàn người.

Trong đó Đồng Quan là thế lực quan trọng của Thái Tử. Cửa ngõ phía đông ở Quan Trung đối với Đại Đường có vị trí chiến lược cực kì quan trọng, đều giống nhau ở chỗ do vị quan lớn tam phẩm đến trấn thủ.

Hiện nay đại soái trấn thủ Đồng Quan chính là La Nghệ từ U Châu về đầu hàng triều Đường. Sau khi La Nghệ quay trở về triều Đường được phong làm Hữu võ vệ đại tướng quân, tước vị được phong là Yến Quốc công, quan cao tước trọng. Lý Uyên cũng không bạc đãi y, nhưng điều này cũng chỉ là cách đối đãi bề ngoài của thiên kim triều Đường.

Trên thực tế, bất kể là chức quan cũng tốt, tước cũng tốt, nhưng đều chỉ là chức quan nhàn rồi. Y không có chuyện gì phải làm, thuộc hạ cũng chẳng có lấy một binh một tốt. Cả ngày cũng chỉ đi loanh quanh Trường An.

Nhưng Thái Tử Lý Kiến Thành lại thấy khả năng cầm binh ẩn trong tư cách và sự từng trải của La Nghệ. Đối với Lý Kiến Thành mà nói, hiện tại y thiếu nhất là người có tư cách, kinh nghiệm như vậy làm chủ tướng.

Chính Thái Tử đã ra sức đề cử, nên La Nghệ được làm đại soái Đồng Quan, nắm trong tay mười ngàn quân coi giữ Đồng Quan. La Nghệ bởi vậy cũng trở thành tâm phúc của Lý Kiến Thành, cùng với Thịnh Ngạn Sư, trở thành những trợ thủ phụ tá đắc lực cho Thái Tử.

Trên đầu tường thành của Đồng Quan, trời chiều vàng rực đã dần dần biến mất. Ráng chiều pha hồng của bầu trời đã tối sầm lại, uốn lượn quanh núi rừng thành một màu đen đậm đặc. Màn đêm bắt đầu phủ xuống, mang theo ánh chiều tà của mặt trời. Cuối cùng sự lộng lẫy của buổi chiều cũng chìm vào bóng đêm.

Trên người La Nghệ mặc áo giáp sắt, tay cầm chuôi kiếm, đứng ở trên đầu tường thành nhìn chăm chú vào con đường nhỏ quanh co trong núi ở phía xa. Con đường ấy mờ dần trong bóng tối. Trong ánh mắt y tràn đầy vẻ lo lắng.

Đứa con trưởng La Thành đứng một bên có thể cảm nhận được sự lo lắng của cha mình, liền quan tâm hỏi thăm:

- Phụ thân trầm mặc đã một ngày đêm, có phải xảy ra chuyện gì không?

Một lát, La Nghệ cúi đầu thở dài nói:

- Nếu Trung Nguyên thua, Tần vương và Thái Tử sẽ tranh đấu càng kịch liệt. Chúng ta cũng không thể tránh né và sẽ bị cuốn vào.

- Phụ thân, hài nhi không hiểu, vì sao Trung Nguyên thất bại, bọn họ lại lại tranh đấu quyết liệt hơn? Hài nhi nghĩ lúc này, bọn họ hẳn là phải đồng tâm hiệp lực, cùng vượt qua cửa ải khó khăn mới đúng.

La Nghệ lắc đầu:

- Đáng tiếc ngôi vị hoàng đế chỉ có một. Bọn họ không tranh giành làm sao được? Vốn việc này không có quan hệ với Tần vương, nhưng thái độ Thánh Thượng hết lần này tới lần khác không rõ ràng, trao cho ông ta hi vọng. Hiện tại, quân quyền chủ yếu ở trong tay ông ta, lại muốn đoạn tuyệt hi vọng của ông ta, chỉ sợ sẽ không dễ như thế.

Dừng lại một chút, La Nghệ lại nói:

- Lần này, cuộc chiến với Trung Nguyên đã đánh vỡ sự cân đối vốn có. Đoán chừng thế lực của Tần vương nắm giữ thất bại nặng nề, liệu y có từ bỏ ý đồ. Tất nhiên, thế lực quân đội của y sẽ gây chiến. Thái Tử cũng đoán được ý đồ của y, mới thuyết phục Thánh Thượng bắt Tề vương quay về huyện Thiểm tiếp quản ba mươi ngàn tân quân, chính là vì phòng y nhân cơ hội đoạt quân quyền.

 Chương 826 : Tẩy trừ suốt đêm (p1)

La Thành thở dài:

- Phụ thân, nếu sớm biết vậy, chúng ta đầu hàng triều Tùy còn hơn, cũng không đến mức bị cuốn vào trận nội chiến giữa huynh đệ bọn họ. Nói thật, con thực sự không xem trọng triều Đường.

La Thành canh cánh trong lòng vì phụ thân theo triều Đường. Nhưng y lại không dám thực sự oán giận phụ thân, chỉ có thể mang bất mãn này để ở trong lòng. Đến hôm nay rốt cục nhịn không nổi nữa mới nói ra.

La Nghệ ngẩn ra. Y kinh ngạc thoáng nhìn đứa con trai. Chuyện quay về với triều Đường hóa ra lại là nỗi canh cánh bên lòng của con trai sao?

Trong lòng y áy náy, vỗ vỗ vai con trai nói:

- Con không cần lo lắng. Sau này sẽ có cơ hội. Đầu tiên con cần phải có tư cách và sự từng trải, có địa vị trong quân đội. Con bây giờ chỉ là một gã đô úy, thì cho dù có đi xin hàng cũng chỉ là đô úy. Mà nếu quả con là tướng quân Đại Đường, có đi đầu hàng, thì con cũng vẫn có thể được coi trọng. Con yên tâm, trong ba năm, sẽ thăng chức con lên tướng quân.

La Thành yên lặng gật đầu. Đúng lúc này, trên đầu con đường núi vọng tới tiếng vó ngựa. Chỉ thấy một tên kỵ binh truyền tin hối hả chạy tới, rất nhanh liền chạy vội tới dưới Đồng Quan, la lớn:

- La tướng quân!

La Nghệ đã sớm thấy tên kỵ binh thám báo này rồi. Trong lòng y ngẩn ra, đi tới trước lỗ châu mai thò người ra hỏi:

- Xảy ra chuyện gì?

- La tướng quân, Tần vương điện hạ dẫn năm nghìn kỵ binh đã tới rồi, cách mười dặm.

La Nghệ thoáng ngây người. Tần vương dẫn năm nghìn kỵ binh tới, vì sao lại thế? Vì sao chỉ có năm nghìn người. Chẳng lẽ là ông ta bị đánh tan ở cuộc chiến Trung Nguyên ư?

La Nghệ gạt ngay ý nghĩ này. Không thể nào bị đánh bại. Nếu như bị đánh bại, thì mình đã sớm biết tin, chẳng lẽ là...

Một ý nghĩ lóe lên trong đầu y. Nhất thời vội đứng lên. Bỗng nhiên y ý thức được, Lý Thế Dân sẽ mang đến rất nhiều phiền toái.

Nghĩ tới đây, hắn lập tức nói với con trai La Thành:

- Con lập tức khẩn cấp, quay về kinh thành nói cho Thái Tử rằng Tần vương đến Đồng Quan lấy lại binh quyền. Ta khó có thể may mắn tránh khỏi, để Thái Tử bẩm báo cấp tốc với Thánh Thượng.

Tiếng La Thành khẩn trương run lên đứng dậy:

- Phụ thân xảy ra chuyện gì à?

- Con yên tâm, cha sẽ khiến cho ông ta không có cơ hội giết ta. Ta sẽ phối hợp với y đoạt quyền. Nhưng chuyện quan trọng là trước tiên ta nói cho Thái Tử, như vậy Thái Tử sẽ không trách cứ ta giao ra binh quyền. Con mau đi!

La Thành lúc này mới thở phào nhẹ nhõm, phóng ngựa ra cửa hướng Tây, chạy gấp về phía Trường An.

La Nghệ vẫn nhìn theo đứa con đi xa, y mới trở lại cửa chính đầu tường Đồng Quan. Chỉ thấy xa xa một đoàn kỵ binh đang hối hả chạy tới sát cổng thành.

Trời tối đen, Lý Thế Dân đích thân dẫn quân đội chạy tới Đồng Quan. Dưới thành Đồng Quan, năm nghìn kỵ binh cầm mấy trăm cây đuốc cháy sáng như ban ngày.

Ánh mắt Lý Thế Dân nhìn u tối. Cái tên La Nghệ chết tiệt này, đã biết rõ mình đến rồi mà còn dám không chịu mở cửa thành. Có phải là y chán sống rồi không?

Nhưng ngược lại, Lý Thế Dân không biết rằng, đó chỉ là vẻ bề ngoài của La Nghệ. Nếu Lý Thế Dân vừa đến, y mở rộng cửa ngay lập tức để nghênh đón thì cho dù Thánh Thượng không thèm để ý tới, làm sao Thái Tử lại có thể tha cho ông ta.

Lý Thế Dân mặt nặng xuống, lạnh lùng hừ một tiếng:

- Một tên gác cổng Đồng Quan nhỏ bé mà lại dám để ta ở ngoài thành sao?

Uất Trì Cung đứng ở bên cạnh lập tức giục ngựa tới dưới thành hét lớn:

- Tần vương điện hạ giá lâm, ngươi vẫn còn không chịu mở cửa?

Phía trên đầu thành một gã Giáo Úy la lớn:

- Xin điện hạ chờ một chút, chúng tôi đã đi bẩm báo La tướng quân, chỉ một lát sẽ tới. Chúng tôi không có quyền mở cửa thành.

Mặt Lý Thế Dân nặng nề, không nói được một lời. Lại chờ thêm khoảng một khắc nữa, cửa thành Đồng Quan mới từ từ mở ầm ầm. Lý Thế Dân cùng gần nghìn thân vệ đứng chờ ở ngoài thành đã lâu nên rất sốt ruột, cửa thành vừa mở liền đi vào ngay.

Bên trong thành Đồng Quan, mấy nghìn binh lính cầm đuốc trong tay. Bên trong thành Đồng Quan đuốc sáng như ban ngày. Từng binh sĩ đều mặc áo giáp mang đao, đằng đằng sát khí.

Đại tướng quân La Nghệ đứng giữa thành Đồng Quan, áo giáp màu sáng bạc, thắt lưng dắt lưỡi dao sắc bén, dáng người khôi ngô tuấn tú, giống hệt như nửa ngọn tháp đen. Ánh mắt ông ta lạnh lùng nghiêm nghị. Ông ta đã đánh cuộc, đánh cuộc tính mạng của mình trong buổi tối hôm nay.

Cuộc chiến binh quyền lúc nào cũng tàn khốc vô tình, sẽ không vì việc mình nghe lời mà mở một mặt lưới cho mình thoát, nếu không thì Lý Thế Dân sẽ ăn nói thế nào với Thánh Thượng đây?

Mặc dù quân lính coi giữ ở Đồng Quan có chút thái độ vô lễ, nhưng bọn thân binh của Lý Thế Dân cũng không dám manh động. Bọn họ làm sao có thể dám gây ra nội chiến hai bên. Làm tổn thương tới Tần vương điện hạ, trách nhiệm này ai có thể gánh đây?

Bọn thân binh đều kìm cơn lửa giận xuống, tránh ra hai bên. Lý Thế Dân đi giữa vòng vây mấy trăm quân kỵ binh đi vào bên trong thành Đồng Quan.

Thế cục trước mắt đằng đằng sát khí khiến cho y hơi sửng sốt. Y cũng phải khâm phục sự quyết đoán của La Nghệ, dám đối chọi với mình, tự đưa mình vào ranh giới của sống chết.

Bản thân y muốn giết La Nghệ quả thực dễ như trở bàn tay. Muốn vu tội cho ai, lo gì không có cớ, cũng không thèm để ý tới việc phạm thượng này của ông ta. Nhưng ngược lại, thái độ liều mạng của La Nghệ chính là nói cho y biết, quân quyền của ông ta không dễ đoạt như vậy.

La Nghệ thấy Lý Thế Dân đã vào thành, ông ta liền hít sâu một hơi, tiến lên quỳ một gối xuống, chắp hai tay cao cao:

- Thần Yến Quốc công, Hữu võ vệ đại tướng quân La Nghệ tham kiến Tần vương điện hạ!

Là ông ta nhắc nhở Lý Thế Dân, ông ta đường đường là quốc công, đại tướng quân, nếu muốn giết ông ta, cũng phải kiềm chế một chút.

Lý Thế Dân cười lạnh trong lòng một tiếng. Y lại lấy quan tước để uy hiếp chính mình, cho rằng mình không dám giết y ư? Trong mắt Lý Thế Dân hiện lên một đường sát khí, trên mặt cũng không có biểu hiện gì, thản nhiên nói:

- La tướng quân bảo vệ Đồng Quan, khổ cực rồi!

- Ty chức không dám nhận xằng là khổ cực, điện hạ mới khổ cực.

La Nghệ đứng lên, quay đầu lại hô to một tiếng.

- Các huynh đệ, tham kiến Tần vương điện hạ!

Y ra lệnh một tiếng, tám nghìn quân coi giữ cùng quì gối:

- Tham kiến Tần vương điện hạ!

Hành động đều răm rắp tạo nên thanh thế lớn. Âm thanh vang vọng toàn thành làm Lý Thế Dân không khỏi âm thầm kinh hãi. Mặc dù y biết đây là La Nghệ tự bảo vệ mình, nhưng y thừa nhận không ngờ lời hiệu triệu của La Nghệ mà cũng mạnh mẽ đến như vậy.

Sự việc này khiến Lý Thế Dân cảnh giác hẳn lên. Nếu như mình tùy tiện giết La Nghệ hoặc là nhốt y, rất có thể sẽ gây ra mâu thuẫn, tạo thành binh biến. Mình phải sử dụng thủ đoạn mềm dẻo để sai khiến hắn.

Nghĩ vậy, nên trên mặt Lý Thế Dân cũng lộ vẻ tươi cười. Hắn thúc ngựa tiến lên phía trước. Ánh lửa rọi trên khuôn mặt y, lúc sáng lúc tối. Y cất cao giọng nói với quân lính:

- Các vị huynh đệ trấn thủ Đồng Quan, trên mình mang trọng trách. Bản vương làm Thượng Thư Lệnh, Thiên Sách Thượng Tướng, rất hiểu rõ sự vất vả cực nhọc của các vị huynh đệ. Ta sẽ khen ngợi công trạng của các vị với Thánh Thượng.

Tất cả quân lính lại một lần nữa hô lớn:

- Tạ ơn Tần vương điện hạ!

... .

Lý Thế Dân cũng không đi qua thành mà đóng quân ở bên trong Đồng Quan. Lý do rất đơn giản, trời đã tối đen, bọn lính suốt dọc đường vất vả cực nhọc, cần phải nghỉ ngơi một đêm sau đó mới lại đi tiếp.

La Nghệ đã sắp xếp mấy trăm cái lều lớn, lại lo cơm tối, nên bận suốt một canh giờ, rốt cục mới thở phào nhẹ nhõm.

Lý Thế Dân không giết y tại chỗ, chí ít tính mạng của y cũng tạm thời được an toàn. Trong lòng La Nghệ rất rõ, uy lực của mình trấn thủ ở Đồng Quan khiến Lý Thế Dân có chút sợ rút dây động rừng.

Ra lệnh một tiếng, gần trăm ngàn binh sĩ đều cùng quỳ gối một nhịp, loại tố chất của quân đội này cũng không phải mỗi người đều có thể dưỡng được. Lý Thế Dân nếu dám giết mình thì quân đội của mình sẽ giở mặt binh biến ngay lập tức với y.

La Nghệ vừa chuẩn bị quay về chỗ ở của mình, mới đi tới giữa cửa phòng thì lúc này, một gã thân binh của Lý Thế Dân từ phía sau chạy vội tới cúi đầu, khom người thi lễ:

- La tướng quân, Tần vương điện hạ mời ngài đi một chuyến.

La Nghệ trong lòng căng thẳng. Bây giờ đã qua giờ hợi, vậy mình đi vào giờ này, liệu có chuyện tốt hay không? Nói không chừng trong trướng của y lại có đao phủ mai phục.

Trán của La Nghệ hơi vã mồ hôi. Ông miễn cưỡng cười nói:

- Đã trễ thế này, không dám tới quấy rối Tần vương điện hạ nghỉ ngơi. Ngày mai ta sẽ tới bái kiến điện hạ.

Thân binh lại cười lạnh một tiếng nói:

- Tần vương điện hạ thân phận thế nào mà phải đợi ông? Nếu ông ta muốn giết ông, thì có gọi ông đến đại trướng không? La tướng quân tự xem mình cao quá rồi.

Mặt La Nghệ nóng lên. Trong lòng thực sự có chút tức giận. Dĩ nhiên nói như vậy không đúng. Tuy nhiên, nói đi nói lại thì tên thân binh này nói cũng có lý. Tần vương nếu muốn giết mình thì cần gì phải kêu lên lều lớn. Bây giờ cũng có thể giết vậy.

- Được rồi! Vậy ta đi.

 Chương 826 : Tẩy trừ suốt đêm (p2)

La Nghệ hung hăng trừng mắt liếc thân binh, xoay người bước nhanh về đại trướng của Lý Thế Dân. Không bao lâu, ông ta đã tới trước đại doanh. Lập tức, có thân binh bẩm báo:

- Khởi bẩm điện hạ, La tướng quân tới rồi.

- Mời ông ta vào!

Bên trong đại doanh vọng ra tiếng của Lý Thế Dân.

La Nghệ đi vào trong trướng, thấy phần lớn đại trướng của chủ tướng đều là trướng hai tầng. Giữa ngoại trướng và nội trướng là đường hẻm, có thể đi thông trực tiếp vào hậu trướng, mà trong truyền thuyết phía trong hẻm đó là các sát thủ mai phục đứng rất đông.

Trong đường hẻm của lều lớn là khoảng không vắng vẻ. Bằng trực giác, La Nghệ cảm thấy không có người mai phục nào. Điều này làm cho trong lòng La Nghệ thoáng chùng xuống tới. Y đi vào đại trướng. Lúc này, Lý Thế Dân đã bỏ khôi giáp ra, mặc lên người một bộ áo cẩm bào màu trắng. Đầu đội mũ tử kim quan, thắt lưng buộc một cái đai ngọc bích, lộ vẻ khôi ngô phóng khoáng. Y đang ngồi ở trước tháp tiền đọc sách.

La Nghệ liền bước lên phía trước khom người thi lễ:

- Tham kiến điện hạ!

Lý Thế Dân bỏ sách xuống, cười cười:

- La tướng quân đêm nay khổ cực rồi!

Dáng vẻ tươi cười không hề giống giá lạnh lúc hoàng hôn mà có một một chút tình cảm, ngữ khí cũng có ý cảm ơn. La Nghệ vội vàng nói:

- Ty chức sẽ cố gắng hết sức. Đây là việc thuộc trách nhiệm của ty chức, không dám nhận lời khen của điện hạ.

Lý Thế Dân gật đầu:

- “Câu cống hiến sức lực” này dùng rất hay. Tuy nhiên, chỉ như vậy vẫn có chút chưa đủ. Nếu như đem chữ sức lực đổi thành chữ “Trung thành”, vậy trọn vẹn rồi.

Nói xong, Lý Thế Dân cười như không cười nhìn La Nghệ, đợi câu trả lời chính thức của y. Lý Thế Dân đã nhìn thấu được khả năng cầm quân và luyện binh của La Nghệ, có thể huấn luyện tám nghìn binh sĩ phối hợp ăn ý như vậy, y chưa từng gặp qua.

Trên chiến trường, tám nghìn người này chính là một đội quân có sức chiến đấu hung mạnh, không hổ là tổng quản U Châu, ngay cả Đậu Kháng so ra đều kém hơn ông ta. Tài năng của ông ta đã làm lay chuyển Lý Thế Dân. Y lại muốn thu nhận La Nghệ về phía mình.

Tim La Nghệ như muốn nhảy tung lên. Vốn Lý Thế Dân muốn thu nạp mình, để mình phục vụ y. Thực ra, vấn đề này từ trước đây mấy tháng ông ta đã từng lưỡng lự. Cục diện chính trị Đại Đường ông ta cũng biết, nếu muốn có chỗ đứng trong quân đội, nếu không dựa vào Tần vương, thì cũng phải dựa vào Thái Tử.

Nhìn về thế lực quân ngũ, rõ ràng là Tần vương mạnh hơn Thái Tử. Theo Tần vương dường như có tiền đồ hơn. Nhưng La Nghệ cũng hiểu được, Tần vương có đại tướng dưới quyền đông đảo, lại có những dòng chính thống như Trưởng Tôn Vô Kỵ, Uất Trì Kính Đức.. theo y phò tá lâu năm, rất được y tín nhiệm.

Chi thứ như Đoàn Chí Huyền, Lưu Hoằng Cơ, Ân Khai Sơn… đều là những chức vụ trên ông ta. Mà bản thân xuất thân tổng quản U Châu, không có người đứng sau bố trí, về cơ bản không được ở dòng chính, thậm chí chỉ có thể trở thành chi thứ hạng hai.

Thủ hạ, tướng lĩnh của Tần vương đông đảo, mình khó có ngày cất đầu lên được. Hơn nữa, quân quyền khống chế bản thân cực nghiêm, nếu mình mà đi theo y thì chỉ có thể làm tên lính đầu to mà thôi.

Nhưng Thái Tử Kiến Thành lại không giống với y, thủ hạ Thái Tử quan văn nhiều, nhưng đại tướng lại thiếu. Nếu như đầu quân vào ông ta, lấy tư cách và sự từng trải của chính mình, tất sẽ được trọng dụng, trở thành phụ tá đắc lực của ông ta.

Quan trọng hơn là Thái Tử cũng không dẫn binh, đối với quân quyền nắm giữ không nghiêm, thả cho mình thoải mái làm việc. Bởi vậy, La Nghệ mới có thể sử dụng phương pháp huấn luyện binh sĩ kiểu tẩy não ở Đồng Quan khiến mười ngàn quân ở Đồng Quan trung thành và tận tâm. Nếu làm thủ hạ Tần vương thì tuyệt đối không thể làm được.

Trong lòng La Nghệ sáng giống như gương. Ông ta tuyệt đối không thể nào bỏ đi sự trọng dụng của Thái Tử mà đi cống hiến cho Tần vương. Việc này gọi là thà làm đầu gà còn hơn làm đuôi trâu.

La Nghệ quỳ xuống, cung kính gập đầu một cái. Lý Thế Dân cho rằng y đã đồng ý rồi, nên trên mặt lộ vẻ vui mừng tươi cười.

Nhưng không ngờ La Nghệ trầm giọng nói:

- Đa tạ Tần vương điện hạ đã rất ưu ái đối với ty chức. Ty chức cống hiến cho Đại Đường, cống hiến cho Thánh Thượng, đây là bổn phận của ty chức. Điện hạ là thân vương Đại Đường, đứng đầu Thượng Thư, Thiên Sách Thượng Tướng, tận lực cho điện hạ cũng là chuyện đương nhiên phải làm. Ty chức sẽ tuân thủ nghiêm ngặt quân lệnh, làm tốt đạo của thuộc hạ.

Lý Thế Dân liền thay đổi sắc mặt. Việc này chính là La Nghệ đã cự tuyệt với mình. Trong lòng y được một trận căm tức. La Nghệ dám rượu mời không uống chỉ thích uống rượu phạt ư?

- La tướng quân, ngươi hãy suy nghĩ cho kĩ tới hậu quả của việc cự tuyệt bản vương!

Lý Thế Dân lạnh lùng nói.

La Nghệ trong lòng thở dài. Thái độ y cũng trở nên cương quyết:

- Điện hạ, lúc này vẫn là thời kì chiến tranh, việc quân phòng thủ ở Đồng Quan đang thực thi đề phòng cực kì quan trọng. Nếu như ta bị xảy ra bất trắc, sợ rằng sẽ làm cho xảy ra binh biến. Ty chức lo lắng làm nguy hiểm cho an toàn của điện hạ.

- Ngươi dám uy hiếp ta?

Trong chớp mắt của Lý Thế Dân có sát khí, tay y đã cầm chuôi kiếm.

- Ty chức không dám. Nếu như điện hạ muốn giết ty chức, quả thật sẽ dẫn tới nạn binh đao ở Đồng Quan. Nếu như chỉ là điện hạ muốn tiếp quản phòng vệ Đồng Quan, thì ty chức xin tuân lệnh.

Ánh mắt hung hăng của Lý Thế Dân theo dõi ông ta. Một lát sau, sắc mặt rốt cục y cũng dịu nhẹ một chút, khẽ gật đầu:

- Ta cũng không muốn giết ngươi. Chỉ là ta lo lắng Dương Nguyên Khánh sẽ tập kích Đồng Quan, năng lực ngươi không đủ, khó có thể bảo vệ cho quan ải, cho nên ta quyết định tiếp quản phòng vệ Đồng Quan, làm chủ tướng Đồng Quan. Về phần La tướng quân, có thể tạm thời làm phó tướng Đồng Quan.

- Điện hạ có lệnh, ty chức chỉ có thể vâng theo. Mặt khác, mẫu thân ty chức sức khỏe không tốt. Ty chức xin được nghỉ phép để quay về kinh thăm mẹ, mong điện hạ ân chuẩn!

Lý Thế Dân nhìn y chăm chú trong chốc lát, rốt cục cũng gật đầu:

- Ta cho ngươi quay về kinh thăm người thân!

...

Sau một khắc, La Nghệ dẫn hơn một trăm thân binh kỵ mã lao ra thành Đồng Quan, đi về phía thành Trường An nhanh như chớp giật.

Suốt đêm, Lý Thế Dân gạt bỏ toàn bộ các tướng ở Đồng Quan, toàn bộ quan quân từ chức Giáo Úy trở lên đều đổi thành thân vệ tâm phúc của mình, mười nghìn quân phòng thủ ở Đồng Quan đã triệt để biến thành thế lực của mình.

Đối với việc triệt đường rút lui về mọi mặt của quân Đường, Dương Nguyên Khánh dẫn hai mươi ngàn kỵ binh bám đuổi theo dõi. Hai mươi ngàn kỵ binh quân Tùy tựa như một bầy sói, cùng đợi cơ hội để hành động. Nhưng tám mươi ngàn quân Đường cũng ý thức được đang bị quân Tùy bám theo đuôi, bọn họ đã áp dụng cách thức hành quân bè lũ, sắp xếp ở phía trước và sau là đội quân hùng hậu, đồ quân nhu ở chính giữa, chậm rãi rút quân về hướng tây bắc, không để cho quân Tùy có một chút cơ hội nào.

Buổi trưa hôm nay, trong một cánh rừng tùng ở phía nam của huyện Hoằng Nông, hai mươi ngàn kỵ binh quân Tùy tụ tập nghỉ ngơi. Dương Nguyên Khánh thì ngồi ở trên một tảng đá lớn, nghe báo cáo của La Sĩ Tín. La Sĩ Tín và Trình Giảo Kim suốt đêm dẫn hơn một nghìn người từ quậnToánh Xuyên chạy tới quận Hoằng Nông.

Mặc dù, bọn họ đang cùng với thuộc hạ Lý Tĩnh tham gia vây quét quân Đường ở Tương Dương, nhưng bọn họ ban đầu là đơn độc tiếp nhận mệnh lệnh bất ngờ đánh chiếm Hổ Lao Quan. Theo chế độ nước chảy về nguồn của quân Tùy, ông ta phải trở về giao lệnh.

Bọn họ đã giao lại lệnh Hổ Lao quan, nhưng Dương Nguyên Khánh lại càng cảm thấy hứng thú về cuộc đấu tranh cường của La Sĩ Tín và Lý Huyền Bá. Hắn cũng biết tới mười tên tuổi của đại dũng tướng này trong thiên hạ mà ngay từ nhỏ đã cảm thấy hứng thú. Tuy rằng không phải thuộc mười tám hảo hán trong thiên hạ, nhưng mười dũng tướng cũng không kém là bao nhiêu. Tuy nhiên, Vũ Văn Thành Đô và Tiết Cử đã chết. Hiện tại, trên thực tế chỉ có tám dũng tướng.

- Ta nghe nói Lý Huyền Bá đó cực kì khỏe. Một đôi chùy lớn trong tay y có thể sánh ngang với vạn phu. Thủ hạ của hắn chưa từng có tướng tay cầm ba chùy. Có đúng hùng mạnh như vậy không?

La Sĩ Tín chạy gấp một đêm thì tới, chính là muốn báo cho Dương Nguyên Khánh về cái được mất của Hổ Lao quan, cùng với một vài chi tiết về cuộc chiến ở quận Toánh Xuyên. Không ngờ, với chuyện này, Dương Nguyên Khánh lại dường như cũng không có hứng thú. Ngược lại, hắn thích cuộc chiến của Lý Huyền Bá với anh ta. Điều này làm cho La Sĩ Tín trong lòng cười khổ không ngớt, chỉ còn biết nói:

- Hồi bẩm tổng quản, Lý Huyền Bá đó quả thực là rất lợi hại. Lần trước, tuy rằng ngựa chiến không thể chống đỡ được nữa mà thất bại, nhưng thực sự đối với sức chiến đấu của y, ty chức tự nghĩ, địch không lại y năm hiệp.

- Nếu ta quyết đấu với y, ngươi cho rằng có thể địch lại mấy hiệp?

Dương Nguyên Khánh lại cười tủm tỉm hỏi.

La Sĩ Tín thở dài:

- Trong tay của tổng quản nắm binh quyền của Đại Tùy, tung hoành thiên hạ. Lý Huyền Bá đó chỉ là một người trong giới mãng phu, tổng quản đem mình ra so sánh đánh đồng với y, chẳng phải là làm cho mình nhục nhã ư?

Dương Nguyên Khánh ha hả cười,

- Không sao. Chúng ta nói tùy tiện một chút, chính là để đùa chút cho vui.

 Chương 827 : Chùy của Huyền Bá

Trình Giảo Kim đứng ở bên cạnh nhếch miệng cười, nói:

- Lôi Công Nhi đó làm sao có thể là đối thủ của tổng quản. Chỉ trong ba chiêu Phá thiên sóc của tổng quản đã lấy được tính mạng của y, thử hỏi có người nào của Đường triều có thể làm đươc?

- Ngược lại cũng không phải!

La Sĩ Tín là người cẩn thận, trầm ngâm một chút thì nói:

- Lý Huyền Bá không chỉ có sức khỏe chùy mạnh, hơn nữa còn có một số chiêu tinh xảo, nắm được những kĩ thuật hết sức khéo léo tuyệt vời. Ta lao thương ra bảy cái, y đều có thể phán đoán chuẩn đầu thương, tuyệt đối không phải là một tên phu sĩ tầm thường. Nếu tổng quản và y tranh đấu, ta phỏng chừng có thể duy trì mười hiệp. Tuy nhiên, tổng quản có thể dùng tiễn, thì khó có thể đoán trước được.

Dương Nguy ở bên cạnh mấm môi nói:

- La tướng quân, nghe nói tướng quân có được một cái đại chùy của Lý Huyền Bá. Còn đó không?

Dương Nguy cũng là người dùng chùy. Từ lâu, y cũng đã học môn võ nghệ của Lý Huyền Bá, nhưng trong lòng ít nhiều cũng có chút không phục. La Sĩ Tín gật đầu, quay đầu lại bảo một gã binh sĩ:

- Đem chùy đến đây!

Chỉ chốc lát, hai gã binh sĩ đã mang tới cái chùy lớn, đặt ở trước mặt mọi người. Dương Nguy đi lên phía trước quan sát tỉ mỉ cái chuỳ lớn này. Nhất thời, y hít một hơi lạnh. Cái chùy này lớn hơn chùy của y hai vòng có dư, một đôi chùy của y cũng chỉ có bốn mươi cân nhưng cái chùy này phải nặng tới sáu mươi cân.

Hai vai của Dương Nguy gắng sức, chậm rãi cầm chùy nâng lên. Tuy rằng, y có thể nâng được cái chùy lớn này, nhưng có thể cầm chùy lên múa thì tuyệt đối không có khả năng. Y chỉ còn biết lắc đầu buông chùy xuống, thở dài một tiếng:

- Không hổ là thiên hạ đệ nhất dũng tướng. Ta kém xa quá.

Dương Nguyên Khánh biết Dương Nguy có sức mạnh là bởi vì y cao béo. Sức lực y có được là do trời sinh. Điều không phải do tự rèn luyện mà thành. Võ công Dương Nguy về căn bản không có đột phá, mà nếu như đột phá, vậy thì sự vận dụng của y đối với sức mạnh sẽ không còn như vậy nữa. Dương Nguyên Khánh nảy sinh thích thú đối với cái chuôi này. Hắn đi lên đằng trướctay phải cầm chiếc chùy, hơi hoảng một chút, trong lòng có sự rõ ràng. Một cánh tay đưa lên gắng sức, rốt cuộc, cái chùy nhẹ nhàng được nâng lên. Cánh tay xuất ra hai chiêu chùy pháp, đánh mạnh tới một gốc cây bên cạnh, chỉ nghe thấy tiếng động: “Răng rắc”! Cây nhỏ đó bị gãy làm hai đoạn.

- Chùy pháp hay!

Trình Giảo Kim đứng ở một bên vỗ tay ủng hộ. Dương Nguy con mắt trừng lớn. Bây giờ y mới hiểu được võ công của mình so với Dương Nguyên Khánh còn thua xa. La Sĩ Tín cũng lấy làm kinh hãi. Chiếc chùy này y cũng từng thử qua không dưới một lần. Y cũng giơ lên thử, nhưng nếu như Dương Nguyên Khánh nâng lên nhẹ như không, thoải mái như thường, thì y tự nhận mình không thể làm được. Lẽ nào, võ nghệ của mình với sư huynh kia lại hơn kém nhau xa như vậy.

Dương Nguyên Khánh đặt chùy ở trước mặt La Sĩ Tín, thấy vẻ mặt y hoảng hốt, liền cười nói:

- Thế nào, chưa từng nghĩ tới sao?

La Sĩ Tín lắc đầu:

- Làm cho người khác khó tin nổi, ty chức căn bản không làm được.

Dương Nguyên Khánh nở nụ cười:

- Cho nên sư phụ mới nói, khả năng ngươi có thể ngộ ra kém hơn so với ta. Thực ra chiếc chùy này ta bỏ ra sức ra như nhau. Ta vung thế chùy theo sức mạnh của bản thân nhưng lại không cho nó không khống chế được ta. Sức mạnh của ta không phải ở chỗ vung chùy, mà là ở chỗ khống chế thế đi của nó, khiến cho nó đi theo đúng hướng đánh của mình. Quan trọng nhất chính là phải nắm thật chặt được cái chuôi này, như vậy là có thể làm được cái gọi là mượn lực đánh lực, hiểu không?

Võ nghệ của La Sĩ Tín và Dương Nguyên Khánh vốn cùng một lò luyện ra. Võ nghệ Dương Nguyên Khánh cao hơn như thế này, cuối cùng y cũng hiểu ra giống như có nước tạt vào mặt làm bừng tỉnh, biết làm sao để vận dụng sức mạnh rồi.

Dương Nguyên Khánh thấy nét mặt y kinh ngạc thì biết y đã lĩnh ngộ được rồi. Nhưng đây cũng chỉ là lĩnh ngộ. Nếu muốn khống chế sức mạnh triệt để, còn cần có tâm huyết, nỗ lực khổ luyện nhiều.

Dương Nguyên Khánh vỗ vỗ bờ vai của y nói:

- Thực ra, ngươi cũng không yếu hơn so với Lý Huyền Bá. Song y đã phát huy tối đa tiềm lực của bản thân. Chỉ cần ngươi có thể dùng sức mạnh của mình để chế ngự được chiếc chùy này, vậy ngươi thì có thể đánh bại y trên chiến trường. Khi đó, đệ nhất dũng tướng trong thiên hạ là ngươi - La Sĩ Tín, chứ không phải Lý Huyền Bá.

Cảm xúc La Sĩ Tín phập phồng, chậm rãi lắc đầu:

- Nếu như ty chức có thể đánh bại y thì ty chức cũng chỉ là thiên hạ đệ nhị.

Dương Nguyên Khánh mỉm cười:

- Được rồi, chúng ta không nói chuyện này nữa. Nói xem làm thế nào đối phó với Lý Nguyên Cát.

... .

Ba mươi ngàn tân quân Lý Nguyên Cát đóng quân tại huyện Thiểm. Ngay từ lúc ban đầu xuất binh, do đại tướng tâm phúc của Lý Kiến Thành, chủ tướng của Lâm Tân Quan - Thường Hà tổng chỉ huy. Nhưng trong hội nghị toàn quân đã quyết định rút quân. Lý Kiến Thành thay phụ thân Lý Uyên gánh chịu trách nhiệm về sai lầm quyết sách.

Để cảm ơn, Lý Uyên đã đáp ứng thỉnh cầu lần thứ hai của Lý Kiến Thành, đổi lệnh Lý Nguyên Cát làm chủ tướng viện quân tây lộ, dẫn ba mươi ngàn tân quân xuất binh ở huyện Thiểm, từ bắc lộ giam chân quân Tùy.

Mặc dù Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân bất hòa, nhưng ở chiến lược trên, y vẫn phải chấp hành mệnh lệnh của phụ thân Lý Uyên, ra lệnh đại tướng Thường Hà đóng quân hướng đông huyện Văn Hương tiến về phía trước một trăm dặm đến khu vực hang động huyện Thiểm.

Như vậy, tám mươi ngàn đại quân ở phía tây của Lý Thế Dân, ba mươi ngàn quân của Thường Hà ở phía bắc, hình thành nên thế góc cạnh, uy hiếp trực tiếp đối với quân Tùy, ép Dương Nguyên Khánh ở huyện Nghi Dương, mà không có cách nào có thể phát động thế tiến công đối với quân Đường.

Nhưng cùng với việc Tề vương Lý Nguyên Cát đến đó, quân Đường đóng quân ở huyện Thiểm cũng bắt đầu chậm rãi hành quân về hướng tây. Lý Nguyên Cát không ăn ý với Lý Thế Dân. Bọn họ đều vì chấp hành ý chỉ lui quân của triều đình.

Thậm chí, Lý Nguyên Cát tìm cách không phối hợp Lý Thế Dân tác chiến với quân Tùy. Y kiên quyết phản đối xuất binh trợ giúp Lý Thế Dân. Chỉ là anh cả bắt buộc nên mới phải mang quân phối hợp với y.

Nếu như nói Lý Kiến Thành xuất phát từ sĩ diện và thân phận, thì khi gặp Lý Thế Dân còn có thể ra vẻ khách khí vài câu. Thế mà Lý Nguyên Cát thì trừng mắt lạnh lùng nhìn Lý Thế Dân không hề giả tạo.

Lý Nguyên Cát từ nhỏ là một đứa trẻ lầm lì, tính cách tàn nhẫn, thích tự mình làm chuyện lạ, không nghe người khuyên bảo. Tuy nhiên, sau khi trải qua chuyện ở Đồng Quan, Lý Nguyên Cát đã giảm bớt đi rất nhiều, đã học được sự trầm mặc nhẫn nhịn chịu đựng.

Nhưng như vậy cũng không có nghĩa là từ nay về sau, lí trí của y sẽ được thuần phục. Ngược lại, lòng y càng trở nên ác nghiệt. Y tàn nhẫn, bạo ngược từ trong bản chất mà ra. Khi y đang không thể nén sự lỗ mãng, cộc cằn, tàn nhẫn ở trong người được nữa thì nó sẽ bộc phát ra bề ngoài. Y càng trở nên thâm độc và lạnh lùng tàn khốc.

Y giống như loài rắn độc lặng lẽ, trò chuyện rất ít, không ai có thể biết y đang suy nghĩ cái gì, thì ngay cả tên lính tâm phúc cũng đoán không ra suy nghĩ của y. Từng ngày trôi qua, tên thân binh tâm phúc ấy đều nơm nớp lo sợ. Mỗi buổi tối đi ngủ đều là cơ hội may mắn lại được sống thêm một ngày đêm.

Đội quân của Lý Nguyên Cát cũng mang theo số lượng lớn đồ quân nhu, hành quân thong thả. Lúc màn đêm buông xuống, thì đội quân cũng đến được trấn Trù Tang.

Lý Nguyên Cát lập tức hạ lệnh đại quân đóng quân ngay tại chỗ. Bọn thân binh của y tâm linh thần hội. Tề vương đóng quân ở trấn tự có thâm ý của y, không cần phân phó. Hai mươi mấy tên thân binh lập tức ra khỏi doanh trại đi lên trấn, tìm kiếm những cô gái có khuôn mặt đẹp.

Từ nhỏ, mẫu thân Lý Nguyên Cát - Đậu hoàng hậu rất không thích y nên đưa cho nhũ mẫu nuôi nấng. Chính do tâm lí thiếu thốn này nên y càng chú ý tới những người phụ nữ chín chắn, đã có chồng. Đây chính là khát vọng tận đáy lòng của y đối với tình thương của mẹ.

Có thể là đây chính là nguyên do kích thích Lý Nguyên Cát thích những người đàn bà đã có chồng.

Mười hai tuổi đã có người đàn bà đầu tiên. Sau đó, càng không thể cứu vãn. Rốt cuộc thì giống như loài mãnh thú động dục.

Loại háo sắc này củ y, khiến phụ thân Lý Uyên có chút không thích y lắm. Mặc dù Lý Uyên cũng cực kỳ háo sắc, nhưng ông ta mong muốn những đứa con mình co thể giữ được trong sạch.

Lý Nguyên Cát được anh mình là đại ca Lý Kiến Thành khuyên bảo, cũng tương đối nhẫn nhịn ở Trường An, cố gắng không để việc xấu lộ ra ngoài. Nhưng khi y đi khỏi Trường An, đặc biệt là ở vào thời kì chiến tranh, nỗi thèm khát đàn bà của y lại trỗi dậy, không thể che dấu thêm được nữa.

Trấn Trù Tang là một trấn lớn, ước chừng hơn ba trăm hộ gia đình. Trên trấn cũng có mấy nhà giàu. Trong đó, có người nhà họ Ngô là một danh môn trấn Trù Tang. Chủ nhà Ngô Trinh Khanh từng là Lễ Bộ Thượng Thư của Bắc Chu. Nhà cửa giàu có, đất đai rộng hơn mười mẫu, và năm người con ở cùng một chỗ.

Trong khoảng thời gian này, quân đội phía tây Lạc Dương qua lại nhiều lần. Ngô Trinh Khanh cũng đã quen rồi. Đối với đội quân thường lui này, ông ta vẫn không thèm để ý. Mỗi ngày đối với ông ta vẫn lặng lẽ trôi qua.

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngưng. Buổi tối, một chuyện vô cùng nhục nhã đã trút xuống đầu nhà họ Ngô, mười mấy tên thân binh của Tề vương Lý Nguyên Cát chạy ào ào vào nhà họ Ngô.

 Chương 828 : Bảo đao Thất Tinh

Trong nhà Ngô gia trở thành đống hỗn độn, người bị thương nằm la liệt trên mặt đất, thân binh của Tề vương hung bạo như hổ đói đã bắt bốn nữ nhân của Ngô gia đi, trong đó có hai tiểu thiếp, cô con gái nhỏ và cô cháu gái ở góa của Ngô Trinh Khanh.

Ngô Trinh Khanh năm nay đã hơn sáu mươi tuổi, lão được mấy đứa cháu run lẩy bẩy dìu đến sân trước, nhìn thấy người nhà và con cái bị đánh trọng thương, lão quản gia còn bị đâm một đao, máu chảy lênh láng, đang hấp hối.

Khi nghe nói chúng còn cướp bốn người phụ nữ đi, còn có cả đứa cháu gái của mình, Ngô Trinh Khanh giận dữ vô cùng, nước mắt lão tự nhiên tuôn trào:

- Ngô gia ta cả đời sống lương thiện, cũng sắp gần đất xa trời rồi mà vẫn gặp nỗi nhục lớn này, ông trời ơi ông có mắt không vậy!

Con trai cả Ngô Bình của lão nhìn thấy cha quá đau lòng sợ ảnh hưởng tới sức khỏe của lão, vội sai người dìu cha về, lão lại than thở một tiếng, rồi ngồi trên cái sạp nhỏ cúi đầu không nói câu gì, lão cũng không biết bây giờ phải làm thế nào.

- Lão gia!

Một gia đinh vội vã chạy tới, nói thì thầm câu gì đó cho Ngô Bình, Ngô Bình ngẩn người ra nói:

- Người ở đâu?

- Ngay ngoài cửa ạ!

Ngô Bình đứng phắt dậy đi ra ngoài, y chỉ thấy bên ngoài cửa có mấy tên quan binh, chắp tay nói với y:

- Chúng tôi là thám báo của quân Tùy, nghe nói binh sĩ quân Đường xông vào quý phủ, muốn hỏi thăm có chuyện gì xảy ra không?

Ngô Bình như gặp được ân nhân cứu mạng, vội vã khom người nói:

- Nhà chúng tôi thật vô phúc, mong rằng quân Tùy có thể cứu lấy Ngô gia chúng tôi!

….

Trong khu rừng cách trấn Trù Tang khoảng mười dặm về phía nam, Dương Nguyên Khanh đích thân dẫn hai mươi ngàn kị binh nghỉ ngơi ở đây cũng gần nửa canh giờ rồi.

Bọn họ theo dõi bám sát quân đội của Tề vương Lý Nguyên, mặc dù tám mươi ngàn đại quân của Lý Thế Dân đang ở huyện Chu Dương phía tây nam cách đó bảy mươi dặm, nhưng hai cánh quân Đường vẫn chưa có liên hệ gì với nhau, mỗi bên đều tự rút quân về phía tây. 

Như vậy sẽ tạo ra một cơ hội mới. Nếu ba mươi ngàn quân của Lý Nguyên Cát gặp phục kích, thì tám mươi ngàn quân của Lý Thế Dân chưa chắc sẽ kịp thời tới viện trợ, một mặt là vì trong thời gian đó không thể tới kịp, mặt khác là vì Lý Thế Dân cũng không có ý cứu viện.

Sau nhiều lần suy xét tình hình này, Dương Nguyên Khánh cuối cùng cũng đưa ra quyết định, chặn giết ba mươi ngàn quân của Lý Nguyên Cát. Lúc này ba mươi ngàn quân của Lý Nguyên Cát đang đóng quân ở phía bắc của trấn Trù Tang, cách họ chừng mười hai, mười ba dặm.

Lúc này, Giáo Úy thám báo chạy như bay tới, y được binh sĩ dẫn tới trong quân trướng của Dương Nguyên Khánh. Giáo Úy thám báo quỳ xuống bẩm báo:

- Bẩm tướng quân, chúng ta nhận được một tin từ trấn Trù Tang.

- Tin gì vậy?

- Có khoảng ba mươi thân binh của Lý Nguyên Cát xông vào gia đình giàu có trong trấn, cướp đoạt bốn người phụ nữ của Ngô gia đem về doanh trại của chúng.

Dương Nguyên Khánh đang xem xét địa hình tại khu vực trấn Trù Tang, tin tức vừa rồi làm cho hắn có phần bất ngờ, còn có cả chuyện này sao:

- Ngươi chắc chắn đó là do quân của Tề vương làm không?

- Ty chức đã hỏi tỉ mỉ trưởng tử của Ngô gia, bọn binh sĩ cướp người còn tự xưng là thân vệ của Tề vương, bọn chúng còn nói đây là điều vinh hạnh của Ngô gia, được Tề vương chiếu cố tới, bọn chúng còn cướp đoạt cả phụ nữ, con gái của họ, còn của cải lại không hề bị cướp, đây chính xác là do quân của Tề vương gây ra.

Dương Nguyên Khánh gật đầu nói với Giáo Úy:

- Bọn chúng rất có khả năng đem quân quay lại, ngươi dẫn theo một số huynh đệ mai phục trong trấn, đợi khi bọn chúng quay lại thì giết hết, những người nào còn sống thì dẫn về.

- Tuân lệnh!

Giáo Úy hành lễ, rồi đứng dậy ra khỏi lều trại. Dương Nguyên Khánh nhìn lướt qua La Sĩ Tín ở bên cạnh, thấy y muốn nói điều gì nhưng lại thôi, bèn cười hỏi:

- Ngươi có điều gì muốn nói vậy?

La Sĩ Tín biết kế hoạch của Dương Nguyên Khánh, nên y cũng lo lắng suốt dọc đường, y cũng có suy nghĩ của riêng mình, La Sĩ Tín trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Nếu Tổng quản cũng biết huynh đệ Lý Thế Dân bất hòa, vậy lần này chúng ta có nên gây xích mích một chút không? Chẳng hạn chúng ta giả vờ thua trong tay của Lý Nguyên Cát, như vậy chẳng phải sẽ giáng một cái tát vào Lý Thế Dân hay sao?

Đề nghị của La Sĩ Tín khiến Dương Nguyên Khánh phải trầm tư suy nghĩ, cũng có phần có lý, Lý Thế Dân đánh quân Tùy đã lâu mà chưa giành được thắng lợi, vậy mà Lý Nguyên Cát lại có thể đánh bại quân Tùy, như vậy lúc đó uy danh của Lý Thế Dân trong quân đội sẽ suy sụp trầm trọng, nhưng suy nghĩ một lúc lâu, Dương Nguyên Khánh lắc đầu nói:

- Cách này cũng rất hay nhưng vẫn có chút không thích hợp.

- Tại sao?

La Sĩ Tín hỏi một cách khó hiểu:

- Lẽ nào Tổng quản cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng tới sĩ khí của quân chúng ta?

- Vậy thì không phải.

Dương Nguyên Khánh nói ý vị thâm sâu:

- Chính xác mà nói, kế sách của ngươi suy nghĩ còn đơn giản, Lý Uyên là người như thế nào, chẳng nhẽ lão không hiểu con trai mình, và không nhìn ra kế hoạch giả thua của chúng ta sao? Mục đích là để khơi mào mâu thuẫn giữa huynh đệ nhà Lý thị, trái lại còn khiến lão thêm cảnh giác, nhanh chóng đem toàn bộ binh quyền giao cho Lý Thế Dân. Trong lúc nhằm vào huynh đệ chúng, không cần phải dồn hết tâm trí mà hành động, như thế trái lại biến lợn lành thành lợn què, thắng ắt sẽ thắng, thua ắt sẽ thua, tất cả thuận theo ý trời rồi. Như thế mới làm cho mâu thuẫn giữa chúng càng trở lên sâu sắc, thử nghĩ mà xem, nếu quân của Lý Nguyên Cát thua, mà Lý Thế Dân lại lui quân, như thế trong lòng của Lý Nguyên Cát sẽ oán hận cái gì?

La Sĩ Tín lặng lẽ gật đầu:

- Tài nhìn người của Tổng quản thật cao siêu, đã đạt tới trình độ như hỏa thuần thanh, tương lai của vương triều Lý thị ắt sẽ bại dưới cuộc nội chiến của huynh đệ bọn chúng thôi.

Dương Nguyên Khánh cười híp cả mắt lại, câu nói này của La Sĩ Tín thật không sai, trong lịch sử, mâu thuẫn nội bộ trong quan hệ huynh đệ nhà Lý thị đã nảy sinh sau khi thiên hạ thống nhất, cho nên vẫn chưa dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

Nhưng hiện tại đã có sự bất đồng rồi. Việc chuyển tiếp giữa hai triều đại Tùy, Đường có sự xuất hiện lớn của nhân vật Dương Nguyên Khánh, hắn là người không ngừng tạo ra xích mích giữa anh em nhà Lý thị, làm cho mâu thuẫn giữa anh em họ trở lên gay go hơn vào năm Võ Đức thứ nhất, mâu thuẫn đó sớm muộn gì cũng sẽ bộc phát, như vậy khi nội chiến trở nên nghiêm trọng, vương triều Lý thị sẽ tồn tại được bao lâu?

Lúc này, Dương Nguyên Khanh chợt nghĩ tới một việc, cười tủm tỉm vỗ vai La Sĩ Tín nói:

- Nghe nói ngươi gặp được Tuyến Nương?

La Sĩ Tín mặt đỏ bừng, gật đầu:

- Nàng ta hiện là Giáo úy nữ hộ binh, nàng ấy muốn cùng mạt tướng ở đây, mạt tướng vẫn chưa đồng ý, nàng ấy hiện tại vẫn đang ở trong quân của Lý Trưởng Sử.

- Cũng tốt đấy chứ! Đúng là nhân duyên trời định.

Dương Nguyên Khanh cảm thấy vui mừng khôn xiết khi thấy sư đệ cuối cùng cũng tìm được bến bờ yêu thương, liền hỏi:

- Vậy hai ngươi định khi nào thì thành hôn, ta còn nhờ Vương phi sắp xếp cho các ngươi.

La Sĩ Tín cúi đầu, cắn môi nói:

- Tổng quản khi nào chuẩn bị đánh Đậu Kiến Đức?

Dương Nguyên Khánh bèn hỏi:

- Câu hỏi này của nhà ngươi là ý gì?

La Sĩ Tín thở dài nói:

- Tuyến Nương biết quân Tùy sớm muộn gì cũng phải đánh Đậu Kiến Đức, nàng ấy không có cách nào, nàng ấy hi vọng tôi không tham gia, nếu không nàng ấy sẽ rất đau buồn, tôi thật sự rất mâu thuẫn, tôi vốn là tướng sĩ đại Tùy, làm sao có thể…

- Ngươi không cần nói nữa!

Dương Nguyên Khánh xua tay ngăn y lại:

- Việc này ta sẽ thu xếp ổn thỏa, Tuyến Nương là một cô gái tốt, ngươi cứ an tâm lấy cô ấy, không nên nghĩ tới việc Đậu Kiến Đức nữa, đánh Đậu Kiến Đức ta sẽ cử Tần Quỳnh làm chủ tướng.

….

Ba mươi ngàn tân binh do Lý Nguyên Cát dẫn đầu đang đóng quân tại một đồng cỏ bao la nằm về phía bắc trấn Trù Tang khoảng hai dặm, đại bản doanh chiếm khoảng trăm mẫu đất, do tạm thời đóng doanh nên không xây dựng hàng rào, chỉ dùng hai trăm nghìn giáo thương bao xung quanh doanh trại, vòng trong lại bao xung quanh hơn mấy nghìn cỗ xe quân nhu, chính giữa mới là quân doanh.

Lúc này trời đã về khuya, binh sĩ đều đã ngủ say, phục hồi tinh thần. Ngày mai tiếp tục hành quân thì buổi tối có thể tiến vào Đồng Quan rồi, tất cả binh lính đều nhớ nhà da diết, ngả đầu xuống ngủ say mê mệt, để trong giấc mơ có thể cùng cả nhà đoàn tụ.

Trong ngoài doanh trại vắng vẻ tĩnh mịch, bốn bề đều khoác lên mình một màu đen kịt, chỉ có đại bản doanh ở trung tâm, có mấy lều trại bên trong vẫn còn ánh đèn chiếu ra, đó là lều trại của chủ tướng quân Đường.

Chủ tướng hiện nay của quân Đường là Lý Nguyên Cát, phó tướng Thường Hà là đại tướng thân tín của Lý Kiến Thành, lúc này trong lều của Thường Hà đèn vẫn còn sáng, Thường Hà năm bay khoảng ba mươi tuổi đầu, dáng người cao to khôi ngô, trên mặt có để râu.

Y cũng xuất thân từ quân của Ngõa Cương, cũng đã từng là đại tướng dưới trướng của Lý Mật. Trong trận đánh với Trương Tu Đà ở chùa Đại Hải, chính y đã dẫn năm trăm kị binh tinh nhuệ vây bắt Trương Tu Đà, trong trận này Trương Tu Đà bị bao vây tới cùng đã phải tự sát mà chết.

 Chương 829 : Tề Vương lâm nguy (1+2)

Thường Hà cũng vì thành tích này mà được Lý Mật trọng thưởng, không chỉ được hơn mười nghìn xấp lụa mà còn được Lý Mật đem đao và ngựa chiến của Trương Tu Đà thưởng cho y. Nhưng sau đó không lâu, vì mối bất hòa giữa Lý Mật và Địch Nhượng, Thường Hà thường qua lại với Địch Nhượng nên cũng bị loại trừ.

Y rời khỏi quân của Ngõa Cương, không lâu sau đó lại đầu hàng triều Đường. Vì một muội muội của y được Lý Kiến Thành sủng ái và được phong làm Trắc Phi, cho nên Thường Hà trở thành đại tướng quân thân tín của Lý Kiến Thành,hết sức được trọng dụng.

Dưới ánh đèn, Thường Hà ngồi xuống chiếc giường nhỏ nhìn chăm chú vào thanh đao trên bàn, lòng nặng trĩu nỗi buồn, đây là thanh đao gia tộc của Trương Tu Đà, được gọi là Thất Linh Lãnh Nguyệt đao, vô cùng sắc bén.

Trước đây khi y nhận được thanh đao này đã vô cùng phấn khởi, nhưng Đơn Hùng Tín nhìn thấy thanh đao này lại lạnh lùng cảnh báo y, Thường Hà y chắc chắn sẽ chết bởi chính thanh đao này.

Không lâu sau, Thường Hà mới hiểu rõ lời cảnh báo thâm sâu của Đơn Hùng Tín, vì y đã phát hiện ngoài dòng chữ “đao của Trương Tu Đàn” khắc trên thanh đao, còn khắc bốn chữ nhỏ: “ truyền đồ Nguyên Khánh”.

Điều này làm cho Thường Hà vô cùng kinh sợ, người tên Nguyên Khánh đương nhiên y biết đó là ai, y có mối thâm thù với Dương Nguyên Khánh, cả đời này y đừng hòng mà sống yên ổn. Cho dù Thái Tử Kiến Thành không ngừng an ủi y, nhưng trong lòng y hiểu rõ, tới một ngày nào đó, sợ rằng Lý Kiến Thành cũng khó lòng bảo toàn tính mạng mình.

Dưới ngọn đèn, Thường Hà từ từ rút chiến đao ra, lưỡi kiếm uy nghiêm đáng sợ như vầng trăng lạnh lùng trên cao, trên chuôi đao có khảm nạm bảy viên bảo thạch, rạng rỡ chiếu dưới ánh đèn, sáng bóng và mỹ lệ, nhưng cũng chính dưới bảy viên bảo thạch đó là bốn chữ được chạm khắc vô cùng tỉ mỉ rõ ràng “truyền đồ Nguyên Khánh”.

Thường Hà thở dài một tiếng, thu đao vào trong bao, chắp tay đi ra lều. Ánh trăng bên ngoài lạnh lùng, trăng hôm nay cũng sắp tròn rồi, qua mấy ngày nữa là đến tết Trung Nguyên rằm tháng bảy, đó là ngày lễ tế cho các vong hồn, là ngày không mấy tốt đẹp, Thường Hà trong lòng có chút phiền não, chắp tay sau lưng đi qua mấy lều, rồi dần dần tiến tới ngôi lều của Tề vương Lý Nguyên Cát.

Bốn mặt của lều trại đều có thân binh canh gác, y không tiến vào được, nhưng y lại nghe đâu đó có tiếng con gái khóc, Thường Hà nhíu đôi lông mày lại, vừa nãy có binh lính báo cáo với y, thân binh của Tề Vương bắt được mấy người phụ nữ, y còn có chút không tin, bây giờ xem ra đúng là như vậy.

Thường Hà lắc đầu, Tề vương thực sự không biết tốt xấu là gì, còn mang nữ nhân vào trong doanh trại, sẽ gây ra nhiều phản cảm đối với các tướng lĩnh khác, có lẽ y là thân vương, y có đặc quyền chơi đùa với nữ nhi, nên mọi người không dám lên tiếng.

Nhưng vì mấy người phụ nữ mà đóng quân bên cạnh trấn Trù Tang, thì không phải là một vị chủ tướng sáng suốt rồi, địa thế vùng này trống trải mênh mông, rất có lợi cho kị binh tấn công, mà hướng về mười mấy dặm nữa là dốc chặn ngựa, đó là khu địa hình nhấp nhô, hoàn toàn bất lợi cho kị binh, Tề vương lại không đóng quân tại chính chỗ đó.

Mặc dù Thường Hà hiểu rõ điểm này, nhưng y lại không dám khuyên bảo Tề vương, con mắt nham hiểm của Tề vương làm y cảm thấy sợ, Thường Hà chỉ thở dài một tiếng rồi quay đầu trở về, đúng lúc đó gặp phải đại tướng tuần tra Trương Thanh.

- Tình hình bên ngoài thế nào?

Thường Hà hỏi.

- Bẩm Thường tướng quân, bên ngoài không có động tĩnh gì, cũng chưa có dấu hiệu gì khác thường.

- Ừ!

Thường Hà như trút được gánh nặng, dặn dò binh sĩ:

- Phải tăng cường phòng bị, không được để xảy ra bất cứ sơ suất gì.

Đúng lúc này, phía sau trong doanh trại có tiếng một người khàn khàn kêu la:

- Điện hạ, người không thể hoang dâm như vậy, việc này sẽ hủy hoại người!

Thường Hà quay đầu lại, y nghe thấy tiếng Trưởng sử phủ Tề vương Vũ Văn Hâm, cuối cùng cũng có người lên tiếng khuyên ngăn Lý Nguyên Cát, Thường Hà không muốn chuốc họa vào thân, bèn vội vã trở về lều của mình.

Trong lều của Tề vương Lý Nguyên Cát, mấy thân binh đang ngăn cản Trưởng sử Vũ Văn Hâm, không cho ông ta tiến gần tới lều của Tề vương, Vũ Văn Hâm quỳ sụp xuống đất, ông ta giận đến nỗi cả người run lên.

Khi Lý Nguyên Cát còn trấn thủ Thái Nguyên, Vũ Văn Hâm lúc đó là Lục Sự Tham Quân dưới trướng của Tề vương, sau này bị quân Tùy bắt làm tù binh, khi Tùy Đường kí kết hiệp định hòa giải nên đã được thả về Trường An, Lý Uyên thấy ông ta trung thành, liền phong cho ông làm Trưởng sử phủ Tề Vương, có trách nhiệm tiếp tục dạy dỗ Tề vương.

Vũ Văn Hâm năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, nhưng râu tóc đã bạc trắng, thoạt nhìn trông lão rất già nua, giống như ông lão sáu mươi tuổi. Lão vừa nghe nói Tề vương bắt nữ giới để mua vui, khiến lão sợ hãi vội vàng tới ngăn cản.

Vũ Văn Hâm nghe tiếng khóc nỉ non của mấy người con gái kia, mà lão cũng kêu lên như thế, Tề Vương dĩ nhiên ngoảnh mặt làm ngơ, trong lòng lão vô cùng tức giận, không thể chịu đựng được nữa, đành phải ra đòn sát thủ này, lão lớn tiếng nói to:

- Tề Vương người còn dám làm điều hoang dâm đó, lão thần sẽ bẩm báo lên Hoàng Thượng!

Câu nói này có hiệu quả tức thì, chỉ trong chốc lát, màn trướng vén lên, mùi rượu nồng nặc khắp người, Lý Nguyên Cát cởi trần từ trong lều rảo bước đi ra, trong tay cầm bảo kiếm, y nghe thấy Vũ Văn Hâm định tâu lên phụ hoàng, không khỏi giận tím mặt, vung thanh bảo kiếm lên, chỉ vào Vũ Văn Hâm nói:

- Lão tặc, ngươi dám uy hiếp ta!

Vũ Văn Hâm giận điên lên, Lý Nguyên Cát lại gọi lão là lão tặc, lão liền gân cổ lên nói:

- Người giết thần đi! Thần thà chết chứ không muốn hầu hạ một tên hoang dâm như người.

Trong mắt của Lý Nguyên Cát đằng đằng sát khí, vung kiếm lên nhậ vào cổ của Vũ Văn Hâm. Vũ Văn Hâm thấy y thật sự muốn giết mình, trong lòng đầy ngao ngán, nhắm mắt lại chờ chết. Nhìn thấy trường kiếm sắp chạm vào cổ của Vũ Văn Hâm, mấy tên thân binh thấy vậy sợ hãi quỳ xuống, kéo tay ngăn Lý Nguyên Cát lại:

- Điện hạ, không thể giết Trưởng sử được, nếu giết ông ta Điện hạ không biết phải ăn nói thế nào với Hoàng Thượng.

Lý Nguyên Cát dần dần bình tĩnh lại, thu kiếm về, nổi giận hét lên một tiếng:

- Cút, ta không muốn nhìn thấy mặt ngươi nữa.

Một tiếng “cút” cũng khiến Vũ Văn Hâm như rơi xuống hố hàn băng, lão từ từ đứng lên, run lẩy bẩy nói:

- Được! Thần đi, điện hạ bảo trọng.

Lão tập tễnh bước về phía cửa doanh trại. Đi được mười mấy bước đột nhiên lão quay đầu lại chỉ vào Lý Nguyên Cát hét to:

- Người cứ việc hoang dâm vô đạo, chuyện sống chết của người không can hệ gì đến ta nữa.

Nói xong lão xoay người quay đi, Lý Nguyên Cát nhìn theo bóng lão với con mắt lạnh lùng, đợi cho lão đi xa một chút ra lệnh cho mấy tên lính:

- Theo lão ra đến ngoài doanh trại, ra đến ngoài thì giết lão cho ta.

....

Cách đại bản doanh của quân Đường năm dặm, hơn hai mươi ngàn quân Tùy đã phục kích xung quanh trấn Trù Tang, đang dần dần áp sát mục tiêu. Bọn chúng trốn trong một khu rừng, không tiếp tục tiến về phía trước nữa, bởi phía trước có quân Đường tuần tra. Hai đội quân khoảng trăm người thám báo đang tìm cách tiến lên, chuẩn bị ra tay giết sạch quân tuần tra của quân Đường để mở đường cho quân Tùy xông lên.

Dương Nguyên Khánh đang hướng tầm nhìn về phía đại bản doanh phía xa, cách đó khoảng năm dặm. Dưới ánh trăng sáng rõ, hắn lờ mờ nhìn thấy doanh trại đen thui ở phía xa kia, quân Đường vậy mà lại dựng lều trại ở ngay đồng cỏ rộng bao la, địa hình vô cùng bằng phẳng, đây quả thật nằm ngoài dự đoán của Dương Nguyên Khánh, đây chẳng phải là mời chào kị binh của hắn đến giết sao?

Lúc này, La Sĩ Tín cũng đã nhận thấy sự bất hợp lý trong cách đóng quân của địch, vội thấp giọng bẩm báo:

- Tổng quản, quân Đường đóng quân ở một bãi cỏ hoang vu, đó có phải là kế dụ binh của bọn chúng?

Dương Nguyên Khánh chậm rãi lắc đầu nói:

- Một quân vương ngay cả trong lúc chiến tranh cũng không thể không nghĩ tới phụ nữ, thì y còn có thể nghĩ được kế gì?

La Sĩ Tín ngoảnh đầu lại nhìn chăm chú vào đại bản doanh của quân Đường. Giọng y dần dần trầm xuống:

- Sư huynh biết Thường Hà không?

Dương Nguyên Khánh ngẩn ra. Tại sao bây giờ lại gọi mình là sư huynh, rồi vội nghĩ tới chuyện khác, hắn liền hiểu ngay, gật đầu:

- Người này ta biết, y đã từng là đại tướng của Lý Mật, trong trận chiến ở chùa Đại Hải y cũng có mặt.

Ban đầu khi nghe tin sư phụ tử trận, Dương Nguyên Khánh hận y thấu xương như hận Lý Mật vậy, thậm chí Dương Nguyên Khánh còn xin thề sẽ nghiền nát y ra thành tro bụi, nhưng thời gian trôi qua đã dần dần làm phai nhạt mối thù trong lòng hắn.

Dẫu sao sư phụ cũng đã tử trận, cuối đời Tùy anh hùng khắp nơi, hào kiệt nhiều vô số, có thể chết trên sa trường, lưu danh muôn đời, chẳng phải cũng là vinh quang hay sao?

Giống như lời khuyên nhủ của hòa thượng Phổ Tịnh với Quan Vũ:

- Nếu muốn báo thù, thế thì Nhan Lương, Văn Sú phải tìm ai mà báo thù đây?

Một người lúc nào cũng mang trong lòng mối hận thù, thì nội tâm thế nào cũng sẽ hẹp hòi, nếu trong lòng hẹp hòi như thế, thì làm sao có thể nắm được cả thiên hạ.

Dương Nguyên Khánh nếu khắc sâu mối thù của sư phụ, thì làm sao có thể kí hiệp ước đồng minh với Lý Mật được, nếu không ký hiệp ước đồng minh với Lý Mật, thì Lý Mật làm sao có thể đem Trung Nguyên cung kính dâng hai tay lên cho hắn, bằng không Lý Mật chắc chắn đã góp một phần sức lực giúp quân Đường trong trận Toánh Xuyên rồi, lúc đó ai thắng ai thua vẫn còn chưa biết được.

Đúng lúc này, phía sau trong doanh trại có tiếng một người khàn khàn kêu la:

- Điện hạ, người không thể hoang dâm như vậy, việc này sẽ hủy hoại người!

Thường Hà quay đầu lại, y nghe thấy tiếng Trưởng sử phủ Tề vương Vũ Văn Hâm, cuối cùng cũng có người lên tiếng khuyên ngăn Lý Nguyên Cát, Thường Hà không muốn chuốc họa vào thân, bèn vội vã trở về lều của mình.

Trong lều của Tề vương Lý Nguyên Cát, mấy thân binh đang ngăn cản Trưởng sử Vũ Văn Hâm, không cho ông ta tiến gần tới lều của Tề vương, Vũ Văn Hâm quỳ sụp xuống đất, ông ta giận đến nỗi cả người run lên.

Khi Lý Nguyên Cát còn trấn thủ Thái Nguyên, Vũ Văn Hâm lúc đó là Lục Sự Tham Quân dưới trướng của Tề vương, sau này bị quân Tùy bắt làm tù binh, khi Tùy Đường kí kết hiệp định hòa giải nên đã được thả về Trường An, Lý Uyên thấy ông ta trung thành, liền phong cho ông làm Trưởng sử phủ Tề Vương, có trách nhiệm tiếp tục dạy dỗ Tề vương.

Vũ Văn Hâm năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, nhưng râu tóc đã bạc trắng, thoạt nhìn trông lão rất già nua, giống như ông lão sáu mươi tuổi. Lão vừa nghe nói Tề vương bắt nữ giới để mua vui, khiến lão sợ hãi vội vàng tới ngăn cản.

Vũ Văn Hâm nghe tiếng khóc nỉ non của mấy người con gái kia, mà lão cũng kêu lên như thế, Tề Vương dĩ nhiên ngoảnh mặt làm ngơ, trong lòng lão vô cùng tức giận, không thể chịu đựng được nữa, đành phải ra đòn sát thủ này, lão lớn tiếng nói to:

- Tề Vương người còn dám làm điều hoang dâm đó, lão thần sẽ bẩm báo lên Hoàng Thượng!

Câu nói này có hiệu quả tức thì, chỉ trong chốc lát, màn trướng vén lên, mùi rượu nồng nặc khắp người, Lý Nguyên Cát cởi trần từ trong lều rảo bước đi ra, trong tay cầm bảo kiếm, y nghe thấy Vũ Văn Hâm định tâu lên phụ hoàng, không khỏi giận tím mặt, vung thanh bảo kiếm lên, chỉ vào Vũ Văn Hâm nói:

- Lão tặc, ngươi dám uy hiếp ta!

Vũ Văn Hâm giận điên lên, Lý Nguyên Cát lại gọi lão là lão tặc, lão liền gân cổ lên nói:

- Người giết thần đi! Thần thà chết chứ không muốn hầu hạ một tên hoang dâm như người.

Trong mắt của Lý Nguyên Cát đằng đằng sát khí, vung kiếm lên nhằm vào cổ của Vũ Văn Hâm. Vũ Văn Hâm thấy y thật sự muốn giết mình, trong lòng đầy ngao ngán, nhắm mắt lại chờ chết. Nhìn thấy trường kiếm sắp chạm vào cổ của Vũ Văn Hâm, mấy tên thân binh thấy vậy sợ hãi quỳ xuống, kéo tay ngăn Lý Nguyên Cát lại:

- Điện hạ, không thể giết Trưởng sử được, nếu giết ông ta Điện hạ không biết phải ăn nói thế nào với Hoàng Thượng.

Lý Nguyên Cát dần dần bình tĩnh lại, thu kiếm về, nổi giận hét lên một tiếng:

- Cút, ta không muốn nhìn thấy mặt ngươi nữa.

Một tiếng “cút” cũng khiến Vũ Văn Hâm như rơi xuống hố hàn băng, lão từ từ đứng lên, run lẩy bẩy nói:

- Được! Thần đi, điện hạ bảo trọng.

Lão tập tễnh bước về phía cửa doanh trại. Đi được mười mấy bước đột nhiên lão quay đầu lại chỉ vào Lý Nguyên Cát hét to:

- Người cứ việc hoang dâm vô đạo, chuyện sống chết của người không can hệ gì đến ta nữa.

Nói xong lão xoay người quay đi, Lý Nguyên Cát nhìn theo bóng lão với con mắt lạnh lùng, đợi cho lão đi xa một chút ra lệnh cho mấy tên lính:

- Theo lão ra đến ngoài doanh trại, ra đến ngoài thì giết lão cho ta.

....

Cách đại bản doanh của quân Đường năm dặm, hơn hai mươi ngàn quân Tùy đã phục kích xung quanh trấn Trù Tang, đang dần dần áp sát mục tiêu. Bọn chúng trốn trong một khu rừng, không tiếp tục tiến về phía trước nữa, bởi phía trước có quân Đường tuần tra. Hai đội quân khoảng trăm người thám báo đang tìm cách tiến lên, chuẩn bị ra tay giết sạch quân tuần tra của quân Đường để mở đường cho quân Tùy xông lên.

Dương Nguyên Khánh đang hướng tầm nhìn về phía đại bản doanh phía xa, cách đó khoảng năm dặm. Dưới ánh trăng sáng rõ, hắn lờ mờ nhìn thấy doanh trại đen thui ở phía xa kia, quân Đường vậy mà lại dựng lều trại ở ngay đồng cỏ rộng bao la, địa hình vô cùng bằng phẳng, đây quả thật nằm ngoài dự đoán của Dương Nguyên Khánh, đây chẳng phải là mời chào kị binh của hắn đến giết sao?

Lúc này, La Sĩ Tín cũng đã nhận thấy sự bất hợp lý trong cách đóng quân của địch, vội thấp giọng bẩm báo:

- Tổng quản, quân Đường đóng quân ở một bãi cỏ hoang vu, đó có phải là kế dụ binh của bọn chúng?

Dương Nguyên Khánh chậm rãi lắc đầu nói:

- Một quân vương ngay cả trong lúc chiến tranh cũng không thể không nghĩ tới phụ nữ, thì y còn có thể nghĩ được kế gì?

La Sĩ Tín ngoảnh đầu lại nhìn chăm chú vào đại bản doanh của quân Đường. Giọng y dần dần trầm xuống:

- Sư huynh biết Thường Hà không?

Dương Nguyên Khánh ngẩn ra. Tại sao bây giờ lại gọi mình là sư huynh, rồi vội nghĩ tới chuyện khác, hắn liền hiểu ngay, gật đầu:

- Người này ta biết, y đã từng là đại tướng của Lý Mật, trong trận chiến ở chùa Đại Hải y cũng có mặt.

Ban đầu khi nghe tin sư phụ tử trận, Dương Nguyên Khánh hận y thấu xương như hận Lý Mật vậy, thậm chí Dương Nguyên Khánh còn xin thề sẽ nghiền nát y ra thành tro bụi, nhưng thời gian trôi qua đã dần dần làm phai nhạt mối thù trong lòng hắn.

Dẫu sao sư phụ cũng đã tử trận, cuối đời Tùy anh hùng khắp nơi, hào kiệt nhiều vô số, có thể chết trên sa trường, lưu danh muôn đời, chẳng phải cũng là vinh quang hay sao?

Giống như lời khuyên nhủ của hòa thượng Phổ Tịnh với Quan Vũ:

- Nếu muốn báo thù, thế thì Nhan Lương, Văn Sú phải tìm ai mà báo thù đây?

Một người lúc nào cũng mang trong lòng mối hận thù, thì nội tâm thế nào cũng sẽ hẹp hòi, nếu trong lòng hẹp hòi như thế, thì làm sao có thể nắm được cả thiên hạ.

Dương Nguyên Khánh nếu khắc sâu mối thù của sư phụ, thì làm sao có thể kí hiệp ước đồng minh với Lý Mật được, nếu không ký hiệp ước đồng minh với Lý Mật, thì Lý Mật làm sao có thể đem Trung Nguyên cung kính dâng hai tay lên cho hắn, bằng không Lý Mật chắc chắn đã góp một phần sức lực giúp quân Đường trong trận Toánh Xuyên rồi, lúc đó ai thắng ai thua vẫn còn chưa biết được.

La Sĩ Tín cảm thấy sự bình tĩnh trong lời nói của Dương Nguyên Khánh, y cũng không nói thêm gì nữa, y biết trong lòng sư huynh chỉ có thiên hạ, sẽ không quá chú tâm vào cái chết của sư phụ.

Còn y sẽ không quên, cảnh khốn cùng khi sư phụ bị bao vây, y không kịp trở về, khi y liều mạng quay trở về, đầu của sư phụ đã bị Thường Hà mang đi rồi, người này có mối thù không đội trời chung với y, không giết được Thường Hà, La Sĩ Tín y thề không làm người.

Vào đúng lúc này, đại bản doanh của quân Đường đột nhiên truyền đi một tiếng cảnh báo gấp rút

- Keng! Keng! Keng...

Doanh trại của quân Đường mặc dù cách đây khoảng năm dặm, nhưng đêm khuya tĩnh mịch, bọn họ vẫn nghe thấy rõ, Dương Nguyên Khánh ngẩn người ra, làm sao lại bị phát hiện vậy?

Một đội thám báo vội chạy về, bọn chúng dẫn theo một gã quan văn, khắp người đầy máu, đã rơi vào trạng thái nửa hôn mê. Giáo Úy thám báo dẫn đầu vẻ mặt lo sợ, tiến lên phía trước, chắp tay bẩm báo với Dương Nguyên Khánh:

- Khởi bẩm Tổng quản, chúng tôi phát hiện ra có mười mấy binh sĩ quân Đường đang truy sát người này, chúng tôi cũng thấy đám người đó chạy về hướng mình bèn ra tay chặn lại, không ngờ mười mấy tên địch võ nghệ cao cường đã bị quân chúng ta chết mười ba người, hai người còn lại chạy thoát, đã về cảnh báo quân Đường, là do ty chức bất tài, xin Tổng quản xử phạt!

Dương Nguyên Khánh nhận ra vị quan văn người đẫm máu kia chính là Trưởng sử phủ Tề vương Vũ Văn Hâm, lão từng bị bắt trong trận đánh ở Thái Nguyên, từ đầu tới cuối không chịu khuất phục, lão ta làm sao lại bị truy sát vậy?

Vũ Văn Hâm lúc này vẫn chưa hoàn toàn hôn mê, trong lòng lão biết rõ ai, thì thào nói:

- Đa tạ Sở vương điện hạ... đã cứu ta, là tên nghiệp chướng Tề vương… muốn giết ta.

Dương Nguyên Khánh thấy lão chảy quá nhiều máu, vô cùng suy kiệt, vội ra lệnh:

- Nhanh đưa lão đến quân y điều trị.

Binh sĩ liền dẫn Vũ Văn Hâm lui đi, lúc này, mấy vị tướng quân như La Sĩ Tín, Trình Giảo Kim và Tạ Ánh Đăng lần lượt vây tới xin đánh:

- Tổng quản, xin cho mạt tướng dẫn binh đột phá doanh trại quân địch.

Dương Nguyên Khánh vốn dự định đánh úp bản doanh trại của quân Đường, nhưng lại bị quân địch phát hiện, xem ra kế đánh úp bất ngờ không thực hiện được rồi, hắn trầm ngâm một lúc nói:

- Lệnh cho đội mạch đao lên, mở một con đường tiến!

Trong số hai nghìn kị binh, Dương Nguyên Khánh cùng lúc dẫn theo một nghìn bộ binh mang theo mạch đao và áo giáp, bọn họ còn được trang bị thêm hai ngựa, một ngựa tự cưỡi, con ngựa còn lại vận chuyển mạch đao và áo giáp. Kế hoạch bị bại lộ, quân Tùy cũng không cần phải ngụy trang nữa, cứ thế xuyên qua rừng cây tấn công về phía đại bản doanh của quân Đường.

Khi chỉ cách doanh trại của quân Đường một dặm, bèn hạ lệnh cho cả đội quân dừng lại, lúc này một nghìn bộ binh mang mạch đao đã lập tức xuống ngựa mặc áo giáp vào. Trong tay cầm mạch đao, cả đội quân xếp thành hàng ngay ngắn.

Trận chiến đêm nay cũng giống như trận chiến đêm năm ngoái ở quận Hà Đông Giáng của Lý Thúc Lương, nhưng cũng có điểm khác biệt, chủ tướng quân Đường năm ngoái là tôn thất Lý Thúc Lương, còn năm nay là Tề vương Lý Nguyên Cát.

Năm ngoái tỷ lệ đối chọi giữa lực lượng quân Tùy và quân Đường là ba mươi nghìn và hai mươi nghìn quân, nhưng tối nay tỷ lệ đó là hai nghìn và ba nghìn quân. Năm ngoái quân Đường có hai mươi nghìn quân tinh nhuệ, còn tối nay chỉ là ba mươi nghìn tân binh, mùa thu năm ngoái quân Đường vừa mới chiêu mộ, cũng chưa từng tham gia trận chiến nào.

Lính gác của quân Đường phát hiện ra dưới ánh trăng một đoàn kị binh đông nghìn nghịt đang tiến tới, bọn chúng vội đánh chuông cảnh báo

- Keng! keng! Keng!...

Tiếng chuông cảnh báo inh tai nhức óc vang vọng khắp doanh trại.

Lúc này trong doanh trại quân Đường đã rối loạn hết lên, bọn lính lần lượt giật mình tỉnh giấc, vội vàng mặc giáp trụ, đội mũ giáp, tay cầm binh khí chạy nhanh ra ngoài lều.

Quân Đường đã sớm bắt đầu huấn luyện quân đội chiến đấu ban đêm, các nhánh quân này đều là tân binh, cũng đã thực hành đánh trận đêm nhiều lần.

Tiêu chuẩn tân binh của quân Đường chính là chưa từng tòng quân, nếu là binh lính trong phủ triều Tùy trước đây thì lập tức được đứng trong hàng ngũ quân đội chính quy, nếu chưa từng tham gia chiến đấu thì đó chính là tân binh, phải tham gia huấn luyện một năm.

Ba mươi nghìn tân binh này mặc dù đã trải qua thời gian huấn luyện một năm, bất kể là trong đóng quân hay hành quân đều đã nhuần nhuyễn rồi. Nhưng suy cho cùng họ vẫn chưa có kinh nghiệm thực tế chiến đấu, trận chiến đầu tiên của họ dĩ nhiên là giữa đêm, hơn nữa đối phương là hai mươi nghìn kị binh quân Tùy, nỗi sợ hãi trong lòng khiến họ nhốn nháo cả lên.

Trong lòng của Lý Nguyên Cát cũng có nỗi căng thẳng như thế, tập kích ban đêm của quân Tùy làm cho kế sách của y rối loạn cả lên. Việc đầu tiên y làm là từng đao từng đao một giết chết bốn nữ nhân kia, bây giờ là thời điểm đòi hỏi các binh sĩ vì y mà hi sinh, y không muốn vì bốn mụ đàn bà kia mà làm suy yếu lòng tận hiến của quân sĩ.

Lý Nguyên Cát đầu đội kim khôi, thân mặc ngân giáp, ên ngựa phi về phía đông doanh trại, quân Tùy từ phía đông đánh tới, phía đông trước đại bản doanh đã tập hợp đủ tám nghìn quân Đường với cung nỏ trong tay.

Phó tướng Thường Hà đang phóng ngựa đi qua đi lại, ra lệnh cho đội quân cung tiễn chỉnh đốn lại hàng ngũ. Y xuất thân từ đội quân Ngõa Cương, đã tham gia trăm trận rồi nên cũng dễ để chỉ đạo binh sĩ.

Lý Nguyên Cát ở giữa được bao bọc bởi hơn một trăm thân binh, đi tới vùng biên đại bản doanh, vùng biên của đại bản doanh được bao vây dày đặc bởi các trường giáo và các cỗ xe ngựa, công việc duy nhất của họ lúc này là phòng ngự, nhưng cũng làm không kiên cố, thì rất dễ bị quân địch công phá.

Lý Nguyên Cát quan sát chăm chú đội kị binh quân Tùy ở phía xa, tim y bắt đầu đập loạn lên, tuyến phòng ngự bên ngoài doanh trại có thể chống đỡ được sự tấn công của quân Tùy hay không?

Cùng lúc này, Thường Hà thúc ngựa đi tới bên cạnh y, hạ giọng nói:

- Điện hạ, chủ tướng quân Tùy đêm nay rất có thể là Dương Nguyên Khánh.

Lý Nguyên Cát giật nảy mình:

- Làm sao ngươi biết?

- Lính gác của chúng ta phát hiện ra trên cờ của quân Tùy có viền vàng xung quanh, đây chính là kí hiệu của quân Tùy khi vua ngự giá thân chinh, chỉ có thể là Dương Nguyên Khánh có tham gia trận đánh này.

- Nếu cờ của đối phương là cờ giả thì sao?

Lý Nguyên Cát hồi hộp hỏi.

- Không thể có khả năng đó được!

Thường Hà lắc đầu:

- Quân Tùy quân kỷ nghiêm minh, việc này là việc phạm thượng không thể làm được, hơn nữa Dương Nguyên Khánh vốn dĩ ở đại bản doanh đóng tại huyện Nghi Dương, hắn có thể đích thân dẫn binh đến truy kích chúng ta, hoàn toàn là có thể.

Lý Nguyên Cát bắt đầu thấy sợ hãi, nếu Dương Nguyên Cát đích thân dẫn binh, thì trận chiến này mình lành ít dữ nhiều, y không thể ở lại để quân Tùy bắt được.

Tại Thái Nguyên, Lý Nguyên Cát đã tránh được một lần, y tuyệt đối sẽ không để cho mình rơi vào vòng nguy hiểm thêm nữa. Lần trước ở Thái Nguyên chạy trốn, phụ hoàng cũng chưa trách phạt y, khiến y nghĩ rằng người quân tử sẽ không đứng dưới bức tường nguy hiểm.

Hơn nữa khi bị bắt giữ, sẽ tạo thế bị động lớn cho phụ hoàng và cho Đại Đường, y là con cháu thân thích của quân vương, bảo vệ tính mạng của y đối với Đại Đường mà nói là điều quan trọng nhất.

Nghĩ vậy, y lấy kim bài chủ soái trong người đưa cho Thường Hà:

- Từ bây giờ trở đi, ba mươi nghìn quân sĩ sẽ do ngươi toàn quyền chỉ huy.

Thường Hà gượng cười một tiếng, y biết rõ Tề vương đang muốn chạy trốn, bất đắc dĩ y đành nhận lấy kim bài:

- Đa tạ Điện hạ đã tín nhiệm, ty chức nhất định sẽ bảo vệ đại bản doanh.

Dĩ nhiên, những lời nói hào hùng này không có ý nghĩa thực tế gì, Thường Hà thấp giọng nói:

- Điện hạ thân là vạn kim, bảo vệ long thể là điều quan trọng, nhưng ty chức khuyên Điện hạ lúc này không nên rời đi.

- Tại sao?

Lý Nguyên Cát sửng sốt hỏi.

- Điện hạ, nếu ty chức đoán không nhầm, thì quân Tùy nhất định sẽ bố trí quân mai phục ở phía sau, nếu Điện hạ bây giờ rời đi, nhất định sẽ sa lưới của quân Tùy, chi bằng nhân lúc quân lính hỗn loạn, quân Tùy không phân biệt rõ, Điện hạ hãy chạy trốn.

Lý Nguyên Cát trong trận đánh ở Thái Nguyên cũng đã tháo chạy một lần, y cũng rất có kinh nghiệm cho việc này, Thường Hà nói cũng rất có lý, nhưng ai lại nói trắng ra như thế được.

Lý Nguyên cát mặt trầm xuống nói:

- Ta vốn là thân vương, làm sao lúc lâm trận lại có thể chạy trốn được, ngươi không nên nói năng hồ đồ như vậy.

Thường Hà sợ đến nỗi vội vã khom người nói:

- Vâng! Ty chức không dám nói hồ đồ nữa.

Lý Nguyên Cát hừ một tiếng, quay ngựa đi. Thường Hà nhìn thấy dáng y khuất xa, mới cười nhạt một cái, nếu Lý Nguyên Cát tháo chạy quá sớm, thì đến khi ba quân nhốn nháo, y sẽ trở thành mục tiêu chú ý của quân Tùy, y cũng không ngu đến mức như thế.

Đúng lúc này, tiếng trống khai trận của quân Tùy nổi lên:

- Tùng! Tùng!

Đây là tiếng trống tấn công, vang động khắp trời, một nghìn bộ binh hàng ngũ chỉnh tề tiến về phía đại bản doanh của quân Đường.

Từng bước từng bước, mỗi bước đi đều rất chậm, nhưng nặng tựa như núi, hơn một nghìn bộ binh này dường như có thể bao phủ cả núi Thái Sơn.

Mỗi người trong tay đều có một chiến đao dài, tay còn lại thì cầm tấm lá chắn, mặc giáp trụ. Sát khí ngút trời, chẳng khác gì những binh sĩ được đúc ra từ sắt thép, khí thế của họ áp đảo tâm lý của quân Đường, khiến quân Đường thở không ra hơi.

 Chương 830 : Hai mươi nghìn mồi nhử

Bất luận là chủ tướng Thường Hà hay tướng sĩ bình thường, đều chưa bao giờ nhìn thấy các bộ binh trọng giáp, cho nên trong lòng họ đột nhiên hoảng loạn, ai nấy đều lùi lại phía sau, Thường Hà vung đao nên hét to:

- Không được hoảng loạn, bắn tên!

Ba nghìn cung tên đồng loạt bắn lên. Trận mưa tên như một trận cuồng phong bão lốc, tên bay dày đặc nhằm tới một nghìn binh sĩ mạch đao của quân Tùy.

Phía trước cách quân Đường một trăm bước, một nghìn mạch đao cũng đã dàn trận. Mỗi hàng có năm mươi người, tổng cộng có hai mươi hàng, tiếng trống tiến quân lại vang lên dồn dập, đội quân mạch đao của quân Tùy từng bước áp sát doanh trại quân Đường.

Ở chỗ xa hơn một trăm bước, tên của quân Đường không thể bắn tới được, hai mươi nghìn kị binh quân Tùy đã vào vị trí sẵn sàng, bọn họ tay cầm trường giáo, tay kia ghìm chặt dây cương ngựa đang muốn xông lên, trong ánh mắt mỗi người đều ánh lên niềm hưng phấn không thể kìm nén nổi.

Dương Nguyên Khánh ánh mắt lạnh lùng, đứng từ xa quan sát cơn điên cuồng cuối cùng của quân Đường, nhưng những làn tên dày đặc vẫn làm cho hắn có chút lo lắng. Hắn lập tức ra lệnh:

- Kị binh phản công!

Lệnh ngay lập tức được thi hành, tiếng trống trận như sấm rền, Tạ Ánh Đăng dẫn đầu năm nghìn kị binh mang theo cung tên xông lên, đội cung kị binh tiến lên dưới ánh trăng đêm, làn cung tên dày đặc lao vun vút về phía quân Đường.

Tên như vũ bão, lao vun vút trên bầu trời, trận mưa tên bất ngờ của quân Tùy đã bắn trúng binh sĩ quân Đường, tiếng kêu la thảm thiết một vùng, quân sĩ chết như ngả rạ, đội quân cung tiễn của quân Đường nhao nhác lùi lại, tiễn trận của quân Đường đã bị áp chế.

Trận mưa tên bên phía quân Đường cũng khiến đội quân mạch đạo tổn thất không nhỏ. Tấm giáp chắn ở hai hàng trước trong đội quân mạch đao cũng bị tên bắn thủng, áo giáp trên người bọn họ cũng không chịu được sức mạnh của làn tên đó, tàn tạ nham nhở, hai hàng trước đội quân trọng giáp cũng chết bảy tám mươi người.

Nhưng cùng với sự phản công của đội cung - kị quân Đường, áp lực từ phía quân mạch đao cũng giảm bớt xuống, quân Tùy bắt đầu chỉnh lý lại đội hình, tiếp tục tổ chức tấn công doanh trại quân Đường.

Mâu giáo xung quanh doanh trại quân Đường rộng khoảng năm mươi bước, mũi mâu hướng ra ngoài, phối hợp với cung tên thực sự chỉ có thể có tác dụng phòng ngự nhất thời, nhưng sau khi cung tên mất tác dụng đối với đội quân trọng giáp, thì hàng rào dày đặc bao bọc bởi những cây mâu rộng năm mươi bước này cũng sớm trở thành vật trang trí mà thôi.

Hàng thứ nhất của đội mạch đao quân Tùy đã tiếp cận tới tuyến phòng ngự của quân Đường, mạch đao sáng như gương vung lên chém tới tấp, hơn chục cây mâu bị chặt đứt thành từng đoạn, mảnh vụn bay tứ tung, hàng phòng tuyến mâu giáo kiên cố trong nháy mắt đã bị phá hỏng một chỗ to.

Đội quân cung tiễn bên quân Đường sợ hãi vô cùng, lần lượt lùi lại phía sau, lúc này trên đầu Thường Hà ướt đẫm mồ hôi, trong lòng thầm oán chửi Tề vương ngu xuẩn, lại cho binh lính đóng trại ở vùng đồng cỏ bằng phẳng này, tạo lợi thế cho kị binh của quân Tùy tấn công, một khi tuyến phòng thủ bị phá vỡ to hơn, kị binh của quân Tùy chắc chắn sẽ ồ ạt xông tới.

Xem ra đội quân mạch đao của quân Tùy sắp công phá được lỗ hổng đó rồi, Thường Hà lập tức cao giọng ra lệnh:

- Đội quân trường giáo dàn trận!

Phó tướng bên cạnh y kinh ngạc hỏi:

- Xin hỏi tướng quân, cần bao nhiêu binh sĩ dàn trận?

Thường Hà trừng mắt hung tợn nhìn y:

- Đội trường giáo có bao nhiêu, dàn trận hết cho ta!

Mấy tên phó tướng vội chạy đi như bay, Thường Hà quay ngoắt lại, ánh mắt gần như tuyệt vọng nhìn chăm chú về phía quân mạch đao bên quân Tùy. Mười nghìn quân trường giáo là tia hi vọng cuối cùng của y, nếu đội quân trường giáo và binh xa không ngăn được sự tiến công của quân Tùy, thì trận đánh hôm nay quân Đường ắt sẽ tan vỡ.

Mười nghìn quân trang bị trường giáo nhanh chóng được triệu tập tới, bọn họ dàn thành hai mươi hàng, mỗi hàng có năm trăm người, phía trước có bố trí một số binh xa.

Đây cũng là chiến pháp truyền thống thời kì Lưỡng Tấn Tùy Đường dùng bộ binh chống trả kị binh, cụ thể là dùng binh xa để ngăn cản, dàn đội trường giáo để chống cự.

Những tân binh của quân Đường dù sao cũng mới trải qua gần một năm huấn luyện, mười nghìn lính trường giáo ở phía đông đại bản nhanh chóng dàn trận, mười nghìn cây trường giáo đâm lên tua tủa như rừng, nhưng không đợi cho bọn họ dàn trận xong, một nghìn quân mạch đao đã phá vỡ hàng rào phòng ngự của quân Đường, đang tiến sát vào giữa đại bản doanh.

.....

Dương Nguyên Khánh vẫn chưa hạ lệnh cho kị binh tấn công, hắn vẫn đang chờ một thế trận khác, hai mươi nghìn kị binh chỉ cần tấn công chính diện, nhưng đây không phải là phong cách của Dương Nguyên Khánh, phong cách của hắn là kết hợp với đánh úp chính diện, chỉ tấn công chính diện mà không hỗ trợ đội kị binh thì khó có thể giành thắng lợi.

Trong lúc đội mạch đao tấn công quân Đường, ở phía tây nam doanh trại quân Đường, một đội kị binh gồm hai mươi người cưỡi ngựa đi do thám cùng mon men tiếp cận doanh trại quân Đường.

Dẫn đầu là Giáo Úy Tiêu Diên Niên, y cùng hai mươi thuộc hạ mặc trang phục kị binh của quân Đường, điểm khác biệt duy nhất là trên mũ giáp có cắm một chiếc lông vũ màu trắng.

Cách mấy trăm bước, y luôn để mắt theo dõi trạm canh gác cao hai trượng của quân địch, trên chòi gác này có một tên lính gác đang trực.

Tiêu Diên Niên giơ tay ra hiệu cho đội kị binh dừng lại, y thúc ngựa lao về phía chòi gác, lính gác đã sớm phát hiện một kị binh đang xông tới, lúc này quân Đường vô cùng hỗn loạn, một gã kị binh xông tới cũng không có gì đáng ngạc nhiên lắm.

Lính gác vội giơ cung ngắm chuẩn xác tên kị binh đang lao tới kia, nhưng đúng lúc đấy một điểm tối xuất hiện trước mắt y, không đợi cho y kịp phản ứng lại. “Phốc!” một tiếng, một mũi tên đã bắn xuyên qua đầu y.

Ngay cả một tiếng kêu lên cũng không có, thi thể của tên lính gác từ trên gác cao rơi xuống. Tiêu Diên Niên lạnh lùng thu cung lại, vẫy tay hướng về phía xa ra lệnh, bốn năm tên lính chạy như bay tới, họ không cưỡi ngựa, vì vậy trở nên cực kỳ nhỏ bé trong vùng đồng cỏ trống trải này.

Bọn họ chỉ có hai mươi người, không thể để quân Đường phát hiện được, mục tiêu càng nhỏ càng tốt.

Lúc này quân Tùy đã chuyển mục tiêu tấn công về phía đông doanh trại quân Đường. Ba mươi nghìn quân Đường bây giờ hầu như đều tập trung ở phía đông đại doanh, còn phía tây nam chỉ có hơn một nghìn quân phòng thủ, một số ít phân bố ở các tuyến phòng ngự khác kéo dài mấy dặm.

Nếu quân Tùy có mấy trăm quân xuất hiện ở đó, nhất định sẽ bị phát hiện, quân phòng thủ bên quân Đường sẽ nâng cao cảnh giác hơn, còn mục tiêu là bốn, năm tên lính Tùy thực sự là quá nhỏ, sẽ không có người chú ý đến họ.

Năm lính do thám của quân Tùy cùng hành động, nhanh chóng phá vỡ hàng rào phòng thủ giáo thương ở phía tây nam, trong vòng một tuần trà ngắn ngủi liền thông đường rộng khoảng một trượng, mở cuộc bao vây đại quân bên trong.

Lúc này, Tiêu Diên Niên lại giơ tay ra hiệu, mười lăm kị binh ở phía sau liền thúc ngựa phi tới, năm binh lính quân Tùy chạy như bay lên trước, cùng nhau chạy nhanh vào doanh trại quân Đường.

Trang phục của họ hoàn toàn giống với trang phục của quân Đường, bọn họ đột nhập nhanh chóng vào doanh trại quân địch, không có ai phát hiện họ là thám báo của quân Tùy đột nhập vào doanh trại.

Sự tấn công bất thình lình của quân Tùy khiến quân Đường không kịp chuẩn bị gì, bọn họ còn không kịp dỡ bỏ lều trại, lính gác vòng ngoài của quân Đường cũng đã rút lui, điều này đã gây ra một tai họa chết người, nếu là Khuất Đột Thông, y sẽ hiểu rất rõ tai họa này.

Nhưng so với Thường Hà điều này tương đối tầm thường. Trong lúc hỗn loạn, y cũng không ý thức được mối họa này, mà Tề vương không có một chút kinh nghiệm tác chiến nào thì càng không ý thức được, nhưng đối với Dương Nguyên Khánh người đã trải qua hàng trăm trận đánh, thì hắn vô cùng hiểu rõ mối họa tiềm ẩn kia, mà còn biết lợi dụng chúng.

Dương Nguyên Khánh dùng hai mươi nghìn kị binh làm mồi nhử, dụ cho quân Đường tập trung phòng ngự ở phía đông trại, nhằm tạo cơ hội cho tiểu đội thám báo do Tiêu Diên Niên dẫn đầu.

Hai mươi lính thám báo quân Tùy đã đi qua mấy lều trại, thẳng tiến tới phía đông doanh trại, ba mươi nghìn quân Đường dường như đã tập trung hết ở đó. Ở phía đông là mười nghìn quân trường giáo đang dàn trận, ác chiến với một nghìn quân mạch đao, tiếng kêu giết vang động khắp trời.

Ở phía sau b là tám nghìn cung tiễn binh sẵn sàng bắn tên, sau đó có ba nghìn kị binh và năm nghìn đao thuẫn binh, còn có cả năm nghìn quân phòng thủ đang phân bố lẻ tẻ khắp nơi doanh trại.

Tiêu Diên Niên thấy không có ai chú ý đến bọn họ, y thấp giọng hạ lệnh, mọi người thúc ngựa tới một cái lều to, bên ngoài chiếc lều to ấy có cắm mấy cây đuốc, Tiêu Diên Niên phóng ngựa qua, nghiêng người chụp lấy ngọn đuốc, ném vào chiếc lều lớn đó.

Chiếc lều lớn nhanh chóng bốc chay, hai mươi kị binh quân Tùy chạy dọc suốt nơi tập trung dày đặc các lều trại của quân địch, liên tục ném ngọn đuốc đang cháy bùng bùng vào lều trại.

Trong chớp mắt, mấy trăm lều trại đều bị đốt cháy, ngọn lửa càng ngày càng lớn, dần dần lan ra thành một mảng cháy lớn, hơn nữa ngọn lửa lớn bắt đầu lan sang các khu vực khác, những nơi mà hai mươi kị binh phóng qua đều trở thành một biển lửa.

 Chương 831 : Sự lựa chọn của Sĩ Tín (1+2)

Mấy binh lính bên phía quân Đường đã chú ý tới họ, một phó tướng dẫn đầu hơn trăm người truy sát họ. Tiêu Diên Niên không chút hoang mang, ra lệnh cho thuộc hạ tiếp tục phóng hỏa, còn y xoay người lại xuống ngựa, cắm ba mươi mũi tên xuống mặt đất.

Y cầm cung ở thế nửa quỳ, kéo căng cung bắn, tên phóng liên tiếp, phát nào trúng phát ấy, không ngừng bắn chết mười mấy tên lính Đường, phó tướng dẫn đầu cũng bị một tên đâm xuyên thủng yết hầu, ngã nhào xuống ngựa.

Những tên lính còn lại không dám tiến lên phía trước. Y đột nhiên hét lên một tiếng, cả bọn bỏ chạy tứ tán, Tiêu Diên Niên cười nhạt một cái, xoay người nhảy lên lưng ngựa, từ trong túi trên lưng ngựa lấy ra hỏa tiễn, ở ngay phía sau, quân Tùy đồng loạt làm theo, đổi sang dùng hỏa tiễn.

Chiến mã chạy nhanh như bay, kị binh nghiêng người nhóm lửa trên lều đang cháy, các nhánh hỏa tiễn từ bốn phương tám hướng phóng tới các lều trại…

Dương Nguyên Khánh nhìn thấy ngọn lửa ngút trời trong doanh trại của quân Đường, biết đội kị binh đã ra tay thắng lợi, thế trận quân Đường không thể cứu vãn được nữa, hắn lập tức ra lệnh cho thuộc hạ:

Ba quân trên dưới nhận lệnh, mấy nghìn kị binh dàn ra bao vây xung quanh doanh trại, Dương Nguyên Khánh hạ lệnh:

- Đội mạch đao ngừng tiến công!

Tiếng trống trận thu quân vang lên, hơn tám trăm quân trọng giáp mạch đao ngừng tiến công lên phía trước, từng bước lùi lại phía sau.

Đại bản doanh của quân Đường lúc này giống như một biển lửa, ngọn lửa cháy bùng lên, khói bốc nghi ngút, cuồn cuộn lên tận trời, ngọn lửa rừng rực sắp thiêu trụi ba mươi nghìn quân Đường, không cần quân Tùy tấn công, quân Đường đã náo loạn cả lên.

Trong doanh trại chật hẹp không có chỗ nào là an toàn, ngọn lửa đã nuốt toàn bộ doanh trại, binh lính quân Đường đã hoang mang, bọn chúng chen lấn lên phía trước nhổ hết giáo mâu, chạy tán loạn tứ phía, tiếp đón bọn họ là thiên la địa võng mà đội kị binh quân Tùy đã bài trí trước.

Ngọn lửa rừng rực trong đêm giữa doanh trại quân Đường, bùng cháy ngày càng lớn, nuốt trọn cả đại bản doanh, quân Đường không có cách nào để dập tắt chúng, mà tất cả hầu như tháo chạy hết ra ngoài bản doanh.

Trên cánh đồng rộng bát ngát, quân Đường quăng mũ, vứt áo, bỏ cháy tán loạn dưới ánh trăng, nhưng tất cả lối thoát của họ đều bị đội kị binh quân Tùy chặn lại, quân sĩ Đường không có đường thoát vội quỳ xuống đất xin đầu hàng.

- Ai bắt được Tề vương sẽ được thưởng nghìn lượng vàng, và được phong làm khai quốc huyện công!

Phần thưởng hậu hĩnh này khiến quân Tùy thi nhau lùng sục tứ phía tìm tung tích của Tề vương Lý Nguyên Cát, rồi tra khảo những binh lính bị bắt, nhưng vẫn không thu hoạch được gì, Lý Nguyên Cát rất có thể trước khi xảy ra chuyện đã tìm cách chạy trốn rồi. 

La Sĩ Tín dẫn sáu nghìn kị binh bao vây phía tây nam, y còn chia nhỏ đội quân ra, năm phó tướng mỗi phó tướng chỉ huy một nghìn quân ngăn các binh sĩ tháo chạy ở các hướng khác nhau.

Còn y đích thân dẫn một nghìn quân rà soát tại các con đường chính ở phía tây nam, nhưng đa số các binh sĩ bại trận cứ chạy nháo nhác, họ không chạy theo đường chính mà băng băng trên cánh đồng cỏ.

Chỉ trong chốc lát, La Sĩ Tín đã dẫn thuộc hạ chặn và bắt giữ hơn một nghìn quân bại trận đào tẩu, áo giáp của hơn một nghìn quân đào tẩu này đều đã quăng hết đi, trên người chỉ mặc một chiếc áo mỏng tanh, ngồi xổm trên mặt đất dồn vào một góc, ai nấy đều vô cùng sợ hãi, người lạnh run lên, La Sĩ Tín phóng ngựa tới cao giọng nói:

- Các ngươi không phải sợ, chỉ cần các ngươi ngoan ngoãn đầu hàng, thì chúng ta sẽ không làm các ngươi bị thương.

Lúc này, một kị binh phóng như bay tới cấp báo:

- Tướng quân, đã phát hiện thấy tung tích của Lý Nguyên Cát!

La Sĩ Tín mừng rỡ, vội vàng hỏi:

- Y ở đâu?

Người binh sĩ kia chỉ về phía tây nói:

- Y vừa mới chạy qua đó chưa được bao lâu, có khoảng bốn năm trăm người theo sau hộ vệ, nghe một tên tù binh bị bắt nói, y cải trang thành một tiểu binh.

La Sĩ Tín liếc qua các tù binh kia, rồi lập tức ra lệnh:

- Ba trăm người ở lại trông giữ tù binh, còn những binh sĩ khác mau theo ta!

Y quay ngựa lại phóng về phía tây, ngựa vừa chạy được mấy chục bước thì nghe thấy tiếng một binh sĩ ở phía sau hô to:

- Tướng quân, lại phát hiện có người chạy trốn!

La Sĩ Tín quay đầu lại, nhìn thấy cách đó khoảng một trăm bước là một toán kị binh của quân Đường đang phi tới, đoàn người này có khoảng ba bốn trăm người, ở giữa là một viên đại tướng, mặc giáp sắt ngân khôi, khuôn mặt rậm râu.

La Sĩ Tín mở to mắt nhìn, ánh mắt đằng đằng sát khí. Khi y chiến đấu với quân Ngõa Cương đã nhìn thấy người này, đây chính là đại tướng Thường Hà người đã bao vây giết sư phụ y Trương Tu Đà, đúng là oan gia ngõ hẹp.

- Tướng quân, chúng ta không truy bắt Lý Nguyên Cát nữa sao?

Một Giáo Úy ở bên cạnh hỏi.

Lúc này, Thường Hà cũng đã nhìn thấy La Sĩ Tín, y cũng nhận ra La Sĩ Tín, trong mắt y đột nhiên lộ ra vẻ sợ hãi vô cùng, đây chính là đồ đệ của Trương Tu Đà. Lần trước ở chùa Đại Hải, Thường Hà đã suýt nữa bị y giết chết.

Y lập tức cho ngựa đi xuống con đường chính, chạy về phía nam. Một vấn đề khó khăn đã đến với La Sĩ Tín, một là đuổi theo tên thân vương triều Đường, đang dẫn quân tháo chạy về phía tây, một người là kẻ thù giết sư phụ của y, đang dẫn quân chạy về phía nam.

Thân vệ của Lý Nguyên Cát có hơn mấy trăm người, đều là đội quân tinh nhuệ, nếu tách ra để truy kích là tuyệt đối không hợp với thực tế, hai người này một khi đã chạy thoát, đều rất khó có cơ hội nữa bắt được.

Y sẽ vì cục diện chung, hay là báo thù cho sư phụ? Hai hàm răng La Sĩ Tín nghiến chặt lại, chỉ trong thời gian ngắn ngủi, y phải trải qua một sự dằn vặt giữa hai lựa chọn, cuối cùng y cắn răng hét lớn:

- Ta sẽ tạ tội với Tổng quản!

Y thúc ngựa phóng về một con đường nhỏ ở phía nam, bảy trăm kị binh của quân Tùy bám sát y.

Khi ngọn lửa bốc cháy không bao lâu, Thường Hà liền dẫn thân vệ chạy ra ngoài, y không ngờ vừa ra đến đường chính lại gặp phải kị binh quân Tùy cản đường, y còn nhận ra La Sĩ Tín, trong lòng vô cùng lo sợ, không ngó ngàng đến thuộc hạ của mình, liều mạng đánh ngựa tháo chạy.

Một mạch chạy được hơn ba mươi dặm, y đã tiến vào địa phận của quận Hoằng Nông, nơi đây là một vùng đồi núi chập chùng, cây cối rậm rạp um tùm. Lúc này trời đã dần dần hửng sáng, những tia nắng ban mai yếu ớt đang chiếu xuống, mặt đất phủ một làn sương mờ.

Thường Hà quay đầu lại nhìn, đằng sau y không có ai bám theo. Con ngựa này cũng chính là con ngựa Thanh Thông của Trương Tu Đà, cũng là con ngựa quý mà Tùy đế Dương Quảng ban tặng cho Trương Tu Đà, sức của con ngựa này rất dẻo dai, nên đã bỏ lại bọn thuộc hạ phía sau.

Đợi gần một khắc, thuộc hạ của y mới lục tục kéo nhau đến. Đợi thêm một lúc lâu không thấy có ai tới nữa, có lẽ một số đã tự tìm đường thoát thân, Thường Hà tập hợp các binh sĩ thua trận lại, thấy chỉ còn hơn một trăm người.

Một tên Lữ soái hỏi:

- Tướng quân, chúng ta bây giờ đi đâu?

Thường Hà thở dài:

- Trước tiên về Trường An! Còn chưa biết Tề vương sẽ đẩy trách nhiệm cho chúng ta như thế nào!

Y vừa dứt lời, liền nghe thấy một tiếng hô to:

- Thường Hà, ngươi chạy đâu cho thoát!

Thường Hà quay đầu lại, chỉ thấy một đội kị binh khoảng sáu bảy trăm người từ con đường nhỏ phía bên trái xông tới, người cầm đầu là một đại tướng cao to dũng mãnh, tay cầm một cây đại thiết thương, vô cùng uy phong lẫm liệt, ánh mắt chất chứa bao nhiêu hận thù nhìn chằm chằm vào y, đó chính là oan gia đối đầu của y La Sĩ Tín.

Thường Hà sợ đến hồn bay phách lạc, liền cho ngựa lùi lại mấy bước. Y muốn chạy trốn nhưng hoàn toàn bất lực, đành phải bất chấp tính mạng vung trường đao tiến lên phía trước

- La Sĩ Tín, ta với ngươi không thù không oán, hà cớ gì ngươi cứ bám đuổi ta mãi như thế?

La Sĩ Tín cười nhạt một tiếng, nghiến răng nghiến lợi nói:

- Có thật là không thù không oán không?

- Ta biết ngươi muốn nhắc tới Trương Tu Đà, nhưng ông ta là do tự sát mà chết, hơn nữa đó là bỏ mạng nơi trận mạc, làm sao coi là thù oán được?

- Nói láo!

La Sĩ Tín hét lớn một tiếng:

- Thường tặc, nộp mạng đi!

Y thúc ngựa phóng lên phía trước, ra sức đâm tới, thiết thương trong tay y nhanh như tia chớp. Thường Hà sợ đến nỗi chân tay luống cuống, vung đao ra xa, y sử dụng Nhạn Linh trường đao nặng năm mươi cân, thấy trường thương đâm tới, y ra sức chống đỡ.

Hai thanh đao chạm vào nhau kêu “keng!” một tiếng, đại thiết thương vô cùng nặng, y dĩ nhiên không có sức chống đỡ, chỉ nghe một tiếng “phập”, đại thiết thương đâm xuyên qua trước ngực của Thường Hà, mũi thương lộ ra từ phía sau.

La Sĩ Tín thu thương lại, lạnh lùng nhìn Thường Hà. Thường Hà ngơ ngác nhìn La Sĩ Tín, trong đôi mắt lộ rõ vẻ tuyệt vọng, cuối cùng đôi mắt đờ ra, từ trên lưng ngựa ngã nhào xuống mà chết.

La Sĩ Tín quay người lại rồi xuống ngựa, cầm lấy thanh đao Thất Tinh Lãnh Nguyệt của sư phụ trên lưng ngựa của Thường Hà, rút thanh đao ra xuống tay nhanh như chớp, chém đầu của Thường Hà, La Sĩ Tín không kìm được ngửa mặt lên hét to một tiếng.

Hơn một trăm thuộc hạ của Thường Hà nhìn thấy chủ tướng đã chết, vội quay đầu tháo chạy, chỉ còn lại thi thể của Thường Hà nằm trơ trọi giữa con đường nhỏ dẫn lên núi.

Lửa cháy bừng bừng suốt một đêm, đến khi trời sáng ngọn lửa mới lụi dần, cả một đại doanh trại đã bị thiêu trụi thành một bãi đất trống, lệnh bao vây quân Đường cũng đã dừng lại, hơn hai mươi ba nghìn quân Đường đã bị bắt.

Dương Nguyên Khánh cùng với hơn mười vị tướng lĩnh đi xem xét doanh trại quân Đường bị thiêu rụi. Ở phía ngoài doanh trại quân Đường không xa, vũ khí, binh giáp thu được chất thành một đống như núi, những tù binh quân Đường ủ rũ cúi đầu bước đi dưới sự giám sát của quân Tùy.

- Một bài học nhớ đời!

Dương Nguyên Khánh thở dài một tiếng nói với các binh sĩ:

- Chỉ cần hai mươi mấy người, thêm vào một ngọn lửa lớn là có thể hủy diệt cả một đội quân, không mất một người nào, cho nên có thể thấy nơi đóng trại và phòng thủ rất quan trọng, mọi người hãy ghi nhớ kĩ điều này. Trong lúc đánh trận cố gắng tránh đóng quân ở các vùng dã ngoại trống trải, phải đóng quân ở trong thành, thà cả đêm hành quân, còn hơn là đóng doanh sơ suất.

Tất cả mọi người đều im lặng gật đầu, mặc dù lần này quân Đường bại trận có phần không thể tưởng tượng nổi, nhưng điều đó cũng đã xảy ra rồi, cũng không thể nói quân Đường khinh suất, mà thực chất là do phòng bị không tốt

Nguyên nhân cơ bản vẫn chính là vấn đề đóng quân. Không nên đóng quân ở những nơi có địa hình bằng phẳng, như thế sẽ tạo điều kiện cho kị binh tấn công doanh trại, buộc quân Đường không thể không tập trung được lực lượng để đáp trả, từ đó khiến việc phòng ngự của quân Đường bị phân tán.

Lúc này, Tiêu Diên Niên cùng hai mươi quân thám báo tiến đến quỳ xuống báo cáo:

- Ty chức may mắn hoàn thành nhiệm vụ, xin Tổng quản giao lệnh.

Hai mươi kị binh thám báo cũng quỳ xuống, Dương Nguyên Khánh nhìn một lượt bọn họ rồi nói:

- Có huynh đệ nào bị thương không?

- Khởi bẩm Tổng quản, không có người nào bị thương cả.

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Lần này các ngươi đã lập công đầu, Dương Nguyên Khánh ta có công tất thưởng, các ngươi mỗi người được thăng một cấp, Tiêu Diên Niên được lên chức Đô úy, ngoài ra thưởng cho các ngươi hai nghìn lượng bạc, lụa là hai nghìn xấp.

Mọi người vui mừng khôn xiết:

- Đa tạ Tổng quản đã phong thưởng!

Lúc này có một binh sĩ về báo:

- La tướng quân đã quay trở về.

Dương Nguyên Khánh mặt trầm xuống, lạnh lùng nói:

- Dẫn y tới đây!

Chỉ trong chốc lát La Sĩ Tín đã được đưa vào, y quỳ một gối nói:

- Ty chức đi truy sát Thường Hà, xin chờ phán xét của Tổng quản.

Dương Nguyên Khánh hừ một tiếng:

- Có phải vì thấy Thường Hà dễ giết, còn Lý Nguyên Cát thì khó đối phó, nên ngươi mới chọn lựa bên yếu hơn phải không?

La Sĩ Tín cúi đầu, một lúc sau mới nói:

- Ty chức vì có mối thù riêng với Thường Hà, cho nên cuối cùng đã chọn báo thù riêng, vì thế không truy đuổi Lý Nguyên Cát, ty chức đáng phạt!

Dương Nguyên Cát chăm chú nhìn Sĩ Tín, trong lòng cũng không biết làm sao. Hắn biết La Sĩ Tín đuổi theo Thường Hà là thay sư phụ báo thù, hắn chỉ hi vọng La Sĩ Tín có thể cho mình một lý do khác, tại sao không truy đuổi Lý Nguyên Cát mà lại đuổi theo Thường Hà.

Chẳng hạn như không thể xác định được tin tức tình báo có chính xác không, hoặc Lý Nguyên Cát đã cao chạy xa bay, nếu đuổi theo cũng không kịp, vv… Vậy mà tên này cứ khăng khăng thật thà mà nói, vì báo thù riêng nên đã để cho Lý Nguyên Cát chạy trốn, khiến hắn ta vô cùng khó xử.

Im lặng một lúc, Dương Nguyên Khánh lại hỏi:

- Vậy ngươi đuổi kịp Thường Hà chứ?

La Sĩ Tín từ trên lưng lấy xuống một bọc tròn, rồi mở bọc đó ra, hai tay nâng cao lên:

- Xin mời Tổng quản xem!

Đầu người trong bao chính là thủ cấp của Thường Hà, Dương Nguyên Khánh gật đầu, nói với La Sĩ Tín:

- Ngươi mặc dù lần này có công giết chết được Thường Hà, nhưng không phân biệt được chính yếu, để cho Lý Nguyên Cát chạy thoát, đây là trách nhiệm của ngươi, như vậy công tội như nhau, chiến dịch lần này coi như ngươi không có công tích gì, ngươi có phục không?

La Sĩ Tín trong lòng vô cùng cảm kích, nghẹn ngào nói:

- Ty chức tâm phục khẩu phục!

…..

Trong đại trướng, La Sĩ Tín lặng lẽ đặt một thanh đao trước mặt Dương Nguyên Khánh, Dương Nguyên Khánh chậm rãi cầm lấy thanh bảo đao Thất Tinh Lãnh Nguyệt. Thanh đao này vô cùng quen thuộc với hắn, hắn nắm chặt thanh bảo đao trong tay, những chuyện cũ từ trong sâu thẳm kí ức của hắn bỗng dội về.

Hắn nhớ rõ khi hắn năm tuổi, ngày đầu tiên học võ, sư phụ đã dùng thanh đao này chém nứt một tảng băng, rồi túm lấy hắn như túm một con gà, ném vào hố băng đó.

Hắn còn nhớ lúc bảy tuổi, hắn không cẩn thận làm thanh đao này rơi xuống hồ Khúc Giang, sư phụ tái xanh mặt cùng hắn xuống hồ mò suốt một đêm, cuối cùng hắn cũng mò được trước, khuôn mặt lúc đó của sư phụ lộ rõ vẻ sung sướng.

Dương Nguyên Khánh nhẹ nhàng vuốt ve hàng chữ khắc trên cán đao “truyền đồ Nguyên Khánh”. Đây là thanh bảo đao tổ truyền của sư phụ, sư phụ không có con nên truyền cho hắn, Dương Nguyên Khánh tự nhiên muốn khóc, sư phụ luôn coi hắn là con mình, hắn bao giờ cũng coi sư phụ là phụ thân của mình.

- Sư huynh, còn có cả ngựa của sư phụ nữa.

La Sĩ Tín nhỏ nhẹ nói:

- Nó ở bên ngoài lều, sư huynh có muốn xem không?

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Đó là con ngựa Thanh Thông của Dương Quảng, với thân phận của ta mà dùng thì không hay, nếu đệ thích nó thì hãy giữ lại!

La Sĩ Tín cúi đầu, xấu hổ nói:

- Sư huynh, đệ xin lỗi, đệ đã để Lý Nguyên Cát chạy mất.

Dương Nguyên Khánh hơi nở nụ cười nói:

- Lý Nguyên Cát trong cuộc tranh chấp nội bộ họ Lý vẫn có tác dụng lớn, nếu lần này bắt được y ta cũng sẽ thả y ra. Thực ra ta cũng muốn dùng y để uy hiếp Lý Đường lấy lương thực, nhưng trong những tù binh Quan Trung bắt được còn có Độc Cô Hoài Ân và Sử Đại Nại, có bắt được Lý Nguyên Cát hay không cũng không quan trọng.

- Đa ta huynh đã rộng lượng!

Dương Nguyên Khánh vỗ vào vai La Sĩ Tín:

- Hãy tập luyện vận dụng lực lượng cho tốt, ta đang mong chờ trận đại chiến lần sau giữa ngươi và Lý Huyền Bá.

Mặc dù Lý Uyên Hạ hạ chỉ phong tỏa tin tức bại trận của Lý Hiếu Cung ở Toánh Xuyên, chỉ báo cáo với triều đình rằng Lý Hiếu Cung phụng chỉ rút về Tương Dương.

Nhưng giấy không thể bọc được lửa, Lý Hiếu Cung bị quân Tùy đánh bại ở Toánh xuyên, tin tức toàn quân bị đánh úp vẫn bị lọt ra ngoài, nhất thời làm chấn động cả thành Trường An.

Việc này đã khiến cho Lý Uyên rơi hoàn toàn vào thế bị động, vạn bất đắc dĩ, Lý Uyên đành lấy tội giấu diếm, cách chức Binh bộ Thị lang Dương Tắc, tiếp đó mệnh lệnh cho Thượng thư Hữu Phó Xạ Bùi Tịch làm Tuần phóng sứ của Kinh Tương đạo, dẫn đầu các quan của Bộ hình và Bộ binh, Ngự thư đài đến Kinh Tương để điều tra chân tướng sự việc.

Nhưng đúng là chó cắn áo rách, Lý Nguyên Cát vấp phải sự mai phục của quân Tùy cánh phía tây tại trấn Trù Tang, tin tức ba mươi ngàn Tân quân bị đánh úp lập tức truyền đi, Lý Uyên gần như tuyệt vọng, cả hai cánh quân đều bị bại trận, không chỉ chắp tay cung tặng Trung Nguyên cho nhà Tùy mà còn bị tổn thất đến một trăm mười ngàn tinh binh.

Bị một loạt đả kích trầm trọng, Lý Uyên cuối cùng không thể chống đỡ được, ngã bệnh nặng.

Đông cung, mấy ngày nay Lý Kiến Thành tự dưng lại bận rộn lạ thường, phụ hoàng ngã bệnh, chuyện triều chính hầu như đều giao cho y giải quyết, các việc phức tạp mà buồn tẻ này không ngừng ùn đến khiến Lý Kiến Thành bận đến cong cả mông, đến thời gian để uống một ngụm trà cũng không có.

Mặc dù Lý Kiến Thành bận không ngóc đầu lên được nhưng y vẫn luôn quan tâm đến chiến dịch ở Trung Nguyên, cục diện chiến tranh ở Trung Nguyên đã định, y cũng chẳng muốn nghĩ nhiều, cái y quan tâm hơn đó chính là sự thay đổi về việc phân chia lợi ích sau chiến tranh.

Không chỉ có sự thay đổi về thế lực trong thiên hạ, đồng thời y càng quan tâm đến sự thay đổi cán cân lợi ích trong nội bộ Đại Đường, đặc biệt là tin tức về Đồng Quan do con trai La Nghệ là La Thành cung cấp khiến cho y nổi giận đùng đùng, không ngờ Tần Vương giành mất thế lực của y tại Quan Đông.

Trong thư phòng Thái Tử điện Minh Đức, Lý Kiến Thành sắc mặt tái mét, chắp tay đứng trước cửa sổ, không nói một lời mà đứng nghe La Nghệ thuật lại chuyện xảy ra ở Đồng Quan.

Vừa mới tháo chạy khỏi Đồng Quan, La Nghệ đã cự tuyệt giao kết với Lý Thế Dân, lão nhất nhất định phải chuyển sự tuyệt giao này thành lời khen ngợi mà thái tử giành cho y.

- Lúc đó ty chức đã cảm thấy đao phủ thủ ẩn trốn trong lều, ty chức biết chỉ cần nói sai một câu thôi là đầu lìa khỏi cổ ngay lập tức, lúc đó ty chức cũng không biết dũng khí bất ngờ từ đâu đến, từ chối thẳng thừng việc giao kết với Tần vương khiến Tần vương tái mặt. Nhưng cuối cùng ty chức vẫn giữ được cái mạng này, bây giờ nghĩ lại, vẫn là vì Tần vương lo ném chuột vỡ bình, sợ giết ty chức rồi sẽ gây ra binh biến. Ty chức không có năng lực thay điện hạ giữ binh Đồng Quan, quả thực có tội, xin điện hạ trách phạt!

La Nghệ nói xong, cẩn trọng nhìn Thái tử, thấy Thái tử đứng chắp tay bất động như tạc, cũng không thấy tỏ thái độ gì, trong lòng lão có chút bất an, muốn nói cái gì đó nhưng không biết bắt đầu từ đâu nên đành cúi đầu.

Trong thư phòng rất yên tĩnh, tĩnh đến nỗi có thể nghe thấy hơi thở nặng nề của Thái tử, một lúc lâu sau, Lý Kiến Thành mới chậm rãi nói:

- La tướng quân thà chết chứ không đầu hàng, đối với ta trung thành tận tụy, ta rất vui, còn việc y lấy thân phận Tần vương chiếm Đồng Quan, ngươi không thể giữ được quân quyền, ta sẽ không trách ngươi, yên tâm đi! Ta sẽ cho ngươi nhậm chức khác, người nào trung thành với ta, ta đều sẽ không bạc đãi.

 Chương 832 : Chấn động Đông cung

La Nghệ vui mừng, liền cúi người hành lễ:

- La Nghệ nguyện tận tâm tận lực vì thái tử.

Trong lòng La Nghệ rõ như gương, hiện nay Tần vương gần như nắm toàn bộ thế lực quân đội Quan Trung, Thái tử muốn lại trọng dụng lão thì chỉ có thể phong đến Ba Thục và Kinh Tương, cách Trường An càng xa thì quyền lực của lão càng lớn, việc này lão đã sớm mong chờ từ lâu.

- Ngươi đi nghỉ đi! Cùng gia đình đoàn tụ, ngoài ra ta cũng rất thích lệnh lang La Thành, ta đã bổ nhiệm y làm Đông cung thị vệ Lang tướng, hy vọng ngươi không phản đối.

La Nghệ trong lòng thất kinh, đây là muốn giữ làm con tin sao? Nhưng nghĩ lại, Thái tử phong nó trước nên chắc là không có ý này, quả thực là rất thích con trai lão, nghĩ vậy liền nói:

- Được thái tử trọng dụng, đó là cái phúc của nó, ty chức thay nó cảm ơn thái tử.

- Lui đi!

La Nghệ hành lễ, từ từ lui ra.

La Nghệ ra khỏi điện Minh Đức, ánh nắng tươi sáng trải dài trên người khiến lão thở phù nhẹ nhõm, cơn ác mộng mất đi Đồng Quan đã qua, lão sẽ lại đón một mùa xuân mới.

Bước chân bắt đầu nhẹ nhõm hẳn. Vừa mới xuống bậc lão lại phát hiện không xa có hai gã quan quân đứng dựa vào lan can đá, đang bàn cái gì đó, một trong hai người chính là con trai lão – La Thành.

La Nghệ liền chạy lên gọi lớn:

- Đại lang!

La Thành quay đầu nhìn thấy phụ thân, y nhất thời vừa ngạc ngiên vừa vui mừng, y vẫn luôn lo cho phụ thân có thể thoát khỏi nanh vuốt của Lý Thế Dân được hay không, y vui mừng lạ thường:

- Phụ thân không sao chứ ạ?

Sự quan tâm xuất phát từ nội tâm của con khiến La Nghệ cảm thấy ấm áp gấp bội, lão cười tủm tỉm gật gật đầu:

- Ta không sao, nghe Thái tử nói đã bổ nhiệm con làm Đông cung Lang tướng, trước hết phải chúc mừng con đó!

Ngày hôm nay cũng là ngày đầu tiên La Thành nhậm chức, chủ yếu là quen thuộc tình hình Đông cung nên y gãi gãi đầu tỏ ý ngại ngùng, lại giới thiệu cho phụ thân vị quan quân bên cạnh:

- Vị này là Đông cung Trung lang tướng – Dương tướng quân, cũng chính là cấp trên của hài nhi, hôm nay Dương tướng quân đưa hài nhi đi làm quen với tình hình trong cung.

Trong mắt La Nghệ lóe lên một tia kinh ngạc, lão biết người trước mặt chính là huynh trưởng của Dương Nguyên Khánh – Dương Vanh, ba huynh đệ họ từ nhỏ đã vì vấn đề đích thứ mà bị sứt mẻ trong quan hệ, lại cộng thêm việc Dương Tuấn và Dương Vanh hàng Đường, dẫn đến việc Dương Huyền Cảm bị giết, ba huynh đệ này sớm đã bất khả dung hòa.

Mặc dù Dương Tuấn và Dương Vanh được thái tử tín nhiệm là nhờ có thái tử phi nhưng dù gì họ vẫn là anh của Dương Nguyên Khánh, hơn nữa lại thêm hoài nghi giết cha, thái tử lại bổ nhiệm Dương Vanh làm Đông cung Trung lang tướng, điều này phải chẳng hơi…

Lúc này, La Nghệ cũng cảm thấy Thái tử đã hơi khoan dung quá mức, mặc dù nghĩ như vậy nhưng La Nghệ vẫn tươi cười vui vẻ, dù gì thì Dương Vanh cũng là quan trên của con trai lão, không thể đắc tội được, lão vội vã chắp tay kính lễ:

- Thì ra là Dương hiền chất, đa tạ hiền chất đã chiếu cố đến khuyển tử!

Mấy tháng trước vì chuyện Lưu Văn Tĩnh bị giết nên Dương Vanh mới được thăng chức. Sau khi Lưu Văn Tĩnh bị giết, rất nhiều quan viên Đông cung bị liên lụy, họ đều bị cách chức nên khiến cho Đông cung bị thiếu một lượng lớn quan viên, Lý Kiến Thành lại không muốn để người ngoài vào Đông cung nên đã tiến cử một loạt các qu lại.

Trong đó có Dương Vanh đảm nhận Đông cung thị vệ Trung lang tướng, Dương Tuấn đảm nhiệm Thái tử Tẩy Mã, cho dù một vị Tướng quốc Trần Thúc Đạt cho rằng hai người này là anh trai của Dương Nguyên Khánh, lắm tai tiếng, không thích hợp sử dụng.

Nhưng Lý Uyên vì việc của Lưu Văn Tĩnh nên rất thẹn với Thái tử, cố gắng bác bỏ mọi kiến nghị quần thần, đồng ý sự tiến cử của Thái tử, hai anh em cuối cùng cũng có thể quay lại nhậm chức.

Năm này Dương Vanh cũng đã 30 tuổi, không còn sự lông bông của tuổi trẻ nữa, dần dần trưởng thành, trở nên đứng đắn, y nhìn thấy sự kinh ngạc trong mắt La Nghệ, trong lòng cảm thấy khó chịu, nhưng cũng không thể hiện ra mặt, cười đáp lễ:

- Thế thúc khách khí rồi, La hiền đệ tuổi trẻ tài cao, được thái tử điện hạ trọng dụng, tiền đồ rộng mở, khiến cho người ta phải ngưỡng mộ.

Y gượng cười, ngữ khí sặc mùi con buôn, La Nghệ gật đầu rồi lại nói với con:

- Bây giờ con đang trong thời gian làm việc, ta không làm phiền con nữa, tối về rồi nói, ta đi trước đây.

- Phụ thân đi thong thả!

La Nghệ lại kính lễ với Dương Vanh, quay người bước đi, nhìn La Nghệ đi xa rồi, Dương Vanh lại cười nói với La Thành:

- Chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ? À! Đúng rồi, Đông cung tổng cộng có hai Trung lang tướng, một là ta, còn người kia chắc ngươi cũng rất quen thuộc, chính là Tiết Vạn Quân, tuy nhiên…

Nói đến “tuy nhiên”, Dương Vanh nhìn hai bên, hạ giọng nói nhỏ:

- Nước trong Đông Cung rất sâu, người này là người tiến cử của gia tộc Độc Cô, ngươi nên cẩn thận, không nên qua lại quá gần với gã, nên học cách biết bảo vệ bản thân.

Không hiểu tại sao La Thành nhìn thấy khuôn mặt gian xảo đó của Dương Vanh, trong lòng dấy lên một kiểu đáng ghét không thể nói bằng lời.

Đúng lúc đó, đằng xa có tiếng gọi của một thái giám:

- Thái tử điện hạ muốn tiến cung diện thánh, thị vệ chuẩn bị hộ giá!

Dương Vanh cuống quýt kéo La Thành đi:

- Nhanh đi theo ta!

Lý Kiến Thành sau nhiều lần suy nghĩ vẫn thấy nên đi yết kiến hoàng thượng, y phải nói rõ chuyện tranh quyền ở Đồng Quan, tuyệt không thể dung túng nhị đệ làm càn, nếu bản thân không tỏ rõ thái độ kịp thời thì mục tiêu tiếp theo của nhị đệ sẽ chính là Lâm Tân Quan và kho Vĩnh Thông.

Mặc dù Lý Kiến Thành biết phụ hoàng đang bệnh nhưng y có thể nói khéo với lão, để lão biết rõ nguyên nhân thực chất tại sao nhị đệ không cứu viện tam đệ, đó chính là vì muốn đoạt quân quyền, bất chấp việc để cho quân Tùy tiêu diệt ba mươi ngàn tân binh của Nguyên Cát.

Trong lòng Lý Kiến Thành căm phẫn, ngồi trên xe ngựa đi vào hậu cung.

Lý Uyên hôm qua vì đổ bệnh nên không dự triều chính, cũng không ở trong ngự thư phòng, y bây giờ đang nghỉ ngơi dưỡng bệnh tại điện Tĩnh Tâm, mặc dù điện có tên là “Tĩnh Tâm” nhưng trong lòng Lý Uyên lại không thể yên được, sự thảm bại ở Trung Nguyên khiến trong lòng dấy lên một cảm giác của sự tuyệt vọng, y cảm thấy bản thân đã bất lực trong việc tranh giành thiên hạ.

Lý Uyên thực ra là đang mắc tâm bệnh, y nằm trên giường được sủng phi Trương Tiệp Dư chăm sóc cẩn thận, Đậu hoàng hậu ngồi một bên trò chuyện với y, miệng mỉm cười nhưng ánh mắt lại không ngừng liếc nhìn Trương Tiệp Dư đang bưng trà, trong mắt ngẫu nhiên lóe lên một tia lạnh lùng.

Đậu hoàng hậu là trưởng nữ của gia tộc Đậu thị, ban đầu phụ thân của Lý Uyên mất sớm khiến cho địa vị của gia tộc Lý Uyên bị hạ thấp so với các quý tộc Quan Lũng, gần như bị đuổi ra khỏi hàng ngũ này, chính nhờ có Đậu gia và Độc Cô gia vực dậy Lý gia trong thời điểm then chốt nhất mới giúp cho Lý Uyên được vào triều làm quan, Lý Uyên lại lấy Đậu thị làm thê, lại càng giúp hổ mọc thêm cánh.

Lý Uyên làm chủ Quan Trung lên Đường triều cũng không thể tách được sự ủng hộ toàn lực của quý tộc Quan Lũng, trong đó, Đậu gia và Độc Cô gia là ủng hộ lớn nhất, mới có thể giúp cho Lý Uyên muốn binh được binh, muốn lương có lương, nhanh chóng xây dựng thế lực. Để báo đáp ân tình, Lý Uyên đương nhiên phải lập người vợ kết tóc se duyên Đậu thị làm hoàng hậu.

Đậu thị khoan dung độ lượng, trong cung trên dưới đều rất kính nể bà, sau khi mẫu thân Độc Cô thái hậu của Lý Uyên qua đời, Đậu thị một tay nắm giữ hậu cung, một tay bà quản lý đông đảo phi tần của Lý Uyên.

Trong các phi tần của chồng, Đậu thị chỉ duy nhất không thích Trương Tiệp Dư, cho rằng ả đã khiến cho thánh thượng hao tâm tổn sức quá nhiều, sau mỗi lần giá lâm đến tẩm cung của ả, ngọc thể thánh thượng luôn mệt mỏi, Đậu thị cho rằng ả là một con hồ ly tinh, không biết yêu quý đàn ông.

Chỉ vì thánh thượng sủng ái ả quá mức nên mới khiến cho Đậu thị tuy trong lòng uất hận nhưng cũng bất lực, bề ngoài luôn tỏ ra khoan dung, quan tâm, yêu thương ả, nhưng chỉ đợi thời cơ thích hợp là sẽ cho ả biết tay ngay. Lúc này nhân lúc chồng không để ý, liếc ánh mắt lạnh lùng nhìn Trương Tiệp Dư.

Lúc đó trên đầu Lý Uyên còn chiết khăn bệnh, khuôn mặt mệt mỏi, đương nằm trên giường xem tấu chương mà Tần Vương Lý Thế Dân mới gửi đến, Lý Thế Dân kiến nghị triều đình nhanh chóng chiêu mộ binh ở Ba Thục và Kinh Tương, để phòng ngừa Kinh Tương bị Tiêu Tiển và Đỗ Phục Uy thừa cơ chiếm đoạt.

Đồng thời kiến nghị triều đình tạm thời giữ thế phòng ngự, củng cố Kinh Tương ở Quan Lũng, không nên nóng lòng mở rộng, hơn nữa Lý Thế Dân còn chỉ ra quân Tùy tuy giành được Trung Nguyên nhưng thực tế đã sức cùng lực kiệt, còn muốn lấp lỗ hổng giữa Hà Bắc và Trung Nguyên, tạm thời không có sức lực để đánh Đường, xin hoàng thượng không nên lo lắng quá mức.

Những kiến nghị và khuyên giải an ủi này của Lý Thế Dân, từng câu từng chữ như đánh vào lòng Lý Uyên, khiến thâm tâm được an ủi đi nhiều, giơ tấu chương lên cười nói với Đậu thị:

- Nhị Lang quả thực rất giỏi, rất sáng suốt, chả trách hoàng hậu yêu nó đến thế!

Bốn người con trai lớn của Lý Uyên đều do Đậu thị sinh. Trong bốn người này, Đậu thị thích nhất là thứ tử Lý Thế Dân, đó cũng là lẽ thường vì sau khi sinh liền mấy công chúa mới được một hoàng tử, lại thông minh khác người, làm sao lại không thương yêu cho được.

 Chương 833 : Nguồn gốc cung loạn

Quan trọng hơn là gia tộc Đậu thị ủng hộ Tần vương Lý Thế Dân, luôn luôn nói lời hay ý đẹp về y, lâu dần, Đậu hoàng hậu ngoài việc yêu thương ra còn có cả mấy phần thiên vị.

Đậu hoàng hậu thấy chồng khen ngợi Lý Thế Dân, bà lập tức cười tươi như hoa:

- Từ nhỏ nó đã thông minh, giỏi giang, năm mười mấy tuổi đã biết lo nghĩ cho thánh thượng, thánh thượng quên rồi sao?

- Trẫm đương nhiên chưa quên, Trẫm nhớ…

Lý Uyên chưa dứt lời thì nghe thấy tiếng thái giám:

- Thái tử điện hạ cầu kiến!

Tiếng thái giám chen ngang lời của Lý Uyên, y gật gật đầu:

- Tuyên thái tử vào tấn kiến!

Đậu hoàng hậu lại có vẻ cụt hứng, bà lạnh lùng liếc nhìn Trương Tiệp Dư:

- Thái tử đến, muội còn không biết mà lui đi sao?

Trương Tiệp Dư giật mình, vội đặt bát thuốc xuống:

- Tiện thiếp xin cáo lui.

Ả vội vã hành lễ với Lý Uyên rồi đi ra cửa sau, Đậu hoàng hậu “hừ” một tiếng cực kỳ không vui:

- Trong cung có một số người càng lúc càng không hiểu quy tắc, xem ra mình đã khoan dung thái quá rồi!

Lý Uyên biết hoàng hậu đang mượn cớ để nói, hơn nữa Trương Diệp Tư không đúng lúc mà lui đi quả là có chỗ không thỏa, y đành ngậm cười đau khổ trong lòng, không dám nhiều lời.

Lúc này, thái tử Lý Kiến Thành nhanh chóng bước vào, lại thấy mẫu thân đang ở trong phòng nên nhất thời thót tim, vội vàng quỳ xuống:

- Nhi thần Kiến Thành khấu kiến phụ hoàng, mẫu hậu!

Đậu hoàng hậu không thương yêu trưởng tử như là với Lý Thế Dân, nhưng dù sao thì cũng vẫn là con mình đẻ ra. Trên mặt cũng hé nở nụ cười:

- Hoàng nhi đến thăm nom bệnh tình của hoàng thượng đó à?

- Vâng ạ! Nhi thần lo lắng long thể của phụ hoàng nên đặc biệt đến thăm.

Lý Uyên gật gật đầu:

- Hoàng nhi bình thân.

- Tạ phụ hoàng.

Lý Kiến Thành đứng dậy, trong lòng có chút do dự, mẫu thân ở đây, y cáo trạng chuyện nhị đệ có thích hợp không? Y biết mẫu thân rất thương yêu nhị đệ, mình nói nhiều chỉ sợ ngược lại sẽ khiến mẫu thân bất mãn.

Lý Uyên vô cùng nhanh nhạy, vừa nhìn là biết thần thái khác thường của thái tử, hình như là có lời để nói, liền cười cười:

- Hoàng nhi có việc quan trọng gì không?

Lý Kiến Thành vẫn cần phải nói, nếu không nói, thế lực ở Lâm Tân Quan và kho Vĩnh Thông đều không giữ được, y bèn nói ý:

- Nhi thần luôn lo quân Tùy tấn công Đồng Quan, nhưng hôm nay nhi thần nghe La Nghệ nói, Đồng Quan hiện do nhị đệ đích thân đảm nhiệm chủ soái, thống lãnh quân Đồng Quan phòng thủ nghiêm ngặt, như thế này thì quân Tùy sẽ không có sơ hở để tiến đánh, phụ hoàng có thể yên tâm rồi.

Mẫu hậu ở thâm cung, chưa chắc đã biết sự phân chia thế lực quân doanh, Lý Kiến Thành dùng cách nói bóng nói gió này để cáo trạng với hoàng thượng, Đậu thị quả nhiên không nghe ra ý, việc giữa hai huynh đệ chúng nó, bà cũng chỉ được biết một chút từ nhà mẹ đẻ.

Nhưng bà hoàn toàn không biết hai đứa con trai mình vì tranh giành quyền thừa kế ngôi vị mà đã quan hệ như nước với lửa, trong cung chẳng ai dám nói chuyện này với bà.

Đậu thị còn cho rằng trưởng tử đang khen ngợi huynh đệ. Bà cũng nở nụ cười mãn nguyện:

- Hai huynh đệ các con đều biết chia sẻ với hoàng thượng, vừa nãy nhị đệ của con còn dâng tấu, được phụ hoàng ngợi khen, con quan văn, Thế Dân quan võ, huynh văn đệ võ. Có thể giữ vững giang sơn đại Đường lâu bền.

Lý Uyên lại hiểu, thứ tử Lý Thế Dân nhân cơ hội đoạt binh quyền Đồng Quan, làm mất cân bằng thế lực, đúng là đã loạn thêm loạn, trong lòng lại càng thêm rối bời, nhưng hiện tại y cũng cần thế tử chấn giữ Đồng Quan, vẫn chưa phải là lúc huynh đệ trở mặt.

Lý Uyên trầm tư một lúc, việc đã đến nước này, muốn Thế Dân trao trả binh quyền Đồng Quan là không thể được nữa, tình hình trước mắt chỉ có thể cho thái tử lợi ích khác để dẹp trận tranh chấp huynh đệ này.

Kỳ thực Lý Uyên cũng đã suy nghĩ qua, thái tử cần phải nắm giữ quân quyền nhất định để cân bằng thế độc quyền trong quân doanh của Tần vương. Hiện nay hơn nửa thế lực quân Quan Lũng đều trong tay Tần Vương, Lý Hiếu Cung lại độc chiếm thế lực lớn là Ba Thục và Kinh Tương, quá rộng rãi rồi, cần phải phân chia một phần cho thái tử. Vừa hay trong trận đại chiến Trung Nguyên lần này, Lý Hiếu Cung bại trận, liền nhân cơ hội đó điều chỉnh phân chia thế lực giữa chúng.

Nghĩ đến đây, Lý Uyên thản nhiên nói:

- Quân Tùy chiếm lĩnh Trung Nguyên, dã tâm nhất định không chỉ dừng ở đó, trẫm rất lo quân Tùy sẽ tấn công Quan Trung, vì thế nên trẫm mới để Thế Dân toàn lực phụ trách phòng ngự Quan Trung, ngoài ra Hiếu Cung cũng phải dốc toàn sức để chiêu mộ binh tại Kinh Tương, Ba Thục và Hán Trung không để nó phải lo nghĩ nữa, nó cũng không có nhiều tinh lực như vậy, trẫm muốn con tiến cử tổng quản Hán Trung và Ba Thục, con thấy ai thích hợp?

Lý Kiến Thành ngẩn người một lúc, đây là phụ hoàng muốn chuyển thế lực quân đội của Hán Trung và Ba Thục cho mình, mặc dù phụ hoàng còn có ý muốn y từ bỏ Quan Đông, nhưng so với hai vùng đất Hán Trung và Ba Thục thì Quan Đông là gì.

Y gần như là chẳng phải suy nghĩ gì:

- Nhi thần tiến cử La Nghệ làm tổng quản Hán Trung, còn về Ba Thục là vùng đất quan trọng, người thường không thể trấn giữ, nhi thần tiến cử tứ đệ Nguyên Cát làm Lưu thủ Ba Thục, tứ đệ kinh nghiệm không nhiều, có thể để Thịnh Ngạn Sư làm phó, phụ tá cho tứ đệ.

Để lão tứ Nguyên Cát giữ Ba Thục, đây quả là ý kiến không tồi, nhưng thất bại của Nguyên Cát ở huyện Thiểm, còn cần phải phạt, trước khi chưa phạt, Lý Uyên sẽ không suy nghĩ đến việc để Nguyên Cát đảm nhận trọng trách này.

Lý Uyên trầm tư một lúc rồi nói:

- Thôi được, để trẫm suy nghĩ đã, trẫm sẽ nhanh chóng đưa ra quyết định, hoàng nhi còn việc gì không?

- Bẩm phụ hoàng, còn việc liên quan đến việc cứu Độc Cô Hoài Ân, nhi thần muốn thương lượng với hoàng thượng một chút.

Đậu hoàng hậu về hậu cung, cơn giận trong lòng vẫn chưa nguôi, nghĩ đến việc Trương Tiệp Dư lại không tránh thái tử, cục giận này lại một lần nữa bùng phát.

Đậu hoàng hậu xuất thân quý tộc Tiên Ti, không chỉ là trưởng nữ của Đậu thị ở quý tộc Quan Lũng mà mẫu thân bà còn là công chúa của Bắc Chu, vì thế nên bà cực kỳ coi trọng lễ tiết cung đình.

Ả Trương Tiệp Dư còn nhỏ hơn trưởng tử Kiến Thành rất nhiều, trời sinh hồ ly yêu tinh, nếu trong thời gian hoàng thượng bị bệnh, họ dần già qua lại, một đến hai đi, có thể sẽ…

Đậu hoàng hậu càng nghĩ càng sợ, càng nghĩ càng giận, lập tực ra lệnh:

- Gọi Trương Tiệp Dư đến đây cho ta.

Trương Tiệp Dư là cung phi Tùy thất, Dương Quảng thích phô trương, đại tu cung điện, tuyển chọn tú nữ vào cung theo lễ chế, nhưng y vốn không phải là người háo sắc, hơn mười năm ngắn ngủi làm hoàng đế, phần lớn thời gian đều giành để tuần thị thiên hạ, đại đa số nữ tú y tuyển chọn đều thành vật trang trí, Trương Diệp Tư chính là một ong những vật trang trí đó.

Mà Lý Uyên lại là một người vô cùng háo sắc, ông ta cần nhà họ Đậu làm hậu thuẫn nên không dám thỏa mãn bản thân quá mức, nhưng sau khi làm hoàng đế, liền lộ bản tính, tìm đến các cung phi không kiêng kỵ gì, trong đó hai người Trương Diệp Dư và Duẫn Đức phi được sủng ái nhất, phụ huynh hai người đó cũng vì thế mà thăng chức rất nhanh.

Trương Tiệp Dư là một người đàn bà thông minh. Ả từ lâu đã biết hoàng hậu bất mãn với mình, để tránh nạn này, vừa về đến cung ả liền tẩy lớp phấn son, thay trang sức cung phục, xong đâu đấy mới cùng cung nữ đến gặp hoàng hậu.

Trương Diệp Tư quỳ xuống trước mặt hoàng hậu, dáng vẻ biết nghe lời:

- Tiện thiếp Trương thị tham kiến hoàng hậu nương nương.

Đậu hoàng hậu thấy ả đã thay đổi dung trang, biết ả sợ mình, cơn giận trong lòng cũng nguôi dần, nhưng hôm nay nếu không trách phạt ả, ả sẽ không biết trời cao đất dày.

- Rầm!

Đậu hoàng hậu đập bàn, nổi giận nói:

- Hôm nay nếu không phải bản cung nhắc nhở, lẽ nào ngươi sẽ cùng thái tử hầu hoàng thượng hay sao?

Trương Diệp Tư sợ đến thót tim, hoang mang nói:

- Tiện thiếp nhất định sẽ lui đi, vì hôm nay có hoàng hậu nương nương ở đó nên tiện thiếp không dám tự ý quyết định.

Đậu hoàng hậu cười nhạt:

- Ý của ngươi là nếu ta không có ở đó thì ngươi có thể làm chủ sao?

Bà lại tiến người lên, ánh mắt vô cùng nghiêm khắc, nói từng câu từng chữ:

- Ngươi hình như rất muốn bản cung mau mau chóng chóng chết, đúng không?

Trương Tiệp Dư bị dọa tới mức mặt mũi thất sắc, liền xua tay:

- Không, không! Tiện thiếp tuyệt đối không có ý đó.

- Ai! Biết người biết mặt mà không biết lòng, ai biết ngươi nghĩ như thế nào, ta cũng không muốn xét nét ngươi chuyện này, nhưng hôm nay thái tử đến, ngươi lại không lui, vi phạm quy tắc trong cung, đương nhiên phải phạt nghiêm khắc, người đâu!

Mấy cung nữ to khỏe bước lên, Đậu hoàng hậu chỉ tay vào ả Trương Tiệp Dư đang run lẩy bẩy:

- Lôi con tiện nhân này ra ngoài vả miệng hai mươi cái.

- Nương nương tha cho tiện thiếp đi! Tiện thiếp không dám nữa!

Trương Tiệp Dư có cầu xin nữa thì cũng vô ích, mấy cung nữ to khỏe như sói kéo ả ta ra, hung hăng tát ả hai mươi cái, khuôn mặt mềm mại của Trương Tiệp Dư làm sao mà chịu được, tát đến mức tóc tai bù xù, khéo miệng dớm máu, mặt mày sưng tím, chẳng còn chút nào là kiều diễm, lại giống hệt như mẫu dạ xoa.

Trương Tiệp Dư lại bị áp giải đến, ả quỳ xuống đất, che khuôn mặt rưng lệ nói:

- Đa tạ nương nương giáo huấn, tiện thiếp đã biết lỗi, lần sau sẽ không dám tái phạm nữa.

 Chương 834 : Nỗi lo của Độc Cô (1+2)

Đậu hoàng hậu biết hoàng thượng vô cùng sủng ái ả, cũng không dám xử lý quá tàn nhẫn đối với ả, cơn giận trong lòng bà cũng đã hết, liền thản nhiên nói:

- Hôm nay chỉ là cảnh cáo, nếu ngươi dám tái phạm, lần sau ta sẽ lấy cái mạng nhỏ bé của nhà ngươi.

Trương Tiệp Dư ôm lệ dập đầu:

- Tiện thiếp tạ ơn hoàng hậu đã dạy bảo.

- Đi đi! Đừng để ta lại gặp lại ngươi.

Trương Tiệp Dư hành lễ lui ra, Đậu hoàng hậu nghĩ ngợi một lúc lại dặn dò hai bên:

- Đem chuyện hôm nay truyền khắp cung, ai dám tái phạm, bản cung sẽ trừng trị nghiêm khắc!

Trương Tiệp Dư về đến tẩm cung của mình liền gục đầu vào giường, khóc lớn, mấy cung nữ tâm phúc và thái giám nhiều lần khuyên ả, hoàng hậu chỉ đố kỵ vì ả được sủng ái nên mới nổi giận như vậy, càng chứng tỏ ả rất được thánh thượng yêu chuộng, ả ngẫm nghĩ cũng không sai nên mới dần dần ngưng khóc.

ả ngồi trước bàn trang điểm tự soi gương, thấy mình vô cùng tệ hại, xấu hổ không nói nên lời, trong lòng hận đến chảy máu, nghiến răng nghiến lợi thấp giọng nói:

- Sẽ có một ngày, ta sẽ giết lão tiện nhân này!

Đứng bên cạnh là một lão thái giám, tên Trương Hiệu Trung, là đồng hương với Trương Tiệp Dư, thậm chí còn là họ hàng xa, lão là tâm phúc của Trương Tiệp Dư, rất có chút đầu óc suy nghĩ.

Lão liền hạ giọng khuyên bảo:

- Nương nương không cần thiết phải phiền não, hoàng hậu tuổi tác đã cao, sức khỏe lại không được tốt, cũng không qua được mấy năm nữa, lão nô muốn khuyên nương nương nên nhìn xa một chút, tìm cho mình chỗ dựa sau này.

Trương Tiệp Dư trầm ngâm suy nghĩ rồi hỏi:

- Ông nói chỗ dựa là như thế nào?

Trương Hiệu Trung thở dài:

- Thực ra thánh thượng háo sắc vô độ, phóng túng bản thân cũng không thể trường thọ được, lão nô khuyên nương nương nên suy nghĩ lâu dài, vạn nhất thánh thượng sau trăm tuổi, nương nương nên làm thế nào?

- Vậy ngươi nói ta nên làm thế nào? Chỗ dựa là ai được chứ?

Trương Diệp Tư không hiểu hỏi.

Trương Hiệu Trung nhìn hai bên, thấy không có người liền nói nhỏ:

- Hiện nay nương nương được thánh thương sủng ái, có thể nắm giữ trái tim của hoàng thượng, đó chính là tài năng của nương nương, nếu nương nương không ngại hãy dùng tài năng này để kết giao với thái tử, nói lời hay ý đẹp thay cho thái tử, sau này thái tử đăng cơ, cũng sẽ cảm ơn mà báo đáp, lo cho nương nương về sau.

Trương Diệp Tư giật mình:

- Ta cũng là vì cái này nên mới bị phạt, ngươi còn muốn ta kết giao với thái tử, không phải là muốn hại chết ta đấy chứ?

Trương Hiệu Trung nở nụ cười:

- Nương nương hiểu nhầm rồi, lão nô không phải nói bản thân nương nương qua lại với thái tử, càng không phải nương nương và thái tử liếc mắt đưa tình, mà là lão nô nói kết giao lợi ích, nương nương không ngại để phụ thân qua lại với thái tử, có việc gì, có thể thông qua phụ huynh truyền đạt tin tức.

Trương Tiệp Dư trầm tư suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng gật đầu.

Phường Tuyên Dương Trường An, có một căn nhà lớn rộng gần tám mươi mẫu. Nơi này chính là phủ Độc Cô nổi tiếng Trường An, là phủ đệ của Độc Cô Tín công thần khai quốc Bắc Chu năm đó.

Sau đó do trưởng tử Độc Cô La kế thừa, Độc Cô La bị chết vì dính líu đến vụ án của Hạ Nhược Bật, trước lúc chết đem phủ đệ này truyền lại cho chủ nhân mới là Độc Cô Chấn, chứ không truyền cho con trai là Độc Cô Lương. Như vậy, Độc Cô phủ trở thành phủ đệ của gia chủ của gia tộc Độc Cô.

Buổi tối, thành Trường An bị bao phủ bởi màn mưa phùn dày đặc, người của Độc Cô phủ đang bận rộn thả đèn bên bờ sông nhỏ. Hôm nay là 13 tháng 7 rồi, chỉ còn 2 ngày nữa là đến tết Trung Nguyên, cho dù hoàng đế Lý Uyên yêu cầu phải tiết kiệm, không được xa hoa, nhưng phong tục cần thiết vẫn phải được duy trì.

Trong màn mưa mù mịt, một chiếc xe ngựa chầm chậm dừng trước cửa Độc Cô gia, gã quản gia vội vã bung dù chạy xuống bậc thang, Độc Cô Lương bước ra khỏi xe ngựa.

Độc Cô Lương là trưởng tử của Độc Cô La, do tuổi tác đã cao nên không làm quan trong triều đình mà được phong làm Thái tử Thiếu bảo, tập cựu tước Triệu quốc công, địa vị vô cùng tôn quý.

Độc Cô Lương tuy rằng không làm quan nhưng lại có rất nhiều con em Độc Cô gia khác đảm nhận chức quan cao trong Đường triều.

Tỷ như huynh đệ lão Độc Cô Hoành đảm nhận chức Hữu Vệ đại tướng quân, cháu trai Độc Cô Khí làm Thái thú quận Tư Dương, tộc đệ Độc Cô Hoài Ân là Công bộ thượng thư, thúc phụ của lão Độc Cô Chấn làm Nội sử lệnh…, quan văn quan võ đều có cả, địa vị gia tộc vô cùng tôn quý trong Đường triều.

Độc Cô Lương nhìn khắp lượt các gia nhân đang bận rộn bên sông, liền lạnh lùng hỏi:

- Chủ nhân ngươi có ở phủ không?

- Có ạ, mời nhị lão gia đi theo lão.

Quản gia cùng Độc Cô Lương nhanh nhanh chóng chóng đi vào trong phủ.

Trong thư phòng, chủ nhân Độc Cô thị Độc Cô Chấn đang ngồi hạ bút viết một bức thư. Độc Cô Chấn năm nay cũng đã hơn 60 tuổi, tóc bạc nhưng khí sắc tốt, ánh mắc quắc thước, là một trong ngũ tướng Đại Đường, đảm nhiệm Nội Sử Lệnh.

Gia tộc Độc Cô và Đậu thị đều được gọi là Đại Đường đệ nhị gia tộc, chỉ đứng sau hoàng tộc Lý thị, hoàn toàn áp đảo các quý tộc Quan Lũng khác.

Đạt được địa vị cao như vậy, hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, năm Đại Nghiệp cuối cùng, gia tộc Độc Cô liên tục chuyển tiền và lương thảo từ các nơi của triều Tùy đến Quan Trung, nên gia tộc Độc Cô được mệnh danh là thủ phủ Đại Tùy, có khả năng hiệu triệu cực lớn ở hai vùng đất Quan Lũng và Ba Thục.

Sai khi Lý Uyên vào Quan Trung, gia tộc Độc Cô đầu tiên đem số tiền và lương thảo cực lớn trợ giúp cho quân Đường, sáu nghìn gia đinh ở các trang viên cũng giao cho quân Đường.

Lập tức lão theo Lý Hiếu Cung theo hướng nam đến Ba Thục, khuyên các quận Ba Thục đầu hàng Đường triều, giúp Đường triều không phải tốn binh đao mà cũng chiếm lĩnh được Ba Thục, lập nên công lớn.

Lý Đường để đền đáp ân nghĩa nên đã hậu phong gia tộc Độc Cô, cũng là có tình có lý.

Nhưng cùng với việc quân Đường bị thảm bại dưới quân Tùy, gần hai trăm nghìn đại quân bị tiêu diệt, sáu nghìn gia đinh của lão cũng chết thảm hơn một nửa. Điều này khiến cho niềm tin của Độc Cô Chấn với Đường triều cũng bắt đầu bị dao động.

Điều này cũng giống như một nhà đầu tư, khi anh ta đầu tư liên tục bị lỗ thì Đại Đường rất khó đem lại lợi nhuận hẫu hĩnh cho anh ta. Thậm chí còn bị trượt xuống bên bờ vực phá sản, đương nhiên là lão không vui rồi.

Hai ngày nay có một chuyện khác khiến lão đau đầu là tin tức mà lão nghe được vào sáng sớm nay. Cháu trai Độc Cô Hoài Ân bị quân Tùy bắt giữ, điều này khiến cho lão vô cùng tức giận.

Độc Cô Hoài Ân đảm nhậm Công bộ thượng thư, là người kế thừa của Độc Cô gia mà lại bị quân Tùy bắt làm tù binh, nghe nói còn bị trúng tên, cả một ngày trời, Độc Cô Chấn bị chuyện này làm cho âu sầu thiểu não.

Lúc này, bên ngoài có tiếng bẩm báo của quản gia:

- Chủ nhân, nhị lão gia đã tới.

Độc Cô Chấn hạ bút, Độc Cô Lương đến rồi, cũng biết y sẽ đến liền nói:

- Mời vào.

Cửa mở, Độc Cô Lương bước vào trong, mặc dù y lớn hơn Độc Cô Chấn hai tuổi nhưng y vẫn là cháu trai của lão, y liền đến hành lễ:

- Tham kiến gia chủ!

Độc Cô Lương là trưởng tôn, có địa vị cao quý trong gia tộc Độc Cô, vì thế Độc Cô Chấn cũng đặc biệt tôn trọng y, trước mặt y cũng không câu nệ trưởng bối, hai người tuy là chú cháu nhưng thực chất tình như huynh đệ.

Huấn Lương đến thật đúng lúc, ta vốn cũng định cho người đến mời cháu, ngồi xuống đi.

Độc Cô Lương ngồi xuống, một hầu nữ bưng trà đến, y uống một ngụm trà nóng, vẻ lo lắng nói:

- Cháu chiều nay mới biết tin, Hoài Ân bị quân Tùy bắt giữ, phải làm sao đây? Lý Hiếu Cung lại chạy mất một mình.

Độc Cô Chấn cười lạnh lùng:

- Không chỉ có Lý Hiếu Cung chạy mất mà đến mấy tên giúp việc của y cũng chạy theo, nhưng đường đường Nguyên soái Trưởng sứ, Công bộ thượng thư triều đình lại bị bắt làm tù binh, cháu không thấy chỗ này có điều gì không bình thường sao?

Độc Cô Lương kinh ngạc:

- Ý của thúc là Lý Hiếu Cung cố ý để Hoài Ân bị Quân Tùy bắt sao?

- Ta không dám nói Lý Hiếu Cung cố ý nhưng y không tận tâm bảo vệ Hoài Ân, điều này là quá rõ, ta nghĩ nếu Đậu Tấn là trưởng sứ, Lý Hiếu Cung bất luận thế nào cũng sẽ không để y bị bắt.

Độc Cô Chấn nói với vẻ vô cùng bất mãn, ban đầu thái tử chủ trương để Hoài Ân đi Kinh Tương giữ chức Đông Nam đạo Hành Đài Thượng thư lệnh chính là một quyết định sai lầm, quả nhiên đây là muốn phân quyền của Lý Hiếu Cung.

Nhưng Lý Thế Dân và Lý Hiếu Cung đâu có để quyền lực Kinh Tương bị chia dễ dàng như vậy, không phải thời cơ là đây hay sao? Lý Hiếu Cung lợi dụng thủ đoạn chiến tranh dễ dàng loại bỏ Hoài Ân, Độc Cô Chấn vừa hận Lý Hiếu Cung thủ đoạn thâm độc vừa bất mãn với Lý Kiến Thành suy nghĩ không thấu đáo.

Lão lại nói:

- Hôm nay ta đi gặp thái tử, ta nói rõ với thái tử, chuyện này nếu như không làm cho ra lẽ thì sau này Độc Cô gia sẽ không cống nộp cho triều đình một cắc, một đấu nào cả.

- Nhưng có tác dụng không?

- Nhất định có, phụ hoàng y còn muốn chiêu mộ binh mã, còn cần đồng để đúc tiền, những cái này y đều phải cầu xin Độc Cô gia ta, y nhất định sẽ nghĩ cách để cứu Hoài Ân.

Độc Cô Lương trầm tư một lúc rồi nói:

- Thúc ép như vậy, liệu có hơi quá với họ không?

 Chương 834 : Nỗi lo của Độc Cô (2)

Độc Cô Lương lắc lắc đầu:

- Thái tử và Lý Uyên ắt có tính toán trong đầu, ta không chỉ bất mãn với chuyện này mà thực tế, họ ngoài việc tạo ra những tên mềm yếu như Lương Sư Đô, Lý Quỹ và Tiên Tiển, thì còn có thể đối phó ai nữa. Họ đã bại dưới tay Dương Nguyên Khánh mấy lần rồi?

Độc Cô Lương cũng lo lắng:

- Thực ra không chỉ có thúc bất mãn mà cháu tiếp xúc với không ít quý tộc Quan Lũng, họ đều không hài lòng đối với việc quân Đường thảm bại bởi quân Tùy, nghe nói đến Đậu gia cũng có ý kiến.

Mắt Độc Cô Chấn lơ đễnh để hiện tia hối hận, lão không kìm được tiếng thở dài:

- Ta ủng hộ họ là để họ thống nhất thiên hạ. nhưng họ đến Quan Trung cũng không đi ra được, làm sao mà không khiến ta khỏi thất vọng, sớm biết này ta đã ủng hộ Dương Nguyên Khánh, đúng là sai một ly đi một dặm!

- Nhưng Dương Nguyên Khánh là kẻ thù của quý tộc Quan Lũng, ban đầu hắn đánh bại Hạ Nhược Bật. Áp đảo Trương gia và Nguyên gia, thúc quên rồi sao?

Độc Cô Chấn cười, chầm chậm nói, dường như muốn Độc Cô Lương khắc cốt lời y nói.

- Điều này cháu không hiểu rồi, không ở trong tình thế đó thì sẽ không hiểu. Lúc đó, hắn chẳng qua chỉ là thần tử, làm những việc đó là tuân theo thánh ý của Dương Quảng. Nhưng bây giờ hắn đã làm chủ. Hắn muốn giành thiên hạ, cuối cùng cũng vẫn cần phải thỏa hiệp với quý tộc Quan Lũng.

Độc Cô Chấn thấy Độc Cô Lương nghĩ ngợi, lại tiếp tục nói:

- Một người không biết thỏa hiệp thì mãi mãi sẽ không thể thành đại sự, Dương Nguyên Khánh lại không phải là người như vậy, lúc đầu ở Lạc Dương áp giá gạo, ta đã biết hắn là một người biết thỏa hiệp.

Độc Cô Lương đã hiểu chút ý của chú:

- Thúc muốn nói chúng ta âm thầm đi lại với Dương Nguyên Khánh?

Độc Cô Chấn mỉm cười đắc ý:

- Trên thực tế ta đã qua lại rồi. Lúc ta ở Phong Châu, ta đã tiếp xúc với hắn rồi, cháu quên rồi sao?

Độc Cô Lương giật mình, y đúng là đã quên người đó rồi.

Huyện Thọ Quang quận Bắc Hải là một huyện nhỏ ở phía bắc của Bắc Hải, dọc theo hướng bắc là một mảnh rừng rậm, qua rừng rậm lại là bãi cát mười mấy dặm, cứ tiếp hướng bắc là đến biển rộng mênh mông vô bờ.

Tống Kim Cương dẫn hơn hai mươi tàn binh tháo chạy. Y không dám vào huyện thành, chạy thẳng vào rừng, hướng bãi cát.

Trận chiến của Đậu Kiến Đức và Tống Kim Cương kéo dài gần nửa tháng, mặc dù Đậu Kiến Đức với ba mươi ngàn quân chiến đấu với mười hai ngàn quân của Tống Kim Cương, binh lực chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng Tống Kim Cương lợi dụng tường thành cao lớn, động viên quân dân toàn thành phòng thủ nghiêm ngặt, khiến Đậu Kiến Thành tổn thất nặng nề.

Cuối cùng vì dân chúng không kham nổi áp bức, mở thành để Đậu Kiến Đức tiến vào, mới khiến cho đội quân của Tống Kim Cương thảm bại, Tống Kim Cương dẫn hơn trăm thân binh đoạt môn tháo chạy.

Qua huyện Thọ Quan là đến thẳng rừng rậm, Tông Kim Cương cuối cùng cũng đến được bãi cát, mãi cho đến lúc này, y mới thở phào nhẹ nhõm, đến được bãi cát thì phải xem liệu y có thể tìm được thuyền ra biển, rời khỏi Bắc Hải hay không.

- Tướng quân, chúng ta đi đâu đây?

Một tên cận binh hỏi.

Điều này Tống Kim Cương cũng không biết, y còn có thể đi đâu được? Thực ra 20 hôm trước, Dương Nguyên Khánh có phái người đến tìm y với hy vọng y có thể đầu hàng Đại Tùy.

Khi đó, y cho rằng điều kiện mà Dương Nguyên Khánh đưa ra quá thấp, chỉ cấp cho y vị trí hữu danh vô thực của một công huyện và chức vị đại tướng quân nhàn rỗi, chẳng có tý thực quyền nào, vì thế y đã từ chối.

Thế nhưng bây giờ y muốn đồng ý thì chỉ e Dương Nguyên Khánh cũng sẽ không dung nạp, y đã mất quận Bắc Hải, mất đội quân, hai bàn tay trắng, y làm gì còn có đủ tư cách để nhận huyện công và chức vị đại tướng quân!

Y và Mạnh Hải Công là bạn cố hữu, có lẽ gã có thể đi thuyền xuống phía nam đến Hội Kê để nương nhờ Mạnh Hải Công.

Tống Kim Cương thở dài:

- Đi tìm thuyền trước hãy nói.

Lúc này họ vừa đói vừa mệt, lại tiếp tục đi về phía bắc, khoảng 10 dặm, sắp đến biển, trước mặt bỗng thấy một ngôi nhà, trên mái tỏa khói nghi ngút, có người!

Cả đám người vừa kinh ngạc vừa vui mừng, thúc ngựa chạy đến, đó là nhà của một ngư dân, trong nhà gồm một đôi vợ chồng trung niên với hai đứa con, một trai một gái, người chồng mới cùng con trai đánh cá trở về, gia đình đoàn tụ, đang hưởng thụ niềm vui vô bờ.

Bỗng nhiên một đám binh sĩ như thổ phỉ xông vào, người chồng giận dữ, cầm ngư khí liều mạng liền bị binh sĩ một đao chém chết, người vợ cùng cô con gái sợ trốn trong phòng bị bọn binh sĩ cười dâm ô, khóa trái cửa.

- Mẹ kiếp, mau tìm lương thực, ăn no rồi chuyện gái gú tính sau.

Tống Kim Cương bụng đói, giục thuộc hạ đi tìm cái gì ăn, bọn binh sĩ lùng sục khắp phòng, chỉ tìm được ít gạo, nhưng sân sau lại có không ít cá biển, bọn binh lính được một bữa no nê hải vị.

Màn đêm buông xuống, Tống Kim Cương dâm ý nổi lên, một chân đá văng cửa phòng.

Trời càng lúc càng tối, tội ác bóng đêm cũng đã kết thúc, đám binh sĩ một ngày mệt mỏi đều lăn ra ngủ say như chết.

Đúng lúc này, Tống Kim Cương bị một tiếng động giật mình tỉnh dậy, chỉ cảm thấy bên ngoài một màu rực lửa. Y thất kinh, bật dậy, lao đến cửa sổ, toát mồ hôi hột, chỉ thấy bên ngoài bị mấy trăm ngư dân vây kín, người người tay lăm le ngư khí và đuốc, trong mắt hừng hực phẫn nộ.

Trước mặt là một thiếu niên 16, 17 tuổi, giống người ngư dân bị giết như tạc, Tống Kim Cương lùi lại hai bước.

Bỗng nhiên, y rống lên:

- Dậy mau, tất cả dậy hết cho ta!

Cả phòng náo loạn, các ngư dân không đốt nhà là vì họ sợ làm phụ nữ trong nhà bị thương, nhưng hai người họ đã chết, họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra thôi.

- Ra ngoài giết, đoạt lại ngựa.

Bọn binh lính rút đao đi ra, Tống Kim Cương cũng xông ra, chỉ có đoạt lại ngựa mới có khả năng sống sót.

Một tiếng ai oán thoát ra từ ngọn đuốc, ngư dân phẫn nộ chửi rủa át tiếng cầu xin của đám binh sĩ, không lâu sau, chỉ còn lại một mình Tống Kim Cươngy đã bị hơn hai trăm người bao vây.

Chân y đã bị thương, chạy không nổi, y nhìn trời than vãn:

- Không ngờ Tống Kim Cương ta lại bị chết bởi đám ngu dân này!

- Giết…

Không biết là ai hô trước tiên, mấy trăm ngư khí cùng bổ xuống người y, khiến y bị đâm chết tươi ngay tại bãi cát.

Mặc dù nói triều đình cũng chịu tổn thất không nhỏ trong chiến dịch Trung Nguyên, nhưng bản thân thắng lợi lại mang đến cho quân dân triều Tùy sự cổ vũ rất lớn. Vừa đúng dịp tết Trung Nguyên, ngày lễ thờ cúng trời đất truyền thống cũng biến thành ngày lễ chúc mừng thắng lợi.

Bên trong thành Thái Nguyên, không chỉ có dòng sông được thả đầy thủy đăng, âm thanh mái chèo nhộn nhạo, ánh sáng chập chờn. Mấy con sông trong thành Thái Nguyên trở nên tràn ngập màu sắc.

Không chỉ ở sông, nhà nhà đều treo đèn hoa đăng lên, bày ra chậu vu lan, lấy cách thức này để ăn mừng quân Tùy đại thắng.

Trời vừa tối, vô số tiểu thương xuất hiện trên đường Tấn Dương. Khứu giác của bọn họ vô cùng nhạy bén, phát hiện thời cơ buôn bán đã đến. Tiểu thương tụ thập đông như vậy càng hấp dẫn nhiều người ra khỏi nhà. Nhất thời, người đi dạo phố, xem đèn chật ních trên các con đường lớn nhỏ của thành Thái Nguyên.

Đèn đuốc rực rỡ, toàn bộ thành Thái Nguyên sáng rực như ban ngày.

Trên đường cái, một đám trẻ con tay cầm thủy liên đăng vui vẻ chạy nhảy. Những quán nước nhỏ cũng chật ních khách quen. Mặc dù không phải là tết Nguyên Tiêu, nhưng đối với bọn họ, vui vẻ mới là điều quan trọng nhất.

Các thiếu nữ cũng kết lại thành đội du ngoạn trên đường, vây lấy các gian hàng bán đồ trang sức cùng son phấn, chọn mua các loại đồ trang sức hạ giá.

Ở một quầy bán đồ trang sức nhỏ, hai thiếu nữ đang cùng nhau chọn đồ trang sức. Mấy trăm loại trang sức đủ màu sắc khiến cho ánh mắt của hai nàng tràn đầy thích thú.

Hai thiếu nữ, một người ước chừng mười bốn tuổi, người kia chỉ vào khoảng mười một tuổi, đều có đôi mắt sáng, hàm răng trắng tinh khiến cho người khác phải rung động. Hai nàng mặc váy dài làm bằng vải đay loại thượng đẳng, khoác một chiếc áo ngắn, tóc búi sơ thành hai cuộn tròn như trăng rằm đầy tháng, làn da trắng noãn như ngọc.

Mặc dù quần áo trên người các nàng rất đơn giản, nhưng khí thái siêu phàm thoát tục tỏa ra từ hai nàng khiến cho nam thanh nữ tú ở xung quanh đều trở nên ảm đạm.

Tuy hai thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần nhưng tuyệt đối không có một người nào dám đánh chủ ý lên hai nàng, bởi vì bên cạnh hai nàng là bốn năm nữ binh đang nắm chặt bội đao trong tay, vóc người cường tráng, ánh mắt sắc lạnh.

Trên đường phố của Thái Nguyên xuất hiện nữ binh là chuyện rất bình thường, bọn họ đều là nữ binh hộ vệ. Ngày trước thì không có tập quán này, nhưng hiện tại dùng mãi thành thói quen. Có điều, những nữ binh này hình thức đều rất hung hãn, không có chút cảm xúc nào có thể xem là của nữ nhân, so với nam nhân còn cường tráng hơn.

Nhưng các nàng lại bảo hộ rất chu toàn cho hai thiếu nữ kia, nhìn có vẻ như không để ý nhưng thật ra là không hề có bất cứ một người nào có thể đến gần hai thiếu nữ. Ngay cả chủ gian hàng cũng thấy hai thiếu nữ này có thân phận không tầm thường.

Hai thiếu nữ này, người lớn tuổi chính là Công chúa Đan Dương nhà Tùy, Dương Phương Hinh. Còn người ít tuổi hơn chính là trưởng nữ của Dương Nguyên Khánh, Dương Băng.

Với phép tắc nghiêm ngặt của Dương phủ, đúng ra hai người không có cơ hội ra khỏi phủ, đây là do Dương Phương Hinh lấy cớ đi tham kiến mẫu hậu nên mới kéo Dương Băng ra ngoài.

 Chương 834 : Nỗi lo của Độc Cô (1+2)

Đậu hoàng hậu biết hoàng thượng vô cùng sủng ái ả, cũng không dám xử lý quá tàn nhẫn đối với ả, cơn giận trong lòng bà cũng đã hết, liền thản nhiên nói:

- Hôm nay chỉ là cảnh cáo, nếu ngươi dám tái phạm, lần sau ta sẽ lấy cái mạng nhỏ bé của nhà ngươi.

Trương Tiệp Dư ôm lệ dập đầu:

- Tiện thiếp tạ ơn hoàng hậu đã dạy bảo.

- Đi đi! Đừng để ta lại gặp lại ngươi.

Trương Tiệp Dư hành lễ lui ra, Đậu hoàng hậu nghĩ ngợi một lúc lại dặn dò hai bên:

- Đem chuyện hôm nay truyền khắp cung, ai dám tái phạm, bản cung sẽ trừng trị nghiêm khắc!

Trương Tiệp Dư về đến tẩm cung của mình liền gục đầu vào giường, khóc lớn, mấy cung nữ tâm phúc và thái giám nhiều lần khuyên ả, hoàng hậu chỉ đố kỵ vì ả được sủng ái nên mới nổi giận như vậy, càng chứng tỏ ả rất được thánh thượng yêu chuộng, ả ngẫm nghĩ cũng không sai nên mới dần dần ngưng khóc.

ả ngồi trước bàn trang điểm tự soi gương, thấy mình vô cùng tệ hại, xấu hổ không nói nên lời, trong lòng hận đến chảy máu, nghiến răng nghiến lợi thấp giọng nói:

- Sẽ có một ngày, ta sẽ giết lão tiện nhân này!

Đứng bên cạnh là một lão thái giám, tên Trương Hiệu Trung, là đồng hương với Trương Tiệp Dư, thậm chí còn là họ hàng xa, lão là tâm phúc của Trương Tiệp Dư, rất có chút đầu óc suy nghĩ.

Lão liền hạ giọng khuyên bảo:

- Nương nương không cần thiết phải phiền não, hoàng hậu tuổi tác đã cao, sức khỏe lại không được tốt, cũng không qua được mấy năm nữa, lão nô muốn khuyên nương nương nên nhìn xa một chút, tìm cho mình chỗ dựa sau này.

Trương Tiệp Dư trầm ngâm suy nghĩ rồi hỏi:

- Ông nói chỗ dựa là như thế nào?

Trương Hiệu Trung thở dài:

- Thực ra thánh thượng háo sắc vô độ, phóng túng bản thân cũng không thể trường thọ được, lão nô khuyên nương nương nên suy nghĩ lâu dài, vạn nhất thánh thượng sau trăm tuổi, nương nương nên làm thế nào?

- Vậy ngươi nói ta nên làm thế nào? Chỗ dựa là ai được chứ?

Trương Diệp Tư không hiểu hỏi.

Trương Hiệu Trung nhìn hai bên, thấy không có người liền nói nhỏ:

- Hiện nay nương nương được thánh thương sủng ái, có thể nắm giữ trái tim của hoàng thượng, đó chính là tài năng của nương nương, nếu nương nương không ngại hãy dùng tài năng này để kết giao với thái tử, nói lời hay ý đẹp thay cho thái tử, sau này thái tử đăng cơ, cũng sẽ cảm ơn mà báo đáp, lo cho nương nương về sau.

Trương Diệp Tư giật mình:

- Ta cũng là vì cái này nên mới bị phạt, ngươi còn muốn ta kết giao với thái tử, không phải là muốn hại chết ta đấy chứ?

Trương Hiệu Trung nở nụ cười:

- Nương nương hiểu nhầm rồi, lão nô không phải nói bản thân nương nương qua lại với thái tử, càng không phải nương nương và thái tử liếc mắt đưa tình, mà là lão nô nói kết giao lợi ích, nương nương không ngại để phụ thân qua lại với thái tử, có việc gì, có thể thông qua phụ huynh truyền đạt tin tức.

Trương Tiệp Dư trầm tư suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng gật đầu.

Phường Tuyên Dương Trường An, có một căn nhà lớn rộng gần tám mươi mẫu. Nơi này chính là phủ Độc Cô nổi tiếng Trường An, là phủ đệ của Độc Cô Tín công thần khai quốc Bắc Chu năm đó.

Sau đó do trưởng tử Độc Cô La kế thừa, Độc Cô La bị chết vì dính líu đến vụ án của Hạ Nhược Bật, trước lúc chết đem phủ đệ này truyền lại cho chủ nhân mới là Độc Cô Chấn, chứ không truyền cho con trai là Độc Cô Lương. Như vậy, Độc Cô phủ trở thành phủ đệ của gia chủ của gia tộc Độc Cô.

Buổi tối, thành Trường An bị bao phủ bởi màn mưa phùn dày đặc, người của Độc Cô phủ đang bận rộn thả đèn bên bờ sông nhỏ. Hôm nay là 13 tháng 7 rồi, chỉ còn 2 ngày nữa là đến tết Trung Nguyên, cho dù hoàng đế Lý Uyên yêu cầu phải tiết kiệm, không được xa hoa, nhưng phong tục cần thiết vẫn phải được duy trì.

Trong màn mưa mù mịt, một chiếc xe ngựa chầm chậm dừng trước cửa Độc Cô gia, gã quản gia vội vã bung dù chạy xuống bậc thang, Độc Cô Lương bước ra khỏi xe ngựa.

Độc Cô Lương là trưởng tử của Độc Cô La, do tuổi tác đã cao nên không làm quan trong triều đình mà được phong làm Thái tử Thiếu bảo, tập cựu tước Triệu quốc công, địa vị vô cùng tôn quý.

Độc Cô Lương tuy rằng không làm quan nhưng lại có rất nhiều con em Độc Cô gia khác đảm nhận chức quan cao trong Đường triều.

Tỷ như huynh đệ lão Độc Cô Hoành đảm nhận chức Hữu Vệ đại tướng quân, cháu trai Độc Cô Khí làm Thái thú quận Tư Dương, tộc đệ Độc Cô Hoài Ân là Công bộ thượng thư, thúc phụ của lão Độc Cô Chấn làm Nội sử lệnh…, quan văn quan võ đều có cả, địa vị gia tộc vô cùng tôn quý trong Đường triều.

Độc Cô Lương nhìn khắp lượt các gia nhân đang bận rộn bên sông, liền lạnh lùng hỏi:

- Chủ nhân ngươi có ở phủ không?

- Có ạ, mời nhị lão gia đi theo lão.

Quản gia cùng Độc Cô Lương nhanh nhanh chóng chóng đi vào trong phủ.

Trong thư phòng, chủ nhân Độc Cô thị Độc Cô Chấn đang ngồi hạ bút viết một bức thư. Độc Cô Chấn năm nay cũng đã hơn 60 tuổi, tóc bạc nhưng khí sắc tốt, ánh mắc quắc thước, là một trong ngũ tướng Đại Đường, đảm nhiệm Nội Sử Lệnh.

Gia tộc Độc Cô và Đậu thị đều được gọi là Đại Đường đệ nhị gia tộc, chỉ đứng sau hoàng tộc Lý thị, hoàn toàn áp đảo các quý tộc Quan Lũng khác.

Đạt được địa vị cao như vậy, hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, năm Đại Nghiệp cuối cùng, gia tộc Độc Cô liên tục chuyển tiền và lương thảo từ các nơi của triều Tùy đến Quan Trung, nên gia tộc Độc Cô được mệnh danh là thủ phủ Đại Tùy, có khả năng hiệu triệu cực lớn ở hai vùng đất Quan Lũng và Ba Thục.

Sai khi Lý Uyên vào Quan Trung, gia tộc Độc Cô đầu tiên đem số tiền và lương thảo cực lớn trợ giúp cho quân Đường, sáu nghìn gia đinh ở các trang viên cũng giao cho quân Đường.

Lập tức lão theo Lý Hiếu Cung theo hướng nam đến Ba Thục, khuyên các quận Ba Thục đầu hàng Đường triều, giúp Đường triều không phải tốn binh đao mà cũng chiếm lĩnh được Ba Thục, lập nên công lớn.

Lý Đường để đền đáp ân nghĩa nên đã hậu phong gia tộc Độc Cô, cũng là có tình có lý.

Nhưng cùng với việc quân Đường bị thảm bại dưới quân Tùy, gần hai trăm nghìn đại quân bị tiêu diệt, sáu nghìn gia đinh của lão cũng chết thảm hơn một nửa. Điều này khiến cho niềm tin của Độc Cô Chấn với Đường triều cũng bắt đầu bị dao động.

Điều này cũng giống như một nhà đầu tư, khi anh ta đầu tư liên tục bị lỗ thì Đại Đường rất khó đem lại lợi nhuận hẫu hĩnh cho anh ta. Thậm chí còn bị trượt xuống bên bờ vực phá sản, đương nhiên là lão không vui rồi.

Hai ngày nay có một chuyện khác khiến lão đau đầu là tin tức mà lão nghe được vào sáng sớm nay. Cháu trai Độc Cô Hoài Ân bị quân Tùy bắt giữ, điều này khiến cho lão vô cùng tức giận.

Độc Cô Hoài Ân đảm nhậm Công bộ thượng thư, là người kế thừa của Độc Cô gia mà lại bị quân Tùy bắt làm tù binh, nghe nói còn bị trúng tên, cả một ngày trời, Độc Cô Chấn bị chuyện này làm cho âu sầu thiểu não.

Lúc này, bên ngoài có tiếng bẩm báo của quản gia:

- Chủ nhân, nhị lão gia đã tới.

Độc Cô Chấn hạ bút, Độc Cô Lương đến rồi, cũng biết y sẽ đến liền nói:

- Mời vào.

Cửa mở, Độc Cô Lương bước vào trong, mặc dù y lớn hơn Độc Cô Chấn hai tuổi nhưng y vẫn là cháu trai của lão, y liền đến hành lễ:

- Tham kiến gia chủ!

Độc Cô Lương là trưởng tôn, có địa vị cao quý trong gia tộc Độc Cô, vì thế Độc Cô Chấn cũng đặc biệt tôn trọng y, trước mặt y cũng không câu nệ trưởng bối, hai người tuy là chú cháu nhưng thực chất tình như huynh đệ.

Huấn Lương đến thật đúng lúc, ta vốn cũng định cho người đến mời cháu, ngồi xuống đi.

Độc Cô Lương ngồi xuống, một hầu nữ bưng trà đến, y uống một ngụm trà nóng, vẻ lo lắng nói:

- Cháu chiều nay mới biết tin, Hoài Ân bị quân Tùy bắt giữ, phải làm sao đây? Lý Hiếu Cung lại chạy mất một mình.

Độc Cô Chấn cười lạnh lùng:

- Không chỉ có Lý Hiếu Cung chạy mất mà đến mấy tên giúp việc của y cũng chạy theo, nhưng đường đường Nguyên soái Trưởng sứ, Công bộ thượng thư triều đình lại bị bắt làm tù binh, cháu không thấy chỗ này có điều gì không bình thường sao?

Độc Cô Lương kinh ngạc:

- Ý của thúc là Lý Hiếu Cung cố ý để Hoài Ân bị Quân Tùy bắt sao?

- Ta không dám nói Lý Hiếu Cung cố ý nhưng y không tận tâm bảo vệ Hoài Ân, điều này là quá rõ, ta nghĩ nếu Đậu Tấn là trưởng sứ, Lý Hiếu Cung bất luận thế nào cũng sẽ không để y bị bắt.

Độc Cô Chấn nói với vẻ vô cùng bất mãn, ban đầu thái tử chủ trương để Hoài Ân đi Kinh Tương giữ chức Đông Nam đạo Hành Đài Thượng thư lệnh chính là một quyết định sai lầm, quả nhiên đây là muốn phân quyền của Lý Hiếu Cung.

Nhưng Lý Thế Dân và Lý Hiếu Cung đâu có để quyền lực Kinh Tương bị chia dễ dàng như vậy, không phải thời cơ là đây hay sao? Lý Hiếu Cung lợi dụng thủ đoạn chiến tranh dễ dàng loại bỏ Hoài Ân, Độc Cô Chấn vừa hận Lý Hiếu Cung thủ đoạn thâm độc vừa bất mãn với Lý Kiến Thành suy nghĩ không thấu đáo.

Lão lại nói:

- Hôm nay ta đi gặp thái tử, ta nói rõ với thái tử, chuyện này nếu như không làm cho ra lẽ thì sau này Độc Cô gia sẽ không cống nộp cho triều đình một cắc, một đấu nào cả.

- Nhưng có tác dụng không?

- Nhất định có, phụ hoàng y còn muốn chiêu mộ binh mã, còn cần đồng để đúc tiền, những cái này y đều phải cầu xin Độc Cô gia ta, y nhất định sẽ nghĩ cách để cứu Hoài Ân.

Độc Cô Lương trầm tư một lúc rồi nói:

- Thúc ép như vậy, liệu có hơi quá với họ không?

 Chương 834 : Nỗi lo của Độc Cô (2)

Độc Cô Lương lắc lắc đầu:

- Thái tử và Lý Uyên ắt có tính toán trong đầu, ta không chỉ bất mãn với chuyện này mà thực tế, họ ngoài việc tạo ra những tên mềm yếu như Lương Sư Đô, Lý Quỹ và Tiên Tiển, thì còn có thể đối phó ai nữa. Họ đã bại dưới tay Dương Nguyên Khánh mấy lần rồi?

Độc Cô Lương cũng lo lắng:

- Thực ra không chỉ có thúc bất mãn mà cháu tiếp xúc với không ít quý tộc Quan Lũng, họ đều không hài lòng đối với việc quân Đường thảm bại bởi quân Tùy, nghe nói đến Đậu gia cũng có ý kiến.

Mắt Độc Cô Chấn lơ đễnh để hiện tia hối hận, lão không kìm được tiếng thở dài:

- Ta ủng hộ họ là để họ thống nhất thiên hạ. nhưng họ đến Quan Trung cũng không đi ra được, làm sao mà không khiến ta khỏi thất vọng, sớm biết này ta đã ủng hộ Dương Nguyên Khánh, đúng là sai một ly đi một dặm!

- Nhưng Dương Nguyên Khánh là kẻ thù của quý tộc Quan Lũng, ban đầu hắn đánh bại Hạ Nhược Bật. Áp đảo Trương gia và Nguyên gia, thúc quên rồi sao?

Độc Cô Chấn cười, chầm chậm nói, dường như muốn Độc Cô Lương khắc cốt lời y nói.

- Điều này cháu không hiểu rồi, không ở trong tình thế đó thì sẽ không hiểu. Lúc đó, hắn chẳng qua chỉ là thần tử, làm những việc đó là tuân theo thánh ý của Dương Quảng. Nhưng bây giờ hắn đã làm chủ. Hắn muốn giành thiên hạ, cuối cùng cũng vẫn cần phải thỏa hiệp với quý tộc Quan Lũng.

Độc Cô Chấn thấy Độc Cô Lương nghĩ ngợi, lại tiếp tục nói:

- Một người không biết thỏa hiệp thì mãi mãi sẽ không thể thành đại sự, Dương Nguyên Khánh lại không phải là người như vậy, lúc đầu ở Lạc Dương áp giá gạo, ta đã biết hắn là một người biết thỏa hiệp.

Độc Cô Lương đã hiểu chút ý của chú:

- Thúc muốn nói chúng ta âm thầm đi lại với Dương Nguyên Khánh?

Độc Cô Chấn mỉm cười đắc ý:

- Trên thực tế ta đã qua lại rồi. Lúc ta ở Phong Châu, ta đã tiếp xúc với hắn rồi, cháu quên rồi sao?

Độc Cô Lương giật mình, y đúng là đã quên người đó rồi.

Huyện Thọ Quang quận Bắc Hải là một huyện nhỏ ở phía bắc của Bắc Hải, dọc theo hướng bắc là một mảnh rừng rậm, qua rừng rậm lại là bãi cát mười mấy dặm, cứ tiếp hướng bắc là đến biển rộng mênh mông vô bờ.

Tống Kim Cương dẫn hơn hai mươi tàn binh tháo chạy. Y không dám vào huyện thành, chạy thẳng vào rừng, hướng bãi cát.

Trận chiến của Đậu Kiến Đức và Tống Kim Cương kéo dài gần nửa tháng, mặc dù Đậu Kiến Đức với ba mươi ngàn quân chiến đấu với mười hai ngàn quân của Tống Kim Cương, binh lực chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng Tống Kim Cương lợi dụng tường thành cao lớn, động viên quân dân toàn thành phòng thủ nghiêm ngặt, khiến Đậu Kiến Thành tổn thất nặng nề.

Cuối cùng vì dân chúng không kham nổi áp bức, mở thành để Đậu Kiến Đức tiến vào, mới khiến cho đội quân của Tống Kim Cương thảm bại, Tống Kim Cương dẫn hơn trăm thân binh đoạt môn tháo chạy.

Qua huyện Thọ Quan là đến thẳng rừng rậm, Tông Kim Cương cuối cùng cũng đến được bãi cát, mãi cho đến lúc này, y mới thở phào nhẹ nhõm, đến được bãi cát thì phải xem liệu y có thể tìm được thuyền ra biển, rời khỏi Bắc Hải hay không.

- Tướng quân, chúng ta đi đâu đây?

Một tên cận binh hỏi.

Điều này Tống Kim Cương cũng không biết, y còn có thể đi đâu được? Thực ra 20 hôm trước, Dương Nguyên Khánh có phái người đến tìm y với hy vọng y có thể đầu hàng Đại Tùy.

Khi đó, y cho rằng điều kiện mà Dương Nguyên Khánh đưa ra quá thấp, chỉ cấp cho y vị trí hữu danh vô thực của một công huyện và chức vị đại tướng quân nhàn rỗi, chẳng có tý thực quyền nào, vì thế y đã từ chối.

Thế nhưng bây giờ y muốn đồng ý thì chỉ e Dương Nguyên Khánh cũng sẽ không dung nạp, y đã mất quận Bắc Hải, mất đội quân, hai bàn tay trắng, y làm gì còn có đủ tư cách để nhận huyện công và chức vị đại tướng quân!

Y và Mạnh Hải Công là bạn cố hữu, có lẽ gã có thể đi thuyền xuống phía nam đến Hội Kê để nương nhờ Mạnh Hải Công.

Tống Kim Cương thở dài:

- Đi tìm thuyền trước hãy nói.

Lúc này họ vừa đói vừa mệt, lại tiếp tục đi về phía bắc, khoảng 10 dặm, sắp đến biển, trước mặt bỗng thấy một ngôi nhà, trên mái tỏa khói nghi ngút, có người!

Cả đám người vừa kinh ngạc vừa vui mừng, thúc ngựa chạy đến, đó là nhà của một ngư dân, trong nhà gồm một đôi vợ chồng trung niên với hai đứa con, một trai một gái, người chồng mới cùng con trai đánh cá trở về, gia đình đoàn tụ, đang hưởng thụ niềm vui vô bờ.

Bỗng nhiên một đám binh sĩ như thổ phỉ xông vào, người chồng giận dữ, cầm ngư khí liều mạng liền bị binh sĩ một đao chém chết, người vợ cùng cô con gái sợ trốn trong phòng bị bọn binh sĩ cười dâm ô, khóa trái cửa.

- Mẹ kiếp, mau tìm lương thực, ăn no rồi chuyện gái gú tính sau.

Tống Kim Cương bụng đói, giục thuộc hạ đi tìm cái gì ăn, bọn binh sĩ lùng sục khắp phòng, chỉ tìm được ít gạo, nhưng sân sau lại có không ít cá biển, bọn binh lính được một bữa no nê hải vị.

Màn đêm buông xuống, Tống Kim Cương dâm ý nổi lên, một chân đá văng cửa phòng.

Trời càng lúc càng tối, tội ác bóng đêm cũng đã kết thúc, đám binh sĩ một ngày mệt mỏi đều lăn ra ngủ say như chết.

Đúng lúc này, Tống Kim Cương bị một tiếng động giật mình tỉnh dậy, chỉ cảm thấy bên ngoài một màu rực lửa. Y thất kinh, bật dậy, lao đến cửa sổ, toát mồ hôi hột, chỉ thấy bên ngoài bị mấy trăm ngư dân vây kín, người người tay lăm le ngư khí và đuốc, trong mắt hừng hực phẫn nộ.

Trước mặt là một thiếu niên 16, 17 tuổi, giống người ngư dân bị giết như tạc, Tống Kim Cương lùi lại hai bước.

Bỗng nhiên, y rống lên:

- Dậy mau, tất cả dậy hết cho ta!

Cả phòng náo loạn, các ngư dân không đốt nhà là vì họ sợ làm phụ nữ trong nhà bị thương, nhưng hai người họ đã chết, họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra thôi.

- Ra ngoài giết, đoạt lại ngựa.

Bọn binh lính rút đao đi ra, Tống Kim Cương cũng xông ra, chỉ có đoạt lại ngựa mới có khả năng sống sót.

Một tiếng ai oán thoát ra từ ngọn đuốc, ngư dân phẫn nộ chửi rủa át tiếng cầu xin của đám binh sĩ, không lâu sau, chỉ còn lại một mình Tống Kim Cươngy đã bị hơn hai trăm người bao vây.

Chân y đã bị thương, chạy không nổi, y nhìn trời than vãn:

- Không ngờ Tống Kim Cương ta lại bị chết bởi đám ngu dân này!

- Giết…

Không biết là ai hô trước tiên, mấy trăm ngư khí cùng bổ xuống người y, khiến y bị đâm chết tươi ngay tại bãi cát.

Mặc dù nói triều đình cũng chịu tổn thất không nhỏ trong chiến dịch Trung Nguyên, nhưng bản thân thắng lợi lại mang đến cho quân dân triều Tùy sự cổ vũ rất lớn. Vừa đúng dịp tết Trung Nguyên, ngày lễ thờ cúng trời đất truyền thống cũng biến thành ngày lễ chúc mừng thắng lợi.

Bên trong thành Thái Nguyên, không chỉ có dòng sông được thả đầy thủy đăng, âm thanh mái chèo nhộn nhạo, ánh sáng chập chờn. Mấy con sông trong thành Thái Nguyên trở nên tràn ngập màu sắc.

Không chỉ ở sông, nhà nhà đều treo đèn hoa đăng lên, bày ra chậu vu lan, lấy cách thức này để ăn mừng quân Tùy đại thắng.

Trời vừa tối, vô số tiểu thương xuất hiện trên đường Tấn Dương. Khứu giác của bọn họ vô cùng nhạy bén, phát hiện thời cơ buôn bán đã đến. Tiểu thương tụ thập đông như vậy càng hấp dẫn nhiều người ra khỏi nhà. Nhất thời, người đi dạo phố, xem đèn chật ních trên các con đường lớn nhỏ của thành Thái Nguyên.

Đèn đuốc rực rỡ, toàn bộ thành Thái Nguyên sáng rực như ban ngày.

Trên đường cái, một đám trẻ con tay cầm thủy liên đăng vui vẻ chạy nhảy. Những quán nước nhỏ cũng chật ních khách quen. Mặc dù không phải là tết Nguyên Tiêu, nhưng đối với bọn họ, vui vẻ mới là điều quan trọng nhất.

Các thiếu nữ cũng kết lại thành đội du ngoạn trên đường, vây lấy các gian hàng bán đồ trang sức cùng son phấn, chọn mua các loại đồ trang sức hạ giá.

Ở một quầy bán đồ trang sức nhỏ, hai thiếu nữ đang cùng nhau chọn đồ trang sức. Mấy trăm loại trang sức đủ màu sắc khiến cho ánh mắt của hai nàng tràn đầy thích thú.

Hai thiếu nữ, một người ước chừng mười bốn tuổi, người kia chỉ vào khoảng mười một tuổi, đều có đôi mắt sáng, hàm răng trắng tinh khiến cho người khác phải rung động. Hai nàng mặc váy dài làm bằng vải đay loại thượng đẳng, khoác một chiếc áo ngắn, tóc búi sơ thành hai cuộn tròn như trăng rằm đầy tháng, làn da trắng noãn như ngọc.

Mặc dù quần áo trên người các nàng rất đơn giản, nhưng khí thái siêu phàm thoát tục tỏa ra từ hai nàng khiến cho nam thanh nữ tú ở xung quanh đều trở nên ảm đạm.

Tuy hai thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần nhưng tuyệt đối không có một người nào dám đánh chủ ý lên hai nàng, bởi vì bên cạnh hai nàng là bốn năm nữ binh đang nắm chặt bội đao trong tay, vóc người cường tráng, ánh mắt sắc lạnh.

Trên đường phố của Thái Nguyên xuất hiện nữ binh là chuyện rất bình thường, bọn họ đều là nữ binh hộ vệ. Ngày trước thì không có tập quán này, nhưng hiện tại dùng mãi thành thói quen. Có điều, những nữ binh này hình thức đều rất hung hãn, không có chút cảm xúc nào có thể xem là của nữ nhân, so với nam nhân còn cường tráng hơn.

Nhưng các nàng lại bảo hộ rất chu toàn cho hai thiếu nữ kia, nhìn có vẻ như không để ý nhưng thật ra là không hề có bất cứ một người nào có thể đến gần hai thiếu nữ. Ngay cả chủ gian hàng cũng thấy hai thiếu nữ này có thân phận không tầm thường.

Hai thiếu nữ này, người lớn tuổi chính là Công chúa Đan Dương nhà Tùy, Dương Phương Hinh. Còn người ít tuổi hơn chính là trưởng nữ của Dương Nguyên Khánh, Dương Băng.

Với phép tắc nghiêm ngặt của Dương phủ, đúng ra hai người không có cơ hội ra khỏi phủ, đây là do Dương Phương Hinh lấy cớ đi tham kiến mẫu hậu nên mới kéo Dương Băng ra ngoài.

 Chương 835 : Đêm mới Trung Nguyên

Buổi tối tết Trung Nguyên phồn hoa náo nhiệt như vậy, nếu không được chơi bời một chút thì thật là phí hoài tuổi xuân.

Cũng may là trị an của Thái Nguyên khá nghiêm ngặt, nơi nào cũng có quân đội tuần tra, rất ít thấy loại du côn lãng tử. Không dám nói là không có loại người này, nhưng chúng cũng biết kiềm chế. Hoặc là móc túi trộm vặt, hoặc là nhân lúc chen lấn đông người sờ mông sờ ngực thiếu nữ. Còn việc trêu đùa nữ nhân giữa thanh thiên bạch nhật thì ít khi xảy ra.

Cho nên mặc dù hai thiếu nữ này cực kì kiều diễm, như hoa sen trong nước, hấp dẫn sự chú ý của rất nhiều người nhưng không có kẻ nào rảnh rỗi dám chạy đến quấy rầy đùa giỡn.

- A tỷ. Tỷ xem cái tram đồng này…

Dương Băng chưa kịp nói hết đã bị Dương Phương Hinh cắt ngang, thấp giọng nói:

- Không phải đã nói trước rồi sao? Không nên gọi ta là a tỷ, phải gọi là a cô. Trong phủ xưng hô thế nào, sao ra ngoài lại thay đổi cách xưng hô?

Dương Băng có chút uất ức, chu miệng lên một chút:

- Trong phủ gọi người là a cô vì không có biện pháp, ra ngoài gọi a tỷ cũng không được sao? Sao trước kia tỷ lại để cho ta gọi?

- Trước đây là trước đây. Hiện tại đang giảng quy củ, ta không muốn nghe ngươi gọi là a tỷ, làm loạn bối phận. Nếu ngươi còn gọi loạn, ta lập tức đưa ngươi về cung Tấn Dương.

Dương Băng ‘xùy’ một tiếng, miệng nở nụ cười:

- Tỷ lừa ai đó? Chính tỷ cũng không muốn đến cung Tấn Dương. Tỷ nói ở nơi đó giống như làm ni cô, chính ở phủ của ta mới tự do tự tại, hoặc là tỷ dọn đi, ta gọi tỷ a tỷ.

Mặt Dương Phương Hinh đỏ lên, gắt giọng:

- Ngươi lại quấy rối, lần sau ta không mang ngươi ra ngoài chơi nữa.

Những lời này của Dương Phương Hinh chẳng khác nào đòn sát thủ, thoáng cái Dương Băng đã không dám hé môi, một lát sau mới lẩm bẩm:

- Được rồi! A cô thì a cô.

Dương PHương Hinh nở nụ cười rạng rỡ:

- Vậy mới phải chứ. Vừa rồi ngươi muốn nói gì?

Thoáng cái Dương Băng đã lấy lại tinh thần, vội vã vươn tay nhổ một cái trâm đồng song phượng, ở giữa trâm đồng là một viên trân trâu to như hạt đậu tương.

Nàng đặt cây trâm đồng trên lòng bàn tay, cười nói:

- Ngươi biết không? Mẫu thân ta cũng có một cây trâm đồng giống y như thế này.

Dương Phương Hinh có chút ngạc nhiên bèn cầm lấy trâm đồng ngắm nhìn một chút. Trạm trổ rất tinh xảo, nhìn rất sống động:

- Mẫu thân ngươi cũng có cái này?

- Đúng vậy! Giấu ở cái hòm đựng đồ trang sức, ở gần dưới cùng, đựng trong một cái hộp gỗ tử đàn nhỏ. Mẫu thân ta coi vật này như bảo bối, lần trước ta lấy ra xem, bị mắng cho một trận.

Đôi mắt Dương Phương Hinh lay động, nở nụ cười:

- Nhất định là phụ thân ngươi mua cho mẫu thân ngươi. Không phải ngươi từng nói phụ mẫu ngươi từ nhỏ đã lớn lên bên nhau hay sao. Ta nghe phụ hoàng ta nói, phụ thân ngươi lúc còn nhỏ phải đi săn thú kiếm sống, sau mới gặp đường hoàng tổ phụ ta. Đó chắc hẳn là vật đính ước của phụ thân ngươi đưa cho mẫu thân ngươi, cho nên mẫu thân ngươi mới cất giữ như bảo bối vậy.

- Đúng! Ta cũng nghĩ như vậy.

Dương Băng bị những lời của Dương Phương Hinh hấp dẫn, vội vã hỏi:

- A cô nói phụ thân ta lúc còn bé từng đi săn, sao ta không biết? Phụ thân ta còn có sự tích gì, a cô mau nói cho ta biết!

Dương Băng cực kì sùng bái phụ thân, đối với tất cả sự tình về phụ thân đều cảm thấy hứng thú. Đôi mắt nàng mở to, tràn đầy khát vọng tìm hiểu.

Dương Phương Hinh cười nói:

- Ngươi đúng là nha đầu ngốc. Ngươi đi hỏi mẫu thân ngươi chẳng phải sẽ rõ ràng sao, ngươi hỏi ta làm gì?

- Mẫu thân cũng không nói với ta những điều này.

Dương Băng lôi kéo, làm nũng Dương Phương Hinh:

- A cô tốt, a cô nói cho ta biết đi mà! Ta sẽ gọi a cô là a cô.

Dương Phương Hinh giơ ngón tay thon dài như ngọc ấn lên trán Dương Băng, cười nói:

- Đúng là một nha đầu ngốc. Chuyện của phụ thân mình lại đi hỏi người ngoài, đúng là một đứa con hư. Được rồi! Hôm nào đó ta sẽ kể cho ngươi nghe những cố sự về phụ thân ngươi.

Lúc này, chủ gian hàng mới cười nói:

- Hai vị cô nương đã quyết định chưa?

- Ừ!

Dương Băng đã sớm chọn được năm sáu cái trâm đồng khá tốt:

- Ta sẽ lấy những thứ này. A cô, còn a cô?

Dương Phương Hinh do dự một chút, sau đó lại nhổ cây trâm đồng song phượng xuống, cười nói:

- Cái trâm này không tệ, ta sẽ lấy nó.

Người bán hàng nhanh nhẹn thay các nàng gói đồ lại, cười tủm tỉm nói:

- Hai vị cô nương, tổng cộng là hai xâu tiền.

Dương Băng thò bàn tay nhỏ bé vào túi, lấy ra một khối bạc vụn cỡ ba bốn lạng, đây toàn là tiền tiêu vặt của nàng, sau đó đưa cho người bán hàng:

- Ta chỉ có bạc, có được không?

Bạc còn có giá trị hơn tiền đồng. Một lượng bạc trị giá mười xâu tiền đồng. Chỗ bạc vụn này của nàng ít nhất cũng trị giá bốn xâu tiền đồng. Người bán hàng vội nhận lấy, nhìn qua một chút, quả đúng là bạc thật, luôn miệng nói:

- Đương nhiên là được, ta còn phải trả lại cô nương hai xâu tiền.

- Không cần, coi như là thưởng cho ngươi đi!

Tuy rằng Dương Băng không có nhiều tiền cho lắm, nhưng tính cách hào phóng không khác gì phụ thân Dương Nguyên Khánh. Người bán hàng rong vui mừng không ngớt, luôn miệng nói:

- Đa tạ cô nương, chỉ là… ta sao lại không biết xấu hổ mà nhận chứ?

Dương Băng cười nói:

- Không có gì. Ngươi làm ăn không dễ, hãy mua cho con gái ngươi chút gì đi.

Trong lòng người bán hàng rong vô cùng cảm động, y thấy trong tay hai người không có đèn bèn lấy hai ngọn thủy liên đăng từ dưới bàn ra, đưa cho hai nàng:

- Xin tặng hai ngọn đèn này cho hai vị ra bờ sông thả đèn cầu nguyện.

- Cám ơn đại thúc.

Dương Băng nhận lấy hai ngọn đèn, đưa cho Dương Phương Hinh một cái, trong lòng hai người tràn đầy vui mừng bước nhanh về hướng bờ sông. Năm nữ binh lập tức đi theo các nàng, chỉ cách nhau vài bước chân.

Người bán hàng rong nhìn theo hai nàng, lắc đầu lẩm bẩm:

- Đây là nhi nữ của vị đại quan nào, có nữ binh hộ vệ nhưng lại mặc váy bằng vải đay, thật không hiểu nổi!

Người bán hàng rong quay người lại, đột nhiên sợ hãi mà che miệng lại, y chợt nghĩ ra đây là nhi nữ nhà ai.

Sông Tấn Dương là con sông quan trọng nhất bên trong thành Thái Nguyên, chảy xuyên suốt toàn thành. Lúc này, quan phủ đang thả hơn ngàn chiếc thủy đăng xuống nước, sắp hàng chỉnh tề. Mặt khác, có hơn mười chiếc thuyền nhỏ, trên thuyền bố trí hoa đăng, phản chiếu xuống mặt nước, thiên hình vạn trạng, ánh sáng rực rỡ.

Bên bờ sông lập hai tòa đăng tháp, là tháp chiêu hồn, được dựng lên một cách khéo léo bên trong thành, đèn đuốc sáng trưng, sẽ thắp sáng suốt một đêm, dầu thắp cũng là do các hộ gia đình trong thành quyên tặng, góp ít thành nhiều.

Lúc này, ở trước đăng tháp chật ních người dân đến đốt đèn, trai gái đều có. Âm thanh huyên náo lạ thường. Đốt một chiếc đèn, ước một điều ước, theo nước trôi đi, cuối cùng, những người thân đã chết có thể biết được mong ước của họ.

Bờ sông cũng chật ních thiếu nữ đến thả đèn. Có một tục lệ khác từng nói, thiếu nữ chưa lập gia đình có thể cầu nguyện ở đây, đèn theo nước trôi đi, như vậy tâm nguyện của nàng sẽ thành hiện thực.

Tất nhiên tâm nguyện của các thiếu nữ là tìm được một đấng lang quân như ý. Các nàng vén cao tay áo, lộ ra cổ tay trắng, đem thủy liên đăng đặt xuống nước, đèn theo gợn nước hướng ra giữa dòng sông, hợp thành một đăng trận hoành tráng.

Tại một khúc sông có chút yên lặng, Dương Băng và Dương Phương Hinh đốt thủy liên đăng, nữ binh hộ vệ của hai nàng có mang theo đá lấy lửa và cây đốt lửa, không cần phải đến đăng tháp tham gia náo nhiệt.

Thật ra thì người ở chỗ này cũng không ít người, một đám tài tử của quốc tử học cũng đang ở hai bên bờ sông cách đó không xa thả đèn.

- A cô, tâm nguyện của a cô là gì?

Dương Băng hưng phấn hỏi. Hôm nay là lần đầu tiên nàng thả đèn, đối với tất cả mọi việc đều rất hiếu kỳ.

- Ta sao! Đương nhiên là nói vài lời thăm hỏi phụ hoàng.

Dương Phương Hinh thấy mặt Dương Băng đầy vẻ hưng phấn liền cười nói:

- Có phải tâm nguyện của ngươi là tìm được một đấng lang quân như ý hay không?

Mặt Dương Băng đỏ lên, giậm chân nói:

- A cô nói bậy, ta không thèm quan tâm đến a cô nữa. Người ta cũng mong muốn phụ thân bình an vô sự, sớm chiến thắng trở về.

Dương Phương Hinh thấy nàng gấp đến mức tức giận như con vịt nhỏ, liền cười nói:

- Tốt! Tốt! Ta không đùa giỡn với ngươi.

Dương Phương Hinh tìm một bãi cỏ sạch sẽ, dùng khăn phủ lên, sau đó quỳ xuống, vén cao tay áo để lộ ra bàn tay và một đoạn cổ tay trắng như ngọc. Hai tay nàng cầm thủy liên đăng, thấp giọng cầu nguyền, sau đó thả thủy liên đăng xuống sông.

Dương Băng cũng yên lặng cầu nguyện rồi thả thủy liên đăng xuống nước. Hai ngọn thủy liên đăng tụ lại một chỗ, sau đó chậm rãi hướng ra giữa dòng sông.

Dương Phương Hình nhìn hai ngọn đèn sóng vai mà đi, không khỏi cúi đầu thở dài.

Ngay cách đó không xa, một đám học sĩ ở quốc tử học cũng chú ý tới hai nàng. Hai thiếu nữ xinh đẹp tuyệt luân, khí chất bất phàm khiến cho bọn chúng sinh lòng ái mộ. Tuy Dương Băng còn nhỏ, nhưng Dương Phương Hinh lại khiến bọn họ đặc biệt chú ý.

Mọi người chụm đầu ghé tai, bàn luận xôn xao, ngươi đẩy ta nhường. Cuối cùng cũng có một gã sĩ tử tiến lên, khom người thi lễ với Dương Phương Hinh:

- Tiểu sinh Trương Chí, người quận Tây Hà, xin được hỏi phương danh cô nương?

Phương danh: từ dùng để hỏi tên con gái một cách đề cao, khéo léo.

 Chương 836 : Gia pháp xử phạt

Dương Phương Hinh cả kinh, lùi về phía sau một bước:

- Ngươi là người phương nào?

Hai nữ binh ở bên cạnh phản ứng cực nhanh, tiến lên đẩy tên sĩ tử này ra. Lúc này, một đám sĩ tử xông tới, mồm năm miệng mười nói:

- Chúng ta chỉ muốn hỏi danh tính, cũng không có ác ý, cô nương cần gì phải lạnh lùng như vậy?

Gã sĩ tử vừa bị đẩy ra có thêm dũng khí, lại tiến lên thi lễ:

- Tiểu sinh Trương Chí, người quận Tây Hà, xin hỏi phương danh cô nương?

Lần này y không dám tiến lại gần, đứng cách vài thước, vừa hỏi vừa nhìn thoáng qua hai nữ binh ở hai bên, thấy đối phương đã rút đao ra, y vội vàng lùi về phía sau một bước.

Dương Phương Hinh đã bình tĩnh trở lại, liếc mắt nhìn qua đám người bọn họ, thấy mặc nho bào, đội mũ sĩ tử, liền nhàn nhạt hỏi:

- Các ngươi là sĩ tử Quốc Tử học sao?

- Đúng vậy!

Nhất thời tên sĩ tử này có thêm chút dũng khí, lại nói:

- Cô nương áo trắng có dung mạo như tiên tử, không nhiễm bụi trần, khiến cho tiểu sinh vô cùng kính yêu, đặc biệt cả gan muốn hỏi, không biết cô nương có thể cho biết phương danh hay không?

- Hừ! Tết Trung Nguyên nào có cái gì là Tiên tử, chỉ có quỷ ảnh mà thôi.

Dương Phương Hinh xoay người kéo theo Dương Băng:

- Chúng ta đi thôi!

Hai nàng xoay người rời đi. Một đám sĩ nóng nảy vội đuổi theo:

- Cô nương đi thong thả!

Tên sĩ tử vừa nãy càng đau khổ, năn nỉ:

- Gặp nhau là có duyên, vì sao cô nương không thương tiếc duyên này.

Năm tên nữ binh giận dữ, đồng loạt rút đao ngăn lại. Lúc này, Dương Phương Hinh có chút tức giận, bỗng nhiên quay người lại, giọng tức giận nói với đám sĩ tử:

- Các ngươi có tư cách gì biết tên của ta? Các ngươi là ba quân tướng sĩ vì nước giết địch, không quản sống chết sao? Hay là lão nông vất vả cần cù cày cấy, vì nước kính dâng thuế ruộng? Các ngươi cái gì cũng không phải, một đám giá áo túi cơm không chịu học hành khắc khổ đền đáp quốc gia, lại ở chỗ này buồn chán ỉ ôi. Các ngươi chỉ có thể để cho ta cảm thấy buồn nôn. Nhìn qua các ngươi một cái, ta cũng cảm thấy xấu hổ!

Bị Dương Phương Hinh mạnh mẽ lên án, đám sĩ tử nhất thời á khẩu, không thể trả lời được. Tên sĩ tử kia xấu hổ, hành lễ nói:

- Cô nương mắng hay lắm, ta biết sai rồi.

Dương Phương Hinh cũng không để ý đến y, xoay người kéo Dương Băng đi thẳng. Lúc này Dương Băng mới rụt cổ lè lưỡi nói:

- A cô, a cô mắng thật thống khoái a!

Dương Phương Hinh hừ lạnh một tiếng:

- Một đám người đọc sách buồn chán, làm hỏng tâm trạng của ta.

Thấy sắc trời đã không còn sớm, nhân tiện nói:

- Sắc trời cũng không còn sớm, chúng ta trở về đi!

Lúc này, Dương Băng bỗng nhiên cảm thấy một chút sợ hãi:

- A cô, ta lén trốn ra ngoài, đại nương có trách ta không?

- Không có việc gì đâu. Có ta ở đây, ta sẽ giải thích cho ngươi! Quanh năm suốt tháng ở trong nhà, đi ra ngoài một chút cũng là việc nên làm.

- Nhưng mà…

Dương Băng vẫn cảm thấy sợ. Gia pháp nhà nàng vốn rất nghiêm, mấy tháng nay lại càng nghiêm ngặt. Nhưng cũng không có cách nào, nàng cũng chỉ đành theo Dương Phương Hinh về phủ.

Mới bước vào phủ môn, muội muội Dương Tư Hoa đã chạy đến trước mặt lôi kéo Dương Băng, oán giận nói:

- Các người ra ngoài du ngoạn cũng không gọi ta một tiếng, khiến ta phải ở nhà viết chữ một mình.

- Ai nói ta ra ngoài chơi?

Dương Băng có chút khẩn trương.

- Ngươi còn không chịu thừa nhận. Nương tử của Trình Giảo Kim thấy các ngươi ở trên đường bèn chạy đến mách, nói trưởng nữ Sở Vương lại tự tiện xuất đầu lộ diện, quá nguy hiểm, vì thế, mẹ ta và mẹ ngươi đều giận đến xanh mặt. Đây chính là hậu quả của việc ngươi ra ngoài mà không dẫn ta theo.

Dương Tư Hoa nói xong, hận đến hai chân vừa nhảy, nhanh như chớp đã chạy đi. Dương Băng cả kinh, ngây dại. Bây giờ phải làm sao? Ánh mắt hoảng sợ nhìn qua Dương Phương Hinh:

- A cô, làm sao bây giờ?

Dương Phương Hinh cười cười:

- Chuyện này đã là gì. Ngươi cứ nói thật với Vương phi đi, ta sẽ nói đỡ cho ngươi.

Dương Băng đành phải kiên cường đi về phía nhà sau. Vừa bước vào trong nhà, một nha hoàn vội vã đi tới:

- Trưởng cô nương, Vương phi bảo người đến nội đường, tất cả mọi người đang chờ người ở đó!

Dương Băng sợ đến mức muốn khóc thành tiếng. Nàng cúi đầu, rốt cục cũng đi đến nội đường. Trong nội đường, Vương phi Bùi Mẫn Thu mang vẻ mặt âm trầm ngồi ở giữa, ngồi bên cạnh là mẫu thân của nàng, cũng mang vẻ mặt mất hứng. Bên cạnh hai người là một đám tiểu nương.

Dương Băng đi lên phía trước quỳ xuống, thấp giọng nói:

- Băng nhi biết sai rồi!

- Tốt lắm! Ta còn chưa kịp hỏi, con đã tự mình khai báo. Con nói xem, con sai ở đâu?

Giọng Bùi Mẫn Thu không lớn, cũng không nghiêm khắc nhưng lại mang theo một nét uy nghiêm khiến người khác phải kính nể. Trương Xuất Trần cũng không nhịn được nữa, tức giận vỗ mạnh xuống bàn:

- Con đúng là một nha đầu chết tiệt. Con có biết bao nhiêu người đi ra ngoài tìm con không? Nếu con không trở lại, thiếu chút nữa đã phải phái quân đội toàn thành tìm con, con có biết không hả?

Dương Băng không nhịn được khóc nức nở:

- Băng nhi không nên lén trốn ra ngoài dạo phố, không nói cho đại nương và mẫu thân, trái với gia pháp. Băng nhi biết sai rồi, nguyện chịu phạt!

Lúc này Dương Phương Hinh đi đến, thi lễ với Bùi Mẫn Thu và Trương Xuất Trần:

- Hai vị tỷ tỷ, xin hãy nghe muội nói một chút!

Dương Phương Hinh là nhi nữ của Dương Quảng, là muội muội Dương Chiêu, cùng thế hệ với Dương Nguyên Khánh, là công chúa Đại Tùy, trong lúc giơ tay nhấc chân cũng có có một loại đại khí tự nhiên.

Bùi Mẫn Thu đối với nàng rất khách khí, liền nói với người dưới:

- Chuẩn bị ghế cho công chúa!

- Không cần, ta nói xong hai cầu sẽ đi ngay.

Dương Phương Hinh áy náy nói:

- Băng nhi một mình chạy ra ngoài chơi, đúng là sai. Nhưng ta thân là a cô, nhưng lại không ngăn cản mà lại dẫn nó ra ngoài, đây là sai lầm của ta, ta hướng hai vị tỷ tỷ xin lỗi, cầu xin Vương phi nhìn trên phương diện nàng đã biết nhận sai và ta đã nói lời xin lỗi, xử phạt nhẹ tay.

Lúc này, Hàn thị, thê tử của Trương Tu Đà cũng đứng dậy cầu xin:

- Vương phi, Băng nhi đáng thương, nàng cũng khóc lóc biết lỗi rồi, xin người cho ta chút mặt mũi, tha cho nó được không!

Địa vị của Hàn thị trong Dương phủ rất cao, bọn nhỏ đều gọi là Hàn tổ mẫu, tâm địa lương thiện, rất yêu thương hài tử. Bọn nhỏ phạm lỗi lầm, đều chạy đến tìm bà bảo vệ, điều này cũng khiến Bùi Mẫn Thu có chút đau đầu.

Bùi Mẫn Thu đành phải cười nói:

- Hài tử phạm sai lầm thì phải xử phạt, đây cũng là muốn tốt cho chúng. Có điều công chúa và đại nương đã cầu xin, ta cũng không đánh nó, để cho nó tự chọn một hình phạt.

Bùi Mẫn Thu liền nói với Dương Băng:

- Hai hình phạt cho con chọn một. Một là cấm túc trong thư phòng một tháng, hai là chép phạt gia quy năm trăm lần. Con chọn cái nào?

Gia quy Dương phủ có đến trăm điều, mấy nghìn chữ. Phạt sao chép ra năm trăm chí ít cũng mất mấy tháng, nhưng còn tốt hơn là một tháng không ra khỏi phòng. Dương Băng cắn môi nói:

- Con nguyện chép gia quy.

- Được rồi! Con đứng lên, đi ăn cơm!

Dương Băng đứng lên, vừa muốn đi thì Bùi Mẫn Thu lại nói:

- Lần sau nếu muốn đi dạo phố, nói với ta một tiếng, ta sẽ cho người an bài, không thể ra ngoài một mình. Ngoài ra, hội đèn lồng tết Trung Nguyên còn một đêm nữa. Ngày mai, ta sẽ an bài để toàn thể gia đình ta ra ngoài thả đèn.

Đám hài tử vui mừng đứng lên hoan hô còn Dương Băng lại không hề hối hận một chút nào. Ra ngoài cùng mọi người, tiền hô hậu ủng, tầng tầng lớp lớp, nào giống như ra ngoài một mình, tiêu dao tự tại, còn gặp được người ái mộ a cô, thật nhiều điều thú vị!

Rửa mặt, chải đầu hoàn tất, Dương Băng cùng mẫu thân vào phòng. Lúc này, Trương Xuân Trần mới trách móc:

- Con đúng là một nha đầu chết tiệt, con còn chạy ra ngoài, xem ta đánh con thế nào.

Dương Băng biết đã nhận hình phạt, mẫu thân chỉ mắng một chút mà thôi, từ phía sau ôm lấy cổ mẫu thân, làm nũng nói:

- Trước đây nương là một hiệp nữ, tự do tự tại nhiều năm như vậy, cho con gái ra ngoài du ngoạn một chút cũng không được ư?

Trương Xuân Trần không có cách nào nói lại nhi nữ, đành phải nói:

- Con nói một tiếng, nương sẽ ra ngoài cùng con. Nếu chẳng may gặp phải kẻ xấu, có nương ở đó, cũng có thể cho chúng một đao. Con chạy ra ngoài một mình, làm nương lo muốn chết.

- Con không ra ngoài một mình mà! Con và a cô ra ngoài, còn có năm nữ binh đằng sau, trông họ như một đám cọp cái, ai dám tới gần chúng ta. Thật ra là con đi thả đèn, cầu cho cha được bình an, con còn mua đồ cho nương nữa này.

Trương Xuất Trần nghe thấy nữ nhi cầu nguyện cho phụ thân, trong lòng cũng yên ổn, sự tức giận hoàn toàn biến mất, cười nói:

- Nha đầu chết tiệt kia, mua cho nương cái gì, đưa cho ta xem.

Dương Băng vội vã lấy trong bao nhỏ ra năm sáu kiện đồ trang sức bày lên bàn, cười hì hì nói:

- Nương, nương có nhận ra đồ vật này?

Dương Xuất Trần cầm một cây trâm đồng lên, ánh sáng phảng phất như kéo nàng quay về thời điểm hai mươi năm trước, tết Nguyên Tiêu năm Khai Hoàng thứ mười chín. Lúc đó nàng mới mười tuổi, Nguyên Khánh cũng mua cho nàng một cây trâm đồng như vậy, năm nay nữ nhi đã mười một tuổi rồi.

Trong lòng Xuất Trần cảm thấy vô cùng xúc động. Năm tháng trôi qua thật nhanh. Nàng nở nụ cười ôn nhu:

- Trước đây cha con cũng mua cho nương một cây trâm đồng như thế này.

 Chương 837 : Mưu đồ của Tô Uy .

Con biết. Nương cất trong tủ quần áo, là song phượng trâm. Đó là vật đính ước mà cha tặng nương phải không?

Dương Băng gối đầu lên đùi mẫu thân, miệng nở nụ cười, ánh mắt tỏ ra khao khát, chờ đợi được nghe chuyện xưa.

- Nói bậy! Khi đó ta mới mười tuổi, cha con cũng mới mười tuổi, biết cái gì mà đính ước. Vốn là cha con đã đồng ý tặng cho ta một cái trâm vàng, kết quả là cầm một cái trâm đồng đến lừa gạt ta.

Dương Băng thấp giọng nói:

- Thế nhưng mẹ lại giữ trong lòng, xem nó trân quý hơn vàng, không phải sao?

Xuất Trần nhẹ nhàng vuốt ve gương mặt nhi nữ, trong lòng tràn đầy trìu mến. Nhi nữ đã trưởng thành, đã bắt đầu hiểu chuyện.

Dương Phương Hinh trở về phòng mình, nàng vẫn ở chung với tộc tỷ Giang Bội Hoa. Giang Bội Hoa đã mang thai được bảy tháng, hôm nay đi ngủ sớm nên không biết chuyện vừa xảy ra.

Vừa vào cửa, tiểu nha hoàn Ngọc nhi đã tiến lên đón:

- Cô nương đã về.

- Ừ! Thực có chút mệt mỏi.

Dương Phương Hinh cởi áo ngoài đưa cho nàng:

- Ta muốn rửa mặt nghỉ ngơi một chút, có chuyện gì thì để mai hẵng nói.

Ngọc nhi nhận lấy y phục, thấp giọng oán giận nói:

- Ra ngoài dạo chơi cũng không dẫn ta theo.

- Ngươi cái nha đầu chết tiệt kia, còn nói ta không mang ngươi theo? Thời điểm ta ra ngoài, ngươi chạy đi đâu?

Ngọc nhi gãi đầu cười nói:

- Thật ra ta cũng ra ngoài chơi, cũng mới trở về.

- Ta biết, ngươi là con mèo ba chân làm sao chịu ngồi yên một chỗ, khẳng định là cũng chạy ra ngoài.

Lúc này, “Leng keng!”, một cái trâm đồng từ trong áo rơi xuống mặt đất. Ngọc nhi cúi xuống nhặt, hai mắt sáng lên:

- Trâm đồng song phượng thật tinh xảo, cô nương, cho ta đi!

Dương Phương Hinh cuống quít chạy đến đoạt lại:

- Không thể cho ngươi, đây là vật Băng nhi cho ta.

- Nhưng đây là trâm đồng, không đáng tiền, không xứng với thân phận của ngươi.

- Ai cần ngươi lo, còn không nhanh đi chuẩn bị nước nóng.

Ngọc nhi đi ra ngoài, Dương Phương Hinh mới giơ trâm đồng lên ngắm nhìn một lát, sau đó cúi đầu thở dài. Lúc nào mới có người tặng cho mình một cây trâm đồng như vậy đây?

Tết Trung Nguyên vẫn tiếp tục diễn ra trên đường Tấn Dương và sông Tấn Dương, nhưng một số con đường nhỏ ở phía tây thành lại hết sức yên tĩnh. Tuy các nhà cũng treo hoa đăng, bồn vu lan trước cửa nhưng người đi đường rất thưa thớt, hầu hết người dân thành Thái Nguyên đều chạy đến con đường chính và bờ sông.

Lúc này, một chiếc xe ngựa từ xa đi đến, phía sau là hơn chục tên tùy tùng. Xe ngựa tiến đến trước một tòa nhà lớn thì dừng lại. Trên đèn lồng treo trước cửa lớn viết hai chữ “Đỗ phủ”, đây chính là phủ đệ của Đỗ Như Hối.

Một gã tùy tùng tiến lên bậc thềm gọi cửa. Một gương mặt già nua hiện ra bên cửa sổ xe ngựa, chính là thủ tịch Tướng quốc triều Tùy, Tô Uy.

Tuổi tác Tô Uy đã cao, ít tham gia chính vụ. Sự tồn tại của lão chủ yếu là để tượng trưng cho sự kéo dài của Đại Tùy.

Dương Nguyên Khánh cực kỳ coi trọng vị danh thần khai quốc của Đại Tùy này. Mặc dù lão không đức cao vọng trọng bằng Cao Quýnh, khuyết điểm cũng không ít, nhưng sự tồn tại của lão có tác dụng ổn định triều đình, về mặt này, không ai có thể so với Tô Uy.

Tô Uy đến tìm Đỗ Như Hối là có việc quan trọng.

Chỉ chốc lát, cửa lớn của Đỗ phủ mở ra, Đỗ Như Hối đích thân ra ngoài tiếp đón. Thật ra chủ nhà cũng không cần phải ra tận cửa đón khách, thường phái thế hệ con cháu hoặc huynh đệ gì đó ra cửa đón chào là được rồi. Nhưng Đỗ Như Hối biết, Tô Uy này rất kiêu ngạo, thường hay để ý các loại nghi lễ như thế này, mình ra tận cửa nghênh tiếp, lão cảm thấy thoải mái nhiều lắm.

Tô Uy thấy Đỗ Như Hối tự mình ra khỏi cửa thì cười híp mắt. Quả nhiên là Đỗ Như Hối rất kính trọng mình. Lão từ trong xe ngựa bước ra, Đỗ Như Hối hoảng hốt tiến lên phía trước đỡ lấy lão:

- Lão Tướng quốc cẩn thận!

- Ha ha! Làm phiền Đỗ Tướng quốc quá.

Đỗ Uy xuống khỏi xe ngựa, đứng thẳng lưng, cười tủm tỉm:

- Hôm nay đã quấy rối sự nghỉ ngơi của Đỗ Tướng quốc rồi.

- Không có! Không có! Đúng ra là vãn bối phải đến quý phủ mới phải.

Tô Uy gật đầu:

- Chúng ta vào nhà rồi nói!

- Tô Tướng quốc, mời!

Đỗ Như Hối đi trước dẫn đường, đưa Tô Uy tới thư phòng của mình. Hai người vừa bước vào phòng, Tô Uy thấy ngọn đèn dầu trong phòng sáng ngời, lưu hương ở góc phòng phả ra khói xanh lượn lờ, trên bàn để một quyển tấu chương, hình như mới viết được một nửa. 

Hai người phân chủ khách ngồi xuống, một thị nữ dâng trà lên, Tô Uy chỉ vào bàn hỏi:

- Đỗ Tướng quốc còn đang viết tấu chương sao?

Đỗ Như Hối gật đầu, thở dài nói:

- Lương thực của triều đình không đủ, hiện tại còn đánh hạ Trung Nguyên, còn cần chi một lượng lớn tiền lương. An trí dân chúng, nói thật, ta thật sự buồn bực, không có lương thực, có giỏi mấy cũng thế, không bột đố gột nên hồ, người đàn bà khéo cũng không thể thổi cơm khi không có gạo!

Trên danh nghĩa thì Tô Uy đứng đầu năm Tướng quốc, nhưng Đỗ Như Hối đảm nhiệm Thượng Thư Tả Phó Xạ, nắm quyền chi tiêu trong triều đình. Chi phí tiền lương của triều đình cũng do một tay y chịu trách nhiệm xét duyệt, áp lực quả thật rất lớn.

Lần này Dương Nguyên Khánh đánh Trung Nguyên, mặc dù Đỗ Như Hối không phải là người phản đối, nhưng y cũng không ủng hộ, giữ vững trung lập. Hiện tại y cực kỳ buồn phiền vì vấn đề lương thực.

Tô Uy hiểu được chỗ khó xử của Đỗ Như Hối, lão cũng cười nói:

- Nửa năm sau chuyện Hà Bắc, vốn tưởng rằng có thể nghỉ lấy hơi nhưng chuyện Trung Nguyên lại đến, hết lần này tới lần khác lương thực thiếu hụt, chỗ khó xử của Đỗ Tướng ta có thể hiểu được.

Hai người đều cười khổ, oán hận ôm oán hận. Nhưng nói về đại cục, cướp đoạt Trung Nguyên thành công đúng là đáng để ăn mừng. Tô Uy lại nói:

- Cướp đoạt Trung Nguyên, mặc dù cuộc sống có eo hẹp đi một chút, nhưng chỉ cần tiết kiệm là được, vẫn có thể vượt qua cửa ải khó khăn này. Nhưng chiến lược cướp lấy Trung Nguyên thì không phải là chuyện đùa, đây chính là chúng ta đã cướp được điểm then chốt của thiên hạ.

Đỗ Như Hối gật đầu:

- Cái này ta cũng biết, điện hạ cướp đoạt Trung Nguyên là đại sự khiến trên dưới triều đình đều cực kỳ phấn chấn. Nghe nói chiến lợi phẩm thu được có không ít lương thực, cộng dồn lại đến hơn ba trăm ngàn thạch lương thực, chí ít cũng có thể ứng phó Trung Nguyên trong nửa năm, còn quân đội có thể độn điền (tham gia làm ruộng), có thể rút ngắn mùa vụ. Ta nghĩ có thể vượt qua cái cửa ải khó khăn này.

Dĩ nhiên là Đỗ Như Hối biết, trễ thế này Tô Uy còn đến tìm mình, tất nhiên không chỉ đơn giản là để tâm sự chuyện lương thực, chắc chắn là đến vì đại sự. Trầm ngâm một chút, Đỗ Như Hối liền hỏi thử:

- Hình như Tô Tướng đang có chuyện gì đó?

- Đương nhiên, vô sự bất đăng môn mà!

Tô Uy cười thần bí, nhấp một ngụm trà, không chút hoang mang nói:

- Thật ra ta lo lắng một việc, chính là tước vị của Sở Vương Điện hạ. Lần này chiến dịch Trung Nguyên kết thúc, ta nghĩ thời cơ đã chín muồi rồi.

Đỗ Như Hối không nói gì, cúi đầu uống chén trà, nghe Tô Uy nói tiếp. Tô Uy thấy vẻ mặt Đỗ Như Hối bình thản, trong lòng nao nao, lại nói:

- Thật ra sau khi chiến dịch Hà Bắc kết thúc, ta đã nghĩ đến chuyện này, ta cũng đã nói qua với Sở Vương nhưng ngài cũng không bày tỏ thái độ. Sở dĩ sau khi kết thúc chiến dịch Hà Bắc, việc này không được giải quyết, theo ta thì là vì Sở Vương nghĩ lúc đó thời cơ chưa chín. Nhưng hiện tại, chiến dịch Trung Nguyên đã kết thúc, chúng ta chiếm được thượng phong, cho dù là uy vọng hay công tích thì Sở Vương cũng đã đạt đến tầm cao mới. Ta nghĩ thời cơ đã đến, cho nên hôm nay mới tới tìm Đỗ Tướng quốc.

Nói đến đây, ánh mắt Tô Uy đầy ẩn ý nhìn thoáng qua Đỗ Như Hối, ánh mắt như dò hỏi: “ngươi nghĩ sao?”

Đỗ Như Hối vẫn trầm tư như cũ. Chuyện này thì y cũng từng nghĩ qua, có điều là không suy nghĩ chín chắn. Theo như y thấy thì điều kiện còn thiếu chút xíu, vẫn chưa có cảm giác nước chảy thành sông. Mấu chốt là chưa lấy được Lạc Dương và Trường An thì đế vương khí vẫn còn chưa hoàn toàn ngưng tụ.

Đỗ Như Hối thở dài nói:

- Tâm tư của Tô Tướng quốc ta hiểu được, thật ra thì trong triều cũng có không ít người đề cập tới chuyện này, nói Sở Vương đăng cơ là vì mục đích chung, nhưng ta nghĩ quyền quyết định cuối cùng vẫn là ở Sở Vương Điện hạ. Tô Tướng quốc không cảm thấy trong chuyện này, Điện hạ cũng không nóng lòng hay sao?

Tô Uy sửng sốt:

- Vì sao Đỗ Tướng quốc lại nói lời này? Vì sao nói Điện hạ không nóng lòng?

Đỗ Như Hối chậm rãi nói:

- Thật ra ta cũng rất chú ý đến suy nghĩ của Sở Vương Điện hạ. Nếu ngài thật sự có ý định đăng cơ, vậy thì nhất định phải đánh hạ Lạc Dương, dời đô thành về phía nam. Dù sao Thái Nguyên cũng chỉ là thủ đô thứ hai, không có Lạc Dương thì không thể danh chính ngôn thuận. Nhưng mà Điện hạ lại không có ý định đánh hạ Lạc Dương, có thể Điện hạ chỉ là vì chiến lược, nhưng ta nghĩ, bất cứ cái chiến lược nào cũng không thể so với nguyện vọng đăng cơ của Điện hạ. Chỉ có thể nói ý đồ đăng cơ của điện hạ cũng không quá mãnh liệt.

Tô Uy cũng lâm vào trầm tư. Lão phải thừa nhận là Đỗ Như Hối nói rất có lý, nếu như Sở Vương thật sự muốn đăng cơ, vậy thì tất nhiên phải đánh chiếm Lạc Dương, nhưng Sở Vương lại không có cái ý này.

- Có điều, nếu chỉ vì Sở Vương Điện hạ không đánh hạ Lạc Dương mà nói rằng ngài không có ý định đăng cơ, ta cảm thấy còn có chút cảm tính. Đỗ Tướng, hẳn là chúng ta nên tìm Sở Vương Điện hạ xác nhận chuyện này.

 Chương 838 : Nội ứng ra tay (1+2) .

Đỗ Như Hối gật đầu:

- Chuyện này cứ để ta xác nhận!

Dừng một chút, y lại cười rồi bổ sung:

- Đương nhiên là ta sẽ đem nguyện vọng mãnh liệt của Tô Tướng quốc là muốn Sở Vương đăng cơ truyền đạt lại với Điện hạ.

Tô Uy cười híp mắt, nói Đỗ Như Hối không quá am hiểu đạo lý đối nhân xử thế, lời ấy thật quá sai lầm!

Quân đội của Dương Nguyên Khánh đã kết thúc chiến dịch Trung Nguyên. Hắn bổ nhiệm Từ Thế Tích làm Tổng quản binh mã Huỳnh Toánh, thống lĩnh năm mươi ngàn quân lính trấn thủ quận Toánh Xuyên. Đồng thời bổ nhiệm Ngưu Tiến Đạt làm Đoàn luyện sứ Trung Nguyên, chiêu mộ ba mươi ngàn quân ở Trung Nguyên. Còn quân đội thì phân ra trú đóng ở Hà Đông, Hà Bắc. Dương Nguyên Khánh thống lĩnh ba mươi ngàn quân tinh nhuệ theo đường bộ trở về Thái Nguyên.

Mấy chục ngàn quân Đường bị bắt sống được tạm thời bố trí ở các đồn điền thuộc quận Hà Nội. Những quân nhân này đều là người Quan Trung và người Thục, Dương Nguyên Khánh dự tính dùng số hàng binh này đổi lấy lương thực của triều Đường để giải quyết vấn đề thiếu lương thực của triều Tùy.

Buổi tối hôm nay, đại quân của triều Tùy đã về đến quận Thái Nguyên, còn cách thành Thái Nguyên hơn ba mươi dặm thì đóng quân nghỉ ngơi ở bên cạnh bờ sông.

Ánh trăng tròn như cái khay bạc, chiếu ánh sáng trong suốt xuống cả vùng đất. Binh lính quân Tùy cũng thả xuống nước mấy nghìn âm đăng, ký thác niềm thương nhớ với các tướng sĩ tử trận.

Dương Nguyên Khánh đứng trên bờ, yên lặng nhìn về phía một chiếc thủy liên đăng khổng lồ chứa đựng ước nguyện các tướng sĩ tử trận có thể yên nghỉ, sau đó nhận lấy cây đuốc, châm vào khay dầu hỏa trong thủy liên đăng. Ngọn lửa bốc lên, mấy tên lính dùng sức đẩy thủy liên đăng ra giữa dòng sông. Thủy liên đăng theo sóng nước phập phồng, dần dần trôi theo dòng nước.

Lúc này, một gã kỵ binh từ trong đại doanh chạy vội tới, từ xa đã cao giọng hô:

- Tổng quản!

- Chuyện gì?

Dương Nguyên Khánh tiến lên hỏi.

- Đỗ Tướng quốc tới, đang chờ Tổng quản trong lều lớn.

Dương Nguyên Khánh gật đầu, bước nhanh tới bên cạnh chiến mã, xoay người lên ngựa, thúc giục chiến mã. Mấy trăm thân vệ lập tức theo hắn chạy về đại doanh.

Trong lều lớn trung quân, Đỗ Như Hối và Lý Tĩnh đang đứng trước sa bàn, thưởng thức thành quả của lần đại chiến Trung Nguyên này.

Tay Lý Tĩnh cầm cây gỗ chỉ về phía nam nói:

- Lần chiến dịch Trung Nguyên này, ngoại trừ ba quận Nam Dương, Tích Dương và Nhữ Nam ra, các quận còn lại của Trung Nguyên đều bị chúng ta thu thập. Hơn nữa, ở quận Lương, quân Ngụy của Lý Mật cũng đang từng bước rút lui. Ngày quân Ngụy hoàn toàn rút khỏi, quận Lương cũng sẽ nhập vào bản đồ Đại Tùy chúng ta.

Đỗ Như Hối trầm tư một chút rồi hỏi:

- Vì sao không lấy quận Nam Dương và quận Tích Dương?

Lúc này, từ phía sau truyền đến tiếng cười của Dương Nguyên Khánh:

- Hai quận kia dùng để hòa hoãn, quân Đường không trú quân, chúng ta cũng không trú quân. Đây là thỏa hiệp giữa ta và Lý Hiếu Cung.

Đỗ Như Hối quay đầu lại, thấy Dương Nguyên Khánh từ ngoài trướng đi vào liền vội vã khom người thi lễ:

- Hạ quan Đỗ Như Hối tham kiến Sở Vương Điện hạ!

- Đỗ Tướng quốc giải quyết triều chính đã cực khổ rồi.

Dương Nguyên Khánh nở nụ cười, tiến lên phía trước cầm lấy cây gỗ chỉ về hướng hai quận Nam Dương và Tích Dương, tiếp tục giải thích:

- Hai quận này đều giống quận Hoằng Nông, đều bị Phục Ngưu Sơn vắt ngang qua, có nhiều vùng núi, thiếu thốn ruộng cày, nhân khẩu không nhiều, không có ý nghĩa lớn về mặt chiến lược. Ta cũng không nghĩ đến chuyện có đường biên giới trực tiếp giáp với quân Đường, vì thế ta và Lý Hiếu Cung đã đạt thành hiệp nghị.

Dừng một chút, Dương Nguyên Khánh nói tiếp:

- Đương nhiên, nếu như triều Đường không chịu thừa nhận hai quận hòa hoãn này, vậy thì quân Tùy chúng ta sẽ không chút do dự mà chiếm lấy chúng.

Đỗ Như Hối gật đầu:

- Ý của Điện hạ, ty chức đã hiểu, cũng là tạm thời không lấy mà thôi.

Dương Nguyên Khánh nở nụ cười:

- Cặp mắt Đỗ Tướng quốc quả nhiên rất tinh tường. Hiện tại triều đình rất khó gánh vác chiến dịch quy mô lớn. Ta dự định nghỉ ngơi dưỡng sức một thời gian, chờ đến khi thực lực triều đình dần sung túc, Trung Nguyên khôi phục sinh cơ, sẽ không còn lo lắng, xuất binh tiêu diệt Đậu Kiến Đức.

Dương Nguyên Khánh mời Đỗ Như Hối ngồi xuống, lệnh cho thân binh dâng trà. Lý Tĩnh biết hai người có việc quan trọng cần thương lượng bèn mượn cớ rút lui, trong lều lớn chỉ còn lại hai người Dương Nguyên Khánh và Đỗ Như Hối.

Lúc này, Đỗ Như Hối mới trầm ngâm một chút rồi nói:

- Đêm nay ty chức tới gặp Điện hạ là có một đại sự muốn thương lượng với Điện hạ.

Đỗ Như Hối nhìn chăm chú vào hai mắt Dương Nguyên Khánh, chậm rãi nói:

- Chiến dịch Trung Nguyên đã kết thúc, Điện hạ có nghĩ tới việc đăng cơ hay không?

Đột nhiên nói tới vấn đề này, Dương Nguyên Khánh chưa kịp chuẩn bị tâm lý. Một lát sau, hắn hỏi lại một cách nhàn nhạt:

- Vì sao Đỗ Tướng quốc lại nghĩ đến chuyện này?

Đỗ Như Hối đột nhiên ý thức được mình hỏi có chút mạo muội, nói những chuyện này hẳn trước tiên phải rào trước đón sau, ví dụ như quyền lực biến hóa, quân dân một lòng, sau đó là văn võ cả triều rất kỳ vọng, cuối cùng mới chậm rãi chuyển đề tài câu chuyện sang vấn đề đăng cơ.

Một điểm gợi chuyện mình cũng không có, đột nhiên vào thẳng chủ đề, Điện hạ có thể đồng ý ngay mới là chuyện lạ. Đỗ Như Hối áy náy nói:

- Ty chức thật là, làm quan lâu như vậy lại không hiểu chuyện, một chút kiềm chế cũng không có. Ty chức có chút đường đột, mong Tổng quản thứ lỗi!

Dương Nguyên Khánh cười cười, đây cũng chỉ có Đỗ Như Hối, đổi lại người khác hỏi như vậy, hắn thực sự sẽ không cao hứng. Thân làm Tướng quốc, nói chuyện phải uyển chuyển kín đáo, đây là kỹ năng tối thiểu. Nếu chút kỹ năng ấy cũng không có thì còn làm Tướng quốc cái gì? so với quan thất phẩm thì khác gì nhau?

Tuy nhiên bản thân Đỗ Như Hối vẫn thường như vậy, nói rất thẳng. Làm việc với y đã mấy chục năm, cho tới bây giờ vẫn không chịu sửa cái tính này, chính hắn cũng từng nhắc nhở Đỗ Như Hối vài lần, nhưng dạy mãi không được, lâu dần cũng thành thói quen.

Dương Nguyên Khánh cũng không cho là đúng, cười nói:

- Bệnh cũ của ngươi ta biết, biết làm việc nhưng không biết nói chuyện. Nếu có ngày nào đó, ngươi đột nhiên có thể nói chuyện uyển chuyển, ta thật là không quen, đây có còn là Đỗ Tướng quốc sao?

Đỗ Như Hối nghe xong liền nở nụ cười không tốt lắm:

- Điện hạ thật biết nói đùa.

Dương Nguyên Khánh trực tiếp đưa câu chuyện đang vòng vo về chủ đề chính:

- Đỗ Tướng quốc, nếu như ta đoán không sai, chuyện này chắc là do Tô Tướng quốc nói ra đầu tiên phải không?

Đỗ Như Hối gật đầu:

- Điện hạ nói không sai. Tô Tướng quốc là người đầu tiên nói ra. Tối hôm qua, lão Tướng quốc đến tìm ty chức. Sáng sớm hôm nay, ty chức và Thôi Tướng quốc chụm đầu bàn bạc chuyện này, cả hai người thuộc hạ đều cho rằng đầu tiên cần phải biết được ý tứ của Điện hạ. Nếu quả thật Điện hạ có ý này, vậy thì cũng nên sớm tiến hành chuẩn bị, ví dụ như thực hiện một ít thao tác, ví dụ như thụy điềm, thiên ứng các loại (tạo ra các biểu tượng điềm lành, hợp mệnh trời). Còn nếu như Điện hạ không có ý này, tạm thời không nhắc đến việc này nữa.

Dương Nguyên Khánh chắp hai tay sau lưng, bước lên hai bước. Quả thật là hắn có nghĩ đến chuyện này. Hiện tại hắn là Nhiếp chính Vương của Đại Tùy, hoàn toàn nắm trong tay quyền lực tối cao của triều Tùy. Đối với hắn mà nói, đăng cơ hay không đăng cơ cũng chỉ là vấn đề danh phận mà thôi. Hiện tại, Tùy Đế cũng chỉ là Hoàng đế trên danh nghĩa mà thôi.

Hiện tại địa vị của Dương Nguyên Khánh hắn không khác gì địa vị của Tào Tháo, nhưng Tùy và Hán không giống nhau. Triều Tùy không chiếm được nhân tâm mạnh mẽ như triều Hán. Tào Tháo có kiêng kỵ, mà Dương Nguyên Khánh hắn lại không bị kìm chế nhiều lắm. Nếu như hắn muốn đăng cơ cũng không có trở ngại gì.

Tuy nhiên Dương Nguyên Khánh cho rằng thời cơ vẫn chưa chín muồi, vẫn còn chưa có được cảm giác nước chảy thành sông. Hiện tại mà đăng cơ, còn có chút miễn cưỡng.

Về phương diện khác, hắn không có khả năng buông lỏng quân quyền. Hiện tại, các thế lực nhà Tùy vẫn còn rất nhiều, người nắm quân quyền rất dễ sinh ra dị tâm, Lưu Hắc Thát và Tống Kim Cương chính là ví dụ tốt nhất.

Điểm này thì Lý Uyên cũng hiểu được, vì thế mà các thế lực lớn nắm giữ quân quyền của triều Đường đều là tôn thất Lý thị, thậm chí đối với tôn thất y cũng tỏ ra lo lắng. Từ cuộc chiến Trung Nguyên này có thể thấy được, về mặt chiến lược, Lý Uyên vẫn khống chế quân đôi như cũ.

Mặc dù loại chiến lược không chế này dẫn đến thất bại của chiến dịch Trung Nguyên, nhưng thủ đoạn của Lý Uyên không sai. Nếu như y ngự giá thân chinh, đại chiến Trung Nguyên nhất định sẽ không gặp phải thảm bại như vậy.

Nhiều lần suy nghĩ, kết quả chỉ có một, hiện tại hắn còn đang ở thời kỳ gây dựng sự nghiệp, còn lâu mới đến lúc nói chuyện đăng cơ đế vị.

Nghĩ vậy, Dương Nguyên Khánh đem câu chuyện chuyển sang đề tài khác:

- Hiếm khi nào Đỗ Tướng quốc chủ động đêm hôm đến đây, chúng ta nói chuyện về vấn đề lương thực đi!

Đỗ Như Hối nhẹ nhàng thở dài. Y thở dài vì Sở Vương nói chuyện uyển chuyển sâu xa hơn y không biết bao nhiêu lần. Sở Vương cái gì cũng không nói, chỉ thể hiện ra một cái phong thái, liền mang ý tứ của mình truyền đạt một cách chính xác ra ngoài.

Rõ ràng đăng cơ quan trọng hơn vấn đề lương thực nhưng hắn tình nguyện nói chuyện lương thực, nói cách khác, việc đăng cơ không nên nhắc lại nữa.

Đỗ Như Hối cũng không nhắc lại việc đăng cơ. Y lấy ra một bản tấu chương đưa cho Dương Nguyên Khánh:

- Đây là một ít tư liệu do hạ quan chỉnh lý sau khi xem qua một số tấu chương, cũng là ý nghĩ của hạ quan về vấn đề lương thực, mời Điện hạ xem qua.

Dương Nguyên Khánh nhận lấy tấu chương, chỉ thấy điều đầu tiên chính là “Đề cao việc quan phủ nắm giữ giá tiền lương thực, đem lương thực của các hộ nông cất giữ vào nông khố.”

Đỗ Như Hối giải thích:

- Điện hạ, mặc dù hôm nay lương thực hơi thiếu, nhưng có khong ít nông hộ có thừa lương. Chúng ta nghĩ cách thu lấy số lương thực này. Hạ quan cho rằng, để cho nông hộ cảm thấy có thể kiếm lời, tự nguyện bán cho quan phủ là biện pháp tốt nhất.

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Trên nguyên tắc ta đồng ý, quan trọng là làm thế nào. Chuyện này hãy để cho Hộ bộ viết một bản báo cáo chi tiết.

Lễ mừng tết Trung Nguyên dài ba ngày, mười bốn, mười lăm, mười sáu tháng bảy. Ngày đầu tiên, quan phủ cử hành một số hoạt động tế lễ, ngày mười lăm là ngày chính, dân gian thả đèn là chủ yếu. Ngày hôm nay, là ngày đi chợ đêm và ngắm hoa đăng. Ngày mười sáu chủ yếu là các chùa chiền và đạo quán cử hành pháp hội.

Đối với dân chúng bình thường mà nói, pháp hội ở chùa chiền và đạo quán đều giống nhau, đông đúc chưa từng có, gần như cả thành đều xuất động, các chùa chiền và đạo quán đều chật ních dân chúng tới tham gia pháp hội.

Nhưng tới buổi tối ngày mười sáu, cơ bản là trên đường cái không có người, bởi vì buổi tối ngày mười sau tháng bảy là lúc quỷ đói lấy lương, bày bồn vu lan trước cửa nhà, chính là để lúc này quỷ đói hưởng thụ.

Phố Bích Phượng ở phía bắc thành Thái Nguyên cũng đồng dạng vắng ngắt, một tầng mỏng sương đêm bao phủ đường phố. Trên đường cái không có một bóng người đi lại. Trước cửa từng nhà đều có đặt bồn vu lan, bên trong có các loại lương thực như gạo, lúa mì, đậu, kê để quỷ đói hưởng thụ.

Lúc này, một gã nam tử dắt ngựa đi qua đường cái, trong bóng đêm nhìn không rõ dáng dấp nhưng có thể thấy được là người từ xa đến, hai bên lưng ngựa treo một quấn thảm thật dày và hòm hành lý.

Y vừa đi vừa kiểm tra hai bên đường, hình như đang tìm kiếm một cái gì đó. Cuối cùng, y dừng bước trước cửa một phủ đệ.

Dưới ánh sáng lờ mờ của hai cái đèn lồng lớn, có thể thấy loáng thoáng phía trên bảng hiệu viết bốn chữ “Ngụy Bình Huyền Bá phủ”.

Đây là phủ đệ của một bá tước, chính là chỗ này. Nam tử buộc ngựa vào một chiếc cọc gỗ, sau đó bước nhanh lên phía bậc thềm, trước cửa cũng đặt vu lan bồn, bên trong có đầy đủ các loại lương thực.

Y dùng lực gõ cửa. Một lát sau, bên trong cửa truyền ra giọng nói nơm nớp lo sợ:

- Lương thực đều ở trong vu lan bồn, các ngươi lấy mà ăn.

Nam tử ngẩn ra, lập tức cảm thấy vừa buồn cười vừa bực mình:

- Ta không phải quỷ đói. Ta từ Trường An đến, tìm lão gia của ngươi.

Một lát sau, cửa mở ra một khe nhỏ, một khuôn mặt lo sợ hiện ra, chính là quản gia trong phủ. Y liếc mắt quan sát nam tử, đúng là không phải quỷ đói du đãng bèn vội vã mở cửa to ra một chút.

- Vào trong rồi nói sau!

Nam tử vừa bước vào bên trong liền hỏi:

- Lão gia nhà ngươi đâu?

- Trong phủ! Ngươi là...?

Quản gia thấy toàn thân người này mặc đồ đen, đội nón tre rộng vành, khuôn mặt bị che mất phân nửa, có chút thần bí, trong lòng cảm thấy kỳ quái.

Nam tử lấy ra một cái danh thiếp đưa cho quản gia:

- Đưa danh thiếp này cho lão gia nhà ngươi.

- Ngươi chờ một lát, ta sẽ trở lại ngay.

Quản gia đi rồi, nam tử bỗng kéo y lại:

- Có thể đưa ngựa của ta vào chuồng không?

Quản gia gật đầu, phân phó một gã hạ nhân dắt ngựa vào chuồng sau đó mới chạy vào trong phủ. Chỉ chốc lát sau quản gia đã trở lại, giọng nói hiện rõ sự cung kính:

- Mời khách quý theo ta, lão gia cho mời.

Hắc y nhân theo quản gia đi thẳng vào nhà trong.

Chủ nhân của tòa phủ đệ này chính là Thiếu giám Trương Lôi của triều Tùy. Trương Lôi tên thật là Độc Cô Lôi, chính là con cháu của Độc Cô thị, từng là thợ chế tạo cung nỏ của triều Tùy, được Độc Cô Chấn phái tới Phong Châu.

Bởi vì kỹ thuật chế tạo nỏ của y rất cao siêu nên được Dương Nguyên Khánh trọng dụng, từng bước thăng quan. Lúc thành công chế tạo ra trọng nỏ trang bị cho hậu quân, Trương Lôi được phong làm Ngụy Bình huyền bá. Hiện tai y giữ chức Thiếu giám, phụ trách giám sát quân khí, chủ quản việc chết tạo binh khí của Đại Tùy.

Trong thư phòng, Trương Lôi chắp tay sau lưng đi đi lại lại, trên bàn đặt một tấm danh thiếp, chính vì tấm danh thiếp này mà tâm trạng của y trở nên lo âu nên mới đứng lên đi lại.

Từ khi y rời khỏi Độc Cô phủ thì đã không còn liên hệ với Độc Cô gia. Ba năm đã qua, y đã dần quên đi sứ mệnh của mình. Vậy mà hôm nay, Độc Cô gia tộc lại tới tìm y.

- Lão gia, khách đã tới.

Giọng của quản gia từ ngoài cửa truyền vào.

- Mời vào!

Cửa mở ra, hắc y nam tử từ ngoài bước vào, quản gia tiện tay đóng cửa lại. Hắc y nam tử tháo mũ xuống, lộ ra gương mặt khoảng chừng ba mươi bốn mươi tuổi, măt vuông tai to, khí thế áp người. Y khẽ cười nói:

- Ngũ đệ còn nhớ ta không?

Trương Lôi lập tức nhận ra, y chính là thứ tôn Độc Cô Vĩ, cháu ruột Độc Cô Chỉnh. Trong Độc Cô gia tộc, Trương Lôi địa vị hèn mọn, đứng trước mặt Độc Cô Vĩ, cháu đích tôn của Độc Cô gia, cho tới bây giờ y không ngóc đầu lên được, Độc Cô Vĩ cũng sẽ không cho y sắc mặt hòa nhã như vậy.

Nhưng lúc này, nội tâm của hai người đều có biến hóa, quan trọng nhất chính là Trương Lôi đã độc lập, dựa vào tài năng của chính mình trở thành Thiếu giám giám sát quân khí Đại Tùy, trong lòng y cũng có đủ tự tin, dấu vết hèn mọn trong gia tộc đã trở thành quá khứ ảm đạm.

- Hóa ra là nhị ca, đã lâu không gặp, tạ lỗi!

Trương Lôi cũng chắp tay, thái độ ôn hòa, rất thong thả mời Độc Cô Vĩ ngồi xuống.

Độc Cô Vĩ thấy Trương Lôi không có vẻ vui mừng và kích động, hơn nữa y đối với mình cũng không có sự tôn trọng đầy đủ, trong lòng Độc Cô Vĩ cảm thấy có chút mất mát.

Y cười một tiếng rồi ngồi xuống, một ả nha hoàn tiến đến dâng trà. Trương Lôi phẩy phẩy tay, a hoàn lập tức đi ra ngoài.

- Nhị ca tìm ta có chuyện gì chăng?

- Ai! Một là vì chuyện của Hoài Ân thúc, hai là có chút chuyện gia tộc.

Lời còn chưa dứt, Trương Lôi đã xua tay cắt ngang lời của Độc Cô Vĩ:

- Trước tiên ta xin nói lời tục tĩu, nếu là việc muốn ta phải bội Đại Tùy, thứ cho ta không thể nghe theo!

- Điều này..!

Vẻ mặt Độc Cô Vĩ có chút xấu hổ, trong lòng cũng có chút căm tức đứng lên. Y biết là mặt mũi của mình quá nhỏ, không thể ảnh hưởng đến Trương Lôi. Một lát sau, y lạnh lùng nói:

- Trường thúc đã đến Thái Nguyên, đang ở ngoài thành. Ngài muốn gặp ngươi một lần.

Trường thúc chính là Độc Cô Lương, là nhân vật đứng thứ hai trong Độc Cô gia tộc. Thân thể Trương Lôi hơi chấn động, y không nghĩ là Trưởng thúc cũng tới. Đây không phải là vấn đế y có muốn hay không, Trưởng thúc đã tới, y nhất định phải gặp.

Trương Lôi trầm nhâm chốc lát liền hỏi:

- Trưởng thúc bảo ta gặp người lúc nào?

Độc Cô Vĩ thấy Trương Lôi không còn dáng vẻ tự cao tự đại, trong lòng âm thầm đắc ý, nhận tiện nói:

- Hiện giờ cổng thành còn chưa đóng, nếu ngươi có thời gian, bây giờ đi với ta!

Trương Lôi làm sao mà không có thời gian? Y gật đầu:

- Được rồi! Bây giờ ta theo ngươi.

Thành Thái Nguyên buổi tối đúng giờ hợi đóng cửa thành, trước khi hết một hồi trống, Trương Lôi và Độc Cô Vĩ cưỡi ngựa chạy nhanh như bay ra phía cửa đông thành.

Phía đông bên ngoài thành Thái Nguyên không phải là vùng đất hoang, vẫn có những ngôi làng, đi ra xa hơn là cánh đồng rộng lớn.

Cách thành khoảng ba dặm về bên ngoài, có một ngôi làng gọi là làng Mạnh Trang, có khoảng hơn hai trăm hộ dân. Trương Lôi và Độc Cô Vĩ suốt dọc đường đều đi rất nhanh, chốc lát đã vào đến trong làng, trong tiếng chó sủa, bọn họ dừng lại trước một ngôi nhà lớn.

Lúc đó cánh cửa của ngôi nhà đã được mở ra, một người quản gia già gật đầu chào bọn họ, Trương Lôi nhận ra ông già đó chính là Lục quản gia của phủ Độc Cô. Y giật mình, thì ra tòa nhà lớn này chính là biệt trạch của phủ Độc Cô ở Thái Nguyên, vậy mà y không hề hay biết.

- Ngũ đệ xin chờ một lát, ta đi bẩm báo trưởng bá.

Vào cổng chính, Độc Cô Vĩ buông một câu nói rồi bước nhanh vào trong nhà. Trương Lôi chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trong phòng khách, trong lòng y cảm thấy vô cùng bất an, y không biết lần này gia tộc tìm y có việc gì? Có lẽ là vì chuyện của Độc Cô Hoài Ân.

Trương Lôi cũng biết Độc Cô Hoài Ân bị quân Tùy bắt làm tù binh, Độc Cô Hoài Ân là gia chủ đời sau của gia tộc Độc Cô, việc y bị bắt làm tù binh khiến gia tộc Độc Cô vô cùng căng thẳng.

Nhưng việc mà Trương Lôi lo lắng là gia tộc Độc Cô muốn mượn tay y để làm tổn hại đến lợi ích của triều Tùy, đây chính là điều mà y không thể chấp nhận.

Trương Lôi xuất thân là con của thứ phòng tại Độc Cô gia, từ nhỏ đã không có địa vị gì trong gia tộc, lại còn bị chính phòng kỳ thị. Nhưng Dương Nguyên Khánh lại là người trọng dụng hiền tài, y không những được phong tước, mà còn được phong làm tứ phẩm Thiếu giám, điều này khiến y vô cùng xúc động, và cũng khiến y tràn đầy lòng trung thành với Dương Nguyên Khánh.

 Chương 839 : Vị khách bất ngờ

Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ. Lúc này, đối với y mà nói, nhiệm vụ của gia tộc Độc Cô đã không còn quan trọng nữa, điều quan trọng là y cần bảo vệ lợi ích của triều Tùy.

Lúc đó, quản gia bước vào khách đường, gật đầu mỉm cười nói nói với y:

- Ngũ Lang mời đi theo ta, trưởng lão gia đang tìm người.

Trương Lôi gật đầu, theo quản gia đi về phía căn nhà phía sau.

Họ đã rất nhanh tới trước một căn phòng, quản gia mở cửa, cười nói với y:

- Ngũ Lang mời vào, lão gia đang đợi người.

Trương Lôi thở dài một tiếng, bước vào phòng. Ở trong phòng ánh sáng rất trang nhã, bày trí cũng rất đơn giản, chỉ bày hai cái tháp ngồi, trưởng thúc Độc Cô Lương ngồi ở chính giữa, Độc Cô Vĩ đứng ngay phía sau ông.

Độc Cô Lương nhận sự ủy thác của Độc Cô Chấn, đặc biệt đến đàm phán với Dương Nguyên Khánh, ông không có chức danh gì nên lấy cớ là đi Ba Thục tuần tra trang viên, rồi rời khỏi Trường An đi Thái Nguyên trước.

Trương Lôi chính là ám đinh (người giám sát ngầm) được gia tộc Độc Cô cài vào trong triều Tùy, hiện giờ là lúc cần dùng đến y.

- Cháu Ngũ Lang tham kiến trưởng bá!

Trương Lôi quỳ xuống cung kính cúi đầu chào.

Ánh mắt Độc Cô Lương có chút không vui, vừa nãy nghe thấy Độc Cô Vĩ nói, hiện tại tên ám đinh này không nhiệt tình cho lắm, khiến ông có chút không hài lòng.

- Cháu ngoan, ta hỏi cháu câu này, bây giờ cháu đứng trước mặt ta, nên gọi cháu là Độc Cô Lôi hay gọi là Trương Lôi?

Độc Cô Lương lạnh lùng hỏi.

Trương Lôi thầm thở dài một tiếng, vẫn cung kính nói:

- Cháu đương nhiên là Độc Cô Lôi!

- Được! Cháu đứng đậy đã.

Chỉ cần y nhận mình là Độc Cô Lôi, vậy thì mọi chuyện trở nên đơn giản rồi.

Trên mặt Độc Cô Lương lộ ra vẻ tươi cười:

- Nghe nói trong triều Tùy cháu đã leo lên chức Thiếu giám Quân khí giám, thật không tồi! Dương Nguyên Khánh có biết cháu là con cháu của Độc Cô gia không?

Trương Lôi hiểu ý của trưởng bá, Sở Vương có phải vì y là con cháu dòng họ Độc Cô mới đề bạt y hay không, mặc dù Trương Lôi cũng cảm thấy Dương Nguyên Khánh đã đoán được thân phận của mình, nhưng có một điều có thể khẳng định, Sở vương đề bạt y tuyệt đối không liên quan gì tới gia tộc Độc Cô.

Y không hề do dự lắc đầu:

- Hồi bẩm trưởng bá, cháu nghĩ rằng Sở Vương điện hạ không hề hay biết thân phận của cháu.

Độc Cô Lương gật đầu, lại nói tiếp:

- Trận chiến lần này Hoài Ân không may bị quân Tùy bắt làm tù binh, gia tộc Độc Cô từ trên xuống dưới đều rất lo lắng, lần này ta tới Thái Nguyên là muốn đàm phán với Sở Vương, hi vọng cháu có thể thay ta làm cầu nối.

Trương Lôi thở phào nhẹ nhỏm, thì ra chỉ là dẫn kiến chứ không phải làm khó dễ y, chỉ là y có chút lo lắng, nếu vậy thì thân phận của y sẽ bị vạch trần.

Một bên là gia tộc, một bên là con đường thăng tiến của y, do dự trong chốc lát, cuối cùng Trương Lôi cũng đồng ý,

- Được! Không biết bao giờ trưởng bá muốn gặp Dương Nguyên Khánh?

- Chỉ cần hắn ta quay trở về, ta muốn gặp hắn ngay.

...

Buổi chiều ngày hôm sau, Dương Nguyên Khánh dẫn ba mươi vạn quân Tùy trùng trùng điệp điệp trở về thành Thái Nguyên, được nhân dân Thái Nguyên nhiệt liệt chào mừng, hàng trăm nghìn người dân xếp hàng ở hai bên đường chào đón quân Tùy khải hoàn trở về.

Dương Nguyên Khánh chưa vội tới bái kiến Tùy đế và thái hậu, hắn về nhà trước. Về đến nhà, hắn cũng nhận được sự nhiệt liệt chào mừng của thê tử và các con, mấy đứa con đã đợi hắn cả nửa canh giờ.

Hành trình gần hai tháng khiến hắn mệt mỏi vô cùng, cuối cùng hắn cũng thoát khỏi sự quấn quýt các con. Hắn thay một bộ quần áo rộng thùng thình, vào trong thư phòng của mình, không lo lắng điều gì hết, tận hưởng giây phút nhàn hạ hiếm có.

úc đó, cửa phòng mở ra, thê tử của hắn Bùi Mẫn Thu bưng một tách trà bước vào, nàng thấy chồng nhắm mắt ngồi trên chiếc ghế tựa mềm, liền nở nụ cười nói:

- Bị bọn nhỏ giày vò đến kiệt sức rồi sao?

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Chúng đều là bảo bối của ta, người làm cha như ta thường ngày rất ít chơi cùng chúng, dành chút thời gian chơi với chúng cũng là điều nên làm.

Bùi Mẫn Thu đặt trà lên bàn, ngồi bên cạnh dựa vào lòng hắn:

- Phu quân, lần này trở về phải ở nhà lâu một chút đấy!

- Ừ! Ít nhất cũng ở nhà nửa năm, triều đình cũng cần nghỉ ngơi dưỡng sức, chiến tranh liên miên, triều đình cũng không chống đỡ được.

Dương Nguyên Khánh đưa tay ra ôm vào vòng eo mảnh khảnh của vợ, cười nói:

- Tình hình ở nhà thế nào rồi, Bội Hoa đâu? Bao giờ cô ấy sinh?

Bùi Mẫn Thu thở một hơi dài, có chút trác móc hắn:

- Ta đến là để nhắc nhở chàng, tam muội đã mang thai bảy tháng, cơ thể đã rất nặng nề, vì thế vừa nãy không tới gặp chàng, nhưng chàng cũng nên đi thăm muội ấy chứ không nên về phòng mình trước, chàng làm như vậy sẽ khiến muội ấy rất buồn.

- Được! Tuân lệnh hiền thê, đi thăm tam nương tử trước.

- Mồn mép lém lỉnh!

Bùi Mẫn Thu hờn dỗi đẩy hắn ra, trong lòng lại cảm thấy vui vì hắn nghe theo lời khuyên của mình.

Dương Nguyên Khánh đứng dậy quay người định đi, Bùi Mẫn Thu chặn hắn lại:

- Uống trà đã rồi hãy đi!

Dương Nguyên Khánh bưng bát trà lên uống một hơi hết sạch, quay người bước ra ngoài, vừa ra tới cửa phòng, có một bà quản gia tiến đến hành lễ nói:

- Lão gia, có một quan viên tên là Trương Lôi, nói là Thiếu giám Quân khí giám, có việc gấp muốn cầu kiến lão gia.

Bùi Mẫn Thu chau mày:

- Làm gì có chuyện chủ nhà vừa mới về đã tới hỏi, sao lại có loại người không biết ý như vậy?

Dương Nguyên Khánh hơi chột dạ, bèn gật gật đầu:

- Hãy dẫn y vào ngoại thư phòng của ta chờ!

Bà quản gia đi ra, lúc này Dương Nguyên Khánh mới cười nói với thê tử:

- Thân phận của người này hơi đặc biệt, có thể là có việc gấp thật sự, ta vẫn nên gặp y, lát nữa mới đi thăm Bội Hoa, nàng tới đó nói trước với nàng ấy một tiếng.

- Thôi được! Chàng nhanh lên nhé.

Bùi Mẫn Thu xoay người đi, Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một lúc rồi mới thong thả bước tới thư phòng.

Những người được vào thư phòng của Sở Vương không nhiều, ngoài năm tướng quốc ra chỉ có một vài tướng tâm phúc của Dương nguyên Khánh, việc tiếp khách giống như Trương Lôi ở ngoại thư phòng là điều cực kỳ hiếm có.

Nhưng lúc đó Trương Lôi không có tâm trạng cảm nhận sự ân sủng đó, y đang rất căng thẳng, không biết sau khi y tiết lộ thân phận thật sự của mình, hậu quả sẽ thế nào.

Lúc đó cửa mở ra, Dương Nguyên Khánh từ bên ngoài bước vào, cười ha ha nói:

- Trương Thiếu giám canh giờ rất chuẩn, ta vừa về đến nhà đã bị Thiếu giám tìm đến.

Trương Lôi cuống quýt hành lễ:

- Hạ quan Trương Lôi tham kiến Sở Vương điện hạ!

- Không cần khách sáo, mời ngồi!

Dương Nguyên Khánh ngồi xuống thấy Trương Lôi vẫn đứng cung kính, không dám ngồi, thấy lạ bèn hỏi:

- Trương Thiếu giám căng thẳng như vậy làm gì?

Trên trán Trương Lôi toát mồ hôi, rốt cuộc y cũng lấy hết dũng khí, quỳ xuống trước mặt Dương Nguyên Khánh, cúi đầu nói:

- Hạ quan mang tội lừa dối, xin điện hạ trị tội!

- Ngươi đã mắc tội lừa gạt gì?

Dương Nguyên Khánh không biểu lộ gì hỏi.

Trương Lôi cắn răng, hạ giọng nói:

- Hạ quan vốn không phải họ Trương mà là họ Độc Cô, hạ quan là con vợ kế của gia tộc Độc Cô.

- Ha ha! Ta cũng là con vợ kế, không ngờ thân phận của chúng ta lại giống nhau.

Dương Nguyên Khánh cười cười nói nói chuyện trên trời dưới biển.

Trương Lôi mơ hồ, y không hiểu ý Sở Vương, lại thở dài nói:

- Hạ quan không nên giấu điện hạ!

Dương Nguyên Khánh nhìn y chằm chằm, rồi thản nhiên nói:

- Ta biết!

Hắn lấy từ trong ngăn kéo ra một quyển sổ, ném cho Trương Lôi:

- Ngươi tự xem đi!

Một khắc sau, Trương Lôi dẫn Độc Cô Lương vội vàng đi vào Vương phủ, một gã thân binh đã đợi sẵn ở cửa, thấy bọn họ đến liền tiến lên phía trước hành lễ:

- Mời hai vị đi theo tôi!

Độc Cô Lương thật sự có chút căng thẳng, ông không biết kết quả đàm phán hôm nay sẽ như thế nào, có thể nói lần đàm phán này sẽ ảnh hưởng tới tiền đồ và vận mệnh của cả gia tộc Độc Cô.

Kỳ thực ông cũng biết, Dương Nguyên Khánh chịu đàm phán với ông thì nhìn chung cũng không còn vấn đề gì đáng lo ngại nữa, vấn đề còn lại chỉ là điều kiện và sự nhượng bộ giữa đôi bên mà thôi.

Bọn họ theo tên thân binh đến nội khách đường. Dương Nguyên Khánh đã ở đó chờ bọn họ rất lâu rồi, hắn đương nhiên là biết địa vị của Độc Cô Lương trong gia tộc Độc Cô, ông ấy thay mặt toàn bộ gia tộc Độc Cô đến đàm phán với mình.

Không chỉ vì Độc Cô Hoài Ân mà vì tương lai và tiền đồ của gia tộc Độc Cô. Trận đại chiến ở Trung Nguyên đã làm lay động biết bao lòng người, có rất nhiều gia tộc có xu hướng bắt đầu lại từ đầu để sau này giành quyền thống trị thiên hạ, từ đó đưa ra những lựa chọn mới, trong số đó có gia tộc Độc Cô.

Lúc đó bên ngoài cửa có tiếng thân binh bẩm báo:

- Khởi bẩm điện hạ, bọn họ đã đến rồi.

- Mời họ vào!

Cửa mở ra, thân binh dẫn Độc Cô Lương vào, Dương Nguyên Khánh lập tức đứng dậy chắp tay cười nói:

- Độc Cô Thiếu bảo, từ khi từ biệt ông vẫn khỏe chứ?

Độc Cô Lương đang căng thẳng bỗng lúc đó lấy lại được bình tĩnh, ông cũng vội cúi người hành lễ nói:

- Từ biệt đã nhiều năm, Sở Vương điện hạ oai phong hơn năm đó nhiều, ngày càng có khí phách của bậc quân vương.

- Độc Cô Thiếu bảo quá khen!

Dương Nguyên Khánh mỉm cười phất tay:

- Độc Cô Thiếu bảo mời ngồi!

Độc Cô Lương ngồi xuống, Dương Nguyên Khánh nhìn Trương Lôi, Trương Lôi hiểu ý hắn, bèn ngồi bên cạnh Độc Cô Lương, lúc đó có hai thị nữ vào phòng dâng trà.

 Chương 840 : Chuyện bất ngờ

Dương Nguyên Khánh bưng trà lên hỏi:

- Lần này Độc Cô Thiếu bảo đến Thái Nguyên có ảnh hưởng gì tới chuyện triều chính không?

Câu hỏi của Dương Nguyên Khánh đầy kín đáo, cũng chính là muốn hỏi, ông đến Thái Nguyên những người khác có biết không.

Độc Cô Lương hiểu ý hắn, lắc đầu nói:

- Ta ở triều Đường chỉ là chức quan nhàn hạ, không có việc gì, ngay cả việc một tháng thiết triều một lần ta cũng rất ít tham gia.

Ngừng một chút Độc Cô Lương bèn cười nói thêm:

- Đương nhiên là Độc Cô gia chủ biết, ông ấy là người rõ hơn ai hết.

Dương Nguyên Khánh bưng cốc trà lên từ từ uống một ngụm, lúc này không thể nóng vội, chuyện này hắn cũng không thể chủ động, không thể lật bài ngửa quá sớm, phải lấy tĩnh thắng động, phải để cho Độc Cô Lương diễn kịch trước. Quan trọng hơn cả là chuyện này hắn không sốt ruột, người nôn nóng chính là gia tộc Độc Cô.

Sự im lặng của Dương Nguyên Khánh khiến Độc Cô Lương càng căng thẳng, mấy lần ông định mở miệng nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu, lúc đó Trương Lôi ngồi bên cạnh kín đáo nhắc nhở:

- Lần này gia tộc Độc Cô rất coi trọng đại chiến Trung Nguyên.

Một câu nói đã nhắc nhở Độc Cô Lương, ông hạ thấp người cười nói với Dương Nguyến Khánh:

- Lần này ta đến đây, nguyên nhân chính là vì Độc Cô Hoài Ân không may bị bắt ở quận Tần Xuyên, nhưng y chỉ là một quan văn, gia tộc Độc Cô muốn chuộc y về, không biết điện hạ có thể xem xét không?

Dương Nguyên Khánh đặt cốc trà xuống thản nhiên nói:

- Độc Cô Thiếu bảo coi trọng người trong gia tộc điều này ta hiểu, nhưng Độc Cô Hoài Ân dù sao cũng là tù binh, đã có hồ sơ ở bộ binh. Cứ cho là có thể thả tù binh, nhưng cũng cần phải làm một số thủ tục, ta có thể hạ lệnh thả người nhưng làm như thế sẽ khiến người đời không phục, mong Độc Cô Thiếu bảo hiểu cho.

Độc Cô Lương vô cùng thất vọng, ngay cả cơ hội chuộc thân cũng không cho, Dương Nguyên Khánh đã từ chối khéo thỉnh cầu chuộc thân của gia tộc Độc Cô, nhưng Độc Cô Lương vẫn không cam tâm nói:

- Thật xin lỗi đã làm khó điện hạ, nhưng liệu có cách nào thay đổi được không?

- Thay đổi?

Dương nguyên Khánh nở nụ cười,

- Có lẽ là ta chưa tỏ rõ quan điểm, bị quân Đường bắt làm tù binh không phải chỉ có một mình Độc Cô Hoài Ân, còn hàng vạn tướng sĩ và không ít văn quan, nếu chỉ có Độc Cô Hoài Ân được thả, liệu có khiến Lý Uyên nghĩ gia tộc Độc Cô đang giở trò sau lưng không, hơn nữa cũng không có lợi gì cho Độc Cô gia, Độc Cô Thiếu bảo nghĩ sao?

Độc Cô Lương đương nhiên là biết hậu quả sẽ như vậy, mục đích chính mà ông đến Thái Nguyên không chỉ là vì giải cứu cho Độc Cô Hoài Ân, ông chỉ mượn cớ chuyện Độc Cô Hoài Ân, mục đích cuối cùng là muốn bàn với Dương Nguyên Khánh về vấn đề tương lai của Độc Cô gia.

Đương nhiên, nếu chuyện của Độc Cô Hoài Ân không giải quyết ổn thỏa, thì chuyện tiền đồ của Độc Cô gia cũng không thể bàn tiếp được, trầm ngâm một chút, Độc Cô Lương lại nói:

- Chúng ta cũng không yêu cầu điện hạ ngay lập tức thả người, mà chỉ muốn điện hạ quan tâm y một chút. Ngoài ra, trước khi sứ giả Trường An tới đàm phán về chuyện tù binh, điện hạ có thể xem xét thả Độc Cô Hoài Ân không, nếu được như vậy không biết có thể trao đổi về điều kiện không?

Đã nói đến nước này, Dương Nguyên Khánh tiếp tục giả vờ ngốc thì cũng không ra làm sao, hắn gật gật đầu, cuối cùng cũng tỏ thái độ nhượng bộ.

- Ta rất hoan nghênh Độc Cô Thiếu bảo tới Thái Nguyên, cũng không quên vụ hợp tác vui vẻ năm xưa giữa ta và Độc Cô gia chủ, ta cũng rất mong chúng ta tiếp tục hợp tác. Nếu Độc Cô gia có thể thể hiện được thành ý của mình, ta có thể đảm bảo lợi ích của gia tộc Độc Cô sau khi thống nhất triều Tùy.

Độc Cô Lương vui như mở cờ trong bụng:

- Không biết chúng tôi nên làm thế nào mới thể hiện được thành ý của mình?

Dương Nguyên Khánh lại không muốn nói rõ, hắn cười một cách kín đáo nói:

- Cái này cũng rất đơn giản, Độc Cô gia là dòng họ giàu nhất về vật chất, cũng là do triều Tùy đang cần gấp những vật phẩm đang thiếu hụt nhiều nhất, ta nghĩ Độc Cô Thiếu bảo hiểu ý ta.

Độc Cô Lương cáo từ, nhưng Trương Lôi vẫn ở đó. Cuộc đàm phán giữa Dương Nguyên Khánh và Độc Cô Lương chỉ là đàm phán nguyên tắc, Dương Nguyên Khánh cần có lương thực, gia tộc Độc Cô có thể cung ứng lương thực, nhưng số lượng cụ thể và phương thức giao nhận như thế nào hai bên không bàn bạc cụ thể, đây chính là phần việc của Trương Lôi - kẻ trung gian lo liệu.

Dương Nguyên Khánh ngồi phía sau bàn, trầm ngâm không nói gì. Trương Lôi đứng bên cạnh lại thấp thỏm lo âu, y vốn không muốn làm kẻ trung gian, có thể nói là không muốn làm kẻ trung gian cho gia tộc Độc Cô, y là quan thần triều Tùy, không muốn vì dòng họ mà phản bội triều Tùy.

Nhưng sự việc thay đổi không phải do y quyến định, cuối cùng y cũng phải đối mặt với sự lựa chọn giữa triều Tùy và dòng họ.

Một hồi sau, Dương Nguyên Khánh mới nhìn y một cái, mỉm cười nói:

- Trương Thiếu giám dường như có chút hoang mang?

Trương Lôi trầm ngâm gật đầu:

- Hạ quan không biết nên làm như thế nào.

Dương Nguyên Khánh thấy y không hiểu ẩn ý của mình, lại cười nói:

- Vậy ta nên gọi ngươi là Độc Cô Thiếu giám, hay là tiếp tục gọi là Trương Thiếu giám?

Lúc đó Trương Lôi mới hiểu dụng ý khi điện hạ gọi y là Trương Thiếu giám chứ không phải là Độc Cô Thiếu giám, y vô cùng xúc động nói:

- Hạ quan nguyện là Trương Thiếu giám!

Dương Nguyên Khánh gật đầu, nói sâu xa:

- Ta hiểu ý ngươi, nhưng ta cần ngươi là Độc Cô Thiếu giám, thay mặt gia tộc Độc Cô đàm phán với triều Tùy.

Trương Lôi lờ mờ hiểu được dụng ý sâu xa của Dương Nguyên Khánh, nhưng cũng không chính xác cho lắm, y ngộ ra rằng đây chính là bước ngoặt lớn của cuộc đời y.

Y cắn môi,

- Hạ quan ngu dốt, không hiểu ý điện hạ, mong điện hạ nói rõ hơn.

Là một chấp chính vương cao nhất của triều Tùy, Dương Nguyên Khánh sẽ không đem một số chuyện nói rõ ngọn ngành, bởi vì có rất nhiều chuyện nếu nói rõ ra sẽ trở thành hứa hẹn, một khi hoàn thành sẽ ảnh hưởng lớn tới sự tôn nghiêm của hắn, đây cũng là điều mà Dương Nguyên Khánh mãi mới ngộ ra được.

Là người bề trên đôi khi cũng phải thực thực hư hư, dùng cách nói uyển chuyển kín đáo, cần phải để lại cho mình một đường lui.

Kỳ thực làm người bình thường cũng vậy, mọi chuyện đều không thể nói quá rõ, đặc biệt là giữa bằng hữu với đồng nghiệp, không từ chối quá thẳng thừng mà phải nói là tôi sẽ cố gắng hết sức, từ chối quá thẳng thừng sẽ làm người khác bị tổn thương.

Cũng như vậy, không nên đồng ý một cách chắc chắn, nên biết rằng có rất nhiều việc hành sự tại nhân, mưu sự tại thiên, một khi đã khẳng định chắc chắn, nhưng khi không thể trở thành hiện thực được, không những sẽ khiến bạn bè thất vọng, làm mất danh dự và hình tượng của mình, hơn nữa còn làm lỡ chuyện của người khác.

Vì thế, “làm người cần phải để lại cho mình một đường lui”, đây cũng là chân lý đối nhân xử thế ở đời.

Sự kín đáo và uyển chuyển của bề trên, kỳ thực là đây chính là nâng cao của cách đối nhân xử thế, xuất phát điểm đều giống nhau.

- Độc Cô Thiếu khanh, ta muốn gia tộc Độc Cô trọng dụng ngươi hơn cả Độc Cô Hoài Ân. Nếu như có một ngày nào đó ta đến Độc Cô phủ, người ra mở cửa đón tiếp ta sẽ là ngươi chứ không phải Độc Cô Hoài Ân.

Trương Lôi, không! Nên gọi là y là Độc Cô Lôi, y hoàn toàn hiểu ý của Sở Vương, Độc Cô Hoài Ân là người có khả năng kế tục nhất của gia tộc Độc Cô, mà ý của Sở Vương là muốn y làm người kế thừa của gia tộc Độc Cô.

Độc Cô Lôi sống mũi cay cay, vô cùng cảm kích, y kìm nén cảm xúc tận đáy lòng, cung kính hành lễ:

- Sự yêu mến của điện hạ, Độc Cô Lôi cảm kích vô cùng, chỉ có điều Độc Cô Lôi là con vợ lẽ, e rằng sẽ làm điện hạ thất vọng.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Trên đời này không có gì là tuyệt đối, chỉ có lợi ích, sau này chỉ cần ngươi có thể mang lại lợi ích cho gia tộc Độc Cô, con vợ lẽ hay vợ cả không hề quan trọng.

Độc Cô Lôi đột nhiên nghĩ tới một chuyện, Sở Vương điện hạ trước mặt y không phải là con vợ lẽ đó sao?

Bóng đêm bao trùm lên thành Thái Nguyên, một cỗ xe ngựa đi ra phía đông thành, đi được khoảng ba dặm, không lâu sau đi vào một ngôi làng, dừng lại trước một ngôi nhà lớn. Độc Cô Lôi xuống xe ngựa, Độc Cô Vĩ nghe thấy tiếng xe ngựa nên đã đợi trước ở cửa chính.

- Trưởng bá đã đợi rất lâu tôi, mời ngũ đệ đi theo ta.

Lòng người thật là kỳ lạ, ngày hôm qua Độc Cô Vĩ còn hơi coi thường Độc Cô Lôi, trong lời nói luôn có chút coi thường, nhưng hôm nay Độc Cô Lương vui lòng khen ngợi khiến Độc Cô Vĩ thay đổi thái độ, tỏ ra rất thân mật với Độc Cô Lôi.

Độc Cô Vĩ dẫn đường, suốt dọc đường cười cười nói nói, khi gần đến tòa nhà phía trong, nhìn quanh không thấy ai, y mới nói nhỏ với Độc Cô Lôi:

- Hôm qua ta nói năng không phải, mong ngũ đệ thứ lỗi.

Độc Cô Lôi cười thản nhiên nói:

- Không cần khách sáo, ta không để bụng đâu.

Độc Cô Vĩ cười khan một tiếng, dẫn y vào phòng. Trong phòng, Độc Cô Lương đang đứng chắp tay trước cửa sổ, nghĩ ngợi gì đó, có thể nói lần này tới Thái Nguyên ông đã đạt được mục đích, nhưng mặt khác, những yêu cầu Dương Nguyên Khánh đưa ra có chút nguy hiểm đối với gia tộc Độc Cô.

Dương Nguyên Khánh đòi lương thực, trong kho của Độc Cô Lương còn dự trữ không ít lương thực, cung cấp lương thực không thành vấn đề, nhưng vận chuyển thế nào, và làm thế nào để tránh khỏi tai mắt của Lý Uyên mới quan trọng.

 Chương 841 : Tính tình ngang ngạnh

- Trưởng bá, ngũ đệ đến rồi.

Độc Cô Vĩ đứng sau nhắc khẽ.

Độc Cô tiến lên phía trước hành lễ:

- Tham kiến trưởng bá!

Độc Cô Lương từ từ quay người lại, cười nói:

- Dương Nguyên Khánh đòi bao nhiêu lương thực?

- Bẩm trưởng bá, Sở Vương điện hạ đòi ba trăm tấn lương thực.

- Ba trăm tấn!

Độc Cô Lương khẽ chau mày, ba trăm tấn lương thực Độc Cô gia có thể chấp nhận được, nhưng vận chuyển thế nào, giao nhận ra sao, những khâu này phải giải quyết thế nào đây?

Ông lại hỏi:

- Dương Nguyên Khánh có nói là do ai chịu trách nhiệm đàm phán cụ thể với gia tộc Độc Cô không?

Độc Cô Lôi hơi hạ người:

- Bẩm trưởng bá, Sở Vương điện hạ nói, do cháu toàn quyền đại diện ngài ấy đàm phán với gia tộc Độc Cô.

- Do cháu?

Độc Cô Lương bỗng ngẩn người ra.

Dương Nguyên Khánh đã viết một tin nhắn, kể với Đỗ Như Hối chuyện Độc Cô gia bất ngờ đến thăm, để y và Độc Cô Lôi cùng nhau lo chuyện này. Viết xong hắn nhét vào trong một phong thư, dùng sáp dán lại, đưa cho một tên thân binh,

- Mau đem bức thư này giao cho Đỗ Tướng quốc, nói nói với y chuyện này vô cùng hệ trọng, cần làm hết sức mình.

Tên thân binh mang lá thư đi. Lúc đó Dương Nguyên Khánh mới phát hiện giải quyết chuyện của Độc Cô gia hết gần một canh giờ, vốn định để thê tử đợi một tuần trà nhưng…

Y cười khổ một tiếng, đứng dậy đi về phía căn nhà trong. Sân nhà của Giang Bội Hoa ở cuối phía tây của nhà trong, là nơi trồng rất nhiều trúc, không gian khu tiểu viện rất tao nhã.

Dương Nguyên Khánh vừa đến cửa vườn, một bóng đen bỗng lao nhanh tới. Bỗng nhiên phát hiện phía trước có người, nàng muốn ngừng chạy nhưng chân lại lảo đảo, suýt chút nữa thì đụng phải hắn.

Lập tức thốt kinh hãi, đây là giọng của một thiếu nữ. Dương Nguyên Khánh phản ứng rất nhanh, trong nháy mắt đã tránh không đâm phải đối phương, đồng thời bắt lấy cánh tay đối phương:

- Cẩn thận!

Đối phương mặc chiếc váy tơ lụa dài, qua chiếc váy dài và mỏng, hắn có thể cảm nhận được cánh tay nhỏ nhắn và mềm mại, đặc biệt là làn da mịn màng và có tính đàn hồi rất cao riêng có của thiếu nữ.

Đỡ lấy cơ thể đối phương, hắn ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng, Dương Nguyên Khánh vội buông tay ra, hắn biết đó là ai, xin lỗi nói:

- Đường trơn, cẩn thận một chút.

Trong bóng tối, hai gò má Dương Phương Hinh nóng ran, nói không thành tiếng, quay người trở về phòng của mình, nàng vốn định ra vườn sau thưởng lãm dạ quế, nhưng lúc này nàng thay đổi chủ ý của mình.

Dương Nguyên Khánh nhìn theo nàng đi xa, hắn lắc đầu, trong trí nhớ của hắn dường như đã rất lâu không nói chuyện với nàng, sao bây giờ nàng lại trở nên lạnh nhạt với hắn như vậy.

Dương Nguyên Khánh bước nhanh vào căn phòng của Giang Bội Hoa. Căn phòng được chia làm hai gian trong và ngoài, một a hoàn đang đứng bên ngoài, trong phòng còn sáng đèn, a hoàn thấy Sở Vương bước vào, cô sợ hãi vội hành lễ:

- Tham kiến lão gia!

- Ừ!

Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Phu nhân ngủ chưa?

- Là Nguyên Khánh ư?

Giọng của Giang Bội Hoa dịu dàng phát ra từ trong phòng, giọng nói có lẫn chút vui mừng khó mà giấu được:

- Thiếp vẫn chưa ngủ, vào đi!

Dương Nguyên Khánh bước vào phòng trong. Căn phòng tuy không to, nhưng bài trí rất trang nhã và sạch sẽ, trong góc phòng có đặt một chiếc lư hương, hương bay phảng phất, cả phòng tràn ngập hương thơm nhè nhẹ, đó là mùi hương mà Giang Bội Hoa thích nhất, khiến người ta cảm thấy yên bình.

Giang Bội Hoa nằm trên giường. Nàng đã mang thai tháng thứ bảy, cơ thể nặng nề, đành nằm trên giường, thỉnh thoảng vuốt ve cái bụng, giống như đang trò chuyện cùng bào thai trong bụng.

Thấy Dương Nguyên Khánh bước vào, ánh mắt tràn đầy niềm vui, nàng muốn ngồi dậy, Dương Nguyên Khánh bước nhanh đến, nhẹ nhàng ấn vai nàng, dịu dàng nói:

- Cứ nằm đó, đừng dậy!

Giang Bội Hoa không dậy được đành kéo tay Dương Nguyên Khánh để hắn ngồi xuống, nàng làm nũng nói:

- Đại tỷ nói chàng sẽ đến ngay, vậy mà giờ mới đến, khiến người ta đợi buồn ngủ chết đi được.

Làm nũng là bản tính của phụ nữ, nhưng rất hiếm thấy ở Giang Bôi Hoa, nàng luôn giữ vẻ cao quý nho nhã, hôm nay lại thích như vậy, làm nũng với phu quân một chút.

Dương Nguyên Khánh thấy mắt nàng chớp chớp, thần sắc vừa kiều diễm vừa dịu dàng khiến hắn không kìm được hôn vào môi nàng một cái, nói nhỏ:

- Đêm nay ta ở lại đây với nàng, chúng ta trò chuyện.

Giang Bội Hoa rất xúc động, nhìn hắn với ánh mắt rất chân thành, đôi môi mềm mại chờ đón. Không ngờ hai người vừa mới hôn nhau, bên ngoài có tiếng ho nhẹ, khiến Giang Bội Hoa sợ đến nỗi đẩy Dương nguyên Khánh ra, mặt đỏ ửng.

Dương Nguyên Khánh ngồi dậy, chỉ thấy Dương Phương Hinh vẻ mặt bình thản như không có chuyện gì bước vào phòng, cô khẽ gật đầu với Dương Nguyên Khánh, mỉm cười hành lễ, bước đến ngồi cạnh Giang Bội Hoa.

Cô cầm tay Giang Bội Hoa mỉm cười nói:

- Tỷ à, hôm nay hình như thần sắc tỷ rất tốt, sáng nay bà đỡ còn nói là thần sắc tỷ không tốt, cần phải bồi bổ, vậy mà giờ lại trở nên hồng hào như vậy?

Giang Bội Hoa rất hận, khó khăn lắm nàng mới được xum họp với phu quân, vậy mà cô ta lại đến làm phiền, còn có ý nói mát.

Giang Bội Hoa khẽ cắn răng, nhéo tay cô ta một cái, Dương Phương Hinh lập tức phóng đại lên nói:

- Ai ôi! Tỷ à, tỷ cấu ta làm gì?

Giang Bội Hoa quẫn quá hạ giọng nói:

- Muội đúng là nha đầu đáng chết, hôm nay uống nhầm thuốc à? Điên điên khùng khùng!

Dương Phương Hinh bỗng đỏ mặt, cô chợt ý thức được mình thất lễ, cô đến đây làm gì? Phu thê người ta mấy tháng trời chưa gặp nhau, nói chuyện riêng tư, mình lại vô duyên vô cớ đến đây làm gì?

Nghĩ đến đây, cô đứng dậy cười nói với Giang Bội Hoa:

- Muội nào có điên điên khùng khùng gì, muội đến thăm tỷ chút thôi, được rồi, thăm xong rồi muội về phòng đây, sáng mai lại tới thăm tỷ.

Nói đoạn nàng đứng dậy đi ra ngoài, dường như quên mất sự có mặt của Dương Nguyên khánh, ngay cả chào cũng không thèm chào, cứ thế thản nhiên đi về.

“Dường như cô ta cũng rất có thành kiến với mình.”

Dương Nguyên khánh nhớ lại chuyện lúc nãy gặp cô ở ngoài cửa, cô ta cũng tỏ vẻ không hề cởi mở với mình.

Giang Bội hoa lắc đầu thở dài nói:

- Đó là do chàng không hiểu cô ta, cô ta người thì nhỏ nhưng quỷ kế thì lớn, trong lòng hiểu rõ hơn ai hết, cách đây hai ngày Tiêu thái hậu đến thăm thiếp, có nói đến chuyện hôn sự của cô ta.

- Hôn sự?

Dương Nguyên Khánh khẽ chau mày:

- Năm nay cô ta bao nhiêu tuổi rồi?

- Cô ta đã mười bốn tuổi rồi, có thể cân nhắc tới chuyện hôn sự được rồi.

Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một chút rồi nói:

- Mười bốn tuổi còn hơi nhỏ, ta nghĩ nên đợi tới khi nào cô ta mười sáu tuổi hãy bàn chuyện hôn sự.

- Còn phải nói nữa sao!

Giang Bội Hoa đành nói:

- Hơn nữa chuyện này hơi phức tạp, tuy Tiêu Hậu là mẹ của cô ta, nhưng rốt cuộc không phải là mẹ đẻ, Đan Dương cũng không coi thái hậu ra gì, đã lâu lắm rồi bà mới đi thăm cô một lần, hơn nữa lần thăm duy nhất này hai người còn to tiếng cãi vã nữa.

- Tại sao?

Dương Nguyên Khánh không hiểu hỏi.

- Tô thái hậu muốn cô chuyển đến cung Tấn Dương, cô ta bèn trở mặt, nói là không muốn làm ni cô ở cung Tấn Dương, khiến Tô thái hậu tức giận mắng cô mấy câu, cô ta bèn lôi phụ hoàng ra, nói phụ hoàng tuyệt đối không để cô làm con gái đế vương. Dù gì hiện giờ tính cách cô rất ngang bướng, vui giận bất thường, khiến mọi người không biết cô đang nghĩ gì.

Dương Nguyên Khánh nghĩ một lát cũng không hiểu nổi nên không nghĩ ngợi nhiều nữa, cười nói:

- Thôi bỏ đi, chúng ta không nói chuyện cô ta nữa, để ta nghe nhịp tim của con nào.

- Dạ!

Giang Bội Hoa nằm xuống, hơi ngượng ngùng cởi đồ lót để lộ phần bụng. Dương Nguyên Khánh khẽ đặt tai lên bụng nàng, chăm chú lắng nghe nhịp tim, Giang Bội Hoa nhẹ nhàng vuốt tóc hắn, trong lòng tràn đầy niềm vui được làm vợ làm mẹ.

Sáng sớm ngày hôm sau, Dương Nguyên Khánh tới cung Tấn Dương, bái kiến hoàng đế Đại Tùy Dương Hựu và thái hậu Tiêu thị.

Dương Nguyên Khánh mặc một bộ áo bào cửu mãng màu tím, đầu đội mũ ô sa, chân đi giày da đen, lưng thắt kiếm Bội Giang Sơn. Hắn mặc như một văn thần, tay cầm ngà voi, dưới sự dẫn dắt của hai thái giám, hắn bước nhanh vào điện Kỳ Niên của cung Tấn Dương, đây là nơi hoàng đế Đại Tùy đón tiếp khách quý.

Trên thực tế việc duy nhất mà hoàng đế Dương Hựu có thể làm là thỉnh thoảng gặp sứ giả ngoại triều, y chỉ là tượng trưng cho vương triều Tùy.

Lúc đó, tiểu hoàng đế Dương Hựu và Tiêu thái hậu đã ngồi trên ngai vàng. Tiêu thái hậu đến cung Tấn Dương đã hơn một tháng, bà cùng với phu quân là Dương Quảng sống ở cung Tấn Dương hơn một tháng.

Mặc dù cung Tấn Dương rất rộng, có hàng trăm gian cung điện, nguy nga tráng lệ, nhưng Tiêu thái hậu không hề thích cung Tấn Dương, vì nơi này không có khí chất tiên sơn xinh đẹp như cung Phần Dương, cũng không có sắc nước hiền hòa như ở cung Giang Đô, chỉ có hàng trăm gian cung điện tẻ nhạt.

Nhưng lúc này, bà lại thích cung Tấn Dương một cách khác thường, bởi vì cung Tấn Dương mang lại cho bà một cảm giác an toàn trước nay chưa từng có. Trong cung điện này, bà là cung chủ, ngay cả sắc mặt của phu quân Dương Quảng cũng không cần để ý, hoàn toàn khong hề lo lắng tới sự uy hiếp về tính mạng.

Nhưng có một điều Tiêu Hậu biết rất rõ, an toàn tính mạng và thể diện của bà trong những năm cuối đời đều phải dựa vào Dương Nguyên Khánh, người đàn ông trẻ tuổi này nắm giữ cả vận mạng của bà, bà cần phải hoàn toàn thuận theo ý của hắn, không dám có nửa lời phản đối.

 Chương 842 : Bán rượu phạm quy (p1)

Vì thế hôm nay bà bị cảm nhẹ, bà vẫn miễn cưỡng vực dậy tinh thần, ra chào đón Dương Nguyên Khánh.

Dương Nguyên Khánh bước nhanh vào trong điện, khom người hành lễ:

- Thần Dương Nguyên Khánh tham kiến thái hậu, tham kiến hoàng đế bệ hạ.

Trên đại điện, Tiêu Hậu ngồi ở chính giữa, tiểu hoàng đế Dương Hựu ngồi kế bên, đây cũng là vì Dương Nguyên Hựu vẫn chưa thành niên. Hôm qua Tiêu Hậu đã nhận được thư của Dương Sư Đạo, lần này trong trận đại chiến Trung Nguyên, không cần ban tước cho Sở Vương, nhưng yến tiệc tán thưởng thì cần thiết.

Tiêu Hậu biết, kỳ thực đây chính là ý của Dương Nguyên Khánh, Tiêu Hậu mỉm cười:

- Điện hạ đại thắng Trung Nguyên, khiến vùng hoang dã Trung Nguyên rộng hàng nghìn dặm thuộc về lãnh thổ của Đại Tùy, công lao cao vời vợi, ai gia vô cùng mừng rỡ, nhất định phải trọng thưởng điện hạ, không biết điện hạ muốn phong chức quan gì?

Dương Nguyên Khánh lại khom người hành lễ:

- Khởi bẩm thái hậu, mở rộng lãnh thổ Đại Tùy là bổn phận của thần, thần chỉ làm những việc trong phạm vi của mình, không dám nhận phong thưởng, mong thái hậu thưởng cho các tướng sĩ, họ mới thực sự là người có công.

- Ai gia hiểu, trọng thưởng cho các tướng sĩ đã có bộ binh kê khai công lao, do Tử Vi Các ra quyết định trọng trưởng, ai gia sẽ ân chuẩn, nhưng công lao của Sở Vương ai gia không thể coi như không, Sở Vương tiếp chỉ!

Dương Nguyên Khánh vốn không cân nhắc tới chuyện phong thưởng cho mình, hắn đã ở chức quan lớn nhất rồi, muốn phong chức thêm cũng không thể phong được nữa, nếu phong thêm chức quan kỳ quái cũng không có nghĩa gì. Không ngờ Tiêu Hậu nhất định phong chức cho hắn, khiến hắn cũng không còn cách nào khác, hắn biết là thái hậu đang lấy lòng hắn, nên đành khom người nói:

- Tạ ơn thái hậu ban thưởng.

Tiêu hậu cất cao giọng nói:

- Sở Vương Nguyên Khánh nam thủ Trung Nguyên, có công với xã tắc, đặc phong làm Thái úy, ban kiếm Bàn Dĩnh, gia phong trưởng nữ của ngươi làm quận chủ Toánh Xuyên, phong thế tử làm quận vương của Huỳnh Dương, khâm thử!

Một tên thái giám cầm khay vàng ra, trong khay có một thanh bảo kiếm, chuôi kiếm giống hệt ngọc đen, thanh bảo kiếm này chính là kiếm Bàn Dĩnh Thiên Tử năm đó Dương Quảng ban thưởng Dương Nguyên Khánh, năm đó Tiêu Hậu vì thanh kiếm này mà bất đồng với Dương Nguyên Khánh.

Hôm nay Tiêu Hậu lại đem thanh kiếm này ban cho Dương Nguyên Khánh, đây chính là một hình thức xin lỗi.

Dương Nguyên Khánh không kìm được nhìn Tiêu Hậu một cái, đúng lúc đó Tiêu hậu cũng đang nhìn hắn, ánh mắt hai người bắt gặp nhau, hiểu được ý bèn cười.

Phía bắc thành Thái Nguyên có một quán rượu lớn, rộng khoảng năm mẫu, được xây dựng ở phía bắc ngoại thành, quán rượu được gọi là Nhất Phẩm Cư Tửu quán, gồm năm tầng, là quán rượu lớn nhất và nổi tiếng nhất ở thành Thái Nguyên.

Quán rượu này là sản nghiệp của Vương gia Thái Nguyên, ở Thái Nguyên Vương gia có tổng cộng hai quán rượu, một quán là Tiến Sĩ Tửu Lầu gần Quốc Tử Học, một quán là Nhất Phẩm Cư Tửu quán.

Hai quán rượu này hàng năm đều kinh doanh rất thịnh vượng, mang lại lợi nhuận lớn cho Vương gia. Vương gia là đệ nhất danh môn ở Tấn Bắc, các môn sinh chủ yếu ở quan trường Hà Đông, đối với một gia tộc khổng lồ như vậy mà chỉ dựa vào khoản tiền lợi nhuận từ hai quán rượu thì thực sự là không đủ để tiếp tục duy trì.

Vương gia còn có đồn điền ruộng đất rộng hàng chục ha, đều là những cánh đồng phì nhiêu màu mỡ, ở Chợ Bắc còn mười mấy cửa hàng, quy mô làm ăn cũng rất lớn.

Đồn điền, cửa hàng, quán rượu đều là do con cháu của Vương gia chịu trách nhiệm kinh doanh, một trong những con cháu của Vương gia chịu trách nhiệm kinh doanh hai quán rượu là Vương Tể Trung, là con của Vương Uyên – người đứng thứ hai trong Vương gia, năm ngoái Vương Tể Trung tham gia thi khoa cử, kết quả là bị trượt.

Y không còn quyết tâm để tham gia khoa cử nữa, phụ thân Vương Uyên bèn thuyết phục gia chủ Vương Tự, thay y giành quyền kinh doanh quán rượu - miếng mồi béo bở này.

Vương Tể Trung tuy học hành không xuất sắc nhưng y kinh doanh rất linh hoạt, hai quán rượu lớn dưới sự quản lý của y hoạt động rất tốt, kinh doanh ngày càng thịnh vượng.

Buổi trưa ngày hôm nay, Nhất Phẩm Cư Tửu quán làm ăn vẫn rất thịnh vượng, khách tứ phương lũ lượt kéo đến, quán rượu năm tầng chật kín khách, trong quán rượu, tiếng chúc rượu, trò chuyện vô cùng náo nhiệt.

Cửa chính của quán rượu có hai vị khách đang bước tới, trong đó có một người mặt như đáy nồi, mặc áo bào dài bằng vải lụa màu xanh lục, trên đầu buộc chiếc khăn màu xanh nhìn giống như một con châu chấu lớn xác, người còn lại thì mặt dài, vẻ mặt rất nghiêm nghị, không tùy tiện cười nói.

- Ta đã nói mà lão La, từ lâu đã nghe danh quán rượu này làm ăn thịnh vượng, mà ta vẫn chưa đến đây lần nào, hôm nay ta mời, chúng ta làm vài chén nhé!

Người buộc khăn màu xanh như con châu chấu lớn chính là Trình Giảo Kim, người có khuôn mặt dài cùng đến uống rượu với y chính là La Sĩ Tín.

Hai người bọn họ cùng Dương Nguyên Khánh về Thái Nguyên. Quân đội được nghỉ một tháng, Trình Giảo Kim không bị quân kỷ ràng buộc, bèn đi uống rượu để thỏa mãn cơn thèm rượu mấy tháng trời.

Hôm nay y một mình đi uống rượu thì tẻ nhạt nên kéo theo La Sĩ Tín cùng đi uống rượu với y. Trình Giảo Kim dẫn La Sĩ Tín tới gần cửa chính của quán rượu, đã có một tên tiểu nhị với vẻ mặt tươi cười chào đón họ:

- Chào mừng hai vị tới tiệm của chúng tôi!

- Còn bàn nào không?

Trình Giảo Kim lớn tiếng hỏi.

Tiểu nhị rất tinh mắt, phát hiện ra hai vị khách này lần đầu tiên đến quán rượu bèn cười nói:

- Hai vị lão gia đến thật không may, hôm nay hầu như quán rượu đã chật kín, chỉ còn mấy chỗ ở lầu một thôi, không biết có thể mời hai vị ngồi ở lầu một được không?

Ngồi ở lầu mấy đối với Trình Giảo Kim không thành vấn đề. Y và La Sĩ Tín bước vào trong, theo tiểu nhị tiến đến mấy cái bàn phía trước, trước bàn đều đã có người ngồi, thực tế là ngồi chung bàn với người khác, như vậy nói chuyện không tiện cho lắm.

La Sĩ Tín chau mày hỏi:

- Chúng ta muốn ngồi riêng, không muốn ngồi chung với người khác, trên lầu còn chỗ không?

Tiểu nhị lắc đầu:

- Chỉ còn mấy chỗ trống này thôi, trên lầu đã hết chỗ rồi.

La Sĩ Tín đành nói với Trình Giảo Kim:

- Ở đây không tiện nói chuyện, chúng ta tới quán khác đi!

Trình Giảo Kim cũng không thích ngồi chung với người khác, y đang định đồng ý thì lúc đó lại có hai vị khách cùng tiến vào hỏi:

- Còn chỗ không?

Tiểu nhị càng ân cần hơn, vẻ mặt tươi cười nói:

- Thì ra là ông chủ Cao và ông chủ Mã, còn chỗ, còn chỗ, mời hai vị lên lầu!

Trình Giảo Kim sửng sốt, tức giận đến tím mặt, lập tức túm lấy gáy tên tiểu nhị, lôi y lại, trợn mắt lên mắng:

- Ông mày là ăn mày hay sao? Bắt ông mày ngồi lầu một, mẹ nó không bằng con chó.

La Sĩ Tín thấy tên tiểu nhị bị xiết chặt tới mức y lè cả lưỡi, vội gỡ tay Trình Giảo Kim ra, lúc đó tiểu nhị mới thở hổn hển, lui ra phía sau hai bước, khiếp sợ nói:

- Từ lầu ba trở lên là dành cho khách quen, đây là quy định của bổn tiệm, hai vị là khách mới tới lần đầu, chỉ có thể ngồi ở lầu một và lầu hai, nhưng lầu hai thực sự đã ngồi kín rồi...

Không đợi y nói hết câu, Trình Giảo kim bèn quát lớn:

- Ông mày muốn ngồi tầng ba, ngươi không cho ông mày ngồi, ông mày đốt quán của các ngươi.

Tiểu nhị thấy y hung dữ, bất đắc dĩ dẫn y lên lầu, lầu hai đúng là đã ngồi kín rồi, đi thẳng lên lầu ba, lầu ba gần như đã ngồi hết hơn một nửa, còn bốn năm chỗ. Trình Giảo Kim liền phát hiện chỗ ngay cạnh cửa sổ có một bàn hai người, vẫn chưa có người ngồi, vị trí tương đối đẹp.

Y đi thẳng tới đó, đã thấy trên bàn có một tấm biển gỗ, bên trên có viết “ông chủ Hàn Đại Đông chuyên ngồi” Trình Giảo Kim mắng một tiếng:

- Con mẹ nó, linh vị không để ở nhà mà thờ cúng, lại vứt lung tung thế này, xui xẻo!

Y cầm tấm biển, tiện tay vứt ra cửa sổ, tự tiện ngồi xuống, tiểu nhị mềm nắn rắn buông, không dám hé răng, đành tiến lên phía trước nói:

- Hai vị lão gia muốn ăn gì?

- Thức ăn thì mang đại lên hơn chục món, quan trọng là rượu, ở đây có rượu gì ngon?

- Bẩm hai vị lão gia, tiểu điếm toàn là rượu hoa quả, ngon nhất là rượu nho Đại Lợi.

Triều Tùy nghiêm cấm dùng lương thực làm rượu, Trình Giảo Kim và La Sĩ Tín cũng biết vậy bèn nói:

- Vậy mang hai vò rượu nho thượng hạng ra đây.

- Khách quan đợi một chút, rượu sẽ có ngay!

Chỉ trong chốc lát, hai tên tiểu nhị bưng mấy đĩa thức ăn và hai vò rượu, Trình Giảo Kim cầm vò rượu rót cho La Sĩ Tín một chén, thở dài nói:

- Thê tử ta vì không sinh được con trai mà thấy áy náy, đồng ý cưới cho ta một người làm thiếp, Sĩ Tín ngươi thấy U Nương có thể làm thiếp ta không?

La Sĩ Tiến cười nhạt nói một tiếng:

- Người ta là gái đã có chồng, ngươi nên từ bỏ ý định đó đi!

- Gái đã có chồng thì cũng không đáng ngại, chồng cô ta đã yếu lại có bệnh, cùng lắm là ta thủ tiêu gã, quan trọng là U Nương, cô ấy liệu có đồng ý làm vợ bé ta không?

La Sĩ Tín thấy y cả ngày mơ tưởng hão huyền bèn mắng:

- Ngươi mặt đen như cóc, cả ngày mơ tưởng đòi ăn thịt thiên nga, Bùi U là con gái Bùi gia, lại là con dâu Thôi thị ở Thanh Hà, ngươi lại muốn cưới người ta về làm vợ bé, ngươi nghĩ ngươi là ai, đừng có nằm mơ giữa ban ngày nữa.

Trình Giảo Kim có chút buồn bã, y cũng biết không có hi vọng, một lát sau y lại hỏi:

- Nói về chuyện của ngươi đi! Ngươi với Tuyến Nương khi nào thành thân? Ta là ai chứ, tiền đáp lễ cho ta không thể ít đâu.

 Chương 842 : Bán rượu phạm quy (p2)

La Sĩ Tín uống một chén rượu, chầm chậm nói:

- Đợi thêm một thời gian nữa! Dù sao việc cưới cô ấy chẳng sớm thì muộn, ta sợ là cưới cô ấy sẽ ảnh hưởng tới chuyện triều đình tấn công Đậu Kiến Đức, vì thế cứ lần lữa mãi chưa quyết định.

Đúng lúc đó, một người đàn ông trung niên mặc áo bào đen có mấy tên tùy tùng theo hầu, đi lên lầu ba, cười nói với tiểu nhị:

- Mang đến ba vò Túy Cốt Hương.

Ba chữ Túy Cốt Hương khiến Trình giảo Kim sửng sốt, y biết loại rượu này, là loại rượu gạo thượng hảo, đã rất lâu rồi y chưa được uống, nghe tiểu nhị nói vậy, y nhất thời nôn nóng đứng lên.

- Đến đây cho ông!

Trình Giảo Kim ngoác mồm lên quát.

Một tên tiểu nhị vội vã chạy tới:

- Đại nhân có gì dặn dò?

Trình Giảo Kim lấy ra một thỏi vàng nặng năm mươi lượng, vứt xuống bàn:

- Ông mày muốn hai vò Túy Cốt Hương!

Tiểu nhị chưa từng nhìn thấy thỏi vàng nào lớn như vậy, bỗng nhiên ánh mắt y thừ ra, nuốt nước bọt mãi mới nói:

- Lão gia đợi một chút, ta đi lấy cho ngài!

Tiểu nhị chạy như điên, trong nháy mắt đã mang hai vò rượu đến, Trình Giảo Kim giật lấy vò rượu, mở nắp ngửi, quả nhiên là rượu gạo thượng hảo.

Ngay tức khắc ánh mắt y lóe lên nụ cười, mắng:

- Con mẹ nó, chẳng phải các ngươi nói chỉ có rượu hoa quả thôi sao? Đây là cái gì?

Sắc mặt tiểu nhị có chút không tự nhiên, vội hạ giọng giải thích:

- Không giấu gì hai vị lão gia, rượu gạo của chúng tôi chỉ bán cho khách quen, hai vị lần đầu tới vì thế đã có chút đắc tội, thật không phải!

Trình Giảo Kim rót hai chén, y bưng chén rượu uống một hơi hết sạch, chép miệng, nheo mắt cười nói:

- Rượu ngon! Thật là con mẹ nó không xoàng.

La Sĩ Tín cũng uống một ngụm, chau mày, hỏi tiểu nhị:

- Không phải là cấm dùng lương thực làm rượu sao? Sao tiệm các ngươi lại dám bán rượu gạo?

Tiểu nhị vội xua tay:

- Không giấu gì hai vị, rượu này là chuyển từ Quan Trung đến, không phải là rượu chúng tôi tự ủ, vì vậy không phạm pháp, hai vị yên tâm mà uống!

Y vừa nói vừa liếc nhìn thỏi vàng trên bàn, lại nuốt nước bọt ừng ực, Trình Giảo Kim bèn đút thỏi vàng vào trong ngực, lấy ra hai đồng tiền, ném lên bàn kêu leng keng:

- Đây là tiền thưởng cho ngươi.

Tiểu nhị dài mặt ra, chưa từng thấy vị khách nào keo kiệt như vậy, mình đã vi phạm quy tắc mang rượu gạo lên cho họ, vậy mà chỉ thưởng có hai đồng tiền, y âm thầm nhặt tiền đút vào trong ngực, quay người đi.

Trình Giảo Kim coi như không nhìn thấy gì, chỉ khoái trí uống rượu gạo, La Sĩ Tín túm lấy y nói nhỏ:

- Sao ta thấy quán rượu này cái gì cũng kỳ dị vậy?

La Sĩ Tín là người rất tinh mắt, ngay từ khi tiểu nhị có vẻ giấu giấu diếm diếm, y đã cảm thấy bất thường, giờ y lại phát hiện quán rượu này còn bán rượu gạo, lẽ nào đây chính là lý do bọn họ làm ăn thịnh vượng như vậy.

Trình Giảo Kim liếc y một cái bĩu môi nói:

- Đây chính là Nhất Phẩm Cư Tửu quán nổi tiếng nhất Thái Nguyên, lẽ nào ngươi cho rằng đây là hắc điếm?

- Không! Ý ta không phải như vậy, ta thấy họ dám công khai bán rượu gạo như vậy, chắc chắn là có vấn đề!

Trình Giảo Kim “Ực” một tiếng uống cạn chén, lại gắp một miếng thức ăn, vừa nhai nhồm nhoàm vừa hàm hồ nói:

- Có vấn đề gì, người ta nhập rượu từ Quan Trung, không vi phạm lệnh cấm, ngươi nghĩ nhiều quá rồi đấy.

La Sĩ Tín lắc đầu :

- Theo ta được biết, muốn nhập rượu từ Quan Trung không phải là dễ, trên đường vận chuyển kiểm tra rất nghiêm ngặt, Tổng quản tuyệt đối không cho nhập cảnh rượu, chỉ là không có công bố chính thức thôi.

- Ôi chao! Ngươi đừng suy nghĩ nhiều nữa.

Trình Giảo Kim không nhịn được nói:

- Thảo nào Tuyến Nương lúc đầu phải chạy, cùng sống với ngươi quá tẻ nhạt, suốt ngày vì dân vì nước, có một nơi để uống rượu gạo không phải là rất tốt ư? Ngươi lo lắng cái gì!

La Sĩ Tín cười gượng gạo, y cũng không hé răng nữa. Hai người uống hết một canh giờ, Trình Giảo Kim uống hết mười vò rượu mới thấy thỏa mãn, y thanh toán tiền, ợ hơi rượu nói:

- Hôm nay uống rượu rất vui, ngày mai chúng ta lại đến.

- Ngày mai hẵng nói!

La Sĩ Tín nhân lúc không có ai để ý, giấu nửa vò rượu chưa uống hết vào trong ngực...

Trong Tử Vi Các tụ tập mấy chục quan viên, bao gồm bảy tướng quốc cùng chủ quan và thứ quan các bộ phận tự tỉnh đài. Đây là hội nghị cao tầng trong triều đình Đại Tùy sau khi Dương Nguyên Khánh trở về.

Ngày hôm qua, Dương Nguyên Khánh và bảy tướng quốc đã tiến hành liên kết nội bộ, vì tương lai phát triển của triều Tùy mà đặt ra một số quan điểm chủ yếu: chăm lo việc nước, cần kiệm kiến quốc.

Trong nghị sự đường hình nửa vòng tròn rộng rãi của Tử Vi Các, mấy chục quan viên ngồi kín bên trong, Dương Nguyên Khánh và bảy tướng quốc ngồi ở hàng thứ nhất.

Trên củng đài bằng ngọc trắng ở phía trước, vốn là vị trí của Hoàng đế, nhưng dưới sự tích cực chủ trương của Dương Nguyên Khánh đã hủy bỏ vị trí Hoàng đế, đổi thành nơi báo cáo công tác, do người báo cáo công tác đứng lên phát biểu ý kiến, bao gồm bản thân Dương Nguyên Khánh cũng giống như vậy.

Mà Dương Nguyên Khánh và bảy tướng quốc thì ngồi ở phía dưới, nghe một quan viên báo cáo. Đây chỉ là một cải biến nho nhỏ nhưng lại có ý nghĩa rất lớn, với hàm ý là chủ quan của các Tỉnh đài Bộ tự báo cáo công tác với Tử Vi Các.

Mà tướng quốc của Tử Vi Các sẽ báo cáo công tác cho Dương Nguyên Khánh. Đây kỳ thật là một loại tách rời quân quyền và tướng quyền, quân quản tướng, tướng quản trăm quan. So sánh tới triều Hán thì triều Tùy còn thực hiện nhiều chế độ hơn để phòng ngừa tướng quốc độc tài.

Trên đài báo cáo công tác, tướng quốc Đỗ Như Hối đang trình bày tình huống về thực trạng lương thực hai năm năm nay và năm sau.

- Mùa hè năm nay sản lượng giảm, sản lượng lương thực ở Hà Đông giảm hai phần khiến lương thực trong nhà kho giảm mạnh tới mười lăm vạn thạch, nếu cộng thêm với lương thực tồn trong kho quan các nơi và lương thực thu được ừ chiến tranh thì kho lương của chúng ta tổng cộng cũng có sáu trăm ngàn thạch.

Nói đến đây, Đỗ Như Hối thay đổi giọng điệu, trầm giọng nói:

- Kinh tế Hà Bắc và Trung Nguyên đang khôi phục, nhanh nhất cũng phải cần thời gian hai năm, trong lúc này vẫn cần triều đình cứu tế nên chúng ta phải cấp lương thực cho các quận ở Hà Bắc và Trung Nguyên. Còn về phần quân lương, từ bây giờ đến mùa hè năm sau tiêu hao ít nhất cũng một một triệu hai trăm ngàn thạch trở lên, như vậy chúng ta sẽ thiếu sáu trăm ngàn thạch lương thực, lương thực vụ thu cũng không chắc có thể bổ sung đầy đủ. Hiện nay tình thế vô cùng nguy cấp, cho nên chúng ta cần tăng thu giảm chi. Đây là vấn đề khó khăn lớn nhất của triều đình trong hai năm năm nay và sang năm.

Đỗ Như Hối báo cáo công tác xong, phía dưới vang lên những tiếng nghị luận khe khẽ. Lần này nghị sự ở Tử Vi Các cực kỳ trọng yếu bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hướng đi của cục diện chính trị hai năm nay và sang năm.

Mà trong báo cáo của Đỗ Như Hối đã xuất hiện khó khăn, lương thực không đủ, nhất định phải tăng thu giảm chi. Đây chính là hướng đi của cục diện chính trị hai năm này.

Kỳ thật trong lòng mọi người ai cũng hiểu được cướp lấy Trung Nguyên mặc dù lấy được tài nguyên chiến lược thật lớn, nhưng khu vực Trung Nguyên đã thành tổ ong, trong thời gian ngắn mang đến áp lực lớn cho triều Tùy, thậm chí triều Tùy có thể gánh chịu nổi hay không cũng là cả một vấn đề lớn.

Cũng có quan viên lo lắng, nếu triều Tùy hao hết thực lực của một nước để kinh tế Trung Nguyên bắt đầu khôi phục rồi lại bị triều Đường cướp đi, việc này là một đả kích khổng lồ đối với quân tâm và dân tâm, cho nên rất nhiều quan viên cũng không tán thành cướp lấy Trung Nguyên.

Nhưng sự thật Trung Nguyên thuộc sở hữu của triều Tùy đã không còn cách nào thay đổi.Cho nên làm thế nào để đối mặt với sự thật, làm thế nào để hóa giải tình thế tài chính nguy hiểm đã trở thành vấn đề khiến mọi người chú ý.

Lần này mở triều hội Tử Vi Các cũng chính là tìm cách ứng phó với nguy cơ trước mặt khiến rất nhiều đại thần đều cảm thấy phấn chấn. Dù sao Sở Vương điện hạ vẫn muốn đối diện với nguy cơ, tích cực cố gắng nghĩ biện pháp giải quyết vấn đề.

Lúc này, người chủ trì nghị sự lần này Thôi Quân Tố thay phiên tướng quốc lớn tiếng nói:

-Tiếp theo mời Sở Vương điện hạ lên vương điện thuật chính.

Bên trong nghị sự đường lập tức yên lặng, Dương Nguyên Khánh đứng dậy gật gật đầu với mọi người, bước nhanh đi lên đài báo cáo công tác. Hắn không có mang giấy viết bản thảo, chỉ đứng trước mọi người, khẽ mỉm cười, nói:

- Ta đã trở về ba ngày nhưng bây giờ mới có thể cùng mọi người thương thảo chính vụ, ta thật xin lỗi.

Chỉ đơn giản hàn huyên một câu sau đó nụ cười trên gương mặt Dương Nguyên Khánh đã biến mất, trở nên nghiêm túc.

- Chúng ta đã thấy tình thế nguy hiểm trước mắt, ta cũng không cần nói thêm. Đỗ tướng quốc đã nói rất rõ ràng, ta cũng chỉ nói hai câu làm thế nào để tăng thu giảm chi. Mấu chốt của việc ‘Tiết kiệm’ nằm ở chỗ cấm xa xướng kiệm, bắt đầu từ triều đình sau đó mở rộng đến quan phủ ở các nơi. Ví dụ như ngừng tất cả các yến hội của triều đình, ngoại trừ những ngày hội đặc biệt thì đình chỉ tất cả các lễ tế của triều đình, không cho các quan viên mặc trang phục tơ lụa, không cho đeo đai ngọc, mang kim quan. Những quan viên dưới sáu mươi tuổi không được ngồi xe ngựa, bao gồm cả Dương Nguyên Khánh ta.

 Chương 843 : Ứng đối nguy cơ

Hắn dừng lại nhìn mọi người mo lượt rồi tiếp:

- Như vậy sẽ có người nói không cho mặc tơ lụa vậy ngành tơ lụa làm sao bây giờ? Chúng ta sẽ tiết kiệm tơ lụa dùng để buôn bán, đổi lấy trâu ngựa súc vật của người Đột Quyết, trợ giúp nông canh, khôi phục sản xuất. Đương nhiên còn có rất nhiều chính sách để tiết kiệm, những chính sách này sẽ do nhóm tướng quốc Tử Vi Các thương nghị sau và ban hành. Ta chỉ nêu ra vài ví dụ, không cần phải nhiều lời nữa.Trọng điểm là khai nguyên, gia tăng thu về lương thực và các con đường vật tư chiến lược, ta đã hạ lệnh quân đội tiến hành đồn điền, cố gắng thực hiện tự cấp quân lương, giảm bớt gánh nặng của triều đình. Mặt khác, chúng ta còn có thảo nguyên rộng lớn, cũng có thể sử dụng nó nuôi thả dê bò, gia tăng thịt để phục vụ nhu cầu.

Ta có thể thẳng thắn nói cho mọi người nghe, mục đích của ta cũng không phải chỉ là vì vượt qua nguy cơ, mà quan trọng hơn là chăm lo việc nước, tích trữ lương thực của một nước, làm tốt công tác chuẩn bị để bước tiếp theo là chiến tranh thôn tính.

Triều hội lần này quan hệ đến hướng đi của cục diện chính trị của Đại Tùy hai năm tới, đã tiến hành kéo dài hai canh giờ. Sau khi tan triều. Đỗ Như Hối đi theo Dương Nguyên Khánh đến quan phòng của hắn.

Hai người ngồi xuống, trà đồng liền tiến lên châm trà. Dương Nguyên Khánh khẽ cười nói:

- Đỗ tướng quốc, ta tính hai ngày nữa đi tuần tra sáu quận Quan Bắc, những việc trong triều đều phải nhờ tướng quốc vất vả.

- Điện hạ cứ yên tâm, đại thần trong triều đều rất hăng hái, rất có khi thế mới, mặc dù sẽ có một chút khó khăn nhưng chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực thì nhất định sẽ vượt qua cửa ải khó khăn này.

Đỗ Như Hối trầm ngâm một chút, lại nói:

- Điện hạ, kỳ thật thần lo lắng không phải trước mắt, mà là sau này, hiện tại khoa sử thi Hương đã bắt đầu báo danh ở các quận, thần đại khái biết một chút, gần như đều là các quận danh môn vọng tộc, con cháu hàn môn cực ít. Thần rất lo lắng khoa cử vẫn bị các đại thế gia lũng đoạn, chế độ môn phiệt tương lai đuôi to khó vẫy ạ!

Những lời nói của Đỗ Như Hối rất hàm súc, y không chỉ nói khoa sử mà còn ám chỉ Dương Nguyên Khánh phân công quá nhiều cho danh môn sĩ tộc Hà Đông, sẽ khiến cho bọn họ an toàn phát triển lớn mạnh, tương lai khó có thể khống chế.

Vấn đề này Dương Nguyên Khánh cũng luôn luôn suy xét, nhưng ở tình thế trước mắt, hắn nhất định phải dựa vào sĩ tộc Sơn Đông, ngồi vững vàng ở phương bắc và Trung Nguyên. Nếu muốn đối phó với bọn họ nhất định cũng phải đợi sau khi thiên hạ thống nhất.

Trong lịch sử, triều Đường cũng phải đợi sau thời đại của Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên mới bắt đầu động thủ làm suy yếu sĩ tộc môn phiệt và thế lực quý tộc Quan Lũng.

Vào giai đoạn này hắn chỉ có thể tận lực cân bằng các thế gia, không để cho một nhà phát triển lớn mạnh. Dương Nguyên Khánh nhẹ than thở nói:

- Ta cũng hiểu được chuyện này nhưng trước mắt vẫn không thể chèn ép thế gia, nếu không, Đại Tùy căn cơ cũng không có.

- Mặc dù là như thế nhưng điện hạ có thể phòng ngừa chu đáo, mạnh mẽ nâng đỡ con cháu hàn môn. Thần có một đề nghị, không biết điện hạ có muốn nghe hay không?

- Đỗ tướng quốc mời nói!

Đỗ Như Hối vuốt râu trầm giọng nói:

- Thần cũng xuất thân là người đọc sách, mặc dù Kinh Triệu Đỗ thị coi như là danh môn Quan Lũng, nhưng thần cũng tiếp xúc với những hàn sĩ dân gian nhiều, biết bọn họ khó khăn. Kỳ thật vấn đề lớn nhất của con cháu hàn môn không phải gia cảnh bần hàn, ngược lại gia cảnh bần hàn sẽ làm cho người ta có ý chí tiến thủ, mấu chốt là bọn họ không có sách vở, chỉ dựa vào trí tuệ của bọn họ mà tự học rất khó thành công. Đây chính là nguyên nhân chính bọn họ khó có thể cạnh tranh với con cháu danh môn, thần chủ trương triều Tùy nên phát triển mạnh ngành tạo giấy và in ấn sách vở, chỉ cần sách vở có thể truyền lưu khắp nước, như vậy những con cháu hàn môn có thể có nhiều cơ hội, triều đình cũng không ngại bỏ thêm chút sức vào hai ngành này, cổ vũ sản xuất ngành tạo giấy và in ấn.

Những bản khắc in ấn đã xuất hiện vào cuối triều Tùy, đây đúng là thời cơ để phát triển ngành in, đề nghị này Dương Nguyên Khánh rất đồng tình.

- Lời nói của Đỗ tướng quốc rất có lý, việc này nếu tướng quốc không ngại có thể bắt đầu, chờ ta từ Quan Bắc tuần tra trở về chúng ta sẽ nói đến chuyện phát triển.

Đỗ Như Hối cáo từ lui xuống, Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đứng trong phòng trầm tư. Đỗ Như Hối đề nghị phát triển ngành tạo giấy và in ấn sách quả thật có ý nghĩa rất sâu xa, một khi hai ngành này phát triển sẽ ảnh hưởng đến mấy trăm năm đời sau.

Kỳ thật Dương Nguyên Khánh cũng đang suy nghĩ đến việc tương lai đả kích môn phiệt, mặc dù hiện tại hắn lấy được sự ủng hộ của các thế gia, nhưng hắn cũng phải báo đáp lại, phải bảo vệ lợi ích của các môn phiệt thế gia, nhưng nếu để cho bọn họ quá mức mạnh mẽ, phát triển lớn mạnh, tương lai quả thật sẽ đuôi to khó vẫy.

Vừa muốn được sự ủng hộ của các thế gia, đồng thời cũng muốn áp chế sự phát triển mạnh mẽ của bọn họ, làm thế nào để hai bên luôn duy trì sự cân bằng? Dương Nguyên Khánh luôn luôn suy nghĩ vấn đề này.

Hắn suy tính, lo liệu xử lý ba cấp quan học quận, huyện, xã , cho miễn phí ăn ngủ, như vậy con cháu hàn môn có thể có thêm nhiều cơ hội, nếu kết hợp với đề nghị của Đỗ Như Hối, như vậy khá trọn vẹn rồi.

Lúc này, một gã thân binh ở cửa bẩm báo:

- Khởi bẩm điện hạ, La Tướng quân có chuyện quan trọng cầu kiến.

- Cho anh ta vào!

Rất nhanh, La Sĩ Tín đã vội vàng đi vào. Trên người y không mặc quân phục khôi giáp, không thể hành quân lễ, liền khom người thi lễ nói:

- La Sĩ Tín tham kiến tổng quản!

Dương Nguyên Khánh liếc mắt đánh giá hắn một cái, y mặc quần áo bào trắng của văn sĩ, thắt đai da, đầu đội mũ sa, hơn nữa thân hình y cao lớn uy vũ, có vài phần oai hùng, khiến Dương Nguyên Khánh thở dài nói:

- Đúng vậy, ngươi mặc trường bào có hương vị hơn so với mặc khôi giáp.

La Sĩ Tín mặt đỏ lên, thấp giọng nói:

- Tuyến Nương cũng nói với ty chức như thế!

Dương Nguyên Khánh cười ha hả:

- Ta đây khi nào thì có thể uống rượu mừng của ngươi?

- Phụ thân cũng thúc giục ty chức mau chóng nhưng thần nghĩ phải đợi bình định Thanh Châu mới suy tính thêm.

Dương Nguyên Khánh hiểu được ý tứ của y, La Sĩ Tín vẫn muốn Đậu Tuyến Nương lựa chọn. Đợi sau khi bình định Đậu Kiến Đức, để cho Đậu Tuyến Nương đối mặt với sự thật để nàng đưa ra lựa chọn cuối cùng.

Tuy nhiên Dương Nguyên Khánh lại không ủng hộ ý tưởng này của La Sĩ Tín :

- Ta nghĩ ngươi nên mau chóng lập gia đình. Việc bình định Đậu Kiến Đức và lập gia đình là hai việc khác nhau. Dù sao cô ấy cũng không phải là con gái của Đậu Kiến Đức, hơn nữa sau khi lập gia đình, cô ấy đã có chốn nương thân, tương lai cũng sẽ cảm thấy thương cảm ít một chút. Ngươi cũng nên suy nghĩ cho cô ấy nhiều một chút.

La Sĩ Tín trầm tư một lát, rốt cục gật gật đầu:

- Ty chức hiểu rồi ạ, sẽ suy nghĩ thật tốt.

- Được rồi! Ta chờ mong sớm ngày uống rượu mừng của ngươi.

Dương Nguyên Khánh lại nói về việc chính:

- Ngươi tìm ta có chuyện gì trọng yếu sao?

La Sĩ Tín vội vàng lấy từ trong lòng ra một nửa bình rượu đặt lên bàn, trầm giọng nói:

- Hôm nay ty chức phát hiện một việc kỳ quái, cảm thấy sự tình trong đó không đơn giản nên bẩm báo với Tổng quản.

Dương Nguyên Khánh nhận bình rượu, lấy nút chai ra, ngửi một cái, chân mày cau lại:

- Đây có chuyện gì xảy ra? Rượu gạo từ nơi nào tới?

La Sĩ Tín liền tường thuật tỉ mỉ lại lần y cùng Trình Giảo Kim uống rượu ở tửu quán Nhất Phẩm Cư, cuối cùng nói:

- Tuy rằng tiểu nhị Nhất Phẩm Cư luôn nói là rượu này chuyển đến từ Quan Trung, nhưng ty chức vẫn có chút hoài nghi, cho dù là rượu gạo ở Quan Trung thì muốn chuyển đến Thái Nguyên cũng không dễ dàng chút nào.

- Hừ!

Dương Nguyên Khánh hừ mạnh một tiếng:

- Căn bản là không có khả năng, ta đã sớm hạ nghiêm lệnh chặt chẽ kiểm tra rượu nhập cảnh hai đường thủy bộ, cho dù bọn họ là chuyển trộm vào, hoặc là rượu trước kia còn dư lại, hai người uống liền mười bình rượu, số lượng này bọn họ cũng cung ứng đủ hay sao hả?

Dương Nguyên Khánh lại mở chai rượu nhìn nhìn, hỏi:

- Một bình rượu này bao nhiêu tiền?

- Hồi bẩm Tổng quản, một bình rượu này phải trả mười xâu tiền, cùng giá với loại rượu Đại Lợi tốt nhất.

Dương Nguyên Khánh cười lạnh:

- Trước đây một bình rượu nhiều nhất chỉ bán ba mươi văn tiền, hiện tại không ngờ bán mười xâu tiền, lãi những ba mươi lần, món lãi kếch sù như vậy cũng đủ để cho bọn họ mạo hiểm rơi đầu.

- Tổng quản, có lẽ rượu là người khác ủ, còn bọn họ đưa hàng vào.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu:

- Chuyện này ta đã biết, ngươi có thể kịp thời bẩm báo, tốt lắm, thuận tiện thay ta chuyển cáo đến Trình Giảo Kim, nếu hắn dám can đảm đi uống rượu một lần nữa hắn cũng đừng nghĩ trở thành tướng quân.

La Sĩ Tín thi lễ, cáo từ. Lúc này Dương Nguyên Khánh khoanh tay trầm tư, nếu như là một tửu quản bình thường vi phạm lệnh cấm bán rượu, đều xử tội chết, dễ dàng giải quyết xong. Nhưng chuyện lần này lại liên quan đến Vương gia ở Thái Nguyên.

Dương Nguyên Khánh cũng không cảm thấy khó xử, ngược lại hắn còn nghĩ thầm rằng chuyện này tới là may mắn. Lần trước hắn tha cho Vương gia cũng vì lý do không đủ, nếu dùng lí do con trai Vương Tự ở Trường An Đông cung cung phụng nghiêm trị Vương gia, chuyện này vẫn không thể thuyết phục dân chúng, nếu không Dương Sư Đạo làm sao bây giờ?

 Chương 844 : Sự kiện rượu gạo

Chính là bởi vì lo lắng xử phạt sẽ khiến cho cục diện chính trị triều đình không yên nên Dương Nguyên Khánh phải lui một bước, chỉ cách chức Vương Tự và Vương Túc.

Mà lần này những quan viên phản đối mãnh liệt cuộc chiến ở Trung Nguyên chủ yếu là những quan viên Hà Đông là chính, trong đó lại có hai phái quan viên Bùi Đảng và Vương Đảng chiếm đa số.

Bọn họ lo lắng sẽ gia tăng gánh nặng, tổn hại ích lợi của đại tộc Hà Đông nên mãnh liệt phản đối chiến dịch ở Trung Nguyên khiến Dương Nguyên Khánh trong lòng cực kỳ căm tức, nếu không thu dọn những người phản đối này bọn họ sẽ càng thêm đắc ý, dần dần hình thành một lực lượng cản trở con đường chinh phục thiên hạ của chính mình.

Tạm thời hắn vẫn không thể động tới Bùi gia, nhưng Vương gia ủ rượu tư bán, chuyện này không thể nghi ngờ là một cái cớ tuyệt hảo. Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng trầm ngâm suy nghĩ một lát, lập tức ra lệnh:

- Lệnh Ngụy Bí tới gặp ta!

Không bao lâu, Nội Vệ tướng quân Ngụy Bí vội vàng tới, quì một gối thi lễ:

- Ty chức Ngụy Bí tham kiến Tổng quản!

Dương Nguyên Khánh liếc mắt nhìn y, lạnh lùng nói:

- Ngụy Tướng quân, ngươi có chút khiến ta thất vọng!

Ngụy Bí hoảng sợ, gã không biết chuyện gì đã xảy ra chỉ có thể cúi đầu, không dám lên tiếng, cũng không dám nhận.

Sau một lúc lâu, Dương Nguyên Khánh mới tiếp tục nói:

- Tửu quán Nhất Phẩm Cư công khai bán rượu gạo, chẳng lẽ ngươi không biết việc này?

Ngụy Bí lau một phen mồ hôi trên trán, vội vàng nói:

- Việc này ty chức đã biết, bởi vì dính dáng đến Vương gia nên ty chức không dám rút dây động rừng, nên phái một tên huynh đệ đến tửu quán làm tiểu nhị, thu thập chứng cớ, chuẩn bị chờ thời cơ chín muồi mới một lưới bắt gọn. Tất nhiên, ty chức cũng định mai kia bẩm báo cho Tổng quản việc này.

Sắc mặt Dương Nguyên Khánh hòa hoãn một chút, nếu Ngụy Bí hoàn toàn không biết gì về chuyện này mới khiến hắn không thể tha thứ. Hắn trầm ngâm một chút, lại hỏi:

- Ngoại trừ tửu quán Nhất Phẩm Cư trái với lệnh cấm bán rượu, còn có tửu quán khác làm trái với lệnh cấm không?

- Hồi bẩm Tổng quản, ngoại trừ tửu quán Nhất Phẩm Cư còn có tửu quán Tiến Sĩ phụ cận Quốc Tử học cũng bán rượu cấm. Hai tửu quán này đều thuộc sở hữu của Vương gia, tửu quán Tiến Sĩ nói là bán rượu tồn từ trước, ngoài ra còn có mấy quán rượu nhỏ cũng từng lén bán rượu cấm đã bị tra xét nghiêm túc, ty chức cũng chưa phát hiện ra thêm những tửu quán khác. Ty chức nghĩ...

Nói đến đây, Ngụy Bí ngừng một chút, dường như hơi do dự, Dương Nguyên Khánh nhìn hắn một cái, nói:

- Nói tiếp!

- Vâng! Ty chức nghĩ đến chuyện hai tửu quán bán rượu kia hẳn là người của Vương gia tự tiện gây nên chứ Vương gia chưa chắc đã biết, nếu không Vương Tự và Vương Túc cũng sẽ không cho phép bọn họ làm loại chuyện ngu xuẩn này.

Dương Nguyên Khánh hừ lạnh một tiếng:

- Vương Tự và Vương Túc có biết hay không cũng không trọng yếu, quan trọng là ngươi mau tìm chứng cớ đến đây cho ta. Hai ngày nữa ta phải đến quận Diên An nên trước đêm mai ta muốn thấy chứng cớ xác thực và báo cáo tỉ mỉ.

- Ty chức đã rõ!

Ngụy Bí mồ hôi trên trán ngày càng nhiều.

Dương Nguyên Khánh truyền đạt nhiệm vụ là lúc giữa trưa, hơn nửa canh giờ sau, cũng chính là lúc xế chiều, một nam tử mặc áo đuôi ngắn, vải thô màu đen vội vàng vào tửu quán Nhất Phẩm Cư.

Lúc này đã qua thời gian cơm trưa, đại bộ phận khách nhân đã rời đi chỉ còn lại một số thương nhân bàn chuyện làm ăn vẫn còn ở trong tửu quán uống rượu đàm phán.

Bọn tiểu nhị thì bận rộn dọn dẹp tửu lầu, chuẩn bị bữa tối. Chưởng quầy tửu quán Nhất Phẩm Cư họ Hoàng, hơn bốn mươi tuổi, mập mạp trắng trẻo, từng làm tiểu quản gia trong Vương gia.

Y đã làm chưởng quầy trong tửu quán Nhất Phẩm Cư năm năm, vừa cẩn trọng, khôn khéo, hơn nữa còn có khả năng nên chỉ một tửu quán nho nhỏ đã mang đến lợi nhuận cuồn cuộn cho Vương gia, rất được Vương gia tín nhiệm.

Bận rộn cả trưa, Hoàng chưởng quỹ cũng có chút mỏi mệt, y đang ngồi trong phòng khách ngủ gà ngủ gật.

Nam tử mặc áo đuôi ngắn màu đen chạy vào tửu quán liền reo lên:

- Hoàng chưởng quỹ ở đâu?

Giọng của gã rất lớn, Hoàng chưởng quỹ đang ngủ gà ngủ gật trong góc lập tức bừng tỉnh. Y nhận ra người đang lớn tiếng là hàng xóm của y, liền hỏi:

- Lão Trương, tìm ta lại chuyện gì à?

Nam tử áo đen nhìn thấy y, vội vàng chạy tới hô:

- Lão Hoàng, ngươi nhanh về nhà đi! Con của ngươi bị xe ngựa đụng phải, chảy rất nhiều máu.

Hoàng chưởng quỹ cả kinh nhảy dựng lên, trong lòng hoảng sợ, dặn dò tiểu nhị:

- Các ngươi trông coi cửa hàng, ta về thăm nhà một chút.

Y cũng không nhiều lời, chạy tới mã phòng dẫn ngựa của y ra, xoay người lên ngựa, nhanh chóng phi nước đại về nhà.

Nhà của Hoàng chưởng quỹ ở phía nam thành, là một khu nhà nhỏ chiếm ba mẫu đất. Năm trước mua nó y đã hao hết hơn nửa tiền dự trữ để cấp cho cha mẹ, vợ con một mái ấm.

Mặc dù y rất hài lòng về nhà của mình, nhưng nhà của y cách tửu quán quá xa, gần như phải đi quá nửa Thái Nguyên. Sau nửa canh giờ, Hoàng chưởng quỹ mồ hôi đầy người chạy về đến nhà mình.

Hoàng chưởng quỹ có hai đứa con trai, cũng không biết là đứa nào gặp chuyện không may. Nhưng mặc kệ đứa nào gặp chuyện không may đều làm y lòng nóng như lửa đốt.

Cửa chính của nhà đang đóng. Hoàng chưởng quỹ xoay người xuống ngựa, vung nắm tay gõ cửa thùng thùng:

- Nương tử nhanh mở cửa, ta đã trở về.

Cửa mở, xuất hiện trước cửa là một người đàn ông mặc áo đen, chưa từng gặp mặt. Hoàng chưởng quỹ ngây ngẩn cả người, hỏi:

- Ngươi là ai?

- Ta là quan phủ nha dịch, đang xem xét thương thế của con trai ngươi.

- Nha dịch?

Hoàng chưởng quỹ trong lòng một mảnh hỗn độn, chuyện này và nha dịch có quan hệ gì, làm sao lại kinh động đến quan phủ? Y tỉnh tỉnh mê mê dẫn ngựa đi vào sân, cửa chính 'Két kẹt' một tiếng đóng lại, bốn năm người đàn ông áo đen nữa xuất hiện bên cạnh y.

Trong viện đình có một chiếc xe ngựa, cửa xe bị miếng vải đen che đậy, ngồi trên càng xe là một người đàn ông áo đen có vẻ mặt dữ tợn, tay xách một thanh hoành đao, lạnh lùng nhìn y.

Bốn năm người đàn ông áo đen vây quanh y, Hoàng chưởng quỹ bỗng nhiên hiểu được đám người áo đen này không phải nha dịch. Y giật mình lùi lại sau một bước, hỏi:

- Các ngươi rốt cuộc là ai?

Y vừa dứt lời, một gã đàn ông đã hung hăng đánh một quyền lên bụng y, khiến bụng y như sông cuộn biển gầm, đau đớn khó nhịn. Y kêu lớn một tiếng liền ngã xuống đất.

Hai người đàn ông áo đen dựng y lênvào trong nội đường. Trong nội đường, vợ và hai đứa con trai y đều bị trói tay sau lưng nằm trên mặt đất, miệng đều bị nhét vải rách, cha mẹ tuổi già cũng ngồi xổm trong một góc phòng, vẻ mặt hoảng sợ.

Ở giữa đại sảnh, Nội Vệ tướng quân Ngụy Bí vẻ mặt sương lạnh, gã vốn định dùng phương thức thả câu dài để câu con cá lớn, chậm rãi thu thập chứng cớ, nhưng Sở Vương chỉ cho gã thời gian một ngày rưỡi khiến gã không thể không dùng phương thức cực đoan này, tự mình ra trận.

Hai người đàn ông áo đen đem Hoàng chưởng quỹ đến trước mặt Ngụy Bí, đặt xuống thật mạnh. Hoàng chưởng quỹ chậm rãi khôi phục lại, nhìn vợ con và cha mẹ đều bị buộc chặt trên mặt đất, máu lập tức xông lên đỉnh đầu, hét lớn một tiếng:

- Các ngươi muốn làm gì?

Ngụy Bí lạnh lùng khoát tay, hơn mười người đàn ông áo đen tiến lên đưa vợ con và cha mẹ của y mang đi. Hoàng chưởng quỹ liều mạng giãy dụa, lại bị hai người đàn ông áo đen gắt gao ấn chặt, không thể động đậy, trơ mắt nhìn người nhà bị nhét vào một chiếc xe ngựa, xe ngựa chạy nhanh ra khỏi nhà, biến mất vô tung.

- Các ngươi nhanh thả phụ mẫu của ta, thả thê tử của ta, thả con của ta!

Hoàng chưởng quỹ gấp đến độ khóc rống lên.

Ngụy Bí liếc mắt quan sát gã một cái, hỏi:

- Ngươi tên là Hoàng Hữu Đức, chưởng quỹ tửu quán Nhất Phẩm Cư đúng không?

Người nhà bị mang đi, Hoàng chưởng quỹ liền giống như bị rút đi linh hồn, trở nên dễ bảo, cúi đầu khoanh tay nói:

- Vâng!

Ngụy Bí rất hài lòng với thái độ của y. Gã đã thẩm vấn đứa con của Hoàng chưởng quỹ, biết người này cực kỳ hiếu thuận, cực kỳ yêu thương vợ con. Đây là điểm yếu của y, nếu biết bắt lấy điểm này, không sợ y không tuân theo.

- Ta đây cứ việc nói thẳng đi, ta là Nội Vệ tướng quân, họ Ngụy, hiệu là Ngụy Thế Đầu, ta nghĩ ngươi cũng biết ta.

Sắc mặt Hoàng chưởng quỹ lập tức trắng bệch. Y đương nhiên biết nội vệ đại đầu mục, lòng lang dạ sói, giết người không chớp mắt, trẻ con nghe thấy thì không dám khóc đêm, bị mọi người ở Thái Nguyên gọi là Ngụy Thế Đầu.

Hoàng chưởng quỹ hai đùi run rẩy đứng lên, thê nhi, cha mẹ của mình rơi vào trong tay gã còn có cơ hội sống sót sao?

Hai chân y mềm nhũn, quỳ sụp xuống đất, nước mắt nước mũi thi nhau chảy ra, liều mạng dập đầu nói:

- Tiểu dân nguyện chết chỉ cần Ngụy Tướng quân tha phụ mẫu thê nhi của ta một mạng!

- Ta có thể tha cho bọn họ một mạng, thậm chí có thể cho ngươi một khoản tiền, cho ngươi mang theo người nhà đi đến phần đất bên ngoài mưu sinh nhưng trước tiên ngươi nhất định phải thành thật thay ta làm việc, nếu không, cả nhà ngươi sẽ chết không có đất chôn thây.

Hoàng chưởng quỹ ngẩng đầu, mờ mịt nhìn Ngụy Bí:

- Tiểu dân có thể làm gì cho tướng quân?

Ngụy Bí ngồi xổm ở trước mặt y, ánh mắt hung ác đe dọa nhìn khuôn mặt béo của y, gằn từng chữ:

- Ta muốn biết, Vương gia ủ bao nhiêu rượu tư, rượu tồn để ở nơi đâu? Bọn họ ủ rượu ở nơi nào? Nếu có nửa điểm giấu diếm, ta sẽ đem đầu của con ngươi đưa lên trước.

Hoàng chưởng quỹ lúc này mới tỉnh ngộ, trong lòng của y than khóc một trận, sự tình y sợ nhất cuối cùng cũng xảy ra.

- Tiểu dân nói, sẽ nói toàn bộ!

 Chương 845 : Xuất kích sấm sét

Ở ngoại thành Thái Nguyên cách ba mươi dặm có một tòa điền trang chiếm ước chừng ba trăm khoảnh, nơi này là một trong ba điền trang của Vương gia, tên là Tây Sơn điền trang.

Ba tòa điền trang của Vương giado ba đứa con của Vương Tự chưởng quản, còn tòa điền trang này do Vương Kỳ chưởng quản, cũng phái ba gã quản sự khác phụ trách, trong đó đại quản sự của Tây Sơn điền trang tên Vương Tùy Lộc, cũng là một người lâu năm trong phủ Vương gia.

Phía bắc Tây Sơn điền trang dựa lưng vào chân núi Tây Sơn, một con sông nhỏ chảy qua điền trang. Thế dựa núi kề nước, phong cảnh tú lệ, mấy chục tòa đình đài lầu các được xây dựng khiến nơi này có thời tiết mát mẻ vào mùa hè, khiến nó trở thành nơi nghỉ hè của Vương gia.

Ngoại trừ những phòng nghỉ ở bên ngoài thì chân núi phía Tây còn có một thôn trang ước chừng có ba trăm gia đình, những người này đều là nông dân tá điền của Vương gia, vốn là lưu dân chạy trốn chiến loạn Hà Bắc mà đến Thái Nguyên, không có hộ tịch nên sống bằng cách cày thuê cho Vương gia.

Nhưng từ khi Hà Bắc thi hành điền chế, tá điền trong Tây Sơn điền trang cũng bắt đầu trở về quê hương ở Hà Bắc. Sau khi kết thúc vụ hè liền có hơn bảy mươi hộ tá điền chấm dứt làm thuê để trở về quê, hơn nữa còn có rất nhiều tá điển chuẩn bị thu hoạch xong vụ mùa thu cũng trở về Hà Bắc.

Đây cũng là nguy cơ của tất cả trang viên ở triều Tùy, những tá điền không muốn làm ruộng cho điền trang, họ muốn quay trở về nhà mình để nhận đất đai được phân. Không chỉ có đất đai là của mình, còn có thuế đất còn thấp hơn thuế phú nhiều lần.

Mặc dù có nhiều trang chủ điền trang hứa thuê phú chỉ cao hơn một chút so với thuế điền, còn hứa hẹn giúp tá điền cưới vợ nhưng vẫn không ngăn được con sóng trở về quê của tá điền.

Lúc hoàng hôn, một ngàn Nội vệ kỵ binh chạy vội tới Tây Sơn điền trang. Bốn phía trang viên không có tường bao quanh, chỉ có xung quanh phòng nghỉ của Vương gia xây dựng tường bao quanh khoảng mười dặm.

Hơn ngàn kỵ binh tới đã sớm kinh động tới thôn trang và phòng xá Vương thị. Hơn mười con chó chạy đến cửa thôn sủa ầm ĩ đám kỵ binh. Kỵ binh thúc ngựa chạy gấp, giương lên cung tên, mấy chục con chó bị bắn chết nằm trên mặt đất.

Sát khí lộ ra dọa thôn dân đang muốn đi xem náo nhiệt vội vàng quay về, mọi nhà đều đóng chặt cửa. Người giữ cửa phòng xá họ Vương cũng nhìn thấy kỵ binh chạy tới liền trở về báo tin. Trong nháy mắt, kỵ binh đã xông tới, cửa chính bị phá toang.

Ngàn tên kỵ binh vọt vào bên trong phủ, bọn họ nhanh chóng chia làm hai đường, một đường mười mấy tên kỵ binh vây quanh kho lúa, tiến vào từ cửa chính.

Mà một đường kỵ binh khác vây quanh tòa nhà lớn, giương cung nỏ, nhắm ngay tường nhà và cửa chính. Quan quân lớn tiếng hô:

- Người trong nhà toàn bộ đi ra, nếu không toàn bộ giết hết!

Chỉ chốc lát sau mấy chục người trong nhà bị dọa cho mặt mũi tái nhợt. Một đám người giơ tay lên đầu từ trong phòng đi ra, ước chừng năm mươi, sáu mươi người. Bọn lính xông tới, thét ra lệnh cho mọi người quỳ xuống.

Cầm đầu là Đô úy, suất lĩnh hơn trăm nội vệ sĩ binh tiến vào tòa nhà lớn. Chỗ này chiếm ước chừng hai mẫu ruộng lớn, tòa nhà do hai mươi mấy gian phòng tạo thành, sân và trong phòng chất đầy các loại dụng cụ ủ rượu. Trong không khí tràn ngập hương rượu.

Mà kho lúa cũng được lục soát, tìm thấy mấy trăm hũ rượu và một số lượng lớn vỏ chai. Lúc này, đại quản sự của điền trang Vương Tùy Lộc bị áp giải đến, gã quỳ rạp xuống đất cầu xin tha mạng.

- Tướng quân, tất cả những đồ vật này đều mang đi sao?

Một gã Giáo Úy hỏi.

Đô úy lắc lắc đầu:

- Ngụy Tướng quân có lệnh, bắt giam người ngay tại chỗ, thu thập chứng cứ phòng ngừa Vương gia không nhận tội.

Y lập tức ra lệnh cho tên Giáo Úy:

- Ngươi dẫn theo ba trăm huynh đệ canh giữ nhân chứng, nếu có người dám tấn công thì giết chết ngay tại chỗ!

Giáo Úy khom người tiếp lệnh:

- Tuân mệnh!

Đô úy an bài tốt binh lính canh giữ mới suất lĩnh mấy trăm kỵ binh chạy về thành Thái Nguyên.

.....

Cùng lúc Tây Sơn điền trang bị điều tra, một đội kỵ binh khác cũng đến điều tra hai tòa điền trang khác của Vương gia, cũng lục soát trong kho lúa tìm thấy dụng cụ ủ rượu, hơn nữa còn tìm được một số lượng lớn rượu được cất giấu.

Bên trong thành Thái Nguyên, tửu quán Nhất Phẩm Cư và tửu quán Tiến Sĩ cũng bị nội vệ quân vây quanh, binh lính lục soát trong hầm rượu tìm được mấy ngàn bình rượu gạo, hơn nữa ở mấy cửa hàng khác của Vương gia cũng tìm ra lượng lớn rượu gạo chuẩn bị mang ra bán sỉ.

Mà lúc này chỉ cách ba canh giờ so với thời gian Dương Nguyên Khánh hạ lệnh, Ngụy Bí và Nội vệ Trưởng sử Lưu Kiều Tùng đã viết xong một phần tấu chương dâng lên cho Dương Nguyên Khánh.

Màn đêm vừa buông xuống, trong Tử Vi Các đèn đuốc vẫn sáng trưng. Trong quan phòng của Sở Vương, Ngụy Bí và Trưởng sử Lưu Kiều Tùng khoanh tay đứng ở một bên, chờ đợi mệnh lệnh.

Dương Nguyên Khánh ngồi ở sau bàn đang tỉ mỉ xem tấu chương. Hiệu suất làm việc của Ngụy Bí cao khiến hắn rất hài lòng, hắn thích kiểu xuất kích như sấm sét như vậy, trong thời gian ngắn nhân chứng, vật chứng đều tìm được.

Nhưng nội dung của tấu chương lại khiến cho Dương Nguyên Khánh vô cùng phẫn nộ. Trong ba tòa điền trang của Vương gia vốn có gần một trăm ngàn thạch lương thực, nhưng không lâu sau khi truyền đạt mệnh lệnh cấm bán rượu, bọn họ liền bắt đầu ủ rượu kiếm lời, chỉ trong nửa năm ngắn ngủi bọn họ đã dùng năm mươi ngàn thạch gạo để ủ rượu, ngang nhiên đối kháng với lệnh cấm bán rượu.

Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi đến phía trước cửa sổ, nhìn bầu trời đêm trầm tư không nói. Sự kiện Vương gia ủ rượu đủ để Vương gia vạn phục bất kiếp, nhưng vấn đề hiện tại là hắn cần đem sự kiện lần này mở rộng đến mức nào?

Là nên giết một người răn trăm người, hay là hoàn toàn tẩy trừ quan trường, đem thế lực của Vương gia hoàn toàn thanh trừ ra khỏi triều đình. Trong lòng Dương Nguyên Khánh luôn luôn lo lắng suy nghĩ vấn đề này, phải cân nhắc lợi hại trong đó. Chuyện này không phải hắn không làm được, mà phải xem xem hắn có quyết tâm làm hay không

Dương Nguyên Khánh trầm tư thật lâu mới chậm rãi nói:

- Đi thực hiện bước đầu tiên!

.....

Bóng đêm nặng nề bao phủ. Một đội quân nội vệ hai ngàn tên do binh lính võ trang đầy đủ vô thanh vô tức hướng đến phía Nam Thái Nguyên, xuất phát đến toàn nhà của Vương gia. Đội quân này do Ngụy Bí tự mình suất lĩnh, vây quanh phủ đệ của đại thần. Đây là lần xuất kích đầu tiên từ sau khi vương triều Tân Tùy thành lập.

Một lát sau, hai ngàn nội vệ quân đã đến thủ phủ của Vương gia. Ngụy Bí thấp giọng ra lệnh, hai ngàn binh lính liền bao vây tòa nhà chiếm gần trăm mẫu này.

Lúc này, ở trong Vương phủ, trên mặt đất đều là những mảnh vỡ của chén trà. Gia chủ Vương Tự đang cực kỳ tức giận, tay y nắm trường kiếm, sắc mặt xanh mét đang chửi ầm những con cháu họ Vương:

- Các ngươi đều là đồ con lợn, Vương gia chúng ta nhất định sẽ bị các ngươi hại chết. Gia tộc họ Vương ở Thái Nguyên kéo dài mấy trăm năm nay sẽ bị mất trong tay các ngươi!

Mấy tháng trước Vương Tự bị giáng chức làm Thái Thú quận Triệu nhưng y vẫn lấy cớ dưỡng bệnh không đi nhận chức ở quận Triệu mà ở lại trong phủ ở Thái Nguyên.

Nhưng chức Thái Thú của y vẫn không bị bãi miễn, chính vụ quận Triệu đều do Trưởng sử Triệu Hoằng Huyền thay thế xử lý, còn y ở bên trong phủ ở Thái Nguyên âm thầm nắm trong tay vây cánh của y ở triều đình và tại địa phương. Lần này phản đối quân Tùy tấn công Trung Nguyên là do y bắt đầu khởi xướng, dẫn đến một trận phong ba trong triều đình.

Bởi vì toàn bộ tinh lực của y đều chú ý đến hoạt động ở quan trường nên không để mắt đến sản nghiệp kinh doanh của Vương gia, y không ngờ con cháu Vương gia lại âm thầm ủ rượu để kiếm tiền.

Cho đến nửa canh giờ trước, tin tức tửu quán Nhất Phẩm Cư bị nội vệ quân tra xét và tịch thu tài sản truyền đến, y mới biết được người trong nhà lại gạt y làm ra chuyện động trời này.

Y hận đến mức muốn tự tay chặt đi mấy cái đầu ngu xuẩn này, bao gồm cả con trai Vương Kỳ của y. Lúc này y hoang mang lo sợ không biết nên xử lý nguy cơ của gia tộc lần này như thế nào.

Trên mặt đất có bốn người đang quỳ, đầu tiên là tộc đệ Vương Huyền Trị của Vương Tự, là tổng quản sự ở Vương gia, tất cả sản nghiệp kinh doanh và thu chi đều do gã toàn quyền phụ trách.

Lợi dụng lương thực của Vương gia ủ rượu kiếm tiền cũng là quyết định của gã, gã cũng bởi vì thấy Vương gia gặp phải khủng hoảng tài chính nên không còn cách nào khác.

Năm nay lương thực thu hoạch từ vụ chiêm của Vương gia thảm nhất trong trăm năm qua, thậm chí sản lượng giảm còn vượt qua cả lần hạn hán năm Đại Nghiệp thứ sáu, không chỉ giảm sản lượng của lúa, quan trọng hơn là tai họa về con người.

Một số lượng lớn tá điền đã bỏ đi trực tiếp khiến cho lương thực vào kho giảm ba phần, trong lúc khó khăn gã còn nghe nói vụ mùa sau còn một số lượng lớn tá điền nữa muốn rời đi. Gã tính toán ba tòa điền trang có sáu trăm hộ tá điền, có thể sẽ rời đi khoảng bốn trăm hộ.

Trọng yếu nhất của Vương gia là nguồn thu nhập, năm trăm trang ấp sẽ gặp phải nguy cơ sụp đổ, đến lúc đó dùng cái gì để chống đỡ nghìn người ở Vương gia? Chỉ vẻn vẹn tiền thuế đất hàng năm để duy trì Vương gia đã hao phí mất mấy chục ngàn xâu tiền và hơn mười ngàn thạch lương thực.

 Chương 846 : Chuyện lớn hóa nhỏ? (p1)

Đã không có thu nhập từ ruộng nương thì của cải của Vương gia cũng chỉ có thể duy trì ba năm, sau đó Vương gia sẽ tan thành mây khói.

Thân là đại quản sự của Vương gia, Vương Huyền Trị càng thêm lo lắng, cho đến mấy tháng trước người phụ trách tửu quán Vương Tế Trung nói cho gã biết một cách phát tài: ủ rượu.

Bởi vì lệnh cấm bán rượu ban ra trở thành mấu chốt quan trọng trong buôn bán, nếu tự mình ủ rượu bán thì lợi nhuận còn gấp hai lần so với chỉ độc bán lương thực, thêm nữa là lệnh cấm bán rượu làm cho rượu gạo có giá trị tăng vọt, món lãi kếch sù ước chừng cũng phải nhiều gấp mười lần, hơn nữa lợi nhuận ủ rượu cũng nằm trong tay mình, như vậy những lương thực tồn kho có thể kiếm được lợi nhuận gấp sáu mươi lần.

Món lãi kếch sù từ ủ rượu khiến Vương Huyền Trị hun tâm, gã không có thảo luận cùng gia chủ, chỉ cùng mấy cháu trai làm nắm quyền chưởng quản thảo luận một phen, mọi người liền nhất trí với nhau, quyết định bí quá hoá liều, ủ rượu kiếm lời.

Ngoại trừ Vương Huyền Trị, phía sau gã là đứa con thứ ba của Vương Tự, Vương Kỳ, phụ trách chưởng quản điền trang, còn có chưởng quản tửu quán Vương Tế Trung và chưởng quản cửa hàng Vương Tế Vân.

Bốn người này là chủ mưu ủ rượu trong Vương gia. Giờ phút này bọn họ đều quỳ trước mặt gia chủ, vì sự kiện ủ rượu mà dẫn tới đại họa đều khiến cho bọn họ hoảng sợ vạn phần. Nhưng cho tới bây giờ bọn họ cũng không biết điền trang đã xảy ra chuyện.

Vương Huyền Trị vạn phần ảo não nói:

- Gia chủ, việc này là trách nhiệm của đệ, đệ thật không ngờ sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như vậy, nhưng đệ cũng không có cách nào, nếu không nghĩ biện pháp kiếm tiền thì Vương gia chúng ta cũng khó có thể duy trì. Gia chủ đã quên báo cáo mấy tháng trước của đệ sao? Một số lượng lớn tá điền đã đi, vậy ai trồng trọt cho chúng ta? Lúc ấy gia chủ cũng đồng ý.

- Câm mồm!

Vương Tự gầm lên một tiếng:

- Ta là đồng ý cho ngươi kiếm tiền, nhưng cũng không nói cho ngươi đi ủ rượu. Ngươi ngang nhiên kháng lệnh, ngươi cho là những người khác cũng ngu xuẩn sao? Không hiểu ủ rượu kiếm tiền, Bùi gia có bối cảnh thâm hậu như vậy cũng không dám mạo hiểm vi phạm lệnh cấm bán rượu, ngươi lại tính làm cái gì?

Tộc đệ Vương Trinh Hiếu ở bên cạnh khuyên nhủ:

- Gia chủ bớt giận, hiện tại vấn đề đã lộ ra, trước mắt nên nghĩ biện pháp giải quyết nguy cơ, không nên oán hận nhau. Đợi vượt qua nguy cơ lần này mới tính toán xử lý chuyện này, gia chủ nói xem có đúng hay không?

Vương Tự oán hận nói:

- Ngươi nói thì rất đơn giản, nhưng làm thế nào để giải quyết vấn đề này đây? Ngươi thử nói một chút xem?

Đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến âm thanh chạy trốn, sau đó giọng nói hoảng sợ vạn phần của quản gia vang lên:

- Bẩm báo gia chủ, cửa phủ đã bị lớp lớp quân đội bao vây do Ngụy tướng quân suất lĩnh. Hắn nói gia chủ phải ra ngoài nói chuyện, nếu không hắn sẽ giết vào trong phủ.

Tin tức truyền đến khiến Vương Tự chết lặng người.

Ngoài cửa lớn của Vương phủ có mấy trăm binh lính Nội vệ tay cầm cây đuốc chiếu sáng cửa lớn như ban ngày. Ngụy Bí mặc giáp mang nón trụ, tay cầm chuôi kiếm, ánh mắt sâu xa nhìn chăm chú vào cửa chính.

Từ năm Đại Nghiệp thứ mười sau khi thành lập nội vệ quân, y vẫn đảm nhiệm chức Nội Vệ tướng quân. Lúc đầu Nội vệ quân ở trong tay y chỉ có hơn ngàn người, nhưng cho đến hôm nay đã có mười hai ngàn người, còn bao gồm các điểm tình báo ở các thành lớn, trở thành lực lượng quân đội cực kỳ trọng yếu trong Đại Tùy.

Ở Thái Nguyên nếu nhắc tới tên Ngụy Bí thì người biết không nhiều lắm, nhưng nhắc tới Ngụy Thế Đầu thì không ai không biết, không ai không hiểu.

Hơn nữa trong năm nay Nội vệ quân đã liên tục điều tra được ba vụ án đúc tiền giả, dựa theo luật giết chết cả nhà, tịch thu tài sản. Ngay trên phố xá sầm uất của Thái Nguyên, Ngụy Bí tự mình cầm đao giết chết mấy trăm người, từ người già tám mươi tuổi cho đến một đứa trẻ chỉ mới hai tuổi, toàn bộ không buông tha.

Ba vụ án này đã chấn động toàn bộ Đại Tùy, hiện trường cảnh tượng giết người đầy máu tanh như vậy khiến mấy chục ngàn người xem ở Thái Nguyên đêm ngủ không an giấc. Nếu nhắc tới đại danh Ngụy Thế Đầu vẻ mặt của mọi người đều thay đổi.

Nhưng Ngụy Bí có thể vẫn đảm nhiệm chức Nội Vệ tướng quân cũng không phải bởi vì y lòng lang dạ sói, mà là lòng trung thành của y. Y xuất thân là thân vệ sớm nhất của Dương Nguyên Khánh, luôn trung thành và tận tâm với Dương Nguyên Khánh, hơn nữa còn khôn khéo và có khả năng nên rất được Dương Nguyên Khánh tín.

Ngoại trừ lòng trung thành y còn có thể hiểu được tâm ý của Dương Nguyên Khánh. Tỷ như lúc này y biết rõ mục đích của Dương Nguyên Khánh muốn đối phó với Vương gia, tuyệt đối không đơn giản chỉ là vi phạm lệnh cấm bán rượu như vậy. Y cũng biết bây giờ mình nên làm thế nào.

Cửa lớn mở ra, Vương Tự mang theo hơn mười tộc nhân vội vàng đi ra. Vương Tự vẻ mặt ngưng trọng, khi nhìn thấy mấy trăm tên binh lính toàn thân khôi giáp đứng trước cửa lớn thì ánh mắt lộ vẻ căng thẳng.

Gã cũng không biết vụ án này làm như thế nào mới có thể kết thúc, nhưng sự thật bày ra trước mắt, những người trong Vương gia quả thật làm trái với lệnh cấm ủ rượu tư bán, theo luật thì người nấu rượu nên chém. Vậy chẳng lẽ người trong Vương gia sẽ đầu rơi xuống đất sao?

Thấy Vương Tự đi ra, Ngụy Bí hơi chắp tay nói:

- Ta phụng mệnh đến đây tra xét nghi phạm, mong gia chủ phối hợp Nội vệ quân chấp pháp.

Vương Tự ra vẻ kinh ngạc:

- Vương gia luôn luôn răn dạy con cháu, chưa từng làm việc gì vi phạm pháp lệnh, đến đây tra xét nghi phạm là có ý tứ gì?

Ngụy Bí hừ lạnh một tiếng:

- Tháng tư triều đình đã ban lệnh nghiêm cấm ủ rượu gạo nhưng hai tửu quán, cửa hàng của Vương gia lại tìm được hơn chục ngàn bình rượu gạo, ở điền trang đã tìm thấy một lượng lớn dụng cụ ủ rượu. Nhân chứng vật chứng đã vô cùng xác thực nên ta đặc biệt tới cửa bắt giữ nghi phạm.

Vương Tự cũng không cãi nổi, gã chắp tay sau lưng xanh mặt nói:

- Làm trái với lệnh cấm triều đình cũng là người của quan phủ tới bắt, đâu có quan hệ gì tới Nội vệ quân?

- Pháp lệnh bình thường thì do quan phủ địa phương phụ trách, nhưng những lệnh cấm đặc biệt thì do Nội vệ bắt giữ. Lệnh cấm rượu là lệnh cấm đặc biệt thứ ba, Vương sứ quân từng làm Tể tướng của một nước chắc biết rõ điều này.

Lệnh cấm đặc biệt thứ nhất là lệnh cấm đúc tiền tư, lệnh cấm đặc biệt thứ hai là lệnh cấm buôn bán những hàng hóa vi phạm lệnh cấm, lệnh cấm đặc biệt thứ ba là lệnh cấm ủ rượu gạo.

Ba lệnh cấm đặc biệt này làm sao Vương Tự có thể không biết, nói đến đây gã cũng không phản bác được. Sau một lúc lâu mới nói:

- Nội vệ quân tới cửa muốn bắt giữ ai?

Đây mới là điểm mấu chốt. Vương Tự cần phải biết được vụ án này đã đến mức độ nào, dù sao trước đây gã cũng từng làm tướng quốc, gã biết một án tử có thể có lớn có nhỏ, có thể chỉ bắt giữ những tên lính tôm tướng cua để tượng trưng, không giải quyết được gì, cũng có thể bắt mấy tên tiểu nhân vật, đem chuyện lớn hóa nhỏ.

Nhưng tương tự cũng có thể đem sự tình phóng đại, từ một điểm biến thành một mảnh. Đây là muốn mượn việc công để nói chuyện riêng, khiến tình thế trở nên nghiêm trọng. Cái này phụ thuộc vào ý đồ của người quyết định, chính là muốn xem mục đích của Dương Nguyên Khánh là cái gì? Là tùy việc mà xét hay là mượn chuyện này để giải quyết chuyện của mình?

Trong lòng Vương Tự rất khẩn trương, nếu Nội vệ quân đem mình mang đi thì vấn đề liền trở nên nghiêm trọng.

Ngụy Bí lạnh lùng nói:

- Căn cứ lời khai của phạm nhân ở hiện trường cung cấp, vụ án này liên quan đến con cháu Vương gia, là chủ quản tửu quán Vương Tế Trung, chủ quản điền trang Vương Kỳ, còn có chủ quản cửa hàng Vương Tế Vân, ba người này bị tình nghi là kẻ chủ mưu, mời gia chủ đem bọn họ giao ra đây, nếu không, Nội vệ quân chỉ có thể vào phủ bắt người.

Mặc dù Vương Kỳ là con trai của Vương Tự, nhưng trong lòng Vương Tự vẫn hơi thả lòng, trong danh sách bắt giữ không có Vương Huyền Trị, chuyện này nói lên ở bên trong án ủ rượu này không nhằm đến gia tộc họ Vương, mà chỉ là luận sự, chủ yếu chỉ là trách nhiệm, vụ án cũng không có mở rộng.

Vương Tự cũng biết không giao người thì không được nên gã quay đầy ra lệnh cho tên gia nhân:

- Nhanh chóng đem ba người kia ra đây!

Gia nhân lĩnh lệnh rời đi, trên mặt Vương Tự rốt cuộc cũng gạt bỏ nụ cười khổ, thở dài nói:

- Gia môn bất hạnh có ba con cháu gặp lợi quên pháp. Đây là nhà ta giáo không nghiêm, làm nhục gia phong a!

Gã nói có chút nhẹ nhàng bâng quơ, sau đó lại trộm nhìn thoáng qua Ngụy Bí nhưng thật ra là đang thử dò xét thái độ của Ngụy Bí, theo câu trả lời của Ngụy Bí liền có thể thấy được mức độ Dương Nguyên Khánh coi trọng vụ án này.

Bề ngoài Ngụy Bí thô lỗ hung hãn nhưng trong nội tâm lại tinh tế từng chút một, y có thể nghe ra ý thử của Vương Tự nên thản nhiên nói:

- Đây cũng là chuyện không còn cách nào khác, mọi nhà đều có một việc khó có thể trải qua, nhà ai không có mấy con cháu gan lớn. Hơn nữa Tổng quản cũng thừa nhận lệnh cấm rượu này cũng có chỗ không hợp lý, chỉ có thể cấm tạm thời, sớm hay muộn cũng bị bãi bỏ. Lần này nếu không phải ủ rượu số lượng quá lớn, Tổng quản có lẽ sẽ mắt nhắm mắt mở cho qua, dù sao việc này cũng không ảnh hưởng lớn, gia chủ cũng không cần quá lo lắng.

 Chương 846 : Chuyện lớn hóa nhỏ? (p2)

Vương Tự trong lòng mừng rỡ, vội vàng chắp tay nói:

- Ba con cháu của Vương gia đều là con trai trưởng, một trong số đó là con trai ta, mong Ngụy tướng quân chiếu cố nhiều hơn, không cần dùng trọng hình, ngày sau ta tất có báo đáp.

Ngụy Bí ha hả cười:

- Không dám! Không dám!

Lúc này, gia đinh đem ba gã con cháu Vương gia mang ra ngoài. Ba người hai tay bị trói sau lưng, cúi đầu, trên mặt đều tràn đầy vẻ sợ hãi, một gã quan quân chạy lên trước, cẩn thận phân biệt bọn họ, quay đầu lại bẩm báo nói:

- Khởi bẩm tướng quân, đúng là ba người này.

Ngụy Bí khoát tay, mấy tến lính đi lên kéo cánh tay của bọn họ, áp giải ba người lên một chiếc xe ngựa. Ngụy Bí chắp tay, hướng Vương Tự thi lễ:

- Cảm ơn gia chủ đã phối hợp, ta cáo từ!

Y xoay người lên ngựa, roi ngựa chỉ về phía trước:

- Rút quân trở về nha môn!

Hai ngàn nội vệ quân rút lui khỏi Vương phủ, trở về nha môn mới của Nội Vệ quân ở bắc thành, nơi đó có một nhà giam, phạm nhân tạm thời sẽ giam giữ ở nơi đó.

Vương Tự nhìn đội ngũ đi xa, lúc này mới xoay người đi vào phía trong nhà. Tích trữ rượu gạo trong nhà quá mười cân sẽ bị xử trảm, trong ba người này có một người là con gã, hai người còn lại là huynh đệ ruột của gã, gã đương nhiên không thể để cho bọn họ bị xử trảm.

Trở về phòng, gã lập tức gọi hai tộc đệ Vương Huyền Trị và Vương Trinh Hiếu tới. Hai người vừa bước vào, Vương Tự liền nói:

- Các ngươi nói hiện tại chúng ta nên làm cái gì bây giờ?

Vương Huyền Trị lúc này rất khẩn trương, một khi ba người khai cung thì Nội vệ quân có thể ngay lập tức tới bắt y, y nhất định phải nghĩ biện pháp đem việc này chuyện lớn hóa nhỏ. Vương Tự vừa mới nói xong, y liền tiếp lời nói:

- Gia chủ, việc này nhất định phải phải nghĩ biện pháp tìm Dương Nguyên Khánh biện hộ cho, gia chủ có thể đi đến Sở Vương phủ hay không?

Vương Tự lắc đầu:

- Sau khi ta bị cách chức ta đã không có sức ảnh hưởng, hơn nữa ta là người trong cuộc, tự mình đi biện hộ thì không tốt. Tốt nhất tìm một người khác có sức ảnh hưởng thay chúng ta biện hộ.

Vương Trinh Hiếu bên cạnh đề nghị:

- Không bằng gia chủ đi đến Bùi phủ. Chúng ta với Bụi gia có chút giao tình, đến mời Bùi Củ biện hộ cho chúng ta, đệ nghĩ hẳn là có hiểu quả.

Vương Tự trầm tư một lát, rốt cục thở dài đáp ứng:

- Vậy được rồi! Ta sẽ đi tới Bùi phủ một chuyến.

Sau khi Bùi Củ không làm quan liền dần dần biến mất trong tầm mắt của mọi người, rất ít khi nghe đến tin tức của ông ta.

Nhưng Bùi Củ ở Thái nguyên vẫn như cũ chú ý đến sự phát triển của triều Tùy, tinh thần của ông ta vẫn khỏe mạnh, so với tinh thần và năng lực tư duy của Tô Uy thì tốt hơn nhiều. Nếu để cho ông ta làm tể tướng, ông ta vẫn có thể đảm nhiệm những sự vụ rườm rà.

Nhưng ông ta không chút luyến chuồng mà lui về, một mặt cố nhiên là Dương Nguyên Khánh không muốn Bùi gia mạnh mẽ, cứng rắn. Mặt khác Bùi Củ lại đem tinh lực từ chuyện triều chính chuyển về phía gia tộc, ông ta phải bày ra đại cục trăm năm cho gia tộc.

Bùi Củ rất tinh mắt, hiểu được tiến lùi, ông ta biết khi một tân triều thành lập, sẽ có cơ hội vô cùng lớn, nhưng loại cơ hội này cần phaỉ suy xét lâu dài, phải hình thành một nguồn tài nguyên liên tục không ngừng.

Loại tài nguyên này không chỉ bảo đảm con cháu họ Bùi nhân tài xuất hiện tầng tầng lớp lớp, đồng thời cũng phải duy trì địa vị của Bùi gia trong triều đình, quan tọng hơn là ông ta hiểu kẻ bề trên muốn có chính sách trị quốc như vậy thì Bùi gia có tài năng để đuổi kịp, phối hợp, vĩnh viễn sẽ không bị kẻ bề trên vứt bỏ.

Trong thư phòng, Bùi Củ đang cùng trưởng tôn Bùi Tấn nghiên cứu thảo luận thời cuộc hiện tại, mặc dù Dương Nguyên Khánh vô cùng coi trọng Bùi Thanh Tùng, ý đồ muốn Bùi Thanh Tùng kế thừa chức gia chủ Bùi gia, nhưng Bùi Củ lại không có một chút cảm kích.

Bùi gia cũng có quy củ của Bùi gia, Bùi Thanh Tùng chỉ là cháu họ, bất kể y tài giỏi như thế nào y cũng không thể kế thừa vị trí gia chủ, nhiều nhất chỉ có thể làm nhân vật thứ hai trong Bùi gia, phụ tá gia chủ.

Bùi Củ đã bỏ tâm huyết vào cháu đích tôn Bùi Tấn, mấy đứa con trai của ông ta đều bình thường cho nên ông chỉ có thể đem hy vọng ký thác lên người cháu trai bảo bối

Hơn nữa Bùi Tấn đã ba mươi tuổi, đúng thời khắc quan trọng nhất trên con đường làm quan, nếu mười năm này có thể tạo cơ sở kiên cố thì đến sau khi gã bốn mươi tuổi Bùi Tấn có thể bay lên tận mây xanh, có thể đảm nhiệm chức Tướng quốc.

- Phải hiểu tâm tư của kẻ bề trên, không chỉ xem trọng hắn nói cái gì, mà quan trọng là biết hắn muốn làm cái gì, xem lợi ích của hắn ở đâu, chỗ nào? Như vậy có thể đoán được nước cờ tiếp theo của hắn. Lần này Sở Vương chiếm Trung Nguyên nhưng lại không diệt Vương Thế Sung ở Lạc Dương, cũng không chiếm lĩnh quận Nam Dương và quận Tích Dương, rất rõ ràng mục tiêu kế tiếp của hắn không phải Lý Đường mà là Đậu Kiến Đức, để hoàn toàn thống nhất Trung Nguyên.

Bùi Tấn khẽ cau mày:

- Kỳ thật cháu cảm thấy lúc trước Sở Vương có thể tiêu diệt Đậu Kiến Đức, không lưu lại hậu hoạn, cũng không cần phải một lần nữa đối phó với Đậu Kiến Đức như ngày hôm nay. Sơ vương làm như vậy dường như là tự mình tìm phiền toái.

Bùi Củ lắc đầu cười nói:

- Sở Vương dù sao cũng không phải thần, có sự tình hắn cũng không ngờ tới được. Lúc trước hắn tha chết cho Đậu Kiến Đức, là muốn để cho Đậu Kiến Đức đối phó với Lý Mật, mượn bàn tay của Đậu Kiến Đức làm suy yếu Lý Mật, nhưng hắn không ngờ tới Lý Mật lại sẽ dời về Giang Đô ở phía Nam, hoàn toàn buông tha cho Trung Nguyên.

Bùi Củ ngừng một chút lại nói:

- Nhưng chuyện này đối với cháu cũng không quan trọng, quan trọng hơn cả là quyền lực, vận mệnh của triều đình biến hóa. Chuyện này cháu cần nắm bắt rõ ràng Sở Vương, chúng ta nên nói đến chiến dịch Hà Bắc trước, sau khi chấm dứt thì quyền lực, vận mệnh triều đình sẽ xảy ra biến hóa gì?

Bùi Tấn suy nghĩ một chút nói:

- Trước khi chiến dịch Hà Bắc bắt đầu thì ông nội đã lui không làm quan, bắt đầu ở nhà điều chỉnh mọi việc, sau khi chiến dịch ở Hà Bắc kết thúc thì Vương Tự bị trục xuất, từ năm tướng quốc thành bảy tướng quốc.

- Nói không sai, nhưng Sở Vương tại sao lại làm như vậy?

Bùi Củ vuốt râu mỉm cười, tiếp tục hướng dẫn từng bước ý nghĩ của trưởng tôn.

- Cháu cho rằng Sở Vương làm vậy vì muốn cân bằng quyền lực, chiếm Hà Bắc, Sở vương cần phải đem đại tộc ở Hà Bắc, như Thôi thị, Lô thị nạp vào kết cấu quyền lực, như vậy sẽ có người thoái vị, đả kích Vương gia cũng sẽ thuận lý thành chương.

Bùi Tấn được ông nội dốc lòng dạy bảo đã dần dần nhìn ra một chút con đường thay đổi của quyền lực, ý nghĩ của gã cũng bắt đầu trở nên rõ ràng.

Bùi Củ rất hài lòng với ý nghĩ rõ ràng của cháu mình, lại vuốt râu cười hỏi:

- Vậy hiện tại chiếm Trung Nguyên, bước tiếp theo Sở Vương sẽ làm thế nào?

- Bước tiếp theo? Bước tiếp theo sao?

Bùi Tấn cắn chặt môi, đau khổ suy tư, đúng lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng bẩm báo của quản gia:

- Thái lão gia, gia chủ Vương gia cầu kiến khẩn cấp.

Trên bậc thang ở cửa lớn Bùi phủ, Vương Tự đang chắp tay sau lưng đi qua đi lại, lão đang suy nghĩ làm thế nào mở miệng cầu viện Bùi Củ. Dù sao hai gia tộc Vương và Bùi là thông gia, hơn nữa đều là danh môn ở Hà Đông, con trai lão có thoát được kiếp nạn này hay không là phụ thuộc vào việc liệu Bùi gia có chịu giúp lão hay không.

Lúc này, cửa bên mở ra, Bùi Tấn bước mau ra, cúi người thi lễ với Vương Tự:

- Vãn bối Bùi Tấn tham kiến thế thúc!

Bùi Tấn đảm nhiệm chức Đại Lý Tự Thiếu Khanh, là trưởng tôn (cháu trưởng) của Bùi thị, điều này khiến Vương Tự cũng có chút mát mặt, Bùi gia không hề lạnh nhạt với lão. Lão gật đầu cười nói:

- Lệnh tổ có mạnh khỏe không?

- Tổ phụ gần đây không được khỏe lắm.

Vương Tự ngẩn ra:

- Tại sao vậy?

Bùi Tấn cung kính nói:

- Gần đây nhiệt độ khi sớm và tối chênh nhau khá lớn, tổ phụ hôm trước không cẩn thận bị cảm lạnh, giờ đang bệnh nằm trên giường.

Nghe nói Bùi Củ bị bệnh, trong lòng Vương Tự chợt cảm thấy hụt hẫng, như vậy là phiền phức rồi, lão trầm ngâm một chút rồi nói:

- Có thể cho ta vào thăm lệnh tổ một lát được không?

- Đương nhiên là được ạ, xin mời thế thúc vào đây cũng vãn bối.

Bùi Tấn dẫn Vương Tự đi vào phía trong viện, gã ôn tồn hỏi han:

- Thế thúc tìm tổ phụ có việc gì không?

Bùi Tấn tuy là bậc vãn bối nhưng dù sao gã cũng là Đại Lý Tự Thiếu Khanh, quan lớn tứ phẩm, lại là trưởng tôn, tương lai là người thừa kế gia chủ Bùi thị, Vương Tự không dám tỏ vẻ bề trên với gã.

Lão thở dài nói:

- Gia môn bất hạnh, trong tộc có mấy đứa con cháu không hiểu chuyện, dám ủ rượu lậu. Trong vụ này có khuyển tử (đứa con hư) Vương Kỳ xảy ra chút phiền toái nhỏ.

Bùi Tấn không thể không khâm phục thủ đoạn cay độc của tổ phụ, tuy không biết đã xảy ra chuyện gì nhưng Vương Tự không mời mà tới, tất nhiên là có chuyện phiền phức lớn muốn cầu cạnh Bùi gia. Lúc này bất kể có giúp được hay không trước tiên cũng phải chừa cho mình con đường cự tuyệt, giả bệnh chắc chắn là một biện pháp rất cao minh.

Vương gia quả nhiên đã xảy ra chuyện, dám ủ rượu trái phép. Sáng hôm nay, Bùi Tấn còn tham gia triều hội tổ chức ở trong bán viên đường Tử Vi Các với tư cách là Đại Lý Tự thứ quan.

 Chương 847 : Gậy đánh trưởng tôn

Trong triều hội, Sở Vương đã xác định chính sách tiết kiệm để kiến quốc, trong đó cấm dùng lương thực để ủ rượu cũng là một loại tiết kiệm. Buổi sáng vừa ra luật, thì Vương gia lập tức xảy ra chuyện. Rõ ràng là Sở Vương sẽ ra tay với Vương gia, giết một người để răn trăm người.

Tuy Vương Tự nói sơ lược qua nhưng trong lòng Bùi Tấn biết rõ, việc này vô cùng nghiêm trọng, tổ phụ giả bệnh là cử chỉ hoàn toàn chính xác.

Bùi Tấn cũng giả bộ an ủi Vương Tự:

- Thế thúc cũng không nên lo lắng quá, dù sao thế thúc cũng là cậu của Sở Vương phi, cũng là ông cậu của thế tử, Sở Vương điện hạ thế nào cũng sẽ nể mặt, không xử phạt quá nghiêm khắc đâu.

Mặc dù miệng nói như vậy nhưng trong lòng Bùi Tấn lại biết rất rõ, nếu quả thực nể tình Sở Vương phi thì Vương Tự và Vương Túc đã không bị giáng chức rồi.

Hai người nhanh chóng đi vào trước tĩnh thất nơi Bùi Củ nằm dưỡng bệnh, có hai thị nữ đứng ngoài cửa, trong tay đang cầm túi thuốc. Bùi Tấn tiến lên gõ cửa, gọi:

- Tổ phụ, tôn nhi đưa Vương thế thúc đến đây ạ.

- Vào đi.

Trong phòng vọng ra tiếng nói già nua run rẩy của Bùi Củ.

- Xin mời thế thúc!

Bùi Tấn dẫn Vương Tự vào phòng bệnh, chỉ thấy Bùi Củ đang nằm trên giường bệnh, mặt như giấy vàng, hai mắt vô thần, cả người gầy như que củi, vừa gặp là cảm tưởng như lão có vẻ như vừa gặp đại hạn.

Bên cạnh có thị nữ dùng thìa bón thuốc cho lão. Nhưng thuốc vừa vào đến miệng thì lại chảy ra ngoài đến một nửa. Một thị nữ khác cuống quýt dùng khăn lau thuốc chảy ra.

Thấy thế, tâm trạng của Vương Tự lạnh đi phân nửa, vốn còn định trông mong Bùi Củ đi tìm Dương Nguyên Khánh xin xỏ hộ, nhưng bộ dạng thế này thì đi còn chẳng nổi ấy chứ.

Vương Tự ngồi xuống bên cạnh Bùi Củ, cầm tay lão lên nói:

- Lão gia chủ, chất nhi (cháu họ) đến thăm người đây.

Bùi Củ chậm rãi quay đầu lại, nhìn chằm chằm Vương Tự một lúc lâu, thở phì phò hết sức khó nhọc rồi nói giọng khàn đặc:

- Ngươi là Cử nhi à?

Vương Tự sửng sốt, quay đầu lại nhìn phía Bùi Tấn. Bùi Tấn thở dài:

- Tổ phụ già lẫn quá rồi, mới vừa rồi còn biết là Vương thế thúc tới chơi, giờ đã lại quên, lại còn tưởng rằng là tam thúc đã trở lại.

Vương Tự có chút hao hao giống Bùi Văn Cử, nhưng cũng không đến nỗi nhận lầm là con mình, hơn nữa chính lão đã tự xưng là cháu vậy mà xem gia Bùi Củ thực không ổn rồi.

Vương Tự cười khổ một tiếng rồi lại nói thật to vào tai Bùi Củ:

- Chất nhi là cháu họ Vương Tự, lão gia chủ không nhận ra chất nhi sao?

Bùi Củ lại nhìn lão một lúc lâu, ánh mắt lóe lên nụ cười rạng rỡ như trẻ nhỏ, lão cố hết sức nói:

- Ta già rồi nên hồ đồ, ngươi không phải Cử Nhi, ngươi là Thế Thanh, ngươi từ Văn Hỉ đến đây sao?

Vương Tự thấy lão không nhận ra mình, đành thở dài, đứng dậy nói với Bùi Tấn:

- Lão gia chủ không được khỏe, ngày khác ta sẽ lại tới thăm.

Bùi Tấn áy náy:

- Tổ phụ chủ yếu đang ốm quá, nếu khỏe hơn thì nhất định sẽ nhận ra thế thúc, hôm nay thật sự là xin lỗi.

Vương Tự lắc đầu đi ra khỏi phòng bệnh, đợi tiếng bước chân của Vương Tự đi xa rồi, khuôn mặt của Bùi Cự mới chậm rãi lộ ra một tia cười lạnh lẽo. Lát sau, Bùi Tấn và quản gia cùng đi vào.

Bùi Củ đã mặc xong quần áo, tẩy sạch những màu bệnh trên gương mặt, khôi phục lại dung mạo bình thường, ánh mắt cũng trở nên thâm túy tinh anh.

- Hắn đi rồi sao?

Bùi Củ lạnh lùng hỏi.

- Thưa tổ phụ, ông ấy đã đi rồi ạ.

Bùi Tấn cung kính trả lời rồi nói với quản gia:

- Ngươi nói lại những chuyện đã xảy ra với gia chủ.

Quản gia liền vội vàng khom người nói:

- Bẩm thái lão gia, khoảng một canh giờ trước, tửu quán Nhất Phẩm Cư và tửu quán Tiến Sĩ đều bị sĩ binh nội vệ kiểm tra niêm phong, nghe nói là vi phạm lệnh cấm bán rượu.

Bùi Tấn cũng bổ sung:

- Vừa rồi chính Vương Tự cũng thừa nhận, con cháu Vương thị đã có ba người gặp chuyện không may, có khi đã bị bắt đi, trong đó bao gồm Vương Kỳ.

- Tự gây nghiệt thì không thể sống rồi.

Bùi Củ cười lạnh một tiếng, khoát tay đợi quản gia và tỳ nữ lui ra, trong phòng chỉ còn lại hai ông cháu. Bùi Củ đưa chung trà lên chậm rãi uống một ngụm trà nóng rồi mới hỏi Bùi Tấn:

- Chuyện này cháu hiểu rõ chưa?

Bùi Tấn gật gật đầu, khi quay trở lại hắn đã nghĩ thông rồi:

- Chẳng lẽ sau khi cuộc chiến Trung Nguyên kết thúc, Sở Vương vẫn muốn ra tay với Vương gia để chỉnh đốn quan trường ư?

- Cháu cảm thấy không thể sao?

Bùi Củ liếc mắt nhìn hắn, cười chế giễu hỏi.

- Tất nhiên tôn nhi cho rằng Sở Vương là mượn đề tài để nói chuyện của mình, nhưng chỉ có điều tôn nhi không nghĩ ra, Vương gia đã sớm bị giáng chức, còn có giá trị lợi dụng gì nữa? Hơn nữa, Sở Vương nếu muốn làm to chuyện thì tại sao không bắt cả Vương Tự luôn đi? Tôn nhi không thể hiểu nổi, xin tổ phụ chỉ bảo.

Bùi Củ cười lạnh một tiếng:

- Cháu có thể nghĩ đến điều này là đã không tệ rồi. Tuy nhiên ta phải nhắc nhở cháu rằng, Vương Tự tuy bị giáng chức, nhưng thế lực của Vương gia trên quan trường vẫn còn, nếu ta không đoán sai thì lần này Sở Vương chắc chắn sẽ tung mẻ lưới đánh trọn cả Vương đảng, chỉ bắt có ba người Vương gia chính là muốn dùng bọn họ dẫn dụ người khác ra giúp đỡ. Lần này ai mà nói đỡ cho Vương gia thì người đó chết chắc.

Đến đây, Bùi Củ khe khẽ thở dài:

- Lần này tấn công Trung Nguyên, trong triều phản đối rất nhiều. Sau lưng chính là người của Vương đảng đang xúi bẩy .Ta đã tự hỏi Sở Vương lần này xử lý vụ phản đối như thế nào? Là trấn an hay là thờ ơ, giờ thì ta hiểu rồi, lần này vụ ủ rượu lậu của Vương gia e rằng sẽ ngày càng gay go, tất cả những đại thần phản đối tấn công Trung Nguyên đều không thoát được.

Mặt Bùi Tấn trắng bệch, cắn mạnh môi. Bùi Củ thật vô cùng lợi hại, lão ngay lập tức nhận ra vẻ bất an của đứa cháu, thất kinh hỏi:

- Lẽ nào cháu cũng tham gia phản đối?

Bùi Tấn khẩn trương gật đầu:

- Tôn nhi đã ký tên vào sổ phản đối rồi.

Bùi Củ sa sầm sắc mặt:

- Chuyện này sao cháu không nói cho ta biết?ự ý ký tên à.

Bùi Tấn cúi đầu, một lúc lâu sau nói nhỏ:

- Là Đại Lý Tự Khanh Liễu Huyền Mậu xúi giục tôn nhi ký tên, tôn nhi cũng bất mãn về việc Sở Vương chỉ kiên trì đánh Trung Nguyên mà không để ý vấn đề lương thực triều đình đang cấp bách, nên mới ký tên.

- Ngươi…

Bùi Củ tức giận đến nửa ngày không nói ra lời, cuối cùng hung hăng trừng mắt nhìn Bùi Tấn nói:

- Tật cũ của ngươi lại tái phát rồi, bởi vì từ xương tủy ngươi vẫn xem thường Dương Nguyên Khánh, chỉ cần là việc bất lợi đối với y thì ngươi đều tham gia, có đúng không?

- Tôn nhi không dám, chỉ có điều y rất coi trọng Bùi Thanh Tùng nên tôn nhi thấy bất mãn.

- Ngươi còn không thừa nhận à!

Bùi Củ vô cùng giận dữ, đập bàn mắng:

- Ngươi thật lỗ mãng, ngu xuẩn, tự cho mình là đúng, cái bệnh cũ này chết cũng không hối cải. Bùi gia chúng ta sẽ chết tất trên tay ngươi.

Bùi Tấn sợ đến mức quỳ thụp xuống:

- Tôn nhi biết sai rồi!

- Biết sai à!

Bùi Củ run rẩy chỉ vào hắn:

- Mười mấy năm rồi, đã lúc nào ngươi biết sai? Lúc trước khi Nguyên Khánh cưới Mẫn Thu, ngươi phản đối, nói rằng đích nữ không lấy con vợ kế, là vì ngươi xem thường xuất thân của y, vì thế lúc nào ngươi cũng có thái độ khinh miệt, ngươi cho rằng Dương Nguyên Khánh không biết sao? Tại sao y phải dìu dắt Bùi Thanh Tùng, chính là vì y không muốn để ngươi hủy hoại Bùi gia. Ta thật có mắt như mù, không ngờ một lòng nâng đỡ trưởng tôn nhưng cái đồ ăn chơi trác táng phá gia chi tử như ngươi không mở mắt ra được.

Bùi Củ càng nói càng giận dữ:

- Ngươi cút, cút ngay!

Bùi Tấn bị mắng chửi đến mất hết cả can đảm, đứng dậy bước đi. Bùi Củ lại hung tợn nhìn theo hắn nói:

- Ngươi chết đi không có gì đáng tiếc, nhưng việc ngươi ký tên sẽ bị cho rằng ta đứng sau giật dây, làm sao mà ngươi cứu vãn được chuyện này đây?

Bùi Tấn run rẩy nói:

- Tôn nhi sẽ đi giải thích với y, chuyện này là do tôn nhi hồ đồ, không có liên quan gì tới tổ phụ cả.

- Y là ai vậy?

Bùi Củ lớn tiếng hỏi.

- Y là Sở Vương điện hạ!

- Không phải, y là ai?

Giọng Bùi Củ càng thêm nghiêm khắc.

Bùi Tấn gần như suy sụp, y cũng gào khóc:

- Lệnh tổ, tôn nhi thực sự không biết mà.

- Y là Hoàng đế điện hạ, ngươi phải nhớ kỹ rằng, y là Hoàng đế điện hạ cai quản toàn thiên hạ, y muốn bóp chết Bùi gia tựa như giết chết một con kiến vậy. Đến hôm nay Bùi Uẩn vẫn chưa về, ngươi có biết tại sao không? Đồ ngu như ngươi thử nghĩ xem!

Bùi Tấn cả người chấn động, lần này hắn thực sự đã ghi nhớ kỹ rồi.

Bùi Củ không cho phép Bùi Tấn cưỡi ngựa, cũng không cho hắn ngồi xe, lệnh cho hắn đi bộ đến Sở Vương phủ, trên đường đi phản tỉnh lại sự ngu ngốc của mình.

Tổ phụ một phen lên án mạnh mẽ khiến Bùi Tấn đã tỉnh ngộ ra một chút, hắn ý thức được sự ngu xuẩn của mình. Đại Lý Tự khanh Liễu Huyền Mậu rõ ràng chính là nhân vật cốt cán của Vương đảng, y xui hắn ký tên là có dụng ý sâu xa, bản thân hắn không ngờ được rằng mình bị Liễu Huyền Mậu đùa bỡn trong lòng bàn tay.

Bùi Tấn xấu hổ đến mức hận không thể tự tát cho mình một cái, tại sao bản thân lại ngu xuẩn đến như vậy? Hắn lại nghĩ tới nhị tổ phụ Bùi Uẩn, đến nay vẫn còn nằm trong tay Lý Mật chưa về được. Là lão không thể về được? Căn bản không phải như vậy, mà là Dương Nguyên Khánh không cho phép lão về.

 Chương 848 : Giương cung mà không bắn

Nếu Bùi gia lại cường thịnh trở lại, thì Nhị tổ phụ rất có khả năng sẽ chết trong tay Lý Mật. Cuộc đấu tranh quyền lực tàn khốc này quả thực Bùi Tấn còn rất non nớt. Bùi Tấn thở dài, lần này hắn quyết định cúi đầu nhận sai chịu thua với Dương Nguyên Khánh, thật thà làm bề tôi cho y.

Trong thư phòng, Dương Nguyên Khánh mở ra một tờ danh sách, đây là thỉnh nguyện thư, bên trên dày đặc các chữ ký yêu cầu chấm dứt chiến tranh Trung Nguyên. Có khoảng chừng 150 chữ ký, cuối cùng thậm chí còn có hai vị tướng quốc Lô Dự và Thôi Hoằng Nguyên ký tên.

Tờ danh sách với đội ngũ mạnh mẽ thế này đủ khiến cho Tử Vi Các khó bề chống đỡ, phải cử Ngụy Trưng đi Trung Nguyên để tìm y, gây áp lực với y, và hi vọng là sẽ rút quân khỏi Trung Nguyên.

Tuy rằng chiến dịch Trung Nguyên dẫn đến tài chính triều đình căng thẳng, đây là sự thực nhưng bản ký tên này lại không liên quan nhiều đến nguyên nhân này. Căng thẳng về tài chính là việc của Bộ Hộ và các tướng quốc Tử Vi Các, không liên quan gì đến các quan đại thần khác.

Ngược lại, chủ quản tài chính Đỗ Như Hối và Hộ bộ thị lang Dương Tử Vi đều không ký tên. Lấy lý do căng thẳng tài chính để yêu cầu rút quân khỏi Trung Nguyên nhưng lại không có chữ ký của các quan viên chủ quản về tài chính, thật là chuyện nực cười.

Nguyên nhân căn bản là cuộc chinh chiến Trung Nguyên ảnh hưởng đến lợi ích thiết thân của các đại tộc và quan viên ở Hà Đông. Thông qua điều tra hai ngày, Dương Nguyên Khánh đã hiểu ra nguyên nhân thực sự.

Quân Tùy chiếm đoạt được Hà Bắc, phát động điền lệnh ở Hà Bắc, khiến rất nông dân Hà Bắc chạy loạn muốn quay lại làm tá điền, họ bắt đầu rời khỏi trang viên trở về quê nhà Hà Bắc để nhận ruộng.

Hàng loạt nông dân Hà Bắc trở về quê, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của quan viên huyện Hà Đông. Giờ đây tá điền đang trồng trọt tại các trang viên lớn ở Hà Đông chủ yếu là nông dân chạy nạn khỏi Trung Nguyên. Một khi lấy được Trung Nguyên, liền thi hành điền lệnh ở Trung Nguyên. Những nông dân chạy khỏi Trung Nguyên tất nhiên cũng trở về quê, như vậy các trang viên ở Hà Đông sẽ chỉ còn lại rất ít tá điền bản địa.

Trang viên không có người trồng trọt nên bọn quan viên cũng không có thu hoạch, đây là một vấn đề lớn. Dương Nguyên Khánh cũng hiểu rõ điểm này, nhưng đây quyết không phải là lý do để buộc y phải lui binh.

Dương Nguyên Khánh có thể khoan nhượng việc các quan viên phản đối chiến dịch Trung Nguyên là vì lợi ích riêng, y không so đo. Nhưng y lại không thể khoan nhượng kẻ đứng đằng sau thao túng.

Kẻ đứng sau thao túng chính là Vương đảng, cũng chính là thế lực của Vương Tự, giống như Đaị Lý Tự khanh Liễu Huyền Mậu, Kinh Triệu Thiếu Doãn Tiết Minh Nghĩa, Thái Thường Thiếu Khanh Tiết Thu, Đô Thủy Giám Thừa Ngô Mộng Nguyên v.v…Đây đều là nòng cốt của Vương đảng ở trong triều.

Còn có gần hai mươi quan viên cấp quận huyện. Bọn họ hoặc là con cháu Vương gia, hoặc là môn sinh Vương gia, bọn họ cấu kết thành thế lực của Vương thị gia tộc ở Hà Đông.

Kỳ thực Dương Nguyên Khánh không phản đối các thế lực kéo bè kết phái. Đây là chuyện bình thường, cũng không phản đối các cuộc đấu tranh giành quyền lực và lợi ích giữa các đảng phái. Không có đấu tranh thì không phải là triều đình. Những điều này y đều không để tâm, làm kẻ bề trên, y còn cổ vũ những phe phái này tồn tại.

Nhưng một số phe phái lại chuyển hướng mục tiêu đấu tranh vào Dương Nguyên Khánh, khiêu chiến quyền uy của y. Cái gì nhẫn nhịn được chứ cái này thì không. Điều này vượt quá giới hạn của đấu tranh phe phái, đây là cuộc đấu tranh giành quyền lực với Dương Nguyên Khánh y.

Rất rõ ràng, lần này Vương Tự đảng đem mục tiêu nhắm vào y, kích động tinh thần bất mãn của các đại thần huyện Hà Đông, tạo áp lực cho y, yêu cầu y Dương Nguyên Khánh phải dứt bỏ Trung Nguyên, y quyết không tha thứ.

Vụ án cấm rượu của Vương gia vừa hay phát sinh vào đúng thời điểm này. Đây chắc chắn là một cơ hội để Dương Nguyên Khánh ra đòn với Vương đảng. Y quyết định lợi dụng cơ hội này để tung lưới đánh trọn Vương đảng.

Đã quyết như vậy, mấu chốt là dùng thủ đoạn gì. Là dao sắc chặt đay rối hay là dao cùn cắt thịt. Điều này y vẫn chưa quyết định được.

Đúng lúc này, mụ quản gia ở ngoài cửa bẩm báo:

- Lão gia, trưởng tôn Bùi gia tới đang ở ngoài cửa phủ cầu kiến.

Dương Nguyên Khánh nao nao, Bùi Tấn đến rồi. Y liếc nhìn vào bản danh sách, chữ ký của Bùi Tấn ở vị trí thứ hai, chỉ đứng sau Đại Lý Tự Khanh Liễu Huyền Mậu, điều này khiến Dương Nguyên Khánh cảm thấy vô cùng bất mãn. Chính là do có chữ ký của trưởng tôn Bùi Tấn mới khiến cho nhất nhiều quan viên Bùi đảng phán đoán sai lầm tình hình, cho rằng Bùi Củ ủng hộ phản đối chiến tranh Trung Nguyên nên từ đó lũ lượt ký tên mình vào.

Dương Nguyên Khánh hiểu rõ con người Bùi Tấn, tuy khá khôn khéo tài giỏi nhưng trong hắn luôn ngạo mạn vì là trưởng tôn của Bùi gia. Chính sự ngạo mạn này luôn che đậy ánh mắt của y, che đậy lý trí của y.

Giống như lần ký tên này, e rằng cũng là do y ngạo mạn làm tàng, chắc không liên quan gì tới Bùi Củ. Với sự túc trí đa mưu, Bùi Củ tuyệt đối sẽ nhận ra đây là do Vương đảng đứng sau màn thao túng.

Dương Nguyên Khánh trầm tư một lát rồi hạ lệnh:

- Bảo y đợi ta ở ngoại thư phòng.

Gặp hay không gặp, dù sao gã cũng là trưởng tôn Bùi gia, hơn nữa rất có thể là do Bùi Củ sai y đến tìm mình. Dương Nguyên Khánh cũng hi vọng có thể nhìn thấy Bùi Tấn trưởng thành dần dần.

Dương Nguyên Khánh đổi bộ y phục khác, thong thả đi tới ngoại thư phòng. Cửa ngoại thư phòng không đóng, có thể nhìn thấy Bùi Tấn ngồi trên ghế cúi đầu trầm tư, vẻ mặt vô cùng đăm chiêu.

Dương Nguyên Khánh ho khan một tiếng, đi vào phòng, ha hả cười nói:

- Để Bùi thiếu khanh đợi lâu rồi.

Bùi Tấn cắn môi, y đột nhiên đứng dậy rồi quỳ xuống trước mặt Dương Nguyên Khánh:

- Bùi Tấn đặc biệt đến xin được tạ tội, khẩn cầu điện hạ tha tội!

Bùi Tấn quỳ xuống đột ngột khiến Dương Nguyên Khánh sửng sốt rồi định thần lại ngay. Với tính cách trong sáng của Bùi Tấn tuyệt đối không bao giờ quỳ gối, đây chắc chắn là ý của Bùi Củ, thậm chí là Bùi Củ buộc y đến nhận sai.

Dương Nguyên Khánh không có ý định đỡ y dậy, mà ngồi vào ghế của mình, trầm tư chốc lát rồi nói:

- Ngươi có tội gì?

- Thần không nên mạo muội ký tên trên thỉnh nguyện thư, đó là do thần nhất thời hồ đồ, nghe Liễu Huyền Mậu xúi giục, cũng là do thần có chút bất mãn với điện hạ.

Dương Nguyên Khánh thấy y nói thẳng thắn, thừa nhận y có bất mãn với mình. Trên thực tế là y xem thường mình mới đúng. Tuy nhiên có thể không so đo sự khác biệt này, Dương Nguyên Khánh khẽ gật đầu:

- Bùi Thiếu khanh xin đứng lên!

Bùi Tấn đứng lên, nhưng lại không dám ngồi xuống, khoanh tay đứng trước mặt Dương Nguyên Khánh, biểu hiện vẻ cung kính của người bề tôi. Dương Nguyên Khánh lại thản nhiên hỏi:

- Ngươi có biết chữ ký của ngươi gây hậu quả thế nào không?

- Thần quả thật không biết, nhưng điều này sẽ gây hiểu lầm giữa điện hạ và tổ phụ. Chuyện này thần không bẩm báo với tổ phụ và không có bất cứ quan hệ nào với tổ phụ.

- Tổ phụ ngươi chắc chắn không biết việc này. Nếu biết chắc chắn lão sẽ đánh gãy chân ngươi.

Nói đến đây, Dương Nguyên Khánh ném quyển sổ ghi chép cho y:

- Ngươi tự xem đi, chữ ký của ngươi đứng thứ hai đấy.

Bùi Tấn kể từ sau khi ký tên không hề nhìn thấy lại thỉnh nguyện thư. Y xem kỹ mặt sau danh sách, sắc mặt y trở nên trắng bệch, trán vã mồ hôi, đằng sau đại bộ phận thành viên Bùi đảng đều ký tên.

Cuối cùng y đã ý thức được chuyện ngu xuẩn mà mình đã làm. Việc y ký tên khiến rất nhiều thành viên Bùi đảng hiểu lầm rằng đây là ý của tổ phụ hắn, liền ký tên vào đó. Đây căn bản chính là do Liễu Huyền Mậu cố ý khiến y ký tên, y đã bị lừa.

Dương Nguyên Khánh thấy môi y run run, biết rằng y đã tự hiểu được việc ngu ngốc của mình. Lúc này Dương Nguyên Khánh mới nói lời thấm thía với y:

- Ngươi là Bùi gia trưởng tôn, lại là quan đảm nhiệm Đại Lý Tự Thiếu Khanh, về một mức độ nào đó, ngươi đại diện cho gia chủ Bùi thị. Ta hi vọng thông qua việc này, ngươi phải trưởng thành hoàn toàn, không nên ngây thơ như vậy nữa, quan trường đấu tranh rất khốc liệt, cạm bẫy khắp nơi. Nếu ngươi còn hành động theo cảm tính như vậy thì ta sẽ không bao giờ dùng ngươi nữa, sẽ cách chức ngươi làm thứ dân, sẽ không cho ngươi cơ hội làm gia chủ Bùi thị.

Bùi Tấn gập sâu người thi lễ:

- Bùi Tấn rõ rồi, từ giờ thần không bao giờ thiên kiến với điện hạ nữa, thần sẽ ghi nhớ lời nói của điện hạ.

Dương Nguyên Khánh lắc đầu:

- Không riêng gì thành kiến với ta, tật xấu lớn nhất của ngươi là quá coi trọng đích – thứ. Đây là cội rễ mọi vấn đề của ngươi. Thiên hạ trong tương lai là thiên hạ chỉ trọng dụng người tài, đại danh môn nào học thấu được bốn chữ “trọng dụng người tài” thì mới phát triển lớn được. Ngươi hãy về suy nghĩ cho thật kỹ về thất bại của Hoằng Nông Dương thị. Đây vốn là một gia tộc có nhiều người được phong vương nhưng vì họ lúc trước chấp mê đích thứ nên mới dẫn tới gia tộc trầm luân như hôm nay.

Bùi Tấn trong lòng thấy rung động lạ thường. Nếu Dương gia lúc trước không đuổi Dương Nguyên Khánh ra khỏi nhà thì Dương gia tướng sẽ là Đại tùy Hoàng tộc. Sai một ly đi một dặm, khiến cho cả gia tộchủy diệt mà một ly này chính là đích và thứ, vậy nên y nên tự kiểm điểm lại mình.

 Chương 849 : Bí mật sâu xa hơn

Sự thành khẩn nhận lỗi của Bùi Tấn khiến Dương Nguyên Khánh thấy được thành ý của Bùi gia, cuối cùng khiến y quyết định gạch tên Bùi đảng trên thỉnh nguyện thư, lần này buông tha cho Bùi đảng.

Đêm đã dần khuya, Dương Nguyên Khánh sau một ngày bận rộn rốt cục cũng cảm thấy mệt mỏi, y trở về túc viện, đêm nay y sẽ ngủ lại trong viện của thê tử Bùi Mẫn Thu.

- Lão gia đến rồi!

Y vừa đi vào sân, từ cửa truyền đến tiếng bẩm báo của a hoàn. Viện của Bùi Mẫn Thu rất lớn, trồng đủ loại các loại cây quý, trước mặt là cái ao, trong ao nuôi một đàn cá vàng, phần giữa thông qua một hành lang uốn khúc tới trước lầu nhỏ.

Lầu nhỏ có tất cả hai tầng lầu. Tầng dưới là nơi ở của a hoàn, vú già và hơn chục nữ hộ vệ. Tầng trên là phòng của Bùi Mẫn Thu. Đứa con cả Dương Ninh cũng sống ở tầng hai, vài tên nữ hộ vệ cũng sống ngay cạnh mẹ con họ.

Dương Nguyên Khánh đi lên lầu hai, đi vào phòng của thê tử, thấy thê tử Bùi Mẫn Thu cúi đầu thật sâu thi lễ.

Dương Nguyên Khánh không khỏi sửng sốt, mỉm cười:

- Sao nàng lại trở nên khách khí như vậy?

Bùi Mẫn Thu cảm kích nói:

- Đa tạ phu quân khoan dung tha tội cho huynh trưởng Bùi Tấn.

- Làm sao nàng biết ta khoan dung tha tội cho hắn? Nàng nhìn thấy ư?

Dương Nguyên Khánh tò mò hỏi.

Bùi Mẫn Thu khẽ mỉm cười:

- Suy đoán của thiếp rất đơn giản, bởi vì thiếp nghe nói Bùi Tấn ủ rũ tới rồi lại hăng hái rời đi, vậy nên thiếp suy đoán là huynh ấy phạm phải điều gì sai nhưng đến đây được phu quân lượng thứ nên thiếp vô cùng cảm kích.

- Đúng vậy, nương tử của ta rất thông minh, thông minh tuyệt đỉnh.

Dương Nguyên Khánh tán dương không ngớt thê tử thông minh, y liền kể lại một lượt chuyện Bùi Tấn mạo muội ký tên phản đối mình, cuối cùng nói:

- Hôm nay tổ phụ nàng biết được việc do y gây nên, đã chửi mắng y một trận, bắt y đến nói rõ sự tình. Chà, Bùi Tấn đã hơn ba mươi tuổi đầu mà đầu óc còn đơn giản như vậy, làm việc ngây thơ, hi vọng lần này y có thể sửa chữa.

Bùi Mẫn Thu cũng than nhẹ một tiếng:

- Huynh ấy từ nhỏ được nuông chiều, lớn lên chưa gặp phải trắc trở gì, nên tính cách kiêu ngạo. Thiếp hi vọng phu quân có thể đưa huynh ấy đến biên cương nhập ngũ, trải qua tôi luyện thì mới có lợi.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu:

- Nàng xem đi! Nếu y vẫn không thay đổi được thật ngạo mạn thì ta sẽ thực sự đưa y đến Phong Châu nhập ngũ, rèn dũa y.

Bùi Mẫn Thu do dự một chút rồi hạ thấp giọng hỏi:

- Phu quân chuẩn bị trừng trị Vương gia sao?

Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một lát, chậm rãi nói:

- Chuyện này nàng đừng nên hỏi tới, nên làm thế nào ta tự biết được.

Bùi Mẫn Thu không dám hỏi han thêm. Hôm nay nàng nhận được một phong thư cầu cứu, là cậu của nàng Vương Tự gửi đến, khẩn cầu nàng cứu biểu huynh Vương Kỳ. Nhưng nàng từ giọng nói của phu quân phát hiện ra rằng, hình như Vương gia sẽ còn gặp phải phiền toái lớn hơn. Không chỉ đơn giản là một người như Vương Kỳ. Trong lòng nàng thực có một chút lo lắng.

Lại hai ngày trôi qua, vụ án cấm rượu của Vương gia giống như bị đông kết lại, bỗng nhiên lắng xuống, không có ai bị bắt thêm nữa, ba người bị bắt cũng không bị thẩm vấn.

Tuy nhiên, tửu quán Nhất Phẩm Cư và tửu quán Tiến Sĩ vẫn bị niêm phong như cũ. Mà ba điền trang và hơn mười cửa hàng của Vương gia cũng bị đóng cửa toàn bộ, do quân đội khống chế, không cho phép ai đến gần.

Quan trọng hơn là, chuyện này bị bàn tán xôn xao ở khắp những nơi công cộng. Sau ngày đầu tiên bị làm ồn ã, đến ngày thứ hai lại càng giống như đổ thêm dầu vào lửa. Tất cả mọi người ở tửu quán, thanh lâu, nhà trọ đều bàn tán về chuyện này.

Toàn bộ sự việc giống như bị một sức mạnh vô hình kìm lại, khiến người ta cảm giác được sự yên lặng không bình thường, giống như một núi lửa trở nên lặng lẽ trước khi sắp bùng nổ.

Giữa trưa, Thái Thường Tự Thiếu Khanh Tiết Thu cưỡi ngựa đến trước cửa phủ Vương gia. Từ sau khi triều hội về tiết kiệm kiến quốc mở cuộc họp thì rất nhiều biện pháp bắt đầu từng bước đưa ra.

Bao gồm triều phục mới của các quan không dùng sợi tơ dệt nữa, mà dùng sợi đay nhỏ, bao gồm cả các quan từ sáu mươi tuổi trở xuống không được đi xe ngựa mà đổi thành cưỡi ngựa.

Tiết Thu bèn cưỡi một con ngựa đến trước cổng Vương phủ, trong lòng gã có chút lo lắng. Gã có nghe nói Vương gia xảy ra vụ án cấm rượu, chỉ có điều gã không rõ tại sao Vương gia lại phạm phải sai lầm ngu xuẩn như vậy.

Nếu con cháu Vương gia tự tiện gây ra còn có thể lý giải, nhưng nếu là Vương Tự sắp đặt thì đó chính là sự ngu xuẩn về chính trị.

Tiết Thu là nhân vật quan trọng trong gia tộc Tiết Thị ở Hà Đông. Phần Âm Tiết thị cũng là một trong các danh môn ở Hà Đông, chỉ đứng sau Văn Hỉ Bùi thị và Thái Nguyên Vương thị.

Nhân vật nổi tiếng nhất của gia tộc Tiết thị trong triều Tùy gồm một quan võ một quan văn. Võ là Tiết Thế Hùng, văn thì là Tiết Đạo Hành, mà Tiết Thu lại là con của Tiết Đạo Hành.

Năm nay Tiết Thu khoảng ngoài ba mươi tuổi, dung mạo thanh tú, dáng người cao gầy, nói năng ôn hòa nhã nhặn. Từ nhỏ gã đã đọc sách là nhớ, năm tuổi đã biết làm thơ phú, được vinh dự gọi là thần đồng, rất được phụ thân Tiết Đạo Hành yêu quý.

Khi mười sáu tuổi, Tiết Đạo Hành đưa gã đến Vương học. Đại nho Hà Đông là Vương Thông thu nạp gã làm đồ đệ, dốc lòng dạy bảo, khiến Tiết Thu dần dần trở thành một nhân tài ưu tú xuất chúng.

Sau khi Dương Nguyên Khánh dẫn quân chiếm lĩnh Hà Đông, thiết lập triều Tùy mới, Vương Tự đề cử gã với Dương Nguyên Khánh, phong làm Thái Thường Thiếu Khanh.

Tiết Thu không chỉ lo lắng về việc Vương gia vi phạm lệnh cấm ủ rượu, mà là sự đối kháng nguy hiểm giữa Vương gia và triều đình. Lần này Vương Tự huy động bè cánh phản đối quân Tùy tấn công Trung Nguyên, trên danh nghĩa là vì vấn đề các tá điền bỏ trốn nhưng Tiết Thu cảm thấy trong đó còn có nguyên nhân sâu xa hơn.

Bản thân là một thành phần của Vương đảng, đã dần dần bị cuốn vào lốc xoáy của cuộc đấu tranh này, điều này khiến Tiết Thu cảm thấy lo lắng thậm chí sợ hãi. Gã chưa chuẩn bị tốt, gã lo mình sẽ trở thành vật hi sinh trong cuộc đấu tranh chính trị.

Tiết Thu lại đến trước cửa hông trước của Vương phủ, xuống ngựa. Gã chưa bao giờ đi vào Vương phủ từ cổng chính, lần nào cũng đều đi cửa hông vào phủ. Khi vừa tới trước bậc thang thì cửa mở ra, từ trong đi ra một gã nam trẻ tuổi, khoảng hai mươi bảy hoặc hai mươi tám tuổi, đó chính là Vương Lăng con trai của Vương Tự.

Tiết Thu ngẩn người ra, Vương Lăng không phải đang ở Trường An sao? Nghe nói còn phụ tá cung phụng thái tử Lý Kiến Thành. Đương nhiên đây chỉ là thủ đoạn lôi kéo Vương Tự của triều Đường.

Tiết Thu và gã từng học năm năm cùng trường, gã rất rõ về tài học của Vương Lăng, rất bình thường, không thể nói là xuất chúng được. Hơn nữa gã lại là người phóng đãng, thích chơi gái, thích rượu.

Vương Lăng liếc mắt nhìn thấy Tiết Thu, lập tức mừng rỡ:

- Bá Bao huynh, trùng hợp khéo léo quá!

Tiết Thu cũng không thích Vương Lăng, gã thản nhiên cười:

- Đúng vậy, chúng ta mấy năm rồi không gặp, hiền đệ vẫn khỏe chứ?

- Ta rất khỏe, nghe nói Bá Bao huynh đảm nhiệm chức vụ Thái Thường Thiếu Khanh, đệ thật ngưỡng mộ, nhưng đệ cũng không tệ, làm cung phụng ở Đông Cung quán, việc này huynh có biết không?

Vương Lăng từ hông rút ra một tấm kim bài, đắc ý giơ ra trước mặt Tiết Thu nói:

- Đông cung quán chỉ có mười hai cung phụng, được đãi ngộ như chính tứ phẩm.

Tiết Thu khẽ mỉm cười:

- Vậy chúc mừng hiền đệ được thăng chức, hôm khác chúng ta lại tán gẫu, lệnh tôn có nhà không vậy?

Vương Lăng thấy gã không có hứng thú với kim bài của mình nên đành ngượng ngùng thu kim bài lại rồi nói:

- Bá Bao huynh và gia phụ đã có hẹn chưa vậy?

- Lệnh tôn kêu mấy ngày nay ta có rảnh thì đến nói chuyện, vừa hay sáng nay ta rảnh rỗi.

Tiết Thu dường như cảm nhận được điều gì đó, chần chừ một chút rồi hỏi:

- Lệnh tôn…không có nhà sao?

Nét mặt Vương Lăng lộ ra vẻ khó dễ:

- Hay là đến chiều huynh quay lại nhé! Gia phụ vừa hay đang có khách, e rằng không tiện gặp.

Tiết Thu thấy ánh mắt Vương Lăng lóe lên, gã đột nhiên thấy rúng động “Lẽ nào là … người của triều Đường đến sao”

Tiết Thu cười nhạt:

- Lệnh tôn có chuyện quan trọng tìm ta, ta sao có thể không gặp, ta cứ đợi không sao.

Nói xong, gã bước nhanh về phía cửa hông, Vương Lăng vội vàng ngăn gã lại:

- Bá Bao huynh, gia phụ quả thực có khách rất quan trọng, thân phận của huynh không tiện gặp, buổi chiều hoặc tối huynh hãy quay lại.

- Ta hiểu rồi!

Tiết Thu cười chỉ chỉ vào Vương Lăng:

- Hóa ra đệ đến Thái Nguyên là vì việc công, sao không nói rõ.

Vương Lăng cười ngại ngùng:

- Cái này…mong Bá Bao huynh hiểu cho nỗi khổ của tiểu đệ, chớ để truyền tin ra bên ngoài.

Tiết Thu cười ha hả:

- Ta hiểu, được thôi! Hôm khác ta sẽ quay lại, vừa hay có chút việc, ta phải đi đây.

Tiết Thu chắp tay, lên ngựa bỏ đi.

Vương Lăng vốn định mời gã cùng đi uống rượu, những ngẫm nghĩ một chút rồi kiềm lại được. Phụ thân đang nói tới thời điểm mấu chốt, sự tình rất quan trọng, gã nên nhịn một chút.

Vương Lăng xoay người quay về phủ.

………..

Trong nội thư phòng Vương phủ, Vương Tự quả thực đang bí mật tiếp kiến một sứ giả quan trọng của triều đình, đó là Đường Triều Công bộ thị lang Ôn Đại Nhã.

Ôn Đại Nhã cũng là người Thái Nguyên. Hai họ Ôn và Vương là thế giao, thông gia. Thê tử của Vương Tự chính là con gái của Ôn gia, bởi vậy Lý Uyên phái Ôn Đại Nhã đến, cũng là có dụng tâm.

 Chương 850 : Nội bộ rạn nứt (1+2)

- Chiến dịch Trung Nguyên lần này tuy Dương Nguyên Khánh không rút quân vì áp lực trong triều nhưng thánh thượng cũng không phủ định nỗ lực của Hạo Ninh huynh. Thánh thượng kêu ta chuyển lời tới ngươi rằng lần này Vương sứ quân làm rất tốt, khiến nội bộ triều Tùy rạn nứt, đáng được khen thưởng.

Ôn Đại Nhã nói xong, lấy một con kỳ lân bằng ngọc bích đặt lên bàn, cười nói:

- Đây là kỳ lân Thánh thượng ban cho Hạo Ninh huynh, ngoài ra, gia phong là Tấn Dương Huyện công, Thánh thượng hi vọng ngươi có thể tiếp túc cống hiến vì Đại Đường.

Vương Tự tiếp nhận ngọc bích kỳ lân, nhìn rất kỹ, kỳ lân được dùng loại ngọc Hòa Điền quý giá nhất chạm khắc thành, toàn thân xanh biếc mượt mà, không có một tì vết nào cả, là ngoại ngọc quý hiếm nhất, trên đế có một hàng chữ vàng: Ngự tứ Tấn Dương Huyện công Vương Tự.

Vương Tự trong lòng rất xúc động. So với sự đối xử lạnh lùng, tàn khốc của Dương Nguyên Khánh thì Hoàng đế triều Đường Lý Uyển đối xử với lão thật hậu hĩnh. Lão lại quên rằng mới đầu lão đã cho con trai đến cung phụng Đông cung quán.

Mấy tháng trước Vương Tự bị bãi tướng giáng chức, lão không chịu chấp nhận số phận, bình tĩnh chịu bị giáng chức, bởi vì cái giá mà triều Đường mở ra cho lão là Lễ Bộ Thượng Thư, cho người anh em Vương Túc của lão là Hộ bộ hữu Thị lang.

Một bên bị giáng chức, một bên là lợi lộc to lớn mê hoặc, lão làm sao còn có thể trung thành với triều Tùy, lão đã bí mật đầu hàng Lý Uyên, đầu hàng triều Đường. Lão không chịu đến Triệu Quận đảm nhiệm chức Thái Thú, cáo bệnh ở lại Thái Nguyên, chính là để không chế vây cánh của lão ở trong triều..

Sau khi tấm màn đại chiến Trung Nguyên kéo ra, Vương Tự nhận được mật thư của triều Đường, buộc lão phải nghĩ cách ngăn chặn chân sau của quân Tùy, vừa hay lúc này rất nhiều quan đại thần oán giận quân Tùy nếu tiến công Trung Nguyên thì tất sẽ làm cho các tá điền chạy hết, rất nhiều người đều cảm thấy suy sụp tinh thần.

Vương Tự lợi dụng cơ hội này mượn cớ triều đình khủng hoảng tài chính, triều Tùy không thể chèo chống được cuộc chiến ở Trung Nguyên, ra ám lệnh cho vây cánh của mình phát động trò “ký tên phản đối chiến tranh Trung Nguyên” gây tiếng vang rất lớn, thậm chí ngay cả hai tướng quốc của Tử Vi Các cũng ký tên lên tiếng ủng hộ, gây thêm áp lực lớn cho triều đình.

Điều duy nhất khiến Vương Tự tiếc nuối chính là, triều đình không thể khống chế được quân đội, quân đội trực tiếp nằm trong tay Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh đứng vững trước áp lực, đánh xong chiến dịch Trung Nguyên. Kết quả này khiến Vương Tự thấy hổ thẹn với sự kỳ vọng mà Lý Uyên dành cho lão.

Vương Tự thở dài:

- Cảm tạ Thánh thượng Long ân, Vương mỗ thật bất tài, không thể báo đáp được Thánh thượng, trong lòng vô cùng xấu hổ. Sớm biết thế này thì lúc trước ta nên theo ngài đi Trường An, thì cũng không đến nỗi phải chịu nỗi nhục như ngày hôm nay.

Ôn Đại Nhã khẽ cười nói:

- Thánh Thượng kêu ngươi không nên tự trách mình, ngươi đã làm rất tốt, hi vọng lần sau ngươi sẽ không ngừng cố gắng, lợi dụng hết nhân lực của Vương gia ở Hà Đông để đạt được thành tích.

Vương Tự trầm tư chốc lát rồi nói:

- Ta hiện có một cách, sau khi Tùy quân chiếm được Trung Nguyên thì phải ổn định dân chạy nạn, chấn hưng dân sinh, như vậy cần một lượng lớn lương thực. Hiện tại rõ ràng là lương thực của triều đình không đủ, chỉ dựa vào tiết kiệm thôi thì không đủ. Cuối cùng bọn họ nhất định sẽ nhắm vào số lương thực dư thừa của nông dân Hà Đông. Ta nghe nói vương triều Tùy đã bắt đầu bắt tay vào thu mua lương thực dư thừa trong tay nông dân, ta có thể lợi dụng ảnh hưởng của Vương gia, hô hào nông dân chống lại việc thu mua lương thực. Một khi xảy ra xung đột với quan phủ thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh tiếng của triều Tùy. Kỳ thực hiện tại Hà Đông đã có rất nhiều người bất mãn với việc trợ cấp cho Hà Bắc, chỉ cần chúng ta lại dẫn dắt và tuyên truyền thì rất dễ ràng để xảy ra xung đột.

Ôn Đại Nhã vuốt râu gật đầu:

- Dùng cách làm dao động cội rễ của Triều Tùy quả thực không tệ, nhưng Thánh thượng muốn an toàn là số một, phải học cách tự bảo vệ mình. Dương Nguyên Khánh cực kỳ tinh anh, một khi hắn đã phát hiện ra dấu vết thì hắn sẽ nhất định không buông tha cho các ngươi, Thánh thượng không muốn Vương gia xảy ra chuyện.

Vương Tự chợt nhớ tới vụ án cấm rượu, đây đúng là vấn đề to lớn khiến lão phải đau đầu. Ba ngày hôm nay không hề có tiến triển gì cả, thậm chí lão đã nhờ Vương Phi nói đỡ cũng không có tin tức gì, nó giống như hòn đá tảng đang đeo trong lòng lão vậy, không biết bao giờ mới rơi xuống được.

- Hạo Ninh huynh, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Ôn Đại Nhã phát hiện ra Vương Tự có vẻ không được tự nhiên, dường như có tâm sự gì đó. Vương Tự cười miễn cưỡng:

- Hai đứa cháu vi phạm lệnh cấm bán rượu, bị người ta tố giác, giờ gặp chút ít phiền toái. Ta hiện đang tìm cách để bình ổn việc này.

- Vấn đề rất nghiêm trọng sao?

Ôn Đại Nhã lo lắng hỏi.

- Chắc có lẽ không nghiêm trọng, ta đã nhờ cậy Vương Phi nói đỡ, hai hôm nay quan phủ đã ngừng việc này lại, không truy cứu thêm, đoán chừng là chuyện lớn hóa nhỏ, đợi sau khi dư luận lắng xuống thì chắc sẽ không có vấn đề gì.

- Tuy nói như vậy nhưng vẫn không thể sơ suất được, cố gắng tìm người nói đỡ, nếu bị xử phạt thì phải chấp nhận, tóm lại phải giữ bình an.

Vương Tự gật đầu, lão đã lường trước tình huống xấu nhất, nếu thực sự không bảo vệ được đứa con thì cũng không còn cách nào khác.

Trong cuộc đấu tranh quyền lực, có một thủ đoạn cao minh gọi là giương cung mà không bắn, cũng chính là sau khi một vụ án lớn xảy ra, không nên gấp rút xử lý, trước hết đưa vụ án ra ánh sáng, sau đó cứ duy trì ở trạng thái căng thẳng, yên lặng theo dõi biến chuyển, đợi khi thời cơ chín muồi mới ra đòn sấm sét.

Hiện Dương Nguyên Khánh đang dùng thủ đoạn giương cung mà không bắn. Một mặt không xử lý vụ án ủ rượu lậu của Vương gia, mặt khác tiếp tục hâm nóng dư luận, dưới áp lực mạnh mẽ này nội bộ Vương đảng nhất định sẽ xảy ra rạn nứt.

Tiết Thu khi đến Vương phủ thì trong lòng lo lắng nhưng khi trở về thì kinh hồn bạt vía, mãi đến khi về tới nhà hai chân gã vẫn run lên từng đợt.

Gã không thể ngờ được rằng, Vương Tự lại bí mật tiếp sứ giả Đường triều, điều này khiến cho gã cảm thấy vừa bị giáng một gậy vào đầu. Lúc trước Vương Tự mượn cớ rằng tiến đánh Trung Nguyên sẽ dẫn đến lượng lớn tá điền bỏ chạy, cần phải bảo vệ lợi ích của địa chủ ở Hà Đông, phản đối chiến dịch Trung Nguyên.

Tiết Thu cũng biết thực tế là Vương Tự muốn báo thù Dương Nguyên Khánh để xả giận. Là môn sinh của Vương thị, là một thành viên của Vương đảng, Tiết Thu cũng đã tận tâm tận lực làm việc cho lão, đã thăm hỏi khuyên bảo, lôi kéo được hầu hết các môn sinh ngày trước của phụ thân gã, lôi kéo được hơn hai chục người bạn ký tên.

Nhưng Tiết Thu tuyệt đối không thể ngờ rằng, Vương Tự lại cấu kết với Đường triều, tất cả những gì họ làm không phải là giúp Vương Tự xả giận mà là Đường triều sắp xếp nhiệm vụ cho Vương Tự, họ đã bị Vương Tự lừa gạt, trở thành gian tế cho triều Đường.

Phát hiện này khiến Tiết Thu vừa giận vừa hối hận. Gã gần như đã thò cổ vào thòng lọng, một khi sự việc bại lộ thì lẽ nào gã lại chạy trốn sang triều Đường hay sao?

Tiết Thu ở trong phòng thở ngắn than dài, đứng ngồi không yên, lúc này vợ gã là Bạch thị bưng trà bước vào phòng.

Bạch thị cũng xuất thân từ danh môn ở Triệu quận, phụ thân của nàng là Bạch Phong Dật là bạn cùng học với Tiết Đạo Hành. Hai vị tiền bối đã đồng lòng tác thành mối nhân duyên cho hai người từ khi còn bé.

Mười sáu tuổi thành hôn, đến nay hai người đã thành hôn được hơn mười năm, sinh một trai một gái. Con trai trưởng là Tiết Giang, năm nay đã mười bốn tuổi, cũng thông minh chăm chỉ giống như cha.

Cùng chung sống với chồng mười mấy năm, Bạch thị rất hiểu chồng. Gã lần này về tâm trạng lo lắng bất an, xưa nay chưa bao giờ gã tỏ ra như vậy cả.

Không biết có chuyện gì xảy ra, Bạch thị thấy lo lắng liền lấy cớ mang trà vào để gặp chồng.

Bạch thị đặt chén trà lên bàn, thấy chồng ngồi xuống lại đứng lên, chắp tay đi lại trước cửa sổ rồi thở dài. Nàng không kiềm được hỏi:

- Phu quân, đã xảy ra chuyện gì vậy?

- Không có gì, nàng không nên hỏi nhiều.

Tiết Thu bực dọc đáp.

Bạch thị đến ngồi bên cạnh chồng, cầm tay gã dịu dàng nói:

- Chúng ta thành hôn đã mười lăm năm nay, chưa bao giờ thiếp thấy chàng lo lắng bất an đến như vậy, nhất định đã xảy ra đại sự, chàng hãy nói cho thiếp biết, dù có chuyện lớn tày trời thì chúng ta cũng cùng nhau gánh vác.

Bị bàn tay mềm mại ấm nóng của vợ nắm chặt, Tiết Thu thấy bình tĩnh lại một chút, gã thở dài:

- Ta bị Vương Tự lừa, không khéo là tan cửa nát nhà đến nơi rồi. Hiện ta rất lo lắng không biết phải làm sao.

Bạch thị cả kinh:

- Phu quân cũng tham gia vụ ủ rượu lậu sao?

- Không có liên quan gì đến vụ ủ rượu lậu cả, là chuyện khác.

Tiết Thu cười khổ một tiếng:

- Ngay cả nàng cũng biết chuyện Vương gia ủ rượu lậu à?

Bạch thị không có cảm tình với Vương gia, đặc biệt là vợ Vương Tự đối với nàng vô cùng ngạo mạn, chê nàng dùng trang sức không quý giá, chê nàng y phục không đẹp đẽ, điều này khiến Bạch thị vô cùng khó chịu.

Nàng cười lạnh một tiếng rồi nói:

- Giờ thì ai mà không biết vụ Vương gia ủ rượu lậu, trong thành Thái Nguyên đã đồn ầm lên từ lâu rồi, già trẻ đều biết cả. Giờ thì chỉ chờ xem sẽ xử lý con trai Vương gia thế nào thôi, mọi người đều nói các quan bao che cho nhau, có việc đơn giản như vậy mà kéo dài hai ngày trời, không biết còn đợi cái gì?

Người nói vô tâm nhưng người nghe lại để tâm. Bạch thị buột miệng oán thán nhưng lại khiến Tiết Thu nảy ra một ý. Đúng là như vậy, việc Vương gia ủ rượu lậu nhân chứng vật chứng đã có đủ, sự tình rất đơn giản, sao Sở Vương không xử lý?

Sở Vương điều tra vụ này rất nhanh gọn, quyết đoán nhưng xử lý lại lề mề là vì sao, chẳng lẽ là…

Tiết Thu chợt tỉnh ngộ, chẳng lẽ là Sở Vương muốn mượn đề tài để nói chuyện mình, dùng việc ủ rượu lậu để đối phó Vương gia, nên mới trù trừ không xử lý vụ này.

Nghĩ vậy, Tiết Thu hít một hơi dài. Từ sau khi trở về Sở Vương không hề đả động tới việc các quan thỉnh nguyện, điều này không có nghĩa là ngài sẽ không xử lý. Tất nhiên là ngài đang chờ đợi thời cơ, rất có khả năng là sẽ quăng lưới đánh trọn vây cánh của Vương đảng, trong đó bao gồm cả gã.

Mồ hôi trên trán Tiết Thu vã ra đầm đìa, gã ý thức được rằng vấn đề bắt đầu nghiêm trọng. Bạch thị vội vàng dùng khăn lau mồ hôi cho gã, dịu dàng khuyên nhủ:

- Phu quân, Vương gia tuy là danh môn nhưng Vương Tự sống không biết điều, vợ lão là người xu nịnh. Ai phục sức đẹp đẽ, đắt tiền thì mụ coi là quý nhân, ai ăn mặc bình thường thì mụ coi khinh. Từ mụ có thể thấy Vương Tự chắc chắn không đáng là chỗ dựa cho chàng. Lần này lão lừa gạt chàng, lần sau sẽ giết hại chàng, chàng phải nghe lời khuyên của thiếp, hãy rời bỏ lão, hiếu trung với Sở Vương.

Sở Vương là hạng người gì, Bạch thị không rõ. Nhưng nàng rất thích Sở Vương phi. Sở Vương phi chủ trương cần kiệm, phản đối xa hoa lãng phí, bất kể bên trong phủ hay ngoài phủ đều ăn vận áo đay, trang sức bình thường, quản gia rất tiết kiệm để làm gương.

Từ con người Sở Vương phi, Bạch thị cảm thấy Sở Vương nhất định cũng không tệ, vậy sao chồng nàng lại không hiếu trung với Sở Vương, theo Vương đảng làm gì. Đã từ lâu nàng muốn khuyên nhủ chồng như vậy.

Tiết Thu gật đầu:

- Việc này để ta suy nghĩ thêm.

Tiết Thu chắp tay đi chậm rãi đi trên đường cái. Trong đầu gã đang nghĩ đến hậu quả của chuyện này. Gã đã hiểu rõ rất nhiều chuyện, Vương Tự đúng là cấu kết với triều Đường, mà vụ ủ rượu lậu rất có khả năng là đòn phản kích của Dương Nguyên Khánh.

Vấn đề hiện tại là thái độ của gã, phải làm thế nào để bảo toàn tính mạng của mình, rời xa Vương đảng, làm người ngoài cuộc. Có lẽ giờ cũng hơi muộn, mấu chốt là gã đã làm những việc không nên làm, gã nhất định phải làm điều gì đó để chuộc lại tội lỗi của mình.

Tiết Thu ngẩng đầu, phát hiện ra mình đã đi tới trước cổng Sở Vương phủ. Tiết Thu ngầm thở dài, trong lòng gã đang rối bời nên mới ma xui quỷ khiến đến nơi đây.

Tiết Thu nhìn lên ba chữ triện trên cổng chính Sở Vương phủ. Hắn nhớ phụ thân hắn đã từng nói một câu “Dương Nguyên Khánh là người rất lợi hại, lòng lang dạ sói, tương lai hoặc là thăng thiên đắc đạo, hoặc là chết không có chỗ chôn”.

Đây là kết luận sau khi phụ thân hắn sống chung với Dương Nguyên Khánh một thời gian ở Giang Ninh. Tiết Thu ghi nhớ rất kỹ. Kết quả ngày hôm nay đã chứng minh phán đoán của phụ thân gã. Vương Tự còn lâu mới là đối thủ của Dương Nguyên Khánh, gã có theo gót lão thì cũng chỉ có thể đi trên con đường phản bội Đại Tùy mà thôi.

Mà bây giờ xem ra, kết quả cuối cùng là Vương Tự đến triều Đường thăng quan phát tài còn rốt cục bọn vậy cánh như gã lại trở thành vật hi sinh của cuộc đấu tranh quyền lực.

Nghĩ vậy, Tiết Thu cắn mạnh răng, bước nhanh lên bậc thang, chắp tay nói với thân vệ:

- Xin chuyển lời tới Sở Vương điện hạ, có Thái Trì Khanh Tiết Thu có cơ mật đại sự cầu kiến.

Dương Nguyên Khánh đang chuẩn bị cho ngày mai xuất phát đi thị sát sáu quận ở Quan Bắc. Y đã cho vây cánh Vương Tự thời gian hai ngày, nếu những người này còn không thức thời thì đừng trách Dương Nguyên Khánh này không khách khí.

Trong thư phòng, Dương Nguyên Khánh đem vài quyển sách bỏ vào hòm da, đây là vật y bắt buộc phải mang theo, một vài cuốn sách yêu thích, cùng với lệnh tiễn lệnh bài và ấn tỉ Sở Vương.

Những vật dụng khác y không phải bận tâm, đã có thê tử Bùi Mẫn Thu lo thu xếp rồi giao cho thân binh của y.

Lúc này từ ngoài cửa truyền đến tiếng bẩm báo của thân binh:

- Khởi bẩm tổng quản, có Thái Thường Tự Tiết Thiếu Khanh đến, nói rằng có cơ mật đại sự cầu kiến.

Dương Nguyên Khánh ngẩn ra, lập tức mỉm cười. Quả nhiên gã đã đến. Y lập tức ra lệnh:

- Đưa gã vào ngoại thư phòng chờ ta, ta sẽ tới ngay.

Dương Nguyên Khánh uống một ngụm trà rồi đi tới ngoại thư phòng. Y biết rất rõ Tiết Thu là một trong những nòng cốt quan trọng của Vương đảng, xuất thân từ danh gia vọng tộc ở Hà Đông, là con trai của bậc đại nho Tiết Đạo Hành.

Chỉ tiếc Tiết Đạo Hành tính cách nóng nảy, đắc tội Dương Quảng, cuối cùng bị Dương Quảng treo cổ mà chết, con trai lão có vẻ không có cái tính xấu giống như lão.

Đi vào ngoại thư phòng, Dương Nguyên Khánh thấy Tiết Thu đã chờ sẵn ở đó. Thấy Sở Vương bước vào, Tiết Thu vội vàng thi lễ:

- Hạ quan Tiết Thu tham kiến Sở Vương điện hạ!

Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười:

- Tiết Thiếu Khanh rất ít đến phủ ta, hôm nay đến quả thực là khách quý.

Tiết Thu hổ thẹn thở dài:

- Hạ quan và Sở Vương điện hạ tiếp xúc quá ít, thật phụ lòng điện hạ ưu ái.

Dương Nguyên Khánh khoát tay:

- Còn nhiều thời gian! Tiết Thiếu Khanh mời ngồi!

Tiết Thu ngồi xuống, gã vừa khom người định nói thì Dương Nguyên Khánh lại cười nói:

- Không vội, uống trà đã rồi nói.

Một thị nữ bưng vào hai chén trà xanh. Dương Nguyên Khánh nâng chung trà lên nói:

- Đây là loại trà sắc bằng nước suối Hổ Bào ở Tây Sơn Thái Nguyên, nước suối mới tinh vừa cấp sáng sớm hôm nay, dùng cát tía ở quận Ngô sao lửa nóng trong ba phút. Từ lâu đã nghe rằng lệnh tôn là bậc cao thủ về trà, chắc Tiết thiếu khanh cũng hiểu biết ít nhiều, hãy nếm thử xem, vị trà thế nào?

Tiết Thu quả thực cũng khá hiểu biết về trà ngon và sao trà, chỉ có điều hiện giờ gã đâu còn tâm trí thưởng thức trà. Gã uống bừa một ngụm cười khổ nói:

- Trà quả không tệ, nhưng hạ quan đang lòng nóng như lửa đốt, xin cho phép hạ quan lần sau đến uống trà.

Dương Nguyên Khánh ha hả cười:

- Xem ra Tiết Thiếu Khanh cũng tính tình nôn nóng. Được rồi, Tiết Thiếu Khanh đến gặp ta có chuyện gì gấp vậy?

- Bẩm Điện hạ, hạ quan có tình báo quan trọng, khoảng nửa canh giờ trước, Vương Tự đã bí mật tiếp sứ giả triều Đường trong Vương phủ.

Dương Nguyên Khánh mấy ngày trước thật không ngờ rằng việc này lại liên quan đến triều Đường, nhưng giờ thì y đã hiểu rõ, Vương Tự phát động phản đối chống chiến tranh Trung Nguyên, đằng sau lưng rất có khả năng có liên quan đến triều Đường. Giờ câu nói của Tiết Thu đã chứng thực được suy đoán của y.

Dương Nguyên Khánh lạnh lùng hỏi:

- Đường triều sứ giả là ai?

- Cái này hạ quan cũng không biết, bởi vì một canh giờ trước hạ quan đến Vương phủ thì gặp Vương Lăng ở ngoài cổng.

Dương Nguyên Khánh vội cắt lời gã:

- Có phải là Vương Lăng làm cung phụng ở Đông Cung không?

- Đúng là y, y và hạ quan nhiều năm là bạn học, khi nói chuyện gã đã tiết lộ tin triều Đường cho sứ giả tới.

Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng, đi vài bước rồi dừng lại hỏi:

- Vì sao Tiết Thiếu Khanh lại nói cho ta biết chuyện này?

Tiết Thu thở dài:

- Năm đó khi điện hạ ở Giang Đô, có ơn cứu mạng phụ thân hạ quan. Về sau phụ thân hạ quan có nói với các huynh đệ của hạ quan rằng nếu có cơ hội thì phải báo đáp ơn đức của điện hạ, nhưng tiếc rằng hạ quan chỉ nhớ ơn của sư môn mà quên đi ơn đức của điện hạ, đã làm những việc tổn hại đến điện hạ, hạ quan đã toàn toàn tỉnh ngộ, cầu xin điện hạ thứ tội.

Nói xong, Tiết Thu khoanh hai tay, quỳ rạp xuống trước mặt Dương Nguyên Khánh.

- Tiết thiếu khanh không cần như thế, mau đứng lên!

Dương Nguyên Khánh vội vàng đỡ Tiết Thu dậy, trấn an y nói:

- Ngươi có thể tỉnh ngộ, đủ thấy thành ý của ngươi. Ta Dương Nguyên Khánh cũng có đủ lòng dạ tha thứ lỗi lầm của ngươi. Chuyện cũ trước kia ta sẽ bỏ qua, chỉ hy vọng tương lai, ngươi đừng để cho ta thất vọng.

Tiết Thu trong lòng vừa cảm kích, vừa xấu hổ. Y thở dài nói:

- Xin điện hạ yên tâm, hạ quan sẽ không làm điện hạ thất vọng lần nữa.

Nói xong, Tiết Thu lấy một tấm ngân bài từ trong lòng, đặt trước mặt Dương Nguyên Khánh:

- Đây là vật mà năm đó điện hạ đưa cho gia phụ. Ngài đã nói, nếu một ngày gia phụ gặp nguy hiểm, có thể cầm tấm ngân bài này đi Phong Châu. Tuy rằng về sau gia phụ đã bất hạnh chết trong tay của Dương Quảng, nhưng ông ấy vẫn rất cảm kích điện hạ.

Nhận lấy tấm ngân bài trong tay của Tiết Thu, Dương Nguyên Khánh nhận ra đó chính là vật mà mình đưa cho Tiết Đạo Hành năm đó. Tấm ngân bài này cũng ngợi nhớ những hồi ức xưa.

Khi đó là khoảng năm Đại Nghiệp thứ tư, vì đối phó với nhân vật nòng cốt của quý tộc Quan Lũng là Trương Cẩn, hắn đã phụng chỉ đi Giang Đô giết con của Trương Cẩn.

Chính là ở lúc đó, hắn quen biết Tiết Đạo Hành. Ông ta là một người rất có học vấn, là một vị đại nho nhưng xử lý sự việc lại rối tinh rối mù.

Khi đó, mình đối với tương lai tràn đầy tin tưởng, tưởng rằng sẽ được đi Phong Châu nhậm chức. Không ngờ về sau xảy ra nhiều chuyện. Đúng là người lúc còn trẻ, luôn nghĩ đến việc gì cũng dễ dàng.

Dương Nguyên Khánh nhắm hai mắt lại, hai tay khép lại ở trước ngực, ngửa đầu lên nóc nhà, trầm tư thật lâu không nói. Tiết Thu không dám quấy rầy Dương Nguyên Khánh, chỉ phải im lặng. Dương Nguyên Khánh tựa hồ cũng không gấp gáp cái gì.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro