Thien Long 12

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ta ngươi chung mối tơ lòng,

Bên gà bên vịt cũng cùng tương tư.

Hồ đồ nọ xọ ra kia,

Tình dài kế vắn biết chia đường nào?

*

* *

Hư Trúc nhìn xuống thâm cốc, cũng đành bó tay, nhìn lại bộ dạng

bồn chồn của những phụ nữ nghĩ thầm: "Ai ai cũng gọi ta là chủ nhân, lúc

gặp chuyện khó, người kêu bằng chủ này lại không có được một kế thì

còn ra ngô ra khoai gì nữa? Trong kinh có viết là: Nếu có ai đến cầu, dù

chân tay tai mũi, đầu mắt thịt xương, máu huyết thân thể, Bồ Tát Ma Ha

Tát thấy đã cầu thì đều hoan hỉ mà cho ngay. Lục độ của Bồ Tát thì thứ

nhất là bố thí, ta còn sợ gì nữa?". Nghĩ thế rồi y liền cởi chiếc áo Phù

Mẫn Nghi vừa may cho vừa nói:

- Thạch tẩu, xin chị cho ta mượn binh khí một chút.

Thạch tẩu đáp:

- Vâng.

Bà ta liền quay ngược liễu diệp đao khom lưng đưa cán đao lên cho

Hư Trúc. Hư Trúc cầm lấy, vận Bắc Minh chân khí lên mũi đao, cổ tay

hơi rung một cái nghe soẹt một tiếng đã chặt đứt nửa sợi dây xích còn

dính vào vách núi. Thanh đao vừa mỏng vừa nhỏ, chỉ sắc bén thôi chứ

không phải là bảo đao nhưng chân khí của y truyền vào, chặt xích sắt

cũng chẳng khác gì tre gỗ. Sợi dây xích đó còn dính trên vách núi chừng

hai trượng ba thước, Hư Trúc nắm dây xích, đưa trả đao lại cho Thạch tẩu,

đề khí nhảy vọt qua bờ bên kia.

Quần nữ ai nấy kinh hoảng la lên. Dư bà bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn

Nghi tất cả đều gọi:

- Chủ nhân không nên mạo hiểm.

Trong tiếng kêu la của mọi người, Hư Trúc đã lao người ra ngoài

vực, chân khí trong người lưu chuyển, nhẹ nhàng bay vọt về trước, đột

nhiên chân khí toát ra, người lập tức tụt hẫng xuống, y liền vung sợi dây

xích trong tay cuốn lấy sợi xích còn đang lủng lẳng ở bờ bên kia, mượn

sức, thân hình đang rơi xuống lại vọt lên, hạ chân xuống bờ đối diện. Y

quay lại nói:

- Tất cả nghỉ ngơi một chút, ta đi thám thính xem thế nào.

Cả bọn Dư bà bà ai nấy vừa kinh hoàng vừa bội phục, lại thêm cảm

kích cùng đáp:

- Xin chủ nhân cẩn thận.

Hư Trúc chạy về phía có tiếng kêu thảm thiết vọng lại, đi đến một

con đường hẹp, đá ngổn ngang, thấy có mấy xác đàn bà nằm dưới đất,

đầu một nơi, người một nẻo, máu tươi vẫn còn từ cổ rỉ ra. Hư Trúc chắp

tay nói:

- A Di Đà Phật! Tội thay! Tội thay!

Y vội vàng niệm một đoạn kinh Vãng Sinh Chú, rồi rảo bước chạy

theo con đường nhỏ lên trên núi, càng chạy càng cao, mây trắng chung

quanh càng lúc càng dầy đặc, chưa đầy một giờ đã lên đến chỗ cao nhất

của Phiêu Miểu Phong, đứng giữa đám sương mù đưa mắt nhìn chung

quanh chỉ thấy toàn là cây tùng, nhưng tuyệt nhiên không nghe tiếng

người nào cả, trong bụng thầm hỏi: "Không lẽ chư nữ trong Quân Thiên

Bộ bị giết sạch cả rồi sao? Gây ra nghiệp thật là lớn quá!". Y hái hai quả

tùng, bỏ vào trong túi nghĩ thầm: "Ném tùng cầu có thể chết người, ta ra

tay phải thật nhẹ, cốt sao dọa cho địch sợ chạy mất chứ đừng giết người".

Nhìn xuống thấy một con đường lát bằng đá xanh, mỗi phiến đá phải

rộng đến ba thước, dài đến tám thước, thật đều đặn, làm được con đường

như thế này tốn không biết bao nhiêu công lao, xem chừng không phải

thủ hạ của Đồng Mỗ làm được. Con đường đá xanh đó phải dài đến hai

dặm, cuối cùng là một vọng gác bằng đá đồ sộ cao vòi vọi, hai bên trước

cửa có hai con đại bàng bằng đá đứng chầu, cao phải đến ba trượng, mỏ

khoằm, vuốt sắc coi thật phi phàm. Cửa vọng gác khép hờ nhưng không

thấy bóng dáng một ai.

Hư Trúc lẻn vào trong cửa, xuyên qua hai đình viện, bỗng nghe tiếng

người hầm hè quát:

- Nơi chứa chất các thứ quí giá của mụ giặc già ở chỗ nào? Các

ngươi có nói không thì bảo?

Tiếng một người đàn bà mắng trả lại:

- Cẩu nô tài, đã đến nước này không lẽ bọn ta còn mong sống hay

sao? Các ngươi chớ có si tâm vọng tưởng.

Lại có tiếng đàn ông nói:

- Vân đảo chủ, có gì mình cứ nhẹ nhàng mà nói, việc gì phải làm

dữ? Đối xử với đàn bà con gái như thế không khỏi khiếm lễ hay sao?

Hư Trúc nghe giọng khuyên giải đúng là Đại Lý Đoàn công tử, khi

trước bọn Ô Lão Đại định giết Đồng Mỗ, cũng chỉ có mình Đoàn Dự là

không đồng ý, nghĩ thầm: "Vị công tử này xem ra không biết võ công

nhưng anh hùng can đảm, bụng dạ hiệp nghĩa, hơn xa những kẻ cao thủ

võ học, khiến ai cũng phải kính phục". Lại nghe tiếng gã đảo chủ họ Vân

kia nói:

- Hừ hừ, bọn quỉ a đầu chúng bay tưởng chết là xong nhưng trên đời

này muốn chết cũng đâu phải dễ? Đảo Bích Thạch chúng ta có mười bảy

hình phạt quái lạ, để ta cho chúng bay nếm mùi từng món một cho biết

tay. Nghe nói Hắc Thạch Động, Phục Sa Đảo có những kỳ hình quái phạt

còn hơn đảo Bích Thạch chúng ta nhiều, sao không cho anh em được xem

cho biết.

Rất nhiều người lên tiếng phụ họa, lại có người nói:

- Các anh em mình thi tài, để xem đảo nào, động nào có hình phạt

ghê gớm nhất.

Cứ theo tiếng ồn mà luận, trong sảnh đường không dưới vài trăm

người, nói qua nói lại nhao nhao như chợ vỡ, điếc cả tai. Hư Trúc định tìm

một khe hở nhìn vào nhưng tòa đại sảnh này xây toàn bằng đá không có

kẽ nứt. Y nghĩ ra một cách bốc đất xoa lên mặt cho nhem nhuốc rồi thản

nhiên tiến vào.

Chỉ thấy trong phòng bàn ghế chỗ nào cũng đầy người, đến hơn nửa

không có chỗ nên ngồi phệt dưới đất, cũng có người đi qua đi lại, nói nói

cười cười. Dưới đất có chừng hai chục người đàn bà mặc áo vàng, là chư

nữ thuộc Quân Thiên Bộ không cử động được, hiển nhiên đã bị điểm

huyệt, có đến hơn nửa máu me đầm đìa, bị thương không phải nhẹ. Trong

sảnh vốn dĩ đang bát nháo, khi Hư Trúc bước vào cũng có dăm người đưa

mắt nhìn, thấy không phải đàn bà cho là không phải người của cung Linh

Thứu, chắc mẩm môn nhân đệ tử của đảo động nào đây nên cũng không

để ý.

Hư Trúc ngồi xuống ngạch cửa, đưa mắt nhìn bốn bề, thấy Ô Lão

Đại ngồi trên một chiếc ghế bành nơi phía tây, vẻ mặt tiều tụy nhưng

trong ánh mắt vẫn có phần hung tợn. Một gã đen đủi cao to tay cầm roi

da, đứng bên cạnh những người thuộc Quân Thiên Bộ, miệng quát tháo

chửi rủa, uy hiếp bắt họ chỉ chỗ Đồng Mỗ dấu bảo vật thế nhưng ai nấy

thà chết chứ không chịu hé răng. Ô Lão Đại nói:

- Bọn a đầu các ngươi đừng hi vọng gì nữa, ta nói cho mà biết, Đồng

Mỗ đã bị sư muội Lý Thu Thủy giết chết rồi, chính mắt ta thấy, không lẽ

còn giả hay sao? Các ngươi khôn hồn thì mau hàng phục, bọn ta sẽ không

làm khó gì đâu.

Một người đàn bà áo vàng trung niên rít lên:

- Đừng có nói tầm bậy! Tôn chủ võ công cái thế, đã luyện thành

thân thể Kim Cương Bất Hoại, làm gì có ai đả thương được lão nhân gia?

Các ngươi vọng tưởng đoạt được bảo quyết phá giải Sinh Tử Phù thì đúng

là nằm mơ. Không nói gì tôn chủ ắt là an nhiên vô sự, trong chớp mắt sẽ

lên núi bây giờ, trừng trị bọn phản tặc vạn ác bất xá các ngươi, dẫu tôn

chủ có tiên du thực chăng nữa thì trong vòng một năm Sinh Tử Phù của

các ngươi không có thuốc giải rồi cũng lớn tiếng rên la, chịu bao nhiêu

khổ sở rồi mới chết.

Ô Lão Đại lạnh lùng nói:

- Được, các ngươi không tin thì ta cho các ngươi xem cái này.

Y lấy cái gói đeo trên vai xuống, mở ra để lộ một cái chân người. Hư

Trúc nhận ra trên cái chân đó còn cả ống quần, giày và vớ, chính là hạ

chi của Đồng Mỗ, không nhịn nổi kêu lên một tiếng. Ô Lão Đại nói:

- Lý Thu Thủy chặt Đồng Mỗ ra thành tám mảnh, vứt khắp các sơn

cốc, ta thuận tay nhặt được một mảnh, các ngươi thử xem cho kỹ, có đúng

không nào?

Quân Thiên Bộ nhận rõ đây đúng là chân trái Đồng Mỗ thực, nghĩ

thầm lời Ô Lão Đại nói không sai, không nhịn nổi khóc òa lên. Các động

chủ, đảo chủ hoan hô ầm ỹ, đều nói:

- Tặc bà chết rồi, thật hay biết mấy.

Có kẻ nói:

- Cả gầm trời ai ai cũng mừng, khắp bốn biển đâu đâu cũng sướng.1

Kẻ thì nói:

- Ô Lão Đại, lòng nhẫn nại của ngươi quả là đáng phục, tin tức hay

như thế mà mãi đến bây giờ mới chịu lòi ra, phải đáng phạt ba chén rượu.

Lại có người nói:

- Tặc bà chết rồi, Sinh Tử Phù trên người chúng ta, trên đời này

không ai có thể giải được nữa...

Đột nhiên trong đám người vang lên mấy tiếng ú ú, tựa như chó sói

tru, lại giống như chó sủa, thanh âm cực kỳ đáng sợ. Mọi người nghe

thấy, ai nấy biến sắc, trong giây lát trong đại sảnh ngoài những người bị

thương kêu la tựa như mãnh thú ra, không một ai lên tiếng gì nữa. Chỉ

thấy một người mập mạp lăn lộn trên mặt đất, hai tay cào vào mặt, lại xé

rách toang áo, rồi hết sức cố móc ngực mình ra, tưởng như muốn lôi tim

phổi ra ngoài. Chỉ trong chốc lát tay y đã đỏ lòm, trên mặt, trên ngực

cũng toàn máu là máu, tiếng kêu rú mỗi lúc một thêm thảm khốc. Mọi

người tưởng chừng như trông thấy ma quỉ, không ngừng lùi về sau. Có

mấy người nói khẽ:

1

- Bùa Sinh Tử đòi mạng y rồi!

Hư Trúc tuy cũng đã trúng Sinh Tử Phù nhưng lại được uống thuốc

giải ngay, sau đó Đồng Mỗ lại truyền cho pháp môn hóa giải, chưa phải

trải qua cái khốn khổ này nhưng chứng kiến cái cảnh kinh tâm động

phách gã mập phải chịu mới hiểu tại sao người ta sợ Đồng Mỗ đến thế.

Mọi người dường như sợ độc tính của Sinh Tử Phù có thể truyền qua mình

nên chẳng một ai dám tiến lên tìm cách giúp y. Chỉ trong giây lát, gã mập

kia đã xé rách hết quần áo, trên người chỗ nào cũng đầy vết máu.

Trong đám người, một gã chạy ra lính quýnh kêu lên:

- Ca ca, tỉnh lại đi, đừng hoảng hốt.

Y lại kêu:

- Để tiểu đệ điểm huyệt rồi mình tìm thuốc chữa sau.

Người đó và gã mập mặt mũi hao hao giống nhau, tuổi nhỏ hơn,

người cũng không mập như thế hiển nhiên là anh em một nhà. Gã mập

kia hai mắt đờ đẫn dường như không nghe. Người kia từng bước đi đến

nhưng thần thái ra vẻ e dè sợ hãi, đến cách chừng ba thước, vung tay ra lẹ

làng điểm huyệt Kiên Tỉnh trên người y. Gã mập nghiêng qua một bên

tránh được, vung tay ra ôm chặt lấy em, há mồm đớp ngay vào mặt gã.

Người kia hốt hoảng kêu lên:

- Ca ca bỏ ra, em đây mà.

Thế nhưng gã mập vẫn cắn lung tung, chẳng khác gì chó điên. Người

em hết sức vùng vẫy nhưng không thoát được, chỉ nháy mắt mặt đã bị anh

cắn mất một miếng lớn, máu chảy đầm đìa, đau quá kêu rầm cả lên.

Đoàn Dự nói với Vương Ngữ Yên:

- Vương cô nương, cô tìm cách gì cứu y được chăng?

Vương Ngữ Yên nhíu mày nói:

- Gã này phát khùng rồi, sức mạnh kinh khủng, lại chẳng dùng võ

công chi hết, làm sao có cách gì được.

Đoàn Dự lại quay sang Mộ Dung Phục:

- Mộ Dung huynh, thần kỹ "dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" của nhà

Mộ Dung, có thể dùng được chăng?

Mộ Dung Phục không trả lời, vẻ mặt xem chừng không vui. Bao Bất

Đồng hầm hầm nói:

- Ngươi bảo công tử nhà ta học thói điên khùng, cắn lại y một cái

hay sao?

Đoàn Dự sượng sùng nói:

- Quả là tôi thất thố, Bao huynh đừng trách, Mộ Dung huynh đừng

trách.

Chàng đi đến bên gã mập nói:

- Tôn huynh, người này là đệ đệ của tôn huynh, mau thả y ra đi.

Hai tay gã mập càng xiết chặt, miệng hà hà như mãnh thú. Vân đảo

chủ nắm lấy một người đàn bà áo vàng, quát lên:

- Tất cả những người trong đại sảnh hôm nay, quá nửa đã trúng phải

Sinh Tử Phù của mụ giặc già, bây giờ tụ lại một chỗ, người nọ cảm ứng

người kia, chẳng mấy chốc ai ai cũng sẽ phát tác, mấy trăm người sẽ xúm

lại cắn chúng bay nát ngướu, mi có sợ hay không?

Nữ tử đó đưa mắt nhìn gã mập, vẻ mặt sợ hãi. Vân đảo chủ nói:

- Bây giờ Đồng Mỗ chết rồi, ngươi chỉ nơi kho tàng bí mật của mụ

ra, trị khỏi cho mọi người, ai nấy cảm kích thì lúc đó không còn làm khó

các ngươi nữa đâu.

Người đàn bà kia đáp:

- Không phải là ta không nói, mà thực... mà thực ra chẳng ai biết

được cả. Tôn chủ hành sự, đâu có cho bọn nô tì... nô tì chúng ta... thấy

đâu.

Mộ Dung Phục theo bọn người lên núi mong sẽ có thể giúp họ một

tay, trồng cây ân đức, mong sau này có thể dùng được bọn thảo mãng dị

nhân. Lúc này thấy rõ Đồng Mỗ tuy chết rồi nhưng những lá bùa bà ta

cấy lên người họ vẫn không sao phá giải được, xem ra Sinh Tử Phù hẳn

là một loại thuốc độc cực mạnh, không thể chỉ dùng võ công, nếu như tất

cả phát tác rồi chết thì cái mưu tính của mình tan thành mây khói. Y cùng

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can nhìn nhau lắc đầu, biết rằng không còn

làm gì được nữa.

Vân đảo chủ biết rằng người đàn bà áo vàng kia hẳn là nói thực,

nhưng thấy những huyệt đạo trúng Sinh Tử Phù trong người mình ngâm

ngẩm nhoi nhói, dường như có triệu chứng phát tác, lại càng chột dạ, quát

lớn:

- Được, ngươi không chịu nói! Ta đánh chết con a đầu này rồi tính

sau.

Y cầm trường tiên lên, mắm môi mắm lợi nhắm người đàn bà đánh

xuống. Cú đánh đó lực đạo mãnh liệt, xem chừng thể nào cô gái đó cũng

vỡ đầu mà chết. Đột nhiên nghe sùy một tiếng, một món ám khí từ ngoài

cửa bắn vào, trúng ngay hông cô gái. Cô gái lập tức bị hất đi văng ra cả

trượng, nghe bịch một tiếng, trường tiên đập xuống thạch bản, đá vụn bay

tứ tung. Chỉ thấy dưới đất một vật gì tròn tròn màu vàng lăn long lóc, hóa

ra là một trái tùng. Mọi người ai nấy kinh hãi nghĩ thầm: "Dùng một trái

tùng nho nhỏ mà đánh bật người ra cả trượng, nội lực quả thật ghê gớm,

không biết ai đây?".

Ô Lão Đại lập tức nghĩ ra ngay một việc, thất thanh kêu lên:

- Đồng Mỗ! Đó là Đồng Mỗ!

Hôm đó y nấp ở đằng sau tảng đá, thấy Lý Thu Thủy chặt đứt chân

trái của Đồng Mỗ, liền lấy chiếc chân đó gói trong giấy dầu, đeo ở bên

người. Y nghĩ Đồng Mỗ chắc hẳn đã bị Lý Thu Thủy đuổi theo giết được

rồi, nhưng không chính mắt trông thấy bà ta chết ra sao, trong bụng vẫn

nơm nớp. Hôm đó Hư Trúc ném trái tùng thủng bụng y, thủ pháp đó chính

là do Đồng Mỗ truyền thụ. Ô Lão Đại đã chịu khổ một phen, vừa thấy

trái tùng là cho ngay là Đồng Mỗ đã đến, không sợ đến mất hồn mất vía

sao được?

Mọi người nghe Ô Lão Đại kêu toáng lên là Đồng Mỗ đến vội vàng

nhìn ra ngoài, trong đại sảnh tiếng lách cách, leng keng, soẹt soẹt, loảng

xoảng liên tiếp, tiếng rút binh khi náo động cả lên, người nào người nấy

binh khí trong tay, đồng thời nhảy ngược về sau.

Mộ Dung Phục trái lại tiến về phía cửa chính hai bước, muốn nhìn

xem Đồng Mỗ quả là người như thế nào. Thực ra hôm trước khi y dùng

Đẩu Chuyển Tinh Di hóa giải sức rơi của Hư Trúc từ trên cao rơi xuống, y

đã từng gặp Đồng Mỗ rồi, có điều không thể nào ngờ được cô gái tuổi

chừng mười tám mười chín, mặt đẹp như hoa kia lại chính là Thiên Sơn

Đồng Mỗ, người mà các ma đầu chỉ cần nghĩ đến đã khiếp vía.

Đoàn Dự nhảy ra chắn trước mặt Vương Ngữ Yên, sợ nàng bị người

ta gia hại. Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Biểu ca, cẩn thận.

Mọi người ai nấy chăm chăm nhìn vào cửa chính thế nhưng một hồi

lâu sau vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:

- Đồng mỗ mỗ, nếu bà có giận bọn ta là khách không mời mà đến thì

hãy vào đây đánh một trận cho biết.

Một hồi sau, ngoài cửa vẫn không nghe tăm hơi gì, Phong Ba Ác liền

nói:

- Giỏi nhỉ, để cho Phong mỗ là người đầu tiên lãnh giáo cao chiêu

của Đồng Mỗ. "Biết là đánh không lại nhưng cứ đánh" là cái nết đến

chết không chừa của Phong mỗ.

Vừa nói vừa múa đơn đao xông ra cửa. Đặng Bách Xuyên, Công Dã

Can, Bao Bất Đồng ba người với y tình như ruột thịt, biết y không phải là

đối thủ của Đồng Mỗ nên cũng hấp tấp theo ra.

Trong đám động chủ, đảo chủ cũng lắm người bội phục bốn anh em

dũng cảm, cũng có kẻ cười thầm: "Các ngươi nghé non không sợ cọp,

chưa từng nếm mùi lợi hại của Đồng Mỗ nên còn ra vẻ ta đây, để rồi biết

tay lúc đó mới hối không kịp". Chỉ nghe Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng

hai người thanh âm một khàn khàn, một the thé, ở ngoài cửa lớn tiếng

khiêu chiến với Đồng Mỗ nhưng thủy chung không nghe đáp ứng gì cả.

Người vừa ném trái tùng cầu cứu người đàn bà áo vàng chính là Hư

Trúc. Y thấy mình khiến cho tất cả mọi người nhốn nháo, kinh nghi bất

định nên cảm thấy ăn năn không an, bèn nói:

- Xin lỗi! Xin lỗi! Ta quả là không phải. Đồng Mỗ quả đã tạ thế, các

vị chớ nên kinh hoàng.

Y thấy gã mập vẫn đang cắn người em, nghĩ thầm: "Nếu tiếp tục cắn

thì cả hai người không ai sống được". Y bước tới giơ tay đánh vào lưng gã

mập một cái, sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, một luồng nội lực

dương hòa lập tức chặn đứng hàn độc Sinh Tử Phù trong người y không

cho phát tác nữa, có điều không biết bùa Sinh Tử y bị cấy vào đâu nên

không thể nào giải trừ được.

Gã mập liền lỏng hai tay, ngồi phệt xuống đất, thở hồng hộc, thần

tình cực kỳ uể oải nói:

- Huynh đệ, ngươi sao thế? Ai làm ngươi ra nông nỗi này? Nói mau,

nói mau! Để ca ca vì ngươi báo thù rửa hận.

Đứa em thấy ông anh thần trí đã tỉnh táo, trong lòng mừng quá hỏi

rối rít:

- Ca ca khỏe rồi chứ? Ca ca khỏe rồi chứ?

Hư Trúc giơ tay vỗ lên vai mỗi người đàn bà áo vàng một cái nói:

- Các vị là người trong Quân Thiên Bộ phải không? Các vị tỉ tỉ trong

Dương Thiên, Chu Thiên, Hạo Thiên cũng đã đến Tiếp Thiên Kiều, có

điều sợi dây xích bị đứt nên chưa qua được. Ở đây có dây xích hay dây

thừng to không? Mình đi ra đón họ qua.

Bắc Minh chân khí trong người y truyền ra lòng bàn tay, đánh đến

đâu, những người trong Quân Thiên Bộ dù huyệt nào bị đóng, lập tức các

kinh mạch đều thông ngay, không còn trục trặc gì nữa.

Chúng nữ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, lục tục đứng lên nói:

- Đa tạ tôn giá đã cứu, chẳng hay tôn tính đại danh là gì?

Có vài người còn trẻ nóng tính, vội vàng chạy ra ngoài cửa, vừa chạy

vừa kêu:

- Mau mau đi đón các tỉ tỉ tám bộ về đây, quyết tử chiến với phản tặc

một phen.

Họ vừa nói vừa quay đầu giơ tay chào cám ơn Hư Trúc. Hư Trúc

cũng vòng tay đáp lễ nói:

- Không dám! Không dám! Tại hạ có tài năng đức độ gì đâu mà dám

nhận lễ tạ của các vị? Cứu các vị là do người khác, chỉ mượn tay tại hạ

đấy thôi.

Ý y định nói là, võ công nội lực toàn do ba vị sư trưởng ban cho,

người thực sự cứu chư nữ chính là Đồng Mỗ. Quần hào thấy y thuận tay

vỗ một cái, lập tức giải huyệt cho tất cả những người đàn bà áo vàng,

không cần phải hỏi huyệt nào bị phong, cũng chẳng cần xoa bóp các

huyệt đạo, thủ pháp đó chưa ai từng thấy, mà đến nghe cũng chưa từng

nghe, thấy y mặt mũi cũng bình thường, tuổi còn trẻ, không thể nào có

công lực như thế được, lại nghe y nói người khác mượn tay mình, đều tin

ngay rằng Đồng Mỗ đã trở về cung Linh Thứu.

Ô Lão Đại đã từng ở trên đỉnh núi tuyết với Hư Trúc mấy ngày liền,

tuy lúc này đầu tóc Hư Trúc đã mọc dài, mặt mày lại nhem nhuốc đầy

bùn đất nhưng vừa mới mở miệng, Ô Lão Đại liền nhận ra ngay lập tức

nhảy vọt đến chộp luôn mạch môn nơi tay phải Hư Trúc, quát lớn:

- Chú tiểu kia, Đồng... Đồng Mỗ đi đâu rồi?

Hư Trúc đáp:

- Ô tiên sinh, thương thế nơi bụng ông đã khỏi hẳn chưa? Tại hạ... tại

hạ nay không còn xứng đáng là đệ tử cửa Phật được nữa. Ôi! Nói ra thật

hổ thẹn... quả thật hổ thẹn hết sức.

Nói đến đây mặt mày đỏ bừng, có điều vì đầy bùn đất nhem nhuốc

nên người ngoài không thấy được. Ô Lão Đại vừa ra tay đã nắm được cổ

tay, chắc mẩm y không thể nào phản kháng được, lập tức gia tăng nội lực

để cho y phải kêu oai oái van xin, nghĩ bụng Đồng Mỗ rất tử tế với gã

tiểu hòa thượng này, nếu bắt được y đem ra làm con tin thì dù Đồng Mỗ

có muốn giết mình cũa sợ ném chuột vỡ đồ. Ngờ đâu y càng thúc đẩy nội

lực, Hư Trúc vẫn tỉnh bơ như không, nội lực tống ra thật chẳng khác nào

ném bùn xuống biển, không thấy tăm hơi gì nữa. Ô Lão Đại trong bụng

chột dạ, không dám đẩy thêm nội lực nhưng cũng không dám buông y ra.

Quần hào ai nấy thấy Ô Lão Đại nắm được như thế rồi biết ngay Hư

Trúc đã bị khống chế, dẫu cho võ công y có cao hơn Ô Lão Đại thì cũng

không cách gì kháng cự, chỉ còn nước để cho Ô Lão Đại làm gì thì làm.

Mọi người đều nghĩ: "Tiểu tử này dẫu có là cao thủ thực chăng nữa thì

cũng không ai dám để cho đối phương khống chế một cách dễ dàng như

thế được". Mọi người liền mồm năm miệng mười quát tháo:

- Tiểu tử kia, ngươi là ai? Sao dám đến đây?

- Ngươi tên là gì? Sư trưởng ngươi là ai?

- Ai sai ngươi đến đây? Đồng Mỗ chăng? Mụ ta đã chết hay còn

sống?

Hư Trúc trả lời một lượt, thần thái hết sức khiêm cung:

- Tại hạ đạo hiệu... đạo hiệu Hư Trúc Tử. Đồng Mỗ quả đã qui tiên

rồi, di thể của lão nhân gia đã chuyển đến Tiếp Thiên Kiều. Sư môn

uyên nguyên của tại hạ, ôi, nói ra thật hổ thẹn, thực ra... thực ra... tại hạ

lầm lỡ sa chân nên không tiện phụng cáo. Nếu như các vị không tin, đợi

một lát sẽ tất cả cùng chiêm bái di dung của lão nhân gia. Tại hạ đến đây

cũng chính vì để thay thế Đồng Mỗ lo liệu hậu sự cho người. Các vị đều

là cựu bộ thuộc của lão nhân gia, ta khuyên các vị chẳng nên nhớ thù oán

cũ, tất cả làm lễ trước linh sàng lão nhân gia, bao nhiêu thù hận đều xóa

sạch, như thế có phải hay không?

Y nói ra câu thì sượng sùng, câu thì thương cảm, đầu Ngô mình Sở

không câu nào vào câu nào, lời ăn tiếng nói lại ấp úng, câu sau cùng lại

như năn nỉ cầu xin. Quần hào thấy tiểu tử này nói chẳng đâu với đâu,

dường như thần trí không được tỉnh táo, nỗi kinh hãi lắng xuống dần, tính

cuồng ngạo lại nổi lên, đã có người ngoạc mồm ra chửi:

- Thằng nhãi kia ngươi là cái thá gì mà dám bảo bọn ta rập đầu trước

linh vị con mụ giặc già?

- Con mẹ nó chứ, lão tặc bà vì sao mà lại chết?

- Có phải chết về tay sư muội Lý Thu Thủy chăng? Cái chân kia có

phải chân mụ ta chăng?

Hư Trúc đáp:

- Dẫu các vị quả có thâm cừu đại hận với Đồng Mỗ thì dẫu sao bà ta

cũng chết rồi, việc gì còn mang hận thù trong bụng nữa mà cứ mở miệng

ra là "lão tặc bà", có phải khó nghe không? Ô tiên sinh nói không sai,

Đồng Mỗ quả thực chết về tay sư muội Lý Thu Thủy, cái chân này đúng

là di thể của lão nhân gia. Ôi, nhân sinh như mộng huyễn bào ảnh, như lộ

diệc như điện2, Đồng Mỗ lão nhân gia tuy võ công cao thâm thật nhưng

rồi cũng đến lúc công tán khí tuyệt, trở về với cát bụi mà thôi. Nam Mô

A Di Đà Phật! Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát! Nam Mô Đại Thế Chí Bồ

Tát tiếp dẫn Đồng Mỗ vãng sinh Tây Phương cực lạc thế giới, liên trì tịnh

độ.

Quần hào thấy y nói thao thao bất tuyệt, chuyện Đồng Mỗ đã chết

không còn nghi ngờ gì nữa, ai nấy thở phào một cái. Có kẻ liền hỏi:

- Khi Đồng Mỗ sắp chết, ngươi có ở bên cạnh mụ ta không?

Hư Trúc đáp:

- Có chứ! Suốt mấy tháng cuối cùng, chỉ toàn do tại hạ phục thị lão

nhân gia.

Quần hào đưa mắt nhìn nhau, ai ai cũng chợt nghĩ ngay: "Bảo quyết

phá giải Sinh Tử Phù, không chừng ở ngay trên người gã tiểu tử này".

Một bóng xanh thấp thoáng, ai đó đã lạng đến cạnh Hư Trúc, chộp ngay

mạch môn bên tay trái. Ô Lão Đại thấy sau cổ lạnh ngắt, một vũ khí sắc

bén kề vào rồi có giọng the thé cất lên:

- Ô Lão Đại, mau bỏ y ra!

Ô Lão Đại thấy có người nắm tay trái Hư Trúc biết ngay người sau

lưng mình hẳn là đồng đảng của y cùng ra tay, vừa toan xuất chưởng hộ

thân thì đã muộn. Lại nghe người sau lưng nói:

- Ngươi không buông tay thì kiếm của ta chém xuống bây giờ!

Ô Lão Đại đành buông tay Hư Trúc ra, nhảy vọt về trước mấy bước,

quay đầu nhìn lại nói:

- Châu Nhai song quái, họ Ô này không quên chuyện hôm nay đâu.

2

Kẻ dùng kiếm uy hiếp y là một hán tử cao gầy, cười gian ác:

- Ô Lão Đại, dù ngươi ra đề mục gì, Châu Nhai song quái đều thù

tiếp.

Đại quái đã nắm được tay Hư Trúc, nhị quái liền lục lọi các túi áo

trong người y. Hư Trúc nghĩ thầm: "Các ngươi muốn tra xét gì thì cứ việc,

trong người ta có gì đâu mà kiếm". Nhị quái lấy hết những món đồ trong

túi y, món đầu tiên là bức tranh Tiêu Dao Tử giao cho Hư Trúc, lập tức

mở ra ngay.

Mấy trăm đôi mắt trong đại sảnh liền đổ dồn vào đồ họa. Bức tranh

đã bị Đồng Mỗ dẵm lên mấy lần, về sau lại bị nước trong hầm băng làm

ướt nhẹp thế nhưng hình người trong tranh vẫn linh động như còn sống

tưởng như muốn bước ra ngoài, đan thanh diệu bút, quả là xuất thần nhập

hóa. Mọi người vừa nhìn xong, không hẹn mà cùng quay sang nhìn Vương

Ngữ Yên. Kẻ thì Ồ, kẻ thì À, kẻ thì Hứ, có kẻ lại Hừ. Kẻ kêu Ồ thì thấy

sự việc ra ngoài chiều dự liệu, kẻ kêu À thì làm như đã hiểu ra, kẻ kêu

Hừ thì ra vẻ phẫn nộ, còn kẻ kêu Hứ thì tỏ vẻ khinh khi.

Quần hào vẫn mong trên bức tranh phải là một bản địa đồ hay phong

cảnh núi sông chi đó để mong lần theo tìm cho ra linh dược hay bí quyết

phá giải Sinh Tử Phù, ngờ đâu lại chỉ là một bức chân dung Vương Ngữ

Yên. Sau mấy tiếng ồ à hừ hứ, ai nấy đều tỏ vẻ thất vọng. Chỉ có Đoàn

Dự, Mộ Dung Phục và Vương Ngữ Yên thì đều A lên một tiếng nhưng ba

người mỗi người lại hàm ý khác nhau.

Vương Ngữ Yên thấy Hư Trúc mang theo bên người tiếu tượng của

mình, sau cơn kinh ngạc, hai má đỏ lên nghĩ thầm: "Không lẽ... không lẽ

gã này sau cuộc cờ Trân Lung hôm trước thấy mặt ta một lần, lại cũng

giống như Đoàn công tử, để... để hình bóng ta vào trong lòng hay sao?

Nếu không sao lại vẽ hình ta, dấu ở trong người?".

Đoàn Dự thì nghĩ: "Vương cô nương là tiên trên trời xuống phàm, tư

dung tuyệt thế, vị tiểu sư phụ này vì nàng mà điên đảo mê say thì cũng

không lấy gì làm lạ. Ôi, tiếc thay tài vẽ vời của ta không bằng một phần

nhỏ của chú tiểu, nếu không thể nào ta cũng vẽ chân dung Vương cô

nương, sau này đã cùng nàng chia tay rồi, sáng chiều ngắm bức tranh,

cũng đỡ phần nào mối khổ tương tư".

Mộ Dung Phục lại nghĩ: "Chú tiểu này đúng là con cóc mong được

ăn thịt thiên nga".

Nhị quái liền vứt bức tranh xuống đất, lại tiếp tục lục túi Hư Trúc, lôi

ra một trương độ điệp3 của chùa Thiếu Lâm khi Hư Trúc thế phát qui y,

vài lượng bạc lẻ, vài miếng lương khô, một đôi vớ, xem qua xem lại

không món nào có vẻ liên quan gì đến Sinh Tử Phù. Trong khi Châu Nhai

nhị quái tra xét Hư Trúc, quần hào ai nấy gườm gườm đứng hờm sẵn, chỉ

cần thấy có món gì đặc biệt, lập tức xông lên chiếm đoạt ngay, ngờ đâu

không thấy gì có vẻ khác lạ.

Châu Nhai đại quái liền chửi:

- Đồ giặc thối, khi lão tặc bà sắp chết thì nói gì với ngươi?

Hư Trúc hỏi lại:

- Tiền bối hỏi Đồng Mỗ lúc sắp chết nói gì ư? Ồ, lão nhân gia chỉ

nói: "Không phải nó! Không phải nó! Không phải nó! Ha ha! Ha ha! Ha

ha!" cười to ba tiếng rồi tắt thở.

Quần hào chẳng hiểu ra sao, ai nấy cố gắng suy nghĩ xem cái câu

"Không phải nó" và ba tiếng cười hàm ý gì, những kẻ nóng tính đã mở

mồm chửi rủa. Châu Nhai đại quái lại quát:

- Con mẹ nó, cái gì mà "Không phải nó" với lại chẳng "Ha ha". Lão

tặc bà còn nói gì nữa không?

Hư Trúc nói:

- Tiền bối tiên sinh, mỗi khi tiên sinh đề cập tới Đồng Mỗ lão nhân

gia nên kính trọng một chút là hơn, chẳng nên buông lời chửi rủa.

Châu Nhai đại quái nổi cọc, vung chưởng trái lên đánh xuống đầu

Hư Trúc, vừa đánh vừa chửi:

- Đồ giặc thối kia, ta cứ chửi con mụ giặc già thì đã sao nào?

3

Đột nhiên hàn quang lấp lánh, một thanh trường kiếm bay vụt ra để

ngang trên đầu Hư Trúc, lưỡi kiếm ngửa lên, chưởng của Châu nhai đại

quái nếu còn tiếp tục đánh xuống thì chưa chạm được vào đầu Hư Trúc,

tay y ắt đã bị lưỡi kiếm chặt đứt rồi. Y kinh hoảng vội vàng rụt tay về,

nhưng vì giựt lại mạnh quá nên thân hình cũng bật ngửa về sau, lùi đến

ba bước, cũng không thể kéo Hư Trúc theo nên đành buông tay y ra

nhưng cũng thấy bàn tay đau buốt, giơ lên xem đã thấy một đường cắt cực

nhỏ chạy ngang chưởng tâm, rướm máu, không khỏi vừa sợ vừa tức, nghĩ

thầm nếu như mình chỉ chậm tay một chút thì bàn tay có phải bị tàn phế

rồi không?

Y hầm hầm nhìn kẻ vừa ra kiếm thấy y mặc áo dài xanh, tuổi chừng

năm mươi, râu dài phất phới, diện mục thanh tú, chính là Kiếm Thần

Trác Bất Phàm. Cứ xem y ra tay nhanh như thế, lại cực kỳ chuẩn xác,

đường kiếm của y luyện đã đến mức đăng phong tạo cực. Nhớ lại hôm

trước Âu đảo chủ đảo Kiếm Ngư bỏ chạy, chỉ nháy mắt đã bị Kiếm Thần

chặt đầu, dẫu y tính tình nóng nảy thực, cũng chẳng dại gì gây sự với cao

thủ lợi hại như thế này, bèn hỏi:

- Các hạ ra tay đả thương ta là có dụng ý gì?

Trác Bất Phàm mỉm cười nói:

- Tất cả chúng ta ai cũng muốn gã này chính miệng nói ra cách thức

phá giải Sinh Tử Phù, lão huynh đột nhiên nổi nóng giết quách gã đi, đến

lúc bùa Sinh Tử trong người các anh em phát tác thì lão huynh tính sao

đây?

Châu Nhai đại quái lắp bắp:

- Cái đó... cái đó...

Trác Bất Phàm tra kiếm vào vỏ, hơi nghiêng người, cùi chỏ thúc nhẹ

vào vai nhị quái khiến y đứng không vững, lịch bịch lùi lại đến bốn bước,

khí huyết nhộn nhạo, tưởng chừng muốn ngã, may lắm mới gượng đứng

lại được nhưng không dám mở mồm chửi bới.

Trác Bất Phàm nói với Hư Trúc:

- Tiểu huynh đệ, khi Đồng Mỗ sắp từ trần, ngoài câu "Không phải

nó" và cười ba tiếng ra, có còn nói gì khác nữa không?

Hư Trúc đột nhiên mặt đỏ bừng, thần sắc bẽn lẽn, cúi gầm mặt

xuống, chính vì y nghĩ đến Đồng Mỗ lúc đó có nói: "... Ngươi đem bức

tranh lại đây cho ta, để chính tay ta xé nát. Ta không còn gì vướng mắc,

sẽ chỉ đường cho ngươi đi tìm người trong mộng". Ngờ đâu Đồng Mỗ khi

thấy bức tranh lại nhận ra người trong tranh không phải là Lý Thu Thủy,

vừa đau lòng vừa sung sướng, khi đó mới nhắm mắt xuôi tay. Y nghĩ

bụng: "Đồng Mỗ đã tạ thế rồi, cô nương trong mộng giờ đây không ai còn

biết đâu được nữa, e rằng đời này kiếp này, ta không còn bao giờ được

gặp nàng" trong lòng không khỏi bẽ bàng chua xót.

Trác Bất Phàm thấy y mặt mày khác lạ, lại tưởng y hẳn biết một

chuyện cơ mật trọng đại nên đổi mặt hiền từ, dịu giọng nói:

- Tiểu huynh đệ, Đồng Mỗ quả nói những gì, chú em cứ việc nói với

ta, họ Trác này quyết không làm khó gì chú em đâu, lại còn có việc thật

hay cho chú em nữa.

Hư Trúc lại càng mặt đỏ tía tai, lắc đầu nói:

- Chuyện này, tại hạ... tại hạ quả thật... không thể nào nói ra được.

Trác Bất Phàm hỏi:

- Vì sao mà lại không thể nói ra được?

Hư Trúc đáp:

- Việc này nói ra... nói ra... ôi, nói tóm lại, tôi không thể nói được,

dẫu ông có giết tôi, tôi cũng không nói đâu.

Trác Bất Phàm hỏi lại:

- Có thực ngươi không nói chăng?

Hư Trúc đáp:

- Không nói!

Trác Bất Phàm chăm chăm nhìn y giây lát, thấy vẻ mặt y hết sức

kiên quyết, nghe soẹt một tiếng rút kiếm ra, hàn quang lấp lánh, vụt vụt

vụt vụt, trường kiếm vạch vào một mặt bàn bát tiên, dọc hai nhát, ngang

hai nhát bốn kiếm liền theo hình chữ tỉnh. Lạ lùng sao, chín miếng gỗ vừa

cắt ra dài rộng chật hẹp đều bằng nhau không khác tí nào, tưởng như

dùng thước đo rồi chậm rãi cắt ra. Trong đại sảnh tiếng reo hò vang dậy.

Vương Ngữ Yên nói nhỏ:

- Đường Chu Công Kiếm này, là tuyệt kỹ của Nhất Tự Tuệ Kiếm

Môn ở Kiến Dương, Phúc Kiến. Vị Trác lão tiên sinh này, hẳn phải là cao

thủ kỳ túc của Nhất Tự Tuệ Kiếm Môn.

Quần hào sau khi hoan hô xong ai nấy chăm chăm nhìn Trác Bất

Phàm, không ai nói gì nữa, thành thử tuy nàng nói nhỏ nhưng mấy câu đó

cũng vào tai mọi người thật rõ ràng. Trác Bất Phàm cười ha hả nói:

- Nhãn lực của vị cô nương này quả là giỏi, nói được danh xưng môn

phái và kiếm chiêu của lão hủ. Thật hiếm có thay! Thật hiếm có thay!

Mọi người đều nghĩ: "Sao trước nay chưa từng nghe nói Phúc Kiến

có Nhất Tự Tuệ Kiếm Môn, lão già này kiếm thuật lợi hại đến thế thì

môn phái của y phải danh chấn giang hồ mới phải, sao lại chưa từng nghe

đến là sao?". Chỉ nghe Trác Bất Phàm thở dài một tiếng nói:

- Cả môn phái ta chỉ lão phu đơn chiếc một mình, chẳng còn ai khác.

Sáu mươi hai người đời thứ ba, ba mươi ba năm trước đã bị Thiên Sơn

Đồng Mỗ giết sạch cả rồi.

Mọi người ai nấy rùng mình, nghĩ thầm: "Người này đến cung Linh

Thứu hóa ra là để báo thù cho sư môn". Chỉ thấy Trác Bất Phàm rung

kiếm một cái, nói với Hư Trúc:

- Tiểu huynh đệ, mấy chiêu kiếm pháp đó ta truyền cho ngươi thì

sao?

Lời vừa nói ra, trong đám người có lắm kẻ tỏ ra ngưỡng mộ, nhưng

cũng không ít người tỏ ra hầm hừ. Người học võ nếu được cao nhân để

mắt đến, dạy cho một chiêu vài thức thì cả đời dùng không hết, dương

danh thiên hạ, lập thân bảo mệnh, cũng nhờ đó mà ra. Thế nhưng kẻ tàn

ác học xong rồi quay lại phản sư, không phải là không có, cho nên võ học

cao thủ chọn học trò rất nghiêm nhặt. Trác Bất Phàm bằng lòng đem

kiếm thuật thượng thừa truyền cho Hư Trúc, cũng chỉ vì muốn biết di

ngôn của Đồng Mỗ thế nào để lấy được lá bùa Sinh Tử.

Hư Trúc chưa kịp hồi đáp, một giọng đàn bà từ trong đám người lạnh

lùng hỏi:

- Trác tiên sinh cũng bị trúng Sinh Tử Phù ư?

Trác Bất Phàm nhìn về người đó, thấy là một đạo cô trung niên liền

hỏi:

- Sao tiên cô lại hỏi thế?

Đoàn Dự nhận ra đạo cô đó chính là động chủ Vô Lượng Động nước

Đại Lý Tân Song Thanh. Bà ta vốn là chưởng môn Tây Tông của Vô

Lượng Kiếm, được bộ thuộc của Đồng Mỗ thu phục, đổi thành động chủ

Vô Lượng Động. Trong những ngày vừa qua, chàng không dám để cho

Tân Song Thanh chạm mắt với mình, cũng chẳng dám đến gần bộ hạ của

bà ta là Tả Tử Mục, sợ bọn họ đòi nợ cũ, bây giờ nghe mụ ta lên tiếng,

vội vàng lẻn ra sau Bao Bất Đồng.

Tân Song Thanh nói:

- Nếu như Trác tiên sinh không bị cái họa Sinh Tử Phù, việc gì phải

thiên phương bách kế cầu cách phá giải cho bằng được? Nếu như Trác

tiên sinh có ý hiếp chế bọn ta, thì anh em ba mươi sáu động, bảy mươi hai

đảo chưa chắc đã cam tâm chịu cảnh vừa thoát miệng hùm, lại rơi vào

hàm sư tử. Trác tiên sinh tuy kiếm pháp thông thần, thế nhưng nếu dồn

bọn ta đến nước cùng, thì sống chết gì cũng nhất quyết một phen trống

mái.

Mấy câu đó không phách lối mà cũng không hạ mình, ngôn từ sắc

bén vạch trần dụng tâm của Trác Bất Phàm lởi lẽ cứng cỏi như dồn ép

người ta. Quần hào lập tức có đến mươi người hưởng ứng:

- Lời của Tân động chủ đúng lắm.

Lại cũng có người nói:

- Tiểu tử, Đồng Mỗ quả có di ngôn gì, ngươi mau nói cho mọi người

nghe, nếu không bọn ta sẽ băm vằm ngươi ngàn vạn nhát, chẳng sung

sướng gì đâu.

Trường kiếm của Trác Bất Phàm rung một cái, kêu lên u u nói:

- Tiểu huynh đệ không việc gì phải sợ, cứ ở bên cạnh ta xem đứa

nào dám đụng đến một sợi lông của chú không nào? Di ngôn của Đồng

Mỗ chỉ nên nói cho một mình ta nghe, nếu có người thứ ba nghe được thì

kiếm pháp ta không truyền thụ cho ngươi nữa.

Hư Trúc vẫn lắc đầu quầy quậy:

- Di ngôn của Đồng Mỗ chỉ có quan hệ đến một mình tôi, và một

người khác nữa, còn hoàn toàn không dính dáng gì đến các vị. Nói đi nói

lại, dù gì chăng nữa, tại hạ nhất quyết không nói. Kiếm pháp của tiền bối

tuy cao siêu thật nhưng tôi cũng chẳng muốn học làm gì.

Quần hào liền reo hò phụ họa:

- Đúng! Đúng lắm! Hảo tiểu tử, quả là cứng cỏi, kiếm pháp của y

học làm đếch gì?

- Cả đến một cô gái ẻo lả như thế kia, cũng chỉ một câu đã nói ngay

được lai lịch kiếm chiêu, đủ biết có gì là hi kỳ đâu.

Lại có người nói:

- Vị cô nương này đã nói ra được lai lịch kiếm pháp, ắt cũng có tài

phá được kiếm pháp của y. Tiểu huynh đệ, nếu có bái sư thì bái tiểu cô

nương kia làm thầy có phải hơn không? Huống chi trong người ngươi lại

giữ hình vẽ của cô gái đó, ha ha, hẳn là mong được nhận cô ta làm thầy

rồi còn gì?

Trác Bất Phàm nghe hết người nọ đến người kia dè bỉu, hết sức tức

tối, đưa mắt nhìn Vương Ngữ Yên, một hồi lâu thấy nàng không nói năng

gì cả nổi giận, nghĩ thầm: "Có người nói là ngươi phá được kiếm pháp

của ta, ngươi lại không lên tiếng phủ nhận, thế có khác gì đồng ý hay

sao?". Thực ra trong lòng Vương Ngữ Yên chỉ nghĩ: "Tại sao thần sắc

biểu ca không lấy gì làm vui vẻ? Hay là giận dỗi gì ta chăng? Ta có chỗ

nào đắc tội với chàng? Không lẽ... không lẽ chỉ vì tiểu sư phụ kia vẽ hình

ta mang kè kè bên người, cho nên biểu ca mới khó chịu?". Chính vì thế

người ngoài ai nói gì nàng hoàn toàn không hề để lọt vào tai.

Trác Bất Phàm lại đưa mắt nhìn đến bức quyển trục vứt lăn lóc dưới

đất, trong bụng tính toán thầm: "Tên tiểu tử này vẽ hình cô ta dấu ở trong

người, đủ biết đối với cô ta hết sức tình ý. Nếu ta muốn y thổ lộ di ngôn

của Đồng Mỗ, không thể không mượn tay con bé này! Được rồi!". Y nhặt

đồ họa lên nhét vào túi Hư Trúc nói:

- Tiểu huynh đệ, bụng dạ chú ra sao ta biết cả rồi. Ha ha! Trai tài gái

sắc, quả đúng là duyên trời khéo se. Có điều lắm kẻ thọc gậy bánh xe,

ngươi muốn xứng tâm như ý, xem ra không phải dễ. Nếu đã vậy, để ta lo

liệu giùm cho, đem vị cô nương đó cưới cho chú về làm vợ, lập tức làm lễ

cưới, tối nay động phòng ngay tại cung Linh Thứu này, liệu có được

không?

Nói rồi cười hì hì chỉ vào Vương Ngữ Yên.

Khi toàn thể thầy trò môn phái Nhất Tự Tuệ Kiếm Môn bị Đồng Mỗ

tàn sát thì may sao Trác Bất Phàm không có mặt tại Phúc Kiến, cho nên

thoát nạn, về sau không dám bén mảng trở về, chạy đến nơi hoang vắng

tịch mịch trong dãy Trường Bạch nghiên tập kiếm pháp, vô tình được một

bộ kiếm kinh của một cao thủ tiền bối để lại, cần luyện ba mươi năm, sau

cùng kiếm thuật đại thành, tự cho mình là thiên hạ vô địch. Kỳ này y xuất

sơn, vừa đến Hà Bắc đã giết ngay một hảo thủ danh tiếng lừng lẫy, lại

càng cuồng vọng, cho rằng thanh kiếm trong tay mình trên đời không ai

địch lại, nói gì làm nấy, còn ai dám chống lại nữa?

Hư Trúc mặt đỏ bừng, vội kêu lên:

- Không! Không! Trác tiên sinh chớ có hiểu lầm.

Trác Bất Phàm đáp:

- Trái lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, chuyện say mê phải lòng, âu

cũng là thường tình, có gì mà xấu mặt?

Hư Trúc lại càng bối rối vạn phần, luôn mồm kêu:

- Cái đó... cái đó... không phải thế...

Trường kiếm Trác Bất Phàm rung động, tung ra một chiêu Thiên

Như Khung Lô, kế đó là chiêu Bạch Vụ Mang Mang, hai chiêu quyện lại

với nhau tấn công Vương Ngữ Yên, định dùng kiếm quang bao chặt nàng

làm món hàng trao đổi với Hư Trúc, ép y phải thổ lộ bí mật.

Vương Ngữ Yên vừa thấy hai chiêu kiếm, trong lòng nghĩ ngay: "Hai

chiêu Thiên Như Khung Lô và Bạch vụ Mang Mang đều chỉ mười hư một

thực, chỉ cần tấn công thẳng vào trung cung ngay giữa người y là đủ ép y

phải thu chiêu về".

Thế nhưng tuy trong lòng đã nghĩ được phép phá giải, công phu trên

tay lại không thể tung ra, trước mắt kiếm quang lấp lánh, vù vù quay trên

đầu mình, kinh hoàng kêu lên một tiếng.

Mộ Dung Phục thấy hai chiêu của Trác Bất Phàm không có ý đả

thương Vương Ngữ Yên, nghĩ thầm: "Ta không việc gì phải vội, để xem

lão họ Trác này định làm trò quỉ gì? Tiểu hòa thượng kia liệu có vì biểu

muội ta mà thổ lộ bí mật hay không?".

Thế nhưng Đoàn Dự thấy kiếm chiêu của Trác Bất Phàm tấn công

Vương Ngữ Yên nào có hiểu hư hay thực, kinh hoảng thất sắc, trong cơn

nguy cấp chân liền thi triển Lăng Ba Vi Bộ xông ngay ra chặn trước mặt

Vương Ngữ Yên. Kiếm chiêu của Trác Bất Phàm tuy nhanh thật nhưng

Đoàn Dự vẫn đi trước một bước. Trường kiếm hàn quang lấp loáng, soẹt

một tiếng nhỏ, mũi kiếm đã vạch trước ngực Đoàn Dự một đường từ cổ

chạy xuống bụng, áo liền rách toạc, chạm cả vào da. Cũng may Trác Bất

Phàm chỉ muốn ép cho Hư Trúc phải nói ra điều bí mật, không cố ý sát

thương gây chuyện, nên kiếm chiêu đó đã có chuẩn tắc, vết thương tuy

dài nhưng rất nhẹ. Đoàn Dự sợ đến chết sững, nhìn xuống thấy vết thương

nơi ngực và bụng mình dài như thế, máu chảy chan hòa, lại tưởng mình

đã vỡ ngực, lòi ruột ra rồi chẳng bao lâu sẽ chết, kêu lên:

- Vương cô nương, cô... cô mau trốn đi, để tôi xông ra ngăn y lại.

Trác Bất Phàm cười khẩy nói:

- Ốc đã chẳng mang nổi mình ốc, lại còn đòi mang gộc cho rêu, mình

lo mình chưa xong còn đòi bao đồng chuyện người khác.

Y quay sang nói với Hư Trúc:

- Tiểu huynh đệ, xem ra kẻ để ý đến cô nương này không phải là ít,

để ta giúp ngươi trừ bớt một tình địch, nên chăng?

Trường kiếm của y chỉ ngay vào ngực Đoàn Dự, chỉ cách chừng một

tấc, mũi kiếm rung rung, chỉ cần đẩy nhẹ một cái thì sẽ đâm ngay vào

tâm tạng. Hư Trúc hoảng hốt kêu lên:

- Không được! Nhất định là không được!

Y sợ Trác Bất Phàm gia hại Đoàn Dự nên vươn tay trái ra, ngón tay

út phất nhẹ vào huyệt Thái Uyên nơi cổ tay phải, Trác Bất Phàm tay liền

tê đi, năm ngón tay cầm kiếm bủn rủn lơi ra, Hư Trúc thuận tay chộp lấy

thanh kiếm. Phép đoạt kiếm đó chính là một cao chiêu trong Thiên Sơn

Chiết Mai Thủ, trông thì thật bình thường nhưng thực ra ngón tay út khi

phất ra đã hàm chứa môn Tiểu Vô Tướng Công tối thượng thừa, dẫu Trác

Bất Phàm công lực có thêm ba bốn chục năm nữa thì trường kiếm trong

tay cũng vẫn bị đoạt mất. Hư Trúc nói:

- Trác tiên sinh, vị Đoàn công tử đây là người tốt, không nên hại đến

tính mệnh của y.

Y thuận tay giao kiếm trả lại cho Trác Bất Phàm rồi cúi xuống xem

xét vết thương của Đoàn Dự. Đoàn Dự thở hắt ra:

- Vương cô nương, ta... ta sắp chết rồi, chúc cô nương cùng Mộ Dung

huynh được trăm năm ngang mày4, bạch đầu giai lão. Cha ơi, mẹ ơi...

con... con...

Thương thế của chàng vốn dĩ không có gì là nặng nhưng tưởng bụng

dạ mình đã bị mổ banh ra rồi, thể nào cũng chết, vừa tiết khí người đã

ngã ngửa về sau. Vương Ngữ Yên vội xông lên đỡ lấy, sụt sùi nói:

- Đoàn công tử, chàng chỉ vì thiếp mà...

Hư Trúc ra tay nhanh như gió, điểm các huyệt đạo chung quanh vết

thương, coi lại thương khẩu, lúc đó mới yên tâm, cười nói:

4

- Đoàn công tử, kiếm thương không có gì đáng ngại, chỉ ba bốn ngày

là lành.

Đoàn Dự được Vương Ngữ Yên đỡ, lại thấy nàng vì mình khóc lóc

đã sớm mê mẩn cả người, trong lòng cực kỳ vui sướng, hỏi lại:

- Vương cô nương, nàng... nàng vì ta mà rơi nước mắt đấy ư?

Vương Ngữ Yên gật đầu, giọt châu lại lã chã rơi xuống. Đoàn Dự

nói:

- Đoàn Dự này được như hôm nay thì dù y có đâm thêm mười nhát

nữa, vì nàng mà chết đến trăm lần thì cũng cam tâm.

Lời của Hư Trúc hai người chẳng ai để vào tai. Vương Ngữ Yên

trong lòng cảm kích, tự trách thầm mình. Đoàn Dự thấy ý trung nhân nước

mắt rưng rưng, lại biết những giọt lệ kia là vì mình thì còn coi chuyện

sống chết vào đâu?

Hư Trúc đoạt kiếm hoàn kiếm, chỉ trong nháy mắt, trừ Mộ Dung

Phục nhìn thấy và Trác Bất Phàm biết rõ, người ngoài ai cũng tưởng

Kiếm Thần thủ hạ lưu tình, cố ý không giết Đoàn Dự. Thế nhưng Trác

Bất Phàm vừa kinh hãi, vừa tức giận thật khó mà hình dung, nghĩ thầm:

"Ta ở núi Trường Bạch may mắn có được kiếm kinh của người xưa để lại,

khổ luyện ba mươi năm, trên đời còn ai là địch thủ? Đúng rồi, chắc là tên

tiểu tử này lạng quạng làm sao đụng vào huyệt Thái Uyên của ta. Trên

đời việc gì xảo diệu đến đâu cũng có thể có, chứ nếu quả thực y muốn

đoạt binh khí thì cầm được kiếm rồi sao còn trả lại? Xem tiểu tử này tuổi

còn non choẹt, tài cán được bao lăm mà đoạt được kiếm trong tay Trác

mỗ?".

Y nghĩ như thế, hào khí trỗi dậy nói:

- Tiểu tử, ngươi quả là đa sự.

Y vung kiếm ra, mũi kiếm đã để ngay lên áo sau lưng Hư Trúc, thủ

kình hơi nhấn, định cắt đứt áo y cũng như đã làm với Đoàn Dự cho y nếm

chút đau khổ thịt da. Bấy giờ Bắc Minh chân khí lưu chuyển toàn thân Hư

Trúc chẳng khác gì một khối đặc, kiếm của Trác Bất Phàm vừa đâm vào,

kiếm liền lệch đi, mũi kiếm trượt qua một bên. Trác Bất Phàm kinh hãi

quá, biến chiêu cực nhanh, lập tức lia ngang sườn Hư Trúc. Chiêu Ngọc

Đái Vi Yêu này một kiếm liên tiếp tấn công trước, sau và bên phải ba bộ

vị, toàn là những chỗ chí mệnh, thật là độc địa. Bấy giờ y đã biết Hư Trúc

võ công cực cao, thật ngoài sức tưởng tượng của mình nên chiêu này sử

dụng toàn lực.

Hư Trúc ối lên một tiếng, người hơi nghiêng qua, không hiểu sao

Trác Bất Phàm vừa mới nói ngon nói ngọt, lại đột nhiên lật mặt ra chiêu

sát thủ? Soẹt một tiếng, mũi kiếm đâm suốt qua dưới nách y, xé rách một

đường dài trên chiếc tăng bào cũ kỹ. Chiêu tấn công thứ hai của Trác Bất

Phàm không trúng, ngoài năm phần kinh ngạc còn thêm năm phần hoảng

vía, thân hình liền xoay nửa vòng, trường kiếm dựng lên, mũi kiếm hiện

ra một tia ánh sáng xanh chừng nửa thước vươn ra thụt vào. Trong đám

đông có đến chục người reo lên:

- Kiếm mang! Kiếm mang!

Luồng ánh sáng đó chẳng khác gì một con rắn uốn éo, Trác Bất

Phàm nở một nụ cười bí hiểm, đưa chân khí từ đan điền lên, đầu kiếm đột

nhiên sáng rực, đâm thẳng vào ngực Hư Trúc.

Hư Trúc chưa từng thấy binh khí của ai lại tỏa ra ánh sáng xanh bao

giờ, nghe quần hào hò reo, đoán chừng đây là một môn võ công cực kỳ

lợi hại, mình không thể nào đối phó nổi, chân lách một cái đã dạt qua

một bên. Chiêu đó của Trác Bất Phàm đã dùng toàn lực, giữa đường

không cách gì biến chiêu được, nghe cạch một tiếng, trường kiếm đâm

vào một cột đá lớn, ngập sâu cả thước. Cái cột đó làm bằng đá hoa cương

cực kỳ cứng rắn, vậy mà thanh kiếm mềm đâm vào hơn một thước, đủ

biết chân lực y dồn vào mũi kiếm ghê gớm đến chừng nào, quần hào nhịn

không nổi lại reo hò vang dậy.

Trác Bất Phàm sử kình vào cánh tay rút kiếm ra, lại múa kiếm tấn

công Hư Trúc, miệng quát:

- Tiểu huynh đệ, chú mày còn chạy đi đâu nữa đây?

Hư Trúc trong bụng bàng hoàng, lại tránh thêm lần nữa.

5

Bên cánh trái đột nhiên có tiếng người cười khẩy nói:

- Chú tiểu kia, ngã xuống!

Đó là giọng một người đàn bà, rồi có hai luồng bạch quang thấp

thoáng, hai ngọn phi đao bay về phía Hư Trúc. Hư Trúc khi cõng Đồng

Mỗ được bà ta chỉ điểm một chút khinh công, nhưng y nội lực cực kỳ hồn

hậu, giơ tay nhắc chân dĩ nhiên nhanh nhẹn dị thường, thân tùy ý chuyển,

phi đao tuy nhanh nhưng y vẫn nhẹ nhàng tránh được. Lại thấy một mỹ

phụ trung niên mặc áo màu hồng nhạt vung tay lên đã bắt được hai thanh

phi đao tưởng chừng như lòng bàn tay có một hấp lực cực mạnh, hút phi

đao bay trở về.

Trác Bất Phàm lên tiếng khen:

- Thần kỹ phi đao của Phù Dung tiên tử quả khiến mọi người được

mở to con mắt.

Hư Trúc chợt nhớ ra hôm mọi người cùng nhau mưu tính chuyện tấn

công Phiêu Miểu Phong thì Bất Bình đạo nhân, Trác Bất Phàm và Phù

Dung tiên tử cùng một phe, Bất Bình đạo nhân đã bị mình dùng trái tùng

giết chết ở trên núi tuyết, thảo nào hai người muốn giết mình để báo thù

cho đồng bạn. Y cảm thấy hối hận, liền dừng chân, quay sang Trác Bất

Phàm và Phù Dung tiên tử liên tiếp vái dài nói:

- Tại hạ quả là phạm phải sai lầm thật lớn, thật đáng chết, tuy nhiên

khi đó không phải cố ý, ôi, dẫu sao cũng đã phạm phải một lỗi tày trời

không sao lấy lại được. Hai vị muốn đánh muốn chửi, ta... ta cũng... ta

cũng không dám tránh né nữa.

Trác Bất Phàm và Phù Dung tiên tử Thôi Lục Hoa hai người nhìn

nhau, cùng nghĩ thầm: "Tiểu tử này quả nhiên sợ rồi". Thực ra hai người

nào có biết là Bất Bình đạo nhân đã chết về tay Hư Trúc chứ nếu biết

được thì đã giết y để báo thù rồi. Hai người cũng một tâm tư, lập tức xông

ra mỗi người nắm một tay Hư Trúc.

Hư Trúc nghĩ đến thảm trạng của Bất Bình đạo nhân khi chết, trong

lòng ăn năn vạn phần, không ngớt rền rĩ:

- Việc sai lầm của tại hạ, có hối cũng không kịp. Hai vị cứ trách phạt

thật nặng, ta cam tâm chịu nhận, dù cho có giết đi để đền mạng, tại hạ

cũng không chống lại.

Trác Bất Phàm nói:

- Ngươi nếu muốn ta không giết thì cũng dễ thôi, chỉ cần đem di

ngôn của Đồng Mỗ lúc lâm chung, nói hết đầu đuôi cho ta nghe thì ta sẽ

tha cho.

Thôi Lục Hoa mỉm cười:

- Trác tiên sinh, tiểu muội có được nghe hay chăng?

Trác Bất Phàm nói:

- Nếu chúng ta tìm được pháp môn phá giải Sinh Tử Phù, tất cả anh

em ở đây ai ai cũng được hưởng ơn mưa móc, nào phải chỉ một mình tại

hạ được lợi đâu?

Y không nói bằng lòng cho Thôi Lục Hoa cùng nghe chuyện bí mật,

cũng chẳng nói không cho mụ ta cùng nghe nhưng cứ kiểu nói như thế có

ý muốn chiếm lấy thành quả một mình. Thôi Lục Hoa mỉm cười nói:

- Tiểu muội thật chẳng có cái gì gọi là lương tâm như hiền huynh, chỉ

thấy gã này không vừa mắt chút nào.

Tay trái mụ ta nắm chặt tay Hư Trúc, tay phải vung lên, hai mũi phi

đao đâm vào ngực Hư Trúc. Đồng Mỗ chết rồi, mối thù sư môn của Trác

Bất Phàm khó mà báo được, lúc này y chỉ còn tính nước kiếm được cách

giải Sinh Tử Phù để hiếp chế quần hào ngõ hầu tác yêu tác quái.

Thế nhưng dụng tâm của Thôi Lục Hoa hoàn toàn khác hẳn. Anh trai

mụ ta bị ba động chủ trong số ba mươi sáu động hùa nhau giết chết nên

tính chuyện trừ khử Hư Trúc thì sẽ không còn ai biết được di ngôn của

Đồng Mỗ thế nào, Sinh Tử Phù trên ba động chủ kia vĩnh viễn không sao

giải được, ắt sẽ chết một cách thảm khốc gấp trăm lần anh mình, còn hơn

là tự mình giết họ báo thù, thành thử bất thần tung ra sát thủ. Bà ta ra tay

cực nhanh, trường kiếm của Trác Bất Phàm đã bỏ vào trong bao rồi, vội

vàng rút ra nhưng xem chừng chậm mất một bước.

Hư Trúc kinh hoảng, không còn kịp suy nghĩ gì nữa, hai tay tự nhiên

vùng một cái, hất cả Trác Bất Phàm lẫn Thôi Lục Hoa văng ra. Thôi Lục

Hoa quát lên một tiếng, phi đao rời khỏi tay, bay vụt vào người Hư Trúc.

Tuy mụ ta bị hẩy ra ngoài mấy bước thật nhưng cứ theo phép ném ám khí

mà luận, hai bên cách nhau như thế là quá gần. Trác Bất Phàm sợ Hư

Trúc bị giết liền giơ kiếm lên chặn phi đao. Thôi Lục Hoa cũng đã tính

đến nước Trác Bất Phàm dùng kiếm cứu Hư Trúc, nên hai phi đao vừa

ném ra, lại liên tiếp ném luôn mười ngọn đao nữa, trong đó ba thanh ném

vào Trác Bất Phàm, cốt để cầm chân y, còn lại bẩy mũi dao ném vào Hư

Trúc, trên mặt, yết hầu, giữa ngực, dưới bụng chỗ nào cũng bị phi đao

bao phủ.

Hai tay Hư Trúc liên tiếp chộp ra, sử dụng công phu Thiên Sơn Chiết

Mai Thủ, bắt đến đâu ném bỏ đến đó, chỉ nghe leng keng loong coong

bất tuyệt, chỉ nháy mắt đã vứt tất cả mười ba món binh khí xuống dưới

chân. Mười hai món là phi đao của Thôi Lục Hoa, còn món thứ mười ba

là trường kiếm của Trác Bất Phàm. Thì ra khi y sử dụng Thiên Sơn Chiết

Mai Thủ, trong khi gấp rút, đâu còn kịp suy nghĩ đối thủ là ai, chỉ thấy

binh khí là bắt lấy ngay, thuận tay đoạt luôn cả trường kiếm của Trác Bất

Phàm ném xuống.

Y đoạt xong mười ba món binh khí rồi, ngẩng đầu lên thấy Trác Bất

Phàm mặt xám ngoét như gà cắt tiết, quay lại nhìn Thôi Lục Hoa thấy mụ

ta mắt trợn tròn, nghĩ thầm: "Hỏng rồi! Hỏng rồi! Mình lại đắc tội với

người ta nữa!". Y vội vàng nói:

- Xin hai vị đừng trách, tại hạ hành sự quả là lỗ mãng.

Y cúi xuống nhặt mười ba món binh khí, hai tay bưng lên đưa tới

trước mặt Trác Thôi hai người. Thôi Lục Hoa lại tưởng y cố ý làm nhục

mình, vận sức vào hai bàn tay đánh thẳng vào ngực Hư Trúc. Chỉ nghe

bịch một tiếng, một luồng lực đạo cực kỳ mãnh liệt phản kích lại, Thôi

Lục Hoa kêu lên một tiếng, thân hình bay ngược về sau, bình một tiếng,

giáng mạnh vào bức tường đá, miệng hộc máu tươi.

Trác Bất Phàm kỳ này liên thủ với Bất Bình đạo nhân, Thôi Lục

Hoa, trước đó đã ngầm đo lường võ công nội lực của nhau, tuy y có trội

thật, nhưng cũng chỉ nhỉnh hơn hai người kia một chút, bây giờ thấy Hư

Trúc hai tay bưng binh khí, chỉ dùng chân khí trong cơ thể, đã hất Thôi

Lục Hoa văng ra trọng thương, mình không thể nào sánh kịp. Y biết hôm

nay mình không còn làm được gì, vòng hai tay đưa lên chào Hư Trúc nói:

- Bội phục! Bội phục! Hậu hội hữu kỳ!

Hư Trúc nói:

- Xin tiền bối lấy lại trường kiếm, tại hạ vô ý mạo phạm, mong tiền

bối đừng để bụng. Tiền bối muốn đánh muốn chửi gì để cho hả cơn tức

chuyện Bất Bình đạo trưởng, tôi... tôi nhất quyết không phản kháng.

Thế nhưng Trác Bất Phàm nghe vào tai lại tưởng y buông lời nhạo

báng, mặt xám như chì vùng vằng quay mình đi ra ngoài sảnh.

Bỗng nghe có tiếng đàn ba lanh lảnh kêu lên:

- Đứng lại đã! Linh Thứu Cung là chỗ nào mà lại để cho ngươi muốn

đến thì đến, muốn đi thì đi là sao?

Trác Bất Phàm giật mình, lập tức đưa tay lên cán kiếm, vừa để tay

xuống đè vào chỗ không mới nhớ ra là trường kiếm đã bị Hư Trúc đoạt

mất rồi. Một tảng đá lớn đã chặn ngay trước đại môn, cao phải hai

trượng, ngang một trượng, vít chặt cửa không còn chỗ hở, không biết âm

thầm di chuyển đến từ bao giờ mà sao không một ai phát giác.

Quần hào thấy tình hình như thế, biết mình đã bị hãm vào trong cơ

quan của Linh Thứu Cung. Cả bọn đánh thẳng một mạch lên, gặp bọn

đàn bà áo vàng giết được ai thì giết, bắt được ai thì bắt, một trận sạch

sành sanh, vào trong đại sảnh, tra xét bốn bề không thấy phục binh kế đó

có người bị Sinh Tử Phù phát tác, trông người mà nghĩ đến ta, thêm

những biến cố liên tiếp, đâu còn ai nghĩ đến mình đang ở trong hiểm địa,

nguy cơ bốn bề, bây giờ thấy tảng đá chắn mất cửa chính mới giật mình:

"Hôm nay muốn ra khỏi cung Linh Thứu, xem ra không phải chuyện

đùa".

Bỗng nghe trên đầu có tiếng đàn bà nói:

- Bốn sứ tì tọa hạ của Đồng mỗ mỗ, tham kiếm Hư Trúc tiên sinh.

Hư Trúc ngửng đầu lên, thấy trên cao chót vót gần tới nóc nhà, có

chín tảng đá nhô ra, chẳng khác gì chín cái bình đài nho nhỏ, trên bốn cái

bệ có bốn thiếu nữ tuổi chừng mười tám mười chín, đang uyển chuyển cúi

chào. Bốn thiếu nữ tham kiến xong, cùng nhẹ nhàng nhảy ra, thân hình

còn đang ở trên không tay mỗi người đã cầm một thanh trường kiếm, phất

phới đáp xuống.

Bốn cô gái đó một người mặc quần áo màu hồng nhạt, một người

mặc màu trắng ngà, một người mặc màu cánh trả, còn người thứ tư mặc

áo màu vàng, cùng nhảy ra một lượt, cùng xuống tới đất, lại cùng quay về

Hư Trúc phục xuống lạy nói:

- Sứ tì nghinh tiếp chậm trễ, xin chủ nhân thứ tội.

Hư Trúc chắp tay trả lễ nói:

- Bốn vị tỉ tỉ bất tất đa lễ.

Bốn cô gái cùng ngẩng đầu lên, mọi người ai nấy giật mình. Chỉ thấy

cả bốn người cao bằng nhau, người cũng mảnh mai như nhau, mặt mũi

giống hệt, cũng mặt trái soan, mắt đen lay láy, thanh tú khác thường, có

khác chăng chỉ là màu quần áo.

Cô gái mặc áo màu cánh sen nói:

- Bốn chị em tì tử cùng một bọc sinh tư, Đồng mỗ mỗ đặt tên cho

tiểu tì là Mai Kiếm, còn ba cô em đây là Lan Kiếm, Trúc Kiếm, Cúc

Kiếm6. Vừa rồi gặp các vị tỉ muội Hạo Thiên, Chu Thiên mới biết đầu

đuôi mọi chuyện. Hiện tại tì tử đã đóng chặt cửa Độc Tôn Sảnh lại rồi,

bọn nô tài to gan làm phản này xử trí ra sao, xin chủ nhân phát lạc.

Quần hào thấy cô ta tự xưng là bốn chị em đồng bào, bấy giờ mới

hiểu, thảo nào giống hệt nhau, lại thêm dung nhan tú lệ, ăn nói thanh tao,

ai nấy đều có bụng mến, ngờ đâu nói đến câu sau cùng, Mai Kiếm gọi

mình là "bọn nô tài to gan làm phản", quả là hết sức vô lễ, lập tức có hai

6

hán tử xông ra, một người cầm đơn đao, một người cầm đôi phán quan

bút, cùng quát mắng:

- Con nhãi kia, ngươi tràng ba khoát bảy nói...

Đột nhiên lóe lên một luồng ánh sáng xanh thấp thoáng, trường kiếm

Lan Kiếm, Trúc Kiếm đã vung ra, kế đó là tiếng loảng xoảng, hai cổ tay

của hai gã kia đã bị chém đứt, cả bàn tay lẫn binh khí đều rơi. Chiêu đó

nhanh nhẹn khôn tả, hai người tay đã cụt rồi, miệng vẫn còn tiếp:

- ... tầm bậy tầm bạ! Ối ối!

Hai người cùng la hoảng lên, nhảy ngược về sau, máu me vung vãi

đầy mặt đất. Hai cô gái vừa ra tay đã chặt đứt cổ tay hai gã kia, những

người còn lại tuy cũng tự cho rằng võ công mình cao hơn hai người kia

nhiều, nhưng cũng chẳng một ai dám tiến ra động thủ, huống chi thấy bốn

phía tòa đại sảnh này đều bằng đá hoa cương dày chắc lạ thường, không

biết bên trong còn dấu cơ quan gì lợi hại, ai nấy mặt mày bần thần, không

người nào dám lên tiếng.

Trong đám đông đột nhiên ai đó kêu lên khè khè phá tan bầu không

khí yên lặng. Mọi người đều thất sắc biết ngay lại có người bị lá bùa Sinh

Tử đòi mạng, một đại hán cao to như tượng đồng đen nhảy ra, hai mắt đỏ

ngầu, giơ tay cào xé y phục trước ngực, lập tức không ít người kêu lên:

- Chúa đảo Thiết Ngao! Chúa đảo Thiết Ngao Cáp Đại Bá.

Gã họ Cáp mồm kêu la, vùng vẫy như một con mãnh hổ bị thương,

giơ nắm tay to như cái bát, bình một tiếng, đấm xuống một chiếc trà kỷ

vỡ tan tành rồi xông thẳng vào Cúc Kiếm.

Cúc Kiếm thấy bộ dạng gớm ghiếc của y, quên mất rằng mình kiếm

pháp cao cường, sợ hãi, vội nhảy vào lòng Hư Trúc. Cáp Đại Bá giơ hai

bàn tay to như hai chiếc quạt nan chộp vào Mai Kiếm. Bốn chị em sinh tư

này tâm ý tương thông, Cúc Kiếm sợ đến run bắn lên, Mai Kiếm cũng đã

cảm ứng rồi, vừa thấy Cáp Đại Bá xông tới, cũng kinh hoảng kêu lên một

tiếng, lẻn vào trốn sau lưng Hư Trúc.

Cáp Đại Bá chộp không trúng, vung hai tay định quay lại móc mắt

mình ra. Hư Trúc kêu lên:

- Không được!

Y phất tay áo một cái, trúng ngay khuỷu tay Cáp Đại Bá, hai tay gã

liền thõng xuống. Hư Trúc nói:

- Vị huynh đài này bị Sinh Tử Phù trong cơ thể phát tác, tại hạ muốn

tìm cách chữa cho y.

Y lập tức sử dụng chiêu Dương Ca Thiên Quân trong Thiên Sơn Lục

Dương Chưởng vỗ lên huyệt Linh Đài trên lưng Cáp Đại Bá. Cáp Đại Bá

rùng mình luôn mấy cái, toàn thân uể oải tưởng như không còn hơi sức gì

cả. Bỗng nhiên thanh quang thấp thoáng, hai thanh trường kiếm từ hai

bên đâm vào Cáp Đại Bá, chính là do Lan Kiếm, Trúc Kiếm thừa cơ tấn

công. Hư Trúc nói:

- Không nên!

Y vung tay đoạt luôn hai thanh kiếm, lẩm bẩm:

- Chết thật! Chết thật! Biết được y bị trúng Sinh Tử Phù vào chỗ nào

đây?

Hư Trúc tuy học được phép phá giải Sinh Tử Phù nhưng dẫu sao kiến

thức thiển lậu, nhìn không ra Cáp Đại Bá bị trúng Sinh Tử Phù ở nơi nào,

chiêu Dương Ca Thiên Quân ra tay quá mạnh khiến cho Cáp Đại Bá chịu

không nổi. Cáp Đại Bá lắp bắp:

- Trúng... trúng... tại... tại...Huyền Khu... Khí... Khí... Hải... Ti...

Không Trúc...

Chiêu Dương Ca Thiên Quân của Hư Trúc đã khiến cho thần trí Cáp

Đại Bá tỉnh táo lại rồi. Hư Trúc mừng rỡ nói:

- Tự huynh đài biết được thì hay lắm.

Lập tức dùng pháp môn Đồng Mỗ truyền thụ cho, dùng sức thuần

dương của Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải hàn băng Sinh Tử Phù

tại ba huyệt Huyền Khu, Khí Hải và Ti Không Trúc.

Cáp Đại Bá đứng thẳng dậy, hoa chân múa tay mừng rỡ như người

điên, đột nhiên quì phục xuống, bình bình bình rập đầu lạy Hư Trúc

miệng nói:

- Ân công ở trên, tính mạng Cáp Đại Bá này là do lão nhân gia ban

cho, từ nay về sau ân công có sai bảo gì, Cáp Đại Bá dù phải nhảy vào

nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng không từ nan.

Hư Trúc đối với người trước nay cung cẩn, thấy Cáp Đại Bá hành lễ,

cũng vội vàng quì xuống hoàn lễ, bình bình bình khấu đầu đáp lại nói:

- Tại hạ không dám nhận trọng lễ, huynh đài rập đầu, ta cũng rập

đầu trả lễ.

Cáp Đại Bá lớn tiếng nói:

- Ân công mau mau đứng lên, ân công rập đầu thật có khác gì giết

tiểu nhân không bằng.

Để biểu lộ tấm lòng cảm kích, y lại rập đầu thêm mấy bận nữa mới

thôi. Hư Trúc thấy y rập đầu cũng vội vàng hoàn lễ.

Hai người cùng quì dưới đất vái nhau như giã gạo, bỗng nghe mấy

trăm người cùng kêu lên:

- Giải Sinh Tử Phù cho tôi với, giải Sinh Tử Phù cho tôi với!

Những người bị trúng Sinh Tử Phù liền nhao nhao xông lên như đàn

ong, vây chặt hai người lại. Một lão già đỡ Cáp Đại Bá lên nói:

- Thôi đừng rập đầu nữa. Mọi người ai nấy đang xin ân công ra tay

trị độc cứu mạng.

Hư Trúc thấy Cáp Đại Bá đứng lên rồi, lúc ấy mới đứng dậy nói:

- Các vị không phải gấp, nghe tôi nói một lời đã.

Lập tức trong đại sảnh ai nấy im bặt. Hư Trúc nói:

- Muốn phá giải Sinh Tử Phù thì phải biết đích xác ở bộ vị nào, các

vị tự mình có biết lấy mình hay chăng?

Cả bọn lại loạn cả lên, có người nói:

- Tôi biết!

Người khác lại nói:

- Tôi trúng tại huyệt Ủy Trung và huyệt Nội Đình.

Có người thì nói:

- Tôi toàn thân đau nhức, con mẹ nó chẳng biết trúng ở huyệt quái

quỉ nào!

Người khác lại nói:

- Tôi trên người đau đớn ngứa ngáy, mỗi tháng một khác, cái bùa

Sinh Tử đó biết đi.

Đột nhiên có người quát lên:

- Mọi người không được lộn xộn, mỗi người nói một câu Hư Trúc Tử

tiên sinh làm sao nghe cho hết được?

Người lên tiếng quát nạt chính là kẻ đứng đầu quần hào Ô Lão Đại

nên ai nấy đều dịu xuống. Hư Trúc nói:

- Tại hạ được Đồng Mỗ truyền thụ phép giải Sinh Tử Phù...

Bảy tám người nhịn không nổi reo ầm lên:

- Thế thì hay quá! Hay quá!

- Tính mạng chúng mình có cơ cứu được rồi!

Lại nghe Hư Trúc nói tiếp:

- ... tuy định bệnh nhận huyệt cực kỳ nông cạn nhưng các vị cũng

đừng lo, những ai biết được bộ vị Sinh Tử Phù, tại hạ sẽ ra tay giúp các vị

trị ngay. Còn như không biết, mình sẽ từ từ tìm hiểu, hỏi thêm những

bằng hữu nào tinh thông y đạo, trị bao giờ khỏi thì thôi.

Quần hào mừng rỡ reo hò khiến tiếng vang ầm ầm trong đại sảnh.

Qua một hồi lâu, tiếng la hét mới dần dần ngừng lại. Mai Kiếm lạnh lùng

nói:

- Chủ nhân bằng lòng trục Sinh Tử Phù ra cho các ngươi, đó là vì

lòng từ bi của lão nhân gia. Thế nhưng các ngươi to gan làm phản, khiến

cho Đồng Mỗ phải ly cung hạ sơn, đến nỗi qui tiên ở bên ngoài, lại tấn

công lên Phiêu Miểu Phong, làm chết bao nhiêu là chị em trong Quân

Thiên Bộ, cái món nợ đó tính sao đây?

Lời đó nói ra, mọi người ai nấy đều ngẩn ngơ, trong lòng không khỏi

chột dạ, nghĩ thầm lời Mai Kiếm quả không sai, Hư Trúc là truyền nhân

của Đồng Mỗ, không thể không xét đến tội của mọi người đã phạm phải.

Có người toan mở miệng van xin nhưng chợt nghĩ, làm chết Đồng Mỗ, tạo

phản Linh Thứu Cung nào phải chuyện thường, đâu có thể chỉ nói vài câu

là xong? Thành thử câu nói ra đến đầu môi rồi lại rụt về.

Ô Lão Đại nói:

- Vị tỉ tỉ đây trách cứ thật có lý, tội của bọn chúng tôi quả là to, cam

nguyện Hư Trúc tiên sinh trách phạt sao cũng được.

Y đoán được tính tình bụng dạ Hư Trúc trung hậu thực thà, không thể

nào độc ác tàn nhẫn như Đồng Mỗ, nếu để y ra tay trừng phạt, so với Mai

Lan Cúc Trúc bốn sứ tì nhẹ hơn nhiều, thành thử mở lời xin y.

Quần hào không ít người hiểu ý lại bắt đầu nhao nhao lên:

- Quả đúng như thế, chúng tôi tội nghiệt nặng nề, Hư Trúc Tử tiên

sinh trách phạt sao cũng cam tâm chịu lãnh.

Có người nghĩ đến nỗi thống khổ của Sinh Tử Phù khi đòi mạng,

khuỵu hai chân quì ngay xuống. Hư Trúc còn chưa biết tính sao, quay

sang hỏi Mai Kiếm:

- Mai Kiếm tỉ tỉ xem phải xử trí thế nào cho phải đây?

Mai Kiếm đáp:

- Bọn này chẳng phải là phường tử tế gì, giết chết biết bao nhiêu chị

em trong Quân Thiên Bộ, không thể không bắt chúng đền mạng mới

xong.

Phó động chủ Vô Lượng Động là Tả Tử Mục vái Mai Kiếm một cái

thật sâu nói:

- Cô nương, chúng tôi trên người trúng phải Sinh Tử Phù quả thực

thảm khốc không sao kể xiết, vừa nghe nói Đồng mỗ mỗ lão nhân gia

vắng mặt không có trên núi, bụng dạ lo lắng thành thử phạm phải sai

lầm, bây giờ có hối cũng không kịp. Cầu xin cô nương khoan hồng đại

lượng, nói tốt với Hư Trúc Tử tiên sinh giúp cho vài câu.

Mai Kiếm mặt sầm xuống nói:

- Những kẻ nào phạm tội giết người, mau mau tự chặt cánh tay phải

của mình đi, trừng trị như thế là nhẹ lắm rồi.

Cô ta vừa mở lời nghĩ lại tự mình phát hiệu thi lệnh xem ra không

hợp lý, vội vàng quay sang hỏi Hư Trúc:

- Chủ nhân xem thế có được chưa?

Hư Trúc thấy xử tội như thế quá ư nặng nề, nhưng cũng không muốn

mất lòng Mai Kiếm, ngập ngừng đáp:

- Cái đó... cái đó... ôi! Cái đó...

Trong đám đông một người chạy vọt ra, chính là vương tử nước Đại

Lý Đoàn Dự. Anh chàng này tính thích bình luận thị phi, hay xía vào

chuyện người khác, quay sang Hư Trúc chắp tay, cười nói:

- Nhân huynh, các bằng hữu đây tấn công lên Phiêu Miểu Phong,

tiểu đệ vốn dĩ không tán thành chút nào, thế nhưng khuyên họ khô cả cổ

mà không chịu nghe. Hôm nay tất cả gây ra đại họa, nhân huynh muốn

trách phạt thì cũng là chuyện nên làm. Tiểu đệ xin với nhân huynh trừng

phạt những người này một phen, liệu có được không?

Hôm đó quần hào định giết Đồng Mỗ uống máu ăn thề, Đoàn Dự

cực lực ngăn trở, Hư Trúc chính mắt trông thấy, biết chàng công tử này

bụng dạ nhân hiệp nên sinh lòng kính trọng, mình cùng Đồng Mỗ bị Lý

Thu Thủy đánh từ trên cao muôn trượng rơi xuống cũng được y cứu thoát,

huống chi chính mình hiện giờ cũng chưa biết phải tính sao, nghe y nói

thế vội vàng chắp tay nói:

- Tại hạ kiến thức thiển lậu, không biết xử sự. Đoàn công tử ra mặt

lo liệu giùm, tại hạ cực kỳ cảm kích.

Quần hào lúc đầu thấy Đoàn Dự đi ra thay mặt xử phạt bọn họ nên

đâu có phục. Những người tính nóng đã toan mở miệng chửi rủa, đến khi

Hư Trúc bằng lòng chấp nhận, lời nói đến cửa miệng vội rút về. Đoàn Dự

vui mừng nói:

- Thế thì hay lắm!

Chàng quay lại đối diện với quần hùng nói:

- Những điều sai quấy quí vị đã phạm phải, thực là quá lớn nên cách

thức ta đưa ra trừng trị cũng không thể nhẹ. Hư Trúc Tử tiên sinh đã

nhường cho ta đứng ra giải quyết, nếu các vị như phản kháng thì e rằng

Hư Trúc Tử lão huynh sẽ không chịu giải lá bùa Sinh Tử trên người các vị

đâu. Ha ha, điều khoản thứ nhất, tất cả phải đến trước linh sàng Đồng

Mỗ, cung kính rập đầu tám cái, khi lạy phải chăm chú yên lặng, thành

khẩn sám hối tội lỗi, kẻ nào trong bụng chửi thầm thì tội gia tăng một

bậc.

Hư Trúc mừng lắm nói ngay:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Khoản thứ nhất xử như thế thật là phải phép.

Quần hào vốn dĩ sợ anh chàng đồ gàn này sẽ đưa ra một hình phạt

quái lạ khó mà đảm đương nổi, ai nấy trong lòng nơm nớp không an, bây

giờ nghe nói phải khấu đầu trước linh sàng Đồng Mỗ, ai nấy nghĩ thầm:

"Người chết là chuyện lớn, dù có phải rập đầu vài cái trước linh sàng bà

ta thì có đáng gì đâu? Huống chi nếu như ta chửi thầm lão tặc bà thì làm

sao y biết được? Lão tử khấu đầu thì cứ khấu đầu, còn chửi mụ giặc già

thì cứ chửi". Nghĩ thế mọi người đều lên tiếng đáp ứng.

Đoàn Dự thấy đề mục thứ nhất mình đưa ra được mọi người đồng ý,

tinh thần phấn chấn bèn nói:

- Điều thứ hai, mọi người phải hành lễ trước linh sàng chư tỉ tỉ Quân

Thiên Bộ tử nạn. Người nào giết người thì phải rập đầu, mặc niệm sám

hối, trên người phải mặc tang phục sô gai khóc lóc thảm thiết. Người nào

không giết người thì phải vái thật sâu, Hư Trúc Tử nhân huynh ngoài việc

trị bệnh cho họ còn thưởng thêm tiền.

Trong số quần hào, đến quá nửa tay không dính máu trên Phiêu

Miểu Phong lên tiếng đáp ứng trước. Những người có nhúng tay vào việc

giết người của Quân Thiên Bộ thấy chàng bắt khấu đầu mặc tang phục,

so với Mai Kiếm bắt họ phải chặt cánh tay phải thì còn nhẹ gấp vạn lần

nên cũng không ai dám nói ra nói vào câu nào.

Đoàn Dự lại tiếp:

- Còn khoản thứ ba ư? Tất cả mọi người phải vĩnh viễn thần phục

Linh Thứu Cung không bao giờ được thay lòng đổi dạ. Hư Trúc Tử tiên

sinh nói gì thì mọi người phải tuân tòng hiệu lệnh. Không những phải

cung kính với Hư Trúc Tử tiên sinh, cả với Mai Lan Cúc Trúc bốn vị tỉ tỉ

muội muội này, cũng khải nể nang, hóa địch thành bạn, không bao giờ

được dùng đao thương. Nếu như có người nào không phục thì cứ việc tiến

lên tỉ thí với Hư Trúc Tử tiên sinh vài chiêu quyền cước, để xem y cao

minh hay là ngươi lợi hại?

Quần hào nghe Đoàn Dự nói thế ai nấy hò reo:

- Dĩ nhiên là chịu! Dĩ nhiên là chịu!

Lại có người nói:

- Công tử định tội như thế, quả là lợi cho chúng tôi quá, không biết

ngoài ra còn gì nữa không?

Đoàn Dự vỗ tay một cái, cười nói:

- Không còn gì cả!

Chàng quay sang nói với Hư Trúc:

- Ba khoản trừng trị của tiểu đệ thế đã được chưa?

Hư Trúc chắp tay luôn mồm đáp:

- Đa tạ! Đa tạ! Thế là được lắm rồi!

Y liếc mắt nhìn bọn Mai Kiếm, vẻ mặt hơi có vẻ ngượng ngập. Lan

Kiếm nói:

- Chủ nhân là đầu não của Linh Thứu Cung dù nói gì thì bọn bọn tì

tử cũng đều tuân theo cả. Chủ nhân khoan hồng độ lượng, tha cho bọn nô

tài này, cũng chẳng cần phải vì chúng tôi mà áy náy.

Hư Trúc mỉm cười nói:

- Không dám! Ồ, cái này... trong lòng ta còn mấy câu, không biết...

không biết có nên nói ra không?

Ô Lão Đại đáp:

- Ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo vốn dĩ là hạ thuộc của Phiêu

Miểu Phong, tôn chủ có điều gì sai bảo thì không ai dám phản kháng. Ba

điều khoản trừng trị của Đoàn công tử quả là quá ư khoan hồng. Tôn chủ

muốn trách phạt gì thêm, tất cả ai cũng cam tâm chịu lãnh.

Hư Trúc đáp:

- Ta tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, chẳng qua may được Đồng mỗ mỗ

dạy cho chút ít võ công, hai tiếng "tôn chủ" gì đó, quả là xấu hổ không

dám nhận. Ta có hai ý kiến, cái đó... cái đó... chẳng biết đúng hay sai,

đánh liều nói ra, cái đó... xin các vị tiền bối góp ý giùm.

Y từ nhỏ đến giờ chỉ luôn luôn bị sai khiến chỉ bảo, lúc nào cũng

dưới quyền người khác, xưa nay chưa bao giờ có chủ ý gì, đứng trước đám

đông lại càng bối rối, có mấy câu mà ấp a ấp úng, thần thái ngữ khí hết

sức khiêm hòa.

Mai Lan Cúc Trúc bốn nàng ai cũng nghĩ thầm: "Không biết chủ

nhân có chuyện gì mà đối với bọn nô tài này lại khách sáo đến thế?". Ô

Lão Đại đáp:

- Tôn chủ khoan hồng đại lượng tha hết tất cả các trọng tội cho

chúng tôi, lại đối với bề dưới dễ dãi như thế, các anh em dù phải gan óc

lầy đất cũng không báo đáp được một trong vạn phần ân đức. Tôn chủ có

lệnh gì xin cứ việc sai bảo.

Hư Trúc đáp:

- Được! Được! Ta nếu có sai lầm, xin các vị... các vị đừng cười. Ta

định nói hai điều. Điều thứ nhất ư! Xem ra có chút tư tâm, tại hạ... tại hạ

xuất thân từ chùa Thiếu Lâm, vốn dĩ... vốn là một chút tiểu, xin các vị

sau này hành tẩu giang hồ, đừng làm khó dễ các tăng tục đệ tử phái

Thiếu Lâm. Chuyện đó ta chỉ cầu xin các vị chút tình, không dám bảo là

ra lệnh.

Ô Lão Đại lớn tiếng nói:

- Tôn chủ ra lệnh: Từ nay về sau các anh em đi lại trên giang hồ, gặp

phải các đại sư phụ và tục gia đệ tử phái Thiếu Lâm thì phải kính trọng,

nhất quyết không để đắc tội, nếu không sẽ bị trừng trị thích đáng không

tha.

Quần hào cùng đáp:

- Tuân lệnh!

Hư Trúc thấy mọi người bằng lòng cũng can đảm hơn một chút, chắp

tay nói:

- Đa tạ! Đa tạ! Còn việc thứ hai, xin các vị thể niệm đức hiếu sinh

của trời đất, lòng từ bi của nhà Phật, xin đừng tùy tiện giết hại người

khác. Hay nhất là đừng sát sinh, dù cho con sâu cái kiến cũng là một

mạng, nếu có thể ăn chay được thì lại càng hơn, có điều việc này không

phải dễ, đến ngay ta cũng từng phá giới ăn mặn. Vì thế... cái này...

chuyện giết người ư, nói chung là không tốt, nếu không giết người thì tốt

hơn, có điều ta... ta cũng đã giết người rồi, sở dĩ là...

Ô Lão Đại lớn tiếng nói:

- Tôn chủ ra lệnh: Tất cả các thuộc hạ Linh Thứu Cung, từ nay

không được giết bừa bãi người vô tội, nếu không sẽ bị trừng phạt nặng

nề.

Quần hào lại đồng thanh :

- Tuân lệnh!

Hư Trúc liên tiếp chắp tay nói:

- Ta... ta thật cảm kích hết sức, không nói nên lời, các vị làm điều

tốt, không làm điều xấu, ấy là tích thêm công đức thiện nghiệp cho mình,

thể nào củng được phúc báo vô lượng.

Y quay sang Ô Lão Đại cười nói:

- Ô tiên sinh, mấy câu của tiên sinh thật rành mạch rõ ràng, ta nói

chẳng đâu vào đâu, chẳng hay... chẳng hay Sinh Tử Phù của tiên sinh ở

chỗ nào? Để ta giải trừ cho ông trước.

Ô Lão Đại sở dĩ dám liều lĩnh đứng ra cầm đầu phản loạn cũng chỉ là

để giải trừ bùa Sinh Tử trong cơ thể, nghe thấy Hư Trúc bằng lòng gỡ bùa

cho mình, từ nay không còn sợ con trùng nằm sâu trong xương tủy kia

nữa, thật sung sướng không đâu kể hết, trong lòng cảm kích, quì hai gối

lạy phục xuống. Hư Trúc vội vàng quì xuống hoàn lễ, hỏi thêm:

- Ô tiên sinh, vết thương vì tùng cầu nơi bụng ông, nay đã đỡ chưa?

Ông uống Đoạn Trường Hủ Cốt Hoàn, mình sẽ tìm cách giải độc tính đó

mới được.

Bốn chị em Mai Kiếm bấy giờ mới vận động cơ quan, di chuyển tảng

đá chắn ngoài cửa, để cho chư nữ của Chu Thiên, Hạo Thiên, Huyền

Thiên chín bộ tiến vào đại sảnh. Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng hai người

vẫn còn lèm bèm ủng oẳng, cùng đi với Đặng Bách Xuyên và Công Dã

Can. Bốn người bọn họ ra ngoài đòi đấu với Đồng Mỗ, đụng phải ngay

chư nữ tám bộ. Bao Bất Đồng ngôn ngữ phách lối, Phong Ba Ác tính tình

hung hăng, qua lại mấy câu đã cùng những người đàn bà động thủ. Chẳng

mấy chốc Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can cũng gia nhập tiếp tay, bốn

người võ công tuy cao thật nhưng dẫu sao ít không đánh lại số đông, vừa

đánh vừa chạy nhưng ai nấy đều bị thương, nếu đại môn chỉ mở chậm

một lát, Mai Lan Cúc Trúc Kiếm không lên tiếng ngăn trở, bốn người nếu

không bị bắt thì cũng khó lòng toàn mạng.

Mộ Dung Phục thấy tình hình trở nên nhạt nhẽo nên cùng bọn Đặng

Bách Xuyên cáo từ hạ sơn. Trác Bất Phàm và Phù Dung tiên tử Thôi Lục

Hoa cũng lẳng lặng đi mất. Hư Trúc thấy bọn Mộ Dung Phục định đi, vội

cố hết sức lưu khách. Mộ Dung Phục nói:

- Tại hạ đắc tội với Phiêu Miểu Phong, thật là ngượng ngập, may

được huynh đài không trách phạt, đã nhận lãnh thịnh tình há đâu lại còn

dám làm phiền hơn nữa?

Hư Trúc đáp:

- Có sao đâu! Có sao đâu? Hai vị công tử văn võ song toàn, thật là

anh hùng, tại hạ hết sức ngưỡng mộ, vẫn mong... vẫn mong... vẫn mong

có dịp... được học hỏi hai vị công tử. Tôi... tôi quả là vụng về... vùng về

chết đi được.

Bao Bất Đồng mới rồi giao phong cùng chư nữ, quả bất địch chúng,

trên người bị mấy vết thương, đang cáu tiết, nghe Hư Trúc lắp bắp giữ

khách, lại được Mộ Dung Phục nói nhỏ là trong người y có dấu bức tranh

vẽ Vương Ngữ Yên, nghĩ thầm: "Thằng giặc trọc này giả nhân giả nghĩa,

đã là đệ tử Phật môn, vậy mà đối với Vương cô nương nhà ta có lòng kia

ý nọ, đúng là một dâm tăng không giữ thanh qui". Y liền nói:

- Tiểu sư phụ giữ anh hùng lại là chuyện giả, còn lưu mỹ nhân mới

chính là chuyện thực, sao không nói thẳng ra là muốn giữ Vương cô

nương ở trên Phiêu Miểu Phong?

Hư Trúc ngạc nhiên đáp:

- Ông... ông nói gì? Ta muốn lưu giữ mỹ nhân nào thế?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi bụng dạ tà vạy, bộ tưởng người nhà Mộ Dung đều ngốc

nghếch hay sao? Ha ha! Tức cười thiệt!

Hư Trúc giơ tay gãi đầu nói:

- Ta thật không hiểu tiên sinh nói cái chi, mà cũng không thấy

chuyện gì tức cười hết.

Bao Bất Đồng tuy thân đang ở trong đầm rồng hang hổ, nhưng cái

tính ngang bướng của y nổi lên, không còn coi sống chết vào đâu nữa, lớn

tiếng nói:

- Cái thằng giặc trọc kia, ngươi đã là sư chùa Thiếu Lâm, cũng là

danh môn đệ tử, cớ sao lại cải đầu tà phái, cấu kết với bọn quỉ quái yêu

ma? Trông cái mặt ngươi là ta đã lộn ruột rồi. Một ông thầy chùa, o ép

hàng trăm đàn bà con gái làm vợ lớn vợ bé, nhân tình nhân ngãi, chưa đủ

hay sao mà còn toan ngấm nghé Vương cô nương nhà ta? Nè ta bảo cho

ngươi biết, Vương cô nương là người của Mộ Dung công tử bọn ta rồi, cái

thứ ăn mày đòi xôi gấc, cóc tía mà muốn xơi thịt ngỗng trời, đừng hòng

nghe chưa!

Y nổi giận đùng đùng, dậm chân đập tay, chỉ thẳng vào mặt Hư Trúc

mà chửi mắng. Hư Trúc chẳng hiểu ra sao, ấp úng:

- Ta... ta... ta...

Bỗng nghe vù vù hai tiếng, Ô Lão Đại đã cầm thanh Lục Ba Hương

Lộ quỉ đầu dao, còn Cáp Đại Bá thì vác một cây thiết trùy, cùng quát lên,

xông vào đánh Bao Bất Đồng. Mộ Dung Phục biết rằng một khi Hư Trúc

đã bằng lòng giải Sinh Tử Phù cho bọn này thì quần hào sẽ sống chết với

y, hai bên hỗn chiến quả là hung hiểm, thấy Ô Lão Đại và Cáp Đại Bá

xông lên, lạng người một cái đã xông ra trước, sử dụng công phu Đẩu

Chuyển Tinh Di, đẩy thanh quỉ đầu đao chém vào Cáp Đại Bá, còn cây

búa sắt thì phang vào người Ô Lão Đại, keng một tiếng lớn, hai món binh

khí đụng nhau, lửa văng tung tóe.

Mộ Dung Phục đưa tay đẩy nhẹ vào đầu vai Bao Bất Đồng, hất y ra

ngoài xa hơn một trượng, quay sang Hư Trúc chắp tay nói:

- Đắc tội! Xin cáo từ!

Y thấy đại sảnh này có cơ quan, nếu như lại bị đá chặn cửa một lần

nữa thì chỉ còn nước bó tay mặc người ta làm gì thì làm nên lắc người một

cái đã ra tới đại môn. Hư Trúc vội vàng nói:

- Công tử xin hoãn lại một chút, ta quyết chẳng... quyết chẳng có ý

đó đâu... ta... ta...

Mộ Dung Phục lông mày nhướng lên, quay người gằn giọng:

- Phải chăng các hạ tự phụ thiên hạ vô địch, muốn chỉ điểm vài

chiêu chăng?

Hư Trúc xua tay rối rít nói:

- Không!... Không đâu...

Mộ Dung Phục nói:

- Tại hạ chẳng được mời mà tự tiện đến đây, khi ra đi cũng lại mạo

phạm, các hạ không giữ lại không xong hay sao?

Hư Trúc lắc đầu đáp:

- Không... không đâu...ấy là... ôi!

Mộ Dung Phục đứng ở giữa cửa, ngạo nghễ nhìn Hư Trúc cùng quần

hào ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo, Mai Lan Cúc Trúc tứ kiếm, chư

nữ Cửu Thiên Bộ. Mọi người bị khí thế của y nhiếp phục, nhất thời không

ai dám xông ra. Một hồi sau, Mộ Dung Phục phất tay áo một cái nói:

- Thôi đi!

Y ngang nhiên đi ra khỏi cửa, Vương Ngữ Yên và bọn Đặng Bách

Xuyên lục tục theo sau. Ô Lão Đại hậm hực nói:

- Tôn chủ, nếu như để cho y xuống được Phiêu Miểu Phong thì mình

còn làm người sao được? Xin tôn chủ ra lệnh chặn họ lại.

Hư Trúc lắc đầu:

- Thôi bỏ qua đi! Ta... ta thật không hiểu, không hiểu sao đột nhiên y

lại giận dữ thế. Ôi, quả không sao hiểu được...

Ô Lão Đại nói:

- Vậy thì để thuộc hạ ra bắt vị Vương cô nương kia lại.

Hư Trúc vội đáp:

- Không được! Không được!

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự không ra khỏi đại sảnh, quay lại nói:

- Đoàn công tử, hẹn gặp lại.

Đoàn Dự thảng thốt, lòng se lại, cổ họng dường như bị nghẹn đi, cố

gắng mãi mới nói được:

- Vâng! Sẽ... sẽ gặp lại. Tôi... tôi... để tôi đi với cô...

Chàng thấy hình bóng nàng mỗi lúc một xa, cũng không quay đầu,

trong tai còn văng vẳng lời Bao Bất Đồng: "Vương cô nương là người của

Mộ Dung công tử bọn ta rồi, cái thứ ăn mày đòi xôi gấc, cóc tía mà muốn

xơi thịt ngỗng trời, đừng có hòng..." Đúng rồi, khi Mộ Dung công tử ra

khỏi sảnh môn, thần uy lẫm lẫm, anh hùng biết bao! Y chỉ giơ tay đã hóa

giải ngay được chiêu số của hai kình địch, võ công giỏi là nhường nào!

Còn cái hạng ta, trói gà không chặt, đi đâu xấu đó, nàng có coi vào đâu?

Vương cô nương mỗi khi nhìn biểu ca, ánh mắt đắm đuối, vừa thương

yêu, vừa ngưỡng mộ, còn ta... Đoàn Dự ơi, quả ngươi đúng là một con cóc

tía mà thôi.

Trong đại sảnh hai người đứng sững như trời trồng, Hư Trúc thì bụng

đầy nghi hoặc, gãi đầu ngơ ngác, còn Đoàn Dự thì đau lòng ly biệt, hồn

vía đâu đâu. Hai bên ngơ ngẩn nhìn nhau.

Một hồi sau, Hư Trúc thở dài một tiếng, Đoàn Dự cũng thở hắt ra

nói:

- Nhân huynh, hai ta đồng bệnh tương lân7, mối nhung nhớ ghi sâu

trong tâm khảm này, làm sao quên được?

Hư Trúc nghe nói thế, mặt đỏ bừng, không hiểu sao y lại biết đến

"mộng trung nữ lang" của mình được, ấp úng hỏi:

- Đoàn công tử, sao công tử lại... lại biết được chuyện này?

Đoàn Dự đáp:

- Bất tri Tử Đô chi mỹ giả, vô mục giả dã. Bất thức bỉ xu chi mỹ giả,

phi nhân giả dã. Ái mỹ chi tâm, nhân giai hữu chi8. Này nhân huynh, ta

với ngươi hai người từ nay lưu lạc góc biển chân trời, nhưng mối hận này

chẳng bao giờ nguôi.

Nói xong lại thở dài sườn sượt. Chàng thấy Hư Trúc trong người có

dấu bức hình Vương Ngữ Yên, mê mẩn ái mộ nàng chẳng khác gì mình,

vừa rồi Mộ Dung Phục và Hư Trúc xung đột, cũng chỉ vì đó mà ra, bèn

nói:

- Nhân huynh võ công tuyệt đính, thế nhưng đã nói đến chữ tình thì

chỉ là duyên phận, dù văn tài võ học đến đâu, nếu đã vô duyên thì chẳng

thể nào thành được.

Hư Trúc lẩm bẩm nhắc lại:

- Quả đúng thế. Phật dạy là vạn pháp cũng đều do duyên mà ra, mọi

sự đều là duyên phận...đúng thế... duyên phận kia... khả ngộ bất khả

cầu... đúng là như thế. Một khi xa nhau rồi, trong cõi đời mang mang, biết

bao giờ mới tìm lại được?

Y nói đến là "mộng trung nữ lang" nhưng Đoàn Dự lại tưởng y nói

đến Vương Ngữ Yên. Hai người đều hâm hâm cám hấp, không thông thế

vụ, thành ra càng nói lại càng tâm đầu ý hợp.

7 8

Chư nữ trong cung Linh Thứu liền bày tiệc, Hư Trúc và Đoàn Dự

nắm tay nhau cùng ngồi vào bàn. Quần hào các động, các đảo đều là

thuộc hạ của Linh Thứu Cung, nên chẳng ai dám ngồi cùng mâm với Hư

Trúc. Hư Trúc không thông việc đãi khách, thấy người khác không lên,

cũng không ra lời mời mọc, chỉ cùng Đoàn Dự hai người chén chú chén

anh.

Đoàn Dự thì toàn tâm toàn ý ái mộ Vương Ngữ Yên, luôn mồm suýt

soa ca ngợi cô nàng, không phải tính tình hòa thuận dịu dàng thì cũng tư

dung tuyệt thế trên đời khó gặp.

Hư Trúc thì lại tưởng Đoàn Dự khen "người trong mộng" của mình,

chẳng dám hỏi tại sao anh chàng lại biết như thế, nhưng cũng không dám

buông lời hỏi thăm lai lịch ý trung nhân, ngồi nghe mà tim đập thình

thình, nghĩ bụng: "Ta cứ tưởng một khi Đồng Mỗ chết đi rồi thì trên đời

không còn ai biết được cô nương đó ở đâu, may Trời còn thương, Đoàn

công tử lại nhận ra được. Thế nhưng nghe câu nào câu nấy vị công tử này

đều hết sức ái mộ, đầy vẻ nhớ nhung, nếu mình hở môi ra là đã từng cùng

nàng ở nơi hầm băng vui vầy cá nước, Đoàn công tử ắt sẽ nổi giận, bỏ

tiệc đi ngay thì dự tính nghe ngóng của mình thành công cốc".

Y càng nghe Đoàn Dự ca tụng cô gái càng thấy hợp ý nên cũng

thành thực phụ họa vài câu. Hai người người nào cũng tranh nhau nói về

người tình của mình, có điều không ai đề cập đến tên tuổi cô nương kia

nên câu chuyện càng lúc càng thêm gắn bó. Hư Trúc nói:

- Đoàn công tử, nhà Phật có nói rằng mọi việc trên đời không qua

khỏi chữ duyên. Kinh có viết: "Chư pháp tòng duyên sinh, chư pháp tòng

duyên diệt. Ngã Phật đại sa môn, tường tác như thị thuyết".9 Đạt Ma tổ sư

cũng dạy rằng: "Chúng sinh vô ngã, khổ lạc tùy duyên".10 Nếu như mình

có được điều gì sung sướng ấy cũng chẳng qua "túc duyên sở cấu, kim

phương đắc chi. Duyên tận hoàn vô, hà hỉ chi hữu?"11

9

10 11

Đoàn Dự đáp:

- Đúng đó! Chính là cái cảnh giới "Đắc thất tùy duyên, tâm vô tăng

giảm"12

Tại nước Đại Lý Phật pháp xương thịnh, Đoàn Dự từ nhỏ đã đọc kinh

sách, hai người kẻ dẫn kinh Kim Cương thì người kia lôi kinh Pháp Hoa ra

đối chiếu, an ủi lẫn nhau, than thở giùm nhau, chén thù chén tạc quả là

có cái tình đồng bệnh. Mai Lan Cúc Trúc bốn tì nữ thay phiên đi lên

chuốc rượu, Đoàn Dự uống một chén, Hư Trúc cũng lại một chén, hai

người bác bác tôi tôi mãi đến tận khuya.

Quần hào đứng lên cáo từ được chư nữ đưa đến chỗ nghỉ ngơi. Hư

Trúc và Đoàn Dự tửu ý cũng đã ngà ngà nhưng vẫn mềm môi trò chuyện

mãi.

Hôm xưa Đoàn Dự cùng Tiêu Phong thi uống rượu bên ngoài thành

Vô Tích, dùng nội công đẩy rượu theo ngón tay ra ngoài, lúc này mượn

rượu tiêu sầu là uống thực sự, lè nhè nói:

- Nhân huynh, ta có một vị huynh trưởng kết nghĩa kim lan, họ Kiều

tên Phong, người này quả là một đại anh hùng, là một bậc hào kiệt, võ

công tửu lượng, không ai sánh kịp. Nếu như mà nhân huynh gặp được, thể

nào cũng ái mộ yêu thích lắm, tiếc rằng anh ấy không có ở đây, nếu

không ba người mình kết làm huynh đệ, vui cái vui tâm đầu ý hợp thì quả

là một khoái sự trên đời.

Hư Trúc trước nay chưa hề uống rượu, toàn nhờ nội công tinh thâm,

nãy giờ uống mấy đấu rượu mà chưa say nhưng trong lòng cũng lâng lâng

phiêu lãng, trước nay ăn nói dè dặt, bây giờ cũng thành ăn to nói lớn, hào

khí bùng lên khẳng khái đáp:

- Đoàn công tử nếu đã... nếu đã... không coi thường mỗ, thì hai người

mình kết bái làm anh em, sau này gặp được Kiều đại ca, mình lại lạy

nhau thêm một lần nữa cũng được chớ sao!

Đoàn Dự mừng rỡ nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Huynh trưởng bao nhiêu tuổi?

12

Hai người so niên canh, Hư Trúc lớn hơn ba tuổi. Đoàn Dự kêu lên:

- Nhị ca, xin nhận một lạy của tiểu đệ.

Chàng liền đẩy ghế ra, quì xuống vái lạy. Hư Trúc vội vàng hoàn lễ,

chân bỗng bủn rủn ngã nhào về trước. Đoàn Dự thấy y ngã bổ chửng vội

vàng đỡ lên, hai người vô ý đụng phải nhau, thấy đối phương chân khí

cực kỳ sung túc, vội vàng thu liễm khắc chế. Lúc này Đoàn Dự đã say

mèm, chân nam đá chân siêu, đứng không vững. Đột nhiên hai người

cùng cất tiếng cười ha hả, ôm chầm lấy nhau, ngã lăn ra đất. Đoàn Dự

nói:

- Nhị ca nè, tiểu đệ chưa có say đâu nhe, hai đứa mình uống thêm

một trăm chung nữa.

Hư Trúc cũng nói:

- Uống thì uống, tiểu huynh sẽ uống với tam đệ một trận cho đã đời.

Đoàn Dự ngâm:

Chén kia chớ để cho lật ngửa,

Trăng sáng nhìn xem phải mỉm cười.

Trong đời mấy lúc được đắc ý,

Uống cho thỏa chí mới là vui.

Ha ha!

Cùng nhau uống đủ ba trăm chén,

Chưa đủ sao đành dở cuộc chơi...Hai người càng nói càng lè nhè, sau cùng cả hai say quá không còn

biết trời trăng gì nữa.

Chữ danh gắn với chữ tham,

Sân si ràng buộc cởi làm sao đây?

*

* *

Sáng hôm sau, Hư Trúc tỉnh lại, thấy mình nằm ngủ trên một chiếc

giường êm ấm, mở mắt nhìn ra ngoài trướng là một căn phòng cực rộng,

trống trải chẳng khác gì thiền phòng nơi chùa Thiếu Lâm, trần thiết cổ

kính thanh nhã, đỉnh đồng bình sứ, cũng na ná như chuông đồng lò hương

nơi bản tự. Y lúc ấy còn mơ mơ màng màng, chẳng biết mình đang ở nơi

đâu.

Một thiếu nữ bưng một chiếc đĩa sứ đến bên giường, chính là Lan

Kiếm, nói:

- Chủ nhân tỉnh dậy rồi? Mời chủ nhân súc miệng.

Hư Trúc chưa hoàn toàn rã rượu, thấy miệng đắng ngắt, cổ khô ran,

thấy trong chén đựng nước trà màu vàng ánh, cầm lấy đưa lên miệng

uống ngay, trong ngọt có đắng, không thấy mùi trà, liền ực một cái nuốt

ngay vào bụng. Y trong đời đã bao giờ được nếm mùi sâm thang, thành ra

chẳng biết đây là loại trà đắng gì, ngượng nghịu mỉm cười nói:

- Đa tạ tỉ tỉ! Ta... ta muốn trở dậy, xin tỉ tỉ bước ra ngoài giùm.Lan Kiếm chưa kịp trả lời, ngoài phòng lại tiến vào một thiếu nữ

khác, chính là Cúc Kiếm, mỉm cười nói:

- Chị em tiểu tì hai người xin giúp chủ nhân thay áo.

Nói rồi lấy từ trên bàn ở đầu giường một bộ nội y nội khố màu xanh

nhạt luồn vào trong chăn cho Hư Trúc. Hư Trúc cuống quá, mặt đỏ gay

nói:

- Không! Không! Ta... ta không cần tỉ tỉ phục thị. Ta nào có bị

thương bệnh hoạn gì đâu, chẳng qua chỉ quá chén một chút, ôi, nước này

cả đến tửu giới cũng phạm rồi. Kinh có nói rằng: uống rượu có ba mươi

sáu điều thất thố, từ rày nhất định không uống nữa. Còn tam đệ thì sao?

Đoàn công tử đâu? Y đâu rồi?

Lan Kiếm nhếch mép cười nói:

- Đoàn công tử đã hạ sơn. Khi ra đi có dặn tì tử bẩm với chủ nhân,

khi nào mọi việc nơi Linh Thứu cung xong xuôi, mời chủ nhân đến Trung

Nguyên gặp lại.

Hư Trúc bàng hoàng kêu lên một tiếng hỏi:

- Ta còn việc phải hỏi y, sao y đã đi mất rồi?

Y trong lòng thảng thốt, từ trên giường nhảy ngay xuống, định đuổi

theo Đoàn Dự, cốt hỏi cho ra tên tuổi và chỗ ở của "người trong mộng",

đột nhiên thấy trên người chỉ mặc đơn sơ có một chiếc áo lót màu trắng,

"A" lên một tiếng lại chui tọt vào trong chăn, nghĩ thầm: "Chết chửa,

không biết ai thay quần áo cho mình thế này?'.

Y từ chùa Thiếu Lâm đi ra trong người chỉ mặc có mỗi một bộ quần

áo lót bằng vải thô, luôn nửa năm nay, cực kỳ rách nát hôi hám, thế mà

bây giờ trên người là loại vải mềm, chẳng biết bằng tơ hay gấm, nhưng

biết là loại hàng sang trọng lắm.Cúc Kiếm cười nói:

- Chủ nhân tối hôm qua say mèm, bốn chị em tì tử phục thị chủ nhân

tắm rửa thay áo, chủ nhân không biết gì hay sao?

Hư Trúc lại càng kinh hãi, ngửng đầu lên thấy Lan Kiếm, Cúc Kiếm

người nào cũng đẹp như ngọc, tươi như hoa, tim bỗng đập thình thình, vừa

đưa tay ra, áo ngắn liền tuột lên để lộ làn da ẩn ẩn sắc hồng, quả nhiên

bao nhiêu cáu ghét bẩn thỉu trên người đã được kỳ cọ sạch sẽ. Y cố vớt

vát thêm một câu, vừa cười vừa nói:

- Ta say quả là không biết trời trăng gì nữa, vậy mà may sao cũng

còn biết tự mình tắm rửa.

Lan Kiếm cũng cười:

- Đêm hôm qua chủ nhân đâu có còn cử động gì được, đó là bốn chị

em tiểu tì tắm cho chủ nhân đó.

Hư Trúc "A" lên một tiếng to, tưởng chừng muốn ngất đi, nằm vật

xuống kêu luôn mồm:

- Chết rồi! Chết rồi!

Lan Kiếm, Cúc Kiếm cũng sợ đến nhảy dựng lên, cùng hỏi:

- Chủ nhân, có chuyện gì không phải thế?

Hư Trúc cười gượng nói:

- Ta là một nam nhân, lẽ nào lại ở trước mặt bốn vị tỉ tỉ... xích thân

lộ thể, chẳng là... chẳng là hỡi ơi lắm sao? Huống chi ta toàn thân cáu

ghét, vừa hôi vừa bẩn, ai lại để các tỉ tỉ làm cái việc dơ dáy đó?

Lan Kiếm đáp:- Bốn chị em tiểu tì là nô lệ của chủ nhân, dù có phải tan xương nát

thịt vì chủ nhân cũng làm, nô tì sai lầm xin chủ nhân trách phạt.

Nói xong cô ta cùng Cúc Kiếm đều quì phục xuống lạy. Hư Trúc

thấy hai nàng hết sức sợ hãi, nghĩ đến Dư bà, Thạch tẩu những người kia,

mỗi khi mình dùng lễ để đãi họ thì đều sợ đến mất cả hồn vía, chắc hẳn

Lan Kiếm, Cúc Kiếm cũng đã quen với tính nết như thế của Đồng Mỗ

rồi, mỗi khi ăn nói dịu ngọt là kế đó sẽ ra sát thủ ngay, liền sẵng giọng:

- Hai vị cô... ôi, các ngươi đứng dậy, ra khỏi đây ngay, để tự ta mặc

áo, không cần các ngươi phục thị.

Lan Cúc hai người vội đứng lên, nước mắt rưng rưng, lui ra ngoài. Hư

Trúc trong lòng thật lạ lùng, hỏi thêm:

- Ta... có phải ta đắc tội với các cô không? Sao các cô không vui,

nước mắt rưng rưng là thế nào? Hay là ta nói gì sai, cái đó...

Cúc Kiếm đáp:

- Chủ nhân đuổi chị em tì nữ ra, không cho hầu hạ chủ nhân thay áo,

rửa mặt, chắc hẳn chán ghét chúng tôi rồi...

Nói chưa dứt câu, nước mắt đã ròng ròng chảy xuống. Hư Trúc xua

tay liên tiếp nói:

- Không! Không đâu. Ồ, ta không biết ăn nói thành ra không rõ ràng.

Ta là đàn ông, các cô là con gái, lẽ nào... cái đó bất tiện lắm...chứ ta

không có ý... có đức Phật ở trên, người tu hành không ăn gian nói dối, ta

không khi nào đánh lừa các cô đâu.

Lan Kiếm, Cúc Kiếm thấy y hoa chân múa tay, rất là cuống quít, ý

thật thành tâm, không khỏi bật cười, cùng nói:- Xin chủ nhân đừng trách. Trong cung Linh Thứu trước nay không

có đàn ông, chúng tì nữ chưa từng gặp con trai bao giờ. Chủ nhân như

trời, chúng nô tì như đất, đâu có gì mà phân biệt nam hay nữ?

Hai nàng uyển chuyển đi tới, hầu hạ Hư Trúc thay áo đi giày. Chẳng

mấy chốc, Mai Kiếm và Trúc Kiếm cũng vào, người thì chải đầu, người

thì rửa mặt cho y. Hư Trúc ngượng đến không dám nói năng gì, mặt trắng

bệch, tim đập thình thình, đành mặc cho bốn cô tì nữ làm gì thì làm, cũng

không dám bảo rằng mình không thích họ phục thị.

Y nghĩ chắc Đoàn Dự hẳn đi cũng xa rồi, đuổi không kịp, lại nghĩ

đến quần hào các động, các đảo chưa trừ được Sinh Tử Phù, không tiện

rời cung, ăn điểm tâm xong, liền đi đến đại sảnh gặp mọi người, giải lá

bùa Sinh Tử cho hai người đau đớn nhất.

Giải trừ Sinh Tử Phù cần phải dùng chân lực sử dụng Thiên Sơn Lục

Dương Chưởng, Hư Trúc chân khí sung túc, dù có giúp cho mươi người

cũng không đến nỗi mệt nhọc, có điều Đồng Mỗ mỗi người lại cấy bùa

một nơi khác nhau, Hư Trúc muốn bạt trừ những lá bùa đó cũng thật khó

khăn.

Sở học về kinh mạch, huyệt đạo của y rất nông cạn, cũng không dám

tùy tiện ra tay, sợ có gì sơ sót sẽ càng làm cho bệnh nhân bị nặng thêm

thành thử đến trưa cũng mới trị được bốn người. Ăn xong cũng phải nghỉ

ngơi một lát.

Mai Kiếm thấy y nhíu mày suy nghĩ phương pháp bạt trừ Sinh Tử

Phù có vẻ khó nhọc liền nói:

- Chủ nhân, hậu điện Linh Thứu Cung mấy trăm năm trước những vị

chủ cũ có để lại các hình vẽ trên vách đá, tì tử từng nghe mỗ mỗ nói

rằng, những hình vẽ đó có liên quan đến Sinh Tử Phù, sao chủ nhân

không đến xem qua một chút?

Hư Trúc vui mừng nói:- Thế thì tốt lắm!

Thế là Mai Lan Cúc Trúc bốn nàng dẫn đường cho Hư Trúc tới hoa

viên, đẩy một tòa giả sơn dưới đó có một cửa vào địa đạo. Mai Kiếm giơ

đuốc lên đi trước dẫn đường, năm người đi thành một hàng. Trên đường

đi, mỗi khi đến chỗ kín đáo, Mai Kiếm đều phải án động cơ quan để khóa

các ám khí bố trí sẵn nơi đó. Cái hầm đó cực kỳ ngoằn ngoèo, đi sâu

xuống dưới, có chỗ rộng rãi thành một cái hang đá đủ biết người xưa cứ

theo hình dáng thiên nhiên trong núi mà kiến tạo.

Trúc Kiếm nói:

- Khi bọn nô tài kia tấn công vào cung, các tỉ tỉ trong Quân Thiên Bộ

đều bị bắt cả, bốn chị em chúng tôi thấy địch không lại, chạy xuống trốn

ở dưới đây, định chờ đến khi trời tối sẽ chui ra tìm cách cứu người.

Lan Kiếm nói:

- Thực ra bọn tiểu tì chỉ cốt là báo đáp tấm lòng của mỗ mỗ. Chủ

nhân nếu không tới kịp, chúng tôi cả bọn thể nào cũng bỏ mạng dưới tay

lũ nô tài.

Đi phải đến hơn hai dặm, Mai Kiếm giơ tay đẩy một tảng đá ở phía

bên trái rồi tránh sang một bên nói:

- Xin mời chủ nhân, bên trong là thạch thất, bọn tì tử không vào

được.

Hư Trúc hỏi:

- Sao lại không vào được? Bên trong có gì nguy hiểm chăng?

Mai Kiếm đáp:

- Không phải có nguy hiểm. Đây là trọng địa của bản cung, bọn tì tử

không được phép vào.Hư Trúc nói:

- Tất cả cùng vào một lượt, có gì quan trọng đâu? Bên ngoài này hẹp

lắm, đứng không thoải mái.

Bốn nàng nhìn nhau, ai nấy vừa ngạc nhiên, vừa vui sướng. Mai

Kiếm nói:

- Chủ nhân, trước khi mỗ mỗ tiên du đã từng dặn chị em tiểu tì là

nếu bốn đứa trung thành hầu hạ, không làm gì sai trái, lại dụng tâm luyện

công thì kể từ năm bốn mươi tuổi sẽ cho vào thạch thất mỗi năm một

ngày, tham nghiên võ công trên thạch bích. Nếu như chủ nhân ân đức

không bãi bỏ lời hứa của mỗ mỗ thì hai mươi hai năm nữa mới được vào.

Hư Trúc nói:

- Đợi đến hai mươi hai năm nữa thì chán ngấy? Lúc đó các cô chẳng

già rồi ư, học võ làm gì nữa? Thôi cùng vào một lượt.

Bốn nàng mừng quá, lập tức sụp xuống lạy. Hư Trúc nói:

- Thôi đứng lên, đứng lên đi! Chỗ này đất hẹp, nếu như ta cũng quì

xuống hoàn lễ e rằng cả bọn ngã chồng lên nhau.

Vào bên trong gian nhà đá, bốn bức tường đá được bào nhẵn, trên đó

khắc vô số những vòng tròn đường kính chừng một thước, bên trong vòng

tròn khắc các loại đồ hình, có cái hình người, có cái hình thú, có chỗ là

văn tự sứt mẻ không toàn vẹn, có chỗ lại chỉ là những vạch ký hiệu lằng

ngoằng, bên cạnh các vòng tròn có đánh dấu "giáp nhất", "giáp nhị", "tí

nhất", "tí nhị"... các số mục, những vòng đó nếu không hàng nghìn thì

cũng phải đến tám chín trăm, một lúc làm sao xem cho hết được?

Trúc Kiếm nói:

- Mình xem hình "giáp nhất" trước, chủ nhân nghĩ có nên không?

Hư Trúc gật đầu khen phải. Năm người liền cầm đuốc giơ lên đi tìm

hình có số "giáp nhất", Hư Trúc vừa xem thấy ngay đây là khởi thủ thức

của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ liền nói:

- Đây là Thiên Sơn Chiết Mai Thủ.

Xem đến "giáp nhị" quả nhiên là chiêu thứ hai, cứ thuận chiều xem

tiếp, hết các hình Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì đến Thiên Sơn Lục Dương

Chưởng, bao nhiêu những chỗ áo bí ca quyết đều có ghi rõ trong những

vòng tròn này.

Các võ công chiêu số theo sau Thiên Sơn Lục Dương Chưởng khắc

trong thạch thất Hư Trúc chưa từng học qua. Y cứ theo những hình vẽ,

vận chân khí lên, chỉ mới học vài chiêu đã thấy thân thể nhẹ nhàng như

muốn bay lên, có điều dường như có chỗ nào còn khiếm khuyết một chút

nên chưa rời khỏi mặt đất được.

Y đang ngưng thần vận tức, tập trung hết tinh thần không còn tơ

vương chuyện gì, bỗng nghe "A, A" hai tiếng kinh hoàng, Hư Trúc hoảng

hốt quay đầu lại thấy Lan Trúc nhị nữ loạng choạng, rồi ngã lăn đùng ra

đất, còn Mai Cúc hai nàng tay vịn lên tường đá, sắc mặt nhợt nhạt, lảo

đảo như muốn té. Hư Trúc vội vàng đỡ Lan Trúc dậy, kinh ngạc hỏi:

- Chuyện gì thế?

Mai Kiếm nói:

- Chủ... chủ nhân, bọn tì nữ công lực kém cỏi, không nên xem những

hình vẽ... ở trong này... chúng tôi... ra ngoài kia đợi vậy...

Bốn nàng lần theo vách đá, chầm chậm đi ra khỏi thạch thất. Hư

Trúc đứng ngẩn ngơ một hồi, rồi cũng đi ra, thấy bốn cô gái ngồi xếp

bằng trên lối đi vận công, thân hình run rẩy, vẻ mặt đau đớn. Hư Trúc

biết họ bị nội thương khá nặng, lập tức sử dụng Thiên Sơn Lục DươngChưởng, vỗ nhẹ lên các huyệt đạo trên lưng họ vài cái. Một luồng lực

đạo dương hòa liền truyền vào bốn thiếu nữ, mặt các cô gái trở lại bình

thường, chẳng bao lâu trán nhỏ mồ hôi, kẻ trước người sau mở mắt kêu

lên:

- Đa tạ chủ nhân hao phí công lực trị thương cho tì tử.

Cả bọn phục xuống lạy tạ ân đức. Hư Trúc vội vàng đưa tay đỡ lên

nói:

- Chẳng hay... chẳng hay có chuyện gì thế? Đang khỏe mạnh lại bị

thương muốn ngất đi là sao?

Mai Kiếm thở hắt ra đáp:

- Chủ nhân, trước đây mỗ mỗ bảo bọn tiểu tì phải đến bốn mươi tuổi

mới được vào trong này mỗi năm một ngày để xem đồ hình, thì ra cũng

có thâm ý. Những võ công trên đồ phổ này quá sức thâm áo, bọn tì tử

không lượng sức mình, theo hình "giáp nhất" luyện theo, chân khí chưa

đủ, kinh mạch lập tức rối loạn. Nếu không được chủ nhân giải cứu, không

chừng bốn chị em chúng tôi đã bị tàn phế, tê liệt suốt đời.

Lan Kiếm nói:

- Mỗ mỗ thương yêu nên đặt kỳ hạn gần như thế, mong mỏi khi chị

em tì tử bốn mươi tuổi sẽ có thể tập luyện thượng thừa võ công, thế

nhưng... thế nhưng bọn tì tử tư chất kém cỏi, dẫu có luyện thêm hai mươi

hai năm nữa, chưa chắc đã dám trở lại thạch thất này.

Hư Trúc đáp:

- Thì ra là thế! Vậy là tại ta sai quấy, đúng ra chẳng nên để các cô

vào đây.

Tứ kiếm lại quì xuống chịu tội, cùng nói:- Chủ nhân sao lại nói thế? Đó là ân đức của chủ nhân, đều do bọn tì

tử cuồng vọng làm chuyện không phải mà ra nông nỗi.

Cúc Kiếm nói:

- Chủ nhân công lực thâm hậu, luyện những môn võ học cao thâm

này cực kỳ ích lợi. Mỗ mỗ ở trong thạch thất có khi hàng tháng không ra,

chính là để nghiền ngẫm các đồ phổ trên thạch bích này.

Mai Kiếm lại thêm:

- Bọn nô tài ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo tra vấn các tỉ tỉ

Quân Thiên Bộ muốn tìm nơi cất giấu bảo vật của mỗ mỗ. Các tỉ tỉ đó thà

chết không khai, bốn chị em tì tử cũng định dụ cho họ vào sau đó phát

động cơ quan tiêu diệt toàn bộ bọn chúng ở trong đường hầm, nhưng lại

sợ trong bọn nô tài kia có kẻ khéo tay biết cách phá giải máy móc vào

được thạch thất thấy được những đồ hình trên vách thì di họa vô cùng.

Nếu biết như thế này, cứ để bọn chúng vào đây lại hóa hay.

Hư Trúc gật đầu:

- Quả là như thế, những hình vẽ này nếu người chưa đủ công lực mà

coi thấy thì còn ghê gớm hơn cả độc dược gươm đao, cũng may bọn họ

chưa vào tới.

Lan Kiếm mỉm cười:

- Chủ nhân thực là tốt bụng, theo như tiểu tì ư, cứ để cho bọn chúng

luyện công rồi từng đứa từng đứa lăn ra chết, có phải thích không?

Hư Trúc nói:

- Ta mới luyện vài chiêu đã thấy tinh thần bừng bừng, nội lực sung

túc, đang định đi ra giúp họ bạt trừ Sinh Tử Phù. Các cô cũng đi ngủ một

lát, nghỉ ngơi cho khỏe.Năm người từ địa đạo chui ra, Hư Trúc quay về đại sảnh, gỡ bùa

Sinh Tử cho ba người. Từ đó ngày ngày Hư Trúc bạt trừ Sinh Tử Phù cho

quần hào, mỗi khi thấy mỏi mệt, lại đi xuống dưới thạch thất luyện

thượng thừa võ công. Bốn cô gái đợi ở bên ngoài, không dám bước vào

một bước. Hàng ngày khi rảnh rỗi, Hư Trúc lại chỉ dạy võ công cho bốn

nàng và chư nữ trong chín bộ.

Phải tốn đến hơn hai chục ngày mới bạt trừ được hết Sinh Tử Phù

cho mọi người nhưng Hư Trúc ngày ngày nghiên cứu đồ phổ trên vách đá,

võ công cũng đại tiến, so với khi mới bước chân lên Phiêu Miểu Phong

thật khác xa.

Quần hào trước kia thần phục Đồng Mỗ chẳng qua chỉ vì bị Sinh Tử

Phù chế ngự, không chịu cũng không xong, bây giờ Linh Thứu Cung đã

đổi chủ, Hư Trúc thành tâm đãi mọi người, lấy lễ mà xử với họ, tuy toàn

là những kẻ kiệt hiệt, ngược ngạo trên giang hồ nhưng cũng cảm ân hoài

đức, vui lòng qui thuận, ai nấy bái tạ ra đi.

Đến khi các động chủ, đảo chủ hạ sơn hết rồi, trên núi chỉ còn mình

Hư Trúc là đàn ông. Y tính toán thầm trong bụng: "Ta từ bé là đứa trẻ mồ

côi mồ cút, toàn nhờ các sư phụ trong chùa nuôi dưỡng tới lúc lớn khôn,

nếu như từ nay không trở về chùa Thiếu Lâm thì quả là đồ vong ân phụ

nghĩa. Ta phải quay về chùa chịu tội cùng phương trượng và sư phụ, có

thế mới hợp đạo lý". Y liền nói rõ đầu đuôi cho bốn cô gái và chư nữ chín

bộ, ngay hôm đó lập tức xuống núi, mọi việc trên cung Linh Thứu do Dư

bà, Thạch tẩu, Phù Mẫn Nghi... cùng nhau trông coi.

Bốn cô gái ý muốn đi theo hầu hạ, Hư Trúc nói:

- Ta quay về chùa Thiếu Lâm, trở lại làm hòa thượng. Trên đời làm

gì có nhà sư nào lại đem tì nữ đi theo bao giờ?

Nói đi nói lại mãi mà những cô gái không tin. Hư Trúc cầm thế đao

lên cạo đầu sạch bóng, để lộ giới điểm trên đỉnh đầu. Bốn thiếu nữ không

còn biết sao hơn, đành phải cùng chư nữ chín bộ tiễn y xuống núi, gạt lệ

từ biệt.Hư Trúc thay bộ tăng y cũ, hăng hái tiến bước theo hướng đông về

phía Tung Sơn. Người tính nết như y, trên đường chẳng gây chuyện với ai,

cũng lại nhìn vào một nhà sư áo quần rách rưới, đến đạo tặc cũng không

để ý đến. Thành thử đi đường bình an một mạch về đến chùa Thiếu Lâm.

Y nhìn thấy mái ngói vàng của ngôi chùa cổ, trong lòng vừa cảm

khái, vừa hổ thẹn, mới đi ra ngoài có vài tháng mà mình đã vi phạm biết

bao nhiêu điều thanh qui giới luật, nào sát giới, nào dâm giới, nào huân

giới, nào tửu giới, trong bao nhiêu Ba La Diđại giới, giới nào cũng

phạm, không biết phương trượng và sư phụ có tha thứ cho mình quay về

cửa Phật hay không?

Y trong bụng phập phồng, vào cửa chùa rồi liền đi ngay đến bái kiến

sư phụ Tuệ Luân. Tuệ Luân thấy y trở vè, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ hỏi

ngay:

- Phương trượng sai ngươi ra ngoài đưa thư, sao mãi đến bây giờ mới

quay trở về?

Hư Trúc nằm phục xuống, hết sức hối tiếc, khóc òa lên nói:

- Sư phụ, đệ tử... đệ tử quả là đáng chết, sau khi hạ sơn, không trì thủ

nổi, bao nhiêu... bao nhiêu giới luật sư phụ dạy dỗ, đều... đều chẳng giữ

gìn gì cả.

Tuệ Luân mặt biến sắc, lắp bắp:

- Cái... cái gì? Ngươi nếm phải thịt cá rồi ư?

Hư Trúc đáp:

- Vâng, nhưng đâu có chỉ là ăn đồ mặn mà thôi đâu.

Tuệ Luân mắng liền:

- Chết thật, chết thật! Chắc... chắc ngươi lại còn uống rượu nữa chứ

gì?

Hư Trúc đáp:

- Đệ tử chẳng những uống rượu mà còn uống đến túy lúy say mèm.

Tuệ Luân thở dài một tiếng, hai giòng lệ chảy ròng ròng trên gò má

nghẹn ngào:

- Ta thấy ngươi từ tấm bé trung hậu thực thà, ngờ đâu vừa bước chân

vào cõi hồng trần hoa lệ, lại sa ngã đến thế, khục... khục...

Hư Trúc thấy sư phụ đau lòng, lại càng kinh hãi nói:

- Sư phụ ở trên, đệ tử phạm vào giới luật, đâu có phải chỉ bấy nhiêu,

còn... còn phạm phải...

Y định nói còn phạm cả sát giới, dâm giới, bỗng nghe tiếng chuông

đánh boong boong, cứ hai tiếng ngắn lại ngừng một chút, ấy là hiệu lệnh

triệu tập đệ tử hàng chữ Tuệ. Tuệ Luân vội vàng đứng lên, lau nước mắt

nói:

- Ngươi phạm giới nhiều quá, ta chẳng còn cách nào che chở cho

ngươi được nữa rồi. Ngươi... ngươi... tự mình đến Giới Luật Viện chịu tôi

đi thôi! Chuyện này đến cả ta cũng tội vạ lây. Ôi! Thôi... thôi...

Ông ta vừa nói vừa hấp tấp chạy ra. Hư Trúc đến Giới Luật Viện,

khom lưng bẩm:

- Đệ tử Hư Trúc, vi phạm giới luật Phật môn, cung kính khẩn cầu

chưởng luật trưởng lão tứ phạt.

Y nói đến hai lần mới có một tăng nhân trung niên từ trong viện đi

ra, lạnh lùng nói:- Thủ tọa và chưởng luật sư thúc đang bận, không có thì giờ đâu đến

nghe ngươi nói, ngươi quì đó đợi đi.

Hư Trúc đáp:

- Vâng!

Y quì từ giữa trưa đến chiều tối cũng không thấy ai đến hỏi han.

Cũng may Hư Trúc nội công thâm hậu, tuy không ăn uống gì mà quì đã

nửa ngày nhưng vẫn thản nhiên như không, không có gì tỏ ra mỏi mệt.

Nghe tiếng trống chiều đã điểm, đã đến khóa tụng kinh, Hư Trúc cúi

đầu đọc kinh sám hối những sai trái đã phạm. Nhà sư trung niên lại đi ra

nói:

- Này Hư Trúc, mấy hôm nay nhà chùa đang có việc lớn, các trưởng

lão không rảnh rổi để xét xử chuyện của ngươi. Ta thấy ngươi quì đó đọc

kinh, quả là có thành tâm sám hối tội lỗi. Thôi ngươi đi qua bên vườn rau

gánh phân tưới cây để đợi khi dạy bảo. Đợi khi nào các trưởng lão xong

việc lúc đó sẽ đòi ngươi lên hỏi rõ ngọn ngành, theo tình tiết mà định tội

nặng nhẹ.

Hư Trúc cung kính đáp:

- Dạ, đa tạ từ bi.

Y chắp tay hành lễ, lúc đó mới đứng lên, nghĩ thầm: "Mình khôn bị

trục xuất ra khỏi chùa ngay, xem ra cũng còn có hi vọng", trong lòng thấy

đỡ áy náy một chút.

Y đi qua vườn rau nói với nhà sư coi vườn:

- Sư huynh, tiểu tăng Hư Trúc phạm phải tự môn giới luật, sư thúc

bên Giới Luật Viện sai qua đây gánh phân tưới rau.

Nhà sư đó tên là Duyên Căn không phải là người xuất gia từ chùa

Thiếu Lâm, thành ra không theo thứ tự Huyền Tuệ Hư Không mà đặt tên.Y tư chất tầm thường, không thể lãnh hội được Thiền nghĩa đã đành mà

luyện võ cũng chẳng đi đến đâu, bình thường chỉ lo những việc lặt vặt.

Vườn rau đó rộng đến hai trăm mẫu, có đến ba bốn chục nhân công, y

thống lãnh tất cả nên cũng ra vẻ ta đây lắm, mỗi khi có tăng nhân bị Giới

Luật Viện gửi qua tưới rau thì lại càng lên mặt. Y vừa nghe Hư Trúc nói

thế, trong bụng mừng thầm, hỏi:

- Ngươi phạm phải giới gì?

Hư Trúc đáp:

- Phạm giới nhiều lắm, một lời không thể hết được.

Duyên Căn hầm hầm hỏi lại:

- Cái gì mà một lời không thể hết. Ta bảo ngươi thực thà nói minh

bạch cho ta nghe. Không nói gì ngươi chỉ là một chú tiểu không chức

phận, ví như thủ tọa La Hán Đường, Đại Ma Đường mà phạm giới, nếu

đã bị gửi xuống vườn rau, ta đều phải hỏi cho ra lẽ, có ai dám không trả

lời? Ta nhìn bản mặt ngươi, mặt mũi hồng hào thế kia, chắc là ăn vụng

đồ mặn chứ gì?

Hư Trúc đáp:

- Chính thế!

Duyên Căn nói:

- Đó ngươi coi, ta đoán là trúng liền. Xem chừng ngươi lại còn lén

uống tí rượu nữa, phải không? Nói gì thì nói, đừng có chối, qua mặt ta

không phải dễ à nghen!

Hư Trúc đáp:

- Quả có thế. Có một bữa tiểu tăng quá chén say túy lúy càn khôn,

không còn biết trời trăng gì nữa.Duyên Căn cười hềnh hệch:

- Chậc chậc chậc, mi quả là lớn mật. Hà hà, ăn uống no say, hẳn là

lòng hươu dạ vượn, tám chữ "sắc tức thị không, không tức thị sắc"ngươi

quên mất tiêu luôn, trong bụng thể nào chẳng nghĩ tới gái gẩm, phải

không nào? Chẳng phải chỉ một lần, mà phải bảy tám lần là ít, ngươi có

dám nhận không hả?

Y lên giọng hạnh họe đầy vẻ gay gắt. Hư Trúc thở dài đáp:

- Tiểu tăng đâu dám nói láo với sư huynh? Không những nghĩ tới mà

còn phạm vào dâm giới nữa kìa.

Duyên Căn vừa kinh ngạc vừa thích thú, chỉ tay chửi toáng lên:

- Chà chú tiểu này thiệt là to gan, làm bại hoại thanh danh chùa

Thiếu Lâm. Ngoài giới dâm ra ngươi còn phạm giới nào nữa? Ăn cắp ăn

trộm nữa chăng? Lấy đồ của người ta hả? Có đánh lộn với ai không? Có

cự lộn với ai không?

Hư Trúc gục đầu nói:

- Tiểu tăng lỡ giết người, mà đâu phải chỉ một người.

Duyên Căn hết sức kinh hãi, mặt biến sắc, lật đật lùi lại ba bước,

nghe nói Hư Trúc đã lỡ tay giết người, mà lại không phải chỉ một người,

trong bụng phập phồng, chỉ sợ y nổi hung lên giở quẻ với mình, chắc

không phải là địch thủ của y, cố gắng định thần, nở một nụ cười cầu tài

nói:

- Bản tự vốn dĩ võ công số một trên đời, nếu đã luyện võ, khó mà

không lỡ tay đả thương người khác được, công phu của sư đệ chắc hẳn

cũng có hạng lắm.

Hư Trúc đáp:

- Nói ra thì quả là hổ thẹn, công phu bản môn của tiểu tăng, đã hoàn

toàn bị phế rồi, hiện nay không còn chút nào nữa.

Duyên Căn mừng quá cỡ, nói luôn mồm:

- Vậy thì hay lắm, hay lắm! Thiệt là hay, thiệt là hay!

Y nghe nói bản môn công phu hoàn toàn mất hết, chắc mẩm vì y

phạm quá nhiều đại giới nên bị các trưởng lão trong chùa phế hết võ

công, liền trở mặt ngay. Y nghĩ thầm: "Dẫu y võ công bị phế thật, nhưng

biết đâu cũng còn được đôi ba phần cũng chưa dễ gì đối phó" bèn nói:

- Sư đệ, ngươi tới vườn rau làm công quả sám hối thì thiệt là hay. Có

điều qui củ nơi đây, hễ ai phạm phải giới luật, tăng nhân nào tay từng

nhuốm máu, khi làm việc thì phải xiềng chân khóa tay. Đó là qui củ từ

liệt tổ tông truyền xuống, không biết sư đệ có chịu mang không? Nếu

không chịu mang thì để ta vào bẩm với Giới Luật Viện.

Hư Trúc đáp:

- Nếu đã có qui củ như thế, tiểu tăng cũng xin tuân theo.

Duyên Căn trong bụng mừng thầm, lập tức lấy xích lấy khóa bằng

thép ra, đeo vào cho y. Chùa Thiếu Lâm mấy trăm năm nay tập luyện võ

công, không thiếu gì những nhà sư làm điều sằng bậy, mà những tăng

nhân phạm giới thường thường võ công cực cao không dễ gì chế phục.

Thành thử các nơi Giới Luật Viện, Sám Hối Đường cho chí Thái Viên Tử

đâu đâu cũng có sẵn xích khóa bằng thép. Duyên Căn thấy Hư Trúc đã

mang xiếng xích rồi, lúc đó mới yên bụng cất tiếng chửi:

- Đồ giặc con kia, xem ngươi mới ba tuổi ranh, vậy mà lớn mật làm

càn, giới luật nào cũng phạm hết ráo. Hôm nay ta không trừng trị ngươi

một phen cho ra trò thì làm sao hả tức được?Y liền bẻ một cành cây, mắm môi mắm cổ vụt Hư Trúc túi bụi. Hư

Trúc thu liễm chân khí không dám dùng nội lực đề ngự, nhường cho y

đánh, chỉ trong giây lát đầu mặt đã đầy máu tươi. Y chỉ chăm chú niệm

Phật, trên mặt không lộ vẻ gì buồn bã. Duyên Căn thấy y không tránh né,

cũng không cãi lại, nghĩ thầm: "Nhà sư này quả nhiên võ công mất hết

thật rồi, ta phải hành hạ y một trận cho đã nư mới được".

Y nghĩ đến Hư Trúc ăn uống thịt cá ê hề, say sưa túy lúy, hoan lạc

mê tơi, còn mình đã hơn bốn chục tuổi vẫn nằm còng queo chưa được

nếm mùi trần tục bao giờ, lòng đố kỵ nổi lên bừng bừng, ra tay lại càng

thêm mạnh, đánh đến gãy ba cành cây, lúc đó mới ngừng, hầm hè nói:

- Mỗi bữa ngươi gánh đủ một trăm gánh phân tưới rau, thiếu một

gánh thì ta lấy đòn càn sắt đánh gãy cẳng, nghe chưa?

Hư Trúc bị đánh đập một trận, trong lòng lại thấy bình an, tự nhủ:

"Ta phạm nhiều giới luật như thế, quả là đáng tội, trách phạt càng nặng

thì tội nghiệt của ta càng bớt đi". Nghĩ thế bèn cung kính đáp:

- Dạ!

Y đi đến cái chòi lấy thùng phân ra, gánh phân trộn với nước, đi dọc

theo những luống tưới rau. Việc tưới rau là một công phu cần chăm chú,

Hư Trúc không vội vàng hấp tấp, bình thản khoan thai tưới kỹ càng, đến

mãi tận khuya mới đủ một trăm thùng quay về đống củi nghẹo đầu nằm

ngủ.

Hôm sau trời chưa sáng hẳn, Duyên Căn đã đến tay đấm chân đá,

lay y tỉnh dậy, quát tháo:

- Thằng sư giặc, thằng trọc làm biếng kia! Sáng bảnh mắt mà còn

trốn nơi đây ngủ, có dậy bửa củi đi không nào?

Hư Trúc đáp:

- Dạ!Y không cãi lời, đứng lên đi chẻ củi. Cứ như thế sáu bảy ngày liền,

ban ngày bổ củi, ban đêm gánh phân, chịu biết bao nhiêu hành hạ dày

vò, trên người đầy những vết thương, còn roi thì không biết mấy trăm

mấy nghìn cái.

Sáng sớm ngày thứ tám, Hư Trúc đang bổ củi, Duyên Căn bỗng đến

gần cười hề hề nói:

- Sư huynh khổ quá nhỉ?

Y lấy chìa khóa ra mở xiếng xích cho y. Hư Trúc nói:

- Không có gì là khổ hết.

Y giơ búa lên định tiếp tục chẻ củi, Duyên Căn liền nói:

- Sư huynh không phải bửa củi nữa, mời sư huynh vô trong phòng

dùng cơm. Tiểu tăng mấy bữa rày đắc tội nhiều lắm, thiệt là đáng chết,

mong sư huynh rộng lòng cho.

Hư Trúc thấy giọng lưỡi y thay đổi hẳn, cũng hơi ngạc nhiên, ngửng

đầu nhìn lên thấy Duyên Căn mặt mày tím bầm, hiển nhiên đã bị ai đánh

cho một trận đích đáng, lại càng kỳ quái. Duyên Căn gượng cười ủ rũ nói:

- Tiểu tăng đúng là có mắt mà không biết núi Thái Sơn, đắc tội với

sư huynh, sư huynh nếu không tha thứ, tui... tui... tui chắc đại họa lâm đầu

mất.

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng mình làm mình chịu, sư huynh trừng phạt thế là phải lắm

rồi.

Duyên Căn mặt biến sắc, giơ tay lên, xoạc cẳng xuống tấn, bốp bốp

bốp bốp, vả luôn vào mặt mình bốn cái liền. Hư Trúc hết sức kinh ngạc,

hỏi lại:- Sư huynh làm thế là có ý gì đó?

Duyên Căn đột nhiên quì gập xuống, tay cầm vạt áo Hư Trúc, mếu

máo nói:

- Sư huynh nếu như không tha, tui... tui... hai mắt tui sẽ không còn

nữa.

Hư Trúc nói:

- Tôi thật không hiểu chuyện gì.

Duyên Căn đáp:

- Chỉ mong sư huynh tha thứ cho tui, không móc mắt tui ra, kiếp sau

tiểu tăng nguyện làm trâu làm ngựa, báo đáp ân đức của sư huynh.

Hư Trúc nói:

- Sư huynh nói thế là lẽ gì? Ta đòi móc mắt sư huynh hồi nào đâu?

Duyên Căn mặt mày xám ngoét nói:

- Nếu như sư huynh nhất định không tha cho tui, tiểu tăng có mắt

không tròng, thôi cũng đành tự mình làm lấy vậy.

Nói xong y giơ hai ngón tay, đâm vào mắt mình. Hư Trúc vội vàng

bắt lấy cổ tay y nói:

- Ai bức bách sư huynh phải móc mắt ra?

Duyên Căn trán tươm mồ hôi, run run nói:

- Tui... tui không dám nói, nếu nói ra, người ta... người ta giết tôi

ngay.

Hư Trúc hỏi:- Phải phương trượng chăng?

Duyên Căn đáp:

- Không phải.

Hư Trúc lại hỏi tiếp:

- Hay là thủ tọa Đạt Ma Đường? Thủ tọa La Hán Đường? Thủ tọa

Giới Luật Viện?

Tất cả Duyên Căn đều nói không phải, chỉ đáp:

- Sư huynh, tui... thiệt không dám nói, chỉ mong sư huynh tha tội cho.

Họ nói rằng, nếu tui muốn còn giữ được đôi mắt, thì chỉ cần xin sư huynh

chính miệng tha cho là được.

Nói xong lấm lét nhìn quanh, dáng điệu cực kỳ khiếp sợ. Hư Trúc

nhìn theo mắt y, thấy trong cái chòi có bốn nhà sư ngồi đó, người nào

cũng mặc tăng bào màu tro, đội mũ màu tro, quay mặt vào bên trong

không nhìn thấy mặt mũi ra sao. Hư Trúc nghĩ thầm: "Không lẽ là bốn vị

sư huynh này? Ắt hẳn họ được một nhân vật rất uy tín trong bản tự sai

đến, trừng phạt Duyên Căn về tội tác oai tác quái, hành hạ tăng nhân

phạm giới". Y liền đáp:

- Ta không trách cứ gì sư huynh đâu, vốn đã tha thứ cho sư huynh rồi.

Duyên Căn mừng như chết đi sống lại, vội vàng quì xuống, rập đầu

bình bình. Hư Trúc cũng vội vàng quì xuống hoàn lễ nói:

- Xin sư huynh đứng lên đi.

Duyên Căn đứng dậy, cung kính khép nép mời Hư Trúc vào phòng

ăn, tự tay châm trà dọn cơm, ân cần hầu hạ. Hư Trúc từ chối mãi không

xong, xem ra nếu không để cho y phục thị, Duyên Căn ắt sẽ gặp họa lớn,

đành phải để y làm gì thì làm.Duyên Căn hỏi nhỏ:

- Sư huynh có muốn uống tí rượu không? Có muốn ăn thịt chó

không? Để tiểu tăng đi kiếm cho sư huynh xơi.

Hư Trúc kinh hoảng đáp:

- A Di Đà Phật, tội thay! Tội thay! Ai lại làm thế?

Duyên Căn nháy mắt nói:

- Bao nhiêu tội nghiệt sẽ do tiểu tăng chịu hết. Cứ để mỗ sắp xếp

kiếm được cho sư huynh hưởng dụng.

Hư Trúc xua tay:

- Không được! Không được! Nhất định là không thể được.

Duyên Căn cười cầu tài nói:

- Nếu sư huynh hiềm là ở trong chùa ăn chơi không được thỏa thuê,

thì mình xuống núi một chuyến, Giới Luật Viện có hỏi đến, tiểu tăng sẽ

nói là sai sư huynh đi mua rau cỏ, che dấu mọi việc, không có chuyện gì

đâu.

Hư Trúc nghe y càng nói càng đổ đốn, lắc đầu nói:

- Tiểu tăng thành tâm sám hối những chuyện sai quấy trước kia, tuân

theo giới luật, không dám vi phạm nữa. Những lời đó sư huynh đừng bao

giờ đề cập nữa.

Duyên Căn đáp:

- Dạ!

Y trong bụng đầy vẻ hoài nghi, dường như muốn nói: "Cái thứ sư hổ

mang như ngươi lại còn làm bộ làm tịch, không biết còn tính chuyện gìnữa đây?". Thế nhưng y không dám nhiều lời, hầu hạ đồ chay xong, lại

mời Hư Trúc đến thiền phòng của mình nằm nghỉ, luôn mấy hôm liền

ngày nào Duyên Căn cũng hết sức phục thị, cung kính không còn cách

nào hơn được nữa.

Qua ngày thứ ba, hôm ấy Hư Trúc ăn cơm trưa xong, Duyên Căn

bưng một bình trà xanh nói:

- Mời sư huynh dùng trà.

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng là người có tội, sư huynh khách khí như thế, làm sao tiểu

tăng dám nhận?

Y đứng lên đưa hai tay ra nhận bình trà. Bỗng nghe tiếng chuông

chùa đánh boong boong, liên tục không dứt, ấy là tín hiệu truyền cho toàn

thể tăng chúng trong chùa tụ tập. Trừ ngày Phật Đản hay ngày đản sinh

của Đạt Ma tổ sư ra, trong chùa xưa nay ít khi nào triệu tập toàn thể tăng

chúng. Duyên Căn lấy làm lạ mới nói:

- Phương trượng đánh chuông tụ tập chúng tăng, chúng mình cũng

phải lên Đại Hùng Bảo Điện đi thôi.

Hư Trúc đáp:

- Chính thế.

Y cùng với khoảng chục nhà sư ở vườn rau, lật đật chạy lên Đại

Hùng Bảo Điện. Chỉ thấy trên điện đã có đến hơn hai trăm tăng nhân,

ngoài ra còn vô số người khác đang đi tới. Chỉ trong chốc lát, hơn một

nghìn sư sãi trong chùa đã đến điện, chia theo bối phận mà xếp hàng, tuy

đông như thế nhưng im phăng phắc, không một tiếng động.

Hư Trúc đứng ở hàng chữ Hư, thấy các vị trưởng bối ai nấy mặt mày

trịnh trọng, trong bụng phập phồng, nghĩ thầm: "Không lẽ vì mình phạmgiới quá nặng nên phương trượng phải tập hợp tăng chúng, trừng trị mình

một phen? Cứ xem tình hình này, chắc là sẽ trục xuất mình ra khỏi môn

phái, biết làm sao đây?".

Y còn đang băn khoăn lo lắng, đã nghe ba tiếng chuông, chư tăng

đều niệm Phật hiệu:

- Nam mô Thích Ca Như Lai Phật!

Huyền Từ phương trượng và ba vị cao tăng chữ Huyền khác, cùng

với bảy tăng nhân, từ trong hậu điện chậm rãi đi ra. Các nhà sư trong điện

ai nấy khom lưng hành lễ, Huyền Từ và bảy nhà sư trước hết lễ Phật

trong điện, sau đó chia ngôi chủ khách ngồi xuống. Hư Trúc nghển cổ lên

nhìn thấy bảy nhà sư kia tuổi không còn trẻ, phục sức không giống người

trong bản tự, là những khách tăng từ nơi khác đến, trong đó có một người

mũi cao mắt xanh, râu quăn tít, thân hình cực cao, là một vị Hồ tăng.

Người ngồi thủ vị ước chừng bảy mươi, thân hình bé nhỏ nhưng hai mắt

lấp lánh hữu thần, cung cách thật là oai nghiêm.

Huyền Từ quay sang cao giọng nói với toàn thể các nhà sư chùa

Thiếu Lâm:

- Vị này đây là phương trượng của chùa Thanh Lương Ngũ Đài Sơn,

tất cả cùng tham kiến.

Mọi người nghe nói thế ai nấy giật mình, hầu hết đều biết Thần Sơn

thượng nhân uy danh cực thịnh trong võ lâm, cùng với Huyền Từ đại sư

được gọi là Hàng Long, Phục Hổ hai vị La Hán. Cứ riêng võ công mà

luận thì dường như Thần Sơn thượng nhân còn cao hơn cả Huyền Từ

phương trượng, có điều chùa Thanh Lương tương đối nhỏ hơn, trong võ

lâm địa vị kém xa chùa Thiếu Lâm, nên tiếng tăm ông ta không bằng

Huyền Từ. Mọi người nghĩ thầm: "Nghe nói Thần Sơn thượng nhân tính

tình hết sức cao ngạo, từng nói rằng đã đi tu mà còn dây dưa vào chuyện

tục vụ của võ lâm thì không khỏi rơi vào hàng hạ thừa, trước nay không

hề lai vãng giao thiệp với bản tự, hôm nay đích thân đến đây, không biếtcó chuyện gì". Nghĩ thế nên mọi người cung kính quay về Thần Sơn

thượng nhân hành lễ.

Huyền Từ lại đưa ta ra phía sáu nhà sư còn lại, giới thiệu từng người

nói:

- Vị này là Quán Tâm đại sư của chùa Đại Tướng Quốc phủ Khai

Phong, vị này là Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ ở Giang Nam, vị này

là Giác Hiền đại sư chùa Đông Lâm ở Lư Sơn, vị này là Dung Trí đại sư

chùa Tĩnh Cảnh ở Trường An, vị này là Thần Âm đại sư chùa Thanh

Lương ở Ngũ Đài Sơn, là sư đệ của Thần Sơn thượng nhân.

Quán Tâm đại sư bốn người đều xuất phát từ các danh sơn, cổ sát,

có điều những chùa Đại Tướng Quốc, Phổ Độ trước nay nặng về Phật

pháp mà coi nhẹ võ công, những nhà sư này tuy trong võ lâm danh tiếng

như cồn nhưng trong các chùa chiền thì tên tuổi không mấy nổi. Chúng

tăng chùa Thiếu Lâm khom lưng hành lễ, bọn Quán Tâm đại sư cũng

đứng lên đáp lại.

Huyền Từ phương trượng lại chỉ vào nhà sư người Hồ nói:

- Còn vị đại sư đây đến từ thượng quốc nhà Phật Thiên Trúc, pháp

danh Triết La Tinh.

Mọi người cùng hành lễ, nhà sư Triết La Tinh kia hoàn lễ rồi nói:

- Chùa Thiếu Lâm lớn quá, bao nhiêu là... sư già, sư vừa vừa, sư bé

bé.

Giọng tiếng Hoa của y lơ lớ, những gì "sư vừa vừa, sư bé bé" thật

nghe chẳng đâu vào đâu. Huyền Từ nói:

- Bảy vị đại sư đều là những người hữu đạo đại đức nơi cửa Phật,

hôm nay cùng giáng lâm, thực là rạng rỡ cho bản tự nên ta chiêu tập tất

cả mọi người đến chào để nghe bảy vị đại sư đây khai đàn thuyết pháp,

hoằng dương Phật nghĩa ngõ hầu tăng chúng trong chùa ai ai cũng được

ích lợi.

Thần Sơn thượng nhân đáp:

- Không dám.

Ông ta thân hình bé nhỏ nhưng tiếng nói cực lớn, chúng tăng ai nấy

kinh hãi, thế nhưng rõ ràng không phải ông ta cố ý gầm thét, cũng không

sử vận nội công cố ý dọa người mà chỉ là bình thường trời sinh ra giọng

oang oang như thế. Ông ta lại tiếp:

- Thiếu Lâm trang nghiêm bảo sát, tiểu tăng vốn ngưỡng mộ đã lâu,

sáu mươi năm trước đã từng đến đây bái sơn cầu giới, nhưng bị cự tuyệt

từ ngoài cổng. Sáu mươi năm sau quay trở lại, chùa vẫn như xưa, người

không còn cũ, thật quả bùi ngùi.

Mọi người nghe nói thế ai nấy đều chột dạ, giọng lưỡi ông ta xem

chừng có ý thù nghịch, không lẽ đến để rửa hờn sinh sự gì chăng?

Huyền Từ nói:

- Thì ra sư huynh năm xưa đã từng xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm. Tự

viện trên đời đâu đâu cũng cùng một nhà, hôm nay sư huynh chủ trì

Thanh Lương tự, phàm đệ tử cửa Phật không ai là không sùng ngưỡng.

Năm xưa chùa Thiếu Lâm bỏ qua không tiếp nạp, đắc tội với sư huynh,

tiểu tăng cung cẩn tạ lỗi. Thế nhưng nếu như nhân vì chuyện đó mà sư

huynh khai mở riêng một cõi trời, hoằng pháp phổ độ, lập đại công đức

cho Phật môn thì chuyện năm xưa, há chẳng phải cũng là nhân duyên cho

chuyện ngày nay hay sao?

Nói xong hai tay chắp lại, vái một cái thật sâu. Thần Sơn thượng

nhân chắp tay đáp lễ nói:

- Tiểu tăng năm xưa đến cầu giới ở quí bảo sát, cũng vì ngưỡng mộ

cái tiếng chùa Thiếu Lâm là nơi võ học uyên nguyên, đứng đầu võ lâm,nhưng quan trọng hơn cả là giới luật tinh nghiêm, xử sự công bình, ngay

thẳng.

Nói đến đây đột nhiên ông ta đảo mắt, tinh quang tỏa ra bốn bề,

ngẩng lên nhìn vào kim tượng Phật tổ, lạnh lùng nói:

- Thế nhưng có biết đâu trên đời lắm khi danh bất phó kỳ thực, nếu

biết sớm, tiểu tăng năm xưa nào có đến chùa Thiếu Lâm làm gì?

Hơn nghìn nhà sư trong chùa Thiếu Lâm ai nấy biến sắc, có điều

chùa Thiếu Lâm giới luật nghiêm minh, tuy phẫn nộ nhưng không ai dám

nói câu nào. Huyền Từ phương trượng hỏi lại:

- Không hiểu sao sư huynh lại nói như thế? Người trên kẻ dưới trong

tệ tự nếu có ai làm điều gì không phải xin sư huynh cứ nói rõ ra. Có tội

thì phạt mà có lỗi thì sửa, sư huynh một lời mạt sát thanh dự mấy trăm

năm qua của chùa Thiếu Lâm, há chẳng thái quá hay sao?

Thần Sơn thượng nhân nói:

- Xin hỏi phương trượng sư huynh, Phật môn tự viện, có phải là phủ

nhà quan hay sơn trại đạo tặc không?

Huyền Từ đáp:

- Tiểu tăng không hiểu hàm nghĩa của sư huynh thế nào? Xin một lời

ban cho rõ ràng hơn.

Thần Sơn nói:

- Quan phủ bắt người giam cấm, đạo tặc giữ người vòi tiền cũng là

sự thường. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm đâu phải phủ quan, cũng không

phải sơn trại, sao lại nhốt người ngoài, không cho đi? Xin hỏi sư huynh,

chùa Thiếu Lâm làm những hành vi cường hung bá đạo như thế thì có còn

được gọi là "đất lành cửa Phật" nữa hay chăng?Huyền Từ đưa mắt nhìn nhà sư người Hồ Triết La Tinh, trong bụng

cũng đã hơi hiểu nguyên do của bảy nhà sư vì sao lại đến Thiếu Lâm Tự,

bèn đáp:

- Thượng nhân chỉ trích tệ tự là "cường hung bá đạo", bốn chữ đó có

hơi nặng đó.

Thần Sơn lại nhìn tượng Phật Như Lai nói:

- Có đức Phật ở trên, vọng ngữ ấy là trọng giới cửa Phật.

Ông ta quay sang nhìn Huyền Từ:

- Thỉnh vấn sư huynh, quí tự có cầm giữ một cao tăng Thiên Trúc

hay không? Vị sư đệ của Triết La Tinh sư huynh đây là Ba La Tinh đại

sư, có phải bị chùa Thiếu Lâm giữ lại, mấy năm nay không cho rời chùa

hay không?

Ngữ khí ông ta gay gắt, lời nói lại dồn ép hậm hực. Huyền Từ quay

sang thủ tọa Giới Luật Viện Huyền Tịch đại sư nói:

- Huyền Tịch sư đệ, xin sư đệ nói cho bảy vị cao tăng nguyên do đầu

đuôi.

Huyền Tịch đáp lời tiến lên hai bước:

- Vâng!

Ông ta chấp chưởng giới luật, xưa nay thiết diện vô tư, tăng chúng

trong chùa ai gặp ông nem nép, Hư Trúc lại càng không dám nhìn thẳng

vào ông. Chỉ nghe Huyền Tịch đại sư cao giọng nói:

- Bảy năm trước, cao tăng Thiên Trúc là Ba La Tinh sư huynh quang

lâm tệ tự, tất cả tăng chúng trong chùa từ phương trượng sư huynh trở

xuống đều cực kỳ hoan hỉ, cung kính tiếp đãi. Ba La Tinh sư huynh nói

rằng, mấy trăm năm qua, nơi nước Thiên Trúc ngoại đạo thịnh hành, Phật

pháp suy vi, kinh Phật mất mát một phần lớn, thành thử sư huynh là TriếtLa Tinh đại sư mới sai qua Trung Hoa để tìm kinh. Phương trượng sư

huynh của tệ tự mới nói: Kinh Phật của tệ bang vốn là thỉnh được từ

Thiên Trúc, ngày nay thượng quốc lại qua Đông Thổ thu kinh, quả là một

nhân duyên rất lớn, chúng ta có dịp báo đáp Phật ân, thật vinh hạnh cho

chùa Thiếu Lâm.

Phương trượng sư huynh lập tức đích thân đi cùng với Ba La Tinh sư

huynh qua Tàng Kinh Lâu, cho biết bản tự chứa rất nhiều kinh sách, đủ

cả bản dịch ba tạngkinh luật luận từ Thiên Trúc truyền qua, thêm các

tuyển thuật của mọi cao tăng Đông Thổ, có đến hơn bảy nghìn quyển,

trong đó nguyên văn tiếng Phạn không phải là ít. Nếu như có quyển nào

trùng nhau, Ba La Tinh sư huynh có thể đem về một bản, còn như nếu chỉ

có duy nhất một bộ, bản tự sẽ sai ba chục tăng nhân giúp phần sao lục

phó bản. Phương trượng sư huynh còn nói rằng, khi đem về Thiên Trúc

đường sá xa xôi, rất là khó nhọc, e rằng dễ bị thất tán. Khi Ba La Tinh sư

huynh thu kinh trở về, tệ tự sẽ phái mười tăng nhân đi theo hộ tống để

chắc chắn toàn bộ kinh điển trở về nước Phật được bình an.

Đạo Thanh đại sư chùa Phổ Độ chắp tay nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Việc làm đó của phương trượng sư huynh quả

thực công đức to lớn nhường nào, huy hoàng chói lọi chẳng khác gì Cưu

Ma La Thập đại sư, Huyền Trangđại sư năm xưa.

Huyền Từ khom lưng đáp:

- Cử chỉ đó của tệ tự chẳng qua chỉ là vì nghĩa mà làm, lời tán tháncủa sư huynh, quả thực hổ thẹn không dám nhận.

Huyền Tịch lại tiếp:

- Vị Ba La Tinh sư huynh đó sau đó ở ngay tại Tàng Kinh Lâu phiên

duyệt kinh sách. Huyền Tiệm sư huynh của bản tự phụng mệnh phương

trượng, đốc thúc tăng chúng cùng sao chép kinh văn, không dám trì hoãn.

Ngờ đâu bốn tháng sau, Huyền Tiệm sư huynh mới phát giác, vị Ba La

Tinh sư huynh kia mỗi lúc canh khuya, lén lút lẻn vào Tàng Kinh Lâu bí

các, đọc trộm các võ công bí cập của bản tự cất giữ.

Quán Tâm, Đạo Thanh, Giác Hiền, Dung Trí bốn người không hẹn

mà cùng kêu lên kinh ngạc. Huyền Tịch kể tiếp:

- Huyền Tiệm sư huynh liền bẩm cáo phương trượng sư huynh,

phương trượng sư huynh liền khuyên nhủ Ba La Tinh sư huynh, nói rằng

những võ công bí cập đó là do cao tăng bản tự sáng tác không phải từ

Thiên Trúc truyền qua không liên hệ gì đến Phật pháp, qui củ của bản tự

mấy trăm năm qua, không tiết lộ cho người ngoài. Ba La Tinh sư huynh

đã xem qua một phần rồi, cái đó cũng không sao, nhưng từ nay về sau xin

đừng vào bí các. Ba La Tinh sư huynh liền bằng lòng, luôn mồm xin lỗi,

bảo là không biết qui củ chùa Thiếu Lâm, từ rày sẽ không coi lén võ học

bí cập nữa.

Ngờ đâu vài tháng sau, Ba La Tinh sư huynh giả vờ bị bệnh, lại lén

đào một địa đạo, chui vào bí các coi lén. Mấy năm sau Huyền Tiệm sư

huynh mới phát giác, Ba La Tinh sư huynh đã đọc được khá nhiều võ

công trân điển của bản tự, Huyền Tiệm sư huynh ra tay ngăn trở, hai bên

giao thủ, mới phát giác Ba La Tinh sư huynh không những thâu duyệt võ

công bí cập của chùa Thiếu Lâm mà còn luyện được ba trong số bảy

mươi hai tuyệt kỹ.

Bốn nhà sư bọn Quán Tâm cùng kêu lên một tiếng kinh ngạc, đồng

thời đưa mắt nhìn Triết La Tinh, lộ vẻ trách cứ. Huyền Tịch cũng nhìn

Thần Sơn, nói:

- Phương trượng sư huynh liền triệu tập chư vị huynh đệ hàng chữ

Huyền lại thương nghị, ai ai cũng nói, phái Thiếu Lâm chúng ta tuy võ

công bình thường chẳng có gì là ghê gớm nhưng qui của liệt tổ liệt tông,

không phải đệ tử bản phái thì không truyền. Qui củ võ lâm hàng trăm

hàng nghìn năm qua, học lén võ công phái khác là chuyện đại kỵ. Hơn

nữa nếu như võ công Trung Thổ truyền qua Thiên Trúc có thể gây ra hậu

hoạn vô cùng. Hành vi của Ba La Tinh sư huynh nhất định không phải là

hành vi thanh tĩnh của đệ tử nhà Phật, không chừng y còn chưa chắc đã là

tì khưu Thích gia mà là tà đồ ngoại đạo, không những bất lợi cho phái

Thiếu Lâm, mà còn nguy hiểm cho cả võ lâm Trung Thổ, cho cả Phật

môn Thiên Trúc.

Thành thử các vị sư huynh đệ mỗi người đưa ra một chủ trương,

phương trượng sư huynh nói rằng: "Đệ tử nhà Phật chúng ta từ bi làm gốc,

chân chính lai lịch của Ba La Tinh sư huynh chúng ta không làm sao tra

xét biết được, dẫu có là tà đồ ngoại đạo thì cũng không nên đối xử quá

nghiêm nhặt, thành thử mời y ở lại bản tự mong sao Phật pháp hun đúc,

trước là mong y rồi sẽ khai ngộ chứng đạo, sau là để khỏi gây hậu hoạn.

Mấy năm nay tệ tự đối với vị Ba La Tinh sư huynh này ân cần phụng

dưỡng chu đáo, ngoài việc thỉnh y đừng rời khỏi chùa ra, không gì là

không cung kính.

Bọn Quán Tâm bốn người gật gù khen phải. Thần Sơn lại nói:

- Lời của Huyền Tịch sư huynh đây, chỉ mới là nhất diện chi từ của

phái Thiếu Lâm, chân tướng hư thực thế nào, bọn ta không thể nào biết

được. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm đem một vị cao tăng Thiên Trúc cầm

giữ lại đây, bảy năm chưa thả ấy là chuyện thực. Lão nạp nghe vị Triết

La Tinh sư huynh đây nói rằng, y ở Thiên Trúc mấy năm không nghe tăm

hơi gì của sư đệ, trong bụng bồn chồn, đã sai hai đệ tử đến chùa ThiếuLâm dò hỏi, chùa Thiếu Lâm cũng không cho họ gặp Ba La Tinh sư

huynh, việc đó có hay không?

Huyền Từ gật đầu đáp:

- Quả đúng thế. Ba La Tinh sư huynh đã học trộm võ công của tệ tự,

tệ tự không thể nào để cho y chuyển giao võ công đó lại cho người khác

được.

Thần Sơn cười rộ lên một tiếng, vang động cả mái ngói, cả đến chiếc

đại hồng chung trong điện cũng vang lên u u, hồi lâu chưa dứt. Huyền Từ

tuy thấy y thần sắc ngạo mạn nhưng cũng không nổi giận, chỉ nói:

- Sư huynh, lão nạp có một chuyện không rõ, kính thỉnh sư huynh chỉ

giáo. Ví thử có người ngoài đến chùa Thanh Lương núi Ngũ Đài, xem

trộm quyền phổ Phục Hổ Quyền của quí tự, kiếm kinh năm mươi mốt

chiêu Phục Ma Kiếm, cùng những bí áo trong Tâm Ý Khí Hỗn Nguyên

Công và Phổ Môn Trượng Pháp, sư huynh sẽ xử trí ra thế nào?

Thần Sơn thượng nhân mỉm cười nói:

- Võ công cao thấp toàn do công phu tập luyện của mỗi người, các

loại quyền kinh kiếm phổ, chỉ là thứ yếu. Nếu như có một vị anh hùng

hảo hán nào đến chùa Thanh Lương ăn trộm quyền kinh kiếm phổ của

bản tự thì lão nạp ngoài việc nhận mình vô năng còn nói được gì nữa?

Không lẽ người ta nhìn thấy võ công pháp môn của mình một cái đã đòi

lấy mạng người ta hay sao? Giam cầm người ta suốt đời hay sao? Ha ha!

Lẽ nào lại như thế được.

Huyền Từ cũng mỉm cười nói:

- Nếu như võ công điển tịch bình thường thì không nói làm gì, có

công khai truyền ra bên ngoài cũng chẳng đáng ngại. Thế nhưng nếu như

quyền kinh kiếm phổ nội dung tinh vi của quí phái mà võ lâm đều khâm

phục kính ngưỡng lại bị người ta ăn trộm đem ra ngoài, để rơi vào taynhững kẻ cuồng vọng tự đại, bụng dạ hẹp hòi, thì hậu hoạn biết sao mà

lường được, đâu phải là phúc cho võ lâm.

Mấy câu đó tuy ngữ khí bình hòa, nhưng tám chữ "cuồng vọng tự

đại, bụng dạ hẹp hòi", hiển nhiên nói đến Thần Sơn thượng nhân. Mọi

người ai cũng hiểu rằng Huyền Từ nói thẳng Thần Sơn thượng nhân có

bụng bất lương, sở dĩ đến đòi Ba La Tinh chẳng qua cũng chỉ là có ý dòm

dỏ võ công bí cập của phái Thiếu Lâm mà thôi. Thần Sơn nghe thế, mặt

biến sắc, mấy câu của Huyền Từ quả trúng tim đen của ông ta.

Năm xưa Thần Sơn thượng nhân đến chùa Thiếu Lâm cầu sư thì chỉ

mới mười bảy tuổi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm Linh Môn thiền sư

tiếp kiến xong, thấy ông ta tính tình phách lối, ra vẻ ta đây, cái tôi lớn

quá, khí lượng hẹp hòi cố chấp không thể là người truyền pháp được, còn

như nếu chỉ là một tăng nhân tầm thường ắt sẽ không chịu dưới ai, ngày

sau thể nào cũng gây ra hậu hoạn nên đã khéo léo từ chối. Thần Sơn mới

bỏ đi đầu nhập chùa Thanh Lương, chỉ mới ba mươi tuổi đã ăn đứt mọi

người, lên làm phương trượng. Thần Sơn thượng nhân thiên tư dĩnh ngộ,

kiến thức hơn người, quả là một kỳ tài trong võ lâm, có điều võ học uyên

nguyên chùa Thanh Lương kém xa chùa Thiếu Lâm, quyền kinh kiếm

phổ cũng như nội công các loại cất giữ trong chùa có hạn, phần lớn thô sơ

giản lậu, không phải là đệ nhất công phu. Bốn mươi năm qua, nội công

ông ta càng lúc càng thâm, đã sớm vượt qua mức độ võ học ghi trong điển

tịch các đời trước của chùa Thanh Lương truyền xuống, thế nhưng quyền

kiếm công phu xem ra dường như chưa đủ, mỗi khi nghĩ đến bảy mươi hai

tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, trong lòng vừa ngưỡng mộ vừa căm tức.

Hôm đó việc khéo làm sao, sư đệ ông ta là Thần Âm đưa một nhà sư

người Hồ Thiên Trúc đến Thanh Lương tự, người đó chính là Triết La

Tinh. Triết La Tinh quả thực là đệ tử nhà Phật, tại Thiên Trúc thuộc loại

cao thủ đệ nhất, động thủ với người bị đánh bại, từng nghe chùa Thiếu

Lâm bên Đông Thổ có bảy mươi hai tuyệt kỹ liền nghĩ ra một kế, sai

người có trí nhớ cực tốt là sư đệ Ba La Tinh sang chùa Thiếu Lâm, mượn

tiếng xin kinh nhưng âm mưu ăn trộm võ công. Ngờ đâu hành tàng của

Ba La Tinh bị người ta biết được, chùa Thiếu Lâm giữ lại không cho về.Triết La Tinh sai đệ tử đến chùa Thiếu Lâm hỏi thăm nhưng cũng không

gặp được Ba La Tinh, thành thử Triết La Tinh đành phải tự mình đi qua,

mong được gặp sư đệ, tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm không ăn trộm được

thì cũng đành chịu vậy thôi.

Y qua Trung Thổ rồi đi thẳng tới chùa Thiếu Lâm, trên đường gặp

một lão tăng, tay cầm thiết trượng, đưa mắt nhìn y dò xét. Triết La Tinh

không hiểu tình trạng võ lâm Trung Nguyên, cử tưởng hễ nhà sư nào biết

võ đều là sư chùa Thiếu Lâm, vừa mới gặp đã thấy khó chịu, liền quát

cho nhà sư kia nhường đường, ngôn ngữ cực kỳ vô lễ. Lão tăng kia ăn

miếng trả miếng, nói qua nói lại, hai bên đánh nhau. Đấu đến hơn một

giờ sau, không phân cao thấp, nội công mỗi người đều có sở trường, binh

khí lại cũng khắc chế lẫn nhau, nên chẳng mèo nào cắn mỉu nào.

Lại đấu thêm một hồi nữa, trời đã sẩm tối, lão tăng kia liền đòi

ngưng lại nói:

- Này tên phiên tăng kia, ngươi võ công cao lắm, có điều tính nết

nóng nảy, thiếu hàm dưỡng.

Triết La Tinh đáp:

- - Ngươi bảy lượng, ta nửa cân, bộ ngươi tính nết hay lắm hả?

Tiếng Hoa y học chưa đến đầu đến đũa, định nói "kẻ tám lượng,

người nửa cân", lại thành "kẻ bảy lượng, người nửa cân". Lão tăng kia

lấy làm lạ hỏi lại:

- Cái gì mà lại bảo "bảy lượng, nửa cân"?

Triết La Tinh mặt đỏ lên nói chữa:

- Ý, ta nói sai rồi, phải là tám cân nửa lượng.

Lão tăng kia cười sằng sặc nói:- Để ta dạy cho ngươi, phải là tám lượng nửa cân. Mấy câu dễ thế

mà cũng nói không xuôi, tiếng Trung Quốc ta ngươi nên học thêm dăm

năm rồi hãy nói cũng chưa muộn.

Triết La Tinh đáp:

- Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.Lão tăng kia cười:

- Ha ha! Ngươi quả là cái túi sách, vậy mà lại không phân biệt được

nửa cân với tám lượng.

Hai sư huynh đệ Triết La Tinh, Ba La Tinh nhất quyết sang Trung

Thổ ăn trộm kinh sách võ học, đọc khá nhiều sách chữ Hán, sự hiểu biết

về Hoa ngữ toàn từ sách vở mà ra, thành thử những tục ngữ thông thường

như "tám lượng, nửa cân" y chỉ nhớ lõm bõm.

Hài nhà sư đánh nhau cả nửa ngày như thế, cũng có bụng mến nhau,

nói nói cười cười rồi trao đổi danh tính. Nhà sư già chính là sư đệ của

phương trượng chùa Thanh Lương Thần Âm đại sư. Triết La Tinh thấy

ông ta không phải là sư chùa Thiếu Lâm nên cũng không hiềm khích gì.

Thần Âm hỏi nguyên do vì sao ông ta đông du, Triết La Tinh liền cho hay

sư đệ y qua Trung Thổ, đến chùa Thiếu Lâm hành hương, chẳng hiểu vì

sao lại bị chùa Thiếu Lâm bắt giữ không chịu thả. Thần Âm vốn dĩ hiếu

sự, hai nữa đố kỵ tiếng tăm vang dậy của chùa Thiếu Lâm, lại muốn khoe

tài khoe giỏi với vị bằng hữu mới quen này, liền nói:

- Sư huynh ta Thần Sơn võ công thiên hạ vô địch, xưa nay có coi

chùa Thiếu Lâm ra gì đâu. Để ta đưa ngươi về gặp sư huynh ta, tìm cách

nào cứu sư đệ ngươi ra.

Thần Âm liền dẫn Triết La Tinh về chùa Thanh Lương hội kiến

Thần Sơn. Thần Sơn nghĩ bụng phương trượng chùa Thiếu Lâm là người

khoan hòa, lẽ đâu lại vô duyên vô cớ bắt giữ Ba La Tinh, bên trong hẳn

có nguyên do trọng đại, thành thử cứ để lần lữa, dò hỏi cho ra, chưa đầy

nửa tháng qua giọng lưỡi nhà sư Thiên Trúc đã biết được bụng dạ Triết

La Tinh, mặc dù y vẫn khăng khăng nói là đi lấy kinh Phật đem về hoằng

dương đạo pháp.

Thần Sơn nghĩ thầm: "Ba La Tinh đến chùa Thiếu Lâm cốt để ăn

trộm kinh, nếu như vừa đến tay đã bị phát giác, chùa Thiếu Lâm ắt chỉ

lấy lại kinh thư, chẳng làm khó gì đâu. Thế nhưng bây giờ lại giữ y lại

không thả ắt hẳn không phải chỉ thò tay ăn cắp mà đã ghi nhớ trong dạ.

Hơn nữa, nếu như gã phiên tăng này chỉ ăn trộm kinh luận Phật điển,

chùa Thiếu Lâm chắc chẳng làm gì mà không chừng còn lựa ra những

bản hay đem tặng y là khác. Sở dĩ họ đem y giam tại chùa, bảy năm

không thả, ắt hẳn y không ăn cắp kinh Phật, mà là võ học bí cập".

Thần Sơn nghĩ đến "võ học bí cập" của chùa Thiếu Lâm, không khỏi

thèm thuồng ngứa ngáy. Sau mấy ngày suy nghĩ, ông ta liền quyết định:

"Ta cứ thay y đứng ra đòi Ba La Tinh. Cao thủ chùa Thiếu Lâm tuy đông

thật nhưng trong thiên hạ không thể qua khỏi chữ lý. Phái Thiếu Lâm là

lãnh tụ võ lâm, lại là đệ tử nhà Phật, không lẽ lại cậy mạnh lấn lướt

người khác được chăng? Nếu như Ba La Tinh vào tay ta rồi, lo gì y không

thổ lộ võ học bí yếu của phái Thiếu Lâm".

Y bèn sai đệ tử mang danh thiếp của mình đi mời Quán Tâm đại sư

của chùa Đại Tướng Quốc ở Khai Phong, Đại Thanh đại sư chùa Phổ Độ

ở Giang Nam, Giác Hiền đại sư ở chùa Đông Lâm Lư Sơn, Dung Trí đại

sư chùa Tĩnh Cảnh ở Trường An, cùng đi với Thần Âm và Triết La Tinh

đến chùa Thiếu Lâm. Mời được bốn vị cao tăng rất tiếng tăm có mặt, cốt

để cho chùa Thiếu Lâm e ngại thanh nghị của cả Phật môn lẫn võ lâm,

mà phải theo lý để thả người ra.

Bấy giờ Thần Sơn nghe thấy giọng của Huyền Từ có vẻ dè bỉu liền

ngang nhiên đáp:- Triết La Tinh sư huynh vạn dặm đường xa đến đây, không lẽ

phương trượng không cho sư huynh đệ người ta được gặp nhau một lần

hay sao?

Huyền Từ nghĩ thầm: "Nếu như kiên quyết không để cho Ba La Tinh

ra ngoài, có phải tỏ ra Thiếu Lâm đuối lý hay sao? Làm như thế các cao

tăng chùa Phổ Độ, chùa Đông Lâm e rằng không phục". Ông liền nói:

- Cho mời Ba La Tinh sư huynh.

Chấp sự tăng truyền lệnh xuống, chẳng mấy chốc, bốn vị lão tăng

đưa Ba La Tinh lên trên điện. Gã Ba La Tinh kia thân hình bé nhỏ, mặt

đen sì, vừa trông thấy sư huynh, vừa buồn vừa mừng, nhảy chồm tới, ôm

chặt lấy Triết La Tinh, nước mắt chảy ròng ròng. Hai người xí xố nói

chuyện một tràng, không biết dùng phương ngôn thổ ngữ của xứ nào bên

Thiên Trúc, người ngoài không sao hiểu được, hẳn là Ba La Tinh kể lại

việc ăn trộm kinh bị chùa Thiếu Lâm bắt giữ không cho về.

Triết La Tinh và sư đệ hai người nói chuyện một hồi lâu rồi mới lớn

tiếng nói bằng tiếng Hoa:

- Phương trượng chùa Thiếu Lâm nói láo rồi, Ba La Tinh đâu có ăn

trộm kinh, chỉ đọc lén kinh Phật thôi. Kinh Phật vốn là của nước Thiên

Trúc đem về, có đọc chút chút đâu có phạm giới! Tổ sư Đạt Ma cũng là

người Thiên Trúc, dạy các ngươi võ công, bây giờ lại giam giữ tì khưu

Thiên Trúc, cái đó là vong ân phụ... phụ... gì gì đó, không có tốt.

Tuy y nói tiếng Hoa không lưu loát thế nhưng lời lẽ cực kỳ xác đáng,

nhất thời các nhà sư Thiếu Lâm không trả lời được, y nhất quyết chối

phắt việc đọc trộm võ kinh, bây giờ không có chứng cứ gì cụ thể ở bên

mình Ba La Tinh, thực khó mà bắt y phải nhận.

Huyền Từ đáp:

- Người xuất gia không phát ngôn bừa bãi. Ba La Tinh sư huynh, nếu

như sư huynh nói sai, không sợ đọa a tì địa ngục hay sao?Ba La Tinh đáp:

- Ta nào có nói sai đâu.

Huyền Từ nói:

- Đại Kim Cương quyền kinh của phái Thiếu Lâm, ngươi có đọc trộm

chưa?

Ba La Tinh đáp:

- Chưa, ta chỉ mượn bộ kinh Kim Cương để đọc thôi.

Huyền Từ hỏi thêm:

- Thế còn Bát Nhãchưởng pháp, ngươi đã đọc trộm chưa?

Ba La Tinh đáp:

- Chưa, ta chỉ mượn đọc một bộ tiểu phẩm Bát Nhã Kinh.

Huyền Từ hỏi tiếp:

- Thế còn Ma Ha chỉ quyết của phái Thiếu Lâm, không lẽ ngươi

cũng chưa từng coi lén hay sao? Hôm Huyền Tiệm sư đệ bắt gặp ngươi ở

bên cạnh Tàng Kinh Lâu, chẳng phải là lúc ngươi vừa ăn trộm bộ chỉ

pháp yếu quyết đó từ bí các lẻn ra đấy ư?

Ba La Tinh đáp:

- Tiểu tăng chỉ vào Tàng Kinh Lâu mượn xem bộ Ma Ha Tăng Chỉ

Luật. Đời Tấn bên quí quốc, năm Long An thứ ba, cao tăng Pháp Hiển

sang Thiên Trúc chúng tôi thỉnh kinh, được rất nhiều bản kinh quí giá,

trong đó có cả Ma Ha Tăng Chỉ Luật. Tiểu tăng mượn đọc bộ kinh này

không biết đã phạm vào giới luật gì của quí tự?

Y thông minh cơ biến, học vấn uyên bác, nếu không sư huynh y đã

chẳng sai đảm trách việc trộm kinh nặng nề này, bây giờ ăn nói cứng cỏi,

chối phắt tất cả mọi việc ăn trộm kinh thư võ học, lại còn dồn chùa Thiếu

Lâm vào chỗ đuối lý. Huyền Từ nhíu mày, miệng niệm A Di Đà Phật,

nhất thời chưa biết phải biện luận với y cách nào.

Đột nhiên bên cạnh hơi có gió động, áo vàng thấp thoáng, vù một

cái một người đã nhắm Ba La Tinh đánh ra một quyền, quyền phong

đúng ngay vào huyệt Chí Dương ở sau lưng vừa nhanh vừa mạnh, cực kỳ

lợi hại.

Chiêu đó quá ư bất ngờ, xem ra không thể nào giải cứu được. Ba La

Tinh lập tức lật ngược tay lại, chưởng trái thủ ngay huyệt Thần Đạo,

chưởng phải án ngữ huyệt Cân Súc, lòng bàn tay ngửa ra ngoài, chưởng

lực đẩy ra. Huyệt Thần Đạo nằm ở trên huyệt Chí Dương còn huyệt Cân

Súc thì nằm ở bên dưới, song chưởng đan lại thành một bức tường chắn,

bảo vệ huyệt Chí Dương, thủ pháp cực kỳ xảo diệu.

Mọi người trong Đại Hùng Bảo Điện thấy chiêu số của y thật vững

vàng, tưởng chừng như hai người cố ý diễn tập để y có dịp được lộ chút

tài nghệ, cũng chẳng khác gì anh em đồng môn sách chiêu, biểu diễn

chưởng pháp thượng thừa, nhịn không nổi ai nấy cùng kêu lên:

- Hảo chưởng pháp!

Chưởng lực của Ba La Tinh đánh dạt quyền của người kia đánh tới,

quyền đó liền biến thành chưởng, chém ngang vào sau ót Ba La Tinh.

Bấy giờ mọi người đã nhìn rõ, người tấn công lén là một tăng nhân trung

niên của chùa Thiếu Lâm. Hòa thượng đó biến chiêu cực nhanh, Ba La

Tinh vừa quay đầu lại, hữu chưởng lại lập tức chém xuống liền.

Ba La Tinh liền nhắm cạnh bàn tay nhà sư kia đâm ngón tay bên trái

ra, nếu y không thu chiêu thì thể nào huyệt Hậu Khoát bên ngón tay út

cũng bị trúng chỉ, khi đó toàn lực của Ba La Tinh tụ vào ngón tay, lập tức

phế ngay bàn tay nhà sư kia. Chỉ đó trông thì bình thường không có gì lạnhưng bộ vị chuẩn xác, lực đạo ngưng tụ, không phải tầm thường. Có

người buột miệng kêu lên:

- Hảo chỉ pháp!

Tăng nhân kia lập tức thu chưởng về, song quyền đánh liên hoàn, chỉ

nháy mắt đã đấm ra bảy cái. Bảy quyền đó chia ra đánh vào trán, cằm,

cổ, vai, tay, ngực và lưng Ba La Tinh nhanh không thể tả. Ba La Tinh

không cách nào tránh né, cũng đánh ra liên tiếp bảy quyền, chỉ nghe bình

bình bình bình bình bình bình bảy tiếng ròn rã, quyền nào cũng đánh

trúng một quyền của nhà sư kia.

Y chỉ trong một sát na nhấp nháy mà quyền nào cũng đánh trúng một

quyền của địch nhân, nếu không phải đã từng luyện tập nhuần nhuyễn thì

dù võ công có cao hơn cũng không ai có khả năng đó được.

Bảy quyền đánh xong rồi, Ba La Tinh chợt nghĩ ngay ra một chuyện,

kêu lên một tiếng hoảng hốt, nhảy lùi về sau. Trung niên tăng nhân kia

không đuổi theo, chỉ chậm rãi lui lại ba bước, chắp tay hành lễ với Huyền

Từ và Thần Sơn, nói:

- Tiểu tăng vô lễ, xin thứ tội cho.

Huyền Từ cũng cười khì khì chắp tay đáp lễ. Thần Sơn mặt hầm

hầm, hừ một tiếng. Huyền Từ quay sang Quán Tâm, Đạo Thanh, Giác

Hiền, Dung Trí tứ tăng nói:

- Xin bốn vị sư huynh chủ trì công đạo.

Trong đại điện bỗng chốc lặng như tờ. Từ khi Thần Sơn thượng nhân

đề cập đến việc chùa Thiếu Lâm giam giữ nhà sư Thiên Trúc Ba La Tinh,

Hư Trúc biết là chuyện trước mắt không liên can gì đến mình, trong lòng

nhẹ nhõm, đến khi một vị sư thúc tổ ra tay tập kích Ba La Tinh nhưng y

đều hóa giải được, hai người sách chiêu xong rồi lui ra, Hư Trúc thấy hai

bên ra chiêu công thủ không có gì đặc biệt, nhưng chẳng hiểu sao phươngtrượng bản tự ra chiều đắc ý, còn đối phương lại có vẻ sượng sùng, mặc

dù ba chiêu vừa rồi Ba La Tinh chưa lộ vẻ gì là kém thế.

Quán Tâm đại sư tằng hắng một tiếng nói:

- Ba vị ý ra sao?

Đạo Thanh đại sư đáp:

- Ba chiêu Ba La Tinh sư huynh vừa sử dụng, chiêu thứ nhất dường

như là chiêu Thiên Y Vô Phùng trong Bát Nhã chưởng pháp, chiêu thứ

hai tựa hồ chiêu Dĩ Dật Đãi Lao trong Ma Ha Chỉ, còn chiêu thứ ba thì

hẳn là chiêu Thất Tinh Tụ Hội trong Đại Kim Cương Quyền.

Thần Sơn thượng nhân liền tiếp lời:

- Ha ha, Phật môn Trung Thổ quả nhiên chịu ơn nước Phật Thiên

Trúc không phải là ít. Năm xưa Đạt Ma tổ sư đem võ học Thiên Trúc qua

phương đông, truyền cho phái Thiếu Lâm, võ kỹ lưu truyền đến ngày nay,

thành thử cao tăng Thiếu Lâm khi ra tay cũng vẫn còn ăn khớp với võ

công Thiên Trúc, quả là điều đáng mừng đáng vui thay. Bát Nhã, Ma Ha

cũng là Phạn ngữ, còn Kim Cương thì là Phạn thần, đông với tây là một,

vạn pháp đồng nguyên, phải nói là võ học không phân biệt cảnh giới, ha

ha! Ha ha!

Quần tăng Thiếu Lâm nghe ông ta nói thế, ai nấy đều có vẻ tức tối.

Mới rồi Ba La Tinh chối phắt việc mình coi trộm võ công bí lục của chùa

Thiếu Lâm, khó có thể nói ai phải ai sai. Nhà sư Thiếu Lâm tuổi trung

niên kia pháp danh Huyền Sinh, là sư đệ của phương trượng, võ công cực

cao, tính tình cương mãnh, đột nhiên xuất kỳ bất ý tấn công Ba La Tinh.

Ông ta đã tính trước rồi, chiêu số và phương hướng tấn công sẽ ép Ba La

Tinh phải dùng Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ và Đại Kim Cương quyền để

sách giải, nếu như Ba La Tinh chưa từng học ba môn này thì phải sử dụng

công phu bản môn chống đỡ, còn như mới học đang thao luyện, đêm ngày

suy nghĩ, tay chân quen thói công phu của phái Thiếu Lâm, trong chớp

mắt không kịp tính toán, thể nào cũng dùng những chiêu thức thuận tiệnnhất đem ra ứng phó. Ngờ đâu Thần Sơn cưỡng từ đoạt lý, lại nói ngược

ngạo đây là công phu Thiên Trúc.

Võ công chùa Thiếu Lâm quả thực bắt nguồn từ Đạt Ma tổ sư. Bồ

Đề Đạt Ma là người Thiên Trúc, đời nhà Lương đi qua Trung Hoa, cùng

Lương Võ Đế giảng luận Phật pháp, hai bên không hợp nhau nên về ẩn

cư nơi chùa Thiếu Lâm, truyền Thiền tông tâm pháp và tuyệt thế võ công

là chuyện ai ai cũng biết. Thần Sơn thượng nhân là người cực kỳ cơ biến,

khăng khăng bảo rằng Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ và Đại Kim Cương

quyền đều từ Thiên Trúc truyền qua, nếu vậy Ba La Tinh biết sử dụng thì

chẳng có gì lạ, không thể vì thế mà vu cho y đọc trộm võ công bí cập của

phái Thiếu Lâm.

Huyền Từ ôn tồn nói:

- Phật pháp và võ công bản tự đều từ Đạt Ma tổ sư truyền xuống,

quả đúng như vậy không sai. Đến từ Thiên Trúc, trả lại cho Thiên Trúc,

âu cũng hợp tình hợp lý. Ba La Tinh sư huynh chỉ cần nói thẳng như thế,

bản tự sẽ đem tất cả võ kinh của tổ sư để lại cung kính chép ra trao tặng.

Thế nhưng Bát Nhã chưởng là do phương trượng đời thứ tám của bản

tự Nguyên Nguyên đại sư sáng tác, Ma Ha chỉ là do vị Thất Chỉ đầu đà

công quả trong chùa bốn chục năm nghĩ ra, còn Đại Kim Cương quyền

pháp là do sáu vị cao tăng đời thứ mười một hàng chữ Thông, cùng nhau

công phu nghiên cứu ba mươi năm mới thành. Ba môn đó toàn là võ công

Trung Thổ, so với công phu Thiên Trúc "dĩ ý ngự kình, dĩ kình phát lực"

hoàn toàn khác hẳn. Các vị sư huynh đều là võ học cao nhân, sai biệt bên

trong thoạt trông là thấy, chẳng cần lão nạp phải nhiều lời.

Quán Tâm đại sư, Dung Trí đại sư đều biết lời của Huyền Từ không

sai, cùng quay sang nói với Thần Sơn thượng nhân:

- Ý của sư huynh ra thế nào?

Thần Sơn thượng nhân mỉm cười nói:- Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm hẳn là cao minh rồi, có

điều vẫn còn cố ý phân biệt môn hộ giữa Trung Hoa và Thiên Trúc. Thực

ra dưới con mắt của nhà Phật chúng ta, chúng sinh vô biệt, Trung Hoa,

Thiên Trúc đều là giả danh hư huyễn. Hôm trước Triết La Tinh sư huynh

cùng tiểu tăng bàn luận về võ công Trung Thổ, Thiên Trúc xem giống

nhau khác nhau thế nào, cũng đã từng đề cập đến các chiêu số trong Bát

Nhã chưởng, Ma Ha chỉ và Đại Kim Cương quyền. Y nói rằng chiêu

Thiên Y Vô Phùng, tiếng Phạn gọi là A Đại Khởi Da, dịch thành tiếng

Hoa có nghĩa là "Mạc Khả Danh Trạng", chiêu đó tay phải chưởng lực

tuy nhẹ mà là thực, chưởng bên trái lực chìm mà là hư, hư thực đắp đổi

lẫn nhau, kẻ địch nếu như không nhìn ra ắt là rất dễ mắc bẫy. Phương

trượng sư huynh xem câu đó của Triết La Tinh sư huynh có đúng hay

không?

Mặt của Huyền Từ thoáng hiện sắc vàng nói:

- Nhãn quang sư huynh quả là sắc bén, bội phục, bội phục!

Thần Sơn thông minh dĩnh ngộ, kiến thức võ học cực cao, chỉ xem Ba

La Tinh và Huyền Sinh hai bên đối chưởng, đã nhìn ra ngay chỗ tinh

nghĩa của chiêu Thiên Y Vô Phùng, giả vờ nghe từ Triết La Tinh, cốt để

chứng minh đây là võ học Thiên Trúc. Y thấy Ba La Tinh và Huyền Sinh

hai người trao đổi ba chiêu cực kỳ xảo diệu, trong bụng càng thèm muốn

võ công của phái Thiếu Lâm, trong bụng nghĩ thầm: "Mấy gã thầy chùa

Thiếu Lâm đúng là đồ ăn hại, các đời trước truyền lại võ công cao minh

là thế, xem ra chỉ lãnh ngộ được độ ba thành. Cứ để vào tay ta nghiên

cứu qua, thêm vào biến hóa, chỉ vài năm là cùng là đã ăn đứt bọn bị thịt

này rồi".

Huyền Từ biết ngay câu nói của Thần Sơn chỉ vì xem chiêu số của

Ba La Tinh mà nhìn ra, những gì Triết La Tinh nói, chẳng qua do y bịa ra,

thế nhưng chỉ trong phút chốc mà y đã nghĩ ra được những bí áo trong

môn chưởng pháp cao thâm này, quả là vừa thông minh, vừa sắc sảo, trên

đời ít ai có được. Ông hơi trầm ngâm rồi nói:

- Huyền Sinh sư đệ, phiền sư đệ sang Tàng Kinh Lâu, đem kinh tịch

ba môn công phu này về đây cho các vị sư huynh xem thử.

Huyền Sinh đáp:

- Vâng!

Rồi quay người đi ra khỏi điện, chẳng mấy chốc đã quay về giao lại

cho Huyền Từ. Đại Hùng Bảo Điện và Tàng Kinh Lâu cách nhau đến ba

dặm, Huyền Sinh trong một thoáng đã mang kinh tới, thân thủ quả là

nhanh nhẹn. Người ngoài không biết nội tình, chẳng có gì lạ nhưng chúng

tăng của chùa Thiếu Lâm không ai là không cảm phục ngầm.

Ba bộ kinh thư đó giấy đã ố vàng ngả màu đen, đủ biết đã cũ lắm

rồi. Huyền Từ để kinh thư trên chiếc án sách nói:

- Các vị sư huynh xin xem thử ba bộ kinh thư này công lao sáng tác

thế nào? Nếu như các vị không tin lời lão nạp, không lẽ những vị phương

trượng đời trước đều là cao tăng đức độ lại cũng vọng ngữ dối người hay

sao? Không lẽ lại cũng đoán trước được việc xảy ra hôm nay nên từ mấy

trăm năm trước đã viết sẵn những hàng chữ này để đến bây giờ cưỡng từ

đoạt lý?

Thần Sơn giả vờ như không nghe thấy những điều bóng gió, cầm

quyển Bát Nhã chưởng pháp lên xem, từng trang từng trang giở ra đọc.

Quán Tâm đại sư cũng cầm xem Ma Ha chỉ bí yếu, còn Đạo Thanh đại sư

thì coi Đại Kim Cương quyền thần công. Quán Tâm, Đạo Thanh chỉ coi

lướt qua vài trang mở đầu và lời bạt rồi đưa qua cho Giác Hiền, Dung Trí.

Bốn vị cao tăng đều biết đây là võ công bí bản của phái Thiếu Lâm,

mình là cao thủ danh túc của phái khác, thân phận cao cả, không nên coi

những điều bí ẩn của người ta, hơn nữa Huyền Từ đại sư là một cao tăng

đời nay, nếu đã nói thế không lẽ còn giả, nếu săm soi xem kỹ chẳng hóa

ra có bụng nghi ngờ hay sao, như thế quả là bất kính.Riêng Thần Sơn thượng nhân thì lại làm như thật, từng trang từng

dòng đọc rất kỹ càng, hiển nhiên cố tìm những gì sơ sót bên trong để bắt

bẻ Huyền Từ. Trong đại điện ngoài tiếng thở nhè nhẹ của mọi người và

tiếng giở sách loạt soạt, không còn gì khác. Thần Sơn thượng nhân đọc

hết quyển Bát Nhã chưởng pháp rồi lại xem qua đến Ma Ha chỉ bí yếu,

rồi coi đến Đại Kim Cương quyền thần công, đều chậm rãi xem thật kỹ.

Quần tăng phái Thiếu Lâm chăm chăm nhìn vào mặt Thần Sơn xem

ông ta có tìm thấy trong ba bản cổ tịch này điều gì để cãi lại hay không,

nhưng thấy mặt ông ta vẫn trơ trơ, không vui mừng mà cũng không thất

vọng. Chỉ thấy ông ta chậm rãi xem cho kỳ hết, gập bản Đại Kim Cương

quyền thần công lại rồi, hai tay bưng lên trả lại cho Huyền Từ phương

trượng, nhắm mắt suy nghĩ, không nói một lời. Huyền Từ thấy bộ dạng

ông ta như thế không đoán được tình huống ra sao.

Một lúc sau, Thần Sơn thượng nhân mở mắt ra quay sang nói với

Triết La Tinh:

- Sư huynh, hôm đó sư huynh đọc Bát Nhã chưởng yếu quyết cho lão

nạp nghe, ta nhớ được tiếng Phạn là như vầy: Nhân khổ nải la tư, bất nhĩ

cam nhi tinh, kha la ba cơ tư thản, binh na tư nê, đại nhĩ bất thản la... dịch

sang tiếng Hoa thì là: Nếu như đêm dài không an, trong lòng hoang mang,

không biết làm sao nhiếp phục thì hãy luyện nội công yếu nghĩa thứ nhất

của Bát Nhã chưởng. Có phải đúng thế không?

Triết La Tinh ngạc nhiên, không hiểu ý tứ y ra sao, thuận miệng đáp

liều:

- Đúng đó, sư huynh dịch thật là giỏi.

Các cao tăng chùa Thiếu Lâm người nào người nấy mặt mày ngơ

ngác, ai cũng thất sắc những người vai vế hơi thấp một chút đều cố gắng

lắng tai nghe. Thần Sơn lại xí xố đọc một tràng tiếng Phạn, nói tiếp:

- Đoạn Phạn văn này dịch thành tiếng Hoa hẳn phải là: Nếu tâm tư

xao động, hãy xem tâm mình xao động là vì đâu, tâm đã trú được vào nơivô xứ rồi thì xao động kia còn dựa vào đâu mà tồn tại? Xem xét tâm cho

rạch ròi kỹ lưỡng thì sẽ biết được an tâm vào chỗ nào? Quán chiếu được

gốc trí tuệ vốn là không thì ràng buộc đều hết. Thấy là hết mà chẳng dứt

được, ấy là chưa diệt tịch vậy. Xem xét mà chưa thông tỏ rõ ràng, ấy là

chưa đạt tới quán chiếu vậy. Cảnh trí đều dứt được rồi, bao nhiêu tâm lự

đều trở thành an nhiên. Bên ngoài không vương vào bụi bặm, bên trong

không mắc vào trụ định, trong ngoài đều dứt, một tính an vui, đó là yếu chỉ

của nội công Bát Nhã chưởng.

Triết La Tinh lúc này đã đoán được dụng ý của ông ta rồi, hứng chí

nói:

- Chính thế! Chính thế! Hôm trước tiểu tăng đàm luận Phật pháp với

sư huynh trên núi Thanh Lương Ngũ Đài Sơn, khi bàn về võ công yếu

quyết của Bát Nhã chưởng Thiên Trúc thì đúng là như vậy đó.

Thần Sơn thượng nhân đáp:

- Hôm đó sư huynh nói về Đại Kim Cương quyền yếu chỉ và Ma Ha

chỉ bí quyết, tiểu tăng cũng vẫn còn nhớ được.

Nói xong ông ta lại thao thao bất tuyệt đọc một đoạn Phạn văn, rồi

lại đọc một đoạn kinh văn võ học. Huyền Từ và chúng tăng chùa Thiếu

Lâm nghe Thần Sơn đọc tuy không phải không có chữ nào sai nhưng

không có gì sai lầm lắm, quả thực đúng là những yếu chỉ trong ba bộ cổ

tịch kia, ai nấy biến sắc. Người này quả là kỳ tài, chỉ lẩm nhẩm đọc qua

một lượt mà đã nhớ kỹ được ba bộ võ học yếu tịch trong lòng, lại thêm

tinh thông tiếng Phạn, dịch ra tiếng Phạn trước, rồi theo đúng tiếng Hoa

đọc lại. Đạo Thanh, Dung Trí, và những tăng nhân hàng chữ Huyền chữ

Tuệ ai ai cũng thông thạo Phạn văn, lại thấy bản tiếng Hoa cũng thật phù

hợp, tưởng chừng như có bản tiếng Phạn thật, rồi ai đó dịch thành tiếng

Trung Hoa. Nếu đúng như thế, không những bao nhiêu tội lỗi đọc trộm

kinh thư của Ba La Tinh đều xóa sạch, mà cả đến Nguyên Nguyên đại sư,

Thất Chỉ đầu đà những cao tăng đời trước của chùa Thiếu Lâm, trở thành

kẻ ăn cắp sao chép của người khác, là phường khi thế đạo danh. Chuyện

này nếu như theo lý mà tranh, Thần Sơn lanh mồm lanh miệng, chưa chắcgì cãi lại được ông ta. Huyền Từ giận lắm nhưng nhất thời chưa tìm ra

cách nào đối phó.

Huyền Sinh đột nhiên vượt mọi người bước ra nói với Triết La Tinh:

- Đại sư nói rằng Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền

của bản tự đều truyền từ Thiên Trúc sang dĩ nhiên đại sư phải tinh thông

những môn này lắm lắm. Tiểu tăng muốn lãnh giáo cao chiêu của đại sư,

chiêu số tiểu tăng sử dụng quyết không ra ngoài ba môn đó, đại sư ra tay

chỉ điểm cũng chỉ xin hạn chế trong ba môn ấy mà thôi.

Nói xong lạng người một cái đã tiến ra đứng trước mặt Triết La Tinh.

Huyền Từ kêu thầm: "Quả là hổ thẹn! Cái cách đó thật là giản dị, chỉ cần

gã Hồ tăng kia xuất thủ, chân ngụy sẽ biết ngay, vậy mà ta lại không

nghĩ ra?". Thần Sơn thượng nhân cũng chột dạ: "Cái cách này quả là ghê

gớm, Triết La Tinh đâu biết sử dụng Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại

Kim Cương quyền, làm cách nào ứng phó đây?".

Triết La Tinh mặt mày ngượng nghịu, nói:

- Võ công Thiên Trúc, trứ danh có đến ba trăm sáu mươi môn, tiểu

tăng tuy có biết qua yếu chỉ nhưng đâu phải môn nào cũng tinh thông.

Từng nghe chùa Thiếu Lâm có bảy mươi hai môn tuyệt kỹ, thỉnh vấn sư

huynh, có phải sư huynh bảy mươi hai môn môn nào cũng giỏi chăng?

Nếu như tiểu tăng tùy ý bảo sư huynh biểu diễn ba môn trong số bảy

mươi hai môn đó, liệu sư huynh có thi triển được không?

Câu nói đó khiến Huyền Sinh ngỡ ngàng. Tuyệt kỹ của phái Thiếu

Lâm, cao tăng nào giỏi lắm cũng chỉ biết được năm sáu môn là cùng, nếu

như có ai nhiệm ý chỉ định ba môn cho một vị cao tăng thi diễn thì không

người nào có thể làm được. Tuy Huyền Sinh hiểu biết võ học cực rộng

nhưng trong bảy mươi hai tuyệt kỹ chỉ biết được sáu môn, Triết La Tinh

nói vậy thật đúng, khó mà trả lời được.

Đột nhiên từ bên ngoài một giọng thanh lãng truyền vào:- Đại đức Thiên Trúc, cao tăng Trung Thổ tập trung nơi chùa Thiếu

Lâm giảng luận võ công, quả là một thịnh sự. Tiểu tăng liệu có cái duyên

được làm người khách không mời mà đến, đứng bên cung kính lắng nghe

cao kiến hai bên hay chăng?

Từng câu từng chữ thật rõ ràng truyền vào tai mọi người. Thanh âm

đi từ ngoài núi, đến tai người nghe vừa minh bạch, vừa trung chính bình

hòa, lại không làm tai bị ù đi, nội công người đó vừa cao vừa thuần,

không nói cũng biết, có điều sao y còn ở ngoài xa mà lại nắm vững tình

cảnh trong điện như vậy?

Huyền Từ hơi ngạc nhiên, liền vận nội lực nói vọng ra:

- Nếu là đồng đạo Phật môn, xin mời quang lâm.

Ông lại tiếp:

- Huyền Minh, Huyền Thạch hai vị sư đệ, xin thay mặt ta ra đón

khách quí.

Huyền Minh, Huyền Thạch khom lưng đáp:

- Vâng!

Hai người vừa quay mình định ra ngoài điện bổng nghe từ cửa có

tiếng vọng vào:

- Nghinh tiếp thì không dám nhận, hôm nay được gặp các vị cao

hiền, quả vui mừng khôn xiết.

Y nói một tiếng thanh âm lại gần thêm mấy trượng, vừa hết câu

trong điện đã thêm một tăng nhân trung niên chắp hai tay, bảo tướng

trang nghiêm, miệng mỉm cười nói:

- Sơn tăng nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí, tham kiến phương trượng

chùa Thiếu Lâm.Quần tăng thấy thân thủ y như vậy, hết sức kinh dị, đến khi nghe y tự

báo tính danh, rất đông người "Ồ" lên một tiếng, buột miệng:

- Thì ra quốc sư nước Thổ Phồn Đại Luân Minh Vương đã đến!

Huyền Từ đứng lên, tiến lên hai bước, chắp tay khom lưng nói:

- Quốc sư từ xa đến Đông Thổ, quả là có duyên. Tệ tự hôm nay có

một việc khó mà giải quyết, vậy mong quốc sư chủ trì công đạo, đứng ra

phân xử xem đâu là phải đâu là trái.

Nói xong liền giới thiệu Thần Sơn, Triết La Tinh sư huynh đệ, Quán

Tâm tất cả mọi người. Các nhà sư chào hỏi xong, Huyền Từ sai sắp xếp

một chỗ ngay giữa điện, mời Cưu Ma Trí ngồi ở đó. Cưu Ma Trí khiêm

tốn mấy câu rồi mới ngồi xuống, tính như thế ông ta ngồi trên cả Thần

Sơn. Người khác thì chẳng nói làm gì, Thần Sơn trong lòng căm tức

ngầm: "Tên phiên tăng này làm bộ làm tịch, chắc gì đã có bản lãnh chân

thực, mình phải thử y một phen mới được".

Cưu Ma Trí nói:

- Phương trượng muốn tiểu tăng chủ trì công đạo, phân biện thị phi

quả thật nhất định không dám. Có điều tiểu tăng khi mới rồi ở ngoài sơn

môn nghe thấy Huyền Sinh đại sư và Triết La Tinh đại sư giảng luận võ

công, cảm thấy hai vị có chỗ không được đúng lắm.

Quần tăng ai nấy rùng mình, nghĩ thầm: "Gã này mồm miệng phách

lối thật". Huyền Sinh đáp:

- Kính thỉnh quốc sư chỉ điểm khai mở cho!

Cưu Ma Trí mỉm cười nói:

- Triết La Tinh sư huynh mới rồi chất vấn đại sư, dường như muốn

nói rằng phái Thiếu Lâm có bảy mươi hai môn tuyệt kỹ, chưa chắc có ai

tất cả mọi môn đều tinh thông, lời nói đó sai rồi. Đại sư thì bảo là Ma Hachỉ, Bát Nhã chưởng, Đại Kim Cương quyền là bí truyền của phái Thiếu

Lâm, trừ đệ tử đích truyền trong quí phái, người ngoài không ai có thể

biết được, nếu không thì hẳn học trộm của quí phái mới có được, câu đó

cũng không đúng chút nào.

Câu nói của ông ta phủ nhận cả hai người, quần tăng nghe xong ai

nấy bần thần, không hiểu dụng ý ra sao. Huyền Sinh lớn tiếng nói:

- Cứ như quốc sư vừa nói, có người kiêm thông đủ cả bảy mươi hai

tuyệt kỹ của tệ phái hay sao?

Cưu Ma Trí gật đầu:

- Quả đúng như thế!

Huyền Sinh hỏi tiếp:

- Xin hỏi quốc sư, vị đại anh hùng đó là ai thế?

Cưu Ma Trí đáp:

- Thật tình không dám nhận.

Huyền Sinh biến sắc:

- Là quốc sư đấy ư?

Cưu Ma Trí gật đầu chắp tay, thần thái nghiêm nghị đáp:

- Chính thế!

Hai tiếng đó ra khỏi miệng ông ta, các nhà sư ai nấy mặt mày ngơ

ngác, nghĩ thầm: "Gã này quả là huênh hoang quá đỗi, dám bạo miệng

như thế có khác gì thằng điên?". Bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái

Thiếu Lâm có môn chuyên luyện hạ bàn, có môn chuyên luyện khinh

công, môn thì nặng về quyền chưởng, môn lại sử dụng ám khí, hoặc đao

hoặc bổng, mỗi môn có một chỗ đặc biệt, người sử kiếm không biết sửthiền trượng, người có đại lực thần quyền thì lại không chuyên về ám khí.

Tuy có người tinh thông năm sáu môn thật, nhưng môn nọ phụ môn kia

chứ không chõi lẫn nhau.

Huyền Sinh và Ba La Tinh cùng luyện Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ,

Đại Kim Cương quyền ba môn công phu vì đều là công phu dùng tay.

Theo như cố lão tương truyền, cao tăng đời trước có người kiêm thông

được đến mười ba môn tuyệt kỹ nên được gọi là Thập Tam Tuyệt Thần

Tăng, chùa Thiếu Lâm thành lập đã mấy trăm năm qua, chỉ có một người

duy nhất. Cao tăng phái Thiếu Lâm ai nấy đều biết mà Thần Sơn, Đạo

Thanh thì cũng biết rõ, còn nếu bảo rằng một người biết đủ bảy mươi hai

môn, thật có khác gì khinh lờn người khác.

Trong bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, có đến mười

ba mười bốn môn cực kỳ khó luyện, dẫu người thiên tư cực cao, cả đời

khổ tu một môn, cũng chưa chắc đã luyện thành. Hiện giờ cả chùa có trên

một nghìn nhà sư, dù có hợp lại tất cả cũng không có đủ bảy mươi hai

môn tuyệt kỹ. Xem chừng Cưu Ma Trí độ trên dưới bốn mươi, dẫu có mỗi

năm luyện được một môn, tính ngay từ khi vừa ra khỏi bụng mẹ thì cũng

phải mất bảy mươi hai năm. Huống chi mỗi một môn trong bảy mươi hai

tuyệt kỹ này đều hết sức thâm áo phức tạp, không lẽ y một năm luyện

được đến mấy môn?

Huyền Sinh bụng cười thầm nhưng ngoài mặt vẫn hết sức cung kính

nói:

- Quốc sư không phải là người phái Thiếu Lâm, những môn Ma Ha

chỉ, Bát Nhã chưởng, Đại Kim Cương quyền cũng đều tinh thông hay sao?

Cưu Ma Trí mỉm cười đáp:

- Không dám, vẫn mong được Huyền Sinh đại sư chỉ giáo.

Thân hình hơi nghiêng đi, chưởng bên trái đột nhiên giơ ngang,

quyền bên phải đánh ra vù một tiếng, chiếc đỉnh đồng cắm hương trước

tượng Phật Như Lai trúng phải quyền kình, nghe keng một tiếng, nhảy vọtlên, chính là một chiêu trong Đại Kim Cương quyền pháp tên là Lạc

Chung Đông Ứng. Quyền không chạm vào đỉnh mà kêu thành tiếng,

không phải là khó, thế nhưng rõ ràng quyền đánh thẳng ra mà chiếc đỉnh

đồng lại nhảy tưng lên đủ biết lực của quả đấm khéo léo dường nào,

đúng là bí yếu của Đại Kim Cương quyền.

Cưu Ma Trí không đợi cho đỉnh đồng rơi xuống, tay trái lại đánh ra

một chưởng, tư thức đúng là chiêu Nhiếp Phục Ngoại Đạo trong Bát Nhã

chưởng. Chiếc đỉnh đồng đang ở trên không xoay đi nửa vòng, nghe bịch

một tiếng, một vật gì đó rơi xuống, có điều tro trong đỉnh tung tóe thành

một vùng mờ mịt nên không nhìn rõ là gì. Khi đó dư lực chiêu Lạc Chung

Đông Ứng đã hết rồi, chiếc đỉnh rơi tụt xuống, Cưu Ma Trí liền đưa ngón

tay cái ấn về trước một cái, một luồng sức mạnh mẽ bắn ra, chiếc đỉnh

lập tức di chuyển sang bên trái nửa thước. Cưu Ma Trí ấn ra ba lần, chiếc

đỉnh nhích sang một thước rưỡi, lúc đó mới xuống tới đất.

Các cao tăng chùa Thiếu Lâm trong bụng thán phục. Biết rằng gẩy

tay ba lần như thế trông không có gì kỳ lạ, công lực dấu bên trong đã đến

mức siêu phàm nhập thánh, chính là chỉ số chính tông của Ma Ha chỉ, tên

là Tam Nhập Địa Ngục. Ấy là nói tu tập ba cái gẩy tay đó dụng công khổ

sở, mỗi lần ấn ra chẳng khác gì một lần đi vào địa ngục.

Tro than nhạt dần, thấy dưới đất có vật gì to bằng bàn tay, chúng

tăng nhìn xuống, ai nấy đều kinh hoảng, kêu bật lên một tiếng, đó chính

là một bàn tay bằng đồng thau, năm ngón tay rõ ràng, cạnh bàn tay sáng

loáng, chói lọi như vàng, lưng bàn tay màu rỉ xanh. Cưu Ma Trí phất tay

áo một cái, cười nói:

- Môn Cà Sa Phục Ma Công này luyện chưa được tinh, xin phương

trượng sư huynh chỉ điểm.

Câu nói chưa dứt, chiếc đỉnh ở cách xa bảy thước trước mặt kia

dường như một sinh vật sống, tự nhiên xoay vòng mấy cái, lúc đứng lại,

phía trước kia quay vào bên trong nay hướng ra ngoài, trên thân đỉnh có

một dấu cắt hình bàn tay, vết cắt sáng loáng. Những người vai vế hơithấp trong quần tăng bấy giờ mới rõ, Cưu Ma Trí vừa rồi sử dụng chiêu

Nhiếp Phục Ngoại Đạo trong Bát Nhã chưởng chưởng lực không khác gì

bảo đao sắc bén, cắt trên đỉnh một vết hình bàn tay.

Huyền Sinh thấy ông ta ra tay ba lần môn nào cũng hơn mình xa lắc,

trong lòng nguội lạnh nghĩ thầm: "Xem chừng vị thần tăng này lời nói

không sai, bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm từ Thiên Trúc

truyền vào thật, y tập theo cách thức từ nguyên địa nên những bí áo so

với bên Trung Thổ mình cao minh hơn nhiều".

Ông liền chắp tay khom lưng nói:

- Thần kỹ của quốc sư khiến cho tiểu tăng được dịp mở mắt, bội

phục, bội phục!

Môn sau cùng Cưu Ma Trí sử dụng là Cà Sa Phục Ma Công, Huyền

Từ phương trượng tốn không biết bao nhiêu thì giờ tu tập môn này, đến

khi Thiền học tinh tiến rồi cảm thấy hối hận vì mình đã bỏ nhiều năm

tháng luyện tập thực là vô vị. Thế nhưng nghĩ lại mình có một môn thần

công độc đáo trong thiên hạ cũng thấy tự an ủi, bây giờ xem Cưu Ma Trí

tùy ý phất tay áo một cái, tiêu sái tự tại, miệng vẫn nói nói cười cười, tay

áo tuy động nhưng không sợ nói năng mà tiết chân khí, việc đó mình

không sao làm được, trong lòng ngổn ngang trăm mối.

Trong một thoáng đại điện không một tiếng động, người người đều bị

thần công tuyệt thế của Cưu Ma Trí trấn nhiếp. Qua một lúc sau, Huyền

Từ thở dài một tiếng nói:

- Lão nạp đến hôm nay mới biết thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng

hữu nhân, mấy chục năm khổ học nhưng dưới mắt quốc sư, thật chẳng bõ

cười. Ba La Tinh sư huynh, chùa Thiếu Lâm là nơi hồ cạn không dung

chứa nổi giao long, phúc bạc không lưu giữ nổi khách quí, xin sư huynh

tùy tiện.

Câu nói của Huyền Từ khiến cho Triết La Tinh và Ba La Tinh mừng

hiện ra nét mặt. Thần Sơn thượng nhân thì vừa mừng vừa buồn, mừng vìBa La Tinh quả nhiên tinh thông tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm nên

Huyền Từ phương trượng mới giữ y lại, buồn vì việc này mình chẳng có

công lao gì, toàn do Cưu Ma Trí xuất lực mà thành, người này võ công

cao cường như thế, khống chế toàn cục, nếu mình còn mong từ tay Ba La

Tinh để học tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, e rằng khó càng thêm khó,

huống chi võ công bí cập Ba La Tinh ăn trộm được cũng chỉ vài môn, so

với sở học của Cưu Ma Trí thấm thía gì? Trên đời này đã có người như

Cưu Ma Trí thì những gì mình đã mưu đồ, dù thành hay bại cũng chẳng

đáng vào đâu.

Cưu Ma Trí thản nhiên như không, chỉ chắp tay nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Phương trượng sư huynh có gì mà phải khiêm

tốn quá như thế?

Bao nhiêu sư sãi trong chùa Thiếu Lâm ai nấy ủ rũ cúi đầu, biết rằng

phương trượng bị bắt buộc phải nói như thế, ấy là tự nhận võ công phái

Thiếu Lâm không bằng người ta. Phái Thiếu Lâm mấy trăm năm qua

danh tiếng lừng lẫy, đứng đầu về võ học trong thiên hạ. Việc xảy ra hôm

nay, không những chùa Thiếu Lâm thua một trận không còn gì mà còn

khiến cho võ nhân Trung Thổ mất mặt trước người Phiên. Quán Tâm,

Đạo Thanh, Giác Hiền, Dung Trí, Thần Âm cũng thấy bẽ mặt, việc xảy

ra như thế này thật ngoài dự liệu của họ khi lên chùa Thiếu Lâm.

Huyền Từ quả tình cũng đã suy nghĩ kỹ lắm rồi. Ông nghĩ chùa

Thiếu Lâm lưu giữ Ba La Tinh chẳng qua chỉ để võ công tuyệt kỹ trong

bản tự không bị tiết lộ ra ngoài, thế nhưng thần công như Cưu Ma Trí đây,

tuy chưa chắc đã tinh thông toàn bộ bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự

nhưng cũng không phải là ít, có giữ Ba La Tinh thêm cũng chẳng ích gì.

Ba La Tinh nhớ được tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm bất quá chỉ được ba

môn, so với những gì Cưu Ma Trí biết thật chẳng đến đâu. Vị Đại Luân

Minh Vương này võ công cao siêu khôn lường, trong chùa không một ai

có thể là địch thủ của y được, ví thử tất cả các cao thủ cùng xông lên, lấy

nhiều thắng ít thì có khác gì bọn vô loại hạ tiện trên giang hồ, phái Thiếu

Lâm đâu có thể làm như thế. Gã Ba La Tinh kia hôm nay hạ sơn, chỉtrong một tháng trên giang hồ đã đồn đãi ầm ỹ, thiên hạ ai ai cũng biết

cả, phái Thiếu Lâm đâu còn có thể làm lãnh tụ võ lâm, chính mình cũng

không còn mặt mũi nào làm phương trượng. Những điều chua xót đó ông

ngậm đắng nuốt cay giữ trong lòng nhưng tình thế này ngoài ra không còn

một lối nào khác nữa.

Trên điện xảy ra như thế, Hư Trúc đều nhìn rõ không sót mảy may,

đến khi nghe phương trượng nói ra câu đó, các bậc tiền bối trong chùa

người nào mặt cũng buồn thiu. Y đưa mắt nhìn sư phụ Tuệ Luân thấy ông

nước mắt ròng ròng, cực kỳ thương tâm, còn có mấy vị sư thúc đấm ngực,

khóc không ra tiếng. Tuy y không hiểu rõ nguyên do bên trong, nhưng

biết rằng vừa rồi Cưu Ma Trí phô bày võ công, trong chùa không ai địch

nổi, phương trượng không còn cách nào khác hơn nên đành phải thả Ba

La Tinh đi.

Thế nhưng trong bụng y có một điều thắc mắc không sao giải được.

Trước mắt tuy Cưu Ma Trí sử dụng Đại Kim Cương quyền quyền pháp,

Bát Nhã chưởng chưởng pháp, Ma Ha chỉ chỉ pháp, chiêu số quả đúng

không sai, y chưa học qua những môn này nên không biết được, thế

nhưng cách vận dụng nội công trong quyền pháp, chưởng pháp, chỉ pháp,

y lại nhìn ra rõ ràng, hiển nhiên đó là Tiểu Vô Tướng Công. Môn Tiểu

Vô Tướng Công y được Tiêu Dao Tử truyền thụ, về sau khi Thiên Sơn

Đồng Mỗ truyền cho y ca quyết của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ mới phát

giác trong người y có thần công này, hết sức giận dữ đau lòng vì công phu

đó sư phụ bà ta chỉ truyền cho một mình Lý Thu Thủy mà thôi, Hư Trúc

nhận được từ Tiêu Dao Tử thì giữa Tiêu Dao Tử và Lý Thu Thủy hai

người phải có gắn bó sâu xa, không cần phải hỏi cũng biết. Thiên Sơn

Đồng Mỗ sau đó đã cho y hay cách thức vận dụng Tiểu Vô Tướng Công,

nhưng những điều Đồng Mỗ biết chỉ có hạn, mãi đến khi y xem các đồ

hình trên vách đá trong địa đạo cung Linh Thứu mới hiểu thêm được khá

nhiều bí áo trong môn này.

Tiểu Vô Tướng Công là sở học Đạo gia, nói về thanh tĩnh vô vi, thần

ngao du cõi Thái Hư, tuy cũng na ná như môn võ công "vô sắc vô tướng"

của Phật gia, tuy nhiên tên hơi giống nhau nhưng thực chất lại khác hẳn.Hư Trúc khi nghe Cưu Ma Trí từ bên ngoài dùng trung khí truyền âm

thanh vào, cũng hơi giật mình, biết môn Tiểu Vô Tướng Công của y tài

nghệ rất cao, đến sau thấy y sử dụng quyền pháp, chưởng pháp, chỉ pháp,

tụ pháp, chiêu số tuy huyễn ảo nhưng toàn do Tiểu Vô Tướng Công thúc

đẩy.

Huyền Sinh sư thúc tổ và Ba La Tinh hai người sử chiêu Thiên Y Vô

Phùng và những chiêu khác, từ ngoài vào trong toàn là công phu Phật

môn, Bát Nhã chưởng có nội công Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ có nội

công Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền thì có nội công Đại Kim Cương

quyền, mỗi môn một khác, không thể lẫn lộn môn nọ với môn kia.

Y nghe Cưu Ma Trí tự xưng tinh thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản

phái, vậy mà khi thi triển thì rõ ràng chỉ có một môn Tiểu Vô Tướng

Công sử động chiêu số Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương

quyền, chỉ vì Tiểu Vô Tướng Công uy lực quá mạnh, vừa thi triển đã trấn

áp đương trường, mọi người không biết môn này, lại tưởng y tinh thông

tuyệt kỹ Thiếu Lâm thực. Tuy Tiểu Vô Tướng Công uy lực không kém

bất cứ tuyệt kỹ nào của phái Thiếu Lâm nhưng dẫu sao vẫn là treo đầu

dê bán thịt chó, lập lờ đánh lận con đen. Hư Trúc thấy thật lạ lùng, việc

này rõ như ban ngày, vậy mà sao từ phương trượng đổ xuống, cả hơn

nghìn nhà sư Thiếu Lâm không ai đứng ra nói rõ thị phi.

Y có biết đâu môn Tiểu Vô Tướng Công này bác đại tinh thâm, lại là

võ học Đạo gia, trong đại điện mọi người đều là đệ tử nhà Phật, võ công

tuy cao nhưng đâu có người nào tu tập Đạo gia, huống chi Tiểu Vô Tướng

Công cũng lấy Vô Tướng làm yếu chỉ, không chấp trước vào hình tướng,

không dấu vết gì mà truy lùng, trừ những người cũng cao thâm về môn đó

những người khác không sao nhìn ra được.

Huyền Từ, Huyền Sinh mọi người tuy thấy nội công Cưu Ma Trí có

hơi khác nội công phái Thiếu Lâm, lại tưởng từ Thiên Trúc truyền qua

chắc có đổi đi đôi chút, cũng là chuyện thường. Đất xa nhau mấy vạn

dặm, thời cách nhau mấy trăm năm, tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm đã được

bao nhiêu đời cao thủ thêm thắt biến hóa, nếu như hai bên vẫn còn hoàntoàn giống nhau thì lại không hợp đạo lý, thành thử chẳng ai nghi ngờ

chút nào.

Hư Trúc lúc đầu lại tưởng các vị tiền bối sư trưởng có thâm ý, y chỉ

là một chú tiểu ở hàng thứ ba, làm sao dám đứng ra góp ý? Thế nhưng y

thấy tình thế tụt dốc thật bất ngờ, các bậc sư trưởng ai ai cũng phẫn nộ

chán chường, không còn biết làm gì khác, bản tự hiển nhiên lâm vào một

kiếp nạn trọng đại, nên định tiến ra, chỉ rõ cho mọi người biết rằng Cưu

Ma Trí vừa sử dụng không phải tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Thế nhưng

y ở trong chùa hơn hai chục năm qua, chưa bao giờ đứng trước đám đông

nói lấy một câu, nơi đại điện khung cảnh trang nghiêm thế này, lời ra đến

cửa miệng lại rụt ngay lại.

Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Phương trượng nếu đã nói thế thì đã tự nhận bảy mươi hai tuyệt kỹ

của quí phái, thực ra không phải từ chùa Thiếu Lâm mà ra, chữ "tuyệt"

kia phải đổi đi mới được.

Huyền Từ lặng thinh không nói, ruột như dao cắt. Trong đám chữ

Huyền có một lão tăng thân hình cao to hậm hực nói:

- Quốc sư đã chiếm thượng phong, phương trượng bản tự đã bằng

lòng cho Phiên tăng Thiên Trúc kia được rời chùa, sao còn xử ép như thế,

không để lại chút dư tình là sao?

Cưu Ma Trí mỉm cười nói:

- Tiểu tăng chẳng qua chỉ muốn phương trượng bằng lòng một điều,

để tiện thông báo cho toàn thể đồng đạo võ lâm. Theo ý kiến tiểu tăng,

chùa Thiếu Lâm chi bằng giải tán đi thôi, các vị cao tăng chia nhau ra

đầu nhập chùa Thanh Lương, chùa Phổ Độ các nơi tự viện tìm đường

dung thân, chẳng hơn là ở chùa Thiếu Lâm hưởng cái hư danh, sống thừa

sống nhục?Lời của y vừa nói ra, những nhà sư Thiếu Lâm dù công phu hàm

dưỡng rất cao cũng không nhịn nổi, nhao nhao sỉ mắng. Quần tăng bấy

giờ mới rõ, gã Cưu Ma Trí này lên núi là dùng sức một một người đánh

đổ chùa Thiếu Lâm, không những tiếng tăm y sẽ để lại muôn đời, mà võ

lâm rồi đây cũng sẽ mất đi một tòa trọng trấn, làm lợi cho nước Thổ Phồn

của y rất nhiều.

Lại nghe y sang sảng nói:

- Tiểu tăng một thân đến Trung Thổ, bản ý mong được biết đến

phong phạm của chùa Thiếu Lâm một phen, để xem cái nơi xưng là Thái

Sơn Bắc Đẩu của võ lâm kia khí tượng trang nghiêm hùng vĩ đến chừng

nào. Thế nhưng sau khi nghe lời lẽ các vị cao tăng, xem cử chỉ các vị cao

tăng rồi, ha ha ha, xem chừng còn kém cả chùa Thiên Long của nước Đại

Lý náu mình một cõi Nam cương. Ôi, quả là khiến cho tiểu tăng thất vọng

làm sao!

Trong hàng chữ Huyền có người đáp:

- Chùa Thiên Long nước Đại Lý, Khô Vinh đại sư và phương trượng

Bản Nhân Phật pháp uyên thâm, hễ đã là đệ tử họ Thích không ai là

không ngưỡng mộ. Người xuất gia vốn dĩ không còn cái tâm cạnh tranh

hiếu thắng, quốc sư bảo chùa Thiếu Lâm không bằng chùa Thiên Long

cũng có ai để vào tai?

Người đó là một lão tăng mặt mũi hồng hào, vừa nói vừa chậm rãi đi

ra. Ngón tay trỏ và ngón tay giữa bàn tay phải ông ta hơi khép lại, nở một

nụ cười, thần sắc ôn hòa. Cưu Ma Trí cũng mỉm cười nói:

- Đã từ lâu ngưỡng mộ môn Niêm Hoa Chỉ của Huyền Độ đại sư

luyện đến mức xuất thần nhập hóa, hôm nay được thấy, quả thực may

mắn biết bao.Nói xong hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa bàn tay phải của y cũng

khép lại, làm thế niêm hoa. Hai nhà sư đồng thời chầm chậm đưa tay

trái ra, hướng về đối phương búng luôn ba cái. Chỉ nghe sùy sùy sùy ba

tiếng, chỉ lực chạm nhau, Huyền Độ đại sư người lảo đảo, đột nhiên trước

ngực vọt ra ba dòng máu xa đến mấy thước. Hai bên giao đấu rồi, Huyền

Độ địch không lại, bị chỉ lực của Cưu Ma Trí xuyên vào ngực, thật chẳng

khác gì ba mũi dùi nhọn đả thương.

Huyền Độ đại sư là người từ hòa, rất được các tăng lữ tiểu bối yêu

mến. Năm Hư Trúc mười sáu tuổi cũng đã từng được sai đến hầu hạ

Huyền Độ, quét nhà châm trà trong tám tháng liền. Huyền Độ đãi y cực

kỳ thân thiết, lại còn chỉ điểm cho y về pho La Hán Quyền. Sau đó

Huyền Độ bế quan tham thiền, Hư Trúc rất ít khi được gặp lại nhưng tình

nghĩa ngày xưa vẫn luôn luôn ghi nhớ trong lòng.

Y thấy Huyền Độ đại sư bị trúng chỉ lực, biết rằng nếu chậm trễ một

chút lập tức nguy đến tính mạng. Y từng được Lung Á lão nhân Tô Tinh

Hà dạy cho cách trị thương, về sau lại học bí quyết của phép phá giải

Sinh Tử Phù, rất quen thuộc với cách chữa người sắp chết, thấy trước

ngực Huyền Độ máu tươi vọt ra không kịp suy nghĩ, lắc người một cái vọt

ra trước mặt Huyền Độ, đánh nhứ một chưởng.

Việc đó xảy ra chỉ trong chớp mắt, ba dòng máu chưa rơi tới đất, bị

chưởng lực của y đẩy ngược trở lại, cũng nhanh nhẹn vô cùng chui ngược

trở về ngực Huyền Độ. Tay Hư Trúc như gẩy tì bà, hư điểm vòng vòng,

chỉ trong khoảnh khắc đã phong bế mười một huyệt đạo trước sau trái

phải của vết thương, máu tươi liền không chảy ra nữa, lại lấy một viên

linh dược trị thương Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu

nhét vào mồm ông ta.

Hôm trước khi Hư Trúc được Đoàn Diên Khánh phá giải cuộc cờ

Trân Lung của Tiêu Dao Tử, Cưu Ma Trí đã gặp y một lần, bây giờ đột

nhiên thấy y chạy ra dùng luân chỉ hư điểm, phong bế huyệt đạo Huyền

Độ, thủ pháp khéo léo, công lực mạnh mẽ, chưa từng thấy bao giờ, khiến

y không khỏi hoảng vía.

Khi đó sáu nhà sư bọn Tuệ Phương thấy Hư Trúc một chưởng đánh

chết Huyền Nạn, lại thấy y làm chưởng môn một phái khác, cực kỳ lạ

lùng, không sao hiểu được, liền khiêng thi thể Huyền Nạn trở về chùa

Thiếu Lâm. Huyền Từ phương trượng cùng các cao tăng tra hỏi kỹ càng,

biết Huyền Nạn chết vì chất độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán của Đinh Xuân

Thu, đợi mãi không thấy Hư Trúc trở về nên sai hơn chục nhà sư khác đi

tìm kiếm nhưng không thấy tung tích y đâu.

Hư Trúc trở về chùa lại gặp ngay lúc chùa Thiếu Lâm đang có biến

cố trọng đại, vừa nhận được thiếp của bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền

yêu cầu phái Thiếu Lâm đưa y lên làm minh chủ võ lâm Trung Nguyên.

Huyền Từ ngày nào cũng cùng chư tăng hàng chữ Huyền, chữ Tuệ tìm

cách đối phó, thực không biết cái gã chưa nghe tên tuổi tên là Trang Tụ

Hiền kia là hạng người gì. Cái Bang là bang hội số một trên giang hồ,

thực lực rất mạnh, xưa nay vốn dĩ theo đường hiệp nghĩa, cùng với Thiếu

Lâm hai bên nương tựa lẫn nhau, chủ trì chính khí cho giang hồ, công đạo

cho võ lâm, tự nhiên đòi ngồi cao hơn phái Thiếu Lâm, khiến cho các cao

tăng không biết phải xử trí thế nào cho phải.

Sư phụ Hư Trúc là Tuệ Luân thấy phương trượng và các sư bá sư

thúc đang có việc quan trọng phải bàn thảo nên cũng không dám lên báo

cáo là Hư Trúc đã trở về chùa, lại liên tiếp phạm nhiều giới luật. Ngay cả

việc y ở vườn rau gánh phân tưới nước chư tăng cũng không hề hay biết,

bây giờ đột nhiên thấy y thi triển thủ pháp cao siêu, đẩy ngược máu tươi

quay trở về thân thể Huyền Độ, ai nấy đều cực kỳ lạ lùng.Hư Trúc nói:

- Thái sư bá đừng vận khí để vết thương khỏi chảy máu.

Nói rồi y xé tăng bào, buộc chặt vết thương. Huyền Độ cười gượng

gạo nói:

- Đại Luân Minh Vương... công phu Niêm Hoa Chỉ... ghê gớm thật!

Lão nạp... lão nạp bái phục.

Hư Trúc nói:

- Đại sư bá, ông ta sử dụng không phải là Niêm Hoa Chỉ, cũng không

phải Phật môn võ công.

Quần tăng nghe nói thế, đều ngầm cảm thấy có điều hoang mang,

chỉ pháp của Cưu Ma Trí cùng Huyền Độ không khác gì nhau, đến cả hai

người vẻ mặt hiền từ mỉm cười cũng giống hệt, vậy mà không phải Niêm

Hoa Chỉ trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của Thiếu Lâm thì là gì? Ai ai cũng

biết Cưu Ma Trí là Hộ Quốc pháp sư nước Thổ Phồn, được phong làm Đại

Luân Minh Vương, cứ năm năm lại một lần khai đàn nơi chùa Đại Luân

trên Đại Tuyết Sơn, giảng kinh thuyết pháp, cao tăng cư sĩ bốn phương

vân tập đến nghe, hỏi kinh điển, nêu thắc mắc, người người đều ca ngợi.

Y là một cao tăng thiên hạ ai ai cũng biết tiếng, không lẽ lại không sử

dụng võ công Phật môn hay sao?

Cưu Ma Trí trong lòng hoảng thầm: "Tiểu hòa thượng này sao lại

biết rằng ta không sử dụng Niêm Hoa Chỉ? Không phải võ công Phật

môn?". Y suy nghĩ một chút lập tức hiểu ngay: "Đúng rồi! Niêm Hoa Chỉ

vốn dĩ là một công phu cực kỳ vương đạo, hòa bình, chỉ điểm huyệt người

ta, chế ngự địch nhưng không làm hại tính mạng, ta gấp rút cầu thắng, chỉ

lực quá ư lợi hại, đâm thủng ba lỗ trên ngực lão tăng kia, không phải là

bản ý Niêm Hoa Vi Tiếu của Ca Diếp tôn giả, có lẽ chú tiểu này vì thế

mà biết được".Y trời sinh thông tuệ, từ khi còn nhỏ đã gặp kỳ duyên, xưa nay chưa

thua ai bao giờ, từ khi rời Thổ Phồn ở chùa Thiên Long nước Đại Lý đã

liên tiếp thắng Khô Vinh, Bản Nhân, Bản Tướng... các cao thủ. Lần này

lên chùa Thiếu Lâm vốn định dùng võ công của mình, đơn thương độc mã

đánh đổ một tòa thiên niên cổ sát, thấy Hư Trúc chỉ độ ngoài hai mươi,

tuy vừa rồi dùng phép Luân Chỉ Phong Huyệt có chiều huyền diệu, nhưng

chắc võ công cũng chẳng cao được bao nhiêu, liền mỉm cười hỏi:

- Tiểu sư phụ bảo rằng Niêm Hoa Chỉ của ta không phải võ công

Phật môn thì để võ công Thiếu Lâm vào chỗ nào đây?

Hư Trúc không giỏi biện bác, chỉ đáp:

- Niêm Hoa Chỉ của thái sư bá Huyền Độ dĩ nhiên là võ học cửa

Phật, còn đại sư... đại sư sử dụng... lại là...

Y vừa nói vừa giơ tay trái lên, bắt chước thủ pháp của Huyền Độ,

búng luôn ba cái, chỉ lực sử dụng Tiểu Vô Tướng Công. Y đối với người

kính cẩn, ba cái búng đó không dám nhắm vào Cưu Ma Trí, chỉ quay về

phía không có người bắn ra, chỉ nghe boong boong boong ba tiếng, chiếc

đại đồng chung treo trong điện vang lên. Ba cái búng của Hư Trúc búng

vào chiếc chuông thật chẳng khác gì dùng chày đập vào. Cưu Ma Trí kêu

lên:

- Hảo công phu! Để thử một chiêu Bát Nhã chưởng của ta.

Nói xong dựng song chưởng lên tưởng như hành lễ nhưng hai tay

không chắp lại, vù một tiếng, một luồng chưởng lực đánh về phía Hư

Trúc, chính là chiêu Hiệp Cốc Thiên Phong trong Bát Nhã chưởng.

Hư Trúc thấy chưởng thế của y mãnh liệt, không thể không chống

đỡ, lập tức dùng một chiêu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải

chưởng lực của y. Cưu Ma Trí cảm thấy trong chưởng của y có chứa sức

hút để khắc chế chưởng lực của mình, chính là để đối phó với Tiểu Vô

Tướng Công, trong bụng chột dạ, cười nói:- Tiểu sư phụ, công phu đó là công phu cửa Phật đó sao? Hôm nay ta

đến quí bảo sát là muốn lãnh giáo thần kỹ của phái Thiếu Lâm, sao ngươi

lại đem công phu bàng môn ra sử dụng? Võ học Thiếu Lâm tại Đại Tống

đứng hàng thứ nhất thứ nhì, không lẽ chỉ có hư danh, không chống nổi võ

công dị bang hay sao?

Hư Trúc hiểu ngay ý của y bèn nói thẳng:

- Tiểu tăng tư chất ngu độn, bản phái võ công chỉ học được một bài

La Hán Quyền, một môn Vi Đà Chưởng, là công phu nhập môn tối căn cơ

của bản phái, làm sao có thể quá chiêu với quốc sư được?

Cưu Ma Trí bật cười ha hả nói:

- Nếu đã như thế, ngươi tự biết mình là khôn, không phải đối thủ của

ta thì lui ra đi thôi.

Hư Trúc đáp:

- Vâng! Tiểu tăng cáo thoái.

Y chắp tay hành lễ, lui vào trong hàng chữ Hư. Thế nhưng Huyền Từ

phương trượng cực kỳ tinh minh, tuy không biết rõ võ công của Hư Trúc

như thế nào, nhưng vừa mới thấy y biểu diễn vài chiêu, chiêu số tinh kỳ,

nội công thâm hậu, có thể đương cự được với Cưu Ma Trí, chùa Thiếu

Lâm hôm nay gặp cảnh nguy cơ tồn vong vinh nhục, sao không sai y ra

chống đỡ một phen, dù có thua thì cũng còn hơn là không làm được

chuyện gì, lập tức nói:

- Quốc sư tự xưng tinh thông bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái

Thiếu Lâm, cao minh uyên bác, khiến cho mọi người cực kỳ bội phục.

Công phu nhập môn thô thiển của phái Thiếu Lâm thì lại càng không

đáng quốc sư để mắt tới.

Hư Trúc, bản tự tăng chúng theo vai vế Huyền, Tuệ, Hư, Không mà

sắp xếp, ngươi là đệ tử hàng thứ ba của bản phái, vốn không tư cách quáchiêu với quốc sư là đệ nhất cao thủ nước Thổ Phồn. Thế nhưng quốc sư

vạn dặm từ xa đến đây, duyên may khó gặp, ngươi hãy dùng La Hán

Quyền và Vi Đà Chưởng để xin quốc sư chỉ điểm cho vài chiêu.

Ông đã chặn trước, Hư Trúc chẳng qua chỉ là một chú tiểu chữ Hư,

đệ tử hàng thứ ba của phái Thiếu Lâm, dẫu có thua dưới tay Cưu Ma Trí

thì uy danh chùa Thiếu Lâm cũng không bị tổn hại, còn như miễn cưỡng

chống đỡ nổi qua được một nén hương, hai nén hương, lúc đó mình thừa

thế quát bảo ngừng lại, Cưu Ma Trí sẽ không còn mặt mũi nào lôi thôi

thêm nữa.

Hư Trúc nghe thấy phương trượng ra lệnh như thế, không dám vi

phạm, khom lưng đáp:

- Vâng!

Y tiến lên mấy bước, chắp tay nói:

- Xin quốc sư thủ hạ lưu tình!

Y nghĩ bụng đối phương là tiền bối cao nhân nhất định không ra tay

trước, lập tức hai tay chắp lại vái xuống, chính là khởi thức Linh Sơn Lễ

Phật trong Vi Đà Chưởng. Y ở trong chùa Thiếu Lâm nửa ngày đọc kinh,

nửa ngày luyện võ, hơn chục năm nay, đã luyện hai môn La Hán Quyền

và Vi Đà Chưởng thuần thục vô cùng. Chiêu Linh Sơn Lễ Phật vốn chỉ là

một chiêu kính trọng đối phương, ý là đệ tử nhà Phật coi lễ nhượng làm

đầu, không phải là phường hiếu dũng thích đánh nhau. Thế nhưng trong

người y lúc này có chứa ba nguồn nội lực thâm hậu của ba cao thủ phái

Tiêu Dao, lại thêm được Đồng Mỗ tận tâm chỉ dạy, thêm mấy tháng

nghiền ngẫm những võ công trong hang sâu trên núi Linh Thứu, được

nhiều điều ích lợi, song chưởng vừa vái xuống, tăng y trên người liền hơi

phồng lên, chân khí lưu chuyển hộ vệ toàn thân.

Ai ơi tự hỏi lòng mình,

Bao giờ mới dứt nợ tình được đây?

*

* *

Cưu Ma Trí biết rằng ra tay đấu vơi chú tiểu này, thắng cũng chẳng hay ho gì mà thua thì thiên hạ cười chê nhưng ở vào tình thế bắt buộc, không thể nào tránh né được, lập tức múa chưởng đánh ra, chưởng phong có tiếng vụt vụt véo véo, tư thế thủ pháp, chính là công phu thượng thừa của Bát Nhã chưởng.

Vi Đà Chưởng là võ công căn bản của phái Thiếu Lâm, đệ tử bái sư nhập môn, bài đầu tiên học là La Hán Quyền, bài thứ hai là Vi Đà Chưởng. Bát Nhã chưởng là chưởng pháp tối tinh áo, từ Vi Đà Chưởng học lên đến Bát Nhã chưởng, tuần tự nhi tiến, thông thường cũng phải mất ba bốn chục năm công phu. Bát Nhã chưởng là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, luyện rồi sẽ không bao giờ hết, chưởng lực càng luyện càng mạnh mẽ, chiêu số càng luyện càng tinh thuần, quả đúng là không bờ không bến.

Từ khi phái Thiếu Lâm thành môn lập phái, lấy Vi Đà Chưởng đấu với Bát Nhã chưởng thực chưa từng có bao giờ. Hai bên nông sâu tinh thô, đúng là hai thái cực của phái Thiếu Lâm, một nhà sư bậc tiền bối không bao giờ lại dùng Bát Nhã chưởng để đấu với một đệ tử mới học Vi Đà Chưởng, dù cho thầy trò mớm chiêu dạy dỗ, nếu sư phụ đã dùng Bát Nhã chưởng thì đệ tử ít lắm cũng phải dùng các loại Đạt Ma chưởng, Phục Hổ chưởng hay Như Lai Thiên Thủ Pháp... ra hầu tiếp.

Hư Trúc thấy chưởng lực đối phương ào tới, hơi nghiêng người tránh qua, song chưởng tống ra chính là một chiêu trong Vi Đà Chưởng, tên gọi Sơn Môn Hộ Pháp, chiêu thức tuy bình bình nhưng nội lực cực kỳ hồn hậu.

Cưu Ma Trí thân hình lưu chuyển, sử dụng hai môn Tụ Lý Càn Khôn, Vô Tướng Kiếp Chỉ nhắm đối phương điểm tới. Hư Trúc vừa lách qua, Cưu Ma Trí đã đoán trước được vị trí y di động, Đại Kim Cương quyền đánh ra, nghe bình một tiếng trúng ngay vai đối phương, Hư Trúc loạng choạng lùi về sau hai bước. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:

- Tiểu sư phụ đã phục chưa?

Y liệu rằng chưởng đó có sức vỡ bia tan đá, ắt đánh gãy vụn xương vai của Hư Trúc rồi, ngờ đâu Hư Trúc có Bắc Minh Thần Công hộ thể nên chỉ cảm thấy đầu vai đau ê ẩm rồi lại tiến lên, song chưởng vung ra từ trái sang phải đánh chéo xuống một chiêu tên gọi Hằng Hà Nhập Hải, hai tay chứa đầy chân khí, thật chẳng khác gì một trận hồng thủy dâng tràn, cuồn cuộn đổ vào biển cả.

Cưu Ma Trí thấy y chịu mình đấm một quyền mà như không hay biết, song chưởng đánh tới lực đạo hồn hậu như thế, trong lòng không khỏi kinh dị ngầm, vung chưởng gạt qua, thân hình đi theo, hai chân đá liên hoàn, trong nháy mắt đã đá luôn sáu cái đều trúng ngực Hư Trúc. Đó chính là một trong các tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm gọi là Như Ảnh Tùy Hình Thoái, đá một cái thì chân sau như bóng với hình cũng ra theo, cú đá thứ hai vừa từ ảnh biến thành hình, chân bên kia lại như ảnh tiếp tục đá tới, đến cái thứ sáu Hư Trúc mới bật ngửa ra.

Cưu Ma Trí không để cho y kịp thở, liên tiếp tung ra hai chỉ, vụt vụt hai tiếng, chính là Đa La chỉ pháp. Hư Trúc xoạc cẳng xuống tấn đấm lại một cái, sử dụng chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm trong La Hán Quyền. Chiêu đó quyền pháp cực kỳ thô thiển, thế nhưng có Tiểu Vô Tướng Công phụ vào khiến cho ngón Đa La chỉ có sức xuyên kim phá thạch kia phải tiêu giải giữa chừng.

Cưu Ma Trí có ý phô trương, sử dụng Đa La chỉ xong, lập tức biến chiêu, một tay chém xuống, tuy chỉ tay không nhưng sử dụng chính là Nhiên Mộc Đao Pháp. Lộ đao pháp này khi luyện thành rồi, nếu chém vào một khúc gỗ khô chín chín tám mươi mốt đao liền, đao không làm khúc gỗ tổn hại nhưng phát xuất hơi nóng, có thể làm gỗ bốc cháy được. Năm xưa, sư phụ của Tiêu Phong là Huyền Khổ đại sư luyện được công phu này, từ khi ông viên tịch rồi, trong chùa không còn ai biết nữa. Nhiên Mộc đao pháp là phép sử đơn đao, khác hẳn với Hỏa Diễm đao pháp dùng lăng hư chưởng lực mà Cưu Ma Trí sử dụng ở Thiên Long tự.

Hiện giờ y dùng chưởng lực thay giới đao, hung hăng chém chặt, toàn là võ công của phái Thiếu Lâm. Một đao của y bổ xuống, nghe bộp một tiếng, tay phải Hư Trúc trúng chiêu, kêu lên:

- Nhanh thật!

Quyền bên phải liền đánh ra, vừa đến giữa chừng thì cánh tay đã trúng đòn. Chân lực Cưu Ma Trí dồn vào cạnh bàn tay nên y chặt xuống không khác gì đao thép, có thể đứt đầu đứt tay, thế nhưng tay phải Hư Trúc trúng liên tiếp hai lần mà vẫn như không, còn dội lại khiến tay y ngâm ngẩm đau.

Cưu Ma Trí kinh ngạc hết sức, trong lòng nghĩ ngay: "Gã tiểu hòa thượng này dù cho có luyện được Kim Chung Tráo, Thiết Bố Sam thì cũng không thể nào chịu nổi trọng thủ của ta, như thế là cớ gì? À, đúng rồi, chắc là bên trong tăng y gã có mặc bảo giáp hộ thân". Y nghĩ đến việc đó, ra chiêu chỉ tấn công vào mặt, Đại Trí Vô Định Chỉ, Khứ Phiền Não Chỉ, Tịch Diệt Trảo, Nhân Đà La Trảo, liên tiếp sáu bảy môn công phu Thiếu Lâm, chộp vào mắt vào cổ họng Hư Trúc.

Cưu Ma Trí tấn công một loạt cực kỳ nhanh nhẹn như thế khiến cho Hư Trúc chân tay luống cuống, không sao chống đỡ được, chỉ còn nước thoái lui liên tiếp, đến Vi Đà Chưởng cũng không còn sử dụng nổi, chỉ đấm ra hết quyền nọ đến quyền kia duy nhất một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm, nhưng mỗi quyền đều ép cho Cưu Ma Trí phải lùi lại nửa thước, nhưng chính vì cách xa nửa thước đó mà những chiêu số kỳ diệu của Cưu Ma Trí không trúng vào người y được.

Chỉ trong khoảnh khắc, Cưu Ma Trí đã sử dụng mười sáu môn tuyệt kỹ Thiếu Lâm, quần tăng xem mà hoa cả mắt, nghĩ thầm: "Người này tự xưng kiêm thông bảy mươi hai tuyệt kỹ bản phái, quả nhiên không phải là nói khoác". Thế nhưng Hư Trúc chỉ dùng một môn La Hán Quyền để ứng phó, đối phương tấn công nhanh như điện nhưng cũng không biết cách nào biến chiêu, cứ Hắc Hổ Thâu Tâm rồi lại Hắc Hổ Thâu Tâm, trước sau có một chiêu cứ đánh ra mãi, quyền pháp vụng về, dẫu bọn võ sư đầu đường xó chợ trông thấy cũng phải bật cười.

Thế nhưng kình lực chứa trong chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm không ngừng gia tăng, hai người mỗi lúc một rời xa thêm, thủ chỉ thủ trảo của Cưu Ma Trí giờ đây đã cách Hư Trúc đến một thước.

Cưu Ma Trí cũng đã thấy được nội lực trong quyền của Hư Trúc có ngầm chứa Tiểu Vô Tướng Công mà xem ra còn cao hơn mình nhiều, có điều không biết sử dụng nên uy lực không phát huy được. Lại thấy Hư Trúc đánh ra một chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, đột nhiên thủ chưởng trầm xuống hai tay chộp ra đã nắm được quyền của Hư Trúc, chính là tuyệt kỹ Long Trảo Công của phái Thiếu Lâm, tay trái nắm ngón tay út của Hư Trúc, tay phải cầm ngón tay cái, vận lực bẻ ngược lên, toan bẻ gãy hai ngón tay của Hư Trúc.

Hư Trúc bị nắm hai ngón tay rồi, không còn có thể đánh ra chiêu Hắc Hổ Thâu Tâm nữa, ngón tay đau nhói lên, tự nhiên sử dụng Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, cổ tay xoay một vòng, lật ngược tay lại nắm luôn cổ tay Cưu Ma Trí.

Cưu Ma Trí vừa chộp trúng, đang mừng thầm, không ngờ tay đối phương lại sinh ra một luồng lực đạo quái dị, bắt ngược lại tay mình. Hiểu biết về võ học của y cực kỳ uyên bác nhưng lại không biết lai lịch của Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, trong bụng chột dạ, thấy cổ tay mình như bị giữ trong hai gọng kềm không cách nào giằng ra được nữa. Cũng may Hư Trúc hoảng hốt chỉ mong tự cứu mình không biết phản công, thành thử cứ khư khư giữ lấy cổ tay Cưu Ma Trí, chỉ mong sao y không còn bắt tay mình được nên không biết nắm vào mạch môn. Chỉ trong khoảnh khắc, nội lực Cưu Ma Trí đã phát sinh, y hơi giựt tay về rồi nhả tới, toan đánh rách hổ khẩu của Hư Trúc.

Bàn tay Hư Trúc tê đi, sợ đối phương thoát ra được rồi sẽ lại giở những thủ pháp lợi hại khác, vội vàng vận kình, Bắc Minh chân khí trong người như sóng triều dâng lên. Võ công y và Đoàn Dự vốn cùng một gốc nhưng chưa từng học cách hút nội lực người khác, thành thử tuy đã nắm được cổ tay Cưu Ma Trí rồi nhưng không hút được nội lực của y. Dẫu thế, Cưu Ma Trí ba lần vận kình vẫn không thoát ra được, trong bụng sợ hãi, tay phải thành chưởng phạt xéo xuống cổ Hư Trúc. Y trong cơn nguy cấp không còn nghĩ mình phải sử dụng võ công phái Thiếu Lâm, cú chặt ngang này là võ học của Thổ Phồn.

Hư Trúc vội vàng dùng tay trái sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng hóa giải, chưởng kế tiếp của Cưu Ma Trí vừa tới, Hư Trúc liên tiếp sử dụng lục dương chưởng chặn đứng thế đánh ào ào như gió táp mưa sa đối phương.

Lúc này hai người đứng sát nhau, đến tiếng thở của nhau cũng còn nghe thấy, khi đánh ra phải cong tay thu chỏ, mỗi chưởng chỉ ra chừng bảy tám tấc. Thế nhưng tuy gần thật, chưởng lực cũng vẫn mạnh phi thường. Cưu Ma Trí chưởng thanh vù vù, quần tăng ai cũng thấy lực tạt vào buốt như dao, khí lạnh phả vào người tưởng như đang ở trên đỉnh núi cao, gió bốn bề thổi tới. Những nhà sư bối phận tương đối thấp của chùa Thiếu Lâm dần dần cảm thấy chịu không nổi, ai nấy lùi lại sau, đứng sát vào tường. Những cao tăng hàng chữ Huyền không sợ chưởng lực tấn công nhưng cũng phải vận nội lực để chống lại.

Hư Trúc từ khi giải trừ Sinh Tử Phù cho quần hào ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo, sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng rất nhiều, bao nhiêu biến hóa đều thuộc như cháo chảy, lại thêm xem những đồ phổ trong thạch thất dưới hầm cung Linh Thứu nên đã hiểu hết những áo diệu trong đó. Có điều y chưa từng vận dụng để cùng người khác quá chiêu đối sách, lại ít tập luyện, vừa ra tay đã gặp ngay một cao thủ số một số hai trên đời, chưởng pháp tuy cao, nội lực tuy mạnh nhưng sử dụng chỉ được một hai thành mà thôi.

Cưu Ma Trí chưởng lực mỗi lúc một sát phạt, còn Hư Trúc thì chỉ mong tự bảo lấy thân nên chiêu nào cũng đều thế thủ. Y không có ý định bắt giữ Cưu Ma Trí, thấy đối phương võ công gấp mười mình, đơn chưởng tấn công đã lợi hại như thế, nếu để y dùng cả hai tay thì mình thể nào cũng táng mạng ngay tại chỗ thành ra sống chết nhất định giữ cổ tay Cưu Ma Trí không chịu buông để y không thể nào xuất chiêu bằng tay trái được.

Ý niệm đó của Hư Trúc tuy ngớ ngẩn thật nhưng lại thật hữu ích. Tay trái Cưu Ma Trí bị nắm rồi, y không còn có thể sử dụng song chưởng liên hoàn biến hóa, chiêu số hỗ tương đắp đổi. Chưởng pháp Hư Trúc vốn dĩ không thuần thục thành ra dùng một tay lại thấy thuận hơn dùng cả hai tay. Một người hai tay mất một, mười thành chỉ còn được năm, còn người kia công phu chỉ hai ba nay lại lên được thành bốn năm. Thời gian đốt một nén hương rồi, hai người trao đổi đã mấy trăm chiêu nhưng vẫn vào thế ngang ngửa.

Huyền Từ, Huyền Độ, Thần Sơn, Quán Tâm, Triết La Tinh... các cao tăng thấy Cưu Ma Trí tay trái bị nắm chặt, dãy dụa không thoát được, còn Hư Trúc dùng tay trái nên ở vào thế yếu, chỉ còn đỡ gạt, không cách gì đánh trả, hai người đều ở vào thế bên phải mạnh, bên trái yếu.

Lối đánh như thế, các cao tăng tuy biết nhiều hiểu rộng nhưng trong đời cũng chưa từng thấy bao giờ. Các cao tăng Thiếu Lâm lại càng vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, Hư Trúc từ nhỏ lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, hạ sơn mới nửa năm, không biết học ở đâu ra những tài nghệ kinh người như thế đem về, thấy y nắm được kẻ địch rồi nhưng không chế ngự được, chưởng nào chưởng nấy của Cưu Ma Trí đều có thể đứt gân gãy xương, chứa đầy uy lực nội gia chân khí, nếu trúng phải thể nào cũng tắt thở chết ngay.

Lúc này trong chùa Thiếu Lâm, dù bất cứ ai nếu muốn giúp đỡ Hư Trúc, chỉ cần dùng một ngón tay đã có thể giết chết Cưu Ma Trí được rồi, thế nhưng cuộc đấu vốn không phải để giết chết đối phương, mà là để bảo vệ thanh danh phái Thiếu Lâm, nếu có ai tiến lên giết Cưu Ma Trí thì ắt sẽ tổn hại lớn đến tiếng tăm của ngôi chùa. Quần tăng ai nấy thấp thỏm lo âu, lòng bàn tay toát mồ hôi chăm chú quan sát hai người.

Lại trao đổi thêm trên trăm chiêu nữa, nỗi sợ trong lòng Hư Trúc lắng xuống dần, chỗ tinh diệu trong Thiên Sơn Lục Dương Chưởng càng lúc càng nhiều, mười chiêu thì thủ ngự chín nhưng cũng trả lại được một. Y tấn công một chiêu, Cưu Ma Trí dĩ nhiên phải chống đỡ, thế công không khỏi hơi lúng túng. Tuy chênh lệch chỉ một chút đỉnh nhưng kẻ đi lên, người đi xuống, càng lúc càng có lợi cho Hư Trúc. Lại thêm thời gian ăn một bữa cơm nữa, Hư Trúc đã có thể mười chiêu tấn công lại được ba, quần tăng Thiếu Lâm thấy y dần dần ra khỏi khốn cảnh không khỏi mừng thầm.

Từ khi Cưu Ma Trí xuất hiện, Thần Sơn thượng nhân trong lòng nảy sinh hai tâm tình đối nghịch, một mặt muốn cho Cưu Ma Trí tiêu diệt uy phong phái Thiếu Lâm, mặt khác lại không muốn phiên tăng dị bang đến Trung Thổ hoành hành như chỗ không người, nhưng khổ nỗi chính mình cũng không đủ sức chế phục y. Đến khi Cưu Ma Trí cùng Hư Trúc hai người vào thế giằng co không ai thắng, y lại mong hai người lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận, tuy ông ta không còn hi vọng có được tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm từ Ba La Tinh nhưng bí quyết Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền đã nhớ trong lòng rồi, trở về chùa sẽ nghiên cứu thêm, một người thông minh trí tuệ như y sẽ có thể thêm thắt biến hóa, yếu chỉ tuy giống nhưng chiêu thức bên ngoài hoàn toàn khác hẳn, biến thành tuyệt kỹ của chùa Thanh Lương, mà mình thì sẽ thành tị tổ sáng tạo ra ba môn này.

Về phần Ba La Tinh cũng có một ý nghĩ khác. Trong thời gian qua, y nghiên tập Bát Nhã chưởng, Ma Ha chỉ, Đại Kim Cương quyền, thấy bên trong vô cùng áo diệu. Hôm nay sư huynh Triết La Tinh đến đây đón y ra khỏi chùa, nghĩ những gì mình nhớ được chưa đầy một nửa thành võ công phái Thiếu Lâm, trở về cố hương tuy vui mừng thật nhưng thấy trong chùa cất giữ nhiều đồ quí giá như thế, một khi đã ra khỏi sơn môn rồi từ nay sẽ không còn bao giờ được quay trở lại lòng không khỏi bùi ngùi. Đến sau y lại thấy Hư Trúc đấu với Cưu Ma Trí, hai người nội lực hùng mạnh, chiêu số lạ kỳ, hoàn toàn không mò ra được chút đầu mối nào. Y có biết đâu Hư Trúc sử dụng không phải võ công phái Thiếu Lâm, lại tưởng một thanh niên tăng nhân trong chùa mà đã ghê gớm đến thế, mình vạn lý bôn ba, có cái duyên may được ra vào Tàng Kinh Các, thế mà chỉ nhớ được có vài bộ kinh thư đem về, tuy chẳng đến nỗi vào trong núi ngọc mà về tay không nhưng những gì mình lấy được không phải là thứ quí trọng thực sự, rồi đây e rằng cả đời sẽ ngày đêm âu sầu tiếc nuối.

Võ học cũng không khác gì cầm kỳ thư họa, Phật học, Dịch lý là những công phu phức tạp áo diệu, càng đi sâu vào nghiên cứu, càng thích thú, nếu đã thấy trên đời có người hơn mình một mức thì bằng trăm mưu ngàn kế nhất định phải xem cho bằng được. Ba La Tinh là một cao tăng Thiên Trúc rất có tài trí, khi mới đến chùa Thiếu Lâm thì chỉ có ý trộm võ kinh để đem về làm rạng rỡ cho võ học Thiên Trúc, đến khi thấy võ học chùa Thiếu Lâm bao la như trời như biển, đâm ra lưu luyến không muốn rời, chẳng còn tính chuyện về nước nữa.

Đến lúc này Hư Trúc đã tăng lên được thế công bốn phần, tuy vẫn còn phải chống đỡ nhiều, tấn công ít nhưng vì nội lực đã phát huy, những chiêu số độc địa của phái Tiêu Dao cũng hùng hổ đem ra sử dụng. Những người đứng xem chung quanh ai nấy không khỏi lạnh người, nghĩ thầm: "Nếu như ta trúng phải một đòn ắt sẽ chết một cách cực kỳ thảm khốc". Xưa nay chưa bao giờ trong đệ tử tăng tục chùa Thiếu Lâm có một người đàn bà nào, bao nhiêu đời đều chỉ có một đường dương cương, nhưng vì là Phật môn võ công, ra tay chỉ nhằm chế địch chứ không phải để giết người, hoàn toàn tương phản với chiêu số của Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy. Huyền Từ và những cao tăng Thiếu Lâm thấy Hư Trúc sử dụng võ công đi dần vào chỗ âm hiểm độc địa, không khỏi cau mày.

Cưu Ma Trí liên tiếp vận cường kình ba lần, muốn thoát ra khỏi bàn tay phải của Hư Trúc, để sử dụng tuyệt kỹ Hỏa Diễm Đao, thế nhưng bên mình càng mạnh bao nhiêu thì chỉ lực của đối phương cũng tăng chừng ấy, trong cơn gấp gáp, sát ý nổi lên, tay trái vù vù vù đánh ra ba chưởng, Hư Trúc vung tay hóa giải, Cưu Ma Trí rụt tay về, khom người xuống, rút phắt trong vớ ra một con dao găm, đâm thẳng vào đầu vai Hư Trúc.

Sở học của Hư Trúc toàn là tay không sách chiêu, đột nhiên ánh sáng lóe lên, chủy thủ đã đâm tới, không biết cách nào chống đỡ được, vội vàng vung tay toan chộp luôn cổ tay phải Cưu Ma Trí. Chảo đó chính là cầm nã thủ pháp trong Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, vừa nhanh vừa chuẩn, ba ngón tay vừa chạm vào cổ tay y, ngón tay cái và ngón tay út đã cụp lại. Ngay lúc đó nội lực từ chưởng tâm Cưu Ma Trí nhả ra, chiếc dao găm liền phóng tới. Hư Trúc hai tay đang bận nắm hai cổ tay y, xoẹt một tiếng chủy thủ đã cắm ngập vào đầu vai, suốt đến tận cán.

Những nhà sư đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu lên, bọn Quán Tâm không nhịn được lắc đầu, nghĩ bụng: "Với thân phận như Cưu Ma Trí, đấu không thắng được một thanh niên tăng nhân của chùa Thiếu Lâm thì thanh danh cũng đã đổ xuống sông xuống biển rồi, huống hồ lại dùng binh khí đánh lén nữa thì còn ra thể thống gì?".

Đột nhiên từ trong đám đông vọt ra bốn nhà sư, thanh quang lấp loáng, bốn thanh trường kiếm cùng đâm vào yết hầu Cưu Ma Trí. Bốn nhà sư cùng nhảy ra, cùng xuất thủ, cả bốn thanh kiếm cũng cùng một phương vị, kiếm pháp cực nhanh lại cực kỳ độc địa. Cưu Ma Trí vận lực vào hai chân muốn nhảy ngược trở lại nhưng nhún mình rồi mà Hư Trúc vẫn đứng trơ trơ không chuyển động chút nào, lại thấy cổ họng đau nhói, bốn mũi kiếm đã đụng vào da thịt. Chỉ nghe bốn nhà sư cùng quát lên:

- Đồ mặt dầy không biết thẹn, mau nạp mạng đi.

Thanh âm trong trẻo, dường như tiếng đàn bà. Hư Trúc quay đầu nhìn, thì ra tứ tăng chính là Mai Lan Cúc Trúc, mặc tăng y chùa Thiếu Lâm đầu đội tăng mạo chùm hết làn tóc xanh, nên kinh ngạc vạn phần, kêu lên:

- Đừng hại mạng y!

Bốn cô gái cùng đáp:

- Vâng!

Tuy nhiên mũi kiếm vẫn kề vào cổ Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí cười ha hả nói:

- Phái Thiếu Lâm không chỉ cậy đông thắng ít mà còn ám tàng xuân sắc, mấy trăm năm thanh danh, hóa ra là thế, hôm nay ta mới được biết đến.

Hư Trúc trong lòng hoảng hốt, không biết phải làm sao bèn buông tay Cưu Ma Trí. Cúc Kiếm liền rút con dao cắm trên vai y, máu tươi vọt ra. Cô gái vội vàng bỏ kiếm xuống lấy trong túi ra chiếc khăn tay buộc vết thương cho Hư Trúc, còn mũi kiếm ba nàng Mai Lan Trúc vẫn kề vào yết hầu Cưu Ma Trí. Hư Trúc bàng hoàng hỏi:

- Các... các cô đấy ư? Sao lại đến đây?

Cưu Ma Trí chưởng bên phải vòng một vòng, thần công Hỏa Diễm Đao tung ra, keng keng keng ba tiếng, ba thanh trường kiếm gãy ra làm đôi. Ba cô gái kinh hãi nhảy vọt về sau một trượng, nhìn lại trên tay, trường kiếm người nào cũng chỉ còn một khúc. Cưu Ma Trí ngẩng mặt lên cười một hồi dài, quay sang nói với Huyền Từ:

- Phương trượng đại sư có còn nói gì được nữa hay không?

Huyền Từ mặt xám ngoét nói:

- Nguyên do ở bên trong, lão nạp quả không biết gì cả, để rồi sẽ tra hỏi ngọn ngành, theo giới luật bản tự mà xét xử. Quốc sư và chúng vị sư huynh đường xa mệt nhọc, xin mời vào khách xá dùng cơm chay.

Cưu Ma Trí đáp:

- Đã vậy thì xin phiền một bữa.

Nói xong y chắp tay cảm tạ, Huyền Từ cũng đáp lại một lễ. Cưu Ma Trí hai tay tạt sang hai bên, ám vận Hỏa Diễm Đao thần công, xoẹt xoẹt xoẹt xoẹt bốn tiếng, bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc cùng hoảng hốt kêu lên, tăng mạo trên đầu không có gió mà rơi xuống, để lộ làn tóc mượt đen nhánh, mấy trăm sợi tóc theo mũ bay lả tả xuống.

Cưu Ma Trí hiển thị một chút công phu, vừa để khoe tài cắt đứt tóc mà không đả thương người, lại muốn cho mọi người thấy rõ bốn người là con gái khiến cho tăng chúng chùa Thiếu Lâm không còn cãi vào đâu được.

Huyền Từ mặt mày lại càng khó coi, chỉ nói:

- Chúng vị sư huynh, xin mời!

Thần Sơn, Quán Tâm, Dương Thiên, Dung Trí... các nhà sư thấy trong chùa Thiếu Lâm đột nhiên có nữ tử mặc tăng trang, ai nấy hết sức kinh ngạc, không nói gì Thiếu Lâm tự là một danh sơn cổ sát trước nay tiếng tăm danh vọng, mà dù chỉ là một cái miếu nhỏ cũng không đâu lại bỏ qua một hành vi phạm giới trầm trọng đến thế, bây giờ nghe Huyền Từ mời, đều đứng dậy. Tri khách tăng phân biệt đưa vào khách xá, dọn đồ chay lên.

Những khách ngoài chưa ra khỏi đại điện, Mai Kiếm đã nói:

- Chủ nhân, chị em tiểu tì tự ý hạ sơn đến đây hầu hạ, chủ nhân đừng trách nhé!

Lan Kiếm cũng nói:

- Gã thầy chùa Duyên Căn vô lễ với chủ nhân, chị em tiểu tì đã tẩn cho y một trận đích đáng, có thế y mới biết phải quấy, ôi, có ngờ đâu gã sư Tây Vực kia lại đả thương chủ nhân.

Hư Trúc "A" lên một tiếng, bấy giờ mới hiểu ra, Duyên Căn trước phách lối sau sun xoe, thì ra đã bị bốn chị em này bức bách, nếu như thế bọn họ giả làm sư, ẩn thân trong chùa cũng đã lâu, nhịn không nổi giậm chân nói:

- Phá rối thật! Phá rối thật!

Y quì xuống trước tượng Phật Như Lai nói:

- Đệ tử kiếp trước tội nghiệt thâm trọng, kiếp này lại không giữ được thanh qui giới luật, gây cho bản tự họa hoạn vô cùng, cúi xin phương trượng trách phạt thật nặng.

Cúc Kiếm nói:

- Chủ nhân đi tu làm gì cho khổ, tất cả bọn mình quay về Phiêu Miểu Phong đi, ở đây ăn toàn rau đậu, chẳng có chút mỡ màng, lại bị người ta quản thúc, chẳng thú vị chút nào!

Trúc Kiếm chỉ vào Huyền Từ:

- Này ông sư già kia, nếu ông mà nói gì đắc tội với chủ nhân thì bốn chị em ta không nể nang đâu nhé, ông khôn hồn thì phải biết giữ gìn.

Hư Trúc liên tiếp quát tháo chặn lại:

- Các ngươi không được vô lễ, sao lại vào trong chùa mà phá rối? Thôi! Im ngay.

Bốn chị em vẫn mỗi người một câu, ríu ra ríu rít, coi những vị cao tăng chẳng vào đâu. Quần tăng Thiếu Lâm lại càng kinh ngạc, thấy bốn cô gái giống hệt nhau, xinh đẹp vui tươi, hoạt bát lanh lợi lại vô pháp vô thiên không biết họ gốc gác ra thế nào.

Thì ra bốn cô gái là con của một nhà nghèo dưới chân Đại Tuyết Sơn, bà mẹ trước đã có bảy đứa con, lại mang thai sinh tư, không cách gì nuôi nổi, khi đẻ xong đem bỏ ngoài tuyết. Khi đó Đồng Mỗ xuống núi hái thuốc nghe tiếng trẻ khóc, gặp bốn đứa hài nhi mặt mũi giống hệt nhau, thấy thú vị liền đem về cung Linh Thứu nuôi cho khôn lớn, dạy cho võ công.

Bốn cô gái trước nay chưa hề xuống Phiêu Miểu Phong nên đâu có biết gì về nhân tình thế thái, vai vế lớn nhỏ? Cả đời họ chỉ nghe lời một mình Đồng Mỗ, đến khi Hư Trúc lên làm chủ nhân cung Linh Thứu thì họ lại hết tâm hết sức hầu hạ. Có điều Hư Trúc tính tình ôn hòa khiêm tốn, không như Đồng Mỗ đối xử với thuộc hạ dùng uy quyền thành thử họ không sợ Hư Trúc mà chỉ nghĩ rằng miễn sao trung thành tận lực với chủ nhân, chứ không hiểu làm náo loạn như thế có gì là không phải.

Huyền Từ nói:

- Ngoại trừ huynh đệ hàng chữ Huyền ra, tất cả lui về tăng phòng. Tuệ Luân ở lại.

Chúng tăng đồng thanh đáp ứng, theo thứ tự trên dưới một hàng đi xuống. Chỉ trong chốc lát, trong Đại Hùng Bảo Điện chỉ còn hơn ba chục lão tăng hàng chữ Huyền, sư phụ Hư Trúc Tuệ Luân, thêm Hư Trúc và tứ nữ Linh Thứu Cung.

Tuệ Luân quì ngay xuống trước Phật đài nói:

- Đệ tử giáo huấn không có phương pháp đến nỗi tọa hạ có một đứa nghiệt đồ như thế này, xin phương trượng phạt nặng.

Trúc Kiếm cười khúc khích nói:

- Cái thứ tài nghệ dở òm như ông mà đòi làm sư phụ chủ nhân ta ư? Đêm hôm trước ở trong rừng tùng, người bịt mặt khoèo chân ông ngã tám lần chính là nhị tỉ của ta đó. Ta bảo nè, công phu ông dở ơi là dở.

Hư Trúc kêu khổ ngầm: "Chết rồi! Chết rồi! Đến cả sư phụ ta mà bọn họ cũng còn chọc ghẹo nữa". Lại nghe Lan Kiếm tiếp:

- Ta nghe Duyên Căn nói ông là sư phụ của chủ nhân nên đến thử ông chơi đấy thôi. Tam muội hôm nay không nói ra chắc là suốt đời ông chẳng biết người đã đẩy mình ngã bổ chững tám lần là ai đâu! Ha ha! Hi hi! Thích thật! Thích thật!

Huyền Từ nói:

- Huyền Tiệm, Huyền Quí, Huyền Niệm, Huyền Tịnh bốn vị sư đệ, xin đứng ra bảo bốn nữ thí chủ không được vọng ngôn vọng động.

Bốn lão tăng khom lưng đáp:

- Vâng!

Quay sang nói với bốn cô gái:

- Phương trượng pháp chỉ, xin bốn vị không được nói bậy làm càn.

Mai Kiếm cười nói:

- Bọn ta cứ muốn nói bậy làm càn, ông làm gì được nào?

Bốn nhà sư cùng nói:

- Vậy xin đắc tội!

Tăng bào vung lên, hai tay mỗi người chia ra chộp vào cổ tay bốn cô gái, Huyền Tiệm sử dụng Long Trảo Công, Huyền Quí sử dụng Hổ Trảo Thủ, Huyền Niệm sử dụng Ưng Trảo Công còn Huyền Tịnh thì dùng Thiếu Lâm Cầm Nã Thập Bát Đả, chiêu số tuy có khác nhưng đều là võ công tinh diệu của phái Thiếu Lâm. Trong bốn nàng ngoài Cúc Kiếm ra, trường kiếm đều đã bị Cưu Ma Trí đánh gãy rồi. Cúc Kiếm múa trường kiếm hộ vệ ba người chị em, Mai Lan Trúc ba nàng cũng múa kiếm gãy, theo kiếm quang của Cúc Kiếm tấn công ra.

Hư Trúc kêu lên:

- Vứt kiếm mau! Vứt kiếm mau! Không được động thủ!

Bốn cô gái nghe chủ nhân quát tháo đều ngạc nhiên, binh khí trong tay không còn dám sử dụng toàn lực nữa. Võ công bốn nàng vốn dĩ kém xa các cao tăng hàng chữ Huyền, vừa mất tiên cơ, lập tức bị bốn nhà sư nắm được ngay. Mai Kiếm dãy mạnh một cái nhưng không thoát phụng phịu nói:

- Bọn ta nghe lời chủ nhân mới nể nang các ông đấy thôi! Ui da! Đau quá, sao ông nắm mạnh thế?

Lan Kiếm cũng kêu lên:

- Giặc trọc con, có bỏ ta ra không nào?

Người nắm được cô ta là Huyền Quí đại sư, râu tóc bạc phơ, đã ngoài bảy mươi rồi, vậy mà cô ta gọi là "giặc trọc con". Trúc Kiếm cũng nói:

- Ông không buông ta ra, ta gọi vợ ông ra chửi đó!

Cúc Kiếm nói:

- Ta nhổ nước miếng đó!

Cô gái phun một bãi nước bọt vào Huyền Tịnh, Huyền Tịnh nghiêng qua tránh, tay bóp lại, Cúc Kiếm đau đến kêu "Ui da! Ui da" liên tiếp. Đại Hùng Bảo Điện vốn là cõi Phật trang nghiêm, bỗng chốc thành nơi oanh kêu yến réo ầm ỹ cả lên.

Huyền Từ nói:

- Bốn vị nữ thí chủ chớ có nóng nảy, nếu còn nói nữa, bốn vị sư đệ hãy điểm vào huyệt câm của họ.

Bốn nàng nghe nói điểm vào á huyệt đều cảm thấy không thú vị gì, dẩu môi không dám nói gì thêm. Bọn bốn vị đại sư Huyền Tiệm liền buông tay họ ra đứng ở một bên giám thị. Huyền Từ nói:

- Hư Trúc, ngươi đem mọi chuyện đã xảy ra, từ đầu chí cuối nói cho mọi người nghe, không được giấu giếm gì cả.

Hư Trúc đáp:

- Vâng! Đệ tử thành tâm bẩm cáo.

Y kể lại được phương trượng sai đi gửi thiếp ra sao, gặp được Huyền Nạn. Tuệ Phương chúng tăng như thế nào, rồi vô tình lạng quạng làm sao giải được ván cờ Trân Lung để thành chưởng môn phái Tiêu Dao, Huyền Nạn làm sao chết vì chất kịch độc của Đinh Xuân Thu, bị A Tử đánh lừa cho phá giới ăn phải đồ mặn, đến khi gặp được Thiên Sơn Đồng Mỗ, vào trong hầm sâu hoàng cung nước Tây Hạ để rồi thành chủ nhân Linh Thứu Cung.

Y từng trải bao nhiêu chuyện rắc rối, mồm miệng lại vụng về, mất bao nhiêu là thời giờ, ấp a ấp úng mãi mới xong, tuy rằng lôi thôi dài dòng, nói không rõ ràng minh bạch nhưng không dấu một chút gì, kể cả chuyện cùng "người trong mộng" phạm vào dâm giới dưới hầm băng, cũng lắp bắp kể lại.

Các cao tăng càng nghe cành kinh ngạc, những gì gã tiểu đệ tử này gặp phải sao khéo léo lạ lùng, trong võ lâm trước nay chưa hề nghe thấy. Các nhà sư mới rồi chứng kiến y đấu với Cưu Ma Trí không còn hoài nghi gì những lời y vừa thuật lại, đều nghĩ thầm: "Nếu không phải y được ba đại cao thủ phái Tiêu Dao truyền thần công, lại không được học thần kỹ nơi vách núi cung Linh Thứu thì làm sao có thể chống trả được với tuyệt thế thần thông của quốc sư nước Thổ Phồn?".

Hư Trúc kể xong, quay sang tượng Phật lạy phục xuống khấn:

- Đệ tử chướng ngại vô minh còn nặng, bụi trần chưa rửa sạch, vừa gặp phải ngoại ma thì đã không còn giữ nổi, liên tiếp phạm vào huân giới, tửu giới, sát giới, dâm giới, phản bội bản môn, học luyện võ công bàng môn ngoại đạo, lại khiến cho bốn vị cô nương vào trong chùa, làm bại hoại thanh danh bản tự, tội đại ác cực, chồng chất hết chuyện nọ chuyện kia, chỉ cầu xin lòng từ bi của Phật tổ, từ bi của phương trượng.

Y càng nghĩ càng đau lòng, nhịn không nổi khóc rống lên. Mai Kiếm và Cúc Kiếm cùng hứ hứ mấy tiếng, định lên tiếng khuyên y chẳng cần làm hòa thượng nữa. Huyền Tiệm, Huyền Tịnh hai người lập tức vươn tay, lẩn dưới ống tay áo nắm luôn cổ tay hai cô gái. Hai nàng không biết làm sao, lời đến cửa miệng lại rụt ngay về, lườm hai vị lão tăng, trong bụng chửi thầm: "Thầy chùa chết toi, đồ sư trọc thối".

Huyền Từ trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:

- Chúng vị sư huynh, sư đệ, những gặp gỡ của Hư Trúc phen này quả không phải tầm thường, có liên quan đến thanh dự hàng nghìn năm của bản tự, một mình bản tọa không thể nào quyết định được, xin các vị cùng góp ý.

Huyền Sinh dõng dạc nói:

- Khải bẩm phương trượng, lỗi lầm của Hư Trúc tuy lớn thật nhưng công lao cũng không phải ít. Nếu trong lúc nguy cấp không có y ngăn chặn gã Phiên tăng thì bản tự còn mặt mũi nào mà đứng trong võ lâm? Tên Phiên tăng kia bảo chúng ta giải tán, chạy qua đầu nhập các chùa Thanh Lương, Phổ Độ, thật là kỳ sỉ đại nhục toàn do Hư Trúc cứu vãn. Cứ như ý kiến tiểu tăng, bắt y sám hối những sai quấy khi trước để tiêu trừ tội nghiệp, sau đó cho vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ kỹ, từ nay không ra khỏi chùa, cũng không tham gia ngoại vụ như thế là đủ.

Đưa vào Đạt Ma Viện nghiên cứu võ học là một chức vụ cực kỳ tôn vinh của chư tăng, nếu không đạt tới cảnh giới võ công cực cao thì không có tư cách. Trong số hơn ba chục cao tăng hàng chữ Huyền, được vào nơi đây chỉ có tám người, ngay cả Huyền Sinh cũng chưa được vào. Ông ta đề nghị đưa Hư Trúc vào Đạt Ma Viện thực sự không phải là trừng trị mà là tưởng thưởng rất cao.

Thủ tọa Giới Luật Viện Huyền Tịch nói:

- Cứ như trình độ võ công của y thì vào Đạt Ma Viện cũng được rồi. Thế nhưng sở học của y lại là võ công bàng môn, trong Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm có thể dung được bàng môn cao thủ hay không? Huyền Sinh sư đệ đã nghĩ tới chi tiết này hay chưa?

Câu đó nói ra, quần tăng đều thấy ý kiến của Huyền Sinh xem chừng không ổn. Huyền Sinh nói:

- Thế theo sư huynh thì phải làm sao?

Huyền Tịch nói:

- Hừm, của ta ư! Ta thực không biết phải làm sao. Hư Trúc có công mà cũng có lỗi, có công thì thưởng, có tội thì phạt. Bốn cô nương này vào trong bản tự, mặc giả làm sư, không phải do chủ ý của Hư Trúc, mình nên nói rõ cho Cưu Ma Trí, Thần Sơn các vị đó hay, thế là xong. Họ tin cũng được, mà không tin cũng chẳng sao, chúng ta không thẹn với lòng, dẫu người ngoài có nghĩ xằng đoán bậy, thì cũng chẳng cần phải phí lời. Thế nhưng Hư Trúc bỏ môn phái đi học võ công bàng môn, chùa Thiếu Lâm e rằng không thể nào còn dung chứa y được nữa.

Ông ta nói vậy là có ý trục xuất Hư Trúc ra khỏi chùa. "Phá môn xuất giáo" là cách trừng trị nặng nhất của cửa Phật, quần tăng nghe nói thế, ai nấy đều thảng thốt. Huyền Tịch lại tiếp:

- Hư Trúc đã liên tiếp phạm những giới luật như thế, đúng ra là phải phế hết công phu rồi trục xuất sơn môn. Thế nhưng võ công của y vốn đã bị người ta hóa tán hết rồi, trên người y hiện giờ không phải là công phu bản môn nữa, chúng ta không có quyền phế bỏ.

Hư Trúc mếu máo cầu khẩn:

- Phương trượng, các vị thái sư bá, thái sư thúc, xin vì chư Phật mà từ bi khai ân, cho đệ tử có được một phen cải quá tự tân. Dù trách phạt cách nào, đệ tử cũng cam tâm nhận chịu nhưng đừng đuổi đệ tử ra khỏi chùa.

Các vị lão tăng người nọ nhìn người kia, không biết phải làm thế nào, nghe Hư Trúc nói thế, biết y thực sự thành khẩn sám hối. Những gì gọi là "bỏ đao đồ tể xuống là sẽ có đường thành Phật" hay "bể khổ không bờ, quay đầu là bến" , cửa Phật rộng mở, phổ độ chúng sinh dẫu là kẻ cùng hung cực ác, chấp mê bất ngộ cũng còn phải trăm phương nghìn kế điểm hóa cho y, huống chi là kẻ biết mình lầm đường quay về, lại là đệ tử xuất gia từ tấm bé, không lẽ không cho y một đường hướng thiện hay sao?

Chùa Thiếu Lâm thuộc về Thiền tông, xưa nay giảng về "đốn ngộ", dù cho chửi Phật mắng tổ cũng không cấm kỵ, không như bên Luật Tông lúc nào cũng nghiêm thủ giới luật. Hôm nay nếu như không có người ngoài ở đây, chúng tăng thấy y thành tâm sám hối cũng không nỡ nào đuổi ra khỏi sư môn. Thế nhưng việc trước mắt không những liên can đến bọn Hồ tăng Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, mà cao tăng nhiều chùa lớn của Trung Nguyên như Thanh Lương, Phổ Độ cũng có mặt, nếu đối với Hư Trúc trách phạt không nghiêm, thiên hạ sẽ nói rằng chùa Thiếu Lâm bênh nhau, coi trọng môn hộ, không phân phải trái, chỉ nói chuyện võ công mà không cần biết đến giới luật, những lời đàm tiếu đó lưu truyền ra bên ngoài thì bao nhiêu thanh danh của chùa Thiếu Lâm đều đổ xuống sông xuống biển.

Ngay lúc đó một vị lão tăng được hai đệ tử đỡ hai bên, từ hậu điện chậm rãi đi vào, chính là Huyền Độ. Ông ta bị chỉ lực của Cưu Ma Trí đả thương, quay về tăng phòng nghỉ ngơi nhưng vẫn quan tâm đến kết cục hai bên giao đấu ở ngoài đại điện nên sai đệ tử chạy đi chạy lại nghe ngóng, đến khi nghe Cưu Ma Trí đã tạm thời bị đẩy lui, quần tăng chất vấn Hư Trúc có chiều kết tội nên vội bảo người đỡ vào Đại Hùng Bảo Điện nói:

- Phương trượng, cái mạng già của ta là do Hư Trúc cứu. Ta có một câu không biết có nói được không?

Huyền Độ tuổi tác đã cao, phẩm đức vốn được cả chùa kính trọng, Huyền Từ liền đáp:

- Mời sư huynh ngồi xuống, rồi từ từ nói chuyện sau, để khỏi động đến vết thương.

Huyền Độ đáp:

- Cứu mạng ta thì chẳng nói làm gì. Thế nhưng trước mắt có sáu chuyện lớn còn chưa giải quyết xong, nếu giữ Hư Trúc trong chùa thì rất có lợi, còn như đuổi y ra khỏi môn phái, cái đó... đó.. thật... khó.

Huyền Tịch nói:

- Sư huynh nói đến sáu việc trọng đại, việc thứ nhất là Cưu Ma Trí chưa đẩy lui xong, việc thứ hai là việc Ba La Tinh ăn trộm võ kinh của bản tự, việc thứ ba là việc tân nhiệm bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đòi làm võ lâm minh chủ. Còn lại ba việc nữa xin sư huynh chỉ điểm cho.

Huyền Độ thở dài một tiếng nói:

- Tính mạng của Huyền Bi, Huyền Khổ, Huyền Thống, Huyền Nạn bốn vị sư đệ.

Ông vừa nhắc đến tên của bốn nhà sư, chúng tăng ai nấy chắp tay niệm Phật:

- A Di Đà Phật!

Mọi người nhận định rằng Huyền Khổ chết về tay Kiều Phong, còn Huyền Thống, Huyền Nạn là do Đinh Xuân Thu làm hại, hai kẻ đối đầu này quá mạnh, đại cừu chưa báo xong mà kẻ giết Huyền Bi là ai thì vẫn chưa biết được. Ai nấy chỉ biết Huyền Bi bị trúng phải Vi Đà Chử nơi ngực mà chết, Vi Đà Chử là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, chính là công phu Huyền Bi khổ luyện mấy chục năm. Trước đây họ vẫn cho rằng do nhà Mộ Dung Cô Tô sử dụng "dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" để hạ độc thủ, về sau bọn Tuệ Phương, Tuệ Kính thuật lại việc kết giao với đám Công Dã Can, Đặng Bách Xuyên thì mới rõ họ Mộ Dung không có ý thù nghịch với võ lâm, mà bọn thủ hạ nhà Mộ Dung cũng không phải là phường gian hiểm.

Vừa rồi nhìn thấy thân thủ của Cưu Ma Trí, y biết sử dụng mọi tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm thì chiêu Vi Đà Chử kia dĩ nhiên có thể do y đánh, hoặc còn người khác cũng biết thì quả không có gì lạ.

Bốn vị cao tăng chết dưới tay ba kẻ đối đầu, chính thế mà Huyền Độ bảo là ba việc trọng đại. Huyền Từ nói:

- Lão nạp giữ chức phương trượng bản tự, thế nhưng trong cả sáu việc đại sự này, chẳng việc nào có thể giải quyết ổn thỏa, quả thực không còn mặt mũi nào. Có điều võ công trong người Hư Trúc, đều là võ công phái Tiêu Dao, không lẽ... không lẽ việc lớn của chùa Thiếu Lâm...

Ông nói đến đây, lời nói ngập ngừng đứt quãng nhưng quần tăng ai ai cũng hiểu, Hư Trúc võ công tuy cao thật nhưng là của bàng môn lẽ nào lại sai y đi giải quyết đại sự, người hiểu biết đều thấy rằng chuyện phái Thiếu Lâm do người khác làm, không dựa vào sức phái Tiêu Dao thì không xong, chẳng hóa ra nhẹ thể phái Thiếu Lâm hay sao? Dẫu rằng mình có che dấu thật toàn vẹn, người ngoài không biết nhưng đây toàn là cao tăng, lẽ nào lại làm hành động lừa dối kẻ khác?

Trong nhất thời các nhà sư ai nấy đều yên lặng. Qua một hồi sau, Huyền Độ mới nói:

- Thế theo ý kiến phương trượng thì phải làm sao?

Huyền Từ đáp:

- A Di Đà Phật! Chúng ta tiếp thừa y bát của liệt tổ liệt tông , hôm nay gặp phải chuyện khó khăn vô cùng to lớn, theo ý lão nạp thì cứ theo chính đạo mà hành sự, thà làm hòn ngọc vỡ chứ không làm viên ngói lành. Nếu mọi người tận tâm tận lực bảo vệ được danh dự chùa Thiếu Lâm thì cũng là nhờ lòng từ bi của chư Phật, phúc ấm của tổ tông, còn như ma thịnh đạo suy, lão nạp cùng chư huynh đệ dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự, miễn sao hỏi lòng không thẹn, không vi phạm chính lý của đạo Phật là đủ rồi. Chùa Thiếu Lâm trong nghìn năm qua tạo phúc cho thiên hạ không phải là ít, thiện duyên thâm hậu, dẫu có nhất thời bị tỏa chiết thì cũng không đến nỗi một chốc thành tro, không bao giờ còn có ngày hưng phục.

Câu nói đó tuy thật là bình hòa nhưng đầy chính khí. Mọi người ai nấy khom lưng nói:

- Cao kiến của phương trượng, xin tuân theo pháp chỉ.

Huyền Từ quay sang Huyền Tịch nói:

- Sư đệ, xin sư đệ chấp hành giới luật của bản tự.

Huyền Tịch đáp:

- Tuân lệnh!

Ông quay sang nói với tri khách tăng:

- Ra mời quốc sư nước Thổ Phồn và các vị cao tăng.

Huyền Độ, Huyền Sinh mọi người đều ngậm ngùi, tuy có ý muốn bảo hộ Hư Trúc nhưng phương trượng đã nói vậy, phải coi đại nghĩa là trọng, không thể để quyền nghi nhất thời hủy đi tiếng tăm giới luật của nhà chùa. Mọi người ai nấy đều rõ ràng, nếu tha tội cho Hư Trúc thì tuy thắng mà là bại, còn như theo công đạo mà chấp pháp thì dẫu bại cũng còn vinh. Phương trượng đã nhắc đến " dĩ mạng hộ giáo, dĩ thân tuẫn tự" ấy là ý đã quyết một trận mất còn, không còn cầu may, Hư Trúc chịu tội cách nào không còn là việc quan trọng nữa.

Hư Trúc cũng thấy việc đã xong không còn có thể thu hồi, có khóc lóc van xin cũng vô ích, nghĩ thầm: "Mọi người ai cũng lấy thanh danh bản tự làm trọng, ta mình làm mình chịu, không thể để trước mặt người ngoài tỏ ra hèn nhát, khiến cho họ coi thường sư sãi chùa Thiếu Lâm".

Một hồi sau, Cưu Ma Trí, Thần Sơn, Triết La Tinh tất cả cùng vào đại điện. Chuông đánh lên, hàng chữ Tuệ, hàng chữ Hư, hàng chữ Không quần tăng theo vai vế đi vào, đứng ở hai bên. Huyền Từ chắp tay nói:

- Xin thưa với quốc sư nước Thổ Phồn và liệt vị sư huynh: hàng chữ Hư của chùa Thiếu Lâm là Hư Trúc, thân phạm sát giới, dâm giới, huân giới, tửu giới tứ đại giới luật, lại đi học võ công phái khác, nhận làm chưởng môn bàng môn. Thủ tọa Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm Huyền Tịch, cứ theo đúng luật mà xét xử, không được nể nang.

Cưu Ma Trí và bọn Thần Sơn nghe nói thế ai nấy thật ngoài dự liệu, thấy Mai Lan Cúc Trúc mặc giả làm sư lại tưởng Hư Trúc chỉ lớn mật làm càn, oa tàng đàn bà con gái trong chùa, phạm vào dâm giới mà thôi, ngờ đâu phương trượng còn tuyên bố tội trạng còn nhiều hơn thế nữa. Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ đến tuổi trung niên mới xuất gia nên rất thông đạt nhân tình thế thái, lại thêm tính tình hiền hòa, thích giúp đỡ người khác, liền nói:

- Phương trượng sư huynh, bốn vị cô nương đây eo thẳng mi cau, lưng nhô cổ nhỏ, rõ ràng là xử nữ giữ mình như ngọc , vừa rồi khi ra tay đấu với quốc sư lại sử dụng công phu Đồng Trinh Công, người học võ chúng ta thấy là biết ngay. Hư Trúc tiểu sư huynh hành vi không kiểm soát cũng có thể dung tha được, hai tiền "dâm giới" e rằng có nặng quá không?

Huyền Từ nói:

- Đa tạ sư huynh vạch rõ. Hư Trúc phạm vào dâm giới, không phải chỉ ở bốn cô đây. Hư Trúc gia nhập phái khác, làm chủ nhân cung Linh Thứu trên Thiên Sơn Phiêu Miểu Phong, bốn cô này là hộ chủ thị tì của cung Linh Thứu, lén vào bản tự, cốt ý phụng sự tân chủ, Hư Trúc không hề hay biết. Chùa Thiếu Lâm canh gác không kỹ càng, quả thật đáng xấu hổ, không thể vì thế mà bắt tội y.

Đồng Mỗ võ công cao cường nhưng xưa nay chưa hề đặt chân vào Trung Thổ, chỉ giao thiệp với bàng môn dị sĩ, chúa động chúa đảo nơi biên cương hải ngoại thành thử cái tên Linh Thứu Cung, quần tăng mới nghe thấy lần đầu. Chỉ có Cưu Ma Trí ở Thổ Phồn là đã từng nghe đến, nhưng cũng không biết rõ ngọn ngành. Đạo Thanh đại sư nói:

- Nếu đã như thế, người ngoài không tiện xen vào.

Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, và Thần Sơn thượng nhân vốn dĩ không có thiện cảm với chùa Thiếu Lâm, nhưng thấy Huyền Từ xử sự công bằng, không hề lấp liếm, việc Hư Trúc phạm vào giới luật người ngoài vốn không hay biết nhưng ông vẩn nói toạc ra trước mặt mọi người, trong bụng không khỏi khâm phục.

Huyền Tịch tiến lên một bước dõng dạc hỏi:

- Hư Trúc, những tội phương trượng kể ra, ngươi có nhận không? Có gì biện bạch không?

Hư Trúc đáp:

- Đệ tử thừa nhận, tội nặng nghiệt lớn, không có gì để biện bạch, xin cam chịu thái sư thúc trừng phạt.

Quần tăng trong lòng hoang mang đưa mắt nhìn Huyền Tịch, không hiểu ông sẽ xử phạt thế nào. Huyền Tịch lại lớn tiếng nói:

- Hư Trúc phạm vào sát, dâm, huân, tửu tứ đại giới luật, phạt đánh một trăm côn ngay tại đây. Hư Trúc, ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc nghe nói chỉ đánh một trăm gậy, so với những đại giới mình đã phạm thực không nặng chút nào, vội đáp:

- Đa tạ thái sư thúc từ bi, Hư Trúc tâm phục.

Huyền Tịch lại tiếp:

- Ngươi chưa được phương trượng và thụ nghiệp ân sư bằng lòng, dám học võ nghệ bàng môn, tội phạt phế hết võ công phái Thiếu Lâm, từ nay trở đi, không còn là đệ tử Thiếu Lâm nữa. Ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc lòng đau như cắt, biết rằng không còn có thể van xin gì được nữa đành nói:

- Đệ tử quả là đáng chết, thái sư thúc xử vậy thật là công chính.

Những nhà sư phái khác mới rồi thấy y kịch đấu với Cưu Ma Trí, dùng Vi Đà Chưởng và La Hán Quyền đại hiển thần uy, vì không ai biết võ công chân chính của y ra sao nên đâu biết rằng y sử dụng không phải chỉ của Thiếu Lâm mà thôi. Cưu Ma Trí tự xưng một thân tinh thông đủ bảy mươi hai tuyệt kỹ, thực ra chỉ là chiêu thức bên ngoài, còn nội công chân chính của phái Thiếu Lâm y biết rất ít. Hư Trúc khi đấu với y sử dụng Tiểu Vô Tướng Công, y dĩ nhiên biết rõ, thế nhưng còn Bắc Minh chân khí, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ các loại cao thâm, y lại tưởng đó cũng là võ công phái Thiếu Lâm, nghe Huyền Tịch nói phế trừ võ công Thiếu Lâm của Hư Trúc, trong bụng khấp khởi mừng thầm nghĩ bụng: "Các ngươi tự xô đổ bức trường thành, trừ cho ta cái mối lo tâm phúc, thực hay biết mấy". Giác Hiền, Đạo Thanh mấy vị cao tăng thì lại suýt xoa trong lòng: "Tiếc quá! Tiếc quá!".

Huyền Tịch lại tiếp:

- Ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao, làm chủ nhân cung Linh Thứu Phiêu Miểu Phong, thì phải xuất giáo hoàn tục, không còn là đệ tử cửa Phật nữa, từ nay trở đi ngươi không còn là tăng lữ chùa Thiếu Lâm nữa. Ta xử như thế, ngươi có tâm phục không?

Hư Trúc không cha không mẹ, xuất gia từ khi ấu thơ, lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, yếu chỉ Phật pháp tuy lãnh ngộ không nhiều nhưng chùa Thiếu Lâm là nơi duy nhất mà y từng an thân lập mệnh, nay bị trục xuất khỏi chùa, buồn bã không sao kể xiết nước mắt chảy như mưa, phục xuống nức nở, nghẹn ngào nói:

- Chùa Thiếu Lâm từ phương trượng đại sư trở xuống, chư vị thái sư bá, thái sư thúc, chư vị sư bá, sư thúc cho đến ân sư, ai ai cũng đối với đệ tử ân nghĩa thâm trọng, đệ tử chẳng ra gì, phụ lòng chư vị giáo huấn.

Đạo Thanh đại sư nhịn không nổi lại nói giúp:

- Phương trượng sư huynh, Huyền Tịch sư huynh, cứ như lão nạp thấy, vị tiểu Phất huynh này đi vào đường mê nhưng biết quay đầu lại, quả thực có bụng hối cải, sao không cho y một dịp đổi mới?

Huyền Từ đáp:

- Sư huynh chỉ điểm phải lắm. Thế nhưng cửa Phật rộng mở, nơi nào mà chẳng có chỗ dung thân? Hư Trúc, chúng ta phạt ngươi phá môn xuất tự nhưng không phải vì có ác ý muốn ngươi không còn theo đuổi việc tu hành. Trang nghiêm bảo sát trong thiên hạ, nào phải chỉ có hàng nghìn hàng vạn thôi đâu? Nếu quả ngươi vẫn có bụng qui y tam bảo, sau khi hoàn tục rồi vẫn còn có thể đến xin thế phát được cơ mà! Cũng mong ngươi được vào nơi danh tự, bái được cao tăng làm thầy, hoằng dương thệ nguyện, thanh tĩnh thân tâm sớm thành chính đẳng chính giác. Còn như sau này không xuất gia làm sư nữa, ở nhà làm một cư sĩ chuyên cần tu tập lục độ vạn hạnh thì cũng có thể chứng đạo, thành đại bồ tát, thành Phật được.

Ông nói đến khúc sau cùng, ngôn ngữ từ hòa khẩn thiết, có ý khuyên bảo ân cần. Hư Trúc lại càng đau lòng, hành lễ nói:

- Những điều giáo huấn của phương trượng thái sư bá, đệ tử không bao giờ dám quên.

Huyền Tịch lại nói:

- Tuệ Luân nghe đây!

Tuệ Luân tiến lên mấy bước, chắp tay quì xuống. Huyền Tịch nói:

- Tuệ Luân, ngươi thân là nghiệp sư của Hư Trúc, thường ngày dạy dỗ chểnh mảng, cái hại của tam độc lục căn không giảng giải cho kỹ càng, cho nên mới gây ra cái họa hôm nay. Tội ngươi đáng phạt ba mươi côn, vào diện bích sám hối trong Giới Luật Viện ba năm. Ngươi có tâm phục không?

Tuệ Luân run run đáp:

- Đệ tử... đệ tử tâm phục.

Hư Trúc vội nói:

- Thái sư bá, đệ tử xin được lãnh thay cho sư phụ ba mươi trượng đòn.

Huyền Tịch gật đầu nói:

- Nếu thế, Hư Trúc chịu tổng cộng cả thảy một trăm ba mươi côn. Chưởng hình đệ tử, lấy côn ra đây. Lúc này Hư Trúc không còn là sư chùa Thiếu Lâm nữa, gia hình không được nhẹ tay. Sau khi ra khỏi chùa rồi, Hư Trúc là chưởng môn phái khác, không còn dính dấp gì với bản tự nữa, người trên kẻ dưới trong bản phái phải giữ lễ kính với y.

Bốn tên chưởng hình đệ tử nhận lệnh đi ra, không bao lâu quay về đại điện, mỗi người cầm trong tay một cây gậy bằng gỗ đàn. Huyền Tịch vừa toan ra lệnh trừng phạt, đột nhiên một nhà sư ở ngoài hấp tấp đi vào trong điện, trong tay cầm một xấp danh thiếp dày, hay tay dâng lên giao cho Huyền Từ nói:

- Khải bẩm phương trượng, quần hùng Hà Sóc bái sơn.

Huyền Từ liếc qua danh thiếp, phải đến trên ba chục chiếc, trên đó đều là những anh hùng hào kiệt thành danh phương Bắc, đột nhiên cùng đến một lượt, không hiểu có chuyện gì. Chỉ nghe bên ngoài chùa tiếng người nói xôn xao, quần hào đã đến cổng rồi. Huyền Từ bèn nói:

- Huyền Sinh sư đệ, xin hãy ra ngoài nghinh tiếp.

Ông lại tiếp:

- Liệt vị sư huynh, khách quí quang lâm, việc thanh lý môn hộ của bản phái thôi xin hoãn lại một chút để khỏi khinh mạn người từ xa đến.

Ông nói rồi đứng lên đi ra phía màn cửa ngoài đại điện. Chẳng bao lâu, mấy chục hào kiệt được Huyền Sinh và tri khách tăng dẫn đường đã đến trước đại điện. Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Sinh mọi người tuy đều là những cao tăng cần tu Phật pháp, nhưng dẫu sao cũng là hảo thủ võ học, gặp được đồng đạo võ lâm, đều cảm thấy có sự gần gũi quyến luyến, lúc này gặp bao nhiêu là anh hùng hào kiệt đến đây, tuy đang gặp lúc thanh lý môn hộ, trong lòng buồn bực nhưng cũng cảm thấy phấn chấn tinh thần.

Quần tăng phái Thiếu Lâm ra ngoài hành đạo, bằng hữu bốn phương rất đông, những người đến đây không ít đã từng kết giao với những nhà sư hàng chữ Huyền, chữ Tuệ, chắp tay chào nhau, vui vẻ thăm hỏi chuyện cũ, nghênh đón vào trong đại điện, dẫn kiến với phía Cưu Ma Trí, Triết La Tinh, Thần Sơn, Quán Tâm... Những người đó đều có tiếng tăm, quần hào dẫu chưa quen biết nhưng cũng ngưỡng mộ từ lâu.

Huyền Từ đang định hỏi xem có chuyện gì mà đến đây, tri khách tăng lại tiến vào bẩm báo, có mấy chục nhân vật võ lâm ở Sơn Đông, Hoài Nam đến bái sơn. Huyền Tiệm liền đi ra ngoài đón vào đại điện. Một hán tử đen đủi dõng dạc nói:

- Bang chủ Cái Bang mời chúng tôi đến xem trò vui, thế chính ông ta chưa đến hay sao?

Một gã khác giọng nhừa nhựa nói:

- Lão huynh việc gì phải nóng ruột? Đã đến đây muốn xem trò vui không lẽ còn sợ mất phần hay sao? Đương nhiên bọn tép riu chúng mình phải đến trước, còn vai chính thì đến muộn muộn một chút đã sao.

Huyền Từ lớn tiếng nói:

- Chư vị không hẹn mà cùng giá lâm tệ tự, chùa Thiếu Lâm quả thực vinh hạnh xiết bao. Có điều tiếp đãi không được chu đáo, xin rộng lòng tha thứ cho.

Quần hào cùng đáp:

- Không dám! Không dám! Phương trượng chẳng việc gì phải khách sáo.

Đến lúc đó những hào khách có giao hảo với quần tăng chùa Thiếu Lâm đã nói cho biết lý do tại sao họ lại đến. Ai nấy đều nhận được anh hùng thiếp của bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền nói rằng Cái Bang và phái Thiếu Lâm trước nay cùng đứng đầu võ lâm Trung Nguyên, hiện nay Trang Tụ Hiền mới đảm nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang, có ý muốn suy cử một vị võ lâm minh chủ, cùng lập ra những qui luật để tiện cho các đồng đạo tuân theo, định rằng ngày rằm tháng sáu sẽ đến chùa Thiếu Lâm để thương lượng cùng Huyền Từ phương trượng. Những người nhận được anh hùng thiếp thấy ngôn ngữ tuy khiêm tốn nhưng hầu như nói rõ ra rằng minh chủ võ lâm không phải là ta thì còn ai vào đây? Trang Tụ Hiền đến chùa Thiếu Lâm hiển nhiên muốn dùng võ công đánh bại quần tăng, áp đảo uy phong mấy trăm năm qua của ngôi chùa.

Trong thiếp cũng không mời quần hùng đến chùa Thiếu Lâm tham dự, thế nhưng nhân vật võ lâm nào chẳng hiếu động, đại sự Cái Bang và Thiếu Lâm tranh hùng á, ai ai chẳng muốn chính mắt được xem, đời nào chịu bỏ qua? Thành thử mọi người không hẹn mà cùng tấp nập đi tới. Khi đó trong điện câu cửa miệng của mọi người đều là:

- Trang Tụ Hiền là ai thế?

Ai cũng hỏi nhưng không ai có câu trả lời. Huyền Từ phương trượng và các sư huynh sư đệ đã hội thương mấy hôm liền, ai cũng đoán ngầm chắc Trang Tụ Hiền chính là Kiều Phong hóa danh, với võ công cơ mưu của y, muốn giết những trưỏng lão thù nghịch với y trong Cái Bang, đoạt lại chức vụ bang chủ không phải là khó khăn gì, nếu không Cái Bang và chùa Thiếu Lâm trước nay giao hảo, bỗng nhiên sao lại giở quẻ như thế này?

Kiều Phong đại chiến tại Tụ Hiền Trang thiên hạ ai ai cũng biết, y lại đổi tên thành Trang Tụ Hiền chính là ỡm ờ nói lên cái lai lịch của mình.

Chẳng bao lâu, anh hùng các vùng Lưỡng Hồ, Giang Nam cũng đều tới nơi, rồi tới Xuyên Thiểm, Lưỡng Quảng cũng lục tục kéo đến. Quần hùng Nam Bắc xa nhau hàng nghìn dặm, vậy mà chưa đầy một ngày cũng đều có đủ, hiển nhiên Cái Bang chuẩn bị kỹ càng, gửi anh hùng thiếp cả mấy tháng trước rồi.

Huyền Từ và chư tăng tuy miệng không nói ra nhưng trong bụng rất là bực bội, lại thêm lo lắng vì mấy hôm trước đã có người tự xưng là Trang Tụ Hiền bang chủ Cái Bang gửi thư đến nói muốn tuyển minh chủ võ lâm, lại nói nội trong ngày một ngày hai sẽ thân đến bái sơn để cung kính nghe lời giáo huấn của Huyền Từ nhưng trong thư không nói rõ ngày đó là ngày nào, cũng không đề cập đến việc có mời anh hùng thiên hạ, vậy mà đột nhiên quần hiền tụ tập khiến cho chùa Thiếu Lâm phải lúng túng không kịp trở tay.

Phái Thiếu Lâm tuy trên giang hồ quen biết rộng rãi, vậy mà không hay biết gì trước, thành thử chưa tỉ thí đã rơi vào thế hạ phong rồi. Việc này của Cái Bang thật không thể tưởng tượng nổi, họ không nói trắng ra là mời quần hùng vì không tiện thay mặt phái Thiếu Lâm đứng ra làm chủ nhưng gửi anh hùng thiếp nhiều như thế thực chẳng mời cũng thành ra mời. Các nhà sư ai nấy đều nghĩ bụng: "Cái Bang không mời bọn ta đến tổng đà của họ ngoài mặt thì làm ra cung kính đấy, nhưng bang chủ của họ lại tự mình đến đây, ắt hẳn muốn cho chùa Thiếu Lâm không chuẩn bị gì, đến đánh cho mình trở tay không kịp". Huyền Sinh quay sang người bạn thân là Thần Đàn Tử Gia Cát Trung ở Hà Bắc nói:

- Hay nhỉ, Gia Cát lão huynh, lão huynh nghe được tin này lại không cho người mang tin đến cho ta, thôi cái giao tình ba mươi năm đến đây một bút sổ toẹt.

Mặt Gia Cát Trung đỏ bừng, luôn mồm phân trần:

- Ta ... ta mới nhận được thiếp ba hôm trước, đến bát cơm đang ăn cũng còn bỏ dở, suốt ngày suốt đêm chạy đến đây, đi đường chết mất bốn con hảo mã, chỉ sợ lỡ ngày lỡ giờ, không kịp giúp cho bọn trọc thối các ngươi một tay, sao ... sao lại trách ngược ta là cớ gì?

Huyền Sinh hừ một tiếng nói:

- Gớm ngươi tử tế nhỉ?

Gia Cát Trung nói:

- Sao lại không tử tế? Phái Thiếu Lâm nhà ngươi võ công cao thật, lão ca ca có đến dù chỉ hò hét trợ uy thì cũng đâu có phải là xấu xa gì! Phương trượng nhà ngươi dẫu sao thì cũng đã phát thiếp mời ta mồng chín tháng chín đến chùa Thiếu Lâm để gặp bọn Cô Tô Mộ Dung, ca ca chỉ đến sớm vài tháng, cũng đâu có gì là lầm lỗi với ngươi đâu.

Huyền Sinh lúc đó mới dịu xuống, hỏi ra mới biết những người nào ở xa thì nhận đựợc thiếp sớm, còn người nào gần thì nhận trễ hơn thành thử ai ai cũng chạy hộc tốc đến đây mới kịp. Bấy nhiêu bằng hữu mà không một ai đến báo trước được cho chùa Thiếu Lâm, đủ biết Cái Bang sắp đặt chu đáo, tính toán chính xác muốn đến được đây phải mất bao nhiêu thời giờ, khiến cho họ có muốn tới sớm hơn cũng không được. Quần tăng thấy như thế đủ biết Cái Bang đã tính toán rồi mới hành động, bang chủ và bang chúng chưa đến đã hư trương thanh thế hẳn là sẽ còn nhiều đòn lợi hại tiếp theo nữa.

Ngày hôm đó chính là ngày rằm tháng sáu, khí trời oi bức. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm vốn đã ứng phó với Thần Sơn thượng nhân và bọn Triết La Tinh các cao tăng, rồi kế đó đấu với Cưu Ma Trí, tra hỏi Hư Trúc, hao phí biết bao nhiêu tinh thần, đột nhiên bốn bề tám hướng anh hùng hào kiệt ùn ùn kéo đến, trong chùa sư sãi tuy đông thật nhưng việc quá gấp gáp, không khỏi lúng túng chẳng biết xoay trở ra sao. Cũng may thủ tọa Tri Khách Viện Huyền Tịnh đại sư là người tháo vát, lại thêm nhà chùa cũng phong túc, vật liệu tích trữ đầy đủ, quần tăng dưới quyền phân phối của Huyền Tịnh tiếp đãi mọi người cũng không đến nỗi khiếm lễ.

Bọn Huyền Từ nghênh tiếp tân khách tíu tít, không thì giờ đâu mà bàn thảo, chỉ đành chắc lưỡi than thầm. Bỗng nghe tri khách tăng chạy vào báo:

- Đoàn điện hạ Trấn Nam Vương nước Đại Lý đến.

Từ khi Huyền Bi đại sư trúng phải Vi Đà Chử mà chết, Đoàn Chính Thuần từng phụng mệnh hoàng huynh đến bái phỏng Huyền Từ phương trượng. Họ Đoàn Đại Lý là bằng hữu của chùa Thiếu Lâm, giời này đến quả thực được một trợ thủ mạnh mẽ, Huyền Từ trong lòng mừng rỡ nói:

- Đoàn vương gia nước Đại Lý cũng đang ở tại Trung Nguyên sao?

Ông vội vã dẫn mọi người ra nghênh đón. Huyền Từ đã từng gặp Đoàn Chính Thuần và các tùy tòng của ông như Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần hai lần, hàn huyên mấy câu rồi đưa vào trong điện, giới thiệu với quần hùng.

Người đầu tiên ông đưa đến gặp là quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí. Đoàn Chính Thuần lập tức biến sắc, ôm quyền nói:

- Khuyển tử Đoàn Dự được Minh Vương yêu mến, dẫn qua phương Đông, nghe khuyển tử bảo rằng, trên đường đi được dạy dỗ rất nhiều, quả thật có ích lắm, Đoàn mỗ vô cùng cảm kích, nhân đây xin tạ ơn.

Cưu Ma Trí mỉm cười đáp:

- Không dám! Đoàn công tử sao không đi theo điện hạ đến đây?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Khuyển tử không biết lưu lạc nơi đâu? Không chừng lại rơi vào tay kẻ gian hay ác tăng nào, đang định thỉnh giáo quốc sư.

Cưu Ma Trí lắc đầu quầy quậy nói:

- Tung tích của Đoàn công tử, tiểu tăng quả thực không hay biết. Ôi, tiếc thay, thật tiếc thay!

Tim Đoàn Chính Thuần nhảy rộn lên, sợ không biết Đoàn Dự gặp chuyện gì bất trắc, vội hỏi:

- Lời của quốc sư nghĩa là làm sao?

Ông tuy đã từng trải nhiều biến cố nhưng vì khắc khoải chuyện an nguy của đứa con yêu, giọng không khỏi có chiều lo lắng. Mấy tháng trước hai cha con gặp nhau, sau đó Đoàn Dự đi tham dự hội cờ của Lung Á tiên sinh, ai ngờ trên đường về đi đâu mất, đã mấy tháng nay, Đoàn Chính Thuần không nhận được tin tức gì, e rằng anh chàng lại gặp phải độc thủ của Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí hay có khi Đinh Xuân Thu không chừng nên trong lòng lúc nào cũng bồn chồn.

Hôm đó ông nghe tin tân nhiệm bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền tính chuyện tranh đoạt chức võ lâm minh chủ với phái Thiếu Lâm, lập tức lật đật chạy đến, luôn thể tìm con. Họ Đoàn là một thế gia trong võ lâm nên việc tranh đoạt minh chủ võ lâm tại Trung Nguyên đương nhiên phải quan tâm. Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng tại Thiên Long bảo sát, được gặp Khô Vinh đại sư, phương trượng Bản Nhân cùng lệnh huynh, người nào cũng thần định khí nhàn, trang nghiêm an tường quả thực là hữu đạo chi sĩ. Trấn Nam Vương uy danh lừng lẫy thiên hạ, sao lại lưu luyến thâm tình có thái độ của đàn bà như thế?

Đoàn Chính Thuần cố gắng định thần nghĩ thầm: "Dự nhi nếu có gặp chuyện không may thì kinh hoảng cũng vô ích, lại khiến cho gã phiên tăng này coi thường mình". Ông bèn đáp:

- Yêu thương con cái là chuyện thường tình của thế gian. Trên đời này nếu không sinh con đẻ cái, hú hí với nhau thì đâu còn ai nữa. Chúng tôi là kẻ phàm phu tục tử, sao sánh được với một vị cao tăng từ bi hữu đức như quốc sư tứ đại giai không?

Cưu Ma Trí mỉm cười nói:

- Tiểu tăng mới gặp lệnh lang thấy y góc trán gồ cao, biết y sau này thể nào cũng làm cho họ Đoàn rạng rỡ, rồi đây sẽ thành một vị minh quân thật là đại phúc cho bách tính cõi trời Nam.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Không dám!

Ông nghĩ thầm: "Thằng giặc trọc này quả là đáng ghét, giả vờ nói chuyện đâu đâu để cho mình thêm nóng ruột". Cưu Ma Trí thở dài một tiếng nói:

- Ôi, quả là đáng tiếc! Vị Đoàn quân kia tiếc thay phúc trạch lại không được dày!

Y lại thấy Đoàn Chính Thuần mặt càng tái đi, lúc ấy mới mỉm cười nói:

- Y đến Trung Nguyên, gặp được một cô nương xinh đẹp, thế là cứ lẽo đẽo đi theo bóng quần hồng, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, một bụng văn chương cũng đều quên sạch. Cô gái kia đi về hướng đông, y cũng theo qua phía đông, cô gái kia đi về hướng tây, y cũng chạy theo hướng tây. Ai thấy thế cũng bảo đúng là một tên ăn bơ làm biếng, lêu lổng bê tha, thế không phải đáng tiếc lắm hay sao?

Bỗng nghe khúc khích, ai đó bật lên một tiếng cười, giọng đàn bà. Mọi người quay qua nhìn về phía đó thì thấy một hán tử trung niên mặt mũi ti tiện. Người đó chính là Nguyễn Tinh Trúc, mấy tháng qua bà ta kè kè ở bên cạnh Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần đi đến chùa Thiếu Lâm, bà ta cũng đi theo, biết qui củ chùa Thiếu Lâm không cho đàn bà con gái vào nên mặc giả làm đàn ông. Bà ta là mẹ của A Châu, trời sinh cũng có chút tài cải trang, lúc này ăn mặc nam trang, hình dung cử chỉ giống hệt, chẳng phải như bốn nàng cung Linh Thứu mặc giả người ta trông là biết ngay, có điều bà ta giọng nói yểu điệu, không được như A Châu giả đàn ông. Bà ta thấy mọi người lom lom nhìn mình vội vàng đổi giọng ồm ồm nói:

- Tiểu hoàng tử họ Đoàn gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử, quả là có chỗ hơn người!

Cái tiếng trăng hoa đi đến đâu lưu tình đến đấy của Đoàn Chính Thuần đã truyền khắp giang hồ, quần hào nghe bà ta ví von Đoàn Dự mê say Vương Ngữ Yên là "gia học uyên nguyên, tướng môn hổ tử" không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Đoàn Chính Thuần cũng cười ha hả, nói với Cưu Ma Trí:

- Cái đứa con không ra gì ...

Cưu Ma Trí vội chặn lại:

- Nào đâu có không ra gì, ra gì lắm chứ!

Đoàn Chính Thuần biết y mỉa mai mình phong lưu phóng đãng nhưng cũng không phật lòng, nói tiếp:

- Không biết y lúc này đang ở đâu, quốc sư nếu biết tung tích của nó, xin cho biết.

Cưu Ma Trí lắc đầu:

- Đoàn công tử không phá nổi cái lưới tình, đêm ngày vò võ tương tư. Khi tiểu tăng gặp y thì đã thân tàn ma dại, mặt mày tiều tụy, mình hạc xác ve, lúc này sống hay chết, thật khó mà nói lắm.

Đột nhiên một nhà sư thanh niên chạy ra, cung kính hành lễ với Đoàn Chính Thuần nói:

- Vương gia chẳng phải lo lắng, tam đệ của tiểu tăng tinh thần vui vẻ, thân thể an hảo lắm.

Đoàn Chính Thuần trả lại một lễ, trong bụng lạ lùng, nhìn cách phục sức của y rõ ràng là một nhà sư vai vế thấp kém trong chùa Thiếu Lâm, sao lại gọi Đoàn Dự là "tam đệ", bèn hỏi:

- Tiểu sư phụ gần đây mới gặp đứa con của ta chăng?

Thanh niên tăng nhân đó chính là Hư Trúc, liền đáp:

- Đúng thế! Hôm đó cháu cùng tam đệ ở trên cung Linh Thứu uống một trận say sưa ...

Đột nhiên có tiếng Đoàn Dự từ ngoài điện vọng vào:

- Gia gia! Hài nhi ở đây, lão nhân gia khoẻ mạnh chứ?

Giọng vừa dứt một người đã chạy vụt vào, sà vào lòng Đoàn Chính Thuần, chính là Đoàn Dự. Chàng nội công thâm hậu, tai rất thính, vừa đến cửa đã nghe cha mình đối đáp với Hư Trúc nên không nhịn nổi, lập thức thi triển Lăng Ba Vi Bộ chạy tới.

Cha con gặp nhau, vui mừng nói sao cho xiết. Đoàn Chính Thuần thấy con tuy có nhuốm chút phong sương nhưng thần thái sảng lãng, không phải như Cưu Ma Trí nói là "mặt mày tiều tụy, mình hạc xác ve". Đoàn Dự quay lại Hư Trúc nói:

- Nhị ca lại trở về làm hòa thượng rồi sao?

Hư Trúc đã quì trước Phật tượng cả nửa ngày thành tâm sám hối về những sai quấy của mình, thế nhưng vừa gặp lại Đoàn Dự, lập tức lại nghĩ ngay đến "người trong mộng", tự nhiên mặt đỏ tía tai, thần tình cực kỳ bẽn lẽn, nhưng nào có dám mở mồm hỏi dò. Cưu Ma Trí nghĩ thầm chắc lúc này Vương Ngữ Yên đang ở đâu đây, nếu không thì dù chùa Thiếu Lâm có muôn vàn chuyện ghê gớm cũng không thể nào dẫn dụ được anh chàng "si tình công tử" Đoàn Dự đến núi Thiếu Thất, mà Vương Ngữ Yên đối với biểu ca một mối thâm tình, không thể nào chia tay với Mộ Dung Phục được, lập tức đề khí lớn tiếng nói:

- Mộ Dung công tử, nếu đã lên đến núi Thiếu Thất, sao không vào chùa lễ Phật?

Tiếng tăm của Cô Tô Mộ Dung nổi như cồn, quần hùng ai nấy ngạc nhiên, nghĩ thầm: "Thì ra Mộ Dung công tử đất Cô Tô đã đến đây. Chắc là đã cùng với gã phiên tăng này ước hẹn trước, cùng rủ nhau đến làm khó chùa Thiếu Lâm chăng?".

Thế nhưng ngoài chùa không nghe tăm hơi gì, một hồi sau mới từ triền núi xa xa vọng lại: "Mộ Dung công tử ... đến núi Thiếu Thất ... vào chùa lễ Phật?". Cưu Ma Trí nghĩ thầm: "Phen này ta đoán sai rồi, thì ra Mộ Dung Phục chưa đến núi Thiếu Thất, nếu không nghe thấy tiếng của ta lẽ nào lại không trả lời".

Nghĩ thế y bèn ngửa cổ lên cười ha hả, toan nói mấy câu lấp liếm, bỗng nghe bên ngoài cửa có tiếng người lạnh tanh nói:

- Mộ Dung công tử còn đang ác đấu với Đinh lão quái, đợi giết được lão quái rồi, sẽ đến chùa Thiếu Lâm đảnh lễ Như Lai.

Cha con Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự nghe thấy thế mặt liền biến sắc, giọng nói đó chính là của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa tới đó, Đoàn Diên Khánh mặc áo bào xanh, tay chống thiết trượng đã tiến vào điện, đằng sau y là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương, Hung Thần Ác Sát Nam Hải Ngạc Thần và Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Tứ đại ác nhân cùng đến một lượt.

Huyền Từ phương trượng đối với khách không kể thiện hay ác, ai ai cũng dùng lễ tiếp đãi. Chùa Thiếu Lâm tuy có qui củ không tiếp khách đàn bà nhưng Huyền Từ phương trượng thấy Diệp Nhị Nương dẫu hơi ngạc nhiên nhưng cũng không nói gì đến. Quần hùng đều nghĩ: "Hôm nay kẻ địch đông như thế này, so sánh nặng nhẹ, qui củ không tiếp nữ khách chỉ là chuyện nhỏ, chẳng nên gây thêm phiền toái làm gì".

Nam Hải Ngạc Thần vừa trông thấy Đoàn Dự mặt đã đỏ lên, quay mình định chạy. Đoàn Dự cười nói:

- Này học trò ngoan, hồi này khỏe chứ?

Nam Hải Ngạc Thần nghe thấy chàng gọi mình là "học trò ngoan" biết là chạy không xong, mặt hầm hầm nói:

- Con mẹ nó gã sư phụ thối tha kia, sao ngươi chưa chết à?

Đa số quần hùng trong điện không rõ nội tình, thấy gã này thần thái hung ác, vậy mà người ôn văn nho nhã như Đoàn Dự lại gọi y là học trò, quả đã là lạ, thế nhưng y lại mở miệng gọi Đoàn Dự là thầy, ngôn ngữ cực kỳ vô lễ lại càng lạ hơn. Diệp Nhị Nương mỉm cười nói:

- Đinh Xuân Thu đại hiển thần thông, đánh cho Mộ Dung công tử không còn cách gì chống đỡ. Mọi người có muốn đi xem trò vui không?

Đoàn Dự kêu lên:

- Chao ôi!

Chàng là người đầu tiên chạy ra khỏi cửa.

Hôm đó Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác và Vương Ngữ Yên sáu người rời Phiêu Miểu Phong. Cả bọn thấy mình vô cớ xen vào việc tranh chấp bên trong cung Linh Thứu đã xôi hỏng bỏng không mà lại chẳng vẻ vang gì, ai nấy đều cụt hứng. Riêng có Vương Ngữ Yên nói năng ríu rít, được ở bên cạnh biểu ca là sung sướng nhất trần đời rồi.

Sáu người theo hướng đông quay về Trung Nguyên. Hôm đó xế trưa đi qua một khu rừng rậm tối mò mò, Phong Ba Ác đột nhiên kêu lên:

- Có mùi máu tanh!

Y rút phắt đơn đao, theo mùi chạy tới nghĩ thầm: "Có mùi máu tức là có đánh nhau". Càng chạy mùi máu tanh càng nồng, thấy trên mặt đất nằm la liệt đến mấy chục người, binh khí rơi vãi, máu chưa khô, đủ biết người chết chưa lâu, thế nhưng trận đánh đã xong rồi. Phong Ba Ác dậm chân nói:

- Tiếc quá! Đến chậm một bước.

Bọn Mộ Dung Phục cũng chạy đến nơi, thấy những người chết áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải toàn là người của Cái Bang. Công Dã Can nói:

- Có người là đệ tử bốn túi, có người năm túi, không biết trúng phải độc thủ của ai?

Đặng Bách Xuyên nói:

- Thôi chúng mình đem những xác chết này chôn cất đi thôi.

Công Dã Can đáp:

- Đúng thế! Công tử gia, Vương cô nương, hai người sang bên kia ngồi nghỉ một chút. Bốn người chúng tôi lo liệu được rồi.

Y cầm một cây thiết côn dưới đất lên, bắt đầu đào đất. Đột nhiên trong đám người chết có một tiếng rên phát ra. Vương Ngữ Yên sợ quá, vội nắm chặt lấy tay Mộ Dung Phục. Phong Ba Ác liền xông ra hỏi lớn:

- Này lão huynh, lão huynh chưa chết hẳn phải không?

Từ trong đống xác chết có một người từ từ ngồi dậy, nói:

- Chưa chết hẳn, có điều ... có điều cũng chẳng ... cũng chẳng được bao lâu!

Người đó là một gã ăn mày già chừng trên dưới năm mươi, đầu tóc hoa râm, trên mặt trên ngực đầy vết máu, trông thật ghê rợn. Phong Ba Ác vội lấy trong túi ra một viên thuốc, nhét vào mồm y.

Người ăn mày liền nuốt viên thuốc nói:

- Chẳng ... chẳng ăn thua gì đâu! Bụng ta trúng hai dao, không ... không sống nổi.

Phong Ba Ác nói:

- Thế ai làm hại các ông thế?

Người ăn mày lắc đầu nói:

- Nói ra thật xấu hổ, đó là ... là người trong Cái Bang chúng tôi tranh chấp, tàn sát ... lẫn nhau.

Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng cả bọn cùng kêu lên kinh ngạc. Lão ăn mày lại tiếp:

- Chuyện này ... chuyện này đáng lý không nên nói cho người ngoài nghe, có điều ... có điều đã làm ầm ỹ lên rồi, cũng chẳng còn dấu ai được nữa. Không hiểu tôn tính đại danh các vị, đa tạ ... đa tạ đã cứu viện, ôi, đệ tử Cái Bang tàn sát lẫn nhau, xem ra không bằng võ lâm đồng đạo không quen không biết. Mới rồi ... mới rồi nghe các vị định chôn cất các xác chết chúng tôi, bụng dạ nhân hiệp, lão này cực kỳ cảm kích...

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi đã chết đâu, đâu đã là xác chết, chúng ta cũng chưa chôn ngươi, chẳng việc gì mà phải cảm kích.

Người ăn mày nói:

- Người trong Cái Bang tự giết lẫn nhau, đến ... đến xác cũng không chôn, thế ... thế thì còn nói anh em gì nữa? Nói thật đến cầm thú cũng chưa bằng ...

Bao Bất Đồng toan cãi lại là cầm thú đâu có biết chôn cất lẫn nhau, thế nhưng Mộ Dung Phục đã đưa mắt lườm y một cái, y liền ngưng lại không dám nói nữa.

Lão ăn mày nói tiếp:

- Lão nhi xin các vị đem tin đến ... đến Ngô trưởng lão của tệ bang, nói rằng tân bang chủ Trang Tụ Hiền tiểu tử đó chỉ là cái bung xung, mọi ... mọi việc đều do tên gian tặc ... Toàn Quan Thanh giựt giây. Bọn tôi không phục gã họ Trang làm bang chủ, Toàn Quan Thanh phái ... phái người đến giết ... giết chúng tôi. Bọn chúng lại định đến thanh toán Ngô trưởng lão, vậy xin lão nhân gia ... hết sức cẩn thận.

Mộ Dung Phục gật đầu, nghĩ thầm: "Thì ra là thế". Y bèn nói:

- Lão huynh cứ yên tâm, tin tức đó bọn ta sẽ tìm cách đưa tới nơi, có điều Ngô trưởng lão của quí bang hiện nay đang ở nơi nào?

Lão ăn mày mắt lờ đờ nhìn về phía xa xa, chậm rãi lắc đầu nói:

- Ta ... ta cũng không biết nữa.

Mộ Dung Phục nói:

- Cũng không sao. Chúng tôi sẽ đem cái tin đó loan truyền rộng rãi trên giang hồ, thể nào cũng đến tai Ngô trưởng lão, không chừng Toàn Quan Thanh nghe được rồi lại không dám hạ độc thủ với Ngô trưởng lão nữa đâu.

Lão ăn mày gật đầu liên tiếp nói:

- Đúng thế! Đúng thế! Đa tạ.

Mộ Dung Phục hỏi lại:

- Tân bang chủ quí bang Trang Tụ Hiền lai lịch ra sao? Chúng tôi cô lậu quả văn, hôm nay mới nghe đến tên đó lần đầu tiên.

Lão ăn mày hậm hực nói:

- Tên đầu sắt đó ...

Bọn Mộ Dung Phục đều giật mình, cùng hỏi dồn:

- Y là quái nhân đầu sắt đó sao?

Lão ăn mày đáp:

- Ta vừa mới ở Tây Hạ trở về, cũng chưa gặp tiểu tử đó bao giờ, chỉ nghe anh em trong bang kể lại, tên tiểu tử đó vốn ... vốn có đội một cái lồng sắt, sau này Toàn Quan Thanh tìm cách gỡ ra cho y, khuôn mặt ... ôi, còn ghê hơn cả quỉ quái. Chuyện đó cũng không đáng nói làm gì. Tiểu tử đó võ công ghê gớm lắm, mấy tháng trước đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, tất cả suy tuyển bang chủ, tranh chấp mãi không xong, sau đành phải lấy võ công mà phân cao thấp, tên đầu sắt đó đánh chết mười một cao thủ trong bang, nên ... nên được làm ... làm bang chủ nhưng nhiều anh em không phục, tên gian tặc Toàn Quan Thanh ... tên gian tặc Toàn Quan Thanh ...

Y càng nói càng nhỏ dần, dường như sắp tắt hơi. Đặng Bách Xuyên nói:

- Lão huynh, để cho huynh đệ xem vết thương của lão huynh, mình tìm cách trị thương rồi tính sau.

Người ăn mày đáp:

- Bụng vỡ rồi, ruột cũng lòi cả ra ... đa tạ, có điều ...

Y nói rồi đưa tay vào bọc dường như muốn lấy ra vật gì, nhưng lực bất tòng tâm đành nói:

- Phiền ... phiền ông ...

Công Dã Can đoán được ý của y bèn hỏi:

- Phiền ta lấy ra vật gì, phải không?

Lão ăn mày gật đầu, Công Dã Can lập tức đưa tay vào bọc y lấy hết ra, để trên tay, nào là hỏa đao, bùi nhùi, ám khí, thuốc men, lương khô, bạc vụn các loại, đủ thứ, tất cả đều dính đầy máu me.

Lão ăn mày nói:

- Ta ... ta không xong rồi. Cái trương ... trương bảng văn này, hết sức quan trọng, khẩn thỉnh ân công nghĩ đến tình nghĩa giang hồ, giao cho ... giao cho bất cứ một vị trưởng lão nào trong Cái Bang cũng được ... nhưng đừng giao cho gã đầu sắt và ... và tên gian tặc Toàn Quan Thanh. Tiểu lão nhi có ở dưới cửu tuyền, cũng còn hết sức cảm kích.

Y vừa nói vừa giơ tay run run cầm lấy trên tay Công Dã Can một xấp giấy màu vàng. Mộ Dung Phục nói:

- Các hạ cứ yên tâm, nếu vết thương của ông quả không khỏi được, cái tờ giấy gì đây, bọn ta đảm bảo sẽ giao lại cho trưởng lão quí bang.

Vừa nói vừa cầm lấy tờ giấy màu vàng. Lão ăn mày thều thào:

- Tại hạ họ Dịch, tên gọi Dịch Đại Bưu. Xin phiền ... xin phiền túc hạ phao lên rằng, ta từ nước Tây Hạ trở về, đây là ... đây là bảng văn kén rể của quốc vương nước Tây Hạ. Việc này ... việc này quan trọng ghê gớm, có liên can đến khí vận an nguy nhà Đại Tống. Thế nhưng vừa về đến Trung Nguyên chúng tôi đã gặp gian mưu, chỉ mong gặp được Ngô trưởng lão để cho hay ... cho ông ta hay, ngờ đâu ... ngờ đâu không còn gặp ông ta được nữa. Chỉ mong túc hạ thương đến muôn vạn sinh linh ... sinh linh ... sinh linh ...

Y lắp bắp nói luôn ba tiếng "sinh linh" nhưng vẫn không sao nói thêm được. Y càng gấp gáp, lại càng không nói nên lời, đột nhiên hộc ra một ngụm máu, mắt trợn ngược, bỗng thấy Mộ Dung Phục hình dung tuấn nhã, chợt nghĩ ra một người liền hỏi:

- Các hạ là ai! Có phải Cô Tô ... Cô Tô ...

Mộ Dung Phục đáp:

- Không sai! Tại hạ là Cô Tô Mộ Dung Phục.

Lão già ăn mày kinh hoảng kêu lên:

- Ngươi ... ngươi là kẻ đại cừu của bản bang ...

Y thò tay chộp lấy tờ giấy vàng trong tay Mộ Dung Phục, cố sức giựt về. Mộ Dung Phục buông tay cho y giựt lấy, nghĩ thầm: "Cái Bang một mực nghi cho ta làm hại Phó bang chủ Mã Đại Nguyên, gần đây tuy lời đồn đã bớt nhưng người này vẫn coi ta là đại cừu nhân. Y sắp chết rồi, chẳng cần tranh cãi với y làm gì nữa".

Chỉ thấy lão ăn mày cố sức toan xé tờ giấy, đột nhiên hai chân duỗi một cái, máu chảy ọc ra rồi chết. Phong Ba Ác gỡ tay y, thấy tờ giấy đầy những chữ loằng ngoằng viết bằng son, dưới cùng đóng một dấu đỏ lớn. Công Dã Can khá thông thạo nhiều thứ tiếng, coi qua từ đầu tới cuối một lượt rồi nói:

- Quả nhiên là bảng văn chiêu phò mã của quốc vương Tây Hạ. Trong thư viết rằng:

Văn Nghi công chúa nước Tây Hạ đã đến tuổi cập kê, quốc vương muốn trưng tuyển một vị nam tử chưa vợ văn võ toàn tài, tuấn nhã anh hùng để làm phò mã, định vào ngày Trung Thu tháng tám này sẽ tuyển chọn. Bất luận nhân sĩ nước nào, tự tin rằng mình là loại nhân tài hạng nhất thì trước ngày đó cứ viết thư xin yết kiến, quốc vương sẽ cho gặp mặt. Nếu dẫu không được trúng tuyển phò mã thì cũng theo tài mà lục dụng, phong cho quan tước, còn dưới một mức thì thưởng vàng bạc ...

Công Dã Can chưa đọc hết, Phong Ba Ác đđã cười sằng sặc nói:

- Cái vị nhân huynh Cái Bang này quả cũng tức cười, y lật đật mang bản văn này từ Tây Hạ chạy về, không lẽ muốn một vị trưởng lão nào trong bang đi ứng tuyển để làm phò mã Tây Hạ hay sao?

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Tứ đệ có chỗ chưa tường, các trưởng lão trong Cái Bang dĩ nhiên vừa già vừa xấu, thế nhưng đệ tử trẻ tuổi trong bang, thiếu gì kẻ văn võ toàn tài, thông minh anh tuấn. Nếu như có một đệ tử Cái Bang được làm phò mã Tây Hạ, Cái Bang chẳng cũng lên như diều hay chăng?

Đặng Bách Xuyên cau mày nói:

- Ta thường nghe hảo hán trong Cái Bang không màng công danh phú quí, sao cái gã Dịch Đại Bưu này lại để cho lửa tham hun đốt cõi lòng?

Công Dã Can đáp:

- Đại ca, gã này nói: "Việc này quan trọng ghê gớm, có liên can đến khí vận an nguy nhà Đại Tống". Y lại còn nói đến sinh linh gì gì đó, chưa chắc chỉ cầu công danh phú quí cho Cái Bang không thôi đâu!

Bao Bất Đồng lắc đầu quầy quậy:

- Sai bét rồi! Không phải vậy!

Công Dã Can hỏi lại:

- Tam đệ lại có cao kiến gì khác?

Bao Bất Đồng đáp:

- Nhị ca hỏi tiểu đệ "lại có cao kiến gì khác", chữ "lại" đó nghĩa là mỗ đã từng biểu lộ cao kiến rồi. Thế nhưng mỗ đã có cao kiến gì đâu, đủ biết nhị ca không tin rằng tiểu đệ có cao kiến. Nhị ca hỏi mỗ "lại có cao kiến gì khác" chẳng qua hàm ý muốn bảo rằng: "Bao lão tam lại định nói nhăng nói cuội gì nữa đây?", có phải không nào?

Phong Ba Ác tuy thích đánh nhau nhưng anh em trong nhà thì lại không gây hấn, Bao Bất Đồng thích tranh biện, chẳng cần biết thân sơ tôn ti, một câu không hợp là phải cãi cho bằng được mới xong. Công Dã Can biết rõ tính nết người em kết nghĩa, chỉ mỉm cười nói:

- Tam đệ trước nay nói ra rất nhiều cao kiến, ta bảo "lại" quả thật là mong muốn ngươi nói ra cao kiến nữa.

Bao Bất Đồng lại lắc đầu:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Mỗ thấy nhị ca khi nói nhếch mép mỉm cười, ý tứ xem ra không thành thực ...

Y còn đang nói, Đặng Bách Xuyên đã chặn ngang nói:

- Tam đệ, gã Dịch Đại Bưu này mang bức bảng văn kén phò mã từ nước Tây Hạ về, trịnh trọng ủy thác như thế, nhờ bọn ta mang đến cho trưởng lão Cái Bang, theo ý ngươi, y có dụng ý gì?

Bao Bất Đồng đáp:

- Cái đó tiểu đệ không phải Dịch Đại Bưu, làm sao biết được y có dụng ý gì?

Mộ Dung Phục đưa mắt nhìn Công Dã Can có ý dò hỏi xem y ý kiến ra sao. Công Dã Can mỉm cười đáp:

- Theo như ta tưởng, thì hoàn toàn khác hẳn tam đệ.

Y biết rõ dù mình nói thế nào chăng nữa, Bao Bất Đồng ắt sẽ nói ngược lại, chi bằng chặn trước là hơn. Quả nhiên Bao Bất Đồng liền kêu lên:

- Sai bét rồi! Không phải vậy! Lần này nhị ca đoán trật lất, tiểu đệ nghĩ hoàn toàn y chang nhị ca, không có gì khác cả.

Công Dã Can mỉm cười nói:

- Thế thì hay biết mấy!

Mộ Dung Phục nói:

- Nhị ca, theo ý anh thì là thế nào?

Công Dã Can đáp:

- Hiện thời Đại Liêu, Đại Tống, Thổ Phồn, Tây Hạ, Đại Lý năm nước sánh vai, trừ Đại Lý ở nơi hẻo lánh nam cương, không tranh giành với ai, còn lại bốn nước đều có bụng dòm ngó, thôn tính thiên hạ ...

Bao Bất Đồng nói:

- Cái này nhị ca nói không phải. Nước Đại Yên ta tuy không có đất đai, nhưng công tử gia thời thời khắc khắc lúc nào cũng có chí khôi phục, biết đâu Đại Yên ta sau này sẽ chẳng có lúc trùng chấn cơ nghiệp tổ tông, trung hưng phục quốc?

Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác tất cả cùng đứng lên, thần sắc nghiêm trang trịnh trọng, cùng cất tiếng:

- Cái chí phục quốc, không lúc nào quên!

Năm người, kẻ rút yêu đao, người giơ trường kiếm, cầm binh khí để ngang trên ngực. Tổ tiên Mộ Dung Phục là họ Mộ Dung vốn thuộc bộ tộc Tiên Ti. Năm xưa khi có loạn Ngũ Hồ, họ Mộ Dung Tiên Ti xâm nhập Trung Nguyên, uy phong rất lớn, đã từng lập nên nhà Tiền Yên, Hậu Yên, Nam Yên, Tây Yên nhiều triều đại. Về sau họ Mộ Dung bị diệt vào thời Bắc Ngụy, tán loạn khắp nơi, nhưng ông cha truyền cho con cháu, đời này sang đời khác, lúc nào trong đầu cũng toan tính trung hưng phục quốc. Trải qua đời Tùy đời Đường, mỗi ngày họ Mộ Dung một suy vi, tuy cái hùng tâm tráng chí "Trùng Kiến Đại Yên" vẫn còn, viễn ảnh thừa long xem ra ngày càng mờ mịt.

Đến cuối đời Ngũ Đại, nhà Mộ Dung nảy sinh một vị võ học kỳ tài là Mộ Dung Long Thành, sáng tạo ra môn võ công cao siêu Đẩu Chuyển Tinh Di trên đời không ai địch nổi, danh dương thiên hạ. Ông ta không quên di huấn của tổ tông, tập hợp hảo hán có ý đồ phục quốc, thế nhưng thiên hạ chia lâu rồi lại hợp, Triệu Khuông Dận lập nên nhà Đại Tống, bốn bể thanh bình, lòng người quay về một mối, Mộ Dung Long Thành võ công cao cường nhưng không có cách nào xây dựng cơ sở, uất hận mà chết.

Mấy đời sau, hùng tâm và võ công của Mộ Dung Long Thành lại truyền đến Mộ Dung Phục. Đại Yên đồ mưu phục quốc, đối với Tống triều là chuyện bất đạo, làm loạn phản nghịch, tuy họ Mộ Dung lén lút qui tụ đồng đảng, gom tiền tài, tích lương thảo nhưng không dám để lộ ra ngoài chút nào. Trong võ lâm khi nói đến Cô Tô Mộ Dung chỉ biết họ võ công cực cao, hành tung ngụy bí, chẳng khác gì yêu tà. Nhà Mộ Dung trong lòng mang chí lớn, khác hẳn với hành vi của giới giang hồ, dưới mắt kẻ tầm thường coi không hợp nhãn, lại thêm môn "dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân" lưu truyền, dần dần bao nhiêu tiếng ác đều đổ lên đầu họ.

Khi đó giữa nơi đồng không mông quạnh, không người nào khác, Bao Bất Đồng đề cập đến việc trung hưng Đại Yên, mọi người không ai nhịn nổi, rút kiếm đứng lên, hiên ngang khẳng khái nói toạc ý hướng của mình ra.

Vương Ngữ Yên chậm rãi quay đầu khoan thai đi ra ngoài, cách xa mọi người. Mẹ nàng xưa nay vốn phản đối âm mưu của nhà Mộ Dung tác loạn tạo phản, toan bề xưng vương xưng đế, cho rằng cái si tâm vọng tưởng của họ mấy trăm năm qua, lấy lại nước thì chẳng thấy đâu, cái họa cả họ bị rơi đầu thì ngay trước mắt. Thành thử trước nay mẹ nàng không bao giờ cho Mộ Dung Phục đặt chân vào nhà, một mình ẩn cư nơi hồ lăng hẻo lánh, không lai vãng qua lại gì với nhà Mộ Dung.

Công Dã Can nhìn theo sau lưng Vương Ngữ Yên nói:

- Liêu Tống hai nước chinh chiến liên miên, Đại Liêu tuy thắng thế thật nhưng muốn diệt nước Tống thì không sao làm nổi. Tây Hạ, Thổ Phồn hùng cứ biên thùy phía tây, nước nào cũng có hùng binh mấy chục vạn, bất luận nếu đem binh trợ Liêu thì Tống triều ắt sẽ lâm nguy, còn nếu giúp Tống thì nước Liêu có chiều vong quốc.

Phong Ba Ác lớn tiếng nói:

- Nhị ca nói có lý lắm. Cái Bang đối với Tống triều vốn dĩ một dạ trung thành, gã Dịch Đại Bưu đem bảng văn về, chắc mong mỏi Đại Tống có một thanh niên anh hùng nào sang ứng tuyển phò mã Tây Hạ. Nếu như Tống Hạ hai nước liên minh thì ắt sẽ thành thiên hạ vô địch.

Công Dã Can gật đầu nói:

- Quả là thiên hạ vô địch nhưng không phải chỉ có thế mà thôi đâu. Bất quá Đại Tống tài nguyên phong túc, Tây Hạ binh mã tinh cường, một khi hai nước liên binh, Đại Liêu, Thổ Phồn không địch nổi đã đành, cái nước Đại Lý nhỏ bé kia hẳn là không đáng nói tới nữa. Cứ như ta suy đoán, Tống Hạ liên binh rồi, bước thứ nhất là thôn tính Đại Lý, bước thứ hai mới tấn công nước Liêu.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Cái tính toán của Dịch Đại Bưu e rằng thật là như thế, thế nhưng Tống Hạ liên hôn, đâu có dễ dàng. Liêu quốc, Thổ Phồn, Đại Lý nghe tin, thể nào chẳng tìm cách phá hoại.

Công Dã Can nói:

- Không phải chỉ tìm cách phá hoại mà nước nào chẳng muốn lấy được cô công chúa đó.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Không biết cô công chúa Tây Hạ kia xấu hay đẹp, tính tình có hòa nhã, hay lại ngang ngược dữ dằn.

Bao Bất Đồng cười ha hả nói:

- Đại ca việc gì mà phải lo chuyện đó, không lẽ đại ca muốn sang Tây Hạ cầu hôn, định làm phò mã hay sao?

Đặng Bách Xuyên cười:

- Nếu như Đặng đại ca nhà ngươi mà trẻ lại hai chục tuổi, võ công cao gấp mười, đẹp trai gấp trăm, thì ta lập tức chạy đến Tây Hạ ngay.

Y nói xong liền nghiêm mặt:

- Nước Đại Yên ta muốn khôi phục, đồ mưu đã mấy trăm năm, nhưng vẫn như tìm hoa trong gương, mò trăng đáy nước, khó mà thành công. Nói cho cùng, chẳng qua cũng bởi mình không có một nơi nào có thế lực để nhờ cậy. Nếu như nước Tây Hạ là chỗ thân gia với nhà Mộ Dung thì một khi ta ở Trung Nguyên giương ngọn nghĩa kỳ, viện binh Tây Hạ liền gửi qua ngay, liệu đại sự có thành hay không?

Công Dã Can nói:

- Đúng thế! Ngày trước thời Xuân Thu, hai nước Tần Tấn đời đời lấy lẫn nhau, Tấn công tử Trùng Nhĩ mất nước, phải lưu vong bên ngoài, Tần Mục Công phát binh giúp Tấn, sau thành nghiệp bá cho Tấn Văn Công.

Bao Bất Đồng vốn dĩ chuyện gì cũng phải cãi chầy cãi cối một phen mới xong, thế nhưng bây giời nghe Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can hai người nói chuyện, lại cứ liên tiếp gật gù, nói:

- Không sai! Nếu như việc này giúp cho Đại Yên chúng ta trung hưng phục quốc, thật không kể gì công chúa Tây Hạ xấu hay đẹp, tốt hay xấu, miễn là cô nàng chịu lấy Bao lão tam, thì dù có là con lợn sề, Bao lão tam này cũng nhắm mắt lấy bừa cho xong.

Mọi người ai nấy cười sằng sặc, đồng thời đưa mắt nhìn Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục hiểu rõ ràng, bốn người muốn mình đi qua Tây Hạ, ứng tuyển phò mã. Nói đến tuổi tác tướng mạo, văn tài võ công, thật quả đương thế chưa chắc có thanh niên nào hơn được mình. Nếu mình đi qua Tây Hạ cầu thân, mười phần cũng có hi vọng bảy tám. Thế nhưng nếu quốc vương Tây Hạ lại chọn theo gia thế môn đệ, tuy mình dòng dõi vương tôn qúi tộc Đại Yên, nhưng dẫu sao cũng đã suy bại từ lâu, ở Đại Tống chỉ là một người áo vải, nếu như Đại Tống, Đại Lý, Đại Liêu, Thổ Phồn các nước đều gửi thân vương công hầu sang cầu hôn, mình chỉ là một chân bạch đinh không tước lộc, chẳng thể nào sánh với người ta được. Nghĩ đến chuyện đó, quay sang nhìn trương bảng văn.

Công Dã Can theo y đã lâu, có thể đoán được tâm ý Mộ Dung Phục, bèn nói:

- Trên bảng văn nói rất rõ ràng, kẻ ứng tuyển không kể tước lộc môn đệ mà chỉ xem nhân phẩn tài năng. Khi thành phò mã rồi thì tước vị cũng đi theo, còn như nhân phẩm tài năng dẫu có thánh chỉ cũng không ban cho được. Công tử gia, cái hùng tâm của họ Mộ Dung mấy trăm năm qua, muốn ... muốn vào tay công tử ...

Y nói đến mấy câu cuối, tâm thần khích động, giọng thành run run. Bao Bất Đồng nói:

- Công tử gia nếu làm Tấn Văn Công thì bốn anh em ta cũng thành Hồ Mao, Hồ Yển, Giới Tử Thôi ...

Y chợt nhớ ra Giới Tử Thôi sau này bị Tấn Văn Công phóng hỏa cho chết cháy, việc đó quả là bất tường, lập tức ngưng bặt. Mộ Dung Phục sắc mặt trắng bệch, ngón tay rung rung, y biết đây quả là một lương cơ nghìn năm khó gặp, xưa nay công chúa trưng hôn, đều do đại thần được vua sai đi làm mai mối, tuyển chọn trong đám đệ tử công thần thế gia, phong cho làm phò mã, chứ chẳng đời nào trương bảng bố cáo cho bàn dân thiên hạ, công khai kén rể bao giờ. Y không tự chủ nổi nhìn về phía sau lưng Vương Ngữ Yên, thấy nàng đứng dưới một tàn cây liễu, đưa tay cầm một cành liễu rủ xuống, mắt nhìn vào dòng sông, áo quần đơn bạc, trông thật tội nghiệp.

Mộ Dung Phục biết rằng biểu muội từ tấm bé đã nặng tình với mình, tuy rằng bà mợ với cha mẹ mình không hoà thuận, nhiều lần ngăn trở không cho hai người gặp nhau, thế nhưng nàng là một cô gái mảnh mai không biết võ công, vậy mà dám liều lĩnh ra đi, lưu lạc giang hồ để đi tìm mình, cái tình ý đó quả thực trên đời hiếm có.

Mộ Dung Phục bôn tẩu bốn phương, chỉ một lòng mong trung hưng phục quốc, đến cả võ công cũng chẳng mấy chuyên tâm, còn chuyện nhi nữ chi tình lại càng coi nhẹ. Thế nhưng biểu muội đối với mình một lòng quyến luyến như thế, lẽ nào lại không động tâm?

Nay bỗng nhiên muốn bỏ nàng mà đi kiếm một cô công chúa chưa từng gặp mặt để cầu hôn, tuy đó là chuyện ắt phải như thế nhưng cũng không khỏi thấy mình bất nhẫn.

Công Dã Can tằng hắng một cái nói:

- Công tử, từ xưa đến nay những người muốn thành đại sự không nề tiểu tiết, đại anh hùng đại hào kiệt đều phải qua được cái cửa "tình".

Bao Bất Đồng cũng tiếp theo:

- Một khi Đại Yên khôi phục được rồi, công tử trở thành trung hưng chi chủ, tam cung lục viện thì có ai nói gì được? Tây Hạ công chúa là chính cung nương nương, còn vị Vương gia biểu cô nương kia, phong nàng làm tây cung nương nương là xong. Lúc đó công tử có thương mến, sủng ái nàng thì còn ai dám nói năng gì?

Y bình thời chỉ luôn luôn cà khịa với người khác, lúc này thương lượng đại sự, nói năng mạch lạc đâu ra đấy. Mộ Dung Phục gật đầu, nghĩ đến cha mình trước kia luôn luôn dặn dò, ngoài việc trung hưng Đại Yên trên đời không còn việc gì quan trọng nữa, nếu vì đại nghiệp thì dẫu có phải giết cha giết anh cũng không từ, con cái đệ tử cũng không tha, dù người chí thân hay bạn bè cũng tru sát, chuyện tình ái gái trai lại càng không coi vào đâu. Vương Ngữ Yên tuy đối với mình một mối thâm tình, nhưng mình chỉ coi nàng như cô em nhỏ, không có chỗ nào đặc biệt, dẫu rằng trong lòng vẫn đinh ninh sẽ lấy biểu muội làm vợ, nhưng bình thời chẳng mấy khi nghĩ đến chuyện này, vì y vẫn coi đó là chuyện ắt phải là như thế, chẳng cần nghĩ ngợi gần xa. Chỉ cần đại sự hoàn thành, đúng như Bao Bất Đồng nói, tương lai biểu muội làm phi làm tần mình sủng ái hơn một chút là xong.

Y hơi trầm ngâm một chút, bèn gạt Vương Ngữ Yên qua một bên nói:

- Các vị nói có lý lắm, đây quả là một dịp may để phục hưng Đại Yên, có điều đại trượng phu nói phải giữ lời, bảng văn này, mình phải đưa đến tận tay Cái Bang mới được.

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Đúng thế! Không nói gì trong Cái Bang chẳng có mặt nào có thể sánh với công tử gia được, dẫu có kình địch thực sự, chúng mình cũng không nên tư tàng bảng văn, làm chuyện hèn hạ đáng khinh như thế.

Phong Ba Ác nói:

- Cái đó đương nhiên rồi. Đại ca, nhị ca bảo vệ công tử gia đi Tây Hạ cầu thân, tam ca và mỗ đem bảng văn này cho Cái Bang. Từ nay đến rằm tháng tám, thời gian còn dài, Cái Bang nếu muốn kiếm người thì cũng còn kịp, chẳng có thể nói mình hớt tay trên.

Mộ Dung Phục nói:

- Chúng ta hành sự phải cho quang minh lỗi lạc, cứ để ta tự tay đưa đến cho các trưởng lão Cái Bang, sau đó hãy đi Tây Hạ.

Đặng Bách Xuyên vỗ tay nói:

- Lời của công tử gia phải lắm. Mình nhất định không để ai có cơ dè bỉu sau lưng được.

Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác ba người đều gật đầu khen phải, sau đó cùng nhau chôn cất những người trong Cái Bang. Mộ Dung Phục vẫy Vương Ngữ Yên lại gần nói:

- Biểu muội, những đệ tử Cái Bang đây bị người ta giết, bên trong có liên quan đến một việc hệ trọng, ta phải đích thân đến tổng đà Cái Bang. Ta nghĩ nên đưa cô về Mạn Đà Sơn Trang trước.

Vương Ngữ Yên hoảng hốt, dãy nảy lên:

- Em ... em không về nhà đâu, mẹ em thấy em thể nào cũng giết em mất.

Mộ Dung Phục cười nói:

- Mặc dù cô mẫu nóng tính nhưng chỉ có một mụn con, lẽ nào lại giết cô bao giờ? Cùng lắm mắng mỏ vài câu thôi.

Vương Ngữ Yên ấp úng:

- Không ... không đâu! Tiểu muội không về đâu. Để em theo biểu huynh đi gặp Cái Bang.

Mộ Dung Phục đã quyết ý đi Tây Hạ cầu hôn, trong bụng không khỏi xốn xang, nghĩ thầm: "Thôi tạm thời cứ chiều theo ý nàng, để rồi tính sau". Y bèn nói:

- Thế cũng được! Cô là con nhà khuê các, theo bọn ta luân lạc giang hồ, xem ra không ổn, tổng đà Cái Bang cô chẳng nên tới làm gì. Nếu cô không muốn quay về Mạn Đà Sơn Trang, chi bằng đến Yến Tử Ổ nhà ta ở tạm vậy, khi nào việc xong, ta sẽ về thăm cô, được chăng?

Vương Ngữ Yên mặt mày bẽn lẽn, mừng thầm trong bụng. Trong đời nàng chỉ có một nguyện vọng là được thành hôn với biểu ca, sống với nhau ở Yến Tử Ổ, bây giờ Mộ Dung Phục bảo nàng về đó, tuy chưa chính thức ngỏ lời nhưng sự tình cũng rõ như ban ngày rồi. Nàng chẳng nói bằng lòng hay không, chỉ e thẹn cúi đầu, mắt long lanh một niềm sung sướng lạ lùng.

Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can nhìn tới, thấy chuyện đánh lừa cô gái thiên chân lạn mạn này trong lòng vô cùng áy náy. Bỗng nghe bộp một tiếng, Phong Ba Ác tự tay vả mình một cái thật mạnh. Vương Ngữ Yên ngẩng đầu lên, lạ lùng hỏi:

- Phong tứ ca làm gì thế?

Phong Ba Ác đáp:

- Có ... có con muỗi chích mồm ta.

Sau đó cả sáu người đi về hướng đông. Đi chưa được hai ngày đã thấy Đoàn Dự cười khúc khích từ sau chạy tới nói:

- Chao ôi! Quả là khéo thật, Mộ Dung công tử, Đặng đại gia, Công Dã nhị gia, Bao tam gia, Phong tứ gia, Vương cô nương, lại gặp các vị rồi. Tôi cũng đang về hướng đông, thôi mình đi chung một đoàn vậy, trên đường càng vui.

Bao Bất Đồng đối với chàng tuy ghét bỏ nhưng Đoàn Dự trước sau đã từng cứu mạng Phong Ba Ác, Vương Ngữ Yên nên không tiện xua đuổi, đi đường lạnh nhạt mỉa mai, có điều Đoàn Dự nghe mà bỏ ngoài tai, làm như không biết.

Đoàn người lại nhận được tin, Cái Bang và Thiếu Lâm hai phái tranh đoạt chức minh chủ võ lâm. Mộ Dung Phục và bọn Đặng Bách Xuyên mới bàn nhau, nếu như Cái Bang và Thiếu Lâm hai bên giao chiến đến thành lưỡng bại câu thương, nhà Mộ Dung sẽ thành ngư ông đắc lợi, đoạt được danh hiệu minh chủ võ lâm không chừng, dùng nó để hiệu lệnh hào kiệt giang hồ thì quả là một cơ duyên để khởi sự, không thể nào bỏ qua cho được, thành thử vội chuyển qua đi về hướng chùa Thiếu Lâm. Ngờ đâu vừa đến chân núi Thiếu Thất, lại đụng đầu Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu.

Mấy tháng qua, Đinh Xuân Thu đại khai môn hộ, thu nhận đệ tử rất đông, không kể hắc đạo lục lâm, bàng môn yêu tà, hễ ai chịu đến làm môn hạ, nghe hiệu lệnh của lão là nhận ngay không cự tuyệt, thành thử chỉ trong vài tháng, bọn thổ phỉ giang hồ Trung Nguyên tranh nhau đến đón ở bên đường đông như kiến cỏ.

Trong cuộc cờ của Tô Tinh Hà, Mộ Dung Phục bị Đinh Xuân Thu làm hại, kế đến đại chiến nơi khách điếm, may mà chạy thoát, lần này gặp lại, thấy đối phương đồ đảng ùn ùn kéo tới, trong bụng cũng e ngại thầm. Thế nhưng Phong Ba Ác lại là kẻ trời không sợ, đất không kiêng, mới hai ba câu đã xông ngay vào đánh với bọn môn đệ Tinh Tú Lão Quái. Đoàn Dự toan dẫn Vương Ngữ Yên tránh ra, nhưng cô nàng lo lắng cho biểu ca, không chịu rời xa. Đồ đệ của phái Tinh Tú tràn lên như nước triều, lập tức vây chặt bọn Mộ Dung Phục lại.

Đoàn Dự thi triển Lăng Ba Vi Bộ, tránh các môn nhân phái Tinh Tú bất chợt nghe tiếng của phụ thân vội chạy vào chùa tương kiến, đến khi nghe Diệp Nhị Nương nói rằng Mộ Dung Phục bị đánh không còn hơi sức đâu mà chống trả, nghĩ thầm: "Ta phải cõng Vương cô nương chạy ngay mới được", lập tức chạy như bay xuống.

Yên vân ngựa chạy như tên,

Lung linh sương khói đến bên chân đồi.

Trên lưng tráng sĩ ai ngồi,

Hùm beo xuống núi vẫn đầy uy nghi.

*

* *

Đinh Xuân Thu sát hại Huyền Thống, Huyền Nạn nhị tăng, là đại cừu của phái Thiếu Lâm. Quần tăng nghe nói y đã đến núi Thiếu Thất lập tức nhao nhao cả lên. Huyền Sinh quát lớn:

- Hôm nay mọi người ai cũng phải gắng hết sức, bắt sống cho bằng được lão quái, để báo thù cho Huyền Nạn, Huyền Thống hai vị sư huynh.

Huyền Từ cũng sang sảng nói:

- Người xa đến là khách, mình phải tiên lễ hậu binh.

Quần tăng cùng đáp:

- Tuân lệnh!

Huyền Từ lại tiếp:

- Các vị sư huynh, các vị bằng hữu, chúng ta cùng ra xem cao chiêu của Tinh Tú Lão Quái và họ Mộ Dung, liệu có được chăng?

Quần hùng vốn dĩ đang sốt ruột mà chưa biết làm thế nào, trông chờ câu này từ nãy giờ. Những thanh niên anh hào vai vế hơi thấp một chút, tính tình bộp chộp lập tức túa ra như đàn ong. Sau đó là Tứ Đại Ác Nhân, hảo hán các lộ, họ Đoàn Đại Lý, cao tăng các chùa, cùng nhau ùn ùn đi ra. Chỉ nghe tiếng loảng xoảng leng keng liên tiếp, những người chữ Tuệ trong phái Thiếu Lâm mang binh khí ra cho sư phụ, sư thúc, sư bá.

Huyền, Tuệ, Hư, Không bốn đời tăng chúng ai nấy cầm binh khí, xếp thành hàng đội đi ra khỏi chùa. Vừa đến sơn môn, những sư sãi được chỉ định canh gác ở lưng chừng núi chạy lên báo:

- Đồ chúng phái Tinh Tú hơn nghìn người, ở lương đình giữa núi đang vây đánh bọn Mộ Dung công tử, hiện còn ác đấu.

Huyền Từ gật đầu bước ra ngoài con đường lát đá nhìn xuống dưới, thấy lố nhố đầy những đầu người, xem chừng chẳng phải chỉ hơn nghìn người mà thôi đâu. Trong tiếng quát tháo, theo gió bay lên:

- Tinh Tú lão tiên hôm nay đích thân đốc chiến, dĩ nhiên bách chiến bách thắng.

- Chúng bay chỉ là mấy đứa yêu ma tiểu xú, dám ương ngạnh chống lại lão tiên, quả thực to gan lớn mật!

- Mau mau quăng bỏ binh khí, lạy lục lão tiên tha mạng đi thôi!

- Tinh Tú lão tiên giá lâm núi Thiếu Thất, chỉ cần di đầu ngón tay là chùa Thiếu Lâm đổ ngay lập tức.

Những đệ tử mới gia nhập chưa học được bản lãnh gì thì phải học thói xu nịnh sư phụ trước, thành thử hơn nghìn người gào lên nghe điếc cả tai, trên núi Thiếu Thất chỉ nghe rặt giọng ca công tụng đức. Chùa Thiếu Lâm xây dựng đã nghìn năm nay , bao nhiêu đời toàn thể tăng chúng niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" gom cả lại, xem ra cũng chưa bằng đám đệ tử phái Tinh Tú đang rầm rĩ ca ngợi sư phụ. Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu bạc, mắt lim dim, vừa phởn phơ, vừa lơ mơ đầy vẻ say sưa.

Huyền Sinh vận khí vào đan điền, lớn tiếng quát:

- Kết La Hán Đại Trận!

Năm trăm tăng nhân đáp lời nhắc lại:

- Kết La Hán Đại Trận!

Áo đỏ thấp thoáng, áo xám dật dờ, năm trăm tăng nhân đội chạy bên đông, đội chạy bên tây, túa ra đầy khắp mọi nơi. Quần hùng nghe tiếng La Hán Đại Trận từ lâu nhưng hơn một trăm năm qua, chùa Thiếu Lâm chưa từng thi diễn cho người bên ngoài thấy, ngoài tăng nhân bản tự, chưa một ai được xem qua.

Bấy giờ mới thấy quần tăng áo mũ chia theo từng màu, kẻ đỏ người xám, kẻ vàng người đen, binh khí cũng khác nhau, hoặc đao hoặc kiếm, hoặc trượng hoặc sạn, ai nấy chạy băng băng, trong khoảnh khắc đã vây chặt phái Tinh Tú vào giữa.

Phái Tinh Tú đông hơn phái Thiếu Lâm nhiều nhưng đại đa số là đệ tử mới thu ô hợp, đánh lẻ một mình thì cũng còn có chút bản lãnh, thế nhưng hợp chiến thành trận như thế này thì chưa từng trải qua bao giờ, thành thử ai nấy cuống quít, hoảng loạn, tiếng ca tụng Tinh Tú Lão Tiên nghe giảm hẳn đi, lắm người im bặt, trong bụng đã tính chuyện chuyển sang ca tụng "Thiếu Lâm thần tăng".

Huyền Từ phương trượng nói:

- Tinh Tú phái Đinh tiên sinh giá lâm núi Thiếu Thất, ấy là gây hấn với phái Thiếu Lâm. Các lộ anh hùng, xin mời dựa tường đứng coi, xem chùa Thiếu Lâm đối địch với cao nhân phương Tây được chăng?

Các lộ anh hùng Hà Sóc, Giang Nam, Xuyên Thiểm, Hồ Quảng liền nhao nhao lên:

- Tinh Tú Lão Quái làm hại võ lâm, tất cả chúng ta ai ai cũng là kẻ thù, phải tru sát tên khốn kiếp đó mới được.

Mọi người rút phắt binh khí ra, toan cùng phái Thiếu Lâm chung vai giết giặc. Khi đó Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cả bọn đã giết được đến hơn hai chục môn nhân Tinh Tú, lại thấy đại viện đến nơi, lập tức nhảy ra ngoài mấy trượng, tạm thời ngừng tay không đấu nữa còn người phái Tinh Tú trong bụng cũng chột dạ không dám tiến lên.

Đoàn Dự lạng bên đông, lách bên tây xông vào trong đám người, chạy đến bên cạnh Vương Ngữ Yên nói:

- Vương cô nương, khi nào tình thế trở nên hung hiểm, tôi lại cõng cô chạy ra.

Vương Ngữ Yên bẽn lẽn nói:

- Tôi nào có bị thương, cũng chẳng bị người ta điểm huyệt, tôi ... tôi tự mình đi được rồi ...

Nàng đưa mắt liếc Mộ Dung Phục, nói thêm:

- Biểu ca tôi võ công cao cường, thừa sức bảo hộ cho tôi. Đoàn công tử, công tử nên ra khỏi đây đi.

Đoàn Dự thấy trong lòng chán chường, nghĩ thầm: "Ta làm gì có bản lãnh, so với biểu ca cô ta sao được?". Thế nhưng bảo chàng đi ra thì lại lưu luyến không muốn rời, lầu bầu nói:

- Cái đó ... cái đó ... A, này Vương cô nương, cha tôi đến rồi, cũng ở bên ngoài kia.

Chàng cùng Vương Ngữ Yên bao lần cùng chung hoạn nạn, đã từng đi với nhau những quãng dài, ở cạnh nhau không phải là ít, thế nhưng Đoàn Dự chưa từng nói cho nàng hay thân thế lai lịch của mình thế nào. Trong mắt chàng, Vương Ngữ Yên là tiên trên trời, còn mình chỉ là kẻ phàm phu tục tử, chàng vốn dĩ chưa từng coi cái vị vương tử là vinh, huống chi dưới mắt thiên tiên, con vua cháu chúa hay dân ngu khu đen thì có khác gì nhau?

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự mấy lần chẳng kể tính mạng cứu mình, trong bụng cũng có lòng cảm mến cái thành tâm của anh chàng. Tuy nàng cảm kích thật nhưng xưa nay không để hình bóng Đoàn Dự trong lòng, chỉ coi như một gã đồ gàn học được bộ pháp xảo diệu, có chút khí công kiếm pháp lúc được lúc không, lại sợ biểu ca để bụng nên muốn chàng đi càng xa càng tốt. Bấy giờ nghe anh ta nói gia gia đã đến đây, cũng hơi tò mò bèn hỏi:

- Lệnh tôn từ Đại Lý đến đấy ư? Hai cha con đã lâu lắm không gặp nhau, có phải không?

Đoàn Dự vui mừng nói:

- Đúng thế! Vương cô nương, để tôi đưa cô đến gặp cha tôi nhé? Cha tôi gặp cô hẳn là thích lắm.

Vương Ngữ Yên mặt lại đỏ lên, lắc đầu:

- Tôi không gặp đâu.

Đoàn Dự hỏi:

- Sao lại không gặp?

Chàng thấy Vương Ngữ Yên không trả lời, lại muốn nàng vui bèn nói tiếp:

- Vương cô nương, người anh kết nghĩa Hư Trúc của tôi cũng ở đây nữa, y lại đi tu rồi. Lại thêm cả đồ đệ của tôi cũng có mặt, quả thật vui quá.

Vương Ngữ Yên biết đồ đệ của anh chàng là Nam Hải Ngạc Thần, thế nhưng tại sao y lại thu ác nhân đứng thứ ba có cái danh Hung Thần Ác Sát kia làm đồ đệ, thì xưa nay nàng chưa từng hỏi, nghĩ đến Nam Hải Ngạc Thần hình thù quái dị, bất giác nhếch mép nở một nụ cười. Đoàn Dự thấy mình làm cho nàng vui, trong lòng mừng lắm, tuy lúc này đang bị người của phái Tinh Tú vây quanh nhưng được Vương Ngữ Yên ban cho vài câu thì việc có tày trời chàng cũng chẳng coi vào đâu.

Quần tăng Thiếu Lâm bày La Hán Đại Trận xong, bên trái bên phải hai cánh bảo vệ, đằng trước đằng sau hai mặt tiếp ứng. Có mấy tên môn nhân phái Tinh Tú xông qua hướng tây, chỉ vừa giao phong đã lập tức bị thương. Đinh Xuân Thu nói:

- Tất cả tạm thời đừng động thủ vội.

Y lớn tiếng nói:

- Huyền Từ phương trượng, phái Thiếu Lâm nhà ngươi tự xưng là thủ lãnh võ lâm Trung Nguyên, thế nhưng dưới mắt ta, thật chẳng đáng quái gì cả.

Các đệ tử của y liền nhao nhao phụ họa:

- Đúng thế! Tinh Tú Lão Tiên đã đến thì bọn sư sãi chùa Thiếu Lâm chết không có đất mà chôn.

- Võ công các môn các phái trong thiên hạ đều phát nguyên từ phái Tinh Tú mà ra, chỉ có phái Tinh Tú võ công mới là chính thống, còn ngoài ra đều là tà ma ngoại đạo hết ráo.

- Các ngươi không học võ công phái Tinh Tú, chẳng qua chỉ là quỉ trâu thần rắn, rồi cũng sẽ bị diệt vong.

Đột nhiên có kẻ cao giọng hát lên:

Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,

Tài đức kia như thể đất trời.

Uy danh lừng lẫy cõi đời,

Cổ kim chưa có ai người sánh ngang.

Hơn nghìn người cùng một giọng phụ họa, lại có kẻ lấy thanh la não bạt, đàn sáo trống chiêng ra, kẻ thổi người gõ, thật là náo nhiệt. Quần hùng xưa nay chưa từng thấy phái Tinh Tú diệu võ dương oai, ai nấy vừa ngạc nhiên, vừa nực cười.

Trong tiếng trống chiêng tơ trúc, bỗng từ chân núi vọng lại tiếng vó ngựa dồn dập. Tiếng khua mỗi lúc một dòn, chẳng mấy chốc thấy bốn lá cờ vàng lớn từ sườn núi hiện lên, bốn con ngựa chạy lên núi, người cưỡi mỗi người cầm một cây cờ, đón gió bay phần phật. Bốn lá cờ vàng đều viết năm chữ đen lớn:

Cái Bang Bang Chủ Trang

Bốn kỵ sĩ đó dừng ngay ở sườn núi, nhảy xuống ngựa, cắm lá cờ nơi cao nhất ở ngang vách đá. Cả bốn đều mặc theo lối Cái Bang, lưu đeo bị vải, tay cầm cán cờ không nói không rằng. Quần hùng đều nói:

- Bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đến rồi đây!

Mọi người thấy thanh thế bốn gã cầm cờ vàng đầy vẻ ngạo nghễ, thân pháp nhanh nhẹn nhẹ nhàng, so với bọn đồ đệ phái Tinh Tú khoe tài khoe mẽ, tự nhiên ai nấy cảm thấy có phần nể vì. Cờ vàng vừa dựng lên, khoảng một trăm mấy chục con ngựa phóng lên núi, hơn một trăm người đầu tiên là đệ tử sáu túi, ngoài ra là mấy chục người đệ tử bảy túi, hơn chục đệ tử tám túi. Dưới một chút là bốn người trưởng lão trên vai chín túi, tất cả không nói không rằng nhảy xuống ngựa, chia ra làm hai hàng. Người trong Cái Bang trừ khi có việc khẩn cấp, không bao giờ cưỡi ngựa ngồi xe, bây giờ thấy dương uy như thế quả không khác gì hào khách giang hồ. Nhiều kỳ túc trong võ lâm thấy thế, không khỏi thầm lắc đầu.

Lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, hai con ngựa màu trắng xám khỏe mạnh chạy đến. Bên trái là một thiếu nữ mặc áo màu tím, xinh đẹp nho nhã nhưng đôi mắt vô quang. Nguyễn Tinh Trúc trông thấy lập tức kêu lên:

- A Tử!

Bà ta quên rằng mình đang giả làm đàn ông, tiếng kêu buột ra là nữ thanh. Người cưỡi con ngựa bên phải mặc bách kết cẩm bào, vẻ mặt trơ trơ chẳng khác gì xác chết. Quần hùng những người kiến văn rộng rãi thoạt nhìn đã biết ngay y đeo mặt nạ da người, không muốn cho ai biết bộ mặt thật của mình, ai nấy nghĩ thầm: "Người này chắc là bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đây! Y muốn cùng phái Thiếu Lâm tranh đoạt võ lâm minh chủ, sao lại không chịu hiển lộ chân tướng?".

Lại cũng có người đoán ngầm: "Xem ra gã này phải là nhân vật thành danh trong võ lâm, Trang Tụ Hiền chỉ là tên giả. Y đã làm đến bang chủ Cái Bang thì đâu phải loại xoàng". Lại có người đoán: "Xem chừng y cũng chẳng tài cán bao nhiêu, nếu đánh trận này có thua các nhà sư chùa Thiếu Lâm thì cũng dấu hình tích chạy mất để khỏi bẽ mặt". Người khác thì đoán chừng: "Hay là y chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong? Y trở lại nắm đại quyền trong bang nên mới đi kiếm chùa Thiếu Lâm và quần hùng Trung Nguyên gây sự".

Thế nhưng cũng có người từ ba chữ Trang Tụ Hiền mà liên tưởng đến Tụ Hiền Trang, nhưng lại chỉ đoán già đoán non là Kiều Phong, còn Du thị huynh đệ đã chết về tay Kiều Phong rồi, về sau đến trang viện cũng bị người ta đốt cháy thành tro, có ai lại dám nghĩ kẻ đang làm bang chủ Cái Bang chính là thiếu trang chủ Du Thản Chi.

A Tử nghe thấy tiếng mẫu thân gọi nhưng lúc này nàng đang có viêc quan trọng, chưa muốn gặp lại mẹ, ỉ ôi chuyện nọ chuyện kia nên làm như không nghe nói:

- Hiền ca, ở đây đông người quá nhỉ? Tiểu muội nghe đâu có người mới hát cái gì: "Tinh Tú Lão Tiên, đức phối thiên địa, uy chấn hoàn vũ, cổ kim vô tỉ." Gã tiểu tử Đinh Xuân Thu với đám binh tôm tướng cá của y cũng đến đây hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Đúng đó! Môn hạ của y quả không phải ít.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì hay quá! Mình đỡ phải đi xa, nghìn dặm bôn ba đến biển Tinh Tú đòi nợ máu.

Khi đó bang chúng Cái Bang đi bộ đã lục tục kéo lên núi, đều là năm túi, bốn túi, ba túi chia thành hàng lối đứng sau lưng Du Thản Chi và A Tử. A Tử quay lại vẫy tay, hai tên đệ tử Cái Bang lấy trong bọc ra món gì đó màu tím, buộc vào gậy, vung lên, thì ra đó là hai lá cờ lớn, mở bung ra trên không, mỗi lá cờ thêu sáu chữ đỏ chót như máu:

Tinh Tú Phái Chưởng Môn Đoàn

Hai là cờ tím đó trương lên rồi, các môn nhân phái Tinh Tú đều rối loạn, lập tức có kẻ kêu lên:

- Chưởng môn phái Tinh Tú là Đinh lão tiên, bốn bể ai chẳng biết, sao lại có đứa nào họ Đoàn đòi làm chưởng môn nhân?

- Chỉ nhận càn, thật không biết thẹn.

- Chức vị chưởng môn đâu phải tự phong là được?

- Đứa tiểu yêu nào tự xưng là chưởng môn phái ta, có giỏi thì đứng ra, ông không băm vằm như tương chớ kể làm người!

Những kẻ nói đó đều là những môn nhân mới thu của phái Tinh Tú, còn như Sư Hống Tử, Thiên Lang Tử những người cũ, ai cũng biết lai lịch của A Tử, nghĩ bụng cô nàng có Kiều Phong đứng sau lưng, không khỏi kinh sợ.

Những nhà sư và các anh hùng tục gia thấy tự nhiên xuất hiện thêm một chưởng môn phái Tinh Tú, không khỏi ngạc nhiên, nhưng cũng mừng thầm trong bụng, phen này bọn tà ma sâu từ trong ruột sâu ra quả hay biết chừng nào.

A Tử vỗ tay ba lượt, lớn tiếng nói:

- Môn hạ đệ tử phái Tinh Tú nghe đây: Bản phái xưa nay có qui củ, chức vị chưởng môn nhân, ai khỏe thì được. Trong bản phái, người nào võ công cao nhất người đó được làm chưởng môn. Nửa năm trước, Đinh Xuân Thu đấu với ta bị ta đánh cho tơi bời hoa lá, quì mọp dưới đấy lạy ta mười tám cái, bái ta làm thầy, đem chức vụ chưởng môn, hai tay cung kính bưng lên dâng cho ta. Không lẽ y không cho các ngươi biết hay sao? Đinh Xuân Thu! Ngươi dám lớn mật làm càn, là đại đệ tử của bản phái, đáng lẽ phải làm gương cho các sư đệ, sao lại dám khi sư diệt tổ, dối trá các đàn em?

Giọng nào trong trẻo, từng chữ từng chữ rõ ràng, tất cả mọi người đều nghe thấy. Ai nấy kinh ngạc vạn phần, thấy nàng chỉ là một cô gái nhỏ tuổi chừng mười sáu, mười bảy, hai mắt lại lòa, sao có thể làm chưởng môn được? Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc lại càng kinh hãi. Hai người biết rằng con gái mình vốn là môn hạ của Đinh Xuân Thu, điêu ngoa cổ quái, cực kỳ bướng bỉnh, nhưng võ công chỉ bình thường, sao lại dám phản đồ vi sư, vuốt râu hùm Đinh Xuân Thu, chuyện này khó mà yên ổn. Với vài người nước Đại Lý đang ở trên núi Thiếu Thất đây, thật không sao đủ sức kháng cự lại phái Tinh Tú, cứu nàng thoát hiểm.

Đinh Xuân Thu thấy ở giữa đám đông quần hùng tụ tập, bao nhiêu con mắt người ta trông vào thế này mà A Tử dám ngang nhiên giương cờ "Tinh Tú phái chưởng môn", thì làm sao nhịn nổi? Ông ta cơn giận bừng bừng nhưng ngoài mặt vẫn cười hì hì, ra vẻ hiều hậu từ hòa nói:

- Tiểu A Tử, chức vị chưởng môn bản phái, ai khỏe là được, ngươi nói thế quả không sai. Ngươi có bụng muốn chức chưởng môn, ắt hẳn có bản lãnh chân thực, vậy lại đây tiếp ta ba chiêu xem có được không?

Đột nhiên trước mắt hoa lên một cái, trước mặt chừng ba thước đã có thêm một người, chính là Du Thản Chi. Việc xảy ra quả là xuất kỳ bất ý, đến nhãn lực bén nhạy như Đinh Xuân Thu cũng không nhìn rõ y đến cách nào, trong bụng kinh hoảng, vội lùi lại một bước.

Y vừa lùi vừa nhảy phải đến năm thước, ngờ đâu Du Thản Chi cũng vẫn còn cách mình chừng ba thước, hẳn là khi mình nhảy lùi một bước, đối phương cũng tiến tới một bước, hiển nhiên khi y thấy mình lùi y mới tiến, đi sau mà cùng đến, không lộ hình tích, người này võ công cao cường như thế khiến cho ai nấy phải e dè.

Đinh Xuân Thu thấy khuôn mặt y vàng khè trơ trơ như gỗ đến sát mình rồi chưa kịp mở miệng hỏi: "Ta muốn tỉ võ với A Tử, can gì đến ngươi mà nhúng tay vào?" vội lùi lại thêm một bước, thò tay về sau chộp luôn một môn nhân, ném luôn vào người y.

Du Thản Chi ứng biến cực nhanh, lập tức nhảy ngược về một trượng, cũng giơ tay chộp ngay một tên đệ tử ba túi Cái Bang, vận kình ném tới. Tên đệ tử ba túi ấy chẳng khác gì một ám khí cực lớn, bay thẳng vào Đinh Xuân Thu, đụng phải gã môn nhân phái Tinh Tú giữa chừng, nghe bình một tiếng. Người ngoài nhìn thấy kình lực mạnh mẽ như thế đều nghĩ thầm: "Hai gã đệ tử này chắc hẳn đụng nhau nát xương đứt gân mà chết".

Ngờ đâu hai người đụng nhau rồi, chỉ nghe sèo sèo mấy tiếng, rồi có mùi khét lẹt bay vào mũi khiến ai nấy muốn mửa, quần hùng vội vàng nín hơi, có người lùi lại, có kẻ đưa tay bịt mũi, có người vội uống thuốc giải, biết rằng Đinh Xuân Thu và Trang Tụ Hiền đều dùng công phu âm độc truyền lên người hai gã đệ tử. Hai người đụng nhau đã mềm nhũn rơi bịch xuống, không còn cục cựa gì, hiển nhiên chết toi rồi.

Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi trao đổi một chiêu, chưa phân được ai cao ai thấp, trong bụng đều ngán thầm, cùng lùi lại mấy thước, lại vói tay về sau chộp một tên đệ tử khác ném ra. Hai tên đệ tử lại đụng nhau trên không, phát ra mùi khét, rồi cùng chết. Hai người cùng sử dụng một môn võ công âm độc của phái Tinh Tú tên là Hủ Thi Độc, chộp một người sống ném vào địch nhân, thực ra vừa chộp được là đã khiến người kia chết rồi, chất độc trên móng tay liền truyền vào máu huyết, biến người đó thành một khối thuốc độc, địch nhân nếu như lấy tay gạt ra, thể nào cũng bị trúng phải thi độc. Dẫu có lấy binh khí đỡ, thì chất độc cũng dính vào binh khí rồi truyền vào tay. Thậm chí nếu có tránh né hay dùng võ công kiểu như Phách Không Chưởng đánh bật ra thì cũng khó mà không bị nhiễm độc.

Du Thản Chi hôm đó cùng Toàn Quan Thanh kết bạn đồng hành, bụng dạ đã ngu ngơ lại kém kinh lịch, chỉ hai ngày là Toàn Quan Thanh đã tra xét được mọi việc ngọn ngành. Toàn Quan Thanh nghĩ thầm: "Gã này nội lực tuy hùng mạnh vô tỉ, võ công lại thật tầm thường, xem ra chẳng làm được trò gì cả". Đến sau y lại biết được A Tử là môn đồ của Đinh Xuân Thu phái Tinh Tú, y chợt nghĩ ra một mẹo bảo Du Thản Chi theo học A Tử võ công, thế nhưng trước mặt A Tử thì tâng bốc Du Thản Chi võ công trên đời hiếm có, thiên hạ vô song rồi bảo A Tử đem hết võ công ra biểu diễn để cho Du Thản Chi có dịp chỉ điểm thêm.

Du Thản Chi và A Tử đều còn trẻ, người thì si mê, kẻ lại mù lòa nên rơi ngay vào kế của y. A Tử đem võ công bản môn từng môn một ra diễn lại, lại nói rõ cách tu tập như thế nào. Môn công phu Hủ Thi Độc của Du Thản Chi chính vì thế mà học được. Yếu chỉ của công phu này toàn dùng nội lực thâm hậu để dẫn chất độc, khiến chộp vào ai là chết ngay, xác người lập tức nhiễm đầy chất độc chứ công phu vốn dĩ không có gì là kỳ diệu.

Cái đạo lý đó người nào trong phái Tinh Tú cũng biết cả nhưng chỉ vì không luyện được nội lực mạnh như thế mà thôi. A Tử khi ở ngoài thành Nam Kinh bắt được độc trùng độc xà về tu luyện nhưng đến công phu độc chưởng cũng còn chưa luyện xong thì làm sao sử dụng môn Hủ Thi Độc này được.

A Tử tuy là kẻ lanh lợi láu lỉnh nhưng mắt đã mù rồi nên không nhìn được vẻ mặt của Du Thản Chi mà tính mạng mình thì quả là do Trang công tử cứu thoát từ tay những môn hạ của Đinh Xuân Thu, lại thêm Toàn Quan Thanh mồm mép trơn như mỡ, đưa Du Thản Chi lên tận mây xanh nêu dẫu nàng thông minh tuyệt đỉnh cũng không đoán nổi vị Trang công tử võ công cái thế này lại đang học lén võ công của mình.

Mỗi khi A Tử nói ra một chiêu, Du Thản Chi lại theo đúng như thế mà thí diễn, trong người y có hàn độc của con băng tàm, lại có nội công thượng thừa của Dịch Cân Kinh, bao gồm sở trường của cả chính lẫn tà, nội lực cực kỳ hùng hậu nên chiêu nào y đánh ra cũng đều gẫy cây vỡ đá, uy lực không biết bao nhiêu mà kể, A Tử nghe thấy hết sức khâm phục. Du Thản Chi cũng truyền thụ cho nàng một số tâm pháp tu luyện Dịch Cân Kinh, A Tử theo đó mà luyện, tuy không tiến bộ bao nhiêu nhưng cũng thấy người nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, gân cốt linh hoạt, nghĩ bụng rồi cũng sẽ có lúc thần hiệu.

Khi đó Du Thản Chi cũng đã hiểu rõ thần công của mình ắt có liên hệ mật thiết với nhà sư cởi trần trong cuốn quái thư kia nên nếu muốn cho có thể khoe tài khoe mẽ với A Tử, y phải đi vào những chỗ vắng vẻ chuyên cần tập luyện. Một hôm kia, y đang theo đường những sợi chỉ trên hình vẽ luyện công, đột nhiên có một cơn gió lốc thổi bay cuốn sách ra ngoài mấy trượng. Du Thản Chi vừa quay người lại, nội tức trong kinh mạch lập tức chuyển động, ngửng đầu lên thấy cuốn sách đã lọt vào tay một nhà sư trugn niên. Du Thản Chi hoảng hốt kêu lên:

- Của tôi đó, mau trả lại ...

Y nhất thời vừa kinh hãi vừa giận dữ, nội tức lập tức chạy ngược, không còn cử động gì được nữa, chỉ thấy gã hòa thượng kia cười khì khì quay mình bỏ đi khiến y càng thêm sốt ruột, chân tay mình mẩy cứng đơ như khúc gỗ.

Người đoạt cuốn Dịch Cân Kinh của y chính là Cưu Ma Trí. Y tinh thông tiếng Phạn, lại thêm thông tuệ, ngộ tính cao, khác hẳn Tiêu Phong hay A Châu chỉ giương mắt ngó mà không hiểu gì cả, Du Thản Chi lạng quạng làm ướt cuốn kinh nên hiện ra đồ hình, không thể nào sánh với y được.

Du Thản Chi phải mất đến sáu giờ sau các huyệt đạo mới giải khai, thổ ra một bụm máu, người uể oải chẳng khác gì mới ốm dậy. Cũng may là y đã luyện tập những hình vẽ trong quyển kinh mười phần cũng được sáu bảy, lại cũng đã lâu nên nhớ được hết, sau đó cứ thế mà tiếp tục luyện, nội công càng lúc càng tăng.

Sau đó Toàn Quan Thanh tìm cách gỡ cái đầu sắt cho Du Thản Chi, dùng mặt nạ da người che những lỗ hổng bị sắt nóng làm lỗ chỗ, sau đó mới đưa y đi dự đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, Động Đình Hồ. Với nội công thâm hậu như Du Thản Chi, lại thêm võ công quái dị, trong Cái Bang nào ai có thể địch nổi, đoạt chức bang chủ dễ như chơi. Đồng thời Toàn Quan Thanh cũng chính thức trở lại Cái Bang, thăng lên chức trưởng lão chín túi. Du Thản Chi tuy là bang chủ thật nhưng mọi việc trong bang toàn do Toàn Quan Thanh sắp xếp lo liệu.

Toàn Quan Thanh thấy trong bang những trưởng lão, đệ tử không phục Du Thản Chi rất đông, trong bụng lo lắng, nhưng chẳng lẽ đem ra giết sạch, mới hiến kế tranh chức minh chủ võ lâm Trung Nguyên với phái Thiếu Lâm, để khi bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền thành thiên hạ võ công đệ nhất rồi thì với công đức uy vọng đó sẽ chế ngự được những kẻ bất bình trong Cái Bang.

A Tử tính tình ham vui, hiếu thắng, tuy đã mù nhưng vẫn chứng nào tật nấy, Toàn Quan Thanh hiến kế đó thật đúng ý nàng. Du Thản Chi cũng đâu có muốn chức võ lâm minh chủ nhưng A Tử hết sức tán thành, nên cũng đành bấm bụng tuân hành. Toàn Quan Thanh gia công tính toán bố trí mọi việc cực kỳ cẩn mật. Bao nhiêu anh hùng hảo hán các lộ đến chùa Thiếu Lâm đúng ngày rằm tháng sáu chính là do kiệt tác của y.

A Tử nghĩ bụng đã có một người thiên hạ võ công đệ nhất là Trang Tụ Hiền đỡ đầu thì còn sợ gì Tinh Tú Lão Quái, lập tức tự phong cho mình chức vụ "chưởng môn phái Tinh Tú", sai người giương lá cờ tím, đến núi Thiếu Thất diệu võ dương oai.

Người của Cái Bang đến nơi, thấy trên núi phái Tinh Tú đông nghẹt, việc này quả là ngoài dự liệu của Toàn Quan Thanh, y liền quay sang bàn với Du Thản Chi, một khi Đinh Xuân Thu vừa mở miệng, lập tức xông ra động thủ ngay để y khỏi gây khó khăn cho A Tử.

Đinh Xuân Thu thấy đối phương lợi hại như thế, lập tức sử dụng môn võ công tối âm độc Hủ Thi Độc ra. Môn công phu này mỗi lần sử dụng đều phải hi sinh một môn đệ, nhưng đối phương dù tránh né hay đỡ gạt, đều bị thảm họa, dẫu kẻ võ công cao minh bực nào cũng chỉ còn nước thi triển khinh công tuyệt đỉnh, chạy ra ngoài mươi trượng thì mới khỏi độc thủ mà thôi. Thế nhưng hai bên giao đấu mà bỏ chạy như thế thì đâu còn là đánh nữa.

Ngờ đâu Du Thản Chi cũng học của A Tử môn công phu này, lập tức hi sinh tính mạng đệ tử Cái Bang, chống đỡ tấn công của Đinh Xuân Thu. Hai người cứ ném hết đệ tử này đến đệ tử khác, chỉ nghe bịch bịch liên tiếp, trong giây lát hai bên mỗi người đã ném chín tên đệ tử, mười tám cái xác nằm la liệt trên mặt đất, mặt mũi người nào người nấy tím ngắt, trông thật dễ sợ, không dám nhìn.

Đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ chết điếng, cố hết sức tránh cho xamong sao sư phụ khỏi chộp được, nhưng miệng vẫn tiếp tục ca tụng công đức, có điều giọng lập cập run như cầy sấy, đâu còn vẻ gì hoan hô cổ võ cho sư phụ?

Đệ tử Cái Bang thấy bang chủ đột nhiên sử dụng võ công âm độc đó, tuy nói là bị bức bách phải làm thế nhưng ai nấy ngán ngẩm nghĩ thầm: "Bản bang hành sự, xưa nay lấy nhân nghĩa làm đầu, lý đâu bang chủ trước mặt anh hùng thiên hạ lại thi triển môn võ công vô lại này, có khác gì cũng cá mè một lứa với phái Tinh Tú?". Thế nhưng cũng có người lại nghĩ: "Giá như Kiều bang chủ còn làm, thể nào cũng dùng chính đạo đối phó với tà thuật của lão quái".

Đinh Xuân Thu vừa vói tay lại toan chộp tên đệ tử thứ mười, ngời đâu chộp phải quãng không, quay đầu lại thấy đám đệ tử đã chạy ra xa, lại nghe vù một tiếng, Du Thản Chi đã ném một người tới. Đinh Xuân Thu vừa sợ vừa tức, trong cơn nguy cấp liền nhảy vọt trở vào giữa đám môn nhân. Cái xác của gã đệ tử Cái Bang bay vụt tới, người trong phái Tinh Tú muốn bỏ chạy thì không còn kịp nữa rồi, bảy tám người chỉ kịp rú lên "Ối mẹ ơi!" thì đã bị các xác đụng phải. Cái xác người đó cực kỳ độc địa, mặt những người kia liền bao phủ một làn hắc khí, lăn ra đất, dãy dụa mấy cái rồi chết ngay.

A Tử nghe Toàn Quan Thanh đứng bên cạnh kể lại tình trạng, sướng quá cười khanh khách, kêu lên:

- Đinh Xuân Thu! Trang bang chủ là hộ pháp của chưởng môn nhân, ngươi đánh bại được y rồi sau động thủ với chưởng môn cũng chưa muộn. Thế ngươi được hay ngươi thua?

Đinh Xuân Thu giận lắm, trận vừa rồi nào phải vì mình công phu kém hơn, xem lối ném và kình lực của Trang Tụ Hiền, nội lực y mạnh thật nhưng thủ pháp lần nào cũng như lần nấy, đủ biết y chỉ học được của A Tử một chút xíu vỏ ngoài, bao nhiêu biến hóa tinh diệu đều không biết gì cả. Sở dĩ y thua cũng bởi vì đám đệ tử phái Tinh Tú sợ chết, đứa nào đứa nấy bỏ chạy cho nhanh, không khẳng khái tựu nghĩa như bọn đệ tử Cái Bang, gặp nguy không trốn tránh. Y chợt nghĩ ra một kế ngửng mặt lên trời cười ha hả.

A Tử nhíu mày hỏi:

- Cười ư? Ngươi còn cười được sao? Có gì đáng cười?

Đinh Xuân Thu vẫn cười dài liên tiếp, đột nhiên vù vù vù bảy tám tên đệ tử Tinh Tú bị y dùng liên châu thủ pháp nhanh nhẹn dị thường chộp lấy ném ra, hết đứa này tới đưa khác về phía Du Thản Chi, chẳng khác gì bắn liên châu tiễn.

Du Thản Chi nào có biết công phu Liên Châu Hủ Thi Độc, chỉ chộp được ba tên đệ tử Cái Bang ném ra, đến tên thứ tư thì vươn tay không kịp, trong cơn khẩn cấp bèn nhảy vọt lên, cách tránh né này không phải nhảy về sau, không thể tính là bỏ chạy nên không ai dám nói là đã thua.

Đinh Xuân Thu đang muốn cho y tránh né, tay trái liền vẫy một cái, A Tử kinh hoảng kêu lên, thân hình nhảy vọt về phía Đinh Xuân Thu. Người đứng chúng quanh thấy thế không khỏi thất sắc. Cầm Long Công, Khống Hạc Công các loại công phu nếu luyện đến mức thượng thừa đều có thể lăng không thu vật, nhưng có giỏi lắm cũng chỉ bắt người, đoạt binh khí trong vòng bốn năm thước. Trong võ thuật cũng có môn Cách Sơn Đả Ngưu là để hình dung cao thủ dùng Phách Không Chưởng, Vô Hình Thần Quyền sử dụng hư kình mà đả thương được người khác, nhưng dẫu có là cao thủ tuyệt đính, cũng chẳng cách nào vận nội lực ra xa đến hai trượng.

Đinh Xuân Thu lúc này ở cách A Tử đến sáu bảy trượng, vậy mà vẫy tay một cái đã khiến nàng ngã xuống ngựa, kèó lại bắt, võ công cao siêu như thế quả là ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Trong đám người vây quanh không ít cao thủ nhưng nếu so sánh chiêu này với Đinh Xuân Thu thì quả không thể nào bì kịp, ai nấy vừa kinh hãi vừa khâm phục.

Thế nhưng có ai biết đâu Đinh Xuân Thu bắt giữ A Tử nào có phải là công phu chân thực mà toàn nhờ vào Nhu Ti Sách, một trong Tinh Tú Tam Bảo. Nhu Ti Sách lấy từ tơ của con tằm tuyết ở gần bên biển Tinh Tú. Con tằm tuyết này trời sinh sống trên các cây dâu, nhỏ hơn những con tằm thường nhiều, không có độc tính nhưng nhả ra một loại tơ bền chắc hơn tơ thường, một sợi tơ cũng không dễ gì bứt đứt được. Thế nhưng giống tuyết tàm này không biết làm kén, nhả tơ rất ít lại cũng cực kỳ khó kiếm. Hôm trước A Tử dùng một chiếc lưới cá trong suốt để bắt Chử Vạn Lý, ép ông ta nhục quá phải tự tận, cái lưới đó cũng chỉ có một phần nhỏ loại tơ này. Cái lưới của Đinh Xuân Thu hoàn toàn làm bằng tơ con tuyết tàm, vửa mỏng mảnh lại vừa trong suốt, mắt thường không sao thấy được, y ném liên tiếp chín tên môn đệ lại đồng thời tung chiếc Nhu Ti Sách ra. Chín cái thây độc kia vừa đẩy Du Thản Chi phải lùi ra xa lại vừa mà mắt mọi người, khiến cho ai nấy chú ý đến Liên Châu Hủ Thi Độc nên khi Nhu Ti Sách tung ra không ai phát giác.

Đến khi A Tử thấy tơ mềm quấn quanh người mình rồi thì đã bị Đinh Xuân Thu kéo đi. Nói là Đinh Xuân Thu ma mãnh nhưng cái lưởi nhỏ và nhẹ như không ấy ném ra xa sáu bảy trượng mà các cao thủ không ai hay biết, chỉ một chiêu đã bắt được người, công lực quả thật phi phàm. Y giơ tay nắm lấy sau lưng A Tử, tay phải điểm các huyệt đạo, Nhu Ti Sách đã rút về trong tay áo rồi. Ném xác chết, tung lưới ra, vẫy tay thu về, bắt người tất cả chỉ trong vòng một tiếng cười ha hả, đến khi nắm được A Tử trong tay tiếng cười vẫn còn chưa dứt. Tiếng cười đó cũng là để dẫn dụ mọi người trong thuật che mắt của y.

Du Thản Chi còn đang ở trên không đã thấy A Tử bị bắt rồi, kinh hoàng liền tung người về trước, sáu cái xác người vùn vụt dưới chân y. Chân trái y vừa chạm đất, hữu chưởng đã đánh về phía Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu giơ tay trái ra, lập tức đưa A Tử ra đỡ chiêu vỡ bia tan đá của Du Thản Chi. Du Thản Chi tuy võ công cao cường nhưng kinhn nghiệm ứng biến lâm địch lại hoàn toàn chưa có gì cả, thấy chưởng lực của mình ắt sẽ đánh cho A Tử tan xương nát thịt, lập tức vội thu hồi.

Thế nhưng khi y phát chưởng đã dùng toàn lực, làm sao có thể thu về một cách gấp rút? Vốn dĩ những người võ công bậc trung cũng biết được chỉ cần lệch qua một bên là sẽ không làm A Tử bị thương, có điều Du Thản Chi đối với A Tử quá mức kính yêu, vừa thấy không xong chỉ biết thu chưởng hồi lực, không còn nghĩ ngợi gì khác, đem tất cả chưởng lực thu về có khác nào dùng chưởng đó tự đánh vào ngực mình. Y lập tức loạng choạng, oa lên một tiếng hộc ra một ngụm máu tươi.

Nếu như người nội lực yếu, một chưởng đó ắt đã mất mạng rồi, thế nhưng cũng may y tu tập Dịch Cân Kinh có chút thành tựu, chưởng đó tuy chẳng nhẹ nhàng, vừa toan hít một hơi nhưng Đinh Xuân Thu đời nào để cho y có thì giờ mà thở, vù vù vù vù đánh luôn ra bốn chưởng. Nội tức của Du Thản Chi từ đan điền chưa vận lên được, chỉ đành múa chưởng đánh ra, tiếp luôn bốn chưởng, mỗi lần lại hộc máu, bốn chưởng hộc máu đen bốn lần.

Đinh Xuân Thu đắc thế đời nào nhường ai, đánh luôn chưởng thứ năm toan lấy mạng Du Thản Chi. Chỉ nghe chung quanh mấy người kêu lên:

- Đinh lão quái chớ vội hành hung!

- Ngừng tay!

- Tiếp ta một chiêu!

Huyền Từ, Quán Tâm, Đạo Thanh các vị cao tăng, luôn những anh hùng hiệp sĩ các lộ, không ai nỡ nhìn bang chủ Cái Bang chết dưới tay Đinh Xuân Thu, vừa quát mắng vừa ào ra cứu viện.

Ngờ đâu chưởng thứ năm của Đinh Xuân Thu đánh ra, Du Thản Chi trả lại một chưởng, Đinh Xuân Thu thân hình lảo đảo phải lùi lại một bước. Các cao thủ thấy thế biết ngay chiêu này Đinh Xuân Thu đã bị lép vế rồi, lập tức dừng lại không tiến lên giúp đỡ nữa. Thì ra Du Thản Chi hộc ra bốn ngụm máu bầm rồi, nội tức đã thông, chưởng thứ năm đã vận được chất kỳ độc của con băng tàm và nội công Dịch Cân Kinh ra.

Nếu Đinh Xuân Thu dùng chưởng chống lại thì không phải là địch thủ nhưng vì Đinh Xuân Thu chiếm được tiên cơ đánh Du Thản Chi bị thương rồi khiến cho nội lực của y suy giảm nhiều, nếu không song chưởng đụng nhau thể nào y cũng phải lùi lại đến năm sáu bước.

Đinh Xuân Thu trong ngực trộn trạo, những vẫn chưa chịu thua, lập tức vận đủ mười thành công lực, quát lên một tiếng, râu tóc dựng ngược, ào một chưởng đánh ra. Du Thản Chi tiến lên một bước, đón lấy chưởng của y, kêu lên:

- Mau bỏ Đoàn cô nương xuống!

Vù vù vù vù liên tiếp bốn chưởng, mỗi lần đánh ra lại tiến lên một bước. Năm bước đó tiến lên rồi, mặt đã sát ngay mặt Đinh Xuân Thu, vừa vươn tay là đã nắm được A Tử rồi. Đinh Xuân Thu chưởng lực đã không địch lại, thấy khuôn mặt như xác chết của y trong bụng cũng hoảng, mỉm cười nói:

- Ta lại sử dụng Hủ Thi Độc công phu, ngươi cẩn thận nhé.

Nói xong nhắc A Tử lên, nhứ nhứ mấy cái. Du Thản Chi vội lêu lên:

- Chớ! Chớ! Chớ có làm thế!

Giọng y run rẩy đủ biết kinh hoàng cực điểm, biết rằng nếu Đinh Xuân Thu dùng công phu Hủ Thi Độc thì A Tử sẽ thành một xác chết ngay. Đinh Xuân Thu nghe thấy giọng y hoảng hốt như thế, lập tức hiểu ngay: "Thì ra thằng nhỏ mê tít con bé thối tha này, ha ha, hay lắm, quả thực hay biết mấy". Y bắt giữ A Tử vốn chỉ muốn xử tử nàng trước mặt mọi người để khỏi ai tranh giành chức chưởng môn phái Tinh Tú, bây giờ thấy điệu bộ của Du Thản Chi, nẩy ra ý định dùng A Tử làm con tin, hiếp chế gã bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền võ công còn cao hơn cả mình này, bèn nói:

- Ngươi không muốn nó chết phải không?

Du Thản Chi kêu lên:

- Ông ... ông ... ông mau thả cô ta ra, cái đó ... cái đó nguy hiểm lắm ...

Đinh Xuân Thu lại cười lên một tiếng nói:

- Ta muốn giết nó thật chẳng tốn chút hơi, sao lại phải thả là sao? Nó là phản đồ của bản phái, không coi tôn trưởng vào đâu, không giết thì còn giết ai bây giờ?

Du Thản Chi đáp:

- Cái đó ... cái cô nương A Tử này, dù gì chăng nữa ông cũng không nên hại cô ta, ông đã làm mù mắt cô ta rồi, vậy xin, tôi van ông, thả cô ta xuống, ta ... ta sẽ tạ ơn thật hậu.

Y nói năng chẳng đâu vào đâu đủ biết đối với A Tử hết sức quan tâm, thật chẳng còn vẻ gì là bang chủ Cái Bang nữa. Đinh Xuân Thu thấy y nội lực âm hàn hùng mạnh, nghe giọng nói, giống hệt gã đầu sắt, nhưng trên đầu y nào có cái lồng đâu, mà gã đầu sắt sao bây giờ lại làm bang chủ Cái Bang? Thế nhưng y không có rảnh đâu mà nghĩ ngợi bèn nói:

- Muốn ta tha cái mạng nhỏ của cô nàng thì cũng không có gì là khó, chỉ cần nghe lời ta vài việc thôi.

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Để tôi làm, để tôi làm! Dù có trăm việc, nghìn việc tôi cũng làm.

Đinh Xuân Thu nghe y nói thế, trong bụng mừng thầm, gật đầu nói:

- Hay lắm! Việc đầu tiên là, ngươi phải lập tức lạy ta làm thầy, từ nay thành đệ tử phái Tinh Tú.

Du Thản Chi chẳng chần chừ chút nào, quì ngay xuống nói:

- Sư phụ ở trên, đệ tử ... đệ tử Trang Tụ Hiền khấu đầu.

Y trong bụng nghĩ thầm: "Ta vốn dĩ là đệ tử của ông rồi, cũng đã rập đầu rồi, có lạy thêm một lần nữa thì cũng đã sao đâu?". Y vừa quì xuống, quần hùng đã nhốn nháo cả lên. Trong Cái Bang từ các trưởng lão đổ xuống, ai nấy phẫn nộ cùng cực, nghĩ thầm: "Bang chúng ta là đại bang số một thiên hạ, xưa nay vẫn làm chuyện hiệp nghĩa, ai đời bang chủ lại đi lạy một gã nổi tiếng tà ác làm thầy. Mình không còn có thể coi y là bang chủ được nữa".

Bỗng nghe chiêng trống, đàn sáo nổi lên, môn nhân phái Tinh Tú lớn tiếng reo hò, tiếng ca tụng Tinh Tú lão tiên tưởng như vang lên đến chín tầng mây, bao nhiêu những lời nịnh bợ nghe mà ngứa cả tai, không một ai có thể tưởng nổi, nào là nhật nguyệt không sáng bằng Tinh Tú lão tiên, trời đất không vĩ đại bằng Tinh Tú lão tiên, từ khi họ Bàn Cổ khai thiên lập địa đến giờ, không một ai uy đức hơn lão tiên được. Chu Công, Khổng Tử, Phật Tổ, Lão Quân, chó chí Ngọc Hoàng đại đế, Thập Điện Diêm Vương cũng phải chịu lép một bề.

Khi A Tử bị Đinh Xuân Thu bắt giữ, Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc hai người tái mặt, tự biết mình bản lĩnh không địch nổi Tinh Tú Lão Quái không thể nào cứu con ra khỏi tay ông ta được, lại thấy Trang Tụ Hiền vì nàng mà uốn lưng cong gối, nghe lời sai bảo, quả thực ra ngoài ý muốn. Nguyễn Tinh Trúc vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói nhỏ:

- Ông xem người ta tình sâu nghĩa nặng đến thế, có đâu như ông ... như ông vạn phần không được một.

Đoàn Dự đưa mắt liếc Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: "Ta đối với Vương cô nương một mối thâm tình, có thể nói không còn đâu hơn nữa. Thế nhưng nếu so với vị Trang bang chủ này thì còn kém xa. Y quả là bậc thánh hiền trong tình trường! Ví thử Vương cô nương bị Tinh Tú Lão Quái bắt giữ, liệu ta có dám trước đông đủ mọi người quì xuống hay không?". Nghĩ đến đây, trong người khí huyết như sôi lên, thấy rằng vì Vương Ngữ Yên thì dù có chết vạn lần cũng cam lòng, chuyện chịu nhục trước mặt người khác thì nào có đáng gì đâu, buột miệng kêu lên:

- Dám chứ! Dám lắm chứ!

Vương Ngữ Yên lạ lùng hỏi:

- Anh dám làm gì?

Đoàn Dự mặt đỏ lên, bẽn lẽn nói:

- Ồ, cái đó ...

Du Thản Chi rập đầu mấy cái rồi đứng lên, thấy Đinh Xuân Thu vẫn nắm A Tử chưa chịu thả, gương mặt cô gái nhăn lại xem chừng cực kỳ thống khổ vội nói:

- Sư phụ! Xin lão nhân gia thả nàng ra.

Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:

- Con tiểu a đầu này lớn mật nói càn, đâu có thể dễ dàng tha cho nó được? Trừ khi ngươi lấy công chuộc tội, làm cho ta vài chuyện mà thôi.

Du Thản Chi vội đáp:

- Được, được! Sư phụ muốn đệ tử lập công lao gì?

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi ra khiêu chiến với Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, giết quách y đi.

Du Thản Chi ngập ngừng:

- Đệ tử và phái Thiếu Lâm không thù không oán, Cái Bang tuy muốn tranh hùng cùng phái Thiếu Lâm, nhưng chắc không cần phải giết người.

Đinh Xuân Thu sầm mặt xuống, giận dữ quát:

- Ngươi chống lại sư mệnh, đủ biết lạy ta làm thầy đều chỉ là láo toét.

Du Thản Chi chỉ mong sao A Tử được bình yên thoát hiểm, nào còn lý gì đến đạo nghĩa giang hồ, thị phi công luận vội đáp:

- Vâng! Thế nhưng phái Thiếu Lâm võ công cao lắm, đệ tử hết sức mà làm ... sư phụ ... lời sư phụ không thể không tính, xin đừng gia hại A Tử cô nương!

Đinh Xuân Thu thản nhiên đáp:

- Giết hay không giết Huyền Từ là do ngươi, giết hay không giết A Tử là quyền ở ta.

Du Thản Chi xoay người lại, lớn tiếng nói:

- Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, phái Thiếu Lâm đứng đầu các môn các phái còn Cái Bang là bang lớn nhất trên giang hồ, trước nay vốn cùng sánh vai đứng tại trung nguyên, không ai thống thuộc được ai. Hôm nay mình phân xem bên nào cao, bên nào thấp, bên thắng là minh chủ võ lâm, còn bên thua phải phục tòng hiệu lệnh minh chủ, không được trái lời.

Ánh mắt y quét qua quần hào nói tiếp:

- Các vị anh hùng hảo hán trong thiên hạ, hôm nay tụ tập dưới núi Thiếu Thất, nếu có vị nào không phục thì cứ việc đứng ra khiêu chiến với minh chủ võ lâm.

Y nói thế, tưởng như mình đã là minh chủ võ lâm rồi. Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đối đáp với nhau, thanh âm tuy không lớn lắm nhưng những người nội công thâm hậu đều nghe rõ từng câu từng chữ. Các cao tăng chùa Thiếu Lâm nghe thấy Đinh Xuân Thu công khai sai Du Thản Chi ra giết phương trượng Huyền Từ, không ai không tức tối, nhưng vừa xem hai người hiển thị công lực, Du Thản Chi vừa tà vừa mạnh, Huyền Từ phương trượng có địch nổi hay không cũng còn chưa thể nói được vì các loại độc công tà thuật không phải dễ dàng gì đối phó.

Huyền Từ vốn không muốn cùng y động thủ, nhưng Du Thản Chi đã công nhiên khiêu chiến mình trước mặt quần hùng, không còn cách gì có thể từ chối, đành phải chắp tay nói:

- Cái Bang mấy trăm năm qua, đều theo con đường hiệp nghĩa ở trung nguyên, anh hùng thiên hạ không ai là không kính ngưỡng. Bang chủ tiền nhiệm của quí bang Uông Kiếm Thông bang chủ, có giao tình với tệ phái không ít. Trang thí chủ mới đảm nhiệm chức bang chủ, tệ phái được tin trễ nên không kịp sai người đến chúc mừng, không khỏi có tội sơ xuất, nay xin tạ lỗi. Các đệ tử tăng tục của tệ phái trước nay đối với quí bang cực kỳ tôn kính, cái giao tình mấy trăm năm giữa Thiếu Lâm và Cái Bang chưa từng mất hòa khí bao giờ. Không hiểu vì cớ gì hôm nay Trang bang chủ lại hưng binh vấn tội, xin nói cho biết. Anh hùng thiên hạ hôm nay có mặt đông đủ nơi đây, phải trái ngay cong, ắt có công luận.

Du Thản Chi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, bất học vô thuật, làm sao biện luận được với Huyền Từ? Thế nhưng trước khi y đến chùa Thiếu Lâm cũng đã được Toàn Quan Thanh dạy cách ăn nói, lập tức trả lời:

- Nước Đại Tống ta nam có nước Liêu, tây có Tây Hạ, Thổ Phồn, bắc có Đại Lý, bốn bề tứ di dòm ngó, cái đó ... cái đó ...

Y đem Bắc có nước Liêu, Nam có Đại Lý nói trật phương hướng, khiến cho người nghe có tiếng cười khúc khích. Du Thản Chi biết mình nói sai nhưng không sao rút lại được, không khỏi mười phần sượng sùng, cũng may có mang mặt nạ da người nên không ai nhìn thấy sắc diện y ra sao. Y ngượng nghịu ậm ừ mấy tiếng rồi lại nói tiếp:

- Nước Đại Tống ta binh thưa tướng ít, quốc thế suy yếu, chỉ còn trông vào võ lâm nghĩa sĩ, giang hồ đồng đạo chúng ta một lòng khuông phù, có thế mới có thể ngoài chống cường địch, trong trừ kẻ gian.

Quần hùng nghe y nói có lý cùng tấm tắc:

- Phải lắm! Phải lắm!

Du Thản Chi lên tinh thần, lại hùng hồn tiếp:

- Có điều mấy năm nay cái họa từ bên ngoài mỗi lúc một sâu, cái gánh nặng trên vai chúng ta, mỗi ngày thêm nặng, nếu không tề tâm hợp lực cùng đối phó với nguy nan thì không thể nào làm nổi. Có điều các môn các phái, các bang các hội, người này đánh lẫn người kia, rồi mình lại đánh mình, nói chung ra là không sao có thể một lòng một dạ. Gã Kiều Phong Khất Đan kia chỉ đơn thương độc mã đến đánh cho một trận thì hào kiệt Trung Nguyên đã thua rồi, huống hồ gì đến Tây Vực Tinh Tú Hải Tinh Tú lão ... Tinh Tú lão ... Tinh Tú lão ... cái Tinh Tú lão..,hèm, y từng sát hại hai cao tăng của phái Thiếu Lâm ... cái đó ... cái đó ...

Toàn Quan Thanh vốn đã dậy cho y rằng "Tây Vực Tinh Tú hải Tinh Tú Lão Quái đã từng sát hại hai cao tăng của phái Thiếu Lâm, vậy mà phái Thiếu Lâm đành bó tay không làm gì được", Du Thản Chi đã thuộc làu làu, bây giờ lời ra đến cửa miệng xem chừng không ổn, nên cứ ấp úng mãi "Tinh Tú lão..".

Trong đám quần hùng có người kêu lên:

- Y là Tinh Tú Lão Quái, còn người thì là Tinh Tú tiểu yêu!

Lập tức có một số đông cười lên ha hả. Môn nhân phái Tinh Tú lập túc hát vang:

Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,

Tài đức kia như thể đất trời.

Uy danh lừng lẫy cõi đời,

Cổ kim chưa có ai người sánh ngang.

Cả nghìn người cùng cất tiếng gào lên, bao nhiêu tiếng cười của quần hùng liền bị át đi. Tiếng hát chưa dứt, trong đám người liền có tiếng rè rè thật khó nghe cũng hát theo:

Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,

Tài đức kia như thể đất trời.

Uy danh lừng lẫy cõi đời,

Mấy câu đó và điệu hát giống hệt bọn người của phái Tinh Tú. Môn nhân phái Tinh Tú thấy có người ngoài cũng có người ca công tụng đức lão tiên bản phái, việc này xưa nay chưa từng có, thật còn hơn người trong nhà tự mình ca tụng mình. Bọn họ mừng rỡ, vội vàng khua chiên đánh trống, đàn sáo vang lừng, đột nhiên câu thứ tư chuyển sang ngay xuống:

Khác chi rắm chó ai người thối hơn.

Các môn nhân còn đang sững sờ, đàn sáo chống chiêng phụ họa nửa chừng không kịp thu hồi, vẫn tiếp tục chập choeng cho tới hết khiến câu "Khác chi rắm chó ai người thối hơn" nghe thật lọt tai.

Quần hùng cười đền bò lăn bò càng, còn người trong phái Tinh Tú thì ngoạc mồm chửi rủa, Vương Ngữ Yên cũng phải mỉm cười:

- Bao tam ca hát hay quá!

Bao Bất Đồng đáp:

- Không dám! Dở eẹc hà!

Bốn câu đó chính là kiệt tác của Bao Bất Đồng. Du Thản Chi lợi dụng khi mọi người đang náo loạn cả lên vội cúi xuống thì thầm với Toàn Quan Thanh mấy câu, rồi lại dõng dạc nói tiếp:

- Nước Đại Tống ta quốc bộ gian nguy, giang hồ dồng đạo lại không tề tâm hiệp lực, để đến nỗi bị Phiên bang ức hiếp. Vì thế Cái Bang chủ trương lập ra một vị minh chủ võ lâm để cho mọi người nghe theo hiệu lệnh, nếu như có đại sự phát sinh thì không đến nỗi rối loạn. Huyền Từ phương trượng, ngài có tán thành không?

Huyền Từ khoan thai nói:

- Lời của Trang bang chủ quả là có lý. Thế nhưng lão nạp có một chuyện chưa được tỏ tường, muốn xin thỉnh giáo.

Du Thản Chi hỏi lại:

- Chuyện gì?

Huyền Từ đáp:

- Trang bang chủ đã bái Đinh tiên sinh làm thầy, hẳn phải là môn nhân phái Tinh Tú, có phải thế không?

Du Thản Chi nói:

- Chuyện đó ... chuyện đó là việc riêng của mỗ, đâu có liên quan gì đến đại sư.

Huyền Từ nói:

- Phái Tinh Tú là môn phái bên Tây Vực, đâu có phải đồng đạo võ lâm với Đại Tống chúng ta. Việc Đại Tống lập hay không lập minh chủ võ lâm, không có liên can gì đến phái Tinh Tú. Nếu như võ lâm đồng đạo Trung Nguyên muốn suy cử một vị minh chủ để dễ bề thống lĩnh trù tính, các hạ là người của phái Tinh Tú cũng không thể nào tham dự được.

Các vị anh hùng liền nhao nhao lên:

- Đúng lắm!

- Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm thật phải.

- Ngươi là chó săn đầy tớ của môn phái Phiên bang, sao lại vọng tưởng chức minh chủ võ lâm Trung Nguyên được?

Du Thản Chi không biết phải đối đáp làm sao, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu, rồi lại quay sang Toàn Quan Thanh mong hai người lên tiếng gỡ cho mình. Đinh Xuân Thu tằng hắng một tiếng nói:

- Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm sai rồi. Lão phu vốn người đất Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, sinh trưởng ở xứ của thánh nhân, phái Tinh Tú một mình lão phu sáng lập, sao lại bảo là Phiên bang Tây Vực được? Phái Tinh Tú tuy ở Tây Vực, chẳng qua là nơi tạm thời ẩn cư của lão phu mà thôi. Ngươi bảo phái Tinh Tú là môn phái Phiên bang, thế thì Khổng phu tử cũng là người Phiên bang sao, nực cười ơi là nực cười? Nói đến Tây Vực Phiên bang, võ công Thiếu Lâm vốn là do tổ sư Đạt Ma người Thiên Trúc, ngay cả Phật giáo cũng là từ Phiên bang Tây Vực mà ra, ta xem chính phái Thiếu Lâm mới thực là môn phái Phiên bang đó!

Lời của y nói ra, cả Huyền Từ lẫn quần hùng đều cảm thấy khó mà cãi lại được. Toàn Quan Thanh cũng dõng dạc nói:

- Võ công trong thiên hạ, nguồn gốc từ đâu mà ra cũng thật khó mà biết. Võ công từ Tây Vực truyền sang Trung Thổ cũng có mà võ công Trung Thổ truyền sang Tây Vực cũng có. Trang bang chủ của chúng tôi là người Trung Thổ, Cái Bang vốn cũng là môn phái Trung Nguyên, dĩ nhiên y phải là nhân vật lãnh tụ của võ lâm Trung Nguyên rồi. Huyền Từ phương trượng, việc hôm nay lấy võ công cường nhược ra định hơn thua, chứ không thể lấy miệng lưỡi ngôn từ để phân thắng bại được. Cái Bang và Thiếu Lâm ai yếu ai mạnh, chỉ cần hai vị thủ lãnh ra tay so tài, kẻ cao người thấp biết ngay, chứ nói dông nói dài thì phỏng có ích gì đâu? Còn như nếu ông biết thân biết phận, không muốn động thủ với tệ bang chủ thì chỉ cam chịu nước lép, nhường cho bang chủ chúng tôi chức võ lâm minh chủ là xong, còn như không ra tay không thể được.

Lời nói đó rõ ràng y muốn bảo là Huyền Từ biết mình địch không lại nên dùng dằng từ chối. Huyền Từ tiến lên hai bước, nói:

- Trang bang chủ, nếu như ngươi nhất định đòi lão nạp ra tay, nếu như lão nạp vẫn cứ chấp nê vào cái tình cố cựu của quí bang với tệ phái mà không chịu nghe thì lại hóa ra bất kính với quí bang.

Ông đưa mắt nhìn khắp quần hùng một lượt rồi dõng dạc nói:

- Anh hùng thiên hạ, hôm nay tất cả mọi người ai cũng thấy rồi, phái Thiếu Lâm quyết không có ý tranh hùng đấu thắng với Cái Bang, nhưng vì bang chủ Cái Bang nhất định dồn ép, lão nạp không còn đường nào mà lùi, không còn cách nào mà tránh.

Quần hùng liền nhao nhao lên:

- Phải lắm, tất cả chúng ta làm chứng, phái Thiếu Lâm thật không đuối lý chút nào.

Du Thản Chi lo cho an nguy của A Tử, chỉ chăm chăm sao sớm giết được Huyền Từ để làm tròn lời Đinh Xuân Thu sai bảo bèn dõng dạc nói:

- Tỉ võ giao đấu, mạnh sống yếu chết, nói quái gì đến đuối lý hay không đuối lý, mau mau ra tay đi thôi.

Y lúc bé lười học, bản chất tuy chẳng phải là đứa thuần lương nhưng cũng chỉ là một thanh niên ngờ nghệch. Đến khi cha chết rồi, lang bạt giang hồ, bị người ta khinh khi hiếp đáp, chẳng có một ai thông minh chính trực dạy cho điều hay lẽ phải, mấy năm gần đây lại kề cận A Tử sớm hôm, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, huống chi y nhất tâm nhất y sùng kính A Tử, rau nào sâu nấy, đâu có phân biệt thị phi thiện ác thành thử học rặt một đường của phái Tinh Tú.

Môn phái Tinh Tú võ công nào cũng toàn do độc ác đểu cáng mà thủ thắng, lại được Toàn Quan Thanh hết sức giúp đỡ để giựt cho bằng được cái chức vị bang chủ Cái Bang, dạy y toàn những thủ đoạn giết người không nể nang, năm chầy tháng cũ tích góp lại, từ một cậu ấm con nhà danh môn đệ tử Trung Nguyên biến thành một gã cậy mạnh hiếp người, không phân thiện ác.

Huyền Từ lớn tiếng nói:

- Lời của Trang bang chủ, so với cái tiếng nhân hiệp mấy trăm năm của Cái Bang thật không xứng chút nào.

Du Thản Chi nhún người một cái đã nhảy vọt ra hơn một trượng nói:

- Muốn đánh thì ra đây, nếu không thì dang ra một bên cho rồi.

Y vừa nói vừa liếc qua nhìn Đinh Xuân Thu và A Tử, áng chừng vô cùng sốt ruột. Huyền Từ đáp:

- Được, hôm nay lão nạp xin lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp hai tuyệt kỹ của Trang bang chủ để anh hùng thiên hạ được chiêm ngưỡng công phu đích truyền của Cái Bang mấy trăm năm qua.

Du Thản Chi sững sờ, không tự chủ nổi phải thụt lùi hai bước. Y tuy tiếp nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang nhưng hai tuyệt kỹ Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp chẳng biết một chiêu nào, có điều cũng đã nghe các trưởng lão Cái Bang xầm xì rằng hai môn này là Trấn Bang Thần Công. Hàng Long Thập Bát Chưởng thì đôi khi cũng truyền cho người không phải là bang chủ, còn Đả Cẩu Bổng Pháp thì nhất định chỉ truyền cho bang chủ mà thôi, trong mấy trăm năm qua không một bang chủ nào của Cái Bang không biết môn này.

Huyền Từ lại tiếp:

- Lão nạp xin sử dụng Đại Kim Cương Chưởng của bản phái ra tiếp Hàng Long Thập Bát Chưởng và dùng Hàng Ma thiền trượng để tiếp Đả Cẩu Bổng của bang chủ. Ôi, phái Thiếu Lâm và quí bang đời đời giao hảo, hai môn võ công này trước nay rèn luyện thì có nhưng chưa bao giờ dùng để đối địch quá chiêu, lão nạp vô đức, thật hổ thẹn với các đời bang chủ Cái Bang cùng các đời chưởng môn phái Thiếu Lâm từ trước tới nay.

Ông chắp hai tay lại, chính là chiêu Lễ Kính Như Lai, khởi thủ thức của Đại Kim Cương Chưởng, vẻ mặt hiền hòa nhưng tăng y phồng ra hai bên, đủ biết trong chiêu này uẩn tàng đầy nội lực thật cao thâm.

Du Thản Chi không nói năng gì, tay trái lăng không chém ra, chưởng phải cũng nhanh nhẹn vô cùng đẩy tới, chưởng lực bên trái ra trước mà đền sau, chưởng lực bên phải ra sau tới trước, hai luồng lực đâo đan chéo nhau, cực kỳ lạ lùng, chưởng lực hai bên giữa đường đụng nhau, nghe ầm một tiếng cùng tiêu tan nhưng nghe bựt bựt hai tiếng, đai lưng của Huyền Từ hai đầu đều đứt, bay vụt qua hai bên cả trượng. Hai luồng chưởng lực của Du Thản Chi phạm vi rất rộng, lực đạo tấn công tới bị chiêu Lễ Kính Như Lai tiêu giải nhưng ở hai bên lực đạo của y cũng ép tới làm đứt sợi dây đai.

Tăng lữ phái Thiếu Lâm và quần hùng thấy thế cùng nhao nhao kêu lên:

- Đây là công phu tà môn của phái Tinh Tú.

- Không phải là Hàng Long Thập Bát Chưởng.

- Không phải công phu của Cái Bang.

Trong Cái Bang cũng có đệ tử kêu lên:

- Chúng ta tỉ võ với phái Thiếu Lâm, không được dùng công phu tà môn.

- Bang chủ phải sử dụng Hàng Long Thập Bát Chưởng mới phải.

- Sử dụng công phu tà môn thì thật mất mặt cho Cái Bang.

Du Thản Chi nghe chung quanh la ó, trong bụng không khỏi chần chừ, chiêu thứ hai không sử ra được nữa. Thế nhưng người trong phái Tinh Tú cũng nhao nhao lên:

- Thần công phái Tinh Tú so với Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang mạnh hơn nhiều, sao lại không được sử dụng mà lại dùng thứ kém hơn?

- Trang sư huynh, lên nữa đi. Đương nhiên là dùng công phu thần công của ân sư Tinh Tú lão tiên truyền cho, tiến lên làm thịt lão sư già.

- Tinh Tú thần công, trên đời số một, đánh đâu thắng đó, vào đâu cũng lọt. Hàng Long xú chưởng, thối như rắm chó.

Trong khi tiếng người còn nhao nhao rức lác, bỗng nghe từ dưới chân núi có tiếng hùng tráng vọng lên:

- Ai dám bảo là võ công phái Tinh Tú lại hơn được Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang?

Thanh âm đó không có gì là vang dội nhưng rõ ràng từng tiếng truyền vào tai mọi người, ai nấy ngạc nhiên, lập tức im bặt. Chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa rồn rã, hơn chục người giục ngựa chạy lên, trên lưng người nào cũng khoác áo choàng đen mỏng bằng lông cừu, bên trong là áo vải cũng màu đen, nhưng người thì như hổ, ngựa thì tựa rồng, kẻ cưỡi đã dắn dỏi mà tọa kỵ cũng là tuấn mã, con nào con nấy đầu ngẩng cao, chân dài, toàn thân đen tuyền, khi chạy đến gần quần hùng thấy sáng lóe lên, ánh vàng lấp lánh, thì ra móng những con ngựa đều đóng bằng hoàng kim. Chạy đến tất cả là mười chín con ngựa, tuy người không đông nhưng khí thế hùng tráng chẳng khác gì thiên quân vạn mã, mười tám con ngựa đi trước chạy tới nơi lập tức tẽ ra thành hai hàng đứng hai bên chỉ còn người sau cùng giục ngựa chạy tới.

Một số lớn người trong Cái Bang reo ầm lên:

- Kiều bang chủ! Kiều bang chủ!

Lập tức có mấy trăm bang chúng chạy vụt ra, dừng chân trước con ngựa của người kia khom lưng tham kiến.

Người đó chính là Tiêu Phong. Từ khi ông ta bị trục xuất ra khỏi Cái Bang vẫn tưởng anh em trong bang ai nấy coi mình như khấu thù, không ngờ tuy bạn thù phân biệt rồi vẫn còn rất nhiều huynh đệ cũ nhiệt tình chạy đến ra mắ khiến cho máu nóng bất giác trào lên, hổ mục hàm lệ, xoay mình nhảy xuống ôm quyền hoàn lễ nói:

- Tiêu Phong người Khất Đan đã bị trục xuất, cùng Cái Bang không còn liên can gì nữa, chúng vị sao còn xưng họ như thuở nào là sao? Các anh em từ khi từ biệt tới nay vẫn mạnh khỏe chứ?

Mấy câu sau cùng, tình cũ nghĩa xưa chan chứa, không khỏi bồi hồi. Những người chạy ra tham kiến chỉ toàn là đệ tử ba, bốn túi. Những người một hai túi là những đệ tử mới gia nhập, ít có cơ hội gặp được Tiêu Phong, còn năm sáu túi trở lên thì dè chừng kẻ Di người Hạ, tuổi tác cũng lớn, chức vụ cũng cao, không như những người trẻ nghĩ gì làm nấy, không biết ý tứ gì.

Mấy trăm đệ tử nghe ông nói thế mới tỉnh ngộ biết mình quá ư xung động, kẻ gọi là Kiều bang chủ kia chính là người Khất Đan đại đối đầu, trong bang trên dưới đều biết rõ,chẳng qua vì vừa thấy ông đột nhiên xuất hiện, cái tình quyến luyến xưa kia vẫn còn nên chạy ra quên cả chuyện lớn. Một số kẻ cúi đầu lùi về nhưng cũng không ít người vẫn còn ấp úng:

- Kiều ... Kiều lão nhân gia khỏe chứ, từ khi từ biệt tới nay, không ngày nào ... không ngày nào không nhớ tới lão nhân gia.

Hôm đó đột nhiên A Tử đi ra không thấy quay về, mấy ngày liền không nghe tin tức gì cả, Tiêu Phong nóng ruột vô cùng, phái rất nhiều thám tử đi dò xét. Qua mấy tháng, sau cùng mới có hồi báo, nói nàng thân bị hãm tại Cái Bang, gã đầu sắt kia cũng ở chung với nàng một chỗ.

Tiêu Phong nghe nói thế trong lòng kinh hoảng, nghĩ Cái Bang hận mình tới xương tủy, lần này bắt được A Tử rồi, ắt hẳn dùng nàng làm con tin để uy hiếp mình, nên phải làm sao cứu nàng ra ngay mới được. Ông bèn tâu lên Liêu đế, xin nghỉ hai tháng đem quân chính sự vụ của Nam Viện giao cho Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca thay mặt điều hành, tự mình xuôi nam.

Lần này Tiêu Phong trở lại Trung Nguyên là có chuẩn bị trước, Yên Vân Thập Bát Kỵ tùy tòng đều là những cao thủ hạng nhất tuyển trong các bộ tộc Khất Đan. Lần trước ông độc chiến quần hùng ở Tụ Hiền Trang, may nhờ có một vị đại anh hùng ra tay cứu nếu không thì đã bị loạn đao phân thây rồi, đủ biết dù võ công cao cường thế nào chăng nữa mà một địch trăm thì cũng không chịu nổi nên lần này dẫn Yên Vân Thập Bát Kỵ theo, người nào cũng có thể một chống mười, lại thêm ngựa cưỡi đều là thiên lý lương câu, nếu như gặp nguy, nếu chỉ mong thoát thân thì không phải là chuyện khó.

Đoàn người đi đến Hà Nam, Tiêu Phong bắt một đệ tử Cái Bang hạng thấp tra hỏi, biết được là A Tử đã lòa hai mắt, ngàng ngày cùng tân bang chủ như hình với bóng, lúc này đã đi theo y tới chùa Thiếu Lâm rồi. Tiêu Phong vừa lo vừa tức, nghĩ bụng mắt A Tử bị người ta làm mù rồi, chẳng nói cũng biết là sẽ bị người trong Cái Bang tra khảo đánh đập vô cùng thảm thiết, lập tức vội vã chạy theo, hi vọng trên đường gặp được thì ra tay cướp lấy để khỏi phải hội diện với các cao tăng phái Thiếu Lâm.

Đến núi Thiếu Thất, nghe văng vẳng môn nhân phái Tinh Tú la hét om sòm, nào là phái Tinh Tú võ công hơn xa Hàng Long Thập Bát Chưởng, không khỏi nổi cơn lôi đình. Ông tuy không còn là bang chủ Cái Bang nhưng Hàng Long Thập Bát Chưởng là do ân sư Uông Kiếm Thông đích thân truyền thụ, sao có thể để cho người ngoài khinh rẻ coi thường được?

Ông giục ngựa chạy lên, chào hỏi bọn đệ tử Cái Bang ba bốn túi xong, liếc mắt nhìn qua, thấy Đinh Xuân Thu tay nắm một cô gái áo tím, thân hình mảnh dẻ, khuôn mặt trái soan trắng ngần, chính là A Tử. Thế nhưng mắt nàng vô quang, đồng tử bị hủy rồi hiển nhiên đã mù.

Tiêu Phong trong lòng hết sức xót xa, lại thêm phẫn nộ, lập tức hùng dũng tiến tới, tay trái vạch một vòng, tay phải nhắm thẳng vào Đinh Xuân Thu đánh vù ra một chưởng, chính là chiêu Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Khi ông ra chiêu còn cách Đinh Xuân Thu đến mười lăm, mười sáu trượng nhưng nói đến là đến ngay, khi chưởng đánh ra thì hai người chỉ còn cách nhau bảy tám trượng.

Võ thuật trong thiên hạ dù chưởng lực có hùng mạnh đến bực nào thì cũng không đánh ra ngoài năm trượng. Đinh Xuân Thu đã từng nghe danh Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung nên không dám coi thường chút nào, thấy ông từ ngoài xa mười lăm, mười sáu trượng đánh tới, đâu có ngờ rằng chưởng đó đánh vào mình, lại càng không ngờ rằng chưởng Tiêu Phong vừa đánh ra thì thân hình đã tiến đến chỉ còn ba bốn trượng, lại tiếp theo một chiêu Kháng Long Hữu Hối nữa, chưởng sau đè lên chưởng trước, hai luồng chưởng lực cùng ập tới một lượt chẳng khác gì bài sơn đảo hải.

Chỉ trong một nháy mắt, Đinh Xuân Thu thấy hơi thở như nghẹn lại, chưởng lực đối phương chẳng khác gì sóng triều ụp tới, thế không sao đương cự nổi, lại chẳng như một bức tường vô hình giạt vào người. Y còn đang kinh hãi, đâu có thì giờ suy nghĩ cách chống đỡ, nhưng biết nếu giơ đơn chưởng ra nghinh địch thể nào cũng gãy tay, trật xương, không chừng gân cốt toàn thân nát nhừ, vội vàng cầm A Tử ném tới trước, song chưởng vạch liên tiếp ba hình bán nguyệt trước mặt để hộ vệ thân mình, đồng thời gót chân nhún một cái nhảy lùi về sau.

Tiêu Phong lại đánh thêm một chiêu Kháng Long Hữu Hối, chưởng lực chiêu trước chưa hết thì chiêu sau lại đến rồi. Đinh Xuân Thu không dám chống đỡ mũi nhọn từ chính diện, chưởng phải xeo xéo tung ra đánh vào chưởng lực của Tiêu Phong nhưng thấy cánh tay phải tê đi, khí tức trong ngực nặng như chì, vội vàng mượn thế nhảy ra ngoài xa ba trượng, lại sợ địch nhân tiếp tục truy kích, giơ chưởng lên che ngực, ám vận độc khí lên lòng bàn tay.

Tiêu Phong nhẹ nhàng vươn tay ra bắt lấy A Tử đang từ trên không rơi xuống, tiện tay giải huyệt cho nàng. A Tử tuy mắt không nhìn thấy, bị Đinh Xuân Thu bắt giữ không nói được nhưng những gì xảy ra ở chung quanh đều nghe rõ ràng, huyệt đạo trên người vừa giải khai lập tức mừng rỡ nói:

- Hảo tỉ phu, may quá có anh đến cứu em.

Tiêu Phong trong lòng hết sức xót xa, dịu dàng an ủi:

- A Tử, những ngày qua chắc ngươi khốn khổ lắm nhỉ, cũng tại tỉ phu làm lụy đến cô.

Ông vẫn tưởng các thủ lãnh Cái Bang hận thù ghê gớm nhưng không làm gì được, biết rằng A Tử là thân nhân duy nhất của ông nên đến Nam Kinh bắt cóc đem về, hành hạ một phen, có đâu ngờ mọi chuyện của A Tử đều do mình làm mình chịu.

Khi Tiêu Phong lên đến trên núi, quần hùng lập tức rúng động. Hôm đó đại chiến Tụ Hiền Trang, ông một thân một mình một lúc đánh chết mấy chục hảo thủ, quả là uy chấn thiên hạ. Quần hùng Trung Nguyên giận ông tận xương tủy nhưng ai nấy nghe tới cũng bạt vía kinh hồn, bây giờ đột nhiên thấy ông lên núi Thiếu Thất, chắc mẩm không thể tránh khỏi một trường ác chiến. Những người khi trước có tham dự đại hội Tụ Hiền Trang, nhớ lại cái cảnh máu chảy thịt rơi vung vãi nơi đại sảnh, bụng vẫn còn phập phồng, không khỏi ớn lạnh. Lại vừa thấy ông chỉ ra một chiêu Kháng Long Hữu Hối đã đánh cho kẻ số một đời nay là Tinh Tú Lão Quái phải cụp đuôi bỏ chạy, càng thêm sợ hãi, trên núi người nào người nấy mặt mày bần thần, không ai nói được lời nào.

Chỉ có độ vài chục môn nhân phái Tinh Tú vẫn nhơn nhơn nói không biết ngượng:

- Họ Kiều kia, trên người mi đã trúng phải tiên thuật của Tinh Tú Lão Tiên, chưa đầy mười ngày sẽ biến thành đống mủ mà chết.

- Tinh Tú Lão Tiên thấy ngươi là đồ hậu sinh tiểu bối nên mới nhường cho ngươi ba chiêu đấy thôi.

- Tinh Tú Lão Tiên thân phận nhường nào mà thèm động thủ với ngươi? Nếu mi không biết hối cải, lập tức quì xuống van xin tha mạng, sau này ắt chết không có đất mà chôn.

Có điều thanh âm tiếng được tiếng mất, không còn lớn lối như trước nữa. Du Thản Chi trông thấy Tiêu Phong trong bụng khiếp hãi, tới khi thấy ông vươn tay ôm A Tử vào lòng mà mặt nàng đầy vui sướng, cực kỳ thân thiết, không còn nhẫn nại được nữa liền nhảy tới kêu lên:

- Ông mau ... mau bỏ A Tử cô nương xuống!

Tiêu Phong đặt A Tử xuống đất hỏi lại:

- Các hạ là ai?

Du Thản Chi gặp phải đôi mắt lẫm lẫm sinh uy của ông chiếu vào, lập tức chột dạ, ấp úng:

- Tại hạ ... tại hạ là bang chủ Cái Bang ... Trang Tụ Hiền ... tức là Trang bang chủ.

Trong Cái Bang có người kêu lên:

- Ngươi đã bái nhập làm môn hạ phái Tinh Tú, sao còn làm bang chủ Cái Bang được?

Tiêu Phong giận dữ quát lớn:

- Sao ngươi dám làm hỏng đôi mắt của A Tử cô nương?

Du Thản Chi bị uy thế của ông trấn nhiếp, giật mình lùi lại hai bước nói:

- Không ... không phải tôi ... quả thực không phải ...

A Tử nói:

- Tỉ phu, mắt em là do lão tặc Đinh Xuân Thu làm mù đó, anh mau mau móc mắt lão ra báo thù cho tiểu muội.

Tiêu Phong nhất thời không hiểu chân tướng mọi việc ra sao, đảo mắt một vòng, thấy trong đám đông có Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc, trong lòng chua xót, nhưng cũng mừng thầm lớn tiếng nói:

- Đại Lý Đoàn vương gia, lệnh ái thiêm kim ở đây, mong ông chăm sóc cho tử tế.

Ông dắt tay A Tử đi đến trước mặt Đoàn Chính Thuần, nhẹ nhàng đẩy nàng một cái. Nguyễn Tinh Trúc khóc đã đẫm cả cánh tay áo, lúc này nước mắt như mưa, vội vàng chạy ra ôm lấy A Tử nói:

- Cục cưng ơi, mắt ... mắt con sao thế này?

Đoàn Dự thấy Tiêu Phong đột nhiên xuất hiện, trong lòng mừng rỡ đã toan chạy ra tương kiến nhưng ông vừa tiến lên đã vung chưởng đánh Đinh Xuân Thu, cứu A Tử rồi lại hội kiến Du Thản Chi, không có lúc nào lơi ra được. Đến khi Nguyễn Tinh Trúc ôm A Tử khóc òa lên, chàng không khỏi toát mồ hôi: "Sao Kiều đại ca lại bảo cô nương mù kia là lệnh ái thiên kim?". Thế nhưng chàng đã hằng nghe cha mình đi đến đâu tình rơi đến đó, nên cũng đoán ngay được nội vụ, vội vàng rảo bước đi ra kêu lên:

- Đại ca, lâu nay vẫn khỏe chứ? Tiểu đệ nhớ đại ca biết chừng nào!

Tiêu Phong từ khi cùng chàng thi rượu kết nghĩa nơi thành Vô Tích đến nay, tuy mới gặp chốc lát mà tưởng chừng quen biết đã lâu, đem hết ruột gan đối đãi, ý hợp tâm đầu, lập tức tiến lên nắm chặt hai tay nói:

- Huynh đệ, từ khi xa nhau biết bao nhiêu chuyện, một lời không thể hết, may sao anh em ta đều bình yên cả.

Bỗng nghe trong đám người có tiếng ai đó quát lớn:

- Họ Kiều kia, ngươi giết huynh trưởng ta, mối huyết cừu đó chưa trả được, hôm nay ta phải cùng ngươi thí mạng.

Lại có người khác cũng kêu:

- Gã Kiều Phong kia là Hồ Lỗ Khất Đan, ai ai cũng phải tru diệt, hôm nay quyết không để cho y chạy thoát xuống núi Thiếu Thất.

Rồi tiếng người la ó rầm rĩ cả lên, kẻ thì chửi Tiêu Phong giết con, người thì bảo ông giết bố. Tiêu Phong hôm trước đại chiến Tụ Hiền Trang, giết người quả không phải ít. Bây giờ các lộ anh hùng tụ tập tại chùa Thiếu Lâm, lắm người có cha anh thân thuộc, tri giao cố hữu, tuy sợ Tiêu Phong nhưng nghĩ đến mối huyết cừu cũng phải chửi toáng lên. Tiếng rủa sả càng lúc càng to, mọi người thấy Tiêu Phong tùy hành chỉ có mười tám người, vốn cùng Cái Bang và Thiếu Lâm có thâm thù đại oán, mới rồi lại đánh chưởng đẩy lui Đinh Xuân Thu nên cũng đã thành kẻ địch của phái Tinh Tú, mấy nghìn người vây đánh mười chín kẻ Khất Đan thì dẫu ông có bản lảnh thông thiên cũng khó mà thoát khỏi trùng vi. Thanh thế càng lúc càng thịnh, đảm khí mọi người cũng tăng dần.

Quần hùng đông người nhiều miệng lưỡi, có kẻ thô lỗ, bụng oán thù không khỏi ăn nói tục tằn, chủi rủa càng lúc càng thêm độc địa. Mấy chục người rút binh khí, múa đao vung kiếm, toan xông cả lên băm vằm Tiêu Phong ra.

Mười chín người của bọn Tiêu Phong đến Trung Nguyên vốn định đột nhiên tập kích, cứu lấy A Tử trở về Nam Kinh, đâu có ngờ rằng lại có nhiều đối đầu tụ tập một chỗ đến thế. Ông từ bé đã hành tẩu giang hồ ở Trung Nguyên, cùng các lộ anh hùng không quen thuộc thì cũng đã nghe danh, biết những người đó đều là hiệp nghĩa, sở dĩ kết oán với mình, một là mình là người Khất Đan, hai nữa có kẻ đứng trong xúc xiểm nên hiểu lầm nhau.

Cuộc chiến nơi Tụ Hiền Trang không phải do tâm nguyện của ông, nếu như hôm nay thêm một lần đại chiến nữa, sát thương thêm một số người thì chỉ càng thêm đau lòng, dẫu mình có toàn mạng chạy thoát nhưng những anh em trong Yên Vân Thập Bát Kỵ đi theo không khỏi thương vong nặng nề, trong bụng tính toán thầm: "Cũng may mình đã cứu được A Tử giao cho cha mẹ cô ta rồi, tâm nguyện của A Châu coi như đã xong, ta chỉ mau mau tính chuyện thoát thân, việc gì phải dây dưa với họ làm chi?". Nghĩ thế ông bèn quay lại nói với Đoàn Dự:

- Huynh đệ, hiện nay tình hình gay cấn, anh em ta không thể thăm hỏi nhau nhiều, hiền đệ tạm thời lui ra, núi cao sông rộng, có ngày sẽ gặp lại nhau.

Ông muốn Đoàn Dự đứng qua một bên để khi phá vòng vây chạy xuống, người ngoài khỏi ra tay đánh nhầm chàng. Đoàn Dự thấy anh hùng các lộ phải đến mấy nghìn người, ai nấy muốn giết nghĩa huynh bông dưng nổi lòng nghĩa hiệp, dõng dạc nói:

- Đại ca, đứa em này kết nghĩa đệ huynh với anh đã từng nói những gì? Có phải là có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu, không mong sinh ra cùng tháng cùng năm nhưng nguyện chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Hôm nay đại ca lâm nạn, huynh đệ lẽ nào mong được sống lấy một mình?

Trước đây mỗi lần chàng gặp nguy nan đều thi triển bộ pháp xảo diệu Lăng Ba Vi Bộ, từ trong đám đông chạy ra. Lúc này tình thế hung hiểm, máu nóng trong ngực sôi lên, quyết tâm cùng chết với Tiêu Phong để toàn tình anh em kết nghĩa, dù có chuyện gì cũng nhất định không bỏ chạy.

Phần lớn các hào kiệt đều không biết Đoàn Dự là hạng người nào, thấy chàng tự xưng là anh em kết nghĩa của Tiêu Phong, nhất quyết cùng ông ta liên thủ đối địch với mọi người, vẻ người văn nhược nho nhã, tuổi lại trẻ nên chẳng ai thèm coi chàng vào đâu, tiếng la ó lại càng rầm rĩ. Tiêu Phong nói:

- Huynh đệ, hảo ý của chú, người anh này hết sức cảm tạ. Bọn họ muốn giết ta cũng không phải dễ. Ngươi mau tránh sang một bên, kẻo ta lại phải chia tay bảo hộ cho chú đâm ra vướng víu khó nghinh địch.

Đoàn Dự nói:

- Đại ca không phải bảo hộ tiểu đệ làm chi. Bọn họ cùng đệ không thù không oán, lẽ nào lại giết em?

Tiêu Phong vẻ mặt chua chát, trong lòng thấy thật thê lương nghĩ thầm: "Nếu như không thù không oán thì chẳng hại nhau, thù oán trên thế gian này từ đâu mà có?".

Đoàn Chính Thuần hạ giọng nói với Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch các người:

- Vị Tiêu đại hiệp này đối với ta có ơn cứu mạng, đến lúc nguy cấp, bọn mình xông vào giúp y thoát hiểm.

Phạm Hoa đáp:

- Tuân lệnh!

Y liếc sang mấy nghìn hào kiệt đang lăm lăm binh khí mấy lần, nói:

- Đối phương đông quá, không biết chúa công có diệu sách gì không?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:

- Đại trượng phu ân oán phân minh, cứ hết sức mà làm, đành lấy cái chết để báo đền thôi.

Chúng sĩ Đại Lý cùng đáp:

- Cũng mong được như thế!

Phía bên kia bọn người nhà Mộ Dung Yến Tử Ổ cũng thì thầm thương nghị. Công Dã Can từ khi đối chưởng thi rượu với Tiêu Phong ở thành Vô Tích, trong lòng hết sức ngưỡng mộ, chủ trương ra tay tương trợ. Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cũng hết sức bội phục Tiêu Phong, cũng loi choi toan nhảy ra giúp ông một tay. Mộ Dung Phục bèn nói:

- Chúng vị huynh trưởng, với chúng ta việc hưng phục là chuyện quan trọng nhất, chẳng lẽ chỉ vì một gã Tiêu Phong mà đắc tội với anh hùng thiên hạ hay sao?

Đặng Bách Xuyên nói:

- Lời của công tử chí phải, vậy thì mình phải làm thế nào đây?

Mộ Dung Phục đáp:

- Thu phục lòng người để trợ giúp cho ta.

Đột nhiên y hú lên một tiếng dài bước ra lớn tiếng nói:

- Tiêu huynh là anh hùng Khất Đan nên coi hào kiệt Trung Nguyên chẳng ra gì, hôm nay Cô Tô Mộ Dung Phục này mong được lãnh giáo cao chiêu của các hạ. Tại hạ gục ngã dưới chưởng của Tiêu huynh thì âu cũng vì hào kiệt Trung Nguyên bỏ chút công mọn, dẫu chết cũng vinh.

Mấy câu y nói cốt để cho quần hào Trung Nguyên nghe thấy, có thế thì dù thua dù được từ nay anh hùng hào kiệt cũng sẽ coi Cô Tô Mộ Dung là chỗ sinh tử chi giao.

Quần hùng tuy đã quyết ý rồi nhưng chưa một ai dám xông lên khiêu chiến. Ai cũng biết rằng, đánh nhau sau cùng rồi cũng giết được Kiều Phong nhưng mấy chục người đầu tiên thể nào cũng bỏ mạng, lúc này đột nhiên thấy Mộ Dung Phục thượng trường, ai nấy thở phào nhẹ nhõm, lên tinh thần. Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung hai người vốn dĩ tề danh, Mộ Dung Phục xông ra đánh trước, dẫu không địch nổi thì cũng khiến cho đối phương phải hết sức chống đỡ, hao phí nội lực. Liền theo đó tiếng hò reo vang dậy bốn bề.

Tiêu Phong bỗng thấy Mộ Dung Phục bước ra khiêu chiến, không khỏi kinh ngạc, vòng hai tay ôm quyền tương kiến nói:

- Đã từng nghe anh danh của công tử, hôm nay gặp được cao hiền, quả là thỏa nguyện bình sinh.

Đoàn Dự vội nói:

- Mộ Dung huynh, việc này xem ra ngươi không phải. Đại ca ta mới gặp ngươi lần đầu, vốn không hiềm khích, sao ngươi lại thừa lúc nước đục thả câu? Huống chi lúc người khác nghi oan cho ngươi lại chính đại ca ta vì ngươi mà phân biện?

Mộ Dung Phục cười khẩy một tiếng nói:

- Đoàn huynh nếu muốn tỏ ra anh hùng hảo hán can thiệp vào chuyện bất bình thì cứ việc tiến lên tứ giáo luôn thể.

Y thấy Đoàn Dự cứ luẩn quẩn bên cạnh Vương Ngữ Yên nên đã bực từ lâu, lúc này được dịp nói cho hả tức. Đoàn Dự đáp:

- Ta có bản lãnh gì mà tứ giáo Mộ Dung huynh được? Chỉ có mấy câu công đạo nói ra thôi.

Đinh Xuân Thu bị Tiêu Phong mấy chưởng đánh bật ra thật là bẽ mặt, bao nhiêu tuyệt kỹ của mình chưa có dịp thi thố, lập tức nhảy ra cười ha hả nói:

- Họ Tiêu kia, lão phu thấy ngươi còn trẻ nên lúc nãy mới nhường ngươi ba chiêu, chiêu thứ tư này không nhường nữa đâu nhé!

Du Thản Chi tiến lên nói:

- Họ Trang này đa tạ ngươi cứu được A Tử cô nương, thế nhưng mối thù giết bố, không đội trời chung. Họ Tiêu kia, hôm nay chúng mình giải quyết cho xong.

Huyền Sinh đại sư của phái Thiếu Lâm cũng ngầm truyền hiệu lệnh: "La Hán Đại Trận chặn hết các ngả đường hạ sơn. Tên ác đồ này giết chết Huyền Khổ sư huynh, nhất quyết không để cho y xuống núi Thiếu Thất lần nữa".

Tiêu Phong thấy ba đại cao thủ đứng thành thế chân vạc vây quanh mình rồi mà quần tăng Thiếu Lâm thì đông một đoàn, tây một tụm xem ra tưởng chừng tạp loạn không thành đường lối nhưng bên trong ám tàng trận pháp cực kỳ lợi hại, tình hình so với ở Tụ Hiền Trang còn nguy hiểm bội phần. Bỗng nghe mấy tiếng ngựa hí lên bi thảm, mười chín con tuấn mã từng con từng con ngã xuống, miệng sùi bọt mép, chết lăn ra.

Mười tám võ sĩ Khất Đan luôn mồm xí xố, vung đao xuất chưởng, chỉ chốc lát chém chết bảy tám tên môn đệ phái Tinh Tú nhưng cũng có mấy tên chạy được. Thì ra Đinh Xuân Thu tiến lên khiêu chiến, các môn nhân của lão liền chia nhau hạ độc, ám toán tọa kỵ của người Khất Đan để cho Tiêu Phong không thể dựa vào tuấn mã mà xông ra khỏi trùng vi.

Tiêu Phong trong một thoáng thấy con ngựa yêu trước khi chết còn đưa mắt nhìn mình, lộ vẻ thê lương luyến chủ, nghĩ mình cưỡi con ngựa đã lâu, nghìn dặm xuôi nam, sớm tối không rời, ngờ đâu giờ phút này bỏ mạng về tay kẻ gian, ngực sôi lên, nổi máu anh hùng hú một tiếng dài nói:

- Mộ Dung công tử, Trang bang chủ, Đinh lão quái, cả ba vị cùng tiến lên, Tiêu mỗ này há sợ gì đâu?

Ông hận phái Tinh Tú ra tay tàn độc, vù một tiếng phóng chưởng đánh vào Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu đã lãnh giáo chưởng lực lợi hại của ông rồi nên hai bàn tay cùng đưa ra đem toàn lực chống đỡ. Tiêu Phong thuận thế kéo một cái, đem chưởng lực của cả mình lẫn người dẫn lệch ra, xiên xiên đánh vào Mộ Dung Phục.

Bản lãnh tối cao siêu của Mộ Dung Phục là môn Đẩu Chuyển Tinh Di để chuyển hoán phương vị đối phương đánh tới quay ngược về bên địch, thế nhưng chiêu của Tiêu Phong lại bao gồm lực đạo của cả hai người quá là hùng hồn, vừa xoay chuyển, không biết ông muốn đánh vào đâu, thành thử không cách nào dẫn được đành phải ngưng vận nội lực, song chưởng đẩy ra, đồng thời nhẹ nhàng vọt về sau ba trượng.

Tiêu Phong hơi nghiêng mình tránh khỏi chưởng lực của Mộ Dung Phục, quát lên một tiếng, chẳng khác gì sét đánh giữa trời, tay phải nhằm Du Thản Chi đấm ra một quyền. Ông thân thể cao to, so với Du Thản Chi hơn hẳn một cái đầu nên quyền đó đánh thẳng vào mặt y. Du Thản Chi vốn sẵn úy kỵ, nghe tiếng quát như sấm rền khiến cho chân tay bủn rủn, quyền của Tiêu Phong lại đến quá nhanh, chưởng đánh Đinh Xuân Thu, tránh đòn Mộ Dung Phục, quyền đả Du Thản Chi tuy có trước có sau thật nhưng ba chiêu đó liền lạc với nhau, nhanh như ánh chớp, Du Thản Chi muốn chống đỡ thì quyền lực đã đến trước mặt. Cũng may y chuyên cần luyện Dịch Cân Kinh nên thể lực tự nhiên sinh ra phản ứng, đầu lập tức ngửa về sau, lộn mèo hai vòng, tránh được cú đấm nghìn cân của Tiêu Phong chỉ trong đường tơ kẽ tóc.

Du Thản Chi thấy mặt mát rượi, nghe quần hùng "Ồ" lên một tiếng, rồi thấy từng mảng như đàn bướm tung vãi khắp nơi, thì ra chiếc mặt nạ Du Thản Chi che trên mặt đã bị quyền của Tiêu Phong đánh tan nát. Người đứng xem thấy mặt bang chủ Cái Bang lồi lồi lõm lõm, chỗ đỏ chỗ đen, mặt mày vằn vện đầy sẹo, ngũ quan méo mó, xấu xí đáng sợ ai nấy đều bở vía.

Tiêu Phong trong ba chiêu đã ép cho ba đại cao thủ phải dạt ra, hào khí dâng lên, thét lớn:

- Mang rượu ra đây!

Một tên võ sĩ Khất Đan liền cởi trên lưng một con tuấn mã đã chết ra một túi da, rảo bước đi tới, hai tay dâng lên. Tiêu Phong mở nút bình, cầm túi giơ cao lên, hơi nghiêng xuống, một dòng rượu trắng chảy ồng ộc xuống. Ông ngửa cổ uống ừng ực không ngừng.

Chiếc bình đựng đầy rượu, ít ra cũng phải hai chục cân, nhưng Tiêu Phong uống một hơi cạn sạch không còn một giọt. Chỉ thấy bụng ông hơi phồng lên một tí nhưng mặt vẫn đen đủi như bình thời không có vẻ gì say cả. Quần hùng còn đang ngơ ngác, Tiêu Phong phất tay phải một cái, mười bảy tên võ sĩ còn lại người nào cũng cầm một bầu rượu mang đến trước mặt.

Tiêu Phong nói với mười tám tên võ sĩ:

- Này các huynh đệ, vị Đại Lý Đoàn công tử đây, là anh em kết nghĩa của ta. Hôm nay chúng mình bị hãm trong trùng vi, quả bất địch chúng, thế quả khó mà thoát thân.

Ông mới rồi cùng bọn Mộ Dung Phục trao đổi một chiêu, tuy đã chiếm được thượng phong, nhưng cũng biết ba đại cao thủ đều là những người thân mang tuyệt kỹ, ba người đánh một, mình ắt không thể địch nổi, huống chi ngoài những kẻ đang hầm hè kia bên cạnh còn hàng nghìn hàng trăm hào kiệt đứng chờ sẵn đó.

Ông nắm tay Đoàn Dự nòi:

- Huynh đệ, ta với ngươi sống chết có nhau, quả không uổng một trường kết nghĩa, chết cũng được mà sống cũng được, chúng mình uống với nhau một trận cho thống khoái đã nào!

Đoàn Dự bị hào khí của ông khích động, cũng cầm ngay lấy bao da nói:

- Phải lắm, đang muốn cùng đại ca uống một phen đây.

Từ đám tăng nhân Thiếu Lâm một người mặc áo màu tro chạy ra, dõng dạc nói:

- Đại ca, tam đệ, hai người uống rượu, sao không rủ ta?

Người đó chính là Hư Trúc. Y ở trong đám đông thấy Tiêu Phong cưỡi ngựa chạy lên, quả nhiên anh khí hơn người, coi quần hùng chẳng đáng vào đâu, không khỏi sờn lòng, lại thấy Đoàn Dự nghĩ tình kết nghĩa, nguyện cùng nhau chết chung một chỗ, nhớ tới hôm trước trên ngọn Phiêu Miểu cùng Đoàn Dự kết bái, cũng đã từng đem cả Tiêu Phong vào. Đại trượng phu một lời nói ra, sinh tử chẳng nề, nghĩ đến hào khí khẳng khái cùng Đoàn Dự một trận say mèm nơi cung Linh Thứu, bao nhiêu an nguy sinh tử, thanh qui giới luật, bèn bỏ hết qua một bên.

Tiêu Phong chưa từng gặp Hư Trúc bao giờ, bỗng nghe y gọi mình "đại ca" không khỏi sững sờ. Đoàn Dự bèn bước qua cầm tay Hư Trúc, nói với Tiêu Phong:

- Đại ca, đây là kết nghĩa ca ca của tiểu đệ. Khi y xuất gia pháp danh là Hư Trúc, hoàn tục gọi là Hư Trúc Tử. Khi hai người chúng em kết bái cũng có để luôn cả đại ca vào. Nhị ca, mau mau bái kiến đại ca.

Hư Trúc lập tức tiến lên, quì xuống rập đầu nói:

- Đại ca ở trên, tiểu đệ khấu đầu ra mắt.

Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm: "Nghĩa đệ ta có phần gàn dở nên khi cùng người kết bái đem luôn cả ta vào. Ta sống chết trong khoảnh khắc, tình thế cực kỳ hung hiểm, vậy mà người này không sợ nguy nan, dám xông ra, đủ biết là bậc đại trượng phu, hảo hán tử trọng nghĩa khinh sinh. Tiêu Phong được kết nghĩa với những người như thế này, quả không uổng một đời".

Ông lập tức quì xuống nói:

- Huynh đệ, Tiêu mỗ được kết nghĩa với một bậc anh hùng hảo hán như ngươi, quả thật vui mừng.

Hai người lạy nhau tám cái, ngang nhiên trước mặt anh hùng thiên hạ kết nghĩa kim lan. Tiêu Phong không biết Hư Trúc thân mang võ công tuyệt thế, thấy y chỉ là một tăng nhân thấp kém trong phái Thiếu Lâm, đoán chừng võ công hữu hạn nhưng dám khẳng khái phó nghĩa, nếu như bảo y đứng tránh sang một bên e rằng coi thường y quá, bèn cầm túi da nói:

- Hai vị huynh đệ, mười tám võ sĩ Khất Đan đây đối với ca ca trung thành son sắt, lúc bình thời đối xử với nhau chẳng khác gì chân tay, tất cả cùng uống một trận cho đã đời rồi ra tay đại sát.

Ông mở nắp túi da, uống một ngụm lớn, giao bình rượu cho Hư Trúc. Hư Trúc trong lòng máu nóng dâng lên, còn coi ngũ giới lục giới, thất giới bát giới cửa Phật ra gì nữa, cũng cầm túi da lên uống một ngụm, giao cho Đoàn Dự. Đoàn Dự uống một ngụm rồi, giao lại cho một võ sĩ Khất Đan. Các võ sĩ liền cùng cầm túi da lên uống một mạch cho thỏa chí.

Hư Trúc nói với Tiêu Phong:

- Đại ca, gã Tinh Tú Lão Quái kia làm hại sư phụ, sư huynh môn phái sau của đệ, lại làm hại thái sư thúc Huyền Nạn, Huyền Thống đại sư thuộc môn phái trước của đệ là phái Thiếu Lâm. Huynh đệ muốn báo thù.

Tiêu Phong trong bụng lạ lùng hỏi:

- Ngươi ...

Chưa nói được tiếng thứ hai, Hư Trúc song chưởng vù vù, đã đánh về phía Đinh Xuân Thu. Tiêu Phong thấy y chưởng pháp tinh kỳ, nội lực hồn hậu, không khỏi vừa mừng rỡ, vừa ngạc nhiên nghĩ thầm: "Thì ra nhị đệ võ công ghê gớm như thế, quả thật không thể ngờ được". Ông cũng quát lên:

- Coi quyền đây!

Vù vù hai tiếng, chia ra đấm vào Mộ Dung Phục và Du Thản Chi. Du Thản Chi và Mộ Dung Phục chia ra xuất chiêu chống đỡ. Mười tám tên võ sĩ Khất Đan biết được tâm ý chúa công, liền chia ra vây quanh Đoàn Dự hộ vệ.

Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng múa tít lên, liên tiếp tấn công. Đinh Xuân Thu hôm đó lẻn vào căn nhà gỗ dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán ám hạ độc thủ Tô Tinh Hà và Hư Trúc, Tô Tinh Hà trúng độc bỏ mạng nhưng Hư Trúc vẫn không sao, Đinh Xuân Thu đối với y e dè sợ sệt thầm, nên lúc này không dám sử dụng độc công, sợ Hư Trúc đẩy chất độc ngược trở về mình, hại người không xong lại vạ cho mình, bèn đem chưởng pháp bản môn ra đối phó, nghĩ thầm: "Thằng trọc này giải được thế cờ Trân Lung, ắt đã được lão tặc truyền thụ, trở thành chưởng môn phái Tiêu Dao. Lão tặ quỉ kế đa đoan, thể nào chẳng ngầm an bài kế sách hại ta trong đó, mình phải hết sức đề phòng mới được".

Võ công phái Tiêu Dao cốt ở chỗ nhẹ nhàng phiêu dật, nhàn nhã thanh thoát, Đinh Xuân Thu cùng Hư Trúc một khi giao thủ rồi người ta chỉ thấy một bên đồng nhan bạch phát, như thể thần tiên, một bên tay áo phất phơ, đi mây về gió. Hai bên cứ vừa chạm vào nhau thì lại dang ra, chẳng khác gì một đôi bướm giữa muôn hoa, chập chờn bất định, hai chữ "tiêu dao" phát huy đến cùng cực.

Quần hùng đứng xem phần nhiều chưa từng thấy võ công phái Tiêu Dao bao giờ, khiến cho ai nấy tâm hồn bay bổng, nghĩ thầm: "Hai người này chiêu nào cũng đầy hung hiểm, tấn công vào nơi yếu hại của địch nhân, vậy mà tư thức sao lại thanh nhã dễ coi, chẳng khác gì đang múa. Cái lối chưởng pháp nặng mà tợ nhẹ, tiêu sái như ý quả mình chưa thấy bao giờ, không hiểu đó là công phu chi vậy? Tên gọi ra sao?".

Ở bên kia Tiêu Phong một mình đánh với Mộ Dung Phục và Du Thản Chi, mười chiêu đầu tiên hơi thắng thế một chút, thế nhưng đến mười chiêu sau, thấy Du Thản Chi mỗi quyền đấm ra, mỗi chưởng đánh ra đều chứa đầy khí âm hàn. Tiêu Phong còn phải dùng toàn lực chống đỡ Mộ Dung Phục, Du Thản Chi tiếp tục tấn công, không khỏi khí lạnh phả vào người, khó mà chịu nổi. Khi đó Băng Tàm hàn độc trong người Du Thản Chi đã được nội công Dịch Cân Kinh bồi dưỡng, chính tà hỗ trợ, thủy hỏa đắp đổi đã trở thành một môn nội công lợi hại vào bậc nhất thiên hạ, lại thêm Mộ Dung Phục sử dụng Đẩu Chuyển Tinh Di áo diệu khôn lường, khiến cho Tiêu Phong đấu với hai đại cao thủ, so với hôm trước ở Tụ Hiền Trang cùng hàng trăm hảo hán võ lâm giao chiến cũng hung hiểm chẳng khác gì.

Thế nhưng ông vốn người thần võ, vào cảnh ngộ càng bất lợi, dũng lực tiềm ẩn trong người càng có dịp phát dương, dùng chưởng lực dương cương số một thiên hạ là Hàng Long Thập Bát Chưởng đánh ra, khiến cho Mộ Dung Phục và Du Thản Chi không có cách gì đến gần mà hàn độc Băng Tàm cũng không thể vào người ông được. Thế nhưng Tiêu Phong phát chưởng như thế, nội lực tiêu hao rất nhiều về sau thể nào chưởng lực cũng phải suy giảm.

Du Thản Chi không nhìn ra yếu quyết bên trong nhưng Mộ Dung Phục thì rõ như ban ngày, biết rằng cứ đấu tiếp thì mình và gã Trang bang chủ kia chỉ cần giữ cho được nửa giờ, về sau thể nào cũng chiếm thượng phong. Thế nhưng Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung vốn dĩ tề danh, hôm nay lần đầu trước mặt quần hùng giao đấu, bên mình phải nhờ bang chủ Cái Bang tương trợ, dù có giết được Tiêu Phong thì Nam Mộ Dung hiểu nhiên không bằng được Bắc Kiều Phong rồi.

Mộ Dung Phục trong bụng tính toán mấy lượt, nghĩ thầm: "Hưng phục mới là chuyện lớn, tiếng tăm chỉ là chuyện nhỏ. Nếu ta giúp cho anh hùng võ lâm Trung Nguyên trừ được một tên đại hại thì bao nhiêu hào kiệt Đại Tống dù quen biết hay không, ai nấy cũng sẽ hoài ân cảm đức, xem ra cái chức võ lâm minh chủ, chẳng vào tay mình thì còn tay ai? Khi đó chỉ cần giơ tay hô một tiếng, việc khôi phục Đại Yên có cơ thành tựu. Huống chi khi đó Kiều Phong chết rồi, dẫu Nam Mộ Dung có không bằng Bắc Kiều Phong thì cũng đã là chuyện đã qua".

Y lại nghĩ sang: "Sau khi giết được Kiều Phong rồi, Trang Tụ Hiền sẽ thành đại địch, nếu như chức võ lâm minh chủ bị y đoạt mất, mình ngược lại phải nghe lệnh của hắn thì thật là đại đại bất ổn". Thành thử khi ra chiêu phát chưởng, Mộ Dung Phục ngầm giữ lại vài phần nội lực, để phần lớn bắt Du Thản Chi phải chịu. Mộ Dung Phục thân pháp tinh kỳ, người đứng xem không một ai nhìn ra được.

Chỉ trong giây lát, ba người qua qua lại lại trao đổi đến hơn trăm chiêu. Tiêu Phong luôn luôn sử dụng xảo kình dụ cho Du Thản Chi mắc hỡm. Du Thản Chi rất ít kinh nghiệm, mấy lần suýt nữa vào tròng, may được Mộ Dung Phục ở bên lo liệu, hóa giải kịp thời nhưng những chưởng lực cương mãnh vô tỉ của Tiêu Phong thì Du Thản Chi vẫn phải đem toàn lực nội công thâm hậu ra mới chống đỡ nổi.

Đoàn Dự đứng trong vòng vây của mười tám võ sĩ Khất Đan, thấy nhị ca từng bước từng bước lấn lướt, không bị hạ phong chút nào, còn phía đại ca một đánh hai, tuy nhiên thần uy lẫm lẫm nhưng chưởng nào chưởng nấy tựa như cuồng phong gầm hú, cát chạy đá bay, xem ra khó mà được lâu, nghĩ bụng: "Ta mồm loa mép giải lúc nào cũng bảo cùng hai vị ca ca chịu chung hoạn nạn, đến khi có việc lại trốn giữa đám đông, để cho người ta bảo hộ thì còn nói gì là nghĩa khí? Nói gì đồng sinh cộng tử? Đằng nào thì cũng chết, lão tam này thật chẳng ra trò trống gì. Ta tuy không có chút võ công gì thật, nhưng dùng Lăng Ba Vi Bộ quấy phá Mộ Dung Phục một phen, để cho đại ca rảnh tay đánh bại gã Trang bang chủ xấu xí kia trước, thế cũng hay lắm".

Chàng suy nghĩ đã quyết, lách người lòn ra khỏi vòng vây của mười tám gã võ sĩ Khất Đan, lớn tiếng nói:

- Mộ Dung công tử, ngươi và đại ca ta tề danh, đáng ra phải đánh tay đôi với đại ca ta mới phải, sao lại để người tương trợ mới ráng mà chống đỡ nổi? Nếu quả miễn cưỡng bình thủ, chẳng thấy ê mặt với thiên hạ hay sao? Mau mau ra đây, nếu ngươi có giỏi thì đánh ta một quyền xem nào.

Nói xong thân hình lạng một cái, lẻn ra sau lưng, giơ tay chộp vào cổ Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục thấy y đến nhanh như chớp, xoay tay đánh ngược lại một chưởng, vả trúng ngay mặt chàng, má bên phải Đoàn Dự lập tức sứt da chảy máu, đau đến ứa nước mắt. Lăng Ba Vi Bộ của chàng vốn dĩ thần diệu, khi thi triển ra, người nào muốn đánh trúng người chàng thật khó bằng trời, thế nhưng đây là lần đầu chàng ra tay đánh người khác. Chàng đưa tay quờ quạng chụp một cái, làm sao trúng được một người võ công tuyệt đính là Cô Tô Mộ Dung? Bị y đánh ngược lại một chưởng, Đoàn Dự lại không biết tránh né, thành thử vỡ mày vỡ mặt đau không sao kể xiết.

Thế nhưng bàn tay Mộ Dung Phục chỉ lướt qua mặt chàng, bỗng thấy nội lực tuôn ra ngoài, rồi không còn tung tích gì cả, bàn tay cánh tay lập tức tê đi, giật mình kinh hãi: "Môn yêu thuật của phái Tinh Tú nổi tiếng thiên hạ tiểu tử này cũng học được rồi, mình phải cẩn thận". Y bèn chửi:

- Tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi đầu nhập phái Tinh Tú bao giờ thế?

Đoàn Dự ngơ ngác:

- Ngươi nói ...

Chưa dứt lời, ngờ đâu Mộ Dung Phục đá ra một cái khiến chàng lộn mèo. Mộ Dung Phục cũng không nghĩ mình đánh lén một cái lại dễ dàng đến thế, trong bụng mừng thầm, lập tức nhảy tới, chân phải đạp lên ngực Đoàn Dự, quát lớn:

- Ngươi muốn sống hay muốn chết?

Đoàn Dự nghiêng đầu qua thấy Tiêu Phong còn đang ác đấu với Trang Tụ Hiền, nghĩ bụng nếu mình nói bướng, y sẽ giết mình ngay, rồi lại rảnh tay tương trợ cho Trang Tụ Hiền, đại ca sẽ lại khó khăn nên phải cùng y diên trì được chút nào hay chút nấy, liền đáp:

- Chết thì có gì thú? Đương nhiên là sống trên cõi đời so ra vẫn hơn chứ.

Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự đến nước này vẫn còn nói bông lơn, sầm mặt xuống, quát:

- Nếu muốn sống thì ...

Y định bảo Đoàn Dự lạy mình một trăm cái cho y nhục nhã một phen trước đông người, nhưng chợt nghĩ ra y có bộ pháp xảo diệu, nếu thả ra thật chẳng dễ gì bắt lại, liền đổi giọng nói:

- ... gọi ta một trăm tiếng "ông ơi!".

Đoàn Dự cười nói:

- Ngươi chỉ hơn ta vài tuổi, làm sao là ông nội ta được? Nghe thối bỏ mẹ.

Mộ Dung Phục đánh vù ra một chưởng, trúng ngay bên cạnh đầu Đoàn Dự, lập tức bụi đất bay mù mịt, đất hằn thành một cái vũng, nếu chỉ nhích sang vài phân thì đầu Đoàn Dự sẽ nát nhừ. Mộ Dung Phục lại quát:

- Có gọi không thì bảo?

Đoàn Dự nghiêng đầu qua, tránh đất đá văng vào mặt, trong chớp mắt thấy đằng xa Vương Ngữ Yên đứng cạnh Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, đôi mắt đăm đăm nhìn mình nhưng vẻ mặt không một chút gì quan thiết, hiển nhiên trong lòng nàng đang nghĩ chẳng qua là: "Biểu ca có giết Đoàn công tử không nhỉ?". Nếu biểu ca nàng có giết Đoàn Dự chăng nữa, nàng cũng chẳng có gì phải thương tâm.

Chàng vừa thấy vẻ mặt Vương Ngữ Yên, đột nhiên trong lòng chán nản, chỉ mong sao lập tức chết dưới tay Mộ Dung Phục, để khỏi phải chịu mối tương tư dày vò, bèn ảo não đáp:

- Sao ngươi không gọi ta một trăm tiếng "ông ơi" đi?

Mộ Dung Phục giận quá, giơ chưởng phải lên, nhắm thẳng ngay mặt Đoàn Dự đánh xuống, bỗng thấy hai bóng người bay vụt đến như tên. Một người kêu lên:

- Đừng hại con ta!

Một người kêu lên:

- Đừng hại sư phụ ta!

Hai người tuy nhanh thật nhưng thế đến không thể nào cản kịp chưởng lực đánh xuống Đoàn Dự. Có điều Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần đều là những nhân vật võ công cực cao, hai luồng chưởng lực trước sau đánh vào chỗ yếu hại của Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục nếu không thu về chống đỡ, chưởng của y tuy đánh chết Đoàn Dự thật nhưng chính mình cũng bị trọng thương. Y lập tức rút tay phải về, gạt song chưởng của Đoàn Chính Thuần ra, tay trái khua lên một vòng sau lưng, hóa giải thế đánh của Nam Hải Ngạc Thần. Ba người chưởng lực chạm nhau, đều kinh hãi thấy đối phương võ công quả là ghê gớm. Đoàn Chính Thuần nóng lòng giải cứu con yêu, ngón tay trỏ bên phải dùng Nhất Dương Chỉ điểm ra, chiêu số đã quang minh chính đại mà nội lực lại hùng hồn.

Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Biểu ca cẩn thận, đây là Nhất Dương Chỉ của nhà họ Đoàn Đại Lý, không nên khinh địch.

Nam Hải Ngạc Thần rống lên ồ ồ:

- Con bà ngươi chứ, cái gã sư phụ bỏ mẹ của ta tuy chẳng ra đếch gì, nhưng cũng là thầy của Nhạc lão nhị. Ngươi đánh sư phụ ta thì có khác gì đánh Nhạc lão nhị? Nếu như sư phụ ta tham sống sợ chết, gọi ngươi một tiếng ông ơi, thì Nhạc lão nhị này từ nay còn ra cái giống gì nữa? Gặp ngươi biết gọi là gì cho phải? Chẳng phải là ngươi cao hơn ta đến ba bậc hay sao? Hóa ra ta thành thằng chắt rồi còn gì? Thế quả khinh người quá đỗi, hôm nay ta phải sống mái với ngươi.

Y mồm thì chửi rủa, tay lấy ngạc chủy tiễn ra, cắt bên trái, cắt bên phải, không ngừng xông vào Mộ Dung Phục. Y bình sinh sợ nhất là chuyện vai vế phải đứng dưới người, ngay trong Tứ Đại Ác Nhân mà cái tiếng lão nhị, lão tam cũng đã tranh giành với Diệp Nhị Nương. Hôm nay nếu như Đoàn Dự gọi Mộ Dung Phục một tiếng ông ơi, Nam Hải Ngạc Thần sẽ biến thành "thằng chắt" thì còn làm sao mà ngóc đầu lên nổi, thà đầu rơi xuống đất còn hơn chứ cái tiếng "chắt" không thể nào chịu nổi.

Mộ Dung Phục không biết y xí xố cái gì, chân phải vẫn đạp trên Đoàn Dự, hai tay chia ra đánh hai người. Sách giải đến hơn chục chiêu, thấy Nam Hải Ngạc Thần tuy có một món binh khí lợi hại nhưng lại dễ đối phó, còn Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần không thể coi thường, thành thử y chính diện chăm chú đấu với Đoàn Chính Thuần, còn dư lực mới hóa giải ngạc chủy tiễn, thỉnh thoảng mới dùng một hai chiêu đánh ép cho Nam Hải Ngạc Thần phải nhảy ra ngoài vài trượng tránh né.

Đoàn Dự bị y đạp xuống, cố gắng dãy dụa định nhỏm lên nhưng làm sao nổi? Đoàn Chính Thuần thấy con bị chế ngự, nghĩ thầm chân y chỉ cần nhấn xuống một cái, nhi tử ắt sẽ hộc máu chết ngay, trước mắt phải làm cách nào tốc chiến, cốt sao cứu được con ra đã rồi tính sau, nên thi triển Nhất Dương Chỉ vù vù đánh ập vào. Bỗng nghe có tiếng người eo éo nói:

- Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý vốn dĩ khí tượng sâm nghiêm, ung dung tiêu mục, trong cái uy mãnh vẫn không mất phong độ đế vương. Xem cái bộ ngươi đánh thí mạng như đứa ăn mày chưa có túi nào, sao gọi là Nhất Dương Chỉ được? Ha ha, ha ha, thế chẳng phải là để cho người ta coi rẻ họ Đoàn Đại Lý hay sao?

Đoàn Chính Thuần nghe tiếng chính là kẻ đại đối đầu Đoàn Diên Khánh, câu nói của y vốn chẳng sai, nhưng ái tử bị nạn, trong bụng rối bời, còn hơi sức đâu mà lo chuyện khí tượng ung dung, với chẳng phong độ vương giả? Nhất Dương Chỉ tung ra mỗi lúc một nặng, lúc này biến thành độc địa có thừa mà trầm ổn không đủ, vừa lúc một chỉ điểm ra, Mộ Dung Phục lại nhích tới, nghe soẹt một tiếng, điểm trúng ngay xương đòn gánh Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần kêu oai oái, chửi:

- Con bà ...

Nghe tiếng loảng xoảng, ngạc chủy tiễn tuột tay, rơi xuống trúng ngay ống quyển. Y vừa đau vừa tức, đang định ngoạc mồm rủa xả nhưng lại nghĩ ra: "Y là ông già của sư phụ, nếu ta chửi y, có phải làm loạn bối phận hay sao? Người này giết thì được nhưng không thể chửi, sau này nếu có cơ duyên, ta cắt soẹt cái đầu lâu y đi là xong ...".

Ngay khi đó, Mộ Dung Phục nhân lúc Đoàn Chính Thuần đánh nhầm đối thủ, tâm thần hơi nhãng, ngón tay giữa bên trái đâm ra, nhanh như điện điểm trúng ngay huyệt Trung Đình trên ngực Đoàn Chính Thuần.

Huyệt Trung Đình nằm bên dưới huyện Đãn Trung một tấc sáu phân. Huyệt Đãn Trung là khí hải của toàn thân, hội tụ của bách tức, hết sức trọng yếu, bị địch điểm trúng rồi, lập tức khí tức đóng chặt. Mộ Dung Phục biết đối phương tài giỏi, nếu như điểm được vào huyệt Đản Trung thì mới xong nhưng dẫu lệch ra như thế, Đoàn Chính Thuần cũng thấy ngực đau nhói, nội tức khó mà vận lên được.

Vương Ngữ Yên thấy biểu ca xuất chỉ trúng địch thủ rồi, vỗ tay reo lên:

- Biểu ca, chiêu Dạ Xoa Thám Hải đó hay quá!

Đúng ra phải điểm trúng biển khí ở huyệt Đãn Trung mới gọi là Dạ Xoa Thám Hải, nhưng nàng đối với ý trung nhân không khỏi vài phần rộng lượng, tuy chiêu dó còn sai một tấc sáu phân nhưng cũng nhập nhằng gọi là Dạ Xoa Thám Hải.

Mộ Dung Phục cũng biết chiêu này không điểm trúng yếu huyệt của địch, lập tức giáng thêm một đòn, hữu chưởng đánh ra, trúng ngay ngực Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần chưa kịp đổi hơi, không cách gì chống đỡ bị Mộ Dung Phục đánh mạnh một cái, một ngụm máu tươi hộc ra. Ông lo cho con nên vẫn không chịu lùi lại, vội vàng vận khí thì chiêu thứ hai của Mộ Dung Phục đã đánh tới.

Đoàn Dự đang bị đè dưới chân Mộ Dung Phục bỗng thấy phụ thân hộc máu mồm, chưởng thứ hai của Mộ Dung Phục lại đánh tiếp, trong lòng hoảng hốt, ngón tay trỏ bên phải chỉ vào y kêu lên:

- Sao dám đánh cha ta?

Trong cơn nguy cấp, nội lực tự nhiên theo ngón tay trỏ bật ra chính là Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ soẹt một tiếng, cánh tay áo của Mộ Dung Phục đã bị vô hình kiếm khí cắt đứt, kế đó kiếm khí đụng vào chưởng lực của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục chỉ thấy cánh tay tê rần, giật mình kinh hãi, vội vàng nhảy lùi lại.

Đoàn Dự được tự do rồi, lập tức nhỏm ngay lên, ngón tay út bên trái điểm ra, dùng chiêu Thiếu Trạch Kiếm bắn thẳng vào y. Mộ Dung Phục vội vung tay trái lên nghinh địch, soẹt soẹt hai tiếng, tay áo bên trái cũng bị kiếm khí cắt đứt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Công tử cẩn thận, đây là vô hình kiếm khí, dùng binh khí nhé?

Y rút kiếm khỏi bao, xoay cán kiếm lại ném cho Mộ Dung Phục. Đoàn Dự nghe thấy Vương Ngữ Yên reo hò khi Mộ Dung Phục đánh ngã cha mình, trong bụng đau xót, nội lực cuồn cuộn tuôn ra, cùng một lúc Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch lục mạch kiếm pháp tung hoành múa may, tùy tâm ứng thủ tưởng như có thần nhập vào.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#kiet