Thien long bat bo(13-24)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 13 Mấy đoạn ân tình

Tuy Mộc Uyển Thanh tát Ðoàn Dự nhưng nàng vẫn chịu nằm gọn trong lòng chàng vì không còn đủ sức mạnh để vùng dậy và đẩy chàng ra.

Ðoàn Dự đưa tay lên xoa má mình, cười nói :

- Ðộng một tý là đánh người ta! Trên đời sao lại có hạng đàn bà con gái dữ như nàng.

Rồi nét mặt bỗng xám ngắt chàng hỏi :

- Nam Hải Ngạc Thần đâu rồi? Sao lão không ở đây đợi tôi?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Người ta chờ ròng rã bảy ngày, bảy đêm rồi chưa đủ hay sao? Lão mới đi rồi.

Nét mặt Ðoàn Dự lại tươi lên ngay, chàng hớn hở nói :

- Nếu vậy hay! Nếu vậy hay! Tôi những canh cánh lo âu vì lão. Nếu lão bức bách tôi phải thờ lão làm thầy thì không biết nói sao.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Chàng không chịu làm đồ đệ lão thì còn đến đây làm gì?

- Ô kia nàng bị mắc vào tay lão, nếu tôi không đến tất lão sẽ gia hại nàng. Tôi nỡ nào bỏ nàng cho đành?

Mộc Uyển Thanh nghe Ðoàn Dự nói vậy đã thấy mát ruột nhưng vẫn chưa hết trách móc :

- Chàng thật là kẻ vô nghi, tôi hối rằng không chém chết phứt chàng cho rồi. Chàng làm gì mà bây giờ mới đến để người ta vừa lo lắng vừa mong hết nước hết cái. Giờ lão bỏ đi, mới vác mặt đến rồi nói đạo đức giả. Sao ròng rã bảy ngày bảy đêm không đến tìm tôi?

Ðoàn Dự thở dài nói :

- Tôi cũng bị người ta giữ, không sao cựa ra được. Suốt ngày đêm tôi lo lắng về nàng, lòng nóng như lửa đốt. Vừa thoát khỏi tay họ là tôi chạy đến đây ngay lập tức. Mộc cô nương! Chỗ vết thương cô đã lành chưa? Lão độc ác đó có ức hiếp gì cô không?

Mộc Uyển Thanh giận dỗi hỏi :

- Tôi là thế nào với chàng mà chàng còn gọi một điều cô nương, hai điều cô nương?

Ðoàn Dự thấy nàng giận dỗi càng tăng vẻ kiều diễm, lại biết rằng trong bảy ngày qua nàng đã trải bao nỗi nhớ nhung, đau khổ liền ôm ghì lấy vai nàng nói :

- Uyển Thanh, Uyển Thanh mình ơi! Tôi gọi mình vậy mình đã vừa lòng chưa?

Ðoàn Dự nói rồi cúi đầu xuống, toan ghé miệng hôn vào môi Mộc Uyển Thanh.

Nàng buột miệng kêu lên :

- Ô hay!

Rồi vì thẹn quá mặt đỏ như gấc chín, nàng ngồi bật dậy như cái lò xo, bực mình nói :

- Chàng làm gì mà kỳ vậy? Không sợ những người chung quanh cười cho sao?

Nàng ngó nhìn bốn phía thì chẳng thấy tông tích người mặc áo rộng thùng thình cùng bọn Ngư, Tiều, Canh, Ðộc đâu cả.

Ðoàn Dự không hiểu nàng ngó gì, đâm ra chột dạ, vẻ lo sợ lộ ra mặt, vội bảo :

- Mình ngó ai vậy? Có phải Nam Hải Ngạc Thần không?

Mộc Uyển Thanh không đáp hỏi lại :

- Chàng đến đã lâu chưa?

Ðoàn Dự đáp :

- Mới có một lúc. Lên tới đây thì nàng ngã lăn, ngất đi. Ngoài ra chẳng thấy một ai. Mộc Uyển Thanh mình ơi! Chúng ta phải đi ngay, nếu để Nam Hải Ngạc Thần trở lại thì nguy to.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Phải đó!

Nàng lẩm bẩm : quái lạ thật! Mới trong khoảnh khắc mà họ đi đâu cả rồi? Bất thình lình nghe phía sau tảng đá lớn có tiếng ngâm thơ :

Ngàn dặm tuốt gươm trần

Kể gì một tấm thân

Ðã qua chơi đất Ngụy

Không thụ Tín Lăng Quân

Ngâm xong, một người tay cầm quạt, tay cầm cuốn sách đi ra. Chính gã là thư sinh lúc nãy.

Ðoàn Dự vừa trông thấy cả mừng reo lên :

- Chu huynh!

Gã thư sinh bỏ sách cùng quạt vào bọc tiến lại vái dài, vui mừng nói :

- Thưa công tử! Công tử được vô sự thật là đại hạnh. Vừa nãy cô nương đây bảo công tử bị hại về tay bọn tứ ác làm chúng tôi sợ hãi rụng rời.

Ðoàn Dự ngượng ngùng hỏi :

- Vậy ra các ngươi trông... thấy ta cả rồi ư? Các ngươi đến đây... làm chi? Không hẹn mà gặp thật là may quá!

Thư sinh mỉm cười đáp :

- Bốn anh em tôi vâng mệnh đi đón công tử về phủ chứ có phải tự nhiên mà gặp đâu. Công tử thật là gan liều tướng quân, một thân một mình mà dám dấn thân vào chốn giang hồ. Bọn tôi đến hỏi nhà Mã Ngũ Ðức, rồi sang núi Vô Lượng, mấy bữa nay ai nấy đều lo ngay ngáy.

Ðoàn Dự cười nói :

- Ta cũng gặp không biết bao nỗi gian khổ, chắc bá phụ cùng gia gia giận ta lắm phải không?

Thư sinh đáp :

- Dĩ nhiên là các vị lão gia rất buồn phiền. Chúng tôi ra đi rồi chắc hai vị lão gia nóng ruột lắm. Sau Thiện Xiển Hầu được tin bốn tên đại ác đã vào địa phận nước Ðại Lý, e rằng công tử chạm trán với bọn này, chính người phải thân hành đi kiếm công tử đó.

Ðoàn Dự nhíu đôi lông mày hỏi :

- Bốn tên đại ác nào? Cao thúc thúc cũng đi kiếm ta ư? Ta thật áy náy vô cùng, các người kia đâu cả rồi?

Thư sinh đáp :

- Cao bần lão gia đang đánh nhau với ác phụ, khi nghe tiếng công tử ai nấy mới yên dạ. Tôi được lệnh ở lại chầu chực công tử, còn mọi người rượt theo ác phụ. Bây giờ xin công tử về thành kẻo hai vị lão gia nóng ruột.

Ðoàn Dự hỏi :

- Thế ra có mình Chu huynh ở đây thôi hả?

Chàng tưởng đến lúc mình cùng Mộc Uyển Thanh thủ thỉ với nhau gã biết cả rồi, bất giác thẹn đỏ mặt lên.

Gã thư sinh đánh trống lảng :

- Vừa rồi tôi ngồi sau tảng đá đọc bài thơ ngũ ngôn của Vương Xương Linh, vẻn vẹn có hai mươi chữ mà tỏ được hết lòng khảng khái, ai nghe cũng phải kính phục.

Nói rồi gã lấy trong bọc ra cuốn "Vương Xương Linh tập" đưa cho Ðoàn Dự.

Ðoàn Dự nói :

- Phải rồi! Vương Xương Linh sở trường về thơ thất ngôn, còn về thơ ngũ ngôn Vương cũng thường thôi, nhưng bài ngũ ngôn vừa rồi kể ra hay thật.

Ðoàn Dự cao hứng cũng ngâm rằng :

Sông Hoài quanh trước mặt

Ánh nguyệt rọi bên mình

Dám nghĩ tình tân chủ

Ðôi phen nghĩa đệ huynh

Thư sinh nghe đoạn vái dài tận đất nói :

- Ða tạ lòng công tử.

Câu chuyện giữa Ðoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh tha thiết yêu nhau gã thư sinh đều nghe rõ hết. Hai bên quyến luyến, không nỡ rời nhau, lại thấy chàng ra chiều bẽn lẽn nên gã ngâm bài thơ của Vương Xương Linh để gỡ thẹn cho chàng. Câu "đã qua chơi đất Ngụy" để dẫn tích Hầu Doanh cùng Chu Hợi đối với Tín Lăng Quân. Bài thơ gã ngâm ngụ ý dù có phải nát thân để báo đáp công tử gã cũng vui lòng.

Bài thơ của Ðoàn Dự thì tỏ ý chủ nhân hậu đãi kẻ thuộc hạ như tình cốt nhục. Hai người nhìn nhau mà cười ra chiều rất tương đắc.

Còn Mộc Uyển Thanh chẳng hiểu gì về thơ văn, nghĩ thầm : Mấy anh đồ gàn toẹt này đã bàn luận đến thơ văn thì không còn biết trời đất gì nữa, quên cả mình đang ngồi trong hang cọp.

Ðoàn Dự quay lại bảo Mộc Uyển Thanh :

- Mộc... Mộc cô nương! Vị này là Chu Ðan Thần tức Chu Tứ ca một người bạn rất thân với tôi đó.

Chu Ðan Thần bước lên kính cẩn thi lễ :

- Chu Ðan Thần xin bái yết cô nương.

Mộc Uyển Thanh thấy gã coi mình có vẻ trân trọng, cũng thấy thỏa dạ, liền đáp lễ rồi tươi cười hỏi :

- Chu tứ ca! Tứ ca thật là người ôn tồn hòa nhã mà sao mấy ông bạn kia coi có vẻ hung dữ thế?

Chu Ðan Thần tươi cười đáp :

- Ba vị ca ca tôi nóng lòng vì chưa được tin tức của Ðoàn công tử nên có điều thất thố, xin cô nương miễn trách.

Gã nghĩ thầm : vài năm nay, tiếng Hương Dược Xoa độc ác đồn đại khắp nơi, ai ngờ nàng là một trang sắc nước hương trời. Ðoàn công tử hãy còn ít tuổi, chưa hiểu khách giang hồ đều chán ghét nàng cả. Nay chàng bị mỹ sắc mê hoặc có khi nguy hại đến thanh danh. Tuy nghĩ vậy nhưng gã là người rất ý tứ, đối với Mộc Uyển Thanh gã chỉ đề phòng một cách kín đáo, tuyệt không lộ tý gì ra sắc mặt, gã cười hể hả nói :

- Hai vị lão gia ở nhà nóng lòng mong đợi công tử. Công tử còn chờ gì mà chưa động thân về thành? Mộc cô nương! Nếu không có việc gì gấp, xin mời về phủ công tử chơi mấy bữa.

Gã tự lượng sức mình không địch nổi Mộc Uyển Thanh, vả gã mời Mộc Uyển Thanh cùng đi Ðoàn Dự tất vui lòng. Gã đã tưởng thế là đắc sách, nào ngờ Ðoàn Dự vẫn tỏ vẻ ngần ngại đáp :

- Ta... ta biết về trình lại với bá phụ cùng gia gia ta thế nào đây?

Mộc Uyển Thanh thì thẹn đỏ mặt lên quay đi chỗ khác. Chu Ðan Thần lại nói :

- Tại hạ nghe nói tứ ác võ công tuyệt cao, vừa rồi Thiện Xiển Hầu đánh đuổi được Diệp Nhị Nương là bởi tấn công bất ngờ và cũng có điều may mắn mới thắng được mụ. Công tử thân trọng thiên kim, chẳng nên dấn mình vào nơi hiểm địa nữa. Chúng ta về thôi!

Ðoàn Dự tưởng đến Nam Hải Ngạc Thần hung dữ lại sợ hãi vô cùng, trời không rét mà chàng run lên cầm cập, gật đầu nói :

- Phải đó! Chúng ta lên đường thôi! Chu tứ ca! Kẻ địch ghê gớm lắm! Tứ ca đi giúp cho Cao thúc thúc một tay, để ta cùng Mộc cô nương về phủ là được rồi!

Chu Ðan Thần cười nói :

- Như thế không được! Tìm thấy công tử đâu phải là chuyện dễ dàng? Tại hạ xin đưa công tử về phủ. Ðã đành rằng Mộc cô nương võ công trác tuyệt, tại hạ xiết bao ngưỡng mộ, song xem khí sắc tựa hồ vết thương cô nương chưa được bình phục. Vạn nhất dọc đường gặp phải cường đồ thì nguy hiểm biết mấy? Xin cho tại hạ được lập chút công nhỏ mọn dường dây tơ sợi tóc.

Mộc Uyển Thanh đằng hắng rồi nói :

- Tứ ca có bảo gì tôi xin đừng nói văn chương, chữ nghĩa. Tôi chỉ là cô gái quê mùa, không được học hành, tôi chả hiểu gì mấy về những lời văn vẻ quá.

Chu Ðan Thần cười đáp :

- Quả thế! Tại hạ quen mất nết rồi. Xin cô nương miễn trách.

Ðoàn Dự không muốn về nhà nhưng chết nỗi Chu Ðan Thần đã gặp rồi, không về không được, chỉ còn cách là đang đi giữa đường sẽ tìm kế thoát thân.

Ba người cùng đi xuống núi. Mộc Uyển Thanh chỉ lăm le muốn hỏi cho ra chuyện bảy ngày bảy đêm vừa rồi Ðoàn Dự đi đâu mà không đến với nàng. Nhưng bị Chu Ðan Thần lúc nào cũng đi sát bên cạnh, chưa tiện dịp gạn hỏi, phải cố nín nhịn.

Chu Ðan Thần có đem lương khô bên mình, lấy ra đưa cho hai người ăn. Ba người xuống đến chân núi lại đi thêm vài dặm nữa, thấy bên đường có năm con ngựa buộc sẵn dưới gốc cây. Những ngựa này do bọn Thái Tân Khách cưỡi đến đây trước.

Chu Ðan Thần lại cỡi lấy ba con, giắt đưa cho Ðoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh mỗi người một con. Hai người nhảy lên yên đi rồi, gã mới lên ngựa đi sau.

Tối hôm ấy ba người vào nghỉ trong quán trọ, mỗi người ở riêng một phòng. Mộc Uyển Thanh cài cửa phòng rồi tay chống cằm, ngồi trước một cái bàn, trên bàn có thắp một cây nến đỏ. Lòng nàng nửa mừng, nửa lo, những làm sóng tư tưởng cuồn cuộn luân lưu nổi lên hạ xuống. Nàng nghĩ : Ðoàn lang chẳng nề lao khổ trở lại tìm ta đủ rõ tình ý chàng đối với ta cực kỳ thâm trọng. Vậy mà mấy bữa nay ta cứ ngấm ngầm oán trách oan chàng là người tệ bạc, thật là một lỗi lầm rất lớn. Lại xem Chu Ðan Thần đối với chàng vô cùng kính cẩn, thì hẳn chàng chẳng con nhà phú quý cũng là dòng dõi gia thế trong võ lâm. Ta là một cô gái đương xuân, tuy cùng chàng đính ước hôn nhân nhưng cứ tự nhiên theo về nhà chàng thế nào được? Ôi thật là rắc rối. Dường như cha, bác chàng đối với chàng rất là khắc nghiệt, nếu họ khinh bỉ hoặc vô lễ với ta thì biết làm thế nào? Thôi ta cũng đành phóng cho mỗi người một mũi tên, giết ráo cả đi, chỉ để mình chàng là xong.

Mộc Uyển Thanh đang nghĩ đến giai đoạn gay go chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng gõ nhè nhẹ. Nàng tắt phụt cây nến đi thì nghe rõ tiếng Ðoàn Dự nói :

- Tôi đây mà!

Mộc Uyển Thanh thấy canh khuya chàng lẻn đến phòng riêng mình gọi cửa bất giác trái tim đập dồn dập, mặt nóng bừng bừng khẽ hỏi :

- Có chuyện chi đó?

Ðoàn Dự đáp :

- Mình mở cửa sổ, tôi nói cho mà nghe.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi không mở...

Nàng cảm thấy con người toàn thân võ nghệ như mình mà lúc này phải sợ hãi một gã thư sinh yếu ớt cảm thấy tự thẹn cho mình. Bên ngoài Ðoàn Dự không hiểu tại sao nàng không chịu mở cửa sổ, liền nói vọng vào :

- Vậy thì mình ra đây! Ta chuồn đi thôi!

Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ, lấy ngón tay chọc thủng miếng giấy che cửa sổ hỏi :

- Có chuyện chi mà phải đi bây giờ?

Ðoàn Dự đáp :

- Chu tứ ca ngủ say rồi, đừng náo động cho y thức giấc, tôi cùng mình lén đi thôi! Tôi không muốn về nhà.

Mộc Uyển Thanh mừng rơn. Nàng chỉ băn khoăn chuyện đối phó với cha mẹ chàng, thấy chàng không muốn về nhà thì rất biểu đồng tình liền mở cửa sổ nhẹ nhàng nhảy ra.

Ðoàn Dự khẽ bảo nàng :

- Tôi đi dắt ngựa đây.

Mộc Uyển Thanh ra hiệu bảo đừng, rồi thò tay nắm lấy lưng chàng, đề khí nhảy vọt lên mặt tường, tiện đà lẹ làng nhảy ra bên ngoài tường, nói khẽ bảo Ðoàn Dự :

- Ðừng đi ngựa vì vó ngựa lốp bốp, Chu tứ ca sẽ biết mất.

Ðoàn Dự nói :

- Nàng thật là người chu đáo!

Hai người giắt tay nhau trông về hướng Đông mà đi. Ði được mấy dặm vẫn không thấy có người đuổi theo, đã hơi vững dạ, Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Sao chàng lại không muốn về nhà?

Ðoàn Dự đáp :

- Tôi về bây giờ chắc sẽ bị gia gia cùng bá phụ giữ chịt không cho ra khỏi nhà nửa bước. Dù có muốn được thấy mặt mình một lần cũng không phải là chuyện dễ.

Mộc Uyển Thanh khoan khoái vô cùng, hớn hở bảo chàng :

- Chàng tính vậy cũng phải. Không về nữa là xong. Từ đây đôi ta vùng vẫy giang hồ, sống một đời tiêu dao tự tại, há chẳng vui sướng ru? Nhưng chúng ta về đâu bây giờ?

Ðoàn Dự nói :

- Ðiều thứ nhất là tìm đường nào để Cao thúc thúc và Chu Ðan Thần không biết đâu mà đuổi theo, hai là đừng để Nam Hải Ngạc Thần bắt gặp.

Mộc Uyển Thanh gật đầu khen phải nói :

- Chúng ta đi về ngả Tây Bắc tìm một nhà nào đó tạm lánh ít lâu. Chừng mươi lăm ngày chờ cho vết thương tôi lành hẳn khi ấy sẽ không sợ gì nữa.

Hai người rảo bước nhằm hướng Tây Bắc mà đi. Trên đường không dám dừng lại trò chuyện lúc nào, chỉ mong chóng ra khỏi khu vực núi Vô Lượng càng xa càng hay.

Ði đến lúc trời sáng Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi rất nhiều kẻ thù, ban ngày đi bị họ dòm ngó không tiện, ta tìm chỗ trọ ăn uống rồi ngủ một giấc, đến tối lại ra đi.

Ðoàn Dự không hiểu gì về đường lối giang hồ nói :

- Chủ ý mình định thế nào tôi cũng theo như vậy.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Ăn cơm rồi chàng phải kể cho tôi hay bảy ngày, bảy đêm vừa qua chàng lọt vào đâu? Nếu nói dối nửa lời thì đừng có trách! Liệu hồn đó!

Chưa dứt lời, bất thình lình có tiếng đằng hắng, hai người vội trông về phía trước thấy dưới gốc liễu đã có ba con ngựa buộc sẵn tại đó. Một người ngồi trên phiến đá, tay cầm quyển sách đang gật gù ngâm nga. Chính là Chu Ðan Thần.

Ðoàn Dự cả kinh dắt tay Mộc Uyển Thanh kéo đi nói :

- Chạy mau! Hắn kia rồi!

Nhưng Mộc Uyển Thanh là người sáng suốt hiểu rõ rằng : đêm rồi hai người lén ra đi Chu Ðan Thần đã biết cả rồi. Y liệu chừng Ðoàn Dự không có môn khinh công cố nhiên đi không được mau lẹ. Y chỉ cần nhìn xem mình rẽ về ngả nào rồi lên ngựa đi quanh nẻo khác đến đây đón trước. Nàng liền chau mày bảo Ðoàn Dự :

- Ông ngốc ơi! Ðành để y bắt gặp còn trốn đâu được nữa.

Rồi tiến lên trước, tươi cười hỏi Chu Ðan Thần :

- Còn sớm thế mà Tứ ca đã ra đây ngồi đọc sách rồi, khoái lắm nhỉ?

Chu Ðan Thần tươi cười, gật đầu rồi quay sang hỏi Ðoàn Dự :

- Công tử thử đoán xem tôi đọc bài thơ này của ai nhé.

Ðoạn gã cất cao giọng ngâm :

Chim kêu, vượn hót canh trường,

Xa xăm dặm khách bàng hoàng hồn mai.

Mang danh quốc sĩ với đời,

Dẫu trong gian hiểm dám phai tấc lòng?

Ðoàn Dự đáp :

- Phải chăng đó là bài "Thuật hoài" của Ngụy Trưng đời Ðường?

Chu Ðan Thần cười đáp :

- Công tử thật là người học rộng nhớ nhiều, tôi xin bái phục.

Ðoàn Dự biết y dẫn bài thơ này dụng ý : nửa đêm y không ngại gian nan, ra đi truy tầm mình, vì đã chịu ơn gia gia cùng bá phụ mình nên không dám quên lời phó thác.

Mộc Uyển Thanh lại cởi dây buộc ngựa ra, miệng hỏi :

- Ði về Ðại Lý đường nào nhỉ? Chúng ta đi có trúng không?

Chu Ðan Thần đáp :

- Muốn đi ngả nào cũng không sao. Qua mé tây cũng được mà qua mé đông rồi cũng về tới Ðại Lý cả.

Hôm qua gã nhường con ngựa chạy nhanh nhất cho Ðoàn Dự, nay gã tự mình giữ lấy con ngựa tốt này để phòng hai người có trốn gã còn đuổi kịp.

Ðoàn Dự nhảy phốc lên yên, nhằm hướng Đông gia roi.

Chu Ðan Thần sợ Ðoàn Dự có ý không bằng lòng mình chăng. Có lúc gã đi sát bên chàng, có lúc lại đi sau một quãng xa để chàng được thoải mái được trò chuyện với Mộc Uyển Thanh. Lúc nào gã đi bên chàng thì đem văn thơ ra bàn luận rất là vui vẻ.

Mộc Uyển Thanh thấy hai người nói chuyện văn chương thì nàng cứ lầm lỳ chẳng nói chẳng rằng. Ði chưa bao lâu đã ra đến đường lớn. Ba người đi đến giữa trưa thì gặp bên đường một quán ăn nhỏ liền vào ngồi nghỉ ăn cơm. Chợt thấy ngoài cửa thoáng có bóng người rồi từ ngoài cửa bước vào một gã đàn ông cao lêu nghêu, gầy khẳng gầy kheo. Y vừa ngồi xuống đã quát tháo :

- Lấy đem đây một bình rượu ngon và hai cân thịt bò chín cho mau!

Mộc Uyển Thanh không cần nhìn mặt chỉ nghe tiếng the thé chói tai cũng đủ biết y là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc rồi. May nàng ngồi quay mặt vào phía trong nên hắn chưa trông thấy. Nàng chấm ngón tay vào bát nước canh, viết lên mặt bàn bốn chữ : "Người ác thứ tư". Chu Ðan Thần liền viết "Ði ngay đi đừng chờ tôi nữa!". Mộc Uyển Thanh liền kéo áo Ðoàn Dự chạy vào phía trong quán.

Vân Trung Hạc ngồi đăm đăm nhìn ra đường, tựa hồ đang chờ đón ai. Nhưng tâm linh y cực kỳ vi diệu, thóang nghe phía sau có tiếng chân người, quay đầu nhìn lại thấy Mộc Uyển Thanh đang đi khuất vào sau bức vách liền quát hỏi :

- Ai? Ðứng lại ngay!

Hắn đứng dậy đuổi theo, quờ cánh tay dài ra toan túm lấy sau lưng Mộc Uyển Thanh.

Chu Ðan Thần tay cầm bát canh miến kêu lên : "Ối chao", giả vờ lỡ tay cho bát canh vừa nóng sôi đổ vào mặt Vân Trung Hạc.

Hai người đứng liền nhau, Chu Ðan Thần đã nhanh tay mà Vân Trung Hạc không ngờ gã thư sinh đột nhiên ám toán. Lại vì quán chật chội quá không lùi kịp, y mới xoay được nửa mình bát canh sôi đã đổ vào mặt y một nửa còn một nửa đổ chan hòa vào người y.

Y hoa mắt lên một cái rồi nổi hung đưa tay ra toan móc vào bụng Chu Ðan Thần. Nhưng Chu cũng không vừa, bát canh vừa rớt xuống, tiện tay bưng cả bàn ăn lên, hất về phía Vân Trung Hạc. Năm ngón tay Vân Trung Hạc vừa chạm mặt bàn, một luồng gió cực mạnh quạt bát đĩa bật trở lại kêu loảng choảng. May mà y là một tay võ nghệ ghê gớm, vận kịp nội công chống lại, hất bát đĩa ra nên không bị thương gì cả, mà chỉ bị bao nhiêu nước canh đổ đầy vào người.

Ngoài cửa quán tiếng vó câu dồn dập, hai người (Mộc Uyển Thanh và Ðoàn Dự) phóng ngựa chạy về phía Bắc.

Vân Trung Hạc giơ tay áo lên lau mặt, bỗng thấy một luồng hơi mạnh lùa vào bụng, một vật đâm thẳng tới trước ngực. Y liền hít mạnh một hơi thở, ngực hóp vào nửa thước tránh khỏi, giơ hai ngón tay trái lên không kẹp được cây quạt. Cây quạt của Chu Ðan Thần đánh bằng thép nguyên chất, nó là một thứ khí giới gã tập luyện từ thuở nhỏ, phóng ra thu về vùn vụt nhanh như gió.

Gã biết Vân Trung Hạc mau lẹ dị thường nhưng muốn nhân lúc y đang lóng ngóng, may ra đanh trúng y được một đòn chăng. Nào ngờ chẳng những y tránh được lại còn chĩa hai ngón tay lên cặp mất cây quạt quý báu.

Chu Ðan Thần cả kinh vội vận nội công cướp lại. Kể về nội lực thì Chu còn kém y nhiều, không thể đoạt lại nổi nhưng may mà tay y còn đẫm nước canh, trơn quá nắm không được chặt nên Chu Ðan Thần giật lại được.

Sau mấy đòn vừa qua Chu Ðan Thần biết mình gặp phải một địch thủ ghê gớm, gã lên tiếng gọi to :

- Xin nhị vị ca ca Phủ Tiêu Ðiếu cùng Thái Tân Khách mau mau chẹn các ngả, đừng để thằng cha cao nghệu hôm trước chạy thoát.

Sở dĩ Chu Ðan Thần gọi lên như thế vì đã được nghe chuyện hôm trước hai người này hợp lực lại đánh Vân Trung Hạc và đã thắng nổi y. Ðó chỉ là cách Chu Ðan Thần hư trương thanh thế để dọa bên địch.

Quả nhiên Vân Trung Hạc tưởng thật, lẩm bẩm : "Hỏng bét! Chúng còn hai tên mai phục ở ngoài. Bữa trước mới có hai tên đó thôi mình còn chịu thua, nay lại có những ba thì mình địch sao cho nổi?". Nghĩ vậy y không dám ham đánh, xông vào phía sau quán, vượt tường chạy mất.

Chu Ðan Thần gọi to :

- Gã cao nghệu chạy ra phía sau, chúng ta mau mau đuổi bắt!

Ðoạn Chu ra cửa quán, lên ngựa đuổi theo Ðoàn Dự.

Ðoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh chạy được mấy dặm rồi lỏng buông tay khấu cho ngựa đi thong thả. Lát sauChu Ðan Thần gần tới nơi, hai người dừng ngựa lại toan hỏi chuyện vừa xẩy ra, bỗng Mộc Uyển Thanh lại kêu lên :

- Nguy mất! Y lại đuổi theo kia rồi!

Trên đường cái, gã cao nghệu đang lắc lư đuổi tới. Chu Ðan Thần cả kinh nói :

- Thằng cha này khinh công ghê quá.

Gã cầm roi quất vào mông ngựa Ðoàn Dự, cả ba con, mười hai vó phi nước đại, cát bụi tung trời. Chỉ trong chớp mắt, bỏ Vân Trung Hạc một quãng xa.

Chạy như vậy thêm được sáu bảy dặm nữa, con ngựa Mộc Uyển Thanh cưỡi thở dốc lên từng cơn, đánh phải dừng lại một chút cho nó nghỉ xả hơi.

Vân Trung Hạc đuổi gần thêm được một quãng. Tuy y chạy không nhanh bằng ngựa nhưng dai sức, chạy lâu không mệt.

Chu Ðan Thần biết rằng mưu lừa của mình đã bị Vân Trung Hạc khám phá mất rồi, bây giờ có muốn bịp y cũng không được nữa. Tính ra còn đến hai mươi dặm đường, sao cho y không đuổi kịp mới yên. Một khi đã vào thành Ðại Lý rồi thì dù việc to tày trời cũng không có gì đáng ngại nữa.

Ba con ngựa chạy mỗi lúc một chậm thêm, tình thế mỗi lúc một nguy ngập. Ði được vài dặm nữa, con ngựa của Ðoàn Dự bỗng khụyu hai chân trước, hất chàng tuột dần xuống.

Mộc Uyển Thanh phi thân, nhảy ra khỏi yên ngựa mình. Ðoàn Dự chưa lăn tới đất nàng đã túm được sau lưng thì vừa lúc con ngựa của nàng chạy tới nơi. Tay trái nàng giữ yên rồi xách cả Ðoàn Dự nhảy phốc lên.

Chu Ðan Thần tuy ác cảm với nàng nhưng thấy Ðoàn Dự từ trên lưng ngựa tuột xuống mà mình còn mắc ngăn trở kẻ địch ở đằng sau, chưa kịp lại cứu, được Mộc Uyển Thanh ra tay kịp thời, bất giác buột miệng khen :

- Phi thân như thế thật tuyệt!

Vừa dứa lời, chợt sau gáy có luồng gió thổi đến, một thứ binh khí bổ xuống.

Chu Ðan Thần vung quạt lên đỡ đánh chát một tiếng, cây cương trảo của Vân Trung Hạc bị hất ra. Thuận tay y đưa năm ngón cương trảo chụp xuống mông ngựa, máu chảy đầm đìa. Ngựa bị thương đau quá, hí vang một tiếng bi thảm rồi chạy lồng lên lại bỏ Vân Trung Hạc một quãng khá xa.

Nhưng từ lúc đó, một ngựa cõng hai người, một bị thương không còn cách nào duy trì lâu được nữa.

Chu Ðan Thần cùng Mộc Uyển Thanh rất đỗi bồn chồn, còn Ðoàn Dự chưa rõ sự thể nguy cấp hỏi :

- Uyển Thanh mình ơi! Thằng cha đó ghê gớm lắm phải không? Chẳng lẽ Chu tứ ca không địch nổi nó?

Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp :

- Cả tôi hợp lực nữa cũng không ăn thua.

Rồi nàng chợt nghĩ ra một kế nói :

- Tôi giả vờ ngã ngựa bị thương nằm xuống bên đường, chờ y đến nơi, không kịp đề phòng sẽ phóng ra hai mũi tên độc hay nhiều hơn, may ra hạ được y. Chàng cứ cưỡi ngựa chạy dài đừng chờ tôi nghe.

Ðoàn Dự hoảng quá, quờ tay lại đằng sau, tay trái giữ đầu, tay phải ôm lưng nàng nói luôn :

- Không được! Không được! Tôi không bằng lòng cho mình mạo hiểm thế đâu.

Mộc Uyển Thanh thẹn quá, mặt đỏ bừng lên, vùng vằng bảo :

- Chàng ngốc! Buông người ta ra! Ðể Tứ ca trông thấy coi sao cho tiện?

Ðoàn Dự giật mình hỏi :

- Mình giận tôi đấy ư? Ðừng giận nữa mà!

Mộc Uyển Thanh nói :

- Ðã là vợ chồng tôi giận chàng làm gì?

Hai người nhìn về phía sau thấy Vân Trung Hạc đang ngất ngưởng đuổi tới.

Ðoàn Dự liếc nhìn Mộc Uyển Thanh thấy nàng mày liễu ủ dột, nét mặt lo buồn thì chàng ruột rối tơ vò, cầm lòng không đậu. Ðằng sau Chu Ðan Thần không ngớt vẫy tay ra hiệu bảo chạy mau đi, gã đã xuống ngựa cầm cây quạt đứng chặn đường. Chẳng ngờ Vân Trung Hạc chỉ cố tình bắt Mộc Uyển Thanh, y rẽ xuống ruộng tránh Chu Ðan Thần rồi cứ nhằm Ðoàn Dự, Mộc Uyển Thanh mà đuổi.

Mộc Uyển Thanh gia roi quất mạnh vào hông ngựa, con vật mệt quá miệng nhả bọt rãi ra trắng hếu, hơi thở phì phì. Ðoàn Dự nói :

- Uyển Thanh mình ơi! Giả tỷ lúc này ta có con Hắc Mai Côi thì tên ác nhân kia không tài nào đuổi kịp.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Ai không biết thế? Cần chi chàng phải nói?

Ngựa lượn qua sườn núi thì đến một con đường lớn thẳng tắp và quang quẻ, chả còn chỗ nào ẩn nấp được nữa. Chỉ có về mé tay trái, giữa một rặng liễu xanh um, bên cạnh cái hồ nhỏ lộ ra bức tường vàng.

Ðoàn Dự cả mừng nói :

- Chúng ta vào trong kia!

Mộc Uyển Thanh nói :

- Ðó là đất chết! Vào đó cùng đường rồi chạy đi đâu?

Ðoàn Dự nói :

- Mình cứ nghe tôi! tôi nói không sai đâu mà!

Mộc Uyển Thanh giật cương cho ngựa chạy rẽ vào. Chạy gần đến nơi, nàng ngoảnh đầu lên nhìn thì đó là một ngôi chùa hay một đạo viện, trên biển có đề ba chữ : "Thanh Hoa quán". Nàng hoảng hồn than thầm : chàng ngốc này bảo mình chạy vào đây, trước mặt quả là cùng đường biết làm thế nào? Thôi ta đành nấp vào trong kia, bắn ngầm Vân Trung Hạc một phát rồi ra sao thì ra. Vừa tính toán xong ngựa đã đến trước cửa chùa. Phía sau bỗng một chuỗi cười ha hả nổi lên, nghe rõ tiếng Vân Trung Hạc đuổi tới nơi.

Con ngựa tung Mộc Uyển Thanh cùng Ðoàn Dự nẩy lên. Nó hý một tiếng dài rồi đứng sững lại một cách đột ngột, phía trước mắc tường chùa không còn đường chạy.

Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng mát lạnh, quay đầu nhìn lại thì Vân Trung Hạc đã túm được khấu đuôi ngựa. Thần lực y ghê gớm quá, y chỉ nắm khấu đuôi mà toàn thân ngựa bị cứng đờ, không nhúc nhích được nữa. Ðoàn Dự bỗng cất tiếng gọi thật to :

- Má má ơi! Má ra đây mau mau! Má má ơi!

Mộc Uyển Thanh tức quá hét lên :

- Ðồ ngốc! Câm mồm ngay!

Vân Trung Hạc cười ha hả nói :

- Mi gọi cả ba má mi ra đây cũng không làm gì được nữa đâu.

Mộc Uyển Thanh vẫy tay phải, một mũi tên phóng về phía sau.

Vân Trung Hạc rụt cổ lại tránh khỏi, gã thấy Mộc Uyển Thanh xuống ngựa, tay trái vung cây cương trảo ra toan chụp lấy vai nàng. Mộc Uyển Thanh cơ linh mau lẹ, co người lại một cái đã chui ngay vào gầm bụng ngựa.

Vân Trung Hạc buông đuôi ngựa ra, định thò tay nắm lấy Mộc Uyển Thanh. Bất thình lình một người đạo cô trong chùa chạy ra. Vị đạo cô này tuy đã đứng tuổi mà nhan sắc xinh tươi chẳng khác gì cô gái đương xuân, tay phải cầm cây phất trần, miệng tươi như hoa nở.

Ðạo cô đưa tay ra dắt Ðoàn Dự lại bên mình, vừa cười vừa hỏi :

- Lại gây chuyện chi rắc rồi mà gọi ầm lên thế?

Mộc Uyển Thanh thấy đạo cô xinh đẹp mà đối với Ðoàn Dự ra vẻ thân mật còn Ðoàn Dự quàng tay ôm lấy lưng mụ miệng cười toe toét bất giác nổi cơn tam bành, không nhớ gì đến kẻ địch lợi hại ở sau lưng nữa, nhảy xổ vào chìa tay ra toan tát vào mặt đạo cô.

Nàng gầm lên :

- Mi là người thế nào với chàng?

Ðoàn Dự vội la lên :

- Mộc Uyển Thanh! Không được vô lễ.

Mộc Uyển Thanh thấy chàng bênh đạo cô, máu ghen đưa lên tận cổ, chân chưa chấm đất nàng vận thêm nội lực vào tay định để tát cho thật mạnh.

Ðạo cô giơ phất trần ra, đuôi phất trần tung lên rồi sa xuống quấn lấy tay Mộc Uyển Thanh, kéo sang một bên.

Mộc Uyển Thanh thấy cây phất trần có một mãnh lực rất kỳ dị : lông đuôi nó mềm như tơ, tuyệt không có chi cứng mạnh vậy mà nàng đành chịu thua không còn tự chủ được nữa.

Nàng căm tức muốn lồng lên, cả tiếng mắng :

- Mi là kẻ tu hành còn ôm lấy trai sao không biết nhục?

Vân Trung Hạc lúc mới thấy đạo cô dung nhan yểu điệu bước ra khoái quá lẩm bẩm : Vân Trung Hạc này hôm nay sao mà vận đỏ thế? Một phát bắn trúng đôi điêu, làm mình phải ẵm cả cặp đi một chuyến". Nhưng đến khi thấy đạo cô vung phất trần một cách hời hợt để bắt Mộc Uyển Thanh mà nàng đành chịu ép một bề thì biết ngay là một tay đáo để. Y nhảy tót lên lưng ngựa coi chừng chứ chưa động thủ.

Ðạo cô cả giận quát hỏi Mộc Uyển Thanh :

- Tiểu cô nương! Cô nói lăng nhăng gì thế? Cô là ai?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Ta là vợ Ðoàn lang, mi có buông ngay chàng ra không?

Ðạo cô đứng ngẩn người ra một lát, rồi béo tai Ðoàn Dự, vừa cười vừa hỏi :

- Cô ta nói có đúng không?

Ðoàn Dự cười nói nước đôi :

- Không đúng mà cũng không sai.

Ðạo cô bẹo má chàng một cái thật mạnh, cười mà mắng rằng :

- Con nhà chẳng học được chút võ công nào của cha mà tính trăng hoa thì chẳng kém gì cha. Ta phải đánh què mới xong.

Bà nói rồi đưa mắt ngắm nghía Mộc Uyển Thanh từ đầu xuống đến gót chân, nói :

- À đẹp thì đẹp lắm rồi nhưng có vẻ quê mùa, phải giáo hóa mới nên người được.

Mộc Uyển Thanh cả giận nói :

- Ta quê mùa hay không quê mùa thì việc gì đến mi? Mi không buông chàng ra thì ta bắn cho bây giờ.

Ðạo cô cười nói :

- Ngươi thử bắn ta coi!

Ðoàn Dự vội la lên :

- Uyển Thanh! Không được hỗn láo! Mình không biết ai đó ư?

Chàng nói rồi đưa tay lên ôm lấy đầu đạo cô.

Mộc Uyển Thanh trông thấy uất lên không nhịn được nữa, phất tay áo một cái, hai mũi tên vun vút bay ra.

Ðạo cô đang tươi cười trông thấy hai mũi tên độc bắn tới, bỗng nhiên biến sắc, vung cây phất trần, những sợi tơ dường như có sức hút quấn cả lấy hai mũi tên.

Ðạo cô quát hỏi :

- Tu La đao Tần Hồng Miên với mi là người thế nào?

Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp :

- Ta chẳng biết Tu La đao Tần Hồng Miên là cái cóc gì.

Ðoàn Dự thấy đạo cô nét mặt sa sầm vội khuyên can :

- Má ơi! Xin má đừng giận mà!

Mộc Uyển Thanh thoáng nghe lời chàng giật mình, tưởng mình nhãng tai hỏi lại :

- Ðạo... đạo cô là... má má chàng đó ư?

Ðoàn Dự cười đáp :

- Từ lúc mới đến đây tôi đã gọi má má ầm lên mình không nghe thấy ư?

Ðoạn chàng quay sang giới thiệu với đạo cô :

- Thưa má! Ðây là Mộc Uyển Thanh cô nương. Mấy bữa nay con trải qua lắm phen nguy hiểm bị bao kẻ hung tàn áp bức, may đều nhờ được Mộc cô nương cứu cho thoát chết.

Bất thình lình bên ngoài có tiếng gọi to :

- Dao Ðoan tiên tử! Xin tiên tử đề phòng cẩn thận, một tên trong bọn Tứ ác đã đến đó!

Một người từ ngoài cửa bước vào chính là Chu Ðan Thần. Nhìn thấy sắc mặt đạo cô có vẻ khác thường, tưởng đạo cô đã bị bại với Vân Trung Hạc gã run run hỏi :

- Tiên Tử... đã cùng y động thủ chưa?

Vân Trung Hạc cười nói xen vào :

- Chưa động thủ thì bây giờ động thủ cũng vừa chứ sao?

Người y đã cao, đứng trên lưng ngựa lại càng cao thêm, đầu y tựa như treo lơ lửng trên không. Ðột nhiên y nhoài người ra phía trước, chân phải vẫn bám chặt vào yên ngựa, y cầm cương trảo chụp xuống đạo cô.

Ðạo cô khẽ nghiêng mình để tránh, tung phất trần ra đánh vào chân trái Vân Trung Hạc.

Vân Trung Hạc không tránh, tay trái chụp xuống giữa lưng đạo cô.

Ðạo cô lún người xuống thấp, luồn vào gầm bụng ngựa, văng cây phất trần lên, có đến muôn ngàn sợi tơ phóng ra, luồng gió cực mạnh đánh vào chân phải Vân Trung Hạc.

Vân Trung Hạc chân trái bước ra đầu ngựa, tay phải cầm cương trảo quét ngang một cái.

Chu Ðan Thần quát to :

- Xuống ngay!

Gã nhảy lên mông ngựa, vung tay trái đánh vào sườn bên tả Vân Trung Hạc một quyền, tay phải giơ lên đâm vào đùi y. Khí giới của Chu Ðan Thần ngắn lại đứng sát ngay bên địch nên dễ bề sử dụng.

Vân Trung Hạc hất cương trảo lại đỡ, khí giới của y dài nên đánh khó trúng. Phất trần của Dao Ðoan tiên tử lại nhằm hạ bàn y đánh tới. Cuộc tranh phong đã đến giai đoạn kịch liệt. Một mình Vân Trung Hạc phải đánh với hai người, hai tay múa tít cương trảo vung lên, chụp xuống kể ra cũng chưa có gì kém thế.

Mộc Uyển Thanh thấy Vân Trung Hạc đứng trên lưng ngựa có chỗ sơ hở liền bắn ra một mũi tên trúng mắt bên trái con ngựa. Mũi tên này độc vô cùng. Ngựa trúng tên run lên, ngã khụyu ngay xuống.

Dao Ðoan tiên tử đã quấn được năm ngón tay cương trảo, hai tay bỗng rung lên một cái, phất trần cùng cương trảo đều rời khỏi tay, vọt lên không.

Dao Ðoan tiên tử đưa tay trái rút ở sau lưng một dải lụa toan chụp lấy Vân Trung Hạc.

Y cất tiếng mắng :

- Bọn Ðại Lý các ngươi chỉ ỷ thế nhiều người uy hiếp chứ bản lãnh các ngươi ta có coi vào đâu.

Y liệu chừng không thể thắng nổi liền bước xuống chạy ra chân tường, tay trái móc cây cương trảo vào mặt tường rồi nhảy vèo ra ngoài.

Mộc Uyển Thanh phóng tên theo nhưng không kịp, mũi tên cắm phập vào tường.

Vân Trung Hạc đã xa chạy cao bay, không thấy tông tích đâu nữa, trước khi cây cương trảo và cái phất trần rơi xuống đất.

Bốn người trong sân ngơ ngác nhìn nhau, kinh hãi cho tài phi hành của Vân Trung Hạc trên đời có một.

Chu Ðan Thần nói :

- Hôm nay Chu Ðan Thần này nếu không nhờ được Dao Ðoan tiên tử ra tay thì tất bị chết về tay địch.

Dao Ðoan tiên tử mỉm cười hỏi Chu Ðan Thần :

- Ðã hơn mười năm nay ta không mò đến binh khí, võ công kém cỏi lắm rồi còn gì nữa đâu? Ngươi có biết lai lịch y không?

Chu Ðan Thần đáp :

- Có tin rằng cả tứ ác vào nước Ðại Lý ta. Y là em út trong bọn mà đã ghê gớm thế thì đủ biết ba tên kia còn đến mực nào. Xin Tiên Tử hãy về Vương phủ tạm lánh ít lâu, chờ thanh toán xong bọn tứ ác hãy hay.

Dao Ðoan tiên tử biến sắc, có vẻ bực mình nói :

- Ta còn về Vương phủ làm chi? Không địch lại bọn chúng thì đành chịu chết chứ sao?

Chu Ðan Thần sợ hãi không dám nói nữa, đưa mắt ra hiệu cho Ðoàn Dự năn nỉ. Ðoàn Dự nói :

- Bốn tên này hung ác ghê gớm lắm, má không chịu về nhà thì để con đưa má về bên bá phụ.

Dao Ðoan tiên tử lắc đầu nói :

- Ta không về đâu hết.

Mắt tiên tử đỏ lên, dường như sắp trào lệ ra.

Ðoàn Dự nói :

- Nếu má không về con cũng ở luôn đây với má.

Ðoạn quay sang bảo Chu Ðan Thần :

- Chu tứ ca! Phiền tứ ca về bẩm với với bá phụ cùng gia gia ta rằng : ta phải ở đây hợp lực với mẫu thân ta để chống lại bọn tứ ác.

Nghe con pha trò, tiên tử phì cười mắng :

- Mi nói mà không biết nhục, có bản lãnh gì mà dám bảo ở đây hiệp lực cùng ta để chống nhau với bốn tên đại ác?

Tuy Ðoàn Dự làm cho Tiên Tử phải bật cười nhưng rồi những giọt nước mắt vẫn tuôn xuống má, bà quay đi giơ tay áo lên lau.

Mộc Uyển Thanh thấy vậy rất lấy làm lạ tự hỏi : Mẫu thân Ðoàn lang vì lẽ gì mà xuất gia đầu Phật? Mắt nàng trông thấy Vân Trung Hạc chạy về, thế nào y chẳng gọi ba đồng đảng đến, nàng lẩm bẩm một mình : Nếu bốn gã đại ác đến nơi, một mình bà ta chống thế nào nổi? Vậy mà bà cố chấp không chịu về là nghĩa làm sao? À phải rồi! Khắp thiên hạ, phái nam nhi đều là phường bạc hãnh. Phụ thân Ðoàn lang tất sủng ái kẻ khác nên mẫu thân chàng bực chí đi tu. Nghĩ đến đây nàng cảm thấy đồng tình với tiên tử, nàng nói :

- Dao Ðoan tiên tử! Tôi xin trợ lực tiên tử để chống tứ ác.

Dao Ðoan tiên tử nhìn kỹ lại tướng mạo nàng, đột nhiên hỏi lại :

- Cô nói thật cho ta hay : cô cùng Tu La đao Tần Hồng Miên thân thích thế nào?

Mộc Uyển Thanh tức mình nói :

- Tôi đã bảo tiên tử rồi mà! Tôi chưa từng thấy ai nói đến cái tên đó bao giờ, cũng chẳng hiểu Tần Hồng Miên là người hay là giống vật nữa. Thực tình tôi không biết gì hết.

Dao Ðoan tiên tử nghe nàng nói đến câu : "Không biết là người hay là giống vật" thì nghĩ ngay : nếu nàng quả là con cháu Tu La đao tất không khi nào lại bảo là súc vật nên tuy nghe lời nàng nói có vẻ bướng bỉnh, tiên tử vẻ mặt vẫn ôn hòa, tươi cười nói lảng :

- Cô nương đừng trách ta! Ta coi lối phóng ám tiến của cô giống hệt một người quen với ta, vả nét mặt cô cũng hao hao như người đó nên ta tưởng lầm đó thôi. Vậy chớ lệnh đường tên họ là chi? Cứ xem võ công cũng đủ biết cô phải là con nhà có danh tiếng.

Mộc Uyển Thanh lắc đầu đáp :

- Từ thuở nhỏ tôi không cha không mẹ, chỉ có sư phụ nuôi nấng cho đến ngày khôn lớn nên tôi không biết tên họ gia gia cùng má má tôi.

Dao Ðoan tiên tử lại hỏi :

- Vậy lệnh tôn sư là ai?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Sư phụ tôi là "Vô Danh khách".

Dao Ðoan tiên tử lẩm bẩm : "Vô Danh khách! Vô Danh khách là ai?", rồi như không nghĩ ra được đưa mắt ra hiệu hỏi Chu Ðan Thần.

Xem tiếp hồi mười bốn

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 14 Đang đêm đột nhập phủ Trấn Nam Vương

Chu Đan Thần lắc đầu thưa :

- Chu Đan Thần vốn ở miền biên cương hẻo lánh cõi Nam, kiến văn hẹp hòi nên ít biết đến các bậc tiền bối anh hùng nghĩa hiệp tại Trung Nguyên. Tiểu sinh chắc "Vô Danh khách" là một bậc cao sĩ, ẩn dật chốn sơn lâm. Chẳng những tiểu sinh không quen biết, cả cái tên Vô Danh khách cũng chưa từng nghe thấy ai nói đến.

Trong khi đang trò chuyện chợt nghe bên ngoài có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người còn ở đằng xa đã lên tiếng gọi to :

- Tứ đệ ơi! Công tử bình yên đấy chứ?

Chu Đan Thần lớn tiếng đáp :

- Thưa đại ca! Công tử hiện ở đây, vẫn mạnh giỏi như thường.

Chớp mắt ba người đã vào đến cửa chùa Thanh Hoa, xuống ngựa. Phủ Tiêu Điếu, Thái Tân Khách, Điểm Thương Nông lạy phục xuống đất, làm lễ bái kiến Dao Đoan tiên tử.

Mộc Uyển Thanh ở chốn sơn lâm từ thuở nhỏ cho đến khi khôn lớn, thấy mấy người này thi lễ một cách quá ư thành kính, nàng không hiểu nếp tẻ gì, lấy làm bực mình, nghĩ thầm : bọn này võ công đều vào hạng giỏi, làm sao lại cứ thấy người là lạy lục?

Dao Đoan tiên tử thấy ba người có dáng thất thểu, xem ra thì gã nông phu ở núi Điểm Thương bị thương ở má, nửa mặt phải buộc bằng miếng vải trắng. Thái Tân Khách thì mình mẩy có nhiều vết máu. Phủ Tiêu Điếu tay không lúc nào rời cây cần câu nhưng bị gãy mất một nửa.

Tiên tử vội hỏi :

- Sao vậy? Bên địch mạnh lắm à? Tư Quy bị thương có nặng lắm không?

Đổng Tư Quy nghe tiên tử hỏi tới, mắt giận muốn nảy lửa, kêu to lên rằng :

- Tư Quy này kém cỏi, được Vương phi có lòng thương xót hỏi đến rất lấy làm xấu hổ.

Dao Đoan tiên tử, vẻ mặt buồn thiu hỏi :

- Ngươi còn gọi ta bằng Vương phi nữa sao? Ngươi quên hết rồi ư?

Đổng Tư Quy cúi đầu xuống bẩm :

- Vâng! Xin Vương phi tha tội cho!

Thì ra y gọi Vương phi đã quen miệng không tài nào đổi được nữa. Chu Đan Thần hỏi :

- Còn Cao hầu lão gia sao không thấy về?

Phủ Tiêu Điếu Lăng Thiên Lý đáp :

- Hầu gia còn ở ngoài cổng, người cũng bị thương không tiện xuống ngựa.

Dao Đoan tiên tử khẽ thở dài một tiếng, nét mặt có vẻ sửng sốt hỏi :

- Cao hầu cũng bị thương à? Có... có nặng không?

Lăng Thiên Lý đáp :

- Cao hầu đang đánh nhau dữ dội với Nam Hải Ngạc Thần thì Diệp Nhị Nương ập đến sau lưng. Cao hầu bị giáp công, không thể chống chọi được cả hai mặt, bị Diệp Nhị Nương đánh một chưởng vào sau lưng.

Dao Đoan tiên tử ngần ngừ một chút rồi kéo tay Đoàn Dự bảo :

- Đoàn Dự con! Mẹ con ta ra xem thúc thúc thế nào?

Rồi hai mẹ con chạy ra cửa chùa, bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Độc theo sau. Mộc Uyển Thanh cũng theo ra. Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái đang nằm phục trên lưng ngựa, áo rách toạc đằng sau, trên lưng còn rành rành in vết bàn tay. Đoàn Dự rảo bước lại gần hỏi :

- Cao thúc thúc! Thúc thúc làm sao thế?

Cao Thăng Thái ngửng đầu lên nhìn thấy Dao Đoan tiên tử đứng trước cửa chùa, hấp tấp xuống ngựa thi lễ. Dao Đoan tiên tử vội bảo :

- Cao hầu đã bị thương, bất tất phải thủ lễ.

Nhưng Cao Thăng Thái đã xuống ngựa rồi, loạng choạng té phục xuống đất nói :

- Cao Thăng Thái này kính cẩn vấn an Vương phi, bái chúc Vương phi vạn phước.

Dao Đoan tiên tử giục Đoàn Dự :

- Con đỡ thúc thúc dậy đi!

Mộc Uyển Thanh trong lòng nghi hoặc nghĩ thầm : ông họ Cao kia võ công ghê gớm là thế, cầm ngọc địch đánh mấy đòn làm cho Diệp Nhị Nương phải hoảng sợ chạy trốn. Chắc ông ta là tay lừng danh trong phái võ lâm, vậy mà làm sao cũng phải kính cẩn mẫu thân Đoàn lang đến thế được? Còn gọi bà một điều Vương phi, hai điều Vương phi. Hay chàng là con ông vua nào chăng? Anh đồ gàn này đáo để thật! Chả thấy chút gì tỏ ra là Vương tôn công tử cả. Bỗng lại thấy tiên tử bảo Cao Thăng Thái :

- Cao hầu thế là tận tụy quá rồi, mời về thành tĩnh dưỡng!

Cao Thăng Thái nói :

- Xin vâng mệnh!

Đoạn đứng dậy. Mộc Uyển Thanh thấy Cao hầu sắc mặt nhợt nhạt mà đứng vẫn ra vẻ con người phong lưu, bình tĩnh thì trong lòng kính phục vô cùng. Lại thấy Cao Thăng Thái nói :

- Tứ ác cùng vào nước Đại Lý ta, tình thế rất là nguy hiểm. Xin Vương phi hãy tạm trở về Vương phủ ít bữa.

Dao Đoan tiên tử thở dài nói :

- Ta đã có ý định suốt đời không trở về Vương phủ nữa.

Cao Thăng Thái nói :

- Nếu Vương phi không về thì chúng tôi có bổn phận phải ở lại bên ngoài chùa này để phòng vệ cho Vương phi được an toàn.

Rồi quay lại bảo gã Nông núi Điểm Thương :

- Đổng Tư Quy ngươi kíp về thành trình Hoàng Thượng cùng Vương gia biết.

Đổng Tư Quy dạ một tiếng rồi nhảy tót lên lưng ngựa, toan đi. Tuy gã bị thương khá nặng nhưng chân tay còn mau lẹ dị thường. Dao Đoan tiên tử nói :

- Hãy khoan!

Bà cúi đầu ngẫm nghĩ. Mọi người đều chăm chú nhìn thấy nét mặt tiên tử lộ vẻ băn khoăn, tựa hồ có điều gì khó giải quyết. Ánh nắng đã xế chiều chiếu vào mặt bà trong sáng như châu ngọc, lộng lẫy như đóa hoa tươi. Tuy bà đã đứng tuổi mà tư dung chẳng khác chi cô gái đương xuân. Hồi lâu bà mới ngửng đầu lên uể oải nói :

- Thôi ta cũng đành trở về thành vậy, không lẽ để các ngươi vì một mình ta mà phải ở lại đây chịu đựng sự nguy hiểm ghê gớm.

Đoàn Dự mừng quá nhảy lại ôm lấy đầu mẹ reo lên :

- Má tốt quá, có thế mới phải là má con chứ!

Đổng Tư Quy nói :

- Tiểu nhân xin về thành báo tin trước.

Dứt lời gã gia roi cho ngựa bon bon chạy về phía Bắc. Lăng Thiên Lý dắt ba con ngựa lại cho Dao Đoan tiên tử, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh cưỡi. Cả đoàn người nhắm phía thành Đại Lý thẳng tiến. Dao Đoan tiên tử, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh và Cao Thăng Thái bốn người cưỡi ngựa còn ba gã Lăng Thiên Lý, Tiêu Đốc Thành (tức Thái Tân Khách) và Chu Đan Thần ba người đi bộ theo sau.

Đoàn người mới đi được chừng vài dặm, phía trước đã thấy một tiểu đội quân khinh kỵ chạy đến như bay. Lăng Thiên Lý vẫy tay, nói với người đội trưởng mấy câu. Đội trưởng ra lệnh cho quân kỵ lập tức xuống ngựa, lạy phục xuống đất.

Đoàn Dự vẫy tay cười bảo chúng :

- Các ngươi bất tất phải thủ lễ thái quá.

Nguyên đội khinh kỵ này ở trong thành cho ra trước đón Vương phi. Thi lế xong bọn họ lại lên ngựa đi trước mở đường. Vó ngựa rầm rộ bon bon trên đường lớn.

Mộc Uyển Thanh trông thấy thanh thế uy nghi đến mức độ này biết ngay Đoàn Dự tất không phải hạng tầm thường. Nàng đâm ra lo lắng nghĩ thầm : trước ta tưởng chàng là một gã thư sinh phiêu bạt giang hồ, nay xem ra chàng không phải con nhà bình dân. Nếu chàng là giòng họ hoàng thân quốc thích, hoặc con một vị con lớn trong chiều, biết đâu chàng chẳng nhìn mình, một cô gái quê mùa bằng con mắt khinh bạc? Sư phụ ta thường nói rằng : phái nam địa vị càng cao bao nhiêu tâm địa càng đơn bạc bấy nhiêu. Bọn họ lấy vợ thường kén chỗ môn đăng hộ đối. Chà chà! Đời sao mà lắm chuyện rắc rối quá! Chàng thủy chung với ta chẳng nói làm chi, bằng chàng thay lòng đổi dạ, chê ỏng chê eo, ta cứ chém cho mấy nhát, dù chàng ở địa vị nào ta cũng bất chấp. Nghĩ đến đây nàng không thể nhịn được nữa, bắt ngựa chạy sát bên cạnh Đoàn Dự, hỏi giật giọng :

- Lang quân! Chàng là hạng người nào? Phải nói cho thiếp biết ngay! Những lời đôi ta gắn bó trên núi, chàng còn nhớ không?

Đoàn Dự thấy phía trước phía sau đầy cả người ngựa mà nàng đột nhiên nhắc tới việc hôn nhân, làm chàng bẽn lẽn quá phải gượng cười bảo nàng :

- Hãy chờ về đến thành Đại Lý thong thả tôi sẽ bàn với mình.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Nếu chàng phụ thiếp thì... thiếp... thiếp...

Rồi dường như nghẹo ngào, nàng không thốt ra được hết lời. Đoàn Dự thấy mặt nàng trắng ửng hồng, nước mắt chảy quanh càng thêm vẻ mỹ miều, lòng chàng càng thêm mê mẩn, nói khẽ bảo nàng :

- Uyển Thanh mình ơi! Tôi cầu khẩn mình còn chưa được có lý đâu lại phụ mình. Mình cứ bình tĩnh, má má cũng thương mình lắm đó.

Mộc Uyển Thanh nghe chàng nói vậy mắt lại ráo hoảnh, tươi cười khẽ hỏi chàng :

- Má chàng có thương tôi hay không phỏng được ích gì?

Ý nàng muốn nói : tôi chỉ cần chàng thương yêu tôi là đủ. Đoàn Dự lơ đãng chợt ngó đến mẫu thân chàng. Bà cũng đang chăm chú nhìn chàng và Mộc Uyển Thanh, vẻ mặt dường như mỉm cười mà không phải là cười. Bất giác chàng thẹn, tai đỏ bừng lên.

Trời đã xế chiều, đoàn người đang đi còn cách thành Đại Lý chừng hai, ba chục dặm, bỗng phía trước mặt cát bụi tung trời, một đội khinh kỵ đến mấy trăm người rầm rầm đi tới. Hai bên đường hai lá cờ bay phất phới, một lá thêu hai chữ "Trấn Nam" còn một lá thêu hai chữ "Bảo Quốc" đen. Đoàn Dự reo lên :

- Má ơi! Gia gia thân hành đến đón má kia rồi!

Dao Đoan tiên tử "hứ" một tiếng rồi dừng ngựa lại. Cao Thăng Thái xuống ngựa rồi cùng bọn Chu Đan Thần đứng ra mé đường. Đoàn Dự phóng ngựa lên trước. Mộc Uyển Thanh do dự một chút rồi cũng phóng ngựa theo chàng. Giây lát hai đoàn người đến gần nhau, Đoàn Dự gọi to lên rằng :

- Bẩm gia gia! Má đã về đến đây rồi!

Hai tên lính cầm cờ đầu tránh ra hai bên đường, một người mặc hoàng bào cưỡi con bạch mã cao lớn đi đến quát :

- Bớ Đoàn Dự con! Vì mày gây chuyện rắc rối để lụy đến Cao thúc thúc bị trọng thương. Phen này ta sẽ đánh què.

Mộc Uyển Thanh giật mình lẩm bẩm : không xong rồi! ông này bảo đánh Đoàn lang, tất là phụ thân chàng rồi! Nàng nhìn kỹ lại thì ông mặt vuông chữ "Quốc", tướng mạo oai nghiêm, mày thô mắt lớn, cử chỉ đường bệ ra dáng một bậc vương giả. Ông thấy con được vô sự trở về, nét mặt chỉ ba phần giận dữ còn đến bảy phần mừng vui.

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm : cũng may mà Đoàn lang giống mẹ nhiều hơn giống cha, nhìn bộ mặt khoằm khoặm của ông mà mình phát ngán. Đang nghĩ chợt thấy Đoàn Dự phóng ngựa đến trước mặt cha tươi cười hỏi :

- Bẩm gia gia! Gia gia mạnh giỏi đấy a?

Người mặc áo hoàng bào làm mặt giận đáp :

- Mạnh giỏi cái gì? Vì mi mà ta tức chết đi được.

Đoàn Dự cười nói :

- Nếu con không ra đi đâu có mời được má về? Gia gia ơi con lấy công chuộc tội rồi. Gia gia đừng giận con nữa.

Người mặc áo hoàng bào hừ một tiếng rồi bảo :

- Dù ta có không đập vào xác mi thì bá phụ cũng không tha mi đâu.

Dứt lời hai về đùi ông thúc vào sườn ngựa, con bạch mã chạy như bay đến trước mặt Dao Đoan tiên tử. Mộc Uyển Thanh thấy đội kỵ binh đều mặc áo gấm, giáp trụ lộng lẫy, gươm đao sáng quắc. Phía trước hai mươi người đi đầu tay cầm nghi trượng, một tấm biển son đề bảy chữ : "Đại Lý Quốc, Trấn Nam Vương Đoàn" và một tấm biển thứ hai đề sáu chữ : "Bảo quốc Đại tướng quân Đoàn". Mộc Uyển Thanh bổn tính không biết sợ ai nhưng khi nàng trông thấy uy thế nghiêm chỉnh này không khỏi nao nao trong dạ. Nàng khẽ hỏi Đoàn Dự :

- Phải chăng quan Bảo Quốc Đại tướng quân tước Trấn Nam Vương đây là gia gia chàng?

Đoàn Dự tươi cười vừa gật đầu vừa rỉ tai bảo nàng :

- Chính là bố chồng mình đó.

Nàng đứng ngây người ra một lúc, cõi lòng cảm thấy hoang mang. Nàng phóng ngựa đi ngang Đoàn Dự, bốn bề người ngựa nhộn nhịp là thế mà nàng phải dựa vào Đoàn Dự cho cõi lòng khỏi trống rỗng và được vững dạ. Trấn Nam Vương lại đến trước Dao Đoan tiên tử còn cách chừng một trượng thì dừng ngựa lại. Hai bên chỉ thoáng nhìn nhau một lần mà chẳng ai nói câu nào. Đoàn Dự liền bày trò nói với mẹ :

- Má ơi! Gia gia thân đến đón má đó.

Dao Đoan tiên tử nói :

- Con đến thưa với bá mẫu rằng : má về bên bá mẫu tạm trú mấy bữa. Khi đuổi được quân địch ra khỏi bờ cõi má lại trở về chùa Thanh Hoa.

Bấy giờ Trấn Nam Vương mới mỉm cười nói :

- Phu nhân! Phu nhân chưa hết giận kia ư? Phu nhân hãy về nhà, thong thả tôi sẽ có lời nói lại.

Dao Đoan tiên tử vẫn dấm dẳng :

- Tôi không về nhà, tôi cứ sang bên Hoàng cung.

Đoàn Dự nói xen vào :

- Tốt lắm! Con cũng theo má vào Hoàng cung để bái kiến bá phụ, bá mẫu đã rồi sau sẽ tính. Chuyến này con bỏ nhà đi ít bữa chắc là bá phụ giận con lắm. Gia gia không chịu xin cho con rồi có má đỡ đòn cho con mấy câu.

Dao Đoan tiên tử nói :

- Con nhà càng lớn càng hư. Để bá phụ đánh cho một chập mới mở mắt ra.

Đoàn Dự nói :

- Con mà phải đòn đau mẹ cũng phải đứt từng khúc ruột. Thà đừng để con bị đánh nữa là hay hơn cả.

Dao Đoan tiên tử không thể nín cười được nói :

- Con càng phải đòn đau má càng thấy mát ruột.

Trấn Nam Vương cùng Dao Đoan tiên tử đang ở vào tình thế ngột ngạt, lặng lẽ chẳng ai muốn nói với ai, may có Đoàn Dự bẻo lẻo mồm miệng nói cười dí dỏm thành ra bầu không khí giữa cha con vợ chồng trở nên đầm ấm. Đoàn Dự lại tiếp :

- Gia gia ơi! Con ngựa của gia gia đẹp quá mà. Sao gia gia không nhường cho má má cưỡi?

Dao Đoan tiên tử vừa giật cương cho ngựa phóng vừa nói :

- Ta không cưỡi đâu.

Ngựa tiên tử vừa chồm vô chạy, Đoàn Dự đuổi theo nắm lấy dây cương. Trấn Nam Vương xuống ngựa rồi tự mình giắt con bạch mã lại bên. Đoàn Dự, cười hì hì ôm mẹ để lên yên con bạch mã, vừa cười toe toét vừa pha trò :

- Má ơi! Người đẹp nhất trần đòi có một phải cưỡi con bạch mã này mới xứng.

Dao Đoan tiên tử cười nói :

- Mộc cô nương của mi mới đúng là người đẹp trần đời có một. Mi muốn đem mụ già này ra làm trò cười đó sao?

Bấy giờ Nam Trấn Vương mới quay sang nhìn Mộc Uyển Thanh rồi hỏi :

- Dự con! Cô nương đó là ai?

Đoàn Dự ấp úng đáp :

- Dạ nàng... nàng là Mộc cô nương. Con cùng nàng giao kết... nên... đôi bạn hợp ý tâm đầu.

Trấn Nam Vương coi vẻ mặt chàng đã biết rõ tình hình. Vương thấy Mộc Uyển Thanh mắt trong, răng trắng, xinh đẹp đoan trang cũng khen thầm : con ta xem người quả đã không lầm. Nhưng Vương nhìn kỹ lại thấy nàng đầy vẻ quê kệch, lại không biết đến bái kiến mình thì lẩm bẩm : Cô này là con nhà dân dã chẳng biết lễ giáo chi hết. Vương chợt nhớ tới Cao Thăng Thái bị thương, vội tới gần hỏi :

- Cao đệ! Cao đệ bị nội thương có nặng lắm không?

Cao Thăng Thái đáp :

- Tiểu đệ bị thương xoàng thôi, không có gì đáng ngại. Ca ca bất tất phải quan tâm.

Trấn Nam Vương đưa ngón tay trỏ bên phải ra điểm vào hậu tâm và vào cổ, tay trái nắm chặt sau lưng Cao Thăng Thái. Bỗng trên đỉnh đầu Trấn Nam Vương bốc lên mấy tia bạch khí. Trong khoảnh khắc Vương bỏ tay trái ra.

Cao Thăng Thái nói :

- Ca ca ơi! Kẻ địch ghê gớm sắp đến nơi, ca ca hãy còn vì tiểu đệ mà hao tổn nguyên khí ư?

Trấn Nam Vương cười nói :

- Cao đệ bị nội thương khá nặng, trị sớm được lúc nào hay lúc đấy. Nếu về ra mắt đại ca, tất người không chịu cho ta trị đâu, mà chính người ra tay trị lấy thì sao cho tiện?

Mộc Uyển Thanh lúc nãy thấy Cao Thăng Thái sắc mặt nhợt nhạt trông rất đáng sợ thế mà mới trong giây lát Trấn Nam Vương đã làm cho sắc mặt Cao hầu trở nên hồng hào thì nghĩ thầm : Phụ thân Đoàn lang nội công hùng hậu như vậy mà sao chàng lại không biết chút võ công nào mới lạ chứ?

Phủ Tiêu Điếu, Lăng Thiên Lý giắt ngựa lại và phục thị Trấn Nam Vương lên yên. Trấn Nam Vương cùng Cao Thăng Thái thả ngựa bước một đi song song. Hai người nói chuyện nhỏ với nhau về tình hình bên địch. Đoàn Dự thì đi kề bên Dao Đoan tiên tử, hai mẹ con cười cười nói nói rất là vui vẻ. Đội vệ sĩ thiết giáp đi xung quanh hộ vệ. Đoàn người ngựa nhằm phía thành Đại Lý rong ruổi. Mộc Uyển Thanh lúc này lại cảm thấy mình lẻ loi hiu quạnh.

Đoàn người về đến cửa thành thì trời đã hoàng hôn. Hai lá cờ hiệu Trấn Nam và Bảo Quốc đi đến đâu bách tính lại hoan hô rầm rộ : "Trấn Nam Vương muôn năm", "Đại Tướng Quân thiên tuế". Trấn Nam Vương đáp lại tấm lòng yên kính nồng nhiệt của muôn dân.

Mộc Uyển Thanh thấy kinh thành Đại Lý chỗ nào cũng đèn lửa sáng trưng, chợ búa nhộn nhịp. Từ nhỏ đến lớn nàng chỉ ở chốn sơn lâm, mới hai năm nay nàng xuống núi, đã đi qua khá nhiều thị trấn nhưng chưa thấy nơi nào tấp nập như ở đây. Đi qua mấy đường phố thì đến một con đường đá lớn thẳng tắp. Cùng đường hiện ra vô số cung điện. Ánh hoàng hôn chiếu lên những phiến ngói thủy tinh rực rỡ trông hoa cả mắt. Đoàn người đi đến trước cổng thành đều xuống ngựa. Mộc Uyển Thanh ngẩng đầu nhìn lên trên có tấm biển đề bốn chữ : Tụ Đạo Quảng Từ. Nàng nghĩ thầm : đây là Hoàng cung vua nước Đại Lý, bá phụ Đoàn lang đã ở trong này tất là một bậc quan cực lớn tại Triều, đại khái người ta thường gọi bằng Vương gia hay Đại Tướng quân chi đó.

Qua cổng thành vào đến cửa cung trên có biển đề ba chữ vàng : "Thánh Từ cung", một vị thái giám bước ra nói :

- Bẩm Vương gia! Hoàng thượng cùng Hoàng hậu nương nương hiện đang chờ Vương gia ở bên phủ, xin Vương gia cùng Vương phi kíp về Trấn Nam Vương phủ tiếp giá.

Trấn Nam Vương nói :

- Được rồi!

Đoàn Dự nói :

- Hay lắm! Thế thì hay lắm!

Dao Đoan tiên tử tức mình, đưa mắt nguýt con rồi hỏi :

- Hay cái gì? Ta ở lại Hoàng cung chờ nương nương về chứ sao?

Quan thái giám thưa :

- Nương nương dặn tôi phải mời Vương phi lập tức về Vương phủ triều kiến vì lệnh bà có việc gấp cần gặp Vương phi để bàn định.

Dao Đoan tiên tử lẩm bẩm một mình :

- Việc chi mà khẩn cấp thế? Chắc nương nương bày ra chuyện này đây.

Đoàn Dự biết rõ mẫu thân chàng không muốn về Vương phủ mà Hoàng hậu an bài như vậy là có mỹ ý muốn cho cha mẹ chàng đoàn tụ nên đến Vương phủ ngồi chờ. Chàng liền dắt ngựa lại và dìu mẫu thân lên yên.

Đoàn người lại trở ra theo hướng Đông mà đi chừng hai dặm thì đến một tòa phủ đệ lớn. Trước cổng phủ có treo hai lá cờ lớn : một đề hai chữ "Trấn Nam", một đề hai chữ "Bảo Quốc". Trên cổng có biển đề bốn chữ : "Trấn Nam Vương phủ". Ngoài cổng đầy những thân binh, vệ sĩ đứng nghiêm chỉnh và im phăng phắc, cúi đầu chào Vương gia và Vương phi về phủ.

Dao Đoan tiên tử vừa đặt chân lên bậc thềm đá, hai mắt bỗng đỏ hoe, rưng rưng đôi dòng lụy như muốn trào ra. Đoàn Dự vừa dắt vừa đẩy mẹ đến cửa lớn nói :

- Gia gia ơi! Con mời được mẫu thân con về đó. Lập nên công lớn, gia gia thưởng gì cho con đây?

Trấn Nam Vương hớn hở vui mừng đáp :

- Con hỏi má xem. Má bảo thưởng gì gia gia sẽ thưởng cho con đó.

Dao Đoan tiên tử đổi sầu làm tươi nói :

- Mi muốn thưởng ư? Ta thưởng cho mấy roi nhé!

Đoàn Dự lắc đầu lè lưỡi. Bọn Cao Thăng Thái đứng chờ bên ngoài sảnh đường, không dám tiến vào. Đoàn Dự bảo Mộc Uyển Thanh :

- Mộc... Mộc cô nương! Mình ngồi chờ ở đây một chút để tôi vào ra mắt Hoàng thượng cùng Hoàng hậu xong sẽ trở ra với mình.

Mộc Uyển Thanh không muốn rời chàng ra, nhưng chẳng có lý nào ngăn trở chàng được đành phải gật đầu. Nàng ngồi phịch ngay xuống cái ghế đầu. Cao Thăng Thái thì đứng chờ cho đến lúc vợ chồng Trấn Nam Vương cùng Đoàn Dự ba người tiến vào hoa sảnh rồi mới ngồi xuống. Còn bọn Lăng Thiên Lý, Tiêu Đốc Thành, Chu Đan Thần thì vẫn đứng thẳng, buông thõng tay. Mộc Uyển Thanh ngơ ngác đưa mắt nhìn khắp trong nhà đại sảnh : chính giữa treo một tấm biển, trên viết bốn chữ : "Bang Quốc Trụ Thạch"; phía dưới tấm biển đề bốn chữ nhỏ : "Tân Dậu Ngự Bút". Ngoài ra còn vô số hành phi câu đối, nàng không xem được hết vì có nhiều chữ nàng không đọc được. Nàng đang xem ngắm bỗng có mấy tên bộc dịch bưng trà lại, quỳ xuống, hai tay nâng khay trà lên ngang đầu cực kỳ cung kính. Mộc Uyển Thanh tự hỏi : "Mấy tên hầu trà sao cũng kỳ cục như vậy? Mà lạ thay chỉ mình và Cao Thăng Thái là có trà uống, còn bọn Chu Đan Thần lúc ở trên đỉnh núi đánh nhau tung hoành là thế mà sao lúc vào Vương phủ thì họ lại cứ đứng một cách nghiêm cẩn một cách quá ư lễ độ, thậm chí không ai dám thở mạnh, coi mất cả oai phong của các bậc anh hùng hảo hán."

Mộc Uyển Thanh chờ Đoàn Dự một lúc lâu không thấy chàng trở ra, nàng nóng ruột quá không nhẫn nại được nữa, lên tiếng hỏi :

- Đoàn lang! Đoàn lang! Chàng làm gì trong ấy mà mãi không ra?

Trong nhà đại sảnh mọi người đứng im lặng, nghiêm trang thủ lễ, không ai dám nói nửa câu, bỗng thấy Mộc Uyển Thanh nói lớn đều giật mình đánh thót một cái. Cao Thăng Thái thấy vậy tươi cười bảo nàng :

- Xin cô nương hãy nán chờ, chớ nên nóng nảy, lát nữa tiểu Vương gia sẽ ra.

Mộc Uyển Thanh càng lấy làm kỳ hỏi :

- Tiểu Vương gia nào?

Cao Thăng Thái chậm rãi đáp :

- Đoàn công tử là thế tử của Trấn Nam Vương. Cô nương bảo tôi không kêu bằng Tiểu Vương gia thì kêu bằng gì?

Mộc Uyển Thanh tự nói một mình : "Trời ơi! Tiểu Vương gia! Tiểu Vương gia! Anh chàng ngốc nghếch mà cũng là tiểu Vương gia kia ư?"

Chợt thấy viên thái giám ở hoa sảnh đi ra nói :

- Hoàng thượng xuống chỉ, truyền cho Thiện Xiển Hầu và Mộc Uyển Thanh vào bái kiến.

Cao Thăng Thái thấy thái giám ra liền đứng lên, còn Mộc Uyển Thanh cứ chễm chệ ngồi yên. Nàng thấy thái giám gọi đích danh mình trong lòng cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm : "Sao y không gọi mình bằng Mộc cô nương mà lại cứ đem tên tuổi người ta ra mà réo?".

Cao Thăng Thái nhắc :

- Mộc cô nương! Chúng ta vào bái kiến Hoàng thượng đi.

Mộc Uyển Thanh trước nay coi trời bằng vung nhưng nghe nói đến vào triều kiến Hoàng Đế thì không khỏi chột dạ, tóc tai dựng đứng cả lên. Nàng theo sau Cao Thăng Thái qua dãy hành lang dài đi vào nội đình, đến trước tòa hoa sảnh. Thái giám cất tiếng vào báo :

- Có Thiện Xiển Hầu cùng Mộc Uyển Thanh triều kiến Hoàng thượng cùng Hoàng hậu nương nương.

Tấm rèm treo cửa mở lên, Cao Thăng Thái không dám lên tiếng, đưa mắt ra hiệu cho Mộc Uyển Thanh rồi tiến vào Hoa sảnh quỳ xuống trước mặt hai người : một ông, một bà ngồi giữa nhà.

Mộc Uyển Thanh không quỳ, ngó thấy ông râu dài, mặc áo hoàng bào, tướng mạo tuấn tú, liền hỏi :

- Ông là Hoàng đế phải không?

Ông ngồi giữa nhà chính là Hoàng đế nước Đại Lý tên gọi Đoàn Chính Minh, lấy hiệu là Bảo Định Đế. Nguyên từ đời Ngũ Đại, năm thứ hai niên hiệu Thiên Phúc triều Hậu Tấn, thủy tổ họ Đoàn, quán ở quận Võ Oai tên là Đoàn Kiến Nguỵ, giúp vua nước Nam Chiếu làm quan đến chức Thanh Bình quan. Truyền được sáu đời đến đời Đoàn Tư Bình làm quan Thông Hải Tiết độ sứ. Đến năm Đinh Dậu mới thành lập nước Đại Lý, tự xưng là Thái Tổ Thần Thánh Văn Võ Đế, tới Đoàn Chính Minh là 14 đời và đã được hơn 150 năm.

Bảo Định Đế thấy Mộc Uyển Thanh không quỳ lạy, lại cất lời hỏi mình có phải Hoàng Đế không, bất giác phải bật cười đáp :

- Ừ ta là Hoàng Đế đây! Ngươi xem thành Đại Lý ta có đẹp không?

Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi vào thành là đến đây ngay, chưa được đi du ngoạn.

Bảo Định Đế mỉm cười nói :

- Sáng mai ta cho thằng Dự dẫn ngươi đi coi khắp mọi nơi để ngươi xem phong cảnh thành Đại Lý ta, ngươi có thích không?

- Thế thì hay lắm, cả ông cũng đi nữa nhé!

Mọi người nghe đến câu này thì không sao nhịn cười được. Bảo Định Đế quay sang nhìn Hoàng hậu, cười hỏi :

- Hậu ơi! Con nhỏ nó bảo chúng ta dẫn nó đi chơi, Hậu tính sao?

Hoàng hậu cười chưa trả lời. Mộc Uyển Thanh lại nhìn Hoàng hậu hỏi :

- Bà là Hoàng hậu nương nương đấy a? Quả nhiên bà đẹp quá!

Bảo Định Đế cười ha hả nói :

- Dự con ơi! Cô nương này trời phú cho tính tình thật thà chất phác, thật là thú quá.

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Sao ông lại kêu chàng bằng con? Chàng vẫn kể với tôi ông là bá phụ chàng kia mà? Chuyến này chàng trốn nhà ra đi, lúc nào chàng cũng sợ ông giận, ông đừng đánh chàng nhé!

Bảo Định Đế mỉm cười nói :

- Ta tính đánh cho nó 50 roi đòn nhưng cô nương đã xin ta thì ta tha cho. Dự con đâu? Sao con không ra tạ ơn cô nương đi?

Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh làm cho nhà vua thích thú, chàng rất mừng lòng biết rằng bá phụ mình có tính khoan hòa liền trông Mộc Uyển Thanh vái dài một cái nói :

- Đa tạ cô nương đã xin bá phụ cho tôi khỏi bị đánh đòn.

Mộc Uyển Thanh cũng vái trả lại nói khẽ :

- Bá phụ chàng đã hứa không đánh chàng, thế là tôi cũng yên lòng, lọ là chàng phải cám ơn?

Đoạn nàng quay lại nói với vua :

- Tôi cứ tưởng Hoàng đế là con người hung ác làm cho ai cũng phải khiếp sợ. Ngờ đâu ông... ông tử tế lắm mà.

Bảo Định Đế nghĩ lại : chỉ khi mình còn nhỏ là được phụ hoàng và mẫu hậu khen mình, hơn mười năm nay lên ngôi vua ai đối với mình cũng tỏ ra cung kính sợ sệt chứ có được nghe tiếng khen "Ông tử tế quá" bao giờ đâu? Nay ngài thấy Mộc Uyển Thanh ngây thơ chất phác, chưa hiểu gì đến nhân tình thế thái khen mình thì lại càng hứng thú, quay sang bảo Hoàng hậu :

- Hậu có gì thưởng cho nàng không?

Hoàng hậu tháo chiếc vòng ngọc ở cổ tay ra đưa cho Mộc Uyển Thanh nói :

- Đây ta thưởng cho nàng!

Mộc Uyển Thanh đón lấy xỏ vào tay mình, mỉm cười nói :

- Cám ơn bà! Rồi đây tôi kiếm được cái gì tốt sẽ đem về cho bà.

Hoàng hậu mỉm cười toan đáp thì bỗng phía sau dãy nhà mé Tây có tiếng vang đưa lại. Hoàng hậu quay lại nhìn Bảo Định Đế cười nói :

- Có người đem lễ vật đến dâng đó.

Vừa dứt lời tiếng vang lại gần hơn. Mộc Uyển Thanh giật mình biết kẻ địch sắp ập đến. Người này rất giỏi khinh công, chân bước trên nóc nhà lẹ làng như lá rụng và đi rất mau. Đoạn nghe tiếng vèo vèo, mấy người nhảy lên nóc nhà, rồi tiếng Phủ Tiêu Điếu Lăng Thiên Lý hỏi :

- Các hạ đêm hôm đột nhiên vào Vương phủ là có ý gì?

Một giọng ồm ồm như lệnh vỡ, vừa cười vừa đáp :

- Ta đến kiếm đồ đệ ta! Ngươi bảo y ra bái kiến ta!

Người đó chính là Nam Hải Ngạc Thần. Mộc Uyển Thanh âm thầm lo sợ. Tuy nàng biết là việc phòng vệ Vương phủ cực kỳ nghiêm mật, đã đông vệ sĩ mà từ Trấn Nam Vương, Dao Đoan tiên tử cho đến bọn Ngư, Tiều, Canh, Độc đều là những bậc cao thủ. Nhưng Nam Hải Ngạc Thần không phải tay vừa, thêm nữa đồng bọn là Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc cũng rất lợi hại. Ấy là không kể đến tên đại ác số một mà nàng chưa biết mặt mũi nữa. Nếu cả bốn người cùng đến hợp lực cướp Đoàn lang thì khó lòng giữ nổi. Nàng đang lo lắng, chợt nghe tiếng Lăng Thiên Lý hỏi lại :

- Cao đồ các hạ là ai? Trong phủ Trấn Nam Vương đây có ai là đồ đệ các hạ đâu?

Bỗng "vù" một tiếng, một bàn tay to lớn từ trên không thò xuống rứt đứt bức rèm che cửa nhà hoa sảnh ra làm đôi. Vừa thấy bóng người thoáng qua, Nam Hải Ngạc Thần đã đứng giữa nhà. Đôi mắt lão ti hí, nhỏ như hạt đậu giương lên, đảo nhìn bốn mặt. Lão vừa trông thấy Đoàn Dự đã cười ha hả nói :

- Lão tứ (Vân Trung Hạc) nói thế mà đúng. Quả nhiên đồ đệ ta ở đây. Đoàn Dự mau lại đây theo ta về luyện võ.

Dứt lời, lão thò bàn tay móng nhọn hoắt như móng chân gà chụp xuống vai Đoàn Dự. Trấn Nam Vương thấy Nam Hải Ngạc Thần đưa bàn tay ra mà văng vẳng có tiếng vù vù như gió thổi sấm rền thì biết ngay là một tay ghê gớm, Vương gia sợ lão làm tổn thương đến đứa con yêu quý của mình vội đánh ra một chưởng để chống đỡ. Điện lực hai bàn tay chạm vào nhau đánh "binh" một tiếng. Cả hai bên cùng cảm thấy nội lực rung chuyển.

Nam Hải Ngạc Thần chột dạ hỏi :

- Ông là ai? Ta đến đón đồ đệ ta, việc gì đến ông?

Trấn Nam Vương mỉm cười đáp :

- Tôi là Đoàn Chính Thuần. Y là con trai tôi, y thờ ông làm thầy từ hồi nào?

Đoàn Dự nói :

- Ông này cứ bức bách con phải làm đồ đệ ông. Con từng biểu ông là đã có sư phụ rồi nhưng ông không tin.

Nam Hải Ngạc Thần nhìn Đoàn Dự rồi lại nhìn Đoàn Chính Thuần nói :

- Võ công ông giỏi quá mà sao thằng nhỏ này chẳng biết tý gì? Tôi không thể tin được ông lại là cha y.

Đoạn lại tiếp :

- Đoàn Chính Thuần! Nếu y quả là con ông, có lẽ phương pháp rèn luyện của ông không hợp với y. Sao con ông vẫn mềm như sứa? Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc!

Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Sao mà đáng tiếc?

Nam Hải Ngạc Thần nói :

- Tướng con trai ông giống tôi quá! Đó là một điều dưới gầm trời này rất khó mà tìm được con người như thế để rèn luyện võ nghệ. Y chỉ theo tôi mười năm nhất định phải trở thành một nhân vật võ nghệ siêu quần.

Đoàn Chính Thuần vừa bực mình vừa tức cười nhưng mới thử nhau một đòn Vương gia đã hiểu lão quá rồi còn đang kiếm câu trả lời thì Đoàn Dự nói :

- Nhạc lão tam! Võ công ông tầm thường lắm, đâu có bằng được sư phụ tôi? Ông hãy trở về đảo Vạn Ngạc luyện thêm hai mươi năm nữa rồi hãy trở lại đây nói chuyện.

Nam Hải Ngạc Thần căm giận quát lên :

- Mi biết gì mà nói quàng?

Đoàn Dự nói :

- Ông bảo tôi không biết gì, vậy tôi hỏi ông : "Quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải" là ý gì?

Nam Hải Ngạc Thần ngây ngô chẳng hiểu gì, tức mình nói :

- Mi nói nhăng nói cuội, chứ câu đó còn có nghĩa lý gì?

Đoàn Dự nói :

- Có mấy câu thiển cận như thế mà ông còn không hiểu thì bàn đến võ nghệ sao được? Tôi hỏi ông câu nữa : "Quyên thượng ích hạ, Dân duyệt vô cương, Tự thượng bá hạ, Kỳ đạo đại quang" là nghĩa làm sao?

Trên từ Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương, dưới đến bọn Chu Đan Thần đang ngồi trên mái nhà nghe Đoàn Dự đem kinh dịch ra trêu trọc Nam Hải Ngạc Thần đều không nhịn được phải phá lên cười.

Mộc Uyển Thanh tuy chẳng hiểu Đoàn Dự nói gì nhưng nàng cũng đoán đó chẳng qua là chữ sách học của mấy anh đồ gàn.

Nam Hải Ngạc Thần còn đang ngơ ngẩn, lại thấy mọi người cười ồ ra vẻ diễu cợt thì cho những câu Đoàn Dự nói có ý xỏ xiên nhiếc móc mình. Lão tức quá, gầm lên một tiếng toan giơ tay đánh. Đoàn Chính Thuần tiến lên nửa bước để ngăn cản. Đoàn Dự lại nói :

- Những câu tôi nói toàn là bí quyết về võ công, ảo diệu vô cùng, chắc là ông không hiểu được. Hỏi có khác gì ếch ngồi đáy giếng mà toan đi làm thầy dậy đời thì ai nghe chẳng phải cười vỡ bụng? Những vị sư phụ tôi nếu không học vấn uyên thâm thì cũng phải là những bậc cao tăng đắc độ. Như ông thì dù có học thêm mười năm nữa chưa chắc đã đáng là đồ đệ tôi.

Nam Hải Ngạc Thần nổi hung gầm lên :

- Thầy mi là ai? Thử gọi ra đây cho ta xem nào!

Tiếng lão gầm như sấm vang. Khắp mấy trăm gian phòng, bất cứ ở bên trong hay bên ngoài, đằng trước hay đằng sau cũng đều nghe rõ. Đàn bà trẻ con nghe thấy phải giật mình kinh sợ, tái mặt.

Đoàn Chính Thuần thấy chỉ có một tên trong tứ ác đến muốn hạ cũng chẳng khó gì. Nhưng gặp buổi vợ chồng tái hội, lại thấy Đoàn Dự bẻo lẻo trêu chọc lão nên cứ mặc kệ để làm trò vui cho phu nhân. Đoàn Dự thấy cha thả xổng, không ngăn cản mình, càng đắc ý nói :

- Được lắm! Nếu ông cả gan dám đứng chờ đây thì tôi đi mời sư phụ tôi đến. Đã là anh hùng hảo hán chớ có trốn chạy đấy nhé.

Nam Hải Ngạc Thần nói to :

- Nhạc lão tam này suốt đời bôn tẩu giang hồ, còn có sợ ai bao giờ? Mi gọi ngay sư phụ mi ra đây! Lẹ lên!

Đoàn Dự ra khỏi phòng, Nam Hải Ngạc Thần ngó theo. Tuy lão ở giữa đám đông những tay cao thủ mà vẫn tự nhiên, tuyệt không có vẻ sợ hãi chút nào. Bỗng có tiếng giày lẹp kẹp : hai người đi gần tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần lắng tai nghe chân bước nặng trịch thì hiểu rõ là hạng người không biết võ. Đoàn Dự còn ở ngoài cửa đã lên tiếng hỏi :

- Ô hay! Nhạc lão tam chạy mất rồi ư? Gia gia đừng để y trốn thoát. Sư phụ con đã đến đó.

Nam Hải Ngạc Thần tức quá hét lên :

- Việc gì ta phải chạy trốn? Mẹ nó thằng nhãi này làm ta bực quá!

Lão vừa dứt lời thì Đoàn Dự đã đưa một người vào. Mọi người trông ra không ai nhịn được, cười ồ cả lên : một người đầu đội mũ vải, mặc áo bào dài lượt thượt, hai chòm râu chuột vàng khè, mắt đỏ ngầu, rụt đầu rụt cổ, tướng mạo nửa người nửa ngợm rất khó coi.

Dao Đoan tiên tử nhận ra là gã chuyên việc buông mùng màn trong Vương phủ. Ai cũng gọi đùa là Hoắc tiên sinh. Lúc nào gã cũng lờ đờ như người mất ngủ, suốt ngày ham mê bài bạc với đám nô dịch trong phủ. Gã đang say lướt khướt thì bị Đoàn Dự ở đâu vào cầm tay kéo đi. Đến cửa tòa hoa sảnh, gã sợ hãi dừng lại không dám tiến bước nhưng Đoàn Dự cứ lôi tuột vào. Vào trong Hoa sảnh gã sụp xuống lạy Bảo Định Đế cùng Hoàng Hậu.

Bảo Định Đế không biết Hoắc tiên sinh là ai, liền phán :

- Thôi! Đứng lên đi!

Đoàn Dự lại lôi lão đến trước mặt Nam Hải Ngạc Thần nói :

- Nhạc lão tam! Trong các vị sư phụ tôi thì vị này kém cỏi nhất. Ông có thắng được vị này rồi mới đấu được với các vị khác.

Nam Hải Ngạc Thần cười hềnh hệch nói :

- Nếu Nhạc lão nhị này đánh ba đòn mà y không nát nhừ ra thì ta sẽ thờ mi làm thầy.

Đoàn Dự mắt sáng lên hỏi lại :

- Ông nói sao? Thật hay dối? Đã là đại trượng phu thì phải nhất ngôn, chứ nói rồi lại nuốt lời là quân chó đẻ.

Nam Hải Ngạc Thần la lên :

- Lại đây! Lại đây!

Đoàn Dự nói :

- Nếu đánh có ba đòn thôi thì hà tất đến sư phụ tôi phải ra tay? Ngay tôi đây cũng đủ rồi mà.

Nam Hải Ngạc Thần từ lúc được Vân Trung Hạc báo tin, lão sấp ngửa đi luôn sang Đại Lý chỉ cốt bắt Đoàn Dự về làm đồ đệ, truyền dạy hết võ nghệ cho để biểu dương phái Nam Hải sau này. Nhưng từ lúc cùng Đoàn Chính Thuần chọi nhau một chưởng, trong bụng lão đâm lo, biết rằng ở giữa đám cao thủ này muốn bắt Đoàn Dự đem đi không phải chuyện dễ. Giờ thấy chính Đoàn Dự đòi cùng mình đối thủ thì còn cơ hội nào hay hơn nữa, chỉ việc giơ tay ra túm lấy chàng. Bọn Đoàn Chính Thuần dù tài giỏi đến đâu có muốn cướp lại nhưng lâm vào trình trạng "ném chuột sợ vỡ đồ" tất phải chịu giương mắt ếch ra nhìn mình ẵm Đoàn Dự đem đi. Nghĩ vậy lão mừng rơn nói ngay :

- Thế thì hay lắm! Mi cứ việc tiếp lấy ba đòn của ta. Ta không vận nội lực đánh chết mi đâu mà sợ.

Đoàn Dự nói :

- Hãy khoan! Xin giao hẹn trước đã. Nếu đánh ba đòn mà ông không hạ được tôi thì sao?

Nam Hải Ngạc Thần biết Đoàn Dự là một gã thư sinh trói gà không chặt, đừng nói ba đòn, chỉ nửa đòn gã cũng không chịu nổi rồi liền cười ha hả đáp liền :

- Mi chịu nổi ta ba đòn thì ta quyết thờ mi làm thầy.

Đoàn Dự phân bua :

- Ông nói có mặt mọi người đây nghe rõ cả rồi. Sau ông đừng cãi nữa nhé!

Nam Hải Ngạc Thần tức mình nói :

- Nhạc lão nhị này nói một là một, hai là hai.

Đoàn Dự nói :

- Nhạc lão tam chứ Nhạc lão nhị bao giờ?

Nam Hải Ngạc Thần vẫn cãi :

- Nhạc lão nhị.

Đoàn Dự không chịu :

- Nhạc lão tam

Nam Hải Ngạc Thần nói :

- Thôi ra động thủ đi! Cãi làm gì vô ích!

Đoàn Dự tiến ra hai bước, ngang nhiên đứng trước mặt Nam Hải Ngạc Thần.

Mọi người trong hoa sảnh từ Hoàng thượng, Hoàng hậu trở xuống ai cũng biết Đoàn Dự yêu văn, ghét võ, đừng nói chống nhau với những tay cao thủ như Nam Hải Ngạc Thần, chỉ một tay vệ sĩ hay tên lính hạng bét, chàng cũng không chịu nổi một đòn. Ban đầu ai nấy chỉ tưởng chàng muốn trêu cợt Nam Hải Ngạc Thần, giờ thấy chàng thi gan với lão thật đều không khỏi sửng sốt. Tuy biết rõ Nam Hải Ngạc Thần chỉ nhất tâm thu chàng làm đồ đệ, không nỡ hại đến tính mạng chàng nhưng lỡ ra con người hung hãn như lão lúc cáu lên thì chiếc cành vàng lá ngọc kia ai sẽ biết sao?

Dao Đoan tiên tử lo cho tính mạng con mình nhất, vội ngăn lại :

- Dự con! Không được liều lĩnh! Đối với kẻ thất phu sơn dã đó, không nên mạo hiểm.

Hoàng Hậu cũng ra lệnh :

- Thiện Xiển Hầu đâu! Ngươi ra bắt tên cường đồ cho ta!

Thiện Xiển Hầu tâu :

- Thần hạ Cao Thăng Thái xin tuân chỉ!

Đoạn Cao hầu ra lệnh :

- Lăng Thiên Lý, Đổng Tư Quy, Tiêu Đốc Thành, Chu Đan Thần nương nương đã xuống chỉ các ngươi động thủ đi!

Bốn gã cúi đầu tâu :

- Thần đảng xin tuân chỉ.

Nam Hải Ngạc Thần thấy đông người đến vây đánh liền quát to :

- Các ngươi định lấy nhiều hiếp ít phải không? Ta đây không sợ đâu nhé, Hoàng thượng, Hoàng hậu ta chấp luôn cả hai ngươi nữa đó.

Đoàn Dự vội khoát tay ra hiệu nói :

- Hãy khoan! Để ta cùng lão thử ba đòn đã, rồi sau sẽ liệu.

Riêng Bảo Định Đế biết rõ cháu mình có thủ đoạn hơn người, y làm nhiều điều không ai nghĩ đến, tất y có cơ mưu gì đây. Nam Hải Ngạc Thần tất không hại tính mạng y, hơn nữa lại có cả hai anh em mình ngồi đây, quyết không ngại gì. Nghĩ vậy Bảo Định Đế liền phán bảo :

- Các ngươi hãy thong thả! Cứ để cho tên cường đồ kia biết tài Tiểu Vương tử nước Đại Lý đã.

Bọn Lăng Thiên Lý đang tiến lại, bỗng nghe Hoàng thượng truyền chỉ đều dừng lại cả. Bảo Định Đế vẫn tươi cười hớn hở nét mặt không lộ vẻ lo lắng chút nào.

Đoàn Dự nói với Nam Hải Ngạc Thần :

- Nhạc lão tam! Chúng ta phải có lời giao ước trước : nếu ba đòn ông không đánh ngã được tôi ông phải thờ tôi làm sư phụ. Nhưng tư chất ông dốt nát lắm tôi không dạy võ ông đâu. Ông có bằng lòng như thế không?

Nam Hải Ngạc Thần cả giận nói :

- Ai cần mi dạy võ nghệ? Võ công mi không bằng loài chuột nhắt, ai thèm đếm xỉa tới?

Đoàn Dự nói :

- Tốt lắm! Thế là ông chịu điều kiện đó rồi! Chỉ cần ông không được trái lời thầy, bất luận việc gì sư phụ đã ra lệnh ông phải tuân theo. Nếu trái lệnh sư phụ là phạm tội trong quy luật phái võ.

Nam Hải Ngạc Thần nghe nói chẳng những không giận mà lại hớn hở đáp :

- Điều đó là dĩ nhiên. Sau khi mi đã thờ ta làm thầy cũng phải nhớ lấy nghe!

Xem tiếp hồi mười lăm

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 15 Phép "Lăng Ba Vi Bộ" kỳ tuyệt

Đoàn Dự nói :

- Tôi ưng thuận như vậy nhưng xin nhắc lại : nếu ông muốn thu tôi làm đồ đệ, phải lần lượt hạ hết được các vị sư phụ tôi để tỏ rõ võ công ông giỏi hơn tất cả, vì có thế tôi mới thờ ông làm thầy được.

Nam Hải Ngạc Thần đáp :

- Được lắm! Mi toàn nói chuyện vẩn vơ. Tha hồ cho mi muốn xoay cách nào thì xoay cũng không lại được ta đâu.

Đoàn Dự trỏ phía sau Nam Hải Ngạc Thần mỉm cười nói :

- Một trong các vị sư phụ tôi đang đứng sau lưng ông đó.

Nam Hải Ngạc Thần tưởng sau lưng mình có người thật quay ngoắt lại. Đoàn Dự thừa cơ tiến lên một bước, đưa tay thọc vào huyệt "Đào Đạo" giữa lưng Nam Hải Ngạc Thần.

Phép điểm huyệt này tuy không đúng cách thức của con nhà võ nhưng "Đào Đạo" là một trong các huyệt trọng yếu nhất của con người, Nam Hải Ngạc Thần lại nghe lồng ngực mình đột nhiên dường như bị tắc nghẽn thì ra tay trái Đoàn Dự đã nắm được sau lưng lão và ngón tay chàng bấm đúng vào giữa huyệt "Y Xá".

Nam Hải Ngạc Thần giật mình vội vận nội công chống đỡ nhưng hai huyệt trọng yếu đã bị kiềm chế, đồng thời nội lực dùng vào việc giải phóng hai huyệt đạo này cũng bị kiềm chế luôn. Lão hết sức bình sinh đem nội lực ra phản ứng lại một cái tức thì toàn thân nhũn ra như sứa.

Đoàn Dự chỉ có việc nhấc mình lão cao một chút cho đầu chúc xuống, chân giơ lên rồi hất mạnh một cái là lão phải té nhào. Cái đầu nhẵn thín đập xuống đất đánh "bịch" một tiếng. May mà nền nhà trải đệm nên lão không đến nỗi bị thương. Có điều một tay võ công lừng lẫy tiếng tăm mà nay bị thư sinh Đoàn Dự đẩy ngã khiến lão thẹn quá hóa giận. Lão liền dùng miếng "Lý Ngư Đả Đình" vụt dậy, giơ tay trái ra chụp xuống Đoàn Dự.

Những người ngồi trong Hoa sảnh đều là tay võ nghệ cao cường không ai ngờ một gã thư sinh yếu ớt như Đoàn Dự làm cho Nam Hải Ngạc Thần phải một phen điên đảo. Mọi người chưa hết kinh hãi, ngơ ngác về cái té của Nam Hải Ngạc Thần bỗng thấy lão lại hùng hổ giơ tay ra chực nắm lấy Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần toan ra tay phản ứng, đã thấy Đoàn Dự bước trệch sang bên. Bộ pháp của chàng rất là kỳ cục, chỉ bước lờ vờ một cái mà tránh khỏi bàn tay nhanh như chớp của Nam Hải Ngạc Thần, làm cho Đoàn Chính Thuần buột miệng trầm trồ khen ngợi :

- Kỳ tuyệt! Thật là kỳ tuyệt!

Nam Hải Ngạc Thần lại đưa bàn tay ra chụp xuống. Đoàn Dự không chống đỡ chi cả, bước tiến lên hai bước, thế là Nam Hải Ngạc Thần lại vồ hụt.

Nam Hải Ngạc Thần đánh hai đòn không trúng vừa ngạc nhiên vừa cáu giận, lại thấy Đoàn Dự đứng lù lù trước mặt, cách mình không đầy ba thước lão tức quá gầm lên một tiếng đưa cả hai bàn tay ra chụp thẳng vào bụng Đoàn Dự.

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Dao Đoan tiên tử, Cao Thăng Thái thấy thế đánh vô cùng hiểm ác đều la lên :

- Phải cẩn thận đấy!

Đó là miếng "Độc Long trảo", một thế võ tuyệt kỹ bí hiểm mà Nam Hải Ngạc Thần khổ công rèn luyện trong mười năm trời với mục đích đánh bại Diệp Nhị Nương để giành giật lấy ngôi thứ hai trong tứ ác về mình. Cũng may mà trong lúc lão điên tiết, mất hết bình tĩnh nên chụp sểnh không thì "con người tương lai của phái Nam Hải" đã vỡ bụng ra rồi.

Đoàn Dự bước sang bên phải một bước rồi lại bước sang bên trái một bước, đoạn lẹ làng chuyển qua phía sau Nam Hải Ngạc Thần, giơ tay lên đập vào cái đầu hói của lão.

Nam Hải Ngạc Thần thấy đối phương giơ bàn tay thần xuất quỷ một lên đánh thì chẳng còn hồn vía nào nữa, buột miệng kêu lên : "Mạng ta nguy mất". Nhưng khi tay chàng đập xuống đến đầu lão, lão cảm thấy tay chàng không có chút nội lực nào cả. Lão đưa tay trái lên đỡ mạnh quá, đánh "roạc" một cái. Mu bàn tay Đoàn Dự bị năm ngón tay lão cào trúng, rõ năm vết toạc da rướm máu. Chàng vội rụt tay về, đà tay lão hãy còn sức mạnh sướt thẳng xuống làm cho chính cổ lão cũng toạc ra năm vệt chảy máu.

Kể ra thì Đoàn Dự đã tránh xong ba đòn của Nam Hải Ngạc Thần và thế là đã thắng cuộc rồi. Nhưng chàng quên rằng mình chẳng có chút nội công nào, da dĩ máu nóng của tuổi trẻ bốc lên ngùn ngụt nên mới giơ tay đánh xuống đầu lão. Cái đòn vô lực của chàng chẳng những không làm gì được lão mà xuýt nữa còn bị lão túm được tay mình. Chàng đâm ra hoảng sợ chân bước loạng choạng chạy đến núp vào sau lưng phụ thân, mặt cắt không còn hột máu.

Dao Đoan tiên tử đưa mắt nguýt chàng, tự nói một mình : "Thằng nhỏ này gớm thật, dám dối cả ta nữa. Bá phụ và gia gia mi đã luyện cho mi những công trình kỳ diệu đến thế mà mi cứ giả vờ như không biết tý gì".

Mộc Uyển Thanh la lên :

- Nhạc lão tam! Ngươi đánh ba đòn không hạ được chàng, trái lại ngươi bị té nhào. Còn chờ gì mà ngươi chưa dập đầu nhận chàng làm sư phụ?

Nam Hải Ngạc Thần vò đầu bứt tai, thẹn quá, mặt đỏ như gấc chín, ấp úng :

- Chưa phải là chuyện ra tay thực sự, chỗ đó bỏ đi không kể.

Mộc Uyển Thanh đưa ngón tay lên chọc chọc vào má mình bêu bêu :

- Thế mà không biết nhục! Ngươi không lạy chàng nhận làm sư phụ tức là ngươi tự nhận là quân chó đẻ hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần đáp :

- Ta không chịu nhận cả hai thứ.

Đoàn Chính Thuần thấy bộ pháp của con mình ảo diệu dị thường, chính ông không hiểu về bộ pháp này nhưng cũng khẽ bảo con :

- Con đừng có động thủ đánh lão, chỉ nhè huyệt đạo mà điểm vào thôi!

Đoàn Dự rỉ tai đáp :

- Con cảm thấy kinh hãi lắm rồi, e rằng không làm nổi nữa.

Đoàn Chính Thuần khẽ bảo :

- Việc gì mà phải sợ? Đã có gia gia đây liệu tiếp tay cho.

Đoàn Dự được cha hứa nâng đỡ, mất hết sợ hãi, đường hoàng bước ra nói :

- Nam Hải Ngạc Thần! Ngươi đánh ba đòn không hạ nổi ta! Thôi lạy xuống mà nhận làm sư phụ đi!

Nam Hải Ngạc Thần hét lên một tiếng rồi đánh ra một chưởng. Đoàn Dự rón chân một bước qua mé Đông Bắc, tránh khỏi một cách dễ dàng. Điện lực ở tay lão phóng ra làm đổ gãy các kỷ trà. Đoàn Dự vẫn bình tĩnh, miệng lâm râm đọc chú : "Sơn địa bác, hỏa địa tấn, tiến vô vọng, chuyển trung phu, hỏa thủy kỳ tế, địa hỏa minh di, thoái tổn vị, tà quy đại tráng...". Những đòn Nam Hải Ngạc Thần đánh tới, chàng vẫn điềm nhiên như không thấy, chỉ nhìn nhận phương hướng, theo đúng bộ pháp, khi tiến chếch lên, khi lui thẳng xuống. Nam Hải Ngạc Thần chưởng pháp đánh ra vun vút mỗi lúc một mau, nội lực mỗi lúc một mạnh thêm như vũ bão làm cho bàn ghế bay tứ tung, bình cốc vỡ loảng xoảng. Rút cục vẫn không đánh trúng Đoàn Dự được phát nào. Chớp mắt đã đánh đến ba mươi mấy đòn. Hai anh em Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh và Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần nhìn rõ bộ pháp của Đoàn Dự chỉ hời hợt, không có lấy một chút sức mạnh mà vẫn chưa biết vị cao nhân nào đã truyền thụ cho chàng lối bộ pháp cực kỳ thần diệu này. Phép bước chân theo 64 quẻ của vua Phục Hy đời xưa. Cách tiến thoái không ai có thể lường được. Nếu cứ lấy thực lực mà đấu với Nam Hải Ngạc Thần thì chỉ nửa đòn chàng đã mất mạng với địch thủ rồi. Nhưng Nam Hải Ngạc Thần đánh thế nào cũng mặc, chàng cứ lên lui theo đúng bộ pháp của mình thôi, nên địch dù mạnh đến đâu cũng không tài nào đánh trúng. Hai anh em Bảo Định Đế xem Nam Hải Ngạc Thần đánh đến 48 đòn, sắc mặt thoáng lộ vẻ lo lắng, nghĩ thầm : "Giả tỷ Nam Hải Ngạc Thần cứ nhắm mắt đánh bừa, đừng nhìn nhận phương hướng Đoàn Dự né tránh thì sau thế nào cũng có phát trúng". Nhưng vẫn thấy Nam Hải Ngạc Thần sắc mặt mỗi lúc một vàng nhạt, mắt mở mỗi lúc một to thêm. Đòn nào cũng nhằm Đoàn Dự đánh tới. Một bên Đoàn Dự cứ theo đúng phương pháp bước tiến, bước lui thành ra lão muốn đánh nhanh đến đâu cũng không trúng được.

Nếu cuộc đấu cứ như vậy kéo dài mãi thì dù cho Đoàn Dự có giữ cho khỏi bị tổn thương đã là may rồi còn muốn đánh ngã đối phương thì đừng hòng.

Bảo Định Đế coi một lát nữa, cất tiếng bảo Đoàn Dự :

- Dự con! Con bước thong thả lại một chút, nhằm đường huyệt đạo trước ngực bên địch mà nắm lấy!

Đoàn Dự thưa :

- Xin vâng!

Rồi tuân lời bá phụ chàng bước chầm chậm lại, lúc đến gần phía trước Nam Hải Ngạc Thần chàng nhìn chằm chặp vào mặt lão, thấy nét mặt hung dữ, vàng ửng, đôi mắt như nẩy lửa mà chàng bở vía, chân bước loạng choạng, trệch ra ngoài phương vị, bị tay Nam Hải Ngạc Thần chụp trúng vào tai bên trái, máu chảy đầm đìa, giả tỷ chàng bị chụp xích vào trong một tấc nữa thì phải chết lăn quay ra đất. Bị đau Đoàn Dự càng hoảng hốt, phải chạy mau lại ẩn vào sau lưng Đoàn Chính Thuần, gượng cười thưa lại Bảo Định Đế :

- Bá phụ ơi! Không xong rồi!

Đoàn Chính Thuần cả giận quát :

- Xưa nay con cháu họ Đoàn nước Đại Lý lâm trận đối địch có chạy trốn bao giờ? Mi phải ra đấu nữa đi! Lời bá phụ dạy chí phải đó!

Dao Đoan tiên tử thương con nói xen vào :

- Con nó đã chống nhau với lão dư 60 đòn. Họ Đoàn có được đứa con gan dạ như thế còn chưa đủ hay sao? Dự con! Thế là thắng cuộc rồi, đừng ra đánh nữa!

Đoàn Chính Thuần tức mình nói :

- Nó là con tôi, mình bất tất phải quan tâm? Đã có tôi bảo đảm sinh mạng cho nó.

Dao Đoan tiên tử thương con đau lòng, nước mắt chảy quanh, muốn nhảy xổ ra. Đoàn Dự thấy tình cảnh mẫu thân như vậy, trong lòng không nỡ, hùng khí bừng bừng trỗi dậy, rảo bước chạy ra, quát to lên rằng :

- Ta lại đấu với ngươi lúc nữa!

Lần này chàng tỏ ra gan dạ hơn, lên lui đĩnh đạc, xoay chuyển ung dung, đến lúc giáp Nam Hải Ngạc Thần chàng không nhìn vào mặt lão nữa, đưa hai tay chụp xuống ngực địch thủ. Nam Hải Ngạc Thần thấy tay Đoàn Dự chụp thong thả mà yếu ớt, lão cười ha hả, né đi một chút, rồi cứ giơ tay chụp xuống vai chàng. Không ngờ bước chân Đoàn Dự biến hóa khôn lường, hai người cùng xoay mình đổi phương vị thế nào lại đụng vào nhau. Ngực Nam Hải Ngạc Thần chạm vào ngón tay trỏ Đoàn Dự. Không bỏ lỡ cơ hội, chàng nhằm đúng phương vị đường huyệt đạo, tay trái giữ lấy huyệt "Đản Trung", tay phải giữ huyệt "Khí Hộ". Chàng túm được hai yếu huyệt này nhưng chẳng có chút nội lực nào. Giả tỷ Nam Hải Ngạc Thần cứ để mặc kệ cho chàng giữ thế nào thì giữ, không thèm để ý tới, đừng vận nội công giải thoát thì rồi chàng cũng đến từ từ buông ra chứ chẳng làm gì được lão. Đằng này Nam Hải Ngạc Thần thấy yếu huyệt bị kiềm chế, đâm ra hoảng sợ, giơ luôn hai tay lên, chụp xuống trước mặt chàng. Miếng đánh vào mắt địch này nhà võ gọi là "thế đánh bắt buộc bên địch phải hồi thủ tự cứu", khiến cho đối phương tự nhiên phải bỏ yếu huyệt để rụt tay về chống đỡ. Đó là một miếng hiểm hóc, những tay cao thủ thường để giải cứu lúc lâm nguy. Cũng may mà Đoàn Dự chẳng hiểu tý gì về phương pháp đánh đỡ trong nghề võ. Những đòn của Nam Hải Ngạc Thần ác liệt là thế, chàng cũng mặc kệ, hai tay cứ giữ khư khư lấy hai yếu huyệt của lão chứ không rút về để che chở cho mình. Hai tay Nam Hải Ngạc Thần đang chụp xuống mắt chàng, chỉ còn cách độ gang tay thì khí huyết trong mình lão bị trở trệ, chân tay cử động tựa hồ vướng víu, không đáp ứng theo đúng ý chí, không chụp xuống đúng mắt chàng. Lão hít một hơi chân khí rồi lại vận nội công... cũng vì lão gắng vận nội công làm cho khí huyết đi ngược chiều. Hai luồng khí lực trong mình tự va chạm nhau, xung đột nhau làm cho lão hoa mắt lên. Đoàn Dự đang giữ chịt hai huyệt đạo Nam Hải Ngạc Thần bỗng thấy một luồng nhiệt khí làm cho bàn tay chàng nóng bỏng lên rồi cả thân chàng cũng run rẩy, chân không đứng vững. Chàng biết rằng bỏ tay ra lúc này tất phải chết ngay với địch thủ nên dù trong mình khó chịu đến mức độ nào cũng phải cố gắng chịu đựng.

Đoàn Chính Thuần đứng gần đó thấy mặt con mỗi lúc một đỏ bừng lên liền thò một ngón tay, dí vào huyệt "Đại Truy" sau lưng chàng. Đó là phép điểm huyệt Nhất Dương chỉ lừng danh thiên hạ của họ Đoàn nước Đại Lý. Phép điểm huyệt này kỳ tuyệt ở chỗ làm cho một luồng khí dung hòa thấm vào trong mình, đồng thời truyền nội lực mạnh mẽ vào người Đoàn Dự. Chỉ trong giây lát, toàn thân Nam Hải Ngạc Thần run lên bần bật rồi mềm ra như bún lăn quay xuống đất. Đoàn Chính Thuần truyền thêm khí lực cho chàng. Đoàn Dự dần dần hồi phục lại như thường nhưng hồi lâu không nói được lên tiếng.

Đoàn Chính Thuần đem phép Nhất Dương chỉ ám trợ cho Đoàn Dự. Thế là cả hai cha con hợp lực mới chế phục nổi Nam Hải Ngạc Thần. Mọi người ngồi trong Hoa sảnh đều hiểu như vậy nhưng cứ trông bề ngoài thì ai chả bảo Nam Hải Ngạc Thần bị Đoàn Dự hạ, không còn cãi vào đâu được.

Con người như Nam Hải Ngạc Thần quả là ghê gớm, Đoàn Dự vừa buông tay ra, lão chỉ vận khí sơ sơ, tức thì đứng dậy được ngay. Hai mắt lão nhìn Đoàn Dự chằm chặp. Trên bộ mặt cổ quái của lão lộ vẻ kinh dị, thương tâm lẫn với vẻ căm hờn.

Mộc Uyển Thanh la lên :

- Nhạc lão tam! Ta xem ngươi cố tình không chịu thi lễ nhận thầy, vậy ra ngươi cam tâm làm quân chó đẻ mất rồi.

Nam Hải Ngạc Thần hậm hực nói :

- Mi hiểu ta thế nào được? Lạy y làm thầy thì lạy chứ sao? Đời nào ta chịu tiếng xấu làm quân chó đẻ?

Nói xong lão quỳ ngay xuống lạy Đoàn Dự bốn lạy, đầu dập "binh binh" bốn lần xuống đất rồi kêu lên :

- Thưa sư phụ! Đệ tử là Nhạc lão tam kính bái sư phụ.

Đoàn Dự đứng ngây người ra mà nhìn, chưa kịp trả lời thì Nam Hải Ngạc Thần đã vụt dậy, nhảy vọt lên nóc nhà bỏ đi.

Bỗng một tiếng kêu "Ối" thê thảm nổi lên, rồi từ trên nóc nhà lăn xuống đánh "huỵch" một tiếng. Mọi người nhìn ra thì là tên vệ sĩ trong phủ Trấn Nam Vương, trước ngực máu chảy đầm đìa. Tim gan gã đã bị Nam Hải Ngạc Thần móc đem đi mất, chân tay gã giẫy giụa mấy cái rồi nằm chết thẳng cẳng. Sự việc xảy ra thần tốc kinh người. Tên vệ sĩ này võ công tuy còn kém bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Độc nhưng cũng vào hạng khá, vậy mà Nam Hải Ngạc Thần chỉ giơ tay ra một cái móc mất tim gan. Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái cũng ở gần đó nhưng không cứu kịp. Mọi người nhìn nhau cả kinh thất sắc.

Mộc Uyển Thanh tức giận nói :

- Lang quân! Chàng thu được tên đồ đệ hung ác, hỗn láo đến thế là cùng. Ở nhà thầy ra mà dám giết cả người nhà thầy. Lần sau lang quân có gặp hắn phải trừng trị hắn cách nào mới được chứ?

Đoàn Dự đáp :

- Tôi may mà thắng cuộc là toàn nhờ ở gia gia ám trợ. Sau này gặp lão, tôi e rằng đến trái tim sư phụ này vị tất còn giữ nổi với lão nói chi đến chuyện nghiêm trị lão hung đồ đó?

Trong lúc đang trò chuyện Tiêu Đốc Thành cùng Lăng Thiên Lý khiêng thân thể gã vệ sĩ ra ngoài. Đoàn Chính Thuần sai đem đi an táng và cấp đỡ rất hậu cho gia đình kẻ bị nạn.

Hoắc tiên sinh mười phần ba tỉnh, bảy say vâng dạ luôn mồm từ từ lui ra.

Bảo Định Đế hỏi Đoàn Dự :

- Dự con! Bộ pháp đó con đã được bậc cao minh nào truyền thụ cho? Theo đúng phương vị 64 quẻ của vua Phục Hy đời xưa.

Đoàn Dự đáp :

- Bộ pháp đó con tự luyện quấy quá một mình trong sơn động chả hiểu có đúng không? Xin bá phụ chỉ giáo cho!

Bảo Định Đế lại hỏi :

- Con tự luyện lấy ở trong sơn động đầu đuôi thế nào? Nói rõ cho ta nghe!

Nguyên hôm đó ở trên đỉnh núi, Mộc Uyển Thanh bị Nam Hải Ngạc Thần cướp đem đi, Đoàn Dự cuống quít chạy theo. Mới đi được vài bước, loạng choạng thế nào chân giẫm lên mình một con trăn lớn tròn trùng trục mà trơn như mỡ, chàng trượt chân ngã, mình cứ tuột dần dần xuống khe núi. Trong cơn nguy cấp thập tử nhất sinh, chàng đưa hai tay ra kều cào thì may sao vớ được một cành cây. Chàng liền níu lấy, đưa cả hai chân ra sờ soạng, chợt đặt được lên một mỏm đá sườn núi nhô ra. Bên tai nghe tiếng sóng vỗ bì bòm, nước sông chảy cuồn cuộn kêu ầm ầm như sấm rền ở phía dưới chân. Chàng định thần nhìn khắp xung quang, sườn núi cao chót vót và dựng đứng như bức tường thành không còn cách nào trèo lên được nữa, đi xuống lại bị lăn vào dòng sông nước chảy xiết cũng chết mất mạng. Chỉ còn cách theo mé tả bò đi thì còn có chỗ đặt chân, chẳng hiểu bước đường trước mắt ra sao, chàng dùng cả chân lẫn tay lần mò, sờ soạng trong lòng nơm nớp lo sợ.

Chàng bò đi có lúc mệt quá phải ngồi nghỉ, gặp chỗ hiểm trở phải cố gắng lắm mới bò qua được. Dò lần cho đến lúc trời đã hoàng hôn, trước mặt hiện ra vô số tảng đá lởm chởm, không sao tìm ra được lối đi phẳng phiu một chút. Sau mấy hồi cực kỳ gian lao, vất vả chàng chợt thấy cảnh tượng quen quen hiện ra. Dường như có lần chàng đã qua quãng đường này rồi thì phải? Chàng định thần cố nhớ lại, hết nhìn non xanh lại ngắm nước đục, bất giác buột miệng kêu lên :

- A ha! Phải rồi! Đúng là bữa trước ta ở trong thạch động ra đã qua chỗ này rồi, cảnh vật hãy còn y nguyên như cũ.

Đoàn Dự nhận ra rồi trong lòng hớn hở vui mừng, tự nói một mình : "Từ chỗ này đi qua mấy chân trái núi cao và vượt qua mấy khe vực nữa thì ra đến một con đường ven núi, chừng mười bảy mười tám dặm nữa là đến cầu "Thiện nhân độ". Nhưng chàng lại sực nhớ đến pho tương ngọc mỹ nhân tư dung tuyệt thế. Chân chàng muốn đi nhưng dạ không đành, chàng tặc lưỡi lẩm bẩm : "Âu là ta hãy vào thăm ngọc tượng, dù có suốt đời bị giam cầm trong hang động, ta cũng cam tâm". Thế là chẳng đắn đo gì nữa, chàng lần theo lỗi cũ, chỉ hơn mười trượng đã đến cửa hang nhỏ. Chàng chui ngay vào, rồi cứ theo đường hầm vào tới thạch thất.

Lúc đó trời đã hoàng hôn nhưng bốn mặt tường đều có giát những hạt minh châu toả ra một thứ ánh sáng huyền ảo. Đoàn Dự run run đứng ngắm pho tượng ngọc nhủ thầm : cũng may đây chỉ là pho tượng bằng ngọc chứ không phải người thật. Giả tỷ trên thế gian có cô gái mỹ lệ nhường này thì Đoàn mỗ có phải vì nàng mà tan nát thân danh hay phải chết nửa đời nửa đoạn cũng chẳng chút chi hối hận! Bất luận nàng ra lệnh cho làm gì, dù là việc đại nghịch vô đạo hay việc gian ác hiểm độc đến đâu đi chăng nữa, mình há dám từ nan? Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự! Trên đời không có người này tưởng cũng là cái may lớn trong những cái không may đó.

Đoàn Dự đứng trước người ngọc đã chồn gối run chân mà không biết mỏi mệt là gì. Nào đâu Nam Hải Ngạc Thần? Nào đâu Mộc Uyển Thanh? Chàng bỏ rơi vào cõi hư vô hết, chẳng còn lo còn nghĩ gì tới nữa. Hồi lâu quay về thực tại, chàng cảm thấy mỏi quá, không tài nào đứng được nữa liền nằm quay ra chân pho tượng ngọc ngủ thiếp đi.

Trong lúc mơ màng, Đoàn Dự thấy pho tượng quả nhiên cử động, cầm một thanh bảo đao đưa cho và sai chàng đi giết 36 người vô tội, bất luận nam hay nữ. Chàng chẳng ngần ngừ chút nào, khẳng khái vâng lời cầm đao ra đi, bất cứ gặp ai cũng giết. Chém giết một hồi đến bảy tám mươi người, đầu lâu lăn long lóc ngổn ngang trên mặt đất, chàng hăm hở trở vào phục mệnh.

Tượng ngọc mỉm cười, trầm trồ khen giỏi rồi bảo chàng :

- Ngươi hãy về nhà lấy đầu phụ thân đi!

Chàng nhất quyết không dám tuân mệnh. Tượng ngọc chau mày nói :

- Ngươi không tuân lệnh ta thì lập tức ra ngoài kia tự chặt đầu ngươi đem vào đây ra mắt ta.

Đoàn Dự không do dự chút nào, cầm đao tự đâm vào bụng, kêu to lên một tiếng, giật mình tỉnh dậy, mồ hôi toát ra như tắm. Chưa hết kinh sợ, trống ngực đánh thình thình. Bỗng chàng thấy ánh dương quang chiếu vào, nhớ lại chuyện vừa xong thì ra suốt đêm rồi mình đã trải qua một cơn ác mộng.

Chàng nhỏm dậy nhìn pho tượng, nghĩ vẩn nghĩ vơ một hồi, sực nhớ ra điều gì tự hỏi : "Đây là một tòa thạch thất sâu dưới đáy hồ từ đâu mà ánh dương quang lại chiếu vào được?". Đoạn nhìn theo phía có ánh sáng để tìm cho ra lẽ thì thấy trên nóc nhà có treo một tấm gương đồng, ánh sáng do tấm gương này phản chiếu xuống. Chàng chú ý nhìn kỹ tấm gương hồi lâu, nhận ra có những chữ tròn trĩnh. Chàng bỗng giật mình tự hỏi tiếp : "Khắp trong tòa thạch thất này chỗ nào cũng để gương đồng, hay là có điều chi kỳ dị ở đó?".

Nghĩ vậy tiện tay chàng với ra góc nhà bên phải nhặt lấy một tấm, lau hết bụi bặm cùng rỉ xanh đi để xem. Quả nhiên trên có khắc những đường ngang vạch dọc. Cạnh những nét này có chua "một bước", "hai bước", "nửa bước". Ngoài đầu những nét vạch có ghi bằng chữ nhỏ : "đồng nhân", "đại hữu", "quy muội", "khiêm"....

Đoàn Dự biết ngay những chữ như "đồng nhân", "đại hữu" v.v. là tên những quẻ trong 64 quẻ tuỳ theo phương vị ở kinh dịch. Chàng lật mặt dưới tấm kính lên thấy đề bằng lối chữ triện bốn chữ "Lăng Ba Vi Bộ". Dó đó chàng liền nhớ lại lõm bõm được ít câu trong bài Lạc Thần Phủ tả điệu lăng ba :

Lăng ba nhón gót,

Chẳng nhiễm bụi trần.

Chuyển mình lấp loáng,

Mặt tựa hoa xuân,

Miệng cười chúm chím,

Lặng lẽ xuất thần,

Nhìn người yểu điệu,

Quên ngủ quên ăn

Đoàn Dự cầm trong tay tấm gương đồng lật lên lật xuống, xem đi xem lại, ngồi thừ ra một lúc lại nhớ đến những dòng chữ khắc trên tấm gương đồng đặt dưới chân pho tượng mà mình đã xem bữa trước : "Ngươi đã lạy đủ ngàn lạy, vậy ta nhận ngươi làm đệ tử. Từ đây sắp tới ngươi còn gặp nhiều tai nạn thê thảm, nói không xiết được, cũng đừng hối hận. Võ công hơn đời của phái ta ở khắp nơi trong thạch thất này. Mong rằng ngươi ráng lĩnh tâm nghiên cứu cho ra". Rồi chàng nhớ lại bữa đó, trong lúc từ biệt pho tượng, chàng đã nói : "Thần tiên nương tử ơi! Tôi chả làm đồ đệ nương tử mà cũng chẳng học cái võ công hơn đời của nương tử đâu". Nhưng hôm nay chàng ngó pho tượng thần mấy hồi nữa thì tâm hồn như ngây như dại, chẳng còn tự chủ được nữa. Rồi chàng tự nhủ : "Thần tiên nương tử bảo ta học tập võ nghệ thì không thể không học được rồi. Nhưng câu võ công hơn đời của phái ta ở khắp nơi trong tòa thạch thất này, sao ta xem khắp cả có thấy gì đâu? Phải chăng võ công ghi trên tấm gương đồng ta vừa coi xong?". Nghĩ vậy chàng lật đi lật lại để xem cho kỹ phương vị 64 quẻ trong kinh dịch rồi bắt đầu tập bước thử.

Ban đầu chàng chỉ chiếu theo phương hướng, độ số bước cho đúng cách, chưa lĩnh hội gì đến phần ảo diệu bên trong. Nhưng đến chỗ khó khăn, kỳ cục, nếu cứ theo chữ khắc trên tấm gương thì đi bước trước xong không biết làm thế nào để bước tiếp cho đúng. Sau chàng phải xoay mình chân không chấm đất mới bước vào đúng khuôn phép, cũng có lúc phải nhón gót vọt lên hay co chân nhảy lùi lại mới hợp với phương vị, độ số trong chỉ thị.

Mỗi khi gặp vấn đề nan giải, Đoàn Dự cố gắng nghiên cứu, tìm được lối giải quyết chàng cảm thấy khoan khoái vô cùng và công nhận học võ cũng nhiều chỗ thích thú chẳng kém gì đọc sách. Có lúc chàng hối hận : "Trước kia mình không hiểu, chỉ quan niệm võ nghệ là môn học để hại người, giết người nên không chịu học. Giờ xem bộ pháp này chẳng hại đến ai mà lại tránh được kẻ hung ác muốn đánh giết mình, như thế chẳng những không hại mà còn có ích nữa. Bất luận môn võ nào dùng để cứu người hay tự vệ đâu có phải việc dở". Kết luận như vậy chàng lại càng cần cù hăng hái luyện tập.

Tập suốt một ngày, mười phần Đoàn Dự đã học được hai, ba. Tối đến, chàng đói quá bèn mở nắp hộp ngọc để đôi mãng cổ chu cáp kêu lên mấy tiếng cho rắn kéo đến nằm phục trước mặt. Chàng lựa giết mấy con rồi ra bờ sông nhặt củi đốt lên nướng ăn. Mấy ngày liền chỉ trừ những lúc ngủ đi hay lúc giết rắn làm bữa còn bao nhiêu thì giờ chàng để hết vào việc nghiên cứu và luyện tập "Lăng Ba Vi Bộ", không chểnh mảng một phút nào. Có lúc chán nản, chàng ngẩng đầu lên nhìn pho tượng ngọc thì lạ thay : Thần nương tiên tử tựa hồ có vẻ buồn bực thống trách chàng không chịu gắng sức hết lòng, thì chàng sợ hãi vô cùng, đứng bật dậy như chiếc lò xo, hăm hở đem hết tâm trí vào việc rèn tập "Lăng Ba Vi Bộ".

Đến giữa trưa hôm thứ tư, Đoàn Dự đã thuộc lòng toàn bộ môn Lăng Ba ghi trên gương đồng và cách bước lên, lui xuống, diễn tập lại được một cách rất thuần thục. Chàng sực nhớ đến chuyện Mộc Uyển Thanh bị Nam Hải Ngạc Thần bắt trong một thời gian khá lâu rồi, chàng cần trở về để cứu mạng cho nàng. Nhưng lúc diễn tập xong, chàng vào ra mắt Thần tiên nương tử thì chẳng khác gì kẻ bị ma làm, tâm hồn như ngây như dại, chẳng nghĩ gì đến chỗ nguy khốn của Mộc Uyển Thanh nữa. Có lúc chàng quyết tâm "ta phải về cứu Mộc cô nương rồi sẽ trở lại đây cũng chưa muộn gì". Chàng liền đặt tấm gương đồng vào chỗ cũ, chợt ngó đến một tấm gương khác loang lổ, sặc sỡ, trên khắc vô số chữ nghĩa. Chàng biết rằng nếu rèn luyện thêm món này nữa thì ít ra cũng mất mấy ngày, vội nhủ thầm : "Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự! Mộc cô nương bị ác nhân giam giữ, một ngày xem bằng ba thu. Nếu mi không kịp trở lại cứu nàng thì còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa?". Tuy chàng lẩm bẩm như vậy nhưng lại bị một ý nghĩ khác đả phá : "Mình ở đây bên con người ngọc vui thú biết là chừng nào, huống chi mình chẳng có lấy một chút bản lãnh thì làm sao mà đánh lại được Nam Hải Ngạc Thần, chỉ có cách là thờ lão làm thầy. Như thế thì thà chịu chết còn hơn". Hai luồng tư tưởng xung đột nhau dữ dội trong đầu óc chàng. Phân vân hồi lâu rồi chàng nhất quyết : "Dù sao bỏ mặc Mộc Uyển Thanh cũng là một điều địa bất nghĩa, đâu phải tư cách của bậc đại trượng phu? Đừng có mình ở vào trường hợp bị giam cầm hoặc trường hợp bất khả kháng nào khác không trở về được chả nói làm chi".

Quyết định như vậy, chàng lại trước mặt pho tượng ngọc mỹ nhân, lạy xụp xuống đất khấn rằng :

- Thần tiên nương tử ơi! Nếu nhờ được phép Lăng Ba Vi Bộ mầu nhiệm của nương tử vừa truyền cho mà tôi thoát khỏi tay Nam Hải Ngạc Thần thì sau này mỗi năm tôi tình nguyện đến ở đây với nương tử nửa năm.

Khấn xong, chân trái chàng đạp bước "Trung phu", chuyển sang bước "Kỷ tế" rồi toan tiếp tục theo phép Lăng Ba Vi Bộ chạy ra khỏi động. Nhưng vừa bước sang vị "thái", chàng xoay mình một cái, chân phải bước đến vị "cổ", đột nhiên một luồng hơi nóng ở huyệt "Đan Điền" bốc lên cao độ khiến cho toàn thân tê nhức, không thể chịu nổi rồi lăn kềnh ra đất nằm cứng đơ người.

Đoàn Dự thất kinh, toan chống tay xuống đất để nhỏm dậy nhưng tứ chi cũng như các bộ phận khác không chịu phục tùng ý chí của mình nữa. Đừng nói muốn ngồi lên mà ngay muốn cử động một đầu ngón tay cũng không thể được. Chàng chịu nằm trơ như phỗng đá, càng nóng nảy lại càng không nhúc nhích được tý nào.

Nguyên phép Lăng Ba Vi Bộ khắc trên tấm gương đồng là một môn võ để cho những người đã có bản lĩnh vào hạng thượng thừa rèn luyện. Đoàn Dự tuyệt không có một chút căn bản võ công nào, lúc tập chàng tiến lên một bước rồi dừng lại suy nghĩ, hoặc lùi xuống một bước lại nghỉ giây lát, huyết mạch trong người chu lưu một cách bình thường nên không việc gì. Đằng này chàng vừa thuộc hết bài, đột nhiên toan dông thẳng một lèo, các mạch máu trong người không thể luân lưu từ từ như thường mà chạy ngược lên một cách cấp bách nên toàn thân bị tê liệt, thiếu chút nữa biến thành cái xác không hồn. May mà chàng mới đi có mấy bước, vả không đi mau lắm nên chưa đến nỗi đứt mạch máu.

Lâm vào tình trạng sống dở chết dở, Đoàn Dự cuống cuồng, cố sức vận động nhưng chàng càng cố gắng bao nhiêu ruột gan càng cồn cào bấy nhiêu, tựa như người buồn nôn mà không nôn ra được. Chàng nghĩ thầm : "Tấm đồng đặt dưới chân nương tử đã khắc rõ ràng từ đây sắp tới ngươi còn gặp nhiều tai nạn thê thảm, nói không xiết được cũng đừng hối hận". Bây giờ mình nằm ỳ ra đây để mà chịu chết đói, há chẳng là một cảnh tượng thê thảm nói không xiết được ư?

Ánh dương quang buổi chiều chênh chếch chiếu xuống. Vào khoảng giờ thìn, ánh sáng soi vào giữa tấm gương đồng và phản chiếu xuống mặt Đoàn Dự. Chàng thấy chói mắt, muốn quay đầu ra phía khác nhưng cổ cứng đơ không sao quay đi được. Chàng nhìn tấm gương thấy có khắc những chữ "Vị tế", "Tiểu quá", "chấn", "truân". Không còn cách nào quay đi chỗ khác, chàng chăm chú nhìn vào những chữ trong gương rồi đâm ra suy nghĩ, nghiên cứu, tính toán thì ra tấm gương thứ nhất chàng đã luyện xong mới được có 32 trong 64 quẻ, còn 32 quẻ nữa ở tấm gương này, lại vừa khéo hiện ra đúng lúc trước mặt chàng. Tuy chân không bước được nhưng chàng vẫn nằm ngẫm nghĩ, tính toán các bước chân, tưởng tượng ra bộ số, phương hướng. Chàng cứ lẩm nhẩm tính toán như vậy đến chiều thì được hơn mười bước, tâm hồn đã thấy được cởi mở và dễ chịu hơn trước nhiều.

Trưa hôm sau Đoàn Dự nhập tâm được nốt 32 quẻ, chàng nằm ôn lại cả 32 quẻ học trước hợp lại với 32 quẻ mới. Khi đầu từ "Minh di" rồi tuần tự sang "bí", "kỳ tế", "gia nhân". Bước theo độ số, chuyển theo phương vị cho đủ 64 quẻ thì về đến vòng tròn "Vô vọng" là xong.

Đoàn Dự mừng quá, vỗ tay reo rồi vùng dậy la lên :

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!

Dứt lời chàng mới biết rằng mình đã cử động lại được như thường, thì ra hơi thở và kinh mạch trong người cũng chuyển vận theo tâm niệm. Tâm niệm đến vòng tròn, chỗ để nối các kinh mạch cởi mở trở về cương vị bình thường. Đoàn Dự mừng rỡ khôn xiết, nhưng còn lo lỡ ra quên mất thì nguy, chàng ôn đi ôn lại nhiều lần cho nhớ thật kỹ. Lúc bắt đầu diễn lại chàng bước rất thong thả, cẩn thận cho khỏi sai trật. Đi xong 64 quẻ chàng cảm thấy tinh thần phấn chấn, khí lực dồi dào. Tuy đã mấy ngày chẳng được ăn uống gì mà trong bụng vẫn không thấy đói lắm.

Chàng vào vái ngọc tượng nói :

- Đa tạ Thần Tiên nương tử!

Rồi trở gót đi ra khỏi toà thạch động, tìm theo đường cũ qua cầu "Thiện nhân độ", lên núi Vô Lượng, tìm đến chỗ Mộc Uyển Thanh.

Đoàn Dự đem chuyện luyện Lăng Ba Vi Bộ trong sơn động thuật lại đầu đuôi cho Bảo Định Đế nghe. Nhưng chàng dấu nhẹm việc pho tượng ngọc mỹ nhân không đả động gì đến vì chàng biết rằng trước mặt bao nhiêu người mà đem chuyện mình say mê một pho tượng ngọc nữ thì thật là một điều lố bịch, lại khiến cho Mộc Uyển Thanh phải nổi trận tam bành.

Nghe Đoàn Dự kể xong Bảo Định Đế nói :

- Bộ pháp 64 quẻ này dường như ở trong có ẩn hiện một căn bản nội công vào hạng thượng thừa. Con thử diễn lại từ đầu đến cuối cho ta coi!

Đoàn Dự vâng lời, nhẩm lại một lúc rồi bước ra biểu diễn. Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái đều là những tay bản lĩnh cao siêu về phần nội công thế mà những chỗ tuyệt diệu về nội công trong bộ pháp này cũng chỉ nhìn nhận ra được vài phần mà thôi.

Đoàn Dự diễn xong 64 quẻ, cuối cùng quanh một vòng tròn rồi trở về nguyên vị. Bảo Định Đế cả mừng nói :

- Bộ pháp "Lăng Ba Vi Bộ" này ảo diệu vô cùng, trên đời có một không hai, con ta phải có phúc phân thế nào mới được gặp đó. Nay má con mới lại trùng phùng, thôi ta về để mẹ con hàn huyên với nhau.

Đoạn nhà vua quay sang bảo Hoàng hậu :

- Ta về thôi!

Vua cùng Hoàng hậu đứng dậy lên kiệu về Hoàng cung. Bọn Đoàn Chính Thuần tiễn đưa ra khỏi cổng lớn rồi mới trở vào Vương phủ truyền mở tiệc ăn mừng. Vợ chồng Trấn Nam Vương cùng Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh ngồi một bàn có đến mười mấy tên thị nữ đứng bên hầu hạ.

Mộc Uyển Thanh từ nhỏ đến lớn có bao giờ được dự bữa tiệc vinh hoa phú quý như hôm nay. Những món trân tu nàng chẳng những chưa từng thấy mà cũng chưa nghe ai nói đến bao giờ. Nàng được vợ chồng Trấn Nam Vương coi như người nhà thế là nghiễm nhiên thành hai cặp vợ chồng, cặp già, cặp trẻ ngồi chung trò chuyện vui vẻ nàng đã mừng thầm.

Đoàn Dự thấy mẹ chàng đối với cha vẫn ra chiều lãnh đạm, đã không uống rượu lại chẳng ăn ngon, chỉ dùng mấy món rau đậu nhạt nhẽo, liền đứng lên rót một chung rượu nâng đến trước mặt mẹ mời :

- Thưa mẫu thân! Con xin kính mời mẫu thân một chung rượu này.

Dao Đoan tiên tử vội gạt đi :

- Má có uống rượu đâu?

Đoàn Dự lại rót một chung, đưa mắt ra hiệu cho Mộc Uyển Thanh, rồi nói :

- Tôi xin mừng Mộc cô nương một ly.

Mộc Uyển Thanh cầm ly rượu đứng lên đưa đến trước mặt tiên tử. Dao Đoan tiên tử nghĩ thầm : "Đối với Mộc Uyển Thanh ta chẳng nên tỏ ra quá thờ ơ với nàng", liền mỉm cười nói :

- Mộc cô nương! Thằng nhỏ nhà này có tính lông bông lắm đấy. Ba má giữ y không được, cô nương phải giúp ta cai quản y mới xong.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Nếu bảo không nghe con sẽ đánh cho mấy cái bạt tai.

Dao Đoan tiên tử phì cười đưa mắt nhìn chồng. Đoàn Chính Thuần nói :

- Phải thế mới được.

Dao Đoan tiên tử đứng dậy đón lấy chén rượu ở tay Mộc Uyển Thanh. Dưới ánh đèn sáng, nàng trông rõ bàn tay bà nhỏ nhắn, trắng như tuyết, trong như ngọc nhưng trên mu bàn tay, chỗ gần cổ tay có miếng chàm đỏ tươi. Bất giác nàng rùng mình, run run hỏi :

- Phải chăng bà... bà là Thư Bạch Phụng?

Dao Đoan tiên tử cười đáp :

- Sao cô lại biết tên của ta?

Vẫn một giọng run run Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Bà đúng là Thư Bạch Phụng, trước nay bà vẫn sử cây nhuyễn tiên làm binh khí phải không?

Dao Đoan tiên tử thấy nàng biến sắc nhưng không ngờ gì nàng có ý định ám toán, vẫn tươi cười đáp :

- Thằng Dự đối với cô thật tình lắm nhỉ, y đem cả như danh ta nói với cô.

Mộc Uyển Thanh kêu lên :

- Ơn thầy đã nặng, lời thầy dám sai?

Nàng vẫy tay phải một cái, hai mũi tên độc bắn ra, nhằm giữa bụng Dao Đoan tiên tử phóng tới.

Bốn người ngồi bàn tiệc đang truyện trò vui vẻ, thân mật trong bầu không khí gia đình, ai ngờ Mộc Uyển Thanh đột nhiên giở quẻ. Dao Đoan tiên tử tuy võ công hơn Mộc Uyển Thanh nhiều nhưng ngồi gần nàng quá, lại trong khi bất ngờ không kịp đề phòng, bà thấy rõ không còn cách nào tránh được nữa. Đoàn Chính Thuần lanh mắt trông thấy, vội đưa ngón tay trỏ theo cách điểm huyệt "Nhất Dương chỉ" để khống chế Mộc Uyển Thanh nhưng cũng chậm mất rồi.

Đoàn Dự đã mấy lần thấy nàng đang cười bỗng phóng tên giết người nhanh như chớp, đầu mũi tên đều có tẩm thuốc độc cực kỳ lợi hại. Giờ vừa thấy nàng phất tay áo đã biết ngay là nguy đến nơi rồi. Chàng đang đứng bên cạnh mẫu thân khốn nỗi chẳng có chút công nào để cản trở Mộc Uyển Thanh đành theo phép Lăng Ba Vi Bộ bước chân chéo đi, chuyển mình che đỡ cho Dao Đoan tiên tử. "Phập phập" hai tiếng, hai mũi tên cắm vào ngực chàng. Đồng thời Mộc Uyển Thanh thấy sau lưng mình đánh nhốt một cái, nàng đau quá nằm gục xuống bàn, không sao nhúc nhích được nữa.

Đoàn Chính Thuần ứng biến cực kỳ mau lẹ, đưa ngón tay ra điểm hết 8 đường huyệt đạo chung quanh vết thương cho máu độc khỏi chảy vào tim. Ông lật tay lại, đẩy lưng Mộc Uyển Thanh lên để điểm vào huyệt khớp xương tay phải, khiến tay nàng tê liệt không phóng ám tiến được nữa. Đoạn lớn tiếng gọi :

- Lấy thuốc giải độc cho mau!

Mộc Uyển Thanh vẫn run run nói :

- Tôi chỉ cần giết Thư Bạch Phụng, quyết không hại Đoàn lang.

Tay phải nàng đau quá, nàng phải cố nhịn đau thò tay trái vào bọc móc ra hai bình thuốc giải nói :

- Lấy thuốc đỏ cho uống còn thuốc trắng thoa vào vết thương. Mau lên! Chỉ chậm một phút là không còn tài nào cứu chữa được nữa.

Dao Đoan tiên tử nhìn nàng trừng trừng, thấy nàng thực lòng tha thiết với Đoàn Dự thì bà đã đoán ra mọi sự. Bà vội lấy hai viên thuốc đỏ nhét vào miệng con, rồi lấy thuốc tán trong bình trắng rịt vào vết thương, sau khi đã nhẹ nhàng nhổ hai mũi tên ra.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Cảm tạ trời Phật. Tánh mạng chàng không còn gì đáng ngại nữa, nếu không thì... thì tôi... hóa ra...

Đoàn Dự trúng tên rồi mê man không biết gì nữa, ngã lăn vào lòng mẹ, ngất lịm đi. Vợ chồng Đoàn Chính Thuần mắt không rời vết thương ở ngực con, lúc đầu thấy máu đen chảy ra, sau biến ra sắc tím rồi dần dần chuyển thành sắc đỏ, bấy giờ mới thở phào một cái nhẹ nhõm, biết rằng con mình thoát chết rồi.

Dao Đoan tiên tử ẵm Đoàn Dự lên đưa vào buồng nằm, đắp chăn cho con rồi cầm mạch xem. Tuy mạch chạy yếu nhưng đã điều hòa bà yên dạ trở ra. Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Không có gì đáng ngại chứ?

Dao Đoan tiên tử không đáp, nhìn Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Cô bảo với Tu La đao Tần Hồng Miên...

Đoàn Chính Thuần nghe đến sáu chữ "Tu La đao Tần Hồng Miên" biến sắc ngắt lời bảo vợ :

- Mình... mình...

Dao Đoan tiên tử không thèm để ý đến lời chồng, tiếp tục nói với Mộc Uyển Thanh :

- Cô bảo với bà ấy rằng : nếu muốn giết ta thì cứ đường hoàng ra tay, hà tất phải dùng cách lén lút thế này? Không sợ người ta cười cho ư?

Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi không biết Tu La đao Tần Hồng Miên là ai.

Dao Đoan tiên tử hỏi :

- Thế ai sai cô đến giết ta?

Mộc Uyển Thanh nói :

- Đó là sư phụ tôi. Sư phụ tôi sai tôi giết hai mạng, bà là một. Người chỉ bảo trên tay bà có miếng chàm đỏ và tên là Thư Bạch Phụng, dong nhan rất mỹ lệ, sử cây nhuyễn tiên. Người không nói gì đến bà đã thành một vị đạo cô. Tôi thấy bà dùng cây phất trần làm khí giới lại mang danh Dao Đoan tiên tTử, có ngờ đâu lại chính là bà? Khổ hơn nữa lại chính là mẫu thân Đoàn lang.

Nói xong hai hàng châu lệ trào ra.

Dao Đoan tiên tử Thư Bạch Phụng hỏi :

- Có phải sư phụ cô là một bà nhan sắc kiều diễm, khuyết mất ba đốt ngón tay bên phải?

Mộc Uyển Thanh lấy làm kỳ hỏi lại :

- Đúng lắm! Nhưng sao bà lại biết? Sư phụ tôi họ Khang.

Thư Bạch Phụng hai hàng châu lệ đầm đìa chảy xuống má nói :

- Chính Thuần! Thôi mình ở lại trông nom cho Đoàn Dự!

Đoàn Chính Thuần nói :

- Thư Bạch Phụng mình ơi! Những điều oan nghiệt dĩ vãng mình để tâm làm chi?

Thư Bạch Phụng nét mặt rầu rầu nói :

- Mình không để tâm nhưng tôi để tâm và người ta vẫn để tâm thì làm sao?

Dứt lời bà đứng phắt dậy, nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Đoàn Chính Thuần nắm lấy áo vợ. Thư Bạch Phụng quay lại tát vào mặt chồng. Đoàn Chính Thuần vội nghiêng đầu né tránh.

Xem tiếp hồi mười sáu

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 16 Bể ái nổi phong ba

Đoàn Chính Thuần nghiêng đầu tránh cái tát của Dao Đoan tiên tử, bỗng nghe "roạc" một tiếng, tay áo Thư Bạch Phụng đứt mất một nửa, Thư Bạch Phụng cả giận quay đầu lại hỏi :

- Ngươi muốn giở võ với ta chăng?

Đoàn Chính Thuần nói :

- Thư Bạch Phụng mình...

Thư Bạch Phụng không đáp, lẹ làng nhảy vọt lên nóc nhà phía trước, rồi thấy bóng bà nhô lên hạ xuống mười lần, đã đi đến hơn mười trượng.

Xa xa nghe rõ tiếng Lăng Thiên Lý quát hỏi :

- Ai?

Thư Bạch Phụng đáp :

- Ta!

Lăng Thiên Lý nói :

- Ôi Vương phi!

Rồi không thấy gì nữa. Thư Bạch Phụng đã đi xa, lẩn vào trong bóng tối. Đoàn Chính Thuần đứng ngay cán tàn nhìn theo hồi lâu rồi trở vào. Mộc Uyển Thanh sắc mặt lợt lạt, nàng vẫn ngồi yên, không lẩn trốn đi đâu cả. Đoàn Chính Thuần lại bên, cầm hai tay nàng giật đánh "rắc" một tiếng, khớp xương tay lại in như cũ. Nàng nghĩ thầm : mình đã phóng ám tiến bắn vợ con ông này, không biết ông sẽ hành tội cách nào đây?

Bỗng thấy Đoàn Chính Thuần nét mặt thiểu não, uể oải ngồi xuống ghế, nghiêng bình từ từ rót rượu, rồi uống ồng ộc một hơi cạn cốc, mắt vẫn trân trân nhìn ra phía cửa sổ từ đó Thư Bạch Phụng đã nhảy ra ngoài, tâm trí nghĩ tận đâu đâu. Ông ngồi lầm lì, lâu lâu lại rót cốc rượu khác, nốc ừng ực một hơi hết sạch. Rồi cứ rót rồi lại uống, uống rồi lại rót liên hồi đến mười mấy cốc. Bình này hết rượu ông lấy bình khác ra. Mộc Uyển Thanh thấy kiểu uống rượu của ông kỳ ở chỗ rót cực chậm mà uống lại rất nhanh. Nàng cảm thấy trong dạ mỗi lúc một bồn chồn thêm, sau nàng không nhịn được nữa la lên :

- Chắc ông đang nghĩ cách gì cực kỳ thảm độc để hành hạ tôi, xin hạ thủ ngay đi!

Đoàn Chính Thuần quay lại nhìn nàng hồi lâu, rồi tự nói dường như để mình nghe :

- Giống quá! Giống quá! Lúc mới trông mình đã nhận ra ngay. Dáng điệu ấy, tính nết ấy!

Mộc Uyển Thanh nghe lõm bõm không hiểu, hỏi lại :

- Ông nói lảm nhảm gì vậy?

Đoàn Chính Thuần không đáp, đột ngột đứng dậy, giơ bàn tay trái ra, quạt lật về phía sau, chênh chếch sang bên, tiếng gió nhẹ nhàng vi vu nổi lên, thổi tắt phụt một cây đèn nến ở sau lưng. Ông tiếp tục quạt tay phải chệch sang mé bên kia về phía sau, một ngọn đèn thứ hai lại tắt. Cứ kiểu ấy ông quạt một lúc tắt luôn năm ngọn đèn. Mắt ông vẫn hướng về phía trước, bàn tay đưa ra rút về nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi, có vẻ ung dung lắm.

Mộc Uyển Thanh giật mình hỏi :

- Đây là... là phép "Ngũ La Khinh Yên chưởng"? Tại sao ông biết?

Đoàn Chính Thuần vẻ mặt thiểu não, gượng cười hỏi lại :

- Sư phụ đã dạy cô phép này chưa?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Sư phụ tôi bảo tôi chưa đủ căn bản học phép này. Người còn biểu chưởng pháp đó người sống để bụng, chết đem đi chứ nhất quyết không truyền cho ai.

Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Ồ! Người bảo sống để bụng, chết đem đi chứ nhất quyết không truyền cho ai hả?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Vâng! Sư phụ tôi chỉ luyện tập lúc vắng tôi mà thôi. Tôi phải trộm ngó đấy chứ.

Đoàn Chính Thuần hỏi lại :

- Cô thường thấy bà ta lúc nào có một mình mới luyện thôi hả?

Mộc Uyển Thanh gật đầu đáp :

- Mỗi khi sư phụ tôi luyện chưởng pháp này là hay lên ruột lắm. Trấn Nam Vương hình như ông còn giỏi hơn sư phụ tôi về môn này.

Đoàn Chính Thuần thở dài đáp :

- Phép "Ngũ La Khinh Yên chưởng" này chính ta dạy cho sư phụ cô đó.

Mộc Uyển Thanh giật mình, không thể không tin được vì nàng thấy sư phụ nàng phải quạt hai ba chưởng đèn mới tắt, chứ một chưởng không xong, đâu có được như Đoàn Chính Thuần, quạt một cách dễ như không. Nàng lắp bắp hỏi :

- Thế thì ông còn là thầy sư phụ tôi... tức tổ sư tôi rồi.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói :

- Không phải thế.

Ông lấy tay chống cằm tự nói một mình :

- Mỗi khi nàng luyện chưởng là một lần lên ruột, nàng còn bảo chưởng pháp này sống để bụng, chết mang theo...

Mộc Uyển Thanh lại hỏi :

- Thế thì ông...

Đoàn Chính Thuần lắc đầu ngắt lời bảo nàng đừng hỏi nữa. Một lúc sau ông đột ngột hỏi :

- Năm nay cô 18 tuổi rồi nhỉ. Có phải cô sinh vào khoảng tháng 9 không?

Mộc Uyển Thanh lấy làm kỳ, giật mình đánh thót một cái hỏi lại :

- Ô hay! Sao chuyện gì của tôi ông cũng biết? Ông là thế nào với sư phụ tôi?

Đoàn Chính Thuần tỏ vẻ đau khổ vô cùng, ngập ngừng nói :

- Uyển... Uyển con ơi! Ta... nghĩ mà thẹn với sư phụ và con lắm!

Mộc Uyển Thanh nói :

- Sao vậy ông? Tôi coi ông là người rất hòa nhã, rất tử tế mà!

Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Sư phụ con không nói tên cho con biết ư?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Người chỉ biểu là "Vô Danh khách", còn tên chi họ gì tôi cũng không biết.

Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Bấy lâu nay sư phụ con ở đâu? Tình trạng thế nào?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Tôi ở với sư phụ mé sau một trái núi cao chót vót, không ai biết tới. Từ nhỏ đến lớn tôi vẫn thấy người ở đó.

Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Ba má con là ai? Có thấy sư phụ nói tới không?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Sư phụ tôi chỉ biểu tôi là một đứa côi cút, ba má bỏ rơi, người thấy ở bên đường, nhặt về nuôi cho đến lúc khôn lớn.

Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Thế con có giận ba má con không?

Mộc Uyển Thanh quay đi không đáp, đưa ngón tay út lên miệng nhấm nhấm. Cử chỉ ngây thơ này khiến Đoàn Chính Thuần trông thấy luống những đau lòng, nước mắt chảy quanh, tuôn rơi xuống má hai giọt. Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ hỏi :

- Sao ông lại khóc?

Đoàn Chính Thuần quay ra đằng sau, lau ráo nước mắt rồi gượng cười đáp :

- Ta khóc đâu? Hôm nay uống nhiều rượu quá, rượu bốc hơi lên đấy chứ!

Mộc Uyển Thanh cãi :

- Rõ ràng tôi trông thấy ông khóc mà! Chỉ có đàn bà con gái mới khóc chứ! Đàn ông như ông cũng biết khóc nhỉ! Tôi chưa từng thấy đàn ông khóc bao giờ, trừ phi là con nít.

Đoàn Chính Thuần thấy Mộc Uyển Thanh ngây ngô, không hiểu việc đời lại càng xót dạ nói :

- Uyển con ơi! Ta sẽ đối đãi với con hết lòng từ ái để bù lại những điều lầm lỗi trước. Con muốn điều chi, cứ nói cho ta nghe, ta sẽ ráng làm cho con được vừa lòng.

Từ lúc bắn Đoàn phu nhân, Mộc Uyển Thanh lo lắng vô cùng, giờ nghe Đoàn Chính Thuần ôn tồn nói vậy, nàng mừng quýnh hỏi :

- Tôi vừa phóng ám tiến, định sát hại phu nhân mà ông không thù ư?

Đoàn Chính Thuần đáp :

- Ta cũng nghĩ như con : "Ơn thầy đã nặng, lời thầy dám sai". Những chuyện xích mích giữa đám người trên không can gì đến con. Ta không giận con đâu, có điều từ đây sắp tới con đừng vô lễ với phu nhân nữa nhé!.

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Thế nhưng rồi sư phụ hỏi đến biết nói làm sao?

Đoàn Chính Thuần nói :

- Con dẫn ta về ra mắt sư phụ, để ta giải thích giùm con.

Mộc Uyển Thanh vỗ tay reo :

- Hay quá! Thế thì hay quá!

Rồi nàng lại chau mày nói :

- Nhưng sư phụ thường bảo tôi rằng phái nam trên đời toàn là phường bạc bẽo, người cấm cửa không tiếp kiến gã đàn ông nào.

Trên mặt Đoàn Chính Thuần thoáng qua vẻ ngạc nhiên hỏi :

- Sư phụ con không tiếp đàn ông ư?

Mộc Uyển Thanh nói :

- Đúng thế! Sư phụ tôi vẫn cậy Lý á bà mua muối gạo giùm. Một hôm, mụ đau bảo con trai đi mua thay đem đến. Sư phụ tôi giận lắm để tận cổng ngoài chứ không cho vào nhà.

Đoàn Chính Thuần thở dài nói :

- Tần Hồng Miên nàng ơi! Sao nàng khổ hạnh giữ gìn đến như vậy?

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Ông lại nói đến Tần Hồng Miên rồi. Tần Hồng Miên là ai vậy?

Đoàn Chính Thuần lưỡng lự một lúc rồi nói :

- Việc này không thể giấu con mãi được. Sư phụ con chính tên là Tần Hồng Miên, ngoại hiệu là Tu La đao đó.

Mộc Uyển Thanh gật đầu nói :

- Hừ thảo nào phu nhân lúc thấy tôi vẫy tay phóng tên, cứ ngơ ngác hỏi tôi hoài : "Tần Hồng Miên đối với cô là thế nào?". Lúc đó thực tình tôi chưa biết, chứ có phải tôi nói dối phu nhân đâu? Thế ra sư phụ tôi là Tần Hồng Miên, cái tên hay quá nhỉ. Sao sư phụ lại không cho tôi hay?

Đoàn Chính Thuần không trả lời hỏi lại :

- Vừa nãy ta điểm huyệt vào tay con, bây giờ còn đau không?

Mộc Uyển Thanh nhìn mặt Đoàn Chính Thuần đầy vẻ nhu mì từ ái mỉm cười đáp :

- Khá nhiều rồi ông ạ! Bây giờ ta thử vào xem chàng đã đỡ chưa? Tôi e rằng chất thuốc độc này không thể một lúc khỏi ngay được.

Đoàn Chính Thuần nói :

- ừ thì vào!

Hai người đứng lên Đoàn Chính Thuần lại nhắc Mộc Uyển Thanh :

- Con muốn điều gì bảo ta nhé!

Mộc Uyển Thanh mặt đỏ như gấc, thẹn thò hạ thấp giọng :

- Tôi chỉ sợ... đã bắn phu nhân, người... người căm hờn tôi...

Đoàn Chính Thuần nói :

- Thong thả rồi sẽ xin lỗi người, sau này chắc người cũng bỏ qua đi.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi không chịu xin lỗi ai bao giờ cả, nhưng nay vì Đoàn lang tôi đành phải xin lỗi cũng không sao.

Đột nhiên nàng đánh bạo nói tiếp :

- Trấn Nam Vương ơi! Có thật... ông nhất định thoả mãn nguyện vọng của tôi?

Đoàn Chính Thuần nói :

- Điều gì sức ta có thể làm cho con vừa lòng được thì ta nhất định không từ chối.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Ông giữ đúng lời hứa chứ?

Đoàn Chính Thuần mỉm cười, lại gần bên vuốt tóc nàng tia mắt tràn trề vẻ từ ái nói :

- Ta không nói dối con đâu.

Mộc Uyển Thanh nói rất nhanh :

- Việc hôn nhân của chàng với tôi xin ông tác chủ cho, đừng để chàng phụ bạc nhé!

Nàng nói xong mặt nóng bừng bừng. Sắc mặt Đoàn Chính Thuần mỗi lúc một tái đi, từ từ rời Mộc Uyển Thanh, uể oải ngồi xuống ghế lâu lắm không nói nên lời. Mộc Uyển Thanh thấy tình thế có vẻ xoay chiều, ngập ngừng hỏi :

- Ông... ông không bằng lòng ư?

Đoàn Chính Thuần nghẹn ngào nhưng nói có vẻ quả quyết :

- Con không thể kết hôn cùng thằng Dự được đâu!

Mộc Uyển Thanh như bị một gáo nước lạnh dội vào người run run hỏi :

- Sao vậy ông? Chàng... chàng đã hứa hôn với tôi rồi mà.

Đoàn Chính Thuần lẩm bẩm :

- Oan nghiệt! Oan nghiệt!

Mộc Uyển Thanh tiếp :

- Nếu chàng không chịu tôi... tôi... sẽ giết chàng rồi tự sát. Tôi... tôi đã lập trọng thệ với sư phụ rồi.

Đoàn Chính Thuần uể oải lắc đầu nói :

- Không được.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi vào hỏi chàng vì sao mà không lấy tôi?

Đoàn Chính Thuần nói :

- Y cũng không hiểu đâu.

Nói xong ông nhìn nét Mộc Uyển Thanh thấy nàng vô cùng đau khổ giống hệt Tần Hồng Miên hồi được tin buồn 18 năm về trước, ông cầm lòng không đậu buột mồm nói :

- Con không thể kết hôn cùng thằng Dự mà cũng không thể giết y được.

Mộc Uyển Thanh ngơ ngác hỏi :

- Sao thế ông?

Đoàn Chính Thuần nói :

- Vì... vì Đoàn Dự là... là... thân huynh con.

Mộc Uyển Thanh tưởng mình nghe không rõ, hãi hùng giương mắt lên nhìn Đoàn Chính Thuần run run hỏi :

- Sao? Ông nói sao? Đoàn lang là thân huynh tôi?

Đoàn Chính Thuần buồn rầu nói :

- Uyển con ơi! Con có biết sư phụ con là ai không? Người là mẹ ruột con đó. Ta... ta đây là cha ruột con.

Mộc Uyển Thanh vừa kinh khủng vừa oán hận, sắc mặt tái mét lắp bắp :

- Tôi... tôi không... không thể tin được.

Bất thình lình, ngoài cửa sổ có tiếng thở dài sườn sượt kế đến giọng ảm đạm của người đàn bà nói vọng vào :

- Uyển con ơi! Về thôi!

Mộc Uyển Thanh quay phắt ra gọi :

- Sư phụ!

Một tiếng kẹt, cánh cửa sổ mở ra, một người đàn bà đứng tuổi đứng bên ngoài, mặt trái xoan, lông mày dài, nhan sắc cực kỳ khả ái, mắt loé lên những tia sáng hung dữ, bướng bỉnh...

Đoàn Chính Thuần thấy tình nhân cũ là Tu La đao Tần Hồng Miên xuất hiện đột ngột, phần thì ngạc nhiên, phần lại hoan hỉ lên tiếng gọi :

- Hồng Miên! Hồng Miên nàng ơi! Mười mấy năm nay tôi chắc nàng đau khổ lắm.

Tần Hồng Miên không đáp lời Đoàn Chính Thuần gọi con :

- Uyển Thanh con! Ra đây mau! Đừng ở trong nhà con người bạc hãnh ấy một phút nào nữa!

Mộc Uyển Thanh thấy tình trạng giữa Đoàn Chính Thuần cùng sư phụ nàng mà lòng nguội lạnh nàng nói :

- Sư phụ ơi! Ông... ông này thì gạt con bảo sư phụ là má còn ông ta là gia gia con đó.

Tần Hồng Miên nói :

- Má con mất sớm mà gia gia con cũng chết rồi.

Đoàn Chính Thuần chạy ra cửa sổ ôn tồn nói :

- Hồng Miên nàng ơi! Nàng hãy vào đây để tôi được nhìn mặt nàng một lúc đã. Từ đây nàng đừng đi đâu nữa, đôi ta vĩnh viễn sống bên nhau.

Trên mắt Tần Hồng Miên chợt thoáng qua một tia mừng hỏi :

- Ông nói thật chăng?

Đoàn Chính Thuần đáp :

- Tôi nói thật đấy! Tần Hồng Miên nàng ơi! Không một ngày nào là tôi không tưởng nhớ nàng.

Tần Hồng Miên lại hỏi :

- Nhưng ông có bỏ được Thư Bạch Phụng không đã?

Đoàn Chính Thuần ngần ngừ không đáp, vẻ mặt đăm chiêu. Tần Hồng Miên lại tiếp :

- Nếu ông còn thương tới con nhỏ này thì hãy đi với tôi. Vĩnh viễn không được nghĩ đến Thư Bạch Phụng và suốt đời không trở về đây nữa.

Mộc Uyển Thanh nghe cuộc đối thoại cầm lòng không đậu, cúi gầm xuống nước mắt chảy quanh, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn sư phụ rồi nhìn Đoàn Chính Thuần. Vẻ mặt hai người cùng ngẩn ngơ, dường như đang theo đuổi một viễn tưởng riêng. Nàng biết hai người ở trước mặt chính là cha sanh, mẹ đẻ mình. Mấy hôm nay nàng mang nặng mối tình với Đoàn lang thì chàng lại là người anh cùng cha khác mẹ với mình. Nào đâu thú uyên ương liền cánh, nào đâu cảnh bách niên giai lão, mới trong giây phút đã biến thành mây bay khói tỏa.

Bỗng nghe Đoàn Chính Thuần đáp :

- Tôi ở vào đại vị Trấn Nam Vương nước Đại Lý, một tay nắm cả thiên chốt mọi cơ quan văn võ trong nước, dễ gì một chốc bỏ ra đi ngay được?

Tần Hồng Miên lớn tiếng hỏi :

- Trước đây 18 năm, ông đã nói với tôi thế nào mà bây giờ ông lại đổi giọng? Đoàn Chính Thuần! Chẳng qua ông chỉ là kẻ bạc hãnh vô nghi. Tôi... tôi uất hận vô cùng!

Bất thình lình trên nóc nhà phía đông vang lên ba tiếng vỗ tay, rồi bên nóc nhà mé tây có tiếng vỗ tay đáp lại. Đồng thời có tiếng Cao Thăng Thái và Lăng Thiên Lý hô :

- Có thích khách! Có thích khách! Các anh em ai nấy phải trấn giữ nguyên bản vị mình, không được vọng động!

Tần Hồng Miên gọi con :

- Uyển Thanh! Con còn đợi gì chưa ra?

Mộc Uyển Thanh vâng một tiếng, phi thân nhảy vọt ra ngoài cửa sổ vào lòng người vừa là ân sư vừa là từ mẫu nàng. Đoàn Chính Thuần gọi với :

- Tần Hồng Miên! Nàng bỏ tôi đi đấy ư?

Ông trông ra thì trên nóc nhà bốn mặt đều có người đang phục sẵn. Số là trong phủ Trấn Nam Vương rất nhiều khách, thu phục được vô số dũng sĩ võ nghệ cao cường do Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái cùng Ngư, Tiều, Canh, Độc tiếp đãi và điều động. Động khi có việc ai nấy đều ra sức trổ tài.

Tần Hồng Miên bèn đổi sang giọng ỏn thót bảo Đoàn Chính Thuần :

- Chính Thuần chàng ơi! Chàng ở vào địa vị Vương gia mười mấy năm trời còn chưa đủ hay sao? Chàng đi theo tôi thì từ đây chàng bảo sao tôi nghe vậy, quyết không mắng chàng nửa câu hay đánh chàng nửa đòn đâu mà ngại. Còn con nhỏ rất khả ái của chúng ta kia, chẳng lẽ chàng không thương tiếc nó ư?

Đoàn Chính Thuần cảm động buột miệng nói :

- Phải đó tôi đi với nàng.

Tần Hồng Miên cả mừng, đưa tay phải cho Đoàn Chính Thuần nắm lấy. Bất thình lình phía sau có tiếng người đàn bà lanh lảnh vang lên :

- Tỷ... tỷ nương, tỷ nương lại bị gạt đó! Y chỉ đi theo tỷ nương được mấy bữa rồi lại trở về với chức tước Vương giả.

Đoàn Chính Thuần run lên nói :

- A Bảo nàng ơi! nàng đấy ư? Nàng đến từ lúc nào vậy?

Mộc Uyển Thanh nghiêng đầu nhìn xem thì người đàn bà đang nói đó mặc áo lụa xanh, rõ ràng là Chung phu nhân trong hang Vạn Kiếp. Đằng sau bà còn ba người nữa thì một người là Diệp Nhị Nương, một người là Vân Trung Hạc bà người thứ ba chính là Nam Hải Ngạc Thần mới ra đi lúc nãy bây giờ lộn trở lại. Nàng giật mình kinh hãi, sợ thay cho Đoàn Dự, bèn cất tiếng gọi :

- Đoàn lang! Đoàn lang! Chàng đã tỉnh chưa?

Đoàn Dự bị thương nằm trên giường, còn đang mơ màng thì Nam Hải Ngạc Thần sấn vào phòng ôm lấy đem ra. Tuy bây giờ chàng sợ Ngạc Thần mới giật mình tỉnh hẳn nhưng từ lúc trước chàng đã nghe ba người : phụ thân chàng, Mộc Uyển Thanh và Tần Hồng Miên nói chuyện với nhau bên ngoài cửa sổ. Mười phần câu chuyện chàng đã hiểu đến tám chín. Bây giờ chàng thấy Mộc Uyển Thanh vẫn gọi mình bằng Đoàn lang thì trong lòng chua xót đáp :

- Muội nương ơi! Từ đây trở đi, anh em ta tương thân tương ái, trong tình ruột thịt cũng vẫn đằm thắm như trước.

Mộc Uyển Thanh bực mình nói :

- Không! Không được! Chàng là gã trai đã nhìn thấy mặt thiếp trước tiên rồi!

Nói vậy thì nói nhưng nàng biết rằng mình cùng chàng đều là con ruột một nhà Đoàn Chính, anh em ruột làm sao mà lấy nhau được? Giả tỷ trên đời có bàn tay người lũng đoạn việc hôn nhân của nàng thì bất luận là ai, nàng cũng dám phóng ám tiến để giết kẻ đó. Nhưng đằng này không phải người xen vào ngăn cản hôn sự của nàng mà là tạo hóa đành hanh, thì dù nàng bản lãnh tuyệt vời hay quyền thế đến đâu chăng nữa cũng không thể nào vãn hồi lại được. Nàng càng nghĩ càng chán ngán, lòng lạnh như tro tàn. Bỗng nàng giẫm chân mạnh một cái rồi nhìn về phía tây lặng lẽ ra đi.

Tần Hồng Miên gọi giật giọng :

- Uyển! Uyển con ơi! Con đi đâu đấy?

Mộc Uyển Thanh chẳng thèm đoái hoài đến cả sư phụ hay mẫu thân nữa, chỉ buông thõng một câu :

- Bà làm khổ cả đời tôi rồi! Bây giờ để mặc tôi!

Nàng đi thẳng một lèo không quay đầu lại nữa. Nàng đang đi lanh, một tên vệ sĩ giang tay ra ngăn lại hỏi :

- Ai?

Mộc Uyển Thanh không thèm đáp lại, phóng ngay một mũi tên trúng yết hầu, gã té nhào lăn từ trên nóc nhà xuống đất. Nàng vẫn không dừng chân, thoáng một cái bóng nàng đã chìm vào trong đêm tối.

Đoàn Chính Thuần thấy con trai mình đang bị Nam Hải Ngạc Thần cướp, đành bỏ mặc con gái đi đâu thì đi, vội đưa ngón tay ra toan điểm huyệt Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương thấy vậy, phóng bàn tay mềm mại ra chặn ngang cổ tay Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần xoay tay lại, móc lấy tay mụ. Mụ cười khanh khách, phóng ngón tay giữa đẩy văng tay Đoàn ra. Thế là chớp mắt đã trọi nhau ba miếng. Đoàn Chính Thuần cả kinh nghĩ thầm : Mụ này gớm thật.

Tần Hồng Miên thừa cơ thò tay ra nắm đầu Đoàn Dự, lớn tiếng hỏi :

- Đoàn Chính Thuần! Chàng muốn cho thằng con này sống hay chết?

Đoàn Chính Thuần đành phải dừng tay vì biết tính Tần Hồng Miên hung hãn vô cùng, hơn nữa nàng đang căm hận thấu xương người vợ chính thức mình là Thư Bạch Phụng. Nàng chỉ vận chưởng một cái là Đoàn Dự phải chết nên vội đấu dịu :

- Hồng Miên nàng ơi! Thằng nhỏ này vừa bị con gái nàng phóng trúng tên độc, bị thương nặng lắm đó!

Tần Hồng Miên nói :

- Nó đã uống thuốc giải độc rồi, không chết đâu. Tôi tạm đem nó đi, thử xem chàng còn coi cái chức tước Vương giả hơn được con chàng nữa không?

Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả nói :

- Thằng nhỏ này không thờ ta làm thầy không xong.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Nàng buông con tôi ra, rồi bảo sao tôi nghe vậy.

Tần Hồng Miên tuy đã xa cách Đoàn Chính Thuần mười mấy năm nhưng mối tình không vì thế mà phai lạt nên nghe Đoàn Chính Thuần nói vậy thì lòng nàng mềm nhũn ra, hỏi lại :

- Chàng nói thật chăng? Tôi bảo gì chàng cũng nghe nhé!

Đoàn Chính Thuần đáp :

- Tôi nói thật đấy!

Chung phu nhân xen vào :

- Tỷ nương ơi! Tỷ nương tin lời con người phụ bạc đó ư? Nhạc tam tiên sinh! Chúng ta về thôi!

Nam Hải Ngạc Thần ẵm Đoàn Dự nhảy vọt lên mái nhà phía trước mặt. Tiếp theo là tiếng "huỳnh huỵch", Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã đánh hai tên vệ sĩ ngã lăn xuống đất.

Chung phu nhân trêu chọc :

- Đoàn Chính Thuần! Hôm nay sao không choảng nhau một mẻ?

Đoàn Chính Thuần tuy nhận thấy lực lượng trong Vương phủ hùng hậu vị tất đã không hạ nổi đối phương nhưng con mình bị chúng bắt, lâm vào tình thế "ném chuột sợ vỡ đồ" khó bề đem võ lực ra để thủ thắng. Huống chi hai người đàn bà này lại có mối quan hệ lớn với mình nên ông ôn tồn bảo Chung phu nhân :

- A Bảo! Cả nàng cũng làm khó dễ ta nữa ư?

Chung phu nhân đáp :

- Nay tôi đã là vợ Chung Vạn Cừu, ông đừng gọi lăng nhăng như thế được không?

Đoàn Chính Thuần tiếp :

- A Bảo nàng có biết bấy lâu nay ta vẫn tưởng nhớ nàng không?

Chung phu nhân lại thấy mềm lòng, mắt đỏ lên nói :

- Hôm tiểu công tử đến nhà tôi, tôi nhận ngay ra con chàng.

Tần Hồng Miên bảo Chung phu nhân :

- Sư muội ơi! Sư muội lại nghe lời đường mật của con người ấy ư?

Chung phu nhân cầm tay Tần Hồng Miên nói :

- Phải đó! Chúng ta đi thôi!

Đoạn quay lại bảo Đoàn Chính Thuần :

- Ông bưng thủ cấp Thư Bạch Phụng, nhất bộ nhất bái đến hang Vạn Kiếp, bọn tôi sẽ trao trả thằng con cho ông.

Đoàn Chính Thuần lẩm nhẩm ba chữ : "Hang Vạn Kiếp". Nam Hải Ngạc Thần ôm Đoàn Dự chạy mỗi lúc một xa. Bọn Cao Thăng Thái, Lăng Thiên Lý bốn mặt đổ ra ngăn cản. Đoàn Chính Thuần cất tiếng gọi to :

- Cao hiền đệ! Để bọn chúng đi thôi!

Cao Thăng Thái nói :

- Nhưng tiểu Vương gia bị chúng bắt đem đi.

Đoàn Chính Thuần đáp :

- Thủng thẳng rồi sẽ tính.

Vừa nói vừa nhảy vọt đến bên Cao Thăng Thái ra lệnh :

- Thích khách đi rồi! Ai nấy ở nguyên vị nghe.

Thoáng một cái, Đoàn Chính Thuần đã lẹ làng lướt tới bên Chung phu nhân dịu giọng hỏi :

- A Bảo! Mấy năm nay nàng bình yên đấy chứ?

Chung phu nhân buông thõng :

- Làm gì mà chẳng bình yên?

Đoàn Chính Thuần xoay tay lại, đưa một ngón điểm vào huyệt Đản Trung trước ngực bà một cách rất êm thấm. Chung phu nhân bất ngờ, không kịp phòng bị, người nàng mềm ra như sứa, lảo đảo suýt ngã. Đoàn Chính Thuần đưa tay trái ra đỡ lấy rồi giả vờ kinh ngạc hỏi :

- A Bảo! Nàng làm sao thế?

Tần Hồng Miên không biết ông ta đánh lừa cũng chạy lại hỏi :

- Sư muội! Sư muội làm sao vậy?

Đoàn Chính Thuần lại dùng phép Nhất Dương Chỉ nhanh như gió điểm vào huyệt Kiên Trinh Tần Hồng Miên.

Cả hai nàng đều bị điểm vào huyệt quan trọng, không cựa quậy được nữa. Đoàn Chính Thuần hai tay giữ hai nàng. Hai nàng chẳng ai bảo ai đều trừng mắt lộ vẻ căm giận Đoàn Chính Thuần và đều tự trách mình : "Sao mình lại hồ đồ thế được? Đã bị lừa một lần, bây giờ đến đối đầu với y mà không biết đề phòng".

Đoàn Chính Thuần quay ra bảo Cao Thăng Thái và Lăng Thiên Lý :

- Cao hiền đệ! Hiền đệ bị thương chưa khỏi về nghỉ đi thôi! Còn Lăng Thiên Lý ngươi điều động anh em bốn bề phòng vệ cho nghiêm mật!

Cao Thăng Thái và Lăng Thiên Lý cúi đầu vâng mệnh. Đoàn Chính Thuần cắp hai nàng vào trong nhà, rồi truyền cho thị tỳ lại bày bàn tiệc. Khi gia nhân lui ra cả rồi, Đoàn Chính Thuần lại điểm huyệt chân hai nàng để hai nàng không đi được nữa, đoạn giải phóng hai huyệt trọng yếu.

Tần Hồng Miên cả giận la lên :

- Bữa nay ngươi lại lừa dối, miệt thị hai chị em ta.

Đoàn Chính Thuần quay lại vừa xá dài hai nàng một cái vừa nói :

- Tôi tự biết mình có lỗi vậy xin tạ tội.

Tần Hồng Miên vẫn bực mình nói :

- Ai cần ngươi tạ tội? Buông tha chúng ta ngay!

Đoàn Chính Thuần giở giọng tán :

- Ba chúng ta xa nhau mười mấy năm trời nay mới lại được trùng phùng còn muôn ngàn điều muốn nối lại chuyện xưa. Hồng Miên nàng ơi! Sao nàng vẫn giữ nguyên tính nóng? A Bảo nàng hỡi! Nàng càng lớn tuổi càng xinh. Tôi chẳng thấy nàng già đi chút nào.

Chung phu nhân chưa đáp, Tần Hồng Miên ghen tức nói :

- Ngươi buông ta ra ngay! A Bảo càng lớn tuổi càng xinh đẹp còn ta đây càng lớn tuổi càng già càng xấu. Ngươi nhìn mặt con già này làm chi?

Đoàn Chính Thuần nhăn nhở nói :

- Hồng Miên nàng ơi! Nàng soi gương mà coi, nếu nàng mà già mà xấu thì những câu văn dùng để tả những bậc tuyệt thế giai nhân phải đổi lại thế này : "Tư dung cá lặn chim sa, dáng dấp bà già xấu xí".

Tần Hồng Miên đang giận mà không nín được phải phì cười. Nàng muốn giậm chân kêu lên, nhưng chân đã bị điểm huyệt không nhúc nhích được. Nàng bực quá nói :

- Ai thèm giễu cợt với ngươi? Vương gia gì mà ăn nói rặt giọng con tườu.

Dưới ánh đèn, Đoàn Chính Thuần thấy nàng chau đôi mày liễu, nét mặt giận dỗi càng thêm vẻ khả ái thì nhớ lại cái đêm hoan lạc ngày xưa, cầm lòng không đậu, lửa lòng bốc lên ngùn ngụt, bước lại đặt lên má nàng một cái hôn cháy miệng. Nửa người trên còn cử động được, nàng giơ tay trái lên tát thật mạnh đánh "bốp" một cái vào mặt Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần muốn tránh cái tát đó cũng chẳng khó gì, nhưng ông ta cố ý nhận cái tát, ghé vào tai nàng nói khẽ :

- Đao tu la chém chết, làm quỷ cũng oai phong.

Toàn thân Tần Hồng Miên run lên, nước mắt trào ra, khóc rưng rức nói :

- Sao chàng... chàng còn nhắc lại câu đó?

Nguyên trước kia Tần Hồng Miên sử cặp đao tu la vũng vẫy giang hồ mà có cái ngoại hiệu "Tu La đao". Lúc nàng bị thất thân cùng Đoàn Chính Thuần cũng tát Đoàn Chính Thuần một cái nổ đom đóm mắt ra. Bị tát Đoàn Chính Thuần đã nói câu "Đao Tu La chém chết, làm quỷ cũng oai phong". Nay nàng lại được nghe câu đó ở miệng Đoàn Chính Thuần, thật là một lời đường mật, nó làm cho tâm can nàng phải mềm nhũn, bao nhiêu cảm giác đê mê lại kéo đến...

Chung phu nhân khẽ bảo nàng :

- Sư tỷ ơi! Thằng cha này lại đem lời đường mật ra nhử, cốt để thoả thú tính, sư tỷ đừng có tin lời y!

Tần Hồng Miên nói :

- Phải đó! Sư muội nói phải đó! Đoàn Chính Thuần! Ta không tin miệng lưỡi ngươi nữa đâu!

Đoàn Chính Thuần lại nhăn nhở đến bên Chung phu nhân tán :

- A Bảo! Tôi hôn mình một cái, mình có cho phép không?

Chung phu nhân nghiêm nét mặt đáp :

- Ta là gái có chồng, nhất định không để thương tổn đến thanh danh chàng. Ngươi ức hiếp ta, ta quyết tự tử ngay trước mặt ngươi.

Đoàn Chính Thuần thấy lời nàng như dao chém đá, không dám trêu cợt nữa, hỏi :

- A Bảo! Sao nàng lại có thể lấy con người đó làm chồng được?

Chung phu nhân đáp :

- Tuy lang quân ta xấu xa là thế, gàn dở cục xúc là thế, võ công không bằng ngươi, nhân phẩm kém ngươi, vinh hoa phú quý so với ngươi càng không được phần nào nhưng chàng thủy chung với ta, lẽ nào ta lại phụ chàng? Nếu ta ăn ở theo lối mặt người dạ thú, tất bị trời tru đất diệt, muôn kiếp không được siêu sinh.

Đoàn Chính Thuần bất giác đem lòng kính cẩn, không dám đả động gì đến mối tình cũ kỹ nữa, hỏi sang chuyện khác :

- Các người bắt con ta đi làm gì? A Bảo! Hang Vạn Kiếp ở đâu? Nói cho ta hay!

Bất thình lình ngoài cửa có tiếng khàn khàn :

- Nàng đừng cho y biết!

Đoàn Chính Thuần giật mình nghĩ thầm : bọn Lăng Thiên Lý ở ngoài phòng vệ cẩn mật là thế, sao lại có người lạ vào được?

Chung phu nhân nét mặt rầu rầu hỏi vọng ra :

- Vết thương chàng chưa lành, đã đến đây làm chi?

Bỗng lại thấy có tiếng một người đàn bà tong trẻo giục :

- Chung tiên sinh! Vào đi!

Đoàn Chính Thuần lại giật mình, cả thẹn, mặt đỏ như gấc. Bỗng thấy tấm cửa vén lên, Dao Đoan tiên tử nhảy vào trước, theo sau là một người đàn ông rất xấu, mặt như mặt ngựa...

Người xấu trai đó chính là Chung Vạn Cừu. Đoàn Chính Thuần, Chung phu nhân đột nhiên thấy Chung Vạn Cừu cùng đến với Thư Bạch Phụng rất lấy làm kỳ.

Số là từ lúc Tần Hồng Miên cho Mộc Uyển Thanh xuống núi, vẫn không yên dạ, liền đến chỗ sư muội ở hang Vạn Kiếp tìm kiếm thì được Chung phu nhân cho biết đầu đuôi, rồi hai chị em cùng đi dò la. Giữa đường hai bà gặp Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc. Tần Hồng Miên là chỗ bạn học cũ với Diệp Nhị Nương, tuy hai người cùng học một thầy nhưng mỗi người một ngả, không đi lại với nhau bao giờ. Nay được tin Mộc Uyển Thanh bị hãm ở phủ Trấn Nam Vương liền cùng nhau kéo đến.

Chung Vạn Cừu coi vợ quý hơn cả mạng mình, lại có máu ghen, sau khi vợ ra đi y ngồi đứng không yên, nghĩ quanh, nghĩ quẩn, lòng nóng như lửa đốt, chẳng kể gì đến vết thương chưa lành cùng là đang trá tử ẩn lánh trong hang sâu núi hiểm, nửa đêm lật đật ra đi tìm vợ. Đến ngoài phủ Trấn Nam Vương thì vừa gặp Thư Bạch Phụng đang hậm hực đi ra. Hai người chẳng nói câu nào, động thủ đánh liền. Đánh nhau đang hăng, bỗng thấy bóng người áo đen lướt qua, bưng mặt thổn thức chính là Hương Dược Xoa Mộc Uyển Thanh. Hai người cùng lên tiếng gọi giật lại, Mộc Uyển Thanh chẳng nói chẳng rằng, cắm đầu đi thẳng. Chung Vạn Cừu bảo Đoàn phu nhân :

- Ta vội đi kiếm vợ ta có thì giờ đâu mà đánh nhau với ngươi?

Thư Bạch Phụng hỏi :

- Ngươi đi đâu kiếm vợ?

Chung Vạn Cừu đáp :

- Đến nhà thằng chó chết Đoàn Chính Thuần chứ đi đâu. Vợ ta mà để y thấy mặt thì hỏng bét.

Thư Bạch Phụng hỏi :

- Sao lại hỏng bét?

Chung Vạn Cừu đáp :

- Thằng đểu này khéo nói lắm, y quen lời đường mật lừa bao nhiêu phụ nữ vào cạm bẫy. Lão gia không giết tên tiểu yêu mặt trắng này không xong.

Thư Bạch Phụng tự hỏi : Đoàn Chính Thuần đã ngoài bốn chục, mặt mũi râu ria là thế sao thằng cha mặt ngựa này còn gọi y là tiểu yêu mặt trắng? Chắc là tại y vẫn giữ nét trăng hoa đây, ta không thể không theo dõi được. Nghĩ vậy bà liền hỏi lại gã mặt ngựa xem vợ hắn là ai, lai lịch thế nào? Khi bà ta đã biết vợ hắn là nhân tình cũ của chồng mình thì máu ghen lại sôi lên, lập tức cùng Chung Vạn Cừu trở lại Vương phủ. Vì thế mà bốn mặt canh gác cực kỳ nghiêm ngặt, nhưng vệ sĩ trông thấy Vương phi còn ai dám ngăn cản, nên hai người mới lọt vào một cách êm thấm, vì không ai báo động vào trong.

Đoàn Chính Thuần đang cười nói, chớt nhả cùng Tần Hồng Miên và Chung phu nhân, hai người đứng ngoài cửa sổ đã nghe hết. Thư Bạch Phụng khí tức xông lên tận cổ, còn Chung Vạn Cừu nghe được lời vợ mình kiên quyết thủy chung thì trong lòng khoan khoái vô cùng.

Chung Vạn Cừu vào đến bên vợ, phần thì thương yêu, phần lại hãnh diện có vợ kiên trinh, gã đi đi lại lại tung tăng trước mặt phu nhân, tự đắc nói :

- Nếu hắn lấn áp, xâm phạm vào mình nàng, tôi quyết liều mạng với hắn.

Chung phu nhân nói :

- Đoàn Vương gia! Quý công tử bị Nam Hải Ngạc Thần bắt đi, lang quân tôi xin cho lão chưa chắc đã chịu buông tha. Vương gia để tôi cùng sư tỷ đây về tìm phương giải cứu. Nếu không lấy ra được thì ít nhất cũng giữ cho công tử đặng bình yên.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói :

- Tôi tin thế nào được các người? Chung tiên sinh! ông hãy quay về đem con tôi đến đây đánh đổi tôi sẽ thả phu nhân về.

Chung Vạn Cừu cả giận to tiếng :

- Phủ Trấn Nam Vương của ngươi nổi tiếng là chỗ hoang dâm, càn rỡ, vợ ta để đây sao được?

Đoàn Chính Thuần thẹn đỏ mặt quát lớn :

- Nếu ngươi còn có một câu vô lễ nữa thì đừng trách Đoàn mỗ không biết điều.

Thư Bạch Phụng từ lúc vào nhà chưa nói nửa lời, bây giờ mới cất tiếng :

- Ông định giữ hai người đàn bà lại là có ý gì? Có phải vì thằng Dự mà ông giữ họ lại để làm con tin hay ông giữ để thoả mãn cho ông?

Đoàn Chính Thuần than rằng :

- Đến cả mình cũng không tin tôi nữa rồi!

Đoạn xoay tay một cái, điểm huyệt giải phóng Tần Hồng Miên, rồi lại đến gần Chung phu nhân, giơ tay ra phía sau...

Chung Vạn Cừu vội đứng chắn ngang trước mặt vợ, khoát tay nói :

- Ngươi là một gã lẳng lỡ, đã xâm phạm bao nhiêu vợ con người ta rồi, còn vợ ta đây quyết không cho ngươi đụng chạm tới.

Đoàn Chính Thuần nhăn mặt đáp :

- Phép điểm huyệt của tiểu Vương tuy thô sơ nhưng người ngoài không giải cứu được, để lâu lúc nữa hai chân tôn phu nhân sẽ thành cố tật.

Chung Vạn Cừu căm giận nói :

- Vợ tôi là một trang sắc nước hương trời, hoa nhường nguyệt thẹn, nếu vì thằng giặc mà bị què quặt thì ta quyết đem con thằng giặc ra phân thây muôn đoạn.

Đoàn Chính Thuần cười nói :

- Tôi muốn giải huyệt cho tôn phu nhân nhưng tiên sinh lại không cho tôi mó vào người bà thì biết làm thế nào?

Chung Vạn Cừu không biết trả lời ra sao, bỗng nhiên y nổi giận đùng đùng, quát to :

- Ai bảo mi điểm huyệt vợ ta? A thôi chết rồi, lúc điểm huyệt mi đã mó vào mình vợ ta rồi. Bây giờ ta cũng sờ vào vợ ngươi để trả miếng.

Chung phu nhân nguýt chồng nói :

- Lại ăn nói càn rỡ rồi. Không sợ người ta cười cho ư?

Chung Vạn Cừu đáp :

- Cười gì mà cười? Chẳng lẽ tôi chịu thua hắn sao?

Đang lúc cãi nhau huyên náo, chợt thấy tấm rèm vén lên, một người ung dung bước vào, mình mặc áo hoàng bào, mày thanh mắt sáng, ba chòm râu dài. Đó chính là Bảo Định Đế tên gọi Đoàn Chính Minh.

Đoàn Chính Thuần cất tiếng chào :

- Hoàng huynh!

Bảo Định Đế gật đầu, hơi nghiêng mình một chút, giơ một ngón tay lên trên không, nhằm vào phía ngực Chung phu nhân điểm huyệt. Bỗng thoát ra một làn hơi trắng, chẳng khác gì tiết đông cực lạnh, khí nóng trong miệng thở ra. Chung phu nhân thấy thượng bộ huyệt "Đan Điền" nóng ran, hai luồng nhiệt khí dẫn xuống chân, tức thì huyết mạch lưu thông, mình không tự chủ được, tự nhiên đứng bật dậy như chiếc lò xo. Chung Vạn Cừu thấy phép giải huyệt không gian thì kinh dị vô cùng, há hốc miệng ra mà nhìn, không nói lên được câu nào. Nếu mắt không trông thấy, chỉ nghe nói thì ai mà tin được?

Đoàn Chính Thuần nói :

- Hoàng huynh ơi! Thằng Dự bị chúng cướp đem đi mất rồi.

Bảo Định Đế gật đầu nói :

- Thiện Xiển hầu đã trình ta hay rồi. Thuần Đệ! Con cháu họ Đoàn ta bị lọt vào tay người, thì cha mẹ chú bác nhà ấy phải đi cứu lấy đem về, không có lệ giữ người làm con tin.

Mấy câu của Bảo Định Đế thật quang minh lỗi lạc, rõ ra phẩm giá một vị siêu phàm. ý Bảo Định Đế nói : nếu mình giữ người để toan đánh đổi chẳng hóa ra bọn mình đường đường Hoàng tộc nước Đại Lý cũng mang ra mặc cả với phường dân dã, thế là làm giảm thanh danh con cháu của vị chúa tể cả nước.

Ngừng lại dây lát, Bảo Định Đế nhìn Chung Vạn Cừu bảo :

- Bây giờ các vị được tuỳ tiện ra về. Trong ba ngày họ Đoàn sẽ có người đến đòi công tử đó.

Chung Vạn Cừu nói :

- Hang Vạn Kiếp chúng tôi rất bí hiểm khó tìm, tôi xin vạch rõ đường lối.

Giả tỷ ai hỏi đến đường lối vào hang Vạn Kiếp thì y không chịu nói, đằng này y lại gạ Bảo Định Đế hỏi đến nhưng Bảo Định Đế không thèm hỏi gì nữa, phất tay áo một cái nói : "xin kiếu", rồi về cung.

Gã Chung Vạn Cừu ngoại hiệu là "Kiến nhân tựu sát", có tính nóng nẩy lạ thường. Lúc y chưa vào hang ẩn lánh, khách giang hồ tầm thường nghe tiếng y còn ở ngoài trăm dặm đã hoảng hồn, ngồi đứng không yên. Tỷ như Thần Nông bang chúa Tư Không Huyền thấy Chung Linh là con gái y đã sợ mất mật. Thế mà nay đứng trước mặt Bảo Định Đế nét mặt ôn hòa, con quỷ hung hãn cũng phải sợ hãi, chân tay luống cuống vừa nghe Đế nói hai tiếng "xin kiếu" đáp ngay :

- Vâng chúng tôi về đây. Bình nhật Chung mỗ không ưa gì người họ Đoàn vì cả họ này chẳng có một ai là người tử tế.

Y dắt vợ nét mặt hằm hằm đi ra. Chung phu nhân cũng kéo áo Tần Hồng Miên nói :

- Chúng ta về thôi!

Tần Hồng Miên đưa mắt nhìn Đoàn Chính Thuần, nhưng chẳng thấy ông này nói gì thì lòng nàng tê tái, hai mắt đỏ ngầu. Nàng lại trừng mắt hung dữ nhìn Thư Bạch Phụng rồi cúi đầu đi ra. Ba người nhảy vọt lên nóc nhà. Thiện Xiển Hầu, Cao Thăng Thái đứng trên thềm hành lang khẽ nghiêng mình chào :

- Xin tiễn quý khách lên đường.

Chung Vạn Cừu đứng trên mái nhà, nhổ nước miếng đánh toẹt một cái, hằn học nói :

- Phường hôi tanh kia! Các ngươi đều là những quân đạo đức giả, chẳng có đứa nào tử tế hết.

Nói xong, y đề khí nhảy từ nóc nhà này qua nóc nhà kia, chớp mắt đã qua hết các tòa nhà trong Vương phủ. Gần đến bức tường bao quanh, gã vận nội công để nhảy sang thì đột nhiên phía trước xuất hiện một người, áo dài đai rộng đứng ngay phía trước. Tưởng ai té ra là Cao Thăng Thái.

Nguyên Cao Thăng Thái từ lúc đưa khách vẫn đi sau bọn Chung Vạn Cừu. Vậy mà ông ta vọt lên trước lúc nào chẳng ai hay thế mới thần tình. Hơn nữa ông ta đứng trúng giữa chỗ Chung Vạn Cừu từ trên nóc nhẩy xuống tất phải đặt chân vào không trệch một ly. Chung Vạn Cừu theo đà, đang lơ lửng từ trên không nhảy xuống dĩ nhiên không thể lùi lại mà muốn chuyển hướng nhảy ra chỗ khác cũng không được liền quát lên :

- Tránh ra!

Đồng thời y phóng cả hai bàn tay ra nhằm Cao Thăng Thái đánh tới, y đinh ninh chưởng lực của mình đập xuống đá còn vỡ tan, thì nếu đối phương cứ đứng nguyên chỗ kháng cự sẽ bị hất xuống chân tường. Dù đối phương có ngang sức mình chăng nữa thì mượn sức từ trên giáng xuống cũng đủ lực để chèn đối phương, đứng xuống mặt tường. Mắt y nhằm đúng ngực Cao Thăng Thái đánh tới, bỗng thấy Cao Thăng Thái ngửa người về phía sau theo thế "Thiết Bản Kiều", chỉ có hai chân vẫn dính vào tường, còn toàn thân uốn cong chơi vơi ra ngoài như chiếc cầu lơ lửng không gian, để tránh đòn hai bàn tay Chung Vạn Cừu phóng tới.

Xem tiếp hồi mười bảy

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 17 Một nhân vật quái dị

Chung Vạn Cừu đánh không trúng than thầm : "Thôi chết rồi". Người y trượt qua Cao Thăng Thái, chỉ sai dịch nửa phân. Kể ra thì võ công Chung Vạn Cừu chưa chắc đã kém Cao Thăng Thái nhưng vì thất cơ một chút thành ra ngực bụng trống trải để bên địch muốn làm gì thì làm. May mà Cao Thăng Thái không thèm hạ thủ. Chung Vạn Cừu vận nội công đứng được xuống đất, đi theo Tần Hồng Miên và Chung phu nhân. Lúc đó hai người đã vượt tường ra ngoài rồi.

Cao Thăng Thái đứng thẳng người trên mặt tường, quay ra xá khách, hai tay áo rộng lùng thùng bay phất phới coi rất ung dung. Ông vừa xá vừa nói :

- Tôi không thể tiễn chân xa được, xin quý vị miễn thứ.

Chung Vạn Cừu đằng hắng một tiếng, suýt nữa tụt quần, y đưa tay ra nắm vội lại được, không thì dơ quá. Bấy giờ y mới biết dây lưng đứt mất rồi. Thì ra lúc đánh sểnh, người y trườn qua phía trên Cao Thăng Thái, đã bị Cao đưa ngón tay lên bấm đứt dây lưng. ấy là Cao Thăng Thái không muốn tuyệt tình, nếu ông giơ một ngón tay lên chẹn huyệt "Đan Điền" thì Chung Vạn Cừu đã biến thành cái xác không hồn, lăn quay xuống đất.

Lại nói đến Hương Dược Xoa Mộc Uyển Thanh, bàng hoàng vừa ra khỏi phủ Trấn Nam Vương thì gặp Thư Bạch Phụng cùng Chung Vạn Cừu. Hai người cùng lên tiếng gọi nhưng nàng lờ đi không đáp, cứ cắm đầu chạy một mạch. Nàng cũng không biết là mình chạy đi đâu. Đoái trông dặm rừng bát ngát, không có chỗ nào tạm trú nghỉ chân. Nàng cứ chạy hoài, không biết đã qua bao nhiêu quãng rừng núi hoang vu. Chạy cho đến lúc trời rạng đông thì người nàng mệt nhoài, hai chân bủn rủn, không chịu được nữa, đành phải dừng bước, tựa vào gốc cây than rằng : "Ta chết quách đi cho rồi!". Trong lòng nàng chứa chất bao nhiêu nỗi oán hờn mà chẳng biết trút lên đầu ai cho phải. Nàng tự hỏi :

- Oán Đoàn lang chăng?

- Không được! Chàng có phụ bạc gì ta đâu? Vì chàng là anh em cùng cha khác mẹ với ta, nên nỗi trai duyên lỡ kiếp.

- Oán sư phụ ta chăng?

- Vô lý người là mẹ ruột ta, mười mấy năm trời phải chịu bao nhiêu nỗi cay đắng để nuôi nấng cho ta trưởng thành. Ơn đức trời biển chưa đền, đâu dám oán hận?

- Đến Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần thì lại là phụ thân ta. Dù người đối với mẫu thân ta có điều oán hối nhưng biết đâu bên trong còn bao nhiêu nỗi uẩn khúc mà mình chưa hiểu? Người đối với ta vẻ mặt ôn hoà, đầy lòng từ ái, hỏi ta muốn điều gì sẽ hết sức làm cho được như nguyện để đền bù mười mấy năm qua đã không săn sóc tới. Thế nhưng cái chí nguyện của ta là đặng kết hôn cùng Đoàn lang thì người không thể làm được. Mẫu thân ta không được cùng người vui đạo, xướng tùy chẳng qua chỉ vì mình Thư Bạch Phụng mà ra nên sai ta giết Thư Bạch Phụng.

Nàng suy bụng ta ra bụng người : "Giả tỷ ta cùng Đoàn lang vẹn mối lương duyên, hồ dễ ta chịu để yên cho một người đàn bà thứ hai nào đến tranh cướp hạnh phúc của đời ta? Huống chi bà đã bỏ nhà đi tu thì hẳn trong lòng cũng uất hận phụ thân ghê gớm và bà cũng đau khổ vô cùng rồi. Ta phóng hai mũi tên, làm cho đứa con cưng độc nhất của bà bị trọng thương, thế mà bà không thù oán ta thì bà đâu có phải là người độc ác?".

Nàng nghĩ nhiều lắm, càng nghĩ càng tê tái lòng rồi tự nhủ : "Ta phải quên hẳn Đoàn Dự, từ đây không nghĩ gì đến chàng nữa". Nói vậy thì nói chứ đâu phải chuyện dễ dàng? Muốn quên chàng trong giây phút cũng không xong. Mỗi lúc tưởng đến hình ảnh khôi ngô tuấn tú của Đoàn lang lòng nàng lại đau nhói lên như bị đánh một quyền vào giữa ngực. Sau nàng tìm lời giải thích rồi tự an ủi : "Thôi từ đây ta nhìn nhận chàng là người anh ruột rất thân ái là xong. Trước ta tủi phận mồi côi, không cha không mẹ, nay được đủ cả cha lẫn mẹ lại thêm người anh cả rất tử tế, đời ta đâu đến nỗi cô đơn, vậy mà ta còn mua não chuốc sầu thì thật là một đứa điên rồ". Khốn nỗi con người đã mắc lưới tình, tơ tình tuy mỏng manh mà càng rút càng chặt. Khi ở trên núi Vô Lượng ròng rã bảy đêm ngày, nàng trông ngóng Đoàn Dự đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm, rễ tình đã ăn sâu vào tâm khảm, không thể nào nhổ lên được nữa.

Mộc Uyển Thanh đang nghĩ ngợi liên miên thì vẳng bên tai bì bòm sóng vỗ, ầm ầm nước reo, nàng càng đi vào chỗ tuyệt vọng, chí muốn tự tử đã bắt đầu nảy nở. Nàng đi về phía có tiếng sóng vỗ nước chảy phát ra, quanh hết một trái núi thì sông Lan Thương mông mênh hiện ra trước mắt. Nàng dừng chân lẩm bẩm : "Ta chỉ nhẩy xuống đây một cái là hết mọi điều phiền não". Nàng bèn men theo sườn núi xuống tới bờ sông.

Mặt trời vừa lên, ánh triều dương chiếu xuống mặt sông rực rỡ như vạn con kim xà đang nhảy múa, cảnh sắc trước mặt cực kỳ tráng lệ. Nghĩ đến chuyện nhảy xuống sông nàng cảm thấy tiêng tiếc không còn được nhìn bức phong tuyệt mỹ của tạo vật. Nàng đang đứng trơ như phỗng, làn sóng tư tưởng nổi lên cuồn cuộn, thì mắt nàng chợt trông thấy một người ngồi trên phiến đá cách đó chừng vài chục trượng. Người này ngồi như pho tượng, không nhúc nhích, mình mặc áo bào màu xanh thẳm lẫn với mầu đá núi. Vì thế mà người đó đã đến ngồi từ bao giờ nàng không hay biết.

Mộc Uyển Thanh nhìn hồi lâu, trong bụng kinh nghi tự hỏi : "Dường như là một cái tử thi". Từng giết người như ngóe nên đối với xác chết, nàng chẳng chút ghê rợn. Tính hiếu kỳ thúc đẩy nàng lại gần xem thì ra một ông già, râu chùng đến rốn, sợi nào cũng đen nhánh, mắt mở thao láo, chăm chú nhìn dòng nước. Mộc Uyển Thanh buột miệng nói :

- A không phải xác chết.

Nàng nhìn một lúc nữa, thấy cả con người lão vẫn trơ trơ, mắt vẫn đờ ra như không có hào quang, rõ ràng không phải người sống. Nàng lại tự hỏi : "Hay đúng là xác chết?". Nhìn lại thấy mắt tử thi dường như có chút tinh thần, sắc mặt còn hơi tươi. Nàng để tay lên mũi không rõ ra người đã tắt thở mà cũng không thấy hơi thở. Nàng lại sờ vào mặt vào cổ, thấy lúc lạnh lúc ấm, để tay lên ngực thấy trái tim như ngừng đập. Mộc Uyển Thanh rất lấy làm kỳ lẩm bẩm : "Con người này thật là quái dị, bảo y là xác chết thì dường như y còn sống, bảo y là người sống thì lại hình như là kẻ chết rồi.

Bất thình lình có tiếng người nói :

- Ta vẫn sống đây mà.

Mộc Uyển Thanh giật mình quay đầu nhìn lại phía sau thì chẳng thấy ai. Bãi sông bát ngát toàn sỏi đá, không có chỗ nào ẩn núp được. Nàng vẫn chăm chú nhìn người kỳ quái đó cho đến lúc có tiếng vọng lên, cũng chẳng thấy y há miệng, nhếch môi. Nàng lớn tiếng hỏi :

- Kẻ nào dám cả gan trêu trọc cô nương đó? Mi không sống yên lành được đâu.

Nàng vừa nói vừa bước giật lùi lại, quay lưng ra phía dòng sông, đảo mắt nhìn ba mặt bỗng nghe có tiếng đáp :

- Thế mà ta vẫn yên lành đấy!

Mộc Uyển Thanh càng kinh ngạc vì chẳng thấy bóng một ai, ngoài con người quái dị ngồi đó. Nhưng người này mồm miệng ngậm chặt mà sao vẫn có tiếng người? Nàng quát hỏi :

- Ai nói đó?

Vẫn có tiếng đáp lại :

- Mi nói đó chứ ai?

Nàng tức quá, hỏi gay gắt :

- Nhưng kẻ nói với ta là người nào?

Có tiếng đáp :

- Chả có người nào nói với mi hết.

Nàng xoay mình rất nhanh mà trông tuyệt không thấy bóng người nào cả thì biết chính là lão mặc áo bào xanh ngồi đó tác quái, liền mạnh dạn tiến lại, vừa lấy tay sờ môi lão vừa hỏi :

- Phải chăng ngươi đã nói với ta vừa rồi?

Vẫn có tiếng đáp :

- Không phải!

Mộc Uyển Thanh tay vẫn sờ miệng lão mà chẳng thấy máy môi chi hết, nàng lại hỏi :

- Rõ ràng có tiếng đáp lời ta, sao lại bảo không có?

Tiếng nói đó đáp :

- Ta không phải là người, ta cũng chẳng phải là ta. Trên đời này không có ta nữa.

Bấy giờ thì quả Mộc Uyển Thanh sợ lắm, mình sởn gai ốc. Nàng tự nghĩ : "Chẳng lẽ ma quỷ trêu mình?", rồi nàng hỏi :

- Mi... mi là ma quỷ phải không?

Đáp :

- Mi đã không muốn sống nữa thì rồi sẽ thành ma quỷ, sao còn sợ ma quỷ?

Mộc Uyển Thanh làm già :

- Ai bảo mi ta sợ quỷ? Này ta bảo : đến trời đất ta còn không sợ nữa là...

Đáp :

- Thế mà mi đang sợ một điều.

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Hừ! Ta đây còn sợ cái gì bao giờ?

Đáp :

- Mi đang sợ... lang quân mi biến thành ca ca mi.

Câu đó chẳng khác gì nhát búa bổ xuống đầu nàng. Hai chân mềm nhũn, nàng ngồi bệt xuống đất, miệng há hốc ra lẩm bẩm :

- Mi là quỷ, rõ ràng có quỷ!

Đáp :

- Ta có phép biến, biến ca ca mi không phải là anh mi nữa mà biến thành ra chồng mi.

Mộc Uyển Thanh run run nói :

- Mi... mi đừng bịp ta nữa! Đó là việc trời định, biến thế nào thì biến... chứ biến làm sao được anh ruột ra chồng?

Đáp :

- Lão trời đáng đánh chết, hay sinh chuyện rắc rối. Ta không lý gì đến lão nữa. Ta thực có phép mầu, làm cho anh mi biến thành ra chồng mi được, mi có muốn thế không?

Mộc Uyển Thanh đang lúc tuyệt vọng, lòng lạnh như tro tàn, nghe nói câu đó chẳng khác chi trời ban chiếu chỉ. Dù nàng vẫn bán tín bán nghi nhưng cũng đáp ngay :

- Tôi mong được như vậy! Tôi mong như vậy lắm!

Có tiếng hỏi :

- Ta làm được việc đó cho mi thì mi lấy gì tạ ơn ta?

Mộc Uyển Thanh buồn rầu đáp :

- Tôi biết lấy gì tạ ông? Vì tôi chẳng có chi hết.

Có tiếng nói tiếp :

- Hiện giờ mi chưa có, rồi sau mi sẽ có chứ!

Mộc Uyển Thanh nói :

- Ông muốn cái gì tôi lấy cái đó tạ ơn ông.

Hỏi :

- Nhưng đến lúc bấy giờ mi lại chối thì sao?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Tôi quyết không nói hai lời.

Nàng nghĩ rằng : "Trên đời có cái gì quý cho bằng Đoàn lang trở nên chồng mình? Dù mình có làm đến Hoàng đế là cùng thì tiếc gì cái ngôi Hoàng đế, đem nhường cho con người quái dị này cũng được chứ sao?".

Hỏi :

- Lời đàn bà con gái ai mà tin được? Bây giờ mi nói thế rồi sau mi cãi thì sao?

Mộc Uyển Thanh nói :

- Ông đã thần thông ghê gớm như vậy nếu tôi cãi lời thì ông vặn cổ tôi đi, tôi chẳng oán thán gì hết.

Có tiếng nói :

- Nếu sau này ta đòi điều gì mà mi không chịu, ta không giết mi đâu nhưng ta sẽ giết chồng mi đó.

Mộc Uyển Thanh nghĩ thầm : "Ta quyết một lòng chung thủy cùng Đoàn lang, không còn cải giá lấy ai. Nếu quả Đoàn lang biến hóa không phải là anh ta nữa mà là chồng ta thì bất luận sự vật gì ta cũng bỏ được hết, không có lý nào ta còn chối cãi nữa", bèn trả lời :

- Tôi xin y lời ông.

Có tiếng nói :

- Đến lúc đó ta cấm mi không được năn nỉ khóc lóc nhé. Ta đây đệ nhất ghét là đàn bà con gái khóc nhè đó.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Có bao giờ tôi chịu van xin năn nỉ ai? Nhưng ông là ai cho tôi coi mặt được không?

Đáp :

- Mi nhìn ta mãi từ nãy đến giờ chưa đủ hay sao?

Tiếng nói cứ đều đều một làn, không lên cao, xuống thấp, hay tiếng to tiếng nhỏ.

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Ông... ông là... người ngồi đó sao?

Đáp :

- Ta cũng không biết ta có phải là ta nữa không?

Sau có tiếng thở dài thườn thượt tỏ ra trong lòng có điều chi đau đớn, uất ức vô cùng. Mộc Uyển Thanh không ngờ gì nữa, đúng là ông già mặc áo xanh ngồi ngay trước mặt liền hỏi :

- Ông nói mà sao tôi không thấy môi mấp máy?

Đáp :

- Ta là người chết rồi mà còn sống, môi mép cứng đờ không cử động được nữa, tiếng nói chỉ ở trong bụng phát ra mà thôi.

Mộc Uyển Thanh hãy còn tính trẻ con, nàng vừa mới thảm sầu là thế, giờ thấy lão bảo lão nói không mở miệng, máy môi nàng lấy làm thú vị hỏi :

- Nói bằng bụng được kỳ quá ông nhỉ!

Ông già áo xanh nói :

- Mi sờ vào bụng ta xem thì biết.

Mộc Uyển Thanh đưa tay sờ vào bụng lão, lão hỏi :

- Ta đang nói đây, mi có thấy bụng ta chuyển động không?

Mộc Uyển Thanh thấy da bụng lão động đậy dưới lòng bàn tay nàng thì buồn cười hỏi :

- Ha ha thật là cổ quái.

Nguyên lão áo xanh luyện được môn Phúc ngữ thuật. Đời nay ta xem bọn làm trò quỷ thuật thì môn này rất thường, nhưng thời bấy giờ đã biết và luyện được đến mức độ tinh vi như lão áo xanh thì trừ phi tay tuyệt giỏi nội công không ai học được.

Mộc Uyển Thanh đi vòng quanh người lão xem kỹ rồi hỏi :

- Mồm miệng ông không cử động được thì ông ăn uống bằng cách nào?

Lão đưa hai tay ra, một tay vạch môi trên, một tay giữ môi dưới cho miệng há ra, đoạn để hai ngón tay trái chống lên, còn tay phải cầm không rõ miếng gì đút vào miệng, nghiến đánh "ráu" một tiếng rồi nuốt xuống. Lão nói :

- Ta ăn như vậy đó.

Mộc Uyển Thanh phàn nàn :

- Ôi thực đáng buồn cho ông, ăn như vậy thì còn biết mùi vị gì nữa?

Bây giờ nàng mới hiểu rằng : da thịt trong người lão cứng đờ nên mắt không nhắm, miệng không mở được. Thất tình không biến đổi sắc mặt nên lúc mới trông tưởng lão là cái xác chết.

Tuy nàng cũng sợ lão đấy nhưng nghĩ rằng chính mình lão còn có bao nhiêu nỗi cay đắng, lão giải quyết cho lão chưa xong còn nói chi đến chuyện phản lại lề luật tạo hóa để biến anh ruột thành chồng mình được? Những câu lão vừa nói chẳng qua là chuyện bâng quơ mà thôi. Nàng lưỡng lự một lúc rồi nói :

- Tôi muốn đi thôi.

Lão áo xanh hỏi :

- Đi đâu?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Tôi cũng chẳng biết nữa.

Lão áo xanh nói :

- Ta sắp biến Đoàn Dự thành chồng mi, mi còn đi đâu?

Mộc Uyển Thanh cười lạt rồi cứ đi về phía Tây. Được vài bước nàng dừng lại hỏi :

- Tôi với ông chưa từng quen biết, sao ông lại hiểu rõ tâm sự tôi? Ông... ông đã biết Đoàn lang chưa?

Lão đáp :

- Tâm sự mi tự nhiên ta biết hết, quay lại đây mau!

Lão giơ tay trái lên một cái thì lạ thay : Mộc Uyển Thanh cảm thấy có một sức mạnh vô hình đẩy nàng trở lại, không tài nào kháng cự được. Nàng chệch choạc bước mấy bước đến trước mặt lão. Mộc Uyển Thanh cả kinh, thất sắc, giọng nói run run :

- Môn võ của ông có phải là... "Cầm Long Túng Hạc" không?

Lão đáp :

- Con nhãi này thế mà kiến văn quảng bác đấy. Đây không phải là môn "Cầm Long Túng Hạc", chỉ có công dụng của nó là giống như môn "Cầm Long Túng Hạc" mà thôi, còn phép luyện thì khác hẳn.

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Thế môn này gọi là gì?

Lão đáp :

- Gọi là "Quy Khứ Lai Hề"

Mộc Uyển Thanh cười nói :

- Cái tên "Quy Khứ Lai Hề" nghe còn hay hơn là "Cầm Long Túng Hạc". Giả tỷ Đoàn lang nghe thấy, chàng... chàng...

Nghĩ tới Đoàn Dự, lòng nàng lại quặn đau, không buồn nói nữa. Lão áo xanh rút trong mình ra hai cây gậy trúc đen lánh nói :

- Ta đi thôi.

Tay trái lão cầm gậy trúc chỉ vào phiến đá, tung mình lên một cái đã ra xa đến hơn một trượng. Mộc Uyển Thanh thấy hai chân lão vọt lên trên không mà vẫn giữ nguyên kiểu người ngồi. Cây gậy nhỏ bé như vậy, một đầu chỏ xuống đất mà lão ngồi trên có vẻ rất vững chắc. Nàng lấy làm kỳ nói :

- Cặp giò của ông...

Lão ngắt lời :

- Hai chân ta bị tàn phế đã lâu. Thôi nhé! Từ giờ trở đi ta cấm ngươi không được hỏi câu gì nữa nghe không?

Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi còn hỏi nữa.

Nàng vừa nói thì đột nhiên thấy chân mình mềm nhũn, té lăn xuống đất. Vì tay áo lão phất ra một luồng gió cực mạnh, gậy trúc nơi tay phải lão điểm vào đầu gối nàng, còn một gậy đánh xuống. Hai chân bị đau đến xương tủy nàng lại la to lên một tiếng "Ối".

Lão áo xanh lại cầm gậy trúc điểm luôn mấy cái để giải phóng huyệt đạo nàng. Mộc Uyển Thanh nhảy bật lên một cái cả giận nói :

- Lão này vô lễ thật!

Nàng vẩy tay toan phóng ám tiến ra. Lão áo xanh nói :

- Mi bắn ta một phát ta đánh mi một đòn, bắn mười phát đánh mười đòn. Mi không tin bắn thử coi.

Mộc Uyển Thanh nghĩ bụng : ta chỉ phóng một phát mà trúng là lão chết tử rồi còn đâu mà đánh? Nhưng xem ra lão này thần thông quảng đại, so với Nam Hải Ngạc Thần còn có phần hơn, khó lòng bắn trúng được lão. Còn lão nói sao là làm được thế, ta tất bị lão đánh nhừ tử.

Còn đang nghĩ ngợi lão áo xanh lại nói :

- Mi đã không dám bắn ta thì phải ngoan ngoãn tuân theo lời ta, không được trái lệnh.

Mộc Uyển Thanh vẫn bướng :

- Ta không ngoan ngoãn tuân theo lời lão đã sao?

Tuy miệng nói thế nhưng buông tay xuống không phóng tên nữa. Lão áo xanh dùng hai gậy trúc thay thế cho hai cặp giò ra đi. Mộc Uyển Thanh thấy hai cây gậy trúc cứng như gang thép, chống đỡ lấy cả người lão một cách rất vững vàng, thẳng thắn. Mỗi cây gậy dài độ bảy tám thước nên bước lão dài gấp đôi, gấp ba người thường. Mộc Uyển Thanh phải vận hết nội công, gắng gượng mới theo kịp.

Lão áo xanh vượt qua những đỉnh núi cao chẳng khác gì đi trên đất bằng. Lão không theo những đường lối có sẵn cứ nhằm thẳng phía trước mà đi, bất luận những chỗ đá núi ngổn ngang hay chông gai đầy rẫy lão cũng bước tràn vì có hai cây gậy trúc dưới chân. Chỉ khổ cho Mộc Uyển Thanh, quần áo vướng vào cây cối rách tướp. Nhưng bản tính quật cường, nàng không thèm mở miệng ca thán để tỏ ta con người khiếp nhược.

Hai người vượt qua mấy trái núi, xa xa đã trông thấy bãi tha ma, mồ mả lô nhô. Mộc Uyển Thanh lẩm bẩm : đến hang Vạn Kiếp rồi đây. Quả nhiên lão áo xanh tiến đến trước tấm bia đá khắc chữ "Phần mộ Vạn cừu Đoàn", rồi cầm gậy đập vào chữ Đoàn.

Mộc Uyển Thanh đã ra vào hang Vạn Kiếp mấy lần, mỗi lần vào hang là phải đập mấy cái vào chữ Đoàn nhưng lần này nàng rất có cảm tình với chữ Đoàn, liền hỏi lão :

- Vào hang Vạn Kiếp làm chi?

Lão áo xanh quay phắt lại, cầm gậy trúc đập vào chân nàng hỏi :

- Mi còn hỏi nữa thôi?

Mộc Uyển Thanh vốn tính ngang ngạnh, dù đối với tay địch bản lãnh hơn mình, nàng vẫn không chịu để người lấn áp. Nhưng giờ nàng nghĩ rằng không những lão này bản lãnh hơn mình mà còn giúp mình đạt ý nguyện nên nàng chỉ nói bướng một câu :

- Cô nương không sợ đâu nhé, bây giờ tạm ẩn nhẫn mà thôi.

Lão áo xanh giục :

- Vào!

Chờ Mộc Uyển Thanh bước vào trước rồi lão mới bước vào sau. Đường lối trong hang Vạn Kiếp lão đã thuộc làu. Mấy lần Mộc Uyển Thanh toan hỏi nhưng sợ lão đánh lại thôi. Nàng theo lão lúc rẽ bên phải, lúc vòng bên trái, đi ra phía sau động.

Mộc Uyển Thanh từ khi rời sư phụ đến kiếm sư thúc là Chung phu nhân ở hang Vạn Kiếp, tuy hai người không hợp tính nhau, ngay hôm đầu đã cùng nhau gây lộn nhưng nàng cũng ở đó mấy hôm. Thế mà bữa nay lão áo xanh đưa nàng qua những nơi mà nàng chưa biết tới, không ngờ hang Vạn Kiếp lại nhiều chỗ hoang lương tịch mịch đến thế.

Đi mấy dặm nữa thì vào đến một khu rừng già, bốn bề toàn cổ thụ ngất trời. Giữa ban ngày mà ánh dương quang rực rỡ cũng không len lỏi vào được, trong rừng âm u chẳng khác gì trời lúc hoàng hôn. Càng vào sâu cây càng dầy, sau phải lách mình mới đi được. Đi thêm vài mươi trượng thì đến trước đám cổ thụ mọc dầy liền khít nhau như một bức tường không thể lách qua được. Lão áo xanh cắm gậy trúc xuống đất để chống vào nách đứng, chĩa hai bàn tay đặt vào khe hai cây lớn rồi vận nội lực đẩy hai cây từ từ rẽ ra hai bên để hở ra một lối đi rộng hơn thước. Lão quát bảo Mộc Uyển Thanh :

- Qua đi!

Mộc Uyển Thanh không kịp đắn đo gì nữa, lách mình một cái đã sang bên kia. Một bãi rộng hình tròn hiện ra trước mặt nàng. Giữa bãi nổi lên một tòa thạch thất trơ trọi. Cách kiến tạo tòa thạch thất này thật là ngộ nghĩnh. Người ta lấy những phiến đá lớn nặng tới mấy ngàn cân xếp lên, chỗ lồi chỗ lõm trông rõ ra một hòn non bộ có để hở ra một chỗ làm cửa.

Lão áo xanh lại quát :

- Vào đi!

Mộc Uyển Thanh nhìn vào chỉ thấy tối om, không hiểu trong có những quái vật gì. Nàng lưỡng lự không dám tiến vào thì một bàn tay đặt lên sau lưng nàng. Nàng toan né tránh thì lão áo xanh vận chưởng lực đẩy mạnh một cái. Mộc Uyển Thanh không thể tự chủ được bị hất văng vào trong. Nàng đưa tay sử thế "Hiển Phong Phất Liễu" che mặt đề phòng va chạm vào vật gì chăng thì nghe đánh sầm một tiếng, cửa thạch thất đã bị một vật cực nặng đóng sập xuống. Mộc Uyển Thanh cả kinh, chạy lại đẩy cửa, đặt bàn tay vào thấy ráp lởm chởm mới biết là một tảng đá hoa cương rất lớn. Nàng vận hết nội công đẩy cũng không nhúc nhích. Nghỉ một lát rồi lại cố đẩy lần nữa nhưng chẳng khác gì chuồn chuồn lay cột đá. Mộc Uyển Thanh hốt hoảng vội lớn tiếng hỏi :

- Mi giam ta vào đây làm gì?

Bỗng nghe tiếng lão áo xanh đáp :

- Mi cầu khẩn ta việc gì mi quên rồi sao?

Sở dĩ lão đứng bên ngoài nói mà nàng nghe rõ là vì tảng đá lấp cửa có đục một lỗ thông suốt. Mộc Uyển Thanh định thần nhìn lại thấy phía trên tảng đá có nhiều kẽ hở, chỗ nhỏ bằng sợi dây, chỗ lớn đút lọt cánh tay nhưng người chui thì không lọt. Nàng la lên :

- Buông thả ta ra! Buông thả ta ra!

Ngoài thạch thất không có tiếng đáp lại, chợt nghe cành cây chạm nhau lắc cắc thì biết là lão áo xanh đã ra khỏi "bức tường cây" đi rồi.

Mộc Uyển Thanh nhìn qua những lỗ hổng ra ngoài nhưng chẳng thấy chi trừ những lá cây rơi lác đác, bay phất phới. Nàng quay vào giương mắt nhìn khắp nhà, chợt thấy trong góc có đặt một cái giường, trên giường có một người ngồi. Nàng giật mình hỏi :

- Ngươi... ngươi...

Người đó hỏi lại :

- Thanh muội! Em cũng vào đây ư?

Giọng nói lộ vẻ sửng sốt và vui mừng, nghe biết ngay là Đoàn Dự. Mộc Uyển Thanh đang lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng, bỗng nhiên gặp Đoàn Dự nàng mừng quá, trái tim cơ hồ ngừng đập. Nàng nhảy tót ngồi vào lòng chàng.

Trong nhà ánh sáng chỉ hơi lờ mờ. Đoàn Dự thấy mặt nàng nhợt nhạt, hai dòng lệ như muốn trào ra, trong lòng xiết bao thương cảm ôm chặt lấy nàng. Nhìn đôi môi mấp máy chàng không thể nhịn được, cúi đầu xuống hôn. Hai cặp môi vừa đặt lên nhau thì đồng thời cùng nghĩ đến đã là tình anh em ruột thịt sao lại có những hành động loạn luân? Rồi cùng buông nhau ra lùi lại phía sau. Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá, run run nhìn nhau. Mộc Uyển Thanh bật lên tiếng khóc nức nở. Đoàn Dự dịu giọng an ủi nàng :

- Thanh muội ơi! Đó là do tạo hóa an bài, hiền muội đừng buồn phiền nữa. Anh được có em gái như hiền muội cũng đủ vui mừng lắm rồi.

Mộc Uyển Thanh giậm chân, vừa khóc vừa nói :

- Nhưng tôi không thể không buồn phiền để mà hoan hỉ cho được. Tôi đau khổ mà chàng vẫn vui mừng thì thật là loài bất nhân.

Đoàn Dự than rằng :

- Anh chẳng có cách nào làm cho em vui lòng. Thế này thì thà chẳng được gặp em nữa là hơn.

Mộc Uyển Thanh giận dỗi :

- Tôi cũng chẳng muốn gặp chàng làm gì. Ai bảo chàng đến tìm tôi đêm hôm ấy? Chàng chẳng trở lại báo tin tôi cũng chẳng chết về tay bọn ấy. Chàng làm chết mất con Hắc Mai Côi của tôi, làm cho tôi đau đớn ê chề, làm cho sư phụ tôi hóa ra má tôi, làm cho phụ thân chàng hóa ra phụ thân tôi, tôi chẳng mong gì nữa. Giờ tôi bị vít vào đây cũng bởi tại chàng. Tôi chỉ cần ra khỏi nơi này.

Đoàn Dự nói :

- Thanh muội ơi! Trăm điều ngang ngửa vì anh, em đừng giận anh nữa. Anh em ta thủng thẳng tìm cách trốn ra.

Mộc Uyển Thanh vẫn một giọng hờn dỗi :

- Tôi không trốn đi đâu nữa. Tôi đành chết ở chốn này. Chết ở đây hay ở ngoài cũng thế thôi. Tôi không ra nữa.

Thấy nàng vừa đòi ra lại giở giọng không ra nữa Đoàn Dự biết rằng lòng nàng đang xốn xang quá đỗi, không thể lấy lời lẽ ngọt ngào mà dỗ nàng được nên không nói gì nữa.

Mộc Uyển Thanh đang buông cơn giận cho nổi lên thấy Đoàn Dự không nói sao lại càng lộn ruột hỏi :

- Sao chàng lại ngồi ỳ ra không nói?

Đoàn Dự hỏi lại :

- Thế em muốn anh nói gì bây giờ?

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Chàng ở đây làm gì?

Đoàn Dự đáp :

- Đồ đệ anh bắt anh giam vào đây.

Mộc Uyển Thanh ngơ ngác :

- Đồ đệ chàng...

Nhưng nàng nhớ ra ngay, đang sì sụt nước mắt nước mũi bất giác phá lên cười :

- À phải rồi! Nam Hải Ngạc Thần. Phải chăng lão bắt chàng vít vào đây?

Đoàn Dự đáp :

- Chính lão!

Mộc Uyển Thanh vẫn cười :

- Thế sao chàng không lên nước "sư phụ" bảo lão phải buông tha ra?

Đoàn Dự đáp :

- Anh bảo lão mấy lần rồi nhưng lão cứ khăng khăng một mực đòi anh thờ lão làm thầy lão mới chịu buông tha.

Mộc Uyển Thanh vừa cười vừa nói :

- Thế là thầy không dạy nổi trò rồi!

Đoàn Dự than rằng :

- Có lẽ đúng đấy! Còn em, ai bắt em vào đây?

Mộc Uyển Thanh đem chuyện mình gặp thanh bào khách kể lại một lượt nhưng dấu đoạn lão bảo biến anh ruột ra chồng, không nói đến.

Đoàn Dự thấy chuyện ăn không cử động môi miệng, nói từ bụng nói ra, chân tay tàn phế mà chạy nhanh như bay thì lấy làm kỳ thú, hỏi cặn kẽ các chi tiết và tấm tắc khen là kỳ dị.

Hai người ngồi nói chuyện hàng giờ, chợt bên ngoài có người đằng hắng rồi thấy một đĩa luồn qua lỗ hổng đưa vào, kế đến có tiếng người gọi bảo :

- Bữa ăn của các ngươi đây.

Đoàn Dự đưa tay đón lấy thì là một đĩa thịt quay thơm phức, tiếp theo là bát canh rau và đĩa bánh tiêu, chàng đặt cả lên bàn rồi hỏi Mộc Uyển Thanh :

- Em liệu những món này có thuốc độc không?

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Bọn họ muốn giết mình thì chỉ giơ tay lên một cái là xong, hà tất phải dùng đến thuốc độc.

Đoàn Dự cho là phải và bụng đói quá rồi liền bảo :

- Ta ăn thôi chứ!

Hai người lấy thịt quay đặt vào trong bánh bắt đầu ăn, bên ngoài có tiếng người dặn :

- Ăn xong rồi cứ đặt bát chén ra lỗ hổng sẽ có người lại lấy.

Người đó nói xong đi ngay. Mộc Uyển Thanh lắng tai nghe y vịn cành trèo lên cây rồi nhảy qua bên kia "bức tường cây".

Nàng nghĩ thầm : gã đưa cơm này võ nghệ tầm thường thôi. Rồi nàng uể oải cầm lấy bánh ăn. Đoàn Dự vừa ăn vừa nói :

- Hiền muội! Em đừng sợ chi! Thế nào gia gia cùng bá phụ cũng đến cứu chúng ta ra. Bọn Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương tuy là những tay lợi hại nhưng vị tất đã địch nổi gia gia. Nếu chính bá phụ thân hành tới đây thì quét hết cả bọn chúng dễ như chơi. Chúng sẽ hết đường tháo thân.

Mộc Uyển Thanh hãy còn bực mình lên giọng nhạo báng :

- Chà! Bá phụ chàng bất quá là Hoàng đế cái nước Đại Lý cỏn con này, bản lãnh đối với người ngoài đã vào đâu? Tôi không tin ông có thể địch nổi "Thanh bào khách". Chắc lại mang mấy ngàn quân thiết giáp đến vây đánh chứ gì?

Đoàn Dự lắc đầu lia lịa cãi :

- Không phải! Không phải! Tổ tiên họ Đoàn là phái võ gốc tích ở Trung Nguyên. Dù có dựng ra nước Đại Lý, xưng vương, xưng đế nhưng nhất định không quên lề lối võ lâm. Nếu cậy thế lấn áp hay dựa vào số nhiều để thủ thắng thì cái họ Đoàn nước Đại Lý chẳng lẽ để các bậc anh hùng trong thiên hạ chê cười ru?

Mộc Uyển Thanh vẫn một giọng chế diễu :

- Úi chà! Chàng còn khoe họ hàng nhà chàng tuy làm vua làm chúa vẫn không bỏ tư cách của khách giang hồ ư?

Đoàn Dự nói :

- Bá phụ cùng gia gia thường nói rằng : đã làm người thì không nên quên gốc.

Mộc Uyển Thanh bĩu môi, mạt sát dữ hơn :

- Chà! Miệng nói toàn nhân nghĩa đạo đức mà làm toàn những sự bỉ ối xấu xa. Tỷ như việc gia gia đã có má chàng rồi sao còn tằng tịu với sư phụ tôi?

Đoàn Dự tức run lên :

- Ô hay! Cô thóa mạ cả gia gia tôi nữa ư? Gia gia tôi không phải là gia gia cô hay sao? Hơn nữa các bậc vua chúa cùng hàng quý tộc khắp thiên hạ được mấy người một vợ? Tám bà, mười bà là ít.

Thời bấy giờ vào đời Bắc Tống, Trung Hoa chia làm năm nước : khu giữa là nước Tống, phía Bắc có rợ Khất Đan, mặt Tây Bắc có nước Nam Hạ, Tây Nam có nước Thổ Phồn, miền Nam có nước Đại Lý. Vua chúa hay đại thần đều có nhiều cung phi, hoặc mệnh phụ phu nhân đã thành một tập quán truyền đời, và được coi là chuyện đương nhiên. Các bậc công khanh một vợ thật là hiếm có.

Mộc Uyển Thanh vừa nghe Đoàn Dự nói xong, máu ghen sôi lên sùng sục, lanh lẹ tát chàng đánh "bốp" một cái. Chàng đau quá, mắt mở thao láo, miệng há hốc ra, miếng bánh đang cầm tay hất tung xuống đất. Chàng ấp úng :

- Cô... cô...

Mộc Uyển Thanh mặt giận hầm hầm :

- Tôi không gọi ông ấy bằng gia gia nữa. Cớ sao đàn ông năm thê bảy thiếp mà đàn bà riêng chịu thiệt thòi? Hễ ai ăn ở hai lòng là mang tiếng vô nghi là nghĩa làm sao?

Đoàn Dự đưa tay lên mặt sờ chỗ đau, xuýt xoa nói :

- Tôi là bậc huynh trưởng, cô là phận đàn em mà dám vô lễ thế?

Mộc Uyển Thanh vẫn chưa nguôi giận, giơ tay tát nữa. Nhưng lần này Đoàn Dự đã kịp phòng bị, bước chân theo phép Lăng Ba Vi Bộ, tránh qua phía sau nàng. Mộc Uyển Thanh trở tay tát về phía sau, chàng cũng tránh khỏi. Lòng nhà thạch thất này chỉ rộng chừng hơn một trượng vuông vậy mà phép Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ thần diệu khiến cho Mộc Uyển Thanh lẹ tay thế nào cũng không đánh trúng. Mộc Uyển Thanh lại càng căm tức sực nghĩ ra một kế, giả vờ kêu "Ối chao", ngã lăn xuống đất. Đoàn Dự thất kinh hỏi :

- Em làm sao thế?

Chàng cúi xuống, thò tay ra ôm nàng dậy. Tấm thân mềm mại Mộc Uyển Thanh nằm gọn trong lòng chàng. Nàng đưa tay trái ra ôm cổ chàng, ghì chặt lấy, vừa cười vừa hỏi : Còn trốn được nữa thôi? tay phải tát một cái vào má chàng thật mạnh.

Đoàn Dự nhịn đau chỉ kêu được một tiếng "trời ơi", rồi đột nhiên nhiệt khí ở huyệt đan điền làm nóng rực cả người, sóng tình nổi lên cuồn cuồn, không thể dằn lòng được. Mộc Uyển Thanh đúng với ngoại hiệu Hương Dược Xoa, tiết ra một mùi thơm làm cho người ngửi thấy phải mê mẩn tâm thần. Lúc đó Đoàn Dự lại đang ôm nàng, tay chạm vào da thịt êm dịu, gợi cho chàng một khoái cảm đê mê, da dẻ mùi hương đưa lên từng cơn càng làm cho trí khôn mê loạn, chàng cúi xuống hôn nàng thật đậm. Cái hôn làm cho toàn thân Mộc Uyển Thanh rạo rực, mềm nhũn. Đoàn Dự ôm nàng lại đặt lên giường, đưa tay ra cởi khuy áo nàng.

Mộc Uyển Thanh khẽ nhắc :

- Chàng là anh ruột tôi.

Đoàn Dự tuy đang mê mẩn tâm thần nhưng câu nói của Mộc Uyển Thanh chẳng khác tiếng sét nổ giữa lúc trời quang mây tạnh, chàng giật mình buông nàng ra, hai tay vung lên tự tát hai bên má mình bôm bốp mấy cái. Vừa tát vừa tự mắng "Đồ chó chết! Đồ chó chết!".

Mộc Uyển Thanh nhìn thấy hai mắt Đoàn Dự đỏ như máu, lóe ra những tia sáng khác thường, da thịt trên mặt giật lên từng cơn, lỗ mũi mấp máy, cả kinh nói :

- Nguy rồi! Đoàn lang ơi! Trong thức ăn quả có thuốc độc. Ta mắc lừa họ rồi.

Toàn thân Đoàn Dự phát nhiệt chẳng khác gì ngồi trong lồng bốn bề đốt lửa. Chợt nghe Mộc Uyển Thanh nói ăn phải thuốc độc, trong bụng lại mừng lẩm bẩm : "Ừ có thế chứ, ta bị thuốc độc làm loạn trí đến nỗi toan cùng Thanh muội làm trò đồi bại thì uổng mất bao công trình đọc sách thánh hiền, thiếu chút nữa chẳng khác chi loài cầm thú". Mỗi lúc người chàng một nóng thêm, không thể chịu được, chàng phải cởi bỏ hết quần áo dài ra, chỉ để một chiếc quần đùi. Chàng tỉnh táo được một lát, rồi đâu lại hoàn đấy, phải kiềm chế con lợn lòng một cách miễn cưỡng.

Mộc Uyển Thanh người cũng nóng ran, không thể nhịn được, cởi bỏ áo xiêm ngoài ra. Đoàn Dự vội la lên :

- Thanh em! Đừng cởi thêm nữa! Ngồi dựa vào vách đã cho đỡ nóng.

Hai người ngồi tựa lưng vào vách đá nhưng chất thuốc độc mỗi lúc một kích thích thêm. Sau lưng tuy mát được một chút nhưng từ đầu, mặt, ngực, bụng, chân tay chỗ nào cũng nóng như lửa đốt. Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh hai má đỏ hồng, nhan sắc lại càng diễm lệ, đôi mắt quyến rũ ướt rượt như muốn nhảy xổ vào lòng chàng. Chàng nghĩ thầm : lúc này mình còn quyết tâm cố chống lại chất thuốc độc nhưng nhân lực có hạn, nếu rồi đây không chống nổi nữa, gây ra hành vi dâm loạn, làm mất hết thanh danh họ Đoàn thì tiếng xấu đó muôn đời không rửa sạch. Chàng bèn bảo Mộc Uyển Thanh :

- Hiền muội cho anh một mũi tên độc.

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Để làm gì?

Đáp :

- Để khi anh không chống nổi lại sức thuốc quá mãnh liệt thì anh tự tử đi cho rồi, khỏi làm hại đến đời em.

Mộc Uyển Thanh đáp :

- Tôi không cho.

Đoàn Dự nói :

- Thanh em ơi! Anh cầu khẩn em một việc.

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Việc gì

Chàng đáp :

- Hễ anh đưa tay ra sờ vào mình em thì em bắn chết anh nghe!

Mộc Uyển Thanh nói :

- Tôi không nghe.

Đoàn Dự năn nỉ :

- Anh cầu khẩn em việc này vì danh dự của họ Đoàn đã mấy trăm năm nay không thể để anh một lúc phá tan. Nếu không thế thì sau này anh chết xuống còn mặt mũi nào trông thấy tổ tiên nữa?

Bất thình lình bên ngoài thạch thất có tiếng người nói :

- Họ Đoàn nước Đại Lý chúng bay tử tế lắm đấy? Ngoài mồn nhân nghĩa, trong bụng sài lang, còn tưởng danh giá lắm sao?

Đoàn Dự cả giận nói :

- Mi là ai mà dám nói láo?

Mộc Uyển Thanh khẽ bảo chàng : lão chính là "Thanh bào khách".

Lại thấy Thanh bào khách nói tiếp :

- Mộc cô nương! Ta làm theo nguyện vọng của cô đó, cô bảo anh cô biến thành chồng cô đi! Ta đã hứa là quyết tâm làm cho nên việc.

Mộc Uyển Thanh cả giận nói :

- Mi dùng thuốc độc hại người, có ăn thua gì đến điều ta yêu cầu mi đâu?

Thanh bào khách nói :

- Trong đĩa thịt quay ta trộn khá nhiều "Hòa hợp âm dương tán" vào đó. Người nào ăn phải, nếu không cho âm dương hòa hợp với nhau, làm đôi vợ chồng thì chất thuốc mỗi ngày một phát tác cực kỳ trầm trọng, chỉ trong tám ngày là cùng da thịt sẽ nứt toác ra, thất khiếu sẽ chảy máu ra mà chết. Dù các ngươi có bản lãnh như Đại La Kim Tiên cũng không chống nổi đâu.

Đoàn Dự căm hờn nói :

- Ta với mi vốn không thù oán sao mi lại thi hành kế độc này hại ta? Mi muốn cho Đoàn mỗ không còn mặt mũi nào trông thấy người đời nữa. Cùng làm cho bá phụ và gia gia ta đem điều ô nhục chung thân ư? Này này ta bảo, không được đâu, dù ta phải chết khổ chết sở cũng đành, chẳng khi nào ta chịu làm việc nhơ nhuốc đâu.

Thanh bào khách nói :

- Đã hay rằng riêng ta với mi không có thù oán gì nhưng tổ tông họ Đoàn nhà mi với ta có một mối thù sâu tựa biển. Ta quyết làm cho hai gã tiểu tử Đoàn Chính Minh và Đoàn Chính Thuần phải suốt đời ô nhục, không dám nhìn mặt người đời nữa mới hả lòng căm phẫn của ta.

Lão nói có vẻ đắc chí lắm nhưng vì môi miệng không cử động được, nên không bật lên tiếng cười. Đoàn Dự muốn cùng lão tranh luận nữa nhưng vừa liếc mắt nhìn thấy Mộc Uyển Thanh chẳng khác gì đóa phù dung mới nở hay đóa hải đường đang say sưa trong trường xuân mộng, trái tim chàng rung động rạo rực, tựa hồ muốn nhảy ra ngoài, trong đầu óc chàng suy tính rất nhiều : "Mộc Uyển Thanh đã cùng ta đính ước duyên bài, nếu đôi ta không được trở về nước Đại lý thì đâu có bật ra cái chuyện là anh em ruột thịt. Đây chỉ là oan trái đời xưa có liên quan gì đến mình?". Nghĩ tới đây chàng run run đứng dậy, bỗng thấy Mộc Uyển Thanh cũng vịn tường đang từ từ đứng lên. Đột nhiên trong lòng chàng dường như có luồng điện chiếu vào, chàng lại nghĩ : "Không được! Không được! Đoàn Dự hỡi Đoàn Dự, điểm tối hậu của con người khác loài cầm thú là ở chỗ này. Nghĩ sai một ly, sểnh chân một bước, không những thanh danh mình bị tan vỡ mà còn đẩy cả bá phụ cùng gia gia vào vòng ô nhục suốt đời". Nghĩ vậy chàng cất tiếng gọi to :

- Uyển Thanh em ơi! Anh là đại ca, em là tiểu muội đó. Em có biết không, em đã hiểu kinh Dịch chưa?

Mộc Uyển Thanh còn đang mơ mộng, nghe chàng hỏi, liền đáp :

- Tôi không hiểu kinh Dịch là gì hết.

Đoàn Dự nói :

- Nếu vậy để anh dậy cho. Kinh Dịch ý nghĩa xâu xa lắm, em phải lắng tai nghe mới hiểu được.

Xem tiếp hồi mười tám

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 18 Ngự giá thân chinh

Mộc Uyển Thanh hỏi :

- Em học cái đó làm chi?

Đoàn Dự đáp :

- Biết đâu chả được việc cho mình. Có khi nhờ đó mà ta thoát khỏi chốn lao lung này cũng nên.

Nguyên Đoàn Dự thấy sóng dục đã nổi lên đến tột độ, thật khó mà giữ được cho khỏi loài cầm thú, chẳng khác gì ngàn cân treo đầu sợi tóc. Nếu Mộc Uyển Thanh nhảy xổ vào quyến dũ thì không thể nào còn nín nhịn được nữa. Nên Đoàn Dự bày ra trò dạy học để chuyên tâm tri ý vào việc khác, không nghĩ đến tình dục nữa. Thế rồi chàng giảng thao thao bất tuyệt : Nào Thái cực, nào Lưỡng Nghi, nào Tứ Tượng, nào Bát Quái.

Mộc Uyển Thanh nói :

- Em nghe chán tai lắm, chẳng hiểu gì hết. Đoàn Lang! Chàng lại đây! Em có chuyện nói cùng chàng. .

Đoàn Dự lại ngắt lời :

- Em quên rồi sao? Anh là anh kia mà! Phải gọi anh là đại ca, chớ kêu bằng Đoàn lang là lỗi đạo.

Rồi chàng tiếp tục đem Bát Quái ra giảng : Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chín ngướng vu, Cân phúc uyển, Ly trung hư, Khảm trung mão, Tôn thượng khuyết, Đoài hạ đoạn.

Mộc Uyển Thanh rất thông minh, nhẩm qua một lượt thuộc lòng ngay, song nàng không hiểu gì, ngơ ngẩn hỏi chàng :

- Sao lại có cả bát cơm chén nước vào đây nghĩa là gì?

Đoàn Dự đáp :

- Chén ngửa, bát úp mới chỉ là tượng hình mấy quẻ mà thôi. Em nên nhớ rằng 8 quẻ này ý nghĩa rất sâu rộng, bao hàm cả trời đấy muôn vật. Nếu lấy gia đình mà nói thì quẻ Càn tượng trưng cho người cha. Quẻ Khôn tượng trưng cho người mẹ. Quẻ Chấn là con trai cả, quẻ Tốn là con gái lớn. Như anh em ta đây : anh thuộc quẻ Chấn, em thuộc quẻ Tốn.

Mộc Uyển Thanh vênh mặt ngắt lời :

- Không phải, chàng là quẻ Chấn, em là quẻ Khôn. Hai người kết nghĩa phu thê, sinh con đẻ cái...

Đoàn Dự thấy nàng ăn nói ra chiều chớt nhả thì giật mình kinh hãi nói :

- Uyển Thanh em! Đừng nghĩ vẩn vơ nữa! Hãy tiếp tục nghe lời anh dạy đây!

Mộc Uyển Thanh nói :

- Chàng, chàng ngồi xích lại bên em, em mới nghe được.

Bỗng bên ngoài có tiếng lão áo xanh reo lên :

- Hay lắm! Hay lắm! Nếu hai đứa mi nên vợ chồng, sinh con đẻ cái, ta sẽ buông tha ra khỏi nhà tù này. Chẳng những buông tha mà thôi, ta còn dạy cho vợ chồng mi những môn võ nghệ tuyệt luân để dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi nữa.

Đoàn Dự cả giận lớn tiếng đáp vọng ra :

- Này này ta bảo! Nếu đến bước đường cùng ta sẽ đập đầu vào vách đá này tự tử. Mi nên nhớ rằng : Dòng dõi họ Đoàn nước Đại Lý ta thà chết chớ không chịu nhục. Mi đừng hòng hãm ta vào đường tội lỗi để mà rửa hận.

Lão áo xanh nói :

- Dù mi sống hay chết ta cũng mặc xác. Có điều bọn mi mà chết thì ta sẽ lột trần như nhộng cả hai đứa rồi thích chữ vào mặt : "Đây là hai đứa con Đoàn Chính Thuần đang thông gian bị người bắt gặp xấu hổ tự sát" Ta còn tìm cách ướp xác chúng bay đem đi bêu tại các đô thị lớn như Biện Dương, Lạc Dương, Hàng Châu, Quảng Châu.

Đoàn Dự căm tức đến cực điểm, thét lên :

- Họ Đoàn ta có điều chi tàn nhẫn với mi mà mi trả thù một cách hiểm độc, dã man thế?

Lão áo xanh đáp :

- Công việc của ta hà tất phải nói cho thằng ranh con chưa ráo máu đầu như mi nghe.

Dứt lời bên ngoài lại im lặng như tờ. Có lẽ lão lại vượt bức tường cây đi rồi.

Đoàn Dự biết rằng nếu chàng còn nói với Mộc Uyển Thanh nữa càng thêm nguy hiểm, liền ngồi quay mặt vào tường ôn lại những điều phức tạp trong phép Lăng Ba Vi Bộ. Chàng ngây ngất hồi lâu chợt nhớ đến pho tượng Ngọc Mỹ Nhân trong thạnh động, so với Mộc Uyển Thanh còn kiều diễm hơn nhiều rồi tự nhủ : Nếu mình có lấy vợ phải kén người đẹp như "Thần Tiên nương tử" mới không uổng phí một đời.

Đang lúc mơ màng chàng quay đầu nhìn về phía Mộc Uyển Thanh thì hoa mắt lên, từ dung nhan cho đến phục sức, nàng đã biến thành pho tượng bất giác chàng la lên :

- Thần Tiên nương tử ơi! Tôi đang đau khổ đến cùng cực, nương tử cứu tôi với!

Nói xong chàng quỳ mọp xuống đất, ôm lấy chân Mộc Uyển Thanh. Bỗng bên ngoài có tiếng gọi :

- Đã đến giờ ăn tối rồi đấy.

Một cây nến đỏ thắp sẵn đưa qua lỗ hổng vào. Rồi lại thấy người đó vừa cười vừa nói : "Mau ra mà đón lấy, nay là đêm động phòng hoa chúc của các ngươi chẳng nhẽ lại không có đuốc hoa?"

Đoàn Dự cả kinh đứng dậy. Dưới ánh sáng, chàng nhìn rõ Mộc Uyển Thanh mắt gợn sóng tình, người đẹp lồ lộ, không bút nào tả xiết, liền tắt phụt cây nến đi và quát to lên :

- Trong cơm có chất độc, ta không ăn đâu, mi đem về đi!

Người đó cười nói vọng vào :

- Đằng nào cô cậu cũng đã trúng độc, phân lạng đủ rồi. Nay còn cho thêm làm gì?

Nói rồi y cứ đưa cơm vào, Đoàn Dự đón lấy để lên bàn, nhủ thầm : Con người ta chết là hết chuyện. Chẳng bận tâm đến tiếng thị phi làm quái gì nữa! Song chàng lại nghĩ : Song thân cùng bá phụ ta thương ta biết chừng nào? Lẽ nào ta để tiếng xấu cho thiên hạ mỉa mai dòng họ Đoàn? Bỗng thấy Mộc Uyển Thanh la lên :

- Đoàn Lang ơi! Em đành dùng tên độc tự sát đẻ khỏi di hại cho chàng.

Đoàn Dự vội kêu lên :

- Hãy khoan! Đằng nào anh em mình cũng chết rồi. Con người độc ác kia quyết không chịu buông tha nữa đâu. So với Diệp nhị nương hút máu trẻ con, cùng Nam Hải Ngạc Thần ăn tim người, thì lão này còn hiểm độc hơn nhiều. Nhưng không hiểu lão là ai?

Bỗng thấy bên ngoài lão áo xanh lên tiếng đáp lai :

- Thằng lỏi con nói phải đó! Lão phu đây đứng đầu bọn tứ ác. Ác Quán Mãn Doanh là ta đây.

Đây nhắc lại : trong phủ Trấn Nam Vương, Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái trở vào báo : vợ chồng Chung Vạn Cừu cùng Tần Hồng Miên đã đi xa rồi. Trấn Nam vương phi là Thư Bạch Phụng vì thương con nóng ruột hỏi Bảo Định Đế :

- Tâu hoàng huynh, hang Vạn Kiếp ở tận đâu? Hoàng huynh có biết không?

Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đáp :

- Hang Vạn Kiếp ư? Cái tên này nay ta mới nghe là một. Nhưng chắc cách nước Đại Lý ta chằng xa mấy.

Thư Bạch Phụng nói :

- Cứ như lời Chung Vạn Cừu thì dường như nơi này bí mật khó lòng tìm ra được. Thằng Dự lọt vào tay chúng lâu tất.

Bảo Định Đế ngắt lời :

- Y trước nay chỉ được nuông chiều chưa hiểu lòng người độc ác, để y chịu đựng gian nan cho trải mủi đời. Ấu cũng là một dịp rèn luyện cho y, như thế cũng hay.

Thư Bạch Phụng tuy trong dạ bồn chồn nhưng cũng không dám nói gì thêm nữa.

Bảo Định Đế quay sang bảo Đoàn Chính Thuần :

- Hiền đệ đem rượu ra đây để khao thưởng anh em.

Đoàn Chính Thuần vâng mệnh truyền xuống gia nhân. Lát sau một bữa tiệc lớn bày ra. Bảo Định Đế cũng ngồi vào ăn uống. Tuy nhà vua là bậc chí tôn, nhưng chỉ truyền cho quần thần thủ lễ ở triều đình mà thôi, còn ngoài ra Ngài không câu nệ. Vì thế mà vợ chồng Đoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng Thái cũng ngồi chung bàn với nhà vua.

Trong khi ăn tiệc, nhà vua tuyệt nhiên không đả động gì đến chuyện gia đình. Trời gần sáng, thị vệ vào báo :

- Có quan Tư không họ Ba xin vào bái kiến Hoàng Thượng.

Đoàn Chính Minh truyền cho vào. Bức rèm vừa vén lên, một người mặt đen vừa thấp vừa lùn tiến vào cúi đầu trước Bảo Định Đế tâu :

- Thần khải tấu Hoàng Thượng. Đường đi sang qua cầu sắt Thiện nhân độ, đến khu nghĩa địa chỗ có ngôi mộ lớn, đó là cửa vào động.

Thư Bạch Phụng cả mừng nói :

- Tôi biết trước, một khi Ba Tư không đã ra đi thì sào huyệt bên địch ở đâu mà tìm không ra?

Người mặt đen hơi nghiêng mình nói :

- Vương phi quá khen, Ba Thiên Thạch này thực lấy làm xấu hổ.

Người mặt đen là Ba Thiên Thạch, tuy hình thù cổ quái, nhưng là một nhân vật rất tinh tế mẫn cán. Ông từng lập được nhiều công lao cho nhà vua, hiện làm chức Tư không nước Đại Lý.

Trong triều lớn nhất có ba chức : Tư đồ, Tư mã và Tư không gọi là Tam Công. Ba Thiên Thạch võ công trác tuyệt, đặc biệt nhất là môn khinh công. Ba Thiên Thạch vâng mệnh Bảo Định Đế đi do thám trụ sở địch. Ba ngầm theo chân họ, quả nhiên tìm được đến hang Vạn Kiếp.

Bảo Định Đế phán :

- Thiên Thạch, ngươi ngồi xuống ăn thật no đi, rồi chúng ra lên đường nghe.

Ba Thiên Thạch vốn biết tính nhà vua, không ưa người ta quỵ luỵ lạy lục. Đối với thần tử Ngài rất thương yêu và xưng hô theo kiểu anh em bè bạn. Nếu mình tỏ ra quá khúm núm thì làm cho ngài khó chịu, nên Ba chỉ "xin vâng" một tiếng rồi bưng cơm ăn liền. Ba không uống rượu nhưng ăn khoẻ lắm, ăn như rồng cuốn, chỉ loáng đã hết tám bát cơm lớn. Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái chơi thân vói Ba đã lâu, nên không lấy thế làm lạ.

Ba Thiên Thạc ăn xong đứng lên, lấy tay áo lau miệng rồi tâu :

- Tiểu thần xin dẫn đường!

Dứt lời đi ra luôn, Bảo Định Đế, vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái nối gót theo sau. Ra khỏi phủ Trấn Nam Vương, đã thấy bọn Ngư, Tiều, Canh, Độc dắt ngựa chờ sẵn. Ngoài ra còn hơn mười tên tuỳ tòng để mang khí giới cho nhà vua.

Nên biết rằng họ Đoàn nguyên là dòng dõi nhà đại gia trong phái Võ lâm ở Trung Nguyên, sau lấy được nước Đại Lý, trải hơn trăm năm nay vẫn giữ nền nếp tổ tiên. Anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần tuy giàu sang rất mực, mà thường vẫn ăn bận theo kiểu bình dân ra ngoài. Đã là người trong võ lâm thì bất luận là tìm đến báo thù hay đến thăm hỏi nhà vua cũng tiếp đãi theo lề lối nhà võ, chớ không ỷ thế khinh người bao giờ. Nên bữa nay nhà vua ngự giá thân chinh bọn tùy tòng, từ quan Tư không trở xuống, không ai bị bận rộn hạch sách.

Thư Bạch Phụng thấy trong đám thủ hạ Ba Thiên Thạch có đến bảy tám tên mang cuốc xẻng đi theo, thì bật cười hỏi :

- Chúng ta đi khai quật bảo tàng hay sao đây?

Ba Thiên Thạch đáp :

- Thưa Vương Phi! Bảo tàng thì không có, nhưng đi quật mồ mả.

Đoàn người cưỡi ngựa tốt, chạy lẹ như gió, chưa đến trưa đã tới nghĩa địa ngoài hang Vạn Kiếp, Ba Thiên Thạch quay về mé tả đi đến ngôi mộ thứ bảy hô :

- Quật ngôi mộ này lên cho ta.

Bọn tùy tòng Ba đều là những tên lực lưỡng khoẻ mạnh, lập tức nào xẻng nào cuốc bổ xuống. Bảo Định Đế trông thấy tấm mộ chỉ khắc rõ "Vạn cừu Đoàn chi mộ" bật cười nói :

- Chủ nhân hang Vạn kiếp thù oán nhà ta đến thế ư?

Thái Tân Khách, Tiêu Đốc Thành vác búa đập "choảng choảng" phá tấm bia vỡ tan tành chỉ để nguyên vẹn chữ Đoàn. Lúc đó các người khác cũng đã đào hết nửa ngôi mộ, cửa hang đã lộ ra. Tiêu Đốc Thành chui vào trước, dùng búa đập tan cỗ quan tài bên trong, bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Độc đi trước, rồi đến Ba Thiên Thạch, Cao Thăng Thái, sau nữa là vợ chồng Trấn Nam Vương, Bảo Định Đế đi sau cùng.

Đoàn người vào trong hang Vạn Kiếp chỉ thấy bốn bề im lặng như tờ, không ai ra nghênh tiếp. Ba Thiên Thạch vẫn giữ lề lối khách giang hồ, tay cầm danh thiếp của hai anh em Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, rảo bước đi thẳng vào trước nhà khách cất tiếng gọi :

- "Có hai anh em họ Đoàn nước Đại Lý tới hội diện Chung động chủ"

Tiếng hô vừa dứt từ trong bụi cây mé tả chạy vụt ra một bóng người cao lêu nghêu, toan móc lấy danh thiếp ở trong tay Ba Thiên Thạch nhanh như chớp, Ba Thiên Thạch ứng biến mau lẹ vô cùng, tránh qua bên phải ba bước quát hỏi :

- Tôn giá là ai?

Người đó chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc, gã móc không trúng lại nhảy xổ tới Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch khinh công tuyệt cao, muốn thử thách xem tài nghệ của Vân đến mức nào, liền tiến về phía trước ba bước. Vân Trung Hạc cũng rượt theo ba bước.

Thế rồi một người thấp lủn thủn, một gã cao lênh khênh đuổi nhau. Thoáng một cái đã chạy ba vòng. Vân Trung Hạc bước dài chạy nhanh nhưng Ba Thiên Thạch cũng nhảy lẹ dị thường. Hai người chạy vòng tròn chỉ cách nhau có vài ba thước, khiến người xem không rõ là Vân Trung Hạc đuổi Ba Thiên Thạch hay Ba Thiên Thạch đuổi Vân Trung Hạc.

Rút cục Vân Trung Hạc không đuổi theo kịp Ba Thiên Thạch mà Ba Thiên Thạch cũng không thể thoát chạy được Vân Trung Hạc. Khinh công của hai người này thật là thiên hạ vô song.

Bỗng nghe một tiếng kẹt, cánh cửa mở toang, Chung Vạn Cừu ở trong nhà chạy ra. Ba Thiên Thạch vẫn không dừng bước, ngầm vận nội công, tay phải tung ra một cái. Tấm danh thiếp bay thẳng tới trước mặt Chung Vạn Cừu.

Nên nhớ rằng tấm thiếp chỉ là mảnh giấy vừa nhẹ vừa mềm, ngay lúc bình tĩnh ném ra cho trúng chổ cũng không phải là chuyện dễ. Vậy mà đang lúc chạy nhanh như gió, nếu Ba Thiên Thạch không có nội lực phi thường thì không tài nào ném trúng được.

Chung Vạn Cừu giơ tay bắt tấm danh thiếp, cả giận hỏi :

- Họ Đoàn đã đến thăm bái ta, sao không giữ luật lệ giang hồ, dám phá hủy cơ quan ngoài cửa động của ta ?

Phủ Tiêu Điếu Lăng Thiên Lý đáp :

- Hoàng thượng là ngôi chí tôn, có lý đâu lại chui qua chiếc quan tài của ngươi mà vào.

Thư Bạch Phụng sốt ruột vì con, không nhị được nữa hỏi ngay :

- Các ngươi giấu con ta đâu?

Một người đàn bà đứng sau Chung Vạn Cừu chạy vụt ra đáp :

- Mi đến trễ một chút, bọn ta đã moi gan thằng lõi họ Đoàn cho chó ăn rồi.

Hai tay nàng cầm hai lưỡi dao nhỏ như lá liễu loé ra ánh sáng xanh lè, chính là cặp Tu la đao đã làm cho bao nhiêu khách giang hồ phải khiếp vía. Hai người đàn bà này trước đây mười tám năm đã vì ghen tuông mà kết mối thâm thù.

Thư Bạch Phụng biết Tần Hồng Miên nói dối, tuy nhiên câu nói ác miệng đó đối với đứa con yên quý độc nhất của bà làm cho bà căm giận. Thù cũ hận mới bốc lên khác nào lửa cháy đổ dầu thêm bốc lên ngùn ngụt, bà lạnh lùng xỉ vả.

- Ta hỏi Chung động chủ, chưa ai thèm nói với quân đê tiện, sao mà không biết nhục?

Tần Hông Miên nhanh như chớp, giơ song đao lên, lăn xả vào chém liền theo thế "Thập Tự chước" một thế tuyệt kỹ của nàng, đã làm mất mạng vbao nhiêu giang hồ hảo hán.

Thư Bạch Phụng cũng tung cây phất trần gạt đi, đuôi phất trần nhắm phía sau lưng Tần Hông Miên chụp xuống.

Đoàn Chính Thuần thấy vậy rất là buồn phiền, một nàng là vợ chánh, một bên là người tình cũ, hai bên đều dùng thế đánh trín mạng chọi nhau. Bất luận bên nào bị hại, ông cũng ân hận suốt đời, liền quát to lên để can ngăn :

- Hãy khoan đã nào!

Rồi ông xem vào giữa đưa trường kiếm gạt cả hai bên ra.

Chung Vạn Cừu vừa trông thấy Đoàn Chính Thuần, lửa giận bừng bừng, tay cầm đại hoàn đao bật lên tiéng "loảng xoảng" nhằm Đoàn Chính Thuần chém tới.

Lăng Thiên Lý bước ra nói :

- Bất tất Vương gia phải ra tay, để tiểu nhân đối địch với hắn.

Gã tung cần câu ra vụt xuống đầu Chung Vạn Cừu

Chung Vạn Cừu cười nói :

- Ta biết mà! Họ Đoàn toàn là một lũ hư danh chỉ cậy nhiều người.

Đoàn Chính Thuần cũng cười nói :

- Thiên Lý tránh ra, ta muốn xem võ công của Chung động chủ.

Dứt lời hươi trường kiếm lên gạt cần câu Thiên Lý ra bên, thuận đà lia xuống sống thanh đại hoàn đoai để hớt ngón tay Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu cả kinh lẩm bẩm : Kiếm pháp thằng cha họ Đoàn này ghê thật. Hắn phải dẹp cơn phẫn nộ, cầm ngang thanh đao để giữ thế thủ. Tuy hắn tính nóng như lửa, nhưng khi gặp địch thủ lợi hại hắn không dám nông nổi khinh xuất.

Bảo Định Đế giục Lăng Thiên Lý :

- Các ngươi đi lục tìm xem chúng giấu Đoàn Dự ở đâu?

Lăng Thiên Lý vâng mệnh, rồi cả bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Độc đi thẳng vào cửa trước.

Tiêu Đốc Thành vừa đặt chân trái lên ngưỡng cửa, đột nhiên thấy trên đỉnh đầu mát lạnh, rồi người bỗng giật lùi lại. Một lưỡi đao rất lớn và cực mỏng chém tới trước mặt chỉ còn cách độ vài tấc, Tiêu Đốc Thành trên lưng toát mồ hôi lạnh ngắt, nhìn kỹ xem người ngấm ngầm tập kích là ai, thì ra là một thiếu phụ nhan sắc xinh tươi, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương.

Thanh bảc đao của mụ trông rất kỳ dị, lưỡi nó thật lớn hình tròn và mỏng dính, xung quanh đều sắc bén lạ thường. Mụ cầm chuôi bảo đao khẽ múa vung lên, thì một luồng ánh sáng vòng tròn loé ra. Sau cơn giật mình, Tiêu Đốc Thành định thần lại, quát to lên một tiếng rồi giơ búa lên bổ xuống lưỡi bảo đao của Diệp Nhị Nương luân chuyển không ngừng, nhưng phải tránh lưỡi búa trầm trọng không dám để bổ trúng vào đao. Tiêu Đốc Thanh sử dụng đủ ba mươi sáu đường khai sơn phủ pháp vung lên bổ xuống.

Diệp Nhị Nương vận âm dương quái khí vào câu cười giọng nói. Chu Đan Thần biết mụ âm hiểm khôn lường, đao pháp biến trá, sợ đánh dằng dai, Tiêu Đốc Thành tất bị ám toán, liền uyển chuyển bước ra múa quạt trợ chiến.

Lúc đó Ba Thiên Thạch cùng Vân Trung Hạc đang đuổi nhau chạy quyện vòng tròn. Môn khinh công của hai người không ai chịu kém ai, và cả hai cùng cảm thấy rằng cuộc tranh đấu không chỉ trong chốc lát mà phân thắng bại được.

Ba Thiên Thạch chạy hơn trăm vòng đã thấy rõ hạ bàn Vân Trung Hạc : về lẹ làng thì có thừa, nhưng trầm trọng thì không đủ. Ba nghĩ thầm chi bằng ra vừa chạy vừa tìm cơ hộ đánh ba bốn chưởng bất ngờ, tất hắn không đứng vững được. Nhưng Ba lại tính đem khinh công ra để thử thách, không muốn dùng quyền cước để thủ thắng. Rồi gia công chạy mãi.

Bỗng nghe tiếng ồm ồm quát mắng :

- Mờy thằng quỷ này làm gì mà ầm lên thế? Không để cho người ta ngủ à? Những loài chuột chết ở đâu đến vậy?

Người đó chính là Nam Hải Ngạc Thần vừa quát tháo vừa cầm Ngạc Chuỷ Tiễn hầm hầm chạy ra.

Điểm Thương Nông cũng quát mắng lại :

- Chính gia gia sư phụ mi đến đây chứ còn ai!

Nam Hải Ngạc Thần quát hỏi :

- Mi bảo ai là gia gia sư phụ ta?

Điểm Thương Nông trỏ Đoàn Chính Thuần nói :

- Trấn Nam vương đây là gia gia Đoàn công tử. Đoàn công tử đã là sư phụ mi, mi không biết hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần tuy là một kẻ độc ác đa đoan, nhưng cũng có chỗ khả thủ là lão đã nói ra vẫn giữ đúng lời. Vừa nghe Điểm Thương Nông nói vậy, mặt lão biến sắc, nhưng không dám phủ nhận, chỉ mắng lại :

- Ta thờ ai làm thầy mặc ta, việc gì đến mi?

Điểm Thương Nông bật cười nói :

- Sao ngươi dám buông lời xỉ mắng bọn ta?

Nam Hải Ngạc Thần lại chửi oang oang, vừa lúc lắc vừa giơ cây Ngạc Chuỷ Tiển lên đánh xuống.

Cây Ngạc chuỷ tiễn của Nam Hải Ngạc Thần cũng đầy những răng sắc nhọn, chẳng khác chi cây Lang nha bổng. Điểm Thương Nông đưa cây bồ cào sắt mới đỡ được ba đòn, đã thấy hai tay tê buốt.

Phủ Tiêu Điếu Lăng Thiên Lý tung cần câu lên, ném dây câu ra, lưỡi câu nhọn hoắt, nhằm móc mắt Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần tức mình nói :

- Mi làm trò gì thế?

Lăng Thiên Lý cười đáp :

- Lão phụ ngoại hiệu Nam Hải Điếu Đồ, chuyên nghề đi câu cá sấu.

(đây là Lăng Thiên Lý muốn nói xỏ Nam Hải Ngạc Thần, vì Ngạc thần nghĩa là thần cá sấu)

Nam Hải Ngạc Thần nói :

- Mi dốt như bò. Có ai mà câu được cá sấu bao giờ? Nó chỉ đớp một cái là lưỡi câu của mi gẫy nát.

Lăng Thiên Lý nói :

- Mi thử đớp ta coi.

Dây câu lại tung ra, nhằm miệng Nam Hải Ngạc Thần móc vào. Nam Hải Ngạc Thần liền tung roi ngạc vĩ tiên lên quấn lấy. Roi lớn dây câu nhỏ, Phủ Tiêu Điếu không dám để cho quấn vào nhau, giật mạnh cần câu một cái, dây câu bay lên trên không, thành đường vòng tròn nhằm sau gáy Nam Hải Ngạc Thần chụp xuống.

Bảo Định Đế quan sát khắp các nơi tranh đấu, thấy bên mình không có chỗ nào lâm nguy. Chỉ có cặp Tu la đao của Tần Hồng Miên là linh động, biến ảo khôn lường, lưỡi đao laik tẩm thuốc độc ghê gớm. Thư Bạch Phụng võ công cũng không kém sút. Nhưng chỉ e lưỡi Tu la đao quệt vào người một chút cũng có thể nguy đến tính mạng. Nhà vua liền hạ lệnh cho Cao Thăng Thái :

- Ngươi ở đây lược trận, nếu thấy nguy hiểm cho Vương phi, thì phải lập tức đoạt lấy Tu la đao của Tần Hồng Miên.

Cao Thăng Thái vâng lời, ung dung đứng một bên, hai tay chắp sau lưng, ngắm mây bay trên trời. Tuy bốn bề gươm đao đánh nhau loảng xoảng mà Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái vẫn phớt tỉnh như không thấy gì.

Bảo Định Đế đi rảo bước vào trong nhà, lên tiếng gọi :

- Dự con!Con ở chỗ nào?

Không thấy ai thưa, nhà vua lai vào cửa phòng bên trái để tìm Đoàn Dự. Đột nhiên một bóng xanh lè như cây roi dài ngoe nguẩy nhằm cổ Bảo Định Đế bay tới. Bảo Định Đế giật mình nhìn kỹ lại thì ra là một con rắn nhỏ sắc xanh, liền đưa ngón tay ra búng một cái. Da thịt con rắn này tuy dầy và cứng rắn lạ thường, vậy mà bị cái búng đứt làm hai khúc, rớt xuống đất quằn quại mấy cái rồi nằm lăn ra chết đứ đừ.

Bỗng nghe tiếng cô gái la thất thanh :

- Trời ơi, ông này đánh chết con Thanh Linh của tôi rồi!

Bảo Định Đế thấy cô bé chừng 15, 16 tuổi hoảng hốt ở phía sau cửa chạy ra, hỏi ngay :

- Đoàn công tử ở đâu?

Cô bé hỏi lại :

- Ông kiếm Đoàn công tử làm chi?

Bảo Định Đế đáp :

- Ta đến cứu y.

Cô bé lắc đầu nói :

- Ông không cứu được đâu. Công tử bị giam trong nhà đá rất kiên cố, lại có người canh giữ ghiêm ngặt.

Bảo Định Đế nói :

- Cháu cứ đưa ta đến, ra đánh bại người canh gác, xô đẩy tàng đá mở cửa cứu y ra.

Cô gái vẫn lắc đầu nói :

- Không được đâu! Tôi đưa ông đến thì gia gia tôi sẽ giết tôi.

Bảo Định Đế hỏi :

- Gia gia cháu là ai?

Thiếu nữ đáp :

- Tôi họ Chung, gia gia tôi là chủ nhân động này.

Cô bé này chính là Chung Linh, sau khi ở núi Vô Lượng về, cô vẫn ở nhà.

Bảo Định Đế gật đầu nghĩ thầm : "Dù ta thí dổ hay bức bách y cũng mất cả thể thống. Đoàn Dự đã ở đây, thế nào cũng tìm ra" Nghĩ vậy, nhà vua trở ra kiếm người dẫn đường cho mình.

Nhắc lại chuyện Đoàn Dự cùng Mộc Uyển Thanh ở trong nhà đá nghe Thanh bào khách tự xưng là người ác số một trên thế gian, ngoại hiệu là Ác Quán Mãn Doanh thì kinh hãi vô cùng, trong lòng bối rối, tinh thần bạc nhược, rồi không hiểu sao hai người lại ngồi tựa vào nhau.

Đoàn Dự khẽ bảo :

- Uyển Thanh em ơi! Anh em ta mắc vào tay lão này thì vô phước mất rồi.

Mộc Uyển Thanh nói ú ớ, thấy mặt đỏ bừng như lửa đốt, liền rúc đầu vào lòng Đoàn Dự cho đỡ nóng. Đoàn Dự vuốt tóc nàng. Quần áo hai người mồ hôi ra ướt đẫm như vừa ngâm mình xuống nước. Nhiệt khí trong người bốc lên, mũi thở hơi ra càng kích thích mạnh đối phương. Hãy nói một chàng trai đầy nhựa sống ngồi bên cô gái đang tuổi dậy thì, không bị thuốc kíhch động, cũng khó bề dập tắt lửa lòng. Huống chi lại bị "Âm dương hòa hợp tán" thúc đẩy con người vào vòng tội lỗi, dể khiến kẻ sĩ thẳng thắn trở nên dâm dựt, người trinh nữ biến thành cô gái lẳng lơ. Chỉ một phut mê muội thì đến bậc thánh hiền cũng hóa ra cầm thú. May mà Đoàn Dự tinh thần vẫn tỉnh táo, không lúc nào quên thanh danh họ Đoàn. Chàng phải gắng gượng dẹp lòng thú dục.

Ác Quán Mãn Doanh Thanh bào khách đứng ngoài nói :

- Anh em mi mau mau hoàn thành hảo sự đi. Sinh con sớm ngày nào là thoát khỏi vòng lao lung sớm ngày ấy. Ta đi đây.

Dứt lời, cành lá bức tường cây động rào rào. Lão đã đi xa rồi.

Đoàn Dự cất tiếng gọi to :

- Nhạc lão tam! Sư phụ ngươi gặp nạn. Ngươi may mau đến giải cứu!

Gọi mãi chẳng thấy ai thưa, chàng nghĩ thầm : "Trong lúc nguy cấp này mà ta phải thờ lão làm thầy cũng đành. Thà thờ một người độc ác làm sư phụ để chịu lỡ một đời mình, con hơn để luỵ đến gia gia cùng bá phụ" . Thế rồi chàng gọi to hơn :

- Nam Hải Ngạc Thần! Tôi cam chịu thờ ông làm thầy đây, tôi nguyện ý làm người nối nghiệp cho phái Nam Hải. Sư phụ mau mau đến cứu đồ đệ. Tôi chết thì không bao giờ ông kén chọn được đệ tử như tôi đâu.

Chàng gào rát cổ họng cũng chẳng thấy ma nào xuất hiện.

Bỗng Mộc Uyển Thanh cất tiếng hỏi :

- Đoàn Lang ơi! Em cùng chàng kết nghĩa phu thê, thì đứa con đầu lòng chàng muốn trai hay gái?

Đoàn Dự mơ màng buột miệng đáp liền một tiếng :

- Trai.

Bất thình lình, bên ngoài có tiếng một cô gái nói vọng vào :

- Trời ơi! Đoàn công tử! Đoàn công tử! Công tử là anh ruột chị Uyển Thanh, sao lại kết hôn được?

Đoàn Dự giật mình hỏi :

- Phải. . phải Chung cô nương đó không?

Cô gái đó chính là Chung Linh. Cô cả mừng đáp :

- Chính tôi đây! Tôi nghe trộm được lão ác nhân áo xanh nói chuyện mới biết công tử ở đây. Tôi đang tìm cách cứu công tử ra khỏi nơi này.

Đoàn Dự cả mừng đáp :

- Nếu vậy hay! Nếu vậy hay! Cô nương mau đi lấy trộm thuốc giải độc cho tôi.

Chung Linh đáp :

- Tôi tưởng tìm cách mở cửa nhà mật thất này cứu công tử trước hay hơn.

Đoàn Dự vội nói :

- Đừng đừng! Cô nương tìm thuốc mau đi. Tôi . . . tôi không chịu nổi nữa rồi. Mau . . . mau lên, tôi muốn chết đây.

Chung Linh cả kinh hỏi :

- Sao mà không chịu nổi được nữa. Công tử đau bụng lắm à?

Đoàn Dự đáp :

- Không phải đau bụng . . .

Chung Linh lại hỏi :

- Vậy thế nhức đầu hay sao?

Đoàn Dự đáp :

- Tôi có nhức đầu đâu.

Chung Linh lại hỏi :

- Vậy công tử đau chỗ nào? Bệnh gì?

Đoàn Dự chỉ phải một tội không ngăn nổi tình dục, nhưng biết mở miệng nói sao với một thiếu nữ. Chàng ấp úng :

- Toàn thân tôi khó chịu lắm, rất cần cô tìm lấy thuốc giải độc đến đây cho. . .

Chung Linh chau mày nói :

- Công tử không nói rõ bệnh trạng thì biết lấy thuốc gì bầy giờ. Gia gia tôi thuốc gì cũng có. Nhưng phải biết rõ : buốt óc, đau bụng, hay đau tim. . . mới được chứ.

Đoàn Dự thở dài nói :

- Tôi chằng đau đâu hết, tôi. . . tôi ăn phải thứ thuốc kêu bằng "Âm dương hòa hợp tán"

Chung Linh vỗ tay cười nói :

- Công tử đã biết tên thuốc độc, thế là được rồi. Để tôi đi kiếm cho.

Nói xong, nàng bon bon chạy đi, nhảy vót lên đầu cành, chuyền qua bức tường cây về nói với cha lấy thuốc giải Âm dương hòa hợp tán.

Nào ngờ vừa nói đến Âm dương hòa hợp tán, bộ mặt ngựa của Chung Vạn Cừu đã sa sầm,

mắng luôn :

- Con nhãi này! Mi hỏi cái đó làm chi? Còn nói lăng nhăng nữa ta sẽ xẻo tai đi?

Chung Linh vội đáp :

- Đâu phải con nói lăng nhăng. . .

Chưa dứt lời, bỗng đoàn người của Bảo Định Đế đến tấn công. Chung Vạn Cừu vội chạy ra nghinh địch, bỏ mình Chung Linh ở lại trong phòng.

Chung Linh nghe tiếng gươm đao loãng choảng biết rằng hai bên đang đánh nhau kịch liệt nhưng nàng mặc kệ không ra, lần lại tủ thuốc của cha tìm kiếm. Chung Vạn Cừu có đến mấy trăm chai thuốc, chai nào cũng có đề tên và chua rõ cách dùng. Song tìm mãi không thấy thuốc giải "Âm dương hòa hợp tán". Nàng chưa biết tính sao, bỗng nghe tiếng phá cửa, liêng không do dự gì cả, quảng ngay con Thanh Linh ra. Nào ngờ con Thanh Linh mình đồng ra sắt, mà không chịu nổi một cái búng của Bảo Định Đế, chết ngay lập tức.

Đoàn Dự chờ lâu không thấy Chung Linh trở lại, lửa dục lên đến tột độ, mấy lần ôm chặt Mộc Uyển Thanh vào lòng. Sau cùng chang không chịu nổi nữa, liền bảo nàng :

- Thanh em ơi! Anh đành chịu chết thôi. Cho anh một mũi tên độc.

Mộc Uyển Thanh thều thào nói :

- Em không cho.

Rồi nàng thò tay ra nắm chặt lấy tay chàng. Đoàn Dự dùng hết sức đâm thọc bàn tay vào bụng cho vỡ ra, tay chàng bỗng đụng vào một vật rắn chắc, thì ra cái hộp đựng "Mãng Cổ chu cáp" giắt trong mình. Chàng sực nhớ ra, nhủ thầm : "Âu là ta cho Mãng Cổ Chu Cáp ra gọi đàn rắn độc về cắn chết ta đi là xong. "

Chàng liền mở nắp hộp cho đôi mãng cổ chu cáp kêu oang oang. Nhưng vì trong hang Vạn Kiếp này, Chung Linh thường thả con Kim Linh và con Thanh Linh ra chơi, các loài rắn độc sợ hai con rắn thần này nên xa lánh hết, không có con nào ở gần, nên không nghe tiếng Mãng Cổ Chu Cáp. Đoàn Dự không thấy rắn độc đến mà mình thì miệng nóng, lưỡi khô, mổ hôi ra như tắm, chàng nghĩ bụng : "Đôi mãmg cổ chu cáp này đã chế phục được các giống rắn độc thì hẳn nó còn độc hơn rắn nhiều". Chàng chẳng cần suy nghĩ gì nữa, lấy một con bỏ vào mồm ăn.

?n xong một con, chàng thấy trong người mát mẻ dễ chịu, chàng liền ăn nốt con thứ hai, Mộc Uyển Thanh thấy chàng đầu bù tóc rối, miệng đầy máu tươi, khiếp quá.

Đoàn Dự ăn xong hai con mãng cổ chu cáp, thở lên hồng hộc chỉ chờ cho chất độc hai con rắn ấy phát ra, kết quả tánh mạng mình để khỏi chịu đựng ngọn lửa lòng nung nấu tâm can đến cực độ.

Lại nói đến Bảo Định Đế trở ra tìm người dẫn đường cho mình vào sau có tiềng chân người chạy theo, quay đầu nhìn thì ra Chung Linh bèn đứng lại chờ.

Chung Linh vừa chạy vừa gọi :

- Ông ơi! Tôi tìm không thấy thuốc giải độc. Tôi đưa ông đến nhà mật thất, liệu ông có đẩy được tảng đá lớn đóng cửa cái nhà đó không?

Bảo Định Đế chẳng hiểu nàng nói gì, hỏi lại :

- Cháu nói thuốc giải độc gì? Tảng đá lớn nào?

Chung Linh đáp :

- Ông theo tôi đến đó sẽ rõ.

Đường lối trong hang Vạn Kiếp tuy khuất khúc nhưng có Chung Linh dẫn đi, thoáng cái đã đến bức tường cây. Chung Linh còn đang ngơ ngác, chưa biết tính cách nào cho ông trèo lên, chỉ vút một cái, Bảo Định Đế đã nhảy lên trên không, vượt tường cây một cách dễ như chơi. Chung Linh vỗ tay khen :

- Tuyệt quá! Tuyệt quá! Trời ơi! Dễ ông này biết bay chắc?

Người ngồi gác thạch thất chính là Thanh bào quái khách, Chung Linh sợ quá nói khẽ :

- Chúng ta chạy đi thôi ông ạ. Đợi lão đi rồi sẽ trở lại.

Bảo Định Đế nhìn thấy Thanh bào khách cũng rất lấy làm kỳ dị, vỗ về bảo Chung Linh :

- Có ta đây, cháu đừng sợ gì hết! Phải chăng Đoàn Dự bị nhốt trong nhà đá kia?

Chung Linh gật đầu, chui vào sau lưng Bảo Định Đế, Bảo Định Đế ung dung tiến lại gần Thanh bào khách nói :

- Xin tôn giá chiều ta một chút, tránh sang bên cho!

Thanh bào khách tựa như không nghe tiếng, vẫn ngồi yên không nhúc nhích.

Bảo Định Đế nói :

- Tôn giá không chịu tránh ra, thì đừng trách ta vô lễ.

Dứt lời, nghiêng mình lướt qua mặt Thanh bào khách, đưa tay lên tảng đá lớn, toan đẩy. Bỗng thấy Thanh bào khách rút bên sườn ra một cành trúc nhằm đúng huyệt " Khuyết bồn" Bảo Định Đế. Ngọn roi chỉ rung động bên ngoài, chứ không điểm vào người. Nhưng một khi Bảo Định Đế vận nội lực đẩy tảng đá là sẽ bị cành trúc điểm huyệt tức khắc, không còn cách nào tránh kịp.

Bảo Định Đế biết chừng nghĩ thầm : "Phép điểm huyệt của lão này xem ra có vẻ đến mức tuyệt cao, trên thế gian sao cũng có người giỏi môn này." Ông liền giơ tay phải lên khẽ đánh một luồng chường lực, tay trái luồn xuống dưới tay phải, đặt lên tảng đá đóng cửa thạch thất.

Cành trúc của Thanh bào khách chuyển hướng nhằm huyệt "Thiên đia" Bảo Định Đế.

Chưởng lực Bảo Định Đế chuyển nhanh như gió, liền một lúc thay đổi đến bảy phương vị, mà lần nào cũng bị Thanh bào khách chống chế rất tài tình.

Hai tay cao thủ gặp nhau, đòn đánh ngang nhau, biến hóa mau le cũng tương đương, thành ra Bảo Định Đế không được rảnh tay chút nào để vận nội công đẩy tảng đá.

Bảo Định Đế thấy Thanh bào khách cùng mình không phân cao thấp, so với Đoàn Chính Thuần thì lão còn cao hơn một bực. Ông lại hất tay trái đánh xéo lên một chưởng, bỗng nghe xuỳ một tiếng, chưởng pháp vụt biến thành phép điểm huyệt "Nhất Dương chỉ", điểm lên cành trúc. Giả tỷ mà điểm trúng thì đừng nói cành trúc, mà đến cành gang thép đúc nên cũng bị bẻ cong lại. Không ngờ cành trúc phát ra một tiếng véo điểm ngược lại. Hai luồng chưởng lực chạm nhau trên không trung mà Bảo Định Đế bị hất lùi lại còn Thanh bào khách cũng bị rung chuyển. Trên mặt Bảo Định Đế loé ra những ánh hồng quang, trên mặt Thanh bào khách cũng thoáng hiện một luồng thanh khí.

Bảo Định Đế rất lấy làm kỳ nghĩ thầm : người này không những võ công tuyệt cao, mà rõ ràng đối với ta có mối liên hệ chi đây. Cái cành trúc kia dùng làm trượng pháp cũng na ná như phép nhất dương chỉ. Nghĩ vậy liền chắp tay hỏi :

- Tiền bối quý tính đại danh là chi? Xin cho biết.

Bỗng nghe tiếng người hỏi lại :

- Ngươi là Đoàn Chính Minh hay Đoàn Chính Thuần?

Bảo Định Đế thấy lão không nhếch mép mà nói được, lại càng rất đỗi ngạc nhiên, trịnh trọng đáp :

- Tôi là Đoàn Chính Minh.

Thanh bào khách lại hỏi :

- Phải chăng ngươi là đương kim Hoàng đế nước Đại Lý?

Bảo Định Đế đáp :

- Chính phải.

Thanh bào khách lại hỏi :

- Võ công ngươi so với ta, ai hơn?

Bảo Định Đế trầm ngâm một lát rồi đáp :

- Kể về võ công thì tiền bối hơn tôi chút đỉnh, nhưng đánh nhau thực sự thì tôi thắng tiền bối.

Thanh bào khách nói :

- Ngươi nói đúng lắm!Thân ta tàn tật thế này thì sức lực bằng ngươi thế nào được. Thế ra lên ngôi hoàng đế rồi, ngươi vẫn không chút sao lãng việc luyện võ?

Tiếng lão tuy từ trong bụng thốt ra, vẫn lộ vẻ ảo não thất vọng. Bảo Định Đế nghĩ mãi không ra lai lịch lão. Trong óc nảy ra vô số nghi vấn, bỗng nhiên từ trong thạch thất vọng ra một tiếng hét lớn, rõ ràng tiếng Đoàn Dự.

Bảo Định Đế gọi to :

- Dự con! Con làm sao thế? Con hãy cứ yên tâm, có ta đến cứu đây.

Đoàn Dự từ lúc nuốt đôi mãng cổ chu cáp, lúc đầu thấy mát ruột dễ chịu. Ngờ đâu mãng cổ chu cáp là một vật kỳ dị, hiếm có trên thế gian do dương khí thuần nhất sinh ra. Giả tỷ Mộc Uyển Thanh ăn vào, thì âm dương giao hợp, lập tức tiên tan được chất độc trong người. Nhưng Đoàn Dự dương khí đã thịnh, nuốt Mãng Cổ chu cáp vào chẳng khác chi lửa cháy đỏ thêm dầu, nhiệt khí nung nấu không thể chịu thêm được, phải mở miệng hét lên một tiếng thật to, uất kết trong người mới nhẹ đi được đôi chút.

Bên ngoài Bảo Định Đế cùng Thanh bào khách đối thoại cả đến câu Bảo Định Đế biểu "hãy cứ an tâm" có lọt vào tai chàng, mà chàng chẳng hiểu gì ráo.

Thanh bào khách nói tiếp :

- Thằng lỏi này bản lãnh nó gớm thật, ta đã cho nó uống Âm dương hòa hợp tán mà nó còn chống trọi được đến bây giờ.

Bảo Định Đế giật mình hỏi :

- Tiền bối cho nó uống thuốc dâm độc đó là có ý gì?

Thanh bào khách đáp :

- Ta nhốt cả con em gái nó trong thạch thất này.

Bấy giờ Bảo Định Đế mới hiểu rõ mưu sâu kế độc của lão. Tuy nhà vua đã tu tâm dưỡng tánh mà không nhẫn nại được nữa, phải nổi trận lôi đình, phất tay áo một cái điểm huyệt lão già quái ác, nhà vua lại phóng chỉ lực sức mạnh ở ngón tay điểm huyệt "Đản Trung", một yếu huyệt trí mạng.

Bảo Định Đế đã yên trí thế nào lão cũng đưa toàn lực ra để phản ứng. Nào ngờ lão bật lên hai tiếng cười "hích hích" rồi ngôi yên chịu chết, chứ không né tránh, cũng không chống đối.

Ngón tay Bảo Định Đế vừa chạm tới áo ngoài, trong bụng sinh nghi lập tức thu ngón tay về hỏi :

- Tại sao tiền bối cam tâm chịu chết?

Lão đáp :

- Ta được chết dưới tay ngươi thì còn gì hay bằng. Vì tội nghiệp họ Đoàn lại tăng thêm một từng nữa.

Bảo Định Đế hỏi :

- Tiền bối là ai?

Thanh bào khách nói rất khẽ chỉ đủ cho Bảo Định Đế nghe rõ.

Xem tiếp hồi mười chín

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 19 Người áo xanh là ai

Bảo Định Đế nghe Thanh bào khách nói, biến sắc đáp :

- Tôi không thể tin ông được.

Thanh bào khách liền cầm gậy trúc sang tay trái, đưa ngón tay trỏ bên phải ra đánh vèo ra điểm huyệt Bảo Định Đế. Bảo Định Đế nghiêng mình tránh khỏi xong, trả đũa luôn một ngón.

Thanh bào khách cùng Bảo Định Đế lại lần lượt đến ngón tay giữa, ngón vô danh, ngón út rồi sau cùng là ngón cái đều theo đúng phép "Nhất Dương chỉ" ăn miếng trả miếng.

Chung Linh đứng bên nhìn thấy lạ mắt, động tính hiếu kỳ của trẻ thơ, quên cả sợ hãi ông già áo xanh cười hỏi :

- Hai ông chơi trò oản tù tỳ đấy ư? Hết ông này đưa tay lại đến ông kia chìa ngón. Như vậy ai thua ai được?

Nàng vừa nói vừa lân la lại gần, thốt nhiên một luồng gió cực mạnh thổi đến, Chung Linh đang nẩy người lên một cái, tựa như bị mũi dao nhọn đâm vào trước ngực, thì Bảo Định Đế đánh hất lại một chưởng đẩy người nàng lùi lại phía sau. Nàng sợ run, mặt tái mét. Bảo Định Đế giữ cho nàng đứng lại được rồi hỏi :

- Liệu cháu có bị nguy đến tính mạng không?

Chung Linh kêu "Ối" lên một tiếng, miệng hộc máu tươi ra, run lập cập đáp :

- Ông... ông kia muốn giết tôi.

Bảo Định Đế lắc đầu đáp :

- Không phải đâu! Ông ấy đang cùng ta tỷ thí võ công, người ngoài chớ có đến gần.

Đoạn đưa tay ra vỗ nhẹ lưng nàng mấy cái để an ủi.

Thanh bào khách hỏi Bảo Định Đế :

- Bây giờ ngươi đã tin lời ta chưa?

Bảo Định Đế vội tiến lên mấy bước, khúm núm lạy phục xuống nói :

- Chính Minh này xin bái kiến tiền bối.

Thanh bào khách nói :

- Ngươi chỉ gọi ta bằng tiền bối thôi ư? Thế là ngươi chưa tin nên mới không nhận ta.

Bảo Định Đế nói :

- Chính Minh này làm chúa tể một nước, trên vai nặng trĩu gánh sơn hà đâu dám có hành động lỗ mãng, cẩu thả? Mình đã không con, dòng dõi chính thống lại còn một mình Đoàn Dự, xin tiền bối rộng lượng buông tha y ra.

Thanh bào khách đáp :

- Ta chỉ cần cho họ Đoàn nước Đại Lý loạn luân, thất đức, tuyệt diệt dòng giống, đã ráng chờ cho có ngày nay, có lý đâu lại nới tay một cách dễ dãi thế được?

Bảo Định Đế to tiếng :

- Đoàn Chính Minh này nhất định không để cho tiền bối làm như vậy đâu.

Thanh bào khách cũng hằn học :

- Trời ơi! Ngươi cứ tự xưng là Hoàng đế nước Đại Lý. Ta cho ngươi chỉ là kẻ loạn thần tặc tử, đã mưu đồ chiếm đoạt ngai vàng mà thôi. Ta thách ngươi có giỏi thì về điều động cả thần sách quân lẫn ngự lâm quân tới đây. Ta nói cho ngươi hay : dù thế lực ta còn kém ngươi xa, nhưng ta giết thằng giặc non Đoàn Dự dễ như trở bàn tay.

Nét mặt Bảo Định Đế hết xám xanh lại trắng bợt. Ông biết rằng lão nói thật. Đừng nói đến chuyện điều động thần sách quâncùng ngự lâm quân tới, mà mình chỉ thêm một tay giúp sức là lão cũng không địch nổi rồi. Nhưng lúc đó lão sẽ gia hại Đoàn Dự ngay tức khắc. Huống chi lão còn là tiền bối mình, kẻ dưới không nên xúc phạm người trên cho loạn mối cương thường. Nghĩ vậy nhà vua đành đánh lá bài xử nhũn :

- Vậy tiền bối muốn thế nào sẽ phóng xá Đoàn Dự xin cho biết!

Thanh bào khách đáp :

- Điều đó phỏng có khó gì? Ngươi phải xuất gia đầu Phật, nhường đế vị lại cho ta, ta sẽ tha nó.

Bảo Định Đế nói :

- Cơ nghiệp của tổ tiên truyền đời để lại, tôi đâu dám tự tiện chắp tay đem dâng cho người?

Thanh bào khách lại nói :

- Vậy thì ngươi phải ráng chờ. Khi nào Đoàn Dự cùng em gái ăn ở với nhau, sanh hạ được chút con, bất luận trai hay gái ta sẽ tha ra.

Bảo Định Đế vẫn ngọt nhạt :

- Nếu vậy thì thà rằng tiền bối giết y đi còn hơn.

Thanh bào khách lại nói :

- Ngoài ra còn có hai đường để giải quyết : một là ngươi lừa lúc ta không phòng bị, ám toán giết ta đi rồi ngươi tự ý tha nó ra.

Bảo Định Đế nói :

- Không đời nào tôi ám toán giết tiền bối.

Thanh bào khách tiếp :

- Nói vậy thì nói chứ ám toán ta đâu phải chuyện dễ dàng? Còn đường thứ hai nữa là ngươi bảo Đoàn Dự đem phép Nhất DươngChỉ ra đấu với ta. Nếu thắng tự nhiên y sẽ tẩu thoát.

Nói xong lão cười sằng sặc trong cổ họng. Bảo Định Đế nổi giận nhưng cố nén, chậm rãi nói :

- Đoàn Dự không biết chút võ nghệ nào chứ đừng nói gì đến phép Nhất Dương chỉ nữa.

Thanh bào khách đáp :

- Trai họ Đoàn mà bảo rằng không biết Nhất Dương chỉ thì ai tin được?

Bảo Định Đế nói :

- Đoàn Dự từ thuở nhỏ học Thi, Thư cùng kinh Phật, tâm địa từ bi, kiên quyết không chịu học võ.

Thanh bào khách nói :

- Đó chỉ là một lối giả nhân nghĩa. Hạng ấy mà lên ngôi vua thì chưa chắc đã là hạnh phúc cho lê dân Đại Lý, giết quách đi là hơn.

Bảo Định Đế xẵng giọng hơn :

- Xin tiền bối cho biết còn đường lối nào khác nữa không?

Thanh bào khách đáp :

- Ngươi còn hỏi chi đến đường lối nào khác? Giả tỷ năm nọ có đường lối để thoát thì ta đâu đến nỗi thân tàn ma dại thế này? Kẻ khác không cho ta lối thoát có lý đâu ta chịu tìm lối thoát cho các ngươi?

Bảo Định Đế cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, rồi vẻ mặt cương quyết gọi to :

- Dự con ơi! Ta sẽ tìm cách cứu con ra khỏi chốn lao lung. Con chớ quên mình là con cháu họ Đoàn nghe!

Bỗng nghe Đoàn Dự la lớn :

- Bá phụ ơi! Bá phụ lại gần đây đem phép Nhất Dương chỉ ra xử tử cháu đi cho rồi.

Bảo Định Đế giật giọng hỏi :

- Thế nào? Mi làm bại hoại gia phong họ Đoàn rồi sao?

Đoàn Dự đáp :

- Không! không phải thế. Cháu thấy trong lòng nóng như thiêu như đốt, không thể sống được nữa.

Bảo Định Đế nhủ :

- Con người ta sống chết có số mệnh, con đành phó mặc Hoàng thiên tới đâu hay đó.

Đoạn nhà vua cầm tay Chung Linh vừa nhảy qua bức tường cây vừa nói :

- Tiểu cô nương! Đa tạ cháu đã đưa đường cho ta, sau này sẽ có ngày trả ơn.

Rồi theo lối cũ đi ra trước cửa tòa nhà chính. Lúc đó mọi người giao đấu, phân thắng bại đã hơi rõ rệt : Phủ Tiêu Điếu Lăng Thiên Lý cùng Điểm Thương Nông Đổng Tư Quy hai người hiệp lực đánh Nam Hải Ngạc Thần đã có vẻ thắng thế. Bút Mặc Sinh Chu Đan Thần cùng Thái Tân Khách Tiêu Đốc Thành đã uy hiếp được thanh bạc đao của Diệp Nhị Nương. Cây phất trần của Thư Bạch Phụng vây bọc cặp Tu La đao của Tần Hồng Miên xem chừng đã khó bề xoay sở. Ngoài hiên bên kia cặp giò Vân Trung Hạc tuy vẫn lanh lẹ dị thường nhưng miệng đã thở hồng hộc như trâu cày mệt nhọc mà Ba Thiên Thạch vẫn nhảy lên chồm chồm, còn đang sung sức. Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái vẫn chắp hai tay để sau lưng, thủng thẳng đi lại ung dung, có vẻ nắm chắc phần thắng về phe mình. Tuy ông giả bộ chẳng quan tâm gì đến những trận chiến đấu khốc liệt xung quanh nhưng kỳ thực mắt nhìn khắp sáu mặt, tai nghe hết tám phương, tinh thần sáng suốt bao trùm cả cục diện. Vì thấy phe mình không ai lâm vào tình trạng nguy kịch nên Hầu chẳng cần ra tay tiếp viện.

Bảo Định Đế không thấy em đâu liền hỏi :

- Chú Thuần đâu?

Cao Thăng Thái tâu :

- Trấn Nam Vương đang đuổi Chung động chủ để đi tìm Đoàn công tử.

Bảo Định Đế hạ lệnh :

- Công việc nơi đây sẽ có kế hoạch khác, các ngươi hãy ngừng tranh đấu để quay về đã.

Ba Thiên Thạch nghe lệnh bỗng nhiên đứng lại. Vân Trung Hạc nhảy bổ tới, Ba Thiên Thạch thừa cơ đánh vút ra một chưởng. Vân Trung Hạc đưa cả hai tay ra chống đỡ cảm thấy trong người nôn nao, rồi miệng trào máu tươi ra. Y cố gượng trấn tĩnh nhưng mắt hoa lên, nhìn không rõ đường quyền đánh tới đành phải bỏ chạy. Ba Thiên Thạch cũng không đuổi theo, chỉ cười hềnh hệch nói :

- Ta đã biết sức nhau rồi.

Đoàn Chính Thuần ở trong bụi rậm đi ra hỏi Bảo Định Đế :

- Hoàng huynh đã tìm thấy chỗ thằng Dự chưa?

Bảo Định Đế gật đầu đáp :

- Tìm thấy rồi! Ta hãy về thành rồi sẽ nói chuyện.

Bọn Lăng Thiên Lý, Chu Đan Thần thấy nhà vua hạ lệnh đình chiến cũng đều muốn dừng tay song phe Diệp Nhị Nương, Nam Hải NgạcThần, Tần Hồng Miên đang hăng không chịu bãi chiến cứ đánh hoài. Bảo ĐịnhĐế chau mày nói :

- Chúng ta đi thôi!

Cao Thăng Thái "Vâng" một tiếng, đoạn rút ống ngọc địch ra, ống tay áo rộng lùng thùng, bay phất phới nhằm đánh vào sau lưng Tần Hồng Miên.

Tần Hồng Miên cất tiếng mắng liền :

- Bọn mi cậy đông người để thủ thắng sao không biết thẹn?

Bỗng nghe hai tiếng "loảng choảng", ngọc địch đã đánh trúng vào hai ngọn Tu la đao của Tần Hồng Miên. Cặp đao phải hạ thấp xuống, Thư Bạch Phụng liền nhân lúc đó quay lại, nhảy ra đằng sau.

Cao Thăng Thái phất tay áo lùng thùng một cái, phát ra một luồng kình phong cản Tần Hồng Miên lại, không cho đuổi theo nữa. Rồi cầm ngọc địch nhằm Nam Hải Ngạc Thần đánh tới, đoạn hất tay đánh sang Diệp Nhị Nương. Cả hai đòn này đều nhằm đánh vào huyệt trọng yếu đối phương.

Nam Hải Ngạc Thần cùng Diệp Nhị Nương đồng thời kinh hãi lùi lại phía sau ba bước.

Thực ra thì võ công Cao Thăng Thái đâu có thể lấy một chọi ba được nhưng ông đứng lược trận từ lâu, nhìn nhận kỹ càng, rồi đột nhiên sử dụng đòn tuyệt kỹ để đối phó với cả ba người cùng một lúc khiến họ nhất thời phải hoang mang, chân tay quờ quạng, tuy ông vẫn ung dung như không. Thực ra thì ba đòn này ông đã tốn không biết bao nhiêu công phu tập luyện và đã phải dùng toàn lực thi thố. Hơn nữa ông đã suy đi tính lại rất kỹ, ba đòn này cực kỳ hiểm độc, đối phương chỉ còn một lối lùi lại phía sau để tránh, tuyệt không còn cách nào để trả đòn lại được.

Nam Hải Ngạc Thần giương đôi mắt ti hí lên mà nhìn CaoThăng Thái, vừa kinh hãi vừa bội phục nói :

- Mẹ cái thằng cừu non này gớm thật, ta không ngờ...

Lão không thốt ra hết lời nhưng ý lão định nói : Ta không ngờ mi ghê gớm đến thế, ta đây khó có thể ăn đứt được thằng lỏi này.

Thư Bạch Phụng hỏi Bảo Định Đế :

- Tâu Hoàng huynh! Cháu Dự có sao không?

Bảo Định Đế tuy trong lòng rất lo ngại nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ thản nhiên đáp :

- Không sao đâu! Thật là cơ hội rất tốt để rèn luyện cho y. Chỉ mấy hôm nữa là ra được. Thôi ta hãy về Triều rồi sẽ nói chuyện.

Bảo Định Đế đi đầu, vợ chồng Đoàn Chính Thuần nối gót rồi đến bọn tuỳ tùng. Sau bọn tuỳ tùng là bốn gã Ngư, Tiều, Canh, Độc. Cao Thăng Thái đi hậu đoạn, vì mấy đòn vừa đây Cao đã làm bên địch khiếp sợ. Nam Hải Ngạc Thần hung hãn là thế mà cũng không dám đuổi theo khiêu chiến. Đoàn Chính Thuần đi chừng mười trượng không nhịn được, phải quay lại nhìn theo Tần Hồng Miên. Tần Hồng Miên cũng run run nhìn theo ông. Bốn mắt gặp nhau, hai bên đều có vẻ ngẩn ngơ.

Nam Hải Ngạc Thần quát hỏi :

- Con cừu kia! Sao không cút đi cho lẹ, còn tiếc rẻ cái gì? Hay muốn chơi nhau với lão gia đây một trận nữa?

Đoàn Chính Thuần giật nảy mình, vội quay mặt về phía trước thấy vợ đang trố mắt nhìn mình ông đành phải rảo bước chạy theo, ra khỏi hang Vạn Kiếp.

Đoàn người về đến nước Đại Lý, Bảo Định Đế bảo mọi người vào luôn trong cung thương nghị. Vào đến thư phòng, chia thứ bậc an tọa xong, vua truyền cho nội thị lui ra rồi đem tình hình Đoàn Dự bị giam giữ thuật lại. Bấy giờ mọi người mới hiểu việc này mấu chốt đều ở cả trong tay Thanh bào khách. Nhưng lại nghe Bảo Định Đế nói : không những lão đã giỏi phép Nhất Dương chỉ mà võ công cũng hơn ngài một bậc nên không ai dám nói gì.

Ta nên nhớ rằng phép Nhất Dương chỉ họ Đoàn chỉ truyền cho con trai chứ không truyền cho con gái. Thanh bào khách đã hiểu phép này tất nhiên phải là con cháu chính phái họ Đoàn.

Mọi người nghe Bảo Định Đế nói đều cả kinh thất sắc. Đoàn Chính Thuần nói :

- Thái tử Diên Khánh đã qua đời rồi còn đâu? Chắc lão này mạo nhận đó thôi.

Bảo Định Đế thở dài nói :

- Tên tuổi thì còn có thể nhận càn chứ phép "Nhất Dương chỉ" thì có lý nào giả mạo được? Học võ phải đường hoàng, nếu nghe trộm học lỏm thì chỉ là hạng tầm thường trong phái võ lâm. Nội công tâm pháp những kẻ học lỏm có đâu đến mực cao siêu như lão? Lão đích là thái tử Diên Khánh rồi không còn nghi ngờ gì nữa.

Đoàn Chính Thuần ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp :

- Đại ca đã nhận rõ lão là thái tử Diên Khánh thì dù sao cũng dòng giống họ Đoàn, vì lẽ gì lão lại cố làm bại hoại gia phong nhà ta?

Bảo Định Đế nói :

- Lão khắp người tàn tật nên tính tình kỳ dị, nhất thiết không thể lấy lý lẽ thông thường mà lường được. Lão ôm một mối căm thù bất diệt, cố tìm cách phá hoại được thanh danh anh em ta mới hả giận.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Đại ca lên ngôi báu đã được bấy nhiêu lâu, thần dân đội đức, bốn cõi yên vui. Đừng nói là thái tử Diên Khánh xuất hiện, giả tỷ Thượng Đức Đế có phục sinh cũng không trở lại ngôi vua được nữa.

Cao Thăng Thái cũng đứng lên tâu :

- Lời Trấn Nam Vương thật là chí lý. Thái tử Diên Khánh biết điều trao trả Đoàn công tử thì thôi bằng không thì ta không thể nhìn nhận ông là người đứng đầu bốn nhân vật kỳ dị trên đời này nữa mà chỉ coi ông là kẻ thất phu, ai cũng có quyền tru lục. Bất luận võ công ông ta cao đến mực nào cũng không thể địch lại số đông.

Nguyên mười bốn năm trước đây, Thượng Đức Đế Đoàn Liêm Nghĩa trị vì nước Đại Lý. Nhằm năm Thượng Đức thứ năm, Thượng Đức Đế bị gian thần là Dương Nghĩa Trinh giết chết. Sau người cháu gọi Thượng Đức Đế bằng bác là Đoàn Thọ Huy được vị trung thần Cao Trí Thăng phò tá giết Dương Nghĩa Trinh, đưa lên kế vị hiệu là Thượng Minh Đế. Thượng Minh Đế không muốn làm vua, trị vì được một năm rồi xuất gia đầu Phật nhường ngôi báu lại cho đường đệ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế. Đoàn Liêm Nghĩa có sinh được một người con trai là thái tử Diên Khánh, song sau khi gian thần Dương Nghĩa Trinh giết vua cướp ngôi không thấy thái tử Diên Khánh đâu nữa. Ai cũng cho là thái tử Diên Khánh bị Dương Nghĩa Trinh hạ sát rồi.

Nhắc lại Bảo Định Đế nghe lời Cao Thăng Thái tâu, lắc đầu nói :

- Ngôi báu này chính là của thái tử Diên Khánh, chỉ vì khi trước không tìm thấy người nên Thượng Minh Đế mới lên kế vị, sau Thượng Minh Đế truyền lại cho ta. Nay thái tử Diên Khánh đã trở về, lý đương nhiên ta phải trả ngôi báu lại cho người.

Đoạn nhìn Cao Thăng Thái nói tiếp :

- Giả tỷ lệnh tôn mà còn dĩ nhiên cũng nghĩ như ta.

Nguyên Cao Thăng Thái là con vị công thần Cao Trí Thăng. Hồi đó sở dĩ trừ gian giệt nịnh được toàn là nhờ công Cao Trí Thăng cả.

Cao Thăng Thái tiến lên một bước, nằm phục xuống đất tâu :

- Tiên phụ kẻ vi thần này tuy có dạ trung chúa yêu dân thật nhưng Thanh bào khách này là người đứng đầu bọn Tứ ác, giả tỷ mà ông lên làm vua nước Đại Lý, sửa trị muôn dân thì trăm họ điêu linh biết bao nhiêu mà kể. Việc chúa thượng định nhường ngôi này, kẻ vi thần là CaoThăng Thái dù tội đáng muôn thác cũng không dám tuân lệnh.

Lăng Thiên Lý cũng phủ phục tâu :

- Thần là Lăng Thiên Lý đã nghe Nam Hải Ngạc Thần, người thứ ba trong Tứ ác hú lên những tiếng ghê hồn, biểu người đứng đầu Tứ ác là Ác Quán Mãn Doanh. Nếu Ác Quán Mãn Doanh không phải là thái tử Diên Khánh thì dĩ nhiên không thể lên ngôi báu được rồi, giả tỷ lão chính là thái tử Diên Khánh thì cũng dâm ác bằng mấy Nam Hải Ngạc Thần. Chúa thượng nỡ để lão lên sửa trị muôn dân nước Đại Lý này cho giang sơn điên đảo, xã tắc khuynh nguy hay sao?

Bảo Định Đế khoát tay nói :

- Hai người hãy đứng dậy. Lời các ngươi quả là có lý, nhưng Đoàn Dự đã mắc vào tay thái tử Diên Khánh ngoài việc ta nhường ngôi lại cho người phỏng còn cách nào lấy được thằng Dự ra?

Đoàn Chính Thuần nói :

- Bẩm đại ca! Xưa nay chỉ có chuyện vua cha lâm nạn, kẻ làm tôi con phải lăn vào cứu cấp. Thằng Dự tuy là đứa cháu thương yêu của đại ca nhưng có lý đâu vì y mà đại ca phải bỏ ngôi trời? Vậy thì y có thoát nạn cũng thành kẻ đại tội ở nước Đại Lý.

Bảo Định Đế đứng lên, tay trái vuốt chòm râu dài, hai ngón tay phải gõ nhẹ vào trán, bước thủng thỉnh đi trong thư phòng. Mọi người đều biết khi gặp việc khó giải quyết ngài thường có cử chỉ như vậy để xuất thần suy nghĩ nên không ai dám lên tiếng, để ngài được tĩnh trí.

Bảo Định Đế đi đi lại lại hồi lâu rồi nói :

- Thái tử Diên Khánh là một tay rất hiểm độc, cho thằng Dự uống "Âm dương hòa hợp tán". Chất thuốc này phát động ghê gớm, người tầm thường khó lòng chống chọi nổi. Chỉ sợ... chỉ sợ lúc này thuốc độc làm cho y mê muội rồi cũng chưa biết chừng. Than ôi đó là tại người ngoài bầy ra mưu sâu kế độc, chứ nào phải tại y, mình trách y thế nào được?

Đoàn Chính Thuần cúi gằm mặt xuống, xấu hổ vô cùng. Ông tự trách mình : Họa này xét cho cùng chỉ tại mình quá lãng mạn gây ra.

Bảo Định Đế quay đầu lại hỏi Cao Thăng Thái :

- Thăng Thái! Con gái ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

Thăng Thái tâu :

- Tiểu nữ năm nay 18 tuổi.

Bảo Định Đế nói :

- Nếu vậy hay! Này Thuần đệ! Ta cho đưa sánh lễ sang bên Thiện Xiển Hầu để hỏi Cao tiểu thư về làm dâu.

Nhà vua lại gọi :

- Ba Tư không! ngươi sang bàn với bộ Lễ sắp đồ nạp thái vấn danh, cùng thảo luận các nghi tiết. Việc này càng làm rầm rộ càng hay, cốt cho khắp nước Đại Lý đều biết tiếng.

Vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái, Ba Thiên Thạch nghe đức vua phán truyền, ai nấy đều sửng sốt song đều hiểu thâm ý của Ngài. Sở dĩ ngài có hành động này là muốn bảo toàn thanh danh cho họ Đoàn lẫn Đoàn Dự, cốt tỏ cho thiên hạ biết Đoàn Dự đã có vợ con hẳn hoi. Nếu rồi đây thái tử Diên Khánh có biêu diếu rằng Đoàn Dự cùng em gái làm trò đồi bại thì người ngoài chỉ cho là lão bịa chuyện phao vu, hay ít ra cũng gieo được mối nghi ngờ vào lòng người.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Kế đó của Hoàng huynh quả là tuyệt diệu. Đệ có được nghe từ lâu Cao tiểu thư tính hạnh đoan trang, tài mạo song toàn, thực là một mối tương duyên. Có điều thằng Dự tính nết kỳ quặc, khó bảo. Đệ tưởng hãy chờ y thoát khỏi tai nạn trở về, báo cho y biết, rồi hãy nạp sính hay hơn.

Bảo Định Đế nói :

- Ta vẫn biết tính y cố chấp. Anh em mình bảo y học phép Nhất Dương chỉ y cũng không chịu. Đúng là một đứa không biết điều hơn lẽ thiệt. Nhưng hôn nhân là việc hệ trọng, phải tuỳ nơi cha mẹ xếp đặt, chẳng lẽ y dám cãi lời vợ chồng Hoàng đệ hay sao? Việc này không những bảo vệ thanh danh cho họ Đoàn mà còn có quan hệ đến cả đời y, nhất quyết y phải tuân lệnh.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Đệ thấy nói Cao tiểu thư gầy yếu lắm. Việc này nên bàn kỹ đã.

Bảo Định Đế vẻ mặt cương quyết nói :

- Gầy yếu thì đã làm sao? Cao hiền đệ đây võ nghệ cao cường sẽ truyền dạy con gái chút ít phép hô hấp chỉ trong một vài năm là khoẻ mạnh ngay.

Đoàn Chính Thuần ngập ngừng nói :

- Chẳng qua...

Bảo Định Đế ngắt lời :

- Thuần đệ! Sao cứ gàn mãi là có ý gì vậy? Hay hiền đệ có điều gì bất mãn với Cao đệ?

Đoàn Chính Thuần vội nói :

- Đâu có chuyện ấy? Cao hiền đệ với em như tình ruột thịt nay lại kết thân gia nữa thì còn gì hay bằng? À... mà Ba Tư không cũng có một vị tiểu thư... rồi Phạm Tư mã cũng còn những hai cô. Xin bàn lại xem sao đã.

Ba Thiên Thạch cười nói :

- Tiểu nữ chưa đầy một tuổi, còn hai tiểu thư con quan Phạm Tư mã thì một là con dâu tôi và một nữa cũng đã đính hôn cùng cậu con cả con quan Tư đồ họ Hoa.

Bảo Định Đế tỏ vẻ không bằng lòng gắt :

- Thuần đệ! Thiên thạch là quan đồng triều mà hiền đệ chưa biết những việc đó sao?

Đoàn Chính Thuần thấy Hoàng huynh gay gắt không dám nói nữa.

Cao Thăng Thái nói :

- Trấn Nam Vương! Thăng Thái này cùng Vương gia chơi với nhau từ thuở nhỏ, hai ta chưa có chuyện gì biết mà không nói, nói mà không hết. Vương gia thấy tiểu thư có điều chi thất đức nên không muốn cho nó về làm con dâu phải không? Xin Vương gia cứ nói thật đi! Tôi không để tâm đâu.

Đoàn Chính Thuần ngần ngừ một lát rồi nói :

- Đã thế tôi xin nói thực! Cao hiền đệ đừng giận nhé.

Cao Thăng Thái đáp :

- Xin Vương gia cứ nói thẳng, đừng úp mở gì.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Lệnh ái mất Từ mẫu từ thuở nhỏ, tất nhiên hiền đệ cưng chiều quá độ. Tôi lại nghe lệnh ái hay làm nũng, hơn nữa hiền đệ truyền dạy võ nghệ, bản lãnh lệnh ái cũng suýt soát hiền đệ. Sau khi về làm dâu tôi chỉ e... chỉ e... hà hà... thằng Dự sẽ bị lệnh ái lấn át. Y chẳng biết chút võ công nào chỉ học được môn Lăng Ba Vi Bộ. Trong chốn khuê phòng lệnh ái mà lên chân xuống tay thì y chỉ còn môn Lăng Ba Vi Bộ mà lẩn tránh và chạy khắp phòng thì khổ.

Bảo Định Đế cười ha hả :

- Trời ơi! Ông em tôi cứ ấp a ấp úng mãi, té ra chỉ vì thế.

Đoàn Chính Thuần quay lại đưa mắt nhìn Thư Bạch Phụng cười nói :

- Thưa đại ca! Em dâu đại ca cùng tiểu đệ ý kiến thường mâu thuẫn. Lúc nào gây lộn, giả tỷ mà võ công tiểu đệ đối với nàng không suýt soát thì có phen lôi thôi to rồi.

Ai nghe Đoàn Chính Thuần nói cũng phải mỉm cười. Vương phi Thư Bạch Phụng nói bằng một giọng lạnh nhạt :

- Thằng Dự chỉ cần học được phép Nhất Dương chỉ của họ Đoàn là thiên hạ vô địch rồi. Dù y có lấy năm bảy con ác phụ cũng chả sợ gì ai.

Vương phi ra chiều châm biếm phép Nhất Dương chỉ để xói móc Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần biết vợ mỉa mình chỉ cười không đáp.

Cao Thăng Thái nói :

- Tiểu nữ tuy ít được giáo huấn nhưng đâu đến nỗi cả gan làm bậy? Có điều Thăng Thái này chịu ơn nặng đã nhiều không dám mong được chúa thượng cùng Vương gia ban cho thêm nữa.

Bảo Định Đế cười nói :

- Lệnh ái mà quản cơ được cái thằng nhỏ tính khí luông tuồng đó cho chúng ta thì anh em ta rất cám ơn. À mà này Thăng Thái! Lệnh ái tên gì nhỉ? Nhiều khi cái tên cũng ảnh hưởng đến tính tình.

Cao Thăng Thái tâu :

- Tiểu nữ hạ thần chỉ vẻn vẹn có một chữ tên là My mà thôi. Từ thuở nhỏ đến giờ y không ra khỏi cửa, tính nết y vẫn ngoan ngoãn. Hẳn có người bất mãn với hạ thần phao đồn tiếng không hay, thậm chí lọt đến tai Vương gia.

Đoàn Chính Thuần liền chạy đến cầm tay Cao Thăng Thái vừa cười vừa nói :

- Cao hiền đệ đó là ngu huynh lỡ lời, hiền đệ đừng để ý.

Bảo Định Đế cười nói :

- Thế là xong rồi! Thiên Thạch ta ủy thác cho ngươi việc sửa lễ, nạp thái rồi hai nhà sẽ tạ ơn ông mai.

Ba Thiên Thạch tươi cười cúi đầu vâng mệnh. Bảo Định Đế lại truyền chỉ xuống hàn lâm viện thảo chế Gia phong. Hoàng đệ Đoàn Chính Thuần lên chức Hoàng thái đệ.

Đoàn Chính Thuần cả kinh vội quỳ xuống tâu :

- Hiện nay đại ca đang độ tuổi xuân còn thịnh, muôn dân đội đức cao dầy. Hoàng thiên tất sẽ trông lại, con cháu đề huề. Xin đại ca hãy gác việc gia phong cho em lên tước Hoàng thái đệ.

Bảo Định Đế cầm tay nâng dậy nói :

- Hoàng đệ cùng ta hai người chỉ là một. Giang sơn nước Đại Lý này cả hai anh em ta chấp chưởng. Đừng nói là ta không có con, dù có Hoàng nam đi nữa ta vẫn truyền ngôi cho Hoàng đệ kia mà. Việc ta quyết lập em làm thừa kế cả nước đều biết. Ngày nay càng cần định rõ danh phận để thái tử Diên Khánh đừng mong gì nữa.

Đoàn Chính Thuần tái tam từ khước không được đành phải khấu đầu tạ ơn. Bọn Cao Thăng Thái lần lượt đến trước mặt ĐoànChính Thuần ngỏ lời chúc tụng. Ba Thiên Thạch quay sang nhìn Cao Thăng Thái mỉm cười chìa bàn tay trái ra, tuy không nói ra miệng nhưng có ý bảo :

- Sau này Đoàn Dự lên kế vị, con gái anh sẽ là Hoàng hậu nương nương. Phần hậu tạ cho ông mai phải đặc biệt đấy.

Bảo Định Đế phán :

- Ai nấy về nghỉ đi! Câu chuyện thái tử Diên Khánh nhất thiết không tiết lộ ra ngoài.

Mọi người vâng lệnh cúi đầu cáo biệt. Bảo Định Đế cũng đi ngủ.

Sáng hôm sau, lúc Đế tỉnh dậy thấy âm nhạc du dương, pháo nổ rầm trời, nội giám vào chầu chực thay áo rồi bẩm :

- Hôm nay Trấn Nam Vương thế tử đưa lễ nạp thái kết thân cùng Thiện Xiển Hầu tiểu thư. Ngoài cửa cung trăm họ đến hoan hô chúc tụng rất là náo nhiệt. Mấy năm nay nước Đại Lý không phải nạn binh đao. Triều đình thanh chính, dân sự yên vui. Trăm họ rất kính phục đức vua cùng Trấn Nam Vương và Thiện Xiển Hầu. Nay nghe tin hai họ Đoàn, Cao kết thân khắp thành Đại Lý hoan hô cổ võ.

Bảo Định Đế phán bảo nội giám :

- Ngươi cho loan tin ngày mai ta xuống chỉ mở hội hoa đăng các chức kim ngô không phải dẹp đường, lại mở tiệc lớn khao thưởng ba quân, cùng ban rượu thịt cho kỳ lão cô nhi.

Chỉ vừa ban ra tiếng trăm họ hoan hô nổi dậy vang trời.

Hôm ấy trời xế chiều, Bảo Định Đế ăn mặc giả dạng bình dân, một mình đi ra ngoài thành, đầu đội mũ rộng vành, kéo sụp xuống che mặt, không còn ai nhận ra nhà vua nữa. Dọc đường thấy tiếng trăm họ múa hát rất là vui vẻ. Thời bấy giờ nhân sĩ Trung nguyên coi nước Đại Lý là đất man di mọi rợ, nghi lễ khác xa với Trung nguyên. Trên đường cái thanh niên nam nữ dắt nhau đi lả lơi cười nói là sự rất thường. Bảo Định Đế nghĩ thầm : "Ta chỉ mong cho dân tộc nước Đại Lý đời đời được tự do hoan lạc thế này, dù ta không con cái cũng chẳng có gì đáng phàn nàn".

Nhà vua ra khỏi thành rồi rảo bước đi mau. Đi được hơn 20 dặm thì bắt đầu lên dốc núi. Đường xá mỗi lúc một vắng tanh, đi vòng hết bốn khu thung lũng thì đến một ngôi chùa cổ nhỏ, ngoài cửa có đề ba chữ : "Niêm Hoa tự". Bảo Định Đế đứng ngoài cổng chùa, tĩnh tâm mặc niệm một hồi rồi đi thẳng vào gõ cửa ba tiếng. Một lát, cửa chùa mở, một chú tiểu chạy ra, chắp tay hỏi :

- Tôn khách tới đây có việc gì?

Bảo Định Đế đáp :

- Phiền chú vào thông báo cùng Huỳnh My đại sư có cố nhân là Đoàn Chính Minh xin vào ra mắt.

Chú tiểu nói :

- Mời tôn khách vào trong này chờ.

Rồi trở gót tăng tả đi ngay.

Bảo Định Đế cũng vào theo, vừa đi được mấy bước bỗng nghe hai tiếng khánh keng keng âm u từ hậu viện vọng ra. Chỉ trong giây lát Bảo Định Đế thấy trong người mát mẻ, thần trí tiêu dao. Bảo Định Đế dẫm chân lên những tán lá rụng đi vào tới hậu viện.

Chú tiểu nói :

- Xin tôn khách chờ đây một chút! Sư phụ tôi sẽ ra ngay.

Bảo Định Đế khoanh tay đứng chờ trong sân nhìn chiếc lá vàng rụng phất phới từ từ bay xuống. Suốt đời ít khi Đế đứng ngoài cửa chờ ai như bữa nay. Nhất là từ khi lên ngôi báu thì chỉ có người khác đến chờ mình chứ chả bao giờ Ngài đứng đợi ai. Mỗi khi đến chùa Niêm Hoa này lòng trần tục sạch lâng lâng, tự nhiên quên cả mình là một vị quân vương cõi Thiên Nam. Chợt nghe tiếng một ông già cười nói :

- Đoàn hiền đệ đấy ư? Hiền đệ có điều chi nan giải?

Bảo Định Đế quay đầu nhìn lại thấy từ trong căn nhà xép mở cửa bước ra một vị lão tăng mặt mũi nhăn nheo, thân hình cao lớn, cặp lông mày dài sắc vàng, đằng đuôi sa xuống thấp. Chính là Huỳnh My hòa thượng.

Bảo Định Đế chắp tay nói :

- Tôi đến cửa thiền quấy nhiễu đại sư đây.

Huỳnh My hòa thượng nói :

- Mời hiền đệ vào trong này.

Bảo Định Đế rảo bước theo vào căn nhà xép, đã thấy sáu vị hòa thượng đứng tuổi mình mặc đồ đen cúi đầu thi lễ. Bảo Định Đế biết đây là đồ đệ Huỳnh Mi hòa thượng liền giơ tay đáp lễ. Nhà vua xếp bằng ngồi trên bồ đoàn mé tây, chờ Huỳnh Mi hòa thượng ngồi xuống bồ đoàn mé đông rồi mới bắt đầu vào chuyện :

- Tôi có thằng cháu là Đoàn Dự, lúc mới lên bảy tôi thường dẫn lại đây nghe sư huynh giảng kinh.

Huỳnh Mi cười nói :

- Thằng nhỏ đó tính tình rất ngộ. Thật là một đứa bé ngoan.

Bảo Định Đế lại nói :

- Y được phép mầu đức Phật điểm hóa, dốc dạ từ bi, không chịu học võ để tránh sát sinh.

Huỳnh Mi đáp :

- Y nghĩ thế là sai. Không hiểu võ nghệ vẫn giết người được. Trái lại có khi giỏi võ vị tất đã giết người.

Bảo Định Đế nói :

- Vâng, sư huynh dạy chí phải.

Thế rồi Đế đem chuyện Đoàn Dự không chịu học võ bỏ nhà trốn đi thế nào, cuộc gặp gỡ Mộc Uyển Thanh ra sao rồi bị người "ác nhất thiên hạ" là thái tử Diên Khánh nhốt ở đâu, nhất nhất thuật lại cùng Huỳnh Mi.

Huỳnh Mi chỉ lắng tai nghe, không nói câu nào. Cả sáu gã đồ đệ thõng tay đứng hầu sau lưng nét mặt cũng đều trầm tĩnh, không mảy may xúc động. Chờ Bảo Định Đế nói xong Huỳnh Mi mới chậm rãi nói :

- Thái tử Diên Khánh đã là đường huynh hiền đệ, cố nhiên là hiền đệ không nên động thủ. Thế mà sai thuộc hạ dùng bạo lực để cứu y xem chừng cũng khó ổn phải không?

Bảo Định Đế đáp :

- Sư huynh thật là sáng suốt.

Huỳnh Mi gật đầu từ từ đưa ngón tay giữa ra nhằm điểm vào ngực Bảo Định Đế.

Bảo Định Đế mỉm cười chìa ngón tay trỏ ra, xỉa vào ngón tay giữa Huỳnh Mi. Cả hai cùng rung chuyển liền thu ngón tay về.

Huỳnh Mi nhíu đôi lông mày nói :

- Hiền đệ! Sức Kim Cương chỉ của ta không thể thắng nổi phép Nhất Dương chỉ của hiền đệ.

Bảo Định Đế nói :

- Sư huynh là bậc đại trí tuệ bất tất phải lấy chỉ lực để thủ thắng?

Huỳnh Mi cúi đầu không nói gì. Bảo Định Đế đứng dậy nói :

- Mười năm trước đây sư huynh có bảo tiểu đệ xá thuế muối cho nhân dân nước Đại Lý nhưng một là vì nhu dụng trong nước chưa đủ hai là tiểu đệ muốn chờ Chính Thuần kế vị sẽ thi hành nhân chính về khoản đó, để nhân dân đội đức Thuần đệ. Nay tiểu đệ nghĩ lại, sáng mai cho ban hành sắc lệnh xóa thuế muối.

Huỳnh Mi hòa thượng đứng ngay lên, khom lưng rồi lạy phục xuống, cung kính nói :

- Hiền đệ ban phước cho dân, lão tăng cũng cảm đức vô cùng.

Bảo Định Đế cũng sụp lạy đáp lễ xong ra về ngay không nói gì nữa. Bảo Định Đế về cung lập tức sai nội giám triệu Ba Tư không và Hoa Tư đồ đến truyền ban sắc lệnh xóa bỏ thuế muối. Hai người tạ ơn nói :

- Như vậy thì lê dân được nhờ phước lớn của chúa thượng.

Bảo Định Đế tiếp :

- Tất cả mọi nhu dụng trong cung nhất thiết là phải tiếtkiệm. Vậy hai người thương lượng với nhau đi xem nơi đâu đáng tính giảmđược chừng nào hay chừng nấy.

Hai người vâng lệnh lui ra.

Việc Đoàn Dự bị bắt tuy Bảo Định Đế đã dặn mọi người không nên tiết lộ ra ngoài song Hoa Tư đồ và Phạm Tư mã đều là người rất thân tín của Bảo Định Đế nên Ba Thiên Thạch cũng không giấu giếm đã đem kể cho hai người biết cả rồi. Phạm Tư mã đang ngồi nhà ngóng tin thì hai ông Hoa, Ba đến báo việc nhà vua xóa bỏ thuế muối. Nói về quan Tư mã họ Phạm tên Hoa vốn có tính khôi hài, đã hay trào phúng lại lắm cơ mưu. Vậy mà ông nói bằng một vẻ trịnh trọng :

- Hoa đại ca cùng Ba hiền đệ! Trấn nam thế tử mắc vào tay gian đãng. Chúa thượng xuống chỉ xá thuế là Ngài ban phúc cho dân để cầu đảo Hoàng thiên thương hại, phù hộ cho thế tử đặng yên lành trở về. Bọn mình không biết chia sẻ mối lo cùng vua cha thì còn mặt mũi nào đứng ở trong triều đình nữa?

Ba Thiên Thạch nói :

- Chính thế! Phạm nhị ca có diệu kế gì để cứu điện hạ được chăng?

Phạm Hoa nói :

- Đối thủ lại chính là thái tử Diên Khánh thì chúa thượng nhất định không nỡ ra mặt đánh nhau đâu. Tiểu đệ có kế này nhưng chỉ sợ nhọc sức Hoa đại ca nên không dám nói ra.

Hoa Tư đồ vội hỏi :

- Việc gì mà nhọc sức ta? Nhị đệ nói ngay đi xem nào!

Phạm Hoa nói :

- Chúa thượng đã bảo võ công thái tử Diên Khánh còn cao hơn cả ngài. Bọn ta đối phó bằng phương pháp cứng rắn là không được rồi. Vậy Hoa đại ca, cái nghề sinh nhai của đại ca 20 năm trước đây liệu còn thi thố được nữa chăng?

Bộ mặt vuông chữ "quốc" của Hoa Tư đồ đang tím bỗng đỏ gay. Ông cười nói :

- Nhị đệ lại nói giỡn ta rồi.

Quan Tư đồ họ Hoa trước tên gọi A Căn, hiện thời làm đến tam công nước Đại Lý, xuất thân là người cùng túng. Thời chưa phát tích Hoa làm nghề đào mả trộm đồ, có một bản lĩnh rất kiên trì. Ông chuyên lấy các báu vật quý giá trong các mồ mả Vương, Công. Nên nhớ các bậc phú quý chết thường chôn theo cả đồ trân bảo, dị vật. Hoa A Căn nhiều khi đào đường hầm từ nơi rất xa vào tới phần mộ để trộm. Việc đào đường hầm của Hoa thật là những công trình vĩ đại, phải một hai tháng là thường. Cách đào đường hầm của Hoa như vậy nên không ai bắt gặp. Có lần Hoa lấy được trong mộ một tập "võ công bí quyết" đem về cứ theo đó luyện tập thành một tay trác tuyệt về ngoại công. Rồi từ đó Hoa phế cái nghề mưu sinh ty tiện, theo phò Bảo Định Đế lập được nhiều kỳ công thăng lên đến chức tư đồ. Từ khi làm quan to Hoa thấy cái tên A Căn có vẻ hủ lậu nên mới đổi là Hoa Hách Căn. Ngoài hai người bạn chí thân là Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch rất ít người biết rõ lai lịch Hoa Tư đồ.

Phạm Hoa nói :

- Tiểu đệ đâu dám nói giỡn đại ca. Bọn ta phải đi bằng đường hầm đến hang Vạn Kiếp, vào thạch thất thần không hay, quỷ không biết mới cứu thế tử ra được.

Hoa Hách Cấn vỗ đùi khen :

- Thật là tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Hoa thật có thiên tài về nghề đào hầm. Tuy là việc 20 năm trước nhưng lắm lúc nhớ lại vẫn tiếc nghề cũ làm cho chân tay ngứa ngáy. Khốn nỗi đã làm đến cực phẩm triều đình có lý đâu lại đi đào mả trộm thì còn ra thể thống gì nữa? Bây giờ nghe Phạm Hoa đề nghị bất giác cả mừng.

Phạm Hoa tươi cười nói tiếp :

- Hoa đại ca chớ vội mừng vì trong còn nhiều vấn đề thực nan giải. Tứ ác hiện nay ở cả trong hang Vạn Kiếp, ngoài ra còn vợ chồng Chung Vạn Cừu, Tần Hồng Miên đều là những tay kiệt thiệt, qua được tai mắtbọn này đâu phải chuyện dễ dàng? Hơn nữa đích thân thái tử Diên Khánh trấn giữ cửa nhà mật thất, lão ngồi trên mà mình đào bên dưới giữ thế nào cho lão không hay?

Hoa Hách Cấn trầm ngâm một lúc rồi nói :

- Vậy ta phải đào đường hầm về phía sau nhà mật thất, chừa chỗ thái tử Diên Khánh ra.

Phạm Hoa lại nói :

- Thế tử còn bị nhốt trong đó giờ phút nào là còn nguy hiểm giờ phút ấy. Ta đào dềnh dàng như thế liệu có kịp không?

Hoa Hách Cấn nói :

- Vậy ba ta cùng phải hợp lực. Hai hiền đệ cùng đi liền bên chỉ bảo đồng thời học cái nghề đào trộm mả này mà chơi.

Ba Thiên Thạch cười nói :

- Tuy bọn ta đã ở ngôi tam công nước Đại Lý nhưng về nghĩa vụ thì dù là cái việc đào mồ quật mả hay nghề ăn trộm đi nữa thì cũng không thể từ nan được.

Ba người vỗ tay cả cười, Hoa Hách Cấn nói :

- Việc này không thể chậm được nữa, nói làm là làm.

Ba Thiên Thạch lấy bản đồ hang Vạn Kiếp ra. Hoa Hách Cấn vui sướng khôn tả, ngồi coi bản đồ, hoạch định từ chỗ bắt đầu đào cho đến chỗ miệng hầm chui lên. Hoa lại nói cả đến đường lối, cách thức phải tránh tai mắt bên địch thế nào cùng vòng vèo ra sao để tránh những chỗ đá rắn. Thật là một nghề tuyệt kỹ của Hoa, trên đời có một không hai.

Lại nói đến Đoàn Dự, sau khi nuốt Mãng Cổ chu cáp rồi, khắp mình dương khí cực thịnh, hơi nóng bốc lên đến độ quá mức tối cao khiến chàng mê man bất tỉnh. Nhưng cơn mê này dù sao cũng giúp cho chàng qua được một ngày khỏi bị lửa dục nung nấu cực kỳ khổ sở. Chàng có biết đâu trong khoảng thời gian một ngày một đêm này bên ngoài đã xảy ra bao nhiêu biến chuyển quan trọng :

- Nào phụ thân chàng đã chịu sắc phong lên Hoàng thái đệ.

- Nào chàng đã có mệnh cha mẹ dạm hỏi lệnh ái Thiện Xiển Hầu là Cao Mi tiểu thư cho chàng làm vợ.

- Nào khắp thành Đại Lý chiêng trống rầm trời, tu la dậy đất.

- Nào trăm họ nước Đại Lý đang hoan hô ca tụng đức vua ban hành sắc lệnh bãi bỏ thuế muối.

Mà chính chàng lại đang ngồi tựa vách đá trong nhà tù, thần trí mê man chẳng biết trời đất là gì.

Trưa hôm sau chàng mới hơi hồi tỉnh một chút. Số là hai thứ Ấm dương hòa hợp tán cùng Mãng Cổ chu cáp phát tác kịch liệt cùng một lúc làm chàng mê đi. Trận phát tác đi đến chỗ cùng cực lại dịu xuống nên chàng hồi tỉnh. Đây chỉ là lúc tạm ngừng để đi đến những trận phát tác sau cùng mãnh liệt hơn.

Đoàn Dự chưa biết những nguy cơ đang rình rập. Tuy thấy trong mình còn mệt mỏi, song chàng yên trí chất độc đã bắt đầu lui dần, toan cất tiếng gọi Mộc Uyển Thanh thì chợt nghe bên ngoài có tiếng một ông già giọng khàn khàn :

- Cả thảy 19 đường vừa ngang vừa dọc mà làm cho bao người phải say mê. Nếu cư sĩ cao hứng thì cùng lão tăng vui chơi một cuộc.

Đoàn Dự lấy làm kỳ ghé mắt vào chỗ lỗ hổng vẫn đưa cơm nhìn ra ngoài, thấy một vị hòa thượng mặt đầy nếp dăn deo, lông mày vàng khè đang cúi xuống lấy đầu ngón tay vạch vào một tảng đá xanh lớn, phát ra những tiếng sè sè, bụi đá tung lên, nét vạch sâu xuống thành một đường rất thẳng như sợi chỉ đặt.

Đoàn Dự cả kinh, tuy chàng không biết võ công nhưng là con một nhà võ uyên thâm chàng được xem bá phụ cùng phụ thân luyện phép Nhất Dương chỉ đã nhiều. Chàng nghĩ bụng dường như mình đã được gặp vị sư già ở đâu rồi thì phải, chỉ lực ông như vậy thật là ghê người, vạch đá thành rãnh một cách dễ dàng. Cứ xem chỉ lực này đủ biết ngoại công của ông cương ngạnh đến chừng nào! Cách luyện môn này tựa hồ khác xa với cách luyện Nhất Dương chỉ của cha, bác chàng.

Xem tiếp hồi hai mươi

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 20 Đôi Chu Cáp thần diệu thế nào

Đoàn Dự bỗng nghe bên ngoài thạch thất có tiếng nói :

- Phép "Kim Cương chỉ" đó thật lắm công phu.

Giọng nói khàn khàn đầy uất hận đó chính ở Thanh bào khách "Ác Quán Mãn Doanh" thốt ra. Chàng lại thấy lão cầm cành trúc vạch xuống phiến đá một đường ngang cũng thẳng tắp. Nét vạch ngang tương xứng và giao nhau với nét vạch dọc của Huỳnh Mi hòa thượng.

Đoàn Dự ở trong thạch thất không trông thấy mặt Thanh bào khách nhưng chàng nhận thấy rằng cành trúc của lão cứng rắn chẳng kém gì ngón tay Huỳnh Mi mà dùng nó để vạch phiến đá còn có phần tiện hơn. Vả ngón tay ngắn mà cành trúc dài, cầm cành trúc vạch xuống phiến đá thành đường rãnh sâu so với cách vạch bằng tay thì khí lực Thanh bào khách tương đối phải mạnh hơn Huỳnh Mi hòa thượng.

Đoạn chàng lại nghe tiếng Huỳnh Mi hòa thượng cười nói :

- Đoàn thí chủ đã thụ giáo vậy lão tăng xin vạch nữa.

Dứt lời nhà sư lại lấy ngón tay vạch vào tảng đá một đường dọc. Thanh bào khách chờ nhà sư vạch xong lão lại vạch bằng cành trúc một đường ngang. Hai người cứ thế tiếp tục luân lưu mỗi bên vạch một đường. Về sau cả hai ông : ông vạch bằng ngón tay cũng như ông vạch bằng cành trúc mỗi lúc một thong thả lại và mỗi lúc một cẩn thận cố gắng hơn vì không ông nào chịu thua về những đường vạch của mình hoặc sâu nông khác nhau hoặc nét vạch kém chỉnh tề thẳng thắn. Thì ra những tay cao thủ họ ăn thua nhau từng ly từng tý, không chỉ ở chỗ có sức mạnh hơn là được. Chừng trong khoảng thời gian ăn xong bữa cơm, Huỳnh Mi hòa thượng cùng Thanh bào khách vạch xong ngang dọc mỗi bề 19 đường, thành hình một bàn cờ rất vuông vắn.

Huỳnh Mi nghĩ thầm : "Bảo Định Đế nhận định thật không sai chút nào, nội lựa lão Thái tử Diên Khánh này quả đã không vừa. Môn Nhất Dương chỉ của lão nhất định không thua Bảo Định Đế".

Huỳnh Mi hòa thượng vào đây đã có chủ ý nhưng thái tử Diên Khánh thấy Huỳnh Mi đến một cách đột ngột thì không khỏi ngạc nhiên, lão tự hỏi : "Ông sư ghê gớm này ở đâu lẩn vào đây làm gì? Rõ ràng Đoàn Chính Minh mời y đến tiếp tay cho hắn. Nếu hắn thừa cơ mình ngồi đây để vào cứu Đoàn Dự thì mình đâu có thể chia người ra làm hai để đối phó?".

Huỳnh Mi lại nói tiếp :

- Đoàn thí chủ võ nghệ cao thâm, lão tăng rất là khâm phục. Về môn cờ chắc thí chủ cũng cao gấp mười bần tăng. Bây giờ ta đánh cờ chơi, lão tăng xin thú chủ chấp cho bốn con.

Thanh bào khách giật mình nghĩ thầm : "Mình tuy không biết lai lịch nhà sư này nhưng xem chỉ lực cũng đã biết y là bậc cao nhân. Lão đến đây khiêu chiến lại mở miệng đòi xin nhân nhượng là nghĩa làm sao?". Nghĩ vậy liền đáp :

- Đại sư bất tất quá khiêm? Nếu đại sư muốn cá cuộc hơn thua thì cứ để bằng quân.

Huỳnh Mi nói :

- Tôi nhất quyết xin thí chủ chấp cho bốn con.

Thanh bào khách đáp bằng một giọng lạnh lùng :

- Đại sự đã tự biết mình kém nước thì bất tất phải đấu nữa.

Huỳnh Mi nói :

- Thế thì thí chủ chấp lão tăng ba con vậy.

Thanh bào khách chậm rãi :

- Tôi chấp đại sư một con thôi.

Huỳnh Mi cười khà khà nói :

- Thế là lão tăng đủ biết rồi. Thí chủ còn kém lắm. Lão tăng dám chấp thí chủ ba con.

Thanh bào khách bình thản đáp :

- Bất tất phải thế, ta cứ để nguyên bằng quân nhau.

Huỳnh Mi trong dạ nôn nao nghĩ thầm : "Lão này đã không kiêu ngạo lại không nóng nảy, thực là thâm độc gan góc. Mình khích bác thế nào lão cũng vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, không sao làm cho lão xúc động được thế mới là kẻ kình địch ghê gớm". Huỳnh Mi hòa thượng vốn vẫn chưa nắm vững được phần thắng thường thấy người chơi cờ hay có tính hiếu thắng nên mở miệng xin được chấp ba bốn con để làm kiêu binh dò tính tình thái tử Diên Khánh. Chẳng ngờ lão không xúc động mảy may vẫn giữ một niềm nghiêm cẩn, kín đáo.

Huỳnh Mi lại nói :

- Thôi thế cũng được. Nhưng thí chủ là chủ mà tôi là khách, chủ phải nhường khách đi trước.

Thanh bào khách đáp :

- Không được! Tôi đi trước mới hợp lý. Tiền chủ hậu khách mà.

Huỳnh Mi không chịu nói :

- Nếu vậy thì phải bói. Năm nay lão tăng tuổi chẵn hay tuổi lẻ, nếu thí chủ đoán trúng thì đi trước, bằng trật thì phải nhường lão tăng.

Thanh bào khách hỏi lại :

- Thế ngộ tôi đoán trúng mà đại sư cứ bảo trật thì ai mà biết được?

Huỳnh Mi đáp :

- Được! Lão tăng đã có cách chứng minh, muốn cãi cũng không được. Lão tăng xin hỏi : sau khi được 70 tuổi, tổng số ngón cả hai bàn chân lão tăng lẻ hay chẵn?

Thanh bào khách vừa nghe câu đố rất lấy làm kỳ, nghĩ bụng : "Cứ bình thường mà nói thì hai bàn chân ai chả có 10 ngón và đương nhiên là số chẵn rồi. Câu lão hỏi rõ sau khi 70 tuổi bao nhiêu ngón? Làm như khi lão được 70 tuổi bị cụt đi một ngón mới thành số lẻ là có ý đãnh bẫy mình. Trong binh pháp có câu "hư thành ra thiệt, thiệt lại ra hư", lão lừa mình thế nào được?".

Nghĩ vậy Thanh bào khách đáp :

- Vẫn số chẵn.

Huỳnh Mi đáp :

- Trật rồi, số lẻ mới đúng.

Thanh bào khách nói :

- Đại sư tháo giày ra cho coi!

Huỳnh Mi tháo giày và bít tất chân trái trước. Năm ngón chân hãy còn nguyên vẹn. Thanh bào khách để ý quan hình sát sắc đối phương, thấy Huỳnh Mi vẫn tỏ vẻ bình tĩnh tươi cười thì tưởng chân phải nhà sư chỉ có bốn ngón thật. Huỳnh Mi lại ung dung tụt giày chân phải đang đưa tay ra tháo bít tất. Thanh bào khách đã toan gạt đi bảo bất tất phải chứng nghiệm nữa, mời đại sư đi nước trước. Nhưng nghĩ sao lão lại để cho Huỳnh Mi tháo nốt bít tất thì rõ ràng đầy đủ cả năm có cụt ngón nào đâu? Tuy Thanh bào khách tàn tật đầy người, mặt trơ như gỗ tựa hồ tâm trí không mảy may xúc động nhưng kỳ thực bao nhiêu ý nghĩ đang quay lộn trong đầu óc. Lão chưa đoán ra Huỳnh Mi có dụng ý gì. Bỗng thấy Huỳnh Mi giơ bàn tay phải lên làm lưỡi dao, đánh xuống đánh "phập" một tiếng, ngón chân út đã đứt rơi ra. Sáu đồ đệ đứng ở phía sau, toàn là những tay tu luyện cửa Phật lâu ngày, có thể xứng đáng với câu : "Non Thái lở trước mặt thần sắc vẫn điềm nhiên, hươu nai chạy rầm rập bên mình không ghé mắt" vậy mà trước cảnh sư phụ chặt ngón chân, máu chảy lênh láng không khỏi giật mình kinh hãi. Người ít tuổi nhất là Phá Mạn hòa thượng buột miệng khẽ la lên một tiếng "Ối". Đồ đệ thứ tư là Phá Sa hòa thượng vội vàng lấy thuốc dấu trong bọc ra rịt vào vết thương cho sư phụ.

Huỳnh Mi hòa thượng cười nói :

- Năm nay lão tăng 69 tuổi, có phải 70 tuổi thì số ngón chân thành số lẻ rồi không?

Thanh bào khách đáp :

- Đúng rồi xin mời đại sư đi nước trước.

Thanh bào khách nổi tiếng là người ác nhất thiên hạ thì hẳn đã nhìn thấy và đã gây ra bao nhiêu thảm cảnh hung ác, rùng rợn chẳng chút sờn lòng vậy mà đối với việc chặt ngón chân nhỏ mọn làm cho lão phải suy nghĩ. Phải chăng vì thấy Huỳnh Mi muốn tranh tiên một nước cờ mà coi nhẹ việc chặt đứt một ngón chân như trò đùa. Cái chí quyết thắng một ván cờ này của nhà sư lão đã nhìn thấy rõ rệt, nếu mà lão thua tất sẽ bị nhà sư đưa ra điều kiện khắt khe vô cùng.

Huỳnh Mi nói : "Xin vâng" rồi đưa hai đầu ngón tay ra xoáy vào 2 điểm tứ tứ cả hai bên trên mặt bàn cờ cho lõm xuống. Đó là dấu hiệu hai con cờ đen.

Thanh bào khách cũng cầm cành trúc khoanh ở hai điểm tứ tứ bên mình hai vòng tròn nhỏ để tượng trưng cho hai con cờ trắng đặt xuống đó. Bốn góc bàn cờ ở điểm tứ tứ thoạt đầu đặt bốn con gọi là "thế tứ". Đây là phép đánh vi kỳ thuở xưa ở Trung Quốc. Hiện nay phế bỏ lối cờ này rồi. Đến con thứ 5 Huỳnh Mi đặt ở điểm lục tam "bình vị". Bên Thanh bào khách lại đặt ở điểm ngũ tam. Lúc mới đánh hai bên ra quân rất lẹ, Huỳnh Mi không dám chú ý thái quá để duy trì tinh thần về sau. Từ con thứ 18 trở đi, cuộc tranh thủ đã bắt đầu gay cấn. Chỉ lực hai bên hao tốn rất nhiều, một mặt phải dùng hết tâm trí để suy tính nước cờ, một mặt phải vận khí bồi bổ sức lực, mỗi lúc cờ đi một chậm thêm. Trong sáu đồ đệ của Huỳnh Mi thì ông thứ ba là nhà sư Phá Sản cao cờ hơn hết. Phá Sản thấy bên sư phụ đi nhiều nước hay và có vẻ thắng thế trong bụng đã mừng thầm và thán phục. Đến nước 24 Thanh bào khách xuất kỳ binh một cách đột ngột thế cờ đại biến. Bên Huỳnh Mi lâm vào tình trạng bế tắc. Góc trên về bên phải (khứ vị) một mối đe doạ rất lớn đang rình rập, nếu đem một con ra cố thủ thì lại thiệt mất nước tranh tiên. Huỳnh Mi còn đang suy tính chưa tìm ra lối thoát bỗng trong thạch thất có tiếng vọng ra :

- Phản công ở khứ vị thì vẫn giữ được nước tranh tiên.

Người mách nước này chính là Đoàn Dự. Đoàn Dự vốn giỏi chơi cờ vây từ thuở nhỏ. Lúc đó thấy hai người đấu đang hăng say không khỏi đứng ngoài ngứa miệng. Người ta thường nói "cờ ngoài bài trong", bản lãnh về cờ chàng còn cao hơn Huỳnh Mi một bậc. Hơn nữa chàng đứng ngoài cuộc lại càng đắc nước.

Huỳnh Mi nghe Đoàn Dự mách nước đáp vọng vào :

- Lão tăng đã nghĩ tới nước cờ này rồi còn đang cân nhắc. Giờ được thí chủ đồng ý thì lão tăng không phân vân gì nữa.

Đoạn Huỳnh Mi làm dấu đặt con cờ xuống điểm thất tam ở khứ vị. Thanh bào khách lạnh lùng đọc hai câu thơ : "Bàng quan ngậm miệng là quân tử. Tự ý ra quân đáng trượng phu".

Đoàn Dự nghe lão đọc tức mình la lên :

- Tự nhiên vô cớ ngươi nhốt ta vào đây thì ngươi có phải là quân tử không?

Huỳnh Mi cũng cười nói :

- Lão tăng đây là đại hòa thượng chứ đâu phải đại trượng phu?

Thanh bào khách khinh khỉnh mạt sát :

- Nói thế mà không biết ngượng.

Vừa nói vừa khoanh tròn ở Khứ vị. Đi mấy nước nữa Huỳnh Mi lại lâm vào thế bí. Phá Sản hòa thượng nóng ruột nghĩ không ra nước gỡ mà Đoàn Dự lại lặng thinh. Phá Sản liền chạy đến bên nhà thạch thất khẽ hỏi :

- Đoàn công tử bây giờ đi nước nào cho phải?

Đoàn Dự khẽ đáp :

- Ta có cách gỡ dễ lắm. Thế cờ này gồm bảy nước bí hiểm, nếu đọc ra cho bên địch nghe tiếng nước thì cờ ảo diệu sẽ bị tiết lộ nên không tiện nói.

Phá Sản liền viết vào tay phải ba chữ : "Xin viết ra". Rồi nhà sư luồn tay qua lỗ hổng luồn vào trong. Đoàn Dự nghĩ thầm : "Kế này tuyệt diệu" đoạn viết cả bảy nước cờ vào tay Phá Sản. Phá Sản rút tay ra xem, suy tính kỹ lại thì quả là những nước cờ rất cao liền chạy trở lại sau lưng Huỳnh Mi giơ tay áo rộng thùng thình lên để che cho khỏi lộ cơ mưu rồi thò ngón tay phải ra viết cả bảy nước cờ vào lưng sư phụ. Huỳnh Mi hòa thượng định thần một lúc hiểu cả, cứ thế ra quân. Thanh bào khách đằng hắng rồi nói :

- Quả lại có kẻ ngấm ngầm mách nước, tôi xem bản lãnh đại sư chưa thể tự mình nghĩ ra được những nước cờ này.

Huỳnh Mi cười nói :

- Đánh cờ là một trò chơi đấu trí. Hay ở chỗ không để cho đối phương trông rõ bản lãnh vì thế mà các tay cao thủ chỉ thò những ngón dở ra. Nếu lão tăng để thí chủ tỏ tường hư thực ngay từ lúc đầu thì cuộc cờ còn chi là ảo diệu nữa?

Thanh bào khách nói :

- Thôi đừng có ỡm ờ, bịp bợm, hòng lấy tay che mặt trời nữa.

Lão thấy rõ Phá Sản chạy đi chạy lại rồi lấy tay che áo lên lưng Huỳnh Mi đã sinh nghi. Nhưng vì tâm trí bận chuyên chú vào thế cờ biến ảo nên không để ý soi mói đến chuyện khác được. Huỳnh Mi theo kế Đoàn Dự đi được đến nước thứ sáu, tuyệt không phải nhọc lòng suy nghĩ, chuyên chú vận nội công vào đầu ngón tay xoáy thành sáu lỗ tròn trĩnh, đều đặn tỏ ra khí lực có thừa.

Thanh bào khách thấy sáu nước cờ của Huỳnh Mi nước nào cũng hiểm hóc, lão phải đem hết tâm lực ra suy nghĩ, luẩn quẩn đối phó trong vòng thế thủ. Ngọn trúc khoanh vòng tròn trên bàn đá đã hơi lộ ra chỗ sâu chỗ nông chứ không được đều tăm tắp. Lão phải ngừng lại tính toán dây lâu, rồi đột nhiên biến thế, hạ một con cờ vào nhập vị. Nước cờ xoay thành thế công mãnh liệt không dính líu gì vào thế cờ của Đoàn Dự. Huỳnh Mi cả kinh nghĩ thầm : "Bảy nước cờ của Đoàn công tử bố cục rất tinh vi, những nước kia mình đi có nước tranh tiên được một thành hai mà sao nước thứ bảy không đi được nữa? Thế này thì uổng mất cả những nước trước ư?".

Nên nhớ rằng nếu thả sức cho hai người đấu với nhau thì Thanh bào khách tất nhiên ăn đứt Huỳnh Mi hòa thượng. Lão thấy thế cờ bất lợi là lập tức tìm cách biến đổi, không chịu chui vào cạm bẫy Đoàn Dự.

Phá Sản hòa thượng thấy tình thế đại biến, sư phụ khó lòng giải quyết nổi, bèn lập tức chạy lại bên nhà thạch thất, khẽ báo tin cho Đoàn Dự hay. Đoàn Dự nghĩ ngay được cách phá, chìa ngón tay ra để viết vào bàn tay Phá Sản. Vừa viết được hai chữ bất thình lình toàn thân run bắn, một luồng hỏa khí trong huyệt đan điền bốc lên dữ dội, môi khô lưỡi bỏng, hai mắt lại quáng lóa. Chàng tiện tay nắm chặt lấy tay Phá Sản. Phá Sản vừa bị Đoàn Dự nắm lấy bàn tay biết ngay lập tức là nguy đến nơi vì thấy chân khí trong mình bị bàn tay Đoàn Dự hút đi hoài. Nhà sư cả sợ la lên :

- Đoàn công tử! Công tử làm gì vậy?

Nên biết rằng đối với các nhà nội công phái võ, chân khí có mối quan hệ rất lớn đến tính mạng. Chân khí sung túc bao nhiêu thì nội công cao lên bấy nhiêu. Chân khí thoát đi hết thì người chẳng chết cũng mất hết nội công mà thành phế nhân.

Phá Sản xuất gia từ thuở nhỏ, khổ công tu luyện dư bốn mươi năm, chân khí rất là sung mãn. Thế mà chỉ chạm tay vào Đoàn Dự một lần chân khí thoát đi chẳng khác gì sông đang bành chướng bị vỡ đê nước chảy đi như tháo, không còn cách gì thu về được nữa. Nhà sư hỏi luôn mấy tiếng nhưng Đoàn Dự thần trí mê man, chẳng biết gì hết nên không trả lời. Phá Sản muốn rút tay ra khỏi nhưng lạ thay hai tay dường như dính liền vào nhau, rút thế nào cũng không rời ra được mà chân khí trong người thoát đi không ngớt.

Tại sao Mãng Cổ chu cáp lại có sức công hiệu ghê gớm như vậy? Số là có một giống vật kỳ dị chuyên ăn nọc những loài rắn độc đã lâu đời rồi do sự giao hợp ngẫu nhiên sinh ra Mãng Cổ chu cáp là vật rất hiếm có trên thế gian.

Vợ chồng Chung Vạn Cừu cùng Chung Linh chỉ biết mỗi khi đôi chu cáp kêu lên là bao nhiêu rắn nghe tiếng đều đến hết nhưng có biết đâu nuốt nó vào bụng lại sinh ra hiện trạng quái gở như vậy? Nếu không có Đoàn Dự cam tâm chịu chết thì cũng không ai dám cả gan nuốt giống vật kỳ độc, ngàn năm chưa chắc đã có một lần. Đoàn Dự nuốt vào bụng đôi chu cáp, trộn lẫn với Ấm dương hòa hợp tán rồi chất độc cả hai thứ sinh khắc biến hóa chẳng những làm cho khí dương cực thịnh, khiến sức người không thể chống chế nổi lại còn phát sinh một đặc tính hút chân khí của người khác một khi đụng chạm vào. Lúc đó chân khí của Phá Sản hòa thượng bị hút mãi vào thân thể Đoàn Dự. Ngay khi tỉnh táo chàng còn chẳng biết vận nội công để giật tay mình ra khỏi tay Phá Sản, cho chân khí nhà sư hết lối chạy sang mình huống chi chàng lại mê man bất tỉnh, chẳng còn biết trời đất là gì nữa. Phá Sản thấy chân khí mình bị hút đi mãi, không biết làm thế nào la lên :

- Sư phụ cứu tôi với!

Năm vị huynh đệ nghe tiếng chạy đến bên nhưng không trông rõ tình hình bên trong thạch thất, chỉ nghe tiếng gọi thất thanh "sư huynh", "sư đệ" rối rít vội hỏi :

- Có chuyện chi? Có chuyện chi?

Phá Sản đáp :

- Tay... tay tôi...

Ông cố sức giẫy giụa để rút tay ra không được. Mười phần chân khí đã thoát đi đến tám chín, nói không ra hơi nữa. Đồ đệ thứ sáu là Phá Mạn hòa thượng cầm tay Phá Sản để giúp sức sư huynh rút tay ra, không ngờ vừa mó tay vào cũng bị dính chặt, toàn thân run bắn lên như bị điện giật, chân khí cũng bị tiết đi. Nhà sư trẻ sợ quá la lên :

- Ối chao! Ối chao!

Nguyên hấp lực của chu cáp vô hạn lượng, có thể hút chân khí người thứ ba chuyển qua người thứ hai.

Nhắc lại chuyện tam công nước Đại Lý là Tư đồ Hoa Hách Cấn, Tư mã Phạm Hoa, Tư không Ba Thiên Thạch trà trộn vào hang Vạn Kiếp chẳng khó khăn gì. Cửa hang trước có người canh giữ nhưng từ khi Bảo Định Đế vào đã san phẳng ngôi mộ ngoài cửa hang nên người ra vào không bị cản trở. Ba ông đào đường hầm, mới đào trong một đêm đã xa chừng được vài chục trượng. Hoa Hách Cấn dĩ nhiên là tay thiện nghệ, còn Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch giỏi môn nội công cũng rất được việc. Hoa đào đến đâu thì hai ông lại cào đất đi đến đấy. Lúc ăn lương khô hay uống nước cũng thay phiên nhau để công cuộc đào hầm được luôn luôn tiếp tục không bị ngừng trệ. Hôm sau ba người đào một ngày nữa. Vào khoảng xế chiều tính ra đã gần đến thạch thất. Biết rõ thái tử Diên Khánh võ nghệ cao siêu, ba ông phải đào một cách cực thận trọng, nạo đất nhẹ nhàng không để phát ra mảy may tiếng động. Họ hiểu rằng những tay võ công trác tuyệt thì dù lúc đang ngủ say, chỉ khẽ một tiếng động khác lạ cũng đủ làm cho tỉnh giấc. Vì thế mà cuộc đào hầm chậm đi rất nhiều. Họ có biết đâu lúc này thái tử Diên Khánh đang mải miết đem hết tâm lực vào cuộc đấu cờ với Huỳnh Mi hòa thượng nên lão không thể phát giác ra những tiếng động ngầm dưới đất.

Lúc này tay Phá Sản hòa thượng vẫn dính chặt vào tay Đoàn Dự, chân khí trong người vẫn cuồn cuộn thoát đi gần hết, bắt buộc nhà sư phải kêu cứu. Sau Huỳnh Mi hòa thượng lại thấy cả sáu gã đồ đệ xúm xít lại trước cửa thạch thất, tình trạng có vẻ nguy ngập khác thường. Huỳnh Mi tưởng là thái tử Diên Khánh ngấm ngầm đặt cơ quan hiểm độc và các đồ đệ mình bị sa vào cạm bẫy rồi liền nói :

- Tôn giá thật là lắm chuyện quái ác, làm cho đồ đệ lão tăng lâm nạn cả rồi. Lão tăng phải lại đó xem sao.

Nói xong đứng dậy toan đi. Thanh bào khách vừa đưa cành trúc tay trái ra điểm vào vai Huỳnh Mi vừa nói :

- Bàn cờ chưa phân thắng bại. Đại sư có chịu thua cuộc thì mới bỏ đi được.

Huỳnh Mi xoay tay trái lại toan chụp lấy đầu roi. Cành trúc rung rung nhằm vào huyệt đạo dưới vú bên tả Huỳnh Mi. Bàn tay Huỳnh Mi đang chụp biến ra thế chém xuống. Đầu cành trúc cũng biến đổi thế đánh. Chỉ trong chớp mắt hai người đã xoay nhau đến tám đòn. Huỳnh Mi nghĩ bụng : "Tay mình ngắn mà cành trúc của đối phương dài thì mình chỉ thủ chứ không công được tức là mình chỉ có phần thua chứ không thể thắng". Bỗng thấy cành trúc lại điểm tới, hòa thượng vụt đưa ngón tay ra nhằm đúng đầu roi điểm lại. Thanh bào khách không chịu thu roi về, cứ phóng tới. Ngón tay và đầu roi chạm nhau, hai người cùng vận nội công tranh đấu. Bấy giờ Huỳnh Mi mới biết rõ bên trong cành trúc có đặt giấu một cây roi bằng thép nên mới cứng rắn như vậy. Hai tay cao thủ mỗi người một đầu roi cùng vận nội lực đẩy mạnh thế mà cành trúc vẫn không cong đi chút nào.

Thanh bào khách giục :

- Nước cờ này đại sư mãi không đi được, chịu thua quách đi cho rồi.

Huỳnh Mi cười ha hả đáp :

- Chưa chắc.

Rồi đặt ngón tay bên phải xuống bàn cờ đá xanh xoáy một điểm. Thanh bào khách không cần nghĩ ngợi đi cờ luôn. Lúc này tình thế cực kỳ nghiêm trọng. Tay trái hai người đều đang vận nội lực để khuynh loát nhau không bên nào dám nới tay ra một chút, đồng thời trên bàn cờ nước nào cũng khẩn cấp, chỗ nào cũng gay go. Huỳnh Mi biết rằng nếu mình còn phân tâm nghĩ đến chỗ đệ tử lâm nạn thì chẳng những không được ích gì mà để kẻ đại địch nhân chỗ mình sơ hở, dồn sức mạnh đánh ập vào thì chính mình sẽ mất mạng như chơi. Nhà sư nhớ lại mười năm trước đây, vì muốn nâng đỡ cho cả dân tộc nước Đại Lý đã xin Bảo Định Đế xóa thuế nhập cảng muối, đến nay mới được nhà vua chuẩn cho. Tuy vua không nói ra miệng nhưng nhà sư có nghĩa vụ phải thay ngài trong công cuộc cứu Đoàn Dự thoát nạn. Nhà sư lại nghĩ rằng : "Mình sống hay chết cũng chẳng đáng quan tâm nhưng nếu không cứu thoát được Đoàn Dự thì còn mặt mũi nào trông thấy hiền đệ Đoàn Chính Minh?". Nghĩ thế nhà sư đành bỏ mặc đám đồ đệ, gắng vận nội lực, bao nhiêu tấm trí để cả vào bàn cờ.

Đại phàm các phái võ lúc luyện nội công cần nhất là phải tĩnh trí, song đánh cờ thì trái lại phải suy nghĩ rất nhiều tính toán từng ly từng tý cho khỏi kém nước. Hai việc mâu thuẫn nhau là thế. Huỳnh Mi hòa thượng biết rõ thế cục hôm nay nguy hiểm khác thường.

Kể ra thi đấu về cờ cũng như về nội lực tựa hồ Thanh bào khách đều có vẻ trội hơn Huỳnh Mi hòa thượng đôi chút. Cũng may mà hòa thượng nhất tâm quyết sống mái, chỉ biết cung cúc tận tuỵ để đáp lòng tri kỷ của Bảo Định Đế còn chính thân mình thì dù sống thác cũng chẳng quan tâm nên mới chống chọi được đến thế.

Hấp lực của đôi chu cáp thần diệu dị thường. Mười phần chân khí của nhà sư Phá Sản đã bị trút sang thân thể Đoàn Dự đến tám chín. Đoàn Dự một anh chàng chưa từng luyện võ bao giờ, phút chốc biến thành người có một nội lực mười mấy năm tu luyện. Trong mình có thêm nội lực sức hút lại càng mạnh hơn, chẳng khác gì đá nam châm hút sắt. Vì thế mà nhà sư Phá Mạn bám vào Phá Sản cũng bị hút chặt luôn và chân khí trong mình cũng bị lôi cuốn theo, qua người Phá Sản nhập vào thân thể Đoàn Dự. Lát sau hai nhà sư Phá Tham, Phá ái cũng bị hút mất chân khí theo kiểu ấy.

Phá Tham, Phá ái là hai đại đồ đệ của Huỳnh Mi hòa thượng, nội công còn thâm hậu hơn mấy vị sư đệ kia, vừa cảm thấy chân khí bị thoát đi, lập tức vận nội công chống lại. Nhưng cũng chỉ giữ được một lúc rồi sau tâm thần phân tán đi một chút, tức khắc chân khí bắt đầu bị hút đi từ từ ít một rồi dần dần mỗi lúc tiết đi một nhiều hơn.

Đồ đệ thứ tư là Phá Si, thứ năm là Phá Dục đứng ngoài thấy thế hoang mang quá đỗi, chạy đi kêu sư phụ đến cứu thì lại gặp lúc tối nguy nan. Huỳnh Mi cũng phải đem hết tâm lực cùng đối phương quyết sống mái. Hai người chạy tới, chạy lui mặt sợ tái xanh. Rút cục nghĩ tình đồng môn, không còn biết làm thế nào Phá Si, Phá Dục đành nghiến răng gắng sức lại lôi Phá Tham, Phá Ái ra. Nhưng lúc này ngoài sức chu cáp thần công còn thêm nội lực bốn nhà sư nhập vào nữa thì hai nhà sư Phá Si, Phá Dục lôi ra thế nào được mà trái lại, chẳng những không lôi ra được, chính hai người cũng bị hút chặt luôn.

Sáu nhà sư lâm vào tình trạng thụ động, đành cho là kiếp vận xui nên mắc vào tai nạn hiếm có này, khiến cho bao nhiêu năm khổ công tu luyện tan ra mây khói. Mọi người chẳng còn biết nói sao, chỉ trông nhau thở dài. Phá Si và Phá Dục không cầm lòng được, bất giác hai mắt rưng rưng đẫm lệ.

Lại nói đến bọn Hoa Hách Cấn hôm đó đào hầm cho đến giờ Dậu độ chừng đã tới gần nhà thạch thất và đoán rằng chỉ còn cách chỗ thái tử Diên Khánh ngồi gác trừng một trượng nên hành động phải cực kỳ thận trọng, không dám để phát ra một tiếng động nhỏ. Hoa Hách Cấn bỏ xẻng cuốc xuống, dùng mười ngón tay móc đất. Hoa đã rèn luyện phương pháp này gọi là "Hổ Trảo công" rất lợ hại. Những ngón tay vận nội lực vào cứng tựa móng sắt, dù đất cứng đến đâu cũng móc ra được từng khối lớn chuyền tay cho Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa chuyển ra xa. Đã đến lúc không đào tiến về phía trước nữa mà đào ngược lên để chui ra. Phạm, Ba hai ông biết công cuộc mạo hiểm sắp hoàn tất chỉ còn việc có cứu được Đoàn Dự hay không lúc nữa mới rõ nên cảm thấy nóng ruột, trống ngực đánh thình thình. Công cuộc đào ngược lên dễ dàng hơn trước nhiều, chỉ động vào là đất rụng xuống. Hoa Hách Cấn đứng thẳng được người lên đào lại càng mau. Thỉnh thoảng Hoa dừng lại chú ý lắng tai nghe xem trên mặt đất đã thấy động tĩnh gì chưa. Từ lúc bắt đầu đào ngược lên, mới trong khoảng thời gian thắp hết tuần hương thì chỉ còn cách mặt đất chừng một thước. Hoa Hách Cấn càng đào thong thả hơn, móc đất nhẹ nhàng. Sau cùng Hoa đụng vào một tấm ván gỗ mặt phẳng, trong bụng sinh nghi tự hỏi : "Tại sao trong thạch thất không lát đá phiến mà lại lát ván gỗ? Nhưng thế này càng tiện việc cho mình". Hoa Hách Cấn vận cả nội lực vào đầu ngón tay, từ từ khoét vuông vắn mỗi bề hai xích thành cái cửa hầm vừa một người chui lọt. Khoét xong cúi xuống ra hiệu cho hai ông bạn Phạm, Ba đỡ lấy rồi buông tay để tấm ván hạ xuống. Hoa Hách Cấn giơ xẻng lên khoa trên miệng hầm để đề phòng có người đột kích, chợt nghe tiếng lanh lảnh một cô gái la lên : "Trời ơi" đầy vẻ kinh hoàng.

Hoa Hách Cấn khẽ gọi :

- Mộc cô nương! Chớ to tiếng! Người nhà đến cứu các ngươi đây mà.

Chưa dứt lời Hoa đã nhảy vọt lên. Vừa thoáng nhìn Hoa đã giật mình kinh hãi vô cùng : nhà tù gì mà bàn ghế cửa sổ chỗ nào cũng sạch như lau? Trong tủ trên giá chỗ nào cũng bày la liệt những chai lọ đựng thuốc... một cô gái chừng 15, 16 tuổi xiết bao kinh hãi phải lui ẩn vào góc nhà. Hoa Hách Cấn biết là mình tính sai, đào không đúng chỗ, vào lầm nhà người khác mất rồi. Sở dĩ có sự sai lầm này là vì chính mắt Hoa Hách Cấn không trông thấy thật sự thạch thất ở chỗ nào, chỉ được Ba Thiên Thạch nghe lời Bảo Định Đế kể lại cho nghe. Câu chuyện từ miệng người nọ sang tai người kia nên nỗi sai một ly đi một dặm. Đây là nhà ở Chung Vạn Cừu còn cô gái đó tức là Chung Linh.

Nguyên Chung Linh đang ở phòng thuốc của cha để lần tìm thuốc giải độc, lấy trộm đem cho Đoàn Dự. Nàng có biết đâu rằng những thuốc giải độc tầm thường đối với chất độc Ấm dương hòa hợp tán hoàn toàn vô hiệu. Lúc này vợ chồng Chung Vạn Cừu đang ở ngoài sảnh đường tiếp đãi tân khách yên ấm nên Chung Linh một mình lén vào phòng khách cố tìm. Bất thình lình ở dưới đất chui lên một người to lớn thì làm gì mà nàng chẳng sợ tái mặt?

Hoa Hách Cấn tâm linh ứng biến cực kỳ mau lẹ, nghĩ bụng : "Việc mình đào lầm đường, cố nhiên là phải đào lại nhưng đã trót lộ hình tích. Nếu giết nàng đi để bịt miệng thì rồi người trong hang Vạn Kiếp này thấy thi thể nàng nằm đó, tức khắc sẽ điều tra gắt gao. Mình chưa vào đến nhà thạch thất đã bị khám phá ra đường hầm rồi thì hỏng bét. Chỉ còn cách là đem nàng xuống hầm, mọi người không thấy nàng nhất định chạy ra ngoài bổ đi tìm nàng".

Vừa nghĩ tới đó chợt ngoài phòng có tiếng chân người đi tới Hoa Hách Cấn bèn khoa tay trước mặt Chung Linh ra hiệu cấm nàng không được lên tiếng. Rồi giả vờ trở gót, tựa như kiểu muốn chui xuống hầm nhưng vụt một cái Hoa nhảy phắt lại phía sau, giơ tay trái bịt miệng Chung Linh còn tay phải quờ ra sau lưng quắp nàng đem vào miệng hầm thả xuống. Phạm Hoa đưa tay ra đón lấy. Hoa Hách Cấn lấy ngay một nắm đất nhét vào miệng nàng, đậy tấm ván lại cho bằng bặn như trước rồi ghé tai vào kẽ hở nghe ngóng. Những cử động vừa rồi Hoa làm lẹ như chớp, Chung Linh kinh hãi vô cùng tự nghĩ không biết bọn cướp này bắt mình có dụng ý gì, miệng lại bị nhét đất chặt rất là khó chịu. Chợt thấy hai người đi vào phòng, một người bước chân nặng trịch còn một người nhón gót nhẹ nhàng. Rồi thấy tiếng đàn ông hỏi :

- Hẳn nàng đối với hắn còn có mối dư tình chưa cắt đứt. Không thì sao tôi muốn phá hoại thanh danh họ Đoàn, can gì đến nàng mà nàng ngăn cản?

Đoạn thấy tiếng đàn bà đáp :

- Chàng nói... dư... dư... chi đó? Tôi cho chàng hay tôi không còn tình nghĩa với người đó đâu.

Gã đàn ông lại nói :

- Nếu vậy thì còn gì hay bằng?

Giọng nói đầy vẻ hớn hở vui mừng. Người đàn bà lại tiếp :

- Chẳng qua Mộc Uyển Thanh là con gái sư tỷ tôi, tuy tính y ngang chướng, có vô lễ với vợ chồng mình đi nữa thì cũng là người một nhà. Tôi thấy chàng làm cái việc này không ổn chút nào.

Hoa Hách Cấn nghe đến đây biết ngay hai người này là vợ chồng Chung động chủ. Vì thấy câu chuyện có liên quan đến Đoàn Dự nên Hoa vẫn chú ý lắng tai nghe nữa.

Lại thấy tiếng Chung Vạn Cừu nói :

- Sư tỷ nàng ngấm ngầm chạy đi trả Đoàn Dự may mà Diệp Nhị Nương phát giác kịp thời. Thế thì mụ đã thành cừu địch với mình rồi, hà tất nàng còn phải quan tâm đến con gái mụ nữa? A Bảo nàng ơi, bao nhiêu khách khứa ngoài đại sảnh toàn là những nhân vật có tên tuổi trong võ lâm. Nàng đối với họ đã có vẻ lãnh đạm thì chớ lại còn bỏ chạy vào đây như thế là mất mặt cho tôi quá.

Chung phu nhân vùng vằng đáp :

- Chàng mời bọn này đến làm chi? Nào Nộ Giang Vương Tần Nguyên Tôn, nào Nhất Phi Xung Thiên Kim Đại Bằng, nào đại đệ tử phái Điểm Thương Liễu Tử Hư, lại còn Tả Tử Mục phe Đông, Song Thanh đạo cô phe Tây phái Vô Lượng kiếm và gã võ sư Mã Ngũ Đức ở Phổ Nhị gì gì nữa. Bọn này liệu có dám chống chọi với Hoàng Đế đương kim nước Đại Lý không?

Chung Vạn Cừu nói :

- Tôi có mời họ về tiếp tay làm phản đâu mà ngại? Chẳng qua họ ở gần quanh đây nên mời đến để chứng kiến hai đứa con Đoàn Chính Thuần cùng ở trong nhà thạch thất làm chuyện loạn luân ô uế, chứ có gì đâu? Đám khách hôm nay còn lại Tuệ Thuyền hòa thượng ở chùa Thiếu Lâm rồi Giả Diệp thiền sư chùa Đại Giác, Hắc Bạch kiếm Sử An, toàn là những bậc hào kiệt đất Trung Nguyên. Sáng sớm mai sẽ mở cửa thạch thất để mọi người coi cho rộng tầm con mắt. Các đức tính nhà họ Đoàn nổi tiếng về phép Nhất Dương chỉ sẽ thêm lừng danh trên chốn giang hồ.

Nói xong hắn đắc ý cười ha hả. Chung phu nhân đằng hắng một tiếng rồi xẵng giọng :

- Thật là tuồng đê hèn vô liêm sỉ.

Chung Vạn Cừu hỏi :

- Nàng bảo ai đê hèn, vô liêm sỉ?

Chung phu nhân đáp :

- Kẻ nào làm việc đê hèn vô liêm sỉ thì kẻ ấy là quân đê hèn vô liêm sỉ chứ còn ai? Tôi mắng không đáng sao?

Chung Vạn Cừu nói :

- Phải lắm! Phải lắm! Đoàn Chính Thuần cậy mình là gã phong lưu công tử, gây ra bao oan nghiệt, thế nào trời quả báo đến nỗi hai đứa con mình sinh ra giở thói loạn luân, đúng là quân đê hèn đến cùng cực.

Chung phu nhân cười lạt không đáp. Chung Vạn Cừu lại hỏi :

- Sao nàng lại cười? Quân đê hèn vô liêm sỉ nàng vừa mắng đó không phải là Đoàn Chính Thuần ư?

Chung phu nhân nói :

- Mình không địch lại người họ Đoàn, suốt đời chui rúc trong hang ẩn nấp, giả chết, không dám thò mặt đi đâu thì đành nằm chịu thế mới phải. Con người biết liêm sỉ cũng là một điều dũng. Chàng bắt nhốt con cái người ta, còn bày trò đê tiện. Tôi chỉ sợ các vị anh hùng hảo hán trong thiên hạ chẳng những không ai chê cười họ Đoàn, còn quay lại thóa mạ chàng mà thôi.

Chung Vạn Cừu tức quá nhảy lên chồm chồm :

- Nàng... nàng thóa mạ tôi là kẻ đê hèn, vô liêm sỉ ư?

Chung phu nhân ứa nước mắt nghẹn ngào nói :

- Không ngờ tôi lấy phải người chồng là... là một nhân vật như chàng.

Chung Vạn Cừu vốn thiết tha yêu vợ. Sở dĩ hắn ghét cay ghét đắng Đoàn Chính Thuần là do sự ghen tuông mà ra. Hắn vừa thấy vợ ứa nước mắt, bất giác chân tay luống cuống, nói chiều lòng :

- Tốt! Tốt lắm! Nàng muốn mắng tôi thì cứ việc mà mắng cho sướng miệng. Tôi được mình mắng cũng vui lòng kia mà.

Hắn chạy lui chạy tới trong phòng tìm lời tạ lỗi với vợ mà không biết nói sao. Chợt nhìn thấy thùng chai, lọ thuốc để lung tung liền nói :

- Trời ơi! Con Linh phá quá trời. Mới bé bằng ấy mà đã hỏi tới Ấm dương hòa hợp tán làm gì? Không biết ai xúi nó lại vào lục tìm loạn cả lên.

Vừa nói vừa xếp những chai thuốc lại, chân bước thế nào lại trúng vào tấm gỗ miệng hầm. Hoa Hách Cấn phải vận nội lực chống cho nắp hầm khỏi rớt xuống, sợ Chung Vạn Cừu khám phá ra hầm bí mật của mình.

Chung phu nhân cất tiếng gọi :

- Linh con ơi! Nó lại đi đâu rồi? Tôi đã bảo nó mấy bữa nay kẻ gian trà trộn vào rất nhiều, dặn nó đừng có đi ra đi vô bữa bãi. Tôi thấy thằng cha Vân Trung Hạc có đôi mắt diều hâu thường lấm la lấm lét nhìn con Linh nhà này nên tôi bảo nó phải đề phòng.

Chung Vạn Cừu cười hềnh hệch nói :

- Tôi để ý đề phòng mình nàng mà thôi. Con người nguyệt thẹn hoa nhường thế kia, đứa nào trông thấy mà chả thèm khát?

Chung phu nhân chặc lưỡi rồi cất tiếng gọi to :

- Linh! Linh ơi!

Một con nữ tỳ chạy ra thưa :

- Con vừa thấy tiểu thư qua đây.

Chung phu nhân gật đầu nói :

- Mi đi kêu tiểu thư về đây ta bảo.

Chung Linh ở dưới hầm, từ nãy đến giờ nghe rõ mồn một. Khốn nỗi miệng bị nhét đầy đất, không sao la lên được, trong lòng áy náy vô cùng.

Chung Vạn Cừu bảo vợ :

- Thôi nàng hãy nằm đây nghỉ một lát để tôi ra tiếp khách.

Chung phu nhân lạnh lùng đáp :

- Chàng vốn có cái ngoại hiệu : Kiến Nhân Tựu Sát không ngờ tuổi già một chút hóa ra Kiến nhân tựu pha.

Mấy bữa nay Chung Vạn Cừu mắc bận bù đầu. Bất luận hắn thốt ra câu gì cũng là một dịp để cho vợ mỉa mai. Hắn biết vợ trước có tư tình với Đoàn Chính Thuần. Bữa nay hoa xưa ong cũ được dịp trùng phùng tránh sao khỏi mối tình trước kia chớm nở khiến lòng người đàn bà sinh ra bực bội. Tuy hắn căm giận vô cùng mà không dám dây miếng với nàng, chỉ cười hề hề đi ra nhà khách.

Nói về Bảo Định Đế xuống chỉ xóa thuế muối, muôn dân nước Đại Lý ca tụng ơn đức vô cùng. Trong địa hạt Vân Nam sản xuất muối rất ít, không đủ luật cung cầu, phải mua thêm muối ở đất Thục. Dân đã nghèo thuế muối lại nặng nên hàng năm có đến mấy tháng phải ăn nhạt. Nhà vua biết rằng một khi miễn thuế muối, thế nào Huỳnh Mi hòa thượng cũng tìm cách đi cứu Đoàn Dự để trả ơn. Ngài vẫn khâm phục Huỳnh Mi võ công trác tuyệt, lại lắm cơ mưu, ngoài ra hòa thượng còn có sáu tên đồ đệ giỏi nội công. Cả bảy thầy trò cùng ra tay quyết phải thành công. Nào ngờ đã qua một ngày một đêm mà chẳng thấy hồi âm nhà vua nóng ruột muốn phái Ba Thiên Thạch đi dò la động tĩnh, nhưng sai người đi triệu thì cả ba ông Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn cùng Phạm Hoa đều chẳng thấy đâu. Bảo Định Đế nghĩ thầm : "Phải chăng thái tử Diên Khánh vô cùng lợi hại khiến cho bảy thầy trò Huỳnh Mi hòa thượng cùng cả ba quan tam công nước Đại Lý đều gặp khốn đốn trong hang Vạn Kiếp. Nhà vua lập tức tuyên triệu Thái đệ Đoàn Chính Thuần, Thiện Xiển Hầu Cao Thăng Thái cùng bọn Ngư, Tiều, Canh, Độc và luôn cả vương phi Thư Bạch Phụng lại đến hang Vạn Kiếp lần nữa.

Thư Bạch Phụng quá nóng lòng vì con xin nhà vua đem cả ngự lâm quân đi bình trị hang Vạn Kiếp.

Bảo Định Đế nói :

- Chưa phải lúc cạn tàu ráo máng, hãy theo lề lối giang hồ mà hành động. Ta không muốn tự tay mình phá hoại thanh danh họ Đoàn đã được di truyền từ mấy trăm năm nay.

Đoàn người vừa đến cửa hang Vạn Kiếp đã thấy Vân Trung Hạc cười khanh khách ra đón tiếp. Gã xá dài nói :

- Chung động chủ biết đêm nay thế nào đại giá cũng giáng lâm nên cho tại hạ ra đây chờ đợi. Giả tỷ mà các hạ điều động quân thiết giáp tới thì chúng tôi đành chịu đánh bài "tẩu mã". Nhưng các hạ vẫn giữ lề luật giang hồ, lấy tư cách nhà võ họp bạn vậy xin mời liệt vị vào đại sảnh dùng trà.

Bảo Định Đế xem chừng đối phương vẫn bình tĩnh như thường, tuyệt không lộ vẻ hoang mang, khác hẳn bữa trước chỗ nào cũng xảy cuộc ác chiến thì trái lại nhà vua thấy vậy rất quan tâm.

Bảo Định Đế cũng chắp tay đáp lễ nói :

- Được vậy là hay lắm!

Vân Trung Hạc đi trước dẫn đường. Vào tới đại sảnh, Bảo Định Đế thấy các hào kiệt trong đám giang hồ ngồi đầy tại đó cũng hơi chột dạ. Vân Trung Hạc lớn tiếng giới thiệu cùng cử tọa :

- Đây là chưởng môn Đoàn gia ở Thiên Nam Đoàn lão sư.

Sở dĩ Vân Trung Hạc không xưng hô Bảo Định Đế là Hoàng Đế bệ hạ nước Đại Lý mà lại giới thiệu bằng danh hiệu võ lâm là theo quy của giang hồ. Không cần nói đến ngôi chí tôn trong một nước, chỉ riêng về địa hạt võ lâm, Đoàn Chính Minh cũng đã có một địa vị lừng lẫy, ai ai cũng ngưỡng mộ ông là một bậc tôn sư cao cả.

Các vị anh hùng vừa nghe giới thiệu, ai nấy đứng lên răm rắp. Chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là chễm chệ ngồi yên nói đổng :

- Ta cứ tưởng là ai, té ra là ông vua. Ông mạnh giỏi chứ?

Chung Vạn Cừu rảo bước tiến đến trước mặt Bảo Định Đế nói :

- Chung Vạn Cừu này chưa kịp ra xa nghênh tiếp, xin ngài thứ lỗi cho!

Bảo Định Đế đáp :

- Hà tất phải khách sáo?

Mọi người theo thứ bậc an tọa. Cuộc họp mặt này theo lề luật giang hồ nên vợ chồng Đoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng Thái không phải giữ lễ vua tôi, ngồi gần bên Bảo Định Đế. Bọn Lăng Thiên Lý đứng đằng sau nhà vua.

Người nhà bưng trà lên mời. Bảo Định Đế đưa mắt nhìn một lượt, không thấy thầy trò Huỳnh Mi hòa thượng và bọn Ba Thiên Thạch có mặt tại đây, đang tìm câu để dò hỏi bỗng Chung Vạn Cừu lên tiếng :

- Được Đoàn chưởng môn hai phen hạ cố, tại hạ rất lấy làm vinh dự. Nay lại được các vị bằng hữu tới đây đông đủ, tại hạ xin giới thiệu.

Rồi kể từng tên một, bắt đầu từ Tả Tử Mục, Mã Ngũ Đức, Tuệ Thuyền hòa thượng, lần lượt đến tất cả mọi người.

Chừng quá nửa số người có mặt tại đó, Bảo Định Đế tuy chưa từng quen biết nhưng cũng đã nghe danh.

Xem tiếp hồi hai mươi mốt

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 21 Rõ ràng người đó chẳng là Chung Linh?

Các vị giang hồ hào kiệt nhất nhất cùng Bảo Định Đế làm lễ tương kiến : Mã Ngũ Đức và Tả Tử Mục tỏ ra rất mực khiêm cung, đặc biệt là Liễu Tử Hư, Tần Nguyên Tôn vẫn giữ thái độ kiêu kỳ. Bọn Kim Đại Bằng, Sử An thi lễ theo tư cách hàng hậu bối, không dám bác bậc mà cũng không quá khúm núm.

Sau cuộc lễ tương kiến Chung Vạn Cừu lên tiếng :

- Đoàn huynh chưa dễ mấy khi hạ cố, xin lưu lại đây mấy hôm cũng là một dịp may cho anh em được học hỏi thêm.

Bảo Định Đế đáp :

- Xá điệt là Đoàn Dự, vì xúc phạm tới Chung động chủ, đã bị lưu lại quý xứ nên hôm nay tại hạ thân hành đến đây một là để tỏ tình thân, hai là để xin lỗi, dám mong Chung động chủ nể mặt tại hạ mà thứ tội cho đứa con nít ngây ngô, dại dột, tại hạ xiết bao cảm kích.

Quần hùng nghe nhà vua nói, ai cũng kính phục khen thầm :

- Lâu nay thường nghe Đoàn hoàng đế nước Đại Lý, bao giờ cũng theo đúng quy luật võ lâm tiếp đãi đồng đạo, quả nhiên danh bất hư truyền. Chỗ này thuộc phạm vi giang sơn của mình, nhà vua chỉ cần phái mấy trăm binh mã đến bắt người về là được thế mà người lại thân hành tới nơi, dùng lời lẽ ôn tồn, năn nỉ cầu xin.

Chung Vạn Cừu cười khanh khách chưa kịp trả lời thì Hắc Bạch kiếm Sử An đã cướp lời :

- Thế ra công tử Đoàn Dự đắc tội với Chung động chủ. Tại hạ đối với Đoàn công tử có mang ơn cứu mạng, cũng xin động chủ gia ơn cho!

Nam Hải Ngạc Thần bỗng lớn tiếng quát :

- Đây là việc của đồ đệ ta, ai khiến mi nói chõ vào?

Cao Thăng Thái cười lạt nói :

- Đoàn công tử là sư phụ ngươi chứ? Ngươi đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi kia mà? Chẳng lẽ bây giờ ngươi lại ăn lời?

Nam Hải Ngạc Thần thẹn đỏ mặt tía tai mắng lại :

- Mẹ nó! Lão gia không thèm nuốt lời đâu. Hôm nay lão gia muốn giết quách gã sư phụ hữu danh vô thực đó đi. Lão đây phải thờ một gã tiểu tử làm thầy, thẹn chết đi được.

Mọi người không hiểu đầu đuôi, đều phải sửng sốt. Thư Bạch Phụng nói :

- Chung động chủ! Tha hay không các hạ nói cho dứt khoát.

Chung Vạn Cừu cười đáp :

- Tha, tha chứ! Tôi giữ lệnh lang ở đây làm chi?

Vân Trung Hạc tự nhiên nói xen vào :

- Đoàn công tử là một trang thiếu niên anh tuấn, Chung phu nhân lại là bậc tuyệt sắc giai nhân nếu lưu Đoàn công tử ở đây phỏng có khác chi rước voi dày mả tổ, nuôi ong tay áo. Chung động chủ dĩ nhiên phải tha công tử rồi, chả dám giữ đâu.

Mọi người nghe gã đều phải ngạc nhiên. Ai cũng nghĩ bụng : "Thằng cha Cùng Hung Cực Ác này ăn nói càn dở, chẳng kiêng nể gì, thậm chí đến Chung Vạn Cừu mà gã cũng chẳng coi vào đâu. Không trách gã tự xưng là Cùng Hung Cực Ác thật đúng lắm".

Chung Vạn Cừu căm giận quay lại bảo Vân Trung Hạc :

- Vân huynh! Sau khi đã giải quyết xong vụ này tại hạ sẽ xin lãnh giáo mấy hiệp.

Vân Trung Hạc đáp :

- Hay lắm! Hay lắm! Ta vẫn có ý định giết anh chồng để chiếm cô vợ, mưu đoạt gia tài, chiếm luôn nhà ở.

Mọi người cả kinh thất sắc. Nhất Phi Xung Thiên Kim Đại Bằng lên tiếng :

- Anh hùng hảo hán trong chốn giang hồ chưa chết hết đâu. Các ngươi bản lãnh cao cường đến mấy chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi đạo trời chí công được đâu.

Diệp Nhị Nương bật lên tiếng cười the thé phản đối :

- Kim tướng công! Nhị Nương này chưa hề xúc phạm gì tới ngươi, sao ngươi vơ đũa cả nắm?

Nghe giọng nói thôi miên trấn áp cả tâm hồn Kim Đại Bằng không khỏi rùng mình. Tả Tử Mục sực nhớ chuyện mụ cướp con mình bữa trước, trong bụng hãy còn nơm nớp lo âu, đưa mắt nhìn trộm mụ một cái. Diệp Nhị Nương cười sằng sặc hỏi :

- Tả chưởng môn! Mấy bữa nay chắc lệnh lang lớn lên và mập mạp trắng trẻo lắm đấy nhỉ?

Tả Tử Mục bất đắc dĩ hàm hồ khẽ đáp :

- Bữa trước cháu bị cảm mạo phong hàn, tới nay vẫn chưa khỏi.

Diệp Nhị Nương nói tiếp :

- A! Đó đều là lỗi tại tôi. Lúc quay về tôi sẽ qua thăm thằng cháu Sơn Sơn rất ngoan ngoãn.

Tả Tử Mục thất kinh, vội gạt đi :

- Không dám phiền đại giá giáng lâm lần nữa.

Bảo Định Đế thấy rõ tình hình, nghĩ thầm : "Thế này thì ra bon tứ ác hoành hành quá tệ, kết oán đã nhiều. Đợi khi cứu Đoàn Dự ra rồi ta phải tìm cơ hội tiêu diệt bọn chúng để trừ mối đại hại. Đứng đầu bọn tứ ác là thái tử Diên Khánh, tay cùng người họ Đoàn ta không tiện hạ thủ nhưng nếu xét ra quả tội ác đầy rẫy thì cũng không thể dung thứ được."

Thư Bạch Phụng thấy mỗi người một điều, toàn chuyện đâu đâu, liền trở lại vấn đề. Bà đứng phắt lên nói :

- Chung động chủ đã nhận lời tha thằng nhỏ. Vậy xin cho gọi nó ra để mẹ con ta được gặp nhau.

Chung Vạn Cừu cũng đứng lên đáp :

- Được rồi.

Rồi đột nhiên quay lại hầm hầm, trừng mắt nhìn Đoàn Chính Thuần và than rằng :

- Đoàn Chính Thuần! Mi đã có vợ đẹp con khôn như thế mà lòng tham vẫn chưa đủ ư? Hôm nay mi mang tiếng ô nhục với thiên hạ, đó là mình làm mình chịu, đừng oán trách gì Chung Vạn Cừu này nữa.

Đoàn Chính Thuần ngay từ lúc đầu nghe Chung Vạn Cừu hứa trả con trai đã nghĩ ngay : câu chuyện đâu có thể dễ dàng như thế được? Tất nhiên đối phương còn có âm mưu, quỷ kế gì đây. Bây giờ nghe hắn nói vậy càng thêm chột dạ, vội đứng phắt dậy, bước tới trước mặt Chung Vạn Cừu bảo :

- Chung động chủ! Nếu ngươi còn cố ý hại người thì Đoàn mỗ sẽ có phương pháp đối phó khiến ngươi cũng phải hối hận suốt đời.

Chung Vạn Cừu thấy Vương gia tướng mạo đường đường, phong độ thanh cao đài các, mình thực chẳng bén gót chân. Phần thì thẹn vì mình xấu xa, phần thì ghen tức, lửa giận bốc lên đùng đùng, lớn tiếng quát :

- Đã đến nước này Chung mỗ có bị nhà tan người chết, thây phân muôn đoạn cũng quyết theo đuổi ăn thua với mi cho đến cùng. Mi muốn lấy lại con, được lắm, hãy đi theo vào đây.

Nói xong hùng hổ rảo bước ra ngoài sảnh đường. Đoàn người đi theo Chung Vạn Cừu đến trước bức tường cây. Vân Trung Hạc muốn phô tài khinh công, liền nhảy vọt sang qua bên kia trước tiên. Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng : "Việc này không thể giải quyết êm đẹp được rồi, chi bằng mình ra oai trước để đối phương biết chừng mà nhượng bộ" bèn hạ lệnh :

- Đốc Thành! Ngươi chặt mấy gốc cây này để mở lối cho mọi người đi!

Thái Tân Khách Tiêu Đốc Thành đáp :

- Xin vâng!

Đoạn giơ búa thép lên chặt ngang từng gốc cây chẳng khác gì dao bén thái đậu phụ. Điểm Thương Nông Đổng Tư Quy phóng chưởng lực ra đánh bật những cây đã ngã xuống hất ngược lên dựa vào rặng cây hai bên, để lộ ra một lối nhỏ. Cây cương phủ lóa lên một vài nhát nữa, thế là năm gốc cây bị chặt phăng trong nháy mắt và mở thành một lối đi rộng rãi. Chung Vạn Cừu trồng bón được thành một bức tường đã tốn bao nhiêu tâm huyết chứ đâu phải chuyện dễ dàng? Bây giờ bỗng bị Tiêu Đốc Thành vung năm nhát búa chém mất năm cây lớn thì tức giận vô cùng nhưng hắn lại nghĩ rằng : "Họ Đoàn nước Đại Lý phen này bị nhục nhã ê chề, cái việc phá hoại nhỏ mọn này có thấm vào đâu?". Nghĩ vậy liền theo lối trống đi vào. Vừa đi khỏi bức tường cây thấy Huỳnh Mi hòa thượng và Thanh bào khách mỗi người tay trái đang cầm một đầu gậy trúc, trên đầu bật lên một luồng hơi trắng thì ra hai người đang đấu nội lực. Thốt nhiên Huỳnh Mi đưa ngón tay bên phải ra xoáy mạnh vào tảng đá xanh trước mặt, lõm xuống một lỗ nhỏ. Thanh bào khách suy tính một chút, rồi tay phải cầm gậy trúc thứ hai vạch một vòng tròn lên tảng đá đó. Bảo Định Đế chú ý nhìn biết ngay là Huỳnh Mi sư huyng đang cùng thái tử Diên Khánh vừa đánh cờ vừa đấu nội công. Thế là vừa đấu trí vừa đấu lực. Cuộc đấu đặc biệt lạ lùng này thật nguy hiểm khôn lường. Thảo nào một ngày một đêm rồi mà sư huynh chưa thấy hồi âm. Té ra hai người vẫn tiếp tục đấu chọi từ bấy đến giờ mà vẫn chưa thắng bại.

Bảo Định Đế đưa mắt nhìn vào bàn cờ, thấy hai người đang tranh đấu đến độ một còn một mất, dường như cuộc thắng bại có quan hệ đến kiếp vận con người. Bên Huỳnh Mi hòa thượng bị kém thế rõ ràng, đang chật vật gỡ cho thoát chết. Bảo Định Đế lại quay nhìn về phía nhà đá thì thấy sáu tên đồ đệ của Huỳnh Mi hòa thượng đương ngồi xếp bằng ở trước cửa, người nào nét mặt cũng xám ngắt, hình như thần khí bị đoạn tuyệt gần chết đến nơi rồi. Đế thất kinh trong bụng nghĩ thầm : "Có lẽ sáu người này đến giao đấu với thái tử Diên Khánh trước nên đều bị trọng thương rồi chăng?". Bảo Định Đế liền chạy vội tới, đặt tay nghe huyệt mạch môn Phá Tham hòa thượng thì thấy mạch chạy nhát gừng, yếu quá, lúc có lúc không, xem chừng nguy đến nơi rồi. Tức thời nhà vua móc trong bọc ra một bình nhỏ bằng bạch ngọc, đổ lấy sáu viên thuốc đỏ tươi như máu bỏ vào mồm 6 vị hòa thượng mỗi người một viên. Đó là sáu viên hổ phách hoàn, thuốc chữa người bị thương rất hay và kiêm cả công hiệu bồi bổ nguyên thần. Có biết đâu sáu hòa thượng này không phải bị thương, mà bị hấp lực Chu cáp thần công hút hết mất chân khí trong người. Bệnh một đằng, thuốc chữa một nẻo nên chẳng ăn thua gì.

Đoàn Chính Thuần hô bọn Thiên Lý :

- Bốn ngươi lại đẩy khối đá này đi để mở cho Đoàn Dự ra.

Bốn người vâng lệnh, nhất tề tiến lại, Chung Vạn Cừu thét :

- Hãy thong thả! Quý vị có biết trong nhà đá này còn có ai nữa không?

Đoàn Chính Thuần và bọn Lăng Thiên Lý đều không ai biết Mộc Uyển Thanh đã bị thái tử Diên Khánh bắt về, đem giam cùng một chỗ với Đoàn Dự và cũng không biết hai người đã uống phải Âm dương hòa hợp tán, một thứ độc dược có tính chất mãnh liệt. Vì thế Chung Vạn Cừu mới cho cả người ngoài vào, chủ ý để mọi người mục kích một tấn kịch nhơ nhuốc của họ Đoàn là Đoàn Dự đã loạn dâm với em gái.

Nghe Chung Vạn Cừu hỏi, Đoàn Chính Thuần bất giác trống ngực đánh thình thình, lo cho số phận con mình đang bị chặt tay chân hay bị khoét mắt rồi cũng nên. Ông nói :

- Chung động chủ! Nếu động chủ làm cho con tôi thân thể tàn tật thì động chủ cũng nên nhớ rằng người cũng có vợ con đấy.

Chung Vạn Cừu cười lạt mỉa mai :

- Hừ, ngươi nói đúng đó, Chung Vạn Cừu này cũng có vợ có con thật, nhưng nhờ trời không đến nỗi trai gái loạn luân như loài muông thú.

Đoàn Chính Thuần giận tái mặt quát hỏi :

- Mi nói lăng nhăng gì thế?

Chung Vạn Cừu hỏi lại :

- Hương Dược Xoa Mộc Uyển Thanh có phải là con ngoại tình của mi không?

Đoàn Chính Thuần giận mắng :

- Thân thế Mộc Uyển Thanh có can dự gì đến mi? Sao mi lại cứ hay can thiệp vào chuyện không đâu?

Chung Vạn Cừu cười ha hả nói :

- Việc đó chưa chắc đã là chuyện không đâu. Họ Đoàn nước Đại Lý trị vì trời nam, làm chúa tể một phương, thanh dang vang dội khắp giang hồ. Nhưng hôm nay các vị anh hùng hảo hán sẽ mở to mắt ra coi một tấn bi hài kịch : con trai và con gái Đoàn Chính Thuần phượng đảo, loan điên kết thành vợ chồng.

Nghe Chung Vạn Cừu nói Đoàn Chính Thuần trong lòng nghi hoặc : chẳng lẽ Mộc Uyển Thanh cũng ở trong nhà đá này? Chẳng lẽ hai anh em nó lại... nhưng khi đem những lời hắn nói từ trước tới sau, suy đi nghĩ lại thì thấy rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa. Ông lạnh toát cả người như rơi vào hồ băng tuyết, lòng ông tê tái, miệng lẩm bẩm : "Mưu kế quá thâm độc, mưu kế quá thâm độc".

Chung Vạn Cừu quay về phía Nam Hải Ngạc Thần giơ tay làm hiệu rồi hai người vung tay dùng chưởng lực để đánh tảng đá ở cửa nhà thạch thất. Đoàn Chính Thuần định cản lại nói :

- Khoan đã!

Nhưng Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc hai người hai bên cùng đánh ra một chưởng. Đoàn Chính Thuần đưa hai tay ngăn chặn chưởng lực của Diệp Nhị Nương còn Cao Thăng Thái thì nghiêng người bước xéo lên để cản chưởng lực của Vân Trung Hạc. Không ngờ hai chưởng lực của Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc chỉ là đòn đánh dứ. Trong lúc vung tay phải lên thì tay trái đã đánh ngoặt lại, đều nhằm vào chỗ tảng đá. Tảng đá này tuy nặng tới mấy ngàn cân nhưng bị bốn chưởng lực đánh vào một lúc, tức thời lăn hẳn sang bên phải. Kể ra Vân Trung Hạc cùng Chung Vạn Cừu không ưa gì nhau nhưng trong vụ này họ đã có bàn định với nhau từ trước. Chúng dàn cảnh hư hư thực thực, Đoàn Chính Thuần biết đâu mà ngăn chặn được? Thực ra Đoàn Chính Thuần cũng nóng lòng, mong sớm được nhìn mặt con nên cũng không cố tâm ngăn cản lắm. Khối đá vừa lăn ra, mở một lối đi tối om, nhìn vào không rõ cảnh tượng bên trong.

Chung Vạn Cừu vừa cười vừa nói :

- Trai trơ, gái trọi, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn nhà tối thế thì họ còn làm cái trò gì hay ho nữa chứ?

Vừa nói dứt lời, bỗng thấy một thanh niên đầu bù tóc rối, mình trần trùng trục xồng xộc chạy ra. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, tay ôm ngang một thiếu nữ, đang mê mẩn như là người say rượu.

Bảo Định Đế thẹn quá mặt đỏ bừng. Đoàn Chính Thuần cũng cúi gầm mặt xuống, không dám ngửng lên, Thư Bạch Phụng thì hai mắt đẫm lệ, miệng lẩm bẩm : "Oan nghiệt, oan nghiệt".

Hắc Bạch kiếm Sử An vì nhớ ơn cứu mạng của Đoàn Dự bây giờ thấy chàng bị biêu riếu trước công chúng, trong lòng không nỡ, nhảy thoắt lại, đứng chắn trước mặt chàng.

Nam Hải Ngạc Thần quát lớn :

- Quân đê tiện này, đứng tránh ra!

Chung Vạn Cừu cười ha hả, đang dương dương đắc ý, thốt nhiên ngừng bặt, nét mặt sa sầm, tiếng cười biến thành tiếng la bi thảm :

- Linh! Linh! Mi đấy hử?

Mọi người thấy vậy giật mình, ai cũng giương mắt nhìn theo thì thấy Chung Vạn Cừu chạy tới trước mặt Đoàn Dự thò tay giật lấy thiếu nữ mà chàng đang ẵm ngang trước bụng. Nhìn rõ cô bé diện mạo còn nhỏ tuổi hơn Mộc Uyển Thanh mà vóc người cũng nhỏ thon hơn, nét mặt vẫn còn thơ ngây măng sữa. Cô bé này đâu phải Mộc Uyển Thanh, chính là Chung Linh, con gái Chung Vạn Cừu.

Vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ, Chung Vạn Cừu đưa tay ẵm con nhưng vừa chạm vào cánh tay Chung Linh thì bỗng toàn thân giật nẩy lên một cái, rồi chân khí trong người cuồn cuộn như muốn thoát ra.

Đoàn Dự thần trí vẫn chưa được tỉnh táo hẳn, trong lúc mơ màng thấy nhiều người đứng xúm quanh trước mặt, chàng nhìn thấy có cả song thân và bá phụ, vội buông Chung Linh ra ú ớ gọi :

- Má má, gia gia, bá phụ.

Đoàn Dự buông Chung Linh ra, chân khí trong người Chung Vạn Cừu mới khỏi bị hấp lực Chu Cáp thần công hút ra nữa. Vì bị giam hãm lâu trong nhà tối, bây giờ bị ánh dương quang rọi vào, Đoàn Dự chói mắt không mở ra được. Song chàng thấy tinh thần sung mãn, chân tay mình nhẹ nhàng như muốn bay bổng khỏi mặt đất.

Thư Bạch Phụng chạy đến ôm Đoàn Dự vào lòng, ân cần hỏi :

- Dự con! Con... con làm sao đấy?

Đoàn Dự đáp :

- Con... con cũng không biết nữa. Hiện giờ con... ở chỗ nào đây?

Chung Vạn Cừu không ngờ muốn làm hại người mà thành ra hại mình. Hắn ngẩn người ra một lúc rồi buông con gái xuống.

Chung Linh thấy mình mặc phong phanh có mỗi bộ quần áo lót, thẹn quá mặt đỏ bừng. Chung Vạn Cừu cởi áo dài ra khoác vào cho nàng rồi đánh theo luôn một chưởng, làm cho cô bé sưng húp một bên má. Hắn mắng con :

- Quân mặt dầy! Ai bảo mày theo thằng súc sinh đi ở với nhau một chỗ?

Chung Linh bị mắng oan nhưng không biết biện bạch sao được nàng chỉ nức nở khóc. Chung Vạn Cừu chợt lại nghĩ ra một điều : tảng đá lớn như thế Mộc Uyển Thanh chắc không thể nào đẩy mà ra được, nhất định nàng hãy còn ở trong nhà đá, vậy hãy gọi nàng ra để cùng chia bớt một phần ô nhục với Chung Linh.

Hắn gọi luôn ba tiếng mà tuyệt nhiên không thấy ai thưa. Chung Vạn Cừu tiến thẳng vào trong nhà. Căn nhà này chả rộng là mấy, không quá một trượng vuông, thoáng đưa mắt đã nhìn khắp lượt mà tuyệt nhiên không thấy một bóng người nào. Chung Vạn Cừu tức vỡ ngực, nhảy thót ra, lại đánh con gái thêm một chưởng nữa và quát mắng :

- Ta phải đánh chết con bé thối tha này.

Giữa lúc đó, thốt nhiên Chung Vạn Cừu thấy một bàn tay thò ra, rồi một ngón vô danh và một ngón út đương nhằm điểm vào cổ tay hắn. Chung Vạn Cừu vội rụt tay lại để tránh, nhìn ra thì người định điểm lén hắn chính là Đoàn Chính Thuần. Hắn căm giận quát hỏi :

- Ta dạy đứa con gái mất nết của ta có can dự gì đến mi?

Đoàn Chính Thuần cười khì khì đáp :

- Chung động chủ! Động chủ thực đã ưu đãi thằng nhỏ nhà tôi, sợ nó ở một mình tĩnh mịch, đã để lệnh ái là một vị thiên kim tiểu thư ở chung cho có bạn. Tại hạ rất cảm kích. Bây giờ cơ sự đã đến thế này, lệnh ái đã thành người nhà họ Đoàn rồi, tại hạ không thể không can thiệp được.

Chung Vạn Cừu quát hỏi :

- Làm sao lại bảo con gái ta là người họ Đoàn nhà mi được?

Đoàn Chính Thuần đáp :

- Lệnh ái ở trong nhà đá này cùng thằng Dự bầu bạn mấy ngày mấy đêm. Trai trơ, gái trọi lại thân thể lõa lồ, tất chúng đã thành hảo sự với nhau rồi. Con tôi là thái tử của Trấn Nam Vương, tuy đã đính hôn cùng tiểu thư con Thiện Xiển Hầu Cao hiền đệ, song làm trai năm thê, bảy thiếp vẫn được chứ sao? Thế thì động chúa với tôi là chỗ thông gia với nhau rồi còn gì?

Nói xong lại tiếp một chuỗi cười ha hả. Chung Vạn Cừu giận muốn phát điên, không nhịn được nữa, nhảy xổ vào đá "vu vu vu" luôn ba cước. Đoàn Chính Thuần vẫn cười ngặt nghẽo, mà đối phương đánh cước nào ông cũng tránh né dễ như chơi.

Các tay hào kiệt đều tự nghĩ : "Thế lực họ Đoàn nước Đại Lý quả là không thể khinh thường được. Không hiểu họ dùng cách nào mà bắt được con gái Chung Vạn Cừu nhốt vào nhà đá để đánh tráo đem Mộc Uyển Thanh đi."

Nguyên do vụ này là tự tay bọn Hoa Hách Cấn mà ra. Bản ý của họ lúc mới bắt Chung Linh đem vào địa đạo chẳng qua là giữ cô bé khỏi tiết lộ sự bí mật về công việc của họ mà thôi. Nhưng sau khi nghe thấy câu chuyện đối thoại giữa hai vợ chồng Chung Vạn Cừu mới biết rõ hắn cùng thái tử Diên Khánh xếp đặt một quỷ kế rất hiểm độc, cố ý làm bại hoại thanh danh nhà họ Đoàn. Bọn Hoa Hách Cấn cùng nhau thương nghị, đều thấy rằng việc này quan hệ rất lớn, lại là việc rất khẩn cấp. Chờ cho Chung phu nhân đã đi khỏi, Ba Thiên Thạch từ trong đường hầm chui lên ra ngoài, dùng khinh công tuyệt đỉnh điều tra đích xác vị trí ngôi nhà đá và còn cách xa bao nhiêu rồi quay lại báo cho Hoa Hách Cấn biết rõ để ấn định lại lộ tuyến của đường hầm. Ba người lại hì hục đào mải miết thêm một đêm nữa, đến sáng hôm sau thì vừa tới đích. Hoa Hách Cấn khoét một lỗ từ dưới nhà đá chui lên, thấy Đoàn Dự đang nắm chặt bàn tay của một người đứng bên ngoài nhà đá thò vào. Hoa rất đỗi ngạc nhiên, không biết là bàn tay Phá Sản hòa thượng mà cho là bàn tay thái tử Diên Khánh nên không dám lớn tiếng hỏi Đoàn Dự mà chỉ khẽ đập nhẹ trên bàn tay trái chàng. Không ngờ ngón tay vừa chạm vào mu bàn tay Đoàn Dự Hoa Hách Cấn thấy toàn thân run bắn lên một cái, chẳng khác chi chạm phải một khối than hồng. Hoa nhìn lại Đoàn Dự thì thấy mắt chàng dường như phun ra lửa không khỏi chột dạ. Trong lúc vội vàng Hoa dùng sức kéo mạnh, mong lôi được chàng xuống đường hầm để trốn thoát cho mau. Nào ngờ lúc vừa nắm chặt bàn tay Đoàn Dự, Hoa Hách Cấn cảm thấy chân khí trong người cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài, không thể nhịn được hoảng hốt la : "Ối chao! ối chao!". Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa đều là người thính tai mẫn tiệp, từ đường hầm nhảy lên ngay, hợp lực lôi Hoa Hách Cấn ra bấy giờ mới thoát khỏi sức hút của Chu Cáp thần công. nội lực của ba người so với Phá Sản hòa thượng cao hơn một bậc, hơn nữa lại đều là tay cơ trí, ứng biến mau lẹ mà cũng sợ toát cả mồ hôi. Trong bụng đều cho là tà phép của thái tử Diên Khánh cực kỳ lợi hại. Rồi không ai dám đụng vào mình Đoàn Dự nữa vì sợ Diên Khánh dùng ta thuật, chuyền qua cánh tay Đoàn Dự mà hút lấy chân khí của họ. Giữa lúc đó bỗng thấy phía ngoài nhà có tiếng xôn xao, lại nghe rõ cả Bảo Định Đế và Trấn Nam Vương cũng đã tới nơi. Chung Vạn Cừu thì đang huênh hoang diễu cợt. Phạm Hoa một tay hoạt kê có biệt tài, lại lắm mưu nhiều trí, thoáng nảy ra một ý nghĩ kỳ khôi : "Thằng cha Chung Vạn Cừu này thật là khả ố, âu là ta chơi khăm cho hắn bị một vố ê chề để làm trò cười chơi". Nghĩ vậy Phạm Hoa vội cởi áo ngoài của Chung Linh ra, mặc cho Mộc Uyển Thanh. Đoạn ra hiệu cho bạn đưa Mộc Uyển Thanh xuống đường hầm, dắt Chung Linh vào chỗ Mộc Uyển Thanh. Xong xuôi lấy phiến đá đậy cửa hầm lại, không còn để một dấu vết dì khả nghi nữa.

Đoàn Dự tuy hút được chân khí của sáu vị hòa thượng nhưng không biết quy nạp vào huyệt đan điền để mà vận dụng nên chỉ thấy sáu luồng chân khí chạy nhộn trong mình làm cho lục phủ ngũ tạng nôn nao, rất là khó chịu, người cũng lảo đảo đi đứng không vững. Bảo Định Đế thấy thế, cho là Đoàn Dự đã trúng phải kịch độc, liền đưa ngón tay điểm dứ vào ba huyệt : "Nhân Trung", "Thái Dương", "Linh Đài" cho chàng. Sáu luồng chân khí không xông vào óc được nữa, Đoàn Dự tuy trong người vẫn còn bứt rứt khó chịu, nhưng đầu óc đã thanh sảng liền thưa với Bảo Định Đế :

- Bá phụ! Cháu bị trúng độc Âm dương hòa hợp tán.

Bảo Định Đế thấy tính mạng Đoàn Dự không có gì đáng lo ngại nữa đã hơi yên lòng. Nhưng lại nghĩ tới cuộc đấu cờ thí mạng giữa Huỳnh Mi hòa thượng và thái tử Diên Khánh đã tới giai đoạn ngàn cân treo sợi tóc. Bất luận là đấu cờ hay đấu nội lực cả hai mặt đều nguy hiểm, chỉ sai một tý nữa là nguy đến tính mạng nên Bảo Định Đế tạm ngưng việc giải độc cho Đoàn Dự, chạy vội đến chỗ hai người đấu cờ.

Huỳnh Mi hòa thượng mồ hôi trán nhỏ giọt xuống bàn cờ, còn Diên Khánh nét mặt vẫn thản nhiên. Xem qua tình thế đủ biết cuộc thắng bại đã rành rành, sự sinh tử của Huỳnh Mi hòa thượng đã đến lúc cực kỳ nguy hiểm.

Đoàn Dự thần trí vừa được sảng khoái, cũng quan tâm ngay tới cuộc thắng bại trên bàn cờ, vội chạy lại xem. Thấy quân bên Huỳnh Mi đã bị mất sạch, Diên Khánh chỉ bắt thêm một quân nữa là Huỳnh Mi không còn quân ra, tất phải chịu thua.

Thái tử Diên Khánh đưa đầu gậy trúc điểm xuống bàn cờ, trỏ đúng điểm then chốt, chỉ đi một nước đó nữa là bên Huỳnh Mi vô phương cứu vãn. Đoàn Dự trong dạ bồn chồn, liền nghĩ ra một kế : "A ta phải làm cho lão đi sai một nước". Nghĩ vậy chàng đưa tay giữ lấy đầu gậy của thái tử Diên Khánh. Diên Khánh vừa đưa gậy trúc tới điểm "lục thất", góc thượng vị thì thốt nhiên lão cảm thấy lòng bàn tay nóng ran lên, rồi nội lực trên cánh tay cuồn cuộn thoát ra ngoài. Thái tử Diên Khánh kinh ngạc vô cùng, ghé mắt nhòm xuống thấy Đoàn Dự đưa hai ngón tay cặp vào đầu gậy.

Chính Đoàn Dự cũng không biết rằng sau khi mình nuốt đôi Mãng Cổ chu cáp đã phát ra hiện tượng quái dị là hút cả được chân khí của người nào chạm tới mình. Chàng thấy tay mình cầm vào đầu gậy trúc mà thái tử Diên Khánh không điểm được gậy xuống bàn cờ, chàng chỉ mong kéo dài được phút nào hay phút đó, trêu chọc cho lão rối loạn tâm trí, họa may Huỳnh Mi có cơ xoay lại cục diện cũng chưa biết chừng nên chàng cứ bám chặt đầu gậy, nhất định không chịu buông ngón tay ra.

Thái tử Diên Khánh trong đầu óc nảy ra vô số nghi vấn : khi trước bọn mình bắt thằng nhỏ này thấy nó không hiểu một chút võ công nào cả kia mà! Nghệ thuật tối đa của nó chẳng qua là mấy bước bộ pháp để né tránh mà thôi. Không hiểu sao mới trong vài ngày, đột nhiên nó lại nảy ra cái tà thuật hút được nội công của người ta? Phải chăng lúc đầu nó có ý dấu diếm tài nghệ, không chịu tiết lộ, chờ khi người tiếp viện đến rồi mới ra tay? Ngoài ra không thể tìm được nguyên nhân minh bạch nào khác để giải đáp. Thái tử Diên Khánh vừa nghĩ vừa vận khí vào huyệt đan điền, dồn sức mạnh ra cánh tay. Chiếc gậy trúc lúc đó phát xuất được một sức mạnh tuyệt luân, đầu gậy trúc rung lên một cái, đẩy bật cánh tay Đoàn Dự ra.

Nội lực của thái tử Diên Khánh thâm hậu dị thường, không mấy ai sánh kịp. Đoàn Dự tuy mới hút vào người được chân lực của bọn Phá Tham hòa thượng nhưng lại chưa biết vận dụng, mười phần không phát động được một nên đầu gậy trúc của thái tử Diên Khánh hất mạnh một cái chàng đã phải buông tay ra.

Đoàn Dự cảm thấy nửa mình bị tê chồn, người lảo đảo muốn té vật xuống, phải vội vàng đưa tay vịn vào phiến đá mới đứng vững lại được.

Thái tử Diên Khánh phát xuất kình lực đẩy bật được tay Đoàn Dự ra nhưng lúc thu hồi chân khí chỉ còn được có phân nửa nên trong lòng rất đỗi kinh hoàng, kinh hoàng hơn cả Đoàn Dự. Vì tâm trạng quá hoang mang, thái tử Diên Khánh trước định đi nước cờ "lục thất", giờ lại điểm sang nước "thất bát" trên thượng vị. Lão biết mình đi lỡ, lẩm bẩm la lên : "Thôi chết rồi", lão toan nhấc đầu gậy lên đi lại thì không kịp nữa. Trên điểm "thất bát" đã vạch thành nửa vòng tròn. Những bậc cao thủ đấu cờ hạ tịch bất hồi, huống chi đã khắc đá làm bàn, rạch đá làm quân, công lực điểm tới đâu đá nát tới đó, có lý đâu đã hạ quân rồi lại bỏ được? Khốn nỗi đi vào điểm "thất bát" trong góc thượng vị đó tức là tự mình lại lấp mắt mình. Phàm người đã biết đánh cờ thì ai cũng hiểu : "hai mắt là sống, một mắt là chết". Trong ván cờ này thái tử Diên Khánh đã tạo thành thế đủ cả hai mắt để nhằm tấn công vào cơ sở bên Huỳnh Mi hòa thượng, quyết không có lý nào lại tự lấp đi một mắt. Theo lẽ đương nhiên là thế nhưng mà đã trót hạ lầm quân thì lại tỏ ra kém nội lực để xẩy ra nước cờ lầm lạc. Cờ đi sai một nước đành thua cả bàn, thái tử Diên Khánh lại là người rất có tên tuổi, hiểu lẽ "Tỉnh ăn, lầm thua", quyết không bao giờ tranh chấp về những việc đuối lý như thế. Lão lập tức đứng dậy, hai tay chống bàn cờ, chú ý nhìn lại cuộc cờ hồi lâu không nhúc nhích.

Các tay hào kiệt có mặt tại đây phân nửa chưa từng gặp mặt thái tử Diên Khánh bây giờ thấy lão có nhiều vẻ khác thường nên ai cũng chăm chú nhìn vào.

Thái tử Diên Khánh lặng lẽ ngó bàn cờ lúc lâu rồi đột nhiên cầm đôi gậy trúc chống một đầu xuống đất, nhảy lên đi cao lênh khênh như người đi cà kheo, bước rất dài, thoáng cái đã đi khá xa. Bất thình lình một luồng gió tây thổi ngược lại, tảng đá bàn cờ rung rung mấy cái, tiếp đó mấy tiếng loảng choảng, tảng đá đó vỡ ra làm mười mấy mảnh, ngổn ngang trên mặt đất. Thế là bàn cờ đá đánh dấu một cuộc đấu trí và đấu lực rất gay go, cổ kim hy hữu đã vỡ tan tành, không còn gì lưu lại về sau nữa.

Mọi người đều thất kinh ngơ ngác nhìn nhau và trong lòng cùng nghĩ như nhau : "Lão Thanh bào quái khách này người chẳng ra người, quỷ chẳng ra quỷ, trông như cái xác biết cử động mà sao võ công cao siêu tới mức không thể lường được".

Huỳnh Mi hòa thượng thắng cuộc một cách bất ngờ, hai tay vịn đầu gối đứng dậy, tâm thần bàng hoàng, hồi tưởng lại tình trạng nguy nan lúc nãy, vẫn hãy còn hồi hộp, chưa lấy lại được bình tĩnh. Trong bụng nhà sư vẫn băn khoăn, không hiểu tại sao thái tử Diên Khánh đang lúc đã nắm vững phần thắng rồi lại thốt nhiên hạ một nước cờ kỳ cục, lấp ngay một mắt của mình đi rõ hình như có ý nhường mình. Nhưng không lý nào trước tình thế nghiêm trọng như vậy mà lão lại chịu nhường bao giờ.

Tất cả mọi biến cố đó Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và bọn Cao Thăng Thái đều mơ hồ không ai hiểu ra sao cả. Nhưng may mà cứu được Đoàn Dự ra về, thanh danh họ Đoàn không bị tổn thất mảy may, thái tử Diên Khánh lại bị thua cờ bỏ trốn, có thể nói là chiếm được toàn thắng vậy. Còn những chi tiết nhỏ bên trong chưa tìm ra nguyên do cũng chẳng tra cứu ngay vội. Đoàn Chính Thuần mỉm cười quay sang bảo Chung Vạn Cừu :

- Chung động chủ! con tôi quyết không phải là đứa bạc tình. Lệnh ái đã thành cơ thiếp của y, vài hôm nữa chúng tôi sẽ phái người đến đón dâu. Vợ chồng tôi sẽ hết sức chiêu đãi nàng, coi như con gái mình. Xin động chúa cứ yên tâm.

Chung Vạn Cừu là kẻ lỗ mãng, bụng dạ đã hẹp hòi lại hay cáu kỉnh. Nghe lời Đoàn Chính Thuần dường như trêu chọc, hắn nổi hung cũng chẳng thèm hỏi Chung Linh đã thất thân với Đoàn Dự hay chưa "soạt" một cái, hắn rút luôn "bội đao" ở bên hông ra, nhắm thẳng đầu Chung Linh chém xuống và quát to :

- Thế này thì tức chết đi được. Ta giết con tiện nhân này trước rồi sau sẽ hay.

Bất thình lình một bóng người cao lênh khênh nhảy vụt đến nhanh như chớp, ôm lấy Chung Linh rồi vèo một cái như làn gió thoảng qua đã phi thân ra ngoài hai trượng. "Phập" một tiếng, lưỡi đao của Chung Vạn Cừu đã chém ngập xuống đất. Chung Vạn Cừu nhìn xem người đã ôm Chung Linh là ai té ra là Vân Trung Hạc liền quát hỏi :

- Mi... mi làm cái gì thế?

Vân Trung Hạc đáp :

- Con gái ngươi mà ngươi không thiết đến nữa, toan chém, vậy ngươi coi như nàng đã chết rồi và để nàng cho ta.

Vân Trung Hạc vừa nói vừa chạy thêm mấy trượng nữa. Y tự biết, nếu bàn về võ công cao hạ thì không những Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa thượng cao hẳn hơn y rồi mà ngay Đoàn Chính Thuần hay Cao Thăng Thái y cũng không thể ăn đứt được. Thấy tình thế không ổn, y liền ôm Chung Linh chạy ra xa một nơi. Y mừng thầm, Ba Thiên Thạch không có ở đây vì ngoài Ba ra kinh công bình thường cả, không ai có thể đuổi kịp nữa.

Chung Vạn Cừu cũng biết tài khinh công của Vân Trung Hạc hắn chỉ dậm chân loạn xạ, la mắng om sòm.

Bảo Định Đế cùng mọi người hôm trước đây đã thấy qua bản lĩnh khinh công của Vân Trung Hạc trong khi y cùng Ba Thiên Thạch đuổi nhau chạy vòng quanh. Bây giờ thấy y tay ôm Chung Linh mà nhảy đi vẫn lẹ làng như không đều biết là vô phương đuổi kịp y rồi. Đoàn Dự tâm linh cơ biến sực nhớ đến Nam Hải Ngạc Thần liền gọi lên :

- Nhạc lão tam! Sư phụ có lệnh truyền! Ngươi mau mau đi cướp lại Chung cô nương về đây cho ta!

Nam Hải Ngạc Thần sửng sốt, cả giận hỏi lại :

- Thằng oắt con kia! Mi nói láo gì đó?

Đoàn Dự đáp :

- Ngươi nhận ta làm thầy, chẳng đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi là gì? Bây giờ ngươi còn mở miệng cãi lời thì ai mà ngửi được?

Nam Hải Ngạc Thần tuy là người rất hung dữ nhưng lão cũng có chỗ khả thủ là nói sao làm vậy chứ không bao giờ cãi xóa. Lão nhận Đoàn Dự làm thầy dù là chuyện bất đắc dĩ nhưng cũng không chối. Lão chỉ tức mình, trừng mắt cau mày quát lại :

- Ta đã hứa tất nhiên ta nhớ. Ngươi là sư phụ ta thì bây giờ ngươi muốn điều chi nói ngay đi! Đừng có mà lôi thôi, ta điên tiết lên thì ta chém cả cái thứ sư phụ như ngươi đó.

Đoàn Dự đáp :

- Ngươi đã nhận ta làm thầy là được rồi. Chung cô nương đây là vợ ta, tức là sư mẫu ngươi đó. Sư mẫu bị Vân Trung Hạc bắt đem đi, vậy ngươi phải đuổi theo bắt lại. Nếu để Vân Trung Hạc làm nhục nàng tức là làm nhục sư mẫu ngươi. Sư mẫu ngươi bị y làm nhục thì ngươi còn chi là thể diện? Anh hùng hảo hán mà để kẻ khác lăng nhục sư mẫu hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần nghe choáng cả người, nghĩ lời sư phụ nói rất đúng. Song thốt nhiên lão nghĩ tới Đoàn Dự đã nhận Mộc Uyển Thanh làm vợ mà sao bây giờ lại nhận cả cô bé họ Chung này làm vợ nữa nên lão liền hỏi lại :

- Thế thì ta có mấy vị sư mẫu cả thảy?

Đoàn Dự đáp :

- Ngươi đừng có hỏi lôi thôi nữa! Tóm lại nếu ngươi không cướp lại được sư mẫu ngươi về thì chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy các bậc anh hùng hào kiệt nữa. Tất cả những tay hảo hán ở đây ai ai cũng biết rõ Vân Trung Hạc là người em út trong hàng tứ ác mà ngươi còn không hạ được thì địa vị ngươi phải giáng xuống hàng thứ năm, thứ sáu cũng chưa biết chừng.

Nam Hải Ngạc Thần bị nói khích, tức không nhịn được vì lão đang muốn tranh ngôi thứ lên hàng nhì, trên Diệp Nhị Nương mà Đoàn Dự lại đặt lão xuống dưới Vân Trung Hạc thì cái nhục còn sâu cay hơn là bị chặt đầu. Lão gầm lên như điên cuồng, hộc tốc chạy đi đuổi Vân Trung Hạc, vừa đuổi vừa gọi :

- Muốn yên thân thì buông sư mẫu ta ra!

Vân Trung Hạc vừa chạy vừa nói :

- Nhạc lão tam! Ngươi là thằng ngốc, bị mắc hợm người ta rồi.

Nam Hải Ngạc Thần là người xốc nổi, hiếu thắng, giầu lòng tự ái, thấy Vân Trung Hạc mắng mình là thằng ngốc bị mắc hợm trước mặt bao nhiêu người càng làm lão nộ khí xung thiên, ráng sức đuổi theo. Hai người đuổi nhau chớp mắt đã khuất vào khe núi. Chung Vạn Cừu tuy trong lúc cáu giận, giơ đao định chém chết con gái song bây giờ thấy Chung Linh bị gã Cùng Hung Cực Ác bắt mất, phần thì phụ tử tình thâm, phần thì nghĩ tới lúc vợ hỏi đến biết trả lời ra sao, ruột nóng như lửa cũng vác đao đuổi theo Vân Trung Hạc.

Bảo Định Đế thấy chủ nhân bỏ đi rồi, chắp tay nói với Tuệ Thiền hòa thượng và mọi người :

- Ít khi được liệt vị quang lâm nước Đại Lý, xin mời cùng tới tệ xứ, dùng chén rượu suông, để tại hạ đón tiếp cho trọn nghĩa địa chủ.

Tuệ Thiền cùng mọi người đều muốn giao kết với Bảo Định Đế Đoàn Chính Thuần, người đã được giới võ lâm cho biệt hiệu là "Thiên Nam đệ nhất nhân", thấy nhà vua khiêm cung, hiếu khách nên ai cũng vui vẻ nhận lời. Chỉ một mình Diệp Nhị Nương tủm tỉm cười nói :

- Lão nương đây sợ các ngươi mổ thịt chia nhau đánh chén vậy nên xin kiếu, chuồn sớm đi là hơn.

Nói xong cười hì hì trở gót đi liền. Bảo Định Đế cùng tất cả mọi người rời khỏi hang Vạn Kiếp trở về Đại Lý. Sáu hòa thượng trong bọn Phá Tham tức lúc bị hấp lực của "chu cáp" hút mất chân khí, thân thể hư nhược, đứng không vững, phải nhờ bọn Lăng Thiên Lý dìu lên ngựa. Rồi cùng quần hùng kéo cả về phủ Trấn Nam Vương.

Gia nhân đưa tin vào báo, bọn Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch từ trong Vương phủ ra tận ngoài cửa nghinh đón. Một vị nữ lang cũng theo ra, cách phục sức cực kỳ hoa lệ, vẻ kiều diễm cũng nổi bật lên, đó chính là Hương Dược Xoa Mộc Uyển Thanh.

Đoàn Dự từ lúc uống phải Âm dương hòa hợp tán, chất độc trong người chưa giải trừ được bây giờ đột nhiên nhìn thấy Mộc Uyển Thanh, người không tự chủ được nữa, vội chạy lên mấy bước định đưa tay ôm lưng nàng nhưng may tâm linh vẫn còn một tia sáng suốt, chàng giật mình tỉnh ngộ, biết thế là một hành động điên rồ liền dừng chân lại. Âm dương hòa hợp tán không những tai hại ở chỗ chất độc mãnh liệt lâu dài, mà lại còn làm cho cả hai bên trai cũng như gái, sau khi uống phải cùng ưa kích thích quyến rũ nhau. Hai bên ở xa nhau thì thôi, chứ có dịp gần nhau là hai người đều cảm thấy tâm thần mê mẩn, không thể nào kìm hãm được. Bảo Định Đế thấy thần sắc hai người lộ vẻ khác thường, mặt đỏ như gấc chín, rõ ràng bị trúng độc quá nặng, nhà vua tức khắc chìa ngón tay điểm dứ hai cái, bỗng nghe thấy "xùy xùy hai tiếng", Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh tức thời mê man té vật ra. Chu Đan Thần ẵm Đoàn Dự, Thư Bạch Phụng ẵm Mộc Uyển Thanh đem về phòng riêng tĩnh dưỡng.

Phủ Trấn Nam Vương bày một tiệc lớn khoản đãi các vị hào kiệt. Tân khách mời Tuệ Thiền ngồi ghế chủ tịch, vì các phái võ đều coi phái Thiếu Lâm là bậc đàn anh trong võ lâm.

Trong khi dự tiệc Phạm Hoa có thuật lại việc đào đường hầm và đem Chung Linh vào trong nhà đá cho mọi người nghe nhưng còn việc cứu Mộc Uyển Thanh ra thì giấu kín không nhắc tới. Các bậc hào kiệt hiểu rõ nguyên nhân về việc Chung Vạn Cừu định làm hại người không được, trái lại thành ra hại mình mọi người đều vỗ tay cười vang.

Đoàn Chính Thuần băn khoăn về việc con trai bị trúng độc, đưa ra hỏi khắp các vị hào kiệt nhưng mọi người chỉ ngơ ngác nhìn nhau không ai biết đường giải cứu. Giữa lúc đó có tên gia đinh cầm một phong thư đưa vào cho Đoàn Chính Thuần và nói người đưa thư là một ả nữ tỳ, trong thư có phương thuốc giải độc cho thế tử. Đoàn Chính Thuần vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội mở thư ra xem, thấy trong thư vẻn vẹn có sáu chữ : "Chỉ uống sữa người là khỏi". Đoàn Chính Thuần nhận được bút tích biết là thư của Chung phu nhân gửi cho, bất giác trong lòng xúc động, tay áo quẹt đổ chiếc chén trước mặt, rượu nóng đổ hết vào người mà ông cũng không hay.

Bảo Định Đế hỏi :

- Chính Thuần hiền đệ! Phương thuốc chi vậy?

Đoàn Chính Thuần vẫn ngẩn người ra chưa hiểu hỏi gì. Bảo Định Đế phải nhắc lại lần nữa :

- Phương thuốc gì đó?

Đoàn Chính Thuần giật mình đáp :

- Trong thư nói chỉ uống sữa người là khỏi.

Bảo Định Đế gật đầu nói :

- Ta cứ thử xem, uống nhiều sữa người dù không công hiệu cũng chẳng hại gì.

Thư Bạch Phụng liền sai gia đinh đi mua sữa người của các bà nhũ mẫu trong dân gian. Sữa người là thứ rất dễ kiếm, hơn nữa trong Vương phủ làm việc gì mà chẳng mau chóng. Bữa tiệc chưa tan, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh đã giải độc xong, bước ra hội kiến với mọi người.

Đoàn Dự ân cần ngỏ lời thâm tạ Huỳnh Mi hòa thượng cùng bọn Hoa Hách Cấn. Chàng hay tin bọn Phá Tham, cả sáu nhà sư đều bị trọng thương thì trong lòng cảm thấy vô cùng bứt rứt. Đến bấy giờ sáu hòa thượng vẫn chưa nói được, nên không ai hiểu bọn họ bị thoát mất hết nội công. Cả Huỳnh Mi cũng chưa biết rõ nội tình. Đoàn Dự lại càng không ngờ tự mình đã gây nên đại họa cho người. Đoàn Chính Thuần tuyên bố với mọi người rằng Mộc Uyển Thanh là nghĩa nữ của ông. Bọn Tần Nguyên Tôn và Tuệ Thiền hòa thượng tuy có cừu hận với Mộc Uyển Thanh nhưng lúc này không tiện trở mặt. Hơn nữa lại e dè uy lực bốn tay cao thủ : Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa thượng, Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái nên không dám bỗng nhiên gây sự.

Trong bữa tiệc, các vị hào kiệt nói hết chuyện giang hồ đại sự lại quay sang vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái và Đoàn Dự để chúc mừng cuộc hôn nhân giữa hai họ Đoàn Cao, chén tạc, chén thù rất là náo nhiệt.

Mộc Uyển Thanh liếc mắt nhìn trộm Đoàn Dự thấy chàng cúi gầm mặt xuống, tỏ vẻ buồn thiu. Nàng hồi tưởng lại tình cảnh những ngày cùng chàng ở trong nhà thạch thất mà tan nát gan vàng. Nàng hiểu rõ giấc mộng lương duyên giữa chàng và nàng kiếp này đành vỡ mất rồi. Khi nghe đến chuyện Đoàn Dự hòa duyên cùng Cao tiểu thư mà lòng tê tái, khóc không ra tiếng. Nàng nhìn Cao Thăng Thái bằng đôi mắt căm hờn. Có lúc nàng toan phóng ám tiễn giết Cao để trả thù : sao ông lại sinh con gái để cướp mất tình lang của nàng. Nhưng nàng hiểu Cao Thăng Thái võ công trác tuyệt, khó lòng bắn trúng nên lại thôi. Nàng thấy mọi người hoan hỉ giao bôi, rất là hào hứng thì e mình không nhịn được phải buông tiếng khóc tỏ ra con người khiếp nhược nên đứng phắt dậy nói :

- Tôi nhức đầu không ăn uống gì được.

Thế rồi băng băng đi vào nhà trong. Từ Bảo Định Đế trở xuống nàng không thèm ngỏ lời cáo từ một ai. Đoàn Chính Thuần có ý ngượng, cười gượng đỡ đòn :

- Con nhỏ này khó dạy quá, chẳng biết một chút lễ độ nào cả xin đại ca cùng quý vị miễn chấp.

Giữa lúc đó bỗng nhiên có một tên gia tướng xăm xăm bước vào, hai tay cầm một tờ danh thiếp, chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần cúi đầu nói :

- Quá Ngạn Chi thiền gia ở Hổ Tốt quan xin vào yết kiến Vương gia.

Đoàn Chính Thuần rất đỗi ngạc nhiên, nghĩ thầm : "Quá Ngạn Chi biệt hiệu Truy Hồn Thủ là đại đồ đệ của Kha Bách Tuế phái Tung Sơn đã nổi tiếng đại hiệp trong chốn giang hồ từ lâu. Võ công y vào hạng siêu quần, có điều đối với họ Đoàn chưa từng qua lại giao du, chẳng hay bữa nay y từ muôn dặm đến tìm ta không hiểu có việc gì đây?". Nghĩ thế liền đứng dậy nói với mọi người :

- Có Truy Hồn Thủ Quá địa hiệp tới ta nên ra ngoài nghênh tiếp.

Xem tiếp hồi hai mươi hai

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 22 Một phái võ kinh hồn ở Cô Tô

Những hào kiệt có mặt tại đây đều đã nghe tiếng "Truy Hồn Thủ Quá Ngạn Chi". Tuệ Thuyền hòa thượng và Kim Đại Bằng đã từng gặp mặt Quá mấy lần. Quần hùng nghe tin Quá đến đều răm rắp rời khỏi chỗ ngồi theo Đoàn Chính Thuần ra đón. Trừ có bốn vị là Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa thượng, Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn là vẫn ngồi yên.

Quá Ngạn Chi tuy thanh danh lừng lẫy giang hồ lại là khách phương xa tới, song lấy địa vị trong võ lâm mà nói thì Bảo Định Đế và Huỳnh Mi hòa thượng dĩ nhiên không phải ra cửa đón. Còn Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn cũng có ý tự trọng, đặt địa vị mình vào tôn sư đứng đầu một phái dù Quá Ngạn Chi thanh danh có lừng lẫy mấy chăng nữa nhưng trên hãy còn sư phụ là Kha Bách Tuế. Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn đều tự ví mình ngang hàng với sư phụ của Quá nên cũng cứ ngồi yên tại chỗ chứ không ra đón.

Đoàn Chính Thuần ra tới cửa, thấy một người trung niên tầm vóc cao lớn, tay trái dắt một con tuấn mã sắc trắng rất oai hùng đang đứng trước cửa. Người này mặc tang phục, đầu đội mũ vải gai, mặt đượm vẻ phong trần, hai mắt đỏ mọng sưng húp rõ ra người mới có thân nhân vừa tạ thế.

Kim Đại Bằng rảo bước đến trước mặt ân cần chào hỏi :

- Quá đại ca vẫn được mạnh giỏi chứ?

Người vận tang phục đó là Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi đáp :

- Kim hiền đệ đấy ư? Đã lâu nay ta không được gặp nhau nhỉ.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Quá đại hiệp quang lâm nước Đại Lý mà tiểu đệ không được biết trước để đi đón tận ngoài xa, thực là có lỗi, xin đại hiệp miễn thứ cho.

Nói xong vái dài một cái. Quá Ngạn Chi nghĩ bụng : "Ta vẫn nghe tiếng anh em họ Đoàn nước Đại Lý là người đại phú quý mà không kiêu căng chút nào, thực là tiếng đồn không ngoa". Quá Ngạn Chi vội vàng đáp lễ và khiêm nhường nói :

- Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu ở nơi thảo dã, dám phiền Vương gia ra tận cửa đón, thực áy náy vô cùng.

Đoàn Chính Thuần đáp :

- Tước hiệu "Vương gia" chẳng qua là theo thế tục đặt ra mà thôi. Còn đối với đại hiệp thanh danh vang dội khắp nơi, tại hạ vốn có lòng ngưỡng mộ, chúng ta nên xưng hô nhau bằng anh em, bất tất câu chấp thứ, nghi lễ hư văn đó làm gì?

Đoạn mời Quá Ngạn Chi vào phủ rồi giới thiệu với Bảo Định Đế và các vị hào kiệt. Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng : "Trong đám giang hồ hảo hán này cố nhiên là nhiều người tính tình khoát đạt, hào sảng nhưng cũng không ít kẻ bụng dạ hẹp hòi. Thường thường chỉ vì một câu nói hay cách tiếp đãi hơi thiếu sót một chút là gây thù kết oán ngay. Bây giờ cách xếp đặt chỗ ngồi Quá Ngạn Chi thế nào cho ổn cũng là một chuyện rất khó". Nghĩ vậy ông nói :

- Quá huynh đang cữ tang, không hiểu dùng những món gì được? Gia nhân đâu sắp một tiệc riêng ra đây để tiếp Quá đại hiệp!

Quá Ngạn Chi lắc đầu từ chối :

- Đa tạ thịnh tình, tại hạ còn có việc gấp, xin cho uống một chén thanh trà là đủ.

Đoạn nâng chén trà uống một hơi cạn, Quá nói tiếp :

- Vương gia! Sư thúc tôi ký ngụ ở Vương phủ, xin cho người báo tin giùm, để tại hạ được diện kiến và trình việc gấp.

Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi :

- Sư thúc Quá huynh là ai?

Ông tự hỏi : trong Vương phủ có ai là nhân vật của phái Tung Sơn đâu?

Quá Ngạn Chi đáp :

- Sư thúc tôi thay họ đổi tên, nhờ nơi Vương phủ để tỵ nạn nên người chưa dám nói rõ ra với Vương gia, thực là có tội lớn, dám xin Vương gia mở lượng khoan hồng miễn trách cho. Tại hạ thay sư thúc tạ lỗi cùng Vương gia.

Nói xong liền vái dài. Đoàn Chính Thuần đáp lễ nhưng nghĩ mãi không ra sư thúc của Quá Ngạn Chi là ai. Bỗng thấy Cao Thăng Thái quay sang bảo tên gia đinh đứng bên :

- Mi vào phòng giấy trình Hoắc tiên sinh rằng : Truy hồn thủ Quá đại hiệp tới đây có việc cần muốn bẩm với Kim toán bàn Thôi lão tiền bối, xin mời tiên sinh ra đại sảnh nói chuyện.

Tên gia đinh vâng lời vừa trở gót bỗng nghe tiếng lẹp kẹp : một người đang ngất nga ngất ngưởng từ hậu đường đi ra, vừa đi vừa nói lè nhè :

- Nó làm thế này thì mình khó mà ngồi mát bát dầy được nữa.

Các tay hào kiệt nghe thấy bảy chữ : "Kim Toán Bàn Thôi lão tiền bối", có người lờ mờ không hiểu là gì, có người biến sắc tự hỏi : chẳng lẽ thằng cha Kim toán bàn Thôi Bách Kế lại ẩn tích ở đây ư?

Giữa lúc đó, một lão già mặt mũi bần tiện, cười khì khì đi ra. Mọi người trong Vương phủ từ trên chí dưới ai cũng biết đó là Hoắc tiên sinh, người trông nom giúp sổ chi tiêu các việc vặt trong Vương phủ. Ngày nào cũng như ngày nào, nếu lão không say bí tỷ thì lại đâm đầu vào đánh bạc với bọn tôi đòi, thật là con người bê bối. Trong phòng kế toán, chỉ vì lão mà phương diện tiền bạc mất cả quy củ. Mười mấy năm nay vẫn mặc lão làm lộn bậy thế nào thì làm.

Đoàn Chính Thuần xiết đỗi ngạc nhiên lẩm bẩm : "Không ngờ Hoắc tiên sinh lại chính là Thôi Bách Kế ư? Thật mình có mắt không tròng, kể cũng bẽ mặt. May mà Cao Thăng Thái gọi trúng tên lão. Các tay hào kiệt vẫn cho là trong phủ Trấn Nam Vương đã biết lão từ trước rồi nên Đoàn Chính Thuần này cũng không đến nỗi mất thể diện.

Hoắc tiên sinh vẫn bảy phần say, ba phần tỉnh vẻ mặt thì ngơ ngác. Nhìn thấy Quá Ngạn Chi vận tang phục lão giật mình hỏi :

- Mi... mi có chuyện chi vậy?

Quá Ngạn Chi bước lên mấy bước, lạy sụp xuống đất, khóc òa lên nghẹn ngào đáp :

- Sư thúc ơi! Sư phụ... sư phụ cháu đã bị người hạ sát rồi.

Thôi Bách Kế biến hẳn thần sắc, nét mặt đang ngơ ngác thoáng cái đã đầy vẻ lo âu, dè dặt. Lão từ từ hỏi :

- Kẻ thù là ai?

Quá Ngạn Chi nức nở đáp :

- Bởi cháu tài hèn, tra hỏi mãi mà chưa biết đích kẻ thù là ai. Song theo sự suy đoán thì có phần đúng là một nhân vật trong họ Mộ Dung ở Cô Tô.

Hoắc tiên sinh lộ vẻ kinh sợ nhưng chỉ thoáng qua rồi nét mặt trở nên nghiêm nghị. Ông nói bằng một giọng trầm trầm :

- Việc này phải bàn tính một cách cẩn thận mới được.

Chuyện nọ đẩy sang chuyện kia. Vì Quá Ngạn Chi muôn dặm đưa tin mà Kim toán bàn Thôi Bách Kế phải lòi đuôi. Vì hỏi hung tin của Kha Bách Tuế mà đề cập đến Mộ Dung thị. Tiếng tăm Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi những tay hào kiệt ngồi đây phần nhiều đều biết rõ. Có điều Thôi Bách Kế tuy là sư thúc nhưng mấy năm gần đây ẩn tích một nơi không xuất đầu lộ diện, nên thanh danh chẳng những không vang dội được bằng sư huynh Kha Bách Tuế, chưởng môn phái Tung Sơn mà lại kém cả sư điệt Quá Ngạn Chi nữa. Còn về những nhân vật trong họ Mộ Dung lợi hại thế nào thì mọi người đều mờ mịt, ít ai biết đến. Chỉ riêng có Bảo Định Đế và Huỳnh Mi hòa thượng cùng đưa mắt nhìn nhau rồi Huỳnh Mi tăng lại khẽ thở dài.

Thôi Bách Kế tâm linh cực kỳ tế nhị, một tiếng thở dài khẽ của Huỳnh Mi cũng không qua khỏi lỗ tai lão được. Lão bước tới trước mặt nhà sư kính cẩn vái dài nói :

- Chốn giang hồ sắp sinh tai họa, đại sư là bậc từ bi, xin chỉ điểm cho con đường sáng sủa.

Huỳnh Mi hòa thượng đứng dậy đáp lễ và trả lời :

- Thí chủ nói rất phải, tiếc rằng bần tăng kiến văn hủ lậu, lại ở nơi hoang sơn hẻo lánh, ít được nghe những vụ rồng tranh hổ đấu giữa các phái võ ở Trung Nguyên. Tỷ như Thôi thí chủ là một nhân vật anh hùng đến thế, lại ở ngay phủ Trấn Nam Vương mấy năm rồi mà bần tăng cũng không biết mảy may. Thế thì nói chi tới những việc ngoài chốn giang hồ nữa?

Thôi Bách Kế thần sắc thảm đạm quay sang nói với Quá Ngạn Chi :

- Quá hiền điệt! Sư huynh ta làm sao mà phải bỏ mạng? Tình tiết xảy ra như thế nào, hiền điệt thuật lại tận tường cho ta nghe.

Quá Ngạn Chi đáp :

- Thù thầy cũng như thù cha, chậm ngày nào chưa báo được là tiểu điệt ăn không ngon, ngủ không yên. Xin sư thúc hãy lên đường ngay cho. Trong lúc đi đường tiểu điệt sẽ bẩm rõ để khỏi chậm thời giờ.

Thôi Bách Kế nhìn mặt biết là Quá Ngạn Chi có ý e ngại, ở trong đại sảnh này có rất nhiều tai mắt, nói ra có điều bất tiện chứ không phải là tranh thủ sớm muộn một hai thời khắc. Thôi Bách Kế suy tính trong bụng : "Mình ký ngụ ở phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm tuyệt không để lộ hình tích thế mà Cao Thăng Thái cũng biết rõ hành tung, nếu bây giờ mình không xin lỗi Trấn Nam Vương tức là mình đắc tội với họ Đoàn. Huống chi muốn vì sư huynh báo cừu mà xung đột với Mộ Dung thị, việc đó quyết không thể một mình có đủ sức làm được. Nếu họ Đoàn phái người tương trợ thì lực lượng sẽ mạnh hơn nhiều. Thêm bạn bớt thù là một điều rất quan trọng". Nghĩ vậy Thôi Bách Kế liền chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần, quỳ hai gối xuống đất và buông tiếng khóc òa lên. Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên.

Đoàn Chính Thuần vội đưa hai tay đỡ dậy, nhưng không ngờ mó vào người Thôi Bách Kế thì thấy người lão vững như là đóng đinh xuống đất, không tài nào lay chuyển được. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm : "Thằng quỷ bét rượu này, võ công lão gớm thật". Lâu nay mình bị lão đánh lừa hoài". Đoàn Chính Thuần vận kình lực vào hai cánh tay nhấc bổng lão lên. Thôi Bách Kế cũng không vận nội lực chống lại nữa, mượn đà đứng phắt dậy. Nhưng vừa đứng được thẳng người lên, lão cảm thấy xương cốt trong mình đều đau ê ẩm, rất là khó chịu, tựa như con thuyền nhỏ ngoài khơi bị một cơn sóng gió đánh tơi bời. Lão biết là Đoàn Chính Thuần có ý cảnh giác mình. Lão là người đa mưu quả xứng đáng với cái tên Thôi Bách Kế. Lão nghĩ thầm : "Nếu mình còn vận nội lực để chống lại, Trấn Nam Vương sẽ không hả giận mà chưa biết chừng ông còn ngờ mình trà trộn vào nằm trong Vương phủ để mưu toan việc gian ác". Vì nghĩ thế nên Thôi Bách Kế theo đà lúc chân khí trong người đang tản mát tức thời té ngồi phệt xuống kêu lên : "Ối chà". Đoàn Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo Thôi Bách Kế dậy, đồng thời xoa luôn một cái để tiêu giải những bứt rứt trong cơ thể họ Thôi.

Thôi Bách Kế nói :

- Trấn Nam Vương gia! Thôi Bách Kế này bị kẻ thù bức bách, không còn đường chạy nên phải vác cái mặt dầy tới Vương phủ nương tựa uy danh Vương gia sống được tới nay, vậy mà Bách Kế chưa thổ lộ chân tướng với Vương gia, thật là tội đáng muôn chết.

Cao Thăng Thái ngắt lời :

- Thôi huynh bất tất phải quá khiêm? Vương gia đây cũng biết rõ thân thế và lai lịch các hạ từ lâu rồi. Có điều các hạ là bậc chân nhân, không muốn lộ tướng nên Vương gia đây cũng không muốn nói ra thôi. Đừng nói Vương gia hiểu rõ đã đành, mà ngay những người chung quanh cũng biết cả. Hôm thế tử đối phó với cuộc đánh quyền của Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã giắt Thôi huynh ra đóng vai sư phụ của chàng là gì? Vì thế tử biết rõ trong Vương phủ chỉ có mình Thôi huynh khả dĩ đối phó được với Nam Hải Ngạc Thần mà thôi.

Kỳ thực bữa đó Đoàn Dự kéo Thôi Bách Kế ra để mạo nhận là sư phụ chẳng qua là sự ngẫu nhiên mà trúng đấy thôi. Đoàn Dự thấy Thôi Bách Kế dáng điệu ngớ ngẩn, hình dong cổ quái nên đem lão ra cố ý để trêu cợt Nam Hải Ngạc Thần làm một trò cười. Song bây giờ nghe Cao Thăng Thái nói Thôi Bách Kế lại tin là sự thực.

Cao Thăng Thái lại nói tiếp :

- Vương gia đây vốn là người hiếu khách, đừng nói gì Thôi huynh lưu trú tại nước Đại Lý chúng tôi tuyệt không có âm mưu ác ý gì đã đành, mà giả tỷ có lòng bất trắc đối với nước tôi chăng nữa, Vương gia đây vẫn đại lượng bao dung, lấy thành thực để tiếp đãi. Thôi huynh bất tất phải băn khoăn về điểm đó.

Lời Cao Thăng Thái nói còn ngụ ý nữa là : anh không có vết tích gì bất lương nên mới dung dưỡng tới ngày nay, bằng không thì chúng tôi đã sửa anh từ lâu rồi.

Thôi Bách Kế lại nói :

- Tuy hầu gia dạy thế, song Thôi mỗ vì sao phải vào Vương phủ nương náu thì trước khi cáo biệt cũng cần phải trình bày cho rõ nếu không chẳng hóa ra còn tệ hơn phường du côn hay sao? Chỉ vì việc này liên quan tới nước ngoài, nên Thôi mỗ mạo muội xin mượn tạm một nơi để tiện việc đàm luận.

Đoàn Chính Thuần quay lại bảo Quá Ngạn Chi :

- Báo cừu cho sư phụ là việc trọng đại, Quá huynh chẳng nên hấp tấp nóng nảy, nán chờ chốc lát. Sau khi tan tiệc, chúng ta sẽ từ từ thương nghị cũng chưa chậm.

Các tay hào kiệt ở đây đều là những người lịch duyệt giang hồ nên rất thiệp đời, không muốn làm mất thì giờ và phiền cho người khác trong lúc cấp bách nên đều ăn uống lào thào cho qua bữa rồi răm rắp đứng dậy cáo từ. Trấn Nam Vương đối với bạn hữu giang hồ rất là trọng hậu, thấy tân khách đứng dậy liền sai gia nhân đem lễ vật ra rồi chính tay đưa tặng mọi người. Riêng đối với Kim Đại Bằng và Sử An là những khách từ phương xa tới lại đặc biệt tặng thêm tiền lộ phí nữa. Trong đám hào kiệt những người hào sảng thản nhiên nhận tiền còn những người câu nệ lễ nghi thì nhún nhường bái tạ.

Giữa lúc chủ khách ân cần tiễn biệt bỗng nghe ngoài cổng phủ có tiếng niệm :

- A di đà Phật! A di đà Phật!

Tiếng tuy không to nhưng ai nghe cũng rõ mồn một, tựa như chỉ cách độ hai ba thước. Các tay hào kiệt trong sảnh đường hết thảy đều kinh ngạc. Phủ Trấn Nam Vương địa thế rất rộng, từ ngoài cổng vào đại sảnh cách xa tới hơn mười trượng, quãng giữa lại còn những tường vách, cửa ngõ ngăn chặn, thế mà tiếng nói bên ngoài đại môn ở trong nghe rõ mồn một đủ biết về môn Thiên lý truyền âm người này thực đã luyện tới chỗ thượng thừa tuyệt đỉnh.

Đoàn Chính Thuần nghe tiếng Thiên lý truyền âm biết ngay người đó thuộc phái Thiếu Lâm nên đã từ trong đáp vọng ra :

- Một vị cao tăng phái Thiếu Lâm giá lâm nước Đại Lý Đoàn Chính Thuần này không biết để ra nghênh đón từ xa, thật thất lễ quá.

Đoàn Chính Thuần vừa nói vừa chạy ra đón. Ông bước rất mau, nháy mắt đã ra tới cổng ngoài. Một vị hòa thượng người khô như hạc, tuổi chừng năm mươi trở lại chắp tay nói :

- Bần tăng là Tuệ Chân ở chùa Thiếu Lâm xin tham kiến Đoàn Vương gia.

Trong lúc Đoàn Chính Thuần đang đáp lễ thì Tuệ Thiền hòa thượng cũng theo ra tới nơi, ngạc nhiên hỏi :

- Sư huynh! Sư huynh cũng tới nước Đại Lý hẳn có chuyện gì?

Tuệ Chân hai mắt đỏ hoe, đầy vẻ buồn rầu đáp :

- Sư đệ ơi! Sư phụ đã viên tịch về Tây phương rồi.

Tuệ Thiền tuy là đệ tử nhà Phật nhưng tính tình bộp chộp, vừa nghe hung tin nhảy sấn lại cầm chặt lấy tay Tuệ Chân run run hỏi lại :

- Thực... thực vậy ư?

Tuệ Chân chưa kịp đáp thì nước mắt Tuệ Thiền đã dòng dòng chảy xuống. Tụê Chân nói với Đoàn Chính Thuần :

- Sư đệ bần tăng vì quá xúc động trước sự bất hạnh của gia sư nên thất lễ trước giá, khiến vương gia phải bật cười.

Đoàn Chính Thuần vội đáp :

- Không dám! Không dám!

Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng : "Sư phụ Tuệ Thiền là Huyền Bi đại sư, vẫn nổi tiếng võ công trác tuyệt. Thế này thì phái Thiếu Lâm lại mất một bậc cao thủ rồi".

Tuệ Thiền nghẹn ngào nói tiếp :

- Sư phụ bị bệnh gì? Ngài vẫn khoẻ mạnh cơ mà?

Thấy trước cửa nhiều người qua lại rất phức tạp, Tuệ Chân hai tay cầm phong thư đưa cho Đoàn Chính Thuần và nói :

- Thưa Vương gia! Bần tăng vâng mệnh chưởng môn sư bá, tới đây đệ trình tâm thư lên Bảo Định Hoàng gia cùng Vương gia.

Đoàn Chính Thuần đón lấy thư rồi nói :

- Hoàng huynh tại hạ cũng ở đây, tại hạ xin đưa đại sư vào tương kiến.

Nói xong dẫn Tuệ Chân và Tuệ Thiền vào nội sảnh.

Đoàn Chính Thuần đệ thư tín lên. Bảo Định Đế mở ra coi, thấy phần trên nói đại khái mấy câu sáo ngữ, xưng tụng đức độ anh em mình và tỏ lòng ngưỡng mộ còn phần chính đề chỉ vắn tắt mấy câu : "Nay võ lâm kiếp vận tới nơi, xin đừng nghĩ cháy nhà hàng phố bình chân như vại, sự thể thế nào hãy hỏi sư điệt Tuệ Chân sẽ rõ". Dưới ký tên chưởng môn trụ trì tại chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ kính thư.

Xem xong Bảo Định Đế kính cẩn nói :

- Xin mời hai vị ngồi! Đại sư bên Thiếu Lâm đã có pháp dụ, chúng ta hết thảy đều ở trong phái võ lâm cả. Bất luận điều gì mà sức có thể làm được sẽ xin vâng mệnh.

Tuệ Chân quỳ hai gối dập đầu "binh binh" xuống đất, vừa lạy vừa khóc không ra tiếng. Tuệ Thiền thấy sư huynh như vậy, tuy chưa hiểu rõ nguyên do, cũng quỳ xuống một bên nhưng không khấu đầu. Bảo Định Đế thấy Tuệ Chân dùng đại lễ như thế, trong bụng biết chắc là quan trọng : trong phái Thiếu Lâm thiếu gì cao thủ tuyệt vời, nhân tài thật lắm, có việc gì trọng đại không giải quyết được mà phái Tuệ Chân đến cầu mình ân cần thế này? Nhà Vua liền đưa hai tay đỡ hai hòa thượng dậy nói :

- Chúng ta đều là đồng đạo trong võ lâm, tôi không dám nhận đại lễ như vậy.

Tuệ Chân khóc nức nở đáp :

- Gia sư bỏ mạng dưới bàn tay Cô Tô Mộ Dung thị, phái Thiếu Lâm không thể độ lực báo được mối thù này. Xin Hoàng gia xuất mã chủ trương đại cuộc cho!

Bảo Định Đế nghe nói đến năm chữ "Cô tô Mộ Dung thị" mặt hơi biến sắc. Tuệ Thiền lại khóc òa lên nói :

- Thế thì chúng ta đành liều mạng với kẻ thù thôi.

Tuệ Chân nghiêm nét mặt đáp :

- Trước mặt Hoàng gia đây không được thất lễ.

Tuệ Chân người bé nhỏ lại gầy đét còn Tuệ Thiền thì khôi ngô tuấn tú nhưng rất nể sợ sư huynh, nghe sư huynh chỉ trích mấy câu không dám nói gì nữa nhưng vẫn nức nở khóc thầm.

Bảo Định Đế nói :

- Hai vị hãy ngồi đây thong thả nói chuyện. Hơn hai mươi năm trước đây tôi từng nghe ở Tô Châu có một nhân vật trong họ Mộ Dung tên gọi Mộ Dung Bác, kẻ vừa gây sự với phái Thiếu Lâm có phải là người đó không?

Tuệ Chân nghiến răng đáp :

- Tiểu tăng chỉ biết kẻ đối đầu là người họ Mộ Dung, nhưng không biết rõ tên.

Bảo Định Đế nói tiếp :

- Thiếu Lâm là một phái có tiếng tăm lừng lẫy nhất trong võ lâm, bốn bề đều ngưỡng mộ đại danh. Lệnh sư Huyền Bi hòa thượng nội lực ngoại công đều tới chỗ tuyệt cao, hơn nữa là người xuất gia, không có tranh chấp gì với người đời. Không hiểu tại sao lại bị người đời sát hại?

Tuệ Chân sa lệ đáp :

- Hôm đó tiểu tăng ngồi tĩnh tọa trong trai phòng thấy sư bá sai người tới gọi, tiểu tăng tới nơi thì thấy thi thể gia sư để nằm một bên. Sư bá bảo là người trong làng ở chân núi Tung Sơn thấy thi thể gia sư, họ biết là sư phụ trong chùa nên vội đem lên chùa trả. Không hiểu rõ được gia sư lỡ tay thế nào mà bị địch thủ ám toán. Còn tên họ và mặt mũi hung thủ, cho mãi tới bây giờ vẫn chưa tra ra được.

Huỳnh Mi hòa thượng từ trước vẫn ngồi yên lắng tai nghe, bây giờ thốt nhiên cất tiếng hỏi :

- Phải chăng Huyền Bi đại sư bị trúng một đòn "Kim Cương chỉ" của kẻ địch vào trước ngực rồi viên tịch?

Tuệ Chân kinh ngạc đáp :

- Đại sư đoán đúng lắm! Như vậy nghĩa là làm sao?

Huỳnh Mi tăng nói tiếp :

- Lâu nay vẫn nghe tiếng Huyền Bi đại sư phái Thiếu Lâm có môn Kim Cương chỉ là một môn trác tuyệt trong võ lâm, đối phương bị trúng phải sẽ đứt gãy hết gân cốt. Môn đó cố nhiên là lợi hại lắm rồi, nhưng xét cho kỹ thì lại quá ư bá đạo, những đệ tử nhà Phật không nên học môn đó để mà nổi tiếng.

Đoàn Dự buột miệng cũng nói xen vào :

- Phải rồi! Cái môn đó quả là hiểm độc thái quá.

Tuệ Chân và Tuệ Thiền nghe Huỳnh Mi đả kích sư phụ mình trong lòng đã thấy bất mãn nhưng còn kính nể ông là bậc cao tăng tiền bối không dám trả lời lại thấy Đoàn Dự ở bên cũng lẹ miệng hùa theo, bất giác hai người cả giận đều quắc mắt nhìn. Đoàn Dự vẫn tảng lờ như không trông thấy, chẳng lý gì đến nữa.

Đoàn Chính Thuần hỏi Huỳnh Mi hòa thượng :

- Tại sao sư huynh biết Huyền Bi đại sư chết vì trúng Kim cương chỉ?

Huỳnh Mi tăng thở dài đáp :

- Vì vừa nghe nói Huyền Từ đại sư bên Thiếu Lâm thấy di thể sư đệ mà đoán biết được hung thủ là nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Nhà này tuyên bố chủ trương của họ là : ai giỏi môn gì thì họ lấy chính môn đó để mà hạ thủ.

Đoàn Chính Thuần nghe xong phải lắc đầu, còn Huỳnh Mi hòa thượng thì lẩm bẩm đọc đến hai ba lần câu : "Ai giỏi môn gì thì lấy môn đó để mà hạ thủ" trên nét mặt thoáng những nét sợ sệt.

Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần quen biết Huỳnh Mi đại sư từ mấy chục năm nay chưa từng thấy ông lộ vẻ sợ hãi bao giờ. Cả lúc ông cùng thái tử Diên Khánh đấu cờ thí mạng, đã trông rõ thế bại rồi, tuy ông có bối rối nhưng nét mặt vẫn thản nhiên. Thế mà bây giờ ông phải sợ ra mặt đủ biết phái Mộ Dung lợi hại đến chừng nào.

Im lặng hồi lâu Huỳnh Mi tăng lại từ từ lên tiếng :

- Lão tăng nghe nói Mộ Dung Bác là người giỏi số một trên thế gian. Có lẽ họ lấy tên là Bác để phô cái võ công uyên bác đến cực điểm của họ. Tựa hồ như trong võ lâm, bất luận về môn tuyệt kỹ của một phái nào họ đều thông hiểu. Kể cũng lạ thật, khi họ muốn giết chết ai nhất định lại dùng cái môn tuyệt kỹ đã nổi tiếng của người đó để sát hại.

Đoàn Dự nói xen vào :

- Vâng! Quả là một điều kỳ dị ngoài sức tưởng tượng của con người. Võ công trong thiên hạ biết bao nhiêu là môn, làm sao mà họ học được cả?

Huỳnh Mi đáp :

- Đoàn công tử nói đúng đó. Việc học rộng như biển cả, ai mà thông suốt hết được bao giờ? Có điều kẻ thù của Mộ Dung Bác cũng chẳng có nhiều. Nếu họ chưa học được hết môn tuyệt kỹ của cừu nhân đến mức có thể dùng để giết đối phương thì họ sẽ không động thủ được.

Bảo Định Đế nói :

- Tôi cũng nghe thấy ở Trung Nguyên có người kỳ dị như thế. Lạc thị tam hùng ở Hà Bắc nổi tiếng về môn phi trùy rồi sau ba người đó đều chết vì bị trúng phi trùy. Rồi Chương Hư đạo nhân ở Sơn Đông lúc định giết ai ba giờ cũng chém cụt hết chân tay, để địch thủ phải kêu khóc hàng nửa ngày rồi mới chết được. Sau chính Chương Hư đạo nhân cũng bị thảm báo như thế. Lời tuyên bố của nhà Mộ Dung từ cửa miệng Chương Hư đạo nhân truyền đi.

Ngừng một lúc Bảo Định Đế lại nói tiếp :

- Hồi ấy, ở Tế Nam giữa phiên chợ náo nhiệt không biết bao nhiêu người quây quần chung quanh Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu gào dưới đất.

Nói tới đó Bảo Định Đế phảng phất dường như đang mục kích cái thảm trạng Chương Hư đạo nhân trong lúc lâm tử. Nét mặt nhà vua đầy vẻ bất mãn.

Đoàn Chính Thuần gật đầu nói :

- Thế thì đúng rồi.

Chợt nhớ ra một việc Đoàn Chính Thuần nói tiếp :

- Tôi nghe nói Kha Bách Tuế, sư phụ của Quá đại hiệp rất thiện sử cây nhuyễn tiên, lúc giết kẻ địch thường dùng nhuyễn tiên quấn chặt vào cổ đối phương khiến cho địch thủ chết vì nghẹt thở. Phải chăng lúc...

Đoàn Chính Thuần chưa nói hết câu đã vỗ tay ba cái gọi một tên thị bộc tới bảo :

- Mi đi gọi Thôi tiên sinh và Quá đại hiệp tới đây để cùng ta thương nghị việc cần.

Tên bộc thị ngập ngừng chưa hiểu Thôi tiên sinh là ai. Đoàn Dự lại phải nói cho gã biết Thôi tiên sinh tức là Hoắc tiên sinh, người giữ sổ sách chi tiêu trong Vương phủ. Bấy giờ tên bộc thị mới hiểu rõ chạy đi mời. Trong giây phút Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đã đến sảnh đường.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Quá đại hiệp! Tại hạ có một việc muốn hỏi, xin đại hiệp miễn trách!

Quá Ngạn Chi đáp :

- Không dám.

Đoàn Chính Thuần hỏi :

- Tại sao lệnh sư Kha tiền bối bị họ ám toán và bị tử thương đến trí mạng? vì quyền cước hay vì binh khí?

Quá Ngạn Chi thẹn đỏ ửng cả mặt, lúng túng mãi mới trả lời được :

- Gia sư bị hại vì một đòn "Linh Xà Chiến Đẩu".

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự đưa mắt nhìn nhau trong lòng đều thấy rùng rợn.

Tuệ Chân vội chạy tới trước mặt Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi chắp tay vái chào nói :

- Anh em bần tăng cùng hai vị đều căm phẫn một kẻ thù chung. Nếu không diệt được nhà Mộ Dung ở Cô Tô...

Tuệ Chân nói dở câu thì trong bụng nghĩ thầm : "Chưa chắc mình đã diệt nổi nhà Mộ Dung. Nếu không xong thì lại là một điều rất nguy hiểm". Nhà sư nghiến răng nói tiếp :

- Bần tăng nhất quyết liều mạng với họ.

Quá Ngạn Chi hai mắt đẫm lệ đáp :

- Thế ra phái Thiếu Lâm cũng kết mối thâm thù với nhà Mộ Dung rồi ư?

Bấy giờ Tuệ Chân mới đem việc sư phụ Huyền Bi chết về tay Mộ Dung thế nào, thuật qua lại một lượt.

Bảo Định Đế thấy Quá Ngạn Chi lộ vẻ sầu bi, căm hờn, nghiến răng thống hận kẻ thù, còn Thôi Bách Kế chỉ cúi đầu rũ rượi chẳng nói năng gì tựa hồ như không quan tâm gì đến mối thù sư huynh bị sát thân, trong lòng rất lấy làm kỳ dị. Tuệ Thiền hòa thượng tính vốn thẳng thắn bộp chộp, buột miệng hỏi ngay :

- Thôi tiên sinh! Có phải tiên sinh sợ bọn Mộ Dung ở Cô Tô chăng?

Tuệ Chân vội mắng át :

- Sư đệ! Không được vô lễ.

Kha Bách Tuế qua đời rồi thì Thôi Bách Kế sẽ là chưởng môn phái Tung Sơn. Phái Tung Sơn ở gần kề ngay phái Thiếu Lâm. Nên nhớ rằng ông thuỷ tổ dựng ra phái Tung Sơn đã dám đến bên cạnh phái Thiếu Lâm, dựng ra một môn phái, nêu cao ngọn cờ võ thuật phi phàm thì đủ biết bản lãnh phái này thế nào. Hơn nữa thầy trò Kha Bách Tuế và Quá Ngạn Chi đều thanh danh lừng lẫy khắp Trung Nguyên, danh vị Thôi Bách Kế trong võ lâm tất nhiên cũng không phải là hèn kém. Nào ngờ Thôi Bách Kế vừa nghe Tuệ Thiền nói đã lơ láo ngó lui, ngó tới tựa hồ sợ trong vách có tai hay kẻ thù ghê gớm rình rập sắp ập vào, tỏ ra con người khiếp nhược.

Tuệ Thiền thấy dáng điệu Thôi Bách Kế như vậy, cho là một kẻ hèn nhát đáng khinh, liền hừ một tiếng và nói lẩm bẩm một mình :

- Đại trượng phu lúc đáng chết thì chết làm gì phải sợ sệt đến thế?

Lúc đó Tuệ Chân cũng biểu đồng tình về sự khiếp nhược của Thôi Bách Kế nên mặc cho sư đệ muốn nói gì thì nói, cũng không ngăn cản nữa.

Huỳnh Mi hòa thượng khẽ đằng hắng rồi nói :

- Việc này...

Huỳnh Mi vừa nói được hai tiếng thì Thôi Bách Kế toàn thân run lẩy bẩy, đứng bật lên như cái lò xo, đụng phải chiếc chén nước trên khay trà rơi "binh" xuống đất, vỡ tan ra. Thôi tiên sinh định thần lại, thấy mọi người đều chú mục nhìn mình, bất giác đỏ mặt tía tai ngượng nghịu nói :

- Không xong rồi! Không xong rồi!

Quá Ngạn Chi chau đôi mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ. Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng : "Lão Thôi Bách Kế này không có một chút gan dạ nào hết", rồi quay sang hỏi Huỳnh Mi :

- Việc này sư huynh nghĩ sao? Xin cho nghe nốt!

Huỳnh Mi hấp một hớp nước trà rồi thủng thẳng hỏi :

- Thôi thí chủ đã gặp Mộ Dung Bác rồi?

Thôi Bách Kế vừa nghe ba chữ "Mộ Dung Bác" đã giật mình rú lên một tiếng kinh hãi, rồi hai tay vịn vào ghế cho khỏi té, giọng run run đáp :

- Chưa... tôi đã... không... gặp bao giờ.

Tuệ Thiền hỏi lớn :

- Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác chưa? Xin nói rõ!

Thôi Bách Kế giương đôi mắt nhìn trời như kẻ mất hồn. Bọn Đoàn Chính Thuần thấy thế đều lắc đầu, ngấm ngầm thất vọng. Quá Ngạn Chi vốn dĩ bảo trọng danh dự của môn phái, bây giờ thấy sư thúc, người kế vị chưởng môn tỏ vẻ hèn nhát trước mặt mọi người lại càng cảm thấy bứt rứt khó chịu.

Được một lúc Thôi Bách Kế mới cất giọng run run đáp :

- Chưa... ờ... hình như chưa gặp bao giờ.

Huỳnh Mi nói :

- Lão tăng đã từng có phen đích thân nếm trải, vậy xin thuật lại để các vị tham tường cũng chẳng hại gì. Việc xảy ra đã bốn mươi ba năm trước đây rồi. Lúc đó bần tăng còn ít tuổi sức mạnh, vừa xuất thân đã chiếm được chút thanh danh trong chốn giang hồ, khác nào trâu nghé mới sinh chưa biết sợ hổ là gì. Vẫn tưởng là khắp thế gian rộng lớn này, ngoài sư phụ ra không còn ai võ nghệ cao cường bằng mình nữa. Năm đó, tôi hộ tống một ông quan đã mãn nhiệm kỳ tại kinh về quê với cả gia quyến. Khởi hành từ Biện Lương về Sơn Đông. Khi tới rặng núi phụ cận Thanh báo cương thì gặp bốn tên cường đạo. Bọn này không cướp tiền của đồ vật mà chỉ định bắt tiểu thư con vị quan đó. Bần tăng đang độ thanh niên khí khái, quyết chẳng dung tình, hạ thủ ngay bằng những đòn hiểm độc. Dùng môn Kim Cương chỉ hạ sát luôn bốn tên cường đạo, tên nào cũng bị ngón tay đâm thủng vào tận tim, chết không kịp ngáp. Giữa lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp, hai người cưỡi lừa đi ngang qua. Bần tăng đang lúc vênh vang đắc ý, quá ư kiêu ngạo, nói phun bọt rãi, khoe khoang với vị kinh quan : "Dù có tám, chín, mười đứa cường đạo nữa tới tôi cũng dùng Kim Cương chỉ giết cho chết hết". Bỗng một người ngồi trên lưng lừa "hừ" một tiếng, nghe tựa như tiếng đàn bà. Trong cái hừ đó dường như chứa đựng đầy vẻ khinh miệt, chế diễu. Tôi quay đầu nhìn lại, quả thấy một thiếu phụ rất đẹp, chừng 32, 33 tuổi ngồi trên lưng lừa và một cậu trai nhỏ chừng 12, 13 tuổi, mi thanh mục tú, hình dung tuấn nhã cưỡi trên lưng một con lừa khác. Hai người đều có trọng tang, mặc toàn đồ trắng. Cậu bé nói : "Má! Hay chi cái trò "Kim Cương chỉ" mà gã kia cũng đem ra khoe khoang khoác lác?".

Lai lịch Huỳnh Mi tăng thế nào, ngoài anh em Bảo Định Đế ra ít ai biết rõ. Song lúc ở trong hang Vạn Kiếp nhà sư dùng sức Kim Cương chỉ vạch đá làm bàn cờ, ấn lõm đá thành quân cờ, cuộc đấu trí đấu lực với thái tử Diên Khánh rất gay go và hi hữu đó đã trở thành một câu chuyện rất hào hứng trong võ lâm. Mọi người đều đem lòng kính ngưỡng nhà sư và rất khâm phục môn "Kim Cương chỉ". Bây giờ nghe hòa thượng thuật lại lời cậu bé, ai cũng cho là đứa trẻ nít không biết gì nói bậy. Không ngờ Huỳnh Mi khẽ thở dài rồi nói tiếp :

- Nghe cậu bé nói, bần tăng tuy cũng có ý tức giận, song cho là lời ngông càn của con nít, không đáng chấp nên chỉ lừ mắt nhìn qua, rồi cũng chẳng thèm lý đến nữa. Nào ngờ thiếu phụ lại chỉ trích thêm : "Môn Kim Cương chỉ của người đó là môn chính tông Bồ Đề Đạt Ma, về nghệ thuật kể cũng được tới ba thành rồi đấy. Mi là con nít biết gì mà nói? Mi phóng ngón tay chắc chưa được trúng bằng người ta đâu". Bần tăng nghe thiếu phụ nói vừa kinh ngạc lại vừa phẫn nộ. Nguồn gốc môn phái bần tăng khách giang hồ ít ai biết rõ. Thế mà thiếu phụ này công nhiên nói toạc ra, lại còn biết bần tăng luyện môn "Kim Cương chỉ" mới được có ba thành, điều này khiến bần tăng không thể nhịn được. Ôi! kỳ thực bần tăng chưa hiểu trời cao đất rộng, công lực của bần tăng ngày ấy mà bảo đã luyện được tới ba thành là nói quá lên rồi chứ đúng ra mới được hơn hai thành mà thôi. Bần tăng lớn tiếng thách thức : "Vị phu nhân kia tôn tính là gì? Đã coi thường "Kim Cương chỉ" của tại hạ, chắc là có ý dạy cho mấy đòn chăng?". Cậu bé gò cương lại, vừa toan trả lời, thì thiếu phụ thốt nhiên hai mắt đỏ ngầu, rớm lệ bảo con : "Gia gia mi lúc lâm chung đã dặn những gì? Mi chóng quên thế?". Cậu bé đáp : "Dạ! Khi nào con dám quên?". Hai con lừa lại tiếp tục cất bước đi về phía trước. Bần tăng càng nghĩ lại càng bất phục, liền thúc ngựa đuổi theo gọi : "Ô kìa! Trong đám giang hồ có ai lại mở miệng chỉ trích bừa bãi võ công của người khác rồi không ở lại tỷ thí mấy hiệp, cứ bỏ đi ngay mà được bao giờ?". Con tuấn mã của bần tăng đi rất mau, vừa nói dứt lời nó đã vượt lên chắn trước mặt hai người. Thiếu phụ quay lại bảo con : "Mi coi đó mà coi! Cứ buột miệng nói bừa người ta đâu có chịu ngơ đi?". Cậu bé này xem chừng đối với mẫu thân rất là hiếu thuận, không dám ngước nhìn bần tăng nữa. Bần tăng thấy họ đã sợ mình, nghĩ bụng : "đây là một cặp mẹ góa con côi, mình có thắng họ cũng chẳng vẻ vang gì, hà tất ta phải cố chấp như mọi người khác? Song nghe lời thiếu phụ thì dường như đứa bé này đã biết môn "Kim Cương chỉ". Về môn này bần tăng phải tốn công phu trong một thời gian 10 năm mới luyện được tới mức đó vậy đứa con nít này có lý nào hiểu được? Chắc là nói phóng đại đó thôi". Bần tăng liền nói đổng một câu : "Hôm nay ta để cho các ngươi đi về sau thì nói năng nên cẩn thận một chút nghe!". Thiếu phụ đó vẫn không nhìn bần tăng, quay lại bảo con : "Thúc thúc đây nói phải đó, về sau con nói năng nên cẩn thận một chút". Nếu câu chuyện tới đây mà thôi đi thì hai bên đều không mất thể diện. Khốn nỗi thời đó bần tăng đang độ trẻ tuổi hung hăng, kéo ngựa sang bên đường nhường cho thiếu phụ đi trước, đến lúc cậu bé vừa vỗ mình lừa cho cất bước, bần tăng giơ roi quất vào mông lừa của cậu bé và cười vang lên bảo : "Đi mau mau lên nhé". Đầu roi của bần tăng còn cách mông lừa chừng một thước, bỗng nghe rắc một tiếng, cậu bé quay đầu lại, luồng chỉ lực đã xé không khí vụt tới đánh đứt chiếc roi ngựa của bần tăng ra làm đôi. Một thế đánh làm cho bần tăng hoảng vía ngẩn người ra, biết rằng chỉ lực quá lợi hại, muôn ngàn lần bần tăng không thể kịp được. Lại nghe thiếu phụ bảo con : "Đã trót ra tay thì phải làm sao cho kết liễu đi chứ?". Cậu bé đáp : "Vâng". Cậu nghiêng mình xuống lừa, chẳng nói năng gì, giơ một ngón tay nhằm điểm vào cổ chân bần tăng. Cậu bé nhỏ và thấp, bần tăng lại ngồi trên mình ngựa, ngón tay cậu chỉ chấm tới chân bần tăng, song thế đánh của cậu bé rất hay, đúng là thủ pháp "Kim Cương chỉ". Bần tăng buông người từ trên mình ngựa xuống, không dám khinh thị cậu chút nào, cũng dùng "Kim Cương chỉ" để tiếp chiến. Hai bên giao đấu, càng đánh bần tăng càng thấy sợ sệt vì chỉ pháp của cậu bé tuy chưa thuần thục lắm, ngẫu nhiên cũng có chỗ sai, song chỉ lực đi tới đâu cũng phát ra âm hưởng veo veo. Bần tăng quả thực không dám tiếp chiến một cách cứng rắn. Đánh chưa được chín hiệp, thì trước ngực phía bên trái cảm thấy đau nhói, rồi kình lực toàn thân bị mất hết.

Thuật tới đây Huỳnh Mi để lộ bộ ngực gầy gò, chìa cả mấy giẻ xương sườn ra. Mọi người thoáng nhìn đều sự tái mặt, vì thấy phía bên trái lồng ngực, nhằm đúng vào tâm tạng, có một lỗ thủng sâu tới một tấc. Tuy lỗ thủng đã thành sẹo rồi nhưng vẫn có thể tưởng tượng lúc mới bị đâm thì vết thương đó hệ trọng tới mức nào. Có một điều kỳ dị là vết thương đó đã đâm thủng vào sâu đến tâm tạng mà nhà sư vẫn không chết, còn sống được mãi tới ngày nay. Huỳnh Mi tăng lại trỏ vào phía ngực bên phải cho mọi người xem thì thấy da thịt chỗ đó luôn luôn phập phồng. Bấy giờ họ mới hiểu Huỳnh Mi hòa thượng có tướng khác lạ, tâm tạng lại lệch về bên phải chứ không thiên sang bên trái như người thường, vì thế mà năm đó hòa thượng mới thoát chết.

Huỳnh Mi xốc lại áo, thắt lại đai lưng rồi nói tiếp :

- Tâm tạng nằm lệch về bên phải như thế, thực là hàng vạn người không có một. Cậu bé thấy dùng chỉ lực đánh trúng tâm tạng mà bần tăng vẫn không chết, vội nhảy lùi lại một bước, sắc mặt lộ vẻ kinh dị. Bần tăng nhìn lồng ngực máu cứ ồng ộc tuôn ra, cho là tính mạng không thể bảo toàn được nữa nên chẳng còn kiêng nể, cất tiếng mắng tràn : "Thằng giặc con kia! Mi bảo mi biết sử dụng "Kim Cương chỉ", hừ hừ Kim Cương chỉ của Đạt Ma hạ viện, có bao giờ đánh người đến chảy máu mà vẫn không giết được người?". Cậu bé nhảy lại trước mặt, toan đánh tiếp một chỉ. Lúc đó thì bần tăng hoàn toàn không còn khả năng chống cự gì được nữa, chỉ có cách bó tay đợi chết. Không ngờ thiếu phụ lại cầm roi ngựa vung ra, quấn chặt lấy lưng cậu bé, nhấc lên một cái, nâng bổng cậu bé, đặt lên lưng lừa. Trong lúc mê man, tôi còn nghe văng vẳng tiếng thiếu phụ chỉ trích con : "Họ Mộ Dung đất Cô Tô có đứa trẻ nào tranh hơi như mi đâu? Kim Cương chỉ của mi đã không học được tới nơi, tới chốn nên không giết được y, ta sẽ phạt mi trong bảy ngày...". Nghe đang dở câu thì tôi bị ngất xỉu, không biết gì nữa, chẳng hiểu bà ta phạt con trong bảy ngày như thế nào.

Kim toán bàn Thôi Bách Kế hỏi :

- Đại sư... về sau... về sau có gặp bọn họ nữa không?

Huỳnh Mi đáp :

- Nói ra càng thêm xấu hổ. Từ lúc bần tăng trải qua việc đó đâm ra chán nản, vì thấy đứa bé nhỏ xíu mà bản lãnh đã cao siêu đến thế, dù mình có luyện võ công đến mấy đi nữa, cũng không tài nào kịp họ được. Sau khi khỏi vết thương, lập tức bần tăng rời khỏi địa giới nước Đại Tống tìm đến nước Đại Lý, nương nhờ ở dưới quyền cai trị của Đoàn Hoàng gia. Qua được mấy năm, bần tăng xuất gia đầu Phật. Trong thời gian tu hành, bần tăng tuy đã thẩm thấu được lẽ sinh tử, không đem sự vinh nhục năm xưa để vào trong tâm nữa song ngẫu nhiên hồi tưởng đến, vẫn thấy ghê người, chẳng khác gì con chim phải tên.

Mọi người nghe nói đều mặc nhiên không nói gì mà lòng khinh bỉ Thôi Bách Kế đã giảm đi một phần. Vì võ công Huỳnh Mi cực kỳ lợi hại mà đối với nhà Mộ Dung còn phải e dè thế thì Thôi Bách Kế có sợ thất thần cũng nên nguyên lượng.

Thôi Bách Kế hình như cũng hiểu tâm tình mọi người bèn nói :

- Huỳnh Mi đại sư là bậc đàn anh trong đám giang hồ còn đem việc dĩ vãng phơi bày ra hết, không dấu giếm mảy may thì Thôi mỗ là hạng người gì mà sợ không dám thổ lộ những điều kém cỏi của mình? Vậy tại hạ cũng xin đem nguyên do phải trốn vào phủ Trấn Nam Vương tường trình bệ hạ cùng Vương gia. Nơi đây chẳng có ai là người ngoài, tại hạ cũng xin nói hết để các vị suy xét.

Thôi Bách Kế còn lấm lét, nghển cổ trông ra phía ngoài cửa sổ, uống luôn hai chén trà thấm giọng rồi nói tiếp :

- Việc này xảy ra từ mười tám năm trước đây. ở trong thành Vô ô quân, có một tên thổ hào họ Thái là người trọc phú bất nhân, áp chế dân lành. Một người bạn của sư huynh tôi bị y hãm hại, toàn gia đều chết dưới bàn tay tên thổ hào đó.

Quá Ngạn Chi ngắt lời hỏi :

- Sư thúc! Có phải sư thúc nói tên tặc tử Thái Khánh Đồ đó không?

Thôi Bách Kế tiếp :

- Đúng rồi! Sư phụ mi mỗi khi nhắc tới tên Thái Khánh Đồ lại nghiến răng căm hờn, có điều sư phụ mi là người tốt, chỉ biết an thân thủ phận. Ông có làm cáo tạng lên kêu quan mấy lần nhưng đều bị Thái Khánh Đồ đem tiền hối lộ để quan nha ỉm đi. Nếu sư phụ mi dùng nhuyễn tiên giết Thái Khánh Đồ thì là một việc rất dễ dàng, song ông không chịu làm việc gì phạm pháp. Còn Thôi mỗ trái lại, trộm gà, bắt chó, đĩ bợm, cờ bạc, giết người đốt nhà không từ việc gì hết. Một đêm kia, Thôi mỗ nóng tiết, mò vào nhà Thái Khánh Đồ, giết sạch toàn gia y hơn 30 người. Tôi giết từ cổng giết vào, thẳng tới vườn hoa ở phía sau. Cả đến những người coi vườn nữ tỳ cũng không để sót một mống nào. Khi vào đến giữa vườn hoa, bỗng thấy trên cửa sổ một tòa lầu nhỏ có ánh đèn lọt ra. Tôi chạy tuốt lên lầu, đạp tung cửa vào thì thấy đó là một chư phòng, những giá gác xung quanh xếp toàn sách vở, họa đồ. Một đôi nam nữ thanh niên, ngồi sánh vai nhau bên bàn đang mở sánh xem. Thanh niên chừng 28 tuổi, phong độ thanh tao hòa nhã. Thiếu nữ còn ít tuổi hơn, ngồi quay lưng ra ngoài nên tôi không nhìn rõ diện mạo. Nàng mặc áo mỏng mầu lục nhạt, dưới ánh đèn lấp lánh trông rất thanh nhã. Con mẹ nó...

Thôi Bách Kế vốn dĩ nói năng rất văn hoa, trái ngược hẳn với hành vi trong lúc bình thường. Không ngờ bây giờ lại đột nhiên văng một câu chửi tục ra, mọi người đều lấy làm ngạc nhiên.

Thôi Bách Kế không để ý tiếp tục kể :

- Tôi giết một hơi ba mươi mấy người, đang lúc hứng bỗng thấy đôi trai gái chó chết này, con mẹ nó, tôi rất lấy làm kỳ vì những người trong nhà Thái Khánh Đồ toàn là một giống thô lỗ hung dữ, sao lại mọc ra đôi nam nữ thanh tú này? Phải chăng là Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh trong vở kịch? Tôi đứng ngẩn người ra nhìn hồi lâu, không muốn ra tay hạ sát.

Xem tiếp hồi hai mươi ba

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 23 Quần hùng khiếp vía

Đoàn Dự nghe Thôi Bách Kế kể tới đây, trong bụng nhẩm tính : "Thằng nhỏ 12, 13 tuổi mà Huỳnh Mi tăng gặp cách đây bốn mươi ba năm với thanh niên Thôi Bách Kế gặp trước đây mười tám năm không thể là một người vì thằng nhỏ kia tới ngày đó đã lớn tuổi hơn nhiều".

Thôi Bách Kế kể tiếp :

- Trong lúc tôi đang ngẩn người ra, bỗng nghe người thanh niên hỏi : "Nương tử! Từ "quy muội" đến "vô vọng" bày hàng thế này có đúng chăng?".

Đoàn Dự nghe đến "quy muội", "vô vọng" biết ngay là thanh niên nói những quẻ trong kinh Dịch.

Thôi Bách Kế kể tiếp :

- Người đàn bà trầm ngâm một lúc rồi đáp : "Cần phải khởi từ góc Đông Bắc đi xéo sang "minh di" rồi lại quay về "tốn vị", chàng coi có thể đi thông suốt được chăng?".

Đoàn Dự giật mình ngắt lời :

- Những lời thiếu phụ nói đó rõ ràng là ở trong phép Lăng Ba Vi Bộ có điều vị trí hơi lệch lạc chưa đúng hẳn. Chẳng lẽ thiếu phụ này lại có liên quan đến pho tượng thần ở trong thạch động kia?

Thôi Bách Kế hoàn toàn không hiểu gì về câu hỏi của Đoàn Dự, tiếp tục kể :

- Tôi thấy vợ chồng cứ giảng luận sách vở hoài, nóng ruột không nhịn được nữa, lớn tiếng quát : "Cặp trai gái chó dê này! mẹ chúng bay! Ta cho chết hết". Không ngờ hai người đó giả điếc, vờ như không nghe thấy, mắt vẫn nhìn vào sách, người vợ lại hỏi nhỏ chồng : "Từ chỗ này tới "tốn vị" mà chín bước thì làm sao mà đi tới được?". Tôi lại quát mắng : "Đi đi... đi xuống cõi âm để gặp ông tổ 18 đời nhà mi à?". Dứt lời tôi toan nhẩy đến, thì thốt nhiên người chồng cả cười vỗ tay reo : "Hay lắm! Hay lắm! âm tức là quẻ "khôn", ông tổ mười tám đời, phải lắm, 9 lần 2 là mười tám, bộ này chuyển đến "khôn vị" được. Thế là bộ pháp chỗ này ta thông hiểu được cả". Đoạn người chồng thuận tay chụp xuống chiếc bàn tính trên ngăn sách, không hiểu gã làm thế nào, đột nhiên ba con toán bay vút ra. Tôi cảm thấy trước ngực đau nhói, người mình như bị đóng đinh xuống, không nhúc nhích được nữa. Hai người vẫn chẳng thèm nhìn đến tôi, lại tiếp tục bàn luận nghĩa sách. Tôi nghe chẳng hiểu gì cả, trong lòng sợ hãi không biết đến đâu mà kể. Sở dĩ người ta tặng tôi cái ngoại hiệu "Kim Toán Bàn" vì lúc nào tôi cũng mang theo một chiếc bàn tính đúc bằng hoàn kim. Trong đó có 17 con toán, chuyên dùng vào việc đả thương địch thủ khi cần đến. Có điều trong bàn tính của tôi phải đặt máy móc, dùng sức đẩy bằng lò xo. Còn bàn tính của người này chỉ là cái bàn tính thường làm bằng gỗ đỏ. Tôi nhìn kỹ lại thì thấy một cái suốt tre ở giữa bàn tính của gã đã gẫy làm mấy đoạn. Rõ ràng đã dùng nội lực bẻ gãy chiếc suốt đó, đồng thời dùng nội lực bắn con toán ra, kỹ thuật gã tới mức độ thật không ai có thể tưởng tượng được. Hai người đàm luận càng hứng thú bao nhiêu thì tôi càng sợ hãi bấy nhiêu, nghĩ thầm : "Mình vừa mới gây nên huyết án, giết hết ba mươi mấy mạng trong nhà này. Bây giờ người bị cứng đờ, đứng trơ trơ ở đây, cử động không được, nói không ra lời. Đã đành giết người khác đến thường mạng là cùng, có chết cũng chẳng oan nhưng e rằng thế tất nhiên phải liên lụy đến sư huynh, điều đó làm tôi rất băn khoăn. Bị cầm chân hàng hai trống canh thật là cơ cực, cơ cực hơn 20 năm chịu khổ hình. Mãi đến lúc bốn bề xao xác tiếng gà gáy, người chồng mới vui vẻ bảo vợ : "Mấy bộ pháp trước mình tưởng hôm nay không thể nào nghĩ ra được. Bây giờ chúng ta đi thôi chứ?". Người vợ đáp : "Kim Toán Bàn Thôi lão sư đã giúp huynh nghĩ ra được một bộ pháp kỳ diệu, vậy cũng nên tạ ơn vị đó mới phải chứ?". Tôi vừa mừng vừa sợ, không hiểu sao họ lại biết cả tính danh mình. Người chồng nói tiếp : "Đã thế thì để cho y sống thêm mấy năm nữa. Lần sau gặp ta sẽ kết liễu tính mạng y". Đoạn hai người thu nhặt sách vở, cầm tay nhau từ trong cửa sổ nhảy ra. Tướng mạo người đàn bà thế nào thuỷ chung tôi vẫn không thấy rõ, chỉ có lúc ra đi nàng đưa tay trái về phía sau lưng tôi phất nhẹ để giải huyệt cho. Tôi cúi đầu xuống nhìn thì thấy vạt áo trước ngực mình bị thủng ba chỗ, hai con toán đã lặn vào bên trên hai vú và một con nữa lặn vào chỗ chính giữa. Ba con toán song song một hàng và phân khoảng rất đều, tưởng lấy thước đo mà đặt vào chưa chắc đã đúng được thế. Đây các vị thử coi xem!

Nói xong Thôi Bách Kế liền cởi áo ra, mọi người trông thấy đều không nhịn cười được. Ba con toán lặn sâu vào trong thịt thành một hàng thẳng tắp, phân quãng rất đều ở trước ngực mà không hiểu sao không tìm cách lấy ra.

Thôi Bách Kế lắc đầu, cài lại khuy áo rồi nói tiếp :

- Ba con toán lặn sâu vào trong da người là một tội khổ cực không gì bằng. Tôi định dùng giao nhọn khoét lấy ra nhưng đấy là những huyệt đạo, chỉ động tới một chút là ngất xỉu ngay tức khắc, mà phải lâu đến hàng 12 giờ chưa tỉnh lại được. Còn lấy giũa hay giấy ráp mà mài cọ dần thì cũng đau đến phải la làng. Tội nghiệp này không có khác gì oan hồn ám ảnh suốt đời. Mỗi khi thời tiết thay đổi, mưa gió thất thường chỗ đó lại càng đau nhức không thể nào chịu được.

Thôi Bách Kế thở dài nói tiếp :

- Gã thanh niên ấy còn bảo : "Lần sau gặp y nữa là phải chết". Mạng mình mình phải giữ, khi nào để cho y kết liễu? Nhưng nếu vô phúc chạm trán y thì đừng có mà hòng sống sót. Muốn bảo toàn tính mạng chỉ có cách duy nhất là đừng để cho hắn bắt gặp nên bất đắc dĩ phải cao chạy xa bay, thay đổi họ tên, trà trộn vào làm người giúp việc trong phủ Trấn Nam Vương. Tôi vẫn đinh ninh rằng nước Đại Lý ở tận góc trời nam, hẻo lánh những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên chẳng mấy khi đến đây, vạn nhất mà quân chó đẻ đó có đến tìm, thì nơi đây còn có Đoàn Vương gia, Cao hầu và Lăng bằng hữu, bao nhiêu tay cao thủ, chẳng lẽ cứ giương mắt ra mà nhìn, để mặc cho y giết tôi sao? Ba con toán oan nghiệt này khảm vào trong người tôi, mỗi khi đau lên chỉ còn cách uống rượu say bí tỷ mê man cho quên đi mà thôi, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, danh vọng vứt mẹ nó ra ngoài chín tầng mây.

Mọi người đều thấy rằng cuộc tao ngộ của Huỳnh My tăng và Thôi Bách Kế đại khái giống nhau, chỉ khác ở phần tiểu tiết mà thôi, một người xuất gia tu hành, một người mai danh ẩn tích.

Đoàn Dự thốt nhiên hỏi :

- Hoắc tiên sinh! (chàng quen miệng vẫn gọi thế). Sao tiên sinh biết đôi vợ chồng đó là Mộ Dung thị?

Thôi Bách Kế gãi đầu đáp :

- Đây là do sư huynh tôi nghĩ ra. Sau khi tôi bị nạn ba con toán rồi tôi về bàn với sư huynh tôi thì người cho là : tất cả các phái võ lâm riêng nhà Mộ Dung mới dùng cái lối "gậy ông đập lưng ông". Cúng tôi tự lượng, không thể đối chọi được với các gia đình mà nhân vật toàn là yêu mà quỷ quái đó, chỉ có cách tránh đi là yên, đành làm cái kiếp con rùa rụt cổ vậy.

Thôi Bách Kế quay lại nói với Đoàn Chính Thuần :

- Đoàn vương gia! Sự tình tôi đã bộc bạch cả rồi. Vậy bây giờ xin kiếu đi tìm Mộ Dung thị đây. Sư huynh tôi với tôi khác nào tình ruột thịt, cái thù giết anh nhất định phải báo.

Đoạn quay sang bảo Quá Ngạn Chi :

- Sư điệt! Chúng ta đi thôi.

Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi vái chào mọi người rồi cùng cất bước lên đường. Mọi người đều ngạc nhiên trước thái độ thay đổi bất ngờ của Thôi Bách Kế. Lúc trước đối với nhà Mộ Dung sợ hãi là thế, song nhắc đến sự báo thù cho sư huynh, biết rõ ra đi phen này tất chết mà vẫn quả quyết không chút rụt rè nên mọi người đều đem lòng kính trọng và cũng không tiện ngăn cản nữa.

Tuệ Chân hòa thượng đứng lên cung kính nói với anh em họ Đoàn :

- Chưởng môn nhân, sư bá của tệ phái có gửi lời bẩm cùng liệt vị Bảo Định Hoàng Đế là bậc chí tôn không dám làm phiền nhọc đại giá nhưng nếu được Trấn Nam Vương đến tệ xá mà chỉ giáo phương sách đối phó với nhà Mộ Dung cho thì thực là phúc lớn cho võ lâm. Sư bá tôi lại nói thêm : đáng lý ra người phải thân hành đến lãnh giáo ý kiến Đoàn hoàng gia mới phải, ngặt vì trong chùa đã phái sư huynh đi mời các bậc cao thủ khắp nơi về hội họp tại chùa Thiếu Lâm. Sư bá tôi là chủ nhân không dám đi đâu, phải túc trực ở nhà để đón tiếp các vị anh hùng thiên hạ cho khỏi mang tiếng thất kính.

Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng : "Thiếu Lâm tự mở cuộc đại hội anh hùng, đó là một cơ hội tốt hiếm có. Đi dự cuộc họp với khắp các nhân vật trong võ lâm ở Trung Nguyên là một điều rất hứng thú". Ông có ý muốn đi liền đưa mắt nhìn Bảo Định Đế, chờ huynh trưởng phát lạc.

Bảo Định Đế nghiêm trang trả lời :

- Họ Đoàn chúng tôi nguyên cũng ở trong võ lâm tại Trung Nguyên ra, mấy trăm năm nay không bao giờ dám vong bản. Các bạn võ lâm từ Trung Nguyên đến Đại Lý, chúng tôi đều đón tiếp nồng hậu. Duy có một điều : tổ tiên họ Đoàn tôi đã có di chúc dặn con cháu không được tham dự vào những cuộc tư thù, chém giết giữa các phái võ. Đoàn Chính Minh này lâu nay hằng ngưỡng mộ Huyền Bi đại sư về nhân cách cũng như về võ công. Tuy nhiên đối với việc đại sư dặn bảo đây, trái với gia quy tổ tiên chúng tôi nên không thể tuân mệnh được. Mong sư huynh chuyển lại lời cùng Huyền Bi đại sư lượng thứ cho.

Tuệ Chân thất vọng, không biết nói thế nào thì đột nhiên Tuệ Thiền quỳ hai gối xuống, khẩn cầu :

- Trấn Nam Vương tới Thiếu Lâm tự, không phải là chúng tôi dám mong ngài trực tiếp chiến đấu với bọn Mộ Dung đâu. Vương gia là bậc lá ngọc cành vàng, đâu có thể khinh xuất mạo hiểm được? Có điều là võ công của bọn Mộ Dung ở Cô Tô kỳ diệu khôn lường. Gia sư mời các bậc anh hùng tới, không phải chủ ý nhiều người để nắm lấy phần thắng, mà chỉ mong tập hợp nhiều ý kiến cho thêm phần bổ ích. Góp nhặt những điều sở trường của các phái để cùng Mộ Dung so tài cao thấp. Họ Đoàn nước Đại Lý là một phái võ chính tông về môn Nhất Dương chỉ ở miền nam, anh hùng trong bốn bể ai cũng nghe danh và đem lòng kính ngưỡng. Trong cuộc đại hội anh hùng tại chùa Thiếu Lâm nay mai, nếu họ Đoàn nước Đại Lý không đến dự là một điều khiếm khuyết rất lớn. Chúng tôi e rằng sẽ không có tay địch thủ được với gia đình họ Mộ Dung.

Bảo Định Đế phất tay áo một cái, mép tay áo khẽ lướt qua bả vai Tuệ Thiền. Tuệ Thiền cảm thấy có một làn hơi êm dịu và hùng hậu nâng vai mình lên. Lão tự nhiên không tự chủ được, đứng phắt dậy, trong lòng rất là khâm phục la lên :

- Hoàng gia! Nội công Hoàng gia thật là tuyệt diệu.

Bảo Định Đế ôn tồn nói :

- Thiền sư mới từ xa tới, còn đương mệt nhọc, hãy xin mời vào trong sảnh đường dùng cơm và nghỉ ngơi chút đã. Tại hạ được nghe chuyện hung tin của tôn sư trong lòng rất thương tiếc. Nhưng họ Đoàn tôi không thể đặt mình vào trong vòng ân oán của võ lâm được, vì tổ tiên đã có minh huấn để lại, xin lượng thứ cho!

Lời Bảo Định Đế tuy khiêm tốn ôn hòa song là lời tuyên bố của bậc chí tôn, tỏ ra tâm ý quyết định rồi, dù có khẩn cầu mấy cũng vô ích nên Tuệ Chân và Tuệ Thiền đành cáo từ ra đi.

Lúc đó trong nhà đại sảnh còn lại toàn người trong nước. Đoàn Chính Thuần hỏi Bảo Định Đế :

- Hoàng huynh! Cô tô Mộ Dung nếu quả có kỹ thuật thần diệu như thế thì tiếng tăm phải lừng lẫy thiên hạ mới phải, vậy mà sao trong võ lâm ít khi nghe thấy ai nhắc tới?

Bảo Định Đế đáp :

- Một là vì họ ít hành động, hai là lúc tranh đấu với ai, không thổ lộ đúng họ tên. Ngay như việc xung đột với hai phái Thiếu Lâm và Tung Sơn cũng chưa biết rõ người đối đầu là ai cả.

Huỳnh Mi tăng cũng nói :

- Chính Minh không chịu tham dự vào cuộc rắc rối này thật là cao kiến. Việc này khởi phát ra e rằng sẽ thành một cuộc tranh phong đẫm máu giữa các phái võ, sát hại không biết bao nhiêu nhân mạng đây. Nước Đại Lý ta mấy năm nay quốc thái dân an, nếu họ Đoàn đi dự cuộc đại hội ở Thiếu Lâm, sau này tất có những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên sẽ tìm đến Đại Lý, khiêu khích sinh sự mãi mãi, không bao giờ dứt được.

Đang lúc nói chuyện thốt nhiên có tên vệ sĩ vào bẩm :

- Trình Vương gia, ở cổng ngoài có vị đạo trưởng xin vào tham kiến. Người nói là cố nhân ở núi Thiên Thai tới thăm bạn cũ.

Đoàn Chính Thuần vui vẻ nói với Bảo Định Đế :

- Hoàng huynh! Thạch thanh tử đạo huynh đã đến.

Nói xong liền chạy ra nghênh tiếp. Bảo Định Đế và Huỳnh Mi tăng nhìn nhau, tự nhiên thấy Huỳnh Mi tăng đứng dậy nói :

- Lão tăng lánh mặt đây.

Bảo Định Đế mỉm cười đáp :

- Những ý nghĩ giận hờn trước kia, đến bây giờ mà sư huynh vẫn còn giữ mãi à?

Huỳnh Mi khẽ nhếch mép cười nói tiếp :

- Phật pháp tinh diệu, chính quả khó thành. Khi lão tăng khám phá ra được manh mối vượt khỏi chữ "sân", tức là lúc từ giã Đoàn huynh rồi đó.

Nói xong đứng dậy ra khỏi nhà khách sảnh, đi thăm bệnh tình sáu đồ đệ. Một lát nghe tiếng cười oang oang từ cửa đưa vào, Bảo Định Đế liền đứng dậy chờ. Đoàn Chính Thuần và một vị đạo nhân dẫn tay nhau bước vào. Đạo nhân đội mũ, mặc áo vàng, da sáng như ngọc, phong độ thanh nhã như thần tiên dưới thế. Đạo nhân cúi đầu chao Bảo Định Đế và nói :

- Chính minh ca ca! Bấy lâu nay ca ca phú quý tôn vinh, đại hưởng thanh bình hạnh phúc lắm đa.

Bảo Định Đế khoanh tay đáp lễ và mỉm cười trả lời :

- Anh chàng mũi trâu kia bôn tẩu giang hồ mãi mãi vẫn chưa dạn mặt phong trần nhỉ.

Thạch Thanh Tử cười khanh khách nói tiếp :

- Chưa chưa! Kìa anh Thăng Thái! Mạnh giỏi chứ? còn anh chuyên đào mả trộm gần đây có phát tài không? Phạm huynh vẫn tươi đẹp như thường, thêm được mấy vị công tử nữa rồi? Anh chàng Thiên Thạch để nổi danh mỗi ngày một gày đét để nổi danh "Thiên hạ đệ nhất khinh công" kể cũng vinh dự lắm đấy! Lại còn anh chàng câu cá này nữa! đã câu được con rùa to nào chưa?

Thạch Thanh Tử gọi tên từng người ngồi trong khách sảnh, hỏi đùa giỡn như bạn cố tri một cách rất thân mật, không câu nệ lễ phép chút nào.

Đoàn Dự biết rõ tính bá phụ hòa nhã nhưng chưa bao giờ nghe thấy ông nói đùa cợt với ai cả. Bây giờ vị đạo nhân này tới, làm cho bầu không khí vui tươi hẳn lên, đến bá phụ cũng gọi đùa đạo nhân là "chàng mũi trâu". Thế mới biết Thạch Thanh Tử quả khéo khôi hài và nói chuyện rất có duyên.

Đoàn Chính Thuần gọi bảo Đoàn Dự :

- Con mau chạy ra lạy chào đạo trưởng đi! Vị này là "Đông Phương đệ nhất kiếm" Thạch Thanh Tử mà thường nhật ta vẫn nhắc tới đó. Người tinh thông kiếm pháp, có thể là "đệ nhất kiếm pháp" thời nay vậy.

Thực ra Đoàn Dự chưa từng nghe phụ thân nhắc tới tên vị này bao giờ. Song bây giờ không tiện hỏi, chàng vâng lệnh tới lạy chào.

Thạch Thanh Tử vui vẻ khen :

- Cha nào con nấy, quả là một nhân vật phong lưu tuấn tú. Tử đệ nhà họ Đoàn nước Đại Lý, một nhà võ học uyên thâm, chắc võ công công tử phải cao siêu lắm.

Thạch Thanh Tử vừa dứt lời liền đưa tay đỡ Đoàn Dự đứng lên nhưng trong tay đã vận chút ít nội lực chủ ý thử xem võ công Đoàn Dự đã tới mức nào.

Đoàn Dự vội kêu lên :

- Xin đạo trưởng nới tay, cháu chưa học võ công đâu.

Đoàn Dự nói chưa dứt lời thì hai tay Thạch Thanh Tử đã chạm vào bàn tay Đoàn Dự. Đột nhiên ông giật mình đánh thót một cái. Kình lực vừa phát ra phút chốc đã biến mất tăm dạng, chẳng khác gì hòn đất quẳng xuống biển, thấy trong tay Đoàn Dự có một hấp lực rất mạnh hút cuồn cuộn lấy nội lực trong người mình.

Thạch Thanh Tử đi di lịch khắp thiên hạ, thấy nhiều hiểu rộng, sau khi kinh hoàng miệng lẩm bẩm : "Đây là môn Hóa Công đại pháp của phái Tinh Tú Hải ở núi Côn Luân. Họ Đoàn nước Đại Lý là một chính phái tiếng tăm lừng lẫy, sao lại để con cháu luyện môn tà thuật này? một môn mà hết thảy võ lâm đều thống hận, ghê tởm". Ông liền ngưng tụ kình lực, lật hai bàn tay đập mạnh vào trên mu bàn tay Đoàn Dự mới gỡ được tay ra, khỏi bị dính chặt vào tay chàng.

Đoàn Dự cảm thấy hai tay đau nhói, tựa hồ xương tay bị gẫy nát, chàng đem lòng oán hận Thạch Thanh Tử, lẩm bẩm một mình : "Lão này tệ thật, mình có nhã ý ra lạy chào lão mà lão lại trở mặt đánh mình đau thế này". Chàng có hiểu đâu rằng Thạch Thanh Tử tưởng lầm là chàng đem tà thuật hại ông. Ông biết môn "Hóa Công đại pháp" có một ma lực ghê gớm, một người luyện võ suốt đời tâm khổ mới thành tài, nhưng chỉ trúng tà pháp này thì bao nhiêu nội công, ngoại lực đều mất hết, trở thành người không biết một chút võ công nào nữa. Có điều người dùng môn tà thuật đó tuy làm tổn hại cho người nhưng cũng chẳng bổ ích gì cho mình cả. Khác với sức "Chu Cáp thần công" trong người Đoàn Dự, mỗi khi đụng vào ai thì nó hút lấy nội lực người đó nhập vào nội lực của mình và cứ mỗi lần tiếp xúc như thế nội lực lại tăng thêm. Vừa rồi một ít nội lực của Thạch Thanh Tử cũng đã bị chuyển sang người chàng.

Bọn Bảo Định Đế thấy trạng thái Thạch Thanh Tử có vẻ khác lạ đều lấy làm kinh ngạc. Đoàn Chính Thuần sợ Thạch Thanh Tử dùng độc thủ đánh con mình, tức khắc bước tới gần, mỉm cười nói :

- Anh chàng mũi trâu này lâu lắm mới gặp nhau, định dùng món quà gì để tặng cho con tôi đó?

Đoàn Chính Thuần vừa nói vừa vận dụng nội lực để dự bị đối phó. Vì Thạch Thanh Tử không những về kiếm thuật đã lừng danh bốn bể mà cả về môn nội công quyền cước Thạch cũng là một tay trác tuyệt. Nếu để Đoàn Dự bị trúng một đòn, thì dù chẳng chết cũng bị trọng thương.

Thạch Thanh Tử cười nhạt hỏi :

- Họ Đoàn ở nước Đại Lý, riêng về môn Nhất Dương chỉ cũng đã nổi tiếng với thiên hạ hãy còn chưa đủ à? Sao còn phải cho con đi học môn tà thuật của Tinh tú Hải lão ma làm gì?

Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi :

- Có phải anh nói môn tà thuật "Hóa Công đại pháp" đó chăng? ai học môn ấy?

Thạch Thanh Tử đáp :

- Anh để lệnh lang đi vào con đường bàng môn tả đạo mà không sợ làm ô uế thanh danh họ Đoàn nước Đại Lý ư?

Đoàn Chính Thuần lại càng kinh ngạc cho là Thạch Thanh Tử ám chỉ môn phái Nam Hải Ngạc Thần nên mỉm cười nói tiếp :

- Nam Hải Ngạc Thần tuy cố ý thu nạp con tôi làm đồ đệ nhưng ngờ đâu trái lại y phải nhận con tôi làm thầy. Dù sao chỉ là chuyện đùa chứ đâu phải sự thực?

Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp :

- Nam Hải Ngạc Thần cố nhiên là một phái võ có sở trường riêng nhưng y có biết gì về môn "Hóa Công đại pháp"?

Đoàn Chính Thuần có vẻ bực bội hỏi :

- Anh chàng mũi trâu này chỉ có một điều "Hóa Công đại pháp" hai điều "Hóa Công đại pháp", định giở trò ma quỷ gì đây?

Thạch Thanh Tử có biết đâu đến chuyện Đoàn Dự có "Chu Cáp thần công" trong mình? Chẳng những Bảo Định Đế cùng vợ chồng Đoàn Chính Thuần không hay mà chính chàng cũng không hiểu nốt. Thạch Thanh Tử cho là Đoàn Chính Thuần lừa bịp mình, nên đứng phắt dậy, giận dỗi nói :

- Hai vị Đoàn gia! Thạch mỗ tuy mây ngàn hạc nội, phiêu bạt giang hồ nhưng hai bàn chân không phải là sắt, lẽo đẽo từ Giang Nam đến Đại Lý, đâu có phải vì một chén thanh trà? Các vị đã không coi tôi là bạn thì thôi, tôi xin cáo biệt.

Nói xong quay gót đi liền.

Bảo Định Đế mỉm cười bảo Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch :

- Hai người ra giữ lấy anh chàng mũi trâu lại! Bắt gã phải nói cho vỡ lẽ? Vì lý do gì đã vì tình bạn hữu qua chơi nước Đại Lý, lại chưa ăn uống no say đã trở gót? Đâu có thể để gã ra đi một cách dễ dàng thế được?

Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch cùng là bạn với Thạch Thanh Tử nên đều cười khanh khách, nhảy ra chặn cửa. Hoa Hách Cấn nói :

- Thạch đạo trưởng! Đạo trưởng qua chơi nước Đại Lý mà không mang theo trường kiếm, đủ tỏ là đạo trưởng có thịnh tình và giữ thể diện cho bên Hoàng gia chúng tôi nhưng cũng vì thế mà đạo trưởng muốn qua khỏi cửa này không phải chuyện dễ dàng.

Thạch Thanh Tử thấy mặt mọi người đều không có gì là kình địch nên trong lòng nghĩ lại : "Cứ như địa vị và danh vọng họ Đoàn quyết nhiên không chịu để cho con cháu luyện môn tà thuật ô uế của Tinh Tú Hải hay là Đoàn Dự đã học lén và giấu cả cha, bác chăng? Nếu mình nói toạc ra e lại kết oán với Đoàn Dự. Có điều mình đối với Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần là chỗ thâm giao, chẳng lẽ biết mà không nói?". Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử liền quay lại, nghiêm nét mặt nói với Đoàn Dự :

- Đoàn công tử ơi! Thạch mỗ dù chẳng có ra gì chăng nữa cũng vẫn là vai trên công tử. Hôm nay ta có câu chuyện nói ra hơi khó nghe song vì muốn giữ danh diện cho lệnh bá và lệnh tôn nên buộc lòng ta phải nói. Xin công tử miễn trách.

Đoàn Dự vội đáp :

- Thạch đạo trưởng có điều chi dạy bảo, Đoàn Dự xin cung kính tuân theo.

Thạch Thanh Tử nghĩ thầm :

- Thằng lỏi con này giả vờ khéo đây! nó làm ngây như thật!

Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử hỏi luôn :

- Đoàn công tử học "Hóa Công đại pháp" được mấy năm rồi? Phải chăng lệnh sư là một vị chân nhân dưới trướng Tinh Tú Hải lão ma?

Đoàn Dự tuyệt nhiên không hiểu câu hỏi ra sao, chàng hỏi lại :

- Trưởng lão nói sao? "Hóa Công đại pháp" rồi Tinh Tú Hải lão ma là chi vậy? Vãn sinh hôm nay mới được nghe trưởng lão nói là một.

Thạch Thanh Tử lại cho là người truyền thụ môn này cho Đoàn Dự cố ý giấu kín về lai lịch môn phái và giấu luôn cả tên gọi môn võ công đó chăng? Đạo nhân hỏi tiếp :

- Vậy người truyền môn này cho công tử tướng mạo thế nào?

Đoàn Dự đáp :

- Vãn sinh chưa từng học qua môn võ nào cả.

Giữa lúc đó, Huỳnh Mi tăng từ nội đường xăm xăm chạy ra, nắm lấy tay phải Đoàn Dự. Nhưng vừa chạm vào tay chàng, nhà sư cảm thấy người run bần bật và nội lực trong mình cứ thế tuôn ra, không sao hãm lại được. Tức quá ông liền co chân đá Đoàn Dự bắn đi lăn long lóc.

Mọi người thấy vậy, sợ tái xanh mặt, nhất tề đứng dậy hỏi :

- Chi vậy? Chi vậy?

Huỳnh Mi tăng đáp :

- Hai vị Đoàn huynh! Các vị có đánh chết thằng nhỏ này không? hay để cho lão tăng phải ra tay?

Giọng nói nhà sư run lên vì tức giận, những thớ thịt trên mặt giật lên trông rõ. Sở dĩ Huỳnh Mi tăng có hành động này là vì sáu đồ đệ sau khi tỉnh lại đã kể rõ cho biết chuyện họ bị Đoàn Dự hút hết cả nội lực, nên sự xét đoán của Huỳnh Mi tăng hoàn toàn giống Thạch Thanh Tử và cho là chàng đã học môn "Hóa Công đại pháp" của Tinh Tú Hải. Huỳnh Mi tăng lại còn bực mình ở chỗ Đoàn Dự còn đem oán trả ơn, làm hư hoại nội lực cả sáu đồ đệ ông, rồi lúc chính ông chạm vào tay Đoàn Dự lại cảm thấy rõ công lực của mình cũng bị hao tổn, thế là ông tin chắc, không còn nghi ngờ gì nữa.

Thoạt mới nghe Thạch Thanh Tử nói, Bảo Định Đế lấy làm kỳ quái cũng cho là tính hạnh Thạch xưa nay vẫn ưa khôi hài, quen lối hoạt kê, cố ý gây một trò cười, nhưng từ lúc thấy Huỳnh Mi tăng cử chỉ như vậy nhà Vua mới biết là sự tình nghiêm trọng lắm. Bảo Định Đế đưa tay trái nắm lấy bàn tay Đoàn Dự dắt dậy. Hai tay vừa chạm vào nhau, nhà Vua cũng cảm thấy trong lòng xao xuyến và nội lực cứ tiết ra ngoài, liền kìm hãm kình lực lại, phất mạnh tay áo một cái, đẩy Đoàn Dự lùi ra ba bước và quát hỏi :

- Mi học môn tà thuật này từ bao giờ?

Đoàn Dự từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ bị bá phụ tức giận quát mắng như thế, sợ quà quỳ mọp xuống lạy, bẩm :

- Cháu chưa từng học môn võ công nào khác, ngoài phép Lăng Ba Vi Bộ. Nếu có phải đó là một môn tà thuật ác độc thì... từ nay cháu không sử dụng đến nó nữa, quên nó đi là xong.

Bảo Định Đế vốn biết Đoàn Dự có tính khí cương trực, không hề nói dối bao giờ, hơn nữa đối với bá phụ vẫn có một niềm kính mến, quyết không có lý do nào lại dùng tà thuật để hại bác, tất có điều gì bí ẩn bên trong nên lại hỏi tiếp :

- Mi dùng tà thuật để tiêu tán mất công lực của ta, đó là tự ý mi hay là kẻ nào bắt buộc, đến nỗi không tự chủ được?

Đoàn Dự lại càng kinh ngạc đáp :

- Cháu không biết mảy may gì cả. Khi nào cháu dám dùng tà thuật làm tiêu tan nội lực bá phụ? Cháu thực không hiểu một chút gì về tà thuật.

Từ lúc Tuệ Chân và Tuệ Thiến mới đến, Thư Bạch Phụng giữ địa vị một bậc vương phi, không tiện ra ngoài tiếp tân khách nên vẫn ngồi trong nhà. Sau khi nghe báo Đoàn Dự bị Huỳnh Mi tăng đá lăn đi và đang bị Bảo Định Đế chất vấn nóng ruột quá mới chạy ra xem. Bà thấy con đang quỳ dưới đất, nét mặt hốt hoảng lo sợ, trong lòng xiết bao thương xót, đưa tay cầm lấy cánh tay con khuyên nhủ :

- Đoàn Dự! Con đừng lo! Có gì cứ trình rõ cho bá phụ... biết là xong...

Vừa chạm vào tay con, Thư Bạch Phụng đã cảm thấy nội lực cứ cuồn cuộn tiết ra, không sao kìm hãm lại được.

Bảo Định Đế đã biết trước và đề phòng, song giữa anh chồng với em dâu, không tiện đưa tay ra nắm lại, chỉ dùng tay áo phất mạnh một cái, một luồng kình lực phóng ra, tựa lưỡi sắt mỏng lách vào giữa, hai tay mẹ con Đoàn Dự tức khắc rời ra.

Thư Bạch Phụng vừa rút tay ra được kinh hoảng hỏi con :

- Mi... Mi...

Đoàn Dự thấy mẫu thân lảo đảo lùi lại không hiểu ra sao, vừa toan chạy đến định đỡ cho mẫu thân đứng vững. Đoàn Chính Thuần gọi giật giọng :

- Dự nhi! Đứng yên đấy!

Vừa nói vừa nhảy vội đến, đứng xen vào giữa hai mẹ con Đoàn Dự. Tới lúc này thì mọi người đều thay đổi ý nghĩ, biết trong người Đoàn Dự có cái gì quái lạ, không ai còn nghi ngờ chàng đã học môn "Hóa Công đại pháp" để cố ý làm hại người nữa. Những vị này am hiểu thế cố, chỉ nhìn vào cử chỉ và trạng thái Đoàn Dự cũng biết chàng chẳng có mảy may gì là giảo hoạt gian trá. Dù chàng có là kẻ đại gian, đại ác đến đâu chăng nữa, cũng không có lý nào lại định làm hại đến cả mẫu thân được.

Cao Thăng Thái thốt nhiên nói với Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử :

- Tôi đố hai vị tìm ra được nguyên nhân vụ này và thi xem ai nói đúng trước là thắng.

Hai người trừng mắt lườm nhau một cái rồi đều gia công suy nghĩ.

Nguyên trước kia Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử là đôi bạn rất thân nhưng có một lần ngẫu nhiên tranh luận về hai giáo lý Phật và Đạo rồi không bên nào chịu bên nào. Cuộc tranh luận giáo lý đưa đến cuộc tỷ thí võ lực. Mỗi bên đều có sở trường riêng, bất phân cao hạ. Sau còn đấu liên tiếp mấy lần, cuối cùng đi tới chỗ cả hai người cùng suýt chết, may nhờ Bảo Định Đế dùng nội lực thượng thừa mới giải cứu được. Song cả ba người cùng hao tổn công lực. Từ đó bên nhà sư và bên thầy đạo không trông mặt nhau nữa. Không ngờ hôm nay lại gặp nhau tại phủ Trấn Nam Vương này.

Cao Thăng Thái có ý định hòa giải cuộc đấu tranh vô vị giữa hai bên, chỉ mong hai người nhân dịp này tỷ thí về kiến văn chứ không tỷ thí về võ lực để phân rõ thắng phụ mà kết liễu cuộc tranh chấp đó đi. Song Cao Thăng Thái là bạn thâm giao với Thạch Thanh Tử, ra mục đề như thế không khỏi có ý thiên lệch ở bên trong. Vì Thạch Thanh Tử là người đi khắp đó đây tất lịch duyệt hơn. Trong một năm chả được mấy ngày thảnh thơi ngồi nhàn, còn Huỳnh Mi tăng ở nơi hoang sơn, hẻo lánh kiến văn bằng Thạch Thanh Tử thế nào được? Có điều Huỳnh Mi tăng cố nhiên là không hiểu được rồi còn Thạch Thanh Tử thì ngoài sự suy tưởng cho là môn "Hóa Công đại pháp" của Tinh Tú Hải ra cũng không sao tìm được câu giải đáp nào khác nữa.

Đoàn Chính Thuần từ hồi nào vẫn ngồi yên, bây giờ thốt nhiên tỏ vẻ phẫn nộ nói :

- Đoàn Dự trong lúc bị giam trong nhà đá nhất định bị Thanh bào khách dùng dùng thứ chất độc ghê gớm gì đây, nên trong người có tà thuật mà y không biết.

Bảo Định Đế gật đầu đáp :

- Thuần đệ suy đoán rất có lý. Đoàn Dự nhất định bị lão dùng thủ đoạn sâu độc gì chứ không thoát được.

Đoàn Dự đáp :

- Có! Cháu bị hôn mê bất tỉnh, ít nhất cũng tới bốn, năm lần.

Đoàn Chính Thuần vỗ tay nói :

- Đúng rồi, Thanh bào khách nhân lúc Dự nhi hôn mê đem tà thuật làm tiêu tan công lực chuyền vào trong người nó. Thế là lão mượn tay Dự nhi để làm hại những người chí thân trong nhà. Cái kế hiểm độc của lão làm cho tất cả công lực của chúng ta đều bị huỷ hoại về tay Đoàn Dự. Con người thâm độc như thế hỏi ai không căm phẫn cho được? Đại ca! Việc này không thể chậm trễ. Ta phải nghĩ cách khử trừ tà thuật cho Dự nhi ngay.

Thư Bạch Phụng lại càng lo lắng, vội hỏi :

- Dự nhi! Con có thấy trong người bứt rứt khó chịu không?

Đoàn Dự chau mày đáp :

- Khắp trong người con chỗ nào cũng toàn chướng khí, chỗ nào cũng bị căng thẳng muốn chết đi được vì không lối thoát ra ngoài, nó cứ chạy quẩn trong người. Lục phủ ngũ tạng dường như bị đảo lộn cả lên.

Mọi người thấy thế đều thương xót cho Đoàn Dự, nhất là Thư Bạch Phụng tình mẫu tử lại càng thấm thía nên nói với Bảo Định Đế :

- Thưa đại bá! Phải nghĩ cách nào để trừ độc cho Dự nhi mới được chứ!

Bảo Định Đế đáp :

- Đệ muội hãy khoan tâm! Hai vị trước mặt ta đây : một tăng, một đạo đều là nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, một ông mắng thằng bé hết lời, một ông đá nó quay long lóc, tất nhiên họ phải lãnh trách nhiệm trị bệnh, giải độc cho y.

Hai người đầu óc đang bận suy nghĩ tìm xem Đoàn Dự mắc phải tà thuật gì hay là trúng phải nọc độc nên chưa nghe thấy lời Bảo Định Đế vừa nói. Thốt nhiên Huỳnh Mi tăng reo lên :

- A ha! Phải rồi!

Ai nấy cả mừng chăm chú nhìn vào ông. không ngờ Huỳnh Mi tăng lại lắc đầu xua tay, cải chính :

- Nhưng mà không đúng! Không đúng! Thứ thuốc độc đó chỉ có thể làm tiêu tan được công lực bản thân người trúng thôi chứ không thể làm tiêu tan sức mạnh của người khác.

Đoạn lại thấy Thạch Thanh Tử vỗ đét vào đùi và nói :

- Nhất định là thế này rồi.

Cao Thăng Thái mừng rỡ hỏi :

- Thế nào?

Thạch Thanh Tử vẻ mặt hớn hở đáp :

- Trên núi Trường Bạch ngoài biển thuộc Liêu Đông, có một cái đảo rắn...

Nói tới đây nét mặt vui mừng lạt dần, rồi biến thành thất vọng buồn thiu. Thạch Thanh Tử lắc đầu nói tiếp :

- Tôi nghĩ lầm rồi! Có một chỗ nói không xuôi được.

Trong tòa khách sảnh lại im hơi lặng tiếng hồi lâu, không ai nói năng gì hết. Trong lúc bầu không khí nặng trĩu bao phủ thoáng nghe có tiếng chân bước lật đật, một tên thái giám chạy từ ngoài vào đến cửa đã lên tiếng bẩm :

- Khải tâu đức vạn tuế, có hai tên giả câm giả điếc, chúng dám viết những câu đại nghịch bất đạo vào trước ngực, hiện đã bắt giữ, để ngoài cửa cung.

Bảo Định Đế vừa nghe thấy bốn chữ : "giả câm giả điếc" chợt nghĩ ra điều gì hỏi lại :

- Người đó bị câm thật hay bị cắt lưỡi?

Thái giám đáp :

- Đức vạn tuế thật là bậc thánh minh nhìn xa muôn dặm. Hai tên gian tế này quả là bị cắt lưỡi.

Bảo Định Đế đưa mắt nhìn Huỳnh Mi tăng cùng Thạch Thanh Tử và Đoàn Chính Thuần. Mọi người đều tự hỏi : "Phải chăng Lung Á lão nhân cũng ra tay, thế này thì lại càng thêm phiền cho mình".

Bảo Định Đế quay sang bảo Ba Thiên Thạch :

- Ngươi ra mời hai người khách đó vào đây!

Được một lát Ba Thiên Thạch dẫn hai gã thanh niên chừng 18, 19 tuổi vào bẩm :

- Có sứ giả dưới trướng Thông Biện tiên sinh vào triều kiến bệ hạ.

Nguyên Lung Á lão nhân vừa điếc vừa câm nhưng lại mang ngoại hiệu Thông Biện tiên sinh, ra điều tai ta tuy điếc nhưng lại nghe rõ hơn mọi người, miệng ta tuy câm nhưng lại hùng biện hơn ai hết. Lung á tiên sinh là một nhân vật rất nổi tiếng trong võ lâm, không thuộc phe tà mà cũng không hẳn phe chính. Lão đã kết oán với ai thì suốt đời tranh đấu liên miên. Nếu chưa làm được cho kẻ thù tàn tạ thì không bao giờ chịu thôi. Vì thế những người trong võ lâm có võ công tương đương với lão, hoặc cao hơn lão cũng xử nhũn với lão để tránh mọi sự phiền não.

Mọi người thấy hai gã thanh niên khí vũ hiên ngang, diện mạo thanh tú, cùng mặc áo bào trắng dài lượt thượt, trước ngực có viết hai hàng chữ : "Sứ giả dưới trướng Thông Biện tiên sinh có việc báo cho Đoàn Chính Minh tiên sinh hay". Khắp trong nước Đại Lý ai cũng phải kiêng hai chữ Chính Minh không được nhắc tới. Bây giờ thấy hai gã này dám công nhiên viết "Đoàn Chính Minh tiên sinh" vào trước ngực nên một nhóm triều thần và thái giám cho là kẻ đại nghịch bất đạo.

Bảo Định Đế tủm tỉm cười nói :

- Thông Biện tiên sinh gọi ta bằng tiên sinh, thế cũng là nể ta lắm đó.

Hai thanh niên tới trước mặt Bảo Định Đế chỉ vái chào chứ không quỳ lạy.

Ba Thiên Thạch lấy giấy bút trên bàn viết mấy chữ : "Thông Biện tiên sinh có điều chi muốn nói? Các ngươi tâu lên Hoàng thượng đi!".

Lung Á lão nhân tính tình rất là cổ quái, những đệ tử dưới trướng cùng những người hầu cận lão đều bị cắt lưỡi và chọc thủng màng tai để trở thành những người câm điếc như lão, đã chẳng nghe thấy gì lại không nói được. Thật là một quy luật đặc biệt nên khách giang hồ ai cũng biết tiếng. Gã thanh niên đứng mé trái cởi bọc đeo trên lưng xuống, mở ra lấy một bộ quần áo con gái mầu hồng nhạt mặc vào rồi lại lấy phấn sáp thoa lên mặt. Còn một gã giúp hắn sẻ tóc ra, buộc làm hai túm, quấn chỉ mầu hồng vào, hóa trang làm một vị nữ lang. Mọi người thấy thế vừa kinh ngạc vừa buồn cười, đều nghĩ mãi không hiểu Lung á tiên sinh phái hai gã sứ giả này đến để giở trò quỷ quái gì. Gã thanh niên giả dạng thiếu nữ xong, liền thướt tha bước hai bước tới rồi lại õng ẹo múa chân, múa tay một hồi, điệu bộ thướt tha cho ra vẻ một thiếu nữ khả ái. Mọi người tuy buồn cười nẻ ruột song đều cho là Lung Á lão nhân giở trò này tất có thâm ý gì nên ai cũng giữ vẻ trầm mặc, không cười lên tiếng. Riêng mình Đoàn Dự chẳng cần hiểu Lung Á lão nhân là hạng người nào, vỗ tay cả cười hỏi :

- Ngươi đóng vai một vị nữ lang, còn gã kia thủ vai gì?

Gã thanh niên thứ hai không cải trang chi hết, ngẩng đầu lên, nhìn cao bước dài, tựa hồ một nhân vật hiên ngang, tung hoàng thiên hạ không ai bằng mình. Hắn đi quanh một vòng, tới trước mặt thiếu nữ giả nghiêng đầu nhoẻn cười và đưa mắt liếc, rồi lại thò tay vuốt má. Thiếu nữ giả cũng tủm tỉm cười, môi mấp máy làm bộ như người nói được. Thốt nhiên thanh niên ghé miệng hôn má thiếu nữ giả. Thiếu nữ giả tức mình đưa tay tát bốp vào má thanh niên một cái thật mạnh. Thanh niên vụt chìa ngón tay trỏ ra, điểm vào cạnh sườn thiếu nữ giả. Trong lúc thanh niên đưa ngón tay trỏ ra thì từ Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái, Huỳnh Mi tăng, Thạch Thanh Tử cho đến bọn tam công nước Đại Lý, không hẹn nhau mà cùng kêu rú lên một tiếng. Đoàn Chính Thuần và Thạch Thanh Tử rời chỗ ngồi, đứng phắt dậy vì thấy ngón tay điểm huyệt của thanh niên này, về thủ pháp cùng cương vị nhất nhất đúng phép "Nhất Dương chỉ" gia truyền của họ Đoàn.

Về thủ pháp Nhất Dương chỉ thoáng nhìn thì tựa hồ chẳng có chi là khó nhưng kỳ thực trong đó chứa đựng bao nhiêu biến hóa kỳ diệu. Ngón tay phóng ra phải tuỳ theo phương tiện, đứng cách xa bao nhiêu, rồi đưa cả bàn, không một chỗ nào có thể sai lầm bằng dây tơ sợi tóc, không thế thì uy lực không thể phát huy ra được. Bọn Huỳnh Mi tăng, Thạch Thanh Tử, Cao Thăng Thái tuy chưa học môn Nhất Dương chỉ song đối với họ Đoàn là chỗ thân mật từ lâu nên về thủ pháp đúng hay sai, thoáng trông đã hiểu ngay. Mọi người đều biết rõ Lung Á lão nhân về võ công tự lập ra một phái võ chuyên về môn âm nhu trái ngược với môn Nhất Dương chỉ chuyên về sở trường dương cương. Hai đằng khác hẳn nhau, không hiểu sao đồ đệ lão lại học được môn chỉ pháp đó? Mọi người còn đang kinh dị thì trong chớp nhoáng, sự biến hóa lại phát sinh ngay trước mắt. Thiếu nữ giả thấy ngón tay thanh niên điểm tới, vụt đưa bàn tay ra nắm lấy, ngón tay trỏ thanh niên kêu rắc một tiếng. Ngón tay thanh niên đã bị gãy xương. Miếng bẻ đó thật là kỳ diệu. Mọi người đều nhìn thấy rõ ràng, nhưng không ai ngờ được là cô thiếu nữ giả hiệu lại biết sử dụng thế đánh hiểm hóc này. Thanh niên lại bước lên một bước, dùng ngón tay trỏ bên trái điểm trước ngực thiếu nữ giả, vẫn theo phép Nhất Dương chỉ. Thiếu nữ giả hai tay vừa chập vào nhau đã nghe cấc một tiếng, ngón tay trái thanh niên lại bị gãy nốt. Thanh niên bị gãy liền hai ngón tay và tựa hồ không đau đớn gì vẫn tiếp tục tấn công. Trong khoảnh khắc gã sử dụng luôn sáu thế về phép Nhất Dương chỉ. Thiếu nữ giả phản công bằng đủ mọi cách, hoặc bật lên đè xuống, hoặc nắm lấy hất ra, hoặc móc vào giữ lại. Kết cục đối phương lại gẫy thêm sáu ngón tay nữa, chỉ còn trơ lại hai ngón tay cái, thanh niên phải xoay người sang mé bên trái chạy trốn. Thiếu nữ giả vỗ tay cười ha hả, ra chiều đắc ý rồi lại cầm bút viết mấy chữ : "Họ Đoàn nước Đại Lý còn thua nhà Mộ Dung ở Cô Tô". Viết xong ném bút xuống, dắt tay thanh niên bị gãy ngón tay đó đi liền.

Ba Thiên Thạch cản lại nói :

- Hãy thong thả.

Bảo Định Đế lắc đầu nói :

- Cứ để cho họ đi.

Hai gã đi khỏi, mọi người đều cảm thấy đầu óc nặng trĩu, yên lặng không ai nói gì. Mọi người đều hiểu rằng Lung Á lão nhân sở dĩ phái hai tên sứ giả này tới cốt ý bảo rõ cho Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần biết là nhà Mộ Dung ở Cô Tô đã có cách phá môn Nhất Dương chỉ của họ Đoàn rồi. Dĩ nhiên Bảo Định Đế hay Đoàn Chính Thuần sử dụng phép Nhất Dương chỉ tất uy lực sẽ mạnh hơn nhiều, song đây đối phương tượng trưng bằng một thiếu nữ, đến lúc bậc cao thủ khác của Mộ Dung ra tay, tất nhiên các đường đánh còn kỳ diệu hơn gấp mấy. Điều làm cho mọi người băn khoăn nhất là thanh niên đó công nhiên sử dụng luôn được tám đường trong môn Nhất Dương chỉ, tuy còn kém về sức mạnh song cách thức thì không sai mảy may. Tám thủ pháp để khắc chế địch thủ của thiếu nữ giả lại càng kỳ diệu và biến hóa không biết đâu mà lường được.

Bảo Định Đế không nhắc tới chuyện vừa rồi, quay sang mỉm cười hỏi Thạch Thanh Tử :

- Đạo huynh! Đạo huynh lận đận từ Giang Nam đến đây, phải chăng cũng có chuyện gì liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung?

Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp :

- Đối với bọn Mộ Dung thì chẳng có liên quan gì nhưng đối với họ Đoàn thì có việc liên quan rất lớn. Số là đệ tử họ Đoàn đã gây ra tại thành Dương Châu một việc rắc rối không thể tả được. Hoàng đế nhà Đại Tống tuy có nể mặt Đoàn huynh, không muốn truy cứu làm gì, song những nhân sĩ võ lâm ở Trung Nguyên đều nổi công phẫn.

Bảo Định Đế kinh ngạc hỏi :

- Con cháu họ Đoàn chúng tôi mới chỉ có mỗi Đoàn Dự, song y chưa rời khỏi nước Đại Lý lấy nửa bước thế thì làm sao đến quấy rối tận Dương Châu được?

Thạch Thanh Tử đáp :

- Trong một đêm mà 28 mạng của ba nhà Hạ Hầu Túc, Kim Trung và Vương Thúc Kiền tức Dương Châu Tam Hùng đều bị chết sạch về đòn Nhất Dương chỉ. Vậy Dương Châu tam hùng trước kia có đắc tội gì với Đoàn huynh không?

Xem tiếp hồi hai mươi bốn

Thiên Long Bát Bộ Nguyên tác : Kim Dung

Hồi 24 Lục Mạch thần kiếm

Bảo Định Đế hỏi :

- À này! Thạch đạo huynh! Có phải 28 người đó đã đích xác chết về phép Nhất Dương chỉ không?

Thạch Thanh Tử hỏi lại :

- Phép Nhất Dương chỉ giết người một cách rất vương đạo. Đối phương sau khi trúng Nhất Dương chỉ khoan khoái dị thường. Chân tay gân cốt thư thái vô cùng nên lúc chết còn để lại nét mặt vui tươi, khắp mình không một vết thương. Có đúng thế không?

Đoàn Chính Thuần cười đáp :

- Anh chàng mũi trâu ơi! Anh nói không sai chút nào. Chắc anh đã được nếm mùi Nhất Dương chỉ rồi thì phải.

Thạch Thanh Tử không cười nữa, nghiêm sắc mặt nói :

- Quả 28 gã hán tử trong nhà tam hùng tại Dương Châu đều ngậm cười mà chết, khắp mình không có thương tích gì hết.

Đoàn Chính Thuần lại hỏi :

- Phải chăng người mềm như bún, thân không co quắp?

Thạch Thanh Tử nói :

- Đúng thế! Tôi biết có thứ thuốc độc giết người, xác chết còn lộ vẻ mặt tươi cười nhưng thây mềm nhũn như bún thì ngoài phép Nhất Dương chỉ ra khắp thiên hạ không còn loại nào nữa.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Họ Đoàn nhà ta không được đa đinh, hàng con cháu chỉ có mình thằng Dự thế mà đến nay y vẫn chưa chịu học phép Nhất Dương chỉ.

Bảo Định Đế hỏi Thạch Thanh Tử :

- Đạo huynh! Đạo huynh vừa bảo trong nhà tam hùng ở Dương Châu chỉ toàn đàn ông bị chết mà thôi, không có người đàn bà nào cả. Vậy thì mặt mũi hung thủ hẳn có người nhận được chứ?

Thạch Thanh Tử đáp :

- Hạ Hầu phu nhân cùng Vương phu nhân đều nói rằng hung thủ lấy khăn xanh bịt kín, không nhìn rõ mặt. Cứ xem tầm vóc mà đoán thì rõ ràng là một người còn ít tuổi.

Bảo Định Đế thở dài đưa mắt nhìn Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần nói :

- Thạch đạo huynh! Từ vụ thằng con tôi bị kịch độc cho tới vụ giết người đều do tay một người trong họ Đoàn tôi. Người đó mang danh hiệu "thiên hạ đệ nhất ác nhân".

Đoạn đem chuyện Đoàn Dự bị cướp đem đi ra sao, Huỳnh Mi tăng gia công giải cứu thế nào thuật sơ qua lại một lượt. Lại kể cả cuộc đấu cờ, chính ra Huỳnh Mi tăng sắp thua rồi, sau thái tử Diên Khánh đi nhầm một nước nên nỗi bị bại.

Huỳnh Mi tăng nói :

- Đoàn nhị huynh bất tất phải che cái xấu cho ta? Rõ ràng là lão tăng phải thua ông ta mà ngay đến lão mũi trâu cũng không đấu nổi đâu.

Thạch Thanh Tử nói :

- Chưa chắc!

Huỳnh Mi tăng nói :

- Chúng ta đấu chơi một bàn nào!

Thạch Thanh Tử nói :

- Tôi đang muốn lĩnh giáo đây.

Huỳnh Mi tăng cười lạt nói :

- Thật đáng nực cười!

Thạch Thanh Tử hỏi :

- Hòa thượng sao lại cười ta?

Huỳnh Mi đáp :

- Lão tăng buồn cười cái người không có một chút kiến thức nào cả. Hiển nhiên là đám môn hạ Đoàn Diên Khánh làm nên tội lỗi lại đổ tiếng ác cho Đoàn Hoàng gia.

Thạch Thanh Tử đỏ mặt lên cãi :

- Đoàn Diên Khánh không phải người họ Đoàn hay sao? Môn đệ Đoàn Diên Khánh thì cũng là môn đệ họ Đoàn chứ gì?

Huỳnh Mi cười lạt nói :

- Thôi đừng lý sự cùn nữa.

Thạch Thanh Tử cũng cười lạt nói :

- Chính hòa thượng hay nói hươu nói vượn thì có.

Bảo Định Đế thấy hai người cãi nhau cũng mỉm cười nói :

- Theo lời tiên sinh thì cô gái nhà Mộ Dung phá phép Nhất Dương chỉ mà chàng trai trêu cợt cô gái đó có lẽ là thủ phạm giết người nhà tam hùng ở Dương Châu.

Tới đây Bảo Định Đế nói bằng một vẻ trịnh trọng :

- Thuần đệ! Tổ tiên ta đã có minh huấn, không bao giờ can thiệp vào những vụ trả ân, trả oán giữa các phái võ ở Trung Nguyên. Nhưng trong vụ này mắt mình ngó thấy có người đem phép Nhất Dương chỉ ra làm càn rỡ thì họ Đoàn không thể điềm nhiên ngồi nhìn được.

Đoàn Chính Thuần nói :

- Chính thế!

Cả hai anh em Bảo Định Đế đều để bụng không nói ra miệng vụ nhà Mộ Dung ở Cô Tô cậy có võ công lợi hại up hiếp phép Nhất Dương chỉ của môn đệ họ Đoàn, nếu bỏ không can thiệp thì oai danh họ Đoàn nước Đại Lý sẽ bị tổn thương rất nhiều.

Bảo Định Đế lại nói :

- Hoàng đệ cùng tam công, Tứ ẩn (tức Ngư, Tiều, Canh, Độc) đến chùa Thiếu Lâm thăm Huyền Từ đại sư, đồng thời nếu quan sát cho biết rõ được môn võ công tuyệt thế của phái Mộ Dung ở Cô Tô thì hay lắm. Còn thái tử Diên Khánh là dòng dõi chính thống của Tiên Hoàng, đối với người không được vô lễ! Giả tỷ bọn môn đệ người có làm điều ác đức cũng phải điều tra cho rõ ràng rồi giao lại để người trừng trị, bọn ta không được tự tiện hạ sát.

Đoàn Chính Thuần cùng tam công, tứ ẩn cúi đầu lĩnh chỉ. Bảo Định Đế lại thấy Cao Thăng Thái cũng có vẻ nhơn nhơn, muốn ra đi liền mỉm cười phán bảo :

- Các tay cao thủ trong triều thế là đi gần hết rồi, Thiện Xiển Hầu cần phải ở nhà phò tá quả nhân.

Cao Thăng Thái vâng mệnh. Đoàn Dự cũng bước ra bẩm :

- Thưa bá phụ! Xin cho cháu cùng đi với gia gia để cháu thêm phần lịch duyệt.

Bảo Định Đế lắc đầu phán :

- Cháu bị trúng độc chưa khỏi. Ta còn phải tìm cách giải độc, trừ tà cho cháu mất mấy bữa nữa. Vả cháu không biết võ nghệ, vào Trung Nguyên chỉ tổ làm mất thể diện cho họ Đoàn nước Đại Lý.

Đoàn Dự thẹn mặt đỏ bừng. Bây giờ chàng mới có ý hối hận, tiếc rằng giá mình chịu học võ rồi có phải ngày nay được vào Trung Nguyên du ngoạn thì hay biết chừng nào?

Hôm ấy trong phủ Trấn Nam Vương mở tiệc tẩy trần thết Thạch Thanh Tử. Đoàn Dự ngồi riêng một chiếu vì không ai dám đụng chạm vào chàng, sợ bị nhiễm tà độc. Lúc ăn uống hay chuyện trò cùng chàng ai nấy đều phải ngồi cách xa chàng, đã là một sự làm cho chàng mất cả hứng thú. Da dĩ trong cơ thể còn chứa đựng bao nhiêu chân khí hút ở ngoài vào, chàng không có cách nào quy tụ lại được khiến chàng vô cùng bứt rứt.

Đoàn Dự ngồi ăn tiệc càng lâu chàng càng thấy khó chịu nên nhấp xong ba chung rượu rồi chàng cáo từ mọi người về phòng riêng. Chàng nằm hồi tưởng lại những chuyện đã xẩy đến cho chàng mấy hôm vừa qua thật là ly kỳ. Rồi chàng lại nhớ tới Mộc Uyển Thanh cùng Chung Linh, là hai nàng chàng mới quen biết, không hiểu bây giờ buồn bực đến thế nào? Sau nữa chàng nghĩ đến việc song thân đòi hỏi Cao My tiểu thư cho chàng làm vợ. Chàng chưa biết mặt Cao tiểu thư, không hiểu tính tình Cao tiểu thư có hợp với mình không? Dung mạo tiểu thư đẹp hay xấu? Đầu óc Đoàn Dự bị đảo lộn bởi bao làn sóng tư tưởng. Trong cơ thể chàng, chân khí chạy tứ tung chẳng khác gì đàn ngựa bất kham chạy không dừng vó hay đàn vượn trên núi nhảy nhót tha hồ. Tuy không đến nỗi thảm hại như hôm uống phải Âm dương hòa hợp tán, lửa lòng khôn bề dập tắt, nhưng cũng khó chịu vô cùng.

Hồi lâu Đoàn Dự mê man ngủ đi lúc nào không biết. Nửa đêm chàng thức giấc thấy hai lòng bàn tay mình có người nắm chặt, chàng giật mình la lên một tiếng thì lập tức bị một tấm khăn nhét vào miệng. Chàng nghiêng đầu nhìn qua một bên, dưới ánh đèn lờ mờ chàng nhìn rõ bộ mặt anh tuấn như đang mỉm cười chính là Thạch Thanh Tử. Chàng lại nghếch mắt quay sang bên phải nhìn thấy cặp lông mày dài sắc vàng : đó là Huỳnh Mi tăng với bộ mặt gầy đét nhưng đầy vẻ từ bi vừa mỉm cười vừa gật đầu bảo chàng đừng sợ hãi gì rồi rút tấm khăn trong miệng chàng ra. Đoàn Dự thấy một nhà sư và một thầy đạo bên mình mới yên tâm toan dậy thi lễ. Thạch Thanh Tử khẽ bảo :

- Hiền điệt bất tất đa lễ. Cứ nằm yên để chúng ta trừ tà giải độc cho.

Đoàn Dự ngỏ lời cảm tạ thì Huỳnh Mi tăng ngắt lời :

- Chúng ta là chỗ tâm giao với bá phụ hiền điệt. Có làm gì chút việc nhỏ mọn này mà cháu phải bận tâm?

Thạch Thanh Tử cười lạt nói móc :

- Đã chắc đâu hòa thượng trừ tà giải độc được cho y, hãy làm đi rồi hẵng nói khoác.

Đoàn Dự toan nói nữa thì đột nhiên hai bàn tay run lên đồng thời hai luồng chân khí chuyển vào thân thể chàng. Chàng giật nẩy mình, mặt đỏ bừng lên như người say rượu. Hai luồng chân khí chuyển vào kinh mạch, lúc đầu chàng cũng thấy nó chạy nhộn lên trong người, dần dần chạy yếu đi rồi yên hẳn lại. Chừng trong khoảng thời gian ăn xong bữa cơm, Đoàn Dự thấy nửa mình bên phải nóng ran, ngược lại nửa mình bên trái lạnh toát. Nhưng lạ thay, tuy người phát hàn nhiệt như vậy mà trong lòng rất là thư thái dễ chịu. Chàng biết hai tay cao thủ dùng nội công thượng thừa để trừ tà giải độc cho mình.

Đoàn Dự đoán vậy chỉ đúng có một phần thôi. Nguyên hai vị Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đã cùng nhau tỷ thí đủ thứ : đấu văn, đấu võ, đấu quyền cước, đấu gươm đao, đấu nội công, đấu kiến văn. Mấy chục năm nay hai ông đấu biết bao nhiêu phen mà khôn phần cao thấp. Hôm nay hai ông ngồi dự tiệc khích bác nhau rồi nửa đêm đưa nhau ra hoa viên bàn nhau đấu võ, lấy việc trừ tà giải độc cho Đoàn Dự làm tiêu chuẩn. Hai ông này đã hai phen tỷ thí, hao phí công lực quá nhiều nếu không được Bảo Định Đế giải cứu kịp thời thì quy tiên cả rồi. Phen này hai ông dùng cách đấu kỳ khôi này đã tưởng nhất cử lưỡng tiện : một là so tài cao thấp, hai là đỡ cho Bảo Định Đế chút công nhỏ mọn. Về cách dùng nội công để trị bệnh ngoại thương thì khắp thiên hạ không còn môn nào hơn được phép Nhất Dương chỉ. Hai vị ước hẹn với nhau : mỗi vị trị một nửa người Đoàn Dự, ai thành công trước là được. Đành rằng hai vị trừ tà giải độc, cái hảo tâm là ở chỗ đó nhưng lại đem con người ta ra làm đề mục để đánh đố. Nhà sư và đạo sĩ nghĩ rằng sức mạnh tà độc trong mình Đoàn Dự cực kỳ lợi hại. Nếu phải gắng vận động cho nội công thấm vào người chàng mới khu trừ ra được và nếu không khu trừ hết được tà độc ra ngoài nhất định cũng không tổn hại gì.

Hai vị đâu có biết rằng trong mình Đoàn Dự không súc tích tà độc mà chứa toàn chân khí hút ở ngoài vào và bị một vật chí bảo trên thế gian là đôi Mãng Cổ chu cáp chế hóa làm cho công phạt. Một khi đã nuốt chu cáp vào rồi thì nó biến hóa thấm vào cơ thể trong người, còn tài nào mà trục ra được? Nguyên một hấp lực của đôi chu cáp cũng đã mạnh ghê gớm rồi, huống chi còn thêm vào đó chân khí của sáu nhà sư, đồ đệ Huỳnh Mi tăng. Hiện giờ về nội lực Đoàn Dự không thua kém Huỳnh Mi và Thạch Thanh Tử. Chỉ có rằng chàng chưa biết cách vận dụng và phát huy ra mà thôi. Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử vận chân khí vào người Đoàn Dự, sức thần công của chu cáp hút lấy. Cơ sự này do mệnh hệ Đoàn Dự xui nên, gặp được hai tay cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm tự nguyện vận chuyển nội lực vào trong người chàng. Nếu là trường hợp ngẫu nhiên thì dù hấp lực của chu cáp có mạnh đến đâu hai ông ít ra cũng còn đủ lực để thoát thân.

Huỳnh Mi luyện nội công theo lối thuần dương, lấy cương làm tiêu chuẩn. Trái lại, Thạch Thanh Tử theo lối thuần âm, lấy nhu làm tôn chỉ. Hai vị một tăng, một đạo, tôn giáo đã khác nhau, bản lãnh về nội công lại người âm kẻ dương hai ngả, chả trách không bao giờ hai vị hòa hoãn với nhau được.

Hai vị tống chân khí vào người Đoàn Dự hồi lâu, cảm thấy trong mình trống trải. Nhưng lần này chân khí thoát đi chẳng khác gì đá chìm biển cả, không thu về được nữa. Hai vị cùng tranh nhau thủ thắng, càng gắng sức phóng kình lực cho mau. Chẳng mấy chốc Huỳnh Mi tăng thấy người bả lả vì nội lực cạn dần, biết rằng việc này lỡ bét nếu còn vận thêm lúc nữa thì nội công trong người sẽ hết sạch sành sanh liền ngẩng đầu lên nói với Thạch Thanh Tử :

- Thạch đạo huynh! Vụ này xem ra nhiêu khê lắm! Ta hãy dừng tay xem sao đã.

Chính Thạch Thanh Tử cũng cảm thấy khó chịu và cũng muốn đình bãi nhưng vốn tính hiếu thắng, nghĩ thầm : "Thế là anh chịu mở miệng xin buông tha rồi đây" liền đáp :

- Nếu đại sư không đủ nội công thì xin cứ việc mà rút lui trước đi. Bần đạo chẳng dám cưỡng ép con người bất lực.

Huỳnh Mi cả giận nói :

- Gã thầy đạo mũi trâu kia! Công lực anh đến mức nào ta còn lạ gì mà anh lại muốn lên mặt anh hùng hảo hán cả với ta nữa ư?

Thạch Thanh Tử cũng tự biết công lực mình cùng Huỳnh Mi chẳng chênh lệch nhau mấy nỗi. Song lại nghĩ rằng Huỳnh Mi vừa mới dốc hết lực lượng ra sống mái với người ác nhất thiên hạ là thái tử Diên Khánh thì nội công tất bị hao tổn rất nhiều. Thật là cơ hội ngàn năm một thuở để mình có thể thắng được địch thủ cho thỏa nguyện bình sinh. Nếu bỏ lỡ cơ hội này thì từ giờ đến chết cũng không còn dịp nào để phân thắng bại nữa. Vì thế mà đạo nhân cố gắng chống chọi lúc nữa, buộc bên kia phải lùi bước trước để giữ phần thắng về mình. Nào ngờ Huỳnh Mi tăng xưa nay vẫn là người bụng dạ rộng rãi, tính nết khoan hòa, không muốn tranh hơi mà đối với Thạch Thanh Tử nhà sư lại kèn cựa từng tý, không chịu nhượng bộ một ly. Hai vị gắng gượng chịu đựng thêm lát nữa. Một mặt chân lực trong người Đoàn Dự càng lên cao, hấp lực càng mạnh, một đằng nhà sư và đạo sĩ cảm thấy tàn lực dốc ra tuồn tuột, không còn cách nào ngưng tụ lại được. Trong lúc cấp bách hai vị muốn tạm gác việc tranh đua thì đã không kịp rồi, thậm chí toan rút tay ra khỏi bàn tay Đoàn Dự cũng không đủ lực nữa. Tay bị dính chặt, chẳng khác gì bọn Phá Tham 6 người trước đây. Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đưa mắt nhìn nhau và cùng có ý hối hận. Sở dĩ lâm vào bước khốn cùng này chẳng qua vì chưa bỏ dứt được nết háo thắng mà ra. Giả tỷ thấy cơ sự bắt đầu nguy biến, rụt tay về ngay thì đâu đến nỗi?

Một lúc nữa nhà sư và đạo sĩ thần sắc lợt lạt, hơi thở yếu dần. Đoàn Dự có biết đâu cơ sự nhường này. Giả tỷ chàng hiểu rằng hai vị tiếp vận chân khí cho mình mà phải tổn thương đến nội lực của người thì chàng nhất định từ chối. Chàng vẫn tưởng rằng hai vị truyền nội lực để trừ tà tiêu độc cho mình cũng chẳng cần gì. Chân khí trong người chàng lên cuồn cuộn tựa nước triều dâng, mỗi lúc một bành chướng. Sau chàng mê man như người say rượu, tỉnh không tỉnh hẳn, ngủ chẳng ngủ cho. Hai vị tăng đạo lâm vào tình trạng nguy khốn mà chàng chẳng biết gì. Tình trạng này nếu còn kéo dài chừng nửa giờ nữa là Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử sẽ thành phế nhân.

Ngay lúc ấy cửa phòng mở ra, một người bước vào, vừa ngó mặt hai vị liền thất kinh la lên :

- Thôi hỏng to rồi!

Dứt lời cầm tay áo Huỳnh Mi giật ra đằng sau một cái, bật rời khỏi tay Đoàn Dự, rồi giật đến tay Thạch Thanh Tử ra, lẩm bẩm :

- Ta đã biết hai vị đụng đầu nhau là có chuyện nên vừa không trông thấy hai vị đâu liền đi kiếm khắp cả. Ai ngờ đã chui vào đây làm rùm?

Người mới vào đó chính là Bảo Định Đế. Nhà vua nhìn sắc mặt hai vị rồi bất giác than rằng :

- Hai người đã sống đến bằng này tuổi đầu, còn chi là không hiểu nữa? Thế mà hôm nay vì một chuyện tranh hơi để đến nỗi tổn hại bao nhiêu công lực.

Nhà vua cầm cổ tay Huỳnh Mi xem, thấy mạch chạy yếu quá, xem đến Thạch Thanh Tử cũng vậy thì lắc đầu lia lịa cho là hai người đi vào vết xe đổ cũ để xảy ra cơ sự nhường này. Ai ngờ nội lực hai bậc cao thủ đều bị cháu mình hút cả. Nhà vua lại quay sang nhìn Đoàn Dự, thấy cháu mình thiêm thiếp chưa tỉnh lẩm bẩm : "Hai vị lão hữu tỷ thí làm thằng bé bị hoạ lây". Vừa cầm mạch xem thì thấy nội lực chàng cực kỳ sung mãn, âm dương giao hợp, cương nhu điều hòa nhưng hấp lực rất mạnh làm giật cả tay mình lên.

Bảo Định Đế trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm : "Cứ xem tình hình này mà đoán thì nội lực hai vị tăng, đạo đã bị thu vào thân thể Đoàn Dự mất cả". Liền gọi nội thị dìu hai vị vào hai phòng riêng xa cách nhau để tĩnh dưỡng, đừng để hai vị gần nhau lỡ sinh tai vạ.

Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần xuất lĩnh tam công, tứ ác từ biệt Hoàng huynh cùng vợ con, theo Tuệ Chân, Tuệ Thiền sang chùa Thiếu Lâm. Tuy ông cũng băn khoăn về Đoàn Dự chưa khỏi bệnh nhưng đã có Hoàng huynh lo điều trị, cũng không có gì đáng ngại. Lúc ra đi, ông vào ngó con lần nữa, thấy chàng mặt mũi hồng hào, đang ngủ ngon giấc nên cũng vững dạ.

Bảo Định Đế tiễn hoàng đệ cùng các vị hảo hán rồi trở vào thăm Huỳnh Mi cùng Thạch Thanh Tử thì thấy đang tĩnh toạ. Sắc mặt Huỳnh Mi trắng bệch, người run lẩy bẩy còn Thạch Thanh Tử lại mặt đỏ nhừ vì hư hỏa bốc lên. Cả hai người đều do bị thương cực kỳ trầm trọng mà ra, nguyên khí hao tổn mất nhiều.

Nhà vua dùng phép Nhất Dương chỉ điểm vào các huyệt trọng yếu nhà sư và đạo sĩ, lại đem chân khí mình ra để chữa nội thương cho hai vị. Bảo Định Đế lại sang thăm Đoàn Dự. Vừa đến cửa phòng đã nghe tiếng "loảng choảng" không ngớt phát ra, do các đồ vật đổ vỡ. Gã nội thị giữ cửa Vương phủ, quỳ xuống tiếp giá, nét mặt đầy vẻ kinh hoàng, bẩm rằng :

- Thế tử... bị ma làm... đang nổi cơn điên.... hai quan thái y hiện ở trong phòng điều trị.

Bảo Định Đế gật đầu đẩy cửa bước vào, thấy Đoàn Dự đang khoa chân múa tay. Bất luận bàn ghế, ấm chén hay các đồ vật trần thiết chàng xô gẫy ngổn ngang, đập vỡ tan tành. Hai quan thái y lẩn tránh chạy cuống cả lên. Nhà vua tiến lại cất tiếng hỏi :

- Dự nhi! Con làm sao vậy?

Đoàn Dự vẫn tỉnh táo, chỉ vì chân khí trong người đầy rẫy dường như muốn xé thịt nứt da cho tràn bớt ra ngoài. Có tay đấm, chân đá, đập phá đồ đạc mới hơi thư thái một chút. Chàng thấy bá phụ vào liền gọi to :

- Bá phụ ơi! Cháu muốn chết đây!

Chàng vừa gọi vừa vung tay loạn xạ.

Bảo Định Đế hỏi :

- Con thấy trong mình thế nào?

Đoàn Dự dậm chân thình thịch đáp :

- Toàn thân cháu chỗ nào cũng mọng lên. Bá phụ cho lấy bớt máu trong người cháu ra!

Bảo Định Đế nghĩ bụng : "Hay là làm thử cách này xem sao?". Liền quay sang bảo quan thái y :

- Ngươi thử lấy bớt máu y ra!

Thái y vâng mệnh, mở cái hộp sành lấy ra một con đỉa. Đỉa là vật chuyên hút máu, dùng để chữa cho người ứ huyết rất tiện, người bệnh lại không đau đớn gì. Quan thái y cầm chặt tay Đoàn Dự, đặt mồm con đỉa vào đúng mạch máu. Quan thái y này không hiểu võ công, trong người ông chưa luyện thành chân khí, nội lực cho nên chạm vào người chàng không bị hút chặt như người có chân khí. Có điều con đỉa này đặt vào tay Đoàn Dự thì nó cựa quậy, không chịu nằm yên mà làm thế nào nó cũng không hút máu. Quan thái y rất lấy làm lạ, phải ráng sức giữ chặt nó. Nhưng chỉ được một lát, con đỉa giãy lên một cái rồi chết ngay. Quan thái y bất lực trước mặt nhà vua, vừa thẹn vừa sợ, mồ hôi trán nhỏ xuống tong tong, vội vàng lấy con đỉa khác ra nhưng rồi cũng bị chết như con trước.

Còn vị thái y thứ hai tỏ vẻ lo lắng tâu rằng :

- Khải tấu Hoàng thượng! Thế tử ngộ độc dữ quá, chất độc phát ra làm chết cả đỉa.

Ông có biết đâu rằng Đoàn Dự nuốt Mãng Cổ chu cáp rồi, bất luận rắn rết hay giống gì độc đến đâu cũng phải xa lánh. Đệ nhất độc là rắn còn phải khiếp phục huống chi là con đỉa.

Bảo Định Đế nghe thái y nói lại càng nóng ruột, phán hỏi :

- Thuốc độc gì mà ghê gớm đến thế?

Một quan thái y tâu :

- Theo ngu kiến hạ thần thì mạch thái tử nóng dữ quá tất là trúng phải nhiệt độc.

Quan thái y kia cãi :

- Không phải! Mạch thái tử âm hư thế là trúng hàn. Cần bốc thuốc nhiệt để điều hòa.

Sự thực thì trong mình thế tử một bên chứa nội lực thuần dương của Huỳnh Mi tăng, một bên lại chứa nội lực thuần âm của Thạch Thanh Tử. Hai quan thái y xem mạch tương phản nhau là bởi thế. Hai vị thái y này đã nổi tiếng danh sư nước Đại Lý. Nhà vua nghe hai vị danh y tranh luận hàn nhiệt với nhau mãi nghĩ thầm : "Tà độc trong mình Đoàn Dự rất là kỳ dị".

Bảo Định Đế lại thấy Đoàn Dự xé rách cả quần áo thì trong lòng ái ngại, nghĩ bụng : "Thật là một vấn đề cực nan giải, chỉ còn cách lên chùa Thiên Long thỉnh thị". Nhà vua liền bảo Đoàn Dự :

- Dự con! Ta đưa con lên bái yết mấy vị tiền bối, thế nào các người cũng có cách chữa cho con hết bệnh.

Đoàn Dự vâng lời. Chàng thấy mỗi lúc một khó chịu thêm, chỉ mong sao khỏi bệnh nên mặc áo dài vào đi ngay. Ra khỏi cổng phủ, chàng cưỡi riêng một ngựa theo Bảo Định Đế trông về hướng Tây Bắc mà đi.

Chùa Thiên Long ở trên đỉnh ngọn Thiên Long. Ngọn Thiên Long là ngọn chính trong dãy núi Thiên Long. Dãy núi này chạy từ mé Tây Bắc xuống vào đến nước Đại Lý là hết, trông tựa như hình một con rồng khổng lồ. Tổ tiên họ Đoàn táng ở núi này. Ngọn Thiên Long là đầu rồng, chùa Thiên Long dựng trên đầu rồng, thống lĩnh cả dãy núi, phong cảnh rất là hùng vĩ. Những Hoàng đế nước Đại Lý bỏ ngôi báu xuất gia đầu Phật đều quy y ở chùa này. Có thể nói chùa Thiên Long là chùa của Hoàng gia nước Đại Lý. Kể tất cả các chùa trong nước thì chùa Thiên Long tôn vinh hơn cả. Tuy nhiên đệ tử nhà Phật rất nhún nhường kiệm ước. Một khi nhà vua xuất gia rồi thì đến ngày sinh nhật, con cháu đều lên chùa làm lễ triều bái, mỗi lần đến triều bái đều đem dâng quý vật hoặc tiền bạc. Vì thế mà chùa xây rộng ra mãi. Cách kiến trúc của chùa này có phần tráng lệ hơn cả các ngôi chùa lớn ở Trung Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi... Nhưng vì ở mãi miền biên giới xa xăm nên không được nổi tiếng bằng các chùa ở Trung Nguyên.

Đoàn Dự theo bá phụ lên đến trước chùa, nhìn ánh dương quang chiếu vào các tấm kính pha lê ngũ sắc lợp trên nóc chùa cực kỳ sán lạn. Cổng ngõ, phòng ốc cũng uy nghiêm tráng lệ chẳng khác gì trong Hoàng cung nước Đại Lý. Bảo Định Đế thường thường lên chùa. Tuy nhà vua ở địa vị chí tôn trong một nước, song các vị cao tăng chùa này đều là tiền bối ngài cả nên cách tiếp đãi chỉ một lòng thánh kính chứ không câu nệ lễ nghi thái quá. Bảo Định Đế cùng Đoàn Dự trước hết vào yết kiến Thiên Nhân đại sư. Theo vị thứ ngoài trần tục thì đại sư đứng vào hàng thúc phụ nhà vua. Các người xuất gia không câu nệ lễ vua tôi mà cũng không cố chấp thứ bậc trong gia đình, làm lễ tương kiến một cách bình đẳng. Bảo Định Đế thuật vắn tắt nhưng đủ ý về chuyện Đoàn Dự trúng tà độc. Thiên Nhân đại sư trầm ngâm hồi lâu rồi nói :

- Hãy theo ta lên phòng mâu ni ra mắt bốn vị sư huynh, sư đệ.

Bảo Định Đế nói :

- Chúng tôi đến phiền nhiễu các vị đại hòa thượng, thực là lỗi lớn.

Thiên Nhân nói :

- Thế tử con Trấn Nam Vương là người kế vị sau này. Thân thế y có quan hệ đến hạnh phúc của trăm họ. Kiến thức và bản lãnh ngươi còn trên ta một bậc mà phải đến đây hỏi tất là một việc rất khó giải quyết.

Ba người theo dãy hành lang dài đi về phía Tây đến chỗ mấy gian phòng toàn bằng gỗ thông. Cả đến cột trụ hay ván ghép, cánh cửa nhất nhất để cả vỏ cây chứ không bào gọt, trông có vẻ thiên nhiên chất phác, so với Phật đường vàng son chói lọi thật khác xa nhau. Nhiều chỗ vách ván, cột trụ đã mục nát cả. Mấy gian nhà này trông tựa hồ những nhà của khách đi săn thú, ngụ trong một khu rừng hẻo lánh. Thiên Nhân đại sư vẻ mặt trịnh trọng chắp tay nói :

- A di đà Phật! Thiên Nhân nay có việc nghi nan khó bề giải quyết, đến quấy nhiễu ba vị sư huynh, sư đệ đây.

Trong nhà có tiếng đáp vọng ra :

- Xin mời phương trượng vào trong này!

Thiên Nhân từ từ đẩy cửa ra. Cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt, đủ tỏ là cửa này ít khi mở ra khép vào. Đoàn Dự theo sau phương trượng và bá phụ đi vào. Chàng vừa nghe phương trượng bảo đến ra mắt ba vị mà trong căn nhà lại thấy những bốn vị hòa thượng ngồi bốn ghế. Ba vị ngồi quay mặt ra ngoài thì hai vị gày đét, một vị tráng kiện khôi ngô. Đầu đằng đông lại còn một vị hòa thượng quay mặt vào tường vách, ngồi yên không nhúc nhích, thủy chung vẫn không ngoảnh mặt ra ngoài.

Bảo Định Đế nhận ra hai vị gày đét pháp danh là Thiên Quan, Thiên Tướng là sư huynh Thiên Nhân phương trượng. Còn nhà sư mặt mũi khôi ngô là Thiên Tham, sư đệ Thiên Nhân. Nhà vua chỉ biết ba vị cao tăng Quan, Tướng, Tham trong viện mâu ni chùa Thiên Long. Còn vị thứ tư quay mặt vào vách kia thì chưa biết là ai.

Bảo Định Đế khom lưng chào, ba nhà sư mỉm cười đáp lễ. Còn vị thứ tư không hiểu là đang tham thiền hay đang nhẩm kệ, không thể phân tâm được nên ai làm gì cũng mặc. Nhà vua đã hiểu nhiều về quy củ nhà Phật "mầu ni" có nghĩa là trầm lặng, vắng vẻ. Vậy ngồi trong mầu ni đường ít nói được chừng nào hay chừng ấy. Nhà vua tóm tắt bệnh trạng Đoàn Dự rồi nói :

- Cầu bốn vị đại đức chỉ đường cho!

Thiên Quan trầm ngâm suy nghĩ, lại đưa mắt nhìn Đoàn Dự hồi lâu rồi hỏi :

- Hai sư đệ nghĩ sao?

Thiên Tham nói :

- Mình có mất ít nội lực tưởng cũng không phương ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm.

Bảo Định Đế vừa nghe bốn chữ "Lục Mạch thần kiếm" bất giác giật mình nghĩ thầm : "Hồi mình còn nhỏ, ngẫu nhiên nghe gia gia nói đến ông tổ họ Đoàn ta có môn võ "Lục Mạch thần kiếm" uy mãnh vô cùng. Gia gia còn bảo môn này chỉ nghe thấy truyền miệng thế thôi, chứ chưa có bậc cao nhân nào hiểu biết công trình môn đó thần kỳ ra sao. Nay lại thấy Thiên Tham đại sư đề cập tới, chắc chắn là có môn kỳ công đó rồi". Nhà vua lại nghĩ rằng : "Xem chừng ba vị đại sư muốn đem nội lực tẩy độc cho thằng Dự, làm như vậy thì trở ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm của các vị. Khốn nỗi đến cả hai vị Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đồng thời ra tay giải độc cho y cũng không xong. Nếu không trông vào lực lượng của các vị đây thì làm sao chịu nổi?".

Nhà vua nghĩ vậy tuy trong lòng áy náy mà không dám mở miệng khước từ. Thiên Tướng hòa thượng không nói năng gì, đứng dậy cúi đầu, đứng xéo về góc Đông Bắc. Thiên Quan, Thiên Tham cũng mỗi người đứng ra một góc. Thiên Nhân phương trượng nói :

- Phúc đức! Thật là phúc đức.

Rồi cũng đứng ra góc Tây Nam. Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự :

- Bốn vị trưởng lão không tiếc tâm lực trừ tà giải độc cho con. Con mau khấu đầu bái tạ đi!

Đoàn Dự nhìn thần sắc và cử chỉ của bá phụ cùng bốn vị tổ sư biết công việc này cực kỳ nghiêm trọng lập tức phục xuống lạy mỗi vị một lạy.

Bảo Định Đế lại giục :

- Dự nhi! Ngồi xếp bằng lại! Dù có đau đớn hay ngứa ngáy cũng phải ráng chịu, đừng có hoảng hốt.

Đoàn Dự vâng lệnh ngồi yên.

Thiên Quan hòa thượng đưa ngón tay cái bên phải ra ngưng thần một chút rồi đặt lên sau gáy trấn trên huyệt "Phong Phủ" của Đoàn Dự, đem nội lực Nhất Dương chỉ ra phóng vào. Thiên Tướng hòa thượng điểm mạch "Tử Sang". Thiên Tham hòa thượng điểm mạch "Âm Duy". Thiên Nhân phương trượng điểm hai đường huyệt đạo "Xung Mạch" và "Đối Mạch". Bảo Định Đế điểm vào mạch "Âm Kiểu". Trong tám kinh mạch, năm vị để hở hai mạch "Dương Duy" và "Dương Kiểu" không trấn áp. Cả năm vị đều vận dụng phép Nhất Dương chỉ khu trục tà khí trong người Đoàn Dự, do hai mạch bỏ trống tiết ra ngoài. Năm tay đại cao thủ họ Đoàn này bản lãnh Nhất Dương chỉ xuýt soát như nhau, vận động nội lực năm đường nội công phát ra tiếng kêu vù vù, dốc vào cơ thể Đoàn Dự. Toàn thân chàng run lên bần bật rồi tựa như trời rét được phơi ra ánh nắng mặt trời trong người ấm áp thư thái vô cùng. Đoàn Dự hấp thụ nội lực của năm tay đại cao thủ mỗi lúc một nhiều. Bảo Định Đế cùng bốn nhà sư cảm thấy nội lực trong người mỗi lúc một trống rỗng thêm, thu về không được mà hấp lực bên người Đoàn Dự lại ghê gớm khác thường. Năm người đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc. Bất thình lình một tiếng quát ầm ầm vang dội, mọi người sợ run. Bảo Định Đế biết đó là tiếng một người trong cửa Phật có võ công vào hạng thượng thừa và mệnh danh là "Sư Tử Hống". Tiếng quát còn chứa một nội lực rất thâm hậu, có thể trấn áp được kẻ địch. Bỗng thấy nhà sư quay mặt vào vách cất tiếng nói :

- Nội nhật hôm nay bọn cường địch sẽ đến đây. Uy danh chùa Thiên Long mấy trăm năm nay đang bị đe doạ. Thằng nhỏ miệng còn hơi sữa trúng tà, trúng độc gì gì hãy bỏ đó. Trong lúc gấp rút này mà còn vì nó hao phí công lực một cách vô ích nữa ư?

Mấy câu nói cực kỳ oai nghiêm khiến người nghe phải lạnh gáy, không dám trái lệnh. Thiên Nhân phương trượng bẩm :

- Lời sư thúc truyền dạy rất phải.

Dứt lời vẫy tay trái một cái, năm người đồng thời lùi lại phía sau. Hấp lực "Chu Cáp thần công" trong mình Đoàn Dự tuy mãnh liệt thật nhưng đồng thời giữ cả năm tay đại cao thủ thế nào nổi?

Bảo Định Đế thấy Thiên Nhân kêu vị đó bằng sư thúc vội vàng cáo lỗi :

- Vãn bối không biết Khô Vinh trưởng lão ở đây, chưa kịp kính bái, tội nhiệt thật nặng.

Nguyên vị trưởng lão đây là một vị tiền bối vào bậc cao nhất trong chùa Thiên Long. Ít người trong chùa được thấy mặt trưởng lão. Bảo Định Đế cũng chỉ nghe danh chưa từng được bái kiến. Người ta đồn trưởng lão chỉ một mình luyện khô thuyền trong viện Song Thụ, hơn mười năm trời nay không ai nhắc đến, họ cho là trưởng lão viên tịch rồi.

Khô Vinh trưởng lão nói :

- Công việc phải tùy theo tầm quan trọng hoặc thời gian trì hoãn hay gấp rút của nó mà làm. Lời ước hẹn của Đại Luân Minh Vương chớp mắt đã đến. Đoàn Chính Minh ngươi coi xem sẽ rõ.

Bảo Định Đế ngạc nhiên nghĩ thầm Đại Luân Minh Vương trên Đại Tuyết sơn là một bậc Phật pháp uyên thâm, có dây mơ rễ má gì với bọn mình đâu?

Thiên Nhân phương trượng lấy trong bọc ra một phong thơ ánh vàng rực rỡ trao tay cho Bảo Định Đế. Bảo Định Đế đón lấy, cầm tay nhấc thấy khá nặng rất lấy làm kỳ. Thì ra phong bì làm bằng vàng dát mỏng. Trên phong bì dùng bạch kim khảm thành mấy chữ trắng viết theo lối chữ Phạn. Bảo Định Đế thông hiểu Phật học, đại ý chữ trên phong bì là : "Kính đệ phương trượng chùa Thiên Long".

Bảo Định Đế mở phong bì vàng ra, bên trong có một lá thư cũng bằng vàng dát cực mỏng. Thư cũng viết bằng chữ Phạn, đại ý nguyên văn như sau : "Ngày nọ tiểu Vương cùng Mộ Dung tiên sinh ở Cô Tô đến hội họp tại Thiên Tần đã cùng nhau kết mối thâm giao, đàm luận về võ công trên đời hiện nay. Mộ Dung tiên sinh có ngỏ lời rất lấy làm tiếc chưa được đọc cuốn kinh Lục Mạch thần kiếm của quý tự và biết quý tự rất tôn sùng cuốn kinh đó. Tiểu Vương vừa được tin Mộ Dung tiên sinh đã quy tiên rất đỗi xót thương. Để báo đáp tình tri kỷ, cầu xin quý tự cho Tiểu Vương quyển kinh đó để đốt trước mộ Mộ Dung tiên sinh. Trong ngày hôm nay sẽ đến lấy, xin chớ chối từ. Tiểu vương xin đem báu vật đến báo đền, chẳng dám lấy không. Đại tuyết sơn Đại Luân Minh Vương kính thư". Chữ trong thư cũng khảm rất tinh vi bằng bạch kim do tay thợ khéo và phải tốn bao nhiêu công phu cùng ngày giờ mới chế tạo thành bức thư. Hãy nói một cái phong bì. Hãy nói một cái phong bì, một lá thư như vậy cũng đã là bảo vật hiếm có, đủ biết Đại Luân Minh Vương là tay hào phóng xa xỉ đến mực nào rồi.

Bảo Định Đế vốn biết Đại Luân Minh Vương là Hộ quốc pháp vương nước Thổ Phồn. Cứ năm năm một lần Đại Luân Minh Vương lại mở đàn giảng kinh, thuyết pháp. Các vị cao tăng đại đức nước Thiên Trúc bên Tây Vực đều đến chùa Đại Luân trên núi Tuyết Sơn hội họp đông đủ để nghiên cứu kinh điển. Sau kỳ thuyết pháp ra về ai cũng hoan hỷ ca tụng Minh Vương. Bảo Định Đế lại nhớ trong thư Đại Luân Minh Vương có nói cùng Mộ Dung tiên sinh đàm luận võ công, kết bạn tri kỷ. Vậy thì hiển nhiên Minh Vương cũng là một tay cao thủ trong võ lâm. Hạng người đại trí tuệ không học võ thì thôi, khi họ đã đi vào đường đó tất nhiên không phải tay vừa.

Bảo Định Đế còn đang ngẫm nghĩ thấy Thiên Nhân phương trượng nói :

- Cuốn Lục Mạch thần kiếm là vật chí bảo của bản tự, lại là pháp yếu môn võ tối cao của họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh! Môn võ cao thâm của họ Đoàn nước Đại Lý hiện ở chùa Thiên Long đây. Ngươi là người trần tục thì dù là con cháu trong nhà nhưng những điều bí ẩn này cũng không thể tiết lộ cho ngươi biết được.

Bảo Định Đế nói :

- Thưa vâng! Điều đó vãn bối đã biết rồi

Thiên Quan nói :

- Chùa đây tàng trữ pho Lục Mạch thần kiếm kinh, ngay Chính Minh, Chính Thuần còn chưa hay, sao bọn Mộ Dung ở Cô Tô lại biết được?

Thiên Tham tức giận nói :

- Đại Luân Minh Vương đã nổi tiếng khắp thế gian là một vị cao tăng, sao lại không thông tình lý? Dám cưỡng ép bọn ta đòi lấy bảo kinh mà được bao giờ. Chính Minh cùng phương trượng sư huynh nên biết rằng nếu họ tử tế tất không đến mà họ đã đến là chẳng tử tế gì. Đây là một việc trọng đại, bọn ta không tác chủ được, phải thỉnh Khô Vinh sư thúc nắm vững đại cuộc cho.

Thiên Nhân lại nói :

- Chùa nhà có pho kinh này thật nhưng nói ra lại xấu hổ. Bọn ta đây đã không ai đủ tài lực để luyện thành môn võ trong sách thì chớ, cả những điều ảo diệu trong kinh cũng chưa hiểu nổi. Đại Luân Minh Vương biết đây có pho kinh này mà vẫn dám đến yêu sách thì ra y ỷ mình quá, không còn sợ gì môn tuyệt học của Lục Mạch Thần Kiếm nữa.

Khô Vinh lạnh lùng nói :

- Y không dám coi thường Lục Mạch thần kiếm đâu. Theo lời trong thư y rất kính phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh ao ước pho kinh này vô cùng. Đại Luân Minh Vương đã cân nhắc lắm đấy. Y biết trong chùa này không có cao nhân siêu quần xuất chúng, sách quý mà chẳng ai luyện nổi để đó thật uổng mà thôi.

Thiên Tham lớn tiếng nói :

- Nếu y ngưỡng mộ cuốn kinh, muốn cầu khẩn mượn về xem mình nể là bậc cao tăng cho mượn thì được, chẳng cho cũng thôi có phải tử tế không? Đằng này y lại bảo lấy về đốt đi cho kẻ đã chết rồi, thế mới đáng giận. Có phải y coi chùa Thiên Long ta chẳng ra gì cả?

Thiên Tướng thở dài than rằng :

- Sư đệ không nên vì thế mà đem lòng giận dữ. Ta xem Đại Luân Minh Vương không phải là hạng người càn rỡ. Đó chẳng qua vì y quá tình thiết tha với Mộ Dung tiên sinh mà ra. Hỡi ôi! Bạn vàng đã qua đời, không còn bao giờ được thấy mặt cố nhân, lòng quyến luyến khôn bề bộc lộ. Ý chừng y muốn bắt chước Ngô Quý Chi thuở xưa đem bảo kiếm treo trên mồ bạn.

Bảo Định Đế hỏi :

- Thiên Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh là người thế nào không?

Thiên Tướng lắc đầu đáp :

- Ta chưa từng quen biết, song cứ suy Đại Luân Minh Vương là nhân vật thế nào mà còn khiêm ngưỡng cũng đủ biết Mộ Dung tiên sinh tất phải là bậc phi thường.

Thiên Nhân phương trượng nói :

- Cứ lời sư thúc vừa xét đoán thì thế địch lợi hại vô cùng. Chúng ta không luyện mau những phép Lục Mạch thần kiếm thì e rằng kinh báu bị người cướp và Thiên Long tự đến phải thất điên bát đảo mất. Khổ một điều là luyện môn thần kiếm chủ chốt ở nội lực phi thường, không thể chỉ trong chốc lát mà nên. Chính Minh đừng tưởng bọn ta không quan tâm đến vụ thằng cháu Dự bị trúng độc đâu, chỉ e ai nấy nội lực đều bị tổn hại quá nhiều, cường địch lại sắp đến, không còn đủ sức lực để đối phó. Xem ra tuy y bị trúng độc nặng lắm đấy nhưng trong vài ngày chưa đáng lo ngại gì đến tính mạng. Hãy để y tĩnh dưỡng ở đây mấy bữa, nếu bệnh tình có biến chuyển, chúng ta sẽ liệu cách chữa trị. Chờ khi đuổi xong kẻ địch, chúng ta sẽ dùng toàn lực khu trục tà độc cho y. Vậy ngươi nghĩ sao?

Bảo Định Đế tuy rất lo cho bệnh tình Đoàn Dự, song Đế là người có kiến thức bao quát, nhà vua hiểu rằng chùa Thiên Long là căn bản của họ Đoàn nước Đại Lý, mỗi khi Hoàng gia gặp hoạn nạn là chùa lại dốc hết lực lượng ra cứu viện, chuyển nguy thành yên. Họ Đoàn nước Đại Lý lập quốc từ đời Ngũ Đại đến nay đã được 158 năm, trung gian bao lần phải chịu phong ba. Vậy mà xã tắc không bị nghiêng đổ phần lớn là nhờ ở chùa Thiên Long. Chùa có một mối quan hệ vô cùng trọng đại đến việc giữ vững kinh kỳ. Hiện nay chùa lâm vào tình trạng bất an thì có khác gì hoàng thành gặp cơn nguy biến? Nhà vua nghĩ vậy liền đáp :

- Phương trượng thực là nhân đức. Vãn bối cảm kích vô cùng. Trong công cuộc đối phó với Đại Luân Minh Vương liệu Chính Minh này có thể góp được phần nhỏ đường dây tơ sợi tóc nào chăng?

Thiên Nhân trầm ngâm một lát rồi đáp :

- Kể ra thì ngươi là tay cao thủ nhất trong những người họ Đoàn còn ở ngoài thế tục đó. Thêm ngươi vào chống địch, lực lượng sẽ tăng lên nhiều. Có điều để người tục tham dự vào việc tranh đấu giữa các đệ tử nhà Phật thì không khỏi bị Đại Luân Minh Vương cười bọn Thiên Long ta không có người.

Bỗng thấy Khô Vinh nói :

- Việc luyện Lục Mạch thần kiếm nếu cứ riêng biệt để một người thì đây không ai làm nổi. Vậy bọn ta phải tìm ra một phương pháp khôn ngoan : Mỗi người tập một mạch và phải có sáu người, lúc đối địch để một người ra tay, còn năm người kia đứng ngoài dồn nội lực vào tiếp viện. Chỉ cần một điều đừng để đối phương nhìn rõ cơ quan của mình là chế phục được bên địch. Kể ra cách này cũng không được chính đại quang minh nhưng tình thế gấp rút quá rồi, ta phải tòng quyền chứ biết sao bây giờ? Có điều chùa Thiên Long này tính đi tính lại không tìm đâu ra được sáu tay cao thủ, bản lĩnh tương đương nhau. Chính Minh ngươi đến thế là vừa vặn, nhưng ngươi phải xuống tóc, mặc áo thầy chùa vào mới được.

Trưởng lão càng nói càng hăng, tựa hồ lòng người rất là phấn khởi. Tuy nhiên giọng nói vẫn lạnh lùng.

Bảo Định Đế thưa :

- Chính Minh này vốn có chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có điều kỳ công về kiếm thần chưa biết mảy may nào cả.

Xem tiếp hồi hai mươi lăm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro