Thiên Long Bát Bộ 12 - 22

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ngư Tiều Canh Độc

Mộc Uyển Thanh ngẩn người ra một lúc rồi đem đặt sáu cái xác hài nhi vào

một chỗ. Nàng lấy đá và đất cát lấp lên để làm cái mộ. Bỗng phía sau cảm

thấy một luồng gió thổi đến mát rợi. Nàng ứng biến rất mau lẹ, nhún chân

trái lên một chút, đưa người về phía trước tránh khỏi. Chợt thấy phía sau

nổi lên một trận cười the thé như tiếng kim khí cọ xát vào nhau, kế đến

tiếng gọi:

- Tiểu cô nương! Chồng cô chết rồi, cô còn mơ tưởng làm chi nữa? Âu là cô

theo ta có hơn không?

Chính là lão Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc. Lão vừa nói vừa giơ những

ngón tay nhọn hoắt toan chụp lấy vai Mộc Uyển Thanh. Bỗng mé bên đánh

bịch một tiếng, một bàn tay phóng ra gạt phắt tay Vân Trung Hạc: đó là

Nam Hải Ngạc Thần nổi hung oang oang quát:

- Lão tứ! Ta bảo cho mi biết: phái Nam Hải ta không cho mi càn rỡ thế đâu!

Vân Trung Hạc không nắm được Mộc Uyển Thanh, nhảy ra xa đến ngoài

mời trượng tránh Nam Hải Ngạc Thần rồi vừa cười vừa nói:

- Tam ca có thu được chồng thị làm đồ đệ đâu mà nhận thị làm người của

phái nam hải?

Mộc Uyển Thanh nhìn Vân Trung Hạc người cao lêu nghêu, lại gầy như

que củi, toàn thân trông như cây gậy tre, bộ mặt dài hoãng trông mà phát

khiếp. Lão mở miệng cười thì ngọn lưỡi đỏ hỏn như máu duỗi ra co vào

chẳng khác chi con mãng xà.

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên:

- Sao mi biết đồ đệ ta không tới? Phải chăng mi giết chết đồ đệ ta rồi? Chắc

là mi thấy y có tư cách đặc biệt hơn đời, muốn thu y làm đồ đệ. Mi bức

bách song y không chịu nên mi giết đi, thế là mi phá tan sự nghiệp của ta

rồi! Ta phải đập chết mi trước rồi sau sẽ hỏi tội.

Nam Hải Ngạc Thần là người hung hãn có một, lão chẳng thèm hỏi Vân

Trung Hạc xem có phải y đánh chết trò lão hay không, lão cứ hùng hùng hổ

hổ nhảy xổ vào đánh Vân Trung Hạc.

Vân Trung Hạc kêu lên:

- Nào tôi có biết đồ đệ lão mặt ngang mũi dọc ra làm sao mà bảo tôi thu

nạp nó mới được chứ?

Lão tứ vừa nói vừa tránh khỏi một cách rất lẹ làng hai đòn Nam Hải Ngạc

Thần đánh tới nhanh như chớp nhoáng.

Nam Hải Ngạc Thần vẫn xỉ mắng thậm tệ:

- Quân chó đẻ! Ai mà tin miệng mi được? Mi đánh nhau với kẻ khác bị

thua, rồi đem nỗi căm hờn trút lên đầu đồ đệ ta.

Vân Trung Hạc hỏi:

- Đồ đệ lão huynh trai hay gái?

Nam Hải Ngạc Thần đáp:

- Mi còn hỏi vẩn vơ? Ta thu nữ đồ đệ về làm gì?

Vân Trung Hạc nói:

- ồ thế thì Vân Trung Hạc này chỉ cướp bắt đàn bà con gái, chứ có thu nạp

con trai bao giờ? Lão huynh chưa biết sao?

Nam Hải Ngạc Thần đang nhảy vọt lên trên không nghe Vân Trung Hạc nói

có lý liền sa xuống, chân phải đặt chênh vênh lên tảng đá quát hỏi:

- Thế thì đồ đệ ta đi đâu mà đến bây giờ chưa lại làm lễ bái kiến sư phụ?

Vân Trung Hạc cười sằng sặc nói:

- Tôi biết đâu đấy? Rỗi hơi đâu mà theo dõi công việc của phái Nam Hải.

Nam Hải Ngạc Thần chờ Đoàn Dự đã bảy ngày, ruột nóng như điên, lửa

giận không có chỗ nào phát tiết, tức quá gầm lên:

- à mi nhạo báng ta phải không?

Mộc Uyển Thanh đứng ngoài nghĩ thầm: ta nhân cơ hội này chọc cho hai

lão đánh nhau chí mạng kể cũng hay vô cùng. Nàng bèn nói xen vào:

- Đúng là Vân Trung Hạc bắt Đoàn lang đem vào chỗ hẻo lánh giết đi, cốt

triệt phái Nam Hải mất một nhân vật ghê gớm sau này.

Nam Hải Ngạc Thần vỗ trán quát hỏi Vân Trung Hạc:

- Lão tứ! Mi có nghe vợ đồ đệ ta nói đó không? Mi còn kêu oan nữa thôi?

Mộc Uyển Thanh vừa khóc vừa nói tiếp:

- Sư phụ ơi! Đoàn lang có bảo tiểu nữ rằng: chàng gặp được một nhân vật

như sư phụ thu nạp làm đồ đệ thật là đã tu mấy kiếp. Chàng sẽ cố công rèn

luyện võ nghệ, làm rạng rỡ phái Nam Hải, để cái tên Nam Hải Ngạc Thần

của sư phụ càng thêm khét tiếng khắp thiên hạ, để bọn ác quán mãn doanh,

vô ác bất tác trông thấy phải thèm nhỏ rãi ra. Ai ngờ lại bị Vân Trung Hạc

sinh lòng độc ác, đang tay giết mất đồ đệ của sư phụ. Rồi sư phụ tìm đâu ra

tên đồ đệ được như chàng?

Mỗi câu Mộc Uyển Thanh nói là Nam Hải Ngạc Thần lại vỗ trán gật đầu.

Nàng tiếp:

- Xương hậu chẩm Đoàn lang giống hệt như sư phụ, thiên tư chàng cũng

thông minh chẳng kém gì sư phụ. Nếu chàng không bị hại thì trên thế gian

này quyết không còn ai kiếm được một người thứ hai thập phần hoàn hảo

như chàng. Mà sau này phái Nam Hải tất nhiên phải nhảy lên hàng đầu các

phái khác. Quái ác lão Vân Trung Hạc này vì lòng ghen tức, ngấm ngầm

theo dõi để phá đại cuộc của sư phụ. Thế mà sư phụ không báo thù cho đồ

đệ, tiểu nữ e rằng thiên hạ sẽ phỉ nhổ sư phụ là người hèn nhát để kẻ khác

giết trò mình, phá hoại môn phái nhà mình cũng phải chịu.

Nam Hải Ngạc Thần nghe tới đây, mặt đỏ bừng, mắt nẩy lửa, hét lên một

tiếng thật to, nhảy xổ vào Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc biết mình võ

công không bằng Nam Hải Ngạc Thần, lại kém cả cái tính thô lỗ nông nổi,

dễ bị người lừa. Lão lại biết rõ Nam Hải Ngạc Thần bị Mộc Uyển Thanh

khiêu khích, không thể phân trần ngay được, âu là tránh voi chẳng xấu mặt

nào. Thấy Nam Hải Ngạc Thần xô tới, lão không kháng cự chi hết, cắm đầu

chạy dài.

Nam Hải Ngạc Thần nhảy xổ vào, vừa đặt hai chân chấm đất, Mộc Uyển

Thanh lại gọi to:

- Lão tứ bỏ chạy rồi! Nếu y không giết đồ đệ của lão gia, sao không đứng

lại mà cãi lại chạy trốn luôn?

Nam Hải Ngạc Thần kêu rống lên:

- Lão tứ! Mi phải đền mạng cho đồ đệ ta.

Hai người một chạy trước, một đuổi sau, chớp mắt đã quanh ra phía sau núi.

Mộc Uyển Thanh mừng thầm. Chốc lát lại nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần

gầm lên mỗi lúc một về gần. Hai người đuổi nhau vòng mé sau núi quanh

về.

Vân Trung Hạc về môn khinh công cao hơn Nam Hải Ngạc Thần nhiều,

chạy chân không chấm đất. Cái thân hình nhỏ bé, cao lêu nghêu tựa như bay

loang loáng trên không gian. Nam Hải Ngạc Thần đuổi sau lão một quãng

khá xa, không tài nào kịp. Hai người chỉ thoáng qua trước mặt Mộc Uyển

Thanh chớp mắt đã lại chuyển qua mé sau núi. Vân Trung Hạc chạy trở lại

lần thứ hai thấy Nam Hải Ngạc Thần vẫn còn ở đằng xa, liền xoè bàn tay

chụp lấy Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh thất kinh vẫy tay phải một cái

nghe đánh "vút": mũi tên độc phóng ra. Vân Trung Hạc né qua bên trái nửa

thước tránh khỏi. Không hiểu lão chuyển mình thế nào mà quờ tay đến

trước mặt Mộc Uyển Thanh. Nàng vội né tránh, vì chậm một chút thấy gió

thổi vào má mát rợi, thì ra tấm khăn che mặt đã bị lão giật mất, đang cầm

trong tay.

Vân Trung Hạc thấy Mộc Uyển Thanh dung nhan tuyệt thế, ngây người ra

mà nhìn, cười một cái rất lẳng lơ, khen bằng một giọng the thé rất khả ố:

- Đẹp tuyệt! Cô nương thật là đẹp tuyệt! Cô nương tài mạo mười phần...

Chưa dứt lời, Nam Hải Ngạc Thần đuổi đến nơi, phóng ra một chưởng đánh

vào phía sau. Vân Trung Hạc dừng chân, vận nội công, đánh lại một

chưởng. Hai luồng điện lực chạm nhau phát ra tiếng nổ rùng rợn. Mộc Uyển

Thanh bị một trận ngạt thở vì sức ép của không khí. Một vùng đường kính

rộng chừng hơn mười trượng đất cát bay lên mù mịt. Vân Trung Hạc mượn

đà ở sức mạnh chưởng lực của Nam Hải Ngạc Thần nhảy vọt ra xa hơn hai

trượng.

Nam Hải Ngạc Thần thét lên:

- Mi nếm thêm một chưởng nữa của ta đây!

Vân Trung Hạc cười nói:

- Lão huynh đuổi không kịp tôi đâu! Mà tôi có đánh cũng không lại huynh,

dù có đánh cả ngày cả đêm cũng chỉ diễn ra cái trò đuổi nhau mãi thế này

mà thôi, chả ai làm gì được ai.

Hai người đuổi nhau đã xa mà cát bụi vẫn còn mù mịt. Mộc Uyển Thanh

nghĩ bụng: ta phải tìm cách cản đường Vân Trung Hạc. Nếu cứ để mặc họ

thế này thì vĩnh viễn Nam Hải Ngạc Thần không đuổi kịp Vân Trung Hạc.

Nàng chờ cho Vân Trung Hạc vòng trở lại lần thứ ba gần tới nơi, xông ra

đón đường, phất tay phải luôn mấy cái: sáu bảy mũi tên nhằm Vân Trung

Hạc phóng tới, rồi nàng quát to:

- Ngươi phải thường mạng cho lang quân ta đây!

Vân Trung Hạc nghe trên không vang lên những tiếng "vút vút vút", ám tiến

bay đến rất là ghê gớm, lão phải liên tiếp nhô lên cao, cúi rạp xuống để

tránh. Mộc Uyển Thanh tuốt kiếm "soạt" một cái, nhằm Vân Trung Hạc

đâm luôn hai nhát. Vân Trung Hạc hiểu rõ tâm lý nàng, không rút khí giới

ra đối địch, chỉ lạng người né tránh. Dù mau lẹ tới đâu Vân Trung Hạc cũng

phải dừng lại giây lát đối phó với Mộc Uyển Thanh. Nhân thế mà Nam Hải

Ngạc Thần đuổi tới nơi, phóng luôn cả hai bàn tay dồn dập chởng lực chụp

lấy Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc nhe răng ra cười nói:

- Lão tam! Sở dĩ ta phải nhường nhịn ngươi mấy lần là để khỏi tổn thương

hoà khí trong bọn Tứ ác với nhau mà thôi, chứ ta sợ gì ngươi?

Nói rồi lão thò tay về phía sau rút cương trảo ra, hai tay cầm hai cây. Cương

trảo dài ba thước, trên ngọn có bàn tay giống như tay người, ngón tay xoè

ra, ngoài đầu ngón tay đều có ánh sáng lập loè. Vân Trung Hạc cầm cây

trảo tay trái quay về phía hữu, cây trảo tay mặt quay về phía tả, che trước

mình dường như để giữ thế thủ, chứ không ra kiểu để tấn công.

Nam Hải Ngạc Thần ra chiều hớn hở nói:

- Giỏi đấy nhỉ! Hãy coi khí giới của lão gia đây!

Nói rồi rút khí giới trong bọc đeo trên lưng ra. Mộc Uyển Thanh biết mình

có xông vào vòng chiến cũng chỉ nhọc mình vô ích liền lui về phía sau mấy

bước. Nam Hải Ngạc Thần tay cầm một thanh đao hình thù rất lạ, lưỡi dài

có răng sáng loáng giống hình răng cá sấu nên gọi là Ngạc chuỷ tiễn, tay

trái sử cây roi có răng cưa giống như đuôi cá sấu nên gọi là Ngạc Vĩ Tiến.

Vân Trung Hạc liếc mắt nhìn hai thứ khí giới khác thường của Nam Hải

Ngạc Thần rồi đột nhiên giơ cây cương trảo bên hữu lên quay về phía Nam

Hải Ngạc Thần bổ xuống. Nam Hải Ngạc Thần vung cây Ngạc Vĩ Tiến,

cầm nơi tay trái lên gạt đánh "chát" một tiếng. Vân Trung Hạc nhanh như

chớp, chưa rút cây cương trảo ở tay phải về cây trảo nơi tay trái đã bổ theo.

Bỗng nghe đánh choang một tiếng, Nam Hải Ngạc Thần đã vung cây Ngạc

chuỷ tiễn lên cho răng cắn vào cây cương trảo của Vân Trung Hạc. Cương

trảo này đánh toàn bằng thép tốt, cứng rắn vô cùng còn cây Ngạc chuỷ tiễn

không biết đúc bằng thứ gì mà nghiến đứt được hai trong năm ngón tay ở

cây cương trảo. ấy là nhờ Vân Trung Hạc mau lẹ vô cùng, rút cương trảo về

nhanh nên mới còn lại ba ngón. Vân Trung Hạc đã luyện rất thành thục

phép đánh cương trảo. Cả mười ngón tay ở hai cây thì mỗi ngón có một tác

dụng riêng, cụt mất hai ngón sức mạnh cũng bị giảm đi một phần. Nam Hải

Ngạc Thần bẻ gãy được hai ngón cương trảo rồi vừa cười vừa khoa roi Ngạc

Vĩ Tiến quất ngược lên thì đột nhiên một bóng xanh ở đâu lẹ làng len vào

giữa hai bên. Tưởng ai té ra là Diệp Nhị Nương. Tay trái mụ khẽ đẩy cây

Ngạc Vĩ Tiến cho Vân Trung Hạc nhảy ra ngoài.

Diệp Nhị Nương hỏi:

- Lão tam! Lão tứ! Tại sao người trong một nhà lại đánh nhau?

Mụ vừa hỏi vừa liếc mắt nhìn dong mạo Mộc Uyển Thanh. Bất giác mụ sa

sầm mặt xuống vì có bản tính căm tức bất kỳ ai duyên dáng hơn mụ, huống

chi Mộc Uyển Thanh lại là một trang tuyệt thế giai nhân, khiến người nào

trông thấy mặt nàng cũng phải mê hồn.

Mộc Uyển Thanh lại thấy Diệp Nhị Nương bồng trên tay một đứa con trai

nhỏ chừng ba bốn tuổi thì biết ngay mụ vừa xuống núi lúc nãy là đi lùng trẻ

con về hút máu.

Diệp Nhị Nương đã về tới, dĩ nhiên là cuộc giao đấu giữa Nam Hải Ngạc

Thần và Vân Trung Hạc phải chấm dứt. Mộc Uyển Thanh thấy mắt mụ

phóng ra những tia sáng kỳ dị mà phát sợ, phải quay đi chỗ khác, không

dám nhìn thẳng vào mặt mụ nữa. Đứa nhỏ bỗng la inh ỏi:

- Gia gia ơi! sơn sơn về với gia gia kia!

Diệp Nhị Nương lại giở giọng hiền từ ra dỗ nó:

- Sơn sơn ngoan! Nín ngay đi! nín ngay đi! chờ chút xíu nữa gia gia sẽ đến

mà.

Mộc Uyển Thanh nhớ đến xác sáu đứa trẻ quăng ra bụi rậm lúc nãy, giờ lại

nghe cái giọng từ ái thân thiết của mụ vỗ về đứa nhỏ, nàng càng sởn gai ốc

rùng mình.

Vân Trung Hạc hỏi Diệp Nhị Nương:

- Nhị tỷ! Lão tam vừa luyện được thanh Ngạc chuỷ tiễn và cây Ngạc Vĩ

Tiến cực kỳ lợi hại. Tôi vừa cùng lão thử mấy đường chơi nhưng không thể

nào địch lại được hai thứ khí giới ghê gớm của lão. Còn nhị tỷ trong mời

năm nay có gì mới lạ không? Liệu còn địch lại lão với hai thứ khí giới mới

đó chăng?

Vân Trung Hạc tuyệt không đả động gì đến chuyện Nam Hải Ngạc Thần

ngờ oan cho mình đã giết đồ đệ của lão cả, mà chỉ nói mấy câu cốt để kích

thích Diệp Nhị Nương đánh bại lão Nam Hải Ngạc Thần cho bõ ghét.

Nhưng ngay từ lúc trên đường về, đang đi lên núi Diệp Nhị Nương đã nhìn

thấy rõ hai lão đánh nhau chí mạng đâu phải cuộc luyện võ bình thường?

nên mụ cười ruồi đáp:

- Mười năm nay ta chỉ luyện nội công thôi, chểnh mảng các món binh khí,

nhất định không địch nổi hai người nữa.

Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc đều nghĩ thầm: trước nay mụ vẫn

dùng lối đánh dai dẳng để ăn người, còn về nội công cũng bình thường thôi.

Trong mười năm qua mụ đã khổ công luyện tập võ nghệ mà lại chuyên về

môn nội công thì tất mụ gặp được thầy giỏi, có bí quyết về môn này rồi đây.

Nên nhớ rằng nội công là một môn võ nghệ so với ngoại công còn có phần

ghê gớm hơn. Nếu luyện nội công đến chỗ cao siêu tuyệt đỉnh thì có thể chế

phục được ngoại công một cách dễ dàng.

Nam Hải Ngạc Thần toan cất tiếng nói thì bất thình lình một tiếng quát lớn

từ phía sau núi vang lại:

- Bớ yêu phụ! Mi cướp con ta làm chi? Phải trả lại cho ta mau!

Tiếng quát vừa dứt Mộc Uyển Thanh thấy một người mặc áo bào bằng thứ

vóc da đồng, tay cầm thanh trường kiếm xồng xộc đi lên, tưởng là ai, hoá ra

Tả Tử Mục, chưởng giáo phe Đông phái Vô Lượng. Nàng bất giác rùng

mình vì biết Diệp Nhị Nương xuống núi Vô Lượng, không kiếm đâu được

hài nhi để uống máu nên cướp ngay chính con trai Tả Tử Mục đem về.

Diệp Nhị Nương nói:

- Tả tiên sinh! Ta thấy lệnh lang kháu khỉnh, mượn về chơi một bữa. Sáng

mai ta sẽ đem trả mà, hà tất phải nóng nảy?

Mụ vừa nói vừa hôn hít, vuốt ve Sơn Sơn. Tả Sơn Sơn thấy cha đến vừa khóc

vừa gọi to:

- Gia gia! Gia gia!

Tả Tử Mục bước lại gần chìa tay trái ra nói:

- Đứa nhỏ này xấu xí có đáng gì đâu? Xin trả lại cho ta!

Nam Hải Ngạc Thần cười bảo:

- Vào tay ai chả nói, chứ đã vào tay Diệp Tam Nương thì đến ngay hoàng tử

hay công nương, con đức hoàng đế cũng đừng hòng mụ trả lại nữa.

Tả Tử Mục nghe đoạn rùng mình hỏi:

- Ông nói Diệp... Diệp tam nương nào đó? Bà ta có họ hàng thân thích gì

với Diệp Nhị Nương không?

Tả Tử Mục thường nghe Diệp Nhị Nương mỗi ngày hút máu tươi một đứa

trẻ đã ngờ ngay Diệp Tam Nương cũng là chị em gì với Diệp Nhị Nương và

nếu cũng một tính cách như Diệp Nhị Nương thì thật là hỏng bét.

Diệp Nhị Nương hớn hở, cười rất tươi đáp:

- Lão tam này hay nói chuyện bâng quơ chứ trên cõi đời này có ai là Diệp

Tam Nương đâu chỉ có Diệp Nhị Nương là ta đây.

Tả Tử Mục mặt cắt không còn hột máu. Từ lúc con lão bị bắt, lão cố sức

đuổi theo mụ. Trên đường lão biết võ công mụ hơn mình nhiều lắm. Ban

đầu lão chỉ tưởng mụ là một người đàn bà nào chưa quen biết, lại không thù

oán gì với mình dù con mình có bị bắt cũng chả đến nỗi nào. Bây giờ biết ra

chính mụ là người thứ hai trong thiên hạ Tứ ác, tên gọi Diệp Nhị Nương thì

chẳng còn hồn vía nào nữa. Lão muốn nói thêm mà dường như có vật gì

chẹn họng làm cho lão nghẹn lời, không thốt ra được.

Diệp Nhị Nương tiếp:

- Ngươi trông đây! Đứa nhỏ này nhuận da, thắm thịt, sắc huyết đỏ tươi, óng

ánh trong lớp da mịn, lại là con nhà có danh tiếng, so với nông phu, điền tốt

thật khác nhau một trời một vực.

Mụ vừa giơ đứa nhỏ ra ánh mặt trời để soi sắc huyết vừa tấm tắc khen hoài,

tựa hồ như các bà đi chợ mua gà, vịt, thịt, cá chọn miếng tươi, miếng ngon.

Tả Tử Mục nghe mụ vừa nói vừa nuốt nước miếng ra vẻ thèm khát, những

muốn đem con mình ăn tươi nuốt sống thì sợ hãi và căm tức vô cùng. Tuy

lão đã biết rõ không thể địch nổi mụ nhưng cũng liều chết rút kiếm ra vung

lên theo thế "Hữu Phụng lai nghi" nhằm cổ Diệp Nhị Nương phóng tới.

Diệp Nhị Nương chỉ cười lạt, giơ Sơn Sơn ra đỡ. Nếu Tả Tử Mục phóng

thẳng đà thì lỡi kiếm đâm suốt qua mình đứa trẻ, nhưng kiếm thuật lão đã

rất mực tinh vi, đường kiếm đang phóng mạnh, thấy vậy lão dừng lại kịp rồi

đa trệch sang bên để đổi thành thế "Thiên mã hành không" đâm vào vai

Diệp Nhị Nương. Diệp Nhị Nương không né tránh lại khẽ đưa Sơn Sơn sang

bên để che thân mình. Tả Tử Mục lại phải đổi đường kiếm, chớp mắt lão đã

đổi luôn năm thế. Diệp Nhị Nương chỉ việc từ từ đưa qua đưa lại đứa nhỏ để

đỡ khiến cho Tả Tử Mục đang đâm lại phải thu kiếm, không làm gì được

mụ.

Vân Trung Hạc bị Nam Hải Ngạc Thần đuổi mấy vòng, lại bị gãy mất hai

ngón tay cương trảo, đang tức mình chưa có chỗ trút hận, đột nhiên nhảy xổ

tới, tay trái cầm cương trảo bổ xuống đầu Tả Tử Mục. Tả Tử Mục hoa

ngược kiếm lên, dùng thế "Vạn huỷ tranh diện", những ánh kiếm vây bọc

lấy thượng bàn để chống đỡ. Hai thứ binh khí chạm vào nhau bật ra những

tiếng loảng choảng ghê người.

Tả Tử Mục chuyển sang thế "Thuận thuỷ thôi chu" toan đưa mũi kiếm đâm

vào yết hầu bên địch, thì bỗng nhiên những ngón tay cương trảo khép lại,

giữ chặt lấy lưỡi kiếm. Nguyên cây cương trảo của Vân Trung Hạc có đặt

máy cực kỳ linh diệu, chỉ việc ấn cái lò xo là những ngón tay sẽ mở ra hay

khép lại theo ý người sử dụng nó, chẳng khác gì ngón tay người thật.

Tả Tử Mục là tôn sư một phái võ có danh tiếng, kiếm pháp đã vào hạng

thượng thừa. Tuy so với Vân Trung Hạc còn kém xa thật nhưng chẳng lẽ

mới đánh có hai đường đã chịu thua ngay. Lão không chịu buông tay kiếm

vội vận nội công, gắng sức giật mạnh một cái, lạng hẳn người đi. Vân Trung

Hạc nhanh như cắt, vội chụp ngay cây cương trảo ở tay phải xuống, trúng

ngay vai lão. Cũng may mà cây cương trảo này có năm ngón, Nam Hải

Ngạc Thần đã cắt mất hai nên Tả Tử Mục mới bị thương nhẹ đi một chút

nhưng cũng máu chảy đầm đìa. Ba ngón tay cây cương trảo bám riết lấy

xương vai lão, không sao gỡ ra được. Vân Trung Hạc tiến lại, bồi thêm cho

một cái đá. Tả Tử Mục ngã lăn xuống đất. Thế là mới trong khoảnh khắc,

một vị chưởng giáo phái võ khá nổi tiếng đã bị loại ra ngoài vòng chiến.

Nam Hải Ngạc Thần khen Vân Trung Hạc:

- Lão tứ giỏi đấy! Cương trảo của ngươi vẫn còn tốt chán.

Diệp Nhị Nương cười hỏi Tả Tử Mục:

- Tả đại chưởng giáo! Ngươi có gặp đại ca bọn ta không?

Vai bên hữu Tả Tử Mục bị cương trảo quặp chặt, không nhúc nhích được.

Lão cố nhịn đau đáp:

- Đại ca mụ là ai? Ta chưa được gặp bao giờ.

Nam Hải Ngạc Thần cũng hỏi lão:

- Ngươi có gặp đồ đệ ta không?

Tả Tử Mục đáp:

- Đồ đệ ngươi là ai? Ta cũng không gặp.

Nam Hải Ngạc Thần giận nói:

- Ngươi đã bảo ngươi không biết đồ đệ ta, sao ngươi còn nói là không gặp

y? Quân chó đẻ này thật là khả ố. Này tam muội đem con y ra mà hút máu

đi!

Diệp Nhị Nương nói:

- Bữa sáng nay ta đã dùng rồi. Hãy để nó đấy! Này Tả đại chưởng giáo!

Thôi ngươi đi đi ta tha chết cho đó!

Tả Tử Mục ấp úng:

- Diệp... Diệp Nhị Nương! Nếu Nhị Nương đã tha tôi, thì trả luôn cả con lại

cho tôi, tôi sẽ kiếm ba bốn đứa nhỏ khác đem đến đánh đổi và cảm ơn đức

nhị nương vô cùng.

Diệp Nhị Nương cười hì hì đáp:

- Vậy càng hay! Ngươi tìm tám đứa nhỏ đến đây ta đổi cho! Bọn ta đây bốn

người, mỗi người bồng hai đứa, vậy là ngươi cung cấp cho ta được tám ngày

lương thực. Lão tứ! Tha cho y về!

Vân Trung Hạc bấm nút lò xo cho các ngón tay cương trảo há ra. Tả Tử

Mục được buông tha, nghiến răng đứng dậy vái dài Diệp Nhị Nương rồi thò

tay ra toan ãm đứa nhỏ. Diệp Nhị Nương cười nói:

- Ngươi cũng là một nhân vật trong đám giang hồ mà sao không hiểu lề luật

chi cả? Ngươi phải đem tám đứa nhỏ lại đây, ta mới đổi cho chứ!

Tả Tử Mục thấy con mình bị Diệp Nhị Nương giữ trong bọc, rất lấy làm

khó chịu nhưng ở vào tình thế không làm thế nào được đành gật đầu nói:

- Tôi về kiếm tám đứa nhỏ mập mạp đem đến, mong rằng Nhị Nương gượng

nhẹ con tôi cho.

Diệp Nhị Nương không thèm trả lời, miệng cất tiếng hát ru đứa nhỏ. Tả Tử

Mục gọi con:

- Sơn Sơn con ơi! Con ngoan lắm! Hãy ở đây chờ gia gia! Lát nữa gia gia

trở lại ngay để đón con về.

Sơn Sơn cứ khóc, gọi ầm lên, nằng nặc đòi nhẩy ra với cha. Tả Tử Mục xiết

bao bịn rịn, nhìn con không chớp mắt, tay trái nắm lấy chỗ vai bị thương rồi

trở gót quay đi.

Mộc Uyển Thanh đã nghe hết đầu đuôi câu chuyện, nghĩ bụng: chuyến này

Tả Tử Mục về tất bắt bọn môn đồ cùng bọn thủ hạ vào các nông dân phụ

cận, xục tìm trẻ con, bắt tám đứa đánh đổi một. Đành rằng phụ tử tình

thâm, không còn cách nào làm khác được. Nhưng như thế là ích kỷ thái quá.

Chỉ trong khoảnh khắc nữa là có tám đứa trẻ vô tội chết oan. Nàng không

còn thì giờ tính toán lâu nữa, nhảy ra đón đường Tả Tử Mục, và quát to lên

rằng:

- Tả Tử Mục! Ngươi về đi cướp con người đến thế mạng cho con mình, thế

mà không biết nhục ? Ta tưởng ngươi không còn mặt mũi nào giữ chưởng

giáo một phái võ nữa.

Tả Tử Mục cúi gằm mặt xuống đáp:

- Cô nương dạy chí phải! Tả Tử Mục này không còn mặt mũi nào đứng ở

trong phái võ lâm trên đời nữa. Từ đây đành quẳng kiếm, rửa tay, tìm chốn

mai danh ẩn tích.

Mộc Uyển Thanh cầm ngang lưỡi kiếm nói:

- Ta không cho ngươi xuống núi đâu!

Bất thình lình từ mấy ngọn núi đằng xa đưa lại một hồi tiếng hú tựa như

rồng gầm. Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc đều hớn hở vui mừng

reo lên:

- Đại ca đến nơi rồi!

Hai người vội vã vùng dậy lớn tiếng đáp lại, rồi nhằm phía có tiếng hú chạy

nhanh như bay. Chớp mắt hai người đã khuất vào phía sau núi. Diệp Nhị

Nương cứ giả vờ như không thấy gì, thản nhiên thí dỗ đứa nhỏ, rồi quay

sang liếc nhìn Mộc Uyển Thanh, tươi cười hỏi:

- Mộc cô nương! Cô nương cũng có lòng nghĩa hiệp lắm nhỉ!

Mộc Uyển Thanh cũng đưa mắt nhìn Diệp Nhị Nương thì vừa gặp lúc mụ

đang ngó nàng. Nàng bỗng run lên cầm cập, nắm chặt chuôi kiếm, bàn tay

toát mồ hôi lạnh ngắt.

Diệp Nhị Nương trên môi thoáng một nụ cười nham hiểm nói:

- Cô có đôi mắt xinh quá! Cô đổi quách cho tôi! Lại đây để tôi móc mắt cô

ra.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Đổi cũng được! Nhưng mụ móc mắt mụ ra trước đã!

Diệp Nhị Nương nói:

- Cô phải móc mắt cô ra trước đi! Tả đại chưởng giáo! Ngươi lại móc mắt

tiểu cô nương kia giùm ta!

Thực ra Tả Tử Mục cũng chẳng muốn sinh sự với Mộc Uyển Thanh nhưng

vì nghĩ tới con mình còn ở trong tay Diệp Nhị Nương nên bất đắc dĩ phải

vâng lời mụ. Lão cầm thanh trường kiếm quát lên:

- Mộc cô nương! Cô nghe lời Diệp Nhị Nương đi là hơn, để khỏi bị đau đớn

ê chề.

Nói rồi đâm Mộc Uyển Thanh một nhát. Mộc Uyển Thanh thét lên:

- Mi thật là đứa tiểu nhân, vô liêm sỉ.

Nàng vung kiếm lên chém lại. Hai thanh kiếm chạm vào nhau bật lên tiếng

kêu "choang choảng". Thuận đà Mộc Uyển Thanh đưa kiếm đâm thẳng vào

vai bên trái Tả Tử Mục. Thực ra Mộc Uyển Thanh chỉ đấu với Tả Tử Mục

một cách lờ vờ, mới đánh có ba đường nàng đã xoay mình qua mé tả rồi đột

nhiên tay trái khẽ phất ra phía sau. "Vút vút vút" ba mũi tên nhằm Diệp Nhị

Nương bay tới. Những tên này phóng ngầm ra cực kỳ hiểm ác, để đánh Nhị

Nương trong lúc bất ngờ. Tả Tử Mục thoáng thấy vội kêu lên:

- Đừng làm chết con ta.

Không ngờ Diệp Nhị Nương thấy ba mũi tên vèo tới, mụ chỉ phất tay áo

một cái cuốn gọn cả, hất ra một bên. Rồi tiện tay rút chiếc giày nhỏ ở chân

Tả Sơn Sơn, nhằm phía Mộc Uyển Thanh liệng tới. Mộc Uyển Thanh vừa

nghe tiếng gió thổi đến, giơ kiếm quay lại gạt. Chiếc giày trợt qua mũi

kiếm, bắn trúng vào vai bên hữu nàng đánh "phụp" một tiếng. Mộc Uyển

Thanh mới bị trọng thương chưa khỏi hẳn, đã phải vận động nội công lên

chống đỡ lại sức mạnh của cái giày ném vào. Nàng đau ê cả người, thanh

kiếm rời khỏi tay rớt xuống đất đánh choang một tiếng. Ngay lúc ấy, Diệp

Nhị Nương rút nốt chiếc giày thứ hai ở chân Tả Sơn Sơn phóng tới, trúng

vào sau lưng Mộc Uyển Thanh. Mắt nàng hoa lên, chân tay bủn rủn, không

đứng vững được nữa, phải ngồi bệt xuống đất. Tả Tử Mục chỉ mũi kiếm lên

ngực nàng, tay trái đưa ra móc mắt bên phải nàng. Mộc Uyển Thanh khẽ

gọi lên một tiếng: Đoàn lang chàng hỡi. Rồi hất mình lên trước để mũi kiếm

của Tả Tử Mục xiên vào tim cho chết trước khi chịu cái nhục bị móc mắt.

Bất thình lình, ánh bạch quang loé lên một cái, thanh trường kiếm của Tả

Tử Mục bay lên trên không, đồng thời hất lão té lăn ra, lùi về phía sau ba

bước. Cả ba người giật nảy mình, chẳng ai bảo ai đều nhìn lên xem thanh

trường kiếm từ đâu bay đến. Thì ra nó bị một sợi dây câu cuốn đi. Một đầu

dây buộc vào cái cần trúc do một ngư nhân áo tơi, nón lá cầm ở trong tay.

Ngư nhân trạc ba mươi tuổi, vẻ mặt oai hùng khiến ai trông thấy cũng phải

khiếp phục, gã miệng cười khanh khách tỏ vẻ đắc ý.

Diệp Nhị Nương nhận ra trước đây bảy ngày, gã đã đánh nhau với Vân

Trung Hạc, võ công vào hạng không vừa. Nhưng mụ tự lượng gã còn kém

mình nên mụ không sợ. Song mụ chưa hiểu bữa trước còn người nữa cùng đi

với gã có đến đây không? Mụ liếc mắt nhìn sang phía khác, quả thấy một

đại hán đứng ở bên mé tả. Gã đại hán này sau lưng có một cuộn dây và dắt

một cây búa sắt.

Diệp Nhị Nương vừa toan lên tiếng, chợt thấy sau lưng có tiếng động rất

khẽ, vột xoay mình lại xem thì thấy ở góc đông nam và góc tây nam đều có

một người đứng. Người góc đông nam ăn mặc ra kiểu một nhà văn, tay phải

cầm cây quạt, tay trái cầm cuốn sách. Góc tây nam là một gã lực lưỡng,

mày thô mắt lớn, đi chân không, trên vai vác một cái bồ cào sắt năm răng.

Bốn người đứng bốn góc như kiểu bao vây. Diệp Nhị Nương đắn đo thầm

trong bụng: giả tỷ mà bốn gã này võ nghệ tương đương nhau thì một mình

ta khó bề địch nổi. Dường như đại ca, Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung

Hạc cũng gần quanh đây, nếu họ nghe tiếng, nhất tề kéo đến, trừ khử xong

bọn này thì ngày sau vào đánh hoàng cung nước Đại Lý đỡ khó nhọc được

nhiều lắm.

Bỗng nghe Tả Tử Mục la lên rằng:

- Bốn quan đại thị vệ trong hoàng cung là "Ngư, Tiều, Canh, Độc" đã đến

đây cả! Tại hạ là Tả Tử Mục phái Vô Lượng xin kính chào liệt vị.

Nói xong quay về bốn người xá dài. Chỉ thấy mình gã thư sinh tỏ ra cung

kính, vái chào đáp lễ còn ba người kia dường như không hiểu gì. Gã Ngư

kéo cần câu lên, thanh trường kiếm lúng liếng ở trên không, ánh mặt trời

chiếu vào sáng loáng. Gã cười lạt hỏi Tả Tử Mục:

- Vô Lượng kiếm là một phái võ lớn có danh tiếng trong nước Đại Lý,

không ngờ chưởng giáo phái đó lại là một kẻ đốn mạt đến thế! Đoàn công

tử hiện giờ ở đâu?

Mộc Uyển Thanh đã nhất quyết tự tử, ngờ đâu gặp được cứu tinh, mừng rỡ

vô cùng, lại nghe họ hỏi đến Đoàn công tử nàng càng chăm chú theo dõi.

Tả Tử Mục run sợ đáp:

- Đoàn... Đoàn công tử ? Có có, mấy bữa trước đây, tôi có gặp mặt... vài

lần. Công tử cùng cô nương này đi với nhau.

Ngư nhân quay sang Mộc Uyển Thanh hau háu nhìn nàng bằng đôi mắt ra

vẻ hỏi tra. Mộc Uyển Thanh nói:

- Đoàn công tử mấy bữa trước có ở đỉnh núi bên kia mấy hôm nay không

biết đâu? Chưa hiểu sống chết ra sao?

Ngư nhân nhìn nàng một cách soi mói rồi quát to lên rằng:

- Phải chăng tiếng ác của mi đồn đại khắp nơi? Tên mi là Hương Dược Xoa

Mộc Uyển Thanh phải không?

Ban đầu Mộc Uyển Thanh nghe Ngư nhân quan tâm đến Đoàn Dự thì nàng

đối với gã ra vẻ ân cần. Giờ thấy gã mở miệng gay gắt ra kiểu hỏi tra, gã

làm như nàng đã giết Đoàn Dự không bằng. Nàng bản tính ương ngạnh, khi

nào chịu khuất phục những kẻ ăn nói vô lễ, bèn cười lạt đáp:

- Mi là ai mà dám hỏi ta như vậy?

Ngư nhân cả giận đáp:

- Mi đến địa phận nước Đại Lý hoành hành, giết chết bao nhiêu người rồi.

Anh em ta định tìm mi hỏi tội, nếu mi trỏ được chỗ Đoàn công tử thì thôi,

bằng không thì bọn ta sẽ liệu cho mi.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Đoàn công tử bị người anh em mụ này giết chết rồi.

Nàng vừa nói vừa trỏ vào Diệp Nhị Nương, rồi nàng tiếp:

- Gã tên là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc, thân thể y gầy nhom, cao lêu

nghêu như cây tre.

Ngư nhân cả kinh quát to:

- Thật ? Đúng là thằng cha đó ?

Gã nông phu tay cầm cái bồ cào sắt năm răng, tính nóng như lửa, vừa nghe

Đoàn Dự chết liền khóc hu hu và kêu to lên:

- Đoàn công tử ơi! ta phải báo thù cho công tử.

Gã cầm bồ cào nhằm đầu Diệp Nhị Nương bổ xuống. Diệp Nhị Nương né

mình tránh khỏi, tươi cười hỏi:

- Phải chăng ngươi là nông phu ở núi Điểm Thương, và là một trong bốn gã

"Ngư, Tiều, Canh, Độc" đó chăng?

Nông phu đáp:

- Chính phải! Nếm miệng bồ cào của ta đây!

Rồi cầm bồ cào phang tạt ngang. Mấy hôm trước Diệp Nhị Nương đã từng

mắt thấy Ngư nhân với Tiều phu đánh Vân Trung Hạc. Bây giờ lại thấy

nông phu núi Điểm Thương đánh hai đòn bồ cào trầm trọng ghê gớm, mụ

bật lên tiếng cười khanh khách, song tiếng cười đột nhiên đổi thành tiếng

khóc, tiếng rên la.

- Trời ơi! ối các con ta ơi! bốn con là "Ngư, Tiều, Canh, Độc" ở nóc này

chết sớm đi khiến lòng mẹ đau xót vô cùng. Các con hãy chờ mẹ ở dưới

suối vàng.

Cả bốn gã "Ngư, Tiều, Canh, Độc" trạc tuổi cũng gần ngang mụ, nghe mụ

tự xưng là mẹ, gọi bốn người là con lại hơ trời hơ đất một cách thê thảm là

con mụ bị chết non, chết yểu đều thộn mặt ra. Gã Nông phu núi Điểm

Thương vừa bi thảm, vừa tức giận cầm cây bồ cào múa lên vù vù như gió

bão, thành một vùng mây vàng vây bọc lấy mụ. Diệp Nhị Nương hai tay

bồng Tả Sơn Sơn, không đánh trả đòn nào, thấy bồ cào giơ lên bổ xuống mụ

chỉ né tránh. Phép đánh bằng bồ cào của phái Điểm Thương cực kỳ lợi hại,

múa lên mỗi lúc một nhanh thêm mà không làm gì được mụ. Cả đến quần

áo mụ cũng không hề chạm phải. Diệp Nhị Nương nổi tiếng khóc ai oán bi

thảm mỗi lúc một rên rỉ vang lên.

Mộc Uyển Thanh hiểu ý kêu lên:

- Mụ đang gọi đồng đảng đó, nếu Tứ ác kéo đến các ngươi khó lòng mà

địch nổi.

Giữa lúc ấy, phía sau núi chợt nổi lên hồi sáo thổi, tiếng sáo trong trẻo,

vang dội, âm điệu trầm bổng, âm hợp tiết tấu với tiếng khóc bi thảm của

Diệp Nhị Nương. Mụ khóc lớn thì tiếng sáo cũng lên cao, mụ khóc nhỏ đi

hay khóc nhát gừng thì tiếng sáo cũng hạ thấp và đứt đoạn. Người thổi sáo

thổi một cách rất tài tình, lựa âm thanh rất am, đúng in với tiếng khóc. Mộc

Uyển Thanh lấy làm kinh dị tự hỏi:

- Phải chăng đây là ác quán mãn doanh, lão đứng đầu trong tứ ác đã đến

nơi?

Tiền tử rút búa ở sau lưng ra, quát to lên rằng:

- Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương! Tiếng đồn về ngươi quả đã không ngoa,

cho Thái Tân Khách này lãnh giáo một vài đường.

Thái Tân Khách vừa nói vừa tấn công liền, cầm búa chém tả chém hữu bằng

những đòn ác liệt trong mười tám thế "bàn căn thác tiết" đánh vào hạ bàn

Diệp Nhị Nương. Diệp Nhị Nương cười nói:

- Thằng nhỏ này làm bận chân tay ta quá! Mi chém nó một búa đi cho rồi!

Mụ vừa nói vừa hạ Tả Sơn Sơn xuống thấp để chống đỡ mé dưới, búa chém

tới đâu, mụ lia đứa nhỏ tới đó. Thái Tân Khách cả kinh vội thu búa về,

không ngờ Diệp Nhị Nương thừa cơ, phóng chân đá trúng vai Thái Tân

Khách. May mà gã thân thể to lớn đẫy đà, dù bị đá trúng gã chỉ hơi lạng

người đi chứ không đến nỗi bị thương.

Diệp Nhị Nương bị Nông phu và Thái Tân Khách đánh dồn dập mụ vẫn giữ

đứa hài nhi làm bùa hộ thân nên hai gã không làm gì được vì không nỡ giết

đứa nhỏ vô tội.

Đứng ngoài Tả Tử Mục không ngớt la vang:

- Đứa nhỏ là con tôi! xin quý vị cẩn thận, đừng chém vào nó.

Đang lúc đánh nhau hỗn loạn, tiếng sáo mỗi lúc một lại gần. Từ mé sau núi

chuyển về một người lạ mặt, mặc áo bào rộng lùng thùng, hai tay nâng ngọc

địch đa lên miệng thổi. Mộc Uyển Thanh thấy người này có ba chòm râu

dài, tướng mạo rất bệ vệ, nước da từ mặt cho đến mười đầu ngón tay đều

mịn màng sáng sủa. Gã thư sinh chạy lại bên người lạ mặt nói nhỏ mấy câu

với thái độ rất là cung kính. Người lạ mặt miệng vẫn không rời ống sáo, đưa

mắt nhìn Mộc Uyển Thanh.

Mộc Uyển Thanh tự nhủ: té ra người này cùng bọn với "Ngư, Tiều, Canh,

Độc" chứ không phải ác quán mãn doanh.

Người lạ mặt vừa tiếp tục thổi sáo vừa đi lại gần chỗ ba ngời đang đánh

nhau. Thái Tân Khách vẫn múa tít cây búa, gã Nông phu phái Điểm Thương

tiếp tục cầm bồ cào nâng lên bổ xuống. Người lạ mặt vẫn giữ một thái độ

lạnh lùng như không hay biết đang có cuộc giao tranh khốc liệt. Tiếng sáo

vụt lên cao như bay bổng tận tầng mây, khiến người nghe thấy chấn động lá

nhĩ đến điếc tai. Người lạ mặt đặt cả mười đầu ngón tay bịt hết những lỗ

trên ống sáo, thổi thật mạnh. ống sáo dường như bị tức, hơi lùa ra đằng đuôi

một luồng gió mạnh đánh thẳng vào mặt Diệp Nhị Nương. Diệp Nhị Nương

thất kinh, phải quay mặt đi để tránh luồng gió ghê rợn thì đầu ống sáo đã

đưa vào cổ mụ. Hai động tác này mau lẹ dị thường khiến cho Diệp Nhị

Nương ứng biến thần tốc là thế mà chân tay cũng phải luống cuống. Trong

khi rất đỗi hoang mang, mụ vội đa đẩy chiếc lưng thon, vận nội công cho

nửa người trên cứng đơ lùi lại hơn một thước để tránh ống sáo toan thọc vào

cổ mụ. Người lạ mặt tay phải phóng mạnh ống sáo vào ngực Diệp Nhị

Nương. Đến mức này mụ không dám coi thường như trước nữa mà phải

dùng đến hai tay để đối phó. Mụ bèn lẹ làng hạ đứa nhỏ xuống, thò tay ra

bắt lấy ống sáo. Người lạ mặt hất tay áo rộng lùng thùng cuốn lấy đứa nhỏ

đồng thời đưa tay trái ra bảo: "bắt lấy!". Diệp Nhị Nương vừa cầm tay vào

ống sáo thì trời ơi! sao mà nóng thế? Chẳng khác chi cục than hồng, cơ hồ

đốt cháy gan bàn tay. Thực là một điều ra ngoài sức tưởng tượng. Mụ tự

hỏi: phải chăng bên ngoài ngọc địch có thoa thuốc độc? Rồi vội buông tay

ra. Người lạ mặt thò năm ngón tay trái ra bắt lại ống sáo, tiện đà đánh vào

vai Diệp Nhị Nương, đồng thời phất tay phải một cái, nhẹ nhàng quăng đứa

nhỏ trả cho Tả Tử Mục. Người lạ mặt cướp lại đứa nhỏ, đồng thời đánh bên

địch, cử động nhẹ nhàng, ung dung như không có chuyện gì xảy ra cả, nét

mặt vẫn thản nhiên. Mộc Uyển Thanh chú ý nhìn người lạ mặt thấy cử động

cực kỳ linh diệu, chẳng những không sai một ly mà nội lực rất là hùng hậu.

Diệp Nhị Nương trong lúc bắt ngọc địch cũng để ý nhìn, thấy gan bàn tay

bên trái người lạ mặt thắm tơi như máu, bất giác giật mình tự hỏi: chẳng lẽ

người này đã được truyền thụ môn "Châu sa thủ" của bậc kỳ nhân nào trong

phái võ lâm? Nếu vậy thì không phải ngọc địch có sát thuốc độc mà là nội

lực y đã đến bậc thượng thừa, sức nóng ở bàn tay cầm vào làm cho ngọc

địch nóng bỏng, chẳng khác gì mới gắp ở trong lò lửa ra. Nghĩ vậy mụ tiến

lại gần, tươi cười hỏi:

- Các hạ võ công đã đến bậc này. Tôi không ngờ trong nước Đại Lý ta có

nhiều cao nhân đến thế! Xin cho biết tôn tính đại danh!

Người lạ mặt tủm tỉm cười đáp:

- Diệp Nhị Nương giá lâm tệ xứ, tôi không kịp ra xa nghênh tiếp mong

người thứ lỗi! Đại Lý tuy nước nhỏ, dân nghèo cũng đủ nghi lễ xứng đáng

làm chủ nhân tiếp khách.

Tả Tử Mục ẵm được con rồi vừa mừng vừa kinh ngạc vô cùng, chợt nhớ đến

một nhân vật nhưng lại nghĩ: kể ra vị này tướng mạo tương tự như người vẫn

được đồn đại. Còn về bước giang hồ của ông ta chưa rõ thế nào. Rồi không

nén được tính tò mò, bất giác lão cất tiếng hỏi:

- Phải chăng các hạ là Cao Quân Hầu?

Người lạ mặt chẳng nhận là đúng, cũng chẳng chối là sai, quay sang hỏi

Diệp Nhị Nương:

- Tánh mạng Đoàn công tử ra sao? Mong Nhị Nương cho biết!

Diệp Nhị Nương mím môi lại, cười lạt đáp:

- Tôi không biết! Dù có biết cũng không thể nói được.

Chưa dứt lời, mụ đột nhiên nhảy vọt lên cao rồi bong bong đi về phía đỉnh

núi. Người lạ mặt nói: Hãy thong thả! Rồi vùn vụt đuổi theo. Bỗng trước

mặt ánh vàng lấp loáng, trên không nổi lên những tiếng vun vút, bảy tám

thứ ám khí bay tới tấp, nhằm những huyệt trọng yếu trên đầu phóng tới.

Người lạ mặt huy động ngọc địch gạt đi, thấy hổ khẩu tay mình đau êm ẩm

thì nghĩ thầm: mụ này gớm thật! Trông theo thấy mụ nhô lên hạ xuống thấp

thoáng như ma quỷ ẩn hiện, người lạ mặt liệu chừng có đuổi cũng không

kịp được, nhìn lại những thứ ám khí rơi xuống đất thì toàn là những đồ vàng

bạc, trang sức cho trẻ con nh thẻ hộ mệnh, vòng khoá. Người lạ mặt bấy

giờ mới sực nhớ ra lẩm bẩm: đây là những đồ vật của trẻ con bị mụ giết đi

uống máu còn để lại, không trừ cho xong cái tệ này thì nước Đại Lý không

biết còn bao nhiêu trẻ bị hại về tay mụ nữa?

Nhắc lại Ngư nhân tung dây câu ra cuốn được thanh kiếm rồi thả xuống

trước mặt Tả Tử Mục. Tả Tử Mục đưa tay ra bắt chuôi kiếm, nét mặt vô

cùng hổ thẹn, không nói được câu nào. Ngư nhân lại quay về phía Mộc

Uyển Thanh quát to lên:

- Đoàn công tử ra sao? Có phải đúng bị Vân Trung Hạc hại rồi không?

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: bọn này võ nghệ tuyệt luân mà xem ra đều là

thân hữu với Đoàn lang, chi bằng ta thuật rõ sự tình đầu đuôi để họ kéo

nhau qua đỉnh núi bên kia tìm kiếm. Nàng toan cất lời, bỗng lưng chừng

sườn núi có tiếng gọi to:

- Mộc cô nương! Mộc cô nương! nàng ở đâu? Nam Hải Ngạc Thần! tôi đã

đến đây, xin đừng giết Mộc cô nương.

Người lạ mặt cùng đồng bọn đều lộ vẻ mừng rỡ, ai nấy reo lên:

- Đoàn công tử đây rồi!

Mộc Uyển Thanh chờ chàng ròng rã bảy ngày, bảy đêm vừa mừng quá độ,

vừa giật mình kinh ngạc. Vì bị xúc động mạnh , nàng bỗng tối tăm mặt mũi

rồi ngất đi. Trong lúc mê man, chợt nghe bên tai có tiếng khẽ gọi: Mộc cô

nương! Mộc cô nương! Tỉnh lại mau!

Mộc Uyển Thanh dần dần tỉnh lại, thấy mình nằm trong lòng một người, hai

vai bị ôm chặt, muốn vùng dậy đẩy ra song vừa từ từ mở mắt trước mắt nàng

hiện ra cặp mắt trong như nước mùa thu. Chẳng phải Đoàn lang thì còn ai

vào đây nữa? Đoàn Dự cả mừng reo lên:

- A ha, nàng đã hồi tỉnh.

Mộc Uyển Thanh cầm lòng không đậu, nước mắt trào ra, giơ tay lên tát một

cái thật mạnh...

@@@@@@@@@@@@@@@@@@@

Đang đêm đột nhập phủ Trấn Nam Vương 1

Tuy Mộc Uyển Thanh tát Đoàn Dự nhng nàng vẫn chịu nằm gọn trong

lòng chàng vì không còn đủ sức mạnh để vùng dậy và đẩy chàng ra.

Đoàn Dự đưa tay lên xoa má mình, cười nói:

- Động một tý là đánh người ta! Trên đời sao lại có hạng đàn bà con gái dữ

như nàng. Rồi nét mặt bỗng xám ngắt chàng hỏi:

- Nam Hải Ngạc Thần đâu rồi? Sao lão không ở đây đợi tôi?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Người ta chờ ròng rã bảy ngày, bảy đêm rồi chưa đủ hay sao? Lão mới đi

rồi.

Nét mặt Đoàn Dự lại tươi lên ngay, chàng hớn hở nói:

- Nếu vậy hay! Nếu vậy hay! Tôi những canh cánh lo âu vì lão. Nếu lão bức

bách tôi phải thờ lão làm thầy thì không biết nói sao.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Chàng không chịu làm đồ đệ lão thì còn đến đây làm gì?

- Ô kia nàng bị mắc vào tay lão, nếu tôi không đến tất lão sẽ gia hại nàng.

Tôi nỡ nào bỏ nàng cho đành?

Mộc Uyển Thanh nghe Đoàn Dự nói vậy đã thấy mát ruột nhưng vẫn chưa

hết trách móc:

- Chàng thật là kẻ vô nghi, tôi hối rằng không chém chết phứt chàng cho

rồi. Chàng làm gì mà bây giờ mới đến để người ta vừa lo lắng vừa mong hết

nước hết cái. Giờ lão bỏ đi, mới vác mặt đến rồi nói đạo đức giả. Sao ròng

rã bảy ngày bảy đêm không đến tìm tôi?

Đoàn Dự thở dài nói:

- Tôi cũng bị người ta giữ, không sao cựa ra được. Suốt ngày đêm tôi lo

lắng về nàng, lòng nóng như lửa đốt. Vừa thoát khỏi tay họ là tôi chạy đến

đây ngay lập tức. Mộc cô nương! Chỗ vết thương cô đã lành chưa? Lão độc

ác đó có ức hiếp gì cô không?

Mộc Uyển Thanh giằn dỗi hỏi:

- Tôi là thế nào với chàng mà chàng còn gọi một điều cô nương, hai điều cô

nương?

Đoàn Dự thấy nàng giận dỗi càng tăng vẻ kiều diễm, lại biết rằng trong bảy

ngày qua nàng đã trải bao nỗi nhớ nhung, đau khổ liền ôm ghì lấy vai nàng

nói:

- Uyển Thanh, Uyển Thanh mình ơi! tôi gọi mình vậy mình đã vừa lòng

chưa?

Đoàn Dự nói rồi cúi đầu xuống, toan ghé miệng hôn vào môi Mộc Uyển

Thanh. Nàng buột miệng kêu lên:

- Ô hay!

Rồi vì thẹn quá mặt đỏ như gấc chín, nàng ngồi bật dậy như cái lò xo, bực

mình nói:

- Chàng làm gì mà kỳ vậy? Không sợ những người chung quanh cười cho

sao?

Nàng ngó nhìn bốn phía thì chẳng thấy tông tích người mặc áo rộng thùng

thình cùng bọn Ngư, Tiều, Canh, Độc đâu cả. Đoàn Dự không hiểu nàng

ngó gì, đâm ra chột dạ, vẻ lo sợ lộ ra mặt, vội bảo:

- Mình ngó ai vậy? Có phải Nam Hải Ngạc Thần không?

Mộc Uyển Thanh không đáp hỏi lại:

- Chàng đến đã lâu chưa?

Đoàn Dự đáp:

- Mới có một lúc. Lên tới đây thì nàng ngã lăn, ngất đi. Ngoài ra chẳng thấy

một ai. Mộc Uyển Thanh mình ơi! Chúng ta phải đi ngay, nếu để Nam Hải

Ngạc Thần trở lại thì nguy to.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Phải đó!

Nàng lẩm bẩm: quái lạ thật! Mới trong khoảnh khắc mà họ đi đâu cả rồi?

Bất thình lình nghe phía sau tảng đá lớn có tiếng ngâm thơ:

Ngàn dặm tuốt gươm trần

Kể gì một tấm thân

Đã qua chơi đất Nguỵ

Không thụ Tín Lăng Quân

Ngâm xong, một người tay cầm quạt, tay cầm cuốn sách đi ra. Chính gã là

thư sinh lúc nãy.

Đoàn Dự vừa trông thấy cả mừng reo lên:

- Chu huynh!

Gã thư sinh bỏ sách cùng quạt vào bọc tiến lại vái dài, vui mừng nói:

- Thưa công tử! Công tử được vô sự thật là đại hạnh. Vừa nãy cô nương đây

bảo công tử bị hại về tay bọn tứ ác làm chúng tôi sợ hãi rụng rời.

Đoàn Dự ngượng ngùng hỏi:

- Vậy ra các ngươi trông... thấy ta cả rồi ? Các ngươi đến đây... làm chi?

Không hẹn mà gặp thật là may quá!

Thư sinh mỉm cười đáp:

- Bốn anh em tôi vâng mệnh đi đón công tử về phủ chứ có phải tự nhiên mà

gặp đâu. Công tử thật là gan liều tướng quân, một thân một mình mà dám

dấn thân vào chốn giang hồ. Bọn tôi đến hỏi nhà Mã Ngũ Đức, rồi sang núi

Vô Lượng, mấy bữa nay ai nấy đều lo ngay ngáy.

Đoàn Dự cười nói:

- Ta cũng gặp không biết bao nỗi gian khổ, chắc bá phụ cùng gia gia giận ta

lắm phải không?

Thư sinh đáp:

- Dĩ nhiên là các vị lão gia rất buồn phiền. Chúng tôi ra đi rồi chắc hai vị

lão gia nóng ruột lắm. Sau Thiện Xiển Bần được tin bốn tên đại ác đã vào

địa phận nước Đại Lý, e rằng công tử chạm trán với bọn này, chính người

phải thân hành đi kiếm công tử đó.

Đoàn Dự nhíu đôi lông mày hỏi:

- Bốn tên đại ác nào? Cao thúc thúc cũng đi kiếm ta ? Ta thật áy náy vô

cùng, các người kia đâu cả rồi?

Thư sinh đáp:

- Cao bần lão gia đang đánh nhau với ác phụ, khi nghe tiếng công tử ai nấy

mới yên dạ. Tôi được lệnh ở lại chầu chực công tử, còn mọi người rượt theo

ác phụ. Bây giờ xin công tử về thành kẻo hai vị lão gia nóng ruột.

Đoàn Dự hỏi:

- Thế ra có mình Chu huynh ở đây thôi hả?

Chàng tưởng đến lúc mình cùng Mộc Uyển Thanh thủ thỉ với nhau gã biết

cả rồi, bất giác thẹn đỏ mặt lên.

Gã thư sinh đánh trống lảng:

- Vừa rồi tôi ngồi sau tảng đá đọc bài thơ ngũ ngôn của Vương Xương Linh,

vẻn vẹn có hai mươi chữ mà tỏ được hết lòng khảng khái, ai nghe cũng phải

kính phục.

Nói rồi gã lấy trong bọc ra cuốn "Vương Xương Linh tập" đưa cho Đoàn

Dự. Đoàn Dự nói:

- Phải rồi! Vương Xương Linh sở trường về thơ thất ngôn, còn về thơ ngũ

ngôn Vương cũng thường thôi, nhưng bài ngũ ngôn vừa rồi kể ra hay thật.

Đoàn Dự cao hứng cũng ngâm rằng:

Sông Hoài quanh trước mặt

ánh nguyệt rọi bên mình

Dám nghĩ tình tân chủ

Đôi phen nghĩa đệ huynh

Thư sinh nghe đoạn vái dài tận đất nói:

- Đa tạ lòng công tử.

Câu chuyện giữa Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh tha thiết yêu nhau gã thư

sinh đều nghe rõ hết. Hai bên quyến luyến, không nỡ rời nhau, lại thấy

chàng ra chiều bẽn lẽn nên gã ngâm bài thơ của Vương Xương Linh để gỡ

thẹn cho chàng. Câu "đã qua chơi đất Nguỵ" để dẫn tích Hầu Doanh cùng

Chu Hợi đối với Tín Lăng Quân. Bài thơ gã ngâm ngụ ý dù có phải nát thân

để báo đáp công tử gã cũng vui lòng. Bài thơ của Đoàn Dự thì tỏ ý chủ nhân

hậu đãi kẻ thuộc hạ như tình cốt nhục. Hai người nhìn nhau mà cười ra

chiều rất tương đắc. Còn Mộc Uyển Thanh chẳng hiểu gì về thơ văn, nghĩ

thầm: Mấy anh đồ gàn toẹt này đã bàn luận đến thơ văn thì không còn biết

trời đất gì nữa, quên cả mình đang ngồi trong hang cọp.

Đoàn Dự quay lại bảo Mộc Uyển Thanh:

- Mộc... Mộc cô nương! vị này là Chu Đan Thần tức Chu Tứ ca một người

bạn rất thân với tôi đó.

Chu Đan Thần bước lên kính cẩn thi lễ:

- Chu Đan Thần xin bái yết cô nương.

Mộc Uyển Thanh thấy gã coi mình có vẻ trân trọng, cũng thấy thỏa dạ, liền

đáp lễ rồi tươi cười hỏi:

- Chu tứ ca! Tứ ca thật là người ôn tồn hoà nhã mà sao mấy ông bạn kia coi

có vẻ hung dữ thế?

Chu Đan Thần tươi cười đáp:

- Ba vị ca ca tôi nóng lòng vì cha được tin tức của Đoàn công tử nên có

điều thất thố, xin cô nương miễn trách.

Gã nghĩ thầm: vài năm nay, tiếng Hương Dược Xoa độc ác đồn đại khắp

nơi, ai ngờ nàng là một trang sắc nước hương trời. Đoàn công tử hãy còn ít

tuổi, chưa hiểu khách giang hồ đều chán ghét nàng cả. Nay chàng bị mỹ sắc

mê hoặc có khi nguy hại đến thanh danh. Tuy nghĩ vậy nhưng gã là người

rất ý tứ, đối với Mộc Uyển Thanh gã chỉ đề phòng một cách kín đáo, tuyệt

không lộ tý gì ra sắc mặt, gã cười hể hả nói:

- Hai vị lão gia ở nhà nóng lòng mong đợi công tử. Công tử còn chờ gì mà

chưa động thân về thành? Mộc cô nương! nếu không có việc gì gấp, xin mời

về phủ công tử chơi mấy bữa.

Gã tự lượng sức mình không địch nổi Mộc Uyển Thanh, vả gã mời Mộc

Uyển Thanh cùng đi Đoàn Dự tất vui lòng. Gã đã tưởng thế là đắc sách, nào

ngờ Đoàn Dự vẫn tỏ vẻ ngần ngại đáp:

- Ta... ta biết về trình lại với bá phụ cùng gia gia ta thế nào đây?

Mộc Uyển Thanh thì thẹn đỏ mặt lên quay đi chỗ khác. Chu Đan Thần lại

nói:

- Tại hạ nghe nói Tứ ác võ công tuyệt cao, vừa rồi Thiện Xiển Hầu đánh

đuổi được Diệp Nhị Nương là bởi tấn công bất ngờ và cũng có điều may

mắn mới thắng được mụ. Công tử thân trọng thiên kim, chẳng nên dấn mình

vào nơi hiểm địa nữa. Chúng ta về thôi!

Đoàn Dự tưởng đến Nam Hải Ngạc Thần hung dữ lại sợ hãi vô cùng, trời

không rét mà chàng run lên cầm cập, gật đầu nói:

- Phải đó! Chúng ta lên đường thôi! Chu tứ ca! Kẻ địch ghê gớm lắm! Tứ ca

đi giúp cho Cao thúc thúc một tay, để ta cùng Mộc cô nương về phủ là được

rồi!

Chu Đan Thần cười nói:

- Như thế không được! Tìm thấy công tử đâu phải là chuyện dễ dàng? Tại

hạ xin đưa công tử về phủ. Đã đành rằng Mộc cô nương võ công trác tuyệt,

tại hạ xiết bao ngưỡng mộ, song xem khí sắc tựa hồ vết thương cô nương

chưa được bình phục. Vạn nhất dọc đường gặp phải cường đồ thì nguy hiểm

biết mấy? Xin cho tại hạ được lập chút công nhỏ mọn dường dây tơ sợi tóc.

Mộc Uyển Thanh đằng hắng rồi nói:

- Tứ ca có bảo gì tôi xin đừng nói văn chương, chữ nghĩa. Tôi chỉ là cô gái

quê mùa, không được học hành, tôi chả hiểu gì mấy về những lời văn vẻ

quá.

Chu Đan Thần cười đáp:

- Quả thế! Tại hạ quen mất nết rồi. Xin cô nương miễn trách.

Đoàn Dự không muốn về nhà nhưng chết nỗi Chu Đan Thần đã gặp rồi,

không về không được, chỉ còn cách là đang đi giữa đường sẽ tìm kế thoát

thân.

Ba người cùng đi xuống núi. Mộc Uyển Thanh chỉ lăm le muốn hỏi cho ra

chuyện bảy ngày bảy đêm vừa rồi Đoàn Dự đi đâu mà không đến với nàng.

Nhưng bị Chu Đan Thần lúc nào cũng đi sát bên cạnh, chưa tiện dịp gạn

hỏi, phải cố nín nhịn. Chu Đan Thần có đem lương khô bên mình, lấy ra

đưa cho hai người ăn. Ba người xuống đến chân núi lại đi thêm vài dặm nữa,

thấy bên đường có năm con ngựa buộc sẵn dưới gốc cây. Những ngựa này

do bọn Thái Tân Khách cưỡi đến đây trước. Chu Đan Thần lại cởi lấy ba

con, giắt đưa cho Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh mỗi người một con. Hai

người nhảy lên yên đi rồi, gã mới lên ngựa đi sau. Tối hôm ấy ba người vào

nghỉ trong quán trọ, mỗi người ở riêng một phòng. Mộc Uyển Thanh cài

cửa phòng rồi tay chống cằm, ngồi trước một cái bàn, trên bàn có thắp một

cây nến đỏ. Lòng nàng nửa mừng, nửa lo, những làm sóng tư tưởng cuồn

cuộn luân lưu nổi lên hạ xuống. Nàng nghĩ: Đoàn lang chẳng nề lao khổ trở

lại tìm ta đủ rõ tình ý chàng đối với ta cực kỳ thâm trọng. Vậy mà mấy bữa

nay ta cứ ngấm ngầm oán trách oan chàng là người tệ bạc, thật là một lỗi

lầm rất lớn. Lại xem Chu Đan Thần đối với chàng vô cùng kính cẩn, thì hẳn

chàng chẳng con nhà phú quý cũng là dòng dõi gia thế trong võ lâm. Ta là

một cô gái đương xuân, tuy cùng chàng đính ước hôn nhân nhưng cứ tự

nhiên theo về nhà chàng thế nào được? Ôi thật là rắc rối. Dường như cha,

bác chàng đối với chàng rất là khắc nghiệt, nếu họ khinh bỉ hoặc vô lễ với ta

thì biết làm thế nào? Thôi ta cũng đành phóng cho mỗi người một mũi tên,

giết ráo cả đi, chỉ để mình chàng là xong.

Mộc Uyển Thanh đang nghĩ đến giai đoạn gay go chợt nghe ngoài cửa sổ có

tiếng gõ nhè nhẹ. Nàng tắt phụt cây nến đi thì nghe rõ tiếng Đoàn Dự nói:

- Tôi đây mà!

Mộc Uyển Thanh thấy canh khuya chàng lẻn đến phòng riêng mình gọi cửa

bất giác trái tim đập dồn dập, mặt nóng bừng bừng khẽ hỏi:

- Có chuyện chi đó?

Đoàn Dự đáp:

- Mình mở cửa sổ, tôi nói cho mà nghe.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi không mở...

Nàng cảm thấy con người toàn thân võ nghệ như mình mà lúc này phải sợ

hãi một gã thư sinh yếu ớt cảm thấy tự thẹn cho mình. Bên ngoài Đoàn Dự

không hiểu tại sao nàng không chịu mở cửa sổ, liền nói vọng vào:

- Vậy thì mình ra đây! Ta chuồn đi thôi!

Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ, lấy ngón tay chọc thủng miếng giấy che

cửa sổ hỏi:

- Có chuyện chi mà phải đi bây giờ?

Đoàn Dự đáp:

- Chu tứ ca ngủ say rồi, đừng náo động cho y thức giấc, tôi cùng mình lén

đi thôi! tôi không muốn về nhà.

Mộc Uyển Thanh mừng rơn. Nàng chỉ băn khoăn chuyện đối phó với cha

mẹ chàng, thấy chàng không muốn về nhà thì rất biểu đồng tình liền mở cửa

sổ nhẹ nhàng nhảy ra.

Đoàn Dự khẽ bảo nàng:

- Tôi đi dắt ngựa đây.

Mộc Uyển Thanh ra hiệu bảo đừng, rồi thò tay nắm lấy lưng chàng, đề khí

nhảy vọt lên mặt tường, tiện đà lẹ làng nhảy ra bên ngoài tường, nói khẽ bảo

Đoàn Dự:

- Đừng đi ngựa vì vó ngựa lốp bốp, Chu tứ ca sẽ biết mất.

Đoàn Dự nói:

- Nàng thật là người chu đáo!

Hai người giắt tay nhau trông về hướng đông mà đi. Đi được mấy dặm vẫn

không thấy có người đuổi theo, đã hơi vững dạ, Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Sao chàng lại không muốn về nhà?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi về bây giờ chắc sẽ bị gia gia cùng bá phụ giữ chịt không cho ra khỏi

nhà nửa bước. Dù có muốn được thấy mặt mình một lần cũng không phải là

chuyện dễ.

Mộc Uyển Thanh khoan khoái vô cùng, hớn hở bảo chàng:

- Chàng tính vậy cũng phải. Không về nữa là xong. Từ đây đôi ta vùng vẫy

giang hồ, sống một đời tiêu dao tự tại, há chẳng vui sướng ru? Nhưng chúng

ta về đâu bây giờ?

Đoàn Dự nói:

- Điều thứ nhất là tìm đường nào để Cao thúc thúc và Chu Đan Thần không

biết đâu mà đuổi theo, hai là đừng để Nam Hải Ngạc Thần bắt gặp.

Mộc Uyển Thanh gật đầu khen phải nói:

- Chúng ta đi về ngả Tây Bắc tìm một nhà nào đó tạm lánh ít lâu. Chừng

mươi lăm ngày chờ cho vết thương tôi lành hẳn khi ấy sẽ không sợ gì nữa.

Hai người rảo bước nhằm hướng tây bắc mà đi. Trên đường không dám

dừng lại trò chuyện lúc nào, chỉ mong chóng ra khỏi khu vực núi Vô Lượng

càng xa càng hay.

Đi đến lúc trời sáng Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi rất nhiều kẻ thù, ban ngày đi bị họ dòm ngó không tiện, ta tìm chỗ trọ

ăn uống rồi ngủ một giấc, đến tối lại ra đi.

Đoàn Dự không hiểu gì về đường lối giang hồ nói:

- Chủ ý mình định thế nào tôi cũng theo như vậy.

Mộc Uyển Thanh nói:

- ăn cơm rồi chàng phải kể cho tôi hay bảy ngày, bảy đêm vừa qua chàng

lọt vào đâu? Nếu nói dối nửa lời thì đừng có trách! Liệu hồn đó!

Chưa dứt lời, bất thình lình có tiếng đằng hắng, hai người vội trông về phía

trước thấy dưới gốc liễu đã có ba con ngựa buộc sẵn tại đó. Một người ngồi

trên phiến đá, tay cầm quyển sách đang gật gù ngâm nga. Chính là Chu Đan

Thần.

Đoàn Dự cả kinh dắt tay Mộc Uyển Thanh kéo đi nói:

- Chạy mau! Hắn kia rồi!

Nhưng Mộc Uyển Thanh là người sáng suốt hiểu rõ rằng: đêm rồi hai người

lén ra đi Chu Đan Thần đã biết cả rồi. Y liệu chừng Đoàn Dự không có môn

khinh công cố nhiên đi không được mau lẹ. Y chỉ cần nhìn xem mình rẽ về

ngả nào rồi lên ngựa đi quanh nẻo khác đến đây đón trước. Nàng liền chau

mày bảo Đoàn Dự:

- Ông ngốc ơi! Đành để y bắt gặp còn trốn đâu được nữa.

Rồi tiến lên trước, tươi cười hỏi Chu Đan Thần:

- Còn sớm thế mà Tứ ca đã ra đây ngồi đọc sách rồi, khoái lắm nhỉ?

Chu Đan Thần tươi cười, gật đầu rồi quay sang hỏi Đoàn Dự:

- Công tử thử đoán xem tôi đọc bài thơ này của ai nhé.

Đoạn gã cất cao giọng ngâm:

Chim kêu, vượn hót canh trường,

Xa xăm dặm khách bàng hoàng hồn mai.

Mang danh quốc sĩ với đời,

Dẫu trong gian hiểm dám phai tấc lòng?

Đoàn Dự đáp:

- Phải chăng đó là bài "Thuật hoài" của Nguỵ Trưng đời Đường?

Chu Đan Thần cười đáp:

- Công tử thật là người học rộng nhớ nhiều, tôi xin bái phục.

Đoàn Dự biết y dẫn bài thơ này dụng ý: nửa đêm y không ngại gian nan, ra

đi truy tầm mình, vì đã chịu ơn gia gia cùng bá phụ mình nên không dám

quên lời phó thác.

Mộc Uyển Thanh lại cởi dây buộc ngựa ra, miệng hỏi:

- Đi về Đại Lý đường nào nhỉ? Chúng ta đi có trúng không?

Chu Đan Thần đáp:

- Muốn đi ngả nào cũng không sao. Qua mé tây cũng được mà qua mé đông

rồi cũng về tới Đại Lý cả.

Hôm qua gã nhường con ngựa chạy nhanh nhất cho Đoàn Dự, nay gã tự

mình giữ lấy con ngựa tốt này để phòng hai người có trốn gã còn đuổi kịp.

Đoàn Dự nhẩy phốc lên yên, nhằm hướng đông gia roi. Chu Đan Thần sợ

Đoàn Dự có ý không bằng lòng mình chăng. Có lúc gã đi sát bên chàng, có

lúc lại đi sau một quãng xa để chàng được thoải mái được trò chuyện với

Mộc Uyển Thanh. Lúc nào gã đi bên chàng thì đem văn thơ ra bàn luận rất

là vui vẻ. Mộc Uyển Thanh thấy hai người nói chuyện văn chương thì nàng

cứ lầm lỳ chẳng nói chẳng rằng. Đi chưa bao lâu đã ra đến đường lớn. Ba

người đi đến giữa trưa thì gặp bên đường một quán ăn nhỏ liền vào ngồi

nghỉ ăn cơm. Chợt thấy ngoài cửa thoáng có bóng người rồi từ ngoài cửa

bước vào một gã đàn ông cao lêu nghêu, gầy khẳng gầy kheo. Y vừa ngồi

xuống đã quát tháo:

- Lấy đem đây một bình rượu ngon và hai cân thịt bò chín cho mau!

Mộc Uyển Thanh không cần nhìn mặt chỉ nghe tiếng the thé chói tai cũng

đủ biết y là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc rồi. May nàng ngồi quay mặt

vào phía trong nên hắn chưa trông thấy. Nàng chấm ngón tay vào bát nước

canh, viết lên mặt bàn bốn chữ: "Người ác thứ tư". Chu Đan Thần liền viết

"Đi ngay đi đừng chờ tôi nữa!". Mộc Uyển Thanh liền kéo áo Đoàn Dự

chạy vào phía trong quán.

Vân Trung Hạc ngồi đăm đăm nhìn ra đường, tựa hồ đang chờ đón ai.

Nhưng tâm linh y cực kỳ vi diệu, thoáng nghe phía sau có tiếng chân người,

quay đầu nhìn lại thấy Mộc Uyển Thanh đang đi khuất vào sau bức vách

liền quát hỏi:

- Ai? Đứng lại ngay!

Hắn đứng dậy đuổi theo, quờ cánh tay dài ra toan túm lấy sau lưng Mộc

Uyển Thanh.

Chu Đan Thần tay cầm bát canh miến kêu lên: "ối chao", giả vờ lỡ tay cho

bát canh vừa nóng sôi đổ vào mặt Vân Trung Hạc. Hai người đứng liền

nhau, Chu Đan Thần đã nhanh tay mà Vân Trung Hạc không ngờ gã thư

sinh đột nhiên ám toán. Lại vì quán chật chội quá không lùi kịp, y mới xoay

đợc nửa mình bát canh sôi đã đổ vào mặt y một nửa còn một nửa đổ chan

hoà vào người y. Y hoa mắt lên một cái rồi nổi hung đa tay ra toan móc

vào bụng Chu Đan Thần. Nhưng Chu cũng không vừa, bát canh vừa rớt

xuống, tiện tay bưng cả bàn ăn lên, hất về phía Vân Trung Hạc. Năm ngón

tay Vân Trung Hạc vừa chạm mặt bàn, một luồng gió cực mạnh quạt bát đĩa

bật trở lại kêu loảng choảng. May mà y là một tay võ nghệ ghê gớm, vận

kịp nội công chống lại, hất bát đĩa ra nên không bị thương gì cả, mà chỉ bị

bao nhiêu nước canh đổ đầy vào người.

Ngoài cửa quán tiếng vó câu dồn dập, hai người (Mộc Uyển Thanh và Đoàn

Dự) phóng ngựa chạy về phía Bắc. Vân Trung Hạc giơ tay áo lên lau mặt,

bỗng thấy một luồng hơi mạnh lùa vào bụng, một vật đâm thẳng tới trước

ngực. Y liền hít mạnh một hơi thở, ngực hóp vào nửa thước tránh khỏi, giơ

hai ngón tay trái lên không kẹp được cây quạt. Cây quạt của Chu Đan Thần

đánh bằng thép nguyên chất, nó là một thứ khí giới gã tập luyện từ thuở

nhỏ, phóng ra thu về vùn vụt nhanh như gió. Gã biết Vân Trung Hạc mau lẹ

dị thường nhưng muốn nhân lúc y đang lóng ngóng, may ra đanh trúng y

được một đòn chăng. Nào ngờ chẳng những y tránh được lại còn chĩa hai

ngón tay lên cặp mất cây quạt quý báu. Chu Đan Thần cả kinh vội vận nội

công cướp lại. Kể về nội lực thì Chu còn kém y nhiều, không thể đoạt lại

nổi nhưng may mà tay y còn đẫm nước canh, trơn quá nắm không được chặt

nên Chu Đan Thần giật lại được.

Sau mấy đòn vừa qua Chu Đan Thần biết mình gặp phải một địch thủ ghê

gớm, gã lên tiếng gọi to:

- Xin nhị vị ca ca Phủ Tiên Điếu cùng Thái Tân Khách mau mau chẹn các

ngả, đừng để thằng cha cao nghệu hôm trước chạy thoát.

Sở dĩ Chu Đan Thần gọi lên như thế vì đã được nghe chuyện hôm trước hai

người này hợp lực lại đánh Vân Trung Hạc và đã thắng nổi y. Đó chỉ là

cách Chu Đan Thần hư trương thanh thế để doạ bên địch. Quả nhiên Vân

Trung Hạc tưởng thật, lẩm bẩm: "Hỏng bét! Chúng còn hai tên mai phục ở

ngoài. Bữa trước mới có hai tên đó thôi mình còn chịu thua, nay lại có

những ba thì mình địch sao cho nổi?". Nghĩ vậy y không dám ham đánh,

xông vào phía sau quán, vợt tường chạy mất.

Chu Đan Thần gọi to:

- Gã cao nghệu chạy ra phía sau, chúng ta mau mau đuổi bắt!

Đoạn Chu ra cửa quán, lên ngựa đuổi theo Đoàn Dự. Đoàn Dự cùng Mộc

Uyển Thanh chạy được mấy dặm rồi lỏng buông tay khấu cho ngựa đi thong

thả. Lát sau Chu Đan Thần gần tới nơi, hai người dừng ngựa lại toan hỏi

chuyện vừa xẩy ra, bỗng Mộc Uyển Thanh lại kêu lên:

- Nguy mất! Y lại đuổi theo kia rồi!

Trên đường cái, gã cao nghệu đang lắc lư đuổi tới. Chu Đan Thần cả kinh

nói:

- Thằng cha này khinh công ghê quá.

Gã cầm roi quất vào mông ngựa Đoàn Dự, cả ba con, mười hai vó phi nước

đại, cát bụi tung trời. Chỉ trong chớp mắt, bỏ Vân Trung Hạc một quãng xa.

Chạy như vậy thêm được sáu bảy dặm nữa, con ngựa Mộc Uyển Thanh cưỡi

thở dốc lên từng cơn, đánh phải dừng lại một chút cho nó nghỉ xả hơi. Vân

Trung Hạc đuổi gần thêm được một quãng. Tuy y chạy không nhanh bằng

ngựa nhưng dai sức, chạy lâu không mệt. Chu Đan Thần biết rằng mưu lừa

của mình đã bị Vân Trung Hạc khám phá mất rồi, bây giờ có muốn bịp y

cũng không được nữa. Tính ra còn đến hai mươi dặm đường, sao cho y

không đuổi kịp mới yên. Một khi đã vào thành Đại Lý rồi thì dù việc to tày

trời cũng không có gì đáng ngại nữa.

Ba con ngựa chạy mỗi lúc một chậm thêm, tình thế mỗi lúc một nguy ngập.

Đi được vài dặm nữa, con ngựa của Đoàn Dự bỗng khuỵu hai chân trước,

hất chàng tuột dần xuống. Mộc Uyển Thanh phi thân, nhảy ra khỏi yên

ngựa mình. Đoàn Dự chưa lăn tới đất nàng đã túm được sau lưng thì vừa lúc

con ngựa của nàng chạy tới nơi. Tay trái nàng giữ yên rồi xách cả Đoàn Dự

nhảy phốc lên.

Chu Đan Thần tuy ác cảm với nàng nhưng thấy Đoàn Dự từ trên lưng ngựa

tuột xuống mà mình còn mắc ngăn trở kẻ địch ở đằng sau, chưa kịp lại cứu,

được Mộc Uyển Thanh ra tay kịp thời, bất giác buột miệng khen:

- Phi thân như thế thật tuyệt!

Vừa dứa lời, chợt sau gáy có luồng gió thổi đến, một thứ binh khí bổ xuống.

Chu Đan Thần vung quạt lên đỡ đánh chát một tiếng, cây cương trảo của

Vân Trung Hạc bị hất ra. Thuận tay y đưa năm ngón cương trảo chụp xuống

mông ngựa, máu chảy đầm đìa. Ngựa bị thương đau quá, hí vang một tiếng

bi thảm rồi chạy lồng lên lại bỏ Vân Trung Hạc một quãng khá xa.

Nhưng từ lúc đó, một ngựa cõng hai người, một bị thương không còn cách

nào duy trì lâu được nữa. Chu Đan Thần cùng Mộc Uyển Thanh rất đỗi bồn

chồn, còn Đoàn Dự chưa rõ sự thể nguy cấp hỏi:

- Uyển Thanh mình ơi! thằng cha đó ghê gớm lắm phải không? Chẳng lẽ

Chu tứ ca không địch nổi nó?

Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp:

- Cả tôi hợp lực nữa cũng không ăn thua.

Rồi nàng chợt nghĩ ra một kế nói:

- Tôi giả vờ ngã ngựa bị thương nằm xuống bên đường, chờ y đến nơi,

không kịp đề phòng sẽ phóng ra hai mũi tên độc hay nhiều hơn, may ra hạ

được y. Chàng cứ cưỡi ngựa chạy dài đừng chờ tôi nghe.

Đoàn Dự hoảng quá, quờ tay lại đằng sau, tay trái giữ đầu, tay phải ôm lưng

nàng nói luôn:

- Không được! Không được! Tôi không bằng lòng cho mình mạo hiểm thế

đâu.

Mộc Uyển Thanh thẹn quá, mặt đỏ bừng lên, vùng vằng bảo:

- Chàng ngốc! Buông người ta ra! Để Tứ ca trông thấy coi sao cho tiện?

Đoàn Dự giật mình hỏi:

- Mình giận tôi đấy ? Đừng giận nữa mà!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Đã là vợ chồng tôi giận chàng làm gì?

Hai người nhìn về phía sau thấy Vân Trung Hạc đang ngất ngưởng đuổi tới.

Đoàn Dự liếc nhìn Mộc Uyển Thanh thấy nàng mày liễu ủ dột, nét mặt lo

buồn thì chàng ruột rối tơ vò, cầm lòng không đậu. Đằng sau Chu Đan Thần

không ngớt vẫy tay ra hiệu bảo chạy mau đi, gã đã xuống ngựa cầm cây

quạt đứng chặn đường. Chẳng ngờ Vân Trung Hạc chỉ cố tình bắt Mộc

Uyển Thanh, y rẽ xuống ruộng tránh Chu Đan Thần rồi cứ nhằm Đoàn Dự,

Mộc Uyển Thanh mà đuổi. Mộc Uyển Thanh gia roi quất mạnh vào hông

ngựa, con vật mệt quá miệng nhả bọt rãi ra trắng hếu, hơi thở phì phì. Đoàn

Dự nói:

- Uyển Thanh mình ơi! Giả tỷ lúc này ta có con Hắc Mai Côi thì tên ác

nhân kia không tài nào đuổi kịp.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ai không biết thế? Cần chi chàng phải nói?

Ngựa lượn qua sườn núi thì đến một con đường lớn thẳng tắp và quang quẻ,

chả còn chỗ nào ẩn nấp được nữa. Chỉ có về mé tay trái, giữa một rặng liễu

xanh um, bên cạnh cái hồ nhỏ lộ ra bức tường vàng.

Đoàn Dự cả mừng nói:

- Chúng ta vào trong kia!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Đó là đất chết! Vào đó cùng đường rồi chạy đi đâu?

Đoàn Dự nói:

- Mình cứ nghe tôi! tôi nói không sai đâu mà!

Mộc Uyển Thanh giật cương cho ngựa chạy rẽ vào. Chạy gần đến nơi, nàng

ngoảnh đầu lên nhìn thì đó là một ngôi chùa hay một đạo viện, trên biển có

đề ba chữ: "THANH HOA QUáN". Nàng hoảng hồn than thầm: chàng

ngốc này bảo mình chạy vào đây, trước mặt quả là cùng đường biết làm thế

nào? Thôi ta đành nấp vào trong kia, bắn ngầm Vân Trung Hạc một phát rồi

ra sao thì ra. Vừa tính toán xong ngựa đã đến trước cửa chùa. Phía sau bỗng

một chuỗi cười ha hả nổi lên, nghe rõ tiếng Vân Trung Hạc đuổi tới nơi.

Con ngựa tung Mộc Uyển Thanh cùng Đoàn Dự nẩy lên. Nó hý một tiếng

dài rồi đứng sững lại một cách đột ngột, phía trước mắc tường chùa không

còn đường chạy.

Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng mát lạnh, quay đầu nhìn lại thì Vân Trung

Hạc đã túm được khấu đuôi ngựa. Thần lực y ghê gớm quá, y chỉ nắm khấu

đuôi mà toàn thân ngựa bị cứng đờ, không nhúc nhích được nữa. Đoàn Dự

bỗng cất tiếng gọi thật to:

- Má má ơi! Má ra đây mau mau! Má má ơi!

Mộc Uyển Thanh tức quá hét lên:

- Đồ ngốc! Câm mồm ngay!

Vân Trung Hạc cười ha hả nói:

- Mi gọi cả ba má mi ra đây cũng không làm gì được nữa đâu.

Mộc Uyển Thanh vẫy tay phải, một mũi tên phóng về phía sau. Vân Trung

Hạc rụt cổ lại tránh khỏi, gã thấy Mộc Uyển Thanh xuống ngựa, tay trái

vung cây cương trảo ra toan chụp lấy vai nàng. Mộc Uyển Thanh cơ linh

mau lẹ, co người lại một cái đã chui ngay vào gầm bụng ngựa. Vân Trung

Hạc buông đuôi ngựa ra, định thò tay nắm lấy Mộc Uyển Thanh. Bất thình

lình một người đạo cô trong chùa chạy ra. Vị đạo cô này tuy đã đứng tuổi

mà nhan sắc xinh tươi chẳng khác gì cô gái đương xuân, tay phải cầm cây

phất trần, miệng tươi như hoa nở.

Đạo cô đưa tay ra dắt Đoàn Dự lại bên mình, vừa cười vừa hỏi:

- Lại gây chuyện chi rắc rồi mà gọi ầm lên thế?

Mộc Uyển Thanh thấy đạo cô xinh đẹp mà đối với Đoàn Dự ra vẻ thân mật

còn Đoàn Dự quàng tay ôm lấy lưng mụ miệng cười toe toét bất giác nổi

cơn tam bành, không nhớ gì đến kẻ địch lợi hại ở sau lưng nữa, nhảy xổ vào

chìa tay ra toan tát vào mặt đạo cô. Nàng gầm lên:

- Mi là người thế nào với chàng?

Đoàn Dự vội la lên:

- Mộc Uyển Thanh! Không được vô lễ.

Mộc Uyển Thanh thấy chàng bênh đạo cô, máu ghen đưa lên tận cổ, chân

chưa chấm đất nàng vận thêm nội lực vào tay định để tát cho thật mạnh.

Đạo cô giơ phất trần ra, đuôi phất trần tung lên rồi sa xuống quấn lấy tay

Mộc Uyển Thanh, kéo sang một bên. Mộc Uyển Thanh thấy cây phất trần

có một mãnh lực rất kỳ dị: lông đuôi nó mềm như tơ, tuyệt không có chi

cứng mạnh vậy mà nàng đành chịu thua không còn tự chủ được nữa. Nàng

căm tức muốn lồng lên, cả tiếng mắng:

- Mi là kẻ tu hành còn ôm lấy trai sao không biết nhục?

Vân Trung Hạc lúc mới thấy đạo cô dung nhan yểu điệu bước ra khoái quá

lẩm bẩm: Vân Trung Hạc này hôm nay sao mà vận đỏ thế? Một phát bắn

trúng đôi điêu, làm mình phải ẵm cả cặp đi một chuyến". Nhưng đến khi

thấy đạo cô vung phất trần một cách hời hợt để bắt Mộc Uyển Thanh mà

nàng đành chịu ép một bề thì biết ngay là một tay đáo để. Y nhảy tót lên

lưng ngựa coi chừng chứ chưa động thủ. Đạo cô cả giận quát hỏi Mộc Uyển

Thanh:

- Tiểu cô nương! Cô nói lăng nhăng gì thế? Cô là ai?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Ta là vợ Đoàn lang, mi có buông ngay chàng ra không?

Đạo cô đứng ngẩn người ra một lát, rồi béo tai Đoàn Dự, vừa cười vừa hỏi:

- Cô ta nói có đúng không?

Đoàn Dự cười nói nước đôi:

- Không đúng mà cũng không sai.

Đạo cô beo má chàng một cái thật mạnh, cười mà mắng rằng:

- Con nhà chẳng học được chút võ công nào của cha mà tính trăng hoa thì

chẳng kém gì cha. Ta phải đánh què mới xong.

Bà nói rồi đưa mắt ngắm nghía Mộc Uyển Thanh từ đầu xuống đến gót

chân, nói:

- à đẹp thì đẹp lắm rồi nhưng có vẻ quê mùa, phải giáo hoá mới nên người

được.

Mộc Uyển Thanh cả giận nói:

- Ta quê mùa hay không quê mùa thì việc gì đến mi? Mi không buông

chàng ra thì ta bắn cho bây giờ.

Đạo cô cười nói:

- Ngươi thử bắn ta coi!

Đoàn Dự vội la lên:

- Bớ Uyển Thanh! Không được hỗn láo! Mình không biết ai đó ?

Chàng nói rồi đưa tay lên ôm lấy đầu đạo cô. Mộc Uyển Thanh trông thấy

uất lên không nhịn được nữa, phất tay áo một cái, hai mũi tên vun vút bay

ra. Đạo cô đang tươi cười trông thấy hai mũi tên độc bắn tới, bỗng nhiên

biến sắc, vung cây phất trần, những sợi tơ dường như có sức hút quấn cả lấy

hai mũi tên. Đạo cô quát hỏi:

- Tu la đao Tần Hồng Miên với mi là người thế nào?

Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp:

- Ta chẳng biết Tu la đao Tần Hồng Miên là cái cóc gì.

Đoàn Dự thấy đạo cô nét mặt sa sầm vội khuyên can:

- Má ơi! Xin má đừng giận mà!

Mộc Uyển Thanh thoáng nghe lời chàng giật mình, tưởng mình nhãng tai

hỏi lại:

- Đạo... đạo cô là... má má chàng đó ?

Đoàn Dự cười đáp:

- Từ lúc mới đến đây tôi đã gọi má má ầm lên mình không nghe thấy ?

Đoạn chàng quay sang giới thiệu với đạo cô:

- Thưa má! Đây là Mộc Uyển Thanh cô nương. Mấy bữa nay con trải qua

lắm phen nguy hiểm bị bao kẻ hung tàn áp bức, may đều nhờ được Mộc cô

nương cứu cho thoát chết.

Bất thình lình bên ngoài có tiếng gọi to:

- Dao Đoan Tiên Tử! Xin tiên tử đề phòng cẩn thận, một tên trong bọn Tứ

ác đã đến đó!

Một người từ ngoài cửa bước vào chính là Chu Đan Thần. Nhìn thấy sắc mặt

đạo cô có vẻ khác thường, tưởng đạo cô đã bị bại với Vân Trung Hạc gã run

run hỏi:

- Tiên Tử... đã cùng y động thủ chưa?

Vân Trung Hạc cười nói xen vào:

- Chưa động thủ thì bây giờ động thủ cũng vừa chứ sao?

Người y đã cao, đứng trên lưng ngựa lại càng cao thêm, đầu y tựa như treo

lơ lửng trên không. Đột nhiên y nhoài người ra phía trước, chân phải vẫn

bám chặt vào yên ngựa, y cầm cương trảo chụp xuống đạo cô. Đạo cô khẽ

nghiêng mình để tránh, tung phất trần ra đánh vào chân trái Vân Trung Hạc.

Vân Trung Hạc không tránh, tay trái chụp xuống giữa lưng đạo cô. Đạo cô

lún người xuống thấp, luồn vào gầm bụng ngựa, văng cây phất trần lên, có

đến muôn ngàn sợi tơ phóng ra, luồng gió cực mạnh đánh vào chân phải

Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc chân trái bước ra đầu ngựa, tay phải cầm

cơng trảo quét ngang một cái. Chu Đan Thần quát to:

- Xuống ngay!

Gã nhảy lên mông ngựa, vung tay trái đánh vào sườn bên tả Vân Trung Hạc

một quyền, tay phải giơ lên đâm vào đùi y. Khí giới của Chu Đan Thần

ngắn lại đứng sát ngay bên địch nên dễ bề sử dụng. Vân Trung Hạc hất

cương trảo lại đỡ, khí giới của y dài nên đánh khó trúng. Phất trần của Dao

Đoan Tiên Tử lại nhằm hạ bàn y đánh tới. Cuộc tranh phong đã đến giai

đoạn kịch liệt. Một mình Vân Trung Hạc phải đánh với hai người, hai tay

múa tít cương trảo vung lên, chụp xuống kể ra cũng chưa có gì kém thế.

Mộc Uyển Thanh thấy Vân Trung Hạc đứng trên lưng ngựa có chỗ sơ hở

liền bắn ra một mũi tên trúng mắt bên trái con ngựa. Mũi tên này độc vô

cùng. Ngựa trúng tên run lên, ngã khuỵu ngay xuống. Dao Đoan Tiên Tử đã

quấn được năm ngón tay cương trảo, hai tay bỗng rung lên một cái, phất

trần cùng cương trảo đều rời khỏi tay, vọt lên không. Dao Đoan Tiên Tử

đưa tay trái rút ở sau lưng một giải lụa toan chụp lấy Vân Trung Hạc. Y cất

tiếng mắng:

- Bọn Đại Lý các ngươi chỉ ỷ thế nhiều người uy hiếp chứ bản lãnh các

ngươi ta có coi vào đâu.

Y liệu chừng không thể thắng nổi liền bước xuống chạy ra chân tường, tay

trái móc cây cương trảo vào mặt tường rồi nhảy vèo ra ngoài. Mộc Uyển

Thanh phóng tên theo nhưng không kịp, mũi tên cắm phập vào tường. Vân

Trung Hạc đã xa chạy cao bay, không thấy tông tích đâu nữa, trước khi cây

cương trảo và cái phất trần rơi xuống đất.

Bốn người trong sân ngơ ngác nhìn nhau, kinh hãi cho tài phi hành của Vân

Trung Hạc trên đời có một. Chu Đan Thần nói:

- Hôm nay Chu Đan Thần này nếu không nhờ được Dao Đoan Tiên Tử ra

tay thì tất bị chết về tay địch.

Dao Đoan Tiên Tử mỉm cười hỏi Chu Đan Thần:

- Đã hơn mười năm nay ta không mò đến binh khí, võ công kém cỏi lắm rồi

còn gì nữa đâu? Ngươi có biết lai lịch y không?

Chu Đan Thần đáp:

- Có tin rằng cả Tứ ác vào nước Đại Lý ta. Y là em út trong bọn mà đã ghê

gớm thế thì đủ biết ba tên kia còn đến mực nào. Xin Tiên Tử hãy về Vương

phủ tạm lánh ít lâu, chờ thanh toán xong bọn tứ ác hãy hay.

Dao Đoan Tiên Tử biến sắc, có vẻ bực mình nói:

- Ta còn về Vương phủ làm chi? Không địch lại bọn chúng thì đành chịu

chết chứ sao?

Chu Đan Thần sợ hãi không dám nói nữa, đưa mắt ra hiệu cho Đoàn Dự năn

nỉ. Đoàn Dự nói:

- Bốn tên này hung ác ghê gớm lắm, má không chịu về nhà thì để con đưa

má về bên bá phụ.

Dao Đoan Tiên Tử lắc đầu nói:

- Ta không về đâu hết.

Mắt tiên tử đỏ lên, dường như sắp trào lệ ra. Đoàn Dự nói:

- Nếu má không về con cũng ở luôn đây với má.

Đoạn quay sang bảo Chu Đan Thần:

- Chu tứ ca! Phiền tứ ca về bẩm với với bá phụ cùng gia gia ta rằng: ta phải

ở đây hợp lực với mẫu thân ta để chống lại bọn tứ ác.

Nghe con pha trò, tiên tử phì cười mắng:

- Mi nói mà không biết nhục, có bản lãnh gì mà dám bảo ở đây hiệp lực

cùng ta để chống nhau với bốn tên đại ác?

Tuy Đoàn Dự làm cho Tiên Tử phải bật cười nhng rồi những giọt nước mắt

vẫn tuôn xuống má, bà quay đi giơ tay áo lên lau. Mộc Uyển Thanh thấy

vậy rất lấy làm lạ tự hỏi: Mẫu thân Đoàn lang vì lẽ gì mà xuất gia đầu Phật?

Mắt nàng trông thấy Vân Trung Hạc chạy về, thế nào y chẳng gọi ba đồng

đảng đến, nàng lẩm bẩm một mình: Nếu bốn gã đại ác đến nơi, một mình

bà ta chống thế nào nổi? Vậy mà bà cố chấp không chịu về là nghĩa làm

sao? à phải rồi! khắp thiên hạ, phái nam nhi đều là phường bạc hãnh. Phụ

thân Đoàn lang tất sủng ái kẻ khác nên mẫu thân chàng bực chí đi tu. Nghĩ

đến đây nàng cảm thấy đồng tình với tiên tử, nàng nói:

- Dao Đoan Tiên Tử! tôi xin trợ lực tiên tử để chống tứ ác.

Dao Đoan Tiên Tử nhìn kỹ lại tướng mạo nàng, đột nhiên hỏi lại:

- Cô nói thật cho ta hay: cô cùng Tu la đao Tần Hồng Miên thân thích thế

nào?

Mộc Uyển Thanh tức mình nói:

- Tôi đã bảo tiên tử rồi mà! Tôi chưa từng thấy ai nói đến cái tên đó bao

giờ, cũng chẳng hiểu Tần Hồng Miên là người hay là giống vật nữa. Thực

tình tôi không biết gì hết.

Dao Đoan Tiên Tử nghe nàng nói đến câu: "Không biết là người hay là

giống vật" thì nghĩ ngay: nếu nàng quả là con cháu Tu la đao tất không khi

nào lại bảo là súc vật nên tuy nghe lời nàng nói có vẻ bướng bỉnh, tiên tử vẻ

mặt vẫn ôn hoà, tươi cười nói lảng:

- Cô nương đừng trách ta! Ta coi lối phóng ám tiến của cô giống hệt một

người quen với ta, vả nét mặt cô cũng hao hao như người đó nên ta tưởng

lầm đó thôi. Vậy chớ lệnh đường tên họ là chi? Cứ xem võ công cũng đủ

biết cô phải là con nhà có danh tiếng.

Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp:

- Từ thuở nhỏ tôi không cha không mẹ, chỉ có sư phụ nuôi nấng cho đến

ngày khôn lớn nên tôi không biết tên họ gia gia cùng má má tôi.

Dao Đoan Tiên Tử lại hỏi:

- Vậy lệnh tôn sư là ai?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Sư phụ tôi là "Vô danh khách".

Dao Đoan Tiên Tử lẩm bẩm: "Vô danh khách! Vô danh khách là ai?", rồi

như không nghĩ ra được đa mắt ra hiệu hỏi Chu Đan Thần.

$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$$

Đang đêm đột nhập phủ Trấn Nam Vương 2

Chu Đan Thần lắc đầu thưa:

- Chu Đan Thần vốn ở miền biên cương hẻo lánh cõi Nam, kiến văn hẹp hòi

nên ít biết đến các bậc tiền bối anh hùng nghĩa hiệp tại Trung Nguyên. Tiểu

sinh chắc "Vô danh khách" là một bậc cao sĩ, ẩn dật chốn sơn lâm. Chẳng

những tiểu sinh không quen biết, cả cái tên Vô danh khách cũng chưa từng

nghe thấy ai nói đến.

Trong khi đang trò chuyện chợt nghe bên ngoài có tiếng vó ngựa dồn dập.

Một người còn ở đằng xa đã lên tiếng gọi to:

- Tứ đệ ơi! Công tử bình yên đấy chứ?

Chu Đan Thần lớn tiếng đáp:

- Tha đại ca! Công tử hiện ở đây, vẫn mạnh giỏi như thờng.

Chớp mắt ba người đã vào đến cửa chùa Thanh Hoa, xuống ngựa. Phu Tiêu

Điếu, Thái Tân Khách, Điểm Thương nông lạy phục xuống đất, làm lễ bái

kiến Dao Đoan tiên tử.

Mộc Uyển Thanh ở chốn sơn lâm từ thuở nhỏ cho đến khi khôn lớn, thấy

mấy người này thi lễ một cách quá thành kính, nàng không hiểu nếp tẻ gì,

lấy làm bực mình, nghĩ thầm: bọn này võ công đều vào hạng giỏi, làm sao

lại cứ thấy người là lạy lục?

Dao Đoan tiên tử thấy ba người có dáng thất thểu, xem ra thì gã nông phu ở

núi Điểm Thương bị thương ở má, nửa mặt phải buộc bằng miếng vải trắng.

Thái Tân Khách thì mình mẩy có nhiều vết máu. Phủ Tiên Điếu tay không

lúc nào rời cây cần câu nhưng bị gãy mất một nửa.

Tiên tử vội hỏi:

- Sao vậy? Bên địch mạnh lắm à? Tư Quy bị thương có nặng lắm không?

Đổng Tư Quy nghe tiên tử hỏi tới, mắt giận muốn nảy lửa, kêu to lên rằng:

- Tư Quy này kém cỏi, được Vương phi có lòng thương xót hỏi đến rất lấy

làm xấu hổ.

Dao Đoan tiên tử, vẻ mặt buồn thiu hỏi:

- Ngươi còn gọi ta bằng Vương phi nữa sao? Ngươi quên hết rồi ?

Đổng Tư Quy cúi đầu xuống bẩm:

- Vâng! Xin Vương phi tha tội cho!

Thì ra y gọi Vương phi đã quen miệng không tài nào đổi được nữa. Chu

Đan Thần hỏi:

- Còn Cao hầu lão gia sao không thấy về?

Phủ Tiêu Điếu Lăng Thiên Lý đáp:

- Hầu gia còn ở ngoài cổng, người cũng bị thương không tiện xuống ngựa.

Dao Đoan tiên tử khẽ thở dài một tiếng, nét mặt có vẻ sửng sốt hỏi:

- Cao hầu cũng bị thương à? Có... có nặng không?

Lăng Thiên Lý đáp:

- Cao hầu đang đánh nhau dữ dội với Nam Hải Ngạc Thần thì Diệp Nhị

Nơng ập đến sau lưng. Cao hầu bị giáp công, không thể chống chọi được

cả hai mặt, bị Diệp Nhị Nương đánh một chưởng vào sau lưng.

Dao Đoan Tiên Tử ngần ngừ một chút rồi kéo tay Đoàn Dự bảo:

- Đoàn Dự con! Mẹ con ta ra xem thúc thúc thế nào?

Rồi hai mẹ con chạy ra cửa chùa, bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Độc theo sau.

Mộc Uyển Thanh cũng theo ra. Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái đang nằm

phục trên lưng ngựa, áo rách toạc đằng sau, trên lưng còn rành rành in vết

bàn tay. Đoàn Dự rảo bước lại gần hỏi:

- Cao thúc thúc! Thúc thúc làm sao thế?

Cao Thăng Thái ngửng đầu lên nhìn thấy Dao Đoan Tiên Tử đứng trước cửa

chùa, hấp tấp xuống ngựa thi lễ. Dao Đoan Tiên Tử vội bảo:

- Cao hầu đã bị thương, bất tất phải thủ lễ.

Nhưng Cao Thăng Thái đã xuống ngựa rồi, loạng choạng té phục xuống đất

nói:

- Cao Thăng Thái này kính cẩn vấn an Vương phi, bái chúc Vương phi vạn

phước.

Dao Đoan Tiên Tử giục Đoàn Dự:

- Con đỡ thúc thúc dậy đi!

Mộc Uyển Thanh trong lòng nghi hoặc nghĩ thầm: ông họ Cao kia võ công

ghê gớm là thế, cầm ngọc địch đánh mấy đòn làm cho Diệp Nhị Nương

phải hoảng sợ chạy trốn. Chắc ông ta là tay lừng danh trong phái võ lâm,

vậy mà làm sao cũng phải kính cẩn mẫu thân Đoàn lang đến thế được? Còn

gọi bà một điều Vương phi, hai điều Vương phi. Hay chàng là con ông Vua

nào chăng? Anh đồ gàn này đáo để thật! Chả thấy chút gì tỏ ra là Vương tôn

công tử cả. Bỗng lại thấy tiên tử bảo Cao Thăng Thái:

- Cao hầu thế là tận tuỵ quá rồi, mời về thành tĩnh dưỡng!

Cao Thăng Thái nói:

- Xin vâng mệnh!

Đoạn đứng dậy. Mộc Uyển Thanh thấy Cao hầu sắc mặt nhợt nhạt mà đứng

vẫn ra vẻ con người phong lưu, bình tĩnh thì trong lòng kính phục vô cùng.

Lại thấy Cao Thăng Thái nói:

- Tứ ác cùng vào nước Đại Lý ta, tình thế rất là nguy hiểm. Xin Vương phi

hãy tạm trở về Vương phủ ít bữa.

Dao Đoan Tiên Tử thở dài nói:

- Ta đã có ý định suốt đời không trở về Vương phủ nữa.

Cao Thăng Thái nói:

- Nếu Vương phi không về thì chúng tôi có bổn phận phải ở lại bên ngoài

chùa này để phòng vệ cho Vương phi được an toàn.

Rồi quay lại bảo gã Nông núi Điểm Thương:

- Đổng Tư Quy ngươi kíp về thành trình Hoàng Thượng cùng Vương gia

biết.

Đổng Tư Quy dạ một tiếng rồi nhảy tót lên lưng ngựa, toan đi. Tuy gã bị

thương khá nặng nhưng chân tay còn mau lẹ dị thường. Dao Đoan Tiên Tử

nói:

- Hãy khoan!

Bà cúi đầu ngẫm nghĩ. Mọi người đều chăm chú nhìn thấy nét mặt tiên tử lộ

vẻ băn khoăn, tựa hồ có điều gì khó giải quyết. ánh nắng đã xế chiều chiếu

vào mặt bà trong sáng như châu ngọc, lộng lẫy như đoá hoa tơi. Tuy bà đã

đứng tuổi mà tư dung chẳng khác chi cô gái đương xuân. Hồi lâu bà mới

ngửng đầu lên uể oải nói:

- Thôi ta cũng đành trở về thành vậy, không lẽ để các ngươi vì một mình ta

mà phải ở lại đây chịu đựng sự nguy hiểm ghê gớm.

Đoàn Dự mừng quá nhảy lại ôm lấy đầu mẹ reo lên:

- Má tốt quá, có thế mới phải là má con chứ!

Đổng Tư Quy nói:

- Tiểu nhân xin về thành báo tin trước.

Dứt lời gã gia roi cho ngựa bon bon chạy về phía bắc. Lăng Thiên Lý dắt ba

con ngựa lại cho Dao Đoan Tiên Tử, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh cưỡi.

Cả đoàn người nhắm phía thành Đại Lý thẳng tiến. Dao Đoan Tiên Tử,

Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh và Cao Thăng Thái bốn người cỡi ngựa còn ba

gã Lăng Thiên Lý, Tiêu Đốc Thành (tức Thái Tân Khách) và Chu Đan Thần

ba người đi bộ theo sau.

Đoàn người mới đi được chừng vài dặm, phía trước đã thấy một tiểu đội

quân khinh kỵ chạy đến như bay. Lăng Thiên Lý vẫy tay, nói với người đội

trưởng mấy câu. Đội trưởng ra lệnh cho quân kỵ lập tức xuống ngựa, lạy

phục xuống đất.

Đoàn Dự vẫy tay cười bảo chúng:

- Các ngươi bất tất phải thủ lễ thái quá.

Nguyên đội khinh kỵ này ở trong thành cho ra trước đón Vương phi. Thi lế

xong bọn họ lại lên ngựa đi trước mở đường. Vó ngựa rầm rộ bon bon trên

đường lớn.

Mộc Uyển Thanh trông thấy thanh thế uy nghi đến mức độ này biết ngay

Đoàn Dự tất không phải hạng tầm thường. Nàng đâm ra lo lắng nghĩ thầm:

trước ta tưởng chàng là một gã thư sinh phiêu bạt giang hồ, nay xem ra

chàng không phải con nhà bình dân. Nếu chàng là giòng họ hoàng thân

quốc thích, hoặc con một vị con lớn trong chiều, biết đâu chàng chẳng nhìn

mình, một cô gái quê mùa bằng con mắt khinh bạc? Sư phụ ta thường nói

rằng: phái nam địa vị càng cao bao nhiêu tâm địa càng đơn bạc bấy nhiêu.

Bọn họ lấy vợ thường kén chỗ môn đăng hộ đối. Chà chà! Đời sao mà lắm

chuyện rắc rối quá! Chàng thuỷ chung với ta chẳng nói làm chi, bằng chàng

thay lòng đổi dạ, chê ỏng chê eo, ta cứ chém cho mấy nhát, dù chàng ở địa

vị nào ta cũng bất chấp. Nghĩ đến đây nàng không thể nhịn được nữa, bắt

ngựa chạy sát bên cạnh Đoàn Dự, hỏi giật giọng:

- Lang quân! Chàng là hạng người nào? Phải nói cho thiếp biết ngay!

Những lời đôi ta gắn bó trên núi, chàng còn nhớ không?

Đoàn Dự thấy phía trước phía sau đầy cả người ngựa mà nàng đột nhiên

nhắc tới việc hôn nhân, làm chàng bẽn lẽn quá phải gượng cời bảo nàng:

- Hãy chờ về đến thành Đại Lý thong thả tôi sẽ bàn với mình.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Nếu chàng phụ thiếp thì... thiếp... thiếp...

Rồi dường như nghẹn ngào, nàng không thốt ra được hết lời. Đoàn Dự thấy

mặt nàng trắng ửng hồng, nước mắt chảy quanh càng thêm vẻ mỹ miều,

lòng chàng càng thêm mê mẩn, nói khẽ bảo nàng:

- Uyển Thanh mình ơi! Tôi cầu khẩn mình còn chưa được có lý đâu lại phụ

mình. Mình cứ bình tĩnh, má má cũng thương mình lắm đó.

Mộc Uyển Thanh nghe chàng nói vậy mắt lại ráo hoảnh, tươi cười khẽ hỏi

chàng:

- Má chàng có thương tôi hay không phỏng được ích gì?

ý nàng muốn nói: tôi chỉ cần chàng thương yêu tôi là đủ. Đoàn Dự lơ đãng

chợt ngó đến mẫu thân chàng. Bà cũng đang chăm chú nhìn chàng và Mộc

Uyển Thanh, vẻ mặt dường như mỉm cười mà không phải là cười. Bất giác

chàng thẹn, tai đỏ bừng lên.

Trời đã xế chiều, đoàn người đang đi còn cách thành Đại Lý chừng hai, ba

chục dặm, bỗng phía trước mặt cát bụi tung trời, một đội khinh kỵ đến mấy

trăm người rầm rầm đi tới. Hai bên đường hai lá cờ bay phất phới, một lá

thêu hai chữ "Trấn Nam" còn một lá thêu hai chữ "Bảo Quốc" đen. Đoàn Dự

reo lên:

- Má ơi! Gia gia thân hành đến đón má kia rồi! Dao Đoan Tiên Tử "hứ" một

tiếng rồi dừng ngựa lại. Cao Thăng Thái xuống ngựa rồi cùng bọn Chu Đan

Thần đứng ra mé đờng. Đoàn Dự phóng ngựa lên trước. Mộc Uyển Thanh

do dự một chút rồi cũng phóng ngựa theo chàng. Dây lát hai đoàn người đến

gần nhau, Đoàn Dự gọi to lên rằng:

- Bẩm gia gia! Má đã về đến đây rồi!

Hai tên lính cầm cờ đầu tránh ra hai bên đường, một người mặc hoàng bào

cưỡi con bạch mã cao lớn đi đến quát:

- Bớ Đoàn Dự con! Vì mày gây chuyện rắc rối để luỵ đến Cao thúc thúc bị

trọng thương. Phen này ta sẽ đánh què.

Mộc Uyển Thanh giật mình lẩm bẩm: không xong rồi! ông này bảo đánh

Đoàn lang, tất là phụ thân chàng rồi! Nàng nhìn kỹ lại thì ông mặt vuông

chữ "Quốc", tướng mạo oai nghiêm, mày thô mắt lớn, cử chỉ đường bệ ra

dáng một bậc vương giả. Ông thấy con được vô sự trở về, nét mặt chỉ ba

phần giận dữ còn đến bảy phần mừng vui.

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: cũng may mà Đoàn lang giống mẹ nhiều hơn

giống cha, nhìn bộ mặt khoằm khoặm của ông mà mình phát ngán. Đang

nghĩ chợt thấy Đoàn Dự phóng ngựa đến trước mặt cha tươi cười hỏi:

- Bẩm gia gia! Gia gia mạnh giỏi đấy a?

Người mặc áo hoàng bào làm mặt giận đáp:

- Mạnh giỏi cái gì? Vì mi mà ta tức chết đi được.

Đoàn Dự cười nói:

- Nếu con không ra đi đâu có mời được má về? Gia gia ơi con lấy công

chuộc tội rồi. Gia gia đừng giận con nữa.

Người mặc áo hoàng bào hừ một tiếng rồi bảo:

- Dù ta có không đập vào xác mi thì bá phụ cũng không tha mi đâu.

Dứt lời hai về đùi ông thúc vào sườn ngựa, con bạch mã chạy như bay đến

trước mặt Dao Đoan Tiên Tử. Mộc Uyển Thanh thấy đội kỵ binh đều mặc

áo gấm, giáp trụ lộng lẫy, gươm đao sáng quắc. Phía trước hai mươi người

đi đầu tay cầm nghi trượng, một tấm biển son đề bảy chữ: "Đại Lý Quốc,

Trấn Nam Vương Đoàn" và một tấm biển thứ hai đề sáu chữ: "Bảo quốc Đại

tướng quân Đoàn". Nut bổn tính không biết sợ ai nhưng khi nàng trông thấy

uy thế nghiêm chỉnh này không khỏi nao nao trong dạ. Nàng khẽ hỏi Đoàn

Dự:

- Phải chăng quan Bảo Quốc Đại tướng quân tước Trấn Nam Vương đây là

gia gia chàng?

Đoàn Dự tươi cười vừa gật đầu vừa rỉ tai bảo nàng:

- Chính là bố chồng mình đó.

Nàng đứng ngây người ra một lúc, cõi lòng cảm thấy hoang mang. Nàng

phóng ngựa đi ngang Đoàn Dự, bốn bề người ngựa nhộn nhịp là thế mà

nàng phải dựa vào Đoàn Dự cho cõi lòng khỏi trống rỗng và được vững dạ.

Trấn Nam Vương lại đến trước Dao Đoan Tiên Tử còn cách chừng một

trượng thì dừng ngựa lại. Hai bên chỉ thoáng nhìn nhau một lần mà chẳng ai

nói câu nào. Đoàn Dự liền bày trò nói với mẹ:

- Má ơi! Gia gia thân đến đón má đó.

Dao Đoan Tiên Tử nói:

- Con đến thưa với bá mẫu rằng: má về bên bá mẫu tạm trú mấy bữa. Khi

đuổi được quân địch ra khỏi bờ cõi má lại trở về chùa Thanh Hoa.

Bấy giờ Trấn Nam Vương mới mỉm cười nói:

- Phu nhân! Phu nhân chưa hết giận kia ? Phu nhân hãy về nhà, thong thả

tôi sẽ có lời nói lại.

Dao Đoan Tiên Tử vẫn dấm dẳng:

- Tôi không về nhà, tôi cứ sang bên Hoàng cung.

Đoàn Dự nói xen vào:

- Tốt lắm! Con cũng theo má vào Hoàng cung để bái kiến bá phụ, bá mẫu

đã rồi sau sẽ tính. Chuyến này con bỏ nhà đi ít bữa chắc là bá phụ giận con

lắm. Gia gia không chịu xin cho con rồi có má đỡ đòn cho con mấy câu.

Dao Đoan Tiên Tử nói:

- Con nhà càng lớn càng hư. Để bá phụ đánh cho một chập mới mở mắt ra.

Đoàn Dự nói:

- Con mà phải đòn đau mẹ cũng phải đứt từng khúc ruột. Thà đừng để con

bị đánh nữa là hay hơn cả.

Dao Đoan Tiên Tử không thể nín cười được nói:

- Con càng phải đòn đau má càng thấy mát ruột.

Trấn Nam Vơng cùng Dao Đoan Tiên Tử đang ở vào tình thế ngột ngạt,

lặng lẽ chẳng ai muốn nói với ai, may có Đoàn Dự bẻo lẻo mồm miệng nói

cười dí dỏm thành ra bầu không khí giữa cha con vợ chồng trở nên đầm ấm.

Đoàn Dự lại tiếp:

- Gia gia ơi! Con ngựa của gia gia đẹp quá mà. Sao gia gia không nhường

cho má má cưỡi?

Dao Đoan Tiên Tử vừa giật cương cho ngựa phóng vừa nói:

- Ta không cưỡi đâu.

Ngựa tiên tử vừa chồm vô chạy, Đoàn Dự đuổi theo nắm lấy dây cương.

Trấn Nam Vương xuống ngựa rồi tự mình giắt con bạch mã lại bên. Đoàn

Dự, cười hì hì ôm mẹ để lên yên con bạch mã, vừa cười toe toét vừa pha trò:

- Má ơi! Người đẹp nhất trần đòi có một phải cưỡi con bạch mã này mới

xứng.

Dao Đoan Tiên Tử cười nói:

- Mộc cô nương của mi mới đúng là người đẹp trần đời có một. Mi muốn

đem mụ già này ra làm trò cười đó sao?

Bấy giờ Nam Trấn Vương mới quay sang nhìn Mộc Uyển Thanh rồi hỏi:

- Dự con! Cô nương đó là ai?

Đoàn Dự ấp úng đáp:

- Dạ nàng... nàng là Mộc cô nương. Con cùng nàng giao kết... nên... đôi

bạn hợp ý tâm đầu.

Trấn Nam Vương coi vẻ mặt chàng đã biết rõ tình hình. Vương thấy Mộc

Uyển Thanh mắt trong, răng trắng, xinh đẹp đoan trang cũng khen thầm:

con ta xem người quả đã không lầm. Nhưng Vương nhìn kỹ lại thấy nàng

đầy vẻ quê kệch, lại không biết đến bái kiến mình thì lẩm bẩm: Cô này là

con nhà dân dã chẳng biết lễ giáo chi hết. Vương chợt nhớ tới Cao Thăng

Thái bị thương, vội tới gần hỏi:

- Cao đệ! Cao đệ bị nội thương có nặng lắm không?

Cao Thăng Thái đáp:

- Tiểu đệ bị thương xoàng thôi, không có gì đáng ngại. Ca ca bất tất phải

quan tâm.

Trấn Nam Vương đưa ngón tay trỏ bên phải ra điểm vào hậu tâm và vào cổ,

tay trái nắm chặt sau lưng Cao Thăng Thái. Bỗng trên đỉnh đầu Trấn Nam

Vương bốc lên mấy tia bạch khí. Trong khoảnh khắc Vương bỏ tay trái ra.

Cao Thăng Thái nói:

- Ca ca ơi! Kẻ địch ghê gớm sắp đến nơi, ca ca hãy còn vì tiểu đệ mà hao

tổn nguyên khí ?

Trấn Nam Vương cười nói:

- Cao đệ bị nội thương khá nặng, trị sớm được lúc nào hay lúc đấy. Nếu về

ra mắt đại ca, tất người không chịu cho ta trị đâu, mà chính người ra tay trị

lấy thì sao cho tiện?

Mộc Uyển Thanh lúc nãy thấy Cao Thăng Thái sắc mặt nhợt nhạt trông rất

đáng sợ thế mà mới trong giây lát Trấn Nam Vương đã làm cho sắc mặt Cao

hầu trở nên hồng hào thì nghĩ thầm: Phụ thân Đoàn lang nội công hùng hậu

như vậy mà sao chàng lại không biết chút võ công nào mới lạ chứ?

Phu Tiên Điếu, Lăng Thiên Lý giắt ngựa lại và phục thị Trấn Nam Vương

lên yên. Trấn Nam Vương cùng Cao Thăng Thái thả ngựa bước một đi song

song. Hai người nói chuyện nhỏ với nhau về tình hình bên địch. Đoàn Dự

thì đi kề bên Dao Đoan Tiên Tử, hai mẹ con cười cười nói nói rất là vui vẻ.

Đội vệ sỹ thiết giáp đi xung quanh hộ vệ. Đoàn người ngựa nhằm phía thành

Đại Lý rong ruổi. Mộc Uyển Thanh lúc này lại cảm thấy mình lẻ loi hiu

quạnh.

Đoàn người về đến cửa thành thì trời đã hoàng hôn. Hai lá cờ hiệu Trấn

Nam và Bảo Quốc đi đến đâu bách tính lại hoan hô rầm rộ: "Trấn Nam

Vương muôn năm", "Địa Tướng Quân thiên tuế". Trấn Nam Vương đáp lại

tấm lòng yên kính nồng nhiệt của muôn dân.

Mộc Uyển Thanh thấy kinh thành Đại Lý chỗ nào cũng đèn lửa sáng trưng,

chợ búa nhộn nhịp. Từ nhỏ đến lớn nàng chỉ ở chốn sơn lâm, mới hai năm

nay nàng xuống núi, đã đi qua khá nhiều thị trấn nhưng chưa thấy nơi nào

tấp nập như ở đây. Đi qua mấy đường phố thì đến một con đường đá lớn

thẳng tắp. Cùng đường hiện ra vô số cung điện. ánh hoàng hôn chiếu lên

những phiến ngói thuỷ tinh rực rỡ trông hoa cả mắt. Đoàn người đi đến

trước cổng thành đều xuống ngựa. Mộc Uyển Thanh ngẩng đầu nhìn lên

trên có tấm biển đề bốn chữ: Tụ Đạo Quảng Từ. Nàng nghĩ thầm: đây là

Hoàng cung vua nước Đại Lý, bá phụ Đoàn lang đã ở trong này tất là một

bậc quan cực lớn tại Triều, đại khái người ta thường gọi bằng Vương gia

hay Đại Tướng quân chi đó.

Qua cổng thành vào đến cửa cung trên có biển đề ba chữ vàng: "Thánh Từ

cung", một vị thái giám bước ra nói:

- Bẩm Vương gia! Hoàng thượng cùng Hoàng hậu nương nương hiện đang

chờ Vương gia ở bên phủ, xin Vương gia cùng Vương phi kíp về Trấn Nam

Vương phủ tiếp giá.

Trấn Nam Vương nói:

- Được rồi!

Đoàn Dự nói:

- Hay lắm! Thế thì hay lắm!

Dao Đoan Tiên Tử tức mình, đưa mắt nguýt con rồi hỏi:

- Hay cái gì? Ta ở lại Hoàng cung chờ nương nương về chứ sao?

Quan thái giám thưa:

- Nương nương dặn tôi phải mời Vương phi lập tức về Vương phủ triều kiến

vì lệnh bà có việc gấp cần gặp Vương phi để bàn định.

Dao Đoan Tiên Tử lẩm bẩm một mình: việc chi mà khẩn cấp thế? Chắc

nương nương bày ra chuyện này đây.

Đoàn Dự biết rõ mẫu thân chàng không muốn về Vương phủ mà Hoàng hậu

an bài như vậy là có mỹ ý muốn cho cha mẹ chàng đoàn tụ nên đến Vương

phủ ngồi chờ. Chàng liền dắt ngựa lại và dìu mẫu thân lên yên.

Đoàn người lại trở ra theo hướng Đông mà đi chừng hai dặm thì đến một toà

phủ đệ lớn. Trước cổng phủ có treo hai lá cờ lớn: một đề hai chữ "Trấn

Nam", một đề hai chữ "Bảo Quốc". Trên cổng có biển đề bốn chữ: "Trấn

Nam Vương phủ". Ngoài cổng đầy những thân binh, vệ sĩ đứng nghiêm

chỉnh và im phăng phắc, cúi đầu chào Vương gia và Vương phi về phủ.

Dao Đoan Tiên Tử vừa đặt chân lên bậc thềm đá, hai mắt bỗng đỏ hoe, rng

rng đôi dòng luỵ như muốn trào ra. Đoàn Dự vừa dắt vừa đẩy mẹ đến cửa

lớn nói:

- Gia gia ơi! Con mời được mẫu thân con về đó. Lập nên công lớn, gia gia

thưởng gì cho con đây?

Trấn Nam Vương hớn hở vui mừng đáp:

- Con hỏi má xem. Má bảo thưởng gì gia gia sẽ thưởng cho con đó.

Dao Đoan Tiên Tử đổi sầu làm tươi nói:

- Mi muốn thưởng ? Ta thưởng cho mấy roi nhé!

Đoàn Dự lắc đầu lè lưỡi. Bọn Cao Thăng Thái đứng chờ bên ngoài sảnh

đường, không dám tiến vào. Đoàn Dự bảo Mộc Uyển Thanh:

- Mộc... Mộc cô nương! Mình ngồi chờ ở đây một chút để tôi vào ra mắt

Hoàng thượng cùng Hoàng hậu xong sẽ trở ra với mình.

Mộc Uyển Thanh không muốn rời chàng ra, nhưng chẳng có lý nào ngăn trở

chàng được đành phải gật đầu. Nàng ngồi phịch ngay xuống cái ghế đầu.

Cao Thăng Thái thì đứng chờ cho đến lúc vợ chồng Trấn Nam Vương cùng

Đoàn Dự ba người tiến vào hoa sảnh rồi mới ngồi xuống. Còn bọn Lăng

Thiên Lý, Tiêu Đốc Thành, Chu Đan Thần thì vẫn đứng thẳng, buông thõng

tay. Mộc Uyển Thanh ngơ ngác đưa mắt nhìn khắp trong nhà đại sảnh:

chính giữa treo một tấm biển, trên viết bốn chữ: "Bang Quốc Trụ Thạch";

phía dưới tấm biển đề bốn chữ nhỏ: "Tân Dậu Ngự Bút". Ngoài ra còn vô số

hành phi câu đối, nàng không xem được hết vì có nhiều chữ nàng không đọc

được. Nàng đang xem ngắm bỗng có mấy tên bộc dịch bưng trà lại, quỳ

xuống, hai tay nâng khay trà lên ngang đầu cực kỳ cung kính. Mộc Uyển

Thanh tự hỏi: "mấy tên hầu trà sao cũng kỳ cục như vậy? Mà lạ thay chỉ

mình và Cao Thăng Thái là có trà uống, còn bọn Chu Đan Thần lúc ở trên

đỉnh núi đánh nhau tung hoành là thế mà sao lúc vào Vương phủ thì họ lại

cứ đứng một cách nghiêm cẩn một cách quá lễ độ, thậm chí không ai dám

thở mạnh, coi mất cả oai phong của các bậc anh hùng hảo hán.

Mộc Uyển Thanh chờ Đoàn Dự một lúc lâu không thấy chàng trở ra, nàng

nóng ruột quá không nhẫn nại được nữa, lên tiếng hỏi:

- Đoàn lang! Đoàn lang! Chàng làm gì trong ấy mà mãi không ra?

Trong nhà đại sảnh mọi người đứng im lặng, nghiêm trang thủ lễ, không ai

dám nói nửa câu, bỗng thấy Mộc Uyển Thanh nói lớn đều giật mình đánh

thót một cái. Cao Thăng Thái thấy vậy tươi cười bảo nàng:

- Xin cô nương hãy nán chờ, chớ nên nóng nẩy, lát nữa tiểu Vương gia sẽ

ra.

Mộc Uyển Thanh càng lấy làm kỳ hỏi:

- Tiểu Vương gia nào?

Cao Thăng Thái chậm rãi đáp:

- Đoàn công tử là thế tử của Trấn Nam Vương. Cô nương bảo tôi không kêu

bằng Tiểu Vương gia thì kêu bằng gì?

Mộc Uyển Thanh tự nói một mình: "Trời ơi! Tiểu Vương gia! Tiểu Vương

gia! Anh chàng ngốc nghếch mà cũng là tiểu Vương gia kia ?"

Chợt thấy viên thái giám ở hoa sảnh đi ra nói:

- Hoàng thượng xuống chỉ, truyền cho Thiện Xiển Hầu và Mộc Uyển Thanh

vào bái kiến.

Cao Thăng Thái thấy thái giám ra liền đứng lên, còn Mộc Uyển Thanh cứ

chễm chệ ngồi yên. Nàng thấy thái giám gọi đích danh mình trong lòng cảm

thấy khó chịu, lẩm bẩm: "Sao y không gọi mình bằng Mộc cô nương mà lại

cứ đem tên tuổi người ta ra mà réo?".

Cao Thăng Thái nhắc:

- Mộc cô nương! Chúng ta vào bái kiến Hoàng thượng đi.

Mộc Uyển Thanh trước nay coi trời bằng vung nhưng nghe nói đến vào triều

kiến Hoàng Đế thì không khỏi chột dạ, tóc tai dựng đứng cả lên. Nàng theo

sau Cao Thăng Thái qua dãy hành lang dài đi vào nội đình, đến trước toà

hoa sảnh. Thái giám cất tiếng vào báo:

- Có Thiện Xiển Hầu cùng Mộc Uyển Thanh triều kiến Hoàng thượng cùng

Hoàng hậu nương nương.

Tấm rèm treo cửa mở lên, Cao Thăng Thái không dám lên tiếng, đưa mắt ra

hiệu cho Mộc Uyển Thanh rồi tiến vào Hoa sảnh quỳ xuống trước mặt hai

người: một ông, một bà ngồi giữa nhà.

Mộc Uyển Thanh không quỳ, ngó thấy ông râu dài, mặc áo hoàng bào,

tướng mạo tuấn tú, liền hỏi:

- Ông là Hoàng đế phải không?

Ông ngồi giữa nhà chính là Hoàng đế nước Đại Lý tên gọi Đoàn Chính

Minh, lấy hiệu là Bảo Định Đế. Nguyên từ đời Ngũ Đại, năm thứ hai niên

hiệu Thiên Phúc triều Hậu Tấn, thủy tổ họ Đoàn, quán ở quận Võ Oai tên là

Đoàn Kiến Nguỵ, giúp vua nước Nam Chiếu làm quan đến chức Thanh Bình

quan. Truyền được sáu đời đến đời Đoàn Tư Bình làm quan Thông Hải tiết

độ sứ. Đến năm Đinh Dậu mới thành lập nước Đại Lý, tự xưng là Thái Tổ

Thần Thánh Văn Võ Đế, tới Đoàn Chính Minh là 14 đời và đã được hơn

150 năm.

Bảo Định Đế thấy Mộc Uyển Thanh không quỳ lạy, lại cất lời hỏi mình có

phải Hoàng Đế không, bất giác phải bật cười đáp:

- ừ ta là Hoàng Đế đây! Ngươi xem thành Đại Lý ta có đẹp không?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi vào thành là đến đây ngay, chưa được đi du ngoạn.

Bảo Định Đế mỉm cười nói:

- Sáng mai ta cho thằng Dự dẫn ngươi đi coi khắp mọi nơi để ngươi xem

phong cảnh thành Đại Lý ta, ngươi có thích không?

Thế thì hay lắm, cả ông cũng đi nữa nhé!

Mọi người nghe đến câu này thì không sao nhịn cười đợc. Bảo Định Đế

quay sang nhìn Hoàng hậu, cười hỏi:

- Hậu ơi! Con nhỏ nó bảo chúng ta dẫn nó đi chơi, Hậu tính sao?

Hoàng hậu cười chưa trả lời. Mộc Uyển Thanh lại nhìn Hoàng hậu hỏi:

- Bà là Hoàng hậu nương nương đấy a? Quả nhiên bà đẹp quá!

Bảo Định Đế cười ha hả nói:

- Dự con ơi! Cô nương này trời phú cho tính tình thật thà chất phác, thật là

thú quá.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Sao ông lại kêu chàng bằng con? Chàng vẫn kể với tôi ông là bá phụ chàng

kia mà? Chuyến này chàng trốn nhà ra đi, lúc nào chàng cũng sợ ông giận,

ông đừng đánh chàng nhé!

Bảo Định Đế mỉm cười nói:

- Ta tính đánh cho nó 50 roi đòn nhưng cô nương đã xin ta thì ta tha cho.

Dự con đâu? Sao con không ra tạ ơn cô nương đi?

Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh làm cho nhà vua thích thú, chàng rất mừng

lòng biết rằng bá phụ mình có tính khoan hoà liền trông Mộc Uyển Thanh

vái dài một cái nói:

- Đa tạ cô nương đã xin bá phụ cho tôi khỏi bị đánh đòn.

Mộc Uyển Thanh cũng vái trả lại nói khẽ:

- Bá phụ chàng đã hứa không đánh chàng, thế là tôi cũng yên lòng, lọ là

chàng phải cám ơn?

Đoạn nàng quay lại nói với Vua:

- Tôi cứ tưởng Hoàng đế là con người hung ác làm cho ai cũng phải khiếp

sợ. Ngờ đâu ông... ông tử tế lắm mà.

Bảo Định Đế nghĩ lại: chỉ khi mình còn nhỏ là được phụ hoàng và mẫu hậu

khen mình, hơn mười năm nay lên ngôi vua ai đối với mình cũng tỏ ra cung

kính sợ sệt chứ có được nghe tiếng khen "Ông tử tế quá" bao giờ đâu? Nay

ngài thấy Mộc Uyển Thanh ngây thơ chất phác, chưa hiểu gì đến nhân tình

thế thái khen mình thì lại càng hứng thú, quay sang bảo Hoàng hậu:

- Hậu có gì thưởng cho nàng không?

Hoàng hậu tháo chiếc vòng ngọc ở cổ tay ra đưa cho Mộc Uyển Thanh nói:

- Đây ta thưởng cho nàng!

Mộc Uyển Thanh đón lấy xỏ vào tay mình, mỉm cười nói:

- Cám ơn bà! Rồi đây tôi kiếm được cái gì tốt sẽ đem về cho bà.

Hoàng hậu mỉm cười toan đáp thì bỗng phía sau dãy nhà mé tây có tiếng

vang đa lại. Hoàng hậu quay lại nhìn Bảo Định Đế cười nói:

- Có người đem lễ vật đến dâng đó.

Vừa dứt lời tiếng vang lại gần hơn. Mộc Uyển Thanh giật mình biết kẻ địch

sắp ập đến. Người này rất giỏi khinh công, chân bước trên nóc nhà lẹ làng

như lá rụng và đi rất mau. Đoạn nghe tiếng vèo vèo, mấy người nhảy lên

nóc nhà, rồi tiếng Phủ Tiên Điếu Lăng Thiên Lý hỏi:

- Các hạ đêm hôm đột nhiên vào Vương phủ là có ý gì?

Một giọng ồm ồm như lệnh vỡ, vừa cười vừa đáp:

- Ta đến kiếm đồ đệ ta! Ngươi bảo y ra bái kiến ta!

Người đó chính là Nam Hải Ngạc Thần. Mộc Uyển Thanh âm thầm lo sợ.

Tuy nàng biết là việc phòng vệ Vương phủ cực kỳ nghiêm mật, đã đông vệ

sĩ mà từ Trấn Nam Vương, Dao Đoan Tiên Tử cho đến bọn Ngư, Tiều,

Canh, Độc đều là những bậc cao thủ. Nhưng Nam Hải Ngạc Thần không

phải tay vừa, thêm nữa đồng bọn là Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc cũng

rất lợi hại. ấy là không kể đến tên đại ác số một mà nàng cha biết mặt mũi

nữa. Nếu cả bốn người cùng đến hợp lực cướp Đoàn lang thì khó lòng giữ

nổi. Nàng đang lo lắng, chợt nghe tiếng Lăng Thiên Lý hỏi lại:

- Cao đồ các hạ là ai? Trong phủ Trấn Nam Vương đây có ai là đồ đệ các hạ

đâu?

Bỗng "vù" một tiếng, một bàn tay to lớn từ trên không thò xuống rứt đứt bức

rèm che cửa nhà hoa sảnh ra làm đôi. Vừa thấy bóng người thoáng qua,

Nam Hải Ngạc Thần đã đứng giữa nhà. Đôi mắt lão ti hí, nhỏ như hạt đậu

giương lên, đảo nhìn bốn mặt. Lão vừa trông thấy Đoàn Dự đã cười ha hả

nói:

- Lão tứ (Vân Trung Hạc) nói thế mà đúng. Quả nhiên đồ đệ ta ở đây. Đoàn

Dự mau lại đây theo ta về luyện võ.

Dứt lời, lão thò bàn tay móng nhọn hoắt như móng chân gà chụp xuống vai

Đoàn Dự. Trấn Nam Vương thấy Nam Hải Ngạc Thần đưa bàn tay ra mà

văng vẳng có tiếng vù vù như gió thổi sấm rền thì biết ngay là một tay ghê

gớm, Vương sợ lão làm tổn thương đến đứa con yêu quý của mình vội đánh

ra một chưởng để chống đỡ. Điện lực hai bàn tay chạm vào nhau đánh

"binh" một tiếng. Cả hai bên cùng cảm thấy nội lực rung chuyển.

Nam Hải Ngạc Thần chột dạ hỏi:

- Ông là ai? Ta đến đón đồ đệ ta, việc gì đến ông?

Trấn Nam Vương mỉm cười đáp:

- Tôi là Đoàn Chính Thuần. Y là con trai tôi, y thờ ông làm thầy từ hồi nào?

Đoàn Dự nói:

- Ông này cứ bức bách con phải làm đồ đệ ông. Con từng biểu ông là đã có

sư phụ rồi nhưng ông không tin.

Nam Hải Ngạc Thần nhìn Đoàn Dự rồi lại nhìn Đoàn Chính Thuần nói:

- Võ công ông giỏi quá mà sao thằng nhỏ này chẳng biết tý gì? Tôi không

thể tin được ông lại là cha y.

Đoạn lại tiếp:

- Đoàn Chính Thuần! Nếu y quả là con ông, có lẽ phương pháp rèn luyện

của ông không hợp với y. Sao con ông vẫn mềm như sứa? Đáng tiếc! Thật là

đáng tiếc!

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Sao mà đáng tiếc?

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Tướng con trai ông giống tôi quá! Đó là một điều dưới gầm trời này rất

khó mà tìm được con người như thế để rèn luyện võ nghệ. Y chỉ theo tôi

mười năm nhất định phải trở thành một nhân vật võ nghệ siêu quần.

Đoàn Chính Thuần vừa bực mình vừa tức cười nhưng mới thử nhau một đòn

Vương đã hiểu lão quá rồi còn đang kiếm câu trả lời thì Đoàn Dự nói:

- Nhạc lão tam! Võ công ông tầm thường lắm, đâu có bằng được sư phụ tôi?

Ông hãy trở về đảo Vạn Ngạc luyện thêm hai mươi năm nữa rồi hãy trở lại

đây nói chuyện.

Nam Hải Ngạc Thần căm giận quát lên:

- Mi biết gì mà nói quàng?

Đoàn Dự nói:

- Ông bảo tôi không biết gì, vậy tôi hỏi ông: "Quân tử dĩ kiến thiện tắc

thiên, hữu quá tắc cải" là ý gì?

Nam Hải Ngạc Thần ngây ngô chẳng hiểu gì, tức mình nói:

- Mi nói nhăng nói cuội, chứ câu đó còn có nghĩa lý gì?

Đoàn Dự nói:

- Có mấy câu thiển cận như thế mà ông còn không hiểu thì bàn đến võ nghệ

sao đơực? Tôi hỏi ông câu nữa: "Quyên thượng ích hạ, Dân duyệt vô cương,

Tự thượng bá hạ, Kỳ đạo đại quang" là nghĩa làm sao?

Trên từ Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương, dới đến bọn Chu Đan Thần đang

ngồi trên mái nhà nghe Đoàn Dự đem kinh dịch ra trêu trọc Nam Hải Ngạc

Thần đều không nhịn được phải phá lên cười.

Mộc Uyển Thanh tuy chẳng hiểu Đoàn Dự nói gì nhưng nàng cũng đoán đó

chẳng qua là chữ sách học của mấy anh đồ gàn.

Nam Hải Ngạc Thần còn đang ngơ ngẩn, lại thấy mọi người cời ồ ra vẻ

diễu cợt thì cho những câu Đoàn Dự nói có ý xỏ xiên nhiếc móc mình. Lão

tức quá, gầm lên một tiếng toan giơ tay đánh. Đoàn Chính Thuần tiến lên

nửa bước để ngăn cản. Đoàn Dự lại nói:

- Những câu tôi nói toàn là bí quyết về võ công, ảo diệu vô cùng, chắc là

ông không hiểu được. Hỏi có khác gì ếch ngồi đáy giếng mà toan đi làm

thầy dậy đời thì ai nghe chẳng phải cười vỡ bụng? Những vị sư phụ tôi nếu

không học vấn uyên thâm thì cũng phải là những bậc cao tăng đắc độ. Như

ông thì dù có học thêm mười năm nữa chưa chắc đã đáng là đồ đệ tôi.

Nam Hải Ngạc Thần nổi hung gầm lên:

- Thầy mi là ai? Thử gọi ra đây cho ta xem nào!

Tiếng lão gầm như sấm vang. Khắp mấy trăm gian phòng, bất cứ ở bên

trong hay bên ngoài, đằng trước hay đằng sau cũng đều nghe rõ. Đàn bà trẻ

con nghe thấy phải giật mình kinh sợ, tái mặt.

Đoàn Chính Thuần thấy chỉ có một tên trong tứ ác đến muốn hạ cũng chẳng

khó gì. Nhưng gặp buổi vợ chồng tái hội, lại thấy Đoàn Dự bẻo lẻo trêu

chọc lão nên cứ mặc kệ để làm trò vui cho phu nhân. Đoàn Dự thấy cha thả

xổng, không ngăn cản mình, càng đắc ý nói:

- Được lắm! Nếu ông cả gan dám đứng chờ đây thì tôi đi mời sư phụ tôi

đến. Đã là anh hùng hảo hán chớ có trốn chạy đấy nhé.

Nam Hải Ngạc Thần nói to:

- Nhạc lão tam này suốt đời bôn tẩu giang hồ, còn có sợ ai bao giờ? Mi gọi

ngay sư phụ mi ra đây! Lẹ lên!

Đoàn Dự ra khỏi phòng, Nam Hải Ngạc Thần ngó theo. Tuy lão ở giữa đám

đông những tay cao thủ mà vẫn tự nhiên, tuyệt không có vẻ sợ hãi chút nào.

Bỗng có tiếng giày lẹp kẹp: hai người đi gần tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần

lắng tai nghe chân bước nặng trịch thì hiểu rõ là hạng người không biết võ.

Đoàn Dự còn ở ngoài cửa đã lên tiếng hỏi:

- Ô hay! Nhạc lão tam chạy mất rồi ? Gia gia đừng để y trốn thoát. Sư phụ

con đã đến đó.

Nam Hải Ngạc Thần tức quá hét lên:

- Việc gì ta phải chạy trốn? Mẹ nó thằng nhãi này làm ta bực quá!

Lão vừa dứt lời thì Đoàn Dự đã đưa một người vào. Mọi người trông ra

không ai nhịn được, cười ồ cả lên: một người đầu đội mũ vải, mặc áo bào

dài lượt thượt, hai chòm râu chuột vàng khè, mắt đỏ ngầu, rụt đầu rụt cổ,

tướng mạo nửa người nửa ngợm rất khó coi.

Dao Đoan Tiên Tử nhận ra là gã chuyên việc buông mùng màn trong Vương

phủ. Ai cũng gọi đùa là Hoắc tiên sinh. Lúc nào gã cũng lờ đờ như người

mất ngủ, suốt ngày ham mê bài bạc với đám nô dịch trong phủ. Gã đang say

lướt khướt thì bị Đoàn Dự ở đâu vào cầm tay kéo đi. Đến cửa toà hoa sảnh,

gã sợ hãi dừng lại không dám tiến bước nhưng Đoàn Dự cứ lôi tuột vào.

Vào trong Hoa sảnh gã sụp xuống lạy Bảo Định Đế cùng Hoàng Hậu.

Bảo Định Đế không biết Hoắc tiên sinh là ai, liền phán:

- Thôi! Đứng lên đi!

Đoàn Dự lại lôi lão đến trước mặt Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Nhạc lão tam! Trong các vị sư phụ tôi thì vị này kém cỏi nhất. Ông có

thắng được vị này rồi mới đấu được với các vị khác.

Nam Hải Ngạc Thần cười hềnh hệch nói:

- Nếu Nhạc lão nhị này đánh ba đòn mà y không nát nhừ ra thì ta sẽ thờ mi

làm thầy.

Đoàn Dự mắt sáng lên hỏi lại:

- Ông nói sao? Thật hay dối? Đã là đại trượng phu thì phải nhất ngôn, chứ

nói rồi lại nuốt lời là quân chó đẻ.

Nam Hải Ngạc Thần la lên:

- Lại đây! Lại đây!

Đoàn Dự nói:

- Nếu đánh có ba đòn thôi thì hà tất đến sư phụ tôi phải ra tay? Ngay tôi đây

cũng đủ rồi mà.

Nam Hải Ngạc Thần từ lúc được Vân Trung Hạc báo tin, lão sấp ngửa đi

luôn sang Đại Lý chỉ cốt bắt Đoàn Dự về làm đồ đệ, truyền dạy hết võ nghệ

cho để biểu dơng phái Nam Hải sau này. Nhưng từ lúc cùng Đoàn Chính

Thuần chọi nhau một chưởng, trong bụng lão đâm lo, biết rằng ở giữa đám

cao thủ này muốn bắt Đoàn Dự đem đi không phải chuyện dễ. Giờ thấy

chính Đoàn Dự đòi cùng mình đối thủ thì còn cơ hội nào hay hơn nữa, chỉ

việc giơ tay ra túm lấy chàng. Bọn Đoàn Chính Thuần dù tài giỏi đến đâu có

muốn cướp lại nhưng lâm vào trình trạng "ném chuột sợ vỡ đồ" tất phải chịu

giương mắt ếch ra nhìn mình ẵm Đoàn Dự đem đi. nghĩ vậy lão mừng rơn

nói ngay:

- Thế thì hay lắm! Mi cứ việc tiếp lấy ba đòn của ta. Ta không vận nội lực

đánh chết mi đâu mà sợ.

Đoàn Dự nói:

- Hãy khoan! Xin giao hẹn trước đã. Nếu đánh ba đòn mà ông không hạ

được tôi thì sao?

Nam Hải Ngạc Thần biết Đoàn Dự là một gã thư sinh trói gà không chặt,

đừng nói ba đòn, chỉ nửa đòn gã cũng không chịu nổi rồi liền cười ha hả

đáp liền:

- Mi chịu nổi ta ba đòn thì ta quyết thờ mi làm thầy.

Đoàn Dự phân bua:

- ông nói có mặt mọi người đây nghe rõ cả rồi. Sau ông đừng cãi nữa nhé!

Nam Hải Ngạc Thần tức mình nói:

- Nhạc lão nhị này nói một là một, hai là hai.

Đoàn Dự nói:

- Nhạc lão tam chứ Nhạc lão nhị bao giờ?

Nam Hải Ngạc Thần vẫn cãi:

- Nhạc lão nhị.

Đoàn Dự không chịu:

- Nhạc lão tam

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Thôi ra động thủ đi! cãi làm gì vô ích!

Đoàn Dự tiến ra hai bước, ngang nhiên đứng trước mặt Nam Hải Ngạc

Thần.

Mọi người trong hoa sảnh từ Hoàng thượng, Hoàng hậu trở xuống ai cũng

biết Đoàn Dự yêu văn, ghét võ, đừng nói chống nhau với những tay cao thủ

như Nam Hải Ngạc Thần, chỉ một tay vệ sĩ hay tên lính hạng bét, chàng

cũng không chịu nổi một đòn. Ban đầu ai nấy chỉ tưởng chàng muốn trêu

cợt Nam Hải Ngạc Thần, giờ thấy chàng thi gan với lão thật đều không khỏi

sửng sốt. Tuy biết rõ Nam Hải Ngạc Thần chỉ nhất tâm thu chàng làm đồ

đệ, không nỡ hại đến tính mạng chàng nhưng lỡ ra con người hung hãn như

lão lúc cáu lên thì chiếc cành vàng lá ngọc kia ai sẽ biết sao?

Dao Đoan Tiên Tử lo cho tính mạng con mình nhất, vội ngăn lại:

- Dự con! Không được liều lĩnh! Đối với kẻ thất phu sơn dã đó, không nên

mạo hiểm.

Hoàng Hậu cũng ra lệnh:

- Thiện xiển hầu đâu! Ngươi ra bắt tên cường đồ cho ta!

Thiện xiển hầu tâu:

- Thần hạ Cao Thăng Thái xin tuân chỉ!

Đoạn Cao hầu ra lệnh:

- Lăng Thiên Lý, Đổng Tư Quy, Tiêu Đốc Thành, Chu Đan Thần nương

nương đã xuống chỉ các ngươi động thủ đi!

Bốn gã cúi đầu tâu:

- Thần đảng xin tuân chỉ.

Nam Hải Ngạc Thần thấy đông người đến vây đánh liền quát to:

- Các ngươi định lấy nhiều hiếp ít phải không? Ta đây không sợ đâu nhé,

Hoàng thượng, Hoàng hậu ta chấp luôn cả hai ngươi nữa đó.

Đoàn Dự vội khoát tay ra hiệu nói:

- Hãy khoan! Để ta cùng lão thử ba đòn đã, rồi sau sẽ liệu.

Riêng Bảo Định Đế biết rõ cháu mình có thủ đoạn hơn người, y làm nhiều

điều không ai nghĩ đến, tất y có cơ mưu gì đây. Nam Hải Ngạc Thần tất

không hại tính mạng y, hơn nữa lại có cả hai anh em mình ngồi đây, quyết

không ngại gì. Nghĩ vậy Bảo Định Đế liền phán bảo:

- Các ngươi hãy thong thả! Cứ để cho tên cường đồ kia biết tài Tiểu Vương

tử nước Đại Lý đã.

Bọn Lăng Thiên Lý đang tiến lại, bỗng nghe Hoàng thượng truyền chỉ đều

dừng lại cả. Bảo Định Đế vẫn tươi cười hớn hở nét mặt không lộ vẻ lo lắng

chút nào.

Đoàn Dự nói với Nam Hải Ngạc Thần:

- Nhạc lão tam! Chúng ta phải có lời giao ước trước: nếu ba đòn ông không

đánh ngã được tôi ông phải thờ tôi làm sư phụ. Nhưng tư chất ông dốt nát

lắm tôi không dạy võ ông đâu. Ông có bằng lòng như thế không?

Nam Hải Ngạc Thần cả giận nói:

- Ai cần mi dạy võ nghệ? Võ công mi không bằng loài chuột nhắt, ai thèm

đếm xỉa tới?

Đoàn Dự nói:

- Tốt lắm! Thế là ông chịu điều kiện đó rồi! Chỉ cần ông không được trái lời

thầy, bất luận việc gì sư phụ đã ra lệnh ông phải tuân theo. Nếu trái lệnh sư

phụ là phạm tội trong quy luật phái võ.

Nam Hải Ngạc Thần nghe nói chẳng những không giận mà lại hớn hở đáp:

- Điều đó là dĩ nhiên. Sau khi mi đã thờ ta làm thầy cũng phải nhớ lấy nghe!

^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^

Phép \"Lăng Ba Vi Bộ\" kỳ tuyệt

Đoàn Dự nói:

- Tôi ngư thuận như vậy nhưng xin nhắc lại: nếu ông muốn thu tôi làm đồ

đệ, phải lần lượt hạ hết được các vị sư phụ tôi để tỏ rõ võ công ông giỏi hơn

tất cả, vì có thế tôi mới thờ ông làm thầy được.

Nam Hải Ngạc Thần đáp:

- Được lắm! Mi toàn nói chuyện vẩn vơ. Tha hồ cho mi muốn xoay cách

nào thì xoay cũng không lại được ta đâu.

Đoàn Dự trỏ phía sau Nam Hải Ngạc Thần mỉm cười nói:

- Một trong các vị sư phụ tôi đang đứng sau lưng ông đó.

Nam Hải Ngạc Thần tưởng sau lưng mình có người thật quay ngoắt lại.

Đoàn Dự thừa cơ tiến lên một bước, đưa tay thọc vào huyệt "đào đạo" giữa

lưng Nam Hải Ngạc Thần.

Phép điểm huyệt này tuy không đúng cách thức của con nhà võ nhưng "đào

đạo" là một trong các huyệt trọng yếu nhất của con người, Nam Hải Ngạc

Thần lại nghe lồng ngực mình đột nhiên dường như bị tắc nghẽn thì ra tay

trái Đoàn Dự đã nắm được sau lưng lão và ngón tay chàng bấm đúng vào

giữa huyệt "Y xá".

Nam Hải Ngạc Thần giật mình vội vận nội công chống đỡ nhưng hai huyệt

trọng yếu đã bị kiềm chế, đồng thời nội lực dùng vào việc giải phóng hai

huyệt đạo này cũng bị kiềm chế luôn. Lão hết sức bình sinh đem nội lực ra

phản ứng lại một cái tức thì toàn thân nhũn ra như sứa.

Đoàn Dự chỉ có việc nhấc mình lão cao một chút cho đầu chúc xuống, chân

giơ lên rồi hất mạnh một cái là lão phải té nhào. Cái đầu nhẵn thín đập

xuống đất đánh "bịch" một tiếng. May mà nền nhà trải đệm nên lão không

đến nỗi bị thương. Có điều một tay võ công lừng lẫy tiếng tăm mà nay bị

thư sinh Đoàn Dự đẩy ngã khiến lão thẹn quá hoá giận. Lão liền dùng

miếng "Lý ngư đả đình" vụt dậy, giơ tay trái ra chụp xuống Đoàn Dự.

Những người ngồi trong Hoa sảnh đều là tay võ nghệ cao cường không ai

ngờ một gã thư sinh yếu ớt như Đoàn Dự làm cho Nam Hải Ngạc Thần phải

một phen điên đảo. Mọi người chưa hết kinh hãi, ngơ ngác về cái té của

Nam Hải Ngạc Thần bỗng thấy lão lại hùng hổ giơ tay ra chực nắm lấy

Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần toan ra tay phản ứng, đã thấy Đoàn Dự bước

trệch sang bên. Bộ pháp của chàng rất là kỳ cục, chỉ bước lờ vờ một cái mà

tránh khỏi bàn tay nhanh như chớp của Nam Hải Ngạc Thần, làm cho Đoàn

Chính Thuần buột miệng trầm trồ khen ngợi:

- Kỳ tuyệt! Thật là kỳ tuyệt!

Nam Hải Ngạc Thần lại đưa bàn tay ra chụp xuống. Đoàn Dự không chống

đỡ chi cả, bước tiến lên hai bước, thế là Nam Hải Ngạc Thần lại vồ hụt.

Nam Hải Ngạc Thần đánh hai đòn không trúng vừa ngạc nhiên vừa cáu

giận, lại thấy Đoàn Dự đứng lù lù trước mặt, cách mình không đầy ba thước

lão tức quá gầm lên một tiếng đưa cả hai bàn tay ra chụp thẳng vào bụng

Đoàn Dự.

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Dao Đoan Tiên Tử, Cao Thăng Thái thấy

thế đánh vô cùng hiểm ác đều la lên:

- Phải cẩn thận đấy!

Đó là miếng "Độc long trảo", một thế võ tuyệt kỹ bí hiểm mà Nam Hải

Ngạc Thần khổ công rèn luyện trong mười năm trời với mục đích đánh bại

Diệp Nhị Nương để giành giật lấy ngôi thứ hai trong tứ ác về mình. Cũng

may mà trong lúc lão điên tiết, mất hết bình tĩnh nên chụp sểnh không thì

"con người tương lai của phái Nam Hải" đã vỡ bụng ra rồi.

Đoàn Dự bước sang bên phải một bước rồi lại bước sang bên trái một bước,

đoạn lẹ làng chuyển qua phía sau Nam Hải Ngạc Thần, giơ tay lên đập vào

cái đầu hói của lão.

Nam Hải Ngạc Thần thấy đối phương giơ bàn tay thần xuất quỷ một lên

đánh thì chẳng còn hồn vía nào nữa, buột miệng kêu lên: "Mạng ta nguy

mất". Nhưng khi tay chàng đập xuống đến đầu lão, lão cảm thấy tay chàng

không có chút nội lực nào cả. Lão đưa tay trái lên đỡ mạnh quá, đánh "roạc"

một cái. Mu bàn tay Đoàn Dự bị năm ngón tay lão cào trúng, rõ năm vết

toạc da rướm máu. Chàng vội rụt tay về, đà tay lão hãy còn sức mạnh sớt

thẳng xuống làm cho chính cổ lão cũng toạc ra năm vệt chảy máu.

Kể ra thì Đoàn Dự đã tránh xong ba đòn của Nam Hải Ngạc Thần và thế là

đã thắng cuộc rồi. Nhưng chàng quên rằng mình chẳng có chút nội công

nào, da dĩ máu nóng của tuổi trẻ bốc lên ngùn ngụt nên mới giơ tay đánh

xuống đầu lão. Cái đòn vô lực của chàng chẳng những không làm gì được

lão mà xuýt nữa còn bị lão túm được tay mình. Chàng đâm ra hoảng sợ chân

bước loạng choạng chạy đến núp vào sau lưng phụ thân, mặt cắt không còn

hột máu.

Dao Đoan Tiên Tử đa mắt nguýt chàng, tự nói một mình: "Thằng nhỏ này

gớm thật, dám dối cả ta nữa. Bá phụ và gia gia mi đã luyện cho mi những

công trình kỳ diệu đến thế mà mi cứ giả vờ như không biết tý gì".

Mộc Uyển Thanh la lên:

- Nhạc lão tam! Ngươi đánh ba đòn không hạ được chàng, trái lại ngươi bị

té nhào. Còn chờ gì mà ngươi chưa dập đầu nhận chàng làm sư phụ?

Nam Hải Ngạc Thần vò đầu bứt tai, thẹn quá, mặt đỏ như gấc chín, ấp úng:

- Chưa phải là chuyện ra tay thực sự, chỗ đó bỏ đi không kể.

Mộc Uyển Thanh đưa ngón tay lên chọc chọc vào má mình bêu bêu:

- Thế mà không biết nhục! Ngươi không lạy chàng nhận làm sư phụ tức là

ngươi tự nhận là quân chó đẻ hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần đáp:

- Ta không chịu nhận cả hai thứ.

Đoàn Chính Thuần thấy bộ pháp của con mình ảo diệu dị thường, chính ông

không hiểu về bộ pháp này nhưng cũng khẽ bảo con:

- Con đừng có động thủ đánh lão, chỉ nhè huyệt đạo mà điểm vào thôi!

Đoàn Dự rỉ tai đáp:

- Con cảm thấy kinh hãi lắm rồi, e rằng không làm nổi nữa.

Đoàn Chính Thuần khẽ bảo:

- Việc gì mà phải sợ? Đã có gia gia đây liệu tiếp tay cho.

Đoàn Dự được cha hứa nâng đỡ, mất hết sợ hãi, đường hoàng bước ra nói:

- Nam Hải Ngạc Thần! Ngươi đánh ba đòn không hạ nổi ta! Thôi lạy xuống

mà nhận làm sư phụ đi!

Nam Hải Ngạc Thần hét lên một tiếng rồi đánh ra một chưởng. Đoàn Dự

rón chân một bước qua mé đông bắc, tránh khỏi một cách dễ dàng. Điện lực

ở tay lão phóng ra làm đổ gãy các kỷ trà. Đoàn Dự vẫn bình tĩnh, miệng

lâm râm đọc chú: "Sơn địa bác, hoả địa tấn, tiến vô vọng, chuyển trung phu,

hoả thuỷ kỳ tế, địa hoả minh di, thoái tổn vị, tà quy đại tráng...". Những

đòn Nam Hải Ngạc Thần đánh tới, chàng vẫn điềm nhiên như không thấy,

chỉ nhìn nhận phương hướng, theo đúng bộ pháp, khi tiến chếch lên, khi lui

thẳng xuống. Nam Hải Ngạc Thần chưởng pháp đánh ra vun vút mỗi lúc

một mau, nội lực mỗi lúc một mạnh thêm như vũ bão làm cho bàn ghế bay

tứ tung, bình cốc vỡ loảng xoảng. Rút cục vẫn không đánh trúng Đoàn Dự

được phát nào. Chớp mắt đã đánh đến ba mươi mấy đòn. Hai anh em Bảo

Định Đế Đoàn Chính Minh và Trấn Nam Vơng Đoàn Chính Thuần nhìn rõ

bộ pháp của Đoàn Dự chỉ hời hợt, không có lấy một chút sức mạnh mà vẫn

chưa biết vị cao nhân nào đã truyền thụ cho chàng lối bộ pháp cực kỳ thần

diệu này. Phép bước chân theo 64 quẻ của vua Phục Hy đời xa. Cách tiến

thoái không ai có thể lường được. Nếu cứ lấy thực lực mà đấu với Nam Hải

Ngạc Thần thì chỉ nửa đòn chàng đã mất mạng với địch thủ rồi. Nhưng Nam

Hải Ngạc Thần đánh thế nào cũng mặc, chàng cứ lên lui theo đúng bộ pháp

của mình thôi, nên địch dù mạnh đến đâu cũng không tài nào đánh trúng.

Hai anh em Bảo Định Đế xem Nam Hải Ngạc Thần đánh đến 48 đòn, sắc

mặt thoáng lộ vẻ lo lắng, nghĩ thầm: "Giả tỷ Nam Hải Ngạc Thần cứ nhắm

mắt đánh bừa, đừng nhìn nhận phương hướng Đoàn Dự né tránh thì sau thế

nào cũng có phát trúng". Nhưng vẫn thấy Nam Hải Ngạc Thần sắc mặt mỗi

lúc một vàng nhạt, mắt mở mỗi lúc một to thêm. Đòn nào cũng nhằm Đoàn

Dự đánh tới. Một bên Đoàn Dự cứ theo đúng phương pháp bước tiến, bước

lui thành ra lão muốn đánh nhanh đến đâu cũng không trúng được.

Nếu cuộc đấu cứ như vậy kéo dài mãi thì dù cho Đoàn Dự có dữ cho khỏi bị

tổn thương đã là may rồi còn muốn đánh ngã đối phương thì đừng hòng.

Bảo Định Đế coi một lát nữa, cất tiếng bảo Đoàn Dự:

- Dự con! Con bước thong thả lại một chút, nhằm đường huyệt đạo trước

ngực bên địch mà nắm lấy!

Đoàn Dự thưa:

- Xin vâng!

Rồi tuân lời bá phụ chàng bước chầm chậm lại, lúc đến gần phía trước Nam

Hải Ngạc Thần chàng nhìn chằm chặp vào mặt lão, thấy nét mặt hung dữ,

vàng ửng, đôi mắt như nẩy lửa mà chàng bở vía, chân bước loạng choạng,

trệch ra ngoài phương vị, bị tay Nam Hải Ngạc Thần chụp trúng vào tai bên

trái, máu chảy đầm đìa, giả tỷ chàng bị chụp xích vào trong một tấc nữa thì

phải chết lăn quay ra đất. Bị đau Đoàn Dự càng hoảng hốt, phải chạy mau

lại ẩn vào sau lưng Đoàn Chính Thuần, gượng cời thưa lại Bảo Định Đế:

- Bá phụ ơi! Không xong rồi!

Đoàn Chính Thuần cả giận quát:

- Xưa nay con cháu họ Đoàn nước Đại Lý lâm trận đối địch có chạy trốn

bao giờ? Mi phải ra đấu nữa đi! Lời bá phụ dạy chí phải đó!

Dao Đoan Tiên Tử thương con nói xen vào:

- Con nó đã chống nhau với lão dư 60 đòn. Họ Đoàn có được đứa con gan

dạ như thế còn chưa đủ hay sao? Dự con! Thế là thắng cuộc rồi, đừng ra

đánh nữa!

Đoàn Chính Thuần tức mình nói:

- Nó là con tôi, mình bất tất phải quan tâm? Đã có tôi bảo đảm sinh mạng

cho nó.

Dao Đoan Tiên Tử thương con đau lòng, nước mắt chảy quanh, muốn nhảy

xổ ra. Đoàn Dự thấy tình cảnh mẫu thân như vậy, trong lòng không nỡ,

hùng khí bừng bừng trỗi dậy, rảo bước chạy ra, quát to lên rằng:

- Ta lại đấu với ngươi lúc nữa!

Lần này chàng tỏ ra gan dạ hơn, lên lui đĩnh đạc, xoay chuyển ung dung,

đến lúc giáp Nam Hải Ngạc Thần chàng không nhìn vào mặt lão nữa, đưa

hai tay chụp xuống ngực địch thủ. Nam Hải Ngạc Thần thấy tay Đoàn Dự

chụp thong thả mà yếu ớt, lão cười ha hả, né đi một chút, rồi cứ giơ tay

chụp xuống vai chàng. Không ngờ bước chân Đoàn Dự biến hoá khôn

lường, hai người cùng xoay mình đổi phương vị thế nào lại đụng vào nhau.

Ngực Nam Hải Ngạc Thần chạm vào ngón tay trỏ Đoàn Dự. Không bỏ lỡ cơ

hội, chàng nhằm đúng phương vị đường huyệt đạo, tay trái giữ lấy huyệt

"Đản Trung", tay phải giữ huyệt "khí hộ". Chàng túm được hai yếu huyệt

này nhưng chẳng có chút nội lực nào. Giả tỷ Nam Hải Ngạc Thần cứ để

mặc kệ cho chàng giữ thế nào thì giữ, không thèm để ý tới, đừng vận nội

công giải thoát thì rồi chàng cũng đến từ từ buông ra chứ chẳng làm gì được

lão. Đằng này Nam Hải Ngạc Thần thấy yếu huyệt bị kiềm chế, đâm ra

hoảng sợ, giơ luôn hai tay lên, chụp xuống trước mặt chàng. Miếng đánh

vào mắt địch này nhà võ gọi là "thế đánh bắt buộc bên địch phải hồi thủ tự

cứu", khiến cho đối phương tự nhiên phải bỏ yếu huyệt để rụt tay về chống

đỡ. Đó là một miếng hiểm hóc, những tay cao thủ thường để giải cứu lúc

lâm nguy. Cũng may mà Đoàn Dự chẳng hiểu tý gì về phương pháp đánh đỡ

trong nghề võ. Những đòn của Nam Hải Ngạc Thần ác liệt là thế, chàng

cũng mặc kệ, hai tay cứ giữ khư khư lấy hai yếu huyệt của lão chứ không

rút về để che chở cho mình. Hai tay Nam Hải Ngạc Thần đang chụp xuống

mắt chàng, chỉ còn cách độ gang tay thì khí huyết trong mình lão bị trở trệ,

chân tay cử động tựa hồ vướng víu, không đáp ứng theo đúng ý chí, không

chụp xuống đúng mắt chàng. Lão hít một hơi chân khí rồi lại vận nội

công... cũng vì lão gắng vận nội công làm cho khí huyết đi ngược chiều.

Hai luồng khí lực trong mình tự va chạm nhau, xung đột nhau làm cho lão

hoa mắt lên. Đoàn Dự đang giữ chịt hai huyệt đạo Nam Hải Ngạc Thần

bỗng thấy một luồng nhiệt khí làm cho bàn tay chàng nóng bỏng lên rồi cả

thân chàng cũng run rẩy, chân không đứng vững. Chàng biết rằng bỏ tay ra

lúc này tất phải chết ngay với địch thủ nên dù trong mình khó chịu đến mức

độ nào cũng phải cố gắng chịu đựng.

Đoàn Chính Thuần đứng gần đó thấy mặt con mỗi lúc một đỏ bừng lên liền

thò một ngón tay, dí vào huyệt "Đại truy" sau lưng chàng. Đó là phép điểm

huyệt Nhất Dương Chỉ lừng danh thiên hạ của họ Đoàn nước Đại Lý. Phép

điểm huyệt này kỳ tuyệt ở chỗ làm cho một luồng khí dung hoà thấm vào

trong mình, đồng thời truyền nội lực mạnh mẽ vào người Đoàn Dự. Chỉ

trong giây lát, toàn thân Nam Hải Ngạc Thần run lên bần bật rồi mềm ra

như bún lăn quay xuống đất. Đoàn Chính Thuần truyền thêm khí lực cho

chàng. Đoàn Dự dần dần hồi phục lại như thường nhưng hồi lâu không nói

được lên tiếng.

Đoàn Chính Thuần đem phép Nhất Dương Chỉ ám trợ cho Đoàn Dự. Thế là

cả hai cha con hợp lực mới chế phục nổi Nam Hải Ngạc Thần. Mọi người

ngồi trong Hoa sảnh đều hiểu như vậy nhưng cứ trông bề ngoài thì ai chả

bảo Nam Hải Ngạc Thần bị Đoàn Dự hạ, không còn cãi vào đâu được.

Con người như Nam Hải Ngạc Thần quả là ghê gớm, Đoàn Dự vừa buông

tay ra, lão chỉ vận khí sơ sơ, tức thì đứng dậy được ngay. Hai mắt lão nhìn

Đoàn Dự chằm chặp. Trên bộ mặt cổ quái của lão lộ vẻ kinh dị, thương tâm

lẫn với vẻ căm hờn.

Mộc Uyển Thanh la lên:

- Nhạc lão tam! Ta xem ngươi cố tình không chịu thi lễ nhận thầy, vậy ra

ngươi cam tâm làm quân chó đẻ mất rồi.

Nam Hải Ngạc Thần hậm hực nói:

- Mi hiểu ta thế nào được? Lậy y làm thầy thì lậy chứ sao? Đời nào ta chịu

tiếng xấu làm quân chó đẻ?

Nói xong lão quỳ ngay xuống lạy Đoàn Dự bốn lạy, đầu dập "binh binh"

bốn lần xuống đất rồi kêu lên:

- Thưa sư phụ! Đệ tử là Nhạc lão tam kính bái sư phụ.

Đoàn Dự đứng ngây người ra mà nhìn, chưa kịp trả lời thì Nam Hải Ngạc

Thần đã vụt dậy, nhảy vọt lên nóc nhà bỏ đi.

Bỗng một tiếng kêu "ối" thê thảm nổi lên, rồi từ trên nóc nhà lăn xuống

đánh "huỵch" một tiếng. Mọi người nhìn ra thì là tên vệ sĩ trong phủ Trấn

Nam Vơng, trước ngực máu chảy đầm đìa. Tim gan gã đã bị Nam Hải

Ngạc Thần móc đem đi mất, chân tay gã giãy giụa mấy cái rồi nằm chết

thẳng cẳng. Sự việc xảy ra thần tốc kinh người. Tên vệ sĩ này võ công tuy

còn kém bốn gã Ngưu, Tiều, Canh, Độc nhưng cũng vào hạng khá, vậy mà

Nam Hải Ngạc Thần chỉ giơ tay ra một cái móc mất tim gan. Đoàn Chính

Thuần, Cao Thăng Thái cũng ở gần đó nhưng không cứu kịp. Mọi người

nhìn nhau cả kinh thất sắc.

Mộc Uyển Thanh tức giận nói:

- Lang quân! Chàng thu được tên đồ đệ hung ác, hỗn láo đến thế là cùng. ở

nhà thầy ra mà dám giết cả người nhà thầy. Lần sau lang quân có gặp hắn

phải trừng trị hắn cách nào mới được chứ?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi may mà thắng cuộc là toàn nhờ ở gia gia ám trợ. Sau này gặp lão, tôi e

rằng đến trái tim sư phụ này vị tất còn giữ nổi với lão nói chi đến chuyện

nghiêm trị lão hung đồ đó?

Trong lúc đang trò chuyện Tiêu Đốc Thành cùng Lăng Thiên Lý khiêng

thân thể gã vệ sĩ ra ngoài. Đoàn Chính Thuần sai đem đi an táng và cấp đỡ

rất hậu cho gia đình kẻ bị nạn.

Hoắc tiên sinh mười phần ba tỉnh, bảy say vâng dạ luôn mồm từ từ lui ra.

Bảo Định Đế hỏi Đoàn Dự:

- Dự con! Bộ pháp đó con đã được bậc cao minh nào truyền thụ cho? Theo

đúng phương vị 64 quẻ của vua Phục Hy đời xưa.

Đoàn Dự đáp:

- Bộ pháp đó con tự luyện quấy quá một mình trong sơn động chả hiểu có

đúng không? Xin bá phụ chỉ giáo cho!

Bảo Định Đế lại hỏi:

- Con tự luyện lấy ở trong sơn động đầu đuôi thế nào? Nói rõ cho ta nghe!

Nguyên hôm đó ở trên đỉnh núi, Mộc Uyển Thanh bị Nam Hải Ngạc Thần

cớp đem đi, Đoàn Dự cuống quít chạy theo. Mới đi được vài bước, loạng

choạng thế nào chân giẫm lên mình một con trăn lớn tròn trùng trục mà trơn

như mỡ, chàng trợt chân ngã, mình cứ tuột dần dần xuống khe núi. Trong

cơn nguy cấp thập tử nhất sinh, chàng đưa hai tay ra kều cào thì may sao vớ

được một cành cây. Chàng liền níu lấy, đưa cả hai chân ra sờ soạng, chợt

đặt được lên một mỏm đá sườn núi nhô ra. Bên tai nghe tiếng sóng vỗ bì

bòm, nước sông chảy cuồn cuộn kêu ầm ầm nh sấm rền ở phía dưới chân.

Chàng định thần nhìn khắp xung quang, sườn núi cao chót vót và dựng đứng

như bức tường thành không còn cách nào trèo lên được nữa, đi xuống lại bị

lăn vào dòng sông nước chảy xiết cũng chết mất mạng. Chỉ còn cách theo

mé tả bò đi thì còn có chỗ đặt chân, chẳng hiểu bước đường trước mắt ra

sao, chàng dùng cả chân lẫn tay lần mò, sờ soạng trong lòng nơm nớp lo sợ.

Chàng bò đi có lúc mệt quá phải ngồi nghỉ, gặp chỗ hiểm trở phải cố gắng

lắm mới bò qua được. Dò lần cho đến lúc trời đã hoàng hôn, trước mặt hiện

ra vô số tảng đá lởm chởm, không sao tìm ra được lối đi phẳng phiu một

chút. Sau mấy hồi cực kỳ gian lao, vất vả chàng chợt thấy cảnh tượng quen

quen hiện ra. Dường như có lần chàng đã qua quãng đường này rồi thì phải?

chàng định thần cố nhớ lại, hết nhìn non xanh lại ngắm nước đục, bất giác

buột miệng kêu lên:

- A ha! Phải rồi! Đúng là bữa trước ta ở trong thạch động ra đã qua chỗ này

rồi, cảnh vật hãy còn y nguyên như cũ.

Đoàn Dự nhận ra rồi trong lòng hớn hở vui mừng, tự nói một mình: "từ chỗ

này đi qua mấy chân trái núi cao và vượt qua mấy khe vực nữa thì ra đến

một con đường ven núi, chừng mười bảy mười tám dặm nữa là đến cầu

"Thiện nhân độ". Nhưng chàng lại sực nhớ đến pho tương ngọc mỹ nhân tư

dung tuyệt thế. Chân chàng muốn đi nhưng dạ không đành, chàng tặc lưỡi

lẩm bẩm: "Âu là ta hãy vào thăm ngọc tượng, dù có suốt đời bị giam cầm

trong hang động, ta cũng cam tâm". Thế là chẳng đắn đo gì nữa, chàng lần

theo lỗi cũ, chỉ hơn mười trượng đã đến cửa hang nhỏ. Chàng chui ngay

vào, rồi cứ theo đường hầm vào tới thạch thất.

Lúc đó trời đã hoàng hôn nhưng bốn mặt tường đều có giát những hạt minh

châu toả ra một thứ ánh sáng huyền ảo. Đoàn Dự run run đứng ngắm pho

tượng ngọc nhủ thầm: cũng may đây chỉ là pho tượng bằng ngọc chứ không

phải người thật. Giả tỷ trên thế gian có cô gái mỹ lệ nhường này thì Đoàn

mỗ có phải vì nàng mà tan nát thân danh hay phải chết nửa đời nửa đoạn

cũng chẳng chút chi hối hận! Bất luận nàng ra lệnh cho làm gì, dù là việc

đại nghịch vô đạo hay việc gian ác hiểm độc đến đâu đi chăng nữa, mình há

dám từ nan? Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự! Trên đời không có người này tưởng

cũng là cái may lớn trong những cái không may đó.

Đoàn Dự đứng trước người ngọc đã chồn gối run chân mà không biết mỏi

mệt là gì. Nào đâu Nam Hải Ngạc Thần? Nào đâu Mộc Uyển Thanh?

Chàng bỏ rơi vào cõi hư vô hết, chẳng còn lo còn nghĩ gì tới nữa. Hồi lâu

quay về thực tại, chàng cảm thấy mỏi quá, không tài nào đứng được nữa liền

nằm quay ra chân pho tượng ngọc ngủ thiếp đi.

Trong lúc mơ màng, Đoàn Dự thấy pho tượng quả nhiên cử động, cầm một

thanh bảo đao đưa cho và sai chàng đi giết 36 người vô tội, bất luận nam

hay nữ. Chàng chẳng ngần ngừ chút nào, khẳng khái vâng lời cầm đao ra đi,

bất cứ gặp ai cũng giết. Chém giết một hồi đến bảy tám mươi người, đầu lâu

lăn long lóc ngổn ngang trên mặt đất, chàng hăm hở trở vào phục mệnh.

Tượng ngọc mỉm cười, trầm trồ khen giỏi rồi bảo chàng:

- Ngươi hãy về nhà lấy đầu phụ thân đi!

Chàng nhất quyết không dám tuân mệnh. Tượng ngọc chau mày nói:

- Ngươi không tuân lệnh ta thì lập tức ra ngoài kia tự chặt đầu ngươi đem

vào đây ra mắt ta.

Đoàn Dự không do dự chút nào, cầm đao tự đâm vào bụng, kêu to lên một

tiếng, giật mình tỉnh dậy, mồ hôi toát ra như tắm. Chưa hết kinh sợ, trống

ngực đánh thình thình. Bỗng chàng thấy ánh dương quang chiếu vào, nhớ lại

chuyện vừa xong thì ra suốt đêm rồi mình đã trải qua một cơn ác mộng.

Chàng nhỏm dậy nhìn pho tượng, nghĩ vẩn nghĩ vơ một hồi, sực nhớ ra điều

gì tự hỏi: "Đây là một toà thạch thất sâu dưới đáy hồ từ đâu mà ánh dương

quang lại chiếu vào được?". Đoạn nhìn theo phía có ánh sáng để tìm cho ra

lẽ thì thấy trên nóc nhà có treo một tấm gương đồng, ánh sáng do tấm

gương này phản chiếu xuống. Chàng chú ý nhìn kỹ tấm gương hồi lâu, nhận

ra có những chữ tròn trĩnh. Chàng bỗng giật mình tự hỏi tiếp: "Khắp trong

toà thạch thất này chỗ nào cũng để gương đồng, hay là có điều chi kỳ dị ở

đó?".

Nghĩ vậy tiện tay chàng với ra góc nhà bên phải nhặt lấy một tấm, lau hết

bụi bặm cùng rỉ xanh đi để xem. Quả nhiên trên có khắc những đường

ngang vạch dọc. Cạnh những nét này có chua "một bước", "hai bước", "nửa

bước". Ngoài đầu những nét vạch có ghi bằng chữ nhỏ: "đồng nhân", "đại

hữu", "quy muội", "khiêm"....

Đoàn Dự biết ngay những chữ nh "đồng nhân", "đại hữu" v.v. là tên những

quẻ trong 64 quẻ tuỳ theo phương vị ở kinh dịch. Chàng lật mặt dưới tấm

kính lên thấy đề bằng lối chữ triện bốn chữ "LĂNG BA VI Bộ". Dó đó

chàng liền nhớ lại lõm bõm được ít câu trong bài Lạc Thần Phủ tả điệu lăng

ba:

Lăng ba nhón gót,

Chẳng nhiễm bụi trần.

Chuyển mình lấp loáng,

Mặt tựa hoa xuân,

Miệng cười chúm chím,

Lặng lẽ xuất thần,

Nhìn người yểu điệu,

Quên ngủ quên ăn

Đoàn Dự cầm trong tay tấm gương đồng lật lên lật xuống, xem đi xem lại,

ngồi thừ ra một lúc lại nhớ đến những dòng chữ khắc trên tấm gương đồng

đặt dưới chân pho tượng mà mình đã xem bữa trước: "Ngươi đã lạy đủ ngàn

lạy, vậy ta nhận ngươi làm đệ tử. Từ đây sắp tới ngươi còn gặp nhiều tai nạn

thê thảm, nói không xiết được, cũng đừng hối hận. Võ công hơn đời của

phái ta ở khắp nơi trong thạch thất này. Mong rằng ngươi ráng lĩnh tâm

nghiên cứu cho ra". Rồi chàng nhớ lại bữa đó, trong lúc từ biệt pho tượng,

chàng đã nói: "Thần tiên nương tử ơi! Tôi chả làm đồ đệ nương tử mà cũng

chẳng học cái võ công hơn đời của nương tử đâu". Nhưng hôm nay chàng

ngó pho tượng thần mấy hồi nữa thì tâm hồn như ngây như dại, chẳng còn

tự chủ được nữa. Rồi chàng tự nhủ: "Thần tiên nương tử bảo ta học tập võ

nghệ thì không thể không học được rồi. Nhưng câu võ công hơn đời của

phái ta ở khắp nơi trong tòa thạch thất này, sao ta xem khắp cả có thấy gì

đâu? Phải chăng võ công ghi trên tấm gương đồng ta vừa coi xong?". Nghĩ

vậy chàng lật đi lật lại để xem cho kỹ phương vị 64 quẻ trong kinh dịch rồi

bắt đầu tập bước thử.

Ban đầu chàng chỉ chiếu theo phương hướng, độ số bước cho đúng cách,

chưa lĩnh hội gì đến phần ảo diệu bên trong. Nhưng đến chỗ khó khăn, kỳ

cục, nếu cứ theo chữ khắc trên tấm gương thì đi bước trước xong không biết

làm thế nào để bước tiếp cho đúng. Sau chàng phải xoay mình chân không

chấm đất mới bước vào đúng khuôn phép, cũng có lúc phải nhón gót vọt lên

hay co chân nhảy lùi lại mới hợp với phương vị, độ số trong chỉ thị.

Mỗi khi gặp vấn đề nan giải, Đoàn Dự cố gắng nghiên cứu, tìm được lối

giải quyết chàng cảm thấy khoan khoái vô cùng và công nhận học võ cũng

nhiều chỗ thích thú chẳng kém gì đọc sách. Có lúc chàng hối hận: "trước kia

mình không hiểu, chỉ quan niệm võ nghệ là môn học để hại người, giết

người nên không chịu học. Giờ xem bộ pháp này chẳng hại đến ai mà lại

tránh được kẻ hung ác muốn đánh giết mình, như thế chẳng những không

hại mà còn có ích nữa. Bất luận môn võ nào dùng để cứu người hay tự vệ

đâu có phải việc dở". Kết luận như vậy chàng lại càng cần cù hăng hái luyện

tập.

Tập suốt một ngày, mười phần Đoàn Dự đã học được hai, ba. Tối đến,

chàng đói quá bèn mở nắp hộp ngọc để đôi mãng cổ chu cáp kêu lên mấy

tiếng cho rắn kéo đến nằm phục trước mặt. Chàng lựa giết mấy con rồi ra bờ

sông nhặt củi đốt lên nướng ăn. Mấy ngày liền chỉ trừ những lúc ngủ đi hay

lúc giết rắn làm bữa còn bao nhiêu thì giờ chàng để hết vào việc nghiên cứu

và luyện tập "Lăng Ba Vi Bộ", không chểnh mảng một phút nào. Có lúc

chán nản, chàng ngẩng đầu lên nhìn pho tượng ngọc thì lạ thay: Thần nương

tiên tử tựa hồ có vẻ buồn bực thống trách chàng không chịu gắng sức hết

lòng, thì chàng sợ hãi vô cùng, đứng bật dậy như chiếc lò xo, hăm hở đem

hết tâm trí vào việc rèn tập "Lăng Ba Vi Bộ". Đến giữa trưa hôm thứ tư,

Đoàn Dự đã thuộc lòng toàn bộ môn lăng ba ghi trên gương đồng và cách

bước lên, lui xuống, diễn tập lại được một cách rất thuần thục. Chàng sực

nhớ đến chuyện Mộc Uyển Thanh bị Nam Hải Ngạc Thần bắt trong một

thời gian khá lâu rồi, chàng cần trở về để cứu mạng cho nàng. Nhưng lúc

diễn tập xong, chàng vào ra mắt Thần tiên nương tử thì chẳng khác gì kẻ bị

ma làm, tâm hồn như ngây như dại, chẳng nghĩ gì đến chỗ nguy khốn của

Mộc Uyển Thanh nữa. Có lúc chàng quyết tâm "ta phải về cứu Mộc cô

nơng rồi sẽ trở lại đây cũng chưa muộn gì". Chàng liền đặt tấm gương

đồng vào chỗ cũ, chợt ngó đến một tấm gương khác loang lổ, sặc sỡ, trên

khắc vô số chữ nghĩa. Chàng biết rằng nếu rèn luyện thêm món này nữa thì

ít ra cũng mất mấy ngày, vội nhủ thầm: "Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự! Mộc cô

nơng bị ác nhân giam giữ, một ngày xem bằng ba thu. Nếu mi không kịp

trở lại cứu nàng thì còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa?". Tuy chàng lẩm

bẩm như vậy nhưng lại bị một ý nghĩ khác đả phá: "mình ở đây bên con

ngời ngọc vui thú biết là chừng nào, huống chi mình chẳng có lấy một chút

bản lãnh thì làm sao mà đánh lại được Nam Hải Ngạc Thần, chỉ có cách là

thờ lão làm thầy. Như thế thì thà chịu chết còn hơn". Hai luồng tư tưởng

xung đột nhau dữ dội trong đầu óc chàng. Phân vân hồi lâu rồi chàng nhất

quyết: "dù sao bỏ mặc Mộc Uyển Thanh cũng là một điều địa bất nghĩa,

đâu phải tư cách của bậc đại trượng phu? Đừng có mình ở vào trường hợp bị

giam cầm hoặc trường hợp bất khả kháng nào khác không trở về được chả

nói làm chi".

Quyết định nh vậy, chàng lại trước mặt pho tượng ngọc mỹ nhân, lạy xụp

xuống đất khấn rằng:

- Thần tiên nương tử ơi! Nếu nhờ được phép Lăng Ba Vi Bộ mầu nhiệm của

nương tử vừa truyền cho mà tôi thoát khỏi tay Nam Hải Ngạc Thần thì sau

này mỗi năm tôi tình nguyện đến ở đây với nương tử nửa năm.

Khấn xong, chân trái chàng đạp bước "Trung phu", chuyển sang bước "Kỷ

tế" rồi toan tiếp tục theo phép Lăng Ba Vi Bộ chạy ra khỏi động. Nhưng vừa

bước sang vị "thái", chàng xoay mình một cái, chân phải bước đến vị "cổ",

đột nhiên một luồng hơi nóng ở huyệt "đan điền" bốc lên cao độ khiến cho

toàn thân tê nhức, không thể chịu nổi rồi lăn kềnh ra đất nằm cứng đơ

người.

Đoàn Dự thất kinh, toan chống tay xuống đất để nhỏm dậy nhưng tứ chi

cũng như các bộ phận khác không chịu phục tùng ý chí của mình nữa. Đừng

nói muốn ngồi lên mà ngay muốn cử động một đầu ngón tay cũng không

thể được. Chàng chịu nằm trơ như phỗng đá, càng nóng nẩy lại càng không

nhúc nhích được tý nào.

Nguyên phép Lăng Ba Vi Bộ khắc trên tấm gương đồng là một môn võ để

cho những người đã có bản lĩnh vào hạng thượng thừa rèn luyện. Đoàn Dự

tuyệt không có một chút căn bản võ công nào, lúc tập chàng tiến lên một

bước rồi dừng lại suy nghĩ, hoặc lùi xuống một bước lại nghỉ giây lát, huyết

mạch trong người chu lưu một cách bình thường nên không việc gì. Đằng

này chàng vừa thuộc hết bài, đột nhiên toan dông thẳng một lèo, các mạch

máu trong người không thể luân lưu từ từ như thường mà chạy ngược lên

một cách cấp bách nên toàn thân bị tê liệt, thiếu chút nữa biến thành cái xác

không hồn. May mà chàng mới đi có mấy bước, vả không đi mau lắm nên

chưa đến nỗi đứt mạch máu.

Lâm vào tình trạng sống dở chết dở, Đoàn Dự cuống cuồng, cố sức vận

động nhưng chàng càng cố gắng bao nhiêu ruột gan càng cồn cào bấy

nhiêu, tựa như người buồn nôn mà không nôn ra được. Chàng nghĩ thầm:

"tấm đồng đặt dưới chân nương tử đã khắc rõ ràng từ đây sắp tới ngươi còn

gặp nhiều tai nạn thê thảm, nói không xiết được cũng đừng hối hận". Bây

giờ mình nằm ỳ ra đây để mà chịu chết đói, há chẳng là một cảnh tượng thê

thảm nói không xiết được ?

ánh dương quang buổi chiều chênh chếch chiếu xuống. Vào khoảng giờ

thìn, ánh sáng soi vào giữa tấm gương đồng và phản chiếu xuống mặt Đoàn

Dự. Chàng thấy chói mắt, muốn quay đầu ra phía khác nhưng cổ cứng đơ

không sao quay đi được. Chàng nhìn tấm gương thấy có khắc những chữ "Vị

tế", "Tiểu quá", "chấn", "truân". Không còn cách nào quay đi chỗ khác,

chàng chăm chú nhìn vào những chữ trong gương rồi đâm ra suy nghĩ,

nghiên cứu, tính toán thì ra tấm gương thứ nhất chàng đã luyện xong mới

được có 32 trong 64 quẻ, còn 32 quẻ nữa ở tấm gương này, lại vừa khéo

hiện ra đúng lúc trước mặt chàng. Tuy chân không bước được nhưng chàng

vẫn nằm ngẫm nghĩ, tính toán các bước chân, tưởng tượng ra bộ số, phương

hướng. Chàng cứ lẩm nhẩm tính toán như vậy đến chiều thì được hơn mười

bước, tâm hồn đã thấy được cởi mở và dễ chịu hơn trước nhiều.

Trưa hôm sau Đoàn Dự nhập tâm được nốt 32 quẻ, chàng nằm ôn lại cả 32

quẻ học trước hợp lại với 32 quẻ mới. Khi đầu từ "Minh di" rồi tuần tự sang

"bí", "kỳ tế", "gia nhân". Bưước theo độ số, chuyển theo phương vị cho đủ 64

quẻ thì về đến vòng tròn "Vô vọng" là xong.

Đoàn Dự mừng quá, vỗ tay reo rồi vùng dậy la lên:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!

Dứt lời chàng mới biết rằng mình đã cử động lại được như thường, thì ra hơi

thở và kinh mạch trong người cũng chuyển vận theo tâm niệm. Tâm niệm

đến vòng tròn, chỗ để nối các kinh mạch cởi mở trở về cương vị bình

thường. Đoàn Dự mừng rỡ khôn xiết, nhưng còn lo lỡ ra quên mất thì nguy,

chàng ôn đi ôn lại nhiều lần cho nhớ thật kỹ. Lúc bắt đầu diễn lại chàng

bước rất thong thả, cẩn thận cho khỏi sai trật. Đi xong 64 quẻ chàng cảm

thấy tinh thần phấn chấn, khí lực dồi dào. Tuy đã mấy ngày chẳng được ăn

uống gì mà trong bụng vẫn không thấy đói lắm.

Chàng vào vái ngọc tượng nói:

- Đa tạ Thần Tiên Nương Tử!

Rồi trở gót đi ra khỏi toà thạch động, tìm theo đường cũ qua cầu "Thiện

nhân độ", lên núi Vô Lượng, tìm đến chỗ Mộc Uyển Thanh.

Đoàn Dự đem chuyện luyện Lăng Ba Vi Bộ trong sơn động thuật lại đầu

đuôi cho Bảo Định Đế nghe. Nhưng chàng dấu nhẹm việc pho tượng ngọc

mỹ nhân không đả động gì đến vì chàng biết rằng trước mặt bao nhiêu

người mà đem chuyện mình say mê một pho tượng ngọc nữ thì thật là một

điều lố bịch, lại khiến cho Mộc Uyển Thanh phải nổi trận tam bành.

Nghe Đoàn Dự kể xong Bảo Định Đế nói:

- Bộ pháp 64 quẻ này dường như ở trong có ẩn hiện một căn bản nội công

vào hạng thượng thừa. Con thử diễn lại từ đầu đến cuối cho ta coi!

Đoàn Dự vâng lời, nhẩm lại một lúc rồi bước ra biểu diễn. Bảo Định Đế,

Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái đều là những tay bản lĩnh cao siêu về

phần nội công thế mà những chỗ tuyệt diệu về nội công trong bộ pháp này

cũng chỉ nhìn nhận ra được vài phần mà thôi.

Đoàn Dự diễn xong 64 quẻ, cuối cùng quanh một vòng tròn rồi trở về

nguyên vị. Bảo Định Đế cả mừng nói:

- Bộ pháp "Lăng Ba Vi Bộ" này ảo diệu vô cùng, trên đời có một không hai,

con ta phải có phúc phân thế nào mới được gặp đó. Nay má con mới lại

trùng phùng, thôi ta về để mẹ con hàn huyên với nhau.

Đoạn nhà Vua quay sang bảo Hoàng hậu:

- Ta về thôi!

Vua cùng Hoàng hậu đứng dậy lên kiệu về Hoàng cung. Bọn Đoàn Chính

Thuần tiễn đa ra khỏi cổng lớn rồi mới trở vào Vương phủ truyền mở tiệc

ăn mừng. Vợ chồng Trấn Nam Vương cùng Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh

ngồi một bàn có đến mười mấy tên thị nữ đứng bên hầu hạ.

Mộc Uyển Thanh từ nhỏ đến lớn có bao giờ được dự bữa tiệc vinh hoa phú

quý như hôm nay. Những món trân tu nàng chẳng những chưa từng thấy mà

cũng chưa nghe ai nói đến bao giờ. Nàng được vợ chồng Trấn Nam Vương

coi như người nhà thế là nghiễm nhiên thành hai cặp vợ chồng, cặp già, cặp

trẻ ngồi chung trò chuyện vui vẻ nàng đã mừng thầm.

Đoàn Dự thấy mẹ chàng đối với cha vẫn ra chiều lãnh đạm, đã không uống

rượu lại chẳng ăn ngon, chỉ dùng mấy món rau đậu nhạt nhẽo, liền đứng lên

rót một chung rượu nâng đến trước mặt mẹ mời:

- Thưa mẫu thân! Con xin kính mời mẫu thân một chung rượu này.

Dao Đoan Tiên Tử vội gạt đi:

- Má có uống rượu đâu?

Đoàn Dự lại rót một chung, đưa mắt ra hiệu cho Mộc Uyển Thanh, rồi nói:

- Tôi xin mừng Mộc cô nương một ly.

Mộc Uyển Thanh cầm ly rượu đứng lên đưa đến trước mặt tiên tử. Dao

Đoan Tiên Tử nghĩ thầm: "Đối với Mộc Uyển Thanh ta chẳng nên tỏ ra quá

thờ ơ với nàng", liền mỉm cười nói:

- Mộc cô nương! Thằng nhỏ nhà này có tính lông bông lắm đấy. Ba má giữ

y không được, cô nương phải giúp ta cai quản y mới xong.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Nếu bảo không nghe con sẽ đánh cho mấy cái bạt tai.

Dao Đoan Tiên Tử phì cười đưa mắt nhìn chồng. Đoàn Chính Thuần nói:

- Phải thế mới được.

Dao Đoan Tiên Tử đứng dậy đón lấy chén rượu ở tay Mộc Uyển Thanh.

Dưới ánh đèn sáng, nàng trông rõ bàn tay bà nhỏ nhắn, trắng như tuyết,

trong như ngọc nhưng trên mu bàn tay, chỗ gần cổ tay có miếng chàm đỏ

tươi. Bất giác nàng rùng mình, run run hỏi:

- Phải chăng bà... bà là Thư Bạch Phụng?

Dao Đoan Tiên Tử cười đáp:

- Sao cô lại biết tên của ta?

Vẫn một giọng run run Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Bà đúng là Thư Bạch Phụng, trước nay bà vẫn sử cây nhuyễn tiên làm binh

khí phải không?

Dao Đoan Tiên Tử thấy nàng biến sắc nhưng không ngờ gì nàng có ý định

ám toán, vẫn tươi cười đáp:

- Thằng Dự đối với cô thật tình lắm nhỉ, y đem cả nhu danh ta nói với cô.

Mộc Uyển Thanh kêu lên:

- Ơn thầy đã nặng, lời thầy dám sai?

Nàng vẫy tay phải một cái, hai mũi tên độc bắn ra, nhằm giữa bụng Dao

Đoan Tiên Tử phóng tới.

Bốn người ngồi bàn tiệc đang truyện trò vui vẻ, thân mật trong bầu không

khí gia đình, ai ngờ Mộc Uyển Thanh đột nhiên giở quẻ. Dao Đoan Tiên Tử

tuy võ công hơn Mộc Uyển Thanh nhiều nhưng ngồi gần nàng quá, lại trong

khi bất ngờ không kịp đề phòng, bà thấy rõ không còn cách nào tránh được

nữa. Đoàn Chính Thuần lanh mắt trông thấy, vội đưa ngón tay trỏ theo cách

điểm huyệt "Nhất Dơng Chỉ" để khống chế Mộc Uyển Thanh nhưng cũng

chậm mất rồi.

Đoàn Dự đã mấy lần thấy nàng đang cười bỗng phóng tên giết người nhanh

như chớp, đầu mũi tên đều có tẩm thuốc độc cực kỳ lợi hại. Giờ vừa thấy

nàng phất tay áo đã biết ngay là nguy đến nơi rồi. Chàng đang đứng bên

cạnh mẫu thân khốn nỗi chẳng có chút công nào để cản trở Mộc Uyển

Thanh đành theo phép Lăng Ba Vi Bộ bước chân chéo đi, chuyển mình che

đỡ cho Dao Đoan Tiên Tử. "Phập phập" hai tiếng, hai mũi tên cắm vào ngực

chàng. Đồng thời Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng mình đánh nhốt một cái,

nàng đau quá nằm gục xuống bàn, không sao nhúc nhích được nữa.

Đoàn Chính Thuần ứng biến cực kỳ mau lẹ, đưa ngón tay ra điểm hết 8

đường huyệt đạo chung quanh vết thương cho máu độc khỏi chảy vào tim.

Ông lật tay lại, đẩy lưng Mộc Uyển Thanh lên để điểm vào huyệt khớp

xương tay phải, khiến tay nàng tê liệt không phóng ám tiến được nữa. Đoạn

lớn tiếng gọi:

- Lấy thuốc giải độc cho mau!

Mộc Uyển Thanh vẫn run run nói:

- Tôi chỉ cần giết Thư Bạch Phụng, quyết không hại Đoàn lang.

Tay phải nàng đau quá, nàng phải cố nhịn đau thò tay trái vào bọc móc ra

hai bình thuốc giải nói:

- Lấy thuốc đỏ cho uống còn thuốc trắng thoa vào vết thương. Mau lên! Chỉ

chậm một phút là không còn tài nào cứu chữa được nữa.

Dao Đoan Tiên Tử nhìn nàng trừng trừng, thấy nàng thực lòng tha thiết với

Đoàn Dự thì bà đã đoán ra mọi sự. Bà vội lấy hai viên thuốc đỏ nhét vào

miệng con, rồi lấy thuốc tán trong bình trắng rịt vào vết thương, sau khi đã

nhẹ nhàng nhổ hai mũi tên ra.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Cảm tạ trời phật. Tánh mạng chàng không còn gì đáng ngại nữa, nếu

không thì... thì tôi... hoá ra...

Đoàn Dự trúng tên rồi mê man không biết gì nữa, ngã lăn vào lòng mẹ, ngất

lịm đi. Vợ chồng Đoàn Chính Thuần mắt không rời vết thương ở ngực con,

lúc đầu thấy máu đen chảy ra, sau biến ra sắc tím rồi dần dần chuyển thành

sắc đỏ, bấy giờ mới thở phào một cái nhẹ nhõm, biết rằng con mình thoát

chết rồi.

Dao Đoan Tiên Tử ẵm Đoàn Dự lên đưa vào buồng nằm, đắp chăn cho con

rồi cầm mạch xem. Tuy mạch chạy yếu nhưng đã điều hoà bà yên dạ trở ra.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Không có gì đáng ngại chứ?

Dao Đoan Tiên Tử không đáp, nhìn Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Cô bảo với Tu la đao Hồng Tần Miên...

Đoàn Chính Thuần nghe đến sáu chữ "Tu la đao Hồng Tần Miên" biến sắc

ngắt lời bảo vợ:

- Mình... mình...

Dao Đoan Tiên Tử không thèm để ý đến lời chồng, tiếp tục nói với Mộc

Uyển Thanh:

- Cô bảo với bà ấy rằng: nếu muốn giết ta thì cứ đường hoàng ra tay, hà tất

phải dùng cách lén lút thế này? Không sợ người ta cười cho ?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi không biết Tu la đao Tần Hồng Miên là ai.

Dao Đoan Tiên Tử hỏi:

- Thế ai sai cô đến giết ta?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Đó là sư phụ tôi. Sư phụ tôi sai tôi giết hai mạng, bà là một. Người chỉ bảo

trên tay bà có miếng chàm đỏ và tên là Thư Bạch Phụng, dong nhan rất mỹ

lệ, sử cây nhuyễn tiên. Người không nói gì đến bà đã thành một vị đạo cô.

Tôi thấy bà dùng cây phất trần làm khí giới lại mang danh Dao Đoan Tiên

Tử, có ngờ đâu lại chính là bà? Khổ hơn nữa lại chính là mẫu thân Đoàn

lang.

Nói xong hai hàng châu lệ trào ra.

Dao Đoan Tiên Tử Thư Bạch Phụng hỏi:

- Có phải sư phụ cô là một bà nhan sắc kiều diễm, khuyết mất ba đốt ngón

tay bên phải?

Mộc Uyển Thanh lấy làm kỳ hỏi lại:

- Đúng lắm! Nhưng sao bà lại biết? Sư phụ tôi họ Khang.

Thư Bạch Phụng hai hàng châu lệ đầm đìa chảy xuống má nói:

- Chính Thuần! Thôi mình ở lại trông nom cho Đoàn Dự!

Đoàn Chính Thuần nói:

- Thư Bạch Phụng mình ơi! Những điều oan nghiệt dĩ vãng mình để tâm làm

chi?

Thư Bạch Phụng nét mặt rầu rầu nói:

- Mình không để tâm nhưng tôi để tâm và người ta vẫn để tâm thì làm sao?

Dứt lời bà đứng phắt dậy, nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Đoàn Chính Thuần nắm

lấy áo vợ. Thư Bạch Phụng quay lại tát vào mặt chồng. Đoàn Chính Thuần

vội nghiêng đầu né tránh.

!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

Bể ái nổi phong ba

Đoàn Chính Thuần nghiêng đầu tránh cái tát của Dao Đoan Tiên Tử, bỗng

nghe "roạc" một tiếng, tay áo Thư Bạch Phụng đứt mất một nửa, Th Bạch

Phụng cả giận quay đầu lại hỏi:

- Ngươi muốn giở võ với ta chăng?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Thư Bạch Phụng mình...

Thư Bạch Phụng không đáp, lẹ làng nhảy vọt lên nóc nhà phía trước, rồi

thấy bóng bà nhô lên hạ xuống mười lần, đã đi đến hơn mười trợng.

Xa xa nghe rõ tiếng Lăng Thiên Lý quát hỏi:

- Ai?

Thư Bạch Phụng đáp:

- Ta!

Lăng Thiên Lý nói:

- Ôi Vương phi!

Rồi không thấy gì nữa. Thư Bạch Phụng đã đi xa, lẩn vào trong bóng tối.

Đoàn Chính Thuần đứng ngay cán tàn nhìn theo hồi lâu rồi trở vào. Mộc

Uyển Thanh sắc mặt lợt lạt, nàng vẫn ngồi yên, không lẩn trốn đi đâu cả.

Đoàn Chính Thuần lại bên, cầm hai tay nàng giật đánh "rắc" một tiếng,

khớp xuơng tay lại in như cũ. Nàng nghĩ thầm: mình đã phóng ám tiến bắn

vợ con ông này, không biết ông sẽ hành tội cách nào đây?

Bỗng thấy Đoàn Chính Thuần nét mặt thiểu não, uể oải ngồi xuống ghế,

nghiêng bình từ từ rót rượu, rồi uống ồng ộc một hơi cạn cốc, mắt vẫn trân

trân nhìn ra phía cửa sổ từ đó Thư Bạch Phụng đã nhảy ra ngoài, tâm trí

nghĩ tận đâu đâu. Ông ngồi lầm lì, lâu lâu lại rót cốc rượu khác, nốc ừng ực

một hơi hết sạch. Rồi cứ rót rồi lại uống, uống rồi lại rót liên hồi đến mười

mấy cốc. Bình này hết rượu ông lấy bình khác ra. Mộc Uyển Thanh thấy

kiểu uống rượu của ông kỳ ở chỗ rót cực chậm mà uống lại rất nhanh. Nàng

cảm thấy trong dạ mỗi lúc một bồn chồn thêm, sau nàng không nhịn được

nữa la lên:

- Chắc ông đang nghĩ cách gì cực kỳ thảm độc để hành hạ tôi, xin hạ thủ

ngay đi!

Đoàn Chính Thuần quay lại nhìn nàng hồi lâu, rồi tự nói dường nh để mình

nghe:

- Giống quá! Giống quá! Lúc mới trông mình đã nhận ra ngay. Dáng điệu

ấy, tính nết ấy!

Mộc Uyển Thanh nghe lõm bõm không hiểu, hỏi lại:

- Ông nói lảm nhảm gì vậy?

Đoàn Chính Thuần không đáp, đột ngột đứng dậy, giơ bàn tay trái ra, quạt

lật về phía sau, chênh chếch sang bên, tiếng gió nhẹ nhàng vi vu nổi lên,

thổi tắt phụt một cây đèn nến ở sau lưng. Ông tiếp tục quạt tay phải chệch

sang mé bên kia về phía sau, một ngọn đèn thứ hai lại tắt. Cứ kiểu ấy ông

quạt một lúc tắt luôn năm ngọn đèn. Mắt ông vẫn hướng về phía trước, bàn

tay đưa ra rút về nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi, có vẻ ung dung lắm.

Mộc Uyển Thanh giật mình hỏi:

- Đây là... là phép "ngũ la khinh yên chưởng"? tại sao ông biết?

Đoàn Chính Thuần vẻ mặt thiểu não, gượng cười hỏi lại:

- Sư phụ đã dạy cô phép này chưa?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Sư phụ tôi bảo tôi chưa đủ căn bản học phép này. Người còn biểu chưởng

pháp đó người sống để bụng, chết đem đi chứ nhất quyết không truyền cho

ai.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- ồ! Người bảo sống để bụng, chết đem đi chứ nhất quyết không truyền cho

ai hả?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Vâng! Sư phụ tôi chỉ luyện tập lúc vắng tôi mà thôi. Tôi phải trộm ngó

đấy chứ.

Đoàn Chính Thuần hỏi lại:

- Cô thường thấy bà ta lúc nào có một mình mới luyện thôi hả?

Mộc Uyển Thanh gật đầu đáp:

- Mỗi khi sư phụ tôi luyện chưởng pháp này là hay lên ruột lắm. Trấn Nam

Vơng hình như ông còn giỏi hơn sư phụ tôi về môn này.

Đoàn Chính Thuần thở dài đáp:

- Phép "Ngũ la khinh thiên chưởng" này chính ta dạy cho sư phụ cô đó.

Mộc Uyển Thanh giật mình, không thể không tin được vì nàng thấy sư phụ

nàng phải quạt hai ba chưởng đèn mới tắt, chứ một chưởng không xong, đâu

có được như Đoàn Chính Thuần, quạt một cách dễ như không. Nàng lắp bắp

hỏi:

- Thế thì ông còn là thầy sư phụ tôi... tức tổ sư tôi rồi.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:

- Không phải thế.

Ông lấy tay chống cằm tự nói một mình:

- Mỗi khi nàng luyện chưởng là một lần lên ruột, nàng còn bảo chưởng pháp

này sống để bụng, chết mang theo...

Mộc Uyển Thanh lại hỏi:

- Thế thì ông...

Đoàn Chính Thuần lắc đầu ngắt lời bảo nàng đừng hỏi nữa. Một lúc sau ông

đột ngột hỏi:

- Năm nay cô 18 tuổi rồi nhỉ. Có phải cô sinh vào khoảng tháng 9 không?

Mộc Uyển Thanh lấy làm kỳ, giật mình đánh thót một cái hỏi lại:

- Ô hay! Sao chuyện gì của tôi ông cũng biết? Ông là thế nào với sư phụ

tôi?

Đoàn Chính Thuần tỏ vẻ đau khổ vô cùng, ngập ngừng nói:

- Uyển... Uyển con ơi! Ta... nghĩ mà thẹn với sư phụ và con lắm!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Sao vậy ông? Tôi coi ông là người rất hoà nhã, rất tử tế mà!

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Sư phụ con không nói tên cho con biết ?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Người chỉ biểu là "Vô danh khách", còn tên chi họ gì tôi cũng không biết.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Bấy lâu nay sư phụ con ở đâu? Tình trạng thế nào?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi ở với sư phụ mé sau một trái núi cao chót vót, không ai biết tới. Từ

nhỏ đến lớn tôi vẫn thấy người ở đó.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Ba má con là ai? Có thấy sư phụ nói tới không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Sư phụ tôi chỉ biểu tôi là một đứa côi cút, ba má bỏ rơi, người thấy ở bên

đường, nhặt về nuôi cho đến lúc khôn lớn.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Thế con có giận ba má con không?

Mộc Uyển Thanh quay đi không đáp, đưa ngón tay út lên miệng nhấm

nhấm. Cử chỉ ngây thơ này khiến Đoàn Chính Thuần trông thấy luống

những đau lòng, nước mắt chảy quanh, tuôn rơi xuống má hai giọt. Mộc

Uyển Thanh rất lấy làm kỳ hỏi:

- Sao ông lại khóc?

Đoàn Chính Thuần quay ra đằng sau, lau ráo nước mắt rồi gượng cười đáp:

- Ta khóc đâu? Hôm nay uống nhiều rượu quá, rượu bốc hơi lên đấy chứ!

Mộc Uyển Thanh cãi:

- Rõ ràng tôi trông thấy ông khóc mà! Chỉ có đàn bà con gái mới khóc chứ!

Đàn ông như ông cũng biết khóc nhỉ! Tôi chưa từng thấy đàn ông khóc bao

giờ, trừ phi là con nít.

Đoàn Chính Thuần thấy Mộc Uyển Thanh ngây ngô, không hiểu việc đời lại

càng xót dạ nói:

- Uyển con ơi! Ta sẽ đối đãi với con hết lòng từ ái để bù lại những điều lầm

lỗi trước. Con muốn điều chi, cứ nói cho ta nghe, ta sẽ ráng làm cho con

được vừa lòng.

Từ lúc bắn Đoàn phu nhân, Mộc Uyển Thanh lo lắng vô cùng, giờ nghe

Đoàn Chính Thuần ôn tồn nói vậy, nàng mừng quýnh hỏi:

- Tôi vừa phóng ám tiến, định sát hại phu nhân mà ông không thù ?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Ta cũng nghĩ như con: "Ơn thầy đã nặng, lời thầy dám sai". Những chuyện

xích mích giữa đám người trên không can gì đến con. Ta không giận con

đâu, có điều từ đây sắp tới con đừng vô lễ với phu nhân nữa nhé!.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Thế nhng rồi sư phụ hỏi đến biết nói làm sao?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Con dẫn ta về ra mắt sư phụ, để ta giải thích giùm con.

Mộc Uyển Thanh vỗ tay reo:

- Hay quá! Thế thì hay quá!

Rồi nàng lại chau mày nói:

- Nhưng sư phụ thường bảo tôi rằng phái nam trên đời toàn là phường bạc

bẽo, người cấm cửa không tiếp kiến gã đàn ông nào.

Trên mặt Đoàn Chính Thuần thoáng qua vẻ ngạc nhiên hỏi:

- Sư phụ con không tiếp đàn ông ?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Đúng thế! Sư phụ tôi vẫn cậy Lý á bà mua muối gạo giùm. Một hôm, mụ

đau bảo con trai đi mua thay đem đến. Sư phụ tôi giận lắm để tận cổng

ngoài chứ không cho vào nhà.

Đoàn Chính Thuần thở dài nói:

- Tần Hồng Miên nàng ơi! Sao nàng khổ hạnh giữ gìn đến như vậy?

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Ông lại nói đến Tần Hồng Miên rồi. Tần Hồng Miên là ai vậy?

Đoàn Chính Thuần lưỡng lự một lúc rồi nói:

- Việc này không thể giấu con mãi được. Sư phụ con chính tên là Tần Hồng

Miên, ngoại hiệu là Tu la đao đó.

Mộc Uyển Thanh gật đầu nói:

- Hừ thảo nào phu nhân lúc thấy tôi vẫy tay phóng tên, cứ ngơ ngác hỏi tôi

hoài: "Tần Hồng Miên đối với cô là thế nào?". Lúc đó thực tình tôi chưa

biết, chứ có phải tôi nói dối phu nhân đâu? Thế ra sư phụ tôi là Tần Hồng

Miên, cái tên hay quá nhỉ. Sao sư phụ lại không cho tôi hay?

Đoàn Chính Thuần không trả lời hỏi lại:

- Vừa nãy ta điểm huyệt vào tay con, bây giờ còn đau không?

Mộc Uyển Thanh nhìn mặt Đoàn Chính Thuần đầy vẻ nhu mì từ ái mỉm

cười đáp:

- Khá nhiều rồi ông ạ! Bây giờ ta thử vào xem chàng đã đỡ chưa? Tôi e rằng

chất thuốc độc này không thể một lúc khỏi ngay được.

Đoàn Chính Thuần nói:

- ừ thì vào!

Hai người đứng lên Đoàn Chính Thuần lại nhắc Mộc Uyển Thanh:

- Con muốn điều gì bảo ta nhé!

Mộc Uyển Thanh mặt đỏ như gấc, thẹn thò hạ thấp giọng:

- Tôi chỉ sợ... đã bắn phu nhân, người... người căm hờn tôi...

Đoàn Chính Thuần nói:

- Thong thả rồi sẽ xin lỗi người, sau này chắc người cũng bỏ qua đi.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi không chịu xin lỗi ai bao giờ cả, nhưng nay vì Đoàn lang tôi đành phải

xin lỗi cũng không sao.

Đột nhiên nàng đánh bạo nói tiếp:

- Trấn Nam Vương ơi! Có thật... ông nhất định thoả mãn nguyện vọng của

tôi?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Điều gì sức ta có thể làm cho con vừa lòng được thì ta nhất định không từ

chối.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ông giữ đúng lời hứa chứ?

Đoàn Chính Thuần mỉm cười, lại gần bên vuốt tóc nàng tia mắt tràn trề vẻ

từ ái nói:

- Ta không nói dối con đâu.

Mộc Uyển Thanh nói rất nhanh:

- Việc hôn nhân của chàng với tôi xin ông tác chủ cho, đừng để chàng phụ

bạc nhé!

Nàng nói xong mặt nóng bừng bừng. Sắc mặt Đoàn Chính Thuần mỗi lúc

một tái đi, từ từ rời Mộc Uyển Thanh, uể oải ngồi xuống ghế lâu lắm không

nói nên lời. Mộc Uyển Thanh thấy tình thế có vẻ xoay chiều, ngập ngừng

hỏi:

- Ông... ông không bằng lòng ?

Đoàn Chính Thuần nghẹn ngào nhưng nói có vẻ quả quyết:

- Con không thể kết hôn cùng thằng Dự được đâu!

Mộc Uyển Thanh như bị một gáo nưước lạnh dội vào người run run hỏi:

- Sao vậy ông? Chàng... chàng đã hứa hôn với tôi rồi mà.

Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm:

- Oan nghiệt! Oan nghiệt!

Mộc Uyển Thanh tiếp:

- Nếu chàng không chịu tôi... tôi... sẽ giết chàng rồi tự sát. Tôi... tôi đã lập

trọng thệ với sư phụ rồi.

Đoàn Chính Thuần uể oải lắc đầu nói:

- Không được.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi vào hỏi chàng vì sao mà không lấy tôi?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Y cũng không hiểu đâu.

Nói xong ông nhìn nét Mộc Uyển Thanh thấy nàng vô cùng đau khổ giống

hệt Tần Hồng Miên hồi được tin buồn 18 năm về trước, ông cầm lòng

không đậu buột mồm nói:

- Con không thể kết hôn cùng thằng Dự mà cũng không thể giết y được.

Mộc Uyển Thanh ngơ ngác hỏi:

- Sao thế ông?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Vì... vì Đoàn Dự là... là... thân huynh con.

Mộc Uyển Thanh tưởng mình nghe không rõ, hãi hùng giương mắt lên nhìn

Đoàn Chính Thuần run run hỏi:

- Sao? Ông nói sao? Đoàn lang là thân huynh tôi?

Đoàn Chính Thuần buồn rầu nói:

- Uyển con ơi! Con có biết sư phụ con là ai không? Người là mẹ ruột con

đó. Ta... ta đây là cha ruột con.

Mộc Uyển Thanh vừa kinh khủng vừa oán hận, sắc mặt tái mét lắp bắp:

- Tôi... tôi không... không thể tin được.

Bất thình lình, ngoài cửa sổ có tiếng thở dài sườn sượt kế đến giọng ảm đạm

của người đàn bà nói vọng vào:

- Uyển con ơi! Về thôi!

Mộc Uyển Thanh quay phắt ra gọi:

- Sư phụ!

Một tiếng kẹt, cánh cửa sổ mở ra, một người đàn bà đứng tuổi đứng bên

ngoài, mặt trái xoan, lông mày dài, nhan sắc cực kỳ khả ái, mắt loé lên

những tia sáng hung dữ, bướng bỉnh...

Đoàn Chính Thuần thấy tình nhân cũ là Tu la đao Tần Hồng Miên xuất hiện

đột ngột, phần thì ngạc nhiên, phần lại hoan hỉ lên tiếng gọi:

- Hồng Miên! Hồng Miên nàng ơi! Mười mấy năm nay tôi chắc nàng đau

khổ lắm.

Tần Hồng Miên không đáp lời Đoàn Chính Thuần gọi con:

- Uyển Thanh con! Ra đây mau! Đừng ở trong nhà con người bạc hãnh ấy

một phút nào nữa!

Mộc Uyển Thanh thấy tình trạng giữa Đoàn Chính Thuần cùng sư phụ nàng

mà lòng nguội lạnh nàng nói:

- Sư phụ ơi! Ông... ông này thì gạt con bảo sư phụ là má còn ông ta là gia

gia con đó.

Tần Hồng Miên nói:

- Má con mất sớm mà gia gia con cũng chết rồi.

Đoàn Chính Thuần chạy ra cửa sổ ôn tồn nói:

- Hồng Miên nàng ơi! Nàng hãy vào đây để tôi được nhìn mặt nàng một lúc

đã. Từ đây nàng đừng đi đâu nữa, đôi ta vĩnh viễn sống bên nhau.

Trên mắt Tần Hồng Miên chợt thoáng qua một tia mừng hỏi:

- Ông nói thật chăng?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Tôi nói thật đấy! Tần Hồng Miên nàng ơi! Không một ngày nào là tôi

không tưởng nhớ nàng.

Tần Hồng Miên lại hỏi:

- Nhưng ông có bỏ được Thư Bạch Phụng không đã?

Đoàn Chính Thuần ngần ngừ không đáp, vẻ mặt đăm chiêu. Tần Hồng Miên

lại tiếp:

- Nếu ông còn thương tới con nhỏ này thì hãy đi với tôi. Vĩnh viễn không

được nghĩ đến Thư Bạch Phụng và suốt đời không trở về đây nữa.

Mộc Uyển Thanh nghe cuộc đối thoại cầm lòng không đậu, cúi gầm xuống

nước mắt chảy quanh, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn sư phụ rồi nhìn Đoàn

Chính Thuần. Vẻ mặt hai người cùng ngẩn ngơ, dường như đang theo đuổi

một viễn tưởng riêng. Nàng biết hai người ở trước mặt chính là cha sanh, mẹ

đẻ mình. Mấy hôm nay nàng mang nặng mối tình với Đoàn lang thì chàng

lại là người anh cùng cha khác mẹ với mình. Nào đâu thú uyên ương liền

cánh, nào đâu cảnh bách niên giai lão, mới trong giây phút đã biến thành

mây bay khói tỏa.

Bỗng nghe Đoàn Chính Thuần đáp:

- Tôi ở vào đại vị Trấn Nam Vương nước Đại Lý, một tay nắm cả thiên chốt

mọi cơ quan văn võ trong nước, dễ gì một chốc bỏ ra đi ngay được?

Tần Hồng Miên lớn tiếng hỏi:

- Trước đây 18 năm, ông đã nói với tôi thế nào mà bây giờ ông lại đổi

giọng? Đoàn Chính Thuần! Chẳng qua ông chỉ là kẻ bạc hãnh vô nghi.

Tôi... tôi uất hận vô cùng!

Bất thình lình trên nóc nhà phía đông vang lên ba tiếng vỗ tay, rồi bên nóc

nhà mé tây có tiếng vỗ tay đáp lại. Đồng thời có tiếng Cao Thăng Thái và

Lăng Thiên Lý hô:

- Có thích khách! Có thích khách! Các anh em ai nấy phải trấn giữ nguyên

bản vị mình, không được vọng động!

Tần Hồng Miên gọi con:

- Uyển Thanh! Con còn đợi gì chưa ra?

Mộc Uyển Thanh vâng một tiếng, phi thân nhảy vọt ra ngoài cửa sổ vào

lòng người vừa là ân sư vừa là từ mẫu nàng. Đoàn Chính Thuần gọi với:

- Tần Hồng Miên! Nàng bỏ tôi đi đấy ?

Ông trông ra thì trên nóc nhà bốn mặt đều có người đang phục sẵn. Số là

trong phủ Trấn Nam Vương rất nhiều khách, thu phục được vô số dũng sĩ võ

nghệ cao cường do Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái cùng Ngư, Tiều, Canh,

Độc tiếp đãi và điều động. Động khi có việc ai nấy đều ra sức trổ tài.

Tần Hồng Miên bèn đổi sang giọng ỏn thót bảo Đoàn Chính Thuần:

- Chính Thuần chàng ơi! Chàng ở vào địa vị Vương gia mười mấy năm trời

còn chưa đủ hay sao? Chàng đi theo tôi thì từ đây chàng bảo sao tôi nghe

vậy, quyết không mắng chàng nửa câu hay đánh chàng nửa đòn đâu mà

ngại. Còn con nhỏ rất khả ái của chúng ta kia, chẳng lẽ chàng không thương

tiếc nó ?

Đoàn Chính Thuần cảm động buột miệng nói:

- Phải đó tôi đi với nàng.

Tần Hồng Miên cả mừng, đưa tay phải cho Đoàn Chính Thuần nắm lấy. Bất

thình lình phía sau có tiếng người đàn bà lanh lảnh vang lên:

- Tỷ... tỷ nương, tỷ nương lại bị gạt đó! Y chỉ đi theo tỷ nương được mấy

bữa rồi lại trở về với chức tước Vương giả.

Đoàn Chính Thuần run lên nói:

- A Bảo nàng ơi! nàng đấy ? Nàng đến từ lúc nào vậy?

Mộc Uyển Thanh nghiêng đầu nhìn xem thì người đàn bà đang nói đó mặc

áo lụa xanh, rõ ràng là Chung phu nhân trong hang Vạn Kiếp. Đằng sau bà

còn ba người nữa thì một người là Diệp Nhị Nương, một người là Vân

Trung Hạc và người thứ ba chính là Nam Hải Ngạc Thần mới ra đi lúc nãy

bây giờ lộn trở lại. Nàng giật mình kinh hãi, sợ thay cho Đoàn Dự, bèn cất

tiếng gọi:

- Đoàn lang! Đoàn lang! Chàng đã tỉnh chưa?

Đoàn Dự bị thương nằm trên giường, còn đang mơ màng thì Nam Hải Ngạc

Thần sấn vào phòng ôm lấy đem ra. Tuy bây giờ chàng sợ Ngạc Thần mới

giật mình tỉnh hẳn nhưng từ lúc trước chàng đã nghe ba người: phụ thân

chàng, Mộc Uyển Thanh và Tần Hồng Miên nói chuyện với nhau bên ngoài

cửa sổ. Mười phần câu chuyện chàng đã hiểu đến tám chín. Bây giờ chàng

thấy Mộc Uyển Thanh vẫn gọi mình bằng Đoàn lang thì trong lòng chua xót

đáp:

- Muội nương ơi! Từ đây trở đi, anh em ta tương thân tương ái, trong tình

ruột thịt cũng vẫn đằm thắm như trước.

Mộc Uyển Thanh bực mình nói:

- Không! Không được! Chàng là gã trai đã nhìn thấy mặt thiếp trước tiên

rồi!

Nói vậy thì nói nhưng nàng biết rằng mình cùng chàng đều là con ruột một

nhà Đoàn Chính, anh em ruột làm sao mà lấy nhau được? Giả tỷ trên đời có

bàn tay người lũng đoạn việc hôn nhân của nàng thì bất luận là ai, nàng

cũng dám phóng ám tiến để giết kẻ đó. Nhưng đằng này không phải người

xen vào ngăn cản hôn sự của nàng mà là tạo hoá đành hanh, thì dù nàng bản

lãnh tuyệt vời hay quyền thế đến đâu chăng nữa cũng không thể nào vãn hồi

lại được. Nàng càng nghĩ càng chán ngán, lòng lạnh như tro tàn. Bỗng nàng

giẫm chân mạnh một cái rồi nhìn về phía tây lặng lẽ ra đi.

Tần Hồng Miên gọi giật giọng:

- Uyển! Uyển con ơi! Con đi đâu đấy?

Mộc Uyển Thanh chẳng thèm đoái hoài đến cả sư phụ hay mẫu thân nữa,

chỉ buông thõng một câu:

- Bà làm khổ cả đời tôi rồi! Bây giờ để mặc tôi!

Nàng đi thẳng một lèo không quay đầu lại nữa. Nàng đang đi lanh, một tên

vệ sĩ giang tay ra ngăn lại hỏi:

- Ai?

Mộc Uyển Thanh không thèm đáp lại, phóng ngay một mũi tên trúng yết

hầu, gã té nhào lăn từ trên nóc nhà xuống đất. Nàng vẫn không dừng chân,

thoáng một cái bóng nàng đã chìm vào trong đêm tối.

Đoàn Chính Thuần thấy con trai mình đang bị Nam Hải Ngạc Thần cướp,

đành bỏ mặc con gái đi đâu thì đi, vội đưa ngón tay ra toan điểm huyệt Nam

Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương thấy vậy, phóng bàn tay mềm mại ra chặn

ngang cổ tay Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần xoay tay lại, móc lấy

tay mụ. Mụ cười khanh khách, phóng ngón tay giữa đẩy văng tay Đoàn ra.

Thế là chớp mắt đã trọi nhau ba miếng. Đoàn Chính Thuần cả kinh nghĩ

thầm: Mụ này gớm thật.

Tần Hồng Miên thừa cơ thò tay ra nắm đầu Đoàn Dự, lớn tiếng hỏi:

- Đoàn Chính Thuần! Chàng muốn cho thằng con này sống hay chết?

Đoàn Chính Thuần đành phải dừng tay vì biết tính Tần Hồng Miên hung

hãn vô cùng, hơn nữa nàng đang căm hận thấu xương người vợ chính thức

mình là Thư Bạch Phụng. Nàng chỉ vận chưởng một cái là Đoàn Dự phải

chết nên vội đấu dịu:

- Hồng Miên nàng ơi! Thằng nhỏ này vừa bị con gái nàng phóng trúng tên

độc, bị thương nặng lắm đó!

Tần Hồng Miên nói:

- Nó đã uống thuốc giải độc rồi, không chết đâu. Tôi tạm đem nó đi, thử

xem chàng còn coi cái chức tước Vơng giả hơn được con chàng nữa

không?

Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả nói:

- Thằng nhỏ này không thờ ta làm thầy không xong.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Nàng buông con tôi ra, rồi bảo sao tôi nghe vậy.

Tần Hồng Miên tuy đã xa cách Đoàn Chính Thuần mười mấy năm nhưng

mối tình không vì thế mà phai lạt nên nghe Đoàn Chính Thuần nói vậy thì

lòng nàng mềm nhũn ra, hỏi lại:

- Chàng nói thật chăng? Tôi bảo gì chàng cũng nghe nhé!

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Tôi nói thật đấy!

Chung phu nhân xen vào:

- Tỷ nương ơi! Tỷ nương tin lời con người phụ bạc đó ? Nhạc tam tiên

sinh! Chúng ta về thôi!

Nam Hải Ngạc Thần ẵm Đoàn Dự nhảy vọt lên mái nhà phía trước mặt.

Tiếp theo là tiếng "huỳnh huỵch", Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã

đánh hai tên vệ sĩ ngã lăn xuống đất.

Chung phu nhân trêu chọc:

- Đoàn Chính Thuần! Hôm nay sao không choảng nhau một mẻ?

Đoàn Chính Thuần tuy nhận thấy lực lượng trong Vương phủ hùng hậu vị

tất đã không hạ nổi đối phương nhưng con mình bị chúng bắt, lâm vào tình

thế "ném chuột sợ vỡ đồ" khó bề đem võ lực ra để thủ thắng. Huống chi hai

người đàn bà này lại có mối quan hệ lớn với mình nên ông ôn tồn bảo

Chung phu nhân:

- A Bảo! Cả nàng cũng làm khó dễ ta nữa ?

Chung phu nhân đáp:

- Nay tôi đã là vợ Chung Vạn Cừu, ông đừng gọi lăng nhăng như thế được

không?

Đoàn Chính Thuần tiếp:

- A Bảo nàng có biết bấy lâu nay ta vẫn tưởng nhớ nàng không?

Chung phu nhân lại thấy mềm lòng, mắt đỏ lên nói:

- Hôm tiểu công tử đến nhà tôi, tôi nhận ngay ra con chàng.

Tần Hồng Miên bảo Chung phu nhân:

- Sư muội ơi! Sư muội lại nghe lời đường mật của con người ấy ?

Chung phu nhân cầm tay Tần Hồng Miên nói:

- Phải đó! Chúng ta đi thôi!

Đoạn quay lại bảo Đoàn Chính Thuần:

- Ông bưng thủ cấp Thư Bạch Phụng, nhất bộ nhất bái đến hang Vạn Kiếp,

bọn tôi sẽ trao trả thằng con cho ông.

Đoàn Chính Thuần lẩm nhẩm ba chữ: "Hang Vạn Kiếp".Nam Hải Ngạc

Thần ôm Đoàn Dự chạy mỗi lúc một xa. Bọn Cao Thăng Thái, Lăng Thiên

Lý bốn mặt đổ ra ngăn cản. Đoàn Chính Thuần cất tiếng gọi to:

- Cao hiền đệ! Để bọn chúng đi thôi!

Cao Thăng Thái nói:

- Nhưng tiểu Vương gia bị chúng bắt đem đi.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Thủng thẳng rồi sẽ tính.

Vừa nói vừa nhảy vọt đến bên Cao Thăng Thái ra lệnh:

- Thích khách đi rồi! Ai nấy ở nguyên vị nghe.

Thoáng một cái, Đoàn Chính Thuần đã lẹ làng lướt tới bên Chung phu nhân

dịu giọng hỏi:

- A Bảo! Mấy năm nay nàng bình yên đấy chứ?

Chung phu nhân buông thõng:

- Làm gì mà chẳng bình yên?

Đoàn Chính Thuần xoay tay lại, đưa một ngón điểm vào huyệt Đản Trung

trước ngực bà một cách rất êm thấm. Chung phu nhân bất ngờ, không kịp

phòng bị, người nàng mềm ra như sứa, lảo đảo suýt ngã. Đoàn Chính Thuần

đưa tay trái ra đỡ lấy rồi giả vờ kinh ngạc hỏi:

- A Bảo! Nàng làm sao thế?

Tần Hồng Miên không biết ông ta đánh lừa cũng chạy lại hỏi:

- Sư muội! Sư muội làm sao vậy?

Đoàn Chính Thuần lại dùng phép Nhất Dương Chỉ nhanh như gió điểm vào

huyệt Kiên Trinh Tần Hồng Miên.

Cả hai nàng đều bị điểm vào huyệt quan trọng, không cựa quậy được nữa.

Đoàn Chính Thuần hai tay giữ hai nàng. Hai nàng chẳng ai bảo ai đều trừng

mắt lộ vẻ căm giận Đoàn Chính Thuần và đều tự trách mình: "Sao mình lại

hồ đồ thế được? Đã bị lừa một lần, bây giờ đến đối đầu với y mà không biết

đề phòng".

Đoàn Chính Thuần quay ra bảo Cao Thăng Thái và Lăng Thiên Lý:

- Cao hiền đệ! Hiền đệ bị thương chưa khỏi về nghỉ đi thôi! Còn Lăng Thiên

Lý ngươi điều động anh em bốn bề phòng vệ cho nghiêm mật!

Cao Thăng Thái và Lăng Thiên Lý cúi đầu vâng mệnh. Đoàn Chính Thuần

cắp hai nàng vào trong nhà, rồi truyền cho thị tỳ lại bày bàn tiệc. Khi gia

nhân lui ra cả rồi, Đoàn Chính Thuần lại điểm huyệt chân hai nàng để hai

nàng không đi được nữa, đoạn giải phóng hai huyệt trọng yếu.

Tần Hồng Miên cả giận la lên:

- Bữa nay ngươi lại lừa dối, miệt thị hai chị em ta.

Đoàn Chính Thuần quay lại vừa xá dài hai nàng một cái vừa nói:

- Tôi tự biết mình có lỗi vậy xin tạ tội.

Tần Hồng Miên vẫn bực mình nói:

- Ai cần ngươi tạ tội? Buông tha chúng ta ngay!

Đoàn Chính Thuần giở giọng tán:

- Ba chúng ta xa nhau mười mấy năm trời nay mới lại được trùng phùng còn

muôn ngàn điều muốn nối lại chuyện xa. Hồng Miên nàng ơi! Sao nàng

vẫn giữ nguyên tính nóng? A Bảo nàng hỡi! Nàng càng lớn tuổi càng xinh.

Tôi chẳng thấy nàng già đi chút nào.

Chung phu nhân chưa đáp, Tần Hồng Miên ghen tức nói:

- Ngươi buông ta ra ngay! A Bảo càng lớn tuổi càng xinh đẹp còn ta đây

càng lớn tuổi càng già càng xấu. Ngươi nhìn mặt con già này làm chi?

Đoàn Chính Thuần nhăn nhở nói:

- Hồng Miên nàng ơi! Nàng soi gương mà coi, nếu nàng mà già mà xấu thì

những câu văn dùng để tả những bậc tuyệt thế giai nhân phải đổi lại thế này:

"Tư dung cá lặn chim sa, dáng dấp bà già xấu xí".

Tần Hồng Miên đang giận mà không nín được phải phì cười. Nàng muốn

giậm chân kêu lên, nhưng chân đã bị điểm huyệt không nhúc nhích được.

Nàng bực quá nói:

- Ai thèm giễu cợt với ngươi? Vương gia gì mà ăn nói rặt giọng con tườu.

Dưới ánh đèn, Đoàn Chính Thuần thấy nàng chau đôi mày liễu, nét mặt

giận dỗi càng thêm vẻ khả ái thì nhớ lại cái đêm hoan lạc ngày xa, cầm

lòng không đậu, lửa lòng bốc lên ngùn ngụt, bước lại đặt lên má nàng một

cái hôn cháy miệng. Nửa người trên còn cử động được, nàng giơ tay trái lên

tát thật mạnh đánh "bốp" một cái vào mặt Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính

Thuần muốn tránh cái tát đó cũng chẳng khó gì, nhưng ông ta cố ý nhận cái

tát, ghé vào tai nàng nói khẽ:

- Đao tu la chém chết, làm quỷ cũng oai phong.

Toàn thân Tần Hồng Miên run lên, nước mắt trào ra, khóc rưng rức nói:

- Sao chàng... chàng còn nhắc lại câu đó?

Nguyên trước kia Tần Hồng Miên sử cặp đao tu la vũng vẫy giang hồ mà có

cái ngoại hiệu "Tu la đao". Lúc nàng bị thất thân cùng Đoàn Chính Thuần

cũng tát Đoàn Chính Thuần một cái nổ đom đóm mắt ra. Bị tát Đoàn Chính

Thuần đã nói câu "Đao tu la chém chết, làm quỷ cũng oai phong". Nay

nàng lại được nghe câu đó ở miệng Đoàn Chính Thuần, thật là một lời

đường mật, nó làm cho tâm can nàng phải mềm nhũn, bao nhiêu cảm giác

đê mê lại kéo đến...

Chung phu nhân khẽ bảo nàng:

- Sư tỷ ơi! Thằng cha này lại đem lời đường mật ra nhử, cốt để thoả thú

tính, sư tỷ đừng có tin lời y!

Tần Hồng Miên nói:

- Phải đó! Sư muội nói phải đó! Đoàn Chính Thuần! Ta không tin miệng

lỡi ngươi nữa đâu!

Đoàn Chính Thuần lại nhăn nhở đến bên Chung phu nhân tán:

- A Bảo! Tôi hôn mình một cái, mình có cho phép không?

Chung phu nhân nghiêm nét mặt đáp:

- Ta là gái có chồng, nhất định không để thương tổn đến thanh danh chàng.

Ngươi ức hiếp ta, ta quyết tự tử ngay trước mặt ngươi.

Đoàn Chính Thuần thấy lời nàng như dao chém đá, không dám trêu cợt nữa,

hỏi:

- A Bảo! Sao nàng lại có thể lấy con người đó làm chồng được?

Chung phu nhân đáp:

- Tuy lang quân ta xấu xa là thế, gàn dở cục xúc là thế, võ công không bằng

ngươi, nhân phẩm kém ngươi, vinh hoa phú quý so với ngươi càng không

được phần nào nhưng chàng thuỷ chung với ta, lẽ nào ta lại phụ chàng? Nếu

ta ăn ở theo lối mặt người dạ thú, tất bị trời tru đất diệt, muôn kiếp không

đợc siêu sinh.

Đoàn Chính Thuần bất giác đem lòng kính cẩn, không dám đả động gì đến

mối tình cũ kỹ nữa, hỏi sang chuyện khác:

- Các người bắt con ta đi làm gì? A Bảo! Hang Vạn Kiếp ở đâu? Nói cho ta

hay!

Bất thình lình ngoài cửa có tiếng khàn khàn:

- Nàng đừng cho y biết!

Đoàn Chính Thuần giật mình nghĩ thầm: bọn Lăng Thiên Lý ở ngoài phòng

vệ cẩn mật là thế, sao lại có người lạ vào được?

Chung phu nhân nét mặt rầu rầu hỏi vọng ra:

- Vết thương chàng chưa lành, đã đến đây làm chi?

Bỗng lại thấy có tiếng một người đàn bà trong trẻo giục:

- Chung tiên sinh! Vào đi!

Đoàn Chính Thuần lại giật mình, cả thẹn, mặt đỏ như gấc. Bỗng thấy tấm

cửa vén lên, Dao Đoan Tiên Tử nhảy vào trước, theo sau là một người đàn

ông rất xấu, mặt như mặt ngựa...

Người xấu trai đó chính là Chung Vạn Cừu. Đoàn Chính Thuần, Chung phu

nhân đột nhiên thấy Chung Vạn Cừu cùng đến với Thư Bạch Phụng rất lấy

làm kỳ.

Số là từ lúc Tần Hồng Miên cho Mộc Uyển Thanh xuống núi, vẫn không

yên dạ, liền đến chỗ sư muội ở hang Vạn Kiếp tìm kiếm thì được Chung

phu nhân cho biết đầu đuôi, rồi hai chị em cùng đi dò la. Giữa đường hai bà

gặp Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc. Tần Hồng

Miên là chỗ bạn học cũ với Diệp Nhị Nương, tuy hai người cùng học một

thầy nhưng mỗi người một ngả, không đi lại với nhau bao giờ. Nay được tin

Mộc Uyển Thanh bị hãm ở phủ Trấn Nam Vương liền cùng nhau kéo đến.

Chung Vạn Cừu coi vợ quý hơn cả mạng mình, lại có máu ghen, sau khi vợ

ra đi y ngồi đứng không yên, nghĩ quanh, nghĩ quẩn, lòng nóng như lửa đốt,

chẳng kể gì đến vết thương chưa lành cùng là đang trá tử ẩn lánh trong hang

sâu núi hiểm, nửa đêm lật đật ra đi tìm vợ. Đến ngoài phủ Trấn Nam Vương

thì vừa gặp Thư Bạch Phụng đang hậm hực đi ra. Hai người chẳng nói câu

nào, động thủ đánh liền. Đánh nhau đang hăng, bỗng thấy bóng người áo

đen lướt qua, bưng mặt thổn thức chính là Hương Dược Xoa Mộc Uyển

Thanh. Hai người cùng lên tiếng gọi giật lại, Mộc Uyển Thanh chẳng nói

chẳng rằng, cắm đầu đi thẳng. Chung Vạn Cừu bảo Đoàn phu nhân:

- Ta vội đi kiếm vợ ta có thì giờ đâu mà đánh nhau với ngươi?

Thư Bạch Phụng hỏi:

- Ngươi đi đâu kiếm vợ?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Đến nhà thằng chó chết Đoàn Chính Thuần chứ đi đâu. Vợ ta mà để y thấy

mặt thì hỏng bét.

Th Bạch Phụng hỏi:

- Sao lại hỏng bét?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Thằng đểu này khéo nói lắm, y quen lời đường mật lừa bao nhiêu phụ nữ

vào cạm bẫy. Lão gia không giết tên tiểu yêu mặt trắng này không xong.

Thư Bạch Phụng tự hỏi: Đoàn Chính Thuần đã ngoài bốn chục, mặt mũi râu

ria là thế sao thằng cha mặt ngựa này còn gọi y là tiểu yêu mặt trắng? Chắc

là tại y vẫn giữ nét trăng hoa đây, ta không thể không theo dõi được. Nghĩ

vậy bà liền hỏi lại gã mặt ngựa xem vợ hắn là ai, lai lịch thế nào? Khi bà ta

đã biết vợ hắn là nhân tình cũ của chồng mình thì máu ghen lại sôi lên, lập

tức cùng Chung Vạn Cừu trở lại Vương phủ. Vì thế mà bốn mặt canh gác

cực kỳ nghiêm ngặt, nhưng vệ sĩ trông thấy Vương phi còn ai dám ngăn

cản, nên hai người mới lọt vào một cách êm thấm, vì không ai báo động vào

trong.

Đoàn Chính Thuần đang cười nói, chớt nhả cùng Tần Hồng Miên và Chung

phu nhân, hai người đứng ngoài cửa sổ đã nghe hết. Thư Bạch Phụng khí

tức xông lên tận cổ, còn Chung Vạn Cừu nghe được lời vợ mình kiên quyết

thuỷ chung thì trong lòng khoan khoái vô cùng.

Chung Vạn Cừu vào đến bên vợ, phần thì thương yêu, phần lại hãnh diện có

vợ kiên trinh, gã đi đi lại lại tung tăng trước mặt phu nhân, tự đắc nói:

- Nếu hắn lấn áp, xâm phạm vào mình nàng, tôi quyết liều mạng với hắn.

Chung phu nhân nói:

- Đoàn Vương gia! Quý công tử bị Nam Hải Ngạc Thần bắt đi, lang quân

tôi xin cho lão chưa chắc đã chịu buông tha. Vương gia để tôi cùng sư tỷ

đây về tìm phương giải cứu. Nếu không lấy ra được thì ít nhất cũng giữ cho

công tử đặng bình yên.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:

- Tôi tin thế nào được các người? Chung tiên sinh! ông hãy quay về đem

con tôi đến đây đánh đổi tôi sẽ thả phu nhân về.

Chung Vạn Cừu cả giận to tiếng:

- Phủ Trấn Nam Vương của ngươi nổi tiếng là chỗ hoang dâm, càn rỡ, vợ ta

để đây sao được?

Đoàn Chính Thuần thẹn đỏ mặt quát lớn:

- Nếu ngươi còn có một câu vô lễ nữa thì đừng trách Đoàn mỗ không biết

điều.

Thư Bạch Phụng từ lúc vào nhà chưa nói nửa lời, bây giờ mới cất tiếng:

- Ông định giữ hai người đàn bà lại là có ý gì? Có phải vì thằng Dự mà ông

giữ họ lại để làm con tin hay ông giữ để thoả mãn cho ông?

Đoàn Chính Thuần than rằng:

- Đến cả mình cũng không tin tôi nữa rồi!

Đoạn xoay tay một cái, điểm huyệt giải phóng Tần Hồng Miên, rồi lại đến

gần Chung phu nhân, giơ tay ra phía sau...

Chung Vạn Cừu vội đứng chắn ngang trước mặt vợ, khoát tay nói:

- Ngươi là một gã lẳng lỡ, đã xâm phạm bao nhiêu vợ con người ta rồi, còn

vợ ta đây quyết không cho ngươi đụng chạm tới.

Đoàn Chính Thuần nhăn mặt đáp:

- Phép điểm huyệt của tiểu Vương tuy thô sơ nhưng người ngoài không giải

cứu được, để lâu lúc nữa hai chân tôn phu nhân sẽ thành cố tật.

Chung Vạn Cừu căm giận nói:

- Vợ tôi là một trang sắc nước hương trời, hoa nhường nguyệt thẹn, nếu vì

thằng giặc mà bị què quặt thì ta quyết đem con thằng giặc ra phân thây

muôn đoạn.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Tôi muốn giải huyệt cho tôn phu nhân nhng tiên sinh lại không cho tôi

mó vào người bà thì biết làm thế nào?

Chung Vạn Cừu không biết trả lời ra sao, bỗng nhiên y nổi giận đùng đùng,

quát to:

- Ai bảo mi điểm huyệt vợ ta? A thôi chết rồi, lúc điểm huyệt mi đã mó vào

mình vợ ta rồi. Bây giờ ta cũng sờ vào vợ ngươi để trả miếng.

Chung phu nhân nguýt chồng nói:

- Lại ăn nói càn rỡ rồi. Không sợ người ta cười cho ?

Chung Vạn Cừu đáp:

- Cười gì mà cời? Chẳng lẽ tôi chịu thua hắn sao?

Đang lúc cãi nhau huyên náo, chợt thấy tấm rèm vén lên, một người ung

dung bước vào, mình mặc áo hoàng bào, mày thanh mắt sáng, ba chòm râu

dài. Đó chính là Bảo Định Đế tên gọi Đoàn Chính Minh.

Đoàn Chính Thuần cất tiếng chào:

- Hoàng huynh!

Bảo Định Đế gật đầu, hơi nghiêng mình một chút, giơ một ngón tay lên trên

không, nhằm vào phía ngực Chung phu nhân điểm huyệt. Bỗng thoát ra một

làn hơi trắng, chẳng khác gì tiết đông cực lạnh, khí nóng trong miệng thở

ra. Chung phu nhân thấy thượng bộ huyệt "Đan điền" nóng ran, hai luồng

nhiệt khí dẫn xuống chân, tức thì huyết mạch lu thông, mình không tự chủ

đợc, tự nhiên đứng bật dậy như chiếc lò xo. Chung Vạn Cừu thấy phép giải

huyệt không gian thì kinh dị vô cùng, há hốc miệng ra mà nhìn, không nói

lên được câu nào. Nếu mắt không trông thấy, chỉ nghe nói thì ai mà tin

được?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Hoàng huynh ơi! Thằng Dự bị chúng cướp đem đi mất rồi.

Bảo Định Đế gật đầu nói:

- Thiện Xiển hầu đã trình ta hay rồi. Thuần Đệ! Con cháu họ Đoàn ta bị lọt

vào tay người, thì cha mẹ chú bác nhà ấy phải đi cứu lấy đem về, không có

lệ giữ người làm con tin.

Mấy câu của Bảo Định Đế thật quang minh lỗi lạc, rõ ra phẩm giá một vị

siêu phàm. ý Bảo Định Đế nói: nếu mình giữ người để toan đánh đổi chẳng

hoá ra bọn mình đường đường Hoàng tộc nước Đại Lý cũng mang ra mặc cả

với phường dân dã, thế là làm giảm thanh danh con cháu của vị chúa tể cả

nước.

Ngừng lại dây lát, Bảo Định Đế nhìn Chung Vạn Cừu bảo:

- Bây giờ các vị được tuỳ tiện ra về. Trong ba ngày họ Đoàn sẽ có người đến

đòi công tử đó.

Chung Vạn Cừu nói:

- Hang Vạn Kiếp chúng tôi rất bí hiểm khó tìm, tôi xin vạch rõ đường lối.

Giả tỷ ai hỏi đến đường lối vào hang Vạn Kiếp thì y không chịu nói, đằng

này y lại gạ Bảo Định Đế hỏi đến nhưng Bảo Định Đế không thèm hỏi gì

nữa, phất tay áo một cái nói: "xin kiếu", rồi về cung.

Gã Chung Vạn Cừu ngoại hiệu là "Kiến nhân tựu sát", có tính nóng nẩy lạ

thờng. Lúc y chưa vào hang ẩn lánh, khách giang hồ tầm thường nghe

tiếng y còn ở ngoài trăm dặm đã hoảng hồn, ngồi đứng không yên. Tỷ như

Thần Nông bang chúa Tư Không Huyền thấy Chung Linh là con gái y đã sợ

mất mật. Thế mà nay đứng trước mặt Bảo Định Đế nét mặt ôn hoà, con quỷ

hung hãn cũng phải sợ hãi, chân tay luống cuống vừa nghe Đế nói hai tiếng

"xin kiếu" đáp ngay:

- Vâng chúng tôi về đây. Bình nhật Chung mỗ không ưa gì người họ Đoàn

vì cả họ này chẳng có một ai là người tử tế.

Y dắt vợ nét mặt hằm hằm đi ra. Chung phu nhân cũng kéo áo Tần Hồng

Miên nói:

- Chúng ta về thôi!

Tần Hồng Miên đưa mắt nhìn Đoàn Chính Thuần, nhưng chẳng thấy ông

này nói gì thì lòng nàng tê tái, hai mắt đỏ ngầu. Nàng lại trừng mắt hung dữ

nhìn Thư Bạch Phụng rồi cúi đầu đi ra. Ba người nhảy vọt lên nóc nhà.

Thiện Xiển Hầu, Cao Thăng Thái đứng trên thềm hành lang khẽ nghiêng

mình chào:

- Xin tiễn quý khách lên đường.

Chung Vạn Cừu đứng trên mái nhà, nhổ nước miếng đánh toẹt một cái, hằn

học nói:

- Phường hôi tanh kia! Các ngươi đều là những quân đạo đức giả, chẳng có

đứa nào tử tế hết.

Nói xong, y đề khí nhảy từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, chớp mắt đã qua

hết các toà nhà trong Vương phủ. Gần đến bức tường bao quanh, gã vận nội

công để nhảy sang thì đột nhiên phía trước xuất hiện một người, áo dài đai

rộng đứng ngay phía trước. Tưởng ai té ra là Cao Thăng Thái.

Nguyên Cao Thăng Thái từ lúc đưa khách vẫn đi sau bọn Chung Vạn Cừu.

Vậy mà ông ta vọt lên trước lúc nào chẳng ai hay thế mới thần tình. Hơn

nữa ông ta đứng trúng giữa chỗ Chung Vạn Cừu từ trên nóc nhẩy xuống tất

phải đặt chân vào không trệch một ly. Chung Vạn Cừu theo đà, đang lơ lửng

từ trên không nhảy xuống dĩ nhiên không thể lùi lại mà muốn chuyển hướng

nhảy ra chỗ khác cũng không được liền quát lên:

- Tránh ra!

Đồng thời y phóng cả hai bàn tay ra nhằm Cao Thăng Thái đánh tới, y đinh

ninh chưởng lực của mình đập xuống đá còn vỡ tan, thì nếu đối phương cứ

đứng nguyên chỗ kháng cự sẽ bị hất xuống chân tường. Dù đối phương có

ngang sức mình chăng nữa thì mượn sức từ trên giáng xuống cũng đủ lực để

chèn đối phương, đứng xuống mặt tường. Mắt y nhằm đúng ngực Cao

Thăng Thái đánh tới, bỗng thấy Cao Thăng Thái ngửa người về phía sau

theo thế "Thiết bản kiều", chỉ có hai chân vẫn dính vào tường, còn toàn thân

uốn cong chơi vơi ra ngoài như chiếc cầu lơ lửng không gian, để tránh đòn

hai bàn tay Chung Vạn Cừu phóng tới.

Một nhân vật quái dị

Chung Vạn Cừu đánh không trúng than thầm: "Thôi chết rồi". Người y trợt

qua Cao Thăng Thái, chỉ sai dịch nửa phân. Kể ra thì võ công Chung Vạn

Cừu chưa chắc đã kém Cao Thăng Thái nhưng vì thất cơ một chút thành ra

ngực bụng trống trải để bên địch muốn làm gì thì làm. May mà Cao Thăng

Thái không thèm hạ thủ. Chung Vạn Cừu vận nội công đứng được xuống

đất, đi theo Tần Hồng Miên và Chung phu nhân. Lúc đó hai người đã vượt

tường ra ngoài rồi.

Cao Thăng Thái đứng thẳng người trên mặt tường, quay ra xá khách, hai tay

áo rộng lùng thùng bay phất phới coi rất ung dung. Ông vừa xá vừa nói:

- Tôi không thể tiễn chân xa được, xin quý vị miễn thứ.

Chung Vạn Cừu đằng hắng một tiếng, suýt nữa tụt quần, y đưa tay ra nắm

vội lại được, không thì dơ quá. Bấy giờ y mới biết dây lưng đứt mất rồi. Thì

ra lúc đánh sểnh, người y trườn qua phía trên Cao Thăng Thái, đã bị Cao

đưa ngón tay lên bấm đứt dây lưng. ấy là Cao Thăng Thái không muốn

tuyệt tình, nếu ông giơ một ngón tay lên chẹn huyệt "Đan điền" thì Chung

Vạn Cừu đã biến thành cái xác không hồn, lăn quay xuống đất.

Lại nói đến Hương dược xoa Mộc Uyển Thanh, bàng hoàng vừa ra khỏi phủ

Trấn Nam Vương thì gặp Thư Bạch Phụng cùng Chung Vạn Cừu. Hai người

cùng lên tiếng gọi nhưng nàng lờ đi không đáp, cứ cắm đầu chạy một mạch.

Nàng cũng không biết là mình chạy đi đâu. Đoái trông dặm rừng bát ngát,

không có chỗ nào tạm trú nghỉ chân. Nàng cứ chạy hoài, không biết đã qua

bao nhiêu quãng rừng núi hoang vu. Chạy cho đến lúc trời rạng đông thì

người nàng mệt nhoài, hai chân bủn rủn, không chịu được nữa, đành phải

dừng bước, tựa vào gốc cây than rằng: "Ta chết quách đi cho rồi!". Trong

lòng nàng chứa chất bao nhiêu nỗi oán hờn mà chẳng biết trút lên đầu ai

cho phải. Nàng tự hỏi:

- Oán Đoàn lang chăng?

- Không được! Chàng có phụ bạc gì ta đâu? Vì chàng là anh em cùng cha

khác mẹ với ta, nên nỗi trai duyên lỡ kiếp.

- Oán sư phụ ta chăng?

- Vô lý người là mẹ ruột ta, mười mấy năm trời phải chịu bao nhiêu nỗi cay

đắng để nuôi nấng cho ta trưởng thành. Ơn đức trời biển cha đền, đâu dám

oán hận?

- Đến Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần thì lại là phụ thân ta. Dù người

đối với mẫu thân ta có điều oán hối nhưng biết đâu bên trong còn bao nhiêu

nỗi uẩn khúc mà mình chưa hiểu? Người đối với ta vẻ mặt ôn hoà, đầy lòng

từ ái, hỏi ta muốn điều gì sẽ hết sức làm cho được như nguyện để đền bù

mười mấy năm qua đã không săn sóc tới. Thế nhưng cái chí nguyện của ta

là đặng kết hôn cùng Đoàn lang thì người không thể làm được. Mẫu thân ta

không được cùng người vui đạo, xướng tuỳ chẳng qua chỉ vì mình Thư Bạch

Phụng mà ra nên sai ta giết Thư Bạch Phụng. Nàng suy bụng ta ra bụng

người: "giả tỷ ta cùng Đoàn lang vẹn mối lương duyên, hồ dễ ta chịu để yên

cho một người đàn bà thứ hai nào đến tranh cướp hạnh phúc của đời ta?

Huống chi bà đã bỏ nhà đi tu thì hẳn trong lòng cũng uất hận phụ thân ghê

gớm và bà cũng đau khổ vô cùng rồi. Ta phóng hai mũi tên, làm cho đứa

con cưng độc nhất của bà bị trọng thương, thế mà bà không thù oán ta thì bà

đâu có phải là người độc ác?".

Nàng nghĩ nhiều lắm, càng nghĩ càng tê tái lòng rồi tự nhủ: "Ta phải quên

hẳn Đoàn Dự, từ đây không nghĩ gì đến chàng nữa". Nói vậy thì nói chứ đâu

phải chuyện dễ dàng? Muốn quên chàng trong giây phút cũng không xong.

Mỗi lúc tưởng đến hình ảnh khôi ngô tuấn tú của Đoàn lang lòng nàng lại

đau nhói lên như bị đánh một quyền vào giữa ngực. Sau nàng tìm lời giải

thích rồi tự an ủi: "Thôi từ đây ta nhìn nhận chàng là người anh ruột rất thân

ái là xong. Trước ta tủi phận mồ côi, không cha không mẹ, nay được đủ cả

cha lẫn mẹ lại thêm người anh cả rất tử tế, đời ta đâu đến nỗi cô đơn, vậy

mà ta còn mua não chuốc sầu thì thật là một đứa điên rồ". Khốn nỗi con

người đã mắc lưới tình, tơ tình tuy mỏng manh mà càng rút càng chặt. Khi ở

trên núi Vô Lượng ròng rã bảy đêm ngày, nàng trông ngóng Đoàn Dự đã

mòn con mắt, phương trời đăm đăm, rễ tình đã ăn sâu vào tâm khảm, không

thể nào nhổ lên được nữa.

Mộc Uyển Thanh đang nghĩ ngợi liên miên thì vẳng bên tai bì bòm sóng vỗ,

ầm ầm nước reo, nàng càng đi vào chỗ tuyệt vọng, chí muốn tự tử đã bắt

đầu nẩy nở. Nàng đi về phía có tiếng sóng vỗ nước chảy phát ra, quanh hết

một trái núi thì sông Lan Thương mông mênh hiện ra trước mắt. Nàng dừng

chân lẩm bẩm: "Ta chỉ nhẩy xuống đây một cái là hết mọi điều phiền não".

Nàng bèn men theo sườn núi xuống tới bờ sông.

Mặt trời vừa lên, ánh triều dương chiếu xuống mặt sông rực rỡ như vạn con

kim xà đang nhảy múa, cảnh sắc trước mặt cực kỳ tráng lệ. Nghĩ đến

chuyện nhảy xuống sông nàng cảm thấy tiêng tiếc không còn được nhìn bức

phong tuyệt mỹ của tạo vật. Nàng đang đứng trơ như phỗng, làn sóng tư

tưởng nổi lên cuồn cuộn, thì mắt nàng chợt trông thấy một người ngồi trên

phiến đá cách đó chừng vài chục trượng. Người này ngồi như pho tượng,

không nhúc nhích, mình mặc áo bào màu xanh thẳm lẫn với mầu đá núi. Vì

thế mà người đó đã đến ngồi từ bao giờ nàng không hay biết. Mộc Uyển

Thanh nhìn hồi lâu, trong bụng kinh nghi tự hỏi: "Dường như là một cái tử

thi". Từng giết người như ngoé nên đối với xác chết, nàng chẳng chút ghê

rợn. Tính hiếu kỳ thúc đẩy nàng lại gần xem thì ra một ông già, râu chùng

đến giốn, sợi nào cũng đen nhánh, mắt mở thao láo, chăm chú nhìn dòng

nước. Mộc Uyển Thanh buột miệng nói: "A không phải xác chết". Nàng

nhìn một lúc nữa, thấy cả con người lão vẫn trơ trơ, mắt vẫn đờ ra như

không có hào quang, rõ ràng không phải người sống. Nàng lại tự hỏi: "Hay

đúng là xác chết?". Nhìn lại thấy mắt tử thi dường như có chút tinh thần, sắc

mặt còn hơi tươi. Nàng để tay lên mũi không rõ ra người đã tắt thở mà cũng

không thấy hơi thở. Nàng lại sờ vào mặt vào cổ, thấy lúc lạnh lúc ấm, để tay

lên ngực thấy trái tim như ngừng đập. Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ lẩm

bẩm: "Con người này thật là quái dị, bảo y là xác chết thì dường như y còn

sống, bảo y là người sống thì lại hình như là kẻ chết rồi.

Bất thình lình có tiếng người nói:

- Ta vẫn sống đây mà.

Mộc Uyển Thanh giật mình quay đầu nhìn lại phía sau thì chẳng thấy ai.

Bãi sông bát ngát toàn sỏi đá, không có chỗ nào ẩn núp được. Nàng vẫn

chăm chú nhìn người kỳ quái đó cho đến lúc có tiếng vọng lên, cũng chẳng

thấy y há miệng, nhếch môi. Nàng lớn tiếng hỏi:

- Kẻ nào dám cả gan trêu trọc cô nương đó? Mi không sống yên lành được

đâu.

Nàng vừa nói vừa bước giật lùi lại, quay lưng ra phía dòng sông, đảo mắt

nhìn ba mặt bỗng nghe có tiếng đáp:

- Thế mà ta vẫn yên lành đấy!

Mộc Uyển Thanh càng kinh ngạc vì chẳng thấy bóng một ai, ngoài con

người quái dị ngồi đó. Nhưng người này mồm miệng ngậm chặt mà sao vẫn

có tiếng người? Nàng quát hỏi:

- Ai nói đó?

Vẫn có tiếng đáp lại:

- Mi nói đó chứ ai?

Nàng tức quá, hỏi gay gắt:

- Nhưng kẻ nói với ta là người nào?

Có tiếng đáp:

- Chả có người nào nói với mi hết.

Nàng xoay mình rất nhanh mà trông tuyệt không thấy bóng người nào cả thì

biết chính là lão mặc áo bào xanh ngồi đó tác quái, liền mạnh dạn tiến lại,

vừa lấy tay sờ môi lão vừa hỏi:

- Phải chăng ngươi đã nói với ta vừa rồi?

Vẫn có tiếng đáp:

- Không phải!

Mộc Uyển Thanh tay vẫn sờ miệng lão mà chẳng thấy máy môi chi hết,

nàng lại hỏi:

- Rõ ràng có tiếng đáp lời ta, sao lại bảo không có?

Tiếng nói đó đáp:

- Ta không phải là người, ta cũng chẳng phải là ta. Trên đời này không có ta

nữa.

Bấy giờ thì quả Mộc Uyển Thanh sợ lắm, mình sởn gai ốc. Nàng tự nghĩ:

"chẳng lẽ ma quỷ trêu mình?", rồi nàng hỏi:

- Mi... mi là ma quỷ phải không?

Đáp:

- Mi đã không muốn sống nữa thì rồi sẽ thành ma quỷ, sao còn sợ ma quỷ?

Mộc Uyển Thanh làm già:

- Ai bảo mi ta sợ quỷ? Này ta bảo: đến trời đất ta còn không sợ nữa là...

Đáp:

- Thế mà mi đang sợ một điều.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Hừ! Ta đây còn sợ cái gì bao giờ?

Đáp:

- Mi đang sợ... lang quân mi biến thành ca ca mi.

Câu đó chẳng khác gì nhát búa bổ xuống đầu nàng. Hai chân mềm nhũn,

nàng ngồi bệt xuống đất, miệng há hốc ra lẩm bẩm:

- Mi là quỷ, rõ ràng có quỷ!

Đáp:

- Ta có phép biến, biến ca ca mi không phải là anh mi nữa mà biến thành ra

chồng mi.

Mộc Uyển Thanh run run nói:

- Mi... mi đừng bịp ta nữa! Đó là việc trời định, biến thế nào thì biến... chứ

biến làm sao đợc anh ruột ra chồng?

Đáp:

- Lão trời đáng đánh chết, hay sinh chuyện rắc rối. Ta không lý gì đến lão

nữa. Ta thực có phép mầu, làm cho anh mi biến thành ra chồng mi được, mi

có muốn thế không?

Mộc Uyển Thanh đang lúc tuyệt vọng, lòng lạnh nh tro tàn, nghe nói câu

đó chẳng khác chi trời ban chiếu chỉ. Dù nàng vẫn bán tín bán nghi nhng

cũng đáp ngay:

- Tôi mong được như vậy! Tôi mong như vậy lắm!

Có tiếng hỏi:

- Ta làm được việc đó cho mi thì mi lấy gì tạ ơn ta?

Mộc Uyển Thanh buồn rầu đáp:

- Tôi biết lấy gì tạ ông? Vì tôi chẳng có chi hết.

Có tiếng nói tiếp:

- Hiện giờ mi chưa có, rồi sau mi sẽ có chứ!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ông muốn cái gì tôi lấy cái đó tạ ơn ông.

Hỏi:

- Nhưng đến lúc bấy giờ mi lại chối thì sao?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi quyết không nói hai lời.

Nàng nghĩ rằng: "trên đời có cái gì quý cho bằng Đoàn lang trở nên chồng

mình? Dù mình có làm đến Hoàng đế là cùng thì tiếc gì cái ngôi Hoàng đế,

đem nhường cho con người quái dị này cũng được chứ sao?".

Hỏi:

- Lời đàn bà con gái ai mà tin được? Bây giờ mi nói thế rồi sau mi cãi thì

sao?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Ông đã thần thông ghê gớm như vậy nếu tôi cãi lời thì ông vặn cổ tôi đi,

tôi chẳng oán thán gì hết.

Có tiếng nói:

- Nếu sau này ta đòi điều gì mà mi không chịu, ta không giết mi đâu nhưng

ta sẽ giết chồng mi đó.

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm: "Ta quyết một lòng chung thuỷ cùng Đoàn

lang, không còn cải giá lấy ai. Nếu quả Đoàn lang biến hoá không phải là

anh ta nữa mà là chồng ta thì bất luận sự vật gì ta cũng bỏ được hết, không

có lý nào ta còn chối cãi nữa", bèn trả lời:

- Tôi xin y lời ông.

Có tiếng nói:

- Đến lúc đó ta cấm mi không được năn nỉ khóc lóc nhé. Ta đây đệ nhất

ghét là đàn bà con gái khóc nhè đó.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Có bao giờ tôi chịu van xin năn nỉ ai? Nhưng ông là ai cho tôi coi mặt

được không?

Đáp:

- Mi nhìn ta mãi từ nãy đến giờ chưa đủ hay sao?

Tiếng nói cứ đều đều một làn, không lên cao, xuống thấp, hay tiếng to tiếng

nhỏ.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Ông... ông là... người ngồi đó sao?

Đáp:

- Ta cũng không biết ta có phải là ta nữa không?

Sau có tiếng thở dài thườn thượt tỏ ra trong lòng có điều chi đau đớn, uất ức

vô cùng. Mộc Uyển Thanh không ngờ gì nữa, đúng là ông già mặc áo xanh

ngồi ngay trước mặt liền hỏi:

- Ông nói mà sao tôi không thấy môi mấp máy?

Đáp:

- Ta là người chết rồi mà còn sống, môi mép cứng đờ không cử động được

nữa, tiếng nói chỉ ở trong bụng phát ra mà thôi.

Mộc Uyển Thanh hãy còn tính trẻ con, nàng vừa mới thảm sầu là thế, giờ

thất lão bảo lão nói không mở miệng, máy môi nàng lấy làm thú vị hỏi:

- Nói bằng bụng được kỳ quá ông nhỉ!

Ông già áo xanh nói:

- Mi sờ vào bụng ta xem thì biết.

Mộc Uyển Thanh đa tay sờ vào bụng lão, lão hỏi:

- Ta đang nói đây, mi có thấy bụng ta chuyển động không?

Mộc Uyển Thanh thấy da bụng lão động đậy dới lòng bàn tay nàng thì

buồn cười hỏi:

- Ha ha thật là cổ quái.

Nguyên lão áo xanh luyện được môn Phúc ngữ thuật. Đời nay ta xem bọn

làm trò quỷ thuật thì môn này rất thường, nhưng thời bấy giờ đã biết và

luyện được đến mức độ tinh vi nh lão áo xanh thì trừ phi tay tuyệt giỏi nội

công không ai học được.

Mộc Uyển Thanh đi vòng quanh người lão xem kỹ rồi hỏi:

- Mồm miệng ông không cử động được thì ông ăn uống bằng cách nào?

Lão đưa hai tay ra, một tay vạch môi trên, một tay giữ môi dưới cho miệng

há ra, đoạn để hai ngón tay trái chống lên, còn tay phải cầm không rõ

miếng gì đút vào miệng, nghiến đánh "ráu" một tiếng rồi nuốt xuống. Lão

nói:

- Ta ăn nh vậy đó.

Mộc Uyển Thanh phàn nàn:

- Ôi thực đáng buồn cho ông, ăn nh vậy thì còn biết mùi vị gì nữa?

Bây giờ nàng mới hiểu rằng: da thịt trong người lão cứng đờ nên mắt không

nhắm, miệng không mở được. Thất tình không biến đổi sắc mặt nên lúc mới

trông tưởng lão là cái xác chết.

Tuy nàng cũng sợ lão đấy nhng nghĩ rằng chính mình lão còn có bao nhiêu

nỗi cay đắng, lão giải quyết cho lão cha xong còn nói chi đến chuyện phản

lại lề luật tạo hoá để biến anh ruột thành chồng mình được? Những câu lão

vừa nói chẳng qua là chuyện bâng quơ mà thôi. Nàng lưỡng lự một lúc rồi

nói:

- Tôi muốn đi thôi.

Lão áo xanh hỏi:

- Đi đâu?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi cũng chẳng biết nữa.

Lão áo xanh nói:

- Ta sắp biến Đoàn Dự thành chồng mi, mi còn đi đâu?

Mộc Uyển Thanh cời lạt rồi cứ đi về phía tây. Đợc vài bớc nàng dừng lại

hỏi:

- Tôi với ông cha từng quen biết, sao ông lại hiểu rõ tâm sự tôi? Ông... ông

đã biết Đoàn lang cha?

Lão đáp:

- Tâm sự mi tự nhiên ta biết hết, quay lại đây mau!

Lão giơ tay trái lên một cái thì lạ thay: Mộc Uyển Thanh cảm thấy có một

sức mạnh vô hình đẩy nàng trở lại, không tài nào kháng cự được. Nàng

chệch choạc bước mấy bước đến trước mặt lão. Mộc Uyển Thanh cả kinh,

thất sắc, giọng nói run run:

- Môn võ của ông có phải là... "Cầm long túng hạc" không?

Lão đáp:

- Con nhãi này thế mà kiến văn quảng bác đấy. Đây không phải là môn

"Cầm long túng hạc", chỉ có công dụng của nó là giống như môn "Cầm long

túng hạc" mà thôi, còn phép luyện thì khác hẳn.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Thế môn này gọi là gì?

Lão đáp:

- Gọi là "Quy khứ lai hề"

Mộc Uyển Thanh cời nói:

- Cái tên "Quy khứ lai hề" nghe còn hay hơn là "Cầm long túng hạc". Giả tỷ

Đoàn lang nghe thấy, chàng... chàng...

Nghĩ tới Đoàn Dự, lòng nàng lại quặn đau, không buồn nói nữa. Lão áo

xanh rút trong mình ra hai cây gậy trúc đen lánh nói:

- Ta đi thôi.

Tay trái lão cầm gậy trúc chỉ vào phiến đá, tung mình lên một cái đã ra xa

đến hơn một trượng. Mộc Uyển Thanh thấy hai chân lão vọt lên trên không

mà vẫn giữ nguyên kiểu người ngồi. Cây gậy nhỏ bé như vậy, một đầu chỏ

xuống đất mà lão ngồi trên có vẻ rất vững chắc. Nàng lấy làm kỳ nói:

- Cặp giò của ông...

Lão ngắt lời:

- Hai chân ta bị tàn phế đã lâu. Thôi nhé! Từ giờ trở đi ta cấm ngươi không

được hỏi câu gì nữa nghe không?

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi còn hỏi nữa.

Nàng vừa nói thì đột nhiên thấy chân mình mềm nhũn, té lăn xuống đất. Vì

tay áo lão phất ra một luồng gió cực mạnh, gậy trúc nơi tay phải lão điểm

vào đầu gối nàng, còn một gậy đánh xuống. Hai chân bị đau đến xương tuỷ

nàng lại la to lên một tiếng "ối".

Lão áo xanh lại cầm gậy trúc điểm luôn mấy cái để giải phóng huyệt đạo

nàng. Mộc Uyển Thanh nhẩy bật lên một cái cả giận nói:

- Lão này vô lễ thật!

Nàng vẩy tay toan phóng ám tiến ra. Lão áo xanh nói:

- Mi bắn ta một phát ta đánh mi một đòn, bắn mười phát đánh mười đòn. Mi

không tin bắn thử coi.

Mộc Uyển Thanh nghĩ bụng: ta chỉ phóng một phát mà trúng là lão chết tử

rồi còn đâu mà đánh? Nhưng xem ra lão này thần thông quảng đại, so với

Nam Hải Ngạc Thần còn có phần hơn, khó lòng bắn trúng được lão. Còn

lão nói sao là làm được thế, ta tất bị lão đánh nhừ tử.

Còn đang nghĩ ngợi lão áo xanh lại nói:

- Mi đã không dám bắn ta thì phải ngoan ngoãn tuân theo lời ta, không được

trái lệnh.

Mộc Uyển Thanh vẫn bớng:

- Ta không ngoan ngoãn tuân theo lời lão đã sao?

Tuy miệng nói thế nhng buông tay xuống không phóng tên nữa. Lão áo

xanh dùng hai gậy trúc thay thế cho hai cặp giò ra đi. Mộc Uyển Thanh

thấy hai cây gậy trúc cứng nh gang thép, chống đỡ lấy cả ngời lão một

cách rất vững vàng, thẳng thắn. Mỗi cây gậy dài độ bảy tám thước nên bước

lão dài gấp đôi, gấp ba người thường. Mộc Uyển Thanh phải vận hết nội

công, gắng gợng mới theo kịp.

Lão áo xanh vượt qua những đỉnh núi cao chẳng khác gì đi trên đất bằng.

Lão không theo nhữmg đường lối có sẵn cứ nhằm thẳng phía trước mà đi,

bất luận những chỗ đá núi ngổn ngang hay chông gai đầy rẫy lão cũng bước

tràn vì có hai cây gậy trúc dưới chân. Chỉ khổ cho Mộc Uyển Thanh, quần

áo vướng vào cây cối rách tướp. Nhưng bản tính quật cường, nàng không

thèm mở miệng ca thán để tỏ ta con người khiếp nhược.

Hai người vợt qua mấy trái núi, xa xa đã trông thấy bãi tha ma, mồ mả lô

nhô. Mộc Uyển Thanh lẩm bẩm: đến hang Vạn Kiếp rồi đây. Quả nhiên lão

áo xanh tiến đến trước tấm bia đá khắc chữ "Phần mộ Vạn cừu Đoàn", rồi

cầm gậy đập vào chữ Đoàn.

Mộc Uyển Thanh đã ra vào hang Vạn Kiếp mấy lần, mỗi lần vào hang là

phải đập mấy cái vào chữ Đoàn nhưng lần này nàng rất có cảm tình với chữ

Đoàn, liền hỏi lão:

- Vào hang Vạn Kiếp làm chi?

Lão áo xanh quay phắt lại, cầm gậy trúc đập vào chân nàng hỏi:

- Mi còn hỏi nữa thôi?

Mộc Uyển Thanh vốn tính ngang ngạnh, dù đối với tay địch bản lãnh hơn

mình, nàng vẫn không chịu để người lấn áp. Nhưng giờ nàng nghĩ rằng

không những lão này bản lãnh hơn mình mà còn giúp mình đạt ý nguyện

nên nàng chỉ nói bướng một câu:

- Cô nương không sợ đâu nhé, bây giờ tạm ẩn nhẫn mà thôi.

Lão áo xanh giục:

- Vào!

Chờ Mộc Uyển Thanh bước vào trước rồi lão mới bước vào sau. Đường lối

trong hang Vạn Kiếp lão đã thuộc làu. Mấy lần Mộc Uyển Thanh toan hỏi

nhung sợ lão đánh lại thôi. Nàng theo lão lúc rẽ bên phải, lúc vòng bên trái,

đi ra phía sau động.

Mộc Uyển Thanh từ khi rời sư phụ đến kiếm sư thúc là Chung phu nhân ở

hang Vạn Kiếp, tuy hai người không hợp tính nhau, ngay hôm đầu đã cùng

nhau gây lộn nhưng nàng cũng ở đó mấy hôm. Thế mà bữa nay lão áo xanh

đưa nàng qua những nơi mà nàng chưa biết tới, không ngờ hang Vạn Kiếp

lại nhiều chỗ hoang lương tịch mịch đến thế.

Đi mấy dặm nữa thì vào đến một khu rừng già, bốn bề toàn cổ thụ ngất trời.

Giữa ban ngày mà ánh dơng quang rực rỡ cũng không len lỏi vào được,

trong rừng âm u chẳng khác gì trời lúc hoàng hôn. Càng vào sâu cây càng

dầy, sau phải lách mình mới đi đợc. Đi thêm vài mơi trợng thì đến trớc

đám cổ thụ mọc dầy liền khít nhau nh một bức tờng không thể lách qua

đợc. Lão áo xanh cắm gậy trúc xuống đất để chống vào nách đứng, chĩa

hai bàn tay đặt vào khe hai cây lớn rồi vận nội lực đẩy hai cây từ từ rẽ ra hai

bên để hở ra một lối đi rộng hơn thước. Lão quát bảo Mộc Uyển Thanh:

- Qua đi!

Mộc Uyển Thanh không kịp đắn đo gì nữa, lách mình một cái đã sang bên

kia. Một bãi rộng hình tròn hiện ra trơức mặt nàng. Giữa bãi nổi lên một toà

thạch thất trơ trọi. Cách kiến tạo toà thạch thất này thật là ngộ nghĩnh.

Người ta lấy những phiến đá lớn nặng tới mấy ngàn cân xếp lên, chỗ lồi chỗ

lõm trông rõ ra một hòn non bộ có để hở ra một chỗ làm cửa.

Lão áo xanh lại quát:

- Vào đi!

Mộc Uyển Thanh nhìn vào chỉ thấy tối om, không hiểu trong có những quái

vật gì. Nàng lưỡng lự không dám tiến vào thì một bàn tay đặt lên sau lng

nàng. Nàng toan né tránh thì lão áo xanh vận chưởng lực đẩy mạnh một cái.

Mộc Uyển Thanh không thể tự chủ được bị hất văng vào trong. Nàng đa

tay sử thế "Hiển phong phất liễu" che mặt đề phòng va chạm vào vật gì

chăng thì nghe đánh sầm một tiếng, cửa thạch thất đã bị một vật cực nặng

đóng sập xuống. Mộc Uyển Thanh cả kinh, chạy lại đẩy cửa, đặt bàn tay

vào thấy ráp lởm chởm mới biết là một tảng đá hoa cơng rất lớn. Nàng vận

hết nội công đẩy cũng không nhúc nhích. Nghỉ một lát rồi lại cố đẩy lần

nữa nhng chẳng khác gì chuồn chuồn lay cột đá. Mộc Uyển Thanh hốt

hoảng vội lớn tiếng hỏi:

- Mi giam ta vào đây làm gì?

Bỗng nghe tiếng lão áo xanh đáp:

- Mi cầu khẩn ta việc gì mi quên rồi sao?

Sơ dĩ lão đứng bên ngoài nói mà nàng nghe rõ là vì tảng đá lấp cửa có đục

một lỗ thông suốt. Mộc Uyển Thanh định thần nhìn lại thấy phía trên tảng

đá có nhiều kẽ hở, chỗ nhỏ bằng sợi dây, chỗ lớn đút lọt cánh tay nhưng

người chui thì không lọt. Nàng la lên:

- Buông thả ta ra! Buông thả ta ra!

Ngoài thạch thất không có tiếng đáp lại, chợt nghe cành cây chạm nhau lắc

cắc thì biết là lão áo xanh đã ra khỏi "bức tường cây" đi rồi.

Mộc Uyển Thanh nhìn qua những lỗ hổng ra ngoài nhưng chẳng thấy chi trừ

những lá cây rơi lác đác, bay phất phới. Nàng quay vào giơng mắt nhìn

khắp nhà, chợt thấy trong góc có đặt một cái giường, trên giường có một

người ngồi. Nàng giật mình hỏi:

- Ngươi... ngươi...

Ngời đó hỏi lại:

- Thanh muội! Em cũng vào đây ?

Giọng nói lộ vẻ sửng sốt và vui mừng, nghe biết ngay là Đoàn Dự. Mộc

Uyển Thanh đang lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng, bỗng nhiên gặp Đoàn Dự

nàng mừng quá, trái tim cơ hồ ngừng đập. Nàng nhảy tót ngồi vào lòng

chàng.

Trong nhà ánh sáng chỉ hơi lờ mờ. Đoàn Dự thấy mặt nàng nhợt nhạt, hai

dòng lệ như muốn trào ra, trong lòng xiết bao thương cảm ôm chặt lấy

nàng. Nhìn đôi môi mấp máy chàng không thể nhịn được, cúi đầu xuống

hôn. Hai cặp môi vừa đặt lên nhau thì đồng thời cùng nghĩ đến đã là tình

anh em ruột thịt sao lại có những hành động loạn luân? Rồi cùng buông

nhau ra lùi lại phía sau. Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá, run run nhìn

nhau. Mộc Uyển Thanh bật lên tiếng khóc nức nở. Đoàn Dự dịu giọng an ủi

nàng:

- Thanh muội ơi! Đó là do tạo hoá an bài, hiền muội đừng buồn phiền nữa.

Anh được có em gái như hiền muội cũng đủ vui mừng lắm rồi.

Mộc Uyển Thanh giậm chân, vừa khóc vừa nói:

- Nhưng tôi không thể không buồn phiền để mà hoan hỉ cho được. Tôi đau

khổ mà chàng vẫn vui mừng thì thật là loài bất nhân.

Đoàn Dự than rằng:

- Anh chẳng có cách nào làm cho em vui lòng. Thế này thì thà chẳng được

gặp em nữa là hơn.

Mộc Uyển Thanh giằn dỗi:

- Tôi cũng chẳng muốn gặp chàng làm gì. Ai bảo chàng đến tìm tôi đêm

hôm ấy? Chàng chẳng trở lại báo tin tôi cũng chẳng chết về tay bọn ấy.

Chàng làm chết mất con Hắc Mai Côi của tôi, làm cho tôi đau đớn ê chề,

làm cho sư phụ tôi hoá ra má tôi, làm cho phụ thân chàng hoá ra phụ thân

tôi, tôi chẳng mong gì nữa. Giờ tôi bị vít vào đây cũng bởi tại chàng. Tôi

chỉ cần ra khỏi nơi này.

Đoàn Dự nói:

- Thanh muội ơi! Trăm điều ngang ngửa vì anh, em đừng giận anh nữa. Anh

em ta thủng thẳng tìm cách trốn ra.

Mộc Uyển Thanh vẫn một giọng hờn dỗi:

- Tôi không trốn đi đâu nữa. Tôi đành chết ở chốn này. Chết ở đây hay ở

ngoài cũng thế thôi. Tôi không ra nữa.

Thấy nàng vừa đòi ra lại giở giọng không ra nữa Đoàn Dự biết rằng lòng

nàng đang xốn xang quá đỗi, không thể lấy lời lẽ ngọt ngào mà dỗ nàng

được nên không nói gì nữa.

Mộc Uyển Thanh đang buông cơn giận cho nổi lên thấy Đoàn Dự không nói

sao lại càng lộn ruột hỏi:

- Sao chàng lại ngồi ỳ ra không nói?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thế em muốn anh nói gì bây giờ?

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Chàng ở đây làm gì?

Đoàn Dự đáp:

- Đồ đệ anh bắt anh giam vào đây.

Mộc Uyển Thanh ngơ ngác:

- Đồ đệ chàng...

Nhưng nàng nhớ ra ngay, đang sì sụt nước mắt nước mũi bất giác phá lên

cời:

- à phải rồi! Nam Hải Ngạc Thần. Phải chăng lão bắt chàng vít vào đây?

Đoàn Dự đáp:

- Chính lão!

Mộc Uyển Thanh vẫn cời:

- Thế sao chàng không lên nước "sư phụ" bảo lão phải buông tha ra?

Đoàn Dự đáp:

- Anh bảo lão mấy lần rồi nhưng lão cứ khăng khăng một mực đòi anh thờ

lão làm thầy lão mới chịu buông tha.

Mộc Uyển Thanh vừa cười vừa nói:

- Thế là thầy không dạy nổi trò rồi!

Đoàn Dự than rằng:

- Có lẽ đúng đấy! Còn em, ai bắt em vào đây?

Mộc Uyển Thanh đem chuyện mình gặp thanh bào khách kể lại một lợt

nhng dấu đoạn lão bảo biến anh ruột ra chồng, không nói đến.

Đoàn Dự thấy chuyện ăn không cử động môi miệng, nói từ bụng nói ra,

chân tay tàn phế mà chạy nhanh như bay thì lấy làm kỳ thú, hỏi cặn kẽ các

chi tiết và tấm tắc khen là kỳ dị.

Hai người ngồi nói chuyện hàng giờ, chợt bên ngoài có người đằng hắng rồi

thấy một đĩa luồn qua lỗ hổng đưa vào, kế đến có tiếng người gọi bảo:

- Bữa ăn của các ngươi đây.

Đoàn Dự đưa tay đón lấy thì là một đĩa thịt quay thơm phức, tiếp theo là bát

canh rau và đĩa bánh tiêu, chàng đặt cả lên bàn rồi hỏi Mộc Uyển Thanh:

- Em liệu những món này có thuốc độc không?

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Bọn họ muốn giết mình thì chỉ giơ tay lên một cái là xong, hà tất phải

dùng đến thuốc độc.

Đoàn Dự cho là phải và bụng đói quá rồi liền bảo:

- Ta ăn thôi chứ!

Hai người lấy thịt quay đặt vào trong bánh bắt đầu ăn, bên ngoài có tiếng

người dặn:

- ăn xong rồi cứ đặt bát chén ra lỗ hổng sẽ có người lại lấy.

Người đó nói xong đi ngay. Mộc Uyển Thanh lắng tai nghe y vịn cành trèo

lên cây rồi nhảy qua bên kia "bức tường cây".

Nàng nghĩ thầm: gã đưa cơm này võ nghệ tầm thường thôi. Rồi nàng uể oải

cầm lấy bánh ăn. Đoàn Dự vừa ăn vừa nói:

- Hiền muội! Em đừng sợ chi! Thế nào gia gia cùng bá phụ cũng đến cứu

chúng ta ra. Bọn Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương tuy là những tay lợi

hại nhnưg vị tất đã địch nổi gia gia. Nếu chính bá phụ thân hành tới đây thì

quét hết cả bọn chúng dễ như chơi. Chúng sẽ hết đường tháo thân.

Mộc Uyển Thanh hãy còn bực mình lên giọng nhạo báng:

- Chà! Bá phụ chàng bất quá là Hoàng đế cái nước Đại Lý cỏn con này, bản

lãnh đối với người ngoài đã vào đâu? Tôi không tin ông có thể địch nổi

"thanh bào khách". Chắc lại mang mấy ngàn quân thiết giáp đến vây đánh

chứ gì?

Đoàn Dự lắc đầu lia lịa cãi:

- Không phải! Không phải! Tổ tiên họ Đoàn là phái võ gốc tích ở Trung

Nguyên. Dù có dựng ra nước Đại Lý, xưng vương, xưng đế nhưng nhất định

không quên lề lối võ lâm. Nếu cậy thế lấn áp hay dựa vào số nhiều để thủ

thắng thì cái họ Đoàn nước Đại Lý chẳng lẽ để các bậc anh hùng trong thiên

hạ chê cười ru?

Mộc Uyển Thanh vẫn một giọng chế diễu:

- úi chà! Chàng còn khoe họ hàng nhà chàng tuy làm vua làm chúa vẫn

không bỏ tư cách của khách giang hồ ?

Đoàn Dự nói:

- Bá phụ cùng gia gia thường nói rằng: đã làm người thì không nên quên

gốc.

Mộc Uyển Thanh bĩu môi, mạt sát dữ hơn:

- Chà! Miệng nói toàn nhân nghĩa đạo đức mà làm toàn những sự bỉ ối xấu

xa. Tỷ như việc gia gia đã có má chàng rồi sao còn tằng tịu với sư phụ tôi?

Đoàn Dự tức run lên:

- Ô hay! Cô thoá mạ cả gia gia tôi nữa ? Gia gia tôi không phải là gia gia

cô hay sao? Hơn nữa các bậc vua chúa cùng hàng quý tộc khắp thiên hạ

được mấy người một vợ? Tám bà, mười bà là ít.

Thời bấy giờ vào đời Bắc Tống, Trung Hoa chia làm năm nước: khu giữa là

nước Tống, phía Bắc có rợ Khất Đan, mặt Tây Bắc có nước Nam Hạ, Tây

Nam có nước Thổ Phồn, miền Nam có nước Đại Lý. Vua chúa hay đại thần

đều có nhiều cung phi, hoặc mệnh phụ phu nhân đã thành một tập quán

truyền đời, và được coi là chuyện đương nhiên. Các bậc công khanh một vợ

thật là hiếm có.

Mộc Uyển Thanh vừa nghe Đoàn Dự nói xong, máu ghen sôi lên sùng sục,

lanh lẹ tát chàng đánh "bốp" một cái. Chàng đau quá, mắt mở thao láo,

miệng há hốc ra, miếng bánh đang cầm tay hất tung xuống đất. Chàng ấp

úng:

- Cô... cô...

Mộc Uyển Thanh mặt giận hầm hầm:

- Tôi không gọi ông ấy bằng gia gia nữa. Cớ sao đàn ông năm thê bảy thiếp

mà đàn bà riêng chịu thiệt thòi? Hễ ai ăn ở hai lòng là mang tiếng vô nghi là

nghĩa làm sao?

Đoàn Dự đa tay lên mặt sờ chỗ đau, xuýt xoa nói:

- Tôi là bậc huynh trưởng, cô là phận đàn em mà dám vô lễ thế?

Mộc Uyển Thanh vẫn cha nguôi giận, giơ tay tát nữa. Nhưng lần này Đoàn

Dự đã kịp phòng bị, bước chân theo phép Lăng Ba Vi Bộ, tránh qua phía

sau nàng. Mộc Uyển Thanh trở tay tát về phía sau, chàng cũng tránh khỏi.

Lòng nhà thạch thất này chỉ rộng chừng hơn một trượng vuông vậy mà phép

Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ thần diệu khiến cho Mộc Uyển Thanh lẹ tay thế nào

cũng không đánh trúng. Mộc Uyển Thanh lại càng căm tức sực nghĩ ra một

kế, giả vờ kêu "ối chao", ngã lăn xuống đất. Đoàn Dự thất kinh hỏi:

- Em làm sao thế?

Chàng cúi xuống, thò tay ra ôm nàng dậy. Tấm thân mềm mại Mộc Uyển

Thanh nằm gọn trong lòng chàng. Nàng đưa tay trái ra ôm cổ chàng, ghì

chặt lấy, vừa cười vừa hỏi: Còn trốn được nữa thôi? tay phải tát một cái vào

má chàng thật mạnh. Đoàn Dự nhịn đau chỉ kêu được một tiếng "trời ơi", rồi

đột nhiên nhiệt khí ở huyệt đan điền làm nóng rực cả người, sóng tình nổi

lên cuồn cuồn, không thể dằn lòng được. Mộc Uyển Thanh đúng với ngoại

hiệu Hương dược xoa, tiết ra một mùi thơm làm cho người ngửi thấy phải

mê mẩn tâm thần. Lúc đó Đoàn Dự lại đang ôm nàng, tay chạm vào da thịt

êm dịu, gợi cho chàng một khoái cảm đê mê, da dẻ mùi hương đa lên từng

cơn càng làm cho trí khôn mê loạn, chàng cúi xuống hôn nàng thật đậm.

Cái hôn làm cho toàn thân Mộc Uyển Thanh rạo rực, mềm nhũn. Đoàn Dự

ôm nàng lại đặt lên giường, đa tay ra cởi khuy áo nàng.

Mộc Uyển Thanh khẽ nhắc:

- Chàng là anh ruột tôi.

Đoàn Dự tuy đang mê mẩn tâm thần nhưng câu nói của Mộc Uyển Thanh

chẳng khác tiếng sét nổ giữa lúc trời quang mây tạnh, chàng giật mình

buông nàng ra, hai tay vung lên tự tát hai bên má mình bôm bốp mấy cái.

Vừa tát vừa tự mắng "Đồ chó chết! Đồ chó chết!".

Mộc Uyển Thanh nhìn thấy hai mắt Đoàn Dự đỏ như máu, loé ra những tia

sáng khác thường, da thịt trên mặt giật lên từng cơn, lỗ mũi mấp máy, cả

kinh nói:

- Nguy rồi! Đoàn lang ơi! Trong thức ăn quả có thuốc độc. Ta mắc lừa họ

rồi.

Toàn thân Đoàn Dự phát nhiệt chẳng khác gì ngồi trong lồng bốn bề đốt

lửa. Chợt nghe Mộc Uyển Thanh nói ăn phải thuốc độc, trong bụng lại

mừng lẩm bẩm: "ừ có thế chứ, ta bị thuốc độc làm loạn trí đến nỗi toan

cùng Thanh muội làm trò đồi bại thì uổng mất bao công trình đọc sách

thánh hiền, thiếu chút nữa chẳng khác chi loài cầm thú". Mỗi lúc người

chàng một nóng thêm, không thể chịu được, chàng phải cởi bỏ hết quần áo

dài ra, chỉ để một chiếc quần đùi. Chàng tỉnh táo được một lát, rồi đâu lại

hoàn đấy, phải kiềm chế con lợn lòng một cách miễn cưỡng.

Mộc Uyển Thanh người cũng nóng ran, không thể nhịn được, cởi bỏ áo

xiêm ngoài ra. Đoàn Dự vội la lên:

- Thanh em! Đừng cởi thêm nữa! Ngồi dựa vào vách đã cho đỡ nóng.

Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá nhưng chất thuốc độc mỗi lúc một kích

thích thêm. Sau lưng tuy mát được một chút nhung từ đầu, mặt, ngực, bụng,

chân tay chỗ nào cũng nóng như lửa đốt. Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh

hai má đỏ hồng, nhan sắc lại càng diễm lệ, đôi mắt quyến rũ ướt rượt như

muốn nhảy xổ vào lòng chàng. Chàng nghĩ thầm: lúc này mình còn quyết

tâm cố chống lại chất thuốc độc nhưng nhân lực có hạn, nếu rồi đây không

chống nổi nữa, gây ra hành vi dâm loạn, làm mất hết thanh danh họ Đoàn

thì tiếng xấu đó muôn đời không rửa sạch. Chàng bèn bảo Mộc Uyển

Thanh:

- Hiền muội cho anh một mũi tên độc.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Để làm gì?

Đáp:

- Để khi anh không chống nổi lại sức thuốc quá mãnh liệt thì anh tự tử đi

cho rồi, khỏi làm hại đến đời em.

Mộc Uyển Thanh đáp:

- Tôi không cho.

Đoàn Dự nói:

- Thanh em ơi! Anh cầu khẩn em một việc.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Việc gì

Chàng đáp:

- Hễ anh đa tay ra sờ vào mình em thì em bắn chết anh nghe!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Tôi không nghe.

Đoàn Dự năn nỉ:

- Anh cầu khẩn em việc này vì danh dự của họ Đoàn đã mấy trăm năm nay

không thể để anh một lúc phá tan. Nếu không thế thì sau này anh chết

xuống còn mặt mũi nào trông thấy tổ tiên nữa?

Bất thình lình bên ngoài thạch thất có tiếng người nói:

- Họ Đoàn nước Đại Lý chúng bay tử tế lắm đấy? Ngoài mồn nhân nghĩa,

trong bụng sài lang, còn tưởng danh giá lắm sao?

Đoàn Dự cả giận nói:

- Mi là ai mà dám nói láo?

Mộc Uyển Thanh khẽ bảo chàng: lão chính là "Thanh bào khách".

Lại thấy Thanh bào khách nói tiếp:

- Mộc cô nương! Ta làm theo nguyện vọng của cô đó, cô bảo anh cô biến

thành chồng cô đi! Ta đã hứa là quyết tâm làm cho nên việc.

Mộc Uyển Thanh cả giận nói:

- Mi dùng thuốc độc hại người, có ăn thua gì đến điều ta yêu cầu mi đâu?

Thanh bào khách nói:

- Trong đĩa thịt quay ta trộn khá nhiều "Hoà hợp âm dương tán" vào đó.

Người nào ăn phải, nếu không cho âm dương hoà hợp với nhau, làm đôi vợ

chồng thì chất thuốc mỗi ngày một phát tác cực kỳ trầm trọng, chỉ trong

tám ngày là cùng da thịt sẽ nứt toác ra, thất khiếu sẽ chảy máu ra mà chết.

Dù các ngơưi có bản lãnh như Đại La Kim Tiên cũng không chống nổi đâu.

Đoàn Dự căm hờn nói:

- Ta với mi vốn không thù oán sao mi lại thi hành kế độc này hại ta? Mi

muốn cho Đoàn mỗ không còn mặt mũi nào trông thấy người đời nữa. Cùng

làm cho bá phụ và gia gia ta đem điều ô nhục chung thân ? Này này ta

bảo, không được đâu, dù ta phải chết khổ chết sở cũng đành, chẳng khi nào

ta chịu làm việc nhơ nhuốc đâu.

Thanh bào khách nói:

- Đã hay rằng riêng ta với mi không có thù oán gì nhưng tổ tông họ Đoàn

nhà mi với ta có một mối thù sâu tựa biển. Ta quyết làm cho hai gã tiểu tử

Đoàn Chính Minh và Đoàn Chính Thuần phải suốt đời ô nhục, không dám

nhìn mặt người đời nữa mới hả lòng căm phẫn của ta.

Lão nói có vẻ đắc chí lắm nhnưg vì môi miệng không cử động được, nên

không bật lên tiếng cười. Đoàn Dự muốn cùng lão tranh luận nữa nhưng vừa

liếc mắt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh chẳng khác gì đoá phù dung mới nở

hay đoá hải đường đang say sưa trong trường xuân mộng, trái tim chàng

rung động rạo rực, tựa hồ muốn nhảy ra ngoài, trong đầu óc chàng suy tính

rất nhiều: "Mộc Uyển Thanh đã cùng ta đính ước duyên bài, nếu đôi ta

không được trở về nước Đại lý thì đâu có bật ra cái chuyện là anh em ruột

thịt. Đây chỉ là oan trái đời xa có liên quan gì đến mình?". Nghĩ tới đây

chàng run run đứng dậy, bỗng thấy Mộc Uyển Thanh cũng vịn tường đang

từ từ đứng lên. Đột nhiên trong lòng chàng dường như có luồng điện chiếu

vào, chàng lại nghĩ: "Không được! Không được! Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự,

điểm tối hậu của con người khác loài cầm thú là ở chỗ này. Nghĩ sai một ly,

sểnh chân một bước, không những thanh danh mình bị tan vỡ mà còn đẩy cả

bá phụ cùng gia gia vào vòng ô nhục suốt đời". Nghĩ vậy chàng cất tiếng gọi

to:

- Uyển Thanh em ơi! Anh là đại ca, em là tiểu muội đó. Em có biết không,

em đã hiểu kinh Dịch chưa?

Mộc Uyển Thanh còn đang mơ mộng, nghe chàng hỏi, liền đáp:

- Tôi không hiểu kinh Dịch là gì hết.

Đoàn Dự nói:

- Nếu vậy để anh dậy cho. Kinh Dịch ý nghĩa xâu xa lắm, em phải lắng tai

nghe mới hiểu được.

***************************

Ngự giá thân chinh

Mộc Uyển Thanh hỏi:

-Em học cái đó làm chi?

Đoàn Dự đáp:

-Biết đâu chả được việc cho mình.Có khi nhờ đó mà ta thoát khỏi chốn lao

lung này cũng nên.

Nguyên Đoàn Dự thấy sóng dục đã nổi lên đến tột độ,thật khó mà giữ được

cho khỏi loài cầm thú,chẳng khác gì ngàn cân treo đầu sợi tóc.Nếøu Mộc

Uyển Thanh nhảy xổ vào quyến dũ thì không thể nào còn nín nhịn được

nữa.Nên Đoàn Dự bày ra trò dạy học để chuyên tâm tri ý vào việc

khác,không nghĩ đến tình dục nữa.Thế rồi chàng giảng thao thao bất tuyệt:

Nào Thái cực,nào Lưỡng Nghi,nào Tứ Tượng,nào Bát Quái.

Mộc Uyển Thanh nói:

-Em nghe chán tai lắm,chẳng hiểu gì hết.Đoàn Lang! Chàng lại đây! Em có

chuyện nói cùng chàng..

Đoàn Dự lại ngắt lời:

-Em quên rồi sao? Anh là anh kia mà!Phải gọi anh là đại ca,chớ kêu bằng

Đoàn lang là lỗi đạo.

Rồi chàng tiếp tục đem Bát Quái ra giảng: Cào tam liên,Khôn lục đoạn,Chín

ngướng vu,Cân phúc uyển.Ly trung hư,Khảm trung mão, Ton thượng

khuyết,Đoài hạ đoạn.

Mộc Uyển Thanh rất thông minh,nhẩm qua một lượt thuộc lòng ngay,song

nàng không hiểu gì,ngơ ngẩn hỏi chàng:

-Sao lại có cả bát cơm chén nước vào đây nghĩa là gì?

Đoàn Dự đáp:

-Chén ngửa,bát úp mới chỉ là tượng hình mấy quẻ mà thôi.Em nên nhớ rằng

8 quẻ này ý nghĩa rất sâu rộng,bao hàm cả trời đất muôn vật.Nếu lấy gia

đình mà nói thì quẻ Càn tượng trưng cho người cha.Quẻ Khôn tượng trưng

cho người mẹ.Quẻ Chấn là con trai cả,quẻ Tốn là con gái lớn.Như anh em ta

đay:anh thuộc quẻ Chấn,em thuộc quẻ Tốn.

Mộc Uyển Thanh vênh mặt ngắt lời:

-Không phải, chàng là quẻ Chấn,em là quẻ Khôn.Hai người kết nghĩa phu

thê ,sinh con đẻ cái..

Đoàn Dự thấy nàng ăn nói ra chiều chớt nhả thì giật mình kinh hãi nói:

-Uyển Thanh em!Đừng nghĩ vẩn vơ nữa!Hãy tiếp tục nghe lời anh dạy đây!

Mộc Uyển Thanh nói:

-Chàng, chàng ngồi xích lại bên em,em mới nghe được.

Bỗng bên ngoài có tiếng lão áo xanh reo lên:

-Hay lắm!Hay lắm!Nếu hai đứa mi nên vợ chồng,sinh con đẻ cái,ta sẽ

buông tha ra khỏi nhà tù này.Chẳng những buông tha mà thôi,ta còn dạy

cho vợ chồng mi những môn võ nghệ tuyệt luân để dọc ngang trời rộng vẫy

vùng biển khơi nữa.

Đoàn Dự cả giận lớn tiếng đáp vọng ra:

-Này này ta bảo!Nếu đến bước đường cùng ta sẽ đập đầu vào vách đá này tự

tử.Mi nên nhớ rằng:Dòng dõi họ Đoàn nước Đại Lý ta thà chết chớ không

chịu nhục.Mi đừng hòng hãm ta vào đường tội lỗi để mà rửa hận.

Lão áo xanh nói:

-Dù mi sống hay chết ta cũng mặc xác.Có điều bọn mi mà chết thì ta sẽ lột

trần như nhộng cả hai đứa rồi thích chữ vào mặt:"Đây là hai đứa con Đoàn

Chính Thuần đang thông gian bị người bắt gặp xấu hổ tự sát"Ta còn tìm

cách ướp xác chúng bay đem đi bêu tại các đô thị lớn như Biện Dương,Lạc

Dương,Hàng Châu,Quảng Châu.

Đoàn Dự căm tức đến cực điểm,thét lên:

-Họ Đoàn ta có điều chi tàn nhẫn với mi mà mi trả thù một cách hiểm

độc,dã man thế?

Lão áo xanh đáp:

-Công việc của ta hà tất phải nói cho thằng ranh con chưa ráo máu đầu như

mi nghe.

Dứt lời bên ngoài lại im lặng như tờ.Có lẽ lão lại vượt bức tường cây đi rồi.

Đoàn Dự biết rằng nếu chàng còn nói với Mộc Uyển Thanh nữa càng thêm

nguy hiểm, liền ngồi quay mặt vào tường ôn lại những điều phức tạp trong

phép Lăng Ba Vi Bộ. Chàng ngây ngất hồi lâu chợt nhớ đến pho tượng

Ngọc Mỹ Nhân trong thạch động, so với Mộc Uyển Thanh còn kiều diễm

hơn nhiều rồi tự nhủ:Nếu mình có lấy vợ phải kén người đẹp như "Thần tiên

nương tử" mới không uổng phí một đời.

Đang lúc mơ màng chàng quay đầu nhìn về phía Mộc Uyển Thanh thì hoa

mắt lên,từ dung nhan cho đến phục sức,nàng đã biến thành pho tượng bất

giác chàng la lên:

-Thần tiên nương tử ơi!Tôi đang đau khổ đến cùng cực, Nương tử cứu tôi

với!

Nói xong chàng quỳ mọp xuống đất,ôm lấy chân Mộc Uyển Thanh.Bỗng

bên ngoài có tiếng gọi:

-Đã đến giờ ăn tối rồi đấy.

Một cây nến đỏ thắp sẵn đưa qua lỗ hổng vào.Rồi lại thấy người đó vừa cười

vừa nói: "Mau ra mà đón lấy,nay là đêm động phòng hoa chúc của các

ngươi chẳng nhẽ lại không có đuốc hoa? "

Đoàn Dự cả kinh đứng dậy.Dưới ánh sáng,chàng nhìn rõ Mộc Uyển Thanh

mắt gợn sóng tình,người đẹp lồ lộ,không bút nào tả xiết,liền tắt phụt cây

nến đi và quát to lên:

-Trong cơm có chất độc,ta không ăn đâu,mi đem về đi!

Người đó cười nói vọng vào:

-Đằng nào cô cậu cũng đã trúng độc,phân lạng đủ rồi.Nay còn cho thêm

làm gì?

Nói rồi y cứ đưa cơm vào,Đoàn Dự đón lấy để lên bàn,nhủ thầm: Con người

ta chết là hết chuyện.Chẳng bận tâm đến tiếng thị phi làm quái gì nữa!Song

chàng lại nghĩ: Song thân cùng bá phụ ta thương ta biết chừng nào?Lẽ nào

ta để tiếng xấu cho thiên hạ mĩa mai dòng họ Đoàn? Bỗng thấy Mộc Uyển

Thanh la lên:

Đoàn Lang ơi!Em đành dùng tên độc tự sát đẻ khỏi di hại cho chàng.

Đoàn Dự vội kêu lên:Hãy khoan!Đằng nào anh em mình cũng chết rồi. Con

người độc ác kia quyết không chịu buông tha nữa đâu.So với Diệp nhị

nương hút máu trẻ con,cùng Nam Hải Ngạc Thần ăn tim người,thì lão này

còn hiểm độc hơn nhiều.Nhưng không hiểu lão là ai? Bỗng thấy bên ngoài

lão áo xanh lên tiếng đáp lai:

-Thằng lỏi con nói phải đó!Lão phu đây đứng đầu bọn tứ ác.ác Quán Mãn

Doanh là ta đây.

Đây nhắc lại:trong phủ Trấn Nam Vương,Thiện Xiển Hầu, Cao Thăng Thái

trở vào báo: vợ chồng Chung Vạn Cừu cùng Tần Hồng Miên đã đi xa

rồi.Trấn Nam vuơng phi là Thư Bạch Phụng vì thương con nóng ruột hỏi

Bảo Định Đế:

-Tâu hoàng huynh,hang Vạn Kiếp ở tận đâu? Hoàng huynh có biết không?

Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đáp:

-Hang Vạn Kiếp ? Cái tên này nay ta mới nghe là một.Nhưng chắc cách

nước Đại Lý ta chằng xa mấy.

Thư Bạch Phụng nói:

-Cứ như lời Chung Vạn Cừu thì dường như nơi này bí mật khó lòng tìm ra

được. Thằng Dự lọt vào tay chúng lâu tất..

Bảo Định Đế ngắt lời:

-Y trước nay chỉ được nuông chiều chưa hiểu lòng người độc ác,để y chịu

đựng gian nan cho trải mủi đời.Âu cũng là một dịp rèn luyện cho y,như thế

cũng hay.

Thư Bạch Phụng tuy trong dạ bồn chồn nhưng cũng không dám nói gì thêm

nữa.

Bảo Định Đế quay sang bảo Đoàn Chính Thuần:

-Hiền đệ đem rượu ra đây để khao thưởng anh em.

-Đoàn Chính Thuần vâng mệnh truyền xuống gia nhân.Lát sau một bữa tiệc

lớn bày ra. Bảo Định Đế cũng ngồi vào ăn uống.Tuy nhà vua là bậc chí

tôn,nhưng chỉ truyền cho quần thần thủ lễ ở triều đình mà thôi,còn ngoài ra

Ngài không câu nệ.Vì thế mà vợ chồng Đoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng

Thái cũng ngồi chung bàn với nhà vua.

Trong khi ăn tiệc,nhà vua tuyệt nhiên không đá động gì đến chuyện gia

đình.Trời gần sáng,thị vệ vào báo:

-Có quan Tư không họ Ba xin vào bái kiến Hoàng Thượng.

Đoàn Chính Minh truyền cho vào.Bức rèm vừa vén lên,một người mặt đen

vừa thấp vừa lùn tiến vào cúi đầu trước Bảo Định Đế tâu:

-Thần khải tấu Hoàng Thượng.Đường đi sang qua cầu sắt Thiện nhân

độ,đến khu nghĩa địa chỗ có ngôi mộ lớn,đó là cửa vào động.

Thư Bạch Phụng cả mừng nói:

-Tôi biết trước,một khi Ba Tư Không đã ra đi thì sào huyệt bên địch ở đâu

mà tìm không ra?

Người mặt đen hơi nghiêng mình nói:

-Vương phi quá khen,Ba Thiên Thạch này thực lấy làm xấu hổ.

Người mặt đen là Ba Thiên Thạch,tuy hình thù cổ quái,nhưng là một nhân

vật rất tinh tế mẫn cán.Ông từng lập được nhiều công lao cho nhà vua,hiện

làm chức Tư không nước Đại Lý.

Trong triều lớn nhất có ba chức:Tư đồ,Tư mã và Tư không gọi là Tam

Công.Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt,đặc biệt nhất là môn khinh

công.Ba Thiên Thạch vâng mệnh Bảo Định Đế đi do thám trụ sở địch.Ba

ngầm theo chân họ,quả nhiên tìm được đến hang Vạn Kiếp.

Bảo Định Đế phán:

-Thiên Thạch,ngươi ngồi xuống ăn thật no đi,rồi chúng ra lên đường nghe.

Ba Thiên Thạch vốn biết tính nhà vua,không ưa người ta quỵ luỵ lạy lục.Đối

với thần tử Ngài rất thương yêu và xưng hô theo kiểu anh em bè bạn.Nếu

mình tỏ ra quá khúm núm thì làm cho ngài khó chịu,nên Ba chỉ "xin vâng"

một tiếng rồi bưng cơm ăn liền.Ba không uống rượu nhưng ăn khoẻ lắm,ăn

như rồng cuốn,chỉ loáng đã hết tám bát cơm lớn. Đoàn Chính Thuần,Cao

Thăng Thái chơi thân vói Ba đã lâu,nên không lấy thế làm lạ.

Ba Thiên Thạc ăn xong đứng lên,lấy tay áo lau miệng rồi tâu:

-Tiểu thần xin dẫn đường!

Dứt lời đi ra luôn,Bảo Định Đế,vợ chồng Đoàn Chính Thuần,Cao Thăng

Thái nối gót theo sau.Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương,đã thấy bọn

Ngư,Tiều,Canh,Độc giắt ngựa chờ sẵn. Ngoài ra còn hơn mười tên tuỳ tòng

để mang khí giới cho nhà vua.

Nên biết rằng họ Đoàn nguyên là dòng dõi nhà đại gia trong phái Võ lâm ở

Trung Nguyên,sau lấy được nước Đại Lý,trải hơn trăm năm nay vẫn giữ nền

nếp tổ tiên. Anh em Đoàn Chính Minh,Đoàn Chính Thuần tuy giàu sang rất

mực,mà thường vẫn ăn bận theo kiểu bình dân ra ngoài.Đã là người trong võ

lâm thì bất luận là tìm đến báo thù hay đến thăm hỏi nhà vua cũng tiếp đãi

theo lề lối nhà võ,chớ không ỷ thế khinh người bao giờ. Nên bữa nay nhà

vua ngự giá thân chinh bọn tuỳ tòng,từ quan Tư không trở xuống,không ai

bị bận rộn hạch sách.

Thư Bạch Phụng thấy trong đám thủ hạ Ba Thiên Thạch có đến bảy tám tên

mang cuốc xẻng đi theo,thì bật cười hỏi:

-Chúng ta đi khai quật bảo tàng hay sao đây?

Ba Thiên Thạch đáp:

-Thưa Vương Phi!Bảo tàng thì không có,nhưng đi quật mồ mả.

Đoàn người cỡi ngựa tốt,chạy lẹ như gió,chưa đến trưa đã tới nghĩa địa

ngoài hang Vạn Kiếp,Ba Thiên Thạch quay về mé tả đi đến ngôi mộ thứ bảy

hô:

-Quật ngôi mộ này lên cho ta.

Bọn tuỳ tòng Ba đều là những tên lực lưỡng khoẻ mạnh,lập tức nào xẻng

nào cuốc bổ xuống.Bảo Định Đế trông thấy tấm mộ chỉ khắc rõ " Vạn cừu

Đoàn chi mộ" bật cười nói:

-Chủ nhân hang Vạn kiếp thù oán nhà ta đến thế ?

Thái Tân Khách,Tiêu Đốc Thành vác búa đập "choảng choảng" phá tấm bia

vỡ tan tành chỉ để nguyên vẹn chữ Đoàn.Lúc đó các người khác cũng đã đào

hết nửa ngôi mộ,cửa hang đã lộ ra.Tiêu Đốc Thành chui vào trước,dùng búa

đập tan cỗ quan tài bên trong, bốn gã Ngư,Tiều ,Canh, Độc đi trước,rồi đến

Ba Thiên Thạch,Cao Thăng Thái,sau nữa là vợ chồng Trấn Nam Vương,

Bảo Định Đế đi sau cùng.

Đoàn người vào trong hang Vạn Kiếp chỉ thấy bốn bề im lặng như tờ,không

ai ra nghênh tiếp. Ba Thiên Thạch vẫn giữ lề lối khách giang hồ,tay cầm

danh thiếp của hai anh em Đoàn Chính Minh,Đoàn Chính Thuần ,rảo bước

đi thẳng vào trước nhà khách cất tiếng gọi :

"Có hai anh em họ Đoàn nước Đại Lý tới hội diện Chung Động chúa"

Tiếng hô vừa dứt từ trong bụi cây mé tả chạy vụt ra một bóng người cao lêu

nghêu,toan móc lấy danh thiếp ở trong tay Ba Thiên Thạch nhanh như chớp,

Ba Thiên Thạch ứng biến mau lẹ vô cùng,tránh qua bên phải ba bước quát

hỏi:

-Tôn giá là ai?

Người đó chính là Cùng Hung Cực ác Vân Trung Hạc,gã móc không trúng

lại nhảy xổ tới Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch khinh công tuyệt cao,muốn

thử thách xem tài nghệ của Vân đến mức nào,liền tiến về phía trước ba

bước.Vân Trung Hạc cũng rượt theo ba bước.

Thế rồi một người thấp lủn thủn,một gã cao lênh khênh đuổi nhau.Thoáng

một cái đã chạy ba vòng.Vân Trung Hạc bước dài chạy nhanh nhưng Ba

Thiên Thạch cũng nhảy lẹ dị thường.Hai người chạy vòng tròn chỉ cách

nhau có vài ba thước,khiến người xem không rõ là Vân Trung Hạc đuổi Ba

Thiên Thạch hay Ba Thiên Thạch đuổi Vân Trung Hạc.

Rút cục Vân Trung Hạc không đuổi theo kịp Ba Thiên Thạch mà Ba Thiên

Thạch cũng không thể thoát chạy được Vân Trung Hạc.Khing công của hai

người này thật là thiên hạ vô song.

Bỗng nghe một tiếng kẹt,cánh cửa mở toang,Chung Vạn Cừu ở trong nhà

chạy ra. Ba Thiên Thạch vẫn không dừng bớc,ngầm vận nội công,tay phải

tung ra một cái.Tấm danh thiếp bay thẳng tới trước mặt Chung Vạn Cừu.

Nên nhớ rằng tấm thiếp chỉ là mảnh giấy vừa nhẹ vừa mềm,ngay lúc bình

tĩnh ném ra cho trúng chổ cũng không phải là chuyện dễ.Vậy mà đang lúc

chạy nhanh như gió,nếu Ba Thiên Thạch không có nội lực phi thờng thì

không tài nào ném trúng được.

Chung Vạn Cừu giơ tay bắt tấm danh thiếp,cả giận hỏi:

-Họ Đoàn đã đến thăm bái ta,sao không giữ luật lệ giang hồ,dám phá huỷ

cơ quan ngoài cửa động của ta?

Phủ tiên Điếu Lăng Thiên Lý đáp:

-Hoàng thượng là ngôi chí tôn,có lý đâu lại chui qua chiếc quan tài của

ngươi mà vào.

Thư Bạch Phụng sốt ruột vì con,không nhịn được nữa hỏi ngay:

-Các ngươi giấu con ta đâu?

Một người đàn bà đứng sau Chung Vạn Cừu chạy vụt ra đáp:

-Mi đến trể một chút,bọn ta đã moi gan thằng lõi họ Đoàn cho chó ăn rồi.

Hai tay nàng cầm hai lưỡi dao nhỏ như lá liễu loé ra ánh sáng xanh lè,chính

là cặp Tu la đao đã làm cho bao nhiêu khách giang hồ phải khiếp vía.Hai

người đàn bà này trước đây mười tám năm đã vì ghen tuông mà kết mối

thâm thù.

Thư Bạch Phụng biết Tần Hồng Miên nói dối,tuy nhiên câu nói ác miệng đó

đối với đứa con yêu quý độc nhất của bà làm cho bà căm giận.Thù cũ hận

mới bốc lên khác nào lửa cháy đổ dầu thêm bốc lên ngùn ngụt,bà lạnh lùng

xỉ vả.

-Ta hỏi Chung động chúa,chưa ai thèm nói với quân đê tiện,sao mà không

biết nhục?

Tần Hông Miên nhanh nh chớp,giơ song đao lên,lăn xả vào chém liền theo

thế " Thập Tự chước" một thế tuyệt kỹ của nàng,đã làm mất mạng bao

nhiêu giang hồ hảo hán.

Thư Bạch Phụng cũng tung cây phất trần gạt đi,đuôi phất trần nhắm phía

sau lưng Tần Hông Miên chụp xuống.

Đoàn Chính Thuần thấy vậy rất là buồn phiền,Một nàng là vợ chánh,một

bên là người tình cũ,hai bên đều dùng thế đánh trí mạng chọi nhau.Bất

luận bên nào bị hại ,ông cũng ân hận suốt đời,liền quát to lên để can ngăn:

-Hãy khoan đã nào!

Rồi ông xem vào giữa đưa trường kiếm gạt cả hai bên ra.

Chung Vạn Cừu vừa trông thấy Đoàn Chính Thuần,lửa giận bừng bừng ,tay

cầm đại hoàn đao bật lên tiéng "loảng xoảng" nhằm Đoàn Chính Thuần

chém tới.

Lăng Thiên Lý bước ra nói:

-Bất tất Vương gia phải ra tay,để tiểu nhân đối địch với hắn.

Gã tung cần câu ra vụt xuống đầu Chung Vạn Cừu

Chung Vạn Cừu cười nói:

-Ta biết mà!Họ Đoàn toàn là một lũ hư danh chỉ cậy nhiều người.

Đoàn Chính Thuần cũng cười nói:

-Thiên Lý tránh ra,ta muốn xem võ công của Chung động chúa.

Dứt lời hươi trường kiếm lên gạt cần câu Thiên Lý ra bên,thuận đà lia

xuống sống thanh đại hoàn đoai để hớt ngón tay Chung Vạn Cừu.Chung vạn

Cừu cả kinh lẩm bẩm:Kiếm pháp thằng cha họ Đoàn này ghê thật. Hắn phải

dẹp cơn phẫn nộ,cầm ngang thanh đao để giữ thế thủ.Tuy hắn tính nóng như

lửa,nhưng khi gặp địch thủ lợi hại hắn không dám nông nổi khinh xuất.

Bảo Định Đế giục Lăng Thiên Lý:

-Các ngươi đi lục tìm xem chúng giấu Đoàn Dự ở đâu?

Lăng Thiên Lý vâng mệnh,rồi cả bốn gã Ngư,Tiều,Canh,Độc đi thẳng vào

cửa trước.

Tiêu Đốc Thành vừa đặt chân trái lên ngưỡng cửa ,đột nhiên thấy trên đỉnh

đầu mát lạnh, rồi người bỗng giật lùi lại.Một lưỡi đao rất lớn và cực mỏng

chém tới trước mặt chỉ còn cách độ vài tấc,Tiêu Đốc Thành trên lưng toát

mồ hôi lạnh ngắt,nhìn kỹ xem người ngấm ngầm tập kích là ai,thì ra là một

thiếu phụ nhan sắc xinh tươi,chính là Vô ác Bất Tác Diệp Nhị Nương.

Thanh bảc đao của mụ trông rất kỳ dị,lưỡi nó thật lớn hình tròn và mỏng

dính,xung quanh đều sắc bén lạ thường.Mụ cầm chuôi bảo đao khẽ múa

vung lên,thì một luồng ánh sáng vòng tròn loé ra.Sau cơn giật mình,Tiêu

Đốc Thành định thần lại,quát to lên một tiếng rồi giơ búa lên bổ xuống lưỡi

bảo đao của Diệp Nhị Nương luân chuyển không ngừng,nhưng phải tránh

lưỡi búa trầm trọng không dám để bổ trúng vào đao.Tiêu Đốc Thanh sử

dụng đủ ba mươi sáu đường khai sơn phủ pháp vung lên bổ xuống.

Diệp Nhị Nương vận âm dương quái khí vào câu cười giọng nói. Chu Đan

Thần biết mụ âm hiểm khôn lường,đao pháp biến trá,sợ đánh dằng dai,Tiêu

Đốc Thành tất bị ám toán, liền uyển chuyển bước ra múa quạt trợ chiến.

Lúc đó Ba Thiên Thạch cùng Vân Trung Hạc đang đuổi nhau chạy quyện

vòng tròn.Môn khinh công của hai người không ai chịu kém ai,và cả hai

cùng cảm thấy rằng cuộc tranh đấu không chỉ trong chốc lát mà phân thắng

bại được.

Ba Thiên Thạch chạy hơn trăm vòng đã thấy rõ hạ bàn Vân Trung Hạc:về lẹ

làng thì có thừa,nhưng trầm trọng thì không đủ.Ba nghĩ thầm chi bằng ra

vừa chạy vừa tìm cơ hộ đánh ba bốn chưởng bất ngờ,tất hắn không đứng

vững được.Nhưng Ba lại tính đem khinh công ra để thử thách,không muốn

dùng quyền cước để thủ thắng.Rồi gia công chạy mãi.

Bỗng nghe tiếng ồm ồm quát mắng:

-Mấy thằng quỷ này làm gì mà ầm lên thế?Không để cho người ta ngủ

à?Những loài chuột chết ở đâu đến vậy?

Người đó chính là Nam Hải Ngạc Thần vừa quát tháo vừa cầm Ngạc chuỷ

tiễn hầm hầm chạy ra.

Điểm Thương Nông cũng quát mắng lại:

-Chính gia gia sư phụ mi đến đây chứ còn ai!

Nam Hải Ngạc Thần quát hỏi:

-Mi bảo ai là gia gia sư phụ ta?

Điểm Thương Nông trỏ Đoàn Chính Thuần nói:

-Trấn Nam vương đây là gia gia Đoàn công tử.Đoàn công tử đã là sư phụ

mi,mi không biết hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần tuy là một kẻ độc ác đa đoan,nhưng cũng có chỗ khả

thủ là lão đã nói ra vẫn giữ đúng lời.Vừa nghe Điểm Thương Nông nói

vậy,mặt lão biến sắc,nhưng không dám phủ nhận,chỉ mắng lại:

-Ta thờ ai làm thầy mặc ta,việc gì đến mi?

Điểm Thương Nông bật cười nói:

-Sao ngươi dám buông lời xỉ mắng bọn ta?

Nam Hải Ngạc Thần lại chửi oang oang,vừa lúc lắc vừa giơ cây ngạc chuỷ

tiển lên đánh xuống.

Cây Ngạc chuỷ tiễn của Nam Hải Ngạc Thần cũng đầy những răng sắc

nhọn,chắng khác chi cây Lang nha bổng.Điểm Thương Nông đưa cây bồ

cào sắt mới đỡ được ba đòn,đã thấy hai tay tê buốt.

Phủ tiên Điếu Lăng Thiên Lý tung cần câu lên,ném dây câu ra,lưỡi câu

nhọn hoắt,nhằm móc mắt Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần tức mình nói:

-Mi làm trò gì thế?

Lăng Thiên Lý cười đáp:

-Lão phụ ngoại hiệu Nam hải điếu đồ,chuyên nghề đi câu cá sấu.

(đây là Lăng Thiên Lý muốn nói xỏ Nam Hải Ngạc Thần,vì Ngạc thần

nghĩa là thần cá sấu)

Nam Hải Ngạc Thần nói:

-Mi dốt như bò.Có ai mà câu được cá sấu bao giờ?Nó chỉ đớp một cái là

lưỡi câu của mi gẫy nát.

Lăng Thiên Lý nói:

-Mi thử đớp ta coi.

Dây câu lại tung ra,nhằm miệng Nam Hải Ngạc Thần móc vào. Nam Hải

Ngạc Thần liền tung roi ngạc vĩ tiên lên quấn lấy.Roi lớn dây câu nhỏ,Phủ

tiên Điếu không dám để cho quấn vào nhau,giật mạnh cần câu một cái,dây

câu bay lên trên không,thành đường vòng tròn nhằm sau gáy Nam Hải Ngạc

Thần chụp xuống.

Bảo Định Đế quan sát khắp các nơi tranh đấu,thấy bên mình không có chỗ

nào lâm nguy. Chỉ có cặp Tu la đao của Tần Hồng Miên là linh động,biến

ảo khôn lường,lưỡi đao lai tẩm thuốc độc ghê gớm.Thư Bạch Phụng võ

công cũng không kém sút.Nhưng chỉ e lưỡi Tu la đao quệt vào người một

chút cũng có thể nguy đến tính mạng.Nhà vua liền hạ lệnh cho Cao Thăng

Thái:

-Ngươi ở đây lược trận,nếu thấy nguy hiểm cho Vương phi,thì phải lập tức

đoạt lấy Tu la đao của Tần Hồng Miên.

Cao Thăng Thái vâng lời,ung dung đứng một bên,hai tay chắp sau

lưng,ngắm mây bay trên trời.Tuy bốn bề gươm đao đánh nhau loảng xoảng

mà Thiện Xiển Hầu Cao thăng Thái vẫn phớt tỉnh như không thấy gì.

Bảo Định Đế đi rảo bước vào trong nhà,lên tiếng gọi:

-Dự con!Con ở chỗ nào?

Không thấy ai thưa,nhà vua lai vào cửa phòng bên trái để tìm Đoàn Dự. Đột

nhiên một bóng xanh lè như cây roi dài ngoe nguẩy nhằm cổ Bảo Định Đế

bay tới. Bảo Định Đế giật mình nhìn kỹ lại thì ra là một con rắn nhỏ sắc

xanh,liền đưa ngón tay ra búng một cái.Da thịt con rắn này tuy dầy và cứng

rắn lạ thường,vậy mà bị cái búng đứt làm hai khúc,rớt xuống đất quằn quại

mấy cái rồi nằm lăn ra chết đứ đừ.

Bỗng nghe tiếng cô gái la thất thanh:

-Trời ơi,ông này đánh chết con Thanh Linh của tôi rồi!

Bảo Định Đế thấy cô bé chừng 15,16 tuổi hoảng hốt ở phía sau cửa chạy

ra,hỏi ngay:

-Đoàn công tử ở đâu?

Cô bé hỏi lại:

-Ông kiếm Đoàn công tử làm chi?

Bảo Định Đế đáp:

-Ta đến cứu y.

Cô bé lắc đầu nói:

-Ông không cứu được đâu.Công tử bị giam trong nhà đá rất kiên cố,lại có

người canh giữ ghiêm ngặt.

Bảo Định Đế nói:

-Cháu cứ đưa ta đến,ra đánh bại người canh gác,xô đẩy tàng đá mở cửa cứu

y ra.

Cô gái vẫn lắc đầu nói:

-Không được đâu!Tôi đưa ông đến thì gia gia tôi sẽ giết tôi.

Bảo Định Đế hỏi:

-Gia gia cháu là ai?

Thiếu nữ đáp:

-Tôi họ Chung,gia gia tôi là chủ nhân động này.

Cô bé này chính là Chung Linh,sau khi ở núi Vô Lượng về,cô vẫn ở nhà.

Bảo Định Đế gật đầu nghĩ thầm:"Dù ta thí dổ hay bức bách y cũng mất cả

thể thống. Đoàn Dự đã ở đây,thế nào cũng tìm ra" Nghĩ vậy,nhà Vua trở ra

kiếm người dẫn đường cho mình.

Nhắc lại chuyện Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh ở trong nhà đá nghe

Thanh Bào Khách tự xưng là người ác số một trên thế gian,ngoại hiệu là ác

Quán Mãn Doanh thì kinh hãi vô cùng,trong lòng bối rối,tinh thần bạc

nhợc,rồi không hiểu sao hai người lại ngồi tựa vào nhau.

Đoàn Dự khẽ bảo:

-Uyển Thanh em ơi!Anh em ta mắc vào tay lão này thì vô phước mất rồi.

Mộc Uyển Thanh nói ú ớ,thấy mặt đỏ bừng như lửa đốt,liền rúc đầu vào

lòng Đoàn Dự cho đỡ nóng.Đoàn Dự vuốt tóc nàng.Quần áo hai người mồ

hôi ra ớt đẫm như vừa ngâm mình xuống nước.Nhiệt khí trong người bốc

lên,mũi thở hơi ra càng kích thích mạnh đối phương.Hãy nói một chàng trai

đầy nhựa sống ngồi bên cô gái đang tuổi dậy thì,không bị thuốc kích

động,cũng khó bề dập tắt lửa lòng.Huống chi lại bị "âm dương hoà hợp tán"

thúc đẩy con người vào vòng tội lỗi,dể khiến kẻ sĩ thẳng thắn trở nên dâm

dựt,người trinh nữ biến thành cô gái lẳng lơ.Chỉ một phut mê muội thì đến

bậc thánh hiền cũng hóa ra cầm thú.May mà Đoàn Dự tinh thần vẫn tỉnh

táo,không lúc nào quên thanh danh họ Đoàn. Chàng phải gắng gượng dẹp

lòng thú dục.

ác Quán Mãn Doanh Thanh Bào Khách đứng ngoài nói:

-Anh em mi mau mau hoàn thành hảo sự đi.Sinh con sớm ngày nào là thoát

khỏi vòng lao lung sớm ngày ấy.Ta đi đây.

Dứt lời,cành lá bức tường cây động rào rào.Lão đã đi xa rồi.

Đoàn Dự cất tiếng gọi to:

-Nhạc lão tam!Sư phụ ngươi gặp nạn.Ngươi may mau đến giải cứu!

Gọi mãi chẳng thấy ai thưa,chàng nghĩ thầm:"Trong lúc nguy cấp này mà ta

phải thờ lão làm thầy cũng đành.Thà thờ một người độc ác làm sư phụ để

chịu lỡ một đời mình,con hơn để luỵ đến gia gia cùng bá phụ" .Thế rồi

chàng gọi to hơn:

-Nam Hải Ngạc Thần!Tôi cam chịu thờ ông làm thầy đây,tôi nguyện ý làm

người nối nghiệp cho phái Nam Hải.Sư phụ mau mau đến cứu đồ đệ.Tôi

chêt thì không bao giờ ông kén chọn được đệ tử như tôi đâu.

Chàng gào rát cổ họng cũng chẳng thấy ma nào xuất hiện.

Bỗng Mộc Uyển Thanh cất tiếng hỏi:

-Đoàn Lang ơi!Em cùng chàng kết nghĩa phu thê,thì đứa con đầu lòng

chàng muốn trai hay gái?

Đoàn Dự mơ màng buột miệng đáp liền một tiếng:

-Trai.

Bất thình lình,bên ngoài có tiếng một cô gái nói vọng vào:

-Trời ơi!Đoàn công tử!Đoàn công tử!Công tử là anh ruột chị Uyển

Thanh,sao lại kết hôn được?

Đoàn Dự giật mình hỏi:

-Phải.. phải Chung cô nương đó không?

Cô gái đó chính là Chung Linh.Cô cả mừng đáp:

-Chính tôi đây!Tôi nghe trộm được lão ác nhân áo xanh nói chuyện mới biết

công tử ở đây.Tôi đang tìm cách cứu công tử ra khỏi nơi này.

Đoàn Dự cả mừng đáp:

-Nếu vậy hay!Nếu vậy hay!Cô nương mau đi lấy trộm thuốc giải độc cho

tôi.

Chung Linh đáp:

-Tôi tưởng tìm cách mở cửa nhà mật thất này cứu công tử trước hay hơn.

Đoàn Dự vội nói:

-Đừng đừng!Cô nương tìm thuốc mau đi.Tôi . . . tôi không chịu nổi nữa

rồi.Mau . . . mau lên,tôi muốn chết đây.

Chung Linh cả kinh hỏi:

-Sao mà không chịu nổi được nữa.Công tử đau bụng lắm à?

Đoàn Dự đáp:

-Không phải đau bụng . . .

Chung Linh lại hỏi:

-Vậy thế nhức đầu hay sao?

Đoàn Dự đáp:

-Tôi có nhức đầu đâu.

Chung Linh lại hỏi:

-Vậy công tử đau chỗ nào? Bệnh gì?

Đoàn Dự chỉ phải một tội không ngăn nổi tình dục,nhưng biết mở miệng nói

sao với một thiếu nữ.Chàng ấp úng:

-Toàn thân tôi khó chịu lắm,rất cần cô tìm lấy thuốc giải độc đến đây cho. .

Chung Linh chau mày nói:

-Công tử không nói rõ bệnh trạng thì biết lấy thuốc gì bầy giờ.Gia gia tôi

thuốc gì cũng có.Nhưng phải biết rõ:buốt óc,đau bụng,hay đau tim. . . mới

được chứ.

Đoàn Dự thở dài nói:

-Tôi chằng đau đâu hết,tôi. . .tôi ăn phải thứ thuốc kêu bằng "âm dương hoà

hợp tán"

Chung Linh vỗ tay cười nói:

-Công tử đã biết tên thuốc độc,thế là được rồi.Để tôi đi kiếm cho.

Nói xong,nàng bon bon chạy đi,nhảy vót lên đầu cành,chuyền qua bức

tường cây về nói với cha lấy thuốc giải âm dương hoà hợp tán.

Nào ngờ vừa nói đến âm dương hoà hợp tán ,bộ mặt ngựa của Chung Vạn

Cừu đã sa sầm, mắng luôn:

-Con nhãi này!Mi hỏi cái đó làm chi?Còn nói lăng nhăng nữa ta sẽ xẻo tai

đi?

Chung Linh vội đáp:

-Đâu phải con nói lăng nhăng. . .

Chưa dứt lời,bỗng đoàn người của Bảo Định Đế đến tấn công.Chung Vạn

Cừu vội chạy ra nghinh địch,bỏ mình Chung Linh ở lại trong phòng.

Chung Linh nghe tiếng gươm đao loãng choảng biết rằng hai bên đang đánh

nhau kịch liệt nhưng nàng mặc kệ không ra,lần lại tủ thuốc của cha tìm

kiếm.Chung Vạn Cừu có đến mấy trăm chai thuốc, chai nào cũng có đề tên

và chua rõ cách dùng.Song tìm mãi không thấy thuốc giải "âm dương hoà

hợp tán". Nàng chưa biết tính sao,bỗng nghe tiếng phá cửa,liên không do

dự gì cả,quảng ngay con Thanh Linh ra.Nào ngờ con Thanh Linh mình

đồng ra sắt,mà không chịu nổi một cái búng của Bảo Định Đế,chết ngay lập

tức.

Đoàn Dự chờ lâu không thấy Chung Linh trở lại,lửa dục lên đến tột độ,mấy

lần ôm chặt Mộc Uyển Thanh vào lòng.Sau cùng chang không chịu nổi

nữa,liền bảo nàng:

-Thanh em ơi!Anh đành chịu chết thôi.Cho anh một mũi tên độc.

Mộc Uyển Thanh thều thào nói:

-Em không cho.

Rồi nàng thò tay ra nắm chặt lấy tay chàng.Đoàn Dự dùng hết sức đâm thọc

bàn tay vào bụng cho vỡ ra,tay chàng bỗng đụng vào một vật rắn chắc,thì ra

cái hộp đựng "Mãng Cổ chu cáp" giắt trong mình.Chàng sực nhớ ra ,nhủ

thầm:"Âu là ta cho Mãng Cổ Chu Cáp ra gọi đàn rắn độc về cắn chết ta đi là

xong."

Chàng liền mở nắp hộp cho đôi mãng cổ chu cáp kêu oang oang.Nhưng vì

trong hang Vạn Kiếp này,Chung Linh thường thả con Kim Linh và con

Thanh Linh ra chơi,các loài rắn độc sợ hai con rắn thần này nên xa lánh

hết,không có con nào ở gần,nên không nghe tiếng Mãng Cổ Chu Cáp.Đoàn

Dự không thấy rắn độc đến mà mình thì miệng nóng,lưỡi khô,mổ hôi ra như

tắm,chàng nghĩ bụng:"Đôi mãmg cổ chu cáp này đã chế phục được các

giống rắn độc thì hẳn nó còn độc hơn rắn nhiều". Chàng chẳng cần suy nghĩ

gì nữa,lấy một con bỏ vào mồm ăn.

Ăn xong một con,chàng thấy trong người mát mẻ dễ chịu,chàng liền ăn nốt

con thứ hai, Mộc Uyển Thanh thấy chàng đầu bù tóc rối,miệng đầy máu

tươi,khiếp quá.

Đoàn Dự ăn xong hai con mãng cổ chu cáp,thở lên hồng hộc chỉ chờ cho

chất độc hai con rắn ấy phát ra,kết quả tánh mạng mình để khỏi chịu đựng

ngọn lửa lòng nung nấu tâm can đến cực độ.

Lại nói đến Bảo Định Đế trở ra tìm người dẫn đường cho mình vào sau có

tiềng chân người chạy theo,quay đầu nhìn thì ra Chung Linh bèn đứng lại

chờ.

Chung Linh vừa chạy vừa gọi:

-Ông ơi!Tôi tìm không thấy thuốc giải độc.Tôi đưa ông đến nhà mật

thất,liệu ông có đẩy được tảng đá lớn đóng cửa cái nhà đó không?

Bảo Định Đế chẳng hiểu nàng nói gì,hỏi lại:

-Cháu nói thuốc giải độc gì?Tảng đá lớn nào?

Chung Linh đáp:

-Ông theo tôi đến đó sẽ rõ.

Đường lối trong hang Vạn Kiếp tuy khuất khúc nhưng có Chung Linh dẫn

đi,thoáng cái đã đến bức tường cây.Chung Linh còn đang ngơ ngác ,chưa

biết tính cách nào cho ông trèo lên,chỉ vút một cái,Bảo Định Đế đã nhảy lên

trên không,vượt tường cây một cách dễ như chơi.Chung Linh vỗ tay khen:

-Tuyệt quá!Tuyệt quá!Trời ơi!Dễ ông này biết bay chắc?

Người ngồi gác thạch thất chính là Thanh bào quái khách,Chung Linh sợ

quá nói khẽ:

-Chúng ta chạy đi thôi ông ạ.Đợi lão đi rồi sẽ trở lại.

Bảo Định Đế nhìn thấy Thanh Bào Khách cũng rất lấy làm kỳ dị,vỗ về bảo

Chung Linh:

-Có ta đây,cháu đừng sợ gì hết!Phải chăng Đoàn Dự bị nhốt trong nhà đá

kia?

Chung Linh gật đầu, chui vào sau lưng Bảo Định Đế, Bảo Định Đế ung

dung tiến lại gần Thanh bào khách nói:

-Xin tôn giá chiều ta một chút,tránh sang bên cho!

Thanh bào khách tựa như không nghe tiếng,vẫn ngồi yên không nhúc nhích.

Bảo Định Đế nói:

-Tôn giá không chịu tránh ra,thì đừng trách ta vô lễ.

Dứt lời,nghiêng mình lướt qua mặt Thanh Bào Khách,đưa tay lên tảng đá

lớn,toan đẩy. Bỗng thấy Thanh Bào khách rút bên sờn ra một cành trúc

nhằm đúng huyệt " Khuyết bồn" Bảo Định Đế.Ngọn roi chỉ rung động bên

ngoài,chứ không điểm vào người.Nhưng một khi Bảo Định Đế vận nội lực

đẩy tảng đá là sẽ bị cành trúc điểm huyệt tức khắc, không còn cách nào

tránh kịp.

Bảo Định Đế biết chừng nghĩ thầm:"phép điểm huyệt của lão này xem ra có

vẻ đến mức tuyệt cao,trên thế gian sao cũng có người giỏi môn này."Ông

liền giơ tay phải lên khẽ đánh một luồng chường lực,tay trái luồn xuống

dưới tay phải,đặt lên tảng đá đóng cửa thạch thất.

Cành trúc của Thanh bào khách chuyển hướng nhằm huyệt"Thiên đia" Bảo

Định Đế.

Chưởng lực Bảo Định Đế chuyển nhanh như gió,liền một lúc thay đổi đến

bảy phương vị,mà lần nào cũng bị Thanh bào khách chống chế rất tài tình.

Hai tay cao thủ gặp nhau,đòn đánh ngang nhau,biến hoá mau le cũng tương

đương, thành ra Bảo Định Đế không được rảnh tay chút nào để vận nội công

đẩy tảng đá.

Bảo Định Đế thấy Thanh bào khách cùng mình không phân cao thấp,so với

Đoàn Chính Thuần thì lão còn cao hơn một bực.Ông lại hất tay trái đánh

xéo lên một chưởng,bỗng nghe xuỳ một tiếng,chưởng pháp vụt biến thành

phép điểm huyệt "nhất dương chỉ", điểm lên cành trúc.Giả tỷ mà điểm trúng

thì đừng nói cành trúc,mà đến cành gang thép đúc nên cũng bị bẻ cong

lại.Không ngờ cành trúc phát ra một tiếng véo điểm ngược lại.Hai luồng

chưởng lực chạm nhau trên không trung mà Bảo Định Đế bị hất lùi lại còn

Thanh bào khách cũng bị rung chuyển.Trên mặt Bảo Định Đế loé ra những

ánh hồng quang,trên mặt Thanh Bào Khách cũng thoáng hiện một luồng

thanh khí.

Bảo Định Đế rất lấy làm kỳ nghĩ thầm:người này không những võ công

tuyệt cao,mà rõ ràng đối với ta có mối liên hệ chi đây.Cái cành trúc kia

dùng làm trượng pháp cũng na ná như phép nhất dương chỉ.Nghĩ vậy liền

chắp tay hỏi:

-Tiền bối quý tính đại danh là chi?Xin cho biết.

Bỗng nghe tiếng người hỏi lại:

-Ngươi là Đoàn Chính Minh hay Đoàn Chính Thuần?

Bảo Định Đế thấy lão không nhếch mép mà nói được,lại càng rất đỗi ngạc

nhiên,trịnh trọng đáp:

-Tôi là Đoàn Chính Minh.

Thanh Bào Khách lại hỏi:

-Phải chăng ngươi là đương kim Hoàng đế nước Đại Lý?

Bảo Định Đế đáp:

-Chính phải.

Thanh Bào Khách lại hỏi:

-Võ công ngươi so với ta,ai hơn?

Bảo Định Đế trầm ngâm một lát rồi đáp:

-Kể về võ công thì tiền bối hơn tôi chút đỉnh,nhưng đánh nhau thực sự thì

tôi thắng tiền bối.

Thanh Bào Khách nói:

-Ngươi nói đúng lắm!Thân ta tàn tật thế này thì sức lực bằng ngươi thế nào

được.Thế ra lên ngôi hoàng đế rồi,ngươi vẫn không chút sao lãng việc luyện

võ?

Tiếng lão tuy từ trong bụng thốt ra,vẫn lộ vẻ ảo não thất vọng. Bảo Định Đế

nghĩ mãi không ra lai lịch lão.Trong óc nảy ra vô số nghi vấn,bỗng nhiên từ

trong thạch thất vọng ra một tiếng hét lớn,rõ ràng tiếng Đoàn Dự.

Bảo Định Đế gọi to:

-Dự con!Con làm sao thế?Con hãy cứ yên tâm,có ta đến cứu đây.

Đoàn Dự từ lúc nuốt đôi mãng cổ chu cáp,lúc đầu thấy mát ruột dễ

chịu.Ngờ đâu mãng cổ chu cáp là một vật kỳ dị,hiếm có trên thế gian do

dương khí thuần nhất sinh ra.Giả tỷ Mộc Uyển Thanh ăn vào,thì âm dương

giao hợp,lập tức tiên tan được chất độc trong người.Nhưng Đoàn Dự dương

khí đã thịnh,nuôt mãng cổ chu cáp vào chẳng khác chi lửa cháy đỏ thêm

dầu,nhiệt khí nung nấu không thể chịu thêm được,phải mở miệng hét lên

một tiếng thật to,uất kết trong người mới nhẹ đi được đôi chút.

Bên ngoài Bảo Định Đế cùng Thanh bào khách đối thoại cả đến câu Bảo

Định Đế biểu "hãy cứ an tâm" có lọt vào tai chàng,mà chàng chẳng hiểu gì

ráo.

Thanh bào khách nói tiếp:

-Thằng lỏi này bản lãnh nó gớm thật,ta đã cho nó uống âm dương hoà hợp

tán mà nó còn chống trọi được đến bây giờ.

Bảo Định Đế giật mình hỏi:

-Tiền bối cho nó uống thuốc dâm độc đó là có ý gì?

Thanh bào khách đáp:

-Ta nhốt cả con em gái nó trong thạch thất này.

Bấy giờ Bảo Định Đế mới hiểu rõ mưu sâu kế độc của lão.Tuy nhà vua đã

tu tâm dưỡng tánh mà không nhẫn nại được nữa,phải nổi trận lôi đình,phất

tay áo một cái điểm huyệt lão già quái ác, nhà vua lại phóng chỉ lực sức

mạnh ở ngón tay điểm huyệt"đản trung" , một yếu huyệt trí mạng.

Bảo Định Đế đã yên trí thế nào lão cũng đưa toàn lực ra để phản ứng.Nào

ngờ lão bật lên hai tiếng cười "hích hích" rồi ngôi yên chịu chết, chứ không

né tránh,cũng không chống đối.

Ngón tay Bảo Định Đế vừa chạm tới áo ngoài,trong bụng sinh nghi lập tức

thu ngón tay về hỏi:

-Tại sao tiền bối cam tâm chịu chết?

Lão đáp:

-Ta được chết dưới tay ngươi thì còn gì hay bằng.Vì tội nghiệp họ Đoàn lại

tăng thêm một từng nữa.

Bảo Định Đế hỏi:

-Tiền bối là ai?

Thanh bào khách nói rất khẽ chỉ đủ cho Bảo Định Đế nghe rõ.

%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%

Người áo xanh là ai

Bảo Định Đế nghe Thanh bào khách nói, biến sắc đáp:

- Tôi không thể tin ông được.

Thanh bào khách liền cầm gậy trúc sang tay trái, đưa ngón tay trỏ bên phải

ra đánh vèo ra điểm huyệt Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêng mình tránh

khỏi xong, trả đũa luôn một ngón.

Thanh bào khách cùng Bảo Định Đế lại lần lượt đến ngón tay giữa, ngón vô

danh, ngón út rồi sau cùng là ngón cái đều theo đúng phép "Nhất Dương

Chỉ" ăn miếng trả miếng.

Chung Linh đứng bên nhìn thấy lạ mắt, động tính hiếu kỳ của trẻ thơ, quên

cả sợ hãi ông già áo xanh cười hỏi:

- Hai ông chơi trò oản tù tỳ đấy ? Hết ông này đưa tay lại đến ông kia chìa

ngón. Như vậy ai thua ai được?

Nàng vừa nói vừa lân la lại gần, thốt nhiên một luồng gió cực mạnh thổi

đến, Chung Linh đang nẩy người lên một cái, tựa như bị mũi dao nhọn đâm

vào trước ngực, thì Bảo Định Đế đánh hất lại một chưởng đẩy người nàng

lùi lại phía sau. Nàng sợ run, mặt tái mét. Bảo Định Đế giữ cho nàng đứng

lại được rồi hỏi:

- Liệu cháu có bị nguy đến tính mạng không?

Chung Linh kêu "ối" lên một tiếng, miệng hộc máu tươi ra, run lập cập đáp:

- Ông... ông kia muốn giết tôi.

Bảo Định Đế lắc đầu đáp:

- Không phải đâu! Ông ấy đang cùng ta tỷ thí võ công, người ngoài chớ có

đến gần.

Đoạn đưa tay ra vỗ nhẹ lưng nàng mấy cái để an ủi.

Thanh bào khách hỏi Bảo Định Đế:

- Bây giờ ngươi đã tin lời ta cha?

Bảo Định Đế vội tiến lên mấy bước, khúm núm lạy phục xuống nói:

- Chính Minh này xin bái kiến tiền bối.

Thanh bào khách nói:

- Ngươi chỉ gọi ta bằng tiền bối thôi ? Thế là ngươi chưa tin nên mới

không nhận ta.

Bảo Định Đế nói:

- Chính Minh này làm chúa tể một nước, trên vai nặng trĩu gánh sơn hà đâu

dám có hành động lỗ mãng, cẩu thả? Mình đã không con, dòng dõi chính

thống lại còn một mình Đoàn Dự, xin tiền bối rộng lượng buông tha y ra.

Thanh bào khách đáp:

- Ta chỉ cần cho họ Đoàn nước Đại Lý loạn luân, thất đức, tuyệt diệt dòng

giống, đã ráng chờ cho có ngày nay, có lý đâu lại nới tay một cách dễ dãi

thế được?

Bảo Định Đế to tiếng:

- Đoàn Chính Minh này nhất định không để cho tiền bối làm như vậy đâu.

Thanh bào khách cũng hằn học:

- Trời ơi! Ngươi cứ tự xưng là Hoàng đế nước Đại Lý. Ta cho ngươi chỉ là

kẻ loạn thần tặc tử, đã mưu đồ chiếm đoạt ngai vàng mà thôi. Ta thách

ngươi có giỏi thì về điều động cả thần sách quân lẫn ngự lâm quân tới đây.

Ta nói cho ngươi hay: dù thế lực ta còn kém ngươi xa, nhưng ta giết thằng

giặc non Đoàn Dự dễ như trở bàn tay.

Nét mặt Bảo Định Đế hết xám xanh lại trắng bợt. Ông biết rằng lão nói thật.

Đừng nói đến chuyện điều động thần sách quân cùng ngự lâm quân tới, mà

mình chỉ thêm một tay giúp sức là lão cũng không địch nổi rồi. Nhưng lúc

đó lão sẽ gia hại Đoàn Dự ngay tức khắc. Huống chi lão còn là tiền bối

mình, kẻ dưới không nên xúc phạm người trên cho loạn mối cương thờng.

Nghĩ vậy nhà Vua đành đánh lá bài xử nhũn:

- Vậy tiền bối muốn thế nào sẽ phóng xá Đoàn Dự xin cho biết!

Thanh bào khách đáp:

- Điều đó phỏng có khó gì? Ngươi phải xuất gia đầu Phật, nhường đế vị lại

cho ta, ta sẽ tha nó.

Bảo Định Đế nói:

- Cơ nghiệp của tổ tiên truyền đời để lại, tôi đâu dám tự tiện chắp tay đem

dâng cho người?

Thanh bào khách lại nói:

- Vậy thì ngươi phải ráng chờ. Khi nào Đoàn Dự cùng em gái ăn ở với nhau,

sanh hạ được chút con, bất luận trai hay gái ta sẽ tha ra.

Bảo Định Đế vẫn ngọt nhạt:

- Nếu vậy thì thà rằng tiền bối giết y đi còn hơn.

Thanh bào khách lại nói:

- Ngoài ra còn có hai đờng để giải quyết: một là ngươi lừa lúc ta không

phòng bị, ám toán giết ta đi rồi ngươi tự ý tha nó ra.

Bảo Định Đế nói:

- Không đời nào tôi ám toán giết tiền bối.

Thanh bào khách tiếp:

- Nói vậy thì nói chứ ám toán ta đâu phải chuyện dễ dàng? Còn đường thứ

hai nữa là ngươi bảo Đoàn Dự đem phép Nhất Dương Chỉ ra đấu với ta. Nếu

thắng tự nhiên y sẽ tẩu thoát.

Nói xong lão cười sằng sặc trong cổ họng. Bảo Định Đế nổi giận nhưng cố

nén, chậm rãi nói:

- Đoàn Dự không biết chút võ nghệ nào chứ đừng nói gì đến phép Nhất

Dương Chỉ nữa.

Thanh bào khách đáp:

- Trai họ Đoàn mà bảo rằng không biết Nhất Dương Chỉ thì ai tin được?

Bảo Định Đế nói:

- Đoàn Dự từ thuở nhỏ học Thi, Thư cùng kinh Phật, tâm địa từ bi, kiên

quyết không chịu học võ.

Thanh bào khách nói:

- Đó chỉ là một lối giả nhân nghĩa. Hạng ấy mà lên ngôi Vua thì chưa chắc

đã là hạnh phúc cho lê dân Đại Lý, giết quách đi là hơn.

Bảo Định Đế xẵng giọng hơn:

- Xin tiền bối cho biết còn đường lối nào khác nữa không?

Thanh bào khách đáp:

- Ngươi còn hỏi chi đến đường lối nào khác? Giả tỷ năm nọ có đường lối để

thoát thì ta đâu đến nỗi thân tàn ma dại thế này? Kẻ khác không cho ta lối

thoát có lý đâu ta chịu tìm lối thoát cho các ngươi?

Bảo Định Đế cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi vẻ mặt cương quyết gọi to:

- Dự con ơi! Ta sẽ tìm cách cứu con ra khỏi chốn lao lung. Con chớ quên

mình là con cháu họ Đoàn nghe!

Bỗng nghe Đoàn Dự la lớn:

- Bá phụ ơi! Bá phụ lại gần đây đem phép Nhất Dương Chỉ ra xử tử cháu đi

cho rồi.

Bảo Định Đế giật giọng hỏi:

- Thế nào? Mi làm bại hoại gia phong họ Đoàn rồi sao?

Đoàn Dự đáp:

- Không! không phải thế. Cháu thấy trong lòng nóng như thiêu như đốt,

không thể sống được nữa.

Bảo Định Đế nhủ:

- Con người ta sống chết có số mệnh, con đành phó mặc Hoàng thiên tới

đâu hay đó.

Đoạn nhà Vua cầm tay Chung Linh vừa nhảy qua bức tường cây vừa nói:

- Tiểu cô nương! Đa tạ cháu đã đa đường cho ta, sau này sẽ có ngày trả ơn.

Rồi theo lối cũ đi ra trước cửa toà nhà chính. Lúc đó mọi người giao đấu,

phân thắng bại đã hơi rõ rệt: Phủ tiên điếu Lăng Thiên Lý cùng Điểm

Thương Nông Đổng T Quy hai người hiệp lực đánh Nam Hải Ngạc Thần

đã có vẻ thắng thế. Bút Mặc Sinh Chu Đan Thần cùng Thái Tân Khách Tiêu

Đốc Thành đã uy hiếp được thanh bạc đao của Diệp Nhị Nương. Cây phất

trần của Thư Bạch Phụng vây bọc cặp Tu la đao của Tần Hồng Miên xem

chừng đã khó bề xoay sở. Ngoài hiên bên kia cặp giò Vân Trung Hạc tuy

vẫn lanh lẹ dị thường nhưng miệng đã thở hồng hộc như trâu cày mệt nhọc

mà Ba Thiên Thạch vẫn nhảy lên chồm chồm, còn đang sung sức. Thiện

xiển hầu Cao Thăng Thái vẫn chắp hai tay để sau lưng, thủng thẳng đi lại

ung dung, có vẻ nắm chắc phần thắng về phe mình. Tuy ông giả bộ chẳng

quan tâm gì đến những trận chiến đấu khốc liệt xung quanh nhưng kỳ thực

mắt nhìn khắp sáu mặt, tai nghe hết tám phương, tinh thần sáng suốt bao

trùm cả cục diện. Vì thấy phe mình không ai lâm vào tình trạng nguy kịch

nên Hầu chẳng cần ra tay tiếp viện.

Bảo Định Đế không thấy em đâu liền hỏi:

- Chú Thuần đâu?

Cao Thăng Thái tâu:

- Trấn Nam Vương đang đuổi Chung động chúa để đi tìm Đoàn công tử.

Bảo Định Đế hạ lệnh:

- Công việc nơi đây sẽ có kế hoạch khác, các ngươi hãy ngừng tranh đấu để

quay về đã.

Ba Thiên Thạch nghe lệnh bỗng nhiên đứng lại. Vân Trung Hạc nhảy bổ

tới, Ba Thiên Thạch thừa cơ đánh vút ra một chưởng. Vân Trung Hạc đưa cả

hai tay ra chống đỡ cảm thấy trong người nôn nao, rồi miệng trào máu tươi

ra. Y cố gượng trấn tĩnh nhưng mắt hoa lên, nhìn không rõ đường quyền

đánh tới đành phải bỏ chạy. Ba Thiên Thạch cũng không đuổi theo, chỉ cười

hềnh hệch nói:

- Ta đã biết sức nhau rồi.

Đoàn Chính Thuần ở trong bụi rậm đi ra hỏi Bảo Định Đế:

- Hoàng huynh đã tìm thấy chỗ thằng Dự chưa?

Bảo Định Đế gật đầu đáp:

- Tìm thấy rồi! Ta hãy về thành rồi sẽ nói chuyện.

Bọn Lăng Thiên Lý, Chu Đan Thần thấy nhà vua hạ lệnh đình chiến cũng

đều muốn dừng tay song phe Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Tần

Hồng Miên đang hăng không chịu bãi chiến cứ đánh hoài. Bảo Định Đế

chau mày nói:

- Chúng ta đi thôi!

Cao Thăng Thái "vâng" một tiếng, đoạn rút ống ngọc địch ra, ống tay áo

rộng lùng thùng, bay phất phới nhằm đánh vào sau lưng Tần Hồng Miên.

Tần Hồng Miên cất tiếng mắng liền:

- Bọn mi cậy đông ngời để thủ thắng sao không biết thẹn?

Bỗng nghe hai tiếng "loảng choảng", ngọc địch đã đánh trúng vào hai ngọn

Tu la đao của Tần Hồng Miên. Cặp đao phải hạ thấp xuống, Thư Bạch

Phụng liền nhân lúc đó quay lại, nhảy ra đằng sau.

Cao Thăng Thái phất tay áo lùng thùng một cái, phát ra một luồng kình

phong cản Tần Hồng Miên lại, không cho đuổi theo nữa. Rồi cầm ngọc địch

nhằm Nam Hải Ngạc Thần đánh tới, đoạn hất tay đánh sang Diệp Nhị

Nương. Cả hai đòn này đều nhằm đánh vào huyệt trọng yếu đối phương.

Nam Hải Ngạc Thần cùng Diệp Nhị Nương đồng thời kinh hãi lùi lại phía

sau ba bước.

Thực ra thì võ công Cao Thăng Thái đâu có thể lấy một chọi ba được nhưng

ông đứng lược trận từ lâu, nhìn nhận kỹ càng, rồi đột nhiên sử dụng đòn

tuyệt kỹ để đối phó với cả ba người cùng một lúc khiến họ nhất thời phải

hoang mang, chân tay quờ quạng, tuy ông vẫn ung dung như không. Thực

ra thì ba đòn này ông đã tốn không biết bao nhiêu công phu tập luyện và đã

phải dùng toàn lực thi thố. Hơn nữa ông đã suy đi tính lại rất kỹ, ba đòn này

cực kỳ hiểm độc, đối phương chỉ còn một lối lùi lại phía sau để tránh, tuyệt

không còn cách nào để trả đòn lại được.

Nam Hải Ngạc Thần giương đôi mắt ti hí lên mà nhìn Cao Thăng Thái, vừa

kinh hãi vừa bội phục nói:

- Mẹ cái thằng cừu non này gớm thật, ta không ngờ...

Lão không thốt ra hết lời nhưng ý lão định nói: Ta không ngờ mi ghê gớm

đến thế, ta đây khó có thể ăn đứt được thằng lỏi này.

Thư Bạch Phụng hỏi Bảo Định Đế:

- Tâu Hoàng huynh! Cháu Dự có sao không?

Bảo Định Đế tuy trong lòng rất lo ngại nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ thản

nhiên đáp:

- Không sao đâu! Thật là cơ hội rất tốt để rèn luyện cho y. Chỉ mấy hôm

nữa là ra được. Thôi ta hãy về Triều rồi sẽ nói chuyện.

Bảo Định Đế đi đầu, vợ chồng Đoàn Chính Thuần nối gót rồi đến bọn tuỳ

tùng. Sau bọn tuỳ tùng là bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Độc. Cao Thăng Thái đi

hậu đoạn, vì mấy đòn vừa đây Cao đã làm bên địch khiếp sợ. Nam Hải

Ngạc Thần hung hãn là thế mà cũng không dám đuổi theo khiêu chiến.

Đoàn Chính Thuần đi chừng mời trượng không nhịn được, phải quay lại

nhìn theo Tần Hồng Miên. Tần Hồng Miên cũng run run nhìn theo ông.

Bốn mắt gặp nhau, hai bên đều có vẻ ngẩn ngơ.

Nam Hải Ngạc Thần quát hỏi:

- Con cừu kia! sao không cút đi cho lẹ, còn tiếc rẻ cái gì? Hay muốn chơi

nhau với lão gia đây một trận nữa?

Đoàn Chính Thuần giật nảy mình, vội quay mặt về phía trước thấy vợ đang

trố mắt nhìn mình ông đành phải rảo bước chạy theo, ra khỏi hang Vạn

Kiếp.

Đoàn người về đến nước Đại Lý, Bảo Định Đế bảo mọi người vào luôn

trong cung thương nghị. Vào đến thư phòng, chia thứ bậc an toạ xong, Vua

truyền cho nột thị lui ra rồi đem tình hình Đoàn Dự bị giam giữ thuật lại.

Bấy giờ mọi người mới hiểu việc này mấu chốt đều ở cả trong tay Thanh

bào khách. Nhưng lại nghe Bảo Định Đế nói: không những lão đã giỏi phép

Nhất Dương Chỉ mà võ công cũng hơn ngài một bậc nên không ai dám nói

gì.

Ta nên nhớ rằng phép Nhất Dương Chỉ họ Đoàn chỉ truyền cho con trai chứ

không truyền cho con gái. Thanh bào khách đã hiểu phép này tất nhiên phải

là con cháu chính phái họ Đoàn.

Mọi người nghe Bảo Định Đế nói đều cả kinh thất sắc. Đoàn Chính Thuần

nói:

- Thái tử Diên Khánh đã qua đời rồi còn đâu? Chắc lão này mạo nhận đó

thôi.

Bảo Định Đế thở dài nói:

- Tên tuổi thì còn có thể nhận càn chứ phép "Nhất Dương Chỉ" thì có lý nào

giả mạo được? Học võ phải đường hoàng, nếu nghe trộm học lỏm thì chỉ là

hạng tầm thường trong phái võ lâm. Nội công tâm pháp những kẻ học lỏm

có đâu đến mực cao siêu như lão? Lão đích là thái tử Diên Khánh rồi không

còn nghi ngờ gì nữa.

Đoàn Chính Thuần ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp:

- Đại ca đã nhận rõ lão là thái tử Diên Khánh thì dù sao cũng dòng giống họ

Đoàn, vì lẽ gì lão lại cố làm bại hoại gia phong nhà ta?

Bảo Định Đế nói:

- Lão khắp người tàn tật nên tính tình kỳ dị, nhất thiết không thể lấy lý lẽ

thông thường mà lường được. Lão ôm một mối căm thù bất diệt, cố tìm

cách phá hoại được thanh danh anh em ta mới hả giận.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Đại ca lên ngôi báu đã được bấy nhiêu lâu, thần dân đội đức, bốn cõi yên

vui. Đừng nói là thái tử Diên Khánh xuất hiện, giả tỷ Thượng Đế Đức có

phục sinh cũng không trở lại ngôi Vua được nữa.

Cao Thăng Thái cũng đứng lên tâu:

- Lời Trấn Nam Vương thật là chí lý. Thái tử Diên Khánh biết điều trao trả

Đoàn công tử thì thôi bằng không thì ta không thể nhìn nhận ông là người

đứng đầu bốn nhân vật kỳ dị trên đời này nữa mà chỉ coi ông là kẻ thất phu,

ai cũng có quyền tru lục. Bất luận võ công ông ta cao đến mực nào cũng

không thể địch lại số đông.

Nguyên mười bốn năm trước đây, Thượng Đức Đế Đoàn Liêm Nghĩa trị vì

nước Đại Lý. Nhằm năm Thượng Đức thứ 5, Thượng Đức Đế bị gian thần là

Dương Nghĩa Trinh giết chết. Sau người cháu gọi Thượng Đức Đế bằng bác

là Đoàn Thọ Huy được vị trung thần Cao Trí Thăng phò tá giết Dương

Nghĩa Trinh, đưa lên kế vị hiệu là Thượng Minh Đế. Thượng Minh Đế

không muốn làm Vua, trị vì được 1 năm rồi xuất gia đầu Phật nhường ngôi

báu lại cho đường đệ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế. Đoàn Liêm

Nghĩa có sinh được một người con trai là thái tử Diên Khánh, song sau khi

gian thần Dương Nghĩa Trinh giết Vua cướp ngôi không thấy thái tử Diên

Khánh đâu nữa. Ai cũng cho là thái tử Diên Khánh bị Dương Nghĩa Trinh

hạ sát rồi.

Nhắc lại Bảo Định Đế nghe lời Cao Thăng Thái tâu, lắc đầu nói:

- Ngôi báu này chính là của thái tử Diên Khánh, chỉ vì khi trước không tìm

thấy người nên Thượng Minh Đế mới lên kế vị, sau Thượng Minh Đế truyền

lại cho ta. Nay thái tử Diên Khánh đã trở về, lý đương nhiên ta phải trả ngôi

báu lại cho người.

Đoạn nhìn Cao Thăng Thái nói tiếp:

- Giả tỷ lệnh tôn mà còn dĩ nhiên cũng nghĩ như ta.

Nguyên Cao Thăng Thái là con vị công thần Cao Trí Thăng. Hồi đó sở dĩ

trừ gian giệt nịnh được toàn là nhờ công Cao Trí Thăng cả.

Cao Thăng Thái tiến lên một bước, nằm phục xuống đất tâu:

- Tiên phụ kẻ vi thần này tuy có dạ trung chúa yêu dân thật nhưng Thanh

bào khách này là người đứng đầu bọn Tứ ác, giả tỷ mà ông lên làm vua

nước Đại Lý, sửa trị muôn dân thì trăm họ điêu linh biết bao nhiêu mà kể.

Việc chúa thượng định nhường ngôi này, kẻ vi thần là Cao Thăng Thái dù

tội đáng muôn thác cũng không dám tuân lệnh.

Lăng Thiên Lý cũng phủ phục tâu:

- Thần là Lăng Thiên Lý đã nghe Nam Hải Ngạc Thần, người thứ ba trong

Tứ ác hú lên những tiếng ghê hồn, biểu người đứng đầu Tứ ác là ác quán

mãn doanh. Nếu ác quán mãn doanh không phải là thái tử Diên Khánh thì

dĩ nhiên không thể lên ngôi báu được rồi, giả tỷ lão chính là thái tử Diên

Khánh thì cũng dâm ác bằng mấy Nam Hải Ngạc Thần. Chúa thượng nỡ để

lão lên sửa trị muôn dân nước Đại Lý này cho giang sơn điên đảo, xã tắc

khuynh nguy hay sao?

Bảo Định Đế khoát tay nói:

- Hai người hãy đứng dậy. Lời các ngơưi quả là có lý, nhưng Đoàn Dự đã

mắc vào tay thái tử Diên Khánh ngoài việc ta nhường ngôi lại cho người

phỏng còn cách nào lấy được thằng Dự ra?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Bẩm đại ca! Xưa nay chỉ có chuyện vua cha lâm nạn, kẻ làm tôi con phải

lăn vào cứu cấp. Thằng Dự tuy là đứa cháu thương yêu của đại ca nhưng có

lý đâu vì y mà đại ca phải bỏ ngôi trời? Vậy thì y có thoát nạn cũng thành

kẻ đại tội ở nước Đại Lý.

Bảo Định Đế đứng lên, tay trái vuốt chòm râu dài, hai ngón tay phải gõ nhẹ

vào trán, bước thủng thỉnh đi trong thư phòng. Mọi người đều biết khi gặp

việc khó giải quyết ngài thường có cử chỉ như vậy để xuất thần suy nghĩ nên

không ai dám lên tiếng, để ngài được tĩnh trí.

Bảo Định Đế đi đi lại lại hồi lâu rồi nói:

- Thái tử Diên Khánh là một tay rất hiểm độc, cho thằng Dự uống "Âm

dương hoà hợp tán". Chất thuốc này phát động ghê gớm, người tầm thờng

khó lòng chống chọi nổi. Chỉ sợ... chỉ sợ lúc này thuốc độc làm cho y mê

muội rồi cũng chưa biết chừng. Than ôi đó là tại người ngoài bầy ra mưu

sâu kế độc, chứ nào phải tại y, mình trách y thế nào được?

Đoàn Chính Thuần cúi gằm mặt xuống, xấu hổ vô cùng. Ông tự trách mình:

Hoạ này xét cho cùng chỉ tại mình quá lãng mạn gây ra.

Bảo Định Đế quay đầu lại hỏi Cao Thăng Thái:

- Thăng Thái! Con gái ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

Thăng Thái tâu:

- Tiểu nữ năm nay 18 tuổi.

Bảo Định Đế nói:

- Nếu vậy hay! Này Thuần đệ! Ta cho đưa sánh lễ sang bên Thiện xiển hầu

để hỏi Cao tiểu thư về làm dâu.

Nhà Vua lại gọi:

- Ba Tư Không! ngươi sang bàn với bộ Lễ sắp đồ nạp thái vấn danh, cùng

thảo luận các nghi tiết. Việc này càng làm rầm rộ càng hay, cốt cho khắp

nước Đại Lý đều biết tiếng.

Vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch nghe đức

Vua phán truyền, ai nấy đều sửng sốt song đều hiểu thâm ý của Ngài. Sở dĩ

ngài có hành động này là muốn bảo toàn thanh danh cho họ Đoàn lẫn Đoàn

Dự, cốt tỏ cho thiên hạ biết Đoàn Dự đã có vợ con hẳn hoi. Nếu rồi đây thái

tử Diên Khánh có biêu diếu rằng Đoàn Dự cùng em gái làm trò đồi bại thì

người ngoài chỉ cho là lão bịa chuyện phao vu, hay ít ra cũng gieo được mối

nghi ngờ vào lòng người.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Kế đó của Hoàng huynh quả là tuyệt diệu. Đệ có được nghe từ lâu Cao

tiểu thư tính hạnh đoan trang, tài mạo song toàn, thực là một mối tương

duyên. Có điều thằng Dự tính nết kỳ quặc, khó bảo. Đệ tưởng hãy chờ y

thoát khỏi tai nạn trở về, báo cho y biết, rồi hãy nạp sính hay hơn.

Bảo Định Đế nói:

- Ta vẫn biết tính y cố chấp. Anh em mình bảo y học phép Nhất Dương Chỉ

y cũng không chịu. Đúng là một đứa không biết điều hơn lẽ thiệt. Nhưng

hôn nhân là việc hệ trọng, phải tuỳ nơi cha mẹ xếp đặt, chẳng lẽ y dám cãi

lời vợ chồng Hoàng đệ hay sao? Việc này không những bảo vệ thanh danh

cho họ Đoàn mà còn có quan hệ đến cả đời y, nhất quyết y phải tuân lệnh.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Đệ thấy nói Cao tiểu thư gầy yếu lắm. Việc này nên bàn kỹ đã.

Bảo Định Đế vẻ mặt cương quyết nói:

- Gầy yếu thì đã làm sao? Cao hiền đệ đây võ nghệ cao cường sẽ truyền dạy

con gái chút ít phép hô hấp chỉ trong một vài năm là khoẻ mạnh ngay.

Đoàn Chính Thuần ngập ngừng nói:

- Chẳng qua...

Bảo Định Đế ngắt lời:

- Thuần đệ! Sao cứ gàn mãi là có ý gì vậy? Hay hiền đệ có điều gì bất mãn

với Cao đệ?

Đoàn Chính Thuần vội nói:

- Đâu có chuyện ấy? Cao hiền đệ với em như tình ruột thịt nay lại kết thân

gia nữa thì còn gì hay bằng? à... mà Ba Tư Không cũng có một vị tiểu thư...

rồi Phạm tư mã cũng còn những hai cô. Xin bàn lại xem sao đã.

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Tiểu nữ chưa đầy một tuổi, còn hai tiểu thư con quan Phạm Tư mã thì một

là con dâu tôi và một nữa cũng đã đính hôn cùng cậu con cả con quan tư đồ

họ Hoa.

Bảo Định Đế tỏ vẻ không bằng lòng gắt:

- Thuần đệ! Thiên thạch là quan đồng triều mà hiền đệ chưa biết những việc

đó sao?

Đoàn Chính Thuần thấy Hoàng huynh gay gắt không dám nói nữa.

Cao Thăng Thái nói:

- Trấn Nam Vương! Thăng Thái này cùng Vương gia chơi với nhau từ thuở

nhỏ, hai ta chưa có chuyện gì biết mà không nói, nói mà không hết. Vương

gia thấy tiểu thư có điều chi thất đức nên không muốn cho nó về làm con

dâu phải không? Xin Vương gia cứ nói thật đi! Tôi không để tâm đâu.

Đoàn Chính Thuần ngần ngừ một lát rồi nói:

- Đã thế tôi xin nói thực! Cao hiền đệ đừng giận nhé.

Cao Thăng Thái đáp:

- Xin Vương gia cứ nói thẳng, đừng úp mở gì.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Lệnh ái mất Từ mẫu từ thuở nhỏ, tất nhiên hiền đệ cưng chiều quá độ. Tôi

lại nghe lệnh ái hay làm nũng, hơn nữa hiền đệ truyền dạy võ nghệ, bản

lãnh lệnh ái cũng suýt soát hiền đệ. Sau khi về làm dâu tôi chỉ e... chỉ e....

hà hà... thằng Dự sẽ bị lệnh ái lấn át. Y chẳng biết chút võ công nào chỉ học

được môn Lăng Ba Vi Bộ. Trong chốn khuê phòng lệnh ái mà lên chân

xuống tay thì y chỉ còn môn Lăng Ba Vi Bộ mà lẩn tránh và chạy khắp

phòng thì khổ.

Bảo Định Đế cười ha hả:

- Trời ơi! Ông em tôi cứ ấp a ấp úng mãi, té ra chỉ vì thế.

Đoàn Chính Thuần quay lại đưa mắt nhìn Thư Bạch Phụng cười nói:

- Thưa đại ca! Em dâu đại ca cùng tiểu đệ ý kiến thường mâu thuẫn. Lúc

nào gây lộn, giả tỷ mà võ công tiểu đệ đối với nàng không suýt soát thì có

phen lôi thôi to rồi.

Ai nghe Đoàn Chính Thuần nói cũng phải mỉm cười. Vơng phi Thư Bạch

Phụng nói bằng một giọng lạnh nhạt:

- Thằng Dự chỉ cần học được phép Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn là thiên hạ

vô địch rồi. Dù y có lấy năm bảy con ác phụ cũng chả sợ gì ai.

Vương phi ra chiều châm biếm phép Nhất Dương Chỉ để xói móc Đoàn

Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần biết vợ mỉa mình chỉ cười không đáp.

Cao Thăng Thái nói:

- Tiểu nữ tuy ít được giáo huấn nhưng đâu đến nỗi cả gan làm bậy? Có điều

Thăng Thái này chịu ơn nặng đã nhiều không dám mong được chúa thượng

cùng Vương gia ban cho thêm nữa.

Bảo Định Đế cười nói:

- Lệnh ái mà quản cơ được cái thằng nhỏ tính khí luông tuồng đó cho chúng

ta thì anh em ta rất cám ơn. à mà này Thăng Thái! Lệnh ái tên gì nhỉ?

Nhiều khi cái tên cũng ảnh hưởng đến tính tình.

Cao Thăng Thái tâu:

- Tiểu nữ hạ thần chỉ vẻn vẹn có một chữ tên là My mà thôi. Từ thuở nhỏ

đến giờ y không ra khỏi cửa, tính nết y vẫn ngoan ngoãn. Hẳn có người bất

mãn với hạ thần phao đồn tiếng không hay, thậm chí lọt đến tai Vương gia.

Đoàn Chính Thuần liền chạy đến cầm tay Cao Thăng Thái vừa cười vừa nói:

- Cao hiền đệ đó là ngu huynh lỡ lời, hiền đệ đừng để ý.

Bảo Định Đế cười nói:

- Thế là xong rồi! Thiên Thạch ta uỷ thác cho ngươi việc sửa lễ, nạp thái rồi

hai nhà sẽ tạ ơn ông mai.

Ba Thiên Thạch tươi cười cúi đầu vâng mệnh. Bảo Định Đế lại truyền chỉ

xuống hàn lâm viện thảo chế Gia phong. Hoàng đệ Đoàn Chính Thuần lên

chức Hoàng thái đệ.

Đoàn Chính Thuần cả kinh vội quỳ xuống tâu:

- Hiện nay đại ca đang độ tuổi xuân còn thịnh, muôn dân đội đức cao dầy.

Hoàng thiên tất sẽ trông lại, con cháu đề huề. Xin đại ca hãy gác việc gia

phong cho em lên tước Hoàng thái đệ.

Bảo Định Đế cầm tay nâng dậy nói:

- Hoàng đệ cùng ta hai người chỉ là một. Giang sơn nước Đại Lý này cả hai

anh em ta chấp chưởng. Đừng nói là ta không có con, dù có Hoàng nam đi

nữa ta vẫn truyền ngôi cho Hoàng đệ kia mà. Việc ta quyết lập em làm thừa

kế cả nước đều biết. Ngày nay càng cần định rõ danh phận để thái tử Diên

Khánh đừng mong gì nữa.

Đoàn Chính Thuần tái tam từ khước không được đành phải khấu đầu tạ ơn.

Bọn Cao Thăng Thái lần lượt đến trước mặt Đoàn Chính Thuần ngỏ lời chúc

tụng. Ba Thiên Thạch quay sang nhìn Cao Thăng Thái mỉm cười chìa bàn

tay trái ra, tuy không nói ra miệng nhưng có ý bảo:

- Sau này Đoàn Dự lên kế vị, con gái anh sẽ là Hoàng hậu nương nương.

Phần hậu tạ cho ông mai phải đặc biệt đấy.

Bảo Định Đế phán:

- Ai nấy về nghỉ đi! Câu chuyện thái tử Diên Khánh nhất thiết không tiết lộ

ra ngoài.

Mọi người vâng lệnh cúi đầu cáo biệt. Bảo Định Đế cũng đi ngủ.

Sáng hôm sau, lúc Đế tỉnh dậy thấy âm nhạc du dương, pháo nổ rầm trời,

nội giám vào chầu chực thay áo rồi bẩm:

- Hôm nay Trấn Nam Vương thế tử đưa lễ nạp thái kết thân cùng Thiện xiển

hầu tiểu thư. Ngoài cửa cung trăm họ đến hoan hô chúc tụng rất là náo

nhiệt. Mấy năm nay nước Đại Lý không phải nạn binh đao. Triều đình

thanh chính, dân sự yên vui. Trăm họ rất kính phục đức Vua cùng Trấn

Nam Vương và Thiện xiển hầu. Nay nghe tin hai họ Đoàn, Cao kết thân

khắp thành Đại Lý hoan hô cổ võ.

Bảo Định Đế phán bảo nội giám:

- Ngươi cho loan tin ngày mai ta xuống chỉ mở hội hoa đăng các chức kim

ngô không phải dẹp đường, lại mở tiệc lớn khao thưởng ba quân, cùng ban

rượu thịt cho kỳ lão cô nhi.

Chỉ vừa ban ra tiếng trăm họ hoan hô nổi dậy vang trời.

Hôm ấy trời xế chiều, Bảo Định Đế ăn mặc giả dạng bình dân, một mình đi

ra ngoài thành, đầu đội mũ rộng vành, kéo sụp xuống che mặt, không còn ai

nhận ra nhà Vua nữa. Dọc đường thấy tiếng trăm họ múa hát rất là vui vẻ.

Thời bấy giờ nhân sĩ Trung nguyên coi nước Đại Lý là đất man di mọi rợ,

nghi lễ khác xa với Trung nguyên. Trên đường cái thanh niên nam nữ dắt

nhau đi lả lơi cười nói là sự rất thường. Bảo Định Đế nghĩ thầm: "Ta chỉ

mong cho dân tộc nước Đại Lý đời đời được tự do hoan lạc thế này, dù ta

không con cái cũng chẳng có gì đáng phàn nàn".

Nhà Vua ra khỏi thành rồi rảo bước đi mau. Đi được hơn 20 dặm thì bắt đầu

lên dốc núi. Đường xá mỗi lúc một vắng tanh, đi vòng hết bốn khu thung

lũng thì đến một ngôi chùa cổ nhỏ, ngoài cửa có đề ba chữ: "NIÊM HOA

Tự". Bảo Định Đế đứng ngoài cổng chùa, tĩnh tâm mặc niệm một hồi rồi đi

thẳng vào gõ cửa ba tiếng. Một lát, cửa chùa mở, một chú tiểu chạy ra, chắp

tay hỏi:

- Tôn khách tới đây có việc gì?

Bảo Định Đế đáp:

- Phiền chú vào thông báo cùng Huỳnh My đại sư có cố nhân là Đoàn Chính

Minh xin vào ra mắt.

Chú tiểu nói:

- Mời tôn khách vào trong này chờ.

Rồi trở gót tăng tả đi ngay.

Bảo Định Đế cũng vào theo, vừa đi được mấy bước bỗng nghe hai tiếng

khánh keng keng âm u từ hậu viện vọng ra. Chỉ trong giây lát Bảo Định Đế

thấy trong người mát mẻ, thần trí tiêu dao. Bảo Định Đế dẫm chân lên

những tán lá rụng đi vào tới hậu viện.

Chú tiểu nói:

- Xin tôn khách chờ đây một chút! Sư phụ tôi sẽ ra ngay.

Bảo Định Đế khoanh tay đứng chờ trong sân nhìn chiếc lá vàng rụng phất

phới từ từ bay xuống. Suốt đời ít khi Đế đứng ngoài cửa chờ ai như bữa nay.

Nhất là từ khi lên ngôi báu thì chỉ có người khác đến chờ mình chứ chả bao

giờ Ngài đứng đợi ai. Mỗi khi đến chùa Niêm Hoa này lòng trần tục sạch

lâng lâng, tự nhiên quên cả mình là một vị quân Vương cõi Thiên Nam.

Chợt nghe tiếng một ông già cười nói:

- Đoàn hiền đệ đấy ? Hiền đệ có điều chi nan giải?

Bảo Định Đế quay đầu nhìn lại thấy từ trong căn nhà xép mở cửa bước ra

một vị lão tăng mặt mũi nhăn nheo, thân hình cao lớn, cặp lông mày dài sắc

vàng, đằng đuôi sa xuống thấp. Chính là Huỳnh My hoà thượng.

Bảo Định Đế chắp tay nói:

- Tôi đến cửa thiền quấy nhiễu đại sư đây.

Huỳnh My hoà thượng nói:

- Mời hiền đệ vào trong này.

Bảo Định Đế rảo bước theo vào căn nhà xép, đã thấy sáu vị hoà thượng

đứng tuổi mình mặc đồ đen cúi đầu thi lễ. Bảo Định Đế biết đây là đồ đệ

Huỳnh Mi hoà thượng liền giơ tay đáp lễ. Nhà Vua xếp bằng ngồi trên bồ

đoàn mé tây, chờ Huỳnh Mi hoà thượng ngồi xuống bồ đoàn mé đông rồi

mới bắt đầu vào chuyện:

- Tôi có thằng cháu là Đoàn Dự, lúc mới lên bảy tôi thường dẫn lại đây

nghe sư huynh giảng kinh.

Huỳnh Mi cười nói:

- Thằng nhỏ đó tính tình rất ngộ. Thật là một đứa bé ngoan.

Bảo Định Đế lại nói:

- Y được phép mầu đức Phật điểm hoá, dốc dạ từ bi, không chịu học võ để

tránh sát sinh.

Huỳnh Mi đáp:

- Y nghĩ thế là sai. Không hiểu võ nghệ vẫn giết người được. Trái lại có khi

giỏi võ vị tất đã giết người.

Bảo Định Đế nói:

- Vâng, sư huynh dạy chí phải.

Thế rồi Đế đem chuyện Đoàn Dự không chịu học võ bỏ nhà trốn đi thế nào,

cuộc gặp gỡ Mộc Uyển Thanh ra sao rồi bị người "ác nhất thiên hạ" là thái

tử Diên Khánh nhốt ở đâu, nhất nhất thuật lại cùng Huỳnh Mi.

Huỳnh Mi chỉ lắng tai nghe, không nói câu nào. Cả sáu gã đồ đệ thõng tay

đứng hầu sau lưng nét mặt cũng đều trầm tĩnh, không mảy may xúc động.

Chờ Bảo Định Đế nói xong Huỳnh Mi mới chậm rãi nói:

- Thái tử Diên Khánh đã là đường huynh hiền đệ, cố nhiên là hiền đệ không

nên động thủ. Thế mà sai thuộc hạ dùng bạo lực để cứu y xem chừng cũng

khó ổn phải không?

Bảo Định Đế đáp:

- Sư huynh thật là sáng suốt.

Huỳnh Mi gật đầu từ từ đa ngón tay giữa ra nhằm điểm vào ngực Bảo Định

Đế.

Bảo Định Đế mỉm cười chìa ngón tay trỏ ra, xỉa vào ngón tay giữa Huỳnh

Mi. Cả hai cùng rung chuyển liền thu ngón tay về.

Huỳnh Mi nhíu đôi lông mày nói:

- Hiền đệ! Sức Kim cương chỉ của ta không thể thắng nổi phép Nhất Dương

Chỉ của hiền đệ.

Bảo Định Đế nói:

- Sư huynh là bậc đại trí tuệ bất tất phải lấy chỉ lực để thủ thắng?

Huỳnh Mi cúi đầu không nói gì. Bảo Định Đế đứng dậy nói:

- Mười năm trước đây sư huynh có bảo tiểu đệ xá thuế muối cho nhân dân

nước Đại Lý nhưng một là vì nhu dụng trong nước chưa đủ hai là tiểu đệ

muốn chờ Chính Thuần kế vị sẽ thi hành nhân chính về khoản đó, để nhân

dân đội đức Thuần đệ. Nay tiểu đệ nghĩ lại, sáng mai cho ban hành sắc lệnh

xoá thuế muối.

Huỳnh Mi hoà thượng đứng ngay lên, khom lưng rồi lạy phục xuống, cung

kính nói:

- Hiền đệ ban phước cho dân, lão tăng cũng cảm đức vô cùng.

Bảo Định Đế cũng sụp lạy đáp lễ xong ra về ngay không nói gì nữa. Bảo

Định Đế về cung lập tức sai nội giám triệu Ba tư không và Hoa tư đồ đến

truyền ban sắc lệnh xoá bỏ thuế muối. Hai người tạ ơn nói:

- Như vậy thì lê dân được nhờ phước lớn của chúa thượng.

Bảo Định Đế tiếp:

- Tất cả mọi nhu dụng trong cung nhất thiết là phải tiết kiệm. Vậy hai người

thương lượng với nhau đi xem nơi đâu đáng tính giảm được chừng nào hay

chừng nấy.

Hai người vâng lệnh lui ra.

Việc Đoàn Dự bị bắt tuy Bảo Định Đế đã dặn mọi người không nên tiết lộ

ra ngoài song Hoa tư đồ và Phạm tư mã đều là người rất thân tín của Bảo

Định Đế nên Ba Thiên Thạch cũng không giấu giếm đã đem kể cho hai

người biết cả rồi. Phạm tư mã đang ngồi nhà ngóng tin thì hai ông Hoa, Ba

đến báo việc nhà Vua xoá bỏ thuế muối. Nói về quan Tư mã họ Phạm tên

Hoa vốn có tính khôi hài, đã hay trào phúng lại lắm cơ mưu. Vậy mà ông

nói bằng một vẻ trịnh trọng:

- Hoa đại ca cùng Ba hiền đệ! Trấn nam thế tử mắc vào tay gian đãng. Chúa

thượng xuống chỉ xá thuế là Ngài ban phúc cho dân để cầu đảo Hoàng thiên

thương hại, phù hộ cho thế tử đặng yên lành trở về. Bọn mình không biết

chia sẻ mối lo cùng vua cha thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều đình

nữa?

Ba Thiên Thạch nói:

- Chính thế! Phạm nhị ca có diệu kế gì để cứu điện hạ được chăng?

Phạm Hoa nói:

- Đối thủ lại chính là thái tử Diên Khánh thì chúa thượng nhất định không

nỡ ra mặt đánh nhau đâu. Tiểu đệ có kế này nhưng chỉ sợ nhọc sức Hoa đại

ca nên không dám nói ra.

Hoa tư đồ vội hỏi:

- Việc gì mà nhọc sức ta? Nhị đệ nói ngay đi xem nào!

Phạm Hoa nói:

- Chúa thượng đã bảo võ công thái tử Diên Khánh còn cao hơn cả ngài. Bọn

ta đối phó bằng phương pháp cứng rắn là không được rồi. Vậy Hoa đại ca,

cái nghề sinh nhai của đại ca 20 năm trước đây liệu còn thi thố được nữa

chăng?

Bộ mặt vuông chữ "quốc" của Hoa tư đồ đang tím bỗng đỏ gay. Ông cười

nói:

- Nhị đệ lại nói giỡn ta rồi.

Quan tư đồ họ Hoa trước tên gọi A Căn, hiện thời làm đến tam công nước

Đại Lý, xuất thân là người cùng túng. Thời cha phát tích Hoa làm nghề

đào mả trộm đồ, có một bản lĩnh rất kiên trì. Ông chuyên lấy các báu vật

quý giá trong các mồ mả Vương, Công. Nên nhớ các bậc phú quý chết

thường chôn theo cả đồ trân bảo, dị vật. Hoa A Căn nhiều khi đào đường

hầm từ nơi rất xa vào tới phần mộ để trộm. Việc đào đường hầm của Hoa

thật là những công trình vĩ đại, phải một hai tháng là thưuờng. Cách đào

đường hầm của Hoa như vậy nên không ai bắt gặp. Có lần Hoa lấy được

trong mộ một tập "võ công bí quyết" đem về cứ theo đó luyện tập thành một

tay trác tuyệt về ngoại công. Rồi từ đó Hoa phế cái nghề mưu sinh ty tiện,

theo phò Bảo Định Đế lập được nhiều kỳ công thăng lên đến chức tư đồ. Từ

khi làm quan to Hoa thấy cái tên A Căn có vẻ hủ lậu nên mới đổ là Hoa

Hách Căn. Ngoài hai người bạn chí thân là Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch

rất ít người biết rõ lai lịch Hoa tư đồ.

Phạm Hoa nói:

- Tiểu đệ đâu dám nói giỡn đại ca. Bọn ta phải đi bằng đường hầm đến hang

Vạn Kiếp, vào thạch thất thần không hay, quỷ không biết mới cứu thế tử ra

đợc.

Hoa Hách Cấn vỗ đùi khen:

- Thật là tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Hoa thật có thiên tài về nghề đào hầm. Tuy là việc 20 năm trước nhưng lắm

lúc nhớ lại vẫn tiếc nghề cũ làm cho chân tay ngứa ngáy. Khốn nỗi đã làm

đến cực phẩm triều đình có lý đâu lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì

nữa? Bây giờ nghe Phạm Hoa đề nghị bất giác cả mừng.

Phạm Hoa tươi cười nói tiếp:

- Hoa đại ca chớ vội mừng vì trong còn nhiều vấn đề thực nan giải. Tứ ác

hiện nay ở cả trong hang Vạn Kiếp, ngoài ra còn vợ chồng Chung Vạn Cừu,

Tần Hồng Miên đều là những tay kiệt thiệt, qua được tai mắt bọn này đâu

phải chuyện dễ dàng? Hơn nữa đích thân thái tử Diên Khánh trấn giữ cửa

nhà mật thất, lão ngồi trên mà mình đào bên dưới giữ thế nào cho lão không

hay?

Hoa Hách Cấn trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Vậy ta phải đào đường hầm về phía sau nhà mật thất, chừa chỗ thái tử

Diên Khánh ra.

Phạm Hoa lại nói:

- Thế tử còn bị nhốt trong đó giờ phút nào là còn nguy hiểm giờ phút ấy. Ta

đào dềnh dàng như thế liệu có kịp không?

Hoa Hách Cấn nói:

- Vậy ba ta cùng phải hợp lực. Hai hiền đệ cùng đi liền bên chỉ bảo đồng

thời học cái nghề đào trộm mả này mà chơi.

Ba Thiên Thạch cười nói:

- Tuy bọn ta đã ở ngôi tam công nơức Đại Lý nhng về nghĩa vụ thì dù là

cái việc đào mồ quật mả hay nghề ăn trộm đi nữa thì cũng không thể từ nan

được.

Ba người vỗ tay cả cười, Hoa Hách Cấn nói:

- Việc này không thể chậm được nữa, nói làm là làm.

Ba Thiên Thạch lấy bản đồ hang Vạn Kiếp ra. Hoa Hách Cấn vui sướng

khôn tả, ngồi coi bản đồ, hoạch định từ chỗ bắt đầu đào cho đến chỗ miệng

hầm chui lên. Hoa lại nói cả đến đường lối, cách thức phải tránh tai mắt bên

địch thế nào cùng vòng vèo ra sao để tránh những chỗ đá rắn. Thật là một

nghề tuyệt kỹ của Hoa, trên đời có một không hai.

Lại nói đến Đoàn Dự, sau khi nuốt Mãng Cổ chu cáp rồi, khắp mình dương

khí cực thịnh, hơi nóng bốc lên đến độ quá mức tối cao khiến chàng mê

man bất tỉnh. Nhưng cơn mê này dù sao cũng giúp cho chàng qua được một

ngày khỏi bị lửa dục nung nấu cực kỳ khổ sở. Chàng có biết đâu trong

khoảng thời gian một ngày một đêm này bên ngoài đã xảy ra bao nhiêu biến

chuyển quan trọng:

- Nào phụ thân chàng đã chịu sắc phong lên Hoàng thái đệ.

- Nào chàng đã có mệnh cha mẹ dạm hỏi lệnh ái thiện xiển hầu là Cao Mi

tiểu th cho chàng làm vợ.

- Nào khắp thành Đại Lý chiêng trống rầm trời, tu la dậy đất.

- Nào trăm họ nước Đại Lý đang hoan hô ca tụng đức Vua ban hành sắc

lệnh bãi bỏ thuế muối.

Mà chính chàng lại đang ngồi tựa vách đá trong nhà tù, thần trí mê man

chẳng biết trời đất là gì.

Trưa hôm sau chàng mới hơi hồi tỉnh một chút. Số là hai thứ Âm dương hoà

hợp tán cùng Mãng Cổ chu cáp phát tác kịch liệt cùng một lúc làm chàng

mê đi. Trận phát tác đi đến chỗ cùng cực lại dịu xuống nên chàng hồi tỉnh.

Đây chỉ là lúc tạm ngừng để đi đến những trận phát tác sau cùng mãnh liệt

hơn.

Đoàn Dự chưa biết những nguy cơ đang rình rập. Tuy thấy trong mình còn

mệt mỏi, song chàng yên trí chất độc đã bắt đầu lui dần, toan cất tiếng gọi

Mộc Uyển Thanh thì chợt nghe bên ngoài có tiếng một ông già giọng khàn

khàn:

- Cả thảy 19 đường vừa ngang vừa dọc mà làm cho bao người phải say mê.

Nếu cư sĩ cao hứng thì cùng lão tăng vui chơi một cuộc.

Đoàn Dự lấy làm kỳ ghé mắt vào chỗ lỗ hổng vẫn đưa cơm nhìn ra ngoài,

thấy một vị hoà thượng mặt đầy nếp dăn deo, lông mày vàng khè đang cúi

xuống lấy đầu ngón tay vạch vào một tảng đá xanh lớn, phát ra những tiếng

sè sè, bụi đá tung lên, nét vạch sâu xuống thành một đường rất thẳng như

sợi chỉ đặt.

Đoàn Dự cả kinh, tuy chàng không biết võ công nhưng là con một nhà võ

uyên thâm chàng được xem bá phụ cùng phụ thân luyện phép Nhất Dương

Chỉ đã nhiều. Chàng nghĩ bụng dường như mình đã được gặp vị sư già ở đâu

rồi thì phải, chỉ lực ông như vậy thật là ghê ngời, vạch đá thành rãnh một

cách dễ dàng. Cứ xem chỉ lực này đủ biết ngoại công của ông cương ngạnh

đến chừng nào! Cách luyện môn này tựa hồ khác xa với cách luyện Nhất

Dương Chỉ của cha, bác chàng.

@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@

Đôi Chu Cáp thần diệu thế nào

Đoàn Dự bỗng nghe bên ngoài thạch thất có tiếng nói:

- Phép "kim cương chỉ" đó thật lắm công phu.

Giọng nói khàn khàn đầy uất hận đó chính ở Thanh bào khách ác quán mãn

doanh thốt ra. Chàng lại thấy lão cầm cành trúc vạch xuống phiến đá một

đường ngang cũng thẳng tắp. Nét vạch ngang tương xứng và giao nhau với

nét vạch dọc của Huỳnh Mi hoà thượng.

Đoàn Dự ở trong thạch thất không trông thấy mặt Thanh bào khách nhưng

chàng nhận thấy rằng cành trúc của lão cứng rắn chẳng kém gì ngón tay

Huỳnh Mi mà dùng nó để vạch phiến đá còn có phần tiện hơn. Vả ngón tay

ngắn mà cành trúc dài, cầm cành trúc vạch xuống phiến đá thành đường

rãnh sâu so với cách vạch bằng tay thì khí lực Thanh bào khách tương đối

phải mạnh hơn Huỳnh Mi hoà thượng.

Đoạn chàng lại nghe tiếng Huỳnh Mi hoà thượng cười nói:

- Đoàn thí chủ đã thụ giáo vậy lão tăng xin vạch nữa.

Dứt lời nhà sư lại lấy ngón tay vạch vào tảng đá một đường dọc. Thanh bào

khách chờ nhà sư vạch xong lão lại vạch bằng cành trúc một đường ngang.

Hai người cứ thế tiếp tục luân lưu mỗi bên vạch một đường. Về sau cả hai

ông: ông vạch bằng ngón tay cũng như ông vạch bằng cành trúc mỗi lúc

một thong thả lại và mỗi lúc một cẩn thận cố gắng hơn vì không ông nào

chịu thua về những đường vạch của mình hoặc sâu nông khác nhau hoặc nét

vạch kém chỉnh tề thẳng thắn. Thì ra những tay cao thủ họ ăn thua nhau

từng ly từng tý, không chỉ ở chỗ có sức mạnh hơn là được. Chừng trong

khoảng thời gian ăn xong bữa cơm, Huỳnh Mi hoà thượng cùng Thanh bào

khách vạch xong ngang dọc mỗi bề 19 đường, thành hình một bàn cờ rất

vuông vắn.

Huỳnh Mi nghĩ thầm: "Bảo Định Đế nhận định thật không sai chút nào, nội

lựa lão Thái tử Diên Khánh này quả đã không vừa. Môn Nhất Dương Chỉ

của lão nhất định không thua Bảo Định Đế". Huỳnh Mi hoà thượng vào đây

đã có chủ ý nhưng thái tử Diên Khánh thấy Huỳnh Mi đến một cách đột

ngột thì không khỏi ngạc nhiên, lão tự hỏi: "ông sư ghê gớm này ở đâu lẩn

vào đây làm gì? Rõ ràng Đoàn Chính Minh mời y đến tiếp tay cho hắn. Nếu

hắn thừa cơ mình ngồi đây để vào cứu Đoàn Dự thì mình đâu có thể chia

người ra làm hai để đối phó?".

Huỳnh Mi lại nói tiếp:

- Đoàn thí chủ võ nghệ cao thâm, lão tăng rất là khâm phục. Về môn cờ

chắc thí chủ cũng cao gấp mười bần tăng. Bây giờ ta đánh cờ chơi, lão tăng

xin thíù chủ chấp cho bốn con.

Thanh bào khách giật mình nghĩ thầm: "mình tuy không biết lai lịch nhà sư

này nhưng xem chỉ lực cũng đã biết y là bậc cao nhân. Lão đến đây khiêu

chiến lại mở miệng đòi xin nhân nhượng là nghĩa làm sao?". Nghĩ vậy liền

đáp:

- Đại sư bất tất quá khiêm? Nếu đại sư muốn cá cuộc hơn thua thì cứ để

bằng quân.

Huỳnh Mi nói:

- Tôi nhất quyết xin thí chủ chấp cho bốn con.

Thanh bào khách đáp bằng một giọng lạnh lùng:

- Đại sự đã tự biết mình kém nước thì bất tất phải đấu nữa.

Huỳnh Mi nói:

- Thế thì thí chủ chấp lão tăng ba con vậy.

Thanh bào khách chậm rãi:

- Tôi chấp đại sư một con thôi.

Huỳnh Mi cười khà khà nói:

- Thế là lão tăng đủ biết rồi. Thí chủ còn kém lắm. Lão tăng dám chấp thí

chủ ba con.

Thanh bào khách bình thản đáp:

- Bất tất phải thế, ta cứ để nguyên bằng quân nhau.

Huỳnh Mi trong dạ nôn nao nghĩ thầm: "lão này đã không kiêu ngạo lại

không nóng nảy, thực là thâm độc gan góc. Mình khích bác thế nào lão

cũng vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, không sao làm cho lão xúc động được thế

mới là kẻ kình địch ghê gớm". Huỳnh Mi hoà thượng vốn vẫn chưa nắm

vững được phần thắng thường thấy người chơi cờ hay có tính hiếu thắng nên

mở miệng xin được chấp ba bốn con để làm kiêu binh dò tính tình thái tử

Diên Khánh. Chẳng ngờ lão không xúc động mảy may vẫn giữ một niềm

nghiêm cẩn, kín đáo.

Huỳnh Mi lại nói:

- Thôi thế cũng được. Nhưng thí chủ là chủ mà tôi là khách, chủ phải

nhường khách đi trước.

Thanh bào khách đáp:

- Không được! Tôi đi trước mới hợp lý. Tiền chủ hậu khách mà.

Huỳnh Mi không chịu nói:

- Nếu vậy thì phải bói. Năm nay lão tăng tuổi chẵn hay tuổi lẻ, nếu thí chủ

đoán trúng thì đi trước, bằng trật thì phải nhường lão tăng.

Thanh bào khách hỏi lại:

- Thế ngộ tôi đoán trúng mà đại sư cứ bảo trật thì ai mà biết được?

Huỳnh Mi đáp:

- Được! Lão tăng đã có cách chứng minh, muốn cãi cũng không được. Lão

tăng xin hỏi: sau khi được 70 tuổi, tổng số ngón cả hai bàn chân lão tăng lẻ

hay chẵn?

Thanh bào khách vừa nghe câu đố rất lấy làm kỳ, nghĩ bụng: "cứ bình

thường mà nói thì hai bàn chân ai chả có 10 ngón và đương nhiên là số

chẵn rồi. Câu lão hỏi rõ sau khi 70 tuổi bao nhiêu ngón? Làm như khi lão

được 70 tuổi bị cụt đi một ngón mới thành số lẻ là có ý đãnh bẫy mình.

Trong binh pháp có câu "hư thành ra thiệt, thiệt lại ra hư", lão lừa mình thế

nào được?".

Nghĩ vậy Thanh bào khách đáp:

- Vẫn số chẵn.

Huỳnh Mi đáp:

- Trật rồi, số lẻ mới đúng.

Thanh bào khách nói:

- Đại sư tháo giày ra cho coi!

Huỳnh Mi tháo giày và bít tất chân trái trước. Năm ngón chân hãy còn

nguyên vẹn. Thanh bào khách để ý quan hình sát sắc đối phương, thấy

Huỳnh Mi vẫn tỏ vẻ bình tĩnh tươi cười thì tưởng chân phải nhà sư chỉ có

bốn ngón thật. Huỳnh Mi lại ung dung tụt giày chân phải đang đưa tay ra

tháo bít tất. Thanh bào khách đã toan gạt đi bảo bất tất phải chứng nghiệm

nữa, mời đại sư đi nước trước. Nhưng nghĩ sao lão lại để cho Huỳnh Mi

tháo nốt bít tất thì rõ ràng đầy đủ cả năm có cụt ngón nào đâu? Tuy Thanh

bào khách tàn tật đầy người, mặt trơ như gỗ tựa hồ tâm trí không mảy may

xúc động nhưng kỳ thực bao nhiêu ý nghĩ đang quay lộn trong đầu óc. Lão

chưa đoán ra Huỳnh Mi có dụng ý gì. Bỗng thấy Huỳnh Mi giơ bàn tay phải

lên làm lưỡi dao, đánh xuống đánh "phập" một tiếng, ngón chân út đã đứt

rơi ra. Sáu đồ đệ đứng ở phía sau, toàn là những tay tu luyện cửa Phật lâu

ngày, có thể xứng đáng với câu: "Non Thái lở trước mặt thần sắc vẫn điềm

nhiên, hươu nai chạy rầm rập bên mình không ghé mắt" vậy mà trước cảnh

sư phụ chặt ngón chân, máu chảy lênh láng không khỏi giật mình kinh hãi.

Người ít tuổi nhất là Phá Mạn hoà thượng buột miệng khẽ la lên một tiếng

"ối". Đồ đệ thứ tư là Phá Sa hoà thượng vội vàng lấy thuốc dấu trong bọc ra

rịt vào vết thương cho sư phụ.

Huỳnh Mi hoà thượng cười nói:

- Năm nay lão tăng 69 tuổi, có phải 70 tuổi thì số ngón chân thành số lẻ rồi

không?

Thanh bào khách đáp:

- Đúng rồi xin mời đại sư đi nước trước.

Thanh bào khách nổi tiếng là người ác nhất thiên hạ thì hẳn đã nhìn thấy và

đã gây ra bao nhiêu thảm cảnh hung ác, rùng rợn chẳng chút sờn lòng vậy

mà đối với việc chặt ngón chân nhỏ mọn làm cho lão phải suy nghĩ. Phải

chăng vì thấy Huỳnh Mi muốn tranh tiên một nước cờ mà coi lẹ việc chặt

đứt một ngón chân như trò đùa. Cái chí quyết thắng một ván cờ này của nhà

sư lão đã nhìn thấy rõ rệt, nếu mà lão thua tất sẽ bị nhà sư đưa ra điều kiện

khắt khe vô cùng.

Huỳnh Mi nói: "Xin vâng" rồi đưa hai đầu ngón tay ra xoáy vào 2 điểm tứ

tứ cả hai bên trên mặt bàn cờ cho lõm xuống. Đó là dấu hiệu hai con cờ

đen.

Thanh bào khách cũng cầm cành trúc khoanh ở hai điểm tứ tứ bên mình hai

vòng tròn nhỏ để tượng trưng cho hai con cờ trắng đặt xuống đó. Bốn góc

bàn cờ ở điểm tứ tứ thoạt đầu đặt bốn con gọi là "thế tứ". Đây là phép đánh

vi kỳ thuở xa ở Trung Quốc. Hiện nay phế bỏ lối cờ này rồi. Đến con thứ 5

Huỳnh Mi đặt ở điểm lục tam "bình vị". Bên Thanh bào khách lại đặt ở

điểm ngũ tam. Lúc mới đánh hai bên ra quân rất lẹ, Huỳnh Mi không dám

chú ý thái quá để duy trì tinh thần về sau. Từ con thứ 18 trở đi, cuộc tranh

thủ đã bắt đầu gay cấn. Chỉ lực hai bên hao tốn rất nhiều, một mặt phải

dùng hết tâm trí để suy tính nước cờ, một mặt phải vận khí bồi bổ sức lực,

mỗi lúc cờ đi một chậm thêm. Trong sáu đồ đệ của Huỳnh Mi thì ông thứ

ba là nhà sư Phá Sản cao cờ hơn hết. Phá Sản thấy bên sư phụ đi nhiều nước

hay và có vẻ thắng thế trong bụng đã mừng thầm và thán phục. Đến nước 24

Thanh bào khách xuất kỳ binh một cách đột ngột thế cờ đại biến. Bên

Huỳnh Mi lâm vào tình trạng bế tắc. Góc trên về bên phải (khứ vị) một mối

đe doạ rất lớn đang rình rập, nếu đem một con ra cố thủ thì lại thiệt mất

nước tranh tiên. Huỳnh Mi còn đang suy tính chưa tìm ra lối thoát bỗng

trong thạch thất có tiếng vọng ra:

- Phản công ở khứ vị thì vẫn giữ được nước tranh tiên.

Người mách nước này chính là Đoàn Dự. Đoàn Dự vốn giỏi chơi cờ vây từ

thuở nhỏ. Lúc đó thấy hai người đấu đang hăng say không khỏi đứng ngoài

ngứa miệng. Người ta thường nói "cờ ngoài bài trong", bản lãnh về cờ chàng

còn cao hơn Huỳnh Mi một bậc. Hơn nữa chàng đứng ngoài cuộc lại càng

đắc nước.

Huỳnh Mi nghe Đoàn Dự mách nước đáp vọng vào:

- Lão tăng đã nghĩ tới nước cờ này rồi còn đang cân nhắc. Giờ được thí chủ

đồng ý thì lão tăng không phân vân gì nữa.

Đoạn Huỳnh Mi làm dấu đặt con cờ xuống điểm thất tam ở khứ vị. Thanh

bào khách lạnh lùng đọc hai câu thơ: "Bàng quan ngậm miệng là quân tử.

Tự ý ra quân đáng trượng phu".

Đoàn Dự nghe lão đọc tức mình la lên:

- Tự nhiên vô cớ ngươi nhốt ta vào đây thì ngươi có phải là quân tử không?

Huỳnh Mi cũng cười nói:

- Lão tăng đây là đại hoà thượng chứ đâu phải đại trượng phu?

Thanh bào khách khinh khỉnh mạt sát:

- Nói thế mà không biết ngượng.

Vừa nói vừa khoanh tròn ở Khứ vị. Đi mấy nước nữa Huỳnh Mi lại lâm vào

thế bí. Phá Sản hoà thượng nóng ruột nghĩ không ra nước gỡ mà Đoàn Dự

lại lặng thinh. Phá Sản liền chạy đến bên nhà thạch thất khẽ hỏi:

- Đoàn công tử bây giờ đi nước nào cho phải?

Đoàn Dự khẽ đáp:

- Ta có cách gỡ dễ lắm. Thế cờ này gồm bảy nước bí hiểm, nếu đọc ra cho

bên địch nghe tiếng nước thì cờ ảo diệu sẽ bị tiết lộ nên không tiện nói.

Phá Sản liền viết vào tay phải ba chữ: "Xin viết ra". Rồi nhà sư luồn tay qua

lỗ hổng luồn vào trong. Đoàn Dự nghĩ thầm: "kế này tuyệt diệu" đoạn viết

cả bảy nước cờ vào tay Phá Sản. Phá Sản rút tay ra xem, suy tính kỹ lại thì

quả là những nước cờ rất cao liền chạy trở lại sau lưng Huỳnh Mi giơ tay áo

rộng thùng thình lên để che cho khỏi lộ cơ mưu rồi thò ngón tay phải ra viết

cả bảy nước cờ vào lưng sư phụ. Huỳnh Mi hoà thượng định thần một lúc

hiểu cả, cứ thế ra quân. Thanh bào khách đằng hắng rồi nói:

- Quả lại có kẻ ngấm ngầm mách nước, tôi xem bản lãnh đại sư chưa thể tự

mình nghĩ ra được những nước cờ này.

Huỳnh Mi cười nói:

- Đánh cờ là một trò chơi đấu trí. Hay ở chỗ không để cho đối phương trông

rõ bản lãnh vì thế mà các tay cao thủ chỉ thò những ngón dở ra. Nếu lão

tăng để thí chủ tỏ tường hư thực ngay từ lúc đầu thì cuộc cờ còn chi là ảo

diệu nữa?

Thanh bào khách nói:

- Thôi đừng có ỡm ờ, bịp bợm, hòng lấy tay che mặt trời nữa.

Lão thấy rõ Phá Sản chạy đi chạy lại rồi lấy tay che áo lên lưng Huỳnh Mi

đã sinh nghi. Nhưng vì tâm trí bận chuyên chú vào thế cờ biến ảo nên không

để ý soi mói đến chuyện khác được. Huỳnh Mi theo kế Đoàn Dự đi được

đến nước thứ sáu, tuyệt không phải nhọc lòng suy nghĩ, chuyên chú vận nội

công vào đầu ngón tay xoáy thành sáu lỗ tròn trĩnh, đều đặn tỏ ra khí lực có

thừa. Thanh bào khách thấy sáu nước cờ của Huỳnh Mi nước nào cũng hiểm

hóc, lão phải đem hết tâm lực ra suy nghĩ, luẩn quẩn đối phó trong vòng thế

thủ. Ngọn trúc khoanh vòng tròn trên bàn đá đã hơi lộ ra chỗ sâu chỗ nông

chứ không được đều tăm tắp. Lão phải ngừng lại tính toán dây lâu, rồi đột

nhiên biến thế, hạ một con cờ vào nhập vị. Nước cờ xoay thành thế công

mãnh liệt không dính líu gì vào thế cờ của Đoàn Dự. Huỳnh Mi cả kinh

nghĩ thầm: "bảy nước cờ của Đoàn công tử bố cục rất tinh vi, những nước

kia mình đi có nước tranh tiên được một thành hai mà sao nước thứ bảy

không đi được nữa? Thế này thì uổng mất cả những nước trước ?".

Nên nhớ rằng nếu thả sức cho hai người đấu với nhau thì Thanh bào khách

tất nhiên ăn đứt Huỳnh Mi hoà thượng. Lão thấy thế cờ bất lợi là lập tức tìm

cách biến đổi, không chịu chui vào cạm bẫy Đoàn Dự.

Phá Sản hoà thợng thấy tình thế đại biến, sư phụ khó lòng giải quyết nổi,

bèn lập tức chạy lại bên nhà thạch thất, khẽ báo tin cho Đoàn Dự hay. Đoàn

Dự nghĩ ngay được cách phá, chìa ngón tay ra để viết vào bàn tay Phá Sản.

Vừa viết được hai chữ bất thình lình toàn thân run bắn, một luồng hoả khí

trong huyệt đan điền bốc lên dữ dội, môi khô lưỡi bỏng, hai mắt lại quáng

loá. Chàng tiện tay nắm chặt lấy tay Phá Sản. Phá Sản vừa bị Đoàn Dự nắm

lấy bàn tay biết ngay lập tức là nguy đến nơi vì thấy chân khí trong mình bị

bàn tay Đoàn Dự hút đi hoài. Nhà sư cả sợ la lên:

- Đoàn công tử! Công tử làm gì vậy?

Nên biết rằng đối với các nhà nội công phái võ, chân khí có mối quan hệ rất

lớn đến tính mạng. Chân khí sung túc bao nhiêu thì nội công cao lên bấy

nhiêu. Chân khí thoát đi hết thì người chẳng chết cũng mất hết nội công mà

thành phế nhân.

Phá Sản xuất gia từ thuở nhỏ, khổ công tu luyện dư bốn mươi năm, chân khí

rất là sung mãn. Thế mà chỉ chạm tay vào Đoàn Dự một lần chân khí thoát

đi chẳng khác gì sông đang bành chướng bị vỡ đê nước chảy đi như tháo,

không còn cách gì thu về được nữa. Nhà sư hỏi luôn mấy tiếng nhưng Đoàn

Dự thần trí mê man, chẳng biết gì hết nên không trả lời. Phá Sản muốn rút

tay ra khỏi nhưng lạ thay hai tay dường như dính liền vào nhau, rút thế nào

cũng không rời ra được mà chân khí trong người thoát đi không ngớt.

Tại sao Mãng Cổ chu cáp lại có sức công hiệu ghê gớm như vậy? Số là có

một giống vật kỳ dị chuyên ăn nọc những loài rắn độc đã lâu đời rồi do sự

giao hợp ngẫu nhiên sinh ra Mãng Cổ chu cáp là vật rất hiếm có trên thế

gian.

Vợ chồng Chung Vạn Cừu cùng Chung Linh chỉ biết mỗi khi đôi chu cáp

kêu lên là bao nhiêu rắn nghe tiếng đều đến hết nhưng có biết đâu nuốt nó

vào bụng lại sinh ra hiện trạng quái gở như vậy? Nếu không có Đoàn Dự

cam tâm chịu chết thì cũng không ai dám cả gan nuốt giống vật kỳ độc,

ngàn năm chưa chắc đã có một lần. Đoàn Dự nuốt vào bụng đôi chu cáp,

trộn lẫn với Âm dương hoà hợp tán rồi chất độc cả hai thứ sinh khắc biến

hoá chẳng những làm cho khí dương cực thịnh, khiến sức người không thể

chống chế nổi lại còn phát sinh một đặc tính hút chân khí của người khác

một khi đụng chạm vào. Lúc đó chân khí của Phá Sản hoà thượng bị hút

mãi vào thân thể Đoàn Dự. Ngay khi tỉnh táo chàng còn chẳng biết vận nội

công để giật tay mình ra khỏi tay Phá Sản, cho chân khí nhà sư hết lối chạy

sang mình huống chi chàng lại mê man bất tỉnh, chẳng còn biết trời đất là gì

nữa. Phá Sản thấy chân khí mình bị hút đi mãi, không biết làm thế nào la

lên:

- Sư phụ cứu tôi với!

Năm vị huynh đệ nghe tiếng chạy đến bên nhưng không trông rõ tình hình

bên trong thạch thất, chỉ nghe tiếng gọi thất thanh "sư huynh", "sư đệ" rối rít

vội hỏi:

- Có chuyện chi? Có chuyện chi?

Phá Sản đáp:

- Tay... tay tôi...

Ông cố sức giãy giụa để rút tay ra không được. Mười phần chân khí đã thoát

đi đến tám chín, nói không ra hơi nữa. Đồ đệ thứ sáu là Phá Mạn hoà

thượng cầm tay Phá Sản để giúp sức sư huynh rút tay ra, không ngờ vừa mó

tay vào cũng bị dính chặt, toàn thân run bắn lên như bị điện giật, chân khí

cũng bị tiết đi. Nhà sư trẻ sợ quá la lên:

- ối chao! ối chao!

Nguyên hấp lực của chu cáp vô hạn lượng, có thể hút chân khí người thứ ba

chuyển qua người thứ hai.

Nhắc lại chuyện tam công nước Đại Lý là tư đồ Hoa Hách Cấn, tư mã Phạm

Hoa, tư không Ba Thiên Thạch trà trộn vào hang Vạn Kiếp chẳng khó khăn

gì. Cửa hang trước có người canh giữ nhưng từ khi Bảo Định Đế vào đã san

phẳng ngôi mộ ngoài cửa hang nên người ra vào không bị cản trở. Ba ông

đào đường hầm, mới đào trong một đêm đã xa chừng được vài chục trượng.

Hoa Hách Cấn dĩ nhiên là tay thiện nghệ, còn Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch

giỏi môn nội công cũng rất được việc. Hoa đào đến đâu thì hai ông lại cào

đất đi đến đấy. Lúc ăn lương khô hay uống nước cũng thay phiên nhau để

công cuộc đào hầm được luôn luôn tiếp tục không bị ngừng trệ. Hôm sau ba

người đào một ngày nữa. Vào khoảng xế chiều tính ra đã gần đến thạch

thất. Biết rõ thái tử Diên Khánh võ nghệ cao siêu, ba ông phải đào một cách

cực thận trọng, nạo đất nhẹ nhàng không để phát ra mảy may tiếng động.

Họ hiểu rằng những tay võ công trác tuyệt thì dù lúc đang ngủ say, chỉ khẽ

một tiếng động khác lạ cũng đủ làm cho tỉnh giấc. Vì thế mà cuộc đào hầm

chậm đi rất nhiều. Họ có biết đâu lúc này thái tử Diên Khánh đang mải miết

đem hết tâm lực vào cuộc đấu cờ với Huỳnh Mi hoà thượng nên lão không

thể phát giác ra những tiếng động ngầm dưới đất.

Lúc này tay Phá Sản hoà thượng vẫn dính chặt vào tay Đoàn Dự, chân khí

trong người vẫn cuồn cuộn thoát đi gần hết, bắt buộc nhà sư phải kêu cứu.

Sau Huỳnh Mi hoà thượng lại thấy cả sáu gã đồ đệ xúm xít lại trước cửa

thạch thất, tình trạng có vẻ nguy ngập khác thường. Huỳnh Mi tưởng là thái

tử Diên Khánh ngấm ngầm đặt cơ quan hiểm độc và các đồ đệ mình bị sa

vào cạm bẫy rồi liền nói:

- Tôn giá thật là lắm chuyện quái ác, làm cho đồ đệ lão tăng lâm nạn cả rồi.

Lão tăng phải lại đó xem sao.

Nói xong đứng dậy toan đi. Thanh bào khách vừa đưa cành trúc tay trái ra

điểm vào vai Huỳnh Mi vừa nói:

- Bàn cờ chưa phân thắng bại. Đại sư có chịu thua cuộc thì mới bỏ đi được.

Huỳnh Mi xoay tay trái lại toan chụp lấy đầu roi. Cành trúc rung rung nhằm

vào huyệt đạo dưới vú bên tả Huỳnh Mi. Bàn tay Huỳnh Mi đang chụp biến

ra thế chém xuống. Đầu cành trúc cũng biến đổi thế đánh. Chỉ trong chớp

mắt hai người đã xoay nhau đến tám đòn. Huỳnh Mi nghĩ bụng: "tay mình

ngắn mà cành trúc của đối phương dài thì mình chỉ thủ chứ không công

được tức là mình chỉ có phần thua chứ không thể thắng. Bỗng thấy cành trúc

lại điểm tới, hoà thượng vụt đa ngón tay ra nhằm đúng đầu roi điểm lại.

Thanh bào khách không chịu thu roi về, cứ phóng tới. Ngón tay và đầu roi

chạm nhau, hai người cùng vận nội công tranh đấu. Bấy giờ Huỳnh Mi mới

biết rõ bên trong cành trúc có đặt giấu một cây roi bằng thép nên mới cứng

rắn như vậy. Hai tay cao thủ mỗi người một đầu roi cùng vận nội lực đẩy

mạnh thế mà cành trúc vẫn không cong đi chút nào.

Thanh bào khách giục:

- Nước cờ này đại sư mãi không đi được, chịu thua quách đi cho rồi.

Huỳnh Mi cười ha hả đáp:

- Chưa chắc.

Rồi đặt ngón tay bên phải xuống bàn cờ đá xanh xoáy một điểm. Thanh bào

khách không cần nghĩ ngợi đi cờ luôn. Lúc này tình thế cực kỳ nghiêm

trọng. Tay trái hai người đều đang vận nội lực để khuynh loát nhau không

bên nào dám nới tay ra một chút, đồng thời trên bàn cờ nước nào cũng khẩn

cấp, chỗ nào cũng gay go. Huỳnh Mi biết rằng nếu mình còn phân tâm nghĩ

đến chỗ đệ tử lâm nạn thì chẳng những không được ích gì mà để kẻ đại địch

nhân chỗ mình sơ hở, dồn sức mạnh đánh ập vào thì chính mình sẽ mất

mạng như chơi. Nhà sư nhớ lại mười năm trước đây, vì muốn nâng đỡ cho

cả dân tộc nước Đại Lý đã xin Bảo Định Đế xoá thuế nhập cảng muối, đến

nay mới được nhà Vua chuẩn cho. Tuy Vua không nói ra miệng nhưng nhà

sư có nghĩa vụ phải thay ngài trong công cuộc cứu Đoàn Dự thoát nạn. Nhà

sư lại nghĩ rằng: "mình sống hay chết cũng chẳng đáng quan tâm nhưng nếu

không cứu thoát được Đoàn Dự thì còn mặt mũi nào trông thấy hiền đệ

Đoàn Chính Minh?". Nghĩ thế nhà sư đành bỏ mặc đám đồ đệ, gắng vận nội

lực, bao nhiêu tấm trí để cả vào bàn cờ.

Đại phàm các phái võ lúc luyện nội công cần nhất là phải tĩnh trí, song đánh

cờ thì trái lại phải suy nghĩ rất nhiều tính toán từng ly từng tý cho khỏi kém

nước. Hai việc mâu thuẫn nhau là thế. Huỳnh Mi hoà thượng biết rõ thế cục

hôm nay nguy hiểm khác thường.

Kể ra thi đấu về cờ cũng như về nội lực tựa hồ Thanh bào khách đều có vẻ

trội hơn Huỳnh Mi hoà thượng đôi chút. Cũng may mà hoà thợng nhất tâm

quyết sống mái, chỉ biết cung cúc tận tuỵ để đáp lòng tri kỷ của Bảo Định

Đế còn chính thân mình thì dù sống thác cũng chẳng quan tâm nên mới

chống chọi được đến thế.

Hấp lực của đôi chu cáp thần diệu dị thường. Mười phần chân khí của nhà

sư Phá Sản đã bị trút sang thân thể Đoàn Dự đến tám chín. Đoàn Dự một

anh chàng chưa từng luyện võ bao giờ, phút chốc biến thành người có một

nội lực mười mấy năm tu luyện. Trong mình có thêm nội lực sức hút lại

càng mạnh hơn, chẳng khác gì đá nam châm hút sắt. Vì thế mà nhà sư Phá

Mạn bám vào Phá Sản cũng bị hút chặt luôn và chân khí trong mình cũng bị

lôi cuốn theo, qua người Phá Sản nhập vào thân thể Đoàn Dự. Lát sau hai

nhà sư Phá Tham, Phá ái cũng bị hút mất chân khí theo kiểu ấy.

Phá Tham, Phá ái là hai đại đồ đệ của Huỳnh Mi hoà thượng, nội công còn

thâm hậu hơn mấy vị sư đệ kia, vừa cảm thấy chân khí bị thoát đi, lập tức

vận nội công chống lại. Nhưng cũng chỉ giữ được một lúc rồi sau tâm thần

phân tán đi một chút, tức khắc chân khí bắt đầu bị hút đi từ từ ít một rồi dần

dần mỗi lúc tiết đi một nhiều hơn.

Đồ đệ thứ tư là Phá Si, thứ năm là Phá Dục đứng ngoài thấy thế hoang

mang quá đỗi, chạy đi kêu sư phụ đến cứu thì lại gặp lúc tối nguy nan.

Huỳnh Mi cũng phải đem hết tâm lực cùng đối phương quyết sống mái. Hai

người chạy tới, chạy lui mặt sợ tái xanh. Rút cục nghĩ tình đồng môn,

không còn biết làm thế nào Phá Si, Phá Dục đành nghiến răng gắng sức lại

lôi Phá Tham, Phá ái ra. Nhưng lúc này ngoài sức chu cáp thần công còn

thêm nội lực bốn nhà sư nhập vào nữa thì hai nhà sư Phá Si, Phá Dục lôi ra

thế nào được mà trái lại, chẳng những không lôi ra được, chính hai người

cũng bị hút chặt luôn.

Sáu nhà sư lâm vào tình trạng thụ động, đành cho là kiếp vận xui nên mắc

vào tai nạn hiếm có này, khiến cho bao nhiêu năm khổ công tu luyện tan ra

mây khói. Mọi người chẳng còn biết nói sao, chỉ trông nhau thở dài. Phá Si

và Phá Dục không cầm lòng được, bất giác hai mắt rnưng rnưng đẫm lệ.

Lại nói đến bọn Hoa Hách Cấn hôm đó đào hầm cho đến giờ Dậu độ chừng

đã tới gần nhà thạch thất và đoán rằng chỉ còn cách chỗ thái tử Diên Khánh

ngồi gác chừng một trượng nên hành động phải cực kỳ thận trọng, không

dám để phát ra một tiếng động nhỏ. Hoa Hách Cấn bỏ xẻng cuốc xuống,

dùng mười ngón tay móc đất. Hoa đã rèn luyện phương pháp này gọi là "Hổ

trảo công" rất lợi hại. Những ngón tay vận nội lực vào cứng tựa móng sắt, dù

đất cứng đến đâu cũng móc ra được từng khối lớn chuyền tay cho Ba Thiên

Thạch và Phạm Hoa chuyển ra xa. Đã đến lúc không đào tiến về phía trước

nữa mà đào ngược lên để chui ra. Phạm, Ba hai ông biết công cuộc mạo

hiểm sắp hoàn tất chỉ còn việc có cứu được Đoàn Dự hay không lúc nữa mới

rõ nên cảm thấy nóng ruột, trống ngực đánh thình thình. Công cuộc đào

ngược lên dễ dàng hơn trước nhiều, chỉ động vào là đất rụng xuống. Hoa

Hách Cấn đứng thẳng đợc người lên đào lại càng mau. Thỉnh thoảng Hoa

dừng lại chú ý lắng tai nghe xem trên mặt đất đã thấy động tĩnh gì cha. Từ

lúc bắt đầu đào ngược lên, mới trong khoảng thời gian thắp hết tuần hương

thì chỉ còn cách mặt đất chừng một thước. Hoa Hách Cấn càng đào thong

thả hơn, móc đất nhẹ nhàng. Sau cùng Hoa đụng vào một tấm ván gỗ mặt

phẳng, trong bụng sinh nghi tự hỏi: "tại sao trong thạch thất không lát đá

phiến mà lại lát ván gỗ? Nhưng thế này càng tiện việc cho mình". Hoa Hách

Cấn vận cả nội lực vào đầu ngón tay, từ từ khoét vuông vắn mỗi bề hai xích

thành cái cửa hầm vừa một người chui lọt. Khoét xong cúi xuống ra hiệu

cho hai ông bạn Phạm, Ba đỡ lấy rồi buông tay để tấm ván hạ xuống. Hoa

Hách Cấn giơ xẻng lên khoa trên miệng hầm để đề phòng có người đột kích,

chợt nghe tiếng lanh lảnh một cô gái la lên: "trời ơi" đầy vẻ kinh hoàng.

Hoa Hách Cấn khẽ gọi:

- Mộc cô nương! chớ to tiếng! Người nhà đến cứu các ngươi đây mà.

Chưa dứt lời Hoa đã nhảy vọt lên. Vừa thoáng nhìn Hoa đã giật mình kinh

hãi vô cùng: nhà tù gì mà bàn ghế cửa sổ chỗ nào cũng sạch như lau? Trong

tủ trên giá chỗ nào cũng bày la liệt những chai lọ đựng thuốc... một cô gái

chừng 15, 16 tuổi xiết bao kinh hãi phải lui ẩn vào góc nhà. Hoa Hách Cấn

biết là mình tính sai, đào không đúng chỗ, vào lầm nhà người khác mất rồi.

Sở dĩ có sự sai lầm này là vì chính mắt Hoa Hách Cấn không trông thấy thật

sự thạch thất ở chỗ nào, chỉ được Ba Thiên Thạch nghe lời Bảo Định Đế kể

lại cho nghe. Câu chuyện từ miệng người nọ sang tai người kia nên nỗi sai

một ly đi một dặm. Đây là nhà ở Chung Vạn Cừu còn cô gái đó tức là

Chung Linh.

Nguyên Chung Linh đang ở phòng thuốc của cha để lần tìm thuốc giải độc,

lấy trộm đem cho Đoàn Dự. Nàng có biết đâu rằng những thuốc giải độc

tầm thừng đối với chất độc Âm dương hoà hợp tán hoàn toàn vô hiệu. Lúc

này vợ chồng Chung Vạn Cừu đang ở ngoài sảnh đường tiếp đãi tân khách

yên ấm nên Chung Linh một mình lén vào phòng khách cố tìm. Bất thình

lình ở dưới đất chui lên một người to lớn thì làm gì mà nàng chẳng sợ tái

mặt? Hoa Hách Cấn tâm linh ứng biến cực kỳ mau lẹ, nghĩ bụng: "việc

mình đào lầm đường, cố nhiên là phải đào lại nhưng đã trót lộ hình tích.

Nếu giết nàng đi để bịt miệng thì rồi người trong hang Vạn Kiếp này thấy

thi thể nàng nằm đó, tức khắc sẽ điều tra gắt gao. Mình chưa vào đến nhà

thạch thất đã bị khám phá ra đường hầm rồi thì hỏng bét. Chỉ còn cách là

đem nàng xuống hầm, mọi người không thấy nàng nhất định chạy ra ngoài

bổ đi tìm nàng. Vừa nghĩ tới đó chợt ngoài phòng có tiếng chân người đi tới

Hoa Hách Cấn bèn khoa tay trước mặt Chung Linh ra hiệu cấm nàng không

được lên tiếng. Rồi giả vờ trở gót, tựa như kiểu muốn chui xuống hầm

nhưng vụt một cái Hoa nhảy phắt lại phía sau, giơ tay trái bịt miệng Chung

Linh còn tay phải quờ ra sau lưng quắp nàng đem vào miệng hầm thả

xuống. Phạm Hoa đưa tay ra đón lấy. Hoa Hách Cấn lấy ngay một nắm đất

nhét vào miệng nàng, đậy tấm ván lại cho bằng bặn như trước rồi ghé tai

vào kẽ hở nghe ngóng. Những cử động vừa rồi Hoa làm lẹ như chớp, Chung

Linh kinh hãi vô cùng tự nghĩ không biết bọn cướp này bắt mình có dụng ý

gì, miệng lại bị nhét đất chặt rất là khó chịu. Chợt thấy hai người đi vào

phòng, một người bước chân nặng trịch còn một người nhón gót nhẹ nhàng.

Rồi thấy tiếng đàn ông hỏi:

- Hẳn nàng đối với hắn còn có mối dư tình chưa cắt đứt. Không thì sao tôi

muốn phá hoại thanh danh họ Đoàn, can gì đến nàng mà nàng ngăn cản?

Đoạn thấy tiếng đàn bà đáp:

- Chàng nói... dư... dư... chi đó? Tôi cho chàng hay tôi không còn tình

nghĩa với người đó đâu.

Gã đàn ông lại nói:

- Nếu vậy thì còn gì hay bằng?

Giọng nói đầy vẻ hớn hở vui mừng. Người đàn bà lại tiếp:

- Chẳng qua Mộc Uyển Thanh là con gái sư tỷ tôi, tuy tính y ngang chướng,

có vô lễ với vợ chồng mình đi nữa thì cũng là người một nhà. Tôi thấy

chàng làm cái việc này không ổn chút nào.

Hoa Hách Cấn nghe đến đây biết ngay hai người này là vợ chồng Chung

động chúa. Vì thấy câu chuyện có liên quan đến Đoàn Dự nên Hoa vẫn chú

ý lắng tai nghe nữa.

Lại thấy tiếng Chung Vạn Cừu nói:

- Sư tỷ nàng ngấm ngầm chạy đi trả Đoàn Dự may mà Diệp Nhị Nương phát

giác kịp thời. Thế thì mụ đã thành cừu địch với mình rồi, hà tất nàng còn

phải quan tâm đến con gái mụ nữa? A Bảo nàng ơi, bao nhiêu khách khứa

ngoài đại sảnh toàn là những nhân vật có tên tuổi trong võ lâm. Nàng đối

với họ đã có vẻ lãnh đạm thì chớ lại còn bỏ chạy vào đây như thế là mất mặt cho tôi quá.

Chung phu nhân vùng vằng đáp:

- Chàng mời bọn này đến làm chi? Nào Nộ Giang Vương Tần Nguyên Tôn,

nào Nhất phi xung thiên Kim Đại Bằng, nào đại đệ tử phái Điểm Thương

Liễu Chi Hư, lại còn Tả Tử Mục phe Đông, Song Thanh đạo cô phe Tây

phái Vô Lượng kiếm và gã võ sư Mã Ngũ Đức ở phổ nhị gì gì nữa. Bọn này

liệu có dám chống chọi với Hoàng Đế đương kim nớc Đại Lý không?

Chung Vạn Cừu nói:

- Tôi có mời họ về tiếp tay làm phản đâu mà ngại? Chẳng qua họ ở gần

quanh đây nên mời đến để chứng kiến hai đứa con Đoàn Chính Thuần cùng

ở trong nhà thạch thất làm chuyện loạn luân ô uế, chứ có gì đâu? Đám

khách hôm nay còn lại Tuệ Thuyền hoà thượng ở chùa Thiếu Lâm rồi Giả

Diệp thiền sư chùa Đại Giác, hắc bạch kiếm Sử An, toàn là những bậc hào

kiệt đất Trung Nguyên. Sáng sớm mai sẽ mở cửa thạch thất để mọi người

coi cho rộng tầm con mắt. Các đức tính nhà họ Đoàn nổi tiếng về phép Nhất

Dương Chỉ sẽ thêm lừng danh trên chốn giang hồ.

Nói xong hắn đắc ý cười ha hả. Chung phu nhân đằng hắng một tiếng rồi

xẵng giọng:

- Thật là tuồng đê hèn vô liêm sỉ.

Chung Vạn Cừu hỏi:

- Nàng bảo ai đê hèn, vô liêm sỉ?

Chung phu nhân đáp:

- Kẻ nào làm việc đê hèn vô liêm sỉ thì kẻ ấy là quân đê hèn vô liêm sỉ chứ

còn ai? Tôi mắng không đáng sao?

Chung Vạn Cừu nói:

- Phải lắm! Phải lắm! Đoàn Chính Thuần cậy mình là gã phong lưu công tử,

gây ra bao oan nghiệt, thế nào trời quả báo đến nỗi hai đứa con mình sinh ra

giở thói loạn luân, đúng là quân đê hèn đến cùng cực.

Chung phu nhân cười lạt không đáp. Chung Vạn Cừu lại hỏi:

- Sao nàng lại cười? quân đê hèn vô liêm sỉ nàng vừa mắng đó không phải là

Đoàn Chính Thuần ?

Chung phu nhân nói:

- Mình không địch lại người họ Đoàn, suốt đời chui rúc trong hang ẩn nấp,

giả chết, không dám thò mặt đi đâu thì đành nằm chịu thế mới phải. Con

người biết liêm sỉ cũng là một điều dũng. Chàng bắt nhốt con cái người ta,

còn bày trò đê tiện. Tôi chỉ sợ các vị anh hùng hảo hán trong thiên hạ chẳng

những không ai chê cười họ Đoàn, còn quay lại thoá mạ chàng mà thôi.

Chung Vạn Cừu tức quá nhảy lên chồm chồm:

- Nàng... nàng thoá mạ tôi là kẻ đê hèn, vô liêm sỉ ?

Chung phu nhân ứa nước mắt nghẹn ngào nói:

- Không ngờ tôi lấy phải người chồng là... là một nhân vật như chàng.

Chung Vạn Cừu vốn thiết tha yêu vợ. Sở dĩ hắn ghét cay ghét đắng Đoàn

Chính Thuần là do sự ghen tuông mà ra. Hắn vừa thấy vợ ứa nước mắt, bất

giác chân tay luống cuống, nói chiều lòng:

- Tốt! Tốt lắm! Nàng muốn mắng tôi thì cứ việc mà mắng cho sướng miệng.

Tôi được mình mắng cũng vui lòng kia mà.

Hắn chạy lui chạy tới trong phòng tìm lời tạ lỗi với vợ mà không biết nói

sao. Chợt nhìn thấy thùng chai, lọ thuốc để lung tung liền nói:

- Trời ơi! Con Linh phá quá trời. Mới bé bằng ấy mà đã hỏi tới Âm dương

hoà hợp tán làm gì? Không biết ai xúi nó lại vào lục tìm loạn cả lên.

Vừa nói vừa xếp những chai thuốc lại, chân bước thế nào lại trúng vào tấm

gỗ miệng hầm. Hoa Hách Cấn phải vận nội lực chống cho nắp hầm khỏi rớt

xuống, sợ Chung Vạn Cừu khám phá ra hầm bí mật của mình.

Chung phu nhân cất tiếng gọi:

- Linh con ơi! Nó lại đi đâu rồi? Tôi đã bảo nó mấy bữa nay kẻ gian trà trộn

vào rất nhiều, dặn nó đừng có đi ra đi vô bữa bãi. Tôi thấy thằng cha Vân

Trung Hạc có đôi mắt diều hâu thường lấm la lấm lét nhìn con Linh nhà này

nên tôi bảo nó phải đề phòng.

Chung Vạn Cừu cười hềnh hệch nói:

- Tôi để ý đề phòng mình nàng mà thôi. Con người nguyệt thẹn hoa nhường

thế kia, đứa nào trông thấy mà chả thèm khát?

Chung phu nhân chặc lưỡi rồi cất tiếng gọi to:

- Linh! Linh ơi!

Một con nữ tỳ chạy ra tha:

- Con vừa thấy tiểu thư qua đây.

Chung phu nhân gật đầu nói:

- Mi đi kêu tiểu thư về đây ta bảo.

Chung Linh ở dưới hầm, từ nãy đến giờ nghe rõ mồn một. Khốn nỗi miệng

bị nhét đầy đất, không sao la lên được, trong lòng áy náy vô cùng.

Chung Vạn Cừu bảo vợ:

- Thôi nàng hãy nằm đây nghỉ một lát để tôi ra tiếp khách.

Chung phu nhân lạnh lùng đáp:

- Chàng vốn có cái ngoại hiệu: Kiến nhân tựu sát không ngờ tuổi già một

chút hoá ra Kiến nhân tựu pha.

Mấy bữa nay Chung Vạn Cừu mắc bận bù đầu. Bất luận hắn thốt ra câu gì

cũng là một dịp để cho vợ mỉa mai. Hắn biết vợ trước có tư tình với Đoàn

Chính Thuần. Bữa nay hoa xa ong cũ được dịp trùng phùng tránh sao khỏi

mối tình trước kia chớm nở khiến lòng người đàn bà sinh ra bực bội. Tuy

hắn căm giận vô cùng mà không dám dây miếng với nàng, chỉ cười hề hề đi

ra nhà khách.

Nói về Bảo Định Đế xuống chỉ xoá thuế muối, muôn dân nớc Đại Lý ca

tụng ơn đức vô cùng. Trong địa hạt Vân Nam sản xuất muối rất ít, không đủ

luật cung cầu, phải mua thêm muối ở đất Thục. Dân đã nghèo thuế muối lại

nặng nên hàng năm có đến mấy tháng phải ăn nhạt. Nhà Vua biết rằng một

khi miễn thuế muối, thế nào Huỳnh Mi hoà thượng cũng tìm cách đi cứu

Đoàn Dự để trả ơn. Ngài vẫn khâm phục Huỳnh Mi võ công trác tuyệt, lại

lắm cơ mưu, ngoài ra hoà thợng còn có sáu tên đồ đệ giỏi nội công. Cả bảy

thầy trò cùng ra tay quyết phải thành công. Nào ngờ đã qua một ngày một

đêm mà chẳng thấy hồi âm nhà Vua nóng ruột muốn phái Ba Thiên Thạch

đi dò la động tĩnh, nhưng sai người đi triệu thì cả ba ông Ba Thiên Thạch,

Hoa Hách Cấn cùng Phạm Hoa đều chẳng thấy đâu. Bảo Định Đế nghĩ

thầm: "phải chăng thái tử Diên Khánh vô cùng lợi hại khiến cho bảy thầy

trò Huỳnh Mi hoà thượng cùng cả ba quan tam công nước Đại Lý đều gặp

khốn đốn trong hang Vạn Kiếp. Nhà Vua lập tức tuyên triệu Thái đệ Đoàn

Chính Thuần, thiện xiển hầu Cao Thăng Thái cùng bọn Ngư, Tiều, Canh,

Độc và luôn cả vương phi Th Bạch Phụng lại đến hang Vạn Kiếp lần nữa.

Thư Bạch Phụng quá nóng lòng vì con xin nhà Vua đem cả ngự lâm quân đi

bình trị hang Vạn Kiếp.

Bảo Định Đế nói:

- Chưa phải lúc cạn tàu ráo máng, hãy theo lề lối giang hồ mà hành động.

Ta không muốn tự tay mình phá hoại thanh danh họ Đoàn đã được di truyền

từ mấy trăm năm nay.

Đoàn người vừa đến cửa hang Vạn Kiếp đã thấy Vân Trung Hạc cười khanh

khách ra đón tiếp. Gã xá dài nói:

- Chung động chúa biết đêm nay thế nào đại giá cũng giáng lâm nên cho tại

hạ ra đây chờ đợi. Giả tỷ mà các hạ điều động quân thiết giáp tới thì chúng

tôi đành chịu đánh bài "tẩu mã". Nhưng các hạ vẫn giữ lề luật giang hồ, lấy

tư cách nhà võ họp bạn vậy xin mời liệt vị vào đại sảnh dùng trà.

Bảo Định Đế xem chừng đối phương vẫn bình tĩnh như thường, tuyệt không

lộ vẻ hoang mang, khác hẳn bữa trước chỗ nào cũng xảy cuộc ác chiến thì

trái lại nhà Vua thấy vậy rất quan tâm.

Bảo Định Đế cũng chắp tay đáp lễ nói:

- Được vậy là hay lắm!

Vân Trung Hạc đi trước dẫn đường. Vào tới đại sảnh, Bảo Định Đế thấy các

hào kiệt trong đám giang hồ ngồi đầy tại đó cũng hơi chột dạ. Vân Trung

Hạc lớn tiếng giới thiệu cùng cử toạ:

- Đây là chưởng môn Đoàn gia ở Thiên Nam Đoàn lão sư.

Sở dĩ Vân Trung Hạc không xưng hô Bảo Định Đế là Hoàng Đế bệ hạ nước

Đại Lý mà lại giới thiệu bằng danh hiệu võ lâm là theo quy của giang hồ.

Không cần nói đến ngôi chí tôn trong một nước, chỉ riêng về địa hạt võ lâm,

Đoàn Chính Minh cũng đã có một địa vị lừng lẫy, ai ai cũng ngưỡng mộ

ông là một bậc tôn sư cao cả.

Các vị anh hùng vừa nghe giới thiệu, ai nấy đứng lên răm rắp. Chỉ có mình

Nam Hải Ngạc Thần là chễm chệ ngồi yên nói đổng:

- Ta cứ tưởng là ai, té ra là ông Vua. Ông mạnh giỏi chứ?

Chung Vạn Cừu rảo bước tiến đến trước mặt Bảo Định Đế nói:

- Chung Vạn Cừu này chưa kịp ra xa nghênh tiếp, xin ngài thứ lỗi cho!

Bảo Định Đế đáp:

- Hà tất phải khách sáo?

Mọi người theo thứ bậc an toạ. Cuộc họp mặt này theo lề luật giang hồ nên

vợ chồng Đoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng Thái không phải giữ lễ vua

tôi, ngồi gần bên Bảo Định Đế. Bọn Lăng Thiên Lý đứng đằng sau nhà

Vua.

Người nhà bưng trà lên mời. Bảo Định Đế đưa mắt nhìn một lượt, không

thấy thầy trò Huỳnh Mi hoà thượng và bọn Ba Thiên Thạch có mặt tại đây,

đang tìm câu để dò hỏi bỗng Chung Vạn Cừu lên tiếng:

- Được Đoàn chưởng môn hai phen hạ cố, tại hạ rất lấy làm vinh dự. Nay lại

được các vị bằng hữu tới đây đông đủ, tại hạ xin giới thiệu.

Rồi kể từng tên một, bắt đầu từ Tả Tử Mục, Mã Ngũ Đức, Tuệ Thuyền hoà

thượng, lần lượt đến tất cả mọi người.

Chừng quá nửa số người có mặt tại đó, Bảo Định Đế tuy chưa từng quen

biết nhưng cũng đã nghe danh.

##########################

Rõ ràng người đó chẳng là Chung Linh?

Các vị giang hồ hào kiệt nhất nhất cùng Bảo Định Đế làm lễ tương kiến: Mã

Ngũ Đức và Tả Tử Mục tỏ ra rất mực khiêm cung, đặc biệt là Liễu Cung Hư

Tần Nguyên Tôn vẫn giữ thái độ kiêu kỳ. Bọn Kim Đại Bằng, Sử An thi lễ

theo tư cách hàng hậu bối, không dám bác bậc mà cũng không quá khúm

núm.

Sau cuộc lễ tương kiến Chung Vạn Cừu lên tiếng:

- Đoàn huynh chưa dễ mấy khi hạ cố, xin lưu lại đây mấy hôm cũng là một

dịp may cho anh em được học hỏi thêm.

Bảo Định Đế đáp:

- Xá điệt là Đoàn Dự, vì xúc phạm tới Chung động chúa, đã bị lưu lại quý

xứ nên hôm nay tại hạ thân hành đến đây một là để tỏ tình thân, hai là để

xin lỗi, dám mong Chung động chúa nể mặt tại hạ mà thứ tội cho đứa con

nít ngây ngô, dại dột, tại hạ xiết bao cảm kích.

Quần hùng nghe nhà Vua nói, ai cũng kính phục khen thầm:

- Lâu nay thường nghe Đoàn hoàng đế nước Đại Lý, bao giờ cũng theo

đúng quy luật võ lâm tiếp đãi đồng đạo, quả nhiên danh bất h truyền. Chỗ

này thuộc phạm vi giang sơn của mình, nhà Vua chỉ cần phái mấy trăm binh

mã đến bắt người về là được thế mà người lại thân hành tới nơi, dùng lời lẽ

ôn tồn, năn nỉ cầu xin.

Chung Vạn Cừu cời khanh khách chưa kịp trả lời thì Hắc Bạch kiếm Sử An

đã cướp lời:

- Thế ra công tử Đoàn Dự đắc tội với Chung động chúa.

Tại hạ đối với Đoàn công tử có mang ơn cứu mạng, cũng xin động chúa gia

ơn cho!

Nam Hải Ngạc Thần bỗng lớn tiếng quát:

- Đây là việc của đồ đệ ta, ai khiến mi nói chõ vào?

Cao Thăng Thái cười lạt nói:

- Đoàn công tử là sư phụ ngươi chứ? ngươi đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi kia

mà? Chẳng lẽ bây giờ ngươi lại ăn lời?

Nam Hải Ngạc Thần thẹn đỏ mặt tía tai mắng lại:

- Mẹ nó! Lão gia không thèm nuốt lời đâu. Hôm nay lão gia muốn giết

quách gã sư phụ hữu danh vô thực đó đi. Lão đây phải thờ một gã tiểu tử

làm thầy, thẹn chết đi được.

Mọi người không hiểu đầu đuôi, đều phải sửng sốt. Thư Bạch Phụng nói:

- Chung động chúa! Tha hay không các hạ nói cho dứt khoát.

Chung Vạn Cừu cười đáp:

- Tha, tha chứ! tôi giữ lệnh lang ở đây làm chi?

Vân Trung Hạc tự nhiên nói xen vào:

- Đoàn công tử là một trang thiếu niên anh tuấn, Chung phu nhân lại là bậc

tuyệt sắc giai nhân nếu lưu Đoàn công tử ở đây phỏng có khác chi rước voi

dày mả tổ, nuôi ong tay áo. Chung động chúa dĩ nhiên phải tha công tử rồi,

chả dám giữ đâu.

Mọi người nghe gã đều phải ngạc nhiên. Ai cũng nghĩ bụng: "thằng cha

cùng hung cực ác này ăn nói càn dở, chẳng kiêng nể gì, thậm chí đến Chung

Vạn Cừu mà gã cũng chẳng coi vào đâu. Không trách gã tự xưng là cùng

hung cực ác thật đúng lắm".

Chung Vạn Cừu căm giận quay lại bảo Vân Trung Hạc:

- Vân huynh! Sau khi đã giải quyết xong vụ này tại hạ sẽ xin lãnh giáo mấy

hiệp.

Vân Trung Hạc đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta vẫn có ý định giết anh chồng để chiếm cô vợ, mưu

đoạt gia tài, chiếm luôn nhà ở.

Mọi người cả kinh thất sắc. Nhất phi xung thiên Kim Đại Bằng lên tiếng:

- Anh hùng hảo hán trong chốn giang hồ chưa chết hết đâu. Các ngươi bản

lãnh cao cường đến mấy chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi đạo trời

chí công được đâu.

Diệp Nhị Nương bật lên tiếng cười the thé phản đối:

- Kim tướng công! Nhị Nương này chưa hề xúc phạm gì tới ngươi, sao

ngươi vơ đũa cả nắm?

Nghe giọng nói thôi miên trấn áp cả tâm hồn Kim Đại Bằng không khỏi

rùng mình. Tả Tử Mục sực nhớ chuyện mụ cướp con mình bữa trước, trong

bụng hãy còn nơm nớp lo âu, đa mắt nhìn trộm mụ một cái. Diệp Nhị

Nương cười sằng sặc hỏi:

- Tả chưởng môn! Mấy bữa nay chắc lệnh lang lớn lên và mập mạp trắng

trẻo lắm đấy nhỉ?

Tả Tử Mục bất đắc dĩ hàm hồ khẽ đáp:

- Bữa trước cháu bị cảm mạo phong hàn, tới nay vẫn chưa khỏi.

Diệp Nhị Nương nói tiếp:

- A! Đó đều là lỗi tại tôi. Lúc quay về tôi sẽ qua thăm thằng cháu Sơn Sơn

rất ngoan ngoãn.

Tả Tử Mục thất kinh, vội gạt đi:

- Không dám phiền đại giá giáng lâm lần nữa.

Bảo Định Đế thấy rõ tình hình, nghĩ thầm: "thế này thì ra bon tứ ác hoành

hành quá tệ, kết oán đã nhiều. Đợi khi cứu Đoàn Dự ra rồi ta phải tìm cơ

hội tiêu diệt bọn chúng để trừ mối đại hại. Đứng đầu bọn tứ ác là thái tử

Diên Khánh, tay cùng người họ Đoàn ta không tiện hạ thủ nhưng nếu xét ra

quả tội ác đầy rẫy thì cũng không thể dung thứ được.

Thư Bạch Phụng thấy mỗi người một điều, toàn chuyện đâu đâu, liền trở lại

vấn đề. Bà đứng phắt lên nói:

- Chung động chúa đã nhận lời tha thằng nhỏ. Vậy xin cho gọi nó ra để mẹ

con ta được gặp nhau.

Chung Vạn Cừu cũng đứng lên đáp:

- Được rồi.

Rồi đột nhiên quay lại hầm hầm, trừng mắt nhìn Đoàn Chính Thuần và than

rằng:

- Đoàn Chính Thuần! Mi đã có vợ đẹp con khôn như thế mà lòng tham vẫn

chưa đủ ? Hôm nay mi mang tiếng ô nhục với thiên hạ, đó là mình làm

mình chịu, đừng oán trách gì Chung Vạn Cừu này nữa.

Đoàn Chính Thuần ngay từ lúc đầu nghe Chung Vạn Cừu hứa trả con trai đã

nghĩ ngay: câu chuyện đâu có thể dễ dàng như thế được? Tất nhiên đối

phương còn có âm mưu, quỷ kế gì đây. Bây giờ nghe hắn nói vậy càng thêm

chột dạ, vội đứng phắt dậy, bước tới trước mặt Chung Vạn Cừu bảo:

- Chung động chúa! Nếu ngươi còn cố ý hại người thì Đoàn mỗ sẽ có

phương pháp đối phó khiến ngươi cũng phải hối hận suốt đời.

Chung Vạn Cừu thấy Vương gia tướng mạo đường đường, phong độ thanh

cao đài các, mình thực chẳng bén gót chân. Phần thì thẹn vì mình xấu xa,

phần thì ghen tức, lửa giận bốc lên đùng đùng, lớn tiếng quát:

- Đã đến nước này Chung mỗ có bị nhà tan người chết, thây phân muôn

đoạn cũng quyết theo đuổi ăn thua với mi cho đến cùng. Mi muốn lấy lại

con, được lắm, hãy đi theo vào đây.

Nói xong hùng hổ rảo bước ra ngoài sảnh đường. Đoàn người đi theo Chung

Vạn Cừu đến trước bức tường cây. Vân Trung Hạc muốn phô tài khinh

công, liền nhảy vọt sang qua bên kia trước tiên. Đoàn Chính Thuần nghĩ

bụng: "Việc này không thể giải quyết êm đẹp được rồi, chi bằng mình ra oai

trước để đối phơng biết chừng mà nhượng bộ" bèn hạ lệnh:

- Đốc Thành! Ngươi chặt mấy gốc cây này để mở lối cho mọi người đi!

Thái Tân Khách Tiêu Đốc Thành đáp:

- Xin vâng!

Đoạn giơ búa thép lên chặt ngang từng gốc cây chẳng khác gì dao bén thái

đậu phụ. Điểm Thương Nông Đổng Tư Quy phóng chưởng lực ra đánh bật

những cây đã ngã xuống hất ngược lên dựa vào rặng cây hai bên, để lộ ra

một lối nhỏ. Cây cương phủ loá lên một vài nhát nữa, thế là 5 gốc cây bị

chặt phăng trong nháy mắt và mở thành một lối đi rộng rãi. Chung Vạn Cừu

trồng bón được thành một bức tường đã tốn bao nhiêu tâm huyết chứ đâu

phải chuyện dễ dàng? bây giờ bỗng bị Tiêu Đốc Thành vung 5 nhát búa

chém mất 5 cây lớn thì tức giận vô cùng nhưng hắn lại nghĩ rằng: "họ Đoàn

nước Đại Lý phen này bị nhục nhã ê chề, cái việc phá hoại nhỏ mọn này có

thấm vào đâu?". Nghĩ vậy liền theo lối trống đi vào. Vừa đi khỏi bức tường

cây thấy Huỳnh Mi hoà thượng và Thanh bào khách mỗi người tay trái đang

cầm một đầu gậy trúc, trên đầu bật lên một luồng hơi trắng thì ra hai người

đang đấu nội lực. Thốt nhiên Huỳnh Mi đưa ngón tay bên phải ra xoáy

mạnh vào tảng đá xanh trước mặt, lõm xuống một lỗ nhỏ. Thanh bào khách

suy tính một chút, rồi tay phải cầm gậy trúc thứ hai vạch một vòng tròn lên

tảng đá đó. Bảo Định Đế chú ý nhìn biết ngay là Huỳnh Mi sư huyng đang

cùng thái tử Diên Khánh vừa đánh cờ vừa đấu nội công. Thế là vừa đấu trí

vừa đấu lực. Cuộc đấu đặc biệt lạ lùng này thật nguy hiểm khôn lường.

Thảo nào một ngày một đêm rồi mà sư huynh chưa thấy hồi âm. Té ra hai

người vẫn tiếp tục đấu chọi từ bấy đến giờ mà vẫn chưa thắng bại. Bảo Định

Đế đưa mắt nhìn vào bàn cờ, thấy hai người đang tranh đấu đến độ một còn

một mất, dường như cuộc thắng bại có quan hệ đến kiếp vận con người. Bên

Huỳnh Mi hoà thượng bị kém thế rõ ràng, đang chật vật gỡ cho thoát chết.

Bảo Định Đế lại quay nhìn về phía nhà đá thì thấy sáu tên đồ đệ của Huỳnh

Mi hoà thượng đương ngồi xếp bằng ở trước cửa, người nào nét mặt cũng

xám ngắt, hình như thần khí bị đoạn tuyệt gần chết đến nơi rồi. Đế thất kinh

trong bụng nghĩ thầm: "Có lẽ sáu người này đến giao đấu với thái tử Diên

Khánh trước nên đều bị trọng thương rồi chăng?". Bảo Định Đế liền chạy

vội tới, đặt tay nghe huyệt mạch môn Phá Tham hoà thượng thì thấy mạch

chạy nhát gừng, yếu quá, lúc có lúc không, xem chừng nguy đến nơi rồi.

Tức thời nhà Vua móc trong bọc ra một bình nhỏ bằng bạch ngọc, đổ lấy

sáu viên thuốc đỏ tươi như máu bỏ vào mồm 6 vị hoà thượng mỗi người một

viên. Đó là sáu viên hổ phách hoàn, thuốc chữa người bị thương rất hay và

kiêm cả công hiệu bồi bổ nguyên thần. Có biết đâu sáu hoà thượng này

không phải bị thương, mà bị hấp lực Chu cáp thần công hút hết mất chân

khí trong người. Bệnh một đằng, thuốc chữa một nẻo nên chẳng ăn thua gì.

Đoàn Chính Thuần hô bọn Thiên Lý:

- Bốn ngươi lại đẩy khối đá này đi để mở cho Đoàn Dự ra.

Bốn người vâng lệnh, nhất tề tiến lại, Chung Vạn Cừu thét:

- Hãy thong thả! Quý vị có biết trong nhà đá này còn có ai nữa không?

Đoàn Chính Thuần và bọn Lăng Thiên Lý đều không ai biết Mộc Uyển

Thanh đã bị thái tử Diên Khánh bắt về, đem giam cùng một chỗ với Đoàn

Dự và cũng không biết hai người đã uống phải Âm dơưng hoà hợp tán, một

thứ độc dược có tính chất mãnh liệt. Vì thế Chung Vạn Cừu mới cho cả

người ngoài vào, chủ ý để mọi người mục kích một tấn kịch nhơ nhuốc của

họ Đoàn là Đoàn Dự đã loạn dâm với em gái.

Nghe Chung Vạn Cừu hỏi, Đoàn Chính Thuần bất giác trống ngực đánh

thình thình, lo cho số phận con mình đang bị chặt tay chân hay bị khoét mắt

rồi cũng nên. Ông nói:

- Chung động chúa! Nếu động chúa làm cho con tôi thân thể tàn tật thì động

chúa cũng nên nhớ rằng người cũng có vợ con đấy.

Chung Vạn Cừu cười lạt mỉa mai:

- Hừ, ngươi nói đúng đó, Chung Vạn Cừu này cũng có vợ có con thật,

nhng nhờ trời không đến nỗi trai gái loạn luân như loài muông thú.

Đoàn Chính Thuần giận tái mặt quát hỏi:

- Mi nói lăng nhăng gì thế?

Chung Vạn Cừu hỏi lại:

- Hương dược xoa Mộc Uyển Thanh có phải là con ngoại tình của mi

không?

Đoàn Chính Thuần giận mắng:

- Thân thế Mộc Uyển Thanh có can dự gì đến mi? Sao mi lại cứ hay can

thiệp vào chuyện không đâu?

Chung Vạn Cừu cười ha hả nói:

- Việc đó chưa chắc đã là chuyện không đâu. Họ Đoàn nước Đại Lý trị vì

trời nam, làm chúa tể một phương, thanh dang vang dội khắp giang hồ.

Nhưng hôm nay các vị anh hùng hảo hán sẽ mở to mắt ra coi một tấn bi hài

kịch: con trai và con gái Đoàn Chính Thuần phượng đảo, loan điên kết

thành vợ chồng.

Nghe Chung Vạn Cừu nói Đoàn Chính Thuần trong lòng nghi hoặc: chẳng

lẽ Mộc Uyển Thanh cũng ở trong nhà đá này? Chẳng lẽ hai anh em nó lại...

nhưng khi đem những lời hắn nói từ trước tới sau, suy đi nghĩ lại thì thấy rõ

ràng không còn nghi ngờ gì nữa. Ông lạnh toát cả người như rơi vào hồ

băng tuyết, lòng ông tê tái, miệng lẩm bẩm: "mưu kế quá thâm độc, mưu kế

quá thâm độc".

Chung Vạn Cừu quay về phía Nam Hải Ngạc Thần giơ tay làm hiệu rồi hai

người vung tay dùng chưởng lực để đánh tảng đá ở cửa nhà thạch thất. Đoàn

Chính Thuần định cản lại nói:

- Khoan đã!

Nhưng Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc hai người hai bên cùng đánh ra

một chưởng. Đoàn Chính Thuần đưa hai tay ngăn chặn chưởng lực của Diệp

Nhị Nương còn Cao Thăng Thái thì nghiêng người bước xéo lên để cản

chưởng lực của Vân Trung Hạc. Không ngờ hai chưởng lực của Diệp Nhị

Nương và Vân Trung Hạc chỉ là đòn đánh dứ. Trong lúc vung tay phải lên

thì tay trái đã đánh ngoặt lại, đều nhằm vào chỗ tảng đá. Tảng đá này tuy

nặng tới mấy ngàn cân nhưng bị bốn chưởng lực đánh vào một lúc, tức thời

lăn hẳn sang bên phải. Kể ra Vân Trung Hạc cùng Chung Vạn Cừu không

ưa gì nhau nhưng trong vụ này họ đã có bàn định với nhau từ trước. Chúng

dàn cảnh hư hư thực thực, Đoàn Chính Thuần biết đâu mà ngăn chặn được?

Thực ra Đoàn Chính Thuần cũng nóng lòng, mong sớm được nhìn mặt con

nên cũng không cố tâm ngăn cản lắm. Khối đá vừa lăn ra, mở một lối đi tối

om, nhìn vào không rõ cảnh tượng bên trong.

Chung Vạn Cừu vừa cười vừa nói:

- Trai trơ, gái trọi, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn nhà tối thế thì họ

còn làm cái trò gì hay ho nữa chứ?

Vừa nói dứt lời, bỗng thấy một thanh niên đầu bù tóc rối, mình trần trùng

trục xồng xộc chạy ra. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, tay ôm ngang một

thiếu nữ, đang mê mẩn như là người say rượu. Bảo Định Đế thẹn quá mặt

đỏ bừng. Đoàn Chính Thuần cũng cúi gầm mặt xuống, không dám ngửng

lên, Thư Bạch Phụng thì hai mắt đẫm lệ, miệng lẩm bẩm: "oan nghiệt, oan

nghiệt".

Hắc bạch kiếm Sử An vì nhớ ơn cứu mạng của Đoàn Dự bây giờ thấy chàng

bị biêu riếu trước công chúng, trong lòng không nỡ, nhảy thoắt lại, đứng

chắn trước mặt chàng.

Nam Hải Ngạc Thần quát lớn:

- Quân đê tiện này, đứng tránh ra!

Chung Vạn Cừu cười ha hả, đang dương dương đắc ý, thốt nhiên ngừng bặt,

nét mặt sa sầm, tiếng cười biến thành tiếng la bi thảm:

- Linh! Linh! Mi đấy hử?

Mọi người thấy vậy giật mình, ai cũng giương mắt nhìn theo thì thấy Chung

Vạn Cừu chạy tới trước mặt Đoàn Dự thò tay giật lấy thiếu nữ mà chàng

đang ẵm ngang trước bụng. Nhìn rõ cô bé diện mạo còn nhỏ tuổi hơn Mộc

Uyển Thanh mà vóc người cũng nhỏ thon hơn, nét mặt vẫn còn thơ ngây

măng sữa. Cô bé này đâu phải Mộc Uyển Thanh, chính là Chung Linh, con

gái Chung Vạn Cừu.

Vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ, Chung Vạn Cừu đưa tay ẵm con nhưng vừa

chạm vào cánh tay Chung Linh thì bỗng toàn thân giật nảy lên một cái, rồi

chân khí trong người cuồn cuộn như muốn thoát ra.

Đoàn Dự thần trí vẫn chưa được tỉnh táo hẳn, trong lúc mơ màng thấy nhiều

người đứng xúm quanh trước mặt, chàng nhìn thấy có cả song thân và bá

phụ, vội buông Chung Linh ra ú ớ gọi:

- Má má, gia gia, bá phụ.

Đoàn Dự buông Chung Linh ra, chân khí trong người Chung Vạn Cừu mới

khỏi bị hấp lực Chu cáp thần công hút ra nữa. Vì bị giam hãm lâu trong nhà

tối, bây giờ bị ánh dương quang rọi vào, Đoàn Dự chói mắt không mở ra

được. Song chàng thấy tinh thần sung mãn, chân tay mình nhẹ nhàng như

muốn bay bổng khỏi mặt đất.

Thư Bạch Phụng chạy đến ôm Đoàn Dự vào lòng, ân cần hỏi:

- Dự con! Con... con làm sao đấy?

Đoàn Dự đáp:

- Con... con cũng không biết nữa. Hiện giờ con... ở chỗ nào đây?

Chung Vạn Cừu không ngờ muốn làm hại người mà thành ra hại mình. Hắn

ngẩn người ra một lúc rồi buông con gái xuống.

Chung Linh thấy mình mặc phong phanh có mỗi bộ quần áo lót, thẹn quá

mặt đỏ bừng. Chung Vạn Cừu cởi áo dài ra khoác vào cho nàng rồi đánh

theo luôn một chưởng, làm cho cô bé sưng húp một bên má. Hắn mắng con:

- Quân mặt dầy! Ai bảo mày theo thằng súc sinh đi ở với nhau một chỗ?

Chung Linh bị mắng oan nhưng không biết biện bạch sao được nàng chỉ nức

nở khóc. Chung Vạn Cừu chợt lại nghĩ ra một điều: tảng đá lớn như thế Mộc

Uyển Thanh chắc không thể nào đẩy mà ra được, nhất định nàng hãy còn ở

trong nhà đá, vậy hãy gọi nàng ra để cùng chia bớt một phần ô nhục với

Chung Linh.

Hắn gọi luôn ba tiếng mà tuyệt nhiên không thấy ai thưa. Chung Vạn Cừu

tiến thẳng vào trong nhà. Căn nhà này chả rộng là mấy, không quá một

trượng vuông, thoáng đưa mắt đã nhìn khắp lượt mà tuyệt nhiên không thấy

một bóng người nào. Chung Vạn Cừu tức vỡ ngực, nhảy thót ra, lại đánh

con gái thêm một chưởng nữa và quát mắng:

- Ta phải đánh chết con bé thối tha này.

Giữa lúc đó, thốt nhiên Chung Vạn Cừu thấy một bàn tay thò ra, rồi một

ngón vô danh và một ngón út đương nhằm điểm vào cổ tay hắn. Chung Vạn

Cừu vội rụt tay lại để tránh, nhìn ra thì người định điểm lén hắn chính là

Đoàn Chính Thuần. Hắn căm giận quát hỏi:

- Ta dạy đứa con gái mất nết của ta có can dự gì đến mi?

Đoàn Chính Thuần cười khì khì đáp:

- Chung động chúa! Động chúa thực đã ưu đãi thằng nhỏ nhà tôi, sợ nó ở

một mình tĩnh mịch, đã để lệnh ái là một vị thiên kim tiểu thư ở chung cho

có bạn. Tại hạ rất cảm kích. Bây giờ cơ sự đã đến thế này, lệnh ái đã thành

người nhà họ Đoàn rồi, tại hạ không thể không can thiệp được.

Chung Vạn Cừu quát hỏi:

- Làm sao lại bảo con gái ta là người họ Đoàn nhà mi được?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Lệnh ái ở trong nhà đá này cùng thằng Dự bầu bạn mấy ngày mấy đêm.

Trai trơ, gái trọi lại thân thể loã lồ, tất chúng đã thành hảo sự với nhau rồi.

Con tôi là thái tử của Trấn Nam Vương, tuy đã đính hôn cùng tiểu thư con

Thiện xiển hầu Cao hiền đệ, song làm trai năm thê, bảy thiếp vẫn được chứ

sao? Thế thì động chúa với tôi là chỗ thông gia với nhau rồi còn gì?

Nói xong lại tiếp một chuỗi cười ha hả. Chung Vạn Cừu giận muốn phát

điên, không nhịn được nữa, nhảy xổ vào đá "vu vu vu" luôn ba cước. Đoàn

Chính Thuần vẫn cười ngặt nghẽo, mà đối phương đánh cước nào ông cũng

tránh né dễ như chơi.

Các tay hào kiệt đều tự nghĩ: "Thế lực họ Đoàn nước Đại Lý quả là không

thể khinh thường được. Không hiểu họ dùng cách nào mà bắt được con gái

Chung Vạn Cừu nhốt vào nhà đá để đánh tráo đem Mộc Uyển Thanh đi.

Nguyên do vụ này là tự tay bọn Hoa Hách Cấn mà ra. Bản ý của họ lúc mới

bắt Chung Linh đem vào địa đạo chẳng qua là giữ cô bé khỏi tiết lộ sự bí

mật về công việc của họ mà thôi. Nhưng sau khi nghe thấy câu chuyện đối

thoại giữa hai vợ chồng Chung Vạn Cừu mới biết rõ hắn cùng thái tử Diên

Khánh xếp đặt một quỷ kế rất hiểm độc, cố ý làm bại hoại thanh danh nhà

họ Đoàn. Bọn Hoa Hách Cấn cùng nhau thương nghị, đều thấy rằng việc

này quan hệ rất lớn, lại là việc rất khẩn cấp. Chờ cho Chung phu nhân đã đi

khỏi, Ba Thiên Thạch từ trong đường hầm chui lên ra ngoài, dùng khinh

công tuyệt đỉnh điều tra đích xác vị trí ngôi nhà đá và còn cách xa bao nhiêu

rồi quay lại báo cho Hoa Hách Cấn biết rõ để ấn định lại lộ tuyến của đường

hầm. Ba ngời lại hì hục đào mải miết thêm một đêm nữa, đến sáng hôm

sau thì vừa tới đích. Hoa Hách Cấn khoét một lỗ từ dưới nhà đá chui lên,

thấy Đoàn Dự đang nắm chặt bàn tay của một người đứng bên ngoài nhà đá

thò vào. Hoa rất đỗi ngạc nhiên, không biết là bàn tay Phá Sản hoà thượng

mà cho là bàn tay thái tử Diên Khánh nên không dám lớn tiếng hỏi Đoàn

Dự mà chỉ khẽ đập nhẹ trên bàn tay trái chàng. Không ngờ ngón tay vừa

chạm vào mu bàn tay Đoàn Dự Hoa Hách Cấn thấy toàn thân run bắn lên

một cái, chẳng khác chi chạm phải một khối than hồng. Hoa nhìn lại Đoàn

Dự thì thấy mắt chàng dường như phun ra lửa không khỏi chột dạ. Trong

lúc vội vàng Hoa dùng sức kéo mạnh, mong lôi được chàng xuống đường

hầm để trốn thoát cho mau. Nào ngờ lúc vừa nắm chặt bàn tay Đoàn Dự,

Hoa Hách Cấn cảm thấy chân khí trong người cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài,

không thể nhịn được hoảng hốt la: "ối chao! ối chao!". Ba Thiên Thạch và

Phạm Hoa đều là người thính tai mẫn tiệp, từ đường hầm nhảy lên ngay,

hợp lực lôi Hoa Hách Cấn ra bấy giờ mới thoát khỏi sức hút của Chu cáp

thần công. nội lực của ba người so với Phá Sản hòa thượng cao hơn một bậc,

hơn nữa lại đều là tay cơ trí, ứng biến mau lẹ mà cũng sợ toát cả mồ hôi.

Trong bụng đều cho là tà phép của thái tử Diên Khánh cực kỳ lợi hại. Rồi

không ai dám đụng vào mình Đoàn Dự nữa vì sợ Diên Khánh dùng ta thuật,

chuyền qua cánh tay Đoàn Dự mà hút lấy chân khí của họ. Giữa lúc đó

bỗng thấy phía ngoài nhà có tiếng xôn xao, lại nghe rõ cả Bảo Định Đế và

Trấn Nam Vương cũng đã tới nơi. Chung Vạn Cừu thì đang huênh hoang

diễu cợt. Phạm Hoa một tay hoạt kê có biệt tài, lại lắm mưu nhiều trí,

thoáng nảy ra một ý nghĩ kỳ khôi: "Thằng cha Chung Vạn Cừu này thật là

khả ố, âu là ta chơi khăm cho hắn bị một vố ê chề để làm trò cười chơi".

Nghĩ vậy Phạm Hoa vội cởi áo ngoài của Chung Linh ra, mặc cho Mộc

Uyển Thanh. Đoạn ra hiệu cho bạn đưa Mộc Uyển Thanh xuống đường

hầm, dắt Chung Linh vào chỗ Mộc Uyển Thanh. Xong xuôi lấy phiến đá

đậy cửa hầm lại, không còn để một dấu vết gì khả nghi nữa.

Đoàn Dự tuy hút được chân khí của sáu vị hoà thợng nhưng không biết quy

nạp vào huyệt đan điền để mà vận dụng nên chỉ thấy sáu luồng chân khí

chạy nhộn trong mình làm cho lục phủ ngũ tạng nôn nao, rất là khó chịu,

người cũng lảo đảo đi đứng không vững. Bảo Định Đế thấy thế, cho là Đoàn

Dự đã trúng phải kịch độc, liền đưa ngón tay điểm dứ vào ba huyệt: "nhân

trung", "thái dương", "linh đài" cho chàng. Sáu luồng chân khí không xông

vào óc được nữa, Đoàn Dự tuy trong người vẫn còn bứt rứt khó chịu, nhưng

đầu óc đã thanh sảng liền thưa với Bảo Định Đế:

- Bá phụ! Cháu bị trúng độc Âm dương hoà hợp tán.

Bảo Định Đế thấy tính mạng Đoàn Dự không có gì đáng lo ngại nữa đã hơi

yên lòng. Nhưng lại nghĩ tới cuộc đấu cờ thí mạng giữa Huỳnh Mi hòa

thượng và thái tử Diên Khánh đã tới giai đoạn ngàn cân treo sợi tóc. Bất

luận là đấu cờ hay đấu nội lực cả hai mặt đều nguy hiểm, chỉ sai một tý nữa

là nguy đến tính mạng nên Bảo Định Đế tạm ngưng việc giải độc cho Đoàn

Dự, chạy vội đến chỗ hai người đấu cờ.

Huỳnh Mi hòa thượng mồ hôi trán nhỏ giọt xuống bàn cờ, còn Diên Khánh

nét mặt vẫn thản nhiên. Xem qua tình thế đủ biết cuộc thắng bại đã rành

rành, sự sinh tử của Huỳnh Mi hòa thượng đã đến lúc cực kỳ nguy hiểm.

Đoàn Dự thần trí vừa được sảng khoái, cũng quan tâm ngay tới cuộc thắng

bại trên bàn cờ, vội chạy lại xem. Thấy quân bên Huỳnh Mi đã bị mất sạch,

Diên Khánh chỉ bắt thêm một quân nữa là Huỳnh Mi không còn quân ra, tất

phải chịu thua.

Thái tử Diên Khánh đưa đầu gậy trúc điểm xuống bàn cờ, trỏ đúng điểm

then chốt, chỉ đi một nước đó nữa là bên Huỳnh Mi vô phương cứu vãn.

Đoàn Dự trong dạ bồn chồn, liền nghĩ ra một kế: "A ta phải làm cho lão đi

sai một nước". Nghĩ vậy chàng đưa tay giữ lấy đầu gậy của thái tử Diên

Khánh. Diên Khánh vừa đưa gậy trúc tới điểm "lục thất", góc thượng vị thì

thốt nhiên lão cảm thấy lòng bàn tay nóng ran lên, rồi nội lực trên cánh tay

cuồn cuộn thoát ra ngoài. Thái tử Diên Khánh kinh ngạc vô cùng, ghé mắt

nhòm xuống thấy Đoàn Dự đưa hai ngón tay cặp vào đầu gậy.

Chính Đoàn Dự cũng không biết rằng sau khi mình nuốt đôi Mãng Cổ chu

cáp đã phát ra hiện tượng quái dị là hút cả được chân khí của người nào

chạm tới mình. Chàng thấy tay mình cầm vào đầu gậy trúc mà thái tử Diên

Khánh không điểm được gậy xuống bàn cờ, chàng chỉ mong kéo dài được

phút nào hay phút đó, trêu chọc cho lão rối loạn tâm trí, hoạ may Huỳnh Mi

có cơ xoay lại cục diện cũng chưa biết chừng nên chàng cứ bám chặt đầu

gậy, nhất định không chịu buông ngón tay ra.

Thái tử Diên Khánh trong đầu óc nẩy ra vô số nghi vấn: khi trước bọn mình

bắt thằng nhỏ này thấy nó không hiểu một chút võ công nào cả kia mà!

Nghệ thuật tối đa của nó chẳng qua là mấy bước bộ pháp để né tránh mà

thôi. Không hiểu sao mới trong vài ngày, đột nhiên nó lại nảy ra cái tà thuật

hút được nội công của người ta? Phải chăng lúc đầu nó có ý dấu diếm tài

nghệ, không chịu tiết lộ, chờ khi người tiếp viện đến rồi mới ra tay? Ngoài

ra không thể tìm được nguyên nhân minh bạch nào khác để giải đáp. Thái tử

Diên Khánh vừa nghĩ vừa vận khí vào huyệt đan điền, dồn sức mạnh ra cánh

tay. Chiếc gậy trúc lúc đó phát xuất được một sức mạnh tuyệt luân, đầu gậy

trúc rung lên một cái, đẩy bật cánh tay Đoàn Dự ra.

Nội lực của thái tử Diên Khánh thâm hậu dị thường, không mấy ai sánh kịp.

Đoàn Dự tuy mới hút vào người được chân lực của bọn Phá Tham hòa

thợng nhưng lại cha biết vận dụng, mơừi phần không phát động được một

nên đầu gậy trúc của thái tử Diên Khánh hất mạnh một cái chàng đã phải

buông tay ra.

Đoàn Dự cảm thấy nửa mình bị tê chồn, người lảo đảo muốn té vật xuống,

phải vội vàng đưa tay vịn vào phiến đá mới đứng vững lại được.

Thái tử Diên Khánh phát xuất kình lực đẩy bật được tay Đoàn Dự ra nhưng

lúc thu hồi chân khí chỉ còn được có phân nửa nên trong lòng rất đỗi kinh

hoàng, kinh hoàng hơn cả Đoàn Dự. Vì tâm trạng quá hoang mang, thái tử

Diên Khánh trước định đi nước cờ "lục thất", giờ lại điểm sang nước "thất

bát" trên thượng vị. Lão biết mình đi lỡ, lẩm bẩm la lên: "thôi chết rồi", lão

toan nhấc đầu gậy lên đi lại thì không kịp nữa. Trên điểm "thất bát" đã vạch

thành nửa vòng tròn. Những bậc cao thủ đấu cờ hạ tịch bất hồi, huống chi

đã khắc đá làm bàn, rạch đá làm quân, công lực điểm tới đâu đá nát tới đó,

có lý đâu đã hạ quân rồi lại bỏ được? Khốn nỗi đi vào điểm "thất bát" trong

góc thượng vị đó tức là tự mình lại lấp mắt mình. Phàm người đã biết đánh

cờ thì ai cũng hiểu: "hai mắt là sống, một mắt là chết". Trong ván cờ này

thái tử Diên Khánh đã tạo thành thế đủ cả hai mắt để nhằm tấn công vào cơ

sở bên Huỳnh Mi hoà thượng, quyết không có lý nào lại tự lấp đi một mắt.

Theo lẽ đương nhiên là thế nhưng mà đã trót hạ lầm quân thì lại tỏ ra kém

nội lực để xẩy ra nước cờ lầm lạc. Cờ đi sai một nước đành thua cả bàn, thái

tử Diên Khánh lại là người rất có tên tuổi, hiểu lẽ "Tỉnh ăn, lầm thua",

quyết không bao giờ tranh chấp về những việc đuối lý như thế. Lão lập tức

đứng dậy, hai tay chống bàn cờ, chú ý nhìn lại cuộc cờ hồi lâu không nhúc

nhích.

Các tay hào kiệt có mặt tại đây phân nửa chưa từng gặp mặt thái tử Diên

Khánh bây giờ thấy lão có nhiều vẻ khác thường nên ai cũng chăm chú nhìn

vào.

Thái tử Diên Khánh lặng lẽ ngó bàn cờ lúc lâu rồi đột nhiên cầm đôi gậy

trúc chống một đầu xuống đất, nhảy lên đi cao lênh khênh nhưư người đi cà

kheo, bước rất dài, thoáng cái đã đi khá xa. Bất thình lình một luồng gió tây

thổi ngược lại, tảng đá bàn cờ rung rung mấy cái, tiếp đó mấy tiếng loảng

choảng, tảng đá đó vỡ ra làm mười mấy mảnh, ngổn ngang trên mặt đất.

Thế là bàn cờ đá đánh dấu một cuộc đấu trí và đấu lực rất gay go, cổ kim hy

hữu đã vỡ tan tành, không còn gì lưu lại về sau nữa.

Mọi người đều thất kinh ngơ ngác nhìn nhau và trong lòng cùng nghĩ như

nhau: "lão Thanh bào quái khách này người chẳng ra người, quỷ chẳng ra

quỷ, trông như cái xác biết cử động mà sao võ công cao siêu tới mức không

thể lường được".

Huỳnh Mi hòa thượng thắng cuộc một cách bất ngờ, hai tay vịn đầu gối

đứng dậy, tâm thần bàng hoàng, hồi tưởng lại tình trạng nguy nan lúc nãy,

vẫn hãy còn hồi hộp, chưa lấy lại được bình tĩnh. Trong bụng nhà sư vẫn

băn khoăn, không hiểu tại sao thái tử Diên Khánh đang lúc đã nắm vững

phần thắng rồi lại thốt nhiên hạ một nước cờ kỳ cục, lấp ngay một mắt của

mình đi rõ hình như có ý nhờng mình. Nhưng không lý nào trước tình thế

nghiêm trọng như vậy mà lão lại chịu nhường bao giờ.

Tất cả mọi biến cố đó Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và bọn Cao Thăng

Thái đều mơ hồ không ai hiểu ra sao cả. Nhưng may mà cứu được Đoàn Dự

ra về, thanh danh họ Đoàn không bị tổn thất mảy may, thái tử Diên Khánh

lại bị thua cờ bỏ trốn, có thể nói là chiếm được toàn thắng vậy. Còn những

chi tiết nhỏ bên trong chưa tìm ra nguyên do cũng chẳng tra cứu ngay vội.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười quay sang bảo Chung Vạn Cừu:

- Chung động chúa! con tôi quyết không phải là đứa bạc tình. Lệnh ái đã

thành cơ thiếp của y, vài hôm nữa chúng tôi sẽ phái người đến đón dâu. Vợ

chồng tôi sẽ hết sức chiêu đãi nàng, coi như con gái mình. Xin động chúa

cứ yên tâm.

Chung Vạn Cừu là kẻ lỗ mãng, bụng dạ đã hẹp hòi lại hay cáu kỉnh. Nghe

lời Đoàn Chính Thuần dường như trêu chọc, hắn nổi hung cũng chẳng thèm

hỏi Chung Linh đã thất thân với Đoàn Dự hay chưa "soạt" một cái, hắn rút

luôn "bội đao" ở bên hông ra, nhắm thẳng đầu Chung Linh chém xuống và

quát to:

- Thế này thì tức chết đi được. Ta giết con tiện nhân này trước rồi sau sẽ

hay.

Bất thình lình một bóng người cao lênh khênh nhảy vụt đến nhanh như

chớp, ôm lấy Chung Linh rồi vèo một cái như làn gió thoảng qua đã phi

thân ra ngoài hai trượng. "Phập" một tiếng, lưỡi đao của Chung Vạn Cừu đã

chém ngập xuống đất. Chung Vạn Cừu nhìn xem người đã ôm Chung Linh

là ai té ra là Vân Trung Hạc liền quát hỏi:

- Mi... mi làm cái gì thế?

Vân Trung Hạc đáp:

- Con gái ngươi mà ngươi không thiết đến nữa, toan chém, vậy ngươi coi

như nàng đã chết rồi và để nàng cho ta.

Vân Trung Hạc vừa nói vừa chạy thêm mấy trượng nữa. Y tự biết, nếu bàn

về võ công cao hạ thì không những Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa thượng cao

hẳn hơn y rồi mà ngay Đoàn Chính Thuần hay Cao Thăng Thái y cũng

không thể ăn đứt được. Thấy tình thế không ổn, y liền ôm Chung Linh chạy

ra xa một nơi. Y mừng thầm, Ba Thiên Thạch không có ở đây vì ngoài Ba ra

kinh công bình thường cả, không ai có thể đuổi kịp nữa.

Chung Vạn Cừu cũng biết tài khinh công của Vân Trung Hạc hắn chỉ dậm

chân loạn xạ, la mắng om sòm.

Bảo Định Đế cùng mọi người hôm trước đây đã thấy qua bản lĩnh khinh

công của Vân Trung Hạc trong khi y cùng Ba Thiên Thạch đuổi nhau chạy

vòng quanh. Bây giờ thấy y tay ôm Chung Linh mà nhảy đi vẫn lẹ làng như

không đều biết là vô phương đuổi kịp y rồi. Đoàn Dự tâm linh cơ biến sực

nhớ đến Nam Hải Ngạc Thần liền gọi lên:

- Nhạc lão tam! Sư phụ có lệnh truyền! Ngươi mau mau đi cướp lại Chung

cô nương về đây cho ta!

Nam Hải Ngạc Thần sửng sốt, cả giận hỏi lại:

- Thằng oắt con kia! mi nói láo gì đó?

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi nhận ta làm thầy, chẳng đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi là gì? Bây giờ

ngươi còn mở miệng cãi lời thì ai mà ngửi được?

Nam Hải Ngạc Thần tuy là người rất hung dữ nhưng lão cũng có chỗ khả

thủ là nói sao làm vậy chứ không bao giờ cãi xoá. Lão nhận Đoàn Dự làm

thầy dù là chuyện bất đắc dĩ nhưng cũng không chối. Lão chỉ tức mình,

trừng mắt cau mày quát lại:

- Ta đã hứa tất nhiên ta nhớ. Ngươi là sư phụ ta thì bây giờ ngươi muốn điều

chi nói ngay đi! Đừng có mà lôi thôi, ta điên tiết lên thì ta chém cả cái thứ

sư phụ như ngươi đó.

Đoàn Dự đáp:

- Ngơi đã nhận ta làm thầy là được rồi. Chung cô nương đây là vợ ta, tức là

sư mẫu ngươi đó. Sư mẫu bị Vân Trung Hạc bắt đem đi, vậy ngươi phải

đuổi theo bắt lại. Nếu để Vân Trung Hạc làm nhục nàng tức là làm nhục sư

mẫu ngươi. Sư mẫu ngươi bị y làm nhục thì ngươi còn chi là thể diện? Anh

hùng hảo hán mà để kẻ khác lăng nhục sư mẫu hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần nghe choáng cả người, nghĩ lời sư phụ nói rất đúng.

Song thốt nhiên lão nghĩ tới Đoàn Dự đã nhận Mộc Uyển Thanh làm vợ mà

sao bây giờ lại nhận cả cô bé họ Chung này làm vợ nữa nên lão liền hỏi lại:

- Thế thì ta có mấy vị sư mẫu cả thảy?

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi đừng có hỏi lôi thôi nữa! Tóm lại nếu ngươi không cướp lại được sư

mẫu ngươi về thì chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy các bậc anh hùng

hào kiệt nữa. Tất cả những tay hảo hán ở đây ai ai cũng biết rõ Vân Trung

Hạc là người em út trong hàng tứ ác mà ngươi còn không hạ được thì địa vị

ngươi phải giáng xuống hàng thứ năm, thứ sáu cũng chưa biết chừng.

Nam Hải Ngạc Thần bị nói khích, tức không nhịn được vì lão đang muốn

tranh ngôi thứ lên hàng nhì, trên Diệp Nhị Nương mà Đoàn Dự lại đặt lão

xuống dưới Vân Trung Hạc thì cái nhục còn sâu cay hơn là bị chặt đầu. Lão

gầm lên như điên cuồng, hộc tốc chạy đi đuổi Vân Trung Hạc, vừa đuổi vừa

gọi:

- Muốn yên thân thì buông sư mẫu ta ra!

Vân Trung Hạc vừa chạy vừa nói:

- Nhạc lão tam! Ngươi là thằng ngốc, bị mắc hợm người ta rồi.

Nam Hải Ngạc Thần là người xốc nổi, hiếu thắng, giầu lòng tự ái, thấy Vân

Trung Hạc mắng mình là thằng ngốc bị mắc hợm trước mặt bao nhiêu người

càng làm lão nộ khí xung thiên, ráng sức đuổi theo. Hai người đuổi nhau

chớp mắt đã khuất vào khe núi. Chung Vạn Cừu tuy trong lúc cáu giận, giơ

đao định chém chết con gái song bây giờ thấy Chung Linh bị gã cùng hung

cực ác bắt mất, phần thì phụ tử tình thâm, phần thì nghĩ tới lúc vợ hỏi đến

biết trả lời ra sao, ruột nóng như lửa cũng vác đao đuổi theo Vân Trung

Hạc.

Bảo Định Đế thấy chủ nhân bỏ đi rồi, chắp tay nói với Tuệ Thiền hoà

thượng và mọi ngời:

- ít khi được liệt vị quang lâm nước Đại Lý, xin mời cùng tới tệ xứ, dùng

chén rượu suông, để tại hạ đón tiếp cho trọn nghĩa địa chủ.

Tuệ Thiền cùng mọi người đều muốn giao kết với Bảo Định Đế Đoàn Chính

Thuần, người đã được giới võ lâm cho biệt hiệu là "Thiên Nam đệ nhất

nhân", thấy nhà Vua khiêm cung, hiếu khách nên ai cũng vui vẻ nhận lời.

Chỉ một mình Diệp Nhị Nương tủm tỉm cười nói:

- Lão nương đây sợ các ngươi mổ thịt chia nhau đánh chén vậy nên xin

kiếu, chuồn sớm đi là hơn.

Nói xong cười hì hì trở gót đi liền. Bảo Định Đế cùng tất cả mọi người rời

khỏi hang Vạn Kiếp trở về Đại Lý. Sáu hoà thượng trong bọn Phá Tham tức

lúc bị hấp lực của "chu cáp" hút mất chân khí, thân thể hư nhược, đứng

không vững, phải nhờ bọn Lăng Thiên Lý dìu lên ngựa. Rồi cùng quần hùng

kéo cả về phủ Trấn Nam Vương.

Gia nhân đa tin vào báo, bọn Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa và Ba Thiên

Thạch từ trong Vương phủ ra tận ngoài cửa nghinh đón. Một vị nữ lang

cũng theo ra, cách phục sức cực kỳ hoa lệ, vẻ kiều diễm cũng nổi bật lên,

đó chính là Hương dược xoa Mộc Uyển Thanh.

Đoàn Dự từ lúc uống phải Âm dương hoà hợp tán, chất độc trong người

chưa giải trừ được bây giờ đột nhiên nhìn thấy Mộc Uyển Thanh, người

không tự chủ được nữa, vội chạy lên mấy bước định đưa tay ôm lưng nàng

nhưng may tâm linh vẫn còn một tia sáng suốt, chàng giật mình tỉnh ngộ,

biết thế là một hành động điên rồ liền dừng chân lại. Âm dương hoà hợp tán

không những tai hại ở chỗ chất độc mãnh liệt lâu dài, mà lại còn làm cho cả

hai bên trai cũng như gái, sau khi uống phải cùng ưa kích thích quyến rũ

nhau. Hai bên ở xa nhau thì thôi, chứ có dịp gần nhau là hai người đều cảm

thấy tâm thần mê mẩn, không thể nào kìm hãm được. Bảo Định Đế thấy

thần sắc hai người lộ vẻ khác thường, mặt đỏ như gấc chín, rõ ràng bị trúng

độc quá nặng, nhà Vua tức khắc chìa ngón tay điểm dứ hai cái, bỗng nghe

thấy "xuỳ xuỳ hai tiếng", Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh tức thời mê man té

vật ra. Chu Đan Thần ẵm Đoàn Dự, Thư Bạch Phụng ẵm Mộc Uyển Thanh

đem về phòng riêng tĩnh dưỡng.

Phủ Trấn Nam Vương bày một tiệc lớn khoản đãi các vị hào kiệt. Tân khách

mời Tuệ Thiền ngồi ghế chủ tịch, vì các phái võ đều coi phái Thiếu Lâm là

bậc đàn anh trong võ lâm.

Trong khi dự tiệc Phạm Hoa có thuật lại việc đào đường hầm và đem Chung

Linh vào trong nhà đá cho mọi người nghe nhưng còn việc cứu Mộc Uyển

Thanh ra thì giấu kín không nhắc tới. Các bậc hào kiệt hiểu rõ nguyên nhân

về việc Chung Vạn Cừu định làm hại người không được, trái lại thành ra hại

mình mọi người đều vỗ tay cười vang.

Đoàn Chính Thuần băn khoăn về việc con trai bị trúng độc, đưa ra hỏi khắp

các vị hào kiệt nhưng mọi người chỉ ngơ ngác nhìn nhau không ai biết

đường giải cứu. Giữa lúc đó có tên gia đinh cầm một phong thư đưa vào cho

Đoàn Chính Thuần và nói người đưa thư là một ả nữ tỳ, trong thư có phương

thuốc giải độc cho thế tử. Đoàn Chính Thuần vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ,

vội mở thư ra xem, thấy trong thư vẻn vẹn có sáu chữ: "Chỉ uống sữa người

là khỏi". Đoàn Chính Thuần nhận được bút tích biết là thư của Chung phu

nhân gửi cho, bất giác trong lòng xúc động, tay áo quẹt đổ chiếc chén trước

mặt, rượu nóng đổ hết vào người mà ông cũng không hay.

Bảo Định Đế hỏi:

- Chính Thuần hiền đệ! Phương thuốc chi vậy?

Đoàn Chính Thuần vẫn ngẩn người ra chưa hiểu hỏi gì. Bảo Định Đế phải

nhắc lại lần nữa:

- Phương thuốc gì đó?

Đoàn Chính Thuần giật mình đáp:

- Trong thư nói chỉ uống sữa người là khỏi.

Bảo Định Đế gật đầu nói:

- Ta cứ thử xem, uống nhiều sữa người dù không công hiệu cũng chẳng hại

gì.

Thư Bạch Phụng liền sai gia đinh đi mua sữa người của các bà nhũ mẫu

trong dân gian. Sữa người là thứ rất dễ kiếm, hơn nữa trong Vương phủ làm

việc gì mà chẳng mau chóng. Bữa tiệc chưa tan, Đoàn Dự và Mộc Uyển

Thanh đã giải độc xong, bước ra hội kiến với mọi người.

Đoàn Dự ân cần ngỏ lời thâm tạ Huỳnh Mi hòa thượng cùng bọn Hoa Hách

Cấn. Chàng hay tin bọn Phá Tham, cả sáu nhà sư đều bị trọng thương thì

trong lòng cảm thấy vô cùng bứt rứt. Đến bấy giờ sáu hòa thượng vẫn chưa

nói được, nên không ai hiểu bọn họ bị thoát mất hết nội công. Cả Huỳnh Mi

cũng chưa biết rõ nội tình. Đoàn Dự lại càng không ngờ tự mình đã gây nên

đại hoạ cho người. Đoàn Chính Thuần tuyên bố với mọi người rằng Mộc

Uyển Thanh là nghĩa nữ của ông. Bọn Tần Nguyên Tôn và Tuệ Thiền hoà

thượng tuy có cừu hận với Mộc Uyển Thanh nhưng lúc này không tiện trở

mặt. Hơn nữa lại e dè uy lực bốn tay cao thủ: Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa

thượng, Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái nên không dám bỗng nhiên

gây sự.

Trong bữa tiệc, các vị hào kiệt nói hết chuyện giang hồ đại sự lại quay sang

vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái và Đoàn Dự để chúc mừng

cuộc hôn nhân giữa hai họ Đoàn Cao, chén tạc, chén thù rất là náo nhiệt.

Mộc Uyển Thanh liếc mắt nhìn trộm Đoàn Dự thấy chàng cúi gầm mặt

xuống, tỏ vẻ buồn thiu. Nàng hồi tưởng lại tình cảnh những ngày cùng

chàng ở trong nhà thạch thất mà tan nát gan vàng. Nàng hiểu rõ giấc mộng

lương duyên giữa chàng và nàng kiếp này đành vỡ mất rồi. Khi nghe đến

chuyện Đoàn Dự hoà duyên cùng Cao tiểu thư mà lòng tê tái, khóc không ra

tiếng. Nàng nhìn Cao Thăng Thái bằng đôi mắt căm hờn. Có lúc nàng toan

phóng ám tiến giết Cao để trả thù: sao ông lại sinh con gái để cướp mất tình

lang của nàng. Nhưng nàng hiểu Cao Thăng Thái võ công trác tuyệt, khó

lòng bắn trúng nên lại thôi. Nàng thấy mọi người hoan hỉ giao bôi, rất là

hào hứng thì e mình không nhịn được phải buông tiếng khóc tỏ ra con người

khiếp nhược nên đứng phắt dậy nói:

- Tôi nhức đầu không ăn uống gì được.

Thế rồi băng băng đi vào nhà trong. Từ Bảo Định Đế trở xuống nàng không

thèm ngỏ lời cáo từ một ai. Đoàn Chính Thuần có ý ngượng, cười gượng đỡ

đòn:

- Con nhỏ này khó dạy quá, chẳng biết một chút lễ độ nào cả xin đại ca

cùng quý vị miễn chấp.

Giữa lúc đó bỗng nhiên có một tên gia tướng xăm xăm bước vào, hai tay

cầm một tờ danh thiếp, chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần cúi đầu nói:

- Quá ngạn chi thiền gia ở Hổ Tốt quan xin vào yết kiến Vương gia.

Đoàn Chính Thuần rất đỗi ngạc nhiên, nghĩ thầm: "quá ngạn chi biệt hiệu

Truy hồn thủ là đại đồ đệ của Kha Bách Tuế phái Tung Sơn đã nổi tiếng đại

hiệp trong chốn giang hồ từ lâu. Võ công y vào hạng siêu quần, có điều đối

với họ Đoàn chưa từng qua lại giao du, chẳng hay bữa nay y từ muôn dặm

đến tìm ta không hiểu có việc gì đây?". Nghĩ thế liền đứng dậy nói với mọi

người:

- Có Truy hồn thủ Quá địa hiệp tới ta nên ra ngoài nghênh tiếp.

^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^

Một phái võ kinh hồn ở Cô Tô

Những hào kiệt có mặt tại đây đều đã nghe tiếng "Truy hồn thủ Quá Ngạn

Chi". Tuệ Thuyền hòa thượng và Kim Đại Bằng đã từng gặp mặt Quá mấy

lần. Quần hùng nghe tin Quá đến đều răm rắp rời khỏi chỗ ngồi theo Đoàn

Chính Thuần ra đón. Trừ có bốn vị là Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa thượng,

Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn là vẫn ngồi yên.

Quá Ngạn Chi tuy thanh danh lừng lẫy giang hồ lại là khách phương xa tới,

song lấy địa vị trong võ lâm mà nói thì Bảo Định Đế và Huỳnh Mi hòa

thượng dĩ nhiên không phải ra cửa đón. Còn Tả Tử Mục và Tần Nguyên

Tôn cũng có ý tự trọng, đặt địa vị mình vào tôn sư đứng đầu một phái dù

Quá Ngạn Chi thanh danh có lừng lẫy mấy chăng nữa nhưng trên hãy còn sư

phụ là Kha Bách Tuế. Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn đều tự ví mình ngang

hàng với sư phụ của Quá nên cũng cứ ngồi yên tại chỗ chứ không ra đón.

Đoàn Chính Thuần ra tới cửa, thấy một người trung niên tầm vóc cao lớn,

tay trái dắt một con tuấn mã sắc trắng rất oai hùng đang đứng trước cửa.

Người này mặc tang phục, đầu đội mũ vải gai, mặt đượm vẻ phong trần, hai

mắt đỏ mọng sưng húp rõ ra người mới có thân nhân vừa tạ thế.

Kim Đại Bằng rảo bước đến trơức mặt ân cần chào hỏi:

- Quá đại ca vẫn được mạnh giỏi chứ?

Người vận tang phục đó là Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi đáp:

- Kim hiền đệ đấy ? Đã lâu nay ta không được gặp nhau nhỉ.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Quá đại hiệp quang lâm nước Đại Lý mà tiểu đệ không được biết trước để

đi đón tận ngoài xa, thực là có lỗi, xin đại hiệp miễn thứ cho.

Nói xong vái dài một cái. Quá Ngạn Chi nghĩ bụng: "ta vẫn nghe tiếng anh

em họ Đoàn nước Đại Lý là người đại phú quý mà không kiêu căng chút

nào, thực là tiếng đồn không ngoa". Quá Ngạn Chi vội vàng đáp lễ và khiêm

nhường nói:

- Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu ở nơi thảo dã, dám phiền Vương gia ra

tận cửa đón, thực áy náy vô cùng.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Tước hiệu "Vương gia" chẳng qua là theo thế tục đặt ra mà thôi. Còn đối

với đại hiệp thanh danh vang dội khắp nơi, tại hạ vốn có lòng ngưỡng mộ,

chúng ta nên xưng hô nhau bằng anh em, bất tất câu chấp thứ, nghi lễ hư

văn đó làm gì?

Đoạn mời Quá Ngạn Chi vào phủ rồi giới thiệu với Bảo Định Đế và các vị

hào kiệt. Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "Trong đám giang hồ hảo hán này

cố nhiên là nhiều người tính tình khoát đạt, hào sảng nhưng cũng không ít

kẻ bụng dạ hẹp hòi. Thường thường chỉ vì một câu nói hay cách tiếp đãi hơi

thiếu sót một chút là gây thù kết oán ngay. Bây giờ cách xếp đặt chỗ ngồi

Quá Ngạn Chi thế nào cho ổn cũng là một chuyện rất khó. Nghĩ vậy ông

nói:

- Quá huynh đang cữ tang, không hiểu dùng những món gì được? Gia nhân

đâu sắp một tiệc riêng ra đây để tiếp Quá đại hiệp!

Quá Ngạn Chi lắc đầu từ chối:

- Đa tạ thịnh tình, tại hạ còn có việc gấp, xin cho uống một chén thanh trà

là đủ.

Đoạn nâng chén trà uống một hơi cạn, Quá nói tiếp:

- Vương gia! Sư thúc tôi ký ngụ ở Vương phủ, xin cho người báo tin giùm,

để tại hạ được diện kiến và trình việc gấp.

Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:

- Sư thúc Quá huynh là ai?

Ông tự hỏi: trong Vương phủ có ai là nhân vật của phái Tung Sơn đâu?

Quá Ngạn Chi đáp:

- Sư thúc tôi thay họ đổi tên, nhờ nơi Vương phủ để tỵ nạn nên người chưa

dám nói rõ ra với Vương gia, thực là có tội lớn, dám xin Vương gia mở

lượng khoan hồng miễn trách cho. Tại hạ thay sư thúc tạ lỗi cùng Vương

gia.

Nói xong liền vái dài. Đoàn Chính Thuần đáp lễ nhưng nghĩ mãi không ra

sư thúc của Quá Ngạn Chi là ai. Bỗng thấy Cao Thăng Thái quay sang bảo

tên gia đinh đứng bên:

- Mi vào phòng giấy trình Hoắc tiên sinh rằng: Truy hồn thủ Quá đại hiệp

tới đây có việc cần muốn bẩm với Kim toán bàn Thôi lão tiền bối, xin mời

tiên sinh ra đại sảnh nói chuyện.

Tên gia đinh vâng lời vừa trở gót bỗng nghe tiếng lẹp kẹp: một người đang

ngất nga ngất ngưởng từ hậu đường đi ra, vừa đi vừa nói lè nhè:

- Nó làm thế này thì mình khó mà ngồi mát bát dầy được nữa.

Các tay hào kiệt nghe thấy bảy chữ: "Kim toán bàn Thôi lão tiền bối", có

người lờ mờ không hiểu là gì, có người biến sắc tự hỏi: chẳng lẽ thằng cha

Kim toán bàn Thôi Bách Kế lại ẩn tích ở đây ?

Giữa lúc đó, một lão già mặt mũi bần tiện, cười khì khì đi ra. Mọi người

trong Vương phủ từ trên chí dưới ai cũng biết đó là Hoắc tiên sinh, người

trông nom giúp sổ chi tiêu các việc vặt trong Vương phủ. Ngày nào cũng

như ngày nào, nếu lão không say bí tỷ thì lại đâm đầu vào đánh bạc với bọn

tôi đòi, thật là con người bê bối. Trong phòng kế toán, chỉ vì lão mà phương

diện tiền bạc mất cả quy củ. Mười mấy năm nay vẫn mặc lão làm lộn bậy

thế nào thì làm.

Đoàn Chính Thuần xiết đỗi ngạc nhiên lẩm bẩm: "không ngờ Hoắc tiên sinh

lại chính là Thôi Bách Kế ? Thật mình có mắt không tròng, kể cũng bẽ

mặt. May mà Cao Thăng Thái gọi trúng tên lão. Các tay hào kiệt vẫn cho là

trong phủ Trấn Nam Vương đã biết lão từ trước rồi nên Đoàn Chính Thuần

này cũng không đến nỗi mất thể diện.

Hoắc tiên sinh vẫn bảy phần say, ba phần tỉnh vẻ mặt thì ngơ ngác. Nhìn

thấy Quá Ngạn Chi vận tang phục lão giật mình hỏi:

- Mi... mi có chuyện chi vậy?

Quá Ngạn Chi bước lên mấy bước, lạy sụp xuống đất, khóc oà lên nghẹn

ngào đáp:

- Sư thúc ơi! Sư phụ... sư phụ cháu đã bị người hạ sát rồi.

Thôi Bách Kế biến hẳn thần sắc, nét mặt đang ngơ ngác thoáng cái đã đầy

vẻ lo âu, dè dặt. Lão từ từ hỏi:

- Kẻ thù là ai?

Quá Ngạn Chi nức nở đáp:

- Bởi cháu tài hèn, tra hỏi mãi mà chưa biết đích kẻ thù là ai. Song theo sự

suy đoán thì có phần đúng là một nhân vật trong họ Mộ Dung ở Cô Tô.

Hoắc tiên sinh lộ vẻ kinh sợ nhưng chỉ thoáng qua rồi nét mặt trở nên

nghiêm nghị. Ông nói bằng một giọng trầm trầm:

- Việc này phải bàn tính một cách cẩn thận mới được.

Chuyện nọ đẩy sang chuyện kia. Vì Quá Ngạn Chi muôn dặm đưa tin mà

Kim toán bàn Thôi Bách Kế phải lòi đuôi. Vì hỏi hung tin của Kha Bách

Tuế mà đề cập đến Mộ Dung thị. Tiếng tăm Thôi Bách Kế và Quá Ngạn

Chi những tay hào kiệt ngồi đây phần nhiều đều biết rõ. Có điều Thôi Bách

Kế tuy là sư thúc nhưng mấy năm gần đây ẩn tích một nơi không xuất đầu

lộ diện, nên thanh danh chẳng những không vang dội được bằng sư huynh

Kha Bách Tuế, chưởng môn phái Tung Sơn mà lại kém cả sư điệt Quá Ngạn

Chi nữa. Còn về những nhân vật trong họ Mộ Dung lợi hại thế nào thì mọi

người đều mờ mịt, ít ai biết đến. Chỉ riêng có Bảo Định Đế và Huỳnh Mi

hòa thượng cùng đưa mắt nhìn nhau rồi Huỳnh Mi tăng lại khẽ thở dài.

Thôi Bách Kế tâm linh cực kỳ tế nhị, một tiếng thở dài khẽ của Huỳnh Mi

cũng không qua khỏi lỗ tai lão được. Lão bước tới trước mặt nhà sư kính

cẩn vái dài nói:

- Chốn giang hồ sắp sinh tai hoạ, đại sư là bậc từ bi, xin chỉ điểm cho con

đường sáng sủa.

Huỳnh Mi hoà thượng đứng dậy đáp lễ và trả lời:

- Thí chủ nói rất phải, tiếc rằng bần tăng kiến văn hủ lậu, lại ở nơi hoang

sơn hẻo lánh, ít được nghe những vụ rồng tranh hổ đấu giữa các phái võ ở

Trung Nguyên. Tỷ như Thôi thí chủ là một nhân vật anh hùng đến thế, lại ở

ngay phủ Trấn Nam Vương mấy năm rồi mà bần tăng cũng không biết mảy

may. Thế thì nói chi tới những việc ngoài chốn giang hồ nữa?

Thôi Bách Kế thần sắc thảm đạm quay sang nói với Quá Ngạn Chi:

- Quá hiền điệt! Sư huynh ta làm sao mà phải bỏ mạng? tình tiết xảy ra như

thế nào, hiền điệt thuật lại tận tường cho ta nghe.

Quá Ngạn Chi đáp:

- Thù thầy cũng như thù cha, chậm ngày nào cha báo được là tiểu điệt ăn

không ngon, ngủ không yên. Xin sư thúc hãy lên đường ngay cho. Trong

lúc đi đường tiểu điệt sẽ bẩm rõ để khỏi chậm thời giờ.

Thôi Bách Kế nhìn mặt biết là Quá Ngạn Chi có ý e ngại, ở trong đại sảnh

này có rất nhiều tai mắt, nói ra có điều bất tiện chứ không phải là tranh thủ

sớm muộn một hai thời khắc. Thôi Bách Kế suy tính trong bụng: "mình ký

ngụ ở phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm tuyệt không để lộ hình tích thế mà

Cao Thăng Thái cũng biết rõ hành tung, nếu bây giờ mình không xin lỗi

Trấn Nam Vương tức là mình đắc tội với họ Đoàn. Huống chi muốn vì sư

huynh báo cừu mà xung đột với Mộ Dung thị, việc đó quyết không thể một

mình có đủ sức làm được. Nếu họ Đoàn phái người tương trợ thì lực lượng

sẽ mạnh hơn nhiều. Thêm bạn bớt thù là một điều rất quan trọng". Nghĩ vậy

Thôi Bách Kế liền chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần, quỳ hai gối xuống

đất và buông tiếng khóc oà lên. Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên. Đoàn

Chính Thuần vội đưa hai tay đỡ dậy, nhưng không ngờ mó vào người Thôi

Bách Kế thì thấy người lão vững như là đóng đinh xuống đất, không tài nào

lay chuyển được. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: "thằng quỷ bét rượu này,

võ công lão gớm thật". Lâu nay mình bị lão đánh lừa hoài". Đoàn Chính

Thuần vận kình lực vào hai cánh tay nhấc bổng lão lên. Thôi Bách Kế cũng

không vận nội lực chống lại nữa, mượn đà đứng phắt dậy. Nhưng vừa đứng

được thẳng người lên, lão cảm thấy xương cốt trong mình đều đau ê ẩm, rất

là khó chịu, tựa như con thuyền nhỏ ngoài khơi bị một cơn sóng gió đánh

tơi bời. Lão biết là Đoàn Chính Thuần có ý cảnh giác mình. Lão là người đa

mưu quả xứng đáng với cái tên Thôi Bách Kế. Lão nghĩ thầm: "nếu mình

còn vận nội lực để chống lại, Trấn Nam Vương sẽ không hả giận mà chưa

biết chừng ông còn ngờ mình trà trộn vào nằm trong Vương phủ để mưu

toan việc gian ác". Vì nghĩ thế nên Thôi Bách Kế theo đà lúc chân khí trong

người đang tản mát tức thời té ngồi phệt xuống kêu lên: "ối chà". Đoàn

Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo Thôi Bách Kế dậy, đồng thời xoa luôn

một cái để tiêu giải những bứt rứt trong cơ thể họ Thôi.

Thôi Bách Kế nói:

- Trấn Nam Vương gia! Thôi Bách Kế này bị kẻ thù bức bách, không còn

đường chạy nên phải vác cái mặt dầy tới Vương phủ nương tựa uy danh

Vương gia sống được tới nay, vậy mà Bách Kế chưa thổ lộ chân tướng với

Vương gia, thật là tội đáng muôn chết.

Cao Thăng Thái ngắt lời:

- Thôi huynh bất tất phải quá khiêm? Vương gia đây cũng biết rõ thân thế

và lai lịch các hạ từ lâu rồi. Có điều các hạ là bậc chân nhân, không muốn

lộ tướng nên Vương gia đây cũng không muốn nói ra thôi. Đừng nói Vương

gia hiểu rõ đã đành, mà ngay những người chung quanh cũng biết cả. Hôm

thế tử đối phó với cuộc đánh quyền của Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã giắt

Thôi huynh ra đóng vai sư phụ của chàng là gì? Vì thế tử biết rõ trong

Vương phủ chỉ có mình Thôi huynh khả dĩ đối phó được với Nam Hải Ngạc

Thần mà thôi.

Kỳ thực bữa đó Đoàn Dự kéo Thôi Bách Kế ra để mạo nhận là sư phụ chẳng

qua là sự ngẫu nhiên mà trúng đấy thôi. Đoàn Dự thấy Thôi Bách Kế dáng

điệu ngớ ngẩn, hình dong cổ quái nên đem lão ra cố ý để trêu cợt Nam Hải

Ngạc Thần làm một trò cười. Song bây giờ nghe Cao Thăng Thái nói Thôi

Bách Kế lại tin là sự thực.

Cao Thăng Thái lại nói tiếp:

- Vương gia đây vốn là người hiếu khách, đừng nói gì Thôi huynh lưu trú tại

nước Đại Lý chúng tôi tuyệt không có âm mưu ác ý gì đã đành, mà giả tỷ

có lòng bất trắc đối với nước tôi chăng nữa, Vương gia đây vẫn đại lượng

bao dung, lấy thành thực để tiếp đãi. Thôi huynh bất tất phải băn khoăn về

điểm đó.

Lời Cao Thăng Thái nói còn ngụ ý nữa là: anh không có vết tích gì bất

lương nên mới dung dưỡng tới ngày nay, bằng không thì chúng tôi đã sửa

anh từ lâu rồi.

Thôi Bách Kế lại nói:

- Tuy hầu gia dạy thế, song Thôi mỗ vì sao phải vào Vương phủ nương náu

thì trước khi cáo biệt cũng cần phải trình bày cho rõ nếu không chẳng hoá

ra còn tệ hơn phường du côn hay sao? Chỉ vì việc này liên quan tới nước

ngoài, nên Thôi mỗ mạo muội xin mượn tạm một nơi để tiện việc đàm luận.

Đoàn Chính Thuần quay lại bảo Quá Ngạn Chi:

- Báo cừu cho sư phụ là việc trọng đại, Quá huynh chẳng nên hấp tấp nóng

nảy, nán chờ chốc lát. Sau khi tan tiệc, chúng ta sẽ từ từ thương nghị cũng

chưa chậm.

Các tay hào kiệt ở đây đều là những người lịch duyệt giang hồ nên rất thiệp

đời, không muốn làm mất thì giờ và phiền cho người khác trong lúc cấp

bách nên đều ăn uống lào thào cho qua bữa rồi răm rắp đứng dậy cáo từ.

Trấn Nam Vương đối với bạn hữu giang hồ rất là trọng hậu, thấy tân khách

đứng dậy liền sai gia nhân đem lễ vật ra rồi chính tay đưa tặng mọi người.

Riêng đối với Kim Đại Bằng và Sử An là những khách từ phương xa tới lại

đặc biệt tặng thêm tiền lộ phí nữa. Trong đám hào kiệt những người hào

sảng thản nhiên nhận tiền còn những người câu nệ lễ nghi thì nhún nhường

bái tạ.

Giữa lúc chủ khách ân cần tiễn biệt bỗng nghe ngoài cổng phủ có tiếng

niệm:

- A di đà Phật! A di đà Phật!

Tiếng tuy không to nhưng ai nghe cũng rõ mồn một, tựa như chỉ cách độ hai

ba thước. Các tay hào kiệt trong sảnh đường hết thảy đều kinh ngạc. Phủ

Trấn Nam Vương địa thế rất rộng, từ ngoài cổng vào đại sảnh cách xa tới

hơn mười trượng, quãng giữa lại còn những tường vách, cửa ngõ ngăn chặn,

thế mà tiếng nói bên ngoài đại môn ở trong nghe rõ mồn một đủ biết về

môn Thiên lý truyền âm người này thực đã luyện tới chỗ thượng thừa tuyệt

đỉnh.

Đoàn Chính Thuần nghe tiếng Thiên lý truyền âm biết ngay người đó thuộc

phái Thiếu Lâm nên đã từ trong đáp vọng ra:

- Một vị cao tăng phái Thiếu Lâm giá lâm nước Đại Lý Đoàn Chính Thuần

này không biết để ra nghênh đón từ xa, thật thất lễ quá.

Đoàn Chính Thuần vừa nói vừa chạy ra đón. Ông bước rất mau, nháy mắt đã

ra tới cổng ngoài. Một vị hòa thượng người khô như hạc, tuổi chừng năm

mươi trở lại chắp tay nói:

- Bần tăng là Tuệ Chân ở chùa Thiếu Lâm xin tham kiến Đoàn Vương gia.

Trong lúc Đoàn Chính Thuần đang đáp lễ thì Tuệ Thiền hòa thượng cũng

theo ra tới nơi, ngạc nhiên hỏi:

- Sư huynh! Sưư huynh cũng tới nước Đại Lý hẳn có chuyện gì?

Tuệ Chân hai mắt đỏ hoe, đầy vẻ buồn rầu đáp:

- Sư đệ ơi! Sư phụ đã viên tịch về Tây phương rồi.

Tuệ Thiền tuy là đệ tử nhà Phật nhưng tính tình bộp chộp, vừa nghe hung

tin nhảy sấn lại cầm chặt lấy tay Tuệ Chân run run hỏi lại:

- Thực... thực vậy ?

Tuệ Chân chưa kịp đáp thì nước mắt Tuệ Thiền đã dòng dòng chảy xuống.

Tụê Chân nói với Đoàn Chính Thuần:

- Sư đệ bần tăng vì quá xúc động trước sự bất hạnh của gia sư nên thất lễ

trước giá, khiến vương gia phải bật cười.

Đoàn Chính Thuần vội đáp:

- Không dám! Không dám!

Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "Sư phụ Tuệ Thiền là Huyền Bi đại sư, vẫn

nổi tiếng võ công trác tuyệt. Thế này thì phái Thiếu Lâm lại mất một bậc

cao thủ rồi".

Tuệ Thiền nghẹn ngào nói tiếp:

- Sư phụ bị bệnh gì? Ngài vẫn khoẻ mạnh cơ mà?

Thấy trước cửa nhiều người qua lại rất phức tạp, Tuệ Chân hai tay cầm

phong thư đưa cho Đoàn Chính Thuần và nói:

- Thưa Vương gia! Bần tăng vâng mệnh chưởng môn sư bá, tới đây đệ trình

tâm thư lên Bảo Định Hoàng gia cùng Vương gia.

Đoàn Chính Thuần đón lấy thư rồi nói:

- Hoàng huynh tại hạ cũng ở đây, tại hạ xin đa đại sư vào tương kiến.

Nói xong dẫn Tuệ Chân và Tuệ Thiền vào nội sảnh.

Đoàn Chính Thuần đệ thư tín lên. Bảo Định Đế mở ra coi, thấy phần trên

nói đại khái mấy câu sáo ngữ, xưng tụng đức độ anh em mình và tỏ lòng

ngưỡng mộ còn phần chính đề chỉ vắn tắt mấy câu: "Nay võ lâm kiếp vận

tới nơi, xin đừng nghĩ cháy nhà hàng phố bình chân như vại, sự thể thế nào

hãy hỏi sư điệt Tuệ Chân sẽ rõ". Dưới ký tên chưởng môn trụ trì tại chùa

Thiếu Lâm là Huyền Từ kính thư.

Xem xong Bảo Định Đế kính cẩn nói:

- Xin mời hai vị ngồi! Đại sư bên Thiếu Lâm đã có pháp dụ, chúng ta hết

thảy đều ở trong phái võ lâm cả. Bất luận điều gì mà sức có thể làm được sẽ

xin vâng mệnh.

Tuệ Chân quỳ hai gối dập đầu "binh binh" xuống đất, vừa lạy vừa khóc

không ra tiếng. Tuệ Thiền thấy sư huynh như vậy, tuy chưa hiểu rõ nguyên

do, cũng quỳ xuống một bên nhưng không khấu đầu. Bảo Định Đế thấy Tuệ

Chân dùng đại lễ như thế, trong bụng biết chắc là quan trọng: trong phái

Thiếu Lâm thiếu gì cao thủ tuyệt vời, nhân tài thật lắm, có việc gì trọng đại

không giải quyết được mà phái Tuệ Chân đến cầu mình ân cần thế này? Nhà

Vua liền đưa hai tay đỡ hai hoà thượng dậy nói:

- Chúng ta đều là đồng đạo trong võ lâm, tôi không dám nhận đại lễ như

vậy.

Tuệ Chân khóc nức nở đáp:

- Gia sư bỏ mạng dưới bàn tay Cô Tô Mộ Dung thị, phái Thiếu Lâm không

thể độ lực báo được mối thù này. Xin Hoàng gia xuất mã chủ trương đại

cuộc cho!

Bảo Định Đế nghe nói đến năm chữ "Cô tô Mộ Dung thị" mặt hơi biến sắc.

Tuệ Thiền lại khóc oà lên nói:

- Thế thì chúng ta đành liều mạng với kẻ thù thôi.

Tuệ Chân nghiêm nét mặt đáp:

- Trước mặt Hoàng gia đây không được thất lễ.

Tuệ Chân người bé nhỏ lại gầy đét còn Tuệ Thiền thì khôi ngô tuấn tú

nhưng rất nể sợ sư huynh, nghe sư huynh chỉ trích mấy câu không dám nói

gì nữa nhưng vẫn nức nở khóc thầm.

Bảo Định Đế nói:

- Hai vị hãy ngồi đây thong thả nói chuyện. Hơn hai mươi năm trước đây tôi

từng nghe ở Tô Châu có một nhân vật trong họ Mộ Dung tên gọi Mộ Dung

Bác, kẻ vừa gây sự với phái Thiếu Lâm có phải là người đó không?

Tuệ Chân nghiến răng đáp:

- Tiểu tăng chỉ biết kẻ đối đầu là người họ Mộ Dung, nhưng không biết rõ

tên.

Bảo Định Đế nói tiếp:

- Thiếu Lâm là một phái có tiếng tăm lừng lẫy nhất trong võ lâm, bốn bề

đều ngưỡng mộ đại danh. Lệnh sư Huyền Bi hoà thượng nội lực ngoại công

đều tới chỗ tuyệt cao, hơn nữa là người xuất gia, không có tranh chấp gì với

người đời. Không hiểu tại sao lại bị người đời sát hại?

Tuệ Chân sa lệ đáp:

- Hôm đó tiểu tăng ngồi tĩnh toạ trong trai phòng thấy sư bá sai người tới

gọi, tiểu tăng tới nơi thì thấy thi thể gia sư để nằm một bên. Sư bá bảo là

người trong làng ở chân núi Tung Sơn thấy thi thể gia sư, họ biết là sư phụ

trong chùa nên vội đem lên chùa trả. Không hiểu rõ được gia sư lỡ tay thế

nào mà bị địch thủ ám toán. Còn tên họ và mặt mũi hung thủ, cho mãi tới

bây giờ vẫn chưa tra ra được.

Huỳnh Mi hòa thượng từ trước vẫn ngồi yên lắng tai nghe, bây giờ thốt

nhiên cất tiếng hỏi:

- Phải chăng Huyền Bi đại sư bị trúng một đòn "Kim cương chữ" của kẻ

địch vào trước ngực rồi viên tịch?

Tuệ Chân kinh ngạc đáp:

- Đại sư đoán đúng lắm! Như vậy nghĩa là làm sao?

Huỳnh Mi tăng nói tiếp:

- Lâu nay vẫn nghe tiếng Huyền Bi đại sư phái Thiếu Lâm có môn Kim

cương chữ là một môn trác tuyệt trong võ lâm, đối phương bị trúng phải sẽ

đứt gãy hết gân cốt. Môn đó cố nhiên là lợi hại lắm rồi, nhưng xét cho kỹ

thì lại quá bá đạo, những đệ tử nhà Phật không nên học môn đó để mà nổi

tiếng.

Đoàn Dự buột miệng cũng nói xen vào:

- Phải rồi! Cái môn đó quả là hiểm độc thái quá.

Tuệ Chân và Tuệ Thiền nghe Huỳnh Mi đả kích sư phụ mình trong lòng đã

thấy bất mãn nhưng còn kính nể ông là bậc cao tăng tiền bối không dám trả

lời lại thấy Đoàn Dự ở bên cũng lẹ miệng hùa theo, bất giác hai người cả

giận đều quắc mắt nhìn. Đoàn Dự vẫn tảng lờ như không trông thấy, chẳng

lý gì đến nữa.

Đoàn Chính Thuần hỏi Huỳnh Mi hòa thượng:

- Tại sao sư huynh biết Huyền Bi đại sư chết vì trúng Kim cương chữ?

Huỳnh Mi tăng thở dài đáp:

- Vì vừa nghe nói Huyền Từ đại sư bên Thiếu Lâm thấy di thể sư đệ mà

đoán biết được hung thủ là nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Nhà này tuyên bố chủ

trương của họ là: ai giỏi môn gì thì họ lấy chính môn đó để mà hạ thủ.

Đoàn Chính Thuần nghe xong phải lắc đầu, còn Huỳnh Mi hòa thượng thì

lẩm bẩm đọc đến hai ba lần câu: "Ai giỏi môn gì thì lấy môn đó để mà hạ

thủ" trên nét mặt thoáng những nét sợ sệt.

Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần quen biết Huỳnh Mi đại sư từ mấy chục

năm nay chưa từng thấy ông lộ vẻ sợ hãi bao giờ. Cả lúc ông cùng thái tử

Diên Khánh đấu cờ thí mạng, đã trông rõ thế bại rồi, tuy ông có bối rối

nhưng nét mặt vẫn thản nhiên. Thế mà bây giờ ông phải sợ ra mặt đủ biết

phái Mộ Dung lợi hại đến chừng nào.

Im lặng hồi lâu Huỳnh Mi tăng lại từ từ lên tiếng:

- Lão tăng nghe nói Mộ Dung Bác là người giỏi số một trên thế gian. Có lẽ

họ lấy tên là Bác để phô cái võ công uyên bác đến cực điểm của họ. Tựa hồ

như trong võ lâm, bất luận về môn tuyệt kỹ của một phái nào họ đều thông

hiểu. Kể cũng lạ thật, khi họ muốn giết chết ai nhất định lại dùng cái môn

tuyệt kỹ đã nổi tiếng của người đó để sát hại.

Đoàn Dự nói xen vào:

- Vâng! quả là một điều kỳ dị ngoài sức tưởng tượng của con người. Võ

công trong thiên hạ biết bao nhiêu là môn, làm sao mà họ học được cả?

Huỳnh Mi đáp:

- Đoàn công tử nói đúng đó. Việc học rộng như biển cả, ai mà thông suốt

hết được bao giờ? Có điều kẻ thù của Mộ Dung Bác cũng chẳng có nhiều.

Nếu họ chưa học được hết môn tuyệt kỹ của cừu nhân đến mức có thể dùng

để giết đối phương thì họ sẽ không động thủ được.

Bảo Định Đế nói:

- Tôi cũng nghe thấy ở Trung Nguyên có người kỳ dị như thế. Lạc thị tam

hùng ở Hà Bắc nổi tiếng về môn phi truỳ rồi sau ba người đó đều chết vì bị

trúng phi truỳ. Rồi Chương Hư đạo nhân ở Sơn Đông lúc định giết ai bao giờ

cũng chém cụt hết chân tay, để địch thủ phải kêu khóc hàng nửa ngày rồi

mới chết được. Sau chính Chương Hư đạo nhân cũng bị thảm báo như thế.

Lời tuyên bố của nhà Mộ Dung từ cửa miệng Chương Hư đạo nhân truyền

đi.

Ngừng một lúc Bảo Định Đế lại nói tiếp:

- Hồi ấy, ở Tế Nam giữa phiên chợ náo nhiệt không biết bao nhiêu người

quây quần chung quanh Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu gào dưới đất.

Nói tới đó Bảo Định Đế phảng phất dường như đang mục kích cái thảm

trạng Chương Hư đạo nhân trong lúc lâm tử. Nét mặt nhà Vua đầy vẻ bất

mãn.

Đoàn Chính Thuần gật đầu nói:

- Thế thì đúng rồi.

Chợt nhớ ra một việc Đoàn Chính Thuần nói tiếp:

- Tôi nghe nói Kha Bách Tuế, sư phụ của Quá đại hiệp rất thiện sử cây

nhuyễn tiên, lúc giết kẻ địch thường dùng nhuyễn tiên quấn chặt vào cổ đối

phương khiến cho địch thủ chết vì nghẹt thở. Phải chăng lúc...

Đoàn Chính Thuần chưa nói hết câu đã vỗ tay ba cái gọi một tên thị bộc tới

bảo:

- Mi đi gọi Thôi tiên sinh và Quá đại hiệp tới đây để cùng ta thương nghị

việc cần.

Tên bộc thị ngập ngừng chưa hiểu Thôi tiên sinh là ai. Đoàn Dự lại phải nói

cho gã biết Thôi tiên sinh tức là Hoắc tiên sinh, người giữ sổ sách chi tiêu

trong Vương phủ. Bấy giờ tên bộc thị mới hiểu rõ chạy đi mời. Trong giây

phút Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đã đến sảnh đường.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Quá đại hiệp! Tại hạ có một việc muốn hỏi, xin đại hiệp miễn trách!

Quá Ngạn Chi đáp:

- Không dám.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Tại sao lệnh sư Kha tiền bối bị họ ám toán và bị tử thương đến trí mạng?

vì quyền cước hay vì binh khí?

Quá Ngạn Chi thẹn đỏ ửng cả mặt, lúng túng mãi mới trả lời được:

- Gia sư bị hại vì một đòn "linh xà chiến đẩu".

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự đưa mắt nhìn nhau trong lòng

đều thấy rùng rợn.

Tuệ Chân vội chạy tới trước mặt Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi chắp tay

vái chào nói:

- Anh em bần tăng cùng hai vị đều căm phẫn một kẻ thù chung. Nếu không

diệt được nhà Mộ Dung ở Cô Tô...

Tuệ Chân nói dở câu thì trong bụng nghĩ thầm: "chưa chắc mình đã diệt nổi

nhà Mộ Dung. Nếu không xong thì lại là một điều rất nguy hiểm". Nhà sư

nghiến răng nói tiếp:

- Bần tăng nhất quyết liều mạng với họ.

Quá Ngạn Chi hai mắt đẫm lệ đáp:

- Thế ra phái Thiếu Lâm cũng kết mối thâm thù với nhà Mộ Dung rồi ?

Bấy giờ Tuệ Chân mới đem việc sư phụ Huyền Bi chết về tay Mộ Dung thế

nào, thuật qua lại một lượt.

Bảo Định Đế thấy Quá Ngạn Chi lộ vẻ sầu bi, căm hờn, nghiến răng thống

hận kẻ thù, còn Thôi Bách Kế chỉ cúi đầu rũ rượi chẳng nói năng gì tựa hồ

như không quan tâm gì đến mối thù sư huynh bị sát thân, trong lòng rất lấy

làm kỳ dị. Tuệ Thiền hoà thượng tính vốn thẳng thắn bộp chộp, buột miệng

hỏi ngay:

- Thôi tiên sinh! Có phải tiên sinh sợ bọn Mộ Dung ở Cô Tô chăng?

Tuệ Chân vội mắng át:

- Sư đệ! Không được vô lễ.

Kha Bách Tuế qua đời rồi thì Thôi Bách Kế sẽ là chưởng môn phái Tung

Sơn. Phái Tung Sơn ở gần kề ngay phái Thiếu Lâm. Nên nhớ rằng ông thuỷ

tổ dựng ra phái Tung Sơn đã dám đến bên cạnh phái Thiếu Lâm, dựng ra

một môn phái, nêu cao ngọn cờ võ thuật phi phàm thì đủ biết bản lãnh phái

này thế nào. Hơn nữa thầy trò Kha Bách Tuế và Quá Ngạn Chi đều thanh

danh lừng lẫy khắp Trung Nguyên, danh vị Thôi Bách Kế trong võ lâm tất

nhiên cũng không phải là hèn kém. Nào ngờ Thôi Bách Kế vừa nghe Tuệ

Thiền nói đã lơ láo ngó lui, ngó tới tựa hồ sợ trong vách có tai hay kẻ thù

ghê gớm rình rập sắp ập vào, tỏ ra con người khiếp nhược.

Tuệ Thiền thấy dáng điệu Thôi Bách Kế như vậy, cho là một kẻ hèn nhát

đáng khinh, liền hừ một tiếng và nói lẩm bẩm một mình:

- Đại trượng phu lúc đáng chết thì chết làm gì phải sợ sệt đến thế?

Lúc đó Tuệ Chân cũng biểu đồng tình về sự khiếp nhược của Thôi Bách Kế

nên mặc cho sư đệ muốn nói gì thì nói, cũng không ngăn cản nữa.

Huỳnh Mi hòa thượng khẽ đằng hắng rồi nói:

- Việc này...

Huỳnh Mi vừa nói được hai tiếng thì Thôi Bách Kế toàn thân run lẩy bẩy,

đứng bật lên như cái lò xo, đụng phải chiếc chén nước trên khay trà rơi

"binh" xuống đất, vỡ tan ra. Thôi tiên sinh định thần lại, thấy mọi người đều

chú mục nhìn mình, bất giác đỏ mặt tía tai ngượng nghịu nói:

- Không xong rồi! Không xong rồi!

Quá Ngạn Chi chau đôi mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ. Đoàn

Chính Thuần nghĩ bụng: "lão Thôi Bách Kế này không có một chút gan dạ

nào hết", rồi quay sang hỏi Huỳnh Mi:

- Việc này sư huynh nghĩ sao? Xin cho nghe nốt!

Huỳnh Mi hấp một hớp nước trà rồi thủng thẳng hỏi:

- Thôi thí chủ đã gặp Mộ Dung Bác rồi?

Thôi Bách Kế vừa nghe ba chữ "Mộ Dung Bác" đã giật mình rú lên một

tiếng kinh hãi, rồi hai tay vịn vào ghế cho khỏi té, giọng run run đáp:

- Cha... tôi đã... không... gặp bao giờ.

Tuệ Thiền hỏi lớn:

- Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác chưa? Xin nói rõ!

Thôi Bách Kế giương đôi mắt nhìn trời như kẻ mất hồn. Bọn Đoàn Chính

Thuần thấy thế đều lắc đầu, ngấm ngầm thất vọng. Quá Ngạn Chi vốn dĩ

bảo trọng danh dự của môn phái, bây giờ thấy sư thúc, người kế vị chưởng

môn tỏ vẻ hèn nhát trước mặt mọi người lại càng cảm thấy bứt rứt khó chịu.

Đợc một lúc Thôi Bách Kế mới cất giọng run run đáp:

- Chưa... ờ... hình như chưa gặp bao giờ.

Huỳnh Mi nói:

- Lão tăng đã từng có phen đích thân nếm trải, vậy xin thuật lại để các vị

tham tường cũng chẳng hại gì. Việc xảy ra đã bốn mươi ba năm trước đây

rồi. Lúc đó bần tăng còn ít tuổi sức mạnh, vừa xuất thân đã chiếm được chút

thanh danh trong chốn giang hồ, khác nào trâu nghé mới sinh chưa biết sợ

hổ là gì. Vẫn tưởng là khắp thế gian rộng lớn này, ngoài sư phụ ra không

còn ai võ nghệ cao cường bằng mình nữa. Năm đó, tôi hộ tống một ông

quan đã mãn nhiệm kỳ tại kinh về quê với cả gia quyến. Khởi hành từ Biện

Lơng về Sơn Đông. Khi tới rặng núi phụ cận Thanh báo cương thì gặp bốn

tên cường đạo. Bọn này không cướp tiền của đồ vật mà chỉ định bắt tiểu thưcon vị quan đó. Bần tăng đang độ thanh niên khí khái, quyết chẳng dung

tình, hạ thủ ngay bằng những đòn hiểm độc. Dùng môn Kim cương chỉ hạ

sát luôn bốn tên cường đạo, tên nào cũng bị ngón tay đâm thủng vào tận

tim, chết không kịp ngáp. Giữa lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp,

hai ngời cỡi lừa đi ngang qua. Bần tăng đang lúc vênh vang đắc ý, quá

kiêu ngạo, nói phun bọt rãi, khoe khoang với vị kinh quan: "dù có tám,

chín, mười đứa cường đạo nữa tới tôi cũng dùng kim cương chỉ giết cho chết

hết". Bỗng một người ngồi trên lưng lừa "hừ" một tiếng, nghe tựa như tiếng

đàn bà. Trong cái hừ đó dường như chứa đựng đầy vẻ khinh miệt, chế diễu.

Tôi quay đầu nhìn lại, quả thấy một thiếu phụ rất đẹp, chừng 32, 33 tuổi

ngồi trên lưng lừa và một cậu trai nhỏ chừng 12, 13 tuổi, mi thanh mục tú,

hình dung tuấn nhã cỡi trên lnưg một con lừa khác. Hai người đều có trọng

tang, mặc toàn đồ trắng. Cậu bé nói: "Má! Hay chi cái trò "Kim cương chỉ"

mà gã kia cũng đem ra khoe khoang khoác lác?".

Lai lịch Huỳnh Mi tăng thế nào, ngoài anh em Bảo Định Đế ra ít ai biết rõ.

Song lúc ở trong hang Vạn Kiếp nhà sư dùng sức Kim Cương chỉ vạch đá

làm bàn cờ, ấn lõm đá thành quân cờ, cuộc đấu trí đấu lực với thái tử Diên

Khánh rất gay go và hi hữu đó đã trở thành một câu chuyện rất hào hứng

trong võ lâm. Mọi ngời đều đem lòng kính ngưỡng nhà sư và rất khâm

phục môn "Kim cơng chỉ". Bây giờ nghe hoà thượng thuật lại lời cậu bé, ai

cũng cho là đứa trẻ nít không biết gì nói bậy. Không ngờ Huỳnh Mi khẽ thở

dài rồi nói tiếp:

- Nghe cậu bé nói, bần tăng tuy cũng có ý tức giận, song cho là lời ngông

càn của con nít, không đáng chấp nên chỉ lừ mắt nhìn qua, rồi cũng chẳng

thèm lý đến nữa. Nào ngờ thiếu phụ lại chỉ trích thêm: "Môn Kim cương chỉ

của người đó là môn chính tông Bồ Đề Đạt Ma, về nghệ thuật kể cũng được

tới ba thành rồi đấy. Mi là con nít biết gì mà nói? Mi phóng ngón tay chắc

cha được trúng bằng người ta đâu". Bần tăng nghe thiếu phụ nói vừa kinh

ngạc lại vừa phẫn nộ. Nguồn gốc môn phái bần tăng khách giang hồ ít ai

biết rõ. Thế mà thiếu phụ này công nhiên nói toạc ra, lại còn biết bần tăng

luyện môn "Kim cương chỉ" mới được có ba thành, điều này khiến bần tăng

không thể nhịn được. Ôi! kỳ thực bần tăng chưa hiểu trời cao đất rộng, công

lực của bần tăng ngày ấy mà bảo đã luyện được tới ba thành là nói quá lên

rồi chứ đúng ra mới được hơn hai thành mà thôi. Bần tăng lớn tiếng thách

thức: "Vị phu nhân kia tôn tính là gì? Đã coi thường "Kim cương chỉ" của

tại hạ, chắc là có ý dạy cho mấy đòn chăng?". Cậu bé gò cương lại, vừa toan

trả lời, thì thiếu phụ thốt nhiên hai mắt đỏ ngầu, rớm lệ bảo con: "Gia gia

mi lúc lâm chung đã dặn những gì? Mi chóng quên thế?". Cậu bé đáp: "Dạ!

Khi nào con dám quên?". Hai con lừa lại tiếp tục cất bớc đi về phía trước.

Bần tăng càng nghĩ lại càng bất phục, liền thúc ngựa đuổi theo gọi: "Ô kìa!

Trong đám giang hồ có ai lại mở miệng chỉ trích bừa bãi võ công của người

khác rồi không ở lại tỷ thí mấy hiệp, cứ bỏ đi ngay mà được bao giờ?". Con

tuấn mã của bần tăng đi rất mau, vừa nói dứt lời nó đã vượt lên chắn trước

mặt hai ngơừi. Thiếu phụ quay lại bảo con: "Mi coi đó mà coi! Cứ buột

miệng nói bừa ngời ta đâu có chịu ngơ đi?". Cậu bé này xem chừng đối với

mẫu thân rất là hiếu thuận, không dám ngước nhìn bần tăng nữa. Bần tăng

thấy họ đã sợ mình, nghĩ bụng: "đây là một cặp mẹ goá con côi, mình có

thắng họ cũng chẳng vẻ vang gì, hà tất ta phải cố chấp như mọi người khác?

Song nghe lời thiếu phụ thì dường như đứa bé này đã biết môn "Kim cương

chỉ". Về môn này bần tăng phải tốn công phu trong một thời gian 10 năm

mới luyện được tới mức đó vậy đứa con nít này có lý nào hiểu được? Chắc

là nói phóng đại đó thôi". Bần tăng liền nói đổng một câu: "Hôm nay ta để

cho các ngươi đi về sau thì nói năng nên cẩn thận một chút nghe!". Thiếu

phụ đó vẫn không nhìn bần tăng, quay lại bảo con: "Thúc thúc đây nói phải

đó, về sau con nói năng nên cẩn thận một chút". Nếu câu chuyện tới đây mà

thôi đi thì hai bên đều không mất thể diện. Khốn nỗi thời đó bần tăng đang

độ trẻ tuổi hung hăng, kéo ngựa sang bên đường nhường cho thiếu phụ đi

trước, đến lúc cậu bé vừa vỗ mình lừa cho cất bước, bần tăng giơ roi quất

vào mông lừa của cậu bé và cười vang lên bảo: "Đi mau mau lên nhé". Đầu

roi của bần tăng còn cách mông lừa chừng một thước, bỗng nghe rắc một

tiếng, cậu bé quay đầu lại, luồng chỉ lực đã xé không khí vụt tới đánh đứt

chiếc roi ngựa của bần tăng ra làm đôi. Một thế đánh làm cho bần tăng

hoảng vía ngẩn người ra, biết rằng chỉ lực quá lợi hại, muôn ngàn lần bần

tăng không thể kịp được. Lại nghe thiếu phụ bảo con: "Đã trót ra tay thì

phải làm sao cho kết liễu đi chứ?". Cậu bé đáp: "Vâng". Cậu nghiêng mình

xuống lừa, chẳng nói năng gì, giơ một ngón tay nhằm điểm vào cổ chân bần

tăng. Cậu bé nhỏ và thấp, bần tăng lại ngồi trên mình ngựa, ngón tay cậu

chỉ chấm tới chân bần tăng, song thế đánh của cậu bé rất hay, đúng là thủ

pháp "Kim cơng chỉ". Bần tăng buông người từ trên mình ngựa xuống,

không dám khinh thị cậu chút nào, cũng dùng "Kim cơng chỉ" để tiếp

chiến. Hai bên giao đấu, càng đánh bần tăng càng thấy sợ sệt vì chỉ pháp

của cậu bé tuy chưa thuần thục lắm, ngẫu nhiên cũng có chỗ sai, song chỉ

lực đi tới đâu cũng phát ra âm hưởng veo veo. Bần tăng quả thực không dám

tiếp chiến một cách cứng rắn. Đánh chưa được chín hiệp, thì trước ngực

phía bên trái cảm thấy đau nhói, rồi kình lực toàn thân bị mất hết.

Thuật tới đây Huỳnh Mi để lộ bộ ngực gầy gò, chìa cả mấy giẻ xương sườn

ra. Mọi người thoáng nhìn đều sự tái mặt, vì thấy phía bên trái lồng ngực,

nhằm đúng vào tâm tạng, có một lỗ thủng sâu tới một tấc. Tuy lỗ thủng đã

thành sẹo rồi nhng vẫn có thể tưởng tượng lúc mới bị đâm thì vết thương

đó hệ trọng tới mức nào. Có một điều kỳ dị là vết thương đó đã đâm thủng

vào sâu đến tâm tạng mà nhà sư vẫn không chết, còn sống được mãi tới

ngày nay. Huỳnh Mi tăng lại trỏ vào phía ngực bên phải cho mọi người xem

thì thấy da thịt chỗ đó luôn luôn phập phồng. Bấy giờ họ mới hiểu Huỳnh

Mi hòa thượng có tướng khác lạ, tâm tạng lại lệch về bên phải chứ không

thiên sang bên trái nh người thường, vì thế mà năm đó hòa thượng mới

thoát chết.

Huỳnh Mi xốc lại áo, thắt lại đai lưng rồi nói tiếp:

- Tâm tạng nằm lệch về bên phải như thế, thực là hàng vạn người không có

một. Cậu bé thấy dùng chỉ lực đánh trúng tâm tạng mà bần tăng vẫn không

chết, vội nhảy lùi lại một bước, sắc mặt lộ vẻ kinh dị. Bần tăng nhìn lồng

ngực máu cứ ồng ộc tuôn ra, cho là tính mạng không thể bảo toàn được nữa

nên chẳng còn kiêng nể, cất tiếng mắng tràn: "Thằng giặc con kia! Mi bảo

mi biết sử dụng "Kim cương chỉ", hừ hừ Kim cương chỉ của Đạt Ma hạ viện,

có bao giờ đánh người đến chảy máu mà vẫn không giết được người?". Cậu

bé nhảy lại trơức mặt, toan đánh tiếp một chỉ. Lúc đó thì bần tăng hoàn toàn

không còn khả năng chống cự gì đưược nữa, chỉ có cách bó tay đợi chết.

Không ngờ thiếu phụ lại cầm roi ngựa vung ra, quấn chặt lấy lưng cậu bé,

nhấc lên một cái, nâng bổng cậu bé, đặt lên lng lừa. Trong lúc mê man, tôi

còn nghe văng vẳng tiếng thiếu phụ chỉ trích con: "Họ Mộ Dung đất Cô Tô

có đứa trẻ nào tranh hơi như mi đâu? Kim cương chỉ của mi đã không học

đợc tới nơi, tới chốn nên không giết được y, ta sẽ phạt mi trong bảy

ngày...". Nghe đang dở câu thì tôi bị ngất xỉu, không biết gì nữa, chẳng hiểu

bà ta phạt con trong bảy ngày như thế nào.

Kim toán bàn Thôi Bách Kế hỏi:

- Đại sư... về sau... về sau có gặp bọn họ nữa không?

Huỳnh Mi đáp:

- Nói ra càng thêm xấu hổ. Từ lúc bần tăng trải qua việc đó đâm ra chán

nản, vì thấy đứa bé nhỏ xíu mà bản lãnh đã cao siêu đến thế, dù mình có

luyện võ công đến mấy đi nữa, cũng không tài nào kịp họ được. Sau khi

khỏi vết thương, lập tức bần tăng rời khỏi địa giới nước Đại Tống tìm đến

nước Đại Lý, nương nhờ ở dưới quyền cai trị của Đoàn Hoàng gia. Qua

được mấy năm, bần tăng xuất gia đầu Phật. Trong thời gian tu hành, bần

tăng tuy đã thẩm thấu được lẽ sinh tử, không đem sự vinh nhục năm xa để

vào trong tâm nữa song ngẫu nhiên hồi tởng đến, vẫn thấy ghê ngời,

chẳng khác gì con chim phải tên.

Mọi người nghe nói đều mặc nhiên không nói gì mà lòng khinh bỉ Thôi

Bách Kế đã giảm đi một phần. Vì võ công Huỳnh Mi cực kỳ lợi hại mà đối

với nhà Mộ Dung còn phải e dè thế thì Thôi Bách Kế có sợ thất thần cũng

nên nguyên lượng.

Thôi Bách Kế hình như cũng hiểu tâm tình mọi người bèn nói:

- Huỳnh Mi đại sư là bậc đàn anh trong đám giang hồ còn đem việc dĩ vãng

phơi bày ra hết, không dấu giếm mảy may thì Thôi mỗ là hạng người gì mà

sợ không dám thổ lộ những điều kém cỏi của mình? Vậy tại hạ cũng xin

đem nguyên do phải trốn vào phủ Trấn Nam Vương tường trình bệ hạ cùng

Vương gia. Nơi đây chẳng có ai là người ngoài, tại hạ cũng xin nói hết để

các vị suy xét.

Thôi Bách Kế còn lấm lét, nghển cổ trông ra phía ngoài cửa sổ, uống luôn

hai chén trà thấm giọng rồi nói tiếp:

- Việc này xảy ra từ mười tám năm trước đây. ở trong thành Vô ô quân, có

một tên thổ hào họ Thái là người trọc phú bất nhân, áp chế dân lành. Một

người bạn của sư huynh tôi bị y hãm hại, toàn gia đều chết dưới bàn tay tên

thổ hào đó.

Quá Ngạn Chi ngắt lời hỏi:

- Sư thúc! Có phải sư thúc nói tên tặc tử Thái khánh Đồ đó không?

Thôi Bách Kế tiếp:

- Đúng rồi! Sư phụ mi mỗi khi nhắc tới tên Thái Khánh Đồ lại nghiến răng

căm hờn, có điều sư phụ mi là người tốt, chỉ biết an thân thủ phận. Ông có

làm cáo tạng lên kêu quan mấy lần nhưng đều bị Thái Khánh Đồ đem tiền

hối lộ để quan nha ỉm đi. Nếu sư phụ mi dùng nhuyễn tiên giết Thái Khánh

Đồ thì là một việc rất dễ dàng, song ông không chịu làm việc gì phạm pháp.

Còn Thôi mỗ trái lại, trộm gà, bắt chó, đĩ bợm, cờ bạc, giết người đốt nhà

không từ việc gì hết. Một đêm kia, Thôi mỗ nóng tiết, mò vào nhà Thái

Khánh Đồ, giết sạch toàn gia y hơn 30 người. Tôi giết từ cổng giết vào,

thẳng tới vườn hoa ở phía sau. Cả đến những người coi vườn nữ tỳ cũng

không để sót một mống nào. Khi vào đến giữa vườn hoa, bỗng thấy trên cửa

sổ một toà lầu nhỏ có ánh đèn lọt ra. Tôi chạy tuốt lên lầu, đạp tung cửa vào

thì thấy đó là một chư phòng, những giá gác xung quanh xếp toàn sách vở,

hoạ đồ. Một đôi nam nữ thanh niên, ngồi sánh vai nhau bên bàn đang mở

sánh xem. Thanh niên chừng 28 tuổi, phong độ thanh tao hoà nhã. Thiếu nữ

còn ít tuổi hơn, ngồi quay lưng ra ngoài nên tôi không nhìn rõ diện mạo.

Nàng mặc áo mỏng mầu lục nhạt, dưới ánh đèn lấp lánh trông rất thanh nhã.

Con mẹ nó...

Thôi Bách Kế vốn dĩ nói năng rất văn hoa, trái ngược hẳn với hành vi trong

lúc bình thường. Không ngờ bây giờ lại đột nhiên văng một câu chửi tục ra,

mọi người đều lấy làm ngạc nhiên.

Thôi Bách Kế không để ý tiếp tục kể:

- Tôi giết một hơi ba mươi mấy người, đang lúc hứng bỗng thấy đôi trai gái

chó chết này, con mẹ nó, tôi rất lấy làm kỳ vì những người trong nhà Thái

Khánh Đồ toàn là một giống thô lỗ hung dữ, sao lại mọc ra đôi nam nữ

thanh tú này? phải chăng là Trương Quân Thuỵ và Thôi Oanh Oanh trong

vở kịch? Tôi đứng ngẩn người ra nhìn hồi lâu, không muốn ra tay hạ sát.

Hoang Quang Hung

K45/01.03

Hoc vien tai chinh

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro