Thiên Long Bát Bộ 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

datlucky_way

23-07-2009 10:28 AM

Hồi 21(a) : THIÊN LÝ MANG MANG NHƯỢC MỘNG 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ruổi rong muôn dặm đường xa,

Cứ đi mà chẳng biết là đi đâu.

Kẻ thù như thể bóng câu,

Chạy theo chỉ thấy một màu khói sương.

*

* *

Hai người lập tức xuôi nam, từ sơn lĩnh vòng qua Nhạn Môn Quan đến một tòa tiểu thị trấn, tìm một căn khách điếm. A Châu không đợi Kiều Phong mở lời đã bảo điếm tiểu nhị dọn hai mươi cân rượu. Gã tửu bảo thấy hai người vợ chồng không ra vợ chồng, anh em chẳng phải anh em đã kỳ lạ, lại nghe sai dọn hai mươi cân rượu, càng thêm ngạc nhiên, ngơ ngẩn đứng nhìn hai người, không đi lấy rượu, cũng chẳng đáp lời.

Kiều Phong trừng mắt nhìn y, không giận mà có uy, gã tiểu nhị hoảng hồn vội lật đật quay đi, miệng lẩm bẩm:

- Hai mươi cân rượu? Chắc để tắm hay sao?

A Châu cười nói:

- Kiều đại gia, chúng mình đi tìm Từ trưởng lão, xem chừng chỉ chừng hai ngày là người ta sẽ phát giác ngay. Trên đường gặp đâu đánh đó, gặp ai giết nấy, tuy cũng vui thật nhưng e Từ trưởng lão nghe hơi gió đã chạy cong đuôi, thì làm sao kiếm ông ta được.

Kiều Phong cười ha hả nói:

- Nàng đừng có đưa ta lên, trên đường ví như gặp ai đánh nấy, kẻ địch càng lúc càng đông, chúng mình rồi thể nào cũng bỏ mạng ...

A Châu nói:

- Nói đến hung hiểm thì cũng không đến nỗi nào, có điều bọn chúng nghe hơi gió đã cụp đuôi chạy hết thì thật là hỏng việc.

Kiều Phong nói:

- Thế theo cô thì mình phải làm cách nào? Chúng mình ban ngày ở trong khách điếm, ban đêm ra đi có được chăng?

A Châu mỉm cười nói:

- Muốn bọn họ không nhận ra mình thì thật dễ. Chỉ có điều Kiều đại hiệp danh mãn thiên hạ, không biết có chịu hóa trang hay không?

Nói đi nói lại, nàng cũng đi đến “dị dung cải trang”. Kiều Phong cười nói:

- Ta không phải người Hán, quần áo người Hán đây vốn đã không muốn mặc nữa rồi. Thế nhưng nếu mặc quần áo Khất Đan thì ở Trung Nguyên đi lại thật bất tiện. A Châu, nàng thử nghĩ ta nên mặc thế nào cho phải?

A Châu đáp:

- Đại gia thân thể cao to, đi đâu cũng khiến người ta chú ý, tốt nhất là cải trang thành một giang hồ hào sĩ hình mạo tầm thường, trên người không có điểm gì đặc biệt. Những người như thế trên đường mỗi ngày người ta gặp cả trăm, chẳng ai thèm để ý đến ông là ai đâu.

Kiều Phong vỗ đùi nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Uống rượu xong nàng giúp ta cải trang là xong.

Ông uống hết hai mươi cân rượu rồi, A Châu liền ra tay ngay. Bột mì, hồ dán, a dao đủ các loại nhồi nặn, bao nhiêu điểm khác người của Kiều Phong đều biến mất. A Châu lại thêm cho ông ta một bộ ria mép khiến Kiều Phong soi gương cũng còn không nhận ra mình là ai. Sau đó A Châu cũng tự cải trang thành một hán tử trung niên.

A Châu cười nói:

- Hình dáng bên ngoài của ông đã thay đổi rồi, thế nhưng khi nói năng, hay uống rượu người ta nhận ra ngay.

Kiều Phong gật đầu:

- Ừ, thế thì nói ít đi, uống cũng bớt.

Thành ra trên đường xuôi nam, Kiều Phong quả thật ít khi mở miệng, mỗi bữa ăn cũng chỉ uống hai ba cân, hết sức giữ ý. Hôm đó đến Tam Giáp Trấn ở Tấn Nam, hai người ghé vào một cái quán mì, bỗng nghe ngoài cửa có hai gã ăn mày nói chuyện với nhau. Một gã nói:

- Từ trưởng lão chết thật thảm thiết, trước ngực sau lưng, gân cốt đều đứt hết chắc là gã ác tặc Kiều Phong hạ độc thủ.

Kiều Phong kinh hoảng nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi sao?”. Ông liền đưa mắt cho A Châu. Lại nghe một gã ăn mày nói:

- Ngày mai tại Vệ Huy Hà Nam phát tang, trưởng lão trong bang, cùng các anh em đều đến tế viếng, để bàn tính làm cách nào bắt được Kiều Phong.

Kế đó gã ăn mày liền nói mấy câu ám ngữ, Kiều Phong nghe qua hiểu ngay, y nói là Kiều Phong thanh thế rất lợi hại nên không thể nói năng lung tung để thủ hạ của y nghe được.

Kiều Phong và A Châu ăn mì xong liền rời Tam Giáp Trấn, đi ra ngoài thành. Kiều Phong nói:

- Chúng mình nên đi Vệ Huy xem sao, không chừng kiếm được chút đầu dây mối nhợ.

A Châu đáp:

- Đúng đó, Vệ Huy thì phải nên đi. Kiều đại gia, những người đến phúng điếu Từ trưởng lão đa số là cựu bộ thuộc của đại gia cho nên cử chỉ ngôn ngữ chớ có để lộ chân tướng.

Kiều Phong gật đầu:

- Ta biết rồi.

Hai người liền quay sang hướng đông, đi về phía Vệ Huy.

Đến ngày thứ ba đã đến Vệ Huy, trong thành đầu đường xó chợ đâu đâu cũng toàn là đệ tử Cái Bang. Kẻ thì vào tửu lâu ngồi bàn ăn uống nhồm nhoàm, đứa thì nơi đường hẻm mổ heo giết chó, có người vòi vĩnh cướp giựt ngay ở ngoài đường. Kiều Phong trong lòng đau xót, thấy đại bang vẫn được coi là số một trên giang hồ nay chẳng còn qui củ gì, không thể nào bì với năm xưa khi mình còn chấp chưởng bang chủ kỷ luật nghiêm minh, khí tượng hưng vượng, mới chẳng bao lâu đã bị người đời coi rẻ. Vẫn biết Cái Bang với ông nay đã thành địch chứ không còn bạn bè gì nữa, thế nhưng bao nhiêu tâm huyết của mình bỏ ra chỉ một ngày tan ra mây khói, lòng ông không khỏi ngậm ngùi.

Bỗng nghe mấy đệ tử Cái Bang nói với nhau mấy câu mật hiệu, ông biết được linh vị của Từ trưởng lão để tại một khu vườn hoang nơi phía tây thành. Kiều Phong và A Châu mua ít nhang đèn, vàng mã và cái đầu heo đi theo người ta đến nơi đó, khấu đầu trước bài vị Từ trưởng lão.

Chỉ thấy trên linh bài của Từ trưởng lão bôi đầy máu tươi, đó là tập tục của Cái Bang ý nói người chết bị ám hại, người trong bang phải lo việc trả thù rửa hận. Trong nhà quàn ai nấy ngoạc mồm thống mạ Kiều Phong, có ai ngờ đâu ông đang ở ngay bên cạnh. Kiều Phong thấy chung quanh toàn là những nhân vật thủ não của Cái Bang, e ngại có người nhìn ra mình nên không dám lần khân, lập tức sóng vai A Châu đi ra, nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi thì trên đời này biết được "đàn anh đứng đầu" lại bớt đi một người nữa”.

Bỗng thấy nơi đầu hẻm tít đằng xa có bóng người thoáng một cái, đó là một người đàn bà thân thể cao to. Kiều Phong tinh mắt nhận ra ngay đó là Đàm bà, nghĩ bụng: “Hay quá, chắc là mụ ta đi điếu tang Từ trưởng lão đây, mình đang muốn đi tìm”. Lại thấy thêm một bóng người vụt qua nữa, khinh công cực kỳ cao siêu, chính là Triệu Tiền Tôn. Kiều Phong ngạc nhiên: “Hai người này thập thò lén lút không biết có cái trò gì đây?”.

Ông biết rằng hai người vốn dĩ là sư huynh muội, tình ái dây dưa đến nay chưa dứt, nghĩ thầm: “Hai người đều sáu bảy mươi tuổi rồi, không lẽ lại còn tư tình, giăng dện với nhau hay sao?”. Ông bản tính vốn không hay xen vào chuyện riêng của người khác, nhưng Triệu Tiền Tôn biết được "đàn anh đứng đầu" là ai, Đàm công, Đàm bà chắc cũng biết, nếu như bắt thóp được chuyện gì thì có thể thừa cơ ép buộc hai người thổ lộ, nên ghé tai A Châu nói:

- Nàng ở khách điếm chờ ta.

A Châu gật đầu, Kiều Phong lập tức đuổi theo hướng Triệu Tiền Tôn vừa chạy. Triệu Tiền Tôn chọn toàn những nơi ẩn khuất mà đi, hết náu dưới góc tường phía đông lại lẻn trên mái nhà phía tây, cử chỉ hết sức ngụy bí đi ra phía cửa đông. Kiều Phong theo xa xa, trước sau không để y phát giác, thấy y chạy đến bờ sông, khom người chui vào khoang một chiếc thuyền gỗ lớn. Kiều Phong đề khí chạy tới, nhún nhẩy mấy cái đã đến bên thuyền, nhẹ nhàng nhảy xuống mui, ghé sát tai vào thuyền lắng nghe.

Trong khoang thuyền, Đàm bà thở dài một tiếng nói:

- Sư ca, hai người mình tuổi tác cũng đã cao rồi, những chuyện ngày xưa có hối cũng đã muộn, nhắc lại có ích gì đâu?

Triệu Tiền Tôn nói:

- Cuộc đời ta coi như bỏ đi rồi, có hối cũng đâu còn kịp. Ta hẹn nàng ra đây cũng chẳng có chuyện gì, Tiểu Quyên, chỉ mong được nghe nàng hát lại mấy câu ngày xưa nàng vẫn thường hát mà thôi.

Đàm bà nói:

- Ôi, sư ca quả thực si mê nực cười. Thằng chả đó tới Vệ Huy thấy sư ca đã không lấy gì làm vui, y tính lại đa nghi, sư ca không nên chàng màng tiểu muội là hơn.

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Sợ gì cơ chứ? Mình sư huynh muội quang minh lỗi lạc, nói chút chuyện xưa, có gì mà không được?

Đàm bà thở dài một tiếng, nhỏ nhẹ nói:

- Mấy khúc hát năm xưa, mấy khúc hát năm xưa ...

Triệu Tiền Tôn thấy bà ta đã động lòng, lại càng năn nỉ, nói:

- Tiểu Quyên, hôm nay hai đúa mình gặp nhau, không biết sau này tới chừng nào mới lại trùng phùng, e rằng mạng ta cũng chẳng được bao lâu, nàng dẫu có muốn hát lại cho ta nghe ta cũng chẳng có cái phúc mà đến nghe được nữa.

Đàm bà nói:

- Sư ca chớ có nói thế. Nếu như quả anh muốn nghe, thì tiểu muội sẽ hát nho nhỏ một khúc cho sư ca nghe.

Triệu Tiền Tôn vui mừng nói:

- Hay quá, đa tạ sư muội. Tiểu Quyên, cảm ơn nàng.

Đàm bà liền khoan thai hát:

Năm nao chàng ghé thăm nhau,

Thiếp đang giặt lụa bên cầu dưới khe ... 

Mới hát được hai câu, nghe có tiếng lách cách, khoang thuyền mở tung, một đại hán xông vào. Kiều Phong cải trang rồi nên Đàm bà và Triệu Tiền Tôn không nhận ra. Hai người đang hoảng hốt, thấy không phải là Đàm công nên cũng yên tâm, quát hỏi:

- Ai đó?

Kiều Phong lạnh lùng nhìn hai người, nói:

- Một gã khinh bạc vô hạnh, dụ dỗ đàn bà có chồng, một người dâm đãng vô sỉ, trốn chồng đi gặp tình lang ...

Ông chưa nói dứt lời, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn cùng ra tay, chia hai bên đánh tới. Kiều Phong thân hình hơi nghiêng qua, lật một cái đã nắm ngay được cổ tay Đàm bà, kế tiếp cùi chỏ thúc ra, hậu phát tiên chí, tấn công vào sườn bên trái Triệu Tiền Tôn.

Triệu Tiền Tôn và Đàm bà đều là những cao thủ hạng nhất trong võ lâm, những tưởng chỉ ra một chiêu đã khống chế được kẻ địch, đâu có ngờ rằng con người hình mạo thật bình thường kia võ công lại cao siêu đến như thế, vừa ra tay đã đổi thủ thành công. Trong khoang thuyền chật hẹp, không thể thi triển tài nghệ, thế nhưng Kiều Phong đánh xa cũng hay, đánh gần cũng giỏi, sử dụng toàn cầm nã thủ và đòn nhập nội mà thôi, trong khu vực chưa đầy một trượng của khoang thuyền vẫn cực kỳ linh động. Đấu đến hiệp thứ bảy, hông Triệu Tiền Tôn bị trúng một chỉ, Đàm bà kinh hãi ra tay chậm lại, bị ngay một chưởng vào lưng, sụm ngay xuống.

Kiều Phong lạnh lùng nói:

- Xin hai vị ở đây nghỉ ngơi, trong khu vườn hoang trong thành Vệ Huy đang có rất nhiều anh hùng hảo hán đến viếng linh vị Từ trưởng lão, ta đi mời họ tới để họ bình phẩm xem đúng hay sai.

Triệu Tiền Tôn và Đàm bà hoảng hốt, cố gắng vận khí nhưng huyệt đạo đã bị phong rồi, đến đầu ngón tay cũng không cử động được. Hai người tuổi tác đã cao, vốn không có ý niệm tình dục gì, hẹn nhau ở đây, chẳng qua để kể lể tình xưa nghĩa cũ chứ có chuyện gì ra ngoài vòng lễ giáo đâu. Thế nhưng lúc đó đang thời Bắc Tống, lễ pháp ai ai cũng coi rất nặng, anh hùng hảo hán giang hồ phạm vào nữ sắc ắt bị người đời cười chê. Một nam một nữ lén lút gặp gỡ nơi thuyền này, nào có ai tin rằng hai người chỉ gặp nhau để hát cho nhau nghe vài câu? Nói với nhau vài câu chuyện tầm phào? Nếu ai ai cũng biết đến thì còn làm người sao được? Ngay cả Đàm công cũng chẳng còn mặt mũi nào.

Đàm bà vội nói:

- Vị anh hùng kia, chúng tôi có làm gì đắc tội với các hạ đâu, nếu có thể dung tình một chút, ta ... ta ắt có đền đáp.

Kiều Phong nói:

- Đền đáp thì không cần. Ta chỉ hỏi một câu, các ngươi cũng chỉ đáp lại ba chữ. Nếu như nói thực, tại hạ lập tức giải khai huyệt đạo cho hai người ngay, phủi tay đi thẳng. Chuyện ngày hôm nay nhất định không một ai nhắc đến nữa.

Đàm bà nói:

- Nếu như lão thân biết được thì nguyện sẽ phụng cáo ngay.

Kiều Phong hỏi:

- Có người từng viết thư cho Uông bang chủ của Cái Bang, nói về chuyện Kiều Phong, người viết thư đó người khác gọi là "đàn anh đứng đầu", kẻ đó là ai?

Đàm bà còn ngần ngừ chưa trả lời, Triệu Tiền Tôn lớn tiếng nói:

- Tiểu Quyên, không được nói, nghìn lần vạn lần không thể nói.

Kiều Phong trừng mắt nhìn y, hỏi lại:

- Ngươi thà chịu thân bại danh liệt nhưng không chịu nói hay sao?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Lão tử thà chết thì thôi. Vị "đàn anh đứng đầu" này có ơn với ta, ta nhất quyết không thể nói tên ra được.

Kiều Phong hỏi thêm:

- Thế dẫu cho Tiểu Quyên thân bại danh liệt, ngươi cũng không cần, phải không?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Nếu Đàm công biết chuyện hôm nay, ta lập tức tự vẫn trước mặt y, lấy cái chết tạ tội, thế là xong.

Kiều Phong quay sang Đàm bà:

- Người đó chưa chắc đã có ơn gì với bà, vậy bà nói ra đi, tất cả sẽ bình yên vô sự, bảo toàn được danh dự cho cả Đàm công Đàm bà, cũng bảo tồn cả tính mệnh cho sư ca của bà nữa.

Đàm bà nghe thấy ông ta đem tính mạng Triệu Tiền Tôn ra uy hiếp, không khỏi rùng mình nói:

- Được, thôi để ta nói cho người nghe, người đó là ...

Triệu Tiền Tôn vội kêu lên:

- Tiểu Quyên, nàng chớ có nói ra, nhất định không thể nói ra. Ta van xin nàng, van xin nàng! Gã này chắc là thủ hạ của Kiều Phong, nàng mà nói ra, tính mạng của vị "đàn anh đứng đầu" kia thể nào cũng nguy hiểm.

Kiều Phong đáp:

- Ta chính là Kiều Phong, các ngươi không nói ra hậu hoạn sẽ không biết đâu mà lường.

Triệu Tiền Tôn giật mình:

- Thảo nào công phu của ngươi ghê gớm thế. Tiểu Quyên ơi, trong đời ta chưa từng cầu xin nàng việc gì, đây là việc duy nhất ta xin nàng, dẫu thế nào chăng nữa mong nàng bằng lòng cho ta.

Đàm bà nghĩ đến ông ta mấy chục năm qua thương yêu ái mộ, tình sâu nghĩa nặng, mình phụ ông ta đã nhiều, tấm lòng mong mỏi được lấy nhau xưa nay chưa từng thổ lộ, vậy mà lần này vì muốn che dấu cho ân nhân, thà chết thì thôi, không thể nào làm hỏng cái nghĩa cử của sư ca được nên đáp:

- Kiều bang chủ, việc ngày hôm nay, làm điều thiện cũng tùy ông, mà làm điều ác cũng tùy ông. Hai sư huynh muội chúng tôi tự vấn lương tâm không điều gì đáng hổ thẹn, có đất trời chứng giám. Việc các hạ muốn biết, xin tha thứ lão thân không thể cáo tri được.

Mấy câu nói của bà ta nghe ra có vẻ khách khí, nhưng lời như chém đinh chặt sắt, nhất định cách nào cũng không thể nói ra.

Triệu Tiền Tôn vui mừng nói:

- Tiểu Quyên, đa tạ nàng, đa tạ nàng.

Kiều Phong biết rằng có bức bách thêm cũng không ích lợi gì, hừ một tiếng, rút chiếc trâm ngọc trên đầu Đàm bà, nhảy ra khỏi khoang thuyền chạy trở về hướng thành Vệ Huy để tìm nơi ở của Đàm công. Ông hóa trang nên không ai nhận ra, Đàm công, Đàm bà ngụ tại Như Quy khách điếm, hỏi là biết ngay.

Vào đến khách điếm thấy Đàm Công chắp tay sau lưng ở trong phòng đi qua đi lại xem ra cực kỳ bồn chồn. Kiều Phong đưa tay ra, lòng bàn tay là chiếc ngọc thoa của Đàm bà.

Từ lúc thấy Triệu Tiền Tôn đi theo như hình với bóng đến Vệ Huy, Đàm công trong dạ chẳng an, đến lúc này lại thấy vợ mình đi đâu lâu quá đang lo, không hiểu bà ta đang ở chỗ nào, bây giờ thấy cây trâm của Đàm bà, vừa mừng vừa lo bèn hỏi:

- Các hạ là ai? Có phải chuyết kinh nhờ các hạ đến đây chăng? Không biết có điều chi dạy bảo?

Nói rồi đưa tay cầm chiếc trâm ngọc. Kiều Phong để ông ta lấy chiếc thoa rồi mới nói:

- Tôn phu nhân bị người ta bắt giữ, nguy tại khoảnh khắc.

Đàm công cực kỳ kinh hoảng nói:

- Chuyết kinh võ công cũng khá, sao lại dễ dàng bị người ta bắt giữ được?

Kiều Phong đáp:

- Ấy là Kiều Phong.

Đàm công nghe thấy tên “Kiều Phong” không còn nghi ngờ gì nữa, lại càng băn khoăn lo lắng vội hỏi:

- Kiều Phong ư? Ôi chao, nếu quả là y thì phiền quá, nội nhân ta ... ta đang ở chỗ nào?

Kiều Phong đáp:

- Các hạ muốn tôn phu nhân sống cũng thật dễ dàng, mà muốn bà ta chết thì cũng không khó.

Đàm công tính tình trầm ổn, trong bụng tuy lo nhưng vẻ mặt vẫn bình thản như không hỏi lại:

- Xin được thỉnh giáo.

Kiều Phong nói:

- Kiều Phong có một việc muốn hỏi Đàm công, nếu như ông cứ sự thực mà nói lập tức thả tôn phu nhân ra, không để tổn hại một sợi tóc, còn như các hạ không chịu nói thì chỉ còn nước xử tử bà ta đem thi thể tôn phu nhân với thi thể Triệu Tiền Tôn chôn chung hai người một huyệt.

Đàm công nghe câu cuối cùng làm sao còn nhịn được nữa, rống lên một tiếng, vung chưởng đánh vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong nghiêng người hơi lùi lại một chút, chưởng đó liền không đánh trúng. Đàm công hoảng hốt, nghĩ thầm chưởng của mình nhanh như ánh chớp, cực kỳ ghê gớm, y chỉ nhẹ nhàng tránh được dễ dàng, lập tức chưởng bên phải đánh xéo qua đồng thời tả chưởng tạt ngang.

Kiều Phong thấy trong phòng chật hẹp không dễ gì tránh né được, liền gồng tay phải lên chịu đòn. Nghe bịch một tiếng, chưởng đó đánh trúng tay ông, Kiều Phong không nhúc nhích, tay liền vươn qua giữ chặt đầu vai ông ta đè ông ta xuống.

Đàm công lập tức cảm thấy vai mình như phải vác một tảng đá nghìn cân vội vàng vận kình phản kháng nhưng đầu vai như đụng phải một ngọn núi, xương sống kêu lách cách liên hồi tưởng chừng muốn gãy, chỉ còn nước khuỵu đầu gối chứ không làm gì khác hơn được. Ông hết sức vùng lên nhất định không chịu khuất phục, nhưng không cách nào hít thêm một hơi, hai đầu gối bải hoải, đành phải gục xuống. Việc quì xuống nào phải ý ông ta đâu có điều đầu gối, khớp xương không còn hơi sức, bị áp lực nặng nề từ trên ấn xuống không khuất tất thì không xong.

Kiều Phong có ý định làm nhụt ngạo khí của ông ta nên tuy đã bị buộc lòng quì xuống rồi nhưng sức đè xuống không thôi, tới lúc lưng cong như cánh cung, trán chạm đất. Đàm công mặt mày đỏ ké, cố vùng vẫy, đem hết sức lực bung người lên. Đột nhiên Kiều Phong buông tay ra, sức nặng nghìn cân trên vai Đàm công biến mất, ông ta xuất kỳ bất ý, thu thế không kịp, lập tức nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, nghe bình một tiếng đầu đã đụng vào xà nhà khiến cây gỗ gãy ra làm đôi.

Đàm công từ trên không rơi xuống, Kiều Phong không để ông ta chạm đất, vươn tay phải ra, chộp ngay ngực. Cánh tay Kiều Phong thật dài, Đàm công người nhỏ thó, dù cố đấm đá cũng không sao đụng được vào đối phương, huống chi ông ta hai chân bông bênh lơ lửng, dẫu võ công cao siêu bậc nào cũng không sử dụng được, trong cơn nguy cấp chợt hiểu ra kêu lên:

- Thì ra ngươi chính là Kiều Phong.

Kiều Phong đáp:

- Dĩ nhiên là ta rồi!

Đàm công giận dữ nói:

- Ngươi ... ngươi ... con mẹ ngươi chứ, mắc mớ gì lại dính dáng cả thằng khốn kiếp Triệu Tiền Tôn?

Ông ta giận nhất là câu đem Đàm bà giết rồi sẽ đem chôn chung với xác Triệu Tiền Tôn. Kiều Phong nói:

- Mụ vợ ngươi muốn dính dáng đến y thì có liên can gì đến ta đâu? Ngươi có muốn biết Đàm bà lúc này đang ở đâu không? Có muốn biết bà ta đang ỷ eo tình thoại, hát xướng tình ca với ai không?

Đàm công nghe nói thế, đoán chừng vợ mình đang cùng với Triệu Tiền Tôn tại một nơi, không thể không làm cho ra đầu ra đũa liền nói:

- Mụ ta ở đâu? Xin ông dẫn ta đến.

Kiều Phong cười khẩy:

- Thế ngươi làm gì cho ta chưa? Tại sao ta lại phải dẫn ngươi đi chứ?

Đàm công nhớ lại câu nói của ông hồi nãy bèn hỏi:

- Ông bảo có chuyện muốn hỏi ta, thế là chuyện gì?

Kiều Phong đáp:

- Hôm trước ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích Từ trưởng lão có mang lại một lá thư, viết gửi bang chủ tiền nhiệm Cái Bang Uông Kiếm Thông, lá thư đó do ai viết thế?

Đàm công chân tay run rẩy, lúc này y bị Kiều Phong xách lên, thân thể lơ lửng, đối phương chỉ cần nhả nội lực lập tức giết chết y ngay. Thế nhưng bản tính y trời sinh lì lợm, bèn nói:

- Người đó có thù giết cha ngươi, ta nhất quyết không thể tiết lộ tính danh, nếu không ngươi thể nào cũng kiếm để báo thù, thế có phải là ta hại mạng ông ấy hay sao?

Kiều Phong nói:

- Nếu ngươi không nói thì ta lấy mạng mi trước.

Đàm công cười ha hả nói:

- Ngươi coi Đàm mỗ là hạng người nào? Bộ ta tham sống sợ chết, bán rẻ bạn bè hay sao?

Kiều Phong nghe ông ta cố gắng bảo toàn nghĩa khí, trong bụng kính phục, nếu phải chuyện khác ông nhất quyết không truy bức làm gì, thế nhưng thù giết cha mẹ đâu phải tầm thường bèn nói:

- Nhà ngươi không coi mạng mình vào đâu, đến tính mạng vợ cũng chẳng đoái hoài hay sao? Đàm công Đàm bà thanh danh trôi theo dòng nước, tất cả mọi người cười chê không lẽ không sợ?

Trong võ lâm thanh danh là quan trọng nhất, tiếng tăm nặng hơn thân thể, ấy là sự thường tình của giang hồ hảo hán. Đàm công nghe mấy câu đó bèn nói:

- Đàm mỗ ngồi không nghiêng ngả, đứng chẳng vẹo xiêu, bình sinh chưa từng làm chuyện không hay không phải với bạn bè, làm gì có chuyện “thanh danh trôi theo dòng nước, tất cả mọi người cười chê ” được?

Kiều Phong thản nhiên nói:

- Thế nhưng Đàm bà chưa hẳn đã “ngồi không nghiêng ngả, đứng chẳng vẹo xiêu”, còn Triệu Tiền Tôn chắc gì “chưa từng làm chuyện không hay không phải với bạn bè”.

Đàm công mặt liền đỏ ké, tiếp theo đổi thành xanh lè, trừng mày trợn mắt hầm hầm nhìn ông. Kiều Phong buông tay, vứt ông ta xuống đất, quay mình chạy đi. Đàm công không nói một lời lẽo đẽo chạy theo, hai người một trước một sau chạy ra khỏi thành Vệ Huy. Trên đường không ít giang hồ hào khách nhận ra Đàm công, ai nấy cung kính nhường đường cúi chào. Đàm công chỉ ậm ừ một tiếng rồi chạy vụt qua. Chẳng mấy chốc hai người đã đến bên chiếc thuyền gỗ.

Kiều Phong tung mình nhảy lên đầu thuyền, chỉ vào bên trong nói:

- Tự mình ông đến xem cho rõ.

Đàm công liền lên thuyền, nhìn vào trong khoang, thấy vợ mình và Triệu Tiền Tôn tựa vào nhau, nép ở một góc, giận không sao nhịn nổi, phát chưởng nhắm ngay đầu Triệu Tiền Tôn đánh tới, nghe bùng một tiếng. Triệu Tiền Tôn không động đậy, không trả đòn, cũng không né tránh.

Bàn tay Đàm công đụng vào đầu y rồi, thấy có điều không xong, vội vàng đưa tay sờ vào mặt vợ, thấy lạnh ngắt, thì ra Đàm bà đã chết từ bao giờ. Đàm công run bắn người nhưng chưa thoái chí, liền đưa tay thăm mũi bà ta nhưng cũng có còn chút hơi thở nào đâu? Ông ta ngơ ngẩn, đưa tay sờ trán Triệu Tiền Tôn thấy cũng lạnh như băng, bi phẫn khôn tả, hầm hầm nhìn Kiều Phong, mắt như muốn tóe lửa.

Kiều Phong thấy đột nhiên cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn đều chết, cũng thật lạ lùng vô cùng. Khi ông rời thuyền để vào thành chỉ điểm huyệt hai người, sao hai cao thủ lại chết một cách thật bất ngờ như thế?

Ông nhắc Triệu Tiền Tôn lên, xem qua không thấy trên người có vết thương nào cả, cũng không có vết máu, liền nắm ngay áo trên ngực y nghe soẹt một tiếng, cởi tung ra thấy một vết bầm thật lớn, hiển nhiên đã bị chưởng lực thật mạnh. Lạ lùng nhất là vết tay kẻ dùng trọng thủ giống hệt bàn tay ông.

Đàm công ôm Đàm bà lên, xoay lưng lại, cởi áo bà ta ra xem vết thương trên ngực thấy cũng y hệt Triệu Tiền Tôn. Ông ta muốn khóc nhưng không lấy đâu ra nước mắt, nghiến răng nói với Kiều Phong:

- Ngươi mặt người dạ thú, độc ác đến thế sao.

Kiều Phong trong lòng kinh ngạc, không biết phải nói sao chỉ nghĩ: “Không biết ai đã dùng trọng thủ đánh chết Đàm bà và Triệu Tiền Tôn? Kẻ hạ thủ công lực thâm hậu, không phải tầm thường, không lẽ cũng chính là kẻ đối đầu với mình hay sao? Thế nhưng làm sao y lại biết hai người này đang ở trên thuyền?”.

Đàm công đau lòng vì người vợ yêu chết thảm, vận kình vào hai cánh tay hết sức xông vào Kiều Phong. Kiều Phong tránh qua một bên chỉ nghe một tiếng lách cách thật lớn, chưởng lực của Đàm công đã đánh sạt một bên khoang. Kiều Phong liền vươn tay chộp lấy đầu vai ông ta nói:

- Đàm công, phu nhân của ông không phải do ta giết, ông tin hay không nào?

Đàm công hỏi lại:

- Không phải ngươi thì còn ai bây giờ?

Kiều Phong nói:

- Trong lúc này mạng ông ở trong tay ta, Kiều mỗ nếu như muốn giết thật dễ như trở bàn tay, ta nói láo ông làm gì?

Đàm công nói:

- Ngươi chỉ vì muốn tra xét cho rõ kẻ giết cha ngươi là ai, Đàm mỗ tuy võ công không bằng ngươi thật nhưng đâu có để ngươi coi như thằng ngu?

Kiều Phong nói:

- Được rồi, ông nói tên kẻ thù giết cha cho ta nghe, ta sẽ đảm nhận trọng trách báo thù kẻ giết vợ cho ông.

Đàm công cười sặc sụa, cố sức vận kình ba lần muốn thoát khỏi bàn tay đối phương, thế nhưng bàn tay Kiều Phong chỉ nhẹ nhàng đè xuống tùy theo kình mà biến hóa, sức giãy giụa của Đàm công tuy mạnh thật nhưng đối phương cũng theo đó mà mạnh theo, trước sau vẫn không cách nào ra được. Đàm công đã quyết chí, bèn thè lưỡi để giữa hai hàm răng, cắn mạnh một cái cho đứt đầu lưỡi, mồm ngậm đầy máu phun thẳng vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong vội vàng tránh qua một bên, Đàm công liều xông tới, giơ chân hất cái xác của Triệu Tiền Tôn qua một bên, hai tay ôm xác Đàm bà, đầu ngoẹo xuống, tắt thở chết ngay.

Kiều Phong thấy cái thảm trạng đó, trong lòng bồi hồi không khỏi có chút xót xa. Vợ chồng họ Đàm và Triệu Tiền Tôn tuy không phải chính tay ông giết, nhưng cũng vì ông mà chết. Nếu muốn hủy diệt thi thể, vết tích ông chỉ cầm dậm chân một cái, đạp vỡ đáy thuyền, chiếc thuyền sẽ chìm xuống đáy sông nhưng nghĩ lại: “Nếu ta dấu ba cái xác này đi chẳng hóa ra có tật giật mình hay sao?”.

Ông đi ra khỏi khoang thuyền trở lên bờ định tìm xem có dấu chân hay manh mối gì chăng, nhưng không thấy gì cả.

Ông rảo bước chạy về khách điếm, A Châu vẫn đứng ngoài cửa trông chờ, thấy ông bình yên trở lại mừng rỡ ra mặt, nhưng thần tình bất định, biết ngay đuổi theo Triệu Tiền Tôn và Đàm bà chẳng được tích sự gì, hạ giọng hỏi nhỏ:

- Thế nào rồi?

Kiều Phong đáp:

- Chết hết!

A Châu hơi kinh ngạc nói:

- Cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn?

Kiều Phong đáp:

- Luôn cả Đàm công nữa, cả thảy ba người.

A Châu lại tưởng do tay ông giết, trong bụng tuy không yên nhưng không tiện buông lời trách cứ, bèn nói:

- Triệu Tiền Tôn có nhúng tay vào việc làm chết cha đại gia, có giết cũng ... cũng không đến nỗi gì.

Kiều Phong lắc đầu:

- Không phải ta giết đâu.

A Châu thở ra nói:

- Nếu không phải ông giết thì tốt lắm. Thiếp vẫn nghĩ rằng Đàm công, Đàm bà chưa từng làm gì đắc tội với đại gia có tha cũng được, thế nhưng ai giết thế?

Kiều Phong lắc đầu:

- Ta cũng không biết.

Ông bấm ngón tay tính toán rồi nói:

- Biết được tên của chính phạm cự ác kia bây giờ chỉ còn có ba người. Mình làm gì phải làm cho nhanh, đừng để kẻ kịch ra tay trước, việc gì mình cũng vào thế hạ phong.

A Châu đáp:

- Đúng thế, Mã phu nhân hận ông tận xương tủy, dù có cách nào cũng không chịu nói ra đâu. Huống chi dồn ép một quả phụ đâu phải là hành vi của một đại trượng phu. Còn chùa của Trí Quang hòa thượng ở tận Giang Nam, thôi mình đi tới Thái An đất Sơn Đông tìm nhà họ Đơn vậy.

Ánh mắt Kiều Phong tỏa ra một vẻ thương xót nói:

- A Châu, mấy hôm nay nàng quả là cực khổ.

A Châu lớn tiếng gọi:

- Chủ quán đâu, mau tính tiền.

Kiều Phong ngạc nhiên nói:

- Sáng mai tính tiền cũng chưa vội.

A Châu đáp:

- Không nên, tối nay đi luôn suốt đêm, đừng để cho kẻ địch lần nào cũng nhanh chân một bước.

Kiều Phong trong lòng cảm kích, gật đầu. Trời tối hai người ra khỏi thành Vệ Huy, trên đường đã nghe người ta đồn xôn xao về chuyện tên ác ma Kiều Phong hạ độc thủ, giết chết vợ chồng Đàm công và Triệu Tiền Tôn. Những người đó khi nói chuyện, mắt lấm lét nhìn quanh, chỉ sợ Kiều Phong bất thần xuất hiện, có biết đâu ông ta ở ngay bên cạnh, nếu như muốn ra tay thì y làm gì mà trốn tránh nổi.

Hai người trên đường thay đổi ngựa, ngày đêm liên tục chạy thẳng về hướng đông. Đi khoảng hai ngày đường, tuy A Châu chẳng hề thở ra một chữ “mệt” nào nhưng mắt nhắm mắt mở ngồi trên yên, suýt ngã mấy lần. Kiều Phong thấy nàng không còn chịu nổi nữa, nên bỏ ngựa đi xe. Hai người ngồi trên xe ngủ được ba bốn giờ, thấy đã đủ lại bỏ xe đi ngựa, hết sức chạy. Cứ thế không ngừng, A Châu vui vẻ nói:

- Lần này nhất định “tên đại ác” kia không thể nhanh hơn mình được.

Cả nàng lẫn Kiều Phong đều không biết kẻ địch là ai, mỗi khi nhắc đến người đó đành gọi là “tên đại ác”. Thế nhưng trong bụng Kiều Phong vẫn canh cánh lo, thấy "tên đại ác" này lần nào cũng nhanh hơn mình một bước, võ công y cũng không kém gì mình, cơ trí mưu lược lại còn hơn xa, huống chi tới giờ phút này mình vẫn như ở trong mây, chưa nhìn ra đường hướng gì còn mình làm gì kẻ địch đều biết rõ. Trong đời ông, chưa bao giờ gặp một đối thủ lợi hại như vậy. Có điều kẻ địch càng mạnh, ông vẫn hào khí ngất trời không chút hãi sợ gì cả.

Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính ở ngoài thành phía đông của Thái An, Sơn Đông, nơi đây ai cũng biết cả. Kiều Phong và A Châu đến Thái An thì trời đã về chiều, hỏi kỹ nhà họ Đơn rồi lập tức băng ngang thành đi tới. Ra khỏi cửa đông chừng một dặm bỗng thấy khói bốc mịt trời, xem ra có chỗ nào đang cháy rồi có tiếng thanh la đánh vang dậy, văng vẳng có tiếng người kêu:

- Xách nước mau lên! Xách nước mau lên! Mau cứu hỏa!

Kiều Phong cũng không để ý, tiếp tục giục ngựa chạy càng lúc càng gần đám cháy. Chỉ nghe tiếng người la lối:

- Cứu hỏa mau, cứu hỏa mau, Thiết Diện Đơn gia đó!

Kiều Phong và A Châu hoảng hốt, cùng ghìm cương lại, đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm: “Không lẽ "tên đại ác" lại đi trước một bước?”. A Châu an ủi:

- Đơn Chính võ công cao cường, dẫu nhà có cháy cũng không đến nỗi chết ở trong đó.

Kiều Phong lắc đầu. Từ khi ông giết chết Đơn thị nhị hổ, kết oán với nhà họ Đơn cực kỳ sâu xa, lần này đến Thái An, tuy không có ý giết người nhưng biết chắc Đơn Chính và con cháu nhất định không bỏ qua, thể nào cũng một phen đại chiến. Ngờ đâu chưa đến được trang viện, đối phương đã bị hỏa tai, trong lòng không khỏi cảm thấy bùi ngùi.

Càng gần Đơn gia trang càng thấy nóng hắt vào mặt, ánh lửa bốc lên lem lém, quả là một đám cháy to. Khi đó dân chúng quanh vùng đã cùng chạy tới chữa lửa, kẻ thì tạt nước, người thì đổ cát. Cũng may chung quanh Đơn gia trang đều có hào sâu nên dân chúng lân cận không bị cháy lây.

Kiều Phong và A Châu chạy đến bên hỏa trường liền xuống ngựa đứng xem. Bỗng nghe một hán tử than thở:

- Đơn lão gia là người tử tế, ở đây cứu tế chẩn bần, mấy chục năm nay tích biết bao công đức, thế mà nhà cháy đã đành, toàn gia hơn ba chục người không một ai chạy được?

Một người khác đáp:

- Chắc là kẻ thù phóng hỏa, đóng chặt cửa không cho ai chạy ra. Nếu không phải thế, đến đứa trẻ lên năm trong nhà họ Đơn cũng biết võ, lẽ nào lại không chạy được?

Người lúc trước bèn nói:

- Nghe nói Đơn đại gia, Đơn nhị gia, Đơn ngũ gia ở Hà Nam bị một tên ác tặc là Kiều Phong giết hại, lần này đến đốt nhà, chẳng phải tên đại ác đó thì còn đứa nào?

A Châu và Kiều Phong khi nói chuyện nhắc tới kẻ đối đầu đã gán cho y cái tên "tên đại ác" lúc này lại nghe những người nhà quê cũng gọi mình là "tên đại ác" nên không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Người tuổi trẻ hơn nói:

- Lẽ dĩ nhiên là Kiều Phong rồi.

Y nói đến đây chuyển sang thì thầm:

- Hẳn là y đưa một đám thủ hạ xông vào trang viện, giết sạch cả nhà họ Đơn không chừa con gà con chó. Ôi, trời xanh quả là không có mắt.

Người lớn tuổi hơn nói:

- Tên Kiều Phong kia tác ác đa đoan, mai sau thể nào chết thảm gấp trăm lần các vị đại gia nhà họ Đơn.

A Châu nghe bọn họ rủa Kiều Phong, trong bụng tức lắm, giơ tay vỗ vào cổ ngựa một cái, con ngựa giật mình, chân trái phóng ra, đá ngay vào mông gã kia. Gã đó kêu lên một tiếng, ngã sấp xuống. A Châu nói:

- Ngươi mồm miệng nói láo lếu gì thế?

Gã đó bị ngựa đá trúng, nghĩ đến thủ hạ "tên đại ác" kia hẳn là đông lắm, sợ đến mất vía không dám hó hé gì vội vàng lỉnh mất. Kiều Phong mỉm cười nhưng đầu mày cuối mắt có vài phần buồn bã, cùng A Châu chạy đến bên đám cháy. Họ nghe thấy mọi người xì xào bàn tán cùng một giọng, đều nói nhà họ Đơn già trẻ lớn bé hơn ba chục người không ai thoát chết. Kiều Phong ngửi thấy mùi xác người bị thiêu khét lẹt từ trong đám lửa bốc ra biết là những lời đó không sai, cả nhà Đơn Chính chết cháy cả.

A Châu khẽ nói:

- "Tên đại ác" này quả là độc địa, giết cha con Đơn Chính thì đã đành, sao lại phải giết toàn gia? Việc gì mà đốt luôn cả trang viện?

Kiều Phong hừ một tiếng nói:

- Cái đó gọi là nhổ cỏ nhổ tận rễ. Nếu là ta thì ta cũng đốt cả nhà.

A Châu kinh hãi hỏi lại:

- Sao thế?

Kiều Phong đáp:

- Tối hôm đó ở trong rừng hạnh, Đơn Chính có nói mấy câu, chắc nàng cũng có nghe. Ông ta nói: “Trong nhà tôi còn giữ mấy phong thư của vị "đàn anh đứng đầu", đem ra so nét chữ quả đúng thật”.

A Châu thở dài:

- Đúng đó, y đã tính nếu giết Đơn Chính vẫn e ngại đại gia vào trong Đơn gia trang kiếm ra được mấy phong thư đó thì có thể biết được tính danh của người này. Một bó lửa đốt cháy rụi Đơn gia trang thì chẳng thư tín nào còn lưu lại được nữa.

Khi đó người đến chữa lửa mỗi lúc một đông nhưng hỏa thế đang lớn, từng thùng từng thùng nước dội vào, chỉ khoảnh khắc đã thành hơi nước bốc đi đâu có dập tắt được. Từng đợt lửa và hơi nóng bốc ra thổi dạt mọi người lùi lại. Đám đông một mặt thở than, một mặt chửi rủa Kiều Phong, dân nhà quê ăn nói thô tục thật là khó nghe.

A Châu sợ Kiều Phong nghe những lời nhục mạ vô lý đó, cơn thịnh nộ nổi lên lại mở một trường sát giới thì thật là thê thảm cho đám dân đen nên len lén nhìn ông, thấy mặt ông cực kỳ quái dị, dường như thương tâm mà cũng dường như ăn năn nhưng xem chừng thương xót nhiều hơn, tưởng chừng biết rằng đám dân quê ngu dốt không đáng giết. Chỉ nghe ông thở dài một tiếng, thản nhiên nói:

- Thôi mình đi Thiên Thai Sơn.

Ông đề cập đến núi Thiên Thai âu cũng là chuyện chẳng đừng. Trí Quang đại sư tuy năm xưa có tham gia chiến dịch giết hại cha mẹ ông nhưng về sau đại phát tâm nguyện đi đến những vùng đất xa lạ lấy các loại vỏ cây đem về làm thuốc chữa trị cho dân chúng hai vùng Chiết Mân Lưỡng Quảng bị chướng khí sốt rét, cứu sống vô số người, chính ông vì thế mà nhiễm trọng bệnh khi khỏi rồi võ công mất sạch. Hành động tế thế cứu nhân đó trên giang hồ ai ai cũng kính phục, nhắc đến Trí Quang đại sư đều gọi là “Vạn Gia Sinh Phật”, Kiều Phong không vì bất đắc dĩ thì không bao giờ đến gây chuyện với ông ta.

Hai người rời Thái An tìm đường đi xuống phía nam. Lần này Kiều Phong không cố gắng chạy thục mạng, nghĩ thầm nếu như mình cứ nhẩn nha mà đi, không chừng lại bảo tồn được tính mạng Trí Quang đại sư, còn như hết sức chạy cho nhanh, khi đến núi Thiên Thai lại chỉ thấy xác ông nằm đó mà thôi, cả cái miếu ông đang trụ trì có khi cũng bị đốt thành tro rồi. Huống chí Trí Quang ngao du vô định, vân du bốn biển chắc gì đang ở tại Thiên Thai Sơn.

Núi Thiên Thai ở Triết Đông, hai người từ Thái An xuôi nam, lần này đi thong thả, chẳng khác gì du sơn ngoạn thủy, vừa đi vừa đàm luận những chuyện lạ trên giang hồ, nếu trong bụng không khắc khoải thì quả là một chuyến du hành kỳ thú.

Hôm đó đi đến Trấn Giang, hai người lên chùa Kim Sơn thưởng lãm phong cảnh. Kiều Phong nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy mãi về hướng đông, bỗng chợt nghĩ ra một việc nói:

- Không chừng gã "đàn anh đứng đầu" và "tên đại ác" là một.

A Châu đập tay nói:

- Đúng rồi, vậy mà sao mình không nghĩ tới chuyện đó nhỉ?

Kiều Phong nói:

- Cũng có thể đây là hai người nhưng nhất định họ phải có liên hệ với nhau thật mật thiết, nếu không "tên đại ác" không thể nào dùng thiên phương bách kế để che đậy thân phận cho tên "đàn anh đứng đầu". Thế nhưng đến những người như Uông bang chủ cũng còn đi theo thì tên "đàn anh đứng đầu" kia phải là một nhân vật ghê gớm lắm, cả "tên đại ác" cũng phải như vậy. Trên đời này làm gì có được hai cao nhân mà ta lại không biết được một? Cứ như thế mà suy ra, hai người này phần lớn cũng là một người mà thôi. Chỉ cần giết được "tên đại ác" là coi như ta đã trả xong mối thù giết cha giết mẹ rồi.

A Châu gật đầu khen phải, nói tiếp:

- Kiều đại gia, đêm hôm đó nơi rừng hạnh người ta kể lại chuyện ngày xưa, chỉ sợ ... chỉ sợ ... 

Nàng nói tới đây, giọng hơi run run. Kiều Phong tiếp lời:

- Chỉ sợ "tên đại ác" cũng có mặt trong khu rừng hạnh chứ gì?

A Châu run run đáp:

- Đúng vậy. Hôm ở khu rừng hạnh Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính nói là trong nhà ông ta có giữ mấy lá thư của "đàn anh đứng đầu" thành ra toàn gia mới bị đốt cháy rụi ... Ôi, thiếp nghĩ lại chuyện này sao ớn quá.

Nàng hơi run, nép vào một bên Kiều Phong. Kiều Phong nói:

- Người này tâm tính độc ác, trên đời khó gặp. Triệu Tiền Tôn thà chịu thân bại danh liệt, không chịu thổ lộ chân tướng của y, Đơn Chính cũng giao hảo với y, vậy mà y vẫn đang tâm hạ độc thủ cả hai người. Đêm đó nơi rừng hạnh, làm gì có nhân vật nào lợi hại đến thế?

Ông suy nghĩ một chút nói tiếp:

- Còn một chuyện nữa mà ta nghĩ cũng thấy lạ.

A Châu hỏi:

- Chuyện gì thế?

Kiều Phong nhìn chiếc thuyền buồm trên sông nói:

- "Tên đại ác" thông minh mưu trí chỗ nào cũng hơn ta một bực, nói đến võ công, xem ra cũng chẳng kém gì ta. Nếu y muốn lấy mạng ta, e rằng cũng không lấy gì là khó. Thế sao y lại còn sợ ta biết được kẻ thù là ai?

A Châu nói:

- Kiều đại gia, ông cũng đừng có quá khiêm tốn. "Tên đại ác" kia tuy võ công cao siêu thật, nhưng thực ra sợ ông đòi mạng. Thiếp đoán rằng mấy ngày nay y trong lòng nơm nớp, sợ đại gia biết được y là ai đến báo thù. Nếu không y việc gì phải giết ông bà Kiều lão, rồi đến Huyền Khổ đại sư, Triệu Tiền Tôn, Đàm bà và toàn gia Thiết Diện Phán Quan nữa.

Kiều Phong gật đầu nói:

- Có lẽ là như thế.

Ông quay sang mỉm cười nhìn nàng nói:

- Thế nhưng nếu y không dám đến hại ta, cũng chẳng dám đến gần nàng nữa, nàng đừng sợ.

Một lát sau ông thở dài:

- Gã này tính toán quả là ghê gớm. Kiều mỗ thật uổng xưng mình là anh hùng, bị người ta đùa dỡn ngay trên đầu mà chẳng làm gì được ai!

Sau khi qua khỏi Trường Giang, chẳng mấy chốc đã vượt sông Tiền Đường, đến huyện Thiên đài. Kiều Phong và A Châu nghỉ lại một đêm ở khách điếm. Sáng hôm sau vừa trở dậy, đang định hỏi thăm đường lên núi Thiên Thai thì người chưởng quĩ lật đật tiến vào nói:

- Kiều đại gia, có một vị sư phụ ở Chỉ Quán thiền tự trên núi Thiên Thai xin được bái kiến.

Kiều Phong kinh hãi vì khi ông thuê phòng đã thuận miệng nói mình họ Quan, bèn hỏi lại:

- Sao ngươi lại gọi ta Kiều đại gia là sao?

Gã chưởng quĩ đáp:

- Sư phụ chùa Chỉ Quán tả hình dáng Kiều đại gia không sai chút nào.

Kiều Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau đều cảm thấy hơi khác lạ, hai người vốn đã hóa trang, không hoàn toàn giống như khi ở Thái An Sơn Đông vậy mà khi tới Thiên Thai đã bị người ta nhận ra ngay. Kiều Phong nói:

- Thôi được, mời ông ta vào đây.

Chưởng quĩ quay mình đi ra, chẳng bao lâu đưa vào một nhà sư lùn mập tuổi chừng ba mươi. Nhà sư đó chắp tay chào Kiều Phong nói:

- Gia sư thượng Trí hạ Quang sai tiểu tăng là Phác Giả đến mời Kiều đại gia và Nguyễn cô nương đến viếng tệ tự.

Kiều Phong thấy đến A Châu họ Nguyễn y cũng biết lại càng ngạc nhiên hỏi lại:

- Không hiểu tại sao sư phụ lại biết được họ của tại hạ?

Nhà sư Phác Giả đáp:

- Gia sư có dặn rằng ở tại khách điếm Khuynh Cái huyện Thiên Thai có một vị Kiều anh hùng và một vị Nguyễn cô nương nên sai tiểu tăng đến đón lên núi. Đây là Kiều đại gia, không biết Nguyễn cô nương đang ở đâu?

A Châu cải trang thành một người đàn ông trung niên nên hòa thượng Phác Giả không nhìn ra lại tưởng Nguyễn cô nương không có ở đây. Kiều Phong lại hỏi:

- Tối hôm qua chúng tôi mới đến đây, làm sao tôn sư lại biết được? Không lẽ tôn sư có tài tiên tri hay sao?

Phác Giả chưa kịp đáp gã chưởng quĩ đã xen vào:

- Lão thần tăng ở Chỉ Quán thiền tự thần thông quảng đại, chỉ bấm ngón tay là biết được Kiều đại gia sắp đến. Chẳng nói gì việc một hai ngày sau mà đến năm trăm nữa việc gì lão nhân gia cũng mười phần biết được sáu bảy.

Kiều Phong biết là Trí Quang đại sư tiếng tăm rất vang dội, dân chúng ngu dốt coi ông như thần thánh nên không muốn nhiều lời nói:

- Thôi để Nguyễn cô nương đi sau cũng được, xin ông đưa hai người chúng tôi lên bái kiến tôn sư trước.

Nhà sư Phác Giả nói:

- Vâng!

Kiều Phong đang toan trả tiền ăn ở gã chưởng quĩ liền nói:

- Đại gia là khách của lão thần tăng ở Chỉ Quán thiền tự đến ở đây, chúng tôi thật là vinh hạnh, vài đồng tiền thuê phòng ăn cơm quả tình không dám nhận.

Kiều Phong nói:

- Như vậy thì xin cám ơn.

Ông nghĩ thầm: “Trí Quang thiền sư thi ân bố đức cho dân chúng, cái mối thù ông ta làm hại cha mẹ mình ta không tính toán tới, chỉ mong ông ta thổ lộ "đàn anh đứng đầu" và "tên đại ác" là ai cũng đủ cho ta mãn nguyện rồi”. Ông lập tức cùng Phác Giả ra khỏi huyện thành đi về hướng núi Thiên Thai.

Núi Thiên Thai phong cảnh thanh u nhưng đường lên núi cheo leo hiểm trở hơi khó đi. Tương truyền Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào núi này gặp tiên đủ biết phong cảnh phải đẹp đẽ là chừng nào, đường lên núi cong queo như rắn bò thật khó mà nhận ra được. Kiều Phong theo sau nhà sư Phác Giả thấy y cước lực thật cứng cỏi nhưng rõ ràng không phải là người biết võ công, nhưng không phải vì thế mà ông không dè chừng, nghĩ thầm: “Đối phương đã biết ta lẽ nào mình lại không phòng bị hơn nữa? Trí Quang thiền sư tuy là bậc cao tăng hữu đức thật, nhưng những người khác có chắc đâu bụng dạ cũng như ông ta”.

Ngờ đâu đường đến chùa Chỉ Quán đều bình an không có chuyện gì xảy ra. Các tự viện trong núi Thiên Thai có chùa Quốc Thanh thiên hạ đều biết tiếng, cao tăng đời Tùy Trí Khải đại sư đã từng tu tại đây phát triển Thiên Thai Tông trở thành một trọng địa của Phật môn suốt mấy trăm năm qua. Tuy nhiên trong võ lâm thì chùa Chỉ Quán lại lừng danh hơn. Kiều Phong vừa thấy hóa ra đây chỉ là một cái miếu nhỏ thật tầm thường, bên ngoài tường vách loang lở, nếu không có nhà sư Phác Giả đưa tới, Kiều Phong và A Châu chắc không thể nào tin nổi đây là ngôi chùa Chỉ Quán tiếng tăm lừng lẫy.

Phác Giả hòa thượng đẩy cửa miếu lớn tiếng nói:

- Sư phụ, Kiều đại gia đã đến rồi đây.

Có tiếng Trí Quang đại sư vọng ra:

- Quí khách từ xa đến mà lão nạp không kịp nghênh tiếp.

Nói xong bước ra ngoài cửa, chắp tay hành lễ.

Kiều Phong trước khi gặp lại Trí Quang vẫn canh cánh lo sợ "tên đại ác" sẽ giết ông ta chặn trước, đến bây giờ thấy mặt mới yên tâm, lập tức cùng A Châu xóa bỏ hóa trang để lộ bộ mặt thật ra tương kiến. Kiều Phong vái một cái thật sâu nói:

- Làm rộn việc thanh tu của đại sư, trong lòng không an chút nào.

Trí Quang nói:

- Thiện tai, thiện tai! Kiều thí chủ, ông vốn là họ Tiêu, tự mình đã biết hay chưa?

Kiều Phong thân hình run rẩy, tuy ông biết mình giòng giống Khất Đan nhưng phụ thân họ gì đến lúc này vẫn mù tịt, bây giờ mới nghe Trí Quang đại sư bảo mình họ Tiêu, tự nhiên lưng đổ mồ hôi lạnh, biết rằng thân thế chân tướng mình từ từ lộ ra, lập tức khom lưng nói:

- Tiểu khả bất hiếu, chính là đến đây để mong đại sư chỉ điểm.

Trí Quang gật đầu nói:

- Mời hai vị ngồi.

Ba người ngồi xuống ghế rồi, Phác Giả liền đem trà lên, nhìn thấy hai người tướng mạo biến cải, A Châu lại thành một người đàn bà nên hết sức ngạc nhiên nhưng vì có sư phụ ngồi đó nên không dám lên tiếng hỏi. Trí Quang nói tiếp:

- Tại thạch bích ngoài Nhạn Môn Quan lệnh tôn lưu lại tự tích, tự xưng họ Tiêu, tên là Viễn Sơn. Trong di văn gọi ông là Phong nhi nên bọn ta giữ nguyên tên đó, chỉ vì gửi Kiều Tam Hòe nuôi dưỡng nên theo họ của y.

Kiều Phong nước mắt ròng ròng, đứng bật dậy nói:

- Tại hạ cho đến tận hôm nay mới biết tên họ thực của phụ thân đều do ân đức của đại sư, vậy xin nhận một lạy này của tại hạ.

Nói xong ông liền phục xuống lạy. A Châu cũng đứng lên. Trí Quang chắp tay đáp lễ nói:

- Hai chữ ân đức nào có xứng đáng.

Quốc tính nước Liêu là Gia Luật, còn hoàng hậu từ xưa đến nay vẫn là họ Tiêu. Họ Tiêu đời đời là họ của hoàng hậu nên công khanh đầy triều, ở nước Liêu rất là quyền thế. Có khi Liêu chúa còn nhỏ tuổi, Tiêu thái hậu chấp chính, Tiêu gia uy thế càng thêm lừng lẫy. Kiều Phong đột nhiên biết mình thuộc dòng một họ lớn của Khất Đan nên trong lòng ngổn ngang trăm mối, đứng xuất thần một hồi, quay sang nói với A Châu:

- Từ nay trở đi ta là Tiêu Phong không còn là Kiều Phong nữa.

A Châu đáp:

- Đúng thế, Tiêu đại gia.

Trí Quang nói:

- Tiêu đại hiệp, tự tích còn lưu lại trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan, chắc là ông đã thấy qua rồi?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Chưa đâu. Tại hạ ra ngoài quan ngoại, vết chữ trên vách đá đã bị ai đó đục mất, không còn chút ngấn tích nào.

Trí Quang thở dài nói:

- Mọi việc đều đã qua, đến tự tích trên vách đá cũng đã đục mất, mấy chục mạng người làm sao có thể cứu sống lại được?

Ông từ tay áo lấy ra một tấm vải cũ cực lớn nói:

- Tiêu thí chủ, đây là bức tự tích tô trên vách đá.

Tiêu Phong trong lòng bồi hồi, cầm lấy mảnh vải, mở ra hóa ra mảnh vải này là do rất nhiều mảnh quần áo rách khâu lại với nhau, chữ nào chữ nấy đều là vết trống ở giữa thành hình chữ trắng, nét bút quái lạ tuy hình dáng trông cũng giống chữ Hán nhưng không đọc được nên biết là chữ Khất Đan. Tuy nhiên nét bút hùng kiện, tưởng như dao đục búa chém, nghe Trí Quang đại sư hôm đó nói rằng, đây là do phụ thân mình khi sắp chết dùng dao khắc thành, nên mắt bỗng mờ đi, nước mắt lã chã rơi xuống, từng giọt từng giọt rơi trên mảnh vải nói:

- Mong được đại sư dịch giải.

Trí Quang đại sư nói:

- Năm xưa bọn ta tô được rồi mới đem nhờ người ở trong Nhạn Môn Quan biết chữ Khất Đan giải thích cho, hỏi mấy người thì ai ai cũng bảo cùng một ý xem ra không phải là sai. Tiêu thí chủ, hàng chữ này nói là: “Phong nhi vừa tròn một năm, ta đưa vợ con đi ăn tiệc ở bên bà ngoại, trên đường đột nhiên gặp phải bọn ăn cướp Nam Triều ...”

Tiêu Phong nghe đến đây trong lòng xót xa, Trí Quang tiếp tục kể:

- ... chỉ chớp mắt, vợ ta bị cướp giết chết nên cũng không muốn sống làm gì. Thụ nghiệp ân sư của ta là người Hán, ta đã từng thề trước mặt sư phụ không giết Hán nhân, ngờ đâu hôm nay giết một lượt hơn mười người, vừa thẹn vừa đau lòng, chết đi còn mặt mũi nào nhìn thấy ân sư được nữa. Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút”.

Tiêu Phong nghe Trí Quang dịch xong, cung kính gập mảnh vải tô chữ lại nói:

- Đây là di trạch của tiên nhân Tiêu mỗ, mong đại sư ban cho.

Trí Quang nói:

- Xin nguyện phụng tặng.

Tiêu Phong đầu óc hỗn loạn, nghĩ đến cái đau lòng của phụ thân năm xưa, mới biết việc ông nhảy xuống vực tự tận chẳng phải chỉ vì đau lòng vợ bị giết mà thôi, mà còn là vì đã không vẹn lời thề, giết quá nhiều người Hán nên phải thẹn với sư môn.

Trí Quang chậm rãi thở dài một tiếng nói:

- Lúc đầu bọn ta vẫn tưởng lệnh tôn thống lãnh võ sĩ Khất Đan đến chùa Thiếu Lâm để đoạt kinh văn, đến khi đọc được di văn trên thạch bích này rồi mới biết là một chuyện lầm lẫn, hết sức sai quấy. Lệnh tôn đã quyết chí tự tận không lẽ nào khi sắp chết còn viết lời giả dối đánh lừa người ta. Nếu như ông ta toan đến chùa Thiếu Lâm đoạt kinh, lẽ nào lại mang theo một người vợ không biết chút võ công nào, bế thêm một đứa trẻ vừa đầy năm? Về sau chúng ta tra cứu cái tin đoạt kinh chùa Thiếu Lâm kia, thì ra từ miệng một kẻ nói láo, kẻ đó chủ tâm đùa rỡn "đàn anh đứng đầu" để cho ông ta phải nghìn dặm bôn ba để cho người ta cười một chuyến.

Tiêu Phong nói:

- Ôi, hóa ra chỉ là để đùa cợt mà thôi, gã ăn gian nói dối kia sao lại làm thế?

Trí Quang nói:

- "Đàn anh đứng đầu" tra xét rõ ràng rồi, trong bụng giận lắm nhưng tên nói láo kia đã trốn mất biệt, từ đó đến nay không thấy bóng dáng đâu nữa. Đến nay cũng đã ba mươi năm rồi, chắc y không còn sống trên đời này nữa.

Tiêu Phong nói:

- Đa tạ đại sư đã cho biết mọi việc tiền nhân hậu quả, khiến cho Tiêu Phong được trở lại thành một con người mới. Tiêu mỗ chỉ còn muốn hỏi thêm một việc.

Trí Quang đại sư hỏi:

- Tiêu thí chủ muốn hỏi chuyện gì?

Tiêu Phong hỏi:

- Cái vị "đàn anh đứng đầu" kia là ai thế?

Trí Quang nói:

- Lão nạp nghe nói Tiêu thí chủ chỉ vì muốn tra xét chuyện này mà đã giết chết Từ trưởng lão của Cái Bang, Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn bốn người, lại giết thêm cả nhà Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính, đốt Đơn gia trang thành bình địa nên biết rằng sớm muộn gì cũng sẽ đến đây. Xin thí chủ chờ một chút, lão nạp sẽ đưa cho thí chủ coi một vật.

Nói xong ông đứng lên. Tiêu Phong đang định nói rõ Từ trưởng lão và những người kia mình không hề giết thì Trí Quang đã đi thẳng vào hậu đường không quay đầu lại. Một lát sau, nhà sư Phác Giả đi vào nhà khách nói:

- Sư phụ mời hai vị vào thiền phòng nói chuyện.

Tiêu Phong và A Châu đi theo y qua một con đường mòn hai bên trồng trúc xanh um, đến trước một căn nhà nhỏ. Phác Giả hòa thượng đẩy cửa ra nói:

- Xin mời!

Tiêu Phong và A Châu liền tiến vào. Trí Quang đại sư ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn, nhìn Tiêu Phong mỉm cười, đưa ngón tay viết lên trên đất mấy hàng chữ. Căn nhà nhỏ này lâu nay không quét dọn nên bụi đóng thật dày thấy ông viết trên đó như sau:

Vạn vật đều là một,

Chúng sinh cũng ngang nhau.

Thánh hiền hay loài vật,

Cùng một khác gì đâu?

Dẫu Hán hay Hồ Lỗ,

Như thật mà như không.

Ân oán và vinh nhục,

Với cát bụi một dòng. 

Viết xong ông nở một nụ cười rồi chậm rãi nhắm mắt lại. Tiêu Phong nhìn tám hàng chữ dưới đất, ngơ ngẩn xuất thần nghĩ bụng: “Dưới mắt nhà Phật, người nhân người ác cũng vậy thôi, đến súc sinh ngạ quỉ, vua chúa quan tướng cũng đều không có gì phân biệt. Ta có là người Hán hay là người Khất Đan, chẳng cần phải bàn làm gì. Thế nhưng ta có phải người tu hành đâu, làm sao có thể tiêu sái như vậy được?". Ông bèn nói:

- Đại sư, vậy cái gã "đàn anh đứng đầu" đó là ai? Xin đại sư cho biết.

Ông hỏi luôn mấy câu, Trí Quang đại cư chỉ mỉm cười không trả lời. Tiêu Phong định thần nhìn kỹ, không khỏi giật mình, thấy mặt ông tuy nở một nụ cười nhưng cứng đơ không cử động. Tiêu Phong gọi giật lên hai lần “Trí Quang đại sư” nhưng ông vẫn không động tĩnh gì, vội đưa tay lên thăm mũi thì ra đã ngừng thở viên tịch từ bao giờ. Ông buồn bã không còn biết nói sao, quì xuống lạy mấy lạy, quay sang ngoắc A Châu:

- Thôi mình đi!

Hai người len lén đi ra khỏi chùa Chỉ Quán, lòng buồn rười rượi quay về huyện thành Thiên Thai. 

datlucky_way

23-07-2009 10:33 AM

Hồi 21(b) : THIÊN LÝ MANG MANG NHƯỢC MỘNG 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ruổi rong muôn dặm đường xa,

Cứ đi mà chẳng biết là đi đâu.

Kẻ thù như thể bóng câu,

Chạy theo chỉ thấy một màu khói sương.

*

* *

Đi được độ mươi dặm, Tiêu Phong mới nói:

- A Châu, ta thật hoàn toàn không có ý làm hại Trí Quang đại sư, sao ông ta ... ông ta ... lại phải khổ đến vậy?

A Châu đáp:

- Vị cao tăng đó đã nhìn thấu mọi việc trên đời, đại triệt đại ngộ đâu có còn phân biệt đâu là sống đâu là chết.

Tiêu Phong nói:

- Nàng thử nghĩ xem làm sao ông ta lại biết chúng mình tìm đường lên chùa Chỉ Quán?

A Châu đáp:

- Thiếp cho rằng ... thiếp cho rằng đây cũng là một việc chính "tên đại ác" kia làm.

Tiêu Phong nói:

- Ta cũng đoán thế, "tên đại ác" kia đã đến cho Trí Quang đại sư hay, bảo là ta đi tìm ông báo thù. Trí Quang đại sư nghĩ là không sao thoát khỏi độc thủ của ta nên sau khi nói chuyện xong liền uống thuốc độc tự tận.

Hai người nhìn nhau một hồi không ai nói thêm câu nào. A Châu bỗng nói:

- Tiêu đại gia, thiếp không biết trước sau, có mấy câu muốn nói, xin đại gia đừng trách cứ.

Tiêu Phong đáp:

- Sao tự nhiên nàng lại khách sáo đến vậy? Ta đương nhiên không trách gì nàng đâu.

A Châu nói:

- Thiếp nghĩ Trí Quang đại sư viết mấy câu trên đất, quả thực hết sức hữu lý. Đúng vậy:

Dẫu Hán hay Hồ Lỗ,

Như thật mà như không.

Ân oán và vinh nhục,

Với cát bụi một dòng.

Đại gia là người Hán thì cũng tốt, mà là người Khất Đan thì cũng vậy, có gì khác đâu? Sống chết nơi đầu đao mũi kiếm ở chốn giang hồ, thiếp nghĩ chắc đại gia cũng chán rồi, chi bằng ra ngoài Nhạn Môn Quan săn bắn, chăn nuôi, bao nhiêu ân oán vinh nhục của Trung Nguyên từ nay không còn ngó ngàng tới nữa.

Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:

- Quả thật cái nghề sinh nhai bằng đầu đao mũi kiếm ta chán lắm rồi. Ra nơi thảo nguyên ngoài biên tái cưỡi ngựa, thả ưng, xua chó đuổi thỏ, từ nay không còn băn khoăn gì nữa thì quả là thoải mái biết bao. A Châu, ta ra ngoài biên tái rồi nàng có còn đến thăm ta nữa không?

A Châu thẹn thùng, cúi đầu nói nhỏ:

- Thì thiếp đã chẳng nói đến “chăn nuôi” đấy ư? Đại gia cưỡi ngựa đi săn, thiếp cũng thả bò chăn cừu.

Nàng nói đến đây bèn cúi gầm mặt xuống. Tiêu Phong tuy là một hán tử thô hào nhưng cái ẩn ý trong mấy câu nói của cô gái cũng đã minh bạch, nàng rõ ràng muốn cùng mình suốt đời sống với nhau ngoài biên tái, không quay về Trung Nguyên nữa.

Tiêu Phong lúc đầu cứu nàng chẳng qua chỉ vì khí khái nhất thời, đến khi nàng tìm đường theo mình ra ngoài Nhạn Môn Quan, rồi qua Vệ Huy, Thái An, Thiên Thai bao nhiêu sóng gió, đường sá xa xôi, ngày đêm kề cận thấy nàng thật là ôn nhu thân thiết, lúc này nghe nàng nói thẳng tấm lòng mình, không khỏi bồi hồi, giơ hai bàn tay thô kệch nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của nàng nói:

- A Châu, em đối với ta thật tốt, chẳng vì ta là giống giòng đê tiện Khất Đan mà bỏ rơi ư?

A Châu đáp:

- Người Hán cũng là người mà Khất Đan cũng là người, làm gì còn có chuyện quí tiện? Thiếp ... thiếp thích người Khất Đan, đó là chân tâm thành ý, không có gì ép uổng cả.

Nàng nói đến những câu sau cùng tiếng chỉ thoảng nhẹ như muỗi kêu dường như không nghe thấy. Tiêu Phong mừng quá, đột nhiên giơ tay chộp ngay lưng nàng, tung nàng lên trên không, đợi khi nàng rơi xuống mới nhẹ nhàng đỡ lấy, để xuống đất, cười tủm tỉm nhìn nàng, lớn tiếng nói:

- A Châu, nàng từ nay theo ta cưỡi ngựa săn bắn, thả cừu chăn bò, sẽ không hối hận chứ?

A Châu nghiêm mặt nói:

- Dẫu có theo đại gia giết người cướp của, đốt nhà ăn trộm thiếp cũng không bao giờ hối hận. Dù phải chịu bao nhiêu khổ sở, trăm cay nghìn đắng, thiếp vẫn vui vẻ theo cùng.

Tiêu Phong dõng dạc nói:

- Tiêu mỗ được như thế này, chẳng nói gì trở lại làm bang chủ Cái Bang, dẫu có bảo ta làm hoàng đế nhà Đại Tống ta cũng chẳng thèm. A Châu, thôi mình đi Tín Dương tìm Mã phu nhân, bà ta chịu nói cũng được, mà không chịu nói cũng đành, đây là người sau cùng mình đi kiếm. Ta chỉ hỏi một câu sau đó hai đứa mình ra ngoài ải bắc săn bắn chăn nuôi.

A Châu nói:

- Tiêu đại gia ...

Tiêu Phong ngắt ngang:

- Từ nay trở đi, nàng không được gọi ta là đại gia, nhị gia gì nữa. Nàng gọi ta là đại ca.

A Châu mặt đỏ bừng nói nhỏ:

- Thiếp đâu có xứng?

Tiêu Phong nói:

- Nàng có chịu gọi không thì bảo?

A Châu mỉm cười:

- Nghìn lần vạn lần chịu, đâu có dám cãi lời.

Tiêu Phong cười nói:

- Vậy nàng gọi thử ta xem nào!

A Châu nói thật nhỏ:

- Đại ... đại ca!

Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Thế mới được! Từ nay về sau Tiêu mỗ không còn một thân một mình, bị người ta khinh bỉ là giống Hồ Lỗ hèn hạ, trên đời này ít ra cũng có một người ... cũng có một người ...

Ông không biết phải nói sao. A Châu tiếp lời:

- ... cũng có một người kính trọng chàng, bội phục chàng, thương yêu chàng, nguyện ý mãi mãi, đời đời kiếp kiếp, ở bên cạnh chàng chia xẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no.

Nàng nói những câu đó cực kỳ thành khẩn. Tiêu Phong cất tiếng cười vang động cả bốn bề sơn cốc, nghĩ đến A Châu nói sẽ cùng mình “chia xẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no” đủ biết nàng hiểu rằng rồi đây sẽ có rất nhiều chông gai nhưng thản nhiên cam chịu không hề hối hận. Ông trong lòng cảm kích tuy mặt ngoài cười cợt nhưng hai dòng lệ chẩy ròng ròng trên má.

Tiền nhiệm phó bang chủ Cái Bang Mã Đại Nguyên ở tại Tín Dương, tỉnh Hà Nam. Tiêu Phong cùng A Châu từ núi Thiên Thai ở Giang Nam đi đến Tín Dương, đường xa nghìn dặm không phải chỉ một ngày là đến được. Hai người từ khi ở núi Thiên Thai ướm lòng với nhau, tình ý dạt dào, nên thả lỏng dây cương để vừa đi vừa thưởng ngoạn những cảnh đẹp làm say sưa lòng người. A Châu vốn dĩ không thích uống rượu nhưng để trợ hứng cho Tiêu Phong nên cũng cố uống hầu tiếp một vài chung khiến má đỏ hồng lại càng thêm xinh đẹp.

Tiêu Phong vốn dĩ bụng đầy phẫn khích nhưng được A Châu nói cười ríu rít, chuyện trò thật duyên dáng nên bao nhiêu phiền não cũng giảm đến quá nửa. Chuyến đi từ Giang Nam ngược lên trung châu, so với lần đi từ Nhạn Môn Quan hối hả chạy qua Sơn Đông tâm tình thật khác hẳn. Tiêu Phong cũng có khi hồi tưởng, chặng đường mấy nghìn dặm này thật quả mơ mơ hồ hồ, lúc đầu là những cơn ác mộng nhưng đến sau lại là một cơn mộng đẹp đến nỗi nếu không có nàng A Châu kiều diễm ở bên mình thì ắt đã nghi rằng chỉ là một giấc mơ.

Hôm đó đi đến Quang Châu, chỉ còn chừng hai ngày đường là đến Tín Dương. A Châu nói:

- Đại ca thử nghĩ xem mình đến hỏi Mã phu nhân thế nào cho tiện?

Hôm đó ở trong khu rừng hạnh và nơi Tụ Hiền Trang, Mã phu nhân thần thái ngôn ngữ thù hằn Tiêu Phong ra mặt, Tiêu Phong tuy không lấy gì làm vui nhưng sau nghĩ lại bà ta chồng chết, lại cho rằng mình giết hại, có oán hận mình thì cũng là chuyện bình thường, nếu không thù hận ấy mới là không hợp lý.

Ông lại nghĩ bà ta là một người đàn bà góa không biết võ công, nếu như uy hiếp bức bách thì quả là mất cái thân phận hào hiệp của mình nên không nghĩ tới việc dùng bạo lực tra hỏi, nay nghe A Châu hỏi thế nên trù trừ không trả lời, ngẩn người ra một hồi rồi đáp:

- Ta nghĩ mình chỉ nên thẳng thắn cầu xin, mong bà ta hiểu rõ sự tình khỏi đổ tiếng oan cho ta giết chồng. A Châu, hay là nàng đến hỏi bà ta đi, được chăng? Nàng mồm miệng lanh lợi, vả lại chỗ đàn bà với nhau. Chỉ sợ một khi Mã phu nhân thấy mặt ta, bụng đầy oán hận là sẽ giở trò ngay.

A Châu tủm tỉm cười:

- Thiếp đã có kế đây nhưng sợ đại ca cho là không hay thôi.

Tiêu Phong vội hỏi:

- Kế gì thế?

A Châu nói:

- Đại ca là đại anh hùng, đại trượng phu không thể bức cung bà ta được, chi bằng để thiếp đến đánh lừa bà ta, được chăng?

Tiêu Phong vui mừng nói:

- Nếu như dụ được bà ta thổ lộ chân tướng thì còn gì hơn. A Châu, chắc nàng cũng biết ta ngày đêm canh cánh, mơ tưởng chuyện được chính tay đâm chết kẻ đại cừu để trả mối thù giết cha. Ta là người Khất Đan, "tên đại ác" kia giúp Kiều mỗ lộ được cái bản lai diện mục của mình, khiến cho ta biết được tổ tông mình là ai, ta phải cảm ơn mới phải. Thế nhưng tại sao y lại giết dưỡng phụ dưỡng mẫu của ta? Giết ân sư của ta? Ép ta phải giết hại bằng hữu, mang cái tiếng ác, biến thành kẻ thù của anh hùng thiên hạ? Nếu ta không băm vằm y ra, thì làm sao yên tâm để cùng nàng ở ngoài biên tái cưỡi ngựa săn thú, chăn bò thả cừu?

Ông càng nói càng lên giọng. Mấy hôm nay tuy thần thái ông không còn u uất như trước, nhưng tấm lòng thù hận "tên đại ác" không vì thế mà giảm được chút nào. A Châu nói:

- "Tên đại ác" kia hại đại ca âm độc như thế, thiếp chỉ mong được chém y mấy nhát cho đại ca hả dạ. Mình bắt được y rồi sẽ tổ chức một anh hùng đại yến, mời tất cả anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, trước tất cả mọi người nói rõ nỗi oan khuất để thanh danh của đại ca được hồi phục.

Tiêu Phong thở dài:

- Cũng chẳng cần phải thế. Ta ở Tụ Hiền Trang giết quá nhiều người, kết oán thù với anh hùng thiên hạ cực sâu xa, cũng chẳng phải cầu ai tha thứ cho mình. Tiêu Phong chỉ mong kết liễu được chuyện này để trong tâm hồn được bình an, sau đó được cùng nàng rong ruổi bên ngoài biên tái, hai đứa mình suốt đời làm bạn với hổ lang bò cừu, không bao giờ gặp lại anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.

A Châu vui mừng nói:

- Nếu được thế thì quả là tạ trời tạ đất, cầu còn chưa xong.

Nàng mỉm cười nói:

- Đại ca, thiếp định giả làm một người đến đánh lừa để cho Mã phu nhân nói tính danh của "tên đại ác" ra.

Tiêu Phong vỗ đùi kêu lên:

- Đúng đó, đúng đó! Ta không nghĩ ra cách này, thuật cải trang của nàng dùng vào việc này thì trên đời có một không hai. Thế nàng định giả làm ai?

A Châu đáp:

- Cái đó phải hỏi đại ca. Khi Mã phó bang chủ còn tại thế, trong Cái Bang giao thiệp với ai thân thiết nhất thiếp sẽ giả làm người đó, Mã phu nhân tưởng là bạn thân của trượng phu, chắc sẽ không dấu đâu.

Kiều Phong nói:

- Ồ, những người trong Cái Bang thân thiết với Mã Đại Nguyên huynh đệ thì có Vương đà chủ, Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão. Ngoài ra Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính cũng có giao tình rất hậu.

A Châu hừm một tiếng, nghiêng đầu hồi tưởng lại hình mạo thần thái những người đó. Tiêu Phong lại tiếp:

- Mã huynh đệ là người điềm đạm nghiêm cẩn, không phải như ta thích rượu ham vui, ồn ào náo nhiệt. Thành thử bình thời y ít khi cùng ta uống rượu cười đùa. Toàn Quan Thanh, Bạch Thế Kính là những người giống tính y nên thường gặp nhau nghiên cứu võ công.

A Châu nói:

- Vương đà chủ là ai, thiếp không được biết. Trần trưởng lão thì trong cái túi gai chứa toàn rắn rết, thiếp mới thấy đã nổi da gà muốn ói, có giả trang cũng không giống được. Toàn Quan Thanh người cao quá giả làm y phải mất rất nhiều thì giờ, nếu như ở trong nhà Mã phu nhân một hồi lâu để thủng thẳng hỏi cho ra e rằng sẽ bị lộ chân tướng. Chi bằng để thiếp giả là Bạch trưởng lão. Ông ta có nói chuyện với thiếp mấy lần ở Tụ Hiền Trang, học làm ông ta dễ hơn cả.

Kiều Phong mỉm cười:

- Bạch trưởng lão đối với nàng thật tốt, hết lời cầu khẩn Tiết Thần Y trị thương. Nếu như cô lại giả làm ông ta để đi đánh lừa người khác có phải là sai quấy hay không?

A Châu cười nói:

- Thiếp giả Bạch trưởng lão để làm chuyện tốt chứ nào có làm chuyện xấu hại đến thanh danh của ông ta, như thế có sao đâu?

A Châu liền ở trong khách điếm hóa trang ngay. Kiều Phong được A Châu cải trang thành một tên đệ tử Cái Bang năm túi tùy tòng của Bạch Thế Kính, lại dặn ông ta nói càng ít càng tốt, phòng Mã phu nhân là người tinh tế nhìn ra chỗ sơ hở. Tiêu Phong thấy A Châu hóa trang thành Bạch trưởng lão rồi, mặt lạnh như băng, không giận dữ nhưng vẫn có uy, đúng là một vị Chấp Pháp trưởng lão mà mấy vạn đệ tử Cái Bang Nam Bắc ai ai cũng vừa sợ hãi vừa kính trọng, không chỉ hình dáng bên ngoài mà cả lời ăn tiếng nói, thần thái cử chỉ giống hệt Bạch Thế Kính khiến Tiêu Phong giao thiệp thân cận với ông ta cả chục năm mà cũng không nhìn ra chỗ nào không phải. Hai người đến Tín Dương rồi, trên đường mỗi khi gặp anh em trong Cái Bang đều dùng ám ngữ nói chuyện tra hỏi tình hình các nhân vật đầu não trong bang, sau đó thông tri là Bạch trưởng lão đã đến Tín Dương để Mã phu nhân biết tin để bà ta có sẵn ấn tượng trong lòng ngõ hầu A Châu cải trang có gì sai sẩy bà ta cũng không hay biết.

Nhà Mã Đại Nguyên ở ngoại ô phía tây, cách thành Tín Dương chừng ba mươi dặm. Tiêu Phong hỏi thăm đường đi từ các anh em Cái Bang tại địa phương rồi cùng A Châu đến nhà họ Mã. Hai người cố ý đi thong thả để diên trì thời khắc mãi xế chiều mới tới nơi vì e trời sáng mọi việc rõ ràng khiến cải trang dễ bị bại lộ, khi trời tối mọi thứ đều mờ mờ ảo ảo đễ dàng mập mờ đánh lận con đen.

Hai người đến trước nhà họ Mã, chỉ thấy một con rạch nhỏ lượn quanh ba gian nhà ngói, bên cạnh là hai cây thùy dương còn đằng trước là một mảnh đất trống, giống như sân phơi thóc của nhà nông nhưng bốn bên đều có hào sâu. Tiêu Phong biết rõ võ công gia số của Mã Đại Nguyên, biết rằng những hào sâu này là để y luyện công, nhưng nay hai bên âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi se lại. Ông đang toan tiến lên gọi cửa, đột nhiên nghe kẹt một tiếng cửa đã mở toang, một người đàn bà mặc áo sô trắng bước ra, chính là Mã phu nhân.

Mã phu nhân liếc Tiêu Phong một cái, khom lưng hành lễ với A Châu nói:

- Bạch trưởng lão quang lâm hàn xá, quả thực không sao ngờ nổi, xin mời vào dùng trà.

A Châu nói:

- Tại hạ có một việc quan trọng cần thương lượng với đệ muội nên chưa được mời đã đến quấy quả, xin được thứ tội.

Mã phu nhân toàn thân một màu sô gai trắng toát vẻ mặt như cười mà không phải cười, khóe miệng dường như có điều u uẩn. Khi đó mặt trời đã ngả về phía sau núi, phủ lên khuôn mặt nàng một màu vàng vọt. Tiêu Phong lần này gặp lại tâm thần không khích động như hai lần trước thấy nàng độ chừng ba mươi lăm ba mươi sáu, tuy khóe mắt đầu mày đã mờ mờ vết nhăn, mặt không nhồi phấn nhưng nước da trắng nõn không kém A Châu chút nào.

Hai người theo Mã phu nhân vào trong nhà, thấy sảnh đường xem chừng hơi nhỏ, giữa để một cái bàn, chung quanh là bốn chiếc ghế nên chẳng còn trống bao nhiêu. Một bà vú già đem trà lên, Mã phu nhân hỏi đến Tiêu Phong, A Châu thuận mồm bịa ra một cái tên. Mã phu nhân hỏi:

- Bạch trưởng lão đại giá quang lâm, không biết có điều chi dạy bảo?

A Châu đáp:

- Từ trưởng lão qua đời ở Vệ Huy, chắc đệ muội cũng đã nghe rồi.

Mã phu nhân đột nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt lộ vẻ khác lạ nói:

- Dĩ nhiên là tiện thiếp đã biết.

A Châu lại tiếp:

- Bọn ta ai cũng nghi là Kiều Phong hạ độc thủ, sau đó Đàm công, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn ba vị tiền bối cũng bị người ta giết bên ngoài thành Vệ Huy, rồi đến Thiết Diện Phán Quan Đơn gia ở Thái An, Sơn Đông bị cháy rụi. Mới đây không lâu, ta đi Giang Nam tra xét một tên đệ tử bảy túi trong bang vi phạm bang qui, trên đường nghe tin Trí Quang lão hòa thượng của chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai cũng đột ngột viên tịch.

Mã phu nhân run lẩy bẩy, mặt biến sắc nói:

- Chuyện ... chuyện đó cũng do Kiều Phong làm hay sao?

A Châu nói:

- Ta đích thân lên chùa Chỉ Quán tìm hiểu tuy không có kết quả gì, nhưng mười phần thì đến tám chín là do Kiều Phong làm, xem ra bước kế tiếp y sẽ đến gây chuyện với đệ muội nên vội vàng đến đây, khuyên đệ muội lánh đi nơi khác một năm sáu tháng để khỏi bị gã họ Kiều làm hại.

Mã phu nhân rưng rưng nước mắt, buồn bã nói:

- Từ khi Mã đại gia bất hạnh bị nạn tới nay, tiện thiếp sống nơi trần thế cũng là kiếp sống thừa, họ Kiều kia muốn hại thì thực cầu còn chưa được, việc gì phải đi đâu tị họa làm chi?

A Châu nói:

- Sao đệ muội lại nói thế? Đại cừu của Mã huynh đệ chưa rửa được, hung thủ còn chưa bắt được thì đệ muội còn phải gánh vác trọng trách trên vai. À, linh vị của Mã huynh đệ ở đâu để ta đến vái lạy một cái.

Mã phu nhân đáp:

- Không dám.

Thế nhưng nàng vẫn dẫn hai người đi vào hậu đường. A Châu lạy trước, Tiêu Phong cũng cung kính đứng trước linh vị khấu đầu, trong bụng khấn thầm: “Mã đại ca chết đi có linh thiêng thì hôm nay cảm ứng vào phu nhân nói ra tính danh chân hung thủ, để ta thay thế đại ca báo thù rửa oan”.

Mã phu nhân quì ờ bên cạnh linh vị hoàn lễ, nước mắt ròng ròng trên má. Tiêu Phong lạy xong rồi, đứng lên thấy trong linh đường có treo mấy bức đối trướng, trong đó có cả của Từ trưởng lão, Bạch trưởng lão nhưng đôi câu đối của mình gửi tới không thấy đâu. Những vuông vải trắng trong linh đường đã tích bụi bặm lại càng làm tăng thêm vẻ thê lương, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mã phu nhân không con không cái, suốt ngày chỉ có một mụ vú già làm bạn, ngày tháng cô khổ tịch mịch thật không biết nói sao cho hết”.

Lại nghe A Châu buông lời khuyên nhủ nào là “Đệ muội bảo trọng thân thể, mối thù của Mã huynh đệ là oán thù của chung mọi người. Nếu như nàng có điều gì khó khăn, cứ nói thẳng cho ta nghe, ta sẽ sẵn lòng lo liệu tất cả” nghe thật ra vẻ đàn anh kẻ cả. Tiêu Phong trong bụng khen thầm: “Cô ả này thật là đâu ra đấy, bang chủ Cái Bang đã bị trục xuất, phó bang chủ đã qua đời, Từ trưởng lão bị người ta sát hại, Truyền Công trưởng lão bị ta giết rồi, bây giờ Bạch trưởng lão là người địa vị tối cao. Cô nàng nói rặt giọng điệu bang chủ quả thật xứng với thân phận vai trò”.

Mã phu nhân cảm ơn nhưng giọng lưỡi cực kỳ lạnh nhạt. Tiêu Phong hơi lo, thấy nàng ta không còn tha thiết, thần tình như kẻ mất hồn, chắc là từ khi trượng phu qua đời sống không còn lạc thú chi nữa, e rằng sẽ tự tận tuẫn phu, người đàn bà này tính khí cương cường chuyện gì cũng có thể làm được.

Mã phu nhân đưa hai người trở lại phòng khách, chẳng bao lâu bà vú đã dọn cơm ra, trên bàn có bốn món đồ chay gồm cải xanh, cải củ, đậu phụ, dưa leo và ba bát cơm khói bốc nghi ngút nhưng không có rượu. A Châu liếc nhìn Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay không có rượu cho chàng uống”. Tiêu Phong thản nhiên như không, bưng bát cơm lên ăn.

Mã phu nhân nói:

- Từ khi tiên phu qua đời, kẻ vị vong này ăn toàn đồ chay, chỗ hẻo lánh không có rượu thịt, khoản đãi hai vị đạm bạc quá.

A Châu thở dài:

- Mã huynh đệ chết rồi không thể sống lại được, đệ muội cũng đừng quá làm khổ mình như thế.

Tiêu Phong thấy Mã phu nhân đối với người chồng quá cố quả thật có tình có nghĩa, trong lòng nổi lên một nỗi niềm kính trọng. Ăn cơm tối xong, Mã phu nhân nói:

- Bạch trưởng lão từ xa đến, tiểu nữ đáng lý phải giữ khách lại, có điều phận đàn bà góa không tiện chút nào, không biết trưởng lão muốn dặn dò điều gì?

Trong lời ăn tiếng nói có chiều muốn đuổi khách đi. A Châu nói:

- Ta chuyến này đi Tín Dương cốt là để khuyên phu nhân rời nhà đi tránh họa chỗ khác, không biết đệ muội có điều gì phải tính toán hay không?

Mã phu nhân thở dài một tiếng nói:

- Gã Kiều Phong kia giết Mã đại gia, y có đến đây làm hại tiện thiếp thì cũng là đi theo chồng xuống suối vàng. Tiểu nữ tuy chân yếu tay mềm, chẳng dấu Bạch trưởng lão làm chi, chết thiếp đã không sợ thì còn sợ cái gì nữa.

A Châu nói:

- Nếu đã nói thế, đệ muội không bằng lòng rời nhà đi tị nạn nơi khác hay sao?

Mã phu nhân đáp:

- Đa tạ hậu ý của Bạch trưởng lão. Tiểu nữ thật không đành rời nơi cố cư của Mã đại gia.

A Châu nói:

- Ta vốn dĩ muốn ở gần đây ít ngày để bảo hộ cho đệ muội. Vẫn biết là Bạch mỗ không phải là địch thủ của Kiều Phong nhưng trong lúc gấp gáp cũng đỡ được một tay. Ngờ đâu trên đường đi ta lại nghe được một tin tức cơ mật thật là trọng đại.

Mã phu nhân đáp:

- Ồ, thế thì việc phải lớn lao lắm.

Đàn bà vốn dĩ hiếu kỳ, nghe nói đến một việc cơ mật trọng đại, dù cho việc chẳng liên quan gì đến mình, miệng không hỏi nhưng vẻ mặt vẫn có ý thích nghe. Ngờ đâu Mã phu nhân vẫn thản nhiên như không, tưởng chừng có nói ra cũng thế mà không nói thì cũng chẳng hề chi, chồng đã chết rồi thì trên đời này không còn điều gì khiến nàng động tâm được nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người đời vẫn bảo rằng đàn bà góa gan ruột héo hon, lạnh như tro bếp, nếu nói về Mã phu nhân thì thật là thích đáng”.

A Châu quay sang vẫy tay cho Tiêu Phong nói:

- Ngươi ra ngoài chờ, ta có mấy lời cơ mật nói với Mã phu nhân.

Tiêu Phong gật đầu, đi ra ngoài nhà, thầm khen A Châu thông minh, biết là nếu muốn người khác thổ lộ chuyện cơ mật cho mình thì phải nói chuyện bí mật của mình trước. Thành thử A Châu giả vờ nói chuyện cơ mật chính là làm cho Mã phu nhân tin tưởng, ngay cả kẻ tâm phúc của mình cũng không được nghe hẳn là chuyện này phải thật kín đáo.

Ông đi ra ngoài cửa, bên ngoài trời tối vắng lặng không một tiếng động, chỉ văng vẳng tiếng loảng xoảng từ dưới bếp vọng lên, chính là bà vú đang rửa bát, bèn đi vòng qua góc tường, nép vào ngoài cửa sổ phòng khách, nín thở lắng tai nghe. Dù cho Mã phu nhân không nói tên tuổi của người đó chỉ cần thổ lộ một chút đầu mối thì ông cũng có thể lần ra còn hơn hiện nay mù mờ không biết đâu mà mò. Huống chi vị Bạch trưởng lão này từ nghìn dặm xa xôi đến đây cảnh cáo đã là làm ơn cho bà ta rồi, khi sắp ra đi lại cho biết một chuyện đại sự cơ mật, một thủ lãnh của bản bang không lẽ Mã phu nhân lại dám dấu diếm hay sao?

Một lúc lâu sau mới nghe thấy Mã phu nhân thở dàn một tiếng, u uẩn nói:

- Ông ... ông còn đến làm gì nữa đây?

Tiêu Phong sợ việc vỡ lở làm hỏng đại sự thành thử không dám thò đầu ra nhìn xem trong phòng khách tình hình thế nào, trong bụng hơi lạ lùng: “Câu hỏi này của bà ta có dụng ý gì?’. Chỉ nghe A Châu nói:

- Ta quả có nghe tin đó, Kiều Phong có bụng muốn hại phu nhân nên tới báo tin.

Mã phu nhân nói:

- Hừ, đa tạ hảo ý của Bạch trưởng lão.

A Châu hạ giọng nói:

- Đệ muội, từ khi Mã huynh đệ bất hạnh qua đời, có mấy trưởng lão trong bang nhớ đến công lao của y nên muốn mời phu nhân xuất sơn, đảm nhiệm vai trò trưởng lão.

Tiêu Phong nghe nàng nói cực kỳ trịnh trọng không khỏi tức cười, nhưng trong bụng cũng phải khen thầm nàng tính kế thật cao, Mã phu nhân nếu bằng lòng, Bạch trưởng lão lập tức sẽ thành cấp trên của bà ta, có điều muốn hỏi thì không thể nào cự tuyệt được. Ví thử không bằng lòng làm trưởng lão trong bang nhưng thấy Cái Bang coi trọng mình như thế, Mã phu nhân ắt thể nào cũng hả lòng hả dạ.

Chỉ nghe Mã phu nhân đáp:

- Tiện thiếp có tài cán đức độ gì mà có thể đảm nhiệm chức trưởng lão trong Cái Bang? Đến đệ tử Cái Bang thiếp còn chưa đáng, huống chi địa vị trưởng lão cực cao, thật cách xa hàng muôn ngàn dặm.

A Châu đáp:

- Ta và bọn Ngô trưởng lão hết lòng tiến cử, ai nấy đều bảo rằng nếu có Mã phu nhân cùng đứng ra lo liệu thì việc bắt giữ hạ sát Kiều Phong thật dễ hơn nhiều. Ta lại còn có một tin tức thật trọng đại liên quan đến việc Mã huynh đệ bị giết.

Mã phu nhân hỏi lại:

- Thật vậy ư?

Giọng nói bà ta xem ra có vẻ thờ ơ. A Châu nói:

- Hôm đó nơi thành Vệ Huy điếu tang Từ trưởng lão, ta gặp Triệu Tiền Tôn, y có tiết lộ cho ta hay, nói y biết ai là chân hung thủ sát hại Mã huynh đệ.

Đột nhiên nghe choang một tiếng, một chiếc chén trà rơi xuống vỡ tan. Mã phu nhân hoảng hốt kêu lên một tiếng rồi lắp bắp nói:

- Ông ... ông đùa rỡn cái gì thế?

Thanh âm nghe cực kỳ phẫn nộ, nhưng cũng có mấy phần kinh hoàng. A Châu đáp:

- Chuyện đó là chuyện đàng hoàng, ta làm sao đám nói đùa? Gã Triệu Tiền Tôn kia chính miệng nói cho ta nghe, y biết rõ hung thủ giết Mã Đại Nguyên huynh đệ. Y bảo nhất định không phải Kiều Phong, cũng chẳng phải Cô Tô Mộ Dung, y biết chắc chắn người đó là ai rồi.

Mã phu nhân run run hỏi:

- Làm sao y biết được? Làm sao y biết được? Ông chỉ nói nhăng nói cuội, có khác gì ban ngày ban mặt thấy ma?

A Châu đáp:

- Đúng vậy mà, phu nhân khỏi phải nóng ruột ta sẽ từ từ cho bà hay. Gã Triệu Tiền Tôn kia nói: “Năm ngoái vào tháng tám ...”.

Nàng ta nói chưa hết câu, Mã phu nhân đã kêu lên một tiếng ngất xỉu ngay tại chỗ. A Châu vội gọi:

- Đệ muội, đệ muội!

Nàng lấy tay day day nơi nhân trung ở môi trên, Mã phu nhân từ từ tỉnh lại, u oán nói:

- Sao ông ... sao ông lại dọa tôi?

A Châu đáp:

- Ta nào có dọa đệ muội làm gì. Gã Triệu Tiền Tôn kia quả có nói với ta, tiếc thay y chết mất rồi, nếu không ta đã gọi y tới đây đối chất. Y nói năm ngoái ngày Trung Thu giữa tháng tám, Đàm công, Đàm bà cùng hung thủ làm hại Mã huynh đệ, cùng ở nhà "đàn anh đứng đầu" ...

Mã phu nhân hừ một tiếng, hỏi lại:

- Y quả thực nói vậy ư?

A Châu đáp:

- Đúng thế. Ta lại hỏi hung thủ đó là kẻ nào, y bảo là tên người đó không tiện nói ra. Ta đi hỏi Đàm công thì y cũng hầm hầm nhìn ta không nói gì cả. Đàm bà bảo: “Quả đúng như thế, chính bà ta nói với Triệu Tiền Tôn”. Ta cũng không trách Đàm công đã nổi cáu, chắc là giận vợ mình chuyện gì cũng nói cho Triệu Tiền Tôn nghe. Thế nhưng Triệu Tiền Tôn lại không chịu nói tên kẻ hung thủ cũng chỉ vì sợ liên lụy đến người tình cũ là Đàm bà.

Mã phu nhân hỏi:

- Hừm, thế thì đã sao?

A Châu nói:

- Triệu Tiền Tôn bảo là, tất cả ai ai cũng nghi Kiều Phong và Mộ Dung Phục giết chết Mã huynh đệ, còn hung thủ đích thực thì lại nhởn nhơ ngoài vòng, tiêu dao tự tại, Mã huynh đệ ở dưới suối vàng biết được ắt sẽ muôn đời không giải được nỗi oan.

Mã phu nhân nói:

- Đúng vậy, tiếc thay gã Triệu Tiền Tôn kia lại chết rồi, thế Đàm công, Đàm bà đã nói cho trưởng lão hay chưa?

A Châu đáp:

- Chưa nói mới chết chứ! Đến nước này chỉ còn cách đi hỏi "đàn anh đứng đầu" thôi.

Mã phu nhân đáp:

- Phải lắm, thế trưởng lão đi hỏi cho ra.

A Châu nói:

- Nói ra thì cũng thật tức cười, "đàn anh đứng đầu" kia là ai, nhà ở đâu, ta nào có biết.

Mã phu nhân nói:

- Ồ, hóa ra ông nói gần nói xa, vòng vo tam quốc chẳng qua chỉ để hỏi tên người "đàn anh đứng đầu".

A Châu đáp:

- Nếu bất tiện đệ muội cũng không cần phải cho ta hay làm gì, tự mình tìm cách hỏi cho minh bạch rồi cả bọn sẽ đi tìm chân hung thủ thanh toán món nợ này.

Tiêu Phong biết A Châu cố làm ra vẻ bất cần để Mã phu nhân khỏi nghi nhưng trong bụng thật là sốt ruột. Chỉ nghe Mã phu nhân lãnh đạm nói:

- Tên của "đàn anh đứng đầu" dấu ai thì dấu để Kiều Phong khỏi đi kiếm ông ta báo thù giết cha giết mẹ, còn như Bạch trưởng lão là người phe ta, tiện thiếp dấu làm gì? Người đó chính là ...

Nói đến câu “Người đó chính là ...” bà ta hạ giọng không nói tiếp nữa. Tiêu Phong hết sức lắng tai dường như chính tiếng tim mình đập cũng còn nghe, nhưng vẫn không thấy Mã phu nhân nói tên của "đàn anh đứng đầu" là ai, một lát sau mới nghe bà ta thở dài:

- Trăng trên trời tròn là dường ấy, sáng là dường ấy.

Tiêu Phong biết rõ trên không lúc này mây đen che phủ, làm gì có trăng nhưng cũng ngửng đầu nhìn lên, nghĩ thầm: “Hôm nay mới mồng hai, dẫu có trăng thì cũng đâu có tròn, bà ta nói thế là ý nghĩa gì?”. Lại nghe A Châu nói:

- Đến ngày rằm thì trăng thể nào chẳng tròn, chẳng sáng vằng vặc, ôi, tiếc thay Mã huynh đệ chẳng bao giờ còn được thấy trăng tròn nữa.

Mã phu nhân hỏi thêm:

- Bánh trung thu ông thích ăn bánh mặn hay bánh ngọt?

Tiêu Phong lại càng kỳ lạ, nghĩ thầm: “Mã phu nhân từ khi chồng chết tâm thần dường như bất thường”. A Châu đáp:

- Bọn chúng ta là dân ăn mày lẽ đâu lại còn đòi bánh mặn bánh ngọt? Cốt sao tìm ra chân hung thủ để báo thù cho Mã huynh đệ, nói gì bánh trung thu mà dẫu có sơn trân hải vị, ăn vào cũng có còn mùi mẽ gì nữa.

Mã phu nhân lặng yên không nói, một lúc lâu sau mới lạnh lùng đáp:

- Bạch trưởng lão hết lòng hết sức cốt sao tìm cho ra hung thủ để báo thù rửa hận cho người anh em Đại Nguyên, khiến cho tiểu nữ cực kỳ cảm kích.

A Châu đáp:

- Đó là bổn phận của chúng ta. Mấy vạn bang chúng Cái Bang có người nào không nghĩ đến mối thù này?

Mã phu nhân nói:

- Vị "đàn anh đứng đầu" kia địa vị cao sang, thanh thế cực lớn, mở miệng ra là có thể điều động vài vạn người. Ông ta lại hay bênh vực bạn bè, ông đến hỏi hung thủ là ai, chắc không chịu nói ra đâu.

Tiêu Phong mừng rỡ nghĩ thầm: “Nói gì thì nói, chuyến này mình cũng không đến nỗi công toi. Mã phu nhân dù không nói tên tuổi y ra, chỉ dựa vào một câu “địa vị cao sang, thanh thế cực lớn, mở miệng ra là có thể điều động vài vạn người”, ta cũng có thể đoán ra được là ai rồi. Trong võ lâm liệu có mấy ai được như thế?”.

Ông còn đang cố nặn óc xem người đó là ai đã nghe A Châu nói tiếp:

- Trong võ lâm, chỉ một lời có thể điều động được hàng vạn người, trước đây thì chỉ có bang chủ Cái Bang. Ồ, đệ tử Thiếu Lâm cũng khắp thiên hạ, một lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng điều động được hàng vạn người ...

Mã phu nhân ngắt lời:

- Thôi ông chớ có suy đoán sằng, để tôi cho thêm một đầu mối, người đó phải đi về phía tây nam mới kiếm thấy.

A Châu trầm ngâm nói:

- Phía tây nam ư? Phía tây nam làm gì có người nào được thế? Xem ra không có ai cả.

Mã phu nhân thò ngón tay, nghe soẹt một tiếng đã đâm thủng giấy dán trên cửa sổ, ngay sát trên đầu Tiêu Phong, lại nghe bà ta nói tiếp:

- Tiểu nữ không biết võ công nhưng Bạch trưởng lão chắc đã biết rồi, trong thiên hạ ai là người công phu này giỏi hơn cả?

A Châu đáp:

- Hừm, điểm huyệt công phu ư? Phái Thiếu Lâm có Kim Cương Chỉ, họ Trịnh ở Thương Châu tỉnh Hà Bắc có Đoạt Phách Chỉ là những ngón lợi hại hơn cả.

Tiêu Phong dường như muốn kêu lên: “Sai rồi, không phải! Công phu điểm huyệt trong thiên hạ thì họ Đoàn Đại Lý là số một, huống chi bà ta đã bảo ở phía tây nam cơ mà”. Quả nhiên nghe Mã phu nhân nói:

- Bạch trưởng lão kiến thức quảng bác, sao chuyện có thế mà không nghĩ ra? Hay là vì đường xa mỏi mệt, đầu óc mụ đi mất rồi đến nỗi môn Nhất Dương Chỉ lừng lẫy như thế mà không nhớ đến?

Trong ngôn ngữ xem ra có phần mỉa mai. A Châu đáp:

- Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn thì ta phải biết chứ, có điều họ ở Đại Lý xưng hoàng xưng đế, đã lâu nay không lai vãng với võ lâm Trung Thổ. Nếu bảo vị "đàn anh đứng đầu" kia có liên hệ với họ Đoàn xem chừng tin tức có gì sai sót.

Mã phu nhân nói:

- Họ Đoàn tuy ở ngôi chúa tể nước Đại Lý nhưng Đoàn gia đâu phải chỉ có một người, kẻ không làm vua vẫn thường lai vãng Trung Nguyên. Vị "đàn anh đứng đầu" chính là em ruột của đương kim hoàng đế, họ Đoàn tên Chính Thuần, được phong tước Trấn Nam Vương đó.

Tiêu Phong nghe Mã phu nhân nói đến ba chữ “Đoàn Chính Thuần” lập tức toàn thân chấn động, mấy tháng nay muôn dặm ruổi rong, hết lòng hết dạ tìm kiếm bây giờ mới biết được cái tên này. Lại nghe A Châu nói tiếp:

- Vị Đoàn vương gia kia quyền vị cao sang, sao lại tham dự vào chuyện ân oán giang hồ làm gì?

Mã phu nhân đáp:

- Chuyện ân oán giang hồ tầm thường thì không nói gì, Đoàn vương gia dĩ nhiên không dính dáng gì đến, nhưng nếu có liên quan đến chuyện sống chết mất còn, quốc vận thịnh suy của nước Đại Lý, ông nghĩ xem họ có tham gia hay không?

A Châu đáp:

- Thì đương nhiên là họ phải nhúng tay vào.

Mã phu nhân nói:

- Thiếp nghe Từ trưởng lão nói rằng: “Đại Tống là bức tường che cho Đại Lý ở phía bắc, Khất Đan một khi diệt xong Đại Tống rồi, thể nào cũng tính tới việc thôn tính Đại Lý. Thành thử Đại Lý và Đại Tống hai bên như răng với môi, Đại Lý không thể nào để cho Đại Tống mất về tay nước Liêu”.

A Châu đáp:

- Quả đúng như thế không sai chút nào.

Mã phu nhân nói:

- Từ trưởng lão nói rằng, năm xưa vị vương gia đó đang làm khách ở tổng đà Cái Bang, uống rượu luận kiếm với Uông bang chủ, bỗng nghe tin võ sĩ Khất Đan đang dốc tới đoạt kinh của chùa Thiếu Lâm, Đoàn vương gia nghĩa bất dung từ liền thống lãnh mọi người ra ngoài Nhạn Môn Quan chặn chúng lại, việc tuy nói là vì Đại Tống nhưng thực ra cũng vì Đại Lý. 

Nghe nói vị vương gia này khi đó tuổi còn trẻ lắm nhưng võ công cao cường, đối với ai cũng cực kỳ nhân nghĩa. Ông ta ở Đại Lý chỉ dưới một người, ở trên muôn người, coi tiền bạc như rơm rác, chẳng đợi bằng hữu ngỏ lời, vài nghìn vài trăm lượng liền đưa ngay. Trưởng lão thử nghĩ xem người như thế không đứng đầu quần hùng Trung Nguyên thì còn ai? Một mai khi ông ta lên ngôi hoàng đế Đại Lý, thân phận cao quí dường ấy, người khác chỉ toàn xuất thân thảo mãng làm sao ra lệnh cho ông ta được? 

A Châu nói:

- Thì ra "đàn anh đứng đầu" lại là Trấn Nam Vương nước Đại Lý, hóa ra bao nhiêu người chết chỉ để bảo vệ cho ông ta.

Mã phu nhân đáp:

- Bạch trưởng lão, chuyện cơ mật đó ông chớ có nói với ai, Đoàn vương gia và bản bang giao tình chẳng phải tầm thường, nếu như tiết lộ phong thanh thì họa không sao lường được. Tuy họ Đoàn Đại Lý uy chấn một cõi, cực kỳ lợi hại nhưng gã Kiều Phong kia quyết tâm báo thù, ẩn nhẫn chờ tám năm mười năm, Đoàn Chính Thuần cũng không dễ đối phó được đâu.

A Châu đáp:

- Đệ muội nói phải lắm, ta quyết giữ kín như bưng, không tiết lộ với ai.

Mã phu nhân nói:

- Bạch trưởng lão, tốt hơn hết ông lập một lời thề để tiện thiếp được yên tâm.

A Châu nói:

- Được, việc Đoàn công tử là "đàn anh đứng đầu" nếu như Bạch Thế Kính nói ra cho ai nghe thì sẽ phải chịu thảm họa muôn vạn nhát dao, thân bại danh liệt, mọi người cười chê.

Lời thề của nàng nghe ra thật nặng nhưng lại nói trớ ra, mở miệng toàn là đổ lên đầu Bạch Thế Kính, nếu có gì thì muôn vạn nhát dao cũng là Bạch Thế Kính, thân bại danh liệt cũng là Bạch Thế Kính, còn nàng có liên quan gì đâu. Mã phu nhân nghe thề độc như thất rất lấy làm hởi lòng hởi dạ nói:

- Thế thì được lắm.

A Châu nói:

- Vậy thì ta phải đi Đại Lý bái kiến Trấn Nam Vương, dò hỏi nghe ngóng xem Tết Trung Thu năm ngoái, ở phủ của ông ta có những khách nào là sẽ tra xét ra hung thủ giết hại Mã huynh đệ. Thế nhưng lúc này thì ta vẫn cho là Kiều Phong. Triệu Tiền Tôn, Đàm công, Đàm bà ba người dở dở ương ương nói ra chắc gì đã tin được.

Mã phu nhân đáp:

- Việc tra xét cho ra hung thủ hoàn toàn trông cậy vào Bạch trưởng lão.

A Châu đáp:

- Mã huynh đệ với ta có khác gì anh em ruột, ta thể nào cũng hết lòng hết dạ.

Mã phu nhân buồn bã nói:

- Bạch trưởng lão tình nghĩa thâm trọng như thế, vong phu ở dưới suối vàng nếu biết được hẳn là cũng cảm kích tấm lòng.

A Châu đáp:

- Đệ muội cố gắng giữ gìn, tại hạ xin cáo từ.

Nói xong bèn chia tay đi ra, Mã phu nhân nói:

- Tiểu nữ phận đàn bà đang cư tang, đêm khuya không tiện tiễn xa, xin Bạch trưởng lão thứ tội.

A Châu ra đến ngoài cửa đã thấy Tiêu Phong đợi ở xa xa, hai người nhìn nhau không nói một lời thẳng đường mà đi. Vầng trăng non chiếu xiên xiên lên con đường cũ trở về Tín Dương. Hai người sóng vai nhau, đi đến hơn bốn chục dặm Tiêu Phong mới thở ra một hơi nói:

- A Châu, đa tạ nàng.

A Châu nở một nụ cười, không nói. Tuy mặt nàng bây giờ đang hóa trang thành Bạch Thế Kính nên đầy vết nhăn nhưng từ trong khóe mắt, Tiêu Phong vẫn nhận ra nàng có vẻ lo âu liền hỏi:

- Hôm nay việc lớn đã thành, sao nàng vẫn còn không vui?

A Châu đáp:

- Thiếp nghĩ đến họ Đoàn người nhiều thế mạnh, đại ca một thân một mình đến tầm cừu quả thực muôn phần hung hiểm.

Tiêu Phong đáp:

- Ồ, thì ra nàng lo lắng cho ta. Nàng cứ yên tâm, ta ở trong tối, y ở ngoài sáng, ba năm năm năm báo thù chưa được thì như Mã phu nhân nói đó, tám năm mười năm cũng phải xong. Thể nào cũng có ngày ta chặt Đoàn Chính Thuần ra thành mười bảy mười tám miếng vứt cho chó gặm.

Ông nói đến đây không khỏi nghiến răng, trên mặt lộ ra đầy vẻ oán hờn. A Châu nói:

- Đại ca phải hết sức cẩn thận mới được.

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó dĩ nhiên rồi. Ta có mất mạng thì cũng là chuyện nhỏ nhưng mối huyết thù của cha mẹ không trả được, có chết cũng không nhắm mắt.

Ông chậm rãi đưa tay ra nắm lấy tay nàng nói:

- Nếu ta chết về tay Đoàn công tử thì ai đưa nàng ra ngoài Nhạn Môn Quan chăn cừu thả bò đây?

A Châu đáp:

- Ôi, sao thiếp vẫn sợ lắm, dường như trong chuyện này có điều gì không ổn. Con mụ Mã phu nhân kia ... mụ ta ... ra vẻ băng thanh ngọc khiết nhưng sao thiếp gặp thấy tự nhiên vừa kinh sợ, vừa chán ghét.

Tiêu Phong cười nói:

- Người đàn bà đó rất là tinh minh tài giỏi, nàng sợ bà ta nhìn ra chân tướng cải trang nên trong lòng khiếp sợ đấy thôi.

Hai người về đến khách điếm trong thành Tín Dương, Tiêu Phong lập tức gọi mười cân rượu, uống một phen cho thỏa dạ, trong bụng tính toán làm cách nào để báo thù, nghĩ đến họ Đoàn Đại Lý, tự nhiên nhớ lại người em mới kết nghĩa kim lan Đoàn Dự không khỏi chột dạ, cầm chén rượu mà ngơ ngẩn xuất thần, vẻ mặt liền biến đổi.

A Châu lại tưởng ông phát giác ra chuyện gì, nhìn quanh bốn phía không thấy gì lạ, hạ giọng hỏi nhỏ:

- Đại ca, có chuyện gì thế?

Tiêu Phong giật mình nói:

- Không ... không có gì cả.

Ông nâng chén lên uống một hơi cạn sạch nhưng rượu vừa đến cổ họng bỗng dưng sặc một cái ho sù sụ, bao nhiêu rượu phun ra ướt cả bâu áo. Tửu lượng của ông hiếm ai sánh kịp, nội công lại thâm hậu nay sặc rượu phải ọc ra là điều chưa từng có. A Châu kinh hãi thầm nhưng không tiện hỏi.

Nàng có biết đâu Tiêu Phong đang uống rượu bỗng chợt nhớ đến hôm trước nơi thành Vô Tích cùng Đoàn Dự uống thi, đối phương sử dụng khí công thượng thừa Lục Mạch Thần Kiếm, đem bao nhiêu rượu chảy dồn ra đầu ngón tay hết cả. Thần công nội lực như thế, Tiêu Phong biết mình không thể bì kịp. Đoàn Dự rõ ràng không biết võ công, nội công đã ghê gớm đến thế rồi, kẻ đại đối đầu kia là nhân vật thủ não của họ Đoàn Đại Lý, nếu so với Đoàn Dự chắc hẳn phải ghê gớm gấp mười, mối thù cha mẹ kia làm sao trả được?

Ông có biết đâu Đoàn Dự gặp may mà được thần công, có cái duyên ngẫu nhiên hút nội lực người khác, chỉ riêng nội lực thì chàng ta đã hơn cha không biết bao nhiêu lần, còn công phu Lục Mạch Thần Kiếm, trên đời ngoài Đoàn Dự ra không một người thứ hai nào có thể sử dụng được tất cả. A Châu và Tiêu Phong đều quen biết Đoàn Dự rất thân nhưng họ Đoàn là quốc tính nước Đại Lý, chẳng khác gì họ Triệu bên Đại Tống, họ Lý bên Tây Hạ, họ Gia Luật bên nước Liêu, trong nước có đến hàng nghìn hàng vạn, Đoàn Dự trước nay chưa đề cập mình là vương tử nước Đại Lý, A Châu và Tiêu Phong có ngờ đâu anh chàng lại là con vua cháu chúa.

A Châu tuy không rõ trong bụng Tiêu Phong nghĩ gì nhưng cũng đoán được chắc hẳn ông ta vì việc trả thù mà lo nghĩ liền nói:

- Đại ca, việc báo thù nào phải chỉ một ngày một buổi. Chúng mình tính toán rồi hãy hành động, dẫu cho địch đông mà ta ít, không thắng được bằng sức không lẽ không biết dùng trí hay sao?

Tiêu Phong trong bụng thấy vui, nghĩ đến A Châu lanh lợi khôn ngoan, quả là một tay phù trợ rất đắc lực, lập tức rót ngay một chén khác uống một hơi cạn sạch rồi nói:

- Mối thù cha mẹ, không đội trời chung. Để báo mối thù này việc gì phải để ý tới qui củ đạo nghĩa giang hồ, thủ đoạn ác độc cách mấy cũng chẳng chừa. Đúng thế, không thắng được bằng sức thì chúng mình dùng trí.

A Châu lại tiếp:

- Đại ca, ngoại trừ mối thù thân sinh phụ mẫu, lại còn món nợ máu của cha nuôi mẹ nuôi đại ca là ông bà Kiều lão, món nợ máu của sư phụ đại ca là Huyền Khổ đại sư.

Tiêu Phong vỗ lên bàn một cái, lớn tiếng nói:

- Phải đó, oán thù trùng trùng, nào chỉ có một mối đâu?

A Châu nói:

- Khi đại ca học nghệ nơi Huyền Khổ đại sư, tuổi hẳn còn nhỏ nên học chưa hết những nội công tinh diệu của phái Thiếu Lâm, nếu không thì dù Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý có lợi hại thế nào chăng nữa cũng chưa chắc đã hơn được Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ. Thiếp từng nghe Mộ Dung lão gia bàn luận võ công thiên hạ, nói là võ công lợi hại nhất của họ Đoàn Đại Lý là Nhất Dương Chỉ và cái gì đó tên là Lục Mạch Thần Kiếm.

Tiêu Phong nhíu mày đáp:

- Đúng vậy, Mộ Dung tiên sinh là một kỳ nhân trong võ lâm, đã nói gì ra hẳn phải rất có cơ sở. Ta vừa rồi lo âu, không phải vì Nhất Dương Chỉ mà là vì Lục Mạch Thần Kiếm.

A Châu nói:

- Hôm đó Mộ Dung lão gia và công tử bàn luận võ công thiên hạ, thiếp ở bên cạnh pha trà, nghe được mấy câu. Mộ Dung lão gia nói: “Bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, môn nào cũng có chỗ tinh diệu, muốn khắc địch chế thắng thì một tuyệt kỹ cũng đủ đâu cần phải tới bảy mươi hai môn”.

Tiêu Phong gật đầu:

- Mộ Dung tiền bối luận thật đúng.

A Châu nói tiếp:

- Khi đó Mộ Dung công tử mới nói: “Đúng thế, mợ Vương và biểu muội cứ khoe khoang mình biết nhiều võ công thiên hạ, tuy có rộng thật nhưng không tinh thì có dùng được việc gì đâu?”. Mộ Dung lão gia nói: “Nói đến chữ tinh, đâu phải dễ dàng? Thực ra tuyệt học chân chính của phái Thiếu Lâm thì chỉ có một bộ Dịch Cân Kinh, luyện xong bộ kinh này thì dù võ công tầm thường cách mấy vào tới tay mình cũng biến được cái tồi tệ thành ra thần kỳ”.

Căn cơ vốn sẵn, nội lực lại hùng cường thì dù chiêu số tầm thường cũng có uy lực cực kỳ to lớn, điểm đó Tiêu Phong đã biết từ lâu nên hôm trước ở Tụ Hiền Trang một mình đấu với quần hùng, ông chỉ dùng một pho Thái Tổ trường quyền hội chiến với hảo hán thiên hạ khiến cho dù cao nhân hạng nhất cũng đều thúc thủ bái phục. Lúc này ông nghe A Châu nhắc lại lời Mộ Dung tiên sinh, không khỏi hứng chí uống luôn hai chén nữa nói:

- Quả là hiểu được bụng ta! Quả là hiểu được bụng ta! Tiếc thay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời rồi, nếu không thể nào Tiêu Phong cũng sẽ tới trang để gặp vị kỳ nhân trong thiên hạ này.

A Châu tủm tỉm cười:

- Mộ Dung lão gia khi còn tại thế trước sau không tiếp khách bên ngoài, nhưng đại ca phải là một biệt lệ.

Tiêu Phong ngẩng lên mỉm cười, ông biết câu “đại ca phải là một biệt lệ” có hàm ý là: “Chàng là người yêu của thiếp, Mộ Dung tiên sinh phải coi chàng khác người thường”. A Châu bắt gặp ánh mắt của Tiêu Phong, thẹn thùng cúi đầu, tuy bẽn lẽn nhưng trong lòng ngầm sung sướng.

Tiêu Phong lại uống thêm một chén nữa hỏi:

- Khi Mộ Dung lão gia qua đời, tuổi cũng chưa già lắm, phải không?

A Châu đáp:

- Khoảng chừng trên dưới năm mươi, chưa thể gọi là già.

Tiêu Phong nói:

- Ồ, ông ta nội công thâm hậu, tuổi năm mươi chính là thời kỳ võ công tuyệt đỉnh, không hiểu tại sao đột nhiên qua đời?

A Châu lắc đầu nói:

- Lão gia bị bệnh gì đó mà mất, chúng tôi không ai biết cả. Ông ta chết rất nhanh, buổi sáng sinh bệnh, đến chiều đã thấy công tử khóc rống lên, đi ra thông tri cho mọi người là lão gia dã từ trần.

Tiêu Phong nói:

- Ồ, không biết bị cấp chứng gì, thật tiếc, thật tiếc! Tiếc thay Tiết Thần Y không ở gần bên, nếu không bằng giá nào cũng phải mời ông ta đến cứu mạng cho Mộ Dung tiên sinh.

Ông ta và Mộ Dung công tử tuy chưa từng biết nhau, chỉ nghe người khác nói về ngôn ngữ cử chỉ của hai cha con, không khỏi thầm khâm phục, nay lại có thêm A Châu có uyên nguyên nên càng cảm thấy thân thiết.

A Châu lại tiếp:

- Hôm đó Mộ Dung lão gia bàn về Dịch Cân Kinh với công tử. Ông ta nói: “Bộ Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ ta chưa từng thấy, thế nhưng cứ như đạo lý võ học mà suy, phái Thiếu Lâm sở dĩ được nổi tiếng cũng chính từ pho Dịch Cân Kinh ấy mà ra. Bảy mươi hai tuyệt kỹ không dám nói là không lợi hại, thế nhưng bảo nhờ vào đó mà lãnh tụ quần luân, đứng đầu võ học thiên hạ thì quả là chưa xứng”. Lão gia lại răn dạy công tử là đừng ỷ vào võ học tổ truyền mà coi thường đệ tử Thiếu Lâm, trong chùa đã có quyển kinh ấy thì ắt có tăng nhân thiên tư dĩnh ngộ hiểu thông được.

Tiêu Phong gật đầu khen phải, nghĩ thầm: “Họ Cô Tô Mộ Dung danh mãn thiên hạ, vậy mà không cuồng vọng tự đại, quả là khó thay”. A Châu nói:

- Lão gia lại bảo rằng, bình sinh ông không võ học nào trong thiên hạ không ngó qua, chỉ chưa được biết Lục Mạch Thần Kiếm Phổ của họ Đoàn Đại Lý và Dịch Cân Kinh của phái Thiếu Lâm, quả là đáng tiếc lúc cuối cuộc đời. Đại ca, nếu như Mộ Dung lão gia đã đặt hai môn võ công này ngang nhau, cứ thế mà suy, muốn đối phó với Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn thì phải có Dịch Cân Kinh của chùa Thiếu Lâm trong tay. Nếu như ta ăn trộm được Dịch Cân Kinh từ Bồ Đề Viện của chùa Thiếu Lâm sau đó bỏ ra vài năm luyện tập thì dẫu có Lục Mạch Thần Kiếm hay Thất Mạch Quỉ Đao gì ta cũng chẳng coi vào đâu.

Nàng nói đến đây, trên mặt hiện ra một nụ cười kỳ bí. Tiêu Phong nhảy dựng lên, cười nói:

- Tiểu quỉ đầu, hóa ra nàng ... nàng ...

A Châu cười nói:

- Đại ca, thiếp ăn trộm được bộ kinh đó đem ra, vốn định trao cho công tử, để cho công tử xem rồi sẽ đốt trước mồ lão gia để cho thỏa tâm nguyện người quá cố. Hiện nay đương nhiên là đưa cho đại ca rồi.

Nói xong từ trong bọc lấy ra một chiếc bao vải dầu, để vào tay Tiêu Phong. Tối hôm đó chính Tiêu Phong thấy nàng hóa trang thành nhà sư Chỉ Thanh, ăn trộm cuốn kinh từ trong tấm gương đồng của Bồ Đề Viện , đâu có ngờ đó chính là Thiếu Lâm bí cập Dịch Cân Kinh. A Châu bị quần hào bắt được ở Tụ Hiền Trang, mọi người nghĩ nàng là phận nữ nhi nên không tra xét trên người cô ta, thành thử các cao tăng chùa Thiếu Lâm như Huyền Tịch, Huyền Nạn dù có nằm mơ cũng không biết được là cuốn kinh bản tự bị mất đang ở trong tay nàng.

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Nàng chịu mạo hiểm, mười phần chết chín mới lấy được cuốn kinh này từ trong chùa Thiếu Lâm ra, bản ý để cho Mộ Dung công tử, ta làm sao lại chiếm lấy làm của mình được?

A Châu đáp:

- Đại ca nói thế là không phải rồi.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Sao nàng lại bảo là ta không đúng?

A Châu đáp:

- Bộ kinh này là do tự ý thiếp đi ăn trộm về, nào có phải phụng mệnh công tử mà làm đâu. Thiếp thích cho ai thì cho người đó. Huống chi sau khi đại ca coi rồi, mình lại đưa cho công tử cũng chưa muộn kia mà. Mối thù cha mẹ, không đội trời chung. Để trả được mối thù này dù phải dùng thủ đoạn ác độc, hèn hạ xấu xa cách mấy cũng chẳng chừa, huống chi chỉ là mượn một bộ kinh coi, có gì đâu mà phải dùng dằng dúng dắng?

Mấy câu nói đó khiến Tiêu Phong cảm thấy như được cảnh tỉnh, quay sang nàng vái một vái thật sâu nói:

- Hiền muội trách cứ thật đúng, việc đại sự đâu có nề gì tiểu tiết.

A Châu dẩu môi cười:

- Đại ca vốn dĩ là đệ tử Thiếu Lâm, dùng võ công phái Thiếu Lâm để rửa thù cho ân sư Huyền Khổ chính là hợp tình hợp lý, có gì là không phải đâu nào?

Tiêu Phong luôn mồm khen phải, trong lòng hết sức cảm kích, lại thêm vui sướng, liền cầm chiếc bao giấy dầu mở ra xem, chỉ thấy một cuốn sách mỏng giấy đã vàng, ngoài bìa viết những chữ loằng ngoằng kỳ lạ. Ông kêu thầm: “Không xong rồi!”. Mở trang đầu ra xem, thấy trong đó viết đầy những chữ, nhưng những chữ đó xiên xiên xẹo xẹo, chữ thì hình tròn, chữ thì hình móc, đến nửa chữ cũng không đọc được.

A Châu kêu lên “Ôi chao!” một tiếng nói:

- Thì ra viết bằng chữ Phạn, thật không may. Thiếp vốn dĩ định thiêu bản văn này trước mồ lão gia nên không định tâm xem trước, thành ra lấy được kinh văn, tới nay chưa hề mở ra xem. Ôi, thảo nào mấy ông thầy chùa thấy võ công bí cập bị trộm mà cũng chẳng lấy gì làm tiếc, hóa ra chẳng ông nào đọc được kinh thư...

Nói xong nàng thở dài một tiếng, cực kỳ thất vọng. Tiêu Phong an ủi:

- Việc đời đắc thất, cũng chẳng nên quá để tâm.

Ông bỏ quyển Dịch Cân Kinh trở vào trong bao, gói kỹ lại trả cho A Châu. A Châu nói:

- Đại ca cứ giữ lấy thì đã sao? Không lẽ mình còn phân biệt của ta của người nữa hay sao?

Tiêu Phong mỉm cười, bỏ chiếc bao vào trong túi. Ông lại rót một bát rượu toan uống, đột nhiên ngoài cửa có tiếng chân người, ai đó kêu rống lên. Tiêu Phong hơi cảm thấy kỳ quái, vội bước ra cửa, thấy trên đường có một đại hán người đầy những máu, hai tay cầm hai chiếc búa, chém trên chém dưới múa lung tung.

1 Đương niên lang tòng kiều thượng quá, Muội tại kiều bạn tẩy y sam ...

2 Đúng nghĩa là gập đầu gối, nay có nhiều người hiểu sai là có điều cần dấu diếm

3 một tông phái Phật giáo Trung Quốc dựa trên kinh Diệu Pháp Liên Hoa và phép tu thiền Chỉ Quán bao gồm chú tâm coi mọi pháp đều là không nhưng mọi pháp đều có một dạng tồn tại tạm thời, giả tướng và có chức năng nhất định.

4 Ơn huệ để lại (dùng trong văn chương)

5 Vạn vật nhất bàn, Chúng sinh bình đẳng. Thánh hiền súc sinh, Nhất thị đồng nhân. Hán nhân Khất Đan, Diệc huyễn diệc chân. Ân oán vinh nhục, Câu tại khôi trần.

6 Vì việc nghĩa không thể ngồi yên

7 Nếu việc xảy ra ba mươi năm trước, theo chính sử thì Bảo Định Đế lúc đó chưa lên ngôi mà thời kỳ đó là đời vua Hiếu Đức Đoàn Tư Liêm (Bảo Định Đế làm vua 15 năm rồi xuất gia nhường ngôi cho Trung Tông 

datlucky_way

23-07-2009 10:36 AM

Hồi 22(a) : SONG MÂU XÁN XÁN NHƯ TINH 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Bảo anh phải bỏ ngai vàng,

Để anh chết đuối mắt nàng cũng cam.

Nhìn nhau dạ những mang mang,

Long lanh thăm thẳm như ngàn ánh sao.

*

* *

Đại hán đó râu ria xồm xoàm, thần thái uy mãnh nhưng đôi mắt ngây dại hành động như điên cuồng, rõ ràng là một người mất trí. Tiêu Phong thấy đôi đại phủ trong tay y dường như đúc bằng thép ròng, cực kỳ nặng nề, khi múa ra, đóng mở công thủ đúng phép tắc, môn hộ tinh nghiêm xem ra có vẻ phong phạm một bậc danh gia.

Các nhân vật võ lâm Trung Nguyên Tiêu Phong quen biết rất nhiều nhưng không biết người này là ai, nghĩ thầm: “Phép đánh búa của gã này khá lắm, sao ta lại không hề nghe đến một người nào như thế này?”.

Đôi búa của người kia càng lúc càng nhanh, mồm thì không ngớt kêu la:

- Mau mau, mau đi bẩm báo chúa công, kẻ địch đã kiếm tới rồi.

Y đứng chặn ngay giữa đường, đôi bản phủ sáng choang tạt ngang chém dọc, người đi đường ai nấy tránh dạt ra chứ dại gì mà đến gần? Tiêu Phong thấy y ra vẻ hoảng hốt, hết đường búa nọ tới đường búa kia xem chừng đã hết hơi sức nhưng vẫn cố ráng chịu đựng, mồm thì kêu:

- Các anh em mau mau lui ra đừng lo gì cho ta, chạy đi bẩm báo chúa công mới là cần.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này trung nghĩa cố gắng bảo vệ cho chủ, quả là một hảo hán nhưng tinh lực tổn hao như thế hẳn là đã bị nội thương thật nặng”. Ông bèn đi tới trước mặt người kia nói:

- Lão huynh nghỉ một chút uống chén rượu được chăng?

Đại hán kia hầm hầm trợn mắt nhìn ông, đột nhiên kêu lớn:

- Tên đại ác, chớ có mong hại chủ nhân ta.

Y vung búa lên xông tới chém xuống đầu Tiêu Phong. Người chung quanh thấy tình hình hung hiểm ai nấy kinh hoảng kêu toáng cả lên. Tiêu Phong nghe thấy ba chữ "tên đại ác" cũng chột dạ: “Ta và A Châu đang đi tìm "tên đại ác" để báo thù, kẻ đối đầu hán tử này hóa ra cũng là "tên đại ác". Tuy miệng y gọi thế thực nhưng chắc gì đã là kẻ mình đang tìm, thôi thì cứ cứu y đã rồi tính sau. Ông nghĩ thế bèn lòn tới sát người y giơ tay điểm vào huyệt ở mạng sườn.

Ngờ đâu hán tử nọ thần trí tuy đã hôn mê nhưng võ công không mất, chiếc búa bên phải bèn xoay đầu lại, cán búa đâm luôn vào bụng dưới Tiêu Phong. Chiêu đó cực kỳ tinh xảo linh động, giá như Tiêu Phong võ công không phải cao cường gấp bội y thì thể nào cũng bị trúng đòn, lập tức tay trái vươn ra, chộp luôn cán búa để đoạt lấy. Đại hán kia vốn dĩ đã gân cốt mỏi nhừ nên làm sao có thể chịu nổi? Y toàn thân chấn động, lập tức ngã nhào vào người Tiêu Phong. Thế nhưng y không màng sống chết, muốn cả hai đồng qui ư tận.

Tay phải Tiêu Phong lại tung ra, ôm chặt lấy gã này, hơi dụng kình khiến y không sao cục cựa được. Những người rỗi hơi đứng ngoài coi thấy Tiêu Phong đã chế phục được tên điên đều reo hò ầm ỹ. Kiều Phong vừa ôm vừa kéo gã đại hán vào trong đại đường của khách điếm, ấn y ngồi xuống nói:

- Lão huynh uống vài chén rượu rồi tính sau.

Nói xong ông gọi tửu bảo đem rượu đến. Đại hán nọ chăm chăm nhìn ông một hồi lâu mới hỏi:

- Ngươi ... ngươi là người tốt hay là người xấu?

Kiều Phong ngạc nhiên không biết phải trả lời thế nào. A Châu cười nói:

- Ông ta dĩ nhiên là người tốt, ta cũng là người tốt. Chúng mình là bạn với nhau, cùng đi đánh "tên đại ác".

Đại hán kia giương mắt nhìn nàng một hồi, lại quay sang nhìn Tiêu Phong một hồi dường như tin tưởng, dường như không tin, một lúc sau mới nói:

- Tên ... tên đại ác ư?

A Châu nhắc lại:

- Chúng mình là bạn với nhau, cùng đi đánh "tên đại ác".

Người kia bỗng đứng bật dậy kêu ầm lên:

- Không! Không! "Tên đại ác" ghê gớm lắm, mau mau đi bẩm với chúa công, nói chúa công tìm đường tránh đi. Ta ra chặn "tên đại ác" lại, còn ngươi đi báo tin.

Y vừa nói vừa cầm đôi búa xông ra. Tiêu Phong giơ tay đè lên vai giữ y lại nói:

- Này lão huynh, "tên đại ác" đã đến đâu, chúa công của ngươi là ai? Ông ta ở nơi nào?

Đại hán kêu lên:

- "Tên đại ác" mau lại đây đấu với lão tử ba trăm hiệp xem cho biết, chớ có hại đến chúa công ta.

Tiêu Phong nhìn A Châu không biết phải làm thế nào, A Châu đột nhiên la to:

- Chết rồi hỏng mất, chúng mình mau đi báo tin cho chúa công. Chúa công đang ở đâu? Chúa công đi hướng nào, chớ để cho "tên đại ác" biết.

Người điên liền hùa theo:

- Phải, phải, ngươi mau mau đi báo tin. Chúa công đến Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ, ngươi ... ngươi mau đi Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ bẩm báo chúa công, đi đi, đi đi!

Y giục luôn mồm ra chiều gấp gáp lắm. Tiêu Phong và A Châu còn chưa biết tính sao, bỗng nghe tên tửu bảo nói:

- Đi Tiểu Kính Hồ ư? Đường không phải gần đâu.

Tiêu Phong thấy Tiểu Kính Hồ quả đúng là một địa danh vội hỏi:

- Ở chỗ nào? Cách đây bao xa?

Gã tửu bảo nói:

- Ví như hỏi người khác thì chưa chắc đã biết. May mà hỏi tiểu nhân, thật đúng ngay chóc. Tiểu nhân chính ở ngay bên cạnh Tiểu Kính Hồ. Trên đời này thật khó mà có gì khéo hơn, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh.

Tiêu Phong nghe y nói lung tung chẳng vào chính đề liền giơ tay vỗ bàn một cái, quát:

- Nói mau! Nói mau!

Gã tửu bảo vốn định vòi vài đồng mới nói, bị Tiêu Phong nạt một cái, không dám lèo nhèo gì thêm vội đáp:

- Gớm sao vị gia đài này tính nóng thế, hì hì, nếu không phải hỏi đúng ngay tiểu nhân, dù có nôn nóng cách mấy cũng đâu có được, đúng không nào?

Y định nói bông phèng mấy câu nhưng liếc thấy Tiêu Phong có vẻ chẳng hiền gì liền tiếp:

- Tiểu Kính Hồ ở phía tây bắc, trước hết đi về hướng tây, đi được chừng bảy dặm rưỡi thì thấy có chừng mươi cây liễu, mỗi hàng bốn cây, cả thảy bốn hàng, một hàng là bốn, hai hàng là tám, ba hàng mười hai, bốn hàng mười sáu, cả thảy mười sáu cây liễu lớn thì đi lên hướng bắc. Đi thêm chừng chín dặm rưỡi nữa, thấy một chiếc cầu bằng đá xanh thì chớ có qua, qua cầu đó là hỏng đấy. Nói không qua cầu nhưng lại phải qua, mà không qua là cái cầu bằng đá xanh bên trái, mà phải qua chiếc cầu gỗ nhỏ ở bên phải. Qua chiếc cầu nhỏ rồi thì một đường rẽ qua hướng tây, một đường đi lên hướng bắc, phải đi con đường hướng tây theo con đường mòn thì mới đúng. Đi như thế tổng cộng hai mươi mốt dặm rưỡi thì gặp một cái hồ mặt nước sáng như gương, đó chính là Tiểu Kính Hồ. Đi đến đó, ai cũng bảo là chừng bốn mươi dặm, thực ra chỉ có ba mươi tám dặm rưỡi, bốn mươi dặm là không đúng đâu.

Tiêu Phong cố nhịn ngồi nghe gã tửu bảo nói cho xong. A Châu nói:

- Gớm vị đại ca này nói năng rành mạch quá. Một dặm đường thì một đồng tiền, đáng lẽ cho anh bốn mươi đồng, nhưng cho thế thì sai bét, chi bằng đừng cho, nhưng lại đáng cho. Tám lần một là tám, hai tám mười sáu, ba tám hăm tư, bốn tám ba mươi hai, năm tám bốn mươi, bốn mươi dặm đường trừ đi một dặm rưỡi thế là ba mươi tám đồng rưỡi.

Nàng đếm ba mươi chín đồng tiền, đồng tiền sau cùng cầm khía lên lưỡi búa một vết, bẻ cắc một tiếng đồng tiền đã gãy ra làm đôi, đưa cho gã tửu bảo ba mươi tám đồng rưỡi. Tiêu Phong thật tức cười, nghĩ thầm: “Cô bé này nhân cơ hội lại quấy phá một phen”. Đại hán kia mắt vẫn nhìn trừng trừng, luôn mồm giục:

- Mau đi báo tin, chậm là không kịp đâu, "tên đại ác" ghê gớm lắm đó.

Tiêu Phong hỏi lại:

- Thế chủ nhân ngươi là ai?

Đại hán kia lẩm bẩm:

- Chúa công ta ... chúa công ta ... ở đâu không thể cho người ngoài biết được. Thôi ngươi đừng đi nữa là hơn.

Tiêu Phong quát lên:

- Ngươi họ gì?

Gã kia thuận mồm đáp:

- Ta họ Cổ, ối trời, ta không phải họ Cổ.

Tiêu Phong trong bụng nghi ngờ: “Không lẽ tên này tính giở trò gì, cố ý dẫn dụ mình đến Tiểu Kính Hồ chăng? Cái gì mà họ Cổ rồi lại không họ Cổ?” Ông chợt nghĩ lại: “Ví thử như kẻ địch sai y đến dụ ta tới đó thì cầu còn chưa được, ta đang muốn đi kiếm y đây. Tiểu Kính Hồ dù có phải đầm rồng hang hổ chăng nữa thì Tiêu mỗ há sợ gì?”. Tiêu Phong quay sang A Châu:

- Chúng mình đến Tiểu Kính Hồ xem thế nào, có động tĩnh gì không, nếu như chủ nhân của vị huynh đài này có ở đó thì mình thể nào cũng tìm ra.

Gã tửu bảo liền xen vào:

- Tiểu Kính Hồ bốn bề hoang dã, chẳng có gì để xem cả. Hai vị nếu như muốn du sơn ngoạn thủy, ngắm phong cảnh thì nên đi đến các đình đài lâu các của những nhà giàu ở đây, có thế mới mở rộng tầm con mắt ...

Tiêu Phong xua tay bảo y đừng lèm bèm nữa, nói với đại hán kia:

- Lão huynh mệt lắm rồi, ở đây nghỉ ngơi, ta thay mặt đi bẩm báo với lệnh chủ nhân nói là "tên đại ác" sẽ tới ngay đó.

Người kia mừng rỡ:

- Đa tạ! Đa tạ! Cổ mỗ cảm kích không đâu kể xiết. Để ta đi chặn "tên đại ác" lại, không cho y qua.

Nói xong liền đứng dậy, giơ tay định nhắc đôi búa lên nhưng lực khí không còn gì nữa, hai tay ê ẩm, lăm lăm cầm cán búa rồi mà không sao nhắc lên nổi. Tiêu Phong nói:

- Lão huynh cứ thư thả.

Ông trả tiền ăn tiền ở xong liền cùng A Châu rảo bước đi ra, đúng lời dặn của tên tửu bảo theo đại lộ về hướng tây chừng bảy tám dặm, quả nhiên thấy ở bên đường có bốn hàng mỗi hàng bốn cây, cả thảy bốn hàng mười sáu cây dương liễu. A Châu cười nói:

- Tên tửu bảo đó tuy lắm mồm thật nhưng lắm mồm đúng cách, thế này thì không thể nào sai được, phải không nào? Ồ, cái gì đây?

Nàng đưa tay chỉ một cây liễu, dưới gốc cây có một người nhà nông ngồi tựa nơi đó, chân thò xuống cái rãnh bùn bên cạnh. Cảnh đó cũng chỉ là một chuyện thông thường ở nhà quê, nhưng người nông phu đó một bên mặt máu me, vai lại vác một cây thục đồng côn sáng loáng, xem ra không phải là nhẹ.

Tiêu Phong đi đến trước mặt người nhà quê đó, thấy y thở hổn hển, hiển nhiên đã bị nội thương khá nặng. Tiêu Phong liền mở lời:

- Này vị đại ca kia, bọn ta được người sử búa nhắn đi đến Tiểu Kính Hồ chuyển lời, xin hỏi đi Tiểu Kính Hồ là lối nào?

Người nhà nông ngẩng lên hỏi lại:

- Thế ông bạn sử búa còn sống hay chết rồi?

Tiêu Phong đáp:

- Y chỉ bị tiêu hao khí lực nhưng không đến nỗi nào.

Người nông phu thở phào:

- Tạ trời tạ đất. Xin hai vị đi về hướng bắc, cái ơn đưa tin quyết chẳng dám quên.

Tiêu Phong nghe y nói năng kiểu cách quyết không phải hạng nhà quê tầm thường bèn hỏi:

- Lão huynh tôn tính là gì? Có phải là bạn của người sử búa chăng?

Người nông phu đáp:

- Tiện tính Phó. Xin các hạ mau mau đến Tiểu Kính Hồ, "tên đại ác" đã vượt qua rồi, nói ra thật là hổ thẹn, tại hạ không ngăn nổi y.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này bị thương nặng không phải giả vờ, nếu quả y là do kẻ đối đầu mướn để dụ ta vào rọ thì tiền bỏ ra chắc không phải là ít”. Ông bèn nói:

- Phó đại ca, lão huynh bị thương không phải nhẹ, "tên đại ác" dùng binh khí gì đả thương ngươi thế?

Hán tử kia đáp:

- Y dùng gậy sắt.

Tiêu Phong thấy ngực y máu tươi chảy ra không ngớt, vội vạch áo ra xem, thấy trên ngực có một lỗ hổng, tuy chỉ nhỏ bằng ngón tay nhưng sâu hoắm. Tiêu Phong giơ tay liên tiếp điểm vào mấy đại huyệt chung quanh, giúp y ngừng chảy máu, bớt đau. A Châu xé áo y ra, băng bó vết thương lại. Hán tử họ Phó nói:

- Đại ân của hai vị, Phó mỗ không thể lấy lời mà cảm tạ được, chỉ xin hai vị mau đến Tiểu Kính Hồ, báo tin cho bề trên của chúng tôi.

Tiêu Phong hỏi:

- Thế bề trên của ông tên là gì, tướng mạo ra sao?

Người kia đáp:

- Các hạ đến bên bờ Tiểu Kính Hồ, sẽ thấy bên phía tây có một khu rừng trúc, cây trúc hình vuông, giữa rừng có mấy gian nhà tre, xin đến bên ngoài nhà gọi to mấy tiếng: “Thiên hạ đệ nhất đại ác nhân đã đến rồi, mau mau tránh đi” như thế là được, tốt hơn hết là đừng vào trong nhà. Tên của tệ thượng, sau này Phó mỗ sẽ xin phụng cáo.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Cái gì mà thiên hạ đệ nhất ác nhân? Không lẽ đó là người đứng đầu trong Tứ Đại Ác Nhân Đoàn Diên Khánh hay sao? Nghe gioọng lưỡi người này y không muốn nói nhiều, mình cũng chẳng nên hỏi thêm nữa”. Thế nhưng đến giờ phút này, ông không còn cái bụng úy kỵ nữa, nghĩ bụng: “Nếu quả là kẻ địch dụ ta vào tròng thì mỗi câu mỗi chữ phải cho hợp tình hợp lý, có đâu lại để cho ta nổi lòng nghi ngờ. Người này ấp á ấp úng, không dám nói thực, không phải là có ý xấu được”. Ông bèn nói:

- Được rồi, xin nghe theo lời dặn dò của các hạ.

Đại hán kia cố gượng đứng lên quì xuống cảm ơn. Tiêu Phong nói:

- Hai chúng ta mới gặp mà như quen đã lâu, Phó huynh chẳng cần phải đa lễ.

Ông giơ tay đỡ người kia dậy, một tay đưa lên xoa mặt một cái, bỏ hết những món hóa trang lấy bộ mặt thật của mình để tương kiến, nói:

- Tại lạ là Tiêu Phong người Khất Đan, sau này sẽ gặp lại.

Ông không đợi hán tử trả lời, nắm tay A Châu rảo bước đi ngay. A Châu hỏi:

- Thế mình không cần cải trang nữa hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Chẳng hiểu vì đâu, ta bỗng dưng cảm mến hán tử thô hào kia, nên có bụng muốn làm quen với y, thành thử không muốn dùng khuôn mặt giả để đối xử với người ta.

A Châu nói:

- Được lắm, để thiếp trở lại quần áo đàn bà.

Nàng đi đến bên dòng nước, vã nước lên rửa mặt, cởi mũ ra, để lộ mái tóc mềm óng như tơ, thoát bỏ áo bào rộng thùng thình, bên trong là y phục phụ nữ. Hai người đi một mạch chín dặm rưỡi, nhìn xa xa thấy nổi lên một chiếc cầu xây bằng đá xanh. Đến gần thêm chút nữa đã thấy giữa cầu một thư sinh nằm phục nơi đó. Người này trải một tờ giấy ngay trên cầu, đang dùng ngay đá lát cầu làm nghiên mài một vũng mực lớn. Thư sinh trong tay cầm bút, đang viết chữ lên trên tờ giấy. Tiêu Phong và A Châu đều lạ lùng, có ai ngờ trên một chiếc cầu ở nơi hoang dã thế này lại có một người giở nghiên bút giấy mực ra viết chữ?

Đến gần thêm chút nữa mới hay không phải y đang viết mà là đang vẽ cảnh vật chung quanh, chiếc cầu nhỏ với làn nước khe, cây cổ thụ cùng xa xa là núi biếc đều có cả. Y nằm phục trên cầu, mặt không quay về phía Tiêu Phong và A Châu, nhưng lạ lùng hơn cả cảnh trong tranh đều quay về phía hai người, có điều mỗi nét bút đều là vẽ ngược, từ hướng bên kia vẽ lại.

Về thư họa Tiêu Phong không biết gì, còn A Châu đã ở trong nhà Mộ Dung công tử lâu năm, các loại tinh phẩm bút mực xem đã nhiều, thấy thư sinh dùng phép “đảo họa” tuy không đạt đến mức đan thanh diệu bút, nhưng vẽ ngược mà được như thế quả thực khó khăn, đang toan tiến lên hỏi y mấy câu thì Tiêu Phong đã giựt nhè nhẹ chéo áo nàng, lắc đầu, đi qua phía chiếc cầu gỗ phía bên phải.

Người nho sinh bỗng nói:

- Hai vị trông thấy tại hạ vẽ ngược, sao không ghé mắt qua một chút? Không lẽ cái công phu nhỏ mọn của tại hạ làm bẩn mắt hai vị hay sao?

A Châu đáp:

- Khổng phu tử chiếu không ngay không ngồi, thịt không sạch sẽ không ăn. Chính nhân quân tử lẽ nào đi xem vẽ ngược bao giờ?

Người kia cười ha hả, cuộn tờ giấy lại nói:

- Lời cô nương quả hữu lý, xin mời qua cầu.

Tiêu Phong đã đoán được dụng ý của y dùng giấy trải trên cầu để cho người khác chú ý, trước là kéo dài thời gian, sau là lấy hư làm thực, cố ý dụ người ta đi qua chiếc cầu đá bèn nói:

- Bọn chúng tôi muốn đến Tiểu Kính Hồ, đi lên thạch kiều chẳng hóa ra đi sai đường ư?

Thư sinh đáp:

- Nếu đi qua cầu đá chẳng qua là đi đường vòng, xa thêm năm sáu chục dặm rồi cũng đến nơi, hai vị cứ lên thạch kiều chẳng sao cả.

Tiêu Phong đáp:

- Chẳng có chuyện gì, cớ sao lại phải đi thêm năm sáu chục dặm?

Thư sinh kia cười nói:

- Dục tốc tắc bất đạt , không lẽ hai vị không biết câu đó ư?

A Châu cũng biết người này cố tình kéo dài thời gian nên không muốn lôi thôi với y nữa, lập tức bước lên chiếc cầu gỗ, Tiêu Phong cũng đi theo. Hai người đi đến giữa đường, đột nhiên dưới chân tụt hẫng, nghe lách cách mấy tiếng, ván cầu gãy đôi, thân hình rơi tõm xuống sông. Tiêu Phong vươn tay trái ôm lưng A Châu, chân phải điểm vào ván cầu một cái mượn sức nhảy vọt tới trước, qua luôn bờ bên kia, tiện tay đánh ngược lại một chưởng để phòng kẻ địch tấn công lén.

Thư sinh kia cười hà hà nói:

- Công phu giỏi lắm giỏi lắm! Hai vị vội vã đến Tiểu Kính Hồ chẳng hay có chuyện gì?

Tiêu Phong nghe trong giọng cười của y có vẻ kinh hoàng, nghĩ thầm: “Gã này mặt mày sáng sủa vậy mà lại cùng phe với "tên đại ác"”. Ông không lý gì tới y cứ tiếp tục cùng A Châu đi thẳng. Đi được mấy trượng nghe thấy có tiếng chân người phía sau, quay đầu nhìn lại chính là thư sinh đó đang đuổi theo. Tiêu Phong quay đầu, mặt đanh lại hỏi sẵng:

- Các hạ muốn dạy bảo chuyện gì?

Thư sinh đáp:

- Tại hạ cũng định đi đến Tiểu Kính Hồ, thành thử đi cùng đường với hai vị.

Tiêu Phong đáp:

- Nếu quả thế thì hay lắm.

Ông giơ tay vòng qua eo A Châu, đề khí đưa nàng đi vèo vèo, lướt đi không một tiếng động, bụi không bay lên. Thư sinh nọ cắm đầu cằm cổ chạy theo nhưng mỗi lúc cách hai người một xa. Tiêu Phong thấy y võ công bình thường không coi vào đâu cứ tiếp tục chạy tới, tuy kéo theo cả A Châu nhưng vẫn nhanh hơn người kia nhiều, chỉ khoảng một bữa cơm đã bỏ xa không còn thấy bóng dáng y đâu nữa.

Qua khỏi cây cầu gỗ đường càng lúc càng hẹp, có lúc cỏ mọc đến ngang lưng thật khó mà phân biệt, nếu như không được tên tửu bảo chỉ đường rành mạch rõ ràng thì không thể nào tìm ra. Lại chạy thêm chừng nửa giờ nữa thì thấy một hồ nước trong. Tiêu Phong chậm lại đi đến bên cạnh thấy nước hồ trong xanh như ngọc, mặt lặng như gương quả không hổ cái tên Tiểu Kính Hồ.

Ông đang định đi tìm khu rừng trúc vuông, bỗng nghe bên trong bụi hoa bên cạnh có tiếng cười khẩy, đồng thời một viên sỏi bắn ra. Tiêu Phong theo hướng viên sỏi nhìn theo thấy bên bờ hồ có một ông câu, đầu đội nón lá đang ngồi đó. Cần câu của y đã móc được một con cá xanh biếc, viên sỏi bắn ra, không lệch không xéo, trúng ngay sợi dây câu, nghe bựt một tiếng dây câu đứt đôi, con cá rơi tõm xuống hồ.

Tiêu Phong hơi kinh ngạc: “Thủ kình người này thật là cổ quái. Dây câu mềm mại không dễ gì cắt đứt. Nếu như y dùng phi đao hay tụ tiễn để cắt đứng thì không nói làm gì. Chỉ một viên sỏi tròn mà có thể cắt được dây câu, thủ pháp âm nhu sử dụng ám khí của người này ở Trung Thổ không ai có được”.

Người bắn viên sỏi đó xem chừng võ công không cao nhưng đầy vẻ tà khí, thủ pháp rõ ràng là của bàng môn tả đạo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc y là đệ tử hay thuộc hạ của "tên đại ác", nghe tiếng cười dường như là một cô gái còn nhỏ tuổi”.

Dây câu của ngư nhân bị viên sỏi cắt đứt, y kinh hoảng lớn tiếng nói:

- Ai đùa cợt với Chử mỗ đó, xin ra mặt coi nào!

Có tiếng sột soạt, bụi hoa rẽ ra, một cô gái bước ra, quần áo toàn thân màu tím, chỉ chừng mười lăm mười sáu tuổi, so với A Châu còn nhỏ hơn vài tuổi, đôi mắt đen lay láy, vẻ mặt đầy vẻ tinh nghịch. Nàng ta chợt nhìn thấy A Châu, không để ý đến người câu cá nữa, lon ton chạy đến trước mặt nàng, nắm tay cười nói:

- Sao chị đẹp thế, em thích chị ghê!

Giọng cô gái nghe hơi đơ đớ, phát âm không chính xác lắm dường như người nước ngoài học tiếng Trung Thổ. A Châu thấy cô gái hoạt bát ngây thơ, cười nói:

- Em rồi sau cũng xinh lắm, chị cũng thích em.

A Châu đã từng ở Cô Tô lâu, bây giờ dùng giọng quan thoại trung châu thật là dịu dàng, lại thật chuẩn xác. Ông câu đang tính nổi sùng, bỗng thấy chỉ là một thiếu nữ hoạt bát dễ thương, bao nhiêu tức tối đều tiêu giảm nói:

- Cô bé con này sao nghịch quá! Công phu đánh đứt dây câu quả là giỏi thật.

Thiếu nữ nói:

- Câu cá có gì là thích đâu? Chán chết đi được. Nếu ông thích ăn cá, lấy cái cần câu đâm cá có phải tiện hơn không?

Nói rồi cầm chiếc cần trong tay ông câu, thuận tay đâm xuống nước một cái rồi rút lên, đầu cần câu đã có một con cá trắng bị đâm trúng bụng, khi nhắc lên vẫn còn uốn éo dãy dục, máu từ vết thương nhỏ ròng ròng, màu đỏ loang trên nước biếc, trông vừa đẹp đẽ nhưng có lẫn chút tàn nhẫn bên trong.

Tiêu Phong thấy cô gái chỉ tiện tay đâm một cái, tay phải hơi nghiêng đi một chút vạch thành một hình cung nhỏ, rồi lại từ bên phải phất xuống dưới, thủ pháp xem ra xảo diệu, tư thế dễ coi nhưng dùng để đối địch, công thủ xem ra hơi chậm một tí, không sao đoán được cô ta ở môn phái nào.

Cô gái cứ nhắc tay lên lại đâm xuống liên tiếp, xiên trúng sáu con cá bạc làm thành một chuỗi, sau đó rung một cái hất cả sáu con xuống dưới hồ. Người thợ câu vẻ mặt không vui nói:

- Ngươi tuổi còn nhỏ sao hành sự tàn ác như vậy. Nếu ngươi muốn bắt cá thì không nói làm gì, đâm chết cá không ăn, vô cớ sát sinh thì đâu còn đạo lý gì nữa?

Cô gái vỗ tay reo lên:

- Ta thích vô cớ sát sinh thì ông làm gì được ta nào?

Hai tay dùng sức bẻ một cái định bẻ gãy chiếc cần của ông câu, ngờ đâu chiếc cần đó cực kỳ chắc chắn, cô gái không sao bẻ gãy được. Ông câu cười khẩy nói:

- Ngươi tưởng có thể bẻ gãy được cần của ta sao, đâu có dễ như thế được.

Cô gái chỉ về phía sau lưng ông câu nói:

- Ai đến thế kia?

Người thợ câu quay đầu lại nhìn, không thấy ai cả, biết là mắc hỡm vội vàng chuyển mình nhưng đã chậm mất một bước, thấy chiếc cần của ông ta đã bay vụt ra ngoài mấy trượng, nghe tõm một tiếng đã cắm xuống giữa hồ rồi biến mất không còn tăm tích gì nữa. Ông câu giận lắm, quát lên:

- Con nhãi mất dạy ở đâu tới đây?

Y giơ tay chộp vào vai cô gái, thiếu nữ vừa cười vừa kêu lên:

- Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Rồi chạy ra núp sau lưng Tiêu Phong. Ông câu lòn qua đuổi bắt, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Chỉ trong nháy mắt, Tiêu Phong đã thấy trong tay cô gái có thêm một vật gì đó, dường như là một vuông vải trong suốt, tựa như có tựa như không, không biết đó là cái gì. Ông câu xông tới, không biết tại sao bỗng trượt chân một cái, ngã lăn ra đất, thân hình cuộn lại thành một cục. Tiêu Phong bấy giờ nhìn rõ, vật mà cô gái cầm trong tay là một cái lưới đan bằng tơ cực mỏng manh. Sợi tơ chỉ nhỏ như sợi tóc, lại trong suốt nhưng chắc chắn dị thường, đụng vào vật gì liền rút lại, ông câu bị mắc trong cái lưới càng hết sức dãy dụa, chiếc lưới càng thắt lại chặt thêm, chỉ trong giây lát đã bị bó tròn như khúc giò không sao động đậy được nữa.

Ông thợ câu càng lớn tiếng chửi mắng:

- Con nhãi kia, ngươi giở trò ma trò quỉ gì, dùng yêu pháp tà thuật để bắt ta.

Tiêu Phong trong bụng kinh ngạc, biết cô gái này không dùng yêu pháp tà thuật gì, nhưng chiếc lưới cá kia quả có vẻ yêu tà thật. Ông thợ câu vẫn luôn mồm chửi bới, thiếu nữ cười nói:

- Ông mà còn chửi nữa là ta đánh vào đít ông đó.

Ông câu giật mình vội vàng nín bặt nhưng mặt tím lại. Ngay lúc đó bên phía tây hồ có tiếng người nói:

- Chử huynh đệ, có chuyện gì thế?

Từ con đường nhỏ bên cạnh hồ một người rảo bước đi ra. Tiêu Phong nhìn thấy người kia gương mặt hình chữ quốc, khoảng chừng ngoài bốn mươi nhưng chưa đến năm mươi, hình mạo uy võ nhưng áo thùng thình, xem chừng có vẻ tiêu sái.

Người kia đến gần, thấy ông câu bị trói chặt cực kỳ kinh ngạc hỏi:

- Sao thế?

Ông câu đáp:

- Tiểu cô nương đây sử dụng yêu pháp ...

Người tung niên quay sang nhìn A Châu. Cô gái kia cười nói:

- Đâu phải chị đó, tôi cơ mà!

Người đàn ông kêu lên một tiếng, cúi xuống nhắc tấm thân to lớn của người thợ câu lên, giơ tay cởi chiếc lưới cá. Ngờ đâu cái lưới làm bằng chất gì thật quái lạ, ông ta càng dùng sức gỡ ra thì lại càng thắt chặt lại, làm cách nào cũng không cởi ra được. Cô gái đó cười nói:

- Chỉ cần y nói ba lần: “Tôi phục cô nương lắm rồi!” thì ta sẽ thả y ra.

Người trung niên nói:

- Ngươi đắc tội với Chử huynh đệ của ta, coi chừng xảy ra chuyện không hay đó.

Cô gái lại cười:

- Có thật không? Tôi đang muốn có chuyện gì không hay đây, kết quả càng tệ hại thì càng thích.

Người kia vươn tay trái ra, nắm lấy đầu vai cô gái. Thiếu nữ rụt người lại, lách qua né tránh, ngờ đâu cô ta tuy nhanh, người trung niên lại còn nhanh hơn, tay đè xuống một cái đã nắm ngay được cô ta. Thiếu nữ hất ra nhưng tả chưởng của người kia vẫn dính chặt lấy vai khiến cô gái kêu oai oái:

- Bỏ tay ra!

Cô ta vung tay lên định đánh nhưng quyền chỉ ra được chừng một thước cánh tay đã không còn hơi sức xuội ngay xuống. Thiếu nữ kinh hãi kêu lên:

- Ông giở yêu pháp tà thuật gì đó? Mau buông tôi ra!

Người đàn ông mỉm cười:

- Vậy cô nói ba lần: “Tôi phục tiên sinh lắm rồi!” sau đó mở cái lưới cho người anh em của ta thì ta sẽ thả cô ra.

Cô gái giận dữ nói:

- Ông đắc tội với cô nương thì chẳng hay ho gì đâu nhé.

Người trung niên mỉm cười:

- Kết quả càng tệ hại thì càng thích.

Thiếu nữ lại hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được, chỉ thấy toàn thân ê ẩm, đến chân cũng không có hơi sức bèn cười nói:

- Thật rõ ê mặt, chỉ giỏi tài nhái giọng người ta. Thôi được rồi, để tôi nói: “Tôi phục tiên sinh rồi, tôi phục tiên sinh rồi, tôi phục tiên sinh rồi!”.

Nàng ta nói chữ “tiên” nghe lơ lớ thành “thử sinh” nghe tưởng chừng như định nói: “Tôi phục súc sinh rồi!”. Thế nhưng người trung niên kia không phát giác, buông tay ra khỏi đầu vai cô gái nói:

- Mau mở lưới ra nào!

Cô gái cười:

- Cái này dễ ợt hà!

Nàng ta đi tới bên cạnh ông câu, cúi xuống cởi lưới đang quấn chặt lấy ông ta, tay áo trái hơi nhắc lên, một ánh chớp lấp lánh màu xanh biếc bắn ngay vào người đàn ông trung niên. A Châu kinh hoảng kêu lên một tiếng, thấy thủ pháp bắn ám khí của cô ta cực kỳ độc địa, hai người lại quá gần nhau, xem ra thể nào cũng trúng. Thế nhưng Tiêu Phong chỉ mỉm cười, người đàn ông trung niên này vừa ra tay đã chế ngự ngay được cô gái khiến nàng ta không còn cục cựa nổi hiển nhiên nội lực thâm hậu, võ công cao cường, mũi ám khí nhỏ bé đó làm sao đả thương ông ta được. Quả nhiên người kia phất tay áo bào một cái, một luồng nội lực tung ra, đánh giạt chùm kim lả tả rơi xuống vũng bùn bên cạnh hồ.

Ông ta vừa nhìn thấy màu những cây kim kia biết ngay có tẩm thuốc độc thật là ghê gớm, thuộc loại kiến huyết phong hầu, chảy máu là chết ngay, mình với cô ta mới gặp lần đầu, không thù không oán lẽ nào vừa ra tay lại hạ độc thủ? Ông ta cực kỳ bực tức, định tâm cho con nhãi này một bài học, tay áo bên phải liền vung ra, trong tụ lực có kèm theo chưởng lực nghe vù một tiếng, hất cô gái tung lên, nghe tõm một cái đã rơi ngay xuống dưới hồ. Tiếp theo đó ông nhún chân nhảy vọt vào một chiếc thuyền nhỏ ở dưới gốc cây liễu, cầm giầm chèo mấy cái đã đến chỗ cô gái bị rơi xuống, đợi cô ta vừa trồi lên sẽ nắm tóc kéo lên thuyền.

Cô gái chỉ kêu được một tiếng “Ôi chao”, rơi xuống hồ rồi không còn thấy tăm hơi gì nữa. Thông thường nếu như ai bị chết đuối thường bao giờ cũng trồi lên hụp xuống mấy lần, uống nước no rồi lúc đó mới chìm hẳn không trồi lên nữa. Thế nhưng cô gái này chẳng khác gì một cục đá, rơi xuống rồi chìm mất tăm không nổi lên. Đợi một hồi sau vẫn không thấy cô ta nổi lên mặt nước.

Người đàn ông trung niên kia càng đợi càng nóng ruột, ông ta vốn không có ý định đả thương cô ta, thấy cô ta tuổi nhỏ mà hành sự độc ác nên muốn răn dạy một phen, nếu khiến cô ta chết đuối quả thực không nhẫn tâm. Người thợ câu kia bơi lội rất giỏi có thể nhảy xuống hồ cứu người nhưng lại đang bị mắc trong lưới không cách nào thoát ra được. Tiêu Phong và A Châu cả hai đều không thông thủy tính nên cũng không biết làm cách nào. Chỉ nghe người trung niên kêu to:

- A Tinh, A Tinh, mau ra đây!

Từ trong khu rừng trúc xa xa có tiếng đàn bà truyền ra:

- Chuyện gì vậy? Thiếp chẳng ra đâu.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người đàn bà này thanh âm kiều mị nhưng lại có ba phần ngang ngạnh, cùng với A Châu và cô gái mới rơi xuống hồ đúng là một bộ ba thế chân vạc”.

Người trung niên lại kêu lên:

- Có người chết đuối, mau ra cứu người ta!

Người đàn bà lại vói ra:

- Thế có phải là chàng chết đuối không?

Người đàn ông gắt lên:

- Đừng có đùa, nếu ta chết đuối sao lại còn nói được? Mau ra cứu người đi nào!

Người đàn bà lại nói:

- Nếu như chàng chết đuối thì thiếp ra cứu, còn như người khác thì mặc xác người ta, cứ để thế cho vui.

Người trung niên nói:

- Thế nàng có ra không thì bảo?

Ông ta hầm hầm dậm chân ở đầu thuyền, hết sức nóng nảy. Người đàn bà lại nói:

- Nếu là đàn ông thì thiếp mới cứu, còn như đàn bà thì có một trăm người chết đuối, thiếp cũng chỉ vỗ tay reo hò, không cứu đâu.

Giọng nói mỗi lúc một gần, chẳng mấy chốc đã ra đến bờ hồ. Tiêu Phong và A Châu nhìn bà ta, thấy tuổi chừng ba mươi lăm, ba mươi sáu, mặc một bộ đồ bơi màu xanh nhạt bó sát người, lộ rõ chiếc eo thon, dung nhan tú lệ, khóe miệng trông như mủm mỉm cười, đôi mắt to đen sáng lóng lánh như ánh sao, khóe thu ba đưa đẩy cực kỳ linh hoạt, tưởng chừng chỉ một đôi mắt đã nói được muôn ngàn lời. Tiêu Phong nghe thanh âm giọng điệu của bà ta tưởng nhiều lắm cũng chỉ hăm mốt hăm hai, hóa ra lại là một thiếu phụ không còn trẻ lắm. Bộ quần áo bơi của nàng ăn vận chỉnh tề, chắc là vừa nghe người đàn ông gọi cứu người tuy miệng trêu ông ta, nhưng lập tức nhanh nhẹn mặc quần áo ngay.

Người đàn ông trung niên thấy bà ta đi ra hết sức vui mừng, kêu lên:

- A Tinh, mau lên, ta lỡ tay để cô ta rơi xuống hồ, sao không thấy nổi lên nữa.

Người đàn bà xinh đẹp kia nói:

- Để thiếp hỏi cho rõ ràng, có đàn ông thì mới cứu, còn như đàn bà xin chàng khỏi mở lời làm chi.

Tiêu Phong và A Châu đều cảm thấy lạ lùng, nghĩ thầm: “Đàn bà con gái không nhảy xuống nước cứu đàn ông con trai, để khỏi xảy ra chuyện quơ quào lôi kéo dưới nước làm mất thân phận, ấy là chuyện thường. Sao lại có chuyện ngược đời, chỉ cứu đàn ông, không cứu đàn bà là sao?”.

Người trung niên dậm chân, bực bội nói:

- Thôi, chỉ là một con bé con mười bốn mười lăm, nàng đừng có nghĩ nhằng.

Người đàn bà xinh đẹp kia đáp:

- Hứ, tiểu cô nương thì sao? Hạng như chàng, bé con mười bốn mười lăm, bà già bảy tám chục cũng đều chẳng ...

Nàng ta định nói “cũng đều chẳng tha” nhưng chợt nhìn thấy Tiêu Phong và A Châu nên bẽn lẽn, vội vàng giơ tay lên bịt miệng mình lại, nín chữ “tha” lại không thốt ra, nhưng ánh mắt đầy vẻ tinh quái.

Người đàn ông trung niên đứng trên thuyền vái dài một cái nói:

- A Tinh, xin nàng mau cứu cô ta lên, nàng nói gì ta cũng bằng lòng cả.

Người đàn bà đáp:

- Cò thật là chuyện gì cũng bằng lòng không?

Người đàn ông vội đáp:

- Thật thế. Ôi, cô bé con này sao chưa nổi lên, không lẽ chết thật ...

Người đàn bà nói:

- Nếu thế thiếp bảo chàng mãi mãi ở lại nơi đây, chàng có bằng lòng không?

Người trung niên vẻ mặt sượng sùng nói:

- Cái đó ... cái đó ...

Người đàn bà nói:

- Chàng chỉ nói mà đâu có làm, đầu môi chót lưỡi đánh lừa người khác, để cho thiếp được vui lòng trong chốc lát, cho qua chuyện. Có thế mà chàng cũng không chịu.

Nói tới đây, đôi mắt rưng rưng, phụng phịu, pha chút nghẹn ngào. Tiêu Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau, hơi lạ lùng, hai người này tuổi tác đâu còn nhỏ nhít gì nhưng nói năng hành động thật chẳng khác gì đôi thanh niên nam nữ đang độ say mê, kiểu cách xem ra không phải vợ chồng thế mà người đàn bà kia trước mặt người ngoài nói năng cũng chẳng cần giữ gìn gì cả, trong lúc người kia chết sống nơi đầu tơ kẽ tóc vẫn tỉnh bơ không có gì gọi là gấp gáp.

Người trung niên thở dài một tiếng, chèo thuyền quay lại đáp:

- Thôi được, chẳng cần cứu nữa. Cô bé con này dùng ám khí độc địa bắn lén ta, có chết cũng đáng, thôi mình đi về.

Người đàn bà xinh đẹp kia chưng hửng:

- Sao lại không cứu nữa? Thiếp nhất định phải cứu. Cô ta dùng ám khí bắn chàng ư? Thế thì hay lắm, thế nhưng sao chàng không chết? Đáng tiếc thật! Đáng tiếc thật!

Bà ta cười khúc khích, nhún mình một cái lao luôn xuống hồ. Bà ta bơi thật giỏi, chỉ nghe tõm một tiếng nhỏ nước không thấy văng lên, đã chuồi luôn xuống dưới nước. Tiếp đó nghe thấy tiếng bì bõm, mặt hồ rẽ ra, người đàn bà xinh đẹp kia thò đầu lên hai tay nâng cô gái áo tím. Người đàn ông trung niên mừng rỡ vội vàng chéo chiếc thuyền lại đón.

Ông ta bơi đến gần người đàn bà liền giơ tay đón lấy cô gái áo tím, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền dường như đã tắt thở rồi, sắc mặt không khỏi lo âu. Người đàn bà xinh đẹp kia quát lên:

- Không được đụng vào cô ta, ông là người hiếu sắc quá đỗi, không thể nào tin nổi.

Người đàn ông tức tối đáp:

- Chỉ nói bậy bạ, trong đời ta đã bao giờ hiếu sắc đâu.

Người đàn bà cười khúc khích, nâng luôn cô gái nhảy vọt vào thuyền:

- Phải rồi, phải rồi! Chàng có bao giờ hiếu sắc đâu, chỉ thích hạng người xấu như ma lem, như Chung vô Diệm thôi, ối chao ...

Bà ta vừa sờ vào ngực cô gái thấy tim đã ngừng đập, mũi không còn thở nữa nhưng bụng vẫn xẹp lép hiển nhiên chưa uống nhiều nước. Người đàm bà vốn tinh thông thủy tính, vẫn liệu rằng bấy nhiêu lâu chưa thể chết người được, có ngờ đâu cô gái thân thể ẻo lả nên tắt thở rồi, trên mặt không khỏi lộ vẻ ăn năn, vội vàng ôm cô gái nhảy lên bờ kêu rối rít:

- Mau lên, mau lên, mình phải tìm cách cứu cô ta mới được.

Bà ta bồng cô gái chạy như bay về phía rừng trúc. Người trung niên cũng cúi xuống ôm gã thợ câu, quay sang Tiêu Phong:

- Huynh đài tôn tính đại danh là gì? Giá lâm nơi đây không hiểu có việc gì không?

Tiêu Phong thấy ông ta khí độ ung dung, thấy cô gái kia thảm tử nhưng vẫn trấn tĩnh, trong lòng ngầm bội phục nói:

- Tại hạ là người Khất Đan, tên Tiêu Phong nhận lời ủy thác của hai vị bằng hữu, đến đây báo một cái tin.

Tên của Tiêu Phong trên giang hồ vốn dĩ không ai không biết nhưng từ khi ông biết họ thật của mình rồi nên bây giờ tự xưng Tiêu Phong, lại kèm theo mấy tiếng người Khất Đan, nói trắng lai lịch của mình ra. Người trung niên kia nghe tên đó chỉ nghĩ là một nhận vật gặp gỡ giữa giữa đàng, nghe thấy ba tiếng “người Khất Đan” cũng không lạ lùng gì, bèn hỏi:

- Người nhắn gửi Tiêu huynh là vị bằng hữu nào thế? Không biết báo tin chuyện gì?

Tiêu Phong đáp:

- Một người sử dụng đôi búa, một người sử dụng đồng côn, tự xưng là họ Phó, cả hai người đều bị thương ...

Người trung niên kia hoảng hốt hỏi lại:

- Hai người đó thương thế ra sao? Hiện nay họ đang ở đâu? Tiêu huynh, hai người đó là bạn tri giao của huynh đệ, xin chỉ điểm cho, ta ... ta ... phải đi cứu ngay mới được.

Người thợ câu nói:

- Cho thuộc hạ theo với.

Tiêu Phong thấy hai người trọng nghĩa, trong bụng kính phục liền nói:

- Hai người đó thương thế tuy nặng thật nhưng chưa đến nỗi nguy đến tính mạng, đang ở thị trấn gần bên ...

Người trung niên vái một cái thật sâu nói:

- Đa tạ! Đa tạ!

Ông ta không nói nữa, tay xách ông câu lên, chạy về phía con đường Tiêu Phong mới tới lúc nãy. Ngay khi đó, có tiếng của người đàn bà từ trong rừng trúc vọng ra:

- Lại đây mau! Mau lên! Ông xem ... xem cái gì đây này.

Giọng nói ra chiều hết sức gấp gáp. Người trung niên liền dừng bước, còn đang do dự bỗng thấy một người chạy như bay từ con đường đi tới, miệng kêu:

- Chúa công, có người đến sinh sự chăng?

Chính là gã thư sinh vẽ ngược trên cầu đá. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ta lại tưởng y ngăn trở ta không cho đến báo tin, hóa ra y cùng phe với hai người sử dụng bản phủ và đồng côn. Người mà bọn họ gọi là “chúa công” chắc là người này”.

Khi đó thư sinh kia đã thấy Tiêu Phong và A Châu đứng cạnh người trung niên, không khỏi ngạc nhiên, đến lúc tới gần lại thấy người thợ câu bị trói chặt, vừa kinh hãi vừa tức tối, hỏi:

- Sao ... sao thế?

Lại nghe thấy từ trong rừng trúc tiếng người đàn bà kia càng thêm hoảng hốt:

- Sao ông còn chưa đến, ối trời, thiếp ... thiếp ...

Người trung niên liền đáp:

- Để ta đến xem nào.

Ông ta xách cả người thợ câu rảo bước đi về phía rừng trúc. Ông ta vừa mới cử động đã thấy công lực phi phàm, bước đi nhẹ nhàng mà lại hết sức nhanh nhẹn. Tiêu Phong đưa tay đỡ ngang hông A Châu cũng thản nhiên đi ngang với ông ta. Người trung niên kia liếc mắt nhìn ra vẻ khâm phục.

Chỉ trong khoảnh khắc đã đến bên rừng trúc, quả nhiên những cây trúc đó thân đều hình vuông, đi thêm chừng vài trượng đã thấy ba gian nhà nhỏ cũng làm bằng tre, cấu trúc hết sức tinh mỹ. Người đàn bà nghe thấy tiếng chân người vội kêu lên:

- Chàng ... chàng mau lại đây mà xem, cái gì thế này?

Trong tay cầm một sợi dây chuyền bằng vàng. Tiêu Phong nhìn thấy sợi dây chuyền đó chỉ là một món đồ trang sức tầm thường của phụ nữ, không có gì đặc biệt, hôm trước A Châu bị thương Tiêu Phong thò tay vào túi nàng lấy thương dược, cũng thấy nàng có một sợi dây tương tự như thế này. Ngờ đâu người trung niên kia cầm chiếc dây chuyền coi qua coi lại lập tức biến sắc, run run hỏi:

- Ở ... ở đâu ra thế này?

Người đàn bà đáp:

- Tháo ra ở cổ nó đó, thiếp đã từng vẽ ký hiệu trên vai trái chúng nó, chàng ... chàng tự mình coi xem ...

Người đàn ông vội vàng tiến vào trong phòng, A Châu cũng lướt tới chạy theo so với người đàn bà còn nhanh hơn một bước. Tiêu Phong cũng theo sát bên hai người đàn bà vào nội đường thấy đây là phòng ngủ của phụ nữ, trần thiết tinh nhã. Tiêu Phong không có thì giờ đâu mà coi kỹ đã thấy cô gái áo tím kia nằm trên giường không động đậy, xem ra đã chết rồi.

Người đàn ông trung niên vén tay áo cô gái lên, xem kỹ đầu vai cô ta. Ông ta vừa coi lập tức bỏ ngay xuống. Tiêu Phong đứng ở sau lưng ông ta nhưng không nhìn ra có ký hiệu gì nhưng thấy lưng người đàn ông run lên bần bật đủ biết tâm thần bị chấn động mãnh liệt.

Người đàn bà nắm áo người đàn ông khóc nức nở:

- Chính là con gái ông rồi, vậy mà ông chính tay giết nó, ông đã không nuôi nó thì thôi lại còn đang tâm giết nó ... ông ... ông thật là người cha lòng lang dạ sói ...

Tiêu Phong lạ lùng: “Cái gì thế này? Cô gái này là con gái ông ta sao? À, đúng rồi, chắc là cô gái này sinh ra chưa bao lâu đã đem gửi người khác nuôi, chiếc dây chuyền và ký hiệu gì đó trên đầu vai là do cha mẹ cô ta để lại cho dễ nhận”. Đột nhiên A Châu nước mắt đầm đìa, thân hình lảo đảo, ngã xuống giường. Tiêu Phong kinh hãi, vội đưa tay ra đỡ, vừa cúi xuống thấy mi mắt cô gái nằm trên giường hơi rung rung. Đôi mắt cô ta nhắm nghiền nhưng con ngươi chuyển động, tuy qua lần da mi mắt nhưng vẫn còn nhận ra được. Tiêu Phong quan tâm đến A Châu hỏi ngay:

- Sao thế?

A Châu đứng thẳng dậy, giơ tay chùi nước mắt, cố gượng cười:

- Thiếp thấy cô này ... không may chết oan, trong lòng đau xót.

Tiêu Phong đưa tay ra cầm mạch cô gái, người đàn bà lại khóc òa lên:

- Mạch đã ngừng rồi, không còn thở nữa, làm sao cứu sống lại được?

Tiêu Phong hơi vận nội lực, đẩy vào cổ tay cô gái rồi lập tức buông lỏng, thấy từ bên trong cơ thể cô ta có sức bật ra, hiển nhiên cô gái đang vận nội kình kháng ngự. Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Một cô bé cứng đầu như thế này, quả thực trên đời ít thấy.

Người đàn bà giận dữ nói:

- Ngươi là hạng người gì, có mau cút ra không? Con ta đã chết rồi lại còn ở đây nói bậy nói bạ.

Tiêu Phong cười đáp:

- Con gái bà chết rồi nếu tôi cứu sống lại được thì sao đây?

Ông đưa tay điểm luôn vào huyệt đạo nơi eo cô gái. Chỉ đó điểm trúng huyệt Kinh Môn ở ngang hông, là nơi đầu mối của gân cốt con người, Tiêu Phong lại dùng nội lực truyền vào khiến cho ngứa ngáy chịu không nổi. Cô gái làm sao chống cự lại được nên từ trên giường nhảy vọt lên, cười khanh khách, giơ tay vịn vào vai Tiêu Phong.

Thiếu nữ đó chết đi sống lại, người trong phòng ai nấy vừa mừng rỡ, vừa ngạc nhiên. Người trung niên kia cười nói:

- Hóa ra ngươi dọa ta ...

Người đàn bà đang khóc cũng bật cười, kêu lên:

- Đứa con khốn khổ của ta ơi!

Bà ta giang hai tay, bước tới ôm chầm lấy cô gái. Ngờ đâu Tiêu Phong tát trái một cái, đánh văng cô gái ra, tiếp theo liền vươn tay nắm ngay cổ tay trái thiếu nữ, cười nhạt nói:

- Mới tí tuổi đầu đã độc ác thế!

Người đàn bà kêu lên:

- Sao ông lại đánh con tôi?

Nếu không nể nang vì Tiêu Phong vừa mới “cứu sống” con gái chắc bà ta đã xông lên động thủ rồi. Tiêu Phong nắm được rồi, liền mở bàn tay cô ta ra nói:

- Xem này!

Mọi người mới thấy trong kẽ tay cô gái có kẹp một mũi kim nhỏ sáng bóng xanh biếc, thoáng nhìn đã biết ngay là tẩm chất kịch độc. Cô ta giả vờ giơ tay ra vịn vào vai Tiêu Phong nhưng chính là định dùng chiếc kim này đâm vào ông, cũng may ông nhanh tay lẹ mắt không bị trúng kế nhưng phải nói là thật hung hiểm vạn phần.

Thiếu nữ bị cái tát khiến mặt sưng vù, dĩ nhiên Tiêu Phong không dùng toàn lực chứ không thì đã vỡ đầu nát óc. Tay cô ta đã bị nắm chặt có muốn dấu chiếc kim cũng không kịp, nửa người bên trái ê ẩm không còn hơi sức, đột nhiên xệch mồm khóa òa lên:

- Ngươi hiếp đáp ta, ngươi hiếp đáp ta!

Người trung niên kia bèn dỗ:

- Thôi nín đi! Đừng khóc nữa! Chỉ bị đánh nhẹ thế có sao đâu? Ngươi hơi một tí đã dùng ám khí kịch độc giết người, dạy bảo cho là phải lắm.

Cô gái vẫn khóc:

- Cái Bích Lân Châm này có gì là ghê gớm đâu. Tôi còn nhiều loại ám khí khác chưa dùng đến.

Tiêu Phong lạnh lùng nói:

- Sao ngươi không dùng Vô Hình Phấn, Tiêu Dao Tán, Cực Lạc Thích, Xuyên Tâm Đinh?

Cô gái lập tức nín bặt, mặt lộ vẻ kinh ngạc, run run hỏi:

- Làm sao ... sao ông biết?

Tiêu Phong nói:

- Ta biết cả sư phụ ngươi là Tinh Tú Lão Quái nên biết rõ những loại ám khí độc địa của ngươi nữa.

Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu là một cao thủ tà phái trong võ lâm, ai nghe tiếng cũng phải cau mày, là kẻ vô ác bất tác, giết người như ngóe, Hóa Công Đại Pháp của y chuyên sử dụng để tiêu hủy công lực người khác, là đại kỵ trong võ học. Có điều y võ công cực kỳ cao cường, tuy không ai làm gì được, nhưng cũng may ông ta rất ít đi lại Trung Nguyên nên không đến nỗi trở thành đại họa.

Người đàn ông trung niên vẻ mặt vừa thương xót, lại vừa quan tâm, ôn tồn hỏi:

- A Tử, sao con lại bái Tinh Tú Lão Quái làm thầy?

Cô gái giương đôi mắt tròn to đen láy nhìn trừng trừng vào người trung niên như dò hỏi:

- Sao ông lại biết được tên của tôi?

Người trung niên thở dài một tiếng nói:

- Bọn ta vừa nói chuyện với nhau bộ con không nghe gì sao?

Thiếu nữ lắc đầu, nhoẻn một nụ cười đáp:

- Tôi giả chết, tim ngừng đập, nín hơi thở, tai mắt đều đóng chặt, không nhìn thấy, không nghe thấy gì cả.

Tiêu Phong bỏ tay cô gái ra nói:

- Hừ, đó là Qui Tức Công của Tinh Tú Lão Quái.

A Tử lườm Tiêu Phong nói:

- Hứ, cái gì ông cũng biết cả.

Nói rồi cô nàng le lưỡi nhăn mặt trêu ông ta. Người đàn bà chăm chú ngắm nghía A Tử, mặt mày rạng rỡ, xem ra vui sướng không đâu cho hết. Người đàn ông trung niên cũng mỉm cười:

- Sao con lại giả chết? Làm ta sợ hết hồn.

datlucky_way

23-07-2009 02:41 PM

Hồi 22(b) : SONG MÂU XÁN XÁN NHƯ TINH

Bấm vào đây để xem nội dung.

Bảo anh phải bỏ ngai vàng,

Để anh chết đuối mắt nàng cũng cam.

Nhìn nhau dạ những mang mang,

Long lanh thăm thẳm như ngàn ánh sao.

*

* *

A Tử cực kỳ đắc ý nói:

- Ai bảo ông hất tôi xuống hồ? Ông chẳng tử tế gì cả.

Người trung niên nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt ngượng nghịu, gượng cười nói:

- Ngang ngạnh thật!

Tiêu Phong biết hai cha con mới gặp lại, ắt hẳn có nhiều chuyện không muốn cho người ngoài nghe, kéo áo A Châu đi ra ngoài rừng trúc, thấy nàng hai mắt đỏ hoe, thân hình run rẩy bèn hỏi:

- A Châu, nàng không khỏe ư?

Ông giơ tay bắt mạch thấy nhảy thật nhanh đủ biết tâm thần đang chấn động mãnh liệt. A Châu lắc đầu nói:

- Không sao cả.

Rồi lập tức tiếp ngay:

- Đại ca, xin chàng ra ngoài trước, thiếp ... thiếp muốn đi giải.

Tiêu Phong gật đầu đi ra xa.

Tiêu Phong ra đến bờ hồ, đợi một hồi lâu vẫn không thấy A Châu từ trong rừng trúc đi ra, bỗng nghe thấy tiếng chân rộn rịp, có ba người rảo bước đi tới, trong lòng chợt động: “Không lẽ "tên đại ác" đến hay sao?”. Nhìn thấy ba người đó đi men theo đường nhỏ bên bờ hồ, trong đó hai người trên lưng có cõng ai đó, còn một người lùn nhỏ chạy nhanh như bay, tưởng chừng như chân không chạm đất. Y chạy một hồi rồi đứng lại chờ hai đồng bọn còn ở sau. Hai người kia bước chân ổn trọng hiển nhiên võ công cũng vào loại khá. Ba người đến gần, Tiêu Phong nhìn rõ hai người được cõng trên lưng chính là gã điên sử búa và đại hán họ Phó ông gặp trên đường. Người bé nhỏ kia kêu to:

- Chúa công, chúa công, "tên đại ác" đến rồi đó, bọn mình phải chạy cho mau.

Người trung niên kia một tay dắt người đàn bà, một tay cầm A Tử từ trong rừng trúc đi ra. Cả hai người trên mặt có dấu nước mắt, còn A Tử thì cười hì hì, mặt nhởn nhơ như không có chuyện gì xảy ra. Kế đó A Châu cũng đi ra đến bên cạnh Tiêu Phong. Người đàn ông bỏ tay hai người đàn bà ra bước đến bên cạnh hai người bị thương, giơ tay thăm mạch , thấy không có gì nguy hiểm đến tính mạng trên mặt lộ vẻ vui mừng nói:

- Ba vị thật là gian khổ, hai huynh đệ Cổ Phó không có gì đáng ngại, ta cũng yên lòng.

Ba người khom mình hành lễ, thần thái cực kỳ cung kính. Tiêu Phong toát mồ hôi nghĩ thầm: “Ba người này võ công khí độ không phải tầm thường, nếu không phải ở địa vị tôn quí độc bá nhất phương thì cũng phải là thủ lãnh một môn phái nào đó, sao đối với người trung niên này lại cung kính đến như vậy, không biết y lai lịch thế nào đây?”.

Hán tử thấp bé nói:

- Khải bẩm chúa công, thần hạ đã bố trí nghi trận bên cạnh Thanh Thạch Kiều để ngăn trở "tên đại ác". Chỉ sợ y sẽ nhìn ra cơ quan ngay, xin chúa công lập tức khởi giá ngay mới kịp.

Người trung niên kia đáp:

- Nhà ta chẳng may sinh ra một đứa ác nghịch như thế, nếu như gặp y nơi đây dẫu có muốn tránh cũng không tránh được, thôi đành cùng y một phen sống mái cho xong.

Một đại hán mày rậm mắt to nói:

- Việc trừ ác ngự địch, bọn thần tử sẽ chia nhau ra đảm trách, xin chúa công lấy chuyện xã tắc làm trọng, sớm trở về Đại Lý để hoàng thượng khỏi khắc khoải.

Một người thân hình tầm thước nói:

- Bẩm chúa công, việc hôm nay không thể đem cái dũng nhất thời mà đối phó. Ví như chúa công chỉ sẩy tay một tí, bọn chúng tôi còn mặt mũi nào trở về Đại Lý khấu kiến hoàng thượng? Đành phải cùng nhau tự vẫn thôi.

Tiêu Phong nghe đến trong trong lòng bàng hoàng: “Cái gì mà thần tử với chẳng hoàng thượng, rồi lại quay về Đại Lý? Không lẽ người này là Đoàn gia nước Đại Lý chăng?”. Tim ông đập thình thình, nghĩ bụng: “Biết đâu lưới trời lồng lộng, tên tặc tử Đoàn Chính Thuần hôm nay lại rơi vào tay ta chăng?”.

Ông trong lòng nghi ngờ bỗng nghe đằng xa có người rống lên, rồi có tiếng rổn rảng như kim loại chạm nhau vọng đến: 

- Con rùa họ Đoàn kia, ngươi chạy không thoát đâu, mau ngoan ngoãn giơ tay chịu trói. Lão tử nể mặt con ngươi, không chừng sẽ tha mạng cho ngươi đó.

Có tiếng một người đàn bà tiếp theo:

- Việc tha hay không tha y đâu đến lượt Nhạc lão tam quyết định, chẳng lẽ lão đại không biết đứng ra phát lạc hay sao?

Lại có một giọng lạnh lẽo nói:

- Tên tiểu tử họ Đoàn nếu như biết phải quấy thì thể nào cũng đỡ hơn là không biết điều.

Y cố gằng nói từ xa vọng tới nhưng hiển nhiên trung khí bất túc, dường như bị thương chưa khỏi. Tiêu Phong nghe bọn kia mở miệng ra là gọi “tên họ Đoàn” lại càng nghi thêm, đột nhiên ở đâu một bàn tay nhỏ nhắn đưa ra nắm lấy tay ông. Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Châu đứng bên cạnh mình, thấy nàng mặt trắng bệch, bàn tay nàng lạnh ngắt đầy mồ hôi nên hỏi nhỏ:

- Nàng sao thế?

A Châu run rẩy đáp:

- Thiếp sợ lắm.

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Ở bên cạnh đại ca mà còn sợ nữa sao?

Ông nhếch mép về phía người đàn ông trung niên, thì thầm vào tai A Châu:

- Gã kia hình như là họ Đoàn Đại Lý.

A Châu môi mấp máy nhưng không nói gì.

Người đàn ông trung niên kia chính là hoàng thái đệ nước Đại Lý Đoàn Chính Thuần. Thời niên thiếu ông du lịch Trung Nguyên, phong lưu trăng gió đến đâu cũng để lại ái tình. Thời đó những người phú quí ai mà chẳng năm thê bảy thiếp, Đoàn Chính Thuần là một hoàng tử cao sang, có đèo bòng cũng là chuyện bình thường. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ thế gia võ lâm, tuy đã xưng đế nơi Đại Lý nhưng ăn uống thức ngủ vẫn tuân theo tổ huấn không quên nguồn gốc hào kiệt Trung Nguyên.

Nguyên phối phu nhân của Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng là con gái một đại tù trưởng người Bãi Di ở Vân Nam nên họ Đoàn mới kết thân cốt để liên kết thế lực bảo vệ ngôi vị hoàng đế. Thời đó người Hán ở Vân Nam không nhiều, nếu không được người Bãi Di ủng hộ thì ngôi vua của họ Đoàn không sao vững được.

Người Bãi Di vốn dĩ một vợ một chồng, Đao Bạch Phượng từ nhỏ vốn được tôn quí nên nhất định không cho Đoàn Chính Thuần lấy vợ lẽ, cũng chỉ vì chuyện ông đi đến đâu cũng vin cành bẻ lá mà tức mình xuất gia thành một đạo cô. Đoàn Chính Thuần với mẹ của Mộc Uyển Thanh là Tần Hồng Miên, vợ của Chung Vạn Cừu là Cam Bảo Bảo hay mẹ của A Tử là Nguyễn Tinh Trúc mỗi người đều có một thiên tình sử.

Lần này Đoàn Chính Thuần phụng mệnh hoàng huynh, tới chùa Thân Giới ở châu Lục Lương tra xét xem Huyền Bi đại sư bị người ta giết như thế nào. Ông thấy có rất nhiều điểm đáng ngờ, chưa chắc đã là Cô Tô Mộ Dung ra tay, nhưng đợi ở đó đến hơn nửa tháng vẫn không thấy cao tăng nào của chùa Thiếu Lâm đến cả nên cùng Tam Công Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch và tứ đại hộ vệ đến Trung Nguyên điều tra xem thực hư thế nào, nhân tiện đến thăm Nguyễn Tinh Trúc đang ẩn cư ở Tiểu Kính Hồ. Từ đó đến nay hai người quả là vầy duyên cá nước sung sướng khác gì thần tiên.

Đoàn Chính Thuần cùng người tình cũ ôn lại tình nồng thì Tam Công Tứ Vệ đi theo hộ giá chia ra khắp bốn bên che chở, có ai ngờ đâu kẻ đại đối đầu lại tìm được đến nơi. Đoàn Diên Khánh võ công lợi hại nên Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui trước sau bị thương. Chu Đan Thần lại tưởng lầm Tiêu Phong là địch, ở trên cầu đá xanh ngăn lại không xong. Chử Vạn Lý thì lại bi Nhu Ti Võng của A Tử trói lại, Tư Mã Phạm Hoa, Tư Đồ Hoa Hách Cấn, Tư Không Ba Thiên Thạch ba người cứu được Cổ, Phó xong liền quay về chung sức chống trả cường địch.

Chu Đan Thần vẫn cố gắng tìm cách cởi cho Chử Vạn Lý ra khỏi chiếc lưới nhưng chiếc lưới này dao cắt không đứt, tay mở không xong, mồ hôi đầm đìa mà vẫn không làm gì được. Đoàn Chính Thuần quay sang nói với A Tử:

- Ngươi mau thả Chử thúc thúc ra, đại địch sắp tới rối không được nghịch ngợm nữa.

A Tử cười đáp:

- Thế ba thưởng con cái gì đây?

Đoàn Chính Thuần nhíu mày:

- Ngươi không vâng lời, ta bảo mẹ ngươi đánh vào lòng bàn tay. Ngươi mạo phạm Chử thúc thúc, sao chưa mau mau tạ tội đi?

A Tử đáp:

- Ba vứt con xuống hồ làm con phải giả chết một hồi lâu, sao ba không tạ tội với con? Con cũng nói má đánh vào tay ba đó!

Bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch thấy Trấn Nam Vương bỗng nhiên lại có thêm một cô con gái ngang ngược cứng đầu, đối với phụ thân chẳng có phép tắc gì cả ai nấy đều dè chừng nghĩ thầm: “Cô nương này tuy không phải đích xuất nhưng dẫu sao cũng là thiên kim của Trấn Nam Vương, nếu như có xúc phạm đến mình, cũng không thể nào coi là thực mà đành nhịn vậy thôi. Chử huynh đệ bị cô ta trói như thế khó mà chịu nổi”.

Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp:

- Ngươi không nghe lời ba, để xem ta có còn thương ngươi nữa không?

A Tử cong cớn nói:

- Ba trước nay có thương gì con đâu, nếu không đâu có bỏ bê con mười mấy năm chẳng nhìn nhõi gì?

Đoàn Chính Thuần không biết phải nói sao, chỉ lặng lẽ thở dài. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Cục cưng A Tử ơi, má có cái này hay lắm, con mau mau cởi trói cho Chử thúc thúc đi nào!

A Tử chìa tay ra nói:

- Má đưa con coi trước để con xem có thật là hay không đã.

Tiêu Phong trong bụng kính phục Chử Vạn Lý là một hảo hán, đứng ngoài thấy cô bé con này ngang ngược hỗn láo đã bực trong lòng, nghĩ thầm: “Ngươi là gia thần của y nên không nổi cáu được chứ ta có gì mà phải nể nang”. Ông cúi xuống, nhắc Chử Vạn Lý lên nói:

- Chử huynh, xem chừng dây tơ này gặp nước là sẽ bung ra, để ta nhúng Chử huynh xem thế nào.

A Tử giận quá kêu lên:

- Cái thứ đồ trời đánh kia sao cứ xía vào chuyện người ta.

Thế nhưng nàng ta đã bị Tiêu Phong cho một bạt tai nên cũng hơi sợ không dám đưa tay ra ngăn cản. Tiêu Phong xách Chử Vạn Lý lên đi xuống bên cạnh hồ, nhúng y xuống nước. Quả nhiên cái lưới bằng tơ mềm kia liền nhũn ra, ông giơ tay cởi Chử Vạn Lý nói khẽ:

- Đa tạ Tiêu huynh đã giúp đỡ.

Tiêu Phong mỉm cười:

- Con nhãi cứng đầu này thật khó dạy, ta đã cho nó một cái tát để Chử huynh hả tức rồi.

Chử Vạn Lý lắc đầu, thật là rầu rĩ. Tiêu Phong cuộn chiếc lưới lại, lạ thay thành một cục chỉ to bằng nắm tay. A Tử chạy tới giơ tay ra:

- Trả lại cho ta!

Tiêu Phong giơ tay lên làm như định đánh, A Tử sợ quá vội thụt lùi mấy bước. Tiêu Phong chỉ dọa cô ta thôi, tiện tay bỏ luôn chiếc lưới vào túi. Ông đoán chừng người trung niên kia hẳn là kẻ đại đối đầu của mình, A Tử là con gái y, chiếc Nhu Ti Võng này là một món lợi hại không nên trả lại cho cô ta.

A Tử chạy đến giựt chéo áo Đoàn Chính Thuần kêu lên:

- Ba nè, y lấy chiếc lưới của con, y lấy chiếc lưới của con!

Đoàn Chính Thuần thấy Tiêu Phong thái độ khác thường, chắc chỉ muốn trừng trị A Tử một phen, chứ võ công như vậy lẽ nào lại tham một món đồ chơi của trẻ con.

Đột nhiên Ba Thiên Thạch lớn tiếng nói:

- Vân huynh đến đó có phải không? Công phu người khác càng luyện càng giỏi, sao Vân huynh lại càng luyện càng thụt lùi? Xuống ngay đi!

Nói xong liền múa chưởng nhắm cái cây đánh tới, lách cách mấy tiếng một cành cây bị đánh gãy rơi xuống, dồng thời một người cũng rơi theo. Người đó vừa gầy vừa cao, chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Hôm ở Tụ Hiền Trang y bị Tiêu Phong đánh cho một chưởng trọng thương, tưởng đâu mất mạng, dưỡng thương đã đỡ nhưng công phu chưa bằng được lúc trước. Trước đây ở Đại Lý y cùng Ba Thiên Thạch thi tài khinh công, hai người hơn kém không bao nhiêu, nhưng hôm nay Ba Thiên Thạch chỉ nghe tiếng bước chân y lên xuống đã biết khinh công của y so với trước kém nhiều.

Vân Trung Hạc thấy Tiêu Phong, trong lòng kinh hãi, xoay lưng toan chạy thì từ con đường mòn bên cạnh hồ đã thấy ba người đi tới. Người phía bên trái đầu bù tóc rối, áo quần cũn cỡn, chính là Hung Thần Ác Sát Nam Hải Ngạc Thần, còn bên phải là một người đàn bà tay ôm một đứa trẻ, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Người ở giữa mặc áo bào xanh, hai tay hai cây trượng sắt nhỏ, mặt trông như quỉ nhập tràng, chính là người đứng đầu trong Tứ Ác, tên gọi Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.

Đoàn Diên Khánh ít khi lộ diện ở Trung Nguyên, nên Tiêu Phong không biết được kẻ gọi là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân này, nhưng bọn Đoàn Chính Thuần đã từng nếm qua thủ đoạn của y khi ở Đại Lý, biết rằng Diệp Nhị Nương, Nhạc Lão Tam tuy lợi hại thật nhưng đối phó không khó, còn Đoàn Diên Khánh mới thật không sao lường nổi.

Y kiêm cả sở trường hai phái chính tà, Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn tinh thông đã đành, lại luyện thêm công phu tà phái, chính tà ngang ngửa, đến những cao thủ như Hoàng Mi Tăng còn không địch lại y, Đoàn Chính Thuần biết mình không thể là đối thủ.

Phạm Hoa lớn tiếng nói:

- Bẩm chúa công, tên Đoàn Diên Khánh này bụng dạ không tốt lành gì, chúa công nên vì xã tắc làm trọng, mau mau đi mới các cao tăng của chùa Thiên Long đến mới được.

Chùa Thiên Long ở mãi tận Đại Lý, làm sao mời đến cho kịp? Trước mắt quân thần Đại Lý gặp hung hiểm không biết sống chết thế nào, câu nói đó chẳng qua xin Đoàn Chính Thuần mau mau bỏ chạy về Đại Lý, đồng thời hư trương thanh thế, để Đoàn Diên Khánh tưởng là các cao tăng chùa Thiên Long ở gần đâu đây, đâm lòng úy kỵ. Đoàn Diên Khánh là dòng đích của họ Đoàn Đại Lý, ắt phải biết các sư sãi chùa Thiên Long lợi hại bậc nào.

Đoàn Chính Thuần biết rằng tình thế cực kỳ hung hiểm nhưng trong tất cả mọi người ở Đại Lý thì ông võ công cao hơn cả, nếu bỏ anh em chạy lấy một mình thì còn mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ? Huống chi tình nhân và con gái cũng đang ở cạnh đây, ai lại để mất mặt đến thế? Ông mỉm cười nói:

- Chuyện trong nhà của họ Đoàn Đại Lý lại phải đem nhau đến đất nhà Đại Tống mà giải quyết hay sao, ha ha, thật là nực cười!

Diệp Nhị Nương cười nói:

- Đoàn Chính Thuần, mỗi lần ta gặp ngươi lại thấy ngươi ở bên cạnh một vài ả xinh tươi đẹp đẽ. Ngươi thật là diễm phúc.

Đoàn Chính Thuần nhếch mép:

- Diệp Nhị Nương, nàng cũng xinh tươi đẹp đẽ đấy chứ!

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ:

- Con rùa kia sao hưởng phúc lắm thế mà đẻ được thằng con không chịu bái ta làm thầy, thật quả không biết làm cha. Để lão tử cắt mẹ ngươi cho rồi.

Y lấy chiếc ngạc chủy tiễn bên người ra, xông vào Đoàn Chính Thuần. Tiêu Phong thấy Diệp Nhị Nương gọi người kia là Đoàn Chính Thuần mà y không phủ nhận, quả nhiên mình liệu không sai, quay sang nói nhỏ với A Châu:

- Đúng là y rồi!

A Châu run run hỏi:

- Đại ca định ... định thừa cơ người ta đang nguy, hai mặt giáp công chăng?

Tiêu Phong tâm tình khích động, vừa phẫn nộ vừa vui mừng, giọng lạnh như băng:

- Mối thù cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi, lại thêm ta bị hàm oan, ôi, thật là huyết hải thâm cừu, ôi, còn nói gì nhân nghĩa đạo đức, qui củ giang hồ nữa?

Mấy câu đó tuy chỉ khe khẽ nhưng đầy oán độc, tưởng như chém đinh chặt sắt không bằng. Phạm Hoa thấy Nam Hải Ngạc Thần xông tới, nói nhỏ:

- Hoa đại ca, Chu hiền đệ hiệp lực tấn công gã mãng phu này. Đánh cho mạnh cho gấp, kết thúc càng nhanh càng tốt, để bẻ nanh bẻ vuốt y trước, sau đó tất cả dùng toàn lực đối phó với kẻ thù chính.

Hoa Hách Cấn và Chu Đan Thần đáp lời bước ra. Hai người biết rằng lấy hai địch một thật mất thân phận, một mình Hoa Hách Cấn cũng không kém gì Nam Hải Ngạc Thần, cần gì phải nhờ ai giúp nhưng nghe Phạm Hoa nói thế thật có lý. Đoàn Diên Khánh quả thực quá ư lợi hại, lấy một đánh một không ai có thể là đối thủ của y, chỉ có cách tất cả ùa lên một lượt mới có cơ sống sót. Hoa Hách Cấn lập tức cầm cương sản, Chu Đan Thần múa thiết bút, chia ra hai bên tả hữu Nam Hải Ngạc Thần đánh vào.

Phạm Hoa lại tiếp:

- Ba huynh đệ đến đối phó với người bạn cũ, ta và Chử huynh đệ đối phó với con mụ kia.

Ba Thiên Thạch đáp lời tiến ra, xông vào Vân Trung Hạc, Phạm Hoa và Chử Vạn Lý cùng nhảy ra theo. Võ khí Chử Vạn Lý cầm vốn là chiếc cần câu bằng sắt nhưng đã bị A Tử ném xuống sông rồi, lúc này cầm cây đồng côn của Phó Tư Qui hầm hè xông lên.

Phạm Hoa lao thẳng vào Diệp Nhị Nương, Diệp Nhị Nương toét miệng cười, thấy thân pháp của họ Phạm biết là kình địch, không dám coi thường, liền ném huỵch đứa trẻ trong tay xuống đất, lúc quay lại trong tay đã cầm một thanh đao vừa mỏng vừa rộng, không biết vốn dấu ở chỗ nào.

Chử Vạn Lý la ó rầm rĩ, xông vào Đoàn Diên Khánh. Phạm Hoa kinh hãi kêu lên:

- Chử huynh đệ, Chử huynh đệ, qua bên này!

Chử Vạn Lý dường như không nghe thấy, giơ cây đồng côn lên, hết sức quật ngang. Đoàn Diên Khánh cười nhạt, không coi vào đâu, thiết trượng bên trái điểm vào mặt y. Thế trượng đó nhẹ nhàng như không, nhưng thời khắc bộ vị không sai một mảy, so với cây gậy đồng của Chử Vạn Lý đánh tới còn nhanh hơn, hậu phát tiên chí, ra chiêu thật là lợi hại. Thế đó lấy công làm thủ, chỉ một chiêu đã phản khách vi chủ, Chử Vạn Lý không thể không tránh né.

Ngờ đâu thế trượng đánh ra Chử Vạn Lý làm như không trông thấy, kình lực trên tay càng tăng thêm, đồng côn vẫn tiếp tục vụt ngang lưng địch thủ. Đoàn Diên Khánh kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ gã này điên sao?”. Y không thể cùng Chử Vạn Lý lưỡng bại câu thương, dù một trượng có đánh chết y ngay tại chỗ thì lưng mình trúng một côn, thể nào cũng bị thương, hữu trượng vội vàng điểm xuống đất, tung mình vọt lên tránh được.

Chử Vạn Lý liền dựng cây đồng côn lên đâm luôn vào bụng dưới Đoàn Diên Khánh. Cây gậy đồng của Phó Tư Qui nặng nề, vừa dài vừa to, sử dụng món binh khí này xem có ổn định hay không mà biết công phu đến đâu. Võ công của Chử Vạn Lý lấy nhẹ nhàng linh hoạt làm sở trường, sử dụng đồng côn không thuận tay, huống chi lại đánh liều đánh lĩnh, chiêu nào cũng nhắm thẳng vào chỗ yếu hại của Đoàn Diên Khánh, việc sống chết của chính mình chẳng để vào đâu. Người đời thường bảo: “Một người đánh chí mạng thì vạn người không đương nổi”, Đoàn Diên Khánh võ công cao cường thật nhưng gặp kẻ đánh thí mạng như người điên thế này cũng phải liên tiếp thối lui.

Chỉ thấy trên đám cỏ xanh bên cạnh Tiểu Kính Hồ, trong chốc lát đã lấm tấm đầy máu tươi. Thì ra Đoàn Diên Khánh tuy phải lùi thật nhưng vẫn liên tiếp ra chiêu, trượng nào cũng trúng vào người Chử Vạn Lý, đâm thành một lỗ thủng. Thế nhưng Chử Vạn Lý dường như không biết đau, cây gậy đồng trong tay càng lúc càng nhanh.

Đoàn Chính Thuần kêu lên:

- Chử huynh đệ lùi xuống, để ta lên đấu với tên ác đồ.

Ông đưa tay cầm một thanh kiếm trong tay Nguyễn Tinh Trúc, xông lên toan hai người đánh một mình Đoàn Diên Khánh. Chử Vạn Lý kêu lên:

- Chúa công lui ra đi!

Đoàn Chính Thuần nào có nghe, giơ kiếm lên đâm vào Đoàn Diên Khánh. Cây trượng bên phải của Đoàn Diên Khánh chống xuống đất, cây gậy bên trái gạt đồng côn của Chử Vạn Lý, tiếp đó theo khe hở đâm vào giữa hai lông mày Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần nghiêng qua lùi một bước.

Chử Vạn Lý rống lên một tiếng như con mãnh thú bị thương, đột nhiên chuyển thế đánh, hai tay cầm một đầu gậy vung lên thật nhanh, thành một vòng tròn màu vàng, chẳng khác gì một cái mâm thật lớn, từ từ nhích gần tới nơi Đoàn Diên Khánh đang đứng. Lối đánh này chẳng còn gì là võ thuật chiêu số nữa.

Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đan Thần cùng lớn tiếng kêu lên:

- Chử huynh đệ, Chử đại ca mau lùi xuống nghỉ một chút.

Chử Vạn Lý kêu rống lên hầm hè, nhảy vụt vào, giơ côn đánh loạn vào Đoàn Diên Khánh. Lúc này Phạm Hoa cả bọn lẫn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần thấy y hành động quái đản cũng đều bãi đấu, chăm chú xem ra làm sao. Chu Đan Thần kêu lên:

- Chử đại ca, mua lui xuống!

Y xông lên toan ôm lấy Chử Vạn Lý nhưng bị y thúc lại một cùi chỏ, trúng ngay mặt, lập tức tím mặt vều môi. Gặp một đối thủ như thế quả thật ngoài sở nguyện của Đoàn Diên Khánh, lúc này y và Chử Vạn Lý hai bên đã sách giải hơn ba mươi chiêu, đã đâm trùng đối phương hơn chục lỗ thủng, nhưng Chử Vạn Lý vẫn hò hét xông vào. Đoàn Diên Khánh và người đứng xem ai nấy kinh khiếp, thấy việc này quả thật khác thường. Chu Đan Thần biết rằng đấu thêm nữa thể nào Chử Vạn Lý cũng táng mạng, nước mắt nhỏ ròng ròng, lại muốn xông lên giúp đỡ, vừa mới dợm chân thì đã nghe vụt một tiếng, Chử Vạn Lý đã hết sức bình sinh phóng cây đồng côn vào kẻ địch. Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh điểm ra, khéo làm sao trúng ngay giữa thân cây côn, hất nhẹ một cái, cây gậy đã bay về phía sau. Cây côn chưa rơi tới đất, mười ngón tay Chử Vạn Lý đã xòe ra nhắm thẳng vào Đoàn Diên Khánh chộp tới.

Đoàn Diên Khánh cười nhạt, nhắm giữa ngực y đâm ra một trượng. Đoàn Chính Thuần, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đan Thần bốn người cùng kinh hoảng kêu lên, xông vào giúp đỡ. Thế nhưng cây gậy của Đoàn Diên Khánh đâm ra thật nhanh, nghe soẹt một tiếng đã xuyên qua ngực Chử Vạn Lý, từ trước qua sau. Trượng bên phải đâm qua thì cây gậy bên trái đã điểm xuống đất, thân hình đã tà tà bay xa hơn một trượng ra ngoài.

Vết thương trước ngực, sau lưng của Chử Vạn Lý máu tươi vọt ra, y vẫn còn định đuổi theo Đoàn Diên Khánh nhưng chỉ được một bước thì đã không còn hơi sức, quay đầu lại, nói với Đoàn Chính Thuần:

- Chúa công, Chử Vạn Lý thà chết không chịu nhục, đem cả đời báo đáp Đoàn gia Đại Lý.

Đoàn Chính Thuần quì gối phải, nước mắt lã chã:

- Chử huynh đệ, lỗi ở ta nuôi con không biết dạy, đắc tội với huynh đệ, Chính Thuần này thật hổ thẹn xiết bao.

Chử Vạn Lý quay sang gượng nở một nụ cười với Chu Đan Thần:

- Hảo huynh đệ, người anh này đành đi trước. Ngươi ... ngươi ...

Mới nói được hai chữ “ngươi” đột nhiên ngừng lại, thì ra đã tắt thở chết rồi, thân hình vẫn còn sừng sững chưa chịu ngã xuống. Mọi người nghe y trước khi chết nói đến “thà chết không chịu nhục”, biết rằng Chử Vạn Lý bất kể sống chết tấn công Đoàn Diên Khánh, chỉ vì bị cái nhục A Tử trói vào trong lưới, vốn đã mang tử chí rồi. Người trong võ lâm ai ai cũng biết:

Ta giỏi có người còn giỏi nữa,

Núi cao ắt có núi cao hơn. 

Võ công nếu như thua kém người không phải là một kỳ sỉ đại nhục, khổ luyện mười năm, ngày sau cũng có lúc báo được mối thù. Thế nhưng Chử Vạn Lý là gia thần của họ Đoàn, A Tử lại là con gái Đoàn Chính Thuần, mối nhục này mãi mãi không sao rửa được, thôi đành chết ở chiến trận còn hơn. Chu Đan Thần khóc òa lên, Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành tuy bị thương nặng chưa khỏi nhưng cũng muốn đứng lên một phen tử chiến với Đoàn Diên Khánh.

Đột nhiên có một giọng trong vắt nổi lên:

- Người này võ công tệ quá, bỏ mạng chẳng đâu vào đâu, đúng là đồ ngốc.

Người nói chính là A Tử. Bọn Đoàn Chính Thuần đang đau lòng, nghe cô ta nói một câu khinh bạc châm chọc, ai nấy giận đến điên người. Bọn Phạm Hoa hầm hầm nhìn cô gái, có điều lại là con gái chúa công nên không tiện nổi khùng. Đoàn Chính Thuần tức khí xông lên, vung tay nhắm ngay mặt cô ta tát một cái.

Nguyễn Tinh Trúc giơ tay gạt ra, giận dỗi nói:

- Mười mấy năm nay bỏ cho người ta chẳng ngó ngàng gì tới, sống chết chẳng biết ra sao, đến bây giờ mới trùng phùng, lại nhẫn tâm đánh nó hay sao?

Đoàn Chính Thuần vốn dĩ cũng ăn năn vì đã đối với Nguyễn Tinh Trúc chưa hết lòng, thêm nữa trước nay đối với nàng vẫn chiều chuộng hết mực, lại không muốn tranh chấp trước mặt người ngoài, chưởng kia vừa sắp đến tay Nguyễn Tinh Trúc đã rụt ngay lại, hầm hầm nói với A Tử:

- Chử thúc thúc vì ngươi mà chết, ngươi có biết hay không?

A Tử nhếch mép đáp:

- Người ta gọi cha là chúa công thì con cũng là tiểu chủ nhân của họ rồi. Có chết một vài đứa đầy tớ thì có đáng gì đâu?

Vẻ mặt cô ta tỏ ra cực kỳ rẻ rúng. Vào thời đó vua tôi phân chia thật nghiêm, đến nỗi “vua muốn bầy tôi phải chết thì không thể không chết”. Bọn Chử Vạn Lý ở triều đình Đại Lý là phận thần tử, đối với Đoàn gia cực kỳ kính trọng. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ võ lâm Trung Nguyên, trước sau vẫn giữ qui củ giang hồ, Hoa Hách Cấn, Chử Vạn Lý ... tuy là bầy tôi nhưng Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần vẫn coi họ như anh em. 

Đoàn Chính Thuần từ thuở thanh xuân vẫn thường qua lại giang hồ Trung Nguyên, Chử Vạn Lý theo ông vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu phong ba gian hiểm, nào có phải là một kẻ đầy tớ tầm thường? Câu đó của A Tử bọn Phạm Hoa nghe thật không vui chút nào. Nếu không phải ở trong triều đình, miếu đường, Bảo Định Đế đối với bọn họ vẫn thường dùng tiếng “huynh đệ” mà gọi, huống chi Đoàn Chính Thuần lại chưa lên ngôi cửu ngũ, còn A Tử chẳng qua là một đứa con riêng, danh phận chưa đâu vào đâu?

Đoàn Chính Thuần vừa đau lòng về cái chết của Chử Vạn Lý , lại có đứa con như thế thật xấu hổ với anh em, giơ trường kiếm lên thản nhiên bước tới, chỉ vào Đoàn Diên Khánh nói:

- Nếu như ngươi muốn giết thì cứ việc ra đây lấy mạng ta. Họ Đoàn lấy “nhân nghĩa” trị nước, nếu giết người vô tội để được nước thì có được cũng chẳng bao lâu.

Tiêu Phong trong bụng cười khẩy: “Ngươi miệng nói sao thật dễ nghe, đến nước này còn giở trò ngụy quân tử”. Đoàn Diên Khánh điểm cây gậy sắt đã đến bên cạnh Đoàn Chính Thuần nói:

- Ngươi muốn một đánh một với ta, không phải nhờ đến người ngoài, có đúng vậy chăng?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Đúng vậy! Ngươi định giết ta xong sẽ đến Đại Lý giết Hoàng huynh ta, xem vận khí có được như ý nguyện hay không? Bộ thuộc gia nhân của ta không liên quan gì đến chuyện của hai người mình.

Ông biết Đoàn Diên Khánh võ công quá cao siêu, hôm nay chắc mình không khỏi chết, chỉ mong y đừng làm khó Nguyễn Tinh Trúc, A Tử cùng bọn Phạm Hoa. Đoàn Diên Khánh đáp:

- Người nhà ngươi thì giết, còn bộ thuộc ngươi thì tha. Năm xưa phụ hoàng vì lòng nhân không giết hai anh em ngươi nên mới có cái họa soán nghịch hôm nay.

Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: “Ta Đoàn Chính Thuần phải đường đường mà chết, đâu để cho người đàm tiếu”. Ông quay sang thi thể Chử Vạn Lý, chắp tay nói:

- Chử huynh đệ, Đoàn Chính Thuần hôm nay cùng huynh đệ sóng vai kháng địch.

Ông quay lại nói với Phạm Hoa:

- Phạm tư mã, khi ta chết rồi chôn ta ngang với Chử huynh đệ, không phân biệt kẻ chúa người tôi.

Đoàn Diên Khánh cười khẩy:

- Ha ha, giả nhân giả nghĩa, đến nước này còn cố thu phục nhân tâm, tưởng rằng người ta sẽ ra sức chịu chết cho ngươi sao?

Đoàn Chính Thuần không trả lời, tay trái thành kiếm quyết, trường kiếm tay phải đâm ra chiêu Kỳ Lợi Đoạn Kim chính là chiêu khởi thủ trong Đoàn gia kiếm. Đoàn Diên Khánh biết rõ biến hóa bên trong nên thản nhiên trả lại một trượng. Hai người vừa ra tay đều cùng sử dụng võ công tổ truyền của nhà họ Đoàn, Đoàn Diên Khánh lấy trượng thay kiếm, định bụng sẽ dùng Đoàn gia kiếm để giết Đoàn Chính Thuần.

Y cùng Đoàn Chính Thuần đối địch không phải vì có thù oán riêng tư mà vì tranh đoạt ngôi vua nước Đại Lý, trước mắt có cả Tam Công trong triều, nếu như y dùng công phu tà phái giết Đoàn Chính Thuần, quần thần nước Đại Lý ắt sẽ không phục. Còn như dùng bản môn công phu Đoàn gia kiếm để thắng, thật là danh chính ngôn thuận, không ai dị nghị được. Anh em họ Đoàn tranh ngôi vua không liên quan gì đến quần thần, sau này lên ngôi báu ắt sẽ lợi hơn nhiều. 

Đoàn Chính Thuần thấy y dùng thiết trượng sử dụng công phu bản môn trong bụng yên tâm, liền ngưng thần nín thở, kiếm chiêu ổn thỏa, bước chân trầm tĩnh, đường kiếm nhẹ nhàng khinh khoái, chiêu nào tung ra đều công thủ đúng phép tắc.

Đoàn Diên Khánh dùng thiết trượng sử dụng Đoàn gia kiếm pháp khi đóng khi mở, đoan ngưng tự trọng, tuy chiêu số cực kỳ khinh linh phiêu dật nhưng vẫn không để mất khí tượng đế vương.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay mình quả là dịp may khó gặp, ta vẫn lo lắng không biết Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn thế nào, may sao Đoàn Chính Thuần lại có cường địch kéo đến, đối thủ lại chính cùng nhà với y, hai tuyệt kỹ của họ Đoàn đến cỡ nào chỉ chốc lát ta sẽ biết ngay”.

Xem đến sau hai mươi chiêu, cây gậy sắt trong tay Đoàn Diên Khánh dường như càng lúc càng nặng, sử dụng so với lúc đầu có vẻ chậm chạp hơn, mỗi khi kiếm của Đoàn Chính Thuần đụng phải, hai món binh khí văng ra càng lúc càng xa. Tiêu Phong ngầm gật gù, nghĩ bụng: “Công phu chân thực đã ra rồi đây, chỉ dùng một cây gậy sắt nhẹ nhàng mảnh khảnh mà chẳng khác gì thiền trượng sáu bảy chục cân, công lực quả thực phi phàm”. Người võ công cao cường đều có thể “cử trọng nhược khinh”, dùng binh khí nặng như không có gì, nhưng đến mức “cử khinh nhược trọng” thì công lực phải hơn một mức nữa. Tuy nhiên “tưởng như nặng” mà không phải nặng thật nghĩa là uy mãnh như một món binh khí nặng nề nhưng lại có cái khéo léo linh hoạt của binh khí nhẹ. Trước mắt thấy Đoàn Diên Khánh sử dụng một thiết bổng nhỏ bé mà chẳng khác gì cương trượng, càng lúc lại càng nặng thêm không biết đến thế nào mới dứt, Tiêu Phong phải khen thầm y nội lực thật kinh người.

Đoàn Chính Thuần ra sức tiếp chiêu, thấy mỗi lúc thiết trượng của kẻ địch càng nặng thêm, ép xuống khiến ông phải ngộp thở. Võ công họ Đoàn đối với nội kình hết sức quan trọng, hơi thở không thông là một dấu hiệu thua sút rồi. Thế nhưng Đoàn Chính Thuần không chút gì kinh hoàng, vốn dĩ biết mình không thể nào thắng được, nghĩ thầm cuộc đời hưởng phúc đã nhiều, hôm nay dẫu phải bỏ mạng bên hồ Tiểu Kính, cũng không uổng một kiếp người. Huống chi lại có Nguyễn Tinh Trúc đứng bên cạnh nhìn mình ánh mắt đầy vẻ tình tứ, có chết cũng là một con quỉ phong lưu.

Ông bình sinh đến đâu cũng để lại những mối tình, đối với Nguyễn Tinh Trúc càng thêm quyến luyến, tuy chẳng phải coi nặng hơn nguyên phối Đao Bạch Phượng hay những người đàn bà khác, thế nhưng tính ông dù ở bên cạnh bất cứ ai cũng đối đãi hết lòng hết dạ, dù có phải chết vì người tình cũng chẳng từ nan, còn khi chia tay vui vầy duyên mới rồi thì lại là chuyện khác.

Đoàn Diên Khánh nội lực truyền vào thiết trượng mỗi lúc một nặng, hai bên trao đổi đến hơn sáu mươi chiêu, đường kiếm họ Đoàn đã thi triển hết rồi, thấy đầu mũi Đoàn Chính Thuần đã lấm tấm mấy giọt mồ hôi nhưng hơi thở vẫn dài và đều, nghĩ thầm: “Ta nghe gã này là tên hiếu sắc, lắm vợ nhiều hầu, vậy mà nội lực được dai dẳng như thế, không thể nào mình để thua y được”. Lúc này nội lực trên thiết bổng đã phát huy đến cực độ, đánh ra tiếng gió vù vù. Mỗi lần Đoàn Chính Thuần đỡ được một kiếm lại lảo đảo, đến chiêu thứ hai lại lảo đảo lần nữa.

Hai người sử dụng kiếm chiêu đều đã thuộc lòng từ khi mười ba mười bốn tuổi, mà bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch mấy chục năm qua coi cũng đã quen, thành ra cuộc đấu kiếm này không phải tỉ thí chiêu số, mà là giao đấu nội lực. Bọn Phạm Hoa coi đến lúc này biết rằng Đoàn Chính Thuần chịu không nổi, đưa mắt cho nhau, tay cầm binh khí toan cùng xông lên tương trợ.

Đột nhiên một thiếu nữ cười khúc khích nói:

- Thật là tức cười, họ Đoàn Đại Lý tự xưng anh hùng hào kiệt, vậy mà cả bọn toan xông lên lấy đông đánh ít, chẳng hóa ra thành bọn vô sỉ tiểu nhân hay sao?

Mọi người ai nấy ngạc nhiên, thấy rõ ràng mấy lời đó từ miệng A Tử phát ra, không ai hiểu nổi. Người đang gặp nguy chính là cha cô ta, chẳng lẽ không biết hay sao mà còn buông lời biếm nhẽ?

Nguyễn Tinh Trúc giận dữ nói:

- A Tử ngươi biết cái gì? Cha ngươi là Trấn Nam Vương nước Đại Lý, còn kẻ động thủ với cha ngươi là đứa phản nghịch của họ Đoàn. Những bằng hữu đây đều là thần tử nước Đại Lý, trừ bạo thảo nghịch là trách nhiệm của mọi người.

Bà ta tuy thông thạo bơi lội nhưng võ công chỉ bình thường, thấy tình lang gặp phải nguy cơ không nóng ruột sao được, nên liền kêu lên:

- Tất cả sánh vai tiến lên, đối phó với hung đồ phản nghịch còn nói gì đến qui củ giang hồ?

A Tử cười nói:

- Mẹ ơi, sao mẹ nói nghe tức cười làm vậy, chỉ toàn là gượng gạo chẳng có đạo lý gì hết. Cha con nếu là anh hùng hảo hán thì mới nhận làm cha, còn như là vô sỉ chi đồ, đánh nhau cần đến người tiếp sức, con nhận thứ cha đó làm chi?

Mấy câu đó từng tiếng rõ ràng truyền vào tai mọi người. Phạm Hoa và bọn Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn ai nấy bần thần, cảm thấy xông lên tương trợ thì cũng bất ổn, mà đứng yên chẳng ra tay cũng không xong.

Đoàn Chính Thuần tuy là kẻ gió trăng nhưng bốn chữ “anh hùng hảo hán” không phải là không thích. Ông vẫn thường tự chế nhạo mình: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan, nhưng dẫu không qua được cửa ải mỹ nhân cũng đâu phải là không anh hùng. Hạng Bá Vương có Ngu Cơ, Hán Cao Tổ có Thích phu nhân, Lý Thế Dân có Võ Tắc Thiên đó thì sao?”. Thành thử việc hèn hạ tệ hại, nhút nhát khiếp nhược ông quyết không làm. Ông tuy đang trong lúc chiến đấu kịch liệt nhưng nghe A Tử nói thế, lập tức lớn tiếng nói:

- Sinh tử thắng bại có gì là quan trọng đâu? Bất cứ ai tiến lên tương trợ, là coi Đoàn Chính Thuần này chẳng ra gì.

Ông mở miệng nói ra khiến nội lực không còn tinh thuần nữa nhưng Đoàn Diên Khánh không thừa cơ tiến lên bức bách, ngược lại lui về một bước, hai cây trượng chống dưới đất, đợi ông nói xong mới tiếp tục đánh nữa. Bọn Phạm Hoa ai nấy thầm kinh hãi, thấy Đoàn Diên Khánh ra vẻ phong độ nhàn nhã, không thèm chiếm phần hơn, chẳng qua biết mình thắng thế nên không sợ gì cả.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười nói:

- Tiến chiêu đi!

Tay áo ông phất một cái, trường kiếm theo tụ phong cũng đâm ra. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- A Tử, con xem cha con kiếm pháp lợi hại nhường bao, nếu như quả ông ta muốn lấy mạng con quỉ nhập tràng kia thì thừa sức. Có điều cha con thân phận vương gia, nên mới giao cho bộ thuộc đâu cần phải tự mình ra tay làm gì.

A Tử đáp:

- Cha con muốn thanh toán y cũng chưa chắc gì được. Con e rằng mẹ miệng lim dạ sứa, mồm thì ra vẻ ta đây mà bụng thì lo ngay ngáy.

Mấy câu đó quả đúng tâm sự mẫu thân, Nguyễn Tinh Trúc hầm hầm lườm con nghĩ thầm: “Con nhãi này thực chẳng biết nông sâu, nói năng thật vô ý vô tứ”. Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần đâm ra liên tiếp ba chiêu thật nhanh, thiết bổng của Đoàn Diên Khánh nội lực càng mạnh, ép cho kiếm bên địch phải lùi lại. Chiêu thứ tư của Đoàn Chính Thuần Kim Mã Đằng Không bay vòng ngang qua, gậy sắt trong tay Đoàn Diên Khánh liền ra chiêu Bích Kê Báo Hiểu, chọc luôn vào, bổng kiếm tương giao, lập tức dính chặt lấy nhau.

Đoàn Diên Khánh cổ họng kêu lên ục ục, cây gậy bên phải chống trên mặt đất điểm mạnh một cái, thân hình bay vụt lên không nhưng đầu gậy bên trái vẫn không rời mũi kiếm của Đoàn Chính Thuần.

Chỉ trong giây lát, một người hai chân vẫn bám trên mặt đất, vững chãi như một ngọn núi con không hề động đậy, còn người kia ở trên không đong đưa như cành liễu trước gió, dật dờ vô định. Người đứng chung quanh ai nấy “A” lên một tiếng, biết rằng hai người đã vào giai đoạn khẩn cấp tỉ đấu nội lực, Đoàn Chính Thuần đứng ở dưới đất hai chân có chỗ tựa để mượn lực, như thế có lợi hơn, thế nhưng Đoàn Diên Khánh từ trên cao đánh xuống, tất cả trọng lượng toàn thân ép xuống đầu kiếm đối phương, cũng khiến gia tăng sức mạnh.

Chỉ trong giây lát, trường kiếm từ từ cong lại dần dần biến thành hình cánh cung, thế nhưng thiết bổng mảnh khảnh kia vẫn thẳng băng như mũi tên. Tiêu Phong thấy trường kiếm trong tay Đoàn Chính Thuần càng lúc càng cong lại, cong thêm chút nữa e rằng sẽ gãy làm hai, nghĩ thầm: “Hai người trước sau sao vẫn chưa sử dụng môn tối cao thâm Lục Mạch Thần Kiếm? Không lẽ Đoàn Chính Thuần biết rằng công phu của mình không bằng đối phương nên không dám phô cái vụng về của mình ra? Xem cách y vận dụng nội lực, bao nhiêu tiềm lực đã hết rồi chẳng còn bản lãnh nào chưa dùng đến”.

Đoàn Chính Thuần thấy trường kiếm trong tay lúc nào cũng có thể gãy đôi, vội hít một hơi dài, tay phải điểm ra, chính là công phu Nhất Dương Chỉ. Công phu của ông còn chưa bằng được anh là Đoàn Chính Minh, không thể nào xa quá ba thước. Bổng kiếm tương giao, hai món binh khí cộng lại phải đến tám thước, chỉ đó không thể nào đả thương được đối phương, chỉ lực không phải để đối phó với Đoàn Diên Khánh, mà là đâm vào cây gậy sắt của y.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Người này xem chừng không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, có lẽ chưa bằng được nghĩa đệ ta. Chỉ này chẳng qua là một môn công phu điểm huyệt cao minh, có gì lạ đâu?”. Thế nhưng chỉ lực của ông đụng vào, cây gậy của Đoàn Diên Khánh liền rung lên, kiếm của Đoàn Chính Thuần liền duỗi thẳng ra được một chút. Ông liên tiếp tung ra ba chỉ, trường kiếm duỗi ra được ba lần, tạm thời trở lại nguyên trạng. A Tử lại liến thoắng nói:

- Mẹ ơi, mẹ xem cha con đã sử chỉ lại sử kiếm, vậy mà chỉ mới ngang tay được với cây gậy tẻo teo của người ta thôi. Nếu như đối phương lấy cây gậy bên kia tấn công tới, chẳng lẽ cha con có đến ba cánh tay mà đỡ hay sao? Đến nước đó chỉ còn cách giơ chân đá ra, tuy khó coi thực còn hơn để cho người ta đâm cho chết ngoẻo.

Nguyễn Tinh Trúc đã thấy chuyện đó, trong bụng đang lo, con gái kế bên lại nói toàn những lời xúi quẩy khó nghe, bà ta chưa kịp trả lời đã thấy cây gậy tay phải của Đoàn Diên Khánh vung lên, nghe vù một tiếng, đâm luôn vào ngón tay trỏ bên tay trái của Đoàn Chính Thuần.

Thủ pháp và nội lực của Đoàn Diên Khánh so với Nhất Dương Chỉ có khác gì đâu, có điều lấy bổng thay ngón tay, đã dài lại xa. Đoàn Chính Thuần không tránh, chỉ lực và bổng lực đụng nhau, thấy cánh tay ê ẩm, ông vội rụt tay về, đang định vận nội kình điểm ra lần thứ hai, ngờ đâu cây gậy trước mặt chuyển động, Đoàn Diên Khánh đã tiếp tục đâm vào lần nữa. Đoàn Chính Thuần kinh hoảng: “Y điều vận nội lực nhanh đến thế, ý đến đâu sức tới đó, công phu Nhất Dương Chỉ ghê gớm đến thế sao? So với ta cao thâm hơn nhiều”. Vội vàng đâm ngón tay ra nhưng đã chậm mất một chút, thân hình lảo đảo.

Đoàn Diên Khánh đấu với ông một hồi, e rằng đêm dài lắm mộng, để lâu sinh chuyện, nếu như tất cả quần thần bộ thuộc cùng xông lên, thể nào cũng hao phí hơi sức, nên vận bỗng như gió cuốn, trong khoảnh khắc điểm ra chín lần. Đoàn Chính Thuần hết sức chống đỡ, đến lần thứ chín, chân khí không còn liên tục nghe soẹt một tiếng, đầu gậy đã đâm vào vai. Ông thân hình lắc lư, nghe cắc một tiếng, trường kiếm bên tay phải gãy ra làm đôi.

Từ trong cổ họng Đoàn Diên Khánh phát ra một tiếng quái dị, thiết trượng bên tay phải đâm luôn vào sọ đối phương. Thế bổng đó quyết lấy tính mạng Đoàn Chính Thuần nên y ra tay sử dụng toàn lực phát tiếng vù vù.

Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn cả cùng nhảy tới, chia ra hai bên tấn công Đoàn Diên Khánh. Tam công Đại Lý thấy tình thế hung hiểm vạn phần, muốn cứu Đoàn Chính Thuần không sao kịp nữa chỉ còn cách đánh vào những nơi yếu hại của Đoàn Diên Khánh, ép cho y phải quay về tự cứu mà thôi. Đoàn Diên Khánh cũng đã liệu được chuyện đó rồi, thiết trượng bên trái thò xuống đất đỡ thân mình, trượng bên tay phải vận đủ sức lực tạt ngang ra, chấn động một cái, đánh giạt cả ba món binh khí, sau đó quay lại đâm vào đầu Đoàn Chính Thuần.

Nguyễn Tinh Trúc kêu lên thất thanh, vội vàng nhào đến, xem ra tình lang chết ngay tại chỗ, nàng cũng chẳng muốn sống làm gì. Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh chỉ còn cách huyệt Bách Hội trên đầu Đoàn Chính Thuần chừng ba tấc, đột nhiên thân hình Đoàn Chính Thuần bay tạt qua một bên, thành ra bổng đó điểm vào chỗ không. Khi đó Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch đã ép cho Đoàn Diên Khánh phải thu bổng trở về. Ba Thiên Thạch ra tay thật nhanh nhẹn, lật tay một cái nắm ngay được cổ tay Nguyễn Tinh Trúc để cho bà ta khỏi uổng mạng chết dưới tay Đoàn Diên Khánh. Mọi người quay sang nhìn Đoàn Chính Thuần.

Bổng của Đoàn Diên Khánh không điểm trúng đối phương, thấy một đại hán thò tay nắm ót Đoàn Chính Thuần, chỉ trong đường tơ kẽ tóc đã nhẹ nhàng kéo ông ta ra. Công phu đó quả thật không ai ngờ nổi, Đoàn Diên Khánh tuy võ công cao cường, nhưng cũng biết khó mà làm được. Bắp thịt trên mặt ông ta cứng đờ, tuy hết sức kinh ngạc nhưng vẫn thản nhiên như không, chỉ nghe hừ một tiếng bằng giọng mũi.

Người ra tay cứu Đoàn Chính Thuần chính là Tiêu Phong. Trong khi hai người họ Đoàn kịch đấu, ông đứng bên ngoài chăm chăm quan sát, đến khi thấy Đoàn Chính Thuần sắp bị đối phương giết chết, bổng của Đoàn Diên Khánh đánh xuống rồi thì mối huyết hải thâm cừu của mình không còn sao báo được nữa. Trong mấy ngày qua, ông đã tự nguyện không biết bao nhiêu lần, lập không biết bao nhiều lời thề, dù thế nào chăng nữa cũng nhất quyết phải trả cho bằng được mối thù này. Bây giờ kẻ thù ở ngay trước mắt, lẽ nào lại để y chết về tay kẻ khác? Thành thử ông tung mình nhảy tới, lôi Đoàn Chính Thuần ra ngoài.

Đoàn Diên Khánh tính toán linh mẫn, không đợi Tiêu Phong bỏ Đoàn Chính Thuần xuống, thiết bổng bên phải múa lên như giá táp mưa sa, hết gậy này đến gậy khác, liên tiếp điểm vào những chỗ yếu hại trên người Đoàn Chính Thuần. Y nhất quyết trừ khử kẻ chặn đường lên ngôi vua của mình, rồi sau đối phó Tiêu Phong cách nào thì để hạ hồi phân giải.

Tiêu Phong cầm Đoàn Chính Thuần né bên đông, luồn bên tây, theo những khe hở giữa hai đường gậy mà tránh được cả. Đoàn Diên Khánh liên tiếp sử dụng hai mươi bảy chiêu, vậy mà vẫn không đụng được vào chéo áo của Đoàn Chính Thuần. Y trong lòng thảng thốt, biết mình không phải là địch thủ của Tiêu Phong, hú lên một tiếng quái dị, đột nhiên bay vụt ra ngoài mấy trượng hỏi:

- Các hạ là ai? Sao lại xen vào việc này?

Tiêu Phong chưa kịp trả lời, Vân Trung Hạc kêu lên:

- Lão đại, y chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong, tên đồ đệ Truy Hồn Trượng Đàm Thanh của đại ca chết dưới tay tên ác đồ này đó.

Lời đó nói ra, không chỉ Đoàn Diên Khánh chấn động mà cả họ Đoàn Đại Lý cũng rùng mình. Tên tuổi Kiều Phong vang lừng thiên hạ, Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, trong võ lâm còn ai không biết. Có điều khi ông thông báo tên tuổi với Đoàn Chính Thuần và Phó Tư Qui đều tự xưng là “Tiêu Phong người Khất Đan”, nên không ai biết ông chính là Kiều Phong danh tiếng lừng lẫy. Đến bây giờ nghe Vân Trung Hạc nói thế, ai nấy đều nghĩ thầm: “Thì ra là y, võ công hiệp nghĩa, quả nhiên danh bất hư truyền”.

Đoàn Diên Khánh đã nghe Vân Trung Hạc kể lại đầu đuôi, tên đệ tử đắc ý của mình là Đàm Thanh ở Tụ Hiền Trang toan hại người không xong, ngược lại bị Kiều Phong giết chết, bây giờ nghe nói kẻ đứng trước mặt kia là kẻ giết học trò mình, trong bụng hết sức phẫn nộ nhưng cũng e dè, liền giơ thiết trượng ra viết lên trên nền đá xanh:

Các hạ có thù gì với ta? Đã giết học trò ta nay lại đến đây làm hỏng đại sự.

Chỉ nghe tiếng rào rào không dứt tưởng chừng như viết trên cát, hai mươi chữ chữ nào cũng hằn sâu vào đá. Môn phúc ngữ của y phải kết hợp với nội công thượng thừa có thể làm người ta hồn phách mê mẩn, thần trí hỗn loạn, là một môn tà thuật cực kỳ lợi hại. Có điều môn công phu này thuần do tâm lực khắc chế đối phương, nếu địch nhân nội lực thắng mình, thì lại bị dội ngược lại. Y biết Đàm Thanh chết cách nào, lại xem thân thủ Tiêu Phong cứu Đoàn Chính Thuần, nên không dám dùng thuật nói bằng bụng đối phó với Tiêu Phong.

Tiêu Phong đợi y viết xong, không nói một lời, tiến lên lấy gót chân di di mấy cái, lập tức xóa sạch những chữ trên nền đá. Người viết dùng thiết bổng viết trên đá xanh đã khó lắm rồi, nhưng người dùng gót chân xóa sạch tự tích thì môn công phu đó, so với nội lực tụ tại đầu gậy càng khó gấp bội. Hai người một viết một xóa, phiến đá xanh lót đường ở ven hồ thật chẳng khác gì một bãi cát nơi bờ biển.

Đoàn Diên Khánh thấy đối phương xóa hết chữ của mình, biết rằng ông ta một là trổ tài cho biết, hai là minh thị không thù oán, chuyện cũ bỏ qua, nếu không truy cứu thì hai bên ngừng tay. Đoàn Diên Khánh biết mình không phải đối thủ, chi bằng tránh voi chẳng xấu mặt nào khỏi bị cái bất lợi trước mắt, nên thiết trượng bên phải gạch một đường từ trên xuống dưới, móc lên một cái, biểu thị “một nét sổ toẹt” xóa hết mọi chuyện, sau đó điểm đầu gậy một cái, bay ngược về sau, xoay mình lặng lẽ đi mất.

Nam Hải Ngạc Thần trợn tròn đôi mắt, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, trong bụng không phục, chửi:

- Con mẹ nó, thằng chó đẻ này có cái quái gì đâu ...

Y nói chưa dứt câu, đột nhiên thân hình bay tung lên, rơi tõm ra giữa ao, nghe tùm một tiếng, nước văng tung tóe, đã chìm lỉm trong Tiểu Kính Hồ. Tiêu Phong giận nhất ai chửi ông là “đồ chó đẻ”, tay trái vẫn nhắc Đoàn Chính Thuần, tiến đến tay phải cầm Nam Hải Ngạc Thần lẳng một cái xuống dưới nước. Ông ra tay nhanh không thể tả, khiến cho Nam Hải Ngạc Thần không sao kháng cự được.

Nam Hải Ngạc Thần sống lâu nơi biển nam, đã tự xưng là “ngạc thần” nên bơi lội rất giỏi, hai chân búng vào đáy hồ một cái đã vọt lên khỏi nước kêu lên:

- Ngươi làm cách nào thế?

Y mới nói một câu, thân hình lại chìm xuống dưới đáy hồ, lại hết sức nhảy lên khỏi mặt nước, gào lớn:

- Ngươi ám toán lão tử.

Y vừa nói xong lại chìm nghỉm. Đến lần thứ ba y nhảy lên:

- Lão tử không để yên cho ngươi đâu.

Y tính tình cực kỳ nóng nảy, không đợi đến lúc lên được bờ, cứ nhảy chồm lên lại chửi Tiêu Phong một câu, rồi lại chìm xuống. A Tử cười nói:

- Mọi người xem kìa, gã này ở dưới nước trồi lên hụp xuống, có khác gì một con rùa không?

Vừa lúc đó Nam Hải Ngạc Thần nhảy lên khỏi mặt nước nghe thấy cô ta nói thế, liền chửi:

- Có ngươi mới là một con rùa ...

A Tử vung tay ra, nghe soẹt một tiếng, đã ném ra một mũi phi chùy. Khi món ám khí đó bay tới nơi, Nam Hải Ngạc Thần lại chìm mất tăm rồi.

Nam Hải Ngạc Thần bơi tới bên bờ hồ, người ướt như chuột lột bò lên nhưng không sợ hãi chút nào, hùng hục đi đến trước Tiêu Phong, nghiêng đầu nhìn ông ta nói:

- Ngươi vứt ta xuống hồ, dùng thủ pháp gì thế? Công phu đó lão tử chưa biết.

Diệp Nhị Nương đứng xa xa cách bảy tám trượng kêu lên:

- Lão tam đi thôi, đừng ở đây giở xấu ra nữa.

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Ta bị người ta ném xuống hồ, đến người ta dùng thủ pháp gì cũng chưa biết, chẳng phải là kỳ sỉ đại nhục hay sao? Ta phải hỏi cho minh bạch chứ.

A Tử nghiêm nghị nói:

- Hay lắm, để cô nương nói cho ngươi nghe. Công phu đó của ông ta tên là “Trịch Qui Công”.

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Ồ, hóa ra gọi là Trịch Qui Công, ta biết được tên công phu đó rồi, sẽ đi kiếm người dạy, khổ luyện một phen, để sau này không bị bẽ mặt nữa.

Nói xong lục tục chạy đi, lúc đó Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã xa rồi.

datlucky_way

23-07-2009 02:42 PM

Hồi 23(a) : TÁI THƯỢNG NGƯU DƯƠNG KHÔNG HỨA ƯỚC 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Tưởng đâu nên vợ nên chồng,

Đôi ta rong ruổi một vùng thảo nguyên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Để ai ôm hận nhân duyên một đời.

*

* *

Tiêu Phong nhẹ nhàng vứt Đoàn Chính Thuần xuống đất, lùi lại mấy bước. Nguyễn Tinh Trúc vái một cái thật sâu nói:

- Kiều bang chủ, ông trước đã cứu con gái tôi, bây giờ lại cứu... cứu anh ấy... thật không biết sao mới tạ ơn được.

Phạm Hoa, Chu Đan Thần cả bọn cũng lại cám ơn. Tiêu Phong lạnh lùng đáp:

- Tiêu Phong cứu y chỉ là vì lòng riêng, các vị không phải cám ơn làm gì. Đoàn vương gia, ta hỏi ông một câu, ông hãy trả lời cho thực. Năm xưa ông có làm một việc sai lầm thật đáng hổ thẹn, có phải thế không? Tuy việc đó không hẳn do bản tâm ông muốn thế, nhưng ông đã làm một đứa trẻ thơ cả đời khốn khổ, đến cha mẹ mình là ai cũng không biết, có đúng thế không?

Chuyện ngoài Nhạn Môn Quan khiến cho cả cha lẫn mẹ đều chết thảm, ông càng nghĩ càng đau lòng nên không muốn nói trắng ra trước mặt người ngoài.

Đoàn Chính Thuần mặt đỏ bừng, rồi lập tức tái nhợt, nói nhỏ:

- Quả đúng thế, việc này vẫn khiến Đoàn mỗ lúc nào cũng áy náy, mỗi khi nghĩ đến, trong lòng không yên. Thế nhưng sai quấy đã phạm rồi, không sao lấy lại được nữa. May mà trời thương hôm nay cho ta được gặp

lại đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ, có điều... có điều... ôi, ta thật là không phải.

Tiêu Phong gay gắt nói:

- Nếu ngươi biết là “sai quấy đã phạm, làm khổ người khác”, sao đến giờ phút này vẫn điều một điều hai tiếp tục làm chuyện ác?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu, hạ giọng nói nhỏ:

- Đoàn mỗ làm điều không ngay thẳng, đức hạnh khiếm khuyết, những việc sai quấy trong đời kể cũng đã nhiều, nghĩ lại càng thêm hổ thẹn.

Tiêu Phong từ khi nghe Mã phu nhân ở Tín Dương nói ra tên Đoàn Chính Thuần, ngày đêm suy tính, nghĩ bụng gặp được tên này thể nào cũng lột da lóc thịt, để cho y phải chịu trăm cay nghìn đắng lúc đó mới lấy mạng y. Thế nhưng đến khi thấy ông ta đãi bạn bè nhân nghĩa, với kẻ địch hiên ngang, không có vẻ gì là kẻ đê tiện gian tà chuyên làm chuyện xấu, trong bụng không khỏi ngờ vực nghĩ thầm: “Y giết cha mẹ ta ở ngoài Nhạn Môn Quan là do hiểu lầm, chuyện nhầm lẫn đó ai cũng có thể phạm phải. Thế nhưng y giết vợ chồng cha mẹ nuôi ta là Kiều Tam Hòe, lại làm hại ân sư Huyền Khổ đại sư, là những việc ác không thể nào tha thứ được, không lẽ bên trong còn có cái gì bí ẩn mà mình không biết hay chăng?".

Ông xưa nay hành sự không bao giờ cẩu thả, thành ra phải hỏi thẳng đối phương, để chính ông ta nói ra lúc đó mới quyết đoán. Đến khi thấy Đoàn Chính Thuần mặt mày ngượng nghịu, đầy vẻ hối tiếc, tự nhận mình đã làm việc sai lầm, trong lòng áy náy không yên, lại nói hôm nay gặp lại đứa trẻ mồ côi năm trước, còn “làm điều không ngay thẳng, đức hạnh

khiếm khuyết” chẳng phải nhắc đến việc giết vợ chồng Kiều Tam Hòe và

Huyền Khổ đại sư thì còn gì nữa?

Ông thấy đã hai năm rõ mười, khuôn mặt sầm xuống như phủ một làn

sương mỏng, hừ một tiếng. Nguyễn Tinh Trúc bỗng nói:

- Anh ấy... anh ấy xưa nay vẫn thế, ta... ta cũng chẳng... trách cứ gì đâu.

Tiêu Phong quay sang nhìn bà ta, thấy nàng mỉm cười, đôi mắt nhìn Đoàn Chính Thuần đầy vẻ tình tứ, trong lòng bỗng nổi cơn lôi đình, cười mũi một tiếng nói:

- Được, thì ra y xưa nay vẫn thế.

Ông quay lại nói với Đoàn Chính Thuần:

- Canh ba đêm nay, ta đợi ông ở nơi cầu đá, có chuyện muốn nói với các hạ.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Thể nào ta cũng đến. Đại ân không thể tạ bằng lời, có điều tôn giá mệt nhọc từ xa đến, sao không vào tiểu xá uống dăm chén rượu?

Tiêu Phong hỏi lại:

- Thương thế các hạ ra sao? Có cần tĩnh dưỡng vài hôm không?

Việc Đoàn Chính Thuần mời vào uống rượu, Tiêu Phong nghe mà như bỏ ngoài tai. Đoàn Chính Thuần cảm thấy hơi lạ lùng nói:

- Đa tạ Tiêu huynh quan hoài, vết thương nhẹ đó chẳng có gì đáng ngại.

Tiêu Phong gật đầu nói:

- Thế thì được rồi. A Châu, thôi mình đi.

Ông đi được mấy bước, quay đầu lại nói với Đoàn Chính Thuần:

- Những hảo bằng hữu thủ hạ của ông không cần đem theo.

Ông thấy bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn đều là những hảo hán son sắt

một lòng, nếu như cùng đi với Đoàn Chính Thuần đến cầu đá xanh, ắt sẽ

đều chết dưới tay mình, quả thật đáng tiếc.

Đoàn Chính Thuần thấy người này hành sự, ăn nói có vẻ khác thường, cái thói đa tình hoa nguyệt của mình đến hoàng huynh biết được cũng chỉ mỉm cười, sao y lại nghiêm nghị trách mắng trước mặt mọi người, không phải quá đáng hay sao? Thế nhưng y có cái ơn cứu mạng, bèn nói:

- Mọi việc nhất nhất theo lời dặn dò của tôn huynh.

Tiêu Phong cầm tay A Châu, không theo con đường mòn cũ quay về. Hai người tìm đến một nhà nông, mua gạo nấu cơm ăn, lại mua thêm hai con gà luộc ăn cho no nhưng tiếc rằng không có rượu nên cũng mất hứng. Ông thấy A Châu dường như có tâm sự gì, từ đầu chí cuối không nói năng bèn hỏi:

- Ta tìm ra được kẻ đại thù, nàng phải vui với ta chứ!

A Châu mỉm cười nói:

- Đúng thế, thiếp vui lắm.

Tiêu Phong thấy nàng nở nụ cười thật là gượng gạo nói:

- Tối nay giết y xong, chúng mình lập tức đi về phương bắc, ra ngoài Nhạn Môn Quan cưỡi ngựa săn thú, thả bò chăn cừu, không quay lại quan nội một bước nào nữa. Ôi, A Châu, ta trước khi gặp Đoàn Chính Thuần, đã từng lập lời thề sẽ giết cả nhà y không chừa con gà con chó. Thế nhưng gặp người này rồi thấy đầy nghĩa khí, nghĩ rằng ai làm nấy chịu, không cần phải đi tìm người nhà y làm gì.

A Châu đáp:

- Chàng nghĩ được nhân từ như thế ắt tích thêm âm đức, thể nào sau này cũng được hưởng phúc lâu dài.

Tiêu Phong cười rộ lên đáp:

- Hai bàn tay ta giết không biết bao nhiêu người rồi, còn âm đức hậu phúc gì nữa?

Ông thấy đôi lông mày xinh đẹp của A Châu nhíu lại, bèn hỏi:

- A Châu, sao nàng lại không vui? Nàng không muốn ta giết người nữa ư?

A Châu đáp:

- Không phải thiếp không vui nhưng chẳng hiểu tại sao bụng thiếp đau quá.

Tiêu Phong giơ tay bắt mạch nàng, quả nhiên mạch nhảy không đều, có vẻ gấp gáp bèn dịu giọng nói:

- Đường đi gian khổ coi chừng nàng nhiễm phong hàn. Để ta bảo bà lão nấu cho nàng một bát cháo gừng uống.

Bát cháo gừng nấu chưa xong A Châu người đã run như cầy sấy, lập cập nói:

- Thiếp lạnh quá! Lạnh quá!

Tiêu Phong hết sức lo lắng, vội cởi áo ngoài đắp lên người nàng. A Châu nói:

- Đại ca, tối nay chàng báo được thù rồi là làm tròn đại tâm nguyện. Thiếp cũng muốn đi theo chàng, mong rằng bệnh đỡ được một chút.

Tiêu Phong gạt đi:

- Không cần, không cần! Nàng cứ ở đây nghỉ ngơi, ngủ một giấc lúc tỉnh dậy thì ta đã đem thủ cấp Đoàn Chính Thuần về rồi.

A Châu thở dài nói:

- Thiếp thật đau lòng xiết bao! Đại ca, thật chẳng biết cách nào!

Thiếp chắc không đi theo chàng được đâu! Thiếp chỉ mong được ở bên

chàng, mãi mãi ở bên chàng, chẳng bao giờ muốn cùng chàng phân ly ...

chàng ... chàng ... một thân một mình cô đơn tịch mịch, thiếp không được

cùng chàng ở bên nhau.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật thiết tha, trong lòng cảm động, nắm lấy

tay A Châu nói:

- Hai đứa mình chỉ xa nhau một chốc, có gì là quan trọng đâu? A Châu, nàng đối với ta thật tốt, ân tình nàng ta biết báo đáp thế nào đây?

A Châu đáp:

- Chẳng phải chia tay một lúc đâu, thiếp biết là mình sẽ xa nhau rất lâu, lâu thật là lâu. Đại ca, thiếp xa chàng rồi, chàng một thân một mình, thiếp cũng cô khổ lênh đênh. Tốt hơn hết chàng đưa thiếp ra ngoài Nhạn Môn Quan ngay bây giờ, hai đứa mình chăn bò thả cừu. Oán thù với Đoàn Chính Thuần, một năm nữa hãy báo có được không? Để thiếp được ở cùng chàng một năm thôi.

Tiêu Phong vỗ nhẹ lên mái tóc mềm mại của nàng nói:

- May quá mới kiếm được y, tối nay báo được thù rồi, đôi ta không quay lại Trung Nguyên nữa. Đoàn Chính Thuần võ công kém ta xa, y lại không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, qua một năm nữa thì mình lại phải tới tận Đại Lý. Ở đó họ Đoàn hảo thủ rất đông, gặp phải người tinh thông Lục Mạch Thần Kiếm, đại ca này phần lớn là thua. Chẳng phải ta không nghe lời nàng nhưng việc này quả có nhiều chỗ khó khăn.

A Châu gật đầu, nói nhỏ:

- Đúng thế, thiếp chẳng thể nào xin chàng một năm nữa đến Đại Lý tìm y báo thù. Chàng một thân một mình vào trong hang cọp, thật không thể được.

Tiêu Phong cười ha hả giơ chiếc bát cơm lên làm như uống một ngụm, tính vốn quen uống rượu từng bát rồi, lúc này tuy không có gì, nhưng cứ giả vờ thế cũng đỡ thèm, nói:

- Ví như Tiêu Phong này chỉ có một thân một mình, dù Đoàn gia Đại Lý là đầm rồng hang hổ thì cũng cứ vào, sinh tử nguy nan có coi vào đâu. Thế nhưng bây giờ bên cạnh lại có thêm tiểu A Châu, ta muốn lo liệu cho nàng thì tính mạng bây giờ quí lắm.

A Châu nằm gục vào trong lòng ông, bờ vai rung rung, Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, trong lòng thấy bình thản ấm áp nghĩ bụng:

“Được người vợ như thế này còn mong gì hơn nữa?”. Bỗng chợt ông thả hồn qua ngoài biên tái, nghĩ đến chỉ một tháng nữa thôi mình sẽ cùng A

Châu hai người cưỡi ngựa ruổi rong trên thảo nguyên ải bắc, chăn cừu săn thú, không còn nghĩ đến chuyện đề phòng kẻ địch đến tấn công, từ nay không buồn không lo, tiêu dao khoái hoạt biết bao! Có điều hôm trước nơi Tụ Hiền Trang, người áo đen kia cứu mạng mình chưa báo đáp được, không khỏi khắc khoải trong lòng, thế nhưng đại anh hùng thi ân nào cần báo, thôi cuộc đời này cũng đành thiếu ông ta một món ân tình.

Trời tối dần, A Châu nằm gục trong lòng ông đã ngủ thiếp từ lúc nào. Tiêu Phong lấy ra ba đồng bạc đưa cho nhà nông, bảo họ dọn cho một gian phòng, sau đó bồng A Châu đặt lên giường, đắp chăn cho nàng, buông màn xuống rồi ngồi ngoài nhà người nông gia nhắm mắt dưỡng thần, chẳng mấy chốc cũng ngủ nốt.

Ông ngủ một mạch hơn hai giờ, tỉnh dậy mở cửa bước ra thấy vầng trăng non đã lên quá ngọn cây, phía tây bắc mây đen đang kéo đến, xem chừng đêm nay sẽ có mưa dông.

Tiêu Phong khoác trường bào đi về phía chiếc cầu đá xanh. Đi được chừng năm dặm đến bên bờ sông, tuy bóng trăng vẫn chiếu xuống dòng nước, nhưng nửa bầu trời phía tây đã đầy mây đen, thỉnh thoảng lại có một tia chớp sáng lòe tỏ cả bốn bề nhưng vừa qua đi, trời lại tối đen như mực. Xa xa nơi gò đống mấy đám ma trơi lung linh, chập chờn trên những ngọn cỏ. Tiêu Phong đi càng lúc càng nhanh, chẳng bao lâu đã đến chiếc cầu đá, nhắm sao Bắc Đẩu thấy xem chừng mới chỉ độ canh hai nghĩ bụng: “Vì lo báo cho xong mối thù thành thử mình hơi nóng ruột nên đã đến sớm một canh”. Trong đời ông ước hẹn đem sinh tử ra đánh cuộc không biết bao lần, đối phương thanh thế võ công hơn Đoàn Chính Thuần cũng đã nhiều, thế nhưng sao đêm nay tâm thần hết sức hồi hộp, thiếu hẳn cái hào khí nhất quyết một phen tử chiến, trước nay chưa hề như thế bao giờ.

Ông đứng bên cầu, nhìn xuống dòng sông nước lững lờ trôi nghĩ thầm:

"Đúng rồi, trước kia ta một thân một mình, đến đâu thì đến, đi đâu thì đi,

không có gì phải khắc khoải, đêm nay mình có thêm một A Châu. Ôi, quả

đúng là nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản”. Nghĩ đến đây, trong lòng

dậy lên một nỗi ấm áp, mỉm cười, nghĩ tiếp: ”Giá như A Châu đứng cạnh

mình nơi đây thì thật còn thích thú hơn nhiều”.

Ông biết Đoàn Chính Thuần võ công so với mình còn kém xa, cuộc hẹn hôm nay chẳng phải lo gì đến chuyện thắng bại, thấy thời khắc ước hội cũng còn lâu nên ngồi xuống gốc cây bên cạnh cầu đá ngưng thần thổ nạp, dần dần linh đài thấy đã trống không, trừ hết mọi tạp niệm. Bỗng dưng một tia chớp sáng lòa, rồi một tiếng sấm ầm ầm nổi lên, một ánh sét từ trên không đánh xuống. Tiêu Phong mở to mắt, tự hỏi: "Trong chớp mắt là mưa kéo đến rồi, không biết đã đến canh ba chưa?".

Ngay lúc đó, từ con đường nhỏ đi qua Tiểu Kính Hồ một người chậm rãi đi tới, áo rộng, đai lỏng chính là Đoàn Chính Thuần. Ông ta đi đến trước mặt Tiêu Phong, vái một cái thật sâu nói:

- Kiều bang chủ vời đến, không biết có chuyện chi dạy bảo?

Tiêu Phong hơi nghiêng đầu liếc xéo ông ta, cơn giận từ trong lòng bùng lên nói:

- Đoàn vương gia, dụng ý ta hẹn ông đến đây không lẽ ông chưa biết hay sao?

Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:

- Có phải ông muốn nói đến chuyện ngoài Nhạn Môn Quan năm xưa, ta nghe lời kẻ gian để cho y xúi bẩy, làm mất mạng lệnh đường, khiến cho lệnh tôn phải tự tận, thật là một lỗi lầm hết sức lớn.

Tiêu Phong lạnh lùng nói:

- Thế sao ông lại còn làm hại vợ chồng nghĩa phụ ta là Kiều Tam Hòe, làm hại ân sư ta là Huyền Khổ đại sư?

Đoàn Chính Thuần chậm rãi lắc đầu, buồn bã nói:

- Ta chỉ mong che dấu được chuyện này, ngờ đâu càng lúc càng lún sâu vào tội ác, không sao rút ra được nữa.

Tiêu Phong nói:

- Hừ, ngươi quả là một hán tử thẳng thắn, ngươi tự xử lấy mình hay phải để ta động thủ?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Nếu không được Kiều bang chủ ra tay cứu trợ thì trưa hôm nay Đoàn Chính Thuần này đã táng mạng bên cạnh hồ Tiểu Kính rồi, được sống thêm nửa ngày đều là do các hạ ban cho. Kiều bang chủ muốn lấy mạng tại hạ thì cứ việc ra tay.

Khi đó tiếng sấm ầm ầm vang trời, từng giọt mưa to bằng hạt đậu lộp bộp rơi xuống. Tiêu Phong nghe y nói đầy hào khí, không khỏi động lòng. Ông vốn dĩ thích kết giao anh hùng hảo hán, từ khi gặp Đoàn Chính Thuần thấy y phong độ hiên ngang, không khỏi nẩy bụng cảm mến, nếu chỉ là một việc tầm thường, dù phải hết sức nhục nhã, cũng chỉ uống với nhau vài mươi chén rượu cười khì bỏ qua. Thế nhưng mối thù cha mẹ không đội trời chung, dễ gì bỏ qua cho được? Ông giơ chưởng lên nói:

- Là phận con cái, đại thù của cha mẹ sư trưởng không thể không báo. Ông giết cha tôi, mẹ tôi, cha nuôi tôi, mẹ nuôi tôi thêm thụ nghiệp ân sư của tôi, cả thảy năm người, vậy tôi đánh ông năm chưởng. Ông chịu đựng năm chưởng rồi, chết hay sống, bao nhiêu thù oán đều xóa sạch.

Đoàn Chính Thuần cười gượng:

- Một mạng người chỉ đổi lấy một chưởng, báo ứng với Đoàn mỗ thế là nhẹ quá rồi, hết sức cảm kích thịnh tình đó.

Tiêu Phong thầm nghĩ: “Họ Đoàn Đại Lý võ công trác tuyệt thật, nhưng e rằng chưa chắc đã chịu nổi một chưởng của Tiêu mỗ”. Ông bèn nói:

- Vậy thì xem đây!

Tay trái cuộn một vòng, tay phải nghe vù một tiếng đánh ra. Đột nhiên một ánh chớp sáng lòa, trên trời một tiếng sét ỳ ầm vang động, tiếng sấm tưởng như phụ họa với thế chưởng Tiêu Phong đánh ra, uy mãnh quả thực trời long đất lở, bình một tiếng, trúng giữa ngực Đoàn Chính Thuần. Chỉ thấy ông ta đứng không vững, đổ gục ngay xuống, nghe bịch một tiếng đã ngã sập trên lan can chiếc cầu đá xanh, nằm bẹp xuống không động đậy gì nữa. Tiêu Phong ngạc nhiên: “Sao y không giơ chưởng lên chống đỡ? Không lẽ tệ đến thế ư?”. Ông tung mình nhảy tới, cầm ngay cổ áo nhắc lên, trong bụng chột dạ, tai ù đi, mưa hắt vào mặt nhưng không biết gì chỉ kịp nghĩ: “Sao y nhẹ bỗng như thế này?”. Trưa hôm đó khi ra tay cứu Đoàn Chính Thuần đã cầm y nhắc lên khá lâu. Người võ công cao cường, trọng lượng trong tay dù chỉ sai biệt một cân, tám lượng thì cũng đã phát giác ngay. Thế nhưng lúc này Tiêu Phong thấy thân thể Đoàn Chính Thuần nhẹ hẫng đi hàng mấy chục cân, trong lòng nổi lên một mối kinh hoàng không đâu kể xiết, mồ hôi lạnh toát đầm đìa.

Vừa lúc đó một lằn chớp nữa lóe lên. Tiêu Phong giơ tay lên nắm vào mặt Đoàn Chính Thuần, thấy bốc ra một nắm nhão nhoẹt, xoa một cái lập tức rã ra, trong ánh chớp nhìn rõ ràng, thất thanh kêu lên:

- A Châu, A Châu, thì ra là em!

Tiêu Phong thấy chân tay bủn rủn không còn chút khí lực nào, nhịn không nổi khuỵu ngay xuống, ôm chặt lấy hai chân A Châu. Ông biết rằng vừa rồi chưởng thế của mình sử dụng toàn lực, dù kẻ võ công hạng nhất nếu không giơ chưởng ra chống đỡ, cũng chịu không nổi, huống chi là nàng A Châu ẻo lả mong manh? Chưởng đó đánh nàng đứt hết gân cốt, ngũ tạng nát nhừ, dẫu có Tiết Thần Y ở ngay bên cũng chưa chắc cứu nổi.

A Châu nằm dựa vào thành cầu, từ từ xụm xuống gục trong lòng Tiêu

Phong, thều thào nói:

- Đại ca, thiếp ... thiếp thật chẳng phải với chàng, chàng có giận em không?

Tiêu Phong gào lên:

- Ta không giận em đâu, ta chỉ giận ta thôi, ta chỉ hận ta thôi.

Nói xong giơ chưởng lên đánh mạnh xuống đầu mình. Bàn tay A Châu nhấp nhổm như muốn ngăn không cho ông tự đánh mình, nhưng không giơ lên nổi nữa, nói:

- Đại ca phải bằng lòng làm cho em một chuyện, vĩnh viễn không bao giờ được hủy mình.

Tiêu Phong gầm lên:

- Sao nàng lại thế? Sao lại làm thế? Sao thế?

A Châu nói nhỏ:

- Đại ca, chàng cởi áo ra xem đầu vai bên trái em đi.

Tiêu Phong cùng nàng rong ruổi muôn dặm quan san, đi cùng đi, ngủ cùng ngủ nhưng vẫn giữ lễ, bây giờ nghe A Châu bảo mình cởi áo nàng ra, không khỏi sững sờ. A Châu nói:

- Thiếp vốn đã thuộc về chàng rồi, em... em... thân này là của chàng. Chàng coi... coi đầu vai em thì sẽ rõ.

Tiêu Phong mắt nhòa lệ, nghe nàng nói không có vẻ gì mê loạn, trong

muôn một vẫn còn chút hi vọng mong manh, vội vàng tay trái đỡ lưng A

Châu vận chân khí cuồn cuộn trút vào thân thể nàng, may ra có thể chữa

khỏi điều lầm lẫn, tay phải từ từ cởi áo cô gái ra, để lộ vai trái. Trên trời

lại một lằn chớp loằng ngoằng vụt ngang, mắt Tiêu Phong hoa lên, thấy bờ vai nàng da trắng như tuyết có xâm một chữ “Đoàn” đỏ như máu. Tiêu Phong vừa kinh ngạc, vừa thương tâm, không dám nhìn lâu, vội vàng khép áo che lên đầu vai A Châu, nhè nhẹ ôm nàng vào lòng hỏi:

- Trên vai nàng có một chữ Đoàn là ý nghĩa gì thế?

A Châu đáp:

- Khi cha mẹ em đưa em cho người khác nuôi khắc lên vai để... để sau này còn nhận ra.

Tiêu Phong run rẩy nói:

- Chữ Đoàn đó, chữ Đoàn đó...

A Châu đáp:

- Ngày hôm nay, hai người phát hiện trên vai A Tử có một ký hiệu, biết ngay đó là con gái của họ. Chàng... chàng... có thấy cái ký hiệu đó không?

Tiêu Phong đáp:

- Không, ta không tiện xem.

A Châu nói:

- Trên vai... trên vai cô ta cũng có xâm một chữ Đoàn chẳng khác gì em.

Tiêu Phong chợt hiểu ra, run run hỏi:

- Em... em cũng là con họ đấy ư?

A Châu đáp:

- Em vốn dĩ không biết, sau khi nhìn thấy đầu vai A Tử rồi mới hay. Cô ta lại còn một sợi dây chuyền vàng giống y như sợi dây chuyền em có, trên đó có khắc mười hai chữ. Của cô ta là:

Hồ biên trúc,

Doanh doanh lục.

Báo bình an,

Đa hỉ lạc.

Trúc bên hồ,

Xanh xanh biếc,

Báo bình an,

Nhiều hạnh phúc.

Còn trên cái dây chuyền của em thì có mấy câu sau:

Thiên thượng tinh,

Lượng tinh tinh,

Vĩnh xán lạn,

Trường an ninh. 

Sao trên trời,

Sáng lấp lánh.

Vĩnh chiếu tỏa,

Mãi an ninh.

Em... em... trước nay có hiểu ý tứ gì đâu, chỉ tưởng đọc cho thuận miệng có ngờ đâu là tên của mẹ em. Mẹ em chính là bà... Nguyễn... Tinh Trúc. Đôi dây chuyền này là của cha em tặng cho mẹ em, sau khi sinh ra hai chị em mới đeo cho mỗi đứa một cái nơi cổ.

Tiêu Phong nói:

- Bây giờ ta hiểu rồi, phải tìm cách chữa trị ngay cho nàng mới được, chuyện này để nói sau không muộn gì.

A Châu vội nói:

- Không, không đâu! Em muốn nói rõ cho chàng nghe, sợ để thêm chút nữa e không kịp. Đại ca, chàng nghe thiếp nói cho hết đã.

Tiêu Phong không muốn làm trái ý nàng, đành nói:

- Được rồi, ta nghe nàng nói xong nhưng nàng cũng đừng phí sức nhiều quá.

A Châu gượng nở một nụ cười nói:

- Đại ca, chàng thật tốt, chuyện gì cũng nghĩ đến em, thương em, chiều em biết bao.

Tiêu Phong nói:

- Từ nay trở đi, ta còn thương em gấp trăm lần, ngàn lần hơn nữa.

A Châu mỉm cười:

- Thế này đủ rồi, em cũng chẳng thích chàng đối với em quá tốt. Em rồi cứ nằm ườn ra thì ai lo việc nhà. Đại ca, em... em núp ở sau căn nhà tre, nghe lén cha em, mẹ em và A Tử muội muội nói chuyện. Hóa ra cha em đã có vợ rồi, cha em mẹ em không phải vợ chồng chính thức, năm trước sinh ra em, năm sau sinh thêm em gái em. Sau đó cha em muốn trở về Đại Lý, mẹ em không chịu cho cha em đi, hai bên cãi nhau một trận, mẹ em còn đánh cha em, cha em cũng chịu vậy không đánh lại. Về sau... về sau... không còn cách nào khác, hai người phải chia tay. Bên nhà ông ngoại em gia giáo lắm, nếu như biết được chuyện này, thể nào cũng giết mẹ em ngay. Mẹ em đâu dám đem hai đứa em về nhà, đành chia ra đem cho người ta, nhưng vẫn mong sau này còn nhận ra được nên trên đầu vai hai chị em xâm một chữ Đoàn. Người nuôi nấng em chỉ biết mẹ em họ Nguyễn, thực ra, thực ra... em họ Đoàn...

Tiêu Phong càng thêm thương xót, nói nhỏ:

- Em thật đáng thương quá!

Trên trời sấm chớp vẫn đùng đùng, hết tiếng sét này đến tiếng sét khác, đột nhiên một cây to bên cạnh bờ sông bị sét đánh trúng, nghe lách cách liền ngã xuống. Hai người chẳng để ý tới bên ngoài, tuy đang lúc đất trời biến đổi nhưng không hề hay biết.

A Châu lại tiếp:

- Người làm hại cha mẹ chàng lại chính là cha em, ôi, sao trời già cay nghiệt quá để cho đôi ta phải đau đớn dường này, vậy mà... vậy mà kẻ tra vấn để Mã phu nhân chính miệng nói ra tên cha em lại chính là em. Nếu như em không giả làm Bạch Thế Kính để đánh lừa bà ta thì bà ta nhất quyết không nói tên cha em ra. Người đời thường bảo trong cái mờ mờ u u minh minh kia cũng có sẵn ý trời, trước nay em nào có tin. Thế nhưng... thế nhưng... chàng thử xem liệu có hay không?

Tiêu Phong ngẩng đầu lên, mây đen che phủ không còn chút ánh trăng nào, một tia chớp vụt qua chiếu sáng bốn bề tưởng như ông trời vừa mở

mắt. Ông cúi đầu xuống, trong lòng hoang mang, hỏi lại:

- Em có chắc Đoàn Chính Thuần là cha em không? Không sai đấy chứ?

A Châu đáp:

- Không thể nào sai được. Thiếp thấy cha mẹ em ôm A Tử muội tử khóc nức nở, kể lại chuyện bỏ rơi hai chị em như thế nào. Cha mẹ em đều nói rằng, nhất quyết bằng giá nào cũng phải tìm cho được em mới thôi. Hai người có ngờ đâu đứa con của hai người nằm phục ngay bên cửa sổ. Đại ca ơi, hồi nãy em giả vờ bị bệnh là để cải trang thành chàng đến nói với cha em, bỏ cái hẹn ở cầu đá đêm nay đi, bao nhiêu chuyện cũ bỏ hết rồi, sau đó lại cải trang thành cha em, đến gặp chàng... để cho chàng... để cho chàng...

Nói đến đây hơi thở chỉ còn thoi thóp. Chưởng tâm Tiêu Phong càng gia tăng nội kình để mong A Châu không thoát lực, nhỏ lệ nói:

- Sao em không nói cho ta biết? Nếu ta biết ông ta là cha em...

Những lời tiếp theo ông không nói tiếp được, cũng không biết rằng, nếu quả biết được rằng Đoàn Chính Thuần là cha người mình yêu thương nhất đời thì phải làm sao.

A Châu nói:

- Em suy đi tính lại, suy nghĩ thật lâu. Đại ca, thiếp vẫn mong được ở bên chàng thêm ít nữa nhưng làm sao được? Liệu em có dám cầu chàng đừng báo thù cho năm vị thân nhân chăng? Nếu như thiếp hồ đồ nói ra mà chàng khứng chịu, có phải... thì đời chàng nào còn ra gì.

Tiếng của nàng càng nói càng nhỏ dần, tiếng sấm vẫn ỳ ầm không dứt, nhưng Tiêu Phong nghe thấy mỗi lời của A Châu còn kinh hồn động phách hơn tiếng sấm nhiều. Ông vò đầu mình nói:

- Sao em không bảo cha em bỏ đi, đừng giữ ước hội này! Hoặc giả cha em là anh hùng hảo hán, không chịu thất hứa thì em có thể giả làm ta, đính ước một lần khác, tại một nơi thật xa, vào một ngày thật xa gặp lại. Em việc gì... việc gì phải khổ như thế này?

A Châu đáp:

- Em muốn chàng biết rằng, một người lỡ tay làm chết một người khác có thể hoàn toàn chẳng do bản tâm. Chàng có bao giờ nghĩ đến chuyện hại em đâu, thế nhưng lại chính chàng đánh em một chưởng. Cha em làm chết cha mẹ chàng, cũng chỉ vì vô ý mà gây ra chuyện cực sai lầm.

Tiêu Phong một mực đăm đăm nhìn nàng, mấy lần ánh chớp lóe lên, thấy đôi mắt nàng nhu tình vô hạn. Tiêu Phong trong lòng rung động, biết A Châu đối với mình thâm tình biết là chừng nào, hơn hẳn những gì ông hằng nghĩ đến, cũng hiểu rõ một điều: “Đoàn Chính Thuần tuy là cha thân sinh ra nàng nhưng đối với nàng nào có cái ơn dưỡng dục, nhưng chỉ vì muốn mình hiểu được rằng sai lầm chỉ vì vô tâm đáng được tha, nên phải chịu hi sinh tính mạng”. Ông run run nói:

- A Châu ơi, có phải nàng còn nguyên nhân khác nữa chứ nào phải chỉ để cứu phụ thân, cũng không phải chỉ để cho ta biết rằng có những lỗi lầm chỉ vì vô ý, mà nàng chỉ vì ta đấy thôi, vì ta đấy thôi!

Ông ôm A Châu lên đứng dậy. A Châu nở một nụ cười, thấy Tiêu Phong hiểu được thâm ý mình trong lòng hoan hỉ. Nàng biết tính mạng mình đã đến lúc lâm chung, tuy không mong tình lang hiểu được nỗi niềm sâu thẳm trong tim mình nhưng rồi chàng cũng biết...

Tiêu Phong nói:

- Em hoàn toàn chỉ vì anh, A Châu, có phải không em?

A Châu nhỏ nhẹ:

- Đúng thế.

Tiêu Phong gào lên:

- Vì sao thế? Vì sao thế?

A Châu đáp:

- Họ Đoàn Đại Lý có Lục Mạch Thần Kiếm, nếu chàng giết Trấn Nam Vương của họ, họ đâu có để yên? Đại ca ơi, chữ trên bộ Dịch Cân Kinh mình có đọc được đâu...

Tiêu Phong chợt hiểu, một giòng lệ nóng trào ra, ròng ròng nhỏ xuống. A Châu nói:

- Thiếp xin chàng một điều, đại ca có bằng lòng không?

Tiêu Phong đáp:

- Nói gì một điều, dẫu có trăm điều, nghìn điều ta cũng bằng lòng.

A Châu nói:

- Thiếp chỉ có một đứa em gái, hai đứa từ nhỏ đã không được ở gần nhau, xin chàng trông nom cho nó, thiếp chỉ lo nó đi chẳng đi vào đường ngay nẻo chánh.

Tiêu Phong gượng cười:

- Đợi khi nào nàng khỏi rồi, mình sẽ đi kiếm để hai chị em được đoàn tụ với nhau.

A Châu mơ màng nói:

- Đợi em khỏi... ôi, đại ca, mình sẽ cùng nhau ra ngoài quan ngoại cưỡi ngựa đi săn, thả bò chăn cừu, chàng thử nghĩ liệu em gái thiếp có chịu đi theo không?

Tiêu Phong đáp:

- Dĩ nhiên là cô ta đi chứ, chị ruột và anh rể bảo đi không lẽ không đi?

Đột nhiên có tiếng cười khúc khích, từ dưới vòm cầu đá xanh một người bước ra, kêu lên:

- Sao không biết mắc cở? Cái gì mà chị ruột, anh rể là sao? Ta không đi đâu.

Người đó thân hình mảnh mai, mặc một chiếc áo tơi chính là A Tử. Tiêu Phong lỡ tay đánh A Châu một chưởng rồi, hết tâm hết ý lo cho nàng chứ với công phu của ông, làm gì không biết có người đang nằm phục ở dưới nước nhưng vì một mặt sấm chớp đùng đùng, mưa to gió lớn, thứ nữa tâm thần đại loạn, đến khi A Tử hiện thân lúc đó mới phát giác, không khỏi kinh ngạc kêu lên:

- A Tử, cô mau mau lại đây gặp chị cô.

A Tử dẩu môi nói:

- Ta náu dưới vòm cầu, cốt để xem ông đánh với cha ta cho vui, ai ngờ ông lại đánh trúng chị ta. Hai người tỉ tỉ tê tê chưa xong, ta đâu có muốn nghe, đàm tình thuyết ái việc gì phải lôi cả ta vào?

Nói xong đủng đỉnh đi tới. A Châu nói:

- Hảo muội muội, từ nay trở đi, Tiêu đại ca lo cho em, em... em cũng lo cho anh ấy...

A Tử cười khanh khách nói:

- Cái tên man tử thô lỗ khó coi kia, ta chẳng thèm đâu.

A Châu đang nằm trong lòng Tiêu Phong bỗng run rẩy, đầu ngoẹo xuống, mái tóc xổ tung ra phủ lên vai ông rồi không còn động đậy gì nữa.

Tiêu Phong vô cùng kinh hãi, kêu to:

- A Châu, A Châu!

Ông vội giơ tay bắt mạch thì không còn nhảy nữa rồi, trái tim ông tưởng chừng cũng đứng lại, vội giơ tay thăm mũi thấy nàng không còn thở nữa. Ông gào lên:

- A Châu, A Châu!

Thế nhưng cho dù có gọi đến nghìn lần vạn lần, A Châu không còn thể nào đáp lời được nữa. Tiêu Phong vội vàng đem chân lực trút vào người nàng nhưng A Châu vẫn không hề cử động. A Tử thấy A Châu tắt thở, hết sức kinh hãi, không còn dỡn hớt được nữa, hoảng hốt rú lên:

- Ngươi đánh chết chị ta rồi, ngươi ... ngươi đánh chết chị ta rồi!

Tiêu Phong đáp:

- Đúng đó, chính ta đánh chết chị cô, cô báo thù cho chị cô đi. Mau mau, giết ta cho xong!

Ông bỏ A Châu xuống, ưỡn ngực ra gào lên:

- Ngươi mau giết ta đi!

Ông chỉ mong A Tử rút dao ra đâm vào ngực mình, mọi việc như thế là xong, giải thoát khỏi niềm đau vô cùng vô tận. A Tử thấy Tiêu Phong

nghiến răng nghiến lợi trông thật man dã ghê rợn, không khỏi sợ hãi, lùi

lại mấy bước kêu lên:

- Ngươi... ngươi chớ có giết ta.

Tiêu Phong cũng tiến lên theo, tay đưa lên ngực, nghe soẹt một tiếng đã xé rách áo banh ngực ra, để lộ da thịt nói:

- Ngươi có độc châm, độc thích, độc chùy... mau mau đâm chết ta đi.

Dưới ánh chớp, A Tử thấy trên ngực ông ta xâm hình đầu một con chó sói xanh lè, răng nhe ra, hình mạo hung ác, lại càng khiếp vía, đột nhiên kêu rú lên quay mình chạy thục mạng. Tiêu Phong đứng chết sững trên cầu, hết sức thương tâm, lại thêm vô cùng hối hận, giơ chưởng lên bình một tiếng đã đánh vào lan can cầu, đá vỡ bay tung tóe. Ông đánh hết chưởng này đến chưởng khác, muốn khóc nhưng không sao khóc được, bỗng nghe lạch cạch, phiến đá lan can rơi tòm xuống sông. Một ánh chớp lại bùng lên, chiếu lên mặt A Châu, nỗi thâm tình quan thiết của nàng vẫn còn vương trên khóe miệng.

Tiêu Phong lại kêu rống lên:

- A Châu!

Ông ôm xác người tình lên chạy như bay vào trong đồng không mông

quạnh. Sấm chớp vẫn đùng đùng, mưa như trút nước, lúc thì chạy lên trên

triền núi, lúc lại chạy xuống vực sâu, chẳng biết mình đang ở nơi đâu, đầu óc hỗn loạn trống rỗng không còn biết gì nữa. Sấm chớp thưa dần nhưng mưa vẫn không ngớt. Phương đông trời đã hửng đỏ, bầu trời cũng sáng dần. Tiêu Phong đã chạy như điên trong hai giờ liền nhưng không hề mỏi mệt, chỉ muốn hành hạ thân xác mình, lại mong chết phứt cho rồi để mãi mãi ở bên cạnh A Châu. Ông rú lên từng chập, cuồng bôn loạn tẩu, không hiểu sao lại quay trở về chiếc cầu đá xanh.

Ông lẩm bẩm:

- Ta đi kiếm Đoàn Chính Thuần, bảo Đoàn Chính Thuần giết ta đi báo thù cho con gái.

Nghĩ thế bèn rảo bước chạy về phía Tiểu Kính Hồ. Chẳng bao lâu Tiêu Phong đã đến bên bờ hồ, kêu lớn:

- Đoàn Chính Thuần, ta giết chết con ngươi, ngươi ra giết ta đi, ta không đánh trả đâu, mau ra đây, ra giết ta đi!

Ông ôm ngang A Châu, đứng trước khu rừng trúc, đợi một hồi trong rừng vẫn lặng như tờ, không thấy một ai. Tiêu Phong tiến vào khu rừng, đi đến trước căn nhà tre, giơ chân đá bung cửa, đi vào phòng la to:

- Đoàn Chính Thuần, ngươi mau ra giết ta đi!

Trong nhà trống không chẳng thấy một ai. Ông đi lùng tìm khắp nhà ngang, nhà sau không thấy Đoàn Chính Thuần hay những người bộ thuộc,

đến cả người chủ là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử cũng không thấy đâu.

Trong nhà dụng cụ trần thiết vẫn y nguyên, tưởng như mọi người lật đật

bỏ đi không kịp mang theo gì cả. Ông nghĩ thầm: “Đúng rồi, A Tử chạy về báo tin, nói là ta muốn giết cha cô ta báo thù. Đoàn Chính Thuần chắc không chịu bỏ đi nhưng Nguyễn Tinh Trúc và những bộ thuộc của y ép y phải cao bay xa chạy. Ha ha, ta đâu có muốn đến giết ngươi, mà muốn ngươi giết ta đấy chứ”.

Ông lại gọi to mấy tiếng:

- Đoàn Chính Thuần, Đoàn Chính Thuần!

Thanh âm truyền ra xa nhưng chỉ thấy tiếng gió thổi vào cành trúc nghe xào xạc, tuyệt nhiên không có tiếng người. Chung quanh Tiểu Kính Hồ cũng như trong khu rừng không còn một ai, Tiêu Phong tưởng chừng trời đất này chỉ còn một mình ông. Từ lúc A Châu tắt thở đến giờ, ông chưa để nàng xuống, không biết bao lần dùng chân khí tống vào trong người nàng, chỉ mong biết đâu trời thương, cũng may như hôm trước nàng bị Huyền Từ phương trượng đánh trúng, chỉ bị thương nặng mà không chết. Thế nhưng lần trước Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ đánh vào chiếc gương đồng trong tay Tiêu Phong, A Châu chẳng qua chỉ bị chấn động, còn lần này chưởng của Tiêu Phong đánh thẳng vào giữa ngực, làm sao còn sống cho nổi? Dù cho ông đưa bao nhiêu nội lực truyền vào, A Châu vẫn không thể nào động đậy. Ông ôm A Châu, ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngồi trước nhà, từ sáng sớm đến tới tận trưa, rồi từ trưa ngồi cho tới tối. Lúc này sau cơn mưa trời trong vắt, ánh tà dương nhàn nhạt chiếu lên người Tiêu Phong và A Châu.

Khi ở Tụ Hiền Trang ông bị quần hùng vây đánh, mặc dù mọi người phản ông, tình thế hết sức nguy ngập, nhưng không chút nào nao núng, bây giờ chính mình lỡ tay làm nên một chuyện không thể nào sửa chữa được, càng thấy cô đơn, thật không còn muốn sống trên đời nữa. “A Châu chết thay cho cha nàng rồi, ta không thể nào đi kiếm y báo thù được nữa. Ta còn gì nữa để làm đây? Đại nghiệp của Cái Bang, hùng tâm tráng chí năm nào ta cũng chẳng còn phải nghĩ đến. Ta là người Khất Đan, có hùng tâm đại nghiệp gì đâu?”.

Ông đi ra nhà sau, thấy góc tường có để một cái cuốc, trồng hoa nghĩ thầm: “Thôi ta ở đây mãi mãi với A Châu chăng?’. Tay trái ôm A Châu,

không muốn rời nàng chút nào, tay phải cầm chiếc cuốc đi ra ngoài rừng

trúc, đào một cái hố rồi, đào thêm cái nữa, hai đống đất vun lại thành một, nghĩ bụng: “Cha mẹ nàng quay lại thể nào cũng đào lên xem thế nào. Ta phải làm mộ bia mới được”. Ông chặt một khúc tre, chẻ ra làm hai, xuống nhà bếp lấy dao đẽo cho thẳng đem qua bên sương phòng phía tây. Tiêu Phong thấy trên bàn có để bút nghiên giấy mực, bèn để A Châu nằm ngang trên gối, chấm mực cầm bút lên tại một thanh tre viết:

Khất Đan mãng phu Tiêu Phong chi mộ

Ông lại cầm thanh tre kia lên, trầm ngâm tự hỏi: “Mình phải viết gì đây? Tiêu môn Đoàn phu nhân chi mộ ư? Tuy nàng với ta có ước định phu thê nhưng chưa thành hôn, đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, gọi nàng là “phu nhân” không khỏi khinh mạn hay sao?”.

Trong bụng không sao quyết định được, ngửng đầu suy nghĩ một hồi, mắt nhìn vào mấy hàng chữ tại một bức bút thiếp trên tường, thuận mắt đọc xuống:

Hàm tu ỷ túy bất thành ca, tiêm thủ yểm hương la.

Ôi hoa ánh chúc, thâu truyền thâm ý, tửu tứ nhập hoành ba.

Khán chu thành bích tâm mê loạn, phiên mạch mạch, liễm song nga.

Tương kiến thời hi cách biệt đa.

Hựu xuân tận, nại sầu hà?

Tay thon che mặt, lụa thơm hơi.

Chếnh choáng đê mê, luống cạn lời.

Miên man tựa ngọc, đèn thêm rạng,

Dặt dìu chén cạn, sóng đùa khơi.

Say men ngơ ngẩn, xanh thành đỏ,

Đắm sắc chau mày, biếng lả lơi.

Gặp nhau một chốc, xa đằng đẵng,

Chớ để xuân tàn, hãy tận vui.

Ông không được học nhiều, chữ nghĩa chẳng bao nhiêu nhưng bài từ này không mấy khó nên cũng hiểu được đây là một bài thơ tả tình yêu trai gái, đại khái nói chuyện uống rượu xướng ca, gặp nhau chẳng bao nhiêu mà xa nhau thì thật nhiều nên trong lòng buồn bã. Ông bâng khuâng nhìn bức thiếp, cũng chẳng có lòng dạ nào nghĩ bài từ nói cái gì, chỉ thuận miệng đọc hết thấy bên dưới viết hai hàng chữ:

Thư thiếu niên du phó Trúc muội bổ bích.

Tinh mâu trúc yêu tương bạn, bất tri thiên địa tuế nguyệt dã.

Đại Lý Đoàn nhị túy hậu cuồng đồ. 

Tiêu Phong lẩm bẩm:

- Y quả là khoái hoạt.

Đoàn nhị nước Đại Lý, ồ, thì ra đây là của Đoàn Chính Thuần viết tặng tình nhân Nguyễn Tinh Trúc. Chuyện gió trăng của cha mẹ A Châu, sao dám ngang nhiên treo ở đây, không biết xấu hay sao? À, đúng rồi, căn phòng này thuộc hạ Đoàn Chính Thuần không được vào. Ông không để ý đến bức thiếp đó nữa, nghĩ thầm: “Mộ bia của A Châu ta viết gì đây?”. Ông tự biết tài nghệ chữ nghĩa của mình quá ư nông cạn, càng nghĩ càng tắc tị nên đành viết bốn chữ “A Châu chi mộ”. Tiêu Phong bỏ bút xuống, đứng lên, định đem trúc bài cắm trước mộ, chôn cất cho A Châu xong xuôi rồi sẽ tự sát. Ông quay lại ôm xác A Châu, mắt lại liếc lên bức viết trên tường một lần nữa, đột nhiên nhảy dựng lên kêu “Ối chao”, lớn tiếng nói:

- Không đúng! Không đúng! Chuyện này xem ra không đúng!

Ông bước tới gần hơn, xem lại mấy hàng chữ trên bức thiếp, thấy nét bút tròn trịa đầy đặn, tuấn nhã tiêu sái. Ông tưởng như có tiếng từ đâu oang oang vọng tới:

- Phong thư kia, phong thư "đàn anh đứng đầu" viết gửi Uông bang chủ chữ viết đâu có giống thế này, hoàn toàn không giống.

datlucky_way

23-07-2009 02:42 PM

Hồi 23(b) : TÁI THƯỢNG NGƯU DƯƠNG KHÔNG HỨA ƯỚC 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Tưởng đâu nên vợ nên chồng,

Đôi ta rong ruổi một vùng thảo nguyên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Để ai ôm hận nhân duyên một đời.

*

* *

Ông chỉ võ vẽ biết dăm chữ, đúng ra không thể biện nhận bút tích, thế

nhưng bức thiếp này nét chữ rắn rỏi vuông vắn, cách quãng đều đặn, còn

bức thư kia chữ xéo xéo xiên xiên, nét chữ gầy guộc, chỉ thoáng qua cũng

biết ngay là do con nhà võ trên giang hồ chấp bút.

Hai bên sai biệt quá xa, ai cũng phải nhìn ra được. Ông trợn tròn đôi mắt, chăm chăm dán vào bức thiếp tưởng như muốn tìm trong những hàng chữ kia cái đại bí mật, đại âm mưu ở đằng sau. Đầu óc ông quay cuồng, trước mắt chỉ thấy lá thư trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích đêm hôm đó, phong thư mà "đàn anh đứng đầu" đã viết cho Uông bang chủ.

Lá thư đó Trí Quang đại sư đã xé khúc đuôi, nơi có thự danh nuốt mất rồi khiến không còn làm sao biết được ai là người viết, thế nhưng nét chữ

trên tờ thư, đã in sâu vào đầu óc ông thật rõ ràng. Người viết lá thư đó, với kẻ xưng là “Đại Lý Đoàn nhị” trên bức thiếp này không thể cùng là

một người, điều đó thật chắc chắn không còn ngờ gì nữa.

Hay là phong thư đó "đàn anh đứng đầu" nhờ ai viết giùm? Ông chỉ suy nghĩ một chút thấy không hợp lý. Thư pháp Đoàn Chính Thuần đẹp như thế này thể nào chẳng tự mình viết thư, bàn luận chuyện lớn như vậy gửi cho Uông bang chủ lẽ nào lại nhờ người viết thay? Còn viết một bài từ phong lưu lãng mạn cho tình nhân cũng không thể nào bảo ai làm giùm

cho được.

Ông càng nghĩ càng nghi nan, luôn luôn tự hỏi: “Hay là "đàn anh đứng

đầu" không phải Đoàn Chính Thuần? Hoặc giả bức thiếp này không phải

Đoàn Chính Thuần viết? Không thể được! Không thể được! Nếu chẳng

phải Đoàn Chính Thuần thì còn ai là Đại Lý Đoàn nhị viết một bài từ đầy

vẻ gió trăng treo ở đây? Không lẽ Mã phu nhân nói láo? Sao lại thế được,

bà ta có quen biết gì với Đoàn Chính Thuần đâu, người nơi trời bắc, kẻ ở

cõi nam, một kẻ là sương phụ của thảo mãng thất phu, một người là vương công quí tộc, làm gì có thù oán mà cố ý nói điều giả dối đánh lừa mình”.

Từ lúc ông biết được "đàn anh đứng đầu" là Đoàn Chính Thuần rồi, bao nhiêu nỗi nghi vấn đều hết sạch, ngày đêm chỉ nghĩ đến chuyện báo thù, bây giờ nhìn thấy bức thiếp này, bao nhiêu ngờ vực lại cuồn cuộn nổi lên: “Nếu phong thư kia không phải Đoàn Chính Thuần viết thì "đàn anhđứng đầu" không phải là y. Nếu không phải là y, vậy thì là ai? Vì cớ gì Mã phu nhân lại nói láo đánh lừa mình, bên trong còn có âm mưu ngụy kế gì nữa? Ta đánh chết A Châu, vốn là ngộ sát, A Châu chịu chết vì ta cũng là cam tâm tình nguyện. Như thế, nỗi oan của nàng không được giãi bày, nay lại thêm một tầng oan nghiệt nữa. Tại sao ta không nhìn thấy bức thiếp này từ trước? Chỉ vì bức thiếp này treo trong sương phòng, làm sao ta thấy được? Nếu như ta không bao giờ thấy, chết theo A Châu thì thế là xong, vì sao không sớm, không muộn ngay trước khi chết lại trông thấy?”.

Ánh tịch dương khuất sau dãy núi, những tia nắng cuối cùng từ từ rời khỏi bàn chân ông, bỗng nghe thấy nơi có hai người từ bờ hồ Tiểu Kính đi về khu rừng trúc. Hai người đó còn rất xa, ông ngưng thần nghe ngóng, nhận ra đó là hai người đàn bà, nghĩ thầm: “Chắc hẳn là A Tử và mẹ cô ta đến đây. Ôi, ta phải hỏi Đoàn phu nhân cho rõ ràng, bức thiếp này có phải Đoàn Chính Thuần viết không? Bà ta thể nào cũng hận ta làm chết A Châu, muốn giết ta, ta... ta...”. Ông vốn có ý định sẽ không chống trả

nhưng lại nghĩ ngay: “Nếu quả A Châu chết oan, kẻ giết cha ta, mẹ ta là

người khác thì tên đại ác này lại nợ thêm một món huyết cừu, thêm một

mạng người nữa. A Châu chẳng phải là y giết chết thì còn ai? Ta không

báo thù này lẽ nào lại đành chịu chết?”.

Chỉ thấy hai người đàn bà kia đi thẳng vào khu rừng trúc càng lúc càng gần. Thêm một lúc nữa, tiếng nói chuyện cũng đã nghe thấy, một người nói:

- Phải cẩn thận, con tiện nhân này võ công tuy không cao nhưng lắm mưu nhiều kế.

Lại tiếng đàn bà còn trẻ nói:

- Mụ ta chỉ có một mình, mẹ con mình thể nào cũng thanh toán cho xong.

Người đàn bà lớn tuổi hơn nói:

- Đừng nói nữa, vừa gặp nó là hạ sát thủ ngay, không chần chờ gì cả.

Cô gái đáp:

- Thế lỡ cha con biết được...

Người đàn bà lớn tuổi hừ một tiếng:

- Ngươi còn nghĩ đến cha ngươi sao?

Tiếp đó không nghe thấy tiếng nói chuyện nữa chỉ nghe hai người rón rén đi vào, một người đi về hướng cửa chính, còn một người thì lẻn ra sau nhà hẳn là định tiền hậu giáp công.

Tiêu Phong hơi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Nghe giọng thì hai người này không phải Nguyễn Tinh Trúc và A Tử nhưng cũng là hai mẹ con đến đây giết người đàn bà ở một mình, ồ, chắc là định giết Nguyễn Tinh Trúc nhưng cha cô gái lại không tán thành việc này”. Ý tưởng đó chạy vụt qua

đầu ông nhưng chẳng để ý tới nữa lại đứng ngơ ngẩn xuất thần.

Một lát sau, nghe kẹt một tiếng, ai đó đã đẩy cửa tiến vào. Tiêu Phong

không thèm ngẩng lên, thấy một đôi bàn chân nhỏ nhắn, đi giày đen đến

trước mặt ông, còn cách độ bốn thước thì ngừng lại. Kế đó cửa sổ bên

hông mở ra, một người khác nhảy vào, đứng bên cạnh ông, nghe tiếng

cũng biết là võ công không cao cường gì.

Tiêu Phong vẫn không nhúc nhích, hai tay ôm A Châu, cúi đầu suy nghĩ: “Thế thì "đàn anh đứng đầu" có phải là Đoàn Chính Thuần không? Trong ngôn ngữ của Trí Quang đại sư có điểm gì quái lạ? Từ trưởng lão có ngụy kế gì chăng? Lời của Mã phu nhân có điểm gì sơ hở?”. Trong đầu ông những mối suy tư dâng trào như sóng biển, tâm thần loạn chuyển, rối như tơ vò.

Chỉ nghe người đàn bà trẻ hơn nói:

- Ồ, mi là ai? Con tiện nhân họ Nguyễn đâu rồi?

Giọng nói đã lạnh lẽo, giọng điệu lại vô lễ cùng cực. Tiêu Phong chẳng thèm để ý, tiếp tục suy nghĩ về những điều hồ nghi. Người đàn bà lớn tuổi hơn hỏi:

- Tôn giá và con tiện tì họ Nguyễn kia liên hệ thế nào? Người con gái này là ai? Mau nói cho ta nghe.

Tiêu Phong vẫn không ngẩng lên, người đàn bà nhỏ tuổi liền sẵng giọng:

- Ngươi điếc hay câm hả? Sao không trả lời?

Giọng nói cô ta đầy vẻ tức tối. Tiêu Phong vẫn mặc kệ, vẫn ngồi sừng

sững như tượng đá. Cô gái nhỏ tuổi dậm chân, trường kiếm trong tay rung

một cái, mũi kiếm phát tiếng u u, đâm xéo vào huyệt Thái Dương của

Tiêu Phong, chỉ còn cách vài tấc, quát lên:

- Ngươi còn giả điếc, để ta cho ngươi nếm mùi cho biết.

Tiêu Phong không quan tâm gì đến nguy hiểm xảy ra bên ngoài, vẫn tiếp tục suy nghĩ về những vấn đề chưa có câu trả lời kia. Cô gái vung tay

đâm trường kiếm ra sát vào cổ ông chỉ cách độ một tấc. Tiêu Phong nghe

được đường đi của bạch kiếm, vẫn làm như không biết không tránh né.

Hai người đàn bà cực kỳ kinh ngạc, người trẻ hơn lại nói:

- Mẹ ơi, không lẽ người này bị khùng? Cô gái y ôm trên tay dường như chết rồi.

Người đàn bà đáp:

- Chắc y giả vờ ngây ngô đó. Ở trong nhà con tiện nhân này có cái gì tốt lành đâu. Chém cho y một dao đã rồi tra khảo sau.

Bà ta chưa dứt lời, đao trong tay đã nhắm ngay đầu vai Tiêu Phong chém xuống. Tiêu Phong đợi cho lưỡi đao còn cách mình chừng nửa thước, tay phải phóng vụt tới hai ngón tay kẹp luôn vào sống đao, thanh đao liền bị giữ ngay lại không chém xuống được nữa. Ngón tay ông búng ra, cán đao liền đập ngay vào yếu huyệt trên vai người đàn bà, lập tức bà ta không còn cử động gì được nữa, lại thuận tay rung một cái, nội lực truyền vào cắc một tiếng, thanh cương đao đã gãy ra làm hai. Ông tiện tay vứt luôn xuống đất, trước sau vẫn không ngẩng lên xem bà ta là ai. Cô gái thấy mẹ bị chế ngự, kinh hoảng nhảy ngược về sau, vụt vụt liên tiếp, bảy mũi đoản tiễn liên châu bắn vào Tiêu Phong. Tiêu Phong cầm thanh đao gãy gạt cả ra, tay lại vung lên, mảnh đao gãy phóng tới nghe bịch một tiếng, cán đao đập vào hông cô ta. Cô gái kia kêu lên một tiếng, huyệt đạo đã bị trúng rồi, người cũng lại đứng sừng sững như trời trồng.

Người đàn bà kinh hoảng hỏi:

- Con có sao không?

Cô gái đáp:

- Hông con đau lắm nhưng không bị thương. Mẹ ơi, con bị điểm huyệt Kinh Môn.

Người đàn bà đáp:

- Còn ta thì bị điểm huyệt Trung Phủ. Người... người này võ công cao cường quá.

Cô gái nói:

- Mẹ, người này là ai thế? Sao y không đứng lên mà đã chế ngự được mẹ con mình, xem chừng y có tà thuật.

Người đàn bà không dám nổi nóng nữa, đổi giọng dịu dàng quay sang nói với Tiêu Phong:

- Mẹ con chúng tôi và tôn giá không thù không oán, vừa rồi ra tay ngang ngược, đắc tội với ngài, quả thật chúng tôi có lỗi. Mong ngài khoan hồng đại lượng, giơ cao đánh sẽ cho.

Cô gái lập tức rối rít:

- Không, không đâu! Mình thua thì chịu thua, việc gì phải van xin ai?

Ngươi có giỏi thì một đao giết cô nương đi, ta chẳng cần đâu.

Tiêu Phong loáng thoáng nghe hai mẹ con nói, biết được người mẹ xin tha, còn cô con gái thật là ngang tàng nhưng nói những gì thì ông không

để vào tai. Lúc này trong nhà đã tối, một hồi nữa thì bóng đêm đã hoàn

toàn bao phủ. Tiêu Phong trước sau vẫn bồng A Châu ngồi tại đó không

cử động. Bình thời đầu óc ông cực kỳ linh hoạt, mỗi khi gặp chuện nghi

nan, quyết đoán hết sức nhanh nhẹn nếu như việc không rõ ràng lập tức

gác qua một bên, tạm thời không nghĩ tới chứ không do dự trì nghi. Thế

nhưng hôm nay lỡ tay đánh chết A Châu, trong lòng đau xót, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, hoang mang rối loạn không còn hồn vía, chẳng khác gì người mất trí.

Người đàn bà nói nhỏ:

- Con thử vận khí tới huyệt Hoàn Khiêu xem sao, không chừng có thể đả thông kinh mạch giải được huyệt đạo bị đóng đó.

Cô gái đáp:

- Con đã làm rồi, chẳng thấy ăn thua...

Người đàn bà đột nhiên nói:

- Này, có người đến đó.

Chỉ nghe thấy tiếng chân loạt soạt, ai đó đã đẩy cửa vào, cũng lại là một người đàn bà nữa. Người kia dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh mấy tiếng, châm vào bùi nhùi đốt chiếc đèn dầu lên, quay lại đột nhiên thấy Tiêu Phong, A Châu và hai người đàn bà kia, không khỏi kinh ngạc “A” lên một tiếng chân tay bủn rủn, đồ đánh lửa rơi xuống nghe loảng xoảng.

Người đàn bà tới trước cũng hốt hoảng kêu lên:

- Nguyễn Tinh Trúc, thì ra là ngươi!

Người vừa mới vào chính là Nguyễn Tinh Trúc. Bà ta quay đầu lại thấy đó là một thiếu phụ trung niên, bên cạnh lại có một thiếu nữ mặc toàn đồ đen, cả hai đều khá đẹp, cô gái lại càng xinh xắn nhưng chưa từng gặp bao giờ. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Đúng đó, ta họ Nguyễn, hai vị là ai?

Người đàn bà trung niên không trả lời, mặt hầm hầm đầy vẻ tức tối. Nguyễn Tinh Trúc quay lại nói với Tiêu Phong:

- Kiều bang chủ, ông đánh chết con gái tôi rồi, lại còn tới đây làm chi? Tội nghiệp... tội nghiệp cho con ta!

Tới đây bà ta khóc òa lên, xông đến bên cạnh xác A Châu. Tiêu Phong vẫn ngồi ngẩn ngơ nơi đó, một lúc lâu sau mới nói:

- Đoàn phu nhân, ta tội nghiệt thâm trọng, xin bà lấy dao ra giết ta đi.

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Ta có đâm chết ông cũng đâu có cứu đứa con khốn khổ của ta sống lại được. Kiều bang chủ, ông bảo ta và cha của A Châu đã làm một chuyện sai lầm rất đáng hổ thẹn, khiến cho đứa trẻ phải một đời lênh đênh, đến cha mẹ ruột là ai cũng không biết. Ông nói thế cũng đúng, có điều... để cho hả nỗi tức, có giết thì giết Đoàn vương gia, không thì giết tôi cũng được chứ lẽ nào lại giết A Châu?

Giờ phút này đầu óc Tiêu Phong thật là chậm chạp, phải mất một lúc mới thấy bàng hoàng, hỏi lại:

- Chuyện gì mà lại sai lầm rất đáng hổ thẹn?

Nguyễn Tinh Trúc khóc đáp:

- Ông biết hai năm rõ mười rồi còn hỏi ta làm chi? A Châu... A Châu và A Tử đều là con tôi, tôi không dám về nhà, nên phải đem cho người ta.

Tiêu Phong run rẩy nói:

- Hôm qua ta hỏi Đoàn Chính Thuần, có phải đã làm một chuyện sai lầm đáng hổ thẹn, chính ông ta đã nhận như thế. Chuyện xấu hổ đó chỉ là

việc đem A Châu... và A Tử cho người khác ư?

Nguyễn Tinh Trúc hầm hầm đáp:

- Chuyện đau lòng như thế ông thấy còn chưa đủ hay sao? Ông nghĩ ta là thứ đàn bà hư đốn đến mực nào mà chỉ chuyên làm chuyện xấu xa?

Tiêu Phong nói:

- Đoàn Chính Thuần hôm qua còn nói là “May trời còn thương, hôm nay cho ta gặp lại được... được đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ”. Y nói hôm nay may được gặp lại đứa trẻ không cha mẹ là nói về A Tử, không phải nói... không phải nói về ta hay sao?

Nguyễn Tinh Trúc giận dữ đáp:

- Anh ấy nói về ngươi làm gì? Ngươi đâu có phải là đứa trẻ anh ấy bỏ rơi cho người ta nuôi đâu? Ngươi ... ngươi nói năng láo lếu gì thế? Ta đâu có sinh ra cái loại súc sinh như ngươi?

Bà ta hận Tiêu Phong cực độ, nhưng lại sợ võ công ông ta ghê gớm nên không dám ra tay chỉ chửi cho sướng miệng. Tiêu Phong nói:

- Thế ta hỏi hỏi y tại sao đến giờ phút này vẫn điều một điều hai tiếp tục làm chuyện ác y lại thừa nhận đức hạnh khiếm khuyết, làm điều không ngay thẳng?

Khuôn mặt đầy nước mắt của Nguyễn Tinh Trúc bỗng dưng ửng đỏ nói:

- Anh ta sinh tính phong lưu, trước nay vẫn thế. Anh ấy yêu một người rồi yêu hai người, rồi ba, rồi bốn người, hết người này đến người khác, thì... thì việc gì đến ngươi mà ngươi phải rỗi hơi xen vào?

Tiêu Phong lẩm bẩm:

- Sai rồi! Sai rồi! Sai bét rồi!

Ông lặng người đi một hồi, đột nhiên giơ tay ra, bốp bốp bốp bốp, đánh mình thật mạnh bốn cái tát. Nguyễn Tinh Trúc hoảng hồn, nhảy bật lên, lùi lại hai bước, thấy Tiêu Phong vẫn hết sức tự đánh vào mình, chưởng nào chưởng nấy cực mạnh mẽ, chỉ giây lát mặt mày đã sưng vù. Lại nghe một tiếng “Ồ” nữa, thêm một người đã bước vào kêu lên:

- Mẹ đã lấy được bức thiếp...

Chính là A Tử. Nàng chưa nói dứt câu, bỗng thấy trong nhà có người, lại thấy Tiêu Phong tay trái ôm xác A Châu, tay phải liên tiếp đánh vào mình, không khỏi kinh ngạc đến sững sờ.

Mặt Tiêu Phong sưng lên rồi vỡ ra, lập tức mặt mày tay chân đầy những máu là máu, văng tung tóe, vãi cả lên tường, lên bàn, lên ghế... chỗ nào cũng lấm tấm đỏ tươi, cả thân thể A Châu lẫn bức thiếp trên vách, cũng đầy những điểm hồng. Nguyễn Tinh Trúc không nỡ nhìn khung cảnh ghê rợn đó, hay tay bưng mặt nhưng tai vẫn nghe những tiếng bốp bốp ròn tan, nhịn không nổi kêu lên:

- Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa!

A Tử kêu ré lên:

- Chao ôi! Ngươi làm hỏng chữ cha ta viết rồi, ta bắt đền đó!

Cô ta nhảy lên bàn gỡ bức thiếp treo trên tường xuống. Thì ra hai mẹ con cô ta quay trở lại chỉ cốt để đem bức bút thiếp đi. Tiêu Phong ngạc nhiên, ngừng tay không đánh tiếp, hỏi lại:

- Thế thì “Đại Lý Đoàn nhị” quả thực là Đoàn Chính Thuần đấy sao?

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Ngoài anh ta ra thì còn ai vào đây nữa?

Bà ta nhắc đến Đoàn Chính Thuần, khuôn mặt lộ vẻ thâm tình lại thêm vài phần hãnh diện. Mấy câu đó đã giải hết những nghi vấn trong đầu Tiêu Phong: bức thiếp này quả đúng là do tay Đoàn Chính Thuần viết, phong thư gửi Uông bang chủ kia không phải là y, "đàn anh đứng đầu" hiển nhiên không phải Đoàn Chính Thuần. Trong đầu ông liền nổi lên một ý niệm: “Mã phu nhân đổ tiếng oan cho Đoàn Chính Thuần, bên trong hẳn có ẩn tình thật ghê gớm. Nếu ta cởi được mối thắt này thì sẽ cạn ao bèo đến đất, mọi việc lộ ra ngay”. Ông nghĩ như thế lập tức không còn ý định tự tận, mới đây tự hành hạ mình, tuy máu me đầy mặt nhưng hối hận bi thương trong lòng cũng có chỗ phát tiết, bèn ôm xác A Châu đứng lên.

A Tử lại thấy hai mảnh trúc bài ông viết để trên bàn, cười nói:

- Thảo nào bên ngoài có hai cái hố, ta đang ngạc nhiên không hiểu vì sao, thì ra ngươi định đồng tử hợp táng với chị ta, chậc chậc, quả thực đa tình quá lắm!

Tiêu Phong nói:

- Ta trúng phải độc kế của gian nhân làm chết A Châu, bây giờ muốn đi tìm kẻ gian đó để báo thù cho A Châu đã, sau đó sẽ theo nàng xuống suối vàng.

A Tử hỏi:

- Kẻ gian đó là ai thế?

Tiêu Phong nói:

- Giờ phút này ta chưa có manh mối chi cả, còn phải đi tìm.

Nói xong ôm A Châu, mạnh dạn đi ra. A Tử cười nói:

- Thế ngươi ôm xác chị ta đi tìm kẻ gian ư?

Tiêu Phong ngơ ngẩn, chưa biết tính sao, nghĩ đến chuyện ôm xác A Châu đi hàng nghìn dặm, đường xa diệu vợi, quả có điều không ổn, nhưng thực không nỡ lòng nào mà rời xa nàng. Ông bần thần nhìn mặt A Châu, nước mắt pha lẫn máu mê trên mặt nhỏ xuống, thành những giọt nước hồng, rơi trên khuôn mặt trắng bệch của A Châu, quả đúng là huyết lệ đầm đìa.

Nguyễn Tinh Trúc thấy tình trạng thương tâm của ông, bao nhiêu lòng thù ghét đều tiêu giải, nói:

- Kiều bang chủ, việc đã lỡ rồi, không còn cách gì cứu chữa được, ông... ông...

Bà ta vốn dĩ định khuyên Tiêu Phong bớt bi thương, nhưng chính mình cũng nhịn không nổi khóc òa lên, nức nở:

- Cũng tại ta mà ra, cũng tại ta chẳng ra gì... con ta ngoan ngoãn thế sao lại đem cho người khác?

Thiếu nữ bị Tiêu Phong điểm huyệt đứng kia bỗng xen vào:

- Đương nhiên là tại bà không ra gì! Vợ chồng người ta đang vui vầy, sao bà lại đến phá hại gia cang, chia uyên rẽ thúy?

Nguyễn Tinh Trúc ngẩng đầu lên, hỏi thiếu nữ kia:

- Sao cô nương lại nói thế? Cô là ai?

Thiếu nữ đáp:

- Bà là hồ ly tinh, làm mẹ tôi khốn khổ, làm cả tôi... làm cả tôi...

A Tử vung tay toan xông tới tát vào mặt cô gái, cô gái kia không cử động được, trước mắt thấy không thể nào tránh né. Nguyễn Tinh Trúc giơ tay lên gạt tay con ra nói:

- A Tử, không được làm càn.

Bà ta quay sang nhìn người đàn bà trung niên dò hỏi, lại nhìn cương đao trong tay bà ta, dưới đất một thanh đao gãy, lập tức hiểu ra nói:

- Phải rồi, bà sử dụng song đao, bà... bà... là Tu La Đao Tần... Tần Hồng Miên... Tần tỉ tỉ.

Người đàn bà đó chính là một trong những tình nhân của Đoàn Chính

Thuần Tu La Đao Tần Hồng Miên, còn cô gái áo đen kia là con gái bà ta

Mộc Uyển Thanh. Tần Hồng Miên không trách Đoàn Chính Thuần bẻ lá

vin cành, đến đâu cũng ong kia bướm nọ, lại thù ghét những đàn bà khác

hồ mị yêu dâm, chiếm đoạt tình lang của bà ta, thành thử khi được sư muội Cam Bảo Bảo cho hay tin rồi, liền cùng con gái Mộc Uyển Thanh đi

hành thích vợ Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng và một người tình

nhân khác, kết quả chẳng thành công. Đến lúc nghe Đoàn Chính Thuần

còn một người yêu khác là Nguyễn Tinh Trúc, ẩn cư nơi Phương Trúc Lâm bên cạnh Tiểu Kính Hồ nên lại cùng con gái đến tìm để giết.

Tần Hồng Miên thấy Nguyễn Tinh Trúc nhận ra mình, quát lên:

- Đúng đó, ta là Tần Hồng Miên, ai cho con tiện nhân kia gọi ta là tỉ tỉ?

Nguyễn Tinh Trúc chưa đoán ra Tần Hồng Miên đến đây có chuyện gì, lại sợ kẻ tình địch này gặp lại Đoàn Chính Thuần rồi “bén duyên tình cũ” nên cười nói:

- Phải rồi, ta nói sai, ngươi so với ta còn ít tuổi hơn nhiều, mặt mày xinh đẹp như thế, thảo nào Đoàn lang mê mẩn. Ngươi là muội tử của ta, không phải tỉ tỉ. Tần gia muội tử, Đoàn lang ngày nào cũng nhớ nhung ngươi, ghi lòng tạc dạ, ta thật thèm cái phúc phận của muội tử.

Tần Hồng Miên nghe thấy Nguyễn Tinh Trúc khen mình tuổi trẻ, xinh xắn, trong bụng lửa giận cũng đã bớt được ba phần, đến khi nghe Đoàn

Chính Thuần ngày ngày thương nhớ mình, nộ khí lại giảm thêm ba thành

nữa, bèn nói:

- Ai thèm nghe ngươi nói ngọt nói nhạt cốt để cho ta mát lòng mát dạ.

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Vị cô nương này, có phải là lệnh ái thiên kim chăng? Chậc chậc chậc, sao mà đẹp thế, không lẽ Tần gia muội tử sinh được...

Tiêu Phong thấy hai người đàn bà lải nhải chuyện phong lưu hoa nguyệt, không muốn nghe thêm, ông vốn là người cưa đứt đục suốt, chuyện đau lòng, nát ruột đã qua, lập tức nghĩ ngay đến việc làm sao giải quyết được chuyện lớn.

Ông ôm thi thể A Châu lên đi đến cái huyệt đã đào sẵn bỏ xuống, hai bàn tay to lớn liền cào đất, từ từ rắc lên mình nàng, chỉ chừa mặt không đổ xuống. Hai mắt ông chăm chăm nhìn xác A Châu, chỉ còn vài nắm đất nữa là từ nay không bao giờ còn thấy nàng được nữa. Tai ông mơ mơ hồ hồ còn nghe nàng ước định ra ngoài biên tái cưỡi ngựa săn thú, thả cừu chăn bò làm bạn với mình. Chưa đầy một ngày trước hai người còn nói với nhau, khi thì thâm tình, khi thì cười cợt, lúc chuyện đứng đắn, lúc chuyện lăng nhăng nhưng từ nay sẽ không bao giờ còn được nghe nữa. Giấc mơ cùng nhau chăn bò, thả cừu ở ngoài quan ngoại nay trở thành một trường huyễn mộng. Tiêu Phong quì bên cạnh huyệt một hồi lâu, không nỡ lòng nào đổ đất xuống mặt A Châu. Đột nhiên ông đứng bật dậy hú lên một tiếng dài, không nhìn A Châu nữa hai tay cùng đẩy, bao nhiêu đất ở bên cạnh huyệt phủ xuống lấp lên rồi quay phắt lại đi vào sương phòng. Đã thấy Nguyễn Tinh Trúc và Tần Hồng Miên hai người chị chị em em nói năng ríu rít. Nguyễn Tinh Trúc tuy vừa mới phải cảnh đau lòng nhưng miệng vẫn trơn như mỡ bốc Tần Hồng Miên khiến bà ta hết sức vui lòng, bao nhiêu thù hằn đều tiêu giải. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Kiều bang chủ, vị muội muội này đắc tội, chẳng qua chỉ là vô tâm, xin ông giải huyệt cho hai người.

Nguyễn Tinh Trúc là mẹ A Châu, lời bà ta nói Tiêu Phong cũng đã có mấy phần chiều theo, huống chi ông vốn đã có ý tha cho họ rồi nên lập

tức đến gần, giơ tay vỗ lên vai Tần Hồng Miên và Mộc Uyển Thanh một

cái. Hai người chỉ thấy một luồng nhiệt khí từ đầu vai chạy thẳng xuống

huyệt đạo, tứ chi lập tức cử động bình thường. Hai mẹ con đưa mắt nhìn

nhau, thấy công lực Tiêu Phong thâm hậu dường ấy, trong lòng không

khỏi bội phục.

Tiêu Phong quay sang A Tử nói:

- A Tử muội tử, bức thiếp của cha cô cho ta coi một chút được không?

A Tử đáp:

- Tôi không thích ông gọi tôi là muội tử nọ, muội tử kia.

Miệng thì nói thế nhưng không dám cưỡng lại, vội vàng đưa cuộn thiếp cho ông ta. Tiêu Phong mở ra, xem kỹ những chữ Đoàn Chính Thuần viết mấy lượt. Nguyễn Tinh Trúc mặt đỏ bừng, sượng sùng nói:

- Cái bức thiếp này có gì đâu mà coi kỹ thế?

Tiêu Phong hỏi lại:

- Đoàn vương gia bây giờ đang ở đâu?

Nguyễn Tinh Trúc mặt liền biến sắc, lùi lại hai bước, ấp úng nói:

- Đừng... đừng... ngươi đừng đi kiếm anh ấy nữa.

Tiêu Phong nói:

- Tôi không kiếm ông ta để gây chuyện mà chỉ muốn hỏi vài chuyện thôi.

Nguyễn Tinh Trúc nào dám tin, nói:

- Ngươi đã lỡ tay đánh chết A Châu rồi, đừng đi kiếm anh ấy làm gì nữa.

Tiêu Phong liệu rằng bà ta chẳng thể nào nói ra đâu, cũng không hỏi thêm, cuộn bức thiếp lại trao trả A Tử nói:

- A Châu đã có di ngôn nhờ ta trông nom cho em nàng. Đoàn phu nhân, nếu sau này A Tử gặp chuyện khó khăn, nếu như Tiêu Phong có thể làm được thì cứ nói cho biết nhất quyết không chối từ.

Nguyễn Tinh Trúc mừng quá, nghĩ bụng: “A Tử có được một người đại

bản lãnh như thế làm chỗ dựa, một đời ắt phùng hung hóa cát, ngộ nạn

thành tường”. Bà ta liền đáp:

- Thế thì xin đa tạ. A Tử, mau mau tạ ơn Kiều đại ca đi.

Bà ta đổi ngay “Kiều bang chủ” thành ‘Kiều đại ca” để cho A Tử và ông ta thêm phần gần gũi. Thế nhưng A Tử chỉ bĩu môi, mặt nhơn nhơn nói:

- Con có việc gì khó khăn mà cần y giúp đỡ? Con đã có sư phụ vô địch thiên hạ rồi, lại còn bao nhiêu sư ca, sợ gì ai hiếp đáp? Y là thứ tượng đất qua sông, ốc không mang nổi mình ốc, chuyện mình còn chưa đâu vào đâu, nói gì giúp con? Hứ, càng có y càng thêm hỏng chuyện thì có?

Cô ta mồm năm miệng mười, nói đâu ra đấy, Nguyễn Tinh Trúc mấy lần đưa mắt ngăn lại nhưng A Tử làm như không trông thấy. Nguyễn Tinh

Trúc dậm chân nói:

- Hừm, thứ trẻ con, nói năng tầm xàm chẳng biết trên dưới gì cả, Kiều bang chủ, xin ông nghĩ đến A Châu, đừng để bụng làm gì!

Tiêu Phong đáp:

- Tại hạ họ Tiêu, không phải họ Kiều.

A Tử chen vào:

- Mẹ thấy chưa, người này đến họ gì cũng còn chưa tỏ tường, quả đúng là đần độn...

Nguyễn Tinh Trúc quát lớn:

- A Tử!

Tiêu Phong chắp tay chào nói:

- Thôi xin từ biệt.

Ông quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:

- Đoàn cô nương, thứ ám khí độc địa, đừng dùng vô ích, nếu gặp phải đối thủ võ công cao cường hơn cô, e rằng chỉ có hại.

Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời, A Tử lại láu táu:

- Tỉ tỉ, đừng nghe y nói bậy nói bạ, ám khí này cùng lắm không trúng đối phương, làm gì có hại được?

Tiêu Phong không thèm chấp, xoay mình đi ra, chân vừa bước vào ngạch cửa, tay áo bào bên phải phất một cái, kình phong kêu vút một tiếng, bảy mũi đoản tiễn Mộc Uyển Thanh mới rồi ném vào ông còn nằm dưới đất cùng bay vụt lên, thế nhanh như chớp bắn thẳng vào A Tử. A Tử chỉ lêu được một tiếng ”Ối trời!” nhưng nào tránh kịp? Bảy mũi tên theo đỉnh đầu, cạnh cổ, ngang mình bay sượt qua, nghe lịch bịch cùng cắm cả

vào bức tường phía sau lút đến tận chuôi. Nguyễn Tinh Trúc vội vàng chạy tới ôm lấy A Tử, kinh hoảng kêu lên:

- Tần gia muội tử, mau đem thuốc giải ra đây.

Tần Hồng Miên cũng rối rít:

- Bị thương ở đâu? Bị thương ở đâu?

Mộc Uyển Thanh vội lấy giải dược từ trong túi ra, đến xem vết thương của A Tử. Một lát sau, A Tử mới hơi hoàn hồn nói:

- Không... không trúng con.

Bốn người đàn bà lúc ấy mới cùng nhìn lên bảy mũi đoản tiễn trên tường, ai nấy kinh hãi mặt mày tái mét. Thì ra Tiêu Phong nghĩ đến di ngôn của A Châu nhờ ông chiếu cố cho A Tử nhưng nghe nàng ta nói “Con đã có sư phụ vô địch thiên hạ rồi, lại còn bao nhiêu sư ca, sợ gì ai hiếp đáp?” nên mới dùng tụ phong bắn tên dọa cho A Tử một phen, để nàng biết được trời cao đất dày, khỏi coi trời bằng vung, khinh thường anh hùng hảo hán trong thiên hạ, sau này sẽ gặp chuyện không may.

Ông ta ra khỏi khu rừng trúc, đến bên bờ hồ, tìm một cây to cành lá xum xuê bên cạnh đường, nhảy lên trên đó. Ông muốn kiếm ra Đoàn Chính Thuần để hỏi cho rõ ràng, vì cớ gì Mã phu nhân cố ý hại ông ta, nhưng vì Nguyễn Tinh Trúc không cho biết ông ta đang ở đâu, nên đành phải tự mình ngấm ngầm theo dõi. Chẳng mấy chốc đã thấy bốn người đi ra, hai mẹ con Tần Hồng Miên đi trước, hai mẹ con Nguyễn Tinh Trúc đi sau xem ra vẻ Nguyễn Tinh Trúc tiễn khách về.

Bốn người đi đến cạnh bờ hồ, Tần Hồng Miên nói:

- Nguyễn tỉ tỉ, hai người mình mới gặp mà như quen đã lâu, bao nhiêu hiềm khích cũ bỏ qua hết, khiến cho ta bớt đi được một mối hận lòng. Bây giờ tiểu muội muốn đi kiếm con tiện tì họ Khang, tỉ tỉ có biết nó ở đâu không?

Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại:

- Muội tử đi kiếm mụ ta để làm chi?

Tần Hồng Miên hậm hực đáp:

- Tiểu muội với Đoàn lang đang sống vui vầy bên nhau, chỉ tại con tiện tì hồ ly tinh đó giở trò...

Nguyễn Tinh Trúc ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Con tiện nhân... Khang... Khang Mẫn đó, ôi, thật không biết nó ở đâu. Muội tử nếu tìm thấy y thì chém luôn cho nó thêm vài đao giùm ta.

Tần Hồng Miên đáp:

- Còn phải nói! Chỉ có điều không dễ gì kiếm thấy nó. Thôi được, xin từ biệt, sẽ gặp lại sau. Ôi, nếu tỉ tỉ gặp Đoàn lang...

Nguyễn Tinh Trúc chột dạ, hỏi:

- Thì sao?

Tần Hồng Miên đáp:

- Tỉ tỉ tát cho y hai cái rõ mạnh, một cái là để cho em, một cái là cho con gái em.

Nguyễn Tinh Trúc bật cười nói:

- Ta làm sao mà kiếm cho ra cái gã chết tiệt lòng lang dạ sói ấy được? Nếu muội tử gặp được y, cũng đánh giùm ta hai cái, một cái là thay ta, còn một cái là cho A Tử. Chưa, bợp tai không đủ, phải cho y thêm hai

cái đá nữa. Sinh con ra chẳng ngó ngàng gì đến, để cho mẹ con chúng

mình cô khổ lênh đênh...

Nói đến đây lại sụt sùi. Tần Hồng Miên an ủi:

- Thôi tỉ tỉ đừng đau lòng nữa. Để hai mẹ con em giết được con tiện tì họ Khang rồi sẽ quay lại làm bạn với chị.

Tiêu Phong ngồi trên cây, bao nhiêu chuyện hai người đàn bà nói với nhau đều nghe rõ ràng, nghĩ thầm Đoàn Chính Thuần võ công không phải

dở, đối với bạn bè cũng có nhân có nghĩa, có điều đam mê nữ sắc không

phải là kẻ anh hùng. Chỉ thấy Tần Hồng Miên dắt tay Mộc Uyển Thanh

hành lễ từ biệt mẹ con Nguyễn Tinh Trúc rồi ra đi, Nguyễn Tinh Trúc

cũng cầm tay A Tử trở về khu rừng trúc.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nguyễn Tinh Trúc chắc hẳn đi kiếm Đoàn Chính Thuần, nhưng không muốn cho Tần Hồng Miên đi theo, lúc đầu bà ta bảo là trở lại lấy bức thiếp, Đoàn Chính Thuần chắc đợi ở đâu đó không xa. Ta phải ở đây rình xem sao”.

Bỗng thấy trong lùm cây có tiếng động nhỏ, hai bóng người màu đen rón rén đi ra, chính là mẹ con Tần Hồng Miên đi rồi bây giờ quay trở lại. Nghe thấy Tần Hồng Miên hạ giọng:

- Uyển nhi, sao con sơ xuất đến thế, để mắc lừa người ta một cách dễ

dàng? Dưới gầm giường trong ngọa thất Nguyễn gia tỉ tỉ có một đôi giày

đàn ông, đầu mũi giày có thêu hai chữ bằng vàng, chân trái có một chữ

Sơn, chân phải có một chữ Hà, chính là giày của cha con. Đôi giày còn

mới, gót giày dính bùn chưa khô, chỉ thế cũng biết ngay là cha con ở gần

đâu đó.

Mộc Uyển Thanh nói:

- À, hóa ra cái bà họ Nguyễn đó nói dối mẹ con mình.

Tần Hồng Miên nói:

- Đúng thế, làm sao bà ta dám để cho mình gặp cái anh chàng phụ bạc kia?

Mộc Uyển Thanh cãi lại:

- Cha con đâu có lang tâm, mẹ ơi, mẹ chẳng cần phải kiếm ông ấy làm gì.

Tần Hồng Miên lặng thinh không nói, một hồi sau mới đáp:

- Ta chỉ muốn thấy ông ấy nhưng lại chẳng mong ông ấy gặp ta làm gì. Qua bao nhiêu năm tháng, ông ấy cũng đã già, mà mẹ cũng già rồi còn gì.

Mấy câu đó nghe giọng thật bình thường nhưng bên trong chứa chất đầy vẻ ân tình. Mộc Uyển Thanh đáp:

- Vậy cũng được!

Trong thanh âm đầy vẻ thê lương. Từ khi nàng chia tay cùng Đoàn Dự đến nay, cái lòng nhung nhớ càng ngày càng nhiều nhưng biết rằng không đi đến đâu nên trước mặt mẹ không dám hở ra chút tâm sự gì. Tần Hồng Miên nói:

- Mẹ con mình rình ở đây, chẳng mấy chốc cha con thể nào cũng sẽ đến.

Nói xong vạch đám cỏ cao ẩn thân vào trong đó, Mộc Uyển Thanh cũng bắt chước nấp ở đằng sau gốc cây. Dưới ánh trăng sao, Tiêu Phong thấy khuôn mặt trắng trẻo của Tần Hồng Miên ẩn sắc hồng, hiển nhiên cực kỳ xúc động, nghĩ thầm: “Tình quả là lụy con người, mới ra nông nỗi đó”. Ông chợt nghĩ đến A Châu, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi xót xa. Chẳng bao lâu, trên đường truyền lại tiếng chân người đi nhanh, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này không phải Đoàn Chính Thuần, có lẽ là bộ thuộc của ông ta”. Quả nhiên khi người đó đến gần, nhận ra chính là người vẽ ở trên cầu Chu Đan Thần. Nguyễn Tinh Trúc nghe thấy tiếng chân nhưng không phân biệt được, lại tưởng là Đoàn Chính Thuần nên gọi:

- Đoàn lang, Đoàn lang!

Bà rảo bước chạy ra đón, A Tử lẽo đẽo theo sau mẹ. Chu Đan Thần cúi rạp xuống nói:

- Chúa công sai thuộc hạ đến bẩm báo là người hiện có việc gấp, hôm nay không thể trở về được.

Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại:

- Chuyện gấp gì thế? Bao giờ mới quay về?

Chu Đan Thần đáp:

- Việc này có liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung, dường như đã tìm ra tung tích Mộ Dung công tử. Chúa công vạn lý bắc hành cũng cốt để đi tìm người này. Chúa công có dặn: khi nào đại sự xong xuôi, sẽ quay về bên Tiểu Kính Hồ đoàn tụ, xin phu nhân chẳng phải trông chờ.

Nguyễn Tinh Trúc nước mắt rưng rưng, nghẹn ngào nói:

- Anh ấy lúc nào cũng bảo tức khắc quay lại ngay nhưng lần nào cũng ba năm, năm năm vẫn chưa thấy đâu. Anh ta có dễ gì tới, lại...

Chu Đan Thần hết sức bi phẫn vì việc A Tử làm cho Chử Vạn Lý uất lên mà chết nên khi truyền lại lời của Đoàn Chính Thuần rồi không muốn ở lâu, chỉ hơi khom lưng, quay đầu đi ngay, từ đầu chí cuối không nhìn A Tử đến một lần.

Nguyễn Tinh Trúc đợi y đi xa rồi, nói nhỏ với A Tử:

- Khinh công của con hơn mẹ xa, mau mau theo dõi y, trên đường để lại ký hiệu cho mẹ, ta đi sau.

A Tử lại dẩu môi cười nói:

- Mẹ bảo con đi theo dõi cha thì có gì thưởng cho con nào?

Nguyễn Tinh Trúc đáp:

- Cái gì của mẹ cũng là của con hết, còn gì đâu mà thưởng?

A Tử nói:

- Được rồi, con sẽ viết một chữ “Đoàn” nơi góc tường, rồi vẽ một mũi tên thế là mẹ biết.

Nguyễn Tinh Trúc ôm vai con vui mừng nói:

- Con gái ngoan lắm!

A Tử cười đáp:

- Mẹ mê trai!

Cô ta nhỏm dậy, chạy đuổi theo Chu Đan Thần. Nguyễn Tinh Trúc đứng bên bờ hồ một chốc, lúc đó mới theo đường mòn mà đi. Bà ta đi đã xa, mẹ con Tần Hồng Miên bấy giờ mới hiện thân, giơ tay ra hiệu cho nhau, rón rén đuổi theo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “A Tử đã để lại ký hiệu trên đường, kiếm được Đoàn Chính Thuần thật dễ quá”. Ông đi được mấy bước, thấy ánh trăng soi bóng mình dưới hồ, cô đơn thê lương, trong lòng chua xót, lại muốn quay lại rừng trúc đến nơi mồ A Châu ngồi một lát. Thế nhưng ông chợt nghĩ lại, hào khí bốc lên, tung ra một chưởng, kình phong phóng xuống mặt hồ làm nước tung tóe khắp nơi, bóng dưới nước lập tức tan thành muôn mảnh. Ông hú lên một tiếng rồi rảo bước đuổi theo. Mấy ngày liền như thế, ngày đi đêm nghỉ, uống rượu nhiều mà ăn chẳng bao nhiêu, đến thị trấn nào cũng thấy dưới góc tường có một chữ “Đoàn” A Tử để lại và một mũi tên chỉ hướng. Cũng có khi Nguyễn Tinh Trúc tìm thấy trước xóa đi nhưng vết vẫn còn nhìn ra được. Con đường đi về hướng bắc, trời lạnh dần, hôm đó ra khỏi cửa không lâu chợt trời đổ một trận tuyết lớn. Tiêu Phong đi đến trưa, ngồi lại một quán rượu uống đến mười hai, mười ba bát, chưa đã thèm thì quán đã hết rồi. Ông cụt hứng lập tức bỏ đi một lúc sau đến một thành phố lớn, tới gần hơn liền sửng sốt, thì ra đó chính là Tín Dương. Trên đường ông chỉ lo đi tìm ký hiệu A Tử để lại, lại thêm tâm sự ngổn ngang, cảnh vật chung quanh không để ý gì đến, thành thử quay lại Tín Dương cũng không hay. Ông muốn kiếm Đoàn Chính Thuần quả thực dễ như trở bàn tay, chỉ cần nhanh hơn một chút một bữa nửa ngày thì đã vượt lên trên rồi. Thế nhưng từ khi A Châu chết đi, đầu óc bỗng thấy trống không, chẳng biết làm sao cho hết ngày giờ, trong lòng chỉ nghĩ: “Đuổi kịp Đoàn Chính Thuần để làm gì? Tìm được hung thủ đích thực, trả xong mối thù, rồi sẽ ra sao? Một mình ta trở ra ngoài Nhạn Môn Quan, giữa cơn gió cát săn thú chăn bò, để làm gì?”. Thành thử ông không tính chuyện đuổi cho nhanh. Vào trong thành Tín Dương, thấy dưới chân tường có một chữ “Đoàn” viết bằng than, mũi tên bên cạnh chỉ về hướng tây. Trong đầu ông lại dâng lên một nỗi chua cay, nghĩ đến hôm nào mình cùng A Châu sánh vai đi cùng, đến phía tây thành Tín Dương tìm nhà Mã phu nhân để hỏi thăm tin tức, hôm nay nghĩ lại có ngờ đâu mỗi một bước lại là đưa A Châu tiến đến đến gần cõi âm thêm một bước. Đi được sáu bảy dặm, gió bấc thổi mạnh, tuyết rơi xuống càng nhiều. Lần theo ký hiệu A Tử để lại đi về hướng tây, dấu hiệu nào cũng mới tinh viết chưa lâu, có khi là vỏ cây bị bóc ra viết lên trên đó, trên vết dao nhựa cây còn chưa kịp đóng cứng, ký hiệu chỉ đến chính là nhà Mã Đại Nguyên. Tiêu Phong thật lạ lùng, nghĩ thầm: “Không lẽ Đoàn Chính Thuần biết được Mã phu nhân hãm hại y nên đến tìm bà ta thanh toán? Đúng rồi, A Châu khi sắp chết nơi cầu đá xanh nói chuyện với ta đã từng nhắc đến Mã phu nhân, hẳn là A Tử nghe được, nên đã kể lại cho cha nghe. Thế nhưng mình chỉ nói là Mã phu nhân, làm sao biết được phu nhân họ Mã là người nào?”. Trên đường đi lòng ông uất ức nên cũng như người mất hồn, bây giờ gặp chuyện lạ lùng, lập tức tinh thần phấn chấn, hồi phục được nỗi cảnh giác khi giao phong với kình địch. Thấy bên đường có một chiếc miếu hoang, lập tức tiến vào, đóng cửa lại, nằm lăn ra ngủ ba giờ liền, đến canh hai mới ra khỏi miếu đi về phía nhà Mã phu nhân. Khi đến gần ông ẩn thân sau gốc cây, quan sát kỹ chung quanh, chỉ một chốc đã nhếch mép mỉm cười, thấy nơi mái nhà phía đông bắc có hai người nằm phục đó, nhìn hình dáng thì là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử. Kế đó lại thấy mẹ con Tần Hồng Miên nằm nơi góc nhà phía đông nam. Lúc đó đại tuyết chưa dứt, bốn người đàn bà ai nấy đều phủ một làn tuyết trắng. Sương phòng phía đông chiếu ra ánh sáng màu vàng nhạt nhưng tĩnh mịch không một tiếng động. Tiêu Phong bẻ một cành cây ném xuống, rơi chạm đất nghe cạch một tiếng nhỏ. Cả bốn người liền nhìn về phía có tiếng động, Tiêu Phong lập tức nhẹ nhàng nhảy xuống, đã tới bên cửa sổ phòng phía đông. Trời lạnh ngắt, đất đông thành đá, cửa sổ nhà họ Mã có song gỗ bên ngoài, Tiêu Phong đợi đến lúc có gió bấc vù vù thổi vào cửa sổ liền nhẹ nhàng đẩy ra một chưởng, lách cách một tiếng nhỏ, chưởng lực hòa lẫn gió lập tức đánh gãy chấn song, cả giấy dán bên trong cũng rách toạc một đường. Tần Hồng Miên nà Nguyễn Tinh Trúc tuy ở gần nhưng chưởng phong và gió bấc cùng một lượt nên không phát giác, đến như người ở trong phòng cũng không biết được. Tiêu Phong ghé mắt qua khe giấy nhìn vào bên trong vừa thoạt trông đã đờ cả người, tưởng chừng không tin nổi mắt mình nữa.

Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần áo ngắn, mũ con, ngồi xếp bằng trên giường, tay cầm chén rượu, cười hề hề nhìn một người đàn bà ngồi ở trường kỷ bên cạnh. Người đàn bà đó mặc áo toàn một màu trắng, trên mặt thoa một lớp phấn mỏng, đầu mày cuối mắt đầy vẻ xuân tình, khóe thu ba long lanh tưởng như sắp nhỏ lệ , trông như cười mà không phải cười, tựa như giận mà không phải giận, liếc xéo Đoàn Chính Thuần, chính là sương phụ Mã Đại Nguyên Mã phu nhân.

1 Hai bài thơ, một vần trúc, một vần tinh là tên của Nguyễn Tinh Trúc.

2 Đến chơi nhà Trúc muội viết để cho tường đỡ trống. Có người mắt sáng lưng eo làm bạn nên không còn biết gì đến trời đất tháng ngày. Đoàn nhị nước Đại Lý viết bừa sau cơn say

3 Uông uông nhãn lệ theo sách tướng là gái đa tình, tình duyên trắc trở.

datlucky_way

23-07-2009 02:43 PM

Hồi 24(a) : Chúc Bạn Mấn Vân Hữu Cựu Minh 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ngọn đèn mờ tỏ câu ân ái,

Tình xưa gợi lại chuyện oan gia.

*

* *

Tình cảnh trong nhà lúc đó nếu như Tiêu Phong không chính mắt chứng kiến, thì dù có ai kể lại cho ông, ông cũng sẽ cho là chuyện hoang đường, đặt điều bịa chuyện. Sau lần đầu tiên nơi rừng hạnh bên ngoài thành Vô Tích, ông gặp bà ta thêm hai lần nữa, lúc nào cũng thấy Mã phu nhân mặt lạnh như băng, tỏ ra một người không ai có thể mạo phạm được, đến nụ cười cũng chưa lộ ra lần nào, có ngờ đâu lại biến thành như thế này. Kỳ quái hơn nữa, bà ta đã từng dùng lời hãm hại Đoàn Chính Thuần, ắt hai người phải có thâm thù đại hận, thế nhưng trông tình cảnh trong căn nhà nhỏ, rượu chuốc hương nồng, tình ý triền miên, bốn mắt đưa tình đầy vẻ yêu thương, hai người có gì gọi là ghét bỏ nhau đâu? Trên bàn là một bình hoa lớn cắm đầy hồng mai, dưới giường ắt hẳn lò than đang đỏ, khuy cài cổ Mã phu nhân bung ra, để lộ làn da trắng ngần, hở cả một bên chiếc yếm bằng gấm đỏ. Bên cạnh giường đốt hai cây nến trắng, ánh lửa bập bùng chiếu lên khuôn mặt ửng hồng. Bên ngoài gió vẫn mạnh, tuyết vẫn đổ nhưng trong nhà thực là ấm áp tình xuân. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:

- Lại đây, lại đây nào! Uống thêm với ta một chén nữa cho đủ cặp đủ đôi.

Mã phu nhân hứ một tiếng, phụng phịu nói:

- Cái gì mà đủ đôi đủ cặp? Thiếp một thân một mình ở đây, cô đơn lạnh lẽo, sáng đợi chiều trông, đêm mong ngày nhớ, lúc nào cũng mơ tưởng đến kẻ oan gia, còn chàng... chàng... thì đã quên bẵng đi rồi, có bao giờ nghĩ đến chuyện thăm hỏi một câu nào đâu?

Nói đến đây, mắt nàng rưng rưng tưởng chừng sa lệ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Nghe giọng điệu bà ta thật chẳng khác gì Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, không lẽ... không lẽ... cũng đã dan díu với Đoàn Chính Thuần từ lâu rồi?.

Đoàn Chính Thuần dịu giọng đáp:

- Ta ở Đại Lý, có ngày nào không khắc khoải nhớ nhung Tiểu Khang của ta đâu? Chỉ hận không chắp cánh mà bay tới để được ôm nàng vào lòng, say đắm thương yêu nàng một lát. Đến khi nghe tin nàng cùng Mã phó bang chủ thành hôn, ta ba ngày ba đêm không ăn không ngủ. Nàng đã có chỗ trao thân gửi phận, nếu ta vẫn còn đến thăm chẳng hóa ra làm lụy đến nàng hay sao? Mã phó bang chủ là một anh hùng hảo hán rất có thân phận trong Cái Bang, nếu ta đến chàng màng tằng tịu với nàng thì thật coi y chẳng ra gì, ta... ta... chẳng hóa thành kẻ tiểu nhân đê tiện ư?

Mã phu nhân nói:

- Nào có ai đòi chàng phải đến để vui vầy với thiếp? Thiếp chỉ khắc khoải không biết chàng có bình yên không? Trong lòng có sảng khoái không? Chuyện lớn chuyện nhỏ có xuôi chèo mát mái không? Chỉ mong chàng yên lành là thiếp mãn nguyện rồi, trên đời cũng còn được đôi điều đáng sống. Chàng ở nơi Đại Lý xa xăm, thiếp muốn nghe ngóng tin chàng thật khó khăn biết mấy. Thiếp thân tại Tín Dương, nhưng trái tim này có giờ nào, khắc nào không ở bên chàng đâu?

Nàng ta càng nói càng nhỏ dần, giọng vẫn thật là tự nhiên không có vẻ gì muốn mê hoặc ai, Tiêu Phong nghe dường như trong nũng nịu có chiều hờn mát, tuy nhẹ nhàng nhưng lại xem như trách móc, nghe vào tai khiến phải mềm lòng làm cho người ta hồn vía đi đâu mất. Bình sinh Tiêu Phong đã từng gặp biết bao nhiêu người nhưng không ngờ trên đời này lại có người đàn bà quyến rũ đến như thế khiến ông tuy ngạc nhiên thật nhưng mặt cũng phải đỏ lên. Ông đã gặp hai người tình nhân của Đoàn Chính Thuần, Tần Hồng Miên thẳng thắn bộc trực, Nguyễn Tinh Trúc xinh đẹp yêu kiều còn Mã phu nhân đây mềm mỏng đến cùng cực, ngọt ngào cũng cùng cực nhưng lại có mấy phần tình tứ. Đoàn Chính Thuần mặt tươi như hoa, giơ tay cầm nàng kéo lại, để lên lòng. Mã phu nhân ứ hự một tiếng, nửa chịu nửa không, giơ tay giả vờ đẩy ra. Tiêu Phong chau mày, không muốn nhìn hai người giở trò sàm sỡ, bỗng nghe bên cạnh có tiếng chân người đạp lên tuyết, nghe bép một tiếng. Ông kêu thầm: Không xong, hai mụ này thể nào cũng nổi cơn ghen làm hỏng hết chuyện lớn của ta. Thân hình ông vụt như gió lẻn ngay ra sau bốn người bọn Tần Hồng Miên, giơ tay điểm huyệt cả bọn. Bốn người đó chưa kịp biết ai ra tay thì đã cứng đơ nhưng lần này Tiêu Phong điểm luôn cả huyệt câm để cho họ muốn nói cũng không được. Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe tình lang cùng người đàn bà ở bên cạnh nói chuyện gió trăng, lửa giận bừng bừng, cơn ghen kéo đến nhưng chỉ chịu khổ giữa trời tuyết mà không thể làm gì hơn. Tiêu Phong lại ghé mắt vào khe cửa nhìn thấy Mã phu nhân đã ngồi bên cạnh Đoàn Chính Thuần, đầu tựa vào vai ông ta, người gục xuống mềm nhũn tưởng như chẳng còn xương cốt, mớ tóc dài đen nhánh che xõa hết một nửa mặt Đoàn Chính Thuần. Đôi mắt bà ta lim dim hé mở nói:

- Chồng thiếp bị người ta giết hại, chàng thể nào chẳng nghe tin, vậy mà sao không lại hỏi thăm nhau một chút? Trượng phu thiếp không còn,

chàng có còn phải ngại ngùng gì nữa đâu?

Giọng nói nửa như trách cứ nửa như nhõng nhẽo. Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Thế ta chẳng đến thì là gì? Ta vừa được tin, lập tức đi ngay, bất kể đêm ngày, ngựa không ngừng vó từ Đại Lý tới đây, chỉ sợ chậm mất một bước.

Mã phu nhân hỏi lại:

- Sao lại sợ chậm mất một bước?

Đoàn Chính Thuần mỉm cười:

- Sợ là sợ nàng không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc, đi lấy người khác mất rồi thì Đại Lý Đoàn nhị này bôn ba rong ruổi có phải công toi, mười năm nhớ nhung của ta trôi theo dòng nước.

Mã phu nhân hứ một tiếng nói:

- ối chào, nói gì chẳng nói lại vu cho người ta không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc đi lấy người khác? Chàng nghĩ tới thiếp hồi nào mà bảo là mười năm nhung nhớ, không sợ rụt lưỡi hay sao?

Đoàn Chính Thuần hai tay kéo lại, ôm nàng ta càng chặt thêm, cười nói:

- Nếu như ta không nhớ nàng thì sao lại từ Đại Lý lặn lội tới đây?

Mã phu nhân mỉm cười:

- Thôi được, cứ cho là chàng nhớ thiếp đi. Đoàn lang, thế từ nay chàng định sắp xếp cho thiếp thế nào?

Nói đến đây bà ta vòng hai tay vít cổ Đoàn Chính Thuần, đưa má mình vào mặt ông ta, liên tiếp cọ nhè nhẹ, mớ tóc dài bập bềnh như sóng nước. Đoàn Chính Thuần nói:

- Kim triêu hữu tửu kim triêu túy1 ! Chuyện tương lai nói tới làm gì? Thôi lại đây để ta ôm nàng xem mười năm qua có nhẹ đi tí nào không? Hay lại nặng hơn?

Nói xong giơ tay ôm lấy Mã phu nhân. Mã phu nhân nói:

- Thế chàng nhất định không chịu mang thiếp về Đại Lý hay sao?

Đoàn Chính Thuần hơi nhíu mày nói:

- Đại Lý có gì vui đâu? Vừa nóng vừa ẩm, lam sơn chướng khí, nàng đến đó thủy thổ không hợp, lại sinh bệnh mất thôi.

Mã phu nhân thở dài một tiếng, nói nhỏ:

- Ôi, chẳng qua chàng đến chỉ để dỗ dành thiếp cốt vui chơi qua đường đấy thôi.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Sao lại là vui chơi qua đường? Ta lập tức sẽ làm nàng vui vầy thực sự cho mà xem.

Mã phu nhân hơi vùng ra một cái, đứng xuống đất, rót một chén rượu nói:

- Đoàn lang, uống thêm chén nữa.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Ta không uống nữa đâu, say lắm rồi.

Mã phu nhân tay trái đưa ra vuốt ve má người tình nói:

- Không, thiếp không chịu đâu, thiếp muốn chàng uống cho thật say mèm.

Đoàn Chính Thuần cười hỏi lại:

- Say mèm ư? Say mèm thì còn gì thú vị?

Vừa nói ông vừa đưa tay cầm chén rượu uống một hơi cạn sạch. Tiêu Phong nghe hai người nói toàn chuyện gió trăng không còn chịu nổi nữa, thấy Đoàn Chính Thuần uống rượu, cơn thèm nổi lên, nuốt nước bọt một cái. Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần há miệng ngáp dài, trông có vẻ mệt mỏi. Mã phu nhân cười tình nói:

- Đoàn lang, để thiếp kể chuyện cho chàng nghe, có chịu không?

Tiêu Phong nghe thế liền phấn chấn, nghĩ thầm: Bà ta kể chuyện xưa, không chừng có đầu mối gì đây. Đoàn Chính Thuần nói:

- Đừng nói vội, lại đây, để ta cởi xống áo cho nàng, nằm bên gối kể ta nghe.

Mã phu nhân lườm ông ta một cái nói:

- Chàng biết không, Đoàn lang, hồi còn nhỏ nhà thiếp nghèo lắm, chỉ mong được may quần áo mới nhưng cha thiếp nào có đâu mà mua. Đêm ngày thiếp chỉ nghĩ giá mình được như tỉ tỉ nhà họ Giang bên cạnh, năm nào cũng có áo hoa, giày hoa mới thì chắc là sướng lắm.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Hồi nàng còn nhỏ chắc là dễ thương lắm, một cô bé con thật kháu khỉnh, dẫu có mặc áo rách chăng nữa thì cũng vẫn đẹp như thường.

Mã phu nhân đáp:

- Không đâu, thiếp chỉ thích mặc quần áo mới thôi.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Nàng mặc quần áo tang trắng toát thế này, ôi, lại càng đẹp thêm

mấy phần, quần áo hoa có gì là đẹp đâu?

Mã phu nhân nhếch mép cười, vừa dịu dàng vừa nhỏ nhẹ đáp:

- Hồi thiếp còn nhỏ, cả đêm cả ngày chỉ nghĩ đến quần áo mới đến thành bệnh.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Cho đến năm mười bảy tuổi phải không?

ánh mắt Mã phu nhân sáng lên, cười khúc khích:

- Đoàn lang, từ hồi đó thiếp trở thành bệnh tương tư chàng. Cái bệnh đó chưa dứt nọc, cho tới nay vẫn chưa hết, chẳng biết kiếp này cái bệnh thương nhớ Đoàn lang có bớt được chút nào không?

Đoàn Chính Thuần nghe thế trong lòng bồi hồi rung động, giơ tay định nắm lấy nàng, nhưng vì uống rượu nhiều quá, chân tay bải hoải, giơ cánh tay lên rồi lại phải bỏ xuống, cười nói:

- Nàng ép ta uống nhiều quá, bây giờ muốn ... muốn ... ha ha, Tiểu Khang ơi! Thế mấy năm sau nàng mới được mặc áo hoa đi giày mới?

Mã phu nhân đáp:

- Chàng từ nhỏ đại phú đại quí, đâu có biết cái khổ của con nhà nghèo. Hồi đó, giá như thiếp có được đôi giày mới thì sung sướng biết mấy. Năm thiếp lên bảy, cha thiếp bảo rằng đến tháng chạp sẽ đem ba con cừu, mười bốn con gà nhà đang nuôi đem ra chợ bán sắm tết, lúc đó sẽ mua thêm một vuông vải hoa đem về may áo mới cho thiếp. Cha thiếp nói thế từ tháng tám, ngày ngày thiếp trông ngóng, chăm chỉ chăn cừu, nuôi gà...

Tiêu Phong nghe thấy chăn cừu chợt chạnh lòng, nhịn không nổi mắt đỏ hoe. Mã phu nhân kể tiếp:

- Chờ mãi mới đến tháng chạp, ngày nào thiếp cũng giục cha thiếp đi bán cừu, bán gà. Cha thiếp chỉ bảo Đừng có nóng ruột, đến khi năm cùng tháng tận, giá cừu giá gà nó mới được cao. Được mấy ngày, trời bỗng đổ tuyết lớn, liên tiếp mấy ngày mấy đêm liền. Chập tối hôm đó, đột nhiên có mấy tiếng lạch cạch, thì ra chuồng cừu bị tuyết làm sập mất rồi. Cũng may mấy con vật không bị chết, cha thiếp mới dắt cừu vào cho ở bên cạnh nói là sẽ sớm đem mấy con cừu ra chợ bán. Ngờ đâu ngay đêm hôm đó bỗng nghe sài lang tru, cừu kêu nhốn nháo cả lên. Cha thiếp nói: Chết rồi, chó sói đến rồi cầm chiếc giáo xông ra. Thế nhưng ba con cừu bị chó sói tha đi mất rồi, bầy gà hơn chục con cũng bị ăn thịt mất hơn một nửa. Cha thiếp kêu toáng lên, chạy vội ra rượt theo chúng định giành trở lại. Cha thiếp đuổi vào trong núi rồi, bụng thiếp lo lắm, không biết cha thiếp có lấy lại được mấy con cừu không. Đợi mãi đợi mãi mới thấy cha thiếp khập khiễng đi về. Cha thiếp bảo rằng tuyết ở triền núi trơn quá nên bị trượt chân, bị thương ở đùi, cái giáo cũng rơi xuống vực mất dĩ nhiên không đoạt lại được mấy con cừu. Thiếp quả là thất vọng, ngồi bệt ngay xuống tuyết khóc òa lên. Bấy lâu nay thiếp phải đi chăn cừu, chỉ mong được mặc quần áo mới, nào ngờ đến lúc cuối lại chẳng có gì. Thiếp vừa khóc vừa gào, luôn mồm giục: Cha ơi! Mau đi đòi mấy con cừu lại, con muốn có áo mới, con muốn có áo mới!.

Tiêu Phong nghe đến đây, lòng chùng xuống: Người đàn bà này trời sinh bạc bẽo, cha mụ ta ngã bị thương, mụ chẳng lo gì đến vết thương của cha, chỉ nhớ đến áo mới của mình, huống chi trời tối đuổi theo đàn sói đói, thật là nguy hiểm xiết bao? Lúc đó tuy còn nhỏ chưa hiểu sự đời nhưng cũng không phải chút nào. Lại nghe bà ta kể tiếp: - Cha thiếp mới bảo: Thôi bé ạ, từ mai trở đi mình lại nuôi mấy con cừu khác, sang năm bán đi, thể nào cũng có áo hoa cho con. Thiếp lại càng khóc to hơn nữa, nhưng đành chịu, còn biết làm sao? Chưa đầy nửa tháng sau đã đến Tết, chị họ Giang nhà hàng xóm mặc một chiếc áo bông thêu hoa đỏ nhụy vàng, mặc một chiếc quần xanh lục thêu hoa vàng. Thiếp trông thấy mà mê mẩn, tức đến bỏ cả ăn uống. Cha thiếp luôn luôn dỗ dành, thiếp nhất định không nhìn nhõi gì đến ông ta. Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Nếu lúc đó mà ta biết được, nhất định sẽ gửi đến cho nàng một chục, hai chục cái áo mới.

Nói tới đây ông ta vươn vai một cái, ánh nến lung linh chiếu lên khuôn mặt ngà ngà say đầy sắc dục. Mã phu nhân nói:

- Có một chục, có hai chục cái thì lại chẳng còn thèm thuồng nữa. Tối hôm ba mươi Tết, thiếp nằm trên giường trằn trọc, lăn qua lộn lại không ngủ được, len lén trở dậy, mò qua bên nhà Giang bá bá. Người lớn khi đó còn canh giao thừa chưa đi ngủ, ánh nến chiếu sáng trưng, thiếp thấy chị nhà họ Giang đang nằm ngủ trên giường, quần áo mới đắp trên bụng, ánh lửa bập bùng lại càng đẹp đẽ. Thiếp đứng nhìn ngẩn ngơ một hồi lâu rồi len lén vào trong phòng, cầm bộ quần áo mới.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Ăn trộm áo mới à? Chao ôi, ta tưởng Tiểu Khang chỉ ăn trộm đàn ông, ngờ đâu lại biết cả ăn trộm quần áo nữa.

ánh mắt Mã phu nhân long lanh, thản nhiên mỉm cười nói:

- Thiếp nào có ăn trộm quần áo đâu! Thiếp lấy chiếc kéo trong giỏ may để trên bàn, cắt vụn chiếc áo mới ra, lại cắt chiếc quần thành từng mảnh, không còn cách gì vá lại được. Thiếp cắt vụn bộ quần áo rồi, trong lòng hết sức vui sướng, sợ còn sướng gấp mấy lần chính mình có quần áo mới.

Đoàn Chính Thuần trước nay vẻ mặt vẫn tươi cười, nghe tới đây, khuôn mặt dần dần biến đổi, xem chừng không vui, nói:

- Tiểu Khang, thôi đừng kể chuyện nữa, mình đi ngủ thôi.

Mã phu nhân đáp:

- Không, dễ gì mà được gặp lại chàng mấy hôm, từ nay về sau, chỉ sợ không còn bao giờ gặp lại nhau, thiếp chỉ muốn nói chuyện với chàng càng nhiều càng tốt. Đoàn lang, chàng có biết tại sao thiếp lại muốn kể chuyện cho chàng nghe hay không? Để cho chàng biết rõ tính khí thiếp, từ bé đã vậy rồi, thích cái gì là ngày đêm mơ tưởng có cho bằng được, ví như người khác may mắn mà có thì bằng giá nào thiếp cũng phải hủy nó đi. Hồi còn bé thì cách làm cũng ngờ nghệch vụng về, đến khi lớn lên rồi thì cũng phải khôn ngoan hơn, cách thức cũng phải khéo léo hơn.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:

- Thôi đừng nói nữa. Những chuyện ghê gớm ấy nàng để ta nghe vào tai mất cả hứng đi thì đừng trách ta đấy nhé.

Mã phu nhân mỉm cười đứng lên, từ từ cởi chiếc dải trắng buộc tóc trên đầu, mới tóc dài xõa xuống tận eo, mềm mại đen nhánh. Nàng cầm một chiếc lược bằng gỗ dương vàng, chậm rãi chải mớ tóc dài, đột nhiên quay lại mỉm cười, vẻ mặt thật là kiều mị nói:

- Đoàn lang, chàng lại đây bồng thiếp đi.

Thanh âm cực kỳ lơi lả. Tiêu Phong tuy trong lòng ghét bỏ người đàn bà này nhưng dưới ánh nến nhìn thấy khóe thu ba long lanh, nghe nàng nói chàng lại đây bồng thiếp đi cũng thấy rung động trong lòng. Đoàn Chính Thuần cười hì hì, vịn vào thành giường, toan đứng lên lại bế nàng ta, nhưng vì uống rượu quá nhiều, không nhỏm dậy nổi chỉ nói:

- Gớm chỉ mới uống có sáu bảy chén rượu mà sao say đến thế này.

Tiểu Khang, nàng quả là hoa dung nguyệt mạo nên hôm nay ta vừa gặp đã say chẳng khác gì uống đủ ba cân liệt tửu, ha ha. Tiêu Phong nghe thấy thế, kinh hoảng nghĩ thầm: Chỉ mới uống sáu bảy chén, làm sao say được? Đoàn Chính Thuần nội lực đâu phải tầm thường, dẫu không biết uống rượu chăng nữa cũng không đến nỗi thế, hẳn có chuyện gì khác lạ. Chỉ nghe Mã phu nhân cười khúc khích, nũng nịu nói:

- Đoàn lang, chàng lại đây nào, thiếp không có chút hơi sức nào cả, chàng... chàng... lại đây ôm thiếp đi.

Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm ở bên ngoài song cửa nghe Mã phu nhân õng ẹo đưa tình, câu nào câu nấy lọt vào tai, lửa ghen bốc lên, tưởng chừng muốn vỡ cả lồng ngực nhưng đâu có giơ tay bịt tai được. Đoàn Chính Thuần tay trái tựa vào thành giường, cố gắng đứng dậy, nhưng người cứ cứng đờ, đầu gối mềm nhũn, lại ngồi phịch xuống cười

nói:

- Ta cũng chẳng có chút hơi sức nào, thật là lạ quá. Ta vừa mới gặp nàng đã như chuột gặp mèo, toàn thân mềm nhũn ra ngay.

Mã phu nhân cười nhỏ nhẹ:

- Thiếp không tin đâu, chỉ mới uống có một chút mà đã giả vờ say để nựng người ta. Chàng không vận khí thúc đẩy nội lực được hay sao?

Đoàn Chính Thuần điều vận nội tức, toan đưa chân khí lên nhưng đan điền sao trống rỗng, tưởng chừng không còn gì cả, làm cách nào cũng không được. Ông liên tiếp đề khí ba lần, ngờ đâu công lực tu tập mấy chục năm không còn thấy tăm hơi đâu cả, không biết đi mất từ bao giờ. Bấy giờ Đoàn Chính Thuần mới thấy hoảng biết rằng có điều không hay xảy ra nhưng từng qua lại giang hồ đã lâu, kinh lịch cũng nhiều, trên mặt vẫn thản nhiên như không cười nói:

- Chỉ vận được nội kình sử dụng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm thôi, thật say tới mức chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được nữa rồi.

Tiêu Phong nghĩ thầm: Gã này tuy tham hoa hiếu sắc nhưng không phải là kẻ hồ đồ. Y biết được đang lâm vào nguy cơ nên nói rằng chỉ còn giết người chứ không còn ôm người. Thực ra Nhất Dương Chỉ thì y biết nhưng Lục Mạch Thần Kiếm có biết đâu, chẳng qua chỉ là hư trương thanh thế để dọa người. Nếu y không còn nội lực thì làm sao sử dụng Nhất Dương Chỉ được?. Mã phu nhân người mềm xèo nói:

- Chao ôi, sao thiếp nhức đầu thế này, Đoàn lang, hay là... hay là trong rượu, chàng có bỏ cái gì vào không đấy?

Đoàn Chính Thuần vốn đã nghi nàng ta bỏ thuốc vào trong rượu, nghe nói thế, bao nhiêu ngờ vực tan biến hết, vẫy vẫy tay, nói:

- Tiểu Khang, nàng lại đây, ta có chuyện muốn nói với nàng.

Mã phu nhân dường như muốn đi lại bên cạnh ông ta nhưng không đứng lên nổi, gục xuống bàn, mặt ửng hồng, thở hổn hển, nũng nịu nói:

- Đoàn lang, thiếp một bước cũng đi không nổi, chắc chàng sợ thiếp không chiều chuộng nên bỏ xuân dược vào rượu chứ gì? Chàng thật chẳng có đàng hoàng gì cả.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu, giơ tay làm hiệu, lấy tay chấm vào rượu viết lên bàn: Mình trúng độc kế của địch, cố gắng trấn tĩnh rồi nói:

- Bây giờ nội lực của ta lại vận được rồi, mấy chén rượu độc kia làm sao làm ta mê man cho nổi.

Mã phu nhân cũng viết lên bàn: Thật hay không?. Đoàn Chính Thuần lại viết: Chớ có lộ vẻ kém thế. Ông ta lớn tiếng nói:

- Tiểu Khang, nàng có kẻ nào đối đầu mà dám đến đây giở độc kế với ta?

Tiêu Phong ở ngoài cửa sổ thấy ông ta viết mấy chữ Chớ có lộ vẻ kém thế biết là không ổn, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần là kẻ tinh minh ghê gớm thế mà lại chết về tay con đàn bà. Thuốc độc này rõ ràng là do Mã phu nhân bỏ vào, mụ ta nghe ngươi nói chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được sợ ngươi võ công vẫn còn nên giả vờ chính mình cũng trúng độc để xem hư thực, sao lại dễ dàng mắc mưu đến thế?. Mã phu nhân lộ vẻ lo lắng lại viết trên bàn: Nội lực mất hết là thực hay giả? nhưng mồm vẫn nói:

- Đoàn lang, nếu có đứa gian tặc chó chết nào muốn đến hại chúng mình thì thật hay lắm. Hiện giờ không có chuyện gì làm tóm cổ chúng làm vui thì đúng điệu. Chàng cứ việc ngồi đó xem chúng giở trò gì.

Đoàn Chính Thuần viết: Chỉ mong thuốc sớm rã, kẻ địch đến chậm thôi. Ông ta nói:

- Đúng thế, nếu có đứa nào đến phá quấy mình thì thật cầu còn chưa đủ. Tiểu Khang, nàng có muốn xem thuật lăng không điểm huyệt của ta không nào?

Mã phu nhân cười nói:

- Thiếp từ trước tới nay chưa từng được xem bao giờ, nếu như nội lực chàng chưa mất thì sử dụng Nhất Dương Chỉ đục thủng một cái lỗ trên giấy dán cửa sổ coi nào, có được không?

Đoàn Chính Thuần hơi chau mày, nháy nhó liên tiếp, có ý nói: Ta hoàn toàn không còn chút nội lực nào nữa, làm sao có thể lăng không điểm huyệt được? Ta chỉ để dọa địch nhân đấy thôi, sao nàng không hiểu ý ta?. Thế nhưng Mã phu nhân vẫn luôn mồm thúc giục nói:

- Mau động thủ đi nào, chàng chỉ cần đục một cái lỗ nhỏ trên cửa là dọa cho kẻ địch chạy mất nếu không thì hỡi ôi, đừng để cho chúng nhìn thấy điểm yếu của mình.

Đoàn Chính Thuần lại càng run nghĩ thầm: "Nàng ta xưa nay thông minh lanh lợi lắm, sao bây giờ lại cố giả vờ như ngờ nghệch là sao?". Ông còn đang suy nghị lại nghe Mã phu nhân dịu dàng nói:

- Đoàn lang, chàng trúng phải độc dược cực mạnh Thập Hương Mê Hồn Tán thì dẫu võ công có bằng trời cũng mất hết nội lực. Nếu quả chàng vẫn còn lăng không điểm huyệt đục được một cái lỗ nơi cửa sổ thì thật kỳ diệu quá sức.

Đoàn Chính Thuần thất kinh kêu lên:

- Ta... ta trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán đấy sao? Nàng làm sao... làm sao lại biết?

Mã phu nhân nũng nịu cười nói:

- Khi thiếp rót rượu cho chàng, hì hì, thật là vô ý để sẩy tay bỏ luôn một bao thuốc vào bình rượu. Chao ôi, thiếp vừa gặp lại chàng là thần hồn điên đảo, chân tay quýnh quáng, Đoàn lang ơi, chàng đừng giận thiếp nhé!

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:

- ồ, thì ra là vậy đó! Thế thì có hề hấn gì đâu!

Bây giờ ông đã rõ ràng, biết mình đã bị Mã phu nhân chế ngự, nếu nổi nóng chửi rủa thì sẽ không ích lợi gì nên đành giả vờ như không quan tâm, hết sức trấn tĩnh tâm thần, tìm cách ứng phó với thế cục cực kỳ nguy hiểm, nghĩ thầm: Nàng đối với ta một tấm thâm tình, chắc không nỡ nào hại tính mạng, cùng lắm là bắt mình phải đồng ý vĩnh viễn không trở về nhà nữa, chung sống tại đây, hoặc giả ép mình đem nàng về Đại Lý, danh chính ngôn thuận thành vợ thành chồng. Đó chẳng qua cũng bởi tấm lòng si mê mình, ra tay tuy hơi quá đáng nhưng cũng không phải do ý xấu mà ra. Ông nghĩ như thế mới thấy khoan tâm. Quả nhiên nghe thấy Mã phu nhân hỏi lại:

- Đoàn lang, chàng có bằng lòng thành vợ thành chồng cho lâu dài với thiếp không?

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Gớm nàng tính toán quả là lợi hại, thôi được rồi, ta chịu thua đó! Sáng mai nàng cùng ta lên đường trở về Đại Lý, ta cưới nàng làm trắc phi Trấn Nam Vương.

Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe thế, cơn ghen nổi lên, cùng nghĩ: Con tiện nhân này có gì tốt lành đâu? Chàng không nghe lời ta, lại nghe lời nó là sao?. Mã phu nhân thở dài một tiếng nói:

- Đoàn lang ơi, mới vừa rồi thiếp đã hỏi chàng, sau này coi thiếp ra sao, chàng lại bảo đất Đại Lý ẩm thấp nhiều chướng khí, thiếp đến đó chỉ tổ sinh bệnh, đến bây giờ bị ép nên phải bằng lòng, chứ có phải là do bản tâm đâu!

Đoàn Chính Thuần cũng thở hắt ra nói:

- Tiểu Khang, để ta nói cho nàng nghe, ta là hoàng thái đệ của nước Đại Lý. Anh ta không có con trai, sau khi vương huynh thiên thu vạn tải rồi thì ngôi vua sẽ truyền lại cho ta. Ta ở Trung Nguyên chẳng qua chỉ là một kẻ võ phu thế nhưng khi về Đại Lý thì không thể nào muốn làm gì thì làm, nàng nghĩ có phải không?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng thế, thì đã làm sao?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Chuyện này bên trong quả có nhiều điều khó nói nhưng nàng với ta thiết tha như vậy, đến nỗi phải giở thủ đoạn hạ độc nên ta cũng phải hồi tâm chuyển ý. Ngày ngày có một người xinh đẹp như nàng bầu bạn cận kề không lẽ ta không nghĩ đến. Ta đã bằng lòng đưa nàng về Đại Lý thì quyết không thể nào hối hận đâu.

Mã phu nhân A lên một tiếng nhỏ nói:

- Chàng nói vậy cũng phải. Mai sau chàng lên làm vua rồi có phong thiếp làm hoàng hậu không?

Đoàn Chính Thuần trù trừ đáp:

- Ta vốn có nguyên phối rồi, hoàng hậu thì không thể được...

Mã phu nhân đáp:

- Thật vậy, thiếp là một người đàn bà góa xúi quẩy, sao có thể làm hoàng hậu nương nương? Như thế chẳng khiến hàng nghìn hàng vạn dân Đại Lý cười đến trẹo quai hàm ư?

Nàng ta lại cầm chiếc lược lên, chậm rãi chải đầu, cười nói:

- Đoàn lang, mới đây thiếp kể lại chuyện cũ cho chàng nghe, chàng có hiểu ý thiếp hay chăng?

Đoàn Chính Thuần toát mồ hôi trán, chảy ròng ròng cố trấn nhiếp tinh thần nhưng công lực khổ luyện mấy chục năm qua không biết biến đi đâu mất thật có khác gì người đang chết đuối, hai tay quơ loạn lên nhưng đến một cọng cỏ cũng không vớ được. Mã phu nhân hỏi lại:

- Đoàn lang, người chàng nóng lắm, có phải không? Thôi để thiếp lau mồ hôi cho.

Từ trong túi lấy ra một chiếc khăn tay trắng tinh đến trước mặt ông ta nhẹ nhàng lau những giọt mồ hôi trên trán, dịu dàng nói:

- Đoàn lang, chàng phải giữ gìn sức khỏe, uống rượu rồi dễ trúng gió máy khiến cho người khó chịu, không khỏi khiến thiếp đâm lo sao?

Tiêu Phong ở bên ngoài cửa sổ cũng như Đoàn Chính Thuần ở trong nhà, hai người nghe thấy thế không khỏi rợn tóc gáy. Đoàn Chính Thuần cố gượng nở một nụ cười nói:

- Hôm đó người nàng hương hãn đầm đìa, ta cũng từng lau mồ hôi cho, chiếc khăn đó hơn chục năm nay vẫn còn giữ đây.

Mã phu nhân vẻ mặt thẹn thùng, nói nhỏ:

- Thật không biết xấu, chuyện cũ từ đời nào vậy mà vẫn còn nhắc lại? Chàng lấy ra cho thiếp xem nào?

Đoàn Chính Thuần nói là hơn chục năm qua vẫn mang theo chiếc khăn trong người, tưởng không có gì làm thực, nhưng ngờ đâu quả có tại trong túi. Ông ta có cái tài được lòng đàn bà cũng có nguyên nhân, phụ nữ nào đã từng có với ông một phen duyên nghiệt cũng đều tưởng ông thực lòng yêu mình nhưng chỉ vì số kiếp long đong nên không thể nào ăn đời ở kiếp với nhau được. Ông toan lấy chiếc khăn trong bọc ra để cho Mã phu nhân nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, ngờ đâu ngón tay chỉ hơi động đậy, bàn tay hoàn toàn tê dại, độc tính của Thập Hương Mê Hồn Tán này thật là ghê gớm, không còn chút hơi sức nào. Mã phu nhân nói:

- Chàng lấy ra cho thiếp coi đi! ứ hự, chàng lại đánh lừa thiếp rồi.

Đoàn Chính Thuần cười đau khổ:

- Ha ha, say quá mất thôi đến nỗi tay chẳng còn cử động được, nàng lấy giùm ta đi vậy.

Mã phu nhân nói:

- Thiếp chả mắc lỡm chàng đâu. Chàng định lừa cho thiếp đến gần, dùng Nhất Dương Chỉ giết thiếp chứ gì.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười đáp:

- Nàng là một tuyệt thế giai nhân xinh tươi nhường ấy, dẫu ta có là một hung đồ thập ác bất xá thì cũng chẳng nỡ dùng móng tay gạch lên khuôn mặt nàng một đường.

Mã phu nhân cười nói:

- Thật thế chăng? Đoàn lang, thế nhưng thiếp vẫn chưa yên bụng, thôi để thiếp lấy dây trói hai tay chàng lại, sau đó... sau đó, mới dùng sợi tơ mềm buộc luôn cả trái tim.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Thì nàng đã chẳng buộc trái tim ta rồi đấy ư, nếu không ta đâu có ngoan ngoãn mò tới tận đây?

Mã phu nhân cười rộ lên một tiếng nói:

- Chàng vốn tử tế đến thế, thảo nào khiến cho thiếp phải mắc cái bệnh tương tư không sao chữa lành cho được.

Nói xong mở cái ngăn kéo bên cạnh giường lấy ra một cuộn dây gân bò. Đoàn Chính Thuần trong lòng càng thêm kinh hãi: Thì ra mụ ta đã chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, ta từ đầu chí cuối cứ như ở trong đám mây mù, Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, hôm nay ngươi táng mạng nơi đây, còn oán trách gì ai được nữa?. Mã phu nhân nói:

- Thiếp trói chân tay chàng trước, Đoàn lang, lòng thiếp thật yêu thương chàng không đâu kể xiết, chàng có giận thiếp không?

Đoàn Chính Thuần biết tính Mã phu nhân rồi, tuy là đàn bà nhưng so với đàn ông bình thường còn cứng rắn hơn, dù cho rủa xả chửi mắng mụ cũng không nổi giận, van xin năn nỉ mụ cũng chẳng hồi tâm, trước mắt chỉ còn một cách kéo dài thời giờ, may ra có cơ hội chuyển nguy thành an, thoát được khốn cảnh này nên cười nói:

- Ta vừa thấy cặp mắt long lanh của nàng, bao nhiêu giận hờn tan biến cả. Tiểu Khang, nàng lại đây, cho ta ngửi xem đóa hoa nhài trên tóc nàng có thơm không nào?

Hơn mười năm trước cũng một câu nói này mà Đoàn Chính Thuần đã cùng Mã phu nhân tạo nên một mối nghiệt duyên, bây giờ đề cập chuyện cũ, Mã phu nhân liền ngả đầu tựa vào lòng ông, thật là tình tứ dáng điệu đầy vẻ nhu mì bẽn lẽn. Bà ta giơ tay vuốt ve khuôn mặt Đoàn Chính Thuần, ỏn ẻn nói:

- Đoàn lang, Đoàn lang, tối hôm đó thiếp trao thân cho chàng, thiếp có hỏi rằng, sau này nếu như chàng lòng nọ dạ kia thì sẽ ra sao?

Đoàn Chính Thuần thấy mắt nổ đom đóm, trán từng giọt mồ hôi bằng hạt đậu nhỏ tong tỏng. Mã phu nhân tiếp:

- Hảo lang quân vô lương tâm kia ơi, lang quân yêu quí kia ơi, chàng đã thề nguyền sao sớm quên làm vậy?

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:

- Ta bảo sẽ để cho nàng cắn từng miếng thịt trên người ta.

Cái câu ước hẹn kia vốn dĩ chỉ là một câu bỡn cợt, trai gái hợp hoan tán tỉnh nhau nhưng bây giờ Đoàn Chính Thuần nhắc đến mà toàn thân nổi gai ốc. Mã phu nhân cười tình nói:

- Những gì chàng nói với thiếp, qua bao nhiêu năm vẫn không quên, Đoàn lang của thiếp quả là có lòng. Đoàn lang, thiếp định trói tay chàng lại, để cùng chàng chơi một trò mới, chẳng biết chàng có chịu hay không? Chàng bằng lòng thì thiếp mới trói, nếu chằng không khứng chịu thì thôi. Thiếp xưa nay đối với chàng thiên y bách thuận, làm gì cũng chỉ mong chàng được toại ý thôi.

Đoàn Chính Thuần biết rằng nếu mình không chịu cho mụ ta trói thì thể nào cô ả cũng còn những trò cổ quái khác nên đành gượng cười:

- Nàng muốn trói thì cứ trói đi. Ta dẫu phải chết dưới khóm mẫu đơn thì thành quỉ cũng phong lưu chán2 . Được chết dưới bàn tay của nàng thật là khoái hoạt biết bao nhiêu.

Tiêu Phong ở bên ngoài của sổ nghe ông ta nói vậy phải bội phục định lực quả hơn người, trong lúc nguy cơ như thế vẫn còn nói chơi được thì quả là tài. Chỉ thấy Mã phu nhân bẻ quặt hai tay Đoàn Chính Thuần ra sau, dùng gân bò trói cho thật chặt, thắt bảy tám cái nút, không nói gì lúc này ông ta võ công mất hết rồi, mà dẫu nội lực còn nguyên thì cũng không dễ gì trong chốc lát mà vùng ra được. Mã phu nhân lại cười tình nói:

- Thiếp ghét nhất là hai cái chân chàng, mỗi lần ra đi là chẳng còn thấy bóng thấy hình đâu nữa.

Bà ta nói xong giơ tay véo lên đùi ông ta một cái. Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Thế nhưng năm xưa ta gặp được nàng cũng là nhờ đôi chân này mang ta tới. Đôi chân này tội tuy lớn thật, công cũng không nhỏ.

Mã phu nhân nói:

- Được rồi, để thiếp trói nó lại đã.

Nói xong bà ta lại lấy một sợi dây gân bò trói nốt hai chân Đoàn Chính Thuần. Bà ta lấy một chiếc kéo, chậm rãi cắt mấy lớp áo trên vai phải ông ta, để lộ làn da trắng trẻo. Đoàn Chính Thuần tuổi tuy không còn trẻ nhưng cả đời vinh hoa phú quí sống trong nhung lụa, lại thêm nội công thâm hậu, thịt trên vai vừa nhẵn nhụi vừa săn chắc. Mã phu nhân giơ tay vuốt ve đầu vai ông, hé chiếc miệng anh đào hôn nhè nhẹ lên má, từ từ lần xuống cổ, xuống vai, cổ họng rên lên ư ử thật thắm thiết không sao kể xiết. Đột nhiên Đoàn Chính Thuần kêu Oái lên một tiếng, thanh âm phá vỡ màn đêm tĩnh mịch. Mã phu nhân ngửng đầu lên, miệng đầy máu, đã cắn một miếng trên vai ông ta. Mã phu nhân nhả miếng thịt xuống đất, nũng nịu:

- Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, thiếp yêu chàng hết mình nên mới cắn chàng đó. Đoàn lang, chính miệng chàng nói ra, nếu chàng thay lòng sẽ cho thiếp cắn từng miếng, từng miếng thịt.

Đoàn Chính Thuần cười ha hả nói:

- Đúng đó, Tiểu Khang, ta đã nói ra lẽ nào lại không tính? Ta cũng đã có lúc nghĩ rằng sau này chết thế nào cho xứng đáng? ở trên giường ốm rồi chết ư? Thế thì tầm thường quá. Tại chiến trường bảo vệ đất nước mà chết ư? Cũng tốt đấy nhưng có điều anh dũng mà chẳng phong lưu, mỹ trung bất túc, không thích hợp với con người của Đoàn Chính Thuần lúc bình thời. Tiểu Khang, hôm nay nàng nghĩ ra được cách này quả là cao minh, Đoàn Chính Thuần chết vì chiếc miệng anh đào của đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ, dưới những chiếc răng xinh xắn như ngọc trai kia, quả đúng là hợp với tâm nguyện của ta. Nàng thử nghĩ xem, nếu Đoàn Chính Thuần này chẳng cùng nàng trải qua một đoạn ái tình khắc cốt tương tư, nếu là một người đàn ông khác, dẫu cho nàng đầy nhà châu báu nàng cũng đâu thèm cắn y lấy một miếng đâu? Tiểu Khang, nàng nghĩ có phải không nào?

Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc vốn đã sợ mất hết hồn vía, biết Đoàn lang mệnh trong khoảnh khắc, thấy Tiêu Phong vẫn đứng bên cạnh cửa sổ quan sát động tĩnh, tuyệt nhiên không ra tay cứu giúp, trong bụng chửi thầm ông không biết bao nhiêu mà kể. Tiêu Phong vẫn chưa biết rõ chân ý của Mã phu nhân ra sao, chẳng hiểu mụ ta quả có ý giết Đoàn Chính Thuần, hay chỉ dọa già dọa non, thêm một trò phong lưu mới rồi mới tha cho để từ rày ông ta không còn thay lòng đổi dạ. Nếu như chỉ là chốn phòng the hai người đùa cợt với nhau, mình lại lỗ mãng xông vào cứu, có phải mất đi cái cơ hội bằng vàng thám thính tin tức, nên đành nén lòng yên lặng xem biến chuyển. Mã phu nhân cười nói:

- Đúng thế, dẫu là thiên tử Đại Tống, hoàng đế Khất Đan có giết thiếp thì dễ chứ đừng hòng để cho thiếp phải cắn một cái. Đoàn lang, thiếp vốn dĩ định bụng cắn chàng từ từ cho tới chết, muốn cắn chàng muôn ngàn lần, nhưng lại ngại bộ thuộc chàng đến cứu. Thế thì thôi đành, thiếp cắm con dao nhỏ này vào nơi tim chàng, đâm vào nửa tấc để chàng không chết, nếu như có ai tới cứu, thiếp chỉ nhấn vào cán dao một cái, thế là chàng không còn phải đau đớn gì nữa.

Nói tới đây mụ ta lấy ra một thanh chủy thủ sáng choang, cắt y phục trên ngực Đoàn Chính Thuần , để mũi dao đúng ngay tâm khẩu, bàn tay thon nhè nhẹ ấn xuống, cắm con dao vào ngực, quả nhiên chỉ nhấn vào một chút rồi thôi. Lần này Đoàn Chính Thuần không hự lấy một tiếng, thấy nơi ngực máu chảy ra bèn nói:

- Tiểu Khang, mười ngón tay nàng bây giờ so với thời mười bảy tuổi còn trắng trẻo nhẵn nhụi hơn nhiều.

Khi Mã phu nhân cầm dao đâm vào ngực Đoàn Chính Thuần, mắt Tiêu Phong đăm đăm nhìn không chớp, nếu thấy dùng lực quá mạnh, nguy cho tính mạng Đoàn Chính Thuần thì sẽ lập tức tung ra một chưởng đánh dạt bà ta ra, đến khi thấy chỉ nhè nhẹ ấn vào nên không lo lắng nữa. Mã phu nhân nói:

- Năm thiếp mười bảy tuổi, ngày ngày giặt dũ nấu cơm, chân tay dĩ nhiên sần sùi. Mấy năm nay không phải làm việc nặng, da dẻ cũng mịn màng hơn. Đoàn lang, miếng thứ hai thiếp cắn vào đâu cho phải? Chàng bảo cắn chỗ nào thiếp sẽ cắn chỗ đó, lúc nào thiếp cũng bảo sao nghe vậy.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Tiểu Khang, nàng cắn chết ta rồi, hồn ta sẽ luôn luôn quấn quít bên nàng.

Mã phu nhân hỏi:

- Để làm gì?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Hễ vợ mà mưu sát chồng thì chồng chết đi hồn vất vưởng không tan, lúc nào cũng loanh quanh luẩn quẩn gần bên để phòng có người đàn ông nào khác đến vui vầy.

Câu đó Đoàn Chính Thuần vốn định dọa nàng ta một chuyến cho mụ khỏi quá ác độc, ngờ đâu Mã phu nhân nghe xong, mặt liền biến sắc, không hẹn mà quay lại nhìn phía sau lưng. Đoàn Chính Thuần thừa cơ nói:

- ồ, sau lưng nàng có ai thế kia?

Mã phu nhân hoảng hốt nói:

- Sau lưng thiếp nào có ai? Chỉ nói lăng nhăng!

Đoàn Chính Thuần nói:

- Ôi, đó là một người đàn ông, há miệng cười với nàng, y đang ôm cổ họng, dường như đau đớn lắm. Người đó là ai thế, quần áo rách rưới, không ngớt chảy nước mắt...

Mã phu nhân vội vàng quay lại, nào thấy ai, run run nói:

- Ngươi nói láo, ngươi... nói láo!

Đoàn Chính Thuần lúc đầu thuận miệng nói nhăng, nhưng thấy nàng ta kinh hoảng dị thường, trong bụng khởi nghi, thoáng một cái, lập tức nghĩ ra cái chết của Mã Đại Nguyên bên trong hẳn có điều gì khác lạ. Ông ta biết Mã Đại Nguyên chết vì môn Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ nên cố ý nói người đó cổ họng đau đớn lắm, chảy nước mắt, y phục tang thương, quả nhiên Mã phu nhân lập tức khiếp đảm. Đoàn Chính Thuần cũng đoán ra được vài ba phần, nói tiếp:

- A, kỳ quái nhỉ, sao người đó chớp mắt lại biến đâu mất rồi, y là ai thế?

Vẻ mặt Mã phu nhân hết sức kinh khủng nhưng chỉ giây lát đã trấn tĩnh như thường, nói:

- Đoàn lang, hôm nay đã đến nước này, chàng còn dọa thiếp để làm gì? Hay là chàng không rủa xả thiếp vài câu thì không yên? Hai đứa mình vui vầy xong rồi bây giờ thiếp sẽ tống tiễn chàng đi một cách thật là sảng khoái.

Nàng ta nói xong đi tới một bước, giơ tay định cầm cán dao chủy thủ đâm vào. Đoàn Chính Thuần thấy không còn cách nào kéo dài thêm được nữa, hai mắt trừng trừng nhìn vào sau lưng Mã phu nhân, kêu toáng lên:

- Mã Đại Nguyên, Mã Đại Nguyên, mau giết mụ vợ ngươi đi!

Mã phu nhân thấy khuôn mặt ông ta lộ vẻ sợ hãi lạ thường, lại gào lên Mã Đại Nguyên, toàn thân không khỏi run rẩy, quay đầu lại nhìn. Đoàn Chính Thuần hết sức dùng đầu húc một cái, trúng ngay cằm Mã phu nhân khiến bà ta ngã lăn ra đất, ngất đi. Cái húc đó Đoàn Chính Thuần hoàn toàn không phải là dùng nội lực, Mã phu nhân tuy hôn mê thật nhưng chỉ một chút đã tỉnh lại ngay, suýt soa đứng lên, vỗ vỗ cằm, cười nói:

- Đoàn lang, sao chàng lại nựng thiếp mạnh tay thế, đụng thiếp chỗ này đau ơi là đau. Chàng đặt điều dọa thiếp, thiếp không mắc hỡm chàng đâu!

Đoàn Chính Thuần húc đã dùng hết bao nhiêu nội lực tích tụ được từ nãy đến giờ, trong bụng thở dài, nghĩ thầm: Bỏ mạng thế này còn gì đâu để nói nữa. Ông chợt nghĩ ra hỏi lại:

- Tiểu Khang, bây giờ nàng giết ta chứ gì? Thế nhưng nếu người trong Cái Bang đến hỏi tội mưu sát thân phu thì ai là người giúp đỡ nàng đây?

Mã phu nhân cười khúc khích nói:

- Ai bảo là thiếp mưu sát thân phu? Chàng nào có phải là chồng thiếp đâu. Nếu như chàng thực sự là chồng thiếp, thiếp yêu thương chiều chuộng chàng còn chưa đủ, lẽ đâu lại ra tay hại chàng? Thiếp giết chàng rồi cao bay xa chạy, lẽ đâu lại ở đây, thần tử nước Đại Lý của chàng có đi tìm thì làm sao thiếp đối phó nổi?

Nàng ta thở dài sườn sượt nói tiếp:

- Đoàn lang, thiếp thật thương chàng, nhớ chàng không biết bao nhiêu cho kể chỉ mong được lúc nào cũng ôm chàng, hôn hít, nựng nịu chàng thôi. Thế nhưng bởi vì thiếp không có được chàng nên không ăn thì đạp đổ, đó là cái tính trời sinh của thiếp chứ biết làm sao hơn?

Đoàn Chính Thuần nói:

- ồ, thì ra là thế, thảo nào hôm trước nàng cố ý đánh lừa cô gái kia, muốn mượn tay Kiều Phong giết ta, chẳng qua là vậy.

Mã phu nhân nói:

- Đúng vậy, Kiều Phong thật là đồ vô dụng, lại không giết được chàng, để chàng chạy mất.

Tiêu Phong trong bụng không ngừng tự hỏi: A Châu giả làm Bạch Thế Kính, thuật hóa trang như thần, đến ta cũng còn nhìn không ra, Mã phu nhân và Bạch Thế Kính có thân thiết gì đâu, sao lại nhìn ra được nhỉ?.

Lại nghe Mã phu nhân nói tiếp:

- Đoàn lang, thiếp muốn cắn chàng thêm một miếng nữa.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười:

- Nàng cứ lại cắn ta đi, ta thật sung sướng biết là dường nào.

Tiêu Phong thấy không còn có thể diên trì thêm được nữa, đưa bàn tay ra, để ngay vào chỗ vách đất sau lưng Đoàn Chính Thuần, ám vận kình lực, bức tường vốn dĩ chẳng chắc chắn gì, quả đấm liền từ từ đi vào, thủng thành lỗ không nghe một tiếng, bàn tay đặt lên lưng Đoàn Chính Thuần. Ngay lúc đó, Mã phu nhân đã cắn được một cái trên vai Đoàn Chính Thuần, ông ta kêu rú lên, vùng vẫy, đột nhiên thấy hai tay đã tự do. Thì ra dây trói nơi cổ tay đã bị Tiêu Phong dùng ngón tay cấu đứt, đồng thời một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu tràn vào mọi nơi kinh mạch. Đoàn Chính Thuần còn đang ngạc nhiên nhưng biết ngay bên ngoài có

cường viện, khí tùy ý chuyển, luống nội lực từ sau lưng liền dẫn ngay vào cánh tay, truyền tới ngón tay nghe suỵt một tiếng nhỏ, thần công Nhất Dương Chỉ đã tung ra. Mã phu nhân bị trúng chỉ ngay mạng sườn, chỉ rú

lên được một tiếng lập tức gục ngay xuống giường. Tiêu Phong thấy Đoàn Chính Thuần đã chế ngự được Mã phu nhân rồi, lập tức rút tay về. Đoàn Chính Thuần đang toan mở lời tạ ơn, bỗng thấy cửa mở tung ra, một người chạy vào. Chỉ nghe người kia nói:

- Tiểu Khang, nàng đối với y tình xưa nghĩa cũ vẫn còn, phải không nào? Sao phí mất bao nhiêu công phu đến giờ này vẫn chưa thanh toán xong xuôi?

Tiêu Phong từ bên ngoài nhìn vào thấy gã kia, đờ người ra, vừa kinh hoàng, vừa tức tối, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều giải quyết được cả. Hôm đó tại khu rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Mã phu nhân lấy ra chiếc quạt mình thường dùng, vu cho ông lẻn vào nhà họ Mã ăn trộm thư bị rơi lại, cái quạt đó ở đâu ra? ắt phải có ai đó ăn trộm của mình, người đó phải là kẻ thật là thân cận, thế nhưng kẻ đó là ai? Cái bí mật mình là người Khất Đan, đấu kín đã bao nhiêu năm qua, sao lại đột nhiên bị tiết lộ? A Châu cải trang thành Bạch Thế Kính, vốn dĩ không sai một mảy, Mã phu nhân làm sao lại nhìn ra được? Thì ra, kẻ vừa vào phòng chính là Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính của Cái Bang. Mã phu nhân kinh hãi ấp úng:

- Y... y... võ công chưa mất, điểm... điểm huyệt ta rồi.

Bạch Thế Kính nhảy vọt tới, chộp hay tay Đoàn Chính Thuần, lách cách mấy tiếng đã vặn sái cổ tay ông ta. Đoàn Chính Thuần không còn sức nào kháng cự, nội lực Tiêu Phong truyền vào người chỉ giữ được một tí, vừa rụt tay về lại trở lại là một phế nhân. Tiêu Phong trông thấy Bạch Thế Kính, trong nhất thời bao nhiêu ý nghĩ dâng trào không còn nghĩ gì tới chuyện ra tay giúp đỡ Đoàn Chính Thuần, lại cũng không ngờ tới việc Bạch Thế Kính ra tay là hạ độc thủ ngay, đến lúc biết được thì hai cổ tay Đoàn Chính Thuần đã gãy lìa. Ông nghĩ bụng: Gã này phong lưu hiếu sắc, hôm nay để cho y nếm chút đau khổ cũng tốt, vì nghĩ đến A Châu nên ta sẽ cứu mạng y sau cũng được. Bạch Thế Kính nói:

- Họ Đoàn kia, ngươi kể cũng khá đấy, uống phải Thập Hương Mê Hồn Tán mà vẫn còn được mấy phần công phu.

Đoàn Chính Thuần không biết người ở bên ngoài giúp mình là ai, nhưng biết phải là một nhân vật có bản lãnh thật ghê gớm, tuy trước mắt có thêm một cường địch nhưng có đại viện sau lưng, trong bụng cũng không lo lắng lắm. Ông nghe giọng điệu của Bạch Thế Kính quả là không biết mình có người ám trợ bèn hỏi lại:

- Tôn giá có phải là trưởng lão trong Cái Bang chăng? Tại hạ và tôn giá không hề quen biết, sao lại hạ độc thủ là sao?

Bạch Thế Kính bước tới cạnh Mã phu nhân, đưa tay xoa bóp mấy cái dưới mạng sườn nhưng công phu điểm huyệt của họ Đoàn cực kỳ thần diệu, Bạch Thế Kính tuy võ công không phải là kém nhưng không cách nào giải huyệt được, chau mày hỏi:

- Nàng thấy sao?

Giọng điệu cực kỳ lo lắng. Mã phu nhân đáp:

- Thiếp chỉ thấy tay chân ê ẩm, không cử động được. Thế Kính, chàng ra tay thanh toán y đi, chúng mình chạy cho rồi. Trong căn nhà này... trong căn nhà này, thiếp không muốn ở đây nữa.

Đoàn Chính Thuần đột nhiên cất tiếng cười vang nói:

- Tiểu Khang, nàng... nàng... sao không tiến bộ chút nào cả? Ha ha! Ha ha!

Mã phu nhân mỉm cười nói:

- Đoàn lang, chàng cao hứng nhỉ, chết đến nơi rồi mà vẫn còn cười một cách vui sướng quá.

Bạch Thế Kính bực tức nói:

- Sao ngươi vẫn còn gọi y Đoàn lang là sao? Đồ lăng loàn!

Y vung tay tát trái Mã phu nhân một cái thật mạnh. Khuôn mặt trắng trẻo của mụ ta lập tức sưng vù, đau đến chảy nước mắt. Đoàn Chính Thuần quát lên:

- Ngừng tay, sao ngươi lại đánh nàng?

Bạch Thế Kính cười khẩy:

- Thứ ngươi làm gì được ta? Thị thuộc về ta, ta thích đánh là đánh, muốn chửi là chửi.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Một mỹ nhân như hoa tựa ngọc như thế vậy mà ngươi nỡ đánh hay sao? Dẫu có thuộc về ngươi chăng nữa ngươi cũng phải ngọt nhạt cho nàng vui lòng, để nàng sung sướng chứ!

Mã phu nhân lườm Bạch Thế Kính nói:

- Người ta đối với ta như thế, còn ngươi đãi ta như thế nào? Ai lại nóng thế.

Dáng điệu ngữ âm vẫn đầy vẻ lẳng lơ. Bạch Thế Kính lại chửi:

- Đồ đĩ thõa, để xem ta có trị được ngươi không? Họ Đoàn kia, ta đếch có thèm nghe lời ngươi. Ngươi giỏi tài nịnh gái, sao còn để đến nông nỗi này? Thôi, ngày này sang năm là ngày giỗ đầu của ngươi đấy nhé.

Nói xong hung hăng tiến tới, giơ tay định ấn cán dao chủy thủ vào ngực ông ta. Bàn tay Tiêu Phong đã lòn qua lỗ hổng trên tường thò vào, chỉ cần Bạch Thế Kính tiến thêm nửa bước là chưởng phong phát ra ngay. Ngay lúc đó, đột nhiên cánh cửa bị một cơn gió giật thổi tới, nghe vù một tiếng, hai ngọn nến lập tức bị kình phong thổi tắt ngúm, trong phòng lập tức tối đen. Mã phu nhân kinh hãi kêu lên một tiếng, Bạch Thế Kính biết là có kẻ địch tới nơi, lúc này không còn thì giờ lại giết Đoàn Chính Thuần mà phải nghinh địch trước đã, bèn quát lên:

- Kẻ nào đó?

Y giơ song chưởng lên bảo vệ trước ngực rồi quay người đi ra. Kình phong đánh tắt hai ngọn nến rõ ràng là do một người võ công cực kỳ cao cường phát ra, nhưng sau khi nến tắt rồi vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần, Mã phu nhân và Tiêu Phong bốn người ngưng thần, lờ mờ trong nhà thấy đã thêm một người nữa. Mã phu nhân là người đầu tiên không giữ nổi kêu rú lên:

- Có người kìa!

Chỉ thấy người đó chắn ngay cửa, hay tay bỏ xuôi, mặt mũi ra sao không nhìn rõ, chỉ đứng sừng sững không động đậy gì cả. Bạch Thế Kính quát hỏi:

- Ai đó?

Y tiến lên một bước, người kia vẫn lặng thinh không cử động. Bạch Thế Kính lại quát:

- Nếu không trả lời, tại hạ sẽ không nể nang gì nữa.

Từ khi thấy người lạ đánh tắt hai ngọn nến, Bạch Thế Kính biết y võ công cực kỳ cao cường, không dám hấp tấp ra tay. Người kia vẫn bất động, trong đêm tối mò y trông tựa như ma quỉ. Mã phu nhân lại rít lên:

- Chàng đốt đèn lên nào! Thiếp sợ lắm!

Bạch Thế Kính quát lại:

- Con đĩ ngựa kia, đừng có lắm mồm.

Y nói thế là vì chỉ quay sang thắp đèn, lập tức đưa lưng cho địch nhân, thành thử vẫn hai tay giữ thế trên ngực chờ kẻ địch ra tay trước. Ngờ đâu người kia trước sau vẫn đứng yên, hai người cứ thế nhìn nhau một lúc, khoảng thời gian uống một chén trà. Tiêu Phong dĩ nhiên không lên tiếng rồi, cả Đoàn Chính Thuần cũng lặng thinh. Bốn bề tĩnh như tờ, đến nỗi bông tuyết rơi chạm đất cũng còn nghe thấy. Bạch Thế Kính sau cùng nhịn không nổi kêu lên:

- Các hạ nếu không trả lời, ta đành phải đắc tội.

Y ngừng lại một chút, thấy đối phương vẫn không cục cựa, thò tay vào túi lấy ra một chiếc dùi thép, tung mình nhảy tới, trong bóng đêm chỉ thấy một ánh sáng lấp loáng, chiếc dùi đã đâm vào ngực người kia. Người đó nghiêng qua tránh được, Bạch Thế Kính thấy có một luồng gió ép tới, mấy ngón tay y đã chộp vào cổ họng Bạch Thế Kính. Chiêu đó ra tay thật nhanh, cương chùy của y chưa thu về kịp, mấy ngón tay của địch đã chạm vào yết hầu rồi khiến y hồn bất phụ thể, vội nhảy vọt về sau tránh được, run run hỏi:

- Ngươi... ngươi...

Y sợ hãi thực sự không phải vì võ công đối phương cao cường mà là vì chiêu số sử dụng chính là Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ. Công phu đó là tuyệt kỹ gia truyền của Mã Đại Nguyên, ngoại trừ con cháu nhà họ Mã không ai biết, chỉ vì Bạch Thế Kính giao thiệp với Mã Đại Nguyên đã lâu nên biết rõ võ công gia số của y. Lưng Bạch Thế Kính toát mồ hôi lạnh, chăm chăm nhìn kẻ kia, chỉ thấy y thân hình thật cao, chẳng khác gì Mã Đại Nguyên, nhưng vì bóng tối nên không rõ mặt. Người kia vẫn lạnh lùng như ma như quỉ không nói không rằng, Bạch Thế Kính thấy cổ mình hơi ngâm ngẩm đau, chắc hẳn bị móng tay y quệt phải. Y cố gắng định thần hỏi:

- Tôn giá có phải họ Mã không?

Người kia vẫn như bị điếc không nghe gì. Bạch Thế Kính quát:

- Con đĩ ngựa, mau thắp đèn cầy lên.

Mã phu nhân nói:

- Thiếp không cử động được, chàng lại đốt đèn đi.

Thế nhưng Bạch Thế Kính đâu có dám muốn làm gì thì làm để bị người ta thừa cơ tấn công. Y lại nghĩ Người này võ công rõ ràng cao hơn ta, nếu y muốn cứu Đoàn Chính Thuần đâu cần phải đợi ai tới giúp, sao chỉ tấn công một chiêu rồi thôi không truy kích nữa?. Lại một hồi lâu tất cả đều yên lặng, Bạch Thế Kính đột nhiên nhìn ra một điểm quái lạ của kẻ kia, trong phòng tuy ai nấy không nói năng cử động nhưng tiếng hô hấp vẫn còn, Mã phu nhân cũng thở, Đoàn Chính Thuần cũng thở, chính mình cũng thở nhưng người đối diện lại không thở chút nào. Bạch Thế Kính nín hơi, nghiêng ngó nghe ngóng, với nội lực và công phu tu tập của y, có thể nghe được tiếng hô hấp của từng người trong phòng nhưng người trước mặt quả không thở gì cả. Một lúc thật lâu sau, người kia vẫn không thở, nếu là người sống thì làm sao có thể không hô hấp? Bạch Thế Kính có thể nghe thấy cả tiếng tim mình đập, bịch, bịch, bịch... mỗi lúc một rõ, lồng ngực rung động cực mạnh, trái tim tưởng như muốn nhảy ra ngoài, càng không nhẫn nại nổi, quát lên một tiếng, xông vào, chiếc dùi liên tiếp vung lên đâm vào mặt người kia. Người kia khoát tay trái gạt Bạch Thế Kính ra ngoài, tay phải chộp thẳng vào yết hầu y. Bạch Thế Kính đã đề phòng đối phương sử dụng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, liền hụp đầu xuống, lòn dưới nách mà chui ra. Người kia không đuổi theo, vẫn đứng trơ trơ ở ngạch cửa. Bạch Thế Kính liền giơ dùi lên đâm vào đùi bên trái, y liền vọt lên tránh được. Mã phu nhân thấy người kia thân hình cứng đơ, lúc nhảy lên đầu gối không co lại gì cả, buột miệng rú lên:

- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!

Chỉ nghe bình một tiếng, gã kia nặng nề rơi bịch xuống. Bạch Thế Kính trong bụng cũng hoảng vía: Người này nếu như là cao thủ võ học, lẽ nào nhảy lên rơi xuống lại vụng về đến thế? Không lẽ trên đời có quỉ nhập tràng thực hay sao?. Bạch Thế Kính hơi chần chừ nhưng lại xông lên, vụt vụt vụt, chiếc dùi đâm luôn ba nhát vào hạ bàn. Người kia quả nhiên đầu gối không gập lại được, cứ cứng ngắc mà tưng lên tưng xuống tránh né, xem ra đến bước một bước cũng không được. Bạch Thế Kính đâm bên trái, y nhảy qua bên phải đâm bên phải, y lại tránh qua bên trái. Bạch Thế Kính phát giác được nhược điểm của đối phương rồi, trong lòng bớt sợ nhưng càng lâu càng thấy đây không phải là người còn sống. Lại đâm thêm mấy nhát nữa, đối phương thân pháp tuy vụng về thật nhưng chùy pháp của mình dù có tinh diệu bao nhiêu vẫn không trúng được y. Bất ngờ y thấy sau ót mình lạnh ngắt, một bàn tay băng giá sờ vào cổ. Bạch Thế Kính hết sức kinh hãi, vung chùy hết sức đâm ngược trở lại nghe soẹt một tiếng nhỏ đã đâm vào khoảng trống không, bàn tay to lớn của kẻ kia đã chộp được gáy y rồi. Toàn thân Bạch Thế Kính liền mềm nhũn không còn cử động được nữa, chỉ còn nước thở hồng hộc. Mã phu nhân kêu lớn:

- Thế Kính, Thế Kính, chàng sao rồi?

Bạch Thế Kính nào còn đâu hơi sức mà trả lời, chỉ thấy nội lực toàn thân theo bàn tay to lớn của người kia đang nắm nơi cổ mà tuôn ra. Lại một bàn tay to lớn lạnh ngắt sờ vào mặt y, bàn tay đó quả không phải tay người, không có một chút hơi ấm nào. Bạch Thế Kính nhịn không nổi kêu lên:

- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!

Tiếng kêu của y thật là thê thảm đáng sợ. Bàn tay từ trên trán vuốt xuôi xuống, mò đến đôi mắt, hai ngón tay sờ sờ vào mí mắt. Bạch Thế Kính sợ đến tưởng chừng có thể ngất đi, đối phương chỉ cần nhấn mạnh một cái thì đôi mắt y đã bị móc ra ngoài. Thế nhưng bàn tay lạnh ngắt đó lại sờ xuống dưới mò đúng mũi y, rồi xuống dần đến miệng y, từng chút từng chút lần xuống dưới, sau cùng ngừng lại nơi yết hầu. Hai bàn tay lạnh ngắt kia nắm vào cổ họng y, từ từ xiết lại. Bạch Thế Kính kinh hãi không biết bao nhiêu mà kể, kêu lên:

- Đại Nguyên huynh đệ, tha mạng cho ta! Tha mạng cho ta!

Mã phu nhân rít lên:

- Ngươi... ngươi nói gì thế?

Bạch Thế Kính lại kêu:

- Đại Nguyên huynh đệ, tất cả đều do chủ ý của con đĩ ngựa này, nó bắt ta phải làm, chứ ta... chứ ta có liên can gì đâu.

Mã phu nhân giận dữ nói:

- Chủ ý của ta thì đã sao nào? Mã Đại Nguyên, khi còn sống ngươi là đồ bị thịt, chết rồi còn tác yêu tác quái gì? Bà chẳng sợ gì ngươi đâu.

Bạch Thế Kính thấy khi mình buông lời đổ tội cho người đàn bà thì cổ họng có nới ra một tí nhưng vừa ngậm miệng thì bàn tay lạnh như băng lại từ từ bóp vào, trong bụng hoảng loạn, nghe thấy Mã phu nhân gọi y là Mã Đại Nguyên thì nghĩ ngay con quái vật này là quỉ nhập tràng hiện về liền kêu lớn:

- Đại Nguyên huynh đệ tha mạng cho ta! Vợ ngươi coi trộm di lệnh của Uông bang chủ, mấy bận khuyên ngươi tiết lộ bí mật thân thế của Kiều Phong, ngươi nhất định không chịu... mụ ta... mụ ta mới có ý hại ngươi...

datlucky_way

23-07-2009 02:44 PM

Hồi 24(b) : Chúc Bạn Mấn Vân Hữu Cựu Minh 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ngọn đèn mờ tỏ câu ân ái,

Tình xưa gợi lại chuyện oan gia.

*

* *

Tiêu Phong choáng váng, ông tuy không tin thế gian này có quỉ thần, đoán rằng người kia hẳn là một võ học danh gia, cố ý trang thần lộng quỉ để cho Mã phu nhân và Bạch Thế Kính hoảng hốt, thừa cơ bức vấn hai người khai ra. Quả nhiên Bạch Thế Kính bụng dạ rối ren đành thú nhận, cứ như lời y thì Mã Đại Nguyên bị hai người giết hại mà Mã phu nhân chính là kẻ chủ mưu. Mã phu nhân sở dĩ mưu sát thân phu chính là vì muốn tiết lộ thân thế mình mà Mã Đại Nguyên không chịu. Tại sao bà ta lại hận mình đến thế? Vì cớ gì không lật đổ mình không xong? Nếu như mụ muốn trượng phu lên làm bang chủ thì sao lại giết ông chồng?. Mã phu nhân rít lên:

- Mã Đại Nguyên, ngươi cứ giết ta đi, ta chán cái thứ vô dụng như ngươi lắm rồi, đồ chết nhát, chẳng làm được chuyện gì cho ra hồn!

Chỉ nghe thấy tiếng lách cách nho nhỏ, chỗ sụn nơi cổ họng Bạch Thế Kính đã bị bóp một miếng. Bạch Thế Kính hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được khỏi tay của người kia, tiếp theo lại tiếng lách cách nữa, hầu quản đã nát ngướu. Y gào lên mấy tiếng nhưng miệng không hút khí vào phổi được, hai tay quơ múa rồi tắt thở. Người kia giết chết Bạch Thế Kính rồi, xoay người ra khỏi cửa lập tức không còn thấy hình bóng đâu. Tiêu Phong chợt động tâm nghĩ thầm: Người này là ai nhỉ? Mình phải đuổi theo tìm hiểu cho minh bạch. Ông lập tức phóng mình ra cửa trước, dưới bóng tuyết trắng chiếu sáng, thấy một bóng người mờ mờ đi về hướng đông bắc nếu không phải nhãn lực cực tốt thì thực không thể nào thấy được. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này thân pháp nhanh thật. Ông cúi xuống vỗ lên vai A Tử đang nằm dưới chân, nội lực truyền vào, giải huyệt cho cô ta, nghĩ thầm: Mã phu nhân không biết võ công, tiểu cô nương này cứu cha cô ta cũng thừa sức. Ông không kịp giải huyệt cho bọn Nguyễn Tinh Trúc, vội vàng rảo bước, đuổi theo người kia. Ông ra sức chạy thật nhanh đến khi chỉ còn cách y chừng hơn chục trượng mới nhìn rõ. Người ấy quả đúng là một võ học cao thủ, khi đó không còn cứng đơ chân mà nhảy, bước đi nhanh nhẹn nhẹ nhàng chẳng khác gì lướt trên mặt tuyết. Khinh công của Tiêu Phong vốn từ chùa Thiếu Lâm, lại được Uông bang chủ của Cái Bang dạy đỗ thuần thuộc dương cương, khi ra sức chạy rồi, mỗi lần nhảy xa cả trượng, thân hình vọt lên không trung, lại tung mình tới, tư thức tuy không tiêu sái tuấn nhã nhưng đường dài thật là hiệu quả. Đuổi theo một hồi chỉ còn cách người kia chừng một trượng. Ông đuổi theo chừng tàn một nửa nén nhang, cước bộ người đằng trước đột nhiên tăng vọt lên, chẳng khác gì cánh buồm no gió, xuôi dòng lướt đi, chốc lát đã bỏ cách Tiêu Phong một quãng xa. Tiêu Phong trong bụng kinh hãi thầm: Người này quả là tài ba thật, trong võ lâm phải cao thủ số một số hai, nếu không thế thì làm sao chỉ cất tay là giết được Bạch Thế

Kính. Ông bẩm tính trời sinh là một kỳ tài võ học, thụ nghiệp ân sư và Uông bang chủ dĩ nhiên võ học cao lắm rồi, nhưng Tiêu Phong lại thanh xuất ư lam, hơn xa cả hai sư phụ, dù chiêu nào thật bình thường vào tay ông sử dụng, cũng phát sinh uy lực thật ghê gớm. Những người biết ông thấy vậy đều bảo là do thiên phú mà có, không thể do truyền thụ hay khổ luyện mà được. Chính Tiêu Phong cũng không hiểu do đâu, chỉ thấy chiêu nào học là biết ngay, biết là tinh tường, đến khi lâm địch là biến hóa một cách xảo diệu. Thế nhưng ngoài võ học ra, các ngành khác như học hành, nghệ thuật ông đều bình bình không có gì đặc sắc hơn người. Ông bình sinh ít gặp địch thủ, nhiều cường địch nội lực so với ông thâm hậu hơn, chiêu số so với ông biến hóa hơn, nhưng khi đụng nhau, mỗi khi đến khi khẩn yếu quan đầu, chỉ một chiêu nửa thức thất bại dưới tay Tiêu Phong. Thế nhưng tuy thua mà vẫn tâm phục khẩu phục, biết mình không phải là địch thủ nên trước nay chưa có ai đi kiếm ông để rửa hờn. Đến bây giờ Tiêu Phong gặp một địch thủ khinh công cao cường như thế, hùng tâm trỗi dậy, gia tăng cước bộ, chạy vọt lên. Hai người một trước một sau chạy vùn vụt về hướng đông bắc nhưng Tiêu Phong thủy chung vẫn không sao đuổi kịp mà người kia cũng không thể nào chạy thoát. Một giờ, rồi hai giờ sau, hai người đã chạy trên một trăm dặm nhưng khoảng cách hai bên vẫn như cũ. Lại thêm hơn nửa giờ nữa, trời bắt đầu tang tảng sáng, cơn mưa tuyết cũng đã dứt, Tiêu Phong nhìn thấy xa xa nơi triền núi có một tòa thị trấn, nhà cửa san sát như bát úp, lại nghe gà gáy te te hết chỗ nọ đến chỗ kia, cơn thèm rượu nổi lên bèn kêu:

- Vị huynh đài ở trước mặt ơi, ta mời ngươi uống hai chục bát rượu, rồi lại chạy thi, được chăng?

Người kia không trả lời, lại càng chạy nhanh hơn. Tiêu Phong cười nói:

- Ngươi ra tay hạ thủ tên gian đồ Bạch Thế Kính, quả thực anh hùng làm sao, Tiêu Phong xin chịu thua khinh công không bằng được. Hai người mình đi mua rượu uống chứ không tỉ thí nữa, được không?

Ông một mặt nói, chân vẫn chạy không chậm lại chút nào. Người kia đột nhiên ngừng lại nói:

- Kiều Phong uy chấn giang hồ, quả nhiên danh bất hư truyền. Ngươi mồm nói mà vẫn vận dụng được chân khí như thường, thực là anh hùng, thực là hào kiệt.

Tiêu Phong nghe giọng ông ta mơ hồ không rõ, nhưng nghe có vẻ già nua, tuổi tác xem ra lớn hơn mình nhiều bèn nói:

- Tiền bối quá khen. Vãn bối vói cao, định kết giao bằng hữu với tiền bối, không biết có chê bỏ không?

Người kia thở dài:

- Già rồi, không còn được việc gì nữa. Ngươi đừng đuổi theo nữa, chỉ thêm một giờ là ta thua ngươi rồi.

Nói xong chậm rãi đi thẳng. Tiêu Phong định vọt lên nói chuyện thêm nhưng chỉ mới một bước nghĩ bụng Y bảo ta đừng đuổi theo nữa. Ông lại nghĩ đến mình bị quần hào Trung Nguyên coi chẳng vào đâu, e rằng người này cũng khinh thị thù ghét người Khất Đan, lập tức dừng bước, mắt nhìn theo bóng y dần dần mất hút vào sau khu rừng cây, trong bụng cảm thán: Người này khinh công thật cao, nội lực lại dài, tiếc thay không được thấy mặt y. Ông lại nghĩ: Tiếng nói của y mơ hồ, hiển nhiên cố ý trầm giọng xuống để cho ta khỏi nhận được khẩu âm. Đến cả tiếng nói y còn không muốn mình nhận ra, huống chi là nhìn mặt?. Ông bần thần một lúc rồi mới đi vào thị trấn, đến một tửu điếm nhỏ mua rượu ngồi uống, cứ uống một hai bát lại vỗ bàn chắc lưỡi:

- Hảo nam nhi! Hảo hán tử, ôi, tiếc thật, tiếc thật!

Ông ta nói hảo nam nhi, hảo hán tử là khen ngợi người kia võ công cao cường, giết Bạch Thế Kính mười phần ổn thỏa, còn luôn mồm tiếc thật là than thở mình không được cùng y kết giao. Ông xưa nay yêu bạn bè như tính mạng, lần này bị đuổi ra khỏi Cái Bang, kết thâm cừu với quần hào Trung Nguyên, bao nhiêu bạn bè trước đây nay mất sạch, trong bụng mười phần u uất, buồn phiền, hôm nay vô tình gặp một người võ công không kém gì mình, nhưng vô duyên không làm quen được, đành uống rượu tiêu sầu. Thế nhưng bao nhiêu nghi vấn tích kết trong lòng nay đã giải quyết, trong lòng cũng có phần nhẹ nhõm. Uống đến hơn hai chục bát cũng đã ngà ngà liền đi ra, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần không biết ra sao? Bọn Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên bị ta điểm huyệt, mình phải quay lại giải cứu mới được. Nghĩ vậy ông liền rảo bước chạy trở về. Khi trở về ông không thi triển toàn lực nên chậm hơn nhiều, đến nhà họ Mã thì đã quá ngọ. Trên bãi tuyết bên ngoài nhà không còn một ai, bọn Nguyễn Tinh Trúc đều không còn nữa, chắc là A Tử đã bồng họ vào trong nhà. Ông đẩy cửa bước vào, thấy xác Bạch Thế Kính còn nằm bên cạnh cửa, Đoàn Chính Thuần không thấy đâu, bên cạnh giường một người đàn bà nằm phục đó, người đầy những máu, chính là Mã phu nhân. Bà ta nghe thấy tiếng chân người vội quay đầu ra, thều thào nói:

- Thôi làm ơn làm phước, mau lên, ngươi mau giết ta cho rồi!

Tiêu Phong thấy bà ta mặt xám xịt, chỉ qua một đêm mà dường như già đi đến hai ba chục tuổi, trông thật xấu xí bèn hỏi:

- Đoàn Chính Thuần đâu?

Mã phu nhân đáp:

- Cứu y đi rồi, con... con ác nhân đó! A!

Đột nhiên mụ ta kêu thét lên, thanh âm sắc nhọn như đâm vào tai. Tiêu Phong không ngờ đến, giật mình nhảy nhổm lên, lùi lại một bước hỏi:

- Bà sao thế?

Mã phu nhân hổn hển:

- Ngươi... ngươi là Kiều ...bang chủ?

Tiêu Phong gượng cười:

- Ta không còn là bang chủ Cái Bang từ lâu rồi. Không lẽ bà không biết hay sao?

Mã phu nhân nói:

- Đúng rồi, ông là Kiều bang chủ. Kiều bang chủ, xin ông làm ơn làm phước, mau giết ta đi.

Tiêu Phong chau mày nói:

- Ta không định giết bà. Bà mưu sát thân phu, trong Cái Bang sẽ có người đến lo liệu chuyện này.

Mã phu nhân van nài:

- Ta... ta chịu không nổi nữa rồi, con nhãi khốn kiếp đó thủ đoạn độc ác quá, ta... ta ra ma rồi cũng không tha cho nó đâu. Ngươi... ngươi xem... người ta thì biết.

Bà ta nằm phục ở nơi khuất nẻo tối tăm, Tiêu Phong nhìn không rõ, nghe nói thế bèn đi ra mở cửa sổ để cho ánh nắng chiếu vào trong nhà, vừa liếc mắt nhìn xuống, không khỏi rùng mình. Chỉ thấy Mã phu nhân, đầu vai, cánh tay, ngực, đùi chỗ nào cũng bị ai đó dùng dao rạch, trên vết thương đầy kiến bu vào. Tiêu Phong nhìn những chỗ bị thương biết ngay tứ chi và những khớp xương trên người, các đường gân đều bị cắt đứt cả rồi, không còn cử động gì được, không phải như điểm huyệt mà bảo là giải huyệt xong lại cử động bình thường, còn cân mạch đứt hết rồi thì không có cách nào chữa từ nay thành một người tàn phế. Thế nhưng tại sao trên vết thương lại đầy những kiến thế kia? Mã phu nhân thều thào nói:

- Con nhãi khốn kiếp cắt đứt gân cốt tay chân ta rồi lại lấy dao rạch đầy người, đem... đem nước đường... nước đường bôi lên, bảo là để dụ cho kiến bu khắp người ta, cho ta đau đớn, khốn khổ vài ngày, để ta sống không được, chết... không xong.

Tiêu Phong biết rằng chỉ cần nhìn thấy vết thương của bà ta một lần nữa là sẽ buồn mửa ngay. Tuy ông không phải là người yếu lòng nhưng sát nhân phóng hỏa, làm gì phải làm cho xong, còn dùng phương cách ác độc hành hạ kẻ địch thì không làm được, thở dài một tiếng, quay xuống bếp xách lên một thùng nước to, dội lên người bà ta để cho khỏi bị cái khổ bầy kiến vây quanh cắn xé. Mã phu nhân nói:

- Cảm ơn ngươi, ngươi quả là có lòng tốt. Ta không sống được nữa rồi, ngươi làm ơn làm phúc, một đao giết ta cho xong.

Tiêu Phong hỏi:

- Thế ai... ai rạch trên người bà đó?

Mã phu nhân nghiến răng hậm hực nói:

- Là con nhãi khốn kiếp chứ còn ai, nó tuổi còn nhỏ, chỉ chừng mười lăm mười sáu, mà sao bụng dạ tàn ác đến thế...

Tiêu Phong thất kinh kêu lên:

- Là A Tử ư?

Mã phu nhân đáp:

- Chứ còn ai, ta nghe con giặc cái kia gọi nó, bảo nó giết ta đi cho xong. Thế nhưng cái con nhãi khốn kiếp A Tử lại muốn hành hạ ta chầm chậm để báo thù cho phụ thân, để cho mẫu thân hả giận, bắt ta chịu muôn vàn khổ sở...

Tiêu Phong nghĩ thầm: Ta chỉ sợ Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nổi cơn ghen, ra tay liền giết Mã phu nhân ngay, bà ta chết rồi ta không còn ai để hỏi. Ngờ đâu con tiểu a đầu A Tử lại tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông chau mày nói:

- Đoàn Chính Thuần trước kia có tình ý với bà, tuy bà muốn giết ông ta nhưng không lẽ thấy con gái tàn ác như thế lại không ngăn cản hay sao?

Mã phu nhân đáp:

- Khi đó y còn hôn mê bất tỉnh, nhân sự bất tri, cũng bởi... cũng bởi Thập Hương Mê Hồn Tán mà ra.

Tiêu Phong gật đầu đáp:

- Thì ra là thế. Ông ta là một hảo hán trái phải trắng đen minh bạch, lẽ nào dung túng cho con gái làm chuyện ngang ngược như thế bao giờ? Ôi, thế còn mấy người đàn bà kia thì sao?

Mã phu nhân rên rỉ:

- Đừng hỏi nữa, đừng hỏi nữa, mau giết ta đi.

Tiêu Phong hừ một tiếng nói:

- Nếu bà không trả lời ta cho đàng hoàng, ta sẽ lại lấy mật bôi lên vết thương, phủi tay bỏ đi, để bà sống chết sao mặc kệ.

Mã phu nhân đáp:

- Bọn đàn ông các ngươi... đứa nào cũng lang tâm ác độc...

Tiêu Phong nói:

- Thế thủ đoạn của bà mưu hại Mã đại ca không ác độc hay sao?

Mã phu nhân lạ lùng:

- Ngươi... ngươi làm sao mà biết? Ai nói cho ngươi nghe vậy?

Tiêu Phong lạnh lùng đáp:

- Ta hỏi bà chứ không phải bà hỏi ta. Bà cầu xin ta chứ không phải ta cầu xin bà. Nói mau!

Mã phu nhân nói:

- Thôi được, để ta nói hết cho ngươi nghe. Con tiểu tiện nhân A Tử trừng trị ta, mẹ nó luôn mồm quát mắng bảo thôi nhưng con nhãi khốn kiếp đó chỉ cười hì hì không nghe. Mẹ nó bị người ta điểm trúng huyệt đạo, có muốn cử động cũng không được. Chẳng bao lâu, có năm sáu thủ hạ của Đoàn Chính Thuần tới nơi, A Tử mới ôm cha nó, mẹ nó và mẹ con Tần Hồng Miên từng người một ra khỏi nhà, nhưng không cho ai vào để họ khỏi nhìn thấy ta. Thủ hạ của Đoàn Chính Thuần có mang theo ngựa cưỡi, nên đón bọn chúng đi mất.

Tiêu Phong gật đầu, nghĩ bụng: Đoàn Chính Thuần do bộ thuộc đưa đi rồi, Nguyễn Tinh Trúc ba người tuy huyệt đạo bị đóng nhưng chỉ sau vài giờ sẽ tự động giải khai, những người đó mình không cần để ý tới làm gì. Mã phu nhân nói:

- Ta nói hết cho ngươi nghe rồi, ngươi ... ngươi mau mau giết ta đi.

Tiêu Phong nói:

- Bà nói hết rồi, có thật thế không? Muốn chết ư? Cũng chẳng dễ! Muốn sống ư? Cũng khó lắm. Bà vì cớ gì mà lại giết Mã đại ca?

Mã phu nhân mắt lộ hung quang, hậm hực nói:

- Ngươi không hỏi không được hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Đúng thế, không hỏi không được. Ta là một người đàn ông lòng dạ cứng cỏi, không có chuyện thương hại bà đâu.

Mã phu nhân hứ một tiếng nói:

- Ngươi đương nhiên là lòng dạ cứng cỏi rồi, chẳng nói tưởng ta không biết hay sao? Hôm nay ta thành nông nỗi này, cũng đều ở ngươi mà ra. Ngươi ngạo mạn tự đại, là đồ chó má không coi ai vào đâu. Thứ Khất Đan Hồ Lỗ không bằng con chó con heo, ngươi chết xuống mười tám tầng địa ngục, ngày ngày ác quỉ hành hạ ngươi. Dùng mật bôi vào vết thương ta thì có gì mà không dám? Ngươi là đồ chó đẻ, là quân đê tiện... Mụ ta càng chửi càng độc địa, hiển nhiên trong lòng tích súc oán hận đã lâu, không phát tiết không xong, càng chửi càng tuôn ra những lời bẩn thỉu của quân đầu đường xó chợ, có lớp có lang không sao tưởng nổi. Tiêu Phong từ nhỏ đã lăn lộn với bọn Cái Bang, những lời thô tục nghe đã quen tai, mỗi khi uống rượu vào cũng thường cùng bọn ăn mày văng tục văng rác, nhưng bây giờ quả thực không ngờ Mã phu nhân vốn dĩ hết sức tư văn, thanh nhã, lại biết chửi một cách độc địa tàn ác đến thế, toàn những lời trước nay ông chưa từng nghe thấy bao giờ. Ông chẳng nói chẳng rằng, đợi cho bà ta chửi cho sướng miệng, mặt vốn tái mét, chửi bới một hồi càng lúc càng hăng thành đỏ gay, ánh mắt đầy vẻ hả hê. Bà ta chửi thêm một chập nữa, tiếng nói nhỏ dần, sau cùng nói:

- Thằng cẩu tặc Kiều Phong kia, ngươi hại ta đến nước này, để sau này xem quả báo thế nào.

Tiêu Phong bình tĩnh nói:

- Chửi xong chưa?

Mã phu nhân đáp:

- Tạm thời không chửi nữa, để ta nghỉ một chút rồi chửi tiếp. Ngươi là thứ chó đẻ không cha không mẹ, bà còn tí hơi nào là bà còn chửi, chửi không bao giờ thôi.

Tiêu Phong nói:

- Được rồi, bà cứ chửi đi. Lần đầu tiên ta gặp bà là ở nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, lúc đó Mã đại ca đã bị giết rồi, còn trước đó ta không hề biết bà là ai, sao lại bảo là ta hại bà cho nên mới có ngày nay?

Mã phu nhân căm tức đáp:

- Há, ngươi bảo nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích lần đầu tiên gặp ta, chính là câu đó, phải lắm, chính là thế đó. Ngươi tự cao tự đại, ngạo mạn cho rằng mình là người võ công số một trên đời, con mẹ ngươi chứ!

Tiếp theo bà ta lại luôn mồm chửi bới một thôi một hồi không ngừng. Tiêu Phong để cho bà ta tha hồ rủa xả, đến khi không còn hơi sức mới hỏi:

- Chửi đủ chưa?

Mã phu nhân hậm hực đáp:

- Ta không bao giờ đủ cả, ngươi... ngươi là đồ có mắt như mù, dù cho ngươi có là hoàng đế, cũng chẳng đâu vào với đâu nữa là.

Tiêu Phong đáp:

- Đúng thế, dẫu ta có là hoàng đế thì cũng có vào đâu? Ta trước nay có bao giờ cho rằng mình thiên hạ vô địch, mới rồi... mới rồi người kia, võ công cũng còn hơn ta nhiều.

Mã phu nhân chẳng cần biết ông đang nói tới ai, chỉ vẫn xoen xoét chửi bới thêm một chập nữa mới nói:

- Ngươi bảo là ngoài thành Vô Tích là lần đầu thấy mặt ta, hứ, còn hội trăm hoa trong thành Lạc Dương ngươi cũng chưa gặp ta hay sao?

Tiêu Phong ngạc nhiên, Bách Hoa hội trong thành Lạc Dương đã hai năm trước rồi, ông cùng các anh em Cái Bang cùng phó hội, đố quyền uống rượu, một bữa say sưa thoải mái nhưng nào có nhớ đã từng gặp bà ta

lần nào đâu, liền hỏi:

- Lần đó Mã đại ca cũng đến nhưng có đem bà đến gặp ta bao giờ đâu?

Mã phu nhân chửi liền:

- Ngươi là cái thá gì? Chẳng qua chỉ là đầu đảng của bọn ăn mày ăn nhặt chứ có chó gì đâu? Hôm đó trong ngày hội trăm hoa, ta đứng bên cạnh bụi thược dược vàng, bao nhiêu anh hùng hảo hán, có ai không ngơ ngẩn nhìn ta? Có ai nhìn ta mà không hồn vía lên mây? Chỉ có mình ngươi tự cho là anh hùng hảo hán không tham nữ sắc, đến nhìn thẳng cũng chẳng thèm ngó ngàng đến ta. Nếu quả như ngươi không thấy ta thì không nói gì, ta cũng chẳng trách. Ngươi rõ ràng trông thấy, vậy mà thị nhi bất kiến, chỉ đảo mắt qua chẳng thèm ngừng lại chút nào, xem ta có khác gì với bọn con gái ngoài đường? Đồ đạo đức giả, thứ quân vô sỉ mặt dầy không biết thẹn.

Tiêu Phong mới hơi hiểu ra bèn nói:

- Thì ra thế, ta nhớ ra rồi, hôm đó ở bên cạnh khóm thược dược, hình như có vài phụ nữ, lúc đó ta chỉ lo việc uống rượu, hơi đâu mà đi xem mẫu đơn thược dược, đàn ông đàn bà làm gì? Giá thử như bậc nữ lưu anh hiệp tiền bối, ta đương nhiên chạy lại bái kiến. Còn bà là bậc chị dâu, ta không nhìn bà, cũng có gì gọi là đại thất lễ? Cớ sao bà lại hậm hực thù hận về chuyện đó?

Mã phu nhân hầm hầm nhìn ông nói:

- Thế ngươi có mắt không tròng à? Bao nhiêu anh hùng hảo hán vang danh thiên hạ ai cũng nhìn ta từ đầu đến chân ngắm nghía một hồi, bao nhiêu người đức cao vọng trọng, dù không dám nhìn thẳng vào mặt ta, cũng chờ khi người khác không để ý, liếc trộm ta vài cái. Chỉ mình ngươi... hừ, hơn một nghìn đàn ông trong hội trăm hoa, chỉ có mình ngươi từ đầu chí cuối không thèm nhìn ta. Ngươi là đại đầu não của Cái Bang, là anh hùng hảo hán thiên hạ nghe danh. Trong hội Bách Hoa thành Lạc Dương, đàn ông dĩ nhiên ngươi đứng đầu, còn trong đàn bà thì ta là số một, ngươi lại không thèm nhìn ta vài cái thì ta còn cho là mình đẹp được nữa hay không? Hơn nghìn đàn ông kia vì ta mê mẩn tâm thần thì ta cũng có còn hả lòng hả dạ được không?

Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:

- Ta từ nhỏ không thích lẵng nhẵng tán tỉnh đàn bà con gái, tuổi càng lớn càng ít nhìn nữ nhân chứ nào có phải chỉ mình bà đâu. Có người đẹp gấp trăm lần bà, ta lúc đầu cũng không để ý, mãi đến sau này, thì đã chậm mất rồi...

Mã phu nhân rít lên:

- Cái gì? Có con đàn bà đẹp gấp trăm lần ta? Ai thế? Ai thế?

Tiêu Phong đáp:

- Là con gái Đoàn Chính Thuần, chị của A Tử.

Mã phu nhân nhổ toẹt một bãi nước bọt nói:

- Tưởng gì, thứ đàn bà đê tiện nói đến cho bẩn mồm...

Bà ta chưa dứt câu, Tiêu Phong liền nắm ngay tóc nhắc lên giáng xuống sàn một cái thật mạnh nói:

- Ngươi còn nói nửa câu bất kính đối với nàng, hừ, ta sẽ cho ngươi biết tay ta.

Mã phu nhân bị ông lẳng một cái tưởng chừng muốn ngất đi, xương cốt toàn thân kêu lục cục, đột nhiên cất tiếng cười vang nói:

- Hóa ra... hóa ra Kiều đại anh hùng của chúng ta, Kiều đại bang chủ, cũng đã bị con nhỏ đó chài rồi, ha ha, ha ha, tức cười đến chết được. Ngươi mất chức bang chủ Cái Bang liền tính ngay chuyện cưới công chúa Đại Lý làm phò mã. Kiều bang chủ, vậy mà ta tưởng đàn bà nào ngươi cũng không thèm nhìn chứ.

Kiều Phong hai gối nhũn xuống ngồi phịch xuống ghế, chậm rãi nói:

- Ta chỉ mong được nhìn nàng một lần nữa, có điều... có điều... không còn làm sao gặp lại được.

Mã phu nhân cười khẩy nói:

- Sao thế? Ngươi muốn lấy nó, bằng một thân võ công như ngươi mà không lẽ không giành được nó hay sao?

Tiêu Phong lắc đầu không đáp, một hồi lâu sau mới nói:

- Dù có tài cán bằng trời, cũng không giành nàng lại được nữa.

Mã phu nhân mừng lắm, hỏi gặng:

- Sao thế ? Ha ha! Ha ha!

Tiêu Phong nói nhỏ:

- Nàng chết rồi!

Mã phu nhân im bặt, trong lòng hơi hối hận, cảm thấy gã Kiều bang chủ ngạo mạn, tự cao tự đại này có ba phần đáng thương nhưng lập tức đổi thành vui mừng, khuôn mặt càng lúc càng thích chí. Tiêu Phong thấy khuôn mặt rạng rỡ của bà ta liền hiểu ngay, mình càng đau lòng mụ càng sung sướng liền đứng dậy nói:

- Ngươi mưu sát thân phu, chết cũng đáng lắm, còn gì để nói hay không?

Mã phu nhân nghe ông ta định giết mình, đột nhiên sợ hãi, van nài:

- Ngươi... ngươi tha cho ta, đừng giết ta.

Tiêu Phong đáp:

- Được, ta cũng chẳng cần ra tay.

Ông xoay người đi ra. Mã phu nhân thấy ông ta không quay đầu nhìn lại, trong lòng phẫn nộ, lớn tiếng chửi:

- Kiều Phong, đồ chó má, năm xưa ta hận ngươi không thèm nhìn ta lấy một lần, nên mới xúi Mã Đại Nguyên khui gốc tích của ngươi ra. Mã Đại Nguyên nhất định không chịu, ta mới bảo Bạch Thế Kính giết Mã Đại Nguyên. Ngươi... ngươi hôm nay cũng không vì ta xiêu lòng chút nào cả.

Tiêu Phong quay đầu lại, lạnh lùng đáp:

- Ngươi mưu sát thân phu cũng chỉ vì ta không chịu nhìn ngươi ư? Hừ, ngươi bịa ra một chuyện lấy bàn tay che mặt trời như thế, ai mà tin cho được.

Mã phu nhân nói:

- Ta sống chết chỉ trong khoảnh khắc, dối gạt ngươi làm gì nữa? Ngươi coi thường ta, ta còn cách gì khác nữa đâu? Chỉ vì trong lòng ta hận ngươi mà thôi. Không nói gì lũ ăn mày xem ngươi như thần như thánh, khắp thiên hạ còn ai dám động đến ngươi? Thế nhưng trời cao có mắt, xui khiến cho ta hôm đó thấy được di thư của Uông bang chủ trong cái rương sắt của Mã Đại Nguyên. Muốn xem trộm lá thư bên trong mà không làm tổn thương đếu dấu si khằn bên ngoài, rồi lại bỏ trở vào như cũ thật đâu có khó gì? Ta xem lá thư biết được sự tình, ngươi xem trong lòng có sướng không? Ha ha, thật đúng là cơ hội bằng vàng để ta trút nỗi căm hờn, ta phải cho ngươi thân bại danh liệt, không còn ra vẻ ta đây, anh hùng hảo hán gì nữa. Ta mới xúi Mã Đại Nguyên trước mặt mọi người tố cáo ra, để cho ai cũng biết ngươi là giống Khất Đan Hồ Lỗ, không cho ngươi làm bang chủ Cái Bang nữa, khiến ngươi không còn đất sống ở Trung Nguyên, đến mạng cũng khó mà còn giữ được.

Tiêu Phong thấy mụ ta không còn động đậy được nữa, chẳng còn cách gì có thể hại người nhưng những lời ác độc từng câu lọt vào tai, không khỏi lạnh người, hừ một tiếng nói:

- Mã đại ca không nghe lời ngươi nên ngươi giết y chứ gì?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng thế, y đã không những không nghe lời lão nương, ngược lại còn hung hăng chửi ta một trận, bảo là từ nay không cho ra khỏi cửa, nếu như tiết lộ một tiếng thì sẽ băm vằm bà ra. Y trước nay đối với gái này đòi gì được nấy, có bao giờ dám hăng tiết vịt như thế đâu? Ta vốn nào có coi y ra chó gì, vậy mà y dám hỗn với ta như thế thì lão nương phải cho y biết tay. Hơn một tháng sau Bạch Thế Kính đến chơi, hôm đó mười bốn tháng tám, y đến ở lại qua ngày Trung Thu. Y liếc ta một cái, lại một cái nữa, hừ hừ, thằng cha già dê. Ta thả cho thằng chả mấy bận khiến lão dê xồm mê tít. Ta mới bảo cha già dê giết tên vô tích sự Mã Đại Nguyên, y không chịu, ta dọa sẽ kêu lên là y cưỡng gian ta. Lão tặc đó ở bên ngoài lúc nào cũng ra vẻ thiết diện vô tư, thế mà với lão nương, có còn chuyện xấu xa bẩn thỉu nào mà không làm? Ta mới bảo y: Chàng giết Mã Đại Nguyên rồi, tiện thiếp từ nay thuộc về chàng. Nếu không chịu thì chàng chỉ một chưởng đánh tiện thiếp chết tươi là xong. Y đời nào lại bỏ ta được chỉ đành giết Mã Đại Nguyên.

Tiêu Phong thở hắt ra, nói:

- Bạch Thế Kính là một hán tử đanh thép như thế, vậy mà bị hại về tay ngươi. Ngươi... ngươi cũng cho Mã huynh đệ uống Thập Hương Mê Hồn Tán, sau đó mới bảo Bạch Thế Kính bóp nát yết hầu y, giả làm Cô Tô Mộ Dung dùng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ giết y chứ gì?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng thế, ha ha, có gì mà không phải? Có điều Cô Tô Mộ Dung gì gì đó, ta làm sao mà biết, đó là thằng cha già dịch nghĩ ra.

Tiêu Phong gật đầu, Mã phu nhân nói tiếp:

- Ta bảo cha già dê đứng ra tiết lộ thân thế bí mật của ngươi. Ôi, cha già dịch đó vậy mà vẫn còn giữ nghĩa khí, bị ta ép quá, rút dao ra toan tự tận. Được rồi, ta đành tha cho y, đi kiếm thằng cha chết dở sống dở Toàn Quan Thanh. Bà chỉ cho nó ngủ với bà ba đêm là bảo gì nghe nấy, hung hăng vỗ ngực nhận lo liệu mọi việc nhất định thành công. Lão nương tính toán nếu chỉ một mình thằng cha Toàn Quan Thanh thì không lật đổ được ngươi nên mới đi mời Từ trưởng lão ra mặt. Về sau thế nào thì ngươi biết rồi, ta chẳng cần phải nói nữa!

Cái màn bí mật của nghi vấn cuối cùng trong lòng Tiêu Phong thế là đã được vén lên, vì cớ gì mà Toàn Quan Thanh chủ mưu phản mình trong khi Bạch Thế Kính lại bị loạn đảng bắt giữ, bèn hỏi:

- Cái quạt của ta là do Bạch Thế Kính ăn trộm phải không?

Mã phu nhân đáp:

- Không phải thế. Cha già dê nói là bằng giá nào y cũng không làm điều gì không phải với ngươi. Đó là Toàn Quan Thanh dụ được Trần trưởng lão xiêu lòng, đợi ngươi rời khỏi nhà bèn vào phòng ăn cắp đem ra.

Tiêu Phong nói:

- Đoàn cô nương giả làm Bạch Thế Kính, mặc dù không sai một mảy nhưng cũng vì thế mà ngươi nhìn ra sơ hở phải không?

Mã phu nhân lạ lùng hỏi lại:

- Con bé đó là con gái Đoàn Chính Thuần đấy à? Là người trong mộng của ngươi đấy ư? Nó có đẹp thật không?

Tiêu Phong không đáp, ngửng đầu nhìn về phía chân trời xa xa. Mã phu nhân nói:

- Con... con bé đó làm ta sợ đến mất vía, còn nói gì rằm tháng tám, chính là ngày giỗ Mã Đại Nguyên. Thế nhưng về sau ta nói mấy câu hoa nguyệt, nói trăng trên trời vừa tròn vừa sáng, hôm đó cha già dê đáp lại là Cái bánh dầy ở trên người nàng kia, còn tròn hơn trắng hơn trăng trên trời. Ta hỏi con bé đó bánh Trung Thu thích bánh dẻo hay bánh nướng, hôm đó cha già dịch nói là: "Cái bánh dầy trên người nàng, dĩ nhiên là vừa dẻo vừa ngọt hơn mật rồi". Đoàn cô nương trả lời chẳng đâu ra đâu nên lập tức ta nhìn thấy chỗ sơ hở ngay.

Tiêu Phong lập tức hiểu ra tại sao hôm đó Mã phu nhân đột nhiên nói qua chuyện trăng tròn và bánh Trung Thu, thì ra tối hôm mười bốn tháng tám năm ngoái, mụ ta và Bạch Thế Kính thông gian, hai người ăn nói những chuyện nhảm nhí. Mã phu nhân cười sằng sặc nói:

- Kiều Phong, ngươi giả trang thật tệ hết sức, ta vừa biết con nhãi đó là đồ giả mạo, nghĩ lại hình dáng ăn nói của nhà ngươi, hì hì, có gì mà không biết là Kiều Phong? Ta đang muốn giết Đoàn Chính Thuần, mượn luôn tay ngươi làm việc đó.

Tiêu Phong nghiến răng nghiến lợi nói:

- Đoàn cô nương vì nhà ngươi mà chết, món nợ đó ta sẽ tính vào ngươi.

Mã phu nhân đáp:

- Thì chính nó đến đánh lừa ta trước chứ nào có phải ta đến đánh lừa nó đâu, ta bất quá chỉ tương kế tựu kế mà thôi. Nếu như nó chẳng đi tìm ta, đợi đến khi Bạch Thế Kính lên làm bang chủ Cái Bang rồi, ta sẽ có cách khiến cho Cái Bang và họ Đoàn Đại Lý gây thù chuốc oán, gã Đoàn Chính Thuần kia, hừ, sớm muộn rồi cũng không thoát khỏi tay ta.

Tiêu Phong nói:

- Ngươi quả là ác độc! Chồng mình cũng giết, đàn ông đã từng tư tình với ngươi, ngươi cũng giết; cả người không đến nhìn dung mạo ngươi, ngươi cũng muốn giết nữa.

Mã phu nhân đáp:

- Đàn bà đẹp trước mắt, không nhìn thì nhìn gì? Chẳng lẽ ta không đẹp hay sao? Trên đời này chỉ có ngươi là kẻ vờ vịt, là đồ ngụy quân tử.

Mụ ta nói đến điều mình đắc ý hai má đỏ hồng, hết sức phấn chấn, nhưng thể lực càng lúc càng suy, nói được một câu lại thở hổn hển. Tiêu Phong đáp:

- Câu cuối cùng ta hỏi ngươi đây, cái gã "đàn anh đứng đầu" viết thư cho Uông bang chủ là người nào thế? Ngươi đã đọc lá thư đó rồi, hẳn phải biết ai là người thự danh.

Mã phu nhân cười khẩy đáp:

- Ha ha, ha ha, Kiều Phong ơi là Kiều Phong, cuối cùng thì ngươi phải năn nỉ ta hay là ta phải năn nỉ ngươi? Mã Đại Nguyên chết rồi, Từ trưởng lão chết rồi, Triệu Tiền Tôn chết rồi, Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính chết rồi, Đàm công, Đàm bà chết rồi, Trí Quang đại sư núi Thiên Thai cũng chết rồi. Trên đời này bây giờ chỉ còn mình ta và chính "đàn anh đứng đầu" là biết được y là ai thôi.

Tim Tiêu Phong càng đập nhanh hơn, nói:

- Đúng thế, sau cùng Kiều Phong phải cầu khẩn bà, xin phu nhân cho tôi biết tên người đó.

Mã phu nhân đáp:

- Mạng ta chỉ còn trong khoảnh khắc, ngươi có cái gì đền đáp ta không?

Tiêu Phong đáp:

- Nếu sức Kiều mỗ có thể làm được, phu nhân sai bảo chuyện gì cũng nhất quyết tuân hành.

Mã phu nhân mỉm cười đáp:

- Ta còn mong gì nữa? Kiều Phong, ta hận ngươi không đến chăm chú nhìn ta, để đến nỗi gây ra thành bao nhiêu tai họa, ngươi muốn ta cho ngươi biết tên của "đàn anh đứng đầu" cũng không khó khăn gì, chỉ cần ôm ta vào trong lòng, đăm đăm nhìn ta một lúc thật lâu thôi.

Tiêu Phong nhăn tít lông mày lại thực tình không muốn chút nào, thế nhưng quả đúng là trên đời chỉ một mình mụ ta là biết được cái đại bí mật này thôi, mối huyết hải thâm cừu của mình, chỉ toàn nhờ vào nơi miệng bà ta nói ra mấy tiếng, không nói chuyện bà ta bảo mình làm cực kỳ khó khăn, mà dẫu có chuyện cực kỳ xấu xa bỉ ổi, thì cũng phải miễn cưỡng mà làm. Bà ta mạng chỉ còn như mành treo chuông, lúc nào cũng có thể tắt thở, uy hiếp bức bách, lấy lợi mà dụ tất cả đều vô ích. Ông nghĩ thầm: Nếu như ta câu chấp không chịu, một khi bà ta thở hắt ra rồi thì người giết cha giết mẹ ta là ai, từ nay không bao giờ biết được nữa. Ta ôm bà ta nhìn một lát thì đã sao?.

Ông bèn nói:

- Được rồi, ta bằng lòng.

Ông khom người bồng bà ta vào lòng, đôi mắt đăm đăm nhìn vào mặt Mã phu nhân. Lúc đó mặt bà ta đầy vết máu, lại dính tèm lem đất cát bụi bậm, qua một đêm chịu bao nhiêu dày vò đọa đày, dung sắc tiều tụy thật là khó coi. Tiêu Phong ôm bà ta cực kỳ miễn cưỡng, nhìn thấy thần tình như vậy, không khỏi cau mặt lại. Mã phu nhân giận dữ nói:

- Cái gì? Ngươi chán ghét không muốn nhìn ta, phải chăng?

Tiêu Phong đành trả lời cho xuôi:

- Không đâu!

Mấy tiếng đó ông quả không thực lòng, bình thời dù gặp chuyện nguy nan thế nào chăng nữa, cũng không bao giờ ông nói một đằng nghĩ một nẻo nhưng lúc này không còn biết cách nào hơn. Mã phu nhân dịu dàng nói:

- Nếu quả thực chàng không chán ghét thiếp, sao chàng không hôn thiếp một cái đi.

Tiêu Phong nghiêm mặt đáp:

- Không thể nào được. Bà là vợ của Mã đại ca, Tiêu Phong này lấy nghĩa khí làm trọng, có lẽ nào lại giở trò sàm sỡ với vợ góa của anh em bằng hữu bao giờ.

Mã phu nhân nũng nịu nói:

- Chàng bảo chàng giữ nghĩa khí với anh em, thế sao lại ôm thiếp trong lòng...

Ngay lúc đó, bên ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích nói:

- Kiều Phong, ngươi quả là đồ mặt đầy! Giết chết chị ta rồi, lại đến bồng bế tình nhân của cha ta hôn hít mèo mỡ, không biết xấu hay sao?

Chính là tiếng của A Tử. Tiêu Phong tự thấy mình không có điều gì đáng thẹn, bất chấp lời nói lăng nhăng của đứa trẻ vô tri, chẳng thèm để ý nói với Mã phu nhân:

- Bà nói mau, nói cho ta biết "đàn anh đứng đầu" là ai đó?

Mã phu nhân hờn dỗi nói:

- Thiếp bảo chàng nhìn mặt thiếp, chàng lại quay đầu đi là sao?

Thanh âm đầy vẻ kiều mị. A Tử đi vào cười nói:

- Sao đến giờ này ngươi chưa chết? Hình dáng ngươi xấu như ma, có đàn ông nào dám nhìn ngươi nữa?

Mã phu nhân hốt hoảng:

- Cái gì? Ngươi... ngươi bảo ta xấu như ma ư? Gương đâu? Gương đâu? Đưa ta chiếc gương!

Giọng nói cực kỳ kinh hoàng, Tiêu Phong vội giục:

- Nói mau lên, nói mau lên, nói rồi ta sẽ đưa gương cho bà.

A Tử tiện tay cầm chiếc gương dồng sáng choang trên bàn, đưa ra trước mặt Mã phu nhân cười nói:

- Tự ngươi nhìn xem có đẹp hay không thì biết?

Mã phu nhân nhìn vào trong gương, chỉ thấy một khuôn mặt máu me bụi bặm, đầy vẻ hoảng hốt, hung tàn, ác độc, oán hờn, thống khổ, giận dữ, bao nhiêu vẻ xấu xa đều hiện lên trên mi trên mắt, trên môi trên mũi còn đâu là vẻ xinh tươi, e ấp của một tuyệt sắc giai nhân ai gặp cũng đem lòng trìu mến? Bà ta trợn ngược đôi mắt, mở trừng trừng không sao nhắm lại được nữa. Mã phu nhân một đời tự hào về vẻ đẹp của mình, ngờ đâu đến lúc sắp lìa trần lại thấy trong bóng gương một hình ảnh xấu xa đến thế. Tiêu Phong nói:

- A Tử, bỏ kính xuống, đừng chọc tức bà ta nữa.

A Tử cười khanh khách nói:

- Ta muốn cho mụ ta thấy tướng mạo mụ xấu xí đến chừng nào.

Tiêu Phong đáp:

- Ngươi chọc giận bà ấy chết mất thì thật hỡi ôi.

Ông thấy Mã phu nhân không còn cử động, tiếng thở cũng không còn nghe, vội vàng đưa tay thăm mũi hóa ra tắt thở rồi. Tiêu Phong kinh hãi kêu lên:

- Chao ôi! Không xong, mụ ta chết rồi!

Giọng ông hoảng hốt tưởng như đại họa đang đổ xuống. A Tử bĩu môi nói:

- Bộ ngươi thích y thị thật hay sao? Thứ đàn bà như thế chết đi có gì mà phải la lối om sòm.

Tiêu Phong dậm chân đáp:

- Hừ, thứ trẻ con biết gì? Ta cần phải hỏi mụ một chuyện, trên đời này chỉ có một mình mụ biết mà thôi. Nếu ngươi không đến phá bĩnh thì mụ ta đã nói ra rồi.

A Tử kêu lên:

- Trời ơi, hóa ra ta sai quấy ư? Ta làm hỏng việc của ông rồi, phải không?

Tiêu Phong thở dài, nghĩ bụng người chết không thể nào sống lại, có nổi nóng cũng chẳng đi đến đâu, cái con bé A Tử này hoang tàng thành tính, đến cha mẹ cô ta cũng còn chẳng quản chế nổi, huống chi là người ngoài? Ông nể tình A Châu, chuyện gì cũng phải bỏ qua, đành để xác Mã phu nhân xuống giường nói:

- Thôi mình đi!

Ông tra xét bốn bề, trong nhà không còn ai khác, bà lão bộc đã chạy đâu không biết, bèn lấy đồ đánh lửa ra xuống nhà chứa củi châm vào, chỉ chốc lát đã bốc lên ngùn ngụt. Hai người đứng ở bên ngoài thấy lửa từ trong cửa sổ bén ra, Tiêu Phong nói:

- Sao ngươi không về với cha với mẹ mà còn đi đâu?

A Tử đáp:

- Không, không! Ta không về với gia gia , má má đâu. Bọn thủ hạ của ông ấy mỗi khi gặp ta người nào cũng trợn mắt, nghiến răng, hầm hầm giận dữ. Ta xúi cha ta giết chúng đi, gia gia tệ quá chẳng nghe gì cả.

Tiêu Phong nghĩ thầm: Ngươi làm chết Chử Vạn Lý là huynh đệ chí giao, người ta dĩ nhiên phải hận ngươi. Đoàn Chính Thuần lẽ nào vì ngươi mà giết đám bầy tôi trung nghĩa được? Chính ngươi mới tệ, lại nói cha ngươi tệ, đúng là giọng lưỡi trẻ con nói năng tầm bậy tầm bạ. Ông bèn đáp:

- Thôi vậy thì ta đi đây!

Nói xong quay mình đi về hướng bắc. A Tử gọi:

- Này, này! Hượm đã! Chờ ta với!

Tiêu Phong ngừng bước, quay lại hỏi:

- Ngươi đi đâu? Có đi về với sư phụ không?

A Tử đáp:

- Không đâu. Bây giờ ta không về với sư phụ đâu, ta không dám.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Vì cớ gì mà không dám? Lại gây ra chuyện gì rồi?

A Tử đáp:

- Không phải gây chuyện mà là ta lấy một cuốn sách của sư phụ, bây giờ quay về thể nào ông ấy cũng đòi lại. Để đến khi nào ta luyện xong đã, bấy giờ sư phụ có lấy cũng không sao.

Tiêu Phong nói:

- Sách luyện võ công phải không? Nếu là của sư phụ ngươi, ngươi xin ông ta cho đọc một chút, thể nào ông ta chẳng bằng lòng. Hơn nữa nếu ngươi tự luyện sẽ có nhiều chỗ không hiểu rõ, có sư phụ ở bên cạnh chỉ điểm có phải hơn không?

A Tử nhếch môi nói:

- Sư phụ ta bảo không cho là không cho, có năn nỉ cũng bằng thừa.

Tiêu Phong quả thật không ưa nổi cô gái ngược ngạo quen nết này, lại nghĩ sư phụ cô ta Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu ác danh nổi tiếng, chẳng nên dây dưa với hạng người đó bèn nói:

- Được rồi, ngươi muốn làm gì thì làm, ta không can thiệp vào việc của ngươi.

A Tử hỏi:

- Thế ông đi đâu?

Tiêu Phong nhìn căn nhà họ Mã lửa bốc đùng đùng, thở dài một tiếng nói:

- Ta vốn dĩ định đi báo thù, thế nhưng không biết kẻ thù là ai. Đời này kiếp này, mối thù đó đành không trả được.

A Tử kêu lên:

- Ta hiểu rồi, vốn dĩ chỉ Mã phu nhân biết được thôi, tiếc rằng ta chọc tức bà ta chết mất tiêu nên từ nay ông không còn biết được kẻ thù là người nào. Thích thật, thích thật! Kiều bang chủ uy danh lừng lẫy, vậy mà ta làm cho bó chân bó cẳng không làm gì được.

Kiều Phong lườm cô ta, thấy khuôn mặt đầy vẻ hạnh tai lạc họa , vui sướng thích thú, dưới ánh lửa bập bùng chiếu vào, mặt nàng rạng rỡ chẳng khác gì một trái táo vừa chín tới, trông thật dễ thương, có ai ngờ đâu dưới khuôn mặt ngây thơ kia lại ẩn tàng ác ý vô cùng vô tận. Lửa giận bốc lên, ông định tiện tay giáng cho cô ta một cái tát đích đáng nhưng chợt nghĩ lại, trước khi từ trần, A Châu đã từng cầu khẩn mình nhờ chăm sóc cho đứa em gái duy nhất trên đời, bụng bảo dạ: A Châu cả đời chỉ xin mình một chuyện lẽ nào mình lại không theo? Tiểu cô nương này dẫu có là kẻ đại gian đại ác, ta cũng hết sức đưa nàng về đường ngay nẻo chính, huống chi nàng chỉ là một đứa bé con không hiểu chuyện đời, ngang ngược láo lếu!. A Tử mặt câng câng hỏi lại:

- Thì sao? Ông định đánh chết tôi hả? Sao không đánh đi? Chị tôi bị ông đánh chết rồi, giết nốt tôi đi có gì mà không được?

Mấy câu đó chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm vào tim Tiêu Phong, trong lòng chua xót, không biết phải trả lời ra sao, đành quay mặt sấn bước theo con đường tuyết mà đi thẳng. A Tử cười nói:

- Này, chậm lại, ông đi đâu thế?

Tiêu Phong đáp:

- Trung Nguyên không còn là chỗ ta có thể sinh sống được, mối thù giết cha giết mẹ ta không thể báo. Ta định đi ra ngoài biên tái từ nay không quay lại nữa.

A Tử nghiêng nghiêng đầu nói:

- Thế ông đi đường nào?

Tiêu Phong đáp:

- Ta ra Nhạn Môn Quan trước.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì hay lắm, ta cũng định đi Tấn Dương, chính là cùng đường với ông.

Tiêu Phong nói:

- Ngươi đi Tấn Dương để làm gì? Đường sá xa xôi, bé con một thân một mình không nên đi.

A Tử cười đáp:

- Hứ, sợ cái gì đường sá xa xôi? Ta đi từ biển Tinh Tú đến đây còn được, không phải xa hơn à? Ta có ông đi cùng, sao lại bảo là một thân một mình?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Ta không đi cùng với ngươi đâu.

A Tử hỏi:

- Sao thế?

Tiêu Phong đáp:

- Ta là đàn ông, còn ngươi là một cô gái tuổi trẻ, đi lại ngủ nghê thật là bất tiện.

A Tử đáp:

- Nói gì tức cười quá vậy? Ta không thấy bất tiện thì thôi, can chi ông lại thấy bất tiện? Ông cùng tỉ tỉ ta, chẳng phải là một nam một nữ ngày đi đêm ngủ, chung đường chung sá đấy sao?

Tiêu Phong trầm giọng đáp:

- Ta cùng chị cô có ước định hôn nhân, không phải chuyện thường.

A Tử vỗ tay cười nói:

- Trời ơi là trời, thế mà ta nhìn không ra, cứ tưởng chị ta giữ gìn qui củ lắm, có ngờ đâu ông cũng chẳng khác gì gia gia, còn tỉ tỉ cũng chẳng khác gì má má, chưa làm lễ cưới, đã ăn ở với nhau rồi.

Tiêu Phong giận dữ quát lên:

- Chỉ nói láo! Chị ngươi cho đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, ta đối với nàng nghiêm thủ lễ pháp, một niềm kính trọng.

A Tử thở hắt ra:

- Ông la lối quát mắng có ích gì đâu? Chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi. Thôi mình đi chứ?

Tiêu Phong nghe nói chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi, lòng lại chùng xuống dỗ dành:

- Thôi ngươi về Tiểu Kính Hồ với mẹ đi, không chừng kiếm ra chỗ nào tĩnh mịch, luyện thành côn phu trong cuốn sách, sau đó trở về với sư phụ. Đi Tấn Dương chơi có gì thích thú đâu?

A Tử nghiêm mặt đáp:

- Tôi có phải đi chơi đâu, có chuyện quan trọng phải làm đấy chứ!

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Ta không dẫn ngươi đi.

Nói xong ông rảo bước đi thẳng, A Tử thi triển khinh công, lót tót chạy theo, kêu lên:

- Đợi em với! Đợi em với!

Tiêu Phong không ngó ngàng gì tới nàng, cứ lầm lũi mà đi. Một hồi lâu, gió bấc đột nhiên trở mạnh, tuyết lại rơi nữa. Tiêu Phong xông pha gió tuyết rảo bước đi tiếp, nghĩ đến từ nay oán thù chìm sâu đáy biển, đại cừu không còn báo được nữa, trong lòng u uất nhưng chẳng biết làm cách nào trút bầu tâm sự, mối hận lòng đành chịu biết sao hơn.

datlucky_way

23-07-2009 02:45 PM

Hồi 25(a) : Mãng Thương Đạp Tuyết Hành 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Vi vu tuyết thổi mịt mùng,

Ngổn ngang tâm sự biết cùng ai đây.

*

* *

Tiêu Phong đi được khoảng trên mười dặm, thấy bên cạnh đường có một cái miếu nhỏ liền đi vào trong điện, ngồi dựa lưng vào tường đánh một giấc đến hơn hai giờ, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, lại tiếp tục đi về hướng bắc. Đi thêm bốn chục dặm nữa đi đến nơi cửa ải quan yếu của miền bắc là Trường Đài quan. Việc đầu tiên là đi kiếm một quán rượu gọi ngay mười cân rượu trắng, hai cân thịt bò, một con gà quay, một mình ngồi ăn uống. Hết mười cân rồi lại gọi thêm năm cân nữa, còn đang uống dở bỗng nghe tiếng bước chân

một người nào đó đi vào, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Con bé này đến làm mình uống rượu mất hết cả hứng thú. Ông quay mặt đi làm như không nhìn thấy. A Tử mỉm cười, đến ngồi ngay trước bàn đối diện với ông, gọi lớn:

- Điếm gia, điếm gia, đem rượu lên đây!

Một tên hầu bàn vội vàng chạy đến cười nói:

- Tiểu cô nương, cô cũng uống rượu sao?

A Tử mắng liền:

- Cô nương là cô nương, hà cớ gì lại phải thêm một chữ tiểu? Ta sao lại không uống rượu được? Mau đem lên cho ta mười cân rượu trắng trước, sau đó lấy thêm năm cân, còn đồ nhắm lấy hai cân thịt bò, một con gà quay, mau, mau!

Tên tửu bảo le lưỡi một hồi, kêu lên:

- ối mẹ ơi! Cô nương nói thật hay nói chơi, còn bé thế này làm gì mà ăn nhiều vậy?

Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: Cô nương này đang châm chọc ông đó, ông uống gì cô ta uống nấy, ông ăn gì cô ta gọi nấy. A Tử đáp:

- Ai bảo ta còn bé? Bộ ngươi không có mắt hay sao? Hay là ngươi sợ ta ăn uống không tiền trả?

Nói xong lấy một đĩnh bạc trong túi ra, cạch một tiếng vứt ngay lên trên bàn, nói:

- Ta uống không hết, ăn không hết, cho chó ăn không được hay sao? Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?

Tên hầu bàn cười nịnh đáp:

- Dạ! Dạ!

Y lại liếc Tiêu Phong một cái nghĩ thầm: Cô này quả là định gây chuyện, nói bóng nói gió để chửi ông đó. Chỉ một chốc đồ ăn thức uống đã dọn lên, gã tửu bảo đem một cái bát lớn đặt ngay trước mặt cô gái cười nói:

- Cô nương, để tôi rót rượu cho cô nhé!

A Tử gật đầu nói:

- Hay lắm!

Tên tửu bảo liền rót cho cô gái một bát rượu đầy, trong bụng nghĩ thầm: Cô mà uống hết bát rượu này, không lăn quay ra sàn nhà thì mới là lạ. A Tử hai tay bưng bát rượu lên, để vào môi nhắp một ngụm, nhăn mặt nói:

- Cay quá, cay quá! Liệt tửu này khó uống quá. Trên đời này nếu không có mấy đứa ngu xuẩn chịu uống thì rượu các ngươi bán được cho ai?

Người hầu bàn liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy ông trước sau mặc kệ không lý đến không khỏi cười thầm. A Tử lại xé hai chiếc đùi gà, cắn một miếng nói:

- Xì, thịt gì ươn quá!

Tên tửu bảo liền cãi lại:

- Con gà béo ngậy thơm nức mũi thế này, mới sáng nay còn kêu cục cục, thịt mới nguyên nóng sốt, sao lại ươn được?

A Tử nói:

- Hừ, thế thì chắc người mi hôi, hoặc giả khách khứa trong tửu điếm này hôi.

Khi đó ngoài trời bông tuyết đang rơi, trên đường nào có ai, trong quán rượu này chỉ có Tiêu Phong và cô nàng là hai người khách. Tên tửu bảo vội cười:

- Thân thể tôi hôi hám đó, đương nhiên là người tôi hôi rồi. Cô nương ăn nói nên cẩn thận kẻo vô ý mích lòng người khác.

A Tử đáp:

- Thế thì đã sao? Mích lòng người ta không lẽ một chưởng đánh chết ta chăng?

Nói xong cầm đũa gắp một miếng thịt bò, cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên:

- ối trời, sao thịt bò gì chua thế, cái này đâu phải thịt bò mà là thịt người. Các ngươi bán thịt người, bộ đây là hắc điếm hay sao?

Tên tửu bảo quýnh quáng vội nói:

- Chao ôi, cô nương làm ơn làm phước đừng có la ầm lên thế. Thịt này là thịt bò tươi, sao lại bảo là thịt người? Thịt người làm gì mà thớ to như thế? Làm gì mà đỏ au như thế này?

A Tử nói:

- Giỏi nhỉ, ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt người. Ta hỏi ngươi, quán của các ngươi giết bao nhiêu người rồi?

Gã hầu bàn gượng cười đáp:

- Gớm sao cô nương này thích nói bông lơn quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, chúng tôi mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt bao giờ?

A Tử nói:

- Được rồi, giả tỉ như không phải thịt người thì cũng giống gì hôi rình, chỉ có mấy đứa khùng mới chịu ăn. ối chà, giày ta đi trời tuyết sao dơ quá chừng.

Nói rồi cô ta liền cầm một miếng thịt bò xào đang còn bốc hơi thơm phức, chà lên giày bên trái. Mũi giày vốn đầy những bùn bị cô ta quệt đi, một nửa bên liền sạch bùn đất, mỡ màng xoa lên lập tức bóng lộn. Gã tửu bảo thấy cô gái dùng miếng thịt mà đại sư phụ nơi nhà bếp đã dụng công nấu nướng để chùi giày, tiếc hùi hụi, đứng một bên mà luôn mồm suýt soa. A Tử hỏi:

- Ngươi suýt soa gì thế?

Tên hầu bàn đáp:

- Thịt bò xào của tiểu điếm xưa nay vẫn được coi là một tuyệt phẩm của Trường Đài trấn, chung quanh đây một trăm dặm, ai ai nghe tiếng cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi, nuốt nước miếng ừng ực, vậy mà cô nương lại đem dùng chùi giày, cái đó ... cái đó ...

A Tử trừng mắt nhìn y hỏi:

- Cái đó làm sao?

Gã tửu bảo đáp:

- Xem chừng coi nhẹ quá.

A Tử nói:

- Ngươi bảo ta coi nhẹ đôi giày ư? Thịt cũng ở con bò mà ra, da đóng giày cũng ở con bò mà ra, có bên nào nhẹ hơn bên nào đâu. Này, quán đây còn món gì ngon đặc biệt nữa? Nói cho ta nghe thử xem nào.

Tên tửu bảo đáp:

- Món đặc biệt thì dĩ nhiên là có. Có điều giá cả không phải rẻ.

A Tử lấy trong túi ra một thỏi bạc, quăng xuống bàn kêu cạnh một tiếng hỏi lại:

- Bây nhiêu đủ không?

Tên hầu bàn thấy đĩnh bạc đó nặng phải đến năm lượng, dẫu đến hai mâm rượu thịt cũng đủ, vội vàng cười nịnh:

- Đủ chứ, đủ chứ, quá đủ là khác! Những món đặc biệt của tiểu điếm, có cá chép nấu rượu, thịt cừu non xắt lát, thịt heo hầm tương ...

A Tử cướp lời:

- Được lắm, mỗi thứ làm cho ta ba tô.

Tên tửu bảo nói:

- Cô nương nếu muốn nếm thử, chắc là mỗi thứ gọi một tô cũng đủ ...

A Tử mặt sầm xuống nói:

- Ta bảo ba tô là ba tô, việc gì đến ngươi?

Gã hầu bàn vội đáp:

- Dạ, dạ!

Lập tức dài giọng ngân nga kêu xuống:

- Cá chép nấu rượu ba tô! Cừu non xắt lát ba tô ...

Tiêu Phong ở bên cạnh thản nhiên ngồi xem, biết tiểu cô nương này gây chuyện làm phiền gã hầu bàn, cốt để cho mình ở ngoài chõ vào can thiệp nên cứ làm như không nghe không thấy, thản nhiên uống rượu thưởng tuyết. Một hồi sau, thịt cừu bốc hơi nghi ngút bưng lên, A Tử nói:

- Để một bát ở đây, một bát đem qua mời vị gia đài ngồi bên còn một bát nữa để nơi bàn kia. Bên đó cũng dọn đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.

Tên hầu bàn bèn hỏi:

- Bộ có khách sắp đến hay sao?

A Tử trừng mắt nhìn y nói:

- Ngươi sao lắm lời, coi chừng ta cắt lưỡi ngươi đó.

Gã tửu bảo le lưỡi, đùa lại:

- Muốn cắt lưỡi tiểu nhân chỉ e cô nương không đủ bản lãnh.

Tiêu Phong thót ruột, liếc y một cái nghĩ thầm: Bộ ngươi muốn tìm cái chết hay sao? Sao dám ăn nói kiểu đó với con tiểu ma đầu này? Tửu bảo mang thịt cừu lên đặt trên bàn Tiêu Phong, ông chẳng nói chẳng rằng cầm đũa gắp ăn. Lại một lát sau, cá chép nấu rượu, thịt heo kho tương cũng đem lên, mỗi thứ ba tô, một tô đưa cho Tiêu Phong, một tô cho A Tử, còn một tô để riêng một bàn bên cạnh. Tiêu Phong hễ thấy đồ ăn đem tới đều không từ chối, lập tức ăn uống tự nhiên. A Tử mỗi bát chỉ gắp một miếng rồi chê:

- Hôi quá, thịt rữa cả rồi, chỉ đáng cho chó ăn.

Vừa nói vừa cầm thịt cừu, cá chép, thịt heo đem ra chùi giày. Tên hầu bàn tuy sót ruột thật nhưng đành chịu, biết làm sao. Tiêu Phong trông ra ngoài cửa sổ, nghĩ thầm: Con tiểu ma đầu này quả là đáng ghét, để nó lẽo đẽo theo mình thì hậu hoạn không biết đâu lường được. A Châu gửi ta lo cho nó, con này thuộc loại quỉ thành tinh, thị lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến mình phải lo. Chi bằng mình tránh trước là hơn, cứ làm như không thấy. Còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy từ xa trên con đường đầy tuyết một người đi tới. Trời đang mùa đông tháng giá vậy mà y chỉ phong phanh một chiếc áo chùng đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì. Chỉ chốc lát đã đến gần, thấy y chừng bốn mươi tuổi, hai tai đeo hai cái vòng lớn bằng vàng sáng choang, mồm rộng mũi to như mũi lân, hình dáng vừa dữ dằn vừa ngụy bí, hiển nhiên không phải người Trung Thổ. Người đó đi tới trước cửa quán, vén màn bước vào chợt thấy A Tử hơi có vẻ ngạc nhiên nhưng lập tức tỏ ra vui mừng, dường như định nói gì lại thôi, rồi ngồi xuống cái bàn bên cạnh. A Tử nói:

- Có rượu thịt, sao không ăn đi?

Người kia thấy một chiếc bàn bỏ không nhưng bày đầy thức ăn liền nói:

- Để dành cho ta đấy ư? Đa tạ sư muội.

Nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong túi ra một chiếc dao nhỏ, cán vàng, cắt thịt bò ra, lấy tay nhón ăn, ăn vài miếng lại uống một bát rượu, tửu lượng xem ra không dở. Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra gã này cũng là học trò của Tinh Tú Lão Quái. Ông vốn không ưa hình mạo cử chỉ của người kia, nhưng thấy y uống rượu cũng khá nên cảm thấy không đến nỗi hoàn toàn đáng ghét. A Tử thấy y uống cạn một hồ rượu rồi, quay sang nói với gã tửu bảo:

- Lấy chỗ rượu này đem qua cho vị gia đài kia.

Nói xong thò hai tay vào trong bát rượu trước mặt, xoa xoa vài cái, rửa sạch dầu mỡ dính trên tay, sau đó đẩy cái bát ra. Gã hầu bàn nghĩ thầm: Rượu này còn uống thế nào được nữa?. A Tử thấy có vẻ ngần ngại không dám bưng bát rượu đi liền giục:

- Mau bưng qua bên kia, người ta đang đợi.

Gã tửu bảo cười:

- Cô nương có nói chơi không chứ rượu này làm sao uống nữa?

A Tử vênh mặt lên nói:

- Ai bảo là không uống được? Ngươi cho là tay ta dơ phải không? Đã vậy, ngươi uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.

Nói xong thò tay vào túi lấy ra một đĩnh bạc nhỏ chừng một lượng, quẳng xuống bàn. Tên hầu bàn mừng quá nói:

- Uống một hớp được một lượng bạc, thế thì tốt quá. Chẳng nói rượu này cô nương rửa tay qua, mà dẫu có nước rửa chân, tiểu nhân cũng uống.

Nói xong bưng bát rượu lên, nốc ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào trong mồm thật chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ chạm vào lưỡi, gã tửu bảo rát quá chịu không nổi, rống lên một tiếng há hốc mồm, rượu phun tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, kêu toáng lên:

- ối mẹ ơi! Trời ơi là trời! ối mẹ ơi!

Tiêu Phong thấy thần tình y như vậy cũng giật mình kinh hãi, thấy tiếng kêu của y càng lúc càng ú ớ khó nghe hiển nhiên đầu lưỡi đã sưng tấy lên rồi. Trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp chính, đứa quạt lò, cùng những tên hầu bàn khác nghe tiếng kêu đều chạy ra, hỏi rối rít:

- Cái gì thế? Cái gì thế?

Tên tửu bảo hai tay ôm mặt, không còn nói năng gì được nữa, lè lưỡi ra, thấy sưng to bằng ba lần bình thường, màu đen kịt. Tiêu Phong lại càng hoảng hốt: Đây là y bị trúng độc cực mạnh. Con tiểu ma đầu này chỉ nhúng ngón tay vào trong rượu một chốc mà rượu đã độc đến như thế. Mọi người thấy đầu lưỡi của gã hầu bàn quái lạ như vậy ai cũng kinh hoàng, nhốn nháo cả lên:

- Trúng phải chất độc gì vậy?

- Có phải bị rết cắn không?

- Trời ơi, không thể chần chờ, mau mau đi mời thầy thuốc.

Tên tửu bảo giơ tay chỉ A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quì xuống rập đầu lạy như tế sao. A Tử cười nói:

- ấy chết! Ta không dám nhận, ngươi cầu xin ta chuyện gì?

Người hầu bàn ngẩng lên, chỉ chỉ vào miệng mình, rồi lại tiếp tục khấu đầu. A Tử cười hỏi:

- Muốn ta trị cho ngươi, có phải không?

Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào vào người liên tiếp, lại tiếp tục rập đầu, rồi chắp tay vái. A Tử thò tay vào bọc, lấy ra một chiếc dao nhỏ cán vàng, giống hệt chiếc dao của gã mũi lân, một tay nắm sau gáy tên tửu bảo, tay phải múa kim đao, soẹt một tiếng nhỏ đã cắt đứt một khúc lưỡi của y. Người chung quanh thất thanh kêu la, thấy máu tên hầu bàn phun ra như suối, y kinh hãi nhưng máu chảy ra rồi, độc tính liền giảm hẳn, bao nhiêu đau đớn trên đầu lưỡi đều hết ngay, chỉ trong giây lát vết sưng liền xẹp xuống. A Tử lại lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng, búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, máu nơi vết thương liền chảy chậm lại. Tên tửu bảo tuy tức lắm nhưng không dám nổi giận, tạ ơn thì không đành lòng, vẻ mặt cực kỳ ngượng nghịu, chỉ ú ớ:

- Ngươi ... ngươi ...

Đầu lưỡi y đã bị cắt một khúc, nói năng không còn rõ ràng. A Tử thò tay cầm lại đĩnh bạc, cười nói:

- Ta bảo ngươi uống một hớp rượu sẽ cho ngươi một lượng bạc, nhưng vừa rồi ngươi đã nhổ rượu ra rồi, thành thử không tính, ngươi uống lại đi.

Gã hầu bàn xua tay liên tiếp, ú ớ nói:

- Ta ... ta không muốn, ta không uống.

A Tử bỏ đĩnh bạc vào túi, cười nói:

- Thế hồi nãy ngươi bảo sao? Hình như là Muốn cắt lưỡi tiểu nhân ư? Chỉ e cô nương không đủ bản lãnh, có phải không? Thế sao ngươi lại lạy lục ta xin ta cắt lưỡi? Ta hỏi ngươi: Cô nương có đủ bản lãnh không?

Tên tửu bảo bấy giờ mới hiểu ra, tất cả mọi việc chẳng qua chỉ vì mình lỡ lời một câu, trong lòng giận đến cực độ, toan xông lên đánh cho cô nàng một trận nhừ đòn, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người đàn ông cao to hùng tráng, xem ra cùng bọn với cô ta nên cũng khiếp. A Tử lại tiếp:

- Thế ngươi có chịu uống không?

Gã hầu bàn giận dữ đáp:

- Ông ... ông không ...

Y toan chửi mấy câu nhưng chợt nghĩ lại e rằng lại làm cho cô ta nổi nóng, vừa giận vừa sợ, quay mình chạy vào nội đường, không dám thò đầu ra nữa. Bọn chưởng quĩ ai nấy xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử rồi quay trở về chỗ làm, sai một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này thấy tình cảnh vừa rồi, run như cầy sấy, một câu cũng không dám hở môi. Tiêu Phong cực kỳ tức tối: Tên tửu bảo kia chẳng qua chỉ nói đùa một câu, vậy mà ngươi trừng trị y đến chung thân tàn phế, từ nay không còn nói năng rõ ràng được. Mới tí tuổi đầu, hành sự sao lại độc ác đến thế. Chỉ nghe A Tử nói:

- Tửu bảo, đem bát rượu này qua cho vị gia đài kia uống.

Nói xong giơ tay chỉ vào gã mũi lân. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ vào bát rượu, giật nảy mình, đến khi thấy nàng bảo đem qua cho người khác uống, lại càng khiếp vía. A Tử cười nói:

- à, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là muốn tự mình uống chứ gì? Có gì không được, ngươi cứ việc uống đi.

Tên tửu bảo sợ đến mặt xám ngoét, ấp úng:

- Không, không! Tiểu nhân ... tiểu nhân không uống!

A Tử nói:

- Vậy thì mau đem đi.

Tên tửu bảo đáp:

- Vâng! Vâng!

Hai tay trịnh trọng bưng bát rượu, lập cập đi qua bàn bên gã mũi lân ngồi, chỉ sợ sóng sánh đổ ra ngoài, tay run rẩy, lúc bát rượu đặt xuống vẫn còn lạch cạch mãi. Gã mũi lân hai tay bưng bát rượu lên, chăm chăm nhìn, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đem tới gần hơn nữa, cũng không để lại trên bàn. A Tử cười nói:

- Nhị sư ca, sao thế? Tiểu muội mời sư ca uống rượu, sao sư ca nể mặt chút nào?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Bát rượu này độc ghê gớm, người này đương nhiên không để bị khích mà bỏ mạng lãng nhách. Nội công dù cao cường cách mấy cũng khó mà kháng cự lại được chất độc trong rượu này. Ngờ đâu gã mũi lân vẫn chăm chăm nhìn thêm một lát rồi đưa bát lên môi, ùng ục ùng ục uống vào ruột. Tiêu Phong kinh ngạc, nghĩ thầm: Người này không lẽ có nội lực cực kỳ thâm hậu, có thể hóa giải chất kịch độc đó?. Còn đang kinh nghi đã thấy y uống cạn bát rượu, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái lên vạt áo. Tiêu Phong hơi suy nghĩ, hiểu ngay: Đúng rồi, trước khi y uống rượu đã thò hai ngón tay vào, cầm chén một hồi chưa uống, chắc là ngón tay có thuốc giải, hóa tán kịch độc trong rượu. A Tử thấy y uống hết chỗ rượu độc rồi vẻ mặt liền hoảng hốt, gượng cười nói:

- Bản lãnh hóa độc của nhị sư ca tiến bộ thật, quả đáng mừng!

Gã mũi lân không đáp, lại hùng hục ăn uống nhồm nhoàm, chỉ một chốc đồ ăn trên bàn mười phần còn một hai, giơ tay vỗ bụng, đứng lên nói:

- Thôi đi!

A Tử đáp:

- Xin sư ca tự tiện, chúng mình sẽ gặp lại sau.

Tên mũi lân trợn tròn đôi mắt quái dị nói:

- Cái gì mà gặp lại sau? Ngươi phải đi theo ta.

A Tử lắc đầu:

- Tiểu muội không đi.

Cô ta chạy sang bàn Tiêu Phong nói:

- Tiểu muội và vị đại ca này có hẹn trước, phải cùng nhau đi Giang Nam một chuyến.

Gã mũi lân trừng trừng nhìn Tiêu Phong, hỏi lại:

- Thằng cha này là ai?

A Tử đáp:

- Cái gì mà thằng cha với chả thằng mẹ? Sư ca phải nói năng cho lễ phép. Đây là anh rể của tiểu muội, còn tiểu muội là em vợ của anh ấy, hai người là chỗ chí thân.

Gã mũi lân nói:

- Ngươi ra đề mục ta đã làm văn rồi, ngươi phải vâng lời ta. Ngươi định vi phạm môn qui của bản môn chăng?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Thì ra khi A Tử bảo y uống rượu độc, ấy ra ra một thai đố, có ngờ đâu y ngang nhiên tiếp nhận. A Tử đáp:

- Ai bảo là tiểu muội ra đề mục? Sư ca bảo chuyện uống rượu ấy à? Ha ha, cười đến chết được, bát rượu đó là để cho gã tửu bảo uống. Còn đường đường môn hạ Tinh Tú phái, lẽ đâu lại đi uống rượu thừa của một tên hầu bàn? Tên tửu bảo dơ dáy kia uống không chết, sư ca lại uống nữa thì có gì là ghê gớm? Tiểu muội hỏi sư ca, tên xú tửu bảo kia có chết không? Không chứ gì? Đến hạng người đó uống còn được, lẽ nào đề mục lại dễ dàng đến thế?

Câu nói đó quả là cãi chầy cãi cối nhưng muốn vặn lại cô ta cũng không phải dễ. Gã mũi lân cố nén giận nói:

- Sư phụ ra lệnh cho ta dẫn ngươi về, ngươi dám chống lại sư môn chăng?

A Tử cười đáp:

- Sư phụ cưng em lắm, xin nhị sư ca về bẩm lại với sư phụ là tiểu muội trên đường gặp ông anh rể, muốn cùng đi Giang Nam chơi một chuyến, tiện thể tìm mua biếu sư phụ ít món châu báu cổ vật, sau đó sẽ về.

Gã mũi lân lắc đầu:

- Không được, ngươi lấy của sư phụ ...

Nói đến đây y liếc Tiêu Phong dò chừng, dường như sợ tiết lộ chuyện cơ mật, ngừng lại một chút nói tiếp:

- Sư phụ nổi cơn lôi đình, bảo ngươi phải về ngay lập tức.

A Tử năn nỉ:

- Nhị sư ca đã biết sư phụ nổi giận rồi sao còn ép tiểu muội phải trở về, có phải định cho em nếm mùi khổ sở hay sao? Lần sau sư phụ trách mắng nhị sư ca, tiểu muội sẽ không xin xỏ giùm cho đâu nhé!

Câu đó dường như khiến cho gã mũi lân chạnh lòng, lập tức tỏ ra do dự ắt hẳn Tinh Tú Lão Quái có chiều sủng ái cô ta, nói gì sư phụ cũng chiều theo. Y trầm ngâm giây lát nói:

- Nếu ngươi bướng bỉnh không chịu quay về thì đưa cái vật đó cho ta. Ta đem về giao hoàn cho sư phụ để làm bằng, có thế cơn giận của lão nhân gia mới hạ xuống.

A Tử nói:

- Sư huynh nói chi? Cái vật đó là vật gì? Tiểu muội chẳng hiểu gì cả.

Gã mũi lân sầm mặt xuống nói:

- Này sư muội, ta không động thủ mạo phạm ngươi vì nghĩ đến tình nghĩa đồng môn, ngươi phải biết phải biết quấy chứ?

A Tử cười đáp:

- Tiểu muội đương nhiên biết phải biết quấy, sư ca đến ăn nhậu với tiểu muội, cái đó là phải; còn sư ca ép ta quay về gặp sư phụ, cái đó là quấy.

Gã mũi lân nói:

- Vậy ngươi muốn sao? Nếu ngươi không giao lại cái vật đó thì theo ta về.

A Tử đáp:

- Ta không về, cũng chẳng hiểu sư ca nói cái gì. Sư ca muốn có cái gì trên người tiểu muội chăng? Được rồi ...

Nói xong rút trên tóc một cái trâm cài nói:

- Nếu sư ca muốn có vật gì làm tin để giao lại cho sư phụ thì cầm cái châu thoa này vậy.

Gã mũi lân hầm hè:

- Ngươi nhất định ép ta phải ra tay hay sao?

Nói xong y liền tiến lên một bước. A Tử thấy y thản nhiên uống cạn bát rượu độc, bản lãnh sử độc so với mình cao hơn nhiều, đến cả nội lực võ công, không môn gì mình có thể địch với y được. Phái Tinh Tú võ công âm độc tàn ác, đã ra tay là không có nể nang gì, địch nhân trúng đòn không chết cũng trọng thương, bị thương rồi còn phải bị biết bao dày vò, lúc chết thật là thảm khốc. Sư huynh đệ trừ khi tranh đoạt vị thứ cao thấp trong môn phái phải đem tính mạng ra đánh đổi, trước nay không bao giờ cùng nhau sách chiêu luyện quyền vì đã sách chiêu là có hơn thua, đã phân hơn thua ắt có kẻ chết. Thành thử trong đám sư phụ đệ tử với nhau không ai thi diễn công phu bao giờ. Tinh Tú Lão Quái truyền thụ yếu quyết luyện công xong, ai nấy tự mình tu luyện, cao thấp sâu nông chỉ một

mình mình biết, chỉ đến khi đối địch mới biết ai mạnh ai yếu. Cứ theo đúng môn qui của phái Tinh Tú cô ta đã đem độc tửu ra để thử tài đồng môn, ấy là một chuyện hết sức quan trọng, nếu gã mũi lân chịu thua thì mọi sự đều phải để nàng sai khiến, còn đây không do dự uống bát rượu độc vào bụng, nếu A Tử không có cách gì phản bại vi thắng, thì phải nhất nhất nghe lời y, nếu không sẽ bị cái họa sát thân ngay. Cô nàng thấy sự tình gấp gáp, vội nắm tay áo Tiêu Phong, kêu lên:

- Tỉ phu ơi, y định giết em kìa! Tỉ phu cứu em với.

Tiêu Phong thấy cô ta đầu một tiếng tỉ phu, cuối một tiếng tỉ phu, không khỏi thảng thốt, nghĩ đến lời trối trăn của A Châu nên định bụng sẽ đánh đuổi gã mũi lân đi. Thế nhưng vừa ngó qua thấy trên máu me đầy mặt đất, nhớ lại A Tử đối phó với tên hầu bàn độc ác như thế, phải để cho cô nàng chịu ít nhiều đau khổ, bị trừng trị một phen cho đáng kiếp, nên vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ làm như không biết. Gã mũi lân cũng chẳng muốn hạ sát thủ với A Tử, chỉ muốn cô ta biết mình ghê gớm cỡ nào, mất vía một phen mà ngoan ngoãn theo mình về, lập tức vươn tay phải ra chộp ngay cổ tay trái Tiêu Phong. Tiêu Phong thấy vai phải của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, cũng chẳng thèm để ý, để cho y chộp cổ tay. Da cổ tay ông vừa chạm vào vào tay y, liền thấy nóng như than, biết ngay lòng bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, vội vàng vận chân khí lên cổ tay, cười nói:

- Cái gì thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?

Ông đưa tay rót hai bát rượu nói:

- Xin mời!

Gã mũi lân liên tiếp vận nội lực nhưng thấy Tiêu Phong vẫn như không, làm như không hay biết gì cả, nghĩ thầm: Ngươi đừng đắc ý vội, rồi coi độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào. Y bèn nói:

- Uống thì uống, có gì không dám?

Y cầm bát rượu lên, uống ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, đột nhiên một luồng nội tức từ trong ngực dội ngược trở lên, nhịn không nổi Oa lên một tiếng, bao nhiêu rượu phun ra hết khiền cho vạt áo trước ướt đầm đìa, sau đó ho sặc sụa một hồi lâu. Việc xảy ra khiến y kinh hãi thất sắc, nội tức nghịch lưu rõ ràng là do nội lực của đối phương truyền vào thân thể mình, nếu như muốn lấy mạng mình thật dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay Tiêu Phong như có một sức hút thật mạnh, bàn tay y dính chặt vào đó, không cách nào thoát ra được. Gã mũi lân sợ quá, dùng sức dãy dụa, Tiêu Phong ngồi yên không động đậy mà y vẫn chẳng khác gì lay cột đá. Tiêu Phong lại rót bát rượu khác nói:

- Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu, vậy uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay, được chăng?

Gã mũi lân lại cố gắng giựt tay về nhưng không cách nào thoát được, tay trái liền nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chưởng lực chưa đến, Tiêu Phong đã ngửi thấy một mùi tanh tưởi thối tha chẳng khác gì một con cá chết sình, tay phải liền nhẹ nhàng vung lên gạt ra. Chưởng đó gã mũi lân sử dụng toàn lực, ngờ đâu thế đánh đi được nửa chừng, bị đẩy xéo đi, không cách gì có thể thu về được, biết ngay đối phương đã mượn sức khiến cánh tay y không thể nào điều khiển được nữa, đẩy tới đánh mạnh vào vai phải của chính mình, chỉ nghe lốp cốp, khớp xương vai đã bị trật ra rồi. A Tử cười nói:

- Sao nhị sư ca tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhân nhượng gì cả? Tiểu thật muội không hiểu có dụng ý gì?

Gã mũi lân tức giận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải dính cứng vào cổ tay Tiêu Phong rồi, không sao thoát ra được, tay trái đâu đám đánh tiếp, giãy dụa lần thứ ba không thoát, bèn thúc đẩy nội lực, truyền chất độc súc tích trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay địch nhân, lập tức bị dội ngược trở về, lại không chỉ ngừng lại tại thủ chưởng, mà vẫn tiếp tục chạy lên khiến gã cực kỳ kinh hãi vội vàng vận nội lực đề kháng. Thế nhưng luồng nội lực chứa đầy chất độc đó thật chẳng khác nào sóng biển tràn vào sông, chỉ khoảnh khắc đã đến khuỷu tay, rồi chạy thẳng lên nách, từ từ đổ vào lồng ngực. Gã mũi lân làm gì chẳng biết chất độc của mình lợi hại là nhường nào, chỉ cần xâm nhập tâm tạng là chết ngay, khiến y sợ đến mồ hôi đổ ra như tắm, nhỏ tong tỏng xuống sàn nhà. A Tử cười nói:

- Nội công nhị sư ca cao cường thật. Trời đông giá rét thế này, vậy mà vẫn mồ hôi mồ kê đầm đìa, tiểu muội thật bội phục hết sức.

Gã mũi lân còn thì giờ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử, biết mình đường cùng nhưng chẳng lẽ bó tay chịu chết, càng hết sức thúc đẩy nội lực, hi vọng giữ lâu thêm được chút nào hay chút ấy. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này với mình không thù không oán, tuy y ra tay hạ độc thủ với mình trước nhưng cũng chẳng cần giết y làm gì!. Đột nhiên ông thu nội lực về. Gã mũi lân thấy sức hút nơi tay mình không còn nữa, nội lực cùng chất độc đang kề bên tâm tạng lập tức chảy ngược về chưởng tâm, vừa mừng vừa sợ, vội vàng lùi lại hai bước, mặt tái mét không còn giọt máu, thở hồng hộc, nhưng không dám tiến đến gần Tiêu Phong. Y mới rồi chết đi sống lại, thực đúng là đến quỉ môn quan lại quay về. Gã tửu bảo hoàn toàn nào có biết gì, vội đến rót rượu cho y. Gã mũi lân tung ra một chưởng, đánh trúng ngay mặt y, gã hầu bàn chỉ kêu lên được một tiếng, ngã ngửa ra. Tên mũi lân liền chạy vọt ra cửa, chạy thẳng về hướng tây nam, rồi nghe một hồi còi thật mơ hồ, thật sắc nhọn từ xa truyền đến. Tiêu Phong lại coi gã tửu bảo thấy mặt y đen sì, chỉ giây lát đã chết ngay, không khỏi nổi cơn thịnh nộ, quát lên:

- Tên này quả là đáng ghét, ta đã tha mạng cho y, cớ sao lại ra tay giết người?

Ông đẩy bàn toan đuổi theo. A Tử kêu lên:

- Tỉ phu, tỉ phu, ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.

Nếu như A Tử chỉ gọi ông Này, hay Kiều bang chủ, Tiêu đại ca gì đó, Tiêu Phong cũng chẳng thèm nghe đâu, thế nhưng hai tiếng tỉ phu khiến ông nhớ đến A Châu, lòng chua xót hỏi lại:

- Cái gì?

A Tử đáp:

- Nhị sư ca không phải đáng ghét đâu, y ra tay không đả thương được anh, chất độc không thể tán phát, không giết một người không được.

Tiêu Phong biết trong võ công tà phái có một môn gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào địch nhân thì cũng phải đánh con bò con ngựa gì đó, giết chết một con vật, nếu không chất độc chạy ngược trở vào mình, bèn nói:

- Nếu muốn tán độc, sao y không kiếm một con vật mà đánh? Sao lại vô duyên vô cố giết người là sao?

A Tử liếc xác người hầu bàn nằm dưới đất, cười nói:

- Những kẻ ngu độn như thế có khác gì bò ngựa, giết y với giết một con vật cũng vậy thôi.

Cô ta thuận miệng nói ra như một chuyện đương nhiên là thế. Tiêu Phong cảm thấy lạnh người: Con bé này tính tình tàn nhẫn quá, mình lo cho nó làm gì?. Ông thấy người trong quán lại chạy ra, không muốn thêm phiền phức, vội lẻn ra khỏi cửa tiệm chạy về hướng bắc. Ông nghe thấy tiếng bước chân A Tử đuổi theo, lại càng gia tăng cước bộ, chỉ nhảy mấy bước đã bỏ cô ta thật xa, bỗng nghe tiếng A Tử uyển chuyển từ xa vọng tới:

- Tỉ phu ơi, đợi em với, em ... em không theo kịp.

Lúc trước Tiêu Phong đối diện nói chuyện với cô ta, thấy thần tình cử chỉ cô nàng sinh bụng chán ghét, lúc này nghe từ phía sau gọi tới, nghe êm ái chẳng khác gì giọng A Châu lúc sinh thời. Hai người chị em cùng một bọc tuy mới sinh ra đã chia tay, nhưng cùng cha cùng mẹ, nên cách ăn nói, giọng điệu cũng hệt nhau. Tiêu Phong trong lòng rung động, dừng chân quay đầu lại, mắt rưng rưng thấy mờ mờ hình ảnh một thiếu nữ trên tuyết địa chạy tới, thật không khác gì A Châu sống lại. Ông giang cánh tay ra, thốt lên tiếng gọi nho nhỏ:

- A Châu! A Châu!

Chỉ trong giây lát, ông tưởng chừng mình và A Châu đang từ Nhạn Môn Quan quay về Trung Nguyên, đường đi hai người thân mật, má tựa vai kề, rồi một thân hình mềm mại ấm áp sà vào lòng, kêu lên:

- Tỉ phu, sao không đợi em?

Tiêu Phong giật mình choàng tỉnh, giơ tay nhè nhẹ đẩy nàng ra nói:

- Ngươi đi theo ta làm chi?

A Tử nói:

- Tỉ phu đánh đuổi nhị sư ca giúp em, em phải tạ ơn chứ?

Tiêu Phong thản nhiên nói:

- Chẳng cần phải cảm ơn. Cũng chẳng phải ta có ý giúp ngươi mà vì y ra tay đánh ta, ta chỉ tự vệ để khỏi chết dưới tay y.

Nói xong lại quay người bước đi. A Tử chạy lên nắm cánh tay ông, Tiêu Phong hơi nghiêng người, A Tử liền chộp hụt, lỡ trớn ngã xoài về phía trước. Cứ như võ công cô ta ắt có thể tự mình đứng lên được, thế nhưng cô nàng được dịp nhõng nhẽo, ngã xuống rồi, liền nằm luôn trên tuyết, kêu lên:

- ối chao! Đau muốn chết được!

Tiêu Phong biết cô ta giả vờ, nhưng nghe giọng kiều mị của A Tử, trong lòng lại nhớ đến A Châu, cảm thấy thật là êm ái, lập tức quay người, đưa tay nắm cổ áo nàng kéo dậy, thấy cô gái đang mủm mỉm cười. A Tử nói:

- Tỉ phu ơi, chị em xin anh lo lắng cho em, sao anh không nghe lời chị ấy? Em chỉ là một cô gái nhỏ, cô khổ lênh đênh, biết bao nhiêu người định hiếp đáp em, sao anh không ngó ngàng gì tới?

Mấy lời đó nghe thật là thiết tha Tiêu Phong biết là mười phần đến chín là giả dối nhưng vẫn thấy mềm lòng hỏi lại:

- Ngươi theo ta thì được gì? Ta trong lòng u uất, không thiết gì nói chuyện với ai. Ngươi làm chuyện sái quấy thì ta lại ngăn cản.

A Tử đáp:

- Tỉ phu trong lòng u uất có tiểu muội đi theo giúp anh giải sầu, dần dần chẳng khuây khỏa hơn sao? Mỗi khi tỉ phu uống rượu, em sẽ rót rượu cho, khi nào thay quần áo ra, tiểu muội sẽ may vá giặt giũ. Nếu tiểu muội làm gì sai có tỉ phu ngăn cản thì còn gì hơn. Tiểu muội từ bé cha mẹ đã không thèm nuôi, không ai dạy dỗ, việc gì cũng không thông ...

Nói đến đây cô nàng dường như nghẹn ngào, ứa nước mắt. Tiêu Phong nghĩ thầm: Chị em cô này quả là có thiên tài đóng kịch, tài nghệ đánh lừa người khác đã đến mức lô hỏa thuần thanh, thật là cao minh. Cũng may ta đã biết cô ta hành sự độc ác, nên không để mắc mưu. Cô ta định theo mình không biết có mưu tính gì? Hay là sư phụ cô ta sai đến ám hại ta chăng? Ông cảm thấy hơi chột dạ: Hay là kẻ đại cừu của ta có liên quan đến Tinh Tú Lão Quái? Có khi chính là y không chừng?. Nhưng ông lại nghĩ ngay: Tiêu Phong đường đường nam tử, không lẽ lại sợ một đứa con gái nhỏ lén hạ độc thủ hay sao? Chi bằng tương kế tựu kế, cứ cho nó theo để xem nó còn giở trò gì, đâu biết chừng nhờ có nó mà mình báo được mối thù. Ông liền nói:

- Nếu đã thế, ngươi cùng đi với ta. Mình nói trước với nhau, nếu như ngươi giết người đánh người càn rỡ thì ta không tha đâu nhé.

A Tử le lưỡi nói:

- Nếu như người ta hại em trước thì sao? Nếu như người em giết là kẻ xấu thì sao?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Con nhãi con này giảo hoạt lắm, nếu như nó ra tay giết người thể nào chẳng mồm năm miệng mười bảo là người ta đánh nó trước, đối phương rõ ràng là người ngay, nó sẽ bảo là nhận lầm. Ông bèn nói:

- Dù xấu hay tốt ngươi cũng chẳng phải lo đến. Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả, nói đi nói lại, ngươi tuyệt đối không được động thủ với ai.

A Tử vui mừng nói:

- Được rồi, tiểu muội quyết không động thủ, chuyện gì cũng do tỉ phu chống đỡ hết.

Nói rồi thở dài:

- Ôi, anh bất quá chỉ là anh rể mà đã quản thúc em chặt chẽ đến thế. Chị em nếu không chết mà lấy phải anh, chắc còn bị giám sát chặt chẽ đến chừng nào?

Tiêu Phong nổi giận, toan lớn tiếng la rầy một phen nhưng lại cảm thấy đau lòng, thấy ánh mắt A Tử lóe ra đầy vẻ tinh quái, tự hỏi: Mình nói thế sao con bé này lại có vẻ hả hê vậy nhỉ?. Ông nhất thời chưa nghĩ ra nên không để bụng nữa, hăng hái bước đi, được chừng một dặm mới chợt nghĩ ra: Chết rồi! Chắc là cô ta có đại đối đầu, đại cừu nhân đang định gây chuyện nên đánh lừa để cho mình nhận lời bảo vệ cho. Mình bảo Nếu như ngươi đi cùng với ta thì không ai làm gì được ngươi cả thì có nghĩa là nhận lời trông nom cô ả rồi. Thực ra không cần biết cô ta đúng hay sai, dẫu mình chẳng nói ra chăng nữa thì một khi đã ở bên cạnh mình, mình lẽ nào lại để cô ả bị lép vế". Đi thêm một dặm nữa, A Tử nói:

- Tỉ phu ơi! Để em hát cho tỉ phu nghe, được chăng?

Tiêu Phong đã có chủ ý: Dù cô nàng có ý định gì mình cũng nhất định không nghe. Mình càng gắt gao cô ta càng có lợi. Ông bèn đáp:

- Không được.

A Tử nói:

- Thế em ra câu đố để tỉ phu đoán, được chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Không được.

A Tử nói:

- Vậy tỉ phu kể chuyện vui cho em nghe, được chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Không được.

A Tử nói:

- Vậy tỉ phu hát cho em nghe, được chăng?

Tiêu Phong đáp:

- Không được.

Cô ta liên tiếp hỏi đến mười bảy, mười tám câu liền, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi đều nhất nhất cự tuyệt. A Tử lại nói:

- Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng?

Tiêu Phong thuận mồm đáp:

- Không được.

Hai tiếng đó vừa buột mồm liền biết ngay mình nói hớ, cô ta hỏi là Vậy em chẳng thổi địch cho tỉ phu nghe, được chăng? mà lại trả lời Không được, thì hóa ra là mình bắt nàng phải thổi sáo rồi. Ông nói rồi cũng không để ý nữa, nếu ngươi muốn thổi sáo thì cứ thổi đi. A Tử thở dài nói:

- Cái gì cũng không chịu, thật khó chiều quá, nếu nhất định bắt em phải thổi sáo thì cũng đành phải chiều.

Nói xong rút trong tút ra một chiếc địch bằng ngọc. Cái ngọc địch đó ngắn lạ lùng, chỉ dài chừng bảy tấc, toàn thân trắng tinh, bóng lộn thật đẹp đẽ. A Tử đưa lên môi, nhẹ nhàng thổi, một âm thanh sắc nhọn truyền ra thật xa. Mới rồi gã mũi lân bỏ đi, cũng có phát ra một tiếng còi lanh lảnh như thế. Tiếng sáo vốn dĩ nhẹ nhàng êm ái nhưng tiếng từ chiếc địch ngọc này nghe thật thê lương, không có vẻ gì vui thú. Tiêu Phong chỉ hơi suy nghĩ đã biết ngay lý do, trong bụng cười khẩy: Đúng rồi, thì ra ngươi ước định đồng đảng, mai phục chung quanh đâu đây, định tập kích ta, Tiêu mỗ lẽ nào lại sợ cái bọn hồ quần cẩu đảng này? Có điều không có gì thích lắm. Ông biết môn hạ Tinh Tú Lão Quái võ công cực kỳ âm độc, nếu chỉ sơ sẩy một chút là trúng ám toán ngay. Chỉ nghe tiếng địch của A Tử lúc thì cao, lúc thì thấp, như heo bị cắt tiết, như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái xinh xắn hoạt bát như thế, cầm một ống sáo ngọc bóng loáng dễ thương nhưng lại thổi ra một điệu cực kỳ rùng rợn càng làm tăng thêm vẻ tà ác của phái Tinh Tú. Tiêu Phong cứ mặc cô ta vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một đường núi dài và hẹp vắt ngang một đỉnh núi, nghĩ thầm: Địch nhân nếu như phục kích thì hẳn phải ở chỗ này. Quả nhiên lên trên núi rồi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn đằng trước. Cả bốn người đó đều mặc áo dài bằng vải gai màu vàng, phục sứ giống hệt gã mũi lân vừa

gặp trong quán rượu. Bốn người đó không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, trong tay người nào cũng cầm cương trượng dài ngoằng. A Tử không thổi sáo nữa, dừng chân lại, gọi:

- Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca, các vị khỏa cả chứ? Sao thật khéo quá, mọi người ai cũng tụ lại đây là sao?

Tiêu Phong cũng ngừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: Để xem chúng bay giở trò gì?. Trong bốn người, gã đứng đầu là một người trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân đánh giá một hồi rồi mới hỏi:

- Tiểu sư muội khỏe chứ? Ngươi sao lại đả thương nhị sư ca?

A Tử thất kinh kêu lên:

- Nhị sư ca bị thương sao? Ai đả thương thế? Vết thương có nặng hay không?

Người đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp:

- Ngươi còn giả ngây giả dại nữa sao? Nhị sư ca bảo là chính ngươi gọi người đả thương y đó.

Người nói lùn xủn, lại đứng sau cùng, toàn thân bị ba người đứng trước che khuất, Tiêu Phong không nhìn thấy y hình dáng ra sao nhưng nghe y nói năng liến thoắng cũng đủ biết tính tình nóng nảy nhưng cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ biết cánh tay rất khỏe, nhưng vì trời sinh thấp lùn nên muốn tìm cách nổi trội hơn người. A Tử nói:

- Bát sư ca nói gì đó? Nhị sư ca bảo là anh gọi người đánh y sao? Chao ôi, sao anh lại nỡ nào hạ độc thủ? Sư phụ lão nhân gia mà biết thì chẳng thể nào tha thứ cho bát sư ca đâu, không lẽ anh không sợ hay sao?

Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy nhổm lên, tay cầm cương trượng động xuống đá ầm ầm, miệng gào lên:

- Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu.

A Tử nói:

- Cái gì? Là ngươi đánh y chứ nào phải ta đâu! Đúng quá, sư ca thú nhận rồi. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca ba người chính tai nghe thấy nhé, bát sư ca nói là y giết chết nhị sư ca, phải rồi, chắc là bát sư ca dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư ca.

Gã lùn lại gào lên:

- Ai bảo nhị sư ca chết đâu! Y chưa chết, thụ thương đâu phải do Tam Âm Ngô Công Trảo...

A Tử cướp lời:

- Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo sao? Thế hẳn là do Trừu Tủy Chưởng, ngón nghề ruột của bát sư ca, nhị sư ca sơ xẩy không để ý nên bị trúng ám toán, ngươi ... ngươi quả là ghê gớm thật.

Gã lùn càng nổi điên lên, quát lớn:

- Tam sư ca mau động thủ, bắt con tiểu tiện nhân này về, về để bắt lại, xin sư phụ phát lạc, nó ... nó ... nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng biết nói những gì, chẳng đâu ra đâu ...

Giọng y vốn đã khó nghe, lại thêm gấp gáp càng lắp bắp, không hiểu muốn nói gì. Gã mập liền nói:

- Động thủ thì chưa cần, tiểu sư muội xưa nay vốn ngoan ngoãn, chịu nghe lời. Tiểu sư muội, ngươi đi theo bọn ta thôi.

Gã mập đó nói năng chậm rãi, xem ra vẻ người dễ tính. A Tử cười đáp:

- Được rồi, tam sư ca bảo sao thì tiểu muội làm vậy, xưa nay em vẫn nghe lời sư ca.

Gã mập cười khà khà nói:

- Nếu thế thì hay lắm, chúng mình đi thôi.

A Tử đáp:

- Được rồi, xin chư vị cứ tự tiện.

Gã lùn ở phía sau lại rống lên:

- ấy, ấy, chư vị tự tiện là thế nào? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.

A Tử cười nói:

- Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau.

Gã lùn nói:

- Không được! Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta mới xong.

A Tử nói:

- Thế cũng được! Có điều ông anh rể của tiểu muội lại không chịu.

Nói rồi chỉ vào Tiêu Phong. Gã lùn nói:

- Ai là anh rể ngươi? Sao ta không thấy đâu cả?

A Tử cười nói:

- Bát sư ca cũng cao quá nên anh rể tiểu muội cũng không thấy đâu cả.

Chỉ nghe coong một tiếng, cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, thân hình bay vọt lên, cả người lẫn gậy đã vọt qua khỏi đầu ba người đứng trước rơi xuống trước mặt A Tử, quát lên:

- Mau theo bọn ta trở về.

Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào đầu vai cô gái. Gã này tuy lùn tịt nhưng hông to vai nở, nhìn ngang trông cũng khá vạm vỡ, động tác thật là nhanh nhẹn. A Tử không tránh, không né cứ để mặt y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào đầu vai cô ta bỗng y hơi chần chừ rồi ngừng lại, hỏi:

- Ngươi đã dùng nó rồi ư?

A Tử hỏi:

- Dùng cái gì?

Gã lùn đáp:

- Tự nhiên là Thần Mộc Vương Đỉnh ...

Bốn chữ Thần Mộc Vương Đỉnh vừa buột khỏi miệng, ba người kia đã cùng quát lên:

- Bát sư đệ, ngươi nói gì đó?

Thanh âm cực kỳ gay gắt, gã lùn lật đật lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt. Tiêu Phong lập tức suy tính: Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, quyết không phải chuyện đùa. Bọn chúng mai phục nơi đây sao không ra tay mà còn cãi nhau ỏm tỏi, không lẽ sợ không địch lại mình, hay còn đang chờ thêm ngoại viện?. Chỉ thấy gã lùn giơ tay ra nói:

- Đưa đây!

A Tử hỏi lại:

- Đưa cái gì?

Gã lùn đáp:

- Là cái Thần ... Thần ... cái đó đó.

A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói:

- Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.

Câu đó vừa nói ra, ánh mắt cả bốn người liền quay về phía Tiêu Phong, đầy vẻ giận dữ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn này quả là đáng ghét, mình cũng chẳng nên dây dưa với chúng làm chi. Ông chậm rãi đứng lên, bất thần hai chân búng một cái bay vọt qua đầu bốn người kia. Hành động đó vừa kỳ quái, vừa nhanh nhẹn, cả bọn không thấy ông chạy hay cong chân nhún lấy đà, chỉ thấy trước mắt thấp thoáng, gió trên đầu hơi động, Tiêu Phong đã ở phía sau bốn người rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la om sòm, xoay người lại đuổi theo nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng. Bỗng nghe vù một tiếng thật mạnh, một món binh khí nặng nề phóng vào sau lưng. Tiêu Phong không cần quay đầu lại, biết là có người dùng cương trượng ném tới, lật ngược tay trái đón ngay lấy chiếc gậy. Cả bốn người cùng hung hăng quát tháo, lại có thêm hai chiếc cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại đưa tay về sau bắt được. Mỗi chiếc gậy phải đến năm chục cân, cả ba chiếc ở trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân nhưng bước chân ông không chậm lại chút nào, chỉ nghe vụt một tiếng, lại một chiếc nữa ném tới. Chiếc gậy này bay tới tiếng kêu mạnh hơn cả, rõ ràng nặng nề hơn hết ắt hẳn là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Mấy thằng mọi này chẳng biết phải quấy, phải cho chúng biết tay mới được. Ông nghe thấy tiếng gió bay tới sau ót, chỉ còn cách chừng hai thước liền thò tay về sau bắt được. Bốn người ném gậy ra đã tính toán nếu như đối phương tránh né cũng không phải dễ, trong bốn cái thể nào cũng có một hai chiếc gậy trúng vào người chứ đời nào lại để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ đâu Tiêu Phong thản nhiên như không bắt được tất cả, ai nấy vừa kinh hãi vừa tức tối, lập tức lao xao chạy đuổi theo. Tiêu Phong dụ cho chúng chạy theo một quãng, bất thần đứng chựng lại. Bốn gã kia đang ra sức đuổi theo, không hãm kịp lao cả vào người ông, vội vàng đứng lại ai nấy thở hồng hộc. Tiêu Phong theo tiếng gậy ném tới và cách bọn chúng chạy theo biết rằng võ công chỉ bình thường, mỉm cười hỏi:

- Các vị đuổi theo tại hạ có điều gì dạy bảo chăng?

Gã lùn lắp bắp:

- Ngươi ... ngươi ... ngươi là ai? Võ ... võ công ... ngươi thật là ghê gớm.

Tiêu Phong cười đáp:

- Có gì ghê gớm đâu.

Ông vừa nói vừa vận sức vào bàn tay, ấn một cây cương trượng lún xuống dưới tuyết. Sơn đạo đó đất thật cứng, chỉ thấy chiếc gậy ngắn dần, đến khi chỉ còn khoảng hai thước bấy giờ Tiêu Phong mới buông ra, giơ chân phải lên dậm xuống một cái, cả cây gậy liền lún tịt xuống. Bốn người kẻ thì mắt trợn tròn, kẻ thì mồm há hốc. Tiêu Phong cứ từng chiếc một ấn xuống, sau cùng đạp một cái cắm thẳng vào mặt đất. Đến chiếc sau cùng, gã lùn liền nhảy tới, quát lên:

- Chớ có đụng đến binh khí của ta.

Tiêu Phong cười nói:

- Được, trả lại ngươi đây.

Tay phải cầm cương trượng lên, nhắm thẳng vào vách núi phóng một cái, nghe keng một tiếng, chiếc gậy tám thước phải đến năm thước lún vào trong đá. Nơi chiếc gậy cắm vào đá là một vùng đá đen cực kỳ cứng rắn, vậy mà Tiêu Phong ném sâu đến thế, chính ông cũng phải ngạc nhiên bụng bảo dạ: Mấy tháng nay mình có biết bao chuyện ưu phiền, lo lắng mà công phu không sút chút nào, ngược lại còn tiến bộ nhiều là khác. Nửa năm trước e rằng ta ném không được mạnh đến như vậy. Bốn người kia không hẹn mà cùng kêu la rầm rĩ, vẻ mặt hết sức kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi:

- Tỉ phu, công phu đó của anh thật là hay, dạy cho em nhé!

Gã lùn giận dữ nói:

- Ngươi là môn hạ đệ tử phái Tinh Tú sao lại còn đi nhờ người ngoài dạy võ nghệ là thế nào?

A Tử nói:

- Y là anh rể ta đâu có phải người ngoài?

Gã lùn nóng lòng lấy lại binh khí, tung mình nhảy lên, thò tay chộp lấy cây cương trượng. Ngờ đâu Tiêu Phong đã tính toán tài nghệ khinh công của y nông sâu cỡ nào, nơi cương trượng cắm vào vách đá phải cách mặt đất đến một trượng bốn năm thước, bàn tay gã lùn còn cách cây trượng khoảng một thước, chưa chạm được tới nơi. A Tử vỗ tay reo lên:

- Hay lắm, bát sư ca ơi, nếu như anh nhổ được binh khí cầm tay tiểu muội sẽ theo sư ca đi gặp sư phụ liền, nếu không thì đừng hòng.

Gã lùn lần nhảy vừa rồi đã sử dụng hết sức bình sinh, nhưng khinh công y có hạn nên nhảy cao hơn một tấc đã khó khăn biết là chừng nào, nghe A Tử giở giọng khích bác, trong bụng tức lắm, lại phóng mình nhảy lên lần nữa, đầu ngón tay giữa quả nhiên chạm được vào cây trượng. A Tử cười nói:

- Chạm đến không tính, phải nhổ ra được kìa.

Gã lùn cực kỳ giận dữ, công phu so với bình thường tăng vọt lên, hai chân dùng hết sức, tấm thân lùn xủn to bè bè của y liền bung lên, hay tay chộp vội quả nhiên đã nắm được cây gậy rồi. Thế nhưng tới đây thân hình y lủng lẳng giữa trời, lúc lắc đong đưa nhưng không cách nào xuống được. Y hết sức lay chiếc cương trượng nhưng chiếc gậy dài tám thước này đã cắm sâu vào nham thạch đến năm thước, dù có lắc đến ba ngày ba đêm cũng chẳng ăn thua gì, cảnh tượng đó trông thoạt kê biết mấy. Tiêu Phong cười nói:

- Tiêu mỗ xin lỗi không thể chờ được.

Nói xong ông quay bước ra đi. Gã lùn kia bằng giá nào cũng không chịu buông tay, y đối với võ công mình cũng biết thừa, vừa rồi nhảy lên nắm được cây gậy cũng là may lắm, nếu như rơi xuống đất rồi, lần sau nhảy lên khó mà cách nào với tới được. Cây cương trượng đó là món võ khí y hết sức quí mến, nặng cũng vừa, cầm gọn tay, dẫu có đánh cái khác cũng chưa chắc được như thế. Y lay cây gậy mấy lần nhưng không chuyển động chút nào bèn kêu lên:

- Này này, mau bỏ Thần Mộc Vương Đỉnh lại, nếu không thì hậu hoạn không biết đâu mà kể.

Tiêu Phong hỏi:

- Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế?

Ba người đệ tử phái Tinh Tú cùng tiến lên một bước nói:

- Các hạ võ công xuất thần nhập hóa, chúng tôi hết sức bội phục. Cái đỉnh nhỏ kia bản môn coi rất trọng nhưng người ngoài thì chẳng dùng được vào việc gì, mong các hạ giao lại, chúng tôi ắt sẽ hậu tạ.

Tiêu Phong xem bộ dạng bọn họ xem chừng không phải giả dối, cũng không phải mai phục nơi đây để tấn công mình liền nói:

- A Tử, mau đem cái Thần Mộc Vương Đỉnh đưa ra ta coi xem đó là cái gì nào?

A Tử nói:

- Trời ơi, tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi mà? Đưa ra hay không đưa ra là toàn do tỉ phu thôi. Tỉ phu ơi, hay là tỉ phu giữ luôn cho được việc.

Tiêu Phong nghe nói đoán chừng cô ả đã ăn cắp bảo vật của sư môn, bây giờ bảo là giao lại cho mình rồi ắt hẳn muốn đứng ra chịu trận, bèn tương kế tựu kế, cất tiếng cười ha hả nói:

- Ngươi giao cho ta biết bao nhiêu món, ta nào có biết cái nào là Thần Mộc Vương Đỉnh đâu!

Gã lùn đang bông bênh giữa lưng chừng trời, lập tức chõ miệng vào:

- Đó là một cái đỉnh gỗ nho nhỏ, cao chừng sáu tấc màu vàng sậm.

Tiêu Phong kêu lên:

- ồ, cái đó ư? Ta biết rồi, chẳng qua chỉ là một món đồ chơi be bé chứ có dùng làm việc gì được đâu?

Gã lùn nói:

- Ngươi biết gì mà bảo là đồ chơi be bé? Cái mộc đỉnh ...

Y chưa nói hết câu, gã mập đã quát lên:

- Sư đệ chớ có nói nhăng nói càn.

Y quay sang nói với Tiêu Phong:

- Tuy đó chỉ là một món đồ chơi không dùng làm gì được, nhưng là của ... là của ... phụ thân gia sư ban cho, thành thử không thể để mất, xin các hạ làm ơn trả lại cho, chúng tôi cực kỳ cảm kích.

Tiêu Phong đáp:

- Ta tiện tay quăng bỏ, không biết vứt đâu mất rồi, có kiếm lại được không kể cũng khó nói. Nếu các ngươi quả thực muốn lấy lại thì ta phải quay lại Tín Dương kiếm thử xem, có điều đường sá xa xôi, bây giờ quay lại thì thật phiền quá đi mất.

Gã lùng liền láu táu xen vào:

- Quả muốn lắm chứ, sao lại không muốn lấy? Chúng mình mau ... mau ... quay về Tín Dương đi thôi.

Y nói xong liền thả tay rơi xuống, đến binh khí của mình cũng không còn ngó ngàng gì nữa. Tiêu Phong giơ tay vỗ vỗ lên đầu nói:

- Hừ, mấy hôm nay chẳng uống được bao nhiêu rượu, trí nhớ sao kém quá, cái mộc đỉnh nhỏ kia, không biết vứt ở Tín Dương hay ở tại Đại Lý, hừ, không chừng ở Tấn Dương ...

Gã lùn vội kêu lên:

- ấy, ấy, ngươi nói gì đó? Xem lại xem ở Đại Lý hay tại Tấn Dương nào? Thiên nam địa bắc, không phải chuyện đùa đâu nhé!

Gã mập biết Tiêu Phong cố tình gây khó khăn bèn nói:

- Các hạ chẳng cần phải cố tình bỡn cợt làm chi, nếu như chiếc đỉnh đó hoàn hảo trở về, chúng tôi thể nào cũng hậu tạ, quyết không nuốt lời.

Tiêu Phong đột nhiên thất kinh kêu lên:

- Chết rồi, không xong, ta nghĩ ra rồi.

Cả bốn người kinh hãi hỏi dồn:

- Gì thế?

Tiêu Phong đáp:

- Cái mộc đỉnh đó ở nhà Mã phu nhân, mới rồi ta châm lửa, đốt cháy rụi rồi còn đâu, không biết cháy to thế có hỏng mất không?

Gã lùn thất thanh kêu lên:

- Sao lại không hỏng, cái đó ... cái đó ... tam sư ca, tứ sư ca, bây giờ biết làm sao. Ta không biết, sư phụ nếu trách phạt, không liên quan gì đến ta cả. Tiểu sư muội, ngươi đích thân đến bẩm với sư phụ, ta, ta không dám đâu.

A Tử cười nói:

- Tiểu muội nhớ hình như không phải ở nhà Mã phu nhân. Các vị sư ca, tiểu muội xin lỗi, các vị ở đây nói chuyện với tỉ phu.

Nói xong nghiêng người lách qua chen lên trước mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong quay lại giang tay chặn bốn người kia nói:

- Các ngươi nếu nói cho rõ ràng lai lịch Thần Mộc Vương Đỉnh cùng dùng để làm gì không chừng ta sẽ giúp các ngươi đi tìm, nếu không, tại hạ xin lỗi không thể hầu tiếp được.

Gã lùn liên tiếp xoa tay nói:

- Tam sư ca, không còn cách nào khác, chi bằng nói cho y hay cho xong!

Gã mập nói:

- Được, để ta nói cho các hạ hay ...

Tiêu Phong đột nhiên lao mình tới bên cạnh gã lùn, vươn tay chộp luôn vào nách y nói:

- Mình đi tới đằng kia, ta chỉ nghe ngươi nói, không nghe y.

Ông biết rằng gã mập trông mặt mũi thực thà, kỳ thực cực kỳ giảo hoạt, không câu nào nói thật, chỉ có gã lùn tính thẳng lại nhanh mồm nhanh miệng, không quen nói láo. Ông xách gã lùn lên, chạy vọt lên trên vách núi. Vách núi thật là cheo leo, vốn dĩ không thể nào bám víu vào đâu mà trèo lên được, nhưng Tiêu Phong đề khí chạy thẳng lên, chỉ một hơi đã chạy được hơn chục trượng, thấy một mỏm đá thò ra, liền đặt gã lùn ngồi ngay đó, còn mình một chân đứng một chân giơ ra ngoài không nói:

- Ngươi nói ta nghe đi!

Gã lùn ở chỗ giữa lưng chừng trời, đưa mắt nhìn xuống, không khỏi hoa mắt choáng váng, vội nói:

- Mau ... mau thả tôi xuống!

Tiêu Phong cười nói:

- Ngươi tự mình nhảy xuống đi!

Gã lùn đáp:

- Chỉ nói lăng nhăng! Nhảy xuống có mà nát thây!

Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có đôi phần hảo cảm hỏi:

- Ngươi tên là chi?

Gã lùn đáp:

- Ta là Xuất Trần Tử.

Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: Cái tên đó phong nhã quá, chỉ có điều không xứng với thân hình lão huynh chút nào. Ông bèn nói:

- Xin lỗi ta không thể bồi tiếp, gặp lại sau vậy.

Xuất Trần Tử lớn tiếng kêu lên:

- Không được, không được! Trời ôi, ta ... ta ngã xuống thì chết.

Hai tay y bám chặt lấy vách đá, ám vận nội kình định ôm lấy tảng đá nhưng chung quanh chỗ nào cũng trơn tuột, làm gì có chỗ nào mà tựa vào? Võ công y tuy không kém nhưng ở vào chỗ ba mặt chênh vênh như thế này, không khỏi cực kỳ kinh hãi. Tiêu Phong nói:

- Nói mau, Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta bỏ đi đó.

Xuất Trần Tử vội vàng đáp:

- Ta ... ta không nói không được hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Không nói không được, thôi để gặp lại sau vậy.

Xuất Trần Tử vội vàng níu tay áo ông lại nói:

- Để ta nói, để ta nói. Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của môn phái chúng ta, dùng để tu tập Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ có nói là, người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến mất cả hồn vía, nếu thấy tòa Thần Mộc Vương Đỉnh ắt sẽ đập cho tan nát, cái đó ... cái đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ...

Tiêu Phong đã từng nghe đến Hóa Công Đại Pháp từ lâu, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu, bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần phải hỏi thêm, giơ tay cầm ngay nách Xuất Trần Tử, chạy bon bon xuống. Chạy từ trên vách núi dựng đứng xuống, so với chạy lên còn nguy hiểm hơn nhiều, Xuất Trần Tử sợ đến la hét rầm lên, tiếng kêu chưa dứt, hai chân đã chạm đất rồi, mặt tái mét không còn hột máu, hai đầu gối run lập cập. Gã mập hỏi:

- Bát sư đệ, ngươi đã nói chưa?

Xuất Trần Tử hàm răng vẫn còn đánh vào nhau kêu lốp cốp, không nói nên lời. Tiêu Phong quay sang nói với A Tử:

- Đưa ra đây!

A Tử hỏi lại:

- Đưa cái gì?

Tiêu Phong đáp:

- Thần Mộc Vương Đỉnh!

A Tử đáp:

- Thì anh đã chẳng bảo là để ở nhà Mã phu nhân hay sao? Sao lại còn hỏi tiểu muội?

Tiêu Phong ngắm cô gái, thấy nàng eo thon, áo quần mỏng mảnh, bên người xem ra không thể dấu chiếc một đỉnh cao sáu tấc được, nghĩ thầm: Con bé con này tinh quái lắm. Việc môn phái của nó mình vốn không muốn nhúng tay vào, bọn tà ma ngoại đạo này chẳng nên dây dưa để chúng cứ như oan hồn không tan luẩn quẩn bên mình, thật là khó chịu. Ông liền nói:

- Cái vật chi đó Tiêu mỗ có cũng vô ích, không thể nào lấy mà không chịu trả. Các ngươi tin cũng được, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo lỗi vậy.

Nói xong phi thân chạy đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ cả năm người ở lại thật xa. Bọn bốn người kia thấy ông thần uy như thế, đuổi theo thì không dám, còn đang bàn cãi Tiêu Phong đã không biết chạy tận nơi nào. Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm lúc ấy mới tìm được một cái quán ghé vào ăn cơm uống rượu. Chiều tối hôm đó, ông nghỉ lại Chu Vương điếm, vận nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, trong giấc mơ nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi khác, rồi phía đông nam cũng có tiếng đáp lại, tiếng còi chói tai nghe thật ghê rợn, chính là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng đã đến rồi đây, mặc kệ, chẳng việc gì đến mình. Đột nhiên có hai tiếng sáo ti ti vọng lên nghe thật gần, ngay tại trong khách điếm này, rồi có tiếng người nói:

- Dậy đi thôi, đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.

Lại một người khác nói:

- Bắt được rồi ư? Ngươi thử nghĩ thị liệu có sống được chăng?

Người trước nói:

- Làm sao biết được? Đi mau, đi mau!

Rồi có tiếng hai người đẩy cửa sổ, nhảy ra khỏi phòng. Tiêu Phong nghĩ thầm: Lại thêm hai môn hạ đệ tử nữa của phái Tinh Tú, té ra trong cái quán này có hai tên ẩn sẵn nơi đây, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì thành ra mình không biết. Hai đứa đó hỏi nhau A Tử có sống được không, tiểu cô nương này tuy tàn nhẫn độc ác thật nhưng không thể để cho cô nàng bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu. Nghĩ thế ông cũng nhảy ra khỏi phòng đuổi theo. Bỗng nghe tiếng địch nổi lên liên tiếp, chỗ này vừa thổi thì chỗ kia đáp lại, từ từ chuyển qua tây rồi xuống phía nam. Ông theo tiếng địch mà lần theo, chỉ giây lát đã đuổi kịp hai người từ khách điếm đi ra. Ông lặng lẽ theo sát hai gã đó giữ khoảng cách chừng mươi trượng, vượt qua hai ngọn núi thì thấy dưới sơn cốc có một đống lửa. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu xanh biếc trông cực kỳ ngụy bí khác hẳn lửa bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến chỗ đốt lửa, vừa tơi nơi đã quì phục xuống vái lạy. Tiêu Phong rón rén tới gần, ẩn thân sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy chung quanh đám lửa tụ tập đến hơn chục người, ai nấy đều mặc áo gai màu vàng, ánh lửa xanh chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo dài màu tím đứng đó, chính là A Tử. Hai tay nàng đã bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông thật thần bí. Mọi người không ai nói một lời chỉ chăm chăm nhìn ngọn lửa, tay trái để trên ngực, miệng lẩm bẩm không biết đang tụng niệm gì. Tiêu Phong biết rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo nên chẳng thèm để ý. Mới đây ông nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú bàn với nhau :Đại sư ca đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội, nhìn lại hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, động tác thần thái không ai có gì đặc biệt tỏ ra là một kẻ đứng đầu.

Bỗng nghe u u u mấy tiếng địch nhu hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại cùng hướng về phía có tiếng sáo kia khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi, nhưng không thèm quay lại. Tiêu Phong nhìn về phía có tiếng địch thấy một người áo trắng thong dong đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ thoáng một cái đã đến trước đống lửa, đưa một đầu

chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên môi, thổi vào đống lửa một cái, đám lửa lập tức tắt ngúm, rồi đột nhiên bừng lên thật to, nghe bùng một tiếng bay vọt lên trên không phải chừng hơn một trượng, lúc ấy mới từ từ rơi xuống. Mọi người cùng cất tiếng hô to:

- Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, khiến chúng ta ai nấy được một phen mở mắt.

Tiêu Phong nhìn vào gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên, người này đứng đầu cả bọn, tưởng phải là một lão già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, gương mặt xanh mét có ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong mới thấy y phiêu hành đến đây cùng công phu thổi tắt ngọn lửa, biết y nội lực không phải là kém nhưng cung cách thổi ngọn lửa xanh, kế đó bùng lên ắt không phải do nội công mà có lẽ trong ống sáo có để dược liệu dẫn hỏa gì đặc biệt. Gã đó quay sang nói với A Tử:

- Tiểu sư muội, ngươi quả là nở mày nở mặt, vì ngươi mà biết bao nhiêu người phải lao sư động chúng, từ biển Tinh Tú nghìn dặm xa xôi tới tận Trung Nguyên.

datlucky_way

23-07-2009 02:47 PM

Hồi 25(b) : Mãng Thương Đạp Tuyết Hành 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Vi vu tuyết thổi mịt mùng,

Ngổn ngang tâm sự biết cùng ai đây.

*

* *

A Tử đáp:

- Đến cả đại sư ca cũng phải ra tay, tiểu muội quả thực vinh hạnh, thế nhưng nếu biết được cái chỗ dựa của tiểu muội thì e rằng cả bây nhiêu người xem ra chưa phải là đủ.

Gã đại sư huynh kia hỏi:

- Sư muội còn chỗ dựa ư? Không biết kẻ đó là ai thế?

A Tử đáp:

- Chỗ dựa ư, thì phải là gia gia, bá phụ, má má, tỉ phu của tiểu muội chứ còn ai.

Gã đại sư huynh hừ một tiếng nói:

- Sư muội từ tấm bé do sư phụ nuôi dưỡng cho đến lớn khôn, không cha không mẹ, sao tự nhiên lại ở đâu ra lắm thân thích đến thế?

A Tử đáp:

- Trời ơi, có ai mà lại không cha không mẹ, chẳng lẽ nứt trong đá ra hay sao? Có điều tên tuổi của cha mẹ tiểu muội là một đại bí mật không thể để cho mọi người ai cũng biết được đấy thôi.

Gã đại sư huynh hỏi:

- Thế thì cha mẹ của sư muội là ai?

A Tử đáp:

- Nói ra chỉ sợ mọi người sợ mất vía. Sư ca muốn tiểu muội nói ra thì phải mở khóa cho tiểu muội trước đã.

Tên đại sư huynh nói:

- Mở khóa thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng ngươi phải giao Thần Mộc Vương Đỉnh ra trước.

A Tử đáp:

- Vương đỉnh ở trong tay tỉ phu tiểu muội. Tam sư ca, tứ sư ca, thất sư ca, bát sư ca cũng đã đòi tỉ phu tiểu muội đưa ra, tiểu muội còn cách nào hơn được?

Gã đại sư huynh liền quay sang bốn người Tiêu Phong mới gặp lúc ban ngày, hơi mỉm cười, thần sắc ôn hòa nhưng bốn gã kia mặt liền biến sắc, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Xuất Trần Tử lắp bắp:

- Đại ... đại ... đại sư ca, chuyện này không liên quan gì đến sư đệ. Tỉ phu ... của thị tài giỏi quá, chúng tôi ... chúng tôi đuổi theo không kịp.

Gã đại sư huynh nói:

- Tam sư đệ, ngươi nói đi.

Gã mập đáp:

- Dạ, dạ!

Y liền thuật lại gặp Tiêu Phong thế nào, y bắt được bốn cái gậy của họ ra sao, rồi sau đó bắt Xuất Trần Tử đem lên đỉnh núi ép buộc phải nói ra tất cả kể rõ không dám dấu diếm chút nào. Y vốn dĩ hành sự nói năng chậm rãi ra chiều kẻ cả nhưng lúc này giọng run run, chẳng khác gì đang ở vào cảnh đại họa lâm đầu. Xuất Trần Tử ấp úng:

- Sư đệ ... sư đệ ...

Gã đại sư huynh hỏi:

- Ngươi nói những gì nào? Nói lại cho ta nghe.

Xuất Trần Tử đáp:

- Sư đệ ... sư đệ nói ... cái Thần Mộc Vương Đỉnh đó là một trong tam bảo của bản môn, để ... để ... luyện đại pháp đó. Đệ lại nói là sư phụ từng nói người trong võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp của bản môn ai ai cũng bạt hồn bạt vía, nếu như thấy được cái đỉnh thể nào cũng đập cho tan nát. Đệ nói đó là một bảo vật hiếm có trên thế gian, không biết nói sao cho hết ... vì thế nên xin y làm ơn trả lại. Gã đại sư huynh nói:

- Hay lắm! Thế y trả lời sao?

Xuất Trần Tử đáp:

- Y ... y chẳng nói gì cả, chỉ thả sư đệ xuống thôi.

Gã đại sư huynh kia nói:

- Ngươi giỏi lắm! Ngươi nói cho y hay cái Thần Mộc Vương Đỉnh kia dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, lại còn sợ y không biết Hóa Công Đại Pháp là môn gì nên nhấn mạnh hễ võ lâm Trung Nguyên nghe đến tên nó là ai cũng bạt hồn vía. Quả là hay thực, hay thực, chẳng hay y có phải là người trong võ lâm Trung Nguyên không nhỉ? Xuất Trần Tử lắp bắp:

- Sư đệ ... sư đệ ... không biết nữa.

Gã đại sư huynh hỏi vặn lại:

- Có thực là ngươi không biết, hay là ngươi biết?

Giọng y ôn hòa nhưng gã Xuất Trần Tử tính tình bộp chộp kia lại hồn bất phụ thể, hai hàm răng đập vào nhau kêu lách cách, nói:

- Đệ ... lách cách ... đệ ... lách cách ... không ... biết ... lách cách ... nữa.

Tiếng lách cách là do hàm răng y chạm vào nhau, vì y không thể nào giữ cho khỏi kêu được. Gã đại sư huynh hỏi:

- Vậy y có bạt hồn bạt vía không? Hay là chẳng sợ gì cả.

Xuất Trần Tử lập cập đáp:

- Dường như là ... y ...y ... lách cách ...chẳng có gì ... chẳng có vẻ gì ... sợ cả.

Gã đại sư huynh hỏi thêm:

- Ngươi đoán thử xem vì cớ gì y lại không sợ?

Xuất Trần Tử đáp:

- Sư đệ đoán không ra, xin ... xin đại ... sư ca cho biết.

Gã đại sư huynh trả lời:

- Võ nhân Trung Nguyên sợ Hóa Công Đại Pháp của chúng ta lắm, nhưng để luyện môn Hóa Công Đại Pháp này thì không thể không dùng Thần Mộc Vương Đỉnh. Nay tòa Thần Mộc Vương Đỉnh lọt vào tay y rồi, Hóa Công Đại Pháp của chúng ta còn luyện sao được nữa, thành ra y chẳng sợ nữa.

Xuất Trần Tử vội hùa theo:

- Dạ, dạ, đại sư ca minh kiến vạn lý, liệu địch như thần, sư đệ ... sư đệ vạn vạn không thể theo kịp.

Lúc ban ngày Tiêu Phong gặp các môn nhân đệ tử phái Tinh Tú, thấy trong tất cả có gã Xuất Trần Tử này là người tính tình bộc trực hơn cả, đối với y cũng có chút hảo cảm, thấy y sợ đại sư huynh đến như thế, có ý ra tay cứu y, ngờ đâu càng nghe càng thấy y chẳng đâu vào đâu, gã lùn này câu nào câu nấy hèn hạ, nịnh bợ hết chỗ nói. Tiêu Phong liền nghĩ: Gã này không phải là hảo hán tử, y chết hay sống chẳng mắc mớ gì đến ta. Gã đại sư huynh quay sang A Tử hỏi thêm:

- Tiểu sư muội, anh rể ngươi là ai thế?

A Tử đáp:

- Y ư? Nói ra e rằng khiến đại sư huynh phải giật mình.

Gã đại sư huynh nói:

- Ngươi cứ việc nói, nếu quả là một nhân vật anh hùng danh tiếng lừng lẫy, Trích Tinh Tử này sẽ để tâm lưu ý.

Tiêu Phong thấy y tự thông báo đạo hiệu, nghĩ thầm: Trích Tinh Tử! Cái tên nghe lớn lối nhỉ?1 Xem thân pháp y phiêu hành mới rồi, khinh công tuy khá thật nhưng đâu có hơn được Ba Thiên Thạch nước Đại Lý hay Vân Trung Hạc trong Tứ Đại ác Nhân. Lại nghe A Tử nói:

- Y ấy ư? Đại sư ca, trong võ lâm Trung Nguyên thì ai là người đứng đầu?

Gã đại sư huynh Trích Tinh Tử đáp:

- Mọi người đều nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, không lẽ cả hai người này đều là anh rể ngươi hay sao?

Cơn giận Tiêu Phong xông lên nghĩ thầm: Tên tiểu tử này ăn nói lếu láo, để rồi ta cho ngươi biết phải biết quấy. A Tử cười khanh khách nói:

- Đại sư ca ăn nói quả là thú vị, tiểu muội chỉ có một người chị, làm thế nào có hai ông anh rể được?

Trích Tinh Tử mỉm cười đáp:

- Ta nào có biết ngươi chỉ có một người chị. Ôi, dẫu quả chỉ có một tỉ tỉ nhưng có đến hai ông anh rể cũng có gì là lạ lùng đâu.

A Tử nói:

- Tỉ phu của tiểu muội tính nóng lắm, lần sau nếu gặp lại anh ta, nếu tiểu muội nhắc lại câu nói của đại sư ca cho y nghe thì sư ca hẳn sẽ phải khổ thân. Tiểu muội nói cho sư ca nghe, tỉ phu của tiểu muội là bang chủ Cái Bang, uy chấn Trung Nguyên Bắc Kiều Phong đó.

Lời đó vừa nói ra, những người trong phái Tinh Tú đã từng gặp Tiêu Phong ai nấy kinh hoàng, nhịn không nổi cùng A lên một tiếng. Gã mũi lân nhị sư ca nói:

- Thảo nào! Thảo nào! Thua dưới tay y ta cũng đành lòng.

Trích Tinh Tử hơi nhíu mày nói:

- Thần Mộc Vương Đỉnh rơi vào tay Cái Bang thì kể cũng khó xoay sở.

Xuất Trần Tử tuy sợ hãi lắm nhưng cái tính lanh chanh cũng không chừa liền chõ mồm vào:

- Đại sư ca, gã Kiều Phong kia không còn làm bang chủ Cái Bang nữa, sư ca mới ở phương tây qua chắc là chưa nghe chuyện đại sự mới đây của võ lâm Trung Nguyên. Gã Kiều Phong kia, gã Kiều Phong kia đã bị bọn Cái Bang trục xuất ra khỏi bang rồi.

Việc không liên quan gì đến y ăn nói lại lưu loát hơn nhiều. Trích Tinh Tử thở phào một cái, khuôn mặt đang căng thẳng liền dãn ra, hỏi lại:

- Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Có thật thế không?

Gã mập tam đệ tử liền đáp:

- Trên giang hồ ai cũng nói thế, còn nói y không phải người Hán mà là người Khất Đan, anh hùng Trung Nguyên ai cũng muốn giết y mới hả dạ. Nghe nói người này giết cha, giết mẹ, giết sư phụ, giết bạn bè, hèn hạ đáng khinh, không chuyện ác gì là không làm.

Tiêu Phong ẩn nấp sau sơn thạch, nghe y kể lại những chuyện bất hạnh mình gặp phải trong mấy tháng qua, không khỏi đau lòng, dẫu ông võ công cái thế, can đảm hơn người nhưng thanh danh trên giang hồ tệ mạt như vậy, bị tất cả anh hùng thiên hạ coi khinh, sống trên đời thật là vô vị hết sức. Chỉ nghe Trích Tinh Tử hỏi A Tử:

- Sao chị ngươi lại chịu lấy một đứa như thế? Không lẽ người trên đời này chết hết không còn ai hay sao? Hay là bị y tiên gian hậu thú, cưỡng bức bắt phải làm vợ?

A Tử mỉm cười nói:

- Tại sao lại lấy y, tiểu muội cũng không biết nữa, có điều tỉ tỉ của tiểu muội bị y đánh một chưởng chết tươi.

Mọi người nghe thế đều kinh ngạc A lên một tiếng. Bọn này lòng dạ trơ trơ như gỗ đá, hành sự độc ác nhưng nghe Kiều Phong giết cha, giết mẹ, giết thầy, giết bằng hữu chưa đủ, lại giết cả vợ con, thủ đoạn tàn nhẫn đến như thế thiên hạ quả là hiếm thấy mình quả không thể nào bằng được đành chịu ở vào thế hạ phong. Trích Tinh Tử nói:

- Cái Bang người nhiều thế mạnh quả là không phải dễ đối phó, nay Kiều Phong đã bị trục xuất khỏi bang rồi, mình còn sợ gì y nữa? Ha ha!

Y cười khẩy mấy tiếng nói tiếp:

- Cái gì mà Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, chẳng qua bọn võ lâm Trung Nguyên tự trương bảng huênh hoang, ta chẳng tin rằng hai gã đó lại chống nổi với thần công diệu thuật của phái Tinh Tú chúng ta đâu.

Gã mập liền hùa theo:

- Đúng thế! Đúng thế! Bọn sư đệ cũng nghĩ vậy. Đại sư ca võ công siêu phàm nhập thánh, lần này đến Trung Nguyên, chính là lúc đem hai gã Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung kia giết quách để làm nhụt nhuệ khí võ lâm Trung Nguyên, cho chúng biết phái Tinh Tú lợi hại là dường nào.

Trích Tinh Tử hỏi:

- Tên Kiều Phong kia đi về hướng nào?

A Tử đáp:

- Y nói y định ra ngoài Nhạn Môn Quan, nếu mình cứ đuổi theo thể nào rồi cũng bắt gặp.

Trích Tinh Tử nói:

- Đúng vậy! Nhị, tam, tứ, thất, bát năm vị sư đệ lần này gặp địch để bị thua, các ngươi tội đó tội gì?

Năm người khom lưng đáp:

- Cung lãnh đại sư ca trách phạt.

Trích Tinh Tử nói:

- Bọn chúng ta đến Trung Nguyên, có biết bao nhiêu việc phải làm, nếu cứ tội nào trị nấy thì không khỏi làm giảm số người của mình đi. Ôi, ta xem, thế thì đành ...

Y nói chưa hết câu tay trái đã vung lên, từ trong tay áo bay vụt ra năm đốm lửa màu xanh, chẳng khác gì năm con đom đóm, chia ra bắn vào đầu vai năm người, vừa đụng phải lập tức phát tiếng xèo xèo. Tiêu Phong ngửi thấy mùi khét lẹt của thịt cháy, nghĩ thầm: Tên này gớm thật, không lẽ y thiêu sống mấy người đó hay sao?. Đốm lửa chỉ giây lát liền tắt ngúm nhưng nét đau đớn trên khuôn mặt năm người càng lúc càng khủng khiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: Vật y ném ra là loại hỏa dược có chất lưu hoàng, lân tinh gì đó, xem chừng bên trong còn chứa chất độc, nên khi lửa tắt rồi, độc tính mới lan ra trong thân thể khiến cho càng thêm đau đớn khó chịu. Chỉ nghe Trích Tinh Tử nói:

- Đây là Luyện Tâm Đạn. Các ngươi trải qua một phen mài dũa, tính chịu đựng sẽ tăng thêm, lần sau có gặp kình địch thì chẳng vừa đánh đã chịu thua, làm mất mặt phái Tinh Tú chúng ta.

Gã mũi lân và gã mập cùng đáp:

- Vâng, vâng! Đa tạ đại sư ca giáo huấn.

Ba người còn lại vẫn tiếp tục vận nội lực chống lại cơn đau, không cách gì mở miệng nói năng được. Độ chừng tàn một nén hương, tiếng rên rỉ và tiếng thở hắt ra của năm người lắng xuống dần. Trong thời gian đó những đệ tử phái Tinh Tú đứng nhìn năm người nghiến răng chịu đựng, ai nấy đều kinh hoàng run rẩy. Trích Tinh Tử đưa mắt chầm chậm nhìn sang Xuất Trần Tử nói:

- Bát sư đệ, ngươi tiết lộ chuyện cơ mật trọng đại khiến cho trọng bảo của bản môn có nguy cơ bị hủy diệt, thì phải chịu xử tội thế nào?

Xuất Trần Tử mặt mày biến sắc, đột nhiên hai đầu gối khuỵu xuống, quì dưới đất van xin:

- Đại sư ... đại sư ca, khi đó ... khi đó tiểu đệ hoảng hốt buột miệng khai ra ... xin ... xin sư ca tha mạng, từ nay ... từ nay làm trâu làm ngựa, không dám nửa lời oán trách, không ... không dám để bụng ...

Nói xong y liên tiếp khấu đầu. Trích Tinh Tử thở dài một tiếng nói:

- Bát sư đệ, ngươi với ta là chỗ đồng môn, nếu như tài sức ta có thể làm được thì cũng muốn tha cho ngươi. Có điều ... ôi, nếu như tha cho ngươi lần này thì từ nay còn ai chịu tuân theo giới lệnh của sư phụ nữa? Ngươi ra tay đi vậy! Qui củ của bản môn, ngươi biết rồi, chỉ cần ngươi đánh bại được chấp pháp tôn giả thì bao nhiêu tội nghiệt cũng xóa sạch.

Thôi ngươi đứng lên động thủ đi.

Thế nhưng Xuất Trần Tử đời nào dám đối địch với sư ca? Y vẫn tiếp tục rập đầu binh binh. Trích Tinh Tử nói:

- Nếu như ngươi không chịu ra tay trước thì hãy tiếp chiêu của ta.

Xuất Trần Tử kêu rống lên một tiếng, cúi xuống nhặt luôn hai hòn đá, sử kình ném về phía Trích Tinh Tử, kêu:

- Đại sư ca, tiểu đệ đành đắc tội!

Y lại nhặt hai cục đá khác ném tiếp, đồng thời nhảy vọt về phía đông bắc, nghe vù vù hai tiếng, ném thêm hai cục đá nữa, thân hình trông như trái cầu thịt của y đã chạy ra xa. Y tự biết võ công so với Trích Tinh Tử chênh lệch quá xa, chỉ mong sáu cục đá đó cản y lại được một chút để có dịp đào tẩu rồi từ nay ẩn tính mai danh ngõ hầu môn hạ phái Tinh Tú

không tìm ra được. Cánh tay áo bên phải của Trích Tinh Tử vung lên, phất vào viên đá bay tới trước tiên, cục đá liền quay ngược lại, bắn thẳng vào sau lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: Công phu mượn sức đánh sức của gã này kể cũng khá cao, đây là bản lĩnh chân thực chứ không phải tà pháp. Xuất Trần Tử nghe tiếng gió rít ở phía sau, nhảy qua một bên tránh né, Trích Tinh Tử liền phất cục đá kế tiếp bắn tới, không để cho y kịp thở. Xuất Trần Tử vừa đặt chân xuống đất đã nghe kình phong thổi tới sau lưng, viên đá thứ ba đã tới rồi. Mỗi viên đá lại ép Xuất Trần Tử nhảy về bên trái thêm một bước, sáu bước nhảy xong y đã quay trở lại bên cạnh đống lửa. Chỉ nghe cạch một tiếng, viên đá thứ sáu rơi ở xa xa. Xuất Trần Tử mặt tái mét, lật tay một cái đã rút trong túi ra một con dao găm, đâm thẳng vào ngực mình. Trích Tinh Tử phất nhẹ tay áo, một đốm lửa xanh bắn vào cổ tay y, đốt huyệt đạo nơi đó nghe sèo sèo, bàn tay Xuất Trần Tử lỏng ra, con dao đã rơi xuống đất. Y la lớn:

- Xin đại sư ca mở lòng từ bi! Xin đại sư ca mở lòng từ bi!

Tay áo Trích Tinh Tử lại vung lên, một luồng kình phong bắn vào đống lửa, ngọn lửa liền vươn ra một ngọn lửa nhỏ lao vào người Xuất Trần Tử, vừa chạm phải liền bùng lên lem lém, quần áo đầu tóc liền bốc cháy. Chỉ thấy y lăn lộn trên mặt đất, kêu la thảm thiết nhưng chưa chết ngay, mùi khét lẹt bay ra trông thật kinh hoàng. Người trong môn phái Tinh Tú sợ đến nỗi không dám thở mạnh. Trích Tinh Tử nói:

- Không nghe ai nói gì cả, ôi, các ngươi nghĩ ta ra tay quá độc ác, Xuất Trần Tử chết thật là oan, phải không?

Mọi người vội vàng tranh nhau đáp lời:

- Xuất Trần Tử tội thật đáng chết, đại sư ca giúp y luyện thể hóa cốt, đối với đồng môn quả là nhân chí nghĩa tận.

- Đại sư ca anh minh quyết đoán, xử trí thật là thích đáng, không rộng rãi mà cũng chẳng hẹp hòi, chúng sư đệ hết sức kính phục.

- Tên đó tiết lộ chuyện cơ mật của bản môn khiến cho món chí bảo trong việc luyện công của sư tôn lâm nguy, đáng ra phải lóc da xẻo thịt, để y chịu đựng bảy ngày bảy đêm rồi mới giết chết. Đại sư ca cố giữ nghĩa khí đồng môn, gã có thành ma cũng còn cảm kích ân huệ.

- Bọn chúng ta ai ai cũng có tội, xin đại sư ca khoan dung tha thứ.

Bao nhiêu lời vô sỉ chen lẫn tiếng kêu thảm khốc của Xuất Trần Tử vang vọng trong đêm. Tiêu Phong cảm thấy cực kỳ chán ghét, quay mình, chân phải búng một cái, không một tiếng động đã vọt ra xa hơn hai trượng, đến tài ba như Trích Tinh Tử cũng không hề hay biết. Ông đang định bỏ đi bỗng nghe Trích Tinh Tử cất tiếng dịu dàng hỏi:

- Tiểu sư muội, ngươi ăn trộm bảo đỉnh của sư tôn giao cho người ngoài thì phải chịu tội gì?

Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: E rằng hình phạt A Tử phải chịu so với Xuất Trần Tử còn thảm khốc gấp mười, nếu ta xuôi tay bỏ đi thì lòng dạ đâu yên được?. Nghĩ thế ông quay lại lén lén trở về chỗ ẩn thân khi nãy. Chỉ nghe A Tử đáp:

- Tiểu muội phạm vào qui củ của sư phụ, chuyện đó không sai, nhưng chẳng hay đại sư ca có muốn lấy lại bảo đỉnh hay chăng?

Trích Tinh Tử đáp:

- Đó là một trong tam bảo của bản môn, đương nhiên không thể không thu hồi, làm sao để rơi vào tay người ngoài được?

A Tử nói:

- Tính nết của ông anh rể em không mấy dễ chịu. Cái bảo đỉnh đó do chính tiểu muội giao cho anh ta, nếu như em lên tiếng đòi lại, anh ấy sẽ giao hoàn không sứt mẻ. Còn như người khác hỏi ư, đại sư ca liệu y có chịu giao không?

Trích Tinh Tử hừm một tiếng đáp:

- Cái đó cũng khó nói lắm. Nếu như bảo đỉnh có gì hư hại thì tội nghiệt nhà ngươi càng nặng.

A Tử nói:

- Nếu như các vị đòi y, nhất định y sẽ không giao trả. Đại sư ca võ công tuy cao thật, giỏi lắm cũng chỉ giết được y thôi, còn như muốn thu hồi bảo đỉnh thì thật khó bằng lên trời.

Trích Tinh Tử trầm ngâm rồi đáp:

- Theo như ngươi thì phải làm sao?

A Tử đáp:

- Các vị thả tiểu muội ra để một mình ra ngoài Nhạn Môn Quan nói với tỉ phu trả lại chiếc bảo đỉnh. Cái đó gọi là đái công chuộc tội nhưng đại sư ca phải hứa là sau này không trách phạt gì tiểu muội nữa.

Trích Tinh Tử đáp:

- Lời nói của ngươi nghe cũng có lý. Thế nhưng, cô em nhỏ ơi, nếu làm như thế thì có khác gì bôi tro trát trấu vào mặt người anh này, từ rày về sau ta có còn làm đại sư huynh của phái Tinh Tú nữa được chăng? Ta thả cô ra rồi, cô sẽ cao bay xa chạy, cùng với ông anh rể trốn mất biệt, bóng chim tăm cá ta biết nơi mô mà tìm? Còn cái bảo đỉnh kia, có chí thì nên, cố là phải được, chỉ cần không tiết lậu phong thanh, gã họ Kiều kia chưa chắc đã dám vô cớ hủy đi. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi vậy, chỉ cần ngươi đánh thắng ta thì ngươi sẽ lên là đại sư tỉ của phái Tinh Tú lúc đó ta lại nghe hiệu lệnh của cô, để cô muốn làm gì thì làm.

Tiêu Phong bấy giờ mới rõ: Thì ra thứ bậc trên dưới của bọn chúng là do công phu mạnh yếu mà định chứ không phải nhập môn trước hay sau, thành thử tuy y tuổi còn trẻ mà lại là đại sư huynh, biết bao nhiêu người tuổi lớn hơn y lại là sư đệ. Nếu cứ như thế, nội bộ ắt luôn luôn tranh đoạt tàn sát, còn gì là tình đồng môn, nghĩa anh em nữa?. Ông không biết rằng đó chính là phương pháp của phái Tinh Tú để người sau phải giỏi hơn người trước. Đại sư huynh quyền lực rất lớn, nếu sư đệ bất phục có thể dùng võ lực phản kháng, dùng công phu để định thấp cao. Nếu đại sư huynh đắc thắng thì muốn đánh muốn giết gã sư đệ kia cũng đành chịu, không thể kháng cự. Còn như sư đệ đắc thắng, y lập tức nhảy lên làm đại sư huynh, quay lại xử tử gã đại sư huynh cũ. Sư phụ cũng chỉ chống mắt đứng nhìn, quyết không can thiệp. Vì có qui củ như thế nên ai ai cũng phải nỗ lực tu tập cốt để tự bảo tính mạng của mình, ngoài mặt thì thản nhiên làm như kém cỏi để khỏi bị đại sư huynh nghi ngờ. Xuất Trần Tử cánh tay rất khỏe, cây cương trượng y đúc vừa to vừa dài, vừa nặng, tuy đứng hàng thứ tám nhưng cũng đã khiến cho Trích Tinh Tử đố kỵ, nay nhân cớ này trừ khử y. Người môn phái khác thường chỉ luyện tới một mức nào đó là ngừng lại không còn tiến thêm được nữa, còn môn đệ phái Tinh Tú đến nửa ngày cũng không dám bê trễ, lúc nào cũng phải chuyên cần luyện tập. Đại sư huynh phải dè chừng sợ sư đệ đến khiêu chiến với mình đã đành, đến ngay cả các sư đệ cũng sợ đại sư huynh tìm chuyện đổ lên đầu mình, nếu như công phu luyện đến mức cao, đại sư huynh không chắc ăn thì sẽ không dám gây sự. A Tử nghĩ rằng Trích Tinh Tử sợ mất bảo đỉnh sẽ không dám mạnh tay, nào ngờ y không mắc bẫy, lập tức đòi động thủ khiến cho mặt hoa tái mét, nghe tiếng rên rỉ của Xuất Trần Tử chưa dứt hẳn, cái số phận đó chỉ chớp mắt sẽ đến với mình, đành bậm môi run run nói:

- Chân tay ta đều bị khóa chặt, làm sao động thủ quá chiêu với ngươi được? Nếu như ngươi muốn hại ta sao không dùng cách quang minh chính đại mà lại giở trò đê hèn này?

Trích Tinh Tử đáp:

- Được lắm! Để ta thả ngươi ra.

Y phất tay áo một cái, một luồng kình phong phóng thẳng vào đống lửa. Từ đống lửa một ngọn lửa xanh nhỏ bay ra, chẳng khác gì một tia nước xịt thẳng vào dây xích nối hai tay A Tử. Tiêu Phong nhìn rất kỹ, thấy đốm lửa đó quả không bắn vào người A Tử. Chỉ nghe thấy tiếng xì xì, chẳng bao lâu, hai tay A Tử bung ra, sợi xích đã đứt ngay giữa nhưng hai chiếc vòng vẫn còn ở nơi cổ tay. Ngọn lửa xanh lại thu về, rồi lại phóng tới lần này bắn vào sợi xích dưới chân, chỉ một lát sợi xích đó cũng bị cắt đứt. Tiêu Phong lúc đầu thấy ngọn lửa nung chảy được dây xích không khỏi kinh ngạc nội lực Trích Tinh Tử quả thực ghê gớm, đến lúc nhìn vào ngọn lửa đốt dây xích dưới chân mới thấy rõ, ngọn lửa tới đâu dây xích liền biến sắc, xem ra ngọn lửa này có điều gì cổ quái chứ không phải chỉ thuần nhờ vào nội lực. Các môn đệ phái Tinh Tú không ngớt tấm tắc ca ngợi:

- Nội lực đại sư ca đã đến mức siêu phàm nhập thánh, quả thực kinh người.

- Bọn chúng ta thực thấy chưa từng thấy, nghe chưa từng nghe, đời nay ngoài sư tôn ra, đại sư ca nhất định thiên hạ vô địch.

- Bọn gì Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung có xách dép cho đại sư ca cũng không đáng.

- Tiểu sư muội, ngươi bây giờ đã thấy lợi hại chưa? Thế nhưng có hối hận cũng muộn rồi.

Người này một câu, người kia một câu, tranh nhau nói. Trích Tinh Tử nghe những lời nịnh hót đó, mặt tươi như hoa, khẽ gật gù, liếc mắt nhìn A Tử. A Tử tuy tâm cơ linh xảo nhưng cũng chưa tìm ra cách nào thoát được cái họa trước mắt, chỉ mong bọn chúng nức lòng ca tụng khiến cho Trích Tinh Tử ra tay chậm lúc nào hay lúc nấy nhưng nói qua nói lại một hồi, không còn thêm được ý gì mới mẻ, giọng cũng lắng dần. Trích Tinh Tử chậm rãi nói:

- Tiểu sư muội, ngươi xuất chiêu đi thôi.

A Tử run run đáp:

- Ta không xuất chiêu.

Trích Tinh Tử hỏi lại:

- Vì sao vậy? Ta xem ngươi cử động được rồi mà.

A Tử đáp:

- Ta không đấu với ngươi, biết chắc đánh không lại, việc gì phải phí hơi phí sức? Ngươi muốn giết ta thì cứ giết đi.

Trích Tinh Tử thở dài đáp:

- Ta cũng chẳng muốn giết ngươi làm chi. Một tiểu cô nương xinh đẹp dễ thương như thế, giết đi quả là đáng tiếc, có điều không còn cách nào hơn. Tiểu sư muội, ngươi ra tay đi, ngươi giết được ta thì sẽ trở thành đại sư tỉ. Trong phái Tinh Tú, khi đó ngoài sư phụ ra có ai chẳng phải nghe lời ngươi.

A Tử đáp:

- Ta là một cô gái nhỏ, cả đời cũng không bao giờ hơn ngươi được, có gì phải e ngại mà ngươi lại muốn giết ta.

Trích Tinh Tử thở dài:

- Nếu như ngươi không phạm phải tội tày trời như thế này, ta nhất quyết không bao giờ làm khó ngươi đâu, thế nhưng lúc này ... ôi ... ta thật tiếc không giúp gì được nữa. Tiểu sư muội, tiếp chiêu!

Nói xong y phất tay áo một cái, một luồng kình phong ập vào đống lửa, đẩy một tia lửa xanh từ từ phóng tới cô gái, nhưng dường như chưa muốn giết A Tử ngay nên đốm lửa bay thật chậm. A Tử kinh hãi kêu lên một tiếng, nhảy qua bên trái hai bước. Tia lửa lập tức đuổi theo, A Tử lại lùi một bước nữa, lưng dựa ngay vào tảng đá Tiêu Phong đang náu sau đó. Trích Tinh Tử thúc đẩy nội lực, ngọn lửa lại ép tới, A Tử không còn đường lui đang tính nhảy sang bên cạnh nhưng tay áo Trích Tinh Tử đã múa lên, hai luồng kình phong chia ra tấn công tả hữu khiến cô gái không còn đường chạy nữa trong khi ngọn lửa trước mặt càng lúc càng gần. Tiêu Phong thấy ngọn lửa chỉ còn cách mặt A Tử chừng hai thước, rồi gần thêm một tấc, một tấc nữa bèn nói khẽ:

- Đừng sợ, có ta đến giúp ngươi đây!

Ông vừa nói vừa thò tay từ sau tảng đá ra để vào lưng cô gái, nói:

- Ngươi vận chưởng lực đánh thẳng vào ngọn lửa.

A Tử đang sợ đến mất cả hồn vía, đột nhiên nghe thấy tiếng Tiêu Phong, mừng không sao kể xiết, không kịp suy nghĩ gì liều vung chưởng đánh ra. Khi đó nội lực Tiêu Phong đã truyền vào thân thể cô ta rồi, chưởng đó đánh ra thật là hùng hậu, ngọn lửa xanh liền dội lại hai thước. Trích Tinh Tử hết sức kinh hãi, thấy A Tử đã như cá nằm trên thớt, đang định mãi lộng công phu cho ngọn lửa vờn qua vờn lại trên mặt cô gái, dọa cho kêu la một hồi để hiển thị uy phong trước đám đồng môn lúc đó mới ra tay hạ sát nhưng có ngờ đâu cô ta tuổi còn nhỏ mà nội lực lại mạnh dường ấy, thực ngoài dự liệu. Võ công của phái Tinh Tú, sau khi sư phụ truyền thụ rồi, mỗi người tự tu luyện riêng, cao siêu tới mức độ nào, chỉ đến khi gặp địch hay khi đồng môn tàn sát lẫn nhau mới hiển lộ, ngoài ra không ai biết được. Thành thử khi A Tử một chưởng đánh ra lại có thể dồn cho ngọn lửa dội ngược lại, ai nấy A lên một tiếng, tuy ngạc nhiên nhưng chẳng nghi ngờ có người ám trợ, chỉ nghĩ A Tử thiên tư thông minh tự luyện được công phu cực cao thâm. Trích Tinh Tử vận lực đẩy ra, ngọn lửa xanh lại nhắm ngay mặt A Tử phóng tới, lần này y dùng sức cực kỳ mãnh liệt, thế đi thật nhanh. A Tử hốt hoảng không biết tính sao để ngăn ngọn lửa, vội vàng né qua bên trái. Cũng may lúc này kình lực Trích Tinh Tử dùng chặn hai bên đã hết, nàng vừa né qua, ngọn lửa xanh bắn thẳng vào tảng đá, soẹt soẹt mấy tiếng. Tiêu Phong hạ giọng nói nhỏ:

- Tả chưởng đánh ra cắt đôi ngọn lửa đi.

A Tử nghĩ thầm: Cách này hay quá!, tay trái liền giơ lên, một luồng chưởng lực đẩy vào giữa cắt đứt sợi dây lửa, phần trước không còn tiếp nối phía sau nên chỉ cháy tại tảng đá được một hồi rồi tàn dần. Trích Tinh Tử nghĩ thầm: Nếu để tắt sợi dây lửa này thì ta đã thua một trận trước mặt đồng môn, bao nhiêu uy phong mất sạch còn gì. Nghĩ vậy y bèn thúc đẩy chưởng lực, đưa sợi dây lửa bắn vào tảng đá, định nối lại đầu kia để thu về. A Tử chỉ thấy từ sau lưng nội lực cuồn cuộn đổ vào, nếu không phát tiết chỉ sợ thân mình sẽ nổ tung lập tức vung ta phải đánh thẳng ra. Nội lực Tiêu Phong vô cùng hùng hậu, tuy đổ vào người A Tử uy lực đã giảm nhiều nhưng nếu nàng khéo sử dụng, xuất kỳ bất ý tấn công Trích Tinh Tử thì chỉ một đòn là xong. Có điều nàng chưa hết sợ hãi, chưởng đó lập cập đánh ra, nghe vù một tiếng, ngọn lửa xanh lập tức tắt phụp, tuy thắng thế nhưng không làm Trích Tinh Tử tổn hao chút nào. Việc xảy ra, đám đồng môn phái Tinh Tú ai nấy không khỏi mặt màythất sắc. Riêng gã thất đệ tử chẳng hiểu ngô khoai, ù ù cạc cạc, vẫn tiếptục lên tiếng bợ đỡ:

- Đại sư ca công lực ghê gớm thật, chưởng của tiểu sư muội giỏi lắm cũng chỉ tắt được thần hỏa chứ có làm gì được đại sư ca đâu?

Câu nói đó y bản tâm bốc thơm sư huynh nhưng Trích Tinh Tử nghe vào tai, thật chẳng khác gì châm chọc, đột nhiên phất tay áo một cái, đám lửa tạt qua, nghe suỵt một tiếng, như một mũi tên bắn thẳng vào mặt gã sư đệ. Ngọn lửa chỉ chạm vào rồi lại thu về ngay nhưng gã kia đã hai tay bưng mặt, nhào xuống đất kêu la chẳng khác gì heo bị chọc tiết. Trích Tinh Tử trừng trị gã thất sư đệ rồi tả chưởng liền đánh xéo ra, luồng lửa xanh lại tấn công về phía A Tử. Lần này ngọn lửa to hơn nhiều, tiếng kêu ù ù, chiếu lên khiến cho khuôn mặt cô gái trở thành xanh lè. A Tử đẩy song chưởng ra ngăn chặn, ngọn lửa lập tức ngừng lại trên không, cứ xông tới được một hai tấc, lại lùi về một hai tấc. Trong bóng đêm ngọn lửa trông chẳng khác gì một con rắn dài màu xanh lơ lửng vắt ngang, chỉ hơi uốn éo, màu sắc vừa rực rỡ, lại vừa ngụy bí, ánh sáng khi mờ khi tỏ,lấp lánh bất định. Trích Tinh Tử liên tiếp thôi động chưởng lực ba lần nhưng đều bị A Tử đẩy lui, không khỏi sốt ruột, lại thêm tức tối. Y thúc đẩy thêm hai lần nữa vẫn không đến đâu, một luồng hơi lạnh theo sống lưng chạy dài lên đến cổ: Dư lực ... dư lực ... của con bé này vẫn còn, thì ra nó định đùa rỡn mình, không lẽ sư phụ thiên vị, bí mật truyền công phu thượng thừa của bản môn cho nó? Ta ... ta làm sao chống nổi?. Y nghĩ thế, trong lòng không khỏi hoảng sợ, chưởng lực lập tức yếu đi, con rắn xanh liền quay vụt về đống lửa. Trích Tinh Tử gầm lên một tiếng, chưởng lực mạnh thêm, ngọn lửa biến thành một khối hỏa cầu to bằng cái đấu, bay về phía A Tử. A Tử vội vàng đánh chưởng bên phải ra nhưng không chặn nổi khối cầu lửa, vội vàng đẩy thêm chưởng bên trái, song chưởng hợp lực mới chống đỡ được. Chỉ thấy một cục lửa tròn lung linh trên không chuyển động vô cùng nhanh nhẹn, các đệ tử vội vàng cất tiếng reo hò:

- Đại sư ca công lực thần kỳ, con tiểu a đầu lần này chỉ có chết!

- Tiểu sư muội, ngươi còn hung hăng được nữa thôi? Mau ngoan ngoãn chịu thua, không chừng đại sư ca cũng cho ngươi một con đường sống.

A Tử liên tiếp thúc đẩy chưởng lực, mặc dù sức của Tiêu Phong đưa vào mạnh mẽ thật, nhưng dẫu sao cũng chỉ từ bên ngoài, nàng không thể nào vận dụng được như ý muốn. Trích Tinh Tử cùng nàng cầm cự một hồi liền phát giác được chỗ yếu của cô gái, đột nhiên lông mày dựng lên, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn hai chỉ. Từ đống lửa nghe hai tiếng soẹt soẹt phóng ra hai đốm hỏa hoa, thế đi thật nhanh chẳng khác gì sao băng chia ra hai bên tấn công A Tử. A Tử kêu lên Chao ôi! một tiếng, hai tay nàng đang ngưng tụ chặn hỏa cầu, làm sao chia ra để chống đỡ được? Nàng không còn cách gì hơn đành né sang một bên, nhưng hai đốm lửa dưới sức thôi động của Trích Tinh Tử lập tức đuổi theo. Tiêu Phong thấy A Tử không còn cách nào kháng cự được, lập tức tay trái hơi giơ lên, một luồng chưởng lực nhè nhẹ phóng ra, vừa lúc thân hình A Tử hơi chuyển động, tà thắt lưng tung bay, nhởn nhơ phần phật, hai đốm lửa hoa nhanh nhẹn dị thường bắn ngược trở về Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử sợ đến há mồm trợn mắt, còn đang ngỡ ngàng, hai đốm lửa đã bắn tới người y, vội vàng nhảy vọt lên, một đóa hỏa hoa bay xẹt dưới chân. Hai tên sư đệ liền lên tiếng reo hò:

- Hảo công phu, đại sư huynh quả là giỏi thật.

Tiếng hoan hô chưa dứt, đốm lửa thứ hai đã bắn vào bụng dưới, Trích Tinh Tử còn đang ở trên không, làm sao có thể lên cao hơn được nữa? Chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ, hỏa hoa đã trúng bụng, Trích Tinh Tử rống lên một tiếng, rơi bịch xuống đất, quả cầu liền quay ngay trở lại đống lửa. Các đệ tử nhìn A Tử, ai nấy lộ vẻ kinh hãi, nghĩ thầm: Xem ra tiểu sư muội công lực không phải tệ, đại sư huynh chưa chắc đã thắng, mình chẳng nên reo hò quá đáng. Trích Tinh Tử thần sắc ảm đạm, giơ tay gỡ búi tóc, mái tóc dài liền xõa xuống che mặt, tiếp theo cắn đứt đầu lưỡi, phun một ngụm máu vào đống lửa. Ngọn lửa đang le lói lập tức bùng lên, ánh sáng chói lòa khiến mọi người không mở mắt nổi. Đám đệ tử không nhịn nổi lại reo hò:

- Công lực đại sư ca quả là ghê gớm khiến chúng ta một phen đại khai nhãn giới.

Trích Tinh Tử chẳng khác gì một con vụ thân hình quay tít đến hơn chục vòng, tay áo phất động, bốc đống lửa dướt đất bay lên, chẳng khác gì một bức tường lửa đổ xuống người A Tử. Tiêu Phong biết Trích Tinh Tử đang ngưng tụ công lực bình sinh vào một đòn, sử dụng một tà thuật rất lợi hại. Gã này tuy gian ác thật nhưng với ông không thù không oán, việc gì phải quyết tử với y, lập tức biến chưởng thành trảo, chộp luôn sau lưng A Tử, định kéo nàng chạy đi. Đột nhiên A Tử kêu lên:

- A Châu tỉ tỉ, A Châu tỉ tỉ, đứa em gái đang bị người ta ức hiếp, sao chị không rửa hờn cho em?

Tiêu Phong ngạc nhiên: Sao nàng lại kêu réo A Châu, ta ... ta ... làm sao bỏ đi được?. Tiêu Phong còn hơi chần chừ, khối lửa xanh kia đã đến thật nhanh, dường như muốn chồm lên, liền song chưởng tung ra một luồng kình phong luồn vào tay áo A Tử. Dưới ánh sáng xanh, hai cánh tay áo màu tím phần phật căng phồng, kình lực của Tiêu Phong ra theo, đẩy vào bức tường lửa. Ngọn lửa xanh chựng lại trên không, rồi từ từ tiến trở về phía Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử kinh hãi quá, nghiến răng cắn đầu lưỡi lần nữa, một ngụm máu khác phun vào, lửa lại bừng lên, quay ngược trở lại nhưng chỉ được độ hai thước thì bị nội lực của Tiêu Phong đẩy lui. Bọn đệ tử thấy cánh tay áo A Tử chẳng khác gì một cánh buồm no gió, đều tưởng nội lực vị tiểu sư muội này mạnh quá đỗi, có ai ngờ sau lưng nàng có người ám trợ. Lúc này mặt Trích Tinh Tử tái mét không còn hột máu, cứ từng ngụm từng ngụm máu phun ra. Mỗi lần như thế nội công lại giảm đi một phần nhưng ở vào thế cưỡi hổ rồi chỉ đành còn nước còn tát, cốt sao đốt chết được A Tử sau đó sẽ bỏ đi ngay từ từ tìm cách khôi phục lại nguyên khí, nếu không bọn sư đệ nhìn ra chỗ yếu, thừa cơ dậu đổ bìm leo tiến đến khiêu chiến. Y liên tiếp phun máu ra nhưng đối với nội lực hùng hồn của Tiêu Phong, ngọn lửa đâu có cách gì tiến thêm được lấy nửa thước? Tiêu Phong theo nội kình đối phương mà nhận xét thấy chân khí của y càng lúc càng yếu, dầu cạn đèn khô, liền ngưng khí nói với A Tử:

- Ngươi bảo y chịu thua đi, đừng đấu tiếp nữa.

A Tử kêu lên:

- Đại sư ca, ngươi đấu không lại ta đâu, mau mau quì xuống van xin, ta sẽ tha không giết. Ngươi chịu thua chưa?

Trích Tinh Tử hoảng hốt dị thường, biết mạng mình chỉ còn trong giây lát, nghe A Tử nói thế, vội vàng gật đầu. A Tử hỏi lại:

- Sao ngươi không chịu mở miệng? Ngươi không nói nghĩa là không chịu thua, phải không?

Trích Tinh Tử lại liên tiếp gật đầu, nhưng không sao nói được. Y đang ngưng tụ toàn lực chống đỡ chưởng lực của Tiêu Phong, chỉ vừa há miệng, chân khí thoát ra ngọn lửa biếc sẽ quay ngược về nướng sống y ngay. Các đồng môn thấy thế lập tức nhao nhao lên chửi rủa:

- Trích Tinh Tử, ngươi thua rồi sao chưa quì xuống rập đầu đi?

- Cái thứ bị thịt như ngươi mà ra ngoài thì phái Tinh Tú còn mặt mũi nào nữa?

- Tiểu sư muội khoan hồng đại lượng tha mạng cho ngươi, sao còn bướng bỉnh? Mau mau mở miệng van xin đi thôi.

- Trích Tinh Tử, mười năm trước ta đã biết ngươi là đứa tệ hại nhất trong phái Tinh Tú. Tiểu sư muội hôm nay thanh lý môn hộ, lập được công lớn, quả là đại công thần làm rạng danh bản phái.

- Ngươi âm mưu ám toán sư tôn, toan gia nhập phái Thiếu Lâm, may có tiểu sư muội nhìn thấy gian mưu của ngươi. Ngươi thật đúng là đồ thú vật, vô sỉ không đâu kể xiết.

- Tiểu sư muội thần công cái thế, ngoài sư tôn ra thì sư muội là người tài giỏi nhất, ta đã biết từ lâu rồi.

- Trích Tinh Tử, chính ngươi là đứa ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh, lại dám mở mồm vu vạ cho tiểu sư muội, bộ không muốn sống nữa hay sao?

Tiêu Phong thấy bọn chúng lựa gió đổi chiều, thấy Trích Tinh Tử vừa vào thế hạ phong, lập tức hùa theo nước đục thả câu, mới vừa đây ca tụng đại sư huynh như kẻ anh hùng cái thế, bây giờ thì chửi như trâu như ngựa, thực tư cách không bằng tuồng chó lợn, nghĩ thầm: Tinh Tú Lão Ma thu được bọn đệ tử nhân phẩm kém cỏi thế này, A Tử lăn lộn với chúng từ nhỏ, thảo nào hành vi cũng chẳng ra gì. Ông thấy Trích Tinh Tử thảm hại quá rồi, không nỡ làm quá, nội kình thu về, hai cánh tay áo A Tử lập tức xẹp xuống. Trích Tinh Tử thần sắc thiểu não, thân hình lảo đảo lắc lư, đột nhiên hai gối nhũn đi ngồi phịch xuống đất. A Tử hỏi:

- Đại sư ca sao thế? Phục ta chưa?

Trích Tinh Tử nói nhỏ:

- Ta chịu thua. Ngươi ... ngươi đừng ... đừng gọi ta là đại sư ca nữa, ngươi là đại sư tỉ của tất cả.

Các đệ tử cùng cất tiếng hoan hô:

- Hay thật! Hay thật! Đại sư tỉ võ công cái thế, phái Tinh Tú có truyền nhân như vậy thể nào cũng dương danh.

- Đại sư tỉ mau mau đi giết sạch bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung để phái Tinh Tú chúng ta độc tôn thiên hạ.

Một gã khác liền cãi:

- Ngươi chỉ nói năng tầm bậy! Bắc Kiều Phong là anh rể của sư tỉ, sao lại giết đi?

- Sao lại không giết được? Trừ phi y mở mồm chịu thua, đầu nhập môn phái Tinh Tú.

A Tử liền mắng:

- Các ngươi ồn ào gì thế? Không ai được mở mồm.

Cả bọn liền im bặt không xôn xao nữa. A Tử cười hì hì nhìn Trích Tinh Tử:

- Qui củ của bản môn, sau khi thay đổi truyền nhân rồi thì người truyền nhân cũ xử tội như thế nào?

Mồ hôi trán Trích Tinh Tử nhỏ xuống tong tỏng, run rẩy đáp:

- Đại ... đại ... đại sư tỉ, xin ... xin sư tỉ ...

A Tử cười khanh khách:

- Ta cũng muốn tha cho ngươi lắm, có điều qui củ bản môn không thể bị hủy hoại nơi tay ta được. Ngươi xuất chiêu đi thôi! Có tài cán gì hãy hết sức đem ra thi triển.

Trích Tinh Tử biết số mạng mình đã quyết định rồi, không thể van xin thêm được nữa, ngưng khí vào song chưởng nhắm ngọn lửa đẩy tới. Thế nhưng nội lực của y đã hết rồi, song chưởng đánh ra ngọn lửa chỉ hơi lay động một chút rồi không thôi. A Tử cười nói:

- Vui thật! Thích quá đi thôi! Đại sư ca, pháp thuật của ngươi sao không còn linh nghiệm nữa?

Nàng tiến lên hai bước, đẩy song chưởng một luồng lửa biếc phun ra, bắn thẳng vào người Trích Tinh Tử. A Tử nội lực bình thường, làn lửa xanh đi cũng chậm, lại tung tóe khắp nơi nhưng Trích Tinh Tử lúc ấy không còn hơi sức nào chống trả, đến đứng lên bỏ chạy cũng không xong. Ngọn lửa vừa chạm vào người y, lập tức đầu tóc, áo quần bốc cháy, kêu la thảm thiết luôn mồm, toàn thân biến thành một cây đuốc sống. Bọn đệ tử lại cất tiếng ca tụng, cùng tán dương đại sư tỉ võ công xuất thần nhập hóa, mừng cho phái Tinh Tú trừ được một tên bại hoại lâu nay, theo đúng ý nguyện của sư tôn, lập nên công lớn. Tiêu Phong tuy đã từng chứng kiến nhiều cảnh hung tàn thảm khốc trên giang hồ, nhưng chưa từng thấy một cô gái xinh đẹp tú lệ, trong trắng ngây thơ như A Tử lại hành sự tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông cảm thấy chán chường, khẽ thở dài, cất bước bỏ đi. A Tử kêu lên:

- Tỉ phu, tỉ phu, đừng đi vội, đợi em chút nào.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú đột nhiên thấy một người ở sau tảng đá bước ra, bọn nhị đệ tử, tam đệ tử nhận ra là Tiêu Phong, không khỏi ngạc nhiên thất sắc. A Tử lại gọi:

- Tỉ phu, đợi em với.

Nàng cất bước chạy đến bên Tiêu Phong. Lúc đó tiếng kêu rú của Trích Tinh Tử, thêm tiếng vang từ sơn cốc vọng lại càng lúc càng thêm ghê rợn. Tiêu Phong nhíu mày:

- Ngươi theo ta làm chi? Ngươi là truyền nhân của phái Tinh Tú, là đại sư tỉ của cả bầy, chưa thấy hả lòng hả dạ hay sao?

A Tử cười nói:

- Không!

Nàng hạ giọng thì thầm:

- Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là đồ giả, có gì thích thú đâu? Tỉ phu, cho em theo anh ra ngoài Nhạn Môn Quan nhé!

Tiêu Phong nghe thấy tiếng kêu la của Trích Tinh Tử, không muốn lưu lại đây thêm nữa, rảo bước đi về hướng bắc. A Tử đi song song với ông, quay đầu lại nói:

- Nhị sư đệ, ta có việc phải đi lên mạn bắc, các ngươi quanh quẩn đâu đây đợi ta về, không được người nào tự ý bỏ đi, nghe rõ chưa?

Cả bọn cùng tiến lên hai bước, cung kính khom lưng nói:

- Cẩn tuân pháp chỉ của đại sư tỉ, chúng sư đệ không dám trái lời.

Tiếp đó bọn chúng lại nhao nhao tán tụng:

- Cung chúc đại sư tỉ lên đường bình an.

- Cung chúc đại sư tỉ mọi sự như ý.

- Cung chúc đại sư tỉ kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.

- Đại sư tỉ mang trong người thần công như thế, có việc gì trong thiên hạ mà chẳng xong? Những câu chúc tụng chỉ bằng thừa.

A Tử giơ tay vẫy vẫy mấy cái, khuôn mặt đầy vẻ đắc ý. Dưới ánh tuyết chiếu lên, Tiêu Phong thấy cô gái xinh đẹp, vẻ mặt ngây thơ dễ thương kia mỉm cười, thật chẳng khác gì đứa bé mới được món đồ chơi hay một cục kẹo, nếu ông không chính mắt nhìn thấy, thì ai

dám tin rằng nàng vừa ra tay giết đại sư huynh, mới được chức truyền nhân của một tà phái đứng đầu thiên hạ. Tiêu Phong khẽ thở dài, bỗng thấy trên đời chuyện gì cũng chán chường hết sức. A Tử hỏi:

- Tỉ phu, sao anh lại thở dài? Hay là tại em cứng đầu bướng bỉnh?

Tiêu Phong đáp:

- Ngươi đâu có bướng bỉnh, chỉ hung ác tàn nhẫn thôi. Bọn ta là đàn ông đã ra đời, nếu có hung ác thì cũng đành. Còn ngươi chỉ là một cô bé con, sao hạ thủ lại không dung tình như thế?

A Tử ngạc nhiên hỏi lại:

- Anh biết rồi mà còn vờ vịt, hay là không biết thật?

Nói xong nàng nghiêng ngó đầu, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, khuôn mặt đầy vẻ dò hỏi. Tiêu Phong hỏi:

- Sao ta lại biết rồi mà còn vờ vịt?

A Tử đáp:

- Cũng lạ nhỉ, không lẽ tỉ phu không biết hay sao? Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả, là do anh tranh đoạt dùm em nhưng bọn chúng chưa nhìn ra đấy thôi. Nếu như tiểu muội không giết y, thể nào cũng có lúc y tìm ra chân tướng, lúc ấy chắc gì có tỉ phu ở bên cạnh, tính mạng em sẽ đi đời nhà ma. Em muốn sống không thể không giết y cho xong.

Tiêu Phong nói:

- Được rồi! Thế ngươi theo ta ra ngoài Nhạn Môn Quan làm gì thế?

A Tử đáp:

- Tỉ phu ơi, để em nói thực cho anh nghe, có được chăng? Tỉ phu có chịu nghe không nào?

Tiêu Phong nghĩ thầm: Giỏi nhỉ! Hóa ra xưa nay ngươi chỉ toàn nói láo với ta thôi, bây giờ mới nói thực. Ông bèn đáp:

- Dĩ nhiên là được, ta chỉ sợ ngươi không nói thực thôi.

A Tử cười khúc khích mấy tiếng, nắm cánh tay ông đáp:

- Tỉ phu cũng còn sợ em nữa hay sao?

Tiêu Phong thở dài:

- Ta có nhiều chuyện sợ ngươi lắm, sợ ngươi gây ra tai họa, sợ ngươi vô cớ giết người, sợ ngươi giở trò tinh ma, nghịch ngợm ...

A Tử nói:

- Thế anh có sợ người ta ăn hiếp tiểu muội, bị người ta giết hay không nào?

Tiêu Phong đáp:

- Ta nhận lời gửi gấm của chị cô, dĩ nhiên phải chiếu cố cho cô rồi.

A Tử hỏi lại:

- Vậy như nếu tỉ tỉ không gửi gấm thì sao? Nếu như thiếp không phải là em gái của chị A Châu thì sao?

Tiêu Phong hừ một tiếng đáp:

- Nếu thế thì ta việc gì phải lo cho ngươi làm gì?

A Tử hỏi:

- Chị em có gì tốt vậy? Sao anh lại chẳng coi em ra gì?

Tiêu Phong đáp:

- Chị ngươi so với ngươi tốt gấp nghìn lần vạn lần! A Tử, người như ngươi vĩnh viễn chẳng bao giờ bì kịp được nàng đâu.

Ông nói tới đây mắt lại rưng rưng, thanh âm có chiều nghẹn ngào. A Tử bĩu môi, hờn dỗi nói:

- Nếu chị A Châu hay như thế, sao tỉ phu không gọi chị ấy đi chung với anh, tiểu muội không đi nữa đâu.

Nói xong quay mình bỏ đi. Tiêu Phong chẳng ngó ngàng gì đến cô nàng, cũng cất bước, trong lòng không khỏi chua xót: Giá như có được A Châu cùng đi với ta trên tuyết địa này, nếu như nàng hờn giận ta, quay mình bỏ đi như thế thì ta se lập tức đuổi theo ngay, ngon ngọt dỗ dành nàng một hồi. Không đâu, ta chẳng bao giờ để nàng phải bực mình, chuyện gì cũng chiều theo nàng cả. Ôi, A Châu đối với ta nhu thuận dịu dàng, có bao giờ lại giận ta được?. Đột nhiên nghe tiếng chân người đuổi theo, A Tử đã chạy lại nói:

- Tỉ phu ơi, anh quả là người lòng lang dạ sói, nói không là không, không có một chút nhân từ nào.

Tiêu Phong bật cười hỏi lại:

- Người như ngươi mà nói gì chuyện bụng dạ nhân từ? Này A Tử, ngươi nghe ai nói đến hai chữ nhân từ thế?

A Tử đáp:

- Em nghe mẹ em nói, bà ấy bảo đối với người khác không nên quá tàn nhẫn bá đạo, phải có lòng nhân từ.

Tiêu Phong nói:

- Mẹ ngươi nói thế là phải lắm, chỉ tiếc rằng từ bé ngươi đã không ở với mẹ nên chỉ học được ở sư phụ những chuyện tàn ác xấu xa.

A Tử cười hỏi:

- Hay lắm! Thế từ nay em ở bên cạnh tỉ phu sẽ học ở anh những điều hay, điều tốt.

Tiêu Phong giật nảy người, liên tiếp xua tay, lật đật đáp:

- ấy chết, không được đâu! Ngươi đi theo một gã thô lỗ mãng phu như ta để làm gì? Này A Tử, ngươi đi đi! Ngươi ở gần bên ta chỉ khiến ta thêm phiền não, có muốn ngồi không một chút để suy nghĩ chuyện gì cũng không xong.

A Tử hỏi:

- Nếu như tỉ phu muốn suy nghĩ chuyện gì, chi bằng nói cho em hay, em sẽ giúp anh suy nghĩ. Anh tốt bụng quá dễ bị người ta cho vào tròng.

Tiêu Phong vừa bực mình, vừa tức cười nói:

- Ngươi chỉ là một đứa bé con, biết gì mà nói? Không lẽ chuyện ta suy tính không ra mà ngươi lại nghĩ được hay sao?

A Tử đáp:

- Cái đó đương nhiên rồi, có biết bao nhiêu chuyện, dẫu cách nào tỉ phu cũng chẳng nghĩ ra.

Cô ta bốc một nắm tuyết dưới đất, nặn thành một cục, vung tay ném ra xa hỏi:

- Tỉ phu ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì thế?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Chẳng làm gì cả. Săn bắn thả cừu, sống cho qua ngày, có vậy thôi.

A Tử nói:

- Thế ai nấu cơm cho anh ăn? Ai may áo cho anh mặc?

Tiêu Phong ngỡ ngàng, trước nay ông chưa hề tính đến chuyện đó, tiện mồm đáp:

- Nấu ăn may áo chẳng phải dễ đâu? Người Khất Đan ăn thịt bò thịt cừu, mặc áo da bò da cừu, đâu đâu cũng là nhà, tiện đâu hay đó, chẳng có gì phải lo lắng cả .

A Tử nói:

- Thế lúc anh cô đơn một thân một mình, ai nói chuyện với anh?

Tiêu Phong đáp:

- Ta trở về với người cùng bộ tộc, sẽ có bằng hữu ở nơi đó.

A Tử hỏi:

- Nếu có nói qua nói lại cũng chỉ toàn chuyện đi săn, cưỡi ngựa, giết bò, xẻ cừu nói mãi cũng nhàm, còn có gì là thú vị đâu?

Tiêu Phong thở dài, biết nàng nói đúng không biết phải trả lời ra sao. A Tử nói:

- Anh không quay về Liêu quốc không được hay sao? Thôi đừng về nữa, ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư?

Tiêu Phong nghe nàng nói ở lại đây uống rượu đánh lộn, chết cũng được, sống càng tốt, chẳng phải oanh liệt, thống khoái hơn nhiều ư? bỗng thấy máu nóng dâng trào, hào khí sôi sục, ngẩng đầu, hú lên một tiếng dài nói:

- Ngươi nói phải lắm!

A Tử giật giật cánh tay ông ta nói:

- Tỉ phu ơi, thôi anh đừng đi nữa, tiểu muội cũng không về Tinh Tú Hải, đi theo anh uống rượu đánh lộn.

Tiêu Phong cười:

- Ngươi là đại sư tỉ của phái Tinh Tú, ngươi đi rồi họ không có truyền nhân, không có đại sư tỉ thì đâu có được?

A Tử nói:

- Cái chức đại sư tỉ đó của em chẳng qua nhập nhoạng đánh lừa mà có, đến khi lộ ra thì tính mạng ắt khó mà còn, tuy thích thật nhưng cũng chẳng đáng gì. Đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau còn vui gấp bội.

Tiêu Phong mỉm cười đáp:

- Nói đến uống rượu, ngươi có biết uống đâu, chỉ e uống chưa đến một bát đã say mèm. Còn đánh lộn thì tài nghệ cũng không ra gì, giúp ta không xong, ta lại phải giúp ngươi thì có.

A Tử mặt mày bần thần không vui, lông mày cau lại, đi qua đi lại mấy bước, đột nhiên ngồi phịch xuống khóc òa lên. Tiêu Phong thấy thế sợ hết hồn, vội hỏi:

- Ngươi ... ngươi ... ngươi sao thế?

A Tử không trả lời, lại càng khóc to thêm nghe thực thảm thiết. Tiêu Phong thấy chuyện gì cô bé cũng lấn lướt thiên hạ, ngay cả khi bị phái Tinh Tú bắt giữ, thái độ vẫn ngang tàng bất khuất, có ngờ đâu lại khóc lóc bi ai đến vậy, không khỏi cuống quít, hỏi gặng:

- Này, này! A Tử, cô sao thế?

A Tử vẫn sụt sùi, nghẹn ngào nói:

- Anh đi đi, khỏi lo cho em làm gì, để em ở đây khóc đến chết luôn, có thế anh mới vừa lòng.

Tiêu Phong mỉm cười:

- Đang khỏe khoắn thế này, có khóc cũng không chết được.

A Tử vẫn khóc:

- Nếu em muốn khóc cho chết thì sẽ khóc cho anh coi.

Tiêu Phong cười nói:

- Thế ngươi ngồi đây khóc cho chán đi nhé, ta không ở đây với ngươi được đâu.

Nói xong ông bỏ đi, chỉ được mấy bước thấy cô ta đã nín bặt, không còn nghe gì nữa. Tiêu Phong lạ lùng, quay đầu lại nhìn, thấy cô bé đã nằm phục dưới tuyết, không cử động gì cả. Ông trong bụng cười thầm: Trẻ con hay nhõng nhẽo, mình mà đến hỏi thăm là mình thua kế nó. Nghĩ thế ông vẫn tiếp tục đi thẳng. Ông đi được mấy dặm rồi, quay đầu lại nhìn, nơi vùng này địa thế bằng phẳng, không có cây cối núi đồi gì ngăn trở, thấy dường như A Tử vẫn còn nằm yên nơi đó. Tiêu Phong trong bụng băn khoăn: Con bé này tính tình cực kỳ quái dị, xem chừng nó sẽ nằm luôn nơi đây không bao giờ trở dậy nữa. Ông lại nghĩ: Ta đã làm chết chị nó rồi, nếu không theo lời dặn dò của A Châu, chẳng quay lại lo cho nó, bảo hộ nó e rằng sẽ khiến cô nàng tức đến cũng chết theo. Tiêu Phong vừa nghĩ đến A Châu, ngực không khỏi sôi lên, lập tức rảo bước quay lại. Ông chạy đến bên cạnh A Tử, thấy cô ta vẫn nằm y nguyên chỗ cũ, hình dáng vẫn hệt lúc đầu không xê xích một chút nào. Tiêu Phong đến gần hơn nữa, đột nhiên kinh hoàng thấy tuyết trên người nàng đã đóng đến mấy tấc, ở chung quanh cũng không tan, không lẽ chết thật rồi sao? Ông vội đưa tay sờ vào mặt cô gái, thấy da thịt lạnh như băng, thăm mũi quả nhiên không còn hô hấp. Tiêu Phong đã thấy nàng trá tử đánh lừa cha mẹ, biết phái Tinh Tú có môn qui tức công phu, có thể ngừng thở, nhưng cũng không khỏi hoảng hốt, lập tức giơ tay điểm luôn vào mạng sườn mấy cái, nội lực theo huyệt đạo của nàng truyền vào. A Tử ậm ự một tiếng, chậm rãi mở mắt, bất thần há miệng, một mũi kim xanh biếc phun thẳng vào giữa hai lông mày Tiêu Phong. Tiêu Phong với nàng cách nhau chỉ chừng một thước, không thể nào ngờ cô ta đột nhiên ám toán, mũi độc châm đó bắn thật nhanh, võ công ông tuy cao thật nhưng chỉ trong nháy mắt, lại cận kề nếu muốn tránh né cũng không thể nào kịp được. Ông không kịp suy nghĩ, tay phải vung lên, đánh ra một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu. Chưởng đó kết tụ một đời công lực, chiếc kim nhỏ kia chỉ cách một thước bắn tới muốn dùng kình phong vô hình vô ảnh đánh tạt ra thì chưởng lực phải kinh người biết chừng nào. Chưởng đánh ra thân hình Tiêu Phong đồng thời nghiêng qua bên phải, mũi ngửi thấy thoang thoảng một mùi tanh hôi, chiếc kim độc đã sượt qua bên má, chỉ cách chừng một tấc, quả thật hung hiểm. Cũng khi đó, thân hình A Tử bị chưởng lực đánh trúng, không kêu được tiếng nào, chỉ lặng lẽ bay tung ra, rơi xuống bịch cách đến hơn mười trượng. Thân hình nàng rơi xuống tuyết rồi còn trượt đi một quãng dài mới ngừng lại.

datlucky_way

23-07-2009 02:47 PM

hồi 26(a) : XÍCH THỦ ĐỒ HÙNG TRÓC HỔ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Xa xôi vạn dặm đường trường,

Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.

Anh hùng giữa cảnh núi non,

Can vân hào khí vẫn còn như xưa.

*

* *

Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo

như thế, kêu thầm: Hú vía, ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: Con tiểu yêu

nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta. Ông biết ám

khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn

trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.

Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục

trượng, đột nhiên thất kinh: Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi?

E rằng bị mình đánh chết rồi. Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới,

thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt

vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.

Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại

giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng ... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo

lắng cho muội muội, ngờ đâu ... ngờ đâu ... ta lại đánh chết luôn cả nó.

Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên

tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ

chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào.

Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:

- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu

em.

Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức

bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử

lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ

từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc

này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm

cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức

chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn

hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.

Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy,

rên khẽ lên một tiếng:

- Tỉ phu!

Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện

với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ.

Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển

nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn

xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo

bước chạy đi.

Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau

lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới

đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi

về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ

thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu

hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo

nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được

ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.

Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra

khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi

nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A

Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa

Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm

Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi.

Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu

bó tay, chỉ nghĩ: Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt

hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà

chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu.

Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu

không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao

cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay

chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu

có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra

họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết

nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.

Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không

ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu

bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện

giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức

chết ngay.

Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng

hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà

tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn

bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.

Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không

có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần

có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: Trên người A Tử ắt có mang theo tiền

bạc.

Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh

bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi

dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm:

Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà

buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng. Ông cởi cái nút buộc

vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công

lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì

dấu trong quần.

Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là

một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi

xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ

bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ.

Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa

Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới

nữa, nghĩ thầm: Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng

mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu

trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật,

hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám

phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ

thân ngoại chi vật này có làm gì?.

Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn

mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ

tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn

tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền

theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ

luôn.

Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi

lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao

lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.

Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi

nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm

này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng

thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được

câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ

thầm: Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong

khách điếm này rồi cũng vô phương.

Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc,

thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người,

chi bằng đập vỡ nó đi cho xong. Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng

chợt nghĩ lại: A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này.

Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết

hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại

hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà

chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài.

Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên

trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung

quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn,

xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh,

dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên

chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không

khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc

trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.

Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có

gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong

đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh

Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết,

sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền

nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.

Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi

càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng

đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại

không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với

người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường

mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an

vô sự.

Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo

bảng: Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí, nghĩ

bụng: Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ

vào thử xem thế nào. Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.

Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại

bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột

nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:

- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ

thầy chữa cho ta đâu.

Vương Thông Trị lắc đầu nói:

- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn

đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.

Tiêu Phong đáp:

- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?

Vương Thông Trị đáp:

- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể

chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng

phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể

sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi

bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.

Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có

lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp,

thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.

Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm

thuốc giục giã:

- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm1 tốt nhất. Lão thái

gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho

khỏi chết.

Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:

- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.

Tiêu Phong nghe nói lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết lập tức

nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy

ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối

trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy

ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng

ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên

1 Nhân sâm mọc hoang lâu năm

ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân

tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông

chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.

Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm

thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm

thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra.

Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch

nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không

khỏi mừng thầm.

Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:

- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng.

Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết

sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.

Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước,

trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm

bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một

chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: Đánh bừa bãi kẻ không

biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?. Ông bèn rụt tay về, ôm A

Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn

còn khinh khỉnh nói theo:

- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi,

xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.

Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại,

nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương

Thông Trị cũng thành bất trị.

Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: Nghe nói lão sơn nhân

sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó

cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ

cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì

trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy.

Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc.

Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau

tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky2 làm

gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng

có thể mở mắt ra, kêu khẽ: Tỉ phu! đến tối cũng ngủ được vài giờ

không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng

đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường

Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu

không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành

sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ.

Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa,

đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy

ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: Chết

rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm?

Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì

cướp. Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.

Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước

thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù

không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.

Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa

mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy

một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng

hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ

có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.

Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn

bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có

biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường

bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất

gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại

một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi

thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi

tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê

man, sống dở chết dở.

2 khỏa kế, tức người giúp việc trong tiệm

Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà

rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: Mình cứ

chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong

rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng.

Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa

cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng

sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng

không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.

Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ

A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng

nghe một tiếng à uôm thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong

mừng quá: Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi.

Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có

tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng

người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng

tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt

chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến

cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.

Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ

vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú,

tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được

một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn.

Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con

cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó

con hổ kia cũng xông tới vồ.

Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán

chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp

đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.

Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe

nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y

đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn

đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.

Tiêu Phong kêu lên:

- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.

Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu

Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán

ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên,

nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con

vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.

Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ

công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ

cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi

một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: Giỏi nhỉ, mi quả là

gớm thật! nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe

bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.

Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng

quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp

trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi

triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị

Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung

lên.

Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong

quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không

nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một

tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới

con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính

là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn

một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.

Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh

cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta

coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái,

hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng

mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.

Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một

tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên

thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp

xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú

trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn

cuộn trông thật hùng vĩ.

Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: Hảo hán tử!. Con hổ nằm chổng

bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn

động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay

người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu.

Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết

đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng

giơ hai ngón tay cái lên nói:

- Anh hùng! Anh hùng!

Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:

- Hoàn Nhan A Cốt Đả!

Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:

- Tiêu Phong!

Người kia hỏi lại:

- Tiêu Phong? Khất Đan?

Tiêu Phong gật đầu nói:

- Khất Đan! Ngươi?

Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:

- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!

Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao

Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện

chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này3. Tuy

ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được

một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y

3 tức Mãn Châu sau này

biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử

đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.

Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho

máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết

uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi

nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé

con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn

hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét

mặt đầy vẻ kính phục.

Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả

mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm

nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại

múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao

nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay

phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:

- Khỏe thật!

Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng

không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng,

đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa

ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt

Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai

cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm

căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh

trướng lập tức có người ra đón.

Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một

đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người

thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính

giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng

mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt

A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói

huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay

không đánh chết hổ.

Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên,

không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn

mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:

- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?

Tiêu Phong mừng rỡ đáp:

- Được chứ! Đươc chứ!

Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân.

Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy

mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ.

Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới

đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác

Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.

Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau

nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả

là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ

lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai

hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.

A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu

Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu

Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.

Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong,

thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa

tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ

người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu

Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực

mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn

một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn

xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không

đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này,

mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả

đều kính phục.

Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức

chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A

Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành.

Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không

lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y

dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng

Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn

không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng

Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta

hiểu không cần phải thông dịch nữa.

Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng

nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm

nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả

hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú,

đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào

phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh

tận.

Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ

một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly

thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại

không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều

do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên

không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm

một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật

an ủi.

Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền

tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất

nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh

nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi

săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường

về hướng bắc.

Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt,

trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người

Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa,

một người thợ săn già kêu lên:

- Gấu kìa! Gấu kìa!

Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có

những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân

gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.

Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ

con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những

vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài

thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.

Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa

xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại

cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người

cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay

cầm cung tên ra chiều hăm hở.

A Cốt Đả kêu lớn:

- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!

Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm

thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy

theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét

lên:

- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!

Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong

trong bụng bực tức nghĩ thầm: Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao?

Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?. Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị

ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng A thảm thiết, người thợ săn

Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.

A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống,

cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa,

không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn

tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi

tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:

- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?

A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:

- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết

ngươi là người Khất Đan đâu!

Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào

Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu.

Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai

cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã

phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã

kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A

Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.

Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn

tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai

cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả,

nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.

A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và

Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai

người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không

trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất

Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.

Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái

gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp

lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào

cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống

ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có

kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.

Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên

đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị

trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp,

xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt.

Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn

tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán?

Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó

mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy

người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai

bên bãi đấu được.

Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:

- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không

nể nang gì nữa đâu nhé!

Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới.

Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là

gì. Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt

Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:

- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!

Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người

Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn

công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm

thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh

khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người

áo đỏ.

Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến

không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương4 của thủ hạ chung

quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt

được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một

cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã

xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:

- Giỏi lắm!

Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu

mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con

ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên: Ối trời! vội vàng

4 mũi lao (javelin)

nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra

chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió

ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng,

nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu

Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ

Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.

Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái

lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát

lên:

- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi

chết tươi bây giờ.

Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:

- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.

Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra

tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát

lớn:

- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?

Một lão già Khất Đan quát lên:

- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân

thi ngay lập tức.

Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng

không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn

chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử

dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia

trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm

xem ra không còn sống được nữa.

Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không

chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy

hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh

trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:

- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.

Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người

áo đỏ vội kêu:

- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!

Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong

nghĩ thầm: Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình

thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể

nào chạy thoát được. Ông quay sang nói với người áo đỏ:

- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.

Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn

mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình,

đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn

Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:

- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để

sót con nào.

Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng

truyền lệnh:

- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.

datlucky_way

23-07-2009 02:57 PM

hồi 26(b) : XÍCH THỦ ĐỒ HÙNG TRÓC HỔ 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Xa xôi vạn dặm đường trường,

Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.

Anh hùng giữa cảnh núi non,

Can vân hào khí vẫn còn như xưa.

*

* *

Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội

đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không

ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ

thầm: Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng

nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người

Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ

cũng thắng nhiều thua ít. Ông bèn nói:

- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một

người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt

hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.

Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể

làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:

- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt

người Nữ Chân.

Các võ sĩ hô to:

- Tuân lệnh!

Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho

bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được

mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo,

bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một

con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả

bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu

Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui

mừng nói:

- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.

Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng

hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của

Khất Đan bèn hỏi:

- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?

Gã kia ương ngạnh đáp:

- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?

Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được

ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:

- Ngươi nói đúng lắm!

Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên

gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:

- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông

mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu

thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba

chục con tuấn mã.

Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:

- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá.

Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn

lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.

Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp

mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái

giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã

là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan

mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu

người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là

một món hoạnh tài khổng lồ.

Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:

- Được rồi, cứ thế mà tính.

Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình,

tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo

để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua

bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ

nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan

không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ

không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.

Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn

bèn nói:

- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng,

bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!

Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:

- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã

ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên

hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.

Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:

- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta

không thèm nghe đâu.

Phả Lạp Tô nói:

- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?

Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:

- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo

đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh

hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành

thử xin đừng hỏi làm gì.

Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay

phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm

hè quát:

- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu

ngươi thì sẽ ra sao?

Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:

- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ

nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy

hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ

việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không

kém gì ông đâu.

Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết

ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu

một trận nữa.

Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:

- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy

tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da

đánh cho y một chập thật đau là được.

Tiêu Phong đáp:

- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y

toại nguyện.

Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung

tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:

- Lên ngựa mau!

Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu

Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ

là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không

sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.

Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:

- Quay qua hướng tây!

Người áo đỏ đáp:

- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.

Tiêu Phong nói:

- Tiếp lấy!

Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả,

lớn tiếng nói:

- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất

Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!

Tiêu Phong đáp:

- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!

Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ

còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận

dữ, gầm lên:

- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá

lắm hay sao?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu

thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ

đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi

trở về bộ tộc của mình đi.

Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:

- Cái ... cái gì?

Tiêu Phong mỉm cười đáp:

- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình

an quay trở về.

Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng

không sao kể xiết hỏi lại:

- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi ... chẳng hay ngươi ... muốn

gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.

Tiêu Phong hiên ngang đáp:

- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ

đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay

sao?

Người áo đỏ đáp:

- Đúng thế!

Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:

- Đa tạ ân công tha mạng!

Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:

- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy.

Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng

tha đâu.

Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:

- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông

kết làm anh em, nên chăng?

Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế

phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có

Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ

các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang

túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao

bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu

rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ

nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung

Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở

đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến

chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào

hùng, quả là một hảo hán liền đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi.

Tôn huynh quí canh bao nhiêu?

Người kia cười đáp:

- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.

Tiêu Phong nói:

- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là

đại ca, xin nhận một lạy của đệ.

Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.

Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm

hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong

lòng cực kỳ vui sướng nói:

- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.

Tiêu Phong đáp:

- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.

Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật

Cơ vừa thấy thật mừng nói:

- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan.

Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh,

chung hưởng phú quí.

Tiêu Phong đáp:

- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra

không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn

uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào

cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.

Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế

nàng thế nào bèn nói:

- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.

Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa

đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy

Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của

người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu

Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất

anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng

như thế lại càng thán phục.

Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho

y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy

dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm,

hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:

- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân

chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ,

xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế

nào?

Tiêu Phong mừng quá nói:

- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta

sẽ cố gắng giết ít con là xong.

Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A

Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm

gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn

tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được

một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống.

Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi

thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật

gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như

thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn

sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi,

còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi

cho A Tử uống thì càng khó hơn.5

Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm

cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:

- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại

ca.

Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem

tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào,

trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã

nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa

đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:

- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm,

đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến

Thượng Kinh hàn huyên.

Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn6, thần thái cực kỳ

cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:

- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.

Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:

- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.

Thất Lý nói:

- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng

bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng

ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài

ra còn một số quần áo đồ dùng.

Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền

chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến

5 sự thực nhân sâm, hùng đảm, hổ cốt là những vị thuốc, dược tính rất mạnh, việc điều

chế và dụng pháp phức tạp không phải là thực phẩm mà có thể dùng thay cơm. Ở đây

tác giả viết theo lối kết cấu của tiểu thuyết, xin độc giả đừng tin là thật.

6 lễ đơn là danh sách viết những vật phẩm mang tới

đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải

bao nhiêu ngựa xe mới đủ.

Thất Lý khom lưng nói:

- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò

ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ

nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú,

sinh khẩu7 tổn thất rất ít.

Tiêu Phong thở dài:

- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ

tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết

sao cho phải.

Thất Lý nói:

- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không

nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.

Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều

cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:

- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.

Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng

chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:

- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.

Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia

chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy

tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.

Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ

thầm: Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn

dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không

ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh

nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa. Thất Lý kêu lên:

7 con vật còn sống

- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để

khỏi hiểu lầm.

Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một

cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa

chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn

trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân

sĩ.

Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố.

Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át

cả tiếng người không nghe thấy gì cả.

Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi

khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng

cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông

đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia

cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau,

không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy

Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở

trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc

ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của

Tiêu Phong.

Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần,

thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương

thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong

chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng

trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu

Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những

ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau

những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng

trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp

đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc

châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều,

không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.

Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông

hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh

coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:

- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông

ngòi gì mà coi.

A Tử đáp:

- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội

chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển

nhưng vẫn còn bến còn bờ.

Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến biển Tinh Tú cũng thấy chột dạ.

Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ

lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm

chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng

trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả

nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?

Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút

máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người

gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong

lòng: Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị

ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ

nghĩ đến những điều xấu của nàng?. Ông bèn mỉm cười:

- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử,

khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để

xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ,

cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em

khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.

Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:

- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.

A Tử cười đáp:

- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại

càng linh hoạt hơn nhiều.

Tiêu Phong mừng rỡ nói:

- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại

dấu ta?

Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:

- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày

ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại

đuổi em đi.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi

thương hại nói:

- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô

ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?

A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:

- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?

Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:

- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị

thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta

không?

A Tử đáp:

- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu

đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải

được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.

Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương

này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ

bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm

đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.

Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm,

A Tử bỗng hỏi:

- Tỉ phu có đoán ra được chưa?

Tiêu Phong hỏi lại:

- Đoán ra cái gì?

A Tử nói:

- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết

vì cớ gì không?

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?

A Tử thở dài một tiếng nói:

- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem

thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng

nam là sao?

Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành

hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:

- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam

tránh tuyết.

A Tử hỏi:

- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay

lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở

luôn phương nam, cần gì phải quay lại.

Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ

về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời

được, lắc đầu cười nói:

- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ

là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.

A Tử gật đầu nói:

- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà

cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó

cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.

Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động

đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía

đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ

thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ

chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ

nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta

sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai

mới trút đi được.

Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi,

Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở

đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều.

Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn

quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao

hứng nói:

- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển

cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ

không bến.

Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái

ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.

Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn

chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó

vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu.

Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn

con đó, không lo không sầu.

Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô

số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại

trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:

- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về

dể khỏi gây thêm rắc rối.

A Tử nói:

- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động

được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?

Tiêu Phong cười nói:

- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác

gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.

A Tử cười nói:

- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.

Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên,

nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những

doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình

cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn

hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội

đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.

Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:

- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.

A Tử nói:

- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không

hay?

Tiêu Phong đáp:

- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.

Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được

mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh

Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bốn bề không thấy có

địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?.

Chỉ nghe tiếng người vang lên:

- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!

Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn

hươu. Tiêu Phong nói:

- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.

Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông

nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên

trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì

vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng

binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen

ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường

mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái

rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn

mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy

được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng

tròn đuổi trở lại vào trong.

datlucky_way

23-07-2009 02:58 PM

Hồi 27(a) : KIM QUA ĐÃNG KHẤU AO BINH 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Tiêu Phong còn đang đứng xem bỗng nghe có người lớn tiếng gọi:

- Bên kia có phải Tiêu đại gia đấy chăng?

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ai mà lại nhận ra ta nhỉ?”. Ông quay lại

thấy từ đội áo xanh một người phóng ngựa chạy thẳng tới, thì ra là gã

đội trưởng Thất Lý, người mấy tháng trước Gia Luật Cơ sai đem lễ vật

đến cho mình.

Y chạy đến còn cách Tiêu Phong hơn chục trượng đã vội vàng nhảy

xuống ngựa, đi bộ lên, quì đầu gối phải xuống nói:

- Chủ nhân chúng tôi đang ở đằng trước không xa là mấy. Chủ nhân

thường vẫn nhớ mong nhắc đến Tiêu đại gia luôn. Hôm nay không biết

ngọn gió lành nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp

chủ nhân chúng tôi.

Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ cũng ở gần đây, thật là hoan hỉ

nói:

- Ta chỉ tùy ý ngao du, có ngờ đâu nghĩa huynh cũng ở quanh đây,

thế thì hay lắm. Được rồi, nhờ ngươi dẫn đường đến gặp anh ta.

Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy

đến. Y dặn dò:

- Các ngươi mau đi bẩm báo nói là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch

qua thăm.

Hai tên kỵ binh khom lưng nhận lệnh, phóng ngựa chạy đi ngay.

Những người còn lại tiếp tục cuộc săn hươu, riêng Thất Lý tất lãnh một

đội kỵ binh áo xanh, hộ tống Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.

Khi Gia Luật Cơ gửi cho Tiêu Phong vàng bạc bò cừu, ông đã biết y

ắt phải là một đại quí nhân người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế

như vậy xem chừng vị nghĩa huynh này phải là tướng quân, đại quan chi

đó.

Trên thảo nguyên ngựa chạy đi chạy lại như mắc cửi, người nào

cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói:

- Tiêu đại gia hôm nay đến chơi quả là đúng lúc, sáng sớm mai ở

đây có một buổi hội thật là vui nhộn.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng mặt tươi hẳn lên liền hỏi:

- Cái gì mà vui nhộn?

Thất Lý đáp:

- Ngày mai là ngày hội diễn võ. Hai đội vệ quân Vĩnh Xương, Thái

Hòa đều khiếm khuyết chức vụ thống lãnh. Người Khất Đan chúng tôi ai

nấy sẽ ra sức biểu diễn võ nghệ để xem ai là người vận may, được giữ

hai chức vụ này.

Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng nổi

lên, hết sức cao hứng, cười nói:

- Thế thì đúng là khéo thật, được dịp xem võ nghệ người Khất Đan

như thế nào.

A Tử cười nói:

- Đội trưởng ơi, vậy ông ra đại hiển thân thủ, chúc mừng ông đoạt

được một chức thống lãnh.

Thất Lý lè lưỡi nói:

- Tiểu nhân nào có cái gan đó?

A Tử lại cười:

- Đoạt được chức thống lãnh thì đã sao? Chỉ cần tỉ phu ta dạy cho

ông dăm ba miếng võ là ông đoạt được chức đó ngay chứ gì.

Thất Lý vui mừng nói:

- Tiêu đại gia nếu bằng lòng chỉ cho tiểu nhân thì quả là cầu còn

không được. Còn chức thống lãnh gì kia, tiểu nhân không có phúc phận

chẳng dám mơ tưởng tới.

Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, đi độ mươi dặm đã thấy trước

mặt một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới. Thất Lý nói:

- Đây là đội Phi Hùng trong bì thất quân của đại trướng.1

Những người đó đều mặc áo, đội mũ làm bằng da gấu, áo ngoài

bằng lông gấu đen, mũ cao làm bằng lông gấu trắng, hình dáng thật là

uy võ. Đội binh đó chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời hạ

mã, chia ra đứng hai bên nói:

- Cung nghinh Tiêu đại gia.

Tiêu Phong đáp:

- Không dám! Không dám!

Ông giơ tay chào, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng cũng lục

tục theo sau. Đi được hơn chục dặm, lại có một đội binh khác, mặc áo da

hổ, mũ da hổ là đội Phi Hổ Binh chạy đến nghinh tiếp. Tiêu Phong nghĩ

thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm chức quan gì lớn thế mà sao nghi

vệ rầm rộ thế này”. Có điều Thất Lý không nói, mà lần gặp trước Gia

Luật Cơ nhất định không thổ lộ thân thế mình, Tiêu Phong đành chịu

không hỏi nữa.

Đi đến xế chiều tới một nơi đóng quân thật lớn thì người trong đội

Phi Báo, tất cả đều mặc áo đội mũ da báo chạy ra nghinh tiếp, đón Tiêu

Phong và A Tử vào trong căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong vẫn

tưởng vào trong lều này ắt sẽ được gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong

trướng giường nệm khí mãnh đều là đồ sang trọng, trên bàn nhỏ để đầy

đồ ăn, hoa quả nhưng không thấy chủ nhân đâu. Đột trưởng đội Phi Báo

nói:

- Chủ nhân mời Tiêu đại gia ở đây nghỉ lại một đêm, ngày mai sẽ

tương kiến.

Tiêu Phong cũng không hỏi thêm, đến bên bàn cầm bát rượu lên

uống. Bốn tên quân sĩ, kẻ rót rượu, người cắt thịt, hầu hạ rất cung kính.

Sáng hôm sau trở dậy lại tiếp tục đi, ngày hôm dó đi về hướng tây phải

đến hai trăm dặm, đến tới lại ngủ lại một nơi đóng quân lớn.

Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý nói:

- Đi qua khỏi triền núi phía trước mặt thì mình sẽ tới.

Tiêu Phong thấy ngọn núi đó thật là hùng vĩ, một con sông lượn

dưới chân núi chảy cuồn cuộn về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua

sườn núi, trước mắt cờ sí rợp trời, trên đại thảo nguyên chỗ nào cũng đầy

doanh trướng, có đến hàng vạn kỵ binh, bộ tốt, bao chung quanh một

khoảng đất trống ngay chính giữa. Các đội Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ

tống Tiêu Phong liền lấy kèn ra, thổi lên nghe u u u.

Đột nhiên tiếng trống đánh tùng tùng vang lên dữ dội, thêm tiếng

pháo hiệu nổ ầm ầm, trên bãi đất trống quan binh rẽ ra hai bên, một con

ngựa vàng cao to từ trong chạy ra, trên lưng là một đại hán râu xồm,

chính thị Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong kêu lớn:

- Tiêu huynh đệ, có nhớ ca ca chăng?

Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người cùng nhảy xuống,

bốn tay nắm chặt, mừng rỡ không sao kể xiết. Chỉ nghe bốn bề chung

quanh quân sĩ reo hò vang dội:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Binh sĩ lại kêu vạn tuế là sao?”. Ông

đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quân quan sĩ tốt ai nấy khom lưng, cầm đao

chống xuống đất, Gia Luật Cơ cầm tay ông đứng ngay chính giữa, nhìn

ngang nhìn ngửa, vẻ mặt cực kỳ đắc ý. Tiêu Phong hiểu ra lắp bắp:

- Ca ca, thì ra ca ca ... là ... là ...

Gia Luật Cơ cười ha hả nói:

- Nếu như ngươi biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e

rằng sẽ chẳng cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu huynh đệ, tên thực

của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Cái ơn cứu mạng của ngươi ta vĩnh viễn

không bao giờ quên.

Tiêu Phong tuy khoáng đạt hào sảng nhưng trong đời chưa từng diện

kiến hoàng đế bao giờ, hôm nay thấy nghi vệ như thế, không khỏi bối

rối, ấp úng:

- Tiểu nhân không biết bệ hạ, mạo phạm đã nhiều, quả là tội đáng

muôn thác.

Nói xong quì xuống. Ông là thần dân nước Khất Đan, gặp bản quốc

hoàng đế dĩ nhiên phải quì xuống.

Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ dậy, cười nói:

- Không biết thì không có tội. Này huynh đệ, ngươi với ta là anh em

kim lan, ngày hôm nay chỉ tính chuyện nghĩa khí, ngày mai hãy dùng lễ

vua tôi cũng không muộn.

Ông ta giơ tay trái lên vẫy một cái, trong quân lập tức chiêng trống

đánh lên để chào mừng khách quí. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong

hai người cùng đi vào đại trướng.

Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan dựng thành mấy tầng toàn

bằng da bò, trang trí đủ loại màu sắc vàng bạc, cực kỳ rực rỡ, gọi là bì

thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong

ngồi ngay bên cạnh, chẳng mấy chốc bách quan văn võ cũng lục tục vào

tham kiến, Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Vu Việt, Nam

Viện Khu Mật Sứ, Bì Thất Đại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã

Quân Chỉ Huy Sứ, Bộ Quân Chỉ Huy Sứ ... Tiêu Phong nhất thời không

thể nào nhớ cho hết tên bao nhiêu người.

Tối hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng đàn bà

con gái nên A Tử cũng được dự phần tại bì thất đại trướng. Quả đúng là

rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử thấy thế cực kỳ hứng thú, mặt

tươi như hoa. Rượu đã mềm môi, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan ra trước

mặt vua vật nhau làm trò, người nào cũng cởi trần, bắt nắm khoèo vật,

thật là kịch liệt. Tiêu Phong thấy những võ sĩ Khất Đan ai nấy đều thân

hình rắn chắc, cánh tay cuồn cuộn, đưa tay thò chân đều có dáng con

nhà võ, biến hóa xảo diệu tuy không được bằng võ sĩ người Hán nhưng

miếng nào miếng nấy đều sát phạt, thẳng thừng dùng trong chiến trận

quần đấu xem chừng kiến hiệu hơn võ của Trung Nguyên.

Các quan viên văn võ nước Liêu tiến ra mời Tiêu Phong uống rượu.

Tiêu Phong thì ai cũng không từ chối, đến đâu cạn bôi đến đó, trước sau

phải đến hơn ba trăm chén, vậy mà sắc mặt vẫn như không, mọi người

hết sức kinh ngạc.

Gia Luật Hồng Cơ xưa nay vẫn tự phụ là người dũng lực, lần này bị

Tiêu Phong bắt, cả nước ai cũng biết nên cũng có ý muốn Tiêu Phong

biểu lộ cái năng lực phi phàm để che dấu cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ

đâu chưa cần phải ngày hôm sau Tiêu Phong đại hiển tài nghệ võ công

nơi tỉ võ đại hội, bây giờ chỉ lộ chút tửu lượng đã áp đảo quần hùng

khiến ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sung sướng nói:

- Huynh đệ, ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.

A Tử đột nhiên xen vào:

- Không đâu, anh ấy chỉ mới thứ nhì.

Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi lại:

- Tiểu cô nương, y mới chỉ thứ hai thôi sao? Thế thì vị đệ nhất đại

anh hùng là ai?

A Tử đáp:

- Vị anh hùng hảo hán số một ư, cái dó dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi.

Tài nghệ của tỉ phu tiểu nữ tuy giỏi thật nhưng vẫn phải nghe lời bệ hạ,

không dám trái lệnh, thế thì bệ hạ chẳng là đệ nhất anh hùng thì là gì?

Nàng là môn hạ của Tinh Tú lão nhân, nghệ thuật tâng bốc đã

thuộc hàng siêu đẳng, nói ra câu đó thật chẳng khác gì dùng dao mổ trâu

để giết gà. Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Cô nói thế thật hay lắm! Tiêu huynh đệ, ta muốn phong cho ngươi

một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem đã, phong ngươi làm gì cho

xứng?

Khi đó y đã uống say đến bảy tám phần mười, đưa ngón tay gõ gõ

lên trán. Tiêu Phong vội nói:

- Không đâu! Không đâu! Tiển nhân tính tình giản phác, khó mà

hưởng phú quí được, xưa nay vẫn lang thang bốn phương, vãng lai vô

định, quả là không thích làm quan.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Được rồi! Để ta phong ngươi một chức quan chỉ uống rượu không

phải làm gì cả...

Ông nói chưa dứt lời bỗng từ xa truyền lại một hồi tù và u u u inh ỏi,

nghe thật gấp rút. Những người Liêu vốn dĩ đang ngồi bệt dưới đất, uống

rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng hiệu giác, ai nấy kêu toáng lên, cùng nhỏm

dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới

nghe còn cách khoảng hơn chục dặm, lần thứ hai đã gần thêm vài dặm,

lầm thứ ba lại gần thêm vài dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời

này làm gì có con ngựa nào chạy lẹ thế, dẫu có đệ nhất đẳng khinh công

thì cũng không thể nhanh như vậy được. Đúng rồi, chắc là có những trạm

truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, một khi nghe tiếng tù

và lập tức truyền ngay xuống trạm kế tiếp”. Chỉ thấy tiếng hiệu giác cứ

truyền tới, trong nháy mắt đến ngoài bì thất đại trướng thì ngừng lại.

Mấy trăm người ngồi trong trướng vốn dĩ đang ăn uống hò reo, ồn ào

như chợ vỡ, lúc này đột nhiên lặng như tờ.

Gia Luật Hồng Cơ thần sắc trấn tĩnh, chầm chậm nâng kim bôi lên,

uống cạn chén rượu nói:

- Có phản đồ làm loạn ở Thượng Kinh, thôi mình đành phải về vậy.

Nhổ trại!

Hành quân đại tướng lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng

“Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn,

thanh âm càng lúc càng lớn nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự không có vẻ

gì náo loạn mất trật tự. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu ta lập

quốc đã hơn hai trăm năm, quốc uy vang dậy thiên hạ, lúc này tuy có nội

loạn nhưng không có vẻ gì bối rối, đủ biết Liêu chúa bình thời chỉ huy

quân đội có phép tắc hẳn hòi”.

Bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, đội tiền phong xích hậu quân2

ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong cũng lên đường, rồi tiền

quân, tả quân, hữu quân từng đội từng đội đi về hướng nam hồi kinh.

Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:

- Mình ra xem thế nào!

Hai người ra khỏi trướng, chỉ thấy trong đêm đen mỗi lá quân kỳ

đều có gắn một chiếc đèn lồng, đỏ, vàng, xanh, trắng màu sắc lấp lánh,

hơn một chục vạn quân xuôi nam nhưng chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp,

không một tiếng người. Tiêu Phong hết sức thán phục nghĩ thầm: “Trị

quân như thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng

thượng cậy mạnh đi săn một mình nên ta mới bắt được. Ví như đại quân

cùng đi, người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng ít cũng không chống

nổi với số đông.

Hai người vừa ra khỏi trướng, các vệ sĩ lập tức rỡ lều, chỉ một

thoáng đã đâu đó gọn gàng sạch sẽ, hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất

lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái liền ra lệnh, mọi người

lập tức khởi hành. Bắc Viện Đại Vương, Vu Việt, Thái Sư, Thái Phó

bách quan theo hầu đằng trước đằng sau Gia Luật Hồng Cơ, mặt mày ai

nấy nghiêm trọng nhưng cũng không nói lời nào. Tin tức về vụ nổi loạn

trong kinh tuy đã truyền ra nhưng nội vụ thế nào, tình huống ra sao hiện

giờ vẫn chưa rõ rệt.

Đại đội nhân mã theo đường về nam được ba ngày, tối hôm đó vừa

đóng quân xong thì một tên thám tử phóng ngựa chạy đến bẩm với Gia

Luật Hồng Cơ:

- Nam Viện Đại Vương nổi loạn, chiếm cứ hoàng cung, từ hoàng

thái hậu, hoàng hậu trở xuống đến các vương tử, công chúa cùng gia

quyến bách quan đều đã bị chúng bắt giữ cả rồi.

Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vẻ mặt lập tức biến sắc.

Việc quân quốc trọng sự nước Liêu do hai viện Nam Bắc chia ra

cáng đáng. Lần này Bắc Viện Đại Vương tùy giá đi săn để Nam Viện

Đại Vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện Đại Vương Gia Luật

Niết Lỗ Cổ, tước phong Sở Vương, bản thân y không nói làm gì nhưng

cha y Gia Luật Trọng Nguyên, đương kim Hoàng thái thúc, quan phong

Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, ấy mới thực là đáng ngại.

Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là

Thánh Tông. Con trai trưởng của Thánh Tông là Tông Chân, con trai thứ

là Trọng Nguyên. Tông Chân tính nết hiền lành, bụng dạ rộng rãi còn

Trọng Nguyên lại rất võ dũng, có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà

có di mệnh truyền ngôi cho con trưởng Tông Chân. Thế nhưng hoàng

hậu lại thương con trai thứ hơn nên âm mưu lập Trọng Nguyên lên ngôi.

Nước Liêu từ xưa tới nay, hoàng thái hậu quyền thế rất lớn thành thử

ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng

khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem mật mưu của mẫu hậu báo

cho huynh trưởng khiến cho bao nhiêu tính toán của hoàng thái hậu đều

không thành. Tông Chân vì chuyện đó nên đối với em cực kỳ cảm kích,

lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền

ngôi cho ông ta để báo đền ân đức.

Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, nhưng khi ông ta

qua đời, hoàng vị lại không truyền cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà

lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.

Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên

phong cho Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc, để minh định rằng chú

mình sẽ kế thừa ngôi vua của nước Liêu, lại phong thêm chức Thiên Hạ

Binh Mã Đại Nguyên Soái, lúc lâm triều miễn lạy, miễn xưng tên, ban

cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu trong triều phải

nói là người được tôn sủng bậc nhất. Con ông ta là Niết Lỗ Cổ được

phong Sở Vương, chấp chưởng mọi việc quân chính yếu vụ Nam Viện

nên được gọi là Nam Viện Đại Vương.

Năm xưa Gia Luật Trọng Nguyên rõ ràng là được ngôi vua nhưng

nhường cho huynh trưởng đủ biết ông ta là người trọng nghĩa khí, lại tốt

nhịn. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu việc quân

quốc trọng vụ ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi

ngại chút nào. Bây giờ nghe tin truyền đến kẻ mưu phản là Nam Viện

Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, Gia Luật Hồng Cơ vừa lo lắng vừa kinh

hoàng, vốn biết tính tình Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự rất là tàn

nhẫn, nếu y mưu phản thì cha y ắt không đứng ngoài.

Bắc Viện Đại Vương tâu rằng:

- Bệ hạ đừng lo vội, Hoàng thái thúc ắt nhìn vấn đề rõ ràng, không

thể nào tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc

này đã đem quân bình loạn rồi.

Gia Luật Hồng Cơ đáp:

- Cũng mong là thế.

Mọi người ăn cơm tối xong, tên thám tử thứ hai lại đến bẩm báo:

- Nam Viện Đại Vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra

chiếu cáo tri thiên hạ.

Y không dám tâu tiếp phần bên dưới, chỉ hai tay dâng lên chiếu của

tân hoàng đế. Hồng Cơ cầm lấy xem qua thấy chiếu thư tố cáo đích danh

Gia Luật Hồng Cơ là soán vị ngụy đế, nói là tiên đế đã lập Gia Luật

Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ, trong hai mươi bốn năm ai ai cũng

biết, nhưng khi băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, ăn trộm ngôi

đại bảo, người người ai ai cũng phẫn nộ, hiện Hoàng thái đệ đã chính vị

lên làm vua, đốc suất binh mã thiên hạ đi trừ nghịch ngụy ...

Gia Luật Hồng Cơ trong cơn cuồng nộ, cầm chiếu thư vứt luôn vào

đống lửa, nhưng trong bụng cực kỳ lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu

này lời đanh thép đâu ra đấy, quân dân Liêu quốc xem chỉ e lòng người

hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên

Soái, trong tay cầm binh phù, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh

mã, chưa kể thêm quân dưới tay con ông ta là Nam Viện Đại Vương. Ở

đây tùy giá ta chỉ có chưa đầy mười vạn, quả bất địch chúng, làm thế

nào bây giờ đây?”. Tối hôm đó ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ

được.3

Tiêu Phong nghe thấy Liêu đế định phong cho ông một chức quan

đã toan nhân lúc đêm khuya dẫn theo A Tử không từ biệt lẻn đi, thế

nhưng lúc này thấy nghĩa huynh gặp cảnh nguy nan, chẳng nỡ bỏ rơi ông

ta, bằng giá nào cũng phải ra tay giúp nhau một chuyến cho khỏi phụ

tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó ông ra ngoài doanh dạo chơi,

nghe thấy các quan binh thì thầm to nhỏ, đều nói cha mẹ vợ con đang ở

Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt giữ cả, e rằng tính mạng không còn.

Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc dao động

lòng người, quan binh khác trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ

sụt sùi. Quan tướng thống binh tuy cực lực ngăn trở, chém đầu mấy kẻ

khóc to hơn cả làm gương nhưng cũng không sao dứt hết được.

Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy tiếng khóc vang động biết rằng lòng

quân có chiều ly tán, lại càng lo lắng.

Sáng sớm hôm sau, thám tử lại đến báo rằng Hoàng thái thúc và Sở

Vương dẫn binh năm mươi vạn, đang tiến lên phía bắc mưu toan phạm

giá. Hồng Cơ nghĩ thầm: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn

đường lui, nếu như bại trận thì cũng đành một phen tử chiến cho xong”.

Ông lập tức chiêu tập bách quan để thương nghị. Quần thần ai nấy một

lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện cùng chết với chủ nhưng

chỉ lo lòng quân không còn vững chãi.

Hồng Cơ truyền lệnh xuống:

Tất cả các quan binh hãy ra sức bình nghịch thảo tặc, khi dẹp yên

được giặc rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.

Ông mặc giáp trụ bằng vàng, tự mình đốc suất ba quân nghinh chiến

với quân của Hoàng thái thúc. Các quan binh thấy hoàng thượng tự mình

cầm quân ra chống địch lập tức dũng khí bùng lên, hô vạn tuế ba lần

quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn quân chia thành bốn bộ

phận tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang

tiến về phía nam, thêm những tiểu đội du kỵ đi tuần ở hai bên.

Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ đóng

vai hộ vệ tùy giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng binh bảo hộ cho A Tử ở

hậu quân. Tiêu Phong thấy Gia Luật Hồng Cơ lông mày nhăn tít lại, biết

ông chưa có được kế hoạch gì trong trận chiến này.

Quân đi đến giữa trưa bỗng nghe đằng trước tiếng tù và nổi lên.

Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh:

- Xuống ngựa!

Các kỵ binh ai nấy nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn

Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là còn ngồi trên yên. Tiêu Phong

không hiểu sao các kỵ binh lại hạ mã, còn đang thắc mắc, Gia Luật

Hồng Cơ cười hỏi:

- Huynh đệ ở tại Trung Nguyên lâu ngày nên không biết phương

pháp hành quân của người Khất Đan, phải không?

Tiêu Phong đáp:

- Thần đang mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười đáp:

- Ha ha, cái hai chữ bệ hạ kia không biết có còn được tới lúc mặt

trời lặn ngày hôm nay nữa hay không? Ta với ngươi dùng tình anh em

mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?

Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông nhuốm vẻ cay đắng bèn nói:

- Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải lo lắng quá như vậy.

Hồng Cơ nói:

- Giao phong trên đất bằng, quan trọng nhất là sức ngựa, sức người

chỉ đứng hàng thứ hai.

Tiêu Phong bấy giờ mới hiểu nói:

- À, thì ra thế! Kỵ binh xuống ngựa để cho tọa kỵ khỏi mệt mỏi.

Hồng Cơ gật đầu nói:

- Dưỡng sức cho ngựa khi lâm địch xung phong hãm trận vẫn còn

khỏe như lúc đầu. Người Khất Đan đông chinh tây thảo, đánh đâu thắng

đó chính là nhờ cái bí quyết quan trọng này.

Ông ta nói tới đây, từ xa xa đằng trước bụi bay mù mịt, bốc lên cao

đến mươi trượng, chẳng khác gì một đám mây vàng cuồn cuộn kéo tới.

Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói:

- Hoàng thái thúc và Sở Vương đều chinh chiến lâu năm, là những

tướng tài của nước Liêu ta sao lại xua binh kéo đến ầm ầm, không dưỡng

sức cho ngựa là sao? Hừ, thì ra bọn chúng hữu thị vô khủng4 cho rằng thể

nào cũng thắng nên không úy kỵ gì cả.

Ông còn đang trù trừ đã nghe tù và tả quân và hữu quân cùng trổi

lên. Tiêu Phong đưa mắt nhìn thấy phía đông cũng có hai cánh quân,

phía tây cũng có hai cánh quân, địch từ năm phía công tới. Gia Luật

Hồng Cơ mặt liền biến sắc quay sang vị tướng chỉ huy trung quân ra

lệnh:

- Kết trận lập trại mau!

Trung quân tướng quân đáp lời:

- Tuân lệnh!

Y giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu

quân cùng quay đầu lại đồng thời một toán quân dùng búa đóng các cột

dùng để dựng bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông,

chỉ chốc lát đã ghép gỗ thành một bức tường cực lớn giữa thảo nguyên,

tiền hậu tả hữu chỗ nào cũng có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn

sau thành, cung trong tay sẵn sàng, đợi giờ buông tên.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai

thắng ai bại thì người Khất Đan đồng tộc của ta cũng thây đầy đồng nội.

Hay hơn hết vẫn là nghĩa huynh đắc thắng, nếu như chẳng may thua trận

thì ta cũng cố tìm cách cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến được nơi

an toàn, còn chuyện có còn làm hoàng đế hay không cũng chẳng sao”.

Doanh trại của Liêu đế kết xong chưa bao lâu thì đội tiền phong của

loạn quân đã tới nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại xa xa nơi

cung nỏ bắn không tới được. Thế nhưng vẫn nghe tiếng trống tiếng kèn

liên miên bất tuyệt, từng đội, từng đội loạn quân tiến đến vây quanh,

bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa

mắt nhìn ra thấy đầy mặt đất chỗ nào cũng là quân địch không biết đâu

là cùng nghĩ thầm: “Binh thế nghĩa huynh kém xa, quả bất địch chúng,

xem chừng thua mất thôi. Trời sáng không tiện xung đột trùng vây đào

tẩu, chỉ còn nước cố giữ cho đến tối lúc đó ta tìm cách cứu y”. Thế nhưng

bóng nắng những cây gỗ đóng trại chiếu xuống đất còn ngắn ngủn, mặt

trời đang chói chang chỉ mới xế trưa một chút.

Chỉ nghe tiếng cạp cạp cạp mấy tiếng, một đàn vịt nước bay thành

đội giữa lưng trời. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu nhìn ngơ ngẩn, cười

gượng nói:

- Chỉ có nước biến thành con nhạn chứ có chắp cánh cũng không

bay khỏi nơi đây được.

Bắc Viện Đại Vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau biến sắc,

biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân trong lòng khiếp sợ. Quân địch

đánh trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng

chỉ huy trung quân hét lớn:

- Đánh trống!

Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng tùng tùng vang lên.

Phía bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang

trời dậy đất, cầm mâu xông thẳng qua. Khi thấy tiền phong quân của

địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng

trống của ngự doanh lập tức ngừng, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra,

quân tiền phong của địch lả tả ngã xuống. Thế nhưng quân địch kẻ trước

ngã người sau tiến lên, quân mã đi trước biến thành tấm mộc chắn cho

kẻ đi sau. Bộ binh cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân xông được tới

nơi bắn tên vào ngự doanh.

Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu quả có hơi khiếp sợ nhưng khi tiếp chiến

rồi, dũng khí lập tức tăng gia gấp bội, đứng trên cao tay cầm trường đao,

ra lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc

chiến đều hô lớn:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bên địch nghe thấy “Vạn tuế!” ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng

Cơ hoàng bào kim giáp, đứng ngay tại đài cao trong ngự doanh, nhất thời

sợ uy của ông nên ngần ngừ không dám tiến. Hồng Cơ thấy có dịp may

liền quát lớn:

- Kỵ binh tả quân xông ra vây lại.

Tả quân do Bắc Viện Khu Mật Sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng

ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền từ ngang hông đánh ra vây quân địch. Loạn

quân còn đang do dự, ngự doanh quân đã tới nơi, trận thế lập tức đại

loạn. Trống của ngự doanh quân đánh liên hồi như sấm, quân địch chỉ

tiếp chiến được một lát phải rút về, ngự doanh quân liền xông lên truy

sát, khí thế cực kỳ hung tợn.

Tiêu Phong mừng lắm kêu lên:

- Đại ca, trận này mình đại thắng rồi.

Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân

tiếp viện. Đột nhiên nghe tiếng tù và nổi lên, chủ lực của quân phản

loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh, chỉ trong một thoáng

vũ tiễn trường mâu phóng tới vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu

trời, máu me vung vãi. Tiêu Phong xem mà trong bụng hãi thầm: “Cảnh

ác đấu như thế này ta bình sinh chưa từng thấy bao giờ. Một người dù võ

công thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng

dùng được vào việc gì, cùng lắm cũng chỉ tự bảo vệ được mình là may.

Cảnh đại quân giao chiến với cảnh tỉ đấu trong võ lâm, không thể nào có

thể so sánh với nhau được”.

Bỗng nghe tiếng phèng la từ phía sau phản quân vang lên ra hiệu

thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui rồi, tên chặn đường liền bắn ra

như mưa, Trung Quân tướng quân và Bắc Viện Khu Mật Sứ ba lần xung

phong nhưng không qua khỏi được trận thế của địch, ngược lại còn bị

bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Sĩ tốt chết nhiều quá, tạm thời thu binh.

Lập tức ngự doanh quân cũng gióng chiêng thu binh.

Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông đến tập kích

nhưng trung quân đã phòng bị trước, giả như thua chạy, hai cánh quân

liền đánh ập vào vây luôn ba nghìn quan quân vào giữa, còn mấy trăm

người khác xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh

quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm người. Trận ác đấu đó

chưa đầy một giờ nhưng chém giết nhau cực kỳ thảm khốc.

Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống giữa

hai bên đầy xác người, những người bị thương rên rỉ kêu la thật là thê

thảm. Lại thấy hai bên mỗi bên xông ra một đội áo đen khoảng ba trăm

người, ngự doanh quân đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng

kiểm tra những người bị thương. Tiêu Phong tưởng những người này ra

tìm người bị thương để cứu chữa, nào ngờ những quan binh áo đen kia rút

phắt trường đao, giết sạch thương binh của đối phương. Những người bị

thương chết cả rồi, sáu trăm người đó rống lên một tiếng hai bên liền

đấu với nhau.

Sáu trăm hắc y quân võ công ai nấy không phải dở, trường đao lấp

loáng, ra sức ác đấu, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém chết

lăn ra. Những người áo đen đội mũ vàng thuộc đội ngự doanh võ công

tương đối cao hơn, số bị giết chỉ độ vài chục người khiến cục thế biến

thành hai ba người đánh một và như thế việc thắng phụ đã rõ ràng. Đấu

thêm một lúc nữa, biến thành ba bốn người hợp đấu một người. Thế

nhưng quan binh hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản

loạn tụ thủ bàng quan chứ không cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng

ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân

còn sống sót khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là

người Liêu có cái phép tắc như thế”.

Lần ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn như lần

trước nhưng lại kinh tâm động phách hơn nhiều. Hồng Cơ giơ cao trường

đao, lớn tiếng nói:

- Quân phản loạn tuy đông nhưng không có chí chiến đấu. Đánh

thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy mà thôi.

Quân ngự doanh cùng la to:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bỗng từ phía trong phản quân có tiếng tù và, năm người cưỡi ngựa

chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay bưng một mảnh da cừu, lớn tiếng

đọc bản chiếu thư của Hoàng thái thúc ban bố:

Gia Luật Hồng Cơ soán vị, là một ngụy quân, hiện nay Hoàng thái

thúc đã lên ngôi chính thống. Phàm là quan binh trung thành của nước

Liêu ta thì ngay hôm nay phải về kinh qui phục, ai nấy được thăng ba

cấp...

Quân ngự doanh lập tức có hơn một chục binh sĩ bắn tên ra, nghe

kêu vút vút. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên bảo vệ. Gã kia vẫn tiếp

tục đọc, đột nhiên năm con ngựa cùng bị bắn ngã, nhưng năm người vẫn

đứng nấp sau thuẫn bài đọc cho hết “chiếu thư” của Hoàng thái thúc, lúc

đó mới quay về.

Bắc Viện Đại Vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ

động lòng liền quát lớn:

- Ra chửi lại đi!

Ba chục tên lính liền bước ra hơn chục trượng, hai chục người cầm

thuẫn bài bảo hộ, còn lại là mười tên “thợ chửi”, đứa nào cũng mồm to

giọng lớn, tên thứ nhất liền bắt đầu, nào là “phản quốc gian tặc, chết

không có đất mà chôn” ... tên thứ hai lại tiếp, đến sau toàn những câu

hết sức thô tục. Tiếng Khất Đan Tiêu Phong biết chẳng bao nhiêu, ngôn

từ của những tay “thợ chửi” này ông phần lớn không hiểu nhưng thấy

Gia Luật Hồng Cơ luôn luôn gật gù, có vẻ thích thú, ắt là những “mạ

thủ” này chửi cũng có đầu có đuôi.

Tiêu Phong nhìn qua phía trận thế bên địch, thấy xa xa dưới lọng

vàng tiết mao rực rỡ có hai người cưỡi ngựa, tay cầm roi chỉ trỏ. Một

người toàn thân hoàng bào, đầu đội mũ xung thiên, râu hoa râm dài, còn

người kia mặc hoàng kim giáp trụ, gương mặt gầy choắt, dáng điệu tinh

anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra hai người này hẳn là cha con

Hoàng thái thúc và Sở Vương rồi”.

Đột nhiên mười tên “thợ chửi” kia hạ giọng thì thầm bàn tán một

hồi, rồi cùng cất cao giọng vạch trần những chuyện xấu xa của Hoàng

thái thúc và Sở Vương. Hoàng thái thúc dường như là người đứng đắn,

không có chuyện gì có thể bới móc thành ra cả mười tên chỉ lôi toàn

chuyện Sở Vương, nói y gian dâm phi tử của phụ thân, cậy quyền thế

cha làm điều càn rỡ. Những lời đó hiển nhiên cốt để đâm thọc, ly gián

cha con. Cả mười người cùng cao giọng, luận điệu cũng na ná như nhau

truyền ra xa đến mấy dặm nên trong đám mấy chục vạn quân không ít

người nghe rõ ràng.

Sở Vương giơ roi vẫy một cái, phản quân cùng gào lên một lượt,

người nào cũng a a ầm ỹ, ồn ào rức lác lập tức át hết giọng mười tên

“thợ chửi” kia.

Hai bên loạn lên một hồi, bên địch bỗng tẽ thành hai, đẩy ra mấy

chục chiếc xe đến trước quân ngự doanh thì ngừng lại. Những quân lính

đẩy xe lôi từ trong xa ra mấy chục người đàn bà, có người thì tóc trắng

như bông, có người tuổi còn non choẹt, quần áo ai nấy cực kỳ sang trọng.

Những người đó vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức ngừng bặt.

Gia Luật Hồng Cơ kêu lên:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Thể nào con cũng sẽ bắt bọn phản đồ, băm chúng

ra thành vạn mảnh để cho mẹ vui lòng hả dạ.

Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẹ của Gia Luật Hồng

Cơ tức đương kim Hoàng Thái Hậu, ngoài ra là Tiêu hoàng hậu và các

phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở Vương thừa cơ Hồng Cơ ra

ngoài đi săn nổi loạn, vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu và tất cả

những người kia.

Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:

- Bệ hạ đừng nghĩ gì đến mẹ già vợ con, cứ ra sức trừ loạn giết giặc

đi.

Mấy chục tên quân sĩ liền rút trường đao nhứ vào cổ các hậu phi,

những phi tần tuổi trẻ ai nấy kinh hãi khóc òa lên. Gia Luật Hồng Cơ nổi

giận, quát lên:

- Bắn chết bọn đàn bà đang khóc cho ta!

Chỉ nghe vèo vèo, hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra, những phi tần đang

khóc bị trúng tên ngã xuống chết ngay. Hoàng hậu reo lên:

- Bệ hạ bắn giỏi lắm, giỏi lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể nào để

hủy diệt trong tay gian tặc được.

Sở Vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều cứng cổ như thế,

không thể bức bách được Hồng Cơ, ngược lại còn làm dao động quân

tâm bên mình bèn ra lệnh:

- Đẩy bọn đàn bà lên xe, lui lại.

Các binh sĩ liền áp giải Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mọi người lên

xe đẩy về phía sau. Sở Vương lại hạ lệnh:

- Đem gia quyến quân địch ra.

Chỉ nghe tu tu tu tiếng còi tre thổi lên nghe thật thê lương, quân mã

lại giạt sang hai bên, rồi tiếng xích kêu loảng xoảng không ngớt, một

đoàn người già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát tiếng

khóc hai bên vang dậy. Thì ra đây là gia quyến của ngự doanh quân.

Ngự doanh quân vốn là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ

đặc biệt ưu đãi nên cho gia đình của họ ở trong kinh thành, một là để cho

binh lính cảm kích, khi có việc ra sức liều thân, thứ nữa cũng để canh

chừng khiến đội quân tinh nhuệ này xuất chinh không dám hai lòng, ngờ

đâu lần này đi săn mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia nhân quyến thuộc

của ngự doanh quân phải đến hơn hai chục vạn người, giải đến trận tiền

bất quá chỉ chừng ba vạn, trong đó vô khối người bị bắt oan nhưng chưa

phân biện được thành thử bồng con bế cháu, người nọ níu người kia loạn

cả lên.

Một tên tướng của Sở Vương giục ngựa chạy ra lớn tiếng nói:

- Chúng quan binh ngự doanh quân nghe đây: Người nhà các ngươi

lớn nhỏ đã bị bắt cả rồi, ai đầu hàng thì được xum họp với gia đình,

thăng quan ba cấp lại có thưởng. Còn như không đầu hàng thì tân hoàng

đế đã có chỉ dụ sẽ giết sạch hết gia quyến chúng bay.

Người Khất Đan xưa nay tàn nhẫn hiếu sát, nay nói đến “giết sạch”

thì không phải là chuyện dọa xuông. Trong đám ngự doanh quân có

người nhận ra thân thuộc mình “Cha ơi, mẹ ơi, con ơi, mình ơi, em ơi ...”

hai bên gọi nhau ơi ới rầm rĩ.

Trong đám phản quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ

hung hăng bước ra, tay cầm đao sáng quắc. Tiếng trống vừa ngừng lại,

hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia thuộc của ngự

doanh quân. Gã tướng quân kia lại quát lên:

- Kẻ nào đầu hàng tân hoàng đế thì có trọng thưởng, bằng không,

bao nhiêu người thân bị giết sạch.

Y giơ tay lên, tiếng trống lại đánh inh ỏi. Ngự doanh quân biết rằng

một khi y phất tay, tiếng trống sẽ ngừng, hai nghìn thanh đao sáng quắc

kia sẽ chém xuống. Đám thân binh kia xưa nay trung thành với Gia Luật

Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở Vương có đem “thăng quan” “trọng

thưởng” ra dụ, cũng không ăn thua, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con

vươn cổ chờ chém, làm gì mà không hoảng sợ?

Tiếng trống vẫn tùng tùng không ngớt, tim trong lồng ngực đám ngự

doanh quân cũng thình thình đập theo. Đột nhiên trong đám quân có kẻ

kêu lên:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng giết mẹ tôi!

Y quăng trường mâu xuống, chạy bổ nhào về một bà lão trong đám

địch quân. Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh quân bắn ra,

trúng ngay giữa lưng người nọ. Người đó chưa chết ngay vẫn còn tiếp tục

lao về phía người mẹ. Chỉ nghe thấy tiếng ”Mẹ ơi! Con ơi!” ồn ào vang

dậy, mấy trăm người trong ngự doanh quân cùng chạy ùa lên. Những

tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém loạn xạ nhưng

làm sao ngăn nổi? Mấy trăm người đó chạy qua rồi, chẳng mấy chốc

thành mấy nghìn người. Sau mấy nghìn người đó trận thế liền hỗn loạn,

trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua có đến sáu bảy vạn người

qua bên kia.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng biết rằng đại thế đã hỏng, thừa

cơ thân quân gặp gỡ gia quyến tình hình đang náo loạn chặn lối đối

phương lập tức ra lệnh:

- Lui quân về phía đất bằng trên núi cao mạn tây bắc.

Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra, số chưa chịu hàng cũng

còn khoảng hơn tám vạn người, hậu quân đổi thành tiền quân, rút lui về

hướng tây bắc. Sở Vương vội vàng sai kỵ binh đuổi theo nhưng trên

chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu, ngựa chạy không

nhanh được, đến khi dẹp được bọn họ ra thì Gia Luật Hồng Cơ cùng ngự

doanh quân đã đi xa rồi.

Tám vạn thân quân khi đến được chân núi thì đã về chiều, quân sĩ

vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, từ cao trông xuống để làm

thế phòng ngự. Sau khi doanh trại đã xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở

Vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến chặn dưới chân núi, lập tức đánh lên.

Quân ngự doanh bắn tên lăn đá xuống như mưa, đẩy lùi quân phản loạn.

Sở Vương thấy từ dưới công lên không có lợi nên đành thu binh, an

doanh ở chân núi.

Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng cạnh mỏm núi nhìn về phía

nam thấy lửa trong trại phản quân đầy như đom đóm, xa xa lại có ba con

rồng lửa ngoằn ngoèo, đó là ba đạo quân kéo đến tiếp viện vi công.

Hồng Cơ trong lòng buồn bã, đang định vào trướng thì Bắc Viện Khu

Mật Sứ đến bẩm:

- Một vạn năm nghìn quân của thần đã chạy xuống dưới núi đầu

hàng quân phản nghịch. Thần trị quân không ra gì, thật đáng chết.

Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói:

- Cái dó không phải lỗi nhà ngươi, thôi xuống đi nghỉ.

Ông quay đầu lại thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa

xa bèn nói:

- Khi trời sáng, phản quân sẽ đem toàn lực đánh lên, chúng mình sẽ

bị bắt cả. Ta là vua một nước, không thể nào chịu nhục với bọn phản đồ,

đành tự vẫn báo đền xã tắc. Huynh đệ nhân lúc trời tối xông ra đi, ngươi

võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.

Ông nói tới đây vẻ mặt cực kỳ buồn bã, lại tiếp:

- Ta vốn định phong cho ngươi một chức quan thật lớn để hưởng phú

quí, có ngờ đâu người anh này cái thân cũng chẳng bảo toàn được, lại

làm lụy đến cả ngươi.

Tiêu Phong đáp:

- Đại ca, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, hôm nay chiến trận không

lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca ra khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi

lại tính sau.

Hồng Cơ lắc đầu:

- Đến mẹ già vợ con ta còn không bảo vệ nổi, nói gì đến đại trượng

phu? Dưới mắt người Khất Đan, kẻ thắng là kẻ anh hùng, kẻ thua là kẻ

phản nghịch. Ta đã thua sạch rồi còn cách gì ngoi lên nổi nữa? Ngươi

hãy một mình đi thôi.

Tiêu Phong biết ông ta thực tình liền khẳng khái đáp:

- Nếu đã thế thì tiểu đệ nguyện cùng với ca ca, ngày mai một trận

tử chiến với bọn phản khấu. Ca ca và đệ nghĩa kết kim lan, ca ca là

hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, đối với Tiêu mỗ cũng đều

là nghĩa huynh. Huynh trưởng có nạn thì người em này nguyện cùng anh

đồng sinh cộng tử chứ lẽ nào lại bỏ chạy bao giờ?

Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay ông nói:

- Hảo huynh đệ, cám ơn em.

Tiêu Phong quay trở vào trong trướng thấy A Tử nằm co tại một

góc, mở tròn đôi mắt to, hóa ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi:

- Tỉ phu có giận em không?

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Giận ngươi chuyện gì?

A Tử đáp:

- Cũng tại em chẳng ra đâu, nếu như em không đòi ra đại thảo

nguyên du ngoạn thì anh đâu có bị khốn khổ ở nơi đây. Tỉ phu, chúng

mình sẽ chết ở đây có phải không?

Ánh lửa từ bên ngoài lều chiếu lên mặt nàng, trong vẻ xanh xao có

thoáng một chút hồng đầy vẻ ngây thơ trẻ con. Tiêu Phong trong lòng

cực kỳ thương xót dịu dàng đáp:

- Ta lẽ nào lại trách em? Nếu như ta không đả thương cô thì chúng

mình đâu có đến chỗ này.

A Tử mỉm cười nói:

- Nếu không vì em bắn kim độc vào anh thì anh đâu có đả thương

em.

Tiêu Phong giơ bàn tay thô kệch vuốt tóc nàng. A Tử bị trọng

thương rồi, tóc rụng đến quá nửa, vừa vàng vừa thưa. Tiêu Phong thở dài

một tiếng nói:

- Em còn nhỏ quá vậy mà theo ta chi cho khổ.

A Tử nói:

- Tỉ phu ơi, trước kia em không hiểu vì lẽ gì tỉ tỉ lại thích anh, bây

giờ thì em hiểu rồi.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chị cô đối với ta tình nghĩa thật sâu nặng,

một đứa bé con như cô thì biết gì. Thực ra, vì cớ gì A Châu lại yêu một

kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng còn chưa rõ thì ngươi làm sao mà hiểu

được đây?”. Ông nghĩ tới đây buồn bã lắc đầu.

A Tử nghiêng ngó nhìn ông rồi nói:

- Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó em lại bắn độc châm vào anh

chưa? Em thực chẳng muốn bắn chết anh mà chỉ cốt anh không còn cử

động được để em được hầu hạ anh thôi.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Thế để làm gì?

A Tử mỉm cười đáp:

- Anh không cử động được thì mãi mãi không bao giờ xa em. Nếu

không anh đâu có coi em vào đâu, lúc nào cũng bỏ em mà đi được,

không ngó ngàng gì đến em nữa.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật rặt giọng trẻ con nhưng biết không

phải bạ đâu nói đấy, cảm thấy chột dạ nghĩ thầm: “Thôi thì đằng nào

sáng mai cũng chết hết, an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”. Ông bèn

nói:

- Em thật đúng là trẻ con. Nếu quả như cô muốn theo ta thì cứ nói

thẳng lẽ nào ta lại không bằng lòng.

Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng bừng lên, vui mừng nói:

- Tỉ phu ơi, sau khi em khỏi bệnh rồi, em muốn đi theo anh, mãi mãi

không quay lại với sư phụ và phái Tinh Tú nữa. Anh đừng bỏ rơi em nhé!

Tiêu Phong biết cô ta đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, quả thực

chẳng dám quay lại đâu nên cười nói:

- Cô là truyền nhân đại sư tỉ của môn phái, nếu không quay về thì

quần long vô thủ biết làm sao bây giờ?

A Tử cười khanh khách đáp:

- Để cho bọn chúng loạn bát nháo lên cũng hay. Em mặc kệ họ.

Tiêu Phong cầm chiếc mền kéo lên đắp tới cổ cho cô gái, xong xuôi

rồi mới kiếm một góc trướng trải chăn da nằm ngủ. Lửa bên ngoài lúc

mờ lúc tỏ, lấp loáng bất định nghe có tiếng khóc văng vẳng, biết là ngự

doanh quân nhớ người thân. Ai cũng biết một trận sáng mai tính mạng sẽ

chẳng còn, có điều trung với hoàng thượng nên không phản bội.

Mới sớm hôm sau Tiêu Phong đã dậy rồi, dặn Thất Lý chuẩn bị

ngựa sẵn sàng lo cho A Tử, còn mình cũng xong xuôi, ăn một cân thịt

cừu, uống ba cân rượu rồi đi ra ngoài sườn núi. Khi đó chung quanh trời

còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh

quân thổi tù và u u, tiếng leng keng của binh giáp võ khí chạm nhau

không dứt. Trong doanh từng đội binh mã đi ra, thủ ngự những nơi xung

yếu. Tiêu Phong từ cao nhìn xuống thấy phía đông, phía nam và phía

đông nam ba mặt chỗ nào cũng đầy người, đều là phản quân cả. Ở phía

xa xa một làn sương trải dài, thành thử loạn quân không biết đâu là cuối.

Ngay khi đó vầng thái dương từ chân trời nhô lên như một vòng

cung tỏa ra thành muôn ngàn tia nắng chiếu thẳng vào màn bạch lộ,

sương tan dần thấy ẩn dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã.

Khắp nơi tiếng trống đánh vang rền, từ trong quân địch hai đội cầm cờ

vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc và Sở Vương cưỡi ngựa đến

dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên trên cao bàn tán.

Gia Luật Hồng Cơ dẫn thị vệ đứng ngay sườn núi, thấy tình hình đó

cơn giận dâng lên, cầm ngay cung tiễn trong tay lính hầu giương thẳng

cánh nhắm vào Sở Vương bắn ra một mũi tên. Từ trên cao nhìn xuống

tưởng chừng như hai bên không xa, thực ra còn cách đến mấy đường tên

mới tới, mũi tên chưa được nửa đường thì đã hết sức, rơi xuống rồi.

Sở Vương cười ha hả lớn tiếng nói:

- Hồng Cơ, ngươi soán đoạt ngôi vua của cha ta, làm ngụy quân bao

nhiêu lâu rồi, bây giờ phải nhượng vị thôi. Ngươi mau mau đầu hàng cha

ta sẽ tha cho khỏi chết, còn giả nhân giả nghĩa phong cho ngươi làm

Hoàng thái điệt nữa đấy! Ha ha ha!

Mấy câu đó hiển nhiên mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm

Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa. Hồng Cơ cơn giận xung thiên,

chửi lại:

- Đồ phản tặc vô liêm sỉ, còn bẻo mép nữa ư?

Bắc Viện Khu Mật Sứ kêu lên:

- Chúa bị nhục thì bầy tôi đành phải chết! Chúa thượng đối với thần

ơn nặng tày non, hôm nay chính là lúc bọn thần báo đền ơn nghĩa.

Y liền dẫn ba nghìn thân binh, cùng gầm lên từ trên cao xông

xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ trong bộ tộc Khất Đan, lần này

có ý quyết tử thành thử một có thể đánh mười, chỉ nghe tiếng gào thét

vang trời động đất, máu chảy thịt rơi. Ba nghìn người càng đánh càng ít

dần, đến sau đều chết cả. Bắc Viện Khu Mật Sứ giết được vài người, rồi

tự cắt cổ mà chết. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao

nhìn xuống thấy rõ ràng nhưng không làm sao cứu được nghĩ đến lòng

trung nghĩa của Bắc Viện Khu Mật Sứ, ai nấy đều nhỏ lệ.

Sở Vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói:

- Hồng Cơ, ngươi có chịu hàng hay không thì bảo? Cái đám quân

lưa thưa của ngươi thì làm được gì? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại

Liêu, sao nỡ để họ phải chết theo ngươi? Là nam nhi đại trượng phu, hãy

cho đâu ra đấy, hàng thì hàng, chiến thì chiến, còn như biết rằng khí số

hết rồi, sao chưa tự vẫn để tạ thiên hạ, khỏi làm chết thêm sĩ tốt.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hổ nhãn rưng rưng, rút đao

cầm tay nói:

- Giang sơn gấm vóc này thôi đành nhường cho cha con chúng bay

vậy. Ngươi nói quả không sai, chúng ta chú cháu anh em, cốt nhục tương

tàn, việc gì phải làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.

Nói xong ông giơ đao lên đâm vào cổ mình. Tiêu Phong vươn tay ra,

đoạt ngay con dao nói:

- Đại ca, kẻ anh hùng hảo hán có chết cũng chết nơi chiến trường,

lẽ nào lại tự tận bao giờ?

Hồng Cơ thở dài:

- Huynh đệ, bao nhiêu tướng sĩ đây theo ta đã lâu, ta đành chết còn

hơn là để cho họ phải vì ta mà bỏ mạng.

Sở Vương lại lớn tiếng giục:

- Hồng Cơ, ngươi còn chờ đến bao giờ mới tự vẫn?

Ngọn roi trong tay y chỉ thảng vào mặt, thái độ cực kỳ phách lối.

Tiêu Phong thấy y càng đến càng gần, trong lòng chợt động, nói nhỏ:

- Đại ca nói chuyện cầm chừng với y, tiểu đệ lẻn tới gần, bắn y một

mũi.

Hồng Cơ biết ông tài nghệ cao cường, mừng rỡ nói:

- Thế thì hay lắm, nếu bắn chết được y rồi ta có chết cũng nhắm

mắt.

Nói rồi cao giọng kêu lên:

- Sở Vương, ta đãi cha con ngươi không bạc, nếu cha ngươi quả

muốn làm vua thì có gì là không được, việc gì phải làm chết bao nhiêu

dũng sĩ, dân đen bản quốc, làm tổn thương nguyên khí cho nước Đại

Liêu?

Tiêu Phong cầm một bộ cung cứng, lấy mười mũi lang nha trường

tiễn, dẫn một con tuấn mã len lén qua bên núi, rùn người xuống chui

dưới bụng ngựa, hai chân quặp vào yên, lấy gót chân dậm một cái, con

vật liền chạy thẳng xuống.

Phản quân dưới núi thấy một con ngựa trên lưng không có người, lại

tưởng bị sút dây cương đi lạc là chuyện cực kỳ tầm thường nên chẳng ai

để ý. Thế nhưng chẳng mấy chốc quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có

người lập tức hô hoán rầm rĩ.

Tiêu Phong dùng đầu ngón chân thúc ngựa, xông thẳng vào Sở

Vương, thấy chỉ còn cách y chừng hai trăm bước, nằm dưới bụng ngựa

giương cung lên, nghe vút một tiếng bắn y một mũi. Vệ sĩ đứng bên cạnh

Sở Vương liền giơ thuẫn bài lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong giục ngựa

chạy tới, tên bắn liên tiếp, giết ngay tên vệ sĩ kia, mũi tên thứ hai lại

nhắm vào ngực Sở Vương.

datlucky_way

23-07-2009 02:59 PM

- Hồi 27(b) : KIM QUA ĐÃNG KHẤU AO BINH 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Thiên quân vạn mã vào ra,

Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.

Cuộc đời như giấc mộng lành,

Hôm nay khất cái mai thành đại vương.

*

* *

Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng

roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người

bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào

đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi

một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên

“Chao ôi!” một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.

Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần,

mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được

một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.

Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: “Sao mình không

thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc”.

Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm

mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng

đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy

vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo,

cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.

Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.

Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân

địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như

dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.

Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm

thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường

đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ

bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay

nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc

đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi

tên.

Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi

nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng

thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn

bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy

mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba

mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái

thúc.

Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy

nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng

là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung

Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung

hiểm, may có người khác cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn

làm sao chạy thoát được đây?

Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy

lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi

xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt,

giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi

xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn

sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn:

- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ

binh khí xuống.

Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không

nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai,

hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu

Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động

khinh suất?

Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn:

- Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe

tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả

quan binh, không truy cứu bất cứ ai.

Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm

còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau

núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong

Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát

khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội,

nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức

tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ

chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại,

trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói

liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.

Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của

quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định

được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ

nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục,

mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể

diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói:

- Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức

lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết

không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy

mau mau bỏ binh khí xuống.

Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy

người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua

người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số

người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.

Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa

chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập

tức tránh ra nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng

núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi

trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói:

- Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí

xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.

Hoàng thái thúc run run hỏi lại:

- Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?

Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn

cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết

nghĩ thầm: “Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái

thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ

càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa”. Ông liền nói:

- Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng

chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.

Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con

ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi,

chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp:

- Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.

Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói:

- Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.

Hoàng thái thúc lớn tiếng nói:

- Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng

khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ

binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.

Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn

mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào

dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn

quân đều vứt binh khí xuống đất.

Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia

Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ,

tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói:

- Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi

chung hưởng.

Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.

Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói:

- Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng

thương xót.

Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu

Phong:

- Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?

Tiêu Phong đáp:

- Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu

xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!

Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương:

- Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu Phong làm Sở Vương, giữ

chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5

Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc

chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn

tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho

chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại

Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong:

- Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong

cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng

đi.

Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ:

- Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng

về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức

nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm

quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.

Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói:

- Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc

cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần

phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn

cách nào khác nữa.

Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: “Ca ca vui quá, nói năng

chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần

quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa”. Ông

đành quì xuống nói:

- Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.

Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói:

- Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là

kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy

xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.

Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói:

- Quyết không sao cả.

Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca:

- Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò

tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.

Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay

sang Tiêu Phong tham bái nói:

- Tham kiến đại vương!

Hồng Cơ nói:

- Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn

quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.

Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn

người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng

thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật

Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi

sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen

ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.

Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc

Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra,

thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam

Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong

thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không

phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì

với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang

nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe

lệnh của ông.

Tiêu Phong nói:

- Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi,

từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản

trắc.

Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm:

- Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến

chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu

tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.

Tiêu Phong gật đầu:

- Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.

Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca:

- Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi

kinh.

Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham

kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ

Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào

kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm,

nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra

mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào

đấy.

Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu

và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu

Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi

trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu

Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào

rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến

một nửa không khỏi tức cười.

A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương,

bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại

chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu

Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.

A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn:

- Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội

đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không?

Làm em lo ơi là lo.

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có định

trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.

A Tử nói:

- Tỉ phu qua đây.

Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của

nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa

gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại

vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.

A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi:

- Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?

Tiêu Phong đáp:

- Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình

nhân, thú vị quá.

A Tử bực bội đáp:

- Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.

Tiêu Phong vẫn cười:

- Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc

chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy

thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta

nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi.

A Tử nói:

- Tỉ phu cũng sợ chết sao?

Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu:

- Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết.

A Tử nói:

- Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu

quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại

dám xông vào?

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông

vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không

dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay

một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại

cắn thôi.

A Tử bật cười:

- Anh so sánh mình với loài súc vật.

Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt

nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài

như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải

chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.

A Tử hết sức vui lòng nói:

- Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh

Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất

cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý.

Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ

phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang

hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn

chúng cho được việc.

Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói:

- Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái Bang không chịu cho

ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn

bè ta, sao lại giết họ?

A Tử đáp:

- Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết

chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của

anh nữa hay sao?

Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc

mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu

hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp:

- Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước

Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay

không về?

Tiêu Phong mủm mỉm cười:

- Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán

nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng

từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.

A Tử nói:

- Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở

xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: “Qua khỏi dãy núi kia là Trung

Nguyên”. Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương

nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng

bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh

không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam

Viện Đại Vương.

A Tử nói tiếp:

- Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong

anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh

với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách

thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia,

đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình

chẳng thắng thì là gì?

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay

quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi,

Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh

thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái,

giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn

thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.

A Tử gật đầu nói:

- Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết

Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì

trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có

được không?

Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự

tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại

gian đại ác, dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chỉ

nói gọn một câu: “Đã giết được những ai những ai ...” còn như bao nhiêu

gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa

ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong

đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo

lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói:

- Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không

được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.

A Tử nói:

- Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại

Tụ Hiền Trang.

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Làm sao cô biết?

A Tử đáp:

- Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ

em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ

công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc

đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ

nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con

ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp

ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân

phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân

tình.

Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc

lại:

- Ôi, “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc”, anh hùng hảo hán

Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao?

A Tử an ủi ông:

- Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói

là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan

trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn

hiếu sắc”, nhưng đối với tình nhân thì lại cũng “phụ nghĩa hiếu sắc”, đối

với con cái thì “tàn nhẫn vô tình” chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội

đứng một bên vỗ tay tán thành.

Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.

Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân

chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu

Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không

ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ

nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia

quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa

Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy:

- Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.

- Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại

phú đại quí!

Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào

người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: “Kẻ ở

trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn

vạn người. Khi ta bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng

nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với

bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều

tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ

nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu

tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói”.

Ông lại nghĩ: “Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc

thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo

cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại

càng khó tưởng ra nổi”.

Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước

lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế

nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng

Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém

xa.

Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở

Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang.

Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ?

Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập

hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một

cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.

Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu,

tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất

lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày.

Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất

các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái

thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết

rồi.

Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không

hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu

việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ,

đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn

tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng

hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả

thật chất cao như núi.

Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét

công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến

tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai

Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp ... nhất thời không nhớ hết được. Sau đó là

quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu,

rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích

Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến chào. Thuộc quốc của nước

Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết,

Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương,

Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng ... Những nước đó đều có sứ thần tại

Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều

đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.

Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt

thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán

dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật

Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo:

- Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn

Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không

muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau

sớm đem binh xuống phía nam.

Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong

bụng kinh hoảng nói:

- Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần

Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở

trường.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở

Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang,

cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể

tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong

đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần

phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống

phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem

binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Vâng! Quả là như thế!

Hồng Cơ nói:

- Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm

họ nhân tâm qui phục?

Tiêu Phong đáp:

- Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười sằng sặc nói:

- Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài

bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa

đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo,

cố mua được càng nhiều càng tốt.

Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa

nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau,

mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết

người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua

chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ

lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống,

trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong

ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không

khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta

xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng

kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi

anh ta không trách gì được”. Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử

xuống Nam Kinh.

Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là

Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường

nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên

Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế,

Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng,

Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.

Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại

Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại

được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng

trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một

mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự.

Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào,

dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao

đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi

thật lớn.

Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ

phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam

triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay

về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn

mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.

Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa.

Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai

Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn

phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi

là Thông Thiên, Củng Thần7 ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của

hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu

Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền,

đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.

Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười

sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh,

phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn

như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải

dọn vào vương phủ.

Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam

Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính

vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.

Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những

dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm

thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi

ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du

ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu,

đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.

Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo

Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói:

- Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi

săn nhé.

Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe

nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để

ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng

phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ

thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A

Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.

Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.

Tiêu Phong nói:

- Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.

Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục

dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay

để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh

cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau

nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay

nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống.

Những người đi theo reo ầm cả lên.

Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng,

lạ lùng hỏi:

- Sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?

A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức:

- Em ... em thành phế nhân rồi, đến giương cung ... mà cũng chẳng

xong.

Tiêu Phong dỗ dành:

- Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là

tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng

tăng gia sức khỏe.

A Tử đang khóc bật cười nói:

- Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công

đấy nhé.

Tiêu Phong đáp:

- Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.

Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân

ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu

Phong đưa mắt nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người

Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn

xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng

chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mình làm gì có

giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?”.

Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay

sang nói với kẻ tùy tòng:

- Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế?

Gã tùy tòng liền đáp: “Vâng” rồi hỏi:

- Có phải các anh em “đi gặt” về đấy chăng?

Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu,

bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền

lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước

đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói:

- Đại vương thiên tuế!

Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp:

- Miễn lễ!

Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa

chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm,

phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều

theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.

Gã đội trưởng nói:

- Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi “đi gặt”, nhờ phúc

đại vương nên thu được cũng kha khá.

Y quay lại quát:

- Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu

quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.

Các quan binh cùng reo lên:

- Tuân lệnh!

Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại

lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan

binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng,

hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và

những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.

Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh

nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi

bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ

chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu

quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả

tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính

qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân

cận, gọi là “gặt hái”, thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan

binh Tống triều cũng lại đi qua “gặt hái” của người Liêu để trả thù.

Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng

nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô

đạo, có điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt

làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân

quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm

trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã

đội trưởng:

- Các ngươi ở đâu ... “gặt hái” ở đâu về thế?

Gã đội trưởng cung kính đáp:

- Bẩm cáo đại vương, chúng tôi “đi gặt” tại bên ngoài cảnh giới

Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không

dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của

người Tống ngay tại bản châu”. Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ

đang đứng trước đầu ngựa:

- Cô là người ở đâu?

Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói:

- Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho

tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.

Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người

bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng

sừng sững không chịu quì.

Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm

nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi:

- Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?

Thanh niên kia đáp:

- Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.

Tiêu Phong đáp:

- Được, ngươi lại đây!

Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói:

- Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người

khác nghe thấy được.

Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: “Một đứa bé thế này làm

gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía

nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?”. Y

là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại

Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có

chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra

cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy:

- Lại đây!

Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói:

- Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn

trình lên.

Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng

chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây

thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu

Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi:

- Ngươi có cái gì?

Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói:

- Đại vương xem thì biết.

Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón

lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt

Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì

ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe

khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay.

Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó

thường dùng.

Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng bé này lớn mật, thì ra

không phải là Hán gian”. Ông gật đầu hỏi:

- Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta?

Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói:

- Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.

Thanh niên đáp:

- Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.

Tiêu Phong hỏi:

- Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?

Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt

Tiêu Phong lớn tiếng nói:

- Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta ... ta giận

không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.

Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình

giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn

hỏi:

- Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?

Thanh niên đáp:

- Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi

họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu!

Tiêu Phong “À” lên một tiếng nói:

- Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là

Du Câu Du nhị gia không?

Ông ngừng lại một chút nói tiếp:

- Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt

buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và

lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.

Ông nói tới đây lắc đầu tiếp:

- Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của

bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?

Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp:

- Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được

cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.

Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên

đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con

dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền:

- Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết

kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.

Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên:

- Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác?

Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.

Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ

ngẩn nhìn, không nói ra lời. A Tử hỏi:

- Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được

nếm mùi.

Nàng quay lại nói với Tiêu Phong:

- Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh,

vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết.

Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng:

- Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được

chăng?

Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp:

- Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại

vương.

Tiêu Phong nói:

- Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến

vương phủ lãnh thưởng.

Các quan binh vui vẻ đáp:

- Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải

thưởng.

Tiêu Phong nói:

- Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ

đến lãnh thưởng.

Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi:

- Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng

bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò

này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy

không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe

mạnh.

Nói xong hành lễ dẫn binh đi. “Muốn dùng bọn Tống chư làm bia

sống chứ gì”, câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước

mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm

người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong

khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết

từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất

Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai

cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra,

chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn

người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những

người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe

chuyện “bắn bia sống”, bây giờ sợ đến mất vía.

Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam

nghĩ thầm: “Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta

vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một

thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người,

lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly

làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi “gặt lúa”, ta sang đất ngươi ta đốt nhà?

Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?”. Trong nhất thời,

lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.

Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo

không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân:

- Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.

Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ

bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp:

- Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi

“gặt lúa” bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu

được lần thứ hai đâu.

Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả

cùng quì xuống khấu đầu nói:

- Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại

vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.

Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh “gặt lúa” bắt

được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng,

còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được

về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy

vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo

khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình

thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho

về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.

Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia

đi về hướng nam nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại

thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở,

ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?”.

Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn

đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói:

- Sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc

gì không?

Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong

mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu

nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân

Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa

Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao

không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói:

- Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì

tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.

Du Thản Chi lớn tiếng nói:

- Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì

cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói

cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!

Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối

thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô

ích bèn bảo:

- Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến

kiếm ta cũng được.

A Tử vội nói:

- Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng

cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi

bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.

Tiêu Phong lắc đầu:

- Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn

hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu.

Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải

chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả

con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?

Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo:

- Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.

A Tử bĩu môi nói:

- Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ

ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?

Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu

ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu

nói:

- Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy

kiếm tỉ phu ta báo thù.

Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.

Chú Thích :

1 Trướng của nhà vua (xem ở dưới)

2 Quân đi dò thám, tiền sát viên

3 Điểm này Kim Dung không biết căn cứ vào đâu. Theo sử sách, ngay trong giai

đoạn thịnh trị nhất, nước Liêu cũng chỉ độ hơn ba triệu người, trong đó người Khất

Đan chừng non một triệu, còn lại là người Hán dưới quyền cai trị của họ (do việc

đánh chiếm và nhường đất của Tống triều). Tuy dân số không đông, họ rất thiện

chiến. Trong thời kỳ này, người Nữ Chân chỉ mới là một bộ tộc, cũng dưới quyền

kiểm soát của người Khất Đan chứ chưa tách riêng thành một nước riêng biệt. Với

dân số như thế thật khó mà có được một đội quân non một triệu người. Hơn nữa, số

binh lính điều động trong một chiến dịch thường chỉ một phần nào trong toàn bộ

binh lính trong nước chứ không phải muốn đem bao nhiêu thì đem. Đi săn mà mang

theo 10 vạn quân là điều khó tin.

4 ỷ mình không kiêng nể gì cả

5 Chính sử chép như sau: Vua Khất Đan Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ đi săn ở

Loan Hà Thái Tử Sơn, Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên khởi binh tấn công

hành cung (nơi vua đang ở), Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Nhân Tiên đánh trả,

Gia Luật Trọng Nguyên thua chạy, tự sát (Bá Dương: Trung Quốc Lịch Sử niên

biểu – tập hạ [in lần thứ sáu] Tinh Quang Đài Bắc 2001 tr. 963-964)

6 tức Bắc Kinh ngày nay

7 Củng Thần là tinh tú chầu về ý nói nhà vua như sao Bắc Thần (Bắc Cực) ở giữa,

các ngôi sao đều chạy theo.

8 Tức con chương, một loại hươu nhưng nhỏ hơn (moschus chinloo)

/

datlucky_way

23-07-2009 03:00 PM

Hôi28(a) : THẢO MỘC TÀN SINH LÔ CHÚ THIẾT

Bấm vào đây để xem nội dung.

Chết đi sống lại mấy lần,

Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.

Kim chi ngọc diệp còn đâu,

Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.

*

* *

Du Thản Chi thấy Tiêu Phong cùng đoàn người đi thẳng về hướng

bắc, không thấy quay lại, lúc ấy mới chắc rằng mình thoát chết, nghĩ

thầm: Tên gian tặc này sao không giết ta nhỉ? Hừ, chắc là y coi ta chẳng

vào đâu, giết mình chỉ thêm bẩn tay. Y ... y ở nước Liêu làm cái chức đại

vương quái gì đó, mình sau này báo thù xem ra còn khó hơn. Thế nhưng ít

nhất mình cũng biết được tên gian tặc đó ở chỗ nào.

Y cúi xuống nhặt cái túi vôi sống lên, rồi đi kiếm con dao của y mà

Tiêu Phong đoạt bằng roi ngựa vứt ra, bỗng thấy trong bụi cỏ ở bên trái

có một cái bao vải dầu nhỏ, chính là của Tiêu Phong lấy từ trong bọc ra

rồi lại bỏ trở vào, liền nhặt lên, mở ra thấy bên trong là một cuốn sách,

thuận tay lật lật mấy trang, trang nào cũng viết đầy những chữ ngoằn

ngoèo, không đọc được lấy một chữ.

Thì ra Tiêu Phong thấy vật lại nhớ người, tâm hồn lãng đãng, bỏ bản

Dịch Cân Kinh vào trong túi không kỹ nên khi ngựa lồng lên, cái bao liền

văng ra rơi vào trong đám cỏ mà không hay biết gì cả.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Chắc cái này là chữ Khất Đan đây. Quyển

sách này tên gian tặc luôn luôn mang theo trong người, hẳn rất quan

trọng. Ta lấy luôn không trả lại, để y khổ một phen cho đáng kiếp. Y

cảm thấy có phần nào báo được thù nên trong bụng khoái chí, lấy bao vải

dầu gói cuốn sách lại, bỏ vào túi rồi thẳng đường xuôi nam.

Y từ nhỏ theo cha học võ, có điều thân thể gầy gò, cánh tay yếu ớt,

không hợp với công phu cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng,

học ba năm võ công nhưng tiến bộ chẳng mấy tí, thật chẳng đáng gọi là

con cháu danh môn. Y học đến năm mười hai, Du Câu chán nản hết hi

vọng, mới bàn với ca ca là Du Ký. Hai người cùng tính:

- Nếu con cái nhà họ Du mình ra ngoài mà võ nghệ quều quào như

thế chẳng khiến người ta cười đến sái quai hàm hay sao? Huống chi nếu

ai nghe y là con cháu Du Thị Song Hùng, không động thủ thì thôi chứ ra

tay thì phải toàn lực, ngay chiêu đầu đã lấy mạng y rồi. Chi bằng cho y

học văn, có thế mới bảo toàn được tính mạng.

Thành thử Du Thản Chi từ mười hai tuổi trở lên thì không học võ

nữa, Du Câu mới mời một vị túc nho dạy y văn chương. Thế nhưng y học

chữ cũng không chuyên cần, lúc nào hồn vía cũng để đâu đâu. Thầy đồ

dạy:

- Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?1 Y liền đáp:Cái

đó cũng còn phải xem học cái gì mới biết được, gia gia dạy đệ tử đánh

quyền, con học rồi tập luyện, có thấy vui sướng gì đâu.

Thầy đồ cáu tiết nói:

- Khổng phu tử nói là nói chuyện học đạo thánh hiền, đại nghiệp

kinh bang tế thế chứ nào phải là chuyện múa quyền đánh gậy đâu?

Du Thản Chi nói:

- Được, thầy bảo cha con, bác con múa quyền đánh gậy là chẳng ra

gì, để con đi nói cho cha con biết.

Cứ như thế y làm cho thầy đồ tức quá phải bỏ đi. Y liên tiếp chọc

giận hết thầy đồ này tới thầy đồ khác không ai chịu nổi, Du Câu đánh nó

không biết bao nhiêu trận, nhưng thằng bé này càng đánh càng lỳ lợm.

Du Câu thấy con chẳng vâng lời, cứng đầu khó dạy chẳng biết làm sao

chỉ còn nước thở dài sườn sượt, để ra sao thì ra. Thành thử năm nay Du

Thản Chi đã mười tám rồi, tuy dòng dõi danh môn mà thật đúng là văn

dốt võ dát, đến khi bá phụ và phụ thân tự vẫn, mẫu thân đập đầu vào cột

tuẫn phu, y cô khổ lênh đênh, đi lang thang không nhà không cửa, trong

đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm được Kiều Phong để

báo thù.

Trận đại chiến Tụ Hiền Trang hôm đó, y náu ở góc nhà xem đánh

nhau, tướng mạo hình dạng Kiều Phong y đã ghi nhớ kỹ càng, nghe nói

ông người Khất Đan bèn tất tưởi đi lên miền bắc. Y thấy trên giang hồ

một tên du thủ du thực ném vôi sống làm mù mắt địch nhân, cảm thấy

cách này có thể dùng được, nên cũng học theo tìm một gói vôi bột dắt

trong người. Y ở biên giới chạy đôn chạy đáo để sao bọn quan binh Khất

Đan đi gặt lúa bắt được thành ra mới gặp Tiêu Phong, có dịp ném bao

vôi bột ra quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở.

Y trong bụng nghĩ thầm: Việc trước mắt là chạy sao cho càng xa

càng tốt đừng để y bắt lại được. Rồi mình sẽ tìm cách đi bắt một con rắn

độc hay một con rết lớn, len lén vứt vào giường y, y vừa chui vào chăn là

nó cắn chết tươi. Còn tiểu cô nương kia ... còn tiểu cô nương kia, chao ôi,

sao ... sao mà có người đẹp thế!.

Y vừa nghĩ đến khuôn mặt A Tử, lồng ngực thấy nóng hổi, rồi mặt

cũng bừng bừng chỉ còn nghĩ: Không biết đến bao giờ mình mới được

gặp lại cô gái xinh đẹp có khuôn mặt xanh xao, thân hình ẻo lả kia.

Y cúi đầu rảo bước, chẳng mấy chốc đã vượt qua đoàn người vừa

được Tiêu Phong thả ra. Có người tử tế gọi y nhập bọn đi chung, y cũng

chẳng thèm để ý, cứ lầm lũi mà đi. Đi được hơn chục dặm, bụng đói đến

kêu lên ùng ục, y đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa xem có gì ăn được không

nhưng trên thảo nguyên ngoài cỏ khô và tuyết trắng ra chẳng còn gì khác

nghĩ thầm: Nếu như mình là con bò, con cừu thì tốt biết mấy. Ăn cỏ

uống tuyết thật sung sướng bao nhiêu. Ôi, nếu như mình chỉ là một con

cừu non, người ta đem cha mẹ mình hai con vật già ấy xẻ thịt ăn thì liệu

mình có báo thù không nhỉ? Thù cha mẹ không đội trời chung, dĩ nhiên

phải trả rồi. Thế nhưng báo thù cách nào đây? Lấy hai cái sừng húc gã đồ

tể giết cha mẹ mình ư? Người ta nuôi bò nuôi cừu, vốn là để xẻ ra làm

thịt ăn, sao lại nói đến chuyện trả thù được?.

Y nghĩ ngợi gần xa, lại cất bước đi, đột nhiên nghe tiếng chân ngựa

lộp cộp, ba gã kỵ binh Khất Đan từ trên mặt tuyết chạy tới, vừa thấy y đã

lớn tiếng reo hò. Một tên Khất Đan vung sợi dây thòng lọng trên tay ra,

nghe soạt một tiếng quàng ngay vào cổ Du Thản Chi, kéo một cái sợi dây

liền xiết lại. Du Thản Chi đưa tay toan gỡ, tên Khất Đan huýt một tiếng,

con ngựa liền chạy tới. Du Thản Chi đứng không vững, ngã lăn ra, bị gã

kia lôi đi xềnh xệch. Du Thản Chi kêu lên thảm thiết nhưng chỉ được mấy

tiếng thì cổ họng đã bị dây thừng chẹn rồi, không còn ú ớ được nữa.

Tên Khất Đan cũng sợ y chết ngạt nên dừng cương lại. Du Thản Chi

ở dưới đất cố gắng lồm cồm đứng lên, gỡ chiếc dây đang buộc nơi cổ. Gã

Khất Đan kéo mạnh một cái, Du Thản Chi lảo đảo, lại ngã phịch xuống,

ba tên Khất Đan cùng cười sằng sặc. Tên Khất Đan cầm sợi dây buộc cổ

Du Thản Chi nói mấy tiếng nhưng y không hiểu được câu nào, chỉ biết

lắc đầu. Gã Khất Đan vẫy tay một cái, lại giục ngựa chạy tiếp nhưng lần

này không chạy nhanh. Du Thản Chi sợ bị xiết cổ lần nữa, không thở

được nên đành đi hai bước lại chạy ba bước cho kịp.

Y thấy ba tên lính Khất Đan đi về hướng bắc, trong bụng chột dạ:

Tên khốn kiếp Kiều Phong miệng nói nghe thật dễ nghe, bảo thả mình

về, vừa quay đi quay lại đã sai bộ thuộc bắt lại. Lần này bị bọn chúng bắt

rồi, mạng mình còn sao được nữa?. Khi y bỏ nhà đi lên mạn bắc, trong

bụng chăm chăm lo việc báo thù, chẳng biết trời cao đất dày là gì, nên

khi gặp được Tiêu Phong, hình ảnh thê thảm của cha mẹ hiện ra trước

mắt, cơn giận bùng lên, định dùng vôi bột ném mù mắt ông ta, rồi sẽ rút

dao đâm ông chết. Thế nhưng tấn công mà không trúng, nhuệ khí tiêu

tan, chỉ mong sao thoát thân, ngờ đâu lại bị lính Khất Đan bắt lại.

Khi trước y bị bọn lính Khất Đan đi gặt lúa bắt được, để lẫn trong

đám đàn bà con gái, nữ nhân đi đứng không được nhanh, cước bộ của y

cũng theo kịp nên không bị hành hạ mấy tí, ngoài một sống dao chém

vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này thì khác hẳn, bước thấp bước cao,

chạy lên chạy xuống, thở hồng hộc, chưa được mấy bước lại vấp một cái,

mỗi lần vấp ngã xuống, dây thừng lại xiết vào sau ót một đường lằn. Gã

kỵ binh Khất Đan nào có chịu ngừng, cũng chẳng thèm xem coi y còn

sống hay đã chết, kéo y một mạch tới thành Nam Kinh. Vào trong thành

rồi, Du Thản Chi người đầy máu me, chỉ mong sao chết sớm chừng nào

đỡ khổ chừng nấy.

Ba tên lính Khất Đan vào trong thành còn chạy thêm mấy dặm nữa,

lúc ấy mới lôi y vào trong một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy dưới đất lót

toàn phiến đá xanh, cột cao cửa rộng, không biết là nơi nào. Ở ngoài cửa

ngừng lại chưa đến thời gian uống một chén trà, tên kỵ binh kéo y vào

trong một tòa đại sảnh, đột nhiên chúm môi huýt một tiếng, hai chân kẹp

thúc mạnh, con ngựa liền chồm tới trước. Du Thản Chi đâu có ngờ gã kia

vào trong viện rồi lại phóng ngựa chạy nhanh, nên chỉ được ba bước đã

ngã lăn ra.

Tên lính Khất Đan luôn mồm giục ngựa, lôi Du Thản Chi chạy ba

vòng trong tòa nhà đó, càng lúc càng nhanh, có thêm mấy chục tên quan

binh đứng chung quanh hò hét trợ uy. Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra y

định kéo mình lê dưới đất cho chết. Trán, chân tay, thân thể y đụng vào

đá dưới sàn, không chỗ nào không đau.

Trong tiếng reo vang của bọn quan binh Khất Đan, có lẫn tiếng cười

trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi trong cơn mơ mơ màng màng,

loáng thoáng nghe cô gái cười nói:

- Ha ha, cái diều người này e rằng không thả nổi.

Du Thản Chi tự hỏi: Diều người là cái gì thế nhỉ?. Ngay lúc đó y

thấy dây buộc cổ xiết chặt, thân hình tung lên không, lập tức hiểu ra, tên

lính Khất Đan kia cưỡi ngựa chạy cho nhanh để y bay bổng lên, làm như

thả con diều bằng giấy.

Y toàn thân lăng không, sau ót đau buốt, mồm miệng bị gió thổi vào

thật ngộp thở, không còn biết gì nữa, lại nghe thiếu nữ kia vỗ tay reo lên:

- Hay quá! Hay quá! Quả thực đã phóng được con diều người lên

rồi.

Du Thản Chi nhìn ra phía có tiếng nói thấy người vỗ tay reo hò kia

chính là cô gái xinh đẹp mặc áo tím. Y vừa thấy nàng lập tức ngực như bị

chấn động mạnh, không biết nên buồn hay vui, thân hình trên không bay

lạng vù vù không cách gì suy nghĩ được.

Cô gái mỹ miều kia chính là A Tử. Nàng thấy Tiêu Phong thả cho

Du Thản Chi đi, trong bụng không vui, cưỡi ngựa đi được một quãng liền

cố ý tụt ra sau, khẽ dặn tùy tòng quay lại bắt Du Thản Chi đem về nhưng

không được để cho Tiêu đại vương hay biết. Bọn tùy tòng biết nàng được

Tiêu Phong cực kỳ sủng ái, nên vui vẻ tuân lời, giả vờ sửa lại dây buộc

yên ngựa, đứng lại ở triền núi, đợi Tiêu Phong và cả đoàn đi xa mới quay

lại bắt Du Thản Chi.

A Tử trở về Nam Kinh liền đến nơi xa Tiêu Phong ở là Hựu Thánh

Cung ngồi chờ. Đến khi bắt được Du Thản Chi về, nàng mới hỏi bọn Khất

Đan xem có trò gì đánh đập, hành hạ tội nhân mới mẻ thú vị không. Có

người đề nghị thả diều người, trò đó quả là hợp ý A Tử, nàng ra lệnh

thi hành ngay, nên bọn chúng liền đem Du Thản Chi ra thả diều.

A Tử xem thấy thú vị quá, luôn mồm khen hay, nói:

- Để cho ta thả diều một tí.

Nàng nhảy lên yên ngựa tên lính kia, cầm lấy dây thừng nói:

- Ngươi xuống đi.

Tên lính kia liền nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. A

Tử cầm dây thừng giục ngựa chạy một vòng, miệng reo hò, suýt soa:

- Thích quá! Thích quá!

Thế nhưng nàng bị thương mới đỡ, tay vẫn còn yếu, cổ tay chùng ra,

chiếc thừng liền hạ xuống, nghe bình một tiếng, Du Thản Chi rơi bịch

xuống một cái thật đau, lăn trên nền đá, trán va phải góc nhọn của bậc

thềm, sứt thành một cái lỗ, máu chảy túa ra. A Tử cụt hứng, bực tức nói:

- Cái thằng ngốc này sao nặng thế?

Du Thản Chi tưởng chừng ngất xỉu, nghe nàng trách mình thân thể

nặng quá, đang định giãi bày mấy câu nhưng đau quá không nói thành

lời. Một tên quân Khất Đan bước tới, cởi chiếc thòng lọng buộc trên cổ,

một tên khác xé vải trên áo y, buộc qua quít vết thương, nhưng máu tươi

vẫn tiếp tục chảy thấm ra ngoài, làm sao ngừng được?

A Tử nói:

- Thôi thế được rồi, được rồi! Mình thả diều thêm lần nữa cho

vui, càng cao càng thích.

Du Thản Chi không hiểu nàng nói tiếng Khất Đan những gì, nhưng

thấy nàng hoa chân múa tay, chỉ lên trên cao xem ra không phải chuyện

tốt lành. Quả nhiên một tên Khất Đan cầm chiếc dây thừng luồn dưới

nách y, vòng một vòng để y khỏi bị xiết cổ ngộp thở, quát lên một tiếng:

- Lên nào!

Y giục ngựa chạy cho nhanh, kéo lê Du Thản Chi dưới đất mấy

vòng, rồi lại phóng lên. Sợi dây thừng trong tay tên lính Khất Đan mỗi

lúc một dài thêm, thân hình Du Thản Chi cũng mỗi lúc một cao.

Tên lính Khất Đan đột nhiên buông tay, nghe vèo một tiếng, Du

Thản Chi thật chẳng khác gì tên rời khỏi dây cung, bay vút lên trời. A Tử

và các quan binh đều reo hò khen ngợi. Du Thản Chi thân hình tự nhiên

bật văng lên không, trong bụng chỉ nghĩ được: Thôi lần này chết thật

rồi!.

Khi sức văng đã hết, y đầu lộn xuống đất, chân chổng lên trời lao

thẳng xuống, xem ra thể nào cũng lao vào nền đá xanh, bốn tên quan

binh Khất Đan cùng tung thòng lọng ra, buộc chặt ngay hông y, cùng kéo

ghì về bốn phía. Du Thản Chi khi đó đã ngất đi, nhưng bốn luồng lực đạo

giữ y bông bênh giữa trời, chỉ còn cách đất chừng ba thước. Cái cảnh đó

quả thực nguy hiểm cùng cực, trong bốn người chỉ cần một người ra tay

hơi chậm, lực đạo không cân, đầu Du Thản Chi thể nào cũng rơi thẳng

xuống vỡ sọ ngay. Người Khất Đan thường thường đem người Tống ra để

làm trò vui, tù binh bị đem ra thả diều, mười người thì đến tám chín

người chết. Nếu như ở ngoài thảo nguyên đất mềm, từ trên cao như thế

đâm bổ xuống, ví như không vỡ đầu thì cũng gãy cổ chết như nhau.

Trong tiếng hò reo, bốn tên lính Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A

Tử lấy tiền, thưởng cho mỗi đứa năm lượng bạc. Các quan binh lớn tiếng

tạ ơn, hỏi thêm:

- Cô nương có còn muốn thêm trò vui gì nữa không?

A Tử thấy Du Thản Chi đã ngất xỉu, cũng chẳng biết y còn sống hay

chết rồi, mới đây nàng thả diều, dùng sức quá độ, ngực ngâm ngẩm

đau, không còn hơi đâu mà vui chơi thêm nữa bèn nói:

- Vui thế đủ rồi. Gã tiểu tử này nếu chưa chết, ngày mai lại mang y

đến cho ta, để ta nghĩ cách nào tiêu khiển. Tên này định ám toán Tiêu

đại vương, không thể để y chết dễ dàng quá như thế được.

Các quan binh cùng vâng lời, lôi cổ Du Thản Chi mình mẩy đầy máu

me ra.

Khi Du Thản Chi tỉnh lại, thấy một mùi ẩm mốc hôi hám xông thẳng

vào mũi, mở choàng mắt ra thấy chung quanh tối đen như mực, không

nhìn thấy một chút gì. Ý niệm đầu tiên y nghĩ đến là Không biết mình

đã chết chưa? nhưng lập tức thấy toàn thân chỗ nào cũng đau nhức, cổ

họng khô ran không sao chịu nổi liền rên lên mấy tiếng:

- Nước! Nước!

Thế nhưng nào có ai ngó ngàng gì đến y?

Y kêu được mấy tiếng, lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, thấy nào

bá phụ, phụ thân cùng Kiều Phong đại chiến, giết nhau đến máu văng

đầy mặt đất, rồi mẫu thân ôm mình trong lòng, dịu dàng an ủi, bảo mình

đừng sợ. Rồi kế đó A Tử hiện ra với khuôn mặt thật tú lệ, đôi mắt trong

veo với quang thái thật lạ lùng. Khuôn mặt bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành

đầu một con rắn hình tam giác, lè chiếc lưỡi dài đỏ au, lộ hai chiếc nanh

nhọn hoắt mổ vào người y. Du Thản Chi hết sức vùng vẫy nhưng không

cách nào động đậy được, con rắn đó cứ day từng miếng thịt, trên tay, dưới

đùi, cạnh cổ chỗ nào cũng cắn, khi đến trán lại càng đau hơn. Y thấy

mình từng miếng thịt bị nhả xuống, muốn kêu toáng lên, nhưng không

phát ra một tiếng nào ...

Cứ như thế trằn trọc cả đêm, tỉnh dậy thì bị hành hạ đã đành mà

trong giấc mộng cũng thật là khổ sở. Hôm sau hai tên lính Khất Đan lại

áp giải y đến gặp A Tử. Cơn sốt đêm qua chưa lui, bước một bước lại ngã

bổ nhào về trước. Hai tên lính Khất Đan chia nhau xốc hai bên, lớn tiếng

chửi rủa, kéo lê y vào một tòa nhà lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Không biết

chúng đưa mình đi đâu? Đem mình đi giết chăng?. Đầu y mê mê mẩn

mẩn, không thể nào suy tính gì được, thấy đi xuyên qua hai hành lang dài,

đến trước một sảnh đường. Hai tên lính Khất Đan đứng ngoài cửa bẩm

báo gì đó mấy câu, bên trong có tiếng một thiếu nữ đáp lại một tiếng,

sảnh môn đẩy ra, lính Khất Đan liền đưa y vào.

Du Thản Chi ngẩng đầu lên, thấy trong sảnh trải một tấm thảm cực

lớn, thêu hoa văn sặc sỡ, một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên một tấm nệm

ngay đầu đằng kia, chính là A Tử. Hai bàn chân nàng để trần, để trên

thảm. Du Thản Chi vừa nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn trắng trẻo, mịn

màng như ngọc, mềm mại như gấm của nàng lập tức tim đập thình thình,

hai mắt đăm đăm dính chặt đôi chân, thấy tưởng chừng lưng đôi chân cô

gái có phát ra ánh sáng, lờ mờ mấy đường gân xanh quả muốn chạy đến

vuốt ve cho thỏa dạ.

Hai tên lính Khất Đan thả y ra, Du Thản Chi lảo đảo một hồi, sau

cùng cũng gượng đứng được nhưng mục quang không lúc nào rời bàn

chân A Tử, thấy mười đầu ngón chân nàng sơn màu hồng nhạt, trông

chẳng khác gì mười cánh hoa.

A Tử cũng nhìn ra gã thanh niên xấu xí toàn thân đầy máu me,

khuôn mặt nhăn nhúm, cằm vêu vao kia ánh mắt hau háu một vẻ thèm

thuồng. Nàng nhớ lại một con sói đói mà nàng cùng hai sư huynh săn

được khi còn ở biển Tinh Tú, nàng bắn trúng con vật một mũi tên nhưng

chưa chết hẳn. Con vật đó bị trọng thương, mắt gườm gườm nhìn mình,

lúc bấy giờ chẳng khác gì Du Thản Chi, dường như chỉ muốn xông lên

cắn chết nàng, tuy không nhảy lên được, nhưng vẫn nhe hàm răng nhọn

hoắt gầm gừ.

A Tử thích thú nhìn ánh mắt đầy dã tính đó, lại nghe tiếng gừ gừ

nhưng chẳng làm gì được mình, tiếc rằng Du Thản Chi yếu đuối quá rồi,

không phản kháng gì được nữa quả thực chẳng còn gì thú vị. Ngày hôm

qua y ném túi vôi bột vào Tiêu Phong, lại không chịu quì lạy, ăn nói ra

vẻ ngang tàng, không chịu nhận tiền của Tiêu Phong, A Tử thích thú lắm

tưởng như bắt được một con thú dữ lợi hại. Nàng muốn hành hạ y cho

người y bị thương nhiều như vẩy cá, để y mỗi khi bị thương lại muốn xông

lên cắn mình một cái nhưng dĩ nhiên nàng không để cho y cắn trúng

được.

Đến khi bắt được y làm cái diều người rồi, con dã thú này lại

không chống cự, chết dở sống dở, thật chẳng có gì thích thú. Nàng hơi

nhíu lông mày nghĩ thầm: Có cách nào mới mẻ để hành hạ y cho vui

đây?.

Đột nhiên cổ họng Du Thản Chi phát tiếng hà hà, cũng không biết

một luồng lực đạo từ đâu đến, y chẳng khác gì một con báo nhanh nhẹn

lạ thường phóng đến A Tử, ôm chặt lấy bắp chân nàng, cúi đầu hôn hít

lưng bàn chân cô gái. A Tử hoảng hốt, kêu toáng lên. Hai tên lính Khất

Đan và bốn tì nữ phục thị A Tử cùng quát mắng, xông lên lôi gã ra.

Thế nhưng hai tay y cứ ôm chặt, chết cũng không buông. Tên lính

Khất Đan vừa kéo một cái, kéo luôn cả A Tử tuột khỏi chiếc nệm bông,

ngồi phệt xuống dưới thảm. Hai binh sĩ Khất Đan vừa sợ vừa tức, không

dám kéo thêm nữa, một tên đấm lên lưng y mấy cú thật mạnh, còn một

đứa thì đánh vào mặt. Người Du Thản Chi vẫn còn sưng vều, lại thêm cơn

sốt chưa hết, thần trí mê loạn không khác gì một người điên, những gì

đang gánh chịu dường như không biết đến. Y vẫn ôm chặt lấy chân A Tử,

tiếp tục hôn chân nàng.

A Tử cảm thấy đôi môi vừa nóng hổi, vừa khô khan của y chạm vào

chân mình, trong bụng sợ lắm, lại thêm cảm giác nhột nhạt2 lạ lùng, đột

nhiên kêu hoảng lên:

- Ối trời! Y cắn ngón chân ta.

Nàng quay sang nói với hai tên lính Khất Đan:

- Các ngươi mau ra chỗ khác, người này nổi cơn điên, ối chao, đừng

để y cắn đứt ngón chân ta.

Du Thản Chi mơn man ngậm ngón chân cô gái, A Tử tuy không thấy

đau nhưng lại sợ y bất thần cắn mạnh một cái, trong cơn gấp gáp, biết là

không thể dùng sức mà xong, sợ hai tên lính đánh y, y không kể sống

chết cắn một cái thì khốn.

Hai tên lính Khất Đan không biết làm sao, đành phải buông tay. A

Tử lại kêu:

- Đừng có cắn, ta tha ngươi khỏi chết, ối ối, ta sẽ thả ngươi ra.

Du Thản Chi bấy giờ tâm thần cuồng loạn, có còn biết nàng nói

những gì? Một tên lính Khất Đan cầm chặt yêu đao, định bụng bất thần

rút ra khỏi vỏ chém xuống ót y một nhát, chặt đứt đầu y, nhưng có điều y

ôm chân A Tử chặt quá, một đao chém xuống lại sợ làm nàng bị thương

cho nên ngần ngừ không dám.

A Tử lại tiếp:

- Này này, ngươi nào có phải là dã thú sao lại cắn người là sao?

Mau nhả ra, ta sẽ sai người trị thương, thả ngươi trở về Trung Nguyên.

Du Thản Chi vẫn không lý tới nhưng răng không cắn xuống nên

không làm nàng đau chút nào, hai tay vuốt ve lưng bàn chân, trong lòng

lâng lâng bay bổng, thật chẳng khác gì một cánh diều đang lững lờ giữa

từng mây.

Một tên lính Khất Đan chợt nảy ra một ý, xông vào bóp cổ Du Thản

Chi. Du Thản Chi bị nghẹt thở, tự nhiên há mồm, A Tử vội vàng rụt chân

lại, rút được ngón chân ra khỏi miệng y, đứng phắt dậy, lại sợ y nổi cơn

điên cắn nữa, dấu hai chân vào sau tấm nệm. Hai tên lính Khất Đan liền

giữ chặt Du Thản Chi, đấm liên tiếp vào ngực gã, đánh được độ mươi

quyền, y oa oa há mồm hộc ra mấy ngụm máu, làm bẩn cả tấm thảm rực

rỡ kia.

A Tử quát:

- Ngừng tay! Đừng đánh y nữa.

Sau một trận kinh hoàng, nàng cảm thấy gã tiểu tử này có điều quái

lạ thật vui nên không muốn đánh chết y ngay. Tên lính Khất Đan không

đánh nữa, A Tử ngồi xếp bằng trên tấm nệm, để ngoặt hai bàn chân trần

dưới mông, trong bụng tính toán: Có cách nào hành hạ y cho thật bõ

nhỉ?.

A Tử ngửng đầu lên, thấy Du Thản Chi mắt vẫn chăm chăm nhìn

mình, liền hỏi:

- Ngươi nhìn ta làm chi?

Du Thản Chi vốn chẳng còn kể sống chết vào đâu liền đáp:

- Cô nương đẹp quá đỗi, cho nên tôi thích nhìn.

A Tử bẽn lẽn nghĩ thầm: Tên tiểu tử này lớn mật thật, dám nói với

ta những lời khinh bạc. Thế nhưng trong đời nàng, chưa bao giờ có một

chàng trai nào dám ca tụng nàng đẹp ngay tận mặt. Khi nàng học nghệ ở

phái Tinh Tú, chư sư huynh đều coi nàng là một cô bé con ngang ngược

lanh lợi, còn khi đi cùng với Tiêu Phong, nếu không sợ nàng gây chuyện

thì cũng lo nàng chết bất ngờ, chưa bao giờ để ý xem nàng đẹp hay xấu.

Những lời ca ngợi sống sượng của Du Thản Chi, quả là xuất tự đáy lòng,

nàng không khỏi vui sướng ngầm nghĩ thầm: Ta giữ y lại ở gần bên,

thỉnh thoảng đem ra tiêu khiển cũng thích lắm. Có điều tỉ phu đã bảo là

thả y về, nếu như biết ta sai người bắt lại ắt sẽ bực mình. Chỉ dấu được

anh ấy hôm nay nhưng làm sao dấu được mãi. Nếu muốn tỉ phu không thể

nào biết được thì làm gì đây? Không cho ai nói thì cũng còn được, nhưng

nếu tỉ phu bất thần đi vào, bắt gặp y thì làm sao?.

Nàng trầm ngâm một hồi, bỗng chợt nghĩ tới: A Châu rất giỏi hóa

trang, giả làm cha ta đến nỗi tỉ phu còn không nhận ra, ta đem tiểu tử này

thay hình đổi dạng, anh ta sẽ không nhận ra được. Thế nhưng nếu y

không tự nguyện, mình hóa trang y rồi y sẽ rửa sạch đi, trở lại hình dáng

cũ thế thì có ích gì đâu?.

Đôi hàng mi cong của nàng hơi nhíu lại, lập tức tìm ra ngay, vỗ tay

reo lên:

- Hay lắm! Thật là hay! Cứ thế mà làm.

Nàng quay sang hai tên Khất Đan nói một hồi, hai tên lính đó có chỗ

nào chưa rõ lại hỏi lại. A Tử giải thích thêm rồi gọi thị nữ lấy ra năm

chục lượng bạc đưa cho họ. Hai tên Khất Đan cầm lấy, khom lưng hành

lễ, xốc Du Thản Chi ra khỏi sảnh.

Du Thản Chi kêu lên:

- Ta muốn ngắm nàng! Ta muốn ngắm cô gái xinh đẹp tàn ác kia.

Lính Khất Đan và thị nữ nào có hiểu tiếng Hán nên chẳng ai hiểu y

đang nói gì. A Tử cười mủm mỉm nhìn theo sau lưng y, nghĩ đến chủ định

thông minh của mình, càng thêm đắc ý.

Du Thản Chi bị đem trở về địa lao, vứt trên một đống cỏ khô. Đến

chiều hôm đó, có người đem đến cho y một bát thịt cừu, vài cái bánh bao.

Cơn sốt của Du Thản Chi chưa hạ, luôn mồm lảm nhảm khiến gã kia sợ

quá bỏ vội thức ăn xuống, chạy vội ra ngoài. Du Thản Chi không biết đói

nên chẳng đụng tới thịt hay bánh bao.

Tối hôm đó có ba tên Khất Đan đi vào. Du Thản Chi thần trí mơ hồ,

thấy vẻ mặt ba gã kia đầy vẻ quái đản, xem ra không phải tốt lành gì, chỉ

mang máng biết là nguy đến nơi nên cố gắng lồm cồm đứng lên, tính

chuyện đào tẩu. Hai gã Khất Đan xông đến đè nghiến y xuống, lật ngửa

mặt lên. Du Thản Chi chửi toáng lên:

- Quân Khất Đan chó má, chết đường chết chợ, đại gia sẽ băm vằm

chúng bay ra.

Vừa tới đó, gã Khất Đan thứ ba bưng một cái gì trăng trắng, trông

tựa như bông, lại giống như tuyết, dùng sức ập lên mặt y. Du Thản Chi

thấy mặt mình vừa ẩm vừa mát, đầu óc tỉnh lại nhưng không thở nổi, nghĩ

thầm: Thì ra bọn chúng bịt chặt thất khiếu cho mình chết ngạt.

Thế nhưng xem chừng y đoán không đúng, gã kia lại châm cho thủng

mũi mồm khiến y vẫn thở được nhưng mắt mở không ra, chỉ thấy mặt

dính đầy thứ gì nhão nhoẹt, rồi ai đó nắn khắp mặt y, tưởng như trát lên

một lớp bột nát. Du Thản Chi mơ mơ hồ hồ nghĩ thầm: Không biết tên

ác tặc này dùng cách quái ác gì giết mình đây?.

Một hồi sau, lớp bùn mềm trên mặt được người ta nhẹ nhàng gỡ ra,

Du Thản Chi mở mắt nhìn, thấy một khối bột mì in thành hình một mặt

người, chính là vừa ở mặt mình ra. Tên Khất Đan đó trịnh trọng bưng cái

vật đó, dường như sợ hư mất. Du Thản Chi lại chửi:

- Đồ Liêu cẩu thối tha, chúng mày rồi sẽ chết không có đất mà

chôn.

Ba gã Khất Đan không thèm để ý đến y, bưng cái khối bột nhão đó

đi mất. Du Thản Chi chợt nghĩ ra: Đúng rồi, bọn chúng nó tô lên mặt

mình một lớp thuốc độc, rồi chẳng bao lâu, mặt mình sẽ lở loét thối tha,

da thịt vỡ nát, biến thành quỉ quái .... Y càng nghĩ càng kinh, nghĩ thầm:

So với để bọn chúng hành hạ mình đến chết, chi bằng mình đập đầu

chết còn hơn. Y bèn húc đầu vào tường, bình bình bình ba cái. Ngục tốt

nghe tiếng vội vàng chạy vào, trói chặt chân tay y lại. Du Thản Chi đập

đầu đã thành sống dở chết dở, nay đành nằm yên chịu vậy.

Qua luôn mấy ngày, mặt y không hề đau đớn, cũng không lở lói,

nhưng y đã quyết ý chết, bụng tuy đói nhưng nhất định không ăn thức ăn

ngục tốt mang vào. Đến ngày thứ tư, ba gã Khất Đan kia lại trở vào địa

lao, lôi y đi. Trong cơn đau đớn, Du Thản Chi bỗng nảy ra một ý vị ngọt

ngào, nghĩ thầm chắc A Tử sai đem mình ra xỉ vả đánh đập, tuy thân thể

có phải khổ sở nhưng lại có cơ hội được nhìn khuôn mặt tú lệ kia, trên

khuôn mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.

Ba tên Khất Đan dẫn y đi qua mấy ngõ hẹp rồi vào trong một căn

nhà đá tối om om. Chỉ thấy lửa bập bùng chiếu sáng một bên vách đá,

một gã thợ rèn gân guốc cởi trần, đứng bên cạnh một cái đe sắt lớn, đang

xăm xoi xem một vật gì đen sì trên tay. Ba tên Khất Đan đẩy Du Thản

Chi đến trước mặt người thợ rèn, hai người chia ra nắm hai tay y, còn một

người giữ chặt sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu qua, nhìn mặt y, lại

đăm đăm nhìn vào vật trong tay, dường như muốn so sánh.

Du Thản Chi nhìn vào vật trên tay y, thấy đó là một cái mặt nạ bằng

sắt mới đúc xong, trên có đục hai mắt mũi mồm bốn cái lỗ. Y còn đang

suy nghĩ, không biết cái này để làm gì thì tên thợ rèn đã cầm mặt nạ lên,

chụp vào mặt Du Thản Chi. Du Thản Chi tự nhiên hất đầu về sau tránh,

nhưng sau ót đã bị người ta giữ chặt, không cách gì thoát được, chiếc mặt

nạ liền áp vào mặt y. Y cảm thấy trên mặt lạnh ngắt, da thịt chạm vào

kim loại, mà kỳ lạ làm sao, cái mặt nạ đó thật khít khao kể cả mắt mũi

mồm, tưởng chừng như chế riêng cho y vậy.

Du Thản Chi chỉ ngạc nhiên giây lát lập tức hiểu ngay nguyên do,

một làn hơi lạnh chạy thẳng từ đỉnh đầu xuống xương sống: Chết rồi, cái

mặt nạ này chính là để cho ta, hôm trước bọn chúng dùng bột mì nhồi

thành khuôn. Bọn chúng làm cái mặt nạ sắt đó để làm gì? Không lẽ ...

không lẽ .... Y đã đoán ra cái dụng ý ác độc của người Khất Đan, nhưng

để làm gì thì không biết, không còn dám nghĩ thêm chỉ hết sức vùng vẫy

mong sao thoát ra được.

Người thợ rèn bỏ chiếc mặt nạ ra, gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi dùng

một chiếc kìm lớn kẹp bỏ vào lò lửa nung cho đỏ lên, tay phải cầm búa,

đập xuống choang choang. Y đập chiếc mặt nạ một lúc, đưa tay rờ rẫm

xương gò má và trán Du Thản Chi, rồi sửa những chỗ chưa được hoàn

toàn ăn khớp.

Du Thản Chi kêu lên:

- Bọn Liêu cẩu trời đánh kia, các ngươi làm chuyện thương thiên

hại lý, hung tàn ác độc thế này, ông trời sẽ giáng họa xuống tất cả chúng

bay không được chết yên chết lành, đến cả bò ngựa nhà bay cũng chết

nốt, con nít cũng chết non.

Y ngoác mồm chửi rủa nhưng người Khất Đan chẳng hiểu câu nào.

Gã thợ rèn đột nhiên quay phắt lại, hầm hầm nhìn y, cầm chiếc kìm sắt

đang nóng đỏ, dí vào mắt y khiến Du Thản Chi sợ đến hét ầm lên.

Thế nhưng gã thợ rèn chỉ dọa y một mẻ, cười sằng sặc, rút chiếc kìm

về, lại lấy ra một khối sắt hình cong ướm thử vào sau ót Du Thản Chi.

Sau khi gõ cho vừa, tên thợ rèn bèn đem cả mặt nạ lẫn cái chụp hình bán

cầu bỏ vào lửa nung cho đỏ, lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên Khất Đan liền

kéo Du Thản Chi lên bắt nằm trên một cái phản gỗ, để đầu y thò ra ngoài

bìa. Lại có thêm hai người Khất Đan khác đến giúp, dùng sức giữ chặt

đầu tóc y, khiến cho y không thể nhúc nhích. Năm người kẻ giữ chân

người nắm tay, thử hỏi Du Thản Chi còn cục cựa làm sao được?

Tên thợ rèn kẹp chiếc mặt nạ nóng đỏ lên, ngừng lại một chút cho

nguội bớt, quát lớn một tiếng, rồi áp lên mặt Du Thản Chi. Khói trắng

xèo xèo bốc lên đồng thời mùi thịt cháy khét bay tứ tán. Du Thản Chi chỉ

kêu lên được một tiếng rồi ngất xỉu. Năm tên Khất Đan lật người y lại, gã

thợ rèn lại kẹp nửa đầu bên kia, để vào sau ót, hai mảnh bán cầu ráp lại

thành một trái cầu sắt bao chặt đầu Du Thản Chi lại. Cái lồng sắt còn

nóng lắm, đụng vào thịt liền đốt cháy thành một khối bầy nhầy. Gã thợ

rèn đó là thiết công khéo léo vào bậc nhất ở thành Yên Kinh, hai nửa

chiếc lồng sắt dính chặt làm một chỗ nào cũng thật khít khao.

Du Thản Chi chẳng khác gì rơi vào địa ngục, bị thiêu đốt trong vạn

trượng lửa không biết bao lâu mới dần dần tỉnh lại nhưng trước mặt và

sau ót đau đớn khôn cùng chịu không nổi, lại ngất đi. Cứ như thế ba lần

tỉnh lại, ba lần ngất xỉu, y lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những

tiếng ú ớ không ra tiếng người.

Y đành nằm yên cố gắng không suy nghĩ gì khác, nghiến răng cố

chịu đựng nỗi đau đớn ở mặt và ót phải đến hơn hai giờ mới đưa được tay

lên sờ thử, tay đụng phải vật gì vừa cứng vừa lạnh, biết ngay những gì

mình đoán không sai, cái mặt nạ kia đã chụp lên đầu mình rồi. Trong cơn

phẫn khích, y cố giằng nó ra nhưng cái lồng sắt đó đúc thật kiên cố,

không hề suy suyển chút nào. Y càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng nhịn

không nổi khóc òa lên.

Thế nhưng dẫu sao y tuổi cũng còn trẻ, nỗi thống khổ tuy lớn lao

nhưng rồi cũng chịu được không đến nỗi chết, qua mấy ngày sau vết

thương dần dần se da, đau đớn cũng bớt, bụng cảm thấy đói. Y ngửi thấy

mùi thịt cừu và bánh bao nhịn không nổi cầm lấy ăn. Lúc này y đã mò kỹ

biết rõ chiếc lồng sắt ấy bao chặt đầu mình như thế nào, không thể nào

thoát ra được, mấy ngày đầu nổi cơn cuồng nộ nhưng rồi cũng bình tĩnh

lại, tự hỏi: Tên cẩu tặc Kiều Phong chụp lên đầu ta cái lồng sắt này,

không biết có dụng ý gì?.

Y vẫn nghĩ tất cả đều do lệnh của Tiêu Phong làm sao có thể đoán ra

rằng sở dĩ A Tử làm cái đầu sắt chính là che dấu để ông không nhận ra y.

Cái công trình đó, tất cả đều do đội trưởng Thất Lý theo lệnh A Tử mà thi

hành.

Ngày ngày A Tử đều hỏi Thất Lý xem Du Thản Chi sau khi đeo cái

lồng sắt tình hình ra sao, lúc đầu thì lo y chết sẽ mất vui, về sau biết y

vẫn còn sống, trong bụng hết sức hoan hỉ. Hôm đó nàng nghe tin Tiêu

Phong đi xuống Nam Giao duyệt binh liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi

đến Đoan Phúc Cung. Gia Luật Hồng Cơ vì muốn cho Tiêu Phong vui

lòng nên đã phong nàng là Đoan Phúc quận chúa, tòa Đoan Phúc Cung

này là ban riêng cho nàng ở.

A Tử vừa nhìn thấy hình dạng Du Thản Chi liền cảm thấy một niềm

vui vô bờ bến từ đáy lòng dâng lên, nghĩ thầm: Cái cách này của ta thật

được việc. Tiểu tử này đeo cái mặt nạ thì tỉ phu dẫu có đứng trước mặt y

cũng không thể nào nhận ra. Du Thản Chi lại đi tới mấy bước, A Tử vỗ

tay khen ngợi nói:

- Thất Lý, cái mặt nạ này đúc khéo quá, ngươi đem năm chục lạng

bạc thưởng thêm cho gã thợ rèn.

Thất Lý đáp:

- Vâng! Đa tạ quận chúa.

Du Thản Chi từ trong hai cái lỗ mắt nhìn ra, thấy A Tử mặt mày tươi

rói, cực kỳ kiều diễm, lại được nghe tiếng nói thanh tao của nàng, không

khỏi ngơ ngẩn như trời trồng. A Tử thấy y đội chiếc mặt nạ, thần tình quái

lạ, nhưng mắt vẫm đăm đăm nhìn mình nên cũng biết được bèn hỏi:

- Này thằng ngốc kia, ngươi nhìn ta làm gì thế?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi ... tôi ... không biết nữa. Cô ... cô nương đẹp quá.

A Tử mỉm cười:

- Ngươi đeo cái mặt nạ đó, thích hay không thích?

Du Thản Chi hậm hực hỏi lại:

- Thế cô nghĩ có thích hay không?

A Tử cười khanh khách đáp:

- Ta không nghĩ ra.

Nàng thấy miệng trên cái mặt nạ của y chỉ mở một đường thật hẹp,

miễn cưỡng có thể húp canh ăn cơm, còn như muốn ăn thịt thì phải dùng

tay xé nhỏ mới đút vào được, có muốn cắn ngón chân mình thì cũng

không được bèn cười nói:

- Ta đeo cho ngươi cái mặt nạ đó để ngươi mãi mãi không thể nào

cắn ta được.

Du Thản Chi trong lòng chợt mừng hỏi lại:

- Cô nương sẽ cho tiểu nhân ... cho tiểu nhân ... được ... luôn luôn ở

gần bên hầu hạ hay sao?

A Tử đáp:

- Hứ, ngươi là một tên tiểu tử xấu xa, ở gần bên lúc nào cũng tính

chuyện hại ta thì sao mà chịu được.

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân ... tiểu nhân ... nhất quyết không bao giờ hại cô nương.

Kẻ thù của tiểu nhân chỉ một mình Kiều Phong thôi.

A Tử nói:

- Ngươi muốn hại tỉ phu ta ư? Thế thì cũng như hại ta vậy? Có khác

gì đâu?

Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thấy một nỗi chua xót dâng lên

trong lòng, không biết phải trả lời sao. A Tử cười nói:

- Ngươi muốn hại anh rể ta thật còn khó hơn lên trời. Này thằng

ngốc, ngươi có muốn chết không?

Du Thản Chi đáp:

- Lẽ dĩ nhiên tiểu nhân không muốn chết. Thế nhưng bây giờ trên

đầu đeo cái đồ chết tiệt này, người không ra người, quỉ không ra quỉ, so

với chết thì có khác gì bao nhiêu?

A Tử nói:

- Nếu ngươi quả là thà chết sướng hơn, thì cũng được, ta sẽ giúp

ngươi tròn tâm nguyện, có điều không phải muốn chết là chết ngay đâu.

Ta chặt tay trái ngươi trước đã.

Nàng quay sang Thất Lý đang đứng hầu bên cạnh truyền lệnh:

- Thất Lý, ngươi đem y ra, chặt tay trái trước.

Thất Lý đáp lời:

- Vâng!

Y đưa tay ra nắm lấy cánh tay Du Thản Chi. Du Thản Chi sợ quá kêu

lên:

- Đừng! Đừng! Cô nương, tiểu nhân không muốn chết, cô nương ...

cô nương đừng chặt tay tôi.

A Tử cười nhạt nói:

- Ta đã nói rồi không lẽ không tính, trừ phi ... trừ phi ... ngươi quì

xuống khấu đầu.

Du Thản Chi còn hơi ngần ngừ, Thất Lý đã cầm tay y lôi đi. Du Thản

Chi không còn dám lần khân nữa, khuỵu hai đầu gối, lập tức quì xuống

rập đầu, cái lồng sắt đập vào nền gạch, nghe boong một tiếng. A Tử cười

khanh khách nói:

- Tiếng khấu đầu sao dễ nghe quá, ta chưa từng nghe thấy bao giờ,

ngươi sụp lạy ta thêm vài cái nữa xem nào.

Du Thản Chi là tiểu trang chủ của Tụ Hiền Trang, tuy học văn không

được, học võ không thông, trong trang ai cũng biết y là loại ăn hại đái nát

nhưng Du Ký có con lại chết non, Du Câu thì chỉ có một cậu con vàng con

ngọc này, tiểu trang chủ nhất hô bách nặc3, từ nhỏ đã được nuông chiều

tôn kính, có bị khinh khi như thế này bao giờ đâu? Y mới gặp Tiêu Phong

vẫn còn một chút ngạo khí thà chết không chịu khuất phục nhưng mấy

hôm nay, thân thể cũng như tâm linh đều bị những vết thương cực kỳ lợi

hại, bao nhiêu hào khí của tuổi thanh niên đều tiêu tán không còn gì nữa,

nghe A Tử nói như vậy, lập tức liên tiếp khấu đầu, leng keng vang dội,

được vị cô nương trông như nàng tiên này khen mình sụp lạy dễ nghe,

trong lòng thầm hoan hỉ.

A Tử nở một nụ cười duyên dáng nói:

- Hay lắm! Từ nay ngươi phải vâng lời ta, không cưỡng lại thì

không sao, bằng không ta sẽ chặt tay ngươi, nhớ không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng! Vâng!

A Tử lại tiếp:

- Ngươi đúng là một thằng ngu, ta cứu mạng ngươi, ngươi lại không

biết ơn. Tiêu đại vương muốn băm vằm ngươi ra, ngươi không biết hay

sao?

Du Thản Chi đáp:

- Y là kẻ thù giết cha tôi, dĩ nhiên không thể tha tôi được.

A Tử nói:

- Ông ta giả vờ tha ngươi ra, nhưng lại sai người đuổi theo bắt lại

để băm ngươi ra thành tương. Ta thấy ngươi không đến nỗi tệ lắm, giết đi

thật tội nghiệp, nên cố gắng che đậy cho ngươi. Thế nhưng nếu như Tiêu

đại vương bắt gặp thì liệu ngươi có sống được hay chăng? Ngay cả ta

cũng phải chịu liên lụy rất lớn.

Du Thản Chi lập tức hiểu ra bèn đáp:

- À, thì ra cô nương đúc cái đầu sắt này cho tiểu nhân đội chính là

vì có lòng tốt, cốt để cứu mạng cho tôi. Tiểu nhân ... tiểu nhân thật là

cảm kích, thật thế ... hết sức cảm kích.

A Tử đánh lừa được y khiến cho y biết ơn mình nên rất đắc ý, mỉm

cười nói:

- Vì thế lần sau ngươi gặp Tiêu đại vương thì không được nói năng

gì để ông ta không nhận ra tiếng ngươi. Nếu như ông ta biết được là

ngươi, hừ, hừ, thì sẽ chặt ngay tay trái, một hồi sau lại chặt luôn tay phải.

Thất Lý, ngươi mau đem y ra thay đổi y phục Khất Đan, tắm cho y một

cái chứ người đầy máu mủ tanh hôi, nặng mùi quá.

Thất Lý đáp lời dẫn y ra ngoài. Chẳng mấy chốc, Thất Lý lại đưa Du

Thản Chi vào, đã thay đổi quần áo Khất Đan cho y. Thất Lý muốn A Tử

vui lòng cố ý mặc cho y thật sặc sỡ, nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ,

trông như một thằng hề.

A Tử nhếch mép cười:

- Để ta đặt cho ngươi một cái tên, gọi là ... gọi là ... Hề Sắt. Từ nay

ta gọi Hề Sắt ngươi phải dạ nghe chưa. Hề Sắt!

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Dạ!

A Tử cực kỳ sung sướng, đột nhiên nghĩ ra một việc nói:

- Thất Lý, nước Đại Lương bên Tây Vực có đem qua một con sư tử,

phải không? Ngươi bảo huấn sư đem nó qua đây, lại gọi thêm mười vệ sĩ.

Thất Lý vâng lời ra ngoài truyền lệnh. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm

trường mâu tiến vào trong điện, quay về phía A Tử khom lưng hành lễ,

rồi đứng lên, mười sáu mũi giáo chĩa ra ngoài, bảo vệ chủ nhân. Chẳng

mấy chốc đã nghe ngoài cửa điện có tiếng sư tử gầm, tám người đàn ông

khỏe mạnh khiêng một cái chuồng bằng sắt lớn, trong chuồng là một con

sư tử đực đi qua đi lại, chòm lông đuôi dài rủ xuống, răng nhọn vuốt sắc,

thần tình thật là uy võ. Người luyện thú đi trước, tay cầm roi da.

A Tử thấy con sư tử đó thật là hung dữ đáng sợ, vui mừng nói:

- Hề Sắt, mồm ngươi nói thì nghe hay lắm nhưng chẳng biết có thật

hay không. Để ta thử xem cho biết, coi ngươi có nghe lời ta chăng.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y vừa trông thấy con mãnh sư đã hoảng thầm, không biết có dụng ý

gì nghe nàng nói thế, lập tức tim đập thình thình. A Tử nói:

- Không biết chiếc lồng trên đầu ngươi có chắc chắn hay không,

ngươi thử thò đầu vào trong chuồng cho sư tử cắn mấy cái, xem nó có cắn

vỡ được cái lồng sắt đó hay không?

Du Thản Chi hoảng hốt ấp úng:

- Cái đó ... cái đó chẳng nên thử làm gì. Nếu nó cắn vỡ thì đầu tiểu

nhân ...

A Tử nói:

- Cái đồ ngươi thật là vô dụng. Có một việc như thế mà cũng sợ,

nam tử hán đại trượng phu thì phải xem cái chết như trở về nhà4 mới phải

chứ. Ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.

Du Thản Chi năn nỉ:

- Cô nương, việc này đâu phải trò đùa, ví như nó cắn không vỡ, con

súc sinh này lại làm cái lồng méo đi thì cái đầu tiểu nhân ...

A Tử cười khanh khách nói:

- Thì cùng lắm cái đầu ngươi cũng bị méo thôi. Tên tiểu tử này thật

lắm chuyện, vốn dĩ ngươi cũng đâu có đẹp đẽ gì, dù đầu có méo thì cũng

vẫn còn ở trong cái lồng có ai nhìn thấy đâu mà lo, sợ gì đẹp hay xấu.

Du Thản Chi vội đáp:

- Tiểu nhân nào có thích đẹp hay không đẹp ...

A Tử mặt sầm xuống nói:

- Ngươi không nghe lời ta, được, thôi ta biết rồi. Ngươi có ý đánh

lừa ta, vậy ta sẽ vứt ngươi vào trong lồng cho sư tử ăn thịt.

Nàng dùng tiếng Khất Đan dặn dò Thất Lý, Thất Lý liền đáp:

- Vâng!

Rồi lập tức xông lên nắm tay Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Nếu như mình bị đẩy vào chuồng sư tử thì còn sống sao nổi, chi bằng

nghe lời cô nương, đút cái đầu sắt vào thử, may nhờ rủi chịu. Y liền kêu

lên:

- Đừng kéo! Đừng kéo! Cô nương, tôi xin nghe lời.

A Tử cười nói:

- Có thế mới ngoan ngoãn chứ! Ta bảo này, từ rày ta bảo ngươi làm

gì là phải làm ngay, đừng có lừng khừng để cô nương phải bực mình. Thất

Lý, đánh cho y ba chục roi.

Thất Lý đáp:

- Tuân lệnh!

Y cầm chiếc roi da trong tay người dạy sư tử, nghe chát một tiếng đã

quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá, kêu lên oai oái. A Tử

nói:

- Hề Sắt, ta bảo này, ta sai người đánh ngươi là coi trọng ngươi đó.

Ngươi kêu toáng lên như thế tức là không thích ta đánh chứ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân thích lắm chứ, đa tạ ân điển cô nương.

A Tử nói:

- Thế thì được, đánh đi.

Thất Lý đánh chát chát luôn một chập mười roi, Du Thản Chi chỉ

đành nghiến răng cố chịu, không dám hé răng, thế nhưng nhờ có chụp cái

lồng sắt nên roi không đánh vào đầu, còn roi da đánh vào ngực bụng

cũng đành phải ráng chịu. A Tử thấy y không kêu nữa cảm thấy vô vị nói:

- Hề Sắt, ngươi bảo ngươi thích ta cho người đánh ngươi, phải

không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Chính thế!

A Tử nói:

- Ngươi nói thế là thật hay giả? Hay chỉ là nói quấy nói quá để lừa

ta?

Du Thản Chi đáp:

- Đúng là thế, tiểu nhân nào dám đánh lừa cô nương.

datlucky_way

23-07-2009 03:01 PM

Hôi28(b) : THẢO MỘC TÀN SINH LÔ CHÚ THIẾT 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Chết đi sống lại mấy lần,

Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.

Kim chi ngọc diệp còn đâu,

Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.

*

* *

A Tử nói:

- Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? Sao không nói là

được đánh thật sướng quá?

Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ,

chỉ đành xuôi theo:

- Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là

sướng đời.

A Tử nói:

- Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.

Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu:

- Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.

Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì

đã quá ba chục. A Tử xua tay nói:

- Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.

Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên

chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến

lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn

chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A

Tử quát:

- Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?

Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm

tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt

răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một

luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình

đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.

Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc

lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử

cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.

Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn

bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản

Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy

vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép

tại một góc lồng.

Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản

Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót

gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử,

khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói:

- Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau

xem ai sống ai chết.

Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra,

nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết

sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất

định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên:

- Cắn! Cắn y ngay!

Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ

nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng

nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn

óc tung tóe đầy mặt đất.

A Tử cười nói:

- Hề Sắt thắng rồi!

Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài,

nói với Du Thản Chi:

- Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được!

Thưởng cái gì đây nhỉ?

Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói:

- Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một

việc.

A Tử hỏi:

- Ngươi cầu xin gì?

Du Thản Chi đáp:

- Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô

nương.

A Tử ngạc nhiên:

- Làm đầy tớ cho ta ư? Sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết

rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù

cho cha mẹ chứ gì?

Du Thản Chi vội đáp:

- Không! Không! Không phải thế đâu.

A Tử nói:

- Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được,

hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào.

A Tử hỏi:

- Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên

hạ. Tiểu nhân ... tiểu nhân ... mong được ngày ngày trông thấy cô nương.

Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là

lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn

nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại

thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất

trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình

mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.

Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng

nghe một tên cung vệ lên tiếng báo:

- Đại vương đến thăm.

A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi:

- Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?

Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng:

- Không sợ!

Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng5, chậm

rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi,

lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ

lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử:

- Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới

chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?

A Tử cười đáp:

Bối cảnh xã hội đời Tống

- Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến

cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi

nè, đây là vết răng sư tử đó.

Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú

thật. A Tử lại tiếp:

- Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?

Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng

chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần

hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá

phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì

thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau

khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở

trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.

Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát

tiếng leng keng cười nói:

- Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng

lắm.

A Tử nói:

- Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh

nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng

hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi

làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y

thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?

Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.

Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói:

- Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này

từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem

lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?

Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn

nói:

- A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta

sống dở chết dở như thế?

A Tử hứ một tiếng nói:

- Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?

Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không

thèm đến thăm.

Tiêu Phong nói:

- Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận

tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô

một lúc hay sao?

A Tử phụng phịu:

- Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái

lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá

như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời

một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.

Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được,

chỉ đành cười trừ nói:

- Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em

không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?

A Tử hậm hực đáp:

- Trẻ con, trẻ con ... em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích

chơi với em, sao còn đến đây làm gì?

Tiêu Phong đáp:

- Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?

A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá

một cái nói:

- Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái

mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.

Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ

dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì

càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói:

- Thôi em đi nghỉ đi thôi.

Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn

khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc

muốn trút lên đầu y bèn quát:

- Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng!

Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên:

- Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?

A Tử không đáp, vẫy tay nói:

- Đánh mau!

Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu:

- Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần

sau khỏi tái phạm.

Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói:

- Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta

đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi

cho nên ta mới đánh.

Du Thản Chi nói:

- Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô

nương đã sai đánh rồi mà.

Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói:

- Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả

nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó

chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên

muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động

hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng

không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh

cũng chẳng sao.

Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run

lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau

đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi

còn hơn, vội nói:

- Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích

cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.

A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói:

- Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người

khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta

cao hứng tha cho ngươi chứ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô

nương.

A Tử nói:

- Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng

đấy chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.

A Tử nói:

- Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh

cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.

Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì

mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo

mình không muốn, nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên

đành lặng thinh không dám nói gì cả.

A Tử hỏi:

- Sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ

gì? Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?

Du Thản Chi đành gượng đáp:

- Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng

tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân.

A Tử nói:

- Thế sao ngươi không nói gì cả?

Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp:

- Cái đó ... cái đó ... tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày

non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai

làm thế nào để báo đáp.

A Tử nói:

- Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh

ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.

Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu:

- Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện

báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương

tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng

không từ.

A Tử nói:

- Được, thế thì đánh đi.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng.

Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục

roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm

xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một

tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ

đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ

rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã

ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó

mới ngừng.

A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không

khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý

đến mình, trong bụng ấm ức nói:

- Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào

nữa không?

Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới

khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành

hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải

làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu,

nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.

Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng

làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.

Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người

khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi

qua thì mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một

chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh

đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng

cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.

Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi

theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp

thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp,

mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói:

- Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời

nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.

Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh

cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt

xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình

thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.

A Tử lại gọi:

- Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?

Du Thản Chi lúc ấy mới đáp:

- Thưa cô nương, vâng.

Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười

nói:

- Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân vẫn mong ... vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà

chưa được nên không thể chết.

A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói:

- Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để

làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc,

nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.

Du Thản Chi đáp ngay:

- Vâng!

Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên

vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng

đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên

đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì

xẩy ra bèn nói:

- Xin cô nương sớm quay về phủ.

Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục

ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ

vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai

người da thịt như se lại.

A Tử nói:

- Thôi, ở đây được rồi!

Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo:

- Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ

cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa?

Du Thản Chi vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi

theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập

thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc

lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói:

- Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối

om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Vâng!

A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có

mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi

cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên

châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói:

- Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.

A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng,

ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang

thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn

tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y

phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh

viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu

bên cạnh.

Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt,

một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết

thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác

xa những con rết thường.

Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới,

chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy

trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên

trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong

chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói:

- Thôi đi!

Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ

thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt

hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái

gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.

A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở

bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng

rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã

sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong

điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành,

mở nắp ra cười nói:

- Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?

Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm

qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để

san bên cạnh, rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết

kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng

độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như

muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ:

- Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công

được rồi!

Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn

công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng

nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.

Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì

hỏi:

- Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.

A Tử hỏi thêm:

- Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi,

xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện

gì tiểu nhân nhất định không từ chối.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn

công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng

giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng

trọng thưởng cho ngươi.

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần

phải thưởng.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.

Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí,

một hồi sau mới nói:

- Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi,

ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng

nhiều càng tốt.

Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu

gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay,

đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần

ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại:

- Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không muốn, có điều ... có điều ...

A Tử ngắt ngang:

- Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?

Ngươi là người hay ngươi là gà trống?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân không phải là gà trống.

A Tử nói:

- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là

gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông

vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì

đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?

Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy

nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình

mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:

- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.

Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào

trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị

đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:

- Giữ yên đó! Không được động đậy!

Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang

cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai

ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.

Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A

Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm

sao dám cử động?

Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ

phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một

lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến

thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên

cánh tay.

Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn

thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau

tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.

A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám

sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất

động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:

- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó,

đừng làm nó tổn thương.

Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh

để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong

chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa

tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó

vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của

ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô

Công độc chưởng.

Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp

ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn

tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết

máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ

không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút

con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản

Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được

nữa.

Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc

ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh

tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn

con rận cùng cắn một lượt.

Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng

ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo

ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật

khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc

đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất

đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.

Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải

dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh

thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy

kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn

sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy

như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng

hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt

chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.

Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính

đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong

quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ

quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm

hai cổ chân.

Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy

người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung

tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ

ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế,

đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái

rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay

phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.

Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa,

không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn

thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư

thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức

cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy

như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu

ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa

ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của

nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn

nhiều.

Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng

nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng

quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi

tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức

mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến

ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm

cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ

chịu mà thôi.

Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc

gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở

bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa

mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa

trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực

bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến

mất.

Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào

cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa

đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến

nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay

chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh

tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.

Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn

toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc

cả rồi.

Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau

này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn

sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa

thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà

sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống

đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng

sắt gõ xuống đất kêu boong boong.

Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha

với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu

lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của

hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà

sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình

vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du

Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa

rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp

trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép

Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.

Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo

hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi,

đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y

chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn

một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong

điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:

- Sao ngươi còn chưa chết?

Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:

- Vì ... tiểu nhân ... tiểu nhân còn sống.

Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử

nói:

- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo

ta đi bắt độc trùng lần nữa.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan

hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn

một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.

A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc

Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút

máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện

màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng

theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.

Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy

có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư

phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ

đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.

Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung

quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng

hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối,

không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng

phải đi xa hơn.

Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử

đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột

soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:

- Nằm xuống!

Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng

lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi

tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động,

thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn

mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi.

Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng

như thế xưa nay chưa từng thấy.

Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến

hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng

nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái

đầu to lớn húc vào.

A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức

kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du

Thản Chi nói nhỏ:

- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi

ôi!

Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới,

tự nhiên hăng máu lên nói cứng:

- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.

Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe

thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ

chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như

thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.

Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có

một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm

sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là

trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém

vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.

Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa

ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so

với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng

bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem

chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.

Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một

mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo

xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con

sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch,

chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái

bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.

A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:

- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.

Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này

nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu

đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc

đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh

tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ

còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.

A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:

- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!

Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du

Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con

tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa

đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên

không mất dấu.

Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước

có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến

suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm

đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân

than thở:

- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết,

ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.

Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có

thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm

tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:

- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không

thì đừng gặp ta nữa.

Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản

Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến

bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại

có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:

- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!

Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo

vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở

phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến

trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc

Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem

xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy

sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng

chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng

này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.

Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người

trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy

vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.

Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có

con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng

rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng

vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:

- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài

chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay

về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà

mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày

biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau

chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!

Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương

xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản

Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem

đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ

thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.

Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì

một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du

Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia

đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.

Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa

sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất

cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó

chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng

khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái

vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi

được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ

thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.

Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật

gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín,

xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở

nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu

hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một

nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều

lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.

Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng

người gọi:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!

Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu

dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây

làm gì?

Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục

lên luống rau đáp:

- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.

Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:

- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không

trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên!

Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa

Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ

chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?

Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:

- Vâng!

Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con

tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai

cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận

mới được!.

Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội

vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái

vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi

tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn

chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống

rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu

vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt

vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng

chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy

về đường cũ.

Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ

lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du

Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa

qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn

cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí

lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi,

tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y

liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng

không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái

bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương

mỏng.

1 Khổng tử nói: Học rồi được thực hành, chẳng vui sướng lắm sao? (Luận Ngữ)

2 tickling

3 gọi một tiếng trăm người dạ

4 thị tử như qui

5 quần áo của người quyền quí đời xưa (Xem thêm , phần y phục của Nguyễn Duy Chính)

6 tức Yoga

7 python (con trăn)

datlucky_way

23-07-2009 03:02 PM

Hồi 29(a) : TRÙNG NGÃI NGƯNG HÀN CHƯỞNG TÁC BĂNG 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,

Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.

Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,

Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.

*

* *

Du Thản Chi xách chiếc hồ lô, rảo bước đi về thành Nam Kinh, bẩm

lại cho A Tử là đã bắt được con băng tàm. A Tử mừng lắm vội vàng bảo y

bỏ con tằm vào trong chiếc hũ sành để nuôi. Lúc đó đang vào tháng bảy,

giữa mùa hè trời nóng gắt ngờ đâu vừa nuôi con băng tàm ở điện phụ, lập

tức trong nhà càng lúc càng lạnh, chẳng bao lâu nước trong bình trà chén

trà cũng kết thành băng.

Đêm hôm đó, Du Thản Chi nằm trong chăn mà run lẩy bẩy, không

sao ngủ được, nghĩ thầm: Con tằm này thật lạ trên đời ít có. Nếu như cô

nương đem nó hút máu mình thì dù không chết vì chất độc, cũng lạnh

cóng mà chết.

A Tử liên tiếp bắt mấy con rắn độc, trùng độc đem đến đấu với nó,

đều bị con băng tàm chạy quanh vài vòng là đông cứng chết ngay để cho

nó hút hết trấp dịch. Đến hơn mười ngày, không giống độc trùng nào

đương cự nổi.

Hôm đó A Tử đến điện phụ nói:

- Hề Sắt, hôm nay mình phải giết con băng tàm, ngươi thò tay vào

trong hũ để cho con tằm hút máu.

Du Thản Chi những ngày qua lúc nào cũng lo ngay ngáy, đêm trằn

trọc sợ cái giờ phút này, quả nhiên cô nương chẳng chút dung tình, rồi

cũng bắt y và con băng tàm cùng hi sinh, trong lòng buồn bã, quay sang

nhìn A Tử một lát không nói năng, không cử động. Về phần A Tử nàng

chỉ nghĩ: Ta vô tình được bảo vật hiếm có này, độc chưởng công phu khi

luyện thành rồi e rằng so với sư phụ còn ghê gớm hơn. Nàng liền giục:

- Ngươi thò tay vào hũ đi thôi.

Nước mắt Du Thản Chi nhỏ ròng ròng, quì xuống khấu đầu nói:

- Cô nương luyện thành độc chưởng rồi, đừng quên tiểu nhân vì cô

nương mà phải chết. Tôi họ Du, tên Thản Chi chứ không phải là Hề Sắt.

A Tử mỉm cười nói:

- Được, tên ngươi là Du Thản Chi, ta nhớ rồi. Ngươi trung thành với

ta, tốt lắm, đúng là một đứa đầy tớ hết lòng với chủ.

Du Thản Chi được nàng khen ngợi mấy câu như thế, cảm thấy hết sức

an ủi, lại khấu đầu thêm hai lần nữa nói:

- Đa tạ cô nương!

Thế nhưng y vẫn không muốn bó tay chịu chết bèn rùn người, vòng

xuống chui đầu qua hai đùi, tay trái nắm cổ chân, tay phải thò vào trong

hũ, trong đầu nghĩ đến những mũi tên nhỏ ở hai chữ quái dị bên cạnh nhà

sư khỏa thể trong cuốn sách. Đột nhiên đầu ngón tay trỏ hơi ngứa, một

làn khí lạnh như băng chạy thẳng lên như tên bắn, theo cánh tay vào

trong ngực. Du Thản Chi trong đầu chỉ nhớ đến hướng của mũi tên, luồng

hàn khí kia đi đúng theo những kinh mạch y đang nghĩ tới, từ ngón tay lên

cánh tay rồi từ ngực chạy lên đỉnh đầu, sợi dây nhỏ đó đi đến đâu tỏa hơi

lạnh buốt thấu xương.

A Tử thấy tư thế cổ quái của Du Thản Chi thật tức cười, qua một lúc

sau, thấy y đứng lộn tùng phèo như thế, không khỏi ngạc nhiên, đến gần

xem thấy con băng tàm vẫn cắn chặt ngón tay trỏ. Thân con tằm óng ánh

trong suốt như thủy tinh, nhìn kỹ thấy có một dòng máu chạy từ miệng đổ

vào, đi vòng qua phía tả, quấn quanh một vòng, rồi từ bên phải chảy

ngược trở về ngón tay trỏ Du Thản Chi.

Thêm một lúc nữa, trên chiếc đầu sắt, y phục, chân tay Du Thản Chi

đều phủ một làn sương mỏng, A Tử nghĩ thầm: Tên nô tài này chắc là

chết rồi. Người sống trên mình phải có hơi ấm, làm sao kết thành sương

được?. Thế nhưng trong người con băng tàm máu vẫn còn lưu chuyển,

hiển nhiên hút máu chưa xong. Đột nhiên trên mình con tằm có những sợi

nhiệt khí như tơ bốc ra.

A Tử còn đang kinh ngạc thì đã nghe bộp một tiếng, con tằm từ ngón

tay Du Thản Chi rơi xuống đáy hũ, vội dùng cây gậy cầm sẵn trong tay

giã xuống một cái. Nàng vẫn tưởng con tằm bản thể linh dị, một gậy như

thế chưa chắc đã giết được nó, ngờ đâu khi rơi xuống rồi, con vật chỉ nằm

phơi bụng không lật lại nổi, thành thử một gậy của A Tử đã đâm băng

tàm nát ngướu.

A Tử mừng lắm vội vàng thò tay vào hũ, bôi huyết dịch con tằm vào

lòng bàn tay, nhắm mắt hành công, hút hết vào trong người. Nàng cứ xoa

lên hết lần này sang lần khác đến khi không còn tí gì mới thôi.

Hành công lâu như thế trong người mệt mỏi, A Tử ngáp dài một

tiếng, đứng dậy, thấy đầu Du Thản Chi vẫn còn lộn ngược chui giữa hai

đùi, toàn thân trắng xóa, kết đầy băng sương. Nàng hết sức sợ hãi, đưa

tay sờ thử người y thấy lạnh buốt, quần áo đóng băng cứng ngắc. Nàng

vừa lạ lùng vừa tức cười, gọi Thất Lý vào bảo đem Du Thản Chi đi chôn.

Thất Lý liền cùng hai tên lính Khất Đan nữa, vứt xác Du Thản Chi

lên một chiếc xe ngựa, chạy ra khỏi thành. A Tử không dặn y phải chôn

cất cho chu đáo, Thất Lý cũng chẳng phí sức đào một cái huyệt, thấy bên

cạnh đường có một khe nước, liền vứt luôn xuống suối, rồi quay về.

Thế nhưng cũng chính vì Thất Lý làm biếng một chút mà lại cứu được

mạng Du Thản Chi. Thì ra ngón tay y bị băng tàm cắn rồi bèn dùng phép

vận công của Dịch Cân Kinh để hóa giải độc khí, huyết dịch bị con tằm

hút ra lại theo ngón tay quay ngược trở về huyết quản đem bao nhiêu tinh

hoa kịch độc của con băng tàm vào người. A Tử sau đó hút huyết tương

của con tằm chỉ mất công toi chứ không còn hiệu dụng gì cả.

Nếu như Du Thản Chi đã học toàn bộ phép hành công của Dịch Cân

Kinh thì sẽ có thể tiêu giải chất độc của con băng tàm nhưng vì y chỉ mới

học được có một pháp môn, thu vào mà không biết đẩy ra nên chất kỳ

độc đệ nhất âm hàn của con sâu kia đã khiến cho người y bị đông cứng.

Còn như Thất Lý đem y chôn xuống đất thì sẽ thành một cái xác ướp

dù có vài trăm năm sau cũng chưa chắc đã rữa được. Du Thản Chi bị vứt

xuống suối trôi theo dòng, hơn một chục dặm sau gặp chỗ uốn khúc,

vướng vào một đám lau sậy. Chẳng bao lâu, nước chung quanh người y đã

biến thành băng chẳng khác gì một chiếc quan tài thủy tinh. Nước suối

tiếp tục soi mòn, tiêu giải từng chút từng chút hàn khí khiến cho khối

băng bao quanh y dần dần tan hết.

Cũng may đầu Du Thản Chi có cái lồng sắt, kim loại mau nóng mà

cũng mau nguội nên đá trên đầu tan ra trước. Nước suối ọc vào mồm y

khiến Du Thản Chi ho sặc sụa, đầu óc tỉnh táo liền từ dưới khe nước bò

lên, nước đá trên người chạm vào nhau kêu loong coong.

Khi thân thể mới biến thành băng không phải y hoàn toàn không biết

gì cả mà chỉ vì bị kết trong khối băng không cử động được mà thôi. Đến

sau y hôn mê không còn biết gì nữa, bây giờ chết đi sống lại thật không

khác một giấc mộng dài.

Du Thản Chi ngồi trên bờ suối, nghĩ mình đối với A Tử một lòng

trung thành sắt son cam nguyện đem thân nuôi độc trùng để giúp nàng

luyện công, vậy mà khi mình chết đi, A Tử chẳng thèm thở dài lấy một

tiếng. Y từ trong băng nhìn ra thấy A Tử mặt mày hớn hở có được huyết

tương của con băng tàm đem chà vào lòng bàn tay, chỉ nghiêng đầu nhìn

mình, thấy y chết xem chừng thú vị, lại hơi kỳ quái, hoàn toàn chẳng có

chút gì thương xót.

Y lại nghĩ: Băng tàm độc địa như thế, đã từng hút chất độc của hàng

nghìn độc trùng độc xà, cô nương nay hút hết vào trong lòng bàn tay rồi,

độc chưởng chắc đã luyện thành. Nếu như ta quay về... Y đột nhiên run

bắn người lên, nổi gai ốc nghĩ thêm: Cô ta vừa thấy mình thể nào chẳng

đem ra thử độc chưởng. Nếu như đã luyện thành thể nào đánh một cái là

mình chết tươi. Còn như luyện chưa xong, thì lại sai mình đi bắt rắn độc,

trùng độc nữa cho đến bao giờ luyện xong một chưởng đánh chết mình

lúc ấy mới thôi. Hai đằng đằng nào cũng chết, quay về làm gì?.

Du Thản Chi đứng lên, nhảy nhót vài cái rũ hết những mảnh băng

còn bám trên người nghĩ thầm: Bây giờ mình biết đi đâu đây?. Đi tìm

Kiều Phong báo thù cho cha ư, điều đó y nào dám nghĩ đến. Nhất thời y

không biết tính sao, chỉ đành lang thang trong đồng rộng núi hoang, hái

trái dại, bắt chim chóc, thú nhỏ mà ăn. Đến chiều hôm sau, không có việc

gì làm, y bèn mang cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn ra định học theo

tư thức của nhà sư trần truồng trong sách.

Cuốn sách đó khi rơi xuống suối đã ướt mèm, đến giờ vẫn chưa khô.

Y cẩn thận giở từng tờ, chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng có hình một quái

tăng, tư thức mỗi người một khác. Y suy nghĩ một hồi rồi cũng hiểu ra,

hình trong quyển sách gặp nước thì lộ ra chứ chẳng phải bồ tát hiện thân

cứu mạng gì cả, bèn làm theo tư thức thứ nhất trên trang đầu tiên, lần

theo mũi tên đỏ trên những chữ quái lạ thấy có một sợi chỉ nhỏ thật lạnh

chạy ngang chạy dọc khắp tứ chi và xương cốt, chẳng khác gì con băng

tàm còn sống bò trong cơ thể mình. Y kinh hãi vội vàng đứng lên, lập tức

con tằm lạnh trong người liền biến mất.

Suốt hai giờ sau y chỉ nghĩ đến: Không biết con tằm chui vào người

mình đã chạy đi chưa?. Thế nhưng y không sờ thấy, cũng chẳng mò ra,

không hình không bóng, sau cùng nhịn không nổi lại tập theo tư thức cổ

quái kia rồi nghĩ theo mũi tên đỏ trên hai chữ quái lạ, chẳng bao lâu lại

thấy có một con băng tàm bò trong cơ thể. Y kêu lên một tiếng, vội

ngừng lại không còn dám nghĩ thêm lập tức con tằm biến mất nhưng cứ

vừa nghĩ đến thì nó lại bò ra.

Mỗi lần con tằm bò một vòng, y lại thấy toàn thân thoải mái không

biết đâu mà kể. Trong cuốn sách hình những nhà sư khỏa thể rất nhiều, từ

những chữ lạ lùng kia những mũi tên đỏ cái cong cái thẳng, biến hóa

phức tạp. Y cứ theo những tư thức khác nhau mà gọi con tằm, trong người

khi nóng khi lạnh, mỗi lúc có một lối thư thái riêng.

Cứ như thế luôn mấy tháng trời, tay chân y bắt cầm thú càng lúc càng

linh hoạt, nhảy nhót cũng xa hơn, chạy thêm nhanh nhẹn mà trước kia

không thể nào bì kịp. Một buổi chiều, một con chó sói đói ở đâu đi kiếm

mồi, chồm đến vồ Du Thản Chi. Y kinh hãi, đang định bỏ chạy nhưng con

sói đã giương vuốt ra chộp vào đầu vai, nhe răng nhọn hoắt, định ngoặp

vào cổ họng. Du Thản Chi hết sức kinh hoàng, tiện tay đánh một chưởng

trúng ngay đầu con vật. Con chó sói đó văng ra xa, quằn quại mấy cái rồi

nằm thẳng cẳng. Du Thản Chi quay người chạy ra mấy trượng thấy con

chó sói vẫn nằm đó, trong bụng lạ lùng, nhặt một cục đá ném trúng ngay

thân nhưng con lang vẫn nằm yên. Y vừa mừng vừa sợ, rón rén đến gần

xem hóa ra con chó sói đã chết tự bao giờ.

Y thật không dám nghĩ tới chuyện mình chỉ tiện tay đánh một cái mà

ghê gớm đến thế, giơ tay lên lật qua lật lại xem kỹ, không thấy có gì

khác, nhịn không nổi kêu lên:

- Hồn ma con tằm này thiêng quá!

Y vẫn tưởng con tằm kia chết rồi hồn nó nhập vào người mình nên

mới có tài phép như thế chứ có ngờ đâu đó hoàn toàn do công lực từ Dịch

Cân Kinh, lại thêm băng tàm là vật kịch độc hãn hữu, luồng âm hàn ghê

gớm đó bị y hút vào trong người, chứa vào nội công thượng thừa của Dịch

Cân Kinh nên mỗi khi đánh ra đều có chứa âm kình cực kỳ ghê gớm.

Dịch Cân Kinh là bảo điển chí cao vô thượng trong võ học, có điều

pháp môn tu tập không phải dễ dàng, cần phải phá được cảnh giới ngã

tướng, nhân tướng, trong bụng không còn nghĩ đến chuyện tu tập võ

công. Thế nhưng tăng lữ tập môn thượng thừa này, ai chẳng muốn tinh

tiến thật nhanh, mong cho chóng thành để công phu được ích lợi? Muốn

đến được tâm vô sở trụ1 quả thật là thiên nan vạn nan.

Trong mấy trăm năm qua, các cao tăng chùa Thiếu Lâm tu tập Dịch

Cân Kinh không phải là ít, thế nhưng dụng công năm chày tháng tận, vẫn

không mấy ai đạt được thành thử các nhà sư cho rằng kinh này không linh

hiệu, hôm trước A Châu ăn cắp mất, tăng chúng trong chùa tức giận thật

nhưng cũng không coi là chuyện lớn.

Hơn một trăm năm trước, chùa Thiếu Lâm có một nhà sư, xuất gia từ

thuở bé, tâm trí đần độn, điên điên khùng khùng. Sư phụ ông ta khổ công

tu tập Dịch Cân Kinh không thành, giận quá mà tọa hóa2. Nhà sư điên kia

nhặt được quyển kinh ở bên cạnh di thể của sư phụ, hăm hăm hở hở đem

ra luyện, ngẫu nhiên sao thành một đại cao thủ. Thế nhưng võ công ông

ta tại sao cao cường như thế, đến lúc viên tịch tây qui, cũng vẫn không

sao giải thích được, chẳng một ai biết đó là công phu Dịch Cân Kinh.

Đến bây giờ Du Thản Chi vô tâm luyện công phu này, chỉ tưởng là

gọi con băng tàm trong người bò ra bò vào cho đỡ buồn, có biết đâu ngày

một tiến bộ, chính là theo được con đường của nhà sư khùng hồi trước.

Mấy hôm sau y lại liên tiếp đánh chết thêm mấy con dã thú khác, bấy

giờ mới biết chưởng lực của mình rất mạnh, trong bụng cũng can đảm

thêm được một chút. Du Thản Chi tiếp tục đi về hướng nam, trong bụng

ngay ngáy sợ rằng nếu mình bỏ quên không gọi hồn con băng tàm một

ngày, ma tằm sẽ bỏ đi mất, thành thử ngày nào cũng phải kêu nó ra,

không dám lơ là. Com ma tằm bây giờ cực kỳ linh dị, gọi là ra ngay.

Du Thản Chi đi càng lúc càng xa, hôm đó đã đến địa giới tỉnh Hà

Nam ở trung châu. Y cũng biết cái đầu sắt của mình làm người ta sợ hãi

nên ban ngày chỉ ẩn náu tại những sơn động hoang dã hay rừng sâu, bao

giờ trời tối mới mò ra nhà dân chúng ăn trộm đồ ăn. Lúc này thân thủ y

mẫn tiệp dị thường nên không bao giờ bị người ta phát giác.

Ngày hôm đó y chui vào một chiếc miếu hoang bên vệ đường nằm

ngủ, bỗng nghe thấy tiếng bước chân, có ba người đi vào trong am. Y vội

vàng chui xuống dưới bệ thờ, không dám để cho người ta thấy. Ba người

đó đi vào trong miếu, ngồi xuống đất, lục đục ăn uống, nói năng chuyện

trên giang hồ. Bỗng nhiên một người hỏi:

- Ngươi thử nghĩ Kiều Phong bây giờ trốn ở đâu, sao hơn một năm

nay, không ai nghe thấy tin tức gì của y cả?

Du Thản Chi vừa nghe thấy hai tiếng Kiều Phong liền chột dạ, vội

vàng cố lắng tai nghe. Lại nghe một người khác nói:

- Tên đó tác ác đa đoan bây giờ rụt đầu rụt cổ như con rùa, chắc

không kiếm được y đâu.

Người nói lúc nãy lại tiếp:

- Chưa hẳn thế đâu. Y đợi đúng lúc mới ra tay, một khi người ta lơ là,

lúc ấy mới hạ thủ. Ngươi thử nghĩ mà xem, sau khi đại chiến Tụ Hiền

Trang rồi, y còn giết thêm bao nhiêu người nữa? Từ trưởng lão, vợ chồng

Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn, toàn gia Thái Sơn Thiết Diện Phán

Quan Đơn lão anh hùng, Trí Quang lão hòa thượng của núi Thiên Thai,

rồi Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, ôi, quả là đếm

không hết.

Du Thản Chi nghe đến đại chiến Tụ Hiền Trang, trong lòng đau xót

nên những gì người đó nói sau không nghe thấy gì cả, một lúc sau mới

nghe một giọng già nua:

- Kiều bang chủ xưa nay đãi người nhân nghĩa, không ngờ... ôi...

không ngờ... quả thật là số kiếp nó làm ra thế. Thôi mình đi.

Nói xong ông ta đứng lên. Người kia nói:

- Này lão Uông, ông bảo bản bang đang bầu tân bang chủ, thế thì

phải cử ai đây?

Người già cả kia đáp:

- Nào ta có biết! Bầu tới bầu lui, đã hơn một năm rồi cũng chưa tìm

ra một anh hùng hảo hán nào được toàn bang bội phục. Thôi, chúng mình

đi xem sao.

Người kia nói:

- Thôi tôi biết bụng ông rồi, chắc ông mong Kiều Phong quay trở lại

làm bang chủ chứ gì? Thôi đừng mơ mộng hão huyền nữa, lỡ chuyện đó

truyền ra đến tai Toàn đà chủ thì ông khó sống đó!

Ông già họ Uông hốt hoảng nói:

- Tiểu Tất, câu đó là ngươi nói chứ ta có bao giờ bảo là mong Kiều

bang chủ trở lại làm bang chủ bản bang đâu?

Tiểu Tất cười khẩy:

- Ông mở miệng ra là Kiều bang chủ này, Kiều bang chủ nọ chẳng

phải bụng mong y về làm bang chủ hay sao?

Lão Uông bực tức đáp:

- Ngươi mà còn nói bậy nói bạ xem ta có đập chết cái đồ chó đẻ như

ngươi không?

Người thứ ba can:

- Thôi được rồi! Mình là chỗ anh em, đừng để mích lòng nhau, đi

nhanh lên không lại trễ. Kiều Phong làm sao làm bang chủ của mình

được? Y là giống Khất Đan chó má, mình gặp y là hai bên nhất định một

sống một chết rồi. Vả lại, ví như mình mời y về làm bang chủ, chắc gì y

đã chịu?

Lão Uông thở dài một tiếng nói:

- Ngươi nói thế phải lắm.

Nói xong cả ba người cùng đi ra khỏi miếu. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái Bang muốn kiếm Kiều Phong mà kiếm không ra, bọn họ có biết đâu

gã đó đang ở nước Liêu làm Nam Viện Đại Vương, ta phải nói cho họ

biết mới được. Cái Bang người nhiều thế mạnh, lại ước định thêm anh

hùng hảo hán Trung Nguyên may ra có thể giết được tên ác tặc đó. Ta sẽ

theo bọn họ đi giết Kiều Phong. Y nghĩ đến quay lại Nam Kinh sẽ gặp A

Tử, trong ngực lập tức nóng bừng bừng.

Du Thản Chi rón rén từ trong miếu đi ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang

đi đường núi về hướng tây, liền lẳng lặng theo sau. Lúc này trời đã tối

mịt, hoang sơn không một bóng người, đi được vài dặm đến một thung

lũng, nhìn xa xa nơi sơn cốc có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái đầu sắt của mình thật quái đản, bọn họ trông thấy thể nào cũng hô

hoán rầm rĩ lên, chi bằng trốn trong bụi cỏ nghe ngóng rồi hãy tính.

Y chui vào trong đám cỏ dày, bò dần đến gần đống lửa. Bò được mấy

trượng, ngừng lại một chút, lại bò tiếp, nghe thấy tiếng người xôn xao,

xem ra người tụ tập chung quanh đám lửa không phải là ít. Du Thản Chi

lâu nay từng chịu biết bao nhiêu hành hạ dày vò nên không dám sơ sẩy

chút nào, bò càng gần càng chậm lại, tới sau một tảng đá cách chừng vài

trượng thì không dám tiến xa hơn nữa nên nằm phục tại đó lắng tai nghe.

Những người chung quanh đống lửa ai nấy đều đứng nói chuyện, Du

Thản Chi nghe một hồi mới biết ra đây là người của Đại Trí phân đà tụ

hội thương nghị về việc đại hội Cái Bang sắp tới sẽ suy cử ai lên làm

bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người lại muốn

Ngô trưởng lão. Một người nói:

- Nói đến trí dũng song toàn thì phải bầu cho Toàn đà chủ của bản

bang, tiếc rằng Toàn đà chủ hôm trước đã bị tên Kiều Phong giả công vi

tư đuổi ra khỏi bang rồi, việc quay trở lại bang chưa ổn thỏa.

Lại một người khác nói:

- Gian mưu của Kiều Phong chính là do Toàn đà chủ đứng ra vạch

trần, Toàn đà chủ lập được đại công cho bản bang, việc trở lại thật dễ

dàng. Một khi đại hội khai mạc, chúng ta trước hết lo việc Toàn đà chủ

qui bang, sau đó mới nói đến công lao khi trước, rồi bầu ông ta lên làm

bang chủ.

Một giọng sang sảng cất lên:

- Việc bản nhân trở lại bang cũng là chuyện thuận lý. Thế nhưng

việc các huynh đệ bầu mỗ lên làm bang chủ thì chưa nên đề cập đến vội,

nếu không người khác lại tưởng huynh đệ vạch trần gian mưu của Kiều

Phong là có ý đồ riêng tư.

Một người khác lớn tiếng nói:

- Toàn đà chủ, nếu gặp việc thì đương nhân bất nhượng3. Ta xem

trong mấy vị trưởng lão của bản bang, võ công tuy cao cường thật nhưng

kể về mưu trí thì không ai bì kịp với ông được. Chúng ta đối phó với tên

gian tặc Kiều Phong, là việc đấu trí chứ không phải đấu sức, Toàn đà

chủ...

Gã Toàn đà chủ kia ngắt lời:

- Thi huynh đệ, ta chưa chính thức trở lại bang, ba chữ Toàn đà chủ

xin đừng gọi thế vội.

Hơn hai trăm người ăn mày đang đứng quanh đống lửa nhao nhao lên:

- Tống trưởng lão đã có dặn rằng nhờ ông tạm thời giữ chức đà chủ

bản đà, ba chữ Toàn đà chủ kia có gì mà không được?

- Tương lai ông lên làm bang chủ, thì chẳng còn hơn chức đà chủ hay

sao?

- Toàn đà chủ nếu chưa đảm đương bang chủ thì ít nhất cũng phải

lên chức trưởng lão, nhưng khi đó cũng phải kiêm lãnh cả bản đà.

- Đúng lắm, dẫu Toàn đà chủ có làm bang chủ vẫn có thể kiêm luôn

cả chức đà chủ Đại Trí phân đà.

Còn đang bàn luận xôn xao, một bang chúng từ cửa sơn cốc chạy vào,

lớn tiếng báo:

- Khải bẩm đà chủ, Đoàn vương tử nước Đại Lý xin bái phỏng.

Toàn đà chủ Toàn Quan Thanh lập tức đứng bật dậy hỏi:

- Đoàn vương tử nước Đại Lý ư? Bản bang trước nay có giao thiệp gì

với nước Đại Lý đâu?

Y liền lớn tiếng nói:

- Các vị huynh đệ, Đoàn gia nước Đại Lý là thế gia trứ danh trong võ

lâm, Đoàn vương tử tự mình đến đây, tất cả cùng đứng lên nghênh tiếp.

Nói xong tất lãnh mọi người cùng đi ra ngoài sơn khẩu đón khách.

Chỉ thấy một thanh niên công tử mặt mày tươi tỉnh đứng ngay tại đó, đằng

sau có bảy tám người tùy tòng. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, hai

người chắp tay chào, hóa ra biết nhau rồi, đã từng gặp ở trong rừng hạnh

ngoài thành Vô Tích. Toàn Quan Thanh lúc đó chưa biết lai lịch, thân

phận Đoàn Dự, nghĩ lại khi đó mình bị Kiều Phong đuổi ra khỏi bang

Đoàn Dự đều biết cả, không khỏi ngượng ngùng, nhưng lập tức trấn tĩnh

ngay, ôm quyền nói:

- Không biết Đoàn vương tử tới thăm nên không ra xa nghinh tiếp,

xin lượng thứ cho.

Đoàn Dự cười đáp:

- Không dám! Không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có một

việc muốn phụng cáo quí bang cho nên mới đến làm phiền.

Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu đi cùng là Cổ

Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần ba người. Toàn Quan Thanh mời

Đoàn Dự đến ngồi tại một phiến đá trước đống lửa, sau đó bang chúng

đem rượu ra mời. Đoàn Dự tiếp lấy uống cạn rồi nói:

- Mấy tháng trước4, gia phụ ở tại Trung Châu có đến phủ của cố Mã

phó bang chủ quí bang, gặp một kỳ sự, chính mắt trông thấy cái chết của

Bạch Thế Kính Bạch trưởng lão. Việc này có liên can trọng đại đến quí

bang, lại cả đến anh hùng võ lâm Trung Nguyên nữa nên muốn trình cho

các nhân vật thủ não của quí vị. Có điều gia phụ thụ thương, dưỡng bệnh

đến nay mới đỡ mà các trưởng lão trong bang hành tung vô định, không

sao gặp được, khiến cho phong thư gia phụ viết vẫn chưa có cách nào

trình lên. Mấy bữa trước gia phụ nghe tin quí đà tụ hội nơi đây nên mới

sai vãn sinh đưa tới.

Nói xong chàng lấy trong tay áo ra một phong thư, đứng lên đưa ra.

Toàn Quan Thanh cũng vội vàng đứng dậy, hai tay nhận lấy nói:

- Phải phiền đến Đoàn công tử đích thân đưa thư, cái tấm lòng

thương yêu của Đoàn vương gia khiến cho tất cả tệ bang từ trên xuống

dưới ai ai cũng cảm đại đức.

Y nhìn thấy phong thư đó gắn rất kỹ, trên phong bì viết tám chữ lớn:

Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải5

Y nghĩ thầm tự mình không tiện mở ra xem bèn nói:

- Tệ bang không lâu nữa sẽ khai đại hội, các trưởng lão sẽ đều đến

cả, tại hạ sẽ đem thư của Đoàn vương gia trình lên cho chư vị thủ lãnh.

Đoàn Dự nói:

- Như thế xin phiền vậy, vãn sinh cáo biệt.

Toàn Quan Thanh luôn mồm cảm ơn, tiễn khách ra rồi mới nói:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân của tệ bang bất hạnh bị gian tặc

Kiều Phong hạ độc thủ, hôm đó chính mắt Đoàn vương gia trông thấy hay

sao?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân không phải do Kiều đại ca giết

hại đâu, sát hại Mã phó bang chủ cũng là người khác. Trong phong thư

này của gia phụ có nói rất rõ ràng, sau này Toàn đà chủ đọc thư sẽ biết

rõ mọi chuyện.

Chàng trong bụng nghĩ thầm: Việc này nói ra dài dòng, nhà ngươi

đâu phải là người tốt, không nên nói nhiều làm chi. Ta đoán chừng ngươi

không dám dấu lá thư của cha ta đâu. Đoàn Dự quay sang ôm quyền

chào Toàn Quan Thanh nói:

- Sau này gặp lại, không dám phiền chư vị tiễn ra xa.

Chàng quay mình đi ra sơn cốc, vừa trở đầu đã thấy hai tên bang

chúng Cái Bang dẫn hai hán tử tiến vào. Hai người đó đưa mắt cho nhau,

đi lên mấy bước khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, trình lên một tờ danh

thiếp màu đỏ chói. Đoàn Dự cầm lấy xem qua, thấy trên tờ thiếp viết bốn

hàng chữ:

Tô Tinh Hà cung kính mời những vị tinh thông kỳ nghệ6 trong thiên hạ,

đến ngày mồng tám tháng hai giá lâm hang Thiên Lung Địa Á, núi Lôi Cổ,

tỉnh Hà Nam để gặp gỡ một phen.

Đoàn Dự vốn thích đánh cờ thấy bốn hàng chữ đó, tinh thần phấn

chấn vui vẻ nói:

- Thế thì hay lắm, nếu vãn sinh không có chuyện tục vụ gì vướng

bận, thể nào cũng đến. Thế nhưng xin hỏi tại sao hai vị lại biết vãn sinh

thích đánh cờ?

Hai hán tử lộ vẻ vui mừng, mồm ú ớ, giơ tay múa chân, hóa ra hai

người đó bị câm. Đoàn Dự không hiểu hai người đó chỉ trỏ ra hiệu những

gì, mỉm cười hỏi Chu Đan Thần:

- Núi Lôi Cổ có xa lắm không?

Nói xong chàng giao tờ thiếp lại cho ông ta. Chu Đan Thần cầm lấy

xem qua, trước hết vòng tay hành lễ với hai người kia nói:

- Trấn Nam Vương thế tử Đoàn công tử nước Đại Lý, xin gửi lời

chào đến Thông Biện tiên sinh, trước hết tạ ơn bao giờ đến kỳ sẽ đến bái

phỏng.

Ông ta chỉ vào Đoàn Dự, chỉ trỏ mấy cái biểu thị sẽ đến phó hội. Hai

hán từ khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, sau đó lại lấy ra một tờ thiếp nữa

đưa cho Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh cầm lấy xem qua, cung

kính trả lại xua tay nói:

- Người tạm lãnh chức Phân Đà Chủ Đại Trí phân đà của Cái Bang

là Toàn Quan Thanh, xin kính chào Thông Biện tiên sinh núi Lôi Cổ,

Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chẳng bõ làm trò cười, không dám phó hội,

xin Thông Biện tiên sinh tha lỗi cho.

Hai hán tử khom lưng hành lễ, sau đó quay qua chào Đoàn Dự,

chuyển thân đi ra. Chu Đan Thần lúc đó mới trả lời Đoàn Dự:

- Lôi Cổ Sơn ở phía nam Tung Huyện, đông bắc Khuất Nguyên

Cương, đến đó cũng không xa lắm.

Đoàn Dự từ biệt Toàn Quan Thanh rồi, ra khỏi thung lũng lúc đó mới

hỏi Chu Đan Thần:

- Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người thế nào? Là quốc thủ về

đánh cờ ở Trung Nguyên hay sao?

Chu Đan Thần đáp:

- Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh7.

Đoàn Dự ồ lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh chàng ở Đại Lý đã

từng nghe bá phụ và phụ thân nhắc tới, biết đó là một cao thủ kỳ túc của

võ lâm Trung Nguyên, vừa điếc vừa câm nhưng nghe nói võ công lại rất

cao cường, khi đề cập đến ông ta giọng của bác chàng xem chừng kính

trọng. Chu Đan Thần lại tiếp:

- Lung Á tiên sinh tuy tàn tật nhưng nhất định tự xưng mình là Thông

Biện tiên sinh, cho rằng mình tâm thông, bút biện còn hơn xa người

thường nhĩ thông, thiệt biện.8

Đoàn Dự gật đầu nói:

- Kể cũng có lý.

Chàng đi thêm mấy bước bỗng cất tiếng thở dài. Đoàn Dự nghe Chu

Đan Thần nói Lung Á tiên sinh tâm thông, bút biện hơn cả người thường

nhĩ thông, thiệt biện không khỏi chạnh lòng nhớ tới Vương Ngữ Yên

đánh võ miệng còn giỏi hơn người ta đánh võ tay chân binh khí.

Chàng ở thành Vô Tích cùng A Châu cứu được bọn người Cái Bang

rồi, chẳng bao lâu Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai người đến tụ hội với

Vương Ngữ Yên. Năm người đó muốn lên miền bắc đi kiếm Mộ Dung

công tử, Đoàn Dự dĩ nhiên cũng muốn đi theo, Phong Ba Ác nhớ ơn

chàng đã dùng mồm hút nọc độc con bò cạp nên rất hoan nghênh, có điều

Bao Bất Đồng ăn nói cực kỳ sỗ sàng, trách cứ Đoàn Dự giả trang làm Mộ

Dung công tử làm bại hoại tiếng tăm y đi. Đến sau y tỏ ý ngươi không

cút đi, ta sẽ đập cho một trận, trong khi Vương Ngữ Yên chỉ lo bàn với

Phong Ba Ác cách nào kiếm được biểu ca, coi tình cảnh quẫn bách của

Đoàn Dự như không biết đến.

Đoàn Dự chẳng còn biết sao hơn đành phải chia tay cùng Vương Ngữ

Yên nhưng cũng đi lên miền bắc nghĩ bụng: Các ngươi muốn đi Hà Nam

tìm Mộ Dung Phục, ta cũng đang định đi Hà Nam. Hà Nam là đất trung

châu chứ có phải của riêng nhà Mộ Dung các ngươi đâu, Mộ Dung Phục

và Bao Bất Đồng đến được, chẳng lẽ Đoàn Dự không đến được? Nếu như

trên đường chạm trán họ thì cũng là ý trời, Bao tam tiên sinh kia làm sao

trách mình được?.

Thế nhưng trời già nào có cho Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên giải cấu

tương phùng, suốt thời gian đó, Đoàn Dự ở Hà Nam lang thang đi khắp

mọi nơi, tiếng là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực ra đến đâu mắt cũng dáo

dác, chỉ mong sao được nhìn thấy mớ tóc dài óng ả, một chéo áo của

Vương Ngữ Yên, còn núi non sông nước chàng nào có để mắt đến.

Một hôm, Đoàn Dự đang ở chùa Bạch Mã thành Lạc Dương đàm luận

với phương trượng về kinh A Hàm, nghiên thảo việc đức Phật giảng về

truyện chuyển luân thánh vương có bảy bảo vật. Đoàn Dự nghe nói

bảo vật ngọc nữ không dài không vắn, không trắng không đen, mùa đông

thân thể ấm áp, mùa hạ thân thể mát mẻ cực kỳ hứng thú nhưng phương

trượng lắc đầu quầy quậy nói:

- Đoàn cư sĩ, đó chẳng qua là thí dụ của nhà Phật đấy thôi, huống chi

Phật dạy thất bảo cũng đều là vô thường...

Vừa nói tới đây, bỗng có ba người vào chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ

Đốc Thành và Chu Đan Thần. Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần rời nhà

họ Mã ở phủ Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, mới đi tìm chỗ dưỡng

thương, nghĩ đến việc Tiêu Phong bị Cái Bang đổ tiếng oan giết Mã Đại

Nguyên không thể không biện bạch giùm cho ông ta nên mới viết một

phong thư, sai bọn Phó Tư Qui ba người đem tới đưa cho Cái Bang.

Bọn Phó Tư Qui đến Lạc Dương tìm tổng đà Cái Bang, không gặp

nhân vật thủ lãnh nào, lại nghe phân đà Đại Trí tụ hội gần bên nên dự

định đem thư đến. Ngờ đâu khi ở tại tửu lâu họ nghe lỏm người ta kể

chuyện một chàng thư sinh gàn dở, hình dáng có phần tương tự như Đoàn

Dự nên mới hỏi xem công tử đó nơi đâu rồi tìm đến Bạch Mã tự.

Bốn người gặp nhau hết sức mừng rỡ. Đoàn Dự nói:

- Để ta theo các vị đi đưa thư, rồi chư vị đưa ta đến bái kiến phụ

vương.

Chàng nghe nói cha mình cũng đang ở Hà Nam nên càng nóng lòng

muốn gặp, nhưng bao lâu nay không nghe tin tức gì về Vương Ngữ Yên

ngày đêm nhung nhớ, chỉ mong nơi Đại Trí phân đà có các nhân vật

giang hồ, may ra thấy được ngọc dung tiên nhan của người đẹp nhưng hỡi

ôi tất cả đều chỉ là một chữ không.

Chu Đan Thần thấy chàng thở vắn than dài, lại tưởng chàng mong

nhớ Mộc Uyển Thanh, việc này không thể nào khuyên giải gì được, nghĩ

bụng cách tốt nhất là làm cho chàng phân tâm qua chuyện khác nên nói:

- Vị Thông Biện tiên sinh này phát thiếp rộng rãi mời thiên hạ đến

đánh cờ, kỳ lực ắt phải cao lắm. Công tử gia sau khi bái kiến Trấn Nam

Vương rồi, cũng nên đến gặp Thông Biện tiên sinh đánh vài ván xem

sao!

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Đúng đó! Cuộc đen trắng cũng là cách tiêu khiển khiến cho con

người bớt ưu phiền. Có điều tuy nàng tinh thông các môn phái võ công

thiên hạ, bụng chứa binh giáp, muôn nhà muôn vẻ nhưng lại không biết

đánh cờ. Buổi hội ngộ đấu cờ của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không

tới đâu!

Chu Đan Thần ngơ ngẩn hoang mang, không biết chàng đang nói đến

ai, trên đường đi thấy công tử hồn vía đâu đâu, câu trước đầu Ngô, câu

sau mình Sở nghe cũng đã nhiều nên không tiện gặng hỏi.

Cả đoàn người rong ruổi chạy về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên

lưng ngựa, lúc thì nhíu tít lông mày, lúc lại cười mủm mỉm, lẩm bẩm một

mình:

- Kinh Phật có dạy rằng: Khi nghĩ đến mỹ nữ thì hãy nhớ thân thể ai

thì cũng chỉ là máu mủ, một trăm năm sau thì cũng thành một bộ xương

trắng mà thôi. Lời nhà Phật tuy không sai nhưng người như nàng dù có

một trăm năm nữa hóa thành bạch cốt, thì mớ xương đó cũng đẹp hơn

những bộ xương người thường.

Chàng còn đang mơ màng nghĩ đến bộ xương trong người Vương Ngữ

Yên ra thế nào, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chân dồn dập, hai con

ngựa ở đâu chạy tới, trên yên mỗi con nằm phục một người, trong lúc trời

tối không nhìn rõ là hạng người nào.

Hai con ngựa đó dường nhưng không ai cầm cương, chạy xông đến

bọn Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành hai người chia ra mỗi người

giữ một con lại, thấy người nằm trên đó không còn cử động gì nữa. Phó

Tư Qui hơi kinh hãi, lại gần xem cho kỹ hóa ra chính là hai sứ giả của

Lung Á tiên sinh, trên mặt nở một nụ cười kỳ bí, đều đã chết cả rồi. Hai

người này vừa mới đây đưa thiếp mời Đoàn Dự còn khỏe như vâm, sao

chỉ quay đi quay lại đã lăn ra chết là sao? Họ đều là sứ giả của Lung Á

tiên sinh, sao nét mặt lại kỳ lạ như thế? Phó Tư Qui vừa thoạt nhìn biết

ngay hai người bị trúng chất cực độc vội kéo cương ngựa lùi lại hai bước

không dám đứng gần hai cái tử thi.

Đoàn Dự giận dữ nói:

- Gã họ Toàn của Cái Bang độc ác thật, tại sao lạ hạ thủ những

người này? Ta phải hỏi cho ra lẽ.

Chàng trở đầu ngựa, toan quay lại tra vấn Toàn Quan Thanh. Phía

trước trong bóng tối có người lên tiếng hỏi:

- Tên tiểu tử kia chẳng biết trời cao đất dày là gì, khắp thiên hạ trừ

môn hạ Tinh Tú lão tiên ra thì có ai mà giết người một cách vô hình như

thế được? Lão già câm điếc rụt đầu rùa trốn một chỗ thì còn được chứ

nếu thò mặt ra thì Tinh Tú lão tiên không tha cho y đâu. Này, thằng bé

kia, chuyện không liên can gì đến ngươi, mau cút đi nơi khác.

Chu Đan Thần ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:

- Công tử, đây là người của phái Tinh Tú, mình không nên dây dưa

với họ, đi thôi!

Đoàn Dự kiếm không thấy Vương Ngữ Yên nên đang rảnh rỗi, hai sứ

giả của Lung Á lão nhân gặp chuyện nguy hiểm, chàng thể nào cũng

xông lên cứu viện, nhưng lúc này lại chết rồi, nên cũng không muốn rắc

rối, thở dài một tiếng nói:

- Nếu chỉ mới miệng câm tai điếc thì cũng chưa đủ, còn phải thêm

mắt mù, mũi không ngửi thấy mùi hương, trong lòng không còn ý niệm gì

thì mới mong giải thoát khỏi phiền não.

Chàng nói đây là nói về nếu gặp lại Vương Ngữ Yên, giọng nói hình

dáng, nhất cử nhất động của nàng đã ăn sâu vào tâm khảm mình rồi, dẫu

có vừa câm vừa điếc thì nỗi nhớ mong cũng đâu có vì thế mà dứt được.

Ngờ đâu người phía bên kia nghe chàng nói thế lại cười hềnh hệch, vỗ

tay nói:

- Đúng đó! Đúng đó! Ngươi nói thật có lý, phải chọc mù mắt y đi, cắt

mũi y đi, rồi đánh cho y đến khi nào phải đổi ý mới xong.

Đoàn Dự thở dài:

- Ngoại lực dù có ép thế nào chăng nữa thì cũng chẳng đến đâu. Phải

chính bản thân mình tu hành sao cho tâm không bám vào những gì nhìn

thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy mà phải đạt tới chỗ vô trụ xứ

9 có thế mới rời xa được hình tướng, trở thành bồ tát. Chúng ta là kẻ

phàm phu tục tử, làm sao tu đến mức đó được? Ghét nhau mà phải ở gần

nhau, yêu nhau mà phải xa nhau, muốn mà không được10 năm nhóm11 đó

thiêu đốt con người cho nên sống trên đời mới đầy đau khổ.

Du Thản Chi nằm trong đám cỏ phía sau tảng đá thấy bọn Đoàn Dự đi

rồi quay trở lại, sau đó phía trước có tiếng người quát tháo, vừa lúc đó hai

tên đệ tử Cái Bang chạy đến, nói nhỏ với Toàn Quan Thanh:

- Toàn đà chủ, hai gã câm kia không hiểu sao bị người ta giết rồi, kẻ

hạ thủ tự xưng là thủ hạ của cái gì Tinh Tú lão tiên phái Tinh Tú.

Toàn Quan Thanh kinh hãi, mặt liền biến sắc. Y đã từng nghe tiếng

Tinh Tú Lão Quái ở biển Tinh Tú chuyên sử chất độc cực mạnh, võ công

cũng thật cao cường nghĩ thầm: Bọn họ giết sứ giả của Lung Á lão nhân,

chuyện này không liên can gì đến mình, chẳng nên gây chuyện với họ

làm gì. Y liền nói:

- Ta biết rồi, bọn chúng hai đằng quỉ đánh với ma, mình chẳng dây

vào.

Đột nhiên trước mặt có tiếng người nói:

- Bọn chúng bay ăn nói láo lếu, đã biết ta là môn hạ của Tinh Tú lão

tiên, sao dám chửi ta là ma là quỉ? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Toàn Quan Thanh kinh hãi, giật mình lùi lại một bước, dưới ánh lửa

thấy một người đứng sừng sững trước mặt, chính là một tên bang chúng

thủ hạ. Y chăm chú quan sát kỹ, gã đó trông cười mà chẳng ra cười, hình

dạng thật kỳ bí, dường như sau lưng y còn có ai nữa thì phải, bèn quát

lên:

- Các hạ là ai, giả ma giả quỉ dọa người để làm gì thế?

Người nấp ở sau gã đệ tử Cái Bang giọng lạnh như tiền nói:

- Quả là to gan! Ngươi lại nói thêm một chữ quỉ. Lão tử là môn hạ

Tinh Tú lão tiên, Tinh Tú lão tiên giá lâm Trung Nguyên, đang cần ngay

hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Các ngươi trong Cái Bang

xưa nay lúc nào cũng sẵn độc trùng, độc xà, mau mau dâng lên coi. Tinh

Tú lão tiên thấy các ngươi ngoan ngoãn dễ bảo may ra tha cho bọn ăn

mày khốn khó. Còn nếu không, hà hà, tất cả cũng như tên này thôi.

Nghe bình một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đột nhiên bay tung lên, rơi

bịch xuống cạnh đống lửa, không còn động đậy gì nữa, hóa ra chết từ bao

giờ. Gã đệ tử đó vừa văng đi, để lộ ra một gã thấp bé mặc áo vải, không

biết y đã lẻn tới từ lúc nào mà lại giết được một đệ tử Cái Bang rồi náu ở

đằng sau như thế.

Toàn Quan Thanh vừa kinh hãi vừa tức giận, trong giây lát trong đầu

xoay chuyển bao nhiêu ý nghĩ: Tinh Tú Lão Quái đổ lên đầu Cái Bang,

việc trước mắt nếu không khuất phục thì đến phải một mất một còn. Việc

này tuy hung hiểm thật nhưng nếu y chỉ mới dọa một câu, ta đã đem rắn

độc trùng độc dâng lên thì anh em trong bang từ nay còn coi ta vào đâu

nữa. Ta dĩ nhiên không còn dám tơ tưởng cái chức bang chủ mà cũng

chẳng còn mặt mũi nào ở trong bang. Cũng may Tinh Tú Lão Quái chưa

đích thân đến đây, chỉ mới có một mình gã này, không có gì phải sợ cả.

Y nghĩ thế nên cười khì khì nói:

- Thì ra đây là nhân huynh của phái Tinh Tú, cao tính đại danh các

hạ là chi?

Gã lùn đáp:

- Pháp danh ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau dự bị cho đủ độc

trùng độc xà đi thôi.

Toàn Quan Thanh cười đáp:

- Các hạ nếu cần độc trùng độc xà thì cũng chỉ là chuyện cỏn con, có

gì mà phải lo lắng?

Y tiện tay cầm một chiếc túi vải ở dưới đất lên nói:

- Trong đây có mấy con rắn, xin các hạ xem thử xem Tinh Tú lão

tiên dùng có được không?

Gã lùn Thiên Lang Tử kia thấy Toàn Quan Thanh mở miệng một điều

Tinh Tú lão tiên hai điều Tinh Tú lão tiên, trong lòng cực sung

sướng, thấy y thần thái cung thuận, nghĩ thầm: Nghe nói gì Cái Bang là

bang lớn số một của Trung Nguyên, vừa nghe tên của sư phụ lão nhân gia

đã sợ đến mất vía. Ta đem mấy con rắn độc trùng độc về, chắc sư phụ

hoan hỉ lắm, sẽ khen ta chu đáo, được việc. Nói gì thì nói, cũng là nhờ uy

danh của sư phụ lão nhân gia.

Nghĩ thế y bèn thò đầu vào túi vải để xem. Đột nhiên mắt tối sầm,

cái túi đó đã chụp lên đầu y, Thiên Lang Tử kinh hãi, vội vàng múa

chưởng đánh ra nhưng không trúng vào đâu cả. Vừa khi đó, trên mặt, trên

trán, sau ót đều đau nhói lên, đã bị độc vật trong túi cắn trúng rồi. Thiên

Lang Tử không kịp bỏ chiếc túi trên đầu xuống, vội đánh ra hai chưởng

nữa rồi bỏ chạy thục mạng. Y trên đầu vẫn còn chiếc túi nên không thấy

đường, tay đánh loạn xạ, chỉ thấy khắp đầu, khắp mặt chỗ nào cũng bị

cắn, càng hoảng hốt thêm cứ tiếp tục chạy cho nhanh, ngờ đâu bước hụt

một cái, lục tục từ trên triền núi lăn xuống, rơi tõm ngay vào khe suối

dưới thung lũng, theo dòng trôi đi.

Toàn Quan Thanh vốn dĩ định giết y bịt miệng, ngờ đâu y lại chạy

mất, tuy y đã bị bò cạp cắn trúng rồi, lại rơi xuống suối, tính mạng khó

bảo toàn, nhưng phái Tinh Tú vốn giỏi sử dụng độc vật, rất có thể y có

cách giải độc, còn ở vùng biển Tinh Tú thì chắc biết bơi. Nếu như gã này

không chết, phái Tinh Tú hay được, thể nào cũng tới báo thù.

Y trầm ngâm giây lát rồi nói:

- Chúng ta bố trí Cự Mãng Trận, hơn thua với phái Tinh Tú một

phen. Không lẽ Kiều Phong đi khỏi, Cái Bang chúng ta không còn đứng

vững được nữa, ai sai bảo gì cũng được hay sao? Phái Tinh Tú biết sử

dụng chất độc, mình không nên dùng quyền cước binh khí mà cũng phải

dĩ độc công độc.

Người của Cái Bang nhao nhao khen phải, lập tức giàn ra bốn bề, bố

trí trận thế cách đống lửa mấy trượng, người người ngồi xuống xếp bằng.

Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng túi vải đuổi được Thiên

Lang Tử chạy mất nghĩ thầm: Thì ra trong cái túi của y có độc vật, bọn

họ có nhiều túi vải như thế, túi nào cũng toàn là rắn độc trùng độc hay

sao? Bọn ăn mày giỏi nghề bắt trùng bắt rắn không có gì lạ. Nếu mình ăn

cắp được vài cái túi đem về cho A Tử cô nương chắc cô ta vui mừng

lắm.

Y thấy người của Cái Bang ngồi xuống rồi không ai nói năng một lời,

người nào bên cạnh cũng để mấy cái túi, có cái thì thật lớn, bên trong có

gì cục cựa, Du Thản Chi nhìn mà lạnh người. Lúc này bốn bề hoàn toàn

yên tĩnh, nếu như y bò ra thể nào cũng bị người của Cái Bang phát giác,

nghĩ thầm: Nếu bọn họ chụp chiếc túi lên đầu mình, mình có cái lồng

sắt không việc gì phải sợ, thế nhưng nếu chúng bắt mình bỏ luôn vào bao

chung với rắn rết thì mới thực là hỡi ôi!.

Mấy giờ sau đó vẫn không thấy động tĩnh gì, lại thêm một hồi nữa,

trời bắt đầu tờ mờ sáng rồi mặt trời nhô lên, chiếu khắp núi đồi. Trên đầu

cành chim hót líu lo, bỗng nghe Toàn Quan Thanh kêu khẽ:

- Đến rồi! Tất cả anh em đề phòng!

Y ngồi xếp bằng trên một phiến đá bên ngoài xà trận, bên cạnh cũng

để mấy cái túi, tay cầm thiết địch. Chỉ nghe phía tây bắc văng vẳng tiếng

đàn tiếng sáo, một đoàn người chậm rãi đi lên, trong tiếng nhạc có lẫn cả

chiêng trống, nghe rất là réo rắt. Du Thản Chi tự hỏi: Có đám cưới

chăng?.

Tiếng nhạc càng lúc càng gần, đến cách xa chừng mươi trượng thì

ngừng lại, có tiếng mấy người cùng cất lên:

- Tinh Tú lão tiên pháp giá Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau

tiến lên quì xuống nghênh tiếp.

Câu nói vừa dứt, lập tức trống đánh tùng tùng tùng. Ba hồi trống vừa

dứt, thanh la đánh choang một cái, tiếng trống liền ngưng bặt, mấy chục

người cùng cao giọng:

- Cung thỉnh Tinh Tú lão tiên hoằng thi đại pháp, hàng phục bọn tiểu

xú Cái Bang.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nghe như đạo sĩ làm phép trừ tà bắt ma. Y

len lén từ sau tảng đá thò đầu ra nhìn, thấy nơi phía tây bắc có đến hơn

hai chục người xếp thành hàng ngang, kẻ thì cầm chiêng trống nhạc khí,

kẻ thì cầm phướn cầm cờ, cái xanh cái đỏ trông thật đẹp đẽ, xa xa thấy

thấp thoáng trên những lá cờ đó có thêu: Tinh Tú lão tiên, thần thông

quảng đại, pháp lực vô biên, uy chấn thiên hạ... nhiều câu khác

nhau. Trong tiếng tơ tiếng sáo dặt dìu, một ông lão chậm rãi bước ra,

những người đứng sau lưng lập tức chia thành hai hàng, lẽo đẽo đi theo

cách xa ông ta chừng vài trượng.

Ông lão đó tay cầm một chiếc quạt bằng lông ngỗng, ánh mặt trời

chiếu vào, thấy mặt mũi hồng hào, tóc trắng như bông, dưới cằm là ba

chòm râu trắng như cước, đồng nhan hạc phát, thật chẳng khác gì người

trong truyện thần tiên.

Ông lão đó đi đến còn cách bọn ăn mày chừng ba trượng thì ngừng

lại, đột nhiên chúm môi thổi mấy cái, phát ra tiếng thật chói tai, giơ quạt

phất một cái đẩy tiếng sáo tới (?), bốn tên bang chúng Cái Bang ngồi

dưới đất lập tức ngã ngửa ra.

Du Thản Chi kinh hãi: Tinh Tú lão tiên này pháp thuật quả nhiên

quảng đại thật. Ông lão nở một nụ cười, thổi toe một tiếng, quạt phẩy ra,

lại có một người ngã, xem chừng tiếng thổi là một loại ám khí vô hình

cực kỳ lợi hại, chỉ trong phút chốc trong Cái Bang đã có sáu bảy người

lăn quay ra. Lập tức đằng sau ông lão, tiếng người ca tụng rộn lên:

- Công lực sư phụ chói lọi cổ kim! Bọn ăn mày kia dám đối đầu với

mình, thật đúng là đom đóm lập lòe đua tranh cùng vầng nhật nguyệt.

- Châu chấu đá xe quả không biết lượng sức mình, thật tức cười quá

đỗi!

- Sư phụ chỉ nói nói cười cười mà đưa cả bọn yêu ma tiểu xú Cái

Bang vào chỗ chết, thật dễ như bẻ củi mục mà được toàn thắng, đồ nhi

thật chưa từng thấy, đến nghe cũng chưa nghe tới bao giờ.

- Đây là công nghiệp vĩ đại trên đời chưa từng có, nếu sư phụ lão

nhân gia không lộ một chút thân thủ thì bọn võ học Trung Nguyên nào có

biết trên đời lại có công phu ghê gớm đến mức này.

Trong khi cả bọn ca công tụng đức, nghe chối cả tai thì tiếng ti trúc

quản huyền vẫn tấu lên thật là réo rắt. Đột nhiên có mấy tiếng tu tu,

Toàn Quan Thanh đã đưa sáo sắt lên môi thổi mấy tiếng. Du Thản Chi

nghĩ thầm: Y thổi sáo làm gì thế? Để nghênh đón Tinh Tú lão tiên

chăng?.

Bỗng nghe dưới đất có tiếng sột soạt, từ trong những chiếc túi vải

mấy con rắn lớn vằn vện ngũ sắc bò thẳng tới chỗ ông lão. Những đệ tử

chung quanh ông lão kinh hoảng kêu lên:

- Rắn kìa! Có rắn độc!

- Chao ôi! Không xong, sao lắm rắn độc thế này.

- Sư phụ ôi, những con rắn độc này lại xông tới mình là sao?

Chỉ thấy tất cả những cái túi của bọn ăn mày đâu đâu cũng có rắn bò

ra, con lớn con bé đủ cả, phùng mang lè lưỡi, xông tới chỗ ông lão và bọn

đệ tử. Bọn chúng đứa nào đứa nấy quýnh quáng kêu la ỏm tỏi.

Đệ tử phái Tinh Tú liền cầm cương trượng lên, đập túi bụi những con

rắn đang lúc nhúc bò tới, chỉ riêng ông lão thần sắc vẫn bình thường, lại

chúm môi huýt một tiếng, vẫy quạt đánh ra. Toàn Quan Thanh cũng thổi

địch liên tiếp, người trong Cái Bang cũng hò hét trợ uy.

Đàn rắn càng lúc càng đông, chỉ trong phút chốc chung quanh phải

đến hàng trăm con, trong đó có dăm con trăn lớn. Mấy con mãng xà bò

tới gần, dùng đuôi cuốn được hai người, tiếp theo lại quấn chết thêm hai

người nữa. Nếu đệ tử phái Tinh Tú bỏ chạy, những con rắn chắc không

theo kịp, thế nhưng sư tôn còn đang nghinh địch, quần đệ tử nào ai dám

bỏ đi một bước, chỉ đành múa binh khí, đâm chém loạn cả lên, khiến rắn

độc bị chúng giết chết cũng phải đến tám chín chục con, còn người bị rắn

cắn cũng đến bảy tám người.

Những con trăn lớn kia càng lợi hại hơn nữa, da thô thịt dày, gậy đập

vào không thấm đâu, quấn được ai rồi càng lúc càng xiết chặt, nhất định

không buông. Theo tiếng sáo, từ trong túi bò ra mỗi lúc một nhiều, tổng

cộng phải đến hai mươi bảy, hai mươi tám con cự mãng.

Ông lão thấy tình thế không ổn, toan tấn công Toàn Quan Thanh để

rút lui, thì có hai con rắn nhỏ phóng tới cắn vào mặt ông ta. Ông lão quát

lên:

- Gớm nhỉ!

Quạt trong tay phất lên, kình phong đổ ra, đánh bạt hai con rắn

xuống, bỗng thấy một vật gì mềm nhũn cuốn lấy gót chân, biết là không

xong, phi thân vọt lên, bỗng nghe tiếng địch vi vu, bốn con trăn cùng

vung đuôi lên, quật vào người ông ta. Ông lão đang ở trên không, bình

bình đánh ra hai chưởng, đánh bật hai con trăn phía trước và phía trái,

người lắc một cái đã vọt ra ngoài hai trượng. Ngay lúc đó con rắn thứ ba

và thứ tư cùng dùng đuôi tấn công tới. Trong cơn nguy cấp, ông lão vận

kình đánh ra, chưởng phong đánh nát đầu một con trăn lớn.

Thế nhưng bầy rắn vẫn xông vào, ông lão tuy đánh chết được ba con

cự mãng nhưng hông và đùi bên phải đã bị hai con trăn quấn được. Ông

ta vận nội lực lên, quát lớn một tiếng, giơ ngón tay chộp vào bụng con

trăn đang quấn ngang lưng khiến cho máu me tung tóe đầy người. Ngờ

đâu trăn là giống rất dai, tuy bụng đã bị vỡ nhưng không chết ngay, bị

đau liền xiết người lại, tưởng chừng quấn nát người ông lão. Ông ta dùng

sức dãy hai lần, kế đó lại có hai con mãng xà xông tới, quấn thêm mấy

vòng nữa trên người ông ta, đến cánh tay cũng cuốn luôn vào, khiến cho

không còn cách nào kháng cự. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ chứng

kiến trận đấu kinh tâm động phách, tưởng chừng thở không ra hơi.

Toàn Quan Thanh trong bụng mừng lắm, thấy bên địch ai nấy bị trăn

quấn cả rồi, chỉ còn rên rỉ, chửi rủa, không còn cách gì kháng cự nữa nên

không tiếp tục thổi sáo, tiến lên cười khì khì hỏi:

- Tinh Tú Lão Quái, phái Tinh Tú ngươi và Cái Bang ta trước nay

đường ai nấy đi, nước sông không phạm nước giếng, sao lại đến gây sự

với bọn ta là sao? Bây giờ còn gì để nói nữa không?

Ông lão đồng nhan hạc phát kia chính là người mà võ lâm nhân sĩ

Trung Nguyên ghét cay ghét đắng Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Vì

một trong tam bảo của phái Tinh Tú là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử

A Tử ăn cắp mất, liên tiếp phái các đệ tử ra đuổi bắt, thậm chí cả đại đệ

tử Trích Tinh Tử cũng sai đi nhưng lần nào bồ câu đem thư về cũng thấy

tình thế thật là bất lợi. Về sau ông ta nghe nói A Tử dựa vào thế anh rể là

Kiều Phong của Cái Bang, đánh bại Trích Tinh Tử, Đinh Xuân Thu vừa

tức tối vừa kinh hoàng, biết Cái Bang là bang hội lớn nhất trong võ lâm

Trung Nguyên không dễ gì đối phó, lại nghe Lung Á lão nhân tái xuất

đầu lộ diện cũng đang hoành hành trong võ lâm vài năm qua, mối lo

trong gan ruột kia chưa trừ được thì không yên tâm, một khi đoạt lại được

vương đỉnh rồi phải thừa cơ thanh toán cho xong chuyện cũ, thành thử

đem hết đệ tử đích thân đi vào Trung Nguyên.12

Môn Hóa Công Đại Pháp y luyện thường phải dùng các loại chất độc

của rắn rết bôi lên lòng bàn tay, hút vào trong người, nếu bảy ngày không

có thì không những công lực giảm thiểu mà chất độc tích tụ trong cơ thể

mấy chục năm qua không có chất mới khắc chế có thể dần dần phát tác,

họa hại ghê gớm khó mà hình dung.

Chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh trời sinh có một mùi kỳ lạ, lại thêm

hương liệu đốt ở trong đỉnh, chỉ trong giây lát là có thể dẫn dụ độc vật

đến, trong vòng mười dặm chung quanh khó có con vật nào gượng lại nổi

sức thu hút của nó. Đinh Xuân Thu có chiếc kỳ đỉnh đó trong tay nên bắt

trùng độc chẳng khó khăn gì, thành thử Hóa Công Đại Pháp càng luyện

càng cao thâm, càng luyện càng tinh tiến. Năm xưa Đinh Xuân Thu có

một tên đệ tử đắc ý được y đích thân truyền dạy Hóa Công Đại Pháp, đã

có chút thành tựu, ngờ đâu về sau ỷ mình có tài, không còn cung thuận

như trước. Đinh Xuân Thu chế ngự được y rồi, không cần phải dùng đến

đao trượng xử tội, chỉ nhốt y vào một gian thạch thất, khiến y không cách

nào bắt được các loại trùng độc tu luyện thêm, kết quả độc tố trong người

phát tác, nhịn không nổi tự mình cấu từng miếng thịt, rên rỉ mãi, bốn chục

ngày sau mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý nhưng cũng thêm phần

cẩn thận, môn Hóa Công Đại Pháp từ đó không truyền cho người nào

nữa. Thành thử bọn Trích Tinh Tử không một ai biết, A Tử muốn luyện

môn thần công này đành phải học lén, ăn cắp bảo đỉnh trốn đi.

A Tử tính toán thật kỹ, ngay hôm sư phụ mới bắt được độc vật luyện

công liền trốn về phương đông, đến khi Tinh Tú Lão Quái phát giác ra

Thần Mộc Vương Đỉnh bị ăn trộm thì đã bảy ngày, A Tử đi đã xa lắm rồi.

Nàng đi toàn theo đường nhỏ, các sư huynh truy nã tuy võ công cao hơn

cô ta nhiều nhưng mưu kế lại kém xa, bị A Tử liên tiếp dùng ngụy kế hư

trương thanh thế, thanh đông kích tây nên đều trốn thoát được.

Vùng Tinh Tú Lão Quái ở là một thâm cốc rậm rạp tối tăm, độc xà

độc trùng không hiếm gì, tuy mất Thần Mộc Vương Đỉnh nhưng muốn đi

bắt rắn để thêm chất độc cũng chẳng khó khăn, nhưng chỉ bắt được những

loại tầm thường, còn những loại đặc biệt, hiếm quí quái lạ, kịch độc lợi

hại như trước thì chỉ còn nước cầu may.

Một chuyện khác cũng khiến ông ta lo lắng là nếu như võ lâm Trung

Nguyên biết được lai lịch chiếc đỉnh thì ai cũng có thể lập tức hủy ngay,

thành thử một ngày chưa lấy lại được thì thêm một ngày không an tâm.

Ông ta gặp lại bọn đệ tử ở Thiểm Tây, đại đệ tử Trích Tinh Tử tuy

không chết nhưng võ công mất hết13 bị bọn đệ tử kia trên đường lăng

nhục chửi bới không còn ra người nữa, còn nhị đệ tử là gã mũi lân Sư

Hống Tử tạm thời lên thay đại sư huynh.

Bọn đệ tử thấy đích thân sư phụ ra tay, ai nấy vừa kinh hoàng vừa sợ

hãi, biết rằng sư mệnh không hoàn thành, tội vạ kỳ này chắc là phải ghê

gớm khó mà chịu nổi. Cũng may Tinh Tú Lão Quái đang cần người nên

tạm thời gác việc trách phạt sang một bên để mọi người có cơ đái tội lập

công.

Đoàn người vừa đi vừa thăm dò tin tức của Cái Bang nhưng một là

bọn họ hình tướng kỳ dị, ngôn ngữ khiến cho người ta ghét bỏ nên chẳng

ai tiết lộ cho họ chuyện gì, thứ nữa Tiêu Phong đã sang nước Liêu làm

Nam Viện Đại Vương, trong võ lâm chẳng mấy ai hay, thành thử dò hỏi

mãi mà không ra đến cả tổng đà Cái Bang dọn đi đâu cũng không biết.

Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe được phân đà Đại Trí tụ hội,

muốn tâng công liền một thân một mình xông vào nên bị Toàn Quan

Thanh ám toán. Thế nhưng người y vốn đầy chất độc nên nọc bò cạp

không giết nổi, thoát chết rồi liền cấp báo sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức

đi tới, ngờ đâu một thân đầy chất độc và võ công thâm hậu như thế nhưng

bị trăn quấn cũng không sao thoát ra được.

Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, chỉ khinh

khỉnh hỏi:

- Trong Cái Bang chúng bay có một gã tên Kiều Phong, bây giờ ở

đâu? Mau gọi y ra gặp ta.

Toàn Quan Thanh trong lòng chợt động, hỏi lại:

- Các hạ muốn gặp Kiều Phong là để làm gì?

Đinh Xuân Thu ngạo mạn hỏi lại:

- Tinh Tú lão tiên hỏi ngươi, sao ngươi không trả lời, lại còn hỏi tới

hỏi lui? Kiều Phong đâu?

Toàn Quan Thanh thấy y đã bị trăn quấn chặt không còn cách gì

kháng cự, vậy mà ăn nói vẫn còn phách lối, khả ố như thế quả trên đời

hiếm có, bèn nói:

- Tinh Tú Lão Quái ai ai cũng nghe nói tới, ngờ đâu chỉ có hư danh,

có mấy con rắn quèn mà đối phó không xong. Thôi đành xin lỗi, chúng ta

vì thiên hạ mà trừ mối hại cho người.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Lão phu không cẩn thận nên chẳng may bị mấy con súc sinh máu

lạnh này làm hại, hôm nay về chốn tây phương cực lạc, thôi cũng đành...

Y nói chưa dứt câu, một đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn đột

nhiên cất tiếng:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, xin ngài tha cho con có nhiều cái lợi

lắm. Sư phụ con rất nhiều ngụy kế, ngài đề phòng không nổi đâu. Ngài

chỉ sơ ý một chút là bị ông ta lật ngược ngay.

Toàn Quan Thanh cười khẩy hỏi:

- Thả ngươi ra thì có lợi những gì?

Gã kia đáp:

- Phái Tinh Tú có cả thảy ba món bảo vật, gọi là Tinh Tú tam bảo.

Chỉ có Tinh Tú Lão Quái và con là biết chỗ dấu ở đâu thôi. Ngài tha chết

cho con, sau khi giết Tinh Tú lão quái rồi, con sẽ lấy ra dâng lên. Nếu

như ngài giết con thì Tinh Tú tam bảo vĩnh viễn không có được.

Lại một tên đệ tử khác của phái Tinh Tú gào lên:

- Đại anh hùng ơi, đại anh hùng ơi, ngài đừng có mắc lừa tên đó.

Trong Tinh Tú tam bảo thì có một món bị người ta ăn cắp mất rồi. Ngài

tha con ra là hơn cả, chỉ có mình con đối với ngài trung thành không bao

giờ lừa dối mà thôi.

Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Tinh Tú liền nhao nhao lên:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, ngài tha mạng cho con là hay hơn hết,

bọn kia chẳng có đứa nào trung tâm chỉ có mình con một lòng một dạ, hết

lòng hết sức.

- Đại anh hùng ơi, công phu của môn phái Tinh Tú, chỉ có mình con

biết nhiều nhất, tất mọi thứ con sẽ nói hết cho ngài nghe, không dám dấu

diếm tí gì.

- Bản phái đến Trung Nguyên lần này là có mưu tính ghê gớm lắm,

chủ yếu là để đối phó với Cái Bang. Các vị đại anh hùng ơi, các ngài có

muốn biết rõ không?

- Chúng tôi chôn dấu rất nhiều bạc vàng châu báu ở biển Tinh Tú,

chỗ nào nơi nào nhà cháu cũng biết. Nhà cháu xin dẫn các ngài đến đào,

các vị anh hùng hảo hán Cái Bang từ nay khỏi phải đi ăn xin nữa.

Mấy người đó mồm năm miệng mười, người nào cũng nịnh nọt khoe

mình trung thành, kẻ thì lấy lợi ra dụ, người lại muốn gợi tính tò mò của

đối phương, có đứa thì lại công nhiên nói phét, một tấc lên đến trời. Cả

đến kẻ đã bị rắn độc cắn trúng, hoặc bị trăn cuốn thở không ra hơi cũng

sợ mình đi sau thiên hạ, phều phào van lạy xin tha.

Người trong Cái Bang đâu có ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại hèn mạt đến

thế, không khỏi khinh thị, lại thêm hiếu kỳ, lục tục đến gần nghe cho rõ.

Toàn Quan Thanh cười khẩy:

- Các ngươi đối với sư phụ còn chả trung thành, làm gì có chuyện hết

lòng với người ngoài chẳng có liên hệ gì? Nghe thật tức cười quá!

Một tên đệ tử phái Tinh Tú vội nói:

- Không thể so sánh thế được! Hoàn toàn không giống! Hoàn toàn

không giống! Tinh Tú Lão Quái bản lãnh thấp kém, chúng tôi có coi y ra

gì đâu? Trung thành với y để làm gì? Còn các anh hùng Cái Bang võ

công uy chấn thiên hạ, lại có đại pháp thuật khu xà chế địch14, Tinh Tú

Lão Quái làm sao bì kịp?

- Cái Bang nếu thu nạp đệ tử phái Tinh Tú thì võ lâm cả Trung

Nguyên lẫn Tây Vực đều chấn động, ai mà chẳng bội phục Cái Bang anh

hùng?

- Hai chữ anh hùng đâu đã đủ ca ngợi các vị cao nhân hiệp sĩ, mà

phải gọi là đại hiệp, thánh nhân, vị cứu tinh mới đúng.

- Ta nói giỏi làm hay, từ nay chu du bốn phương, đi đâu cũng tuyên

dương uy đức thì danh vọng các đại hiệp Cái Bang ai ai cũng biết.

- Gớm, danh đầu các đại hiệp Cái Bang thiên hạ ai mà chẳng biết,

cần đếch gì đến ngươi ca tụng?

- Mấy tiếng thánh nhân cứu tinh là do tiểu nhân nói trước tiên,

bọn kia chỉ theo đuôi, chẳng có công lao gì.

Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang cau mày nói:

- Bọn các ngươi hèn hạ tiểu nhân như thế, nói lèm bèm chỉ thêm bẩn

tai. Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi đốn mạt thế, thu nạp toàn bọn đệ tử vô

liêm sỉ là sao? Ta thanh toán ngươi trước, sau đó sẽ đưa luôn cả bọn này

theo ngươi, lão tử hôm nay đại khai sát giới.

Nói xong nghe bình một tiếng đánh thẳng vào Đinh Xuân Thu.

Chưởng đó hơi gió vù vù, kình đạo thật là cương mãnh, trúng ngay ngực

Đinh Xuân Thu. Ngờ đâu Đinh Xuân Thu dường như không sao cả, còn

gã Cái Bang kia hai gối nhũn đi, phục ngay xuống đất, co rúm lại, dãy

dụa mấy cái rồi không còn động đậy gì nữa. Quần cái kinh hãi, cùng kêu

lên:

- Sao thế này?

Lập tức có hai tên ăn mày đến đỡ y dậy, hai gã đó vừa chạm vào

người tên kia, cũng lại lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống. Ba tên đệ tử Cái

Bang đứng bên cạnh thuận tay đưa ra giữ lại, cũng chẳng khác gì hai tên

kia, cùng gục xuống. Người Cái Bang còn lại ai nấy kinh hãi đến thất

thần, không còn ai dám xông lên tiếp cứu đồng bọn.

Toàn Quan Thanh quát lên:

- Lão già đó trên người có chất độc, mọi người chớ có chạm vào y.

Ném ám khí!

Tám chín tên đệ tử bốn, năm túi liền móc ám khí ra, cương tiêu, phi

đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch cùng vèo vèo ném vào Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu quát lên một tiếng, lắc đầu một cái, tóc bạc trên đầu xổ

tung ra, thật chẳng khác gì một loại nhuyễn tiên ngắn, hất ngược tất cả

hơn chục món ám khí lại. Chỉ nghe ối ối liên tiếp, sáu bảy têm đệ tử Cái

Bang bị bắn trúng. Những ám khí đó không phải cái nào cũng trúng chỗ

yếu hại, có món chỉ trầy xước ngoài da nhưng mấy tên Cái Bang lập tức

ngã lăn ra chết.

Toàn Quan Thanh kêu lớn:

- Lui ra! Lui ra!

Đột nhiên vụt một cái, một mũi cương tiêu phóng thẳng ra, chính là

do Đinh Xuân Thu dùng tóc giữ lại bây giờ vận kình ném vào người y.

Toàn Quan Thanh vội vàng dùng thiết địch trong tay gạt ra, nghe keng

một tiếng, hất bắn mũi cương tiêu ra thật xa. Y thấy Tinh Tú Lão Quái

quả nhiên lợi hại, chi bằng thúc giục trăn quấn chết y cho xong, bèn đưa

ống tiêu lên môi toan thổi, bỗng thấy môi tê đi, đầu choáng váng, mắt

hoa lên, biết là không ổn, vội vàng ném thiết địch, bịch một tiếng ngã lăn

ra.

Người của Cái Bang kinh hãi lập tức có hai người đến đỡ y, Toàn

Quan Thanh mơ mơ hồ hồ kêu lên:

- Ta... ta trúng độc rồi, các... các ngươi... mau chạy... chạy đi.

Quần cái ai nấy mất hồn mất vía, vội dìu y chạy bay chạy biến, để lại

xác chết, túi vải, rắn rết vung vãi khắp nơi.

Du Thản Chi nằm phục trong đám cỏ, hết sức kinh hãi, không dám cử

động. Bốn bề tĩnh mịch, hơn chục tên ăn mày co rút thành một cục, chẳng

khác gì những con nhím gặp phải nguy cơ, hiển nhiên đều chết cả rồi.

Những con trăn không còn nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh

thúc giục nữa, không dám giết người, chỉ quấn chặt thầy trò Đinh Xuân

Thu. Người trong phái Tinh Tú không ai dám ngọ ngoạy, chỉ sợ khích

động hung tính của loài rắn, ngoặp cho một cái thì bỏ đời.

Yên lặng một hồi như thế, một tên trong bọn cất giọng nói trước:

- Sư phụ ôi, lão nhân gia thần công độc bộ thiên hạ, chỉ nói nói cười

cười ra tay một cái đã đánh cho bọn ăn mày ăn nhặt vạn ác bất xá kia

chạy cong đuôi...

Y nói chưa dứt câu đã có một tên khác cướp lời:

- Sư phụ đừng nghe y bợ đít, mới vừa đây chính nó gọi bọn ăn xin kia

là đại hiệp, thánh nhân chứ còn ai.

Lại có một đệ tử khác lên tiếng:

- Chúng ta theo sư phụ bao nhiêu năm nay, ai mà chẳng biết thầy

mình có tài thông thiên triệt địa? Vừa rồi chúng mình nói khuếch nói

khoác với bọn ăn mày, chẳng qua là để đánh lừa chúng, để khi chúng ỷ y

không đề phòng, sư phụ lúc ấy mới thi triển pháp lực vô biên.

Đột nhiên một người khóa òa lên:

- Sư phụ ôi! Sư phụ ôi! Đệ tử thật là đáng chết, đệ tử hồ đồ, tham

sống sợ chết, đầu hàng địch nhân, bây giờ hối hận còn làm sao kịp, đành

nguyện cho rắn độc cắn chết chứ không dám xin sư phụ nhiêu dung.

Cả đám bấy giờ mới vỡ lẽ ra, sư phụ ghét nhất là đổ tội cho người

khác, chỉ có cách tự xỉ vả mình hồ đồ đáng chết, đem bao nhiêu tội vạ

trút lên đầu mình may ra được sư phụ khai ân tha thứ. Chỉ trong phút

chốc, ai nấy đều tự chửi mình, nào là có lòng bất lương, nào là tội đáng

muôn thác. Riêng Du Thản Chi nằm trong bụi cỏ thấy hoa mắt nhức đầu,

chẳng hiểu ra sao.

Đinh Xuân Thu ám vận kình lực, định giựt đứt ba con trăn đang quấn

chặt lấy mình. Thế nhưng mãng xà có thể dãn ra co lại, Đinh Xuân Thu

vận sức, ba con rắn chỉ nhỉnh ra một chút, nhưng không đứt được. Người

lão ta chỗ nào cũng đầy chất độc, đến cả quần áo tóc tai cũng có nên bọn

đệ tử Cái Bang bắn ám khí vào lão ta đều bị nhiễm độc. Thế nhưng

những con trăn da dày, vảy trơn, độc tố khó mà xâm nhập. Chỉ nghe bọn

đệ tử lải nhải mãi không thôi, Đinh Xuân Thu bực quá quát lên:

- Đứa nào tìm cách đuổi được rắn đi thì ta tha chết cho đứa ấy.

Không lẽ chúng bay chưa biết tính ta nữa hay sao? Ai mà còn dùng được

thì ta chưa giết. Còn nói năng nhăng cuội có ích gì đâu?

Y vừa nói xong, quần đệ tử bèn lặng như tờ. Một lúc sau có người

nói:

- Chỉ cần có ai đốt một mồi lửa dí vào mấy con rắn thế là bọn súc

sinh này sẽ chạy te ngay.

Đinh Xuân Thu chửi liền:

- Cái con bà mày, nói thối bỏ mẹ. Nơi đây đồng không mông quạnh,

đằng trước không thôn, đằng sau không xóm, có ai qua đây bây giờ? Ví

phỏng có dân đi ngang qua, bọn chúng thấy lắm rắn độc thế này, sợ khiếp

vía chạy còn không kịp, lấy đâu ra chuyện đốt lửa mà hun?

Thế là bọn đệ tử lại rầm rĩ cả lên, nhưng chẳng có cách nào dùng

được, sở dĩ bọn chúng tranh nhau nói, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, tỏ ra

mình tuân theo sư mệnh hết sức vắt óc ra để tìm mưu. Cứ như thế một hồi

lâu thì có một tên đệ tử bị trăn quấn nghẹt thở không chịu nổi, trong khi

mê loạn há mồm cắn vào thân mãng xà một cái. Con rắn bị đau, ngoặp

ngay cổ họng y, tên đó chỉ kêu lên thảm thiết rồi chết ngay.

Đinh Xuân Thu càng lúc càng nóng ruột, nếu như bị địch nhân vây

khốn thì trong bấy lâu y đã có thể hạ độc tính mưu tìm cách thoát thân,

thế nhưng những con rắn này vô tri vô thức, dù mưu kế hay cách mấy

cũng không sao thi hành được, chỉ sợ một khi chúng đói rồi, sẽ há mồm

nuốt mình vào bụng.

Mối lo của y quả nhiên đúng thực, một con trăn lâu không nghe thấy

tiếng sáo, bụng đói lắm rồi, há mồm ngoạm tên đệ tử Tinh Tú đang quấn.

Tên đệ tử đó kêu lên:

- Sư phụ cứu con! Sư phụ cứu con!

Hai cái chân y bị trăn nuốt trước rồi đến mình cũng từ từ chui vào,

miệng vẫn kêu la thảm thiết nhưng răng mãng xà hình móc15, chân tên đệ

tử đó chui vào rồi, dần dần đến bụng, lên đến ngực. Y nhất thời chưa

chết, vẫn lớn tiếng kêu la, vang dậy cả cánh đồng.

Mọi người ai nấy biết rằng số phận mình trong chốc lát rồi cũng như

thế, không khỏi sợ đến vỡ mật. Một người thấy Tinh Tú Lão Quái cũng

đành bó tay chịu chết, tự nhiên lòng căm hận nổi lên, lớn tiếng chửi bới,

nói mọi chuyện chẳng qua chỉ vì y ép buộc, mình đang sinh sống yên lành

bằng nghề nuôi cừu ở biển Tinh Tú, bị y vừa uy hiếp vừa dụ dỗ, bắt phải

gia nhập làm môn hạ, hôm nay chết thảm nơi miệng độc xà, xuống đến

cõi âm, thể nào cũng dâng cáo trạng lên Diêm Vương.

Gã đó mở đầu, bao nhiêu người khác cũng chửi theo. Mọi người ngày

thường bị Tinh Tú Lão Quái hành hạ ngược đãi, lòng đầy oán hận, có

điều chỉ để trong bụng mà không dám nói ra lời, hôm nay cũng cùng chết

cả nên chửi một phen cho hả tức. Một người chửi lớn quá thân hình dao

động, khiêu khích con rắn đang quấn, mãng xà liền há mồm ngoạm ngay

đầu vai, y chỉ có nước kêu lên:

- Ối! Ối! Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Du Thản Chi thấy cả bọn ai cũng bị mãng xà quấn chặt không thể

nào thoát thân được, trong lòng không sợ hãi gì nữa, từ trong bụi cỏ đứng

lên, thấy nơi này không phải là chỗ tốt lành gì nên định chạy cho mau.

Người trong phái Tinh Tú đột nhiên thấy một quái nhân đầu đội lồng sắt,

ai nấy thất kinh nhưng lập tức có người nghĩ ra là chỉ còn trông vào y để

cứu mạng, liền kêu lên:

- Đại anh hùng ơi, đại hiệp sĩ ơi, nhờ ngài lấy nắm cỏ khô, đốt lửa

lên, đuổi giùm mấy con trăn này cho chúng tôi, mỗ lập tức tặng cho...

tặng cho ngài một nghìn lượng bạc.

Lại một người khác kêu lên:

- Một nghìn lượng đâu có đủ, phải ít nhất một vạn lượng.

Lại một người khác nói:

- Vị tiên sinh đây bụng nhân lòng hiệp, hết sức tử tế, chỉ chuyên

hành hiệp trượng nghĩa, huống chi đốt lửa dọa rắn thì có gì là nguy hiểm.

Chỉ trong giây lát tiếng ca tụng vang lên, còn kẻ hứa thưởng tiền thì

chỉ chớp mắt đã lên đến trăm vạn lượng hoàng kim. Những gã này mồm

miệng chửi ai thì số một đã đành mà nịnh bợ ca tụng thì cũng có bài có

bản. Du Thản Chi trong đời đã có bao giờ nghe ai gọi mình là đại hiệp

sĩ, đại anh hùng, người nhân kẻ hiệp, hảo hán trên đời có một

không hai bao giờ? Bây giờ nghe bọn người này tâng bốc lên tận mây

xanh, y cảm thấy hởi lòng hởi dạ, tưởng chừng như đang bay bổng, tự

nhiên cảm thấy mình có phong độ đại hiệp sĩ, đại anh hùng thật, một

trăm vạn lượng hoàng kim chẳng coi vào đâu, có điều A Tử cô nương

không được chính tai nghe những lời tán tụng mình quả cũng đáng tiếc.

Y bèn gom cỏ khô, mò trong người đồ đánh lửa châm vào nhưng khi

thấy bao nhiêu là trăn lớn trông thật hung dữ, trong bụng cũng sợ lắm,

nghĩ thầm thôi chẳng nên trêu vào những con rắn này, không chừng chính

mình cũng vướng vào trong rọ. Y suy nghĩ một lát bèn đi gom các cành

khô đốt thành một đống lửa thật lớn ở ngay trước mặt, sau đó mới cầm

một cành cây đang cháy, ném vào con trăn lớn gần mình nhất.

datlucky_way

23-07-2009 03:03 PM

Hồi 29(b) : TRÙNG NGÃI NGƯNG HÀN CHƯỞNG TÁC BĂNG 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,

Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.

Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,

Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.

*

* *

Y đứng nấp ở sau đống lửa, nép người lại để nếu con mãng xà phóng

tới cắn mình thì sẽ lập tức co giò chạy thoát thân, cái danh đại anh

hùng, đại hiệp sĩ cũng chẳng màng chi nữa.

Trăn quả nhiên sợ lửa, thấy lửa lem lém ở bên cạnh lập tức đang

quấn người liền lỏng ra, chui vào trong cỏ. Du Thản Chi thấy đốt lửa kiến

hiệu, trong tiếng hoan hô của phái Tinh Tú, cầm hết que củi này đến que

củi khác vứt ra. Những con rắn lập tức lúc nhúc bỏ chạy, đến những con

trăn lớn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng đành thả người ra

chạy mất. Chỉ trong giây lát, mấy trăm con rắn và trăn đã đi hết sạch.

Các đệ tử phái Tinh Tú lớn tiếng ca tụng:

- Minh kiến của sư phụ quả xa vạn dặm, thật là thần cơ diệu toán,

dùng hỏa công linh nghiệm biết bao.

- Sư phụ hồng phúc tề thiên, phùng hung hóa cát.

- Mọi việc đều do sư phụ tính toán mới cứu được cái mạng kiến của

chúng con.

Bao nhiêu lời ca tụng toàn là nhắm vào công đức của sư tôn Tinh Tú

Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi chẳng ai nhắc

đến một câu. Du Thản Chi đứng ngơ ngẩn như trời trồng, hơi lấy làm lạ,

nghĩ thầm: Mới đây cả bọn chúng bay còn chửi sư phụ không tiếc lời,

bây giờ lại tán tụng tận mây xanh, cái tiếng đại anh hùng, đại hiệp sĩ

của ta nay thành thằng nhãi này, ấy là vì cớ gì?.

Đinh Xuân Thu vẫy tay nói:

- Thằng đầu sắt kia, lại đây, tên ngươi là gì?

Du Thản Chi bị người ta khinh khi đã quen, thấy đối phương vô lễ,

cũng chẳng để bụng nói:

- Tôi tên Du Thản Chi.

Nói xong đi tới mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi:

- Mấy tên ăn mày kia đã chết chưa? Ngươi thử lại sờ mũi y xem có

còn thở không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y cúi xuống sờ mũi một tên đệ tử Cái Bang, thấy tay chạm vào lạnh

ngắt, gã đó chết từ lâu rồi. Y lại thăm một gã khác thì cũng đã tắt thở bèn

nói:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Chỉ thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú mặt mày hớn hở đứa nào đứa nấy ra

chiều hạnh tai lạc họa16. Y không hiểu vì sao, lại nhắc lại lần nữa:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Những gã kia khuôn mặt đang nhăn nhở ra chiều diễu cợt bỗng nhiên

biến mất, từ từ chuyển sang lạ lùng, rồi trở thành kinh hãi. Đinh Xuân

Thu nói:

- Mỗi tên ăn mày ngươi thử dò xem có đứa nào còn cứu được không?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y bèn thăm dò hết lượt hơn chục tên ăn mày rồi lắc đầu:

- Người nào cũng chết cả rồi. Công lực của lão tiên sinh ghê gớm

thật.

Đinh Xuân Thu cười khẩy:

- Công phu kháng độc của ngươi còn ghê gớm hơn nhiều.

Du Thản Chi lạ lùng hỏi:

- Tôi...cái gì... công phu kháng độc của tôi ư?

Y hoang mang không hiểu ý tứ câu nói của Đinh Xuân Thu ra sao,

cũng chẳng biết rằng mỗi lần mình thò tay xem hơi thở của người trong

Cái Bang là một lần đến quỉ môn quan, sờ thử hơn mười người, là trải qua

hơn mười lần chết đi sống lại. Y nào có biết được rằng, Tinh Tú Lão Quái

bị trăn quấn không sao thoát thân được tất cả đều do tiểu tử này cứu

mạng, nếu như truyền ra trên giang hồ thì chẳng còn mặt mũi nào, thành

thử khi rắn trăn đi khỏi rồi lập tức nảy ra ý định giết y để bịt miệng.

Ngờ đâu trong mấy tháng qua Du Thản Chi tập luyện liên tục nên độc

chất của con băng tàm đã dung hợp trong cơ thể, những gì Đinh Xuân Thu

thổi vào xác những tên đệ tử Cái Bang kia không làm gì y nổi.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Cứ nhìn da tay và nghe giọng nói của gã

này thì xem ra còn trẻ lắm, chắc không có bản lãnh gì chân thực đâu, có

lẽ trên người y có chất gì kỵ độc như hùng hoàng châu, tịch tà kỳ hương

chẳng hạn, hay đã uống sẵn thuốc giải nên không bị chất độc xâm nhập.

Y liền nói:

- Du huynh đệ, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Du Thản Chi thấy y nói ra vẻ thành khẩn nhưng đã từng chứng kiến

thủ đoạn giết bọn Cái Bang thật là tàn độc, thầy trò y khi thì nịnh bợ tâng

bốc, lúc lại chửi bới nhục mạ lẫn nhau, biết hạng người này thật khó mà

đối phó, chi bằng kính nhi viễn chi là hơn bèn đáp:

- Tiểu nhân đang có chuyện cần, không thể phụng bồi, xin cáo từ.

Nói xong chắp tay chào, quay mình đi thẳng. Y mới đi được mấy

bước, đột nhiên thấy bên cạnh người có hơi một chút gió, hai cổ tay ghịt

lại thì ra đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn, thấy người nắm tay

mình chính là một đệ tử phái Tinh Tú. Y không hiểu đối phương có dụng

ý gì nhưng thấy mặt y nở một nụ cười nham hiểm, xem ra không có hảo

ý, trong lòng kinh hãi kêu lên:

- Bỏ ta ra!

Y giằng mạnh một cái, bỗng thấy có vật gì bay vụt ngang đầu, một

thân hình to lớn từ sau lưng nhảy qua người y, bình một tiếng, giáng mạnh

vào vách đá trước mặt, đầu vỡ tan, nát ngướu thành một cục bầy nhầy.

Du Thản Chi thấy gã đó đụng mạnh như thế, không sao tin nổi, còn

đang ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra chính là gã vừa nắm tay mình, càng

thêm kỳ quái: Gã này đang khỏe mạnh như thường, sao tự nhiên lại lao

đầu vào đá tự tử ? Không lẽ hóa điên chăng?. Y có ngờ đâu chính là vì

mình giãy một cái, một luồng kình lực đưa ra ném gã kia vào trong núi.

Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ hãi kêu lên, mặt mày biến sắc.

Đinh Xuân Thu thấy y ra tay quật chết đệ tử mình, thủ pháp thật là

vụng về quờ quạng, không phải công phu thượng thừa, chỉ vì sức lực

mạnh lạ lùng mà ra, nghĩ thầm người này trời cho thần lực, võ công lại

tầm thường, lập tức nhún mình một cái, giơ tay chộp vào đầu y. Du Thản

Chi không kịp đề phòng lập tức bị đè đến quì xuống đất, bèn chõi lên

định đứng dậy, nhưng đầu tưởng như đang đội một khối đá vạn cân,

không cách nào động đậy gì được vội vàng van xin:

- Xin lão tiên sinh tha cho.

Đinh Xuân Thu thấy y mở miệng xin tha nên cũng yên tâm hỏi lại:

- Sư phụ ngươi là ai? Sao ngươi dám to gan, giết đệ tử của ta?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi... tôi không có sư phụ. Tiểu nhân chẳng bao giờ dám giết đệ tử

của lão tiên sinh.

Đinh Xuân Thu nghĩ bụng chẳng cần nhiều lời với y làm gì, giết

người diệt khẩu cho được việc, nên buông tay ra đợi Du Thản Chi vừa

đứng lên liền múa chưởng đánh vào ngực y. Du Thản Chi kinh hãi vội

vàng đưa tay gạt ra. Thế đánh của Đinh Xuân Thu thật chậm, Du Thản

Chi vừa đưa tay ra đụng ngay phải chưởng tâm của lão. Đinh Xuân Thu

vốn đã tính trước, chất độc trong người theo nội kình lòng bàn tay tống ra,

chính là công phu Hóa Công Đại Pháp thành danh mấy chục năm qua,

trong chưởng hoặc chứa kịch độc, hoặc hóa tán nội lực kẻ địch trong

khoảnh khắc, kẻ thì chết ngay tại chỗ, có kẻ đau đớn quằn quại mấy

tháng mới chết toàn do ý muốn thi triển khác nhau.

Trong đời Đinh Xuân Thu đã từng dùng pháp môn này giết không

biết bao nhiêu người, võ lâm nghe đến Hóa Công Đại Pháp ai ai cũng

căm hận chán ghét, sợ đến bủn rủn cả tay chân. Bắc Minh Thần Công

của Đoàn Dự hút nội lực người khác lấy làm của mình, khác hẳn với Hóa

Công Đại Pháp dùng chất kịch độc hóa tán nội công người khác, nhưng

người bị trúng phải thấy mình trong giây lát tiêu tán hết nội lực, chưa một

ai có kinh nghiệm của cả hai nên đều hiểu lầm. Đinh Xuân Thu thấy gã

đầu sắt sờ mũi hơn chục tử thi Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên lập

tức thi triển bản lãnh tối đắc ý của lão ra.

Hai người song chưởng chạm nhau, thân hình Du Thản Chi lảo đảo,

lịch bịch lùi luôn sáu bảy bước, định gượng dậy nhưng cũng phải ngồi

phệt xuống, vậy mà dư lực vẫn còn đẩy y ngã ngửa, đầu va xuống đất,

lộn tùng phèo ba bốn vòng mới ngừng lại được. Y vội vàng liên tiếp khấu

đầu van xin:

- Lão tiên sinh tha mạng! Lão tiên sinh tha mạng!

Đinh Xuân Thu hai tay đụng với y thấy Du Thản Chi nội lực hùng

mạnh, kình đạo âm hàn, thật là quái dị, lại có ngầm chứa chất cực độc,

tuy bị mình đẩy ngã lăn chòng chọc thật là thê thảm, nhưng nếu so sánh

nội lực và độc kình thì không kém gì mình, vậy mà lại van xin cầu tha

mạng? Không lẽ y thực sự không biết? Lão liền tiến lên hỏi lại:

- Ngươi cầu xin ta tha mạng, đó là thực lòng hay là giả ý?

Du Thản Chi vẫn một mực rập đầu van lạy:

- Tiểu nhân một lòng thành thực, cầu xin lão tiên sinh tha mạng cho

tiểu nhân.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã này không biết dùng cách gì, gặp

được cơ duyên làm sao mà chất độc tích trong người còn hơn cả ta, quả là

một kỳ bảo. Ta phải tìm cách tóm lấy gã dò xem pháp môn luyện công ra

sao sau đó hút hết chất độc trong người y, lúc đó mới xử tử. Còn nếu chỉ

giết y đi thì thật uổng quá!. Ông ta giơ chưởng ấn xuống đầu Du Thản

Chi, hơi vận nội lực nói:

- Trừ phi ngươi bái ta làm thầy, nếu không ta làm sao tha mạng cho

ngươi được?

Du Thản Chi thấy chiếc lồng sắt trên đầu như bị đút vào lò lửa, nóng

đến mặt hừng hực, trong bụng hết sức sợ hãi. Y từ khi bị A Tử hành hạ

dày vò trở nên bảo sao nghe vậy, chẳng còn phân biệt thiện ác thị phi,

bao nhiêu cốt khí cứng cỏi ương ngạnh mất sạch, chỉ sao được bảo toàn

tính mạng nên lật đật nói:

- Sư phụ, đệ tử Du Thản Chi cam nguyện gia nhập môn hạ của sư

phụ, xin lão nhân gia thu nạp cho.

Đinh Xuân Thu mừng lắm, thản nhiên nói:

- Ngươi muốn bái ta làm thầy thì cũng được. Thế nhưng qui củ bản

môn thật nhiều, ngươi có tuân thủ được không? Ví thử sư phụ bảo làm gì,

ngươi có thành tâm thành ý làm hết lòng, quyết không vi kháng chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Đệ tử nguyện tuân thủ qui củ, phục tòng mệnh lệnh của sư tôn.

Đinh Xuân Thu hỏi thêm:

- Nếu sư phụ muốn lấy mạng ngươi, ngươi có cam tâm tình nguyện

chịu chết không?

Du Thản Chi ấp úng:

- Cái đó... cái đó...

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi nghĩ cho chín, cam tâm thì là cam tâm, không bằng lòng thì

nói không bằng lòng.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nếu ông muốn lấy mạng tôi thì dĩ nhiên

không cam tâm rồi. Nếu tới lúc đó trốn được là mình trốn ngay, còn như

chạy không xong thì dù không cam tâm cũng đành vậy chứ biết sao hơn.

Y bèn nói:

- Đệ tử cam tâm chịu chết vì sư phụ.

Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:

- Hay lắm, hay lắm! Ngươi đem tất cả mọi chuyện trong đời nói hết

cho ta nghe.

Du Thản Chi không muốn nói rõ hết cho ông ta nghe thân thế và

những gặp gỡ trong đời, chỉ nói mình là con nhà nông bị người Liêu bắt

trong một kỳ đi gặt, đội cho y một cái lồng sắt. Đinh Xuân Thu hỏi y

độc chất vì đâu mà có, Du Thản Chi chỉ thổ lộ vì sao thấy con băng tàm

và nhà sư Tuệ Tịnh, ăn cắp con tằm ra sao rồi nói láo là sơ ý nên bị con

băng tàm trong hồ lô cắn vào tay khiến cho toàn thân đông cứng, còn con

tằm thì chết, còn chuyện A Tử tu luyện độc chưởng y bỏ qua không đề

cập tới.

Đinh Xuân Thu hỏi kỹ lưỡng hình dáng và tình trạng con băng tàm,

trên mặt không khỏi lộ vẻ thèm thuồng thán phục. Du Thản Chi nghĩ

thầm: Nếu ta nói đến cuốn sách ướt hiện hình lên y thể nào cũng cướp

mất không trả lại đâu. Đinh Xuân Thu lại gặng hỏi công phu cổ quái y

luyện thế nào nhưng y nhất quyết không hé răng.

Đinh Xuân Thu vốn dĩ đâu có biết đó là công phu Dịch Cân Kinh thấy

võ công y hết sức kém cỏi lại tưởng vì y luyện được nội kình âm hàn

hoàn toàn chỉ do con băng tàm mà có, trong bụng không khỏi chửi thầm:

Loại thần vật như thế mà lại bị tên tiểu tử này thần xui quỉ khiến làm

sao hút được vào người, thật uổng quá. Y suy nghĩ một chút bèn hỏi

thêm:

- Thế nhà sư mập bắt được con tằm đó, ngươi bảo là nghe người khác

gọi là Tuệ Tịnh ư? Là sư chùa Thiếu Lâm, chấp tác nơi chùa Mẫn Trung

ở Nam Kinh?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng thế.

Đinh Xuân Thu nói:

- Gã Tuệ Tịnh đó bảo là bắt được con băng tàm ở trên đỉnh núi Côn

Lôn. Thế thì tốt lắm, ở đó đã có một con thì hẳn sẽ có hai con, ba con. Có

điều núi Côn Lôn vuông vức mấy nghìn dặm, nếu không phải người thuộc

đường đưa đi thì không phải dễ gì mà bắt được.

Lão đã đích thân nếm mùi linh nghiệm của con băng tàm, tính ra so

với Thần Mộc Vương Đỉnh còn quí hơn nhiều, thấy chuyện cần kíp trước

mắt phải làm sao ép được nhà sư Tuệ Tịnh dẫn đường đi lên núi Côn Lôn

bắt con trùng quí. Hòa thượng đó thuộc phái Thiếu Lâm, vốn cũng khó

mà động tới được, nay lại ở Nam Kinh thế thì may quá. Sau đó Du Thản

Chi làm lễ bái sư gia nhập phái Tinh Tú.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ có chiều thương mến y cho nên

lập tức xúm lại ninh bợ, tán tụng không tiếc lời. Mới rồi cả bọn chửi bới

Tinh Tú Lão Quái, phản nghịch hàng địch nhưng lúc này Đinh Xuân Thu

đang cần người nên giả bộ làm như không nhớ đến, vả lại những chuyện

đó thì y cũng đã biết thừa nên không thấy bực tức chút nào.

Đoàn người liền chuyển qua đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi đi

sau Đinh Xuân Thu thấy lão tay áo rộng phất phới, bộ pháp nhẹ nhàng

thật chẳng khác gì thần tiên, trong lòng tự nhiên sinh kính ngưỡng: Ta

bái một vị tài ba thế này làm sư phụ, quả đúng là kiếp trước khéo tu.

Người phái Tinh Tú đi ba ngày liền, đến xế trưa hôm đó, cả bọn ở lại

một tòa lương đình ở bên đường uống nước nghỉ ngơi, bỗng nghe phía sau

có tiếng vó ngựa, bốn kỵ sĩ từ phía đường bên kia chạy tới. Bốn con ngựa

đó chạy tới gần căn nhà mát, người đầu tiên kêu lên:

- Đại ca, nhị ca, trong đây có nước, mình ghé lại uống vài bát cho

ngựa nghỉ một chút.

Y vừa nói vừa nhảy xuống ngựa, đi vào lương đình, ba người còn lại

cũng hạ mã. Bốn người đó thấy bọn Đinh Xuân Thu, hơi gật đầu chào, đi

đến bên chum nước, cầm bát lên múc nước uống. Du Thản Chi thấy người

đi đầu mặc áo đen, bé nhỏ gầy gò, trên mép để hai chòm râu đuôi chuột

vẻ mặt ranh mãnh. Người thứ hai mặc áo bào màu hoàng thổ, cao lỏng

khỏng, hai lông mày xuôi xuống, vẻ mặt cáu kỉnh trông như người ốm dở.

Người thứ ba mặc trường bào màu đỏ cánh kiến, thân hình cao lớn, tai to

mặt vuông, dưới cằm là một bộ râu hoa râm khá rậm trông chẳng khác gì

một phú thương. Người sau cùng mặc áo xanh khăn áo theo vẻ nho sinh,

chừng trên dưới năm mươi, đôi mắt lờ đờ dường như vì đọc sách nhiều

quá nên cập kèm, không uống nước mà cầm chiếc hồ lô lên tu rượu ừng

ực.

Cũng vừa khi đó, từ phía đường trước mặt, một nhà sư xăng xái đi tới,

đến trước lương đình, chắp hai tay cung kính nói:

- Chúng vị thí chủ, tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào trong

đình nghỉ ngơi, uống bát nước.

Người áo đen cười đáp:

- Sư phụ chẳng phải đa lễ, ở đây ai cũng là người qua đường, tòa nhà

mát này có phải chúng tôi dựng lên đâu, xin mời vào nghỉ.

Nhà sư đáp:

- A Di Đà Phật, xin đa tạ.

Nói xong ông ta đi vào trong lương đình. Nhà sư đó tuổi chừng hai

mươi nhăm, hai mươi sáu, mắt to mày rậm, mũi to nhưng tẹt, mặt mày

không lấy gì làm đẹp trai, tăng bào tuy vá nhiều chỗ nhưng sạch sẽ. Y đợi

ba người kia uống xong lúc đó mới đến gần chum nước, dùng bát múc, hai

tay nâng lên, đôi mắt khép lại, cung kính đọc một bài kệ:

Phật quan nhất bát thủy

Bát vạn tứ thiên trùng

Nhược bất trì thử chú

Như thực chúng sinh nhục.

Ở trong lòng bát nước kia,

Phật trông thấy tám muôn tư côn trùng.

Chú này chưa tụng cho xong,

Khác gì ăn thịt một vùng chúng sinh.

Rồi y niệm:

- Am phọc thái ba la ma ni sa ha.

Niệm xong y mới bưng bát nước lên để vào miệng uống. Gã áo đen

lấy làm lạ bèn hỏi:

- Tiểu sư phụ, chú xí xa xí xố niệm chú gì đó?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng niệm đó là ẩm thủy chú. Phật dạy rằng trong mỗi bát

nước đều có tám vạn bốn ngàn loại côn trùng, người xuất gia giới sát

thành ra phải niệm ẩm thủy chú xong lúc đó mới uống được.

Người áo đen cười sằng sặc nói:

- Nước trong veo, đến một con trùng cũng không có, tiểu sư phụ chỉ

giỏi nói đùa.

Nhà sư nghiêm trang đáp:

- Thí chủ có chỗ không biết. Chúng ta là bọn phàm phu nhìn vào thì

trong nước không có côn trùng nhưng đức Phật nhìn bằng thiên nhãn, thấy

trong nước tiểu trùng hàng nghìn hàng vạn con.

Người áo đen cười hỏi lại:

- Thế chú niệm ẩm thủy chú rồi uống tám vạn bốn nghìn con trùng

kia vào bụng thì tiểu trùng không chết hay sao?

Nhà sư trù trừ rồi đáp:

- Cái... cái đó... sư phụ tiểu tăng chưa dạy. Có lẽ tiểu trùng không

chết đâu.

Người áo vàng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu trùng cũng vẫn chết chứ. Có điều

tiểu sư phụ niệm chú rồi, tám vạn bốn nghìn con trùng kia đi thẳng lên

tây phương cực lạc thế giới, tiểu sư phụ uống một bát nước ấy là siêu độ

cho tám vạn bốn nghìn chúng sinh. Công đức thật là vô lượng! Quả thật là

vô lượng!

Nhà sư kia không biết y nói thật hay nói đùa, hai tay vẫn cầm bát

nước đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mồm lẩm bẩm:

- Một lần siêu độ tám vạn bốn ngàn chúng sinh ư? Tiểu tăng làm sao

có pháp lực to lớn dường ấy?

Người áo vàng đi đến bên cạnh nhà sư, cầm lấy bát nước trong tay y,

nhìn chăm chăm miệng đếm:

- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu... một nghìn, hai nghìn, một vạn, hai

vạn... Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu sư phụ ơi ơi, trong cái bát này có

cả thảy tám vạn ba nghìn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng, thiếu

đâu mất một con.

Nhà sư nói:

- Nam Mô A Di Đà Phật, thí chủ chắc nói đùa, thí chủ là người phàm

làm sao có thần thông thiên nhãn được?

Người áo vàng đáp:

- Thế chú có thần thông thiên nhãn không?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng dĩ nhiên cũng không có.

Người áo vàng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta xem chú có thiên nhãn thông, nếu

không làm sao chú chỉ mới nhìn thoáng qua đã biết ngay ta là kẻ phàm

phu tục tử mà không phải là bồ tát giáng trần?

Nhà sư nhìn y, nhìn tới nhìn lui đầy vẻ hoang mang. Đại hán mặc áo

màu cánh kiến liền đi tới cầm lấy bát nước, trả lại cho nhà sư cười nói:

- Sư phụ uống nước đi! Thằng em tôi đùa chơi với chú đấy mà, đừng

có coi là thật.

Nhà sư tiếp lấy bát nước cực kỳ cung kính đáp:

- Đa tạ! Đa tạ!

Trong bụng không biết phải làm sao nên không dám uống. Đại hán

kia lại tiếp:

- Ta xem tiểu sư phụ đi đứng nhanh nhẹn chắc biết võ công. Xin hỏi

pháp danh là gì, đang xuất gia tại chùa nào?

Nhà sư liền để bát nước trên nắp chum, hơi khom lưng nói:

- Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.

Người áo đen kêu lên:

- Hay quá! Hay quá! Hóa ra chú là cao thủ chùa Thiếu Lâm. Ra đây,

ra đây mau! Hai đứa mình làm thử một keo nào.

Hư Trúc cuống quít xua tay nói:

- Tiểu tăng võ công kém cỏi, làm sao dám động thủ cùng thí chủ?

Người áo đen cười:

- Mấy hôm nay không đánh nhau, ngứa tay ngứa chân quá. Chúng

mình làm vài chiêu, không cần đánh thật, có gì đâu mà sợ?

Hư Trúc lùi lại hai bước nói:

- Tiểu tăng tuy có luyện võ mấy năm thật nhưng chỉ cốt để cho thân

thể khỏe mạnh chứ nào có đánh nhau được đâu?

Người áo đen nói:

- Sư chùa Thiếu Lâm ai cũng võ công cao cường, người mới học đâu

có ai được ra khỏi sơn môn. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn hẳn là phải nhất

lưu cao thủ. Lại đây nào! Hai đứa mình chỉ trao đổi một trăm chiêu, ai

thua ai được cũng chẳng sao cả.

Hư Trúc lại thoái lui thêm hai bước nữa nói:

- Thí chủ không biết, phen này tiểu tăng xuống núi chẳng phải vì võ

công đã đủ, chỉ vì nhà chùa sai rất đông đệ tử đi đưa thư, thiếu người nên

miễn cưỡng khiến luôn cả tiểu tăng cho đủ số. Tiểu tăng cầm cả thảy

mười trương anh hùng thiếp, sư phụ dặn kỹ là đưa đủ mười cái thiếp xong

là phải về chùa ngay, giá nào cũng không được động võ với ai, hiện nay

đã đưa được bốn lá thiếp rồi, trong người còn sáu cái. Thí chủ võ công

cao cường, vậy xin nhận một trương anh hùng thiếp.

Nói xong lấy trong túi ra một chiếc bao bằng vải dầu, mở lấy ra một

phong bì đỏ chói, cung kính đưa lên nói:

- Xin hỏi cao tính đại danh của thí chủ để tiểu tăng khi về chùa bẩm

lại với sư phụ.

Hán tử áo đen không cầm tờ thiếp chỉ nói:

- Nếu như ngươi không đánh nhau với ta thì ta còn anh hùng cẩu

hùng gì nữa? Hai đứa mình sách giải vài chiêu, ta có thắng ngươi lúc đó

mới dám nhận anh hùng thiếp.

Nói xong y tiến lên hai bước, nhứ tay trái, tay phải đấm luôn vào mặt

Hư Trúc nhưng quyền sắp đến đã thu lại kêu lên:

- Trả đòn mau.

Người cao to từ khi thấy Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp thì

đã chú ý lắng tai nghe lúc này lên tiếng:

- Tứ đệ, không nên tỉ võ vội, trước hết xem anh hùng thiếp xem nói

những gì.

Y cầm lấy lá thiếp từ tay Hư Trúc thấy trên đó viết:

Trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ, chắp tay cung thỉnh anh hùng

thiên hạ, vào giai tiết Trùng Dương mồng chín tháng chín, xin vui lòng

đến Tung Sơn Thiếu Lâm Tự để kết mối thiện duyên, đồng thời chứng

kiến phong phạm dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung Cô

Tô.

Đại hán đó liền kêu lên một tiếng, cầm tờ thiếp giao cho nho sinh

đứng bên cạnh, nói với Hư Trúc:

- Phái Thiếu Lâm chiêu khai anh hùng đại hội, hóa ra là để gây

chuyện với Mộ Dung Cô Tô...

Hán tử áo đen liền la to:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta tên là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác, chính

là thủ hạ của họ Mộ Dung Cô Tô đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó

Mộ Dung Cô Tô thì chẳng việc gì phải mở anh hùng đại hội, ngay bây

giờ ta xin lãnh giáo thân thủ cao chiêu của phái Thiếu Lâm.

Hư Trúc lại lùi thêm hai bước, chân trái đã bước ra khỏi lương đình

nói:

- Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ tiểu tăng có dặn là, tệ tự cung thỉnh

Cô Tô Mộ Dung thí chủ đến chùa, quyết không dám đắc tội. Có điều là

trên giang hồ ai ai cũng xầm xì, trong võ lâm những năm gần đây không

ít anh hùng hảo hán bỏ mình vì thần công dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân

của nhà Mộ Dung Cô Tô. Sư bá tổ của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư viên

tịch tại chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên can gì với họ Mộ

Dung không, tệ phái từ phương trượng đại sư giở xuống, ai ai cũng nghi

hoặc, thành ra mới...

Người áo đen liền ngắt lời:

- Chuyện đó vốn dĩ chẳng liên quan gì đến nhà Cô Tô Mộ Dung

chúng ta cả, thế nhưng chúng ta nói các ngươi nào có ai chịu tin đâu, nếu

như nói chuyện không xong thì chỉ còn nước quyền cước phân hơn thiệt.

Ví như thế, hai người mình hôm nay đánh nhau một trận, cũng như trước

khi diễn trò thì đánh phèng la chiêng trống, sắp vào vở tuồng thì nói lối

mấy câu giáo đầu, có thế mới vui. Còn đến tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, Phong mỗ sẽ đến chùa Thiếu Lâm, từ dưới đánh lên, không

sót một mống, thế mới thống khoái. Có điều chỉ đánh được chừng mười

bảy mười tám mạng là Phong mỗ khắp người thương tích, không còn đánh

tiếp được nữa, muốn giao thủ với Huyền Từ lão phương trượng, chắc là

không thể nào có cơ duyên. Tiếc quá! Tiếc quá!

Y vừa nói vừa xắn tay áo dường như muốn xông lên động thủ. Hán tử

to cao nói:

- Tứ đệ, hãy khoan đã, nói năng cho minh bạch rồi đánh cũng chưa

muộn.

Người áo vàng chặn lại:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nói cho minh bạch xong thì đâu cần

đánh nữa. Tứ đệ, cơ hội tốt chớ để mất, nếu muốn đánh nhau thì chớ có

nói cho minh bạch.

Người đàn ông to cao kia không nhìn nhõi gì đến y quay sang nói với

Hư Trúc:

- Tại hạ là Đặng Bách Xuyên còn người này là nhị đệ Công Dã Can.

Y vừa nói vừa chỉ vào người nho sinh, rồi chỉ vào người áo vàng:

- Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, chúng tôi đều là thủ hạ của Mộ

Dung công tử.

Hư Trúc liền chắp tay chào bốn người miệng nói:

- Đặng thí chủ, Công thí chủ...

Bao Bất Đồng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nhị ca ta họ kép là Công Dã, ngươi lại

gọi Công thí chủ, thật sai hết chỗ nói.

Hư Trúc vội nói:

- Xin lỗi! Xin lỗi! Tiểu tăng chẳng có học vấn, xin Công Dã thí chủ

đừng trách. Bao thí chủ...

Bao Bất Đồng lại chặn ngang:

- Nhà ngươi lại cũng sai nữa rồi. Ta tuy họ Bao thật nhưng xưa nay

đã từng bố thí cho sư cho vãi bao giờ đâu, không thể nào gọi ta là Bao thí

chủ được.

Hư Trúc lật đật nói:

- Dạ! Dạ! Bao tam gia, Phong tứ gia.

Bao Bất Đồng liền đáp:

- Ngươi lại sai rồi! Phong tứ đệ của ta muốn cùng người giao đấu,

không kể ai ăn ai thua thì ngươi cũng một phen thêm lịch duyệt, võ công

ắt là trường tiến, thế chẳng phải đã bố thí cho ngươi hay sao?

Hư Trúc vội đáp:

- Vâng! Vâng! Phong thí chủ, có điều là tiểu tăng nhất quyết không

đánh nhau. Người xuất gia tu hành là gốc, học võ chỉ là ngọn, võ công

trường tiến hay không, cũng không quan hệ gì lắm.

Phong Ba Ác thở dài:

- Ngươi coi võ học xem thường như thế, võ công chắc cũng tầm

thường, thôi trận này chẳng cần đấu nữa.

Nói xong lắc đầu quầy quậy ra chiều thất vọng. Hư Trúc chẳng khác

gì trút được gánh nặng trên vai, mặt mày tươi rói nói:

- Phải lắm! Phải lắm!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Hư Trúc sư phụ, cánh thiếp anh hùng này, chúng tôi đại diện công

tử nhận. Công tử chúng tôi mấy tháng trước đây đã từng đến bái phỏng

quí tự, không lẽ chưa tới nơi hay sao?

Hư Trúc đáp:

- Chưa thấy đến. Phương trượng đại sư vẫn mong Mộ Dung công tử

đến thăm nhưng đợi lâu quá mà không thấy, đã từng hai lần phái người

đến quí phủ bái phỏng, nghe tin Mộ Dung lão thí chủ qui tây, thiếu thí

chủ ra ngoài. Phương trượng đại sư lần này nhờ thủ tọa Đạt Ma Viện đến

tận tôn phủ ở Tô Châu đưa thư, lại sợ Mộ Dung thiếu thí chủ không có

nhà nên gửi anh hùng thiếp đến đông đảo đồng đạo giang hồ, những điều

thất lễ xin nhờ bốn vị bẩm lại Mộ Dung công tử cho minh bạch. Sang

năm Mộ Dung thí chủ giá lâm tệ tự, phương trượng đại sư sẽ đích thân tạ

tội sau.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiểu sư phụ không phải khách sáo quá. Kỳ hội còn đến hơn nửa

năm, tới lúc đó công tử chúng tôi thể nào cũng đến thăm quí tự, bái kiến

phương trượng đại sư.

Hư Trúc chắp tay khom lưng chào nói:

- Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm Thiếu Lâm Tự, phương

trượng đại sư chúng tôi cực kỳ hoan nghênh. Hai chữ bái kiến thật

không dám nhận.

Phong Ba Ác thấy y cực kỳ chấp nê, không có chút gì khẳng khái hào

sảng của võ lâm, tuy cũng là nhà sư đấy nhưng thật chẳng có vẻ gì là

hòa thượng chùa Thiếu Lâm danh tiếng trên đời, trong lòng không lấy

gì làm vui lắm, chẳng ngó ngàng gì đến y nữa, quay sang xem xét bọn

Đinh Xuân Thu. Y thấy quần đệ tử phái Tinh Tú tay cầm binh khí, hiển

nhiên cũng là người trong võ lâm, liền tìm xem có người nào xứng đáng

là đối thủ để mời ra đánh nhau một trận.

Du Thản Chi từ khi thấy bốn người này đi vào lương đình, lập tức nấp

vào đằng sau sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao to, che khuất y nên bọn

bốn người Đặng Bách Xuyên không nhìn thấy cái đầu sắt quái dị. Phong

Ba Ác thấy Đinh Xuân Thu đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt, trông

ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong bụng không khỏi có chiều kính ngưỡng,

thành thử chưa dám ngang nhiên tiến lên khiêu chiến liền hỏi:

- Vị lão tiền bối kia xin hỏi cao tính đại danh là gì?

Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp:

- Ta họ Đinh.

Vừa lúc đó Hư Trúc bỗng kêu lên một tiếng nói:

- Sư thúc tổ lão nhân gia cũng đã đến rồi.

Phong Ba Ác quay đầu lại thấy trên đường cái bảy tám hòa thượng đi

tới, đi đầu là hai vị lão tăng, còn lại có hai người khiêng một chiếc cáng,

trên đó có người nằm. Hư Trúc vội vã đi ra khỏi lương đình, hành lễ với

hai nhà sư già rồi bẩm lại lai lịch của bốn người Đặng Bách Xuyên.

Nhà sư phía bên phải gật đầu, đi vào trong đình tiến đến chào bọn

Đặng Bách Xuyên rồi nói:

- Lão nạp là Huyền Nạn.

Ông chỉ về nhà sư già kia nói:

- Còn đây là sư đệ của lão nạp Huyền Thống may mắn được gặp bốn

vị đại hiền của Cô Tô Mộ Dung Trang.

Bọn Đặng Bách Xuyên từng nghe danh Huyền Nạn từ lâu, thấy ông

mặt dăn deo nhưng đôi mắt thần quang thăm thẳm, vội vàng trả lễ. Phong

Ba Ác nói:

- Đại sư phụ là thủ tọa Đạt Ma Viện của chùa Thiếu Lâm, nghe nói

thần công ghê gớm lắm, hôm nay xin được lãnh giáo.

Huyền Nạn mỉm cười đáp:

- Lão nạp và Huyền Thống sư đệ phụng pháp dụ của phương trượng

đến phủ Mộ Dung thí chủ tại Giang Nam cung trình thiếp mời, đây là lần

thứ ba chùa chúng tôi sai người đến Yến Tử Ổ. Thế nhưng may sao ngay

tại đây được cùng quí vị giải cấu tương phùng, duyên pháp quả là không

nhỏ.

Nói xong từ trong túi lấy ra một thiếp mời màu đỏ. Đặng Bách Xuyên

hai tay cầm lấy thấy trên bao thư có viết:

Cung trình Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ đất Cô Tô

Bằng chữ lớn, liệu chừng bên trong thiếp cũng giống như cái thiếp Hư

Trúc vừa đưa cho bèn nói:

- Hai vị đại sư phụ là cao tăng đại đức của chùa Thiếu Lâm, vọng

trọng trong võ lâm mà phải thân lao đại giá đến tệ trang, quả thực Mộ

Dung Cô Tô được nở mày nở mặt quá. Mới đây vị Hư Trúc tiểu sư phụ

cũng đã đưa cho một danh thiếp anh hùng, chúng tôi đã nhận rồi, nhất

định thể nào cũng bẩm lại bề trên. Đến giai tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, tệ thượng là Mộ Dung công tử thể nào cũng lên chùa lễ Phật,

đích thân cảm tạ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm rồi trước mặt anh hùng

thiên hạ, nói rõ các chuyện hiểu lầm.

Huyền Nạn nghĩ thầm: Ngươi bảo các chuyện hiểu lầm, hóa ra

Huyền Bi sư huynh không phải do nhà Mộ Dung Cô Tô các ngươi giết

chết hay sao?. Bỗng nghe ở sau có tiếng người kêu lên:

- A, sư phụ, chính y đó!

Huyền Nạn nghiêng đầu nhìn qua, thấy một người hình thù kỳ quái

chỉ vào chiếc cáng, ghé tai một ông lão tóc bạc thì thầm. Du Thản Chi nói

với Đinh Xuân Thu:

- Gã sư mập nằm trên cáng kia chính là người bắt được con băng

tàm, không biết vì sao lại bị phái Thiếu Lâm bắt.

Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư đó là nguyên chủ của con băng tàm,

vui sướng không đâu cho hết, hỏi nhỏ:

- Ngươi không nhìn lầm người chứ?

Du Thản Chi đáp:

- Không đâu, tên y là Tuệ Tịnh. Sư phụ thử xem, cái bụng tròn quay

của y phồng lên thế kia.

Đinh Xuân Thu thấy bụng Tuệ Tịnh còn to hơn đàn bà chửa sắp đẻ,

nghĩ thầm một hòa thượng mập như thế, dù ai gặp y một lần thì suốt đời

không quên, bèn quay sang nói với Huyền Nạn:

- Đại sư phụ, vị hòa thượng Tuệ Tịnh kia có quen với ta, y bị bệnh gì

chăng?

Huyền Nạn chắp tay đáp:

- Cao tính đại danh thí chủ là chi? Không biết nguyên do nào mà lại

biết sư điệt của lão nạp?

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã Tuệ Tịnh kia lại đi cùng với các hòa

thượng Thiếu Lâm, quả thực là phiền. Cũng may gặp ngay trên đường đi,

chặn lại cướp lấy thật dễ hơn vào trong chùa Thiếu Lâm mà bắt, mà lại

dễ dàng hơn nhiều. Y nghĩ đến sự linh dị thần hiệu của con băng tàm,

ngực không khỏi nóng hôi hổi nói:

- Tại hạ là Đinh Xuân Thu.

Ba tiếng Đinh Xuân Thu vừa ra khỏi cửa miệng, Huyền Nạn,

Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong

Ba Ác sáu người không hẹn mà cùng kinh ngạc kêu lên một tiếng, mặt ai

nấy đều hơi biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu vang

dậy thiên hạ, ai ngờ lại gặp nơi đây trông khí độ ung dung, phong thái

tiêu sái đến thế. Sáu người ai nấy lập tức đều có ý phòng bị.

Thế nhưng chỉ trong một nháy mắt Huyền Nạn đã bình tĩnh lại ngay

nói:

- Thì ra là Đinh lão tiên sinh của Tinh Tú Hải. Đã ngưỡng mộ đại

danh từ lâu, quả thực như sấm rền bên tai.

Những câu khách sáo như may mắn thay được gặp ông không nhắc

đến, nghĩ thầm: Người nào gặp phải ngươi đúng là kiếp trước vụng tu.

Đinh Xuân Thu nói:

- Không dám, môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tọa Đạt Ma Viện chùa

Thiếu Lâm nổi danh thiên hạ, lão phu cũng từng ngưỡng mộ lâu rồi. Vị

Tuệ Tịnh sư phụ này, ta đang muốn đi tìm đây, bây giờ gặp được nơi đây

thật là hay quá, hay thật là hay.

Huyền Nạn hơi nhíu mày nói:

- Nói ra quả thật xấu hổ, gã sư điệt Tuệ Tịnh của lão nạp đây, chỉ vì

bổn tự thiếu giáo huấn nên phạm nhiều thanh quy giới luật, hơn một năm

trước trốn ra khỏi chùa, làm nhiều điều ác. Phương trượng sư huynh của

tệ tự sai người đi khắp nơi tìm kiếm, chẳng dễ gì kiếm được y, bắt đem về

chùa. Đinh lão tiên sinh đã từng gặp y rồi ư?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Thì ra không phải y bị bệnh mà là bị người ta đả thương, thương thế

có nặng lắm không?

Huyền Nạn không trả lời, một hồi sau mới nói:

- Y không tuân theo pháp dụ của phương trượng, ngược lại còn ra tay

đánh người nữa.

Ông nghĩ thầm: Y kết giao với những loại tà ma ngoại đạo như

ngươi, lại phá thêm một đại giới nữa. Đinh Xuân Thu nói:

- Tại hạ ở núi Côn Lôn, tốn biết bao nhiêu tâm huyết mới bắt được

một con băng tàm, là một loại cực kỳ hữu dụng, ngờ đâu lại bị gã Tuệ

Tịnh sư điệt của đại sư ăn cắp mất. Tại hạ vạn lý xa xôi từ biển Tinh Tú

tới Trung Nguyên, chẳng qua cũng chỉ để lấy lại con băng tàm...

Y nói chưa dứt lời, Tuệ Tịnh đã kêu lên:

- Con băng tàm ư? Này, có phải ngươi trông thấy con băng tàm? Con

tằm đó ta khổ sở mới kiếm thấy được trong núi Côn Lôn... ngươi... ngươi

ăn trộm của ta phải không?

Từ khi Du Thản Chi tiến ra thì thầm, Phong Ba Ác chăm chăm nhìn

cái lồng trên đầu y, mắt láo liên, những gì Huyền Nạn, Đinh Xuân Thu

và nhà sư Tuệ Tịnh đối đáp y hoàn toàn không nghe gì cả. Y đi vòng

quanh Du Thản Chi mấy bận, thấy cái mặt nạ đúc thật khít khao, cứ đeo

mãi trên đầu không bỏ xuống, toan đưa tay ra ra gõ thử, lại coi thêm một

lát mới hỏi:

- Này bồ, khỏe chứ?

Du Thản Chi ấp úng:

- Tôi... tôi khỏe.

Y thấy Phong Ba Ác lúc nào cũng lanh chanh, tay chân không yên,

trong bụng cũng khiếp. Phong Ba Ác lại hỏi:

- Cái mặt nạ của bồ làm sao đúc được vậy? Tôi đi khắp nơi nhưng

chưa bao giờ thấy cái mặt nạ nào như vầy.

Du Thản Chi cực kỳ ngượng ngập, cúi đầu xuống nói:

- Hèm, tôi... tôi bị người ta ép buộc, không... không làm sao được.

Phong Ba Ác nghe y nói thấy thật đáng thương, giận dữ hỏi dồn:

- Sao có người chơi trò gì ác ôn vậy? Họ Phong muốn biết là đứa

nào.

Nói xong y liếc mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cho rằng đây là công trình

của lão già này. Du Thản Chi vội kêu:

- Không... không phải sư phụ tôi đâu.

Phong Ba Ác lại nói:

- Ai đời con người ta đang yên lành, nay đem nhốt trong cái mặt nạ

bằng sắt là sao? Lại đây, để ta tháo ra cho ngươi.

Y vừa nói vừa rút trong ống giày ra một con dao găm sáng quắc, đủ

biết cực kỳ sắc bén toan gỡ cái lồng sắt ra. Du Thản Chi biết rằng chiếc

mặt nạ này đã dính liền vào mặt mũi và sau đầu y, nếu cố tháo đi thì có

thể chết được vội vàng nói:

- Không, không tháo được đâu.

Phong Ba Ác đáp:

- Nhà ngươi chớ có sợ, thanh chủy thủ của ta gọt sắt như bùn, để ta

cắt cái mặt nạ, quyết không tổn thương thịt da đâu.

Du Thản Chi kêu lên:

- Không, không được.

Phong Ba Ác nói:

- Ngươi sợ người đội cho ngươi cái mũ sắt này, phải không nào? Kỳ

tới gặp lại y cứ nói là ta đây Nhất Trận Phong Phong Ba Ác tháo cho

ngươi đó, ngươi bị ta ép buộc nếu muốn gì cứ bảo ác nhân đó đi kiếm ta

là xong.

Y nói rồi liền chộp cổ tay Du Thản Chi. Du Thản Chi thấy con dao

găm trong tay y hàn quang lấp loáng, sợ quá quay đầu lại nhìn Đinh Xuân

Thu cầu cứu, kêu lên:

- Sư phụ, sư phụ!

Đinh Xuân Thu đứng ở bên cạnh chiếc cáng, đang khoái trá nhìn Tuệ

Tịnh, tiếng kêu của Du Thản Chi không nghe thấy. Phong Ba Ác giơ

chiếc dao lên toan cắt xuống chiếc mặt nạ. Du Thản Chi quýnh quáng,

tay phải đẩy đối phương ra nghe bịch một tiếng trúng ngay vai trái Phong

Ba Ác.

Phong Ba Ác đang hết sức chú tâm vào việc cắt chiếc mũ sắt, sợ lỡ

tay cắt không chuẩn, chạm vào mặt y, có ngờ đâu bất thần bị đánh một

chưởng. Thế đánh của chưởng đó vốn dĩ cực kỳ tầm thường, Phong Ba Ác

chỉ hự lên một tiếng, ngã sấp mặt xuống. Tay trái y chống xuống đất, đẩy

một cái nhảy vọt lên, ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người thấy Du

Thản Chi đột nhiên hạ độc thủ khiến người em kết nghĩa của mình bị hố

to, mặt trắng bệch, ba người không khỏi lo âu. Công Dã Can vội đưa tay

bắt mạch, thấy mạch dồn dập, xem chừng có dấu hiệu trúng độc liền chỉ

mặt Du Thản Chi mắng:

- Hảo tiểu tử, môn nhân Tinh Tú Lão Quái lấy oán báo đức, vừa ra

tay đã giở thủ đoạn tàn độc hại người.

Y vội lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp đổ ra một viên thuốc

giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác còn Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cùng lạng người xông ra chặn Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi. Bao

Bất Đồng ám vận nội kình vào tay trái, năm ngón tay thành trảo toan

chộp vào ngực gã đầu sắt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Tam đệ ngừng tay.

Bao Bất Đồng rụt tay lại không đánh ra, đưa mắt nhìn đại ca, Đặng

Bách Xuyên nói:

- Chúng ta nhà Mộ Dung và phái Tinh Tú không thù không oán, tứ

đệ chỉ vì long tốt muốn giúp y tháo cái mặt nạ ra, sao người của phái Tinh

Tú lại ra tay đả thương là sao? Việc này xin Đinh lão tiên sinh chỉ giáo.

Đinh Xuân Thu thấy gã học trò mới thu chỉ một chưởng đã đánh bại

một hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, đại hiển uy phong cho phái Tinh

Tú nên không khỏi đắc ý ngầm, càng thêm khát khao ham muốn con

băng tàm, mỉm cười nói:

- Vị Phong tứ gia kia hung hăng hiếu đấu, thích nhúng tay vào

chuyện đâu đâu. Người của phái Tinh Tú ta đội trên đầu mũ sắt hay mũ

đồng thì có liên quan gì đến nhà Mộ Dung Cô Tô nhỉ?

Lúc này Công Dã Can đã đỡ Phong Ba Ác ngồi lên, thấy y run lẩy

bẩy, răng đánh vào nhau kêu lách cách, chẳng khác gì rơi vào một hầm

băng, trong giây lát môi tím lại, sắc mặt từ trắng chuyển thành xanh. Giải

độc hoàn của Công Dã Can cực kỳ linh nghiệm nhưng Phong Ba Ác uống

rồi chỉ như hòn đá ném vào biển cả, không còn tung tích gì.

Công Dã Can nóng ruột, giơ tay thăm hơi thở y, đột nhiên một làn gió

thổi buốt thấu xương vào gan bàn tay. Công Dã Can vội vàng rụt tay về

kêu lên:

- Không xong, sao lại lạnh đến thế này?

Y nghĩ thầm hơi trong miệng thở ra đã lạnh đến thế, ắt hẳn hàn độc

trong người phải ghê gớm đến chừng nào. Trong tình thế nguy cấp làm

vậy, không kịp nói chuyện phải quấy, y đành quay sang nói với Đinh

Xuân Thu:

- Người em kết nghĩa của tôi trúng phải độc thủ của đệ tử tiên sinh,

làm ơn ban cho thuốc giải.

Độc tính Phong Ba Ác trúng phải là do nội công Dịch Cân Kinh của

Du Thản Chi dồn chất kịch độc của con băng tàm ra, chẳng nói Đinh

Xuân Thu không có thuốc giải, mà dẫu có giải dược y cũng đời nào chịu

cho? Y ngửng đầu cười ha hả, niệm lớn:

- A ô lục lỗ cộng! A ô lục lỗ cộng!

Tay áo bào phất một cái, một luồng gió xoáy tung ra. Các đệ tử phái

Tinh Tú lập tức cả bọn chạy ra khỏi lương đình, chạy bay chạy biến. Bọn

Đặng Bách Xuyên và tăng chúng Thiếu Lâm biết tay áo y có chứa độc

phấn, thấy cơn gió lốc này như chọc vào mắt, thật là khó chịu, nước mắt

nước mũi ràn rụa, mở mắt không nổi kêu thầm: Không xong rồi!.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng

xông tới chặn trước mặt Phong Ba Ác, sợ rằng đối phương thừa cơ hạ độc

thủ. Huyền Nạn nhắm mắt đánh ra một chưởng, trúng ngay cây cột của

tòa lương đình, lập tức gãy đôi, lắc rắc mấy tiếng một bên căn nhà mát

liền nghiêng xuống, ngói đất đổ xuống ào ào. Đến khi mọi người mở

được mắt ra, Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đã chạy đâu mất.

Mấy nhà sư Thiếu Lâm kêu lên:

- Tuệ Tịnh đâu rồi? Tuệ Tịnh đâu rồi?

Thì ra nhân lúc hỗn loạn, Tuệ Tịnh đã bị Đinh Xuân Thu bắt đi mất

rồi, chiếc cáng chụp lên đầu một nhà sư. Huyền Thống giận dữ quát lớn:

- Đuổi theo!

Ông phi thân chạy ra khỏi lương đình, Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cũng vội theo, Huyền Nạn phất tay một cái cùng các đệ tử đi sau

tiếp viện. Công Dã Can ở lại nửa mái đình còn chưa sụp lo cho nghĩa đệ

nhưng mắt cũng đau buốt, nước mắt ràn rụa. Phong Ba Ác trán toát mồ

hôi, chỉ trong giây lát liền đóng thành sương. Công Dã Can còn đang

hoang mang bỗng nghe tiếng chân người, ngẩng lên thấy Đặng Bách

Xuyên bế Bao Bất Đồng đang rảo bước quay về. Y kinh hoảng không sao

kể xiết, kêu lên:

- Đại ca, tam đệ cũng bị thương nữa ư?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Lại trúng phải độc thủ của tên đầu sắt.

Kế đó Huyền Nạn cũng dẫn quần tăng trở lại lương đình. Huyền

Thống nằm phục trên lưng Huyền Từ, lạnh run cầm cập, hai hàm răng

kêu lách cách. Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can ai nấy

bần thần. Đặng Bách Xuyên nói:

- Gã đầu sắt cùng tam đệ đối một chưởng, sau đó y lại cùng Huyền

Thống đại sư đánh một chưởng nữa. Có ngờ đâu... có ngờ đâu hàn độc

chưởng của phái Tinh Tú lại ghê gớm đến thế.

Huyền Nạn lấy trong túi ra một cái hộp gỗ nhỏ nói:

- Lục Dương Chính Khí Đơn của tệ phái có chút công hiệu khắc chế

hàn độc.

Ông mở nắp lấy ra ba viên thuốc đỏ chon chót, đưa cho Đặng Bách

Xuyên hai viên, còn viên thứ ba giao cho Huyền Thống. Sau chừng một

bữa cơm, cơn lạnh của ba người thấy đỡ. Bao Bất Đồng ngoạc mồm ra

chửi:

- Gã đầu sắt kia, con... con mẹ nó chứ, chưởng lực đó là cái gì thế?

Đặng Bách Xuyên vội khuyên:

- Tam đệ, để sau này chửi cũng không muộn, ngươi nên ngồi xuống

hành công đi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Giờ này không chửi, đợi đến khi ô hô

ai tai rồi thì đâu còn chửi gì được nữa.

Đặng Bách Xuyên mỉm cười nói:

- Chớ có lo, không chết đâu mà sợ.

Nói xong đưa bàn tay đè vào huyệt Chí Dương ở sau lưng y, dùng nội

lực giúp y khu trừ hàn độc. Công Dã Can và Huyền Nạn cũng chia ra

giúp cho Phong Ba Ác và Huyền Thống hai người.

Huyền Nạn, Huyền Thống hai người nội lực thâm hậu, chỉ một lát,

Huyền Thống đã thở một hơi dài nói:

- Khỏe rồi!

Ông đứng lên nói tiếp:

- Lợi hại thật!

Huyền Nạn có bụng muốn giúp cho Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai

người trừ hàn độc có điều bên kia chưa lên tiếng yêu cầu, mình tự ý đưa

ra không khỏi coi họ nội công không đủ, trong võ lâm chuyện đó là điều

cấm kỵ.

Đột nhiên Huyền Thống lảo đảo mấy cái, hai hàm răng gõ vào nhau

kêu lách cách, vội vàng ngồi xuống hành công, nói:

- Sư... sư huynh, cái thứ... cái thứ hàn độc này... thật là quái dị...

Huyền Nạn vội vàng vận công tương trợ. Ba người liên tục hành công

nhưng thân thể chỉ dễ chịu được một chút rồi lại phát tác, cho đến khi

chiều tối, mỗi người uống ba viên Lục Dương Chính Khí Đơn mà hàn khí

không thấy bớt chút nào. Huyền Nạn chỉ mang theo mười viên đan dược,

bây giờ còn một viên, đành chia làm ba, đưa cho mỗi người một phần.

Bao Bất Đồng nhất định không uống nói:

- E rằng có uống đến một trăm viên, cũng... cũng chẳng đến đâu...

Huyền Nạn bó tay không còn cách nào khác bèn nói:

- Lời của Bao thí chủ đúng lắm, loại thuốc Lục Dương Chính Khí

Đơn này trị không đúng bệnh mà nội công của chúng ta cũng không đối

phó nổi với môn âm độc này. Lão nạp nghĩ chỉ còn một cách là đi tìm

Tiết Thần Y nhờ chữa cho, không biết bốn vị nghĩ sao?

Đặng Bách Xuyên mừng rỡ nói:

- Đã từng nghe Tiết Thần Y được người đời gọi là Diêm Vương Địch,

dù bệnh nặng cỡ nào ông ta đều có thể chữa khỏi. Đại sư có biết vị thần y

này ở đâu không?

Huyền Nạn nói:

- Tiết Thần Y nhà ở Liễu Tông Trấn, phía tây thành Lạc Dương từ

đây đến đó cũng không xa lắm. Ông ta với lão nạp có duyên gặp gỡ mấy

lần, nếu đến xin chữa trị, có lẽ không chối từ đâu.

Ông lại tiếp:

- Nhà Mộ Dung Cô Tô danh mãn thiên hạ, Tiết Thần Y xưa nay vẫn

ngưỡng mộ, nay có cơ duyên làm bạn với bốn vị anh hùng, ông ta chắc

cũng vui vẻ lắm.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiết Thần Y thấy bọn ta đến cửa chắc

là không vui vẻ gì. Có điều trong võ lâm ai ai cũng ghét cái môn dĩ bỉ

chi đạo hoàn thi bỉ thân của công tử chúng tôi, riêng có Tiết Thần Y là

không sợ. Mai này ví thử y có... mệnh hệ gì, thì chỉ cần đến cầu công tử

gia chúng tôi dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân, thế là... thế là cái mạng

già... của y có cơ cứu được.

Mọi người ai nấy cười ha hả, lập tức đi ra khỏi đình. Đến thị trấn

trước mặt họ liền mướn ba cỗ xe cho ba người bị thương nằm dưỡng bệnh.

Đặng Bách Xuyên lấy tiền mua thêm mấy con ngựa cho những nhà sư

Thiếu Lâm cưỡi.

Đoàn người cứ đi chừng hai ba giờ thì lại ngừng để trợ giúp ba người

bị thương kháng ngự hàn độc. Đến sau Huyền Nạn không còn tị hiềm gì,

dùng Thiếu Lâm thần công tương trợ Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác. Nơi

đây tuy chỉ cách Liễu Tông Trấn vài trăm dặm đường nhưng đường núi

gập ghềnh, lại phải ngừng luôn, nên đến chiều ngày thứ tư mới đến nơi.

Tiết Thần Y ở trong núi sâu cách Liễu Tông Trấn ba mươi dặm về

phía bắc, cũng may hôm ở Tụ Hiền Trang ông ta đã chỉ vẽ cho Huyền

Nạn rõ ràng đường đi nước bước nên không mất công dò hỏi, đã đến

trước cửa nhà Tiết Thần Y.

Huyền Nạn trông thấy bên cạnh giòng sông nhỏ mấy gian nhà lớn,

tường trắng ngói đen, đằng trước là một vườn cây thuốc rộng, biết ngay là

nơi ở của Tiết Thần Y. Ông giục ngựa chạy đến gần, từ xa đã thấy trước

cửa nhà treo hai chiếc lồng đèn bằng giấy trắng, hơi kinh hãi: Nhà họ

Tiết có bệnh nhân nào trị không được hay sao?. Đi thêm vài trượng nữa,

thấy trên ngạch cửa có đóng mấy vuông vải gai, bên cạnh cửa có mấy cột

phướn chiêu hồn, quả đúng là trong nhà có người chết. Lại thấy trên đèn

lồng viết hai hàng chữ đen:

Tiết Công Mộ Hoa chi tang, hưởng niên ngũ thập ngũ tuế17

Huyền Nạn hoảng hốt: Tiết Thần Y không chữa nổi cho mình, nay

chết mất rồi, thật là bất hạnh làm sao. Nghĩ đến cố nhân nay đã qui tiên,

âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi thương cảm. Vừa lúc đó Đặng

Bách Xuyên và Công Dã Can cũng đã tới nơi, hai người cùng kêu lên:

- Chao ôi!

Bỗng nghe trong nhà có tiếng đàn bà khóc vang lên:

- Ông ơi là ông ơi! Ông y thuật như thần, có ngờ đâu bất ngờ bị bệnh,

bỏ chúng tôi mà đi. Ông ơi! Ông xưng là Diêm Vương Địch, vậy mà sau

cùng cũng không thắng nổi Diêm Vương, e rằng khi xuống cõi âm, Diêm

Vương thể nào cũng đòi nợ cũ, hành hạ khổ sở lắm ông ơi!

Chẳng bao lâu ba cỗ xe và sáu nhà sư Thiếu Lâm trước sau cũng đến.

Đặng Bách Xuyên nhảy xuống ngựa, lớn tiếng nói:

- Thiếu Lâm Tự Huyền Nạn đại sư cùng bè bạn, có việc đặc biệt đến

cầu Tiết Thần Y.

Tiếng của y vang vang như chuông, tiếng khóc trong nhà liền ngưng

bặt. Một lúc sau, một ông già đi ra, ăn mặc theo lối đầy tớ, trên mặt còn

hoen ngấn lệ, sụt sùi cực kỳ thương tâm, đấm ngực nói:

- Lão gia qua đời xế trưa hôm qua, các ông ... các ông không gặp

được nữa rồi.

Huyền Nạn chắp tay hỏi lại:

- Tiết tiên sinh mắc phải chứng bệnh gì mà qua đời?

Người lão bộc khóc nói:

- Cũng chẳng biết bệnh gì nữa, đột nhiên thở hắt ra rồi chết. Lão gia

xưa nay thân thể khang kiện, tuổi cũng chưa già, có ai ngờ nổi. Lão nhân

gia đi trị bệnh cho người ta, bệnh nào cũng khỏi, vậy mà ... vậy mà bệnh

chính mình ...

Huyền Nạn lại gặng thêm:

- Tiết tiên sinh trong nhà còn những ai?

Người đầy tớ già nói:

- Chẳng còn ai cả, không còn một người nào.

Công Dã Can và Đặng Bách Xuyên hai người đưa mắt nhìn nhau,

cùng ngầm thấy người lão bộc này nói mấy câu đó có phần không thành

thực, huống chi vừa mới rồi ai cũng nghe tiếng đàn bà khóc. Huyền Nạn

thở dài nói:

- Chết sống đều có mạng, nếu đã thế thì cho chúng tôi tới trước linh

vị người bạn cũ lạy một lạy.

Người lão bộc ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ... vâng vâng!

Y dẫn mọi người vào trong cửa chính. Công Dã Can đi sau một bước

ghé tai hỏi nhỏ Đặng Bách Xuyên:

- Đại ca, tiểu đệ xem chừng có điều gì không minh bạch, tên lão bộc

này dường như ra chiều ỡm ờ.

Đặng Bách Xuyên gật đầu, đi theo tên đầy tớ tới linh đường. Linh

đường trần thiết sơ sài, mọi thứ còn chưa đầy đủ, trên linh bài có viết:

Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị

Mấy chữ đó nét bút cứng cỏi, hiển nhiên là thủ thư của một tay túc

học, quyết không phải tên lão bộc này viết được. Công Dã Can xem

nhưng không nói gì. Mọi người hành lễ trước linh vị, Công Dã Can quay

đầu lại thấy nơi sân trong có đến mươi món quần áo phơi trên sào tre, áo

đàn bà cũng có, lại cả quần áo trẻ con nam nữ, nghĩ bụng: Tiết Thần Y

rõ ràng có thân quyến, sao lão bộc này lại bảo là chẳng còn ai?.

Huyền Nạn nói:

- Chúng tôi từ xa xôi đến đây để cầu Tiết Thần Y trị bệnh, có ngờ

đâu Tiết tiên sinh lại đã tiên du, khiến cho không khỏi đau lòng. Trời

cũng tối rồi, đêm nay cho ở lại quí phủ qua đêm.

Người lão bộc xem chừng khó xử nói:

- Cái đó ... cái đó ... thôi, cũng được! Mời chư vị ngồi nghỉ ngoài

sảnh đường, tiểu nhân đi lo cơm nước.

Huyền Nạn nói:

- Quản gia chẳng cần phải lo lắng nhiều, cơm với chút rau dưa là

được rồi.

Người lão bộc đáp:

- Vâng! Vâng! Mời quí vị ngồi nghỉ.

Y dẫn mọi người ra ngoài sảnh đường rồi quay vào trong. Một hồi

lâu, người gia nhân đó vẫn không thấy đem trà ra, Huyền Nạn nghĩ thầm:

Người lão bộc này chủ mới chết, hồn vía để đâu đâu. Ôi! Huyền Thống

sư đệ trúng phải hàn độc, không biết phải làm sao đây?. Mọi người đợi

đến hơn nửa giờ, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đầy tớ già đâu.

Bao Bất Đồng nóng ruột nói:

- Để ta đi kiếm chút nước uống!

Hư Trúc nói:

- Bao tiên sinh, xin ông ngồi nghỉ. Để tiểu tăng đi xuống giúp người

lão bộc nấu nước.

Y đứng lên đi vào nội đường. Công Dã Can cũng muốn quan sát động

tĩnh trong nhà họ Tiết bèn nói:

- Để ta đi với tiểu sư phụ.

Hai người đi ra phía sau nhà, phòng ốc nhà họ Tiết không phải là ít,

trước sau cả thảy năm dãy, nhưng bên trong bên ngoài không thấy một

bóng người. Hai người tìm được nhà bếp nhưng cũng không thấy người

lão bộc đâu.

Công Dã Can biết có chuyện khác thường, rảo bước quay trở về sảnh

nói:

- Nhà này xem chừng không ổn, Tiết Thần Y có thể chỉ giả chết thôi.

Huyền Nạn đứng lên lạ lùng hỏi:

- Sao thế?

Công Dã Can đáp:

- Đại sư, tại hạ nghĩ mình nên đến xem cỗ quan tài.

Y chạy vào linh đường, giơ tay toan nhắc chiếc hòm, đột nhiên chợt

nghĩ ra, rút tay về, lấy ở ngoài sân một chiếc áo dài đang phơi, lót vào

tay. Phong Ba Ác nói:

- Sợ trên quan tài có độc ư?

Công Dã Can đáp:

- Lòng người khó lường, không thể không đề phòng.

Y vận kình nhắc chiếc quan tài lên, thấy cực kỳ trầm trọng, bên trong

nhất định không phải chỉ là một xác người bèn nói:

- Tiết Thần Y quả nhiên giả chết.

Phong Ba Ác rút đơn đao nói:

- Bẩy nắp hòm ra xem sao.

Công Dã Can nói:

- Người này được gọi là thần y, hẳn cũng giỏi sử dụng thuốc độc, tứ

đệ phải cẩn thận.

Phong Ba Ác đáp:

- Tiểu đệ biết rồi.

Y luồn mũi đao vào khe quan tài ấn xuống, nghe tiếng ken két nắp

hòm từ từ bật lên. Phong Ba Ác nín thở, sợ trong quan tài có phấn độc bay

ra. Bao Bất Đồng nhảy ra sân chộp hai con gà mái đang tìm giun bắt dế ở

dưới gốc quế, đem vào linh đường, vung tay ném hai con gà qua ngang

quan tài. Hai con gà kêu quang quác, đáp xuống trước linh tòa, rồi chạy

ra ngoài thiên tỉnh nhưng chỉ được mấy bước, đột nhiên ngã chổng cẳng,

hai chân dãy mấy cái rồi nằm chết đứ đừ. Vừa lúc đó trong hiên nhà một

luồng gió lạnh thổi qua, những chiếc lông trên mình hai con gà lập tức

bay lên phơi phới. Mọi người thấy thế ai nấy kinh hãi, hai con gà vừa

trúng độc chết mà bao nhiêu lông đã rụng sạch, đủ biết độc tính mạnh là

dường nào khiến cho không ai còn dám đến gần chiếc quan tài nữa.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ thử xem thế này là cớ gì? Tiết Thần Y quả thực trá tử

hay sao?

Ông vừa nói vừa nhún mình nhảy lên, tay trái chộp lấy xà ngang, nhìn

vào trong quan tài, thấy bên trong đầy những đá tảng, giữa những cục đá

là một bát lớn đựng đầy nước. Nước ở trong bát hiển nhiên phải là thuốc

độc. Huyền Nạn lắc đầu, buông mình nhảy xuống nói:

- Tiết thí chủ nếu không muốn trị thương, việc gì phải bố trí cơ quan

độc địa như thế này để hãm hại chúng ta. Phái Thiếu Lâm với y không

thù không oán, làm như thế không vô lý quá hay sao? Không lẽ ... không

lẽ ...

Ông ta nhắc lại hai chữ không lẽ rồi lặng thinh, trong lòng nghĩ

thầm: Không lẽ ông ta có thù oán sâu xa với họ Cô Tô Mộ Dung

chăng?. Bao Bất Đồng nói:

- Đại sư chớ có nghĩ ngợi lăng nhăng, Mộ Dung công tử và Tiết Thần

Y xưa nay chưa biết nhau, cũng không thù oán. Nếu như hai bên có

chuyện gì, bọn chúng tôi dù có phải đau đớn gấp mười chăng nữa, cũng

không bao giờ lại hạ mình đi nhờ kẻ thù chữa trị cho đâu. Đại sư coi họ

Bao, họ Phong là người hèn hạ, vô tư cách chăng?

Huyền Nạn chắp tay nói:

- Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng quả đoán sằng đoán bậy.

Ông ta là bậc cao tăng hữu đạo, trong bụng đã nghĩ như thế tuy chưa

nói ra lời nhưng cũng nhận là mình quấy. Đặng Bách Xuyên nói:

- Nơi đây độc khí cực thịnh, không nên rốn lại lâu, mình ra tiền sảnh

ngồi nghỉ.

Tất cả mọi người ra đến bên ngoài, người bàn thế này kẻ nói thế

khác nhưng cũng không ai đoán được tại sao Tiết Thần Y giả chết rồi bố

trí cơ quan giăng bẫy. Bao Bất Đồng nói:

- Gã Tiết Thần Y quả thật đáng ghét, mình cho một mồi lửa đốt rụi

cái tổ quỉ của lão đi.

Đặng Bách Xuyên ngăn lại:

- Ấy chết, không được đâu, dẫu sao Tiết tiên sinh cũng là một bằng

hữu của phái Thiếu Lâm, chúng ta phải nể kim diện Huyền Nạn đại sư

chớ có hồ đồ.

Lúc đó trời đã tối hoẳn, trong sảnh lại không đèn đóm gì, ai nấy vừa

đói vừa khát nhưng chẳng ai dám đụng chạm đến một ngụm nước, một ly

trà trong nhà. Huyền Nạn nói:

- Hay là chúng mình đi ra, tìm một nhà nông nào ở quanh đây xin

ngụm nước bữa cơm, Đặng thí chủ nghĩ thế nào?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Đúng đó. Thế nhưng chung quanh ba chục dặm tốt hơn hết không

nên ăn uống gì. Thầy lang họ Tiết này mưu kế lắm, quyết chẳng phải chỉ

sắp xếp một cỗ quan tài là xong đâu, nếu như các vị đại sư có chuyện gì,

anh em chúng tôi thật là ân hận.

Y và Công Dã Can tuy chưa biết rõ nguyên ủy ra sao nhưng cũng cho

rằng cái tiếng dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung quá vang

dội, trên giang hồ kết biết bao nỗi oan cừu, có lẽ Tiết Thần Y có thân

bằng quyến thuộc bị hại, mối hận này đổ cả lên đầu nhà Cô Tô Mộ

Dung.

Mọi người đứng lên, đi ra cửa chính, đột nhiên trên bầu trời phía tây

bắc có ánh sáng lóe lên, kế đó một đốm lửa đỏ nổ tung ra, lập tức

chuyển sang màu lục thật chẳng khác gì mưa hoa đầy trời, lả tả rơi xuống

cực kỳ diễm ảo. Phong Ba Ác nói:

- Ồ, ai đốt pháo bông kìa!

Lúc đó không phải tiết Nguyên Tiêu, cũng chẳng phải Trung Thu, sao

lại có người đốt pháo bông18 nhỉ? Chẳng mấy chốc, lại có một chiếc pháo

bông màu vàng bay vút lên không, nở ra muôn vạn đóa sao băng, đụng

chạm lẫn nhau.

Công Dã Can chợt nghĩ ra, nói:

- Đây không phải pháo bông đâu, mà là tín hiệu của kẻ địch kéo đến

tấn công đó.

Phong Ba Ác kêu lên:

- Thế thì hay lắm! Đánh một trận cho sướng tay.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tam đệ, tứ đệ, các ngươi vào trong sảnh canh chừng, ta chặn phía

trước mặt, nhị đệ đoạn hậu. Huyền Nạn đại sư, việc này không liên quan

gì đến phái Thiếu Lâm, xin quí vị cứ dựa lưng vào tường đứng coi, miễn

là đừng giúp bên nào, nhà Mộ Dung thâm cảm đại đức.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ sao lại nói thế? Nếu kẻ địch đến tấn công có thù oán

với chư vị thì phải trái ngay gian, chúng tôi sẽ theo công tâm mà xử,

không để cho họ thừa gió bẻ măng, cậy đông đánh ít. Nếu đúng là cùng

bọn với Tiết Thần Y, lén lút bố trí hầm bẫy để làm hại người thì các vị

với chúng tôi cũng cùng chung cừu địch, lẽ nào lại tụ thủ bàng quan? Này

các tì khưu19, chuẩn bị nghinh địch.

Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc cùng lớn tiếng đáp lời. Huyền Thống nói:

- Đặng thí chủ, lão nạp với hai vị sư đệ của thí chủ đồng bệnh tương

lân20 lẽ dĩ nhiên phải cùng nắm tay nhau mà kháng địch.

Còn đang nói chuyện, lại có thêm hai chiếc pháo bông nữa bắn thẳng

lên trời, lần này xem chừng gần hơn. Một hồi nữa, lại có thêm hai cái

pháo bông khác, trước sau như thế là sáu cái rồi. Mỗi chiếc pháo bông

màu sắc hình dáng không giống nhau, có cái giống như một cái bút thật

lớn, có cái thì vuông vức bốn bề, tông như một bàn cờ, cái thì lại giống

hình một chiếc đại phủ, có cái lại giống như một bông hoa mẫu đơn to.

Sau đó bầu trời lại tối đen như mực.

Huyền Nạn ra lệnh cho sáu đệ tử Thiếu Lâm canh chừng bốn phía

nhưng một hồi lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Ai nấy ngưng thần nín

thở, lại sau chừng một bữa ăn nữa, bỗng nghe phía đông có tiếng đàn bà

hát lên rằng:

Lông mày luống tỉa đã bao nhiêu,

Phấn nhạt hoen màu lệ nhỏ tiêu.

Đong đưa biếng chải thêm hờ hững,

Ngọc lấp sao đầy nỗi tịch liêu? 21

Giọng ca dịu dàng uyển chuyển đầy vẻ u oán thê lương. Giọng người

đó vừa hát xong một khúc, lập tức chuyển qua giọng nam rằng:

- Chao ôi ái khanh đấy ư? Quả nhân đã lâu lắm không được gặp

nàng, trong lòng thương nhớ xiết bao. Đây ta ban cho nàng một đấu trân

châu, khanh gia mau nhận lấy.

Người đó nói xong, lại chuyển qua giọng nữ:

- Bệ hạ đã có Dương phi bầu bạn, đến buổi chầu sớm cũng chẳng ra,

còn hơi đâu mà nhớ đến thần thiếp con người bạc mệnh này, than ôi ....

Nói tới đây liền cất tiếng khóc thút thít. Các nhà sư Thiếu Lâm không

biết việc đời, không hiểu sao người này lúc thì là nam, lúc lại là nữ, làm

trò quỉ quái gì đây, chỉ thấy nghe rồi trong lòng cực kỳ buồn bã. Bọn

Đặng Bách Xuyên thì biết người này đang diễn tích Đường Minh Hoàng22

và Mai Phi, khi thì đóng vai Mai Phi lúc lại đóng vai Đường Minh Hoàng,

giọng điệu thanh âm giống hệt, sao lại có người khéo đến thế, ai nấy

trong lòng rộn ràng, không hiểu có dụng ý gì.

Lại nghe người đó tiếp tục:

- Ái phi chớ nên khóc lóc, mau mau dọn yến tiệc ra. Nàng thổi tiêu,

quả nhân sẽ ca một khúc để giải sầu cho ái khanh.

Người kia lại chuyển qua giọng đàn bà nói:

- Tiện thiếp ngày ngày chảy nước mắt ra rửa mặt, chỉ mong được gặp

lại đấng quân vương một lần thôi. Hôm nay được toại nguyện rồi, dẫu có

chết cũng đành nhắm mắt ... hu hu ...hu hu ...

Bao Bất Đồng lớn tiếng nhại lại:

- Cô vương là An Lộc Sơn đây. Này vua nhà Đường Lý Long Cơ ơi,

ngươi là một gã hồ đồ, mau giao Dương Ngọc Hoàn ra cho ta.

Người bên ngoài kêu A lên một tiếng dường như kinh hãi đang

khóc lập tức im bặt. Chỉ trong giây lát, chung quanh bốn bề lặng như tờ.

datlucky_way

23-07-2009 03:04 PM

Hồi 30(a) : HUY SÁI PHỌC HÀO ANH 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Bề ngoài phiêu dật tiêu dao,

Ra tay một mẻ ai nào thoát đâu.

Gặp khi tụ hội anh hào,

Tâm cơ bố trí cũng sao cho vừa.

*

* *

Một hồi sau, mọi người bỗng ngửi thấy một mùi hương thơm thoang

thoảng, Huyền Nạn kêu lên:

- Địch nhân phóng độc, mau nín thở, ngửi thuốc giải ngay.

Thế nhưng một hồi lâu không thấy có gì khác thường, ngược lại đầu

óc tỉnh táo, dường như mùi hoa thơm không có chất độc gì cả. Người ở

bên ngoài nói:

- Thất tỉ đến đấy ư? Trong nhà ngũ ca có một quái nhân, dám tự

xưng là An Lộc Sơn.

Có tiếng đàn bà đáp:

- Chỉ riêng đại ca là chưa đến. Nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ,

tất cả cùng ra mặt đi thôi.

Bà ta vừa dứt lời bên ngoài cửa đột nhiên sáng lòa, ánh sáng kỳ dị

chiếu vào năm người đàn ông, một người đàn bà. Một ông già râu đen

lớn tiếng nói:

- Lão ngũ, sao chưa chịu ra?

Trong tay ông ta cầm một phiến gỗ hình vuông, người đàn bà là một

mỹ phụ trung niên, trong bốn người còn lại hai người ăn mặc theo lối

nho sinh, một người trông như thợ mộc, tay cầm búa ngắn, vai đeo cưa.

Còn một người mặt xanh nanh vàng, tóc đỏ râu xanh, hình dáng thật là

dữ dằn dễ sợ như yêu quái, trên người mặc cẩm bào sáng lấp lánh.

Đặng Bách Xuyên chăm chú nhìn, biết ngay là mặt người đó vẽ

bằng màu chứ không phải có dị tướng, y ăn mặc chẳng khác gì một

phường tuồng trên sân khấu, người vừa mới đóng cả hai vai Đường

Minh Hoàng lẫn Mai Phi hẳn phải là y bèn lớn tiếng nói:

- Xin hỏi tôn tính đại danh của chư vị, tại hạ là Đặng Bách Xuyên,

môn hạ nhà Cô Tô Mộ Dung.

Bên kia còn chưa kịp trả lời, từ trong đại sảnh một bóng đen đã lao

ra, ánh đao lấp loáng, nhắm ngay người kép hát chém liên tiếp bảy

nhát liền, chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Người kép hát kia

không kịp đề phòng, né đông tránh tây, tình thế cực kỳ luống cuống.

Bỗng nghe y hát rằng:

Khí cao ngất trời chừ ... sức bạt núi

Thời thôi chẳng còn chừ ... ngựa chồn chân

Ngựa chồn chân chừ ... đành ...Thế nhưng thế công của Phong Ba Ác thật gấp gáp, câu thứ ba y hát

chưa hết thì không còn tiếp được nữa. Người râu đen liền mắng:

- Hán tử kia quả thực vô lý, vừa xông lên đã chém ngang chém

dọc, hãy nếm một chiêu Đại Thiết Võngcủa ta nào!

Chiếc bản vuông trong tay y liền vung ra, nhắm ngay đầu Phong Ba

Ác đập xuống. Phong Ba Ác trong bụng nhủ thầm: “Ta xưa nay đánh

nhau hàng mấy trăm trận lớn nhỏ nhưng chưa thấy ai dùng một phiến

gỗ vuông làm khí giới bao giờ”. Đơn đao y liền vung lên chém xuống

bản gỗ. Nghe keng một tiếng, lưỡi đao đụng phải cạnh phiến gỗ, nhưng

phiến gỗ không hề suy suyển, thì ra phiến vuông đó trông tưởng bằng

gỗ nhưng lại bằng thép, bên ngoài sơn giả như thớ gỗ mà thôi.

Phong Ba Ác lập tức thu đao, đang định chuyển thế chém tiếp ngờ

đâu cánh tay giựt lại nhưng đơn đao không kéo về được, lưỡi đao đã bị

thiết bản hút dính cứng. Phong Ba Ác hoảng hồn, vận kình giựt lại, lúc

ấy mới tách được đơn đao khỏi bản thép, quát lên:

- Thật là tà môn! Cái bửng sắt của ngươi làm bằng từ thiết phải

không?

Người kia cười đáp:

- Xin lỗi! Đây là món kiếm cơm của lão phu mà.

Phong Ba Ác trong một thoáng đã nhìn thấy trên phiến sắt đường

dọc, đường ngang rất nhiều vạch thẳng, hóa ra đó là một bàn cờ vâybèn nói:

- Lạ lùng thật! Để ta đấu với ngươi.

Y tiến đao như gió, càng đánh càng nhanh, có điều lưỡi đao không

dám để chạm vào bàn cờ bằng nam châm kia. Người kép hát thở hắt ra

một hơi, cất giọng ồm ồm hát:

Ngựa chồn chân chừ ... đành chịu vậy

Ngu Cơ nàng ơi chừ ... biết cho chăng?Đột nhiên y chuyển sang giọng đàn bà, õng ẹo ỏn thót:

Đại vương ơi! Chớ có ưu phiền,

Trận Cai Hạ hôm nay bất lợi.

Tiện thiếp sẽ một lòng một dạ,

Cùng chàng giục ngựa phá trùng vi.

Bao Bất Đồng quát lên:

Sớm biết phận hãy mau mau tự sát.

Mụ Ngu Cơ vợ Sở Bá Vương ơi,

Đừng để mỗ phải ra tay tru diệt,

Hàn Tín này có giết cũng hoài hơi.

Y tung mình nhảy ra vươn tay chộp vào vai gã kép hát. Người đóng

trò hạ vai xuống tránh qua hát tiếp:

Gió bão bùng chừ ... mây vần vũ

Không lẽ ...

- Ối chao, ta là Hán Cao Tổ giết Hàn Tín đây.

Y đưa tay mò vào thắt lưng lấy ra một cây nhuyễn tiên, soạt một

tiếng đã nhắm vào Bao Bất Đồng đánh tới. Huyền Nạn thấy mấy người

này đánh nhau tưởng như trò trẻ nhưng hai bên võ công đều cao cường,

mình chẳng biết lai lịch đối phương là ai, ông hơi nhíu mày, quát lên:

- Chư vị tạm ngừng tay, trước hết hỏi cho minh bạch đã.

Thế nhưng muốn Phong Ba Ác ngừng đấu thì quả là khó khăn vô

cùng, y biết rằng bị trùng phải hàn độc rồi, thể lực kém xa bình thường,

nhưng hàn độc tùy thời mà phát, cực kỳ nguy hiểm, thành thử thanh

đơn đao của y múa như gió táp mưa sa, mong thắng đối phương càng

sớm càng tốt.

Trong tiếng người hò hét giao đấu, đại sảnh lại xuất hiện thêm một

người, loảng xoảng loảng xoảng, hai thanh giới đao chạm nhau cực kỳ

uy phong, chính là Huyền Thống. Ông quát lớn:

- Bọn chúng bay là đám gian đồ bày độc kế hại người, hôm nay

lão tăng đại khai sát giới.

Ông suốt mấy hôm nay bị hàn độc hành hạ, tức tối không có chỗ

phát tiết, lúc này chẳng cần hỏi han gì nữa, song đao vung tới chém hai

người ăn mặc theo lối nho sinh kia. Một người né qua tránh được, còn

người kia thò tay vào túi, lấy ra một món binh khí hình phán quan bút,

thi triển tiểu xảo công phu đấu với Huyền Thống.

Người nho sinh kia lắc đầu chép miệng:

- Lạ thật! Người xuất gia sao nóng tính đến thế, không biết thế thì

tu ở chỗ nào?

Y cũng thò tay vào túi mò mò, thảng thốt kêu lên:

- Ủa, đâu mất rồi?

Y hết thò tay vào túi bên phải, lại mò vào túi bên trái, rũ rũ tay áo,

vỗ vỗ trên ngực, nhưng không cách nào tìm ra. Hư Trúc nổi tính hiếu

kỳ, hỏi:

- Thí chủ kiếm gì đó?

Nho sinh kia đáp:

- Vị đại hòa thượng này võ công cao cường quá, người anh em ta

đánh không lại nên ta muốn lấy binh khí ra để lấy hai đánh một, ủa, lạ

nhỉ, binh khí của ta đâu mất rồi?

Y gõ gõ trên trán, cố gắng nhớ lại, Hư Trúc nhịn không nổi cười bật

lên một tiếng nghĩ thầm: “Ra trận muốn đánh nhau mà lại quên không

biết để binh khí chỗ nào quả là thú vị”. Y bèn hỏi:

- Thí chủ dùng binh khí gì thế?

Nho sinh đáp:

- Người quân tử tiên lễ hậu binh, binh khí thứ nhất của ta là một

bộ sách.

Hư Trúc hỏi:

- Sách gì thế? Võ công bí quyết chăng?

Nho sinh đáp:

- Không phải, không phải. Đó là bộ Luận Ngữ . Ta muốn đem lời

của thánh nhân ra cảm hóa đối phương.

Bao Bất Đồng liền chen vào:

- Ngươi là học trò, đến Luận Ngữ cũng không thuộc, thì còn học

với hành gì?

Nho sinh đáp:

- Lão huynh mới chỉ biết một mà không biết hai. Nói đến Luận

Ngữ, Mạnh Tử, Xuân Thu, Thi Kinh thì ta thuộc như cháo chảy, có điều

đối phương là đệ tử Phật môn, đọc kinh thì nhiều nhưng sách vở nhà

nho chắc gì đã đọc, ta có nói ra, nếu như y không biết thì cũng vô ích

thôi! Thành thử ta muốn đem sách giở cho y xem, y mới không cãi

chầy cãi cối được, thế mới hiệu quả. Người đời thường bảo, nói phải có

sách, mách phải có chứng.

Y vừa nói vừa mầy mò khắp người để kiếm cuốn sách. Bao Bất

Đồng kêu lên:

- Tiểu sư phụ, mau đánh y đi.

Hư Trúc nói:

- Để vị thí chủ kia tìm ra binh khí đã, lúc đó mình động thủ cũng

chưa muộn.

Người nho sinh nói:

- Hai nước Tống Sở đánh nhau ở chỗ nước sâu, quân Sở qua sông

chưa xong, hàng ngũ chưa tề chỉnh, chính là lúc nên đánh nhưng Tống

Tương Công nói: “Đánh lúc này không phải là người quân tử”. Tiểu sư

phụ có bụng dạ như thế, quả là đã học được tấm lòng nhân của Tống

Tương Công.

Người trông như thợ mộc thấy song đao của Huyền Thống múa tít

lên, chém trên lia dưới, chiêu số cực kỳ độc địa, sách giải thêm mấy

chiêu nữa e rằng thư sinh cầm phán quan bút có thể mất mạng được,

bèn múa búa xông lên trợ chiến. Công Dã Can lập tức nhắm vào y

đánh vù ra một chưởng. Công Dã Can trông vẻ người nho nhã nhưng

chưởng lực thật hùng hồn, đã được gọi là “Giang Nam đệ nhị”, hôm

trước cùng Tiêu Phong tỉ thí uống rượu và chưởng lực, tuy thua đấy

nhưng Tiêu Phong vẫn phải kính trọng y, đủ biết nội lực và tài nghệ

không phải bình thường. Gã thợ nghiêng qua tránh được, vung búa

chém trả lại.

Người nho sinh tuy không tìm thấy quyển Luận Ngữ nhưng thấy

đồng bạn cầm phán quan bút chiêu pháp bắt đầu hỗn loạn, xem ra

chống không nổi song đao của Huyền Thống đại sư, bèn nói với Huyền

Thống:

- Này! Đại hòa thượng, đức Khổng Tử có nói rằng: Quân tử vô

chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị. Ông

chăm chăm định giết tứ đệ của ta, thế đâu còn là nhân nữa. Nhan Uyên

hỏi điều nhân, đức Khổng Tử trả lời: Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất

nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ qui nhân yên. Phu tử lại nói rằng: Phi

lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động. Ông múa

đao loạn cả lên, hung hăng chỉ chăm chăm định giết người, hành động

như thế sao gọi là “khắc kỷ” được? Như thế thật là “phi lễ”.

Hư Trúc quay sang hỏi nhỏ nhà sư Tuệ Phương đứng bên cạnh:

- Sư thúc thử nghĩ người này ngớ ngẩn giả hay thật?

Tuệ Phương lắc đầu:

- Ta cũng không biết. Lần này ra khỏi chùa, sư phụ có dặn ai nấy

phải cẩn thận, trên giang hồ người người gian trá, trò quái quỉ gì cũng

có thể làm được cả.

Gã đồ gàn kia lại nói với Huyền Thống:

- Đại hòa thượng, Tử viết: Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả tất hữu

nhân. Ông dũng cảm thì có đấy nhưng chắc gì đã có lòng nhân, không

phải là người quân tử chân chính. Đức Khổng tử có nói rằng: Kỷ sở bất

dục, vật thi ư nhân. Nếu người ta giết ông ông có chịu không? Nếu

bản thân ông không muốn chết, sao lại muốn giết người khác?

Huyền Thống xông tới nhảy lui, múa đao vùn vụt, thế nhưng gã đồ

gàn đó tránh đông né tây, khi trái khi phải, khi nào cũng cách ông

chừng ba thước, mồm thì khuyên nhủ đủ biết võ công không phải tầm

thường. Huyền Thống ngầm cảnh giác: “Gã này lải nhải lăng nhăng,

hẳn là để cho ta phân tâm chờ sơ hở là xông ngay vào. Người này võ

công còn cao hơn tên cầm phán quan bút, không thể không phòng bị”.

Ông nghĩ như thế nên tinh thần sáu phần đề phòng gã đồ gàn, chỉ dành

bốn phần tấn công thư sinh cầm phán quan bút mà thôi. Chính vì thế

mà tình trạng thư sinh đỡ hẳn đi.

Lại trao đổi thêm hơn chục chiêu nữa, Huyền Thống bắt đầu nóng

ruột, quát lên:

- Tránh ra!

Ông xoay giới đao lại, dùng cán đao tống vào ngực gã đồ gàn. Ông

nhà nho kia vội tránh ra nói:

- Ta xem đại sư võ công cao cường, ta và tứ đệ hai người đánh

một, cũng chưa chắc thắng nổi ông, nên mới đem lời hay ra khuyên

nhủ, cốt để hai bên bãi đấu. Đức thánh Khổng nói rằng: Sâm hồ! Ngô

đạo nhất dĩ quán chi . Tăng Tử trả lời: Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ

hĩ.. Phàm làm người như chúng ta, cái đạo “ thứ ” kia phải nên giữ

cho kỹ, chớ nên quá ư là ngang ngược.Huyền Thống giận quá, nghe vút một tiếng, vung đao chém ngang,

miệng chửi:

- Trung thứ chi đạo cái gì? Nhân nghĩa đạo đức ở đâu? Thế sao

các ngươi lại bỏ thuốc độc vào trong quan tài để hại người? Lão nạp

nếu sơ ý thì giờ đây đã viên tịch tây qui, còn nghe nhà ngươi nói “kỷ sở

bất dục, vật thi ư nhân” nữa chăng? Thế ngươi có muốn trúng độc mà

chết không cơ chứ?

Gã đồ gàn lùi lại hai bước, ngạc nhiên hỏi:

- Lạ thật! Lạ thật! Ai mà lại bỏ thuốc độc vào quan tài? Ở trong

quan tài ắt phải là những món đồ chôn theo người chết. Đức Khổng tử

có nói rằng: Lý dã tử, hữu quan nhi vô quách.Trong quan tài bỏ

thuốc độc có phải giết chết cả cái tử thi hay sao? Ối chà, không phải,

tử thi vốn chết sẵn rồi còn đâu!

Bao Bất Đồng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Trong quan tài các ngươi đâu có để

xác chết mà để thuốc độc, cốt là để giết người sống chúng ta đấy chứ!

Người nho sinh gàn dở kia lắc đầu quầy quậy nói:

- Các hạ đem lòng dạ tiểu nhân đo lường bụng người quân tử. Ở

đây đâu có quan tài, cũng chẳng có độc dược.

Bao Bất Đồng đáp:

- Đức Khổng tử nói rằng: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng

dã. Ngươi chính là tiểu nhân.

Y vừa nói vừa chỉ người mỹ phụ trung niên:

- Còn mụ ta là đàn bà, hai người chúng bay quả thực là khó dạy

quá. Lời đức thánh Khổng, không lẽ còn sai hay sao?

Gã đồ gàn sững sờ nói:

- Vương cố tả hữu nhi ngôn tha, lời của nhà ngươi ta không thèm

để ý, cũng chẳng trả lời làm gì.

Nhân lúc Bao Bất Đồng nói chuyện với anh đồ gàn, Huyền Thống

được thể không còn gì nghi ngại, song đao càng đánh ép tới khiến cho

thư sinh cầm phán quan bút phải luống cuống. Gã đồ gàn lạng người

tiến đến bên cạnh Huyền Thống nói:

- Tử viết: Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như

nhạc hà?Đại hòa thượng ơi, người mà bất nhân thì thật kém cỏi quá

lắm.

Huyền Thống bực tức đáp:

- Ta là đệ tử Thích gia, bọn hủ nho các ngươi nói gì thi thư lễ nhạc,

người mà bất nhân, không làm động đến tâm ta được đâu.

Gã nho sinh giơ ngón tay lên gõ gõ vào trán nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Ta quả là nói toàn những chuyện sách vở

của đám nhà nho, quả đúng là anh đồ gàn. Đại hòa thượng rõ ràng là

đệ tử cửa Phật, ta nói chuyện nhân nghĩa đạo đức Khổng Mạnh, thì

đúng là không đâu với đâu.

Phong Ba Ác đấu với người sử dụng bàn cờ làm khí giới đã lâu

nhưng khó mà thắng được, thời gian càng dài trong bụng thấy ngâm

ngẩm hàn độc bắt đầu tấn công. Bao Bất Đồng đấu với gã kép hát,

thấy đối phương võ công không thật là cao nhưng chiêu số biến hóa lại

cực kỳ phức tạp, khi thì đóng vai Tây Thi, nói năng yểu điệu ỏn ẻn,

chau mày ôm bụng, bước chân uyển chuyển như cánh sen, rõ ra là

phong tư của một tuyệt đại giai nhân, thế nhưng trong nháy mắt lại

đóng vai kẻ thơ túi rượu bầu Lý Thái Bạch, chân nam đá chân xiêu,

say sưa loạng choạng. Cái khéo là y đóng vai trò nào đều có võ công

phối hợp theo, nhuyễn tiên trong tay lúc thì biến thành tay áo của

người đẹp, lúc lại biến thành bút hoa của văn sĩ, khiến cho Bao Bất

Đồng cười không xong, khóc cũng dở, nhất thời không biết phải thế

nào.

Gã đồ gàn tự trách mình một hồi, đột nhiên cất tiếng ngâm lớn:

Ký dĩ xá nhiễm lạc, tâm đắc thiện nhiếp bất?

Nhược đắc bất trì tán, thâm nhập thực tướng bất?Huyền Nạn và Huyền Thống hai người cùng kinh ngạc: “Gã đồ gàn

này quả thực uyên bác, ngay cả mấy câu kệ của cao tăng đời Đông

Tấn Cưu Ma La Thậpy cũng thuộc”. Lại nghe y ngâm tiếp:

Tất cánh không tướng trung, kỳ tâm vô sở lạc.

Nhược duyệt thiền trí huệ, thị pháp tính vô chiếu.

Hư cuống đẳng vô thực, diệc phi đình tâm xứ.- Này đại hòa thượng, hai câu sau là gì thế nhỉ? Ta quên khuấy

mất rồi.

Huyền Thống đáp:

Nhân giả sở đắc pháp, hạnh nguyện thị kỳ yếu.Gã đồ gàn lúc ấy mới cười ha hả nói:

- Đúng quá! Đúng quá! Này đại sư nhà Phật ơi, đấy chẳng nhắc

đến “người nhân” đấy sao? Mọi đạo lý trong thiên hạ, cũng cùng một

dạng. Ta khuyên ông cũng chỉ là quay đầu lại thấy bờ, bỏ dao đồ tể

xuống mà thôi.

Huyền Thống trong lòng thảng thốt, đột nhiên đại triệt đại ngộ, nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà

Phật!

Chỉ thấy loảng xoảng mấy tiếng, hai thanh giới đao đã vứt xuống,

ông ngồi xếp bằng trên mặt nở một nụ cười, đôi mắt khép lại không

nói một lời. Thư sinh kia đang cùng ông ta đấu đến hồi ác liệt, chợt

thấy ông ta làm thế, cũng lại giật mình, tay lăm lăm cầm phán quan bút

nhưng không tấn công nữa. Hư Trúc kêu lên:

- Sư thúc tổ, hàn độc lại phát tác hay sao?

Y đưa tay định đỡ ông ta dậy, Huyền Nạn liền quát lên:

- Không được chạm vào.

Ông đưa tay thăm hơi thở Huyền Thống, thấy hô hấp đã ngừng rồi,

thì ra đã viên tịch. Huyền Nạn chắp hai tay, niệm Vãng Sinh Chú. Các

nhà sư Thiếu Lâm thấy Huyền Thống đã chết rồi, ai nấy khóc ầm lên,

lấy thiền trượng giới đao, toan cùng hai ông nhà nho kia thí mạng.

Huyền Nạn liền nói:

- Ngừng tay! Huyền Thống sư đệ tham ngộ chân như, vãng sinh

cực lạc, như thế là tròn chính quả rồi, các ngươi phải vui mới phải.

Những người đang kịch đấu đột nhiên thấy biến cố đó, ai nấy ngừng

tay nhảy ra ngoài. Gã đồ gàn kêu lên:

- Lão ngũ, Tiết ngũ đệ, mau mau ra đây, có người bị ta khích một

câu mà lăn ra chết đây này. Ngươi Tiết Thần Y cái con mẹ gì mà

không ra cứu người cho mau thì thật chẳng còn ra gì nữa.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiết Thần Y không có trong nhà, vị tiên sinh đây ...

Gã đồ gàn bèn mở toang cửa, ngó dáo dác kêu lên:

- Tiết Mộ Hoa, Tiết lão ngũ, Diêm Vương Địch, Tiết Thần Y, có

mau ra cứu người không nào? Tam ca của ngươi chọc tức người ta đến

chết, người ta không để yên cho bọn ta đâu.

Bao Bất Đồng bực tức nói:

- Ngươi làm cho người ta chết còn giả tảng giở trò gì nữa đây?

Vù một chưởng, y vung tay đánh tới, chưởng trái lại tiếp theo lòn

bên dưới tay phải, sử chiêu Lão Long Thám Châu, chưởng biến thành

trảo nắm râu gã kia. Gã đồ gàn nghiêng qua tránh được, Phong Ba Ác,

Công Dã Can lại nổi hứng lên, chưa chịu ngừng tay lại xông ra đánh

tiếp. Đặng Bách Xuyên quát lớn:

- Ngã này!

Tay trái vươn ra, chộp ngay vào sau lưng người kép hát. Đặng Bách

Xuyên là người đứng đầu trong các thủ hạ của Mộ Dung Cô Tô ở Yến

Tử Ổ, võ công cao cường, nội lực hùng hậu, trên giang hồ tuy danh

tiếng không vang dội nhưng những ai biết đến ông ta đều kính trọng.

Ông ta giơ tay nắm lấy người đóng trò, thuận tay ném xuống. Người

kép hát đó thật là nhanh nhẹn, vai trái vừa chạm đất, lập tức xoay đi

nửa vòng, chân phải quét ngang, đá vào đùi Đặng Bách Xuyên. Thế

đánh đó thật là đột ngột, Đặng Bách Xuyên thân thể to béo nên

chuyển động không được nhanh, xem chừng khó mà tránh né, lập tức

dồn khí xuống hạ bàn, ngang nhiên chịu một đá. Chỉ nghe lắc rắc, trong

hai bắp chân có một người gãy đôi rồi.

Người kép hát lại lăn thêm mấy vòng nữa, ra ngoài xa mấy trượng

rồi quát lên:

Ta chửi là chửi mi,

Này Mao Diên Thọ kia.

Ngươi là đồ gian tặc,

Tàn hại kẻ trung lương,

Ối ối ối,

Cái chân tôi ...

Thì ra hai luồng kình lực đụng nhau, người kép hát chịu không nổi,

xương đùi đã gãy lìa. Người đàn bà trung niên xinh đẹp trước sau vẫn

đứng ngoài thản nhiên coi, lúc này thấy người kép hát gãy chân, những

đồng bọn khác cũng bị tấn công thật nguy ngập liền nói:

- Các ông vì cớ gì lại chiếm đóng nhà của ngũ ca ta, chẳng hỏi

đầu đuôi đã ra tay đả thương người là sao?

Bà ta tuy lên tiếng chất vấn đối phương nhưng giọng nói vẫn ôn nhu

dịu dàng. Người kép hát nằm dưới đất, ngửng đầu lên nhìn thấy trước

cửa nhà treo hai cái đèn lồng, kinh hoảng kêu lên:

- Sao thế này? Sao thế này? Tiết công Mộ Hoa chi tang, ngũ ca ta

đã ra người thiên cổ rồi ư?

Người sử dụng bàn cờ, hai nho sinh, người thợ mộc cầm búa và

người đàn bà cùng hướng theo tay y chỉ, thấy hai chiếc đèn lửa đã tắt

từ bao giờ, treo trong đêm tối, mọi người đến cổng nhưng không chú

tâm, mãi đến khi người đóng trò nằm dưới đất lúc ấy mới ngẩng đầu

nhìn ra.

Người kép hát khóc òa lên, hát rằng:

Ca ca ơi!

Anh em ta đào viên kết nghĩa,

Tại cổ thành gặp gỡ một phen.

Mới ngày nào anh quá ngũ quan,

Chém sáu tướng uy danh lừng lẫy ...

Khúc đầu y hát là bài ca Khóc Quan Vũ, đến sau tâm tình khích

động, hát không còn ra vần điệu gì nữa. Năm người còn lại nhao nhao

hỏi:

- Ai làm hại ngũ đệ?

- Ngũ ca ơi là ngũ ca, hung thủ giết anh là đứa nào?

- Hôm nay ta và các ngươi phải một phen sống mái.

Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:

“Những người này xem ra đều là anh em kết nghĩa của Tiết Thần Y”.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Chúng ta có đồng bạn bị thương nên đến đây cầu Tiết Thần Y

chữa trị, nào ngờ...

Người đàn bà ngắt lời:

- Nào ngờ y không chịu chữa, các ngươi liền giết y đi, phải không

nào?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Không ...

Chữ “phải” chưa kịp nói ra thì người đàn bà đã phất tay áo, ai nấy

đều ngửi thấy một mùi thơm nồng, đầu óc choáng váng, chân bông

bênh như đi trên mây, đứng không vững nữa. Người mỹ phụ kêu lên:

- Ngã này!

Đặng Bách Xuyên giận quá, quát lớn:

- Hảo yêu phụ!

Ông ta vận sức lên bàn tay, vù một tiếng đánh ra. Người đàn bà

thấy Đặng Bách Xuyên đang loạng choạng, tưởng ông ta đã vào tròng,

ngờ đâu lại còn đủ sức xuất chưởng, đang định nghiêng qua né tránh thì

không còn kịp nữa rồi, chỉ thấy một luồng lực đạo mãnh liệt như bài

sơn đảo hải ập đến, lập tức nghẹn thở, thân hình không còn điều khiển

được nữa bay vụt ra ngoài. Lách cách mấy tiếng, ngực bà ta đã gãy

mấy chiếc xương sườn, chưa rơi tới đất đã ngất đi rồi. Đặng Bách

Xuyên cũng thấy trước mắt tối sầm, ngã lăn ra.

Hai bên mỗi bên ngã một người, những người còn lại đều xông ra

xuất thủ. Huyền Nạn nghĩ thầm: “Việc này bên trong có điều gì thật là

bí mật, trước phải làm sao bắt hết đối phương, có thế mới khỏi thương

vong”. Ông bèn ra lệnh:

- Lấy thiền trượng ra.

Tuệ Kính quay lại cầm chiếc thiền trượng dựa nơi cửa đưa cho

Huyền Nạn. Người thư sinh sử dụng phán quan bút tung mình nhảy tới,

cây bút bên phải điểm vào ngực Tuệ Kính. Chưởng trái của Huyền

Nạn liền đánh ra, tay chưa đến, chưởng lực đã trúng hậu tâm y, gã thư

sinh liền ngã ngay xuống. Huyền Nạn cười một tiếng dài, trượng cầm

trên tay tiến lên hai bước, múa gậy đánh vào người cầm bàn cờ.

Người kia thấy thế đánh thật mãnh liệt, thiền trượng chưa đến mà

trượng phong đã bao trùm thân mình, lập tức vận kình lên cánh tay, giơ

bàn cờ lên chịu đòn, nghe keng một tiếng lớn, đốm lửa bắn ra tứ bề.

Người kia thấy cánh tay ê ẩm, hổ khẩu tay rách toạc. Huyền Nạn nhắc

trượng lên, cả chiếc bàn cờ cũng bị nhấc lên theo. Cái bàn cờ đó từ tính

cực mạnh, trước đây chuyên dùng để hút binh khí đối phương, hôm nay

địch mạnh ta yếu, khiến cho lại bị thiền trượng của Huyền Nạn lấy

mất.

Thiền trượng của Huyền Nạn lại đập xuống đầu người kia, y kêu

lên:

- Cái thế Trấn Thần Đầu lại thêm Ỷ Cái, ta đỡ không nổi.

Y lập tức chạy vọt về phía trước. Huyền Nạn đảo ngược thiền

trượng, quát lên:

- Tên đồ gàn, đến lượt ngươi.

Ông vung trượng đánh quét ngang, uy thế mạnh không gì đương cự

được. Người nho sinh kia đáp:

- Phu tử là bậc thánh nhân cũng phải theo thời. Gió thổi thì cỏ rạp

xuống, nằm xuống thì nằm có sao đâu?

Mấy câu đó nói chưa xong, y đã nằm phục xuống, mấy nhà sư

Thiếu Lâm liền xông tới đè nghiến y lại. Thủ tọa Đạt Ma Viện của

chùa Thiếu Lâm quả nhiên không phải tầm thường, chỉ vừa ra tay đã

đánh ngã ba cao thủ của đối phương. Người cầm búa đang phải đánh

với hai người Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, tránh đông né tây, có

chiều thua đến nơi. Người cầm bàn cờ nói:

- Ngừng lại! Lục đệ, thôi chúng mình chịu thua cho xong, bàn cờ

này không cần phải đi tiếp nữa. Đại hòa thượng, ta hỏi ông, ngũ đệ của

bọn ta phạm tội gì mà các ông lại giết y?

Huyền Nạn đáp:

- Đâu có chuyện đó ...

Hai người chưa dứt câu chuyện, bỗng nghe tính tang hai tiếng đàn từ

xa truyền tới. Hai tiếng đàn đó vào tai mọi người, tim ai nấy nhói lên

hai cái. Huyền Nạn còn đang ngạc nhiên, lại nghe thêm hai tiếng đàn

nữa. Lúc này xem chừng đã gần hơn nhiều, tim mọi người thót càng

mạnh hơn, Phong Ba Ác thấy trong lòng buồn bực, tay phải lơi ra, nghe

keng một tiếng, đơn đao đã rớt xuống. May nhờ có Bao Bất Đồng xuất

chưởng ra đỡ không thì búa của địch nhân đã chém xuống đầu vai y.

Gã đồ gàn kêu lên:

- Đại ca đến mau, mau lên! Thôi đừng có chướng nữa! Sao đại ca

vẫn còn ung dung đàn địch cái quái gì? Tử viết: Quân mệnh triệu, bất

hậu giá hành hĩ.Tiếng đàn liên tiếp vang lên, một ông lão mặc áo tay rộng phất phơ

chậm rãi đi tới, đầu cao trán dồ, hình thù lạ lùng cổ quái, miệng cười

khì dung mạo đầy vẻ hòa nhã dễ thân, trong tay ôm một cỗ dao cầm.Bọn gã đồ gàn cùng kêu lên:

- Đại ca!

Người đó đến gần, ôm quyền chào Huyền Nạn nói:

- Vị cao tăng nào của Thiếu Lâm ở đây thế? Tiểu lão nhi thật là

thất lễ.

Huyền Nạn cũng chắp tay đáp:

- Lão nạp là Huyền Nạn.

Người kia nói:

- Ồ, thì ra là Huyền Nạn sư huynh. Huyền Khổ đại sư của quí phái

có phải sư huynh đệ với đại sư phụ chăng? Tiểu lão nhi với ông ta có

duyên gặp gỡ mấy lần, truyện trò cực kỳ tâm đầu ý hợp, độ này ông ấy

có khang kiện không?

Huyền Nạn buồn bã đáp:

- Huyền Khổ sư huynh bất hạnh bị đứa nghịch đồ ám toán, đã viên

tịch tây qui rồi.

Người kia chết sững một hồi, đột nhiên nhảy vọt lên, phải cao đến

hơn một trượng, chưa rơi tới đất, giữa lưng trời đã khóc òa lên thật là

thảm thiết. Huyền Nạn và bọn Công Dã Can ai nấy kinh ngạc, không

ngờ một người tuổi tác đã cao như thế, vậy mà khóc lóc chẳng khác gì

một đứa trẻ thơ.

Hai chân ông ta vừa chạm đất, lập tức ngồi thụp xuống, tay vặt râu,

hai chân dậm thình thình, khóc lóc:

- Huyền Khổ ơi, sao ông không bảo ta một tiếng rồi hãy chết?

Trên đời này sao lại có chuyện như thế được? Bản đàn Phạn Âm Phổ

An Tấu của ta biết bao nhiêu người nghe rồi nhưng có ai hiểu được đạo

lý bên trong đâu, chỉ mình ông nói được ra rằng trong khúc nhạc này có

chứa rất nhiều thiền ý, đòi nghe hết lần này sang lần khác. Gã Huyền

Nạn sư đệ, chắc gì đã có được ngộ tính như ông, dẫu đàn cho y nghe,

thì khác gì đàn gảy tai trâu, đem hồng ngâm cho chuột vọc. Hu hu, sao

ta khổ thế này!

Huyền Nạn lúc đầu nghe ông ta khóc lóc thảm thiết, lại tưởng là

người chí tính với sư huynh mình, đau lòng vì cái chết của Huyền Khổ,

không khỏi cảm kích, nhưng càng nghe càng không phải, hóa ra y thất

vọng vì trên đời thiếu mất một kẻ tri âm. Tiếng khóc về sau, lại bảo

đàn cho mình nghe có khác gì “đàn gảy tai trâu”. Ông là một cao tăng

hữu đạo nên cũng chẳng bực mình, chỉ mỉm cười nghĩ thầm: “Cả bọn

này người nào cũng dở dở ương ương, người này tính tình tâm sự thật là

ăn khớp với đám anh em kết nghĩa, quả đúng là vật dĩ loại tụ”.

Lại nghe người kia khóc tiếp:

- Huyền Khổ ơi là Huyền Khổ, ta hết lòng tận lực vì người tri kỷ

sáng tác ra một bản đàn để báo đáp chút tình, đặt tên là Nhất Vi Ngâm

để ca tụng thủy tổ của phái Thiếu Lâm từng qua sông bằng một cành

lau, sao ngươi lại không sống mà nghe?

Đột nhiên y quay đầu lại hỏi Huyền Nạn:

- Phần mộ Huyền Khổ sư huynh ở nơi nào? Ông mau mau đưa ta

đến, mau mau! Càng mau càng tốt. Ta đến trước mồ đàn tân khúc này,

biết đâu y nghe rồi trong lòng thoải mái, sống lại không chừng.

Huyền Nạn đáp:

- Thí chủ chớ nên nói năng loạn xạ, sư huynh ta viên tịch đã hỏa

hóa thành tro rồi còn đâu.

Người kia bần thần, đột nhiên nhảy nhổm lên nói:

- Thế thì càng tốt, ngươi cho ta cốt hôi đó, ta dùng keo trộn với tro

dán vào đáy cây dao cầm, từ nay mỗi khi đàn một bản nào, y cũng đều

được nghe cả. Ngươi thử nghĩ thế có khéo không? Ha ha! Ha ha! Chủ ý

đó hay nhỉ?

Y càng nói càng cao hứng, nhịn không nổi vỗ tay cười ha hả, đột

nhiên nhìn thấy người đàn bà xinh đẹp nằm gục một bên kinh hoảng

kêu lên:

- Ối, thất muội sao vậy? Ai đả thương cô thế?

Huyền Nạn nói:

- Việc này bên trong có chỗ hiểu lầm, bọn ta đang muốn nói năng

cho rành mạch.

Người kia đáp:

- Hiểu lầm thế nào? Ai hiểu lầm? Nói gì thì nói, người đả thương

thất muội không phải là người tốt. Ối trời, bát đệ cũng bị thương nữa,

người đả thương bát đệ cũng không thể là người tốt được. Sao lại tới

mấy người không tốt? Mọi người báo danh tính đi, rồi cho biết ý kiến,

điều đó đã hẳn rồi.

Người kép hát nói:

- Đại ca ơi, bọn họ giết chết ngũ ca, đại ca mau mau trả thù rửa

hận cho anh ta.

Gương mặt của người đánh đàn biến đổi kịch liệt, kêu lên:

- Có chuyện đó sao? Lão ngũ là Diêm Vương Địch, Diêm La

Vương làm gì được y?

Huyền Nạn đáp:

- Tiết Thần Y chết giả đó, trong quan tài chỉ có độc dược, không

có xác người.

Cả bọn phe ông lão đánh đàn đều mừng ra mặt, nhao nhao hỏi dồn:

- Lão ngũ vì cớ gì mà giả chết thế?

- Xác chết bây giờ quàn ở đâu?

- Y chưa chết, lấy đâu ra xác chết bây giờ?

Đột nhiên từ đằng xa có tiếng nhỏ vo ve vọng tới:

- Tiết Mộ Hoa, Tiết Mộ Hoa, sư thúc lão nhân gia của ngươi đã

tới, mau mau ra ngoài nghinh tiếp.

Tiếng nói đó lúc có lúc không, còn cách rất xa thế nhưng vào tai

thật rõ ràng đủ biết người nói câu này nội công thâm hậu không biết

chừng nào. Người kép hát, gã đồ gàn, anh thợ mộc cả bọn kia không

hẹn mà cùng kêu lên kinh hoàng. Ông lão đánh đàn hoảng hốt:

- Ôi thôi, đại họa lâm đầu rồi.

Y dáo dác nhìn quanh, thần sắc cực kỳ sợ hãi miệng lắp bắp:

- Chạy mau kẻo không kịp, mau lên, mau lên, tất cả vào trong nhà

ngay.

Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:

- Cái gì mà đại họa lâm đầu? Bộ trời sập hay sao?

Ông già kia run run nói:

- Mau, vào mau! Trời sập cũng không sợ, cái này ...

Bao Bất Đồng đáp:

- Xin lão tiên sinh tự tiện, ta không vào đâu.

Ông già kia đột nhiên vung tay phải ra, chộp vào huyệt đạo trên

ngực Bao Bất Đồng. Y ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, Bao Bất Đồng không

kịp đề phòng nên bị chế ngự ngay, hai chân rời mặt đất, lập tức bị ông

ta xách lên kéo chạy vào trong nhà.

Huyền Nạn và Công Dã Can đều thật ngạc nhiên, đang định mở

miệng hỏi, người cầm bàn cờ đã nói nhỏ:

- Đại sư phụ, tất cả chúng mình nên vào trong nhà ngay, có một

tên đại ma đầu cực kỳ ghê gớm chớp mắt sẽ đến đây.

Huyền Nạn một thân thần công, trong võ lâm ít người là đối thủ, có

gì mà phải sợ đại ma đầu, tiểu ma đầu? Ông hỏi lại:

- Có một đại ma đầu ư? Kiều Phong chăng?

Người kia lắc đầu:

- Không phải, không phải! So với Kiều Phong còn ghê gớm, tàn

nhẫn hơn nhiều. Đó là Tinh Tú Lão Quái.

Huyền Nạn hơi nhếch mép:

- Tinh Tú Lão Quái ư? Thế thì hay quá, lão nạp đang muốn đi

kiếm y đây.

Người kia nói:

- Đại sư phụ võ công cao cường, dĩ nhiên không sợ. Có điều ở đây

ai ai cũng sẽ bị y giết sạch, còn mình đại sư sống được thôi, thật là từ bi

quá đỗi.

Y nói câu này đầy vẻ châm chọc nhưng thật công hiệu, Huyền Nạn

ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Được rồi, tất cả cùng vào vậy.

Vừa ngay lúc đó, ông già đánh đàn đã bỏ Bao Bất Đồng xuống, từ

trong nhà chạy ra luôn mồm thúc giục:

- Mau! Mau! Còn chờ gì nữa?

Phong Ba Ác quát hỏi:

- Tam ca ta đâu?

Ông già nọ đánh ngược tay trái lại một chưởng, quét ngang má phải

của y. Hàn độc trong người Phong Ba Ác lại vừa phát tác, tưởng chừng

chịu không nổi, thấy ông ta đánh tới, vội vàng hụp xuống. Ngờ đâu

chưởng của ông già nọ chưa hết tay, đột nhiên đổi hướng đánh thấp

xuống, chộp ngay được sau ót Phong Ba Ác, miệng nói:

- Mau, mau đi vào!

Ông ta xách y lên chẳng khác gì một con gà. Công Dã Can tuy thấy

lão già kia xem chừng không có ác ý, nhưng hai người anh em của

mình chỉ một chiêu đã bị chế ngự rồi, lập tức kêu la ỏm tỏi xông lên

toan động thủ. Thế nhưng ông già thân pháp nhanh như gió, đã tới đại

môn. Người thư sinh liền ôm gã kép hát, gã thợ mộc đỡ người đàn bà,

cùng đi vào trong nhà.

Huyền Nạn nghĩ bụng chuyện ngày hôm nay rất nhiều ngụy kế đa

đoan, không nên lỗ mãng làm hỏng việc nên nói:

- Công Dã thí chủ, tất cả cùng vào rồi mình tính sau.

Hư Trúc và Tuệ Phương khiêng xác Huyền Thống, Công Dã Can bế

Đặng Bách Xuyên tất cả cùng tiến vào. Ông già đánh đàn lại ra giục

giã, thấy mọi người đều vào cả, lập tức đóng cổng lại, chặn then cửa.

Người cầm bàn cờ nói:

- Đại ca, cái cổng chính này nên mở ra. Cái đó gọi là thực giả hư

chi, hư giả thực chi khiến cho y không dám ngang nhiên tiến vào.

Ông già kia hỏi:

- Vậy sao? Được, ta nghe lời ngươi. Liệu ... liệu có được không?

Giọng nói ông ta dường như không tự tin chút nào. Huyền Nạn và

Công Dã Can hai người nhìn nhau, cùng nghĩ:

- Lão già này võ công cao cường, sao lúc gặp chuyện hoảng hốt

đến thế? Cái cánh cửa này thì đến trộm cướp tầm thường cũng chẳng

coi vào đâu, huống chi là Tinh Tú Lão Quái, đóng hay không đóng

cũng thế mà thôi. Cái điệu này y đã từng bị thua đậm dưới tay Tinh Tú

Lão Quái thành ra kinh cung chi điểu, vừa mới nghe thấy y ở quanh

đây đã hồn vía lên mây.

Ông già kia lại luôn mồm:

- Lục đệ, ngươi tính xem thế nào? Mau nghĩ cách nào coi?

Huyền Nạn tuy công phu hàm dưỡng khá cao nhưng thấy ông ta

cuống quít như thế cũng không khỏi bực mình bèn nói:

- Lão trượng, người đời có câu: Binh đến thì tướng ngăn, nước lên

thì be bờ. Tinh Tú Lão Quái dẫu có ghê gớm tàn ác cỡ nào, bọn chúng

ta liên thủ kháng địch cũng chưa chắc thua y đâu, việc gì mà phải ...

mà phải ... ờ ... mà phải quá lo xa như thế.

Lúc đó trong sảnh đã đốt lên một ngọn đuốc, chỉ trong một thoáng

ông thấy lão già kia thần sắc kinh hoàng đã đành mà cả người đánh cờ,

gã đồ gàn, anh thợ mộc, người sử dụng phán quan bút cả bọn ai nấy

mặt mày đăm chiêu. Huyền Nạn chính mắt thấy những người này võ

công không phải là kém, lại thêm ương ương gàn gàn xem chừng đều

là những hào sĩ phóng khoáng coi thường thế sự, đột nhiên sợ sệt khiếp

đảm tuồng như những kẻ hèn nhát, quả thực không biết nói sao.

Công Dã Can thấy Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đều khỏe khoắn

ngồi trên ghế, có điều hàn độc phát tác, người run như cầy sấy, lập tức

đỡ Đặng Bách Xuyên lên trên một chiếc ghế khác, cũng may mạch

ông ta vẫn đều hòa, chỉ lơ mơ như người say rượu xem ra không có gì

nguy hiểm.

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, một lúc sau người thợ sử dụng đoản

phủ lấy từ trong người ra một cái thước gấp, nhắm nhắm nơi góc nhà,

lắc đầu, cầm cây đèn đi vào hậu sảnh. Mọi người liền đi theo y, thấy

người đó nhìn quanh quất bốn bề tính toán, đột nhiên nhảy lên, vạch

vào xà ngang một cái, lại lắc đầu đi tiếp ra sau, đến trước chiếc quan

tài giả của Tiết Thần Y, nhìn qua nhìn lại, lắc đầu nói:

- Tiếc thay! Tiếc thay!

Ông già đánh đàn hỏi:

- Không dùng được ư?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Không được! Sư thúc thể nào cũng nhìn ra.

Ông già đánh đàn giận dữ nói:

- Ngươi ... ngươi còn gọi y là sư thúc ư?

Người cầm búa lại lắc đầu, không nói một lời đi tiếp xuống nhà

dưới. Công Dã Can nghĩ thầm: “Người này ngoài việc lắc đầu chắc

chẳng còn biết làm gì khác”. Người thợ lại nhìn góc nhà tính toán, đếm

bước đi, bấm đốt ngón tay, dáng như người đang tính toán việc xây

phòng, đi ra bên ngoài vườn sau. Y cầm cây đuốc, suy nghĩ hồi lâu, đi

đến chỗ đặt một hàng năm cái cối nơi hành lang, lại suy nghĩ một hồi

nữa, vứt cây đuốc xuống, đi tới bên cạnh cái cối đá lớn thứ nhì, bỏ vài

nắm cám và đất vào trong cối, cầm chiếc chày đá ở bên cạnh, bắt đầu

giã, bình một tiếng lại bình một tiếng, chày đá nặng nề rơi xuống cực

kỳ mạnh mẽ.

Công Dã Can thở dài một tiếng nghĩ thầm: “Phen này đúng là số

mình đen như mõm chó, gặp một lũ điên, đến lúc này mà còn rỗi hơi đi

giã gạo. Nếu như giã gạo thì cũng còn được, còn đằng này trong cối

toàn là vỏ trấu với đất bùn, chán thật!”. Một hồi sau, hàn độc trong

người Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác tạm bớt, cũng chạy theo ra hậu

viên.

Bình! Bình! Bình! Bình! Bình! Tiếng chày giã gạo cứ liên miên bất

tuyệt. Bao Bất Đồng nói:

- Này lão huynh, ngươi định giã gạo nấu cơm ăn chăng? Trong cối

có gạo gì đâu! Chi bằng tụi mình cuốc đất lên, bỏ ít hạt lúa vào chờ

cho nảy mạ ...

Đột nhiên cách chừng bảy tám trượng nơi góc đông nam khu vườn

hoa có tiếng kẹt kẹt, tuy nhỏ nhưng có chiều lạ lùng. Cả bọn Huyền

Nạn, Công Dã Can theo hướng tiếng động nhìn theo, thấy nơi đó có

bốn cây hoa quế trồng thành một hàng.

Bình một tiếng lại bình một tiếng, người cầm búa vẫn tiếp tục giã

xuống, mà lạ thay, cây quế thứ hai về hướng đông ở bên ngoài mấy

trượng bỗng cành lá dao động, từ từ di chuyển ra bên ngoài. Một lát

sau, mọi người ai cũng thấy rõ, mỗi lần chày nện xuống một cái, cây

quế lại di chuyển một tấc nửa tấc. Ông già đánh đàn reo lên mừng rỡ,

chạy lại phía cây quế kia, nói khẽ:

- Đúng rồi! Đúng rồi!

Mọi người theo ông ta chạy ra, chỉ thấy chỗ cây quế di chuyển ra, lộ

ra một phiến đá lớn, trên thạch bản có cái vòng để cầm tay. Công Dã

Can càng thêm bội phục, lại cũng tẽn tò nói:

- Cơ quan dưới đất này xếp đặt thật là khéo léo, thực khó mà tin

nổi. Vậy mà vị nhân huynh đây trong khoảnh khắc đã phát hiện được

cách mở cơ quan, thông minh tài trí so ra không kém gì người làm ra cơ

quan này.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Làm sao nhị ca biết không phải

chính y là người làm ra cơ quan này?

Công Dã Can cười nói:

- Ta nói tài trí so ra không kém người làm ra cơ quan này, nếu quả

đúng là y làm ra, tài trí của y lẽ dĩ nhiên không thể kém tài trí của

chính mình.

Bao Bất Đồng vẫn lắc đầu:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Không kém nhưng cũng không thể

hơn. Tài trí của y làm sao lại có thể hơn chính mình?

Người dùng búa lại giã thêm độ một chục chày nữa, phiến bửng đá

đã hoàn toàn lộ ra. Người đánh đàn cầm chiếc vòng sắt, kéo mạnh lên

nhưng không chuyển động chút nào, đang tính dùng sức kéo thêm lần

nữa, người cầm búa kinh hãi kêu lên:

- Đại ca! Ngừng tay.

Y tung mình nhảy vào trong một cái cối lớn ở bên cạnh, vén quần

lên, tiểu ngay một bãi đồng thời kêu lên:

- Tất cả mau tới đái vào đây.

Lão già đánh đàn sau phút kinh ngạc, vội bỏ chiếc vòng xuống, chỉ

phút chốc người cầm bàn cờ, gã đồ gàn, người sử phán quan bút thêm

cả ông lão đánh đàn và người dùng búa cùng đái vào trong cối.

Bọn Công Dã Can thấy năm người đó đột nhiên lên cơn dở người

cùng tiểu tiện, ai nấy cười nghiêng ngả, nhưng chỉ trong khoảnh khắc

đều ngửi thấy mùi khét lẹt của thuốc nổ. Người cầm búa nói:

- Được rồi, hết nguy hiểm.

Chỉ có ông già đánh đàn đái lâu nhất, vẫn còn tiếp tục chảy tồ tồ,

mồm lẩm bẩm:

- Đáng chết thật! Đáng chết thật! Ta lại làm hỏng mất một cơ

quan. Lục đệ, nếu không nhờ ngươi phát giác cơ quan sớm thì bọn mình

ai nấy tan xương nát thịt rồi.

Bọn Công Dã Can ai nấy chết khiếp, biết rằng mình vừa mới từ quỉ

môn quan quay về, hiển nhiên bên dưới chiếc vòng sắt có nối với hỏa

thạch, hỏa đao, ngòi nổ nên vừa nhắc lên lập tức đốt cháy dây dẫn hỏa,

thuốc nổ chôn sẵn dưới đó sẽ nổ tung, may nhờ người mang búa ngắn

kia cực kỳ cơ cảnh, tất cả đều đái vào làm ướt sợi dây nên mới tránh

được tai họa.

Người mang búa đi tới bên cái cối đá thứ nhất, dùng sức vần chiếc

cối xoay qua bên phải ba vòng, ngẩng đầu lên, miệng lâm râm khẩu

quyết, tính toán một hồi, lại xoay ngược cái cối qua bên trái sáu vòng

bán nguyệt. Chỉ nghe những tiết ken két liên tiếp, chiếc bửng đá chạy

qua một bên, lộ ra một cái hầm. Lần này ông già đánh đàn không còn

dám ẩu tả xông vào mà quay sang người cầm búa vẫy tay, bảo y đi

trước. Người cầm búa quì xuống quan sát kỹ cái cối đá thứ nhất.

Đột nhiên từ dưới đất có tiếng người chửi:

- Tinh Tú Lão Quái, con bà nhà ngươi, quân đê tiện! Được lắm,

được lắm, rồi ra ngươi cũng kiếm được ta, quả là ghê gớm thật. Ngươi

làm điều càn rỡ, rồi sẽ có ngày bị quả báo. Tới đây đi, mau xuống đây

giết ta đi!

Gã thư sinh, người thợ mộc, anh kép hát cả bọn cùng reo lên:

- Lão ngũ quả nhiên chưa chết.

Ông già đánh đàn gọi lớn:

- Ngũ đệ, bọn ta tới đây.

Tiếng nói dưới hầm ngừng bặt rồi có tiếng kêu lên:

- Quả thực là đại ca đó sao?

Giọng nói đầy vẻ vui mừng. Roạt một tiếng, từ trong hầm một người

chui ra, chính là Diêm Vương Địch Tiết Thần Y. Y có ngờ đâu ngoài

những nghĩa huynh nghĩa đệ còn có rất nhiều người ngoài, không khỏi

kinh ngạc quay sang Huyền Nạn nói:

- Đại sư cũng đến nữa! Những vị này cũng là bằng hữu, phải

không?

Huyền Nạn hơi ngần ngừ rồi đáp:

- Phải, đều là bằng hữu.

Trước đây chùa Thiếu Lâm vẫn cho rằng Huyền Bi đại sư chết về

tay Cô Tô Mộ Dung nên vẫn coi họ Mộ Dung là đại đối đầu. Thế

nhưng lần này ông cùng bọn Đặng Bách Xuyên cùng đi cầu thầy chữa

bệnh, trên đường Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can hết sức giải thích

Huyền Bi đại sư quyết không phải do Mộ Dung công tử ra tay, Huyền

Nạn cũng đã tin đến sáu bảy phần, lại thêm lần này cùng gặp nguy

nan, đồng hội đồng thuyền nên đã coi những người này là bạn. Công

Dã Can nghe ông ta nói thế, quay sang gật gù. Tiết Thần Y nói:

- Nếu cũng là bạn cả thì thật tốt quá, tất cả cùng xuống đây. Xin

mời Huyền Nạn đại sư đi trước.

Tuy ông ta nói thế nhưng vẫn nhanh nhẹn xuống hầm đầu tiên. Một

cái hang tối thui như thế này hẳn là cực kỳ hung hiểm, trên giang hồ

lòng người trá ngụy khó dò, có ai lại dám tin ai nên mình phải xuống

trước, ấy là đạo đãi khách.

Tiết Thần Y tiến vào rồi, Huyền Nạn lúc ấy mới xuống, mọi người

đỡ kẻ bị thương theo sau, cả thi thể của Huyền Thống cũng khiêng nữa.

Tiết Thần Y điều khiển máy móc, phiến đá đóng lại, ông ta lại tiếp tục

vận động nghe có tiếng lẹt kẹt vang lên, mọi người liệu rằng ông ta

đang di chuyển cây quế trở về chỗ cũ.

Ở bên dưới là một địa đạo lót đá, ai nấy phải khom lưng mới đi

được, một lát sau đường hầm rộng hơn dẫn đến một cái hang thiên

nhiên, thêm chừng chục trượng thì tới một thạch động rộng rãi. Bên

cạnh một đống lửa ở một góc là khoảng hai chục người, già trẻ lớn bé

đều có cả. Những người đó nghe thấy tiếng chân người đều quay lại

nhìn. Tiết Thần Y nói:

- Đây đều là người nhà của tại hạ, sự tình khẩn bách nên không

bảo họ ra chào quí vị được, thất lễ xin đừng trách. Đại ca, nhị ca, sao

hai người lại đến đây?

Ông ta không đợi ông già đánh đàn trả lời, lập tức xem xét thương

thế cho mọi người. Người đầu tiên ông ta coi là Huyền Thống, Tiết

Thần Y nói:

- Vị đại sư này ngộ đạo viên tịch, quả là đáng mừng.

Y lại coi đến Đặng Bách Xuyên, mỉm cười nói:

- Phấn hoa của thất muội ta chỉ làm cho người say sưa, một hồi

nữa sẽ tỉnh, không có chất độc.

Người đàn bà trung niên và gã kép hát cũng chỉ bị ngoại thương, tuy

không phải nhẹ nhưng Tiết Thần Y chỉ coi là chuyện nhỏ. Ông ta lại

coi mạch cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, ngửng đầu nhắm mắt lại,

hết sức suy nghĩ. Một hồi sau, Tiết Thần Y lắc đầu:

- Lạ thật! Lạ thật! Ai là kẻ đả thương hai vị huynh đài này?

Công Dã Can đáp:

- Là một thanh niên hình mạo cực kỳ cổ quái.

Tiết Thần Y lắc đầu:

- Thanh niên ư? Người này võ công bao gồm cả sở trường hai bên

chính tà, nội công thâm hậu, ít nhất cũng phải có ba mươi năm tu tập,

sao lại còn là thanh niên được?

Huyền Nạn đáp:

- Quả thực là một thanh niên nhưng chưởng lực hùng hậu, Huyền

Thống sư đệ của ta đối chưởng với y, cũng bị hàn độc mà bị thương. Y

là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái.

Tiết Thần Y kinh hoảng hỏi lại:

- Đệ tử của Tinh Tú Lão Quái mà lợi hại đến thế sao? Ghê gớm

quá!

Ông ta lắc đầu:

- Thật xấu hổ, hàn độc của hai vị huynh đài này, tại hạ không có

cách nào chữa được. Hai tiếng Thần Y, từ nay không còn dám xưng

nữa.

Đột nhiên nghe tiếng một người nói oang oang:

- Tiết tiên sinh, nếu đã thế, chúng tôi xin cáo từ.

Người đó chính là Đặng Bách Xuyên, ông ta bị phấn hoa làm mê

man, lúc này đã tỉnh lại rồi, nghe Tiết Thần Y nói mấy câu sau cùng.

Bao Bất Đồng cũng phụ họa:

- Đúng thế! Đúng thế! Trốn ở dưới cái hang này làm gì? Đại

trượng phu sinh tử hữu mệnh, lẽ nào lại theo cái thói của con rùa con

chuột, chui dưới cái hang hay sao?

Tiết Thần Y cười nhạt:

- Thí chủ quả là khoa trương. Liệu ngươi có biết ở ngoài đó là ai

không?

Phong Ba Ác đáp:

- Các ngươi sợ Tinh Tú Lão Quái chứ ta cóc sợ. Thật uổng thay

những người võ công cao cường mà mới nghe cái tên của Tinh Tú Lão

Quái đã kinh hồn bạt vía.

Ông già đánh đàn nói:

- Đến ta ngươi đánh còn chưa lại, Tinh Tú Lão Quái là sư thúc của

ta, ngươi nghĩ y lợi hại hay không nào?

Huyền Nạn vội nói lảng sang chuyện khác:

- Những điều lão nạp trông thấy, nghe thấy hôm nay, thật nhiều

chỗ không hiểu, đang muốn thỉnh giáo.

Tiết Thần Y nói:

- Chúng tôi sư huynh đệ tám người, xưng là Hàm Cốc bát hữu.

Ông ta chỉ vào ông già đánh đàn:

- Vị này là đại sư ca của chúng tôi, tôi là thứ năm, còn những việc

khác, một là nói ra thật dài dòng, hai nữa không tiện cho người ngoài

biết ...

Vừa nói tới đây, bỗng có tiếng gọi thật nhỏ truyền tới:

- Tiết Mộ Hoa, sao ngươi chưa ra gặp ta?

Thanh âm đó mong manh như tơ, tưởng chừng chỉ loáng thoáng nghe

thấy nhưng người ở trong hang sâu vẫn nghe thật rõ ràng, tựa hồ một

sợi dây kim loại thật nhỏ, xuyên qua đất dày hơn chục trượng mà

xuống, lại cũng như theo đường hầm quanh co mà chạy vào tai mỗi

người.

Ông già đánh đàn kêu lên một tiếng, nhảy nhổm lên run run nói:

- Tinh ... Tinh Tú Lão Quái!

Phong Ba Ác lớn tiếng:

- Đại ca, nhị ca, tam ca, chúng mình đi ra quyết một phen tử chiến.

Lão già đánh đàn nói:

- Không được đâu, nhất định là không được. Các ngươi ra khỏi đây

dẫu có chết uổng mạng cũng không sao nhưng lại làm lộ cái mật thất ở

dưới đất, trong này mấy chục mạng người cũng sẽ chết vì cái “nhất

dũng chi phu” của các ngươi.

Bao Bất Đồng nói:

- Tiếng nói của y có thể truyền đến tận đây không lẽ không biết

bọn mình chỗ nào hay sao? Ngươi cam nguyện làm con rùa rụt đầu rụt

cổ nhưng y nhất định lôi ngươi ra thì có trốn cũng không được.

Thư sinh sử phán quan bút nói:

- Nhất thời tam khắc y chưa thể vào được, tất cả chúng mình nên

tìm một cách gì cho phải lẽ.

Người cầm búa ngắn hình dáng như thợ thuyền kia trước sau vẫn

không nói năng gì, lúc này mới xen vào:

- Đinh sư thúc tài nghệ tuy cao thật nhưng muốn tìm hiểu được cơ

quan vào địa đạo này, ít ra cũng phải mất hai giờ. Nếu muốn tìm ra

cách tấn công vào lại phải mất thêm hai giờ nữa.

Ông già đánh đàn nói:

- Hay lắm, như thế chúng mình có bốn giờ để bàn tính kế sách, có

phải không nào?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Bốn giờ rưỡi.

Ông già đánh đàn ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao lại có thêm nửa giờ là sao?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Trong bốn giờ đó, tiểu đệ có thể bố trí ba cơ quan, ngăn trở y

thêm được nửa giờ nữa.

Ông già đánh đàn nói:

- Hay lắm! Huyền Nạn đại sư, một khi đại ma đầu tới đây, anh em

tám người chúng tôi chắc không thể nào thoát khỏi độc thủ của y. Các

vị là người ngoài, một khi đại ma đầu kia chuyên tâm đối phó với bọn

sư điệt, các vị ắt có cơ hội bỏ chạy. Các vị nhất định đừng có ỷ mình

anh hùng hảo hán, tranh đấu với y làm gì. Nên biết rằng người nào

chạy thoát được độc thủ của Tinh Tú Lão Quái cũng đã là anh hùng

lắm rồi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Thối quá! Thối quá!

Mọi người hít hít nhưng không ai thấy có gì hôi, ai nấy nhìn Bao Bất

Đồng như dò hỏi. Bao Bất Đồng chỉ vào ông già đánh đàn nói:

- Người này đánh rắm thối quá, chịu không nổi.

Y mới rồi chỉ có một chiêu đã bị người đánh đàn chế ngự, trong

bụng vẫn còn ấm ức, tuy lúc đó là lúc đang bị hàn độc phát tác, chân

tay không có sức, nhưng cũng biết võ công mình kém y xa, đối thủ

càng mạnh y lại càng muốn chửi.

Người sử dụng bàn cờ lườm y một cái nói:

- Ngươi muốn thoát khỏi được bàn tay của đại sư huynh ta cũng đã

không phải dễ, huống hồ gì sư thúc ta võ công gấp mười lần đại sư

huynh ta, như vậy thử hỏi ai mới là người đánh rắm thối?

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Võ công cao cường với đánh rắm có

liên quan gì đâu. Võ công cao cường không lẽ không đánh rắm? Không

đánh rắm là nhất định phải võ công cao cường hay sao? Khổng phu tử

không biết võ công, không lẽ lão nhân gia là người chuyên đánh rắm ...

Đặng Bách Xuyên nghĩ thầm: “Những người này nói không hẳn

hoàn toàn vô lý, Bao tam đệ cùng với họ cãi qua cãi lại chỉ làm hao phí

thời gian”. Y liền nói:

- Lai lịch của chư vị tại hạ chưa được cung kính lắng nghe thành

thử lầm lỡ đã nhiều, đánh nhầm vị nương tử đây, tại hạ muôn phần có

lỗi. Hôm nay nếu cùng chống lại yêu ma, tất cả coi như người nhà. Khi

cường địch tới, thủ hạ Cô Tô Mộ Dung công tử tuy chẳng bằng ai

nhưng bỏ chạy thì quyết không bỏ chạy, nếu quả không chống nổi thì

tất cả chúng ta cũng đành bỏ mạng thôi.

datlucky_way

23-07-2009 03:05 PM

Hồi 30(b) : HUY SÁI PHỌC HÀO ANH 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Bề ngoài phiêu dật tiêu dao,

Ra tay một mẻ ai nào thoát đâu.

Gặp khi tụ hội anh hào,

Tâm cơ bố trí cũng sao cho vừa.

*

* *

Huyền Nạn nói:

- Tuệ Kính, Hư Trúc các người nếu có cơ hội thì nên tìm cách

thoát thân, trở về đến chùa, bẩm lại cho phương trượng, để khỏi tất cả

bị yêu nhân quăng một mẻ lưới bắt sạch, đến tin tức cũng không truyền

được ra ngoài.

Sáu nhà sư Thiếu Lâm chắp tay đáp:

- Cung lãnh pháp chỉ.

Bọn Tiết Mộ Hoa và Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói như

thế, biết ông đã quyết chí cùng mọi người đồng sinh cộng tử, nhưng có

đối phó nổi với Tinh Tú Lão Quái hay không thì cũng không ai biết

được.

Ông già đánh đàn ngẩn ngơ, đột nhiên vỗ tay cười nói:

- Tất cả cùng nhau chết hết. Huyền Khổ sư huynh nếu như giờ này

còn sống thì từ rày về sau cũng không còn bao giờ được nghe vô

thượng chí khúc Nhất Vi Ngâm của ta nữa, ta lẽ nào còn vì cái chết của

y mà thương tâm? Ôi! Có ngưới bảo Khang Quảng Lăng này là một tên

cực kỳ ngốc nghếch, ta vẫn không phục, thế nhưng xem ra nếu không

phải là cực kỳ ngốc thì cũng hơi hơi ngốc.

Bao Bất Đồng nói:

- Nhà ngươi chính hiệu là tên đại ngốc, là tên cực kỳ khù khờ.

Ông già đánh đàn Khang Quảng Lăng đáp:

- Ta cũng chẳng ngốc bằng ngươi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi ngốc gấp mười lần ta.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ngươi ngốc gấp trăm lần ta.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi ngốc gấp ngàn lần ta.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ngươi ngốc gấp vạn lần ta.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi ngốc gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, nghìn vạn lần, vạn

vạn lần ta.

Tiết Mộ Hoa chen vào:

- Hai vị kẻ tám lạng, người nửa cân, không người nào ngốc hơn

người nào. Các vị sư phụ phái Thiếu Lâm, các vị về đến chùa rồi,

phương trượng đại sư hỏi đến tiền nhân hậu quả e rằng quí vị không trả

lời được. Việc này vốn dĩ là một điều đáng hổ thẹn của tệ phái, đáng

lẽ không cho người ngoài hay. Thế nhưng để tiêu diệt cái họa hoạn cho

võ lâm, nếu không do các cao tăng Thiếu Lâm chủ trì đại cuộc thì khó

mà thành công. Tại hạ phải thuật lại tỏ tường cho quí vị, có điều các vị

chỉ nói lại cho phương trượng của quí tự chứ đừng nói với ai khác.

Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc cùng đáp:

- Những gì Tiết Thần Y nói ra đây, bọn tiểu tăng chỉ nói cho

phương trượng tệ tự nghe, ngoài ra quyết không nói cho ai khác nửa

câu.

Tiết Mộ Hoa nhìn Khang Quảng Lăng nói:

- Đại sư ca, những nguyên do trong vụ này, tiểu đệ muốn nói cho

mọi người nghe.

Khang Quảng Lăng tuy vị trí đứng đầu tám người, võ công cũng cao

hơn các đàn em xa lắc nhưng lại là người tính tình ấu trĩ, Tiết Mộ Hoa

sở dĩ hỏi ông ta một câu cũng chỉ vì có người ngoài nên muốn cho đẹp

mặt. Khang Quảng Lăng đáp:

- Lạ nhỉ, mồm là mồm của ngươi, ngươi muốn nói thì cứ nói, sao

lại hỏi ta?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Huyền Nạn đại sư, Đặng sư phó, thụ nghiệp ân sư của chúng tôi

ở trong võ lâm người ta gọi là Thông Biện tiên sinh ...

Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên cả bọn ai nấy ngạc nhiên, cùng

hỏi:

- Vậy sao?

Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á lão nhân. Ông ta vừa điếc

vừa câm nhưng lại lấy ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh, đệ tử của

ông ta người nào cũng bị dùi thủng tai cho điếc, cắt lưỡi cho câm trên

giang hồ ai ai cũng biết. Thế nhưng bọn Khang Quảng Lăng ai nấy tai

thính miệng trơn, như thế quả thật lạ kỳ.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Môn hạ đệ tử của gia sư ai ai cũng vừa câm vừa điếc là việc chỉ

mới vài chục năm nay. Còn trước đó, gia sư không phải là người câm,

cũng chẳng điếc, mà vì bị sư đệ là Đinh Xuân Thu khích, biến thành

câm điếc.

Bọn Huyền Nạn ai nấy ồ lên kinh ngạc. Tiết Mộ Hoa nói:

- Tổ sư chúng tôi cả thảy chỉ thu hai người đệ tử, đại đệ tử họ Tô,

tên trên Tinh dưới Hà, đó là gia sư, nhị đệ tử Đinh Xuân Thu. Võ công

hai người vốn ngang ngửa nhau, thế nhưng về sau mới phân thành kẻ

cao người thấp ...

Bao Bất Đồng chen vào:

- Ha ha, chắc hẳn là sư thúc ngươi Đinh Xuân Thu thắng được sư

phụ ngươi, cái đó còn việc gì phải nói.

Tiết Mộ Hoa tiếp:

- Nói ra thì cũng không hẳn vậy. Tổ sư chúng tôi học đủ mọi thứ

trên trời đưới đất, bụng chứa bao la vạn tượng ...

Bao Bất Đồng nói:

- Chưa chắc đâu!

Tiết Mộ Hoa biết người này chuyên môn cà khịa với người khác

nên không ngó ngàng gì đến y, vẫn tiếp tục nói:

- Ban đầu sư phụ chúng tôi và Đinh Xuân Thu chỉ cùng học võ

công, nhưng về sau sư phụ chúng tôi phân tâm, học tổ sư gia đánh đàn,

âm vận ...

Bao Bất Đồng chỉ vào Khang Quảng Lăng nói:

- Ha ha, cái môn đánh đàn quỉ quái của ngươi là học ở đó chứ gì?

Khang Quảng Lăng trừng mắt nhìn y nói:

- Bản lãnh của ta không học sư phụ không lẽ học của ngươi sao?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Nếu như sư phụ ta chỉ học một môn đánh đàn thì cũng không có

gì vướng mắc lắm, có điều tổ sư gia sở học quá bao la, cầm kỳ thư họa,

y bốc tinh tướng, công nghệ tạp học, buôn bán cấy trồng, cái gì cũng

biết, cái gì cũng tinh. Sư phụ ta lúc đầu chỉ học đánh đàn, chẳng bao

lâu lại học đánh cờ, rồi sang thư pháp, rồi sang hội họa.

Các vị thử nghĩ xem, mỗi môn môn nào cũng hao phí rất nhiều thời

gian tâm huyết, Đinh Xuân Thu lúc đầu cũng giả vờ học thử, nhưng chỉ

dăm bữa nửa tháng thì bảo là mình tư chất đần độn, khó mà học cho

xong, nên chỉ chuyên tâm về võ công thôi. Cứ như thế tám năm, mười

năm, hai sư huynh đệ võ công liền có kẻ cao người thấp.

Huyền Nạn liên tiếp gật gù nói:

- Chỉ một môn đánh đàn hay chơi cờ không thôi cũng đã hao sinh

lực một nửa đời người, vậy mà Thông Biện tiên sinh tinh thông mấy

loại, quả thực khó thay. Còn Đinh Xuân Thu chuyên tâm một môn, võ

công thắng được sư huynh thì cũng không có gì là lạ.

Khang Quảng Lăng nói:

- Lão ngũ, còn một việc hết sức quan trọng, sao ngươi không nói

ra đi, mau lên, mau lên!

Tiết Mộ Hoa nói:

- Đinh Xuân Thu chuyên tâm học võ, vốn dĩ cũng là chuyện tốt,

có điều ... có điều ... ôi ... chuyện này nói ra, thật xấu xa cho sư môn

quá. Nói tóm lại, Đinh Xuân Thu sử dụng mọi thủ đoạn hèn hạ, không

biết học đâu ra mấy môn tà thuật cực kỳ lợi hại, đột nhiên ra tay đánh

tổ sư gia bọn ta trọng thương.

Tổ sư gia vốn dĩ thân mang tuyệt học, tuy bị ám toán bất ngờ không

kịp đề phòng nhưng vẫn gắng gượng chống trả được cho đến khi sư phụ

bọn ta đến cứu viện. Võ công sư phụ bọn ta không bì được với tên ác

tặc, sau một trận ác đấu, sư phụ ta cũng bị thương còn tổ sư gia rơi

xuống dưới thâm cốc, chẳng biết sống chết thế nào.

Sư phụ ta vì tạp học mà xao nhãng võ công nhưng những môn đó

không phải không có chỗ dùng. Vào lúc nguy nan, sư phụ ta thi triển

thuật kỳ môn độn giáp, ngũ hành bát quái làm loạn tai mắt Đinh Xuân

Thu khiến y không thể giải được.

Đinh Xuân Thu không thể nào phá trận mà vào giết sư phụ ta, hơn

nữa, y cũng biết bản môn còn nhiều thần công áo diệu mà tổ sư gia

chưa truyền cho hai sư huynh đệ, ắt rằng khi lâm tử ắt thể nào cũng nói

cho sư phụ ta biết nơi cất dấu bí cập, cần phải từ từ bức bách sư phụ ta

thổ lộ, vì thế hai người mới đính ước với nhau, nếu như sư phụ ta từ nay

không mở miệng nói một câu nào thì y sẽ không đi tìm sư phụ ta trả

đũa.

Khi đó môn hạ của sư phụ ta chỉ gồm tám đứa đệ tử chưa thành tài.

Sư phụ ta mới viết một phong thư khai trừ cả tám người không nhận

làm học trò nữa, từ đó quả nhiên giả vờ câm điếc, không nghe không

nói, nếu có thu đệ tử cũng chọc tai cắt lưỡi, lập ra Lung Á Môn.

Theo như ta đoán ý của sư phụ, chắc là cực kỳ hối hận năm xưa đã

phân tâm theo đuổi các môn tạp học để đến nỗi võ công không bằng

Đinh Xuân Thu nên sau khi câm điếc rồi, những môn tạp học đó không

hề dạy nữa.

Anh em sư huynh đệ bọn ta tám người, ngoài võ công ra còn học

của sư phụ một môn tạp học. Đó là từ trước khi Đinh Xuân Thu phản

thầy, lúc đó gia sư chưa thấy rõ được cái hại to lớn của phân tâm, nên

không cấm đoán mà còn khuyến khích, gia công chỉ điểm. Khang đại

sư huynh Quảng Lăng học đánh đàn.

Bao Bất Đồng nói:

- Y đúng là “đàn mình mình nghe cũng còn chẳng lọt tai”.

Khang Quảng Lăng hầm hầm hỏi lại:

- Ngươi bảo ta đàn không hay phải không? Để ta đàn thử cho

ngươi nghe.

Vừa nói vừa để cây dao cầm lên trên gối. Tiết Mộ Hoa vội vàng

xua tay chặn lại rồi chỉ vào người cầm bàn cờ:

- Phạm nhị sư huynh Bách Linh, học môn cờ vây, trên đời này khó

có ai gọi là địch thủ.

Bao Bất Đồng đưa mắt nhìn Phạm Bách Linh rồi nói:

- Thảo nào ngươi dùng bàn cờ làm binh khí. Có điều bàn cờ làm

bằng từ thiết, hút binh khí người ta, không khỏi lợi thế, chẳng phải là

hành vi của kẻ chính nhân quân tử.

Phạm Bách Linh đáp:

- Trong thuật đánh cờ, cố nhiên là phải đường đường chính chính

nhưng kỳ binh ngụy đạo cũng chẳng cấm đoán.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Bàn cờ của Phạm nhị sư ca sở dĩ dùng nam châm đúc thành, vốn

là để nghiên cứu kỳ thuật. Dù cho đi đứng nằm ngồi, đột nhiên nghĩ

đến một thế cờ đều có thể dùng quân đen quân trắng bày thành trận

ngay. Bàn cờ của anh ta làm bằng từ thiết, để quân cờ bằng sắt lên, dù

trên xe trên ngựa cũng không xê xích, rơi rụng. Về sau để cho tiện với

kỳ nghệ nên dùng luôn bàn cờ làm binh khí, quân cờ dùng làm ám khí

chứ không phải muốn dùng bàn cờ bằng từ thiết để lấn lướt người ta.

Bao Bất Đồng trong bụng cũng đồng ý nhưng mồm vẫn lèm bèm:

- Nói thế thật chẳng thông, không thông chút nào. Với võ công

như Phạm lão nhị, nếu có dùng một bàn cờ gỗ, dùng quân cờ sắt gắn

lên, lẩn hẳn vào trong gỗ thì quân cờ đó còn làm sao rơi ra được?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Thế nhưng cũng không tiện bằng bàn cờ sắt. Còn Cẩu tam sư ca

của ta đơn danh là Độc, tính thích đọc sách, đọc đủ mọi loại, sách gì

cũng ngó đến, là một túc nho bụng đầy chữ nghĩa, chắc các vị cũng đã

lãnh giáo qua rồi.

Bao Bất Đồng nói:

- Tiểu nhân chi nho thì có đáng gì!

Cẩu Độc giận dữ hỏi:

- Cái gì? Ngươi bảo ta là “tiểu nhân chi nho” ư? Không lẽ ngươi là

“quân tử chi nho” chăng?

Bao Bất Đồng đáp:

- Đâu dám! Đâu dám!

Tiết Mộ Hoa biết rằng một khi hai người tranh cãi rồi, có đến ba

ngày ba đêm cũng chưa dứt vội vàng ngắt ngang, chỉ vào thư sinh sử

dụng phán quan bút:

- Còn đây là tứ sư ca của ta, giỏi về nét đan thanh, sơn thủy nhân

vật, cỏ cây hoa lá món gì cũng tinh xảo. Y họ Ngô, trước khi vào làm

môn đệ gia sư, đã từng làm chức lãnh quân của Tống triều thành thử ai

ai cũng gọi y là Ngô lãnh quân.

Bao Bất Đồng nói:

- E rằng lãnh quân đánh đâu thua đó, vẽ vời thì người chẳng ra

người, ngợm chẳng ra ngợm.

Ngô lãnh quân đáp:

- Nếu như phải vẽ tôn dung của các hạ, thì đúng là nhân quỉ nan

phân.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:

- Lão huynh khi nào rảnh, lấy dung mạo Bao lão tam này làm mẫu

vẽ một bức Quỉ Thú Đồ thì thật hay lắm.

Tiết Mộ Hoa cười nói:

- Bao huynh anh tuấn tiêu sái, sao lại quá khiêm tốn như thế? Tại

hạ đứng hàng thứ năm, học môn y thuật, trên giang hồ cũng có chút

danh còm, thật không dám quên ơn của sư phụ.

Bao Bất Đồng nói:

- Ho cảm phong hàn thì may ra chữa được, còn gặp phải hàn độc

của tại hạ thì cũng bó tay. Cái đó đúng là bệnh nặng chữa không xong,

bệnh nhẹ chữa không chết. Ha ha, cái tiếng Thần Y quả là danh bất hư

truyền.

Khang Quảng Lăng giơ tay vuốt râu, đưa mắt nhìn Bao Bất Đồng:

- Vị lão huynh này tính tình kỳ khôi, thật đúng là không giống ai.

Bao Bất Đồng đáp:

- Ha ha, ta họ Bao, tên Bất Đồng, thì dĩ nhiên là không giống ai

rồi.

Khang Quảng Lăng cũng cười khà khà nói:

- Ngươi họ Bao thật sao? Tên Bất Đồng thật sao?

Bao Bất Đồng đáp:

- Không lẽ còn giả hay sao? Này, còn vị nhân huynh chuyên chế

tạo cơ quan đây, hẳn là tinh thông mộc nề xây cất, môn hạ của Lỗ Ban

tiên sư chăng?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Chính thế! Lục sư đệ Phùng A Tam, vốn dĩ là thợ mộc xuất thân,

trước khi đầu nhập sư môn từng là một người thợ khéo, về sau lại học

thêm nghề của gia sư, khéo càng thêm khéo. Thất sư muội họ Thạch,

giỏi về hoa cỏ, kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ cây nào cô ta trồng cũng

tốt tươi.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Dược vật Thạch cô nương dùng để làm ta mê man ắt hẳn lấy từ

các loại phấn hoa chứ không phải thuốc độc.

Người đàn bà xinh đẹp họ Thạch kia khuê danh là Thanh Lộ, mỉm

cười đáp:

- Mới rồi quả là đắc tội, mong Đặng lão sư tha thứ cho.

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Tại hạ lỗ mãng, ra tay quá nặng, mong cô nương rộng lượng.

Tiết Mộ Hoa chỉ vào người cứ mở miệng là hát xướng nói:

- Bát đệ Lý Khổi Lỗi cả đời chỉ mê diễn trò đóng tuồng, dở dở

ương ương thành thử võ học không khỏi chểnh mảng. Ôi, thế nhưng nào

chỉ mình y đâu! Bọn chúng tôi tám người, ai ai cũng đều thế cả. Thực

ra võ công sư phụ chúng tôi truyền thụ tu tập cũng chưa xong vậy mà

còn ôm đồm nhiều thứ, học cả tuyệt chiêu của người ngoài, đến nỗi ...

ôi ...Lý Khổi Lỗi vẫn nằm dưới đất, hát lên:

Cô vương đây chính thị,

Lý Tồn Húc là ta Giang sơn nào đáng trọng,

Đóng tuồng mới thật ưa.

Ải ải ải!

Thích ơi là thích.

Bao Bất Đồng nhại lại:

Cô vương đây chính thị,

Tên gọi Lý Tự Nguyên,Giang sơn ta lấy được,

Chém đầu đứa hôn quân.

Gã đồ gàn Cẩu Độc chen vào:

- Lý Tồn Húc bị bọn thủ hạ kép hát Quách Tòng Khiêm giết chết

chứ nào phải chết vì tay Lý Tự Nguyên.

Bao Bất Đồng không thông sử sách biết mình cãi không lại Cẩu

Độc bèn cất giọng ngâm:

Ử ử ử,

Nào ai còn phải hỏi,

Quách Tòng Khiêm là ta.

A a a!

Tần Thủy Hoàng cũng mỗ,

Đốt sách chôn học trò.

Học trò ta ghét nhất,

Bọn tiểu nhân chi nho.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Bọn huynh đệ chúng tôi tám người tuy đã bị trục xuất ra khỏi sư

môn nhưng không dám quên ân đức giáo huấn của sư phụ nên mới lấy

cái tên Hàm Cốc bát hữu cốt để ghi nhớ năm xưa được thụ nghệ ở

ngoài ải Hàm Cốc. Người ngoài chỉ tưởng chúng tôi chỉ vì cũng cám

hấp như nhau ...

Bao Bất Đồng khịt khịt mũi nói:

- Hôi thật, hôi thật!

Cẩu Độc nói:

- Hệ Từ trong kinh Dịch có viết: “Lời kẻ đồng lòng, hôi cũng

thành lan”. Hôi cũng là thơm, lão huynh chẳng biết gì cả.

Bao Bất Đồng đáp:

- Lời của lão huynh, mùi thơm như rắm.

Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:

- Không ai biết chúng tôi là huynh đệ đồng môn. Chúng tôi cũng

đề phòng Tinh Tú Lão Quái quay trở lại Trung Nguyên một mẻ vét

sạch nên chỉ hai năm gặp nhau một lần, còn lúc bình thường thì ở rải

rác mỗi người một nơi.

Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên nghe Tiết Thần Y nói rõ lai

lịch tám anh em, những nghi vấn trong lòng giảm đi quá nửa. Công Dã

Can hỏi lại:

- Nếu nói thế Tiết tiên sinh giả vờ chết, trong quan tài bố trí độc

dược cũng chỉ là để đối phó với Tinh Tú Lão Quái mà thôi. Thế tại sao

Tiết tiên sinh biết được là y sẽ đến đây?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Hai hôm trước đây, tôi đang ngồi không trong nhà, bỗng có bốn

người đến xin chữa bệnh, trong đó có một hòa thượng béo trục béo

tròn, trên ngực sau lưng có đến tám chiếc xương sườn bị gãy, bị thương

vì chưởng lực của phái Thiếu Lâm nhưng chỗ gãy đã nối lại rồi chỉ để

một thời gian cũng tự lành được, không có gì hung hiểm. Có điều trong

tạng phủ y có ẩn hàn độc, tuy không liên quan gì đến ngoại thương

nhưng chẳng bao lâu sẽ phát tác mà chết.

Huyền Nạn nói:

- Thật là xấu hổ! Y chính là Tuệ Tịnh hòa thượng, môn hạ phái

Thiếu Lâm. Nhà sư này không giữ thanh qui, làm điều càn rỡ nên tệ tự

đã sai người đi bắt y về để trừng trị theo giới luật, vậy mà y lại ra tay

trước đả thương người. Thì ra trên thân y đã vốn có hàn độc rồi nhưng

chuyện đó chẳng có liên can gì đến bọn ta, không biết ai đã đưa y đến

đây chữa trị?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đi cùng với y là một bệnh nhân thật kỳ quái, đầu đội một cái

lồng sắt ...

Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cùng nhảy dựng lên kêu lớn:

- Đả thương bọn ta chính là tên tiểu tử đầu sắt đó.

Tiết Thần Y lạ lùng hỏi:

- Thanh niên đó công lực cao cường vậy sao? Tiếc thay lúc y đến

lật đà lật đật, ta không kịp đưa tay coi mạch, nếu không tình trạng nội

lực của y thế nào ít ra cũng biết được chút đầu dây mối nhợ.

Bao Bất Đồng hỏi thêm:

- Thế tiểu tử đó bị bệnh gì thế?

Tiết Thần Y đáp:

- Y muốn nhờ ta gỡ bỏ cái lồng sắt trên đầu y ra. Thế nhưng lúc ta

coi lại, cái lồng đó dính chặt vào đầu y rồi, không thể gỡ ra được.

Bao Bất Đồng nói:

- Lạ nhỉ? Không lẽ cái đầu sắt đó là do cha sinh mẹ đẻ ra đã có,

từ bé đã thế rồi sao?

Tiết Thần Y nói:

- Không phải thế. Cái lồng đó khi người ta chụp lên đầu y thì còn

nóng hổi thành thử làm lở loét, chín rục thịt ra, đến khi máu đông kết

thành sẹo rồi thì dính chặt vào mặt vào ót. Nếu phá đi thì sẽ lột luôn cả

mí mắt, miệng, mũi không còn ra hình thù gì nữa.

Bao Bất Đồng hạnh tai lạc họa, cười khẩy nói:

- Nếu y đã nhờ ông tháo ra thì cứ làm nát bấy ngũ quan lẫn khuôn

mặt, y đâu có trách gì ông được.

Tiết Thần Y nói:

- Ta còn đang ngẫm nghĩ xem có cách gì không, hai tên đồng bạn

của y bỗng lớn tiếng thúc giục, bảo ta mau mau ra tay. Họ Tiết này cả

đời có cái tính xấu hễ ai nhờ ta trị bệnh thì phải nói ngon nói ngọt, còn

như ỷ mạnh lấn lướt thì Tiết mỗ thà chết dưới đầu đao mũi kiếm chứ

nhất định không chữa chạy gì cả. Nhớ năm xưa anh hùng đại hội ở Tụ

Hiền Trang, gã Kiều Phong kia mạo hiểm đánh liều đưa một tiểu cô

nương đến nhờ ta chữa bệnh. Kiều Phong tuy ngang ngạnh tàn ác vô

cùng nhưng khi đến cầu ta, trong ngôn ngữ cũng không dám có chỗ nào

thất lễ ...

Ông ta nói tới đây, nghĩ đến về sau A Châu điểm huyệt ông ta, cạo

sạch bộ râu, quả là kỳ sỉ đại nhục trong đời nên không nói tiếp nữa.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi phét lác cái gì? Họ Bao này cũng có cái tính chẳng giống

ai, nếu như ai muốn chữa bệnh cho ta thì phải ngon ngọt cầu xin, còn

như đối phương cậy mạnh áp bức, Bao mỗ thà để cho bệnh đến chết

chứ không cho ai chữa.

Khang Quảng Lăng cười ha hả nói:

- Ngươi là cái quái gì mà báu thế? Người ta muốn chữa bệnh cho

ngươi mà phải năn nỉ, họa chăng ... họa chăng ...

Ông ta chưa nghĩ ra “họa chăng” cái gì thì Bao Bất Đồng đã tiếp:

- Họa chăng ngươi có là con ta thì mới thế.

Khang Quảng Lăng ngơ ngẩn, nghĩ bụng lời y quả không sai, nếu

như cha mình bị bệnh mà không chịu đi thầy lang thì mình đành phải

năn nỉ ông ta vậy. Ông ta là người rất biết đạo lý, không nghĩ đến

chuyện Bao Bất Đồng nói câu đó là chơi trèo mình, liền đáp:

- Đúng thật! Thế nhưng ta nào có phải là con ngươi đâu?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi có phải là con ta hay không, chỉ có mẹ ngươi mới biết chứ

ngươi làm sao mà biết được?

Khang Quảng Lăng ngẩn người nhưng rồi cũng gật gù nói:

- Ngươi nói quả có lý.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nghĩ thầm: “Gã này đúng là một tên

đại ngốc, nếu mình còn tiếp tục chơi gác y thì có thắng cũng chẳng

vinh dự gì”.

Công Dã Can nói:

- Tiết tiên sinh, hai người kia nếu quả ngôn ngữ vô lễ, ông liền từ

chối hay sao?

Tiết Thần Y gật đầu nói:

- Chính thị. Khi đó ta còn nói: “Tại hạ tài năng hữu hạn, không

làm được, chư quân đi kiếm người khác cao minh hơn”. Gã đầu sắt đối

với ta hết sức khiêm cung, lúc ấy mới nói: “Tiết tiên sinh, y đạo của

ông thiên hạ vô song trên giang hồ đặt tên là Diêm Vương Địch, trong

võ lâm ai mà không kính ngưỡng? Tiểu nhân trước nay kính trọng bội

phục tiên sinh, gia phụ vốn cũng là bạn cũ của lão nhân gia, xin tiên

sinh mở lòng từ bi cứu chữa cho đứa con khốn khổ của cố nhân.

Mọi người ai cũng quan tâm đến lai lịch của gã đầu sắt, lập tức sáu

bảy người nhao nhao hỏi:

- Thế phụ thân y là ai?

Lý Khổi Lỗi đột nhiên xen vào:

- Y là con ai thì chỉ có mẹ y mới biết được chứ y làm sao mà biết?

Gã bắt chước giọng của Bao Bất Đồng không sai một mảy. Bao Bất

Đồng cười nói:

- Hay lắm, ngươi học cách nói của ta giống y chang, xem chừng

không cần phải bắt chước mà chính là cha nào con nấy.

Lý Khổi Lỗi lại hát:

Hoàng Đế đích thực mỗ,

Ông tổ cả Trung Nguyên,

Phàm là dân Hoa Hạ,

Có ai không cháu con.

Y muốn đóng vai ai là ý tưởng tuôn ra đóng được ngay vai đó, Bao

Bất Đồng lấn lướt chơi trèo y cũng chẳng để vào tai. Tiết Mộ Hoa tiếp

tục nói:

- Ta nghe gã đầu sắt tự nhận là con của người quen lập tức hỏi

ngay cha y là ai thì gã trả lời: “Tiểu nhân gặp cảnh không may làm

nhục đến tiên nhân cho nên tên của phụ thân không dám nhắc đến.

Thế nhưng khi tiên phụ còn tại thế, quả thực là chỗ chí giao với tiên

sinh, việc đó hoàn toàn có thật, tiểu nhân không dám đem cha mình ra

để đánh lừa ai”.

Ta nghe thấy y thành khẩn như thế, chắc không phải là lời nói

không. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bằng hữu không phải là ít, nghe

y nói phụ thân đã qua đời rồi, trong nhất thời không đoán ra được là ai.

Ta cũng định khi tháo được cái mặt nạ cho y rồi, xem diện mạo may ra

biết được cha y là người nào.

Thế nhưng để gỡ được cái lồng sắt đó nhưng làm sao cho mặt y ít

bị tổn thương, quả không phải dễ, còn đang trầm ngâm thì một tên

đồng bạn của y liền nói: “Pháp chỉ của sư phụ, việc trước hết là trị cho

lành vết thương của hòa thượng Tuệ Tịnh, còn cái lồng sắt của gã này

tháo được hay không, chẳng quan hệ lắm”. Ta nghe nói thế, lửa giận

bốc lên bừng bừng nói: “Tôn sư là ai? Pháp chỉ của ông ta là cho các

ngươi, chứ làm sao bắt ta phải theo cho được?”. Gã kia hầm hầm nói:

“Tên sư phụ của ta nói ra, chỉ e ngươi sợ đến vỡ mật. Lão nhân gia bảo

ngươi mau mau trị cho khỏi vết thương của nhà sư mập này, nếu còn

diên trì thời khắc, làm hỏng chuyện của lão nhân gia thì sẽ cho ngươi

đi chầu Diêm Vương ngay”.

Khi ta vừa mới nghe y nói, trong bụng tức lắm thế nhưng y nói

xong thấy khẩu âm của y không thuần, lơ lớ giọng người Hồ ở Tây

Vực, nhìn lại diện mạo y thấy mắt sâu tóc quăn, khác hẳn người Trung

Hoa mình, chợt nghĩ ra một người bèn hỏi: “Ngươi từ biển Tinh Tú đến

đây chăng?”. Người kia vừa nghe thế, mặt liền biến sắc nói: “Hừ, mắt

của ngươi sắc bén nhỉ? Đúng đó, ta từ Tinh Tú Hải đến đây. Nếu ngươi

đã đoán ra được thì mau mau chữa bệnh đi thôi”. Ta thấy y ngang

nhiên nhận là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái, nghĩ thầm: “Thâm cừu của

sư môn không thể không báo”. Ta liền giả vờ làm như sợ hãi lắm hỏi

thêm: “Đã từ lâu ngưỡng mộ pháp thuật của Đinh lão tiên ở biển Tinh

Tú thông thiên triệt địa, đệ tử khâm phục xiết bao nhưng chưa từng có

duyên bái kiến, không biết lão tiên lão nhân gia có đến Trung Nguyên

hay không?”.

Bao Bất Đồng nói:

- Chậc, chậc! Ngươi nói Tinh Tú Lão Quái cũng được mà ngươi

nói Tinh Tú Lão Ma cũng được, hà cớ gì cam tâm hạ mình, gọi y là

“lão tiên”! Thật đáng thẹn ơi là đáng thẹn!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tam đệ, Tiết tiên sinh cố ý dùng lời thăm dò, chứ có phải thực

lòng gọi y là “lão tiên” đâu?

Bao Bất Đồng nói:

- Chuyện đó thì dĩ nhiên đệ biết rồi. Nếu như muốn dò hỏi thì lại

càng phải gọi là “lão quỉ”, “lão yêu”, “lão tặc” để khích cho bọn yêu

tử tặc tôn gầm lên cũng phải thổ lộ chân tình chứ gì nữa.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Lời của Bao tiên sinh quả là hữu lý. Lão phu không giỏi dối trá,

miệng vừa gọi y là “lão tiên” nhưng mặt lại lộ vẻ phẫn nộ. Yêu nhân

kia cực kỳ giảo hoạt, vừa thấy thế là nghi ngay, giơ tay chộp lấy mạch

môn của mỗ, quát hỏi: “Ngươi tra vấn hành tung sư phụ ta là dụng ý

gì?”. Ta thấy việc bị bại lộ, đối phó với môn hạ phái Tinh Tú không

thể dung tình được, lật tay đâm ra một chỉ điểm ngay vào tử huyệt của

y. Yêu nhân thứ hai rút ngay ra một thanh chủy thủ tẩm thuốc độc,

xông tới đâm.

Ta trong tay không có binh khí, yêu nhân đó võ công cũng ghê gớm

lắm, trong lúc nguy cấp bỗng tên đầu sắt đưa tay đoạt con dao găm nói:

"Sư phụ sai chúng ta đi cầu thầy chữa thuốc chứ nào có bảo mình đi

giết người". Yêu nhân kia giận dữ đáp: “Thập nhị sư đệ bị y giết rồi,

ngươi không thấy hay sao? Sao ... sao ngươi ... ngươi dám che chở cho

người ngoài?”. Gã đầu sắt nói: “Nếu ngươi muốn giết vị thần y này là

tùy ngươi, thế nhưng nếu gã sư mập này không cứu chữa, tính mạng

khó toàn. Y không chỉ đường được để đi tìm băng tàm, sư phụ sẽ hỏi

đến ngươi đó”.

Ta nhân lúc hai đứa đó cãi nhau, lập tức rút binh khí ra. Yêu nhân

kia thấy giết ta không phải dễ, lại nghe tên đầu sắt nói cũng phải liền

nói: “Nếu đã thế, ngươi bắt lấy tên quỉ y sinh này đem về cho sư phụ”.

Gã đầu sắt đáp: “Hay lắm!”. Y vừa nói vừa đâm ngay thanh chủy thủ

vào ngực, giết luôn tên kia.

Mọi người ai nấy ồ lên kinh ngạc. Bao Bất Đồng nói:

- Thế thì có gì là lạ. Tên đầu sắt kia có chuyện cầu đến ông nên ra

tay giết đồng môn để lấy lòng.

Tiết Mộ Hoa thở dài một tiếng nói:

- Trong giờ phút đó, ta nào biết được chân ý của y ra sao, không

hiểu vì ta là bạn của phụ thân y, hay vì y muốn tỏ chút ân huệ với

mình. Ta vừa định hỏi, bỗng nghe đằng xa có một tiếng còi, gã đầu sắt

mặt liền biến sắc nói: “Sư phụ tại hạ giục phải quay về. Tiết bá phụ,

tốt hơn cả bá phụ chữa cho gã hòa thượng mập này đi. Sư phụ trong

lòng vui vẻ không chừng sẽ tha cho bá phụ cái tội giết đồ đệ của ông

ta”. Ta đáp: “Tinh Tú lão yêu cùng ta thù sâu tợ bể, bất cứ ai có liên

quan với y một chút là ta nhất định không trị. Ngươi có giỏi thì cứ giết

ta đi”.

Gã đầu sắt mới nói: “Tiết bá phụ, tiểu điệt quyết không dám đắc tội

với bá phụ”. Y đang định giãi bày thì tiếng còi của Tinh Tú lão yêu lại

nổi lên, y bèn cắp gã sư mập hấp tấp chạy đi.

Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên rồi, hai tên đệ tử của lão chết

nơi nhà ta, sớm muộn gì rồi lão cũng tìm đến. Dẫu gã đầu sắt có dấu

giùm ta chăng nữa thì cũng chẳng dấu được lâu. Thành thử ta đành

phải giả chết, trong quan tài ám tàng thuốc độc cực mạnh mong sẽ dụ

được y tới. Toàn gia già trẻ lớn bé đều trốn trong địa đạo này. Khi các

vị đến tệ xá, người lão bộc của tại hạ, tuy trung thành thật đấy nhưng

đầu óc chậm lụt, lại tưởng các vị là kẻ đối đầu mà ta đang e ngại ...

Bao Bất Đồng nói:

- Ha ha, y lại tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái, còn

bọn chúng ta là đồ tử đồ tôn của y trong phái Tinh Tú. Bao mỗ và mấy

người bạn hình dung quái dị, bảo là yêu ma của phái Tinh Tú cũng còn

giống vài phần, thế nhưng Huyền Nạn đại sư cao nhã từ tường, đạo

mạo trang nghiêm, vậy mà lại nhận lầm thành Tinh Tú Lão Quái thì

quả là vô lễ thật.

Mọi người ai nấy cười ồ lên. Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:

- Quả đúng thế, việc đó đáng phải đánh đòn. Thế nhưng lại khéo

làm sao, cũng đúng vào dịp hai năm một lần tám anh em chúng tôi tụ

hội. Người lão bộc thấy tình thế gấp gáp, không đợi dặn dò, đốt ngay

lưu tinh hỏa pháo báo tin cho đồng môn lên. Lưu tinh hỏa pháo đó là

do lục sư đệ khéo léo chế tạo, bắn lên trên không rồi có thể chiếu ra

chung quanh mấy dặm, tám anh em đồng môn, mỗi người một kiểu

không giống nhau.

Chuyện này phải nói là vừa may, vừa không may. May là Hàm Cốc

bát hữu trong lúc nguy nan lại tụ lại một chỗ, chung sức kháng địch, thế

nhưng nếu như thế thì Tinh Tú Lão Quái một mẻ vét sạch, quả là cực

kỳ bất hạnh.

Bao Bất Đồng nói:

- Tinh Tú Lão Quái bản lãnh dẫu có lợi hại cũng chắc gì thắng

được cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn đại sư? Lại thêm bao

nhiêu binh tôm tướng cá chúng ta đứng bên hò hét trợ uy, liều chết một

trận thì đã biết mèo nào cắn mỉu nào. Việc gì phải ... việc gì phải ...

phải làm thế ...

Y ấp úng mấy tiếng, hai hàm răng đập vào nhau kêu lộp cộp, hàn

độc đang phát tác nói không nổi nữa. Lý Khổi Lỗi lớn tiếng hát:

Tay Kinh Kha bạo Tần kia phải chết,

Gió thổi hắt hiu chừ, người lạnh ngắt.

Tráng sĩ phều phào chẳng ra hơi,

Người run cầm cập răng lách cách.

Đột nhiên một bóng người thấp thoáng phóng tới dùng đầu húc vào

ngực y. Lý Khổi Lỗi “Ối trời” một tiếng, dùng vai đẩy y ra. Người kia

nắm được y rồi liền đấm đá túi bụi, chính là Nhất Trận Phong Phong

Ba Ác. Đặng Bách Xuyên vội kêu:

- Tứ đệ, không được làm càn.

Y đưa tay lôi Phong Ba Ác lại. Ngay lúc đó, một giọng nhỏ vo ve

truyền vào sơn động:

- Hỡi các đồ tử đồ tôn của Tô Tinh Hà, mau mau ra đầu hàng may

ra còn giữ được tính mạng, nếu còn dùng dằng thì đừng trách lão nhân

gia không nghĩ đến nghĩa khí đồng môn.

Khang Quảng Lăng giận dữ đáp:

- Tên này quả là không biết xấu, vẫn còn nói gì đến nghĩa khí

đồng môn.

Phùng A Tam quay sang nói với Tiết Mộ Hoa:

- Ngũ ca, cái hang này cứ xem thớ gỗ và đất cát thì phải kiến tạo

ít ra cũng ba trăm năm, không biết do thợ khéo của phái nào?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đây là sản nghiệp tổ truyền của gia đình, là chỗ dùng để tị nạn

đời đời truyền xuống, quả ta không biết ai đã dựng nên.

Khang Quảng Lăng nói:

- Giỏi nhỉ, nhà ngươi có cái hang rùa thế này vậy mà trước nay

chưa từng hở môi cho ai biết.

Tiết Mộ Hoa sượng sùng:

- Đại ca rộng lượng cho. Cái hang này nào có phải cái gì đáng

khoe khoang, thành thử không dám đề cập ...

Nói chưa dứt câu bỗng nghe ầm một tiếng thật lớn, tưởng chừng như

có động đất, mọi người trong hang ai cũng thấy dưới chân lắc lư, đứng

không vững. Phùng A Tam thất sắc nói:

- Không xong rồi, Đinh lão tặc dùng thuốc nổ phá hoại, chỉ phút

chốc sẽ đến đây ngay.

Khang Quảng Lăng hầm hầm:

- Thật là hèn hạ vô sỉ không đâu cho hết. Tổ sư gia và sư phụ đều

là những người tinh thông kiến trúc, giỏi cách sắp đặt cơ quan, coi đó là

bản lãnh chân thực của bản môn. Tên Tinh Tú Lão Quái này không phí

thì giờ giải quyết cách sắp xếp, chỉ dùng thuốc nổ phá vỡ, thế thì còn

xưng là đệ tử bản môn sao được?

Bao Bất Đồng khinh khỉnh nói:

- Y đã giết sư phụ, hại sư huynh, không lẽ ngươi vẫn còn coi y là

sư thúc trong bản môn hay sao?

Khang Quảng Lăng đáp:

- Cái đó ...

Vừa lúc đó lại một tiếng ầm thật lớn, trong sơn động bụi bay mù mịt

khiến cho mọi người không ai mở mắt nổi. Trong động bị bịt mất lỗ

thông hơi, dưới sức chấn động không khí giật thật mạnh khiến người

nào cũng ù cả tai.

Huyền Nạn nói:

- Nếu như y dùng thuốc nổ tấn công vào địa động, chi bằng mình

đi ra thì hơn.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cả

bốn người cùng hùa theo khen phải. Phạm Bách Linh nghĩ Huyền Nạn

là một cao tăng Thiếu Lâm, nay trốn dưới hầm sâu để tránh địch, quả

thực tổn thương đến uy danh chùa Thiếu Lâm rất lớn, huống chi nay chỉ

còn một mất một còn, không thể nào ẩn dưới này mãi được bèn nói:

- Nếu đã thế thì tất cả bọn mình đi ra một lượt, cùng lão quái sống

mái một phen.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Huyền Nạn đại sư cùng lão quái không thù không oán, chẳng

may bị vướng mắc vào vụ này, vậy xin chư tăng chùa Thiếu Lâm tụ

thủ bàng quan.

Huyền Nạn đáp:

- Mọi việc liên quan đến võ lâm Trung Nguyên, phái Thiếu Lâm

đều muốn nhúng tay vào, xin các vị tha lỗi cho. Huống chi Huyền

Thống sư đệ viên tịch, cũng khởi đầu do trúng phải độc thủ của đệ tử

phái Tinh Tú, phái Thiếu Lâm và phái Tinh Tú nào phải là không thù

không oán đâu.

Phùng A Tam nói:

- Đại sư trượng nghĩa tương trợ, sư huynh đệ chúng tôi cực kỳ cảm

kích. Chúng mình theo đường cũ mà ra để cho lão quái kinh hoảng một

phen.

Mọi người đều gật đầu đồng ý. Phùng A Tam lại nói:

- Gia quyến của Tiết ngũ ca và hai vị Bao Phong có thể ở lại nơi

đây, lão quái chưa chắc đã tìm ra được.

Bao Bất Đồng đưa mắt lườm y nói:

- Sao ngươi không ở lại đi có hay hơn không?

Phùng A Tam vội vàng phân trần:

- Tại hạ nào có dám coi thường hai vị, có điều hai người đang bị

trọng thương, nếu phải ra tay e rằng không thuận lợi lắm.

Bao Bất Đồng đáp:

- Càng bị thương nặng ta đánh ra kình lực càng mạnh thêm.

Bọn Phạm Bách Linh ai nấy lắc đầu, thấy người này quả là ngang

bướng. Kế đó Phùng A Tam vận động cơ quan, nhanh nhẹn tiến lên

trước. Chỉ nghe kẹt kẹt mấy tiếng, cửa hang mở được một khe nhỏ,

Phùng A Tam liền ném hỏa pháo ra, ầm ầm ầm ba tiếng, khói trắng

mù trời. Ba viên hỏa pháo phá vỡ thạch bản đậy miệng hang một lỗ

lớn đủ một người chui lọt, Phùng A Tam lại ném ra thêm ba viên hỏa

pháo nữa, sau đó chuồi người phóng qua.

Hai chân Phùng A Tam chưa chạm đất, trong khói trắng mịt mù một

bóng đen lướt ngang qua mình xông vào đám người đang đứng ở bên

ngoài kêu lớn:

- Tên nào là Tinh Tú Lão Quái, họ Phong muốn gặp ngươi.

Người đó chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Y thấy trước mặt

có một gã mặc áo gai liền quát:

- Nếm của ta một quyền!

Bình một tiếng đã đánh trúng ngay ngực y. Gã đó là đệ tử thứ chín

của phái Tinh Tú, thân hình lảo đảo, quyền thứ hai của Phong Ba Ác

lại trúng ngay vai. Chỉ nghe chát chát bộp bộp liên miên bất tuyệt,

Phong Ba Ác ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, dường như quyền nào chưởng

nào cũng trúng đối phương. Có điều sau khi bị thương rồi không còn

lực khí, đánh không ngã được đệ tử phái Tinh Tú. Huyền Nạn, Đặng

Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa tất cả mọi người đều từ

dưới động chui lên.

Một lão già thân hình cao to đứng ngay nơi góc tây nam, đằng trước

sau lưng, bên trái bên phải cao thấp hai hàng không đều đứng lố nhố,

gã đầu sắt dĩ nhiên cũng ở trong số đó. Khang Quảng Lăng kêu lên:

- Đinh lão tặc, sao ngươi chưa chết? Ngươi còn nhớ ta không?

Lão già đó chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu, y chỉ liếc

mắt đã nhận ra đối phương gồm những ai, quạt trong tay phe phẩy mấy

cái, nói:

- Mộ Hoa hiền điệt, nếu như ngươi có thể chữa khỏi được gã sư

Thiếu Lâm mập thì ta tha cho ngươi khỏi chết, nhưng có điều phải bái

ta làm thầy, gia nhập làm môn hạ phái Tinh Tú.

Y chỉ mong Tiết Mộ Hoa chữa khỏi Tuệ Tịnh để y đưa mình lên

đỉnh núi Côn Lôn bắt con băng tàm, xem giọng lưỡi chẳng coi những

người trước mặt vào đâu, tưởng như sinh tử tồn vong của cả bọn đều do

y muốn làm gì thì làm. Tiết Mộ Hoa biết rõ người sư thúc này rất lợi

hại, trong bụng cũng hơi e dè nhưng vẫn nói cứng:

- Đinh lão tặc, trên đời này ta chỉ nghe lời một người, chỉ có lão

nhân gia bảo ta chữa cho ai thì ta chữa cho người đó. Ngươi muốn giết

ta, thật dễ như trở bàn tay. Thế nhưng bảo ta trị bệnh cho người thì

ngươi phải đi cầu vị lão nhân gia đó mới được.

Đinh Xuân Thu lạnh lùng hỏi lại:

- Ngươi chỉ nghe lời Tô Tinh Hà, có phải thế không?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Chỉ có giống cầm thú mới có dạ khi sư diệt tổ.

Lời của ông ta nói ra, Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh, Lý

Khổi Lỗi cả bọn cùng reo hò tán trợ. Đinh Xuân Thu nói:

- Được rồi, các ngươi đều là những đứa học trò ngoan của Tô Tinh

Hà, thế nhưng Tô Tinh Hà đã từng cho người đến báo cho ta hay, bảo

là đã đuổi cả tám đứa chúng bay ra khỏi môn tường, không coi là môn

hạ nữa. Hay là họ Tô kia không đếm xỉa đến lời đã nói ra, vẫn lén lút

giữ danh phận sư đồ?

Phạm Bách Linh đáp:

- Nhất nhật vi sư, chung thân như phụ. Sư phụ quả đã đuổi bọn

tám người chúng ta ra khỏi môn phái thật, trong bao nhiêu năm nay

bọn ta chưa hề gặp lại được lão nhân gia một lần, có lên núi bái yết lão

nhân gia cũng không tiếp. Thế nhưng cái bụng kính yêu sư phụ của

chúng ta không vì thế mà giảm chút nào. Họ Đinh kia, tám anh em ta

sở dĩ biến thành thứ ma trơi vất vưởng như thế này, không môn không

phái cũng là do ngươi tên lão tặc mà ra.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Ngươi nói đúng lắm. Tô Tinh Hà vì sợ ta hạ độc thủ, đem từng

đứa ra giết sạch nên mới đuổi các ngươi ra khỏi môn tường để mong

bảo toàn cái mạng ong kiến của chúng bay. Y không đục tai, cắt lưỡi

các ngươi đủ biết tình cảm sâu xa là dường nào. Ôi, cứ lèo nhèo như

tuồng đàn bà thì làm sao nên chuyện lớn? Ha ha, hay lắm, hay lắm.

Các ngươi nói lại đi, Tô Tinh Hà có còn là sư phụ chúng bay nữa hay

không?

Bọn Khang Quảng Lăng nghe y nói thế đều hiểu rằng nếu như

không phủ nhận danh hiệu “đệ tử của Tô Tinh Hà” thì Đinh Xuân Thu

sẽ ra tay giết họ ngay, thế nhưng ơn thầy sâu nặng, lẽ nào tham sống

sợ chết mà phản bội sư môn, trong tám người trừ Thạch Thanh Lộ đang

bị thương nặng, còn ở trong địa động không ra ngoài, cả bảy người

đồng thanh nói:

- Bọn ta tuy bị sư phụ trục xuất khỏi môn tường nhưng dạnh phận

thầy trò không bao giờ thay đổi.

Lý Khổi Lỗi đột nhiên lớn tiếng hát:

Ta mẹ ruột của ngươi,

Tinh Tú Lão Quái ơi!

Năm xưa ta tư thông,

Với con Hao Thiên Khuyển,

Đẻ ra loài súc sinh.

Đánh gãy cái cẳng chó,

Đồ khốn kiếp hôi tanh.

Y bắt chước giọng một bà già, kế đó gâu gâu gâu sủa lên mấy

tiếng. Khang Quảng Lăng, Bao Bất Đồng cả bọn ai cũng cười sằng sặc.

Đinh Xuân Thu giận không đâu cho hết, đôi mắt lóe ra một tia sáng lạ

kỳ, tay áo trái phất một cái, một đốm lân tinh màu xanh biếc nhanh

hơn cả sao băng bắn vào người Lý Khổi Lỗi. Lý Khổi Lỗi một bên

chân đã gãy, tay chống gậy nên không còn nhanh nhẹn muốn tránh né

cũng không kịp nữa rồi, nghe soẹt một tiếng, áo quần bốc cháy. Y vội

vàng lăn tròn dưới đất nhưng càng lăn thì đốm lửa lân tinh càng bốc

lên. Phạm Bách Linh vội vàng bốc bùn đất rắc vào người y.

Tay áo của Đinh Xuân Thu lại liên tiếp bắn ra thêm năm đốm hỏa

tinh nữa, chia ra bắn vào năm người Khang Quảng Lăng, chỉ trừ Tiết

Mộ Hoa mà thôi. Khang Quảng Lăng song chưởng cùng vung lên, đánh

bạt đốm lân tinh. Huyền Nạn cũng dao động song chưởng, đánh tan hai

đốm lửa khác. Thế nhưng Phạm Bách Linh, Phùng A Tam hai người

vẫn bị trúng lân hỏa, chỉ trong chốc lát ba người bọn Lý Khổi Lỗi bị

đốt cháy kêu ầm cả lên.

Lời ca tụng sư phụ của bọn đệ tử Đinh Xuân Thu liền vang lên:

- Sư phụ chỉ mới thi triển một trò vặt vãnh đã đốt chúng bay như

heo quay, sao chưa mau mau quì xuống đầu hàng.

- Sư phụ có tài thông thiên triệt địa, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai

giả, nay dạy cho bọn chó lợn Trung Nguyên biết tay phái Tinh Tú.

- Sư phụ lão nhân gia đánh đâu được đó, công đâu cũng thắng, anh

hùng hảo hán xưa nay nghe thấy đều chạy giạt hết.

Bao Bất Đồng la lớn:

- Rắm thối quá! Làm ta ngứa muốn chết! Đinh lão tặc, ngươi quả

là đồ mặt dày.

Bao Bất Đồng nói chưa xong, hai điểm hỏa tinh đã bắn thẳng vào y.

Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can vội vàng mỗi người tung ra một

chưởng, đánh giạt hai đốm lửa nhưng cả hai cảm thấy ngực như trúng

phải một búa, hự lên một tiếng, lịch bịch lùi lại ba bước. Thì ra Đinh

Xuân Thu đưa nội lực cực kỳ hùng mạnh của ông ta vào trong đốm lửa,

Huyền Nạn nội lực tương đương nên khi đánh bạt hai đốm lửa vẫn

không bị thương, còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can thì chịu

không nổi.

Huyền Nạn lạng người đến trước Lý Khổi Lỗi đánh ra một chưởng,

chưởng lực nhẹ nhàng tống ra, phụp một tiếng áo đã nát bấy văng đi

một mảng lớn, nhưng đốm lân tinh đang cháy trên người y cũng bị đánh

tắt ngúm.

Một tên đệ tử phái Tinh Tú kêu lên:

- Con lừa trọc chưởng lực không phải yếu, so ra cũng được một

phần mười của sư phụ ta.

Một tên khác vội vàng cãi lại:

- Xì, chỉ được một phần trăm của sư phụ thôi.

Huyền Nạn nương theo tiếp thêm hai chưởng nữa, đánh tắt hai đốm

lửa lân tinh trên người Phạm Bách Linh và Phùng A Tam. Khi đó Đặng

Bách Xuyên, Công Dã Can, Khang Quảng Lăng cũng đã nhảy tới tấn

công bọn đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu vuốt bộ râu dài nói:

- Thiếu Lâm cao tăng quả thực công lực phi phàm, hôm nay lão

phu xin được lãnh giáo.

Nói xong tiến lên, tả chưởng nhẹ nhàng đánh vào Huyền Nạn.

Huyền Nạn đã biết Đinh lão quái toàn thân đầy chất độc, lại giỏi môn

Hóa Công Đại Pháp nên không dám sơ sẩy, lập tức song chưởng múa

tít lên, đánh liên tiếp mười tám chưởng liền. Mười tám chưởng đó liên

hoàn, tả chưởng chưa thu về hữu chưởng đã đánh ra, nhanh nhẹn dị

thường khiến cho Đinh Xuân Thu không có lúc nào ở không mà sử

dụng độc dược được. Môn Khoái Chưởng của phái Thiếu Lâm, quả

nhiên uy lực cực mạnh ép cho Đinh Xuân Thu phải liên tiếp thối lui,

Huyền Nạn đánh ra mười tám chưởng thì Đinh Xuân Thu phải lùi mười

tám bước. Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng, hai chân lại liên

hoàn uyên ương, nhanh như chớp đá liền ba mươi sáu lần, bóng vùn vụt

khiến không ai biết đó là chân phải hay chân trái.

Đinh Xuân Thu triển động thân hình tránh né thật nhanh, ba mươi

sáu cú đá đó đều vuột ra ngoài, nhưng nghe bạch bạch hai tiếng, đầu

vai đã bị trúng hai quyền, thì ra Huyền Nạn đá hai cú sau cùng cũng

giơ tay đấm luôn hai cái. Đinh Xuân Thu tuy tránh được ngọn cước

nhưng không tránh kịp song quyền, thân hình loạng choạng kêu lên:

- Ghê gớm thật!

Huyền Nạn bỗng thấy choáng váng hoa cả mắt, lảo đảo muốn ngã,

biết có sự chẳng lành, quần áo Đinh Xuân Thu có tẩm thuốc độc, vừa

rồi đánh trúng y hai quyền đã bị ám toán, lập tức thở mạnh một cái,

chân khí trong người lưu chuyển, quyền bên trái lại đánh vào Đinh

Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu giơ hữu chưởng chặn cú đấm của Huyền Nạn, tiếp

theo chưởng bên trái tống ra. Huyền Nạn sau khi trúng độc cử động

không còn linh hoạt nữa nên không tránh nổi, đành giơ chưởng ra

chống đỡ. Đến nước đó hai cao thủ chỉ còn cách đấu bằng chân lực,

Huyền Nạn trong bụng hoảng thầm: “Ta không thể đấu nội lực với y

được”. Thế nhưng nếu quyền không sử dụng nội kình thì chân khí của

đối phương ào tới ắt tạng phủ sẽ nát ngướu, thành thử biết là đi vào

chỗ chết nhưng vẫn phải vận sức lên chống đỡ. Ông vừa vận kình, bỗng

thấy nội lực cuồn cuộn chảy ra không cách gì giữ lại được nữa.

Chưa đầy thời gian uống một chén trà, Đinh Xuân Thu cười ha hả,

hất vai một cái, nghe bịch một tiếng đã xô Huyền Nạn ngã lăn quay,

toàn thân hư thoát không còn hơi sức. Đinh Xuân Thu đánh ngã Huyền

Nạn rồi đưa mắt nhìn quanh, thấy Công Dã Can và Phạm Bách Linh

hai người cũng nằm dưới đất đang run cầm cập, thì ra đã trúng phải hàn

độc chưởng của Du Thản Chi. Ngoài ra bọn Đặng Bách Xuyên, Tiết

Mộ Hoa thì đang đánh với các đệ tử khác, phái Tinh Tú có đến bảy

người hoặc chết, hoặc bị thương.

Đinh Xuân Thu cười một hồi dài, tay áo rộng phất lên, lướt tới sau

lưng Đặng Bách Xuyên cùng y đối một chưởng lại quay về đá một cái

trúng Bao Bất Đồng. Đặng Bách Xuyên hữu chưởng đụng phải Đinh

Xuân Thu, trong ngực cảm thấy trống trải, muốn hít một hơi ngưng thần

thì Đinh Xuân Thu lại đánh ra thêm một chưởng khác. Đặng Bách

Xuyên không còn cách nào hơn, chỉ còn nước xuất chưỡng ra đỡ, lòng

bàn tay thấy hơi lạnh, toàn thân đã mềm xèo không còn lực khí, trước

mắt chỉ thấy mờ mờ một làn sương trắng. Một tên đệ tử phái Tinh Tú

bước tới giơ tay đẩy một cái, Đặng Bách Xuyên liền ngã lăn ra.

Chỉ trong khoảnh khắc các bộ thuộc của nhà Mộ Dung, chư tăng do

Huyền Nạn dẫn theo, bọn Khang Quảng Lăng Hàm Cốc bát hữu đều bị

Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi hai người chia nhau đánh ngã. Du

Thản Chi vồn dĩ nội lực cực kỳ hồn hậu tuy võ nghệ thật tầm thường

nhưng đã được Đinh Xuân Thu chỉ điểm ít ngày, cũng biết được bảy

tám chiêu chưởng pháp, lấy võ công mà luận thì so với những người

học võ bình thường cũng còn kém xa nhưng nhờ phát huy được hàn độc

của con băng tàm tích kết trong người thành ra uy lực phi phàm. Bọn

Công Dã Can xuất chưởng đánh trúng người y, vừa đụng phải đều bị

hàn độc trong người y phản kích bị thương, lại bị y đánh thêm một

chưởng không còn cách gì chống đỡ.

Khi đó chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa chưa bị thương, ông ta xung

kích mấy lần, bọn đệ tử phái Tinh Tú đều chỉ mủm mỉm cười tránh ra,

cũng không trả đòn. Đinh Xuân Thu cười nói:

- Tiết hiền điệt, võ công ngươi so với các sư huynh đệ giỏi hơn

nhiều.

Tiết Mộ Hoa thấy các sư huynh đệ đồng môn từng người ngã xuống,

chỉ còn mình không sao cả, biết là Đinh Xuân Thu thủ hạ lưu tình. Ông

thở dài một tiếng nói:

- Đinh lão tặc, gã sư mập kia ngoại thương dễ khỏi, nội thương khó

lòng, chỉ còn sống được vài ngày, ngươi nghĩ có thể bức bách ta cứu

người ư, thôi đừng mơ tưởng hão.

Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi:

- Tiết hiền điệt lại đây!

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Ngươi muốn giết ta cứ việc giết, dù ngươi nói gì chăng nữa, ta

quyết không nghe lời.

Lý Khổi Lỗi lại hát rằng:

Đại nghĩa thay con người Tiết ngũ,

Há sánh cùng Tô Vũ kém chi.

Hai chục năm nơi đất Hồ di,

Vẫn một dạ hướng về đất Hán.

Đinh Xuân Thu mỉm cười, đi đến cách Tiết Mộ Hoa chừng ba bước

thì đứng lại, tả chưởng để nhẹ lên đầu vai y mỉm cười hỏi:

- Tiết hiền điệt, ngươi tập luyện võ công được bao nhiêu năm rồi?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Bốn mươi nhăm năm.

Đinh Xuân Thu nói:

- Bốn mươi nhăm năm, đông qua hè đến không phải dễ. Nghe nói

ngươi dùng y thuật trao đổi võ học với người, học được không ít các

chiêu thức tinh diệu của nhiều môn phái, có đúng vậy không?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Ta học những chiêu thức đó cũng chỉ mong dùng để giết ngươi,

ngờ đâu ... ngờ đâu dù chiêu thức tinh diệu mực nào, gặp phải tà thuật

cũng đành vô dụng ... ôi!

Nói xong lắc đầu thở dài. Đinh Xuân Thu nói:

- Không phải thế. Dù gì chăng nữa, nội lực mới là gốc rễ, chiêu số

chỉ là lá cành. Gốc rễ có vững chắc, lá cành mới tốt tươi, chiêu số

không phải hoàn toàn vô dụng. Ngươi đầu nhập môn hạ ta, ta sẽ truyền

cho ngươi nội lực thiên hạ vô song, từ nay tung hoành Trung Nguyên

thật dễ như lật bàn tay.

Tiết Mộ Hoa giận dữ đáp:

- Ta đã có sư phụ rồi. Muốn Tiết Mộ Hoa này vào làm môn hạ

ngươi, thà ta đập đầu mà chết còn hơn.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Nếu muốn đập đầu mà chết cũng cần phải có sức mới được. Nếu

như nội lực của ngươi bị hủy mất rồi, đi một bước cũng đã khó, nói gì

đến chuyện đập đầu mà chết? Bốn mươi nhăm năm khổ luyện, ha ha,

tiếc nhỉ, thật đáng tiếc.

Tiết Mộ Hoa nghe thế mồ hôi trán vã ra, cảm thấy bàn tay y đặt

trên vai mình hơi nóng lên, hiển nhiên y chỉ cần hơi động tâm một chút

là sử dụng ngay Hóa Công Đại Pháp, bốn mươi nhăm năm cần tu khổ

luyện của mình, lập tức đổ ra sông ra biển. Ông nghiến răng đáp:

- Ngươi lòng lang dạ sói dám giết cả sư phụ, tàn hại sư huynh, có

giết thêm tám người chúng ta thì cũng có là gì đâu? Bốn mươi năm khổ

luyện của ta bị hủy đi trong một buổi quả đáng tiếc thật, nhưng đến

tính mệnh còn chẳng giữ được, nói gì khổ công hay không khổ công?

Bao Bất Đồng reo lên:

- Mấy câu đó quả là cứng cỏi. Môn hạ phái Tinh Tú làm gì có ai

anh hùng như thế?

Đinh Xuân Thu nói:

- Tiết hiền điệt, ta tạm thời không giết ngươi, chỉ hỏi ngươi tám

câu: “Ngươi có chịu chữa cho gã sư mập đó không?”. Câu thứ nhất

ngươi trả lời không chữa, ta sẽ giết đại sư huynh Khang Quảng Lăng

của ngươi. Câu thứ hai trả lời không chữa, ta sẽ giết nhị sư huynh Phạm

Bách Linh. Đứa sư muội thích trồng hoa của ngươi trốn đâu rồi? Thể

nào ta cũng kiếm ra nó. Câu thứ sáu hỏi ngươi không chữa ta sẽ giết

đứa sư muội xinh đẹp kia. Câu thứ bảy giết đến bát sư đệ Lý Khổi Lỗi.

Đến câu thứ tám hỏi ngươi, ngươi vẫn còn trả lời không chữa thì ngươi

thử đoán sẽ ra sao?

Tiết Mộ Hoa nghe y đưa ra phương pháp thảm khốc đó, mặt tái nhợt

run run đáp:

- Lúc đó ngươi sẽ giết ta thì cũng đâu có gì là lớn chuyện. Như thế

cả tám người cùng chết mà thôi.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Ta đâu có giết ngươi làm gì. Nếu câu thứ tám ngươi vẫn trả lời

không chữa, ta sẽ đi giết một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh Tô

Tinh Hà.

Tiết Mộ Hoa thất thanh kêu lên:

- Đinh lão tặc, ngươi có giỏi thì đụng tới một sợi lông sư phụ ta đi.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Có gì mà không dám? Tinh Tú lão tiên xưa nay hành sự độc lai

độc vãng, hôm nay nói mai đã quên. Ta tuy đáp ứng Tô Tinh Hà là nếu

như y từ nay không mở miệng nói thì ta không giết y. Thế nhưng ngươi

làm ta bực mình, học trò nợ thì thầy phải trả, ta muốn đến giết y thì

trên đời này còn ai ngăn ta nổi?

Tiết Mộ Hoa trong bụng rối như mớ bòng bong, biết rằng tên lão tặc

này bức bách mình chữa chạy cho Tuệ Tịnh là có dụng ý cực kỳ âm

độc, nếu ra tay trị bệnh cho gã sư mập thì có khác gì nối giáo cho giặc,

thế nhưng nếu mình nhất định không bằng lòng, tính mệnh bảy người

anh em không bảo toàn được đã đành, ngay cả sư phụ Thông Biện tiên

sinh cũng phải chết dưới tay y. Ông trầm ngâm một hồi nói:

- Được, ta đành chịu khuất phục, có điều ta chữa khỏi cho gã sư

mập rồi, ngươi không được làm khó các vị bằng hữu nơi đây cùng sư

phụ và các sư huynh đệ của ta.

Đinh Xuân Thu mừng lắm, vội đáp:

- Được, được, được! Ta bằng lòng tha cái mạng chó cho chúng nó.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Đại trượng phu hôm nay trúng phải độc thủ của bọn gian tà, chết

cũng đành, ai cần ngươi tha mạng?

Y vốn dĩ tiếng oang oang như chuông nhưng lúc này chân khí hao

tán hết rồi, ngôn ngữ tuy vẫn khẳng khái hiên ngang nhưng giọng thều

thào chẳng ra hơi. Bao Bất Đồng la to:

- Tiết Mộ Hoa, chớ có tin y, chính miệng tên cẩu tặc này vừa mới

nói, y nói mà chẳng giữ lời.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đúng đó, ngươi vừa mới bảo “hôm nay nói mai đã quên”.

Đinh Xuân Thu đáp:

- Tiết hiền điệt, ta hỏi ngươi câu thứ nhất: “Ngươi chữa hay không

chữa cho gã sư mập?”.

Y vừa nói vừa duỗi chân phải ra, gót chân nhắm vào huyệt Thái

Dương của Khang Quảng Lăng, hiển nhiên nếu Tiết Mộ Hoa chỉ nói:

“Không chữa” là y đạp xuống ngay, giết Khang Quảng Lăng ngay lập

tức. Mọi người ai nấy tim đập thình thình, bỗng nghe một người nói lớn:

- Không chữa.

Người la lên câu đó không phải Tiết Mộ Hoa mà là Khang Quảng

Lăng. Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:

- Ngươi tưởng ta đạp một cái lấy mạng ngươi sao, đâu có dễ dàng

như thế.

Y quay lại nói với Tiết Mộ Hoa:

- Ngươi có muốn mượn tay ta giết tên đại sư ca này đi chăng?

Tiết Mộ Hoa thở dài:

- Thôi được! Thôi được! Ta bằng lòng chữa cho gã sư mập kia.

Khang Quảng Lăng chửi liền:

- Tiết lão ngũ, sao ngươi không biết nhục. Đinh lão tặc là đại cừu

nhân của sư môn, ngươi lẽ nào tham sống sợ chết, bị y uy hiếp phải

khuất phục?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Y giết anh em ta tám người cũng không có gì đáng kể. Thế

nhưng tên lão tặc này còn định đến gây chuyện với sư phụ nữa, sư ca

mới rồi không nghe y nói hay sao?

Nghĩ đến an nguy của sư phụ, bọn Khang Quảng Lăng không ai dám

nói thêm câu nào. Bao Bất Đồng nói:

- Nhát ...

Y định nói “nhát như cáy” nhưng y vừa mới nói được một chữ, Đặng

Bách Xuyên đã đưa tay bịt mồm y lại. Bao Bất Đồng đối với vị đại ca

này năm phần kính sợ, cố nhịn không chửi tiếp nữa. Tiết Mộ Hoa nói:

- Họ Đinh kia, ta đành phải khuất phục, trị bệnh cho nhà sư mập,

ngươi đối với bạn bè ta phải nể nang một chút.

Đinh Xuân Thu đáp:

- Được rồi, ta sẽ y lời ngươi.

Đinh Xuân Thu lập tức bảo đệ tử khiêng Tuệ Tịnh lại. Tiết Mộ Hoa

hỏi Tuệ Tịnh:

- Ngươi năm chầy tháng rộng tiếp xúc với các vật lợi hại để đến

nỗi hàn độc xâm nhập tạng phủ, ấy là loại gì thế?

Tuệ Tịnh đáp:

- Đó là băng tàm trên đỉnh Côn Lôn.

Tiết Mộ Hoa lắc đầu, không hỏi thêm nữa, trước hết châm cứu cho

y, sau đó lấy ra hai viên thuốc to màu đỏ chót cho y uống. Kế tiếp

người nào cần tiếp cốt thì ông tiếp cốt, người nào cần trị thương thì trị

thương, mãi đến lúc trời đã sáng bạch bấy giờ mới xong. Những người

bị thương chia nhau ra kẻ nằm trên giường, người nghỉ ngơi trên cánh

cửa tháo ra thay phản. Người nhà họ Tiết nấu mì đem ra cho mọi người

ăn.

Đinh Xuân Thu ăn hết hai tô mì rồi, quay sang cười với Tiết Mộ

Hoa nói:

- Cũng may ngươi hiểu thời vụ không bỏ thuốc độc vào trong đồ

ăn.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Nói đến sử dụng thuốc độc thì trên đời này còn ai hơn được ông?

Ta cũng có bụng ấy nhưng đâu dám đánh trống qua cửa nhà sấm.

Đinh Xuân Thu cười sằng sặc nói:

- Ngươi bảo gia nhân đi mướn cho ta mươi cỗ xe lừa.

Tiết Mộ Hoa hỏi lại:

- Làm gì mà phải cần mười cỗ xe?

Đinh Xuân Thu trừng mắt lên khinh khỉnh nói:

- Chuyện của ta ngươi hỏi làm gì? Tiết Thần Y ở đây chắc quen

biết nhiều, muốn mướn mười cỗ xe đâu phải là chuyện khó?

Tiết Mộ Hoa không biết làm sao hơn, đành phải dặn dò gia nhân ra

ngoài tìm xe. Đến trưa, mười chiếc xe lừa đã thuê đủ, Đinh Xuân Thu

nói:

- Đem giết hết các phu xe đi.

Tiết Mộ Hoa kinh hãi nói:

- Sao thế?

Chỉ thấy các đệ tử phái Tinh Tú vung chưởng lên, bộp bộp mấy

tiếng, mười người xa phu đã chết lăn dưới đất. Tiết Mộ Hoa giận dữ

nói:

- Đinh lão tặc, những người phu xe này có làm gì nên tội đâu?

Ngươi ... ngươi ... cớ gì lại hạ độc thủ?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Phái Tinh Tú muốn giết vài người, không lẽ còn phải xem có tội

hay không có tội, giảng đạo lý nữa hay sao? Tất cả các ngươi lên xe

hết cho ta. Không ai được ở lại! Tiết hiền điệt, ngươi có thuốc men,

sách vở gì thì mang theo người, ta đốt nhà ngươi đây.

Tiết Mộ Hoa lại càng kinh hãi, nhưng nghĩ lão quái này không

chuyện ác gì không làm, có nói cũng phí lời, các loại sách thuốc ông

đã đọc thuộc lòng, chẳng cần phải mang, thế nhưng bao nhiêu cao đơn

hoàn tán dày công chế tạo bằng những dược tài cực kỳ khó kiếm, thành

thử vừa dọn thuốc vừa luôn mồm chửi rủa. Ông chưa thu thập xong, các

đệ tử phái Tinh Tú đã châm lửa đốt phía sau nhà.

Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc trong phái Thiếu Lâm vốn đã được Huyền

Nạn dặn dò, muốn về chùa báo tin ngờ đâu Đinh Xuân Thu bố trí

nghiêm nhặt nên chạy chưa xa đã bị bắt lại. Bọn Huyền Nạn cả thảy

bảy người, Cô Tô Mộ Dung trang cả thảy bốn người, Hàm Cốc bát hữu

thêm tám người, tổng cộng mười chín người ngoại trừ Tiết Mộ Hoa

không bị tổn thương, ngoài ra nếu không bị Hóa Công Đại Pháp tiêu

hao nội lực thì cũng bị chưởng lực của Đinh Xuân Thu, hoặc phải hàn

độc băng tàm của Du Thản Chi, hoặc bị trúng độc của đệ tử phái Tinh

Tú thành thử không ai cử động được. Ngoài ra còn người nhà của Tiết

Mộ Hoa cũng chia nhau lên mười cỗ xe đó.

Còn đệ tử phái Tinh Tú chia ra kẻ làm xa phu, số còn lại cưỡi ngựa

đi bên cạnh áp tống. Xe bỏ màn xuống rồi còn dùng thừng buộc chặt,

bên trong tối như bưng, không nhìn thấy bên ngoài như thế nào. Huyền

Nạn cả bọn ai ai cũng nổi dạ nghi ngờ: “Tên lão tặc này đưa mình đi

đâu đây?”. Mọi người biết rằng nếu như mở miệng dò hỏi thì chỉ thêm

nhục, phái Tinh Tú nhất định sẽ không trả lời nên đành tự nhủ: “Tạm

thời nhẫn nại, đến đâu khắc biết”.

datlucky_way

23-07-2009 03:06 PM

Hồi 31(a) : THÂU DOANH THÀNH BẠI, HỰU TRANH DO NHÂN TOÁN 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Thành bại hơn thua cũng bởi trời,

Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.

Trăm sự chẳng qua do mạng số,

Phúc phận cho mình được đấy thôi.

*

* *

Xe đi lộc cộc ngày đêm không nghỉ. Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên,

Khang Quảng Lăng cả bọn đều là những nhân vật có bản lãnh trong võ

lâm, lúc này võ công đều mất hết, trở thành những người tù tùy thuộc vào

tay người khác bảo sao chịu vậy. Mọi người chỉ đoán chừng đoàn xe đang

đi về hướng đông nam.

Cứ như thế đi tám ngày liền, đến ngày thứ chín, mới sáng sớm đã đi

lên một sơn đạo. Đến trưa hôm đó, địa thế càng lúc càng cao, đến sau xe

lớn không thể lên nổi. Bọn đệ tử phái Tinh Tú gọi bọn Huyền Nạn ra

khỏi xe, đi bộ chừng hơn nửa giờ đến một nơi thấy trúc mọc dầy đặc,

cảnh sắc thanh nhã, bên giòng suối là một tòa lương đình dựng toàn bằng

tre lớn, cấu trúc tinh nhã thật là khéo léo, trúc là đình, đình là trúc khiến

thoạt vừa trông không biết đó là rừng trúc hay đình viện. Phùng A Tam

tấm tắc khen ngợi, nhìn ngang nhìn ngửa trong lòng bán tín bán nghi.

Mọi người liền vào trong đình ngồi nghỉ, từ sơn đạo có bốn người rảo

bước đi xuống. Hai người đi trước là đệ tử của Đinh Xuân Thu, chắc là

khi xe vừa dừng bánh đã lên núi thám thính hoặc báo tin. Đi sau là hai

thanh niên ăn mặc theo lối nhà nông, đến trước mặt Đinh Xuân Thu khom

lưng hành lễ, trình lên một phong thư.

Đinh Xuân Thu mở ra xem qua, cười khẩy nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi vẫn chưa thoái chí đòi quyết một trận

sinh tử, ta sẽ bồi tiếp.

Người thanh niên lấy trong túi ra một cái pháo hiệu, đốt lửa châm,

nghe bùng một tiếng, chiếc pháo đã bay vọt lên không. Những pháo bình

thường nổ một tiếng bay lên rồi sẽ nổ bạch một tiếng vỡ tung ra, còn

chiếc pháo hiệu này lên trên trời nổ bạch bạch bạch liên tiếp ba tiếng.

Phùng A Tam ghé tai Khang Quảng Lăng nói:

- Đại ca, pháo này do bản môn chế tạo.

Không bao lâu từ sơn đạo một đoàn người đi xuống, tổng cộng phải

đến hơn ba chục người, đều mặc theo lối nhà quê, tay cầm binh khí dài.

Đến gần hơn mới thấy đây không phải là binh khí mà là đòn gánh, cứ hai

chiếc đòn gánh lại có mắc một chiếc võng để cho người ngồi. Đinh Xuân

Thu cười nhạt:

- Chủ nhân chiều khách, các ngươi không phải khách sáo, lên võng

đi thôi.

Bọn Huyền Nạn các người liền lên cáng, những thanh niên đó hai

người khiêng một người, bước đi nhanh nhẹn chạy thẳng lên núi. Đinh

Xuân Thu tay áo rộng phất phới, đi trước. Y đi không có vẻ gì gấp gáp

nhưng cứ theo sơn đạo khúc khuỷu mà vùn vụt như cưỡi gió lướt đi, chân

không chạm đất, chỉ một thoáng đã biến mất trong khu rừng trúc.

Bọn Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân

Thu đều phẫn nộ cho rằng mình bị yêu pháp làm hại, chưa đánh đã thua

bây giờ thấy khinh công của y cao siêu như thế, bản lãnh đó không thể

đánh lừa được, ai nấy thán phục nghĩ thầm: “Nếu y không sử dụng công

phu yêu quái chăng nữa thì mình cũng chẳng phải là đối thủ”. Phong Ba

Ác khen ngợi:

- Lão yêu này khinh công cao siêu quá, quả thật bội phục hết sức.

Y vừa mở miệng tán thưởng, bọn đệ tử phái Tinh Tú lập tức ùa theo

xưng tụng, nói là võ công Đinh Xuân Thu đương thế không ai sánh kịp đã

đành mà các võ học đại sư từ xưa đến nay, dù cho Đại Ma lão tổ ... cũng

chẳng bằng, toàn những lời nịnh hót chưa ai từng nghe bao giờ. Bao Bất

Đồng nói:

- Này các vị lão huynh, công phu của phái Tinh Tú quả thực hơn hẳn

các môn phái khác, quả đúng là “tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả”.

Bọn đệ tử ai nấy mừng rơn, một người liền hỏi lại:

- Theo ý của huynh đài, công phu ghê gớm nhất của môn phái chúng

tôi là công phu gì thế?

Bao Bất Đồng đáp:

- Nào phải chỉ một môn, ít ra cũng phải ba môn.

Bọn đệ tử càng thêm phấn khởi, nhao nhao hỏi:

- Ba môn nào?

Bao Bất Đồng nói:

- Môn thứ nhất là Mã Thí Công1. Công phu này luyện không tinh, e

rằng không sống nổi trong quí phái được một ngày một buổi. Môn thứ hai

là Pháp Loa Công2, nếu không thổi phồng tài ba đức hạnh của quí môn

lên rõ to thì chẳng những bị sư phụ ghét bỏ mà ngay cả đồng môn cũng

chèn ép, không còn đường nào mà ngóc đầu lên. Còn môn công phu thứ

ba là Hậu Nhan Công3. Nếu không biết táng tận lương tâm, mặt dày mày

dạn thì làm sao luyện cho thành được Mã Thí và Pháp Loa hai đại kỳ

công?

Y nói ra rồi, tưởng rằng quần đệ tử phái Tinh Tú sẽ nổi giận đùng

đùng, xông lại tẩn cho một trận, nhưng mấy câu đó đã lên đến cổ, không

1 2 3 

nói không chịu được, ngờ đâu bọn kia nghe xong, ai nấy lặng lẽ gật gù.

Một người nói:

- Lão huynh quả thực thông minh, biết rất rõ những kỳ công của bản

phái. Có điều ba môn kỳ công Mã Thí, Pháp Loa, Hậu Nhan tu tập cực kỳ

khó khăn. Những người tầm thường bị nhiễm thói của thế tục, luôn luôn

nghĩ đến tốt, xấu giữ trong lòng cái thói hủ lậu phân biệt thiện ác, chia ra

thị phi thì khi tu tập môn Hậu Nhan Công, cố gắng nhiều, thành tựu chẳng

bao nhiêu, lúc nào cũng thắc thỏm, công phu sẽ kém đi một mức.

Bao Bất Đồng ra lời châm chích, nào có ngờ được bọn này lại thản

nhiên như không, chẳng nghi ngờ gì cả, không khỏi kinh ngạc, cười nói:

- Thần công của quí phái thâm áo không đâu sánh kịp, tiểu tử vốn

thầm ngưỡng mộ, mong được đại tiên mở đường khai lối.

Gã kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là “đại tiên”, mặt liền câng câng

đắc ý nói:

- Ngươi không phải là người trong bản môn, cái bí áo của thần công

ta không thể nào truyền thụ cho ngươi được. Thế nhưng cái đạo lý thô

thiển mặt ngoài có nói cho ngươi biết cũng không sao. Bí quyết trọng yếu

hơn cả là phải coi sư phụ không khác gì thần minh, dù cho lão nhân gia có

đánh rắm ...

Bao Bất Đồng liền cướp lời:

- Đương nhiên phải khen thơm rồi. Lại phải hít lấy hít để, ca ngợi hết

lời ...

Gã kia chặn lại:

- Lời của ngươi nói chung thì đúng nhưng vào chi tiết cũng có khuyết

điểm, không phải là “hít lấy hít để” mà phải là “hít rõ mạnh, thở thật

êm”.

Bao Bất Đồng khen rối rít:

- Đúng quá! Đúng quá! Đại tiên chỉ điểm thật phải, nếu như thở

phào ra thì có phải đã coi rắm của sư phụ ... không ... không thơm lắm

hay sao.

Người kia gật đầu nói:

- Đúng đó, thiên tư của ngươi cực tốt, nếu như đầu nhập bản phái thì

cũng có triển vọng, tiếc rằng lầm đường lạc lối tả đạo bàng môn. Công

phu bản môn biến hóa vô cùng nhưng công quyết cơ bản thì cũng không

phức tạp lắm đâu chỉ cần nhớ kỹ bốn chữ “rũ sạch lương tâm” là làm gì

cũng không sai sẩy nhiều.

Bao Bất Đồng gật gù liên tiếp nói:

- Quả đúng là:

Nghe ngài nói chuyện một đêm,

Còn hơn đọc sách mười năm dùi mài.4

Tại hạ trong lòng từng ngưỡng mộ quí phái từ lâu, tiếc thay không

được đầu nhập làm môn hạ, không biết đại tiên có vui lòng tiến dẫn

chăng?

Gã kia mặt nhơn nhơn, mỉm cười đáp:

- Gia nhập bản môn nào phải chuyện đùa, phải qua bao nhiêu khảo

nghiệm cực kỳ khó khăn năm này tháng nọ, chỉ sợ ngươi không chịu nổi

mà thôi.

Một tên khác liền chặn lại:

- Nơi đây tai mắt lắm người, không nên nói chuyện nhiều. Họ Bao

kia, nếu ngươi quả có lòng muốn xin vào bản môn, đợi khi nào sư phụ ta

trong lòng khoan khoái, ta sẽ nhân đó nói tốt cho ngươi vài câu. Bản phái

thu nhận đồ đệ rất đông, ta xem ngươi căn cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu

được sư phụ mở lòng từ bi, nhận ngươi làm học trò, may ra mai sau cũng

nở mày nở mặt.

Bao Bất Đồng mặt nghiêm lại đáp:

- Đa tạ! Đa tạ! Ân đức của đại tiên, Bao mỗ quyết không bao giờ

quên được.

Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can nghe Bao Bất Đồng phỉnh nịnh

bọn đệ tử phái Tinh Tú, trong bụng không khỏi vừa tức cười, vừa lộn ruột

nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có những kẻ hèn mạt vô sỉ đến thế, lấy

trò bốc thơm, bợ đít làm vinh, quả thực chưa từng nghe đến”.

Trong khi nói chuyện, đoàn người đã đi vào một sơn cốc, bên trong

thung lũng toàn là cây tùng, gió núi thổi đến tiếng reo dạt dào như sóng

vỗ. Đi thêm chừng một dặm nữa thì đến ba gian nhà gỗ. Trước nhà là một

cây cổ thụ bên dưới hai người ngồi đối diện nhau. Người phía bên trái có

ba người đứng sau lưng. Đinh Xuân Thu đứng xa xa, ngẩng đầu nhìn trời,

thần tình cực kỳ ngạo mạn.

Đoàn người đến gần, Bao Bất Đồng nghe thấy Lý Khổi Lỗi ở cáng

phía sau ồ lên một tiếng, dường như định nói gì nhưng lại cố nén lại. Bao

Bất Đồng quay đầu lại nhìn, thấy mặt y tái nhợt, thần tình cực kỳ hoảng

hốt. Bao Bất Đồng hỏi:

- Ngươi làm sao thế? Trông thấy ma à? Làm gì mà sợ vậy?

Lý Khổi Lỗi không trả lời, làm như không nghe thấy y nói gì. Đến gần

hơn nữa, thấy giữa hai người ngồi là một phiến đá lớn, bên trên có một

bàn cờ, hai người đang đánh. Người ngồi bên phải là một ông già nhỏ bé

gầy gò, còn phía bên trái là một thanh niên công tử. Bao Bất Đồng nhận

ra thanh niên đó chính là Đoàn Dự, trong lòng chán ngắt, nghĩ thầm: “Ta

đối với tiểu tử này cực kỳ vô lễ, hôm nay y thấy mình thân tàn ma dại thế

này, gã thể nào chẳng buông lời nhạo báng”.

Chỉ thấy bàn cờ được khắc vào một phiến đá xanh lớn, quân trắng

quân đen đều bóng lộn, hai bên đã để được đến trên trăm quân. Đinh

Xuân Thu chậm rãi đến gần xem hai người, ông già thấp bé cầm một

quân đen để xuống, đột nhiên đôi lông mày nhướng lên, dường như trông

thấy cuộc cờ đi vào chỗ biến hóa kỳ diệu. Đoàn Dự cầm một quân cờ

trắng, trầm ngâm chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu lên:

- Này, tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi hỏng rồi, cờ vào thế tiến cũng dở ở

không xong chịu thua quách đi thôi.

Ba người đứng sau lưng Đoàn Dự liền quay lại hầm hầm nhìn y, chính

là bọn Chu Đan Thần ba người hộ vệ. Bất thình lình, Khang Quảng Lăng,

Phạm Bách Linh cả bọn Hàm Cốc bát hữu người nào cũng từ trên cáng

gắng gượng nhảy xuống, đi đến cách bàn cờ bằng đá xanh chừng một

trượng, cùng quì cả xuống. Bao Bất Đồng kinh ngạc nói:

- Làm trò quỉ gì đây?

Vừa mới nói ra khỏi miệng lập tức hiểu ngay, ông già mình hạc xác ve

kia chính là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, sư phụ của Hàm Cốc

bát hữu. Thế nhưng ông ta cũng là kẻ tử đối đầu của Tinh Tú Lão Quái

Đinh Xuân Thu, kẻ đại thù trước mặt sao vẫn còn nhàn hạ ngồi đánh cờ?

Đối thủ của ông ta lại chẳng phải là một nhân vật trọng yếu mà chỉ là

một anh đồ gàn không biết võ công?

Khang Quảng Lăng nói:

- Lão nhân gia xem chừng còn khang kiện hơn xưa, bọn hậu bối tám

người chúng tôi mừng không sao kể xiết.

Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đuổi khỏi sư

môn nên không dám gọi ông bằng thầy. Phạm Bách Linh nói:

- Huyền Nạn đại sư của phái Thiếu Lâm đến thăm lão nhân gia đó.

Tô Tinh Hà đứng bật dậy, quay về mọi người vái một cái thập sâu nói:

- Huyền Nạn đại sư giá lâm, lão hủ Tô Tinh Hà không kịp nghinh

tiếp, thật đáng trách lắm.

Ông ta chỉ liếc ngang mọi người một cái rồi lại quay ngay trở lại bàn

cờ. Mọi người đã nghe Tiết Mộ Hoa kể rõ nguyên nhân tại sao sư phụ

ông ta bị ép phải giả như câm như điếc, lúc này ông ngang nhiên mở

miệng nói năng, xem ra đã quyết cùng Đinh Xuân Thu một mất một còn.

Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn không thể không liếc qua nhìn

Đinh Xuân Thu một cái, trong lòng vừa phấn khởi, vừa âu lo.

Huyền Nạn nói:

- Không dám! Không dám!

Ông thấy Tô Tinh Hà coi bàn cờ trọng như thế nghĩ thầm: “Người này

tạp vụ quá nhiều, thư họa cầm kỳ, không môn gì không tinh thông, thảo

nào võ công không bằng sư đệ”.

Trong khi không ai nói một tiếng nào, bỗng dưng Đoàn Dự cất tiếng:

- Được rồi, đi vào đây.

Chàng vừa nói vừa đặt một quân cờ trắng xuống bàn cờ. Tô Tinh Hà

mặt lộ vẻ vui mừng, gật đầu, dường như đã hiểu tay đặt một quân cờ đen

khác. Đoàn Dự đã nghĩ xong được mươi nước trước, liền hạ thêm một

quân trắng khác, Tô Tinh Hà lại để một quân cờ đen.

Hai người đặt được hơn mươi quân rồi, Đoàn Dự thở dài một tiếng, lắc

đầu nói:

- Lão tiên sinh bày bàn cờ Trân Lung này quả là thâm áo xảo diệu,

vãn sinh không phá giải nổi.

Xem ra Tô Tinh Hà đã thắng, tuy nhiên mặt ông ta lại lộ vẻ thất vọng

nói:

- Kỳ tứ của công tử quả là tinh mật, mười nước vừa đi thật cao,

nhưng chưa nghĩ được sâu thêm một chút, thật là đáng tiếc! Đáng tiếc

thay! Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc lắm thay!

Ông ta liên tiếp chép miệng, miệng nói bốn lần “đáng tiếc” quả thực

biết bao ngậm ngùi. Đoàn Dự nhặt mười quân cờ trắng mình vừa đi lên,

bỏ trở lại vào hộp, Tô Tinh Hà cũng lấy mười viên cờ đen của mình mới

bỏ xuống, bàn cờ trở lại trận thế như lúc đầu.

Đoàn Dự lùi lại đứng qua một bên, nhìn bàn cờ ngẩn ngơ suy nghĩ:

“Thế cờ Trân Lung này chính là bàn cờ hôm trước ta đã thấy trong thạch

động núi Vô Lượng. Vị Thông Biện tiên sinh này và thần tiên tỉ tỉ trong

động ắt có uyên nguyên, đợi khi nào thuận tiện ta sẽ len lén hỏi ông ta

nhưng không thể để cho người ngoài hay biết. Nếu không mọi người sẽ

tìm đến để nhìn thần tiên tỉ tỉ, chẳng phải khinh mạn nàng lắm hay sao?”.

Người thứ hai trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là một

người mê đánh cờ, từ xa đứng nhìn kỳ cục, biết rằng không phải sư phụ

cùng thanh niên kia đánh cờ mà là sư phụ bố trí bàn cờ Trân Lung, còn

thanh niên kia thử vào phá giải nhưng giải không được. Y quì dưới đất

nên nhìn không rõ, đầu gối lập tức nhấc lên, vươn dài cổ định nhìn cho rõ.

Tô Tinh Hà nói:

- Tất cả các ngươi mau đứng dậy! Bách Linh, thế cờ Trân Lung này

có ảnh hưởng rất lớn, ngươi lại đây xem thử, nếu như phá giải được thì

thật hay không đâu cho hết.

Phạm Bách Linh mừng rỡ vội đáp:

- Vâng!

Y liền đứng lên, đi đến bên cạnh bàn cờ, ngưng thần xem xét. Đặng

Bách Xuyên hỏi nhỏ:

- Nhị đệ, sao lại gọi là Trân Lung?

Công Dã Can cũng thì thầm trả lời:

- Trân Lung tức là nạn đề của môn cờ vây. Đó là cờ thế do người ta

cố ý bày chứ không phải do hai người đánh cờ mà thành, do đó hoặc sinh,

hoặc kiếp nước nào cũng thật khó mà đoán được.

Những thế Trân Lung tầm thường, ít thì mươi quân, nhiều có khi lên

đến bốn năm chục quân, thế nhưng bàn cờ này có đến hơn hai trăm, gần

như kín cả bàn cờ rồi. Công Dã Can cũng không hiểu biết bao nhiêu, xem

một hồi chẳng hiểu gì cả nên không coi nữa.

Phạm Bách Linh chuyên tâm nghiên cứu cờ vây mấy chục năm qua,

quả đã là một cao thủ về môn này, thấy trên bàn cờ trong kiếp có kiếp,

lại có cộng hoạt, lại thêm trường sinh, hoặc phản phác, hoặc thu khí, tụm

năm tụm ba mỗi chỗ một nhóm thật là phức tạp. Y cảm thấy tinh thần

phấn khởi, xem thêm một lúc, tự nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ

mới suy nghĩ về quân trắng một góc bên phải thắng bại ra sao, đã thấy

khí huyết trong ngực nhộn nhạo.

Y cố gắng định thần, tính lại lần thứ hai mới thấy rằng lúc trước vẫn

tưởng bên trắng ở nơi đó đã hỏng, bây giờ mới hay cũng vẫn còn đường

sống, thế nhưng muốn giết nhóm quân đen ở bên cạnh thì thể nào cũng

dứt dây động rừng, bèn tính toán thêm nữa, đột nhiên mắt tối sầm, cổ

họng mằn mặn, ọc ra một ngụm máu tươi.

Tô Tinh Hà lãnh đạm nhìn y nói:

- Thế cờ này rất ư là khó, ngươi thiên tư có hạn, tuy kỳ lực chẳng dở

nhưng xem chừng giải không nổi đâu, huống chi có thêm tên ác tặc Đinh

Xuân Thu đứng bên cạnh thi triển tà thuật, làm điên đảo hồn vía, quả

thực hung hiểm, ngươi có còn muốn giải nữa hay thôi?

Phạm Bách Linh đáp:

- Sinh tử hữu mệnh, đệ ... tại hạ ... tại hạ ... quyết ý tận tâm tận lực.

Tô Tinh Hà gật đầu nói:

- Vậy ngươi cứ thư thả mà suy nghĩ.

Phạm Bách Linh chăm chú vào cuộc cờ, thân hình lảo đảo, lại phun ra

thêm một ngụm máu nữa. Đinh Xuân Thu cười gằn nói:

- Chỉ bỏ mạng toi, sao việc gì phải khổ sở thế? Lão tặc đó bố trí cơ

quan, cốt là để hành hạ, giết người, Phạm Bách Linh, ngươi đúng là chui

đầu vào rọ.

Tô Tinh Hà đưa mắt hầm hầm nhìn y, hỏi:

- Ngươi gọi sư phụ là gì thế?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Y là lão tặc nên ta gọi là lão tặc.

Tô Tinh Hà nói:

- Lung Á lão nhân hôm nay không còn câm điếc, chắc ngươi đã biết

lý do tại sao rồi?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Hay lắm! Ngươi tự ý phá lời thề, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng

trách ta nhé.

Tô Tinh Hà tiện tay nhắc một phiến đá ở bên cạnh, đặt xuống bên

cạnh Huyền Nạn nói:

- Mời đại sư ngồi.

Huyền Nạn thấy tảng đá đó không thể nào dưới hai trăm cân, một ông

lão gầy gò nhỏ thó như Tô Tinh Hà, cả người không đến tám chục cân,

vậy mà làm như trò trẻ, không phí một chút sức lực đã nhắc được cục đá

lên, công lực thực là ghê gớm. Ông nghĩ chính mình khi võ công chưa

mất, muốn nhắc một tảng đá như thế thật không khó khăn gì, nhưng làm

một cách nhẹ nhàng như thế cũng chưa chắc được, bèn chắp tay nói:

- Đa tạ!

Sau đó ngồi xuống. Tô Tinh Hà lại tiếp:

- Thế cờ Trân Lung này là do tiên sư tạo thành. Năm xưa tiên sư

phải mất ba năm tâm huyết mới sắp đặt xong, chỉ mong trên đời có người

hiểu lòng mình mà phá giải. Tại hạ trong ba mươi năm qua khổ công

nghiên cứu, vậy mà vẫn chưa giải được.

Ông ta nói đến đây, ông đưa mắt quét qua cả bọn Huyền Nạn, Đoàn

Dự, Phạm Bách Linh rồi tiếp:

- Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, hiểu được yếu chỉ Thiền tông

là ở chỗ đốn ngộ. Khổ công năm này tháng khác, chưa chắc đã bằng được

người đầy đủ căn cốt, huệ tâm vừa thấy đã thông hiểu ngay. Đánh cờ

cũng vậy thôi, đứa trẻ tám chín tuổi có tài trí đầy đủ, đánh cờ vẫn có thể

thắng được hạng nhất lưu cao thủ. Mặc dầu tại hạ nghiên cứu mãi không

ra, nhưng kẻ tài giỏi trong thiên hạ rất nhiều, không phải là không thể

giải được.

Tiên sư năm xưa để lại thế cờ này, nếu như có người hoàn thành được

tâm nguyện của lão nhân gia thì tiên sư tuy không còn tại nhân gian, dưới

cửu tuyền nếu biết được cũng thật là an ủi.

Huyền Nạn nghĩ thầm: “Sư phụ đồ đệ của vị Thông Biện tiên sinh này

cùng một nguồn gốc, những trò chơi cầm kỳ thi họa đều lôi kéo con người

đi vào ma chướng, đem hết cả cái thông minh tài trí một đời tiêu vào cái

việc đâu đâu khiến cho Đinh Xuân Thu ở trong môn phái hoành hành

không còn úy kỵ gì nữa, không ai chế ngự nổi y, cũng thật đáng buồn”.

Lại nghe Tô Tinh Hà tiếp tục:

- Gã sư đệ của ta ...

Ông vừa nói vừa chỉ vào Đinh Xuân Thu:

- ... năm xưa phản bội sư môn, khiến cho tiên sư ẩm hận tạ thế, lại

đánh ta không còn đường nào chống đỡ. Tại hạ vốn dĩ đã mong đem cái

chết để đền ơn thầy, nhưng nghĩ lại cái tâm nguyện của sư phụ chưa hoàn

tất, nếu chưa đi tìm người phá giải thì ở dưới suối vàng còn mặt mũi nào

mà nhìn sư phụ, nên đành cố chịu kiếp sống thừa cho đến ngày nay.

Trong bao nhiêu năm qua, tại hạ tuân thủ ước định với sư đệ, không

nói một lời, tự cho mình danh xưng Lung Á lão nhân, ngay cả môn hạ đệ

tử mới thu, cũng ép phải thành người câm điếc. Than ôi, ba mươi năm qua

chẳng thành tựu được chuyện gì, thế cờ này đến nay vẫn chưa ai phá giải

được. Vị Đoàn công tử đây tuy anh tuấn tiêu sái ...

Bao Bất Đồng lại chen vào:

- Vị Đoàn công tử đây chắc gì đã anh tuấn, còn tiêu sái thì nhất định

chẳng có chút nào, huống chi bề ngoài anh tuấn tiêu sái với đánh cờ có gì

liên quan đâu, không thông ơi là không thông!

Tô Tinh Hà đáp:

- Có liên hệ lắm chứ! Thật nhiều là khác!

Bao Bất Đồng đáp:

- Vẻ người lão tiên sinh, ha ha, có thấy chút nào anh tuấn tiêu sái

đâu!

Tô Tinh Hà quay sang chăm chăm nhìn y một hồi, miệng hơi mỉm

cười. Bao Bất Đồng nói:

- Chắc tiền bối định nói Bao Bất Đồng so với lão tiên sinh hình dung

cổ quái xấu xí ...

Tô Tinh Hà không nhìn nhõi gì đến y nữa, tiếp tục:

- Đoàn công tử đi mười bước đầu quả thực cực kỳ tinh diệu khiến cho

lão phu thật là kỳ vọng, có ngờ đâu lỡ mất một nước nên mấy nước sau

đành chịu thua.

Đoàn Dự vẻ mặt sượng sùng nói:

- Tại hạ tư chất ngu độn làm phụ lòng nhã ái của lão trượng, thật

đáng hổ thẹn ...

Lời nói chưa dứt, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to một tiếng, máu từ

miệng tuôn ra ồng ộc, ngã lật về sau. Tô Tinh Hà hơi nhắc tay trái lên,

soẹt soẹt soẹt, ba quân cờ ném ra đánh trúng ba huyệt đạo trên ngực y

lúc đó mới ngưng thổ huyết.

Mọi người còn đang kinh ngạc bỗng nghe cạch một tiếng, từ trên

không một vật gì trăng trắng bay xuống, trúng ngay bàn cờ. Tô Tinh Hà

nhìn lại, hóa ra một mẩu gỗ tùng còn tươi ai đó mới móc ra, khéo làm sao

trúng ngay khứ vị ở điểm thất cửu, chính là một nước phá giải thế cờ Trân

Lung. Ông ngửng đầu lên thấy trên cây tùng phía bên trái cách chừng

năm sáu trượng, thấp thoáng một tà trường bào màu vàng nhạt, hiển

nhiên có người ẩn nơi đó.

Tô Tinh Hà vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói:

- Lại có thêm một vị cao nhân nào giá lâm, lão hủ thật vui mừng

khôn xiết.

Ông đang định đi một quân cờ đen, đột nhiên bên tai một tiếng gió

nhẹ vụt qua, một vật gì đen sì từ sau lưng bay đến, rơi ngay vào khứ vị ở

điểm bát bát, đúng ngay vào nơi Tô Tinh Hà vừa định hạ xuống.

Mọi người ồ lên một tiếng, quay đầu lại nhưng không thấy bóng dáng

ai. Những cây tùng ở phía bên phải không cây nào cao to, nếu trên cây có

người ngồi đó thì thấy ngay, không biết kẻ kia ẩn náu nơi nào. Tô Tinh

Hà nhìn vật đen sì kia chính là một miếng vỏ cây tùng nho nhỏ, điểm rơi

xuống thật chính xác, trong bụng cũng hơi kinh hãi. Quân đen kia vừa hạ

xuống, từ cây tùng bên trái lại đi một mẩu gỗ tùng thay quân trắng vào

khứ vị ngũ lục.

Vèo một tiếng, một vật đen đen bắn thẳng lên trời, rơi thẳng xuống,

không nghiêng không lệch đúng ngay khứ vị tứ ngũ. Quân cờ đen đó khi

lên thì quay vòng vòng như trôn ốc, phát xuất từ đâu thật khó mà nhìn ra

được, ngoằn ngoèo một hồi vậy mà rơi xuống chính xác như thế, công

phu ném ám khí đó đủ đã kinh người. Người đứng chung quanh ai nấy bội

phục, cùng suýt xoa reo hò.

Tiếng khen chưa dứt bỗng nghe một giọng vang vang từ trên cành cây

truyền xuống:

- Mộ Dung công tử đến phá giải thế Trân Lung, tiểu tăng thay người

đi giùm hai nước xin đừng trách tội mạo muội.

Cành lá hơi rung động, nghe tiếng gió thoảng qua, bên cạnh bàn cờ đã

xuất hiện thêm một nhà sư nữa. Hòa thượng đó mặc tăng bào màu xám

tro, thần thái sáng láng, bảo tướng trang nghiêm, trên mặt ẩn một nụ

cười.

Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: “Tên ma đầu Cưu Ma Trí lại

đến rồi”. Chàng lại bụng bảo dạ: “Không lẽ quân cờ trắng kia là do Mộ

Dung công tử đi hay sao? Vị Mộ Dung công tử này rồi đến hôm nay ta

cũng sẽ gặp”.

Chỉ thấy Cưu Ma Trí chắp hai tay, quay sang Tô Tinh Hà, Đinh Xuân

Thu và Huyền Nạn hành lễ nói:

- Tiểu tăng trên đường nhận được Kỳ Hội Thiếp của Thông Biện

tiên sinh, không tự lượng sức mình nên vội tới gặp mặt thiên hạ cao nhân.

Y lại tiếp:

- Mộ Dung công tử xin cũng hiện thân đi thôi.

Chỉ nghe một tiếng cười trong trẻo, từ sau một cây tùng hai người bước

ra. Đoàn Dự chỉ thấy mắt tối sầm, tai ù đi, miệng đắng ngắt, người nóng

bừng. Người đó uyển chuyển chậm rãi bước tới, chính là giai nhân mà

chàng đêm mong ngày nhớ, không lúc nào quên Vương Ngữ Yên.

Nàng mặt đầy vẻ say mê lưu luyến, ngẩn ngơ nhìn thanh niên công tử

đi bên cạnh. Đoàn Dự theo ánh mắt nàng nhìn theo, thấy người đó chừng

hăm bảy, hăm tám, mặc áo lụa mỏng màu vàng nhạt, trường kiếm đeo

ngang hông, diện mục tuấn tú, đi đứng nhẹ nhàng đầy vẻ tiêu sái nhàn

nhã.

Đoàn Dự vừa trông thấy y lập tức nửa người chết cứng, rưng rưng

dường như muốn rơi nước mắt, nghĩ thầm: “Người ta vẫn thường bảo Mộ

Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên không phải nói

ngoa. Vương Ngữ Yên đối với y ái mộ như thế cũng chẳng trách nàng

được”.

Chàng chỉ biết tự oán mình, than thân trách phận, chẳng muốn ngẩng

lên nhìn Vương Ngữ Yên nhưng rồi không cưỡng nổi cũng len lén liếc

nàng một cái. Chỉ thấy người đẹp mặt mày rạng rỡ, tưởng như toàn thân

chỗ nào cũng đầy hỉ khí, từ khi biết nhau đến nay, chưa từng thấy nàng

vui vẻ đến thế bao giờ.

Hai người đến gần hơn nhưng Vương Ngữ Yên gặp Đoàn Dự mà

dường như thị nhi bất kiến5 cũng chẳng gọi lấy một câu. Đoàn Dự tự nhủ:

“Trong lòng nàng trước nay có bao giờ để ý đến ta đâu, khi ở bên cạnh

mình cũng chĩ nghĩ tới biểu ca mà thôi”.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác tiến ra

nghinh tiếp. Công Dã Can hướng về Mộ Dung Phục hạ giọng bẩm báo lai

lịch Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn mọi người. Bao Bất Đồng

nói:

- Gã họ Đoàn kia là một tên đồ gàn, không biết võ công, mới rồi đã

đánh cờ thua một trận rồi.

Mộ Dung Phục liền cùng mọi người hành lễ tương kiến, ngôn ngữ

khiêm hòa ra vẻ muốn làm quen. Cô Tô Mộ Dung danh chấn thiên hạ, có

ai ngờ đâu lại là một thanh niên công tử hình dáng tuấn nhã, điệu bộ

thanh quí, nên người nào cũng nói vài lời ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân

Thu cũng khách sáo đôi câu.

Người sau cùng Mộ Dung Phục chào là Đoàn Dự:

- Đoàn huynh khỏe chứ?

Đoàn Dự thần tình ủ rũ, lắc đầu:

- Các hạ khỏe chứ ta ... ta ... chẳng khỏe chút nào.

Vương Ngữ Yên ồ một tiếng nói:

- Đoàn công tử hóa ra cũng ở nơi đây.

Đoàn Dự ấp úng:

- Chính ... chính ... tôi đây.

Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng mấy bận, không thèm nói đến

nữa, đi đến bên cạnh bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống. Cưu Ma

Trí mỉm cười nói:

- Mộ Dung công tử võ công cao cường, nhưng môn cờ vây e rằng

cũng chỉ bình thường.

Nói xong cũng đặt một quân cờ đen. Mộ Dung Phục nói:

- Chưa chắc thua đại sư đâu.

Nói xong cũng hạ một quân cờ đen, Cưu Ma Trí cũng theo đó mà đi

thêm một nước. Mộ Dung Phục đã xem bàn cờ này rất lâu, tự tin rằng

mình đã tìm được giải pháp, ngờ đâu nước cờ của Cưu Ma Trí lại hoàn

toàn ngoài dự tính của y, bao nhiêu những tính toán trong đầu trôi theo

giòng nước, lại phải tính lại từ đầu, một lúc lâu sau mới đi thêm được một

nước.

Cưu Ma Trí suy nghĩ cực nhanh, đặt liền một quân nữa. Hai người một

chậm một nhanh, đi đến hơn hai chục quân, Cưu Ma Trí đột nhiên cười ha

hả nói:

- Mộ Dung công tử, chúng mình kẻ nọ bó chân bó cẳng người kia.

Mộ Dung Phục giận dữ đáp:

- Ngươi đặt cờ loạn xạ, bây giờ có giỏi thì phá giải đi.

Cưu Ma Trí cười đáp:

- Thế cờ này vốn dĩ trên đời không ai giải được, chẳng qua chỉ bày ra

để trêu ngươi. Tiểu tăng biết thân biết phận nên chẳng muốn hao tâm

huyết suy nghĩ những chuyện không đâu. Mộ Dung công tử, đến ta ở một

góc trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi

hươu ở Trung Nguyên sao?

Mộ Dung Phục giật mình, trong một thoáng trăm ngàn mối vấn vương,

trăn qua trở lại chĩ nghĩ đến câu Cưu Ma Trí vừa nói: “Đến ta ở một góc

trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi

hươu ở Trung Nguyên sao? ”.

Trước mắt y chỉ thấy mờ dần, quân trắng quân đen trên bàn cờ nay

biến thành quan quân sĩ tốt, tây một thế trận, ta vây ngươi, ngươi vây ta,

hai bên lẫn lộn chém giết nhau. Mộ Dung Phục trừng trừng nhìn vào, bên

mình cờ trắng giáp trắng bị quân cờ đen, giáp đen vây chặt, tả xông hữu

đột vẫn không sao ra khỏi trùng vi, trong bụng càng lúc càng thêm bồn

chồn: “Họ Mộ Dung ta thiên mệnh đã hết rồi, bao nhiêu tâm cơ nay đành

uổng phí. Ta một đời tận tâm tận lực, nhưng rồi cũng chỉ là một giấc

mộng ảo mà thôi! Thời là thế, mệnh là thế, còn nói năng gì nữa?”. Y đột

nhiên hét lên một tiếng, rút phắt trường kiếm đưa lên cổ cứa ngang.

Trong khi Mộ Dung Phục thần sắc bất định, đứng ngơ ngẩn không nói

năng, Vương Ngữ Yên, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can cả bọn chăm

chăm nhìn y. Đến khi Mộ Dung Phục đột nhiên rút kiếm tự vẫn, không ai

có thể ngờ tới, cả bọn liền xông lên giải cứu nhưng công lực hoàn toàn

mất hết rồi, thành ra vẫn chậm một bước. Đoàn Dự vung tay điểm ra kêu

lên:

- Không được làm thế!

Chỉ nghe soẹt một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục giật

bắn lên, nghe keng một tiếng đã rơi xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói:

- Đoàn công tử, chiêu Lục Mạch Thần Kiếm quả hay thật.

Mộ Dung Phục trường kiếm rời khỏi tay còn đang kinh hãi, từ trong

mơ mơ màng màng tỉnh lại. Vương Ngữ Yên cầm tay y, liên tiếp vừa lắc

vừa kêu:

- Biểu ca, không giải được thế cờ thì có đáng gì đâu? Sao lại nỡ nào

tự tận?

Nàng nói rồi nước mắt chảy dàn dụa trên má. Mộ Dung Phục bàng

hoàng kêu lên:

- Ta sao thế?

Vương Ngữ Yên đáp:

- Cũng may Đoàn công tử đánh rơi thanh trường kiếm trong tay biểu

ca, nếu không ... nếu không ...

Công Dã Can khuyên nhủ:

- Công tử, bàn cờ này làm mê hoặc lòng người, xem ra bên trong có

cả huyễn thuật, công tử đừng hao phí tâm tư thêm nữa làm gì.

Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự nói:

- Kiếm chiêu mới rồi của các hạ có phải thực là Lục Mạch Thần

Kiếm chăng? Tiếc thay tại hạ không được xem, các hạ có thể thử thêm

lần nữa để cho bỉ nhân được dịp mở mắt.

Đoàn Dự quay sang nhìn Cưu Ma Trí, e ngại y thấy mình sử dụng Lục

Mạch Thần Kiếm rồi sẽ lại bắt mình lần nữa. Lộ kiếm pháp đó khi thì

linh, khi thì không, nếu như tên ác hòa thượng này ra tay, thực khó mà

chống trả, trong bụng sợ hãi, tránh ra ba bước cho cách xa Cưu Ma Trí, có

bọn Chu Đan Thần ba người xen vào giữa, lúc đó mới đáp:

- Ta ... ta trong cơn gấp gáp, chó ngáp phải ruồi, muốn sử thêm một

chiêu nữa quả thật khó khăn. Có thực ngươi không nhìn thấy hay chăng?

Mộ Dung Phục vẻ mặt ngượng ngập nói:

- Tại hạ nhất thời tâm thần mê loạn chẳng khác gì ma nhập.

Bao Bất Đồng lớn tiếng kêu lên:

- Đúng đó, hẳn là Tinh Tú Lão Quái đứng bên cạnh thi triển tà pháp,

công tử phải hết sức cẩn thận.

Mộ Dung Phục lườm Đinh Xuân Thu, nói với Đoàn Dự:

- Tại hạ chẳng may trúng phải tà thuật, may được các hạ cứu viện,

trong lòng thật là cảm kích. Đoàn huynh biết được tuyệt kỹ Lục Mạch

Thần Kiếm, có phải là người trong Đoàn gia Đại Lý hay không?

Đột nhiên từ đằng xa một giọng nói văng vẳng truyền đến:

- Có một tên họ Đoàn Đại Lý ở đó hay sao? Có phải Đoàn Chính

Thuần không?

Chính là thanh âm của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Bọn

Chu Đan Thần lập tức biến sắc. Lại nghe một giọng oang oang sắc cạnh

như kim loại chạm nhau:

- Lão đại của anh em ta mới đích thực là họ Đoàn Đại Lý, còn ngoài

ra đều là đồ giả.

Đoàn Dự cười thầm nghĩ bụng: “Tên học trò của ta cũng đến nữa

đây”. Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa dứt, từ dưới núi chạy lên

một người, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chính là Vân Trung Hạc, miệng

kêu:

- Thiên hạ Tứ Đại Ác Nhân đúng theo ước hẹn cuộc cờ đến bái

phỏng Thông Biện tiên sinh.

Tô Tinh Hà đáp:

- Hết sức hoan nghênh.

Bốn chữ đó vừa ra khỏi miệng, Vân Trung Hạc đã phiêu phiêu đi đến

trước mặt mọi người. Một lát sau, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương,

Nam Hải Ngạc Thần ba người cũng sánh vai tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần

lớn tiếng nói:

- Lão đại chúng ta xem thiếp mời, cực kỳ hoan hỉ, mọi chuyện khác

gác sang một bên đến đây đánh cờ. Lão đại ta võ công thiên hạ vô địch,

so với Nhạc lão nhị này còn ghê gớm hơn. Kẻ nào không phục cứ lên

đánh thử với y ba ván. Các ngươi muốn một chọi một cũng tốt, mà tất cả

xông lên cũng được. Sao không thấy binh khí đâu cả là sao?

Diệp Nhị Nương vội chặn lại:

- Lão tam chớ có nói năng lếu láo. Đánh cờ nào phải là đánh nhau,

có cần gì binh khí?

Nam Hải Ngạc Thần đáp:

- Có mụ nói lếu láo thì có. Không đánh nhau thì lão đại lật đật đến

đây làm gì?

Đoàn Diên Khánh mắt đăm đăm nhìn bàn cờ, ngưng thần suy nghĩ,

qua một hồi thật lâu, thiết trượng bên trái điểm vào trong hộp quân, đầu

trượng dường như có sức hút, dính chặt một quân cờ trắng, đặt lên trên

bàn cờ. Huyền Nạn khen ngợi:

- Họ Đoàn Đại Lý võ công độc bộ trời nam, quả là không phải chỉ có

hư danh.

Đoàn Dự từng chứng kiến Đoàn Diên Khánh đánh cờ với Hoàng Mi

tăng, biết ông ta không những nội lực thâm hậu mà kỳ lực cũng thật cao,

có thể phá giải thế cờ Trân Lung không chừng. Chu Đan Thần ghé tai

chàng nói nhỏ:

- Công tử, mình đi thôi! Đừng để lỡ cơ hội.

Thế nhưng Đoàn Dự một mặt muốn xem Đoàn Diên Khánh làm thế

nào phá giải ván cờ này, lại thêm dễ dầu gì gặp được Vương Ngữ Yên,

nên dù trời sập chăng nữa cũng chưa chắc khiến cho chàng bỏ nàng mà đi

khỏi, thành thử chỉ ậm ừ mấy tiếng nhưng chân lại nhích dần về chỗ bàn

cờ.

Bàn cờ này thiên biến vạn hóa, bao nhiêu nước Tô Tinh Hà đều đã

thuộc nằm lòng, lập tức đặt ngay một quân đen xuống. Đoàn Diên Khánh

suy nghĩ thêm một lát, lại đặt một quân. Tô Tinh Hà nói:

- Các hạ đi nước này quả là cao minh, để xem có thể phá được cửa

quan tìm ra một lối thoát không nào.

Ông ta đặt một quân đen, chặn ngay đường lại, Đoàn Diên Khánh lại

đi một quân nữa. Hư Trúc bỗng nói:

- Nước cờ đó xem ra không ổn.

Y mới rồi thấy Mộ Dung Phục đã đi quân đó, đi tiếp thêm mấy nước

đột nhiên rút kiếm tự vẫn, sợ rằng Đoàn Diên Khánh cũng rơi vào vết xe

đổ, trong lòng bất nhẫn nên lên tiếng nhắc. Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ

giận dữ, quát lớn:

- Cái thứ chú tiểu như ngươi mà dám nói lão đại ta ổn hay không ổn

hay sao?

Y vừa nói vừa chộp vào lưng Hư Trúc, nhắc lên. Đoàn Dự nói:

- Hảo đồ nhi, không được đả thương tiểu sư phụ.

Nam Hải Ngạc Thần khi vừa đến đã trông thấy Đoàn Dự, trong bụng

ngượng ngập, tốt nhất là chàng chẳng nói năng gì, ngờ đâu lại ra lệnh cho

y, bèn hầm hầm nói:

- Không đả thương thì thôi, đã làm sao nào.

Y bèn để Hư Trúc xuống. Mọi người thấy một gã ngang ngược hung

ác như Nam Hải Ngạc Thần lại nghe lời Đoàn Dự, gọi y là “đồ nhi” mà

không thấy cãi lại đều cảm thấy lạ lùng. Chỉ có bọn Chu Đan Thần hiểu

được nguyên do, trong bụng cười thầm.

Hư Trúc ngồi xuống trong lòng suy nghĩ: “Sư phụ ta vẫn thường dạy

rằng Phật tổ truyền xuống bao gồm giới, định, huệ ba tu chứng pháp môn.

Kinh Lăng Nghiêm có viết: “Nhiếp tâm vi giới, nhân giới sinh định, nhân

định sinh huệ 6“. Con người chúng ta căn cốt ngu độn, khó lòng nhiếp tâm

để giữ mình, thành thử Đạt Ma tổ sư mới truyền cho phương tiện pháp

môn, dạy chúng ta học võ để nhiếp tâm, mà đánh cờ cũng có thể nhiếp

tâm. Học võ tính chuyện hơn thua, đánh cờ cũng là chuyện thua được

cũng đều ngược lại với thiền lý thành ra dù học võ hay đánh cờ cũng phải

cố giữ cái tâm vô thắng bại. Khi tụng kinh, ăn cơm, đi đường thì vô thắng

bại tâm rất là dễ, còn như tỉ võ, đánh cờ mà đạt được vô thắng bại tâm thì

thật khó thay. Nếu như khi tỉ võ, đánh cờ mà không còn cái tâm thắng bại

thì đã là gần được đạo rồi. Kinh Pháp cú có viết: Thắng ắt bị người ta oán

hận, thua sẽ tự cho mình là thấp hèn. Bỏ được cái tâm thắng bại, không

tranh giành thì lòng mới yên.7 Ta võ công kém cỏi, kỳ thuật tầm thường,

cùng sư huynh đệ tỉ võ, đánh cờ bao giờ cũng thua nhiều thắng ít, vậy mà

sư phụ ngược lại khen ta giữ được không giận không oán, coi chuyện

thắng bại nhẹ như bông. Vậy mà sao hôm nay khi ta thấy vị Đoàn thí chủ

này đi sai nước cờ, lại lo cho y lạc bại nên ra lời chỉ điểm? Huống chi cứ

kỳ thuật như ta thì còn chỉ điểm cho ai được nữa? Y đi nước cờ tuy tương

đồng với Mộ Dung công tử nhưng về sau ắt sẽ khác đi, chính ta không

giải được, sao lại dám mở lời “xem ra không ổn”, chẳng hóa ra mang cái

tâm tự cao tự mãn hay sao?”.

Đoàn Diên Khánh cứ đi một nước lại suy nghĩ một hồi, từng quân từng

quân càng lúc càng lâu, đặt đến hơn hai chục quân thì mặt trời đã ngả về

tây. Huyền Nạn đột nhiên nói:

- Đoàn thí chủ, mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính nhưng từ

thứ mười một trở đi lại vào bàng môn, càng lúc càng sâu, để đến lúc

không còn cứu được nữa rồi.

6 7 

Các bắp thịt trên mặt Đoàn Diên Khánh đã cứng không tỏ ra có ý gì

nhưng từ cổ họng phát ra thanh âm nói:

- Phái Thiếu Lâm là danh môn chính tông, theo như chính đạo của

các ông thì giải pháp thế nào?

Huyền Nạn thở dài một tiếng nói:

- Bàn cờ này tưởng như chính mà không phải chính, giống như tà mà

không phải tà, dùng chính đạo mà giải cũng không xong nhưng đi vào con

đường vạy thì cũng không được.

Cây gậy trúc nơi tay trái của Đoàn Diên Khánh ngừng lại giữa lưng

chừng, hơi run run, thủy chung không điểm xuống, qua một hồi lâu mới

nói:

- Đằng trước đã nghẽn lối rồi, đằng sau lại có truy binh, chính cũng

không mà tà cũng không, thật là khó lòng.

Võ công gia truyền của y vốn là chính tông Đoàn gia Đại Lý, nhưng

về sau đi vào đường tà, mấy câu nói của Huyền Nạn khiến y phải chạnh

lòng, cũng chẳng khác gì Mộ Dung công tử dần dần đi vào ma đạo.

Bàn cờ Trân Lung đó biến chuyển hàng trăm lối, tùy theo người mà

thành, kẻ tham tài thì vì tiền bạc mà thất cơ, kẻ nóng tính thì vì sân hận

mà hỏng việc. Đoàn Dự thất bại vì ái tâm quá nặng, không dám bỏ quân;

Mộ Dung Phục thua, chỉ vì chấp trước quyền uy, tuy dám thí quân nhưng

không chịu thất thế. Còn Đoàn Diên Khánh thì mối hận to lớn nhất trên

đời là sau khi tàn phế, đã bỏ võ công chính tông của bản môn, chuyển

sang tập luyện bàng môn tà thuật, đến lúc toàn tâm toàn ý tập trung vào

đó thì ngoại ma xâm nhập, để đến tâm thần hoang mang không còn tự

chế được nữa.

Đinh Xuân Thu cười khì khì tiếp lời:

- Đúng đó! Con người từ chính chuyển sang tà thì dễ, cải tà qui

chánh mới thật gay go, một đời của ngươi thôi đành xôi hỏng bỏng không,

bỏ đi, bỏ đi thật rồi! Ôi, thật là đáng tiếc, một bước sa chân khiến cho

nghìn đời ôm hận, kịp lúc quay đầu mới hay muôn sự lỡ làng.

Lời của y đầy vẻ xót thương. Thế nhưng những đại cao thủ ai ai cũng

biết Tinh Tú Lão Quái nào có ý tốt, chỉ nhân cháy nhà hôi của, định dẫn

Đoàn Diên Khánh vào chỗ tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một kẻ đối đầu

lợi hại.

Quả nhiên Đoàn Diên Khánh lặng người thảm thiết nói:

- Ta vốn ở ngôi vị tôn quí hoàng tử nước Đại Lý, hôm nay lưu lạc

giang hồ để tang thương thế này, quả đáng hổ thẹn cùng liệt tổ liệt tông.

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi chết xuống dưới suối vàng, còn mặt mũi nào mà gặp lại tiên

nhân họ Đoàn, nếu biết xấu hổ, sao không tự tận, cũng còn coi là một

hành vi anh hùng hảo hán, thôi thôi, chi bằng tự tận cho xong, chi bằng tự

tận cho xong!

Giọng nói nhu hòa dễ nghe, những người công lực hơi yếu, nghe mơ

mơ màng màng tưởng như muốn gục xuống. Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm

nói một mình:

- Thôi! Chi bằng tự tận cho xong!

Y nhắc thiết trượng lên, chầm chậm nhắm ngay ngực mình điểm vào.

Thế nhưng vốn dĩ y tu tập rất cao siêu, mang máng cảm thấy dường như

có gì không phải, từ nơi đáy lòng có tiếng gọi giật lại:

- Không nên! Không nên! Điểm xuống là hỏng đó.

Thế nhưng đầu trượng vẫn từng tấc từng tấc tiến vào ngực. Y năm xưa

mất nước lưu vong, thân bị trọng thương rồi đã từng có ý định tự tận, chỉ

vì một cơ duyên đặc biệt mà phấn chấn trở lại, đến giờ sức tự chế giảm

đi, cái ý niệm muốn tìm cái chết ẩn dấu trong tim lại hiện đến.

Trong các đại cao thủ đứng chung quanh, Huyền Nạn bụng dạ từ bi, có

ý muốn lên tiếng cảnh tỉnh nhưng muốn dùng “đương đầu bổng hát” 8 cần

phải có nội công tương đương với Đoàn Diên Khánh mới có thể làm cho y

ù tai, còn không thì chẳng đi đến đâu, ngược lại còn mang họa nên tuy

nôn nóng cũng đành bó tay. Còn Tô Tinh Hà thì phải tuân theo qui củ của

sư phụ đặt ra năm xưa, không thể cứu viện. Mộ Dung Phục biết Đoàn

Diên Khánh không phải là người tốt, nếu y bị tẩu hỏa nhập ma mà chết,

trong thiên hạ bớt đi một mối hại thì còn gì hơn. Cưu Ma Trí hạnh tai lạc

họa, cười hề hề tụ thủ bàng quan. Đoàn Dự và Du Thản Chi tuy công lực

thâm hậu nhưng không biết Đoàn Diên Khánh đang làm trò gì. Vương

Ngữ Yên tuy hiểu biết về võ học các môn phái rộng rãi thật nhưng thuật

dẫn dụ của Đinh Xuân Thu là tà thuật bàng môn, không phải võ học

thành thử nàng cũng chẳng biết gì cả. Còn Diệp Nhị Nương trước nay vốn

bị Đoàn Diên Khánh đè đầu cưỡi cổ, bình thời hống hách, cực kỳ ngang

ngược nên trong bụng vẫn oán giận ngầm nay thấy y sắp tự tận cũng

chẳng muốn cứu làm gì. Còn bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng

không những công lực mất hết, lại cũng chẳng muốn dính vào việc tranh

chấp giữa Tinh Tú Lão Quái và Đệ Nhất Ác Nhân.

Trong đám đó chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là bồn chồn hơn cả,

thấy đầu trượng chỉ còn cách ngực Đoàn Diên Khánh chừng vài tấc, nếu

nhích thêm chút nữa sẽ điểm ngay vào tử huyệt, thuận tay chộp luôn Hư

Trúc, kêu lên:

- Lão đại, bắt lấy nhà sư này.

Vừa nói y vừa ném luôn vào người Đoàn Diên Khánh. Đinh Xuân Thu

đánh ra một chưởng quát:

- Cút ngay! Đừng có phá đám.

Cái ném đó của Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ hồn hậu, Hư Trúc theo

kình phong bay tới bị Đinh Xuân Thu đánh nhẹ một cái lập tức bay ngược

trở ra lao thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần.

Nam Hải Ngạc Thần hai tay đỡ lấy, đang toan vứt trở vào Đoàn Diên

Khánh lần nữa, ngờ đâu trong chưởng lực của Đinh Xuân Thu, còn có dấu

ba luồng hậu kình, Nam Hải Ngạc Thần mắt trợn tròn, lịch bịch lùi lại ba

bước, vừa toan gượng lại, luồng kình lực thứ hai đã đến nơi, hai đầu gối

khuỵu xuống, ngồi phịch ngay trên mặt đất, tưởng đã yên, ngờ đâu bấy

giờ luồng kình lực thứ ba mới ập đến. Y không tự chủ được lộn mèo một

vòng, hai tay vẫn còn nắm chặt Hư Trúc, lại đè nhà sư xuống lộn thêm

một vòng nữa. Y sợ chưởng lực của Đinh Xuân Thu còn một luồng kình

đạo thứ tư, vội xô Hư Trúc tới trước để đỡ đòn, nhưng may không còn,

Nam Hải Ngạc Thần liền trợn mắt chửi:

- Con bà ngươi gì mà mạnh thế.

Y liền cầm Hư Trúc vứt xuống đất. Đinh Xuân Thu phát ra chưởng đó

rồi tâm lực hơi nhãng ra, thành thử trượng của Đoàn Diên Khánh ngừng

lại lưng chừng, không di động nữa. Đinh Xuân Thu nói:

- Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi! Này Đoàn Diên Khánh, ta

khuyên ngươi nên tự tận cho xong, tự tận cho xong!

Đoàn Diên Khánh thở dài:

- Phải rồi! Sống ở trên đời, có còn ý nghĩa gì đâu? Chi bằng chết cho

xong.

Trong khi y nói thì đầu trượng đã tiến sâu thêm hai tấc nữa. Lòng từ bi

của Hư Trúc nổi lên mãnh liệt, biết rằng muốn giải trừ ma chướng cho

Đoàn Diên Khánh thì phải xen vào bàn cờ, có điều kỳ nghệ của y thấp

kém, muốn giải nạn đề vô cùng phức tạp khó khăn kia, thật không dám

nghĩ đến, thấy trước mắt Đoàn Diên Khánh đang chết sững nhìn bàn cờ,

nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên linh cơ nhất động: “Ta không giải

được thế cờ này thật, nhưng quấy phá loạn lên thì thật dễ dàng, chỉ miễn

sao tâm thần y nhãng ra là có cơ cứu được. Đã không có bàn cờ thì đâu

còn gì thắng hay bại?”. Hư Trúc liền nói:

- Để cho tiểu tăng giải bàn cờ này.

Y nhanh nhẹn tiến tới gần bên, lấy trong hộp ra một quân cờ trắng,

nhắm mắt lại để bừa xuống bàn cờ.

Y chưa kịp mở mắt ra đã nghe tiếng Tô Tinh Hà quát lớn:

- Chỉ giỏi quấy hôi bôi nhọ! Đi quân bậy bạ, ai đời tự mình giết quân

mình, làm gì có phép đánh cờ nào như thế?

datlucky_way

23-07-2009 03:10 PM

Hồi 31(b) : THÂU DOANH THÀNH BẠI, HỰU TRANH DO NHÂN TOÁN

Bấm vào đây để xem nội dung.

Thành bại hơn thua cũng bởi trời,

Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.

Trăm sự chẳng qua do mạng số,

Phúc phận cho mình được đấy thôi.

*

* *

Hư Trúc mở mắt ra nhìn, không khỏi đỏ mặt. Thì ra khi y nhắm mắt để

đại xuống một quân, sao lại trúng ngay một đám quân trắng đang bị quân

đen bao vây không còn hở chỗ nào lọt ra được. Đám quân trắng đó vốn dĩ

còn một nước nữa, quân đen lúc nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu

như đối phương không rảnh rỗi để hạ kỳ thì cũng còn có đường sống, mà

bên trắng cố gắng vùng vẫy cũng chỉ ở một nước đó mà thôi. Thế nhưng

lúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi cờ chưa từng

có ai đi lối tự sát như thế. Quân trắng chết rồi, phe mình coi như tan rã.

Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự trông thấy thế không khỏi cười

ha hả. Huyền Nạn lắc đầu ái ngại, Phạm Bách Linh tuy đang sống dở

chết dở cũng phải thốt lên:

- Đi nước đó thực đúng là làm trò cười.

Tô Tinh Hà nói:

- Tiên sư có di mệnh, bàn cờ này dù lài ai chăng nữa cũng có thể

nhập cuộc. Tiểu sư phụ đi nước đó quả khác thường không ai nghĩ ra

được, nhưng cũng là đi một nước.

Ông giơ tay lấy những quân cờ bị Hư Trúc tự giết chết bỏ ra ngoài, kế

đó đi một quân đen. Đoàn Diên Khánh kêu lên một tiếng, từ trong huyễn

mộng bừng tỉnh lại, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Tinh Tú

Lão Quái, ngươi thừa gió bẻ măng, ám thi độc thủ, chuyện này ta nhất

định không bỏ qua đâu”.

Đinh Xuân Thu liếc Hư Trúc, ánh mắt đầy oán độc, chửi:

- Giặc trọc con.

Đoàn Diên Khánh thấy nước cờ đã biến hóa, biết mình vừa chết đi

sống lại, cũng là nhờ có Hư Trúc cứu viện, trong lòng dâng lên một niềm

cảm kích, sợ rằng Đinh Xuân Thu sẽ ra tay giết Hư Trúc trả thù nên nghĩ

thầm: “Có cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn ở đây, chắc Tinh Tú

Lão Quái không dám gây chuyện với đồ tử đồ tôn của ông ta, thế nhưng

nếu như lão hủ Huyền Nạn tầm thường không bảo vệ được chu đáo, ta sẽ

không để cho tiểu hòa thượng này phải chết vì ta”.

Tô Tinh Hà nói với Hư Trúc:

- Tiểu sư phụ, ngươi giết một số quân của mình, quân đen càng thúc

ép thêm nữa, ngươi ứng phó ra sao?

Hư Trúc cười gượng đáp:

- Tiểu tăng kỳ nghệ kém cỏi, đi đại một quân chẳng qua chỉ vì muốn

cứu người. Bàn cờ này tiểu tăng không biết đánh, xin lão tiền bối tha thứ

cho.

Tô Tinh Hà sầm mặt xuống, gằn giọng:

- Tiên sư sắp đặt ván cờ này cung thỉnh cao nhân thiên hạ đến phá

giải. Nếu như phá giải không được thì cũng không sao, còn gặp tai ương

xảy tới, cũng là do mình thu lấy. Thế nhưng nếu người nào đến chỉ để

phá rối bàn cờ, khinh mạn tâm huyết một đời của tiên sư, thì dẫu có

người đông thế mạnh, ha ha, lão phu mặc dầu vừa câm vừa điếc, cũng

vẫn nhất định sẽ đi tới cùng.

Y tên gọi Lung Á lão nhân, thực ra nào có điếc có câm gì đâu, hiện

giờ vểnh tai nghe, mở mồm nói, vậy mà vẫn tự cho mình “vừa câm vừa

điếc”, có điều trong khi nói, mày râu dựng ngược, thần tình cực kỳ hung

mãnh nên không ai dám mở miệng cười.

Hư Trúc chắp tay hành lễ thật sâu nói:

- Lão tiền bối ...

Tô Tinh Hà quát lớn:

- Đánh cờ là đánh cờ, nói nhiều có ích gì đâu? Sư phụ ta có phải để

cho ngươi đến phá quấy tiêu khiển chăng?

Ông ta vừa nói vừa vung tay lên đánh ra một chưởng, nghe bình một

tiếng, bụi bay mù mịt, trước mặt Hư Trúc lập tức hiện ra một cái hố lớn.

Chưởng đó mãnh liệt không gì sánh kịp, nếu chỉ nhích lên chừng một

thước thì Hư Trúc đã gân cốt nát nhừ, chết tươi ngay.

Hư Trúc sợ đến tim đập thình thình, đưa mắt nhìn Huyền Nạn, mong sư

bá tổ đứng ra cứu y khỏi cảnh ngộ khó khăn này. Huyền Nạn nước cờ đã

không cao, võ công lại mất hết, làm gì còn cách gì bây giờ? Trong tình

cảnh đó ông chỉ còn một cách là muối mặt xin Tô Tinh Hà nhẹ tay, bỗng

thấy Hư Trúc thò tay vào hộp, lấy ra một quân cờ trắng, đặt lên bàn cờ.

Nơi y để quân, chính là nơi những quân trắng mới mất đi còn bỏ trống.

Nước cờ đó quả là rất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy

nghĩ tất cả những thiên biến vạn hóa của thế cờ này, sách giải thuộc nằm

lòng, dẫu đối phương đi nước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta

đã nghĩ tới. Thế nhưng Hư Trúc thoạt đầu nhắm mắt đặt bừa một quân, tự

mình giết chết một đám quân mình vi phạm phép đánh cờ rất nặng, dù

người chỉ hơi biết đánh cờ cũng không ai lại làm thế.

Cái cách đó chẳng khác gì tự mình giơ kiếm vung đao lên cứa cổ

mình. Ngờ đâu sau khi y nhắm mắt đặt một quân giết của mình một khối

lớn rồi, cục diện lại thấy thông tỏ hơn, bên quân đen tuy có lợi lớn nhưng

quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống đỡ, không phải như trước bó

chân bó tay, được chỗ nọ mất chỗ kia. Cục diện mới này Tô Tinh Hà dù

có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới được. Ông ta ngạc nhiên, suy nghĩ

một lúc lâu, lúc đó mới đi một quân đen.

Thì ra khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưởng uy hiếp,

sư bá tổ cũng không lên tiếng giải vây cho mình, còn đang bàng hoàng lo

lắng, bỗng nghe một tiếng nói nho nhỏ truyền vào trong tai:

- Để vào bình vị ở nước tam cửu.

Hư Trúc chẳng cần biết ai là người chỉ điểm mình, cũng không cần

biết đúng hay sai, cầm ngay quân trắng, theo đúng lời dặn hạ vào bình vị

tam cửu. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa rồi, giọng nói đó lại

truyền vào tai Hư Trúc:

- Bình vị nhị bát.

Hư Trúc lại đặt một quân trắng xuống nước bình vị nhị bát. Quân cờ đi

rồi, chỉ nghe Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cả bọn đều ồ lên một

tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu lên, thấy mọi người ai nấy tỏ vẻ ngạc nhiên,

đồng thời khâm phục đủ biết nước đi của mình thật tinh diệu, lại thấy vẻ

mặt Tô Tinh Hà vừa mừng rỡ sung sướng nhưng cũng nóng nảy bồn chồn,

đôi lông mày dài không ngớt nhô lên hụp xuống.

Hư Trúc trong bụng khởi nghi: “Sao ông ta đột nhiên lại cao hứng thế?

Không lẽ nước cờ mình đi sai rồi chăng?”. Thế nhưng lại lập tức nghĩ

ngay: “Không cần biết đi đúng hay sai, chỉ cần mình đi được mười nước

trở lên, đủ để biết rằng mình cũng có đường đi nước bước, không phải

đến quấy rối làm loạn nước cờ, hối nhục tiên sư của ông ta, lúc đó sẽ

không trách mình được nữa”. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa, y

lại theo đúng người nào đó ám trung tương trợ chỉ điểm, hạ một quân

trắng. Hư Trúc một mặt hạ kỳ, một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá

tổ bí mật giúp đỡ mình hay không, nhưng thấy Huyền Nạn thần tình ra

chiều nóng ruột, xem ra không phải, huống chi trước sau ông ta không mở

miệng nói câu nào.

Người đưa tiếng nói truyền vào tai y nội lực phải cực kỳ thâm hậu,

hiển nhiên là “truyền âm nhập mật” dùng thượng thừa nội công truyền lời

nói thẳng vào tai y, người khác dù có đứng ngay bên cạnh cũng không

nghe thấy gì cả.

Thế nhưng dù tiếng nói có nhỏ tới mực nào thì miệng vẫn phải mấp

máy, Hư Trúc lén quan sát môi mọi người, không thấy người nào động

đậy, vậy mà câu: “Để xuống vị trí ngũ lục” vẫn vào tai y thật rõ ràng. Hư

Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm: “Dạy ta ngoài sư bá tổ ra thì còn ai

nữa. Những người khác với mình vô thân vô cố, việc gì phải giúp mình?

Trong những cao thủ ở đây, chỉ có mình sư bá tổ chưa đánh cờ, còn ai

cũng đã thử qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ thần công phi phàm, thành

ra không mấp máy môi vẫn có thể “truyền âm nhập mật”, ta không biết

đến bao giờ mới tu luyện được đến mức đó”.

Y có biết đâu người chỉ cho y lại chính là thiên hạ đệ nhất ác nhân có

cái ngoại hiệu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi Đoàn

Diên Khánh chìm sâu mê mẩn vào cuộc cờ, bị Đinh Xuân Thu thừa cơ

dậu đổ bìm leo, định đẩy y vào chỗ tẩu hỏa nhập ma, tự sát thân vong,

cũng may Hư Trúc làm loạn nước cờ mới cứu mạng cho y được. Y thấy

Tô Tinh Hà nặng lời trách mắng Hư Trúc, có ý muốn giết chú tiểu này

nên buông lời chỉ điểm, cố ý giải vây, để cho nhà sư có dịp thoái lui. Y

giỏi về thuật phúc ngữ, khi nói không cần phải mấp máy môi, lại thêm

nội công thâm hậu nên biết cách “truyền âm nhập mật”, tuy bên cạnh có

mấy cao thủ hạng nhất nhưng vẫn không ai khám phá ra.

Thế nhưng sau mấy nước, cuộc diện lại biến hóa mãnh liệt, Đoàn

Diên Khánh nắm ngay được cái bí áo của bàn cờ Trân Lung này. Đó là

bên trắng phải tự giết một số quân của mình trước, sau đó những chỗ kỳ

diệu mới liên tục sinh ra. Trong phép đánh cờ có những nước phản phác,

đảo thoát ngoa, tự mình cố ý đi vào chỗ chết để nhử cho đối phương ăn

quân, sau đó sẽ lật ngược thế cờ nhưng có chết nhiều lắm cũng chỉ tám

chín quân, chứ đời nào lại nhường đến mấy chục quân bao giờ. Phép “tự

mình giết mình” quả là trong môn cờ vây nghìn năm chưa ai thấy, dù cho

loại cao thủ đến mức thần thánh cũng không ai dám nghĩ đến một nước

cờ như vậy. Ai ai cũng chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi khốn cảnh để tìm

đường sống, chứ có ai lại nghĩ đến nước đi vào cửa tử để tìm đường ra,

nếu không phải Hư Trúc nhắm mắt, thuận tay đặt bừa một nước cực kỳ

ngốc nghếch đó, e rằng một nghìn năm sau, ván cờ Trân Lung này cũng

không ai giải được.

Kỳ thuật của Đoàn Diên Khánh vốn đã cực cao minh, hôm xưa đánh

cờ với Hoàng Mi tăng nước Đại Lý đã làm cho nhà sư này không còn

đường chống đỡ, lúc này bên trắng đã mất đi một mảng lớn, thế đánh

bỗng rộng rãi ra nhiều, chẳng nghĩ tới đám quân mình vừa mất, cũng

không nghĩ tới cục diện bó chân bó cẳng mới rồi, tự nhiên thoải mái mà

đi quân không phải vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như trước.

Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục đâu có biết Đoàn Diên Khánh đứng ngoài

chỉ điểm, chỉ thấy Hư Trúc nước nào ra nước nấy, ăn luôn hai khối cờ

đen, nhịn không nổi phải tấm tắc khen ngợi.

Huyền Nạn lẩm bẩm nói một mình:

- Cuộc cờ này vốn quấn quít trong trường thắng bại đắc thất, cho nên

không thể nào phá giải được. Nước cờ của Hư Trúc không còn màng sinh

tử, cũng không chấp trước được thua, hóa ra vượt ra khỏi vòng sống chết,

đạt tới giải thoát ...

Ông mang máng thấy có chỗ sở ngộ, nhưng lại chưa nắm được, biết

mình cả đời chuyên lo võ học, khiếm khuyết công phu thiền môn, bỗng

nghĩ ra: “Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu chuyên về tạp học, cho

nên võ công không bằng được Đinh Xuân Thu, ta trước đây cười chê họ

đi vào ngã rẽ. Thế nhưng ta cả đời luyện tập võ công, không chăm lo

tham thiền để vượt vòng sinh tử, có phải cũng đi vào sai lầm hay

không?”. Ông nghĩ đến đó, tự nhiên toàn thân mồ hôi toát dầm dề.

Đoàn Dự lúc đầu còn chăm chú xem bàn cờ nhưng về sau, đôi mắt

chàng chỉ dán chặt vào người Vương Ngữ Yên, càng nhìn càng thêm đau

lòng, thấy nhãn quang nàng từ đầu đến cuối không lúc nào rời khỏi Mộ

Dung Phục đành bụng bảo dạ: “Thôi mình đi cho xong! Ở đây càng lâu

càng thêm khổ, không chừng lại hộc máu ngay tai đây mất”. Thế nhưng

nếu để chàng tự mình rời xa Vương Ngữ Yên thì làm sao cho được?

Chàng nghĩ thầm: “Thôi đợi Vương Ngữ Yên quay đầu lại lúc ấy mình sẽ

nói: Vương cô nương, chúc mừng cô đã gặp được biểu ca, hôm nay tại hạ

được gặp cô nương thêm một lần nữa, quả là có duyên. Tôi xin từ biệt”.

Nếu lúc đó nàng nói: “Được, thôi chào công tử” thì mình sẽ ra đi. Còn

nếu như nàng nói: “Sao gấp thế, ta còn có chuyện muốn nói với công tử”

thì mình sẽ nán lại xem nàng muốn nói gì.

Thực ra, Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên sẽ chẳng bao giờ quay đầu lại

nhìn mình, cũng chẳng bao giờ bảo chàng: “Sao gấp thế, ta còn có

chuyện muốn nói với công tử”. Bỗng nhiên, đám tóc phất phơ sau cổ

Vương Ngữ Yên hơi lay động, Đoàn Dự tim đập thình thình: “Nàng quay

lại đó!”. Thế nhưng chỉ nghe nàng thở dài một tiếng gọi khẽ:

- Biểu ca!

Mộ Dung Phục chăm chú nhìn bàn cờ, thấy bên trắng giờ này đã

chiếm thượng phong, đang dần dần ép lại nghĩ thầm: “Mấy nước cờ đó ta

làm sao nghĩ ra nổi. Vạn sự khởi đầu nan, là một bàn cờ quái lạ bậc nhất,

không sao tưởng được”. Vương Ngữ Yên lại khẽ gọi lần nữa nhưng y nào

có nghe thấy gì đâu. Vương Ngữ Yên lúc ấy mới chép miệng, từ từ quay

đầu lại. Đoàn Dự tim đập mạnh: “Nàng quay lại rồi! Nàng quay lại rồi!”.

Quả nhiên khuôn mặt tú lệ của Vương Ngữ Yên đã chuyển qua, Đoàn Dự

thấy dung nhan nàng nhuốm một vẻ ưu sầu, trong ánh mắt lại có chiều u

oán, nghĩ thầm: “Từ khi nàng sánh vai cùng Mộ Dung Phục đến đây, thần

sắc trước sau lúc nào cũng hết sức vui vẻ, sao bây giờ nàng bỗng dưng lại

trở nên buồn tủi? Không lẽ ... không lẽ trong lòng nàng cũng có đôi chút

khắc khoải đến ta chăng?”. Chỉ thấy mắt nàng đưa qua phía phải, gặp ánh

mắt chàng, Đoàn Dự lập tức tiến lên một bước toan hỏi: “Vương cô

nương, cô có điều gì muốn nói ư?”. Thế nhưng ánh mắt Vương Ngữ Yên

lại tiếp tục di chuyển, nhìn bâng khuâng về chốn xa xăm rồi lại quay về

Mộ Dung Phục.

Tâm hồn Đoàn Dự trĩu hẳn xuống, khổ sở không đâu tả xiết: “Nàng

chẳng phải không nhìn ta, mà so với không nhìn ta còn gấp mười lần. Mắt

nàng tuy nhìn ta nhưng chỉ là “thị nhi bất kiến”. Tuy mắt nàng để vào ta

nhưng hình ảnh ta nào có vào được tim nàng. Nàng chỉ nghĩ đến biểu ca

chứ Đoàn Dự này có chút nào ở trong tâm khảm nàng đâu! Ôi, thôi đi cho

xong, chi bằng đi cho xong!”.

Ở bên kia Hư Trúc nghe lời chỉ điểm của Đoàn Diên Khánh, thấy bên

đen dù đi cách nào cũng bị bên trắng ăn mất một mớ, còn như để hở ra thì

quân trắng sẽ xung sát trùng vi, lúc đó sẽ không còn cách nào chống đỡ

được nữa.

Tô Tinh Hà suy nghĩ một hồi, cười hì hì đặt thêm một quân đen. Đoàn

Diên Khánh liền truyền âm:

- Hạ thượng vị thất bát.

Hư Trúc theo đúng thế mà làm, tuy y hiểu biết về cờ rất nông cạn

nhưng cũng biết là mình đặt quân cờ này xuống rồi là đã phá giải được

thế Trân Lung, vỗ tay cười nói:

- Xem chừng đã xong!

Tô Tinh Hà mặt rạng rỡ, chắp tay nói:

- Tiểu thần tăng trời cho tài ba như thế, quả là đáng mừng.

Hư Trúc vội vàng hoàn lễ nói:

- Không dám, không dám! Cái này không phải tiểu tăng ...

Y vừa định thú thật là do sư bá tổ chỉ điểm, bỗng thấy có tiếng “truyền

âm nhập mật” vào tai:

- Bí mật này, bằng giá nào cũng không được tiết lộ. Hiểm cảnh chưa

thoát đâu, càng phải cẩn thận hơn nữa.

Hư Trúc lại tưởng đó là do Huyền Nạn ra lệnh, bèn cúi đầu đáp:

- Vâng! Vâng!

Tô Tinh Hà đứng thẳng dậy nói:

- Tiên sư sắp đặt thế cờ này, mấy chục năm nay không ai giải được,

nay tiểu thần tăng phá được thế Trân Lung, tại hạ cảm kích không đâu

cho hết.

Hư Trúc không biết nguyên do bên trong, chỉ biết khiêm tốn đáp:

- Tiểu tăng đi lăng nhăng toàn do trưởng bối thương tình, lão tiên

sinh quá khen, quả thực hổ thẹn không dám nhận.

Tô Tinh Hà đi đến trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách nói:

- Xin mời tiểu thần tăng bước vào.

Hư Trúc thấy ba gian nhà đó kiến trúc lạ lùng, lại không có cửa,

không biết bảo vào là vào làm sao, cũng chẳng hiểu vào để làm gì, thành

thử đứng ngẩn người ra, không biết thế nào cho phải. Lại nghe thanh âm

kia bảo:

- Thế cờ mở ra một con đường, chính là xung đột đấu tranh mà được.

Nhà không cửa, ngươi hãy dùng ngạnh công Thiếu Lâm phá ra.

Hư Trúc nói:

- Như vậy đành phải đắc tội.

Y xoạc cẳng xuống tấn, giơ tay phải lên, phát chưởng chém xuống

vách gỗ. Hư Trúc võ công thấp kém, hôm đó bị Đinh Xuân Thu phất tay

áo một cái đã ngã lăn ra, lập tức bị môn nhân phái Tinh Tú đè xuống bắt

giữ, cũng nhờ thế nội lực không mất. Dưới mắt biết bao nhiêu cao thủ tại

đương trường, chưởng lực của y thật chẳng bõ cười, cũng may vách nhà

không lấy gì làm kiên cố, chỉ nghe lách cách đã nứt ra một đường. Hư

Trúc lại bổ thêm hai chưởng nữa, lúc đó mới đánh vỡ cánh cửa nhưng bàn

tay cũng ê ẩm.

Nam Hải Ngạc Thần cười khằng khặc nói:

- Ngạnh công của phái Thiếu Lâm thật dở ơi là dở.

Hư Trúc quay lại đáp:

- Tiểu tăng là một đồ đệ chẳng đâu ra đâu của phái Thiếu Lâm,

công phu nông cạn chứ không phải võ công phái Thiếu Lâm không ra gì.

Lại nghe thanh âm kia nói tiếp:

- Mau mau vào đi, không được quay đầu lại, cũng đừng để ý đến

người ngoài.

Hư Trúc đáp:

- Vâng!

Y hăng hái đi vào. Bỗng nghe Đinh Xuân Thu quát lên:

- Đây là môn hộ của bản phái, một chú tiểu như ngươi sao dám bước

vào?

Tiếp theo là hai tiếng bình bình thật lớn, Hư Trúc cảm thấy một luồng

kình phong ập tới cuốn lấy y như muốn nhấc bổng người lên, kế đó là hai

luồng đại lực thúc vào lưng và mông, không còn tự chủ được nữa người

lộn tùng phèo, lăn vào bên trong.

Hư Trúc có biết đâu vừa mới chết đi sống lại, một đằng Đinh Xuân

Thu phát chưởng đánh lén định giết y, mặt khác Cưu Ma Trí vận dụng

Khống Hạc Công định chộp y kéo lại. Thế nhưng Đoàn Diên Khánh đã

dùng ám kình từ đầu trượng tiêu giải chưởng của Đinh Xuân Thu, còn Tô

Tinh Hà đang đứng giữa y và Cưu Ma Trí, đưa tay trái chặn Khống Hạc

Công còn tay phải đánh luôn hai cái, đẩy Hư Trúc tọt vào trong nhà.

Hai luồng lực đạo đó thật cương mãnh, Hư Trúc phá vỡ một mảnh ván

rồi, trán đụng bình một cái, lại va ngay vào một bức vách khác, đầu óc

mịt mù, tưởng chừng muốn ngất đi, phải một lúc sau mới gượng đứng lên

được, giơ tay xoa đầu thấy trán sưng u một cục lớn. Y thấy mình đang

đứng trong một căn phòng trống không có một ai, đang định đi tìm cửa

nhưng gian nhà đó kín mít như bưng, chỉ có mỗi cái lỗ mình vừa phá vỡ đi

vào. Y đứng ngẩn ngơ, đang định theo cái lỗ đó chui trở ra.

Bỗng nghe từ vách phía bên kia một giọng nói già cả khẽ truyền qua:

- Đã vào được đây, sao lại còn muốn đi ra?

Hư Trúc quay người lại nói:

- Xin lão tiền bối chỉ lối cho.

Thanh âm kia nói tiếp:

- Lối đi ngươi đã tự mình xông vào được, có cần gì phải ai chỉ. Ta

sắp xếp bàn cờ đó, mấy chục năm qua không ai phá giải nổi, sau cùng

hôm nay ngươi đã sách khai9 rồi, sao không vào đây.

Hư Trúc nghe thấy ông ta nói “ta sắp xếp bàn cờ đó” không khỏi nổi

da gà, lập cập hỏi:

- Ông ... ông ... ông ...

Y đã nghe Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại bàn cờ đó do “tiên sư” bày ra,

thế giọng này là người hay ma đây? Lại nghe giọng nói tiếp:

- Thời cơ chỉ vụt qua rồi mất, ta đợi đã ba mươi năm nay, chẳng còn

thì giờ đâu mà đợi ngươi nữa! Này con ơi, mau vào đây thôi.

Hư Trúc nghe tiếng nói cực kỳ thân mật hiền từ, xem ra không có chút

ác ý nào, chẳng suy nghĩ gì thêm, dùng đầu vai huých vào tấm vách,

nghe lách cách một tiếng lớn, tấm vách đó lâu ngày cũng mục rồi nên lập

tức vỡ ngay một miếng.

Hư Trúc đưa mắt nhìn không khỏi hoảng hốt, thấy bên trong cũng là

một gian phòng trống nhưng có một người ngồi giữa lưng chừng trời. Ý

niệm đầu tiên hiện ra là “có ma”, sợ quá toan quay mình bỏ chạy thì

nghe người kia nói:

- Ồ, thì ra là một chú tiểu! Ôi, lại là một chú tiểu mặt mày xấu xí!

Chán quá, chán quá, chán quá! Ôi! Chán quá, chán quá, chán quá!

Hư Trúc nghe ông thở dài liên tiếp ba lần, lại nói sáu câu “chán quá”

nên đăm đăm nhìn ông ta, lúc ấy mới rõ, thì ra người ông ta treo bằng

một sợi dây thừng đen, một đầu dây buộc vào sà ngang, nên mới lơ lửng

giữa trời như thế. Chỉ vì bức tường đằng sau lưng ông ta tối om om, dây

thừng lại sẫm màu trộn lẫn vào nhau nên không nhìn ra sợi dây, thoạt

mới nhìn lại tưởng ông ta đang ngồi trên không.

Hư Trúc mặt mũi cũng hơi xấu trai, mày rậm mắt to, mũi huếch, hai

tai đón gió10, đôi môi dày, lại thêm mới va vào tường bị thương thành ra

9 sách chiết sách chiêu chiết chiêusách giải chiết giải nãi nhưng tam thiếu nãi tam thiếu nhưng

lem luốc, quả cũng khó coi thật. Y mồ côi cha mẹ từ nhỏ, những nhà sư

trong chùa Thiếu Lâm thương tình đem vào nuôi dưỡng, trong chùa nếu

người nào không chuyên cần thanh tu thì cũng chăm lo luyện võ, chẳng

một ai để ý xem y xấu hay đẹp. Người trong cửa Phật coi là thân thể chỉ

là “cái túi da hôi thối”11 nếu còn để ý đến cái túi đó dễ coi hay không thì

việc chứng đạo chỉ thêm vướng bận. Thành ra khi nghe người này bảo là

“một chú tiểu mặt mày xấu xí” thì Hư Trúc cũng chỉ mới nghe lần đầu

tiên.

Y len lén ngửng đầu lên nhìn người kia, thấy ông ta râu dài ba thước

không có một sợi bạc nào, mặt như quan ngọc12, chẳng có chút vết nhăn,

tuổi tác dĩ nhiên không còn trẻ nữa nhưng thần tình sảng lãng, phong độ

nhàn nhã. Hư Trúc hơi cảm thấy sượng sùng nghĩ thầm: “Nói đến tướng

mạo thì mình so với ông ta đúng là một trời một vực”. Khi đó trong lòng

không còn sợ hãi gì nữa, y liền khom người hành lễ nói:

- Tiểu tăng Hư Trúc xin bái kiến tiền bối.

Người kia gật đầu hỏi:

- Thế ngươi họ gì?

Hư Trúc sựng lại nói:

- Người đã xuất gia không còn tên họ thế tục nữa.

Người kia hỏi lại:

- Thế trước khi xuất gia thì ngươi tên họ là chi?

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, xưa nay không có tên họ gì cả.

Người kia chăm chú nhìn y như để suy đoán, thở dài một tiếng nói:

10 

11 12 

- Ngươi đã phá giải được thế cờ của ta ắt thông minh tài trí phải thật

hơn người, nhưng tướng mạo thế kia, xem chừng không ổn, ôi, thật chán

ngán thay. Ta xem rồi sau cùng nước lã ra sông, uổng tâm tư một đời lại

chỉ làm ngươi bỏ mạng oan thôi. Này chú tiểu ơi, ta cho ngươi một lễ vật

để ngươi đi khỏi đây nhé.

Hư Trúc nghe giọng điệu ông lão kia, xem chừng có một việc rất khó,

không ai giúp mình nên lo phiền, tuy nhiên pháp môn thứ nhất của nhà

Phật là “giúp chúng sinh qua cơn khổ ách”13 nên nói liền:

- Kỳ đạo của tiểu tăng thực ra hết sức nông cạn, cuộc cờ của lão tiền

bối chẳng phải do tiểu tăng sách giải đâu. Thế nhưng lão tiền bối nếu có

chuyện gì phải làm, tiểu tăng tuy bản lãnh kém cỏi nhưng cũng nguyện

hết sức cố gắng, còn như món quà thì tiểu tăng không dám nhận.

Ông lão kia nói:

- Ngươi có bụng dạ hiệp nghĩa như thế, quả là hay lắm. Ngươi kỳ

nghệ không cao, võ công thấp kém, cũng chẳng hề gì nhưng đã đến được

đây, cũng là có duyên. Có điều ... có điều ... tướng mạo nhà ngươi sao

khó coi quá.

Nói rồi ông ta lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc mỉm cười nói:

- Tướng mạo đẹp hay xấu cũng là do nghiệp báo từ khi vô thủy đến

nay tụ lại mà thành, chính mình đã không làm chủ được, mà cả cha mẹ

cũng đành chịu vậy mà thôi. Tiểu tăng xấu xí khiến cho tiền bối không

vui, thôi xin cáo từ.

Nói xong lùi lại hai bước. Hư Trúc đang định quay đi thì ông lão kia

nói:

- Hãy khoan!

Tay áo của ông ta phất ra, để lên đầu vai phải của Hư Trúc. Thân hình

y hơi trĩu xuống, thấy cánh tay áo đó chẳng khác gì cánh tay, giữ chặt lấy

người. Ông lão cười:

- Người tuổi trẻ mà có ngạo khí như thế, quả là hay lắm.

13 

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng nào đám cuồng vọng kiêu ngạo, chỉ vì sợ lão tiền bối bực

mình đấy thôi, cho nên cáo thoái sớm cho xong.

Ông già kia gật đầu hỏi thêm:

- Ngày hôm nay đến đây giải thế cờ gồm có những ai?

Hư Trúc kể lại tất cả. Ông lão trầm ngâm một hồi nói:

- Cao thủ trong thiên hạ, mười phần thì đến sáu bảy đến đây rồi. Thế

Khô Vinh đại sư của họ Đoàn Đại Lý có đến không?

Hư Trúc đáp:

- Ngoài tăng chúng trong tệ tự ra, người xuất gia chỉ có một mình

Cưu Ma Trí đại sư thôi.

Ông lão kia lại hỏi:

- Trong những năm gần đây võ lâm nghe nói có một gã tên Kiều

Phong võ công rất khá, y có đến không?

Hư Trúc đáp:

- Không.

Ông già thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình:

- Ta đã đợi bao nhiêu năm nay, nếu đợi thêm nữa, chắc gì đã gặp

được người hoàn toàn đẹp đẽ cả bên ngoài lẫn bên trong. Thiên hạ bất

như ý sự thường thất bát, thôi cũng đành như thế mà thôi.

Ông ta trầm ngâm một hồi, dường như tâm ý đã quyết nói:

- Mới rồi ngươi có nói, thế cờ đó không phải ngươi sách giải, thế sao

Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?

Hư Trúc đáp:

- Quân thứ nhất cũng do tiểu tăng lớn mật không biết, nhắm mắt đặt

bừa, còn những nước sau thì do tệ sư bá tổ pháp húy thượng Huyền hạ

Nạn, dùng “truyền âm nhập mật” bí mật chỉ điểm.

Nói rồi đem tình hình phá giải thế cờ ra sao kể lại một lượt. Ông lão

thở dài:

- Quả là ý trời! Quả là ý trời!

Đột nhiên khuôn mặt đang buồn trở nên rạng rỡ, cười nói:

- Nếu đã là ý trời định như thế, ngươi nhắm mắt đặt bừa mà giải

được thế cờ của ta, đủ biết phúc duyên thâm hậu, có thể lo việc đại sự

cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm, hay lắm, hay lắm! Con ngoan ơi,

ngươi quì xuống khấu đầu đi.

Hư Trúc từ bé lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, ngày ngày nếu không

gặp sư phụ thì cũng sư thúc sư bÿ, có khi sư bá tổ, sư thúc tổ các loại

trưởng bối, đến ngay cùng hàng với mình, những sư huynh tuổi tác lớn

hơn, võ công cao hơn cũng biết bao nhiêu, xưa nay phục tòng đã quen.

Đệ tử nhà Phật tập luyện tính khiêm tốn cho nên khi nghe ông lão bảo y

rập đầu, tuy không hiểu vì lý do tại sao, nhưng nghĩ bụng người này là

tiền bối trong võ lâm, có lạy ông ta mấy cái cũng là chuyện đương nhiên,

cho nên cung kính quỳ xuống cộp cộp cộp cộp rập đầu bốn cái liền. Y

vừa định đứng lên thì người kia lại nói:

- Thêm năm cái nữa, đó là qui củ bản môn.

Hư Trúc đáp liền:

- Vâng!

Rồi y lại rập đầu thêm năm lần nữa. Ông lão nói:

- Con ngoan lắm! Con ngoan lắm! Lại đây!

Hư Trúc đứng lên đến trước mặt ông ta. Ông lão nắm cổ tay y, nhìn y

từ đầu đến chân đánh giá. Đột nhiên Hư Trúc thấy mạch môn nóng lên,

một luồng nội lực theo cánh tay chạy lên, nhanh nhẹn dị thường đi thẳng

vào tim, tự nhiên không định mà dùng Thiếu Lâm tâm pháp kháng cự lại.

Nội lực của ông lão liền quay trở ra, trở lại bình thường. Hư Trúc biết

rằng ông già thử xem mình nội lực nông sâu bực nào, không khỏi mặt đỏ

tía tai, ngượng ngập nói:

- Tiểu tăng bình thời hay đọc kinh Phật, lại ham vui chơi, không

chăm chỉ tập luyện nội công sư phụ truyền thụ chẳng bõ làm trò cười cho

tiền bối.

Ngờ đâu ông lão lại cực kỳ hoan hỉ, cười nói:

- Tốt lắm! Tốt lắm! Nội công phái Thiếu Lâm ngươi tập rất ít nên

cũng đỡ mất công cho ta.

Ông ta nói xong Hư Trúc thấy toàn thân mềm ra, tưởng như đang trầm

mình tắm trong một dòng suối ấm, nhiệt khí theo lỗ chân lông mà bốc

hơi, cảm thấy hết sức khoan khoái. Chỉ trong chốc lát, ông lão đã buông

tay y ra, cười nói:

- Xong rồi! Ta đã dùng Bắc Minh Thần Công của bản môn hóa tán

hết nội lực Thiếu Lâm của ngươi đó.

Đoàn Dự hoảng hốt, kêu lên:

- Cái ... cái gì?

Y nhảy nhổm lên nhưng khi rơi xuống đất hai đầu gối mềm oặt, ngồi

phệt xuống đất, bao nhiêu khớp xương rã rời, đầu óc choáng váng, trời

đất quay cuồng, biết là ông già nói không sai, trong lòng thảng thốt, nước

mắt dàn dụa, khóc òa lên:

- Tôi ... tôi ... tôi với ông có thù oán gì đâu, cũng đâu có làm gì đắc

tội, sao ông nỡ lòng nào hại tôi như thế?

Người kia mỉm cười:

- Sao ngươi lại ăn nói vô phép như vậy? Đã không gọi “sư phụ” lại

gì mà “tôi” với “ông”, chẳng có qui củ gì cả.

Hư Trúc kinh hoàng lắp bắp:

- Cái gì? Sao ông lại là sư phụ của tôi?

Người kia nói:

- Ngươi vừa mới rập đầu lạy ta chín cái, đó chính là lễ bái sư đó.

Hư Trúc kêu lên:

- Không! Không! Tôi là đệ tử Thiếu Lâm, làm sao có thể bái ông

làm thầy được? Cái môn tà thuật hại người của ông, tôi nhất định không

học đâu.

Nói xong y gắng gượng đứng lên. Người kia cười:

- Có thực ngươi không học hay không?

Hay tay vung lên, tay áo bay ra, chộp vào đầu vai Hư Trúc. Hư Trúc

thấy đầu vai nặng chịch, không cách nào vùng lên được, hai đầu gối lại

nhuyễn ra ngồi phịch xuống, mồm kêu toáng lên:

- Ông có đánh chết tôi, tôi cũng không học.

Người kia cười ha hả, đột nhiên thân hình bay tung lên, lộn một vòng

trên không, chiếc khăn vuông trên đầu bay vào một góc nha, chân trái

đạp vào xà ngang một cái rơi xuống, đầu ông ta trúng ngay đầu Hư Trúc,

hai thiên linh cái đụng nhau. Hư Trúc sợ quá lập cập hỏi:

- Ông ... ông làm gì thế?

Y cố sức lắc đầu, định hất ông ta ra. Thế nhưng tưởng như đầu ông lão

có đinh đóng chặt vào đầu Hư Trúc, dù có vùng vằng thế nào chăng nữa

vẫn không cách nào thoát ra được. Đầu Hư Trúc lắc qua hướng đông thì

cả thân hình ông ta nghiêng qua hướng đông, Hư Trúc lắc qua hướng tây

thì ông ta lại nghiêng về hướng tây, cả hai người liền thành một lắc lư

qua lại không ngớt.

Hư Trúc càng thêm khủng khiếp, đưa hai tay ra, cố đẩy tay trái, tay

phải thì nắm lấy định đẩy đầu ông ta ra khỏi đầu mình. Thế nhưng vừa

đẩy một cái đã thấy tay mình mềm oặt như bông không có một chút khí

lực nào, càng thêm bồn chồn: “Bị trúng phải tà thuật của lão ta rồi, không

những võ công mất sạch, xem chừng đến mặc áo ăn cơm cũng chẳng còn

hơi sức, từ nay mình đã tê liệt, thành người tàn phế, biết làm sao đây?’. Y

càng thêm kinh hoàng thất tán, mở miệng kêu gào, bỗng thấy từ trên

huyệt Bách Hội nơi đỉnh đầu một sợi nhiệt khí đi thẳng vào trong óc,

miệng kêu không ra tiếng, nghĩ thầm: “Hỏng rồi! Chắc mình mất mạng”.

Chỉ thấy óc càng lúc càng nóng, rồi thì mơ mơ như muốn căng lên, tưởng

như muốn bốc thành ngọn lửa, luồng nhiệt khí từ trên đi thẳng xuống,

chẳng mấy chốc đã chịu không nổi, ngất đi.

Y thấy người nhẹ nhàng bay bổng tưởng chừng đang đằng vân giá vụ,

lang thang trên không, rồi bỗng nhiên thân trên lạnh buốt, tưởng như rơi

vào biển khơi, đùa dỡn với bầy cá, có lúc lại đang ở trong chùa đọc kinh,

có khi lại đang khổ luyện võ nghệ, nhưng luyện đi luyện lại mãi chưa

được. Còn đang hoang mang, bỗng thấy trời đổ mưa rào, từng giọt từng

giọt rơi đầy người, nhưng những giọt mưa cũng nóng hổi.

Khi đó Hư Trúc cũng đã hơi tỉnh lại, mở mắt ra thấy ông già đó mặt,

cổ, chân tóc chỗ nào cũng có mồ hôi toát ra đầm đìa không ngớt rơi tong

tỏng lên người y. Hư Trúc cũng thấy mình đã nằm gục dưới đất, ông lão

thì ngồi một bên nhưng đầu hai người không còn dính với nhau nữa.

Hư Trúc ngồi dậy nói:

- Ông ... ông ...

Chỉ nói được hai tiếng “ông”, chợt giật mình kinh dị, thấy ông lão bây

giờ biến đổi hẳn, khuôn mặt trắng trẻo đẹp đẽ mới rồi, bây giờ nhăn nheo

đầy vết ngang dọc, mái tóc dài đã rụng hết, còn bộ râu trước kia đen

nhánh thì nay bạc trắng. Ý niệm đầu tiên của Hư Trúc là: “Ta ngất đi đã

bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm chăng? Hay năm mươi năm? Sao người

này bỗng nhiên già đi đến vài mươi tuổi?”. Ông lão trước mắt giờ đây

hom hem lụ khụ, nếu không phải một trăm hai mươi tuổi thì cũng phải

một trăm.

Ông già kia đôi mắt lờ đờ, cố hết sức nở một nụ cười nói:

- Việc lớn đã xong! Con ngoan ơi, ngươi phúc trạch thâm hậu, vượt

quá kỳ vọng của ta nhiều, người đánh thử một chưởng vào bức vách trống

kia xem nào!

Hư Trúc không hiểu ra sao, y lời đánh ra một chưởng, chỉ nghe lách

cách, mảng tường lớn vỡ tung đến một nửa, thật nếu y dùng hết sức lao

vào đến mươi lần cũng chưa bằng. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, ấp

úng:

- Cái ... cái đó là vì sao thế?

Ông lão mặt rạng rỡ, hết sức hoan hỉ, cũng hỏi lại:

- Cái ... cái đó là vì sao thế?

Hư Trúc hoang mang:

- Sao bỗng nhiên ...bỗng nhiên tiểu tăng có lực đạo mạnh đến thế?

Ông già mỉm cười:

- Ngươi chưa được học chưởng pháp của bản môn cho nên lực đạo sử

dụng chưa được tới một thành. Hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện của

sư phụ ngươi không lẽ tầm thường?

Hư Trúc nhảy bật dậy, biết rằng có điều gì không ổn, kêu lên:

- Ông ... ông ... cái gì mà hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện?

Ông lão vẫn mỉm cười:

- Không lẽ đến giờ này ngươi chưa hiểu rõ hay sao? Thực chăng hay

là không dám nghĩ đến?

Hư Trúc dường như mang máng hiểu câu nói của ông già, có điều việc

xảy ra quá đột ngột, quả không bao giờ ngờ tới, không ai tin nổi, khép

nép nói:

- Lão tiền bối truyền một môn thần công ... một môn thần công cho

tiểu tăng ư?

Ông lão vẫn mỉm cười:

- Sao ngươi chưa gọi ta là sư phụ?

Hư Trúc cúi đầu đáp:

- Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể khi tổ diệt tông, đổi

qua phái khác.

Ông lão nói:

- Trong người ngươi không có chút xíu công phu Thiếu Lâm nào, sao

lại còn là đệ tử Thiếu Lâm được? Trong người ngươi súc tích hơn bảy

mươi năm thần công phái Tiêu Dao, sao lại không phải là đệ tử bản phái?

Hư Trúc xưa nay chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, hoang mang

hỏi lại:

- Phái Tiêu Dao ư?

Ông lão mỉm cười:

- Thừa thiên địa chi chính, ngự lục khí chi biện, dĩ du ư vô cùng, thị vi

tiêu dao14. Ngươi nhảy lên thử xem nào?

Hư Trúc nổi dạ hiếu kỳ, hai đầu gối cong lại, nhún chân một cái, nhẹ

nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe bình một tiếng, đỉnh đầu đau nhói, mắt

sáng lòa, một nửa người đã xuyên qua nóc nhà mà vẫn tiếp tục bay lên,

vội vàng đưa tay giữ mái nhà ghìm lại, rơi trở xuống đất, còn nhảy tưng

tưng mấy bận, lúc ấy mới ngừng lại được. Khinh công như thế quả là

không dám nghĩ tới, trong nhất thời đã không vui mừng lại đâm ra sợ hãi.

Ông lão nói:

- Thấy thế nào?

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng ... tiểu tăng bị ma làm chăng?

Ông lão nói:

- Ngươi cứ bình thản ngồi xuống, nghe ta kể hết nguyên nhân. Thời

khắc không còn nhiều, chỉ nói những gì quan trọng. Nếu như ngươi không

bằng lòng gọi ta là thầy, không muốn đổi tông phái thì ta cũng không ép

ngươi được. Tiểu sư phụ, ta cầu ngươi giúp ta một điều, thay ta làm một

chuyện, ngươi có bằng lòng không?

Hư Trúc xưa nay vẫn thích giúp người, nhà Phật tu theo lục độ15, đứng

đầu là bố thí, thế nhân có nạn phải hết sức giúp đỡ bèn nói:

- Tiền bối đã sai bảo ắt tiểu tăng sẽ kiệt lực mà làm.

Câu đó vừa nói ra, bỗng y chợt nghĩ công phu của ông lão này dường

như yêu tà của tả đạo, nên lại tiếp theo:

14 

15 

- Thế nhưng nếu tiền bối sai tiểu tăng làm chuyện sai quấy thì sẽ

không thể tòng mệnh đâu.

Ông lão kia trên mặt nụ cười gượng gạo hỏi lại:

- Thế ngươi nghĩ thế nào là chuyện sai quấy?

Hư Trúc chựng lại đáp:

- Tiểu tăng là đệ tử cửa Phật, những điều làm tổn hại đến người khác

thì nhất quyết không làm.

Ông già lại hỏi:

- Nếu như trên đời này có kẻ kia chuyên làm điều tổn hại người

khác, những chuyện sai quấy, giết người không gớm tay, ta sai ngươi đi

tiêu diệt kẻ đó, ngươi có bằng lòng không?

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng sẽ hết lời khuyên y trở về đường ngay nẻo chánh.

Ông lão lại hỏi:

- Thế nhưng nếu chấp mê không nghe thì sao?

Hư Trúc ưỡn ngực nói:

- Phục ma trừ hại, đó là điều đương nhiên phải làm của chúng ta, có

điều tiểu tăng tài nghệ nông cạn, e rằng không gánh vác nổi trọng nhiệm

đó.

Ông lão nói:

- Thế có nghĩa là ngươi bằng lòng chứ gì?

Hư Trúc gật đầu nói:

- Tiểu tăng bằng lòng.

Ông già ra chiều vui sướng nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta muốn ngươi đi giết một người, một kẻ đại

đại ác, chính là đệ tử của ta Đinh Xuân Thu, hiện nay trong võ lâm gọi là

Tinh Tú Lão Quái đó.

Hư Trúc thở phào một hơi, tưởng như trút được gánh nặng. Y chính

mắt thấy Tinh Tú Lão Quái chỉ một câu đã giết mười người phu xe, quả

là đại ác, chính sư bá tổ Huyền Nạn cũng bị y dùng tà thuật hóa tán hết

nội lực, liền đáp:

- Trừ khử Tinh Tú Lão Quái quả là công đức vô lượng, có điều tiểu

tăng công phu nhỏ bé, làm sao có thể ...

Nói đến đây y nhìn ông già, bốn mắt chạm nhau, thấy ông dường như

có ý diễu cợt, lập tức nghĩ ra: “Công phu nhỏ bé ” xem chừng không đúng

nên im bặt. Ông lão nói:

- Cái công phu nhỏ bé mà ngươi đang có, không kém gì Tinh Tú Lão

Quái đâu, có điều muốn trừ diệt y quả là chưa đủ, thế nhưng ngươi chớ lo

lắng, lão phu đã sắp đặt cả rồi.

Hư Trúc đáp:

- Tiểu tăng từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ nói về những chuyện ác

của Đinh ... Đinh thí chủ biển Tinh Tú, bảo là tiền bối đã bị ông ta hại

rồi, ngờ đâu lão tiền bối vẫn còn ở trên trần thế, quả ... quả là hay lắm,

hay lắm!

Ông lão thở dài nói:

- Năm xưa tên nghịch đồ đó đột nhiên giở chứng, đánh ta rơi vào

thâm cốc, tưởng ta đã táng mạng rồi. Cũng may người học trò lớn của ta

là Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, có thế mới che dấu được tai mắt tên

phản phúc kia, ta mới giữ được chút hơi tàn, sống thêm ba mươi năm. Tư

chất của Tinh Hà cũng không phải dở đâu, có điều bị ta dẫn vào ngã rẽ,

phân tâm tập luyện bàng vụ, đi học cầm kỳ thư họa những trò vui chơi

nhàn nhã nên võ công thượng thừa của ta y không sao học nổi.

Trong ba mươi năm nay ta ngong ngóng một đứa học trò thông minh

mà lại chuyên tâm học hỏi để truyền lại võ học cả một đời, sai đi tru diệt

Đinh Xuân Thu. Thế nhưng cơ duyên không dễ gặp, người thông minh mà

bản tính chẳng ra gì, không chừng lại rơi vào vết xe đổ, dưỡng hổ di

hoạn; còn người tính tình tốt thì ngộ tính lại chẳng đủ. Đến lúc này ta xem

chừng đã tận tuổi trời rồi, không còn chờ thêm được nữa, nên đành phải

công bố cho thiên hạ bàn cờ Trân Lung năm xưa ta bày ra để tìm người

tài tuấn. Đại hạn của ta đã đến rồi, không còn thì giờ truyền thụ võ công

thành thử đứa quan môn đệ tử của ta ắt phải là một người trẻ tuổi thông

minh tuấn tú.

Hư Trúc nghe ông ta nói đến “thông minh tuấn tú”, nghĩ thầm mình tư

chất đã chẳng thông minh, còn tuấn tú thì khỏi cần nói đến làm gì, nên

ngượng ngập nói:

- Những người tuấn nhã trên đời có biết bao nhiêu, ngay bên ngoài

kia cũng có hai người, một là Mộ Dung công tử, còn một vị là công tử họ

Đoàn. Tiểu tăng đi ra mời hai người đó vào hội kiến với tiền bối được

chăng?

Ông lão cười khẩy một tiếng nói:

- Ta nghịch vận Bắc Minh Thần Công đem hơn bảy mươi năm công

phu tu tập, trút vào cho ngươi cả rồi, làm sao còn truyền thụ cho người thứ

hai được nữa?

Hư Trúc hoảng hốt nói:

- Có thật là tiền bối ... tiền bối đem công lực cả đời truyền vào tiểu

tăng không? Lẽ ... lẽ nào ...

Ông lão nói:

- Chuyện này đối với ngươi là họa hay phúc, lúc này thật khó nói.

Võ công cao cường chắc gì đã là phúc, trên thế gian những người không

biết chút võ công nào, không lo không sầu, bớt tranh cạnh thì chẳng phải

cũng bớt phiền não hay sao? Nếu như năm xưa ta chỉ học cầm, học kỳ,

học thư, học họa mà chẳng nghiên cứu những môn võ học thì đời ta ắt

khoái hoạt hơn nhiều.

Ông nói tới đây thở dài một tiếng, ngẩng đầu nhìn qua lỗ hổng trên

mái nhà mà Hư Trúc đã đụng vỡ, dường như đang nhớ lại rất nhiều

chuyện đã qua, một lúc sau mới nói:

- Hảo hài tử, Đinh Xuân Thu vẫn tưởng ta đã chết dưới tay y rồi nên

không kiêng nể gì ai nữa. Còn bức tranh đây, bên trên vẽ nơi ta ngày xưa

hưởng thanh phúc ở núi Vô Lượng nước Đại Lý, là chỗ ngươi tìm võ học

điển tịch ta tàng trữ, theo đúng thế mà luyện tập thì võ công sẽ chẳng

kém gì Đinh Xuân Thu. Có điều tư chất ngươi dường như không tốt lắm,

tu tập võ công bản môn, chỉ sợ có nhiều chỗ ngắc ngứ, có thể gặp khó

khăn hung hiểm không chừng.

Vậy ngươi phải đi cầu một người đàn bà ở thạch động trong núi Vô

Lượng chỉ điểm cho. Bà ta thấy ngươi tướng mạo không đẹp, chắc là

không chịu dạy đâu, nhưng xin bà ta hãy nghĩ đến ta ...khục ... khục ...

Ông ta nói đến đây thì ho sù sụ, thở chẳng ra hơi, lấy trong người một

quyển trục nho nhỏ nhét vào tay Hư Trúc. Hư Trúc không khứng chịu,

dùng dằng nói:

- Tiểu tăng học nghệ chưa thành, lần này theo lệnh thầy xuống núi

đưa thư, phải trở về núi ngay để phục mệnh, từ nay về sau có gì cũng

phải theo sư mệnh mà làm. Nếu như phương trượng bản tự và nghiệp sư

không bằng lòng, thì không thể nào tuân theo lời dặn dò của tiền bối

được.

Ông lão gượng nở một nụ cười nói:

- Nếu quả đó là thiên ý muốn cho kẻ ác tự tung tự tác, thì cũng

chẳng còn cách nào hơn, ngươi ... ngươi ...

Ông ta nói được hai chữ “ngươi” bỗng toàn thân run rẩy, từ từ gục

người xuống, hai tay chống dưới đất, tưởng chừng như sắp tắt thở rồi. Hư

Trúc hoảng hốt vội vàng đưa tay đỡ hỏi:

- Lão ... lão tiền bối sao thế?

Ông già đáp:

- Hơn bảy mươi năm tu luyện của ta truyền hết cho ngươi rồi, hôm

nay mệnh đã hết. Này con, ngươi nhất định không chịu gọi ta bằng “sư

phụ” ư?

Ông ta nói tới đây thì hổn hển dường như sắp chết. Hư Trúc nhìn ánh

mắt van xin của ông lão thật đáng thương, nẫu cả ruột buột miệng kêu

lên:

- Sư phụ!

Ông lão mừng quá, cố sức tháo trên ngón tay bên trái ra một chiếc

nhẫn bằng bảo thạch, muốn đeo vào tay cho Hư Trúc, có điều lực khí hao

kiệt, đến nắm cổ tay Hư Trúc cũng không xong. Hư Trúc vội kêu lên:

- Sư phụ!

Rồi cầm chiếc nhẫn đeo luôn vào ngón tay mình. Ông lão phều phào:

- Ngoan ... con ngoan lắm! Con là đệ tử thứ ba của ta, nếu gặp Tô

Tinh Hà thì gọi y ... gọi y là đại sư ca. Con họ gì?

Hư Trúc đáp:

- Con quả thực không biết.

Ông lão thở dài:

- Tiếc thay mặt mũi con không được dễ coi, rồi đây sẽ gặp nhiều

chuyện rắc rối, có điều con là chưởng môn phái Tiêu Dao, người đàn bà

ấy không dám vi kháng mệnh lệnh của con đâu, tốt lắm, tốt lắm ...

Ông ta càng nói thanh âm càng nhỏ, tới câu “tốt lắm” thứ hai thì chỉ

còn mong manh như tơ, nghe không rõ, đột nhiên cười ha ha mấy tiếng,

người bổ nhào về trước, nghe bình một tiếng, trán đập xuống đất, rồi

không động đậy gì nữa.

Hư Trúc vội vàng đỡ ông ta lên, đưa tay thăm dò thì đã tắt thở, vội

vàng chắp tay niệm Phật:

- Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nguyện cầu Phật A

Di Đà, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát tiếp dẫn lão tiên sinh

vãng sinh thế giới tây phương cực lạc.

Y ở với ông lão này chưa đầy một giờ, đúng ra chẳng có bao nhiêu

tình nghĩa, thế nhưng trong người nhận hơn bảy mươi năm công lực của

ông ta, ngấm ngầm cảm thấy ông lão đối với mình thân cận hơn bất cứ ai

khác, nói đúng ra, một phần của ông ta đã biến thành con người mình, đột

nhiên trong lòng buồn bã, khóc òa lên.

Y khóc một lúc rồi mới quì xuống, hướng về di thể của ông lão lạy

mấy lạy, lẩm nhẩm khấn:

- Lão tiền bối, tiểu tăng giả vờ gọi ông là sư phụ đấy thôi, xin ông

đừng coi là thật. Ông tâm thần nếu không mê muội xin đừng trách tôi.

Khấn xong rồi, y mới quay lại theo lỗ hổng đã phá ban nãy chui ra,

nhảy nhẹ một cái, đã vượt qua hai lần vách đến bên ngoài.

datlucky_way

23-07-2009 03:11 PM

Hồi 32(a) : THẢ TỰ TIÊU DAO MỘT THÙY QUẢN 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Tiêu dao tự tại một thân,

Chẳng ai ước thúc bó chân ra vào.

*

* *

Hư Trúc vừa ra khỏi căn nhà gỗ, không khỏi kinh ngạc, thấy trên khu đất là

một cột lửa thật lớn, còn trên mặt đất cây tùng đổ nằm ngổn ngang. Y vào trong

căn nhà gỗ dường như cũng chẳng bao lâu, thế nhưng bên ngoài đánh nhau long

trời lở đất, ắt là những cây tùng này bị người ta đánh ngã lúc y đang hôn mê

thành ra ở trong nhà không nghe gì cả.

Lại thấy người đứng chung quanh cây cột lửa chia thành hai phe. Lung Á lão

nhân Tô Tinh Hà đứng ở phía bên phải, Huyền Nạn cùng các nhà sư Thiếu Lâm,

Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn đứng sau lưng ông ta. Tinh Tú Lão Quái

đứng phía bên trái, gã đầu sắt Du Thản Chi và bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng sau

lưng ông ta. Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Cưu Ma Trí, Đoàn Diên

Khánh, Nam Hải Ngạc Thần các người khác thì đứng rải rác ở xa xa.

Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu hai người đang thúc đẩy chưởng lực, đẩy cây

cột lửa rạp về đối phương, thế nhưng trước mắt ngọn lửa ngả về bên phải, hiển

nhiên Đinh Xuân Thu đang chiếm thượng phong.

Mọi người đăm đăm nhìn cây cột lửa, thành ra khi Hư Trúc từ trong nhà

bước ra chẳng một ai chú ý. Đương nhiên Vương Ngữ Yên chỉ quan tâm một mình

biểu ca Mộ Dung Phục, còn Đoàn Dự thì chỉ nghĩ đến Vương Ngữ Yên, hai người

tuy không nhìn cây cột lửa, nhưng cũng chẳng ngó ngàng gì đến Hư Trúc.

Hư Trúc đi vòng xa xa sau lưng mọi người qua đến bên phải, đứng ở bên

cạnh sư thúc Tuệ Kính, thấy ngọn lửa mỗi lúc một rạp về hướng mình, quần áo Tô

Tinh Hà đều căng phồng chân khí, chẳng khác gì một cánh buồm no gió, song

chưởng không ngừng mãnh liệt đẩy về phía trước.Còn Đinh Xuân Thu thì vẫn thản nhiên như không, tay áo phất nhẹ, làm như

chẳng coi vào đâu. Tiếng tán tụng của bọn đệ tử vang lên đều một nhịp:

- Tinh Tú lão tiên ra tay trông thì nhẹ nhàng mà thật mạnh, thần công cái

thế hôm nay khiến cho bọn chúng mở mắt.

- Sư phụ ta chẳng qua chỉ muốn giáo huấn bọn đứng ngoài, cho nên chậm

rãi thúc đẩy thần công, chứ không thì đã tru diệt lão họ Tô từ đời nào rồi.

- Đứa nào không phục thì cứ ra nếm thử mùi vị thần công của Tinh Tú lão

tiên.

- Chúng bay có giỏi thì cứ liên thủ tiến lên ai sợ gì đâu!

- Cổ vãng kim lại có ai sánh kịp với Tinh Tú lão tiên được đâu! Kẻ nào bọ

ngựa chống xe thật chỉ có mua cái chết!

Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh mọi người đều nghĩ, nếu như

mấy người sát cánh tiến ra, vây đánh Đinh Xuân Thu, Tinh Tú Lão Quái dẫu ghê

gớm thật nhưng làm sao chống được với mấy cao thủ hợp lực. Thế nhưng những

người đó tự trọng thân phận, chẳng đời nào làm chuyện họp nhau vây đánh một

người, hai nữa Tinh Tú Lão Quái và Tô Tinh Hà đồng môn tàn sát lẫn nhau, người

ngoài chẳng nên tham dự làm gì, ba là ai ai cũng e ngại kẻ khác thừa cơ hạ thủ,

cho nên tuy bọn đệ tử phái Tinh Tú đưa sư phụ lên tận mây xanh mà Cưu Ma Trí

vẫn chỉ mủm mỉm cười, không lý tới.

Đột nhiên cây cột lửa đổ ập về phía trước, cuốn lấy người Tô Tinh Hà, mùi

khét lẹt xông lên, bộ râu dài của ông ta đã bị đốt cháy sạch. Tô Tinh Hà hết sức

chống trả mới đẩy lùi được nhưng ngọn lửa cũng chỉ cách người ông chừng hai

thước, không ngừng chồm tới hụp lui, chẳng khác gì một con đại mãng xà há mồm

lè lưỡi, đang định nuốt chửng ông lão. Hư Trúc trong bụng hãi ngầm: “Xem chừng

Tô thí chủ sắp bị Đinh thí chủ đốt đến nơi, mình phải làm gì đây?”.

Bỗng nghe phèng phèng, rồi thêm hai tiếng tùng tùng, tiếng trống tiếng

thanh la nổi lên, thì ra bọn đệ tử phái Tinh Tú có mang theo não bạt, trống chiêng

lúc này đem ra, kẻ thổi kèn ti toe, người đánh trống inh ỏi để diệu võ dương oai

cho sư phụ, lại cũng có người vừa phất cờ xanh, cờ vàng, cờ đỏ, cờ tím vừa reo hò

rầm rĩ.

Trong võ lâm hai người tỉ thí nội công lại có người đứng bên khua chiêng

đánh trống trợ uy, quả thực từ thuở khai thiên lập địa đến giờ chưa từng có. Cưu

Ma Trí đứng cười ha hả nói:- Da mặt Tinh Tú Lão Quái quả là dày, đúng là xưa nay chưa ai bì kịp.

Trong tiếng thanh la kèn trống, một tên đệ tử lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng

ngâm nga, lên bổng xuống trầm, hóa ra là một thiên “Cung Tụng Tinh Tú Lão

Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán”1. Không biết gã này thuê được tên hủ nho nào

viết bài từ ca công tụng đức, nghe lên vừa bợ đỡ, vừa vênh vang, tiếng chập cheng

phụ họa giữ nhịp cho lời phét lác.

Thế nhưng nếu bỏ qua những lời rặt giọng vô liêm sỉ này, nội lực Tinh Tú

Lão Quái phải nói là ào ào như sóng cả. Cùng với tiếng chiêng trống và lời ca

tụng, cây cột lửa mỗi lúc một vượng, ngả về đằng trước nửa thước nữa.

Đột nhiên có tiếng chân người rầm rập, hơn hai chục người từ căn nhà phía

sau chạy ra, đứng chắn ngay trước mặt Tô Tinh Hà, chính là những hán tử câm

điếc vừa mới cáng bọn Huyền Nạn lên núi khi nãy, đều là môn hạ đệ tử của Lung

Á lão nhân.

Đinh Xuân Thu càng thúc chưởng lực tới, cây cột lửa ập lên hai chục gã kia,

lập tức có tiếng sèo sèo, cả bọn liền bị cháy xém như heo quay. Tô Tinh Hà toan

dùng chưởng đẩy bọn họ ra ngoài nhưng hai bên cách nhau khá xa, chưởng lực

không tới được. Hai chục người đó đứng như trời trồng, cháy như cây đuốc, không

ai cử động chút nào, miệng lại không nói được nên cảnh tượng quả là bi tráng.

Việc xảy ra khiến người bên ngoài ai nấy chấn động, đến cả Vương Ngữ

Yên và Đoàn Dự cũng quay đầu lại. Cây cột lửa vẫn cháy bừng bừng, bao trùm cả

hai chục người trong đó. Đoàn Dự kêu lên:

- Không nên tàn nhẫn như thế.

Tay phải chàng vung ra, toan dùng Lục Mạch Thần Kiếm đâm vào Đinh

Xuân Thu, tuy nhiên chàng vận kiếm không đúng phép tắc, nội lực chứa đầy trong

người nhưng chỉ chạy qua chạy lại không cách nào theo ngón tay bắn ra được.

Chàng toát mồ hôi hột, kêu lên:

- Mộ Dung công tử mau ra tay ngăn chặn họ đi.

Mộ Dung Phục đáp:

- Đã có phương gia Đoàn huynh nơi đây, tiểu đệ nào dám múa búa trước

cửa Lỗ Ban? Đoàn huynh thử Lục Mạch Thần Kiếm lần nữa xem nào!

1 Đoàn Diên Khánh đến chậm nên không nhìn thấy Lục Mạch Thần Kiếm của

Đoàn Dự, nghe Mộ Dung Phục nói thế, trong lòng không khỏi chấn động, liếc mắt

nhìn Đoàn Dự để xem có thần công này thật hay không nhưng chỉ thấy anh chàng

chỉ chỉ trỏ trỏ, xuất thủ xem ra cũng có khuôn phép nhưng không có một chút nội

lực nào, nghĩ thầm: "Cái gì mà Lục Mạch Thần Kiếm, làm ta bở vía một phen. Thì

ra tiểu tử này hư trương thanh thế, hoa chân múa tay để dọa người khác. Mặc dù

người xưa có truyền lại là Đoàn gia nhà mình có kỳ công Lục Mạch Thần Kiếm

nhưng đã thấy ai luyện được đâu?”.

Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự không chịu ra tay, lại tưởng chàng cố tình dấu

tài, nên cứ thản nhiên đứng xem động tĩnh biến chuyển thế nào rồi tính sau.

Một hồi sau, hơn hai chục người câm bị lửa thiêu đã chết quá nửa, chỗ còn

lại thì ai cũng trọng thương, lục tục ngã xuống. Trong tiếng trống chiêng, Đinh

Xuân Thu phất tay áo hai lần, cây cột lửa lại ập về phía Tô Tinh Hà. Tiết Mộ Hoa

kêu lên:

- Không được hại sư phụ ta!

Ông ta xông lên toan đứng chặn ngọn lửa, Tô Tinh Hà tung chưởng đẩy

người học trò ra nói:

- Chết vô ích thôi!

Tay trái ông ngưng tụ công lực tàn dư, đánh mạnh vào cây cột lửa. Thế

nhưng lúc này nội lực hao kiệt cả rồi, chưởng đó chỉ chặn ngọn lửa lại một cái, rồi

thấy nóng bừng, trước mắt chỉ toàn màu đỏ rực, đâu đâu cũng là lửa cả. Tô Tinh

Hà ở vào thế dầu cạn đèn khô, nghĩ đến Đinh Xuân Thu sau khi giết được mình rồi

thể nào cũng xông vào, sư phụ giả chết ba mươi năm nay, sau cùng rồi cũng không

thoát khỏi độc thủ của y. Ông bị cây cột lửa ép tới mà trong lòng chua xót không

đâu cho xiết.

Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà ở vào cảnh cực kỳ nguy hiểm nhưng vẫn đứng trơ

trơ, không chịu lùi lấy nửa bước. Y càng nhìn càng thấy thương tâm, lập tức xông

ra, nắm lấy lưng ông ta kêu lên:

- Chết chỉ uổng mạng thôi, mau lùi ra đi!

Ngay lúc đó, Tô Tinh Hà đang vận chưởng đánh ra nhưng thế đã yếu lắm

rồi, xem ra cũng chẳng công hiệu, có điều sống mái một trận đến cùng chứ chẳng

lẽ bó tay chịu chết. Ngờ đâu một luồng nội lực hồn hậu vô cùng từ sau lưng truyền

vào, gia số cùng loại với mình không sai một mảy, thành ra chưởng đó tung ra, lựcđạo mạnh hơn không biết bao nhiêu lần. Chỉ nghe vù một tiếng lớn, cây cột lửa

quay ngược trở lại, ập lên người Đinh Xuân Thu, dư lực chưa hết đốt luôn cả một

mớ học trò của lão.

Chỉ nghe thấy tiếng loảng xoảng, leng keng liên hồi cộng thêm tiếng la ó

rầm trời, loạn cả lên:

- Phái Tinh Tú uy chấn Trung Nguyên, ân sư chúng ta đời nay không ai

địch nổi.

Xen lẫn với:

- Ối ối! Mẹ ơi!

- Chết cha rồi! Phái Tinh Tú chạy cho mau!

- Phái Tinh Tú lúc co lúc duỗi, thôi lần sau mình dương uy cũng được.

Đinh Xuân Thu kinh hoảng, thực ra nội lực của Hư Trúc cộng với chưởng

phong của Tô Tinh Hà, chưa hẳn đã thắng được y, có điều y đang chắc mẩm nhơn

nhơn đắc ý không đề phòng, đột nhiên bị phản kích nên một phen bở vía. Y lại

thấy trong chưởng phong hàm chứa nội lực già dặn chín chắn, hơn hẳn sư huynh Tô

Tinh Hà, hiển nhiên là công phu bản phái, không lẽ đó là sư phụ bị mình giết rồi

hiển linh chăng? Là hồn ma sư phụ đến đòi mạng chăng? Y nghĩ đến đó, tâm thần

hoảng loạn, nội lực không còn ngưng tụ được nữa, cây cột lửa liền cuốn vào người

không còn sức đâu đẩy ngược lại, quần áo râu tóc lập tức cháy bùng lên.

Bọn đệ tử liền hô hoán rầm lên:

- Tinh Tú lão tiên xem chừng không xong!

Đinh Xuân Thu hoảng hốt vội gọi:

- Học trò đầu sắt ơi, mau ra tay đi!

Du Thản Chi lập tức múa chưởng đánh vào cây cột lửa, chỉ nghe phụp phụp

mấy tiếng, cây cột lửa gặp phải chưởng lực cực kỳ lạnh lẽo của y, lập tức tắt

ngúm, đến khói xanh cũng tan biến thật nhanh, dưới đất chỉ còn mấy cây gỗ tùng

đã thành than.

Đinh Xuân Thu râu tóc cháy rụi, quần áo cũng rách bươm, mặt hầm hầm

nhưng trong bụng vẫn thấp thỏm chuyện hồn ma sư phụ hiển linh, nên không còn

dám hung hăng nữa, quát lớn:

- Thôi đi!Y nhún mình một cái đã vọt ra ngoài bảy tám trượng. Bọn đệ tử phái Tinh

Tú lập tức chạy theo, thanh la não bạt, chiêng trống đều quăng bỏ hết, còn thiên

“Cung Tụng Tinh Tú Lão Tiên Dương Uy Trung Nguyên Tán” đọc chưa xong,

cũng bị ngọn lửa cháy mất một miếng lớn, theo gió bay vật vờ, tưởng chừng như

đang nhạo báng Tinh Tú Lão Quái “dương uy Trung Nguyên”.

Bỗng nghe từ đằng xa một tiếng kêu thảm khốc, rồi một tên đệ tử phái Tinh

Tú bay bổng lên, khi rơi xuống nằm không nhúc nhích. Mọi người mặt mày ngơ

ngẩn, chắc mẩm Tinh Tú Lão Quái bị thua, thẹn quá hóa giận, không biết tên đồ

đệ đó mở miệng chữa thẹn thế nào, bốc thơm không đúng cách, mó phải hàm chó

vó ngựa bị đánh một chưởng chết tươi.

Huyền Nạn, Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí ai ai cũng cho rằng Lung Á lão

nhân Tô Tinh Hà dùng kế khổ nhục để dụ cho Đinh Xuân Thu hao phí công lực

tiêu diệt những hán tử câm điếc kia, sau đó mới bất ngờ tấn công một đòn trời long

đất lở, khiến y trở tay không kịp phải cúp đuôi mà chạy.

Lung Á lão nhân về mưu kế cũng như võ công đã nổi tiếng trên giang hồ từ

lâu, mới rồi cùng Tinh Tú Lão Quái một trường ác đấu, đánh ngã những cây tùng

sần sùi đường kính cả thước, ai ai trông thấy cũng kinh tâm động phách. Sau cùng

ông ta lại thi triển thần công, đánh đuổi được Tinh Tú Lão Quái cũng chẳng ai cho

là lạ. Huyền Nạn nói:

- Tô tiên sinh thần công thâm hậu đuổi được lão quái đó đi, xem ra sau trận

ác đấu này hết hồn mất vía, không còn dám bước chân vào Trung Nguyên nữa

đâu. Tiên sinh tạo phúc cho võ lâm quả không phải là nhỏ.

Tô Tinh Hà thoáng thấy trên ngón tay Hư Trúc chiếc nhẫn bằng bảo thạch

của sư phụ, hiểu ngay nguyên do, trong lòng vừa buồn bã, vừa vui mừng, nhìn

quanh thấy đám đệ tử mười người chết chín, còn lại cũng bị thương nặng khó mà

chữa lành, cực kỳ đau khổ, nhưng khắc khoải an nguy của sư phụ nên quay qua

trao đổi với Huyền Nạn, Mộ Dung Phục vài câu khách sáo rồi nắm tay Hư Trúc

nói:

- Mời tiểu sư phụ theo ta vào trong.

Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn, đợi ông ta ra lệnh. Huyền Nạn nói:

- Tô tiền bối là võ lâm cao nhân, nếu có dặn bảo điều gì, ngươi nhất thiết

nên tuân theo.

Hư Trúc đáp:- Vâng!

Rồi theo Tô Tinh Hà chui qua chỗ bức vách bị vỡ đi vào trong nhà. Tô Tinh

Hà tiện tay cầm một mảnh ván, bịt cái lỗ hổng đó lại. Mọi người từng đi lại trên

giang hồ, hiểu rộng biết nhiều thấy ông ta làm thế là có ý không muốn ai dòm

ngó, nên cũng chẳng ai muốn dính dáng vào chuyện người ngoài. Có lẽ người duy

nhất không hiểu rộng biết nhiều là anh chàng Đoàn Dự, nhưng từ nãy đến giờ chỉ

chăm chăm nhìn vào Vương Ngữ Yên đến Tô Tinh Hà và Hư Trúc đi vào trong

nhà chàng cũng không hay biết, thì còn lòng dạ đâu mà lo đến chuyện gì khác?

Tô Tinh Hà và Hư Trúc dắt tay nhau xuyên qua hai lần vách thấy ông lão

kia nằm phục dưới đất, đưa tay sờ thử thì đã tắt thở. Việc này Tô Tinh Hà đã đoán

được tám chín phần nhưng cũng buồn bã nhịn không nổi, quì xuống rập đầu mấy

cái nói:

- Sư phụ ơi là sư phụ! Rồi sau cùng thầy cũng bỏ con mà đi!

Hư Trúc nghĩ thầm: “Ông lão này quả nhiên là sư phụ của Tô lão tiền bối

thật”. Tô Tinh Hà gạt lệ đứng lên, đỡ xác sư phụ ngồi ngay ngắn dựa lưng vào

vách, sau đó lại đỡ Hư Trúc cũng ngồi xuống ngay bên cạnh xác ông lão kia. Hư

Trúc chột dạ: “Ông ta để mình ngồi ngang hàng với xác lão tiên sinh để làm gì thế

này? Không lẽ ... không lẽ ... muốn mình đi theo hầu sư phụ ông ta xuống tuyền

đài chăng?”. Y rợn người, toan đứng lên nhưng lại không dám.

Tô Tinh Hà sửa lại áo quần vốn đã bị cháy rách bươm, đột nhiên quì xuống

trước mặt Hư Trúc rập đầu lạy mấy cái nói:

- Kẻ đệ tử không xứng đáng của phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà, tham kiến

tân chưởng môn của bản phái.

Câu nói đó khiến cho Hư Trúc giật nảy người, chân tay như tê liệt, nghĩ

thầm: “Người này điên quá mất thôi! Người này điên quá mất thôi!”. Y vội vàng

quì xuống hoàn lễ nói:

- Lão tiền bối hành đại lễ thế này, tiểu tăng không thể nào dám nhận.

Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói:

- Sư đệ, ngươi là quan môn đệ tử 2 của sư phụ, lại là chưởng môn của bản

phái. Ta tuy là sư huynh thật nhưng phải khấu đầu trước mặt ngươi.

Hư Trúc ấp úng:

2 - Cái đó ... cái đó ...

Lúc đó y mới biết Tô Tinh Hà không hóa điên nhưng nếu ông ta không mất

trí thì mình lại ở vào cảnh cực kỳ khó xử, trong bụng chỉ biết than trời trách đất. Tô

Tinh Hà nói:

- Sư đệ, cái mạng ta là do ngươi cứu, tâm nguyện của sư phụ cũng do ngươi

hoàn thành, có nhận vài cái lạy thì cũng đúng thôi. Sư phụ bảo ngươi rập đầu chín

cái bái lão nhân gia làm thầy, ngươi đã lạy chưa?

Hư Trúc đáp:

- Khấu đầu thì có đấy, nhưng khi đó tiểu tăng nào có biết đó là bái sư. Tiểu

tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm không thể đổi qua gia nhập phái khác được.

Tô Tinh Hà nói:

- Sư phụ cũng đã nghĩ đến chuyện đó rồi, chắc đã hóa tán võ công cũ của

sư đệ rồi mới truyền công phu bản phái. Sư phụ đem công lực cả một đời truyền

cho ngươi, có phải không?

Hư Trúc đành phải gật đầu nói:

- Đúng thế!

Tô Tinh Hà nói:

- Cái nhẫn bằng bảo thạch dấu hiệu của chưởng môn bản phái này là do sư

phụ rút ra từ tay mình đeo vào cho ngươi, có phải không nào?

Hư Trúc đáp:

- Đúng thế! Có điều ... có điều tiểu tăng nào có biết đó là tiêu ký của

chưởng môn đâu.

Tô Tinh Hà ngồi xếp bằng dưới đất nói:

- Sư đệ, ngươi phúc trạch quả là dày. Ta và Đinh Xuân Thu mơ tưởng đến

cái nhẫn bảo thạch này mấy chục năm qua, nhưng chẳng bao giờ tới tay mình

được, còn ngươi chỉ trong một giờ mà đã được sư phụ để mắt đến rồi.

Hư Trúc vội vàng tháo chiếc nhẫn đưa ra nói:

- Vậy thì tiền bối cầm lấy đi, cái nhẫn này tiểu tăng chẳng dùng được vào

việc gì cả.

Tô Tinh Hà không nhận, mặt sầm xuống:- Sư đệ, ngươi nhận trọng thác của sư phụ lúc lâm chung, sao lại đẩy trách

nhiệm cho người khác? Sư phụ đem chiếc nhẫn giao cho ngươi là để sai ngươi đi

diệt trừ Đinh Xuân Thu, có đúng không?

Hư Trúc đáp:

- Quả có thế thực, thế nhưng tiểu tăng công phu nông cạn, làm sao đảm

đương nổi việc nặng nề to lớn như thế?

Tô Tinh Hà thở dài một tiếng, cầm chiếc nhẫn đeo lại vào tay Hư Trúc nói:

- Này sư đệ, những chuyện bên trong phần lớn ngươi chưa biết gì cả, để ta

giản lược thuật lại cho ngươi nghe. Bản phái gọi là phái Tiêu Dao, trước nay có lệ

là chưởng môn không hẳn phải do đại đệ tử tiếp nhiệm, trong môn hạ ai võ công

cao siêu nhất thì người đó làm chưởng môn.

Hư Trúc vội đáp:

- Đúng! Đúng! Có điều tiểu tăng võ công cực kỳ kém cỏi.

Tô Tinh Hà không lý đến việc y ngắt ngang, nói tiếp:

- Đồng môn với sư phụ chúng ta cả thảy là ba người, sư phụ đứng thứ hai,

thế nhưng võ công lão nhân gia giỏi hơn sư bá thành thử được làm chưởng môn. Về

sau thu ta và Đinh Xuân Thu làm đệ tử, sư phụ mới định ra qui củ, sở học của

người rất là đa tạp, ai muốn làm chưởng môn thì phải tỉ thí mọi môn, không riêng

gì võ nghệ, mà cả cầm kỳ thư họa. Đinh Xuân Thu không thông môn tạp học nào,

thấy không còn hi vọng gì chức vụ chưởng môn thành thử mới bất ngờ ra tay ám

toán đánh sư phụ rơi xuống vực sâu, lại đánh cả ta trọng thương.

Hư Trúc khi còn trong hầm nhà Tiết Mộ Hoa đã từng nghe câu chuyện này,

ngờ đâu bây giờ trách nhiệm lại đổ lên đầu mình gánh vác, trong bụng chỉ biết

than trời trách đất, thuận miệng đẩy đưa:

- Cũng may lúc đó Đinh thí chủ không giết tiền bối.

Tô Tinh Hà đáp:

- Ngươi đừng tưởng là y có bụng nhân từ mà cho ta sống sót. Một là khi đó

y không phá được trận ngũ hành bát quái, kỳ môn độn giáp ta bày ra; hai là ta bảo

với y: “Đinh Xuân Thu, ngươi ám toán sư phụ, võ công lại thắng cả ta, nhưng công

phu thâm áo nhất của phái Tiêu Dao, ngươi chưa biết tí gì. Bộ kinh thư Bắc Minh

Thần Công ngươi có muốn xem chăng? Khinh công Lăng Ba Vi Bộ, ngươi có muốnhọc chăng? Rồi Thiên Sơn Lục Dương Chưởng? Tiêu Dao Chiết Mai Thủ? Tiểu Vô

Tướng Công nữa?”.

Đó đều là những công phu tối thượng thừa của bản phái, đến ngay cả sư phụ

chúng ta vì quá màng đến tạp học nên nhiều môn cũng chưa học đến. Đinh Xuân

Thu vừa nghe thấy thế, sung sướng đến run bắn người lên, nói: “Ngươi đem những

võ công bí cập đó giao ra, hôm nay ta tha mạng cho ngươi”. Ta mới nói: “Ta làm

sao có được những bí cập đó được? Có điều nơi sư phụ cất dấu những quyển sách

đó thì ta biết. Ngươi muốn giết ta thì cứ ra tay đi”. Đinh Xuân Thu đáp: “Bí cập dĩ

nhiên ở bên bờ biển Tinh Tú, chẳng lẽ ta không biết hay sao?”. Ta đáp: “Đúng đó,

quả thực ở bên biển Tinh Tú. Ngươi có giỏi thì tự mình đi tìm đi”. Y trầm ngâm

một hồi, biết rằng biển Tinh Tú chu vi mấy trăm dặm, mấy bộ bí cập nhỏ xíu đó

biết dấu nơi đâu, quả là khó mà tìm cho ra được, bèn nói: “Được, ta không giết

ngươi. Có điều từ rày trở đi, ngươi phải giả câm giả điếc, không được đem bí mật

của bản phái tiết lộ cho ai hay”.

Tại sao y không giết ta? Y để ta sống sót vì còn mong ép buộc ta khai ra còn

nếu giết ta rồi, nơi bí mật tàng trữ những bí cập này trên đời không còn ai biết nữa.

Thực ra những võ công bí cập đó nào có phải ở bờ biển Tinh Tú đâu, mà phân tán

ra cho sư bá, sư phụ, sư thúc ba người.

Đinh Xuân Thu cứ tưởng ở bên bờ biển Tinh Tú, dường như lật hết mọi tảng

đá ở đó rồi nhưng nào có tìm thấy thần công bí cập? Mấy lần y đến tìm ta gây

chuyện, đều bị ta sắp xếp cơ quan, các loại phương thuật kỳ môn độn giáp ngăn

chặn được. Lần này y lại định hỏi nữa, nhưng thấy không hi vọng gì, mà ta lại phá

lời thề rồi, nên định giết ta cho hả tức.

Hư Trúc nói:

- Cũng may tiền bối ...

Tô Tinh Hà ngắt ngang:

- Sư đệ là chưởng môn bản phái, sao còn gọi ta tiền bối, phải gọi ta là sư ca

mới phải.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Chuyện này quả là nhức đầu nhức óc, không biết đến

bao giờ mới nói rõ nguồn cơn được”. Y bèn đáp:

- Tiên sinh có phải sư huynh của tiểu tăng hay không, tạm thời không đề

cập đến, mà dẫu có là sư huynh thật chăng nữa, thì cũng là “tiền bối”.

Tô Tinh Hà gật đầu:- Nói thế cũng đúng. Vậy cũng may ta làm sao?

Hư Trúc đáp:

- Cũng may tiền bối hết sức nhẫn nhịn, dưỡng uy súc nhuệ đến lúc sinh tử

quan đầu mới đột nhiên phản kích trở lại, khiến cho Tinh Tú Lão Quái đại bại bỏ

chạy trối chết.

Tô Tinh Hà xua tay liên tiếp nói:

- Sư đệ, ngươi quả là không phải, rõ ràng ngươi dùng thần công sư tôn

truyền thụ ra tay trợ giúp ta, có thế mới cứu ta khỏi chết, sao lại khiêm tốn không

chịu nhận? Ta với ngươi là sư huynh đệ đồng môn, ngôi thứ đã định rồi, mạng ta

cũng do ngươi cứu, ta không bao giờ có ý định dòm ngó chức vụ chưởng môn. Từ

rày về sau ngươi không được khách sáo như thế nữa.

Hư Trúc chưng hửng hỏi lại:

- Tiểu tăng trợ giúp tiền bối hồi nào? Việc cứu mạng kia ở đâu mà ra mới

được chứ?

Tô Tinh Hà suy nghĩ một chút rồi nói:

- Cũng có thể ngươi vì vô tâm mà làm cũng không biết chừng. Nhưng dẫu

sao chăng nữa, khi bàn tay ngươi đặt lên lưng ta thì thần công bản môn truyền ra

giúp ta phản bại vi thắng.

Hư Trúc đáp:

- Ồ, thì ra là thế. Như vậy là sư phụ tiền bối cứu mạng chứ nào có phải tiểu

tăng đâu.

Tô Tinh Hà nói:

- Thì ta cũng bảo sư tôn mượn tay ngươi cứu ta, ngươi có nhận thế không

nào?

Hư Trúc không còn cách gì phủ nhận được, đành phải gật đầu:

- Cái đó cũng thuận theo nhân tình, không nhận cũng không xong, tiểu

tăng đành phải chịu.

Tô Tinh Hà nói tiếp:

- Khi đó nhân lúc xuất kỳ bất ý thần công của ngươi tung ra đánh Đinh

Xuân Thu, khiến y kinh hoảng bỏ chạy. Nếu như giao đấu thực sự hẳn hòi, hai

người mình hợp lực, cũng chưa phải là địch thủ của y đâu. Nếu không thì sư phụ

chỉ cần trút thần công vào người ta là đã có thể lấy mạng tên phản đồ đó, việc gìphải hao phí biết bao công sức đi tìm truyền nhân? Trong ba mươi năm qua, ta đã

bao lần thử đủ mọi cách, vẫn không sao tìm được người kế thừa võ công của sư

phụ. Đến khi ta thấy sư phụ ngày càng già yếu, việc kiếm truyền nhân càng thêm

khó khăn, phải là một trang thanh niên không những ngộ tính cực cao, mà còn phải

anh tuấn tiêu sái ...

Hư Trúc nghe ông ta đề cập đến “một trang thanh niên anh tuấn”, hơi nhíu

mày nghĩ thầm: “Tu luyện võ công có liên quan gì đến xấu hay đẹp đâu? Hai thầy

trò cứ đề cập đến hình mạo kẻ truyền nhân, không hiểu vì lý do gì?”. Tô Tinh Hà

đưa mắt đánh giá Hư Trúc, thở dài một tiếng. Hư Trúc nói:

- Tiểu tăng tướng mạo xấu xí, không thể nào đủ tư cách làm truyền nhân

của tôn sư. Lão tiền bối đi kiếm một thanh niên anh tuấn tiêu sái tới đây, tiểu tăng

đem thần công của tôn sư truyền lại cho y, thế là xong.

Tô Tinh Hà sững sờ nói:

- Thần công của bản phái đi liền với tâm mạch khí huyết, công còn người

còn, công mất người mất. Sư phụ truyền thần công cho ngươi xong liền cỡi hạc tiên

du, không lẽ ngươi không thấy hay sao?

Hư Trúc liên tiếp dậm chân nói:

- Thế thì biết làm sao đây? Tôi làm hỏng việc lớn của tôn sư và tiền bối

mất rồi.

Tô Tinh Hà nói:

- Sư đệ, gánh nặng đó giờ đây do ngươi đảm trách. Sư phụ sắp đặt bàn cờ

cốt để khảo sát ngộ tính những người đến phá giải. Bàn cờ Trân Lung đó quá ư

khó khăn, ta hết sức suy nghĩ mấy chục năm nhưng vẫn không sao giải được, chỉ có

sư đệ làm được chuyện đó. “Ngộ tâm kỳ cao” ấy là thế.

Hư Trúc gượng gạo cười:

- Việc ấy chẳng phù hợp chút nào. Bàn cờ Trân Lung, thực ra không phải

do tiểu tăng giải đâu.

Y liền đem chuyện sư bá tổ Huyền Nạn dùng truyền âm nhập mật, bí mật

chỉ điểm cho mình đi nước cờ như thế nào kể lại. Tô Tinh Hà bán tín bán nghi nói:

- Xem hình dạng Huyền Nạn đại sư dường như đã trúng phải độc thủ của

Đinh Xuân Thu, một thân thần công đã bị hóa tán hết rồi, không thể nào còn sử

dụng công phu truyền âm nhập mật được nữa.Ông ta ngừng lại một chút rồi tiếp:

- Thế nhưng phái Thiếu Lâm là võ học chính tông trong thiên hạ, Huyền

Nạn đại sư cố ý giả vờ không chừng, cái kiến thức “ếch ngồi đáy giếng” của ta

không biết được đâu. Sư đệ, ta sai người đem thư mời cao thủ trong thiên hạ đến

giải thế cờ Trân Lung, hễ ai thích đánh cờ, nghe tiếng có hội cờ này, thể nào cũng

mò đến. Có điều tuổi tác đã lớn, mặt mũi ... cái đó ... mặt mũi không tuấn nhã lắm,

hoặc không phải là người trong võ lâm thì ta không mời. Cô Tô Mộ Dung công tử

mặt như quan ngọc, võ kỹ trong thiên hạ môn nào cũng biết, vốn là người xứng

đáng hơn cả, ngờ đâu y lại không phá giải được.

Hư Trúc nói:

- Đúng thế, Mộ Dung công tử giỏi gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn một vị ở

họ Đoàn Đại Lý Đoàn công tử, cũng là người đẹp đẽ phong độ khác phàm.

Tô Tinh Hà nói:

- Ôi, chuyện này chẳng nên đề cập tới nữa. Ta từng nghe Trấn Nam Vương

Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý tinh thông thần kỹ Nhất Dương Chỉ, lại là người

phong lưu khó gặp, trên giang hồ dù là gái còn son hay đã nạ dòng, hễ gặp y đều

thần hồn điên đảo, không sao cưỡng được. Ta đã sai mấy tên đệ tử đến Đại Lý

mời, ngờ đâu y không có ở đó, chẳng hiểu đi đâu, người đến lại là cậu ấm ngốc

nghếch ù ù cạc cạc.

Hư Trúc mỉm cười nói:

- Vị Đoàn công tử kia không chớp mắt, đăm đăm như dán vào người Vương

cô nương.

Tô Tinh Hà lắc đầu nói:

- Thật chán quá mất thôi! Đoàn Chính Thuần dập dìu ong bướm, đã được

gọi là kẻ phong lưu lãng tử số một trong võ lâm, đẻ được đứa con chẳng giống bố

lấy một li, thật vô tích sự, làm mất mặt phụ thân. Y chỉ chăm chăm lấy lòng Vương

cô nương, mà Vương cô nương thì có lý gì đến y đâu, trông thật lộn ruột.

Hư Trúc nói:

- Đoàn công tử một dạ thâm tình, còn hơn phong lưu lãng tử, tiền bối sao

lại bảo là “chán quá”?

Tô Tinh Hà đáp:- Cái thứ y chỉ là “dẻ cùi tốt mã”, chẳng biết mánh lới gì với đàn bà con

gái, có dùng vào đâu được.

Hư Trúc nói:

- Quả thế!

Y trong bụng mừng thầm: “Thì ra các ông đi tìm một thanh niên đẹp trai để

đối phó với đàn bà con gái, thế thì tốt quá, chắc không thể nào lại kiếm một chú

tiểu xấu như ma là ta đâu”. Tô Tinh Hà hỏi thêm:

- Sư đệ, sư phụ có bảo ngươi đi tìm một người hay không? Hay đưa cho

ngươi một địa đồ chẳng hạn?

Hư Trúc sững sờ, thấy việc mình đoán xem chừng không đúng, đang định

chối quanh nhưng y từ nhỏ được các nhà sư chùa Thiếu Lâm dạy dỗ, không được

nói láo, huống chi khi thụ giới tì khưu, vọng ngữ là một đại giới, nên đành ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ...

Tô Tinh Hà nói:

- Ngươi là chưởng môn, ngươi hỏi gì ta không thể không trả lời, nếu không

có thể lập tức đem ta ra xử tử. Còn như ta hỏi ngươi điều gì, ngươi thích thì trả lời,

còn không thì có quyền bảo ta đừng lắm mồm hỏi lăng nhăng.

Nghe Tô Tinh Hà nói thế, Hư Trúc không tiện dấu xua tay liên tiếp nói:

- Tiểu tăng nào dám lên mặt kẻ cả với tiền bối? Tiền bối, sư phụ ông giao

cái này cho tôi đây.

Nói xong y lấy quyển trục trong bọc, thấy Tô Tinh Hà hơi rụt người lại, thần

sắc cực kỳ cung kính, không dám thò tay nhận nên đành tự mình mở ra.

Quyển trục trải ra rồi, hai người cùng ngơ ngẩn, không hẹn mà cùng “Ồ” lên

một tiếng. Thì ra trên quyển trục chẳng có bản đồ gì cả, cũng chẳng phải phong

cảnh núi non sông nước mà là một thiếu nữ xinh đẹp ăn mặc theo lối trong cung

vua. Hư Trúc nói:

- Hóa ra là Vương cô nương ở ngoài kia.

Thế nhưng lụa trên cuốn trục đó đã ố vàng, nét đan thanh trên bức tranh

cũng hơi bạc màu, hiển nhiên là một bức họa cũ kỹ, ít ra cũng ba bốn chục năm, so

với tuổi của Vương Ngữ Yên thì lớn hơn nhiều, nếu có người nào trước đấy mấy

chục năm, hay thậm chí cả trăm năm vẽ nên hình mạo nàng thì quả không sao ngờ

nổi. Nét bút vẽ trên đồ họa rất là kỹ lưỡng nhưng cũng hoạt bát sinh động, ngườitrong bức tranh tươi tắn như đang còn sống, tưởng chừng như thu nhỏ Vương Ngữ

Yên để vào trong tranh.

Hư Trúc tấm tắc, nhìn qua Tô Tinh Hà, thấy ông ta đưa ngón tay trỏ tô theo

từng nét trên bức tranh, suýt soa mãi rồi đột nhiên choàng tỉnh nói:

- Sư đệ đừng ngạc nhiên, cái máu đam mê của tiểu huynh lại nổi lên, vừa

thấy đan thanh diệu bút của sư phụ đã muốn học rồi. Ôi, ăn cho nhiều mà nhai

không kỹ, cái gì cũng học mà có nên cơm cháo gì đâu, để đến nỗi bị Đinh Xuân

Thu đánh cho chạy không kịp.

Ông vừa nói, vừa cuộn bức quyển trục lại, trả lại cho Hư Trúc, tưởng chừng

sợ mình coi thêm sẽ bị nét bút mực trong tranh mê hoặc. Ông nhắm mắt suy nghĩ

rồi lắc đầu như muốn xua đuổi những nét đan thanh đã in vào óc, một hồi sau mới

mở mắt ra nói:

- Khi sư phụ giao quyển trục này cho ngươi thì nói gì?

Hư Trúc đáp:

- Ông ta bảo là công phu của tiểu tăng lúc này chưa đủ sức tru diệt Đinh

Xuân Thu, nên phải theo cuốn trục này đi đến núi Vô Lượng nước Đại Lý để tìm

võ học điển tịch ông cất giữ năm xưa, học những công phu đó. Thế nhưng e rằng

tiểu tăng học không được nên phải đi nhờ một người khác chỉ điểm cho. Ông ta

bảo trên quyển trục này vẽ nơi ngày xưa ông hưởng thanh phúc3, tưởng là danh sơn

đại xuyên hay cảnh vật thanh u, có ngờ đâu lại chỉ là tiếu tượng của Vương cô

nương? Hay là ông ta đưa nhầm quyển trục khác?

Tô Tinh Hà đáp:

- Sư phụ hành sự người ta khó mà đoán định được, bao giờ đến việc ngươi

sẽ rõ. Ngươi nên tuân hành sư mệnh tìm cách đi học công phu cho giỏi để trừ Đinh

Xuân Thu.

Hư Trúc ngập ngừng đáp:

- Cái đó ... cái đó ... tiểu tăng là đệ tử Thiếu Lâm, phải trở về chùa phục

mệnh. Đến chùa rồi, từ nay thanh tu chăm lo tìm hiểu thiền lý, lễ Phật tụng kinh,

không ra ngoài nữa.

3 Tô Tinh Hà hoảng hốt, nhảy dựng lên khóc òa lên, nghe bịch một tiếng đã

quì trước mặt Hư Trúc, rập đầu như bổ củi nói:

- Chưởng môn không tuân theo giáo huấn của sư phụ, lão nhân gia có phải

chết uổng hay sao?

Hư Trúc cũng quì xuống đáp lễ nói:

- Tiểu tăng thân đã vào cửa không, giới sân giới sát, trước đây nhận lời tôn

sư đi trừ Đinh Xuân Thu, bây giờ nghĩ lại không ổn. Phái Thiếu Lâm môn qui

nghiêm nhặt, tiểu tăng không thể nào làm chuyện quấy quá, đổi qua phái khác

được.

Thế rồi dù cho Tô Tinh Hà khóc lóc van xin, dụ dỗ, thậm chí uy hiếp cưỡng

bức, Hư Trúc một mực khăng khăng không bằng lòng. Tô Tinh Hà không còn cách

nào khác, vừa đau lòng, vừa tuyệt vọng, quay sang thi thể sư phụ nói:

- Sư phụ ơi, chưởng môn nhân không chịu tuân hành di mệnh của thầy, tiểu

đồ không biết làm sao, thôi đành theo thầy về nơi chín suối.

Nói xong ông ta nhảy lên, đầu lộn xuống, chân chổng lên, từ trên không lao

vào nền đá xanh. Hư Trúc kinh hoảng kêu lên:

- Không được đâu!

Y liền ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hư Trúc lúc này không những nội lực hồn

hậu mà tay chân cũng nhanh nhẹn lạ thường nên Tô Tinh Hà không sao cử động

được nữa. Tô Tinh Hà nói:

- Sao ngươi không để cho ta tự tận?

Hư Trúc đáp:

- Kẻ xuất gia lấy từ bi làm gốc, tôi không thể bất nhẫn nhìn ông táng

mạng.

Tô Tinh Hà nói:

- Ngươi bỏ ta ra, ta quyết ý không muốn sống nữa rồi.

Hư Trúc đáp:

- Tôi không bỏ.

Tô Tinh Hà hỏi lại:

- Không lẽ ngươi cứ ôm chặt ta mãi thế này không bao giờ buông ra?Hư Trúc nghĩ câu nói này quả không sai nên lật ngược ông ta lại để cho

thuận chiều đầu trên, chân dưới rồi thả ra nói:

- Được rồi, buông thì buông nhưng ông không được tự tận nữa.

Tô Tinh Hà chợt động tâm nói:

- Ngươi không cho ta tự tận ư? Được rồi, xin tuân hành hiệu lệnh của

chưởng môn nhân. Hay lắm, sau cùng ngươi cũng bằng lòng làm chưởng môn bản

phái.

Hư Trúc lắc đầu nói:

- Tôi nào có bằng lòng đâu. Ở đâu mà bảo là tôi bằng lòng?

Tô Tinh Hà cười ha hả nói:

- Chưởng môn nói rồi lại xí xóa đâu có xong. Ngươi vừa ra lệnh cho ta, ta

đã tuân theo rồi là từ nay không được tự tận. Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là

hạng người nào? Trừ người chưởng môn bản phái ra, có ai dám ra lệnh cho ta đâu?

Ngươi không tin thì thử hỏi Huyền Nạn đại sư xem dẫu Huyền Từ phương trượng

của phái Thiếu Lâm cũng không ra lệnh bảo ta làm thế này thế khác được.

Lung Á lão nhân danh tiếng vang dậy trên giang hồ, trên đường đi Hư Trúc

đã từng nghe sư bá tổ Huyền Nạn nói qua rồi, Tô Tinh Hà bảo không ai dám ra

lệnh cho ông ta cũng không phải là nói ngoa. Hư Trúc nói:

- Tôi nào có dám bảo ông phải làm thế này thế khác, chỉ khuyên ông nên

coi trọng tính mạng đó là hảo ý đấy thôi.

Tô Tinh Hà đáp:

- Ta nào có dám hỏi chưởng môn có hảo ý hay ác ý đâu. Ngươi bảo ta chết,

ta lập tức chết ngay, ngươi bảo ta sống, ta không thể không sống. Cái lệnh sinh sát

đó là quyền bính đệ nhất trong thiên hạ, nếu ngươi không phải là chưởng môn của

ta thì làm sao có thể muốn bảo ta sống cũng được, bảo ta chết cũng được?

Hư Trúc cãi không lại đành nói:

- Nếu như thế thì cứ coi như tôi đã nói sai, xin rút lại vậy.

Tô Tinh Hà nói:

- Ngươi rút lại cái lệnh ”không để ta tự tận” có nghĩa là bảo ta tự tận chứ

gì. Tuân lệnh, ta tự tận ngay lập tức.

Cái phép tự tận của ông ta cũng lạ lùng, lại nhảy lên, chúi đầu lao xuống

nền đá xanh. Hư Trúc vội vàng ôm chặt lấy ông ta nói:- Không phải thế, không phải thế! Ta nào có bảo ông tự tận đâu.

Tô Tinh Hà nói:

- Ồ, ngươi lại không cho ta tự tận. Xin kính cẩn tuân lệnh chưởng môn.

Hư Trúc bỏ ông ta ra, giơ tay gãi cái đầu trọc, không biết phải nói thế nào.

Tô Tinh Hà có biệt hiệu là Thông Biện tiên sinh, chuyện đó đâu phải nói không,

mà vốn dĩ là người giỏi biện bác, tuy ba mươi năm qua không nói năng gì, bây giờ

lại dùng đầu môi chót lưỡi, mồm miệng lại trơn như nước chảy, Hư Trúc tuổi còn

trẻ, tính tình chất phác, trước nay ở chùa có bao giờ gây gỗ cãi cọ với ai đâu, làm

sao có thể là đối thủ của Tô Tinh Hà được?

Hư Trúc trong lòng thấy mang mang việc “rút lại lời không cho ông ta tự

tận” dường như không phải là “bảo ông ta tự tận”, còn “không để ông ta tự tận” thì

cũng đâu có phải là “không cho phép ông ta tự tận”. Có điều Tô Tinh Hà mồm

miệng lanh lợi, câu nào cũng chặn trước, Hư Trúc không biết phải biện bạch thế

nào, chỉ đứng ngẩn ngơ một lát rồi thở dài:

- Tiền bối, ta cãi không lại ông nhưng ông bảo ta cải nhập quí phái thì

không thể nào được.

Tô Tinh Hà đáp:

- Khi mình vào đây, Huyền Nạn đại sư dặn ngươi những gì? Lời Huyền

Nạn đại sư đã dặn ngươi có tuân theo chăng?

Hư Trúc chưng hửng nói:

- Sư bá tổ dặn tiểu tăng ... dặn tiểu tăng ... phải nghe lời tiền bối.

Tô Tinh Hà cực kỳ đắc ý nói:

- Đúng đó, Huyền Nạn đại sư bảo ngươi phải nghe lời ta. Mà lời của ta là

gì, là bảo ngươi phải tuân theo di mệnh của sư phụ làm chưởng môn bản phái. Nếu

ngươi đã là chưởng môn phái Tiêu Dao rồi thì những lời của cao tăng chùa Thiếu

Lâm đâu có còn phải để ý đến nữa. Thành ra, nếu ngươi tuân theo lời của Huyền

Nạn đại sư thì phải làm chưởng môn phái Tiêu Dao, còn như ngươi không theo lời

của Huyền Nạn đại sư, thì cũng vẫn là chưởng môn phái Tiêu Dao. Nếu như ngươi

có làm chưởng môn phái Tiêu Dao thì mới coi lời Huyền Nạn đại sư gác bỏ ngoài

tai được, bằng không, ngươi sao có thể không nghe lời sư bá tổ được?

Luận chứng này, câu nào Hư Trúc nghe thấy cũng có lý, nên không biết phải

trả lời ra sao. Tô Tinh Hà lại tiếp:- Sư đệ, Huyền Nạn đại sư và mấy vị hòa thượng Thiếu Lâm ở ngoài kia,

đều trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, nếu không cứu chữa, tính mệnh chỉ

trong sớm tối. Trong đời nay, chỉ có một người cứu được họ mà thôi, mà cứu hay

không cứu cũng toàn tùy thuộc vào ý của ngươi đó.

Hư Trúc nói:

- Sư bá tổ của tiểu tăng quả đúng là bị độc thủ của Đinh Xuân Thu, các vị

sư bá sư thúc khác cũng thụ thương, có điều ... có điều tài nghệ tiểu tăng nông cạn,

làm sao cứu được họ?

Tô Tinh Hà mỉm cười nói:

- Sư đệ, bản môn trước nay không phải chỉ sở trường về võ học, mà cả về y

bốc tinh tướng, cầm kỳ thư họa, bao trùm các gia các phái. Ngươi có một gã sư điệt

là Tiết Mộ Hoa, y thuật chỉ mới biết chút vỏ bên ngoài, vậy mà giang hồ đã gọi y

là Tiết Thần Y, có cái ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, thật có phải tức cười muốn

trẹo quai hàm hay sao? Huyền Nạn đại sư trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh

Xuân Thu, nhà sư mặt vuông thì bị trúng phải Băng Tàm Chưởng của gã mặt sắt,

còn sư phụ cao cao gầy gầy thì bị Đinh Xuân Thu đá trúng hông dưới mạng sườn

ba tấc, bị thương kinh mạch ...

Tô Tinh Hà thao thao bất tuyệt, thương thế và nguyên do từng người nói ra

rõ ràng. Hư Trúc cực kỳ bội phục nói:

- Tôi thấy tiền bối chỉ chăm chú vào bàn cờ, không nhìn đến ai, cũng

chẳng chẩn bệnh người nào, sao lại biết rõ như thế?

Tô Tinh Hà đáp:

- Trong võ lâm giao đấu bị thương, nhìn qua là biết thật dễ dàng. Chỉ có

bệnh do trời đất tự nhiên, hư nhược phong tà, thương hàn nóng sốt, cái đó mới khó

chẩn đoán. Sư đệ, ngươi mang trong người hơn bảy mươi năm Tiêu Dao thần công

của sư phụ, dùng nó trị bệnh liệu thương, thật không gì bằng. Nếu muốn khôi phục

công phu bị tiêu hao của Huyền Nạn đại sư, quả không phải dễ, thế nhưng muốn

bảo toàn tính mạng thì chỉ giơ tay là xong.

Nói rồi dạy cho Hư Trúc phép nắn huyệt vận khí, tiêu giải hàn độc, lại chỉ

dẫn rõ ràng muốn cứu Huyền Nạn thì dùng thủ pháp gì, cứu Phong Ba Ác thì dùng

thủ pháp gì, mỗi phép trị một lối bị thương khác nhau.Hư Trúc ghi nhớ kỹ các thủ pháp Tô Tinh Hà dạy cho mình nhưng chỉ mới

biết cách làm chứ chưa hiểu tại sao phải làm như thế. Tô Tinh Hà thấy y đã rành

rọt không sai lầm gì nữa, mỉm cười khen ngợi:

- Trí nhớ của chưởng môn tốt lắm, học là biết ngay.

Hư Trúc thấy ông ta mỉm cười có vẻ ngụy bí, dường như có ý không tốt,

không khỏi nghi ngờ hỏi lại:

- Sao ông lại cười?

Tô Tinh Hà vội vàng nghiêm mặt, cung kính khom lưng:

- Tiểu huynh nào có dám cười, nếu có điều gì thất kính, mong chưởng môn

nhân tha tội cho.

Hư Trúc nóng ruột trị thương cho mọi người nên không hỏi thêm nói:

- Thôi mình ra ngoài xem sao!

Tô Tinh Hà đáp:

- Vâng!

Ông ta liền đi theo Hư Trúc ra khỏi căn nhà. Chỉ thấy những người bị thương

ai nấy ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt dưỡng thần. Mộ Dung Phục tiềm vận nội

lực cố gắng làm giảm bớt nỗi đau đớn cho Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, còn

Vương Ngữ Yên đang săn sóc cho Công Dã Can.

Tiết Mộ Hoa trán mồ hôi thành giọt, chạy tới chạy lui thấy người nào nguy

cấp thì cứu chữa nhưng người này vừa dịu lại thì bên kia đã có người kêu réo. Y

thấy Tô Tinh Hà đi ra cảm thấy yên dạ vội vàng chạy tới kêu lên:

- Sư phụ, xin lão nhân gia mau mau tìm cách cứu chữa cho họ.

Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn thấy ông đang nhắm mắt vận công

liền thõng tay đứng chờ không dám mở miệng. Huyền Nạn chầm chậm mở mắt,

thở dài một tiếng nhè nhẹ nói:

- Sư bá tổ của ngươi vô năng, trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, làm

thương tổn uy danh của bản phái, quả thật hổ thẹn vô cùng. Ngươi trở về bẩm cùng

phương trượng, nói là ta ... ta và sư thúc tổ Huyền Thống của ngươi không còn mặt

mũi nào về chùa nữa.

Hư Trúc từ trước tới giờ thấy vị sư bá tổ này lúc nào cũng đạo mạo trang

nghiêm, không giận mà vẫn có uy, xưa nay chưa dám nhìn thẳng vào ông, bây giờthấy ông ủ rũ, cái cảnh anh hùng mạt lộ trông thật thê lương, ông đã nói vậy hẳn là

đã định tìm con đường kết liễu đời mình nên vội vàng nói:

- Sư bá tổ, lão nhân gia cũng đừng nản lòng. Chúng ta là người học võ, cần

phải giữ cho lòng vô sân nộ, vô tranh cạnh, vô thắng bại, vô đắc thất ...

Y thuận miệng nói ra, đem những lời ngày thường sư phụ giáo huấn dạy lại

cho sư bá tổ, đến lúc nghĩ lại mới thấy lỡ lời vội vàng nín bặt nhưng cũng đã thốt

ra mấy câu rồi. Huyền Nạn mỉm cười, thở dài:

- Ngươi nói đúng lắm, thế nhưng sư bá tổ ngươi nội lực mất hết, năng lực

thiền định cũng không còn nữa.

Hư Trúc nói:

- Vâng! Vâng! Đồ tôn chẳng biết nặng nhẹ, nói năng láo lếu.

Vừa định ra tay trị thương cho ông ta, bỗng nhớ tới nụ cười ngụy bí của Tô

Tinh Hà, trong bụng kinh hãi: “Y dạy ta giơ chưởng lên đánh vào yếu huyệt trên

thiên linh cái sư bá tổ, biết đâu y cố ý hại người thì sao? Nếu như ta đánh xuống

rồi, sư bá tổ công lực đã mất trúng chưởng sẽ chết tươi thì biết làm sao?”.

Huyền Nạn nói:

- Ngươi bẩm lại với phương trượng, bản tự sắp có đại nạn, phải hết sức

phòng bị. Trên đường đi ngươi phải cẩn thận, ngươi tính khí đôn hậu, trì giới và

thiền định hai đường không cần phải chăm lo quá, ngày sau công phu cốt ở chữ

“huệ”, bốn quyển kinh Lăng Già phải cố sức nghiền ngẫm. Ôi, tiếc rằng sư bá tổ

không còn hơi sức đâu mà chỉ điểm cho ngươi được nữa.

Hư Trúc vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Y thấy ông đối với mình quan hoài như thế, trong lòng cảm kích lại tiếp:

- Sư bá tổ, nếu như bản tự có đại nạn thì xin lão nhân gia bảo trọng thân

thể để còn về chùa hiệp lực với phương trượng chống với đại địch.

Huyền Nạn gượng cười chua xót nói:

- Ta ... ta trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đã trở thành

người tàn phế mất rồi, làm sao còn hiệp trợ phương trượng, cùng chống đại địch

được nữa?

Hư Trúc nói:- Sư bá tổ, Thông Biện tiên sinh dạy cho đệ tử một cách trị liệu thương thế,

đệ tử không lượng sức mình, định thử chữa cho Tuệ Phương sư bá, xin sư bá tổ cho

phép.

Huyền Nạn hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm Lung Á lão nhân là sư phụ của Tiết

Thần Y, chắc hẳn truyền cho y phương pháp liệu thương phải đúng cách, không

hiểu sao ông không ra tay cũng chẳng bảo Tiết Mộ Hoa chữa trị bèn nói:

- Thông Biện tiên sinh đã dạy thì thể nào cũng cực kỳ cao minh rồi.

Ông nói xong đưa mắt nhìn Tô Tinh Hà rồi nói với Hư Trúc:

- Vậy ngươi cứ theo thế mà làm đi.

Hư Trúc đến trước mặt Tuệ Phương khom lưng nói:

- Sư bá, đệ tử phụng pháp dụ của sư bá tổ đến trị thương cho sư bá, có đắc

tội xin đừng trách.

Tuệ Phương mỉm cười gật đầu. Hư Trúc làm đúng như Tô Tinh Hà đã dạy, sờ

kỹ bộ vị dưới hông bên trái, tay phải vung chưởng đánh ra, đánh vào ngay bên

dưới mạng sườn. Tuệ Phương hự lên một tiếng, thân hình lảo đảo, thấy ngang lưng

mình như có đục một cái lỗ hổng, bao nhiêu máu huyết tinh khí trong người cuồn

cuộn theo cái lỗ đó mà chảy ra, chỉ trong giây lát người thấy trống rỗng, không còn

gì cả nhưng bao nhiêu đau đớn ngứa ngáy do Hàn Băng độc chưởng của Du Thản

Chi cũng vì thế mà tiêu trừ.

Cách chữa của Hư Trúc không phải là dùng nội lực giúp ông ta đối phó với

hàn độc, mà là dùng Bắc Minh chân khí trên bảy mươi năm đánh vào mạng sườn

ông ta, mở một lối thoát cho khí độc tuôn ra, chẳng khác gì người ta bị rắn cắn phải

rạch vết thương cho rộng để nọc độc chảy ra ngoài.

Có điều môn Khí Đao Cát Thể 4 này, bộ vị không thể sai đã đành mà nếu

chân khí nội lực không đủ, đánh không ngấm tới kinh mạch thì độc khí đã không

chảy ra, ngược lại còn dồn vào tạng phủ, bệnh nhân sẽ chết ngay lập tức.

Hư Trúc đánh ra một chưởng rồi, trong lòng hoang mang không biết ra sao,

thấy Tuệ Phương lắc lư nhưng rồi lại vững vàng, nét mặt nhăn nhó chau mày đau

đớn lúc trước dần dần dãn ra tỏ vẻ thoải mái, tuy chỉ trong giây lát nhưng trong

lòng y tưởng như dài đằng đẵng đến mấy giờ. Thêm một hồi nữa, Tuệ Phương thở

ra một hơi, mỉm cười nói:

4 - Hảo sư điệt, lực đạo của chưởng vừa rồi không phải nhỏ.

Hư Trúc mừng lắm vội đáp:

- Không dám.

Y quay lại nói với Huyền Nạn:

- Sư bá tổ, những vị sư bá sư thúc còn lại, đệ tử cũng muốn thử chữa xem

sao, liệu có được không?

Huyền Nạn lúc này mặt tươi như hoa nhưng lại lắc đầu:

- Không nên, ngươi trị cho các vị tiền bối khác trước rồi sau hãy chữa cho

người của mình.

Hư Trúc hơi hoảng sợ vội đáp:

- Vâng!

Y nghĩ thầm: “Người trước, ta sau chính là tấm lòng đại từ đại bi của nhà

Phật lúc nào cũng mong mỏi việc cứu độ chúng sinh”. Hư Trúc thấy Bao Bất Đồng

đang run lẩy bẩy, răng đập vào nhau kêu lách cách, lập tức đến trước mặt ông ta

nói:

- Bao tam tiên sinh, Thông Biện tiên sinh dạy tiểu tăng phép trị hàn độc,

hôm nay mới học lần đầu, tuy chưa tinh thục nhưng cũng xin chữa thử cho tiên

sinh. Nếu có điều gì thất kính thì xin lượng thứ.

Nói xong đưa tay mò mò vào ngực Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng cười nói:

- Ngươi làm trò gì thế?

Hư Trúc giơ chưởng phải lên, nghe bình một tiếng đánh trúng ngay ngực ông

ta. Bao Bất Đồng nổi cáu liền chửi:

- Xú hòa ...

Chữ “thượng” chưa ra khỏi miệng, bỗng thấy hàn độc vốn dĩ luẩn quẩn trong

người bao lâu nay, theo nơi bị trúng chưởng trên ngực tuôn ra ào ạt, nên vội vàng

nín bặt, nuốt luôn chữ “thượng” vào bụng không dám chửi tiếp.

Hư Trúc chữa xong những người bị trúng băng tàm hàn độc rồi qua chữa cho

những người bị độc thủ của Đinh Xuân Thu. Những người đó, kẻ thì bị Hóa Công

Đại Pháp tiêu hủy công lực, Hư Trúc chỉ đánh một chưởng vào huyệt Bách Hội

trên thiên linh cái hay tại huyệt Linh Đài trên ngực để vun gốc bón nguồn, kẻ bị

nội lực đả thương thì Hư Trúc dùng ngón tay ấn vào huyệt, hóa giải nội lực phái

Tinh Tú. Được cái y trí nhớ thật tốt, bao nhiêu phương pháp chữa trị Tô Tinh Hàdạy cho đều thuộc lòng, cứ thế mà làm, chỉ trong khoảng một bữa ăn đã giải trừ

hết bao nhiêu đau khổ cho mọi người.

datlucky_way

23-07-2009 03:14 PM

Hồi 32(b) : THẢ TỰ TIÊU DAO MỘT THÙY QUẢN 

Bấm vào đây để xem nội dung.

Tiêu dao tự tại một thân,

Chẳng ai ước thúc bó chân ra vào.

*

* *

Người được chữa dĩ nhiên vô vàn cảm kích đã đành, người đứng ngoài cũng

hết sức bội phục tài Lung Á lão nhân nhưng nghĩ lại ông ta là thầy của Tiết Thần

Y nên cũng không lấy gì làm lạ.

Sau cùng Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn khom lưng nói:

- Sư bá tổ, đệ tử làm liều một phen, muốn đánh vào huyệt Bách Hội của sư

bá tổ.

Huyền Nạn mỉm cười đáp:

- Ngươi được lọt vào mắt xanh của Thông Biện tiên sinh, học được tài nghệ

xảo diệu để chữa bệnh, quả là phúc duyên không nhỏ, cứ việc đánh vào huyệt

Bách Hội của ta đi.

Hư Trúc khom lưng đáp:

- Nếu như thế đệ tử đành mạo muội.

Khi y còn ở trong chùa Thiếu Lâm, mỗi khi gặp Huyền Nạn đều phải đứng

xa xa mà nhìn, thỉnh thoảng Huyền Nạn tụ tập tăng chúng, giảng giải tâm pháp võ

công, Hư Trúc chỉ đứng theo địa vị mà nghe, chưa bao giờ được cùng ông nói

chuyện, lần này lại giơ tay đánh lên đầu ông ta, tuy nói là để trị thương, trong bụng

không khỏi phập phồng, thấy nụ cười của ông ta trông có vẻ lạ lùng, không hiểu

có ý gì, bèn cố gắng định thần nói thêm một câu:

- Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ thứ tội cho.

Y nói xong tiến lên một bước, giơ chưởng nhắm thẳng huyệt Bách Hội của

Huyền Nạn, không nặng không nhẹ, chẳng chậm chẳng nhanh đánh xuống.

Chưởng của Hư Trúc vừa đánh xuống đầu Huyền Nạn, nét mặt Huyền Nạn đột

nhiên lộ một nụ cười quái đản, chỉ kêu lên một tiếng dài, đột nhiên người sụm

xuống, dãy dụa mấy cái, nằm gục xuống đất không động đậy gì nữa.

Những người đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu ầm lên, Hư Trúc cũng sợ đến

tim đập thình thình, vội vàng xông lên, đỡ Huyền Nạn dậy, Huyền Phương cũng

chư tăng cũng ùa đến. Nhìn lại Huyền Nạn thấy ông mặt vẫn mỉm cười nhưng

không còn thở nữa quả đã từ trần. Hư Trúc kinh hãi kêu lên:

- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao thế này?

Đột nhiên nghe Tô Tinh Hà kêu lên:- Ai đó? Đứng lại!

Ông ta từ phía đông nam chạy lên nói:

- Có người đứng đằng sau ám toán nhưng thân pháp y nhanh quá, không

nhìn rõ là ai!

Ông giơ tay bắt mạch Huyền Nạn chau mày:

- Huyền Nạn đại sư công lực mất hết rồi, bị người ta đứng bên ám toán,

không có sức kháng cự nên đã viên tịch.

Đột nhiên ông ta nở một nụ cười thần sắc cổ quái. Đầu óc Hư Trúc lúc này

cực kỳ hỗn loạn, chỉ biết vừa khóc vừa kêu:

- Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao ... sao ... lão nhân gia lại ...

Bỗng y nhớ tới nụ cười thần bí của Tô Tinh Hà khi ở trong căn nhà gỗ, giận

dữ hỏi:

- Thông Biện tiên sinh, ông nói thực cho ta nghe, vì cớ gì mà sư bá tổ của

ta lại chết? Có phải do ông có ý hãm hại chăng?

Tô Tinh Hà lập tức hai gối quì xuống nói:

- Khải bẩm chưởng môn nhân, Tô Tinh Hà này quyết không dám đẩy

chưởng môn nhân làm điều bất nghĩa. Huyền Nạn đại sư đột nhiên viên tịch, nhất

định có người lén lút gia hại.

Hư Trúc vặn thêm:

- Thế tại sao ở trong căn nhà gỗ ông lại cười một cách kỳ quặc, thế là vì cớ

gì?

Tô Tinh Hà kinh hoảng đáp:

- Ta cười ư? Ta cười ư? Chưởng môn nhân phải hết sức cẩn thận, có người

...

Câu nói chưa dứt ông ta bất thần ngừng bặt, trên mặt lại lộ một nụ cười thần

bí. Tiết Mộ Hoa kêu rống lên:

- Sư phụ!

Ông ta vội móc trong túi ra một bình thuốc giải độc, lấy ra ba viên nhét vào

mồm Tô Tinh Hà. Thế nhưng Tô Tinh Hà đã tắt hơi, giải độc hoàn nằm ở trong

miệng nhưng không nuốt xuống được. Tiết Mộ Hoa khóc òa lên:- Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết mất rồi, tên ác tặc Đinh Xuân Thu

...

Tới đây tiếng y nghẹn ngào không ra tiếng nữa. Khang Quảng Lăng chen

lên trước mặt Tô Tinh Hà, Tiết Mộ Hoa vội vàng nắm lưng ông ta kéo lại khóc

nói:

- Trên thân thể sư phụ có chất độc.

Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô lãnh quân, Phùng A Tam, Lý Khổi Lỗi,

Thạch Thanh Lộ đứng bên cạnh Tô Tinh Hà không ai là không vừa tức tối, vừa bi

thương. Khang Quảng Lăng theo học Tô Tinh Hà đã lâu, biết rõ qui củ bản môn,

lúc thấy sư phụ quì trước mặt Hư Trúc, miệng gọi “chưởng môn nhân”, đã đoán

được tám chín phần, bây giờ chú ý nhìn vào bàn tay y thấy Hư Trúc đeo chiếc nhẫn

bảo thạch liền nói:

- Các vị sư đệ cùng ta tham kiến tân nhiệm chưởng môn sư thúc của bản

phái.

Nói xong quì xuống trước mặt Hư Trúc khấu đầu mấy lần. Bọn Phạm Bách

Linh sửng sốt nhưng rồi hiểu ra ngay, ai nấy đều quì lạy. Hư Trúc ruột rối như tơ

vò nói:

- Đinh ... Đinh Xuân Thu tên gian tặc thí chủ, giết chết sư bá tổ của ta, lại

hại cả sư phụ các vị.

Khang Quảng Lăng đáp:

- Tru diệt kẻ gian để báo thù toàn do chưởng môn sư thúc chủ trì lo liệu

cho.

Hư Trúc vốn chỉ là một chút tiểu chưa từng từng trải việc đời, cả võ công lẫn

kiến thức, cả danh vị lẫn tiếng tăm những người trước mặt ai ai cũng hơn y nhiều,

trong bụng ý niệm quay cuồng: “Không thể không báo thù cho sư bá tổ, không thể

không báo thù cho Thông Biện tiên sinh, không thể không báo thù cho lão tiền bối

trong ngôi nhà gỗ”. Y miệng kêu lên thành tiếng:

- Không thể không giết Đinh Xuân Thu ... tên ác tặc Đinh Xuân Thu ... tên

ác tặc thí chủ.

Khang Quảng Lăng lại rập đầu thêm vài lần nữa nói:

- Chưởng môn sư thúc bằng lòng lo việc diệt trừ gian tặc, vì sư phụ chúng

tôi báo thù, bọn sư điệt thâm cảm đại ân đại đức của sư thúc.Bọn Phạm Bách Linh, Tiết Mộ Hoa cũng đều khấu đầu, Hư Trúc vội vàng

quì xuống hoàn lễ nói:

- Không dám! Không dám! Mời các vị đứng lên.

Khang Quảng Lăng nói:

- Sư thúc, tiểu điệt có chuyện cần bẩm báo nhưng nơi đây đông người bất

tiện, xin vào trong nhà chỉ một mình tiểu điệt trình bày cho sư thúc nghe.

Hư Trúc đáp:

- Được!

Y liền đứng lên, mọi người tất cả cùng đứng dậy theo. Hư Trúc đi theo

Khang Quảng Lăng đang toan đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh bỗng nói:

- Hãy khoan, sư phụ bị Đinh lão tặc hạ thủ ngay trong nhà này, chưởng

môn sư thúc và đại sư huynh không nên tiến vào, lão tặc đó ngụy kế đa đoan, nên

phòng bị là hơn.

Khang Quảng Lăng gật đầu:

- Nói thế đúng lắm! Cái thân nghìn vàng của chưởng môn sư thúc không

nên mạo hiểm làm gì.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Hai vị đứng đây nói chuyện cũng được. Chúng tôi ra bốn bề canh chừng

để đề phòng lão tặc có ngụy kế gì khác chăng?

Nói xong chính mình đi ra trước, những người còn lại Phùng A Tam, Ngô

lãnh quân cả bọn cũng đi ra ngoài mười trượng. Thực ra trong đám đó trừ Tiết Mộ

Hoa ra, những người khác nếu không công lực tiêu tan thì cũng bị trọng thương,

nếu quả Đinh Xuân Thu đến tập kích, ngoài việc kêu la cảnh cáo không còn chút

hơi sức nào mà phòng ngự cả.

Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cùng những người khác thấy thầy trò bọn

họ bàn chuyện riêng của môn phái nên cũng lảng ra xa. Còn bọn Cưu Ma Trí,

Đoàn Diên Khánh thấy chuyện lạ lùng nhưng việc không liên can gì đến mình nên

cũng lần lượt đi khỏi.

Khang Quảng Lăng nói:

- Sư thúc ...

Hư Trúc chặn lại:- Ta không phải là sư thúc của ông, cũng chẳng phải chưởng môn nhân của

các ông gì đó, ta là sư chùa Thiếu Lâm, cùng với phái Tiêu Dao không có liên hệ

gì cả.

Khang Quảng Lăng đáp:

- Sao sư thúc lại không nhận? Cái tên phái Tiêu Dao, nếu không phải

người trong bản môn thì không thể để cho người ngoài nghe thấy được. Nếu ai đó

vô tình hữu ý mà lọt vào tai, qui củ của bản môn là phải giết ngay bịt miệng, dù

phải đuổi theo đến tận chân trời góc biển cũng không tha.

Hư Trúc nghe thế nổi da gà, nghĩ thầm: “Cái qui củ đó quả là tà môn. Nếu

như thế, nếu ta không chịu đầu nhập môn phái của bọn họ, bọn chúng liền giết ta

ngay hay sao?”.

Khang Quảng Lăng lại tiếp:

- Sư thúc mới đây trị thương cho mọi người, chính là nội công đích truyền

của bản phái. Việc sư thúc đầu nhập bản phái ra sao, được thái sư phụ tâm truyền

thế nào, tiểu điệt không dám hỏi tới. Cũng có thể là vì sư thúc phá giải được thế cờ

Trân Lung nên sư phụ chúng tôi tuân theo di mệnh của thái sư phụ, thay thầy thu

nhận làm đệ tử và truyền chức vụ chưởng môn chăng, điều đó cũng không biết

nữa. Nói tóm lại, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên của bản phái đã đeo trên tay sư

thúc rồi, gia sư lúc lâm tử lại khấu đầu trước sư thúc, gọi sư thúc là “chưởng môn

nhân” thì sư thúc không nên từ chối nữa. Đưa qua đẩy lại, chối lên chối xuống

cũng không đâu vào đâu cả.

Hư Trúc đưa mắt nhìn hai bên, thấy bọn Tuệ Phương đang vây quanh thi thể

Huyền Nạn, nhìn qua bên kia thấy xác Tô Tinh Hà vẫn còn quì sừng sững dưới đất,

trên mặt nở một nụ cười thần bí, trong lòng chua xót nói:

- Chuyện này nói một lúc không hết được, hiện nay sư bá tổ của ta chết

rồi, chẳng biết phải làm sao đây, lão tiền bối ...

Y vừa mới nói đến đây, Khang Quảng Lăng lại quì mọp xuống. Hư Trúc vội

nói:

- Ấy chết ta quên, không nên gọi ông như thế. Mau đứng lên đi!

Y lấy quyển trục ông lão đưa cho mở ra nói:

- Sư phụ ngươi bảo ta theo quyển trục này tìm cách học võ công để đi tru

diệt Đinh thí chủ.Khang Quảng Lăng liếc qua hình người đàn bà ăn mặc theo lối cung trang,

lắc đầu nói:

- Tiểu điệt không biết sự tình bên trong thế nào, sư thúc nên cất giữ cho kỹ

đừng để người ngoài trông thấy. Nếu khi sư phụ tiểu điệt lúc sinh tiền có nói thế,

xin sư thúc nể mặt người theo đúng lời dặn mà hành sự. Tiểu điệt muốn bẩm lại

cho sư thúc hay, thứ thuốc độc gia sư bị trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán.

Chất độc này vô hình, một khi trúng rồi, trên mặt hiện ra một nụ cười quái lạ,

người trúng độc không hề hay biết gì cả, cười như thế đến lần thứ ba là tắt thở chết

ngay.

Hư Trúc cúi đầu nói:

- Nói ra thật hổ thẹn, khi tôn sư vừa bị trúng độc trên mặt lộ một nụ cười

kỳ lạ, ta lại có cái bụng tiểu nhân đoán sằng nghĩ bậy tưởng rằng tôn sư không có

thiện ý, nếu như lúc đó thành thực hỏi ngay, lập tức cứu chữa thì đâu có đến nỗi

như thế này.

Khang Quảng Lăng lắc đầu:

- Cái món Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trúng phải rồi thì khó mà cứu giải. Một

trong những nguyên nhân Đinh lão tặc sở dĩ hoành hành giang hồ không úy kỵ ai

cả cũng vì có môn thuốc độc này. Người ta chỉ biết đến Hóa Công Đại Pháp của

lão ta cũng chỉ vì người bị trúng phải yêu pháp tuy công lực mất hết nhưng mạng

vẫn còn nên đi loan truyền được, còn người trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì

chết rồi là hết.

Hư Trúc gật đầu:

- Môn đó quả tàn độc thật. Khi đó ta cũng đứng ở bên cạnh tôn sư, vậy mà

không sao phát giác được Đinh Xuân Thu hạ thủ cách nào. Ta võ công tầm thường,

kiến thức nông cạn thì đã hẳn rồi nhưng sao Đinh Xuân Thu không ra tay giết ta,

lại để cho ta sống sót?

Khang Quảng Lăng đáp:

- Chắc là y thấy sư thúc tài nghệ kém cỏi, không thèm hạ độc. Chưởng

môn sư thúc, tiểu điệt xem chừng sư thúc tuổi còn nhỏ, làm gì có được bao nhiêu

bản lãnh? Phương pháp trị thương giải độc tuy hay thật đấy nhưng cũng là do gia sư

dạy cho, xem ra cũng chẳng là bao nên Đinh Xuân Thu chẳng coi vào đâu.

Y nói tới đây chợt nghĩ lại mình nói huỵch toẹt ra như vậy không khỏi trắng

trợn vội vàng chữa:- Chưởng môn sư thúc, tiểu điệt nói thế là tình thực, xin sư thúc đừng phật

lòng, thế nhưng nếu như sư thúc bỏ qua cho thì cũng nói thêm rằng võ công sư thúc

xem chừng chẳng lấy gì làm cao minh.

Hư Trúc đáp:

- Ngươi nói mọi việc đúng lắm, võ công ta thật là thấp kém, Đinh lão tặc ...

ấy, chết thật, tội quá, tiểu tăng buông lời dữ, phạm vào “ác khẩu giới” mất rồi,

không đáng là đệ tử nhà Phật ... gã Đinh Xuân Thu Đinh thí chủ chẳng thèm giết ta

làm chi.

Hư Trúc tâm địa chất phác, còn Khang Quảng Lăng thì không thông chuyện

đời nên cả hai đều không nghĩ ra, Đinh Xuân Thu lẻn được vào trong căn nhà gỗ,

vừa đúng lúc nghe Tô Tinh Hà trình bày những phương pháp trị thương liệu độc, lẽ

nào lại không có ý ám toán Hư Trúc? Cũng nào có phải vì y thấy Hư Trúc võ công

kém cỏi mà tha không giết bao giờ? Môn Tam Tiếu Tiêu Dao Tán phải dùng nội

lực đẩy chất độc ra, bắn vào người đối phương, khi Đinh Xuân Thu ở trong căn nhà

gỗ, chia hai đằng bắn vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, sau đó cũng dùng cách này giết

hại Huyền Nạn.

Tô Tinh Hà sau khi ác chiến uể oải không còn hơi sức đâu nữa còn Huyền

Nạn nội lực mất hết rồi nên đều trúng độc. Riêng Hư Trúc vì có được hơn bảy

mươi năm thần công của phái Tiêu Dao nên nội lực của Đinh Xuân Thu vừa chạm

vào người đã bị phản kích trở lại, bao nhiêu chất độc chạy qua người Tô Tinh Hà

cả, còn mình thì không bị nhiễm chút nào.

Đinh Xuân Thu mỗi khi chính diện đấu với ai không dám sử dụng Tam Tiếu

Tiêu Dao Tán, sợ rằng đối phương nội lực hồn hậu, chất độc lại bắn ngược vào

mình.

Khang Quảng Lăng nói:

- Sư thúc, việc này sư thúc sai quấy hết sức. Phái Tiêu Dao không Phật mà

cũng không Lão, muốn đi đâu thì đi, có phải sung sướng chăng? Sư thúc là chưởng

môn bản phái, trong thiên hạ còn ai quản thúc gì được nữa? Ông mau mau cởi áo

cà sa ra, để tóc dài, lấy mười bảy mười tám cô vợ, việc quái gì mà phải cửa Phật

với lại không cửa Phật, ác khẩu giới với chẳng thiện khẩu giới?

Ông ta cứ nói một câu, Hư Trúc lại giật mình niệm “A Di Đà Phật” đợi khi

nói xong mới đáp:- Ở trước mặt ta chớ có nên nói những lời bổ báng nhà Phật như thế. Ngươi

bảo có việc muốn nói với ta, thế là việc gì?

Khang Quảng Lăng đáp:

- Ối chao, sư thúc xem tôi quả là hồ đồ, nói chuyện hồi lâu vẫn chưa vào

câu chuyện chính. Chưởng môn sư thúc, sau này khi ông tuổi lớn rồi, chớ có bao

giờ đi theo học những tật xấu của bọn tôi. Ấy chết, ấy chết, lại nói dông nói dài,

lạc đề nữa rồi, thất đáng chết. Chưởng môn sư thúc, tôi yêu cầu sư thúc một

chuyện lớn, xin sư thúc nghĩ lại cho.

Hư Trúc đáp:

- Chuyện gì mà phải cần đến tôi chấp nhận, quả không dám.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ôi, chuyện đại sự của bản môn, nếu không xin chưởng môn bằng lòng thì

còn cầu ai? Anh em chúng tôi tám người, năm xưa bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái,

nhưng nào có phải vì chúng tôi phạm tội gì đâu, mà vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia

hại, lại không nỡ chọc tai cắt lưỡi chúng tôi nên mới phải đánh bài hạ sách đó.

Đến nay sư phụ đã quyết ý cho chúng tôi trở lại môn phái, có điều chưa bẩm với

chưởng môn, cũng chưa làm đại lễ nên chưa thể chính thức coi là đệ tử thành thử

xin chưởng môn kim ngôn đồng ý. Nếu không tám anh em chúng tôi cho đến chết

cũng vẫn không môn không phái, lang thang cô hồn dã quỉ, trong võ lâm không

sao ngóc đầu lên được, thật khổ sở biết chừng nào.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Cái vụ chưởng môn nhân phái Tiêu Dao này ta nhất

quyết không thể nhận được, thế nhưng nếu không đáp lời y, lão già này cứ lầy

nhầy cù cưa, không biết đến bao giờ, chi bằng cứ bằng lòng trước rồi tính sau”. Y

bèn nói:

- Tôn sư nếu đã đồng ý cho các ngươi trùng liệt môn tường thì đương nhiên

đã trở lại môn phái rồi, còn lo gì nữa?

Khang Quảng Lăng mừng rỡ, quay lại kêu to:

- Sư đệ, sư muội, chưởng môn sư thúc đã bằng lòng cho chúng ta trở lại sư

môn rồi.

Bảy người còn lại trong Hàm Cốc bát hữu nghe thấy thế, ai nấy vui mừng,

lập tức người thứ hai mê cờ Phạm Bách Linh, thứ ba đồ gàn Cẩu Độc, thứ tư danh

thủ vẽ vời Ngô lãnh quân, thứ năm Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, thứ sáu thợ

khéo Phùng A Tam, thứ bảy thiếu phụ giỏi trồng hoa Thạch Thanh Lộ, thứ támthích hát xướng đóng tuồng Lý Khổi Lỗi, tất cả cùng chạy lại chắp tay cảm tạ

chưởng môn sư thúc, nghĩ đến sư phụ không chính mắt trông thấy tám người trở lại

sư môn, ai nấy ngậm ngùi nhỏ nước mắt.

Hư Trúc vô cùng sượng sùng, thấy mỗi việc lại làm cho cái danh vị “chưởng

môn sư thúc” lún sâu thêm một chút, như đóng đinh vào chân càng lúc càng khó

thoát thân. Mình đang là đệ tử Thiếu Lâm danh môn chính phái, bỗng dưng đi làm

chưởng môn một thứ tà ma ngoại đạo gì đó chẳng phải là cực kỳ vô lý hay sao?

Trước mắt thấy bọn Phạm Bách Linh ai nấy vui mừng đến phát khóc, nếu mình lại

đưa lời dị nghị việc làm “chưởng môn nhân” thì chỉ làm họ mất mặt, không biết

sao hơn đành phải lắc đầu cười gượng.

Y quay đầu lại, thấy bọn Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự,

Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn cũng không còn

một ai, trong khu rừng tùng nơi đỉnh núi chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao, bèn

hoảng hốt:

- Ủa, bọ họ đi đâu hết cả rồi?

Ngô lãnh quân đáp:

- Mộ Dung công tử và các cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta đàm

luận không dứt nên đã tự ý bỏ đi rồi.

Hư Trúc kêu lên:

- Ôi chao!

Lập tức đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng trở lại chùa bẩm lại cho phương

trượng và thụ nghiệp sư phụ, trong bụng cảm thấy “quả là may quá”, tiện dịp thoát

ra khỏi bọn người phái Tiêu Dao đang níu kéo.

Y rượt theo đến nửa giờ, càng chạy càng nhanh nhưng không thấy sáu nhà sư

chữ Tuệ đâu. Y đã được ông lão phái Tiêu Dao truyền cho hơn bảy mươi năm thần

công nên chạy nhanh như gió còn hơn cả tuấn mã nên vừa hạ sơn đã vượt qua

những nhà sư Thiếu Lâm rồi. Thế nhưng Hư Trúc lại tưởng bọn Tuệ Phương vẫn

còn ở phía trước nên càng ra sức đuổi theo nào ngờ chỉ trong chớp mắt, ngay tại

khúc quẹo nơi thung lũng khuất nẻo nên không nhìn thấy sáu nhà sư, nhô lên hụp

xuống vài lần đã qua mặt họ xa lắc.

Hư Trúc đuổi một mạch tới tận xế chiều vẫn không thấy tung tích sáu vị sư

bá sư thúc đâu, lấy làm lạ, đoán chừng mình đi nhầm lối nên chạy ngược trở lại haichục dặm, kiếm người đi đường hỏi thăm nhưng chẳng một ai trông thấy sáu vị hòa

thượng cả.

Chạy tới chạy lui như thế nhưng y không thấy mỏi mệt chút nào, thấy trời đã

tối, bụng lại đói meo nên đi tới một quán ăn nơi phố chợ vào gọi hai tô mì chay.

Trong khi chờ đợi chủ quán nấu mì, Hư Trúc không ngừng ngó dáo dác ra ngoài

quán bỗng nghe một giọng trong trẻo nói:

- Hòa thượng đang chờ ai đó?

Hư Trúc quay đầu lại thấy nơi sát cửa sổ phía tây có một thanh niên áo xanh

ngồi đó, mắt sáng mày thanh, da trắng muốt, tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, tuổi chừng

mười bảy mười tám, đang nhìn mình mủm mỉm cười.

Hư Trúc đáp:

- Quả đúng thế! Xin hỏi tiểu tướng công có thấy sáu nhà sư ở đâu không?

Thanh niên kia đáp:

- Không thấy sáu nhà sư đâu cả, chỉ thấy một hòa thượng thôi.

Hư Trúc nói:

- Ồ, một nhà sư ư? Xin hỏi tướng công thấy ở đâu vậy?

Thanh niên đáp:

- Ở ngay trong cái quán này.

Hư Trúc nói:

- Chỉ một nhà sư thì không phải nhóm Tuệ Phương sư bá rồi. Thế nhưng đã

là tăng nhân may ra cũng hỏi thăm được chút tin tức.

Y bèn hỏi:

- Xin hỏi tướng công, hòa thượng đó hình dáng ra sao? Tuổi tác lớn hay

nhỏ? Đi về hướng nào?

Thanh niên kia mỉm cười:

- Nhà sư đó trán rộng tai to, mồm rộng môi dày, mũi huếch lên trời, tuổi

chừng hăm ba hăm bốn, y đang ngồi trong quán này chờ ăn hai tô mì, chưa đi đâu

cả.

Hư Trúc cười ha hả nói:

- Hóa ra tiểu tướng công nói đến chính là ta.

Thanh niên kia đáp:- Tướng công thì là tướng công, hà tất lại thêm một chữ “tiểu” vào? Ta gọi

ông là “hòa thượng” chứ nào có gọi là “tiểu hòa thượng” đâu?

Thanh niên đó giọng nói dịu dàng, thật là dễ nghe. Hư Trúc đáp:

- Quả thế, vậy thì gọi là tướng công vậy.

Còn đang nói chuyện, hầu bàn đã bưng ra hai tô mì chay. Hư Trúc nói:

- Tướng công, tiểu tăng xin phép ăn mì.

Thanh niên đáp:

- Toàn rau với nấm, chẳng có mỡ màng gì, ăn có gì ngon? Mau lại bên ta,

ta mời ngươi ăn thịt nạc, ăn gà quay.

Hư Trúc đáp:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Tiểu tăng cả đời không ăn đồ mặn, xin tướng

công cứ tự tiện.

Nói xong quay lại cúi xuống ăn mì, cái cảnh thanh niên kia ăn thịt ăn gà y

cũng không muốn nhìn thêm nữa. Y bụng đói cồn cào, chỉ giây lát đã ăn hết hơn

nửa tô, bỗng nghe thanh niên kia kêu lên:

- Ủa, cái gì thế này?

Hư Trúc quay đầu lại thấy thanh niên kia tay cầm cái thìa đựng đầy canh

đang toan đưa vào mồm, đột nhiêng ngừng lại dường như nhìn ra vật gì kỳ lạ, cái

muỗng còn cách miệng chừng nửa thước thì ngừng lại, tay trái cầm một vật gì đó

trên bàn. Thanh niên đó đứng lên, tay phải nhón lấy vật kia đi đến bên cạnh Hư

Trúc hỏi:

- Hòa thượng nhìn con trùng này có lạ không?

Hư Trúc thấy y cầm trong tay là một con bọ nhỏ màu đen, loại cánh cam

cánh quýt đó thì đâu chẳng có, không lạ lùng gì, liền hỏi:

- Lạ ở chỗ nào?

Thanh niên kia đáp:

- Ngươi coi con trùng này có vỏ cứng, đen nhánh bóng loáng trông tưởng

như quết dầu không bằng.

Hư Trúc đáp:

- Ồ, con cánh cam nào chẳng vậy.

Thanh niên hỏi:- Vậy sao?

Y vứt con cánh cam xuống đất, giơ chân di cho chết rồi quay lại chỗ ngồi.

Hư Trúc thở dài:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp!

Y quay lại ăn nốt bát mì. Cả ngày hôm nay y chưa ăn gì cả, thấy bát mì này

thật là ngon, đến nước dùng cũng húp sạch tận đáy rồi lấy tô thứ hai cầm đũa định

ăn, bỗng nghe thanh niên kia cười sằng sặc nói:

- Hòa thượng, ngươi mồm thì leo lẻo nghiêm thủ thanh qui giới luật, hóa ra

cũng chỉ thuộc loại giả vờ, nói một đằng làm một nẻo.

Hư Trúc đáp:

- Ta làm gì mà nói một đằng làm một nẻo?

Thanh niên nói:

- Ngươi bảo là một đời không ăn mặn, thế cái bát mì nước gà, sao lại húp

sùm sụp thế là sao?

Hư Trúc nói:

- Tướng công chớ nói đùa. Đây rõ ràng là mì chay với rau cải, nấm hương,

làm gì có nước gà? Ta đã dặn kỹ hầu bàn, đừng có cho một tí dầu mỡ nào.

Thanh niên kia mỉm cười:

- Mồm ngươi bảo không đụng vào đồ tanh đồ mặn, vậy mà húp nước thang

gà thì soạp soạp chắc lưỡi, ngon ngọt chẳng biết là chừng nào. Này hòa thượng, để

ta cho thêm một muỗng thang gà vào tô mì này nhé?

Y vừa nói vừa đưa muỗng vào trong bát gà quay lênh láng mỡ màng, múc ra

một thìa đứng lên. Hư Trúc kinh hãi không sao kể xiết, ấp úng:

- Ngươi ... ngươi ... vừa mới ... đã ...

Thanh niên kia cười nói:

- Đúng đó! Ta vừa mới bỏ vào bát mì của nhà ngươi một muỗng canh gà,

không lẽ ngươi không nhìn thấy? Chao ôi, này nhà sư ơi, ngươi mau mau nhắm mắt

lại giả vờ không nhìn thấy, ta lại đổ cho một muỗng canh gà vào bát mì, ăn cho

ngon, miễn là không phải chính ngươi đổ vào, Phật tổ Như Lai sẽ không trách cứ gì

đâu.

Hư Trúc vừa sợ vừa tức, bấy giờ mới biết y đem con cánh cam sang cho

mình coi, chẳng qua chỉ dương đông kích tây, khiến cho mình chú ý đến chỗ khácrồi thừa cơ đổ muỗng canh gà vào bát mì, thảo nào khi ăn thấy thơm ngon lạ

thường, chỉ vì cả đời chưa từng nếm qua nên không biết. Bây giờ canh gà đã nuốt

vào bụng thì làm sao đây? Có nên ói ra hay không? Y nhất thời bàng hoàng chẳng

biết thế nào cho phải.

Thanh niên kia bỗng nói:

- Này hòa thượng, ngươi muốn đi tìm sáu nhà sư, có phải họ đang đến

không kìa?

Y vừa nói vừa chỉ ra ngoài. Hư Trúc mừng quá, chạy vội ra cửa, nhìn dáo

dác ra đường nhưng nào có thấy ai đâu. Y biết lại bị gã thanh niên đánh lừa, trong

bụng bực bội, có điều người xuất gia không được giận hờn nên cố nhịn, không nói

một lời quay lại tiếp tục ăn mì. Hư Trúc nghĩ thầm: “Vị tiểu tướng công này tuổi

chẳng bao nhiêu, sao lại cứ nhắm mình mà chơi ác thế này?’. Nghĩ rồi y cầm đũa

lên, ăn như rồng cuốn ngay hết nửa bát, đột nhiên kẽ răng cắn trúng cái gì trơn

tuột, kinh hãi vội vàng nhìn vào, thấy trong bát mì có một miếng thịt to béo ngậy,

một nửa đã bị cắn mất rồi, hiển nhiên mình đã nuốt vào bụng. Hư Trúc buông đũa

xuống bàn, kêu lên:

- Khổ quá! Khổ quá!

Gã thanh niên kia cười hỏi:

- Này hòa thượng, miếng thịt mỡ ăn có ngon không? Sao lại kêu khổ?

Hư Trúc giận dữ nói:

- Ngươi đánh lừa cho ta chạy ra ngoài cửa rồi bỏ miếng thịt vào bát mì. Ta

... ta ... suốt hai mươi ba năm nay, chưa từng nếm đồ mặn, ta ... ta ... bị ngươi hủy

hoại mất rồi.

Thanh niên kia mỉm cười nói:

- Thế miếng thịt béo kia chẳng ngon gấp mười rau cải, đậu phụ hay sao?

Ngươi trước nay không ăn thì quả thật ngu hết chỗ nói.

Hư Trúc mặt mày thiểu não đứng lên, giơ tay nắn yết hầu, ruột rối như tơ vò,

bỗng nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo, một đám đông người đi về phía

quán. Y vừa nhìn qua, tưởng ai hóa ra chính là đám đệ tử phái Tinh Tú, trong lòng

kêu thầm: “Ối chao, hỏng rồi, bị Tinh Tú Lão Quái bắt được chết là cái chắc!”. Y

vội vàng chạy ra đằng sau, định đào tẩu, nào ngờ vừa đẩy cửa bước vào, đó là một

căn phòng ngủ. Hư Trúc đang định lùi ra, bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói:- Điếm gia, điếm gia! Mau đem rượu thịt ra đây!

Chính là đám đệ tử Tinh Tú đã vào trong khách đường. Hư Trúc không dám

lùi trở lại, đành nhẹ nhàng đóng cửa lại. Bỗng nghe tiếng người nói:

- Kiếm chỗ nào cho gã sư mập kia nằm ngủ.

Chính là tiếng của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú liền đáp:

- Vâng!

Có tiếng bước chân nặng nề đi về phía bên ngoài cửa phòng. Hư Trúc kinh

hãi, không còn cách nào khác bèn cúi xuống chui tọt vào gầm giường. Đầu y chui

vào rồi, đụng ngay phải vật gì đó, rồi có tiếng người khẽ kêu “A” hóa ra dưới gầm

giường đã có ai trốn dưới đó. Hư Trúc cũng hoảng hốt, toan lùi trở ra thì tên đệ tử

phái Tinh Tú đã bế Tuệ Tịnh tiến vào, để y lên giường rồi đi ra.

Chỉ nghe người ở bên cạnh ghé tai y nói nhỏ:

- Này hòa thượng, thịt mỡ ngon quá nhỉ? Ngươi sợ cái gì?

Thì ra đó chính là thanh niên tướng công. Hư Trúc nghĩ thầm: “Ngươi tay

chân quả là nhanh nhẹn, đã chui vào trốn dưới gầm giường trước cả ta”. Y cũng

nói nhỏ:

- Bên ngoài kia là một bầy đại ác nhân, tướng công chớ có nói năng gì cả.

Thanh niên kia hỏi lại:

- Sao ngươi lại biết bọn họ là đại ác nhân?

Hư Trúc đáp:

- Ta nhận ra họ, bọn người này giết người không nháy mắt, không phải

chuyện chơi đâu.

Thanh niên kia vừa toan bảo y đừng nói gì nữa thì gã Tuệ Tịnh đang nằm

trên giường đột nhiên kêu toáng lên:

- Có người dưới gầm giường! Có người dưới gầm giường!

Hư Trúc và thanh niên kia sợ quá, vội vàng chui ra. Chỉ thấy Đinh Xuân Thu

đứng ngay tại ngạch cửa, cười khẩy, khuôn mặt vô cùng đắc ý, đầy vẻ độc ác.

Thanh niên kia sợ đến mặt xanh như tàu lá, quì xuống run run kêu lên:

- Sư phụ!

Đinh Xuân Thu cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Đưa ra đây!Thanh niên kia đáp:

- Đệ tử không mang theo.

Đinh Xuân Thu hỏi:

- Thế ở đâu?

Thanh niên đáp:

- Tại thành Nam Kinh nước Liêu.

Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng hỏi lại:

- Đến nước này mà ngươi còn định lừa ta nữa sao? Ta sẽ cho ngươi sống

không xong, chết không được.

Thanh niên nói:

- Đệ tử không dám nói láo với sư phụ.

Đinh Xuân Thu đưa mắt liếc qua Hư Trúc, hỏi thanh niên kia:

- Sao ngươi lại đi cùng với y?

Thanh niên đáp:

- Đệ tử mới gặp y nơi quán này thôi.

Đinh Xuân Thu hừ một tiếng nói:

- Láo toét! Láo toét!

Y hầm hầm nhìn hai người một hồi, quay ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú liền

xông vào phòng vây hai người lại. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức tối nói:

- Thì ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú.

Thanh niên kia dậm chân, hậm hực nói:

- Cũng tại ngươi tên hòa thượng thối tha mà ra, còn trách gì ta nữa?

Một tên đệ tử phái Tinh Tú chào:

- Đại sư tỉ, từ đó tới nay vẫn khỏe chứ?

Giọng nói đầy vẻ hạnh tai lạc họa, cực kỳ khinh bạc. Hư Trúc lạ lùng:

- Cái gì? Ngươi ... ngươi ...

Thanh niên kia hứ một tiếng nói:

- Đồ sư ngốc nghếch, đồ sư thối tha! Ta đương nhiên là con gái, không lẽ

ngươi nhìn không ra sao?Hư Trúc nghĩ thầm: “Thì ra vị tiểu tướng công này là đàn bà, mà lại là đệ tử

phái Tinh Tú, không những là đệ tử phái Tinh Tú, mà lại còn là đại sư tỉ của bọn

họ. Chao ôi không xong rồi, cô ta cho ta húp canh gà, lại ăn thịt mỡ, e rằng trúng

độc mất thôi”.

Thanh niên đó dĩ nhiên là A Tử cải trang. Nàng ở Nam Kinh nước Liêu tuy

hưởng đủ mọi cảnh vinh hoa phú quí nhưng bình sinh hiếu động, lâu ngày chán

ngấy. Tiêu Phong việc công bề bộn, làm gì có thì giờ ngày ngày đưa nàng đi săn,

đi chơi. Một hôm trong lòng bực bội, nàng một mình ra ngoài du ngoạn, cũng định

đến tối sẽ về, ngờ đâu gặp phải một trò vui, đuổi theo một người, nhưng càng đuổi

càng mịt mù, sau cùng phóng độc giết được y thì cách thành Nam Kinh đã xa,

thuận bước đi vào Trung Nguyên. Nàng đi lang thang, cũng khéo làm sao hôm đó

lại gặp ngay Hư Trúc lẫn thầy trò Đinh Xuân Thu.

Nàng dụ cho Hư Trúc phá giới ăn mặn, chẳng qua tính tình quái ác rắn mắt,

nhất thời cao hứng cốt sao người khác đau khổ phiền não là nàng khoái chí chứ có

ý gì đâu.

A Tử vẫn tưởng sư phụ chỉ ở bờ biển Tinh Tú hưởng nhàn, chẳng khi nào lại

đến Trung Nguyên, ngờ đâu oan gia ma đưa lối quỉ đưa đường, ở cái quán nhỏ này

lại gặp nhau. Nàng sợ đến mất cả hồn vía, lớn tiếng mắng mỏ Hư Trúc chẳng qua

chỉ để ra vẻ ta đây nhưng tiếng nói đã run lập cập, cố gắng trấn tĩnh cũng không

đến đâu, trong bụng cấp tốc tính toán một kế hoạch thoát thân: “Cứ như hôm nay

chỉ còn cách đánh lừa sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết quách lão đi, đó

là đường sống duy nhất. Ngoại trừ tỉ phu ra, chẳng một ai đánh được ông ta. Cũng

may Thần Mộc Vương Đỉnh ta để lại Nam Kinh, sư phụ không thể không đi tìm để

lấy lại chiếc đỉnh đó”.

Nàng nghĩ đến đó, thấy an tâm hơn nhưng lại chợt nghĩ: “Thế như nếu như

sư phụ trước hết đánh cho ta tàn phế, tiêu hủy võ công của ta sau đó mới áp giải về

Nam Kinh, cái cảnh khổ sở đó, so với chết ngay bây giờ còn khó chịu hơn”. Nghĩ

đến đó mặt nàng tái mét cắt không còn giọt máu.

Ngay lúc đó, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi đến trước cửa phòng, cười hinh

hích nói:

- Đại sư tỉ, sư phụ cho mời.A Tử nghe thấy sư phụ gọi ra, thật chẳng khác gì con chuột bị con mèo kêu

đến, sợ đến xương cốt tưởng như sụm xuống, nhưng biết có trốn cũng không xong

chỉ đành theo tên đệ tử kia ra ngoài đại đường.

Đinh Xuân Thu ngồi một mình một bàn riêng, trên bàn rượu thịt ê hề, còn

bọn đệ tử thì xuôi tay đứng hầu ở xa xa, hết sức cung kính, không ai dám thở

mạnh. A Tử đi ra đến nơi cất tiếng chào:

- Sư phụ!

Đinh Xuân Thu hỏi:

- Thế quả thật ở nơi đâu?

A Tử nói:

- Không dám dấu sư phụ, đúng là ở thành Nam Kinh nước Liêu.

Đinh Xuân Thu hỏi thêm:

- Thế nơi nào ở thành Nam Kinh?

A Tử đáp:

- Trong phủ Nam Viện Tiêu Đại Vương nước Liêu.

Đinh Xuân Thu cau mặt gằn giọng hỏi:

- Vì cớ nào mà rơi vào tay tên Liêu cẩu Khất Đan đó?

A Tử nói:

- Không phải rơi vào tay y. Đệ tử khi lên đến biên giới phương Bắc, e ngại

làm mất bảo vật của sư phụ, lại sợ lỡ tay làm hư, thành thử len lén vào trong hoa

viên vương phủ Tiêu đại vương, đào lỗ chôn nơi đó. Nơi đó cực kỳ kín đáo, hoa

viên của vương phủ rộng đến hơn sáu nghìn mẫu, ngoại trừ đệ tử ra, không một ai

có thể tìm ra được chiếc vương đỉnh đó đâu, sư phụ cứ yên chí.

Đinh Xuân Thu cười nhạt nói:

- Chỉ có mình ngươi biết được thôi. Hừ, con nhãi kia, ngươi kể cũng gớm

lắm, ngươi tưởng rằng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám giết ngươi chứ gì? Ngươi

bảo là giết ngươi rồi không thể nào tìm ra chiếc đỉnh nữa, phải không?

A Tử run bắn người lên, lập cập đáp:

- Nếu như sư phụ không tha cho đệ tử cái tội cứng đầu nghịch ngợm, tiêu

trừ công lực, cắt đứt cân mạch, hay chặt chân chặt tay thì đệ tử thà chết ngay tại

đây chứ nhất quyết không thổ lộ chiếc vương đỉnh ... chiếc vương đỉnh ... đó ở đâu.Nói đến câu sau cùng, trong bụng sợ hãi lắm, lắp bắp không ra lời. Đinh

Xuân Thu mỉm cười nói:

- Con oắt kia, ngươi lại dám cả gan bắt thóp ta ư? Môn hạ phái Tinh Tú có

ngươi gớm thật, cả đến ta cũng bị mắc lỡm, Tinh Tú lão tiên này quả là không có

mắt.

Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói:

- Tinh Tú lão tiên nhìn thấu suốt quá khứ vị lai, biết cái số kiếp Thần Mộc

Vương Đỉnh nó phải thế, nên mới giả vờ cho A Tử lấy được để cho bảo cụ này trải

qua gian hiểm, có dịp mài giũa thêm khiến cho bảo đỉnh càng thêm pháp lực.

Một tên đệ tử khác lại chõ vào:

- Mọi việc trong thiên hạ, có cái nào không nằm trong thần cơ diệu toán

của lão tiên? Lão tiên khiêm tốn mà nói thế, chúng đệ tử chẳng nên coi là thật.

Lại một tên đệ tử khác tiếp lời:

- Tinh Tú lão tiên hôm nay mới giở chút kỹ xảo con con, đã giết chết cao

thủ phái Thiếu Lâm là Huyền Nạn, tru diệt thầy trò Lung Á lão nhân mấy chục

người, cổ vãng kim lại, thật Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng? Tiểu A Tử! Dù

ngươi có giảo hoạt cách nào, cũng làm sao chạy cho thoát bàn tay của Tinh Tú lão

tiên? Dù cứng đầu chống trả hay van lạy xin tha thì cũng đều vô ích.

Đinh Xuân Thu mỉm cười gật gù, vuốt râu ngồi nghe. Hư Trúc đứng trong

ngọa thất, nghe rõ ràng từng chữ, nghĩ thầm: “Sư bá tổ và Thông Biện tiên sinh

quả nhiên bị Đinh thí chủ giết hại. Ôi, nói gì đến báo thù rửa hận, đến cái mạng

cỏn con của mình đã chắc gì còn”.

Quần đệ tử phái Tinh Tú kẻ một câu, người một lời, ai nấy khuyên A Tử

mau mau nghe lời, khai rõ ra, trong ngôn từ dọa nạt thì quá nửa là tuyên dương oai

đức Tinh Tú lão tiên, cứ một câu nói với A Tử thì kèm theo ba câu ca công tụng

đức Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu bình sinh có cái tật là thích nghe người khác tâng bốc mình,

càng đưa lão lên, lão càng khoái trí, được đám đệ tử nịnh hót mấy chục năm đã

quen nên tưởng rằng câu nào câu nấy đều là thật. Nếu như có ai không đưa lão lên

tận mây xanh thì cho rằng kẻ đó thiếu dạ trung thành. Bọn đệ tử hiểu rõ tính khí

đó nên mỗi khi có cơ hội là ai nấy đều hết sức đánh trống thổi kèn, nịnh bợ hết

mực, chỉ sợ mình ca tụng chưa đủ, khiến sư phụ không vui thì tính mạng sẽ như chỉ

mành treo chuông, lúc nào cũng lo ngay ngáy.Đám đệ tử phái Tinh Tú không phải ai cũng mặt dày mày dạn vô liêm sỉ, có

điều ở vào thế chẳng đặng đừng, không thế thì khó mà tồn tại, hơn nữa năm này

tháng nọ dần dần thành quen, lời tâng bốc thuận miệng tuôn ra, chẳng ai còn coi là

điều đáng hổ thẹn nữa.

Đinh Xuân Thu vuốt râu mỉm cười, hai mắt hấp him, lắng nghe bọn đệ tử ca

tụng, đầu óc lâng lâng như người say. Hàm râu dài của lão khi đấu phép với sư

huynh Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một phần lớn, chỉ còn loe hoe một dúm, về sau

lão lén phóng chất kịch độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán giết được Tô Tinh Hà, trận

đó kể như thắng, nên có bị mất chòm râu cũng không đến nỗi nào.

Y trong bụng ngầm tính: “Con tiểu a đầu này hôm nay khó mà thoát được

bàn tay lão tiên, còn chú tiểu trong phòng kia thì phải từ từ tính lại. Tam Tiếu Tiêu

Dao Tán không giết được nó, hay là mình dùng Hủ Thi Độc, hoặc Hóa Công Đại

Pháp, tùy cơ mà hành sự. Thế là Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn rơi vào tay mình, thật

hên quá sức! Sướng quá!”.

Phải đến thời gian một bữa ăn, tiếng ca công tụng đức của đám đệ tử thưa

dần, chỉ những kẻ trường thiên đại luận còn đang lải nhải, Đinh Xuân Thu bèn giơ

tay lên, tiếng liền im bặt, tất cả đồng thanh nói:

- Công đức sư phụ bao trùm trời đất, chúng con ngu si, một vạn phần không

phô ra được một.

Đinh Xuân Thu mỉm cười gật đầu, quay sang A Tử hỏi:

- A Tử, ngươi còn gì để nói nữa không?

A Tử tâm niệm chợt động: “Trước đây sư phụ cưng chiều mình, cũng bởi vì

mình tâng bốc có chỗ đặc biệt không giống kẻ khác, chẳng phải như bọn ngốc này,

nói tới nói lui, cả trăm năm cũng chỉ có bao nhiêu đó”. Nàng bèn nói:

- Sư phụ, đệ tử sở dĩ lén ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh đem ra ngoài

chơi, cũng có lý do.

Đinh Xuân Thu trừng mắt hỏi lại:

- Có lý do là sao?

A Tử đáp:

- Khi sư phụ còn trẻ, công lực chưa đạt đến chỗ đăng phong tạo cực như

bây giờ, tu tập mới cần phải cần vương đỉnh để trợ giúp cho việc luyện công. Thế

nhưng những năm gần đây, hễ ai có mắt nhìn cũng đều biết sư phụ đã đến mứcthông thiên triệt địa, cái vương đỉnh kia chỉ dùng để dụ độc vật, so với thành tựu

của sư phụ thật khác gì đom đóm sánh với mặt trăng mặt trời, làm sao bì được. Sư

phụ sở dĩ chưa vứt cái mộc đỉnh đó đi, chẳng qua cũng vì nghĩ đến món đồ cũ

không nỡ bỏ đấy thôi. Chúng sư đệ la lối om sòm, cứ làm như sư phụ không có

vương đỉnh đó không được, cho là bản môn trọng bảo mất đi thì chuyện không phải

nhỏ, quả thực ngu xuẩn biết mấy, có khác gì coi thần thông của sư phụ không vào

đâu.

Đinh Xuân Thu liên tiếp gật gù:

- Hừm, hừm, nói nghe có lý lắm! Nói nghe có lý lắm!

A Tử lại tiếp:

- Đệ tử thiển nghĩ, võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường là dường nào,

không môn phái trên đời này theo kịp được, có điều sư phụ đại nhân đại lượng,

chẳng thèm chấp bọn nhân sĩ võ lâm nên không chịu dời gót ngọc đến Trung

Nguyên dạy cho bọn ếch ngồi đáy giếng kia một trận. Trong võ lâm lắm kẻ cuồng

vọng tự tôn, biết chắc sư phụ chẳng thèm ganh đua với chúng làm gì cho mệt nên

huênh hoang hợm hĩnh, đứa nào cũng xưng hùng xưng bá, kẻ thì cho mình đương

thế cao nhân, kẻ khác tự phong danh gia võ học.

Thế nhưng mồm thì khoe mình vang trời dậy đất, nhưng có đứa nào dám vác

mặt tới biển Tinh Tú lãnh giáo sư phụ vài chiêu. Kẻ học võ trong thiên hạ, ai mà

chẳng biết sư phụ võ công cao thâm khôn lường, thế nhưng quanh đi quẩn lại cũng

cứ bốn chữ “thâm bất khả trắc”, ví như hỏi rằng cao siêu tới đâu, thì có đứa nào

nói được?

Cho đến lúc này, Mộ Dung Cô Tô tiếng nổi như cồn, Hà Nam Thiếu Lâm

cũng xưng mình Thái Sơn Bắc Đẩu, thậm chí đến cái gì Lung Á tiên sinh, cái gì

Đoàn gia Đại Lý cũng thành những nhân vật kiệt hiệt. Sư phụ nghĩ xem thế có nực

cười không?

Tiếng nào trong trẻo, ỏn thót bên tai, câu nào câu nấy như xoáy vào tim

Đinh Xuân Thu, so với các đệ tử khác lớn tiếng tung hô ca tụng dễ nghe hơn nhiều.

Đinh Xuân Thu càng lúc càng phởn phơ, mắt híp lại chỉ còn là một đường nhỏ như

sợi chỉ, không ngớt gục gặc đầu, mười phần đắc ý.

A Tử lại tiếp:

- Thành ra đệ tử nổi tính trẻ con, nghĩ bụng sư phụ mình thần thông như

thế, nếu không đến Trung Nguyên lộ chút thân thủ cho bọn giun dế kia được dịpmở mắt, thì sao chúng biết được rằng thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu

nhân? Do đó mới bày ra một kế mời sư phụ đến Trung Nguyên, cho bọn nhãi nhép

kia biết thế nào là trời cao đất dày. Thế nhưng cung thỉnh sư phụ một cách bình

thường thì xoàng xĩnh quá, không xứng với thân phận một đệ nhất cao nhân, cổ

vãng kim lai như lão nhân gia. Thân phận sư phụ không giống người khác, cung

thỉnh sư phụ đến Trung Nguyên cũng phải khác người. Thành thử đệ tử mới mượn

chiếc vương đỉnh, cốt chỉ để mời được đại giá của lão nhân gia đấy thôi.

Đinh Xuân Thu bật cười ha hả hỏi:

- Nếu nói thế, ngươi lấy chiếc vương đỉnh thì chỉ vì lòng hiếu kính hay sao?

A Tử đáp:

- Lẽ nào không phải? Thế nhưng đệ tử ngoài hiếu tâm, thực ra lại cũng có

chút tư tâm.

Đinh Xuân Thu chau mày hỏi:

- Tư tâm thế nào?

A Tử mỉm cười đáp:

- Xin sư phụ đừng trách. Đệ tử nghĩ mình là môn đồ phái Tinh Tú, cũng

mong bản phái uy chấn thiên hạ để khi hành tẩu giang hồ, người người kính trọng,

như thế có nở mày nở mặt hơn chăng? Đó chính là cái tư tâm nhỏ mọn của đệ tử.

Đinh Xuân Thu lại cười khà khà nói:

- Nói nghe được lắm! Nói nghe được lắm! Ta có bao nhiêu là đệ tử, vậy

mà có đứa nào tâm cơ linh mẫn được như ngươi đâu. Thì ra ngươi ăn trộm Thần

Mộc Vương Đỉnh, là chỉ vì muốn ta dương oai đấy thôi. Ha ha, một đứa mồm

miệng lanh lợi như ngươi, giết đi thật uổng, bên mình thiếu đi một kẻ nói chuyện

cho đỡ buồn, thế nhưng nếu ta phủi tay không tra xét ...

A Tử vội vàng cướp lời:

- Tuy thế quá ư là tiện nghi cho đệ tử nhưng bản môn từ trên xuống dưới ai

ai chẳng cảm kích lòng khoan hồng độ lượng của sư phụ? Từ nay trở đi sẽ vì sư

môn mà tận tâm kiệt lực, tan xương nát thịt mới thôi.

Đinh Xuân Thu đáp:

- Những lời của ngươi đem ra đánh lừa người khác thì may ra còn được, còn

như với ta, thì có khác gì bảo ta là một lão già mê muội hay sao? Ngươi tâm tư quả

là đại bất thiện. Hừ, ngươi nói nếu ta phế công lực, chấn đoạn kinh mạch ...Vừa nói tới đây, bỗng có một giọng vang vang nói:

- Điếm gia, dọn chỗ cho ta.

Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn ra, thấy một thanh niên công tử mặc áo dài

màu vàng, hông đeo trường kiếm, ngồi ngay ở bàn bên cạnh, chẳng biết vào quán

từ lúc nào. Người đó chính là Mộ Dung Phục mình mới gặp nơi hội cờ lúc ban

ngày, đã thi triển tà thuật gia hại nhưng không thành công. Đinh Xuân Thu vừa rồi

lắng tai nghe A Tử nói, lòng lâng lâng như đi mây về gió vào nơi cực lạc, mặt khác

lắng nghe xem Hư Trúc ở trong phòng động tĩnh ra sao, sợ y vượt tường chạy mất

khiến cho trong quán có thêm một người mà cũng không hay, quả là sơ xuất đến

cùng cực. Nếu như Mộ Dung Phục vừa đến đã ra tay ám toán, e rằng sẽ bị hố to. Y

kinh hãi mặt mày biến sắc nhưng lập tức trấn tĩnh lại ngay.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro