Thiên Long Bát Bộ 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

22-07-2009 02:59 PM

Hồi 12(b) : TÒNG THỬ TÚY 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Từng khi khắc khoải mơ người ngọc,

Nay càng say đắm mộng giai nhân.

*

* *

Đoàn Dự không còn cách nào tránh mặt, từ sau tảng đá bước ra vái một cái thật sâu nói:

- Tiểu sinh phụng mệnh phu nhân tại nơi đây trồng hoa trà không ngờ lại chạm mặt tiểu thư.

Chàng tuy vái dài nhưng mắt vẫn nhìn lên, sợ rằng tiểu thư sẽ buông một câu: “Ta không thích gặp đàn ông lạ” rồi quay mình đi mất, lỡ mất cơ hội thấy mặt cô ta.

Chàng vừa nhìn mặt cô gái, tai bỗng ù đi, mắt hoa lên, hai chân mềm nhũn, không tự chủ nổi khuỵu ngay xuống, nếu không cố gượng e đã rập đầu rồi, nhưng miệng vẫn buột ra:

- Thần tiên tỉ tỉ! Ta ... ta nhớ tỉ tỉ kể đâu cho xiết! Đệ tử Đoàn Dự bái kiến sư phụ.

Tướng mạo cô gái trước mặt giống hệt như pho tượng ngọc nơi động núi Vô Lượng không khác chút nào. Vương phu nhân trông đã giống pho tượng nhưng tuổi tác có khác lại cũng không đẹp bằng, còn thiếu nữ này ngoài quần áo phục sức ra, khuôn mặt, đôi mắt, chiếc mũi, đôi môi, trái tai, màu da, thân thể, chân tay không chỗ nào không giống, tưởng như ngọc tượng sống lại không bằng. Chàng trong những khi mơ mộng nghĩ đến pho tượng không biết bao nhiêu nghìn vạn lần, bây giờ thấy ngay trước mắt, không còn biết mình đang ở đâu, ở nhân gian hay đang ở trên trời?

Còn cô gái thì lại tưởng chàng bị điên, kêu lên một tiếng, lùi lại hai bước, sợ hãi nói:

- Ngươi ... ngươi ...

Đoàn Dự đứng thẳng lên, mắt nhìn trừng trừng vào cô gái, lúc này nhìn càng rõ hơn, bấy giờ mới biết, thiếu nữ so với pho tượng ngọc cũng có đôi phần khác biệt: pho tượng diễm lệ linh động trong thần tình có vẻ như thu hồn nhiếp phách người ta, còn cô gái trước mặt đây có vẻ đoan trang xen lẫn nét thơ ngây, ngoài hình dáng ra, pho tượng so với thiếu nữ này cũng linh hoạt hơn. Chàng bèn nói:

- Từ ngày được bái kiến tiên phạm thần tiên tỉ tỉ trong thạch động, tiểu sinh mừng thầm phúc lộc của mình không ít, ngờ đâu hôm nay lại còn được tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan. Thế gian quả có tiên thật, không phải là chuyện hoang đường.

Thiếu nữ quay sang nói với Tiểu Mính:

- Y nói chi rứa? Y ... là ai?

Tiểu Mính đáp:

- Y là gã đồ gàn A Châu, A Bích đưa tới. Y nói y biết trồng hoa trà, phu nhân cũng tin y nói nhăng nói cuội.

Cô gái hỏi Đoàn Dự:

- Anh đồ gàn, hồi nãy bọn ta nói chuyện với nhau, ngươi có nghe thấy không?

Đoàn Dự cười đáp:

- Tiểu sinh họ Đoàn, tên Dự, người Đại Lý, đâu có phải là anh đồ gàn. Thần tiên tỉ tỉ và Tiểu Mính tỉ tỉ đây nói chuyện, tôi vô ý nghe thấy cả. Thế nhưng hai vị cứ yên tâm, tiểu sinh nhất định không tiết lộ một câu nửa chữ, bảo đảm Tiểu Mính tỉ tỉ sẽ không bị phu nhân trách phạt.

Thiếu nữ mặt hơi sầm xuống nói:

- Ai cho ngươi tỉ tỉ muội muội gọi càn? Nếu ngươi không nhận mình là anh đồ gàn thì ngươi đã gặp ta bao giờ?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Nếu như tiểu sinh không gọi là thần tiên tỉ tỉ thì gọi là gì bây giờ?

Thiếu nữ đáp:

- Ta họ Vương, ngươi gọi ta là Vương cô nương được rồi.

Đoàn Dự lắc đầu:

- Không được! Không được! Trên đời này con gái họ Vương có hàng nghìn hàng vạn, người đẹp như tiên thế kia không lẽ chỉ gọi xuông ba chữ Vương cô nương? Thế thì phải gọi cô là gì nhỉ? Thật khó quá. Gọi cô là Vương tiên tử chăng? Xem ra có vẻ quê mùa quá. Hay là Mạn Đà công chúa? Đại Tống, Đại Lý, Liêu Quốc, Thổ Phồn, Tây Hạ nước nào chẳng có công chúa? Làm sao có người nào sánh được với cô đâu?

Thiếu nữ kia nghe chàng nói lảm nhảm, càng nghe càng thấy quả thực gàn dở, nhưng có điều nghe người ta hồn vía điên đảo ca tụng sắc đẹp mình, nên ít nhiều cũng cảm thấy sung sướng, mỉm cười nói:

- Cũng may cho anh, không bị mạ tôi chặt hai chân.

Đoàn Dự đáp:

- Lệnh đường phu nhân dung mạo cũng không khác gì thần tiên tỉ tỉ, có điều tính tình khác thường, hơi một tí là giết người, xem ra không xứng với dáng dấp thần tiên ...

Cô gái hơi nhướng mày nói:

- Thôi anh đi trồng hoa đi, đừng ở đây lải nhải nữa, bọn ta cũng có chuyện cần phải bàn.

Lối nói của nàng quả xem chàng như mọi người phu trồng hoa tầm thường khác. Đoàn Dự vẫn chẳng chịu thôi, chỉ muốn được nói chuyện với nàng thêm vài câu, được nhìn nàng thêm một vài lần nghĩ bụng: “Muốn cho nàng bằng lòng nói chuyện với ta thì chỉ có cách nói về Mộ Dung công tử, ngoài cách đó ra, chẳng có chuyện gì khiến nàng phải quan tâm”. Chàng bèn nói:

- Chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, trong chùa cao tăng hảo thủ không một nghìn thì cũng tám trăm, phần lớn đều tinh thông bảy mươi hai môn tuyệt kỹ. Lần này Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm bị người ta hạ độc thủ giết chết ở chùa Thân Giới, châu Lục Lương, nước Đại Lý, các hòa thượng cho rằng do tay Cô Tô Mộ Dung. Mộ Dung công tử một thân một mình mạo hiểm thật là bất ổn.

Cô gái quả nhiên giật mình, Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, trong bụng nghĩ thầm: “Nàng lo lắng cho gã tiểu tử Mộ Dung Phục kia như thế, nếu như nhìn vào mặt nàng, không chừng ta ghen tức đến chảy nước mắt mất”. Chàng thấy tà áo màu cánh sen của nàng hơi rung rung, rồi tiếng nói thánh thót như tiếng tiêu của nàng hỏi:

- Tại sao các hòa thượng chùa Thiếu Lâm lại đổ oan cho Cô Tô Mộ Dung? Anh có biết không? Anh ... anh cho tôi biết.

Đoàn Dự nghe lời nàng thiết tha năn nỉ, cũng thấy mềm lòng, đang định cho nàng hay những gì mình biết nhưng chợt nghĩ lại: “Những gì mình biết chẳng là bao nhiêu, chỉ biết Huyền Bi đại sư bị trúng phải Vi Đà Chử mà chết, ai ai cũng bảo đó là thuật “Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” trong thiên hạ chỉ có họ Mộ Dung ở Cô Tô có mà thôi. Bao nhiêu tình tiết đó chỉ vài câu là hết, mình nói xong là nàng lại giục mình đi trồng hoa, kiếm được đề tài khác nói chuyện với nàng thật không phải dễ. Thành ra mình phải nói dông nói dài, mỗi ngày chỉ nói một tí, huyên thuyên đông tây, không ra đầu đuôi gì, muốn dài là dài để nàng ngày nào cũng phải đến tìm ta, tìm không thấy là bồn chồn khó chịu”.

Chàng đằng hắng một tiếng nói:

- Bản thân tôi vốn không biết võ công, ngay cả những chiêu thế thật dễ dàng như Kim Kê Độc Lập, Hắc Hổ Thâu Tâm cũng chẳng biết, thế nhưng trong nhà có một người bạn, họ Chu tên là Chu Đan Thần, ngoại hiệu là Bút Nghiễn Sinh, trông người cũng văn nhược nho nhã như tôi, ai cũng bảo là một con mọt sách, vậy mà võ công ông ta thực là ghê gớm. Một hôm nọ tôi thấy ông ta gấp cái quạt, đổi ngược chiều, dùng cán quạt điểm vào đầu vai đại hán nọ nghe bịch một cái, anh chàng kia lập tức rúm người lại, sụm xuống như một cục đất nát, không còn động đậy gì được nữa.

Thiếu nữ nói:

- Ồ, đó là chiêu thứ ba mươi tám trong phép đả huyệt Thanh Lương Phiến, tên là Thấu Cốt Phiến, đảo ngược cán quạt đánh xéo vào huyệt Kiên Trinh. Vị Chu tiên sinh đó thuộc bàng chi của phái Côn Lôn, đệ tử Tam Nhân Quan, phái đó dùng phán quan bút còn ghê gớm hơn dùng cán quạt nhiều. Thôi anh đi thẳng vào chuyện chính đi, đừng nói chuyện võ công nữa.

Câu nói đó nếu như vào tai Chu Đan Thần, y thể nào cũng bội phục lạy phục xuống, thiếu nữ không những nói được tên thủ pháp y dùng, lại cả sư thừa lai lịch, võ học gia số cũng nói đâu ra đấy. Nếu như một võ học danh gia chẳng hạn như bá phụ Đoàn Dự là Đoàn Chính Minh hay phụ thân Đoàn Chính Thuần nghe thấy thể nào cũng hết sức kinh ngạc: “Làm sao một cô gái trẻ tuổi như thế, sao kiến thức võ học lại uyên bác rành mạch thế này?”. Thế nhưng Đoàn Dự hoàn toàn không biết võ công, cô gái kia thuận mồm nói ra, chàng cũng không để vào tai. Chàng cũng không biết cô gái nói đúng hay sai, chỉ chăm chăm nhìn vào đôi hàng mi hơi nhướng lên, đôi môi đỏ thắm mấp máy, đúng cũng được mà sai cũng chẳng sao, không để tâm.

Thiếu nữ hỏi lại:

- Thế vị Chu tiên sinh đó rồi ra sao?

Đoàn Dự chỉ vào một tảng đá bên cạnh hàng trúc nói:

- Câu chuyện này nói ra cũng dài, xin tiểu thư dời gót ngọc, đến ngồi trên tảng đá kia, để cho tiểu sinh được bẩm báo rõ ràng.

Thiếu nữ đáp:

- Sao anh cứ ba hoa chích chòe, không nói phứt ra cho xong? Tôi chẳng có hơi đâu mà ngồi nghe anh mãi.

Đoàn Dự đáp:

- Nếu như hôm nay tiểu thư bận thì ngày mai đi tìm tôi cũng được. Còn như ngày mai cũng bận, để vài ngày nữa cũng không sao. Miễn là phu nhân không cắt lưỡi tôi, tiểu thư có gì cần hỏi, nếu biết là tôi không dấu chút nào, nói cho kỳ hết.

Cô gái dậm chân một cái nhè nhẹ, quay đầu đi không nhìn đến chàng nữa hỏi Tiểu Mính:

- Phu nhân còn nói chi nữa không?

Tiểu Mính đáp:

- Phu nhân nói: “Hừ, tên ngỗ nghịch kia càng lúc càng loạn, đã gây thù chuốc oán với Cái Bang, lại đối đầu với cả chùa Thiếu Lâm, chỉ sợ rồi đây Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi chết ... chết không có đất mà chôn”.

Cô gái vội nói:

- Mẹ ta biết rõ biểu thiếu gia đang rơi vào cảnh ngộ hung hiểm, sao lại làm lơ không hỏi tới là sao?

Tiểu Mính đáp:

- Dạ phải. Tiểu thư, chỉ sợ phu nhân cho kiếm, tiểu tì xin kiếu thôi. Chuyện mới rồi, tiểu thư tuyệt đối đừng nói ra để cho tì tử còn được hầu hạ tiểu thư vài ba năm.

Cô gái nói:

- Ngươi cứ yên tâm không phải lo chi cả, lẽ nào ta lại hại ngươi hay sao?

Tiểu Mính cáo biệt ra đi, trên mặt lộ vẻ khiếp sợ, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Vương phu nhân giết người như ngóe làm cho ai cũng sợ mất vía”.

Cô gái khoan thai đi đến tảng đá xanh nhẹ nhàng ngồi xuống nhưng không gọi Đoàn Dự bảo cùng ngồi. Đoàn Dự cũng không dám tự tiện ngồi bên cạnh nàng, thấy khóm bạch trà ngay kề bên cô gái, còn hai cây kia thì hơi xa hơn, mỹ nhân sánh với danh hoa, quả thực xứng hợp nên thở dài một tiếng:

Người thì nghiêng nước nghiêng thành,

Bên hoa nổi tiếng một cành sánh đôi_.

Không được, không được! Năm xưa Lý Thái Bạch lấy hoa thược dược để so sánh với sắc đẹp của nàng Dương Quí Phi, nếu như ông ta có phúc được gặp tiểu thư thì mới biết rằng hoa kia tuy có rực rỡ nhưng làm sao biết giận hờn, biết nũng nịu, biết cười đùa, biết ưu tư, thực không thể nào bì kịp.

Thiếu nữ buồn bã nói:

- Anh cứ luôn mồm tấm tắc khen tôi đẹp, tôi chẳng biết anh nói thật hay không?

Đoàn Dự hết sức ngạc nhiên, nói:

- Ai không biết Tử Đô là đẹp thì đúng là không có mắt._ Đến đàn ông còn như thế, huống chi một người diễm lệ tuyệt trần như cô nương? Chắc là trong đời cô nghe nhiều người ca tụng quá rồi nên chán ngấy phải không?

Cô gái chậm rãi lắc đầu, trong ánh mắt dường như đầy nỗi u hoài, nói:

- Từ trước tới giờ chẳng ai bảo tôi đẹp hay không đẹp. Trong Mạn Đà Sơn Trang này, ngoài mạ tôi ra, toàn là tì nữ bộc phụ, họ chỉ biết tôi là tiểu thư, có ai để ý tôi đẹp hay xấu làm gì?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thế còn người ngoài thì sao?

Thiếu nữ ngạc nhiên:

- Người ngoài là ai?

Đoàn Dự đáp:

- Thế khi cô đi ra ngoài, người ta thấy cô đẹp như tiên trên trời, chẳng lẽ không tấm tắc khen ngợi, cúi đầu chào hay sao?

Cô gái nói:

- Tôi trước nay đã đi ra ngoài bao giờ đâu, ra để làm chi? Mẹ tôi không cho tôi ra ngoài. Tôi chỉ sang Hoàn Thi Thủy Các bên nhà cô tôi đọc sách thôi, chẳng gặp ai là người ngoài cả, bất quá chỉ có vài người bạn của anh ấy như Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Bao tam ca, Phong tứ ca, nhưng họ ... nhưng họ đâu có gàn gàn dở dở như anh.

Nàng nói tới đó bất giác mỉm cười. Đoàn Dự hỏi:

- Không lẽ Mộ Dung công tử ... y cũng chẳng nói cô đẹp bao giờ ư?

Cô gái chầm chậm cúi đầu, nghe một tiếc tích thật nhỏ, kế đến một tiếng tích nữa, mấy giọt nước mắt rơi xuống cỏ, trong trẻo lấp lánh, chẳng khác gì những giọt sương buổi sớm.

Đoàn Dự không dám hỏi thêm, cũng không biết nói thế nào để an ủi nàng. Một lát sau, thiếu nữ nhè nhẹ thở dài nói:

- Anh ấy ... anh ấy bận lắm, suốt cả năm, ngày nào cũng từ sáng tới tối có lúc nào ở không mô? Mỗi khi anh ấy gặp tôi, nếu không bàn luận võ công thì cũng nói chuyện quốc gia đại sự. Tôi ... tôi chán ghét võ công.

Đoàn Dự vỗ đùi, kêu lên:

- Đúng đó, đúng đó! Tôi cũng ghét học võ. Bá phụ và gia gia tôi bắt tôi học võ, tôi nhất định không học, đành phải len lén bỏ nhà ra đi.

Cô gái thở dài một tiếng, nói:

- Tôi vì muốn thỉnh thoảng được gặp anh ấy nên dù chán ghét võ công, cũng phải xem quyền kinh đao phổ, cố gắng nhớ trong lòng, để anh ấy chỗ nào không hiểu rõ tôi nói cho anh ấy nghe. Thế nhưng chính tôi thì lại không học, làm thân con gái mà múa đao đánh gậy, xem ra bất nhã ...

Đoàn Dự tự đáy lòng nức nở khen một câu:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Người đẹp thiên hạ vô song như cô, lẽ nào lại cùng người ta động thủ động cước, thật chẳng còn ra đâu vào đâu. Ối chà ...

Chàng đột nhiên nghĩ ra, câu nói đó xúc phạm tới mẹ ruột mình. Thiếu nữ không để ý đến chàng nói gì, nói tiếp:

- Từ nghìn xưa đến nay bao nhiêu triều đại vua chúa hôm nay ngươi giết ta, ngày mai ta giết ngươi, tôi thật không muốn biết đến làm gì. Thế nhưng đó là chuyện anh ấy thích nói đến nhất, thành ra tôi phải đọc sách để nói cho anh ta nghe.

Đoàn Dự lạ lùng:

- Vì sao cô lại phải đọc để nói lại cho anh ta nghe? Anh ta không đọc lấy được ư?

Cô gái lườm chàng, giận dỗi nói:

- Thế anh bảo anh ấy mù hay sao? Hay là anh ấy không biết chữ?

Đoàn Dự vội đáp:

- Không, không đâu! Tôi bảo anh ta là người tốt nhất trên đời, thế có được không nào?

Thiếu nữ bật cười nói:

- Anh ấy là anh họ tôi. Trong trang viện ngoài cô, dượng và anh ấy ra, rất ít khi có người ngoài. Thế nhưng từ khi dượng tôi qua đời, mạ tôi với cô tôi cãi nhau, thành thử ngay cả biểu ca mạ tôi cũng không cho qua nữa. Tôi cũng chẳng biết anh ấy có phải là người tốt nhất trên đời hay không. Người tốt hay người xấu tôi chẳng gặp ai bao giờ.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thế sao cô không hỏi cha cô?

Cô gái đáp:

- Cha tôi mất sớm, từ lúc tôi chưa ra đời, tôi ... tôi chưa từng gặp cha tôi bao giờ.

Đoàn Dự ồ lên một tiếng:

- Thế bà cô là chị của cha cô, còn ông dượng là chồng của bà ấy chứ gì? Anh ta ... anh ta ... là con của hai người đó phải không?

Thiếu nữ cười khúc khích:

- Nghe anh ăn nói lẩn thẩn làm sao ấy! Tôi là con của mẹ tôi, anh ta là biểu ca của tôi.

Đoàn Dự thấy câu chuyện khiến nàng bật cười, rất là cao hứng bèn nói:

- À, tôi hiểu rồi, chắc là biểu ca cô bận quá không có thì giờ đọc sách nên cô phải đọc giùm chứ gì?

Cô gái nói:

- Nói thế cũng đúng nhưng ngoài ra còn có nguyên nhân. Tôi hỏi anh, những hòa thượng chùa Thiếu Lâm vì cớ gì lại đổ oan cho biểu ca tôi giết người của họ?

Đoàn Dự thấy hàng lông mi dài của nàng còn lưu một giọt nước mắt, nghĩ thầm: “Người xưa có nói: Lê hoa nhất chi xuân đái vũ để ví với người đẹp đang khóc. Hoa lê tuy đẹp thật nhưng cây lê lại xù xì, sau trận mưa rồi, đóa hoa nào cũng đẫm nước, có phải quá đau lòng không? Chỉ có thể như Vương cô nương giống như đóa hoa trà điểm thêm giọt sương buổi sáng, thế mới thật là đẹp”.

Cô gái đợi một hồi thấy chàng không trả lời, bèn lay bàn tay chàng một cái nói:

- Anh sao rứa?

Đoàn Dự giật mình, nhảy dựng lên, kêu:

- Ối trời!

Thiếu nữ thấy chàng hoảng hốt vội hỏi:

- Chi rứa?

Đoàn Dự mặt đỏ bừng nói:

- Cô lấy ngón tay đâm vào lưng bàn tay, tôi lại tưởng là bị cô điểm huyệt.

Cô gái không biết là Đoàn Dự nói đùa, giương tròn đôi mắt nhìn chàng nói:

- Trên lưng bàn tay làm gì có huyệt đạo. Dịch Môn, Trung Chử, Dương Trì ba huyệt ở bên cạnh bàn tay, hai huyệt Tiền Khoát, Dưỡng Lão thì gần cổ tay, còn cách xa lắm.

Nàng vừa nói vừa đưa tay mình ra để chỉ cho Chàng. Đoàn Dự thấy ngón tay trỏ của nàng trông như búp măng, để lên lưng bàn tay phải trắng muốt, cảm thấy cổ khô, đầu óc quay cuồng, ấp úng hỏi:

- Cô ... cô nương, tên cô là gì?

Cô gái mỉm cười nói:

- Anh ni quả là lạ lùng. Được rồi, cho anh biết cũng được không sao. Nếu tôi không nói, A Châu, A Bích hai đứa a đầu kia cũng nói.

Nàng giơ ngón tay làm bút viết lên lưng bàn tay mình ba chữ: Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự kêu lên:

- Hay thật! Hay thật! Ngữ tiếu yên nhiên, hòa ái khả thân.

Chàng nghĩ thầm: “Mình phải nói chặn trước chứ nếu như nàng giống tính mẹ, đang nói cười vui vẻ, tự nhiên nổi cơn tam bành, bắt mình đi trồng hoa thì tên với người chẳng ăn khớp nhau tí nào”. Vương Ngữ Yên mỉm cười:

- Tên đặt thì ai mà chẳng hay. Trong sử sách có biết bao nhiêu người đại gian đại ác, tên lại nghe thật đẹp. Tào Tháo có tiết tháo gì đâu, Chu Toàn Trung thì lại đại bất trung. Tên anh là Đoàn Dự, tên tuổi anh có thật là vang lừng không? Hay lại chỉ là kẻ cô danh ...

Đoàn Dự liền chặn lời:

- ... điếu dự!

Hai người cùng cười khanh khách. Khuôn mặt xinh đẹp của Vương Ngữ Yên vốn dĩ nhuốm chút u sầu, bây giờ trông thật rạng rỡ càng tăng thêm vẻ kiều diễm. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu như ta ngày ngày được làm cho nàng vui thì trên đời này còn cầu gì hơn nữa?”.

Ngờ đâu cô gái chỉ vui được chốc lát rồi ánh mắt lại thoáng hiện một nỗi buồn u uẩn, nhỏ nhẹ nói:

- Anh ấy ... anh ấy lúc nào cũng nghiêm trang, chưa từng bao giờ nói chuyện chơi với tôi cả. Ôi! Nước Yên, nước Yên, không lẽ quan trọng đến thế hay sao?

Hai tiếng “nước Yên, nước Yên” lọt vào tai trong đầu Đoàn Dự chợt lóe lên, bao nhiêu những mảnh vụn chợt liền lại thành một chuỗi: nào là họ Mộ Dung, Yến Tử Ổ, Tham Hợp Trang, Yên quốc ... chàng liền buột miệng:

- Phải chăng Mộ Dung công tử là hậu đại của giòng Mộ Dung Tiên Ti thời loạn Ngũ Hồ? Y là người Hồ, không phải người Trung Quốc?

Vương Ngữ Yên gật đầu:

- Đúng vậy, anh ta là vương tôn nước Yên họ Mộ Dung nhưng đã mấy trăm năm rồi, cớ chi phải khắc khoải chuyện xưa của ông cha làm chi nữa? Không phải là người Trung Quốc, đến chữ Trung Quốc cũng không thèm học, sách Trung Quốc cũng không thèm đọc. Tôi không biết nữa, sách Tàu có gì không hay đâu? Có lần tôi hỏi anh ấy: “Biểu ca, anh bảo sách Tàu không hay, thế có sách Tiên Ti nào cho tiểu muội đọc chăng?”. Anh ấy nghe vậy nổi giận đùng đùng, hóa ra không có sách gì của người Tiên Ti cả.

Nàng chậm rãi ngước đầu lên, nhìn những đám mây trắng trôi lững lờ, nhỏ nhẹ nói:

- Anh ấy ... anh ấy hơn tôi mười tuổi, trước nay chỉ coi tôi như một cô em gái nhỏ, nên tôi nghĩ ngoài việc đọc sách, nhớ những võ công ra không còn biết gì khác. Anh ta có biết đâu, tôi đọc sách cũng chỉ vì anh ta, nhớ võ công cũng chỉ vì anh ta. Nếu không thà rằng tôi nuôi mấy con gà, đánh đàn, viết chữ còn vui hơn.

Đoàn Dự run run hỏi:

- Thế ra anh ta hoàn toàn không biết ... không biết cô có lòng như vậy sao?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Tôi có lòng với anh ấy, đương nhiên anh ta phải biết chứ! Anh ấy cũng thương tôi lắm, có điều ... có điều ... chúng tôi đối với nhau chỉ như anh em ruột, ngoài những chuyện nghiêm trang ra không bao giờ nói chuyện gì khác. Anh ấy chẳng bao giờ thổ lộ tâm tư, cũng chẳng bao giờ hỏi tôi bụng dạ ra sao.

Nói tới đây, đôi má Vương Ngữ Yên thoáng hiện sắc hồng, trong ánh mắt dường như có vẻ thẹn thùng. Đoàn Dự vốn cũng muốn nói chuyện vui với nàng đôi câu toan gặng hỏi: “Thế cô có tâm sự gì?” nhưng thấy nàng nhu mì e ấp nên không dám đường đột trêu ghẹo giai nhân, bèn nói:

- Chẳng lẽ cô chỉ nói chuyện về võ học với anh ta, không nói tới những khúc Tí Dạ Ca, Hội Chân Thi trong thi từ hay sao?

Chàng buột miệng nói ra chợt thấy hối hận: “Cứ để nàng thầm yêu trộm nhớ, tới đâu hay đó chẳng hơn sao? Lẽ nào ta lại vẽ đường cho hươu chạy như thế? Mình đúng là một thằng ngốc”. Vương Ngữ Yên lại càng ngượng ngập, vội nói:

- Ai ... ai lại thế? Tôi là khuê nữ con nhà gia giáo, lẽ nào nói tới những chuyện ... thơ văn đó để biểu ca coi thường mình sao?

Đoàn Dự thở phào nói:

- Phải, cô nói đúng lắm.

Trong bụng tự trách thầm mình: “Đoàn Dự ơi, ngươi thật chẳng phải là kẻ chính nhân quân tử chút nào”. Nỗi niềm đó của Vương Ngữ Yên trước nay nàng chưa từng nói với ai, chỉ giấu kín trong lòng một mình nghĩ, một mình mình hay, biết bao lần trăn trở, hôm nay gặp Đoàn Dự một người dễ tính đến đâu hay đó chẳng hiểu vì sao nàng lại mười phần tin tưởng, đem hết uẩn khúc trong lòng thổ lộ cho chàng hay. Thực ra, tấm lòng thầm yêu trộm nhớ biểu ca của nàng, A Châu, A Bích và cả đến Tiểu Trà, Tiểu Mính, U Thảo những đứa đầy tớ trong nhà ai cũng biết cả, có điều không dám nói ra thôi.

Nàng nói ra hết rồi, những nỗi sầu chất chứa trong tim vơi đi bèn nói:

- Tôi nói cho anh nghe nhiều chuyện không liên can gì mà chưa vào chuyện chính. Chùa Thiếu Lâm vì cớ gì làm khó biểu ca tôi?

Đoàn Dự thấy không còn có thể nói năng cù nhầy thêm được nữa đành kể:

- Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư có một người sư đệ tên là Huyền Bi. Môn võ công tinh diệu nhất của Huyền Bi đại sư là Vi Đà Chử.

Vương Ngữ Yên gật đầu:

- Đó là tuyệt nghệ thứ bốn mươi tám trong bảy mươi hai môn của chùa Thiếu Lâm, tất cả có mười chín chiêu chử pháp, khi thi triển cực kỳ uy mãnh.

Đoàn Dự nói tiếp:

- Huyền Bi đại sư đi đến Đại Lý chúng tôi, tại chùa Thân Giới ở Lục Lương Châu không biết vì sao bị người ta giết chết, thủ pháp đả thương chính là môn Vi Đà Chử sở trường của ông ta. Thành thử họ mới nói rằng, cái lối giết người đó chỉ có họ Cô Tô Mộ Dung mới có thôi, gọi là cái gì “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”.

Vương Ngữ Yên gật đầu:

- Nói thế nghe cũng có lý.

Đoàn Dự nói tiếp:

- Ngoài phái Thiếu Lâm ra cũng còn nhiều người khác muốn tìm họ Mộ Dung báo thù.

Vương Ngữ Yên hỏi:

- Còn những ai nữa?

Đoàn Dự đáp:

- Phái Phục Ngưu có một người tên là Kha Bách Tuế, môn võ công tuyệt nghệ của ông ta là Thiên Linh Thiên Liệt.

Vương Ngữ Yên nói:

- Ồ, đó là biến chiêu thứ tư trong hai mươi chín chiêu Bách Thắng Nhuyễn Tiên của phái Phục Ngưu, tuy chiêu pháp có kỳ lạ thực nhưng không phải là võ công thượng thừa, chỉ được cái lực đạo cực kỳ cương mãnh thôi.

Đoàn Dự nói:

- Ông ta chết vì một chiêu Thiên Linh Thiên Liệt, thành ra sư đệ vào học trò ông ta đang kiếm nhà Mộ Dung để trả thù.

Vương Ngữ Yên trầm ngâm rồi đáp:

- Kha Bách Tuế rất có thể do biểu ca tôi giết, còn Huyền Bi đại sư thì không phải đâu. Biểu ca tôi không biết sử dụng Vi Đà Chử, môn võ công đó luyện rất khó. Thế nhưng nếu anh có gặp biểu ca tôi thì đừng có nói là anh ấy không biết môn này, cũng chớ có nói là tôi bảo thế, anh ấy mà nghe được thì giận lắm đó...

Hai người vừa nói đến đây bỗng thấy hai người hấp tấp chạy đến, chính là Tiểu Mính và U Thảo. Gương mặt U Thảo cực kỳ kinh hoàng, thở không ra hơi lắp bắp:

- Tiểu thư, không ... không xong rồi! Phu nhân ra lệnh đem A Châu, A Bích hai người ...

Cô gái nói tới đây cổ họng nghẹn lại không ra hơi. Tiểu Mính vội tiếp:

- Đem hai người ra chặt hai tay phải vì tội dám tự tiện vào Mạn Đà Sơn Trang. Phu nhân lại bảo rằng nếu bà gặp hai con a đầu kia lần nữa thì sẽ chặt đầu. Bây chừ ... biết mần răng?

Đoàn Dự vội nói:

- Vương cô nương, cô ...cô mau tìm cách cứu họ đi!

Vương Ngữ Yên cũng thật là bối rối, nhíu mày nói:

- A Châu, A Bích là hai thị tì tâm phúc của biểu ca, nếu làm thương tổn đến thân thể họ, ta còn mặt mũi nào nhìn anh ta? U Thảo, bọn nớ ở mô?

U Thảo chơi rất thân với A Châu, A Bích nghe thấy tiểu thư có ý muốn cứu cũng cảm thấy có chút hi vọng vội nói:

- Phu nhân sai đem hai đứa xuống Hoa Phì Phòng_, tiểu tì đã xin Nghiêm bà bà hoãn lại một chút đừng ra tay vội, bây chừ đến xin phu nhân tha cho may ra còn kịp.

Vương Ngữ Yên nghĩ bụng: “Xin với mẹ ta tha cho thật khó mà được. Thế nhưng ngoài cách đó không còn cách nào khác”. Nàng bèn gật đầu cùng U Thảo, Tiểu Mính hai tì nữ đi ngay. Đoàn Dự nhìn theo tấm lưng uyển chuyển của nàng, tính chạy theo nói mấy câu nhưng vừa dợm bước thấy mình chẳng còn gì để nói, đứng ngẩn ngơ, nghĩ lại câu chuyện mình cùng nàng vừa trao đổi bỗng dưng đờ đẫn.

Vương Ngữ Yên hấp tấp đi lên phòng trên thấy mẹ đang ngồi nghiêng nghiêng dựa lưng trên giường, ngắm một bức tranh hoa sơn trà trên tường đến xuất thần, vội gọi khẽ một tiếng:

- Mạ!

Vương phu nhân chậm rãi quay đầu, gương mặt đanh lại nói:

- Con muốn nói chuyện chi? Nếu liên quan đến nhà Mộ Dung thì ta không nghe đâu nhé.

Vương Ngữ Yên nói:

- Thưa mạ, A Châu và A Bích lần này có phải cố ý đến đâu, xin mạ tha cho bọn chúng một chuyến.

Vương phu nhân hỏi lại:

- Mần răng con biết chúng không phải cố ý đến? Ta chặt tay hai đứa nớ, con sợ biểu ca con không nhìn con nữa chớ gì?

Vương Ngữ Yên nước mắt rưng rưng nói:

- Biểu ca là cháu của cha con, mạ ... mạ ... sao ghét anh ấy quá vậy?_ Nếu như cô có đắc tội với mạ, mạ cũng đừng vì thế mà giận lây đến biểu ca.

Nàng thu hết can đảm nói được mấy câu đó, trống ngực đánh thình thình, thấy mình sao quả là liều mạng đám mở lời chống báng lại mẫu thân. Đôi mắt Vương phu nhân như một luồng điện lạnh lẽo quét qua mặt con mấy lần lặng thinh không nói gì cả rồi nhắm lại. Vương Ngữ Yên sợ quá không dám thở mạnh, không biết trong bụng mẹ mình định thế nào. Một lúc sau, Vương phu nhân mở mắt ra nói:

- Mi làm sao biết được cô ngươi đắc tội với ta? Mụ ta đắc tội thế nào?

Vương Ngữ Yên thấy giọng mẹ lạnh như tiền, sợ đến mất mật không sao trả lời được. Vương phu nhân nói:

- Mi giỏi lắm! Bây giờ mi lớn rồi không còn nghe ta nữa phải không?

Vương Ngữ Yên vừa tức tối vừa hoảng hốt, nước mắt ròng ròng chảy xuống, nghẹn ngào nói:

- Thưa mạ, mạ ... mạ giận cô như thế thì hẳn là cô có điều gì không phải với mạ. Thế nhưng không phải thế nào, mạ có bao giờ nói cho con nghe đâu. Bây giờ cô qua đời rồi, mạ ... mạ đừng nhớ chuyện cũ làm gì nữa.

Vương phu nhân gắt:

- Con nghe ai nói vậy?

Vương Ngữ Yên lắc đầu:

- Mạ chưa hề nói với con, cũng chẳng cho ai vào đây, con nghe ai nói bây giờ?

Vương phu nhân thở dài một tiếng, khuôn mặt đang gay gắt bỗng chùng lại, giọng cũng dịu xuống:

- Mạ làm thế cũng chỉ vì con thôi. Trên đời ngày người xấu thật nhiều, giết sao cho hết được, con còn nhỏ chỉ là một đứa trẻ ngây thơ tốt hơn hết không gặp kẻ xấu.

Nói đến đây bà chợ nhớ ra một chuyện, bèn nói:

- Gã trồng hoa họ Đoàn mới đến đây, mồm miệng lanh lợi, không phải là kẻ tốt. Nếu nó lân la nói với con một câu, lập tức sai thị tì giết ngay, không cho nói câu thứ hai, con nghe chưa?

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Nói gì một câu với lại hai câu, y nói chuyện với mình có đến cả trăm câu, hai trăm câu rồi”. Vương phu nhân nói:

- Sao? Coi bộ mặt hiền lành, bụng dạ nhân hậu như con không biết rồi đây sẽ phải chịu bao nhiêu khổ sở.

Bà vỗ tay hai tiếng, Tiểu Mính liền chạy vào. Vương phu nhân nói:

- Ngươi truyền lệnh ta, ai nói chuyện với tên trồng hoa họ Đoàn một câu thì cả hai đều bị cắt lưỡi.

Tiểu Mính thần sắc ngỡ ngàng, tưởng chừng như Vương phu nhân nói đây là chuyện giết con gà, con chó gì đó chứ không phải con người, dạ một tiếng rồi lập tức lui ra. Vương phu nhân quay sang con vẫy tay:

- Con cũng đi ra.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Dạ!

Nàng đi đến cửa, ngừng lại một chút, quay lại nói:

- Thưa mạ, xin mạ tha cho A Châu, A Bích bảo chúng nó từ nay không bao giờ được bén mảng tới.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

- Ta có bao giờ nói ra rồi lại không tính đâu? Con có nói thêm cũng vô ích.

Vương Ngữ Yên cắn răng, nói khẽ:

- Con biết vì sao mạ giận cô, vì sao mạ ghét biểu ca rồi.

Nàng nhè nhẹ dậm chân một cái định ra khỏi phòng. Vương phu nhân gọi giật lại:

- Quay lại!

Hai tiếng đó không có gì lớn nhưng đầy vẻ uy nghiêm. Vương Ngữ Yên quay trở vào, cúi đầu lặng thinh. Vương phu nhân chăm chăm nhìn làn khói xanh biếc trong chiếc lò hương lững lờ bay lên, hỏi nhỏ:

- Yên nhi, con biết những gì? Không được dấu mẹ, nói hết tất cả cho ta nghe.

Vương Ngữ Yên cắn môi nói:

- Cô trách mạ giết người bừa bãi, đắc tội với quan nha lại kết oán gây thù với võ lâm.

Vương phu nhân đáp:

- Đúng đó! Chuyện này là chuyện riêng của nhà họ Vương, có liên can gì đến nhà Mộ Dung đâu? Bà ấy bất quá chỉ là chị của cha con, có quyền hành gì mà ước thúc ta? Hứ, họ Mộ Dung mấy trăm năm nay, lúc nào cũng mơ chuyện “hưng phục Yên quốc”, tính chuyện liên lạc anh hùng hào kiệt để họ sai sử. Liên lạc chưa xong lại gây gỗ với người ta, đến cả Cái Bang và phái Thiếu Lâm cũng đắc tội với họ nữa.

Vương Ngữ Yên nói:

- Thưa mạ, Huyền Bi hòa thượng của phái Thiếu Lâm nhất định không phải do biểu ca giết, anh ấy đâu có biết ...

Nàng vừa toan đề cập đến ba tiếng Vi Đà Chử vội vàng nín bặt, nếu như mẫu thân tra hỏi ở đâu ra thì Đoàn Dự khó mà thoát khỏi cái họa sát thân nên nói trớ ra:

- ... võ công chưa tới được mức đó.

Vương phu nhân nói:

- Phải đó! Lần này y lên chùa Thiếu Lâm. Chắc là mấy con a đầu lắm chuyện đó kể cho con nghe chứ gì? Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong, gớm, tên tuổi lẫy lừng quá hỉ? Thế nhưng một Mộ Dung Phục, thêm gã Đặng Bách Xuyên lên chùa Thiếu Lâm thì làm được chuyện gì? Thật là không biết lượng sức mình.

Vương Ngữ Yên tiến lên mấy bước, khẩn khoản nói:

- Mạ ơi, sao mạ không nghĩ cách nào cứu anh ấy một phen, sai người tới tiếp ứng được không mạ? Anh ấy ... anh ấy là con trai duy nhất của dòng Mộ Dung, nếu như có gì bất trắc, Cô Tô Mộ Dung ắt sẽ không còn ai nối dõi.

Vương phu nhân cười khẩy:

- Cô Tô Mộ Dung, hừ, nhà Mộ Dung có liên can gì đến ta đâu? Bà cô mi nói Hoàn Thi Thủy Các tàng trữ sách vở còn nhiều hơn Lang Hoàn Ngọc Động của nhà này nữa cơ mà, thì để thằng con cưng Mộ Dung Phục của bà ấy đến chùa Thiếu Lâm đại hiển uy phong càng tốt chứ sao.

Vương Ngữ Yên mắt rưng rưng, cúi đầu đi ra, lòng ngổn ngang như mối tơ vò không biết phải tính sao, đi đến hành lang mé tây hiên, bỗng nghe tiếng người hỏi nhỏ:

- Cô nương, chuyện ra sao?

Vương Ngữ Yên ngẩng đầu nhìn lên, hóa ra Đoàn Dự, hoảng hốt nói:

- Anh ... anh chớ có nói chuyện với tôi.

Thì ra Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên đi rồi, tính gàn bướng nổi lên, mê mê mẩn mẩn đi theo cô gái. Chàng ở xa xa đứng chờ, đợi khi nàng từ phòng Vương phu nhân đi ra, lại lẽo đẽo đi theo. Chàng thấy Vương Ngữ Yên mặt mày ủ rũ, biết ngay Vương phu nhân không bằng lòng, liền nói:

- Nếu như phu nhân không đáp ứng, mình phải tìm cách khác.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mẹ tôi không chịu thì còn cách nào nữa mà hỏi? Bà ấy ... bà ấy ... nhất định thõng tay đứng ngoài mặc cho biểu ca gặp nguy nan.

Nàng càng nghĩ càng thêm xót xa, nhịn không nổi nước mắt lại ứa ra. Đoàn Dự nói:

- Ồ, nếu như Mộ Dung công tử đang gặp nguy nan ...

Đột nhiên chàng nghĩ ra một việc bèn hỏi ngay:

- Cô biết võ công nhiều như thế, sao không đích thân đi giúp cho anh ta?

Vương Ngữ Yên giương mắt chăm chăm nhìn chàng, dường như câu nói của Đoàn Dự là một chuyện kỳ quái nhất trên đời, một hồi sau mới nói:

- Tôi ... tôi chỉ biết võ công nhưng chính mình lại không biết sử dụng. Hơn nữa, tôi làm sao mà đi được? Mẹ tôi nhất định không bằng lòng đâu.

Đoàn Dự mỉm cười nói:

- Mẹ cô nhất định là không cho đi rồi, thế nhưng cô không len lén đi được hay sao? Tôi đã từng bỏ nhà ra đi, về sau quay về, cha mẹ tôi cũng không la rầy chi cả.

Vương Ngữ Yên nghe thấy chàng nói thế, xem ra có chút hi vọng thoát được bế tắc, đôi mắt sáng lên, nghĩ thầm: “Đúng đó! Ta len lén đi ra giúp biểu ca”. Nàng nghĩ đến mình sẽ vì biểu ca mà phải chịu khổ đau hoạn nạn, trong lòng vừa chua chát, vừa ngọt ngào, lại nghĩ: “Người này nói rằng anh ta đã từng lén bỏ nhà ra đi, ồ, sao trước nay mình chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này nhỉ?”.

Đoàn Dự liếc nhìn thần sắc nàng biết cô gái đã xiêu lòng nên càng hết sức thúc giục, khuyên:

- Thế cô quả chỉ sống trong Mạn Đà Sơn Trang, chưa từng ra ngoài nhìn thấy cuộc đời đầy hoa lệ kia hay sao?

Vương Ngữ Yên lắc đầu:

- Có gì phải đáng xem đâu? Tôi chỉ lo cho biểu ca. Có điều trước nay tôi chưa từng luyện võ, nếu như anh ta gặp nguy hiểm, tôi cũng không giúp được gì.

Đoàn Dự nói:

- Sao cô lại bảo là không giúp được gì? Giúp được nhiều lắm chứ. Khi biểu ca cô động thủ với người ngoài, cô chỉ cần đứng ngoài nói vài câu thì giúp cho anh ta nhiều lắm, cái đó gọi là “đứng ngoài sáng nước”. Mới đây chưa lâu tôi xem đánh cờ, người ta trông tưởng thua, tôi đứng ngoài chỉ cho vài nước liền lật ngược tình thế.

Vương Ngữ Yên nghe thấy thật có lý nhưng vẫn chưa đủ can đảm, ngần ngừ đáp:

- Tôi trước nay chưa từng ra khỏi cửa, đâu có biết chùa Thiếu Lâm ở nơi mô?

Đoàn Dự lập tức vớ ngay cơ hội nói:

- Để tôi đưa cô đi, trên đường có chuyện gì, một mình tôi đối phó cho.

Chàng vốn dĩ chẳng có bao nhiêu kinh lịch giang hồ nhưng lúc này đâu có dại gì mà nói ra. Đôi lông mày xinh xắn của Vương Ngữ Yên nhíu lại, nghiêng đầu trầm ngâm không biết tính thế nào cho phải. Đoàn Dự hỏi lại:

- A Châu, A Bích hai người ra sao rồi?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mạ tôi không chịu tha cho họ.

Đoàn Dự tiếp lời:

- Thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu như A Châu, A Bích bị chặt đứt một cánh tay, biểu ca cô thể nào cũng trách cô, chi bằng mình cứu hai người đó ra, cả bốn người cùng đi một lượt.

Vương Ngữ Yên le lưỡi nói:

- Nếu làm chuyện đại nghịch bất đạo như thế lẽ nào mạ tôi để yên? Anh ni thế mà to gan thật!

Đoàn Dự biết rằng ngoài biểu ca nàng ra không chuyện gì có thể lay chuyển được lòng nàng nên giả đò lấy thoái làm tiến nói:

- Nếu đã vậy thì mình phải đi ngay mới được, cứ để cho mẹ cô chặt tay A Châu, A Bích. Sau này nếu như biểu ca cô hỏi đến, cô cứ nói là không biết, tôi nhất quyết không tiết lộ chuyện này đâu.

Vương Ngữ Yên vội nói:

- Sao lại thế được? Như thế có phải là nói láo biểu ca sao?

Nàng trong lòng ngần ngừ nói:

- Ôi, Chu Bích nhị tì nữ là người tâm phúc, phục thị anh ta từ bé, nếu chuyện này xảy ra thì họ Mộ Dung với họ Vương nhà tôi thù oán ngày càng thêm sâu.

Nàng dậm chân một cái nói:

- Thôi anh đi theo tôi vậy.

Đoàn Dự nghe thấy nói “Thôi anh đi theo tôi vậy” thật mừng không để đâu cho hết, trong đời chàng chưa bao giờ nghe câu nào ngọt ngào đến thế, thấy nàng đi về hướng tây bắc liền lẽo đẽo theo sau. Chỉ trong giây lát, Vương Ngữ Yên đã đưa chàng đến một căn nhà đá lớn gọi:

- Nghiêm má má, bà ra đây ta có chuyện cần nói với mụ.

Chỉ nghe thấy từ trong nhà tiếng cười khịt khịt nghe thật quái đản, một giọng nói khàn khàn vọng ra:

- Hảo cô nương, cô đến xem Nghiêm má má làm phân bón đấy hỉ?

Đoàn Dự lúc nãy nghe U Thảo và Tiểu Mính nói A Châu, A Bích bị đưa xuống Hoa Phì Phòng, lúc đó chẳng để ý đến, lúc này nghe giọng nói lạnh lẽo đầy âm khí nhắc tới “phân bón” mới thấy giật mình: “Cái gì mà phân bón? Phải chăng phân để trồng hoa? Chao ôi! Vương phu nhân cực kỳ tàn nhẫn, giết người như ngóe lấy thịt người làm phân bón hoa trà. Không biết mình tới có trễ mất không, hai nàng Châu Bích bị chặt tay rồi thì biết làm thế nào đây?”. Tim chàng đập thình thình, mặt mày tái mét không còn một giọt máu.

Vương Ngữ Yên nói:

- Nghiêm má má, mạ tôi có chuyện muốn nói với má má, mụ đi lên ngay.

Người đàn bà trong thạch thất nói:

- Ta đang bận. Phu nhân có chuyện chi gấp gáp mà phải sai tiểu thư đến tận đây?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mạ ta hỏi ... ồ ... bọn nớ đến chưa?

Nàng vừa nói vừa đi vào trong phòng, thấy A Châu và A Bích hai người bị trói vào hai cái cột sắt, trong miệng bị nhét vật gì đó, đôi mắt rưng rưng nhưng không sao nói được. Đoàn Dự thò đầu vào thấy hai nàng chưa sao cả cũng an tâm phần nào, nhìn qua bên kia thì tim lại đập rộn lên. Chỉ thấy một mụ già lụm cụm tay cầm một con dao dài sáng loáng, bên cạnh là một vạc nước đang đun, hơi nước bốc lên ngùn ngụt.

Vương Ngữ Yên nói:

- Nghiêm má má, mạ tôi nói thả hai đứa đó ra có việc cần phải tra hỏi chúng cho rõ ràng đã.

Nghiêm má má quay đầu lại, Đoàn Dự thấy mụ mặt mày gớm ghiếc, ánh mắt đầy sát khí, hai chiếc răng nanh thò ra ngoài tưởng chừng như muốn cắn người ta, đủ biết bụng dạ tàn nhẫn đến chừng nào. Mụ ta gật đầu:

- Được, hỏi xong rồi lại đem xuống đây để chặt tay.

Mụ lẩm bẩm nói một mình: “Nghiêm má má ghét nhất là mấy đứa con gái xinh đẹp. Hai đứa ni có chặt tay rồi vẫn còn đẹp, ta phải nói với phu nhân phải chặt cả hai tay làm phân, lâu nay hoa không được tốt”. Đoàn Dự giận quá, nghĩ bụng mụ già này tác ác đa đoan, không biết đã giết bao nhiêu người, tiếc rằng mình trói gà không chặt, nếu không sẽ vả cho mụ ta mấy cái, đánh gãy răng mụ cứu hai nàng Châu Bích ra.

Nghiêm má má tuy già nhưng tai còn thính lắm, Đoàn Dự đứng bên ngoài thở mạnh liền bị mụ ta phát giác ngay, hỏi liền:

- Ai ở ngoài nớ?

Mụ thò đầu ra xem thấy ngay Đoàn Dự liền hầm hầm hỏi:

- Mi là ai?

Đoàn Dự cười nói:

- Ta là người trồng hoa của phu nhân, xuống hỏi Nghiêm má má, đã có phân mới chưa?

Nghiêm má má đáp:

- Mi chờ một chút sẽ có ngay.

Mụ ta quay sang nói với Vương Ngữ Yên:

- Tiểu thư, biểu thiếu gia thương hai đứa ni lắm phải không hè?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Phải đó, mụ không nên làm hại đến hai đứa đó.

Nghiêm má má gật đầu:

- Tiểu thư, phu nhân có dặn là, đem chặt tay phải của hai đứa a đầu này tống ra khỏi trang. Phu nhân còn nói thêm: “Từ nay nếu hai đứa mi còn để cho ta thấy mặt là ta chém đầu liền một khi”, có phải không nào?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Đúng đó.

Hai tiếng đó vừa ra khỏi miệng nàng biết ngay mình bị hố vội đưa tay che miệng. Đoàn Dự trong bụng kêu thầm: “Chao ôi! Cô tiểu thư này không biết nói láo rồi”.

Cũng may Nghiêm má má dường như già cả nên lú lẫn, không để ý chút nào đến sơ hở trên nói tiếp:

- Tiểu thư, giây trói ni chặt lắm, cô giúp mụ một tay cởi nó ra.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Được rồi!

Nàng tiến đến bên cạnh A Châu, đưa tay cởi giây trói trên cổ tay cô thị tì, bỗng nghe cách một tiếng, từ nơi cột sắt nảy ra một chiếc ngàm kẹp ngay chiếc lưng thon của nàng lại. Vương Ngữ Yên kêu lên một tiếng thất thanh, chiếc ngàm đó choàng vào lưng nàng tuy vẫn còn hở ra mấy tấc nhưng không thể nào thoát thân được.

Đoàn Dự kinh hãi vội vàng chạy vào quát lên:

- Mụ làm gì đó? Có thả tiểu thư ra không nào?

Nghiêm má má cười sằng sặc một cách quái đản nói:

- Phu nhân đã bảo còn gặp hai đứa a đầu này sẽ chặt đầu chúng nó ngay, sao lại còn gọi chúng lên tra hỏi? Phu nhân có biết bao nhiêu là kẻ ăn người làm, cớ chi phải sai tiểu thư đến? Việc này có nhiều điều gì khác lạ. Tiểu thư đợi ở đây một chút để ta đích thân đi lên hỏi lại phu nhân rồi tính sau.

Vương Ngữ Yên giận dữ nói:

- Sao mụ dám hỗn láo thế? Có mau thả ta ra không nào?

Nghiêm má má đáp:

- Tiểu thư, ta đối với phu nhân một dạ trung thành không bao giờ dám làm điều chi sai trái. Cô thái thái nhà Mộ Dung đối với phu nhân chẳng phải chút nào, nói xấu phu nhân nhiều điều, phỉ báng tiếng tăm thanh bạch của phu nhân, phu nhân lộn ruột đã đành mà bọn người dưới chúng ta cũng hận tận xương tủy. Ngày đó nếu như phu nhân chỉ gật đầu một cái, bọn ta lập tức quật mồ cô thái thái lên, lấy xương đem vào Hoa Phì Phòng để bón hoa. Tiểu thư, ta nói cho cô nghe, họ Mộ Dung chẳng có tốt lành chi đâu, hai con a đầu này phu nhân không thể nào tha chúng được. Thế nhưng tiểu thư đã nói vậy thì ta cũng cứ lên hỏi lại phu nhân rồi tính sau, nếu quả đúng là như thế lúc đó mụ sẽ khấu đầu tạ tội, cô đem gia pháp đập vào lưng trừng trị mụ cũng được.

Vương Ngữ Yên hoảng hốt nói:

- Này, này, mụ đừng lên hỏi phu nhân, mạ ta sẽ giận lắm đó.

Nghiêm má má không còn hoài nghi gì nữa, tiểu thư toan tính đánh lận phu nhân giả truyền hiệu lệnh để bảo vệ thị tì biểu ca. Mụ muốn thừa cơ lập công bèn nói:

- Hay lắm, hay lắm, tiểu thư chờ giây lát, ta lên rồi xuống ngay.

Vương Ngữ Yên gọi giật lại:

- Mụ chớ đi, thả ta ra đã rồi tính.

Nghiêm má má nào có để ý gì đến nàng, vội vã đi ra khỏi phòng. Đoàn Dự thấy tình thế cấp bách vội giang tay ra chặn đường mụ ta lại, cười nói:

- Ngươi mau thả tiểu thư ra rồi hãy đi hỏi phu nhân có được không? Mụ là người dưới, không nên đắc tội với tiểu thư.

Nghiêm má má hấp him đôi mắt ti hí, nghiêng đầu qua nói:

- Tên tiểu tử này xem ra cũng có điều gì quấy quá đây.

Mụ vươn tay chộp một cái bắt đúng ngay cổ tay Đoàn Dự lôi chàng xềnh xệch tới cái cột sắt, điều động cơ quan nghe cách một tiếng chiếc ngàm từ trong cột quặp ngay lấy lưng chàng. Đoàn Dự hoảng quá vội vàng lật tay nắm chặt cổ tay mụ nhất định không buông.

Nghiêm má má vừa bị chàng nắm được lập tức thấy nội lực của mình cuồn cuộn tuôn ra, quả thực khó chịu vô cùng, giận dữ quát lên:

- Bỏ tay ra!

Mụ ta vừa lên tiếng nội lực tuôn ra lại càng nhanh hơn, vội hết sức giằng ra nhưng không sao thoát được tay Đoàn Dự, trong bụng kinh hãi kêu lên:

- Xú tiểu tử ... mi làm gì thế? Có bỏ ta ra không nào?

Đoàn Dự đối diện với khuôn mặt xấu xí của mụ già hai bên chỉ cách nhau vài tấc. Lưng chàng đã bị trói chặt vào cây cột sắt, không cách gì có thể ngửng đầu lên, mắt thấy những sợi răng vàng khè nhọn hoắt của mụ tưởng như muốn ngoặp vào cổ họng mình, trong bụng vừa kinh hãi, vừa ghê tởm, nhưng biết rằng tình hình như nghìn cân treo trên sợi tóc, chỉ buông mụ ra thì Vương Ngữ Yên bị trách phạt đã đành mà chính mình cùng Châu Bích hai nàng cũng khó mà sống sót. Chàng đành nhắm mắt không dám nhìn mụ ta nữa. Nghiêm má má yếu ớt kêu:

- Mi ... mi có bỏ ta ra không nào?

Đoàn Dự lúc trước hút nội lực của bảy tên đệ tử phái Vô Lượng mất một thời gian lâu, về sau lại được thêm nhiều cao thủ cho thêm mỗi người một ít nên nội lực chàng càng lúc càng mạnh, sức hút của Bắc Minh thần công càng lúc càng lớn, nên bây giờ hút nội lực của Nghiêm má má chỉ một loáng là xong. Nghiêm má má tuy hung tợn thật nhưng nội lực chẳng được bao nhiêu, chưa đầy thời gian uống một chén trà thì đã thấy uể oải thở không ra hơi rền rĩ:

- Bỏ ... bỏ ta ra, bỏ ... bỏ ... tay ...

Đoàn Dự nói:

- Ngươi mau bấm cơ quan thả ta ra trước.

Nghiêm má má đáp:

- Được! Được!

Mụ ngồi thụp xuống giơ tay vận động cơ quan ở dưới bàn, nghe cách một tiếng chiếc ngàm đang câu quanh người Đoàn Dự thụt về. Đoàn Dự chỉ vào Vương Ngữ Yên và Châu Bích hai người ra lệnh cho mụ ta thả ra.

Nghiêm má má giơ tay bấm cơ quan để mở cho Vương Ngữ Yên, loay hoay một hồi nhưng vẫn không nhúc nhích gì cả. Đoàn Dự giận dữ nói:

- Mụ còn chưa chịu thả tiểu thư ra ư?

Nghiêm má má mếu máo nói:

- Ta ... ta không còn chút hơi sức nào nữa.

Đoàn Dự giơ tay luồn xuống bàn mò vào cơ quan ấn một cái nghe cách một tiếng chiếc vòng đang quặp vào lưng Vương Ngữ Yên từ từ tụt vào trong cột sắt. Đoàn Dự mừng lắm nhưng tay vẫn còn phải nắm chặt Nghiêm má má, cúi xuống nhặt chiếc dao dài cắt đứt dây thừng trói tay A Bích. A Bích cầm lấy con dao cắt dây thừng cho A Châu. Hai người móc hột đào nhét trong miệng ra, vừng mừng vừa sợ không nói được nên lời.

Vương Ngữ Yên giương mắt nhìn Đoàn Dự, thần sắc cực kỳ lạ lùng lại có vẻ khinh thị nói:

- Cớ sao anh lại biết sử dụng Hóa Công đại pháp? Môn công phu dơ bẩn đó học làm chi?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Đó không phải là Hóa Công đại pháp.

Chàng đang toan thuật lại chuyện mình nhưng một phần vì câu chuyện quá dài, hai nữa chưa chắc cô nàng đã tin chi bằng thuận miệng đặt cho một cái tên thì hơn, bèn nói:

- Đây là một công phu gia truyền của họ Đoàn nước Đại Lý chúng tôi tên là Lục Dương Dung Tuyết Công, rút ra từ Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm biến hóa mà thành, so với Hóa Công đại pháp thì một bên chính một bên tà, một bên thiện, một bên ác hai bên hoàn toàn không giống nhau.

Vương Ngữ Yên bấy giờ mới tin nở một nụ cười nói:

- Tôi xin lỗi, hóa ra tôi kiến thức hẹp hòi. Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý tôi đã ngưỡng mộ từ lâu, Lục Dương Dung Tuyết Công hôm nay lần đầu mới nghe nói tới, ngày sau thể nào cũng có lúc xin được dạy bảo.

Đoàn Dự thấy mỹ nhân mở mồm xin mình chỉ giáo, quả thật muốn còn chưa xong vội đáp:

- Tiểu thư có chuyện gì cần hỏi, tôi nguyện nói hết cho nghe không dám dấu diếm gì.

A Châu và A Bích có ngờ đâu khi đang nguy ngập lại có Đoàn Dự tới cứu, lại thấy chàng cùng Vương Ngữ Yên hai người nói năng có vẻ hợp nhau quả thật ngạc nhiên. A Châu nói:

- Cô nương, Đoàn công tử, đa tạ hai vị đã đến cứu. Mình nên bắt Nghiêm má má dẫn theo để mụ ta khỏi tiết lộ bí mật.

Nghiêm má má hoảng hốt nghĩ thầm nếu bị hai đứa a đầu này bắt đi, mười phần chết chín kêu lên:

- Tiểu thư, tiểu thư, cô thái thái nhà Mộ Dung nói là phu nhân đi cướp chồng người, còn nói cô ...

A Châu liền đưa tay bóp mồm mụ, tay kia cầm ngay hột đào mình vừa nhả ra nhét luôn vào mồm. Đoàn Dự cười nói:

- Hay lắm, cái đó đúng là môn phong nhà Mộ Dung, gọi là “gậy ông đem đập lưng ông”.

Vương Ngữ Yên nói:

- Bọn ta và các ngươi cùng đi xem ...

Nàng nói tới đây vẻ mặt thẹn thùng nói nhỏ:

- ... xem coi anh ấy ... anh ấy mần răng?

Nàng vốn dĩ do dự nhưng sau biến cố này cảm thấy quyết tâm hơn. A Châu mừng rỡ đáp:

- Nếu có cô nương đến tiếp viện, quả thật hay lắm. Vậy thì Nghiêm má má mình chẳng cần đưa theo làm gì.

Hai cô gái xách Nghiêm má má lên, kéo đến chiếc cột sắt, vận động cơ quan dùng ngàm sắt kẹp mụ ta lại. Bốn người lẳng lặng đi ra khỏi cửa, rảo bước đi về phía bờ hồ.

Cũng may trên đường không gặp người tì bộc nào, lên thuyền rồi A Châu, A Bích chèo ngay thuyền về phía mặt hồ. A Châu, A Bích và cả Đoàn Dự cả ba đều cố sức chèo cho nhanh, đến lúc quay lại không còn thấy chút hình ảnh cây cối nào của Mạn Đà Sơn Trang nữa bấy giờ mới thấy yên tâm. Tuy nhiên họ vẫn sợ Vương phu nhân cho khoái thuyền ra đuổi theo nên vẫn không dám ngừng tay.

Chèo một hồi lâu thấy trời đã sâm sẩm tối, khói tỏa trên mặt hồ mỗi lúc một dày, A Châu nói:

- Cô nương, nơi đây cách chỗ tì tử ở không xa, xin cô ghé nghỉ tạm một đêm, bàn lại với nhau xem cách nào đi tìm công tử, thế có được không?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Ồ, thế cũng được.

Nàng càng xa Mạn Đà Sơn Trang thì càng thêm trầm mặc. Đoàn Dự thấy gió trên hồ thổi vào tà áo nàng phất phơ, khi hoàng hôn xuống hơi lành lạnh, trong đầu bỗng nhiên cảm thấy thê lương, nỗi vui mừng khi vừa mới ra đi càng lúc càng vơi dần.

Lại chèo thêm một hồi, nhìn vào mặt những bạn đồng hành đã thấy đã mông lung, nơi chân trời phía đông thấy có ánh lửa thấp thoáng. A Bích nói:

- Bên chỗ đèn lửa kia chính là Thính Hương Thủy Tạ nơi ở của chị A Châu.

Chiếc thuyền nhỏ liền chèo thẳng về hướng đó. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cả cuộc đời này e rằng chẳng còn bao giờ được sống trong tình cảnh buổi hôm nay. Nếu cứ được trên con thuyền du ngoạn lang thang trên mặt hồ như thế này, không bao giờ đến được nơi có đèn lửa kia có phải sung sướng hay không?”. Ngay lúc đó trước mắt lóe lên, một ánh sao băng từ dưới chân trời bay xẹt ngang, vạch thành một cái đuôi dài.

Vương Ngữ Yên cúi đầu lẩm nhẩm gì đó, Đoàn Dự nghe không rõ. Trong bóng tối chàng nghe thấy nàng buồn bã thở dài. A Bích dịu dàng nói:

- Cô nương đừng lo, công tử trước nay gặp rủi hóa lành, chưa từng bao giờ gặp chuyện chi nguy hiểm.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Chùa Thiếu Lâm nổi tiếng đã mấy trăm năm qua ắt tài nghệ ghê gớm không thể nào lường được. Chỉ mong các vị cao tăng thông hiểu lý tình, chịu nghe biểu ca giãi bày mọi chuyện. Ta chỉ ngại rằng ... ngại rằng biểu ca tính khí cao ngạo, lời qua tiếng lại xung đột với các hòa thượng, ôi ...

Nàng ngừng lại một chút, nhỏ nhẹ tiếp:

- Mỗi khi ta thấy lưu tinh bay ngang trên trời, ta đều ước nguyện nhưng chưa bao giờ thành.

Người đất Giang Nam trước nay vẫn tin rằng, mỗi khi nhìn thấy sao băng bay ngang bầu trời, nếu như có ước muốn gì trước khi ánh sao tắt đi thì dù khó khăn đến đâu cũng được toại nguyện. Thế nhưng ánh sao chỉ xẹt ngang rồi tắt ngay, chỉ nói được mấy chữ thì sao đã qua rồi, thành thử muôn ngàn năm nay, trẻ em Giang Nam không biết bao nhiêu đứa ôm mộng trong lòng đã từng thất vọng. Vương Ngữ Yên tuy thông hiểu võ học thật nhiều nhưng phần tính tình nhi nữ thì một cô gái quê với một cô nương đất Thái Hồ có khác gì nhau?

Đoàn Dự nghe nàng nói mấy câu đó, trong lòng thấy thật xốn xang, biết rằng nguyện vọng của nàng ắt liên quan đến Mộ Dung công tử, cầu mong cho y bình an vô sự, vạn sự thuận lợi. Chàng chợt tự hỏi trên đời này có người con gái nào vì mình mà thầm ước nguyện gì chăng? Mộc Uyển Thanh trước đây yêu ta sâu đậm thật, nhưng từ khi nàng biết ta là anh trai nàng rồi ắt không còn được cái tâm tình cũ. Không biết trong những ngày vừa qua nàng ở đâu? Đã gặp được tình lang như nguyện chưa? Còn Chung Linh ư? Liệu nàng có biết ta cũng là anh nàng hay không? Dẫu cho không biết, thảng hoặc đôi khi nàng nghĩ đến ta, cùng lắm cũng chỉ rộn ràng trong chốc lát rồi qua đi chứ làm sao có thể canh cánh khắc khoải như Vương cô nương với ý trung nhân của nàng cho được?

datlucky_way

22-07-2009 03:00 PM

Hồi 13(a) : THỦY TẠ THÍNH HƯƠNG, CHỈ ĐIỂM QUẦN HÀO HÍ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Võ công thiếu đủ thế nào,

Nói đâu ra đấy quần hào ngẩn ngơ.

*

* *

Chiếc thuyền nhỏ chèo tới mỗi lúc một gần, A Châu bỗng nhiên nói nhỏ:

- A Bích, mi xem kìa! Hình như có chuyện chi hơi lạ.

A Bích gật đầu nói:

- Ồ, sao lại có nhiều đèn đuốc thế nhỉ?

Nàng cười khúc khích nói:

- A Châu a tỉ, người trong nhà chắc mở hội Nguyên Tiêu chăng? Không chừng đèn đuốc sáng choang để làm tiệc sinh nhật của tỉ tỉ đó.

A Châu lặng yên không nói gì, chỉ chăm chăm nhìn đèn lửa trên mặt hồ. Đoàn Dự nhìn từ xa xa, thấy đó là một cù lao nhỏ, trên có tám chín căn nhà, trong đó có hai căn có lầu, từ trong cửa sổ ánh đèn chiếu ra. Chàng nghĩ thầm: “Nơi A Châu ở có tên là Thính Hương Thủy Tạ chắc so với Cầm Vận Tiểu Trúc của A Bích không khác bao nhiêu. Trong Thính Hương Thủy Tạ chỗ nào cũng đèn đuốc thắp sáng, chắc tại A Châu thích náo nhiệt vui chơi”.

Khi chiếc thuyền còn cách Thính Hương Thủy Tạ chừng một dặm, A Châu ngừng chèo nói:

- Vương cô nương, trong nhà tiểu tì có kẻ địch.

Vương Ngữ Yên kinh hãi hỏi:

- Nói sao? Địch tới rồi ư? Ai thế?

A Châu đáp:

- Là kẻ địch nào chưa thể biết được. Thế nhưng cô nương thử ngửi xem mùi rượu nồng nặc như thế, hẳn là rất đông ác khách đang làm loạn trong nhà.

Vương Ngữ Yên và A Bích cố gắng hít mấy hơi nhưng không ai ngửi thấy gì. Còn Đoàn Dự chỉ nhận được mùi hương từ thân thể con gái còn ngoài ra những mùi khác thì chàng cũng chỉ như người thường mà thôi. Riêng A Châu có cái mũi đặc biệt mẫn cảm nói:

- Chao ôi! Chao ôi! Bọn chúng đánh đổ vò rượu Mạt Lị Lộ của tôi rồi, cả vò rượu Mai Quế Lộ nữa, thật đáng tiếc, đến cả vò rượu Hàn Mai Lộ chúng cũng uống sạch...

Nàng nói mà giọng nghẹn ngào như muốn khóc. Đoàn Dự hết sức lạ lùng hỏi:

- Sao mắt cô tinh thế nhìn được những chuyện đó hay sao?

A Châu ủ rũ đáp:

- Không phải vậy, tôi ngửi thấy đấy chứ. Tiểu nữ mất bao nhiêu công lao mới làm được những vò rượu mùi ấy, bọn ác khách kia chắc là đang chè chén rồi.

A Bích nói:

- A Châu tỉ tỉ, phải làm sao đây? Mình tránh đi chăng hay cứ tiến lên động thủ?

A Châu đáp:

- Không biết địch nhân có ghê gớm lắm không ...

Đoàn Dự nói:

- Đúng đó, nếu như gặp phải kẻ địch ghê gớm thì nên tránh trước là hơn. Còn như nếu chỉ là bọn tầm thường thì mình sẽ dạy cho chúng một bài học, để cho những trân vật của A Châu tỉ tỉ khỏi bị hư hao thêm nữa.

A Châu đang bực mình, nghe chàng nói nước đôi như thế liền nói:

- Tránh kẻ mạnh, dằn mặt kẻ yếu cái đó ai mà chẳng biết? Thế nhưng công tử làm sao biết kẻ địch ghê gớm hay tầm thường?

Đoàn Dự ứ họng không sao trả lời được. A Châu nói:

- Thế thì bọn mình cứ tới xem sao đã, nhưng có điều trước hết phải thay đổi áo quần, hóa trang thành dân đánh cá mới được.

Nàng chỉ về hướng đông nói:

- Đằng kia có một xóm chài, họ có quen tôi. Mình đến đó mượn y phục mặc tạm.

Đoàn Dự vỗ tay reo lên:

- Hay lắm! Hay lắm!

A Châu liền quạt chiếc giầm đổi hướng chèo về hướng đó, nghĩ đến hóa trang trong bụng phấn chấn, việc đang xảy ra trong nhà không còn làm nàng tức tối nữa. Trước hết nàng đến xóm dân chài mượn quần áo cùng Vương Ngữ Yên, A Bích ba người thay ra. Bản thân nàng giả làm một bà lão đánh cá còn Vương Ngữ Yên và A Bích thành hai mụ dân chài trung niên. Sau đó mới gọi Đoàn Dự qua, hóa trang chàng thành một ngư nhân chừng bốn mươi tuổi. Thuật dị dung của A Châu quả thật khéo léo dị thường, chỉ lấy bột mì, bùn đất đắp lên mặt bốn người chỗ này một chút, dán thêm chỗ kia một tị, chẳng mấy chốc mặt mày tuổi tác đều khác hẳn.

Nàng lại mượn thêm ngư thuyền, lưới đánh cá, cần câu, cá tươi các thứ rồi mới chèo về phía Thính Hương Thủy Tạ. Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên tuy tướng mạo có đổi thật nhưng giọng nói bộ điệu đầy những sơ hở, cái tài giả vờ của A Châu hai người không sao học được. Vương Ngữ Yên cười nói:

- A Châu, mọi việc đều do ngươi đứng ra đối phó, ta giả làm như người câm.

A Châu cười đáp:

- Phải lắm, cô nương cứ thế là xong.

Chiếc thuyền đánh cá từ từ chèo đến phía sau thủy tạ, Đoàn Dự thấy bốn bề đều trồng dương liễu nhưng từ trong nhà tiếng nói cười ầm ỹ từng chập vang ra. Bọn chúng ăn nói ồn ào thật không xứng với khung cảnh hoa cỏ u nhã, tinh xảo chút nào. A Châu thở dài ra chiều bất mãn. A Bích ghé tai nàng nói nhỏ:

- Chị A Châu ơi, đánh đuổi được kẻ địch đi rồi em sẽ giúp tỉ tỉ thu dọn.

A Châu đưa tay nắm tay nàng tỏ vẻ biết ơn. Nàng dẫn bọn Đoàn Dự ba người từ phía sau đi lên nhà bếp, thấy lão Cố nấu ăn đang bận tíu tít, mồ hôi đầm đìa, đang luôn mồm khạc nhổ vào trong chảo, rồi khuấy ngay lên, trộn những bãi đờm vào thức ăn. A Châu vừa bực mình vừa tức cười kêu lên:

- Lão Cố, ông làm trò gì thế?

Lão Cố giật bắn người, hoảng hốt:

- Ngươi ... ngươi ...

A Châu cười nói:

- Ta là A Châu cô nương đây.

Lão Cố mừng quá nói:

- A Châu cô nương, sao bọn khốn kiếp ở đâu kéo đến đông thế, chúng bắt lão phải nấu cho chúng ăn, cô xem này ...

Ông ta vừa nói vừa cười hềnh hệch hỉ mũi vứt vào trong rau. A Châu cau mặt hỏi:

- Ông nấu ăn bẩn thỉu thế đấy à?

Lão Cố vội nói:

- Đồ ăn cho cô nương, trước khi nấu tôi đều rửa tay thật kỹ. Bọn xấu xa kia ăn thì càng bẩn càng tốt.

A Châu nói:

- Lần sau tôi thấy đồ ăn lão làm chắc tôi rờn rợn chẳng dám ăn đâu.

Lão Cố vội phân trần:

- Không, không phải vậy đâu, hoàn toàn không phải.

A Châu tuy chỉ là sứ tì của Mộ Dung công tử nhưng ở Thính Hương Thủy Tạ nàng là chủ, cũng có tì nữ, nấu bếp, thuyền phu, người trồng hoa hầu hạ. A Châu hỏi thêm:

- Địch nhân có đông không?

Lão Cố đáp:

- Bọn tới trước chừng mười tám, mười chín người, còn bọn đến sau phải trên hai chục người.

A Châu hỏi:

- Tới hai đám ư? Bọn chúng là ai thế? Ăn mặc kiểu nào? Nghe khẩu âm ở vùng nào tới?

Lão Cố chửi liền:

- Cha tiên sư chúng nó ...

Ông lão vừa mở mồm biết mình lỡ lời vội đưa tay bịt miệng, vẻ mặt hoảng hốt nói:

- A Châu cô nương, lão Cố thật đáng chết! Tôi giận quá nên ... mất khôn. Cả hai bọn đểu giả này xem ra toàn là ăn cướp, một bọn từ miền Bắc xuống, một đám là người Tứ Xuyên đứa nào cũng mặc áo bào trắng, chẳng biết làm cái giống gì.

A Châu hỏi thêm:

- Bọn chúng đến kiếm ai? Có chém giết ai không?

Lão Cố đáp:

- Bọn trước đến kiếm lão gia, bọn quái nhân đếu sau thì kiếm công tử. Chúng tôi nói lão gia đã qui tiên rồi, còn công tử thì không có nhà, bọn nó chẳng chịu tin, tra xét ngõ trước vườn sau khắp mọi chốn. Các a đầu trong trang phải trốn hết, mình tôi nhịn không nổi, cái đồ ...

Ông lão định chửi nhưng tiếng thô tục vừa đến cửa miệng vội cố nén lại. A Châu thấy mắt trái lão Cố tím bầm, một bên mặt sưng vù, biết ông bị chúng đánh đập, thảo nào tức quá nhổ nước miếng, hỉ mũi vào đồ ăn, cho hả cơn tức.

A Châu trầm ngâm nói:

- Để ta lên xem thử, lão Cố nói chưa rõ ràng.

Nàng dẫn Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, A Bích từ cửa hông nhà bếp đi ra, đi ngang một dẫy hoa nhài, qua hai chiếc cửa vòng nguyệt đến bên ngoài hoa sảnh. Còn cách hoa sảnh chừng vài trượng đã nghe bên trong tiếng người huyên náo.

A Châu rón rén đến gần, giơ ngón tay chọc giấy trên cửa sổ, ghé mắt nhìn vào bên trong. Chỉ thấy trong đại sảnh đèn đuốc sáng rực nhưng chỉ chiếu phía mặt đông, độ mười tám mười chín đại hán vạm vỡ đang nhậu nhẹt tưng bừng, trên bàn chén bát la liệt, dưới đất ghế ngổn ngang, có người ngồi cả trên bàn, có kẻ tay cầm đùi gà ăn uống nhồm nhoàm. Có kẻ lại vung trường đao chặt thịt bò rồi dùng mũi dao xiên đưa lên mồm.

A Châu sang phía tây nhìn vào lúc đầu cũng chẳng để ý nhưng sau khi nhìn một hồi bỗng thấy ớn lạnh, lưng nổi da gà thấy hai chục người đó đều mặc áo dài trắng thản nhiên ngồi đó, trên bàn chỉ đốt một ngọn nến, ánh sáng chiếu ra chỉ độ vài thước chung quanh soi rõ mặt dăm bảy người ngồi gần, ai nấy mặt mũi trơ trơ, chẳng ra vẻ vui, cũng chẳng ra vẻ giận, trông chẳng khác gì quỉ nhập tràng. Những người đó chẳng nói năng gì, cũng chẳng cử động, nếu không thỉnh thoảng nháy mắt thì ai cũng bảo đó là những xác chết.

A Bích cũng đến gần cầm tay A Châu thấy tay nàng lạnh ngắt lại hơi run run nên cũng vội chọc thủng giấy trên cửa sổ nhìn vào, mắt nàng đối diện với một tên mặt vàng như nghệ. Gã đó trừng trừng nhìn vào nàng khiến cho A Bích hoảng hốt khẽ kêu lên một tiếng. Bình bình hai tiếng, cửa sổ vỡ tung, bốn người cùng nhảy ra, hai người là bọn phương bắc còn hai người khác là quái khách Tứ Xuyên cùng quát lên:

- Ai đó?

A Châu đáp:

- Chúng tôi vừa bắt được mấy con cá tươi đến hỏi lão Cố có muốn mua không? Cả tôm nữa hôm nay cũng còn đang nhảy lao xao đây!

Nàng dùng giọng Tô Châu, cả bốn người kia chẳng hiểu nói gì nhưng thấy cả bốn người ăn mặc theo lối dân chài, tôm cá cầm trong tay còn đang dãy dụa, không hiểu cũng phải hiểu. Một đại hán giựt con cá trong tay A Châu, lớn tiếng gọi:

- Nhà bếp đâu, nhà bếp đâu, mau đem nấu cháo ăn cho rã rượu.

Một gã khác cũng cầm ngay con cá trong tay Đoàn Dự. Hai người Tứ Xuyên thấy đó chỉ là bọn bán cá nên cũng chẳng để ý gì, quay người đi trở vào trong sảnh. Khi hai người đó đi ngang qua trước mặt A Bích, nàng ngửi thấy mùi hôi nồng nặc, nhịn không nổi phải giơ tay bịt mũi lại. Một gã người Tứ Xuyên liếc mắt thấy tay áo nàng tụt xuống để lộ cánh tay trắng nõn như mỡ đông, bụng liền nghi ngay: “Một mụ dân chài trung niên da dẻ lẽ nào lại trắng trẻo đến thế?”.

Y liền vung tay chộp lấy A Bích hỏi dồn:

- Mụ bao nhiêu tuổi rồi?

A Bích kinh hãi, vội hất tay y ra nói:

- Ngươi làm gì thế? Tính đánh nhau chăng?

Giọng nàng trong trẻo dịu dàng, cái vung tay lại cực kỳ nhanh nhẹn, gã Tứ Xuyên kia thấy cánh tay tê hẳn đi.

Thế là lập tức cả bọn bị lộ tẩy, nghe bốn người bên ngoài quát hỏi, ở trong nhà có đến hơn chục người chạy vội ra vây bọn Đoàn Dự lại. Một đứa giơ tay giựt bộ râu của chàng, chòm râu giả tuột ra ngay. Một đứa khác toan nắm lấy A Bích, bị nàng nghiêng qua đẩy cho một cái ngã lăn ra. Cả bọn kia liền lên tiếng quát tháo:

- Có gian tế! Có gian tế!

- Bọn chúng giả trang đó!

- Mau bắt chúng đánh cho một trận!

Lập tức có bốn tên chạy vào trong nhà bẩm cho người thủ lãnh ngồi ở phía đông:

- Diêu trại chủ, bắt được mấy tên gian tế ăn mặc giả trang.

Ông già nọ thân hình cao to, bộ râu muối tiêu dài đến ngực, quát lên:

- Bọn gian tế ở đâu đến đó? Lấp ló thậm thọt tính làm trò gì đây?

Vương Ngữ Yên nói:

- Giả làm bà già chẳng thích chút nào, ta không thèm làm nữa đâu.

Nói xong nàng giơ tay xoa mặt mấy cái, bao nhiêu đất cát bột mì nặn thành những nếp nhăn rơi xuống cả, cả bọn kia nhìn thấy một mụ dân chài trung niên biến ngay thành một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, ai nấy há hốc mồm, trợn tròn mắt, trong đại sảnh bỗng dưng không một tiếng động, bao nhiêu người khách Tứ Xuyên ngồi ở phía tây cũng nhìn chầm chập vào nàng.

Vương Ngữ Yên nói:

- Các ngươi cũng bỏ hết hóa trang đi!

Nàng quay sang nói với A Bích:

- Cũng tại ngươi nên làm lộ chuyện hết cả.

A Châu, A Bích, Đoàn Dự ba người liền gỡ hết những hóa trang trên mặt. Mọi người nhìn Vương Ngữ Yên, rồi nhìn sang A Châu, A Bích không ngờ trên đời này lại có những người mặt hoa da phấn, xinh đẹp tuyệt trần như thế.

Một lúc lâu sau, lão già to cao kia mới hỏi:

- Các ngươi là ai? Đến đây làm gì?

A Châu cười nói:

- Ta là chủ nơi đây, người ngoài lại hỏi ta đến đây làm gì không phải là lạ lùng sao? Các ngươi là ai? Đến đây làm gì?

Lão già kia gật gù:

- À, thì ra ngươi là chủ nơi đây, thế thì tốt lắm. Ngươi là tiểu thư nhà Mộ Dung chăng? Có phải Mộ Dung Bác là cha ngươi chăng?

A Châu mỉm cười đáp:

- Ta chỉ là một đứa a đầu, làm gì có phúc được làm con gái của lão gia? Các hạ là ai? Đến đây có chuyện gì?

Lão già kia thấy nàng xưng là con ở xem chừng không tin, trầm ngâm một chút rồi nói:

- Vậy ngươi đi mời chủ nhân ra đây ta sẽ cáo tri tại sao lại đến.

A Châu đáp:

- Lão chủ nhân chúng tôi đã qua đời rồi, còn tiểu chủ nhân đi vắng không có nhà. Các hạ có chuyện gì cứ bảo cho tôi cũng được. Tính danh các hạ là gì không lẽ cũng không cho biết được hay sao?

Lão già kia nói:

- Ồ, ta là Diêu trại chủ Diêu Bá Đương của Tần gia trại ở Vân Châu.

A Châu nói:

- Hâm mộ đã lâu.

Diêu Bá Đương cười nói:

- Ngươi chỉ là một cô gái nhỏ, biết gì mà hâm mộ ta đã lâu?

Vương Ngữ Yên nói:

- Vân Châu Tần gia trại nổi danh nhất về môn Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao. Năm xưa Tần Công Vọng tiền bối sáng chế ra sáu mươi tư chiêu thức Đoạn Môn Đao, nhưng hậu nhân quên mất năm chiêu, nghe nói chỉ còn truyền lại năm mươi chín chiêu thôi. Diêu trại chủ, ông học được bao nhiêu chiêu rồi?

Diêu Bá Đương giật mình buột miệng:

- Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần gia trại chúng ta nguyên thủy có sáu mươi tư chiêu, sao ngươi lại biết được?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Trong sách có chép như vậy, xem chừng không sai phải không? Năm chiêu bị mất là Bạch Hổ Khiêu Giản, Nhất Khiếu Phong Sinh, Tiễn Phác Tự Như, Hùng Bá Quần Sơn, còn chiêu thứ năm là gì nhỉ? Ồ là Phục Tượng Thắng Sư, có đúng không nào?

Diêu Bá Đương đưa tay vuốt râu, trong bản môn có năm chiêu tinh yếu nhất nay đã thất truyền, y cũng chỉ biết thế, nhưng chiêu số đó ra sao thì trong môn phái chẳng một ai biết được. Bây giờ nghe nàng nói ra vanh vách, y vừa kinh hãi, vừa nghi ngờ nên câu hỏi của nàng không sao trả lời được.

Một gã chừng ngoài ba mươi tuổi mặc áo bào trắng ngồi bên phía tây cất tiếng lạnh lùng nói:

- Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần gia trại bị thiếu mất năm chiêu, Diêu trại chủ đang lúc bận rộn nên không nhớ được. Chẳng hay cô nương xưng hô với Mộ Dung Bác Mộ Dung tiên sinh như thế nào?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mộ Dung lão gia là dượng của tôi, còn tôn tính đại danh các hạ là gì?

Người kia cười nhạt nói:

- Cô nương gia học uyên nguyên đã thông hiểu thấu đáo võ công của Diêu trại chủ. Vậy lai lịch của tại hạ cô nương đoán thử xem nào?

Vương Ngữ Yên mỉm cười nói:

- Vậy ông thử phô một chút thân thủ xem nào. Chỉ nói vài câu thì tôi chịu không thể đoán được.

Gã nọ gật đầu nói:

- Phải lắm.

Tay trái y vào ống tay áo bên phải, còn tay phải lại cho vào ống tay phải tưởng chừng như mùa lạnh người ta làm thế để cho ấm. Y lập tức rút tay ra, hai tay mỗi tay đã cầm một loại binh khí hình dạng lạ lùng, tay trái là một cái dùi sắt dài chừng sáu bảy tấc, mũi dùi lại cong cong, còn tay phải cầm một cái búa hình bát giác, cán búa dài cả thước, đầu búa cũng không to bằng nắm tay như đầu búa thường. Hai món binh khí đó be bé xinh xinh trông như đồ chơi của trẻ con xem chừng không dùng để giao đấu được. Những đại hán phương bắc ngồi bên phía đông nhìn thấy món binh khí cổ quái đó có mấy người cười rộ lên. Một gã nói:

- Thằng bé đất Xuyên đem đồ chơi ra cho bà con coi đấy mà!

Những người phía tây nghe nói thế ai nấy trừng mắt hầm hầm nhìn y. Vương Ngữ Yên nói:

- Ồ, đây là Lôi Công Oanh, các hạ hẳn là giỏi về khinh công và ám khí. Trong sách có viết Lôi Công Oanh là binh khí độc đáo của phái Thanh Thành ở Thanh Thành Sơn đất Tứ Xuyên. Chữ “Thanh” có chín miếng đánh, còn chữ “Thành” có mười tám phép phá thật là kỳ bí khó lường. Các hạ ắt hẳn phải là họ Tư Mã, đúng không?

Gã đó vốn mặt lầm lì nghe nàng nói mấy câu mặt liền biến sắc, luôn cả ba người ngồi bên cạnh y cũng lấm lét nhìn nhau, một lúc sau mới nói:

- Nhà Mộ Dung Cô Tô võ học uyên bác không ai sánh kịp, quả nhiên danh bất hư truyền. Tại hạ là Tư Mã Lâm, xin thỉnh vấn cô nương, có phải quả thực chữ Thanh có chín miếng đánh, chữ Thành có mười tám phép phá hay không?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Câu hỏi của ông hay lắm. Theo tôi thì chữ Thanh phải nói là có mười miếng mới thật là đúng, Thiết Bồ Đề và Thiết Liên Tử bề ngoài tuy giống nhau nhưng cách dùng hoàn toàn khác hẳn, không thể lẫn lộn thành một được. Còn như chữ Thành tuy nói là có mười tám cách phá nhưng Phá Giáp, Phá Thuẫn, Phá Bài ba loại chiêu số không có gì khác biệt hẳn, có vẻ như cố ý làm ra cho đủ số mười tám, thực sự thì nếu gom lại thành mười lăm hay mười sáu cách phá lại có vẻ tinh yếu hơn.

Tư Mã Lâm nghe nói mà há hốc mồm, võ công chữ Thanh y chỉ học được mới có bẩy miếng, việc phân biệt Thiết Liên Tử và Thiết Bồ Đề nào có biết gì đâu, còn ba cách Phá Giáp, Phá Thuẫn, Phá Bài là ba môn võ công y đắc ý nhất vốn vẫn được coi là tuyệt kỹ trấn sơn của phái Thanh Thành bây giờ cô gái này lại bảo phải gom làm một. Y lúc đầu thì kinh hãi thực nhưng sau đó chuyển qua tức tối nghĩ thầm: “Võ công của ta cũng như tên tuổi nhà Mộ Dung biết từ lâu rồi, họ định làm bẽ mặt mình nên đặt điều ra nói lăng nhăng, cho cô gái này ra phét lác đây mà”.

Y nghĩ vậy nên không nổi cọc chỉ thản nhiên nói:

- Đa tạ cô nương chỉ giáo khiến cho mỗ như được mở đám mây mù.

Y trầm ngâm một lát rồi quay sang kẻ phó thủ ở bên cạnh nói:

- Chư sư đệ, ngươi thử ra lãnh giáo cô nương này xem nào.

Chư Bảo Côn là một người đàn ông mặt mũi xấu xí rỗ nhằng rỗ nhịt, xem chừng còn lớn hơn Tư Mã Lâm vài ba tuổi, ngoài bạch bào y lại còn bịt đầu bằng vải trắng trông như người mặc đồ tang, dưới ánh nến mơ hồ thật đầy âm khí. Y đứng lên vòng tay vào tay áo rút ra một cái dùi và một cái búa, giống hệt Lôi Công Oanh của Tư Mã Lâm, nói:

- Thỉnh cô nương chỉ điểm.

Người đứng chung quanh ai cũng nghĩ thầm: "Binh khí của ngươi giống hệt của Tư Mã Lâm, cô gái này biết được Tư Mã Lâm lẽ nào lại không biết của ngươi hay sao?". Vương Ngữ Yên nói:

- Các hạ cũng sử dụng Lôi Công Oanh, chắc hẳn cũng ở trong phái Thanh Thành?

Tư Mã Lâm nói:

- Chư sư đệ của mỗ đái nghệ tòng sư. Nguyên bản là môn phái nào, mong được tuệ nhãn của cô nương xem thử ra sao?

Y nghĩ bụng: “Chư sư đệ vốn ở môn phái nào đến chính ta cũng không biết rõ, nếu như ngươi đoán ra được thì quả là lạ kỳ”. Vương Ngữ Yên tự nhủ: “Cái này quả là một việc khó khăn”.

Nàng chưa mở miệng thì Diêu Bá Đương bên phía Tần gia trại đã xen vào:

- Tư Mã chưởng môn, phải chăng ngươi mượn tay cô nương này để nói toạc bộ mặt thật của sư đệ, chẳng hay có dụng ý gì? Làm như thế có phải bẽ mặt nhau không?

Tư Mã Lâm ngạc nhiên đáp:

- Có gì mà bảo là bẽ mặt nhau?

Diêu Bá Đương cười nói:

- Lệnh sư đệ bây giờ mặt rỗ như tổ ong, điêu khắc cực kỳ tinh tế. Bộ mặt thật của y bây giờ đố ai biết nó như thế nào cho nổi.

Cả cánh bên phía đông đều phá lên cười sằng sặc. Chư Bảo Côn ghét nhất là ai nói đến mặt rỗ của y, nay nghe Diêu Bá Đương công nhiên châm chọc, làm sao có thể nhịn được? Y không cần biết tới Diêu Bá Đương là một tay có thế lực ở phương bắc, lại làm chủ một trại, chiếc dùi bên tay trái liền đâm ra nhắm thẳng vào ngực y, chiếc búa tay phải gõ vào chuôi dùi một cái, chỉ nghe rít lên, một món ám khí đã bắn vào người Diêu Bá Đương.

Tần gia trại và phái Thanh Thành từ khi mới đến Thính Hương thủy tạ đã có chiều không ưa nhau nên chẳng bên nào giữ lễ với bên nào, bên này lườm thì bên kia cũng nguýt lại, nếu bọn Vương Ngữ Yên không đến hai bên ắt đã choảng nhau. Diêu Bá Đương mở lời châm chọc bản ý vốn chỉ muốn khích bác đối phương, ngờ đâu người ta chẳng nói chẳng rằng đã ra tay ngay. Ám khí đó thật là thần tốc, trong cơn nguy cấp không kịp rút đao ra gạt, vội đưa tay chộp ngay cái chân nến trên bàn, nhắm thảng vào ám khí đập một cái, nghe cạch một tiếng bắn ngay lên xà nhà.

Thì ra đó là một mũi cương châm dài chừng ba tấc. Mũi kim đó tuy ngắn thật nhưng lực đạo cực kỳ mạnh mẽ, hổ khẩu Diêu Bá Đương tê đi, chiếc chân đèn rơi luôn xuống đất nghe kêu loảng xoảng.

Quần đạo bên Tần gia trại lật đật rút đao, hò hét vang dội:

- Bắn ám khí đả thương người đấy hả?

- Thế thì còn chó gì là anh hùng hảo hán?

- Đồ mặt dầy, con bà mày chứ! Thật vô liêm sỉ!

Một gã béo ị mồm miệng lại càng thô tục, đem mười tám đời tổ tông đối phương ra mà chửi bới. Cả bọn phái Thanh Thành trước sau vẫn lặng yên không nói một lời, coi những lời mạ lỵ của Tần gia trại như không nghe không thấy.

Diêu Bá Đương trong cơn hoảng hốt chụp vội cái chân đèn, trong chớp mắt như thế cầm không chắc, nhưng đối với một người đã tu tập mấy chục năm mà để một chiếc kim nhỏ xíu đánh rơi vật đang ở trong tay, theo qui củ võ lâm mà luận thì đã thua một chiêu, nghĩ thầm: "Võ công đối phương có chút tà môn, nghe tiểu cô nương này nói, phái Thanh Thành có chín miếng trong chữ Thanh, chắc toàn là công phu lén lút, lợi dụng khi người ta bất ngờ sẽ khiến cho địch bị thất thế". Y liền giơ tay ra hiệu cho thuộc hạ yên lặng, cười nói:

- Chiêu mới rồi của Chư huynh đệ quả là hay, mà cũng thật là âm độc! Cái đó tên là gì thế?

Chư Bảo Côn cười hắc hắc, không trả lời. Gã mập của Tần gia trại lại xen vào:

- Chắc tên là “mặt dầy không biết xấu, lén lút hại người”.

Một người trung niên cười nói:

- Thì người ta mặt thế kia không dầy thì là gì, chiêu đó tên nghe hay thật, đúng là tên sao người vậy, hợp lý quá, hợp lý quá!

Trong ngôn ngữ ra vẻ chọc ghẹo đối phương mặt rỗ. Vương Ngữ Yên lắc đầu, nhỏ nhẹ nói:

- Diêu trại chủ, ông làm thế không phải chút nào!

Diêu Bá Đương ngạc nhiên:

- Cái gì?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Ai cũng có lúc bệnh tật để rồi thương tàn đến thân thể. Khi còn nhỏ đi đứng sơ ý có khi ngã què giò thành khập khiễng. Giao đấu với người ta cũng thể chột mắt, cụt tay. Bằng hữu trong võ lâm có bị tổn thương gì cũng là chuyện thật bình thường, có phải không nào?

Diêu Bá Đương nghe vậy chỉ còn có nước gật đầu. Vương Ngữ Yên nói tiếp:

- Vị Chư gia này khi còn bé chẳng may bị bệnh nặng, trên người có tì vết, sứt sẹo thì có gì đáng cười? Nam tử hán đại trương phu, thứ nhất phải luận đến bụng dạ nhân phẩm, thứ hai là tài cán sự nghiệp, thứ ba là văn học võ công. Mặt đẹp hay xấu có liên can gì đâu?

Diêu Bá Đương không cãi vào đâu được đành chỉ cười ha hả nói:

- Lời của tiểu cô nương nghe ra thật có đạo lý. Nói gì thì nói cũng tại lão phu cười Chư huynh đệ là không phải.

Vương Ngữ Yên nhoẻn một nụ cười nói:

- Lão gia tử thản nhiên nhận lỗi, quả thực quang minh lỗi lạc.

Nàng quay sang Chư Bảo Côn lắc đầu nói:

- Không được đâu, cái đó không thể dùng được.

Nàng nói mấy câu đó thần tình vừa ôn nhu, vừa khuyến khích làm như cô chị nhìn thấy cậu em mô hôi mồ kê nhễ nhại làm chuyện gì ngoài sức của mình nên ra lời khuyên nhủ, giọng nói cực kỳ thân thiết.

Chư Bảo Côn nghe nàng nói trong võ lâm nếu như thân thể có thương tổn gì chăng nữa thì cũng là chuyện thường như cơm bữa, nam tử hán đại trượng phu phẩm cách công nghiệp mới là hàng đầu, trong lòng hết sức hả hê. Y cả đời vì mặc cảm mặt rỗ nên lúc nào trong bụng cũng uất ức không vui, xưa nay chưa từng nghe ai vì mình mà phân giải một cách thành khẩn, có lý như thế, thế nhưng đến sau nghe nàng nói mấy câu: “Không được đâu, cái đó không thể dùng được”, liền hỏi lại:

- Cô nương nói sao?

Y nghĩ bụng: “Cô nàng bảo môn Thiên Vương Bổ Tâm Châm của ta không thi hành được chăng? Không dùng được chăng? Cô ta có biết đâu trong cái dùi này có đến mười hai mũi cương châm. Nếu ta không ngừng tay đập luôn mấy cái thì đã lấy mạng tên già này rồi. Có điều trước mặt Tư Mã Lâm mình không nên tiết lộ những gì đang mưu tính”.

Lại nghe Vương Ngữ Yên nói tiếp:

- Môn Thiên Vương Bổ Tâm Châm của ông quả là một môn ám khí cực kỳ bá đạo ...

Chư Bảo Côn giật nảy mình, kêu “A” lên một tiếng. Tư Mã Lâm và hai cao thủ khác của phái Thanh Thành cũng ngạc nhiên kêu lên:

- Cái gì?

Chư Bảo Côn sắc mặt biến đổi nói:

- Cô nương sai rồi! Đây không phải là Thiên Vương Bổ Tâm Châm mà là ám khí của phái Thanh Thành chúng ta, phép đánh thứ tư trong chữ Thanh, tên là Thanh Phong Đinh.

Vương Ngữ Yên mỉm cười:

- Thanh Phong Đinh bề ngoài coi cũng giống thế. Ông bắn Thiên Vương Bổ Tâm Châm dùng khí cụ, thủ pháp y hệt như Thanh Phong Đinh. Thế nhưng ám khí bản chất không căn cứ vào hình dáng hay tư thế phát xạ mà là ở kình lực và thế đi. Mỗi khi bắn một mũi cương tiêu, phái Thiếu Lâm có thủ kình của phái Thiếu Lâm, phái Côn Lôn có thủ kình của phái Côn Lôn, không thể nào lẫn lộn được. Môn này của ông là ...

Đôi mắt Chư Bảo Côn bỗng dưng hung dữ lạ thường, đầy sát khí, chiếc dùi liền đưa lên ngang ngực, chỉ cần lấy búa gõ vào cán một cái thì cương châm sẽ bắn ngay vào người Vương Ngữ Yên. Trong số người chung quanh có quá nửa kêu toáng lên, mới đây thấy y bắn Diêu Bá Đương, thế đi rất nhanh, kình đạo thật mạnh, trong các loại ám khí hiếm thấy loại nào bằng được, hiển nhiên chiếc dùi đó rỗng có đặt lò so chứ sức người không sao có thể làm nổi. Huống chi mũi dùi lại cong cong, không ai ngờ rằng lại dùng để bắn ám khí, có biết đâu cái nòng nằm trong dùi lại thẳng tắp. Cũng may Diêu Bá Đương mắt tinh tay lẹ mới thoát được kiếp nạn, chứ còn như y bắn vào Vương Ngữ Yên thì một cô gái đẹp liễu yếu đào tơ thế kia làm sao tránh kịp? Thế nhưng Chư Bảo Côn thấy nàng xinh đẹp như thế không nỡ ra tay, lại thêm mới đây nàng biện giải cho mình trong lòng cảm kích nên quát lên:

- Cô nương, đừng có lắm lời mà mang họa vào thân.

Ngay lúc đó một người đã vọt lên chặn trước mặt Vương Ngữ Yên, chính là Đoàn Dự. Vương Ngữ Yên mỉm cười nói:

- Đa tạ Đoàn công tử. Chư đại gia, ông không ra tay giết tôi, cũng xin đa tạ. Thế nhưng dẫu ông có giết tôi chăng nữa thì cũng vô ích. Hai phái Thanh Thành, Bồng Lai đời đời thù hận, việc ông âm mưu hơn tám mươi năm trước, chưởng môn đời thứ bảy của quí phái Hải Phong Tử đạo trưởng đã từng thử qua. Tài cán võ công ông ta chắc không kém gì ông đâu.

Bọn người phái Thanh Thành nghe thấy nàng nói thế liền đưa mắt hầm hầm nhìn Chư Bảo Côn, ai nấy đều nghi ngờ: “Không lẽ y là môn hạ của kình địch sống mái với ta là phái Bồng Lai, trà trộn vào trong môn phái mình? Sao giọng y rặt Tứ Xuyên, không để lộ chút khẩu âm Sơn Đông nào?”.

Nguyên lai phái Bồng Lai và phái Thanh Thành, một phái hùng cứ một phương nơi bán đảo Sơn Đông, một phái ở bên Tây nhưng hơn một trăm năm trước cao thủ hai phái kết oán cừu, từ đó báo thù qua lại, giết nhau thật là thảm khốc. Hai phái đều có tuyệt nghệ riêng, khắc chế lẫn nhau, sở dĩ hiềm khích cũng chỉ vì đàm luận võ công mà nên nỗi. 

Sau mấy chục trận đại tranh đấu, đại cừu sát phái Bồng Lai lẽ dĩ nhiên không thắng được phái Thanh Thành mà phái Thanh Thành cũng không thể nào thắng được phái Bồng Lai. Lần nào tranh chấp cũng mãnh liệt, để rồi cao thủ hai bên đi đến chỗ lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận.

Hải Phong Tử, người mà Vương Ngữ Yên vừa nhắc đến là một nhân tài kiệt xuất của phái Bồng Lai. Ông ta chăm chỉ nghiên cứu các chỗ hay chỗ dở, sở trường sở đoản của cả hai môn phái, biết rằng với công phu tu luyện của mình, trong một đời này lấn được phái Thanh Thành không phải là chuyện khó. Thế nhưng sau khi mình qua đời rồi, nếu phái Thanh Thành có được một nhân vật thông minh tài trí thì lại có cơ hội lấn được phái mình. Thành thử nếu như chịu khổ một lần mà thoải mái muôn đời, thì chỉ có cách gửi đứa học trò đắc ý nhất của mình trà trộn vào bên địch để học lén võ công, để có thể biết mình biết người, trăm trận trăm thắng._ Thế nhưng tên đệ tử đó học chưa xong thì bị phái Thanh Thành phát giác lập tức đem ra xử tử.

Từ đó trở đi, hai bên cừu oán càng sâu xa, vấn đề phòng bị đối phương học lén võ công càng thêm cẩn mật.

Mấy chục năm qua, phái Thanh Thành qui định không thu học trò là người phương Bắc, không cần phải là người Sơn Đông, mà dù cho là Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây chỉ đá giọng miền Bắc một chút cũng không nhận. Càng về sau qui củ càng nghiêm nhặt, tới nay chỉ người đất Xuyên mới được thu nhận mà thôi.

Thanh Phong Đinh là ám khí độc môn của phái Thanh Thành, còn Thiên Vương Bổ Tâm Châm là của phái Bồng Lai. Chư Bảo Côn rõ ràng bắn Thanh Phong Đinh mà Vương Ngữ Yên lại bảo là Thiên Vương Bổ Tâm Châm khiến cho cả phái Thanh Thành ai nấy đều kinh hãi. Phái Bồng Lai cũng có qui luật tương tự như phái Thanh Thành, nghiêm định chỉ người Sơn Đông mới nhận, trong đó lại còn chia ra Lỗ Đông là tốt nhất, thậm chí Lỗ Tây, Lỗ Nam muốn được vào làm môn hạ phái Bồng Lai cũng khó tày trời.

Một người dù giả trang giỏi đến đâu cũng có lúc để lộ sơ hở, nói chuyện một nghìn câu thể nào chẳng lọt vào vài tiếng hương âm ngữ điệu của mình. Chư Bảo Côn là người họ Chư đất Quán Huyện, là một thế gia đại tộc của đất Tây Xuyên, sao lại có thể là môn hạ của phái Bồng Lai được? Mọi người thật có nằm mơ cũng không nghĩ đến.

Tư Mã Lâm thoạt tiên muốn Vương Ngữ Yên đoán thử sư thừa lai lịch của Chư Bảo Côn chẳng qua chỉ là muốn đưa ra một vấn nạn để đố cô gái, chứ chẳng phải có bụng hoài nghi sư đệ, ngờ đâu lại được một câu trả lời kinh tâm động phách đến vậy.

Thế nhưng người kinh hãi nhất lại chính là Chư Bảo Côn. Thì ra sư phụ của y là Đô Linh đạo nhân, lúc còn trẻ đã thua đậm phái Thanh Thành nên trong bụng chăm chăm chuyện báo thù, đến vùng Tứ Xuyên dò la ngõ ngách để tìm chỗ sơ hở của đối phương. Năm đó ông ta đi đến Quán Huyện trông thấy Chư Bảo Côn, khi đó chỉ mới là một đứa trẻ nhưng căn cốt thật tốt, đúng là một lương tài học võ nên trù tính một kế hoạch. Ông ta mượn người giả làm ăn cướp, lén vào trong nhà họ Chư, trói chủ nhân lại, cướp bóc xong rồi toan rút dao giết cả nhà để bịt miệng, lại toan gian dâm hai người đàn bà họ Chư.

Đô Linh Tử đã chực sẵn ở bên ngoài, đến lúc tối nguy cơ, nghìn cân treo trên sợi tóc mới xuất hiện đánh đuổi bọn cướp giả, đoạt lại toàn bộ tài vật, bảo tồn được thanh bạch cho hai nữ lang nhà họ Chư khiến gia chủ thật cảm kích không để đâu cho hết.

Lúc đó Đô Linh Tử mới khuyên nhủ:

- Nếu không có võ công thượng thừa, dù gia tài vạn quan chăng nữa cũng khó mà tránh được bọn gian tà hiếp đáp. Bọn đạo tặc kia võ công không phải tầm thường, lần này tuy bị đánh tan nhưng thể nào rồi cũng quay trở lại.

Nhà họ Chư là một thế gia rất tiếng tăm ở địa phương, thấy những võ sư hộ viện bị bọn cướp đấm đá mấy cái đã ngã lăn quay, nghe nói chúng chẳng bao lâu sẽ tìm đến nữa, sợ đến mất hết hồn vía, khẩn khoản xin Đô Linh Tử ở lại. Đô Linh Tử giả vờ từ chối một hồi rồi mới miễn cưỡng nhận lời, chẳng bao lâu đã thu được Chư Bảo Côn làm học trò.

Đô Linh Tử ngoài việc canh cánh tính chuyện báo thù phái Thanh Thành ra cũng không phải là người xấu, võ công cũng thật cao cường. Ông ta dặn nhà họ Chư giữ thật kín chỉ ngầm luyện võ cho Chư Bảo Côn. Mười năm sau, Chư Bảo Côn đã thành nhân vật thứ nhất thứ hai trong phái Bồng Lai. Đô Linh Tử quả thật kiên nhẫn, từ khi định cư nơi Chư phủ rồi giả làm người câm, từ đầu chí cuối không nói với ai một câu, khi truyền thụ công phu cho Chư Bảo Côn, chỉ dùng tay chân chỉ trỏ, múa may, tất cả mọi việc khác chỉ dùng bút viết, không để lộ thổ âm ra chút nào. Thành thử Chư Bảo Côn tuy cùng ông ta sớm tối ở cạnh nhau hơn mười năm nhưng không hề nghe một câu nào giọng Sơn Đông.

Đến khi Chư Bảo Côn võ công đại thành rồi, Đô Linh Tử mới kể lại tiền nhân hậu quả cho y nghe để cho học trò mình tự quyết định nhưng dĩ nhiên việc giả đạo tặc không hề đề cập đến. Trong lòng Chư Bảo Côn, sư phụ không những là người cứu mạng toàn thể gia đình mình, mà trong hơn mười năm qua đãi mình ân trạch thâm hậu, rốc túi truyền thụ võ công phái Bồng Lai nên thật là cảm kích. Khi y rõ được ước nguyện của thầy rồi không một chút do dự, lập tức đi đến xin đầu nhập làm môn hạ chưởng môn phái Thanh Thành Tư Mã Vệ. Tư Mã Vệ chính là phụ thân của Tư Mã Lâm.

Lúc đó Chư Bảo Côn tuổi cũng không còn nhỏ, lại hiềm nói là đã học qua với những võ sư hộ viện trong nhà vài miếng hoa quyền tú cước rồi nên Tư Mã Vệ đáng lẽ không chịu thu. Thế nhưng họ Chư là một đại tài chủ đất Xuyên Tây, vừa có tiền vừa có thế, tuy phái Thanh Thành ở trong võ lâm nhưng gốc rễ vẫn là ở đây, không muốn có hiềm khích với một thế gia vọng tộc. Ông ta nghĩ lại nếu có thu một người con cháu họ Chư làm môn đồ thì chỉ có tăng thanh thế môn phái mình nên chịu chấp nhận.

Đến khi truyền thụ, ông ta thấy võ công Chư Bảo Côn không phải là kém, căn vặn mấy lần, Chư Bảo Côn vẫn một mực theo lời Đô Linh Tử chỉ điểm bịa đặt ra một môn phái cho mình. Tư Mã Vệ cũng nể mặt phụ thân y nên không hết sức hỏi cho ra, nghĩ thầm một đứa con nhà giàu học được đến thế cũng là giỏi lắm rồi.

Chư Bảo Côn đầu nhập phái Thanh Thành rồi lại được Đô Linh Tử dặn bảo kỹ càng là phải ra công nghiên cứu võ công phái Thanh Thành. Mỗi khi gặp kỳ tết nhất, y đem biếu xén sư phụ, sư huynh và các anh em đồng môn lễ vật thật hậu hĩ, sư phụ có cần gì chưa cần mở lời ướm ý đã tìm cách lo liệu chu đáo, trong nhà lại lắm tiền sẵn bạc thành thử chuyện gì cũng dễ dàng. Tư Mã Vệ thấy y có lòng như thế cũng không dấu diếm gì, bao nhiêu võ công tuyệt kỹ đều truyền cho y, thành thử trong bảy tám năm qua, Chư Bảo Côn đã học hết các tuyệt kỹ của phái Thanh Thành.

Ba bốn năm trước Đô Linh Tử đã từng gọi y du ngoạn đến núi Bồng Lai vùng Sơn Đông hiển thị võ công của phái Thanh Thành để biết được các bí áo hầu sau này ra tay là đánh bại được đối phương. Thế nhưng Chư Bảo Côn sau khi làm môn hạ phái Thanh Thành mấy năm qua, cảm thấy Tư Mã Vệ đối với mình thật chí tình, truyền thụ võ công so với các đệ tử thân tín khác không có gì khác biệt, quả thực không nỡ lòng nào ra tay tiêu diệt môn phái, tru sát toàn gia Tư Mã Vệ nên trong bụng đã tính thầm: “Chi bằng mình đợi cho sư phụ Tư Mã Vệ qua đời rồi lúc ấy mình hãy động thủ. Tư Mã Lâm sư huynh đãi mình cũng bình thường, có giết y cũng không sao”. Thành thử y dùng dằng mấy năm qua, Đô Linh Tử nhiều lần giục giã, Chư Bảo Côn vẫn tìm cách thoái thác rằng: Chín miếng của chữ Thanh và mười tám cách phá của chữ Thành vẫn chưa học xong. Đô Linh Tử phí mất bao nhiêu tâm huyết, không muốn xôi hỏng bỏng không, nên cố đợi cho y học hết các bí quyết lúc ấy mới ra tay.

Thế nhưng mùa đông năm ngoái, Tư Mã Vệ bị người ta dùng công phu Phá Nguyệt Trùy là một trong mười hai miếng phá trong chữ Thành đâm vào lỗ tai thấu qua óc giết chết ở gần Bạch Đế, Xuyên Đông. Phá Nguyệt Trùy công phu đó tuy trong đó có chữ Trùy nhưng lại không phải sử dụng dùi sắt mà là dùng năm đầu ngón tay thành hình mỏ chim mổ vào, dùng nội lực đánh vỡ màng tang kẻ địch.

Tư Mã Lâm và Chư Bảo Côn ở Thành Đô nghe được tin đó liền suốt ngày đêm chạy tới, tra xét minh bạch thương thế của Tư Mã Vệ, hai người vừa kinh hãi, vừa đau lòng, nghĩ thầm trong bản phái ngoài Tư Mã Vệ, chỉ có Tư Mã Lâm, Chư Bảo Côn và hai danh túc cao thủ là biết sử dụng công phu Phá Nguyệt Trùy. Thế nhưng khi việc này xảy ra, cả bốn người đều đang ở Thành Đô, tập trung một chỗ nên không ai bị hiềm nghi. Thành ra kẻ giết Tư Mã Vệ ngoài Cô Tô Mộ Dung, kẻ dám xưng là “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân” ra không thể nào có người khác được. Thành thử phái Thanh Thành dốc hết toàn lực, bao nhiêu cao thủ đều tập trung đến Cô Tô để tìm họ Mộ Dung thanh toán.

Trước khi ra đi Chư Bảo Côn đã ngầm hỏi Đô Linh Tử xem có phải phái Bồng Lai ra tay không, Đô Linh Tử viết thư trả lời: “Tư Mã Vệ với ta võ công sấp xỉ nhau, nếu như ra tay ám toán thì chỉ có cách dùng Thiên Vương Bổ Tâm Châm mới lấy mạng y được. Còn như nếu lấy đông người vây đánh thì phải dùng Thiết Quài Trận của bản phái”. Chư Bảo Côn nghĩ quả không sai, y đã biết rõ hai vị sư phụ võ công tu luyện không biết mèo nào cắn mỉu nào, nếu bảo dùng Phá Nguyệt Trùy để giết Tư Mã Vệ, không nói gì Đô Linh Tử không biết môn công phu này mà dẫu có biết thì cũng không thể nào thắng được công lực Tư Mã Vệ. Thành thử y không còn hoài nghi gì nữa, đi theo Tư Mã Lâm đến Giang Nam tầm cừu. Đô Linh Tử cũng không ngăn cản, chỉ dặn y nên thật cẩn thận, chỉ mong thêm lịch duyệt kiến văn chứ đừng vì phái Thanh Thành mà bỏ mạng.

Khi đến Tô Châu, cả bọn chia nhau nghe ngóng mò tới được Thính Hương thủy tạ thì quần đạo Tần gia trại ở Vân Châu đã đến trước rồi. Phái Thanh Thành môn qui rất nghiêm, nếu không có hiệu lệnh của chưởng môn thì không ai dám hành động nói năng một cách bừa bãi, thấy bọn đạo tặc bên Tần gia trại quấy phá loạn cả lên nên không khỏi khinh rẻ, hai bên nói năng xem ra chẳng còn nể nang gì nữa. Người bên phái Thanh Thành cốt chí phục thù cho nên một cành cây một ngọn cỏ cũng không đụng đến, đến bữa chỉ ăn lương khô họ mang theo. Làm như thế cũng có cái lợi là bao nhiêu đờm rãi cùng những chất ô uế ở chân tay của lão Cố phái Thanh Thành không phải thưởng thức.

Đến khi bọn Vương Ngữ Yên, A Châu bốn người đột nhiên tới nơi lập tức mọi việc biến chuyển. Chư Bảo Côn dùng thủ pháp của phái Thanh Thành phát xạ Thanh Phong Đinh ngay cả Tư Mã Vệ lúc còn sống cũng không nghi ngờ gì, ngờ đâu một cô gái trẻ tuổi như Vương Ngữ Yên lại nhìn ra được. Việc đó xảy ra thật bất ngờ khiến cho Chư Bảo Côn không kịp phòng bị, toan giết nàng để diệt khẩu thì chợt nảy mối từ tâm nên chậm tay một chút thành ra không kịp nữa rồi. Huống chi Thiên Vương Bổ Tâm Châm năm chữ đó Tư Mã Lâm cả bọn đã nghe thấy, có giết Vương Ngữ Yên cũng không ích gì, chỉ càng làm cho lộ rõ cái ý đồ xấu xa của y mà thôi.

Chư Bảo Côn toàn thân toát mồ hôi lạnh, đầu óc hỗn loạn, quay lại thấy Tư Mã Lâm và những người khác đã cho tay vào tay áo, hầm hầm nhìn y. Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:

- Chư gia, thì ra ngươi là người của phái Bồng Lai đấy ư?

Y không gọi Chư Bảo Côn là sư đệ, đổi thành Chư gia, hiển nhiên không còn coi y là đồng môn nữa. Chư Bảo Côn thừa nhận thì cũng không được, mà bảo rằng không cũng chẳng xong, thần tình cực kỳ ngượng ngập. Tư Mã Lâm hai mắt trợn tròn, quát lên:

- Ngươi đến nằm vùng ở phái Thanh Thành, học được tuyệt chiêu Phá Nguyệt Trùy, thế là dùng ngay để giết cha ta. Ngươi lòng lang dạ sói, quả là tàn nhẫn.

Hai tay y vung ra một cái đã cầm hai món Lôi Công Oanh. Tư Mã Lâm nghĩ là bao nhiêu công phu bản phái đã bị Chư Bảo Côn học được đã đem ra truyền lại cho các cao thủ phái Bồng Lai. Khi phụ thân y bị chết, mặc dầu Chư Bảo Côn quả là đang ở Thành Đô, nhưng phái Bồng Lai đã học được thủ pháp rồi nên ai cũng có thể dùng để giết cha y được.

Chư Bảo Côn mặt tái mét, nghĩ bụng sư phụ Đô Linh Tử phái y trà trộn vào phái Thanh Thành cũng có dụng ý đó nhưng cho tới hôm nay y chưa hề tiết lậu một chút võ công nào của phái Thanh Thành. Sự tình đã đến nước này còn biện bạch cách nào được nữa? Xem ra chỉ còn một trường ác đấu, đối phương người đông thế mạnh, Tư Mã Lâm và hai cao thủ kia võ công không kém mình chút nào, hôm nay khó mà thoát chết, tự nhủ: “Ta tuy chưa làm việc này nhưng vốn đã có cái bụng phản sư, nếu có bị phái Thanh Thành giết âu cũng là quả báo mà thôi”. Y nghĩ thế trong lòng thản nhiên chỉ nói:

- Sư phụ không phải do tôi làm hại ...

Tư Mã Lâm quát lớn:

- Dĩ nhiên không phải chính tay ngươi giết, nhưng môn công phu đó do ngươi truyền ra, so với chính tay ngươi thì có khác gì?

Y quay sang nói với hai lão già gầy gầy cao cao đứng bên cạnh:

- Khương sư thúc, Mạnh sư thúc, đối phó với những tên phản đồ như thế này, không cần phải theo qui củ võ lâm đơn đả độc đấu, tất cả mình cùng tiến lên.

Hai ông già kia gật đầu, hay tay từ trong tay áo rút ra, người nào cũng tay trái cầm dùi, tay phải cầm búa, chia ra hai bên vây Chư Bảo Côn lại. Chư Bảo Côn lùi lại mấy bước, dựa lưng vào một cái cột lớn trong sảnh để khỏi bị đánh tập hậu từ sau lưng. Tư Mã Lâm lại quát lên:

- Giết đứa phản đồ này báo thù cho cha ta!

Y xông lên, giơ búa lên đánh xuống đầu Chư Bảo Côn. Chư Bảo Côn nghiêng qua tránh đòn, tay trái dùng dùi đánh trả lại. Lão già họ Khương quát lớn:

- Tên phản đồ gian tặc kia, còn mặt mũi nào mà sử dụng võ công bản phái nữa sao?

Dùi bên trái liền đâm vào yết hầu y, búa bên phải đập luôn ba cái theo thức Phượng Điểm Đầu. Bọn Diêu Bá Đương của Tần gia trại thấy Khương lão sử dụng cái búa thành thục như thế, chiêu số lại thật quái dị ai nấy nổi dạ hiếu kỳ, ngầm gật gù khen thầm: “Phái Thanh Thành danh chấn Xuyên Tây, quả là ghê gớm thực”.

Tư Mã Lâm nóng lòng báo thù cho cha, chiêu số cực kỳ hoảng loạn nên Chư Bảo Côn có thể đối phó được. Thế nhưng hai ông già Khương Mạnh vận dụng bốn đại yếu quyết của phái Thanh Thành là Ổn, Ngận, Âm, Độc, dùi đâm búa đánh, tấn công vào toàn những chỗ yếu hại khiến cho Chư Bảo Côn né phải hụp trái, trong khoảnh khắc đã rơi vào tình trạng cực kỳ nguy hiểm.

Thế nhưng Chư Bảo Côn quá thành thuộc chiêu số đánh cương trùy và búa nhỏ của ba người đó, xem chiêu này đã biết ngay ba bốn chiêu biến hóa kế tiếp. Nhờ thế nên y một chống với ba mà vẫn còn gắng gượng chịu được. Hai bên sách giải thêm mươi chiêu nữa, trong lòng Chư Bảo Côn cảm thấy chua chát nghĩ thầm: “Tư Mã sư phụ đối với ta không bạc chút nào, các chiêu số của Tư Mã Lâm sư huynh và hai vị Khương Mạnh sư thúc ta cũng đều biết cả. Luyện công sách chiêu còn có thể dấu diếm riêng tư không lộ những công phu yếu khẩn chứ lúc giao đấu sinh tử như thế này, ba người đều đem hết sức mình ra, công phu của phái Thanh Thành quả thực chỉ có thế”. Y cảm kích ân nghĩa của sư phụ, nhịn không nổi kêu lên:

- Sư phụ quyết không phải do tôi làm hại đâu ...

Y vừa phân tâm, Tư Mã Lâm đã xông ngay vào chỉ còn cách y chừng một thước. Binh khí của phái Thanh Thành cực kỳ nhỏ bé, ngắn ngủi, lợi hại là ở chỗ đánh sát lá cà. Tư Mã Lâm tiến đến rồi, nếu đối thủ là người của phái khác thì có thể nói là đã thắng thế đến bảy tám phần, thế nhưng võ công của Chư Bảo Côn lại y hệt nhau thành thử lợi thế đó hai bên đều như nhau. Dưới ánh nến thấp thoáng, người đứng ngoài chỉ thấy hoa cả mắt, thấy Tư Mã Lâm và Chư Bảo Côn hai người ra chiêu cực kỳ nhanh nhẹn, múa may quay cuồng, chỉ trong chớp mắt hai người đã tung ra bảy tám chiêu. Dùi đâm trên thọc dưới, búa đập dọc đánh ngang, hai người đều như điên cuồng. Thế nhưng chiêu số cả hai đều thật thuần thục, đối phương tấn công tới lập tức đỡ gạt trả đòn được ngay. Hai người cùng học một thầy, chiêu số pháp môn hoàn toàn như một, Tư Mã Lâm tuổi trẻ tráng kiện nhưng Chư Bảo Côn lại nhiều kinh nghiệm hơn. Chỉ trong giây lát hai bên đã qua lại đến mấy chục chiêu, người xem chỉ nghe tiếng leng keng leng keng của binh khí chạm nhau, còn hai người công thủ ra sao thì không ai nhìn rõ được.

Mạnh Khương nhị lão thấy Tư Mã Lâm đánh lâu mà không thắng, đột nhiên cùng hú lên một tiếng, nhào xuống đất lăn từ hai bên tới, chia ra đánh vào hạ bàn Chư Bảo Côn. Phàm những người sử dụng binh khí ngắn, ngoại trừ đàn bà ra ai nấy đều học địa đường công phu, nằm sát đất lăn qua lăn lại, nhảy vọt lên, khiến cho kẻ địch trở tay không kịp.

Công phu Lôi Công Trước Địa Oanh này Chư Bảo Côn vốn cũng thành thục lắm, nhưng hai tay còn bận đối phó với một dùi một búa của Tư Mã Lâm không còn gì để chống đỡ Khương Mạnh nhị lão, chỉ còn nước nhảy nhót tránh né. Ông già họ Khương dùng búa đánh từ trái sang phải, ông già họ Mạnh dùng dùi đâm từ phải ngược qua. Chư Bảo Côn giơ chân đá vào cằm ông ta, Mạnh lão cất tiếng chửi:

- Đồ con rùa, tính thí mạng hả?

Ông ta lùi qua một bên, Khương lão thừa thế xông luôn vào, vung búa đánh tạt ngang, cùng lúc đó Tư Mã Lâm cũng bổ vào giữa hai lông mày Chư Bảo Côn. Chư Bảo Côn trong một nháy mắt phải tính toán cái nào nặng, cái nào nhẹ đành giơ búa lên gạt binh khí của Tư Mã Lâm còn đùi bên trái ráng chịu cho ông già họ Khương đánh một cái.

Cái búa đó tuy bé thật nhưng kình lực thật là lợi hại, Chư Bảo Côn thấy đau nhói tận xương, nhất thời không biết xương đùi có bị gãy không, nghe choang một tiếng hai món binh khí chạm nhau, đốm lửa văng tung tóe, lại “A” lên một tiếng, đùi bên trái bị ông già họ Mạnh đâm thêm một nhát.

Nhát dùi đó đáng ra y có thể tránh được, thế nhưng nếu tránh qua thì Lôi Công Trước Địa Oanh của Khương Mạnh nhị lão sẽ kết thành Địa Mẫu Lôi Võng. Đến nước đó thì y không thể nào đối phó nổi, huống hồ y cũng liệu chừng đùi mình đã bị gãy rồi nên có chịu đâm một cái cũng không sao. Chỉ thêm vài chiêu, máu trên đùi y văng tung tóe, thành điểm lấm chấm khắp bốn bức tường.

Vương Ngữ Yên thấy A Châu nhíu mày, bĩu môi biết là nàng chán ghét bọn này hùng hổ đánh nhau, làm bẩn cả căn phòng thanh nhã sạch sẽ nên mỉm cười kêu lên:

- Thôi, các ngươi đừng đánh nhau nữa, có gì cứ nói chuyện cho ra lẽ, sao lại ngang ngược không biết trái phải gì cả?

Bọn ba người Tư Mã Lâm nhất tâm giết cho bằng được đứa “thí sư gian đồ” ngay tại đương trường; Chư Bảo Côn dẫu có muốn ngừng tay nhưng cũng đâu có làm gì được? Vương Ngữ Yên thấy bốn người vẫn đánh nhau chí mạng chẳng để ý gì đến lời của mình, mà có muốn ngừng tay hay không cũng là ở bọn ba người Tư Mã Lâm nên nói:

- Cũng tại tôi ngứa miệng nói ra một câu Thiên Vương Bổ Tâm Châm nên mới ra cớ sự, tiết lột cơ mật môn hộ của Chư gia. Tư Mã chưởng môn, các người mau ngừng lại.

Tư Mã Lâm quát lên:

- Thù cha không đội trời chung, lẽ nào không báo? Ngươi léo nhéo cái gì?

Vương Ngữ Yên nói:

- Các ngươi không dừng tay ta sẽ giúp y đó!

Tư Mã Lâm chột dạ nghĩ thầm: “Nhãn quang của cô gái xinh đẹp này cực kỳ lợi hại, võ công chắc là cao lắm, nếu như cô ta giúp cho đối phương e sẽ không xong”. Thế nhưng y lại nghĩ ngay: “Bao nhiêu hảo thủ của phái Thanh Thành đều ở đây cả, cùng lắm tất cả xông lên, không lẽ lại sợ một cô gái yểu điệu như thế hay sao?”. Y vận sức lên cánh tay, đánh nhanh tít chẳng khác gì gió táp mưa sa.

Vương Ngữ Yên nói:

- Chư gia, ông sử dụng thế “Lý Tồn Hiếu đả hổ” rồi kế đến là “Trương Quả Lão đảo kỵ lư”!

Chư Bảo Côn ngạc nhiên nghĩ thầm: “Chiêu trước là võ công phái Thanh Thành, chiêu sau là võ công phái Bồng Lai, hai chiêu này làm sao có thể nhập lại làm một, liên tiếp sử dụng được?”.

Thế nhưng đang lúc tình thế cấp bách, làm gì còn có thì giờ nào mà tìm hiểu cho kỹ càng, chiêu Lý Tồn Hiếu đả hổ vừa xong, keng keng hai tiếng, đánh bạt được hai cái búa của Tư Mã Lâm và Khương lão ra y lập tức xoay người nghiêng nghiêng ngả ngả lùi lại ba bước, vừa đúng lúc tránh được ba lần phục kích của ông già họ Khương.

Chiêu phục kích này của Khương lão dùng cả dùi lẫn búa, đánh luôn ba lần liền cực kỳ âm độc. Ba bước của Chư Bảo Côn bước nào cũng lảo đảo như người say rượu, chẳng ra đường lối gì nhưng lần nào cũng thoát được độc thủ của đối phương trong đường tơ kẽ tóc, chẳng khác gì hai người đã sắp đặt với nhau từ trước nay ra biểu diễn khoe tài với mọi người.

Ba lần phục kích đó vốn dĩ cực kỳ tinh xảo, né tránh được lại càng khéo léo bội phần. Những người của Tần gia trại ngồi xem mà sướng cả mắt, mỗi lần Chư Bảo Côn tránh được lại reo hò ầm ỹ, ba lần thoát hiểm là ba lần hoan hô vang dội. Người bên phái Thanh Thành thì mặt vốn đã hầm hầm, lúc này trông lại càng khó coi hơn.

Đoàn Dự kêu lên:

- Hay quá! Hay quá! Chư huynh, Vương cô nương bảo sao cứ mà nghe vậy thì không thể nào thua được.

Lúc Chư Bảo Côn bước ba bước Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư y nào có nghĩ ngợi gì đến hậu quả, trong đầu nửa tỉnh nửa mê, chết cũng được, sống cũng được không còn coi tính mạng vào đâu nữa. Y có ngờ đâu võ công hai phái Thanh Thành, Bồng Lai hoàn toàn bất đồng lại có thể sử dụng liền nhau để tránh được ba chiêu tối hiểm độc. Y trong lòng kinh ngạc còn hơn bọn Tần gia trại và phái Thanh Thành đứng bên ngoài nhiều.

Lại nghe Vương Ngữ Yên hô tiếp:

- Ngươi mau sử dụng Hàn Tương Tử Tuyết Ủng Lam Quan, kế đó là Khúc Kình Thông U.

Nàng nói thế có nghĩa là sử dụng võ công phái Bồng Lai rồi sau lại sử dụng võ công phái Thanh Thành. Chư Bảo Côn không kịp suy nghĩ, chiếc búa nhỏ và chiếc dùi liền chặn ngay trước ngực, ngay lúc đó hai chiếc dùi của Tư Mã Lâm và ông già họ Mạnh cùng đâm tới. Ba người cùng ra tay một lượt nhưng người bên ngoài đứng coi thì tưởng như Chư Bảo Côn đã đoán trước nên bảo vệ trước mặt. Tư Mã Lâm và Mạnh lão thấy đối phương đã phong bế môn hộ không còn sơ hở chút nào bao nhiêu tính toán đều hóa ra vô ích, hai chiếc dùi đâm luôn vào đầu búa, nghe keng một tiếng bị bật ra. Chư Bảo Côn cũng không nghĩ ngợi gì thêm, người rùn xuống, mũi dùi trong tay xeo xéo đâm ra.

Khương lão đang chính lúc xông tới tấn công đâu ngờ rằng mũi dùi lại từ phía đó đâm ra. Khúc Kình Thông U là võ công phái Thanh Thành, Khương lão thuộc nằm lòng nhưng lối đâm như thế hoàn toàn không hợp với qui củ của bản phái, nếu phải lúc bình thời luyện tập mà sử dụng thể nào ông già cũng cười ha hả. Thế nhưng cái đâm đó vô lý thật, Khương lão lại đang xông tới, lấy thân mình lao vào mũi dùi của đối phương tưởng như tự sát, tuy biết thất thố nhưng không còn kịp lùi lại nữa rồi, nghe soẹt một tiếng, đã bị đâm trúng ngang hông liền lảo đảo phục ngay xuống đất. Trong phái Thanh Thành liền có hai người xông ra đỡ ngay ông ta về.

Tư Mã Lâm cất tiếng chửi:

- Thằng khốn kiếp Chư Bảo Côn kia, chính tay ngươi đâm Khương sư thúc thì có còn nói là giả được hay chăng?

Vương Ngữ Yên nói:

- Chính tôi bảo y đâm vị Khương lão gia kia đó, thôi các vị mau ngừng tay đi.

Tư Mã Lâm giận dữ đáp:

- Ngươi có bản lãnh thì bảo y giết ta đi xem nào!

Vương Ngữ Yên mỉm cười nói:

- Chư gia, ông dùng chiêu Thiết Quài Lý Nguyệt Hạ Quá Động Đình, kế đó là chiêu Thiết Quài Lý Ngọc Động Luận Đạo.

Chư Bảo Côn đáp lời:

- Vâng!

Y nghĩ thầm: “Trong võ công của phái Bồng Lai chỉ có chiêu Lã Thuần Dương Nguyệt Hạ Quá Động Đình và chiêu Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo, sao cô nương này lại gọi thành Lý Thiết Quài là sao? Chắc là kiến thức cô ta về võ công bản phái cũng có hạn nên nói sai đó thôi”. Y trong lúc khẩn cấp, Tư Mã Lâm và Mạnh lão đời nào để cho y có thì giờ hỏi lại cho chắc đành theo đúng những gì đã học ra chiêu Lã Thuần Dương Nguyệt Hạ Quá Động Đình.

Chiêu Nguyệt Hạ Quá Động Đình này vốn dĩ là phải bước những bước hiên ngang, tư thế phiêu dật như thể lăng không phi hành, thế nhưng đùi bên trái y bị thương luôn hai chỗ thành thử bước đi khập khà khập khiễng, đâu có ra vẻ Lã Thuần Dương mà lại trông giống Lý Thiết Quài.

Bước chân cà nhắc đó lại có chỗ lợi, Tư Mã Lâm liên tiếp đâm luôn hai dùi đều hụt ra ngoài. Đến chiêu Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo thì vì chân trái đau nên người nghiêng hẳn qua phía trái, chiếc dùi nơi bàn tay phải dùng thay chiếc quạt vung vòng ra, Mạnh lão đang lúc húc đầu vào, nghe bạch một cái, cái dùi đó đánh trúng ngay miệng ông ta, gãy hơn một chục cái răng trong miệng, đau đến vừa nhảy chồm chồm vừa kêu la rầm rĩ, vứt vội binh khí ngồi phệt xuống đất đưa tay ôm chặt lấy mồm.

Tư Mã Lâm trong bụng hãi thầm, nhất thời không biết tính sao, nên tiếp tục đánh nữa hay tạm dừng tay sau này tính kế phục thù. Y thấy Vương Ngữ Yên dạy cho mấy chiêu quá ư là xảo diệu, lúc đầu vốn định là Mạnh lão đánh xong ba chiêu sẽ xông vào bên phải Chư Bảo Côn, ngờ đâu đúng lúc đó thì chiếc búa của Chư Bảo Côn lại vung ra trúng ngay vào miệng. Quả đúng là Chư Bảo Côn chân trái tập tễnh, chiêu Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo đã biến thành Thiết Quài Lý Ngọc Động Luyện Đạo nên chiếc búa mới đánh xéo ra chứ nếu như đánh thẳng thì hụt mất vài tấc, đánh không trúng được. Tính toán chu đáo kỹ càng, liệu địch chuẩn xác như thế quả thực đáng gờm đáng sợ.

Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Nếu như muốn giết tên khốn kiếp Chư Bảo Côn này thì trước hết phải ngăn con bé này lại đã, không để cho nó chỉ điểm võ công”. Y còn đang tính kế làm cách nào hạ thủ gia hại Vương Ngữ Yên, bỗng nghe nàng nói:

- Chư tướng công, ông là đệ tử phái Bồng Lai, trà trộn vào phái Thanh Thành học lén võ công, quả là không phải chút nào. Ta nghe nói lão sư phụ Tư Mã Vệ không phải do ông sát hại, với sở học như ông, dẫu cho có đi dạy được cho một hảo thủ nào khác cũng không thể nào dùng chiêu Phá Nguyệt Trùy để giết Tư Mã lão sư phụ được. Thế nhưng đi học trộm võ công của người ta thì cũng là không ra gì, phải tạ tội với Tư Mã chưởng môn mới là đúng.

Chư Bảo Côn nghĩ bụng lời nàng nói không sai, huống chi lại có cái ơn cứu mạng cho mình, toàn nhờ những chiêu Vương Ngữ Yên chỉ cho mới thoát hiểm được, lời nàng nhắn nhủ nào có dám cưỡng lại, liền quay sang Tư Mã Lâm vái một cái thật sâu nói:

- Chưởng môn sư ca, tiểu đệ quả là có lỗi ...

Tư Mã Lâm tránh qua một bên, mặt hầm hầm, hậm hực chửi:

- Cha tiên sư ngươi, thằng khốn nạn kia, mi còn dám mở mồm gọi ta là chưởng môn sư ca ư?

Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Mau, Ngao Du Đông Hải!

Chư Bảo Côn hoảng hốt, vội vàng nhún người nhảy vọt lên, nghe tiếng vụt vụt liên tiếp, hơn một chục mũi Thanh Phong Đinh bắn sát dưới gót chân y, thật chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc. Nếu như không có Vương Ngữ Yên lên tiếng nhắc nhở, cũng như nếu nàng không nói luôn chiêu Ngao Du Đông Hải mà nói “đề phòng ám khí” thì y ắt sẽ chăm chăm nhìn vào địch nhân mà tụ tiễn Tư Mã Lâm bắn từ tay áo ra thì không thể nào né tránh kịp.

Môn công phu “Tụ Lý Càn Khôn” của Tư Mã Lâm là tuyệt kỹ “truyền tử bất truyền đồ_” của dòng họ Tư Mã phái Thanh Thành. Đây là qui củ của họ Tư Mã, ngay cả hai lão Mạnh Khương cũng không biết, Tư Mã Vệ không dạy cho Chư Bảo Côn cũng chỉ là theo lời dặn của tổ tiên mà thôi chứ không phải là dấu nghề. Có ai ngờ đâu mặt Tư Mã Lâm thản nhiên không biến đổi chút nào, hai tay chỉ cho vào trong tay áo ấn một cái, ngầm vận chuyển cơ quan bắn Thanh Phong Đinh mà lại bị Vương Ngữ Yên kêu lên làm lộ chuyện, chỉ cho chiêu Ngao Du Đông Hải của phái Bồng Lai phá được công phu này. Thế đó của Tư Mã Lâm có thể nói là đã dùng hết sức bình sinh mà không thành công thật chẳng khác gì gặp phải ma quỉ, giơ tay chỉ vào Vương Ngữ Yên kêu lớn:

- Ngươi chẳng phải là người, ngươi là ma, ngươi là quỉ!

datlucky_way

22-07-2009 03:00 PM

Hồi 13(b) : THỦY TẠ THÍNH HƯƠNG, CHỈ ĐIỂM QUẦN HÀO HÍ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Võ công thiếu đủ thế nào,

Nói đâu ra đấy quần hào ngẩn ngơ.

*

* *

Ông già họ Mạnh bao nhiêu răng trong mồm bị búa đánh gãy hết, trong cơn hoảng hốt ba cái răng tuột luôn vào bụng. Ông ta tuổi đã cao nhưng mắt còn sáng, tóc còn đen, răng còn chắc xưa nay vẫn lấy làm tự hào, bây giờ mất cái nào là tiêu cái ấy, làm gì có răng giả thay vào, vừa đau vừa tiếc, miệng phều phào kêu lên:

- Bắt lấy con nhãi này! Bắt lấy con nhãi này!

Phái Thanh Thành môn qui rất nghiêm, Mạnh lão tuy vai vế cao thật nhưng mọi việc đều phải do chưởng môn nhân chỉ thị, các đệ tử ai nấy đưa mắt nhìn Tư Mã Lâm, đợi y ra lệnh một tiếng là sẽ cùng xông vào bắt giữ Vương Ngữ Yên.

Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:

- Vương cô nương, võ công của bản phái vì cớ gì cô thành thuộc như thế?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Ta đọc trong sách ra. Võ công phái Thanh Thành lấy kỳ bí, biến hóa, hiểm ác, độc địa làm sở trường nhưng không có gì rắc rối gì lắm, cũng dễ nhớ thôi.

Tư Mã Lâm nói:

- Ở trong sách nào thế?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Ồ, cũng chẳng phải là sách xấu xa gì. Viết về võ công phái Thanh Thành có hai bộ, một bộ là Thanh Tự Cửu Đả, còn bộ kia là Thành Tự Thập Bát Phá, ông là chưởng môn phái Thanh Thành hẳn đã coi đến rồi.

Tư Mã Lâm kêu thầm: “Thật xấu hổ quá!”. Khi còn nhỏ bắt đầu học nghệ, cha y đã từng nói: “Võ công bản phái gồm có chín phép đánh trong chữ Thanh và mười tám cách phá trong chữ Thành, tiếc rằng về sau lâu ngày thất truyền nên mất mát không còn toàn vẹn nữa nên tới ngày nay đánh nhau với phái Bồng Lai mới trở nên hai bên bất phân thắng bại. Giá như có ai tìm được lại võ công cho hoàn hảo thì không những việc diệt phái Bồng Lai dễ như cất tay, mà có xưng hùng thiên hạ thì cũng chẳng phải là kỳ lạ”. Đến bây giờ y nghe nàng nói đã đọc qua hai cuốn sách đó nên ngực y không khỏi nóng ran lên nói:

- Liệu cô có thể cho tại hạ mượn xem một chút xem có gì bất đồng với sở học của bản phái, được không?

Vương Ngữ Yên chưa kịp trả lời, Diêu Bá Đương đã cười ha hả nói:

- Cô nương đừng có mắc hỡm tên tiểu tử này. Võ công phái Thanh Thành nhà y đơn sơ lắm, chữ Thanh có độ ba bốn miếng, chữ Thành cũng chỉ mười một, mười hai cách phá. Y định đánh lừa để cô đưa cho y coi võ học kỳ thư, tuyệt nhiên chớ có cho y mượn.

Tư Mã Lâm bị y nói toạc âm mưu ra, khuôn mặt xanh xao của y lập tức sầm xuống nói:

- Ta mượn sách của Vương cô nương có liên quan gì đến Tần gia trại nhà các ngươi?

Diêu Bá Đương cười nói:

- Sao lại không liên qua gì đến Tần gia trại? Người như Vương cô nương trong bụng nhớ biết bao nhiêu sách vở ghi chép các môn võ công lạ lùng, ai có được cô ta thì kẻ đó thiên hạ vô địch. Họ Diêu này thấy bạc vàng châu báu hay tranh xinh gái đẹp, muốn lấy là thò tay lấy ngay, món hàng nghìn năm một thuở như Vương cô nương thế này, lẽ nào lại không ra tay? Tư Mã huynh đệ, phái Thanh Thành các ngươi muốn mượn sách thì phải đến hỏi ta xem ta có chịu không đã chứ? Ha ha! Ha ha! Ngươi thử đoán xem liệu mỗ có bằng lòng chăng?

Mấy câu đó của Diêu Bá Đương cực kỳ vô lễ lại cực kỳ ngạo mạn thế nhưng Tư Mã Lâm và Khương Mạnh nhị lão nghe vào tai đều không khỏi thấp thỏm trong lòng: “Kiến thức võ học của con bé này xem ra cao thâm không biết chừng nào. Xem cái vẻ ẻo lả gió thổi cũng bay như nàng ta, tự mình đánh ai thì không thắng nổi nhưng đã đọc qua đủ các loại võ học kỳ thư rồi, biết nhiều lại có thể dung hợp thành một chuỗi. Nếu như mình bắt được cô ta đem về phái Thanh Thành thì sẽ học được hết Thanh Thành cửu đả, Thanh Thành thập bát phá. Tần gia trại đã có dạ bất lương hôm nay chỉ còn cách đánh nhau một trận”.

Lại nghe Diêu Bá Đương nói:

- Vương cô nương, bọn chúng ta vốn đến đây để tìm nhà Mộ Dung để thanh toán, xem chừng cô cũng là người họ Mộ Dung.

Vương Ngữ Yên nghe y bảo “xem chừng cô cũng là người họ Mộ Dung”, trong lòng vừa thẹn vừa vui, mặt đỏ bừng, chép miệng một cái nói:

- Mộ Dung công tử là biểu ca tôi, ông muốn gặp anh ta có chuyện gì? Chẳng hay đắc tội với ông ra sao?

Diêu Bá Đương cười hà hà nói:

- Cô là biểu muội của Mộ Dung Phục thì thật tốt quá. Ông tổ nhà Mộ Dung có thiếu nhà họ Diêu ta một trăm vạn lạng vàng, một nghìn vạn lạng bạc, tới nay đã mấy trăm năm, cả vốn lẫn lời tính sao đây?

Vương Ngữ Yên sửng sốt:

- Sao lại có chuyện đó được nhỉ? Nhà dượng tôi vốn giàu có sao lại thiếu tiền nhà ông?

Diêu Bá Đương đáp:

- Thiếu hay không thiếu, cô còn nhỏ biết gì! Ta đi kiếm Mộ Dung Bác để đòi nợ, y bằng lòng trả rồi, thế nhưng làm gì đã lấy được xu teng nào đâu, y lại lăn đùng ra chết. Bố chết thì đòi con, ai ngờ Mộ Dung Phục thấy chủ nợ đến, lỉnh mất không thò đầu ra, biết làm thế nào, đành kiếm cái gì gán nợ để bù lại.

Vương Ngữ Yên nói:

- Biểu ca tôi khẳng khái hào sảng, ví thử có thiếu tiền ông chăng nữa, thể nào cũng trả, mà dẫu không thiếu, ông có xin ít tiền bạc để xài, anh ấy cũng không từ chối, lẽ nào lại có chuyện sợ mà trốn nợ?

Diêu Bá Đương nhíu mày nói:

- Việc này không thể một câu hai câu mà nói cho rõ ràng chi bằng cô nương tạm thời theo ta lên miền bắc, tới ở nơi Tần gia trại sáu tháng một năm, chúng tôi quyết không dám động tới cái móng tay của cô nương. Mụ vợ của Diêu Bá Đương nổi tiếng ghen như cọp cái vùng Hà Sóc, lão Diêu chẳng bao giờ dám chàng màng ai đâu, cô nương cứ yên tâm. Cô chẳng phải sắp xếp gì, mình lên đường đi ngay. Đợi bao giờ biểu ca cô kiếm đủ tiền bạc, thanh toán xong món nợ cũ đời xửa đời xưa, ta sẽ hộ tống cô nương trở về Cô Tô để cho cô thành hôn với biểu ca. Tần gia trại thể nào cũng chuẩn bị một lễ vật hậu hĩ, Diêu Bá Đương sẽ tới uống chén rượu mừng.

Y nói xong ngoác miệng cười ha hả. Lời y nói ra nghe rặt giọng đểu cáng, mấy câu sau cùng thuận mồm bịa ra, thế nhưng Vương Ngữ Yên nghe đến đâu mát ruột đến đó, mỉm cười nói:

- Ông chỉ nói nhăng nói càn, tôi theo ông đến Tần gia trại làm chi? Nếu như dượng tôi quả có thiếu ông tiền, thì cũng đã lâu lắm rồi, biểu ca tôi làm sao biết được, phải để hai bên đối chứng ba mặt một nhời rồi biểu ca tôi sẽ trả cho ông.

Diêu Bá Đương vốn định bắt Vương Ngữ Yên đi ép nàng phải thổ lộ võ công chứ một trăm vạn lạng vàng, một ngàn vạn lạng bạc chỉ là chuyện tầm phào, bây giờ nghe nàng nói năng thơ ngây dường như lại tưởng những điều mình nói là chuyện thật bèn nói:

- Thì cô cứ đi theo ta. Tần gia trại ở đó vui lắm, bọn ta nuôi nào là báo đen, diều hâu, mai hoa lộc, đủ thứ cô có ở cả năm cũng không chán. Biểu ca cô nghe tin sẽ lập tức đến nơi gặp cô ngay. Mà dẫu y không có tiền trả thì ta cũng xóa nợ để cho hai người về Cô Tô, cô nghe có được chăng?

Mấy câu nói đó quả thực khiến Vương Ngữ Yên phải xao xuyến trong lòng. Tư Mã Lâm thấy nàng khóe thu ba long lanh, vẻ mặt e ấp nghĩ thầm: “Nếu như nàng bằng lòng đi đến Tần gia trại ở Vân Châu, ta có mở mồm ngăn trở xem ra cũng không thuận lý”. Y không đợi nàng mở lời xen vào nói:

- Vân Châu ở ngoài biên tái lạnh buốt cắt da, Vương cô nương là một đại tiểu thư mảnh khảnh tha thướt sinh trưởng ở Giang Nam, ai lại ra đó chịu khổ bao giờ? Đất Thành Đô của ta được gọi là Cẩm Quan Thành, gấm vóc đứng đầu thiên hạ, phong cảnh tốt tươi, danh lam thắng cảnh nhiều gấp mười Vân Châu. Một người xinh đẹp như Vương cô nương đến Thành Đô mua ít gấm vóc mặc vào, quả đúng là lúa tốt thêm phân, đã đẹp lại càng thêm đẹp. Mộ Dung công tử tài mạo song toàn, thể nào chẳng thích cô ăn mặc lụa là.

Y cho rằng phụ thân đã bị phái Bồng Lai gia hại nên không còn thù hận gì Mộ Dung Cô Tô nữa. Diêu Bá Đương quát lên:

- Nói thối bỏ mẹ! Con mẹ mày chứ ở Cô Tô đây không lẽ thiếu vải vóc, lụa là hay sao? Mày mở to đôi mắt chó giấy ra, trước mắt ba vị cô nương tuyệt trần, có người nào bảo là không biết cách ăn diện?

Tư Mã Lâm hừ một tiếng nói:

- Thối thật! Quả là thối thật!

Diêu Bá Đương hầm hầm hỏi lại:

- Mi bảo ta đấy chăng?

Tư Mã Lâm đáp:

- Đâu dám! Ta nói là rắm thối quá!

Soẹt một tiếng, Diêu Bá Đương đã rút thanh đao đang đeo ra, quát lên:

- Tư Mã Lâm, Tần gia trại ta với phái Thanh Thành cũng bên tám lượng, kẻ nửa cân, ngang tài đồng sức. Thế nhưng Tần gia trại mà liên thủ với phái Bồng Lai, không lẽ không diệt được phái Thanh Thành hay sao?

Tư Mã Lâm mặt biến sắc, nghĩ thầm: “Lời của y quả đúng thế. Cha ta qua đời rồi, lực lượng phái Thanh Thành không còn được như xưa, lại thêm tên gian tặc Chư Bảo Côn học lén võ công của bản phái, nếu như Tần gia trại lại đối đầu với mình thì thật đáng lo. Người đời có nói: Tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương. Cái đếch gì, việc hôm nay chỉ có cách đánh cho chúng một mẻ trở tay không kịp”.

Nghĩ thế y bèn thản nhiên hỏi:

- Thế thì đã sao?

Diêu Bá Đương thấy hai tay y để vào trong tay áo, biết lúc nào y cũng có thể bắn ám khí ra giết mình nên hết sức cảnh giác nói:

- Ta mời Vương cô nương đến làm khách ở Vân Châu đợi Mộ Dung công tử đến đón về. Việc gì đến ngươi mà chõ mồm vào thọc gậy bánh xe, có phải vậy chăng?

Tư Mã Lâm đáp:

- Đất Vân Châu nhà ngươi khỉ ho cò gáy như thế chẳng coi rẻ Vương cô nương lắm hay sao? Cho nên ta muốn mời Vương cô nương đến Thành Đô một chuyến.

Diêu Bá Đương đáp:

- Được lắm, thế thì mình lấy binh khí ra một phen so tài cao thấp, người nào thắng thì người đó làm chủ Vương cô nương.

Tư Mã Lâm nói:

- Thôi thế cũng được. Người nào thua mà muốn làm chủ mời Vương cô nương thì chỉ có nước mời đi xuống âm ti địa ngục thôi.

Nói như thế là đã rõ ràng, trận đấu này không phải so sánh võ công mà là một phen sống mái, chỉ có một chết một sống. Diêu Bá Đương cười ha hả, lớn tiếng nói:

- Diêu mỗ suốt đời sống bằng nghề nhuộm máu đầu đao, Tư Mã chưởng môn tưởng đem cái chết ra dọa, ta có sợ đếch gì đâu?

Tư Mã Lâm hỏi:

- Thế thì đấu ra sao đây? Ta với ngươi một chọi một hay tất cả cùng ùa lên?

Diêu Bá Đương đáp:

- Cứ để lão phu tiếp Tư Mã chưởng môn chơi ít hiệp ...

Vừa đến đây, Tư Mã Lâm đột nhiên quay sang bên trái, mặt mày kinh hoàng, dường như phát sinh biến cố gì vô cùng kỳ lạ. Diêu Bá Đương trước sau vẫn chăm chăm nhìn y đề phòng ám toán bất ngờ, lúc này không nhịn được cũng quay nhìn sang bên trái. Chỉ nghe tách tách tách ba tiếng nhỏ, y giật mình cảnh giác thì ám khí đã bay tới trước ngực chỉ còn cách chừng ba thước. Y thất vọng tự biết không còn tránh vào đâu được nữa.

Ngay trong giờ phút nghìn cân treo trên sợi tóc đó, đột nhiên có vật gì đó vọt ra chắn ngang ngực, loạt soạt mấy tiếng đã đánh rớt mấy mũi đinh độc. Độc đinh vốn dĩ rất nhanh, người đã từng quen chiến đấu như Diêu Bá Đương cũng còn không thể nào tránh kịp, thế nhưng vật kia còn nhanh gấp mấy, ra sau mà tới trước gạt được những mũi đinh độc ra. Vật đó là cái gì thì cả Diêu Bá Đương lẫn Tư Mã Lâm đều không ai nhìn được cả.

Vương Ngữ Yên vui mừng kêu lên:

- Có phải Bao thúc thúc đến hay chăng?

Một giọng nói hết sức kỳ quái đáp lại:

- Sai bét rồi, không phải vậy, không phải Bao thúc thúc đâu!

Vương Ngữ Yên cười nói:

- Lại còn chẳng phải Bao thúc thúc ư? Người chưa thấy đã nghe “Sai bét rồi, không phải vậy”!

Giọng kia lại đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta nào có phải là Bao thúc thúc?

Vương Ngữ Yên hỏi lại:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Thế thì ai đó?

Giọng kia lại đáp:

- Mộ Dung huynh đệ gọi ta là “tam ca”, cô lại gọi ta là “thúc thúc”, Sai bét rồi, không phải vậy! Cô gọi thế là trật lất.

Vương Ngữ Yên hai má đỏ bừng, cười hỏi:

- Thế ông còn chưa chịu ra hay sao?

Tiếng nói kia không trả lời, một lát sau Vương Ngữ Yên thấy không động tĩnh, kêu lên:

- Này, ông ra đi, giúp ta ngăn chặn những kẻ đến đây phá rối.

Thế nhưng bốn bề vắng lặng như tờ, hiển nhiên người họ Bao kia đi xa rồi. Vương Ngữ Yên hơi thất vọng hỏi A Châu:

- Y đi đâu rồi?

A Châu mỉm cười đáp:

- Bao tam ca tính vốn vẫn thế, ông ta đang định ra nghe cô nương hỏi “Thế ông còn chưa chịu ra hay sao?” ông ấy lại nhất định không ra nữa. E rằng hôm nay không ra nữa đâu.

Tính mạng Diêu Bá Đương mười phần chết chín, được người họ Bao kia ra tay cứu độ, trong lòng thật là cảm kích. Y với phái Thanh Thành vốn không thù không oán, bây giờ lại muốn giết Tư Mã Lâm, soẹt một tiếng rút đơn đao ra quát lên:

- Quân vô liêm sỉ, bắn trộm ám khí, tưởng giết được lão phu sao?

Y múa đao nhắm ngay đầu Tư Mã Lâm chém xuống. Tư Mã Lâm hai tay vung ra, tay trái cầm dùi sắt, tay phải cầm búa, xông lên đấu với Diêu Bá Đương. Cánh tay Diêu Bá Đương thật mạnh, chiêu số lại độc địa, còn Tư Mã Lâm thì lấy nhẹ nhàng khéo léo làm chính. Phái Thanh Thành và Tần gia trại hôm nay đánh nhau lần đầu, hai bên đều do nhân vật thủ não xuất chiến, thắng bại chẳng những quan hệ đến sống chết mà còn là vinh nhục hưng suy của môn phái thành thử cả hai không ai dám sơ sểnh chút nào.

Hai bên trao đổi đến hơn bảy mươi chiêu rồi, Vương Ngữ Yên bỗng quay sang nói với A Châu:

- Mi xem kìa, Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần gia trại xem ra không phải chỉ mất có năm chiêu. Hai chiêu Phụ Tử Độ Hà_ và Trọng Tiết Thủ Nghĩa sao không thấy Diêu Bá Đương dùng đến?

A Châu nào có biết võ công gia số của Tần gia trại thế nào nên chỉ ậm ừ. Diêu Bá Đương đang trong lúc đánh rát, nghe thấy nàng nói mấy câu đó, giật nảy người: “Cô bé này nhãn quang quả là sắc bén. Sáu mươi tư chiêu của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao pháp chỉ còn có năm mươi chín chiêu thật nhưng đến đời sư phụ ta, tư chất kém cỏi, ngộ tính tầm thường nên không học xong hai chiêu Phụ Tử Độ Hà và Trọng Tiết Thủ Nghĩa, thành ra thất truyền mấy chục năm rồi đến bây giờ chỉ còn có năm mươi bảy chiêu. Để khỏi mất mặt, ta đã đem hai biến chiêu ra thay vào để cho đủ năm mươi chín chiêu, ngờ đâu cô ta vẫn nhìn ra được”.

Nguyên do các lục lâm sơn trại đều là bọn ô hợp, bao nhiêu môn phái võ công cũng tụ lại một chỗ cùng nhau đi ăn cướp, riêng có Tần gia trại thì các đầu lĩnh đều là đệ tử của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao. Các môn phái không môn phái nào coi Tần gia trại như cùng loại với mình, cũng chẳng ai lại đến gia nhập với chúng. Sư phụ của Diêu Bá Đương họ Tần, là đầu lĩnh số một của Tần gia trại, cũng là chưởng môn Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao, có đứa con ruột là Tần Bá Khởi võ công tài cán thật tầm thường nên mới truyền ngôi vị đó cho đại đệ tử Diêu Bá Đương. Mấy tháng trước, Tần Bá Khởi ở Thiểm Tây bị người ta dùng một chiêu tên là Tam Hoành Nhất Trực, tức là bốn nhát theo hình chữ vương chém vào mặt chết tươi, đó chính là tuyệt chiêu tối cương mãnh của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao nên ai ai cũng cho rằng đây là đòn của Cô Tô Mộ Dung hạ thủ. Diêu Bá Đương nghĩ đến ân tình của sư phụ nên kéo rốc các hảo thủ của bản trại đến Tô Châu báo thù cho sư đệ. Ngờ đâu chủ nhân chưa gặp đã suýt táng mạng vì Thanh Phong Đinh của phái Thanh Thành may được bằng hữu của Mộ Dung Phục cứu cho thoát chết.

Y hận Tư Mã Lâm âm độc ra tay ám toán, nghe thấy Vương Ngữ Yên nói toạc cái khiếm khuyết của võ công mình ra nên cũng hơi hổ thẹn, càng gấp gáp chuyện đánh bại Tư Mã Lâm để giữ uy tín đối với người của bản trại. Thế nhưng càng cầu thắng bao nhiêu thì càng thêm nóng ruột đâm ra tâm phù khí tháo thành thử tuy liên tiếp sử những chiêu hiểm ác nhưng Tư Mã Lâm đều tránh được.

Diêu Bá Đương quát lên một tiếng, múa đao chém xéo xuống, đợi cho Tư Mã Lâm nghiêng qua bên trái nhảy lên, chân phải mới đá ra. Tư Mã Lâm thân hình đang ở trên lưng chừng không có cách gì tránh né, chiếc dùi trong tay liền đâm luôn vào mu bàn chân địch để cho Diêu Bá Đương phải rụt chân về. Ngọn cước của Diêu Bá Đương quả nhiên không dán phóng ra tiếp, chân trái liền sử dụng uyên ương liên hoàn, nhanh như chớp đá liên tiếp vào ngang lưng Tư Mã Lâm.

Tư Mã Lâm liền vung búa lên, nghe bịch một tiếng, bổ trúng ngay mũi Diêu Bá Đương, lập tức máu tươi vọt ra, thì ngay lúc đó ngọn cước của Diêu Bá Đương cũng trúng hông Tư Mã Lâm. Thế nhưng mặt y bị đòn trước, trong lòng hơi hoảng nên lực đạo ngọn cước so ra chỉ được độ hai thành lúc bình thường. Tư Mã Lâm tuy trúng cú đá thật nhưng chỉ thấy hơi đau một tí không bị thương. Chỉ kẻ trước người sau trong một khoảnh khắc nhưng thắng bại coi như đã xong, Diêu Bá Đương rống lên như hổ gầm, vác đao xông lên tấn công tiếp nhưng thấy đầu đau như búa bổ, chân chập choạng, đứng không vững nữa.

Tư Mã Lâm thắng được chiêu đó cũng nhờ may, biết rằng nếu để cho đối phương sống sót, về sau họa hoạn vô cùng nên nổi tâm địa đuổi tận giết tuyệt, búa nhỏ bên tay phải vung lên đợi cho Diêu Bá Đương vung đao lên gạt lập tức mũi dùi bên tay trái đâm luôn vào giữa ngực.

Phó trại chủ của Tần gia trại thấy tình thế không ổn, hú lên một tiếng, phóng đơn đao trong tay ra nhắm thẳng vào Tư Mã Lâm. Chỉ trong nháy mắt, trong đại sảnh tiếng gió rít lên vù vù, hàng chục thanh đơn đao cùng ném tới.

Thì ra trong võ công của Tần gia trại có tuyệt kỹ phóng đơn đao. Mỗi thanh đao đều nặng từ bảy tám cân đến ngoài mười cân, dùng sức ném ra sức đi thật là mạnh, huống chi hàng chục thanh cùng phóng ra một lượt, Tư Mã Lâm không còn cách nào tránh né hay đỡ gạt.

Trước mắt thấy y không thể thoát khỏi cái họa loạn đao phân thi, đột nhiên ánh đuốc lập lòe, một người đã nhảy vọt tới bên cạnh Tư Mã Lâm, đưa tay vào đám đao phóng tới, chộp bên đông đón bên tây, bắt hết hơn chục thanh đơn đao, ôm vào trước ngực cất tiếng cười ha hả một tràng dài, trên ghế trong sảnh đã thêm một người ngồi chễm chệ. Tiếp đó loảng xoảng loảng xoảng liên tiếp người đó đã vứt bó đao trên tay xuống đất.

Mọi người kinh hãi nhìn vào, thấy đó là một hán tử trung niên mặc trường bào màu tro, người gầy gò thật cao, thần sắc có vẻ ngang bướng gàn dở. Mọi người thấy y xông ra bắt những thanh đao ai nấy đều bội phục không ai dám nói câu gì. Chỉ có mình Đoàn Dự cười nói:

- Vị huynh đài kia ra tay nhanh thật, võ công ắt là cao lắm. Chẳng hay có thể cho biết tôn tính đại danh chăng?

Hán tử cao gầy kia chưa kịp trả lời Vương Ngữ Yên đã tiến lên cười nói:

- Bao tam ca, tiểu muội lại tưởng ông không quay lại, lòng đang khắc khoải, ngờ đâu tam ca đã đến rồi, hay lắm, hay lắm!

Đoàn Dự nói:

- Ồ, thì ra là Bao tam tiên sinh.

Gã Bao tam tiên sinh kia đưa mắt liếc y một cái, khinh khỉnh nói:

- Tên tiểu tử kia ngươi là ai, sao dám xí xa xí xố với ta?

Đoàn Dự đáp:

- Tại hạ họ Đoàn, tên Dự, vốn là kẻ vô quyền vô dũng, ngờ đâu lạc vào chốn giang hồ, may đến hôm nay chưa chết thì kể cũng là một việc lạ trên đời.

Bao tam tiên sinh trợn mắt nhìn y, nhất thời không biết phải trả lời sao. Tư Mã Lâm tiến lên vái một cái thật sâu nói:

- Tư Mã Lâm của phái Thanh Thành được ngài tương trợ, đại ân đại đức đó vĩnh viễn không dám quên. Xin được hỏi danh húy xưng hô thế nào, để cho tại hạ được ghi khắc trong tim.

Bao tam tiên sinh đảo mắt một cái, tung chân ra, nghe bình một tiếng đá y ngã lăn cù, quát lớn:

- Mặt ngươi mà dám đến hỏi tên ta hay sao? Ta đâu có lòng dạ nào cứu ngươi, chỉ vì đây là trang viện của A Châu muội tử, nếu tên xú tiểu tử như ngươi bị loạn đao phân thây, có phải bẩn cả cái Thính Hương thủy tạ này hay không? Mau cút ra! Cút ra ngay!

Tư Mã Lâm thấy y đá ra, muốn tránh nhưng không kịp, bị ngã khá đau, lại nghe y ăn nói khinh bạc như thế, cứ theo qui củ giang hồ, nếu như không lập tức ra tay chí mạng thì cũng phải ước hẹn ngày sau gặp lại chứ không thể để bị người ta coi rẻ trước mặt mọi người. Y ra vẻ cứng cỏi nói:

- Bao tam tiên sinh, mỗ Tư Mã Lâm hôm nay bị người ta vây đánh, quả bất địch chúng, tưởng chừng táng mạng nơi đây, may được ông ra tay tương cứu. Tư Mã Lâm này ân oán phân minh, có ơn trả ơn, có oán báo oán, xin mời!

Y biết rằng đời mình dù khổ luyện cách nào cũng không thể nào đạt tới mức của Bao tam tiên sinh, chỉ nói quấy quá mấy tiếng “có ơn trả ơn, có oán báo oán” để cho khỏi bẽ mặt. Bao tam tiên sinh cũng chẳng thèm để ý đến y nói gì chỉ nói với Vương Ngữ Yên:

- Vương cô nương, cữu thái thái vì cớ gì mà lại để cho cô qua tận đây?

Vương Ngữ Yên cười nói:

- Tam ca thử đoán xem là vì duyên cớ gì?

Bao tam tiên sinh trầm ngâm rồi nói:

- Cái này quả là khó nghĩ cho ra.

Tư Mã Lâm thấy Bao tam tiên sinh chỉ cốt nói chuyện với Vương Ngữ Yên, không coi những câu nói của mình vào đâu, nghĩ đến y đá mình một cái ngã chỏng gọng trong bụng cực kỳ căm tức, không còn nhớ chút nào đến cái ơn vừa cứu mình, tay trái vẫy một cái dẫn đám đệ tử phái Thanh Thành đi ra.

Bao tam tiên sinh gọi vói:

- Ngừng lại, đứng đó nghe ta bảo đây!

Tư Mã Lâm quay đầu lại hỏi:

- Cái gì?

Bao tam tiên sinh nói:

- Ta nghe ngươi đến đất Cô Tô là để báo thù cho cha ngươi. Ngươi đi kiếm lộn người rồi, cha ngươi Tư Mã Vệ không phải do Mộ Dung công tử giết.

Tư Mã Lâm hỏi:

- Sao lại thế? Làm sao Bao tam tiên sinh biết được?

Bao tam tiên sinh giận dữ nói:

- Ta đã bảo không phải Mộ Dung công tử giết, thì nhất định là không phải y giết. Mà dẫu có thực là y giết, ta đã bảo không, thì cũng phải coi là không. Không lẽ lời của ta lại không coi ra gì hay sao?

Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Gã này ăn nói quả là ngang ngược” liền đáp:

- Thù cha không đội trời chung, Tư Mã Lâm này võ nghệ kém cỏi thật nhưng dẫu có tan xương nát thịt cũng phải trả mối thâm cừu này. Tiên phụ chẳng hay do ai sát hại, xin ngài cho biết.

Bao tam tiên sinh cười sằng sặc nói:

- Cha ngươi có phải là con ta đâu, bị ai giết có liên quan đếch gì đến ta? Ta chỉ nói cha ngươi không phải bị Mộ Dung công tử sát hại, xem ra ngươi không tin. Được rồi, thế thì cứ coi như ta giết, ngươi muốn báo thù thì cứ xông vào coi.

Tư Mã Lâm mặt tím lại nói:

- Mối thù giết cha, đâu có phải trò đùa? Bao tam tiên sinh, tôi tự biết không phải là địch thủ của ông, ông muốn giết thì giết chứ làm nhục tôi như vậy thì nhất định là không được.

Bao tam tiên sinh cười nói:

- Ta chẳng thèm giết ngươi, chỉ làm nhục ngươi, để xem ngươi làm gì được ta nào?

Tư Mã Lâm tức tối đến nỗi lồng ngực như muốn nổ tung, muốn xông lên thí mạng với y nhưng lại không dám, đứng chết sững tại chỗ, tiến thoái lưỡng nan thật là ngượng ngập. Bao tam tiên sinh cười nói:

- Cỡ như ông già ngươi tài nghệ kém cỏi như thế làm gì phải để đến Mộ Dung huynh đệ của ta phải phí tâm? Mộ Dung công tử võ công cao gấp mười ta, ngươi thử nghĩ mà xem, Tư Mã Vệ liệu có xứng để y phải ra tay hay không?

Tư Mã Lâm chưa kịp trả lời, Chư Bảo Côn đã rút phắt binh khí, lớn tiếng nói:

- Bao tam tiên sinh, Tư Mã Vệ lão tiên sinh là thụ nghiệp sư phụ của tại hạ, ta nhất định không để ngươi làm nhục đến thanh danh của người đã khuất.

Bao tam tiên sinh cười:

- Ngươi là đứa gian tế lẻn vào phái Thanh Thành học trộm võ nghệ, còn rỗi hơi chen vào chuyện người khác làm gì?

Chư Bảo Côn lớn tiếng đáp:

- Tư Mã sư phụ đãi ta nhân chí nghĩa tận, Chư Bảo Côn này thẹn chưa báo đáp được gì, hôm này mong được vì bảo tồn thanh danh cho tiên sư mà chết, để bớt phần nào tội khi mạn mới rồi. Bao tam tiên sinh, ngươi mau xin lỗi Tư Mã chưởng môn đi.

Bao tam tiên sinh cười nói:

- Bao tam tiên sinh này xưa nay chưa bao giờ nhận lỗi, cũng chẳng xin lỗi ai, dẫu có biết là mình sai thì cũng cãi cho bằng được. Tư Mã Vệ lúc sống cũng có thanh danh cái quái gì đâu, lúc chết đi lại càng tệ hại. Những người như thế giết sớm ngày nào tốt ngày nấy! Giết càng sớm càng tốt!

Chư Bảo Côn hậm hực quát:

- Mau lấy binh khí ra!

Bao tam tiên sinh lại cười:

- Bọn con cái học trò Tư Mã Vệ, toàn là phường bị thịt, trừ việc bắn trộm hại người có còn biết cái quái gì nữa đâu.

Chư Bảo Côn kêu lớn:

- Xem chiêu!

Y sử chiêu Thượng Thiên Hạ Địa, tay trái dùi sắt, tay phải cầm búa cùng tấn công. Bao tam tiên sinh không thèm đứng dậy, ống tay áo bên trái phất ra, một luồng kình phong ập vào mặt địch thủ. Chư Bảo Côn cảm thấy bị ngộp thở, vội nghiêng qua tránh né. Chân phải Bao tam tiên sinh liền móc một cái, Chư Bảo Côn ngã lăn ra đất, Bao tam tiên sinh thuận đà đá luôn vào mông y, văng thẳng ra cửa. Chư Bảo Côn ở trên không xoay mình một cái, vai vừa đụng đất liền uốn mình đứng bật dậy, khập khiễng quay vào, lại vung dùi xông tới. Bao tam tiên sinh chộp luôn cổ tay y, hất y tung lên, nghe bịch một tiếng đụng vào xà nhà một cái thật đau.

Chư Bảo Côn rơi xuống đất, lại nhỏm lên xông vào lần thứ ba. Bao tam tiên sinh nhíu mày nói:

- Ngươi quả thật chẳng biết phải quấy chi hết, tưởng ta không giết ngươi được hay sao?

Chư Bảo Côn kêu lên:

- Ngươi cứ giết ta đi ...

Bao tam tiên sinh vung hai tay ra, nắm tay y tung mạnh một cái, nghe kêu lách cách, xương hai cánh tay Chư Bảo Côn đã gãy lìa, dùi liền đâm vào cánh tay trái, còn búa cũng đập luôn vào phía vai phải, hai vai máu chảy ròng ròng. Lần này y bị thương rất nặng, tuy vẫn muốn xông lên thí mạng nhưng không còn hơi sức nữa.

Người của phái Thanh Thành ngơ ngác nhìn nhau, không biết có nên tiến lên giúp đỡ hay không. Thế nhưng thấy y vì bảo tồn thanh danh cho tiên sư mà không kể gì sống chết, quả không có gì là giả dối, bao nhiêu thù hận trong lòng giảm đi quá nửa.

A Châu từ nãy vẫn đứng một bên không nói lời nào, đột nhiên xen vào:

- Tư Mã đại gia, nhà Mộ Dung Cô Tô nếu như quả đã giết Tư Mã lão tiên sinh thì lẽ nào lại để cho các ông sống sót? Nếu như Bao tam ca muốn giết hết tất cả, e rằng cũng chẳng khó lắm đâu, ít nhất cũng không cứu tính mạng Tư Mã đại gia. Vương cô nương cũng chẳng cứu Chư đại gia làm gì, thực sự là ai ra tay hại Tư Mã lão tiên sinh, các vị trở về tìm hiểu cho rõ ràng minh bạch.

Tư Mã Lâm nghĩ lời nàng quả thực có lý, toan mở miệng nói vài câu đãi bôi. Bao tam tiên sinh giận dữ quát:

- Đây là trang viện của A Châu muội tử, chủ nhân đã lên tiếng đuổi khách rồi, sao ngươi còn lần khân chưa chịu đi?

Tư Mã Lâm đáp:

- Được rồi, sau này gặp lại.

Y hơi gật đầu, đi ra ngoài. Bọn Chư Bảo Côn cũng lục tục đi theo.

Diêu Bá Đương thấy Bao tam tiên sinh võ công cao cường, hành sự quái dị, có ý muốn làm quen vị giang hồ kỳ nhân này, huống chi thấy Vương Ngữ Yên trong bụng chứa biết bao nhiêu là võ học, lòng tham nổi lên muốn chiếm đoạt cho bằng được, liền đứng lên định mở lời. Bao tam tiên sinh lớn tiếng nói:

- Diêu Bá Đương, ta nói cho nghe, tên sư đệ ăn hại Tần Bá Khởi của ngươi, dù có luyện thêm ba chục năm cũng chẳng chịu nổi Mộ Dung công tử chém một đao, luyện thêm một trăm hai chục năm, cũng chẳng chịu nổi bốn đao của Mộ Dung công tử. Ta không thèm nói chuyện với ngươi, mau mau lăn ra khỏi nơi đây.

Diêu Bá Đương sửng sốt nhưng lập tức mặt tím lại, giơ tay cầm lấy chuôi đao. Bao tam tiên sinh nói:

- Với cái tài mọn của ngươi mà cũng toan múa rìu qua mắt thợ hay sao? Ta bảo ngươi mau lăn ra, không lẽ còn phải nói đến lần thứ hai chăng?

Quần đạo Tần gia trại hồi nãy bao nhiêu đao ném vào Tư Mã Lâm rồi, tất cả bị Bao tam tiên sinh bắt được vứt ở dưới chân, thấy y đối với Diêu Bá Đương làm nhục như thế, người nào cũng sôi gan nhưng có điều ai nấy tay không có khác gì hùm beo đã bị bẻ nanh cắt móng.

Bao tam tiên sinh cười ha hả, chân phải liên tiếp đá ra, hơn chục thanh đao vùn vụt tung lên, bay thẳng vào quần đạo Tần gia trại. Những thanh đao đó đi thật chậm, ai nấy thuận tay bắt được, cầm trong tay đều ngạc nhiên, rõ ràng đối phương đưa đao vào tay mình quả là lợi thế. Ai nấy vẫn tưởng bắt được thanh đao y đá đến rất khó, nếu như mũi đao đến gần còn quay ngược lại đâm luôn vào người thì cũng không có gì lạ. Mọi người cầm được thanh đao trong tay mà tay chân luống cuống không biết làm sao cho phải.

Bao tam tiên sinh nói:

- Diêu Bá Đương, ngươi có chịu lăn không nào?

Diêu Bá Đương cười gượng:

- Bao tam tiên sinh đối với họ Diêu này có ơn cứu mạng, cái thân này toàn do các hạ ban cho. Các hạ đã ra lệnh dĩ nhiên phải tuân theo, xin cáo biệt.

Nói xong khom lưng hành lễ, tay phất một cái nói:

- Thôi tất cả đi ra!

Bao tam tiên sinh nói:

- Ta bảo ngươi lăn ra chứ có bảo ngươi đi ra đâu?

Diêu Bá Đương ngạc nhiên nói:

- Tại hạ chưa hiểu ý tứ của Bao tam tiên sinh như thế nào?

Bao tam tiên sinh nói:

- Lăn tức là lăn_, ngươi có lăn không thì bảo?

Diêu Bá Đương nghĩ thầm người này tính tình thật cổ quái, khùng khùng điên điên, chẳng có thể nói phải quấy, không muốn dây dưa liền rảo bước đi ra cửa sảnh. Bao tam tiên sinh quát lên:

- Sai bét rồi, không phải vậy. Đó là đi, là bước, là ù té, là đào tẩu chứ nào có phải là lăn đâu?

Y thân hình rung động đã vọt tới sau lưng Diêu Bá Đương, tay trái thò ra nắm ngay sau ót. Diêu Bá Đương cúi chỏ thúc ngược về sau, Bao tam tiên sinh nhắc tay lên, người của Diêu Bá Đương bị bông bênh giữa trời khiến cho khuỷu tay thúc vào chỗ không. Bao tam tiên sinh tay phải liền nắm ngay mông y nhắc lên, lớn tiếng quát:

- Trang viện của A Châu muội tử đâu phải ngươi muốn đến là đến, muốn đi là đi dễ như thế? Con mẹ ngươi có lăn ra không nào!

Hai tay y lẳng một cái, thân hình to béo của Diêu Bá Đương liền lăn chòng chọc. Y thuận tay phong bế huyệt đạo, Diêu Bá Đương không sao đứng lên được, chẳng khác gì một khúc gỗ lục cục lăn đến bên cửa, cũng may cửa sảnh rộng rãi nên y không bị va vào đâu, lăn thẳng ra ngoài. Quần đạo Tần gia trại hoảng hốt vội túa ra đỡ y dậy. Diêu Bá Đương nói:

- Chạy mau! Chạy mau!

Cả bọn như bầy ong vỡ tổ chen nhau chạy mất. Bao tam tiên sinh liếc nhìn Đoàn Dự mấy cái, không đoán nổi chàng là hạng người nào, hỏi Vương Ngữ Yên:

- Gã này thuộc cánh nào? Có cần phải tống cổ y đi chăng?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Tiểu muội và A Châu, A Bích đều bị Nghiêm má má bắt giữ, tình thế cực kỳ nguy hiểm, may được Đoàn công tử đây ra tay cứu. Hơn nữa, anh ta biết chuyện Huyền Bi hòa thượng bị người ta dùng Vi Đà Chử đánh chết, mình còn cần phải hỏi lại cho rõ ràng.

Bao tam tiên sinh nói:

- Nếu như thế, cô muốn giữ y lại chứ gì?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Đúng thế!

Bao tam tiên sinh mỉm cười:

- Cô không sợ Mộ Dung huynh đệ ghen hay sao?

Vương Ngữ Yên mở tròn đôi mắt:

- Ghen cái gì?

Bao tam tiên sinh chỉ Đoàn Dự nói:

- Gã này mặt trơ trán bóng, mồm miệng trơn như bôi mỡ, cô chớ có vào tròng!

Vương Ngữ Yên không hiểu hỏi lại:

- Tiểu muội có gì mà mắc hỡm y? Tam ca bảo y đặt điều nói láo tin tức về chùa Thiếu Lâm ư? Tiểu muội không sao hiểu nổi.

Bao tam tiên sinh nghe nàng nói một giọng thơ ngây, không tiện hỏi thêm, quay sang Đoàn Dự cười khẩy mấy tiếng nói:

- Nghe nói Huyền Bi hòa thượng của chùa Thiếu Lâm bị người ta dùng công phu Vi Đà Chử đánh chết ở Đại Lý, lại có một bọn hồ đồ đổ tội cho nhà Mộ Dung chúng ta, chuyện đó như thế nào, ngươi kể lại đầu đuôi ta nghe.

Đoàn Dự nghe mà bực mình nên cũng cười nhạt nói:

- Ngươi thẩm vấn tù phạm đó chăng? Nếu như ta không nói ngươi sẽ tra khảo hay sao?

Bao tam tiên sinh ngạc nhiên, không nổi giận mà lại bật cười lẩm bẩm:

- Tiểu tử này lớn mật thật! Tiểu tử này lớn mật thật!

Đột nhiên y tiến lên nắm lấy cánh tay chàng, hơi dùng sức, Đoàn Dự đau đến thấu xương kêu lên:

- Oái, ngươi làm gì thế?

Bao tam tiên sinh đáp:

- Ta dùng nghiêm hình tra khảo, hỏi cung tù phạm đó.

Đoàn Dự cứ mặc kệ coi như không phải tay mình, mỉm cười nói:

- Ngươi khảo đả ta, ta không thèm nhìn tới ngươi nữa.

Bao tam tiên sinh tăng gia kình lực đến nỗi xương tay Đoàn Dự kêu lên lách cách dường như muốn gãy. Đoàn Dự cố nhịn đau, không để ý gì tới. A Bích vội nói:

- Vị Đoàn công tử đây tính khí cao ngạo lắm, y là ân nhân cứu mạng của chúng tôi, tam ca đừng làm y bị thương.

Bao tam tiên sinh gật đầu nói:

- Được lắm, được lắm! Tính khí cao ngạo thật hợp với tính quen mồm “Sai bét rồi, không phải vậy” của ta.

Nói xong y từ từ thả tay Đoàn Dự ra. A Châu cười nói:

- Nói đến mồm miệng, cả bọn mình ai cũng đói rồi. Lão Cố ơi! Lão Cố!

Nàng cao giọng gọi lớn mấy tiếng. Lão Cố từ cửa hông thò đầu vào thấy bọn Diêu Bá Đương, Tư Mã Lâm không còn ai ở đó, mừng rỡ lật đật chạy vào. A Châu nói:

- Lão đi súc miệng hai lần, rửa mặt hai lần, rửa tay ba lần sau đó hãy đi làm cho chúng ta mấy món thật tinh khiết. Nếu có chỗ nào không sạch sẽ, Bao tam gia sẽ không tha cho lão đâu.

Lão Cố mỉm cười gật đầu, luôn mồm nói:

- Sạch sẽ lắm, sạch sẽ lắm!

Các tì bộc trong Thính Hương thủy tạ liền dọn tiệc tại một hoa sảnh. A Châu mời Bao tam tiên sinh ngồi thủ tòa, Đoàn Dự ngồi thứ hai, Vương Ngữ Yên ngồi thứ ba còn nàng và A Bích ngồi nơi hạ thủ tiếp khách. Vương Ngữ Yên chưa cầm đũa đã nóng ruột hỏi:

- Tam ca, anh ấy ... anh ấy ...

Bao tam tiên sinh trừng mắt nhìn Đoàn Dự nói:

- Vương cô nương, nơi đây có người ngoài ngồi chung, mọi chuyện không nên nói ra, huống chi cái thứ mặt trắng như vôi, nhẵn như đít ếch, ta chẳng đời nào tin nổi ...

Đoàn Dự nghe thế tức khí đùng đùng, đứng phắt dậy, định bỏ bàn tiệc đi ra ngoài. A Bích vội nói:

- Đoàn công tử đừng nổi giận, tính khí Bao tam ca chúng tôi ăn nói chẳng giữ mồm, trước nay vẫn thế. Đại hiệu của ông ta là Bao Bất Đồng, gặp ai cũng phải gây gỗ mấy câu, có thế mới ăn được cơm. Họa chăng chỉ có khi nào mặt trời mọc ở phương tây thì y mới không mích lòng ai. Xin mời công tử ngồi nán lại một chút đã.

Đoàn Dự nhìn Vương Ngữ Yên, thấy mặt nàng dường như cũng khẩn khoản muốn mình ở lại, tuy không biết chắc mười mươi nhưng không sao bỏ được cái cơ hội ngồi bên cạnh nàng, nên lại ngồi xuống nói:

- Bao tam tiên sinh bảo tôi mặt trơ trán bóng quả thực không sao chịu nổi. Mộ Dung công tử của các cô tướng mạo chắc cũng không khác Bao tam tiên sinh bao nhiêu, phải không?

Bao Bất Đồng cười ha hả nói:

- Câu hỏi đó hay lắm. Công tử của bọn ta so với Đoàn huynh anh tuấn hơn nhiều...

Vương Ngữ Yên nghe nói mặt mày rạng rỡ niềm vui như bừng nở tự đáy lòng, Bao Bất Đồng nói tiếp:

- ... Công tử chúng ta anh tuấn hiên ngang, tuy đẹp trai thực nhưng so với cái đẹp kiểu ăn hại đái nát như Đoàn công tử thì hoàn toàn khác hẳn, khác hẳn. Còn như tại hạ thì tuy có anh đấy nhưng không được tuấn, tuy cũng hiên ngang nhưng mặt mũi xấu xí, phải gọi là anh xú.

Cả bọn cười ồ. Bao Bất Đồng cạn chén rượu nói:

- Công tử sai ta đến Phúc Kiến làm một việc, cốt để ngầm giúp chùa Thiếu Lâm một tay, còn như làm việc gì thì đợi bao giờ vị Đoàn công tử này đi khỏi rồi ta sẽ nói. Bọn ta đang muốn làm bạn với phái Thiếu Lâm thì không thể nào tự nhiên lại giết hòa thượng của nhà chùa, huống chi công tử đã tới Đại Lý bao giờ đâu. Cô Tô Mộ Dung võ công tuy cao thật nhưng có thể dùng Vi Đà Chử để giết người xa vạn dặm thì e rằng luyện chưa xong.

Đoàn Dự gật đầu:

- Bao huynh nói vậy cũng có lý.

Bao Bất Đồng lắc đầu nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy!

Đoàn Dự ngạc nhiên nghĩ thầm: “Ta bảo ngươi nói có lý, sao lại bảo rằng ta nói sai?”. Lại nghe Bao Bất Đồng nói:

- Không phải là lời ta có lý, mà là sự thực rành rành. Đoàn huynh chỉ nói lời ta có lý, có phải bảo rằng sự thực thì không phải vậy, chỉ vì ta mồm miệng khéo léo, nói ra có vẻ có lý đấy thôi. Lời của ngươi thật là sai bét.

Đoàn Dự mỉm cười không trả lời, nghĩ bụng chớ nên cãi lẫy với y làm gì. Bao Bất Đồng nói:

- Hôm qua ta quay trở lại Tô Châu gặp Phong tứ đệ, hai anh em trao đổi mới hay có bọn chó má nào đó tính gây chuyện nên ngầm hại người để cho ai nấy đổ tội lên đầu Cô Tô Mộ Dung. Chuyện đó đáng lẽ là một việc rất hay, ai kiếm mình là mình đánh, còn gì thú vị cho bằng?

A Châu cười nói:

- Tứ ca hẳn là như mở cờ trong bụng, chuyện đó y cầu còn chưa được.

Bao Bất Đồng lắc đầu:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tứ đệ muốn đánh nhau sao lại bảo là cầu còn chưa được? Y không cầu mà cũng không được, đi khắp thiên hạ thể nào chẳng có lúc đánh nhau.

Đoàn Dự thấy y cũng muốn bắt bẻ cả A Châu mới hay lời của A Bích mới đây không sai, người này chỉ thích đi cà khịa với người khác làm vui. Vương Ngữ Yên nói:

- Thế tam ca với tứ ca bàn bạc được những gì?

Bao Bất Đồng đáp:

- Thứ nhất là hung thủ không phải do phái Thiếu Lâm. Thứ hai cũng không phải do Cái Bang vì chưng phó bang chủ của họ là Mã Đại Nguyên bị người ta dùng Tỏa Hầu Công giết. Tỏa Hầu Công là tuyệt kỹ thành danh của Mã Đại Nguyên, y có bị giết cũng chẳng có gì là lớn chuyện nhưng dùng Tỏa Hầu Công giết Mã Đại Nguyên thì đúng là giá họa cho Cô Tô Mộ Dung rồi.

Đoàn Dự gật đầu. Bao Bất Đồng nói:

- Đoàn huynh gật gù liên tiếp, hẳn là trong bụng cho là mấy câu nói của ta có lý chứ gì?

Đoàn Dự đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Thứ nhất, ta chỉ gật đầu có một cái chớ nào có gật gù liên tiếp. Thứ hai, ta thực tình thấy là đúng chứ đâu phải chỉ vì Bao huynh nói có lý đâu.

Bao Bất Đồng cười ha hả nói:

- Nhà ngươi dùng cái thuật gậy ông đập lưng ông, định gia nhập dưới trướng Cô Tô Mộ Dung chăng? Có ý gì đây? Hay là phải lòng cô em A Bích rồi?

A Bích e thẹn mặt đỏ bừng, phụng phịu nói:

- Tam ca lại giở giọng ăn nói càn rỡ, tiểu muội có đắc tội gì với tam ca đâu nào?

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Người ta thấy ngươi vừa mắt vì ngươi vừa dịu dàng, vừa dễ thương. Ta nói như thế chính vì ngươi không có lỗi lầm gì, còn như nếu ngươi đắc tội với ta thì ta sẽ nói là ngươi phải lòng tên mặt trắng chứ tên mặt trắng đó chẳng có tơ tưởng gì ngươi đâu.

A Bích càng thêm luống cuống, A Châu nói:

- Tam ca đừng có hiếp đáp A Bích muội tử. Nếu tam ca còn bắt nạt cô ấy là tiểu muội sẽ ăn hiếp bé Tịnh Tịnh cho mà xem.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:

- Con gái ta khuê danh là Bao Bất Tịnh, ngươi gọi nó là Tịnh Tịnh thì quả là tâng bốc nó_ chứ nào có phải là ăn hiếp nó đâu. Này cô em A Bích, ta làm gì có dám bắt nạt ngươi đâu.

Nghe y đấu dịu dường như nghe người ta nói hiếp đáp con gái mình nên có phần kiêng nể. Y quay sang nói với Vương Ngữ Yên:

- Đám khốn kiếp kia có mưu toan gì với bọn mình ngày một ngày hai rồi cũng tìm ra. Phong tứ đệ vừa ở Giang Tây về nói năng chưa được rõ ràng, anh em mình phải đi Thanh Vân Trang mới được. Đặng đại tẩu nói có nghe được tin các hảo thủ Cái Bang cùng kéo xuống Giang Nam, xem chừng muốn gây chuyện với chúng mình. Tứ đệ nghe thế liền muốn đi đánh nhau ngay may nhờ đại tẩu khuyên nhủ mới chịu thôi.

A Châu mỉm cười nói:

- Đại tẩu quả nhiên có uy thật mới khuyên được tứ ca, bảo anh ta đừng đi đánh nhau.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Chẳng phải vì đại tẩu có uy mà là nói nghe có lý. Đại tẩu bảo là: đại sự của công tử là trọng không nên gây thù chuốc oán thêm.

Y nói mấy câu đó, Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người nhìn nhau, vẻ mặt ai nấy đều có vẻ nghiêm trang. Đoàn Dự giả vờ như không để ý tới, giơ đũa gắp một miếng thịt gà quay bỏ vào mồm nói:

- Lão Cố nấu ăn không phải vừa thế nhưng so với A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ thì vẫn còn kém xa.

A Bích mỉm cười đáp:

- Tài nấu ăn của lão Cố so với chị A Châu thì kém thật nhưng so với tôi thì lại hơn nhiều.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Hai người các ngươi mỗi người một vẻ, ai cũng có chỗ hay riêng.

A Châu cười:

- Tam ca, bữa nay tiểu muội không vào bếp tự tay làm mấy món cho tam ca ăn, lần sau đến đây sẽ bù lại ...

Nàng vừa nói tới đây bỗng nghe có tiếng lục lạc leng keng, leng keng từ trên cao vọng xuống. Bao Bất Đồng và A Châu, A Bích cùng reo lên:

- Nhị ca có tin đưa đến kìa.

Ba người dời chỗ ngồi chạy ra trước rèm, ngẩng đầu lên xem thấy một con bồ câu trắng bay vòng vòng trên không rồi đáp xuống đậu ngay vào tay A Châu. A Bích đưa tay cởi chiếc ông trúc nhỏ buộc nơi chân con chim, lấy ra một tờ giấy mỏng. Bao Bất Đồng cầm lấy đọc qua rồi nói:

- Thế này thì mình phải đi ngay!

Y quay sang nói với Vương Ngữ Yên:

- Này, cô có đi theo không?

Vương Ngữ Yên hỏi lại:

- Đi đâu? Có chuyện gì thế?

Bao Bất Đồng xòe tay giơ tờ giấy ra nói:

- Nhị ca đưa tin nói là một bầy hảo thủ của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ đến Giang Nam, không hiểu có ý gì, sai ta và hai cô A Châu, A Bích đi tra xét xem sao.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Dĩ nhiên tiểu muội phải đi theo rồi. Người của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ cũng muốn gây sự với mình ư? Xem ra kẻ đối đầu mỗi lúc một nhiều.

Nàng nói tới đây đôi lông mày cau lại. Bao Bất Đồng nói:

- Chưa chắc đã là đối đầu nhưng chắc chắn họ tới Giang Nam chẳng phải để du sơn ngoạn thủy hay thăm chùa lễ Phật rồi. Đã lâu mình chưa gặp cao thủ, nay lại có Cái Bang, rồi Nhất Phẩm Đường, ha ha! Lần này chắc là nhộn nhịp lắm.

Y mặt mày nhơn nhơn xem ra sắp được đánh nhau nên vui mừng hớn hở. Vương Ngữ Yên đi tới gần dáng chừng muốn xem thư viết gì. Bao Bất Đồng liền đưa cho nàng tờ giấy, thấy trên đó viết bảy tám hàng, nét bút thanh nhã, xem ra có chút kình lực, tuy chữ nào nàng cũng biết nhưng đọc lên chẳng ra câu cú gì. Nàng đọc sách đã nhiều nhưng viết kiểu này thì đây mới thấy lần đầu, nên nhíu mày hỏi:

- Cái này là cái chi đây?

A Châu mỉm cười:

- Đây là trò nghịch ngợm quái lạ của Công Dã nhị ca, dùng thi vận và thiết âm biến ra, bình thanh đọc thành nhập thanh, nhập thanh đọc thành thượng thanh, nhất giản đọc thành tam giang, đảo qua đảo lại_. Chúng tôi đọc quen rồi hiểu ngay ý viết trong thư, người ngoài nhìn vào thì mù tịt không hiểu ra sao cả.

A Bích thấy Vương Ngữ Yên nghe nói “người ngoài” vẻ mặt hơi xìu xuống vội nói:

- Vương cô nương không phải người ngoài. Nếu như cô muốn biết tiểu tì sẽ nói hết cho cô nghe.

Vương Ngữ Yên nghe nói thế mặt mới tươi trở lại. Bao Bất Đồng nói:

- Ta đã từng nghe Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ hảo thủ rất đông, Trung Nguyên, Tây Vực các môn các phái nào cũng có người, Vương cô nương đi cùng, chỉ nhìn qua là biết ngay họ gốc gác ra sao. Để việc này xong rồi lúc đó mình sẽ cùng đi Hà Nam gặp công tử gia.

Vương Ngữ Yên mừng lắm, vỗ tay reo lên:

- Hay lắm! Hay lắm! Thế ta cũng đi.

A Bích nói:

- Mình phải làm việc này cho sớm để đến Hà Nam cho kịp, kẻo công tử lại quay về trên đường có khi lỡ dịp gặp nhau. Lại còn nhà sư Thổ Phồn không biết ở bên nhà tôi quấy phá gì nữa.

Bao Bất Đồng đáp:

- Công Dã nhị tẩu đã sai người qua xem, gã hòa thượng đó đi rồi. Ngươi yên tâm, lần sau tam ca sẽ giúp ngươi đánh nhà sư đó.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Tam ca làm sao đánh lại nhà sư, y không đánh tam ca đã là phúc cho ngươi lắm rồi”. Bao Bất Đồng nói:

- Chỉ ngại Vương cô nương đi theo chúng ta, lần sao Vương phu nhân gặp mình, thể nào cũng mắng mỏ một chập ...

Đột nhiên y quay lại nói với Đoàn Dự:

- Ngươi ngồi đây nghe, chuyện của bọn ta chán chết đi được. Họ Đoàn kia, thôi thì ngươi đi đâu thì đi, bọn ta nói chuyện riêng, ngươi đừng có vểnh tai, chõ mồm vào làm gì. Bọ ta đi tỉ võ với người khác, cũng chẳng cần đến ngươi đứng xem reo hò đâu.

Đoàn Dự biết mình còn tiếp tục ngồi không khỏi người ta coi rẻ, lúc này Bao Bất Đồng công nhiên xua đuổi, ăn nói cực kỳ xấc xược, tuy chàng thật chẳng muốn rời xa Vương Ngữ Yên nhưng không còn thể nào muối mặt ở lại, bèn nghiến răng đứng phắt dậy nói:

- Vương cô nương, A Châu, A Bích hai vị cô nương, tại hạ xin cáo từ, sau này có dịp sẽ gặp lại.

Vương Ngữ Yên nói:

- Đêm hôm khuya khoắt, công tử đi đâu bây giờ? Thủy đạo trên Thái Hồ lại không quen, chi bằng nghỉ lại qua đêm, sáng mai đi cũng không muộn.

Đoàn Dự nghe lời nàng nói dường như muốn giữ khách nhưng vẻ mặt lạnh tanh, hiển nhiên lòng nàng đang bay bổng tới nơi Mộ Dung công tử rồi nên không khỏi bực dọc, càng thêm chán chường. Chàng là thế tử con vua cháu chúa, từ bé vốn được nuông chiều, gần đây tuy có chút kinh lịch, chịu nhiều đau khổ dày vò nhưng chưa bao giờ bị ai đối xử lạnh nhạt đến thế cho nên đáp ngay:

- Hôm nay đi hay ngày mai đi thì cũng chẳng khác bao nhiêu, xin cáo từ.

A Châu nói:

- Nếu đã thế, để tôi cho người đưa công tử ra khỏi hồ.

Đoàn Dự thấy A Châu cũng chẳng chèo kéo, càng thêm mất vui nghĩ bụng: “Gã Mộ Dung công tử kia có cái gì ghê gớm mà sao người nào cũng coi y như con phượng hoàng. Nào là chùa Thiếu Lâm, Cái Bang, Tây Hạ Nhất Phẩm Đường bọn chúng chẳng coi ai vào đâu, chỉ mong sớm gặp được Mộ Dung công tử”. Chàng bèn đáp:

- Chẳng cần phải thế, cô chỉ cần cho tôi mượn một chiếc thuyền, một mái chèo, tôi tự biết kiếm đường ra.

A Bích trầm ngâm nói:

- Công tử không quen đường thủy trong này, e rằng sẽ gặp rắc rối. Nhớ cẩn thận đừng để đụng đầu gã hòa thượng kia.

Đoàn Dự nổi khùng nói:

- Các ngươi cứ lo chuyện đi gặp Mộ Dung công tử của mình đi. Giá có đụng phải nhà sư kia, quá lắm thì cũng để cho y thiêu sống. Ta nào có phải biểu huynh biểu đệ, công tử thiếu gia gì của các ngươi, hơi đâu mà lo?

Chàng nói xong hầm hầm đi ra ngoài cửa, còn nghe Bao Bất Đồng nói:

- Nhà sư Thổ Phồn kia không biết lai lịch ra sao, cần phải tìm hiểu cho rõ ràng.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Chắc biểu ca biết đó, chỉ cần gặp được y ...

A Châu và A Bích tiễn Đoàn Dự đi ra, A Bích nói:

- Đoàn công tử, sau này công tử và công tử gia chúng tôi gặp nhau, không chừng sẽ kết thành hảo bằng hữu. Công tử chúng tôi thích kết bạn lắm.

Đoàn Dự cười nhạt nói:

- Tôi không dám vói cao đến thế.

A Bích nghe giọng chàng có điều bực bội, hết sức lạ lùng, hỏi lại:

- Đoàn công tử, sao công tử có vẻ không vui? Hay là tại chúng tôi tiếp đãi quá sơ sài?

A Châu nói:

- Bao tam ca chúng tôi vốn tính thế, xin công tử đừng để tâm làm chi. Tiểu nữ và A Bích muội tử xin lỗi vậy.

Nói xong cười hì hì cúi xuống hành lễ, A Bích cũng làm theo. Đoàn Dự trả lại một vái rồi đứng lên đi thẳng, rảo bước đến bờ nước, nhảy xuống chiếc thuyền con, chèo thuyền đi thẳng vào trong mặt hồ. Chàng thấy tức nghẹn lên tận cổ, vì nguyên do gì, chính mình cũng không sao nói ra được, chỉ biết là còn ở trên bờ thêm một chốc nữa sẽ trở nên mất bình tĩnh, nước mắt tuôn rơi không chừng. Chàng loáng thoáng nghe tiếng A Bích nói:

- A Châu a tỉ, quần áo lót của công tử đã đủ chưa? Đêm nay chị em mình mỗi người khâu thêm một cái, liệu có nên chăng?

A Châu đáp:

- Nên lắm! Nhà ngươi thật biết xét nét, quả là chu đáo.

datlucky_way

23-07-2009 08:10 AM

Hồi 14(a) : KỊCH ẨM THIÊN BÔI NAM NHI SỰ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Làm trai cho đáng nên trai,

Nghìn chung sảng khoái so tài một phen.

*

* *

Đoàn Dự đã từng bị phái Vô Lượng và bang Thần Nông hiếp đáp, lại bị Nam Hải Ngạc Thần cưỡng bách, bị thái tử Diên Khánh bỏ tù rồi bị Cưu Ma Trí bắt đi, đến Mạn Đà Sơn Trang phải làm anh thợ trồng hoa, trải qua bao nhiêu dày vò lăng nhục nhưng trước nay chàng chưa từng có cái bụng dạ oán hận bực bội như thế bao giờ.

Thật ra thì ở Thính Hương thủy tạ chẳng có một ai quá quắt, Bao Bất Đồng tuy có ý đuổi khéo chàng nhưng cũng không đến nỗi cạn tàu ráo máng, không phải như đối phó với bọn Chư Bảo Côn đánh cho gãy tay nát vai hay như với Diêu Bá Đương bắt y phải lăn ra ngoài. Vương Ngữ Yên mở lời bảo chàng ở lại thêm một đêm, còn A Châu, A Bích ân cần lễ độ tiễn chàng ra khỏi cửa nhưng sao trong lòng nặng chịch không thể nào tả xiết.

Trên mặt hồ gió khuya từng chập, mang theo mùi hương lăng dịu dàng, Đoàn Dự ra sức bơi, không biết giận ai mới phải, cũng không biết vì sao mình bực bội. Hôm trước Mộc Uyển Thanh, Nam Hải Ngạc Thần, thái tử Diên Khánh, Cưu Ma Trí, Vương phu nhân ai ai cũng lăng nhục chàng, còn tệ hại hơn nhiều nhưng chàng vẫn thản nhiên chịu đựng không có gì làm nhục nhằn quá đáng.

Trong thâm tâm chàng lờ mờ hiểu rằng chẳng qua vì mình quá ái mộ Vương Ngữ Yên, mà trái tim của nàng lại không có chút nào cho chàng, đến như A Châu, A Bích cũng không ai để ý đến. Chàng từ bé đã được mọi người coi như vàng ngọc, từ hoàng đế hoàng hậu nước Đại Lý trở xuống, chẳng ai dám coi thường. Cho đến cả khi gặp địch nhân, Nam Hải Ngạc Thần một lòng thu chàng làm đồ đệ, Cưu Ma Trí không ngại gian lao đem chàng từ Đại Lý đến Giang Nam, đối xử với chàng cũng có đôi phần kính trọng. Đến như Chung Linh, Mộc Uyển Thanh hai nàng mới gặp cũng đã xiêu lòng ngay.

Chàng từ xưa tới nay chưa từng bị ai lạnh nhạt, khinh rẻ như thế, tuy người ta vẫn giữ lễ nhưng chẳng qua cũng chỉ bề ngoài. Trong bụng ai đó hẳn là coi Mộ Dung công tử trọng hơn chàng nhiều, trong mấy hôm vừa qua hễ có ai nhắc đến Mộ Dung công tử thì lập tức người người rúng động, hết sức lắng tai nghe. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích, Bao Bất Đồng cho chí những người như Đặng đại gia, Công Dã nhị gia, Phong tứ gia chi chi đó, ai nấy dường như sống chỉ vì Mộ Dung công tử mà thôi.

Đoàn Dự xưa nay chưa từng có cái tâm đố kỵ, ghen tài với ai, lúc này một thân một mình bơi thuyền lang thang trên mặt hồ, tưởng chừng như thấy bóng hình Mộ Dung công tử ở trên cao nhìn chàng cười nhạt, buông lời nhạo báng: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi đâu có đáng một sợi lông măng của ta? Ngươi tơ tưởng đến biểu muội ta thật có khác gì con ếch muốn ăn thịt thiên nga? Ngươi không thấy đáng chê cười hay sao?”.

Chàng trong lòng bực bội nên khi chèo thuyền khí lực cực mạnh, hơn một giờ sau, nội lực sung mãn trong người từ từ khởi động nên càng lâu càng thấy thoải mái, bao nhiêu buồn phiền dần dần tiêu giảm. Lại chèo thêm chừng một giờ nữa, trời bắt đầu hửng sáng thấy nơi phương bắc xa xa lẩn khuất trong đám sương mù mờ mịt một ngọn núi nhô lên.

Chàng liệu chừng Thính Hương thủy tạ và Cầm Vận tiểu trúc đều ở phía đông, nếu cứ nhắm hướng bắc mà bơi thì sẽ không quay về chỗ cũ. Thế những mỗi một nhát giầm, lòng chàng lại dâng lên một nỗi bâng khuâng lưu luyến, nghĩ thầm chiếc thuyền đi thêm một thước thì mình lại xa Vương Ngữ Yên thêm một thước.

Đến gần trưa chàng đã chèo đến chân núi, lên bờ hỏi thăm thổ dân mới hay ngọn núi đó tên là Mã Tích, cách Vô Tích_ chẳng bao xa. Chàng đã từng đọc trong sách nói đến Vô Tích biết rằng thời Xuân Thu đã là một thành lớn nổi tiếng. Chàng bèn quay trở về thuyền, chèo tiếp lên hướng bắc, tới khoảng giờ thân thì đã đến bên thành Vô Tích.

Chàng đi vào thấy dân chúng qua lại nườm nượp, thật là nhộn nhịp ở Đại Lý không nơi nào sánh bằng. Chàng cứ thuận chân mà đi đột nhiên ngửi thấy mùi thơm chính là mùi gia vị, tương chao từ thịt ướp đang chiên xào. Chàng đã lâu không ăn uống gì, chèo thuyền mấy giờ liền bụng đã đói meo nên lần theo mùi thơm tìm đến, qua một chỗ ngoặt thấy ngay một tòa tửu lâu nơi mặt đường, bảng vàng đề ba đại tự Tùng Hạc Lâu.

Tấm biển đó đã lâu ngày nên khói ám thành đen thui nhưng ba chữ vàng vẫn bóng loáng, từng chập từng chập mùi thịt rượu ngào ngạt bay ra, thêm tiếng dao thớt rộn ràng lẫn trong tiếng tửu bảo huyên náo.

Chàng đi lên lầu vừa ngồi xuống đã có hầu bàn chạy lại chào hỏi. Đoàn Dự gọi một hồ rượu, thêm bốn món nhắm, tựa lưng vào lan can uống một mình, trong lòng tràn đầy nỗi cô đơn tịch mịch, nhịn không nổi thở dài sườn sượt.

Một đại hán ngồi ở phía tây nghe thế quay đầu lại nhìn, đôi mắt lạnh lùng sáng quắc lướt qua mặt chàng. Đoàn Dự thấy người đó thân thể thật là cao lớn, chừng trên dưới ba mươi, mặc áo vải màu tro cũ kỹ đã sờn rách, mày rậm mắt to, mũi cao miệng rộng, khuôn mặt vuông vức hình chữ quốc, tuy nhuốm vẻ phong sương nhưng đầy vẻ uy nghiêm.

Đoàn Dự trong bụng tấm tắc khen thầm: “Quả là một đại hán hiên ngang! Hẳn đây là một tráng sĩ bi ca khẳng khái của nước Yên nước Triệu nơi miền bắc chứ Giang Nam hay Đại Lý không thể có được người như thế này. Bao Bất Đồng tự mình huyên hoang anh khí ngất trời nhưng phải người như thế này mới xứng đáng bốn chữ đó”.

Trên bàn tráng sĩ đó để một bát thịt bò, một bát canh và hai hồ rượu lớn ngoài ra không còn gì khác đủ biết y ăn uống cũng cực kỳ sảng khoái không câu nệ. Đại hán đó nhìn Đoàn Dự mấy bận rồi quay đầu đi tiếp tục ăn uống. Đoàn Dự đang thấy đơn côi nên có ý muốn làm quen để có bạn liền gọi tửu bảo tới chỉ vào lưng người kia nói:

- Tiền ăn uống của vị gia đài kia tính luôn vào cho ta.

Đại hán kia nghe Đoàn Dự dặn như thế quay lại mỉm cười, gật đầu nhưng không nói gì. Đoàn Dự muốn nói chuyện với y đôi câu để cho bớt tịch mịch nhưng thấy không tiện nên lại thôi.

Lại uống thêm ba chén nữa bỗng nghe thấy cầu thang tiếng bước chân, có hai người đi lên. Người đi trước một chân khập khiễng, tay cầm một cây gậy chống nhưng đi đứng nhanh nhẹn, còn người thứ hai là một ông già mặt mày thiểu não. Hai người đó đi đến bàn của đại hán nọ cung kính khom lưng chào nhưng y chỉ gật đầu chứ không đứng lên hoàn lễ.

Người què chân nói nhỏ:

- Khải bẩm đại ca, đối phương hẹn sáng sớm ngày mai gặp mình tại lương đình Huệ Sơn.

Đại hán gật đầu nói:

- Như thế không khỏi gấp quá chăng?

Lão già kia đáp:

- Huynh đệ đã nói với bọn chúng ước hội ba ngày nữa. Thế nhưng đối phương chắc biết người bên mình chưa đông đủ, ăn nói khích bác bảo là nếu không dám phó ước thì ngày mai không đến cũng chẳng sao.

Đại hán nói:

- Được rồi! Ngươi truyền ra cho anh em canh ba hôm nay tất cả tề tựu tại Huệ Sơn. Mình tới trước đợi đối phương đến gặp.

Hai người khom lưng đáp lời, quay mình xuống lầu. Ba người đó nói chuyện rất khẽ, các tửu khách trên lầu không ai nghe được nhưng Đoàn Dự nội lực sung mãn, mắt tinh tai thính tuy không cố ý nghe lỏm chuyện người nhưng câu nào câu nấy vào tai rõ mồn một.

Đại hán kia không hiểu cố ý hay vô tình liếc nhìn Đoàn Dự, thấy chàng cúi đầu trầm tư hiển nhiên nghe được câu chuyện của mình, đột nhiên đôi mắt sáng lóe lên, hừ một tiếng. Đoàn Dự giật mình, tay run rẩy nghe choang một tiếng chén rượu rơi ngay xuống sàn vỡ nát. Đại hán kia mỉm cười hỏi:

- Vị huynh đài kia có gì mà phải hoảng hốt? Xin mời qua đây cùng uống với nhau, được chăng?

Đoàn Dự cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm!

Chàng sai hầu bàn thu dọn chén bát dọn qua bàn của người kia rồi hỏi tính danh. Đại hán kia mỉm cười:

- Huynh đài sao đã biết rồi mà còn hỏi làm chi? Chúng mình việc gì phải câu nệ hình thức, uống với nhau vài bát, có phải hay biết bao không? Đến khi chia ra thành ta và địch đâm ra mất thú đi.

Đoàn Dự đáp:

- Huynh đài chắc nhận lầm người rồi nên tưởng tại hạ là kẻ địch. Thế nhưng “việc gì phải câu nệ hình thức” mấy tiếng đó, tiểu đệ thấy thật hợp ý, xin mời, xin mời!

Chàng cầm chén lên nốc một hơi cạn sạch. Đại hán kia mỉm cười nói:

- Huynh đài quả là sảng khoái, có điều cái chén đó bé quá.

Y kêu:

- Tửu bảo, đem cho ta hai cái bát lớn, đem thêm mười cân cao lương_.

Gã hầu bàn và Đoàn Dự nghe gọi “mười cân cao lương” đều giệt nảy mình. Tửu bảo cười cầu tài:

- Bẩm gia đài, mười cân rượu uống làm sao cho hết?

Đại hán kia chỉ vào Đoàn Dự nói:

- Vị công tử này mời khách, ngươi việc gì phải dè xẻn giùm cho y? Mười cân chưa đủ, lấy hai chục cân.

Tửu bảo cười đáp:

- Dạ! Dạ!

Chẳng mấy chốc y mang ra hai cái tô và một hũ rượu để lên bàn. Đại hán kia nói:

- Rót đầy hai tô cho ta.

Hai chiếc bát đó rót xong, Đoàn Dự thấy mùi rượu xông lên mũi thật là nồng. Chàng khi còn ở Đại Lý, chỉ thỉnh thoảng uống vài chén, bây giờ nhìn thấy bát rượu to quá, không khỏi cau mày. Đại hán kia cười nói:

- Hai chúng mình đối ẩm mười bát đã rồi tính sau, được chăng?

Đoàn Dự nhìn thấy đôi mắt y có vẻ diễu cợt, giá như bình thời, chàng ắt hẳn sẽ cung kính từ chối, thú thực là tửu lượng không bằng ai. Thế nhưng tối hôm qua ở Thính Hương thủy tạ bị người ta rẻ rúng đã nhiều nghĩ thầm: “Gã này hẳn là cùng phường với Mộ Dung công tử, nếu chẳng phải Đặng đại gia, Công Dã nhị gia thì cũng là Phong tứ gia. Bọn chúng đã ước hẹn đấu võ tại Huệ Sơn, kẻ địch nếu không là Cái Bang thì cũng là Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ. Hừ, Mộ Dung công tử thì đã là cái quái gì? Ta nhất định không để cho thủ hạ y khinh miệt, quá lắm say chết là cùng, có gì là ghê gớm đâu?”.

Chàng nghĩ thế nên ưỡn ngực lớn tiếng nói:

- Tại hạ xả mệnh bồi quân tử, uống rượu nếu có gì thất thố mong huynh đài đừng trách.

Nói xong bưng một bát rượu lên, ừng ực ừng ực uống một hơi. Chàng uống hết bát rượu đó chẳng qua chỉ vì tức khí, tuy không có Vương Ngữ Yên ngồi bên cạnh nhưng chẳng khác nào uống cho nàng coi, cùng với Mộ Dung Phục tranh đua, không để thua trước mặt người trong mộng, chẳng nói gì chỉ là một bát rượu trắng mà dẫu có độc tửu thì chàng cũng không ngần ngại uống ngay.

Đại hán kia thấy chàng uống một cách hào sảng như thế cũng hơi ngoài sự tiên liệu của mình, cười ha hả nói:

- Thật là sảng khoái!

Y cũng bưng bát của mình lên ngửa cổ uống cạn rồi lại rót đầy hai bát khác. Đoàn Dự cười nói:

- Rượu ngon lắm! 

Chàng khà một tiếng rồi lại bưng bát lên uống hết. Đại hán kia cũng uống một bát nữa rồi lại châm cho đầy. Mỗi bát đó phải đến nửa cân, Đoàn Dự uống một cân liệt tửu vào bụng rồi, trong bụng tưởng như có lửa đốt bừng bừng, đầu óc choáng váng quay cuồng nhưng vẫn nghĩ bụng: “Mộ Dung Phục thì đã là gì? Chắc gì hơn được ai? Ta lẽ nào lại thua thủ hạ của hắn!”. Chàng lại bưng bát thứ ba lên uống một hơi hết sạch.

Đại hán kia thấy chàng đã có vẻ say, trong bụng cười thầm, biết chàng uống hết bát thứ ba rồi chỉ giây lát thể nào cũng nằm sóng soài ra đất. Đoàn Dự chưa uống bát thứ ba đã thấy trong bụng trộn trạo muốn ói đến lúc thêm nửa cân rượu trắng nữa vào bụng, ngũ tạng lục phủ dường như quay mòng mòng. Chàng cố gắng mím môi, không để cho rượu trong bụng ọc ra. Đột nhiên nơi đan điền thấy động, một luồng chân khí xông thẳng lên, ở trong người chạy lung tung khắp nơi giống như hôm nào không thể thu hồi chân khí lại. Chàng vội vàng theo đúng pháp môn bá phụ truyền dạy, đem luồng chân khí đó nạp trở vào huyệt Đại Trùy. Hơi rượu trong cơ thể bốc lên, trộn với chân khí, rượu vốn là vật hữu hình hữu chất nên không chịu nằm yên nơi các huyệt đạo, chàng đành để nó theo tự nhiên từ huyệt Thiên Tông sang huyệt Kiên Trinh rồi theo các huyệt Tiểu Hải, Chi Chính, Dưỡng Lão nơi cánh tay trái xuống đến các huyệt Dương Cốc, Hậu Khoát, Tiền Cốc nơi bàn tay rồi theo huyệt Thiếu Trạch ở ngón tay út chảy ra ngoài. Lúc này lộ tuyến chân khí chàng sử dụng giống như Thiếu Trạch Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm. Thiếu Trạch Kiếm vốn là một luồng kiếm khí hữu kình vô hình, lúc này nơi ngón tay út của chàng lại có một giòng rượu chảy ri rỉ ra ngoài.

Lúc đầu Đoàn Dự chưa nhận ra nhưng chẳng bao lâu, đầu óc thấy tỉnh táo trở lại, khám phá ra rượu theo ngón tay út mà ra ngoài kêu thầm: “Thực hay biết bao!”. Chàng để thõng tay trái, đại hán kia nào có để ý, chỉ thấy Đoàn Dự vốn đang lờ đờ say chẳng mấy chốc thần thái lại bình thường, không khỏi lạ lùng, cười nói:

- Tửu lượng của huynh đài không phải dở nên mới chịu được như thế.

Y lại rót thêm hai bát nữa. Đoàn Dự cười nói:

- Tửu lượng của tiểu đệ cũng tùy người mà một khác. Người đời có nói rằng: Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu. Chiếc bát này, đệ nghĩ chắc cũng độ hai chục chén, một nghìn ly thì phải bốn năm chục bát mới đủ, tiểu đệ xem ra uống không nổi năm chục bát đâu.

Nói xong lại bưng bát lên uống cạn thêm một lần nữa rồi theo đúng phép vận khí, tay để lên thành lan can ở bên ngoài tửu lâu, một giòng rượu theo ngón tay út chảy ra, theo thanh gỗ xuống dưới chân tường, quả là thần không hay, quỉ không biết, chẳng có chút nào sơ hở. Chỉ một lát chàng đã tống hết bốn bát rượu ra khỏi cơ thể.

Đại hán kia thấy Đoàn Dự không có vẻ gì là đã uống hết bốn bát liệt tửu rất là vui vẻ nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu, để ta kính ngươi cạn trước.

Y rót ra hai bát, tự mình uống sạch rồi rót cho Đoàn Dự hai bát khác. Đoàn Dự cực kỳ thản nhiên cầm lên uống cạn hai bát rượu thái độ tiêu sái chẳng khác gì người ta uống nước lã không bằng. Hai người thi uống rượu lúc ấy đã kinh động các tửu khách lầu trên lầu dưới của Tùng Hạc Lâu, ngay cả đầu bếp, hỏa phu cũng chạy lên lầu vây quanh hai người xem đấu tửu. Đại hán kia lại gọi:

- Tửu bảo đâu, đem thêm hai chục cân nữa.

Gã hầu bàn le lưỡi nhưng đang muốn xem trò vui nên không ngăn trở gì nữa, liền đi bưng thêm lên một hũ rượu. Đoàn Dự và đại hán đó, anh một bát tôi một bát, hai bên uống không ai chịu kém ai, chỉ chừng một bữa cơm, hai người ai nấy uống mỗi người ba chục bát rồi.

Đoàn Dự biết rằng mình dùng ngón tay làm trò ma mãnh, liệt tửu chỉ chảy qua thân thể mình rồi ra ngoài, tửu lượng có thể nói là vô cùng vô tận, còn đại hán kia mới là bản lãnh chân thực, thấy y uống liên tiếp hơn ba mươi bát mà mặt không đổi sắc, cũng không có vẻ gì say sưa, trong lòng hết sức bội phục, lúc đầu chàng nghĩ y cùng phe với Mộ Dung công tử nên có ý chống báng, đến lúc này thấy y đầy vẻ hào sảng, anh phong nên nổi lòng yêu mến nghĩ bụng: “Nếu cứ như thế này mà thi đua, ta chỉ có thắng mà không thể nào thất bại được. Thế nhưng người này nếu uống quá chén không khỏi tổn hại đến cơ thể”.

Đến khi uống tới bát thứ bốn mươi, chàng bèn nói:

- Nhân huynh, hai đứa mình ai nấy uống đến bát thứ bốn mươi rồi đó!

Đại hán kia cười nói:

- Huynh đài đầu óc còn tỉnh táo lắm nên đếm thật đâu ra đấy.

Đoàn Dự cũng cười:

- Hai ta kỳ phùng địch thủ, gặp gỡ nơi đây quả là có duyên, nếu uống đến khi phân thắng bại e không phải dễ. Thôi mình uống đến đây thôi, trong người huynh đệ cũng không mang sẵn tiền.

Chàng thò tay vào túi lấy ra một cái túi thêu thẩy lên bàn, nghe cạch một tiếng nhỏ đủ biết trong túi chẳng có bao nhiêu vàng bạc. Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí bắt từ Đại Lý đem đến đây tiền bạc không đem theo nhiều tuy cái hầu bao đó tết bằng tơ vàng chỉ bạc thoáng trông cũng biết là vật trân quí nhưng lép xẹp nhìn là biết ngay.

Đại hán đó thấy thế cười ha hả. Móc trong người ra một đĩnh bạc vứt lên bàn, nắm tay Đoàn Dự nói:

- Thôi mình đi!

Đoàn Dự trong lòng hoan hỉ, khi ở Đại Lý vì chưng là hoàng tử nên khó có thể kết giao được với một ai thật tình, hôm nay lại không phải vì văn tài, cũng chẳng phải võ công vô hình chung bằng tửu lượng mà quen được với một người, quả là lạ lùng hiếm có ở trên đời.

Hai người xuống dưới lầu, đại hán kia đi mỗi lúc một nhanh, ra khỏi thành liền rảo bước, cứ vùn vụt theo đường cái mà thẳng tới. Đoàn Dự cũng lấy hơi, đi song song với y, tuy chàng không biết võ công nhưng nội lực cực kỳ sung mãn thành thử chạy nhanh mà không thở mạnh chút nào. Đại hán kia nhìn chàng mỉm cười nói:

- Được lắm, mình tỉ thí cước lực xem sao.

Nói rồi y liền ra sức chạy thật nhanh. Đoàn Dự theo được mấy bước, vì quá gấp nên chân hơi chập choạng tưởng chừng muốn ngã, thừa thế nhích xéo qua bên trái nửa bước theo lối Lăng Ba Vi Bộ mới đứng vững được. Chàng vô ý đi được một bước thì đã vọt lên mấy thước, trong lòng mừng rỡ, bước tiếp theo cũng áp dụng bộ pháp đó nên đã đuổi kịp đại hán kia. Hai người lại cùng nhau chạy, chỉ thấy gió thổi vù vù, cây cối hai bên đường vùn vụt chạy về phía sau.

Đoàn Dự học được Lăng Ba Vi Bộ có bao giờ nghĩ đến việc mình sẽ sử dụng môn võ công này vào việc chạy thi, lúc này như tên để trên dây cung không thể không bắn ra chỉ còn nước hết sức mà làm chứ hoàn toàn không có tham vọng thắng được đại hán nọ. Chàng án chiếu bộ pháp đã học được, lại thêm nội lực hồn hậu không đâu sánh kịp, từng bước từng bước đi ra còn người kia ở đằng trước hay tụt lại đằng sau chàng nào có để ý.

Đại hán kia hết sức rảo bước, mỗi lúc chạy thêm nhanh, trong khoảnh khắc đã bỏ xa Đoàn Dự. Thế nhưng y chỉ ngừng lại lấy thêm một hơi thì Đoàn Dự đã đuổi tới sau lưng rồi. Anh chàng ta liếc mắt ngó qua thấy Đoàn Dự thân hình tiêu sái, chẳng khác gì người tản bộ đi chơi mát, trong lối bước đi không có vẻ gì tranh cạnh trong bụng bội phục thầm, lại càng cố chạy cho nhanh khiến cho Đoàn Dự phải tụt về sau nhưng chẳng mấy chốc chàng lại đuổi kịp. Cứ thử như thế mấy lần, đại hán kia biết Đoàn Dự nội lực cực kỳ mãnh liệt xem ra còn hơn cả mình, trong khoảng mươi dặm thắng được chàng thì không lấy gì làm khó, thế nhưng nếu đi ba bốn chục dặm thì cái cơ hội thắng được chàng sẽ khó mà biết, chạy đến sáu chục dặm trở lên thì mình thua là cái chắc. Y cười ha hả đứng lại nói:

- Mộ Dung công tử, Kiều Phong hôm nay quả đã phục tài các hạ. Cô Tô Mộ Dung quả nhiên danh bất hư truyền.

Đoàn Dự đang đà chạy vọt lên trên nghe thế vội vàng quay lại, thấy y gọi mình là “Mộ Dung công tử” vội nói:

- Tiểu đệ họ Đoàn, tên Dự, huynh đài nhận lầm rồi.

Đại hán kia thần sắc kinh ngạc hỏi lại:

- Ngươi nói sao? Ngươi ... ngươi không phải Mộ Dung Phục Mộ Dung công tử ư?

Đoàn Dự mỉm cười:

- Tiểu đệ đến Giang Nam, ngày nào cũng nghe đến đại danh của Mộ Dung công tử, quả thực hết sức ngưỡng mộ thế nhưng tới nay vẫn chưa có duyên bái kiến.

Chàng trong bụng nghĩ thầm: “Hán tử này ngộ nhận ta là Mộ Dung Phục thì ra y không phải cùng phe nhà Mộ Dung”. Nghĩ như thế đối với y chàng thấy có thêm vài phần hảo cảm, bèn hỏi:

- Huynh đài tự nói tên họ, có phải họ Kiều tên Phong chăng?

Người kia chưa hết vẻ kinh ngạc nói:

- Chính thế, tại hạ là Kiều Phong.

Đoàn Dự nói:

- Tiểu đệ là người Đại Lý, mới đến Giang Nam lần đầu đã được biết đến một nhân vật anh hùng như Kiều huynh thực là đại hạnh.

Kiều Phong trầm ngâm nói:

- Ồ, thì ra ngươi là con cháu họ Đoàn Đại Lý, thảo nào, thảo nào! Đoàn huynh, huynh đài đến Giang Nam có chuyện gì vậy?

Đoàn Dự đáp:

- Nói ra thật là hổ thẹn, tiểu đệ bị người ta bắt đến đây.

Chàng đem chuyện vì sao bị Cưu Ma Trí bắt được, rồi gặp hai cô a hoàn của Mộ Dung Phục thế nào sơ lược kể qua. Tuy tóm tắt một câu chuyện dài nhưng không điều gì dối trá, bao nhiêu nỗi xấu xa mình gặp phải, không che đậy thêm thắt chút nào.

Kiều Phong nghe xong, vừa mừng vùa ngạc nhiên nói:

- Đoàn huynh quả là người sảng trực, bình sinh trong đời mỗ chưa từng gặp qua. Ta với ngươi một lần gặp gỡ như quen đã lâu, mình kết thành huynh đệ kim lan, ngươi nghĩ sao?

Đoàn Dự mừng rỡ đáp:

- Việc đó tiểu đệ cầu còn chưa được.

Hai người trao đổi tuổi tác, Kiều Phong lớn hơn Đoàn Dự mười một tuổi lẽ dĩ nhiên là anh. Sau đó hai người nặn đất thành hương, ngẩng lên trời lạy tám lạy, người gọi hiền đệ, kẻ luôn mồm đại ca vui mừng khôn xiết.

Đoàn Dự nói:

- Tiểu đệ nơi Tùng Hạc Lâu, nghe lỏm được đại ca tối nay có ước hẹn với kẻ địch. Tiểu đệ tuy không biết võ công nhưng cũng muốn đến xem trò náo nhiệt, đại ca có bằng lòng không?

Kiều Phong tra hỏi chàng mấy câu mới hay quả nhiên Đoàn Dự không biết võ công thực, không khỏi tấm tắc lấy làm lạ lùng nói:

- Hiền đệ trong thân thể chứa nhiều nội lực như thế nếu muốn học võ công thượng thừa thật dễ như lấy đồ trong túy chẳng khó khăn gì cả. Nếu hiền đệ hôm nay muốn đến coi hội đấu cũng chẳng có gì là không được, chỉ e rằng địch nhân ra tay tàn độc âm hiểm, hiền đệ tuyệt nhiên chớ nên ra mặt.

Đoàn Dự vui mừng nói: 

- Tiểu đệ nhất quyết theo lời dặn của đại ca.

Kiều Phong cười nói:

- Giờ này trời còn sớm, anh em ta quay lại thành Vô Tích uống thêm một trận nữa, sau đó cùng đến Huệ Sơn cũng không muộn.

Đoàn Dự nghe y đòi uống rượu nũa, không khỏi hoảng hồn nghĩ thầm: “Mới đây uống bốn chục bát lớn rồi, mới một chốc đã đòi uống thêm sao?”. Chàng bèn nói:

- Đại ca, tiểu đệ cùng đại ca uống thi, thực ra là đánh lừa đại ca đó, xin đừng trách.

Chàng nói rõ mình đã dùng nội lực dồn rượu chảy ra huyệt Thiếu Trạch ở ngón tay út như thế nào, Kiều Phong kinh hoảng nói:

- Huynh đệ, có phải ... có phải đó là công phu Lục Mạch Thần Kiếm đó chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Chính thị, tiểu đệ mới học chưa lâu tài nghệ còn sơ sài lắm.

Kiều Phong ngẩn người ra một hồi, thở dài nói:

- Ta từng nghe gia sư nói qua, trong võ lâm cố lão tương truyền họ Đoàn Đại Lý có môn công phu Lục Mạch Thần Kiếm, có thể dùng kiếm khí vô hình giết người, không biết thực hay hư. Thì ra quả có môn thần công đó.

Đoàn Dự nói:

- Thực ra môn công phu đó ngoài việc dùng để bịp đại ca khi uống rượu ra chẳng được việc gì khác. Tiểu đệ bị nhà sư Cưu Ma Trí bắt giữ, không cách nào chống trả. Người đời ca tụng môn Lục Mạch Thần Kiếm này quá đáng, thực ra chẳng được như vậy đâu. Đại ca, rượu có thể làm cơ thể bị tổn thương nên uống điều độ, tiểu đệ thấy hôm nay mình không nên uống thêm làm gì. 

Kiều Phong cười ha hả nói:

- Hiền đệ khuyên như vậy là phải lắm. Có điều ngu huynh khỏe như voi, từ bé đã thích uống rượu, càng uống tinh thần càng sảng khoái, đêm nay đại địch ở trước mặt, lại càng cần uống thêm liệt tửu để cùng bọn kia sống mái một phen.

Hai người vừa nói vừa quay lại thành Vô Tích nhưng lần này không còn chạy đua nữa, chỉ chậm rãi đi sóng đôi. Đoàn Dự vui mừng có được một người bạn tốt, trong lòng cực kỳ sung sướng thế nhưng vẫn không quên được Mộ Dung Phục và Vương Ngữ Yên nên nói chuyện gẫu mấy câu nhịn không nổi hỏi:

- Đại ca lúc nãy nhận lầm tiểu đệ là Mộ Dung công tử, không lẽ hình dáng anh ta có phần nào giống đệ chăng?

Kiều Phong đáp:

- Ta đã từng nghe đại danh của họ Mộ Dung đất Cô Tô, lần này đến Giang Nam cũng là vì y mà đến. Nghe nói Mộ Dung Phục nho nhã anh tuấn, tuổi chừng hăm tám hăm chín, so ra còn lớn hơn hiền đệ vài tuổi nhưng vì ta không nghĩ ra ngoài Mộ Dung Phục đất Giang Nam có còn thanh niên công tử nào dung mạo tuấn nhã, võ công cao cường như thế thành thử mới nhận lầm, quả là đáng hổ thẹn.

Đoàn Dự nghe y nói Mộ Dung Phục “võ công cao cường, dung mạo tuấn nhã”, trong lòng chua xót dường như không chịu nổi lại hỏi thêm:

- Đại ca từ xa đến kiếm y cốt để kết giao làm bạn với nhau chăng?

Kiều Phong thở dài một tiếng, vẻ mặt buồn bã lắc đầu:

- Ta vẫn hằng mong được kết giao với một người bạn như thế nhưng e rằng không làm sao được.

Đoàn Dự hỏi thêm:

- Vì sao vậy?

Kiều Phong đáp:

- Ta có một người bạn chí thân, hai tháng trước đây bị giết, ai cũng bảo là bị Mộ Dung Phục hạ độc thủ.

Đoàn Dự thảng thốt kêu lên:

- Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân!

Kiều Phong đáp:

- Đúng thế. Người bạn đó bị một vết thương trí mạng, chính là do người ta sử dụng tuyệt kỹ thành danh của y.

Y nói tới đây, thanh âm nghẹn ngào, thần tình cực kỳ xót xa, ngừng lại một chút nói tiếp:

- Thế nhưng trên giang hồ có biết bao nhiêu chuyện ly kỳ con người khó mà liệu cho hết, đâu có thể chỉ dựa vào một lời đồn đãi mà đã khăng khăng coi y là có tội. Ngu huynh đến Giang Nam chính là vì muốn tra xét cho rõ ngọn ngành.

Đoàn Dự hỏi:

- Thế sự thực ra sao?

Kiều Phong lắc đầu nói:

- Cái đó cũng thật là khó nói. Người bạn ta thành danh đã lâu, là người ngay thẳng, tính tình khiêm hòa, xưa nay hành sự cực kỳ cẩn trọng, không lẽ chẳng có chuyện gì lại đắc tội với Mộ Dung công tử. Y bị người ta ám toán cách nào, quả thực không sao hiểu được.

Đoàn Dự gật đầu nghĩ thầm: "Đại ca bề ngoài thô hào nhưng nội tâm cực kỳ tinh tế, không phải như Hoắc tiên sinh, Quá Ngạn Chi, Tư Mã Lâm chưa hỏi đầu đuôi đã nhất mực cho rằng Mộ Dung công tử là hung thủ". Chàng lại hỏi thêm:

- Thế cường địch mà ước hội với đại ca vào sáng sớm mai là hạng người nào thế?

Kiều Phong đáp:

- Đó là ...

Mới nói được hai tiếng, đã thấy trên đường cái hai người áo quần rách rưới, trông như kẻ ăn mày chạy tới, Kiều Phong vội vàng ngừng lại. Hai người đó thi triển khinh công, chỉ nháy mắt đã tới trước mặt, cùng khom lưng, một người nói:

- Khải bẩm bang chủ, có bốn người xông vào Đại Nghĩa phân đà thân thủ có vẻ khá lắm, Tưởng đà chủ thấy bọn họ xem chừng có ý không tốt, ngại rằng chống đỡ không nổi nên sai thuộc hạ đi mời Đại Nhân phân đà đến tiếp viện.

Đoàn Dự nghe hai người kia gọi Kiều Phong là “bang chủ”, thần thái cực kỳ cung kính nghĩ thầm: “Thì ra đại ca là chủ một bang hội gì đó”. Kiều Phong gật đầu hỏi:

- Bên kia là người như thế nào?

Một hán tử đáp:

- Bên đó ba người là đàn bà, còn lại một người đàn ông trung niên gầy gầy cao cao, cực kỳ ngang tàng vô lễ.

Kiều Phong hừ một tiếng nói:

- Tưởng đà chủ sao quá lo xa, đối phương chỉ có một người, không lẽ không đối phó nổi ư?

Hán tử đáp:

- Khải bẩm bang chủ, ba người đàn bà xem chừng cũng biết võ công.

Kiều Phong bật cười nói:

- Hay nhỉ, để ta đến xem sao.

Hai người đàn ông lộ vẻ vui mừng, cùng đáp “Vâng” rồi thõng tay lui ra sau lưng Kiều Phong. Kiều Phong quay sang nói với Đoàn Dự:

- Huynh đệ, ngươi có cùng đi với ta chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Dĩ nhiên là thế!

Hai người kia đi trước dẫn đường, đi thẳng độ một dặm rồi quẹo qua bên trái, đi vòng qua vòng lại đến một con đường mòn men theo bờ đê hai bên đều là loại nhất đẳng điền tới nơi sông biển tiếp giáp với nhau. Đi được mấy dặm nữa qua một khu rừng hạnh, nghe tiếng một người hết sức quái dị từ trong vọng ra:

- Mộ Dung huynh đệ của ta đi lên Lạc Dương để gặp bang chủ các ngươi, sao người của Cái Bang lại kéo rốc tới Vô Tích làm gì? Thế có phải là cố ý tránh mặt không cho gặp hay sao? Các ngươi nhút nhát thì cũng chẳng nói làm chi, nhưng để cho Mộ Dung huynh đệ của ta phải đi không về không mất công toi! Có lý nào như thế? Trên đời này lẽ nào lại như thế được?

Đoàn Dự vừa nghe giọng nói, tim đập thình thình, đó chính là cái gã Bao tam tiên sinh lúc nào cũng lèm bèm “Sai bét rồi, không phải vậy” nên nghĩ thầm: “Vương cô nương có đi cùng với y chăng? Chẳng bảo là có ba người đàn bà là gì?”. Chàng lại nghĩ: “Cái Bang là đại bang số một trong thiên hạ, không lẽ hôm nay mình đã bái kết cùng bang chủ của họ hay sao?”.

Chỉ nghe một người nói giọng phương bắc lớn tiếng đáp:

- Mộ Dung công tử có hẹn trước với Kiều bang chủ của tệ bang không?

Bao tam tiên sinh nói:

- Hẹn hay không hẹn thì cũng thế. Mộ Dung công tử đã đến Lạc Dương thì bang chủ Cái Bang không được tự tiện đi đâu cả để cho y phải về không. Lẽ nào lại thế, trên đời này lẽ nào lại thế được?

Người kia trả lời:

- Thế Mộ Dung công tử có đưa tín thiếp đến tệ bang xin gặp không?

Bao tam tiên sinh đáp:

- Làm sao ta biết? Ta có phải là Mộ Dung công tử đâu, cũng có phải là bang chủ Cái Bang đâu, làm sao biết được? Câu hỏi của ngươi nghe chẳng đâu vào đâu, lẽ nào thế được, lẽ nào thế được?

Kiều Phong nghe vậy sầm mặt xuống, hiên ngang tiến vào trong rừng. Đoàn Dự đi theo đằng sau thấy trong rừng hạnh hai bên đang đối diện nhau, đằng sau Bao tam tiên sinh có ba cô gái, Đoàn Dự vừa nhìn thấy một nàng mắt liền dán chặt vào không sao rời ra được nữa.

Người con gái đó dĩ nhiên là Vương Ngữ Yên, nàng “ủa” một tiếng hỏi nhỏ:

- Anh cũng đến đây à?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi cũng đến.

Rồi mắt như ngây như dại chăm chăm nhìn nàng. Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng, quay đầu ra chỗ khác nghĩ bụng: “Gã này nhìn mình như thế quả là vô lễ”. Thế nhưng nàng biết Đoàn Dự hết sức ái mộ nhan sắc mình, trong lòng lại thấy sung sướng chứ không bực bội. 

Đối diện với Bao Bất Đồng là một đám ăn mày quần áo lam lũ, người đứng trước thấy Kiều Phong đến lộ vẻ vui mừng lập tức chạy ra nghinh tiếp, những bang chúng Cái Bang đứng ở sau y cùng khom lưng hành lễ lớn tiếng nói:

- Thuộc hạ tham kiến bang chủ.

Kiều Phong ôm quyền đáp:

- Các anh em khỏe chứ.

Bao tam tiên sinh thấy thế lập tức thần tình khẩn trương hỏi:

- Ồ, vị này là Kiều bang chủ của Cái Bang đấy ư? Huynh đệ là Bao Bất Đồng, ông chắc có nghe đến tên rồi.

Kiều Phong đáp:

- Thì ra là Bao tam tiên sinh, tại hạ ngưỡng mộ anh danh đã lâu, hôm nay mới thấy tôn phạm, quả là hạnh sự.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta làm gì có anh danh? Trên giang hồ xú danh thì chắc có. Ai mà chẳng biết Bao Bất Đồng đi đâu cũng gây gỗ với người ta, mở mồm là thành chuyện. Ha ha ha! Kiều bang chủ, ông tự tiện đến Giang Nam, thế là sai quấy lắm đó.

Cái Bang là bang hội lớn nhất thiên hạ, thân phận bang chủ tôn vinh là nhường nào, bang chúng kính ngưỡng như thần minh. Mọi người thấy Bao Bất Đồng vô lễ với bang chủ như thế, vừa mở mồm đã trách móc, không ai là không phẫn nộ. Sáu người đứng sau lưng Đại Nghĩa phân đà Tưởng đà chủ lập tức kẻ cầm chuôi đao, người cung tay lấy thế như toan bước ra động thủ.

Kiều Phong chỉ thản nhiên trả lời:

- Tại hạ sai quấy ở chỗ nào, xin Bao tam tiên sinh chỉ giáo.

Bao Bất Đồng đáp:

- Mộ Dung huynh đệ chúng tôi biết Kiều bang chủ là người có tiếng tăm, biết Cái Bang có nhiều nhân tài thành thử tự mình đến Lạc Dương bái hội các hạ, sao ông lại ham vui đi xuống Giang Nam? Ha ha, lẽ nào thế được, lẽ nào thế được?

Kiều Phong mỉm cười nói:

- Mộ Dung công tử giá lâm tệ bang ở Lạc Dương, nếu như tại hạ biết trước tin đó, đương nhiên phải cung kính đón chờ, xin được tạ cái tội thất nghinh trước.

Nói xong ôm quyền vái chào. Đoàn Dự trong bụng khen thầm: “Mấy câu đó của đại ca quả là đắc thể, đúng là phong độ bang chủ một bang, chứ nếu như nổi giận với Bao Bất Đồng thì thật mất thân phận”.

Ngờ đâu Bao Bất Đồng nhận ngay chuyện đó, gật gù nói:

- Cái việc thất nghinh đó đúng là phải tạ tội. Người đời có nói rằng: “Không biết thì không có tội”, thế nhưng còn muốn phạt muốn đánh gì thì cũng còn tùy ở người ta nữa.

Y đang dương dương tự đắc, bỗng nghe từ trong rừng hạnh có mấy người cười ồ lên vang động cả không gian. Trong tiếng cười có người nói:

- Thường nghe Bao Bất Đồng đất Giang Nam hay đánh rắm chó, quả nhiên danh bất hư truyền.

Bao Bất Đồng đáp lại:

- Thường nghe rắm kêu thì không thối, rắm thối thì không kêu, thế nhưng rắm chó vừa thối vừa kêu thì có phải là rắm của Cái Bang lục lão đó chăng?

Trong rừng hạnh có người đáp:

- Bao Bất Đồng đã nghe danh Cái Bang lục lão, sao còn dám ở đây ba hoa nhăng cuội?

Lời vừa dứt, từ trong rừng hạnh bước ra bốn ông già, người thì râu tóc trắng xóa, người thì mặt mũi hồng hào, trong tay ai cũng cầm binh khí, chia ra bốn góc vây bốn người Bao Bất Đồng, Vương Ngữ Yên lại.

Lẽ dĩ nhiên Bao Bất Đồng phải biết Cái Bang là đệ nhất bang hội trong thiên hạ, trong bang cao thủ nhiêu vô số kể, Cái Bang lục lão lại vọng trọng võ lâm có điều y tính khí cao ngạo, từ bé đã không sợ trời sợ đất gì bao giờ, thấy bốn trong sáu người của Cái Bang lục lão ra mặt, vây quanh nên kêu khổ thầm: “Chết rồi, xem chừng hôm nay tên tuổi của Bao tam tiên sinh này đổ xuống sông xuống biển mất”. Thế nhưng mặt y không lộ vẻ gì sợ hãi chỉ nói:

- Bốn lão già kia tính chỉ dạy chuyện gì? Bộ tính cùng Bao tam tiên sinh này đánh nhau một trận hay sao? Sao bốn lão không xông lên một lượt? Thập thò mai phục ở một bên, toan ám toán Bao tam tiên sinh đấy hả? Hay lắm, hay lắm, thật là hay! Bao tam tiên sinh thích nhất là đánh nhau.

Bỗng từ trên không có tiếng người vọng xuống:

- - Trên đời này ai là người khoái đánh nhau nhất? Là Bao tam tiên sinh chăng? Sai rồi, sai rồi, đó phải là Giang Nam Nhất Trận Phong Phong Ba Ác.

Đoàn Dự ngẩng đầu lên thấy một người đứng trên một cành hạnh, cành cây rung động không ngớt, người đó cũng nhấp nhô theo. Y thân hình nhỏ bé, tuổi chừng ba mươi hai ba mươi ba, mặt đã choắt lại để hai chòm râu đuôi chuột, lông mày xụ xuống, dung mạo thật là xấu xí. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Xem ra người này là người A Châu, A Bích gọi là Phong tứ ca đây”. Quả nhiên nghe A Bích kêu lên:

- Phong tứ ca, anh có nghe tin tức gì của công tử chăng?

Phong Ba Ác nói lớn:

- Hay lắm, hôm nay kiếm được đối thủ rồi. A Châu, A Bích, chuyện của công tử từ từ rồi nói cũng không sao.

Từ trên không một người lộn một vòng lao thẳng xuống, xông luôn vào tấn công ông già lùn mập ở phía bắc. Ông già đó tay cầm cương trượng, lập tức đẩy ra phía trước điểm vào ngực Phong Ba Ác. Cái gậy đó phải to bằng quả trứng ngỗng, lúc vung ra có kình phong thật là uy mãnh. Phong Ba Ác liền sấn tới, giơ tay định đoạt cương trượng, ông già liền rung tay một cái, chiếc gậy hất lên, điểm luôn vào ngực y. Phong Ba Ác kêu lên:

- Hay lắm!

Y đột nhiên rùn người xuống, giơ tay chộp vào mạng sườn đối phương. Cây gậy của ông già lùn mập kia lúc đó còn ở bên ngoài, thấy địch tiến sát vào mình muốn rút về chống đỡ cũng không kịp, bèn giơ chân lên đá vào bụng dưới y.

Phong Ba Ác nghiêng qua tránh được, nhưng lại xông ngay lên trước mặt ông già mặt mũi hồng hào ở phía đông, chỉ thấy một ánh chớp lóe lên, trong tay y đã có thêm một thanh đơn đao, vung lên chém ngang qua.

Ông già mặt đỏ tay cầm một thanh quỉ đầu đao, sống dày lưỡi mỏng, thân thật dài, thấy Phong Ba Ác vung đao chém tới liền dựng đứng thanh đao lên, lấy đao gạt đao ắt hẳn lưỡi đao của ông ta phải rất cứng. Phong Ba Ác kêu lên:

- Binh khí ngươi lợi hại lắm, ta không chạm đâu.

Y nhảy ra ngoài hơn một trượng, nhắm ngay ông già râu bạc ở phía nam chém ngược lại một đao. Ông già đó tay cầm thiết giản, trên thân giản đầy răng có ngạnh, chính dùng để khóa binh khí của đối phương. Ông ta thấy đơn đao của Phong Ba Ác chém vào mà quỉ đầu đao của ông già mặt đỏ còn chưa thu về nếu mình xông lên sẽ thành thế tiền hậu giáp công, hai người đánh một nên tự trọng thân phận nhẹ nhàng tránh ra nhường y một chiêu.

Ngờ đâu Phong Ba Ác thích đánh nhau thành tính rồi, càng đánh càng hăng, càng lúc càng đam mê, còn ai thắng ai thua y chẳng quan tâm đến, các qui luật giao đấu y cũng không gìn giữ, ông già râu bạc vừa lách qua lùi lại, ai cũng biết ông ta có ý nhường đòn, Phong Ba Ác cũng không biết đây là lễ tiết của người trong võ lâm, vừa thấy có khe hở có thể lách vào, soẹt soẹt chém luôn bốn nhát, toàn là chiêu số tấn công như vũ bão, nhanh nhẹn dị thường.

Ông già râu bạc đâu ngờ y lại thừa cơ tấn công, thực là vô lý hết sức, vội vàng vung giản lên chống đỡ, phải lùi liên tiếp bốn bước mới đứng vững được. Lúc này lưng ông ta đã tựa vào một cây hạnh, không còn đường nào lùi thêm, vội tạt ngang cây giản, nghe vù một tiếng, chuyển thủ thành công đánh ra đòn thứ nhất trong Sát Thủ Giản. Ngờ đâu Phong Ba Ác quát lên:

- Còn gã này nữa.

Y không đỡ mà lùi lại, đơn đao múa lên thành một vòng tròn, xông vào người thứ tư trong Cái Bang tứ lão. Trưởng lão râu bạc đánh ra một giản nhưng địch thủ đã lùi ra xa khiến ông ta giận đến thở hồng hộc, chòm râu dựng cả lên.

Người trưởng lão thứ tư kia có hai cánh tay thật dài, tay trái cầm một món binh khí mềm mại, thấy Phong Ba Ác xông tới, tay trái liền đưa lên tung khí giới ra, hóa ra là một cái túi đựng gạo bằng gai. Chiếc bị gặp gió liền phồng lên, chụp xuống đầu Phong Ba Ác. Phong Ba Ác vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, kêu lên:

- Hay lắm, hay lắm, để ta đánh với ngươi.

Y bình sinh thích nhất là đánh nhau, nếu như đối thủ càng có võ công kỳ lạ, hay có binh khí kỳ dị là y khoái chí tử, chẳng khác nào kẻ ưa du ngoạn trông thấy núi cả sông dài, người ham ăn gặp được cao lương mỹ vị. Y thấy kẻ địch dùng một chiếc bao tải làm võ khí, y trước nay chưa từng đánh với loại võ khí đó bao giờ, chưa từng thấy từng nghe đến nên y mừng rỡ lắm, càng thêm dè dặt, cẩn thận dùng mũi dao đâm thẳng vào, thử xem dùng đao có thể cắt được chiếc bao không. Lão già tay dài liền đổi chiếc bao qua tay phải, tay trái co lại, múa chưởng đánh thẳng vào mặt y.

Phong Ba Ác nghiêng đầu qua tránh được, đang định xoay đao chém vào hạ bàn đối phương, ngờ đâu ông già tay dài luyện được môn “Thông Tí Quyền” cực kỳ cao siêu, quyền lực tưởng như đã hết đà ngờ đâu khi vừa ra hết tay lại sinh ra một luồng kình lực mới, quyền đầu bỗng dưng vươn ra thêm nửa thước nữa. Cũng may Phong Ba Ác cả đời thích đánh nhau, đánh lớn đánh nhỏ trải qua hàng nghìn trận nên kinh nghiệm ứng biến phong phú trên đời này khó có người thứ hai, trong cơn nguy cấp liền há mồm ngoạm luôn một cái vào nắm tay kẻ địch.

Ông già tay dài những tưởng cú đấm của mình sẽ đánh gãy vài cái răng của y ngờ đâu lại bị cắn ngay một miếng, vội rụt tay về nhưng đã trễ, kêu lên một tiếng, mấy ngón tay đã bị y cắn bật máu tươi. Người đứng xem chúng quanh kẻ thì lớn tiếng thóa mạ, kẻ lại cười sằng sặc. Bao Bất Đồng nghiêm trang nói:

- Phong tứ đệ, chiêu Lã Động Tân giảo cẩu danh bất hư truyền, quả nhiên đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa, không uổng công lao khổ luyện mấy mươi năm, bất kể nắng mưa, cắn chết một nghìn tám trăm con chó trắng, chó đen, chó đốm nên mới đạt đến mức như ngày nay.

Vương Ngữ Yên và A Châu, A Bích cùng bật cười. Đoàn Dự nói:

- Vương cô nương, võ công trong thiên hạ môn nào cô cũng biết, cũng thông. Thế cái chiêu cắn người kia là thuộc môn nào phái nào thế?

Vương Ngữ Yên mỉm cười nói:

- Đây là môn công phu độc đáo của Phong tứ ca, tôi cũng không biết nữa.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi không biết ư? Ha ha, thế thì kém quá. Lã động Tân giảo cẩu đại cửu thức, mỗi thức có chính phản tám cách cắn khác nhau, tám lần chín bảy mươi hai, tổng cộng là bảy mươi hai miếng. Võ công đó cực kỳ cao thâm.

Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên vui vẻ, lại nghe Bao Bất Đồng ba hoa, cũng định diễu góp vài câu nhưng chợt nghĩ ra: “Ông già tay dài này là hạ thuộc của Kiều đại ca, lẽ nào ta lại nhạo báng y?” nên đành ngậm miệng.

Trong lúc đó nơi đấu trường tiếng gió vù vù, ông già tay dài cầm chiếc bao múa thành một vòng màu vàng tưởng chừng như có một cái lồng úp chụp xuống Phong Ba Ác. Thế nhưng họ Phong đao pháp tinh kỳ, chặn trước đỡ sau không có vẻ gì thua sút. Chiêu số của chiếc bao tải chưa chấm dứt mà y đã nếm mùi Thông Tí Quyền, mặc dù đòn Lã Động Tân giảo cẩu kia may mà ngoạm được một cái nhưng không hi vọng gì cắn thêm được lần nữa thành thử hết sức dè dặt không dám coi thường chút nào.

Kiều Phong thấy Phong Ba Ác cùng một trong Cái Bang tứ lão ác đấu đến hơn trăm chiêu mà chưa thấy vẻ gì kém sút trong bụng cũng ngạc nhiên, lại coi trọng Mộ Dung công tử thêm một chút. Ba vị trưởng lão Cái Bang còn lại lui ra một bên chăm chú xem hai người giao đấu. A Bích thấy Phong Ba Ác đánh lâu mà không thắng lo ngại hỏi Vương Ngữ Yên:

- Vương cô nương, trường tí lão tiên sinh kia dùng chiếc bao bố là môn võ công chi vậy?

Vương Ngữ Yên nhíu mày đáp:

- Lộ võ công này ta chưa từng đọc qua trong sách, nhưng quyền cước thì là Thông Tí Quyền, còn tay thì dùng thủ pháp của Hồi Đả Nhuyễn Tiên Thập Tam Thức của Đại Biệt Sơn, lại pha với tám mươi mốt đường Tam Tiết Côn của họ Nguyễn ở Hồ Bắc, xem ra công phu đánh bằng bao tải là do y tự mình sáng chế ra.

Mấy câu đó nàng nói không có gì lớn tiếng, thế nhưng hai cái tên “Đại Biệt Sơn Hồi Đả Nhuyễn Tiên Thập Tam Thức” và “Hồ Bắc Nguyễn Gia Bát Thập Nhất Lộ Tam Tiết Côn” lọt vào tai ông già thật chẳng khác gì sấm động bên tai. Ông ta nguyên là con cháu nhà họ Nguyễn ở Hồ Bắc, Tam Tiết Côn chính là công phu gia truyền, về sau lỡ tay giết trưởng bối trong nhà, phạm vào đại tội phải thay họ đổi tên, bỏ Tam Tiết Côn không dùng đến nữa nên không còn ai biết đến bộ mặt thật của y, ngờ đâu sở học hồi trẻ dù đã quyết tâm bỏ đi nhưng đến khi kịch đấu lại tự nhiên sử dụng khiến trong lòng kinh hãi nghĩ thầm: “Con nhãi này sao lại biết được gốc gác của ta nhỉ?”. Y e ngại hình tích mình dấu diếm mấy chục năm nay bây giờ bị bại lộ nên hơi phân tâm, bị Phong Ba Ác liên tiếp tấn công mấy đao, khiến cho núng thế dường như không còn chống đỡ nổi.

Ông ta lùi luôn ba bước, dợm chân toan bỏ chạy, thấy Phong Ba Ác múa đao chém tới, lập tức phóng chân trái lên đá vào cổ tay y. Phong Ba Ác liền liền lạng đao qua chém hớt xuống chân đối thủ. Ông già tay dài liền chuyển ngay sang uyên ương liên hoàn cước tung chân phải lên, thân hình bay bổng lên cao. Phong Ba Ác thấy ông ta tuổi đã cao mà thân pháp còn nhanh nhẹn chẳng kém gì người còn trẻ, buột miệng khen:

- Giỏi thật!

Vù một tiếng quyền bên trái đấm ra, đánh vào đầu gối địch thủ. Ông già tay dài đang ở trên không, khó mà di động thân hình xem ra quyền đó nếu trúng thể nào xương bánh chè cũng nát vụn, nếu không thì xương đùi cũng phải gãy.

Phong Ba Ác thấy quyền của mình sắp đánh trúng địch thủ đến nơi mà đối phương không biến chiêu, bỗng nghe hơi gió ập tới, chiếc túi trong tay đã mở ra chụp xuống đầu y. Quyền đó của Phong Ba Ác có thể đánh trúng xương đùi của ông già tay dài thật nhưng nếu để đầu mình bị chụp vào trong cái bao thì có phải hỡi ôi không? Chiếc túi đó đang từ trên đổ xuống đột nhiên biến thành quét ngang như để rũ cho cái bao bọc gió, tay phải ông già hơi nghiêng qua, miệng túi lệch sang chộp luôn vào đầu quyền của Phong Ba Ác.

Miệng bao quá lớn mà nắm tay Phong Ba Ác thì nhỏ nên lọt vào thật dễ dàng nhưng làm sao có thể giữ y được. Phong Ba Ác chỉ rụt tay lại là đã rút ra khỏi cái bao ngay. Đột nhiên lưng bàn tay y nhói lên một cái, dường như bị kim đâm phải, nhìn xuống bỗng giật nảy người, thì ra đã có một con bò cạp trên lưng bàn tay. Con bò cạp đó so với bình thường thì nhỏ hơn nhiều nhưng mình vằn vện ngũ sắc trông thật ghê rợn. Phong Ba Ác biết không xong, vẫy mạnh tay một cái nhưng đuôi con bò cạp vẫn cắm chặt vào lưng bàn tay, lắc cách nào cũng không nhả.

Phong Ba Ác vội lật tay lại xát bàn tay vào sống đao, nghe tóp một tiếng, con bò cạp đã bị nát ngướu. Thế nhưng con vật lại từ trong túi của ông già tay dài chui ra ắt không phải chỉ là bò cạp thường, một người ăn mày tầm thường độc vật sử dụng đã thật ghê gớm, huống chi lại là một trong lục đại trưởng lão của Cái Bang? Y vội vàng nhảy ra ngoài xa, lấy trong túi ra một viên thuốc giải độc, bỏ tọt vào mồm nuốt luôn.

Người ăn mày già không đuổi theo, thu chiếc bao về, quay sang Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Con bé này sao lại biết ta thuộc về họ Nguyễn Hồ Bắc nhỉ?”. Bao Bất Đồng hết sức quan tâm vội hỏi:

- Tứ đệ thấy thế nào?

datlucky_way

23-07-2009 08:10 AM

Hồi 14(b) : KỊCH ẨM THIÊN BÔI NAM NHI SỰ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Làm trai cho đáng nên trai,

Nghìn chung sảng khoái so tài một phen.

*

* *

Phong Ba Ác vẫy vẫy bàn tay, không thấy khác lạ cũng không hiểu ra sao, nghĩ bụng: “Trong túi gai có dấu bò cạp ngũ sắc, không thể không có gì kỳ quái” bèn đáp:

- Không thấy gì cả ...

Y mới nói tới đây, đột nhiên nghe bịch một cái ngã nhào ra trước. Bao Bất Đồng vội đỡ y lên, hỏi dồn:

- Sao thế? Sao thế?

Chỉ thấy các bắp thịt trên mặt y đã cứng đơ nở một nụ cười thật gượng gạo. Bao Bất Đồng kinh hãi quá, vội vàng giơ tay điểm các huyệt đạo trên cổ tay, khuỷu tay và trên vai ba nơi khớp xương để cho chất độc khỏi chạy ngược về tim, ngờ đâu chất độc của con bò cạp hoa kia lan ra thật nhanh, tuy chẳng phải là “kiến huyết phong hầu” nhưng trúng phải là có tác dụng ngay còn nhanh hơn nọc rắn nhiều.

Phong Ba Ác há mồm toan nói gì đó, nhưng chỉ ú ớ mấy tiếng thật khó nghe. Bao Bất Đồng thấy độc tính lợi hại như vậy sợ rằng không còn cách nào chạy chữa, trong cơn bi phẫn, gầm lên một tiếng, xông luôn vào ông già tay dài.

Ông già lùn mập cầm cương trượng quát lên:

- Định xa luân chiến hay sao? Để thằng lùn này ra thử với anh hào nhà Mộ Dung.

Cây gậy liền nhắm thẳng vào Bao Bất Đồng phóng ra. Món binh khí đó vốn thật nặng nề nhưng y cầm thật nhẹ nhàng, xuất chiêu linh động, chẳng khác gì một thanh trường kiếm. Bao Bất Đồng tuy đang cơn tức tối gấp gáp nhưng đối thủ là một đại kình địch, không dám coi thường chút nào, chỉ mong bắt được tên trưởng lão lùn mập này để ép ông già tay dài đưa thuốc giải cứu Phong tứ đệ nên lập tức thi triển cầm nã thủ, theo những khe hở của cương trượng mà tấn công vào.

A Châu, A Bích hai người chia ra đứng hai bên Phong Ba Ác, mắt rưng rưng gọi rối rít:

- Tứ ca! Tứ ca!

Vương Ngữ Yên không biết tí gì về việc sử dụng, chữa trị chất độc, trong bụng hối hận vô cùng: “Ta mỗi khi đọc sách võ học, trị độc pháp môn nhiều vô số kể nhưng tưởng không bao giờ dùng tới nên chẳng thèm liếc qua. Giá như mình chịu khó đọc qua, nhớ được chút nào hay chút nấy thì bây giờ đâu đến nỗi bó tay, giương mắt nhìn Phong tứ ca chết tức tối thế này”.

Kiều Phong thấy Bao Bất Đồng và trưởng lão lùn hai bên ngang ngửa không thể nào chốc lát mà phân thắng bại quay sang nói với ông già tay dài:

- Trần trưởng lão, xin ông giải độc giùm cho vị Phong tứ gia đây.

Trần trưởng lão ngạc nhiên:

- Bẩm bang chủ, tên này vô lễ, võ công cũng không phải kém, cứu y sống rồi hậu hoạn không phải là ít.

Kiều Phong gật đầu nói:

- Nói vậy đúng lắm. Thế nhưng chúng ta chưa gặp người chủ mà đã giết hạ thuộc của họ hiềm rằng mang tiếng ỷ mạnh hiếp yếu. Mình nên phân định rõ hai bên vị trí thế nào lúc đó hãy có biện pháp.

Trần trưởng lão hậm hực đáp:

- Mã phó bang chủ rõ ràng là bị tên tiểu tử Mộ Dung kia giết hại, báo thù rửa hận nói chuyện nhân nghĩa lý tình làm gì?

Mặt Kiều Phong hơi lộ vẻ không vui nói:

- Trưởng lão cứ giải độc cho y trước đi, chuyện khác nói sau cũng chưa muộn.

Trần trưởng lão tuy trong lòng không muốn chút nào nhưng lệnh của bang chủ không thể cãi được nên đáp:

- Vâng!

Y lấy trong người ra một cái bình nhỏ, tiến lên mấy bước nói với A Châu và A Bích:

- Bang chủ chúng ta nhân nghĩa hơn người, đây là thuốc giải, mau cầm lấy.

A Bích mừng quá vội vàng chạy lên cung kính hành lễ tạ ơn Kiều Phong rồi quay sang chắp tay nói với Trần trưởng lão:

- Đa tạ Kiều bang chủ, đa tạ Trần trưởng lão.

Nàng cầm lấy chiếc bình nhỏ hỏi lại:

- Xin hỏi trưởng lão, giải dược đây dùng như thế nào?

Trần trưởng lão đáp:

- Hút hết chất độc ở vết thương ra, lấy thuốc giải bôi lên.

Y ngừng lại một chút nói tiếp:

- Độc dịch chưa hút hết thì bôi thuốc giải lên cũng bằng thừa, nên biết như thế.

A Bích đáp:

- Dạ!

Nàng quay lại cầm tay Phong Ba Ác há mồm toan hút máu độc trên tay y. Trần trưởng lão lớn tiếng quát:

- Khoan đã!

A Bích ngạc nhiên nói:

- Cái chi?

Trần trưởng lão nói:

- Đàn bà hút không được.

A Bích mặt hơi đỏ lên hỏi lại:

- Đàn bà thì sao?

Trần trưởng lão đáp:

- Chất độc con bò cạp này là âm hàn, đàn bà tính âm, âm lại thêm âm độc tính lại tăng thêm.

A Châu, A Bích, Vương Ngữ Yên ba người bán tín bán nghi, tuy lời đó có vẻ quái lạ nhưng không phải là hoàn toàn vô lý nếu như càng làm độc thêm thì e không xong, bên mình chỉ có Bao Bất Đồng là đàn ông nhưng đang cùng ông già lùn đấu kịch liệt, chỉ thấy trượng ảnh thấp thoáng, chưởng thế vù vù, nhất thời không thể nào rời ra được. A Châu kêu lên:

- Tam ca! tạm ngừng tay đã, quay lại cứu tứ ca rồi tính sau.

Thế nhưng Bao Bất Đồng với ông già lùn kia hai bên ngang ngửa, đã giao đấu rồi, muốn thoát thân mà ra không phải chỉ vài chiêu là xong. Cao thủ tỉ võ, chiêu nào cũng đều sống chết sơ hở một chút sẽ bị đối phương lấy mạng ngay chứ đâu phải muốn ra là ra, muốn vào là vào? Bao Bất Đồng nghe tiếng A Châu gọi, nghĩ bụng thương thế Phong Ba Ác có biến chuyển gì đây, lại càng nóng ruột, cố gắng tấn công gấp rút mong thoát ra được vòng vây của ông già lùn.

Hai người kịch đấu đã trên trăm chiêu, tuy ở vào thế bình thủ nhưng ông già lùn tay cầm binh khí vừa dài vừa nặng, đối phương lại tay không ai yếu ai mạnh đã rõ rệt. Ông già lùn múa cây cương trượng liên hoàn tiến kích nhưng đều bị Bao Bất Đồng hóa giải cả biết rằng có đấu thêm nữa thì chỉ có thua chứ không mong thắng được thấy bên địch tấn công gấp rút lại tưởng y muốn đánh bại mình lên cũng đem hết toàn lực ra chống đỡ.

Cái Bang tứ lão người nào võ công cũng có chỗ độc đáo riêng, đối với bọn Chư Bảo Côn, Tư Mã Lâm phái Thanh Thành, Diêu Bá Đương của Tần gia trại Bao Bất Đồng chỉ nói nói cười cười nhẹ nhàng đánh ra nhưng lão già lùn này quả không dễ đối phó. Bao Bất Đồng tuy chiếm thượng phong nhưng nếu muốn thực sự thắng được một chiêu nửa thức thì còn phải xem đối phương công lực thế nào mà ông già lùn thì đánh lâu không có vẻ gì kém thế.

Kiều Phong thấy ba cô gái mặt mày kinh hoảng, biết rằng con bò cạp hoa của Trần trưởng lão nuôi cực kỳ lợi hại, cũng chẳng biết cái câu “đàn bà không được hút chất độc” kia thực hay giả. Nếu như ông ra lệnh cho thuộc hạ tấn công kẻ địch, dù cho tình thế hung hiểm bội phần cũng không ai dám buông lòng oán hận nhưng nay sai một người liều mạng ra cứu chữa cho địch nhân thì dù cách nào cũng không thể nào mở lời được. Nghĩ như thế Kiều Phong bèn nói:

- Để ta hút chất độc cho Phong tứ gia.

Nói xong ông đi đến bên cạnh Phong Ba Ác. Đoàn Dự trông thấy Vương Ngữ Yên mặt mày rầu rĩ đã sớm có ý định đi ra hút độc dịch cho Phong Ba Ác, có điều Kiều Phong đã cùng mình kết nghĩa anh em, nếu lại ra tay giúp cho kẻ địch của nghĩa huynh thì tình kim lan ắt sẽ thương tổn, tuy Kiều Phong đã bảo Trần trưởng lão lấy giải dược nhưng cũng đâu biết đó là thực lòng hay chỉ giả vờ. Đến khi thấy Kiều Phong đi đến bên cạnh Phong Ba Ác quả thực muốn giúp y trừ độc vội nói:

- Đại ca, nhường tiểu đệ hút độc cho y.

Chàng bước ra, tự nhiên sử dụng ngay bộ pháp trong Lăng Ba Vi Bộ, thân hình lạng qua đã chen lên trước Kiều Phong, cầm tay Phong Ba Ác, ghé miệng vào vết thương trên tay y hút luôn.

Lúc này một bên tay Phong Ba Ác đã đen sì, hai mắt mở trừng trừng, đến mi mắt cũng đã cứng đờ không còn nhắm lại được. Đoàn Dự hút ra một ngụm máu độc, nhổ xuống đất thấy máu đó đen như mực, mọi người trông thấy đều hết sức kinh hãi. Đoàn Dự đang định hút tiếp thấy trên vết thương máu đen từng giọt nhỏ ra, chàng ngạc nhiên nghĩ thầm: “Để máu đen này ra hết rồi mình hãy hút tiếp thì mới xong”. Chàng có ngờ đâu vì đã ăn phải con Mãng Cổ Chu Cáp là vua của các loài độc nên có thể khắc chế mọi loại độc tính, con bò cạp hoa kia còn kém xa nên hút ra rồi thuận thế chảy ra. Đột nhiên Phong Ba Ác cựa mình một cái nói:

- Đa tạ!

Bọn A Châu ai nấy cực kỳ mừng rỡ. A Bích nói:

- Tứ ca, anh nói được rồi.

Chỉ thấy máu độc càng lúc càng nhạt, từ từ biến thành màu tím, chảy thêm một lát nữa, màu tím trở thành đỏ sậm. A Bích vội vàng thoa thuốc giải lên vết thương cho y rồi Bao Bất Đồng cũng giải các huyệt đạo trên tay y. Chỉ trong giây lát, lưng bàn tay sưng húp của Phong Ba Ác dần dần xẹp xuống, hành động nói năng lại trở lại bình thường.

Phong Ba Ác quay sang vái Đoàn Dự một cái thật sâu nói:

- Đa tạ ơn công tử cứu mạng.

Đoàn Dự vội vàng hoàn lễ đáp:

- Cái chuyện con con ấy có gì đáng nói đâu.

Phong Ba Ác cười nói:

- Tính mệnh của tôi đối với công tử là chuyện nhỏ, với tôi lại lớn lắm.

Y cầm lấy chiếc bình vứt cho Trần trưởng lão nói:

- Trả lại ngươi thuốc giải.

Y quay sang Kiều Phong ôm quyền nói:

- Kiều bang chủ nhân nghĩa hơn người, không hổ là thủ lãnh của đại bang lớn nhất trong võ lâm, Phong Ba Ác mười phần bội phục.

Kiều Phong cũng vòng tay ôm quyền đáp lễ đáp:

- Không dám.

Phong Ba Ác nhặt đơn đao lên giơ tay chỉ vào Trần trưởng lão nói:

- Lần này ta thua ngươi, Phong Ba Ác này cam chịu nước lép, lần sau gặp nhau mình lại đánh nữa, hôm nay bây nhiêu đó đủ rồi.

Trần trưởng lão mỉm cười:

- Thể nào cũng cố hầu tiếp.

Phong Ba Ác xoay qua trưởng lão tay cầm giản kêu lên:

- Để ta được lãnh giáo cao chiêu của các hạ.

A Châu, A Bích đều hoảng hốt cùng cất tiếng can:

- Không được đâu tứ ca, thân thể anh chưa hoàn toàn hồi phục.

Phong Ba Ác kêu lên:

- Có người mà không được đánh thì uổng cả đời.

Y múa tít đơn đao, thân tùy đao tiến đã chém vào trưởng lão cầm giản. Ông già cầm giản râu tóc trắng xóa thành danh đã mấy chục năm nay, trên giang hồ nhân vật nào cũng đã gặp rồi thấy Phong Ba Ác vừa mới mười phần chết chín, chỉ chớp mắt đã hung hăng như sinh long hoạt hổ xông lên, quả là ít thấy trong bụng không khỏi sợ thầm. Thiết giản của ông ta vốn biến hóa phức tạp, ngoại trừ đâm quật đánh quét ra, lại còn thủ pháp kỳ dị để khóa binh khí địch nhân, lúc này vì chột dạ nên công phu giảm đi mấy thành thành ra chỉ đỡ gạt mà không tấn công, chẳng có cách nào đánh trả.

Kiều Phong hơi nhíu mày nghĩ thầm: “Vị Phong bằng hữu này quả không biết phải quấy gì cả, Đoàn huynh đệ của ta có hảo tâm cứu mạng cho y sao chẳng phân biệt nếp tẻ gì cả lại xông lên đánh nữa là sao?”. Ông thấy Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác hai người đều thắng thế_ nhưng không phải chỉ giây lát có thể hơn thua. Tuy nhiên cao thủ tỉ võ, chỉ chớp mắt có thể biến chuyển rất nhiều, chỉ cần một chiêu một thức sử dụng khéo léo, hoặc giả đối thủ sơ hở một chút là kẻ đang thua có thể chuyển thành ngang tay. Dĩ nhiên bốn người đang đấu không ai lại dám sơ xuất còn người đứng ngoài thì chăm chú xem.

Đoàn Dự bỗng nghe thấy từ phía đông có vô số người rảo bước đi tới, rồi kế đó phương bắc cũng có tiếng chân, nhân số quả là rất đông. Chàng quay sang nói nhỏ với Kiều Phong:

- Đại ca, có người tới.

Kiều Phong cũng đã nghe thấy rồi nên gật đầu nghĩ thầm: “Hẳn là Mộ Dung công tử mai phục người ở đây. Thì ra hai tên họ Bao và họ Phong kia tới đây trước giữ chân mình, sau đó đại bộ phận mới kéo đến tấn công”. Ông đang định ám truyền hiệu lệnh cho bang chúng ở phía tây, phía nam triệt thoái trước, chính mình cùng bốn trưởng lão và Tưởng đà chủ sẽ đoạn hậu, bỗng thấy phương tây và phương nam cũng có tiếng chân người lao xao, hóa ra bốn phương tám hướng đều có kẻ địch cả.

Kiều Phong hạ giọng nói:

- Tưởng đà chủ, địch ở phương nam yếu hơn cả, khi nào thấy ta ra hiệu, lập tức tất lãnh các anh em chạy về phía nam.

Tưởng đà chủ đáp:

- Vâng!

Ngay lúc đó phía sau những cây hạnh ở phía đông tiến ra năm sáu chục người, ai nấy áo quần rách rưới, đầu tóc bù xù, kẻ cầm binh khí hoặc cầm bát mẻ gậy tre, toàn là bang chúng trong Cái Bang cả. Kế đó phía bắc cũng có tám chín chục đệ tử Cái Bang bước ra, ai nấy thần sắc nghiêm trọng, trông thấy Kiều Phong đã không hành lễ, ngược lại dường như có vẻ thù hằn.

Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác thấy bỗng nhiên có nhiều người trong Cái Bang như thế, lòng kinh hãi nghĩ thầm: “Làm sao cứu được Vương cô nương, A Châu, A Bích ba người đây?’. Thế nhưng lúc đó người kinh hoảng nhất lại là Kiều Phong, bọn người này đều là bang chúng trong bản bang, bình thời đối với mình cực kỳ kính trọng, thấy ông từ xa đã vội vàng chạy tới hành lễ, hôm nay sao lại đột nhiên tới đây, ngay đến hai tiếng “bang chủ” cũng không gọi là sao?

Ông còn đang nghi hoặc, lại thấy phương tây và phương nam cũng tiến ra mấy chục bang chúng khác, chẳng mấy chốc đã đứng chật tất cả khoảng đất trống trong khu rừng hạnh, thế nhưng các thủ lãnh trong bang, ngoại trừ bốn vị trưởng lão và Tưởng đà chủ ra, không thấy một ai cả.

Kiều Phong càng lúc càng kinh hoàng, lòng bàn tay toát mồ hôi, dù ông có gặp cường địch hung hiểm độc ác tới mấy, cũng chưa thấy hoang mang như lúc này chỉ nghĩ: “Không lẽ Cái Bang đột nhiên sinh ra nội loạn? Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão cùng các đà chủ phân đà đều bị hạ độc thủ rồi?”. Thế nhưng đang lúc Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cùng hai trưởng lão kịch chiến, lại thêm bọn Vương Ngữ Yên là người ngoài ở bên cạnh nên không tiện mở lời tra hỏi.

Trần trưởng lão đột nhiên cao giọng nói:

- Kết Đả Cẩu Trận!

Tất cả các bang chúng bốn mặt đông tây nam bắc, nơi nào cũng tiến ra nơi thì khoảng mươi người, nơi thì hai chục người, ai nấy đều cầm binh khí, vây Bao Bất Đồng và trưởng lão lùn lại. Bao Bất Đồng thấy Cái Bang trong khoảnh khắc đã lập thành trận thế, nếu đánh tung ra, mình có thể miễn cưỡng thoát thân, Phong Ba Ác sau khi trúng độc nguyên khí hao tổn nhiều, thể nào cũng bị trọng thương, còn muốn cứu bọn Vương Ngữ Yên thì lại càng khó khăn hơn nữa. Trong tình thế đó, nếu như quần cái xông lên tấn công, bên mình chỉ có hai người, quả bất địch chúng, cho dù ngừng đấu chịu thua thì thanh danh cũng không có gì sứt mẻ. Thế nhưng Bao Bất Đồng tính tình cố chấp, những chuyện người thường coi là lý đương nhiên thì y lại muốn làm ngược lại, còn Phong Ba Ác thì thích đánh nhau hơn cả sinh mạng mình, hễ có cơ hội giao đấu, dù thắng hay thua, dù sống hay chết, chẳng cần ai phải ai trái, cứ đánh một trận cho sướng tay rồi tính sau. Thế yếu mạnh hai bên đã rõ ràng, vậy mà Bao Phong hai người vẫn hò hét đánh đấm không chịu kém chút nào.

Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Bao tam ca, Phong tứ ca, không xong rồi. Đả Cẩu Trận của Cái Bang, hai người không phá nổi đâu, ngừng tay đi là hơn.

Phong Ba Ác đáp:

- Để ta đánh thêm một chập nữa, đến khi nào quả là không xong, lúc đó ngừng tay cũng vừa.

Y nói chuyện nên phân tâm, nghe bộp một cái đầu vai đã bị trưởng lão râu bạc đánh trúng một giản, những móc trên cây gậy trúng bật cả máu thịt ra. Phong Ba Ác chửi liền:

- Con bà ngươi chứ, chiêu đó quả là ghê gớm thật!

Soẹt soẹt soẹt y tấn công lại ba chiêu, chẳng khác gì muốn cùng đối phương đồng qui ư tận. Ông già râu bạc nghĩ thầm: “Ta với ngươi đâu có thù bất cộng đái thiên, sao lại phải thí mạng như vậy?”. Ông ta thủ chặt môn hộ, không tấn công tiếp nữa.

Trần trưởng lão lại dài giọng ra hát lên:

- Anh em phía nam đi xin cơm thừa canh cặn, lạy ông lạy bà ...

Y xướng lên là điệu ăn mày đi xin ăn, thực ra là hiệu lệnh tấn công. Mấy chục người ăn mày ở phía nam cùng giơ binh khí lên, chỉ đợi tiếng hát của Trần trưởng lão chấm dứt, lập tức sẽ xông lên ngay.

Kiều Phong biết rằng Đả Cẩu Trận của bản bang một khi phát động rồi, bang chúng bốn phía sẽ kẻ lên người xuống, nhất quyết giết cho kỳ được đối phương mới thôi chứ không ngừng lại được. Trước khi tra xét rõ ràng chân tướng, ông không muốn tự nhiên kết oán gây thù với nhà Mộ Dung, cho nên tay trái giơ lên, quát lớn:

- Khoan đã!

Ông lắc người vọt tới bên cạnh Phong Ba Ác, giơ tay chộp vào mặt y. Phong Ba Ác né qua bên phải, Kiều Phong thuận thế vòng xuống bắt luôn cổ tay, chập lại đã cướp được đơn đao của y.

Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Sang Châu Tam Thức trong Long Trảo Thủ hay tuyệt! Bao tam ca, cùi chỏ bên trái sẽ đánh vào ngực, hữu chưởng chém vào mạng sườn, rồi tay trái chộp vào huyệt Khí Hộ, đó là chiêu Bái Nhiên Hữu Vũ_ trong Long Trảo Thủ.

Nàng nói đến “cùi chỏ bên trái sẽ đánh vào ngực” thì Kiều Phong ra tay đúng như thế, khuỷu tay bên trái thúc ngay vào ngực Bao Bất Đồng, đến khi Vương Ngữ Yên nói “hữu chưởng chém vào mạng sườn” thì quả nhiên Kiều Phong giơ tay phạt ngang hông, một người nói, một người làm, thật là ăn nhịp với nhau. Đến khi Vương Ngữ Yên nói câu thứ ba, năm ngón tay của Kiều Phong biến thành móc, khum khum chộp vào huyệt Khí Hộ của Bao Bất Đồng.

Bao Bất Đồng chỉ thấy toàn thân tê đi, không còn cử động gì được nữa, hậm hực nói:

- Chiêu Bái Nhiên Hữu Vũ quả là hay! Này cô em, cô nói không sớm mà cũng không muộn thì còn dùng vào việc quái gì được nữa? Sớm một tí có phải ta phòng bị kịp rồi không?

Vương Ngữ Yên thản nhiên đáp:

- Võ công ông ta quá cao, ra tay không có triệu chứng gì trước nên tiểu muội nhìn không ra, thật là có lỗi.

Bao Bất Đồng nói:

- Cái gì mà có lỗi với không có lỗi? Hôm nay bọn mình đánh thua rồi, thật là mất mặt cho Yến Tử Ổ.

Y quay đầu lại nhìn, thấy Phong Ba Ác đứng chết sững như trời trồng, thì ra khi Kiều Phong cướp được đơn đao của y, thuận tay điểm luôn huyệt đạo, nếu không đời nào y chịu bỏ cuộc không xông vào đánh tiếp.

Trần trưởng lão thấy bang chủ đã chế ngự được Phong, Bao hai người, bài ca của y không cần phải hát tiếp nên ngừng lại. Cái Bang tứ lão và những cao thủ trong bang thấy Kiều Phong vừa ra tay đã bắt ngay được đối phương, thủ pháp thật là tinh diệu quả thực khó mà tưởng tượng được không ai là không bội phục.

Kiều Phong buông huyệt Khí Hộ của Bao Bất Đồng ra, lật tay vỗ nhẹ lên vai Phong Ba Ác mấy cái, giải các huyệt đạo bị đóng cho y nói:

- Xin hai vị cứ tự nhiên.

Tính tình Bao Bất Đồng rất là quái đản nhưng biết võ công mình so với ông ta hơn kém quá xa, chẳng cần gì phải Đả Cẩu Trận, cũng không cần tứ lão cùng ra tay, chỉ nhẹ nhàng như thế mà đã thắng rồi, lúc này mình có nói thêm câu nào thì chỉ thêm bẽ mặt câu ấy, thành thử lẳng lặng lui ra đứng bên cạnh Vương Ngữ Yên.

Phong Ba Ác vẫn nói:

- Kiều bang chủ, võ công ta không bằng ông thật, nhưng chiêu vừa rồi thua mà không phục, vì ông nhân lúc ta không để ý tấn công lúc chưa phòng bị.

Kiều Phong đáp:

- Quả là như thế! Ta quả là xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị. Vậy mình thử thêm lần nữa, để ta tiếp đơn đao của các hạ vài chiêu.

Câu nói chưa dứt, Kiều Phong chộp nhứ một cái, một luồng kình lực phóng vào thanh đao đang nằm dưới đất, thanh đao đó liền nhảy lên rơi vào tay ông ta. Ngón tay Kiều Phong đảo một cái, cán đao quay ngược lại phóng tới trước mặt Phong Ba Ác. Phong Ba Ác lắp bắp kêu lên:

- Cái .. cái đó có phải Cầm Long Công chăng? Trên đời này quả ... quả thực có người biết môn võ công thần kỳ này ư?

Kiều Phong mỉm cười đáp:

- Tại hạ mới học lỏm được đôi chút, chẳng bõ chê cười.

Ông vừa nói vừa đưa mắt liếc Vương Ngữ Yên. Khi nãy Vương Ngữ Yên nói ra được chiêu Bái Nhiên Hữu Vũ chẳng khác gì có tài tiên tri, khiến ông vô cùng ngạc nhiên, lúc này nghĩ đến cô nương tinh thông võ học này sẽ bình phẩm ra sao về môn công phu của mình.

Ngờ đâu Vương Ngữ Yên không nói một lời, đối với công phu thần kỳ của Kiều Phong tưởng như trông mà không thấy, thì ra nàng đang xuất thần: “Võ công của vị Kiều bang chủ này thật cao cường, vậy mà biểu ca ta cùng hàng với ông ta, trên giang hồ thường nói: Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, thế nhưng ... thế nhưng võ công biểu ca, làm sao ... làm sao ...”.

Phong Ba Ác lắc đầu:

- Tôi đánh không lại ông đâu, mạnh yếu cách nhau một trời một vực, giao đấu thật chẳng thú vị gì. Kiều bang chủ, hẹn gặp lại.

Y thua người nhưng không vẻ gì sa sút mất tinh thần, quả dúng là “thắng vui đã đành, bại cũng hả dạ”, chỉ mong được đấu võ, đánh đến lúc chán chê mới thỏa lòng, còn được hay thua chẳng cần để ý tới, đúng là đã đạt tới đỉnh cao của “đấu đạo”. Y giơ ta chào từ biệt Kiều Phong, quay sang Bao Bất Đồng:

- Tam ca, nghe nói công tử gia đến chùa Thiếu Lâm, ở đó người đông, thể nào cũng có đánh nhau, để tiểu đệ đến xem thế nào. Các người thủng thẳng đi sau.

Y sợ mất cơ hội giao đấu, không đợi Bao Bất Đồng trả lời vội vàng chạy đi. Bao Bất Đồng cao giọng ngâm nga:

Đi thôi chớ ở làm gì,

Tài ta thua sút chẳng bì được ai.

Liệu còn mặt mũi nào đây,

Luyện mươi năm nữa dễ đâu bằng người.

Chi bằng bỏ cuộc cho rồi,

Tiếng tăm đem đổ xuống ngòi nước kia.

Y vừa ngâm vừa hiên ngang đi thẳng, xem ra thua nhưng vẫn đầy vẻ tiêu sái. Vương Ngữ Yên quay sang nói với A Châu, A Bích:

- Tam ca, tứ ca đều đi cả rồi, mình cũng đi đến đó kiếm ... kiếm anh ta chứ?

A Châu cúi đầu đáp:

- Người trong Cái Bang ở đây muốn thương lượng chuyện hệ trọng của họ, chúng mình hãy về thành Vô Tích rồi tính sau.

Nàng quay sang Kiều Phong nói:

- Kiều bang chủ, ba người chúng tôi xin cáo từ.

Kiều Phong gật đầu:

- Ba vị tự tiện.

Từ phía bang chúng Cái Bang ở phía đông đột nhiên bước ra một người ăn mày tướng mạo thanh nhã, vênh mặt lên nói:

- Khải bẩm bang chủ, mối đại thù chết thảm của Mã phó bang chủ chưa báo được, sao bang chủ lại tùy tiện thả kẻ địch ra là sao?

Mấy lời nói ra vẻ như lễ độ nhưng phong cách y dồn ép không phải là lời của một hạ thuộc nói với cấp trên. Kiều Phong đáp:

- Chúng ta đến Giang Nam, chính là vì muốn báo thù cho Mã nhị ca. Thế nhưng mấy ngày qua ta đã cố gắng tra xét, biết được hung thủ giết hại Mã nhị ca chưa chắc đã là Mộ Dung công tử.

Người ăn mày trung niên kia tên Toàn Quan Thanh, ngoại hiệu Thập Phương Tú Tài_, là kẻ túc trí đa mưu, võ công cao cường. Y là đệ tử tám túi hiện đang chưởng quản Đại Trí phân đà, địa vị trong bang chỉ kém lục đại trưởng lão. 

Toàn Quan Thanh hỏi:

- Bang chủ thấy những gì mà cho là như thế?

Vương Ngữ Yên và A Châu, A Bích đang toan ra đi, bỗng thấy trong Cái Bang có người đề cập đến Mộ Dung Phục, cả ba đều rất quan hoài nên đều đứng nép sang một bên lắng nghe. Chỉ nghe Kiều Phong đáp:

- Ta cũng chỉ đoán vậy thôi chứ chưa nắm được chứng cớ gì.

Toàn Quan Thanh nói:

- Không biết bang chủ suy đoán thế nào, bọn thuộc hạ chúng tôi muốn được biết đến.

Kiều Phong đáp:

- Khi ta ở Lạc Dương, nghe thấy Mã nhị ca bị chết vì công phu Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, lập tức nghĩ ngay đến nhà Cô Tô Mộ Dung có câu: “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, những tưởng môn Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ của Mã nhị ca thật là thiên hạ không ai sánh kịp, trừ nhà Mộ Dung ra, không thể một ai dùng chính tuyệt kỹ của Mã nhị ca giết y được.

Toàn Quan Thanh nói:

- Quả đúng như thế.

Kiều Phong nói tiếp:

- Thế nhưng mấy ngày gần đây, ta càng lúc càng thấy rằng những điều mình nghĩ trước kia chưa hẳn đã đúng, bên trong còn nhiều điều khúc mắc khác.

Toàn Quan Thanh nói:

- Chúng huynh đệ ai nấy mong được nghe cho rõ ràng, mong bang chủ mở lối cho.

Kiều Phong nghe thấy giọng y có chiều bất thiện, lại thấy số đông bang chúng vẻ mặt khác thường, trong bang hẳn đã phát sinh biến cố trọng đại, bèn hỏi lại:

- Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởng lão đâu?

Toàn Quan Thanh đáp:

- Thuộc hạ hôm nay chưa gặp hai vị trưởng lão.

Kiều Phong hỏi tiếp:

- Thế Đại Nhân, Đại Tín, Đại Dũng, Đại Lễ bốn đà chủ đâu cả rồi?

Toàn Quan Thanh nghiêng qua hỏi một tên đệ tử bảy túi ở phía tây bắc:

- Trương Toàn Tường, sao các đà chủ nhà ngươi không thấy tới?

Gã đệ tử bảy túi kia ấp úng:

- À ... à ... thuộc hạ không biết.

Kiều Phong biết Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh là người tâm kế, lo liệu việc gì cũng nhanh nhảu, là một hạ thuộc cực kỳ đắc lực của mình, bây giờ tính chuyện biến loạn sẽ thành một kẻ địch thật lợi hại, thấy Trương Toàn Tường lộ vẻ sượng sùng, nói năng lúng túng, mắt không dám nhìn thẳng vào mặt mình, bèn quát lên:

- Trương Toàn Tường, ngươi sát hại bản đà phân đà chủ rồi, phải không?

Trương Toàn Tường hoảng hốt vội chối:

- Không phải, không phải! Phân đà chủ vẫn bình thường chưa chết, chưa chết! Chuyện đó ... không liên quan gì đến tôi, không phải tôi làm.

Kiều Phong gay gắt nói:

- Thế thì ai làm?

Câu nói đó tuy không lớm lắm nhưng đầu vẻ uy nghiêm. Trương Toàn Tường run như cầy sấy, đưa mắt nhìn Toàn Quan Thanh. Kiều Phong biết là đã có biến loạn, Truyền Công, Chấp Pháp các trưởng lão nếu như chưa chết, thì cũng đang lâm vào cảnh cực kỳ nguy hiểm, thời cơ nếu không nắm lấy sẽ mất ngay, bèn thở dài một tiếng, quay sang hỏi tứ đại trưởng lão:

- Bốn vị trưởng lão, chẳng hay có chuyện gì thế?

Bốn vị trưởng lão người nọ nhìn người kia, dường như muốn người khác lên tiếng trước. Kiều Phong thấy tình hình đó, biết rằng bốn vị trưởng lão cũng tham gia vào việc này, mỉm cười nói:

- Bản bang từ ta trở xuống, ai ai cũng lấy nghĩa khí làm trọng ...

Ông nói tới đây, đột nhiên đạp một cái vọt ngược về sau luôn hai bước, mỗi bước phải hơn một trượng, người khác dẫu có nhảy về phía trước cũng không nhanh bằng, bước chân cũng không xa được đến thế. Hai bước giật lùi đó chỉ còn cách Toàn Quan Thanh chừng ba thước, cũng không quay người tay trái vói lại phía sau, tay phải cầm nã chộp ngay được hai huyệt Trung Đình và huyệt Cưu Vĩ trên ngực y.

Toàn Quan Thanh võ công cao cường không kém gì bốn vị trưởng lão, ngờ đâu không chống cự được lấy một chiêu đã bị bắt rồi. Kiều Phong vận khí lên bàn tay, nội lực từ hai huyệt tống vào, theo kinh mạch chạy thẳng xuống huyệt Trung Ủy, Dương Đài ở khớp xương đầu gối. Chân y liền tê đi, không tự chủ nổi quì sụm ngay xuống. Các bang chúng ai nấy thất sắc, kinh hoàng không biết thế nào cho phải.

Thì ra Kiều Phong trông mặt mà bắt hình dong, xem chừng phản loạn kỳ này, Toàn Quan Thanh ắt là chủ mưu, nếu không chế ngự y ngay, họa loạn không phải là nhỏ, dẫu có dẹp được bạn đồ thì không tránh khỏi một cuộc tàn sát. Cường địch đang ở trước mặt làm sao có thể tự làm tổn thương nguyên khí? Nhìn bang chúng chung quanh, trừ người thuộc về Đại Nghĩa phân đà ra, còn bao nhiêu xem ra đều bị Toàn Quan Thanh dụ dỗ cả, nếu có tranh chấp thì khó mà giải quyết được. Thành ra ông giả vờ tiến lên hỏi bốn vị trưởng lão, thừa cơ Toàn Quan Thanh không phòng bị, nhảy lùi lại nắm kinh mạch y, mấy động tác đó nhanh như cắt, vụt một cái tưởng như bỡn cợt nhưng thật ra đã thi triển toàn bộ sở học trong đời.

Nếu như vung tay ngược về sau, bộ vị chỉ sai nửa tấc, tuy vẫn chế ngự được Toàn Quan Thanh, nhưng không thể nào dùng nội lực xung kích huyệt đạo nơi quan tiết, những kẻ đồng mưu có thể xông vào cứu viện thì không sao tránh được một cuộc xung sát. Thế nhưng ép được y quì xuống rồi, người ngoài ai cũng tưởng Toàn Quan Thanh tự ý đầu hàng, chẳng một ai dám ngo ngoe gì nữa.

Kiều Phong quay người trở lại, tay trái vỗ nhẹ lên vai y mấy cái nói:

- Nếu ngươi đã biết là sai quấy rồi thì cũng chẳng phải quì làm gì. Tội sinh sự phạm thượng không thể nào tha được, nhưng để từ từ tính lại cũng không muộn.

Cùi chỏ bên phải thúc nhẹ một cái đã trúng ngay huyệt câm của y.

Kiều Phong biết Toàn Quan Thanh là kẻ nói năng đanh thép, nếu có cơ hội mở lời ắt sẽ khích động bang chúng sẽ gây họa hoạn. Hiện nay bốn bề đều có nguy cơ, không thể không tòng quyền dùng thủ đoạn để xử trí. Ông chế ngự Toàn Quan Thanh rồi, để mặc y quì gầm mặt xuống nơi đó, lớn tiếng quát Trương Toàn Tường:

- Ngươi mau dẫn đường cho Đại Nghĩa phân đà Tưởng đà chủ đi mời Truyền Công, Chấp Pháp trưởng lão các vị cùng đến đây, nếu nghe lệnh ta mà làm thì được giảm khinh tội vạ. Còn những người khác hãy ngồi xuống đất, không ai được tự tiện đứng lên.

Trương Toàn Tường vừa mừng vừa sợ, vâng dạ luôn mồm. Đại Nghĩa phân đà Tưởng đà chủ không tham dự mật mưu của đám phản loạn, thấy bọn Toàn Quan Thanh dám gây rối phạm thượng, vốn đã tức giận lắm, mặt đỏ bừng, thở hồng hộc, đến khi nghe Kiều Phong sai đi cùng Trương Toàn Tường để cứu người, lúc ấy mới hơi trấn tĩnh, quay sang nói với hơn hai chục tên bang chúng thuộc bản đà:

- Bản bang bất hạnh phát sinh biến loạn, chính là lúc các ngươi đem hết sức báo đáp ân đức của bang chủ. Tất cả xuất lực hộ chủ, phải tuân theo hiệu lệnh của bang chủ, không được vi phạm.

Y sợ bốn vị trưởng lão cùng xông lên gây khó dễ, so với Đại Nghĩa phân đà bọn phản loạn nhân số đông hơn nhiều bang chủ chỉ có một mình, một bàn tay không vỗ nổi thành tiếng được. Kiều Phong liền nói:

- Không! Tưởng huynh đệ cứ đem tất cả anh em bản đi đi theo, cứu người là chuyện lớn, không nên có gì sai sót.

Tưởng đà chủ không dám vi phạm mệnh lệnh đáp lời:

- Vâng!

Y nói tiếp:

- Xin bang chủ hết sức giữ gìn, thuộc hạ sẽ quay về ngay.

Kiều Phong mỉm cười nói:

- Nơi đây toàn là anh em đã từng đồng sinh cộng tử với nhau lâu năm, chẳng qua nhất thời có chuyện hiểu lầm, không có gì quan trọng lắm đâu, ngươi cứ yên tâm.

Ông lại nói tiếp:

- Ngươi sai người đến gặp Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ nói rằng ước hẹn nơi Huệ Sơn xin hoãn lại bẩy ngày.

Tưởng đà chủ khom lưng đáp ứng, dẫn bang chúng trong bản đà lên đường ngay. Kiều Phong tuy miệng nói thản nhiên như không nhưng trong lòng hết sức lo ngại, thấy hơn hai chục bang chúng trong Đại Nghĩa phân đà đi rồi, trong khu rừng hạnh ngoài Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ra, còn lại hơn hai trăm người đều tham dự âm mưu, chỉ cần một người đứng ra truyền lệnh thì tất cả sẽ cùng xông lên, quả thực thật khó đối phó.

Ông nhìn quanh quần hào thấy ai nấy vẻ mặt ngượng ngập, có người cố ra vẻ trấn tĩnh, cũng có kẻ thì hốt hốt hoảng hoảng, cũng có kẻ lại nhấp nhổm như muốn bỏ chạy thoát thân. Chung quanh hơn hai trăm người, không ai nói một lời nào, thế nhưng nếu có một người lên tiếng lập tức biến loạn sẽ bùng lên ngay.

Lúc đó trời đã sâm sẩm tối hình bóng chỉ còn thấy mờ mờ, bên bìa rừng sương mù đã bắt đầu tỏa xuống. Kiều Phong nghĩ thầm: “Lúc này chỉ còn cách bình tĩnh mà đợi biến chuyển, tốt hơn hết là lái tâm ý mọi người sang hướng khác, đợi cho bọn Truyền Công trưởng lão đến rồi thì đại sự mới tính được”. Ông chợt nhìn thấy Đoàn Dự bèn nói:

- Các anh em, hôm nay ta rất lấy làm vui mừng, mới kết giao được một vị hảo bằng hữu. Vị này là Đoàn Dự đoàn huynh đệ, hai chúng ta ý khí tương đầu đã kết nghĩa anh em.

Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người nghe thấy nói anh chàng đồ gàn Đoàn tướng công kia đã cùng với Kiều bang chủ của Cái Bang bái kết đều rất lấy làm ngạc nhiên. Lại nghe Kiều Phong nói tiếp:

- Huynh đệ, để ta đưa ngươi đi chào các nhân vật thủ lãnh của Cái Bang.

Ông nắm tay Đoàn Dự đi đến trưởng lão đầu râu tóc bạc, tay cầm giản có ngạnh kia nói:

- Vị này là Tống trưởng lão, là nguyên lão mà bản bang ai nấy đều kính trọng, khi cây đảo xỉ thiết giản của ông tung hoành giang hồ thì chú mày còn chưa ra đời.

Đoàn Dự đáp:

- Ngưỡng mộ đã lâu! Hôm nay được gặp cao hiền, quả thực may mắn hết sức.

Nói xong ôm quyền hành lễ, Tống trưởng lão miễn cưỡng vái trả lại. Kiều Phong lại đưa chàng đến gặp ông già lùn mập cầm cương trượng nói:

- Vị này là Hề trưởng lão, một cao thủ ngoại gia của bản bang. Người anh này mười năm trước thường hay đến học hỏi võ công. Hề trưởng lão đối với ta có thể nói là nửa thầy nửa bạn, tình nghĩa thật là thâm trọng.

Đoàn Dự đáp:

- Mới rồi tại hạ được coi Hề trưởng lão cùng vị gia đài kia động thủ quá chiêu, võ công quả là ghê gớm, bội phục lắm.

Hề trưởng lão tính tình thẳng thắn, nghe thấy những lời Kiều Phong nói ra không quên tình xưa nghĩa cũ, đặc biệt nhấn mạnh đến việc ngày xưa mình chỉ điểm võ công cho y, vậy mà mình lại hồ đồ nghe lời Toàn Quan Thanh, không khỏi cực kỳ hổ thẹn.

Kiều Phong đưa Đoàn Dự đến chào người dùng chiếc bao tải là Trần trưởng lão xong, đang định đưa chàng đến chào người mặt đỏ sử dụng quỉ đầu đao là Ngô trưởng lão, bỗng phía đông bắc có tiếng chân rầm rập, tiếng người lao xao, nghe có ai đó hỏi dồn:

- Bang chủ ra sao rồi? Phản đồ ở nơi nào?

Lại có tiếng người đáp:

- Mắc phải kế của chúng nó bị bắt giữ quả là bực mình.

Kiều Phong mừng lắm nhưng không để khiếm lễ khiến cho Ngô trưởng lão phải bẽ bàng nên vẫn tiếp tục đưa Đoàn Dự đến chào, nói rõ danh vọng và thân phận lúc đó mới quay lại. Chỉ thấy Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cùng Đại Nhân, Đại Dũng, Đại Lễ, Đại Tín các đà chủ dẫn theo một đoàn bang chúng cùng chạy đến. Mọi người ai nấy có bao nhiêu chuyện muốn nói nhưng ở trước mặt bang chủ không một ai dám tự tiện mở lời.

Kiều Phong nói:

- Các anh em chia nhau ngồi xuống, ta có chuyện muốn nói.

Mọi người cùng đáp lời, người thì hướng đông, người thì hướng tây, theo chức vị danh phận, kẻ trước người sau, bên trái bên phải ngồi xuống. Dưới mắt Đoàn Dự, Cái Bang tưởng chừng ngồi lung tung ai muốn ngồi đâu thì ngồi, thực ra ai trước, ai sau đều rất rõ ràng minh bạch.

Kiều Phong thấy mọi người đều giữ qui củ, cũng hơi yên lòng, mỉm cười nói:

- Cái Bang chúng ta được bằng hữu giang hồ coi trọng, trong hơn trăm năm qua coi là đệ nhất đại bang trong võ lâm. Thế nhưng ta người nhiều thế mạnh, suy nghĩ có chỗ khác nhau là chuyện không thể tránh được. Có gì thì chỉ cần trình bày đầu đuôi rõ ràng, bàn luận cho kỹ, tất cả mọi người là anh em tương thân tương ái, chớ có nên coi những khác biệt nhất thời coi là quá quan trọng.

Ông nói mấy câu đó thần sắc thật là từ hòa nhưng trong bụng đã tính toán quyết tâm sử sự một cách bình tĩnh để tiêu giải một trường đại họa chứ không để Cái Bang lâm vào cảnh tự tàn sát lẫn nhau.

Tình hình mọi người vốn đang căng thẳng gầm ghè quyết một trận sống mái nay nghe ông nói vậy bỗng thành nhẹ nhõm hơn. Một lão ăn mày ngồi phía bên phải Kiều Phong mặt mày vàng vọt đứng lên hỏi:

- Xin hỏi Tống Hề Trần Ngô bốn vị trưởng lão, các ông sai người bắt giữ chúng tôi giam trên một chiếc thuyền nhỏ ở giữa Thái Hồ, là có ý gì thế?

Đó là Chấp Pháp trưởng lão Cái Bang Bạch Thế Kính, xưa nay thiết diện vô tư, trong bang người lớn kẻ nhỏ, dẫu không vi phạm bang qui luật lệ gặp ông ta cũng e sợ ba phần.

Trong bốn trưởng lão thì Tống trưởng lão là người cao tuổi hơn cả, đương nhiên coi như thủ lãnh của cả bốn người. Ông mặt hơi đỏ lên, đằng hắng một tiếng đáp:

- Cái đó ... cái đó ... cái đó ... hừm ... anh em mình bao nhiêu năm nay hoạn nạn cùng chịu, sống chết có nhau, hoàn toàn không có ác ý ... Bạch ... Bạch Chấp Pháp xin nể mặt lão ca ca này một tí, xin đừng chấp nhất làm gì.

Mọi người nghe nói thế đều sửng sốt, xem ra ông lão này quá ư hồ đồ, trong bang phạm thượng tác loạn là chuyện to lớn biết bao, không lẽ chỉ một câu “nể mặt lão ca ca này một tí” mà có thể bỏ qua? Bạch Thế Kính đáp:

- Tống trưởng lão bảo là không có ác ý, nhưng sự thực có phải như thế đâu. Ta và Truyền Công trưởng lão hai người, không phải chỉ bị nhốt ở trên thuyền bỏ ngoài hồ mà thôi, trên thuyền còn chất đầy củi rơm lưu huỳnh, bảo là nếu bọn ta có ý đào tẩu thì sẽ mồi lửa đốt thuyền ngay. Tống trưởng lão, không lẽ thế cũng là không có ác ý hay sao?

Tống trưởng lão đáp:

- Cái đó ... cái đó ... a, thế thì tệ thật. Chúng mình đều là một nhà, tình chẳng khác gì anh em ruột, sao lại đối với nhau cạn tàu ráo máng như thế? Như thế thì ... thì còn mặt mũi nào mà nhìn nhau?

Mấy câu nói sau cùng là ông ta nói với Trần trưởng lão. Bạch Thế Kính lại chỉ vào một hán tử, gay gắt nói:

- Ngươi đánh lừa ta lên thuyền, bảo là bang chủ gọi đến. Giả truyền hiệu lệnh bang chủ thì là tội gì?

Gã đó sợ đến người run như cầy sấy, lập cập đáp:

- Đệ tử chức phận thấp hèn, làm sao dám có chuyện phạm thượng khi chủ như thế? Đều do ... đều do ...

Y nói đến đây, đưa mắt nhìn Toàn Quan Thanh, dường như muốn nói: “Bản đà Toàn đà chủ bảo tôi làm nên tôi phải làm”. Thế nhưng y là hạ thuộc của Toàn Quan Thanh nên không dám công nhiên đổ tội cho thượng cấp. Bạch Thế Kính hỏi lại:

- Do Toàn đà chủ sai ngươi, có phải thế không?

Gã đó cúi đầu không đáp, chẳng nói có mà cũng chẳng dám nói không. Bạch Thế Kính nói:

- Toàn đà chủ bảo ngươi giả truyền hiệu lệnh bang chủ, lừa ta lên thuyền, thế lúc đó ngươi có biết là hiệu lệnh đó giả hay không?

Mặt gã đó tái mét không còn giọt máu, không dám nói tiếng nào. Bạch Thế Kính cười khẩy nói:

- Lý Xuân Lai, ngươi xưa nay là đứa dám ăn dám chịu, có phải không? Đại trượng phu có gan ăn cướp, lẽ nào lại chẳng có gan chịu đòn?

Lý Xuân Lai mặt bỗng lộ vẻ cứng cỏi, ưỡn ngực lên lớn tiếng nói:

- Bạch trưởng lão nói phải lắm. Tôi Lý Xuân Lai làm điều sai quấy, dù chém dù giết, xử sao chịu vậy, họ Lý nếu cau mày thì chẳng phải là hảo hán. Khi tôi truyền đạt hiệu lệnh bang chủ tới ông, lúc đó đã biết là giả rồi.

Bạch Thế Kính hỏi lại:

- Thế bang chủ đối với ngươi không ra gì chăng? Hay là vì ta xử bạc với ngươi?

Lý Xuân Lai đáp:

- Chẳng có gì cả, bang chủ đối với thuộc hạ nghĩa nặng như non, Bạch trưởng lão công chính nghiêm minh, không ai dám dị nghị điều gì.

Bạch Thế Kính nghiêm giọng nói:

- Thế thì vì cớ gì? Chẳng hay duyên cớ tại đâu?

Lý Xuân Lai nhìn Toàn Quan Thanh đang quì dưới đất, lại nhìn Kiều Phong lớn tiếng đáp:

- Thuộc hạ vi phạm bang qui, có chết cũng đáng, cái nguyên nhân bên trong, thuộc hạ không dám nói ra.

Bàn tay y lật một cái, bạch quang thấp thoáng, nghe phập một tiếng, một lưỡi dao đã đâm vào tâm khẩu. Y ra tay thật nhanh, lại nhằm đúng ngay tâm tạng, đao đâm thẳng qua tim tắt thở chết ngay lập tức. Các bang chúng đều “A” lên một tiếng kinh hoàng nhưng ai nấy vẫn ngồi tại chỗ, không ai dám di động.

Bạch Thế Kính vẫn bình thản như không nói:

- Ngươi biết rõ hiệu lệnh là giả đã không bẩm báo cho bang chủ, lại đi lừa ta, chết là phải lắm.

Ông ta quay sang nói với Truyền Công trưởng lão:

- Hạng huynh, đánh lừa ông lên thuyền là đứa nào?

Đột nhiên trong đám người có một kẻ nhỏm lên, chạy vụt vào trong rừng.

Hồi 15(a) : HẠNH TỬ LÂM TRUNG THƯƠNG LƯỢC BÌNH SINH NGHĨA 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ai hay trăm sự đảo điên,

Một tay chèo chống oan khiên cũng đành.

Dẫu cho người đã phụ mình,

Tròn câu nghĩa khí giữ tình anh em.

*

* *

Người đó trên lưng đeo năm cái túi vải, là đệ tử ngũ đại trong Cái Bang. Y hốt hoảng bỏ chạy, không cần hỏi cũng biết là người đã giả truyền hiệu lệnh đánh lừa Hạng trưởng lão lên trên thuyền. Truyền Công, Chấp Pháp hai người nhìn nhau thở dài, không nói gì. Chỉ thấy bóng người thấp thoáng, một người đã phóng ra chặn gã đệ tử năm túi kia lại. Người đó mặt mũi hồng hào tay cầm quỉ đầu đao, chính là Ngô trưởng lão trong tứ đại trưởng lão, hậm hực quát:

- Lưu Trúc Trang, sao ngươi lại bỏ chạy?

Gã đệ tử ngũ đại kia run rẩy đáp:

- Tôi ... tôi ... tôi ...

Y lập cập liên tiếp sáu bảy chữ “tôi” mà vẫn không nói thêm được tiếng thứ hai. Ngô trưởng lão nói:

- Chúng ta đã là đệ tử Cái Bang thì phải biết tuân thủ di pháp của tổ tông. Đại trượng phu hành sự, đúng thì nói đúng, sai thì nói sai, dám làm dám chịu.

Ông ta quay lại nói với Kiều Phong:

- Kiều bang chủ, bọn chúng tôi họp nhau bàn tính định truất phế chức vị bang chủ của ông. Chuyện này Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão đều có tham dự. Chúng tôi sợ Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởng lão không đồng ý nên tính kế giam hai người lại. Chuyện đó cũng vì đại nghiệp của bản bang nên đành phải mạo hiểm mà làm. Hôm nay tình thế bất lợi khiến ông chiếm được thượng phong, chúng tôi để ông toàn quyền xử trí. Ngô Trường Phong này ở trong Cái Bang đã ba mươi năm, ai cũng biết tôi không phải là phường tham sống sợ chết.

Nói đến đây nghe choang một tiếng ông đã ném thanh quỉ đầu đao ra xa, hai tay khoanh trước ngực ra vẻ hiên ngang không sợ sệt gì cả. Ông ta dõng dạc nói ra âm mưu “truất phế bang chủ” khiến bang chúng ai nấy đều chấn động. Chuyện đó những người tham dự vào biến động này đều biết cả nhưng chẳng một ai dám nói thẳng ra, Ngô Trường Phong là người đầu tiên tiết lộ.

Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính lớn tiếng nói:

- Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão phản bội bang chủ, vi phạm điều thứ nhất của bang qui. Chấp pháp đệ tử, trói bốn người đó lại.

Các đệ tử chấp pháp thủ hạ của ông ta liền lấy dây gân bò trói Ngô Trường Phong trước. Ngô Trường Phong mỉm cười đứng yên không chống cự gì cả. Kế đó Tống Hề hai trưởng lão cũng vứt bỏ binh khí, bó tay chịu trói.

Trần trưởng lão bộ mặt thật là khó coi, lầm bầm:

- Đồ khiếp nhược! Tất cả xông lên chắc gì đã thua, có điều ai cũng sợ Kiều Phong.

Y nói quả không sai, ngay khi Toàn Quan Thanh vừa bị chế ngự, những người tham dự mật mưu nếu cùng ùa lên thì Kiều Phong không khỏi quả bất địch chúng. Ngay cả khi Chấp Pháp, Truyền Công hai trưởng lão cùng Đại Nhân, Đại Nghĩa, Đại Tín, Đại Dũng, Đại Lễ năm đà chủ cùng đến nơi thì số phản loạn vẫn đông hơn. Thế nhưng Kiều Phong hiên ngang đứng trước mặt mọi người, tự nhiên sinh uy, nên không một ai dám xông vào thành thử bỏ qua cơ hội, ai nấy đành thúc thủ.

Đến khi Tống Hề Ngô ba trưởng lão đã bị trói rồi, Trần trưởng lão có quyết tâm đánh một trận thì vào thế một bàn tay không vỗ thành tiếng được. Y thở dài vứt chiếc bao vải để cho hai tên đệ tử chấp pháp lấy gân bò buộc cổ tay, cổ chân lại.

Lúc đó trời đã tối đen, Bạch Thế Kính sai đệ tử đốt củi lên, ánh lửa bập bùng chiếu vào mặt những người bị trói, ai nấy ủ rũ đầy vẻ chán chường. Bạch Thế Kính chăm chăm nhìn Lưu Trúc Trang nói:

- Việc làm của ngươi có còn xứng đáng là đệ tử Cái Bang chăng? Ngươi tự liệu lấy hay phải để người ngoài ra tay?

Lưu Trúc Trang lắp bắp:

- Tôi ... tôi ...

Y không nói nên lời nhưng tay rút đơn đao ở bên mình ra toan tự vẫn nhưng tay run lên bần bật, không sao đưa lên cắt cổ được. Một tên đệ tử chấp pháp quát lớn:

- Thật là đồ vô dụng, vậy mà sao ngươi ở trong Cái Bang được lâu đến thế.

Y nắm tay Lưu Trúc Trang, dùng sức cứa mạnh một cái cắt đứt yết hầu. Lưu Trúc Trang gượng nói:

- Tôi ... cám ... cám ơn.

Rồi tắt thở. Thì ra qui củ trong Cái Bang, nếu như phạm phải bang qui bị xử tử hình, nếu tự mình cắt cổ thì người trong bang vẫn coi là anh em, một khi chết rồi bao nhiêu tội nghiệt xóa sạch. Còn như để cho chấp pháp đệ tử phải ra tay thì bao nhiêu tội lỗi vĩnh viễn không bao giờ hết. Mới rồi gã đệ tử chấp pháp thấy Lưu Trúc Trang quả có ý tự vẫn có điều không có sức mà làm nên tới giúp y một tay.

Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích bốn người vô ý chứng kiến một trường đại biến trong nội bộ Cái Bang, đều cảm thấy mình là người ngoài xem trộm chuyện riêng của người ta thật không phải chút nào, thế nhưng nếu bây giờ rút lui không khỏi khiến cho người trong Cái Bang nghi kỵ, đành phải ngồi xa xa làm như không quan tâm đến. Trước mắt thấy Lý Xuân Lai và Lưu Trúc Trang hai người đổ máu chết tại đương trường, còn Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão mới đây uy phong lẫm lẫm, nay đã bị trói ngồi kia, e rằng sẽ còn nhiều biến cố kinh tâm động phách khác nữa.

Bốn người nhìn nhau thấy mình ở vào hoàn cảnh thật khó xử. Đoàn Dự và Kiều Phong kết nghĩa kim lan, khi Phong Ba Ác trúng độc rồi chính Kiều Phong tự mình mở miệng bảo đưa thuốc giải khiến cho Vương Ngữ Yên và hai nàng Châu Bích đều có lòng cảm kích, lúc này thấy ông bình định được đám phản loạn, chế ngự tất cả bọn nghịch tặc kia ai nấy đều cảm thấy hoan hỉ.

Về phần Kiều Phong ông ngồi chết lặng ở một bên, không thấy chút gì vui mừng là đã thắng lợi. Ông nghĩ mình từng chịu ơn sâu của Uông bang chủ đã truyền chức vị bang chủ cho mình, chấp chưởng Cái Bang trong tám năm qua trải không biết bao nhiêu phong ba bão táp, trong thì hòa giải phân tranh, ngoài thì đánh lui cường địch, trước sau hết lòng hết dạ chăm lo không có chút tư tâm nào. Trong bấy nhiêu năm ông chỉnh đốn lại cho bản bang ngày thêm hưng vượng, danh tiếng trên giang hồ nổi như cồn, nghĩ lại phận mình chỉ có công mà không có tội, sao thật bất ngờ có bao nhiêu người âm mưu phản loạn là thế nào?

Nếu bảo là Toàn Quan Thanh mang dạ xấu xa toan tính chuyện khuynh loát bản bang, thì sao những nguyên lão như Tống trưởng lão, Hề trưởng lão ... hoặc người tính tình thẳng thắn như Ngô trưởng lão cũng tham gia vào chuyện này? Chẳng lẽ mình vô ý làm chuyện gì không phải với anh em cho chí mình cũng không hay biết?

Bạch Thế Kính dõng dạc nói:

- Hỡi các anh em, Kiều bang chủ kế nhiệm Uông bang chủ làm thủ lãnh bản bang, chẳng phải là dùng mưu dùng chước mà đoạt lấy, dùng thủ đoạn bất chính chiếm được địa vị. Năm xưa Uông bang chủ đã thử ông ta ba chuyện khó khăn, sai lập bảy đại công lao lúc đó mới truyền thụ Đả Cẩu Bổng. Năm xưa Thái Sơn đại hội, bản bang bị người ta vây đánh, ở vào cảnh ngộ cực kỳ nguy hiểm, đều nhờ Kiều bang chủ đánh bại chín tên cường địch mới chuyển nguy thành an, chuyện đó nhiều anh em đã chính mắt thấy rồi.

Trong tám năm qua, danh tiếng bản bang càng lúc càng nổi, ai mà chẳng biết đó là nhờ công Kiều bang chủ chủ trì. Kiều bang chủ đãi người nhân nghĩa, xử sự công minh, chúng ta ủng hộ còn chưa xong, lại có kẻ tâm địa mờ tối mưu toan phản loạn? Toàn Quan Thanh, ngươi nói ra cho mọi người cùng nghe nào!

Toàn Quan Thanh bị Kiều Phong vỗ vào á huyệt, những lời Bạch Thế Kính nói ra y nghe rõ mồn một, nhưng không cách nào mở miệng trả lời. Kiều Phong bước lên vỗ nhẹ lên lưng y hai cái, giải huyệt cho y nói:

- Toàn đà chủ, Kiều Phong này làm chuyện gì không phải với các anh em, xin công khai tận mặt nói ra, không phải e ngại, cũng đừng úy kỵ làm chi.

Toàn Quan Thanh đứng nhỏm lên nhưng đùi vẫn còn tê dại, một bên gối lại khuỵu xuống lớn tiếng đáp:

- Chuyện không phải đối với anh em, lúc này ông chưa làm, nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ làm.

Y nói xong câu đó lúc này mới gượng đứng lên được. Bạch Thế Kính nghiêm giọng quát:

- Chỉ nói năng láo lếu! Kiều bang chủ xử sự quang minh lỗi lạc, trước nay chưa từng làm chuyện sai quấy thì sau này cũng đâu có tệ bạc. Ngươi chỉ do một lời toàn vô chứng cớ như thế để sách động nhân tâm bội phản bang chủ. Ta nói thẳng cho mà nghe, cái tiếng đồn đó cũng đã đến tai ta rồi nhưng lão tử chỉ coi như lời bá láp, đánh cho cái đứa nói nhăng kia một quyền gãy ba rẻ xương sườn.

Chỉ có đứa mê muội hồ đồ mới nghe lời đồn nhảm. Ngươi nói qua nói lại cũng chỉ có mấy câu đó, thôi mau tự xử đi cho xong.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Thì ra ở sau lưng ta đã có những lời bất lợi, Bạch trưởng lão đã nghe thấy rồi, có điều không tiện nói cho ta hay, thế thì hẳn là chuyện khó nghe lắm. Đại trượng phu đâu có chuyện gì phải dấu không nói cho người khác nghe được?”. Ông bèn từ tốn nói:

- Bạch trưởng lão, ông không phải gấp gáp, cứ để cho Toàn đà chủ từ đầu chí cuối, nói rõ ràng minh bạch xem ra sao. Ngay cả Tống trưởng lão, Hề trưởng lão cũng chống lại tôi, ắt hẳn Kiều Phong này có chuyện gì không phải.

Hề trưởng lão nói:

- Ta chống lại bang chủ quả là điều sai trái, ông không cần phải nói thêm. Khi nào tuyên án xong rồi, ta sẽ cắt cái đầu nằm trên cái cổ rụt này đưa lên ông là xong.

Lời nói ông ta nghe thật tức cười, có điều ai nấy nghe ra thật chua xót nên không ai nở cất tiếng cười cả. Bạch Thế Kính nói:

- Bang chủ nói vậy phải lắm. Toàn Quan Thanh, ngươi nói ra đi.

Toàn Quan Thanh thấy bốn vị trưởng lão Tống Hề Trần Ngô đồng mưu với mình đều đã bị trói, thật thua không còn đường gỡ nhưng sự đời còn nước còn tát, lớn tiếng nói:

- Mã phó bang chủ bị người ta sát hại, tôi tin là do sự sắp xếp của Kiều Phong.

Kiều Phong giật nảy người hoảng hốt hỏi lại:

- Cái gì?

Toàn Quan Thanh đáp:

- Ngươi xưa nay chán ghét Mã phó bang chủ, nên không thể không nhổ cái gai trong mắt càng sớm càng tốt để cho ngôi vị bang chủ của ngươi được yên ổn.

Kiều Phong chậm rãi lắc đầu:

- Không phải thế. Ta với Mã phó bang chủ giao tình tuy không thân thiết, nói năng không hợp tính nhau nhưng xưa nay chưa từng có ý muốn hại ông ta. Nói như thế có đất trời chứng giám, Kiều Phong này nếu có ý gia hại Mã Đại Nguyên thì để ta thân bại danh liệt, chịu ngàn vạn mũi dao để cho anh hùng thiên hạ phỉ nhổ.

Mấy câu đó nghe thật thành khẩn, đầy vẻ anh hùng khí khái không một ai dám tỏ vẻ hoài nghi. Toàn Quan Thanh lại tiếp:

- Thế tại sao tất cả chúng ta cùng kéo rốc xuống Cô Tô kiếm nhà Mộ Dung báo thù, ngươi nằng nặc hết lần này đến lần khác cấu kết với địch?

Y chỉ vào bọn ba người Vương Ngữ Yên nói:

- Ba cô này là gia nhân quyến thuộc của Mộ Dung Phục, ngươi chăm chăm bảo vệ.

Lại chỉ vào Đoàn Dự nói:

- Còn gã này là bằng hữu của Mộ Dung Phục, ngươi lại kết làm anh em ...

Đoàn Dự xua tay liên tiếp nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta nào có phải là bằng hữu của Mộ Dung Phục, ta đã gặp Mộ Dung công tử bao giờ đâu? Còn ba vị cô nương này, nói là gia nhân thân thích của Mộ Dung công tử thì còn có lý, chứ nói là quyến thuộc thì chưa hẳn .

Chàng nghĩ bụng Vương Ngữ Yên chỉ là “thân thích” của Mộ Dung Phục, chứ đâu đã là “quyến thuộc”, hai đằng khác xa không thể không biện bạch. Toàn Quan Thanh đáp:

- “Phi dã, phi dã” Bao Bất Đồng hiện là trang chủ Kim Phong Trang. Nhất Trận Phong Phong Ba Ác là trang chủ Huyền Sương Trang đều là hạ thuộc của Mộ Dung Phục, hai đứa đó nếu không được Kiều Phong giải vây thì một đứa đã bị loạn đao phân thi, một đứa trúng độc chết tươi rồi. Chuyện đó ai ai cũng chính mắt trông thấy, ngươi còn chối vào chỗ nào nữa đây?

Kiều Phong từ tốn đáp:

- Cái Bang chúng ta khai mở đã mấy trăm năm, được tôn kính trên chốn giang hồ, chẳng phải vì mình người đông thế mạnh, võ công cao cường mà vì chúng ta hành hiệp trượng nghĩa, chủ trì công đạo. Toàn đà chủ, ông trách ta che chở cho ba cô gái này quả là đúng lắm, ta thực sự có che chở cho họ, cũng chỉ vì ta quí trọng cái tiếng tăm của bản bang mấy trăm năm qua chẳng nỡ để cho thiên hạ anh hùng bảo là “các trưởng lão Cái Bang xúm nhau hiếp đáp ba cô gái nhỏ dại”. Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão, có ai không là tiền bối vọng trọng võ lâm? Cái danh dự của Cái Bang và bốn trưởng lão, ông coi là nhẹ nhưng anh em trong bang có ai mà không coi trọng.

Mọi người nghe mấy câu đó, ai nấy liếc nhìn bọn Vương Ngữ Yên ba cô gái liễu yếu đào tơ đều cảm thấy thật là có lý, nếu việc mình làm khó mấy người này mà truyền ra ngoài thì danh thanh của Cái Bang bị tổn thương rất lớn. Bạch Thế Kính nói:

- Toàn Quan Thanh, ngươi còn gì để nói nữa chăng?

Ông quay sang nói với Kiều Phong:

- Bang chủ, cái thứ bạn đồ không biết đại thể này, không việc gì phải nhiều lời với chúng, cứ chiếu theo tội phản nghịch trong bang qui mà trừng trị.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Bạch trưởng lão nhất quyết xử tử Toàn Quan Thanh càng sớm càng tốt để y khỏi thổ lộ chuyện bất lợi cho ta”. Ông dõng dạc nói:

- Toàn đà chủ lôi kéo được bây nhiêu người âm mưu nổi loạn, hẳn phải có nguyên nhân cực kỳ trọng đại. Đại trượng phu hành sự, đúng thì bảo đúng, sai thì bảo sai. Hỡi các anh em, Kiều Phong này làm gì sai sót, có gì không phải xin tất cả nói rõ cho nghe.

Ngô trưởng lão chép miệng thở dài nói:

- Bang chủ, hoặc ông là người đại gian hùng giả ngây giả điếc, hoặc là hảo hán tử bụng dạ thẳng thắn, Ngô Trường Phong này không thể nào biết được, ông hãy cứ đem ta ra giết đi cho xong.

Kiều Phong trong lòng càng thêm nghi hoặc, hỏi lại:

- Ngô trưởng lão, vì cớ gì ông lại bảo tôi là kẻ đại bịp là sao? Ông ... ông .. có chỗ nào mà lại có bụng nghi ngờ tôi?

Ngô Trường Phong lắc đầu nói:

- Chuyện này nói ra liên quan quá nhiều, nếu như truyền ra ngoài, Cái Bang không còn chỗ nào mà ngóc đầu lên được, người ta sẽ coi chúng ta chẳng còn ra gì nữa. Bọn ta vốn đã định một dao giết ngươi đi thế là xong.

Kiều Phong lại càng như rơi vào chốn mây mù, không hiểu đầu đuôi ra sao, lẩm bẩm:

- Vì sao vậy? Chuyện gì thế này?

Ông ngửng đầu lên nói:

- Ta cứu hai viên đại tướng thủ hạ của Mộ Dung Phục, các ông nghĩ ta cấu kết với họ, phải không nào? Thế nhưng các ông đã mưu tính phản loạn trước rồi, chuyện cứu người là về sau, hai chuyện này có liên can gì với nhau đâu? Hơn nữa, chuyện này sai đúng thế nào, lúc này đâu đã đoan quyết được, vì ta sớm biết Mã phó bang chủ không phải do Mộ Dung Phục làm hại.

Toàn Quan Thanh hỏi lại:

- Làm sao ngươi biết?

Câu hỏi đó y đã hỏi một lần rồi nhưng rồi hết chuyện nọ qua chuyện kia chưa có câu trả lời, lúc này y lại đề cập đến. Kiều Phong đáp:

- Ta nghĩ Mộ Dung Phục là đại anh hùng, hảo hán tử không lẽ lại ra tay sát hại Mã nhị ca.

Vương Ngữ Yên nghe Kiều Phong khen biểu ca mình là “đại anh hùng, hảo hán tử” khiến lòng mừng như trẩy hội, nghĩ bụng: “Vị Kiều bang chủ này quả thực là đại anh hùng, hảo hán tử”. Còn Đoàn Dự hơi chau mày nghĩ thầm: “Chưa chắc, chưa chắc! Mộ Dung Phục đã thấy gì là đại anh hùng, hảo hán tử đâu?”. Toàn Quan Thanh nói:

- Trong hai tháng qua, trên giang hồ cao thủ bị hại không phải là ít, đều chết vì thành danh tuyệt kỹ của chính mình, ai chẳng biết đó là độc thủ của nhà Mộ Dung đất Cô Tô. Hành vi tàn ác ra tay giết bằng hữu võ lâm như thế, có chỗ nào mà bảo là anh hùng hảo hán?

Kiều Phong chậm rãi đi qua đi lại trên quãng trường nói:

- Này các anh em, hôm qua lúc xế chiều, ta ngồi trên Vọng Giang Lâu ở đất Giang Âm cạnh sông Trường Giang uống rượu, gặp một nho sinh trung niên, một hơi uống mười bát liệt tửu lớn, mặt không đổi sắc, quả là tửu lượng cao, hảo hán tử.

Đoàn Dự nghe nói đến đây, không khỏi mỉm cười nghĩ thầm: “Thì ra hôm qua đại ca đã cùng với người ta uống rượu thi rồi. Người ta tửu lượng cao, uống rượu sảng khoái, anh ta thích thú bèn khen ngay là hảo hán tử, e rằng như thế thật hời hợt quá”.

Lại nghe Kiều Phong kể tiếp:

- Ta cùng y đối ẩm ba bát, nói chuyện nhân vật võ lâm Giang Nam, y tự cho rằng mình chưởng pháp đứng thứ nhì, còn thứ nhất là Mộ Dung Phục Mộ Dung công tử. Ta liền cùng y đối ba chưởng, chưởng đầu và chưởng thứ hai y đỡ được, đến chưởng thứ ba tay trái y cầm bát rượu bị chấn động vỡ nát, miểng văng lên mặt máu chảy đầm đìa. 

Y thần sắc vẫn như thường nói: “Tiếc quá! Tiếc quá! Uổng mất một bát rượu”. Ta nổi bụng yêu tài, không đánh ra chưởng thứ tư nói: “Các hạ chưởng pháp tinh diệu, quả không hổ cái tên Giang Nam đệ nhị”. Y bèn đáp: “Giang Nam thứ hai nhưng trong thiên hạ thì hạng bét”. Ta nói: “Huynh đài bất tất quá khiêm nhường, cứ chưởng pháp mà luận, huynh đài đúng là một cao thủ hạng nhất”. Y nói: “Thì ra Kiều bang chủ của Cái Bang đến đây, huynh đệ thua mà mười phần bội phục, cũng may ông ra tay nhẹ đòn, không để ta bị thương, ta kính thêm ông một bát nữa”.

Hai người uống thêm ba bát nữa, lúc chia tay ta hỏi họ tên y, y nói họ kép là Công Dã, đơn danh Can. Can đó chẳng phải theo nghĩa càn khôn, mà là chữ can trong chữ “can bôi” . Y bảo y là hạ thuộc của Mộ Dung công tử, trang chủ Xích Hà Trang, mời ta đến trang viện của y uống rượu ba ngày. Hỡi các anh em, người như thế anh em nghĩ sao? Có đáng kết bạn không?

Ngô Trường Phong hăng hái đáp:

- Gã Công Dã Can đó quả là hảo hán tử, hảo bằng hữu. Bang chủ, bao giờ có dịp ông cho tôi gặp mặt y.

Ông ta quên rằng mình đang mang đại tội phạm thượng tác loạn, là kẻ tù dưới bệ, trong chốc lát sẽ bị xử tử hình, nghe nói có người nói năng anh hùng như thế chợt nổi bụng muốn kết giao. Kiều Phong mỉm cười, trong bụng than thầm: “Ngô Trường Phong hào sảng thống khoái, vô ý để rơi vào trong cái âm mưu phản nghịch này”. Tống trưởng lão hỏi lại:

- Bang chủ, rồi sau ra sao?

Kiều Phong đáp:

- Ta cùng Công Dã Can cáo biệt rồi, liền thẳng đường đi Vô Tích. Đi tới canh hai bỗng nghe thấy có tiếng hai người ở trên một chiếc cầu nhỏ cãi nhau ỏm tỏi. Khi đó trời đã tối mịt, sao lại còn người tranh biện gì đây? Ta thấy lạ mới đi lên xem thử, thì ra chiếc cầu đó là một thân cây bắc ngang, một đầu là một hán tử mặc áo đen, đầu kia là một người nhà quê, vai gánh một gánh phân, hai người đang giành đường.

Người áo đen bảo gã nhà quê lùi lại, vì y tới đầu cầu trước. Gã nhà quê thì bảo y đang gánh nặng, không thể nào lùi được, vậy người áo đen phải nhường. Người áo đen nói: “Chúng mình ở đây từ canh một sang canh hai, thì cứ đứng cho tới lúc trời sáng chứ ta nhất định không nhường ai”. Người nông phu nói: “Ngươi không sợ ngửi cứt thối thì cứ đứng đây”. Người áo đen đáp: “Ngươi gánh phân không sợ đau vai thì cứ ở đây mà chịu cho tới sáng”.

Ta thấy tình hình như thế thật tức cười nghĩ bụng: “Người áo đen này tính cố chấp thật, lùi lại vài bước nhường người ta một tí thì đã chết chóc gì, chứ mà đứng chăm bẩm đối diện với gã gánh phân kia có gì thú vị? Nghe giọng lưỡi hai người thì họ đã đứng đây một canh rồi”. Ta nổi tính hiếu kỳ cũng muốn xem kết quả rồi ra sao, để xem cuối cùng người áo đen sợ hôi thối phải bỏ cuộc, hay người nhà quê phải chịu thua. Ta cũng không muốn ngửi mùi hôi nên đứng xa xa trên đầu gió.

Chỉ nghe hai người, anh một câu, tôi một câu giọng thổ ngữ Giang Nam ta nghe cũng không hiểu rõ lắm, nhưng đâu đó đại khái nói mình có lý hơn. Gã nhà quê kia cũng quả là cứng cổ, gánh phân từ vai trái đổi sang vai phải, lại từ vai phải đổi qua vai trái nhưng nhất định không chịu lùi một bước.

Đoàn Dự nhìn Vương Ngữ Yên, lại nhìn hai nàng A Châu, A Bích, thấy ba cô gái mủm mỉm cười lắng tai nghe, xem chừng vô cùng thú vị, nghĩ thầm: “Hiện nay trong bang đang cơn đại loạn, tình thế cực kỳ khẩn cấp, Kiều đại ca anh hùng như thế sao vẫn còn tính trẻ con?”. Ngờ đâu tất cả mấy trăm bang chúng Cái Bang, ai nấy chăm chú theo dõi câu chuyện chẳng ai xem câu chuyện của Kiều Phong là nhàm chán. Kiều Phong lại tiếp tục:

- Ta đứng coi một hồi mới thấy kinh ngạc, phát giác gã áo đen kia đứng trên chiếc cầu khỉ , thân hình vững chãi như núi, chính là một người mang võ công thượng thừa. Còn người gánh phân nhà quê kia thì chỉ là một người bình thường, tuy vạm vỡ rắn rỏi nhưng không biết chút võ công nào. Ta càng xem càng thấy kỳ quái nghĩ thầm: “Võ công người áo đen kia ghê gớm như thế, chỉ cần giơ một ngón tay ra, đẩy nhẹ một cái là gã kia cả người lẫn phân rơi tòm xuống rạch nhưng y lại không giở võ ra. Với một cao thủ như vậy, y phải là người hàm dưỡng cực cao, nếu như không chịu nhường đối phương thì chỉ cần nhảy nhẹ một cái vọt qua đầu người nhà quê thật là dễ dàng. Vậy mà y lại nhất định ăn thua đủ với người gánh phân, quả thật nực cười”.

Lại nghe người áo đen cao giọng: “Này, nếu ngươi không nhường đường cho ta, ta chửi cho mà xem!”. Người nhà quê cũng chẳng vừa: “Chửi thì chửi, ngươi biết chửi dễ thường ta chịu nhịn hay sao?”. Thế là y mồm năm miệng mười cất tiếng chửi trước. Người áo đen cũng chẳng kém, anh một câu, tôi một câu, bao nhiêu tiếng bẩn thỉu lôi ra hết.

Hai người chửi nhau bằng tiếng Giang Nam ta nghe mười câu chẳng hiểu được một. Hai người rủa xả độ nửa giờ, người nhà quê đã mỏi lắm, còn người áo đen nội lực sung mãn nên vẫn thần khí đầy đủ. Ta xem người gánh phân lảo đảo, xem chừng chỉ độ thời gian uống một chén trà là sẽ ngã nhào xuống sông.

Đột nhiên người nhà quê thò tay vào thùng cứt, bốc ra một nắm ném luôn vào mặt người áo đen. Người áo đen đâu có ngờ y lại giở trò bẩn thỉu như thế, “Ối trời” một tiếng, mặt đã trúng ngay bãi phân. Ta kêu lên: “Chao ôi, gã này tự tìm cái chết, còn trách ai được nữa?”. Người áo đen kia nổi hung lên, giơ tay toan đánh xuống đầu người gánh phân.

Đoàn Dự tuy tai nghe Kiều Phong kể chuyện, nhưng mắt chỉ nhìn thấy Vương Ngữ Yên hé đôi môi anh đào, hết sức chăm chú lắng tai. Chàng lại thấy A Châu, A Bích hai người nhìn nhau mỉm cười, dường như đã biết cả rồi. Lại nghe Kiều Phong kể tiếp:

- Biến cố đó xảy ra quá nhanh, ta vì sợ phải ngửi mùi hôi nên đứng cách xa phải trên mười trượng, muốn cứu người nhà quê cũng không thể nào kịp được. Ngờ đâu người áo đen kia chưởng giơ lên sắp đánh xuống đầu người gánh phân, đột nhiên ngừng tay giữa chừng cười ha hả nói: “Lão huynh, ngươi với ta xem ai lì hơn ai, thế thì ai thắng nào?”. Người nhà quê kia quả là cứng đầu, y thua rõ ràng nhưng nhất định không nhận nói: “Ta phải gánh phân nên ngươi mới được lợi thế. Có giỏi thì ngươi gánh phân, ta đứng không xem ai thua ai được?”. Người áo đen đáp: “Nói thì làm”. Y giơ tay nhắc gánh phân trên vai người kia, duỗi thẳng tay ra cầm vào giữa đòn gánh để nằm ngang như thế.

Người nhà quê thấy y chỉ một tay cầm gánh phân, cánh tay thẳng băng, không khỏi ngẩn người lắp bắp: “ Ngươi ... ngươi ...”. Người áo đen mỉm cười: “Ta chỉ cầm thế này, chẳng cần đổi tay, hai người đứng đây để xem ai thua thì người đó phải ăn hết gánh cứt này”.

Người kia thấy y trổ chút thần công như vậy nào còn dám cùng y tranh giành hơn thua, vội vàng lùi lại, ngờ đâu luống cuống làm sao, bước hụt một cái, rơi tòm ngay xuống rạch. Người áo đen thò tay nắm cổ áo y nhắc lên giơ thẳng ra. Thế là một bên tay cầm gánh phân, một bên tay cầm người nhà quê, cười ha hả nói: “Thú quá! Thú quá!”. Y tung người một cái nhẹ nhàng nhảy qua bờ bên kia, để cả người nhà quê lẫn gánh phân xuống, thi triển khinh công chạy vụt vào trong khu rừng cây.

Người áo đen kia bị ném cứt vào mồm, nếu muốn giết người nhà quê thật chỉ cần giơ tay một cái là xong, cũng không ai bảo là y vô cớ hành hung, hoặc như đấm mấy cái thì cũng là chuyện bình thường. Thế nhưng y không hề cậy mạnh hiếp đáp người yếu, người đó quả cũng đặc biệt, ở trong võ lâm thực là khó kiếm. Hỡi các anh em, việc này chính mắt ta trông thấy, ta với y cách nhau quá xa, chưa chắc y đã phát hiện tung tích của ta để mà phải giữ ý giữ tứ. Một người như thế, liệu có phải là một hảo bằng hữu, hảo hán tử chăng?

Cả bọn Ngô trưởng lão, Trần trưởng lão, Bạch trưởng lão ai nấy cùng reo lên:

- Quả đúng thế! Thực là một hảo hán tử!

Trần trưởng lão nói thêm:

- Tiếc thay bang chủ không hỏi họ tên y để cho mọi người cùng biết ở trong võ lâm Giang Nam có một người được như thế.

Kiều Phong vẫn chậm rãi nói:

- Vị bằng hữu đó, mới rồi vừa cùng Trần trưởng lão động thủ, lưng bàn tay bị bò cạp độc cắn.

Trần trưởng lão kinh ngạc hỏi:

- Là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác đấy ư?

Kiều Phong gật đầu:

- Chính thị.

Đoàn Dự bấy giờ mới hay, Kiều Phong sở dĩ kể đầu đuôi ngọn ngành câu chuyện, chỉ vì muốn tường thuật tính cách của Phong Ba Ác, nghĩ thầm người này mặt mũi khó coi, thích đánh nhau ưa hoạt náo nhưng thiên tính cực kỳ lương thiện, đúng là xét người không nên xét bề ngoài. Hóa ra Vương Ngữ Yên chăm chú đứng nghe còn Châu Bích hai nàng mủm mỉm cười cũng vì nhị nữ đã biết rõ tính tình Phong Ba Ác nên hiểu ngay người làm chuyện ngược đời thế này đúng là y rồi, nhất định không thể nào giết người vô tội.

Lại nghe Kiều Phong nói tiếp:

- Trần trưởng lão, Cái Bang chúng ta vẫn được coi là đệ nhất đại bang trên giang hồ, ông lại là nhân vật quan trọng trong bản bang, dẫu thân phận hay tên tuổi, so với Phong Ba Ác của Giang Nam không kém chút nào. Phong Ba Ác kia chịu nhục mà không giết hại người không tên tuổi, lẽ nào cao thủ của Cái Bang lại thua sút người ta hay sao?

Trần trưởng lão mặt mày bẽn lẽn nói:

- Bang chủ dạy chí phải, ông bảo tôi đưa thuốc giải cho y cũng chính vì danh phận tiếng tăm của tôi mà ra, vậy mà tôi lại đem lòng oán trách, thật quả là ngu như bò.

Kiều Phong đáp:

- Nói tới danh tiếng của bản bang và thân phận của Trần trưởng lão cũng còn là chuyện thứ yếu. Chúng ta là người học võ, việc đầu tiên là không giết hại người vô tội. Dẫu cho Trần trưởng lão không phải là nhân vật thủ não trong bản bang, không phải là người tiếng tăm vang dội trên giang hồ, cũng không thể chưa biết trắng đen phải quấy đã hại người ta.

Trần trưởng lão cúi đầu đáp:

- Trần Cô Nhạn này biết lỗi rồi.

Kiều Phong thấy câu chuyện của mình đã thuyết phục được cả người ngang ngạnh nhất trong tứ đại trưởng lão là Trần Cô Nhạn, trong bụng thật mừng, chậm rãi nói tiếp:

- Gã Công Dã Can kia hào khí hơn người, Phong Ba Ác đen trắng phân minh. Bao Bất Đồng tiêu sái phóng khoáng, còn ba vị cô nương này ôn văn lương thiện. Những người đó nếu chẳng phại là hạ thuộc thì cũng là bà con bằng hữu. Người đời thường nói: Vật dĩ loại tụ, nhân dĩ quần phân . Các anh em cứ bình tâm tĩnh khí mà xem, Mộ Dung công tử quen biết giao thiệp với những người như thế, không lẽ bản thân y lại là người đại gian đại ác hèn hạ vô liêm sỉ hay sao?

Các cao thủ trong Cái Bang ai nấy đều trọng nghĩa khí, quí bạn bè nghe ông nói quả có lý nên không ít người lên tiếng phụ họa. Toàn Quan Thanh lại nói:

- Bang chủ, nếu cứ như ý ông thì kẻ sát hại Mã phó bang chủ không phải là Mộ Dung Phục hay sao?

Kiều Phong đáp:

- Ta không dám nói Mộ Dung Phục không phải là hung thủ sát hại Mã phó bang chủ, cũng không dám nói là chắc chắn y đã giết Mã phó bang chủ. Việc báo cừu không phải chỉ một ngày một buổi, mình cần phải tra xét cho rõ ràng, nếu quả là Mộ Dung Phục thì nhất định sẽ bắt y để báo thù cho Mã phó bang chủ, còn như không phải là y thì cũng sẽ phải bắt cho bằng được hung thủ thực sự mới thôi. Còn như chỉ đoán sằng đoán bậy để đến nỗi giết hại người lành còn chân hung thủ vẫn tiêu dao tự tại, đứng ngoài cười thầm Cái Bang hồ đồ vô năng, chúng ta không những có lỗi với người bị chết oan, có lỗi với Mã phó bang chủ mà còn làm bại hoại tiếng thơm của Cái Bang nữa. Lúc đó các anh em đi lại trên giang hồ bị người ta mắng chửi cười chê thì có sướng gì không?

Quần hùng Cái Bang nghe vậy ai nấy chạnh lòng. Truyền Công trưởng lão từ nãy giờ không lên tiếng, lúc này giơ tay vuốt chòm râu lưa thưa dưới cằm nói:

- Lời đó quả là có lý. Năm xưa ta giết oan một người vô tội, đến nay vẫn còn áy náy, hừm, vẫn còn khắc khoải chưa yên.

Ngô Trường Phong lớn tiếng nói:

- Bang chủ, chúng tôi sở dĩ phản ông cũng vì tin lầm người khác, tưởng là vì ông với Mã phó bang chủ bất hòa nên ngầm cấu kết với thủ hạ nhà Mộ Dung giết hại ông ta. Bao nhiêu chuyện cũng từ đó mà ra, đến giờ nghĩ lại thấy mình quả là hồ đồ. Bạch trưởng lão, xin ông đem pháp đao ra, chiếu theo bang qui để cho chúng tôi tự xử.

Bạch Thế Kính mặt lạnh như tiền, trầm giọng nói:

- Chấp pháp đệ tử, đem pháp đao của bản bang ra.

Chín tên thuộc hạ dưới quyền ông ta cùng đáp lời:

- Tuân lệnh!

Mỗi người lấy trong túi đeo sau lưng ra một cái bao màu vàng, mở bao lấy ra một thanh đoản đao. Chín thanh đao vàng sáng chói xếp ngay ngắn, chiếc nào chiếc nấy giống hệt nhau, dưới ánh lửa bập bùng, lưỡi đao chiếu ra màu xanh biếc. Một tên chấp pháp đệ tử đem tới một cây gỗ, chín người đồng thời cầm dao đâm phập vào thân cây vào đủ biết lưỡi đao sắc bén dị thường. Cả chín người cùng dõng dạc kêu lên:

- Pháp đao đã xếp đủ, kiểm lại không có gì sơ sót.

Bạch Thế Kính thở dài một tiếng tuyên án:

- Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão nghe lời đồn nhảm, đồ mưu phản loạn, làm nguy hại cho đại nghiệp của bản bang, tội đáng một đao xử tử. Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh truyền bá dao ngôn mê hoặc lòng người, xúi giục nổi loạn, tội chịu chín đao xử tử. Đệ tử các phân đà tham dự phản loạn đều có tội, sau này tra cứu rõ ràng sẽ xử tội từng người.

Khi ông tuyên bố hình phạt, mọi người ai nấy yên lặng không nói một lời. Trên giang hồ bất cứ bang hội nào, tội bội phản bản bang, mưu hại bang chủ thì đương nhiên bị xử tử, không một ai dám có điều qua tiếng lại. Những người tham dự mưu toan chuyện này ai cũng biết cái hậu quả mà mình phải chịu.

Ngô trưởng lão hiên ngang bước lên khom lưng cúi chào Kiều Phong nói:

- Bang chủ, Ngô Trường Phong có lỗi với ông, xin tự xử lấy mình. Xin bang chủ biết cho sự hồ đồ của tôi mà tha thứ cho Ngô Trường Phong này sau khi đã chết.

Nói xong đi đến chỗ đặt pháp đao, lớn tiếng nói:

- Ngô Trường Phong tự xử lấy mình, chấp pháp đệ tử cởi trói cho ta.

Một tên chấp pháp đệ tử đáp:

- Vâng!

Y tiến lên toan cởi dây trói, Kiều Phong quát lên:

- Khoan đã.

Ngô Trường Phong mặt mày tái nhợt, run run hỏi:

- Bang chủ, tôi tội nghiệt lớn đến nỗi ông không cho tôi tự xử hay sao?

Theo qui củ Cái Bang, người phạm bang qui nếu tự xử đoán thì sau khi chết rồi thanh danh vẫn còn, tội lỗi không được truyền ra ngoài, trên giang hồ nếu ai nhắc nhở đến hành vi xấu xa của y thì Cái Bang sẽ ra mặt can thiệp. Hảo hán trong võ lâm coi danh tiếng của mình cực kỳ quan trọng, không chịu để cho mình chết rồi mà người đời vẫn cười chê, Ngô Trường Phong thấy Kiều Phong ngăn không cho mình tự xử không khỏi bàng hoàng sợ hãi.

Kiều Phong không trả lời, đi đến bên cạnh pháp đao nói:

- Mười lăm năm trước, người Khất Đan xâm nhập Nhạn Môn Quan, Tống trưởng lão hay tin, ba ngày không ăn, bốn đêm không ngủ liên tiếp chạy về thông báo quân tình khẩn cấp, đường đi chết chín con tuấn mã, chính bản thân ông cũng quá mệt nên bị nội thương hộc cả máu mồm. Chính nhờ thế mà quân nhà Đại Tống phòng bị kịp, kỵ binh người Hồ phải tháo lui. Đó là một đại công đối với đất nước, tuy anh hùng trên giang hồ không biết được rõ ràng nội dung nhưng người Cái Bang chúng ta phải biết.

Chấp Pháp trưởng lão, Tống trưởng lão công lao thật lớn, xin ông xét lại có thể đem công chuộc tội được không?

Bạch Thế Kính đáp:

- Bang chủ nói thay cho Tống trưởng lão, lời lẽ quả thật hữu lý. Thế nhưng bang qui đã có chép: “Đại tội phản bang quyết không thể nào tha thứ, dẫu có đại công cũng không chuộc được. Qui định thế để khỏi ai cậy mình có đại công mà hoành hành sinh sự, nguy hại đến cơ nghiệp trăm năm của bản bang”. Bang chủ, lời cầu tình của ông không hợp bang qui, chúng ta không thể đi trái lại qui củ mấy trăm năm nay của tổ tông để lại.

Tống trưởng lão nở một nụ cười buồn bã, tiến lên mấy bước nói:

- Chấp Pháp trưởng lão nói quả không sai chút nào. Chúng ta đã lên đến chức trưởng lão trong bang, có ai là không từng lập được công lao hãn mã? Nếu như ai ai cũng kể lể công lao thì còn ai phạm tội gì nữa. Bang chủ, xin ông thương cho để tôi được tự xử lấy mình.

Chỉ nghe mấy tiếng lách cách, sợi dây gân bò đang trói cổ tay ông ta đã bị bứt đứt. Quần cái ai nấy đều sờn lòng, chiếc dây gân bò đó vừa dai vừa chắc, dù có dùng dao sắc bén mà cắt, nhất thời chưa chắc đã được. Vậy mà Tống trưởng lão vùng tay ra là đứt ngay quả thật không hổ danh thủ lãnh tứ đại trưởng lão Cái Bang.

Tống trưởng lão tay vừa tự do, liền đưa tay cầm pháp đao lên toan tự xử lấy mình. Ngờ đâu có một luồng nội lực nhu hòa ở đâu ập tới, bàn tay còn cách pháp đao chừng một thước thì không tiến thêm được nữa, chính là Kiều Phong không để cho ông ta lấy được con dao.

Tống trưởng lão mặt biến sắc kêu lên:

- Bang chủ, ông ...

Kiều Phong giơ tay ra, rút lấy con dao ở phía bên trái. Tống trưởng lão kêu lên:

- Thôi rồi, thế là xong. Ta có ý muốn giết ông, thế này quả là báo ứng, ông hạ thủ đi.

Chỉ thấy ánh đao lóe lên, nghe soẹt một tiếng nhỏ, Kiều Phong đã đâm pháp đao vào vai trái của chính mình. Cả bọn ăn mày kêu lên thất thanh, không ai bảo ai cùng đứng bật dậy. Đoàn Dự hoảng hốt gọi:

- Đại ca, anh ...

Ngay cả Vương Ngữ Yên là người ngoài cuộc, thấy biến cố bất ngờ cũng tái mặt, buột miệng kêu lên:

- Kiều bang chủ, ông chớ nên ...

Kiều Phong nói:

- Bạch trưởng lão, trong bang qui có một điều: “Bản bang đệ tử phạm qui, không thể tha thứ được, bang chủ nếu muốn khoan dung thì phải tự mình chảy máu mới rửa được tội cho người đó”. Có đúng không nào?

Bạch Thế Kính mặt vẫn lạnh như tiền, chậm rãi nói:

- Bang qui quả có điều đó thật. Thế nhưng bang chủ tự mình chảy máu để rửa tội cho người cũng phải xét xem có đáng hay không?

Kiều Phong đáp:

- Chỉ cần không làm tổn hại đến di pháp của tổ tông thế là đủ rồi.

Ông quay lại nói với Hề trưởng lão:

- Hề trưởng lão năm xưa chỉ điểm võ công cho tôi, tuy không có tiếng sư phụ nhưng thực sự đã là thầy. Chuyện đó là ân đức riêng đối với tôi. Nghĩ đến thuở nào Uông bang chủ bị năm cao thủ Khất Đan thiết kế bắt nhốt trong động Hắc Phong ở núi Kỳ Liên để uy hiếp Cái Bang bắt phải đầu hàng. Uông bang chủ thân hình lùn mập, Hề trưởng lão vóc dáng cũng giống đôi phần nên giả làm Uông bang chủ cam chịu chết thay nhờ thế Uông bang chủ mới thoát hiểm. Công lao đó cả với quốc gia lẫn với bản bang, bản nhân không thể không miễn tội cho ông ta.

Nói xong rút thanh đao thứ hai, vung lên nhẹ nhàng cắt đứt dây gân bò trói tay Hề trưởng lảo, quay ngược đao lại đâm thanh đao đó vào vai mình.

Mục quang Kiều Phong chầm chậm quay sang Trần trưởng lão. Trần trưởng lão tính tình gàn bướng, năm xưa có chuyện sai quấy với người thân phải thay họ đổi tên trốn đi, sợ người ngoài nhắc đến vết thương lòng, trong bụng vẫn thấp thỏm ngại Kiều Phong tinh minh nhìn ra được nên lúc nào cũng lạnh nhạt tránh né, không gần gũi, bây giờ thấy Kiều Phong quay sang nhìn mình liền lớn tiếng nói:

- Kiều bang chủ, ta với ông không có giao tình gì, bình thời đắc tội đã nhiều, không dám mong ông lưu huyết xá tội.

Ông ta lật một cái, cánh tay từ đằng sau chuyển ra đằng trước nhưng cổ tay vẫn còn bị trói bằng gân bò. Thì ra môn Thông Tí Quyền Công của ông ta đã luyện đến mức xuất thần nhập hóa, hai cánh tay thu vào duỗi ra tùy ý, hụp người xuống vươn tay ra đã cầm được một thanh pháp đao.

Kiều Phong vươn tay chộp bắt, nhẹ nhàng khéo léo làm sao cướp ngay được con dao, dõng dạc nói:

- Trần trưởng lão, Kiều Phong này là một hán tử thô lỗ, không thích kết giao với những người tính tình cẩn thận, việc gì cũng dè dặt chu đáo, cũng không thích người chẳng biết uống rượu, không ăn nói huyên thuyên, cười đùa vui vẻ, đó cũng là thiên tính mà thôi không sao sửa được. Ta với ông tính tình không hợp nhau, bình thời ít khi trò chuyện. Ta cũng không ưa Mã phó bang chủ thành thử thấy mặt ông ta là lảng ngay, thà rằng đi kiếm mấy đệ tử một túi, hai túi nhậu nhẹt rượu chè, đụng đĩa thịt chó với nhau còn hơn. Cái tính khí đó ai cũng biết cả. Thế nhưng nếu nghĩ rằng ta vì thế mà muốn trừ khử ông hay Mã phó bang chủ ấy là cực kỳ sai lầm. Ông và Mã phó bang chủ lão thành trì trọng, chưa từng say sưa, ấy là chỗ hay của hai ông, Kiều Phong này không sao bì kịp.

Nói đến đây, ông lại cầm thanh pháp đao đâm vào vai mình rồi tiếp:

- Công lao đâm chết Tả Lộ Phó Nguyên Soái nước Khất Đan Gia Luật Bất Lỗ người ngoài không biết, không lẽ ta cũng không biết hay sao?

Trong Cái Bang liền có tiếng thì thầm to nhỏ, thanh âm vừa hỗn loạn vừa kinh ngạc, vừa bội phục vừa tấm tắc. Thì ra mấy năm trước quân Khất Đan tấn công, bỗng dưng mấy đại tướng bất ngờ bạo tử, ra quân bất lợi đành phải rút về khiến cho Đại Tống thoát được một tai kiếp lớn. Trong số các đại tướng bị chết bất thình lình kia có cả Tả Lộ Phó Nguyên Soái Gia Luật Bất Lỗ. Trong Cái Bang trừ vài nhân vật thủ lãnh tối cao, không ai biết đó là đại công của Trần trưởng lão.

Trần trưởng lão thấy Kiều Phong tuyên dương công lao mình trước mặt mọi người, trong bụng hết sức cảm kích hạ giọng nói nhỏ:

- Trần Cô Nhạn này được danh dương thiên hạ đều là nhờ vào đại ân đại đức của bang chủ.

Cái Bang xưa nay ám trợ Đại Tống chống lại ngoại địch, bảo quốc hộ dân nhưng vì không muốn cho kẻ địch dòm ngó khiến có thể đem toàn lực đến đánh Cái Bang nên tất cả các đóng góp dù thành hay bại cũng chỉ bàn thảo tính toán với nhau không tiết lộ ra bên ngoài nên phần lớn giang hồ không ai biết đến đã đành mà ngay trong bang cũng vẫn giữ bí mật.

Trần Cô Nhạn xưa nay kiêu ngạo vô lễ, vẫn tự cho mình tuổi tác lớn hơn Kiều Phong, kinh lịch ở trong Cái Bang cũng lâu hơn nhiều nên bình thời đối với ông không được khiêm tốn kính trọng, quần cái ai ai cũng biết, bây giờ thấy bang chủ không nghĩ đến hiềm khích cũ lại chịu đổ máu để rửa tội cho mình nên hết sức cảm động.

Kiều Phong đến trước mặt Ngô trưởng lão nói:

- Ngô trưởng lão, năm xưa ông một mình trấn thủ ải Ưng Sầu chống lại các cao thủ trong Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ khiến cho âm mưu ám sát Dương gia tướng không thể thực hiện được. Chỉ cần một tấm Ký Công Kim Bài của Dương nguyên soái ban cho ông cũng đũ miễn tội cho ông hôm nay rồi, vậy đem ra cho ta xem nào.

Ngô Trường Phong đột nhiên mặt mày đỏ ké, thần sắc cực kỳ bối rối lắp bắp: 

- Cái đó ... cái đó ...

Kiều Phong nói:

- Chúng ta đều là anh em với nhau, Ngô trưởng lão có chuyện gì khó xử cứ nói ra không việc gì phải ngại.

Ngô Trường Phong ấp úng:

- Cái Ký Công Kim Bài đó, không dám dấu bang chủ, đã ... cái đó ... cái đó ... cái đó ... để đâu mất rồi không thấy nữa.

Kiều Phong lạ lùng:

- Sao lại để mất?

Ngô Trường Phong đáp:

- Chẳng biết tôi làm sao, ôi ...

Y định thần lớn tiếng nói:

- Hôm đó tôi thèm rượu quá, trong túi không tiền, đem kim bài đi cầm mất rồi.

Kiều Phong cười ha hả nói:

- Sảng khoái thực, sảng khoái thực! Có điều như thế thật có lỗi với Dương nguyên soái.

Nói xong ông rút một thanh pháp đao, cắt đứt dây trói Ngô Trường Phong rồi lại đâm vào vai trái của mình. Ngô Trường Phong lớn tiếng nói:

- Bang chủ đại nhân đại nghĩa, cái mạng của Ngô Trường Phong này từ nay trao lại cho ông. Người ta có bảo ông là gì là gì chăng nữa, ta cũng không tin đâu.

Kiều Phong vỗ nhẹ lên vai ông cười nói:

- Chúng mình đã là dân ăn xin, nếu không có cơm ăn, không rượu uống thì đi xin người ta chớ đâu lại đi cầm kim bài.

Ngô Trường Phong cười đáp:

- Người đời thường bảo là: “Cơm no đã tử tế rồi, lại còn đòi rượu say nữa thì quá lắm. Không cho!”

Xin cơm thì dễ lắm thay,

Xin rượu hồ dễ có người đem cho.

Mọi người nghe y nói thế, ai nấy cười vang. Xin rượu uống bị người ta từ chối, anh em ăn mày trải qua đã nhiều, nhất là Kiều Phong tha tội cho tất cả bốn trưởng lão, người nào cũng như trút được gánh nặng. Mọi người quay sang Toàn Quan Thanh, nghĩ bụng y là người chủ mưu xúi bẩy anh em nổi loạn, Kiều Phong dù có khoan hồng đại lượng đến đâu cũng không thể tha y.

Kiều Phong đi đến trước mặt Toàn Quan Thanh nói:

- Toàn đà chủ, ngươi có điều gì muốn nói chăng?

Toàn Quan Thanh đáp:

- Tôi sở dĩ phản ông, cũng vì giang sơn nhà Đại Tống, vì cơ nghiệp lâu đời của Cái Bang, tiếc thay kẻ đã nói cho tôi hay chân tướng thân thế của ông, nay sợ bị giết nên không dám ra mặt. Ông cứ một đao giết tôi đi là xong.

Kiều Phong trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Thân thế của ta có chuyện gì không hay, ngươi cứ việc nói ra.

Toàn Quan Thanh lắc đầu:

- Tôi bây giờ nói năng không chứng cớ, ai thèm tin, ông cứ giết tôi đi cho xong.

Kiều Phong trong bụng đầy nghi hoặc, lớn tiếng nói:

- Đại trượng phu có chuyện cần phải nói cứ nói, việc gì phải úp úp mở mở, định nói rồi lại thôi? Toàn Quan Thanh, đã là hảo hán có chết cũng không sợ, sá gì chuyện nói ra mà phải cấm kỵ?

Toàn Quan Thanh cười khẩy:

- Phải đó, chết còn chẳng sợ thì còn việc gì phải sợ nữa? Họ Kiều kia, ngươi cứ thản nhiên vung đao giết ta đi để ta khỏi sống ở trên đời mà nhìn thấy Cái Bang tốt đẹp này lọt vào tay quân Hồ Lỗ, giang sơn gấm vóc nhà Đại Tống rơi vào tay Di Địch.

Kiều Phong hỏi lại:

- Cái Bang tốt đẹp sao lại lọt vào tay Hồ Lỗ? Ngươi nói rõ ra xem nào.

Toàn Quan Thanh đáp:

- Bây giờ ta có nói ra, các anh em ai mà tin được, lại tưởng Toàn Quan Thanh này tham sống sợ chết, đặt điều bịa chuyện. Ta đã sớm tìm cái chết rồi, lẽ nào lại để chết đi còn bị người ta chửi rủa.

Bạch Thế Kính lớn tiếng nói:

- Bang chủ, tên này ngụy kế đa đoan, mở mồm nói năng láo lếu một hồi e rằng bang chủ sẽ tha cho y đó. Chấp pháp đệ tử đâu, lấy pháp đao ra hành hình.

Một tên chấp pháp đệ tử đáp lời hùng dũng tiến ra, rút phắt một thanh pháp đao đi đến trước mặt Toàn Quan Thanh. Kiều Phong chăm chăm nhìn mặt y thấy Toàn Quan Thanh đầy vẻ công phẫn nhưng không có vẻ gì gian trá giảo hoạt, cũng không sợ hãi, trong lòng càng thêm nghi ngờ liền bảo tên đệ tử chấp pháp:

- Đưa pháp đao cho ta.

Tên đệ tử đó hay tay cầm đao cung kính dâng lên. Kiều Phong cầm lấy pháp đao nói:

- Toàn đà chủ, ngươi bảo ngươi biết chân tướng thân thế của ta, lại bảo chuyện này có liên quan đến an nguy của bản bang, thực sự chân tướng đó thế nào mà lại không dám thổ lộ?

Nói tới đây ông đút pháp đao trở vào bao, bỏ vào túi mình rồi nói:

- Ngươi xúi giục phản loạn, khó mà miễn tội chết, hôm nay ta tạm để đó, để khi mọi việc minh bạch rõ ràng, ta sẽ tự tay giết ngươi. Kiều Phong này không phải là thứ mềm yếu như đàn bà phải mua chuộc lòng người. Ta đã nhất quyết không tha cho ngươi thì có chạy đằng trời cũng không thoát. Cút ngay đi, cởi bỏ các túi trên lưng xuống, từ nay trở đi Cái Bang không còn người như ngươi nữa.

Cái câu “cởi bỏ các túi trên lưng xuống” chính là ra lệnh trục xuất y ra khỏi bang. Trong Cái Bang ngoại trừ những người vừa gia nhập chưa có chức vụ gì, ai ai trên lưng cũng có đeo túi vải, nhiều thì chín cái, ít thì một cái, cứ xem nhiều ít mà định chức vị danh phận cao thấp. Toàn Quan Thanh nghe Kiều Phong bảo y cởi bị đeo trên lưng xuống, mắt liền lóe lên một tia hung dữ, lập tức xoay qua rút ngay một thanh pháp đao nhắm ngay ngực mình đâm vào.

Các bang hội trên giang hồ nếu ai bị trục xuất khỏi bang, mối nhục đó không có gì sánh bằng, thà bằng đương trường xử tử còn dễ chịu hơn. Kiều Phong lạnh lùng nhìn y thử xem y có dám đâm vào ngực hay không. Toàn Quan Thanh cầm chặt con dao, tay không run chút nào quay đầu lại nhìn Kiều Phong. Hai người trừng trừng nhìn nhau, trong giây lát cả khu rừng hạnh không một tiếng động. Toàn Quan Thanh bỗng nói:

- Kiều Phong, ngươi giả vờ hay thật. Không lẽ ngươi thực không biết hay sao?

Kiều Phong hỏi lại:

- Biết cái gì?

Toàn Quan Thanh mấp máy đôi môi nhưng không nói ra thành tiếng, chậm rãi để con dao trở lại chỗ cũ, rồi từ từ cởi từng chiếc, từng chiếc những túi trên lưng xuống, cung kính xếp dưới đất.

Toàn Quan Thanh cởi đến chiếc túi thứ năm, bỗng nghe tiếng chân ngựa rồn rập, từ phương bắc có người chạy đến, kế đến là hai tiếng còi hiệu. Trong đám ăn mày lập tức có người huýt còi trả lời, kẻ cưỡi ngựa kia càng chạy nhanh hơn, mỗi lúc một gần. Ngô Trường Phong lẩm bẩm:

- Có biến cố gì khẩn cấp nữa đây?

Người cưỡi ngựa kia chưa đến nơi đột nhiên từ phía đông cũng có tiếng ngựa chạy tới, nhưng vì còn xa nên tiếng vó câu văng vẳng nhất thời không phân biệt được y chạy về hướng nào.

Chỉ trong giây lát, người cưỡi ngựa từ phương bắc đã đến bên bìa rừng, một người phóng ngựa chạy thẳng vào, xoay mình nhảy xuống. Người đó mặc áo thụng, y phục thật là sang trọng, nhưng nhanh như chớp cởi ngay áo ngoài ra để lộ bên trong áo vá chằm vá đụp chính là người của Cái Bang. Đoàn Dự hơi suy nghĩ lập tức hiểu ra: người của Cái Bang cưỡi ngựa rất dễ khiến cho người ta chú ý, qua phủ thể nào cũng giữ lại tra vấn hạch sách, nhưng đã đưa tin tất phải chạy cho nhanh nên phải ăn mặc như kẻ phú thương giàu có, bên trong vẫn mặc áo vá để tỏ mình không vong bản.

Người đó đến trước mặt đà chủ Đại Tín phân đà, cung kính trình lên một cái túi nhỏ nói:

- Khẩn cấp quân tình ...

Y chỉ nói được bốn chữ rồi thở không ra hơi, đột nhiên con ngựa y cưỡi đến hí lên một tiếng thảm thiết ngã lăn ra đất dãy mấy cái chết ngay. Kẻ đưa tin kia cũng loạng choạng, gục luôn xuống. Chẳng nói cũng biết cả người lẫn ngựa chạy đường xa không nghỉ đã kiệt sức cả rồi.

Đại Tín đà chủ nhận ra người đưa thư là một trong số bang chúng gửi qua Tây Hạ dò thám tin tức. Tây Hạ vẫn thường hưng binh xâm phạm cảnh giới, chiếm đất quấy nhiễu lương dân nhưng không hại như người Khất Đan. Cái Bang vẫn thường sai gián điệp qua Tây Hạ nghe ngóng tình hình. Y thấy người này bất kể sống chết chạy về đủ biết tin tức cực kỳ trọng yếu, lại cực kỳ khẩn cấp nên không mở ra đem luôn chiếc túi trình cho Kiều Phong nói:

- Đây là quân tình khẩn cấp của nước Tây Hạ. Tín sứ là người đi theo anh em Dịch Đại Hổ sang bên đó.

1 Đại đây là cái túi, không phải đời

2 Chỗ này chơi chữ cũng rất hay. Thân là họ hàng bên nội, thích là họ hàng bên ngoại. Quyến thuộc là người trong cùng một gia đình. Đoàn Dự nói thế để minh định là Vương Ngữ Yên và Mộ Dung Phục chỉ là họ hàng chứ chưa phải là người nhà với nhau (nghĩa là anh chàng vẫn còn tí ti hi vọng).

3 Càn (hay Kiền) và Can viết cùng một mặt chữ, đọc khác nhau. Càn trong chữ càn khôn. Can trong can bôi là cạn chén. Nếu giải thích như vậy thì người này phải đọc là Công Dã Can chứ không phải Công Dã Càn như bản cũ.

4 Ở miền quê nước ta cầu bắc ngang sông rạch bằng một thân cây gọi là cầu khỉ

5 Vật cùng loại thì tụ với nhau, người cùng bọn thì tính giống nhau.

6 Đây là Dương Nghiệp (hay Kế Nghiệp ? – 986), tên thật là Trọng Quí, người đất Thái Nguyên một danh tướng đời Bắc Tống từng lập nhiều chiến công chống lại xâm lăng từ các bộ tộc du mục miền Bắc nên còn được gọi là Dương Vô Địch. Sau thất thế bị quân Khất Đan bắt nên nhịn đói mà chết. Ông là người trung liệt nên đời sau nhiều tuồng tích được diễn về ông, tiểu thuyết gọi là Dương gia tướng hay Dương lão lệnh công.

datlucky_way

23-07-2009 08:13 AM

Hồi 15(b) : HẠNH TỬ LÂM TRUNG THƯƠNG LƯỢC BÌNH SINH NGHĨA 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ai hay trăm sự đảo điên,

Một tay chèo chống oan khiên cũng đành.

Dẫu cho người đã phụ mình,

Tròn câu nghĩa khí giữ tình anh em.

*

* *

- Kiều Phong, viên sáp truyền tin là quân tình đại sự, ngươi không được coi.

Mọi người đều giật mình kinh hãi, nhìn lại thấy người đó đầu râu tóc bạc, mặc một chiếc áo rách nát, là một người ăn mày đã thật già. Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởn lão cùng đứng lên nói:

- Có chuyện gì mà Từ trưởng lão phải đại giá quang lâm?

Quần cái thấy Từ trưởng lão đến ai nấy đều kinh động. Vị Từ trưởng lão này ở trong Cái Bang bối phận cực cao, năm nay đã tám mươi bảy tuổi, Uông bang chủ tiền nhiệm vẫn tôn xưng là sư bá, trong Cái Bang ai ai cũng đều là hậu bối của ông ta. Ông ta qui ẩn đã lâu, xưa nay không màng đến thế sự. Kiều Phong và Truyền Công, Chấp Pháp các trưởng lão hàng năm đến thăm hỏi cũng chĩ nói chuyện thông thường trong bang. Không ngờ giờ phút nào ông lại đến đây, ngăn Kiều Phong không cho đọc quân tình nước Tây Hạ khiến mọi người ai nấy đều ngạc nhiên.

Kiều Phong lập tức nắm chặt tay giữ tờ giấy lại, khom lưng thi lễ nói:

- Từ trưởng lão khỏe chứ?

Nói xong ông mở tay ra đưa tờ giấy đến trước mặt Từ trưởng lão. Kiều Phong là bang chủ Cái Bang, bối phận tuy có thấp hơn Từ trưởng lão nhưng khi gặp đại sự trong bang thì vẫn phải do ông ta ra lệnh, không nói gì Từ trưởng lão chỉ là một tiền bối đã thoái ẩn, dẫu có những vị bang chủ đời trước phục sinh thì địa vị cũng vẫn phải ở dưới. Ngờ đâu Từ trưởng lão không cho Kiều Phong đọc quân tình nước Tây Hạ, ông ta không kháng cự chút nào mọi người đều thật kinh ngạc.

Từ trưởng lão nói:

- Xin lỗi nhé.

Ông cầm ngay tờ giấy trong tay Kiều Phong, nắm chặt trong tay, kế đó đưa mắt nhìn khắp lượt những người trong Cái Bang, dõng dạc nói:

- Di sương của Mã Đại Nguyên Mã huynh đệ là Mã phu nhân sẽ tới ngay để trần thuyết cùng tất cả quí vị, xin mọi người đợi bà ta một lát có được không nào?

Mọi người đưa mắt nhìn Kiều Phong xem ông ta xử trí ra sao. Kiều Phong bụng đầy nghi hoặc nói:

- Nếu như việc này có liên quan trọng đại thì mọi người có đợi một chút cũng không sao.

Từ trưởng lão đáp:

- Việc này có liên quan trọng đại.

Ông nhắc lại mấy chữ đó mà không giải thích như thế nào, chỉ quay sang thi lễ với Kiều Phong tham kiến bang chủ rồi ngồi nhích sang một bên. Đoàn Dự thừa cơ tán gẫu với Vương Ngữ Yên mấy câu ghé tai nàng nói nhỏ:

- Vương cô nương, chuyện trong Cái Bang thật là rắc rối, chẳng hay mình tránh ra một bên hay đứng ở đây xem thế nào?

Vương Ngữ Yên chau mày đáp:

- Mình là người ngoài đúng ra chẳng nên nghe chuyện cơ mật đại sự của người ta. Có điều ... có điều ... chuyện tranh chấp của họ có liên quan đến biểu ca của tôi nên tôi muốn nghe xem thế nào.

Đoàn Dự liền phụ họa:

- Đúng đó. Vị Mã phó bang chủ này cứ như họ nói là bị biểu ca cô giết chết, để lại một người vợ góa không nơi nương tựa, xem ra thật đáng thương.

Vương Ngữ Yên vội đáp:

- Không, không đâu! Mã phó bang chủ không phải do biểu ca tôi giết, Kiều bang chủ đã chẳng nói rồi là gì?

Ngay lúc đó lại có tiếng vó ngựa vang lên, hai người cưỡi ngựa chạy đến khu rừng hạnh. Người của Cái Bang tụ hội nơi đây, bên đường hẳn để những ký hiệu, chung quanh cũng có người tiếp dẫn chặn đường phòng địch nhân đến tấn công.

Ai cũng tưởng một trong hai người đó phải là quả phụ Mã Đại Nguyên, nào ngờ người ngồi trên lưng ngựa lại là một ông già và một bà lão. Người đàn ông thân thể nhỏ bé còn người đàn bà thì lại cao to, hai bên chênh lệch thật tức cười. Kiều Phong vội đứng lên nói:

- Hiền kháng lệ Đàm công, Đàm bà ở Xung Tiêu Động, Thái Hàng Sơn giá lâm Kiều Phong này không ra xa nghinh đón, xin tạ lỗi nơi đây.

Từ trưởng lão và Truyền Công, Chấp Pháp các trưởng lão khác cũng vội vàng đứng lên thi lễ. Đoàn Dự thấy cảnh tượng đó đoán chừng Đàm công, Đàm bà phải là những nhân vật có tiếng tăm trong võ lâm. Đàm bà nói:

- Kiều bang chủ, trên vai ông có đeo mấy món gì thế này?

Bà ta vươn tay ra nhổ luôn bốn chiếc dao ra, thủ pháp thật là nhanh nhẹn. Bà ta vừa rút dao ra, Đàm công liền thò tay vào túi lấy ra một cái hộp nhỏ, mở nắp thò ngón tay quệt chút thuốc cao, trét lên vai Kiều Phong. Kim sang vừa đồ lên máu tại vết thương đang chảy ra như suối liền ngừng lại. Thủ pháp rút đao của Đàm bà nhanh nhẹn hiếm có trên đời nhưng cũng chỉ là một môn võ công, còn như Đàm công lấy hộp ra, mở nắp, quệt thuốc, trét cao, cầm máu những động tác đó thật nhịp nhàng, tuy nhanh thật đấy nhưng ai nấy đều nhìn thấy rõ ràng chẳng khác gì người làm ảo thuật.

Thuốc cầm máu thần hiệu thật khó mà tưởng tượng nổi, bôi đến đâu máu ngừng chảy tới đó không phải làm đến lần thứ hai. Kiều Phong thấy Đàm công, Đàm bà không hỏi đầu đuôi câu chuyện đã giúp mình nhổ dao trị thương, tuy có vẻ hơi đường đột nhưng quả là cảm kích, miệng nói cám ơn thấy đầu vai ngứa ngáy chỉ giây lát đau nhức đã giảm rất nhiều. Kim sang đó linh nghiệm chưa từng thấy qua mà cũng chưa bao giờ nghe tiếng đến. Đàm bà lại hỏi:

- Kiều bang chủ, trên đời này có kẻ nào lớn mật đám lấy dao đâm ông thế?

Kiều Phong cười đáp:

- Ấy là tôi tự mình đâm mình.

Đàm bà ngạc nhiên:

- Sao lại tự mình đâm mình? Bộ hết chuyện làm rồi hay sao?

Kiều Phong mỉm cười đáp:

- Tôi tự đâm cho vui, cái vai này da dày thịt chắc không chạm tới gân cốt.

Tống Hề Trần Ngô bốn trưởng lão thấy Kiều Phong cố ý dấu chuyện cho mình, vừa hổ thẹn lại vừa cảm kích. Đàm bà cười ha hả nói:

- Ngươi lại nói xạo chăng? Ta biết rồi, gã này rắn mắt lắm, nghe nói Đàm công mới có được hàn ngọc miền cực bắc lẫn huyền băng thiềm thừ chế tạo được thuốc chữa thương thật linh nghiệm nên muốn thử cho biết chớ gì?

Kiều Phong không cãi lại chỉ mỉm cười, nghĩ thầm: “ Lão bà bà này thật là xởi lởi, trên đời này có ai ở không tự mình đâm mình mấy dao để xem thuốc có linh nghiệm hay không”.

Lại nghe tiếng lộp cộp, một con lừa chạy vào trong rừng, trên lưng là một người ngồi xoay đầu ngược lại, mặt hướng về phía đuôi. Đàm bà thấy y liền cười toét miệng gọi lớn:

- Sư ca, anh lại làm trò quái đản gì nữa đây? Tiểu muội phải đét đít anh mới được.

Người ngồi trên lưng lừa thân hình rút lại thành một cục chẳng khác gì một đứa bé bảy tám tuổi, Đàm bà giơ tay vỗ vào mông y, người đó liền rơi ngay xuống đất, đột nhiên vươn vai, duỗi chân tay biến thành một người cao lớn khiến ai nấy đều kinh ngạc. Đàm công mặt mày ra vẻ không vui, hừ một tiếng liếc xéo y một cái nói:

- Ta tưởng ai hóa ra là ngươi.

Nói xong quay lại nhìn Đàm bà. Người cưỡi lừa ngược kia bảo xấu thì cũng chẳng xấu mà bảo đẹp thì cũng chẳng đẹp, bảo già thì cũng chẳng già, mà bảo rằng trẻ thì cũng chẳng trẻ, trong khoảng từ ba mươi đến sáu mươi. Người đó đờ đẫn nhìn Đàm bà, thần sắc cực kỳ đắm đuối, dịu dàng hỏi:

- Tiểu Quyên, hổm rày nàng có được khỏe không?

Đàm bà thân thể dềnh dàng, tóc trắng như sương, mặt mũi nhăn nheo vậy mà gọi là “Tiểu Quyên” nghe thật yểu điệu, người với tên thật không xứng chút nào, ai nấy nghe thấy thật tức cười. Thế nhưng bà lão nào đã chẳng qua thời son trẻ, khi còn là một thiếu nữ gọi Tiểu Quyên, đến lúc già có ai gọi Lão Quyên bao giờ? Đoàn Dự còn đang ngẫm nghĩ lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp thêm mấy người nữa cưỡi ngựa chạy đến nhưng lần này không có vẻ gì gấp rút.

Kiều Phong còn đang đánh giá người khách cưỡi lừa, đoán không được y thuộc hạng người nào. Y là sư huynh của Đàm bà, ngồi trên lưng lừa tỏ chút công phu Xúc Cốt Công cao minh như thế ắt không phải là người tầm thường nhưng có điều trước nay ông không hề nghe nói đến tên y.

Trong những người khách vừa cưỡi ngựa chạy đến, đi đầu là năm thanh niên, người nào cũng mày rậm mắt to, mặt mũi hao hao giống nhau, lớn tuổi nhất chừng ngoài ba mươi còn trẻ nhất cũng phải ngoài đôi mươi hiển nhiên là anh em cùng một mẹ. Ngô Trường Phong lớn tiếng nói:

- Thái Sơn ngũ hùng đã đến đây, hay lắm, hay lắm! Chẳng hay ngọn gió lành nào thổi năm vị cùng đến một lượt thế này?

Người thứ ba trong Thái Sơn ngũ hùng là Đơn Thúc Sơn quen biết rất thân với Ngô Trường Phong liền trả lời:

- Ngô tứ thúc khỏe chứ? Cha cháu cũng sắp đến rồi.

Ngô Trường Phong mặt hơi biến sắc ấp úng hỏi:

- Thật sao? Cha cháu ...

Ông ta vi phạm bang qui, trong bụng vẫn đang thấp thỏm nghe nói Thiết Diện Phán Quan đất Thái Sơn Đơn Chính đột nhiên tới đây không khỏi chột dạ. Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính bình sinh ghét kẻ ác như kẻ thù, chỉ cần nghe trên giang hồ có chuyện gì bất hợp công đạo là ra tay can thiệp ngay. Bản thân ông ta võ công cực kỳ cao siêu, ngoài năm đứa con ruột ra lại còn rất đông học trò, đồ tử đồ tôn phải đến hơn hai trăm, cái tiếng Thái Sơn Đơn Gia trong võ lâm ai nghe thấy cũng phải e ngại ba phần.

Ngay lúc đó một con ngựa từ ngoài chạy vào rừng, Thái Sơn ngũ hùng cùng tiến lên giữ lấy đầu ngựa, một người mặc trường bào bằng gấm nhẹ nhàng nhảy xuống, quay sang phía Kiều Phong chắp tay nói:

- Kiều bang chủ, Đơn Chính này không được mời mà tự tiện đến, quả là làm phiền quí vị.

Kiều Phong đã từng nghe tên Đơn Chính đã lâu, bây giờ mới có dịp gặp, thấy ông ta mặt mũi phương phi, có thể nói là “đồng nhan hạc phát” , thần thái thật là khiêm hòa không như giang hồ vẫn truyền tụng là ra tay không nể nang ai. Ông bèn ôm quyền đáp lễ nói:

- Nếu biết Đơn lão tiền bối đại giá quang lâm, họ Kiều đã sớm ra ngoài nghinh tiếp rồi.

Người khác cưỡi lừa đột nhiên cao giọng quái lạ nói:

- Chu choa, Thiết Diện Phán Quan đến thì kẻ đón người đưa, còn Thiết Thí Cổ Phán Quan đến thì chẳng có ma nào ngó tới. 

Mọi người nghe y nói Thiết Thí Cổ Phán Quan cái danh hiệu kỳ quặc như thế, ai nấy bật cười ha hả. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba nàng tuy biết rằng cười là bất nhã nhưng cũng phải mủm mỉm cười. Thái Sơn ngũ hùng nghe gã này nói thế biết y có ý khích bác phụ thân ai nấy đều sầm mặt xuống. Có điều nhà họ Đơn gia giáo nghiêm minh, Đơn Chính chưa nói, các con không ai dám mở lời.

Đơn Chính công phu hàm dưỡng rất cao, nhất thời chưa biết được lai lịch người này thế nào, giả vờ như không nghe thấy chỉ sang sảng nói:

- Xin mời Mã phu nhân bước ra nói chuyện.

Một chiếc kiệu do hai hán tử khỏe mạnh từ trong rừng cây tiến ra nhanh như bay, đến giữa phu đất liền hạ xuống, vén rèm lên. Một thiếu phụ mặt đồ toàn trắng từ trong kiệu khoan thai bước ra. Người đàn bà đó cúi đầu, quay sang Kiều Phong lạy phục xuống nói:

- Vị vong nhân Ôn thị nhà họ Mã, tham kiến bang chủ. 

Kiều Phong đáp lại một lễ nói:

- Xin chào tẩu tẩu, không dám.

Mã phu nhân nói:

- Tiên phu chẳng may qua đời, may được bang chủ và các vị bá bá thúc thúc lo liệu tang ma, kẻ sống thừa này nguyện ghi lòng tạc dạ.

Giọng nói của bà ta thật trong trẻo dễ nghe, xem ra tuổi còn trẻ lắm, có điều trước sau vẫn cúi gầm mặt xuống nên không ai nhìn rõ dung mạo ra sao. Kiều Phong cho rằng Mã phu nhân đã tìm ra chuyện gì hết sức trọng đại liên quan đến cái chết của chồng nên mới đích thân tới đây, nhưng chuyện trong bang sao không bẩm trước cho bang chủ, lại đi tìm Từ trưởng lão và Thiết Diện Phán Quan chủ trì ắt hẳn bên trong có điều gì hết sức kỳ lạ nên quay lại đưa mắt nhìn Chấp Pháp trưởng lão, cũng vừa lúc Bạch Thế Kính nhìn ông ta, hai người ánh mắt đầy vẻ hoang mang.

Kiều Phong đành phải tiếp khách từ ngoài đến trước rồi chuyện nội bộ sẽ tính sau nên nói với Đơn Chính:

- Đơn lão tiến bối, đây là Đàm thị kháng lệ của động Xung Tiêu, núi Thái Hàng, không biết hai bên đã quen biết nhau chưa?

Đơn Chính ôm quyền nói:

- Đã từ lâu nghe đến uy danh của hiền kháng lệ, nay may mắn được gặp.

Kiều Phong nói:

- Đàm lão gia tử, xin ông giới thiệu cho được biết vị tiền bối này để khỏi thất lễ.

Đàm công chưa kịp trả lời, người khách cưởi lừa đã cướp lời:

- Ta họ Song, tên Oai, ngoại hiệu là Thiết Thí Cổ Phán Quan.

Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính tuy công phu hàm dưỡng cao thật, đến nước này cơn giận vẫn bùng lên nghĩ thầm: “Ta họ Đơn, ngươi lại bảo ngươi họ Song. Ta tên Chính, ngươi lại bảo ngươi tên Oai, thế có khác gì cố tình gây sự với mình?”. 

Ông ta đang định nổi nóng thì đã nghe Đàm bà nói:

- Đơn lão gia tử, xin ông đừng nghe Triệu Tiền Tôn nói năng tầm xàm, gã này điên điên khùng khùng đừng có coi là thiệt.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Người này tên là Triệu Tiền Tôn ư? Xem ra không phải tên thật rồi”. Ông bèn nói:

- Tất cả quí vị, nơi đây không có ghế ngồi vậy xin tùy tiện ngồi xuống đất.

Đợi cho mọi người phân biệt yên chỗ rồi ông mới nói tiếp:

- Chỉ trong một ngày mà gặp được các vị tiền bối cao nhân, quả thật vinh hạnh xiết bao. Không biết quí vị giá lâm có điều gì dạy bảo?

Đơn Chính đáp:

- Kiều bang chủ, quí phái là đại bang số một trên giang hồ, mấy trăm năm qua hiệp danh đã vang dậy trong thiên hạ, võ lâm mỗi khi nhắc đến hai chữ Cái Bang có ai mà không mười phần kính trọng, Đơn mỗ từ xưa tới nay lúc nào cũng thật tôn vinh.

Kiều Phong đáp:

- Không dám.

Triệu Tiền Tôn tiếp lời:

- Kiều bang chủ, quí phái là đại bang số một trên giang hồ, mấy trăm năm qua hiệp danh đã vang dậy trong thiên hạ, võ lâm mỗi khi nhắc đến hai chữ Cái Bang có ai mà không mười phần kính trọng, Song mỗ từ xưa tới nay lúc nào cũng thật tôn vinh.

Câu nói của y nhắc lại lời Đơn Chính từng chữ một, chỉ đổi một chữ Đơn thành chữ Song. Kiều Phong biết những tiền bối cao nhân trong võ lâm nhiều người tính tình thật là quái dị, gã Triệu Tiền Tôn này cứ châm chọc Đơn Chính mãi, không hiểu vì cớ gì, mình chẳng nên đắc tội với bên nào thành thử cũng chỉ chắp tay nói:

- Không dám.

Đơn Chính mỉm cười, quay sang nói với đưa con trai cả là Đơn Bá Sơn:

- Bá Sơn, những chuyện tới đây con nói cho Kiều bang chủ hay. Người ngoài muốn học con ta thì phải học cho chu đáo.

Mọi người nghe qua không khỏi cười ồ lên, nghĩ bụng Thiết Diện Phán Quan nói như thế quả thực hết sức thâm trầm, Triệu Tiền Tôn nếu như lại nhại lời Đơn Bá Sơn thì có khác gì học làm con ông ta. Ngờ đâu Triệu Tiền Tôn lại cũng nói:

- Bá Sơn, những chuyện tới đây con nói cho Kiều bang chủ hay. Người ngoài muốn học con ta thì phải học cho chu đáo.

Y nói thế lại đâm ra chơi trèo Đơn Chính một lần nữa, tự coi là cha của Đơn Bá Sơn. Đứa con út của Đơn Chính là Đơn Tiểu Sơn tính tình nóng nảy liền cất tiếng chửi ngay:

- Con mẹ ngươi, bộ mi hết chuyện làm, không muốn sống nữa hay sao?

Triệu Tiền Tôn lẩm bẩm nói một mình:

- Con mẹ nó chứ, cái thứ con chết tiệt này, đẻ bốn đứa đã là quá, còn thêm đứa thứ năm làm gì. Ha ha, dám chừng không phải con ruột mình đâu.

Nghe y công nhiên khiêu khích mình, Đơn Chính dù con giun xéo lắm cũng quằn bèn quay sang nói với Triệu Tiền Tôn:

- Chúng mình là khách của Cái Bang, nếu như hơn thua với nhau có khác nào không nể mặt chủ nhân, đợi mọi việc xong xuôi rồi sẽ xin được thỉnh giáo cao chiêu của các hạ. Bá Sơn, ngươi cứ việc nói đi.

Triệu Tiền Tôn lại nhại lại:

- Chúng mình là khách của Cái Bang, nếu như hơn thua với nhau có khác nào không nể mặt chủ nhân, đợi mọi việc xong xuôi rồi sẽ xin được thỉnh giáo cao chiêu của các hạ. Bá Sơn, ông đã bảo ngươi nói, ngươi cứ việc nói đi.

Đơn Bá Sơn hận không thể xông lên rút đao chém cho y mấy nhát mới hả giận, cố nén nộ khí nói với Kiều Phong:

- Kiều bang chủ, chuyện của quí bang, cha con chúng tôi đáng ra không nên can dự vào, nhưng cha tôi đã nói là: Quân tử ái nhân dĩ đức ...

Y nói tới đây, đưa mắt nhìn Triệu Tiền Tôn xem y có lập lại hay không, nếu như cố nhại thể nào cũng nói” “Cha tôi đã dạy: Quân tử ái nhân dĩ đức” thì có khác gì gọi Đơn Chính bằng gia gia.

Ngờ đâu Triệu Tiền Tôn cũng nhắc lại:

- Kiều bang chủ, chuyện của quí bang, cha con chúng tôi đáng ra không nên can dự vào, nhưng con tôi đã nói là: Quân tử ái nhân dĩ đức ...

Y đổi chữ “cha tôi” thành ra “con tôi” hóa ra lại chiếm phần hơn so với Đơn Chính. Mọi người nghe thế ai nấy đều chau mày, xem ra gã Triệu Tiền Tôn này đã đi quá đà e rằng không tránh khỏi một cuộc đổ máu. Đơn Chính thản nhiên nói:

- Các hạ nhất định phải gây chuyện với Đơn mỗ cho bằng được, tuy nhiên huynh đệ với các hạ chưa hề quen biết nhau, không biết đắc tội với các hạ ở chỗ nào xin được nói rõ cho nghe. Nếu quả như huynh đệ có điều sai quấy, lập tức sẽ xin lỗi các hạ ngay.

Mọi người đều khen thầm Đơn Chính, không hổ là bậc tiền bối đã nổi danh đất Trung Nguyên. Triệu Tiền Tôn đáp:

- Ngươi không đắc tội với ta nhưng đã đắc tội với Tiểu Quyên, như thế còn gấp mười đắc tội với ta nữa.

Đơn Chính ngạc nhiên hỏi lại:

- Tiểu Quyên là ai? Ta đắc tội với bà ta hồi nào?

Triệu Tiền Tôn chỉ vào Đàm bà nói:

- Vị này là Tiểu Quyên đây. Tiểu Quyên là khuê danh của nàng, trong thiên hạ ngoài ta ra không ai được gọi như thế, nghe chưa?

Đơn Chính nghe vừa bực mình, vừa tức cười nói:

- Thì ra đó là khuê danh của Đàm bà bà, tại hạ không biết nên mạo muội xưng hô, mong được thứ lỗi.

Triệu Tiền Tôn làm ra vẻ kẻ cả đáp:

- Không biết thì không có tội, sơ phạm tha cho, lần sau không được thế nữa.

Đơn Chính nói:

- Tại hạ từng ngưỡng một uy danh Đàm thị kháng lệ ở động Xung Tiêu, núi Thái Hàng đã lâu, nhưng vô duyên gặp gỡ nhưng tự xét chưa từng ở sau lưng nói đụng đến ai, sao lại có chuyện đắc tội với bà bà nhà họ Đàm?

Triệu Tiền Tôn hầm hầm đáp:

- Ta vừa mới mở miệng hỏi Tiểu Quyên: “Hổm rày nàng có được khỏe không?”, nàng chưa trả lời thì năm thằng cốt đột của nhà ngươi đã làm bộ làm tịch, hùng hùng hổ hổ đi vô ngắt lời, cho tới giờ này cũng chưa trả lời cho ta hay. Đơn lão huynh, ngươi thử hỏi xem Tiểu Quyên là hạng người nào? Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương này là hạng người nào? Đâu phải bọn ta đang nói chuyện rồi ai cũng vô đây quấy rầy được?

Đơn Chính nghe thấy y nói mấy câu tưởng như thông mà không thông đó, nghĩ thầm người này đầu óc quả là không bình thường bèn đáp:

- Huynh đệ có một chuyện chưa rõ ràng, xin được thỉnh giáo.

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Chuyện chi đây? Nếu như ta cao hứng chỉ cho ngươi tỏ tường thì cũng không hề chi.

Đơn Chính nói:

- Đa tạ! Các hạ bảo là khuê danh của Đàm bà trên đời này chỉ một mình các hạ được gọi đến, có phải không nào?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Chính thế. Nếu ngươi không tin, thử gọi thêm một tiếng nữa xem cái thằng Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương, Phùng Trần Chử Vệ, Tưởng Thẩm Hàn Dương này có xông lên đánh cho ngươi một trận không?

Đơn Chính đáp:

- Huynh đệ dĩ nhiên không dám gọi, nhưng không lẽ cả đến Đàm công cũng không dám gọi hay sao?

Triệu Tiền Tôn mặt mày tái nhợt, chết sững một hồi, ai nấy nghĩ rằng câu hỏi ngoắt ngoéo đó khiến y không trả lời được. Ngờ đâu đột nhiên Triệu Tiền Tôn khóc òa lên, nước mắt ràn rụa thật là thương tâm.

Chuyện xảy ra thật ngoài dự liệu của mọi người, con người trời không sợ, đất không sợ, dám cùng Thiết Diện Phán Quan gây chuyện cho tới nơi không ngờ chỉ vì một câu nói nhẹ nhàng lại khóc rống lên không sao cầm được nước mắt.

Đơn Chính thấy y khóc thật thống thiết nên nổi lòng từ tâm, lúc đầu trong bụng chứa đầy lửa giận, lúc này lại nguội lạnh bèn an ủi:

- Triệu huynh, quả thật huynh đệ không ra gì ...

Triệu Tiền Tôn nghẹn ngào nức nở:

- Ta không phải họ Triệu.

Đơn Chính lại càng ngạc nhiên hỏi lại:

- Thế thì các hạ họ gì?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Ta không có họ, đừng hỏi nữa.

Mọi người đoán chừng Triệu Tiền Tôn phải có chuyện gì cực kỳ đau lòng nhưng thực sự thế nào nếu như y không nói ra, người ngoài không tiện hỏi thêm nên đành để y sụt sùi nức nở khóc cho hả lòng. Đàm bà sầm mặt xuống nói:

- Anh lại phát khùng rồi, trước mặt các vị bằng hữu không sợ mất mặt hay sao?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Nàng bỏ ta đi lấy lão chết tiệt Đàm công, lòng ta không rầu, không đau sao được? Lòng ta tan nát rồi, ruột đã đứt đoạn rồi, cái mặt bề ngoài kia có còn gì mà mất hay không mất?

Mọi người nhìn nhau mỉm cười, thì ra chuyện chẳng có gì gọi là ly kỳ cả, ai cũng biết ngay là trước đây Triệu Tiền Tôn và Đàm bà có một đoạn tình sử, về sau Đàm bà lại đi lấy Đàm công khiến cho Triệu Tiền Tôn đau lòng đến nỗi tên tuổi củng chẳng còn cần đến, ngơ ngẩn điên điên rồ rồ. Nhìn lại vợ chồng họ Đàm ai nấy cũng trên sáu mươi cả rồi vậy mà Triệu Tiền Tôn kia tình vẫn sâu đậm, mấy chục năm qua vẫn tơ tưởng không thôi?

Đàm bà mặt đã nhăn nheo, tóc trắng xóa, không ai hiểu được tại sao bà lão cao to này lúc còn trẻ có điểm nào khiến người ta phải động lòng mà Triệu Tiền Tôn đến già vẫn còn lưu luyến. Đàm bà vẻ mặt ngượng ngập nói:

- Sao sư ca còn đề cập đến chuyện cũ làm chi? Chuyện Cái Bang muốn bàn bạc hôm nay là chuyện đàng hoàng chính đáng, sư ca ngồi yên nghe là hơn.

Mấy câu khuyên bảo vừa giận dỗi vừa nhỏ nhẹ kia, Triệu Tiền Tôn nghe rất vừa lòng bèn nói:

- Vậy sư muội cười với ta một chút coi, ta mới nghe lời nàng.

Đàm bà chưa kịp cười, người ngoài đã có lắm người cười ồ lên. Bà lão dường như chẳng ai coi vào đâu, quay lại nhìn y nhoẻn một nụ cười, Triệu Tiền Tôn đờ đẫn trông theo, nhìn vẻ mặt cũng biết là thần tình mê mẩn, hồn vía lên mây rồi. Đàm công ngồi một bên mặt hầm hầm giận dữ nhưng không biết làm sao hơn.

Cái cảnh đó Đoàn Dự nhìn thấy bất giác kinh hãi: “Ba người này ai nấy tình cảm sâu xa như vậy, coi thế nhân chẳng vào đâu, còn ta ... ta đối với Vương cô nương mai đây cũng giống như Triệu Tiền Tôn hay sao? Không! Không! Đàm bà kia đối với sư ca hiển nhiên còn có chút tình ý, Vương cô nương canh cánh không quên là biểu ca nàng Mộ Dung công tử. So với Triệu Tiền Tôn ta thật chẳng thể nào bằng, không sao bì kịp được”.

Còn Kiều Phong thì lại suy nghĩ vào một chiều khác: “Gã Triệu Tiền Tôn này quả nhiên không phải họ Triệu. Trước nay ta vẫn nghe Đàm công, Đàm bà của Xung Tiêu động, Thái Hàng sơn là đích truyền tuyệt kỹ của phái Thái Hàng, thế nhưng khi nghe ba người này nói chuyện, dường như họ không cùng sư môn . Thế thì Đàm công là người của phái Thái Hàng? Hay Đàm bà mới là người của phái Thái Hàng? Nếu Đàm công là phái Thái Hàng thì Triệu Tiền Tôn và sư muội Đàm bà là người của phái nào?”.

Lại nghe Triệu Tiền Tôn nói:

- Nghe nói Cô Tô Mộ Dung Phục có cái trò “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân” lớn mật làm càn, loạn sát người vô tội. Lão tử muốn gặp y một chuyến xem tên tiểu tử này có tài cán gì mà “đập lưng ông” tên Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương này? Tiểu Quyên, nàng gọi ta đến Giang Nam, ta dĩ nhiên là phải đi rồi, huống hồ ...

Triệu Tiền Tôn còn đang nói dở bỗng nghe có tiếng người khóc hu hu cực kỳ thảm thiết, tiếng khóc giống hệt y mới rồi. Mọi người nghe thấy ai nấy đều ngạc nhiên nghe thấy người kia vừa khóc vừa kể lể:

- Sư muội yêu quí của ta ơi, lão tử có chỗ nào không phải với nàng đâu? Sao lại bỏ ta đi lấy cái lão họ Đàm làm gì? Lão tử ngày nhớ đêm mong, ruột vò chín khúc lúc nào cũng nhớ Tiểu Quyên sư muội. Nhớ hồi sư phụ còn tại thế, đối với mình chẳng khác con cái trong nhà, nàng không lấy ta chẳng phụ lòng sư phụ hay sao?

Tiếng nói đó so với giọng của Triệu Tiền Tôn, thanh âm ngữ điệu giống hệt không khác chút nào, nếu mọi người không thấy y há hốc mồm, đầy vẻ ngạc nhiên thì ai cũng tưởng chính miệng y nói ra. Mọi người theo thanh âm mà tìm thì thấy đó là một cô gái mặc áo dài màu hồng nhạt.

Người con gái đó xoay lưng lại, chính là A Châu. Đoàn Dự, A Bích và Vương Ngữ Yên vốn đã biết tài mô phỏng ngôn ngữ và dáng điệu người khác không sai một mảy nên không lấy gì làm lạ lùng, những người khác không ai không lấy là kỳ lạ, lại thêm hoạt kê, tưởng rằng Triệu Tiền Tôn nghe xong thể nào cũng nổi giận đùng đùng.

Ngờ đâu mấy lời của A Châu lại chạm đến nỗi niềm sâu kín của y, y vốn đã ngừng khóc rồi, lúc này mắt lại đỏ hoe, miệng méo xệch, cùng với A Châu kẻ xướng người họa hai bên cùng giọt vắn giọt dài.

Đơn Chính lắc đầu, dõng dạc nói:

- Đơn mỗ tuy họ Đơn nhưng lại một vợ, bốn nàng hầu, con cháu đầy nhà. Còn vị Song Oai Song huynh kia, rõ là chăn đơn gối chiếc, vò võ một thân. Chuyện lỡ làng từ thuở xa xưa hôm nay lại đem ra nói nữa, e rằng đến khuya cũng chưa hết. Song huynh, chúng ta được Từ trưởng lão của Cái Bang và Mã phu nhân mời đến Giang Nam, để bàn về chuyện hôn nhân đại sự của các hạ chăng?

Triệu Tiền Tôn lắc đầu:

- Không phải.

Đơn Chính nói:

- Thế thì chúng ta đến đây để bàn chuyện đại sự của Cái Bang, đó mới là chuyện chính đáng.

Triệu Tiền Tôn bỗng nổi giận đùng đùng:

- Cái gì? Chuyện của Cái Bang mới là chuyện chính đáng, còn chuyện của ta với Tiểu Quyên không phải là chuyện chính đáng hay sao?

Đàm công nghe tới đây không còn nhịn nổi nữa liền nói:

- A Tuệ, nếu nàng không ngăn y lại để khỏi nói chuyện điên điên rồ rồ thì ta không để yên đâu.

Mọi người nghe thấy hai chữ “A Tuệ” đều nghĩ thầm: “Thì ra Đàm bà cũng có cái tên riêng, còn Tiểu Quyên chỉ một mình Triệu Tiền Tôn dùng để gọi mà thôi”. Đàm bà dậm chân hậm hực nói:

- Anh ấy có gì đâu mà bảo là điên rồ, ông hại người ta ra nông nỗi đó thế mới thỏa lòng hay sao?

Đàm công ngạc nhiên hỏi lại:

- Ta ... ta ... có làm gì đâu mà bảo là hại y?

Đàm bà đáp:

- Ta lấy cái lão già vô tích sự như ông khiến sư ca phải buồn lòng ...

Đàm công cãi:

- Khi bà lấy tôi, tôi đâu có vô tích sự, cũng đâu đã già.

Đàm bà nổi giận nói:

- Nói mà không biết xấu, bộ ông tưởng hồi đó ông đẹp trai lịch sự lắm đó hả?

Từ trưởng lão và Đơn Chính nhìn nhau lắc đầu, nghĩ thầm ba người này đều là những người có danh vọng, tiền bối kỳ túc trong võ lâm, vậy mà trước mặt mọi người tranh cãi về chuyện tình năm xưa, quả thật nực cười.

Từ trưởng lão đằng hắng một tiếng nòi:

- Cha con Đơn huynh ở Thái Sơn, vợ chồng họ Đàm ở Thái Hàng Sơn cùng các vị huynh đài, hôm nay nhủ lòng đến đây, tệ bang trên dưới ai nấy đều thật là nở mày nở mặt. Mã phu nhân, xin bà nói lại từ đầu cho mọi người nghe.

Vị Mã phu nhân kia vốn chỉ đứng cúi đầu xuôi tay ở một bên, quay lưng về phía mọi người nghe thấy Từ trưởng lão nói thế, chậm rãi xoay lại nhỏ nhẹ nói:

- Tiên phu bất hạnh qua đời, tiểu nữ chỉ biết trách mình số mệnh long đong, tiếc cho tiên phu không để lại chút con cái gì để khói hương nhà họ Mã ...

Giọng bà ta tuy nhỏ nhưng thật thanh tao, từng chữ lọt vào tai khiến người nghe thật mủi lòng. Nói tới đây dường như đã xúc động, trong giọng nói có chiều nghẹn ngào. Trong khu rừng hạnh vô số anh hào ai nấy thật xót xa trong dạ. Cũng một tiếng khóc mà Triệu Tiền Tôn làm cho mọi người bật cười, A Châu làm cho người ta kinh ngạc, còn Mã phu nhân khiến mọi người cay đắng. Lại nghe bà ta tiếp tục:

- Sau khi tiểu nữ lo liệu ma chay cho tiên phu rồi mới kiểm soát lại các di vật, ở nơi cất giữ quyền kinh tìm thấy một phong thư dùng xi gắn chặt. Trên bao thư có viết:

Nếu như ta thọ chung chính tẩm, phong thư này lập tức đốt ngay, nếu mở ra xem ấy là hủy hoại thân xác ta, khiến cho ta ở nơi cửu tuyền không an ổn. Còn như nếu ta chết bất đắc kỳ tử, phong thư này phải giao ngay cho các trưởng lão trong bản bang cùng đọc, việc có liên quan trọng đại, không được sơ xuất.

Mã phu nhân nói đến đây trong khu rừng đều im phăng phắc, đến một chiếc kim rơi xuống đất cũng nghe. Bà ta ngừng lại một chút rồi nói tiếp:

- Thiếp thấy tiên phu viết trịnh trong như thế, biết là việc thật trọng đại nên lập tức muốn xin gặp bang chủ để trình di thư lên, cũng may bang chủ đang cùng các trưởng lão đến Giang Nam để báo thù cho tiên phu, nếu không ắt chẳng thấy được lá thư này.

Mọi người nghe thấy bà ta nói có chiều khác thường, sao lại “cũng may” rồi lại “nếu không” nên cùng quay sang nhìn Kiều Phong dò hỏi. Kiều Phong từ chiều tối tới giờ thấy sự tình mọi việc có một âm mưu cực kỳ quan trọng để đối phó với mình, tuy Toàn Quan Thanh và bốn trưởng lão nổi loạn đã bình định được, nhưng sự việc không vì thế mà kết thúc, bây giờ nghe Mã phu nhân nói lại thấy nhẹ nhõm hơn, thần sác thản nhiên nghĩ thầm: “Bọn họ có âm mưu gì cứ nói ra cho xong. Kiều mỗ bình sinh không hề làm điều gì sai quấy, dù cho vu hãm thế nào họ Kiều này có sợ gì?”.

Lại nghe Mã phu nhân tiếp tục:

- Thiếp biết lá thư này có liên hệ trọng đại đến bản bang, bang chủ và các trưởng lão không có ở Lạc Dương, thiếp sợ lỡ việc nên lập tức đến Trịnh Châu cầu kiến Từ trưởng lão trình lá thư lên để nhờ lão nhân gia lo liệu. Chuyện về sau thế nào xin Từ trưởng lão cáo tri cho các vị đây nghe.

Từ trưởng lão ho khúc khắc mấy tiếng nói:

- Việc này ân ân oán oán, lão hủ thấy quả là khó nói.

Mấy câu đó thanh âm trầm buồn, xem ra có chiều u uất. Ông ta chậm rãi cởi một chiếc bao vải trên lưng xuống, mở ra lấy ra một cái bao bằng giấy dầu, lại từ bên trong bao lấy ra một phong thư nói:

- Đây là di thư của Mã Đại Nguyên. Ông tổ của Đại Nguyên cho chí ông nội, rồi tới cha y mấy đời đều là người trong Cái Bang, nếu không phải trưởng lão thì cũng là đệ tử tám túi. Ta biết Đại Nguyên từ bé, bút tích của y ta nhận ra được dễ dàng, nét chữ trên bao thư này đích xác là do Đại Nguyên viết. Khi Mã phu nhân giao cho ta phong thư, vết khằn trên bao thư vẫn còn nguyên vẹn, chưa ai đụng tới. Ta cũng lo rằng lỡ mất đại sự, không đợi tụ tập đủ các trưởng lão lập tức mở ra xem. Khi ta mở bao thư thì có Thiết Diện Phán Quan đất Thái Sơn cũng đang ở đó, có thể làm chứng việc này.

Đơn Chính nói:

- Quả đúng vậy, lúc đó tại hạ quả đang ở Trịnh Châu làm khách ở nhà Từ lão, chính mắt nhìn thấy ông ta mở lá thư ra xem.

Từ trưởng lão mở chiếc phong bì lấy ra một tờ giấy nói:

- Ta vừa xem lá thư này, thấy nét chữ cho chí kình lực không phải là của Đại Nguyên nên hơi kinh ngạc thấy hàng người nhận đề là: Kiếm Nhiêm ngô huynh lại càng kỳ quái. Quí vị cũng đã biết, Kiếm Nhiêm là biệt hiệu của tiền nhiệm bản bang Uông bang chủ, nếu không phải là người giao tình rất hậu với ông ta thì không dám xưng hô như thế. Uông bang chủ qua đời đã lâu, sao lại còn có ai viết thư cho ông nữa đây? Ta không xem trong thư viết gì, vội giở đoạn cuối xem người ký tên, vừa đọc đến lại càng kinh ngạc hơn nữa. Lúc đó ta buột miệng “Ồ” lên một tiếng nói: “Thì ra là ông ta!”. Đơn huynh nổi dạ hiếu kỳ thò đầu tới xem cũng kinh ngạc kêu lên: “Ồ, hóa ra là y!”.

Đơn Chính gật đầu, ý nói lúc đó quả là như vậy. Triệu Tiền Tôn chen vào:

- Đơn lão huynh làm thế là trật rồi. Đó là thư tín cơ mật của Cái Bang, ông đâu có phải đệ tử một túi, hai túi gì trong bang, đến cả một tên ăn mày hạng bét giỡn rắn kiếm cơm ăn cũng chưa phải, lẽ đâu lại đi dòm trộm chuyện riêng tư của người ta?

Ai cũng tưởng y điên điên khùng khùng nhưng câu này quả hợp tình hợp lý. Đơn Chính mặt hơi đỏ lên nói:

- Ta chỉ nhìn thự danh dưới lá thư chứ không nhìn bên trong lá thư viết gì.

Triệu Tiền Tôn nói:

- Ông lấy một nghìn lạng vàng thì là ăn cắp dĩ nhiên rồi, nhưng có lấy một xu teng thì cũng vẫn là ăn cắp, tiền nhiều ít khác nhau, nên có ăn cắp lớn ăn cắp nhỏ. Thế nhưng ăn cắp lớn cũng là trộm mà ăn cắp vặt thì cũng là trộm. Xem trộm thư của người ta thì không phải là quân tử, mà không là quân tử thì phải là tiểu nhơn, là đồ hèn mạt xấu xa đáng chết lắm.

Đơn Chính giơ tay xua xua mấy đứa con, ý nói không được vọng động, để mặc cho ông ta nói năng lăng nhăng, để rồi giải quyết sau, tuy trong bụng hết sức tức tối nhưng cũng tự hỏi: “Gã này vừa gặp mình là đã tìm đủ cách để gây chuyện, không lẽ y có thù oán cũ gì với mình chăng? Không coi Thái Sơn Đơn gia vào đâu trên giang hồ cũng chẳng mấy người sao ta nghĩ mãi chẳng ra nhỉ?”

Mọi người đang chờ Từ trưởng lão nói tên người thự danh dưới lá thư xem đó là hạng người nào mà khiến cho ông ta và Đơn Chính phải kinh ngạc, lại thấy Triệu Tiền Tôn lèm bèm, quấy phá mãi không thôi nên không ít người hầm hầm nhìn y. Đàm bà bỗng nói:

- Các ngươi nhìn gì? Sư ca ta nói câu nào câu nấy đều trúng phóc.

Triệu Tiền Tôn thấy Đàm bà lên tiếng bênh mình, thật như mở cờ trong bụng nói:

- Các ngươi xem đó, đến Tiểu Quyên cũng còn nói thế thì còn làm sao mà trật được? Tiểu Quyên nói gì, làm gì xưa nay không bao giờ sai.

Bỗng dưng một giọng nói y hệt cất lên:

- Đúng đó, Tiểu Quyên nói gì, làm gì không bao giờ sai. Bà ta lấy Đàm công, không lấy ngươi, thì đâu có trật được.

Người nói chính là A Châu. Nàng bực mình khi thấy Triệu Tiền Tôn buông lời khinh miệt Mộ Dung công tử nên cũng đốp chát lại y. Triệu Tiền Tôn nghe nói vậy nụ cười bỗng tắt ngấm, A Châu đúng là lấy giáo ông đâm khiên ông, dùng đúng ngay thủ pháp “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân” của nhà Mộ Dung để đối lại.

Lập tức có hai ánh mắt nhìn nàng cực kỳ thắm thiết, bên trái là của Đàm công, bên phải là của Đơn Chính. Ngay lúc đó bỗng có bóng ngưới thấp thoáng, Đàm bà đã phóng đến ngay chỗ A Châu, giơ tay tát một cái vào má nàng, quát lên:

- Ta lấy chồng đúng hay sai, có liên quan gì đến con tiểu a đầu này?

Bà ta ra tay cực nhanh, A Châu vừa toan né tránh nhưng không kịp, người ngoài cũng không cách nào cứu viện. Chỉ nghe bốp một tiếng nhỏ, trên đôi má trắng trẻo của A Châu đã hằn năm vết ngón tay thâm tím. Triệu Tiền Tôn cười sằng sặc nói:

- Dạy cho con tiểu a đầu một bài học cho mi hết xía miệng vô chuyện người khác.

A Châu nước mắt chạy quanh đang toan òa lên khóc, Đàm công đã bước tới, lấy trong túi ra một chiếc hộp ngọc trắng nhỏ, mở nắp ra quệt chút cao trong đó vươn tay ra xoa luôn lên má A Châu một lớp mỏng. Đàm bà đánh nàng một cái tát, thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, nhưng bất quá cũng chỉ vung tay ra rồi rụt tay về, còn Đàm công thoa thuốc lên mặt, bao nhiêu động tác phiền phức vậy mà cũng nhanh không khác gì Đàm bà, khiến cho A Châu không kịp tránh ra thì thuốc đã bôi lên mặt rồi. Nàng còn đang ngạc nhiên, thấy khuôn mặt vừa đau vừa rát, đang sưng húp đột nhiên thấy mát rượi khoan khoái, bàn tay trái lại có thêm vật gì đó, mở ra coi, thấy đó là một cái hộp ngọc bóng loáng, biết là Đàm công tặng cho mình loại diệu dược trị thương linh nghiệm nên đang khóc cũng bật cười.

Từ trưởng lão không màng đến việc Đàm bà đang dằn vặt Đàm công, hạ thấp giọng nói tiếp:

- Các vị huynh đệ, người viết lá thư đó là ai, lúc này ta chưa tiện nói ra. Từ mỗ ở trong Cái Bang hơn bảy mươi năm, ba mươi năm sau này thoái ẩn sơn lâm, không còn xông pha giang hồ nữa, chẳng tranh chấp với ai, cũng không gây thù chuốc oán. Ta sống trên đời cũng đã nhiều, không con cái, không học trò tự thấy mình không có gì tư tâm. Ta nói mấy câu đây, liệu các vị có tin nổi không nào?

Quần cái đồng thanh đáp:

- Lời của Từ trưởng lão còn không tin thì biết tin ai?

Từ trưởng lão quay sang nói với Kiều Phong:

- Ý bang chủ thế nào?

Kiều Phong đáp:

- Kiều mỗ đối với Từ trưởng lão vốn dĩ kính trọng, tiền bối hẳn đã biết rồi.

Từ trưởng lão nói:

- Ta xem lá thư đó xong rồi, suy nghĩ thật lâu, trong bụng nghi vấn không minh bạch, chỉ sợ có gì sai sót nên đưa lá thư cho Đơn huynh xem. Đơn huynh với người viết thư trước nay giao hảo nhận ra ngay bút tích của y. Việc này quá ư quan trọng nên ta phải nhờ Đơn huynh kiểm chứng thực hư thế nào.

Đơn Chính trừng mắt nhìn Triệu Tiền Tôn ý như muốn bảo: “Ngươi còn gì để nói nữa thôi?”. Triệu Tiền Tôn nói:

- Từ trưởng lão đưa cho ngươi coi, ngươi coi là được rồi. Thế nhưng lần đầu ngươi coi là coi lén. Cũng chẳng khác gì một người trước kia là kẻ cắp, về sau ăn nên làm ra không đi ăn cắp nữa nhưng dẫu y có là tài chủ cũng không rửa sạch cái gốc tích ăn cắp đã xuất thân.

Từ trưởng lão không thèm lý đến Triệu Tiền Tôn quấy hôi bôi nhọ, nói tiếp:

- Đơn huynh, nhờ ông nói cho mọi người biết phong thư đó là chân hay giả?

Đơn Chính đáp:

- Tại hạ và người viết thư giao thiệp lâu năm, trong nhà còn giữ nhiều lá thư của người đó nên lập tức cùng Từ trưởng lão và Mã phu nhân đến tệ xá lấy những lá thư cũ ra so, tự tích quả nhiên giống hệt, ngay cả giấy hoa tiên và phong bì cũng một thứ với nhau quả là thứ thật không còn ngờ gì nữa.

Từ trưởng lão nói:

- Lão hủ sống thêm vài năm nên việc này lại càng phải dè dặt, huống chi có liên quan đến khí vận hưng suy của bản bang, lại liên quan đến tính mạng danh dự của một vị anh hùng hào kiệt, đâu có thể mạo muội làm càn?

Mọi người nghe ông ta nói thế, ai nấy đưa mắt nhìn Kiều Phong, biết ngay người “anh hùng hào kiệt” mà ông ta ám chỉ chính là Kiều bang chủ. Thế nhưng không một ai dám chạm vào ánh mắt ông ta, vừa nhìn trộm một cái lập tức cúi đầu xuống. Từ trưởng lão nói tiếp:

- Lão hủ biết Đàm thị kháng lệ của Thái Hàng Sơn với người viết thư cũng có uyên nguyên nên đến Xung Tiêu Động thỉnh giáo vợ chồng họ Đàm. Đàm công, Đàm bà liền đem mọi chuyện nguyên ủy bên trong rành rọt kể cho tôi nghe, ôi, tại hạ thực không dám nói thẳng, đau thương biết bao, xót xa biết bao.

Bấy giờ mọi người mới rõ chính Từ trưởng lão mời vợ chồng Đàm công, Đàm bà và Đơn Chính tới Cái Bang là để làm chứng cho mình. Từ trưởng lão lại tiếp:

- Đàm bà lại bảo rằng bà có một vị sư huynh việc này chính mắt trông thấy, nếu mời được ông ta chính miệng kể ra thì lại càng rõ ràng hơn, sư huynh của bà ấy chính là Triệu Tiền Tôn tiên sinh đây. Vị này tính tình không giống người khác, ai mời cũng không chịu đi. Thế nhưng Đàm bà rất có uy tín thành thử khi thư vừa gửi tới vị tiên sinh đó đã nhận lời tới ngay ...

Đàm công đột nhiên đầy vẻ giận dữ, quay sang Đàm bà hỏi:

- Cái gì? Bà gọi y tới đấy ư? Sao không nói cho ta biết trước mà lại lén lút thậm thọt gì với nhau?

Đàm bà nổi sùng lên:

- Cái gì mà bảo lén lút thậm thọt? Tôi viết lá thư nhờ Từ trưởng lão sai người đưa tới là việc quang minh chính đại. Ông tính hay ghen sằng, biết được lại ầm cửa ầm nhà nên tôi mới không cho ông hay.

Đàm công nói:

- Làm mà không cho chồng biết vậy là không giữ đạo xướng tùy, biết không?

Đàm bà không nói thêm, vung tay tát bốp một cái ngay mặt chồng. Đàm công võ công rõ ràng cao hơn vợ nhiều nhưng bà ta đánh ra lại không đỡ gạt, cũng chẳng né tránh, cứ để yên cho bà ta đánh một chưởng, thò tay vào túi lấy ra một cái hộp nhỏ, quệt chút cao xoa lên mặt lập tức mặt bớt sưng liền. Người đánh đã nhanh, người chữa lại còn nhanh hơn, chỉ có thế hai người liền hết giận, người ngoài trông thấy ai cũng nực cười.

Chỉ nghe Triệu Tiền Tôn thở dài một tiếng, thanh âm thật là ai oán bi thương nói:

- Thì ra là thế, thì ra là thế! Ôi, nếu ta sớm biết ngay từ đầu để nàng đánh mấy cái thì có gì là khó đâu?

Trong giọng nói đầy vẻ nuối tiếc. Đàm bà buồn bã nói:

- Hồi đó tôi đánh anh một cái, thể nào anh cũng phải đánh lại cho bằng được mới thôi, chẳng bao giờ chịu nhường lấy một chút.

Triệu Tiền Tôn ngẩn người đứng chết sững xuất thần nhớ lại năm xưa, cô tiểu sư muội tính tính nóng nảy, hay hờn dỗi, hơi một tí là đánh ngay, mỗi khi mình vô duyên vô cố bị nàng đánh không thể nào nhịn được lại tranh cãi với nhau thành ra mối lương duyên đành bỏ lỡ. Bây giờ trông thấy Đàm công chịu ép một bề, bị đánh không hoàn thủ mới chợt hiểu ra, trong lòng đau đớn không chịu nổi, mấy chục năm qua trách móc tiểu sư muội bỏ mình đi theo người khác tưởng phải nguyên do trọng đại, biết đâu đối phương chỉ có một phép “chịu đánh không đánh trả” mà thôi. Ôi, nếu như khi đó ta bảo nàng đánh thêm mấy cái thì chắc nàng không chịu đâu.

Từ trưởng lão nói:

- Triệu Tiền Tôn tiên sinh, xin ông nói ra trước mặt mọi người, việc viết trong lá thư kia là thật hay là giả?

Triệu Tiền Tôn lẩm bẩm nói một mình:

- Ta đúng là một thằng ngốc, sao lúc đó lại không nghĩ ra? Học võ là để đánh người khác, đánh kẻ ác, đánh kẻ hèn hạ tiểu nhân, lẽ đâu lại đi đánh người mình yêu, đánh người trong mộng? Đánh là vì tình, chửi là vì yêu, vài cái tát có gì quan trọng đâu?

Mọi người thấy ông ta si tình cũng đáng thương nhưng ai nấy thật tức cười, vậy mà ông ta vẫn chẳng coi chuyện đại sự Cái Bang đang cần phải giải quyết vào đâu. Từ trưởng lão mời ông từ xa ngàn dặm đến làm chứng bây giờ thấy người này si mê ngơ ngẩn, nói ra không biết có thể tin nổi hay không.

Từ trưởng lão hỏi thêm lần nữa:

- Triệu Tiền Tôn tiên sinh, chúng tôi mời ông tới đây là để nhờ ông nói chuyện trong bức thư.

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Đúng rồi, đúng rồi. Ồ, ông hỏi ta chuyện trong lá thư ư? Lá thư đó tuy ngắn thật nhưng đầy tình ý triền miên:

Bốn mươi năm về trước,

Nghiên bút hai mái đầu.

Chung đường quyền ngọn kiếm,

Tưởng như vừa bên nhau.

Gió thoảng thương người cũ,

Giờ đây tóc điểm sương.

Phong tư còn như cũ?

Nét cười ai còn vương?

Từ trưởng lão hỏi là hỏi lá thư của Mã Đại Nguyên để lại, y lại đọc thuộc lòng lá thư Đàm bà gửi cho ông ta. Từ trưởng lão không biết làm sao hơn, quay sang Đàm bà nói:

- Đàm phu nhân, nhờ bà bảo ông ta nói đi thôi.

Ngờ đâu Đàm bà thấy Triệu Tiền Tôn đem một lá thư bình thường của mình ra đọc trơn như cháo chảy dủ biết trong cơn mơ ông ta đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, hết sức cảm động dịu dàng nói:

- Sư ca, anh nói lại khi đó tình hình như thế nào?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Tình cảnh lúc đó ư? Mọi chuyện ta nhớ như in vào óc. Sư muội tết hai bím tóc, mỗi bên buộc một sợi dây điều, hôm đó sư phụ dạy chúng mình chiêu Thâu Long Chuyển Phượng ...

Đàm bà chầm chậm lắc đầu nói:

- Sư ca, không phải nói chuyện chúng mình thuở trước. Từ trưởng lão hỏi anh, năm xưa huyết chiến ở Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan chính sư ca có tham dự, tình hình lúc đó như thế nào, anh nói cho mọi người nghe.

Triệu Tiền Tôn run run nói:

- Ngoài Nhạn Môn Quan ư? Nơi Loạn Thạch Cốc ... ta ... ta ...

Nói tới đó vẻ mặt hốt hoảng, y quay người chạy vụt về hướng tây nam nơi không có người, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Nếu như y chạy vào trong rừng rồi thật khó mà đuổi kịp, mọi người cùng kêu lên:

- Này, đừng chạy, mau quay lại!

Triệu Tiền Tôn nào có nghe, lại càng ra sức chạy cho nhanh. Đột nhiên có tiếng người dõng dạc nói:

Sư huynh xa từ lâu,

Mái tóc đà ngả màu. 

Phong tư không bằng cũ,

Nụ cười nay còn đâu?

Triệu Tiền Tôn lập tức đứng lại, quay đầu hỏi:

- Ai nói đó?

Người kia nói tiếp:

- Nếu không thẹn vì thân tàn ma dại sao gặp Đàm công lại phải co giò bỏ chạy?

Mọi người nhìn vào người đang nói thì ra đó là Toàn Quan Thanh. Triệu Tiền Tôn bực tức đáp:

- Cái gì mà bảo thẹn vì thân tàn ma dại? Y chỉ bất quá có công phu “chịu đánh không đánh trả” mà thôi chứ có gì hơn ta đâu?

Đột nhiên từ bên kia khu rừng hạnh có tiếng người già nua trả lời:

- Biết chịu đánh không đánh trả đó là công phu số một trong thiên hạ rồi, đâu phải dễ dàng gì?

7 Vợ chồng, tiếng dùng văn vẻ

8 tóc đã bạc nhưng mặt mũi còn trẻ

9 Thiết Diện là mặt sắt, Thiết Thí Cổ là đít sắt

10 vị vong là người chưa chết, ý nói đáng lẽ phải tuẫn tiết theo chồng nay có sống cũng là thừa. Chữ dùng khiêm cung kiểu cách của người đời xưa.

11 Đơn là một, Song là hai. Chính là thẳng, Oai là cong vạy.

12 Người Tàu có một bài tứ tự dài gọi là Bách Gia Tính (trăm họ) ghi lại những họ thông dụng nhất ở Trung Hoa mở đầu bằng Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương .... Lấy tên là Triệu Tiền Tôn cũng không khác gì người mình bảo tên tôi là Nguyễn Lê Trần, không phải tên thật.

13 Đoạn đầu trong Bách Gia Tính

datlucky_way

23-07-2009 08:13 AM

Hồi 16(a) : TÍCH THỜI NHÂN 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ân xưa oán cũ bao vòng lụy,

Sớm bạn trưa thù lắm đổi thay.

*

* *

Mọi người quay đầu nhìn lại thấy từ đằng sau cây hạnh một lão tăng mặt vuông tai lớn, hình mạo uy nghiêm mặc áo cà sa màu tro bước ra. Từ trưởng lão reo lên:

- Trí Quang đại sư của Thiên Đài Sơn đã đến, hơn ba mươi năm không gặp không ngờ đại sư vẫn còn tráng kiện đến thế.

Tên tuổi của hòa thượng Trí Quang không mấy nổi tiếng, những người vai vế kém một mức ở trong Cái Bang không ai biết đến ông ta. Thế nhưng Kiều Phong, lục đại trưởng lão đều đứng lên tỏ ý kính trọng, biết ông năm xưa từng phát đại nguyện dong buồm vượt biển đến những đất man hoang hái những loại cây lạ chữa bệnh cho vô số dân chúng vùng Triết Mân Lưỡng Quảng bị nhiễm bệnh. Chính vì thế mà ông ta bị ốm nặng khiến cho võ công hoàn toàn mất hết nhưng ân huệ với bách tính không phải nhỏ. Mọi người lục tục tới gần thi lễ.

Trí Quang đại sư quay sang Triệu Tiền Tôn cười nói:

- Võ công không bằng đối phương, chịu cho người ta đánh không đánh trả đã là khó, nếu như võ công cao hơn đối phương mà bị đánh vẫn không đánh trả thì lại càng khó hơn.

Triệu Tiền Tôn cúi đầu ngẫm nghĩ xem chừng đã hiểu. Từ trưởng lão nói:

- Trí Quang đại sư đức trạch sâu xa không ai mà không kính trọng. Thế nhưng gần mươi năm nay không còn hỏi đến chuyện chốn giang hồ, hôm nay Phật giá quang lâm quả là cái phúc của bọn ăn mày chúng tôi, tại hạ thật là cảm kích.

Trí Quang đại sư nói:

- Từ trưởng lão của Cái Bang và Đơn Phán Quan của núi Thái Hàng liên danh gọi đến, lão nạp lẽ nào lại không đi? Thiên Đài sơn và Vô Tích có xa xôi gì, trong thư hai vị có nói là việc này liên quan đến khí vận của dân đen nên đành phụng chiếu.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Thì ra ông ta được Từ trưởng lão và Đơn Chính mời đến”. Ông nghĩ tiếp: “Ta vẫn nghe Trí Quang đại sư đức cao vọng trọng không thể nào tham dự vào cái âm mưu làm hại ta, có lão nhân gia đến đây cũng là chuyện tốt”.

Triệu Tiền Tôn đột nhiên nói:

- Cuộc đại chiến nơi Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan Trí Quang đại sư cũng có tham dự, vậy mời ông nói trước.

Trí Quang nghe thấy mấy tiếng “Cuộc đại chiến nơi Loạn Thạch Cốc ngoài Nhạn Môn Quan” lập tức sắc mặt lộ vẻ kỳ lạ, vừa có vẻ bồn chồn, vừa có vẻ sợ sệt, lại giống như quả thảm khốc nên không muốn nhìn, sau cùng chuyển sang đầy vẻ từ bi thương xót, thở dài nói:

- Sát nghiệt nặng nề thay! Sát nghiệt nặng nề thay! Chuyện này nói ra quả là đáng thẹn. Các vị thí chủ, đại chiến nơi Loạn Thạch Cốc đã ba mươi năm rồi sao hôm nay còn nhắc lại làm chi?

Từ trưởng lão nói:

- Chỉ vì bản bang hiện nay gặp phải biến cố trọng đại, có liên quan mật thiết đến lá thư này.

Nói xong ông đưa lá thư ra. Trí Quang cầm lá thư đọc qua một lượt, rồi lại đọc thêm một lần nữa, lắc đầu nói:

- Oan gia nên cởi không nên buộc, việc gì phải đem chuyện cũ ra nhắc lại làm gì? Cứ như ý kiến lão nạp, lá thư này nên hủy đi, không nên để lại vết tích gì là tốt hơn cả.

Từ trưởng lão đáp:

- Mã phó bang chủ của bản bang bị chết thảm, nếu như không truy cứu, nỗi oan của Mã phó bang chủ dĩ nhiên không rửa sạch, bản bang lại có cơ nguy tan rã.

Trí Quang đại sư gật đầu:

- Vậy thì cũng nên nói ra.

Ông ngẩng đầu lên thấy vầng trăng lưỡi liềm treo nơi chân trời tỏa trên tàn cây một luồng ánh sáng nhợt nhạt rồi quay sang nhìn Triệu Tiền Tôn nói:

- Thôi được, chuyện lão nạp sai lầm năm xưa không dấu ai nữa cứ có sao nói vậy.

Triệu Tiền Tôn nói:

- Chúng ta vì nước vì dân không thể nói là chuyện sai lầm.

Trí Quang lắc đầu:

- Sai lầm là sai lầm, việc gì còn phải dối người dối mình làm chi?

Ông quay sang phía mọi người kể:

- Ba mươi năm trước, hào kiệt Trung Nguyên nhận được tin là nước Khất Đan sắp đưa qua một đoàn võ sĩ đánh vào chùa Thiếu Lâm để đoạt lấy những đồ phổ nhà chùa đã tàng trữ mấy trăm năm qua.

Mọi người ồ lên một tiếng nho nhỏ nghĩ thầm: “Dã tâm của bọn võ sĩ Khất Đan quả không phải nhỏ”. Võ công tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm là những chí bảo của Trung Thổ, Khất Đan và Đại Tống chinh chiến lâu năm nếu như họ lấy được những võ công bí cập của chùa Thiếu Lâm đem ra dạy cho quân lính tập, ở trên chiến trường quan binh Đại Tống sẽ không thể nào đương cự nổi. Trí Quang kể tiếp:

- Việc đó quả là chuyện hết sức trọng đại, nếu như Khất Đan thành công thì Đại Tống sẽ có cái họa mất nước, người người sẽ chết dưới đao dài, giáo nhọn của quân Liêu, bọn con cháu Hoàng Đế chúng ta e rằng bị diệt chủng mất thôi. Chúng ta thấy sự việc khẩn cấp, không kịp bàn tính kỹ càng nghe nói bọn võ sĩ đó sẽ đi bằng lối Nhạn Môn Quan nên một mặt thông tri cho chùa Thiếu Lâm phòng bị nghiêm nhặt, tất cả mọi người lập tức lên đường đi ngay ra bên ngoài của Nhạn Môn nghinh địch, nếu không diệt được hết bọn chúng thì cũng làm cho gian mưu không thể thi hành được.

Mọi người nghe nói sẽ đi đánh nhau với quân Khất Đan đều nhiệt huyết sôi sùng sục nhưng cũng lại lo. Nhà Đại Tống bao nhiêu đời nay bị quân Khất Đan hà hiếp lăng nhục đánh trận nào thua trận ấy, binh tướng thì chết, đất đai phải nhường, binh lính dân lành chết dưới đao của quân Khất Đan không phải là ít.

Trí Quang đại sư chậm rãi quay đầu lại, chăm chăm nhìn Kiều Phong nói:

- Kiều bang chủ, nếu như ông nghe được cái tin như thế thì phải làm sao?

Kiều Phong dõng dạc đáp: 

- Trí Quang đại sư, Kiều mỗ kiến thức thiển lậu, tài đức không đủ để cho mọi người kính phục, đến nỗi trong bang anh em cũng còn có dạ nghi ngờ, nói ra quả là hổ thẹn. Thế nhưng dù cho Kiều mỗ vô năng nhưng cũng là một kẻ nam nhi có gan dạ, có cốt cách, những việc tiết nghĩa như thế không phải không biết chỗ nào đúng, chỗ nào sai. Đại Tống chúng ta bị quân chó Liêu kia hiếp đáp, thù nhà nợ nước ai mà chẳng nghĩ đến chuyện báo đáp? Nếu như nghe thấy những tin tức như vậy thể nào cũng tất lãnh anh em trong bản bang, ngày đêm đến chặn chúng lại.

Mấy lời của ông quả là khẳng khái hiên ngang, ai nghe thấy cũng bồi hồi xúc động nghĩ thầm: “Nam nhi hán, đại trượng phu phải như thế mới được”.

Trí Quang gật đầu nói:

- Nếu như thế, bọn ta chạy ra ngoài Nhạn Môn Quan phục kích người Liêu, theo như Kiều bang chủ thì không có gì sai trái, phải không?

Kiều Phong trong bụng hơi bực, nghĩ thầm: “Ông nghĩ ta là hạng người gì? Câu nói đó quả đã coi thường ta lắm”. Tuy nhiên ông không tỏ ra giận dữ chỉ nói:

- Anh phong hiệp liệt của các vị tiền bối, Kiều mỗ cực kỳ kính phục, chỉ tiếc không sinh ra sớm ba mươi năm để được theo các bậc tiên hiền, cùng chung nghĩa cử đi giết quân Hồ Lỗ.

Trí Quang nhìn kỹ ông một lần nữa, vẻ mặt thoáng vẻ lạ lùng, chậm rãi nói:

- Khi đó chúng ta chia thành nhiều toán chạy đến Nhạn Môn Quan. Ta và vị huynh đệ này ...

Ông chỉ vào Triệu Tiền Tôn rồi tiếp:

- ... đều ở toán thứ nhất. Toán của bọn ta cả thảy hai mươi mốt người, người đứng đầu tuổi cũng chưa lớn, so với ta còn kém vài tuổi. Thế nhưng y võ công trác tuyệt, trong võ lâm địa vi tôn vinh nên mọi người cử y lên làm thủ lãnh, ai nấy nghe lệnh y mà hành sự.

Trong toán chúng ta có Uông bang chủ của Cái Bang, Vương lão anh hùng Vạn Thắng Đao Vương Duy Nghĩa, Địa Tuyệt Kiếm Hạc Vân đạo trưởng của phái Hoàng Sơn đều là những cao thủ hạng nhất trong võ lâm thời đó.

Lúc đó lão nạp chưa xuất gia xếp vào chung với quần hùng thật không xứng chút nào, chỉ có điều giết địch báo quốc không chịu kém người, có chút công sức nào đóng góp chút đó. Vị nhân huynh này lúc đó võ công cũng cao hơn lão nạp nhiều, còn bây giờ thì khỏi cần nói cũng biết.

Triệu Tiền Tôn nói:

- Đúng vậy! Khi đó võ công ta giỏi hơn ông nhiều, ít ra cũng cỡ này.

Y vừa nói vừa đưa hai tay ra, xòe ra cách nhau đến hơn một thước. Thế nhưng y cảm thấy như vậy chưa đủ, lại nhích hai bàn tay ra xa đến thước rưỡi. Trí Quang kể tiếp:

- Bọn ta qua khỏi Nhạn Môn Quan thì trời đã về chiều, đi ra khỏi cửa ải thêm độ mươi dặm nữa, hết sức phòng bị đột nhiên từ phía tây bắc vọng lại tiếng vó ngựa đang phi, nghe tiếng chân phải đến chục kỵ sĩ. “Đàn anh đứng đầu” giơ tay phải lên, tất cả mọi người đều dừng lại. Mọi người trong bụng vừa vui mừng vừa lo lắng không ai nói câu nào. Vui mừng vì tin tức không phải là giả, may là mình đã đến kịp kịp thời ngăn được bọn chúng. Thế nhưng ai cũng biết đoàn võ sĩ Khất Đan mười phần lợi hại, tử tế thì đã không đến, đến ắt chẳng hay ho gì, lại toan tấn công vào Thái Sơn Bắc Đẩu của võ học Trung Quốc thì nhất định phải là thành phần được tuyển chọn muôn vạn người mới có một chứ không phải tầm thường. Đại Tống đánh với Khất Đan thua thì nhiều, thắng chẳng bao nhiêu, cuộc chiến hôm nay thắng bại thế nào thực khó mà biết được.

“Đàn anh đứng đầu” giơ tay vẫy một cái, hai mươi mốt người chúng ta chia nhau ra ẩn đằng sau những tảng đá. Phía bên trái sơn cốc là một cái vực sâu đá nhọn lởm chởm, đưa mắt nhìn xuống chỉ một màu đen ngòm không thấy đáy.

Tai nghe tiếng chân ngựa mỗi lúc một gần, rồi có tiếng bảy tám người cùng hát vang một bài hát của người Liêu, tiếng ngân dài, nghe quê mùa hào tráng nhưng không hiểu ý nghĩa thế nào. Ta nắm chặt cán đao, lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh, lau vào ống quần cho khô chẳng mấy chốc lại ướt nữa. “Đàn anh đứng đầu” nằm ngay bên cạnh ta, y biết ta hồi hộp lắm nên đưa tay vỗ vỗ lên vai, nhìn ta mỉm cười, lại giơ tay lên chém nhứ một cái ý nói giết quân Hồ Lỗ. Ta cũng cười đáp lại, trong lòng thấy trấn tĩnh hơn nhiều.

Con ngựa đầu của bọn Liêu đến cách bọn ta chừng ngoài năm chục trượng, ta từ sau đám loạn thạch thò đầu ra xem thấy đám võ sĩ Khất Đan đều mặc áo lông, có kẻ tay cầm trường mâu, có đứa thì cầm loan đao, có đứa lại cầm cung tên, lại cũng có kẻ trên vai đậu một con chim săn thật to lớn hung mãnh, cả bọn vừa đi vừa hát, không biết rằng đằng trước có địch nhân mai phục. Chỉ trong giây lát, ta đã nhìn rõ diện mạo của mấy tên Khất Đan đi đầu, đứa nào cũng cắt tóc ngắn để râu rậm, trông thật hung dữ. Bọn chúng càng lúc càng gần, tim ta mỗi lúc đập một nhanh hơn tưởng như sắp bật ra khỏi miệng.

Mọi người nghe ông ta kể chuyện, tuy biết rằng đây là chuyện cũ ba mươi năm trước nhưng ai nấy cũng hồi hộp. Trí Quang quay sang Kiều Phong nói:

- Kiều bang chủ, việc này thành hay bại liên quan đến việc mất còn của nhà Đại Tống, sống chết của bách vạn sinh linh, mà bên ta cũng không biết chắc có thắng được hay không. Chỉ có một điểm lợi là địch ở ngoài sáng, ta trong bóng tối, không biết theo ý bang chủ thì phải thế nào cho phải?

Kiều Phong đáp:

- Xưa nay việc binh không nề lừa dối, việc này là chuyện hai nước giao tranh không thể nào theo nghĩa khí giang hồ, qui củ võ lâm được. Bọn chó Liêu khi giết dân đen nhà Đại Tống chúng ta, có bao giờ nương tay đâu? Cứ như ngu kiến của tại hạ thì nên dùng ám khí, mà ám khí phải tẩm độc cực mạnh.

Trí Quang giơ tay vỗ đùi, nói:

- Đúng đó. Ý kiến của Kiều bang chủ cũng y hệt sự suy nghĩ của bọn ta hồi đó. “Đàn anh đứng đầu” thấy bọn Liêu cẩu đến gần, hú lên một tiếng, mọi người liền phóng ám khí ra, đủ cả cương tiêu, tụ tiễn, phi đao, thiết chùy ... loại nào cũng tẩm độc cực mạnh. Bọn chó Liêu kia kêu la hò hét, loạn cả lên, hơn một nửa đã ngã xuống ngựa.

Trong đám Cái Bang lập tức có kẻ vỗ tay rồi tiếng hoan hô nổi lên. Trí Quang nói tiếp:

- Bấy giờ ta đã nhìn thấy rõ ràng, võ sĩ Khất Đan cả thảy là mười chín đứa, chúng ta dùng ám khí đã tiêu diệt được mười hai người, chỉ còn lại có bảy tên. Tất cả chúng ta liền ùa lên, đao kiếm vung ra, chỉ trong giây lát giết sạch luôn cả bảy, không một đứa nào chạy thoát.

Trong Cái Bang cũng vẫn có người reo hò nhưng Kiều Phong, Đoàn Dự lại nghĩ: “Ông vừa bảo võ sĩ Khất Đan là “thành phần được tuyển chọn muôn vạn người mới có một” nhưng sao lại kém cỏi thế, chỉ giây lát đã bị giết sạch là sao?

Chỉ nghe Trí Quang thở dài một tiếng nói:

- Chúng ta chỉ vừa ra tay đã giết sạch mười chín tên võ sĩ Khất Đan, tuy cũng vui sướng thật nhưng trong bụng đã nổi mối nghi ngờ, thấy bọn Khất Đan này quá là tầm thường, không đứa nào chịu nổi một cái đánh hoàn toàn không phải là hảo thủ. Chẳng lẽ những tin tức nghe được không chính xác hay sao? Cũng khó mà bảo là người Liêu sắp xếp bọn này để dụ cho bọn ta vào tròng? Bọn ta mới bàn bạc được vài câu lại nghe tiếng vó ngựa, từ hướng tây bắc có hai người cưỡi ngựa chạy đến.

Lần này bọn ta không mai phục nữa, lập tức tiến lên nghinh địch, thấy trên yên ngựa là một nam, một nữ. Người đàn ông thân hình cao lớn, tướng mạo uy nghiêm, ăn mặc sang hơn mười chín tên võ sĩ kia nhiều. Người đàn bà còn trẻ, trong tay bồng một đứa hài nhi, hai người nói cười vui vẻ, thần thái hết sức trìu mến rõ ra là một cặp vợ chồng. Hai người Khất Đan trông thấy bọn ta, lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng thấy ngay xác mười chín tên võ sĩ nằm dưới đất, người đàn ông liền lộ vẻ hung dữ, lớn tiếng quát tháo xí xố một tràng bằng tiếng Khất Đan không hiểu y muốn nói gì.

Thiết Tháp Phương Đại Hùng Phương tam ca đất Đại Đồng Sơn Tây vung cây thiết côn bằng thép ròng lên quát lớn: “Thằng chó Liêu khốn kiếp kia, mau chịu chết!”. Y liền vung gậy lên đánh tới gã Khất Đan kia. “Đàn anh đứng đầu” trong bụng ngờ vực bèn kêu lên: “Phương tam ca, đừng nên lỗ mãng, chớ hại mạng y, chỉ bắt sống tra hỏi xem thế nào?”.

“Đàn anh đứng đầu” chưa nói hết câu, tay gã Khất Đan đã vươn ra chộp luôn thiết côn của Phương Đại Hùng, thúc một cái nghe cắc một tiếng nhỏ, khớp xương tay Phương Đại Hùng đã gãy. Gã Khất Đan vung cây gậy lên từ trên không đánh xuống, bọn ta ai nấy kinh hoảng kêu lên, thấy không thể nào xông lên cứu kịp nên ai nấy liền bắn ám khí vào y.

Gã người Liêu kia liền phất tay áo bên trái một cái, một luồng kình phong hất bảy tám món ám khí dạt cả ra. Tính mạng Phương Đại Hùng xem ra không sao sống được, ngờ đâu y thò thiết côn ra hất một cái, cả Phương Đại Hùng lẫn cây côn đều văng ra ngoài vệ đường, mồm vẫn xí xố không ai hiểu gì cả.

Người đó chỉ lộ chút công phu, bọn ta ai nấy đều chấn động, biết rằng người này võ công cao cường trên đời hiếm có quả nhiên tin tức loan truyền không phải là giả e rằng những hảo thủ đến sau còn giỏi hơn nữa nên phải lấy đông thắng ít, giết được tên nào hay tên ấy, lập tức sáu bảy người liền xông lên tấn công. Bốn năm người khác cũng xông vào tấn công người đàn bà.

Ngờ đâu thiếu phụ đó hoàn toàn không biết chút võ công nào hết, một người vung kiếm lên chém đứt một cánh tay bà ta, đứa trẻ trong tay liền rơi xuống đất, một người khác vung đao hớt đứt luôn nửa bên đầu thiếu phụ. Gã người Liêu kia võ công tuy cao cường thật nhưng bị sáu bảy cao thủ dùng đao kiếm vây đánh nên làm sao có thể phân thân chống đỡ cho vợ con? Mấy chiêu đầu y chỉ cốt đoạt binh khí của những người phe ta, không làm ai bị thương cả, đến khi thấy vợ chết rồi, mắt đỏ ngầu, vẻ mặt cực kỳ đáng sợ. Khi đó ta vừa chạm phải mục quang y, tự nhiên chân tay bủn rủn không dám xông lên nữa.

Triệu Tiền Tôn nói:

- Việc đó cũng không trách ai được! Việc đó cũng không trách ai được!

Y ngoài những câu nói với Đàm bà ra, ăn nói với ai cũng ra chiều kẻ cả ngạo mạn nhưng mấy câu này xem ra vừa có phần đau buồn vừa có phần khiêm tốn. Trí Quang tiếp:

- Cuộc ác chiến đó đã ba mươi năm trước nhưng trong thời gian ba chục năm qua không biết bao nhiêu lần nằm mơ thấy cái cảnh đó, từng chi tiết rõ ràng in hằn trong tim ta. Gã người Liêu vung hai tay ra, không biết y dùng thủ pháp cầm nã nào đoạt luôn được hai món binh khí trong tay hai huynh đệ, vừa chém vừa đâm giết luôn hai người. Y lúc thì từ lưng ngựa nhảy vọt ra, có lúc lại nhảy trở về lưng ngựa, nhanh như chim cắt vồ mồi, hành động biến chuyển không khác gì ma quỉ. Đúng thế, y chẳng khác gì ma quỉ hóa thân, xông bên đông giết một người, chuyền qua bên tây giết thêm người nữa. Chỉ trong giây lát, trong hai mươi mốt người chúng ta đã có chín người bị y giết chết.

Thế là cả bọn ta ai nấy hầm hầm tức giận, từ “đàn anh đứng đầu” đến Uông bang chủ, người nào cũng liều mạng xông lên giao đấu với y. Thế nhưng người đó võ công hết sức lạ lùng kỳ diệu, chiêu thức nào cũng khiến cho người ta không thể đoán được sẽ tấn công từ phương hướng nào. Khi đó mặt trời buổi chiều đỏ như máu, bên ngoài Nhạn Môn Quan gió bấc thổi vù vù, trộn lẫn tiếng kêu thảm khốc của các anh hùng hảo hán lúc sắp lìa đời, chân tay đầu lâu, binh khí máu me tung bay rơi rụng, những cao thủ giỏi mấy cũng chỉ mong tự bảo vệ lấy mình, không ai còn có thể cứu người khác được.

Ta thấy tình hình đó trong bụng lại càng sợ hãi nhưng thấy anh em từng người từng người chết thảm không khỏi nhiệt huyết dâng lên, thu hết can đảm, cưỡi ngựa xông thẳng vào y. Hai tay ta cầm đại đao, nhắm ngay đầu y chém xuống, biết rằng nếu như không trúng thì tính mạng coi như giao cho y. Lưỡi đao còn cách đầu y chừng một thước, gã người Liêu kia đột nhiên chộp ngay một người đưa lên đỡ lưỡi đao. Ta hốt hoảng nhìn lại thì ra kẻ đó là lão nhị trong Giang Tây Đỗ thị tam hùng, vội gượng giữ đao lại. Thanh đao giựt về nghe bịch một tiếng trúng ngay đầu con ngựa ta đang cưỡi, con vật liền hí lên một tiếng, nhảy chồm lên. Ngay lúc đó chưởng của gã người Liêu kia đánh ra, con vật đang lúc nhảy dựng lên vừa vặn đúng lúc chịu ngay một đòn nếu không ắt ta đã đứt gân gãy cốt, còn sống sao được tới ngày nay?

Chưởng lực của y đánh ra quả là mạnh mẽ, khiến ta cả người lẫn ngựa bật ngửa về sau. Thân hình ta bay bổng lên, rơi xuống ngay trên một ngọn cây, treo bông bênh giữa trời. Khi đó ta hồn bất phụ thể, có còn biết mình đang ở nơi nào còn sống hay chết đâu? Từ trên cao ta nhìn xuống thấy anh em vây đánh gã người Liêu kia mỗi lúc một giảm dần, chỉ còn độ năm sáu người. Vừa khi đó ta nhìn thấy vị nhân huynh này ...

Nói tới đây ông chỉ vào Triệu Tiền Tôn kể tiếp:

- ... thân hình lảo đảo ngã vào trong đống máu, lại tưởng y cũng chết rồi.

Triệu Tiền Tôn lắc đầu nói:

- Chuyện xấu xa đó nói ra thật đáng hổ thẹn nhưng cũng chẳng nên dấu làm gì. Ta không bị thương mà vì sợ quá nên tim ngừng đập, mắt tối sầm bất tỉnh nhân sự đó thôi. Quả đúng thế, ta là thằng chết nhát, thấy người khác bị giết nên cũng ngất xỉu.

Trí Quang nói:

- Ai thấy gã người Liêu kia sát hại các anh em chẳng khác gì ma quỉ, nếu nói là không sợ thì cũng là nói ngoa.

Ông ta nhìn lên vầng trăng non treo lơ lửng trên không rồi lại tiếp:

- Khi đó còn tiếp tục đánh dằng dai với gã Liêu nhân kia chỉ còn có bốn người. “Đàn anh đứng đầu” biết không xong, rồi ra mọi người sẽ chết cả nên luôn mồm hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi là ai?”. Gã người Liêu kia không trả lời, chỉ trong chốc lát lại giết thêm hai người nữa. Y giơ chân lên đá trúng ngay huyệt đạo trên lưng Uông bang chủ, tiếp theo chân trái đá uyên ương liên hoàn, đá trúng huyệt đạo nơi mạng sườn của “đàn anh đứng đầu”. Mũi bàn chân y đá trúng huyệt đạo, nhận huyệt đã chính xác, cước pháp lại lạ lùng thực khó ai ngờ nổi, nếu như chẳng phải chính mình cũng sắp chết đến nơi, người bị đá là hai người ta hằng kính ngưỡng thì chắc đã buột miệng reo lên rồi.

Gã người Liêu kia thấy cường địch đã bị giết sạch chạy đến bên tử thi của thiếu phụ, ôm xác vợ khóc rống lên một hồi, nghe thật thảm thiết. Ta nghe tiếng khóc của y không khỏi đau lòng, thấy tên Liêu cẩu hung ác như ma quỉ kia cũng còn có nhân tính, đau lòng xót dạ cũng chẳng khác gì người Hán chúng ta.

Triệu Tiền Tôn lạnh lùng nói:

- Thế thì có gì là lạ? Cái tình vợ chồng cha con của dã thú có khác gì con người đâu? Liêu nhân cũng là người, sao lại nói là không khác gì người Hán?

Trong đám Cái Bang có mấy người phản đối:

- Liêu cẩu hung tàn bạo ngược, còn hơn độc xà mãnh thú, khác xa người Hán chúng ta.

Triệu Tiền Tôn chỉ cười khẩy không trả lời. Trí Quang kể tiếp:

- Gã người Liêu kia ngồi khóc một hồi, ôm xác đứa con nhìn một lát, để hài nhi vào lòng mẹ, bước tới chỗ “đàn anh đứng đầu” chửi bới một chập. “Đàn anh đứng đầu” cũng không chịu nhịn, giương mắt hầm hầm nhìn y, khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm, không nói được lời nào. Người Liêu đó đột nhiên ngẩng đầu lên hú một tiếng dài, nhặt một thanh đoản đao dưới đất, vạch lên trên sườn núi mấy chữ, lúc đó trời đã tối rồi, ta lại ở cách y khá xa nên không rõ y vạch những gì.

Triệu Tiền Tôn nói:

- Y khắc bằng chữ Khất Đan, ông có thấy cũng chẳng biết được.

Trí Quang đáp:

- Đúng thế, ta có thấy cũng chẳng biết được. Khi đó bốn bề vắng lặng không một tiếng động, nghe thấy tiếng khắc lên đá soèn soẹt, đá vụn rơi xuống cũng còn nghe, ta thật thở cũng không dám thở mạnh. Không biết bao lâu, nghe keng một tiếng, y vứt con dao găm xuống, cúi xuống ôm xác vợ con lên, đi đến bờ vực tung mình nhảy xuống sơn cốc.

Mọi người nghe đến đây đều “A” lên một tiếng không ngờ chuyện lại xảy ra như thế. Trí Quang đại sư kể tiếp:

- Các vị bây giờ nghe như thế đều ngạc nhiên, lúc đó chính mắt ta nhìn thấy lại càng kinh ngạc bội phần. Ta vẫn tưởng một người võ công cao cường như thế, ở nước Liêu ắt phải ở ngôi cao, lần này đến Trung Nguyên tập kích chùa Thiếu Lâm, nếu như y không phải là đại thủ lãnh thì cũng phải là một nhân vật trọng yếu trong đám võ sĩ. Y bắt sống được “đàn anh đứng đầu” cùng Uông bang chủ, còn bao nhiêu thì đã giết sạch, coi như toàn thắng rồi, sao không thừa thắng xông lên ai ngờ đâu y lại nhảy xuống vực sâu tự tận là thế nào.

Lúc trước lão nạp đã tới bên bờ vực nhìn xuống chỉ thấy vân vụ che phủ sâu không thấy đáy, một khi nhảy xuống thì y cũng chỉ là cái thân máu thịt, dù cho võ công cao cường tới mực nào thì cũng không sao sống sót. Ta kinh ngạc khiến buột miệng kêu lên một tiếng.

Ngờ đâu bên trong chuyện lạ lại có chuyện kỳ, tiếng kêu của ta vừa thoát ra bỗng đâu nghe tiếng oa oa của trẻ con khóc từ trong Loạn Thạch Cốc vọng lên, rồi từ dưới vực sâu một vật đen sì bay ra nghe bịch một tiếng nhỏ rơi ngay trên mình Uông bang chủ. Thế rồi tiếng hài nhi khóc oe oe không ngừng hóa ra vật rơi vào Uông bang chủ chính là đứa bé con.

Khi đó ta đã bớt sợ từ trên cây trèo xuống, chạy đến gần Uông bang chủ nhìn xem thấy đứa bé Khất Đan kia nằm trên bụng ông vẫn đang khóc. Ta ngẫm nghĩ mới tỏ tường mọi việc. Thì ra khi thiếu phụ Khất Đan bị giết, đứa con rơi xuống đất chỉ bị tắc hơi nhưng chưa chết hẳn. Gã người Liêu kia khóc lóc thảm thiết sờ mũi con thấy không thở nữa lại tưởng vợ con chết cả rồi nên ôm hai thi thể nhảy xuống vực tự tận.

Đứa hài nhi kia bị chấn động, tỉnh lại khóc ré lên. Gã người Liêu kia thân thủ quả là ghê gớm, không muốn đứa con kia phải chết theo mình dưới vực sâu, lập tức cầm đứa trẻ ném lên. Y nhớ đúng phương vị khoảng cách nên nhắm ngay bụng Uông bang chủ mà thẩy để cho hài nhi không bị thương. Y đang ở lưng chừng, vừa phát giác ra đứa con chưa chết lập tức tung lên, tâm tư chuyển biến đã nhanh, sử lực lại không sai một li nào, tài trí đó, võ công đó quả thực đáng gờm đáng sợ.

Ta mắt thấy các anh em chết thảm, trong cơn đau lòng, cầm đứa bé Khất Đan kia lên, định liệng nó vào vách đá cho chết luôn. Khi ta vừa giơ lên thì đứa trẻ lại khóc oa oa. Ta nhìn y thấy khuôn mặt hồng hào, đôi mắt to đen láy nhìn ta. Nếu nó không nhìn ta ắt ta đã quật chết nó rồi mọi việc chẳng còn gì để nói nữa. Thế nhưng ta thấy khuôn mặt đứa trẻ thật đáng yêu, không nỡ lòng nào ra tay nghĩ bụng: “Hiếp đáp một đứa trẻ chưa đầy tuổi tôi thì còn nói gì nam tử hán, đại trượng phu cho được?”.

Trong Cái Bang có người chen vào:

- Trí Quang đại sư, Liêu cẩu giết hại đồng bào người Hán chúng ta nhiều vô số kể. Chính mắt tôi nhìn thấy bọn chó Liêu kia cầm trường mâu xiên vào trẻ con người Hán phóng ngựa trên đường diệu võ dương oai. Bọn chúng giết người được lẽ nào mình lại không giết được?

Trí Quang đại sư thở dài đáp:

- Nói thì đúng thế nhưng đời có câu rằng: Trắc ẩn chi tâm, nhân giai hữu chi . Hôm đó mắt ta nhìn thấy bao nhiêu người chết thảm rồi không nỡ lòng nào giết thêm một đứa trẻ nữa. Các ngươi bảo là ta đã sai lầm thì cũng được nhưng rồi ta đành phải tha mạng cho hài nhi này.

Sau đó ta đến tính giải huyệt cho “đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ nhưng một phần tài nghệ ta kém cỏi, lại thêm công phu đá huyệt của gã Khất Đan kia đặc dị, ta chộp nắm đánh đập, ấn bóp xoa nắn thế nào, hết thúc đẩy máu huyết, dãn gân véo thịt, mồ hôi toát ra đầm đìa bao nhiêu thủ pháp dùng hết rồi, “đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ vẫn trơ trơ không sao cử động được, cũng chẳng thể nào nói năng gì. 

Ta không còn cách nào khác hơn, lại sợ bọn Khất Đan tới tiếp viện nên dẫn ba bốn con ngựa tới đem “đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ buộc lên lưng. Chính ta cũng cưỡi một con, tay ôm đứa trẻ Khất Đan dẫn thêm hai con ngựa chạy suốt đêm về đi tìm thầy thuốc chuyên về trật đả tìm cách giải huyệt nhưng cũng không giải được. Cũng may đến chiều ngày hôm sau, khi đủ mười hai giờ, các huyệt bị đóng tự nhiên mở ra.

“Đàn anh đứng đầu” và Uông bang chủ lo chuyện võ sĩ Khất Đan tấn công chùa Thiếu Lâm nên khi huyệt đạo vừa được khai thông lập tức quay lại Nhạn Môn Quan xem xét tình hình. Thế nhưng chỉ thấy xác chết máu me vương đầy mặt đất so với hôm trước không khác một mảy. Ta thò đầu ra nhìn xuống đáy vực cũng không thấy chút đầu mối nào. Chúng ta bèn cùng nhau đem xác anh em chôn cất nhưng khi đếm lại chỉ còn mười bảy tử thi. Đúng ra số người tuẫn nạn phải là mười tám người sao bây giờ lại thiếu mất một?

Ông ta nói tới đây đưa mắt nhìn Triệu Tiền Tôn. Triệu Tiền Tôn gượng cười nói:

- Trong số xác chết có một tử thi sống lại đi mất, đến nay vẫn còn là một “xác chết biết đi” kia chính là Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương này.

Trí Quang nói:

- Thế nhưng lúc đó ba người chúng ta cũng không lấy làm lạ, lại nghĩ trong khi hỗn chiến một người rơi tòm xuống vực thì cũng là chuyện bình thường. Bọn ta mai táng anh em tuẫn nạn xong rồi, cơn căm tức chưa tan, lại đem các xác chết Khất Đan đem liệng xuống dưới Loạn Thạch Cốc.

“Đàn anh đứng đầu” nói với Uông bang chủ: “Kiếm Thông huynh, gã Khất Đan kia nếu như muốn giết hai người chúng ta thật dễ như trở bàn tay, sao lại chỉ đá vào huyệt đạo của mình, để cho mình sống tới bây giờ?

Uông bang chủ đáp:

- Việc đó ta đã suy nghĩ mãi mà chưa ra, hai đứa mình là đầu não giết vợ y, cứ lý mà nói thì phải đuổi tận giết tuyệt mới đúng.

Ba người bàn tán không tìm ra nguyên do, “đàn anh đứng đầu” mới nói: “Những chữ mà y khắc trên vách đá chắc hẳn có thâm ý gì”. Khổ nỗi cả ba người chúng ta không ai biết văn tự Khất Đan, người đàn anh kia bèn xuống suối lấy nước hòa máu đọng dưới đất tô lên vách đá, sau đó xé vải trắng từ trường bào, in chữ ở trên thạch bích. Những chữ Khất Đan kia ăn sâu vào đá, phải đến hai tấc, y chỉ dùng một con dao găm mà khắc thành, riêng thủ kình đó xem ra cũng đã độc bộ thiên hạ không ai bì kịp rồi.

Ba người nhìn mà kinh ngạc, nhớ lại tình hình hôm qua trong lòng vẫn còn thảng thốt. Về đến quan nội rồi, Uông bang chủ đi tìm một gã lái trâu ngựa thường qua Thượng Kinh nước Liêu để đi buôn biết chữ Khất Đan đưa tấm vải cho y xem nhờ dịch ra chữ Hán viết lên trên giấy.

Ông ta nói đến đây ngẩng đầu nhìn trời thở dài một tiếng, kể tiếp:

- Ba người chúng ta đọc xong bản văn dịch rồi, người nọ nhìn người kia không sao tin nổi. Gã Khất Đan kia lúc đó đã quyết ý tự tận, lẽ nào còn nói láo? Bọn ta lại đi tìm một người khác cũng thông tiếng Khất Đan nhờ y dịch miệng lại từng câu thì ý tứ cũng cùng như thế. Ôi, nếu sự thực là vậy thì không những mười bảy anh em tuẫn nạn oan, những người võ sĩ kia cũng không tội vạ gì mà bị liên lụy, còn đối với vợ chồng người Khất Đan thì chúng ta thật có lỗi không đâu kể xiết.

Mọi người ai nấy đều muốn nghe những hàng chữ Khất Đan trên vách núi kia có ý nghĩa gì nhưng thấy nhà sư vẫn giằng dai không nói có người nóng tính liền hỏi ngay:

- Thế những chữ đó nghĩa là sao?

- Sao lại có lỗi với y?

- Tại sao lại oan cho vợ chồng người đó?

Trí Quang nói:

- Các vị bằng hữu, không phải là ta có ý muốn dấu diếm không chịu tiết lộ ý nghĩa của những chữ Khất Đan kia. Nếu như trên vách đá những hàng chữ đó là sự thực thì hành vi của người đàn anh kia, Uông bang chủ và cả ta đều hết sức sai trái, không còn mặt mũi nào mà nhìn ai. Trí Quang này trong võ lâm chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, có sai lầm thì cũng chẳng đáng gì thế nhưng vị đàn anh và Uông bang chủ là những người địa vị thân phận cao biết là bao? Huống chi Uông bang chủ đã qui tiên rồi, ta đâu dám nói năng càn rỡ để làm tổn hại đến thanh danh hai người đó, thành thử tha lỗi cho ta không thể nói trắng ra.

Tiền bang chủ của Cái Bang là Uông Kiếm Thông uy danh quả là quan trọng, cả Kiều Phong, các trưởng lão, các đệ tử ai ai cũng đều chịu ơn ông, bọn ăn mày tuy hiếu kỳ thật nhưng nghe nói chuyện này có liên quan đến thanh danh Uông bang chủ, không một ai dám hỏi thêm.

Trí Quang lại kể tiếp:

- Ba người chúng ta bàn tán một hồi, không ai muốn tin đây là sự thực nhưng lại cũng không thể không tin nên quyết định tạm tha mạng cho đứa hài nhi Khất Đan, trước hết đến chùa Thiếu Lâm nghe ngóng động tĩnh đã, nếu như võ sĩ Khất Đan có đến tấn công thực lúc đó giết đứa trẻ cũng còn vừa. Bọn ta chạy ngày đêm không ngừng vó, đến chùa Thiếu Lâm rồi thấy các lộ anh hùng đến đây tiếp tay cũng không ít. Việc này liên quan đến hàng nghìn hàng vạn an nguy sống chết của bách tính Thần Châu, chỉ cần tin loan ra ai ai cũng muốn đóng góp chút công lao.

Trí Quang chậm rãi đưa mắt từ trái sang phải nhìn khắp mọi người nói tiếp:

- Kỳ đó tụ hội ở chùa Thiếu Lâm những người tuổi tác đã cao cũng tham dự, những việc xảy ra ta không cần phải dài dòng. Tất cả cẩn thận phòng bị, canh gác chặt chẽ, các lộ anh hùng đến tiếp viện mỗi lúc một đông. Cứ như thế từ tiết Trùng Dương tháng chín đến tháng chạp, hơn ba tháng trời chẳng thấy tăm hơi gì, mới định đi kiếm kẻ phao tin kia vặn hỏi thì không sao kiếm thấy y được nữa. Bọn ta lúc ấy mới nghĩ rằng tin kia là giả, bị người ta đánh lừa. Trận chiến ở ngoài Nhạn Môn Quan, hai bên đều chết quả thật oan uổng.

Thế nhưng chẳng bao lâu, quân thiết kỵ Khất Đan lại xâm phạm, tấn công các nơi đóng quân ở Hà Bắc nên việc võ sĩ Khất Đan có đến tấn công chùa Thiếu Lâm nữa hay không chẳng ai còn để ý tới. Bọn chúng đến tấn công cũng được mà không tấn công cũng chẳng sao, nói chung thì người Khất Đan là kẻ tử thù của Đại Tống.

“Đàn anh đứng đầu”, Uông bang chủ và ta ba người đối với chuyện ngoài ải Nhạn Môn có phần hổ thẹn nên chỉ kể lại với phương trượng chùa Thiếu Lâm và báo tin cho gia đình những anh em tử nạn, ngoài ra không hé răng với một ai, còn đứa bé Khất Đan đem gửi nuôi tại một nhà nông dưới chân núi Thiếu Thất.

Việc đã qua rồi, chuyện đứa hài nhi đó xử trí thế nào cũng đành thúc thủ. Bọn ta đối với cha mẹ nó không phải đạo nên không đành lòng giết nó. Thế nhưng bảo là nuôi nó lớn khôn thì người Khất Đan là kẻ tử thù của mình, ba người đều nghĩ tới chuyện “dưỡng hổ di hoạn”. Về sau “đàn anh đứng đầu” lấy ra một trăm lạng bạc, giao cho nhà nông đó nhờ họ nhận thằng bé Khất Đan làm con, khi nó lớn lên tuyệt đối không cho nó biết nó không phải là con ruột.

Vợ chồng nhà nông đó vốn không có con, lập tức vui mừng nhận lời ngay. Hai người đó nào có biết đứa trẻ là dòng máu Khất Đan vì khi chúng ta đem nó tới núi Thiếu Thất, trên đường đã thay quần áo người Hán cho nó rồi. Người dân Đại Tống thù hận người Liêu tận xương tủy, nếu thấy hài nhi mặc y phục Khất Đan thể nào cũng làm hại nó ...

Kiều Phong nghe đến đây, trong bụng đã đoán được tám chín phần, run run hỏi:

- Trí Quang đại sư, thế ... thế người nhà nông dưới chân núi Thiếu Thất ấy, y ... y ... họ gì?

Trí Quang đáp:

- Chắc ông cũng đoán được rồi, ta cũng chẳng dấu làm chi. Người nhà nông đó họ Kiều, tên là Tam Hòe.

Kiều Phong bàng hoàng kêu lên:

- Không! Không! Ông chớ có nói láo, dựng chuyện ra để vu hãm cho ta. Ta đường đường là người Hán, sao lại là quân Hồ Lỗ Khất Đan được? Tam Hòe công là ... là ... cha ruột của ta, ông chớ có nói bậy ...

Đột nhiên ông vươn hai tay ra, nhảy xổ đến trước mặt Trí Quang, tay trái chộp luôn vào ngực ông ta. Đơn Chính và Từ trưởng lão cùng xông vào cứu đồng thời kêu lên:

- Không được!

Kiều Phong thân thủ cực nhanh, tay vẫn xách nhà sư nhảy tránh sang một bên.

Con trai Đơn Chính là Đơn Trọng Sơn, Đơn Thúc Sơn, Đơn Quí Sơn ba người cùng xông lên phía đằng sau ông ta. Kiều Phong vươn tay phải chộp Đơn Thúc Sơn vứt ra ngoài xa, rồi lại chộp Đơn Trọng Sơn ném ra, còn lần thứ ba thì cầm Đơn Quí Sơn quật xuống đất, giơ chân đạp lên cổ y.

Đơn Thị Ngũ Hổ ở một dãy Sơn Đông khá tiếng tăm, năm anh em thành danh cũng đã lâu chứ nào phải hạng hậu bối vừa ra khỏi lều tranh . Thế nhưng Kiều Phong tay trái cầm Trí Quang, tay phải liên tiếp chộp người ném ra, quăng ba đại hán nhà họ Đơn chẳng khác gì người bù nhìn bện bằng rơm, đối phương không thể nào kháng cự được khiến cho người đứng ngoài phải há hốc mồm.

Đơn Chính và Đơn Bá Sơn, Đơn Tiểu Sơn cốt nhục tình thâm đều toan xông lên cứu viện nhưng thấy Kiều Phong đạp chân lên đầu Đơn Quí Sơn biết rằng ông ta công lực ghê gớm, chỉ cần ấn một cái thì thể nào Đơn Quí Sơn cũng bị vỡ sọ. Ba người mới đi được vài bước đành phải đứng lại. Đơn Chính kêu lên:

- Kiều bang chủ, có gì thì nói chuyện với nhau, không nên mạnh tay. Nhà họ Đơn chúng tôi với ông không thù không oán, xin ông tha cho con tôi.

Thiết Diện Phán Quan mà phải nói đến câu đó có khác gì ngỏ lời van xin Kiều Phong. Từ trưởng lão nói:

- Kiều bang chủ, Trí Quang đại sư được mọi người trên giang hồ kính ngưỡng, ông chớ có nên hại mạng ông ta.

Bầu máu nóng của Kiều Phong dâng lên, lớn tiếng nói:

- Đúng lắm, Kiều Phong này cùng nhà họ Đơn không thù không oán, còn Trí Quang đại sư là người ta hằng kính ngưỡng. Các ngươi ... các ngươi ... muốn phế bỏ chức vị bang chủ của ta thì cũng được, ta bưng hai tay trao lại cho người khác, việc gì phải bịa chuyện vu miệt cho ta? Kiều mỗ ... đã làm chuyện gì xấu xa mà các ngươi phải ép uổng ta như thế?

Mấy câu sau ông nói bằng giọng nghẹn ngào, mọi người nghe thấy không ai không nổi đồng tình. Chỉ nghe thấy trên người Trí Quang tiếng xương cốt kêu lên lục cục, biết rằng tính mạng ông ta chỉ trong đường tơ kẽ tóc, sống chết tùy thuộc vào một ý nghĩ của Kiều Phong. Ngoài tiếng gió thổi rì rào, tiếng giun dế kêu, tiếng cỏ xào xạc, tiếng thở của mọi người không một ai dám lên tiếng.

Một hồi sau, Triệu Tiền Tôn đột nhiên bật lên mấy tiếng cười khẩy nói:

- Thật tức cười quá đỗi! Người Hán thì đã hơn gì ai, mà người Khất Đan thì cũng đâu phải là heo là chó? Rõ ràng là người Khất Đan, việc chi phải nhận cho bằng được mình là người Hán, có đáng gì đâu? Đến cha mẹ ruột mình không thèm nhận, thật uổng cái danh nam tử hán đại trượng phu?

Kiều Phong trợn tròn đôi mắt hầm hầm nhìn ông ta hỏi lại:

- Ngươi bảo ta là người Khất Đan chăng?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Ta nào có biết. Có điều hôm đó trong trận chiến ngoài Nhạn Môn Quan, gã võ sĩ Khất Đan kia hình dáng mặt mày giống hệt ngươi. Hôm đó Triệu Tiền Tôn này sợ đến mất hồn mất vía, vỡ mật vỡ gan cho nên tướng mạo kẻ đối đầu, dù có một trăm năm nữa ta vẫn còn nhớ rõ. Trí Quang đại sư ôm đứa trẻ Khất Đan chính mắt ta trông thấy. Triệu Tiền Tôn này có khác gì xác chết biết đi, trên thế gian này ngoài Tiểu Quyên ra chẳng còn nhớ tới một ai, cũng chẳng còn nhớ chuyện gì. Ngươi làm hay không làm bang chủ Cái Bang có liên quan đếch gì tới ta, việc chó gì ta phải vu hãm cho ngươi?

Ta tự nhận là năm xưa có tham dự việc giết hại cha mẹ ngươi thì được cái mẹ gì cơ chứ? Kiều bang chủ, võ công Triệu Tiền Tôn này so với ngươi thì kém xa, nếu như ta không muốn sống thì chẳng lẽ đến tự sát cũng không biết hay sao?

Kiều Phong chầm chậm bỏ Trí Quang đại sư xuống, đầu ngón chân hất một cái đá văng thân thể to lớn của Đơn Quí Sơn ra, rơi xuống đất nghe bịch một cái. Đơn Quí Sơn nhún một cái đã đứng ngay được nhưng không bị thương chút nào.

Kiều Phong đưa mắt nhìn Trí Quang thấy ông thần sắc thản nhiên, không có vẻ gì giả vờ hay gian dối bèn hỏi:

- Rồi sau sao nữa?

Trí Quang đáp:

- Về sau thì ngươi tự biết rồi. Năm lên bảy tuổi ngươi đi hái hạt dẻ trong núi bị một con chó sói rượt, được một nhà sư chùa Thiếu Lâm cứu thoát, giết con ác lang trị thương cho ngươi, sau đó ngày ngày đến dạy võ, có phải vậy không?

Kiều Phong đáp:

- Đúng vậy! Thì ra chuyện này ông cũng biết.

Khi Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm truyền thụ võ công cho Kiều Phong, dặn ông không được tiết lộ cho ai biết, trên giang hồ ai cũng tưởng Kiều Phong là đệ tử đích truyền của Uông bang chủ Cái Bang, có biết đâu ông ta và chùa Thiếu Lâm có uyên nguyên rất sâu xa.

Trí Quang nói:

- Nhà sư Thiếu Lâm đó được “đàn anh đứng đầu” ủy thác nhờ ông ta dạy ngươi từ bé để cho ngươi khỏi lầm đường lạc lối. Vì việc này, ta và "đàn anh đứng đầu" cùng Uông bang chủ ba người đã tranh chấp dữ dội. Ta bảo là cứ để cho ngươi sống bình thường làm nghề nông mưu sinh, không phải học võ để rồi lại bị cuốn hút vào ân oán giang hồ. "Đàn anh đứng đầu" thì bảo là vì mình sai quấy với cha mẹ ngươi nên phải bồi dưỡng cho ngươi thành một nhân vật đại anh hùng.

Kiều Phong nói:

- Các ông ... các ông có chuyện gì mà bảo là sai quấy? Người Hán và người Khất Đan giết hại lẫn nhau, có gì là phải hay không phải?

Trí Quang thở dài:

- Di văn trên vách đá ngoài ải Nhạn Môn đến nay cũng vẫn còn chưa mờ, sau này ngươi ra đó mà xem. "Đàn anh đứng đầu" vốn cũng đã có chủ ý, Uông bang chủ cũng ngả theo một mình ta không thể nào chống lại được. Đến khi ngươi mười sáu tuổi mới gặp Uông bang chủ thu ngươi làm đồ đệ, rồi về sau biết bao nhiêu cơ duyên gặp gỡ, ngươi thiên tư trác tuyệt nên càng hết sức vươn lên, người thường không sao theo kịp, thế nhưng nếu không có "đàn anh đứng đầu" và Uông bang chủ giúp đỡ e rằng cũng không dễ dàng đến thế đâu?

Kiều Phong cúi đầu ngẫm nghĩ, cuộc đời mình gặp biết bao nguy nan nhưng rồi phùng hung hóa cát nên chưa hề gặp chuyện gì nặng nề, lại biết bao lương cơ đưa đẩy, không cầu mà được, trước đây vẫn tưởng mình có số đỏ, gặp vận may bây giờ nghe Trí Quang đại sư nói mới tự hỏi phải chăng có người dấu mặt giúp đỡ mà mình tuyệt nhiên không hay biết gì? Trong lòng ông thấy bàng hoàng: “Nếu lời của nhà sư là thật thì ta là người Khất Đan chứ đâu phải Hán nhân. Uông bang chủ nào có phải ân sư của ta mà là kẻ thù giết cha giết mẹ. Người anh hùng đứng sau lưng ám trợ ta cũng nào phải tốt lành gì, chẳng qua chỉ vì thẹn với lương tâm nên tìm cách chuộc tội đấy thôi. Không, không! Người Khất Đan hung tàn bạo ngược, là kẻ tử địch của người Hán chúng ta, ta làm sao có thể là người Hồ Lỗ được?”.

Lại nghe Trí Quang kể tiếp:

- Uông bang chủ lúc đầu hết sức đề phòng, về sau thấy ngươi học võ tiến bộ thật nhanh, khẳng khái hào hiệp, đối với người khác thật nhân hậu, đối với ông ta kính cẩn tôn sùng, làm việc gì cũng hợp với tâm ý ông ta nên dần dần thực lòng thương yêu ngươi.

Về sau ngươi công lao mỗi lúc một nhiều, uy danh mỗi lúc một lớn, trong Cái Bang trên dưới ai nấy đều kính phục, ngay cả người ngoài bang cũng nắm chắc ngươi sẽ thành bang chủ.

Thế nhưng Uông bang chủ vẫn dùng dằng chưa quyết định cũng chỉ vì ngươi là giống Khất Đan. Ông ta thử ngươi ba việc khó, ngươi đều hoàn thành chu đáo, nhưng phải để đến khi ngươi lập được bảy công lao lúc đó mới đem Đả Cẩu Bổng ra truyền thụ.

Năm đó Thái Sơn đại hội, ngươi đánh bại chín kẻ cường địch của Cái Bang, khiến cho bang ăn mày uy chấn thiên hạ, ông ta mới không còn do dự nữa lập ngươi làm bang chủ Cái Bang. Cứ như lão nạp biết, trong mấy trăm năm qua, chưa có vị bang chủ Cái Bang nào phải gian nan như thế.

Kiều Phong cúi đầu đáp:

- Tôi vẫn tưởng ân sư Uông bang chủ có ý rèn luyện cho tôi, bắt tôi phải trải qua nhiều gian khổ để có thể đảm đương việc lớn, có ngờ đâu ... có ngờ đâu ...

Ông nói tới đây trong bụng tin cũng đã đến bảy tám phần mười. Trí Quang nói:

- Ta cũng chỉ biết tới đó mà thôi. Ngươi đứng ra làm bang chủ Cái Bang rồi, trên giang hồ đồn đãi ai cũng bảo ngươi hành hiệp trượng nghĩa, tạo phúc cho lê dân, xử sự công chính, chỉnh đốn Cái Bang trở nên hưng vượng, ta trong lòng cũng mừng thầm.

Lại nghe ngươi mấy lần phá hỏng gian mưu của Khất Đan, giết được mấy nhân vật anh hùng của họ, cái điều cố kỵ “dưỡng hổ di hoạn” năm xưa có khác gì người nước Kỷ lo trời sập. Việc đó đáng ra vĩnh viễn không nên đề cập tới, nào ngờ lại có ai đó tìm ra? Việc này nào có hay ho gì cho cả Cái Bang lẫn thân danh ngươi đâu?

Nói tới đây ông thở dài một tiếng, sắc mặt buồn rười rượi. Từ trưởng lão nói:

- Đa tạ Trí Quang đại sư kể lại chuyện xưa khiến cho mọi người tưởng như chính mình đã trải qua vậy. Phong thư này ...

Ông giơ tay đưa lá thư ra nói tiếp:

- ... là do “đại hiệp đứng đầu” kia viết cho Uông bang chủ, trong thư hết sức ngăn trở Uông bang chủ không nên truyền ngôi vị cho Kiều bang chủ. Kiều bang chủ, chắc ông không ngại xem qua cho biết chứ gì?

Nói xong đưa lá thư ra cho Kiều Phong. Trí Quang nói:

- Để ta xem trước, có phải thư thật hay là thư giả?

Nói xong ông đưa tay cầm lá thư, đọc qua một lượt rồi nói:

- Đúng vậy, quả nhiên là thủ bút của "đàn anh đứng đầu".

Ông ta vừa nói vừa dụng kình lên ngón tay trái, xé ngay chỗ thự danh ở cuối lá thư, bỏ tọt vào mồm, lưỡi cuốn một cái nuốt chửng vào bụng. Khi Trí Quang xé lá thư ông đã tiến tới gần đống lửa thêm mấy bước cách Kiều Phong khá xa, lại dường như không đủ ánh sáng nên đưa tờ giấy lên gần mắt thành ra khi bỏ vào miệng, lá thư và miệng chỉ cách nhau gang tấc. Kiều Phong không thể ngờ vị lão tăng đức cao vọng trọng kia lại giở trò giảo hoạt, giận dữ rống lên một tiếng, tay trái lăng không đánh ra trúng ngay huyệt đạo nhà sư, tay phải đưa ra giựt tờ giấy nhưng vẫn chậm mất một bước, chỗ ký tên đằng cuối lá thư đã bị ông ta nuốt rồi. Kiều Phong lại đánh ra một chưởng giải huyệt cho ông ta hậm hực hỏi:

- Ông ... ông làm gì thế?

Trí Quang mỉm cười nói:

- Kiều bang chủ, một khi ông biết rõ thân thế mình rồi thể nào chẳng muốn báo thù cho cha mẹ. Uông bang chủ đã qua đời khỏi cần nói tới. Tên tuổi vị "đàn anh đứng đầu" này, lão nạp không muốn cho ông biết. Năm xưa lão nạp cũng có tham dự vụ phục kích lệnh tôn lệnh đường, bao nhiêu tội nghiệt, lão nạp xin một mình gánh chịu hết, thí chủ muốn lóc thịt lột da gì cũng được.

Kiều Phong thấy ông ta lông mày rủ xuống, đứng cúi đầu, thần sắc thật trang nghiêm tuy lòng bi phẫn nhưng cũng cảm thấy kính trọng bèn nói:

- Việc thực hay hư, lúc này ta chưa thể biết chắc. Muốn giết ông đâu phải chỉ một lúc này mà thôi.

Nói xong ông đưa mắt lườm Triệu Tiền Tôn. Triệu Tiền Tôn nhún vai, dường như không coi vào đâu nói:

- Quả đúng như thế! Ta cũng ở trong số đó, món nợ này ta cũng chịu một phần, khi nào ngươi thích thì cứ ra tay giết ta.

Đàm công lớn tiếng nói:

- Kiều bang chủ, việc gì cũng nên suy nghĩ cho chín, hành sự không nên cẩu thả. Nếu nói đến việc phân tranh Hồ Hán, hào kiệt Trung Nguyên ai ai cũng là địch cả.

Triệu Tiền Tôn tuy là tình địch của ông ta nhưng bây giờ ông lại lên tiếng che chở. Kiều Phong cười khẩy một tiếng, trong bụng rối bời không biết phải đối đáp ra sao, cầm tờ giấy dưới ánh lửa xem thấy viết:

Kiếm Nhiêm ngô huynh,

Qua mấy đêm dài đàm luận, cái ý truyền vị của ngô huynh vẫn không thay đổi. Ta sau mấy ngày suy nghĩ thấy việc đó quả không nên. Kiều quân tài nghệ siêu quần, công lao vĩ đại, lại là người can đảm hăng say, không phải chỉ là người nổi bật trong quí bang mà đến võ lâm đồng đạo khắp đất Thần Châu cũng không ai sánh kịp.

Tài nghệ đó kế thừa chức vị của ngô huynh, rồi đây Cái Bang thanh danh ngày càng vang dội là điều không còn ngờ gì nữa.

Kiều Phong đọc đến đây thấy vị tiền bối này hết sức coi trọng mình không khỏi trong lòng cảm kích, liền đọc tiếp xuống dưới:

Thế nhưng trận huyết chiến ngoài ải Nhạn Môn thật là kinh tâm động phách, ta vẫn ngày ngày canh cánh không quên. Đứa trẻ đó không phải cùng tộc loại với mình, cả cha lẫn mẹ đều chết dưới tay của hai ta, mai đây không biết chỗ xuất thân của mình thì không nói làm gì, còn không thì Cái Bang sẽ bị một tay y tiêu diệt, võ lâm Trung Nguyên sẽ gặp một hạo kiếp vô cùng to lớn. Đời nay kẻ có võ công ngang ngửa với đứa trẻ này, thực chẳng một ai. Việc nội bộ của quí bang, đáng lẽ người ngoài không nên xen vào, nhưng ông với ta giao tình chẳng phải bình thường, việc này lại liên quan quá lớn, mong ông suy nghĩ cho thật kỹ.

Bên dưới chỗ thự danh người viết đã bị Trí Quang xé mất rồi. Từ trưởng lão thấy Kiều Phong đọc xong đứng đờ đẫn không nói lời nào, lại đưa thêm một tờ giấy khác nói:

- Đây là thư của Uông bang chủ, chắc ông nhận ra bút tích của ông ta.

Kiều Phong đưa tay cầm lấy thấy trên lá thư viết rằng:

Truyền cho Cái Bang Mã phó bang chủ, Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cùng tất cả các trưởng lão: 

Kiều Phong như có hành vi thân Liêu phản Hán, trợ Khất Đan chống lại nhà Đại Tống thì toàn bang phải lập tức hợp lực giết y ngay, không được bỏ lỡ. Hạ độc hành thích tất cả đều dùng được, người hạ thủ có công mà không có tội. 

Uông Kiếm Thông thân bút.

Bên dưới có đề ngày như sau:

Đại Tống Nguyên Phong lục niên, ngũ nguyệt sơ thất nhật. 

Kiều Phong nhớ thật rõ ràng, đây chính là ngày mình tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang. Mấy hàng chữ này đích thị ân sư Kiếm Thông thủ bút, nếu thế thì không còn hoài nghi gì nữa. Ông nghĩ đến sư phụ đãi mình chẳng khác gì cha con, giáo huấn đã nghiêm mà cũng yêu thương tha thiết ngờ đâu đúng ngày mình tiếp nhiệm bang chủ Cái Bang lại ngấm ngầm viết tờ di lệnh này. Ông thấy trong lòng chua xót, nước mắt chảy ròng ròng, từng giọt từng giọt rơi xuống thủ dụ của Uông bang chủ cầm trên tay.

Từ trưởng lão chậm rãi nói:

- Kiều bang chủ đừng trách chúng tôi vô lễ. Thủ dụ của Uông bang chủ vốn chỉ một mình Mã phó bang chủ biết được mà lại tàng trữ thật kỹ, xưa nay chưa hề nói với ai. Trong những năm qua, bang chủ hành sự quang minh lỗi lạc, không hề có chuyện thông Liêu phản Tống, trợ Khất Đan để áp bức Hán nhân, di lệnh của Uông bang chủ không cần phải dùng đến.

Đến khi Mã phó bang chủ đột nhiên chết thảm, Mã phu nhân mới tìm thấy di lệnh này. Mọi người ai nấy nghi ngờ Mã phó bang chủ bị Mộ Dung công tử giết hại, nếu bang chủ vì Đại Nguyên huynh đệ mà báo thù này thì thân thế lai lịch của bang chủ quyết không ai nhắc đến. Lão hủ suy nghĩ đã nhiều, vì đại cục đã toan hủy lá thư này cùng di lệnh của Uông bang chủ, có điều ... có điều ...

Ông ta nói đến đây đưa mắt nhìn Mã phu nhân nói:

- Phần vì Mã phu nhân đau lòng muốn báo thù cho chồng, không muốn để cho Đại Nguyên huynh đệ chết chẳng yên mồ mối oan phải chìm sâu đáy nước. Thứ nữa Kiều bang chủ lại bảo vệ cho người Hồ, việc làm xem ra nguy cho bản bang ...

Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Ta bảo vệ cho người Hồ ư? Chuyện đó ở đâu mà có?

Từ trưởng lão đáp:

- Hai chữ “Mộ Dung” vốn là họ của người Hồ. Họ Mộ Dung là hậu duệ Tiên Ti, với Khất Đan cũng cùng một giống, đều là Hồ Lỗ Di Địch cả.

Kiều Phong đáp:

- Ồ! Thì ra là thế! Ta nào có biết.

Từ trưởng lão tiếp tục:

- Thứ ba, việc Kiều bang chủ là người Khất Đan trong bang nhiều anh em đã biết rồi, biến loạn đã sinh có dấu cũng không ích lợi gì.

Kiều Phong ngẩng đầu nhìn trời thở dài một tiếng, những nghi nan nặng trĩu trong lòng từ chập tối đến giờ bây giờ mới rõ nguồn cơn nên quay sang hỏi Toàn Quan Thanh:

- Toàn Quan Thanh, ngươi biết ta là hậu duệ Khất Đan nên mới phản ta, có phải vậy không?

Toàn Quan Thanh đáp:

- Đúng thế.

Kiều Phong hỏi thêm:

- Tống Hề Trần Ngô bốn đại trưởng lão nghe lời ngươi nên định giết ta chứ gì?

Toàn Quan Thanh đáp:

- Quả vậy. Có điều bọn họ nửa tin nửa ngờ không quyết định được, đến lúc việc tới nơi lại rụt đầu rụt cổ.

bản mới) - Hồi 16(b) : TÍCH THỜI NHÂN 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ân xưa oán cũ bao vòng lụy,

Sớm bạn trưa thù lắm đổi thay.

*

* *

Kiều Phong hỏi:

- Thân thế đầu mối của ta, ngươi từ đâu mà biết được?

Toàn Quan Thanh đáp:

- Việc này có liên quan đến người ngoài xin tha thứ cho tại hạ không thể phụng cáo. Cũng nên hiểu rằng cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, bao giấy không gói được lửa dù ông có đậy điệm cách nào rồi cũng có người biết đến. Chấp Pháp trưởng lão cũng đã biết rồi.

Trong đầu Kiều Phong lúc này biết bao ý niệm dâng lên chẳng khác gì sóng biển, khi thì nghĩ rằng: “Bọn chúng nổi lòng đố kỵ, đặt ra những chuyện hoang đường vu hãm cho ta. Kiều Phong này dù thế cô lực đơn nhưng cũng quyết chiến đấu tới cùng không chịu khuất phục”. Thế nhưng ông lại nghĩ ngay: “Thủ dụ của ân sư quả thực đích xác rõ ràng, Trí Quang đại sư đức cao vọng trọng, không ân không oán với ta việc gì phải đặt ra cái quỉ kế này? Từ trưởng lão là nguyên lão trọng thần của bản bang, lẽ nào lại có ý muốn khuynh loát bản bang? Thiết Diện Phán Quan, Đàm công, Đàm bà là những bậc tiền bối có tên tuổi trong võ lâm, gã Triệu Tiền Tôn kia tuy điên điên khùng khùng nhưng cũng đâu phải là kẻ vô danh tiểu tốt. Chúng khẩu đồng từ như thế, lẽ nào còn giả được hay sao?”.

Quần cái nghe Trí Quang, Từ trưởng lão các người nói ra như thế, tâm tình hỗn loạn. Nhiều người đã từng nghe nói Kiều Phong là giòng giống Khất Đan nhưng chỉ bán tín bán nghi còn những người khác thì bây giờ mới biết. Ai nấy thấy chứng cớ rõ ràng, ngay cả Kiều Phong dường như cũng đã tin là thế.

Kiều Phong trước nay đối với thuộc hạ vô cùng ân nghĩa, tài đức võ công ai nấy đều khâm phục, có ai ngờ ông lại là con cháu giống Khất Đan. Liêu quốc và Đại Tống cừu oán thực sâu xa, người trong Cái Bang chết về tay người Liêu bao nhiêu năm qua nhiều vô số kể. Để cho một người Khất Đan làm bang chủ Cái Bang thì là việc không thể nào nghĩ đến được. Thế nhưng bảo rằng đuổi ông ta ra khỏi bang thì cũng không ai dám mở mồm. Nhất thời khu rừng hạnh lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng thở nặng nề của mọi người.

Đột nhiên có tiếng đàn bà trong trẻo cất lên:

- Các vị bá bá, thúc thúc, tiên phu bất hạnh qua đời, không biết do ai hạ thủ lúc này thật chưa thể nào đoán chắc được. Nghĩ đến tiên phu xưa nay vốn mẫn cán ổn trọng, không được khéo mồm khéo miệng, nhưng trên giang hồ thật chẳng thù oán với ai, thiếp không sao nghĩ ra được vì cớ nào mà bị người ta giết chết. Thế nhưng người đời vẫn bảo rằng: “Mạn tàng hối đạo” không biết có phải vì tiên phu trong tay cầm giữ vật trọng yếu nên người ta không lấy được thì không yên lòng? Người ta sợ tiên phu tiết lộ cơ mật, làm hỏng việc lớn nên mới giết đi để bịt miệng chăng?

Người vừa nói chính là di sương của Mã Đại Nguyên Mã phu nhân. Mấy câu đó ý tứ thật rõ ràng, nói thẳng ra là người giết Mã Đại Nguyên là Kiều Phong mà lý do hành hung chỉ vì muốn che đậy những chứng cứ ông ta là người Khất Đan.

Kiều Phong chậm rãi quay đầu lại, nhìn thẳng vào người đàn bà mặc đồ toàn trắng, thân hình nhỏ nhắn dáng điệu ẻo lả khép nép kia hỏi lại:

- Phu nhân nghi ta giết hại Mã phó bang chủ hay sao?

Mã phu nhân trước nay vẫn quay lưng lại, mắt nhìn xuống đất, lúc này đột nhiên ngửng đầu lên nhìn thẳng vào Kiều Phong. Đôi mắt nàng trong vắt như bảo thạch lấp lánh trong đêm tối khiến Kiều Phong hơi bối rối, nghe nàng nói:

- Thiếp là kẻ nữ lưu vô tri vô thức, nay phải xuất đầu lộ diện quả là không phải chút nào, đâu dám loạn ngôn kết tội ai? Có điều tiên phu chết thật oan uổng, chỉ mong các vị bá bá thúc thúc nghĩ đến chút tình xưa, tra xét cho minh bạch để rửa hận báo thù cho tiên phu.

Nàng ta nói xong phục xuống hướng về Kiều Phong khấu đầu. Nàng ta không một câu nào nói Kiều Phong là hung thủ nhưng chỗ nào cũng đổ riệt lên đầu ông. Kiều Phong thấy bà ta lạy mình, trong bụng tuy giận nhưng cũng không thể nào phát tác, chỉ đành quì xuống hoàn lễ đáp:

- Xin tẩu tẩu đứng lên.

Trong rừng hạnh đột nhiên có một giọng trong trẻo cất lên:

- Mã phu nhân, trong lòng tôi có một điểm nghi ngờ, liệu có thể hỏi phu nhân một câu chăng?

Mọi người quay về phía phát ra thanh âm thấy đó là một thiếu nữ mặc áo dài màu hồng nhạt, chính là A Châu. Mã phu nhân hỏi lại:

- Cô nương có chuyện gì muốn tra vấn tôi?

A Châu đáp:

- Tra vấn thì quả là không dám. Tiểu nữ nghe phu nhân nói là Mã tiền bối dùng xi hơ lửa gắn chặt phong di thư này lại, trước khi Từ trưởng lão mở ra, vết khằn vẫn còn nguyên. Như thế có nghĩa là trước khi Từ trưởng lão mở ra thì chưa một ai được đọc nội dung lá thư đó chớ gì?

Mã phu nhân đáp:

- Chính thế.

A Châu hỏi tiếp:

- Như thế thì lá thư của “đại hiệp đàn anh” và di lệnh của Uông bang chủ, ngoài Mã tiền bối ra vốn dĩ không một ai biết đến, những câu “mạn tàng hối đạo, sát nhân diệt khẩu” kia xem ra không phải.

Mọi người nghe vậy ai ai cũng cho là có lý. Mã phu nhân hỏi:

- Cô nương là ai? Sao lại đến can thiệp vào đại sự trong bang của chúng tôi?

A Châu đáp:

- Chuyện lớn trong quí bang, một đứa con gái nhỏ như tiểu nữ có đâu dám can dự? Ngặt là các vị có ý vu hãm công tử gia của chúng tôi nên tiểu nữ đành phải đứng ra phân biện.

Mã phu nhân hỏi lại:

- Thế công tử gia của cô nương là người nào? Là Kiều bang chủ chăng?

A Châu mỉm cười lắc đầu:

- Không phải, đó là Mộ Dung công tử.

Mã phu nhân buột miệng:

- Ồ, thì ra là thế.

Nàng ta không để ý tới A Châu nữa, quay sang nói với Chấp Pháp trưởng lão:

- Bạch trưởng lão, bang qui của chúng ta vững chãi tày non, nếu như bản thân trưởng lão phạm tội thì xử thế nào?

Những bắp thịt trên mặt Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính hơi giựt nhẹ, run run đáp:

- Đã biết pháp luật mà còn phạm pháp thì tội nặng thêm một bậc.

Mã phu nhân hỏi tiếp:

- Thế còn người phẩm vị còn cao hơn cả trưởng lão mà phạm bang qui thì sao?

Bạch Thế Kính biết bà ta ám chỉ ai, không khỏi liếc mắt nhìn Kiều Phong một cái đáp:

- Bang qui của bản bang là do tổ tông qui định, không phân thứ bậc tôn ti, hễ đã phạm tội thì đều như nhau cả. Có công cùng thưởng, có tội cùng phạt.

Mã phu nhân nói:

- Cô nương đây nghi ngờ chí phải, lúc đầu tôi cũng nghĩ như thế. Thế nhưng trước hôm tiện thiếp nhận được tin buồn của tiên phu một ngày, đêm hôm đó có kẻ lẻn vào nhà ăn trộm.

Mọi người ai nấy kinh ngạc, có kẻ hỏi ngay:

- Ăn trộm ư? Có mất gì không? Có chết ai không?

Mã phu nhân đáp:

- Không chết ai cả. Tặc tử dùng ba nén hương mê xông cho tiện thiếp và hai tì nữ ngã lăn ra, lục tung tất cả các hòm rương trong nhà, lấy mất độ mươi lạng bạc. Ngày hôm sau thiếp mới nghe tin tiên phu đã táng mạng rồi nên đâu có còn tâm tư nào mà nhớ tới chuyện trộm đạo tiền tài? Cũng may tiên phu dấu phong thư này ở một nơi cực kỳ kín đáo nên mới không bị đứa ăn trộm kia lấy đi mà hủy mất.

Mấy câu đó lại càng rõ ràng hơn, chỉ đích danh Kiều Phong tự mình hay sai người đến nhà Mã Đại Nguyên ăn trộm lá thư. Nếu đã định lấy thư ắt là đã biết nội dung lá thư nói gì, âm mưu sát nhân diệt khẩu kia hiển nhiên đã được phô bày. Còn như làm sao ông ta biết được nội dung lá thư, rất có thể vị “đại hiệp đàn anh”, Uông bang chủ hay Mã phó bang chủ vô tình nói hớ ra cũng đâu có phải là chuyện lạ.

A Châu nhất định rửa oan cho Mộ Dung công tử, cũng không muốn Kiều Phong phải liên quan nói tiếp:

- Ăn trộm vặt vào nhà lấy mươi lạng bạc cũng là chuyện thường, chẳng qua lại xảy ra đúng lúc đó thôi.

Mã phu nhân đáp:

- Cô nương nói phải lắm, lúc đầu ta cũng nghĩ như thế. Thế nhưng về sau tại nơi cửa sổ kẻ trộm ra vào, dưới chân tường ta có nhặt được một vật của đứa gian vội vàng đánh rơi. Ta vừa nhìn thấy vật này, trong bụng kinh hoảng biết ngay chuyện thật chẳng vừa.

Tống trưởng lão hỏi:

- Vật đó là vật gì thế? Làm sao mà lại chuyện thật chẳng vừa?

Mã phu nhân chậm rãi lấy từ trong bọc đeo sau lưng ra một vật dài chừng bảy tám tấc, đưa cho Từ trưởng lão nói:

- Xin các vị bá bá thúc thúc chủ trì cho.

Từ trưởng lão vừa cầm lấy vật đó, nàng liền phục xuống đất khóc òa lên thật thảm thiết. Mọi người quay sang Từ trưởng lão thấy ông ta mở vật đó ra, thì ra là một cái quạt xếp. Từ trưởng lão trầm giọng đọc bài thơ đề trên chiếc quạt:

Căm căm tuyết đổ Nhạn Môn,

Cỏ bồng theo cát từng cơn mịt mùng.

Làm trai quyết lập đại công,

Dẹp tan Di Địch báo vòng quốc ân.

Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn Môn,

Bình sa lịch loạn quyển bồng căn.

Công danh sỉ kế cầm sinh số,

Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.

Kiều Phong vừa nghe bài thơ đó kinh hoảng không để đâu cho hết, chăm chú nhìn chiếc quạt thấy mặt bên kia vẽ bức tranh “Tráng Sĩ Xuất Tái Sát Địch Đồ”, chính là vật của mình. Bài thơ đó chính là nét bút của ân sư Uông Kiếm Thông, còn bức tranh thì chính do Từ trưởng lão vẽ, tuy không khéo lắm nhưng đầy vẻ hiệp nghĩa, lộ được nét khẳng khái hào hùng của người tráng sĩ trong cơn gió bấc, tuyết đổ mênh mang. Cái quạt đó do ân sư tặng cho năm sinh nhật hai mươi lăm tuổi, trước nay ông quí nó lắm vẫn cất kỹ một nơi, không hiểu sao lại lạc vào trong nhà Mã Đại Nguyên? Vả lại tính tình ông hào tráng, có bao giờ đem theo quạt trong người?

Từ trưởng lão lật qua lật lại chiếc quạt, nhìn kỹ bức tranh, chính là do tay mình vẽ nên, thở dài một tiếng, chép miệng:

- Chẳng phải nòi giống ta, tâm tư quả cũng có khác. Uông bang chủ ơi là Uông bang chủ, việc này ông đã nhầm lẫn lớn rồi.

Kiều Phong từ khi nghe thấy mình là giòng giống Khất Đan, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Đã mươi năm nay lúc nào ông cũng chăm chăm nghĩ kế làm sao tiêu diệt nước Liêu, giết kẻ Khất Đan Hồ Lỗ, đột nhiên gặp phải chuyện này, tuy trong đời đã từng gặp bao nhiêu sóng to gió cả nhưng cũng tay chân luống cuống không biết phải làm sao. Thế nhưng khi Mã phu nhân hết điều nọ đến điều kia đổ cho mình âm mưu giết Mã Đại Nguyên, rồi chiếc quạt của mình xuất hiện, lòng ông trở lại bình tĩnh, chỉ trong một thoáng bao nhiêu chuyện nghĩ ra trong đầu: “Có kẻ ăn cắp chiếc quạt để giá họa cho mình, chuyện này đừng hòng mà làm khó ta được”. Ông quay sang Từ trưởng lão:

- Từ trưởng lão, cái quạt đó là của tôi.

Những người vai vế tương đối cao trong Cái Bang khi nhìn thấy chiếc quạt, nghe Từ trưởng lão đọc bài thơ đã biết ngay là của Kiều Phong, còn những kẻ địa vị thấp hơn thì không biết, đến khi nghe Kiều Phong tự nhận ai nấy đều kinh ngạc. Từ trưởng lão trong lòng cũng hết sức xúc động, lẩm bẩm:

- Uông bang chủ coi ta là kẻ tâm phúc, vậy mà bí mật để lại di mệnh cũng chẳng cho ta hay.

Mã phu nhân đứng thẳng người lên nói:

- Từ trưởng lão, Uông bang chủ không nói cho ông hay cũng là may cho ông đấy.

Từ trưởng lão ngạc nhiên không hiểu hỏi lại:

- Sao thế?

Mã phu nhân buồn bã đáp:

- Trong Cái Bang chỉ một mình Đại Nguyên biết nên mới gặp phải chuyện không may, nếu như ông ... ông cũng biết chắc gì đã qua được kiếp nạn này.

Kiều Phong dõng dạc hỏi:

- Các vị có điều gì muốn nói nữa không?

Đôi mắt ông nhìn Mã phu nhân chuyển sang Từ trưởng lão, rồi qua Bạch Thế Kính, Truyền Công trưởng lão, từng người từng người. Ai nấy đều lặng thinh không đáp. Ông đợi một lát thấy không ai lên tiếng mới nói:

- Kiều mỗ thân thế lai lịch thật đáng hổ thẹn xiết bao, chính ta cũng chưa từng biết đến. Thế nhưng đã có bao nhiêu vị tiền bối đưa ra chứng cớ, Kiều mỗ sẽ hết sức tìm hiểu chân tướng thế nào. Chức vụ bang chủ Cái Bang Kiều mỗ xin nhường lại cho người hiền tài khác.

Nói đến đây ông đưa tay cầm chiếc túi dài đeo bên chân phải, lấy ra một chiếc gậy trúc xanh biếc sáng bóng như gương, chính là Đả Cẩu Bổng, tín vật của bang chủ Cái Bang, hai tay nâng lên cao nói:

- Chiếc gậy này Uông bang chủ trao cho Kiều mỗ để chấp chưởng Cái Bang, tuy không làm được chuyện gì nhưng cũng chưa gây ra tội lớn. Hôm nay thoái vị, vị anh hiền nào nguyện ý gánh vác chức vị này, xin đứng ra nhận chiếc gậy.

Qui củ của Cái Bang từ trước tới nay chức vụ tân bang chủ phải do bang chủ đương nhiệm dùng Đả Cẩu Bổng trao cho, trước khi giao gậy phải dạy Đả Cẩu Bổng Pháp. Cũng có khi cựu bang chủ đột nhiên qua đời, nhưng người kế thừa đã dự lập rồi, Đả Cẩu Bổng cũng đã truyền thụ thành thử chức vụ bang chủ chưa từng tranh chấp. Kiều Phong đang tuổi thanh niên, có dự định gì cũng phải hai chục năm nữa mới tính tới việc tuyển chọn trong bang một kẻ thiếu niên anh hiệp truyền thụ Đả Cẩu Bổng Pháp. Bây giờ mọi người trong Cái Bang thấy ông đứng giữa đám người, hiên ngang khí khái cầm Đả Cẩu Bổng giơ lên, nào có ai dám đứng ra nhận cây bổng?

Kiều Phong liên tiếp hỏi ba lần, trong Cái Bang không một ai trả lời, bèn nói:

- Kiều mỗ thân thế chưa minh bạch, chức vị bang chủ nói cách nào cũng không thể đảm đương được nữa. Từ trưởng lão, Truyền Công, Chấp Pháp hai vị trưởng lão, vật trấn bang chi bảo Đả Cẩu Bổng này xin ba vị cùng nhau bảo quản. Về sau khi định được bang chủ, ba vị trao lại cũng không muộn.

Từ trưởng lão nói:

- Như vậy cũng phải. Còn Đả Cẩu Bổng Pháp mình sẽ bàn đến sau.

Ông tiến lên toan nhận lấy chiếc gậy. Tống trưởng lão đột nhiên lớn tiếng nói:

- Hãy khoan!

Từ trưởng lão ngạc nhiên dừng lại hỏi:

- Tống huynh đệ có chuyện gì muốn nói?

Tống trưởng lão nói:

- Mỗ xem Kiều bang chủ không phải người Khất Đan.

Từ trưởng lão hỏi lại:

- Làm sao biết được?

Tống trưởng lão đáp:

- Mỗ xem ông ta không giống.

Từ trưởng lão ngạc nhiên:

- Sao lại không giống?

Tống trưởng lão đáp:

- Người Khất Đan cùng hung cực ác, tàn bạo âm độc. Kiều bang chủ là một vị anh hùng hảo hán đại nhân đại nghĩa. Mới rồi bọn ta phản ông ta, ông vẫn cam nguyện chịu đâm vào mình chảy máu xá tội phản nghịch cho mọi người. Người Khất Đan đâu có thể như thế được?

Từ trưởng lão nói:

- Y từ bé được cao tăng chùa Thiếu Lâm và Uông bang chủ dưỡng dục nên đã thay đổi tập tính hung tàn của Khất Đan rồi.

Tống trưởng lão cãi:

- Nếu tập tính đã thay đổi thì đâu còn là người xấu nữa, làm bang chủ của chúng ta có gì là không được? Ta xem trong bang không có ai anh hùng như ông ta. Nếu người khác làm bang chủ e rằng họ Tống này không phục.

Những người có cùng tâm tư như Tống trưởng lão cũng khá đông. Kiều Phong ân đức thấm nhuần, nay chỉ bằng lời một vài người, một vài tờ giấy đem ra làm cớ phế bỏ chức bang chủ của ông ta, rất nhiều bang chúng vốn dĩ trung thành với ông không phục. Tống trưởng lão mở đầu nói ra chuyện đó, trong đám ăn mày lập tức có mấy chục người nhao nhao lên:

- Có kẻ âm mưu hãm hại Kiều bang chủ, bọn ta không thể dễ tin lời người ta.

- Chuyện đã mấy chục năm qua, chỉ bằng mấy lời nói bá vơ của vài người, ai biết là thực hay giả?

- Chức vụ bang chủ đâu phải dễ dàng đổi thay như thế được?

- Ta nhất định một lòng theo Kiều bang chủ, muốn thay bang chủ khác, có chặt đầu ta ta cũng không phục.

Hề trưởng lão lớn tiếng nói:

- Ai tình nguyện đi theo Kiều bang chủ thì theo ta đứng sang bên này.

Ông ta tay trái nắm Tống trưởng lão, tay phải nắm Ngô trưởng lão đi qua phía đông. Kế đó Đại Nhân, Đại Tín, Đại Nghĩa phân đà ba đà chủ cũng đứng sang. Các đà chủ đã qua rồi, thuộc hạ bang chúng cũng lục tục đi theo. Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão, Truyền Công trưởng lão cùng Đại Trí, Đại Dũng hai đà chủ ở lại tại chỗ không nhúc nhích. Thế là Cái Bang biến thành hai phe, phía bên đông phải đến năm phần, ba phần đứng lại còn một phần thì do dự không biết phải theo bên nào. Chấp Pháp trưởng lão trước nay hành sự chém đinh chặt sắt, nói một là một nói hai là hai, lúc này cũng phân vân không quyết định được.

Toàn Quan Thanh nói:

- Các anh em, Kiều bang chủ tài lược hơn người, quả thực anh hùng có ai là không bội phục? Thế nhưng chúng ta đều là dân nhà Đại Tống làm sao có thể nghe lệnh một người Khất Đan? Tài nghệ Kiều Phong càng cao thì lại càng thêm nguy hiểm.

Hề trưởng lão kêu lên:

- Nói thối bỏ mẹ! Cái con mẹ ngươi chứ! Ta coi cái bộ dạng ngươi mười phần giống Khất Đan đến chín.

Toàn Quan Thanh lớn tiếng đáp:

- Tất cả chúng ta đều là những hảo hán tận trung báo quốc, lẽ nào cam tâm đi làm chó săn đầy tớ cho người ngoài hay sao?

Mấy câu đó của y quả là hiệu lực, trong số những người chạy sang phía đông có đến mươi người chạy trở lại phía tây. Người phía đông liền chửi mắng giằng co, nhốn nháo cả lên lập tức kẻ dùng quyền cước, kẻ dùng binh khí có đến mấy chục người đấm đá túi bụi. Các trưởng lão lớn tiếng can gián nhưng người nào cũng cho phần phải về mình, Ngô trưởng lão và Trần trưởng lão chỉ mặt nhau rủa sả tưởng như sắp động thủ đến nơi.

Kiều Phong dõng dạc nói:

- Chức vụ bang chủ Cái Bang, ta quyết không đảm đương được nữa ...

Tống trưởng lão liền xen vào:

- Bang chủ chớ có nản lòng ...

Kiều Phong lắc đầu:

- Không phải ta nản lòng. Chuyện khác thì bảo người ta âm mưu vu hãm, chuyện này chính thủ bút của ân sư Uông bang chủ thì không ai còn có thể giả được.

Ông cao giọng nói lớn:

- Cái Bang là đại bang lớn nhất trên giang hồ, uy danh lừng lẫy trong võ lâm có ai là không kính trọng? Nếu như tự mình tàn sát lẫn nhau chẳng khiến cho người ngoài cười đến vẹo cả mồm ra hay sao? Kiều Phong này trước khi ra đi có một lời phụng cáo, nếu kẻ nào một quyền một cước đánh anh em trong bang, ấy là đại tội nhân của bản bang đó.

Cái Bang xưa nay vẫn coi trọng nghĩa khí, nghe ông ta nói mấy câu đó ai nấy đều hổ thẹn ngầm. Bỗng có tiếng đàn bà cất lên:

- Nếu như giết hại anh em trong bang thì sao?

Người nói câu đó chính là Mã phu nhân. Kiều Phong đáp:

- Giết người thì đền mạng, tàn hại anh em thì sẽ bị muôn đời thống hận.

Mã phu nhân nói:

- Vậy thì hay lắm.

Kiều Phong nói:

- Mã phó bang chủ quả thực bị ai giết, kẻ nào ăn cắp cái quạt để hãm hại Kiều mỗ, thể nào cũng phải tra xét cho tới ngọn tới ngành. Mã phu nhân, với thân thủ của họ Kiều này nếu như muốn đến quí phủ lấy gì thì chẳng bao giờ phải về không, lại đánh rơi cả vật trong người. Không nói trong nhà chỉ có ba người đàn bà, dẫu có hoàng cung nội điện, tướng phủ trướng soái, trong chốn thiên quân vạn mã mà Kiều mỗ muốn lấy chưa chắc đã không xong.

Mấy câu nói đó nghe thật hào hùng, Cái Bang ai cũng biết tài nghệ ông ta đều cảm thấy thật là hữu lý không ai bảo rằng nói ngoa. Mã phu nhân chỉ cúi đầu không nói lời nào.

Kiều Phong vòng tay cùng tất cả mọi người thi lễ nói:

- Thanh sơn bất cải, lục thủy trường lưu , hỡi các anh em, mình sẽ có ngày gặp lại. Kiều mỗ là người Hán cũng vậy, mà là người Khất Đan cũng vậy, quyết không bao giờ hại mạng người Hán đâu. Nếu vi phạm lời thề, nguyện như chiếc đao này.

Nói xong ông quay sang phía Đơn Chính lăng không chộp một cái. Đơn Chính chỉ thấy cổ tay tê buốt, ngón tay lỏng ra đơn đao đã bị Kiều Phong cướp mất rồi. Kiều Phong ngón cái và ngón giữa tay phải cong lại búng vào sống đao một cái, nghe coong một tiếng, thanh đao đã gãy làm hai, đầu đao văng ra mấy thước, cán đao vẫn còn ở trong tay. Ông quay qua nói với Đơn Chính:

- Xin lỗi!

Ông ném cán đao xuống đất, quay mình đi thẳng. Mọi người ai nấy ngạc nhiên, có người vội vàng gọi vói theo:

- Bang chủ khoan đi đã.

- Cái Bang toàn nhờ vào bang chủ chủ trì đại cuộc.

- Bang chủ mau quay lại đi.

Bỗng dưng nghe vù một tiếng, một chiếc gậy tre từ trên không ném xuống, chính là Kiều Phong cầm Đả Cẩu Bổng vứt trở lại. Từ trưởng lão giơ tay đón lấy, tay phải vừa cầm vào cây gậy tre, tự nhiên một luồng kình lực từ bàn tay chạy lên cánh tay, từ cánh tay lan ra toàn thân khiến ông bị chấn động mạnh chẳng khác gì bị sét đánh trúng. Ông ta vội buông ra, dư lực của chiếc gậy vẫn còn, cắm thẳng xuống đất.

Người trong Cái Bang cùng kinh hoảng kêu lên nhìn vào vật tối quan trọng của bản bang “thấy bổng như thấy bang chủ” kia, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Mặt trời lúc ấy vừa nhô lên, từng luồng ánh sáng ngoằn ngoèo từ những tàn cây xuyên qua kẽ lá, rọi vào Đả Cẩu Bổng sáng bóng như thoa dầu. Đoàn Dự kêu lên:

- Đại ca, đại ca! Cho tiểu đệ theo với.

Chàng cất bước chạy theo Kiều Phong nhưng chỉ được ba bước bỗng cảm thấy không thể nào rời Vương Ngữ Yên được, quay lại nhìn nàng một cái. Chỉ vừa nhìn một lần đã thấy lưu luyến tưởng như có nghìn vạn sợi dây tơ kéo chàng trở lại bên cạnh Vương Ngữ Yên nói:

- Vương cô nương, bây giờ các cô đi đâu đây?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Biểu ca bị người ta vu oan, xem chừng chính anh ta cũng chưa biết, phải đi tìm cho anh ta hay mới được.

Đoàn Dự trong lòng chua xót, chẳng biết làm sao hơn nói:

- Ồ, ba vị đều là những cô nương trẻ tuổi, đi lại đường xa thật không nên, để tôi hộ tống các cô vậy nhé.

Chàng lại thêm một câu như tự giải thích cho mình:

- Đã từng nghe nhiều đến anh danh Mộ Dung công tử, tôi cũng mong được gặp y một lần.

Chỉ nghe Từ trưởng lão sang sảng nói:

- Làm thế nào để rửa hận cho Mã phó bang chủ, mình phải bàn tính cho kỹ càng. Có điều bản bang không thể một ngày vô chủ, Kiều ... Kiều Phong đã đi rồi, chức vị bang chủ này do ai kế nhiệm là chuyện gấp rút không thể trì hoãn được. Cũng may tất cả mọi người đều có ở đây, vậy mình bàn tính luôn cho được việc.

Tống trưởng lão nói:

- Cứ như ý ta, tất cả bọn mình đi tìm Kiều bang chủ trở lại, xin ông ta hồi tâm chuyển ý, không nên từ nhiệm ...

Ông ta nói chưa dứt câu bên phía tây đã có người kêu lên:

- Kiều Phong là Khất Đan Hồ Lỗ làm sao có thể làm thủ lãnh bọn ta được? Hôm nay tất cả còn nghĩ tới tình cũ nghĩa xưa, lần tới gặp lại đã thành cừu địch thể nào cũng vào thế nước lửa, một trận sống mái mới xong.

Ngô trưởng lão cười khẩy hỏi lại:

- Ngươi thử xem có sống mái nổi với Kiều bang chủ hay không?

Người kia giận dữ đáp:

- Một mình ta đánh y không lại nhưng mười người thì sao? Mười người không xong thì một trăm người? Nghĩa sĩ Cái Bang trung tâm báo quốc, không lẽ thấy địch lại rụt đầu rụt cổ?

Mấy câu của y quả khẳng khái hiên ngang, trong đám phía tây không ít kẻ hò reo tán thưởng. Tiếng reo hò chưa dứt bỗng phía tây bắc có tiếng người lạnh tanh nói:

- Cái Bang hẹn người ta đến Huệ Sơn, bỏ hẹn không đến thì ra thập thò tụ hội nơi đây, ha ha ha, thật quả nực cười!

Giọng đó phát âm không đúng, vừa như lưỡi đầy mồm, lại như mũi bị nghẹt, sắc nhọn như dao đâm vào tai, nghe thật khó chịu. Đại Nghĩa phân đà Tưởng đà chủ, Đại Dũng phân đà đà chủ cùng kêu “chao ôi” một tiếng nói:

- Từ trưởng lão, bọn ta lỡ mất ước hội, bọn đối đầu đã tìm đến đây rồi.

Đoàn Dự cũng nhớ lại lúc ban ngày mới gặp Kiều Phong ở tửu lâu từng nghe thấy có người đến bẩm báo với ông ta ước định ngày mai sáng sớm cùng với người của Nhất Phẩm Đường của nước Tây Hạ gặp nhau tại Huệ Sơn. Khi đó Kiều Phong xem chừng quá ư gấp rút nhưng cũng bằng lòng, bây giờ đã qua giờ Mão, phần lớn người trong Cái Bang không biết có cuộc hẹn này, mà nếu có biết thì cũng đang lo việc đại sự trong bang, không ai để ý gì tới ước hội nữa, bây giờ nghe đối phương mỉa mai mới giật mình nhớ lại.

Từ trưởng lão hỏi liên tiếp:

- Ước hội gì thế? Bên kia là ai?

Ông đã lâu không nhúng tay vào sự vụ trong bang nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Chấp Pháp trưởng lão hỏi nhỏ Tưởng đà chủ: 

- Có phải Kiều bang chủ bằng lòng gặp họ hay chăng?

Tưởng đà chủ đáp:

- Đúng thế, có điều thuộc hạ đã phụng mệnh Kiều bang chủ phái người đến Huệ Sơn yêu cầu đối phương hoãn lại bảy ngày.

Người nói giọng khó nghe kia quả là thính tai, Tưởng đà chủ chỉ nói nhỏ mấy câu y đã nghe được nói:

- Đã ước hẹn rồi, đâu có thể nào hoãn lại bảy ngày, tám ngày gì được? Hoãn lại nửa giờ cũng không được?

Bạch Thế Kính giận dữ nói:

- Cái Bang chúng ta đường đường là một bang hội của Đại Tống, có sợ gì quân Hồ Lỗ Tây Hạ? Chỉ vì bản bang đang có việc trọng yếu nên không thể chu toàn công việc với bọn chuột nhắt các ngươi. Thay đổi ước hội cũng là chuyện thường, có gì mà phải lầu bầu?

Đột nhiên từ trong rừng hạnh bay ra một người nằm thẳng cẳng dưới đất không cục cựa. Người đó mặt mũi máu me bê bết, cổ họng đã bị cắt đứt, chết từ bao giờ, người trong Cái Bang nhận ra chính là Tạ phó đà chủ của Đại Nghĩa phân đà. Tưởng đà chủ vừa kinh hoàng vừa tức tối nói:

- Tạ huynh đệ do tôi sai đi thay đổi kỳ hẹn.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Từ trưởng lão, bang chủ không có mặt nơi đây, xin trưởng lão tạm nắm quyền bang chủ.

Ông ta không muốn tiết lộ chuyện trong bang vô chủ để khỏi bị đối phương coi nhẹ. Từ trưởng lão hội ý nghĩ thầm lúc này nếu mình không đứng ra thì sẽ không có ai chủ trì đại cục bèn dõng dạc nói:

- Người ta thường nói hai nước đang giao tranh thì không chém sứ giả. Tệ bang phái người lại xin đổi hẹn kỳ, sao lại giết y là sao?

Giọng lạnh lẽo kia trả lời:

- Người này thần thái phách lối, nói năng vô lễ gặp tướng quân bên ta không chịu quì lạy nên đâu để y sống được?

Người của Cái Bang nghe thế ai nấy nổi sùng, lắm người cất tiếng chửi rủa ồn cả lên. Từ trưởng lão đến lúc này vẫn chưa biết đối phương là hạng người gì, nghe Bạch Thế Kính gọi là "Tây Hạ Hồ Lỗ", người kia lại nói "tướng quân bên ta" khiến ông càng không biết đâu mà mò bèn nói:

- Ngươi thập thò lấp ló sao không dám ra mặt? Nói năng lếu láo chỉ giỏi tài huênh hoang là sao?

Người kia cười sằng sặc nói:

- Đứa nào mới là thập thò lấp ló nơi rừng hạnh?

Bỗng từ đằng xa có tiếng kèn kêu u u, rồi nghe văng vẳng cách chừng vài dặm có tiếng một đoàn ngựa chạy. Từ trưởng lão ghé tai hỏi nhỏ Bạch Thế Kính:

- Bọn này là bọn nào? Có chuyện gì thế?

Bạch Thế Kính cũng thì thầm:

- Nước Tây Hạ có một võ quán gọi là Nhất Phẩm Đường do quốc vương nước đó lập ra chiêu tập những kẻ võ công cao cường dùng trọng lễ cung phụng để dụ họ truyền thụ võ nghệ cho quân quan.

Từ trưởng lão gật đầu nói:

- Nước Tây Hạ chỉnh đốn binh mã, luyện tập võ nghệ, chẳng phải có ý dòm ngó giang sơn nhà Đại Tống hay sao?

Bạch Thế Kính nói nhỏ:

- Chính là thế đó. Phàm những người đã vào được Nhất Phẩm Đường đều phải là võ công đệ nhất thiên hạ. Chỉ huy Nhất Phẩm Đường là một vị vương gia, được phong tới chứ Chinh Đông Đại Tướng Quân, tên đâu là Hách Liên Thiết Thụ. 

Cứ theo như anh em Dịch Đại Bưu được bản bang phái qua Tây Hạ dò thám báo về, gần đây Hách Liên Thiết Thụ dẫn các võ sĩ trong quán đi qua Biện Lương triều kiến Thái Hậu và hoàng thượng nhà Đại Tống chúng ta.

Thế nhưng triều kiến chỉ là giả vờ, thực ra là đi dò thám hư thực ra sao. Bọn chúng biết bản bang là một trong những cây cột lớn của võ lâm Đại Tống nên định ra tay tiêu diệt, trước là để gây uy thế, sau là khi đưa binh xâm phạm biên giới sẽ dễ dàng thẳng đường tiến vào.

Từ trưởng lão trong bụng hãi thầm hạ giọng:

- Cái kế đó thật là ác độc.

Bạch Thế Kính đáp:

- Gã Hách Liên Thiết Thụ kia rời Biện Lương liền đến tổng đà của chúng ta ở Lạc Dương. Cũng may khi đó Kiều bang chủ dẫn tất cả chúng ta đi Giang Nam để báo thù cho Mã phó bang chủ nên bọn Tây Hạ không kiếm được gì. Thế nhưng bọn chúng không chịu bỏ cuộc cũng đuổi theo xuống Giang Nam, sau cùng định ước hội với Kiều bang chủ.

Từ trưởng lão trầm ngâm rồi nói:

- Nếu như vậy bọn chúng tính toán trước là tiêu diệt Cái Bang, không chừng sau đó sẽ tấn công chùa Thiếu Lâm rồi đánh cho các môn phái Trung Nguyên một trận tan tành.

Bạch Thế Kính nói:

- Nói thì nói vậy nhưng bọn võ sĩ Tây Hạ có làm được không lại là chuyện khác. Bọn chúng được bao nhiêu mà phách lối làm vậy? Kiều bang chủ cũng biết ít nhiều, khổ nỗi ông ta ở lúc khẩn cấp quan đầu này ...

Nói tới đây ông ta cảm thấy không ổn nên ngừng lại không nói nữa. Khi đó tiếng chân kéo tới đã gần, nghe thấy ba tiếng kèn gấp rút nổi lên, tám con tuấn mã chia ra hai hàng chạy thẳng vào rừng. Tám người ngồi trên lưng ngựa đều cầm giáo dài, trên đầu giáo có treo một lá cờ nhỏ, mũi giáo lấp lánh, phía bên trái trên bốn lá cờ có thêu hai chữ “Tây Hạ” bằng chỉ trắng còn bên phải thì là hai chữ “Hách Liên”, ngoài ra còn thêu những chữ Tây Vực ngoằn ngoèo. Kế đó lại có tám con ngựa khác chia thành hai hàng chạy vào, trên lưng ngựa bốn người cầm kèn, bốn người đánh trống.

Người của Cái Bang ai nấy cau mày: “Họ giàn trận chẳng khác gì hai bên giao binh chứ nào có phải anh hùng hảo hán trong võ lâm gặp gỡ đâu?”. Theo sau đoàn kèn trống là tám võ sĩ Tây Hạ. Từ trưởng lão thấy tám gã này chỉ nhìn thoáng đã biết đều là võ công thượng thừa nghĩ bụng: “Xem ra đây là những nhân vật trong Nhất Phẩm Đường”.

Tám tên võ sĩ đó chia ra đứng hai bên, kế đó một người cưỡi ngựa chậm rãi đi vào. Người đó mặc cẩm bào màu đỏ, tuổi chừng ba mươi tư, ba mươi nhăm, mũi khoằm khoằm để râu mép chảy sang hai bên. Theo sau y là một người thân hình cực cao, mũi to xù vừa vào trong rừng đã quát lớn:

- Chinh Đông Đại Tướng Quân của Tây Hạ giá lâm, bang chủ Cái Bang mau ra bái kiến.

Giọng nói nghe quái đản chính là người hồi nãy mới nói chuyện. Từ trưởng lão nói:

- Bang chủ bản bang không có mặt nơi đây, lão hủ thay mặt bang chủ trông coi bang vụ. Anh em Cái Bang là thảo mãng trên chốn giang hồ, nếu tướng quân nước Tây Hạ dùng khách lễ để gặp gỡ thì anh em chúng tôi không dám vói cao. Xin mời tướng quân đi bái hội vương công quan trưởng nhà Đại Tống chứ đừng đến gặp bọn ăn mày xin cơm thừa canh cặn này làm gì. Còn như dùng thân phận đồng đạo võ lâm gặp nhau, tướng quân từ xa đến là khách, xin mời xuống ngựa xử với nhau theo lễ tân chủ.

Mấy câu nói đó không hạ mình mà cũng không ngạo mạn, cũng không đắc tội với đối phương, lại giữ được vai trò của mình. Ngưới trong Cái Bang đều nghĩ thầm: “Đúng là gừng càng già càng cay, Từ trưởng lão xử sự thật đúng phép”.

Gã mũi to lại nói:

- Nếu như bang chủ quí bang không có nơi đây thì tướng quân chúng ta không thể dùng lễ đãi các ngươi được.

Y liếc qua nhìn thấy cây gậy đánh chó còn cắm dưới đất biết đó là vật rất quan trọng của Cái Bang bèn nói:

- Ồ, cái gậy tre kia xanh biếc sáng bóng thế này lấy đem về làm cán chổi thì thật tốt quá.

Y vung tay một cái chiếc roi ngựa liền tung ra cuốn vào Đả Cẩu Bổng. Người trong Cái Bang cùng quát tháo:

- Cút ra mau!

- Con bà ngươi!

- Đồ Thát tử chó má!

Chiếc roi của y sắp sửa cuốn vào cây gậy đánh chó, đột nhiên thấp thoáng có một bóng người đã phóng xéo ra, chặn ngay trước Đả Cẩu Bổng, vươn cánh tay để cho chiếc roi ngựa cuốn lấy. Người đó co tay lại, gã mũi to không còn cách nào ngồi vững trên yên được nữa phải nhảy chồm tới đứng xuống đất. Hai người cùng sử kình, nghe soẹt một tiếng chiếc roi đứt ra làm hai. Người đó vòng tay cầm lấy cây gậy không nói không rằng quay trở về chỗ cũ.

Mọi người nhìn ra thấy ông ta lụ khụ hom hem, chính là Truyền Công trưởng lão. Ông ta võ công rất cao cường, bình thời ít nói nhưng khi món trọng khí của Cái Bang bị nguy nan, lập tức xông ra bảo vệ, chỉ trong một chiêu đã kéo được gã mũi to rơi xuống đất lại giựt chiếc roi ngựa đứt đôi xem như đối phương đã thua rồi.

Gã mũi to tuy bị thất thế nhưng vẫn thản nhiên như không nói:

- Bọn ăn mày ăn nhặt quả nhiên tính khí hẹp hòi, đến một khúc tre cũng chẳng chịu cho ai.

Từ trưởng lão nói:

- Các anh hùng hảo hán nước Tây Hạ định ước hội với tệ bang là để làm gì?

Gã kia đáp:

- Tướng quân chúng ta nghe nói bọn ăn mày của Trung Nguyên có hai tài vặt, một là phép dùng gậy đập mèo, hai là mười tám cách bắt rắn nên muốn xem chơi.

Người trong Cái Bang nghe y nói ai nấy đều sôi gan, gã này rõ ràng có ý nhục mạ, cố ý đổi Đả Cẩu Bổng Pháp thành Đả Miêu Bổng Pháp, đem Hàng Long Thập Bát Chưởng đổi thành Hàng Xà Thập Bát Chưởng, xem ra buổi gặp gỡ hôm nay không thể tránh khỏi được một phen ác đấu sống chết, mất còn.

Trong khi quần cái hò la chửi rủa, Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão các người trong bụng bồn chồn nghĩ thầm: “Môn Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng xưa nay chỉ một mình bang chủ biết sử dụng, bọn đối đầu hẳn cũng đã nghe tiếng hai môn tuyệt kỹ này, vậy và vẫn nhơn nhơn đến khiêu chiến e rằng không phải dễ đối phó”. Từ trưởng lão nói:

- Nếu các ngươi muốn xem phép dùng gậy đập mèo và mười tám cách bắt rắn của bản bang thì cũng chẳng khó khăn chi, miễn là đem ra đây mấy con mèo mướp hoặc vài con rắn lột sẽ coi bọn ăn mày chúng ta đối phó cho mà xem. Các hạ học võ mèo hay học võ rắn?

Ngô trưởng lão bật cười ha hả nói:

- Đối phương là rồng thì bọn ta hàng long. Đối phương là rắn, ăn mày chỉ cần thò tay là bắt được.

Gã mũi to cãi cũng lại thua, đang suy nghĩ để châm chọc lại thì từ đằng sau y có tiếng người ồm ồm:

- Đánh mèo cũng được mà bắt rắn cũng xong, ra đây! Ra đây! Ai có giỏi ra đây đánh với ta một trận nào?

Nói xong y từ trong đám người bước ra, vênh váo đứng chống nạnh. Bọn ăn mày thấy y tướng mạo xấu xí, vẻ mặt hung ác, bỗng nghe Đoàn Dự kêu lên:

- Ồ, đồ nhi ơi, ngươi cũng đến đây hả? Gặp sư phụ sao không biết khấu đầu?

Thì ra chính là Nam Hải Ngạc Thần Nhạc lão tam. Y vừa thấy Đoàn Dự liền giật mình hoảng hốt, thần sắc cực kỳ ngượng ngập ấp úng:

- Ngươi ... ngươi ...

Đoàn Dự đáp:

- Học trò ngoan của ta ơi! Bang chủ Cái Bang là huynh trưởng kết nghĩa của ta, những người nơi đây đều là sư bá sư thúc, ngươi không được vô lễ. Mau mau trở về nhà đi thôi.

Nam Hải Ngạc Thần rống lên một tiếng khiến cho lá cây chung quanh phải rung lên xào xạc, cất tiếng chửi:

- Đồ khốn kiếp, quân chó đẻ!

Đoàn Dự sầm mặt xuống:

- Ngươi chửi ai là đồ khốn kiếp, quân chó đẻ?

Nam Hải Ngạc Thần tuy tính tình cực kỳ hung tợn nhưng nói ra không bao giờ nuốt lời, y đã từng bái Đoàn Dự làm thầy nên không dám giở nước bài bây bèn nói:

- Ta thích chửi ai thì chửi, sao ngươi cấm ta được? Ta không chửi ngươi là được.

Đoàn Dự nói:

- Hừ, ngươi gặp sư phụ sao không biết lạy thầy hỏi thăm sức khỏe? Thế thì còn ra thể thống gì nữa?

Nam Hải Ngạc Thần cố nén bực tức tiến lên quì xuống khấu đầu nói:

- Sư phụ, lão nhân gia khỏe chứ?

Y càng nghĩ càng tức, nhảy bật lên co giò chạy một mạch, vừa chạy vừa rống lên từng chập. Mọi người nghe tiếng rống đó ầm ầm như sóng triều đang lui, mỗi lúc một xa dần nhưng vẫn cuồn cuộn từng đợt thật là mãnh liệt, chỉ nghe tiếng rú đó cũng biết y võ công cao cường không sao kể xiết, trong Cái Bang họa chăng chỉ có Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão một vài người có thể chống cự được với y. Đoàn Dự là một văn nhược thư sinh sao lại là sư phụ y được quả hết sức kỳ quái. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người biết Đoàn Dự hoàn toàn không biết võ công lại càng kinh ngạc vạn phần.

Trong đám võ sĩ Tây Hạ đột nhiên có một người nhảy ra, thân hình cao nghệu như cây tre miễu nhưng thân thủ nhanh nhẹn dị thường, hai tay cầm một loại binh khí kỳ lạ, cán dài chừng ba thước một đầu là cương trảo hình năm ngón tay. Đoàn Dự nhận ra y chính là người đứng thứ tư trong Thiên Hạ Tứ Ác, Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc nên nghĩ thầm: “Không lẽ cả bốn tên đại ác này đều đầu nhập nước Tây Hạ?”. Chàng để ý nhìn những người của nước Tây Hạ quả nhiên thấy Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương đang bồng một đứa trẻ, miệng mủm mỉm cười đứng trong đó, có điều không thấy người đứng đầu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh mà thôi. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chỉ cần thái tử Diên Khánh không có nơi đây, nhị ác và tứ ác thì Cái Bang có thể đối phó được.

Thì ra Thiên Hạ Tứ Ác từ Đại Lý thất thế chạy lên hướng bắc, gặp phải sứ giả của Tây Hạ Nhất Phẩm Đường đi rao tìm cao thủ võ học, bọn chúng liền đầu nhập cho đỡ lẻ loi. Bốn người đó võ công cao cường biết chừng nào, chỉ cần giở một chút ra là được đón nhận ngay. Kỳ này đi qua Biện Lương, Hách Liên Thiết Thụ dẫn bọn họ theo cũng khá trọng vọng. Đoàn Diên Khánh tự nghĩ thân phận cao sang, tuy cũng ở trong Nhất Phẩm Đường nhưng đi đứng riêng không chịu kiềm thúc nên không đi chung với mọi người.

Vân Trung Hạc kêu lên:

- Tướng quân chúng ta muốn coi hai tuyệt kỹ của Cái Bang xem bọn ăn mày chúng bay có bản lãnh thực hay chỉ giỏi tài nói khoác, mau mau ra đây.

Hề trưởng lão nói:

- Để ta ra cao thấp một phen.

Từ trưởng lão dặn:

- Gã này khinh công rất cao cường, Hề huynh đệ phải cẩn thận.

Hề trưởng lão đáp:

- Vâng!

Ông ta xách cương trượng, đi đến đứng trước mặt Vân Trung Hạc nói:

- Tuyệt kỹ của bản bang cũng tùy người mà dùng. Những kẻ vô danh tiểu tốt như các hạ việc gì phải dùng đến Đả Cẩu Bổng Pháp? Coi chiêu đây!

Ông ta vung cương trượng lên tiếng gió nghe vù vù đánh xéo xuống vai Vân Trung Hạc. Hề trưởng lão thân hình lùn mập thế nhưng chiếc gậy sắt trong tay dài đến hơn một trượng, một khi múa lên tuy Vân Trung Hạc người cao như thế nhưng vẫn có thể đập từ trên cao xuống. Vân Trung Hạc nghiêng qua tránh được, nghe bình một tiếng đất cát văng lên tứ tán, cương trượng đánh xuống lõm vào cả thước. Vân Trung Hạc biết chân lực của mình kém ông ta xa nên chỉ thoắt một cái lạng qua bên đông, vụt qua bên tây sử dụng khinh công đánh vờn vờn, Hề trưởng lão múa cương trượng thành một vòng trắng xóa nhưng trước sau vẫn không chạm được đến vạt áo của Vân Trung Hạc.

Đoàn Dự còn đang ngẩn ngơ nhìn xuất thần bỗng bên tai nghe một giọng thật êm dịu nói:

- Đoàn công tử, mình giúp ai bây giờ?

Đoàn Dự nghiêng đầu nhìn qua thấy đó là Vương Ngữ Yên, trong lòng tự nhiên thấy lâng lâng sảng khoái vội hỏi lại:

- Cái gì ... cái gì mà bảo giúp ai?

Vương Ngữ Yên nói:

- Gã cao nghệu kia là bạn của học trò anh, còn ông già ăn mày lùn mập thì là hạ thuộc của bả huynh anh. Hai người càng đấu càng ác liệt anh nghĩ mình nên giúp bên nào?

Đoàn Dự đáp:

- Gã học trò của tôi là đứa ác nhân, còn tên cao gầy này tính tình lại càng tồi bại hơn nữa, đừng giúp y làm gì.

Vương Ngữ Yên trầm ngâm đáp:

- Hừ, thế nhưng cả lũ ăn mày đã đuổi bả huynh anh đi không để ông ta làm bang chủ nữa, lại vu oan cho biểu ca tôi, tôi ghét họ lắm.

Trong tâm tư một cô gái như nàng, ai đối với biểu ca nàng không tốt, người đó trở thành kẻ tệ mạt nhất thiên hạ nên nói tiếp:

- Ông già lùn mập kia sử dụng hai mươi bốn đường Phục Ma Trượng của Ngũ Đài Sơn nhưng vì ông ta lùn quá thành thử hai chiêu Tần Vương Tiên Thạch , Đại Bằng Triển Xí không được hay cho lắm. Chỉ cần tấn công vào hạ bàn bên mé phải là ông ta sẽ không chống đỡ được đâu. Thế nhưng gã cao gầy kia nhìn không ra, lại tưởng hạ bàn ông già lùn vững lắm, trông vậy mà không phải vậy.

Giọng nàng nói rất nhỏ thế nhưng những cao thủ nội công tinh thâm ở đương trường đều nghe thấy cả. Những người đó hầu hết biết võ công gia số của Hề trưởng lão nhưng khuyết điểm ở chỗ nào thì lại chẳng mấy ai nhìn ra, đến khi nghe Vương Ngữ Yên chỉ điểm, bấy giờ mới thấy quả là không sai. Hề trưởng lão khi sử dụng chiêu Tần Vương Tiên Thạch và Đại Bằng Triển Xí quả thật uy mãnh hữu dư, trầm trọng bất túc, hạ bàn có chút nhược điểm.

Vân Trung Hạc quay sang liếc Vương Ngữ Yên, khen:

- Cô bé xinh xắn quá, lại có mắt tinh đời, theo ta làm vợ thì thật phải.

Y vừa nói xong, cương trảo trong tay liền tấn công bên dưới Hề trưởng lão ba chiêu liên tiếp, chiêu thứ ba Hề trưởng lão đỡ không kịp, nghe xoạt một tiếng, đùi bị Vân Trung Hạc móc một đường dài, lập tức tươm máu ra.

Vương Ngữ Yên nghe Vân Trung Hạc khen mình xinh đẹp có vẻ thích lắm, những lời khinh bạc của y không để vào đâu, mỉm cười đáp:

- Rõ xấu chưa? Ngươi có cái gì hay? Ta không lấy ngươi đâu.

Vân Trung Hạc lấy làm khoái trí nói:

- Sao lại không lấy? Chắc là tại có cái tên mặt trắng đứng kia chứ gì? Để ta giết ý trung nhân của cô trước, xem có chịu lấy ta không nào?

Câu nói đó phạm vào đại kỵ của Vương Ngữ Yên, mặt nàng liền cau lại không thèm nhìn đến y nữa. Vân Trung Hạc đang toan nói thêm mấy câu chớt nhả, Ngô trưởng lão trong Cái Bang đã nhảy ra giơ thanh quỉ đầu đao chém liên tiếp bên trái bốn nhát, bên phải bốn nhát, trên bốn nhát, dưới bốn nhát, bốn lần bốn tổng cộng mười sáu lần, thế đao cực kỳ cương mãnh. Vân Trung Hạc không biết đao pháp của ông ta thế nào chỉ còn né đông tránh tây, rụt đầu xuống, nhảy dựng lên thật là cuống quít.

Vương Ngữ Yên cười nói:

- Đao pháp của Ngô trưởng lão là Tứ Tượng Lục Hợp Đao, bên trong có chứa bát quái sinh khắc biến hóa gã gầy cao kia đâu có biết được. Giá như y sử dụng Hạc Xà Bát Đả thì Tứ Tượng Lục Hợp Đao phá dễ như chơi.

Người trong Cái Bang nghe nàng mớm lời giúp cho Vân Trung Hạc, ai nấy lộ vẻ tức tối, thấy Vân Trung Hạc lập tức biến chiêu, xoạc hai chân, cương trảo quạt ngang trông chẳng khác gì một con chim hạc. Vương Ngữ Yên ghé tai Đoàn Dự nói thầm:

- Gã sếu vườn kia bị vào tròng của tôi rồi, không chừng tay trái của y bị chém đứt.

Đoàn Dự lạ lùng hỏi:

- Sao thế?

Chỉ thấy Ngô trưởng lão đao pháp ngưng trọng, nghiêng đao hớt qua, tưởng chừng không ra chương cú gì, ra tay mỗi lúc một chậm, đột nhiên chém vụt ba đao thật nhanh, bạch quang thấp thoáng. Vân Trung Hạc “A” lên một tiếng kinh hoàng, lưng bàn tay trái đã bị lưỡi đao chém trúng, cương trảo trong tay cầm không vững, nghe keng một tiếng rơi ngay xuống đất. Cũng may thân pháp y thật nhanh, kịp nhảy ngược về sau né được ba đao tấn công tiếp theo của Ngô trưởng lão.

Ngô trưởng lão đi tới trước mặt Vương Ngữ Yên, dựng đao lên nói:

- Đa tạ cô nương.

Vương Ngữ Yên cười nói:

- Kỳ Môn Tam Tài Đao của Ngô trưởng lão quả là tinh diệu.

Ngô trưởng lão kinh ngạc nghĩ thầm: “Hóa ra cô ta vốn biết đao pháp của ta rồi”. Thì ra Vương Ngữ Yên cố ý nói đao pháp của Ngô trưởng lão thành Tứ Tượng Lục Hợp Đao, rồi theo chiêu số của Vân Trung Hạc liệu chừng y biết sử dụng Hạc Xà Bát Đả dụ y vào chỗ bị chế ngự, quả nhiên bàn tay suýt nữa bị chém đứt.

Gã mũi to giọng nói khó nghe đứng bên cạnh Hách Liên Thiết Thụ tên là Nỗ Nhi Hải, thấy Vương Ngữ Yên chỉ nói vài câu đã giúp Vân Trung Hạc đả thương Hề trưởng lão rồi lại chỉ vài câu khiến cho Ngô trưởng lão đả thương Vân Trung Hạc nên quay sang nói với Hách Liên Thiết Thụ:

- Tướng quân, cô gái người Hán kia thật là kỳ lạ, chi bằng bắt về Nhất Phẩm Đường, ép thổ lộ những gì y thị biết thể nào cũng có đại dụng.

Hách Liên Thiết Thụ đáp:

- Hay lắm! Ngươi tới bắt nó về đi.

Nỗ Nhi Hải gãi đầu, nghĩ bụng: “Cái tính của tướng quân thật khó chơi, mỗi lần ta hiến kế gì y đều chỉ nói: Hay lắm, ngươi làm đi. Hiến kế thì dễ làm mới khó, xem ra tiểu cô nương kia võ công cao siêu không biết đến đâu mà kể, ta dại gì lộ cái dở ra trước mặt cô ta. Hôm nay chính là lúc bọn ăn mày tụ tập nơi đây, tốt hơn hết là tiên hạ thủ vi cường”. Y giơ tay ra hiệu, bốn tên hạ thuộc lập tức đi ra.

Nỗ Nhi Hải tiến lên mấy bước nói:

- Từ trưởng lão, tướng quân chúng ta muốn xem Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng, các ngươi có gì hay thì đưa ra, còn như không biết, bọn ta không có hơi đâu mà chờ, thôi ta đi đây.

Từ trưởng lão cười khẩy đáp:

- Các cao thủ trong Nhất Phẩm Đường của quí quốc, khoe mình võ công hạng nhất, hóa ra chỉ bình thường không có gì xuất sắc, nếu như muốn xem Đả Cẩu Bổng Pháp và Hàng Long Thập Bát Chưởng e rằng chưa xứng.

Nỗ Nhi Hải nói:

- Thế nào mới xứng?

Từ trưởng lão đáp:

- Trước hết phải đánh bại bọn ăn mày vô tích sự chúng ta đã, đầu não của Cái Bang lúc đó mới ra mặt ...

Ông vừa nói tới đây đột nhiên ho sù sụ, tiếp theo hai mắt đau nhức không sao mở ra được, nước mắt chảy dầm dề nên kinh hãi vội nhảy vọt lên, nín thở đá luôn ba cái. Nỗ Nhi Hải không ngờ ông già tóc đã trắng xóa nhưng nói đánh là đánh ngay, thân thủ lại còn nhanh đến thế vội vàng tránh ra nhưng chỉ tránh được chỗ yếu hại trên ngực, đầu vai vẫn bị đá trúng, lảo đảo mấy cái mới mượn thế nhảy vọt về sau. Từ trưởng lão nhảy lên lần thứ hai còn đang ở trên không đã thấy chân tay uể oải, rơi xuống đất đánh bịch một cái.

Người của Cái Bang kêu réo om sòm:

- Không xong rồi, bọn Thát tử chơi bẩn.

- Mắt tôi dính cái gì thế này?

- Tôi không mở mắt được.

Mọi người ai nấy mắt đau đớn, nước mắt đầm đìa. Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người cũng chịu chung số phận không sao mở mắt được.

Thì ra chỉ trong khoảnh khắc, người Tây Hạ đã tung ra Bi Tô Thanh Phong là một loại độc khí không mùi vị, không mầu sắc. Thuốc này chế thành nước lấy từ những độc vật trong Hoan Hỉ Cốc ngoài Đại Tuyết Sơn nước Tây Hạ, bình thời để trong bình, người hạ độc khi sử dụng nhét sẵn thuốc giải trong mũi, khi mở nắp lập tức độc thủy biến thành hơi bay ra, thoang thoảng như gió nhẹ nên dù người có tinh ý cách nào cũng không phát giác được, đến khi mắt thấy đau nhói thì độc khí đã xâm nhập đầu não.

Người trúng độc nước mắt đầm đìa nên gọi là “bi”, toàn thân không cử động được nên gọi là “tô”, độc khí không màu sắc, không mùi vị nên gọi là “thanh phong”.

Chỉ nghe “Ôi chao”, “Trời ơi” liên tiếp, quần cái thi nhau ngã gục. Đoàn Dự vì đã ăn phải Mãng Cổ Chu Cáp, vạn độc bất xâm Bi Tô Thanh Phong tuy đã hút vào mũi rồi nhưng chàng không ”bi” mà cũng chẳng “tô”, thấy bọn ăn mày cùng Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ai nấy tỏ vẻ đau đớn chẳng hiểu tại sao, trong bụng không khỏi hoảng hốt.

Nỗ Nhi Hải lớn tiếng hò hét, chỉ huy bọn võ sĩ trói người trong Cái Bang, còn mình thì đến trước mặt Vương Ngữ Yên, giơ tay toan nắm cổ tay nàng. Đoàn Dự quát lên:

- Ngươi làm gì thế?

Trong cơn gấp gáp, ngón tay trỏ tay phải búng một cái, một luồng chân khí từ đầu ngón tay bắn vọt ra nghe vèo vèo, chính là Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn nước Đại Lý. Nỗ Nhi Hải chưa từng nếm mùi nên không để ý, vẫn tiếp tục xông tới nắm tay Vương Ngữ Yên, đột nhiên nghe cắc một tiếng, cánh tay phải không hiểu sao đã gãy lìa, treo lủng lẳng. Nỗ Nhi Hải thảm thiết kêu lên một tiếng, vội đứng lại.

Đoàn Dự cúi xuống bồng Vương Ngữ Yên lên, thi triển Lăng Ba Vi Bộ, bước lệch qua ba bước, lại ngang hai bước chạy ra khỏi đoàn người. Diệp Nhị Nương tay phải vung ra, một mũi độc châm bắn thẳng vào lưng chàng. Mũi độc châm đó đường đi lẫn kình lực nhắm rất chính xác, Đoàn Dự vốn không thể nào tránh được. Thế nhưng bộ pháp của chàng, lúc thì đi xéo, lúc lại lui về đến khi độc châm đến nơi thì chàng đã ở bên phải ba thước rồi.

Ba tên hảo thủ trong đám võ sĩ Tây Hạ liền nhảy lên ngựa, hò hét đuổi theo. Đoàn Dự lạng người đến gần một con tuấn mã, đặt Vương Ngữ Yên nằm ngang trên yên, sau đó nhảy lên, giật cương chạy.

Võ sĩ Tây Hạ vốn đã canh gác những điểm trọng yếu chung quanh rừng hạnh, thấy Đoàn Dự chạy ra, lập tức phóng tên nhưng nhờ có những cây hạnh chắn đỡ, hơn chục mũi lang nha vũ tiễn đều cắm ngập vào thân cây.

Đoàn Dự kêu lên:

- Ngựa ngoan ơi là ngựa ngoan, ngươi chạy càng nhanh càng tốt! Về nhà ta cho ngươi ăn gà, ăn thịt, ăn cá ăn dê.

Chàng quên mất một điều ngựa đâu có ăn thịt, chỉ ăn cỏ mà thôi

1 Hoàng Đế (Yellow Emperor) theo truyền thuyết là một trong những vì vua thủy tổ của người Trung Hoa.

2 Hiện nay ở Sơn Tây cách huyện Đại ba mươi dặm về hướng Tây Bắc. Thời Đường cửa ải này ở trên đỉnh núi cao, tới thời Nguyên thì phế bỏ. Qua đời Minh mới dời xuống thung lũng giữa hai ngọn núi và tồn tại cho tới ngày nay. 

3 Tấm lòng thương xót ai ai cũng có cả

4 sơ xuất mao lô, ý nói vừa mới ra đời dùng theo điển trong Tam Quốc Khổng Minh ra khỏi lều tranh để giúp Lưu Bị.

5 Chữ lót nhà họ Đơn đặt theo lối cổ Mạnh Trọng Thúc Quí Tiểu (xin xem thêm Người Trung Hoa đặt tên thế nào? của Nguyễn Duy Chính)

6 Theo Tây lịch thì là năm 1083, Kiều Phong đã làm bang chủ được 8 năm vậy hiện thời là năm 1091 hay 1092 (Nguyên Tá thứ 6)

7 Hệ Từ Thượng, Dịch Kinh: Mạn tàng hối đạo, dã dung hối dâm có tiền của mà không dấu cho kỹ thì sẽ dễ dẫn dụ đạo tặc vào, có nhan sắc mà phô ra cho người ta thấy có khác gì dụ người ta vào chuyện dâm ô.

8 Người vợ góa, chữ văn vẻ

9 Tên một nước ở Tây Vực đời Hán, sau đổi thành Thiện Thiện nay thuộc Tân Cương đã chìm vào trong sa mạc.

10 Núi biếc kia còn đó, Sông xanh vẫn chảy hoài.

11 Anh em kết nghĩa

12 vua Tần dùng roi đánh vào tảng đá

13 bi là buồn bã, tô là mềm nhũn 

datlucky_way

23-07-2009 08:16 AM

Hồi 17(a) : KIM NHẬT Ý 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Dù cho sông cạn đá mòn,

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ.

(Ca Dao VN)

*

* *

Hai người cưỡi chung một con ngựa chạy lồng lên một hồi, nhìn quanh chỉ thấy toàn là vườn dâu, chẳng mấy chốc đã bỏ bọn võ sĩ Tây Hạ không còn thấy tăm hơi đâu nữa.

Đoàn Dự hỏi:

- Vương cô nương, cô thấy trong người ra sao?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Tôi bị trúng độc uể oải không còn chút hơi sức nào.

Đoàn Dự nghe nói trúng độc sợ đến nhảy nhổm lên vội hỏi:

- Có nặng lắm không? Làm thế nào để có thuốc giải được đây?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Tôi cũng chẳng biết nữa. Anh cứ giục ngựa chạy thật nhanh đến được nơi nào an toàn rồi mới tính được.

Đoàn Dự hỏi:

- Thế chỗ nào mới an toàn?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Tôi cũng nào có biết.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta đã vỗ ngực hứa bảo vệ cho nàng được bình yên chu toàn, bây giờ lại bảo nàng chỉ cho mình thì còn trò trống gì nữa?”. Chàng không biết tính sao chỉ đành thúc ngựa tiếp tục chạy.

Chạy khoảng chừng một bữa ăn không nghe thấy tiếng đuổi theo trong bụng mới hơi yên bỗng lắc tắc có mấy giọt mưa. Đoàn Dự cứ chạy một quãng lại hỏi:

- Vương cô nương, cô thấy ra sao rồi?

Vương Ngữ Yên chỉ đáp:

- Không sao cả.

Đoàn Dự cùng đi với mỹ nhân, trong lòng vui sướng không để đâu cho hết nhưng cũng sợ chất độc nàng trúng phải mỗi lúc nặng thêm, thành ra lúc thì toét miệng cười, lúc lại nhăn nhăn nhó nhó.

Mưa đổ xuống càng lúc càng to, Đoàn Dự cởi trường bào khoác lên người Vương Ngữ Yên nhưng chỉ được chốc lát hai người đã ướt như chuột lột. Đoàn Dự lại hỏi:

- Vương cô nương, cô thấy thế nào?

Vương Ngữ Yên thở dài:

- Vừa lạnh vừa ướt thế này, sao anh không kiếm chỗ nào mình trú mưa đi.

Vương Ngữ Yên nói gì chăng nữa thì đối với Đoàn Dự cũng chẳng khác gì chỉ dụ của hoàng đế, nay nàng bảo đi tìm chỗ đụt mưa, tuy chàng biết vẫn còn chưa hết nguy nan nhưng cũng luôn mồm vâng dạ, trong bụng lại nhủ thầm: “Trong lòng Vương cô nương chỏi nhớ tới mỗi mình biểu ca nàng Mộ Dung Phục. Hôm nay ta cùng nào vào sinh ra tử, phải tận tâm kiệt lực bảo vệ cho nàng, dẫu có vì nàng mà bỏ mình thì ít ra trong đời nàng cũng nhớ tới mình một đôi chút. Mai sau nàng cùng Mộ Dung Phục nên duyên, sinh con đẻ cái, trong khi nhàn rỗi kể chuyện cho con cháu nghe có khi nhắc lại chuyện hôm nay không chừng. Khi đó chắc nàng đầu tóc đã trắng xóa, nói tới “Đoàn công tử” sẽ long lanh giọt lệ ...”. Chàng nghĩ tới đây tâm tình ngơ ngẩn không khỏi rưng rưng nước mắt.

Vương Ngữ Yên thấy chàng vẻ mặt đau buồn, lại chẳng lo kiếm chỗ trú mưa bèn hỏi:

- Có chuyện gì vậy? Không có chỗ nào đụt mưa được hay sao?

Đoàn Dự miên man đáp:

- Khi đó nàng nói với con rằng ...

Vương Ngữ Yên lạ lùng:

- Cái gì mà con tôi?

Đoàn Dự giật mình choàng tỉnh, cười nói:

- Xin lỗi cô, tôi nghĩ ngợi bâng quơ đấy mà.

Chàng đưa mắt nhìn tứ bề thấy phía đông bắc có một cái cối xay lúa , nước suối chảy vào làm quay bánh xe đang giã gạo liền nói:

- Đằng kia có chỗ đụt mưa rồi.

Chàng liền giục ngựa chạy đến nhà máy xay. Lúc đó trời đang đổ cơn mưa giông, chung quanh hơi nước bốc lên mờ mịt. Chàng liền nhảy xuống ngựa, thấy Vương Ngữ Yên mặt mày xanh xao khiến cho trong lòng đau xót vạn phần liền hỏi:

- Bụng cô có đau không? Hay là lên cơn sốt? Hay nhức đầu?

Vương Ngữ Yên lắc đầu mỉm cười nói:

- Chẳng sao cả.

Đoàn Dự nói:

- Chà, không biết bọn Tây Hạ phóng thuốc độc gì đây để tôi đi kiếm thuốc giải.

Vương Ngữ Yên nói:

- Anh xem cơn mưa giông kia kìa, cứ đỡ tôi xuống ngựa trước rồi vào trong kia nói chuyện cũng chưa muộn.

Đoàn Dự lật đật nói:

- Đúng lắm, tôi quả là hồ đồ.

Đoàn Dự nhìn khuôn mặt tươi cười của nàng bao nhiêu hồn vía lên mây cả, lại quên luôn cả cửa còn đóng nên phải chạy vào mở rồi mới chạy ra đỡ Vương Ngữ Yên xuống. Tuy chạy đi mắt chàng vẫn đăm đăm nhìn nàng không chớp, không để ý đến trước cửa có một cái rãnh, Vương Ngữ Yên vội kêu:

- Coi chừng!

Thế nhưng không còn kịp nữa rồi, Đoàn Dự chỉ kêu lên được một tiếng đã ngã xóng soài vào trong cái khe, vùng vẫy mãi mới ngoi lên được, mặt mũi, chân tay trên người chỗ nào cũng đầy bùn, mồm xuýt xoa:

- Chết thật, xin lỗi cô! Cô ... không sao chứ?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Ồ, anh có sao không? Ngã đau lắm hả?

Đoàn Dự nghe thấy nàng quan hoài đến mình, sướng đến tưởng như bay bổng lên tận mây xanh vội đáp:

- Không sao, không sao! Mà dù ngã có đau thì cũng chẳng hề gì.

Chàng đưa tay toan đỡ Vương Ngữ Yên xuống ngựa chợt thấy tay đầy bùn đất vội vàng rụt lại nói:

- Không được! Để tôi đi rửa tay rồi sẽ ra đỡ cô xuống.

Vương Ngữ Yên thở dài:

- Gớm sao anh rườm rà lôi thôi quá. Người tôi ướt nhẹp rồi, có dính thêm chút bùn thì đã chết chóc ai?

Đoàn Dự gượng cười chống chế:

- Tôi quả là chẳng đâu vào đâu, hầu hạ cô nương không chu đáo gì cả.

Chàng bèn thò tay vào khe nước rửa sạch bùn sau đó mới đỡ Vương Ngữ Yên xuống dìu nàng vào trong nhà máy xay. Hai người vào trong cửa chỉ thấy chiếc chày đá giơ lên giã xuống cối thóc không ngừng nhưng không thấy người nào. Đoàn Dự gọi lớn:

- Có ai trong này không?

Bỗng nghe trong đống rơm ở góc nhà có tiếng hai người cùng kêu lên:

- Chao ôi!

Rồi có hai người đứng lên, một nam một nữ đều là dân nhà quê chừng mười tám mười chín tuổi. Cả đôi quần áo sốc sếch, đầu tóc dính đầy rơm rạ, mặt đỏ bừng đầy vẻ ngượng ngập. Thì ra đó là một cặp nhân tình, cô gái ở đây lo giã gạo, anh chàng kia lẻn đến hú hí, mưa to gió lớn chắc chẳng ai lai vãng nên không đề phòng đến nỗi Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên ở bên ngoài một hồi lâu vẫn không hay biết gì cả.

Đoàn Dự vòng tay thưa:

- Xin lỗi làm phiền! Chúng tôi chỉ xin trú mưa, hai vị có chuyện gì làm, xin cứ tự tiện đừng để ý gì đến chúng tôi.

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Cái anh chàng đồ gàn này lại nói năng bá láp rồi. Có hai người mình ở đây họ làm sao còn thân mật gì nổi”. Thế nhưng nàng đâu dám nói ra, chính nàng nhìn thấy đôi nhân tình đó như thế cũng mặt đỏ bừng không dám nhìn lâu.

Còn Đoàn Dự trong lòng chỉ biết đến Vương Ngữ Yên không để ý chút nào đến đôi nam nữ nhà quê kia. Chàng đỡ Vương Ngữ Yên ngồi xuống ghế, hỏi:

- Cô ướt đẫm rồi làm sao bây giờ?

Vương Ngữ Yên lại càng thẹn thùng hơn, chợt nghĩ ra một cách rút trong búi tóc ra một chiếc kim thoa có đính hai hạt châu nói với cô gái quê kia:

- Này chị, tôi cho chị cái trâm này, phiền chị cho tôi mượn bộ quần áo thay có được không?

Cô gái kia tuy không biết hai viên ngọc này quí giá chừng nào nhưng vàng thì biết, không dám tin là thật nói:

- Để em lấy quần áo cho chị thay, cái ... cái trâm này em không dám nhận.

Nói xong trèo lên cái thang gỗ ở bên cạnh. Vương Ngữ Yên vội gọi:

- Này chị, lại đây!

Cô gái quê kia đã trèo lên được ba bốn bậc thang, vội quay trở xuống đi đến trước mặt nàng. Vương Ngữ Yên giúi cái kim thoa vào tay cô gái nói:

- Cái trâm này tôi cho chị thật đó. Chị đưa tôi đi thay quần áo được không?

Cô gái quê thấy Vương Ngữ Yên mặt mày dễ thương, vốn đã muốn giúp nàng, nay lại được cái trâm vàng, thật mừng hết cỡ từ chối đôi lần rồi mới nhận, sau đó đỡ Vương Ngữ Yên lên thang để thay quần áo. Trên cái gác đó chứa đầy rơm rạ, thúng mủng và bồ đựng thóc lúa. Cô gái vốn dĩ có mấy bộ quần áo vừa vá xong, thấy anh chàng nhân tình đến nên quăng đó, bây giờ liền lấy cho Vương Ngữ Yên mặc.

Còn anh chàng thanh niên nhà quê thì khép na khép nép chân tay thừa thãi không biết làm gì thỉnh thoảng lại liếc trộm Đoàn Dự. Đoàn Dự mỉm cười hỏi:

- Này đại ca, quí tính anh là chi?

Anh chàng nhà quê ấp úng:

- Cháu ... cháu quí tính Kim.

Đoàn Dự nói:

- Thì ra là Kim đại ca.

Anh chàng nói:

- Không phải thế, cháu là thằng Hai, thằng Cả là anh cháu.

Đoàn Dự nói:

- Ồ, thế ra là Kim nhị ca.

Vừa nói đến đây bỗng nghe có tiếng chân ngựa từ xa vọng lại, khoảng chục kỵ sĩ chạy về phía nhà máy xay lúa. Đoàn Dự hoảng hốt nhảy dựng lên kêu:

- Vương cô nương, kẻ địch đuổi tới rồi!

Vương Ngữ Yên được cô gái nhà quê kia giúp cởi bỏ quần áo ướt, vắt cho khô, đang lau người, tiếng chân ngựa nàng cũng có nghe lại càng luống cuống không biết phải làm gì.

Mấy con ngựa đó chạy thật nhanh, chỉ chốc lát đã đến ngay trước cửa, có người kêu:

- Con ngựa này là của mình đây, gã tiểu tử và con nhãi kia trốn trong đây rồi.

Vương Ngữ Yên và Đoàn Dự, người ở dưới chân thang, người ở trên gác, cùng kêu khổ thầm, nghĩ bụng: “Biết thế mình dắt luôn cả con ngựa vào trong này có phải hay không!”. Chỉ nghe bình một tiếng, có người đã đá tung chốt cửa, ba bốn võ sĩ Tây Hạ xông vào.

Đoàn Dự một lòng bảo vệ Vương Ngữ Yên, vội vàng leo lên gác. Vương Ngữ Yên chưa kịp mặt áo, vội vàng lấy chiếc áo ướt che ngang ngực. Nàng sau khi trúng độc rồi chân tay uể oải, tay trái cầm áo mới đưa lên được nửa chừng đã nhũn xuống. Đoàn Dự vội vàng quay mặt đi, hoảng hốt kêu lên:

- Xin lỗi cô nương, quả thật mạo phạm, thất lễ quá!

Vương Ngữ Yên vội hỏi:

- Làm thế nào đây?

Chỉ nghe một tên võ sĩ hỏi Kim A Nhị:

- Con bé kia ở trên gác, phải không?

Kim A Nhị hỏi lại:

- Mi hỏi con gái nhà người ta làm gì?

Nghe bình một cái, tên võ sĩ đã đấm cho Kim A Nhị văng xa hơn một trượng. Kim A Nhị tính tình thật cứng cỏi liền ngoạc mồm chửi ngay. Cô thôn nữ vội kêu:

- Anh A Nhị ơi, đừng chửi người ta làm gì.

Cô ta lo cho tình nhân nên vội tuột xuống lầu giúp đỡ. Ngờ đâu tên võ sĩ kia vung đao lên, chém xả xuống chẻ đôi đầu A Nhị. Cô gái sợ quá, ngã lăn long lóc xuống dưới nhà. Một tên võ sĩ khác liềm ôm lấy, nhả nhớt:

- Con bé này đến nạp mạng đây.

Nghe roạt một tiếng, y đã xé tung áo cô gái ra. Cô gái quê liền vung tay cào mạnh lên mặt gã một cái, làm thành năm vệt máu dài. Gã võ sĩ giận quá, vung tay đấm thẳng vào ngực cô ta khiến cho gân cốt đứt hết, chết ngay lập tức.

Đoàn Dự nghe tiếng kêu thảm thiết dưới nhà, thò đầu ra xem, thấy cả đôi thanh niên nam nữ kia liên tiếp bị sát hại, trong lòng xốn xang nghĩ thầm: “Cũng tại mình hết, làm liên lụy đến hai người chết thảm”. Chàng thấy tên võ sĩ kia trèo lên thang, vội vàng giơ tay đẩy một cái. Cái thang chỉ để hờ vào gác lửng nên lập tức đổ ra ngoài. Tên võ sĩ kia vội nhảy xuống đất, đỡ lấy chiếc thang, lại để dựa vào gác. Đoàn Dự toan đẩy thêm lần nữa, nhưng một tên võ sĩ đã vung tay, bắn ngay một mũi tụ tiễn. Đoàn Dự không biết né tránh, nghe bụp một tiếng, mũi tên đã cắm ngay vào vai trái. Tên võ sĩ hồi nãy thừa lúc chàng giơ tay bịt vết thương đã leo lên gác, cứ ba nấc một trèo lên. Vương Ngữ Yên ngồi trên đống trấu đằng sau Đoàn Dự, nhìn thấy gã võ sĩ đó tung chưởng đánh chết cô gái quê, cùng thân pháp tung mình nhảy lên trên thang bèn nói:

- Anh dùng ngón tay trỏ bên trái, điểm vào huyệt Hạ Quản ở dưới bụng y.

Đoàn Dự khi còn ở Đại Lý từng học Bắc Minh Thần Công và Lục Mạch Thần Kiếm đã nhớ rành rọt các huyệt đạo trên cơ thể con người, vừa nghe Vương Ngữ Yên chỉ dẫn, đúng ngay lúc tên võ sĩ kia lên đến đầu thang, không còn kịp suy nghĩ gì thêm, giơ ngón tay trỏ điểm ngay một cái vào huyện Hạ Quản của y. Gã võ sĩ kia trong lúc xông lên, để hở bụng dưới nên chỉ kịp kêu lên một tiếng ngã ngửa ra sau, từ trên không rơi bịch xuống, chết ngay lập tức.

Đoàn Dự kêu lên:

- Lạ thật! Lạ thật!

Lại thấy một tên võ sĩ Tây Hạ khác râu ria xồm xoàm, múa đại đao hộ vệ toàn thân trèo lên thang. Đoàn Dự vội hỏi:

- Điểm chỗ nào? Điểm chỗ nào?

Vương Ngữ Yên kinh hoảng nói:

- Chao ôi! Không xong rồi!

Đoàn Dự hỏi lại:

- Sao lại không xong?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Đao thế của y gấp rút quá, nếu như anh điểm huyệt Đãn Trung của y, ngón tay chưa chạm được vào huyệt đạo thì đã bị chặt đứt rồi.

Nàng chỉ nói được bấy nhiêu thì tên võ sĩ Tây Hạ đã lên đến đầu thang. Đoàn Dự quyết tâm bảo vệ Vương Ngữ Yên, không kịp suy nghĩ ngón tay mình có bị chặt đứt hay không, vận nội kình vung tay phải ra, điểm vào huyệt Đãn Trung của y. Tên võ si vung đao chém xuống tay chàng, đột nhiên kêu lên một tiếng, lật ngược ra sau rơi xuống, ngực thủng một lỗ máu phun vọt ra phải đến hai thước. Vương Ngữ Yên và Đoàn Dự vừa kinh ngạc, vừa vui mừng không ngờ được rằng một ngón tay đâm ra lại lợi hại đến thế.

Chỉ trong khoảnh khắc Đoàn Dự giết luôn hai người, những đứa khác không còn dám thử trèo lên nữa, chỉ chụm lại bàn tán. Vương Ngữ Yên nói:

- Đoàn công tử, anh rút mũi tên trên đầu vai ra đi chứ?

Đoàn Dự vui mừng bụng bảo dạ: “Nàng quả nhiên quan tâm đến vết thương của ta”. Chàng giơ tay giựt phắt mũi tụ tiễn, mũi tên đó ngập vào vai cả tấc chạm đến tận xương, dùng sức rút ra quả là đau lắm nhưng trong lòng chàng đang vui vẻ không coi vào đâu nói:

- Vương cô nương, bọn chúng lại tính đánh lên nữa, cô xem mình phải đối phó cách nào?

Chàng vừa nói vừa quay đầu lại nhìn Vương Ngữ Yên, thấy nàng quần áo xốc xếch, vội vàng quay mặt đi nói:

- Chao ôi, xin lỗi cô.

Vương Ngữ Yên thẹn đến mặt đỏ như gấc nhưng không có hơi sức đâu mà mặc áo, chợt nghĩ ra vội chui ngay vào trong đống rơm, chỉ để hở đầu ra cười nói:

- Không sao đâu, anh quay đầu lại được rồi.

Đoàn Dự chầm chậm nghiêng người, toàn thân đề phòng nếu như nếu thấy quần áo nàng chưa chỉnh tề để lộ da thịt là sẽ quay mặt đi ngay. Chàng vừa nghiêng qua mới được nửa mặt, chợt nhìn thấy bên ngoài cửa sổ có một tên võ sĩ Tây Hạ đứng trên lưng ngựa thò đầu toan trèo vào, vội nói:

- Bên này có kẻ địch.

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Không biết võ công gia số của tên này như thế nào?”. Nàng bèn nói:

- Anh lấy mũi tụ tiễn ném y đi.

Đoàn Dự nghe lời vung tay ném mũi tên trong tay ra. Chàng ném ám khí tuy mạnh thật nhưng không chính xác, cách đầu gã kia phải ít nhất là hai thước. Gã võ sĩ kia vốn không để ý tới nhưng thế ném của Đoàn Dự thật mạnh, mũi tên bé như thế mà cũng nghe vù một cái, y kinh hãi, vội hụp đầu xuống rụt người thành một khối trên yên ngựa.

Vương Ngữ Yên thò đầu ra nhìn thấy rõ ràng nói:

- Y là một hảo thủ về môn đánh vật của Tây Hạ cứ để y ôm được anh rồi lấy bàn tay vỗ lên đỉnh đầu y một cái là xong.

Đoàn Dự đáp:

- Thế thì dễ quá.

Chàng đi đến bên cửa sổ, tên võ sĩ kia từ yên ngựa nhảy vọt lên, húc gãy song cửa xông vào. Đoàn Dự kêu lên:

- Ngươi lên đây làm gì?

Tên võ sĩ kia nào có biết tiếng Hán, giương mắt nhìn, vươn tay trái ra đã chộp trúng ngay ngực Đoàn Dự. Thân thủ gã đó quả là nhanh, y vừa túm được Đoàn Dự cánh tay liền nâng lên nhấc bổng chàng lên. Đoàn Dự đánh ngược lại một chưởng, nghe bộp một tiếng trúng ngay giữa đỉnh đầu. Gã võ sĩ kia định quật Đoàn Dự xuống sàn, vật cho chàng chết dở sống dở, ngờ đâu bị đánh một chưởng, đầu nát ngướu chết ngay.

Đoàn Dự lại giết thêm một người nữa, không khỏi nổi gai ốc, càng nghĩ càng sợ lớn tiếng kêu lên:

- Ta không muốn giết người thêm nữa. Ta không đành lòng giết người, các ngươi mau chạy cho nhanh.

Chàng bèn đẩy một cái, hất xác gã hảo thủ đô vật kia xuống dưới.

Những võ sĩ Tây Hạ đuổi theo đến cái cối xay nước này cả thảy mười lăm người, bây giờ chỉ còn mười hai, trong đó có bốn tay hảo thủ Nhất Phẩm Đường, hai người Hán hai người Tây Hạ. Bốn tên hảo thủ đó thấy Đoàn Dự võ công lúc thì cao cường tuyệt luân, lúc lại thật ngờ nghệch tức cười quả đúng là “cao sâu khôn lường”, thành thử không dám vọng động tụ lại một chỗ, nho nhỏ thảo luận kế hoạch tấn công. Tám tên võ sĩ Tây Hạ thì tính chuyện gom tất cả rơm rạ trong nhà máy xay lúa lại, phóng hỏa đốt luôn.

Vương Ngữ Yên hoảng hốt nói:

- Chết rồi, bọn chúng định nổi lửa đốt nhà.

Đoàn Dự hốt hoảng:

- Làm sao bây giờ?

Chàng nhìn ra thấy chiếc guồng nước của cối xay lúa bị nước suối thúc đẩy chạy lên rồi lại đổ xuống không ngừng, lòng chàng cũng chẳng khác gì cứ trồi lên hụp xuống. Lại nghe một gã người Hán nói:

- Đại tướng quân có lệnh phải bắt sống thiếu nữ kia không được hại mạng cô ta, đừng phóng hỏa vội.

Nói xong y lại cao giọng nói:

- Này, thằng chó đẻ và con nhãi kia, mau mau xuống đầu hàng, nếu không ông cho một mồi lửa thì hai đứa chúng mày thành heo quay ngay.

Y gọi luôn ba lượt, Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên làm như không nghe. Gã đó lấy bùi nhùi đánh lửa châm vào vào một nắm rơm cầm trong tay nói:

- Chúng bay nếu chưa chịu hàng là ta châm lửa đó.

Nói xong y cầm bó rơm lên làm như vẻ muốn vứt vào đống rạ. Đoàn Dự thấy tình thế nguy cấp nói:

- Để tôi xuống đánh cho chúng trở tay không kịp.

Chàng trèo lên cái guồng nước. Cái guồng đó thật lớn, đường kính phải đến hai trượng, cao hơn cả nóc nhà. Đoàn Dự bám vào mấy phiến gỗ cản nước, khi cái guồng chuyển động từ từ hạ xuống.

Gã kia còn đang la lối om sòm, kêu gào Vương Ngữ Yên và Đoàn Dự chịu đầu hàng, không ngờ Đoàn Dự từ trên gác đã lẻn xuống sau lưng y, giơ tay điểm vào lưng y. Chàng sử dụng Thiếu Dương kiếm pháp trong Lục Mạch Thần Kiếm vừa chỉ một cái là phải ra ngay, ngờ đâu khi đánh lén người khác, trong bụng nơm nớp thành thử khí thế không đủ, chân khí nội lực không sao phát ra được. Nội lực của chàng phát xuất được hay không toàn nhờ ở vận dụng khéo léo, lần này không sao phát kình được. Gã kia thấy có cái gì đó chạm vào lưng, quay đầu lại thấy Đoàn Dự đang chỉ chỉ điểm điểm ngay lưng mình.

Gã mới thấy Đoàn Dự giết một hơi ba người liền, bây giờ chàng lại chỉ trỏ lung tung không biết đang dùng loại tà thuật gì y cũng hơi e dè vội vàng tránh qua bên trái. Đoàn Dự lại tung ra một chỉ nữa, nhưng cũng không thấy tăm hơi gì, không biết vì sao. Gã kia quát lớn:

- Thằng nhãi thối tha kia, ngươi thập thò làm cái gì đó?

Y vươn tay phải ra, chộp lên đỉnh đầu chàng. Đoàn Dự vội vàng rụt lại, hai tay quơ lung tung may sao bám được vào chiếc guồng, nước liền quay bánh xe kéo ngay lên cao. Gã kia chộp hụt nghe cạch một tiếng, mảnh gỗ tung tóe, gãy một mảng của phiến ván trên chiếc guồng. Vương Ngữ Yên nói:

- Anh làm sao lòn ra sau lưng y, tấn công vào huyệt Chí Dương ở đốt xương sống thứ bảy là thanh toán được y. Gã này là đệ tử Hổ Trảo Môn ở Tấn Nam, công phu luyện chưa tới huyệt Chí Dương.

Đoàn Dự đang ở trên lưng chừng trời kêu lên:

- Thế thì tốt quá!

Chàng leo theo chiếc guồng nhảy được vào bên trong nhà máy xay lúa. Các võ sĩ Tây Hạ không đợi chân Đoàn Dự chấm đất đã có ba đứa xông lên vồ lấy chàng. Đoàn Dự xua tay nói:

- Tại hạ quả bất địch chúng, dẫu hảo hán cũng không đánh lại số đông, ta chỉ muốn một đánh một.

Nói xong chàng nghiêng người tiến lên, đạp theo Lăng Ba Vi Bộ vọt lên mấy bước đã luồn ra sau lưng y, quát lên:

- Trúng!

Đoàn Dự giơ ngón tay điểm ra vù một tiếng trúng ngay huyệt Chí Dương, gã kia chỉ hự được một tiếng, lăn ra chết ngay. Đoàn Dự giết được y rồi định bám theo chiếc guồng quay nước trở lên chỗ Vương Ngữ Yên nhưng không còn kịp nữa, một tên võ sĩ Tây Hạ đã chặn đường chàng, giơ đao xông tới. Đoàn Dự kêu lên: 

- Chao ôi! Chết rồi, quân Thát tử chặn đường rút lui, mai phục tứ bề, vây khốn Cai Hạ coi như hỏng hết rồi.

Chàng nhảy nghiêng qua bên trái, nhát đao đó rơi vào chỗ không, mười một gã trong nhà máy xay lúa liền vây Đoàn Dự lại, đao kiếm cùng vung lên đâm chém. Đoàn Dự kêu lớn:

- Vương cô nương, thôi đành để kiếp sau gặp lại nhau. Đoàn Dự này bốn bề nghe hát tiếng Sở , thân mình khó mà lo cho xong, chỉ còn nước xuống suối vàng trước đợi nàng.

Miệng chàng nói năng xí xố, trong cảnh thập phần nguy hiểm nhưng chân vẫn cứ theo Lăng Ba Vi Bộ bước đi thật là xảo diệu. Vương Ngữ Yên xem mà xuất thần cất tiếng hỏi:

- Đoàn công tử, anh bước theo Lăng Ba Vi Bộ đó có phải không? Tôi chỉ mới nghe tên nhưng chưa biết phép đi đó thế nào.

Đoàn Dự vui mừng nói:

- Đúng đó, đúng đó! Cô nương muốn xem thì để tôi từ đầu chí cuối diễn cho cô coi một lượt, chẳng biết có đi hết một vòng không thì đầu tôi đã rơi mất rồi.

Chàng bèn theo bộ pháp trên quyển trục đi lại từ bước đầu tiên. Mười một tên võ sĩ Tây Hạ tay đấm chân đá, múa kiếm vung đao nhưng không cách nào đụng được đến bâu áo chàng. Mười một người miệng kêu rống lên:

- Này, ngươi chặn đầu này.

- Ngươi giữ góc đông bắc, ra tay không có nể nang gì cả.

- Chao ôi, không được, thằng khốn kiếp chui góc này ra rồi.

Đoàn Dự cứ tiến lên một bước, lùi lại một bước, chạy vòng vòng chung quanh guồng nước và chiếc cối xay. Vương Ngữ Yên tuy thông minh học rộng thật nhưng cũng không nhìn ra như thế nào, kêu lên:

- Anh tránh khỏi kẻ địch mới là cần, đừng lo chuyện diễn cho tôi coi.

Đoàn Dự đáp:

- Dịp may chớ bỏ qua! Lúc này không diễn đến khi mạng tôi ô hô ai tai rồi cô có muốn coi cũng không được.

Chàng chẳng để ý gì đến sống chết, chỉ mong sao diễn được Lăng Ba Vi Bộ từ đầu chí cuối cho ý trung nhân coi. Ngờ đâu kẻ si tình lại có cái phúc của người tình si, nếu như chàng cứ đợi địch nhân tấn công rồi mới dùng bộ pháp để né tránh, một là chàng không biết võ công, đối phương là cao thủ ra chiêu khi hư khi thực, biến hóa không biết đâu mà lường, chàng cố ý tránh né thì không sao kịp, thứ nữa kẻ địch có đến mười một người, tránh được người thứ nhất thì lại trúng phải người thứ hai, mà có tránh được người thứ hai thì cũng bị người thứ ba đánh trúng.

Thế nhưng chàng chỉ lo đi theo bộ pháp của mình, đối phương làm gì không để ý tới thành ra cả mười một người cùng đuổi theo tấn công chàng. Môn Lăng Ba Vi Bộ này mỗi bước đều đi vào chỗ địch nhân không thể nào ngờ tới, thành ra người ngoài tưởng chàng đi về hướng đông thì đến khi bước thân hình lại chuyển về hướng tây bắc. Mười một người càng đánh càng nhanh, thế nhưng chiêu nào chiêu nấy, mười phần đến chín tấn công vào người bên mình còn một phần thì vào khoảng không.

Tên Giáp, tên Ất, tên Bính thấy Đoàn Dự đứng ở bên cạnh chiếc guồng quay lập tức quyền cước, đao kiếm đều đón trước chỗ chàng sắp tới, còn tên Đinh, tên Mậu, tên Kỷ thì tấn công thẳng vào nơi chàng đang đứng. Đoàn Dự thân hình tránh qua đột nhiên chuyển hướng, binh binh boong boong, leng keng loảng xoảng, Gáp, Ất, Bính, Đinh ... người nào cũng giơ binh khí lên, kẻ nọ chém vào kẻ kia, kẻ kia đụng phải kẻ này, có mấy tên chân tay chậm lụt lại bị chính bên mình đả thương.

Vương Ngữ Yên chỉ coi vài chiêu đã hiểu được nguyên lý kêu lên:

- Đoàn công tử, cước bộ của anh thật là phức tạp, khéo léo, coi một lần chưa hiểu rõ. Anh đi hết một vòng, đi thêm vòng nữa được không?

Đoàn Dự đáp:

- Được chứ, cô bảo sao tôi làm vậy.

Thế là chàng sau khi đi hết tám lần tám sáu mươi tư quẻ lại từ đầu trở lại. Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Đoàn công tử tính mạng nhất thời không có gì nguy hiểm nhưng làm sao để thoát được khốn cảnh đây? Ta nửa thân trên cởi trần, xấu hổ chết đi được. Phải tìm cách nào chỉ điểm Đoàn công tử giết sạch mười một tên địch mới xong”.

Nàng nghĩ thế không quan sát bộ pháp của Đoàn Dự nữa mà quay sang quan sát võ công gia số của mười một tên kia. Bỗng nghe cạch một tiếng, có ai đó gác chiếc thang vào thì ra một tên võ sĩ Tây Hạ định trèo lên. Mười một tên đánh với Đoàn Dự lâu không thắng tên chỉ huy bèn sai một tên hạ thuộc trèo lên bắt Vương Ngữ Yên trước rồi tính sau.

Vương Ngữ Yên kinh hãi kêu lên:

- Chết rồi!

Đoàn Dự ngẩng đầu nhìn lên thấy tên võ sĩ Tây Hạ đang trèo lên thang vội hỏi:

- Đánh vào chỗ nào?

Vương Ngữ Yên nói:

- Chộp vào huyệt Chí Thất là hay nhất.

Đoàn Dự liền xông tới, giơ tay chộp ngay huyệt Chí Thất ở ngang lưng y, nhưng không biết phải làm cách nào nên tiện tay lẳng một cái, khéo làm sao vứt y trúng ngay vào cái cối giã gạo. Chiếc chày đá nặng hai trăm cân do guồng nước vận chuyển, thóc trong cối đã biến thành bột từ bao giờ nhưng vì không ai trông coi nên chiếc chày vẫn cứ tiếp tục giã không ngừng. Tên võ sĩ Tây Hạ vừa ngã vào trong cối, chiếc chày liền rơi xuống, nghe bình một tiếng đánh y vỡ đầu, máu me tung tóe trộn vào trong bột gạo.

Gã cao thủ Tây Hạ vẫn thúc giục đàn em, lại có ba tên võ sĩ tranh nhau lên thang. Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Cứ thế mà làm!

Đoàn Dự giơ tay chộp huyệt Chí Thất một tên khác, sử kình ném ra lại vứt y vào trong cối. Lần này chàng cố ý vứt vào dụng sức không được khéo léo như lần trước, chiếc chày giã trúng ngay hông y, gã võ sĩ Tây Hạ rú lên một tiếng nghe rợn người, nhất thời chưa chết hẳn, cứ mỗi chày rơi xuống lại rống lên thảm thiết.

Đoàn Dự chưng hửng, nhìn lại thấy hai tên võ sĩ Tây Hạ đã trèo lên thang, kinh hoảng kêu lên:

- Không được, trở xuống mau.

Chàng hoảng hốt vung ngón tay trái điểm lung tung, chân khí bùng ra, uy lực của Lục Mạch Thần Kiếm có dịp phát xuất, vèo vèo hai tiếng trúng ngay lưng hai gã kia, lập tức rơi bịch xuống đất.

Bảy tên võ sĩ Tây Hạ còn lại thấy Đoàn Dự chỉ hư điểm đã giết được người, công phu đó quả chưa từng nghe nói tới. Bọn chúng có biết đâu môn công phu của Đoàn Dự không phải tòng tâm sở dục, khi muốn sử dụng có khi lại không ra còn khi gấp gáp làm ẩu làm liều thì lại công hiệu. Bảy người càng nghĩ càng sợ, ai nấy chột dạ nhưng bỏ chạy thì lại không đành lòng. Vương Ngữ Yên từ trên cao nhìn xuống rõ ràng mọi việc thấy bên địch tuy chỉ có bảy tên nhưng trong số đó ba người võ công gọi là bậc khá, còn tên Tây Hạ nọ đứng chỉ huy hẳn là đầu não của cả bọn nên kêu lên:

- Đoàn công tử, làm cách nào đánh được vào huyệt Ngọc Trẩm và huyệt Thiên Trụ ở sau đầu tên mặc áo vàng đội mũ da kia giết y trước.

Đoàn Dự đáp:

- Cẩn tuân mệnh lệnh cô nương.

Gã Tây Hạ kinh hãi nghĩ thầm: “ Hai huyệt Ngọc Trẩm và Thiên Trụ chính là hai chỗ nhược của ta, sao con bé này lại biết nhỉ?”. Y thấy Đoàn Dự xông lên, lập tức vung đơn đao chém ngang không cho chàng đến gần. Đoàn Dự liên tiếp xông lên mấy lần nhưng không thể nào lòn ra sau lưng y được, lại suýt nữa bị đao của y chém trúng. Cũng tại gã này nghe Vương Ngữ Yên chỉ điểm chỗ nhược đằng sau lưng mình nên hết sức cẩn thận gìn giữ phía sau đầu, nếu không Đoàn Dự đã bị nguy hiểm rồi. Đoàn Dự kêu lên:

- Vương cô nương, gã này lợi hại quá, tôi không cách nào lẻn ra sau lưng y được.

Vương Ngữ Yên nói:

- Gã mặc áo màu xám, chỗ nhược là ở huyệt Liêm Tuyền trên cổ. Còn gã có râu vàng kia tôi không nhìn ra võ công gia số của y, anh đâm vài chỉ vào ngực y xem thế nào.

Đoàn Dự đáp:

- Tuân lệnh!

Chàng liền vung ngón tay điểm vào ngực y. Chàng tuy ra chiêu đúng thực nhưng hoàn toàn không có chút kình lực nào. Thế nhưng gã râu vàng nào có biết, y vội vàng rùn người xuống tránh luôn ba ngón tay, đến khi Đoàn Dự điểm lần thứ tư, y liền nhảy vọt lên, từ trên cao tấn công xuống, chưởng lực lợi hại bao trùm toàn thân Đoàn Dự.

Đoàn Dự cảm thấy tức ngực khó thở, đầu óc choáng váng, hết sức kinh hãi, nhắm tịt mắt lại vung tay điểm lung tung, vù vù liên tiếp, Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch cả sáu mạch thần kiếm đều tung ra, gã râu vàng bị thủng sáu cái lỗ nhưng chưởng thế chưa tiêu giảm, nghe bụp một tiếng chưởng vẫn đánh trúng đầu vai Đoàn Dự.

Khi đó chân khí trong người Đoàn Dự đang bùng lên, chưởng đó tuy mạnh mẽ thật nhưng bị nội lực hồn hậu của chàng đẩy ra nên không bị thương chút nào, ngược lại còn đẩy gã râu vàng văng ra xa cả trượng.

Vương Ngữ Yên đâu biết chàng hoàn toàn không sao cả, kinh hoàng kêu lên:

- Đoàn công tử, anh không sao chứ? Có bị thương không?

Đoàn Dự hé mắt nhìn thấy gã râu vàng nằm thẳng cẳng dưới đất, trên ngực dưới bụng sáu cái lỗ máu phun vọt ra, mặt mày hung dữ, mắt vẫn mở trừng trừng hầm hầm nhìn mình tưởng như chưa chết hẳn. Đoàn Dự sợ đến tim đập thình thình, kêu lên:

- Ta đâu có muốn giết ngươi, tại ngươi cả ... tại ngươi xông vào đánh ta.

Chân chàng vẫn bước theo Lăng Ba Vi Bộ, trong căn phòng đi lại thật nhanh, hai tay vòng lại vái chào, nói với sáu người còn lại:

- Các vị anh hùng hảo hán, Đoàn Dự này cùng quí vị ngày xưa vô oán, gần đây vô cừu, xin mở một đường sống cho tại hạ đi nơi khác. Ta ... ta ... thực không muốn giết ai cả nhưng làm ... làm chết bấy nhiêu người, quả thực hết sức khổ tâm. Tại hạ thực là tàn nhẫn, các ông mau chạy đi, cứ coi như Đoàn Dự này thua rồi, xin quí vị nhẹ tay một chút.

Chàng vừa chuyển mình thấy một võ sĩ Tây Hạ đứng ngay trước cửa, không biết tiến vào từ bao giờ. Người đó thân hình tầm thước ăn mặc giống hệt những tên kia, có điều mặt mày vàng ệch, trơ trơ như đá chẳng khác gì một cái xác chết. Đoàn Dự thấy lạnh cả người nghĩ thầm: “Không biết người hay quỉ đây? Không lẽ ... không lẽ ... của những võ sĩ Tây Hạ bị ta giết hồn ma không tan nên hiện ra đòi mạng?”. Chàng run run hỏi:

- Ngươi ... ngươi là ai? Định ... định làm gì?

Gã võ sĩ Tây Hạ kia cứ đứng sừng sững không trả lời, cũng chẳng di động. Đoàn Dự nghiêng qua chộp trúng ngay huyệt Chí Thất nơi hông một gã võ sĩ ném luôn vào quái nhân kia. Người nọ chỉ hơi lách qua, nghe bình một tiếng, gã kia lao luôn vào tường, vỡ đầu chết ngay. Đoàn Dự thở hắt ra một hơi cố gượng nói:

- Ngươi là người chứ nào có phải ma.

Khi đó ngoài quái khách vừa mới đến, bọn võ sĩ Tây Hạ chỉ còn lại có năm người, trong đó chỉ có một người Tây Hạ và một người Hán là hảo thủ trong Nhất Phẩm Đường. Ba gã còn lại võ công tầm thường thấy bên mình càng đành càng hao, đứa nào cũng chột dạ chỉ muốn bỏ chạy, một đứa liền đi đến đẩy cửa. Gã hảo thủ Tây Hạ liền quát lớn:

- Làm gì đó?

Soẹt soẹt soẹt ba nhát liền, y xông vào chém Đoàn Dự. Đoàn Dự thấy ánh sáng xanh lấp loáng, thanh đao sắc bén cứ hoa lên trước mặt, không biết lúc nào sẽ trúng vào người mình, trong bụng hãi lắm kêu lên:

- Ngươi ... ngươi ngang ngược như thế, ta mà đánh vào huyệt Ngọc Trẩm và huyệt Thiên Trụ là ngươi không tránh nổi đâu, ta khuyên ngươi ... ngươi khôn hồn thì rút lui đi, tất cả mỗi người một nẻo là hay nhất.

Đao chiêu càng lúc càng cấp bách tiến gần đến những nơi yếu hại của Đoàn Dự. Nếu như Đoàn Dự không gia tăng tốc độ đôi chân thì chỉ một đao đã lấy mạng chàng rồi. Gã hảo thủ người Hán vẫn đứng ở đằng sau, bây giờ thấy Đoàn Dự hết lời cầu khẩn, chỉ một mực tránh né không còn cách nào trả đòn, chợt nghĩ ra một cách liền đi đến bên cạnh cái cối đá, bốc một nắm bột gạo thật mịn, ném luôn vào mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự bộ pháp xảo diệu cho nên y ném không trúng được, gã người Hán cứ hết nắm này tới nắm khác ném tới khiến trong trong phòng bột cám bay tung trong chốc lát chẳng khác gì sương khói. Đoàn Dự lớn tiếng kêu:

- Chao ôi! Chao ôi! Ta không thấy gì hết.

Vương Ngữ Yên thấy tình hình cực kỳ nguy hiểm, nghĩ bụng Đoàn Dự sở dĩ có thể chống cự được với mấy tên hảo thủ toàn nhờ vào bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ cực kỳ thần diệu. Địch nhân công kích phát chiêu cũng chỉ vì tưởng chàng tiến lên, ngờ đâu chàng lại thụt lùi nên binh khí quyền cước chỉ cách một chút xíu, còn bây giờ trong nhà bột cám bay mù mịt không ai còn có thể cố ý ra chiêu, bọn võ sĩ kia chỉ cần xông lên không cần biết Đoàn Dự ở đâu, cứ việc đâm chém ắt sẽ chặt chàng ra thành mấy chục mảnh ngay.

Hai mắt Đoàn Dự bị trúng phải bột gạo, không sao mở ra được, hết sức nhảy lên rơi xuống bên cạnh guồng quay nước, bám được phiến gỗ kéo lên cao. Chỉ nghe “A” “A” hai tiếng thảm thiết, hai tên võ sĩ Tây Hạ đã bị tên hảo thủ chém nhầm chết tươi. Tiếp theo là tiếng loảng xoảng, có người quát lên:

- Ta đây!

Lại một người khác nói:

- Cẩn thận, ta đó!

Đao kiếm hai gã hảo thủ Tây Hạ và người Hán chạm nhau, trao đổi mấy chiêu, kế đó có tiếng kêu lên thảm thiết, một tên võ sĩ Tây Hạ không biết bị ai đá trúng chỗ yếu hại, bay vọt ra ngoài, trước khi chết còn rú lên khiến cho Đoàn Dự nổi da gà, run lên bần bật. Chàng run run nói:

- Các ngươi càng lúc càng ít người, đánh nữa làm gì? Giết người có ích chi đâu, ta cầu xin các ngươi liệu có được không?

Gã người Hán nghe tiếng nhận được phương vị, tay phải vung lên, một mũi cương tiêu phóng vào người chàng. Mũi tiêu đó thật chuẩn xác nhưng guồng nước chuyển động luôn luôn, khi bay tới nơi thì Đoàn Dự đã tụt xuống rồi, nghe bụp một tiếng đã ghim tay áo chàng vào bản gỗ. Đoàn Dự kinh hãi nghĩ thầm: “Ta không biết cách tránh ám khí, địch nhân bắn cương tiêu tụ tiễn thì thật hết đường”. Chàng sợ quá tay bủn rủn tay lỏng ra nghe vù một tiếng đã rơi ngay xuống.

Gã người Hán kia trong đám mờ mờ trông thấy chàng rơi, vội xông ra toan chụp lấy. Đoàn Dự nhớ Vương Ngữ Yên bảo mình điểm vào huyệt Liêm Tuyền nhưng vì đang lúc hoảng loạn, tuy nhận ra huyệt nhưng bình thời không tập luyện nên huyệt Liêm Tuyền chẳng trúng, lại lệch sang tả, trật xuống dưới, điểm trúng huyệt Khí Hộ. Huyệt Khí Hộ là tiếu huyệt, gã kia chân khí chạy ngược nhịn không nổi cười lên sằng sặc. Y hết kiếm nọ đến kiếm kia đâm Đoàn Dự mà mồm thì vẫn cứ hi hi, ha ha, hích hích ... cười mãi không thôi.

Gã hảo thủ Tây Hạ bèn hỏi:

- Dung huynh cười gì đó?

Gã người Hán không sao trả lời được, vẫn tiếp tục cười sằng sặc. Gã Tây Hạ không hiểu nguyên do bực tức nói:

- Đại địch ở trước mặt, ngươi còn làm trò quỉ quái gì thế?

Gã người Hán đáp:

- Ha ha, ta ... cái đó ... ha ha, hi hi ...

Y vung kiếm lên đâm vào sau lưng Đoàn Dự. Đoàn Dự nghiêng qua bên trái, gã Tây Hạ kia mờ mờ nhìn không rõ, cũng lại tránh qua cùng bên, hai người đụng phải nhau một cái đích đáng.

Gã Tây Hạ vừa đụng trúng Đoàn Dự, tay trái liền lật một cái, sử dụng cầm nã thủ nắm ngay được cánh tay chàng. Y thấy đối phương sở trường là ở bộ pháp, nay nắm được đúng là dịp may, tay phải liền bỏ đơn đao xuống, chộp cổ tay trái Đoàn Dự. Đoàn Dự kêu lên:

- Ôi thôi! Ôi thôi!

Chàng hết sức dãy dụa nhưng gã Tây Hạ kia hai tay chẳng khác gì hai gọng kìm làm sao thoát ra được? Gã người Hán thấy dịp may liền giơ kiếm lên nhắm ngay lưng Đoàn Dự đâm tới. Gã Tây Hạ nghĩ thầm: “Không xong! Nếu như y đâm vào mấy tấc là lấy mạng được địch nhân nhưng nếu không coi nghĩa khí vào đâu lại muốn công lao hoàn toàn về phần mình, đâm suốt qua luôn thì có phải chết luôn cả mình không”. Nghĩ thế y bèn buông tay Đoàn Dự lùi lại phía sau.

Gã người Hán vẫn cười sằng sặc, tiến lên một bước lại toan giơ kiếm đâm thêm lần nữa, đột nhiên nghe bình một tiếng, chiếc guồng nước đập luôn vào sau ót y khiến y ngã lăn ra bất tỉnh. Gã người Hán đó tuy đã ngất xỉu rồi nhưng chưa tắt thở, vẫn cười sằng sặc liên hồi nhưng hữu khí vô lực nên giọng cười nghe thật quái dị. Chiếc guồng nước chầm chậm quay đi, bản gỗ thứ hai lại bình một tiếng đập vào ngực y khiến cho tiếng cười nhỏ đi một chút, cứ như thế bảy tám lần thì tiếng cười của y chỉ còn ú ớ như người mơ ngủ mà thôi.

Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự bị bắt không cách nào thoát thân được, trong bụng hết sức bồn chồn, lại nghĩ đến ngay trước cửa có một gã Tây Hạ mặt mày dễ sợ đứng chắn lối, y chỉ vung đao kiếm lên là giết được Đoàn Dự ngay. Nàng kinh hoàng kêu lên:

- Các ngươi không được hại mạng Đoàn công tử, chúng ta ... chúng ta để từ từ thương lượng sau.

Gã Tây Hạ kia vẫn nắm chặt Đoàn Dự, tay phải chặn ngang hết sức ép vào ngực chàng định cho chàng gãy xương đứt gân hoặc cho ngộp thở mà chết. Đoàn Dự hết sức sợ hãi chàng đang bị nắm chặt cổ tay trái và cánh tay phải, công phu Bắc Minh Thần Công để hút chân khí địch thủ không sử dụng được, chỉ đành giơ ngón tay trái ra điểm lung tung nhưng chỉ rơi vào khoảng không, lại thấy áp lực trên ngực mỗi lúc một nặng, dần dần không thở nổi nữa.

Đang cơn nguy cấp, bỗng nghe vù vù mấy tiếng, gã hảo thủ Tây Hạ kia “A” lên một tiếng, kêu:

- Giỏi thật! Rồi ra ngươi cũng điểm trúng ... trúng huyệt Ngọc Trẩm của ta rồi ...

Hai tay y từ từ lơi ra, đầu nghẹo qua một bên, nằm gục vào tường mà chết. Đoàn Dự lạ quá, lật y ra coi quả nhiên nơi huyệt Ngọc Trẩm của y có một lỗ nhỏ, máu tươi vẫn ri rỉ chảy ra, chính là bị Lục Mạch Thần Kiếm của mình đâm phải. Chàng có ngờ đâu khi đến lúc khẩn cấp quan đầu, công lực ngưng tụ phóng ra, chân khí đụng vào tường, dội ngược trở lại trúng ngay sau ót gã Tây Hạ. Cả thảy Đoàn Dự điểm đến mấy chục lần, đụng phải vách đều bật trở lại vào lưng đối phương. Thế nhưng gã Tây Hạ kia công lực thật cao mà chân khí bật lại thì lại yếu nên không tổn thương y được chút nào, chỉ có lần sau cùng may sao trúng ngay huyệt Ngọc Trẩm. Huyệt Ngọc Trẩm là chỗ nhược rất là mỏng manh mềm mại, chân khí tuy yếu vẫn khiến cho y phải bỏ mạng.

Đoàn Dự vừa mừng vừa sợ vội bỏ xác gã Tây Hạ kia xuống kêu lên:

- Vương cô nương, Vương cô nương! Địch nhân chết hết rồi!

Bỗng từ phía sau có tiếng người lạnh như băng:

- Chưa chắc đã chết hết đâu!

Đoàn Dự kinh hãi quay đầu lại thấy đó chính là gã võ sĩ Tây Hạ trông như người gỗ kia nghĩ thầm: “Ta quên khuấy ngươi đi nhưng ngươi võ công tầm thường, ta chỉ cần chộp vào huyệt Chí Thất là giết được ngươi ngay!”. Nghĩ thế chàng bèn cười nói:

- Lão huynh mau đi đi, ta không giết ngươi đâu.

Gã kia hỏi lại:

- Liệu ngươi có đủ tài để giết ta không nào?

Giọng nói y cực kỳ ngạo mạn. Đoàn Dự quả không muốn giết người thêm nên vòng tay nói:

- Tại hạ không phải là đối thủ của các hạ, làm ơn thủ hạ dung tình, tha cho tôi.

Gã võ sĩ Tây Hạ nói:

- Mấy câu của ngươi nói trông biết ngay là giả vờ, hoàn toàn không có ý cầu ta tha cho. Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của nhà họ Đoàn nổi danh thiên hạ, lại được vị cô nương kia chỉ điểm yếu quyết, quả là ghê gớm. Để ta xin lãnh giáo cao chiêu của các hạ.

Mấy câu đó từng chữ một nói ra, tiếng nào tiếng ấy đều bình bình không âm thanh nào cao âm thanh nào thấp, không lên giọng xuống giọng, nghe thật chối tai hẳn y là người ngoại quốc, tuy biết tiếng Hán, từ ngữ cú pháp không sai nhưng âm điệu thật là ngượng nghịu.

Đoàn Dự trời sinh không thích võ công, hôm nay ra tay giết bao nhiêu là người chẳng qua cũng là tình thế bắt buộc, không còn biết làm cách nào hơn nói tới đánh nhau thì nếu miễn được thì chàng chịu ngay, lập tức vái một vái thật sâu nói hết sức thành khẩn:

- Các hạ chê trách thật đúng, tại hạ cầu xin tha thứ không được thành kính vậy xin tạ tội. Tại hạ chưa từng học võ công, mới rồi làm hại đến mạng người, chẳng qua là nhờ may chỉ xin được bảo toàn tính mạng là mừng lắm rồi đâu dám sính cường tranh thắng với ai?

Gã võ sĩ Tây Hạ cười khẩy mấy tiếng, nói:

- Ngươi chưa từng học võ công, vậy mà cất tay đã giết bốn cao thủ của Nhất Phẩm Đường, lại giết thêm mười một võ sĩ khác. Nếu như học võ rồi thì trong võ lâm còn ai sống được với ngươi nữa?

Đoàn Dự từ đông qua tây đảo mắt một vòng thấy quả trong nhà máy xay lúa này người chết nằm ngang dọc, ai nấy trên người dính đầy máu me, trong lòng quả thực xúc động ôm mặt kêu lên:

- Sao ... sao tôi lại giết nhiều người thế này? Tôi ... tôi nào có nghĩ đến chuyện giết ai đâu, làm sao đây? Làm sao đây?

Người kia cười nhạt mấy tiếng liếc nhìn chàng xem mấy câu nói đó có thực lòng không. Đoàn Dự nhỏ lệ nói:

- Những người này ai là chẳng có cha mẹ vợ con, mới đây người nào cũng như rồng như hổ, bây giờ bị tôi giết cả rồi, tôi ... tôi ... làm sao tạ lỗi cùng họ được?

Nói tới đây chàng liềm đấm ngực khóc rống lên, nước mắt đầm đìa, nức nở nói:

- Bọn họ chắc gì đã quả thực muốn giết tôi, chẳng qua chỉ phụng mệnh sai khiến đi bắt người đấy thôi. Tôi với bọn họ nào có quen biết gì nhau, nỡ nào lại hạ độc thủ như thế?

Chàng tâm địa vốn là kẻ nhân từ, từ bé đọc kinh niệm Phật, đến con kiến cũng không dám giết ngờ đâu hôm nay lại xảy ra một trường đại họa như thế này. Gã võ sĩ Tây Hạ cười khẩy:

- Ngươi còn giả vờ mèo khóc chuột, tưởng thế là miễn tội hay sao?

Đoàn Dự gạt lệ đáp:

- Đúng vậy, người đã giết rồi, tội đã phạm rồi khóc lóc có ích gì? Chi bằng đem những người này chôn cất cho tử tế là hơn.

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Hơn chục người này mai táng thực không biết bao lâu mới xong”. Nàng kêu lên:

- Đoàn công tử, e rằng lại có thêm một đám địch khác nữa tới bây giờ, chúng mình chạy xa chừng nào tốt chừng nấy.

Đoàn Dự đáp:

- Vâng! Vâng!

Chàng quay mình toan trèo lên thang. Gã võ sĩ Tây Hạ kia liền nói:

- Ngươi chưa giết được ta làm sao đi cho được?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Tôi không muốn giết ông, vả lại, tôi cũng không phải là đối thủ của ông.

Người kia nói:

- Mỉnh chưa đánh nhau, sao biết được ngươi không phải là đối thủ? Vương cô nương truyền cho ngươi Lăng Ba Vi Bộ, ha ha, quả nhiên khác hẳn người thường.

Đoàn Dự định cãi lại Lăng Ba Vi Bộ không phải do Vương cô nương truyền dạy nhưng nghĩ lại chuyện này có đáng gì để mà phải đôi co với người ngoài bèn nói:

- Đúng đó! Tôi vốn dĩ không biết chút võ công nào, toàn nhờ Vương cô nương lên tiếng chỉ điểm nên mới thoát được đại nạn.

Gã kia nói:

- Thế thì hay lắm. Ta đợi ngươi ở đây, ngươi lên nói nàng ta chỉ cho ngươi cách nào giết được ta.

Đoàn Dự đáp:

- Nhưng tôi không muốn giết các hạ.

Người kia đáp:

- Ngươi không giết ta thì ta cũng giết ngươi.

Nói xong y nhặt một thanh đơn đao dưới đất lên, đột nhiên thanh quang lấp loáng, chung quanh y hơn một trượng toàn là bóng đao. Đoàn Dự chưa tới được ngạch cửa đã bị y dùng sống đao đánh một cái mạnh vào đầu vai, kêu rú lên một tiếng chân loạng choạng. Cước bộ của chàng vừa lộn xộn, gã võ sĩ Tây Hạ lập tức thừa thế xông lên, mũi đao đã gờm ngay vào cổ chàng. Đoàn Dự sợ đến toát mồ hôi, đứng chết sững như trời trồng.

Gã kia nói:

- Ngươi mau mau đi thỉnh giáo sư phụ ngươi xem nàng ta có cách nào giết ta không?

Nói xong y thu đao lại, chân phải hất một cái nghe bình một tiếng đá cho Đoàn Dự ngã lăn cù. Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Đoàn công tử, mau lên đây!

Đoàn Dự đáp:

- Vâng!

Chàng liền trèo thang đi lên, quay đầu nhìn lại thấy người kia ngồi ôm thanh đao, khuôn mặt vẫn trơ trơ như xác chết, hiển nhiên không coi chàng vào đâu, chẳng thèm đánh lén sau lưng khi chàng lên thang. Đoàn Dự lên trên gác rồi nói nhỏ:

- Vương cô nương, tôi đánh không lại y thôi mình tìm cách nào bỏ chạy.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Y chặn ngay trước cửa, mình chạy cách nào bây giờ? Nhờ anh mang cái áo kia lại cho tôi.

Đoàn Dự đáp:

- Vâng!

Chàng thò tay nhặt một chiếc áo cũ của cô gái quê kia để lại. Vương Ngữ Yên nói:

- Nhắm mắt lại, đi tới đây! Được rồi, đứng đó. Anh mặc áo lên người cho tôi, không được hé mắt đấy nhé.

Đoàn Dự y lời nàng làm đúng như thế. Chàng vốn là người quân tử hết sức thành khẩn, đối với Vương Ngữ Yên sùng kính chẳng khác gì thần tiên, không dám làm gì sai quấy thế nhưng vừa nghĩ đến người nàng y phục không đủ che thân tim đã đập thình thình.

Vương Ngữ Yên đợi Đoàn Dự mặc áo cho mình xong mới nói:

- Thôi được rồi! Anh đỡ tôi dậy.

Đoàn Dự chưa nghe nàng ra lệnh cho mình mở mắt nên vẫn nhắm nghiền, vừa nghe bảo “Anh đỡ tôi dậy!” lập tức thò tay ra, vô ý làm sao chạm ngay phải má Vương Ngữ Yên, thấy da thịt nàng thật là mềm mại nhẵn nhụi, không khỏi hoảng sợ đến giật bắn người, vội vàng rụt tay lại, luôn mồm nói:

- Xin lỗi cô! Xin lỗi cô!

Vương Ngữ Yên được chàng mặc áo cho đã thẹn đến chín người, bây giờ lại thấy anh ta mắt nhắm tịt, thò tay sờ mặt mình loạn cả lên, lại càng bẽn lẽn nói:

- Gớm, tôi bảo anh đỡ tôi dậy cơ mà!

Đoàn Dự đáp:

- Vâng! Vâng!

Chàng mắt vẫn nhắm nghiền, hai tay không biết phải mò hướng nào, lại e đụng phải người nàng thì tội nghiệt càng thêm nặng, không khỏi quờ quạng, chân tay luống cuống. Vương Ngữ Yên cũng thấy tâm thần ngây ngất, một hồi sau mới nhớ ra phải bảo chàng mở mắt, phụng phịu nói:

- Sao anh còn chưa mở mắt ra?

Gã võ sĩ Tây Hạ ngồi bên dưới cười khẩy mấy tiếng nói:

- Ta bảo ngươi lên học võ công để giết ta chứ có bảo hai đứa chúng bay lên đó cười cợt, ôm ấp nhau đâu.

Đoàn Dự mở choàng mắt ra, thấy khuôn mặt ngọc của Vương Ngữ Yên hai má đỏ ửng, thẹn thùng thật là kiều diễm khiến chàng như ngây như dại, đăm đăm nhìn nàng, mấy câu của gã võ sĩ Tây Hạ nào có để vào tai. Vương Ngữ Yên nói:

- Anh đỡ tôi ngồi ở đây đi nào.

Đoàn Dự vội đáp:

- Vâng! Vâng!

1 Đây là một cơ quan dùng sức nước làm quay một bánh xe thật lớn vận chuyển chiếc chày lên xuống tự động giã gạo hay xay lúa (noria). Miền Trung nước ta người ta cũng áp dụng nguyên tắc này để tát nước vào ruộng.

2 Tích rút trong Hán Sở tranh hùng, Lưu Bang cùng các chư hầu vây khốn Hạng Vũ. 

3 Hạng Vũ bị vây, Trương Lương sai người hát tiếng Sở khiến quân lính nhớ nhà bỏ trốn, ở đây Đoàn Dự muốn nói mình đã vào bước đường cùng

datlucky_way

23-07-2009 08:17 AM

Hồi 17(b) : KIM NHẬT Ý 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Dù cho sông cạn đá mòn,

Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ.

(Ca Dao VN)

*

* *

Chàng lật đật đỡ người nàng, để nàng ngồi trên một tấm ghế dài. Vương Ngữ Yên hai tay run rẩy, cố gắng kéo hai tà áo lại che người, cúi đầu suy nghĩ, một lúc sau mới nói:

- Y không để lộ võ công gia số của mình ra, tôi ... tôi thật không biết cách nào đánh bại y được.

Đoàn Dự hỏi:

- Y lợi hại lắm, có phải không?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mới rồi y cùng anh động thủ, tổng cộng sử dụng đến mười bảy loại võ công khác biệt nhau.

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:

- Cái gì? Chỉ trong bấy nhiêu mà đã sử dụng đến mười bảy loại võ công khác nhau hay sao?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Đúng thế. Y dùng đơn đao cuốn chung quanh anh, đông chém một đao đó là Hàng Ma đao pháp của phái Thiếu Lâm. Khi y bổ ở bên tây xuống một đao, đó là Sài Đao Thập Bát Lộ của ông già họ Lê ở Lê Sơn Động tỉnh Quảng Tây. Khi y vòng trở lại hớt một cái thì đã chuyển qua sử dụng Hồi Phong Phất Liễu Đao của nhà họ Sử đất Giang Nam. Kế đó y chém thêm mười một đao nữa, sử dụng mười một đao pháp khác nhau. 

Sau cùng y đảo ngược sống đao, đập lên đầu vai anh một cái, đó là Từ Bi Đao do Tâm Quan hòa thượng của chùa Thiên Đồng ở Ninh Ba sáng tạo, chỉ chế ngự kẻ địch mà không giết. Y kề đao vào cổ anh, đó là chiêu số thuộc Kim Đao của Dương lão lệnh công bản triều khi ra trận bắt sống kẻ địch, là một trong Hậu Sơn Tam Tuyệt Chiêu, vốn dùng cán trường đao nhưng y đổi qua thành đơn đao. Sau cùng y giơ chân đá anh ngã lăn cù, lại là cách đá giật của người Tây Hạ.

Nàng từng chiêu nói ra chẳng khác gì của quí trong nhà, mỗi món lai lịch nguyên ủy đều rành rẽ, còn Đoàn Dự nghe mà chẳng thông chút nào, chỉ giương mắt nhìn, không biết phải làm sao. Vương Ngữ Yên nghiêng đầu suy nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Anh đánh không lại y đâu, nhận thua là hơn.

Đoàn Dự đáp:

- Thì tôi đã chịu thua rồi.

Chàng cao giọng nói vọng xuống:

- Này, ta không cách nào có thể thắng ngươi được, ngươi có chịu bỏ qua hay không?

Gã võ sĩ Tây Hạ cười khẩy:

- Ngươi muốn ta tha chết cho thì cũng chẳng khó, chỉ cần làm theo lời ta dặn thôi.

Đoàn Dự vội hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Người kia đáp:

- Từ rày về sau, mỗi khi ngươi gặp ta, lập tức phải nằm mọp xuống, rập đầu lạy ta ba cái lớn tiếng nói: “Xin đại lão gia tha cho cái mạng chó này!”.

Đoàn Dự nghe nói thế nổi xung lên nói:

- Sĩ khả sát nhi bất khả nhục, nếu ngươi bảo ta khấu đầu van xin thì đừng hòng. Ngươi muốn giết thì cứ việc ra tay.

Người kia nói:

- Có thực ngươi không sợ chết hay chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Chết thì ai chẳng sợ thế nhưng mỗi khi gặp ngươi lại quì xuống rập đầu thì còn ra trò trống gì nữa?

Gã kia cười khẩy nói:

- Gặp ta quì xuống khấu đầu thì có gì là ép uổng ngươi đâu. Nếu như một ngày nào đó ta lên làm Hoàng Đế Trung Nguyên thì liệu ngươi gặp ta ngươi có quì xuống khấu đầu hay không?

Vương Ngữ Yên nghe y nói “Nếu như một ngày nào đó ta lên làm Hoàng Đế Trung Nguyên”, trong bụng chột dạ nghĩ thầm: “Sao y lại dám nói như thế nhỉ?”. Đoàn Dự đáp:

- Gặp Hoàng Đế phải quì lạy thì lại là chuyện khác. Đó là hành lễ chứ đâu phải là van xin.

Gã võ sĩ Tây Hạ nói:

- Như thế có nghĩa là điều kiện của ta ngươi không chịu đáp ứng, phải không nào?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Quả là không phải nhưng không thể nào tuân mệnh được, thôi đành phó mặc trong tay lão huynh.

Gã kia nói:

- Được, ngươi xuống đây để ta một đao giết ngươi.

Đoàn Dự liếc Vương Ngữ Yên, trong lòng hết sức chua xót nói:

- Nếu như ngươi quả muốn giết ta thì cũng đành lòng. Ta chỉ có một điều cầu xin.

Người kia hỏi:

- Điều gì?

Đoàn Dự đáp:

- Vị cô nương này thân trúng kỳ độc, chân tay uể oải không đi lại được, xin ngươi tìm cách đưa cô ta về nhà ở Mạn Đà Sơn Trang trong Thái Hồ.

Gã kia cười ha hả nói:

- Sao ta lại phải tìm cách đưa cô ta về? Chinh Đông Đại Tướng Quân nước Tây Hạ đã ra tướng lệnh, ai bắt được cô nương bác học đa tài này sẽ được thưởng một nghìn lạng hoàng kim, quan phong Vạn Hộ Hầu.

Đoàn Dự nói:

- Thế cũng được! Để ta viết một phong thư, sau khi ngươi đưa cô gái này về nhà rồi, ngươi sẽ mang lá thư này đến nước Đại Lý lấy năm nghìn lạng vàng, lại cũng được phong Vạn Hộ Hầu.

Người kia cưới sằng sặc nói:

- Ngươi tưởng ta là đứa trẻ lên ba hay sao? Ngươi là cái thá gì mà chỉ viết một lá thư mà ta được năm nghìn lượng vàng, quan phong Vạn Hộ Hầu?

Đoàn Dự nghĩ thầm chuyện này quả thực khó có ai tin, không biết làm cách nào, hai tay xoắn vào nhau lẩm bẩm:

- Cái ... cái này ... cái này ... làm sao đây? Ta có chết cũng đành lòng, nếu để tiểu thư lưu lạc nơi đất lạ, rơi vào tay phỉ nhân thì có chết vạn lần cũng không chuộc được.

Vương Ngữ Yên nghe chàng nói thật chân thành, trong lòng không khỏi cảm động lớn tiếng nói với gã Tây Hạ:

- Này, nếu ngươi vô lễ với ta, biểu ca ta sẽ báo thù cho ta, sẽ làm cho nước Tây Hạ một phen long trời lở đất, đến con gà con chó cũng không tha.

Gã kia hỏi lại:

- Thế biểu ca ngươi là ai?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Biểu ca ta là Mộ Dung công tử, tên tuổi lừng lẫy trong võ lâm Trung Nguyên, ắt hẳn ngươi cũng đã nghe qua rồi. Môn “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân” ngươi cũng biết, ngươi không nể nang ta thì y đối với ngươi còn gấp mười như thế.

Người kia cười khẩy:

- Mộ Dung công tử nếu thấy được ngươi cùng tên mặt trắng này ôm ấp nhau như thế thì lẽ nào lại còn báo thù cho ngươi nữa?

Vương Ngữ Yên mặt đỏ bừng nói:

- Ngươi đừng nói mò, ta và vị Đoàn công tử này không hề ... không hề có cái gì ...

Nàng nghĩ mình không nên nói nhiều bèn đánh trống lảng hỏi lại:

- Này, quân gia tôn tính đại danh là chi? Liệu có dám cho ta biết được chăng?

Gã võ sĩ Tây Hạ đáp:

- Có gì mà không dám? Bản quan đi không đổi họ, ngồi chẳng đổi tên, chính là Lý Diên Tông nước Tây Hạ đây.

Vương Ngữ Yên nói:

- Ồ, ngươi họ Lý, đó là quốc tính nước Tây Hạ.

Người kia nói:

- Đâu phải chỉ quốc tính mà thôi? Tinh trung báo quốc, nuốt Liêu diệt Tống, tây trừ Thổ Phồn, nam lấy Đại Lý.

Đoàn Dự nói:

- Các hạ chí hướng quả là không nhỏ. Này Lý tướng quân, để ta nói cho mà nghe. Ngươi tinh thông tuyệt nghệ các phái, muốn luyện thành võ công đệ nhất thiên hạ cũng chẳng khó khăn gì. Thế nhưng muốn thôn tính cả thiên hạ thì không phải chỉ cần võ công số một là xong đâu.

Lý Diên Tông hừ một tiếng không trả lời. Vương Ngữ Yên nói:

- Nói đến võ công đứng đầu thiên hạ, chưa chắc ngươi đã làm được đâu.

Lý Diên Tông hỏi:

- Làm sao biết được?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Hiện nay trên đời, cứ như ta biết cũng đã có hai người võ công hơn nhà ngươi xa.

Lý Diên Tông tiến lên một bước, ngẩng đầu lên hỏi dồn:

- Hai người nào?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Người thứ nhất là tiền nhiệm Cái Bang Kiều bang chủ Kiều Phong.

Lý Diên Tông hừ một tiếng nói:

- Tên tuổi có lớn nhưng chắc gì danh với thực đã đi đôi. Thế còn người thứ hai?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Người thứ hai là biểu ca ta, Mộ Dung công tử Mộ Dung Phục đất Giang Nam.

Lý Diên Tông lắc đầu nói:

- Cái đó cũng chưa hẳn. Ngươi xếp hạng Kiều Phong lên trên Mộ Dung Phục là vì công đạo hay vì tư tình?

Vương Ngữ Yên hỏi:

- Thế nào là công đạo, thế nào là tư tình?

Lý Diên Tông đáp:

- Nếu là vì công đạo thì là vì Kiều Phong quả hơn hẳn Mộ Dung Phục, còn như vì tư tình, chính bởi vì Mộ Dung Phục là chỗ bà con với ngươi nên để người ngoài đứng trước.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Công hay tư gì thì cũng thế thôi. Ta lúc nào chẳng mong biểu ca thắng được Kiều bang chủ nhưng hiện tại thì chưa.

Lý Diên Tông nói:

- Trước mắt thì vậy nhưng Kiều Phong có giỏi cũng chỉ giỏi một môn phái, còn biểu ca ngươi võ công thiên hạ cái gì cũng biết, tương lai tài nghệ tiến bộ thì sẽ trở thành thiên hạ đệ nhất.

Vương Ngữ Yên thở dài nói:

- Xem ra không được đâu. Nói đến tương lai, võ công đứng đầu thiên hạ phần lớn phải là vị Đoàn công tử này.

Lý Diên Tông ngửa mặt lên cười ha hả nói:

- Ngươi có nói đùa không đó? Gã đồ gàn này bất quá được ngươi chỉ điểm, học được một môn Lăng Ba Vi Bộ, không lẽ cái trò ôm đầu lủi như chuột, rụt đầu rụt cổ như con rùa kia lại dám xưng là võ công đứng đầu thiên hạ hay sao?

Vương Ngữ Yên đã toan cãi: “Công phu Lăng Ba Vi Bộ của anh ta đâu có phải do ta truyền thụ. Anh ta nội lực hùng hồn, căn cơ chắc chắn, không ai bì kịp”. Thế nhưng nàng lại nghĩ ngay: “Người này xem chừng bụng dạ hẹp hòi, nếu ta cứ tình thực nói ra, e rằng thể nào y cũng giết Đoàn công tử. Tốt hơn hết là ta khích y một tiếng”.

Nàng liền nói:

- Nếu như anh ta chịu nghe lời ta chỉ điểm, tập luyện võ công thì chỉ ba năm sau, thắng được Kiều bang chủ thì chưa chắc nhưng để thắng được các hạ thì dễ như trở bàn tay.

Lý Diên Tông nói:

- Hay lắm! Ta tin lời cô nương. Để khỏi lưu lại mầm họa sau này, chi bằng hôm nay một đao giết y là hơn. Đoàn công tử, ngươi xuống đây, ta muốn giết ngươi.

Đoàn Dự vội nói:

- Ta không xuống đâu. Ngươi ... ngươi cũng không được lên.

Vương Ngữ Yên có ngờ đâu khéo quá hóa vụng, người này lại không để cho nàng khích bác nên đành cười nhạt nói:

- Thì ra ngươi chột dạ, sợ ba năm nữa anh ta thắng được ngươi.

Lý Diên Tông đáp:

- Ngươi định giở kế khích tướng để cho ta tha y chứ gì? Ha ha, Lý Diên Tông này là hạng người nào mà để bị vào tròng? Muốn ta tha mạng cho y cũng dễ, ta đã nói từ đầu, chỉ cần mỗi khi gặp ta thì phải rập đầu van xin, ta sẽ không giết y.

Vương Ngữ Yên quay sang nhìn Đoàn Dự, cái việc rập đầu xin tha kia anh chàng nhất định không chịu, thế nhưng sự thể ngày hôm nay chỉ đành tìm cái sống trong cái chết liền hạ giọng hỏi nhỏ:

- Đoàn công tử, kiếm khí trên ngón tay anh, lúc thì linh nghiệm, lúc thì không là vì duyên cớ nào?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi cũng không biết nữa.

Vương Ngữ Yên nói:

- Tốt hơn hết là anh cố gắng làm sao dùng kiếm khí đâm vào cổ tay y, đoạt trường kiếm của y trước, sau đó ôm chặt lấy y, sử dụng Lục Dương Dung Tuyết Công tiêu trừ công lực.

Đoàn Dự ngạc nhiên:

- Cái gì mà lại Lục Dương Dung Tuyết Công?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Hôm trước ở Mạn Đà Sơn Trang, anh chế phục Nghiêm má má để cứu tôi đã chẳng sử dụng môn thần công đó của họ Đoàn Đại Lý đấy ư?

Đoàn Dự bấy giờ mới vỡ lẽ, hôm đó Vương Ngữ Yên tưởng Bắc Minh Thần Công của chàng là môn mà võ lâm ghét cay ghét đắng Hóa Công Đại Pháp, nhất thời chàng không thể giải thích nên bịa ra nói đó là môn gia truyền của nhà họ Đoàn nước Đại Lý, tên là Lục Dương Dung Tuyết Công. Chàng chỉ nói bừa nên cũng đã quên từ lâu thế nhưng Vương Ngữ Yên thì võ công môn phái nào trong thiên hạ cũng nhớ như in vào lòng, huống chi là môn kỳ công đó trong thiên hạ?

Đoàn Dự gật đầu nghĩ thầm ngoài cách đó ra không còn cách nào khác, thế nhưng pháp môn đó không chắc có dùng được không, xem ra hung đa cát thiểu, bèn sửa lại áo quần nói:

- Vương cô nương, tại hạ vô năng không đủ sức hộ tống cô nương trở về, quả thực hết sức hổ thẹn. Mai nầy cô nương vinh qui bảo phủ rồi, cùng lệnh biểu huynh thành thân, đừng quên nơi gốc cây hoa trà chính tay tại hạ trồng đổ vài chén rượu, coi như cho tôi uống chén hỉ tửu chung vui.

Vương Ngữ Yên nghe chàng chúc mình cùng biểu ca mai này thành hôn, trong lòng hoan hỉ nhưng thấy chàng phải đi ra để cho người ta chém giết như thế này, trong dạ cũng nao nao, buồn bã nói:

- Đoàn công tử, cái ơn cứu mạng của chàng, thiếp còn sống ngày nào quyết chẳng bao giờ dám quên.

Đoàn Dự bụng bảo dạ: “Nếu như tương lai mình ngồi trơ mắt ếch nhìn nàng và Mộ Dung Phục thành thân, lửa ghen đốt ruột đến phát điên cũng sống làm sao nổi, chi bằng hôm nay vì nàng mà bỏ mình thì còn mát ruột hơn”. Nghĩ thế chàng quay lại mỉm cười nhìn nàng, từng bước từng bước xuống thang.

Vương Ngữ Yên nhìn theo lưng chàng nghĩ thầm: “Anh chàng này kể cũng lạ, chết đến nơi vậy mà vẫn còn cười được”. Đoàn Dự xuống thang rồi, quay sang trừng mắt nhìn Lý Diên Tông nói:

- Lý tướng quân, nếu như ngươi không thể không giết ta thì ra tay đi.

Nói xong tiến lên một bước chính là theo Lăng Ba Vi Bộ. Lý Diên Tông vũ động đơn đao, soẹt soẹt soẹt chém liên tiếp ba nhát liền, sử dụng ba loại đao pháp khác nhau. Vương Ngữ Yên cũng không lấy làm lạ, nghĩ bụng trong các loại binh khí thì đao pháp có nhiều gia số nhất, nếu quả là kẻ học rộng biết nhiều sử dụng đến bảy tám chục thế cũng không đến nỗi phải sử dụng một chiêu của bất cứ môn phái nào lần thứ hai. Đoàn Dự bước theo Lăng Ba Vi Bộ rồi thật là huyễn ảo tinh kỳ, Lý Diên Tông muốn dùng đao thế bao vây chàng lại, mấy lần tưởng đã xong ngờ đâu không hiểu cách nào, đối phương đã như ma như quỉ chui lọt ra khỏi vòng.

Vương Ngữ Yên thấy lần này Đoàn Dự có thể dây dưa được lâu như thế cũng có chút hi vọng, chỉ mong chàng đột xuất kỳ binh, từ trong nguy hiểm chuyển bại thành thắng.

Đoàn Dự ngầm vận nội lực, muốn đem chân khí theo năm ngón tay bên phải bắn ra, thế nhưng chẳng hiểu vì sao lần nào cũng vừa đến cánh tay là chựng lại quay trở về. Cũng may là Lăng Ba Vi Bộ chàng đã rất nhuần nhuyễn, sử dụng trơn như nước chảy, Lý Diên Tông ra chiêu nhanh như thế vậy mà vẫn không sao chém trúng được vào người chàng.

Lý Diên Tông chính mắt trông thấy chàng dùng chỉ lực lạ lùng quái dị giết chết những cao thủ Tây Hạ, bây giờ lại thấy chàng đâm ngang chỉ dọc, không biết làm trò trống gì, có biết đâu nội lực chàng không phóng ra được, lại tưởng chàng trước khi sử dụng tà thuật phải vẽ bùa niệm chú gì đây, đến khi hoàn tất mới tung pháp môn ra, trong bụng không khỏi sợ hãi nghĩ thầm: “Gã này ngoài cước pháp kỳ quái, võ công thật là tầm thường nhưng tà thuật của y lợi hại mình phải làm sao giết y trước khi y sử dụng tà pháp mới xong. Thế nhưng đao của ta không chém trúng y được, biết làm sao đây?”.

Y chợt nghĩ ra một cách đột nhiên vòng tay lại đánh ra một chưởng trúng ngay chiếc guồng quay nước, vỡ một mảng gỗ lớn, nhặt ngay lên liệng ngay vào chân Đoàn Dự. Đoàn Dự đang đi nhanh như gió, phiến gỗ kia làm sao trúng nổi, thế nhưng Lý Diên Tông tay đấm chưởng phạt, bao nhiêu đồ đạc khí mãnh trong nhà, luôn cả thúng mủng giỏ tre đều tan nát, liên tiếp ném vào chân đối phương.

Trong nhà máy xay vốn dĩ nằm la liệt những xác chết, lại thêm bao nhiêu đồ đạc vỡ vụn, Đoàn Dự làm sao còn chỗ nào mà bước vào? Lăng Ba Vi Bộ của chàng toàn dựa vào tới lui phiêu dật chẳng khác gì gió lướt trên mặt hồ hoàn toàn không có gì ngăn trở, bây giờ mỗi bước đi ra đều có vật chặn chân lại, nếu không vấp ngã thì cũng dẵm phải thân người, làm sao còn thi triển yếu quyết “nhàn nhã tiêu sái tưởng như cỡi gió mà đi ” được nữa?

Chàng biết rằng mình chỉ chậm lại một chút thì sẽ bỏ mạng ngay nên không nhìn xuống đất, cứ theo phương vị cước pháp đã thuần thục mà đi, đến cả chân cao chân thấp, hay dưới chân có tiếng gì quái lạ, đầu ngón chân đá phải vật gì chàng cũng không coi vào đâu.

Vương Ngữ Yên thấy chàng không ổn kêu lên:

- Đoàn công tử mau mau đi ra ngoài cửa, chạy lấy một mình, nếu ở trong đây đấu với y e rằng khó bảo toàn tính mạng.

Đoàn Dự kêu lên:

- Họ Đoàn này đến chết thì phải đành chịu chứ nếu còn một hơi thở cũng nhất quyết bảo hộ cho cô nương được chu toàn.

Lý Diên Tông cười nhạt nói:

- Nhà ngươi võ công tuy chẳng ra gì nhưng được cái giống đa tình, đối với Vương cô nương quả là tình nghĩa thâm sâu yêu đương nồng thắm.

Đoàn Dự lắc đầu:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Vương cô nương là hạng thần tiên còn Đoàn Dự này là kẻ phàm phu tục tử, làm sao lại có thể đàm tình thuyết ái được? Nàng coi trọng ta mới nhờ đưa đi kiếm biểu ca, ta phải làm sao báo đáp cái ơn tri ngộ đó.

Lý Diên Tông nói:

- Ồ, nàng ta đi theo ngươi chẳng qua là để kiếm biểu ca nàng Mộ Dung công tử chứ trong lòng nàng chẳng coi ngươi vào đâu. Nhà ngươi si tâm vọng tưởng như thế có khác gì con cóc muốn ăn thịt ngỗng trời đâu? Ha ha! Ha ha! Cười đến chết được!

Đoàn Dự toàn nhiên không nổi giận, nghiêm mặt nói:

- Ngươi bảo ta là con cóc còn Vương cô nương là thiên nga so sánh thế thật đúng lắm. Có điều ta tuy là con cóc nhưng không phải như những con cóc khác, chỉ mong được nhìn thấy con thiên nga một vài lần cũng thỏa lòng rồi chứ không dám mơ tưởng gì hơn nữa.

Lý Diên Tông nghe chàng nói “ta tuy là con cóc nhưng không phải như những con cóc khác”, thật không sao nhịn nổi cười phá lên. Cũng lạ là y cười to như thế nhưng các bắp thịt trên mặt vẫn trơ trơ không cử động chút nào. Đoàn Dự đã từng thấy thái tử Diên Khánh đến nói năng cũng không mấp máy môi, Lý Diên Tông tuy mặt mày quái đản chàng cũng không ngạc nhiên gì lắm, bèn nói:

- Nói đến mặt mày trơ trơ như đá thì ngươi so với thái tử Diên Khánh còn kém xa, ngươi có xin làm học trò y cũng chưa đáng.

Lý Diên Tông hỏi:

- Thái tử Diên Khánh là ai vậy?

Đoàn Dự đáp:

- Y là cao thủ nước Đại Lý, võ công ngươi chưa bằng được y đâu.

Thực ra võ công người khác cao thấp thế nào chàng làm gì phân biệt được, nghĩ mình chẳng bao lâu nữa sẽ chết dưới tay y nên nói vài câu chê trách bâng quơ cho y tức giận thì cũng tốt. Lý Diên Tông hừ một tiếng nói:

- Võ công ta cao thấp cỡ nào, tên tiểu tử như ngươi làm gì mà biết được?

Y miệng nói nhưng đơn đao trong tay múa lên càng lúc càng thêm gấp gáp. Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự nghiêng nghiêng ngả ngả, chân thấp chân cao, tình thế cực kỳ nguy ngập kêu lên:

- Đoàn công tử mau ra ngoài cửa đi, muốn cầm chân y thì ở bên ngoài cũng vậy thôi.

Đoàn Dự đáp:

- Cô không cử động được, một mình ở lại nơi đây, tôi không an lòng. Trong này xác chết nhiều quá, thân đàn bà con gái như cô ắt sẽ sợ hãi, để tôi ở đây bầu bạn với cô thì hơn.

Vương Ngữ Yên thở hắt ra nghĩ thầm: “Cái anh chàng ngốc ơi là ngốc, lo cả đến việc ta sợ hay không sợ, lại chẳng lo chính mình chớp mắt đã bỏ mạng rồi”.

Khi đó bước chân Đoàn Dự đụng đâu vấp đó, mấy lần bị lưỡi đao của kẻ địch chém vụt qua đỉnh đầu chỉ cách khoảng chừng một sợi tóc. Chàng sợ đến run lẩy bẩy không ngừng suy nghĩ: “Y mà chém đứt nửa đầu mình thì thật chẳng sung sướng gì. Đại trượng phu khi co khi duỗi, thôi vì Vương cô nương chi bằng mình quì xuống khấu đầu van xin tha mạng cho xong!”. Trong bụng chàng tuy nghĩ thế nhưng không sao nói ra lời được.

Lý Diên Tông cười nhạt:

- Ta xem chừng ngươi sợ lắm rồi, đang định cụp đuôi bỏ chạy chứ gì.

Đoàn Dự đáp:

- Sống chết là chuyện lớn, có ai không sợ? Một khi chết đi mọi việc coi như xong. Ta cũng nghĩ đến việc bỏ chạy nhưng lại không chạy được.

Lý Diên Tông nói:

- Sao thế?

Đoàn Dự nói:

- Có nhiều lời cũng vô ích. Ta đếm từ một tới mười, nếu như ngươi giết ta không được thì đừng có chèo kéo ta thêm nữa. Ngươi không giết nổi ta mà ta cũng không giết được ngươi, hai đứa mình cứ cái trò “Ông Nỉnh ông Ninh, ông Nảng ông Nang ...” này mãi có khỏi khiến Vương cô nương đứng xem chán chết đi được hay không?

Chàng không đợi Lý Diên Tông đồng ý hay không há mồm đếm lớn:

- Một, hai, ba ...

Lý Diên Tông nói:

- Ngươi giở trò ngốc gì thế?

Đoàn Dự vẫn đếm tiếp:

- Bốn, năm, sáu ...

Lý Diên Tông cười nói:

- Sao trên đời này lại có đứa rỗi hơi như ngươi, quả thực hết sức nhục cho cái tiếng con nhà “võ”.

Vù vù vù y chém luôn ba đao, Đoàn Dự cước bộ càng nhanh hơn, miệng đếm lại càng nhanh hơn nữa:

- Bảy, tám, chín, mười, mười một, mười hai, mười ba ... A ha, ta đếm tới mười ba rồi mà ngươi vẫn chưa giết được ta, sao còn chưa nhận thua. Ta xem bụng ngươi cũng đói rồi, mồm khô lưỡi đắng, thôi vào thành Vô Tích đến Tùng Hạc Lâu uống vài chén, ăn dăm món sơn trân hải vị, có phải sảng khoái hơn không?

Chàng thấy đối phương chưa chịu ngừng tay nên định dụ y đi uống rượu. Lý Diên Tông nghĩ thầm: “Trong đời ta gặp không biết bao nhiêu đại địch, thật chưa từng người nào giống như gã này. Y nếu nói rằng tinh thì cũng không phải, mà bảo vụng thì cũng không đúng, võ công cao chẳng ra cao, thấp chẳng ra thấp, quả thực trên đời ít gặp. Cứ dây dưa giằng dai với y thế này thực không biết rồi sẽ ra sao? Chỉ sợ mình sơ sẩy một tí bị trúng phải tà thuật của y, hóa ra bỏ mạng nơi đây. Chi bằng ta phải tính mưu trước”.

Y biết Đoàn Dự cực kỳ quan tâm đến Vương Ngữ Yên, đột nhiên ngửng đầu nhìn lên trên gác quát lớn:

- Hay lắm! Hay lắm! Chúng bay mau mau chém chết con bé đó đi, rồi xuống giúp ta.

Đoàn Dự kinh hoảng, lại tưởng có địch nhân thật đã trèo lên gác toan gia hại Vương Ngữ Yên, vội ngửng đầu lên, bước chân chậm đi một chút, Lý Diên Tông đưa chân đá quét ngang chàng liền ngã lăn ra, chân trái y liền chận lên ngực, cương đao kề ngay vào cổ chàng. Đoàn Dự vung tay toan điểm ra, Lý Diên Tông chân hơi nhấn mạnh xuống, lưỡi đao đâm vào cổ chàng mấy phân quát lên:

- Ngươi mà cử động, ta sẽ cắt đầu ngươi ngay.

Lúc này Đoàn Dự thấy trên gác không có người nào nên cũng an tâm cười nói:

- Thì ra ngươi đánh lừa ta, Vương cô nương không có gì nguy hiểm cả.

Chàng lại thở dài nói:

- Tiếc thay! Tiếc thay!

Lý Diên Tông hỏi lại:

- Tiếc cái gì?

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi võ công thật giỏi, đúng ra có thể coi là một bậc anh hùng hảo hán, Đoàn Dự này có chết dưới tay ngươi thì cũng đáng đời. Ngờ đâu ngươi lại không dùng võ công để thắng ta mà lại giở trò gian trá, học thói hèn hạ tiểu nhân, Đoàn Dự chết thế có phải oan không?”.

Lý Diên Tông nói:

- Ta xưa nay đâu có để cho người ta nói khích, ngươi chết oan trong lòng không phục thì xuống mà kiện với Diêm Vương!

Vương Ngữ Yên kêu lên:

- Lý tướng quân! Khoan đã.

Lý Diên Tông hỏi:

- Cái gì?

Vương Ngữ Yên nói:

- Nếu ngươi giết anh ta, trừ khi giết luôn ta thì không nói, nếu không thể nào cũng có ngày ta sẽ giết ngươi báo thù cho Đoàn công tử.

Lý Diên Tông ngạc nhiên hỏi:

- Ngươi chẳng bảo là sẽ nhờ biểu ca ngươi đi kiếm ta hay sao?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Biểu ca ta võ công chưa chắc đã giỏi hơn ngươi, nhưng ta cũng có cách giết ngươi được.

Lý Diên Tông cười khinh khỉnh nói:

- Sao ngươi biết?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Võ công ngươi tuy biết rộng thật nhưng cũng chưa bằng nửa ta. Lúc đầu ta thấy đao pháp ngươi phức tạp quả có bội phục thật, nhưng coi độ năm chục chiêu rồi thấy chẳng qua cũng chỉ đến đó, bảo là “Kiềm lô kỹ cùng” thì có hơi khắc bạc nhưng nói trắng ra hiểu biết của ngươi còn kém xa ta.

Lý Diên Tông nói:

- Đao pháp ta sử dụng cho tới lúc này chưa có chiêu nào cùng ở một môn phái, làm sao ngươi biết được là ta hiểu biết kém ngươi xa? Ta còn biết bao nhiêu võ công chưa hiển lộ làm sao ngươi biết?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Mới rồi sau khi ngươi sử dụng chiêu Đại Mạc Phi Sa của phái Ngọc Thụ ở Thanh Hải, Đoàn công tử rảo bước tránh qua, ngươi nếu như sử dụng chiêu thứ mười bảy của Vũ Y Đao phái Thái Ất, rồi sử thế Thanh Phong Từ Lai của phái Linh Phi thì đã đánh ngã được Đoàn công tử rồi chứ việc gì phải sử dụng Hác gia đao pháp hoa hòe hoa sói của đất Sơn Tây? Cũng việc gì phải hành gian sử trá, đánh lừa để cho Đoàn công tử phân tâm mà thủ thắng? Ta xem ra những danh môn đao pháp của Đạo gia ngươi hoàn toàn không biết tí gì.

Lý Diên Tông buột miệng hỏi:

- Danh môn đao pháp của Đạo gia ư?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Đúng thế! Ta đoán ngươi vẫn tưởng đạo gia chỉ tinh thông một môn kiếm pháp, có biết đâu đao pháp của danh môn cương trung hữu nhu là một công phu đáng kể.

Lý Diên Tông cười khẩy:

- Ngươi nói có vẻ tự phụ quá. Nếu quả như thế ngươi đối với gã họ Đoàn này thật là thâm tình đấy nhỉ?

Vương Ngữ Yên hơi đỏ mặt nói:

- Cái gì mà bảo là thâm tình? Ta đối với anh ấy làm gì có cái gì gọi là “tình” đâu, chẳng qua anh ấy vì ta mà bỏ mạng cho nên ta quyết tâm báo thù.

Lý Diên Tông hỏi lại:

- Ngươi nói vậy sau này không hối hận chứ?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Dĩ nhiên là không hối hận.

Lý Diên Tông cười nhạt mấy tiếng, lấy trong túi ra một chiếc bình sứ vứt vào trước mặt Đoàn Dự, soạt một tiếng tra đao vào vỏ, thân hình vụt một cái đã ra tới ngoài cửa. Chỉ nghe tiếng ngựa hí rồi có tiếng vó ngựa cồm cộp, người cưỡi chạy đi mỗi lúc một xa.

Đoàn Dự đứng lên, xoa xoa vết đao hằn trên cổ thấy ngâm ngẩm đau tưởng như mình đang ở trong mộng. Vương Ngữ Yên cũng không sao ngờ được chuyện xảy ra, hai người kẻ ở trên gác, người dưới chân thang nhìn nhau ngơ ngẩn, vừa sung sướng lại vừa kinh ngạc. Một hồi lâu sau Đoàn Dự mới nói:

- Y đi rồi!

Vương Ngữ Yên cũng nhắc lại:

- Y đi rồi!

Đoàn Dự cười:

- Hay thật, hay thật! Y không giết tôi. Vương cô nương, kiến thức võ học của cô hơn y nhiều, y sợ cô đó.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Chưa hẳn vậy đâu, y giết anh rồi chỉ một đao là giết luôn tôi, có phải rảnh tay không?

Đoàn Dự gãi đầu:

- Cô nói thế cũng đúng. Thế nhưng ... thế nhưng ... ồ, y thấy cô đẹp chẳng khác gì tiên trên trời, làm sao dám giết cô?

Vương Ngữ Yên hai má đỏ ửng nghĩ thầm: “Chỉ có thứ đồ gàn như anh mới coi tôi là thần tiên, còn thứ võ quan Tây Hạ lòng lang dạ thú như y thì có coi tôi vào đâu”. Thế nhưng nàng đâu dám nói ra câu đó. Đoàn Dự thấy nàng ra vẻ bẽn lẽn không hiểu vì sao nên nói:

- Tôi đã định dù phải bỏ mạng cũng nhất định bảo vệ cho cô nương được chu toàn, may sao cô nương cũng bình yên mà chính tôi cũng không chết, quả mình thật hên vô kể.

Chàng tiến lên một bước, nghe keng một tiếng, một chiếc bình sứ rơi luôn xuống đất chính là chiếc bình Lý Diên Tông vứt lại trên người chàng. Chàng nhặt lên coi thấy trên bình viết tám chữ: “Bi Tô Thanh Phong, ngửi vào là khỏi”. Đoàn Dự trầm ngâm hỏi:

- Cái gì mà Bi Tô Thanh Phong? Ồ, chắc đây là thuốc giải.

Chàng mở nắp bình ra, một làn hơi thối tha cực kỳ khó ngửi xông ngay vào mũi. Chàng hoa mắt choáng váng, vội vàng đóng nắp bình lại kêu lên:

- Láo toét, láo toét! Thối ơi là thối, thật có khác gì “ bào ngư chi tứ ” đâu.

Vương Ngữ Yên nói:

- Anh cứ đem lên đây tôi ngửi thử, có khi dĩ độc công độc lại hiệu quả không chừng.

Đoàn Dự đáp:

- Vâng!

Chàng liền cầm cái bình lên chỗ Vương Ngữ Yên nói:

- Cái thứ này thối không chịu được, cô có thực sự muốn thử hay không?

Vương Ngữ Yên gật đầu, Đoàn Dự cầm nắp bình nhưng chưa mở vội. Trong một giây phút ngắn ngủi, trong đầu chàng qua lại bao nhiêu ý niệm: “Nếu như thuốc giải này quả là hiệu nghiệm, giải được chất độc trong người nàng thì nàng đâu cần ta giúp đỡ nữa. Tài nghệ nàng gấp trăm lần ta, có cần gì ta đi cùng? Dẫu cho nàng vẫn để cho ta theo không cự tuyệt, lúc gặp ý trung nhân Mộ Dung Phục rồi, chẳng lẽ mình đứng trơ mắt nhìn hai người quấn quít với nhau hay sao? Nghe lỏm hai người nói chuyện yêu đương ư? Đoàn Dự này liệu có giữ bình tĩnh thản nhiên, không nổi cơn tam bành được chăng? Hay là mình rồi cũng mặt mày cau có, buông lời gắt gỏng?”

Vương Ngữ Yên thấy chàng ngẩn ngơ không nói gì cười hỏi:

- Anh nghĩ gì thế? Cứ đưa cho tôi ngửi, tôi không sợ thối đâu.

Đoàn Dự vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Chàng mở nắp bình, đưa vào cạnh mũi nàng. Vương Ngữ Yên hít một hơi mạnh, kinh hoảng kêu lên:

- Ôi chao! Quả là thối thật.

Đoàn Dự nói:

- Đúng đó! Tôi đã bảo không dùng được mà.

Chàng đang định bỏ lại chiếc bình vào trong túi, Vương Ngữ Yên bỗng nói:

- Để tôi ngửi thêm lần nữa xem sao.

Đoàn Dự lại đưa chiếc bình vào cho nàng, chính chàng cũng không biết trong bụng mình muốn thuốc giải này có linh nghiệm hay không. Vương Ngữ Yên cau mày đưa tay bịt mũi nói:

- Tôi thà tay chân không cử động được, còn hơn ngửi cái thứ thối đến chết ... A! tay ... tay tôi cử động được rồi.

Thì ra nàng không để ý đưa tay lên bịt mũi chứ trước đây lấy tay kéo hai vạt áo cũng mất không biết bao nhiêu là hơi sức, bao nhiêu là khó khăn.

Nàng mừng rỡ, cầm chiếc bình trong tay Đoàn Dự, ra sức hít mạnh, biết rằng mùi hôi này cực kỳ hiệu nghiệm nên không còn sợ hãi gì nữa, cố hít thêm mấy lần, chân tay vốn mềm nhũn đã dần dần có sức, quay sang nói với Đoàn Dự:

- Xin anh đi xuống dưới nhà một chút, tôi muốn thay áo.

Đoàn Dự vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Chàng hấp tấp xuống thang, nhìn thấy xác chết la liệt khắp nơi, ngoại trừ đôi trai gái nhà quê, tất cả đều do mình hạ thủ, trong lòng cực kỳ bàng hoàng, thấy một tên võ sĩ Tây Hạ mắt vẫn mở trừng trừng, quả đúng là chết không nhắm mắt. Chàng vái một cái thật sâu nói:

- Nếu như ta không giết lão huynh thì lão huynh cũng giết ta, cái xác nằm đây không phải là lão huynh mà là Đoàn Dự. Tại hạ thật cực chẳng đã mới phải làm nhưng trong lòng quả là đau xót, mai sau về đến Đại Lý rồi thể nào cũng mời các cao tăng, tụng kinh siêu độ cho các vị nhân huynh.

Chàng quay sang nhìn xác đôi thanh niên nam nữ, lại quay sang nhìn xác những võ sĩ Tây Hạ nói:

- Người các ngươi định giết là ta, còn người các ngươi muốn bắt là Vương cô nương, cớ sao lại giết hại người vô tội?

Vương Ngữ Yên thay áo xong rồi, cầm chiếc áo ướt đi xuống thang nhưng chân tay vẫn còn uể oải, thấy Đoàn Dự đứng nhìn những xác người nói lảm nhảm cười hỏi:

- Anh nói gì đó?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi thấy mình giết bấy nhiêu người trong lòng quả là ái ngại.

Vương Ngữ Yên trầm ngâm nói:

- Đoàn công tử, anh thử nghĩ xem vì lẽ gì gã võ sĩ Tây Hạ họ Lý kia lại cho tôi thuốc giải?

Đoàn Dự ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ... tôi cũng chẳng biết nữa ... à ... tôi biết rồi. Chắc là y ... y ...

Chàng liên tiếp mấy chữ “y” mà không dám tiếp: “Y có bụng ái mộ cô rồi!”. Chàng nghĩ bụng một tên võ sĩ Tây Hạ dã man, thô lỗ như thế mà lại bảo là ái mộ nàng thì quả là xúc phạm người đẹp quá hay sao? Nàng xinh đẹp tuyệt trần, cái bụng yêu vẻ đẹp ai mà chẳng có, thế nhưng nếu như ai ai cũng đều say mê nàng cả thì tấm lòng điên đảo của Đoàn Dự này có khác gì đâu? Đoàn Dự với tất cả đàn ông con trai trong thiên hạ cá mè một lứa hay sao? Ôi, cam tâm chịu chết vì nàng thì có gì là không phải? Huống chi ta đã được chết vì nàng đâu? Đoàn Dự nghĩ đến đây bèn nói:

- Tôi ... tôi cũng không biết nữa.

Vương Ngữ Yên nói:

- Không chừng lại có thêm một bầy võ sĩ Tây Hạ khác đến, chúng mình nên tức tốc ra đi là hơn. Anh bảo mình đi đâu bây giờ?

Nàng trong bụng dĩ nhiên muốn đi tìm biểu ca, nhưng nghĩ nếu nói trắng ra như thế thì không được ý tứ. Đoàn Dự biết rõ bụng nàng bèn hỏi lại:

- Thế cô muốn đi đâu?

Chàng mở miệng hỏi mà trong lòng xót xa, chỉ đợi nàng trả lời: “Tôi muốn đi tìm biểu ca” là sẽ mặt dày mày dạn nói: “Để tôi đưa cô đi”. Vương Ngữ Yên bẽn lẽn xoay xoay chiếc bình trong tay, ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ...

Một lát sau mới tiếp:

- Các vị anh hùng hảo hán của Cái Bang đều bị trúng độc Bi Tô Thanh Phong, nếu biểu ca tôi có ở đó thể nào cũng lấy giải dược cho họ ngửi. Huống chí A Châu, A Bích e rằng cũng rơi vào tay địch ...

Đoàn Dự nhảy nhổm lên kêu lớn:

- Đúng đó! A Châu, A Bích hai vị cô nương bị nạn, chúng mình phải tức tốc tìm cách cứu họ ra ngay.

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Việc này quả là nguy hiểm, chỉ bằng tài nghệ hai đứa mình sao dám cứu người trong tay bọn võ sĩ Tây Hạ được? Thế nhưng A Châu, A Bích là hai sứ tì tâm phúc của biểu ca, ta biết họ rơi vào tay địch làm sao lại bỏ đi không đến cứu? Thôi đành là đến đâu hay đó”.

Nàng bèn nói:

- Được rồi! Thế thì mình đi.

Đoàn Dự chỉ các xác chết ngổn ngang trên mặt đất nói:

- Mình nên đem bọn họ chôn cất cho tử tế, xem xét tên tuổi thế nào, mỗi người làm một cái bia mộ để sau này gia đình người ta tìm đến đem cốt về nước còn biết ai với ai.

Vương Ngữ Yên cười khúc khích nói:

- Hay lắm, anh ở lại đây lo liệu tang ma cho họ. Tẫn liệm cho kỹ càng, báo tang, sắp xếp điếu văn, câu đối, cúng kiến đọc kinh, rồi làm cho đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày, sau đó đi thông báo cho gia đình thân thuộc đến cải táng.

Đoàn Dự nghe giọng nàng có vẻ diễu cợt, chàng chính mình nghĩ lại xem cũng không xong gượng cười nói:

- Thế theo ý cô nương thì mình phải làm thế nào?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Cho một mồi lửa đốt cháy rụi là xong, có phải hay hơn không?

Đoàn Dự nói:

- Cái đó, ôi, liệu có quá ư giản dị chăng?

Chàng trầm ngâm một lát thấy không có cách nào hơn chỉ còn nước đi tìm đồ đánh lửa, đốt đống rơm rạ sẵn trong nhà máy xay. Hai người đi ra đến ngoài chẳng mấy chốc đã thấy lửa bùng lên, lem lém cháy.

Đoàn Dự cung kính quì xuống rập đầu khấn:

- Sắc thân vô thường không thể giữ được mãi mãi. Các vị nhân huynh hôm nay chết dưới tay tại hạ, âu cũng là nghiệp báo kiếp trước, mong rằng hồn về cực lạc vĩnh viễn thoát được cái kiếp luân hồi. Xin đừng trách ta!

Chàng lầm rầm xuýt xoa thêm một hồi nữa mới chịu đứng lên. Bên ngoài nhà máy xay lúa có mươi con ngựa buộc dưới gốc cây, chính là của bọn võ sĩ Tây Hạ cưỡi đến, Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên mỗi người cưỡi một con theo đại lộ mà chạy. Nghe văng vẳng có tiếng thanh la beng beng, tiếng người lao xao chính là nông dân bốn bề chung quanh chạy đến chữa lửa.

Đoàn Dự nói:

- Một cái nhà máy xay lúa to lớn thế vì tôi mà cháy tiêu, trong lòng tôi quả là áy náy không sao chịu nổi.

Vương Ngữ Yên đáp:

- Sao anh nói những lời mềm yếu như đàn bà vậy? Mẫu thân tôi tuy là bậc nữ lưu nhưng hành sự việc gì rõ ràng đâu ra đấy, nói làm là làm, anh là nam tử hán đại trượng phu nhưng cái gì cũng dùng dằng đủ thứ qui củ.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mẹ cô động một tí là giết người, lấy thịt bón hoa, so sánh với tôi làm sao được?”. Chàng bèn nói:

- Tôi lần đầu giết nhiều người như thế, lại nổi lửa đốt nhà không khỏi bồn chồn hoảng hốt.

Vương Ngữ Yên gật đầu:

- Ừ, bây giờ thì thế chứ dần dà quen đi không còn thấy gớm tay nữa.

Đoàn Dự kinh hoảng, xua tay liên tiếp nói:

- Không thể nào được, không thể nào được! Nhất chi vị thậm, kỳ khả tái hồ? Việc sát nhân phóng hỏa không thể nào làm lần thứ hai được.

Vương Ngữ Yên đang cưỡi ngựa chạy song song với Đoàn Dự quay đầu qua nhìn chàng thấy thật kỳ lạ nói:

- Trên chốn giang hồ việc giết người đốt nhà có ngày nào không có? Đoàn công tử, từ nay trở đi anh định rửa tay không nhúng tay vào chuyện giang hồ nữa chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Bá phụ và gia gia tôi muốn dạy tôi học võ tôi nhất quyết không học, vậy mà chuyện đến nơi rồi cũng bắt buộc phải làm. Ôi! Tôi thật chẳng biết phải làm sao cho phải?

Vương Ngữ Yên mỉm cười nói:

- Thế chí hướng của anh chắc là đi học làm quan mai này trở thành Học Sĩ, Tể Tướng hay chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Cũng không hẳn thế, làm quan cũng chẳng có gì thú vị.

Vương Ngữ Yên nói:

- Thế thì anh muốn làm gì? Không lẽ anh cũng giống như biểu ca tôi lúc nào cũng chỉ mơ làm hoàng đế?

Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:

- Mộ Dung công tử muốn làm vua ư?

Vương Ngữ Yên mặt đỏ lên vì vô ý để lộ bí mật của biểu ca. Từ khi trải qua việc nơi máy xay lúa, hai người tử lý đào sinh, cùng chung hoạn nạn, thấy tính tình chàng bình dị dễ thân cận, trước mặt chàng nói chuyện gì cũng được thế nhưng đại chí của Mộ Dung Phục nhất tâm nhất ý khôi phục nước Yên cũng không nên tiết lộ ra. Nàng bèn nói:

- Đó là tôi buột miệng nói ra, anh đừng nói với ai nhé, nhất là trước mặt biểu ca tôi thì lại càng phải tránh nếu không anh ấy sẽ giận tôi đến chết được.

Đoàn Dự trong lòng chua xót nghĩ thầm: "Cô việc gì phải hốt hoảng thế, nếu biểu ca cô trách cứ thì cứ mặc hắn ta đã sao nào!". Tuy thế miệng chàng vẫn đáp lời:

- Được rồi! Tôi chẳng lý gì đến chuyện của biểu ca cô nữa đâu. Y làm hoàng đế cũng vậy mà làm ăn mày tôi cũng mặc kệ.

Vương Ngữ Yên mặt lại đỏ lên, nghe chàng có vẻ không vui nhỏ nhẹ nói:

- Đoàn công tử, anh giận tôi đấy ư?

Đoàn Dự từ khi biết nàng tới giờ thấy trong lòng nàng chỉ nghĩ đến ông anh họ, miệng nói ra cũng chỉ toàn về y, lúc nào cũng là Mộ Dung công tử, bây giờ mới là lần đầu ôn tồn nhỏ nhẹ nói tới mình không khỏi vui như mở cờ trong bụng tưởng chừng từ trên yên ngựa rơi lọt xuống đất vội vàng ngồi lại cho vững cười nói:

- Không đâu! Không đâu! Tôi có gì mà giận? Vương cô nương, tôi xin mãn kiếp mãn đời sẽ không bao giờ giận cô cả.

Vương Ngữ Yên bao nhiêu tình ý đều dành cho biểu ca, Đoàn Dự tuy xả thân cứu mình không kể sống chết nàng cũng chỉ cảm kích ân đức, bội phục tấm lòng hào hiệp của chàng, lúc này nghe Đoàn Dự nói “tôi mãn kiếp mãn đời sẽ không bao giờ giận cô cả”, tuy thật là thành khẩn nhưng cũng tưởng như thề nguyền bấy giờ mới chợt tỉnh: “Anh ta ... anh ta ... định tỏ tình với mình hay chăng?”. Nàng mặt đỏ bừng thẹn thùng, chậm rãi cúi đầu xuống nhỏ nhẹ nói:

- Anh không giận tôi, thế thì hay lắm!

Đoàn Dự trong lòng sung sướng, không biết phải nói gì đây, một hồi sau mới nói:

- Tôi thật chẳng mong ước gì hơn, chỉ cầu được mãi mãi như thế này là thỏa lòng thỏa dạ.

Chàng nói đến “mãi mãi như thế này” có nghĩa là cùng nàng hai người cưỡi ngựa chạy song song. Vương Ngữ Yên không thích chàng đề cập đến chuyện này nữa, khuôn mặt đang vui vẻ bỗng sầm xuống, nghiêm nghị nói:

- Đoàn công tử, đại đức cứu mạng hôm nay, tiện thiếp vĩnh viễn chẳng dám quên. Thế nhưng lòng tôi ... lòng tôi sớm thuộc về người khác rồi, chỉ mong công tử nói năng giữ ý để sau này còn có cơ gặp lại.

Mấy câu nói đó thật chẳng khác gì một gậy nện mạnh vào ngực khiến cho Đoàn Dự mắt nổ đom đóm, tưởng như muốn ngất xỉu đến nơi. Lời nàng quả thật rõ ràng: “Lòng tôi đã thuộc Mộ Dung công tử rồi, từ nay trở đi, anh không được mở lời tán tỉnh gì nữa, nếu không tôi sẽ không gặp anh nữa đâu. Anh đừng tưởng vì có ơn với tôi mà tơ tưởng hão huyền”.

Không có những lời đó Đoàn Dự cũng đã biết tâm sự nàng rồi, thế nhưng nay chính miệng nàng nói ra, lọt vào tai quả thật đau lòng không sao kể xiết. Chàng len lén liếc xem vẻ mặt Vương Ngữ Yên, thấy nàng đầy vẻ đoan trang, không khác thạch tượng trong động ở Đại Lý chút nào, chàng linh cảm được đại họa sắp giáng xuống đầu mình nên bụng bảo dạ: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi gặp cô nương này nhưng trong lòng nàng đã sớm thuộc về người khác, kiếp này ngươi sẽ phải chịu biết bao dày vò cay đắng, khổ không đâu kể xiết”.

Hai người lặng lẽ chạy song song, không ai nói thêm câu nào nữa.

Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Chắc là anh chàng ta bực bội lắm, chi bằng mình cứ giả vờ như không biết là hơn. Nếu lần này mình xin lỗi, về sau thể nào cũng lại mở lời ong bướm, ví như vào tai biểu ca thì anh ta sẽ khó chịu”. Còn Đoàn Dự thì bụng bảo dạ: “Nếu như ta còn nói thêm câu nào thổ lộ tâm sự nữa có khác gì kẻ khinh bạc vô lại, bất kính với nàng hay sao? Từ giờ trở đi, Đoàn Dự này dù có chết cũng không buông lời sàm sỡ nữa”.

Vương Ngữ Yên lại nghĩ bụng: “Anh ta chẳng nói lời nào cứ phóng ngựa mà chạy, chắc là đã biết đường đi cứu A Châu, A Bích rồi”. Đoàn Dự lại cũng nghĩ như thế: “ Nàng ta chẳng nói lời nào cứ phóng ngựa mà chạy, chắc là đã biết đường đi cứu A Châu, A Bích rồi”.

Chạy chừng một bữa ăn đến một ngã ba, hai người không hẹn mà cùng hỏi nhau:

- Đi qua trái hay qua phải?

Hai người đưa mắt dò hỏi lại cùng hỏi tiếp:

- Không biết đường sao? Tôi lại tưởng đằng ấy biết.

Câu nói ra rồi, cả hai cùng thấy thật thú vị bật cười, bao nhiêu không khí nặng nề tự nhiêu tiêu tán cả. Thế nhưng cả hai đều không hiểu gì chuyện trên chốn giang hồ, bàn tán một lúc cũng không biết phải đi hướng nào để cứu người. Sau cùng Đoàn Dự nói:

- Bọn chúng bắt được một số đông bang chúng Cái Bang, dù chém giết hay giam giữ thì cũng có dấu vết, chúng mình quay về khu rừng hạnh xem xét rồi tính sau.

Vương Ngữ Yên hỏi:

- Quay lại khu rừng hạnh ư? Nếu như bọn võ sĩ Tây Hạ còn ở đâu đó thì có khác gì mình chui đầu vào rọ?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi nghĩ sau cơn mưa to như thế chắc bọn chúng bỏ đi rồi. Thôi cô ở bên ngoài đợi, tôi len lén vào trong coi thử, nếu địch nhân còn trong đó thì mình lập tức bỏ chạy ngay.

Hai người rắp tâm rằng Đoàn Dự sẽ thi triển Lăng Ba Vi Bộ chạy tới cho A Châu, A Bích ngửi chiếc bình đựng xú dược kia, giải độc xong rồi sẽ tìm cách cứu họ. Sau khi nhận định phương hướng kỹ càng, hai người liền giục ngựa chạy tới, chẳng mấy chốc đã đến bên ngoài bìa rừng. Cả hai xuống ngựa, buộc vào một cây hạnh, Đoàn Dự cầm chiếc bình rón rén đi vào trong rừng.

Trong rừng đầy bùn đất, trên ngọn cỏ còn sũng nước. Đoàn Dự đưa mắt nhìn quanh bốn bề, không thấy một bóng người, kêu lên:

- Vương cô nương, ở đây không có ai cả.

Vương Ngữ Yên chạy vào rừng nói:

- Bọn chúng quả nhiên đi mất rồi. Thôi mình vào thành Vô Tích thám thính xem sao.

Đoàn Dự đáp:

- Phải lắm!

Chàng nghĩ đến việc lại được cùng nàng cưỡi ngựa song song đi thêm một quãng nữa, tong lòng cực kỳ hoan hỉ, vẻ mặt không dấu được nỗi vui mừng. Vương Ngữ Yên lạ lùng hỏi:

- Tôi nói sai chăng?

Đoàn Dự vội đáp:

- Đâu có. Chúng mình về thành Vô Tích đi thôi.

Vương Ngữ Yên nói:

- Thế thì có gì đáng cười đâu?

Đoàn Dự quay đầu sang hướng khác, không dám nhìn thẳng vào mặt nàng mỉm cười nói:

- Tôi thỉnh thoảng hay cười ngây ngô, cô đừng để ý làm gì.

Vương Ngữ Yên nghe thế thật tức cười khúc khích bật lên mấy tiếng, Đoàn Dự cũng không nhịn được nữa, cười ha hả.

4 phiêu hành tự tại, hữu như ngự phong

5 tài nghệ của con lừa ở đất Kiềm chỉ tới bấy nhiêu: đoản văn của Liễu Tông Nguyên kể chuyện con hổ lần đầu trông thấy con lừa sợ lắm nhưng dần dà chỉ thấy con lừa biết mỗi một cách đá hậu nên nhảy vào ăn thịt, ý chỉ tài nghệ quanh đi quẩn lại chỉ có thế mà thôi

6 tiệm bán cá khô (Luận Ngữ) Chúng tôi để nguyên văn cho hợp với giọng một anh đồ gàn hay nói chữ.

7 Một lần đã quá, lẽ đâu còn tái phạm (Tả Truyện)

datlucky_way

23-07-2009 08:18 AM

Hồi 18(a) : HỒ HÁN ÂN CỪU TU KHUYNH ANH HÙNG LỆ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ai chia kẻ Hán người Hồ,

Bên Nam bên Bắc oán thù triền miên.

Anh hùng gặp cảnh đảo điên,

Nuốt cay ngậm đắng biết nghiêng bên nào?

*

* *

Hai người nhắm đường chạy về phía thành Vô Tích. Đi được vài dặm, bỗng thấy nơi cây tùng bên vệ đường có một xác người treo lủng lẳng nhìn phục sắc thì là một võ sĩ Tây Hạ. Đi thêm mấy trượng nữa, nơi sườn đồi lại thấy hai võ sĩ Tây Hạ nằm còng queo, vết thương trên người máu còn chưa khô xem ra chết cũng chưa lâu. Đoàn Dự nói:

- Bọn Tây Hạ gặp phải kẻ đối đầu rồi. Vương cô nương, cô thử nghĩ xem ai đã giết họ?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Người này võ công cực kỳ cao cường, giơ tay là giết được người không tốn hơi sức gì, quả thật ghê gớm. Ồ, đằng kia có ai tới kìa?

Chỉ thấy trên đường lớn hai người cưỡi ngựa song song chạy đến, trên lưng một người áo đỏ, một người áo xanh chính là hai nàng Châu Bích. Đoàn Dự mừng quá kêu to:

- A Châu cô nương, A Bích cô nương, các cô thoát hiểm rồi ư? Hay lắm! Hay thật là hay.

Bốn người liền cùng giục ngựa chạy đi, ai nấy vui không để đâu cho hết. A Châu nói:

- Vương cô nương, Đoàn công tử, sao hai vị lại quay trở lại làm gì? Tiểu nữ và A Bích muội tử đang định đi tìm hai người đây.

Đoàn Dự đáp:

- Chúng tôi cũng đang định đi tìm hai cô đây.

Chàng vừa nói vừa liếc Vương Ngữ Yên để dọ ý xem nàng có chịu để cho gộp chung thành “chúng tôi” thì quả thật là vinh dự. Vương Ngữ Yên hỏi:

- Các ngươi làm sao mà thoát thân được? Đã ngửi cái bình thuốc thối chưa?

A Châu cười nói:

- Quả thực thối đến chết người, cô nương cũng phải ngửi rồi phải không? Cũng do Kiều bang chủ cứu hay sao?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Không phải. Đoàn công tử cứu ta đó. Các ngươi được Kiều bang chủ cứu hay sao?

Đoàn Dự nghe nàng chính miệng nói ra “Đoàn công tử cứu ta đó” sung sướng như bay bổng tận mây xanh, đầu óc choáng váng tưởng chừng như muốn rơi khỏi lưng ngựa. A Châu nói:

- Đúng thế! Tiểu nữ và A Bích trúng độc rồi, mơ mơ màng màng không sao cử động được, cùng với cả bọn người trong Cái Bang bị bọn man tử Tây Hạ trói lại, vứt lên yên ngựa. Đi được một quãng, trời đổ mưa rào, cả bọn liền phải tản ra, chia nhau tìm chỗ trú mưa. Tiểu nữ và A Bích bị mấy tên Tây Hạ dẫn vào đụt tại một tòa lương đình, đến lúc tạnh mưa mới ra đi. Vừa ngay lúc đó, đằng sau có người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Kiều bang chủ. Ông ta thấy chúng tôi bị bọn Tây Hạ bắt giữ, rất là ngạc nhiên, chưa kịp mở mồm hỏi chúng tôi đã kêu lên: “Kiều bang chủ, cứu tôi với!”. Bọn võ sĩ Tây Hạ nghe thấy ba tiếng “Kiều bang chủ”, lập tức rút binh khí ra vây đánh ông ta. Kết quả là có đứa thì bị treo lên cây tùng, có đứa chết nơi sườn núi, có kẻ lại lọt xuống sông.

Vương Ngữ Yên cười nói:

- Đó là chuyện mới xảy ra, phải không?

A Châu đáp:

- Đúng thế! Tiểu nữ nói: “Kiều bang chủ, chị em chúng tôi bị trúng độc, phiền ông một chút, tìm trên người bọn man tử Tây Hạ xem có giải dược không?’. Kiều bang chủ lục nơi người một võ sĩ Tây Hạ tìm được chiếc bình nhỏ, thơm hay thối thì chẳng cần nói cũng biết.

Vương Ngữ Yên hỏi thêm:

- Thế Kiều bang chủ đâu?

A Châu đáp:

- Ông ta nghe nói mọi người trong Cái Bang đều trúng độc bị bắt cả rồi nói là muốn đi cứu bọn họ, lật đật đi ngay. Ông ta cũng hỏi thăm Đoàn công tử xem ra rất là lo lắng.

Đoàn Dự thở dài:

- Vị bả huynh của tôi quả là nghĩa khí thâm trọng biết chừng nào.

A Châu nói:

- Người của Cái Bang chẳng biết hay dở, một vị bang chủ tài giỏi như thế mà đem đuổi đi, bây giờ mình làm mình chịu, thật là đáng kiếp. Tôi thấy là vị bả huynh đó tình nghĩa mặn nồng, thà để người phụ mình chứ nhất định không chịu phụ người.

A Bích nói:

- Vương cô nương, bây giờ chúng mình đi đâu?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Ta và Đoàn công tử đã bàn nhau phải đi cứu hai đứa ngươi trước. Bây giờ cả bốn người mình bình an cả rồi, thật là hay không đâu cho hết. Chuyện của Cái Bang không liên can gì đến mình, cứ như ý ta, chúng ta đến chùa Thiếu Lâm tìm công tử các ngươi là hơn cả.

Chu Bích hai nàng quan tâm nhất chính là Mộ Dung công tử, nghe nàng nói thế đều vỗ tay reo lên. Đoàn Dự trong lòng chua xót nhưng cũng phải ra vẻ thản nhiên nói:

- Vị công tử của các cô, tôi vẫn có bụng kính phục lắm, mong được gặp một lần. Hiện nay không có việc gì làm, tôi đi theo các cô đến chùa Thiếu Lâm một chuyến cũng hay.

Bốn người quay đầu ngựa đi về hướng bắc. Vương Ngữ Yên và hai nàng Châu Bích nói cười vui vẻ, đem chuyện gặp nguy hiểm thế nào ở nhà máy xay lúa, Đoàn Dự nghinh địch ra sao, võ sĩ Tây Hạ Lý Diên Tông tha mạng lại cho thuốc giải tất cả kể lại rành mạch rõ ràng, khiến cho A Châu, A Bích hai nàng cực kỳ kinh ngạc.

Ba cô gái mỗi khi đến đoạn nào vui lại cười khúc khích, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn Đoàn Dự, lấy tay áo che miệng nhưng không dám cười một cách lộ liễu. Đoàn Dự biết các cô đang bàn tán với nhau về chuyện ngốc nghếch của mình nhưng tự nghĩ mặc dầu mình lộ đủ mọi thứ vụng dại nhưng cuối cùng cũng bảo vệ được Vương cô nương chu toàn nên vừa thấy sượng sùng nhưng cũng lại đầy tự hào. Chàng lại thấy ba cô gái thân mật tíu tít bỏ mặc mình không lý gì đến, bây giờ đã vậy, đến khi gặp được Mộ Dung công tử rồi thì chàng quả không có đất dung thân. Mộ Dung Phục chắc cũng như Bao Bất Đồng, không nể nang gì đuổi cổ mình đi, càng nghĩ chàng càng thấy ê chề.

Đi được mấy dặm, qua khỏi một khu vườn dâu thật lớn, bỗng nghe ở bìa rừng có tiếng hai thiếu niên đang khóc. Bốn người giục ngựa chạy lên thấy đó là hai chú tiểu tuổi chừng mười bốn, mười lăm, trên tăng bào lấm tấm những máu, một trong hai người còn bị thương nơi trán. A Bích dịu dàng hỏi:

- Này các tiểu sư phụ, ai hiếp đáp các chú đó? Sao lại bị thương?

Chú tiểu không bị thương vừa khóc vừa trả lời:

- Có vô số ác nhân phiên bang đến chùa giết chết thầy chúng tôi rồi đuổi hai đứa chúng tôi ra ngoài.

Bốn người nghe thấy nói đến “ác nhân phiên bang” liền đưa mắt nhìn nhau cùng nghĩ: “Hay là bọn Tây Hạ chăng?”. A Châu hỏi thêm:

- Thế chùa của các chú ở nơi nào? Bọn kẻ ác phiên bang là bọn nào thế?

Chú tiểu đáp:

- Chúng tôi ở chùa Thiên Ninh, ở phía bên kia ...

Vừa nói y vừa chỉ về phía đông bắc:

- Bọn người phiên kia bắt đâu khoảng hơn một trăm ăn mày đi đến chùa trú mưa, đòi rượu đòi thịt, lại định giết gà giết bò. Sư phụ bảo là “tội lắm” không chịu cho chúng giết bò ở trong chùa, bọn chúng liền bắt cả sư phụ lẫn hơn một chục sư huynh giết sạch, hu hu, hu hu.

A Châu hỏi tiếp:

- Thế bọn chúng đã đi chưa?

Chú tiểu chỉ về phía làn khói đang lững lờ bay lên sau khu rừng dâu nói:

- Chúng nó đang nấu thịt bò kìa, thật là tội lắm, xin bồ tát phù hộ bắt bọn phiên nhân kia bỏ xuống a tì địa ngục.

A Châu nói:

- Thôi hai chú chạy cho xa chứ nếu như bọn người phiên bắt được, không chừng chúng nó mổ ra ăn thịt đó.

Hai chú tiểu nghe nói thế kinh hãi, lật đật bỏ chạy ngay. Đoàn Dự thấy vậy không vui nói:

- Hái chú đó đã vào nước cùng không còn biết đi đâu, sao A Châu tỉ tỉ lại còn dọa họ làm gì?

A Châu cười nói:

- Có phải dọa đâu, tôi nói thực đấy chứ.

A Bích nói:

- Nếu như người trong Cái Bang đang bị nhốt trong chủa Thiên Ninh, Kiều bang chủ lại chạy về thành Vô Tích thì đúng là không nên cơm cháo gì.

A Châu đột nhiên nghĩ ra một kế thật lạ liền nói:

- Vương cô nương, tôi muốn cải trang làm Kiều bang chủ trà trộn vào trong chùa, đem chiếc bình thuốc thối kia cho bọn ăn mày ngửi, sau khi bọn chúng thoát hiểm rồi thể nào củng cảm kích tấm lòng của Kiều bang chủ.

Vương Ngữ Yên mỉm cười nói:

- Kiều bang chủ thân thể cao to, là một hán tử cực kỳ hùng tráng, làm sao ngươi hóa trang thành ông ta cho được.

A Châu cười nói:

- Càng khó chừng nào thì càng biết tay A Châu này.

Vương Ngữ Yên cười:

- Ngươi giả trang giống Kiều bang chủ chăng nữa nhưng làm sao bắt chước được tuyệt thế thần công của ông ta. Trong chùa Thiên Ninh đầy những cao thủ Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, đâu có để cho ngươi vào ra thong thả. Cứ như ý ta, giả làm một tên đầu bếp hay một bà già bán rau trà trộn vào chùa còn dễ hơn.

A Châu nói:

- Bảo tiểu nữ giả làm bà già bán rau thì có gì là thú. Thôi không đi nữa là hơn.

Vương Ngữ Yên nhìn Đoàn Dự, mấp máy đôi môi muốn nói rồi lại thôi. Đoàn Dự hỏi:

- Cô nương định nói gì thế?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Tôi vốn định nhờ công tử hóa trang thành một người đi cùng với A Châu đến Thiên Ninh Tự, nhưng nghĩ kỹ lại thấy không xong.

Đoàn Dự hỏi:

- Cô muốn tôi giả trang thành ai vậy?

Vương Ngữ Yên nói:

- Các anh hùng trong Cái Bang có bụng nghi ngờ rất nặng, vu oan cho Kiều bang chủ cùng biểu ca tôi ngầm cấu kết với nhau giết hại Mã phó bang chủ, nếu như ... nếu như ... biểu ca tôi cùng Kiều bang chủ đến cứu họ ra khỏi chỗ nguy nan, bọn họ chắc không còn nghi tâm nữa.

Đoàn Dự trong lòng chua xót nói:

- Cô nương muốn tôi giả làm biểu ca cô ư?

Vương Ngữ Yên bẽn lẽn nói:

- Trong chùa Thiên Ninh kẻ địch quá mạnh, hai người đến đó cực kỳ nguy hiểm, chi bằng không đi là hơn.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cô bảo tôi làm gì tôi cũng làm, dù phải tan xương nát thịt cũng quyết chẳng từ nan”. Chàng đột nhiên nghĩ thêm: “Nếu như mình hóa trang thành Mộ Dung Phục, không chừng lời ăn tiếng nói nàng sẽ đổi khác ngay, nàng sẽ dịu dàng chiều chuộng mình trong giây lát thì cũng hay”. Chàng nghĩ đến đó lập tức tinh thần phấn khởi hăng hái nói:

- Thế có gì nguy hiểm đâu? Cái gì chứ trò chạy cong đuôi là món sở trường của Đoàn Dự này.

Vương Ngữ Yên nói:

- Tôi thấy không ổn là vì biểu ca tôi sát địch dễ như trở bàn tay, xưa nay chưa bao giờ bỏ chạy cả.

Đoàn Dự nghe nói thế một làn hơi lạnh chạy dài từ đầu xuống chân, nghĩ thầm: “Biểu ca cô là một đại anh hùng, đại hào kiệt, ta đâu có xứng đáng giả làm y. Giả mạo mà để cho lộ cái xấu ra trước mặt mọi người thì có phải là làm ô nhục thanh danh của y hay không?”.

A Bích thấy chàng buồn bã không vui liền lên tiếng an ủi:

- Địch đông ta ít, tạm thời thoái nhượng thì có gì không phải đâu? Chúng ta chỉ cốt cứu được người chứ nào có phải tỉ võ để được dương danh.

Đôi mắt tinh anh của A Châu nhìn Đoàn Dự một lượt từ đầu đến chân như để đánh giá xem thế nào, một lúc sau gật đầu nói:

- Đoàn công tử, muốn cải trang thành công tử chúng tôi quả không phải dễ. Cũng may là bọn Cái Bang xưa nay chưa biết công tử chúng tôi thế nào, giọng nói vẻ mặt ra sao cũng chỉ biết đại khái thôi.

Đoàn Dự nói:

- Tài nghệ của cô ghê gớm lắm, giả làm Kiều bang chủ thật thích hợp, nếu không Kiều bang chủ đối với người của Cái Bang sớm hôm gặp gỡ, nếu có sơ hở là họ biết ngay.

A Châu mỉm cười nói:

- Kiều bang chủ là một đấng trượng phu cao lớn vậy mà tôi giả làm ông ta lại dễ dàng. Công tử chúng tôi tầm vóc không khác công tử bao nhiêu, tuổi tác cũng chẳng hơn nhiều, cả hai đều là hạng con nhà gia thế, ham học hành vậy mà Đoàn công tử phải bỏ bản lai diện mục của mình để biến thành Mộ Dung công tử thì lại thật khó khăn.

Đoàn Dự thở dài:

- Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, người khác dễ gì bắt chước cho giống được? Theo tôi thì nếu cải trang không giống cũng tốt, để đến khi cúp đuôi bỏ chạy cũng không tổn thương đến thanh danh của Mộ Dung công tử.

Vương Ngữ Yên mặt hơi đỏ lên, nói khẽ:

- Đoàn công tử, tôi lỡ lời anh có giận tôi không?

Đoàn Dự vội đáp:

- Không, không! Đâu có, tôi làm gì dám giận cô?

Vương Ngữ Yên mặt tươi cười nói:

- A Châu tỉ tỉ, hai người đi đâu cải trang đây?

A Châu đáp:

- Chắc phải đến một tiểu thị trấn mới có thể mua được những thứ cần dùng.

Bốn người quay ngựa chạy về hướng tây. Đi chừng bảy tám dặm đến một thị trấn tên là Mã Lang Kiều. Thị trấn này thật nhỏ bé, không có khách điếm, A Châu nghĩ ra một cách, thuê một chiếc thuyền neo tại giữa sông rồi sau đó đi xuống phố mua vật dụng, quần áo đem lên cải trang ngay trên thuyền. Đất Giang Nam đâu đâu cũng đầy sông rạch, thuyền bè nhiều vô kể chẳng khác gì gia súc ở miền bắc.

Nàng bảo Đoàn Dự thay đổi y phục trước, để chàng mặc một chiếc áo dài màu xanh, tay phải cầm quạt xếp, ngón tay trái đeo nhẫn. A Châu nói:

- Công tử chúng tôi đeo nhẫn ngọc đời Hán, ở đây mua ở đâu ra? Thôi đành dùng tạm đá Thanh Điền nhập nhoạng, cũng được rồi.

Đoàn Dự chỉ đành gượng cười, bụng bảo dạ: “Mộ Dung Phục là thứ ngọc quí, còn ta chỉ là hạng đá xoàng, trong lòng ba cô gái này thân phận hai người cách nhau xa”. A Châu trét bột mì lên mặt chàng, nặn mũi cho cao lên, sửa cho mặt hơi mập thêm một chút, lấy bút vẽ lông mày, khóe mắt, hóa trang xong cười hỏi Vương Ngữ Yên:

- Cô nương xem thử còn chỗ nào không giống nữa chăng?

Vương Ngữ Yên không trả lời chỉ ngây ngất nhìn chàng, trong ánh mắt chứa đầy tình ý, hiển nhiên hồn đang bay bổng, tâm thần miên man. Đoàn Dự thấy ánh mắt mê mẩn của nàng cũng thấy lòng lâng lâng nhưng chợt nghĩ ra: “Nàng nhìn đây là nhìn Mộ Dung Phục chứ nào có phải Đoàn Dự ta đâu?”. Chàng lại nghĩ thêm: “Không biết gã Mộ Dung Phục này anh tuấn cỡ nào, làm sao hơn ta gấp trăm lần, tiếc thay ta không thấy được mình bây giờ ra sao”. Lòng chàng khi thì vui, khi thì đổi ra giận dữ.

Hai người nhìn nhau, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ không biết A Châu, A Bích đã ra ngoài sau khoang cải trang từ hồi nào. Một hồi sau, bỗng nghe giọng một người đàn ông ồm ồm nói:

- A, thì ra ngươi ở đây, làm cho người anh này đi kiếm ngươi muốn chết được.

Đoàn Dự thất kinh, quay đầu lại thấy người vừa nói chính là Kiều Phong, không khỏi vui mừng kêu lên:

- Đại ca đấy ư? Thế thì hay lắm. Bọn chúng tôi đang định cải trang thành anh để đi cứu người, bây giờ anh lại đến đây, A Châu tỉ tỉ không cần gì phải hóa trang nữa.

Kiều Phong nói:

- Người của Cái Bang đã trục xuất ta ra khỏi bang rồi, bọn họ chết sống gì, Kiều mỗ cũng mặc kệ không coi vào đâu. Hảo huynh đệ, đi mau, anh em mình lên bờ đi kiếm rượu uống thi với nhau hai chục bát xem nào.

Đoàn Dự vội đáp:

- Đại ca, người trong Cái Bang đều là bạn bè cũ của anh, anh làm ơn cứu họ một lần.

Kiều Phong giận dữ đáp:

- Thứ đồ gàn như ngươi biết gì? Thôi đi uống rượu với ta nào!

Nói xong ông ta liền nắm tay Đoàn Dự. Đoàn Dự không biết làm sao chỉ đành nói:

- Thôi được, để tiểu đệ hầu rượu đại ca, uống xong rồi sẽ đi cứu người cũng được.

Kiều Phong đột nhiên cười khanh khách, giọng trong trẻo uyển chuyển, một đại hán cao to lại nghe tiếng cười như một thiếu nữ còn xuân, quả thực quái lạ. Đoàn Dự ngạc nhiên, lập tức hiểu ra, cười nói:

- A Châu tỉ tỉ, thuật cải trang của tỉ tỉ quả là thần kỹ, đến cả cách ăn nói cũng y hệt không khác chút nào.

A Châu lại đổi qua giọng Kiều Phong nói:

- Hảo huynh đệ, thôi mình đi, ngươi nhớ mang theo cái bình thuốc thối nhé.

Nàng quay sang nói với Vương Ngữ Yên và A Bích:

- Hai vị cô nương ở đây chờ tiện hơn.

Nói xong dắt tay Đoàn Dự, hăng hái bước lên bờ. Không biết nàng đắp cái gì lên tay mà một bàn tay nhỏ nhắn mềm mại lúc giơ ra lại đen sì, tuy không to như bàn tay Kiều Phong nhưng người ngoài thoáng nhìn thật khó mà phân biệt.

Vương Ngữ Yên nhìn theo bóng Đoàn Dự, trong bụng miên man nghĩ thầm: “Nếu anh chàng là biểu ca thật thì hay biết mấy. Biểu ca, giờ phút này chàng có nhớ đến thiếp hay không?”.

A Châu và Đoàn Dự cưỡi ngựa chạy đến cách chùa Thiên Ninh chừng năm dặm, ngại rằng bọn võ sĩ Tây Hạ ở trong chùa có thể nghe được tiếng chân ngựa, đem ngựa buộc vào một chuồng bò nơi nhà một nông gia, đi bộ tới.

A Châu nói:

- Mộ Dung huynh đệ, đi đến chùa rồi, ta sẽ đại ngôn đàm luận, phét lác dọa cho chúng một mẻ, ngươi thừa cơ dùng bình thuốc thối giải độc cho bang chúng Cái Bang.

Nàng nói mấy câu đó gọng thô hào, nghe y hệt Kiều Phong. Đoàn Dự cười đáp lời. Hai người hùng dũng tiến về phía Thiên Ninh Tự, thấy trước cửa chùa có độ mươi võ sĩ Tây Hạ, tay cầm trường đao, mặt mày hung ác. A Châu và Đoàn Dự vừa trông thấy chúng tim đập thình thình không khỏi hoảng sợ. A Châu nói nhỏ:

- Nếu có chuyện gì thì công tử dắt tôi chạy cho nhanh, nếu không bọn chúng níu lại đòi tỉ võ thì thật khó mà đối phó.

Đoàn Dự đáp:

- Được!

Thế nhưng chàng nói giọng run run, trong bụng quả là khiếp sợ. Hai người còn đang thì thầm bàn tính, nhìn quanh quất thăm dò thì một tên võ sĩ đứng ngoài cửa đã trông thấy, lớn tiếng quát:

- Hai thằng chết tiệt kia, thập thò làm gì thế? Các ngươi là gian tế chăng?

Tiếng quát chưa dứt đã có thêm bốn tên võ sĩ khác ùa ra. A Châu không còn biết làm sao hơn, chỉ đành ưỡn ngực, hung hăng bước tới, cất giọng ồm ồm:

- Mau báo cho tướng quân nhà các ngươi hay là Kiều Phong của Cái Bang và Mộ Dung Phục đất Giang Nam đến xin gặp Hách Liên đại tướng quân nước Tây Hạ.

Gã võ sĩ đứng đầu nghe thế giật nảy mình, vội vàng vòng tay khom lưng nói:

- Thì ra là Kiều bang chủ của Cái Bang quang giáng, quả là thất lễ, tiểu nhân xin vào bẩm báo.

Y lập tức quay vào trong chùa, những kẻ còn lại cung kính thõng tay đứng hầu. Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng tù và vang dội, cửa chùa mở toang, đường chủ Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ là Hách Liên Thiết Thụ cùng bọn Nỗ Nhi Hải các cao thủ, đi ra nghinh tiếp. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc cũng có mặt trong số đó.

Đoàn Dự hồi hộp tim đập thình thình, cúi đầu không dám nhìn thẳng vào bọn họ. Hách Liên Thiết Thụ nói:

- Đã ngưỡng mộ đại danh của Cô Tô Mộ Dung từ lâu với môn “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, hôm nay được gặp cao hiền thực quả là vinh hạnh.

Nói xong y vòng tay ôm quyền hướng về phía Đoàn Dự hành lễ. Y nghĩ bụng Tây Hạ Nhất Phẩm Đường với Cái Bang nay đã thành thù nghịch nên không tỏ vẻ gì nể nang Kiều Phong cả.

Đoàn Dự vội vàng hoàn lễ nói:

- Uy danh Hách Liên tướng quân vang dậy ra ngoài biên ải, tại hạ vốn đã mong có dịp gặp được các vị anh hùng hào kiệt trong Nhất Phẩm Đường một phen, hôm nay đường đột đến đây, xin rộng lòng tha thứ.

Nói mấy câu khách sáo kia đúng là chàng đã quen mồm như cháo chẩy nên không có chút sơ hở nào. Hách Liên Thiết Thụ nói:

- Vẫn thường nghe tiếng trong võ lâm đồn rằng “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung”, trong số anh kiệt của Trung Nguyên hai vị là đứng đầu, hôm nay cùng giá lâm một lượt, quả là vinh hạnh xiết bao! Xin mời!

Y tránh qua một bên nhường lối mời hai người vào trong đại điện. A Châu và Đoàn Dự gượng làm ra vẻ thản nhiên đi song song với Hách Liên Thiết Thụ. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cứ xem thần thái ngôn ngữ của gã tướng quân Tây Hạ này, xem chừng y coi trọng Mộ Dung công tử hơn cả Kiều đại ca, không lẽ gã Mộ Dung Phục kia nhân phẩm võ công còn trên đại ca ta một mức hay sao? Ta xem ra thì đâu có thể như vậy được”.

Bỗng nghe tiếng một người thật quái lạ:

- Không thể như thế được! Không thể được!

Đoàn Dự giật mình, liếc qua xem ai vừa nói, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Y giương đôi mắt nhỏ như hạt đậu đánh giá Đoàn Dự, vừa nhìn vừa lắc đầu. Đoàn Dự chột dạ, bụng bảo dạ: “Chết rồi! Chết thật rồi! Y nhận ra mình!”. Lại nghe Nam Hải Ngạc Thần tiếp:

- Xem thân thể ngươi chưa được ba lạng xương, làm cái quái gì được? Này, ta hỏi ngươi. Nghe người ta nói ngươi biết thuật “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, Nhạc lão nhị này đếch tin nổi.

Đoàn Dự bấy giờ mới thở phào nghĩ thầm: “Hóa ra y chưa nhận ra mình”. Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Ta không cần ngươi phải ra tay, ta chỉ hỏi ngươi, ngươi có biết Nhạc lão nhị này có môn gì đặc biệt không? Ngươi dùng cái công phu con mẹ gì mà đối phó với ta để mà “gậy ông đập lưng ông” được?

Nói xong y đứng chống nạnh, vẻ mặt nhơn nhơn tự đắc. Hách Liên Thiết Thụ đang toan lên tiếng chặn y lại nhưng lại nghĩ ngay, Mộ Dung Phục tên tuổi rất lớn, danh với thực có đi đôi với nhau hay không, chi bằng để gã Nam Hải Ngạc Thần điên điên khùng khùng này thử xem cho biết nên để yên không can thiệp.

Trong khi nói chuyện thì cả bọn đã vào trong đại điện rồi, Hách Liên Thiết Thụ mời Đoàn Dự ngồi ghế trên cùng nhưng Đoàn Dự nhường thủ vị đó cho A Châu. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng nói:

- Này, Mộ Dung tiểu tử, ngươi nói thử ta nghe nào, công phu đắc ý nhất của ta là gì thế?

Đoàn Dự mỉm cười nghĩ bụng: “Người nào hỏi ta thì ta không trả lời được chứ còn như ngươi hỏi ta thì thật là gãi đúng chỗ ngứa”. Chàng bèn mở chiếc quạt ra, phe phẩy mấy cái nói:

- Nam Hải Ngạc Thần Nhạc Lão Tam, cái bản lãnh đắc ý nhất của ngươi là lách cách một tiếng, vặn gãy cổ người ta. Mấy năm nay công phu lại càng tiến bộ, bây giờ môn võ công tinh thục hơn cả là ngạc vĩ tiên và ngạc chủy tiễn. Ta muốn đối phó với ngươi lẽ dĩ nhiên phải dùng roi đuôi cá sấu và kéo hình hàm cá sấu chứ còn gì.

Chàng mở miệng nói ra hai cái tên ngạc vĩ tiên và ngạc chủy tiễn khiến cho Nam Hải Ngạc Thần kinh ngạc đến há hốc mồm, đến ngay cả Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc cũng ngạc nhiên không kém. Hai món binh khí đó Nam Hải Ngạc Thần mới luyện gần đây chưa từng thi triển với ai, chỉ cùng Vân Trung Hạc động thủ một lần nơi đỉnh Vô Lượng Sơn, khi đó ngoài Mộc Uyển Thanh ra không một ai trông thấy. Bọn họ có ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đã kể hết đầu đuôi cho anh chàng Mộ Dung công tử giả hiệu này nghe rồi.

Nam Hải Ngạc Thần nghiêng đầu quan sát Đoàn Dự thật kỹ. Y tuy rất hung ác tàn nhẫn nhưng lại có bụng bội phục những người anh hùng hảo hán, ngắm nghía một hồi giơ ngón tay cái lên nói:

- Giỏi thật!

Đoàn Dự đáp:

- Chẳng bõ cười!

Nam Hải Ngạc Thần nghĩ thầm: “Đến cả món binh khí ta mới luyện đây y cũng nói ra được, những võ công khác còn phải hỏi làm gì. Tiếc thay lão đại không có nơi đây, không thì sẽ một phen vặn hỏi y xem sao. À! Có rồi!”. Y bèn lớn tiếng:

- Mộ Dung công tử, ngươi biết võ công của ta thật chẳng có gì khó hiểu. Thế nhưng nếu như sư phụ ta đến đây, võ công của ông ấy ngươi chẳng thể nào biết được.

Đoàn Dự mỉm cười hỏi:

- Sư phụ ngươi là ai thế? Ông ta có võ công gì đặc biệt?

Nam Hải Ngạc Thần dương dương đắc ý đáp:

- Thụ nghiệp ân sư của ta thì qua đời đã lâu, chẳng nói đến làm gì. Còn người thầy ta mới bái sư đây tài nghệ thật ghê gớm lắm, chẳng phải ngoa, chỉ riêng một môn Lăng Ba Vi Bộ xem ra trên đời này không người thứ hai nào biết được.

Đoàn Dự trầm ngâm đáp:

- Lăng Ba Vi Bộ thì quả là một môn võ công cao siêu. Nếu bảo là Đoàn công tử nước Đại Lý thu các hạ làm đồ đệ, ta thật chẳng tin chút nào.

Nam Hải Ngạc Thần vội đáp:

- Ta nói láo ngươi làm chi? Ở đây có bao nhiêu người nghe thấy Đoàn công tử chính miệng gọi ta là đồ nhi mà!

Đoàn Dự trong bụng cười thầm: “Lúc đầu ngươi nhất định thà chết không chịu lạy ta làm thầy, lúc này thì lại sợ ta không nhận là học trò”. Chàng bèn nói:

- Ồ, nếu như thế các hạ chắc đã học được tuyệt kỹ của sư phụ rồi? Chúc mừng! Chúc mừng!

Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy nói:

- Chưa có! Chưa có! Nhà ngươi tự cho rằng võ công trong thiên hạ cái gì cũng biết, cái gì cũng rành, nếu đi được ba bước Lăng Ba Vi Bộ thôi thì Nhạc lão nhị này mới thực là bội phục.

Đoàn Dự mỉm cười đáp:

- Lăng Ba Vi Bộ tuy khó thật nhưng tại hạ cũng học qua vài bước. Nhạc lão gia tử, ông thử chạy lại bắt tôi xem nào.

Nói rồi trường bào phất phới chàng đã lướt ra chính giữa đại điện. Quần hào nước Tây Hạ trước nay chưa từng nghe nói đến Lăng Ba Vi Bộ, nay nghe Nam Hải Ngạc Thần xưng tụng là một thần kỹ tuyệt luân, ai nấy đều háo hức muốn xem ra thế nào, lập tức chia ra đứng chung quanh bốn góc để xem Đoàn Dự biểu diễn.

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng thật ghê rợn, tay trái vươn ra, tay phải xuyên qua bên dưới tả chưởng, chộp luôn vào Đoàn Dự. Đoàn Dự đạp xéo qua hai bước, lui về sau nửa bước, thân hình nhẹ nhàng như gió lướt qua tàu lá sen, khéo léo sao tránh được. Chỉ nghe bộp một tiếng, Nam Hải Ngạc Thần thu chưởng về không kịp, năm ngón tay phải đã cắm vào cột trong đại điện, sâu đến mấy tấc. Người đứng chung quanh thấy y công lực cao thâm như thế ai nấy đều tái mặt. Nam Hải Ngạc Thần tấn công không trúng, lại rống lên lần nữa, nhảy vọt tới, đem cả thân mình từ trên cao chộp xuống.

Đoàn Dự không thèm lý đến y, chỉ việc đạp theo phương vị bát quái, tiêu sái lướt qua. Nam Hải Ngạc Thần càng tấn công nhanh hơn, tiếng rống mỗi lúc một lớn chẳng khác gì một con mãnh thú. Đoàn Dự bỗng nhìn thấy khuôn mặt khủng khiếp của y, trong lòng không khỏi sựng lại, vội vàng quay đầu đi, lấy trong tay áo ra một chiếc khăn tay, buộc lên che mắt mình lại nói:

- Nếu như ta bịt mắt lại ngươi cũng không bắt được ta đâu.

Song chưởng của Nam Hải Ngạc Thần múa lên vù vù xông thẳng vào tấn công Đoàn Dự nhưng vẫn cách thân chàng một chút. Người đứng xem ai nấy sợ giùm, lòng bàn tay tươm mồ hôi lạnh. A Châu quan tâm đến Đoàn Dự nên cũng rợn cả người, đột nhiên cất giọng ồm ồm quát lên:

- Nam Hải Ngạc Thần, ngươi thấy Lăng Ba Vi Bộ của Mộ Dung công tử so với sư phụ ngươi thì thế nào?

Nam Hải Ngạc Thần ngạc nhiên, bao nhiêu khí lực trong người toát ra hết, lập tức dừng lại nói:

- Hay quá! Hay quá! Ngươi bịt mắt mà vẫn đi theo bộ pháp quái dị kia được, e rằng đến sư phụ ta làm cũng không được. Gớm thật, Cô Tô Mộ Dung quả thật danh bất hư truyền, Nam Hải Ngạc Thần này thực là bội phục.

Đoàn Dự gỡ chiếc khăn che mắt ra, quay lại chỗ ngồi, trong đại tiếng tiếng hoan hô vang lên như sấm rền. Hách Liên Thiết Thụ đợi hai người ngồi xuống rồi mới cầm chén trà lên nói:

- Mời dùng trà. Hai vị anh hùng quang lâm không biết có chuyện gì muốn chỉ giáo?

A Châu đáp:

- Tệ bang có mấy anh em không biết đắc tội chỗ nào, nghe nói tướng quân sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bắt họ lại nơi đây. Tại hạ mạo muội đến xin tướng quân tha cho họ.

Nàng nhấn mạnh mấy chữ “sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bắt họ lại” để mỉa mai người Tây Hạ sử dụng chất độc hèn hạ thô bỉ bắt người. Hách Liên Thiết Thụ mỉm cười nói:

- Lời nói đó không sai. Mới rồi Mộ Dung công tử đại hiển thân thủ, quả là không phải mang cái hư danh. Kiều bang chủ tên tuổi đứng ngang với Mộ Dung công tử, vậy cũng xin lộ chút công phu cho xem thử, để cho người Tây Hạ chúng tôi vui vẻ mà bội phục lúc đó sẽ thả các vị anh hùng hảo hán của quí bang ra.

A Châu trong bụng hoang mang, nghĩ thầm: “Nếu như bảo ta giả mạo thân thủ của Kiều bang chủ thì lập tức sẽ lòi đuôi ngay”. Nàng còn đang tìm cách thoái thác, bỗng thấy chân tay mềm nhũn, tưởng như cử động một ngón tay cũng không được, giống hệt như bị trúng độc tối hôm trước thật là kinh hãi: “Chết rồi! Có ai ngờ đâu trong giờ phút này, bọn ác nhân Tây Hạ lại giở trò cũ ra ám toán, không biết phải làm sao đây?”.

Các loại tà độc không thể nào xâm nhập vào người Đoàn Dự nên chàng hoàn toàn không thấy gì khác, thấy A Châu mềm nhũn ngồi trên ghế, biết nàng lại bị trúng độc khí nữa rồi, vội vàng lấy trong túi ra chiếc bình thuốc thối, mở nắp đưa vào mũi nàng. A Châu vội hít mấy hơi vì nàng trúng độc chưa nhiều nên tay chân liền hết tê dại. Nàng liền cầm chiếc bình ngửi liên tiếp, trong bụng lấy làm lạ lùng sao địch nhân không ra tay can thiệp? Nhìn lại bọn người Tây Hạ, thấy người nào người nấy cũng xuội lơ ngồi ỳ ra, không ai cử động gì được, chỉ giương mắt nhìn quanh quất._

Đoàn Dự nói:

- Quái lạ làm sao! Bọn người này chẳng lẽ tự hại mình, tự phóng độc, tự trúng độc hay sao?

A Châu liền đi tới gần lay Hách Liên Thiết Thụ. Gã đại tướng quân kia liền xiêu đi nằm ngoẹo trên ghế, quả thực bị trúng độc rồi. Thế nhưng y vẫn còn nói năng được, quát lên:

- Đứa nào dùng Bi Tô Thanh Phong đó? Có mau lấy thuốc giải ra không nào!

Y quát tháo luôn mấy bận nhưng tất cả các thủ hạ của y ai nấy đều nằm gục đó chỉ bẩm báo:

- Bẩm tướng quân, thuộc hạ không cử động được.

Nỗ Nhi Hải nói:

- Chắc là có kẻ nội gian, nếu không làm sao biết được cách sử dụng phức tạp của loại Bi Tô Thanh Phong này?

Hách Liên Thiết Thụ giận dữ nói:

- Đúng đó! Đứa nào thế? Ngươi mau mau tra xét cho rõ ràng, đem nó ra chặt thành vạn mảnh.

Nỗ Nhi Hải đáp:

- Vâng! Có điều bây giờ cần phải có thuốc giải trước đã.

Hách Liên Thiết Thụ nói:

- Ngươi nói phải lắm! Mau mau đi lấy thuốc giả coi nào.

Nỗ Nhi Hải lông mày nhíu lại, liếc mắt nhìn chiếc bình sứ trong tay A Châu nói:

- Phiền Kiều bang chủ đem thuốc giải trong cái bình cho chúng tôi ngửi, tướng quân chúng tôi thể nào cũng trọng thưởng.

A Châu cười nói:

- Ta muốn đến đây giải cứu anh em trong bang chứ nào phải tham đồ trọng thưởng của tướng quân nhà ngươi đâu.

Nỗ Nhi Hải lại nói:

- Mộ Dung công tử, bên người tôi cũng có một cái bình nhỏ, phiền công tử lấy ra, mở nắp cho tôi ngửi một chút.

Đoàn Dự thò tay vào túi y lấy ra một chiếc bình nhỏ, quả nhiên cũng là thuốc giải bèn cười nói:

- Ta lấy giải dược ra nhưng không cho ngươi ngửi.

Chàng cùng A Châu hai người xuống hậu điện, đẩy cửa phòng ở phía đông thấy bên trong đầy người đều là người của Cái Bang bị bắt cầm giữ nơi đây. A Châu vừa bước vào, Ngô trưởng lão đã kêu lên:

- Kiều bang chủ, ông đấy ư? Thật phúc đức quá!

A Châu đưa giải dược cho ông ta ngửi nói:

- Đây là thuốc giải, ông đem cho các anh em khác cùng ngửi để trừ chất độc trong cơ thể.

Ngô trưởng lão mừng quá, đợi đến khi tay chân bắt đầu cử động được liền đưa chiếc bình cho Tống trưởng lão, còn Đoàn Dự thì đưa chiếc bình lấy được của Nỗ Nhi Hải cho Từ trưởng lão. A Châu nói:

- Cái Bang đông người nếu muốn trục độc từng người một thì biết bao giờ mới xong? Ngô trưởng lão, phiền ông đến chỗ bọn Tây Hạ tra xét xem chúng có mang thuốc giải không?

Ngô trưởng lão đáp:

- Vâng!

Ông ta liền rảo bước ra ngoài đại điện, rồi nghe từ ngoài vọng vào tiếng chửi bới, tiếng kêu trời, rồi tiếng kêu lốp bốp, hẳn là Ngô trưởng lão một mặt đi kiếm thuốc giải, đồng thời đánh cho bõ tức. Một lúc lâu sau, ông ta cầm sáu cái bình quay vào cười nói:

- Ta cứ xem đứa Hồ Lỗ nào ăn mặc sang trọng mà tìm, quả nhiên lục một hồi trong người đều có thuốc giải, ha ha, mấy tên đó đứa nào cũng khổ sở.

Đoàn Dự cười hỏi:

- Sao thế?

Ngô trưởng lão cũng cười:

- Cứ mỗi đứa ta cho hai hai cái bạt tai, đứa nào có thuốc giải thì lại càng mạnh tay.

Ông ta bỗng nhiên nhớ ra mình chưa từng gặp Đoàn Dự lần nào nên hỏi:

- Chẳng hay vị huynh đài này cao tính đại danh là chi? Xin cảm ơn đã cứu chúng tôi.

Đoàn Dự đáp:

- Tại hạ họ kép là Mộ Dung, đến cứu hơi trễ để quí vị phải chờ đợi, quả thật đắc tội.

Người trong Cái Bang nghe thấy người trước mặt là kẻ danh tiếng lẫy lừng Cô Tô Mộ Dung, ai nấy đều hết sức ngạc nhiên. Tống trưởng lão nói:

- Bọn chúng ta quả là có mắt như mù nói oan cho Mộ Dung công tử giết hại Mã phó bang chủ. Hôm nay nếu không nhờ y và Kiều bang chủ ra tay cứu, cả bọn rơi vào tay bọn chó dại Tây Hạ này, thì còn gì nữa?

Ngô trưởng lão nói:

- Kiều bang chủ, người trên không chấp lỗi của người dưới, xin ông trở lại làm bang chủ cho xong.

Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói:

- Kiều gia và Mộ Dung công tử quả nhiên là chỗ tri giao.

Y gọi Kiều Phong là Kiều gia chứ không là Kiều bang chủ đủ biết y không muốn Kiều Phong trở lại làm bang chủ nữa, lại bảo ông với Mộ Dung công tử là chỗ tri giao hảo hữu, câu nói quả là lợi hại. Người trong Cái Bang nghi Kiều Phong mượn tay Mộ Dung Phục, dùng kế mượn dao giết người để trừ khử Mã Đại Nguyên, Kiều Phong vẫn chối không hề quen biết với Mộ Dung Phục. Hôm nay hai người cùng đến chùa Thiên Ninh, nói nói cười cười, xem ra vẻ thân thiết lắm hiển nhiên không phải chỉ vừa biết nhau.

A Châu nghĩ bụng những người này ai ai cũng biết Kiều Phong từ lâu, càng để dây dưa càng khiến cho họ nhìn ra chỗ sơ hở liền nói:

- Chuyện đại sự trong bang, từ từ bàn thảo với nhau cũng không muộn. Ta đi xem những con chó Tây Hạ kia ra sao.

Nói xong liền đi ra ngoài đại điện, Đoàn Dự cũng đi theo. Hai người vừa ra đến ngoài vừa lúc nghe Hách Liên Thiết Thụ quát tháo:

- Mau mau tra xét cho rõ ràng, thằng khốn kiếp Tây Hạ nào đó tên là gì, kiếm đến nhà nó, bắt hết già trẻ trai gái, con gà con chó giết cho kỳ hết. Con bà nó chứ, nó là người Tây Hạ, sao lại đi tương trợ người ngoài lấy Bi Tô Thanh Phong đem ra rải loạn lên là sao?

Đoàn Dự ngạc nhiên nghĩ thầm: “Y đang chửi gã Tây Hạ nào thế?”. Chỉ nghe Hách Liên Thiết Thụ chửi một câu thì Nỗ Nhi Hải lại vâng dạ một câu. Hách Liên Thiết Thụ lại tiếp:

- Y viết trên tường tám chữ không phải là châm chọc bọn mình hay sao?

A Châu và Đoàn Dự ngửng đầu lên, thấy trên tường vôi có bốn câu, mỗi hàng bốn chữ như rồng bay phượng múa:

Hễ ai có tài nghệ gì,

Ta đem trả ngược lại về cho ngươi.

Độc phong chuyên để hại người,

Cứ nguyên như thế dùng nơi chúng mày.

Dĩ bỉ chi đạo,

Hoàn thi bỉ thân.

Mê nhân độc phong,

Nguyên bích qui quân.

Nét bút còn ướt sũng chưa khô, hiển nhiên người viết đi chưa lâu. Đoàn Dự “A” lên một tiếng ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ... có phải Mộ Dung công tử viết đấy chăng?

A Châu hạ giọng thì thầm:

- Đừng quên công tử đang đóng vai Mộ Dung công tử, công tử chúng tôi biết viết nhiều loại chữ khác nhau, tôi cũng không phân biệt được có phải ông ta viết hay không?

Đoàn Dự quay sang hỏi Nỗ Nhi Hải:

- Ai viết đó?

Nỗ Nhi Hải không trả lời trong bụng khiếp sợ, không biết người trong Cái Bang sẽ làm gì mình. Bọn chúng bắt được các bang chúng Cái Bang rồi, tra khảo đánh đập, không việc gì không làm, bọn họ chỉ cần “ăn miếng trả miếng” là cũng đủ khổ sở lắm rồi. A Châu thấy quần hào Cái Bang lũ lượt kéo vào đại điện nói nhỏ:

- Đại sự xong rồi, thôi mình đi!

Nàng lớn tiếng nói:

- Ta có việc gấp phải lo, cùng với Mộ Dung công tử đi làm cho xong, sau này gặp lại.

Nói xong rảo bước đi ra khỏi điện. Ngô trưởng lão cùng cả bọn kêu lên:

- Bang chủ đừng đi vội!

A Châu đâu dám nán lại thêm, lại cùng Đoàn Dự càng đi nhanh hơn. Quần hào Cái Bang xưa nay kính sợ Kiều Phong đâu có người nào dám bước ra ngăn trở. Hai người đi chừng một dặm, A Châu cười nói:

- Đoàn công tử, quả thật khéo làm sao, đứa học trò xấu như ma lem lại đòi công tử biểu diễn Lăng Ba Vi Bộ, còn bảo công tử giỏi hơn cả sư phụ y nữa.

Đoàn Dự cũng ồ lên một tiếng. A Châu lại tiếp:

- Không biết kẻ nào ngầm phóng thuốc mê? Gã Tây Hạ tướng quân luôn mồm chửi rủa đứa nội gian, xem chứng chính người Tây Hạ làm chuyện này!

Đoàn Dự đột nhiên nghĩ đến một người bèn nói:

- Hay chính là Lý Diên Tông? Là gã võ sĩ Tây Hạ chúng tôi gặp nơi nhà máy xay lúa?

A Châu chưa từng gặp Lý Diên Tông nên không thể nào trả lời gì được, chỉ nói:

- Thôi mình đến nói cho Vương cô nương hay để xem cô ta nghĩ thế nào?

Hai người đang đi bỗng nghe tiếng ngựa chạy, trên đường cái một người phi ngựa chạy tới. Đoàn Dự nhìn từ xa thấy chính là Kiều Phong, mừng rỡ kêu lên:

- Kiều đại ca kìa!

Chàng đang tính lên tiếng gọi, A Châu vội vàng giật tay áo chàng nói:

- Chớ có lên tiếng, người thật tới rồi đây.

Nàng vội vàng quay người đi. Đoàn Dự chợt hiểu ra: “A Châu đang giả làm Kiều đại ca, để ông ta trông thấy quả là không hay”. Chẳng mấy chốc Kiều Phong đã cưỡi ngựa đến gần. Đoàn Dự không dám đối diện với ông ta nghĩ bụng: “Kiều đại ca khi gặp quần hào Cái Bang rồi, chân tướng sẽ rõ ngay, không biết có trách A Châu đã dựng cái màn kịch này hay không?”.

*

* *

Kiều Phong cứu được A Châu, A Bích hai nàng rồi biết tin anh em của Cái Bang bị người Tây Hạ bắt giữ, trong bụng hốt hoảng vội chạy lồng đi tìm khắp nơi. Thế nhưng đất Giang Nam chỗ nào cũng ruộng lúa vườn dâu, sông hồ đường cái, ngang dọc chằng chịt không như phương bắc chỉ toàn đường đi, Kiều Phong tìm kiếm mãi, may sao lại gặp được hai chú tiểu chùa Thiên Ninh, hỏi rõ phương hướng lúc ấy mới chạy đến Thiên Ninh Tự được. Ông ta thấy Đoàn Dự thần thái hiên ngang, diện mạo anh tuấn nghĩ thầm: “Chàng công tử này trông mặt mũi sáng sủa chẳng kém gì Đoàn Dự huynh đệ”. A Châu lúc ấy đã quay mặt đi, ông ta cũng không để ý, trong bụng chỉ lo cho người của Cái Bang nên quất ngựa chạy cho nhanh về phía trước.

Ông chạy đến trước chùa Thiên Ninh, thấy độ mươi bang chúng Cái Bang đang áp giải các võ sĩ Tây Hạ bị trói từ trong chùa đi ra. Kiều Phong mừng quá nghĩ thầm: “Thì ra các anh em Cái Bang đã phản bại vi thắng rồi”.

Những người của Cái Bang thấy Kiều Phong đi rồi quay trở lại, tíu tít ra nghinh đón nói:

- Bẩm bang chủ, bọn giặc Hồ Lỗ náy bây giờ tính sao đây, xin thỉnh thị hiệu lệnh của bang chủ.

Kiều Phong nói:

- Ta không còn là người của Cái Bang nữa, hai tiếng bang chủ xin đừng đề cập đến. Các anh em có ai tổn thương gì không?

Bọn Từ trưởng lão trong chùa nghe tin vội vàng chạy ra đón, trông thấy Kiều Phong hoặc mặt đỏ bừng, hoặc vui sướng ra mặt. Tống trưởng lão cao giọng nói:

- Bang chủ, hôm qua ở trong rừng hạnh, thám tử bản bang phái qua Tây Hạ đem về quân tình khẩn cấp, Từ trưởng lão tự mình quyết định nên không cho ông xem, bang chủ có biết chuyện gì không? Từ trưởng lão, mau đem ra cho bang chủ coi nào.

Giọng nói của ông ta xem ra có chiều khách khí. Từ trưởng lão mặt mày sượng sùng, lấy viên giấy bên trong cục sáp ong, thở dài đưa cho Kiều Phong nói:

- Tôi quả là lầm lẫn.

Kiều Phong lắc đầu không cầm. Tống trưởng lão chen lên, cầm lấy mở cục giấy vo viên kia ra lớn tiếng đọc:

- Khải bẩm bang chủ: Thuộc hạ thám thính thấy tướng quân Hách Liên Thiết Thụ của Tây Hạ dẫn các cao thủ Nhất Phẩm Đường đi đến Trung Nguyên để đối phó với bản bang. Bọn họ có một loại độc khí ghê gớm lắm, khi tung ra không mùi vị gì, khiến cho người ta không hay biết gì cử động không được. Khi gặp bọn chúng, tuyệt đối phải bịt mũi lại, hoặc đánh ngã tên đầu não của họ cướp lấy giải dược có mùi thối rất kinh người, nếu không cực kỳ nguy hiểm. 

Rất khẩn cấp, rất khẩn cấp.

Thuộc hạ Đại Tín Đà Dịch Đại Bưu cấp bẩm báo.

Tống trưởng lão đọc xong, cùng bọn Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão hầm hầm nhìn Từ trưởng lão. Bạch Thế Kính nói:

- Anh em Dịch Đại Bưu báo tin khẩn cấp đúng ra cũng về đúng lúc, tiếc thay mình không kịp mở ra xem. Cũng may anh em chỉ bị một phen hoảng vía không ai bị thương tổn. Bang chủ, tất cả chúng tôi xin chịu lỗi, ông đại nhân đại nghĩa chẳng nói cũng biết.

Ngô trưởng lão nói:

- Bang chủ vừa đi khỏi anh em đã ra nông nỗi này, không nhờ ông và Mộ Dung công tử kịp thời đến cứu thì toàn thể Cái Bang đã bị diệt sạch rồi. Nếu như ông không quay về chủ trì đại cuộc, đứng đầu bản bang thì không xong.

Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Cái gì mà Mộ Dung công tử?

Ngô trưởng lão nói:

- Gã Toàn Quan Thanh kia chỉ nói năng lếu láo, ông đừng để tâm lời y làm gì. Kết giao bằng hữu có gì là không phải? Tôi tin là đến hôm nay bang chủ mới quen biết được Mộ Dung công tử.

Kiều Phong hỏi:

- Mộ Dung công tử ư? Phải chăng ông nói đến Mộ Dung Phục? Ta chưa từng gặp y bao giờ.

Từ trưởng lão cùng Tống, Hề, Trần, Ngô bốn trưởng lão mặt mày ngơ ngác, ai nấy ngớ người ra nghĩ bụng: “Chỉ mới vừa đây ông ta dắt tay Mộ Dung công tử đến đưa thuốc giải cho bọn mình, sao bây giờ lại chối không biết Mộ Dung Phục?”. Hề trưởng lão suy nghĩ một chút hiểu ngay nói:

- À, đúng rồi, gã thanh niên kia chỉ nói phức tính Mộ Dung chứ nào có bảo rằng y là Mộ Dung Phục. Trên đời này người họ Mộ Dung hàng nghìn hàng vạn, có gì là lạ đâu?

Trần trưởng lão nói:

- Y đề trên tường “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, không phải Mộ Dung Phục thì còn ai?

Bỗng nghe có tiếng người eo éo nói:

- Gã công tử nhãi nhép kia công phu gì cũng biết, môn nào so với chính chủ nhân lại còn tinh diệu hơn, chẳng là Mộ Dung Phục thì gì? Chính là hắn rồi! Nhất định là hắn.

Mọi người nhìn vào kẻ vừa nói, thấy y mắt nhỏ như chuột, râu ngắn mặt vàng, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Y trúng độc rồi bị trói nằm đó, nhịn không nổi liền chõ mồm vào nói góp. Kiều Phong lạ lùng hỏi:

- Thế ra Mộ Dung Phục đã đến đây rồi ư?

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ chửi:

- Con mẹ ngươi rắm thối. Chính ngươi vừa mới dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, không biết dùng cái trò quái gì khiến cho lão tử mê man. Ngươi có mau thả lão tử ra không nào, nếu không, hừ hừ ...

Y liên tiếp mấy tiếng hừ hừ, không biết định nói “nếu không” là sao, nghĩ đi nghĩ lại chỉ đành “hừ hừ ...” không dứt. Kiều Phong nói:

- Ta xem ngươi cũng là một hảo thủ võ lâm, sao lại nói năng quấy quá như thế? Ta đến đây hồi nào? Làm gì có chuyện dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, nghe ra cực kỳ hoang đường.

Nam Hải Ngạc Thần tức đến thở hồng hộc gầm lên:

- Kiều Phong, tổ mẹ gã Kiều Phong, thật uổng cho ngươi thân làm bang chủ Cái Bang mà lại nói năng tầm xàm đến thế. Này các anh em lớn bé, có phải Kiều Phong vừa mới đến hay chăng? Tướng quân chúng ta chẳng mời y ngồi trên uống trà là gì?

Cả bọn Tây Hạ đồng thanh đáp:

- Đúng thế, Mộ Dung Phục thi diễn Lăng Ba Vi Bộ, Kiều Phong đứng bên vỗ tay khen hay, không lẽ còn giả được hay sao?

Ngô trưởng lão giật tay áo Kiều Phong nói nhỏ:

- Bang chủ, người ngay không làm trò ám muội, chuyện mới rồi chẳng nên chối làm gì.

Kiều Phong cười gượng:

- Ngô tứ ca, đến tứ ca cũng không tin ta nữa hay sao?

Ngô trưởng lão lấy chiếc bình thuốc giải đưa ra nói:

- Bang chủ, chiếc bình này trả lại cho ông, mai sau có việc dùng không chừng.

Kiều Phong ngạc nhiên:

- Trả lại cho ta ư? Sao lại trả cho ta?

Ngô trưởng lão nói:

- Thuốc giải này ông vừa mới đưa cho tôi, không lẽ quên rồi sao?

Kiều Phong sững sờ:

- Cái gì? Ngô tứ ca, có thực ông vừa mới gặp ta hay không?

Ngô trưởng lão thấy ông ta nhất quyết phủ nhận, trong lòng không vui lại cảm thấy dường như không ổn. Kiều Phong tuy là người tinh minh tài giỏi nhưng làm sao đoán ra được chỉ mới trước đây giây lát đã có kẻ giả làm mình, đến chùa Thiên Ninh giải cứu người cho được? Ông nghĩ thầm việc này ắt có một âm mưu trọng đại dấu bên trong. Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão đều là người thẳng tính, quyết không thể nào có điều gì gian dối nhưng vì kẻ bày mưu tính kế là kẻ thật lợi hại nên đã an bài bố trí thật tinh vi khiến cho những gì mình làm trở thành hoang đường tà ác.

Mọi người trong Cái Bang được giải cứu vốn dĩ ai nấy đều cảm kích nhưng nay nghe thấy ông ta nhất quyết không nhận nên ai nấy đều kinh ngạc. Có người nghĩ rằng mấy hôm nay ông gặp nhiều chuyện đau lòng, khiến cho thần trí thác loạn, người khác lại cho rằng Kiều Phong có kế mưu bí mật đối phó với Tây Hạ nên không chịu công khai nhận chuyện trước mặt bọn này, có người lại cho rằng Mã Đại Nguyên quả đúng là bị ông ta giả tay Mộ Dung Phục giết đi, e ngại gian mưu bai lộ nên khăng khăng chối là mình không quen biết gì với họ Mộ Dung, kẻ khác lại đoán ông có ý định quay trở lại làm bang chủ Cái Bang nên sắp đặt kế sách như thế, người lại cho rằng việc này ông ra tay chỉ vì Khất Đan để hại Tây Hạ, Đại Tống. Mỗi người trong lòng nghĩ một nẻo nên trên mặt kẻ thì hoài nghi, người lộ vẻ sùng kính, kẻ lại băn khoăn, phẫn nộ, hoặc giả khinh bỉ, hận thù mỗi người một cách.

Kiều Phong thở dài một tiếng nói:

- Các vị đều đã thoát hiểm rồi, Kiều Phong này thôi xin từ biệt.

Nói xong ông ôm quyền, xoay người nhảy lên ngựa, giơ roi lên quất ngựa chạy ngay. Bỗng nghe Từ trưởng lão gọi vói theo:

- Kiều Phong, hãy để Đả Cẩu Bổng lại.

Kiều Phong gò cương, nói:

- Đả Cẩu Bổng ư? Ở nơi rừng hạnh, ta đã giao lại rồi mà?

Từ trưởng lão nói:

- Bọn ta sẩy tay bị bắt, Đả Cẩu Bổng rơi vào tay bọn ác cẩu Tây Hạ. Bây giờ tìm khắp nơi không thấy đâu, ắt hẳn nhà ngươi lấy được rồi.

Kiều Phong ngẩng mặt lên trời cười ha hả, thanh âm thê lương lớn tiếng nói:

- Kiều Phong này với Cái Bang không còn giây mơ rễ má gì nữa, lấy Đả Cẩu Bổng để làm gì? Từ trưởng lão, ông coi Kiều Phong này nhẹ thể quá.

Hai chân ông kẹp một cái, con ngựa liền tung bốn vó soải dài chạy vọt về hướng bắc. Kiều Phong từ thuở nhỏ đã được cha mẹ nâng niu, về sau được Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm dạy võ nghệ, lại bái Uông bang chủ của Cái Bang làm thầy, trước nay hành tẩu giang hồ tuy từng gặp nhiều gian hiểm nhưng sư phụ bằng hữu ai nấy đãi ông một dạ chân thành. Trong hai ngày qua ngờ đâu trời đất nổi cơn sóng gió, từ một vị bang chủ uy danh lừng lẫy, chí thành chí nhân bị người ta coi thành một kẻ tiểu nhân bán nước hại dân, vô sỉ vô tín. 

Ông cứ để cho con ngựa tùy ý chạy đi, trong lòng cực kỳ hỗn loạn: “Nếu như ta quả là người Khất Đan thật thì trong mười năm qua tay ta giết biết bao nhiêu người Khất Đan, phá vỡ bao nhiêu đồ mưu của họ, có phải là kẻ đại bất trung ư? Nếu đúng là cha mẹ ta bị người Hán giết ngoài Nhạn Môn Quan, ta lại bái kẻ giết cha mẹ mình làm thầy, ba mươi năm qua nhận người khác làm cha làm mẹ, có phải là kẻ đại bất hiếu ư? Kiều Phong ơi Kiều Phong, ngươi là kẻ bất trung bất hiếu như thế, còn mặt mũi nào đứng giữa đất trời? Nếu như Tam Hòe Công không phải cha ta thì ta nào có phải là Kiều Phong? Ta họ gì? Cái tên cha ruột ta đặt cho ta là gì? Ha ha, ta không phải chỉ là kẻ bất trung bất hiếu mà còn là đứa không họ không tên”.

Ông lại chợt nghĩ: “Có thể lắm! Không chừng tất cả mọi việc đều do một kẻ đại gian đại ác vu hãm cho ta khiến cho một kẻ đường đường trượng phu như Kiều Phong này trở thành thân bại danh liệt, không còn ngóc đầu lên được nữa, nếu vì cái công phẫn nhất thời mà bỏ đi, chuyện Cái Bang từ nay không ngó ngàng gì đến nữa thì có phải là gian mưu của y đã thành công rồi ư? Ôi, nói gì thì nói, mình phải tra cứu cho minh bạch mới được”.

Trong bụng tính toán việc đầu tiên là phải đến núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam, hỏi Tam Hòe Công về thân thế lai lịch của mình, kế đó sẽ vào chùa Thiếu Lâm khấu kiến thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư để xin cho biết rõ chân tướng. Hai người này xưa nay đối với ta thương yêu khôn xiết, chắc sẽ không dấu diếm điều gì.

Ông đã trù tính như vậy, trong lòng không còn phiền não nữa. Từ trước tới nay ông vốn là bang chủ Cái Bang nên hành tẩu giang hồ bốn biển đâu đâu cũng là nhà, giờ này không tiện đến các phân đà tá túc nữa, nhưng để cho khỏi rắc rối thêm nên đến đâu cũng tránh đường lớn để khỏi gặp lại các bộ thuộc cũ trong Cái Bang.

Đi được hai ngày, tiền bạc trong người cạn cả rồi, đành phải đem con ngựa đoạt được của người Tây Hạ đem ra bán để làm lộ phí.

Hôm đó ông đến chân dãy Tung Sơn bèn nhắm theo ngọn Thiếu Thất mà tới. Đây là nơi ông sinh sống hồi nhỏ nên chỗ nào cũng quen thuộc. Từ khi ông xuất nhiệm làm bang chủ Cái Bang đến nay, Cái Bang là bang hội lớn nhất giang hồ, phái Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất võ lâm nên nếu như bang chủ Cái Bang đến ắt phải đủ loại nghi lễ sắp xếp kinh động rất nhiều nên chưa bao giờ quay trở lại, chỉ hàng năm sai người đem áo quần đồ ăn thức uống kính biếu cha mẹ, ân sư, hỏi thăm sức khỏe mà thôi. Đến lúc này quay trở về quê cũ, nghĩ đến mình thân thế mơ hồ, chỉ trong một hai giờ nữa sẽ rõ, nên tuy ông là người trấn tĩnh trầm ổn nhưng lòng cũng thấy nao nao.

Nhà cũ của ông ở bên cạnh một triền núi ở phía đông núi Thiếu Thất. Kiều Phong rảo bước đi vòng sơn pha, thấy dưới gốc cây táo bên cạnh vườn rau có úp một chiếc nón cạnh một bình trà. Chiếc bình trà quai đã gãy, Kiều Phong nhận ra ngay là vật của phụ thân Kiều Tam Hòe, trong lòng dâng lên một lòng thương cảm: “Cha ta cần mẫn tiết kiệm, chiếc bình trà vỡ này dùng đã mấy chục năm nay nhưng cũng không nỡ vứt bỏ”.

Ông nhìn thấy cây táo lớn, nhớ tới khi còn nhỏ mỗi mùa trái chín, phụ thân đều nắm bàn tay bé nhỏ của ông cùng rung cho táo rụng. Những trái táo chín đỏ đến nứt cả ra, vừa ngọt vừa nhiều nước, từ thuở rời cố hương đến nay ông chưa từng nếm lại thứ táo nào ngon đến thế. Kiều Phong nghĩ thầm: “Dẫu hai người không phải cha mẹ ruột ta chăng nữa nhưng cái ơn dưỡng dục kia suốt đời cũng không sao báo đáp được. Bất luận thân thế chân tướng của ta thế nào, ta nhất quyết không vì thế mà đổi cách xưng hô”.

Ông đi đến trước ba gian nhà đất, thấy đằng trước trải một chiếc phên tre phơi đầy rau, một con gà mẹ dẫn một bầy gà con, đang tìm mồi nơi đám cỏ. Ông không khỏi mỉm cười: “Hôm nay thể nào má chẳng giết gà làm cơm đãi đứa con lâu nay không gặp”. Ông cao giọng gọi:

- Ba, má! Con đã về đây!

Ông gọi luôn mấy tiếng không nghe đáp lại, nghĩ thầm: “À, đúng rồi! Hai ông bà tai điếc rồi, không nghe được nữa”. Ông đẩy cửa ra bước vào, trong nhà bàn ghế giường phản, cày bừa mai xẻng vẫn không khác khi ông ra đi bao nhiêu, nhưng không thấy một bóng người.

Kiều Phong lại gọi thêm mấy tiếng nữa:

- Ba má ơi!

Vẫn không thấy ai trả lời, ông hơi ngạc nhiên, lẩm bẩm một mình: 

- Không biết hai người đi đâu?

Ông thò đầu vào trong phòng ngủ xem thử, không khỏi giật mình kinh hãi, thấy vợ chồng Kiều Tam Hòe nằm lăn trên mặt đất, không động đậy gì cả. Kiều Phong vội vàng nhảy vào, trước hết đỡ mẹ dậy, thấy bà ta đã tắt thở nhưng thân còn hơi ấm, xem ra chết chưa đầy một giờ. Ông lại đỡ cha lên thì cũng y như thế.

Kiều Phong vừa kinh hoàng, lại vừa đau xót, ôm xác cha chạy ra ngoài cửa, dưới ánh sáng mặt trời xem xét kỹ, thấy ngực ông gân cốt đều bị đứt đoạn, hiển nhiên bị một cao thủ võ học dùng chưởng lực cực kỳ lợi hại đánh chết. Ông lại quan sát mẫu thân thì cũng không khác chút nào. Kiều Phong trong lòng hỗn loạn: “Cha mẹ ta là vợ chồng nhà quê trung hậu thực thà, sao lại bị cao thủ võ học đến hạ độc thủ? Ắt hẳn là tại ta mà ra".

Ông xem kỹ bên trong ba gian phòng, trước nhà sau nhà, nhảy cả trên mái nhà để tra xét xem hung thủ là hạng người nào. Thế nhưng kẻ hạ độc đến dấu chân cũng không để lại. Kiều Phong mặt mày đẫm lệ, càng nghĩ càng đau buồn, nhịn không nổi khóc òa lên.

Chỉ mới khóc được một lát, bỗng nghe sau lưng có tiếng người:

- Tiếc thay! Tiếc thay, chúng ta đến chậm một bước rồi.

Kiều Phong đứng lên quay lại, thấy bốn nhà sư trung niên, phục sức theo lối chùa Thiếu Lâm. Kiều Phong tuy đã từng học nghệ phái Thiếu Lâm nhưng người truyền thụ võ công cho ông là Huyền Khổ đại sư mỗi ngày đến nửa đêm xuống thẳng nhà ông dạy võ thành ra ông không biết một nhà sư nào trong chùa. Lúc này ông trong lòng buồn khổ, tuy thấy người ngoài nhưng nhất thời không cầm được nước mắt.

Một nhà sư dáng người cao cao đầy vẻ giận dữ, lớn tiếng nói:

- Kiều Phong, ngươi quả là không bằng heo bằng chó. Vợ chồng Kiều Tam Hòe tuy không phải là cha mẹ ruột của ngươi nhưng hơn mười năm nuôi nấng, cái ơn đó quả là không nhỏ, ngươi nỡ nào ra tay sát hại?

Kiều Phong sụt sùi đáp:

- Tại hạ vừa mới trở về nhà, thấy cha mẹ bị hại, chính đang muốn tra xét hung thủ là ai để báo thù cho cha mẹ, đại sư sao lại nói như thế?

Nhà sư kia bực tức đáp:

- Người Khất Đan lòng như lang sói, quả nhiên hành động không khác gì cầm thú. Ngươi chính tay giết cha mẹ nuôi, bọn ta chỉ tiếc đến quá muộn. Họ Kiều kia, ngươi muốn đến núi Thiếu Thất làm càn, e rằng không xong đâu.

Nói xong nghe vù một tiếng đã đánh ra một chưởng thẳng vào ngực Kiều Phong. Kiều Phong vừa toan tránh né, bỗng thấy sau lưng có hơi gió nhè nhẹ, biết ngay có người đánh lén, ông không muốn cùng những nhà sư Thiếu Lâm kia chưa rõ đầu đuôi đã động thủ, chân trái điểm một cái đã nhẹ nhàng vọt ra xa hơn một trượng, quả nhiên một nhà sư Thiếu Lâm đá hụt vào quãng không.

Bốn nhà sư thấy ông dùng khinh công tránh được ai nấy lộ vẻ kinh dị. Nhà sư cao lớn liền chửi:

- Võ công ngươi tuy giỏi thật nhưng đã làm sao? Ngươi tưởng rằng giết nghĩa phụ nghĩa mẫu diệt khẩu để che dấu xuất thân lai lịch, chỉ tiếc thay ngươi là giống nghiệt chủng Khất Đan, việc này đã truyền vang trên giang hồ, trong võ lâm có ai còn không biết, có ai còn không hay? Ngươi làm chuyện đại nghịch như thế chỉ làm tăng thêm tội nghiệt mà thôi.

Một nhà sư khác lại tiếp:

- Ngươi trước kia giết Mã Đại Nguyên, rồi nay giết vợ chồng Kiều Tam Hòe, hừ hừ, chuyện xấu xa đó tưởng thế mà che dấu được hay sao?

Kiều Phong tuy nghe hai nhà sư nhục mạ riếc móc như thế, trong lòng chỉ cảm thấy xót xa, chẳng có chút nào oán hận. Ông bình sinh gặp chuyện lớn, quyết đoán hiềm nghi, đã từng gặp không biết bao nhiêu chuyện khó khăn lúc này lại càng cố nén nhịn, vòng tay hành lễ nói:

- Xin hỏi pháp danh bốn vị đại sư xưng hô thế nào? Có phải là tăng nhân chùa Thiếu Lâm chăng?

Một nhà sư người tầm thước tính tình dễ chịu nhất liền nói:

- Bọn ta đều là đệ tử Thiếu Lâm. Ôi, nghĩa phụ nghĩa mẫu ngươi một đời trung hậu sao lại gặp cảnh thảm báo thế này. Kiều Phong, người Khất Đan các ngươi ra tay quả là độc địa.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như họ không chịu tuyên lộ pháp danh, có hỏi thêm cũng vô ích. Nhà sư cao kia đã nói rằng họ đến cứu chậm mất rồi hẳn là có người báo tin đến cứu viện, thế nhưng ai là người đến đưa tin? Ai là người dự đoán cha mẹ ta sẽ gặp hung hiểm?”. Ông liền đáp:

- Bốn vị đại sư lòng dạ từ bi, xuống núi đến cứu cha mẹ tôi, tiếc thay chậm mất một bước ...

Nhà sư cao kia tính nóng như lửa, giơ nắm tay to lớn lên, nghe vù một tiếng nhắm Kiều Phong đấm tới, quát lớn:

- Bọn ta chậm một bước nên mới để ngươi làm chuyện ngược ngạo này, ngươi còn hợm hĩnh khoe khoang, đắc ý châm chọc nữa hay sao?

Kiều Phong biết bốn người đều có lòng tốt, vừa nghe tin lập tức chạy xuống cứu cha mẹ mình nên không muốn cùng họ động thủ quá chiêu, thế nhưng nếu không chế ngự được bọn họ thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ tìm được chân tướng nên nói:

- Tại hạ hết sức cảm kích hảo ý của bốn vị, chuyện hôm nay không biết làm sao hơn, đành phải đắc tội.

Nói xong thân mình quay vụt lại nhắm ngay vai nhà sư thứ ba đánh tới. Nhà sư đó kêu lên:

- Muốn động thủ thực hay sao?

Câu nói chưa dứt, đầu vai đã bị Kiều Phong đánh trúng rồi, thân mình mềm nhũn, ngồi phịch xuống đất. Kiều Phong học nghệ của phái Thiếu Lâm nên võ công gia số của bốn nhà sư ông thuộc nằm lòng, liên tiếp xuất chưởng đánh ngã từng người một nói:

- Đắc tội! Xin hỏi bốn vị sư phụ, các ông nói là đến cứu chậm mất rồi, vậy làm sao biết được là cha mẹ tôi gặp phải nguy nan? Ai là người báo tin cho bốn vị sư phụ?

Nhà sư cao kia giận dữ đáp:

- Có phải ngươi muốn biết rõ ai là người đưa tin để tới ra tay giết hại người ta ư? Đệ tử Thiếu Lâm lẽ nào chịu để cho bọn chó Khất Đan tàn nhẫn kia bức cung? Ngươi cứ thử dùng độc hình xem bọn ta có thổ lộ nửa lời hay chăng?

Kiều Phong trong bụng than thầm: “Hiểu lầm mỗi lúc một thêm, dù ta có hỏi cách nào bọn họ cũng nghĩ là mình đang tra vấn”. Ông đưa tay xoa nắn trên lưng mỗi người mấy cái, giải những huyệt đạo bị phong cho bốn người nói:

- Nếu như muốn sát nhân diệt khẩu thì lúc này mỗ đã lấy mạng bốn vị rồi. Chân tướng thị phi, thể nào rồi đây cũng có ngày thủy lạc thạch xuất.

Bỗng nghe từ sườn núi có tiếng người cười khẩy:

- Muốn giết người bịt miệng cũng đâu phải dễ dàng như thế.

Kiều Phong quay đầu lại đã thấy bên cạnh núi đứng khoảng hơn chục nhà sư Thiếu Lâm, trong tay ai nấy cầm kim binh khí. Hai nhà sư đứng đầu đều vào khoảng trên dưới năm mươi, trong tay đều cầm một cây phương tiện sản_, đầu sản hình mặt trăng làm bằng đồng ròng phát ra hàn quang lấp lánh, mắt cả hai như bắn vào người chỉ thoạt nhìn đã biết nội công cực kỳ thâm hậu. Kiều Phong tuy không sợ gì cả nhưng cũng biết những người vừa đến võ công không phải tầm thường, nếu hai bên phải giao tranh thì không thể không giết vài người mới có thể bảo toàn tính mạng mà thoái lui. Ông hai tay ôm thành quyền nói:

- Kiều Phong vô lễ, xin tạ tội với chư vị đại sư.

Đột nhiên thân hình bay ngược về sau, lưng đụng phá vỡ cánh cửa chui tọt vào trong căn nhà đất. Biến cố đó cực kỳ nhanh, các nhà sư cùng kinh hoảng kêu la, năm sáu người cùng xông lên nhưng vừa đến cửa, một luồng kình phong từ bên trong đánh ra. Năm sáu người kia ai nấy đều vội vàng giơ tả chưởng lên vận nội lực chống đỡ, nghe bùng một tiếng, bụi đất bay mịt mù, tất cả bị chưởng lực từ bên trong ép phải lùi lại bốn năm bước.

Đợi đến khi mọi người đứng vững lại rồi, ai nấy thấy khí huyết trong ngực trào lên, người nào cũng mặt mày ngơ ngác, trong bụng đều hiểu rằng: “Chưởng lực của Kiều Phong tuy mãnh liệt thật nhưng vẫn còn dư lực, nếu đánh ra chưởng thứ hai chưa chắc đã chống đỡ nổi”. Ai nấy cho rằng Kiều Phong là kẻ cùng hung cực ác nên đang thu lực để đánh thêm, có biết đâu ông ra nhẹ đòn không muốn đả thương người khác.

Mọi người ai nấy thủ thế đề phòng, một hồi sau, hai nhà sư đứng đầu cầm phương tiện sản, cùng sử chiêu Song Long Nhập Động đánh ép hai bên, thân hình theo sản song song cùng tiến vào căn nhà đất. Keng keng keng hai thanh sản chạm nhau, kết thành một màn lưới bảo hộ toàn thân nhưng chỉ thấy trong nhà trống không, nào thấy hình bóng Kiều Phong đâu nữa? Lạ lùng nhất, đến thi thể vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng không còn.

Hai nhà sư sử dụng phương tiện sản thuộc Giới Luật Viện trong chùa Thiếu Lâm, một người giữ chức trì giới tăng, giám thủ hành vi các đệ tử bản phái, còn một người là thủ luật tăng, bình thời hành tẩu giang hồ tra xét công tội các đệ tử môn hạ, bản thân võ công cố nhiên cao cường, kiến văn cũng rộng rãi người khác không thể nào bì kịp.

Hai người thấy Kiều Phong trong khoảnh khắc biến đi đằng nào không biết cũng đã cực kỳ khó rồi, lại ôm theo hai cái xác vợ chồng Kiều Tam Hòe, quả thật không thể nào ngờ nổi. Các nhà sư tra xét ngõ trước vườn sau, đến cả nhà bếp, lục lọi mấy lần. Hai nhà sư giới luật cùng chạy xuống núi đuổi theo, đuổi đến hơn hai chục dặm nhưng nào có thấy tung tích Kiều Phong đâu?

Có ai ngờ được Kiều Phong ôm xác cha mẹ lại chạy ngược lên núi Thiếu Thất. Ông tìm đến một sườn núi thật kín đáo, rậm rạp cheo leo đem cha mẹ chôn nơi đó, quì xuống cung kính lạy tám lạy, trong bụng khấn thầm: “Cha mẹ bị người nào hạ độc thủ giết hại, hài nhi thể nào cũng tìm cho ra hung thủ, đưa đến mộ phần moi tim tế sống hai vị lão nhân gia”.

Ông nghĩ đến lần này quay trở về nhà, chỉ chậm mất một bước, nên đã không gặp được cha mẹ, nếu không ông bà thấy mình đã trở thành tráng kiện khôi ngô, thể nào cũng vui mừng lắm. Giá như ba người được tụ hội một ngày nửa buổi thì cũng còn được khoái hoạt trong giây lát. Nghĩ đến như thế, nhịn không nổi lại khóc thầm. Ông từ bé vốn tính tình cứng cỏi, ít khi khóc lóc, hôm nay vì hết sức thương tâm, hết sức bi phẫn nên nước mắt tuôn trào không sao cầm được giọt lệ.

Đột nhiên trong lòng lại nảy ra một ý niệm, kêu thầm: “Chết rồi, không xong, thụ nghiệp ân sư của ta là Huyền Khổ đại sư không chừng cũng bị nguy hiểm”. Đột nhiên ông hiểu rõ luôn mấy việc: “Hung thủ giết cha mẹ ta không phải chỉ là ngẫu nhiên xảo hợp mà hạ thủ chỉ nửa giờ trước khi ta về đến nhà mà là y đã dự mưu, hạ thủ xong rồi lập tức thông tri cho các nhà sư chùa Thiếu Lâm rằng ta đang lên núi Thiếu Thất giết hai ông bà để bịt miệng. Các nhà sư đó bụng dạ hiệp nghĩa, một lòng muốn cứu cha mẹ ta thể nào cũng chạm trán với ta. Trên đời này biết được thân thế ta nay chỉ còn một sư phụ Huyền Khổ mà thôi, phải phòng hung đồ hạ độc thủ đem tội danh đổ riệt lên đầu mình”.

Ông nghĩ đến Huyền Khổ đại sư vì mình mà phải chịu nguy nan, lập tức tâm can nóng như lửa đốt, vội vàng cất bước chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm. Ông biết rõ trong chùa cao thủ đông như kiến, trong Đạt Ma Đường cững đã có vài vị lão tăng mang tuyệt kỹ kinh người, mình chỉ vừa lộ diện, chúng tăng sẽ cùng xông lên tấn công, muốn thoát thân không phải là chuyện dễ dàng nên chỉ tìm những đường mòn mà chạy. Gai góc cỏ cây móc hai ống quần ông tơi tả, trên đùi cũng máu me đầm đìa nhưng ông cũng không coi vào đâu. Đi vòng theo đường nhỏ lên núi, lộ trình dài gần gấp rưỡi, chạy đến hơn một giờ mới lên đến sau chùa. Lúc đó trời đã tối mịt, ông trong lòng vừa mừng vừa lo, mừng là vì trời tối dễ dàng trốn tránh, lo là sợ hung thủ thùa cơ đánh lén không phải dễ dàng tìm ra tung tích của y được.

Mấy năm qua ông tung hoành giang hồ, ít khi gặp địch thủ, thế nhưng lần này kẻ địch, võ công cố nhiên cao cường đã đành mà tâm kế cũng công phu, tính toán độc địa, trước nay ông chưa từng gặp bao giờ. Chùa Thiếu Lâm tuy là đầm rồng hang hổ nhưng đâu có đề phòng có người đến gia hại Huyền Khổ đại sư, nếu như có người tới đánh trộm thì e rằng khó mà thoát được ám toán. Kiều Phong đâu phải không biết mình đang ở vào cảnh bị hiềm nghi cực nặng nề, nếu như lúc này Huyền Khổ đại sư đã bị độc thủ, dẫu không ai nhìn thấy hung thủ hình dạng thế nào nhưng nếu mình bị người ta phát giác lén lén lút lút lẻn vào trong chùa thì dù có trăm cái miệng cũng không biện bạch nổi.

Nếu lúc này ông muốn độc thiện kỳ thân_ thì tránh xa chùa Thiếu Lâm càng xa càng tốt, nhưng một là quan hoài an nguy của ân sư Huyền Khổ đại sư, thứ nữa cũng muốn thừa cơ bắt lấy hung thủ đích thực để báo thù cho cha mẹ nên dẫu cực kỳ nguy hiểm ông cũng không coi vào đâu.

Ông tuy ở tại núi Thiếu Thất hơn chục năm nhưng chưa hề bước chân vào trong chùa, thành thử phương hướng phòng ốc hoàn toàn không biết gì cả. Do đó Huyền Khổ đại sư ngụ tai nơi nao ông chẳng hề hay biết, nghĩ bụng: “Nếu như ân sư bình an không sao cả, ta gặp được thầy ta rồi sẽ bẩm rõ nội tình để lão nhân gia để ý đề phòng, sau đó sẽ hỏi thân thế lai lịch, may ra ân sư có thể đoán được hung thủ là ai”.

Trong chùa Thiếu Lâm, điện, đường, viện, lạc đâu phải chỉ vài mươi căn, đông một tòa, tây một tòa rải rác khắp các sườn núi. Huyền Khổ đại sư ở trong chùa không chấp chưởng chức vụ gì, nhà sư hàng chữ “Huyền” ít ra cũng phải hai chục người, người nào ăn mặc cũng giống nhau, trong đêm tối biết tìm ông nơi đâu? Kiều Phong tính thầm trong bụng: “Chỉ còn một cách duy nhất là bắt lấy một nhà sư Thiếu Lâm, ép y phải đưa mình đến gặp Huyền Khổ sư phụ, sau khi gặp ông rồi sẽ nói rõ việc mình bất đắc dĩ phải làm như thế rồi trịnh trọng xin lỗi ông ta. Thế nhưng những nhà sư Thiếu Lâm phần lớn tôn sư trọng nghĩa, nếu như y lại tưởng ta mưu toan điều gì bất lợi cho Huyền Khổ đại sư, hẳn là thà chết chứ không chịu khuất phục, nhất định không chịu cho ta biết ông ta ở nơi đâu. Ôi, hay là ta đến nhà bếp tìm một gã hỏa công bảo y dẫn đường thế nhưng những người đó chắc gì đã biết được sư phụ ta ở chỗ nào”.

Ông nhất thời bàng hoàng không biết tính sao, mỗi khi qua một điện đường sương phòng lại nằm phục bên ngoài cửa sổ nghe ngóng, hi vọng biết được chút mối manh gì. Tuy ông thân thể cao to nhưng thân thủ nhanh nhẹn, trồi lên hụp xuống nhẹ nhàng như một con mèo nên không ai biết được.

Cứ từng bước từng bước như thế, đi đến một tòa nhà nhỏ bỗng nghe bên trong có người nói:

- Phương trượng có việc quan trọng cần bàn bạc, xin sư thúc lập tức đến ngay Chứng Đạo Viện.

Lại nghe một giọng già nua trả lời:

- Được rồi! Ta sẽ đến ngay.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Phương trượng triệu tập người để bàn việc quan trọng, sư phụ ta cũng có mặt không chừng. Chi bằng ta theo người này đến Chứng Đạo Viện”. Chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở ra, hai nhà sư đi ra, người già đi về hướng tây còn người trẻ đi về hướng đông chắc là đi truyền tin cho những người khác.

Kiều Phong bụng bảo dạ, phương trượng mời lão tăng này đến thương lượng yếu sự, ông ta ắt hẳn vai vế cực cao, chùa Thiếu Lâm không phải như những chùa khác, phàm những người bối phận cao võ công ắt cũng cao thâm. Ông không dám đi sát theo sau, chỉ nhìn theo sau lưng đi xa xa thấy ông ta đi thẳng về hướng tây đi vào một tòa nhà. Kiều Phong đợi ông ta đi vào trong phòng rồi mới đi vòng ra phía sau, xem kỹ chung quanh không có ai mới dám nằm phục xuống bên cạnh cửa sổ.

Ông trong lòng bi phẫn, lại thêm tức tối tự nhủ: “Kiều Phong này từ thuở hành tẩu giang hồ đến nay, đối đãi với đồng đạo chính phái trong võ lâm, có chuyện gì mà không quang minh lỗi lạc, đàn anh kẻ cả đâu? Vậy mà hôm nay ta phải lén lén lút lút, nếu như hành tung bại lộ thì một đời anh danh của Kiều mỗ còn mặt mũi nào mà nhìn ai?”. Ông lập tức lại nghĩ ngay: “Năm xua sư phụ hằng đêm xuống núi đây võ nghệ cho ta, dẫu có mưa to gió lớn cũng chưa bao giờ bỏ một ngày nào. Cái ơn nặng như thế, ta dù tan xương nát thịt cũng chưa báo đáp được, huống hồ một chút nhục cỏn con”.

Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng bước chân người, trước sau đi vào bốn người, chẳng mấy chốc lại thêm hai người nữa, bóng chiếu trên giấy dán cửa sổ, phải đến trên mười người cả thảy. Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như họ thương lượng việc quan trọng cơ mật của phái Thiếu Lâm nếu như ta nghe lỏm được, dù ta không cố ý nhưng cũng không ổn, chi bằng ta tránh ra xa xa thì hơn. Nếu như sư phụ có ở trong nhà, trong đó cao thủ nhiều như thế, dẫu hung thủ có lợi hại thế nào chăng nữa cũng không sao đả thương ông ta được, đợi khi thương nghị xong rồi, quần tăng phân tán ta sẽ tìm cách gặp sư phụ sau”.

Ông đang toan rón rén đi ra, bỗng nghe trong nhà hơn chục tăng nhân cùng lên tiếng tụng kinh. Kiều Phong không biết họ tụng kinh văn nào, nhưng nghe thấy giọng trang nghiêm hiền từ, một số người tụng kinh lại ra vẻ có chiều thương xót. Đoạn kinh văn đó tụng thật dài, ông xem ra bất ổn nghĩ thầm: “Bọn họ dường như ở đây làm lễ cầu siêu, hay tham thiền nghiên cứu kinh điển chi đó, sư phụ ta xem ra không có ở đây”. Ông lắng tai nghe, quả nhiên trong tiếng quần tăng đang tụng niệm không nghe thấy giọng trầm ấm hậu thực của Huyền Khổ đại sư.

Kiều Phong nhất thời không quyết định được có nên chờ thêm chút nữa hay không, chỉ thấy tiếng tụng kinh chấm dứt, một giọng nói uy nghiêm cất lên:

- Huyền Khổ sư đệ, ngươi có còn gì để nói nữa chăng?

Kiều Phong mừng quá: “Sư phụ quả nhiên có ở trong đây, lão nhân gia vẫn bình an không sao cả. Thì ra ông không lên tiếng đọc kinh”. Chỉ nghe một giọng hồn hậu bắt đầu nói, Kiều Phong nghe thấy biết chắc chính là tiếng của thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư:

- Ngày tiểu đệ thụ giới, tiên sư đặt tên cho là Huyền Khổ. Phật tổ có nói đến bảy nỗi khổ trên đời, đó là sinh, lão, bệnh, tử, oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc _. Tiểu đệ cố gắng thoát khỏi bảy nỗi khổ đó để mong độ được cho mình chứ chẳng dám độ cho người, nói ra thật là hổ thẹn. Cái nỗi khổ “oán tăng hội” kia nguyên là một cảnh giới mà nhân sinh ai ai cũng có. Gieo trồng nhân nào thì ắt sẽ gặt nghiệp đó. Các vị sư huynh, sư đệ thấy ta túc nghiệp_ đáng ra phải mừng cho ta mới phải.

Kiều Phong nghe ông nói cực kỳ bình tĩnh, có điều những điều thốt ra đề là ngôn ngữ nhà Phật nên không hiểu ý ông định nói gì. Lại nghe giọng nói uy nghiêm kia tiếp:

- Huyền Bi sư đệ mấy tháng trước táng mạng trong tay gian nhân, bọn chúng ta hết sức truy nã hung thủ, xem ra đã vi phạm vào giới luật đừng sân đừng nộ rồi. Thế nhưng việc hàng ma trừ gian cốt là phổ cứu thế nhân, phận người học võ chúng ta, bản ý vốn là để hoằng pháp, theo đòi tâm đại từ đại bi của Như Lai để giải trừ khổ nạn cho chúng sinh ...

Kiều Phong nghĩ thầm: “Thanh âm uy nghiêm kia chắc hẳn là giọng của Huyền Từ đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm”. Lại nghe ông nói tiếp:

- ... trừ một ma đầu, ấy là cứu được vô số thế nhân. Sư đệ, kẻ đó có phải là Cô Tô Mộ Dung chăng?

Kiều Phong nghĩ bụng: “Việc này lại có liên quan đến họ Mộ Dung đất Cô Tô. Nghe nói Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm tại cảnh giới nước Đại Lý bị người ta ám toán, không lẽ họ nghi là Mộ Dung công tử hạ độc thủ hay sao?”. Chỉ nghe Huyền Khổ đại sư nói:

- Phương trượng sư huynh, tiểu đệ không dám để sư huynh cùng các sư huynh đệ phải lo lắng cho mình để phải tăng thêm nghiệp báo. Người kia nếu như biết bỏ con dao đồ tể xuống, quay đầu lại là thấy bến ngay, còn như chấp mê không tỉnh, ôi, thì y chỉ tự mình làm khổ mình thôi. Người đó hình dáng ra sao cũng chẳng cần phải nói đến nữa.

Huyền Từ phương trượng nói:

- Được rồi! Sư đệ đại giác cao kiến, sư huynh này còn quá chấp nê, xem ra không bằng được.

Huyền Khổ nói:

- Tiểu đệ muốn được tĩnh tọa một chút để mặc tưởng sám hối.

Huyền Từ đáp:

- Thôi được! Sư đệ cố gắng giữ gìn.

Chỉ nghe tiếng cửa mở ra, một nhà sư cao gầy chầm chậm đi trước. Ông đi được chừng một trượng, đằng sau là một đoàn người đi theo, tổng cộng mười bảy nhà sư. Cả mười tám người ai nấy đều chắp tay, cúi đầu mặc niệm, thần tình thật là trang nghiêm. Đợi các nhà sư đi xa rồi, trong nhà lặng yên không một tiếng động nhưng Kiều Phong bị tình hình làm cho khuất phục nhất thời không dán hiện thân gõ cửa. Bỗng nghe Huyền Khổ đại sư nói:

- Giai khách từ xa đến sao còn chần chừ chưa vào?

Kiều Phong giật mình kinh hãi, nhủ thầm: “Ta nín thở ngưng khí, người khác dẫu có ở cách ta một vài thước cũng chưa chắc đã phát giác ta nằm phục nơi đây. Tai của sư phụ thính như thế, nội công tu tập quả là cao cường”. Nghĩ thế ông bèn cung kính đi đến trước cửa phòng nói:

- Sư phụ an hảo, đệ tử Kiều Phong khấu đầu bái kiến sư phụ.

Huyền Khổ “A” lên một tiếng :

- Phong nhi đấy ư? Ta lúc này đang nghĩ đến con đây, chỉ mong được gặp con một lần, mau vào đi.

Trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Kiều Phong mừng lắm, vội rảo bước tiến vào, lập tức quì xuống khấu đầu nói:

- Đệ tử bình thời ít khi được hầu hạ khiến cho sư phụ phải nhớ mong. Sư phụ khỏe mạnh hài nhi thật mừng không để đâu cho hết.

Nói xong ông ngẩng đầu lên, đăm đăm nhìn vào Huyền Khổ. Huyền Khổ đại sư khuôn mặt vốn dĩ mỉm cười, dưới ánh đèn đầu nhìn thấy khuôn mặt Kiều Phong đột nhiên sắc mặt đại biến, đứng phắt dậy, run run nói:

- Ngươi ... ngươi ... thì ra là ngươi, ngươi là Kiều Phong đấy sao, chính tay ta ... ta dạy được đứa học trò giỏi thật?

Vẻ mặt ông vừa kinh ngạc lại vừa thống khổ, lại dường như chen lẫn thương xót và tiếc nuối. Kiều Phong thấy sư phụ thần sắc lạ lùng, trong lòng hết sức khủng khiếp nói:

- Sư phụ, hài nhi chính là Kiều Phong đây.

Huyền Khổ đại sư nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm!

Ông liên tiếp nói ba câu “Hay lắm” mà không nói gì thêm nữa. Kiều Phong không dám hỏi thêm, lặng yên đợi ông giáo huấn sai bảo thêm điều gì, ngờ đâu đợi một hồi lâu, Huyền Khổ đại sư thủy chung không nói thêm lời nào nữa. Kiều Phong nhìn lại khuôn mặt sư phụ, thấy các bắp thịt ông đã cứng đờ không chuyển động, vẻ mặt trước sau vẫn nguyên như thế không đổi chút nào, không khỏi kinh hoảng nhảy dựng lên, giơ tay sờ vào bàn tay ông cảm thấy hơi lạnh, vội vàng thăm lại hơi thở, hóa ra khí đã tuyệt từ bao giờ.

datlucky_way

23-07-2009 08:19 AM

Hồi 18(b) : HỒ HÁN ÂN CỪU TU KHUYNH ANH HÙNG LỆ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ai chia kẻ Hán người Hồ,

Bên Nam bên Bắc oán thù triền miên.

Anh hùng gặp cảnh đảo điên,

Nuốt cay ngậm đắng biết nghiêng bên nào?

*

* *

Biến cố đó khiến Kiều Phong há hốc mồm, mắt mở trừng trừng, trong đầu hết sức hỗn loạn: “Sư phụ vừa trông thấy ta liền sợ hãi đến chết là sao? Không thể như thế được, ta có điều gì đáng sợ đâu? Có lẽ ông sớm đã bị thương rồi”. Thế nhưng ông không dám tra xét thân thể nhà sư.

Ông cố gắng định thần, trong bụng đã quyết: “Nếu như lúc này ta lẳng lặng trốn đi thì đâu có phải là bản sắc của một Kiều Phong hảo hán hiên ngang này? Việc ngày hôm nay dẫu có nguy hiểm vạn phần cũng phải tra xét cho ra nguồn cội mới xong”. Ông đi ra khỏi nhà, lớn tiếng kêu lên:

- Phương trượng đại sư, Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi, Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi.

Hai câu đó truyền đi thật xa, sơn cốc vang vang tất cả chùa ai cũng nghe thấy. Tiếng kêu tuy hùng hồn nhưng cũng thật là thống khổ. Huyền Từ phương trượng cùng cả bọn chưa về đến nơi ở của mình, bỗng nghe tiếng gọi của Kiều Phong vội vàng quay lại, rảo bước chạy đến Chứng Đạo Viện. Chỉ thấy một hán tử cao to đứng sừng sững bên cạnh cửa, giơ tay chùi nước mắt, chúng tăng ai nấy đều ngạc nhiên. Huyền Từ chắp tay hỏi:

- Thí chủ là ai?

Ông quan tâm đến an nguy của Huyền Khổ, không đợi Kiều Phong trả lời, vội vàng xông thẳng vào phòng, thấy Huyền Khổ vẫn còn sừng sững không ngã, lại càng ngạc nhiên. Các nhà sư cùng chạy vào, cúi đầu nhắm mắt tụng niệm kinh văn.

Kiều Phong là người sau cùng đi vào, quì xuống trong lòng khấn thầm: “Sư phụ, đệ tử đến báo tin quá muộn khiến lão nhân gia đã bị độc thủ của người ta rồi. Đệ tử và kẻ gian kia cừu hận lại thêm một tầng nữa. Đệ tử dù phải gian nan đến đâu cũng nhất quyết đi kiếm kẻ kia băm vằm y ra trăm nghìn mảnh để báo thù cho ân sư”.

Huyền Từ phương trượng tụng kinh xong, quan sát Kiều Phong rồi hỏi:

- Thí chủ là ai? Người vừa lên tiếng gọi có phải là thí chủ đấy chăng?

Kiều Phong nói:

- Đệ tử Kiều Phong thấy sư phụ viên tịch không dằn nổi bi thương làm kinh động phương trượng.

Huyền Từ nghe đến tên của Kiều Phong, hoảng hốt run bắn lên, trên mặt lộ vẻ lạ lùng, chăm chăm nhìn ông một hồi mới nói:

- Thí chủ có phải ... có phải ... là tiền nhiệm bang chủ của Cái Bang đấy ư?

Kiều Phong nghe ông hỏi “tiền nhiệm bang chủ Cái Bang” nghĩ thầm: “Tin tức trên giang hồ truyền đi thật nhanh, đã biết ta không còn làm bang chủ Cái Bang nữa rồi, ắt hẳn biết nguyên do vì sao ta bị trục xuất khỏi Cái Bang”. Ông bèn đáp:

- Đúng thế!

Huyền Từ nói:

- Thí chủ vì sao đang đêm lại xông vào tệ tự? Làm sao thấy Huyền Khổ sư đệ viên tịch?

Kiều Phong trong lòng có trăm ngàn điều muốn nói nhưng nhất thời không biết phải nói gì, đành đáp:

- Huyền Khổ đại sư là thụ nghiệp ân sư của đệ tử, không biết ân sư bị thương ra sao, bị kẻ nào ra tay hạ thủ?

Huyền Từ phương trượng nghẹn ngào đáp:

- Huyền Khổ sư đệ bị người ta đánh trộm, trên ngực trúng trọng thủ một chưởng, gân cốt đứt hết rồi, ngũ tạng cũng nát bấy, chỉ nhờ nội công thâm hậu nên mới gượng được đến bây giờ. Chúng ta hỏi y địch nhân là ai, y bảo hoàn toàn không quen biết, lại hỏi hung thủ hình dáng tuổi tác ra sao, y nói đến thất khổ của nhà Phật, trong đó “oán tăng hội” là một trong những điều khổ nên gặp phải oan gia đối đầu thành ra có dịp giải thoát nên hình dáng hung thủ nhất định không nói ra.

Kiều Phong chợt hiểu ra: “Thì ra chúng tăng đã biết sư phụ bị trọng thương rồi, niệm Phật tụng kinh chính là để tiễn người về cõi Tây phương”. Ông nghẹn ngào nói:

- Các vị cao tăng bụng dạ từ bi không nhớ đến oán thù. Đệ tử là kẻ tục gia, thể nào cũng bắt kẻ gian kia chặt y ra muôn ngàn nhát để báo thù cho ân sư. Quí tự cửa ngỏ thâm nghiêm, không biết hung thủ lẻn vào lối nào?

Huyền Từ trầm ngâm chưa trả lời thì một lão tăng thân thể bé nhỏ đột nhiên cười khẩy nói:

- Thí chủ lẻn vào chùa Thiếu Lâm, chúng ta cũng chẳng ngăn trở phát giác được, hung thủ kia dĩ nhiên cũng muốn đến thì đến, muốn đi thì đi khác nào vào chỗ không người.

Kiều Phong khom lưng vòng tay nói:

- Đệ tử vì việc khẩn bách, không kịp ở ngoài sơn môn thông tri cầu kiến, quả là thất lễ, khẩn khoản xin chư vị sư phụ tha thứ cho. Đệ tử và phái Thiếu Lâm uyên nguyên thực sâu xa, quyết không dám khinh hốt mạo phạm chút nào.

Câu sau cùng của ông có ý muốn nói nếu như phái Thiếu Lâm bị mất mặt thì chính mình cũng xấu lây, trong bụng biết rằng việc mình lẻn vào hậu viện chùa Thiếu Lâm đến khi hô hoán người khác mới biết, nếu như việc này truyền ra ngoài thì tiếng tăm phái Thiếu Lâm bị tổn thương rất lớn.

Ngay lúc đó, một chú tiểu bưng một bát thuốc còn bốc hơi nghi ngút đi vào phòng, nói với thi thể Huyền Khổ:

- Sư phụ, xin dùng thuốc.

Y chính là sa di phục thị Huyền Khổ vừa ở Dược Vương Viện sắc một thang thuốc trị thương Cửu Chuyển Hồi Xuân Thang đem đến cho sư phụ . Y thấy Huyền Khổ đứng sừng sững không ngã nên không biết ông đã chết rồi. Kiều Phong trong lòng buồn khổ, nghẹn ngào nói:

- Sư phụ đã ...

Chú tiểu kia quay lại nhìn ông, đột nhiên rú lên:

- Chính ngươi! Ngươi ... ngươi lại đến!

Chỉ nghe choang một tiếng, bát thuốc trong tay rơi xuống đất vỡ tung tóe, thuốc lẫn mảnh bát văng ra tứ tung. Chú tiểu nhảy lùi về sau hai bước, nép vào một góc tường, la hoảng:

- Chính y, đả thương sư phụ chính là y.

Y vừa kêu lên thế mọi người ai nấy đều kinh hoàng. Kiều Phong lại càng kinh sợ, lốn tiếng nói:

- Ngươi nói gì?

Chú tiểu kia chỉ chừng mười hai mười ba tuổi, trông thấy Kiều Phong cực kỳ sợ hãi, trốn ở sau lưng phương trượng Huyền Từ, bíu lấy tay áo ông, kêu lên:

- Phương trượng, phương trượng!

Huyền Từ nói:

- Thanh Tùng, không việc gì phải sợ, cứ nói ra đi, có phải y là người đả thương sư phụ không?

Chú tiểu Thanh Tùng đáp:

- Chính y, y dùng chưởng đánh vào ngực sư phụ, con ở ngoài cửa sổ trông rõ ràng. Sư phụ, sao sư phụ không đánh trả y đi.

Cho đền giờ phút này, y vẫn chưa biết Huyền Khổ đã viên tịch rồi. Huyền Từ phương trượng nói:

- Ngươi nhìn cho kỹ, đừng nhận lầm người khác.

Thanh Tùng đáp:

- Con nhìn thấy thật rõ ràng, y mặc áo màu tro, mặt vuông, lông mày xếch lên, miệng to tai lớn, chính là y. Sư phụ đánh lại y đi.

Một luồng hơi lạnh chạy dọc theo xương sống Kiều Phong, nghĩ thầm: “Đúng rồi, hung thủ đã cải trang giống hệt ta để giá họa cho mình. Sư phụ nghe nói ta trở về, vốn dĩ cực kỳ hoan hỉ, thế nhưng vừa thấy mặt ta, thấy ta giống hệt kẻ đã đả thương mình thành ra mới nói: “ ... thì ra là ngươi, ngươi là Kiều Phong đấy sao, chính tay ta ... ta dạy được đứa học trò giỏi thật”. Sư phụ cùng ta hơn mười năm qua không gặp lại, ta từ một đứa trẻ đã thành người lớn rồi, tướng mạo không còn như xưa nữa. Ông nghĩ đến Huyền Khổ đại sư trước khi chết liên tiếp ba lần nói câu “Hay lắm!”, lòng đau như dao cắt: “Sư phụ trúng phải trọng thủ của người rồi nhưng cũng không biết kẻ địch là ai, đến khi gặp ta, nhận ra hung thủ và ta tướng mạo tương đồng, cực kỳ buồn thảm nên đau lòng mà chết. Sư phụ bị trọng thương đáng ra chưa chết đâu có nghĩ được rằng nếu đúng là ta ra tay hạ thủ sao lại còn đến gặp ông làm gì”.

Bỗng nghe tiếng người lao xao rồi một đám người rảo bước chạy đến trước Chứng Đạo Viện thì ngừng lại. Hai nhà sư khom lưng cung kính tiến vào, chính là nhị tăng trì giới, thủ luật đã từng giao chiến với Kiều Phong ở chân núi Thiếu Thất. Trì giới tăng chỉ mới nói được một câu:

- Bẩm cáo phương trượng ...

Y trông thấy Kiều Phong, vẻ mặt tỏ ra phẫn nộ và kinh ngạc, không hiểu sao ông đã tới đây từ bao giờ. Tất cả những nhà sư khác cũng hầm hầm, chăm chăm nhìn Kiều Phong. Huyền Từ phương trượng thần sắc trang nghiêm, chậm rãi nói:

- Thí chủ tuy không còn ở trong Cái Bang nữa nhưng cũng là một nhân vật thành danh trong võ lâm. Hôm nay giá lâm tệ tự, không hiểu vì cớ gì ra tay đánh chết Huyền Khổ sư đệ, mong được chỉ giáo.

Kiều Phong thở dài một tiếng, phục xuống vái lạy thi thể Huyền Khổ nói:

- Sư phụ, lúc sư phụ lâm chung cũng còn bảo rằng đệ tử ra tay hại thầy để phải nuốt hận mà viên tịch. Đệ tử tuy vạn vạn lần không dám mạo phạm sư phụ nhưng gian nhân gia hại thầy cũng vì đệ tử mà ra. Hôm nay đệ tử dẫu có chết để ta ân sư cũng không có gì ân hận thế nhưng từ nay đại cừu của sư phụ không ai trả thù. Đệ tử phạm vào tôn nghiêm của chùa Thiếu Lâm, xin sư phụ tha thứ cho.

Chỉ nghe hù hù hai tiếng, ông thổi ra hai hơi thật dài. Hai chén đèn dầu trong điện lập tức tắt ngúm, căn phòng tối đen như mực. Kiều Phong khi khấn nguyện đã tính toán kế sách thoát thân. Ông vừa thổi tắt đèn, tay trái liền tung chưởng đánh vào sau lưng thủ luật tăng, chưởng đó toàn dùng lực âm nhu không làm tổn thương nội tạng của y nhưng lại đẩy thân hình cao to của y bay tung ra khỏi cửa.

Trong bóng đêm các nhà sư thấy có tiếng gió, đều nghĩ rằng Kiều Phong chạy ra khỏi cửa nên liền dùng cầm nã thủ pháp, chộp luôn vào người thủ luật tăng. Các nhà sư ai nấy đều định bụng không muốn dùng trọng thủ giết chết Kiều Phong, chỉ định bắt ông lại tra hỏi thêm ông giết chết Huyền Khổ đại sư là cớ gì. Hơn chục cao tăng đó đều là nhất lưu hảo thủ của chùa Thiếu Lâm, mà đã là hạng nhất của chùa Thiếu Lâm thì cũng là hạng nhất trong võ lâm.

Cầm nã thủ của mỗi người không giống nhau, người nào cũng có chỗ độc đáo. Chỉ trong cùng một lúc, Cầm Long Thủ, Ưng Trảo Thủ, Hổ Trảo Công, Kim Cương Chỉ, Ác Thạch Chưởng ... các loại cầm nã tối cao minh của phái Thiếu Lâm đều chộp lên người thủ luật tăng.

Các nhà sư võ công quả là cao cường, trong đêm tối chỉ nghe tiếng gió mà vẫn không sai một li. Gã thủ luật tăng phen này chịu đủ mọi loại khổ sở, chỉ trong phút chốc các yếu huyệt toàn thân đều trúng cầm nã thủ pháp, thân thể lơ lửng trên không mà miệng không nói ra được lời nào, kinh lịch đó từ cổ tới nay chắc chưa ai từng phải chịu bao giờ.

Những cao tăng đó lịch duyệt rất nhiều, phương cách ứng biến cực kỳ chính xác, lập tức có mấy người nhảy lên, đứng chặn giữ trên mái nhà. Các cửa trước cửa sau của Chứng Đạo Viện luôn các ngõ ngách, các nơi hiểm yếu trong giây lát đều có cao thủ án ngữ. Không nói gì Kiều Phong thân thể cao to, dẫu ông có biến thành con chồn con cáo cũng chẳng làm sao thoát nổi.

Chú tiểu Thanh Tùng vội lấy hỏa đao, hỏa thạch châm mấy ngọn đèn dầu trong phòng, mọi người mới hay mình đã bắt nhầm thủ luật tăng. Thủ tọa Đạt Ma Viện_ là Huyền Nạn đại sư liền truyền hiệu lệnh, tất cả các tăng lữ ai nấy ở nguyên vị trí không được loạn động. Quần tăng đều nghĩ thầm, Kiều Phong dẫu có lớn mật cũng không dám một thân một mình xông vào một nơi đầm rồng hang hổ như chùa Thiếu Lâm để giết người, thể nào cũng có cường viện, ắt hẳn sẽ thừa cơ thi hành âm mưu khiến có thể trúng kế điệu hổ ly sơn.

Hơn chục cao tăng trong Chứng Đạo Viện cùng số tăng chúng do trì giới tăng dẫn đến liền chia ra tra xét những khu lân cận Chứng Đạo Viện, tưởng như mọi tảng đá cũng đều lật lên, tàn cây bụi cỏ nào cũng có người dùng côn đập vào. Tuy các nhà sư ai nấy bụng dạ từ bi, lại có đức hiếu sinh nhưng việc đó cũng khiến vô khối cóc nhái, chuột chù, châu chấu, kiến ong bị chết oan rất nhiều.

Lục soát hơn một giờ sau, chỉ còn thiếu cuốc cả đất lên tìm nhưng nào có thấy Kiều Phong đâu? Mọi người ai nấy tặc lưỡi luôn mồm, thật là kỳ quái, có người buột mồm chửi rủa mấy câu, khiến cho điều “ác ngữ” trong mười điều giới của nhà Phật không sao giữ được. Lúc đó mới khiêng di thể Huyền Khổ đại sư vào Xá Lợi Viện để thiêu, còn thủ luật tăng thì đưa xuống Dược Vương Viện điều trị. Quần tăng ủ rũ lặng thinh ai nấy đều cảm thấy kỳ này chùa Thiếu Lâm quả là mất mặt. Chùa Thiếu Lâm cao thủ đông như kiến, lại có cả mươi vị cao tăng võ công thanh vọng hơn người, người nào trong võ lâm tên tuổi cũng đều vang dội, vậy mà để cho Kiều Phong tay không vào ra như chỗ không người, chẳng nói gì việc giết hay bắt được ông ta, đến đào tẩu cách nào cũng chẳng ai đoán ra được.

Thì ra Kiều Phong đã liệu rằng một khi biến cố xảy ra, các nhà sư sẽ chạy ra truy tìm tứ phía, còn ngay ở trong nhà thì lại lơ là. Do đó khi ông vừa đánh bật thủ luật tăng đi rồi, lập tức co người lại, chui tọt xuống dưới gầm giường nơi Huyền Khổ đại sư vẫn thường nằm, mười ngón tay bấu lên các thang giường, thân hình ép sát vào dưới đáy. Mặc dầu cũng có người cúi xuống xét qua dưới gầm giường nhưng làm sao thấy ông ta được. Đến khi pháp thể của Huyền Khổ đưa đi rồi, chấp sự tăng liền đóng cửa Chứng Đạo Viện lại không cho ai vào nữa.

Kiều Phong nằm dưới gầm giường tai nghe tiếng các nhà sư xục xạo một hồi lâu rồi tiếng người lặng dần, nghĩ thầm: “Đợi đến khi trời sáng thì thoát thân không phải là dễ, lúc này không chạy đi thì còn lúc nào?”. Từ dưới gầm giường ông len lén chui ra, đẩy cửa phòng, chuyển thân nấp đằng sau gốc cây.

Ông nghĩ bụng mặc dù tiếng người đã yên nhưng tăng chúng chùa Thiếu Lâm chưa thể nào bỏ cuộc mà lơ là phòng bị. Chứng Đạo Viện ở tại phía cực tây của chùa Thiếu Lâm, nếu chạy về hướng tây sẽ vào ngay trong núi. Một khi đã ra khỏi chùa Thiếu Lâm rồi, các nhà sư sẽ phải trải rộng ra, dẫu có gặp nhau thì cũng không thể nào ngăn chặn ông được. Thế nhưng ông không muốn động thủ với các nhà sư Thiếu Lâm, chỉ mong sau này bắt được hung thủ, dẫn đến chùa nói cho rõ đầu đuôi. Hôm nay nếu như giao đấu với thêm một nhà sư, thì lại kết thêm một mối oán thù, giả sử như mình lỡ tay đánh người bị thương hoặc chết thì lại thêm một mối lo.

Ông mất tăm mất tích ở phía tây chùa, quần tăng ắt sẽ canh chừng nghiêm mật các đường nẻo thông qua núi về hướng tây. Ông suy tính một chút, nghĩ bụng cách ổn thỏa nhất là đi ngược lại về hướng đông xuyên qua chùa mà ra.

Nghĩ vậy ông bèn khom người lần theo các gốc cây che cho mình, qua bốn tòa viện xá, nấp dưới gốc một cây bồ đề, bỗng thấy đằng sau một cái cây ở trước mặt có hai nhà sư nằm phục nơi đó. Hai nhà sư đó không nhúc nhích chút nào, trong bóng đêm thật khó mà phát giác, có điều ông nhãn quang sắc bén nên nhìn thấy ánh sáng lấp lánh của thanh giới đao một nhà sư cầm trong tay, nghĩ thầm: “Nguy hiểm thực! Nếu như ta cốt chạy cho nhanh, hành tàng thể nào cũng bại lộ”. Ông ngồi chờ ở phía sau gốc cây thêm một lát, hai nhà sư kia vẫn không động đậy, cái kế “ôm cây đợi thỏ, há miệng chờ sung” kia quả là ghê gớm, nếu như mình chỉ hơi cử động là bị hai người đó nhìn thấy ngay nhưng cũng không thể nào cứ ngồi đó mãi.

Ông hơi trầm ngâm, nhặt một viên đá nhỏ, giơ ngón tay búng ra. Kình lực ông sử dụng thật khéo, lúc đầu thì chậm nhưng sau thì nhanh, lúc mới bắn ra không có chút thanh âm nào nhưng được bảy tám trượng rồi mới rít lên thật mạnh, lao thẳng vào gốc cây nghe cạch một tiếng gây ra một tiếng động lạ.

Hai nhà sư kia vội khom lưng chạy tới. Kiều Phong đợi cho hai nhà sư đó qua khỏi mình rồi mới tung mình nhảy lên, lẻn luôn vào căn nhà ở bên cạnh, dưới ánh trăng nhìn rõ biển ngạch viết ba chữ Bồ Đề Viện. Ông biết rằng hai nhà sư kia không thấy gì khác lạ thể nào cũng quay trở về, thành thử không ngừng mà lại chạy thẳng ra phía sau, xuyên qua tiền đường chạy vào hậu điện.

Chỉ trong chớp mắt đã thấy một bóng người cao lớn nhanh nhẹn dị thường ở phía sau chạy vụt qua, thân pháp trên đời ít gặp. Kiều Phong kinh hãi nghĩ thầm: “Hảo thân thủ, người đó là ai đây?’. Ông thu chưởng về hộ vệ thân thể, quay đầu nhìn lại, không khỏi bật cười, thấy trước mặt là một đại hán giơ một tay lên thủ thế, khom người nép mình, giữ miếng đằng trước mặt, khí thế trịnh trọng như hòn núi. Thì ra trước mặt pho tượng trong hậu điện là một chiếc bình phong, trên tấm bình phong có gắn một chiếc gương đồng cực lớn, chùi sáng bóng lộn, tấm kính chiếu rõ thân mình, trên tấm gương có khắc bốn hàng kinh, trước tượng Phật là hai ngọn đèn dầu, dưới ánh sáng lờ mờ vẫn còn đọc được:

Nhất thiết hữu vi pháp,

Như mộng huyễn bào ảnh.

Như lộ diệc như điện,

Đương tác như thị quan._

Những gì có tướng có hình,

Khác gì bóng nước phập phồng chơi vơi.

Mong manh hạt móc giữa trời,

Thấy kia thoắt đó đã rời thế gian.

Kiều Phong mỉm cười quay đầu lại, đang toan cất bước, bỗng dưng tưởng như bị ai đánh mạnh vào đầu, lập tức ngẩn ngơ, chỉ trong một chớp mắt ông dường như nghĩ đến một việc cực kỳ trọng yếu nhưng việc đó là việc gì thì mơ mơ hồ hồ không tìm ra.

Ngẩn người ra một lát, vô ý lại nhìn vào trong chiếc gương đồng, thấy bóng sau lưng của mình mới chợt tỉnh ngộ: “Mới rồi ta vừa nhìn thấy bóng sau lưng mình vậy là ở đâu ra? Ta cũng chưa từng thấy chiếc gương nào lớn đến thế này thì cách nào mà lại nhìn thấy bóng sau lưng mình được?”. Ông còn đang xuất thần bỗng nghe bên ngoài có tiếng chân người, vài người đi vào trong điện.

Còn đang hoang mang chưa biết trốn chỗ nào, thấy trên bàn thờ có ba pho tượng Phật, vội vàng lẻn lên nép vào sau lưng pho tượng thứ ba. Nghe tiếng chân cả thảy sáu người, chia thành hai hàng, song song đi vào hậu điện mỗi người ngồi trên một chiếc bồ đoàn. Kiều Phong từ sau pho tượng nhìn ra, thấy cả sáu nhà sư đều tuổi trung niên, nghĩ thầm: “Nếu như lúc này mình lẻn ra ngoài hậu điện, sáu nhà sư võ công chỉ bình thường thì không thể nào biết được, thế nhưng nếu chỉ có một người nội công cao thâm, mắt tinh tai thính thì sẽ phát giác ngay. Chi bằng chờ đây thêm một chút nữa rồi hãy tính”. 

Bỗng nghe nhà sư đầu tiên mé phải nói:

- Sư huynh, Bồ Đề Viện trống không như thế sao lại có kinh thư là thế nào? Sao sư phụ lại sai chúng ta đến trông chừng đề phòng địch nhân đến ăn trộm?

Nhà sư bên trái mỉm cười nói:

- Đây là chỗ bí mật của Bồ Đề Viện, không nên nói nhiều.

Nhà sư bên phải lại tiếp:

- Hừ, tiểu đệ xem chừng sư huynh cũng không biết nốt.

Nhà sư phía bên phải bị khích chịu không nổi bèn nói:

- Ta không biết thật chăng? “Nhất mộng như thị” ...

Y mới nói nửa chừng chợt nhớ phải cảnh giác lập tức ngưng bặt. Nhà sư bên phải lại hỏi:

- Cái gì mà lại “nhất mộng như thị”?

Nhà sư ngồi hàng thứ hai liền nói:

- Chỉ Thanh sư đệ, bình thời ngươi đâu có lắm mồm lắm miệng, sao hôm nay lại cứ nhì nhằng hỏi mãi thế? Nếu ngươi muốn biết bí mật của Bồ Đề Viện sao không đi hỏi sư phụ của ngươi đi?

Nhà sư tên Chỉ Thanh kia không dám hỏi thêm nữa, một lát sau mới nói:

- Để tôi ra sau đi giải một chút.

Y nói xong liền đứng lên. Y từ phía phải đi về phía cửa hông bên trái, vừa đến sau lưng người thứ năm, đột nhiên giơ chân phải lên, đá trúng ngay huyệt Huyền Khu ở sau lưng. Huyệt Huyền Khu ở vào vị trí bên dưới đốt xương sống thứ mười ba. Nhà sư đó đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, huyệt Huyền Khu nằm ngay sát mép chiếu, bị đầu ngón chân của Chỉ Thanh đá trúng, thân hình liền từ từ ngã xuống bên phải. Gã Chỉ Thanh kia ra tay thật nhanh, lại nhẹ nhàng không có chút động tịnh gì, tiếp theo liền đá vào huyệt Huyền Khu của nhà sư thứ tư, rồi kế đó nhà sư thứ ba, chỉ trong nháy mắt đã đánh ngã liền ba người.

Kiều Phong ngồi đằng sau tượng Phật nhìn thấy rõ ràng, trong bụng kỳ lạ, không hiểu vì lý do gì mà nhà sư kia lại giở trò tấn công đồng bọn. Lại thấy gã Chỉ Thanh giơ chân lên đá vào nhà sư thứ hai ở bên trái, đầu mũi chân vừa đụng vào huyệt đạo y thì hai trong số ba nhà sư bị điểm huyệt liền từ bồ đoàn ngã lăn ra, đầu đụng vào gạch lát trên điện nghe lịch bịch. Nhà sư bên trái giật mình, vội đứng bật dậy xem thế nào, vừa kịp thấy Chỉ Thanh giơ chân đá ngã người ngồi bên hữu, lại càng kinh hãi quát lên:

- Chỉ Thanh, ngươi làm gì thế?

Chỉ Thanh giơ tay chỉ ra ngoài nói:

- Xem kìa, ai đến thế kia?

Nhà sư kia quay đầu nhìn ra, Chỉ Thanh liền tung chân bên phải, đá mạnh vào sau lưng y. Cú đá đó cực kỳ nhanh, thể nào cũng trúng mới phải, thế nhưng chiếc gương đồng ở phía trước chiếu rõ ràng ngón đòn đánh lén kia, nhà sư liền nghiêng người tránh qua, đánh trả lại một chưởng, kêu lên:

- Ngươi có điên không?

Chỉ Thanh xuất chưởng nhanh như gió, đấu đến chiêu thứ tám thì nhà sư kia bị trúng một quyền vào bụng dưới, tiếp theo lại bị bồi thêm một cú đá. Kiều Phong thấy Chỉ Thanh ra chiêu âm nhu độc địa, xem chừng không phải gia số của phái Thiếu Lâm, trong lòng càng thêm lạ lùng.

Nhà sư kia biết mình không địch lại, vội kêu lên:

- Có gian tế, có gian tế ...

Chỉ Thanh nhảy vụt tới, tả quyền đấm luôn vào ngực y, nhà sư đó lập tức lăn ra bất tỉnh. Chỉ Thanh vội chạy tới trước chiếc gương đồng, giơ ngón tay trỏ bên phải, vặn vào chữ “nhất” ở hàng kinh văn đầu tiên một cái. Kiều Phong lại thấy y mò xuống xoay chữ “mộng” ở hàng thứ hai, nghĩ thầm: “Nhà sư kia nói bí mật là “nhất mộng như thị”, nhưng trên tấm gương có đến bốn chữ như, không biết y xoay chữ như nào?”.

Chỉ thấy Chỉ Thanh giơ ngón tay vặn chữ “như ” đầu tiên ở hàng thứ ba, rồi tiếp theo vặn chữ “thị” ở hàng thứ tư. Tay y chưa rời khỏi tấm gương đã nghe tiếng kẹt kẹt, tấm gương đồng chầm chậm ngả ra.

Nếu như lúc này Kiều Phong muốn trốn đi thì quả là dịp bằng vàng nhưng ông nổi dạ hiếu kỳ, muốn biết vì lý do gì mà nhà sư Thiếu Lâm kia lại làm hại đồng môn, sau tấm gương đồng có cái gì không chừng có thể liên quan đến việc Huyền Khổ đại sư bị hại.

Nhà sư phía bên trái khi bị Chỉ Thanh đánh ngã đã kêu toáng lên, chùa Thiếu Lâm vốn dĩ có hơn một trăm nhà sư đang đi tuần ở phía tây núi, vừa nghe tiếng vội vàng lục tục chạy đến, bốn bề đông tây nam bắc của Bồ Đề Viện chỗ nào cũng có tiếng chân rầm rập.

Kiều Phong trong bụng chần chừ: “Không thể để cho bọn họ thấy được tung tích của ta”. Thế nhưng các nhà sư đã kéo đến rồi, mọi người ai ai cũng chăm chăm nhìn Chỉ Thanh, cơ hội thoát thân vẫn còn rất nhiều, chẳng việc gì phải vội vàng đào tẩu. Ông thấy Chỉ Thanh giơ tay mò mò trong một cái lỗ hổng phía sau tấm gương nhưng không lấy được gì cả. Vừa ngay lúc đó, tiếng chân người từ phương bắc chạy đến đã ngừng ngay trước cửa Bồ Đề Viện.

Chỉ Thanh dậm chân, xem ra cực kỳ thất vọng, đang định xoay mình bỏ đi, đột nhiên khom mình thò đầu vào phía sau chiếc gương, vui mừng nói:

- Ở đây rồi!

Y giơ tay cầm lấy một chiếc bao nhỏ bỏ vào túi rồi toan tìm đường chạy, thế nhưng khi đó bốn phía đã có rất đông sư sãi bao vây, không còn đường nào nữa. Chỉ Thanh nhìn quanh quất rồi chạy ra lối cửa trước của Bồ Đề Viện. Kiều Phong nghĩ thầm: “Gã này bỏ chạy ra thể nào cũng bị bắt ngay”. Ngay lúc đó, bỗng thấy có hơi gió ập tới, có người đã xông vào chỗ ông đang ẩn mình. Kiều Phong nghe gió biện hình, tay trái vươn ra đã chộp ngay được cổ tay địch nhân, tay phải liền thò ra đè luôn vào huyệt Thần Đạo trên lưng y, nội lực nhả ra gã kia liền toàn thân mềm nhũn không còn động đậy gì được nữa.

Kiều Phong bắt được kẻ địch rồi, chăm chú nhìn kỹ tướng mạo y, tưởng ai hóa ra Chỉ Thanh. Ông ngạc nhiên một chút lập tức hiểu ra: “Thì ra là thế! Gã này cũng tính toán như ta, chui vào đằng sau tượng Phật để trốn, khéo làm sao lại đúng ngay pho tượng thứ ba, chắc là vì pho tượng này to hơn cả. Vì cớ gì lúc đầu y chạy ra cửa trước, rồi lại len lén quay trở vào đây? Ồ, dưới đất có năm nhà sư nằm đó, nếu người khác chạy vào hỏi, cả năm người đều nói là y đã chạy ra cửa trước rồi, mọi người sẽ không ai tra xét gì Bồ Đề Viện nữa. Ôi, người này quả là lắm mưu mẹo”.

Kiều Phong trong bụng nghĩ thầm không thể nào thả Chỉ Thanh ra, bèn ghé vào tai y nói nhỏ: “Nếu ngươi há mồm kêu, ta sẽ một chưởng đánh chết ngươi ngay, có biết không?”. Chỉ Thanh gật đầu.

Ngay lúc đó từ cửa cái bảy tám nhà sư chạy vào, trong đó có ba người cầm đuốc, đại điên liền sáng bừng lên. Chúng tăng nhìn thấy trong đại điện có năm nhà sư ngã lăn nơi đó, lập tức xôn xao lên:

- Gã ác tặc Kiều Phong kia lại hạ độc thủ rồi!

- Ồ, Chỉ Trầm, Chỉ Uyên sư huynh đây mà!

- Ôi chao! Không xong rồi! Chiếc gương đồng này sao bị đẩy ra? Kiều Phong ăn cắp kinh thư ở Bồ Đề Viện rồi!

- Mau mau bẩm báo phương trượng.

Kiều Phong nghe mấy người đó lao xao bàn tán, chỉ đành gượng cười: “Cái món nợ này lại đổ lên đầu ta”. Chỉ trong giây lát, số nhà sư chạy vào điện mỗi lúc một đông. Kiều Phong thấy Chỉ Thanh giãy giụa toan đào tẩu thoát thân liền rõ ngay ý định: “Lúc này quần tăng tụ tập ở trên điện, Chỉ Trầm, Chỉ Uyên cả bọn chưa tỉnh, chính là cơ hội tốt để Chỉ Thanh bỏ đi, y cứ việc tự nhiên chạy ra ngoài không ai nghi ngờ vì người nào cũng đổ riệt cho ta là hung thủ”. Ông lại lập tức nghĩ ngay: “Gã Chỉ Thanh này cũng chưa phải là tinh khôn cho lắm chứ lúc nãy y việc gì phải trốn vào đây? Y từ trong điện đi ra, đâu có ai hỏi han gì mà sợ?”.

Đột nhiên trong điện tất cả mọi người đều im bặt, không còn ai mở miệng nói một lời nào, kế đó chúng tăng đồng thanh nói:

- Tham kiến phương trượng, tham kiến thủ tọa Đạt Ma Viện, tham kiến thủ tọa Long Thụ Viện.

Chỉ nghe lốp bốp mấy tiếng nhẹ, ai đó đã xuất chưởng vỗ bọn năm nhà sư Chỉ Trầm, Chỉ Uyên tỉnh lại, rồi có người hỏi:

- Lại do Kiều Phong ra tay hay sao? Làm sao y biết được bí mật của tấm gương đồng?

Chỉ Trầm đáp:

- Không phải Kiều Phong mà là Chỉ Thanh ...

Đột nhiên y tung mình nhảy lên chửi:

- Giỏi nhỉ, vì cớ gì ngươi ra tay ám toán đồng môn?

Kiều Phong nấp ở sau lưng pho tượng không thể đoán được y đang chửi ai. Chỉ nghe tiếng một người kinh hãi kêu lên:

- Chỉ Trầm sư huynh, sao sư huynh lại nắm tôi?

Chỉ Trầm giận dữ đáp:

- Ngươi đá ngã năm người chúng ta, ăn trộm kinh thư, thật là lớn mật. Bẩm cáo phương trượng, phản tặc Chỉ Thanh lén mở đồng kính trong Bồ Đề Viện ăn trộm kinh thư dấu trong đó.

Người kia kêu lên:

- Cái gì? Cái gì? Tôi từ nãy vẫn ở bên cạnh phương trượng, làm sao có thể ăn trộm kinh được?

Một giọng nói già nua khàn khàn nói:

- Hãy đóng chiếc gương đồng lại đã rồi kể lại tình hình xem ra thế nào?

Chỉ Uyên đến đóng chiếc gương lại như cũ. Nhờ thế tình hình quần tăng trên điện thế nào Kiều Phong đều nhìn trong tấm đồng kính thật rõ ràng thấy một nhà sư hoa chân múa tay, cực kỳ khích động. Kiều Phong đưa mắt nhìn y không khỏi hoảng hốt giật mình, thì ra người đó chính là Chỉ Thanh. Kiều Phong ngạc nhiên quay đầu nhìn lại nhà sư bị ông bắt được ngồi bên cạnh thấy tướng mạo so với người ở dưới kia không khác một mảy, nhìn kỹ lắm cũng chỉ thấy khác đôi chút, thế nhưng chỉ thoạt nhìn qua thì không thể nào phân biệt được. Kiều Phong nghĩ thầm: “Trên đời này người có hình dáng giống nhau như thế quả là hiếm có. Đúng rồi, chắc hai người là anh em sinh đôi. Mẹo này thật hay, một người xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, một người ở ngoài chờ đợi, đợi đúng thời cơ liền ăn mặc giả làm sư vào ăn trộm kinh. Gã Chỉ Thanh kia nếu như một bước không rời phương trượng thì không ai có thể nghi y được”.

Chỉ nghe Chỉ Trầm kể lại Chỉ Thanh làm cách nào thám thính được bí mật của chiếc gương đồng, mình vô ý nói hớ bốn chữ ra sao, Chỉ Thanh giả bộ ra ngoài đi tiểu rồi lén tấn công bốn người, sau đó động thủ đánh ngã mình. Trong khi Chỉ Trầm kể chuyện, bọn bốn người Chỉ Uyên liên tiếp phụ họa, chứng thực lời của y không sai chút nào.

Huyền Từ phương trượng từ đầu chí cuối thần sắc vẫn thản nhiên, đợi cho Chỉ Trầm nói xong mới chậm rãi hỏi lại:

- Ngươi nhìn rõ chứ? Quả đúng là Chỉ Thanh chăng?

Chỉ Trầm và cả bọn Chỉ Uyên cùng đáp:

- Bẩm cáo phương trượng, chúng đệ tử và Chỉ Thanh không thù không oán lẽ nào lại vu hãm cho y?

Huyền Từ thở dài:

- Chuyện này xem ra có gì khác lạ, Chỉ Thanh vốn dĩ ở bên cạnh ta không hề rời xa, cà thủ tọa Đạt Ma Viện cũng có mặt.

Phương trượng nói ra như thế, quần tăng trên điện còn ai dám nói gì hơn. Thủ tọa Đạt Ma Viện là Huyền Nạn đại sư cũng nói:

- Chính thị, ta cũng thấy Chỉ Thanh hầu hạ phương trượng sư huynh, làm sao y có thể đến Bồ Đề Viện để trộm kinh được?

Thủ tọa Long Thụ Viện Huyền Tịch liền hỏi:

- Chỉ Trầm, gã Chỉ Thanh kia khi động thủ quá chiêu với ngươi, quyền cước có điểm gì khác lạ chăng?

Giọng ông ta đúng là người già nua khàn khàn khi nãy. Chỉ Trầm kêu lên một tiếng đáp:

- Đúng rồi! Sao đệ tử lại không nghĩ ra? Gã Chỉ Thanh kia động thủ cùng đệ tử, sử dụng không phải võ công bản môn.

Huyền Tịch nói:

- Thế thì công phu của môn nào phái nào, ngươi có nhìn ra chăng?

Ông thấy Chỉ Trầm nét mặt hoang mang, không sao trả lời được, bèn hỏi thêm:

- Có phải trường quyền chăng? Hay là đánh nhập nội? Cầm nã thủ? Hay là Địa Đường, Lục Hợp, Thông Tí?

Chỉ Trầm đáp:

- Y ... y sử dụng công phu cực kỳ âm độc, mấy lần đệ tử bị trúng đòn của y.

Huyền Tịch, Huyền Nạn cùng mấy vị lão tăng vai vế cực cao đưa mắt nhìn phương trượng, ai nấy nghĩ thầm trong chùa hôm nay gặp phải những đối thủ bản lãnh cực kỳ cao siêu, giở trò đùa cợt, khiến cho ai nấy như chìm vào trong đám sương mù, kế sách trước mắt là cố làm sao tra xét cho ra, đồng thời gặp đâu hay đó thấy chuyện quái lạ đừng hoảng hốt nếu không tăng chúng trong chùa sẽ lo sợ kinh hoàng, e rằng họa hoạn không thể nào giải quyết được.

Huyền Từ chắp hai tay nói:

- Kinh thư cất dấu trong Bồ Đề Viện, là Đại Thừa kinh luận do cao tăng tiền bối viết ra để xiển dương Phật pháp, độ hóa thế nhân, nếu là đệ tử Phật môn lấy được, niệm tụng nghiên cứu dĩ nhiên có ích rất nhiều. Còn như kẻ thế tục lấy được không tôn trọng thì tội họa không phải là nhỏ. Các vị sư đệ, sư điệt, mọi người trở về bản viện nghỉ ngơi đi, những người có chức vụ thì ai làm việc nấy.

Quần tăng nghe lời đi ra, chỉ còn bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên vẫn cùng Chỉ Thanh cãi lẫy ỏm tỏi. Huyền Tịch trừng mắt nhìn họ khiến ai nấy hoảng hồn, không còn dám hó hé gì nữa, cùng Chỉ Thanh đi ra.

Tất cả đi hết rồi, trong điện chỉ còn lại Huyền Từ, Huyền Nạn, Huyền Tịch ba người ngồi ở trên bồ đoàn ngay trước tượng Phật. Huyền Từ đột nhiên cất lên:

- A Di Đà Phật, tội nghiệp thay, tội nghiệp thay!

Mấy tiếng đó vừa xong, ba nhà sư phi thân nhảy lên, lòn ra phía sau tượng Phật, từ ba phương vị khác nhau xuất chưởng đánh vào Kiều Phong. Kiều Phong không ngờ ba nhà sư đã nhìn vào tấm gương đồng phát hiện tung tích của mình, lại càng không nghĩ đến ba lão tăng già cả lụ khụ chưa nói gì đã xông lên đánh liền, xuất chưởng uy mãnh nhanh nhẹn đến thế. Chỉ chớp mắt ông thấy khó thở, ngực như bị đè, ba vị cao tăng Thiếu Lâm hợp kích quả là ghê gớm. Ông không còn phân biệt được phương hướng của chưởng lực từ đâu tới, chỉ thấy trái phải trên dưới trước sau chỗ nào cũng bị chưởng lực của ba nhà sư bao trùm, muốn xông ra chỉ còn một cách là dùng ngạnh công, nếu không đả thương được đối phương ắt là mình sẽ bị thương. Ông không kịp suy nghĩ, đành vận sức vào song chưởng đẩy ra đằng trước, nghe lách cách một tiếng lớn, pho tượng Phật đã bị đẩy ngã. Kiều Phong thuận tay xách luôn Chỉ Thanh, tung mình nhảy tới, bỗng cẩm thấy sau lưng kình phong lợi hại, chưởng lực chưa đến thì hơi gió đã tới rồi.

Kiều Phong không muốn đối chưởng đấu sức với các nhà sư Thiếu Lâm, tay phải liền chộp lấy tấm bình phong trên có gắn tấm gương đồng, xoay tay lật ngược lại, dùng chiếc bình phong như lá chắn che sau lưng, chỉ nghe choang một tiếng lớn, một chưởng của Huyền Nạn đã đánh trúng tấm đồng kính, chấn động khiến cánh tay Kiều Phong ngâm ngẩm tê, bình phong chung quanh tấm gương vỡ thành mấy mảnh.

Kiều Phong mượn luôn sức chưởng của Huyền Nạn nhảy vọt đến hơn một trượng về phía trước, bỗng thấy sau lưng có người hít một hơi dài, thanh âm không phải tầm thường. Kiều Phong biết ngay một nhà sư Thiếu Lâm sắp sử dụng một loại võ công giống như Phách Không Thần Quyền, tuy không có gì phải sợ nhưng không muốn đấu công lực với ông ta thành thử cầm chiếc gương đồng chặn sau lưng, nội lực dẫn lên cánh tay bên phải.

Ngay lúc đó, ông cảm thấy chưởng lực của đối phương xeo xéo đánh tới, phương vị có vẻ hơi quái dị. Kiều Phong ngạc nhiên, lập tức tỉnh ngộ, nhà sư kia không đánh thẳng vào lưng ông ta, mà đánh vào hậu tâm Chỉ Thanh. Kiều Phong và Chỉ Thanh không hề quen biết, cũng chẳng có ý muốn cứu y, nhưng đã nắm y trong tay, tự nhiên nẩy ra ý muốn chiếu cố nên đẩy chiếc đồng kính ra bảo vệ cho Chỉ Thanh. Chỉ nghe bộp một tiếng, thanh âm tắt ngúm thì ra chiếc gương đồng đã bị chưởng lực của Huyền Nạn đánh nứt từ trước, bây giờ bị thêm Phách Không Chưởng của Huyền Từ thành ra vỡ nát.

Kiều Phong khi giơ chiếc gương ra sau lưng đã kịp nắm Chỉ Thanh nhảy lên mái nhà, thấy thân thể y nhẹ bỗng, so với tướng tá cao to của y không xứng chút nào nhưng tiếng vỡ vừa vang lên, ông đang đứng trên mái nhà bỗng thấy chân không vững, ngã vật trở lại. Từ khi hành tẩu giang hồ, ông chưa từng gặp phải đối thủ nào lợi hại đến thế, không khỏi hoảng hồn, lập tức quay mình nhẹ nhàng nhưng vững chãi như một hòn núi đứng xuống đất, khí độ trầm hùng tưởng chừng như không coi cường địch vây quanh vào đâu.

Huyền Từ liền nói:

- A Di Đà Phật, Kiều thí chủ, sao ông đến chùa Thiếu Lâm giết người chưa đủ lại còn làm hư hại cả tượng Phật là sao?

Huyền Tịch quát lớn:

- Nếm một chưởng của ta xem nào!

Song chưởng của ông ta từ bên ngoài đánh vòng vào, rồi từ từ đẩy vào phía Kiều Phong. Chưởng lực chưa đến, Kiều Phong đã thấy khó thở, chỉ trong khoảnh khắc chưởng lực của Huyền Tịch chẳng khác nào sóng cả ào ào đổ tới.

Kiều Phong vứt chiếc gương đồng xuống, hữu chưởng đánh trả lại một chiêu Kháng Long Hữu Hối_ trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Hai luồng chưởng lực chạm nhau, nghe ầm một tiếng, cả Huyền Tịch lẫn Kiều Phong đều phải lùi lại ba bước. Kiều Phong chấn động toàn thân thấy như không còn hơi sức, Chỉ Thanh trong tay tuột ra rơi xuống, nhưng vừa đề chân khí, lập tức tinh thần sung mãn trở lại, nên không đợi cho Huyền Tịch đánh tiếp chưởng thứ hai, kêu lên:

- Không đấu nữa!

Ông nhắc Chỉ Thanh lên, phi thân trở lên mái nhà. Huyền Nạn, Huyền Tịch cùng kêu lên một tiếng, lạ lùng vô cùng. Chưởng của Huyền Tịch vừa mới đánh ra đã tập trung hết công lực bình sinh có tên là Nhất Phách Lưỡng Tán. Sở dĩ gọi là lưỡng tán là nói về đánh vào đá, đá sẽ vỡ tan văng cả lên người, còn chính mình cũng hồn phi phách tán. Lộ chưởng pháp đó chỉ có một chiêu, chỉ vì chưởng lực quá ư hùng hồn nên khi đối địch không cần sử dụng lần thứ hai kẻ địch đã toi mạng rồi. Chưởng đó sử dụng nội lực bài sơn đảo hải làm cơ sở, dẫu có muốn biến chiêu hay thay đổi thế đánh cũng không ai làm nổi. Ngờ đâu Kiều Phong tiếp chiêu đó rồi, đã chẳng chết ngay tại đương trường mà chỉ trong một thời gian rất ngắn đã hồi sức, cầm người nhảy lên mái nhà chạy mất.

Huyền Nạn than thở:

- Võ công người này quả là giỏi thật.

Huyền Tịch nói:

- Nếu như không sớm trừ khử đi, e rằng hậu hoạn không biết đến đâu mà kể.

Huyền Nạn liên tiếp gật đầu, còn Huyền Từ nhìn theo phía Kiều Phong vừa bỏ đi, ngẩn người ra không nói năng gì.

Khi Kiều Phong bỏ đi, ông quay đầu lại nhìn tấm gương đồng bị Huyền Từ phương trượng đánh một quyền nát vụn ra thành mấy chục mảnh tứ tán dưới đất, mảnh nào cũng có bóng sau lưng ông. Kiều Phong đột nhiên thấy lòng bàng hoàng: “Vì sao mỗi lần ta nhìn thấy bóng sau lưng mình, trong bụng có điều gì bất ổn? Không biết có chuyên gì khác thường?”. Khi đó ông đang gấp gáp chuyện rời khỏi chùa Thiếu Lâm, trong đầu tuy nổi một mối nghi hoặc nhưng đang vội vã nên cũng liền quên ngay.

Đường trong núi Thiếu Thất ông rất quen thuộc, luồn xuống sau núi rồi liền kiếm những đường mòn cheo leo mà đi, chạy luôn mấy dặm không nghe tiếng các nhà sư đuổi theo, nên cũng yên dạ, bèn bỏ Chỉ Thanh xuống đất quát lớn:

- Thôi ngươi tự mình đi đi nhưng đừng nghĩ tới chuyện đào tẩu.

Ngờ đâu Chỉ Thanh chân vừa chạm đất đã nhũn ra, thân hình co quắp, tưởng chừng đã chết rồi. Kiều Phong ngạc nhiên, vội đưa tay sờ mũi y, thấy hơi thở lúc có lúc không, rất là yếu ớt liền cầm tay xem mạch thấy nhảy cũng rất chậm, xem chừng sắp chết đến nơi.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Ta trong bụng còn bao nhiêu chuyện ngờ vực đang tính hỏi ngươi, không thể để cho mi chết dễ dàng như thế được. Gã hòa thượng này lọt vào tay mình, e rằng sợ âm mưu bại lộ nên uống một loại thuốc độc cực mạnh để tự sát”.

Ông vội vàng sờ lên ngực y để xem tim còn đập hay không, bỗng thấy như sờ vào vật gì mềm mại, dường như nhà sư đó là một người đàn bà. Kiều Phong vội vàng rụt tay về, càng thấy lạ lùng hơn: “Y ... y là đàn bà giả trang ư?”. Trong đêm tối không cách nào nhìn kỹ mặt mũi y ra sao. Ông là một con người hào phóng khoát đạt, không nề tiểu tiết, không phải như Đoàn Dự mê sách giữ kẽ, có rất nhiều cố kỵ nên nắm lưng Chỉ Thanh nhắc lên, quát hỏi:

- Ngươi là đàn ông hay là đàn bà? Ngươi nếu không nói thực, ta sẽ lột hết quần áo ngươi ra xem cho rõ.

Môi Chỉ Thanh mấp máy dường như định nói gì nhưng không phát xuất được lời nào, đủ biết tính mạng đang lâm nguy chỉ còn treo trên sợi tóc. Kiều Phong nghĩ bụng: “Bất luận người này là nam hay nữ, kẻ tốt hay người xấu cũng không thể để y chết như thế này được”. Ông bèn giơ chưởng phải ra đè vào sau lưng y, dưa chân khí từ đan điền ra từ bụng lên cánh tay, từ cánh tay xuống lòng bàn tay truyền vào thân thể Chỉ Thanh, dẫu không cứu được tính mạng y thì cũng có thể hỏi y được vài điều manh mối. Một lúc sau, mạch Chỉ Thanh dần dần mạnh lên, hô hấp cũng đều trở lại. Kiều Phong thấy y nhất thời không chết nữa, trong bụng cũng đỡ lo nghĩ thầm: “Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm chưa xa không nên ở lâu”. Ông liền bồng Chỉ Thanh ngang trên hai tay, rảo bước đi về phía hướng tây bắc.

Khi đó ông mới thấy thân hình Chỉ Thanh cực kỳ nhẹ nhàng, không tương xứng với dáng dấp cao to của y chút nào, nghĩ bụng: “Ta lột quần áo y ra thì không ổn nhưng chẳng lẽ đến giày vớ y mình cũng không cởi được hay sao?”. Ông giơ tay kéo tăng hài bên phải của y, nắm vào thấy cứng ngắc không phải thịt da người, hơi kéo mạnh một cái, một vật gì đó theo tay tuột ra, hóa ra là một chiếc chân giả làm bằng gỗ. Ông thò tay mò chân Chỉ Thanh gặp ngay một bàn chân nhỏ nhắn mềm mại. Kiều Phong kêu lên một tiếng, nghĩ thầm: “Quả nhiên là một người đàn bà”.

Ông lập tức thi triển khinh công, chạy mỗi lúc một nhanh, đến khi trời tờ mờ sáng, tính ra phải cách chùa Thiếu Lâm đến hơn năm chục dặm, bèn ôm Chỉ Thanh đến một khu rừng nhỏ ở gần bên, gặp một khe suối chảy ngang liền đi đến bên dòng nước, vốc nước vỗ lên mặt Chỉ Thanh, lại dùng tay áo cà sa lau mấy cái, đột nhiên từng mảng từng mảng thịt da lả tả rơi xuống. Kiều Phong sợ đến nhảy dựng lên: “Sao da thịt cô ta lại rã nát ra thế này?”. Ông chăm chú nhìn, thấy bên dưới những mảng da lở loét, là làn da mịn màng nhẵn nhụi trắng ngần.

Chỉ Thanh được Kiều Phong ôm chạy đi vốn dĩ nửa tỉnh nửa mê, lúc này mặt bị vã nước lạnh liền mở mắt ra, nhìn thấy Kiều Phong, gượng nở một nụ cười, nói nhỏ:

- Kiều bang chủ!

Thế nhưng vì quá yếu đuối, chỉ gọi được một tiếng rồi lại nhắm mắt thiếp đi. Kiều Phong thấy khuôn mặt nàng loang loang lổ lổ, chỗ lồi chỗ lõm nhìn không ra tướng mạo thế nào, liền lấy tay áo cô ta đem nhúng xuống nước, lau mạnh lên mặt mấy cái, bao nhiêu phấn đóng trên mặt trôi đi, lộ ra khuôn mặt xinh tươi của một thiếu nữ. Kiều Phong thất thanh kêu lên:

- Hóa ra là A Châu cô nương!

Kẻ giả trang làm Chỉ Thanh lẻn vào Bồ Đề Viện chùa Thiếu Lâm chính là A Châu, thị tì của Mộ Dung Phục. Thuật dị dung cải trang của nàng quả là siêu tuyệt, dùng chân gỗ nâng cao người lên, lấy bông độn vai độn bụng, lại dùng bột mì trộn hồ đắp cho mặt phồng lên, đội tăng mạo, mặc tăng bào khiến cho những người thường ngày vẫn gặp Chỉ Thanh như bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên cũng không nhận ra nổi.

Nàng còn đang mơ mơ hồ hồ nghe Kiều Phong gọi “A Châu cô nương” đã toan đáp lời, lại muốn giải thích vì sao mình lẻn vào chùa Thiếu Lâm nhưng không còn chút lực khí nào nữa, ngay cả lưỡi cũng không còn sử dụng được nên một tiếng “Ừ” cũng nói không ra.

Lúc đầu Kiều Phong cho rằng Chỉ Thanh là kẻ gian trá hiểm độc, cái chết của cha mẹ và sư phụ mình chắc có liên quan mật thiết đến y nên đành hao phí khí lực cứu y cốt để tra xét cho rõ ngọn nguồn, trong lòng đã định bụng nếu y không nói thì sẽ dùng những độc hình khảo đả bức bách cho ra.

Ngờ đâu khi bộ mặt thật lộ ra rồi, hóa ra lại là cô nàng A Châu hình dáng ẻo lả, xinh đẹp dễ thương, quả thật dẫu nằm mơ cũng không tin nổi. Kiều Phong tuy đã từng gặp mặt A Châu, A Bích vài lần, lại cứu hai nàng từ tay các võ sĩ Tây Hạ nhưng nào có biết A Châu giỏi tài hóa trang, giá như Đoàn Dự thì chắc chàng đã đoán ra rồi.

Kiều Phong lúc này đã biết nàng không phải trúng độc, mà chỉ vì bị thương bởi chưởng lực, hơi suy nghĩ một chút đã biết được lý do, lúc trước Huyền Từ phương trượng dùng Phách Không Chưởng đánh tới, mình dùng tấm gương đồng che chở nên không trúng phải A Châu nhưng vì tay trái giơ nàng lên, chưởng lực kinh người kia cũng truyền tới cô gái. Ông nghĩ ra được chuyện đó rồi không khỏi hối hận: “Nếu ta không xen vào chuyện người khác cứ để nàng muốn đến thì đến, muốn đi thì đi thì nàng đã thoát thân rồi, không đến nỗi mắc đại nạn hôm nay”.

Ông trong bụng vốn đã coi trọng Mộ Dung Phục, nể thần nể cả cây đa, đối với người thị tì cũng lấy mắt xanh mà đãi nên nghĩ thầm: “Nàng ta sở dĩ bị trọng thương như thế này cũng chỉ vì mình mà ra. Nói gì thì nói, thể nào cũng phải tìm đến thị trấn, kiếm thầy lang chữa trị cho khỏi mới xong”. Ông bèn nói:

- A Châu cô nương, để ta bồng cô đến thị trấn trị thương.

A Châu đáp:

- Trong túi tôi có thuốc đó.

Nói xong nàng giơ tay lên nhưng không có hơi sức nào thò vào bọc. Kiều Phong lấy các đồ trong túi nàng ra, ngoại trừ một số bạc vụn, thấy có một sợi xích vàng đúc thật tinh xảo, trên sợi xích có khắc hai hàng chữ nhỏ:

Thiên thượng tinh,

Lượng tinh tinh,

Vĩnh xán lạn,

Trường an ninh.

Sao trên trời,

Sáng lấp lánh.

Vĩnh chiếu tỏa,

Mãi an ninh.

Ngoài ra còn có một hộp ngọc nhỏ màu trắng, chính là chiếc hộp Đàm công tặng nàng nơi rừng hạnh. Kiều Phong mừng thầm, biết rằng thương dược này cực kỳ linh nghiệm bèn nói:

- Cứu tính mạng cho cô là quan trọng, xin đừng trách cứ.

Ông bèn đưa tay cởi áo nàng ra lấy Băng Thiềm Cao xoa lên trên ngực. A Châu thẹn đến chín người nhưng không sao tránh né được, vết thương đau nhói lên lại ngất đi.

Kiều Phong mặc áo lại cho cô gái, bỏ chiếc hộp bạch ngọc và chiếc dây xích vàng vào túi nàng, còn số bạc vụn thì bỏ vào túi mình, đưa tay bồng cô ta lên, rảo bước đi về hướng bắc. Đi được độ hơn hai chục dặm, đến một thị trấn lớn nhà cửa sầm uất tên là Hứa Gia Tập. Kiều Phong tìm đến khách điếm lớn nhất, thuê hai phòng, lo liệu cho A Châu nằm yên rồi mới đi mời một thầy thuốc đến khám bệnh.

Thầy lang đó bắt mạch A Châu xong, liên tiếp lắc đầu nói:

- Bệnh của cô nương không có thuốc nào chữa nổi, thang thuốc này tôi cắt chỉ là làm hết sức đấy thôi.

Kiều Phong thấy toa thuốc có các vị cam thảo, bạc hà, cát cánh, ngưu hạ đều là những loại thuốc ôn hòa, đến trị đau bụng cũng không xong. Ông không đi cắt thuốc nghĩ thầm: “Nếu như linh dược của Đàm công ở Xung Tiêu Động trị cũng không được thì thuốc của một lang băm ở thị trấn này có ích lợi gì”. Nói rồi lại vận chân khí, dùng nội lực chuyển vào thân thể nàng. Chỉ trong khoảnh khắc, gò má A Châu lại hồng lên nói:

- Kiều bang chủ, may mà được ông cứu, nếu như rơi vào tay bọn giặc trọc kia thì tính mạng thiếp chắc chẳng còn.

Kiều Phong nghe nàng nói thấy trung khí sung túc rất lấy làm vui mừng:

- A Châu cô nương, ta cứ lo là cô không khỏi được.

A Châu đáp:

- Ông đừng gọi tôi là cô nương chi chi nữa, cứ gọi A Châu không cũng được rồi. Kiều bang chủ, ông tới chùa Thiếu Lâm làm gì vậy?

Kiều Phong đáp:

- Ta nào có còn làm bang chủ nữa đâu, từ rày đừng gọi là bang chủ nữa nhé.

A Châu đáp:

- Ồ, xin lỗi ông. Thôi thiếp gọi ông là Kiều đại gia.

Kiều Phong nói:

- Để ta hỏi cô trước, cô đến chùa Thiếu Lâm để làm gì?

A Châu cười đáp:

- Ồ, nói ra ông đừng cười là tiểu nữ phá quấy, thiếp nghe nói công tử chúng tôi đến chùa Thiếu Lâm nên định đi tìm, nói cho công tử biết chuyện Vương cô nương. Ngờ đâu khi vừa bước chân vào cửa, gã hòa thượng Chỉ Thanh kia đã hầm hầm hung tợn nói là đàn bà con gái không được vào chùa Thiếu Lâm. Thiếp tranh cãi với y một hồi, y lại còn mắng thiếp. Thành thử muốn vào chùa đành phải giả làm y, để xem y làm gì được nào?

Kiều Phong mỉm cười nói:

- Cô cải trang vào được chùa Thiếu Lâm mà các nhà sư không biết cô là đàn bà. Sao cô lúc vào được chùa rồi không lộ bộ mặt thật ra cho những hòa thượng đó coi, bọn họ tức đến vỡ bụng mà chết cũng không làm gì cô được.

Ông vốn đối với các nhà sư Thiếu Lâm cực kỳ tôn kính, nhưng vì nay Huyền Khổ đại sư đã chết rồi thứ nữa quần tăng không hỏi cho ra ngô ra khoai đã vu cho ông ba cái đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy, trong lòng không khỏi hậm hực.

A Châu ngồi thẳng lên, vỗ tay cười nói:

- Kiều đại gia, cái ý đó của ông hay lắm. Để khi nào tiểu nữ khỏi rồi sẽ giả làm đàn ông đi vào chùa, sau đó sẽ mặc lại thành đàn bà, nghênh ngang ngồi giữa Đại Hùng Bảo Điện, chọc cho những nhà sư kia giận đến lăn lộn dưới đất, thế mới thật là thích! A ...

Nàng hơi không đủ, thân hình nhũn ra nằm gục xuống giường, không cử động gì được. Kiều Phong kinh hãi, đưa ngón tay thăm hơi thở, thấy nàng dường như hô hấp hoàn toàn ngừng hẳn. Ông hốt hoảng, vội vàng đưa bàn tay đè vào huyệt Linh Đài ở sau lưng cô gái, đem chân khí truyền vào trong người nàng. Chưa đầy thời gian uống một chén trà, A Châu chầm chậm ngửng đầu lên, cười mủm mỉm nói:

- Chao ôi, sao đang nói chuyện tự nhiên thiếp lại gục xuống ngủ là thế nào? Kiều đại gia, thiếp thật là không phải.

Kiều Phong biết tình hình xem ra không xong bèn nói:

- Cô chưa được khỏe hẳn, thôi ngủ một chút dưỡng thần.

A Châu đáp:

- Thiếp cũng không thấy mệt, có điều ông cực nhọc đêm khuya, xin đi nghỉ một chút cho lại sức.

Kiều Phong đáp:

- Hay lắm, để chốc nữa ta sẽ qua thăm cô.

Ông quay trở lại phòng khách, gọi năm cân rượu và hai cân thịt bò nóng, ngồi ăn uống một mình. Lúc này trong lòng phiền não, uống rượu vào càng dễ say nên khi uống hết chỗ rượu đó đã thấy hơi ngà ngà. Ông cầm hai chiếc bánh bao đem đến phòng A Châu cho cô ta ăn, vào đến phòng gọi luôn hai tiếng không nghe đáp lại liền đến trước giường thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, gò má lõm xuống, dường như đã chết rồi.

Ông đưa tay sờ trán cô gái, cũng may vẫn còn âm ấm vội vàng dùng chân khí cứu chữa. A Châu từ từ tỉnh lại, cầm lấy chiếc bánh, vui vẻ ăn ngay. Đến lúc này, Kiều Phong biết rằng nàng sở dĩ sống được toàn là nhờ mình dùng chân khí tục mệnh, nếu không có chân khí truyền vào người thì chỉ chưa đầy một giờ đã kiệt lực mà chết, nên không biết phải tính sao?

A Châu thấy ông trầm ngâm, mặt lộ vẻ lo lắng bèn nói:

- Kiều đại gia, thiếp bị thương thật là nặng, đến như linh dược của Đàm lão tiên sinh cũng chữa không được, phải không nào?

Kiều Phong vội nói:

- Không, không đâu! Đâu có đến nỗi gì, chỉ nghỉ ngơi vài ngày là khỏe lại ngay.

A Châu đáp:

- Ông đừng nói dối tiện thiếp làm chi. Tự thiếp cũng thấy mình trong người dường như trống không chẳng có chút hơi sức nào cả.

Kiều Phong đáp:

- Cô cứ yên tâm dưỡng bệnh, ta thể nào cũng có cách chữa được cho cô.

A Châu nghe lời nói của ông biết rằng mình bị thương rất nặng, trong lòng không khỏi sợ hãi, tay run lẩy bẩy, chiếc bánh bao ăn dở trong tay rơi bịch xuống đất. Kiều Phong lại tưởng nội lực của nàng hết rồi nên để tay lên trên huyệt Linh Đài.

A Châu lúc này thần trí đã tỉnh táo, thấy một luồng khí ấm áp từ lòng bàn tay ông ta cuồn cuộn truyền vào người mình, lập tức chân tay khớp xương thấy thật dễ chịu. Nàng hơi suy nghĩ liền hiểu ngay mình đã chết đi sống lại mấy lần, đều nhờ được Kiều Phong cứu tỉnh, trong lòng vừa cảm kích lại vừa kinh hoàng. Nàng tuy lanh lợi thật nhưng dẫu sao tuổi cũng còn nhỏ, nước mắt lã chã rơi xuống, nói:

- Kiều đại gia, thiếp không muốn chết, ông đừng bỏ rơi thiếp ở đây.

Kiều Phong nghe nàng nói thật đáng thương, vội vàng an ủi:

- Không thể nào như thế được, cô cứ yên tâm. Kiều Phong này là người thế nào mà lại bỏ rơi một người bạn đang lúc nguy nan?

A Châu đáp:

- Tiểu nữ đâu có xứng đáng làm bạn của ông. Kiều đại gia, liệu thiếp có chết hay chăng? Người chết đi rồi có thành ma quỉ hay không?

Kiều Phong đáp:

- Cô đừng có lo lắng. Cô tuổi còn nhỏ như thế, bị thương nhẹ như thế này làm gì mà chết được?

A Châu đáp:

- Ông không đánh lừa thiếp đấy chứ?

Kiều Phong đáp:

- Không đâu!

A Châu nói:

- Đại gia là nhân vật anh hùng nổi danh trong võ lâm, ai ai cũng nói: Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Ông và công tử chúng tôi kẻ nam người bắc ngang ngửa nhau, đã có bao giờ nói mà không làm chưa?

Kiều Phong mỉm cười nói:

- Hồi còn bé, ta cũng hay nói láo. Về sau khi hành tẩu trên giang hồ rồi thì không đánh lừa ai nữa.

A Châu hỏi:

- Ông bảo thương thế của tiểu nữ không nặng, thế chẳng là nói láo là gì?

Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như cô biết mình bị thương nặng thì trong lòng thể nào cũng bồn chồn, chữa bệnh lại càng khó khăn thêm. Vì cô nàng nên nói gì thì nói, cũng đành phải nói láo vậy”. Ông bèn nói:

- Ta không nói láo cô đâu.

A Châu thở dài một tiếng nói:

- Được rồi, thiếp cũng an tâm. Kiều đại gia, tiểu nữ cầu xin ông một việc nhé?

Kiều Phong hỏi:

- Chuyện gì?

A Châu đáp:

- Tối nay ông ở bên cạnh thiếp, đừng đi đâu.

Nàng cho rằng một khi Kiều Phong ra khỏi phòng rồi, liệu chừng mình không sống được tới khi trời sáng. Kiều Phong đáp:

- Được rồi, dẫu cô không nói ta cũng sẽ ngồi bên cạnh đây với cô. Thôi cô đừng nói nữa, ngủ một giấc cho ngon đi.

A Châu nhắm mắt lại, một lát sau lại mở mắt ra nói:

- Kiều đại gia, thiếp không ngủ được, lại xin ông một việc nữa, liệu có được chăng?

Kiều Phong hỏi:

- Chuyện gì thế?

A Châu đáp:

- Khi còn nhỏ mỗi khi thiếp không ngủ được thì mẹ thiếp lại đến bên cạnh giường hát ru cho thiếp nghe. Chỉ cần hát ba bài là thiếp ngủ say ngay.

Kiều Phong mỉm cười:

- Bây giờ đi kiếm mẹ cô chẳng phải là chuyện dễ dàng.

A Châu thở dài một tiếng, buồn bã nói:

- Cha thiếp, mẹ thiếp nào có biết ở đâu, cũng không biết có còn sống hay đã chết. Kiều đại gia, ông hát cho thiếp nghe vài khúc, liệu có được chăng?

Kiều Phong gượng cười, một người đàn ông hùng tráng như ông, nay hát ru cho một cô gái nhỏ ngủ thật chẳng còn ra thể thống gì, bèn đáp:

- Ca hát quả thực ta không biết.

A Châu hỏi lại:

- Thế khi còn nhỏ, mẹ ông không hát ru ông hay sao?

Kiều Phong gãi đầu nói:

- Cái đó thì dường như là có nhưng ta quên hết rồi. Dẫu có nhớ thì ta cũng không biết hát.

A Châu thở dài:

- Nếu ông không chịu hát thì cũng đành vậy biết sao hơn.

Kiều Phong đấu dịu:

- Không phải là ta không chịu hát mà là không biết hát đấy thôi.

A Châu đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vỗ tay reo lên:

- À, được rồi, Kiều đại gia, tiểu nữ lại xin ông một việc khác, lần này ông phải chịu đấy nhé.

Kiều Phong thấy cô gái nhỏ này tính tình thật ngây thơ hồn nhiên, làm chuyện gì cũng thật ngoài dự liệu, nàng nói lại xin một chuyện khác thật không biết là chuyện tinh nghịch quái lạ gì bèn hỏi lại:

- Cô phải nói ra trước, nếu ta làm được thì sẽ làm, còn không làm được thì thôi.

A Châu đáp:

- Chuyện này ở trên đời chỉ cần bốn năm tuổi cũng đều làm được, ông thử xem có dễ dàng không nào?

Kiều Phong không để mắc lừa nàng liền đáp:

- Thế chuyện đó là chuyện gì cô cứ nói rõ trước đi đã.

A Châu cười khúc khích nói:

- Được rồi, vậy ông kể chuyện cho thiếp nghe đi, anh em nhà thỏ cũng được mà mẹ con nhà sói cũng hay, thiếp đều ngủ được.

Kiều Phong nhíu mày, trên mặt lộ vẻ gượng gạo. Mới chẳng bao lâu, ông là một nhân vật khí khái hiên ngang, lãnh tụ quần hùng, bang chủ một đại bang lớn nhất giang hồ. Chỉ mới vài ngày qua, đã bị người ta bãi chức bang chủ trục xuất ra khỏi Cái Bang, cha mẹ, sư phụ ba người thân thiết nhất đều qua đời trong một buổi, đến ngay bản thân mình là Hồ hay là Hán, thân thế cũng chưa minh bạch, lại mang tội phản nghịch giết ba người thân bao nhiêu việc cùng đổ lên đầu, chẳng một ai chia xẻ vui buồn, âu cũng đành chịu. Ngờ đâu nơi khách điếm này, lại bầu bạn một tiểu cô nương để cô đòi ca hát, kể chuyện, những việc ỉ ôi ăn không ngồi rồi như thế, trước đây ông chỉ nghe nửa câu đã bưng tai bỏ đi. Ông bình sinh chỉ thích cùng bạn bè uống rượu, đánh đố, nhậu nhẹt rức lác, càng vui càng hăng, nếu không thì cũng đàm luận chuyện quân quốc đại sự, nói chuyện thiên hạ anh hùng. Có bao giờ kể chuyện anh em nhà thỏ mẹ con nhà sói cho người nghe, quả là nực cười.

Thế nhưng chỉ trong một chớp mắt, ông chợt nhìn thấy khuôn mặt A Châu dung nhan tiều tụy đăm đăm trông đợi, nghĩ thầm: “Nàng bị thương nặng như thế, xem chừng khó mà qua khỏi được, chỉ dứt một hơi thở là táng mạng ngay. Nàng muốn nghe kể chuyện, thôi ta cứ thuận miệng kể cho nàng nghe”. Ông liền nói:

- Được rồi, để ta kể chuyện cho cô nghe, chỉ sợ chuyện không hay thôi.

A Châu vui mừng ra mặt nói:

- Thể nào cũng hay lắm, mau mau kể đi.

Kiều Phong tuy nhận lời nhưng bảo ông kể chuyện thì cũng chưa biết nói gì, một lát sau mới nói:

- Thôi, để ta kể chuyện con sói nhé. Ngày xửa ngày xưa có một ông già đi chơi ở trong núi trông thấy một con chó sói bị người ta trói bỏ trong một chiếc bao vải. Con chó sói mới khẩn khoản xin ông lão thả nó ra, ông già liền cởi chiếc bao cho con chó sói ra. Con chó sói ...

A Châu ngắt lời:

- Con chó sói mới bảo là mình đang đói, đòi ăn thịt ông già, phải không nào?

Kiều Phong đáp:

- Ồ, thì ra truyện này cô nghe rồi.

A Châu đáp:

- Đó là chuyện con sói ở trong rừng. Tiểu nữ không thích nghe truyện trong sách, thiếp muốn nghe truyện ngoài đời kia.

Kiều Phong ngẫm nghĩ rồi nói:

- Không phải truyện trong sách mà là truyện ngoài đời. Được rồi, để ta kể một truyện cậu bé nhà quê cho cô nghe.

Ngày xưa, nơi chân núi có một gia đình rất nghèo, hai vợ chồng chỉ có một đứa con trai. Khi đứa trẻ lên bảy, thân thể thật là cao lớn, đã đi theo cha lên núi chặt củi được rồi. Một hôm, người cha bị bệnh mà nhà thì nghèo quá không dám đi mời thầy lang, cũng không có tiền mua thuốc.

Thế nhưng người cha bệnh mỗi ngày một nặng thêm, không uống thuốc thì không xong, người mẹ đành đem sáu con gà mái, một rổ trứng đem ra chợ bán. 

Bán tất cả gà lẫn trứng được bốn tiền, người mẹ mới đi mời thầy lang. Thế nhưng thầy lang kia lại bảo rằng, đường vào trong núi xa quá không muốn đi xem bệnh, người mẹ hết sức cầu khẩn nhưng gã thầy lang vẫn nhất mực lắc đầu.

Người mẹ lại quì xuống van lạy, thầy lang mới nói: “Đến xem bệnh ở nơi thâm sơn cùng cốc như thế, chẳng bõ cái công bị nhiểm lam sơn chướng khí. Có bốn tiền thì chữa trị được bao nhiêu?”. Người mẹ mới níu vạt áo thầy lang, gã liền giằng ra, ngờ đâu bà ta nắm chặt quá, nghe soẹt một tiếng chiếc áo rách ngay một mảnh dài. Thầy lang đó giận quá, mới xô người mẹ ngã lăn ra, lại đá bồi thêm một cái rõ mạnh, nhất định bắt đền nói là áo này mới may, đáng giá hai lượng bạc.

A Châu nghe tới đây, nhỏ nhẹ nói:

- Gã thầy lang đó quả là quá ư độc ác.

Kiều Phong ngẩng đầu nhìn ra cửa sổ đang tối dần, chậm rãi nói:

- Thằng bé ở bên cạnh mẹ, thấy mẹ nó bị người ta hiếp đáp, liền xông lên, vừa đánh vừa cắn tên thầy lang. Thế nhưng y chỉ là một đứa bé, có bao nhiêu sức lực nên bị thầy lang kia xách lên, vứt ra ngoài cửa. Người mẹ vội vàng chạy ra xem con mình thế nào, gã thầy lang sợ người đàn bà tiếp tục rầy rà liền đóng chặt cổng lại. Đứa bé trán bị đụng vào một tảng đá, chảy bao nhiêu là máu. Người mẹ sợ rắc rối nào có dám gõ cửa nhà thầy lang bắt đền, chỉ vừa khóc mếu vừa dắt con về nhà.

Đứa bé kia khi đi ngang một tiệm đồ sắt, thấy trên sạp bày đầy các loại dao dùng để giết bò giết heo. Người thợ rèn khi đó đang lo việc mời chào khách mua cày mua bừa, không để ý, đứa bé liền len lén ăn cắp một con dao nhọn, dấu dưới áo, đến mẹ nó cũng không hay biết gì cả.

Về tới nhà rồi, người mẹ mới kể lại mọi chuyện cho người cha nghe, lại sợ người cha bực mình bệnh sẽ nặng thêm, mới lấy bốn lượng bạc ra giao cho ông ta, ngờ đâu khi thò vào túi thì không còn thấy tiền bạc đâu nữa.

Người mẹ vừa hoảng hốt vừa lạ lùng mới chạy ra hỏi con, thấy đứa bé tay cầm một con dao sáng loáng, đang mài trên tảng đá liền hỏi: “Con dao đó ở đâu mà có?”. Thằng bé đâu có dám thú nhận là mình ăn trộm nên nói dối là người ta cho nó. Mẹ nó dĩ nhiên không tin, thứ dao mới như thế mua ở chợ cũng phải tiền rưỡi, hai tiền, ai lại dại gì đem cho một đứa trẻ?

Hỏi y ai cho, thằng bé ấp úng không trả lời được. Bà mẹ mới thở dài nói: “Con ơi! Ba mẹ nghèo khổ, bình thường chẳng bao giờ mua đồ chơi cho con, quả thật tủi cho con quá. Con mua con dao đó để chơi, thân con trai cũng không có gì không phải. Thế nhưng tiền còn dư con đưa lại cho mẹ, cha con bị bệnh mình mua miếng thịt nấu canh cho cha con ăn”. Thằng bé nghe thế liền trợn mắt hỏi lại: “Tiền dư nào?”. Người mẹ nói: “Thế bốn tiền của mình, con lấy đi mua dao rồi, phải không nào?”. Đứa trẻ hốt hoảng kêu lên: “Con không có lấy tiền, con không có lấy tiền”. Cha mẹ y trước nay chưa hề đánh mắng y, tuy chỉ là một đứa trẻ mấy tuổi nhưng cũng coi y như một người khách, lúc nào cũng thật nể nang ...

Kiều Phong nói đến đây, chợt chột dạ: “Vì sao lại thế nhỉ? Trên đời này cha mẹ đối với con cái đâu có ai như thế bao giờ, dẫu có thương yêu nuông chiều, cũng chẳng hề nể nang khách sáo đến thế”. Ông lẩm bẩm nói một mình: 

- Vì sao lại có chuyện lạ lùng như thế?

A Châu hỏi lại:

- Có gì mà lạ lùng?

Nàng nói đến hai tiếng sau cùng hơi thở chỉ còn mong manh như tơ. Kiều Phong biết chân khí trong người nàng đã kiệt, lập tức giơ chưởng đè lên lưng cô gái, đem nội lực truyền vào. A Châu tinh thần tạm khôi phục, thở dài nói:

- Kiều đại gia, mỗi lần ông truyền khí cho thiếp, nội lực của mình lại tiêu hao một phần. Người luyện võ chân khí nội lực là quan trọng hơn cả, ông đối với tiểu nữ như thế, A Châu ... làm sao đáp đền được?

Kiều Phong cười nói:

- Ta chỉ cần tĩnh tọa thổ nạp vài giờ thì nội lực chân khí lại trở lại bình thường, có gì đâu mà nói chuyện báo đáp? Ta với chủ nhân các cô Mộ Dung công tử thiên lý thần giao, tuy chưa từng gặp nhau nhưng lòng ta đã coi y như bạn bè rồi. Cô là người nhà y, việc gì phải coi ta như người xa lạ?

A Châu u uẩn nói:

- Cứ mỗi một giờ, chân khí của tiểu nữ lại từ từ cạn sạch, đại gia chẳng thể nào ... chẳng thể nào mãi mãi ...

Kiều Phong nói:

- Cô cứ yên tâm, thể nào mình cũng kiếm được một thầy lang y đạo cao minh, trị lành thương thế cho cô.

A Châu mỉm cười:

- Chỉ sợ thầy lang đó thấy thiếp nghèo khổ, lại sợ nhiễm lam sơn chướng khí, không chịu chữa bệnh cho. Kiều đại gia, câu chuyện ông kể còn dở dang, có cái gì gọi là kỳ quái?

Kiều Phong đáp:

- Ồ, ta buột miệng lỡ lời đấy mà. Người mẹ thấy thằng bé không nhận, cũng chẳng nói thêm, quay trở vào phòng. Một hồi sau, đứa trẻ mài dao xong đi vào thấy người mẹ đang thì thầm với cha nói là y ăn cắp tiền mua dao rồi nhưng lại không nhận. Cha y nói: “Đứa trẻ đó ở với chúng ta trước nay chẳng có gì chơi, nếu nó thích gì thì cứ mặc kệ, mình chớ để nó thêm tủi”. Hai người vừa nói tới đây thấy thằng bé đi vào, lập tức im bặt. Người cha vui vẻ xoa đầu y nói: “Con ngoan, từ rày đi chơi nhớ cẩn thận, sao để va vào đâu đau đến thế?”. Việc mất bốn lượng bạc và việc y mua con dao, cha y không nhắc đến một câu, cũng không tỏ ra chút gì gọi là không vui cả.

Thằng bé tuy chỉ mới bảy tuổi đầu nhưng đã sớm biết, nghĩ thầm: “Cha mẹ ta nghi mình ăn cắp tiền đi mua dao, thà rằng hai người hầm hầm đánh ta một trận, chửi ta một chốc, ta cũng chẳng buồn. Quả thật hai người thương ta thật”. Y trong lòng không an mới nói với cha: “Cha, con không lấy tiền, con dao này không phải con mua đâu!”. Người cha nói: “Mẹ con nhiều chuyện, không kiếm thấy tiền thì cũng đã sao? Việc gì mà phải tra hỏi ầm nhà ầm cửa, đúng là đàn bà lòng dạ nhỏ nhen. Hảo hài tử, đầu con có đau lắm không?”. Thằng bé đành trả lời: “Không sao cả!”. Y toan lên tiếng biện bạch nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu thành thử trong bụng ấm ức, bỏ cả cơm chiều chui vào giường ngủ.

Y nằm trên giường trăn trở qua lại, không cách nào ngủ được, lại nghe tiếng mẹ khóc rấm rứt, chắc là lo cha bị bệnh nặng thêm, thêm bực tức chuyện ban ngày bị gã thầy lang kia chửi mắng đánh đập. Thằng bé bèn len lén trở dậy, nhảy cửa sổ ra ngoài, đi suốt đêm đến thị trấn tới trước nhà tên thầy lang. Căn nhà đó cửa trước cổng sau đều đóng chặt không cách nào vào được. Thằng bé thân hình nhỏ bèn theo lỗ chó chui vào, thấy một căn phòng ánh đèn chiếu qua giấy dán cửa sổ, hóa ra gã thầy lang chưa ngủ còn đang sắc thuốc. Thằng bé đẩy cửa ...

A Châu lo cho đứa trẻ vội nói:

- Thằng bé đó đang đêm lẻn vào nhà người ta, e rằng sẽ bị lôi thôi.

Kiều Phong lắc đầu:

- Không đâu. Gã thầy lang nghe tiếng người mở cửa, chẳng thèm ngửng lên chỉ hỏi: “Ai đó?”. Thằng bé không trả lời, đi tới gần, rút con dao nhọn đâm luôn một nhát. Người nó thấp, nhát dao trúng ngay bụng thầy lang, y chỉ hự được một tiếng rồi ngã lăn ra.

A Châu rú lên một tiếng, kinh hãi hỏi:

- Thằng bé đó đâm chết ông thầy thuốc ư?

Kiều Phong gật đầu nói:

- Đúng thế. Thằng nhỏ lại chui lỗ chó ra, quay trở về nhà. Trong đêm tối đi về mấy chục dặm quả là mệt mỏi. Sáng sớm hôm sau, người nhà thầy lang mới phát giác y đã chết, vỡ bụng lòi ruột thật là thảm khốc. Thế nhưng cửa trước cửa sau vẫn đóng chặt, then cài bên trong, hung thủ từ bên ngoài làm sao vào được? Ai cũng nghi người trong nhà làm chuyện này, quan tri huyện liền sai bắt hết anh em, vợ con gã thầy thuốc đem ra tra khảo thẩm vấn, náo loạn cả đến mấy năm, nhà tên thầy lang đó hóa ra tan tành. Vụ đó trở thành một nghi án nơi Hứa Gia Tập.

A Châu hỏi:

- Ông nói Hứa Gia Tập? Người thầy thuốc đó ... ở ngay tại thị trấn này ư?

Kiều Phong đáp:

- Đúng thế! Gã thầy lang đó họ Đặng, vốn là y sinh nổi tiếng nhất thị trấn này, mấy huyện quanh đây đều biết đến. Nhà y ở tại phía tây, trước kia tường cao trắng toát, hiện nay tàn phá cả rồi. Lúc nãy ta đi mời thầy lang lại xem bệnh cho cô, có đi ngang nhà đó coi nên biết thế.

A Châu hỏi thêm:

- Thế còn người cha bị bệnh thì sao? Bệnh rồi có khỏi không?

Kiều Phong đáp:

- Về sau một nhà sư chùa Thiếu Lâm mang thuốc đến, trị bệnh cho ông ta.

A Châu nói:

- Thế ra chùa Thiếu Lâm cũng có những nhà sư tốt.

Kiều Phong nói:

- Dĩ nhiên là có. Chùa Thiếu Lâm có mấy nhà sư tâm địa nhân hậu, cốt cách hiệp nghĩa, quả đáng cho người ta kính phục.

Ông nói đến đây trong lòng se lại, nghĩ đến thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư. A Châu “Ồ” lên một tiếng, trầm ngâm nói:

- Gã thầy lang kia coi người nghèo chẳng ra gì, không coi tính mệnh họ vào đâu, dĩ nhiên là đáng ghét thật nhưng tội cũng chẳng đáng chết. Thằng bé kia cũng thật là ngang ngược. Thiếp quả không sao tin nổi, một đứa bé mới bảy tuổi đầu đã dám ra tay giết người hay sao? A, Kiều đại gia, đó là ông kể chuyện xưa chứ không phải thật, đúng không?

Kiều Phong đáp:

- Chuyện đó có thật đấy.

A Châu thở hắt ra một hơi, nhỏ nhẹ nói:

- Thứ trẻ con hung dữ như thế, chắc là ác nhân người Khất Đan.

Kiều Phong đột nhiên run bắn người, nhảy dựng lên nói:

- Cô ... cô nói cái gì?

A Châu thấy ông mặt mày biến sắc, trong lòng kinh hãi nhưng chợt hiểu ra, bèn chữa:

- Kiều đại gia, Kiều đại gia, xin lỗi ông, thiếp ... thiếp không phải cố ý nói chạm đến ông. Quả thật không cố ý ...

Kiều Phong ngơ ngẩn một hồi rồi ngồi phịch xuống nói:

- Chắc cô đoán được rồi?

A Châu gật đầu. Kiều Phong nói:

- Những điều vô tình nói ra mới là thực lòng. Ta ra tay hạ thủ chẳng dung tình, có thực là vì thuộc giòng giống Khất Đan chăng?

A Châu dịu dàng đáp:

- Kiều đại gia, A Châu nói năng lăng nhăng, ông đừng để bụng làm chi. Gã thầy lang kia đá mẹ ông, ông còn nhỏ đã anh hùng khí khái, giết y đi là phải.

Kiều Phong hai tay ôm đầu nói:

- Cũng chẳng phải chỉ vì y đá mẹ ta, mà là vì y làm cho ta bị nghi oan. Bốn tiền của mẹ ta chắc là khi lôi lôi kéo kéo đã rơi mất. Ta ... ta trong đời ghét nhất là bị nghi oan.

Vậy mà trong mới một ngày, ông đã bị ba mối oan lớn. Chính mình có phải là người Khất Đan không, cũng không còn cách nào biết được, còn vợ chồng Kiều Tam Hòe và Huyền Khổ đại sư rõ ràng không phải ông ta giết nhưng ai cũng đổ riệt cho ông cái ba đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy. Thế hung thủ thật sự là ai? Người hãm hại ông là ai?

Ngay lúc đó ông lại nghĩ tới một chuyện: “Tại sao cả cha lẫn mẹ ta đều nói, ta ở với hai người thật đáng tủi? Cha mẹ nghèo, làm con dĩ nhiên phải chịu, có gì mà tủi hay không tủi? E rằng mình không phải là con ruột hai người, mà do người ngoài gửi làm con nuôi, ắt người ủy thác việc này thân phận cực cao, thành thử cha mẹ mới đối với ta nể nang như thế, không phải chỉ nể nang mà còn kính trọng. Người nhờ cha mẹ ta nuôi ta đó là ai? Chắc hẳn là Uông bang chủ rồi”.

Cha mẹ ông đối với ông thật khác xa người khác đối với con ruột mình, ông bản tính tinh minh đáng ra phải thấy được rồi. Có điều từ bé đã vậy nên coi là bình thường, dù có lanh lợi đến mấy cũng chẳng nghĩ đến, chỉ nghĩ rằng cha mẹ mình tính tình hiền hậu ôn hòa mà thôi. Đến bây giờ nghĩ lại, xem ra mọi việc đều chứng thực rằng mình là giòng giống Khất Đan.

A Châu cất tiếng an ủi:

- Kiều đại gia, người ta bảo ông là người Khất Đan, tiểu nữ xem ra toàn là điều vu oan giá họa. Không nói gì ông nhân nghĩa khẳng khái, bốn bể nghe danh, chỉ riêng việc ông đối với một đứa tiểu a hoàn chẳng vào đâu như thiếp mà cũng hết lòng hết dạ chăm lo, người Khất Đan tàn độc như lang như hổ, so với ông một trời một vực, làm sao sánh được?

Kiều Phong nói:

- A Châu, nếu như quả ta là người Khất Đan, cô có còn để cho ta lo liệu nữa không?

Lúc đó người Hán ở Trung Thổ đối với người Khất Đan căm hận vô cùng, coi chẳng khác gì độc xà mãnh thú. A Châu chưng hửng nói:

- Ông đừng nghĩ ngợi vẩn vơ, chuyện đó không thể nào xảy ra được. Nếu như bộ tộc Khất Đan có được một người tốt như ông thì chúng ta còn thống hận họ làm gì?

Kiều Phong lặng thinh không nói, trong bụng nghĩ thầm: “Nếu như quả ta là người Khất Đan, đến một đứa tiểu a hoàn như A Châu cũng chẳng thèm nhìn nhõi nữa”. Chỉ trong một giây, ông thấy đất trời tuy rộng nhưng mình thật không có chỗ dung thân. Trong đầu những điều suy nghĩ dạt dào dâng lên như sóng biển, trong ngực khí huyết sục sôi, biết rằng vì mình tiếp khí cho A Châu mấy bận nên nội lực tiêu hao không phải là ít, lập tức xếp bằng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường, chậm rãi vận khí thổ nạp.

A Châu cũng nhắm mắt dưỡng thần.

datlucky_way

23-07-2009 10:22 AM

Hồi 19(a) : TUY VẠN THIÊN NHÂN NGÔ VÃNG HĨ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Dù cho hang hổ đầm rồng,

Vào sinh ra tử anh hùng nhẹ tênh.

Trông ra trời đất mông mênh,

Tấm thân bảy thước lênh đênh một mình.

*

* *

Kiều Phong vận công một hồi lâu, bỗng nghe ở phía tây bắc có hai tiếng lạch cạnh truyền tới, biết là có người trong võ lâm chạy trên mái nhà, kế tiếp phía đông nam cũng có tiếng động. Khi nghe tiếng động phía tây bắc, Kiều Phong cũng không để tâm nhưng khi cả hai bên kẻ tung người hứng như thế, ắt hẳn có kẻ vì mình mà đến đây. Ông hạ giọng nói nhỏ với A Châu:

- Ta ra ngoài một lát, sẽ quay lại ngay, cô không việc gì phải sợ.

A Châu gật đầu. Kiều Phong không thổi tắt đèn, cửa phòng vốn dĩ mở he hé, ông nghiêng người lẻn ra, vòng ra ngoài cửa sổ hậu viện, đứng nép sát vào tường.

Chỉ nghe từ một căn phòng trong khách điếm ở phía đông có tiếng người vọng ra:

- Có phải Hướng bát gia đấy chăng? Xin mời xuống đây.

Người ở phía tây bắc cười nói:

- Quan Tây Kỳ lão lục cũng đã đến rồi.

Người trong phòng đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Xin tất cả vào đi.

Trên nóc nhà hai người lần lượt nhảy xuống, đi vào trong phòng. Kiều Phong nghĩ thầm: “Quan Tây Kỳ lão lục được người đời gọi là Khoái Đao Kỳ Lục, là một hảo hán nổi tiếng đất Quan Tây. Còn Hướng bát gia kia là Hướng Vọng Hải đất Tương Đông, nghe nói y là người trượng nghĩa sơ tài, võ công cao cường. Hai người này đâu phải là phường gian hiểm, cũng chẳng dây dưa gì đến ta, ắt không phải vì mình mà đến đây, hóa ra mình nghi lầm. Người trong phòng giọng nghe quen quen, không biết là ai?”.

Chỉ nghe Hướng Vọng Hải nói:

- Diêm Vương Địch Tiết Thần Y đột nhiên phát thiếp anh hùng, mời tất cả đồng đạo giang hồ, chắc hẳn có chuyện khẩn bách, trong đó nói là “anh hào kiến thiếp, tiện thỉnh giá lâm”. Bào đại ca, liệu ngươi có biết chuyện gì chăng?

Kiều Phong nghe đến “Diêm Vương Địch Tiết Thần Y” lập tức vừa mừng vừa lo: “Tiết Thần Y cũng ở gần đây sao? Ta vẫn tưởng y ở tận Cam Châu, nếu như ở vùng này thì cô tiểu a đầu A Châu có cơ cứu được”.

Ông đã từng nghe Tiết Thần Y là thánh thủ số một trong y giới hiện nay, chỉ vì hai tiếng “thần y” quả nổi tiếng nên cái tên thật của y là gì người ta cũng không biết nữa. Truyền thuyết trên giang hồ vốn dĩ hay thổi phồng, nói là đến người chết y cũng cứu sống được, còn người sống thì dù bị thương nặng tới đâu, bệnh khó tới mức nào, y cũng có cách chữa, thành thử Diêm Vương ở dưới âm tào địa phủ cũng khó chịu, mỗi lần sai quỉ vô thường đi bắt người đều bị Tiết Thần Y ở bên cạnh ngăn trở, chặn đường đoạt mất. Tiết Thần Y y đạo đã như thần mà võ công cũng ghê gớm. Y thích kết giao cùng bằng hữu giang hồ, mỗi khi trị bệnh cho ai đều thỉnh giáo đối phương một vài chiêu võ công. Đối phương cảm cái ân cứu mạng, khi truyền thụ dĩ nhiên chẳng dấu diếm gì nên dạy y những công phu đắc ý nhất.

Lại nghe Khoái Đao Kỳ Lục hỏi:

- Bào lão bản , lâu nay có buôn bán được món gì khá không?

Kiều Phong nghĩ thầm: “Thảo nào người trong phòng nghe tiếng quen quá, thì ra là Một Bản Tiền Bào Thiên Linh. Người này chuyên lấy của người giàu cho người nghèo, cũng có đôi chút hiệp danh, năm xưa khi ta tiếp nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang, y cũng có đến tham dự ”.

Ông biết được trong phòng có ba người Hướng Vọng Hải, Kỳ Lục, Bào Thiên Linh nên không màng tới việc nghe lén chuyện của người khác nghĩ thầm: “Sáng mai mình đến xin gặp Bào Thiên Linh, hỏi y xem Tiết Thần Y hiện đang ở đâu”. Ông vừa toan quay về phòng, bỗng nghe Bào Thiên Linh thở dài một tiếng nói:

- Ôi, mấy hôm nay lòng ta thật xót xa, chẳng còn hứng thú mua bán gì nữa, hôm nay lại nghe thêm y giết cha, giết mẹ, giết thầy bao nhiêu là chuyện ác, càng thêm bực bội.

Nói tới đây y giơ tay vỗ mạnh lên bàn một cái. Kiều Phong nghe nói đến “giết cha, giết mẹ, giết thầy”, trong lòng chột dạ tự hỏi: “Y nói đến ta chăng?”. Hướng Vọng Hải nói:

- Kiều Phong trước nay tiếng tăm thật lừng lẫy, giả nhân giả nghĩa, biết bao nhiêu người bị y lừa, có ai ngờ đâu y dám làm những tội ác tầy trời như thế.

Bào Thiên Linh nói:

- Năm xưa khi y xuất nhiệm bang chủ Cái Bang, ta với y cũng đã có duyên gặp gỡ. Người đó xưa nay ta vẫn mười phần bội phục. Nghe Triệu lão tam nói y là giòng giống Khất Đan, chính ta cũng hết sức cãi lại, khiến cho Triệu lão tam đỏ mặt tía tai, giận đến hai bên đánh nhau một trận. Ôi, giống người Di Địch, quả nhiên có khác gì cầm thú, y có dấu được một thời nhưng rồi về sau tính tình hung dữ lại bộc phát ra.

Kỳ Lục nói:

- Nào ai biết rằng y xuất thân từ phái Thiếu Lâm, Huyền Khổ đại sư lại là sư phụ của y.

Bào Thiên Linh nói:

- Chuyện này vốn dĩ cực kỳ bí mật, đến người trong phái Thiếu Lâm cũng chẳng mấy ai biết đến. Thế nhưng Kiều Phong giết sư phụ y rồi, phái Thiếu Lâm đâu có còn dấu được nữa. Tên ác tặc họ Kiều kia tưởng rằng giết cha giết mẹ giết thầy là có thể dấu được lai lịch xuất thân của y, gặp ai cứ chối biệt là xong, có ngờ đâu khéo quá hóa vụng, tội nghiệt càng lúc càng to.

Kiều Phong đứng bên ngoài song cửa, nghe Bào Thiên Linh đoán già đoán non bụng dạ mình nghĩ thầm: “ Một Bản Tiền Bào Thiên Linh với ta nghĩ ra cũng có chút giao tình, người này đâu có phải bạ đâu nói đó, thế mà chính y cũng còn nhận định như vậy, huống hồ người khác thì còn tin tới đâu. Ôi, Kiều mỗ bị cái tiếng oan không sao rửa sạch, việc gì phải phí công giãi bày cùng ai? Chi bằng từ nay mai danh ẩn tích, mươi năm sau thì bằng hữu giang hồ chẳng còn ai nhớ tới mình, thế là xong”. Chỉ trong một thoáng bao nhiêu hùng tâm tan ra mây khói.

Lại nghe Hướng Vọng Hải nói:

- Cứ như huynh đệ đoán, Tiết Thần Y gửi Anh Hùng Thiếp, chắc là để thương nghị làm thế nào đối phó với Kiều Phong. Vị Diêm Vương Địch này ghét kẻ ác như kẻ thù, lại nghe y với hai vị Huyền Nạn, Huyền Tịch đại sư của chùa Thiếu Lâm giao tình rất hậu.

Bào Thiên Linh nói:

- Đúng thế! Ta cũng nghĩ là trên giang hồ gần đây ngoài hành vi tàn ác của Kiều Phong ra có còn chuyện gì lớn nữa đâu. Hướng huynh, Kỳ huynh, mau mau lại đây, tối nay bọn mình uống cạn vài cân rượu trắng, gác chân nói chuyện một phen.

Kiều Phong nghĩ thầm bọn họ nói chuyện đến sáng mai, chắc cũng chỉ thêm dầu thêm mỡ chửi rủa mình suốt đêm mà thôi, không muốn nghe thêm, quay trở về phòng A Châu. A Châu thấy ông mặt mày tái nhợt, trông thật khó coi liền hỏi:

- Kiều đại gia, ông gặp phải kẻ địch chăng?

Nàng tỏ vẻ lo lắng sợ ông bị nội thương. Kiều Phong lắc đầu, A Châu lúc ấy mới yên tâm hỏi thêm:

- Ông không bị thương đấy chứ?

Kiều Phong từ khi bước chân vào chốn giang hồ chỉ có bạn bè kính trọng, địch nhân sợ hãi, làm gì có bao giờ như mấy hôm nay bị người ta khinh bỉ coi thường, nghe A Châu hỏi han như thế, lập tức tính cao ngạo nổi lên lớn tiếng nói:

- Không sao. Cái bọn vô tri tiểu nhân vu oan giá họa cho Kiều mỗ thì dễ chứ ra tay đả thương ta thì chẳng dễ đâu.

Ông đột nhiên chợt nảy ra một mối hùng tâm khí khái bèn nói:

- A Châu, ngày mai ta sẽ đi kiếm một danh y nổi tiếng nhất thiên hạ về trị thương cho cô, cô cứ yên tâm ngủ đi.

A Châu thấy thần thái cao ngạo và tính khí của ông, trong lòng không khỏi kính ngưỡng, lại cũng sợ hãi, thấy người trước mặt mình đây hoàn toàn khác hẳn Mộ Dung công tử dẫu rằng hai người đều chẳng sợ trời, không sợ đất, đều cùng kiêu ngạo, lại cùng thần khí uy nghi. Thế nhưng Kiều Phong hùng tráng hào khí ngất trời chẳng khác gì một con hùng sư, còn Mộ Dung Phục nho nhã tiêu sái như một con phượng hoàng.

Kiều Phong tâm ý đã quyết, không còn nghĩ ngợi gì thêm, ngồi xuống ghế liền ngủ ngay. A Châu nhìn ánh đèn vàng vọt chiếu trên mặt ông, chỉ một chốc đã nghe tiếng ngáy khò khò, bỗng nhiên thấy Kiều Phong nghiến răng, bắp thịt trên mặt hơi giựt giựt, quai hàm vuông gồng cứng lên. A Châu cảm thấy người đàn ông hùng tráng trước mặt mình xem ra thật đáng thương, so với mình còn bất hạnh hơn nhiều.

Sáng sớm hôm sau, Kiều Phong dùng nội lực tiếp khí cho A Châu, trả tiền quán xong rồi sai tiểu nhị đi thuê một cỗ xe lừa. Ông đỡ A Châu ngồi lên xe, sau đó đi đến bên ngoài phòng của Bào Thiên Linh, lớn tiếng nói:

- Bào huynh, tiểu đệ Kiều Phong bái kiến.

Bào Thiên Linh, Hướng Vọng Hải và Kỳ Lục ba người ngồi chửi Kiều Phong cả đêm, mệt quá còn đang nằm ngủ, lúc đó chưa dậy, nghe tiếng Kiều Phong bên ngoài, ai nấy hoảng hồn, cùng nhảy khỏi giường, kẻ rút đao, người cầm kiếm, kẻ nhặt tiên. Ba người binh khí trong tay rồi, ai nấy ngơ ngẩn, thấy binh khí của mình người nào cũng có gắn một mảnh giấy nhỏ, trên viết bốn chữ “Kiều Phong bái thượng” . Ba người nhìn nhau, trong bụng kinh hãi, biết rằng đêm qua khi đang ngủ đã bị Kiều Phong đùa một mẻ, nếu như muốn lấy mạng ba người thật dễ như trở bàn tay.

Trong ba người thì Bào Thiên Linh quả thật hổ thẹn, y có ngoại hiệu là Một Bản Tiền ban ngày đi rình nhà này nhà khác, tối đến phi thiềm tẩu bích lẻn vào, lấy tiền trộm bạc là bản lĩnh độc đáo của y, ngờ đâu đêm hôm lại bị Kiều Phong chơi khăm, đến sáng bạch mới hay biết.

Bào Thiên Linh quấn nhuyễn tiên vào lưng, biết rằng nếu như Kiều Phong muốn lấy mạng mình thì đêm qua đã ra tay rồi, nên xông ra trước của nói:

- Cái đầu trên cổ của Bào Thiên Linh này, Kiều huynh lúc nào muốn lấy thì cứ tự tiện mà lấy. Bào mỗ làm cái nghề không vốn, sống chết trong tay Kiều huynh, cũng chẳng đáng gì. Các hạ đến phụ thân, mẫu thân, sư phụ cũng chẳng tha, cái giao tình nhạt như vôi với Bào mỗ ra tay còn phải dung tình gì nữa?

Y nhìn thấy mảnh giấy gắn trên nhuyễn tiên nên đã có chủ ý, biết ngày hôm nay sự việc cực kỳ hung hiểm, thà rằng cứ ngang tàng hết sức rồi đến đâu thì đến chứ chạy cũng không xong, chi bằng đem tính mạng giao cho y còn hơn. Kiều Phong vòng tay nói:

- Ngày nào nơi phủ Thanh Châu đất Sơn Đông từ biệt nhau, thắm thoát đã mấy năm rồi, Bào huynh phong thái vẫn còn như xưa, quả thật đáng mừng.

Bào Thiên Linh cười ha hả đáp:

- Cũng là sống lây lất đến ngày hôm nay mà chưa chết đấy thôi.

Kiều Phong nói:

- Nghe nói Diêm Vương Địch Tiết Thần Y phát thiếp anh hùng nên tại hạ cũng muốn đến xem một chút, đi cùng với ba vị liệu có được chăng?

Bào Thiên Linh ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Tiết Thần Y phát thiếp anh hùng chính là để đối phó với ngươi, bộ ngươi không muốn sống nữa hay sao mà lại một thân một mình vác xác tới chẳng biết có dụng ý gì? Ta thường nghe Kiều bang chủ của Cái Bang gan đã to mà lại tinh tế, trí dũng song toàn, nếu chẳng phải ỷ mình không sợ thì lẽ nào đưa thân vào lưới, ta đời nào để mắc hỡm của ngươi”.

Kiều Phong thấy y ngần ngừ không trả lời bèn nói:

- Kiều mỗ có việc phải cầu đến Tiết Thần Y, xin phiền Bào huynh dẫn đường.

Bào Thiên Linh nghĩ bụng: “Ta đang lo chạy không thoát độc thủ của y, đem y dẫn đến anh hùng yến, quần hào vây đánh, dù có ba đầu sáu tay thì cũng quả bất địch chúng. Có điều cùng y đi chung một đường thì vẫn là chín phần chết một phần sống”. Tuy y trong bụng phập phồng nhưng nghĩ dẫn Kiều Phong đến Anh Hùng Hội cũng vẫn hay bèn nói:

- Bữa tiệc anh hùng đại yến đó ở Tụ Hiền Trang, ở phía đông bắc cách đây bảy mươi dặm. Kiều huynh muốn đi thì thật hay lắm. Bào Thiên Linh này có lời nói trước, cái hội này cũng chẳng phải hay ho gì, mà bữa tiệc này cũng chẳng vui vẻ, Kiều huynh đi đến đây dữ nhiều lành ít, đừng trách Bào Thiên Linh này không nói từ đầu”.

Kiều Phong thản nhiên cười nói:

- Hảo ý của Bào huynh, Kiều mỗ xin tâm lãnh. Anh hùng yến thết tại Tụ Hiền Trang, vậy thì chủ nhân có phải Du thị song hùng chăng? Tụ Hiền Trang ở đâu hỏi thăm cũng dễ, vậy xin ba vị đi trước, tiểu đệ để một giờ nữa, chầm chậm đi theo cũng chưa muộn, cũng để cho mọi người có thời gian chuẩn bị.

Bào Thiên Linh quay lại nhìn Kỳ Lục và Hướng Vọng Hải, hai người chậm rãi gật đầu. Bào Thiên Linh nói:

- Nếu đã vậy, ba người chúng ta ở Tụ Hiền Trang cung kính đón chờ đại giá của Kiều huynh.

Bào, Kỳ, Hướng ba người lật đật trả tiền trọ, nhảy lên ngựa, ra roi chạy thẳng về phía Tụ Hiền Trang. Trên đường hết sức rong ruổi, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn lại chỉ sợ Kiều Phong cưỡi khoái mã, từ sau chạy đến, nhưng may sao trước sau vẫn không thấy ai đuổi theo. Bào Thiên Linh dĩ nhiên là người tâm cơ linh mẫn, còn Kỳ Lục và Hướng Vọng Hải cũng là những nhân vật hào khách giang hồ lịch duyệt nhiều, kiến văn rộng rãi. Thế nhưng trên đường ca ba bàn tán, suy luận nhưng vẫn không hiểu được tại sao Kiều Phong lại một thân một mình xông vào anh hùng yến để làm gì.

Kỳ Lục bỗng nói:

- Bào đại ca, đại ca có thấy cỗ xe lớn ở bên cạnh Kiều Phong chăng? Bên trong hẳn có chuyện gì kỳ lạ.

Hướng Vọng Hải nói:

- Không lẽ bên trong có mai phục một nhân vật nào lợi hại chăng?

Bào Thiên Linh đáp:

- Dẫu rằng trong xe có chất thật đầy, lèn không thở nổi cùng lắm cũng chỉ được bảy tám mạng, thêm Kiều Phong nữa chung qui cũng chỉ mười người, đến anh hùng yến thì cũng có khác gì thuyền con vào trong sóng cả, có làm được gì đâu?

Còn đang nói chuyện, trên đường đi ba người gặp võ lâm đồng đạo mỗi lúc một đông, ai ai cũng đi đến Tụ Hiền Trang để tham dự anh hùng yến. Lần này anh hùng yến cận ngày mời bất ngờ, người mời cũng không để tên, trên thiếp lại không để tên khách, ai nhận được miễn là người trong võ lâm thì đều được hoan nghênh.

Người nhận được thiếp cũng suốt ngày đêm dùng khoái mã chuyển giao cho bạn bè quen biết, người nọ truyền người kia, chỉ mới một ngày một đêm mà đã truyền đi thật xa. Thế nhưng vì thời giờ cấp bách, những người đến Tụ Hiền Trang được phần lớn là ở trong khoảng vài trăm dặm phía tả chùa Thiếu Lâm. Thế nhưng Hà Nam là đất trung châu, ngoài người võ lâm bản địa, phía bắc phía nam ai nghe được tin này cũng đều lên đường đi ngay thành ra số người tham gia không phải là ít.

anh hùng yến lần này do Du Thị Song Hùng của Tụ Hiền Trang liên danh với Diêm Vương Địch Tiết Thần Y cùng mời. Mặc dầu Du Thị Song Hùng Du Ký, Du Câu giàu có hào hiệp, giao du rất rộng, võ công đã cao siêu mà tiếng tăm cũng vang dội nhưng cũng không có một thế lực đáng kể trong võ lâm, không thể coi là đức cao vọng trọng để mời được bấy nhiêu anh hùng hảo hán. Thế nhưng Tiết Thần Y lại là người mà ai ai cũng muốn kết giao. Người học võ ai ai chẳng tự phụ nhưng cũng chẳng mấy người dám tự cho mình là thiên hạ vô địch thủ, mà dẫu có thực là võ công đệ nhất đời nay, cũng không thể nào nói rằng suốt đời không bệnh tật, bị thương. Nếu được kết bạn với vị Tiết Thần Y này thì có khác gì có thêm một tính mạng nữa, nếu không chết ngay tại chỗ, Tiết Thần Y đã ra tay chữa rồi thể nào cũng chết đi sống lại.

Thành thử những ai nhận được thiếp của Du Thị Song Hùng cũng thấy mình được nở mày nở mặt, huống hồ lại có cả tên Tiết Thần Y trên đó, thật có khác gì một đạo bùa cứu mệnh đâu. Ai nấy nghĩ thầm, hôm nay có dịp làm quen với ông ta, người sống trên đàu đao mũi kiếm ai dám chắc mình không có chuyện gì, đến khi sơ xẩy lẽ nào Tiết Thần Y lại bỏ mặc không lý tới?

Trên danh thiếp ngoài Tiết Mộ Hoa, Du Ký, Du Câu ba cái tên đó chỉ có thêm một hàng chữ nhỏ:

Du Ký, Du Câu phụ bạch: Tiết Mộ Hoa tiên sinh nhân xưng Tiết Thần Y. 

Nếu như không có hàng chữ nhỏ đó, người nhận được thiếp chắc cũng chẳng biết Tiết Mộ Hoa là cao nhân phương nào, số người đến Tụ Hiền Trang mười phần chắc chưa được ba bốn.

Bào Thiên Linh, Kỳ Lục, Hướng Vọng Hải ba người đến được trang rồi, Du lão nhị, Du lão câu đích thân ra đón. Vào đến đại sảnh, trong phòng đã ngồi đầy những người. Bào Thiên Linh có người quen, có người không quen nhưng vừa bước chân vào bốn phía đã nhao nhao lên, ai cũng:

- Bào lão bản, phát tài chứ?

- Lão Bào, độ này làm ăn khá không?

Bào Thiên Linh luôn tay vái chào, hỏi thăm anh hùng các lộ. Y không dám sơ suất chút nào, trong số nhân vật giang hồ đông đảo thế này, kẻ tâm địa hẹp hòi cũng không phải là ít, chỉ cần quên gật đầu chào, hay thiếu một nụ cười đáp lễ, không chừng gây chuyện với người ta để sau này mang họa vào thân, có khi mất mạng, cũng không phải là chuyện lạ gì.

Du Câu đưa y đến người ngồi chủ vị phía đông, Tiết Thần Y liền đứng lên nói:

- Bào huynh, Kỳ huynh, Hướng huynh ba vị đại giá quang lâm, thực chẳng khác gì nạm vàng lên mặt lão hủ, thật là cảm kích.

Bào Thiên Linh vội vàng đáp lễ nói:

- Tiết lão gia tử đã gọi đến, Bào Thiên Linh này dù có bệnh liệt giường liệt chiếu cũng phải cho người dìu đến.

Du lão đại Du Ký cười nói:

- Nếu quả như bệnh liệt giường liệt chiếu thì lại càng cần cho người dìu đến gặp Tiết lão gia tử.

Người chung quanh nghe thế ai nấy cười ha hả. Du Câu nói:

- Ba vị đường xa khổ cực, xin mời ra hậu sảnh ăn lót dạ.

Bào Thiên Linh nói:

- Điểm tâm ăn chậm một chút cũng không sao, tại hạ có việc muốn hỏi. Tiết lão gia tử và hai vị Du gia lần này mời khách, có Kiều Phong trong đó không?

Tiết Thần Y và Du Thị Song Hùng nghe thấy hai chữ “Kiều Phong” ai nấy mặt mày biến sắc. Du Ký nói:

- Chúng tôi phát thiếp vô danh, ai thấy thì mời đến. Bào huynh đề cập đến Kiều Phong, là có ý gì vậy? Bào huynh và gã Kiều Phong cũng có chút giao tình, phải vậy không nào?

Bào Thiên Linh đáp:

- Gã Kiều Phong kia nói là sẽ đến Tụ Hiền Trang để tham dự anh hùng đại yến.

Y vừa nói ra, quần hùng ai nấy rúng động. Trong đại sảnh mọi người vốn dĩ đang tràng ba khoát bảy, ăn to nói lớn, đột nhiên ai nấy im phăng phắc. Một số người ngồi xa xa không nghe Bào Thiên Linh nói gì, bỗng thấy mọi người bặt tiếng đang nói dở chừng cũng ngừng lại lắng nghe. Chỉ trong giây lát, trong đại sảnh không còn một tiếng ong ve đến nỗi tiếng người đang ăn uống dưới hậu sảnh cũng truyền theo hành lang vọng lên tận nhà trên.

Tiết Thần Y hỏi:

- Bào huynh làm sao biết được là Kiều Phong sẽ đến?

Bào Thiên Linh đáp:

- Thì chính tại hạ lẫn hai vị Kỳ huynh, Hướng huynh đều chính tai nghe thấy. Nói ra quả hổ thẹn, tối qua chúng tôi bị một mẻ rõ thật ê chề.

Hướng Vọng Hải nhìn y liên tiếp nháy mắt, muốn dặn y đừng kể lại chuyện xấu đêm rồi. Thế nhưng Bào Thiên Linh biết Tiết Thần Y và Du Thị Song Hùng đền là những người tinh minh lanh lợi, trong anh hùng hội cũng vô khối kẻ tài trí, mình dẫu có muốn dấu thì chỉ làm người ta sinh nghi. Đây là việc vô cùng hệ trọng, mình đã bị mắc vào trong vũng nước xoáy rồi, chỉ cần sơ sẩy không khéo một chút là sẽ thân bại danh liệt ngay. Y chậm rãi cởi ở thắt lưng ra cây nhuyễn tiên, mảnh giấy có viết bốn chữ “Kiều Phong bái thượng” kia vẫn còn dính nơi đó. Y liền hai tay nâng chiếc roi đưa cho Tiết Thần Y, nói:

- Kiều Phong sai ba người tại hạ đến chuyển lời rằng hôm nay sẽ đến Tụ Hiền Trang.

Sau đó y kể lại đã gặp Kiều Phong ra sao, nói năng những gì nhất nhất thuật lại không dấu một mảy. Hướng Vọng Hải đứng bên cạnh liên tiếp dậm chân, mặt mày đỏ như gấc chín.

Bào Thiên Linh kể hết đầu đuôi rồi, sau cùng mới nói:

- Gã Kiều Phong kia là giống cẩu chủng Khất Đan, dẫu có đại nhân đại nghĩa chăng nữa thì chúng ta cũng phải trừ đi, huống chi ác tính đã lộ ra rồi, để càng ngày càng thêm nặng. Nếu như y cao chạy xa bay thì cũng chẳng dễ gì đuổi bắt. Thế nhưng trời cao có mắt, y lại tự mình bước vào chỗ lưới đang giăng.

Du Câu trầm ngâm đáp:

- Vẫn thường nghe Kiều Phong trí dũng song toàn, tài ba đủ để làm việc đại ác, đâu phải kẻ mãng phu lẽ nào lại dám đến anh hùng đại yến hay sao?

Bào Thiên Linh đáp:

- E rằng y đã có gian mưu nên không thể không đề phòng. Lắm người nhiều kế, tất cả bên mình cùng nhau bàn thảo tính toán xem ra thế nào.

Còn đang nói chuyện bên ngoài đã đến thêm rất nhiều anh hùng hào kiệt, trong đó có cả Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính cùng năm người con trai, hai vợ chồng Đàm công, Đàm bà lẫn cả Triệu Tiền Tôn. Chẳng mấy chốc, phái Thiếu Lâm có Huyền Nạn, Huyền Tịch hai vị cao tăng, ai ai cũng được Tiết Thần Y cùng Du thị huynh đệ đón tiếp một cách vui vẻ. Kể lại những điều tàn ác của Kiều Phong người nào cũng hết sức phẫn nộ.

Bỗng nhiên quản gia đón khách tiến vào bẩm báo:

- Cái Bang Từ trưởng lão tất lãnh Truyền Công, Chấp Pháp cùng bốn vị Tống Hề Trần Ngô các trưởng lão cùng đến bái trang.

Mọi người ai nấy rùng mình. Cái Bang là bang hội lớn nhất giang hồ, quả thật đáng gờm. Hướng Vọng Hải nói:

- Cái Bang tất cả kéo đến đây, chắc hẳn là để thanh viện cho Kiều Phong.

Đơn Chính nói:

- Kiều Phong đã phá môn xuất bang rồi, không còn là bang chủ Cái Bang nữa, chính mắt tại hạ thấy bọn họ đã quay mặt đá nhau rồi.

Hướng Vọng Hải nói:

- Thế nhưng tình xưa nghĩa cũ, chưa hẳn đã quên đâu.

Du Ký nói:

- Các vị trưởng lão Cái Bang ai cũng là những nam tử hiên ngang khẳng khái, lẽ nào không phân trái phải lại đi bảo hộ cho kẻ thù? Nếu như đến để tương trợ cho Kiều Phong thì chẳng hóa ra thành kẻ Hán gian bán nước hay sao?

Mọi người ai nấy gật đầu, cùng nói:

- Dẫu có là phường chẳng ra gì cũng chẳng ai lại cam tâm để thành kẻ giặc Hán gian bán nước.

Tiết Thần Y và Du Thị Song Hùng cùng bước ra ngoài trang đón khách, thấy Cái Bang đến chỉ độ mười hai, mười ba người nên cũng yên bụng, nghĩ thầm: “Chẳng nói gì bọn ăn mày đến không phải để bảo hộ Kiều Phong, mà dẫu chúng có bụng không tốt thì mười hai mười ba người cũng chẳng làm được trò trống gì”. Quần hùng cùng Từ trưởng lão chỉ chào hỏi qua loa rồi mời vào đại sảnh, thấy người trong Cái Bang mặt mày không vui, rõ ràng trong bụng có điều gì phải lo âu.

Hai bên chia chủ khách ra ngồi, Từ trưởng lão mở lời trước:

- Tiết huynh, Du gia hai vị lão đệ, hôm nay kêu gọi quần hùng đến đây, có phải để đối phó với cái mầm họa mới của võ lâm là Kiều Phong đó chăng?

Mọi người nghe ông ta gọi Kiều Phong là “mầm họa mới của võ lâm”, ai nấy đưa mắt nhìn nhau, không ai bảo ai cùng thở phào một tiếng. Du Ký đáp:

- Chính là thế đó. Từ trưởng lão và chư vị trưởng lão của quí bang cùng đến, quả thực đại hạnh cho võ lâm. Chúng tôi muốn giết tên Phiên cẩu đó thì phải được sự chấp thuận của chư trưởng lão, nếu không lỡ có chuyện gì sai sót, làm tổn thương hòa khí thì không khỏi cả đôi bên đều ăn năn.

Từ trưởng lão thở dài một tiếng nói:

- Gã đó táng tận lương tâm phát điên phát cuồng, hành động càn rỡ. Vốn dĩ y đã lập nhiều đại công cho bản bang, gần đây nhất chúng tôi bị gian nhân ám toán cũng nhờ y ra tay cứu cho. Thế nhưng đại trượng phu lập thân xử thế, cốt lấy đại thể làm trọng, cái tiểu ân tiểu huệ kia cũng đành phải gác qua một bên. Y là kẻ tử thù của Đại Tống chúng ta, các trưởng lão bản bang tuy ai cũng đã từng được y đối đãi tử tế, nhưng đâu có thể vì ơn riêng mà bỏ nghĩa công cho được. Người ta có câu đại nghĩa diệt thân , huống chi y nào có phải thân thích gì của người trong bản bang đâu.

Ông ta nói ra câu đó, quần hùng ai nấy vỗ tay khen ngợi. Du Ký lúc đó mới nói đến việc Kiều Phong muốn đến tham dự anh hùng đại yến, các trưởng lão nghe xong ai nấy ngạc nhiên, mọi người ai cũng đã theo Kiều Phong lâu ngày, biết ông xưa nay không bao giờ hành sự hữu dũng vô mưu, nếu quả đơn thương độc mã đến Tụ Hiền Trang thì quả là một chuyện lạ.

Hướng Vọng Hải đột nhiên nói:

- Tôi nghĩ gã Kiều Phong kia cố ý bày nghi trận, để cho tất cả chúng ta ngồi đây ngóng cổ chờ, còn y cúp đuôi chạy mất tiêu đâu rồi. Cái đó gọi là kế Kim Thiền Thoát Xác.

Ngô trưởng lão giơ tay đấm một cái thật mạnh lên bàn, chửi liền: 

- Thoát cái mả mẹ ngươi chứ Kim Thiền với chả Kim Thiền. Kiều Phong là hạng người như thế nào mà lại nói ra rồi không giữ lời cơ chứ?

Hướng Vọng Hải bị y chửi mặt đỏ tía tai, giận dữ đáp:

- Ngươi định bênh Kiều Phong đấy hả? Hướng mỗ đây nhất định không chịu, có giỏi ra đây hai đứa thử một keo cho biết.

Ngô trưởng lão nghe nói Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết sư phụ rồi lại đại náo chùa Thiếu Lâm, trong lòng hết sức uất ức, bụng nóng như thiêu, chưa biết đổ lên đầu ai, gã Hướng Vọng Hải này lại ở đâu nhảy ra khiêu chiến, quả thật cầu còn chưa được. Y lạng người một cái, nhảy vọt ngay vào đình viện trước sảnh, lớn tiếng nói:

- Kiều Phong là cẩu chủng Khất Đan hay đường đường là người Hán, lúc này đã ai biết chắc đâu? Nếu quả y là Khất Đan Hồ Lỗ, Ngô mỗ sẽ là người đầu tiên sống mái với y. Muốn giết Kiều Phong đến thứ một nghìn cũng chưa đến lượt thằng khốn kiếp kia. Ngươi là cái giống gì mà đến đây rức lác ỏm tỏi, thoát cái vỏ ve sầu thối con bà ngươi ấy à? Vác xác lại đây để ông dạy cho mày một trận.

Hướng Vọng Hải vốn dĩ đã tím mặt rồi, nghe roạt một tiếng rút ngay đơn đao ra khỏi bao, nhìn đến binh khí lập tức nhớ đến tờ giấy có ghi “Kiều Phong bái thượng”, không khỏi ngẩn ngơ. Du Ký vội can:

- Hai vị đều là tân khách của Du mỗ, xin nể mặt họ Du này, đừng để mất hòa khí.

Từ trưởng lão cũng nói:

- Ngô huynh đệ, hành sự không nên ngang ngược, phải giữ thanh danh cho bản bang.

Trong đám người bỗng dưng có kẻ nào đó lẩm bẩm nói:

- Cái Bang có được một nhân vật như Kiều Phong, thanh danh quả là lừng lẫy, phải cố làm sao giữ cho chu toàn.

Quần hào Cái Bang nghe nói thế, ai nấy lao xao quát hỏi:

- Đứa nào nói gì thế?

- Có giỏi thì thò mặt ra, trốn trong đám đông có gì là hảo hán?

- Thằng chó đẻ khốn kiếp nào đó?

Kẻ kia nói xong câu đó rồi im bặt nên chẳng ai biết đó là người nào. Bọn Cái Bang bị người ta mỉa mai phúng thích ai nấy cực kỳ bực tức nhưng vì không kiếm ra thủ phạm nên cũng đành chịu chẳng làm sao hơn. Cái Bang tuy là đệ nhất đại bang trên giang hồ nhưng bang chúng đều là dân bị gậy, có biết gì là lễ nghĩa đâu nên kẻ thì chửi rủa, có người lại lôi tổ tông mười tám đời ra mà réo.

Tiết Thần Y nhíu mày nói:

- Các vị tạm nén giận, nghe lão hủ nói một lời.

Người trong Cái Bang nghe thế mới dần dần dịu lại. Trong đám người bỗng lại nghe một giọng lạnh tanh:

- Giỏi thật, Kiều Phong phái bao nhiêu là tay lợi hại như thế đến nằm vùng, thể nào mình chẳng được coi một màn tuồng thật hay.

Bọn Ngô trưởng lão nghe nói thế lại càng bực tức, loạt soạt liên tiếp, ánh sáng lập lòe, rất đông người đã rút binh khí ra cầm trên tay. Các tân khách lại tưởng Cái Bang sắp giở trò gì nên cũng vội lấy võ khí, tiếng quát tháo la ó rầm rầm như chợ vỡ. Tiết Thần Y và Anh em nhà họ Du vội vàng khuyên nhủ mọi người bình tâm nhưng tiếng của ba người chỉ càng làm đại sảnh thêm huyên náo.

Trong khi mọi người còn đang nhốn nháo, một người quản gia lại chạy vào đến bên cạnh Du Ký, ghé tai nói nhỏ mấy câu. Du Ký mặt liền biến sắc, hỏi lại gì đó. Gã quản gia chỉ về phía cửa, trên mặt đầy vẻ kinh hãi lẫn ngạc nhiên. Du Ký lại nói thầm với Tiết Thần Y một câu, mặt Tiết Thần Y cũng lập tức thay đổi. Du Câu đến bên cạnh anh, Du Ký cũng nói với y một câu, Du Câu cũng xem chừng hoảng hốt. Cứ thế một người truyền ra hai, hai người truyền ra bốn, bốn truyền ra tám càng lúc càng nhanh, chỉ trong giây lát tất cả đại sảnh đều lặng yên không một tiếng động. Tất cả người nào người nấy đều nghe cùng một câu:

- Kiều Phong bái trang!

Tiết Thần Y quay sang nhìn anh em họ Du gật đầu, lại quay sang Huyền Nạn, Huyền Tịch hai nhà sư liếc một cái nói:

- Xin mời vào!

Gã quản gia kia liền quay người hấp tấp đi ra.

Quần hào ai nấy trống ngực đánh thình thình, tuy biết rằng bên mình người đông thế mạnh, tất cả cùng xông cả lên thì chỉ chớp mắt đã băm vằm Kiều Phong ra thành trăm mảnh nhưng người đó uy danh không phải nhỏ, một mình đến đây, hiển nhiên hữu thị vô khủng không đoán được ngoài ra y còn có âm mưu gì khác.

Tất cả yên lặng đợi chờ, chỉ nghe tiếng vó lộp cộp cùng tiếng bánh xe nghiến trên đường đá lào xào, một cỗ xe lừa chậm rãi vượt qua đại môn tiến thẳng vào trong. Hai anh em họ Du nhíu tít đôi lông mày, xem chừng kẻ kia không hề úy kị, cực kỳ vô lễ.

Lại nghe lạch cạch mấy tiếng, chiếc thùng xe đã vượt qua ngạch cửa, ngồi tại vị trí đánh xe là một đại hán roi cầm trong tay. Chiếc xe lừa màn che phủ xuống, không biết bên trong có chứa những gì, nhưng quần hào không hẹn mà cùng đăm đăm nhìn vào xa phu.

Người đó mặt vuông thân hình cao to, vai rộng ngực nở, ánh mắt đầu mày không giận mà đầy vẻ uy nghiêm chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong.

Kiều Phong để chiếc roi nơi chỗ ngồi, xuống xe ôm quyền thi lễ nói:

- Đã nghe Tiết Thần Y cùng Du thị huynh đệ thiết anh hùng đại yến tại Tụ Hiền Trang, Kiều mỗ chẳng được dự phần hào kiệt Trung Nguyên nên nào dám mặt dạn mày dày đến dự. Chỉ vì hôm nay có việc gấp phải đến cầu Tiết Thần Y nên mạo muộn tới đây, mong được thứ tội.

Nòi xong vái một cái thật sâu, thần thái cực kỳ cung kính. Kiều Phong càng tỏ ra lễ mạo, mọi người càng tin là ông đã an bài âm mưu ngụy kế. Du Câu vẫy tay một cái, bốn tên môn hạ đệ tử lẳng lặng lẻn ra xem xét trước sau trang viện xem có gì khác lạ. Tiết Thần Y chắp tay đáp lễ nói:

- Kiều huynh có chuyện gì khiến tại hạ phải lập công?

Kiều Phong lùi lại hai bước, vén chiếc màn xe, đưa tay đỡ A Châu ra nói:

- Chỉ vì tại hạ hành sự lỗ mãng khiến cho tiểu cô nương này bị trúng phải chưởng lực của người khác nên bị trọng thương. Trên đời này ngoài Tiết Thần Y ra, không ai có thể chữa nổi nên đành mạo muội chạy đến đây xin thần y cứu mạng.

Quần hào khi thấy chiếc xe lừa bụng đầy nghi hoặc, đoán già đoán non, bên trong phải có điều gì quỉ quái, kẻ thì cho rằng chứa độc dược thuốc súng, người thì tưởng độc xà mãnh thú chi đây, hoặc giả cha mẹ vợ con của Tiết Thần Y bị Kiều Phong bắt được đem đến làm con tin, không ai dám ngờ đây chỉ là một cô gái mười sáu, mười bảy đưa đến nhờ trị thương thành ra ai nấy đều kinh ngạc.

Thiếu nữ mặc áo màu vàng nhạt, gò má nhô cao quả thực khó coi. Thì ra A Châu nghĩ rằng nhà Mộ Dung có rất nhiều ân oán giang hồ, nếu vị Tiết Thần Y kia biết được lai lịch có khi không chịu chữa thành thử ở Hứa Gia Tập mua quần áo, ngồi trong xe sửa đổi dung mạo, chỉ vì thầy thuốc ắt phải xem mạch coi bệnh, giả thành đàn ông hoặc đàn bà trung niên thì không xong.

Tiết Thần Y nghe ông nói mấy lời đó, quả thật ra ngoài dự liệu. Trong đời ông, việc thiên hạ đường xa vạn dặm chạy đến cầu chữa bệnh là chuyện hết sức bình thường, ngày nào gần như cũng có, thế nhưng ở đây mọi người đang toan tính việc bắt giết Kiều Phong thì kẻ hung đồ vô ác bất tác, thần nhân cộng phẫn kia lại tự nhiên đến nạp mạng, khiến cho khó có ai tin nổi.

Tiết Thần Y đưa mắt nhìn trên nhìn dưới tính toán xem A Châu xem hạng người nào, thấy nàng dung mạo xấu xí, còn ít tuổi, Kiều Phong không thể nào bị sắc đẹp của đứa trẻ con đó làm cho mê hoặc. Ông ta đột nhiên tự hỏi: “Hay cô gái này là em y chăng? Hừ, không thể được, đến cha mẹ cùng thầy dạy y còn hạ độc thủ, lẽ nào lại vì đứa em gái mà mạo hiểm cái vạ sát thân. Không lẽ đây là con gái y? Thế nhưng có nghe nói gì về việc y lấy vợ đâu?”.

Ông ta tinh thông y đạo, thể chất hình mạo dù ai cũng chỉ trông qua là biết ngay có gì đặc biệt, thấy Kiều Phong và A Châu hai người, một người tráng kiện to cao, người kia yểu điệu ốm yếu, không có chút nào tương tự, xem ra không có máu mủ ruột thịt gì. Ông hơi trầm ngâm, hỏi lại:

- Cô nương này tôn tính là gì? Có liên hệ gì với các hạ chăng?

Kiều Phong ngỡ ngàng, ông từ khi biết A Châu chỉ biết gọi nàng là A Châu, không biết có phải họ Châu hay không, bèn quay lại hỏi:

- Cô họ Châu phải không nhỉ?

A Châu mỉm cười đáp:

- Tôi họ Nguyễn.

Kiều Phong gật đầu nói:

- Tiết Thần Y, thì ra cô ta họ Nguyễn. Tới lúc này tôi mới biết.

Tiết Thần Y lại càng kỳ quái, hỏi thêm:

- Nếu như thế, các hạ và cô nương này không phải chỗ thâm giao?

Kiều Phong đáp:

- Cô ta là a hoàn của một vị bằng hữu.

Tiết Thần Y nói:

- Thế vị bằng hữu của các hạ là ai? Ắt hẳn hai người tình như cốt nhục, nếu không đâu có lẽ nào quí nhau đến thế.

Kiều Phong lắc đầu:

- Vị bằng hữu đó tại hạ chỉ mới thần giao, trước nay chưa hề gặp mặt.

Ông vừa nói câu đó ra, quần hào trong sảnh ai nấy ”Ồ” lên một tiếng. Có đến quá nửa số người không tin trên đời có chuyện như thế, chẳng qua ông chỉ lấy cớ để làm trò quỉ quái gì đây. Thế nhưng cũng lắm người biết Kiều Phong xưa nay không hề nói láo nên dẫu đã có những hành vi tàn nhẫn ác độc nhưng tự trọng thân phận lẽ nào lại công khai dối trá đánh lừa người ta.

Tiết Thần Y giơ tay ra bắt mạch cho A Châu, thấy nàng mạch nhảy rất yếu nhưng trong người lại có chân khí thúc đẩy, hai đằng không tương xứng chút nào, đưa tay bắt thêm mạch bên trái, hiểu ngay lý do, quay sang nói với Kiều Phong:

- Vị cô nương này nếu chẳng nhờ có linh dược trị thương của Đàm công Thái Hàng Sơn, lại được các hạ dùng nội lực tục mệnh thì đã chết vì Đại Kim Cương chưởng lực của Huyền Từ đại sư từ lâu rồi.

Quần hùng nghe thế lập tức rúng động. Đàm công, Đàm bà mặt mày ngơ ngác nghĩ thầm: “Cô ta sao lại có được linh dược trị thương của chúng ta?”. Huyền Nạn, Huyền Tịch nhị tăng lại càng lạ lùng, bụng bảo dạ: “Phương trượng sư huynh có khi nào lại dùng Đại Kim Cương Chưởng đánh một cô gái nhỏ bao giờ? Nếu quả thực cô ta trúng phải chưởng lực của sư huynh thì làm sao còn sống cho được?”. Huyền Nạn nói:

- Tiết cư sĩ, phương trượng sư huynh của chúng tôi mấy năm qua chưa hề ra khỏi chùa, mà chùa Thiếu Lâm xưa nay không cho đàn bà con gái vào thăm, môn Đại Kim Cương Chưởng này quyết không phải do sư huynh chúng tôi hạ thủ.

Tiết Thần Y nhíu mày nói:

- Trên đời này lẽ nào còn có ai khác biết sử dụng Đại Kim Cương Chưởng?

Huyền Nạn, Huyền Tịch lặng thinh không đáp. Hai người ở trong chùa Thiếu Lâm đã mấy chục năm nay, cùng với Huyền Từ học chung một thầy, dụng công không phải không cần, dụng tâm không phải không khổ, thế nhưng chỉ vì thiên tư hữu hạn môn Đại Kim Cương Chưởng này vẫn không sao luyện thành.

Hai người không vì thế mà tiếc nuối, biết rằng phái Thiếu Lâm hàng trăm năm mới có một kỳ tài luyện được chưởng pháp này. Cũng may là yếu quyết luyện công các loại đều được các cao tăng đời trước ghi chú kỹ càng trong võ kinh, thành thử có khi cả chùa không ai luyện được nhưng tuyệt kỹ đó không thất truyền.

Huyền Tịch định hỏi: “Có quả thực cô ta trúng phải Kim Cương Chưởng hay chăng?” nhưng lời vừa ra đến cửa miệng liền cố nén lại, vì câu hỏi đó đưa ra có khác gì nghi ngờ y đạo của Tiết Thần Y, như vậy quả là đại bất kính nên quay sang hỏi Kiều Phong:

- Đêm hôm qua ông lẻn vào chùa Thiếu Lâm giết hại sư huynh ta là Huyền Khổ đã thử đỡ một Đại Kim Cương Chưởng của sư huynh ta. Chưởng đó nếu đánh vào tiểu cô nương thì còn làm sao sống được?

Kiều Phong lắc đầu:

- Huyền Khổ đại sư là ân sư của tại hạ, đại ân của sư phụ chưa báo đáp được, Kiều mỗ thà phải bỏ mình cũng chẳng dám động một ngón tay vào ân sư.

Huyền Tịch giận dữ nói:

- Ngươi còn chối nữa chăng? Thế còn việc ngươi bắt cóc nhà sư Thiếu Lâm thì sao? Việc đó không lẽ cũng không phải ngươi làm?

Kiều Phong nghĩ thầm: “Nhà sư Thiếu Lâm kia ta bắt cóc đang ở ngay trước mặt chứ đâu” bèn nói:

- Đại sư bảo mỗ bắt cóc một cao tăng chùa Thiếu Lâm, thế vị đại sư đó là ai thế?

Huyền Tịch và Huyền Nạn hai người nhìn nhau, ấp a ấp úng không ai nói được. Đêm hôm qua, Huyền Từ, Huyền Tịch, Huyền Nạn ba người hợp kích Kiều Phong, nhưng ông ta chạy thoát được, quả thực thấy ông ta bắt theo một nhà sư thế nhưng sau kiểm tra tăng chúng thì lại không thiếu một ai, việc đó quả là quái lạ, suy nghĩ mãi cũng không ra.

Tiết Thần Y xen vào:

- Kiều huynh một thân một mình, đêm qua vào chùa Thiếu Lâm mà không tổn một sợi lông, sợi tóc, lại còn bắt được một vị cao tăng đem đi, quả thật là lạ. Trong đó ắt có điều gì khác lạ, những điều ông nói ra hẳn có điều chưa nói hết, chưa nói thật.

Kiều Phong đáp:

- Huyền Khổ đại sư không phải do tại hạ làm hại, mà đêm hôm qua tại hạ cũng chẳng bắt một vị cao tăng trong chùa ra. Các vị có nhiều điều chưa rõ ràng, tại hạ cũng có nhiều điều còn thắc mắc.

Huyền Nạn nói:

- Nói gì thì nói, tiểu cô nương này không thể do phương trượng sư huynh chúng ta đả thương. Phương trượng sư huynh là một cao tăng hữu đạo, địa vị chưởng môn một phái, lẽ nào lại ra tay đánh một cô bé con? Dù tiểu cô nương đây có muôn vàn chuyện sai quấy thì sư huynh chúng ta cũng không chấp nhất.

Kiều Phong trong bụng nảy ra một ý: “Hai nhà sư này kiên quyết không chịu nhận rằng A Châu bị Huyền Từ phương trượng đả thương thì lại càng tốt. Nếu không, Tiết Thần Y nể mặt phái Thiếu Lâm sẽ không chịu chữa bệnh cho cô ta”. Ông thuận nước đẩy thuyền liền tiếp:

- Đúng đó, Huyền Từ phương trượng lòng dạ từ bi, quyết không thể nào ra tay hại một tiểu cô nương như thế. Chắc hẳn có kẻ nào mạo xưng cao tăng chùa Thiếu Lâm, khích bác xúi bẩy ra tay đánh người bừa bãi.

Huyền Tịch và Huyền Nạn nhìn nhau, chầm chậm gật đầu bụng nghĩ: “Gã Kiều Phong kia tuy gian ác thật nhưng mấy câu này quả là hữu lý”. A Châu trong lòng cười thầm:

- Kiều đại gia nói không câu nào sai cả, quả là có người mạo xưng làm sư chùa Thiếu Lâm, khích bác xúi bẩy ra tay đánh người bừa bãi. Thế nhưng nào có phải mạo xưng Huyền Từ phương trượng mà là nhà sư Chỉ Thanh”. Thế nhưng Huyền Tịch, Huyền Nạn, Tiết Thần Y và những người khác làm sao đoán ra được những ẩn ý trong câu nói đó.

Tiết Thần Y nghe thấy Huyền Tịch, Huyền Nạn hai vị cao tăng cùng quả quyết như thế ắt hẳn không sai liền nói:

- Thì ra trên đời này cũng còn có người khác biết sử dụng Đại Kim Cương Chưởng. Người đó khi ra tay bị vật gì chắn đỡ nên chưởng lực mười phần bị tiêu giảm đến bảy tám cho nên Nguyễn cô nương mới không chết ngay tại chỗ. Người này chưởng lực hùng hồn, xem ra cũng ngang ngửa với Huyền Từ phương trượng.

Kiều Phong trong lòng bội phục: “Quả thực chưởng của Huyền Từ phương trượng bị ta dùng tấm gương đồng chặn lại, làm tiêu giảm quá nửa chưởng lực. Vị Tiết Thần Y này quả là y đạo như thần, chỉ mới bắt mạch A Châu không thôi đã nói được tình hình hai bên ra chiêu động thủ không sai một mảy, xem ra ông ta quả có tài trị bệnh cho A Châu”. Ông nghĩ thế mặt lộ vẻ vui mừng nói:

- Nếu vị tiểu cô nương này chết vì chưởng lực Đại Kim Cương thì thanh danh của phái Thiếu Lâm thể nào cũng bị hoen ố, xin Tiết Thần Y mở dạ từ bi.

Nói xong ông vái một cái thật dài. Huyền Tịch không đỡi Tiết Thần Y trả lời, hỏi A Châu:

- Ra tay đả thương cô nương là ai thế? Thí chủ bị thương ở địa phương nào? Người đó bây giờ đang ở đâu?

Ông ta cố bảo toàn thanh danh của phái Thiếu Lâm, lại tưởng trên đời nếu quả có người biết sử dụng Đại Kim Cương Chưởng thì phải hỏi cho ra lẽ, tới nơi tới chốn. Thiên tính A Châu cực kỳ ngang bướng đâu có phải như Kiều Phong câu nào cũng phải mực thước chín chắn, còn nàng nói năng trên trời dưới đất, qua lại vặn vẹo như cơm bữa, trong lòng tính toán: “Những nhà sư này đều ngại công tử nhà ta, chi bằng nói ra cho bọn họ sợ một mẻ”. Nàng liền nói:

- Người đó là một thanh niên công tử, tướng mạo thật tiêu sái anh tuấn, tuổi chừng hăm tám hăm chín. Tiểu nữ đang cùng Kiều đại gia ở trong khách điếm đàm luận y thuật xuất thần nhập hóa của Tiết Thần Y, không nói gì đời nay không ai sánh kịp mà phải nói là không tiền tuyệt hậu, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả, đến cả thần tiên trên trời cũng chưa bằng ...

Ở đời có ai lại không ưa nghe người khác nịnh mình, Tiết Thần Y từ trước đến nay nghe không biết bao nhiêu người tán dương xưng tụng nhưng thanh âm líu lo réo rắt từ miệng một thiếu nữ thì đây mới là lần đầu, huống chi nàng lại hết sức khoa trương khiến cho người thầy thuốc nghe mà bất giác vuốt râu mỉm cười. Kiều Phong nghe vậy lại nhíu mày: “Làm gì có chuyện đó? Con nhãi con này chỉ giỏi ba hoa thiên địa”.

A Châu lại tiếp:

- Khi đó tiểu nữ mới nói rằng: “Nếu trên đời này có một người như vị Tiết Thần Y kia, chúng mình việc gì phải học võ làm chi?”. Kiều đại gia mới hỏi: “Sao lại thế?”. Tiểu nữ đáp: “Đánh chết ai Tiết Thần Y đều cứu sống lại được, thế thì luyện quyền học kiếm có ích gì đâu? Ông giết một người thì ông ta cứu một người, ông giết hai người thì ông ta cứu cả đôi thế có phải là công toi hay sao?”.

Nàng lanh mồm lanh miệng, thanh âm réo rắt, tuy đang bị trọng thương lại bắt chước thổ âm Tứ Xuyên của bọn phái Thanh Thành, nhưng những lời nàng nói ra nghe trong như tiếng trân châu rơi trên mâm ngọc, thật là dễ nghe. Mọi người ai nấy đều hoan hỉ, có kẻ lại bật cười thành tiếng.

Thế nhưng A Châu không cười vẫn tiếp tục:

- Ngồi gần bên có một gã công tử từ nãy đến giờ chỉ ngồi nghe chúng tôi nói chuyện, đột nhiên cười khẩy nói: “Chưởng lực trong thiên hạ đa số nhẹ như bông không có sức nên gã thầy lang họ Tiết kia mới có được cái hư danh. Để ta đánh một chưởng xem y có trị khỏi không nào?”. Y vừa nói xong liền nhắm ngay tôi lăng không đánh tới. Tiểu nữ thấy mình cách xa y đến mấy trượng, lại tưởng y thuận mồm nói chơi nên cũng không để ý. Kiều đại gia kinh hãi ...

Huyền Tịch hỏi lại:

- Thế y giơ chưởng ra đỡ hay sao?

A Châu lắc đầu:

- Không phải. Nếu như Kiều đại gia giơ chưởng ra đỡ thì gã thanh niên kia làm sao đánh trúng tôi được. Kiều đại gia cách tiểu nữ thật xa, không lại cứu kịp, vội nhặt một chiếc ghế ném ngang qua. Kình lực của ông ta sử dụng thật là chính xác, chỉ nghe lách cách mấy tiếng, chiếc ghế đã bị Phách Không Chưởng của người thanh niên kia đánh tan nát. Gã công tử khẩu âm nghe ngọt ngào giọng Tô Châu ngờ đâu công phu lại chẳng dịu ngọt chút nào. Tiểu nữ chỉ thấy người nhẹ lâng lâng, tưởng chừng như bay vào trong đám mây không còn một chút lực khí nào nữa. Lại nghe gã công tử kia nói: “Ngươi đến bảo Tiết Thần Y lục lọi thêm sách thuốc, luyện tập thêm một bậc nữa để sau này chữa cho Huyền Từ đại sư khỏi phải luống cuống”.

Huyền Nạn cau mặt hỏi:

- Y nói thế là có ý gì?

A Châu đáp:

- Y dường như muốn nói, sau này y sẽ dùng Đại Kim Cương Chưởng đả thương Huyền Từ đại sư.

Quần hùng ai nấy kêu lên kinh ngạc, có kẻ buột miệng:

- Dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân.

Có người lại nói:

- Quả nhiên là Cô Tô Mộ Dung.

Sở dĩ nói “quả nhiên” chứng tỏ y đã liệu được trước là ai rồi. Có ai biết đâu A Châu đã đổ oan cho Mộ Dung công tử gây chuyện với phái Thiếu Lâm, nhưng sớm muộn gì hai bên cũng sẽ tranh chấp nên mới thổi phồng để dọa họ một phen tăng gia uy phong cho chủ mình.

Du Câu liền nói:

- Kiều huynh vừa nói có người mạo xưng cao tăng phái Thiếu Lâm, khích bác xúi bẩy, đả thương cô nương này. Thế nhưng cô nương đây lại bảo rằng người đả thương cô ta là một thanh niên công tử, vậy thì hai người ai nói thật?

A Châu vội đáp:

- Nói về kẻ mạo xưng cao tăng chùa Thiếu Lâm thì quả là có. Chính mắt tôi thấy có hai người tự nhận là sư chùa Thiếu Lâm đi ăn trộm của nhà người ta một con chó mực, làm thịt ăn.

Nàng biết mình nói láo bị lộ tẩy nên vội nói trớ ra, đổi qua đề tài khác. Tiết Thần Y biết lời nàng không hoàn toàn là thực, nên cũng chưa biết mình có nên chữa thương cho cô ta hay không, quay sang nhìn Huyền Tịch, Huyền Nạn rồi lại đưa mắt nhìn Du Ký, Du Câu, sau đó nhìn Kiều Phong và A Châu ngẫm nghĩ. Kiều Phong nói:

- Tiết tiên sinh hôm nay cứu mạng cho cô nương này, Kiều Phong ngày sau không dám quên đại đức đó.

Tiết Thần Y cười khẩy mấy tiếng nói:

- Ngày sau không dám quên đại đức ư? Không lẽ hôm nay ngươi còn tin rằng mình sẽ sống mà ra khỏi Tụ Hiền Trang này được chăng?

Kiều Phong đáp:

- Thì sống mà ra được cũng hay, có chết mà ra được cũng hay, hai đằng cũng không khác nhau mấy tí. Thương thế của cô nương này xin thần y mở lòng chữa trị cho.

Tiết Thần Y lạnh nhạt hỏi lại:

- Vì cớ gì ta phải trị thương cho cô ta?

Kiều Phong đáp:

- Người đời có câu:

Dù xây chín đợt phù đồ,

Sao bằng làm phúc cứu cho một người.

Tiết tiên sinh đã nổi tiếng về công đức trong võ lâm, không lẽ thấy một cô gái vô tội chết oan như thế này lại không nổi lòng trắc ẩn hay sao?

Tiết Thần Y đáp:

- Dù bất cứ ai đem cô gái này lại ta cũng chữa. Hừ, còn ngươi đem lại đây thì ta không chữa.

Kiều Phong biến sắc, buồn bã nói:

- Các vị hôm nay quần tập tại Tụ Hiền Trang, hẳn là để thương nghị đối phó với Kiều mỗ, họ Kiều này không lẽ không biết hay sao?

A Châu xen vào:

- Chao ôi! Kiều đại gia, nếu thế hóa ra ông đã vì thiếp mà không ngại mạo hiểm đến đây đấy ư?

Kiều Phong đáp:

- Ta tưởng các vị đều là đường đường trượng phu, thị phi phân minh, có giết thì cũng chỉ giết một mình Kiều Phong chứ tiểu cô nương này có liên quan gì đâu? Tiết tiên sinh nếu đem lòng thống hận Kiều mỗ trút lên đầu Nguyễn cô nương có phải là giận cá chém thớt hay sao?

Tiết Thần Y bị ông nói cứng họng không trả lời được, một lát sau mới nói:

- Chữa hay không chưa bệnh cho ai là do ta vui buồn giận ghét chứ có phải người ngoài cưỡng cầu mà được đâu? Kiều Phong, ngươi tội đại ác cực, bọn ta đang toan tính vây bắt ngươi để băm vằm ra đem tế cha mẹ, sư phụ. Ngươi tự mình vác xác tới đây, quả thật tốt quá. Ngươi nên tự xử đi là hơn.

Ông ta nói tới đây tay phải liền phất một cái, quần hùng cùng lên tiếng reo lên, binh khí rút ra kêu loảng xoảng. Trong đại sảnh ánh sáp lấp lánh lóa cả mắt, dường như đủ loại trường đao đoản kiếm, song phủ đơn tiên đều có cả. Kế đó lại có tiếng lao xao ở trên cao, mái nhà góc chái đâu đâu cũng có người cầm binh khí chặn giữ mọi ngả.

Kiều Phong tuy dã trải qua nhiều trận đánh lớn nhưng trước đây bao giờ cũng tất lãnh anh em Cái Bang đối địch, bên mình bao giờ cũng người đông thế mạnh chứ không phải như lúc này thân hãm trùng vi, lại dắt theo một cô gái bị trọng thương, làm cách nào xông ra quả thực chưa biết tính sao, trong bụng không khỏi hoang mang.

A Châu sợ quá, khóc òa lên, nói:

- Kiều đại gia, ông cứ một mình chạy đi, đừng lo cho tiểu nữ làm gì. Bọn họ với thiếp không thù không oán, chắc không nỡ hại thiếp đâu.

Kiều Phong trong lòng chợt động nghĩ thầm: “Đúng thế, những người ở đây đều hành hiệp trượng nghĩa, không lẽ nào lại vô cớ làm hại cô ta. Ta phải mau mau rời khỏi cái chỗ thị phi này mới được”. Thế nhưng ông lại nghĩ ngay: “Đại trượng phu cứu người phải cứu cho đến nơi đến chốn. Tiết Thần Y chưa bằng lòng trị thương, đã biết cô ta sống chết thế nào, Kiều Phong này không lẽ tham sống sợ chết, bỏ chạy hay sao?”.

Ông đưa mắt nhìn bốn bề, chỉ lướt qua đã thấy rất nhiều cao thủ võ học, trong đám này đến quá nửa là quen biết, ai cũng mang tuyệt nghệ trong người. Ông vừa nhìn qua, hùng tâm hào khí trong người nổi lên, nghĩ thầm: “Kiều Phong rồi sẽ máu nhuộm Tụ Hiền Trang, đành để cho người ta loạn đao phân thi, còn nói gì được nữa? Đại trượng phu sống có gì vui, chết có gì sợ?”. Ông cười ha hả nói:

- Các ngươi cứ đổ riệt cho ta là người Khất Đan, để trừ cái mối lo tâm phúc. Ha ha, là người Khất Đan hay là người Hán, Kiều mỗ đến lúc này cũng còn chưa rõ...

Trong đám người có tiếng người nói khe khẽ:

- Đúng đó, ngươi là đồ tạp chủng, chính mình cũng không biết mình là giống gì.

Gã đó chính là người hồi nãy lên tiếng châm chọc Cái Bang, có điều y nấp trong đám người, nói một hai câu rồi im bặt nên không ai biết y là ai, quần hùng mấy lần hướng về phía có tiếng nói để tìm hiểu nhưng vẫn không biết ai là kẻ động môi. Nếu bảo là kẻ đó thân hình quá thấp bé thì trong đám đông có ai đặc biệt nhỏ con đâu.

Kiều Phong nghe mấy câu đó rồi, chăm chú nhìn một hồi, gật đầu nhưng không lý tới nữa, quay sang Tiết Thần Y nói tiếp:

- Nếu quả như Kiều mỗ là người Hán mà hôm nay ông nhục mạ ta như vậy thì ta đâu có để yên? Còn nếu như mỗ đích thực là người Khất Đan, quyết ý đối địch cùng hào kiệt Đại Tống thì người đầu tiên ta phải giết chính là ông, để khỏi gây ra cảnh mỗi lần ta đả thương một người Đại Tống thì ông lại ra tay cứu sống. Có đúng không nào?

datlucky_way

23-07-2009 10:24 AM

Hồi 19(b) : TUY VẠN THIÊN NHÂN NGÔ VÃNG HĨ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Dù cho hang hổ đầm rồng,

Vào sinh ra tử anh hùng nhẹ tênh.

Trông ra trời đất mông mênh,

Tấm thân bảy thước lênh đênh một mình.

*

* *

Tiết Thần Y đáp:

- Đúng thế, dù đằng nào thì ngươi cũng ra tay giết ta.

Kiều Phong nói:

- Hôm nay ta cầu ông cứu cô nương này, thế là một mạng đổi một mạng, từ rày Kiều mỗ không bao giờ động đến một cái lông măng của ông.

Tiết Thần Y cười khan mấy tiếng nói:

- Lão phu bình sinh cứu người trị bệnh, chỉ có người khác cầu ta chứ xưa nay làm gì có ai bức bách được.

Kiều Phong đáp:

- Một mạng đổi một mạng, thế là công bình chứ đâu có phải bức bách.

Trong đám người cái kẻ nói léo nhéo kia lại tiếp:

- Ngươi không biết ngượng hay sao? Trong chớp mắt người ta đã băm vằm ngươi ra như tương, còn nói gì mà tha mạng ai nữa? Ngươi ...

Kiều Phong đột nhiên giận dữ quát lên một tiếng:

- Ra đây!

Âm thanh chấn động cả mái ngói, khiến bụi từ trên xà nhà bay lả tả. Quần hùng ai nấy tai ù đi, tim đập thình thình. Một đại hán ở trong đám đông theo tiếng gọi đi ra, giống như kẻ say rượu người lảo đảo không vững. Người đó mặc áo bào xanh, mặt tái mét không ai nhận ra là người nào. Đàm công đột nhiên kêu lên:

- À, đúng rồi, ngươi chính là Truy Hồn Trượng Đàm Thanh, học trò của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.

Quần hào Cái Bang nghe thấy y là đệ tử của Đoàn Diên Khánh, càng giận dữ không đâu kể xiết, cùng lên tiếng rủa xả, nhưng ai nấy trong bụng không khỏi thấp thỏm. Thì ra hôm đó tướng quân Hách Liên Thiết Thụ của Tây Hạ, cùng các cao thủ Nhất Phẩm Đường trúng chính thuốc độc Bi Tô Thanh Phong của mình nên bị bọn ăn mày bắt giữ cả. Thế nhưng chẳng mấy chốc Đoàn Diên Khánh tới nơi, quần hào Cái Bang không một ai địch nổi y. Đoàn Diên Khánh lấy bình thuốc thối chữa cho tất cả các cao thủ Nhất Phẩm Đường, bọn chúng xông lên đánh một trận khiến cho người của Cái Bang phải tan tác. Bọn ăn mày vừa tức, vừa sợ Đoàn Diên Khánh, thấy rằng Cái Bang từ nay không còn Kiều Phong thì mỗi khi gặp kẻ Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân này không cách nào kháng cự được.

Các bắp thịt trên mặt Truy Hồn Trượng Đàm Thanh giựt giựt đủ biết y đang đau đớn khôn tả, hai tay không ngớt cào vào ngực mình, từ nơi đó tiếng nói ú ớ phát ra:

- Ta ... ta với ngươi không thù không oán, cớ ... cớ sao lại phá pháp thuật của ta?

Tiếng nói chỉ vo ve, lúc có lúc không, hổn ha hổn hển nhưng môi không hề động đậy. Mọi người nhìn thấy thế ai nấy đều kinh hãi. Trong đại sảnh chỉ có vài người biết là y dùng thuật phúc ngữ, kết hợp với nội công thượng thừa, có thể làm cho đối phương bị mê loạn, mất hồn mà chết. Thế nhưng nếu như gặp phải người công lực cao hơn y, thuật đã không linh nghiệm lại hại ngược lại mình.

Tiết Thần Y giận dữ hỏi:

- Ngươi là đệ tử của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh đấy ư? Anh Hùng Yến của ta chỉ mời anh hùng hảo hán, còn kẻ vô sỉ bại loại như ngươi, sao lại trà trộn vào làm gì?

Bông từ trên tường cao ở đằng xa có tiếng người nói:

- Cái đếch gì mà anh hùng yến? Ta xem ra chỉ là bọn cẩu hùng đàn đúm. 

Y nói câu đầu thì tiếng nói còn văng vẳng xa xa, đến lúc dứt câu thì người đã theo âm thanh từ trên đầu tường nhẹ nhàng nhảy xuống rồi. Y thân hình cao nghệu nhưng hành động cực kỳ nhanh nhẹn. Trên mái nhà rất nhiều người, kẻ vung quyền, kẻ cầm kiếm chặn y lại đều chậm mất một bước, y đã né được lướt qua. Trong đại sảnh có nhiều người nhận ra y chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc.

Vân Trung Hạc nhảy vào trong sân rồi, chỉ lạng người một cái đã xông ngay vào trong sảnh, chộp lấy Đàm Thanh, xông luôn vào Tiết Thần Y. Người trong sảnh ai cũng sợ y đả thương Tiết Thần Y, nên lập tức bảy tám người lập tức chặn y lại. Ngờ đâu Vân Trung Hạc đã đoán trước rồi, lấy tiến làm thoái, thanh đông kích tây thấy mọi người vừa xông lại thì đã nhảy ngược trở lên đầu tường.

Trong hội anh hùng số cao thủ không phải là ít, người có bản lãnh chân thực thắng được Vân Trung Hạc không năm sáu chục thì cũng ba bốn mươi người, nhưng vì y ra tay trước nên không ai phòng bị kịp. Thêm nữa khinh công của y cực kỳ cao siêu, chỉ vừa nhảy được lên đầu tường là không ai còn có thể đuổi kịp được nữa. Không ít người thò tay vào túi, muốn lấy ám khí ra, những người đang canh trên mái nhà cũng lao xao hò hét tiến lại ngăn trở nhưng không còn kịp nữa.

Kiều Phong quát lên:

- Ngừng lại.

Ông lăng không đánh ra, chưởng lực nhả tới không khác gì một binh khí vô hình, trúng ngay vào lưng Vân Trung Hạc. Vân Trung Hạc hự lên một tiếng, nặng nề rơi bật ngửa trở vào, máu miệng tuôn ra như suối. Gã Đàm Thanh kia thì còn đứng vững nhưng lúc thì lảo đảo ngả ra phía đông, lúc lại chập choạng nghiêng qua hướng tây, ú a ú ớ trông thật hoạt kê. Thế nhưng trong đại sảnh không một ai lên tiếng cười, chỉ thấy tình hình trước mắt cực kỳ ghê rợn, trước nay chưa từng thấy bao giờ.

Tiết Thần Y biết rằng Vân Trung Hạc bị thương tuy nặng thật nhưng có cơ chữa được, còn Đàm Thanh tâm hồn điên loạn rồi, trên đời này không linh đơn diệu dược gì cứu y được nữa. Ông ta thấy Kiều Phong chỉ nhẹ nhàng quát lên một tiếng, một chưởng đánh nhứ ra mà uy lực như vậy, nếu như muốn lấy mạng mình chưa chắc đã có ai ngăn trở được. Ông còn đang trầm ngâm thì Đàm Thanh đã đứng sững như trời trồng, không còn lên tiếng, hai mắt mở trừng trừng xem ra đã tắt thở rồi.

Vừa rồi Đàm Thanh lên tiếng làm nhục Cái Bang, quần hào Cái Bang ai nấy đều cực kỳ tức tối nhưng không kiếm ra, chỉ đành tức suông, bây giờ thấy Kiều Phong vừa đến ra tay giết được y ngay nên ai nấy đều thống khoái. Tống trưởng lão, Ngô trưởng lão và bọn thẳng tính đã toan cất tiếng hò reo, nhưng nghĩ lại Kiều Phong là người Khất Đan đại cừu, nên đành phải cố gắng nén lại. Trong lòng ai nấy đều tự nhủ thầm: “Chỉ có để ông ta làm bang chủ của mình thì Cái Bang chuyện gì cũng xong, nếu không, ôi, từ nay đường dài gai góc, Cái Bang không còn bao giờ khôi phục được uy phong ngày nào nữa”.

Chỉ thấy Vân Trung Hạc cố gượng đứng lên, lảo đảo đi ra cửa, đi vài bước lại ọc ra một ngụm máu. Quần hùng thấy y bị thương nặng nên không ai làm khó y, nghĩ thầm: “Gã này chửi mình là “cẩu hùng đàn đúm”, chẳng ai làm gì được y, lại phải để Kiều Phong ra tay khiến cho cả bọn hả cơn tức”.

Kiều Phong nói:

- Hai vị Du huynh, hôm nay tại hạ gặp lại rất nhiều cố nhân, từ nay thành địch không còn là bạn nữa rồi, trong lòng không khỏi đau xót, nên muốn hai vị cho xin ít bát rượu.

Mọi người thấy ông đòi uống rượu đều hết sức kinh ngạc. Du Câu nghĩ thầm: “Để xem y giở trò gì cho biết”. Y lập tức sai trang khách lấy rượu ra. Tụ Hiền Trang hôm nay mở anh hùng đại yến, rượu thịt chuẩn bị thật nhiều, nên chỉ giây lát đầy tớ đã mang hồ rượu, chén uống ra. Kiều Phong nói:

- Chén nhỏ làm sao đủ hứng? Xin phiền đem bát lớn ra để rót rượu.

Hai tên trang khách bèn đem ra hai cái bát lớn và một bình rượu trắng vừa mở nắp, để lên trên bàn trước mặt Kiều Phong, rồi rót đầy một bát. Kiều Phong nói:

- Rót cả hai đi.

Hai gã đầy tớ theo lời rót đầy cả hai bát. Kiều Phong bưng một bát rượu lên nói:

- Các vị anh hùng nơi đây, ngày trước rất đông người đã từng giao thiệp với Kiều mỗ, hôm nay nếu còn điều gì vướng mắc thì chi bằng đôi bên cạn chén tuyệt giao. Vậy vị bằng hữu nào muốn giết Kiều mỗ thì trước hết đến đối ẩm một bát, từ nay về sau, giao tình khi trước sổ toẹt. Mỗ có giết người cũng chẳng coi là vong ân mà người có giết mỗ cũng không phải là phụ nghĩa. Tất cả anh hùng thiên hạ ở đây làm chứng.

Mọi người nghe thấy thế không khỏi rùng mình, trong đại sảnh đột nhiên lặng như tờ. Ai nấy đều nghĩ: “Nếu như ta tiến lên uống rượu, thể nào cũng bị y ám toán. Phách không thần quyền của y đánh ra, làm sao có thể chống đỡ được?”.

Yên lặng một lúc sau, đột nhiên có một người đàn bà toàn thân mặc áo sô gai, chính là di sương của Mã Đại Nguyên Mã phu nhân. Nàng ta hai tay bưng bát rượu, buồn thảm nói:

- Tiên phu táng mạng nơi tay ngươi, ta với ngươi còn gì đâu mà cố cựu chi tình?

Nàng bưng bát rượu lên môi nhấp một ngụm, nói:

- Sức kém uống không hết, sinh tử đại cừu cũng như bát rượu này.

Nói xong cầm bát rượu hắt xuống đất. Kiều Phong đưa mắt nhìn thẳng vào bà ta, thấy nàng mi thanh mục tú, tướng mạo trông cũng khá đẹp. Đêm hôm trước ở trong rừng hạnh, dưới ánh lửa chập chờn, bây giờ ông mới nhìn rõ mặt, có ngờ đâu một người đàn bà liễu yếu đào tơ, thướt tha như vậy lại ghê gớm thế. Ông không nói một lời, cầm bát lên, uống một hơi cạn sạch, quay sang gã trang khách đứng bên vẫy tay một cái bảo y rót đầy hai bát khác.

Mã phu nhân lui về rồi, Từ trưởng lão bèn bước tới, không nói một lời uống cạn luôn một bát rượu, Kiều Phong liền cùng y đối ẩm một bát. Đến khi Truyền Công trưởng lão uống xong, Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính cũng tới. Ông ta cầm bát lên vừa toan uống, Kiều Phong liền nói:

- Khoan đã!

Bạch Thế Kính nói:

- Kiều huynh có điều gì dặn bảo?

Ông ta xưa nay đối với Kiều Phong rất là cung kính, bây giờ lời lẽ cũng không khác xưa chút nào, chỉ có điều không gọi là “bang chủ” mà thôi. Kiều Phong thở dài:

- Chúng ta là anh em đã lâu năm, không ngờ từ nay trở thành oan gia đối đầu.

Bạch Thế Kính nước mắt trào ra nói:

- Việc thân thế Kiều huynh, tại hạ vốn đã sớm nghe rồi, khi đó dù có chặt đầu, ta cũng không tin, ngờ đâu ... ngờ đâu lại là chuyện thật. Nếu không phải vì mối đại thù đất nước, Bạch Thế Kính này thà chịu chết chứ không đời nào lại thành kẻ địch với Kiều huynh.

Kiều Phong gật đầu nói:

- Việc đó ta đã biết rồi. Đến khi hóa hữu vi địch thì không khỏi một trường ác đấu, cho nên Kiều Phong có một chuyện muốn gửi gấm.

Bạch Thế Kính nói:

- Nếu như không liên quan gì đến quốc gia đại sự, Bạch mỗ nhất định sẽ tuân theo.

Kiều Phong mỉm cười, chỉ vào A Châu nói:

- Chúng vị huynh đệ Cái Bang, nếu như còn nhớ tới Kiều mỗ ngày xưa có chút công lao nho nhỏ, xin chiếu cố cho cô nương này được bình an chu toàn.

Mọi người nghe nói thế, biết ngay mấy câu của ông có ý “thác cô” , thấy rằng ông cùng các bạn hữu uống với nhau mỗi người một bát, sau đó sẽ hai bên đại chiến một phen, các hào kiệt Trung Nguyên liên hoàn vây đánh, dù ông có giết được tám người, mười người, tối hậu cũng không thể nào thoát chết. Quần hào tuy hận ông là Hồ Lỗ Thát tử, từng làm nhiều điều bất nghĩa nhưng không khỏi xúc động vì hành vi hào hiệp khẳng khái kia.

Bạch Thế Kính trước đây có giao tình với Kiều Phong rất hậu, nghe ông nói mấy câu đó, thật chẳng khác nào di ngôn lúc lâm chung, liền đáp:

- Kiều huynh cứ yên lòng, Bạch Thế Kính thể nào cũng cầu khẩn Tiết Thần Y ra tay chữa trị. Còn như Nguyễn cô nương đây có mệnh hệ nào, Bạch mỗ sẽ tự vẫn để tạ tội với Kiều huynh.

Mấy câu đó quả là minh bạch, Tiết Thần Y có chịu chữa hay không ông ta không thể nào làm gì khác được nhưng nhất định sẽ hết sức hết lòng. Kiều Phong nói:

- Nếu thế huynh đệ xin đa tạ.

Bạch Thế Kính nói:

- Đến khi giao thủ, Kiều huynh chẳng phải nhẹ đòn, Bạch mỗ nếu có chết dưới tay Kiều huynh thì Cái Bang sẽ có người khác lo liệu cho Nguyễn cô nương.

Nói xong cầm lên, uống một hơi hết sạch bát liệt tửu. Kiều Phong cũng cầm bát của mình uống cạn. Kế đó là bọn Tống trưởng lão, Hề trưởng lão của Cái Bang cùng ông đối ẩm. Khi người của Cái Bang ẩm tửu tuyệt giao xong rồi, anh hào các bang hội môn phái khác ai nấy đều lên mỗi người uống một bát.

Mọi người càng xem càng kinh hãi, xem ra ông đã uống đến bốn, năm chục bát rồi, một bình rượu to đã hết, trang khách đã phải bưng thêm lên một vò khác nhưng thần sắc Kiều Phong vẫn thản nhiên như không, bụng chỉ phồng thêm một chút ngoài ra không thấy gì khác lạ. Ai nấy đều nghĩ: “Nếu uống như thế thì say cũng đủ chết, việc gì còn phải ra tay động thủ làm gì?’.

Có ai biết đâu Kiều Phong thêm một phần tửu ý thì lại thêm một phần tinh thần lực khí, mấy hôm nay liên tiếp bị oan khuất, bao nhiêu uất ức buồn bực chưa có chỗ nào phát tiết, bây giờ gác qua một bên, định bụng sẽ say sưa một mẻ, đại chiến một phen.

Ông uống cạn năm chục bát lớn rồi, Bào Thiên Linh và Khoái Đao Kỳ Lục cũng uống xong, đến lượt Hướng Vọng Hải tiến lên cầm bát rượu nói:

- Họ Kiều kia, ta cũng uống với ngươi một bát.

Giọng điệu y có phần vô lễ. Kiều Phong hơi rượu bốc lên, liếc mắt nhìn y nói:

- Kiều mỗ uống đây là uống chén rượu tuyệt giao với anh hùng thiên hạ, để xóa bỏ các ân cũ nghĩa xưa, cái thứ ngươi mà cũng đòi uống tuyệt giao tửu với ta ư? Ngươi có giao tình với ta bao giờ?

Ông nói đến đây, không đợi y đáp lời liền tiến lên một bước vươn tay ra chộp ngay ngực y, hất một cái ném y văng ra ngoài cửa sảnh, Hướng Vọng Hải giáng vào bức tường trước mặt nghe bình một tiếng, lập tức ngất đi. Biến cố đó khiến cho đại sảnh nhốn nháo cả lên.

Kiều Phong nhảy vào trong viện, lớn tiếng quát:

- Ai là người ra đây một trận tử chiến?

Quần hùng thấy ông thần uy lẫm lẫm, nhất thời không một ai dám xông lên. Kiều Phong lại quát:

- Các ngươi không động thủ thì ta ra tay trước.

Ông vung tay lên, bình bình hai tiếng đã có hai người trúng phách không chưởng ngã lăn ra. Ông thuận thế xông luôn vào đại sảnh, tay đấm khuỷu thúc, chưởng chặt chân đá, chỉ chớp mắt đã đánh ngã bốn năm người. Du Ký kêu lên:

- Mọi người dựa lưng vào tường, không được loạn đấu.

Trong đại sảnh tụ tập đến hơn ba trăm người, nếu như cùng xông lên, Kiều Phong võ công dù cao siêu nhưng cũng không có cách nào kháng cự được. Thế nhưng tất cả mọi người tuy chụm lại một chỗ nhưng tới gần Kiều Phong chỉ độ vài chục người, đao thương kiếm kích bốn bề múa may, phần lớn chỉ cốt để phòng bị sao cho mình khỏi bị thương. Du Ký vừa kêu lên như thế, giữa đại sảnh lập tức giãn ra một khoảng trống.

Kiều Phong quát lên:

- Để ta lãnh giáo tài ba của Du Thị Song Hùng ở Tụ Hiền Trang.

Ông vung tay trái ra, một chiếc vò rượu lớn liền bay vọt tới chỗ Du Ký. Du Ký liền giơ hai tay chặn lại, định dùng chưởng lực đẩy chiếc vò dạt sang một bên, ngờ đâu Kiều Phong đã liệu trước rồi nên tay phải liền đánh ra, nghe ầm một tiếng, chiếc vò liền vỡ tan thành trăm ngàn mảnh. Những mảnh sành đó cực kỳ sắc bén, bị chưởng phong cực kỳ lợi hại của Kiều Phong đẩy tới, thật chẳng khác gì hàng trăm hàng nghìn đồng tiêu, phi đao, mặt Du Ký trúng luôn ba miểng khiến cho mặt đầy máu, lại có hơn một chục người ở bên cạnh cũng bị thương lây. Tiếng người chửi rủa, kêu la, nhắc chừng liền rầm cả lên.

Đột nhiên nơi góc nhà có tiếng một thanh niên kinh hoảng nói:

- Cha ơi! Cha ơi!

Du Ký nhận ra chính là tiếng của đứa con trai duy nhất của mình tên là Du Thản Chi, trong cơn gấp rút liếc qua, thấy trên má y máu me đầm đìa, thì ra cũng bị miểng vỡ đâm phải, bèn quát lớn:

- Cút ngay đi, mi ở đây làm gì?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y rút người náu sau cây cột nhà, nhưng vẫn thò đầu ra xem. Kiều Phong chân trái liền đá một cái, lại thêm một chiếc vò rượu nữa bay vụt ra. Ông vừa toan đánh ra một chưởng, bỗng thấy sau lưng có một luồng chưởng lực nhu hòa âm thầm đánh tới. Chưởng đó tuy mềm thật nhưng hiển nhiên uẩn tàng nội công cực kỳ hồn hậu. Kiều Phong biết rằng đây là một cao thủ ra tay, không dám coi thường vội vàng hồi chưởng lại đỡ. Hai người nội lực đụng nhau, đều phải chựng lại. Kiều Phong quay đầu nhìn thấy y hình mạo ti tiện, chính là kẻ vô danh Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương tên gọi Triệu Tiền Tôn, nghĩ bụng: “Gã này nội lực khá thật, ta không nên coi thường”. Ông hít một hơi, chưởng thứ hai chẳng khác gì bài sơn đảo hải đánh tới.

Triệu Tiền Tôn biết rằng một chưởng không thể nào chống đỡ nổi, song chưởng cùng tung ra định đỡ một chưởng của đối phương. Một giọng đàn bà ở bên cạnh kêu lên:

- Không muốn sống nữa à?

Vội vàng nắm lấy y nhắc qua một bên tránh được chính diện chưởng lực của Kiều Phong. Thế nhưng chưởng lực của Kiều Phong vẫn ào ào đẩy tới, đằng sau Triệu Tiền Tôn có ba người vừa toan xông lên, nghe thấy bình bình bình ba tiếng lớn, cả ba đều bay ngược lại, đập mạnh vào tường, khiến cho trên tường từng mảng, từng mảng vỡ tan, rơi lả tả.

Triệu Tiền Tôn quay đầu lại, thấy người nắm y lôi ra chính là Đàm bà, trong lòng vui sướng nói:

- Tiểu Quyên, nàng đã cứu mạng ta.

Đàm bà nói:

- Ta sẽ tấn công phía trái, còn sư huynh giáp công phía bên phải.

Triệu Tiền Tôn vừa đáp: “Được lắm” một tiếng thì đã thấy một ông già nhỏ bé gầy gò nhảy tới bên Kiều Phong, chính là Đàm công.

Đàm công thân hình loắt choắt nhưng võ công thật là ghê gớm, tay trái đánh ra tay phải liền đi theo, chưởng nọ vừa thu về thì chưởng lực bên kia đã đánh tiếp. Ông ta đánh liên hoàn ba chưởng liền, chẳng khác gì ba làn sóng, sóng sau xô sóng trước, chưởng nọ đè chưởng kia khiến cho sức mạnh gấp ba đơn chưởng. Kiều Phong khen ngợi:

- Chiêu Trường Giang Tam Điệp Lãng hay thật!

Tả chưởng đánh ra rồi, hai bên đụng nhau khiến cho cùng phải nhích qua một bên. Ngay khi đó Triệu Tiền Tôn và Đàm bà cũng giáp công, rồi lại thêm Từ trưởng lão, Truyền Công trưởng lão, Trần trưởng lão mọi người cũng xông vào nhập cuộc.

Truyền Công trưởng lão kêu lên:

- Kiều huynh đệ, Khất Đan và Đại Tống không thể đứng chung, bọn ta vì chuyện công mà phải quên việc riêng, lão ca ca này đành đắc tội.

Kiều Phong cười đáp:

- Tuyệt giao tửu đã uống rồi, còn nói gì huynh đệ nữa? Xem chiêu đây!

Ông giơ chân trái nhắm ông ta đá ra. Tuy nói như thế nhưng đối với quần hào Cái Bang Kiều Phong vẫn có chút tình hương hỏa nên cũng không muốn hại mạng ai, thậm chí cũng không muốn họ bị xấu mặt với người ngoài nên ngọn cước đến nửa chừng đột nhiên chuyển hướng đã nghe Khoái Đao Kỳ Lục kêu rống một tiếng nhảy vọt lên.

Y không phải tự mình phi thân mà bị Kiều Phong đá trúng mông. Thanh đơn đao trong tay vốn đang vận kình chém xuống đầu Kiều Phong nên khi bị tung lên vẫn còn mãnh liệt bổ trúng ngay xà nhà ngập vào cả thước khiến cho lưỡi đao bị dính cứng. Con đao đó là võ khí nổi danh của Khoái Đao Kỳ Lục, hôm nay gặp phải cường địch làm sao dám bỏ? Tay phải y nắm chặt cán đao thành thử thân hình lơ lửng trên không, tình trạng đó thật cực kỳ quái đản nhưng trong sảnh ai nấy đang vào cảnh sinh tử quan đầu nào ai dám nhãng ra để giúp đỡ y? Cũng chẳng có ai rỗi hơi để cười một tiếng!

Kiều Phong từ lúc học nghệ xong đến nay, tuy đã từng trải qua hàng trăm trận chiến chưa bao giờ thua ai nhưng cùng một lúc phải đấu với nhiều cao thủ như thế này thì bình sinh chưa từng có. Lúc này ông đã ngà ngà say, nội lực hết sức bùng lên, tửu ý càng lúc càng dâng cao, song chưởng múa tít lên ép cho không ai tới gần được.

Tiết Thần Y y đạo cực kỳ tinh vi nhưng võ công không thể coi là hạng cao thủ hạng nhất được. Về phương diện chữa bệnh, ông ta là một thiên tài siêu việt hơn người dường như không học cũng biết. Ông ta học võ từ nhỏ, sư phụ là một nhân vật võ học cao siêu ghê gớm nhưng một năm nọ Tiết Thần Y cùng bảy anh em đồng môn tự nhiên bị đuổi khỏi môn phái. Ông không chịu bỏ thầy nên đành tự mình tìm cách tài bồi dùng y thuật để trao đổi võ công với người khác, bên đông học một chiêu, bên tây học một thức nên võ công hiểu rộng biết nhiều trên giang hồ ít ai có được. Thế nhưng cũng vì cái chữ “rộng” ấy mà lại hỏng vì phàm ăn nhiều thì nhai không kỹ thành thử chẳng một môn nào luyện cho đến đầu đến đũa cả.

Cái tiếng y thuật như thần kia càng nổi đến đâu ai ai cũng kính phục ba phần. Mỗi khi ông thỉnh giáo võ công người khác, người nào cũng thuận miệng đưa đẩy vài câu để lấy lòng nên phần nhiều ngôn quá kỳ thực, chẳng một ai nói thực cho ông ta nghe. Chính vì thế ông không khỏi dương dương tự đắc, cứ tưởng rằng võ công thiên hạ mười phần thì mình đã biết được tám chín. Lúc này Tiết Thần Y thấy Kiều Phong đấu với quần hùng, ra tay đã nhanh mà đòn nào cũng nặng, quả thật dẫu có nằm mơ cũng chẳng tưởng nổi, khiến cho mặt cắt không còn hột máu, tim đập như trống hộ đê, ấp úng không nói ra được một lời chứ chẳng nói gì đến chuyện tiến lên động thủ.

Ông ta đứng dựa vào tường, càng lúc càng mất vía đã toan lẳng lặng lẻn ra khỏi đại sảnh nhưng lại không dám, nhìn qua thấy một lão tăng đứng ngay bên cạnh mình, chính là Huyền Nạn. Ông ta đột nhiên nhớ lại một việc, hết sức ăn năn nên quay sang nói:

- Mới rồi tại hạ nói ra một câu cực kỳ vô lễ, xin đại sư miễn trách cho.

Huyền Nạn đang hết sức chăm chăm nhìn vào Kiều Phong, không nghe Tiết Thần Y nói gì cả phải đến khi ông ta nhắc lại lần thứ hai lúc ấy mới ngạc nhiên hỏi lại:

- Câu nào thất lễ thế?

Tiết Thần Y đáp:

- Hồi nãy tại hạ có nói: “Kiều huynh một thân một mình, đêm qua vào chùa Thiếu Lâm mà không tổn một sợi lông, sợi tóc, lại còn bắt được một vị cao tăng đem đi, quả thật là lạ”.

Huyền Nạn hỏi lại:

- Thế thì đã sao?

Tiết Thần Y băn khoăn đáp:

- Gã Kiều Phong kia võ công cao như thế, quả là trên đời khó kiếm. Đến lúc này tại hạ mới biết là y đến chùa Thiếu Lâm, đánh người bắt người, vào ra như chỗ không người quả là khó mà ngăn trở.

Mấy cao đó ông ta vốn dĩ muốn xin lỗi Huyền Nạn nhưng nhà sư nghe lại càng tưởng như châm chọc, bèn hừ một tiếng nói:

- Tiết Thần Y muốn khảo sát võ công của phái Thiếu Lâm, có phải không nào?

Ông không đợi câu trả lời, lập tức lững thững bước ra, tay áo rộng phất lên, chưởng lực từ bên trong đánh thẳng vào Kiều Phong. Môn võ công của ông ta là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm tên là Tụ Lý Càn Khôn , tay áo vung lên thì quyền kình từ bên dưới đánh ra. 

Cao tăng chùa Thiếu Lâm xưa nay lấy chuyện tham thiền học Phật làm gốc, còn luyện võ tập quyền chỉ là ngọn, giận dữ bực bội cũng đã là phạm giới rồi huống hồ ra tay đánh nhau? Thế nhưng trong mấy trăm năm qua chùa Thiếu Lâm là nguồn gốc của võ học thiên hạ thì lẽ nào lại không ra quyền động cước? Môn Tụ Lý Càn Khôn này thì quyền dấu trong tay áo, trông thật là thanh nhã dễ coi. Tay áo che dấu được quyền kình, địch nhân không thể nào biết được đường đi của nắm tay ra sao khiến cho kẻ địch trở tay không kịp. Có ai biết đâu rằng cánh tay áo đó cũng chứa đầy kình lực và chiêu số thật là ghê gớm, nếu kẻ địch toàn tâm toàn ý để hết vào việc sách giải quyền chiêu dấu bên trong thì ông ta sẽ biến khách thành chủ dùng tụ lực đả thương người.

Kiều Phong thấy ông ta tấn công đến, hai cánh tay áo rộng căng phồng hướng tới chẳng khác nào hai chiếc buồm no gió, uy thế cực kỳ mạnh mẽ, liền quát lên một tiếng:

- Tụ Lý Càn Khôn, quả nhiên ghê gớm thật.

Nghe vù một tiếng đánh luôn vào tay áo. Tụ lực của Huyền Nạn trải ra một khoảng rộng, còn chưởng của Kiều Phong tập trung mà ngưng đọng nên chỉ nghe bụp bụp mấy tiếng, hai luồng lực đạo chạm nhau, đột nhiên trong đại sảnh bay tứ tung mấy chục cánh bướm màu xám tro.

Quần hùng còn đang hoảng hốt, nhìn kỹ lại thì ra những cánh bướm đó chính là tay áo của Huyền Nạn biến thành quay lại nhìn ông, thấy hở đến tận nách để lộ hai cánh tay dài khẳng khiu, trông thật khó coi. Thì ra nội kình hai người xung kích, hai cánh tay tăng bào làm sao chịu nổi nên lập tức nát vụn ra.

Chỉ qua một chiêu, Huyền Nạn không còn tay áo nữa, tụ lý đã mất lấy đâu ra càn khôn. Ông trong cơn phẫn nộ, mặt xanh như chàm đổ, có ngờ đâu chỉ một chưởng Kiều Phong đã phá được tuyệt kỹ thành danh của mình, hôm nay quả không còn mặt mũi nào nữa, nên hai cánh tay liền lên xuống như bổ củi xông vào tấn công.

Mọi người ai ai cũng biết rằng đây chính là môn Thái Tổ trường quyền lưu hành rộng rãi trong dân gian. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận chỉ nhờ vào một bài quyền, một cây gậy mà thu được giang sơn cẩm tú lập nên nhà Đại Tống. Trong các vị hoàng đế từ xưa tới nay không một ai thần dũng như Tống Thái Tổ, cho nên hai bài Thái Tổ trường quyền và Thái Tổ bổng là võ công thông dụng nhất thời đó, dẫu người không biết nhưng nhìn cũng đã quen.

Quần hùng thấy vị cao tăng Thiếu Lâm danh tiếng thiên hạ kia sử dụng Thái Tổ trường quyền là một lộ quyền pháp ai nấy đều biết nên không khỏi ngạc nhiên, nhưng khi thấy đánh ra ba quyền rồi, trong bụng đều phải trầm trồ: “Phái Thiếu Lâm được nổi tiếng như thế, không phải ngẫu nhiên. Chỉ một chiêu Thiên Lý Hoành Hành thôi mà ông ta đánh ra thật là uy lực”. Quần hào bội phục nên cái hình ảnh tăng bào rách nát của Huyền Nạn không còn thấy gì là bất thường nữa.

Trong số mấy chục người cùng vây đánh Kiều Phong, đến khi Huyền Nạn ra tay ai nấy tự biết mình có đánh thêm thì chỉ càng vướng chân vướng tay nên đều biết phận lùi lại hết, chỉ chia nhau vây chặt đề phòng Kiều Phong bỏ chạy, ngưng thần quan sát hai người một trận quyết chiến.

Kiều Phong thấy mọi người đã lùi ra rồi, trong bụng nảy ra một ý, vù một tiếng đánh ra chiêu Xung Trận Trảm Tướng, cũng chính là chiêu số trong Thái Tổ trường quyền. Chiêu đó trông thật là tiêu sái nhưng kình lực lại cương trung hữu nhu, nhu trung hữu cương, cao thủ võ lâm đạt đến mức hoàn mỹ của quyền thuật thì chỉ một chiêu cũng đã thấy rồi. Những người đến tham dự đại hội anh hùng yến, nếu như võ công không thật cao thì kiến thức cũng quảng bác, tinh yếu trong Thái Tổ trường quyền không ai là không biết. Kiều Phong đánh ra chiêu đó rồi, người nào người nấy không ai nhịn được phải kêu ồ lên, trầm trồ khen ngợi.

Tiếng trầm trồ vừa dứt, trong đại sảnh nhiều người thấy ngay là không ổn. Tiếng hoan hô kia lại là tán dương kẻ đại địch mà họ bảo là quân Hồ Lỗ ai nấy đang lăm lăm giết chết, thế có phải là nuôi dưỡng cho nhuệ khí của địch mà làm giảm uy phong của mình hay sao? Thế nhưng tiếng hò reo đã ra khỏi miệng rồi, không còn có thể nào thu về được nữa, thấy Kiều Phong đánh ra chiêu thứ hai Hà Sóc Lập Uy cũng lại cực kỳ tinh diệu, so với chiêu thứ nhất không thể phân biệt được chiêu nào hay hơn chiêu nào nên trong đại sảnh lại có một số đông hô hoán. Thế nhưng vì đã nhiều người cảnh giác cố nén lòng nên tiếng hò reo không vang dậy như lần thứ nhất, nhưng cũng lắm kẻ xuýt xoa nho nhỏ “Chà!”, “Ồ” ... nghe giọng điệu cũng chẳng khác lớn tiếng tán dương.

Kiều Phong lúc đầu cùng mọi người ác đấu, quần hùng ai nấy cố gắng phòng ngự e sợ ông hung mãnh dữ dằn, bây giờ tạm bỏ những quan ngại sang một bên, lúc ấy mới lãnh ngộ được những chỗ tinh diệu tuyệt luân trong võ công của ông.

Đến lúc Kiều Phong và Huyền Nạn trao đổi bảy tám chiêu rồi, hai bên ai cao ai thấp đã rõ. Hai người đều sử dụng những quyền chiêu bình thường không có gì là kỳ lạ, nhưng Kiều Phong chiêu nào cũng chậm hơn một bước, đều nhường cho Huyền Nạn ra tay trước. Huyền Nạn mỗi khi xuất chiêu, Kiều Phong liền ra thế để giải nhưng không biết có phải vì ông tuổi trẻ nên sức còn tráng kiện, hay là hành động nhanh nhẹn hơn mà chiêu nào cũng ra sau tới trước. Thái Tổ trường quyền vốn dĩ chỉ có sáu mươi tư chiêu, thế nhưng chiêu nào cũng khắc chế lẫn nhau, Kiều Phong nhìn rõ quyền chiêu của đối phương rồi sau đó mới ra thế giải chống trả lại thì Huyền Nạn làm gì mà chẳng thua? Đạo lý đó ai mà chẳng biết thế nhưng bốn chữ “hậu phát tiên chí” để áp dụng vào một đại cao thủ như Huyền Nạn thì mọi người nếu không chính mắt thấy hôm nay, sau này có nghĩ đến cũng không dám.

Huyền Tịch thấy Huyền Nạn nghiêng qua ẹo lại, chống đỡ không nổi liền kêu lên:

- Ngươi là giống chó má Khất Đan, ra tay toàn trò ti tiện.

Kiều Phong thản nhiên đáp:

- Ta sử dụng đây là quyền pháp của Thái Tổ bản triều, sao đại sư lại dùng hai chữ ti tiện là sao?

Quần hùng nghe nói thế liền hiểu ngay vì sao ông lại sử dụng Thái Tổ trường quyền. Nếu như ông dùng một loại quyền pháp khác để đánh bại Thái Tổ trường quyền người ta sẽ không bảo là vì ông công lực thâm hậu hơn mà lại đổ tội cho ông hối nhục võ công khai quốc của Thái Tổ, cái tiếng Di Địch, kẻ Hoa người Hồ kia sẽ càng làm sâu thêm thù nghịch. Còn như cả hai bên đều sử dụng Thái Tổ trường quyền thì ngoài việc tranh đua võ công ra, không còn nói gì khác được nữa.

Huyền Tịch thấy chỉ nháy mắt là Huyền Nạn sẽ rơi vào vòng sinh tử quan đầu nên không còn kể gì, sùy một tiếng tung ra một chỉ nhắm ngay huyệt Tuyền Cơ, chính là tuyệt kỹ điểm huyệt của phái Thiếu Lâm có tên là Thiên Trúc Phật Chỉ. Mặc dù tiếng gió rất nhỏ nhưng Kiều Phong nghe chỉ điểm tới, liền nghiêng người tránh qua nói:

- Đã từng ngưỡng mộ danh tiếng của Thiên Trúc Phật Chỉ từ lâu, quả nhiên công phu ghê gớm thật. Đại sư dùng võ công của người Hồ Thiên Trúc, tấn công quyền pháp của Thái Tổ bản triều. Nếu như đại sư thắng được tại hạ thì chẳng hóa ra là thông Phiên mãi quốc làm nhục đến Trung Hoa hay sao?

Huyền Tịch nghe thế không khỏi bàng hoàng. Võ công phái Thiếu Lâm do Đạt Ma lão tổ truyền lại mà Đạt Ma lại là người Hồ Thiên Trúc. Hôm nay chỉ vì quần hùng cho rằng Kiều Phong là người Hồ Khất Đan nên vây đánh ông, nhưng phái Thiếu Lâm võ công truyền vào Trung Thổ lâu rồi, các gia các phái của Trung Quốc, không nhiều thì ít cũng có liên quan đến phái Thiếu Lâm nên cũng chẳng còn ai nhớ đến cái dây mơ rễ má đó. Bây giờ nghe Kiều Phong nói ra, ai nấy trong lòng chấn động.

Trong đám anh hùng không hiếm người có kiến thức, trong lòng đều nghĩ: “Chúng ta đối với Đạt Ma lão tổ thì kính trọng như thần minh, sao đối với người Khất Đan thì lại hận đến xương tủy, nhưng cả hai cũng đều có phải cùng giòng giống với mình đâu? Ồ, hai giống đó khác nhau xa. Người Thiên Trúc xưa nay đâu có giết hại đồng bào mình, còn người Khất Đan thì hung dữ như lang sói. Xem như thế thì không phải chỉ vì là người Hồ mà giết, bên trong cũng còn phân biệt thiện ác nữa. Thế thì những người Khất Đan kia liệu có ai là người tốt hay không?”. Lúc đó trong đại sảnh đang hồi kịch đấu, một số đông thô lỗ chẳng kể đến chi tiết đó làm gì nhưng cũng có nhiều người hiểu biết tuy suy nghĩ đến chi tiết đó rồi cũng bỏ qua, trong lòng thầm nghĩ: “Kiều Phong chưa hẳn đã là không thể không giết, cái lý của bên mình cũng chưa hẳn chắc như đinh đóng cột”.

Huyền Nạn, Huyền Tịch lấy hai địch một thế nhưng vẫn thủ nhiều công ít. Huyền Nạn thấy quyền pháp mình chiêu nào cũng bị địch nhân không chế, trói chân trói tay, không thể thi triển được chút nào, đến lúc Huyền Tịch xông vào tấn công quyền pháp lập tức biến đổi, chuyển ngay sang La Hán Quyền của phái Thiếu Lâm.

Kiều Phong cười nhạt nói:

- Võ công đó cũng từ người Hồ Thiên Trúc đem sang. Để xem võ công người Hồ lợi hại hay tài nghệ của Đại Tống chúng ta hay hơn?

Trong khi nói, ông liên tiếp vù vù đánh ra mấy đòn Thái Tổ trường quyền. Mọi người nghe thấy thế, trong bụng không biết phải thế nào. Ai nấy cũng vì ông ta là người Hồ mà đến vây đánh, thế nhưng bên mình thì lại dùng võ công Hồ nhân, còn chính Kiều Phong thì lại sử dụng trường quyền của Thái Tổ bản triều để lại.

Bỗng nghe Triệu Tiền Tôn lớn tiếng kêu lên:

- Đâu cần phải biết y sử dụng quyền pháp gì. Gã này giết cha, giết mẹ, giết thầy, đáng chết lắm. Tất cả mọi người cùng tiến lên đi.

Y miện thì la, chính mình cũng xông vào trước. Kế đó Đàm công, Đàm bà, Từ trưởng lão, Trần trưởng lão của Cái Bang rồi cha con nhà họ Đơn Thiết Diện Phán Quan ... tất cả đến mấy chục người cùng ùa lên. Những người đó đều là những hảo thủ, võ công cao cường, tuy đông nhưng không vì thế mà hỗn loạn, người này lên thì kẻ kia xuống chẳng khác gì xa luân chiến.

Kiều Phong múa chưởng đánh ra, vừa đánh vừa nói:

- Các ngươi bảo ta là người Khất Đan, thế thì Kiều Tam Hòe Kiều công công, Kiều bà bà có phải cha mẹ ta đâu. Không nói gì hai vị lão nhân gia là người ta kính yêu không bao giờ có ý gia hại, mà dù ta có giết chăng nữa cũng không thể đổ lên đầu ta cái tội “giết cha, giết mẹ” được. Huyền Khổ đại sư là thụ nghiệp ân sư của ta, nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận ông ta là thầy ta, thì Kiều mỗ phải là đệ tử Thiếu Lâm, các vị vây đánh một đệ tử Thiếu Lâm thì vì cớ gì?

Huyền Tịch hừ một tiếng nói:

- Cưỡng từ đoạt lý, nói lấy được cho mình.

Kiều Phong nói:

- Nếu bảo là nói lấy được thì đâu có còn là cưỡng từ đoạt lý. Nếu như các ông không cho ta là đệ tử Thiếu Lâm thì làm gì đổ cái tội "giết thầy" lên đầu ta được? Người đời có nói rằng: Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo. Các ngươi muốn giết ta thì cứ quang minh lỗi lạc ra tay, việc gì phải đổ lên đầu ta cái tội nói lấy được, cưỡng từ đoạt lý?

Ông miệng nói hùng hồn nhưng tay chân không ngừng chút nào, tay đấm Đơn Thúc Sơn, chân đá Triệu Tiền Tôn, chỏ thúc một đại hán áo xanh chưa bao giờ gặp, chưởng đánh một ông già râu bạc chưa biết tên, vừa nói vừa đánh luôn bốn người. Ông biết những người này không phải là phường gian ác nên ra tay vẫn để lại chút dư tình, mười bảy mười tám người bị trúng đòn nhưng không ai đến nỗi chí mạng. Còn như anh em Cái Bang thì lại càng nhẹ đòn hơn, Từ trưởng lão vừa xông đến ông liền tránh ra chỗ khác.

Thế nhưng tham dự anh hùng yến đông quá, đánh ngã hơn một chục người thì lại có thêm mười người đầy sinh lực xông vào thay thế. Đấu thêm một lát nữa, Kiều Phong trong bụng kinh hãi thầm: “Nếu cứ đánh mãi thế này, thể nào chẳng có lúc mình hết hơi hết sức, chân tay mỏi mệt, chi bằng tìm cách chạy trước đi là hơn”. Một mặt ông vẫn ra chiêu, mặt khác tìm đường đào tẩu.

Triệu Tiền Tôn nằm dưới đất tuy không cử động được nhưng đã nhìn ra thâm ý của Kiều Phong dang toan tìm đường chạy liền lớn tiếng nói:

- Mọi người cố gắng ngăn chặn đừng để tên chó má vạn ác bất xá này có cơ trốn thoát.

Kiều Phong đang say đấu, hơi rượu xông lên lửa giận mỗi lúc một cao, nghe thấy Triệu Tiền Tôn lên tiếng nhục mạ mình không còn khống chế được, quát lớn:

- Thằng chó má này lấy mạng mi trước hết.

Ông vận công vào cánh tay, một chiêu phách không chưởng nhắm ngay y đánh tới. Huyền Nạn và Huyền Tịch cùng kêu lên:

- Không xong!

Hai người lập tức đưa tay phải muốn cùng một lúc chống đỡ chưởng của Kiều Phong để cứu mạng Triệu Tiền Tôn. Bỗng từ trên không có vật gì thấp thoáng, rồi tiếng người kêu rống lên thảm thiết, trước ngực bị chưởng lực của Huyền Nạn, Huyền Tịch đánh trúng, sau lưng bị phách không chưởng của Kiều Phong, ba luồng lực đạo mạnh mẽ kinh người cùng ép lại, khiến y gân cốt nát nhừ, tạng phủ vỡ tan, máu miệng phun ra nằm bẹp như một đống bùn dưới đất.

Việc xảy ra khiến cho Huyền Nạn, Huyền Tịch kinh hoảng mà đến Kiều Phong cũng thật ngoài ý muốn. Thì ra đó chính là Khoái Đao Kỳ Lục. Y treo lơ lửng trên không cũng đã lâu rồi, đong đưa qua lại làm cho thanh đao bập vào xà nhà lỏng ra. Người y vừa rơi xuống, khéo làm sao chính lúc ba người toàn lực ra tay đánh tới, thật chẳng khác nào hai phiến sắt ép hai bên thì làm gì mà không bỏ mạng?

Huyền Nạn nói:

- A Di Đà Phật, thiện tại, thiện tai! Kiều Phong, ngươi quả đã làm nhiều đại nghiệt.

Kiều Phong phẫn nộ nói:

- Người này ta giết một nửa, hai sư huynh đệ các ông giết một nửa, sao lại đổ cả lên đầu ta là sao?

Huyền Nạn đáp:

- A Di Đà Phật, tội thay, tội thay! Nếu không phải vì ngươi hại người trước thì làm gì có trận đấu ngày hôm nay?

Kiều Phong càng giận dữ nói:

- Được rồi, mọi việc cứ trút hết vào ta đi, thế thì đã sao nào?

Trong cơn ác đấu, tính hung dữ của ông nổi lên, Kiều Phong tung hoành chẳng khác gì một con mãnh thú, tay phải chộp ra nắm ngay một người chính là đứa con trai thứ của Đơn Chính Đơn Trọng Sơn, tay trái đoạt lấy đơn đao trong tay y, tay phải cầm dộng xuống một cái, đầu Đơn Trọng Sơn nát ngướu, chết ngay tại chỗ.

Quần hùng lập tức nhao nhao la hét, kẻ thì kinh hoàng, người thì phẫn nộ. Kiều Phong giết người rồi, ra tay lại càng như điên như cuồng, đơn đao vung tít lên, tay phải khi quyền khi chưởng, tay trái đơn đao khi phạt ngang, khi chém xuống, lúc đâm lúc bổ uy thế không sao đương cự nổi, trên bức tường trắng trước mặt nhòe nhoẹt đầy máu tươi, trong đại sảnh cũng ngổn ngang xác chết, kẻ thì đầu một nơi mình một nẻo, kẻ thì cụt chân lòi ruột. Lúc này ông chẳng còn nghĩ gì đến tình cũ với người trong Cái Bang, cũng chẳng còn hơi đâu nhìn xem đối thủ là ai, mắt đỏ long lên sòng sọc, gặp ai giết nấy. Hề trưởng lão cũng chết dưới đao của ông ta rồi.

Trong số những người đến dự anh hùng yến, mười phần thì tám chín đã từng tự tay giết người, nổi danh trong võ lâm không phải chỉ nhờ vào giao du, nịnh nọt. Nếu họ không chính tay giết người thì việc sát nhân phóng hỏa cũng đã thấy nhiều lần. Thế nhưng cuộc ác đấu kinh tâm động phách hôm nay thì trong đời chưa ai từng thấy. Địch nhân chỉ có một người thế nhưng không khác gì một con hổ điên, lại như ma quỉ, thoắt bên đông, vụt bên tây, chém giết, xung sát. Rất đông cao thủ tiến lên tiếp chiến đều bị ông dùng những chiêu thức vừa nhanh nhẹn, vừa mạnh bạo, vừa độc địa, vừa tinh vi giết sạch. Quần hùng nào có phải là những kẻ kinh khiếp sợ chết thế nhưng thấy đối phương như điên như cuồng, võ công lại không ai địch nổi, trong đại sảnh máu huyết vung vãi, xác người ngổn ngang, tai nghe tiếng người bị giết kêu la thảm thiết nên đến quá nửa đã dợm bỏ chạy, cốt sao tránh cho xa, Kiều Phong có tội cũng tốt mà vô tội cũng hay, chẳng muốn dây dưa gì nữa.

Du Thị Song Hùng thấy tình hình bất lợi, hai người tay trái cầm khiên, tay phải người cầm thương ngắn, người cầm đơn đao, huýt một tiếng còi, giơ khiên hộ thân chia từ hai bên tả hữu xông vào Kiều Phong.

Kiều Phong tuy ra tay tàn sát không còn kiêng nể gì nữa nhưng chiêu thức nào của địch tấn công tới ông đều chăm chú quan sát, tâm ý không loạn chút nào nên vẫn giữ được chưa bị thương. Ông thấy hai anh em họ Du tấn công tư thế độc địa, lập tức vù vù chém luôn hai đao, chặt hai người hai bên ngã xuống để chiếm lấy tiên cơ, rồi xông vào tấn công Du Ký. Đao của ông vừa chém xuống, Du Ký liền đưa khiên lên đỡ, nghe choang một tiếng, đơn đao của Kiều Phong nẩy ngược lên, lưỡi đao lập tức quằn lại không còn dùng được nữa. Hai chiếc thuẫn của họ Du đều làm bằng thép rèn thành, dù có bảo kiếm cũng không chặt nổi, huống chi thanh đao trong tay Kiều Phong chỉ là một võ khí tầm thường đoạt được trong tay Đơn Trọng Sơn?

Chiếc khiên của Du Ký đã gạt được binh khí địch rồi, đoản thương trong tay liền như một con rắn độc ra khỏi động, đi theo dưới thuẫn luồn ra, đâm vào bụng dưới Kiều Phong. Cũng ngay khi đó, ánh hàn quang lấp lánh, chiếc khiên trong tay Du Câu cũng quét ngang hông đối phương.

Chỉ trong nháy mắt, Kiều Phong nhìn thấy mép chiếc khiên cực kỳ sắc bén nhưng lại khoét vào chẳng khác gì một lưỡi đại phủ, nếu để y quét trúng thân hình sẽ đứt ra làm hai, quả là lợi hại vô cùng, liền quát lên một tiếng:

- Quân này giỏi thật!

Ông vứt bỏ đơn đao trong tay, tay trái dùng quyền, nghe choang một tiếng lớn, trúng ngay chính giữa chiếc khiên Du Ký cầm, tay phải lại đấm một cái, nghe choang một tiếng nữa trúng chiếc khiên của Du Câu.

Du Thị Song Hùng thấy thân trên tê dại, bị quyền lực vô cùng hồn hậu của Kiều Phong chấn động, mắt nổ đom đóm, hai cánh tay ê ẩm, cả khiên lẫn đao thương cầm không vững, bốn món binh khí loảng xoảng rơi xuống. Hai người hổ khẩu cùng rách bét ra, tay đầy máu.

Kiều Phong cười nói:

- Hay lắm, để hai món binh khí sắc bén lại cho ta.

Ông liền cầm hai chiếc khiên, múa lên che đỡ. Hai chiếc cương thuẫn này quả là khí giới vừa công vừa thủ cực kỳ lợi hại, chỉ nghe “Ối, ối” mấy tiếng đã có năm người chết vì hai chiếc khiên. Du thị huynh đệ mặt mày tái mét, thần khí chán chường, Du Ký kêu lên:

- Em ơi, thầy có nói rằng, khiên còn người còn, khiên mất người chết.

Du Câu cũng đáp lại:

- Anh ơi, hôm nay anh em mình thật là đại nhục, còn mặt mũi nào sống ở trên đời?

Hai người nhìn nhau gật đầu một cái, cùng cầm binh khí, một đao một thương tự đâm luôn vào chính mình, lập tức chết ngay. Quần hùng cùng kêu lên:

- Ối chà!

Thế nhưng đang lúc Kiều Phong múa cương thuẫn như gió cuốn, có ai dám tới gần ông ta năm sáu thước đâu? Mà cũng có ai vào gần ông được?

Chỉ nghe tiếng một thanh niên khóc rống lên:

- Cha ơi! Cha ơi!

Chính là con trai Du Câu, Du Thản Chi. Kiều Phong sững sờ, không ngờ Du thị huynh đệ của Tụ Hiền Trang lại tự sát. Ông thấy sau lưng toát mồ hôi lạnh, cơn say giảm đi quá nửa, trong lòng không khỏi bàng hoàng, nói:

- Du gia huynh đệ sao phải khổ như thế? Hai chiếc cương thuẫn này ta trả lại các ngươi.

Ông cầm hai chiếc cương thuẫn để luôn xuống bên cạnh xác của Du Thị Song Hùng. Ông vừa cúi xuống chưa kịp đứng lên, bỗng nghe có tiếng một thiếu nữ kêu lên:

- Coi chừng!

Kiều Phong lập tức nhích qua bên trái, ánh sáng xanh lấp loáng, một thanh kiếm đã đâm ngang bên hông. Nếu không nhờ A Châu kêu lên cảnh cáo, dẫu một kiếm chưa chắc gì đã đâm trúng ông ta nhưng thể nào chân tay cũng luống cuống, ở vào thế cực kỳ bất lợi. Người đánh lén chính là Đàm công, một lần không trúng vội vàng nhảy ra thật xa.

Trong khi Kiều Phong và quần hùng giao chiến thì A Châu nép tại một góc sảnh, nguyên khí trong người dần dần tiêu giảm, trông thấy mọi người vây đánh Kiều Phong, nghĩ đến ông ta biết chắc hung hiểm sẽ đến với mình vậy mà vẫn đưa nàng đến để xin chữa bệnh, cái ân đức đó thật dẫu tan thịt nát xương cũng khó mà báo đáp được. Nàng trong lòng cảm kích, lại lo âu, thấy khi Kiều Phong trả lại cương thuẫn, Đàm công từ sau len lén tấn công nên buột miệng kêu lên cảnh giác. Đàm bà giận dữ nói:

- Giỏi dữ a! Con tiểu quỉ đầu này bọn ta không giết mi thì mi lại nối giáo cho giặc.

Bà ta nhún một cái múa chưởng đánh xuống đầu A Châu. Chưởng của Đàm bà chỉ còn cách đỉnh đầu A Châu chừng nửa thước thì Kiều Phong đã tung mình nhảy tới, chộp ngay lưng Đàm bà đẩy mạnh vứt mụ ta qua một bên, nghe lạch cạch mấy tiếng đã đụng phải một chiếc ghế bành bằng gỗ lê vỡ vụn ra từng mảnh. A Châu tuy thoát được chưởng của Đàm bà nhưng cũng sợ đến mặt xanh như tàu lá, thân hình từ từ xụm xuống. Kiều Phong kinh hoảng nghĩ thầm: “Chân khí trong người nàng đã cạn rồi, nhưng trong hoàn cảnh này ta làm gì có cách nào tiếp khí cho cô ta được?”.

Chỉ nghe Tiết Thần Y cười khẩy nói:

- Chân khí của cô nương này trong chốc lát sẽ hết sạch, ngươi có dùng nội lực tiếp khí cho thị hay không nào? Nếu để tắt hơi thì thần tiên cũng không cách gì cứu sống lại được nữa.

Kiều Phong lâm vào cảnh khó xử, biết rằng Tiết Thần Y nói thực nhưng nếu mình chỉ đưa tay giúp đỡ A Châu thì bao nhiêu món binh khí của quần hùng chung quanh sẽ nhắm ông mà phóng tới. Trong đám này kẻ thì chết con, người thì bạn bè, ra tay ai còn dung tình chút nào? Thế nhưng chẳng lẽ đứng giương mắt nhìn nàng đoạn khí mà chết hay sao?

Ông hết sức mạo hiểm đưa A Châu đến Tụ Hiền Trang, đã không được Tiết Thần Y ra tay chữa trị mà lại chết vì hết chân khí thì quả là đáng tiếc. Thế nhưng nếu lúc này ông dùng chân khí tục mệnh cho cô ta thì đúng là đem mạng mình đổi mạng cho nàng. A Châu bất quá chỉ là một a hoàn giữa đường gặp gỡ, nói đúng ra cũng chẳng có gì gọi là giao tình, ra tay cứu giúp chỉ là hành vi hiệp nghĩa tầm thường, đem mạng mình đổi lấy mạng cô ta, thì quả là hơi quá đáng. Kiều Phong nghĩ thầm: “Cô ta nào phải thân nhân của mình, cũng không phải có ơn với ta nên cần báo đáp. Ta đã hết sức được đến thế này cũng đã là nhân chí nghĩa tận, hết lòng hết dạ rồi. Ta phải bỏ chạy ngay, Tiết Thần Y có cứu cô ta hay không, thì chỉ trông vào may rủi”.

Ông liền cúi xuống nhặt hai chiếc cương thuẫn lên, liên hoàn sử chiêu Đại Bằng Triển Xí, hai vòng bạch quang lấp loáng cuồn cuộn, từ từ xông ra cửa sảnh. Quần hùng tuy đông người thật nhưng chiêu số của Kiều Phong thật độc địa, đôi khiên này lại quá ư lợi hại thành ra khi múa lên trong vòng chu vi một trượng không một ai dám tới gần.

Kiều Phong vừa tiến được mấy bước ra phía cửa, chân vừa đặt vào ngạch cửa bỗng nghe một người già nua cấtù tiếng lạnh tanh:

- Giết con a đầu kia trước, báo đại cừu sau.

Chính là tiếng Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính. Đứa con cả của ông ta Đơn Bá Sơn liền đáp:

- Vâng!

Y cầm đơn đao nhắm ngay đầu A Châu chém xuống. Kiều Phong trong cơn sững sờ, không kịp suy nghĩ, chiếc khiên tay trái lia ra, xoay vòng vòng bay tới, thế đi thật là mãnh liệt. Bảy tám người cùng lên tiếng kêu la:

- Coi chừng!

Đơn Bá Sơn vội vàng thu đao về gạt ra, thế nhưng Kiều Phong ném ra ghê gớm dường nào, cạnh chiếc khiên lại thực sắc bén, chỉ nghe lách cách, cả người lẫn đao của Đơn Bá Sơn đều bị chém đứt làm đôi. Dư lực của cương thuẫn vẫn còn, nghe soẹt một tiếng chặt luôn một cái cột, cát ngói trên mái nhà loảng xoảng rơi xuống.

Đơn Chính và ba đứa con còn lại đau lòng kêu rống lên nhưng thấy Kiều Phong lẫm lẫm thần uy không ai dám xông vào công kích nhưng sáu bảy người khác vẫn nhào vào A Châu. Kiều Phong cất tiếng mắng:

- Thật đồ mặt dầy!

Vù vù liên tiếp bốn chưởng, ông đánh dạt bọn người đó ra, xông lên trước, tay trái ôm A Châu lấy chiếc khiên che cho cô gái. A Châu thều thào:

- Kiều đại gia, tôi không sống được nữa rồi, đừng lý tới làm chi! Mau ... mau chạy một mình đi!

Kiều Phong thấy quần hùng chẳng còn nghĩ gì tới công đạo, cả bọn xông vào hiếp đáp một cô gái yếu đuối hơi thở mong manh như đèn trước gió, khiến ông nổi cơn cao ngạo ngang tàng, lớn tiếng nói:

- Đã đến nước này, bọn chúng không để cho cô sống đâu, cả hai người mình cùng chết nơi đây vậy.

Tay phải vung ra, đoạt ngay một thanh trường kiếm, khi đâm khi cắt khi chém khi bổ, xông ra phía ngoài. Tay trái ông ôm A Châu nên cử động không thuận lợi, lại mất đi một cánh tay để sử dụng nên cục diện càng thêm khó khăn. Thế nhưng ông đã không còn coi sống chết vào đâu, trường kiếm múa tít lên chém ngang dọc nhưng mới đi được hai bước bỗng thấy lưng đau nhói lên thì ra đã bị người nào đó chém một đao rồi.

Ông liền giơ chân đá ngược về sau, đá kẻ đó văng ra xa hơn một trượng đụng vào một người khác, cả hai cùng chết ngay. Thế nhưng ngay lúc đó, đầu vai của Kiều Phong lại bị đâm một mũi thương, rồi ngực lại bị đâm một kiếm. Ông gầm lên một tiếng, chẳng khác gì tiếng sét giữa trời không, quát lớn:

- Kiều Phong này biết tự xử lấy mình, không để chết vào tay bọn chuột nhắt đâu!

Thế nhưng khi đó quần hùng thấy mình đắc thắng lẽ nào lại để cho ông tự tận? Hơn chục người cùng xông lên, Kiều Phong liền khởi thần uy, tay phải vươn ra chộp ngay vào huyệt Đãn Trung của Huyền Tịch, cầm ông giơ cao lên. Mọi người kêu lên một tiếng, không hẹn mà cùng lùi lại mấy bước.

Huyền Tịch yếu huyệt đã bị nắm trúng rồi, dẫu võ công cao cường nhưng lúc ấy toàn thân tê liệt, không còn cử động gì được, thấy cổ họng chỉ còn cách cương thuẫn chừng một thước, tay trái Kiều Phong chỉ đẩy một cái hay tay phải gạt ngang thì đầu ông sẽ bị cắt đứt ngay nên chỉ còn nước thở dài nhắm mắt chờ chết.

Kiều Phong thấy sau lưng, ngực phải, vai phải cùng đau buốt như bị lửa đốt liền nói:

- Một thân võ công của ta cũng ở chùa Thiếu Lâm mà ra, uống nước phải nhớ nguồn, không lẽ lại giết một cao tăng Thiếu Lâm tự? Kiều mỗ hôm nay đành chịu chết, giết thêm một người, phỏng có ích gì đâu?

Nói xong ông ném Huyền Tịch xuống đất, giang tay ra lớn tiếng nói:

- Các ngươi ra tay đi!

Quần hùng ai nấy ngơ ngác, bị hào khí của ông làm cho sững sờ, nhất thời không ai muốn động thủ. Lại có người nghĩ thầm: “Đến như Huyền Tịch y còn không muốn giết, lẽ nào lại làm hại thụ nghiệp ân sư là Huyền Khổ đại sư?”.

Thế nhưng Đơn Chính có hai đứa con trai bị ông giết chết, thương tâm phẫn khích, liền xông lên giơ đao đâm thẳng vào ngực Kiều Phong. Kiều Phong biết mình đã bị trọng thương, không còn cách nào xung sát trùng vi, nên đứng yên không cử động. Chỉ trong chớp mắt, trong đầu xoay chuyển không biết bao nhiêu sự việc: “Ta thực sự là người Khất Đan hay là người Hán? Kẻ giết chết cha mẹ, sư phụ ta ấy là ai? Ta một đời hành động biết bao chuyện nhân nghĩa, sao hôm nay vô duyên vô cớ sát hại bao nhiêu là anh hùng hiệp sĩ? Ta chỉ vì muốn cứu A Châu, lại để cho mình phải chết uổng, có phải ngu muội khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười hay sao?”.

Chỉ thấy khuôn mặt đen sì của Đơn Chính uốn éo biến hình, hai mắt mở trừng trừng cầm đao đâm thẳng vào ngực mình. Kiều Phong vừa đau lòng vừa phẫn nộ, ngửa mặt lên trời hú lên một tiếng như tiếng rống của một mãnh thú sắp lìa trần.

1 Lão bản là ông chủ tiệm, tiếng gọi giới thương nhân

2 Một Bản Tiền có nghĩa là Nghề Không Vốn

3 Kiều Phong lại thăm, tiếng khiêm tốn văn vẻ

4 trèo tường, nhảy lên mái nhà

5 Du Ký, Du Câu trình bày thêm, Tiết Mộ Hoa tiên sinh được người đời gọi là Tiết Thần Y.

6 vì việc đại nghĩa thì đến thân nhân mình cũng phải diệt

7 ỷ tài không sợ gì cả

8 A là tiếng gọi, không kính trọng lắm để chỉ một người bình dân, địa vị thấp kém. Những cô gái trong nhà Mộ Dung có tên Châu (đỏ gạch, tức Chu), Bích (xanh biếc) rồi sau này có thêm Tử (tím đỏ) đều gọi tên theo màu áo mặc.

9 Cẩu hùng là con gấu, cố ý nói trại anh hùng yến thành cẩu hùng hội.

10 Đầy tớ tiếp khách trong trang viện

11 Gửi gấm con côi, tích vua Thục Lưu Bị trước khi chết gửi con là Lưu Thiện cho thừa tướng nước Thục là Gia Cát Lượng trông coi (Tam Quốc diễn nghĩa)

12 cả càn khôn (trời đất) đều nằm trong tay áo

13 tụ là tay áo như trong chữ lãnh tụ (lãnh, cổ áo còn tụ, tay áo) là hai bộ phận đi đầu tiên khi mặc áo nên có nghĩa là dẫn đầu. Trong truyện thỉnh thoảng chúng tôi để nguyên những từ tụ lực (sức từ trong tay áo), tụ phong (gió từ trong tay áo) để khỏi lập đi lập lại

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro