Thiên Long Bát Bộ 5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

datlucky_way

26-07-2009 07:40 PM

Hồi 41(a) : YÊN VÂN THẬP BÁT PHI KỴ BÔN ĐẰNG NHƯ HỔ PHONG YÊN CỬ 






Bấm vào đây để xem nội dung.


Yên vân ngựa chạy như tên,
Lung linh sương khói đến bên chân đồi.
Trên lưng tráng sĩ ai ngồi,
Hùm beo xuống núi vẫn đầy uy nghi.
*
* *







Đinh Xuân Thu sát hại Huyền Thống, Huyền Nạn nhị tăng, là đại cừu của phái Thiếu Lâm. Quần tăng nghe nói y đã đến núi Thiếu Thất lập tức nhao nhao cả lên. Huyền Sinh quát lớn:
- Hôm nay mọi người ai cũng phải gắng hết sức, bắt sống cho bằng được lão quái, để báo thù cho Huyền Nạn, Huyền Thống hai vị sư huynh.
Huyền Từ cũng sang sảng nói:
- Người xa đến là khách, mình phải tiên lễ hậu binh.
Quần tăng cùng đáp:
- Tuân lệnh!
Huyền Từ lại tiếp:
- Các vị sư huynh, các vị bằng hữu, chúng ta cùng ra xem cao chiêu của Tinh Tú Lão Quái và họ Mộ Dung, liệu có được chăng?
Quần hùng vốn dĩ đang sốt ruột mà chưa biết làm thế nào, trông chờ câu này từ nãy giờ. Những thanh niên anh hào vai vế hơi thấp một chút, tính tình bộp chộp lập tức túa ra như đàn ong. Sau đó là Tứ Đại Ác Nhân, hảo hán các lộ, họ Đoàn Đại Lý, cao tăng các chùa, cùng nhau ùn ùn đi ra. Chỉ nghe tiếng loảng xoảng leng keng liên tiếp, những người chữ Tuệ trong phái Thiếu Lâm mang binh khí ra cho sư phụ, sư thúc, sư bá.
Huyền, Tuệ, Hư, Không bốn đời tăng chúng ai nấy cầm binh khí, xếp thành hàng đội đi ra khỏi chùa. Vừa đến sơn môn, những sư sãi được chỉ định canh gác ở lưng chừng núi chạy lên báo:
- Đồ chúng phái Tinh Tú hơn nghìn người, ở lương đình giữa núi đang vây đánh bọn Mộ Dung công tử, hiện còn ác đấu.
Huyền Từ gật đầu bước ra ngoài con đường lát đá nhìn xuống dưới, thấy lố nhố đầy những đầu người, xem chừng chẳng phải chỉ hơn nghìn người mà thôi đâu. Trong tiếng quát tháo, theo gió bay lên:
- Tinh Tú lão tiên hôm nay đích thân đốc chiến, dĩ nhiên bách chiến bách thắng.
- Chúng bay chỉ là mấy đứa yêu ma tiểu xú, dám ương ngạnh chống lại lão tiên, quả thực to gan lớn mật!
- Mau mau quăng bỏ binh khí, lạy lục lão tiên tha mạng đi thôi!
- Tinh Tú lão tiên giá lâm núi Thiếu Thất, chỉ cần di đầu ngón tay là chùa Thiếu Lâm đổ ngay lập tức.
Những đệ tử mới gia nhập chưa học được bản lãnh gì thì phải học thói xu nịnh sư phụ trước, thành thử hơn nghìn người gào lên nghe điếc cả tai, trên núi Thiếu Thất chỉ nghe rặt giọng ca công tụng đức. Chùa Thiếu Lâm xây dựng đã nghìn năm nay , bao nhiêu đời toàn thể tăng chúng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” gom cả lại, xem ra cũng chưa bằng đám đệ tử phái Tinh Tú đang rầm rĩ ca ngợi sư phụ. Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu bạc, mắt lim dim, vừa phởn phơ, vừa lơ mơ đầy vẻ say sưa.
Huyền Sinh vận khí vào đan điền, lớn tiếng quát:
- Kết La Hán Đại Trận!
Năm trăm tăng nhân đáp lời nhắc lại:
- Kết La Hán Đại Trận!
Áo đỏ thấp thoáng, áo xám dật dờ, năm trăm tăng nhân đội chạy bên đông, đội chạy bên tây, túa ra đầy khắp mọi nơi. Quần hùng nghe tiếng La Hán Đại Trận từ lâu nhưng hơn một trăm năm qua, chùa Thiếu Lâm chưa từng thi diễn cho người bên ngoài thấy, ngoài tăng nhân bản tự, chưa một ai được xem qua.
Bấy giờ mới thấy quần tăng áo mũ chia theo từng màu, kẻ đỏ người xám, kẻ vàng người đen, binh khí cũng khác nhau, hoặc đao hoặc kiếm, hoặc trượng hoặc sạn, ai nấy chạy băng băng, trong khoảnh khắc đã vây chặt phái Tinh Tú vào giữa.
Phái Tinh Tú đông hơn phái Thiếu Lâm nhiều nhưng đại đa số là đệ tử mới thu ô hợp, đánh lẻ một mình thì cũng còn có chút bản lãnh, thế nhưng hợp chiến thành trận như thế này thì chưa từng trải qua bao giờ, thành thử ai nấy cuống quít, hoảng loạn, tiếng ca tụng Tinh Tú Lão Tiên nghe giảm hẳn đi, lắm người im bặt, trong bụng đã tính chuyện chuyển sang ca tụng “Thiếu Lâm thần tăng”.
Huyền Từ phương trượng nói:
- Tinh Tú phái Đinh tiên sinh giá lâm núi Thiếu Thất, ấy là gây hấn với phái Thiếu Lâm. Các lộ anh hùng, xin mời dựa tường đứng coi, xem chùa Thiếu Lâm đối địch với cao nhân phương Tây được chăng?
Các lộ anh hùng Hà Sóc, Giang Nam, Xuyên Thiểm, Hồ Quảng liền nhao nhao lên:
- Tinh Tú Lão Quái làm hại võ lâm, tất cả chúng ta ai ai cũng là kẻ thù, phải tru sát tên khốn kiếp đó mới được.
Mọi người rút phắt binh khí ra, toan cùng phái Thiếu Lâm chung vai giết giặc. Khi đó Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cả bọn đã giết được đến hơn hai chục môn nhân Tinh Tú, lại thấy đại viện đến nơi, lập tức nhảy ra ngoài mấy trượng, tạm thời ngừng tay không đấu nữa còn người phái Tinh Tú trong bụng cũng chột dạ không dám tiến lên.
Đoàn Dự lạng bên đông, lách bên tây xông vào trong đám người, chạy đến bên cạnh Vương Ngữ Yên nói:
- Vương cô nương, khi nào tình thế trở nên hung hiểm, tôi lại cõng cô chạy ra.
Vương Ngữ Yên bẽn lẽn nói:
- Tôi nào có bị thương, cũng chẳng bị người ta điểm huyệt, tôi … tôi tự mình đi được rồi …
Nàng đưa mắt liếc Mộ Dung Phục, nói thêm:
- Biểu ca tôi võ công cao cường, thừa sức bảo hộ cho tôi. Đoàn công tử, công tử nên ra khỏi đây đi.
Đoàn Dự thấy trong lòng chán chường, nghĩ thầm: “Ta làm gì có bản lãnh, so với biểu ca cô ta sao được?”. Thế nhưng bảo chàng đi ra thì lại lưu luyến không muốn rời, lầu bầu nói:
- Cái đó … cái đó … A, này Vương cô nương, cha tôi đến rồi, cũng ở bên ngoài kia.
Chàng cùng Vương Ngữ Yên bao lần cùng chung hoạn nạn, đã từng đi với nhau những quãng dài, ở cạnh nhau không phải là ít, thế nhưng Đoàn Dự chưa từng nói cho nàng hay thân thế lai lịch của mình thế nào. Trong mắt chàng, Vương Ngữ Yên là tiên trên trời, còn mình chỉ là kẻ phàm phu tục tử, chàng vốn dĩ chưa từng coi cái vị vương tử là vinh, huống chi dưới mắt thiên tiên, con vua cháu chúa hay dân ngu khu đen thì có khác gì nhau?
Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự mấy lần chẳng kể tính mạng cứu mình, trong bụng cũng có lòng cảm mến cái thành tâm của anh chàng. Tuy nàng cảm kích thật nhưng xưa nay không để hình bóng Đoàn Dự trong lòng, chỉ coi như một gã đồ gàn học được bộ pháp xảo diệu, có chút khí công kiếm pháp lúc được lúc không, lại sợ biểu ca để bụng nên muốn chàng đi càng xa càng tốt. Bấy giờ nghe anh ta nói gia gia đã đến đây, cũng hơi tò mò bèn hỏi:
- Lệnh tôn từ Đại Lý đến đấy ư? Hai cha con đã lâu lắm không gặp nhau, có phải không?
Đoàn Dự vui mừng nói:
- Đúng thế! Vương cô nương, để tôi đưa cô đến gặp cha tôi nhé? Cha tôi gặp cô hẳn là thích lắm.
Vương Ngữ Yên mặt lại đỏ lên, lắc đầu:
- Tôi không gặp đâu.
Đoàn Dự hỏi:
- Sao lại không gặp?
Chàng thấy Vương Ngữ Yên không trả lời, lại muốn nàng vui bèn nói tiếp:
- Vương cô nương, người anh kết nghĩa Hư Trúc của tôi cũng ở đây nữa, y lại đi tu rồi. Lại thêm cả đồ đệ của tôi cũng có mặt, quả thật vui quá.
Vương Ngữ Yên biết đồ đệ của anh chàng là Nam Hải Ngạc Thần, thế nhưng tại sao y lại thu ác nhân đứng thứ ba có cái danh Hung Thần Ác Sát kia làm đồ đệ, thì xưa nay nàng chưa từng hỏi, nghĩ đến Nam Hải Ngạc Thần hình thù quái dị, bất giác nhếch mép nở một nụ cười. Đoàn Dự thấy mình làm cho nàng vui, trong lòng mừng lắm, tuy lúc này đang bị người của phái Tinh Tú vây quanh nhưng được Vương Ngữ Yên ban cho vài câu thì việc có tày trời chàng cũng chẳng coi vào đâu.
Quần tăng Thiếu Lâm bày La Hán Đại Trận xong, bên trái bên phải hai cánh bảo vệ, đằng trước đằng sau hai mặt tiếp ứng. Có mấy tên môn nhân phái Tinh Tú xông qua hướng tây, chỉ vừa giao phong đã lập tức bị thương. Đinh Xuân Thu nói:
- Tất cả tạm thời đừng động thủ vội.
Y lớn tiếng nói:
- Huyền Từ phương trượng, phái Thiếu Lâm nhà ngươi tự xưng là thủ lãnh võ lâm Trung Nguyên, thế nhưng dưới mắt ta, thật chẳng đáng quái gì cả.
Các đệ tử của y liền nhao nhao phụ họa:
- Đúng thế! Tinh Tú Lão Tiên đã đến thì bọn sư sãi chùa Thiếu Lâm chết không có đất mà chôn.
- Võ công các môn các phái trong thiên hạ đều phát nguyên từ phái Tinh Tú mà ra, chỉ có phái Tinh Tú võ công mới là chính thống, còn ngoài ra đều là tà ma ngoại đạo hết ráo.
- Các ngươi không học võ công phái Tinh Tú, chẳng qua chỉ là quỉ trâu thần rắn, rồi cũng sẽ bị diệt vong.
Đột nhiên có kẻ cao giọng hát lên:
Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,
Tài đức kia như thể đất trời.
Uy danh lừng lẫy cõi đời,
Cổ kim chưa có ai người sánh ngang. 
Hơn nghìn người cùng một giọng phụ họa, lại có kẻ lấy thanh la não bạt, đàn sáo trống chiêng ra, kẻ thổi người gõ, thật là náo nhiệt. Quần hùng xưa nay chưa từng thấy phái Tinh Tú diệu võ dương oai, ai nấy vừa ngạc nhiên, vừa nực cười.
Trong tiếng trống chiêng tơ trúc, bỗng từ chân núi vọng lại tiếng vó ngựa dồn dập. Tiếng khua mỗi lúc một dòn, chẳng mấy chốc thấy bốn lá cờ vàng lớn từ sườn núi hiện lên, bốn con ngựa chạy lên núi, người cưỡi mỗi người cầm một cây cờ, đón gió bay phần phật. Bốn lá cờ vàng đều viết năm chữ đen lớn:
Cái Bang Bang Chủ Trang
Bốn kỵ sĩ đó dừng ngay ở sườn núi, nhảy xuống ngựa, cắm lá cờ nơi cao nhất ở ngang vách đá. Cả bốn đều mặc theo lối Cái Bang, lưu đeo bị vải, tay cầm cán cờ không nói không rằng. Quần hùng đều nói:
- Bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đến rồi đây!
Mọi người thấy thanh thế bốn gã cầm cờ vàng đầy vẻ ngạo nghễ, thân pháp nhanh nhẹn nhẹ nhàng, so với bọn đồ đệ phái Tinh Tú khoe tài khoe mẽ, tự nhiên ai nấy cảm thấy có phần nể vì. Cờ vàng vừa dựng lên, khoảng một trăm mấy chục con ngựa phóng lên núi, hơn một trăm người đầu tiên là đệ tử sáu túi, ngoài ra là mấy chục người đệ tử bảy túi, hơn chục đệ tử tám túi. Dưới một chút là bốn người trưởng lão trên vai chín túi, tất cả không nói không rằng nhảy xuống ngựa, chia ra làm hai hàng. Người trong Cái Bang trừ khi có việc khẩn cấp, không bao giờ cưỡi ngựa ngồi xe, bây giờ thấy dương uy như thế quả không khác gì hào khách giang hồ. Nhiều kỳ túc trong võ lâm thấy thế, không khỏi thầm lắc đầu.
Lại nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, hai con ngựa màu trắng xám khỏe mạnh chạy đến. Bên trái là một thiếu nữ mặc áo màu tím, xinh đẹp nho nhã nhưng đôi mắt vô quang. Nguyễn Tinh Trúc trông thấy lập tức kêu lên:
- A Tử! 
Bà ta quên rằng mình đang giả làm đàn ông, tiếng kêu buột ra là nữ thanh. Người cưỡi con ngựa bên phải mặc bách kết cẩm bào, vẻ mặt trơ trơ chẳng khác gì xác chết. Quần hùng những người kiến văn rộng rãi thoạt nhìn đã biết ngay y đeo mặt nạ da người, không muốn cho ai biết bộ mặt thật của mình, ai nấy nghĩ thầm: “Người này chắc là bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền đây! Y muốn cùng phái Thiếu Lâm tranh đoạt võ lâm minh chủ, sao lại không chịu hiển lộ chân tướng?”.
Lại cũng có người đoán ngầm: “Xem ra gã này phải là nhân vật thành danh trong võ lâm, Trang Tụ Hiền chỉ là tên giả. Y đã làm đến bang chủ Cái Bang thì đâu phải loại xoàng”. Lại có người đoán: “Xem chừng y cũng chẳng tài cán bao nhiêu, nếu đánh trận này có thua các nhà sư chùa Thiếu Lâm thì cũng dấu hình tích chạy mất để khỏi bẽ mặt”. Người khác thì đoán chừng: “Hay là y chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong? Y trở lại nắm đại quyền trong bang nên mới đi kiếm chùa Thiếu Lâm và quần hùng Trung Nguyên gây sự”.
Thế nhưng cũng có người từ ba chữ Trang Tụ Hiền mà liên tưởng đến Tụ Hiền Trang, nhưng lại chỉ đoán già đoán non là Kiều Phong, còn Du thị huynh đệ đã chết về tay Kiều Phong rồi, về sau đến trang viện cũng bị người ta đốt cháy thành tro, có ai lại dám nghĩ kẻ đang làm bang chủ Cái Bang chính là thiếu trang chủ Du Thản Chi.
A Tử nghe thấy tiếng mẫu thân gọi nhưng lúc này nàng đang có viêc quan trọng, chưa muốn gặp lại mẹ, ỉ ôi chuyện nọ chuyện kia nên làm như không nghe nói:
- Hiền ca, ở đây đông người quá nhỉ? Tiểu muội nghe đâu có người mới hát cái gì: “Tinh Tú Lão Tiên, đức phối thiên địa, uy chấn hoàn vũ, cổ kim vô tỉ.” Gã tiểu tử Đinh Xuân Thu với đám binh tôm tướng cá của y cũng đến đây hay sao?
Du Thản Chi đáp:
- Đúng đó! Môn hạ của y quả không phải ít.
A Tử vỗ tay reo lên:
- Thế thì hay quá! Mình đỡ phải đi xa, nghìn dặm bôn ba đến biển Tinh Tú đòi nợ máu.
Khi đó bang chúng Cái Bang đi bộ đã lục tục kéo lên núi, đều là năm túi, bốn túi, ba túi chia thành hàng lối đứng sau lưng Du Thản Chi và A Tử. A Tử quay lại vẫy tay, hai tên đệ tử Cái Bang lấy trong bọc ra món gì đó màu tím, buộc vào gậy, vung lên, thì ra đó là hai lá cờ lớn, mở bung ra trên không, mỗi lá cờ thêu sáu chữ đỏ chót như máu: 
Tinh Tú Phái Chưởng Môn Đoàn
Hai là cờ tím đó trương lên rồi, các môn nhân phái Tinh Tú đều rối loạn, lập tức có kẻ kêu lên:
- Chưởng môn phái Tinh Tú là Đinh lão tiên, bốn bể ai chẳng biết, sao lại có đứa nào họ Đoàn đòi làm chưởng môn nhân?
- Chỉ nhận càn, thật không biết thẹn.
- Chức vị chưởng môn đâu phải tự phong là được?
- Đứa tiểu yêu nào tự xưng là chưởng môn phái ta, có giỏi thì đứng ra, ông không băm vằm như tương chớ kể làm người!
Những kẻ nói đó đều là những môn nhân mới thu của phái Tinh Tú, còn như Sư Hống Tử, Thiên Lang Tử những người cũ, ai cũng biết lai lịch của A Tử, nghĩ bụng cô nàng có Kiều Phong đứng sau lưng, không khỏi kinh sợ.
Những nhà sư và các anh hùng tục gia thấy tự nhiên xuất hiện thêm một chưởng môn phái Tinh Tú, không khỏi ngạc nhiên, nhưng cũng mừng thầm trong bụng, phen này bọn tà ma sâu từ trong ruột sâu ra quả hay biết chừng nào.
A Tử vỗ tay ba lượt, lớn tiếng nói:
- Môn hạ đệ tử phái Tinh Tú nghe đây: Bản phái xưa nay có qui củ, chức vị chưởng môn nhân, ai khỏe thì được. Trong bản phái, người nào võ công cao nhất người đó được làm chưởng môn. Nửa năm trước, Đinh Xuân Thu đấu với ta bị ta đánh cho tơi bời hoa lá, quì mọp dưới đấy lạy ta mười tám cái, bái ta làm thầy, đem chức vụ chưởng môn, hai tay cung kính bưng lên dâng cho ta. Không lẽ y không cho các ngươi biết hay sao? Đinh Xuân Thu! Ngươi dám lớn mật làm càn, là đại đệ tử của bản phái, đáng lẽ phải làm gương cho các sư đệ, sao lại dám khi sư diệt tổ, dối trá các đàn em?
Giọng nào trong trẻo, từng chữ từng chữ rõ ràng, tất cả mọi người đều nghe thấy. Ai nấy kinh ngạc vạn phần, thấy nàng chỉ là một cô gái nhỏ tuổi chừng mười sáu, mười bảy, hai mắt lại lòa, sao có thể làm chưởng môn được? Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc lại càng kinh hãi. Hai người biết rằng con gái mình vốn là môn hạ của Đinh Xuân Thu, điêu ngoa cổ quái, cực kỳ bướng bỉnh, nhưng võ công chỉ bình thường, sao lại dám phản đồ vi sư, vuốt râu hùm Đinh Xuân Thu, chuyện này khó mà yên ổn. Với vài người nước Đại Lý đang ở trên núi Thiếu Thất đây, thật không sao đủ sức kháng cự lại phái Tinh Tú, cứu nàng thoát hiểm.
Đinh Xuân Thu thấy ở giữa đám đông quần hùng tụ tập, bao nhiêu con mắt người ta trông vào thế này mà A Tử dám ngang nhiên giương cờ “Tinh Tú phái chưởng môn”, thì làm sao nhịn nổi? Ông ta cơn giận bừng bừng nhưng ngoài mặt vẫn cười hì hì, ra vẻ hiều hậu từ hòa nói:
- Tiểu A Tử, chức vị chưởng môn bản phái, ai khỏe là được, ngươi nói thế quả không sai. Ngươi có bụng muốn chức chưởng môn, ắt hẳn có bản lãnh chân thực, vậy lại đây tiếp ta ba chiêu xem có được không?
Đột nhiên trước mắt hoa lên một cái, trước mặt chừng ba thước đã có thêm một người, chính là Du Thản Chi. Việc xảy ra quả là xuất kỳ bất ý, đến nhãn lực bén nhạy như Đinh Xuân Thu cũng không nhìn rõ y đến cách nào, trong bụng kinh hoảng, vội lùi lại một bước.
Y vừa lùi vừa nhảy phải đến năm thước, ngờ đâu Du Thản Chi cũng vẫn còn cách mình chừng ba thước, hẳn là khi mình nhảy lùi một bước, đối phương cũng tiến tới một bước, hiển nhiên khi y thấy mình lùi y mới tiến, đi sau mà cùng đến, không lộ hình tích, người này võ công cao cường như thế khiến cho ai nấy phải e dè.
Đinh Xuân Thu thấy khuôn mặt y vàng khè trơ trơ như gỗ đến sát mình rồi chưa kịp mở miệng hỏi: “Ta muốn tỉ võ với A Tử, can gì đến ngươi mà nhúng tay vào?” vội lùi lại thêm một bước, thò tay về sau chộp luôn một môn nhân, ném luôn vào người y.
Du Thản Chi ứng biến cực nhanh, lập tức nhảy ngược về một trượng, cũng giơ tay chộp ngay một tên đệ tử ba túi Cái Bang, vận kình ném tới. Tên đệ tử ba túi ấy chẳng khác gì một ám khí cực lớn, bay thẳng vào Đinh Xuân Thu, đụng phải gã môn nhân phái Tinh Tú giữa chừng, nghe bình một tiếng. Người ngoài nhìn thấy kình lực mạnh mẽ như thế đều nghĩ thầm: “Hai gã đệ tử này chắc hẳn đụng nhau nát xương đứt gân mà chết”.
Ngờ đâu hai người đụng nhau rồi, chỉ nghe sèo sèo mấy tiếng, rồi có mùi khét lẹt bay vào mũi khiến ai nấy muốn mửa, quần hùng vội vàng nín hơi, có người lùi lại, có kẻ đưa tay bịt mũi, có người vội uống thuốc giải, biết rằng Đinh Xuân Thu và Trang Tụ Hiền đều dùng công phu âm độc truyền lên người hai gã đệ tử. Hai người đụng nhau đã mềm nhũn rơi bịch xuống, không còn cục cựa gì, hiển nhiên chết toi rồi.
Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi trao đổi một chiêu, chưa phân được ai cao ai thấp, trong bụng đều ngán thầm, cùng lùi lại mấy thước, lại vói tay về sau chộp một tên đệ tử khác ném ra. Hai tên đệ tử lại đụng nhau trên không, phát ra mùi khét, rồi cùng chết. Hai người cùng sử dụng một môn võ công âm độc của phái Tinh Tú tên là Hủ Thi Độc, chộp một người sống ném vào địch nhân, thực ra vừa chộp được là đã khiến người kia chết rồi, chất độc trên móng tay liền truyền vào máu huyết, biến người đó thành một khối thuốc độc, địch nhân nếu như lấy tay gạt ra, thể nào cũng bị trúng phải thi độc. Dẫu có lấy binh khí đỡ, thì chất độc cũng dính vào binh khí rồi truyền vào tay. Thậm chí nếu có tránh né hay dùng võ công kiểu như Phách Không Chưởng đánh bật ra thì cũng khó mà không bị nhiễm độc.
Du Thản Chi hôm đó cùng Toàn Quan Thanh kết bạn đồng hành, bụng dạ đã ngu ngơ lại kém kinh lịch, chỉ hai ngày là Toàn Quan Thanh đã tra xét được mọi việc ngọn ngành. Toàn Quan Thanh nghĩ thầm: “Gã này nội lực tuy hùng mạnh vô tỉ, võ công lại thật tầm thường, xem ra chẳng làm được trò gì cả”. Đến sau y lại biết được A Tử là môn đồ của Đinh Xuân Thu phái Tinh Tú, y chợt nghĩ ra một mẹo bảo Du Thản Chi theo học A Tử võ công, thế nhưng trước mặt A Tử thì tâng bốc Du Thản Chi võ công trên đời hiếm có, thiên hạ vô song rồi bảo A Tử đem hết võ công ra biểu diễn để cho Du Thản Chi có dịp chỉ điểm thêm.
Du Thản Chi và A Tử đều còn trẻ, người thì si mê, kẻ lại mù lòa nên rơi ngay vào kế của y. A Tử đem võ công bản môn từng môn một ra diễn lại, lại nói rõ cách tu tập như thế nào. Môn công phu Hủ Thi Độc của Du Thản Chi chính vì thế mà học được. Yếu chỉ của công phu này toàn dùng nội lực thâm hậu để dẫn chất độc, khiến chộp vào ai là chết ngay, xác người lập tức nhiễm đầy chất độc chứ công phu vốn dĩ không có gì là kỳ diệu.
Cái đạo lý đó người nào trong phái Tinh Tú cũng biết cả nhưng chỉ vì không luyện được nội lực mạnh như thế mà thôi. A Tử khi ở ngoài thành Nam Kinh bắt được độc trùng độc xà về tu luyện nhưng đến công phu độc chưởng cũng còn chưa luyện xong thì làm sao sử dụng môn Hủ Thi Độc này được.
A Tử tuy là kẻ lanh lợi láu lỉnh nhưng mắt đã mù rồi nên không nhìn được vẻ mặt của Du Thản Chi mà tính mạng mình thì quả là do Trang công tử cứu thoát từ tay những môn hạ của Đinh Xuân Thu, lại thêm Toàn Quan Thanh mồm mép trơn như mỡ, đưa Du Thản Chi lên tận mây xanh nêu dẫu nàng thông minh tuyệt đỉnh cũng không đoán nổi vị Trang công tử võ công cái thế này lại đang học lén võ công của mình.
Mỗi khi A Tử nói ra một chiêu, Du Thản Chi lại theo đúng như thế mà thí diễn, trong người y có hàn độc của con băng tàm, lại có nội công thượng thừa của Dịch Cân Kinh, bao gồm sở trường của cả chính lẫn tà, nội lực cực kỳ hùng hậu nên chiêu nào y đánh ra cũng đều gẫy cây vỡ đá, uy lực không biết bao nhiêu mà kể, A Tử nghe thấy hết sức khâm phục. Du Thản Chi cũng truyền thụ cho nàng một số tâm pháp tu luyện Dịch Cân Kinh, A Tử theo đó mà luyện, tuy không tiến bộ bao nhiêu nhưng cũng thấy người nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, gân cốt linh hoạt, nghĩ bụng rồi cũng sẽ có lúc thần hiệu.
Khi đó Du Thản Chi cũng đã hiểu rõ thần công của mình ắt có liên hệ mật thiết với nhà sư cởi trần trong cuốn quái thư kia nên nếu muốn cho có thể khoe tài khoe mẽ với A Tử, y phải đi vào những chỗ vắng vẻ chuyên cần tập luyện. Một hôm kia, y đang theo đường những sợi chỉ trên hình vẽ luyện công, đột nhiên có một cơn gió lốc thổi bay cuốn sách ra ngoài mấy trượng. Du Thản Chi vừa quay người lại, nội tức trong kinh mạch lập tức chuyển động, ngửng đầu lên thấy cuốn sách đã lọt vào tay một nhà sư trugn niên. Du Thản Chi hoảng hốt kêu lên:
- Của tôi đó, mau trả lại …
Y nhất thời vừa kinh hãi vừa giận dữ, nội tức lập tức chạy ngược, không còn cử động gì được nữa, chỉ thấy gã hòa thượng kia cười khì khì quay mình bỏ đi khiến y càng thêm sốt ruột, chân tay mình mẩy cứng đơ như khúc gỗ.
Người đoạt cuốn Dịch Cân Kinh của y chính là Cưu Ma Trí. Y tinh thông tiếng Phạn, lại thêm thông tuệ, ngộ tính cao, khác hẳn Tiêu Phong hay A Châu chỉ giương mắt ngó mà không hiểu gì cả, Du Thản Chi lạng quạng làm ướt cuốn kinh nên hiện ra đồ hình, không thể nào sánh với y được.
Du Thản Chi phải mất đến sáu giờ sau các huyệt đạo mới giải khai, thổ ra một bụm máu, người uể oải chẳng khác gì mới ốm dậy. Cũng may là y đã luyện tập những hình vẽ trong quyển kinh mười phần cũng được sáu bảy, lại cũng đã lâu nên nhớ được hết, sau đó cứ thế mà tiếp tục luyện, nội công càng lúc càng tăng.
Sau đó Toàn Quan Thanh tìm cách gỡ cái đầu sắt cho Du Thản Chi, dùng mặt nạ da người che những lỗ hổng bị sắt nóng làm lỗ chỗ, sau đó mới đưa y đi dự đại hội Cái Bang ở Quân Sơn, Động Đình Hồ. Với nội công thâm hậu như Du Thản Chi, lại thêm võ công quái dị, trong Cái Bang nào ai có thể địch nổi, đoạt chức bang chủ dễ như chơi. Đồng thời Toàn Quan Thanh cũng chính thức trở lại Cái Bang, thăng lên chức trưởng lão chín túi. Du Thản Chi tuy là bang chủ thật nhưng mọi việc trong bang toàn do Toàn Quan Thanh sắp xếp lo liệu.
Toàn Quan Thanh thấy trong bang những trưởng lão, đệ tử không phục Du Thản Chi rất đông, trong bụng lo lắng, nhưng chẳng lẽ đem ra giết sạch, mới hiến kế tranh chức minh chủ võ lâm Trung Nguyên với phái Thiếu Lâm, để khi bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền thành thiên hạ võ công đệ nhất rồi thì với công đức uy vọng đó sẽ chế ngự được những kẻ bất bình trong Cái Bang.
A Tử tính tình ham vui, hiếu thắng, tuy đã mù nhưng vẫn chứng nào tật nấy, Toàn Quan Thanh hiến kế đó thật đúng ý nàng. Du Thản Chi cũng đâu có muốn chức võ lâm minh chủ nhưng A Tử hết sức tán thành, nên cũng đành bấm bụng tuân hành. Toàn Quan Thanh gia công tính toán bố trí mọi việc cực kỳ cẩn mật. Bao nhiêu anh hùng hảo hán các lộ đến chùa Thiếu Lâm đúng ngày rằm tháng sáu chính là do kiệt tác của y.
A Tử nghĩ bụng đã có một người thiên hạ võ công đệ nhất là Trang Tụ Hiền đỡ đầu thì còn sợ gì Tinh Tú Lão Quái, lập tức tự phong cho mình chức vụ “chưởng môn phái Tinh Tú”, sai người giương lá cờ tím, đến núi Thiếu Thất diệu võ dương oai.
Người của Cái Bang đến nơi, thấy trên núi phái Tinh Tú đông nghẹt, việc này quả là ngoài dự liệu của Toàn Quan Thanh, y liền quay sang bàn với Du Thản Chi, một khi Đinh Xuân Thu vừa mở miệng, lập tức xông ra động thủ ngay để y khỏi gây khó khăn cho A Tử.
Đinh Xuân Thu thấy đối phương lợi hại như thế, lập tức sử dụng môn võ công tối âm độc Hủ Thi Độc ra. Môn công phu này mỗi lần sử dụng đều phải hi sinh một môn đệ, nhưng đối phương dù tránh né hay đỡ gạt, đều bị thảm họa, dẫu kẻ võ công cao minh bực nào cũng chỉ còn nước thi triển khinh công tuyệt đỉnh, chạy ra ngoài mươi trượng thì mới khỏi độc thủ mà thôi. Thế nhưng hai bên giao đấu mà bỏ chạy như thế thì đâu còn là đánh nữa.
Ngờ đâu Du Thản Chi cũng học của A Tử môn công phu này, lập tức hi sinh tính mạng đệ tử Cái Bang, chống đỡ tấn công của Đinh Xuân Thu. Hai người cứ ném hết đệ tử này đến đệ tử khác, chỉ nghe bịch bịch liên tiếp, trong giây lát hai bên mỗi người đã ném chín tên đệ tử, mười tám cái xác nằm la liệt trên mặt đất, mặt mũi người nào người nấy tím ngắt, trông thật dễ sợ, không dám nhìn.
Đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ chết điếng, cố hết sức tránh cho xamong sao sư phụ khỏi chộp được, nhưng miệng vẫn tiếp tục ca tụng công đức, có điều giọng lập cập run như cầy sấy, đâu còn vẻ gì hoan hô cổ võ cho sư phụ?
Đệ tử Cái Bang thấy bang chủ đột nhiên sử dụng võ công âm độc đó, tuy nói là bị bức bách phải làm thế nhưng ai nấy ngán ngẩm nghĩ thầm: “Bản bang hành sự, xưa nay lấy nhân nghĩa làm đầu, lý đâu bang chủ trước mặt anh hùng thiên hạ lại thi triển môn võ công vô lại này, có khác gì cũng cá mè một lứa với phái Tinh Tú?”. Thế nhưng cũng có người lại nghĩ: “Giá như Kiều bang chủ còn làm, thể nào cũng dùng chính đạo đối phó với tà thuật của lão quái”.
Đinh Xuân Thu vừa vói tay lại toan chộp tên đệ tử thứ mười, ngời đâu chộp phải quãng không, quay đầu lại thấy đám đệ tử đã chạy ra xa, lại nghe vù một tiếng, Du Thản Chi đã ném một người tới. Đinh Xuân Thu vừa sợ vừa tức, trong cơn nguy cấp liền nhảy vọt trở vào giữa đám môn nhân. Cái xác của gã đệ tử Cái Bang bay vụt tới, người trong phái Tinh Tú muốn bỏ chạy thì không còn kịp nữa rồi, bảy tám người chỉ kịp rú lên “Ối mẹ ơi!” thì đã bị các xác đụng phải. Cái xác người đó cực kỳ độc địa, mặt những người kia liền bao phủ một làn hắc khí, lăn ra đất, dãy dụa mấy cái rồi chết ngay.
A Tử nghe Toàn Quan Thanh đứng bên cạnh kể lại tình trạng, sướng quá cười khanh khách, kêu lên:
- Đinh Xuân Thu! Trang bang chủ là hộ pháp của chưởng môn nhân, ngươi đánh bại được y rồi sau động thủ với chưởng môn cũng chưa muộn. Thế ngươi được hay ngươi thua?
Đinh Xuân Thu giận lắm, trận vừa rồi nào phải vì mình công phu kém hơn, xem lối ném và kình lực của Trang Tụ Hiền, nội lực y mạnh thật nhưng thủ pháp lần nào cũng như lần nấy, đủ biết y chỉ học được của A Tử một chút xíu vỏ ngoài, bao nhiêu biến hóa tinh diệu đều không biết gì cả. Sở dĩ y thua cũng bởi vì đám đệ tử phái Tinh Tú sợ chết, đứa nào đứa nấy bỏ chạy cho nhanh, không khẳng khái tựu nghĩa như bọn đệ tử Cái Bang, gặp nguy không trốn tránh. Y chợt nghĩ ra một kế ngửng mặt lên trời cười ha hả.
A Tử nhíu mày hỏi:
- Cười ư? Ngươi còn cười được sao? Có gì đáng cười?
Đinh Xuân Thu vẫn cười dài liên tiếp, đột nhiên vù vù vù bảy tám tên đệ tử Tinh Tú bị y dùng liên châu thủ pháp nhanh nhẹn dị thường chộp lấy ném ra, hết đứa này tới đưa khác về phía Du Thản Chi, chẳng khác gì bắn liên châu tiễn.
Du Thản Chi nào có biết công phu Liên Châu Hủ Thi Độc, chỉ chộp được ba tên đệ tử Cái Bang ném ra, đến tên thứ tư thì vươn tay không kịp, trong cơn khẩn cấp bèn nhảy vọt lên, cách tránh né này không phải nhảy về sau, không thể tính là bỏ chạy nên không ai dám nói là đã thua.
Đinh Xuân Thu đang muốn cho y tránh né, tay trái liền vẫy một cái, A Tử kinh hoảng kêu lên, thân hình nhảy vọt về phía Đinh Xuân Thu. Người đứng chúng quanh thấy thế không khỏi thất sắc. Cầm Long Công, Khống Hạc Công các loại công phu nếu luyện đến mức thượng thừa đều có thể lăng không thu vật, nhưng có giỏi lắm cũng chỉ bắt người, đoạt binh khí trong vòng bốn năm thước. Trong võ thuật cũng có môn Cách Sơn Đả Ngưu là để hình dung cao thủ dùng Phách Không Chưởng, Vô Hình Thần Quyền sử dụng hư kình mà đả thương được người khác, nhưng dẫu có là cao thủ tuyệt đính, cũng chẳng cách nào vận nội lực ra xa đến hai trượng. 
Đinh Xuân Thu lúc này ở cách A Tử đến sáu bảy trượng, vậy mà vẫy tay một cái đã khiến nàng ngã xuống ngựa, kèó lại bắt, võ công cao siêu như thế quả là ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Trong đám người vây quanh không ít cao thủ nhưng nếu so sánh chiêu này với Đinh Xuân Thu thì quả không thể nào bì kịp, ai nấy vừa kinh hãi vừa khâm phục.
Thế nhưng có ai biết đâu Đinh Xuân Thu bắt giữ A Tử nào có phải là công phu chân thực mà toàn nhờ vào Nhu Ti Sách, một trong Tinh Tú Tam Bảo. Nhu Ti Sách lấy từ tơ của con tằm tuyết ở gần bên biển Tinh Tú. Con tằm tuyết này trời sinh sống trên các cây dâu, nhỏ hơn những con tằm thường nhiều, không có độc tính nhưng nhả ra một loại tơ bền chắc hơn tơ thường, một sợi tơ cũng không dễ gì bứt đứt được. Thế nhưng giống tuyết tàm này không biết làm kén, nhả tơ rất ít lại cũng cực kỳ khó kiếm. Hôm trước A Tử dùng một chiếc lưới cá trong suốt để bắt Chử Vạn Lý, ép ông ta nhục quá phải tự tận, cái lưới đó cũng chỉ có một phần nhỏ loại tơ này. Cái lưới của Đinh Xuân Thu hoàn toàn làm bằng tơ con tuyết tàm, vửa mỏng mảnh lại vừa trong suốt, mắt thường không sao thấy được, y ném liên tiếp chín tên môn đệ lại đồng thời tung chiếc Nhu Ti Sách ra. Chín cái thây độc kia vừa đẩy Du Thản Chi phải lùi ra xa lại vừa mà mắt mọi người, khiến cho ai nấy chú ý đến Liên Châu Hủ Thi Độc nên khi Nhu Ti Sách tung ra không ai phát giác.
Đến khi A Tử thấy tơ mềm quấn quanh người mình rồi thì đã bị Đinh Xuân Thu kéo đi. Nói là Đinh Xuân Thu ma mãnh nhưng cái lưởi nhỏ và nhẹ như không ấy ném ra xa sáu bảy trượng mà các cao thủ không ai hay biết, chỉ một chiêu đã bắt được người, công lực quả thật phi phàm. Y giơ tay nắm lấy sau lưng A Tử, tay phải điểm các huyệt đạo, Nhu Ti Sách đã rút về trong tay áo rồi. Ném xác chết, tung lưới ra, vẫy tay thu về, bắt người tất cả chỉ trong vòng một tiếng cười ha hả, đến khi nắm được A Tử trong tay tiếng cười vẫn còn chưa dứt. Tiếng cười đó cũng là để dẫn dụ mọi người trong thuật che mắt của y.
Du Thản Chi còn đang ở trên không đã thấy A Tử bị bắt rồi, kinh hoàng liền tung người về trước, sáu cái xác người vùn vụt dưới chân y. Chân trái y vừa chạm đất, hữu chưởng đã đánh về phía Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu giơ tay trái ra, lập tức đưa A Tử ra đỡ chiêu vỡ bia tan đá của Du Thản Chi. Du Thản Chi tuy võ công cao cường nhưng kinhn nghiệm ứng biến lâm địch lại hoàn toàn chưa có gì cả, thấy chưởng lực của mình ắt sẽ đánh cho A Tử tan xương nát thịt, lập tức vội thu hồi.
Thế nhưng khi y phát chưởng đã dùng toàn lực, làm sao có thể thu về một cách gấp rút? Vốn dĩ những người võ công bậc trung cũng biết được chỉ cần lệch qua một bên là sẽ không làm A Tử bị thương, có điều Du Thản Chi đối với A Tử quá mức kính yêu, vừa thấy không xong chỉ biết thu chưởng hồi lực, không còn nghĩ ngợi gì khác, đem tất cả chưởng lực thu về có khác nào dùng chưởng đó tự đánh vào ngực mình. Y lập tức loạng choạng, oa lên một tiếng hộc ra một ngụm máu tươi.
Nếu như người nội lực yếu, một chưởng đó ắt đã mất mạng rồi, thế nhưng cũng may y tu tập Dịch Cân Kinh có chút thành tựu, chưởng đó tuy chẳng nhẹ nhàng, vừa toan hít một hơi nhưng Đinh Xuân Thu đời nào để cho y có thì giờ mà thở, vù vù vù vù đánh luôn ra bốn chưởng. Nội tức của Du Thản Chi từ đan điền chưa vận lên được, chỉ đành múa chưởng đánh ra, tiếp luôn bốn chưởng, mỗi lần lại hộc máu, bốn chưởng hộc máu đen bốn lần.
Đinh Xuân Thu đắc thế đời nào nhường ai, đánh luôn chưởng thứ năm toan lấy mạng Du Thản Chi. Chỉ nghe chung quanh mấy người kêu lên:
- Đinh lão quái chớ vội hành hung!
- Ngừng tay!
- Tiếp ta một chiêu!
Huyền Từ, Quán Tâm, Đạo Thanh các vị cao tăng, luôn những anh hùng hiệp sĩ các lộ, không ai nỡ nhìn bang chủ Cái Bang chết dưới tay Đinh Xuân Thu, vừa quát mắng vừa ào ra cứu viện.
Ngờ đâu chưởng thứ năm của Đinh Xuân Thu đánh ra, Du Thản Chi trả lại một chưởng, Đinh Xuân Thu thân hình lảo đảo phải lùi lại một bước. Các cao thủ thấy thế biết ngay chiêu này Đinh Xuân Thu đã bị lép vế rồi, lập tức dừng lại không tiến lên giúp đỡ nữa. Thì ra Du Thản Chi hộc ra bốn ngụm máu bầm rồi, nội tức đã thông, chưởng thứ năm đã vận được chất kỳ độc của con băng tàm và nội công Dịch Cân Kinh ra.
Nếu Đinh Xuân Thu dùng chưởng chống lại thì không phải là địch thủ nhưng vì Đinh Xuân Thu chiếm được tiên cơ đánh Du Thản Chi bị thương rồi khiến cho nội lực của y suy giảm nhiều, nếu không song chưởng đụng nhau thể nào y cũng phải lùi lại đến năm sáu bước.
Đinh Xuân Thu trong ngực trộn trạo, những vẫn chưa chịu thua, lập tức vận đủ mười thành công lực, quát lên một tiếng, râu tóc dựng ngược, ào một chưởng đánh ra. Du Thản Chi tiến lên một bước, đón lấy chưởng của y, kêu lên:
- Mau bỏ Đoàn cô nương xuống!
Vù vù vù vù liên tiếp bốn chưởng, mỗi lần đánh ra lại tiến lên một bước. Năm bước đó tiến lên rồi, mặt đã sát ngay mặt Đinh Xuân Thu, vừa vươn tay là đã nắm được A Tử rồi. Đinh Xuân Thu chưởng lực đã không địch lại, thấy khuôn mặt như xác chết của y trong bụng cũng hoảng, mỉm cười nói:
- Ta lại sử dụng Hủ Thi Độc công phu, ngươi cẩn thận nhé.
Nói xong nhắc A Tử lên, nhứ nhứ mấy cái. Du Thản Chi vội lêu lên:
- Chớ! Chớ! Chớ có làm thế!
Giọng y run rẩy đủ biết kinh hoàng cực điểm, biết rằng nếu Đinh Xuân Thu dùng công phu Hủ Thi Độc thì A Tử sẽ thành một xác chết ngay. Đinh Xuân Thu nghe thấy giọng y hoảng hốt như thế, lập tức hiểu ngay: “Thì ra thằng nhỏ mê tít con bé thối tha này, ha ha, hay lắm, quả thực hay biết mấy”. Y bắt giữ A Tử vốn chỉ muốn xử tử nàng trước mặt mọi người để khỏi ai tranh giành chức chưởng môn phái Tinh Tú, bây giờ thấy điệu bộ của Du Thản Chi, nẩy ra ý định dùng A Tử làm con tin, hiếp chế gã bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền võ công còn cao hơn cả mình này, bèn nói:
- Ngươi không muốn nó chết phải không?
Du Thản Chi kêu lên:
- Ông … ông … ông mau thả cô ta ra, cái đó … cái đó nguy hiểm lắm …
Đinh Xuân Thu lại cười lên một tiếng nói:
- Ta muốn giết nó thật chẳng tốn chút hơi, sao lại phải thả là sao? Nó là phản đồ của bản phái, không coi tôn trưởng vào đâu, không giết thì còn giết ai bây giờ?
Du Thản Chi đáp:
- Cái đó … cái cô nương A Tử này, dù gì chăng nữa ông cũng không nên hại cô ta, ông đã làm mù mắt cô ta rồi, vậy xin, tôi van ông, thả cô ta xuống, ta … ta sẽ tạ ơn thật hậu.
Y nói năng chẳng đâu vào đâu đủ biết đối với A Tử hết sức quan tâm, thật chẳng còn vẻ gì là bang chủ Cái Bang nữa. Đinh Xuân Thu thấy y nội lực âm hàn hùng mạnh, nghe giọng nói, giống hệt gã đầu sắt, nhưng trên đầu y nào có cái lồng đâu, mà gã đầu sắt sao bây giờ lại làm bang chủ Cái Bang? Thế nhưng y không có rảnh đâu mà nghĩ ngợi bèn nói:
- Muốn ta tha cái mạng nhỏ của cô nàng thì cũng không có gì là khó, chỉ cần nghe lời ta vài việc thôi.
Du Thản Chi vội vàng đáp:
- Để tôi làm, để tôi làm! Dù có trăm việc, nghìn việc tôi cũng làm.
Đinh Xuân Thu nghe y nói thế, trong bụng mừng thầm, gật đầu nói:
- Hay lắm! Việc đầu tiên là, ngươi phải lập tức lạy ta làm thầy, từ nay thành đệ tử phái Tinh Tú.
Du Thản Chi chẳng chần chừ chút nào, quì ngay xuống nói:
- Sư phụ ở trên, đệ tử … đệ tử Trang Tụ Hiền khấu đầu.
Y trong bụng nghĩ thầm: “Ta vốn dĩ là đệ tử của ông rồi, cũng đã rập đầu rồi, có lạy thêm một lần nữa thì cũng đã sao đâu?”. Y vừa quì xuống, quần hùng đã nhốn nháo cả lên. Trong Cái Bang từ các trưởng lão đổ xuống, ai nấy phẫn nộ cùng cực, nghĩ thầm: “Bang chúng ta là đại bang số một thiên hạ, xưa nay vẫn làm chuyện hiệp nghĩa, ai đời bang chủ lại đi lạy một gã nổi tiếng tà ác làm thầy. Mình không còn có thể coi y là bang chủ được nữa”.
Bỗng nghe chiêng trống, đàn sáo nổi lên, môn nhân phái Tinh Tú lớn tiếng reo hò, tiếng ca tụng Tinh Tú lão tiên tưởng như vang lên đến chín tầng mây, bao nhiêu những lời nịnh bợ nghe mà ngứa cả tai, không một ai có thể tưởng nổi, nào là nhật nguyệt không sáng bằng Tinh Tú lão tiên, trời đất không vĩ đại bằng Tinh Tú lão tiên, từ khi họ Bàn Cổ khai thiên lập địa đến giờ, không một ai uy đức hơn lão tiên được. Chu Công, Khổng Tử, Phật Tổ, Lão Quân, chó chí Ngọc Hoàng đại đế, Thập Điện Diêm Vương cũng phải chịu lép một bề.
Khi A Tử bị Đinh Xuân Thu bắt giữ, Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc hai người tái mặt, tự biết mình bản lĩnh không địch nổi Tinh Tú Lão Quái không thể nào cứu con ra khỏi tay ông ta được, lại thấy Trang Tụ Hiền vì nàng mà uốn lưng cong gối, nghe lời sai bảo, quả thực ra ngoài ý muốn. Nguyễn Tinh Trúc vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói nhỏ: 
- Ông xem người ta tình sâu nghĩa nặng đến thế, có đâu như ông … như ông vạn phần không được một.
Đoàn Dự đưa mắt liếc Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Ta đối với Vương cô nương một mối thâm tình, có thể nói không còn đâu hơn nữa. Thế nhưng nếu so với vị Trang bang chủ này thì còn kém xa. Y quả là bậc thánh hiền trong tình trường! Ví thử Vương cô nương bị Tinh Tú Lão Quái bắt giữ, liệu ta có dám trước đông đủ mọi người quì xuống hay không?”. Nghĩ đến đây, trong người khí huyết như sôi lên, thấy rằng vì Vương Ngữ Yên thì dù có chết vạn lần cũng cam lòng, chuyện chịu nhục trước mặt người khác thì nào có đáng gì đâu, buột miệng kêu lên:
- Dám chứ! Dám lắm chứ!
Vương Ngữ Yên lạ lùng hỏi:
- Anh dám làm gì?
Đoàn Dự mặt đỏ lên, bẽn lẽn nói:
- Ồ, cái đó …
Du Thản Chi rập đầu mấy cái rồi đứng lên, thấy Đinh Xuân Thu vẫn nắm A Tử chưa chịu thả, gương mặt cô gái nhăn lại xem chừng cực kỳ thống khổ vội nói:
- Sư phụ! Xin lão nhân gia thả nàng ra.
Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:
- Con tiểu a đầu này lớn mật nói càn, đâu có thể dễ dàng tha cho nó được? Trừ khi ngươi lấy công chuộc tội, làm cho ta vài chuyện mà thôi.
Du Thản Chi vội đáp:
- Được, được! Sư phụ muốn đệ tử lập công lao gì?
Đinh Xuân Thu nói:
- Ngươi ra khiêu chiến với Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, giết quách y đi.
Du Thản Chi ngập ngừng:
- Đệ tử và phái Thiếu Lâm không thù không oán, Cái Bang tuy muốn tranh hùng cùng phái Thiếu Lâm, nhưng chắc không cần phải giết người.
Đinh Xuân Thu sầm mặt xuống, giận dữ quát:
- Ngươi chống lại sư mệnh, đủ biết lạy ta làm thầy đều chỉ là láo toét.
Du Thản Chi chỉ mong sao A Tử được bình yên thoát hiểm, nào còn lý gì đến đạo nghĩa giang hồ, thị phi công luận vội đáp:
- Vâng! Thế nhưng phái Thiếu Lâm võ công cao lắm, đệ tử hết sức mà làm … sư phụ … lời sư phụ không thể không tính, xin đừng gia hại A Tử cô nương!
Đinh Xuân Thu thản nhiên đáp:
- Giết hay không giết Huyền Từ là do ngươi, giết hay không giết A Tử là quyền ở ta.
Du Thản Chi xoay người lại, lớn tiếng nói:
- Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, phái Thiếu Lâm đứng đầu các môn các phái còn Cái Bang là bang lớn nhất trên giang hồ, trước nay vốn cùng sánh vai đứng tại trung nguyên, không ai thống thuộc được ai. Hôm nay mình phân xem bên nào cao, bên nào thấp, bên thắng là minh chủ võ lâm, còn bên thua phải phục tòng hiệu lệnh minh chủ, không được trái lời.
Ánh mắt y quét qua quần hào nói tiếp:
- Các vị anh hùng hảo hán trong thiên hạ, hôm nay tụ tập dưới núi Thiếu Thất, nếu có vị nào không phục thì cứ việc đứng ra khiêu chiến với minh chủ võ lâm.
Y nói thế, tưởng như mình đã là minh chủ võ lâm rồi. Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đối đáp với nhau, thanh âm tuy không lớn lắm nhưng những người nội công thâm hậu đều nghe rõ từng câu từng chữ. Các cao tăng chùa Thiếu Lâm nghe thấy Đinh Xuân Thu công khai sai Du Thản Chi ra giết phương trượng Huyền Từ, không ai không tức tối, nhưng vừa xem hai người hiển thị công lực, Du Thản Chi vừa tà vừa mạnh, Huyền Từ phương trượng có địch nổi hay không cũng còn chưa thể nói được vì các loại độc công tà thuật không phải dễ dàng gì đối phó.
Huyền Từ vốn không muốn cùng y động thủ, nhưng Du Thản Chi đã công nhiên khiêu chiến mình trước mặt quần hùng, không còn cách gì có thể từ chối, đành phải chắp tay nói:
- Cái Bang mấy trăm năm qua, đều theo con đường hiệp nghĩa ở trung nguyên, anh hùng thiên hạ không ai là không kính ngưỡng. Bang chủ tiền nhiệm của quí bang Uông Kiếm Thông bang chủ, có giao tình với tệ phái không ít. Trang thí chủ mới đảm nhiệm chức bang chủ, tệ phái được tin trễ nên không kịp sai người đến chúc mừng, không khỏi có tội sơ xuất, nay xin tạ lỗi. Các đệ tử tăng tục của tệ phái trước nay đối với quí bang cực kỳ tôn kính, cái giao tình mấy trăm năm giữa Thiếu Lâm và Cái Bang chưa từng mất hòa khí bao giờ. Không hiểu vì cớ gì hôm nay Trang bang chủ lại hưng binh vấn tội, xin nói cho biết. Anh hùng thiên hạ hôm nay có mặt đông đủ nơi đây, phải trái ngay cong, ắt có công luận.
Du Thản Chi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, bất học vô thuật, làm sao biện luận được với Huyền Từ? Thế nhưng trước khi y đến chùa Thiếu Lâm cũng đã được Toàn Quan Thanh dạy cách ăn nói, lập tức trả lời:
- Nước Đại Tống ta nam có nước Liêu, tây có Tây Hạ, Thổ Phồn, bắc có Đại Lý, bốn bề tứ di dòm ngó, cái đó … cái đó …
Y đem Bắc có nước Liêu, Nam có Đại Lý nói trật phương hướng, khiến cho người nghe có tiếng cười khúc khích. Du Thản Chi biết mình nói sai nhưng không sao rút lại được, không khỏi mười phần sượng sùng, cũng may có mang mặt nạ da người nên không ai nhìn thấy sắc diện y ra sao. Y ngượng nghịu ậm ừ mấy tiếng rồi lại nói tiếp:
- Nước Đại Tống ta binh thưa tướng ít, quốc thế suy yếu, chỉ còn trông vào võ lâm nghĩa sĩ, giang hồ đồng đạo chúng ta một lòng khuông phù, có thế mới có thể ngoài chống cường địch, trong trừ kẻ gian.
Quần hùng nghe y nói có lý cùng tấm tắc:
- Phải lắm! Phải lắm!
Du Thản Chi lên tinh thần, lại hùng hồn tiếp:
- Có điều mấy năm nay cái họa từ bên ngoài mỗi lúc một sâu, cái gánh nặng trên vai chúng ta, mỗi ngày thêm nặng, nếu không tề tâm hợp lực cùng đối phó với nguy nan thì không thể nào làm nổi. Có điều các môn các phái, các bang các hội, người này đánh lẫn người kia, rồi mình lại đánh mình, nói chung ra là không sao có thể một lòng một dạ. Gã Kiều Phong Khất Đan kia chỉ đơn thương độc mã đến đánh cho một trận thì hào kiệt Trung Nguyên đã thua rồi, huống hồ gì đến Tây Vực Tinh Tú Hải Tinh Tú lão … Tinh Tú lão … Tinh Tú lão … cái Tinh Tú lão..,hèm, y từng sát hại hai cao tăng của phái Thiếu Lâm … cái đó … cái đó …
Toàn Quan Thanh vốn đã dậy cho y rằng “Tây Vực Tinh Tú hải Tinh Tú Lão Quái đã từng sát hại hai cao tăng của phái Thiếu Lâm, vậy mà phái Thiếu Lâm đành bó tay không làm gì được”, Du Thản Chi đã thuộc làu làu, bây giờ lời ra đến cửa miệng xem chừng không ổn, nên cứ ấp úng mãi “Tinh Tú lão..”.
Trong đám quần hùng có người kêu lên:
- Y là Tinh Tú Lão Quái, còn người thì là Tinh Tú tiểu yêu!
Lập tức có một số đông cười lên ha hả. Môn nhân phái Tinh Tú lập túc hát vang:
Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,
Tài đức kia như thể đất trời.
Uy danh lừng lẫy cõi đời,
Cổ kim chưa có ai người sánh ngang.
Cả nghìn người cùng cất tiếng gào lên, bao nhiêu tiếng cười của quần hùng liền bị át đi. Tiếng hát chưa dứt, trong đám người liền có tiếng rè rè thật khó nghe cũng hát theo:
Phái Tinh Tú lão tiên xuất thế,
Tài đức kia như thể đất trời.
Uy danh lừng lẫy cõi đời,
Mấy câu đó và điệu hát giống hệt bọn người của phái Tinh Tú. Môn nhân phái Tinh Tú thấy có người ngoài cũng có người ca công tụng đức lão tiên bản phái, việc này xưa nay chưa từng có, thật còn hơn người trong nhà tự mình ca tụng mình. Bọn họ mừng rỡ, vội vàng khua chiên đánh trống, đàn sáo vang lừng, đột nhiên câu thứ tư chuyển sang ngay xuống:
Khác chi rắm chó ai người thối hơn.
Các môn nhân còn đang sững sờ, đàn sáo chống chiêng phụ họa nửa chừng không kịp thu hồi, vẫn tiếp tục chập choeng cho tới hết khiến câu “Khác chi rắm chó ai người thối hơn” nghe thật lọt tai.
Quần hùng cười đền bò lăn bò càng, còn người trong phái Tinh Tú thì ngoạc mồm chửi rủa, Vương Ngữ Yên cũng phải mỉm cười:
- Bao tam ca hát hay quá!
Bao Bất Đồng đáp:
- Không dám! Dở eẹc hà!
Bốn câu đó chính là kiệt tác của Bao Bất Đồng. Du Thản Chi lợi dụng khi mọi người đang náo loạn cả lên vội cúi xuống thì thầm với Toàn Quan Thanh mấy câu, rồi lại dõng dạc nói tiếp:
- Nước Đại Tống ta quốc bộ gian nguy, giang hồ dồng đạo lại không tề tâm hiệp lực, để đến nỗi bị Phiên bang ức hiếp. Vì thế Cái Bang chủ trương lập ra một vị minh chủ võ lâm để cho mọi người nghe theo hiệu lệnh, nếu như có đại sự phát sinh thì không đến nỗi rối loạn. Huyền Từ phương trượng, ngài có tán thành không?
Huyền Từ khoan thai nói:
- Lời của Trang bang chủ quả là có lý. Thế nhưng lão nạp có một chuyện chưa được tỏ tường, muốn xin thỉnh giáo.
Du Thản Chi hỏi lại:
- Chuyện gì?
Huyền Từ đáp:
- Trang bang chủ đã bái Đinh tiên sinh làm thầy, hẳn phải là môn nhân phái Tinh Tú, có phải thế không?
Du Thản Chi nói:
- Chuyện đó … chuyện đó là việc riêng của mỗ, đâu có liên quan gì đến đại sư.
Huyền Từ nói:
- Phái Tinh Tú là môn phái bên Tây Vực, đâu có phải đồng đạo võ lâm với Đại Tống chúng ta. Việc Đại Tống lập hay không lập minh chủ võ lâm, không có liên can gì đến phái Tinh Tú. Nếu như võ lâm đồng đạo Trung Nguyên muốn suy cử một vị minh chủ để dễ bề thống lĩnh trù tính, các hạ là người của phái Tinh Tú cũng không thể nào tham dự được.
Các vị anh hùng liền nhao nhao lên:
- Đúng lắm!
- Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm thật phải.
- Ngươi là chó săn đầy tớ của môn phái Phiên bang, sao lại vọng tưởng chức minh chủ võ lâm Trung Nguyên được?
Du Thản Chi không biết phải đối đáp làm sao, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu, rồi lại quay sang Toàn Quan Thanh mong hai người lên tiếng gỡ cho mình. Đinh Xuân Thu tằng hắng một tiếng nói:
- Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm sai rồi. Lão phu vốn người đất Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, sinh trưởng ở xứ của thánh nhân, phái Tinh Tú một mình lão phu sáng lập, sao lại bảo là Phiên bang Tây Vực được? Phái Tinh Tú tuy ở Tây Vực, chẳng qua là nơi tạm thời ẩn cư của lão phu mà thôi. Ngươi bảo phái Tinh Tú là môn phái Phiên bang, thế thì Khổng phu tử cũng là người Phiên bang sao, nực cười ơi là nực cười? Nói đến Tây Vực Phiên bang, võ công Thiếu Lâm vốn là do tổ sư Đạt Ma người Thiên Trúc, ngay cả Phật giáo cũng là từ Phiên bang Tây Vực mà ra, ta xem chính phái Thiếu Lâm mới thực là môn phái Phiên bang đó!
Lời của y nói ra, cả Huyền Từ lẫn quần hùng đều cảm thấy khó mà cãi lại được. Toàn Quan Thanh cũng dõng dạc nói:
- Võ công trong thiên hạ, nguồn gốc từ đâu mà ra cũng thật khó mà biết. Võ công từ Tây Vực truyền sang Trung Thổ cũng có mà võ công Trung Thổ truyền sang Tây Vực cũng có. Trang bang chủ của chúng tôi là người Trung Thổ, Cái Bang vốn cũng là môn phái Trung Nguyên, dĩ nhiên y phải là nhân vật lãnh tụ của võ lâm Trung Nguyên rồi. Huyền Từ phương trượng, việc hôm nay lấy võ công cường nhược ra định hơn thua, chứ không thể lấy miệng lưỡi ngôn từ để phân thắng bại được. Cái Bang và Thiếu Lâm ai yếu ai mạnh, chỉ cần hai vị thủ lãnh ra tay so tài, kẻ cao người thấp biết ngay, chứ nói dông nói dài thì phỏng có ích gì đâu? Còn như nếu ông biết thân biết phận, không muốn động thủ với tệ bang chủ thì chỉ cam chịu nước lép, nhường cho bang chủ chúng tôi chức võ lâm minh chủ là xong, còn như không ra tay không thể được.
Lời nói đó rõ ràng y muốn bảo là Huyền Từ biết mình địch không lại nên dùng dằng từ chối. Huyền Từ tiến lên hai bước, nói:
- Trang bang chủ, nếu như ngươi nhất định đòi lão nạp ra tay, nếu như lão nạp vẫn cứ chấp nê vào cái tình cố cựu của quí bang với tệ phái mà không chịu nghe thì lại hóa ra bất kính với quí bang.
Ông đưa mắt nhìn khắp quần hùng một lượt rồi dõng dạc nói:
- Anh hùng thiên hạ, hôm nay tất cả mọi người ai cũng thấy rồi, phái Thiếu Lâm quyết không có ý tranh hùng đấu thắng với Cái Bang, nhưng vì bang chủ Cái Bang nhất định dồn ép, lão nạp không còn đường nào mà lùi, không còn cách nào mà tránh.
Quần hùng liền nhao nhao lên:
- Phải lắm, tất cả chúng ta làm chứng, phái Thiếu Lâm thật không đuối lý chút nào.

datlucky_way

26-07-2009 07:40 PM

Hồi 41(b) : YÊN VÂN THẬP BÁT PHI KỴ BÔN ĐẰNG NHƯ HỔ PHONG YÊN CỬ 






Bấm vào đây để xem nội dung.


Yên vân ngựa chạy như tên,
Lung linh sương khói đến bên chân đồi.
Trên lưng tráng sĩ ai ngồi,
Hùm beo xuống núi vẫn đầy uy nghi.
*
* *







Du Thản Chi lo cho an nguy của A Tử, chỉ chăm chăm sao sớm giết được Huyền Từ để làm tròn lời Đinh Xuân Thu sai bảo bèn dõng dạc nói:
- Tỉ võ giao đấu, mạnh sống yếu chết, nói quái gì đến đuối lý hay không đuối lý, mau mau ra tay đi thôi.
Y lúc bé lười học, bản chất tuy chẳng phải là đứa thuần lương nhưng cũng chỉ là một thanh niên ngờ nghệch. Đến khi cha chết rồi, lang bạt giang hồ, bị người ta khinh khi hiếp đáp, chẳng có một ai thông minh chính trực dạy cho điều hay lẽ phải, mấy năm gần đây lại kề cận A Tử sớm hôm, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, huống chi y nhất tâm nhất y sùng kính A Tử, rau nào sâu nấy, đâu có phân biệt thị phi thiện ác thành thử học rặt một đường của phái Tinh Tú.
Môn phái Tinh Tú võ công nào cũng toàn do độc ác đểu cáng mà thủ thắng, lại được Toàn Quan Thanh hết sức giúp đỡ để giựt cho bằng được cái chức vị bang chủ Cái Bang, dạy y toàn những thủ đoạn giết người không nể nang, năm chầy tháng cũ tích góp lại, từ một cậu ấm con nhà danh môn đệ tử Trung Nguyên biến thành một gã cậy mạnh hiếp người, không phân thiện ác.
Huyền Từ lớn tiếng nói:
- Lời của Trang bang chủ, so với cái tiếng nhân hiệp mấy trăm năm của Cái Bang thật không xứng chút nào.
Du Thản Chi nhún người một cái đã nhảy vọt ra hơn một trượng nói:
- Muốn đánh thì ra đây, nếu không thì dang ra một bên cho rồi.
Y vừa nói vừa liếc qua nhìn Đinh Xuân Thu và A Tử, áng chừng vô cùng sốt ruột. Huyền Từ đáp:
- Được, hôm nay lão nạp xin lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp hai tuyệt kỹ của Trang bang chủ để anh hùng thiên hạ được chiêm ngưỡng công phu đích truyền của Cái Bang mấy trăm năm qua.
Du Thản Chi sững sờ, không tự chủ nổi phải thụt lùi hai bước. Y tuy tiếp nhiệm chức vụ bang chủ Cái Bang nhưng hai tuyệt kỹ Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp chẳng biết một chiêu nào, có điều cũng đã nghe các trưởng lão Cái Bang xầm xì rằng hai môn này là Trấn Bang Thần Công. Hàng Long Thập Bát Chưởng thì đôi khi cũng truyền cho người không phải là bang chủ, còn Đả Cẩu Bổng Pháp thì nhất định chỉ truyền cho bang chủ mà thôi, trong mấy trăm năm qua không một bang chủ nào của Cái Bang không biết môn này.
Huyền Từ lại tiếp:
- Lão nạp xin sử dụng Đại Kim Cương Chưởng của bản phái ra tiếp Hàng Long Thập Bát Chưởng và dùng Hàng Ma thiền trượng để tiếp Đả Cẩu Bổng của bang chủ. Ôi, phái Thiếu Lâm và quí bang đời đời giao hảo, hai môn võ công này trước nay rèn luyện thì có nhưng chưa bao giờ dùng để đối địch quá chiêu, lão nạp vô đức, thật hổ thẹn với các đời bang chủ Cái Bang cùng các đời chưởng môn phái Thiếu Lâm từ trước tới nay.
Ông chắp hai tay lại, chính là chiêu Lễ Kính Như Lai, khởi thủ thức của Đại Kim Cương Chưởng, vẻ mặt hiền hòa nhưng tăng y phồng ra hai bên, đủ biết trong chiêu này uẩn tàng đầy nội lực thật cao thâm.
Du Thản Chi không nói năng gì, tay trái lăng không chém ra, chưởng phải cũng nhanh nhẹn vô cùng đẩy tới, chưởng lực bên trái ra trước mà đền sau, chưởng lực bên phải ra sau tới trước, hai luồng lực đâo đan chéo nhau, cực kỳ lạ lùng, chưởng lực hai bên giữa đường đụng nhau, nghe ầm một tiếng cùng tiêu tan nhưng nghe bựt bựt hai tiếng, đai lưng của Huyền Từ hai đầu đều đứt, bay vụt qua hai bên cả trượng. Hai luồng chưởng lực của Du Thản Chi phạm vi rất rộng, lực đạo tấn công tới bị chiêu Lễ Kính Như Lai tiêu giải nhưng ở hai bên lực đạo của y cũng ép tới làm đứt sợi dây đai.
Tăng lữ phái Thiếu Lâm và quần hùng thấy thế cùng nhao nhao kêu lên:
- Đây là công phu tà môn của phái Tinh Tú.
- Không phải là Hàng Long Thập Bát Chưởng.
- Không phải công phu của Cái Bang.
Trong Cái Bang cũng có đệ tử kêu lên:
- Chúng ta tỉ võ với phái Thiếu Lâm, không được dùng công phu tà môn.
- Bang chủ phải sử dụng Hàng Long Thập Bát Chưởng mới phải.
- Sử dụng công phu tà môn thì thật mất mặt cho Cái Bang.
Du Thản Chi nghe chung quanh la ó, trong bụng không khỏi chần chừ, chiêu thứ hai không sử ra được nữa. Thế nhưng người trong phái Tinh Tú cũng nhao nhao lên:
- Thần công phái Tinh Tú so với Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang mạnh hơn nhiều, sao lại không được sử dụng mà lại dùng thứ kém hơn?
- Trang sư huynh, lên nữa đi. Đương nhiên là dùng công phu thần công của ân sư Tinh Tú lão tiên truyền cho, tiến lên làm thịt lão sư già.
- Tinh Tú thần công, trên đời số một, đánh đâu thắng đó, vào đâu cũng lọt. Hàng Long xú chưởng, thối như rắm chó.
Trong khi tiếng người còn nhao nhao rức lác, bỗng nghe từ dưới chân núi có tiếng hùng tráng vọng lên:
- Ai dám bảo là võ công phái Tinh Tú lại hơn được Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang?
Thanh âm đó không có gì là vang dội nhưng rõ ràng từng tiếng truyền vào tai mọi người, ai nấy ngạc nhiên, lập tức im bặt. Chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa rồn rã, hơn chục người giục ngựa chạy lên, trên lưng người nào cũng khoác áo choàng đen mỏng bằng lông cừu, bên trong là áo vải cũng màu đen, nhưng người thì như hổ, ngựa thì tựa rồng, kẻ cưỡi đã dắn dỏi mà tọa kỵ cũng là tuấn mã, con nào con nấy đầu ngẩng cao, chân dài, toàn thân đen tuyền, khi chạy đến gần quần hùng thấy sáng lóe lên, ánh vàng lấp lánh, thì ra móng những con ngựa đều đóng bằng hoàng kim. Chạy đến tất cả là mười chín con ngựa, tuy người không đông nhưng khí thế hùng tráng chẳng khác gì thiên quân vạn mã, mười tám con ngựa đi trước chạy tới nơi lập tức tẽ ra thành hai hàng đứng hai bên chỉ còn người sau cùng giục ngựa chạy tới.
Một số lớn người trong Cái Bang reo ầm lên:
- Kiều bang chủ! Kiều bang chủ!
Lập tức có mấy trăm bang chúng chạy vụt ra, dừng chân trước con ngựa của người kia khom lưng tham kiến.
Người đó chính là Tiêu Phong. Từ khi ông ta bị trục xuất ra khỏi Cái Bang vẫn tưởng anh em trong bang ai nấy coi mình như khấu thù, không ngờ tuy bạn thù phân biệt rồi vẫn còn rất nhiều huynh đệ cũ nhiệt tình chạy đến ra mắ khiến cho máu nóng bất giác trào lên, hổ mục hàm lệ, xoay mình nhảy xuống ôm quyền hoàn lễ nói:
- Tiêu Phong người Khất Đan đã bị trục xuất, cùng Cái Bang không còn liên can gì nữa, chúng vị sao còn xưng họ như thuở nào là sao? Các anh em từ khi từ biệt tới nay vẫn mạnh khỏe chứ?
Mấy câu sau cùng, tình cũ nghĩa xưa chan chứa, không khỏi bồi hồi. Những người chạy ra tham kiến chỉ toàn là đệ tử ba, bốn túi. Những người một hai túi là những đệ tử mới gia nhập, ít có cơ hội gặp được Tiêu Phong, còn năm sáu túi trở lên thì dè chừng kẻ Di người Hạ, tuổi tác cũng lớn, chức vụ cũng cao, không như những người trẻ nghĩ gì làm nấy, không biết ý tứ gì.
Mấy trăm đệ tử nghe ông nói thế mới tỉnh ngộ biết mình quá ư xung động, kẻ gọi là Kiều bang chủ kia chính là người Khất Đan đại đối đầu, trong bang trên dưới đều biết rõ,chẳng qua vì vừa thấy ông đột nhiên xuất hiện, cái tình quyến luyến xưa kia vẫn còn nên chạy ra quên cả chuyện lớn. Một số kẻ cúi đầu lùi về nhưng cũng không ít người vẫn còn ấp úng:
- Kiều … Kiều lão nhân gia khỏe chứ, từ khi từ biệt tới nay, không ngày nào … không ngày nào không nhớ tới lão nhân gia.
Hôm đó đột nhiên A Tử đi ra không thấy quay về, mấy ngày liền không nghe tin tức gì cả, Tiêu Phong nóng ruột vô cùng, phái rất nhiều thám tử đi dò xét. Qua mấy tháng, sau cùng mới có hồi báo, nói nàng thân bị hãm tại Cái Bang, gã đầu sắt kia cũng ở chung với nàng một chỗ.
Tiêu Phong nghe nói thế trong lòng kinh hoảng, nghĩ Cái Bang hận mình tới xương tủy, lần này bắt được A Tử rồi, ắt hẳn dùng nàng làm con tin để uy hiếp mình, nên phải làm sao cứu nàng ra ngay mới được. Ông bèn tâu lên Liêu đế, xin nghỉ hai tháng đem quân chính sự vụ của Nam Viện giao cho Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca thay mặt điều hành, tự mình xuôi nam.
Lần này Tiêu Phong trở lại Trung Nguyên là có chuẩn bị trước, Yên Vân Thập Bát Kỵ tùy tòng đều là những cao thủ hạng nhất tuyển trong các bộ tộc Khất Đan. Lần trước ông độc chiến quần hùng ở Tụ Hiền Trang, may nhờ có một vị đại anh hùng ra tay cứu nếu không thì đã bị loạn đao phân thây rồi, đủ biết dù võ công cao cường thế nào chăng nữa mà một địch trăm thì cũng không chịu nổi nên lần này dẫn Yên Vân Thập Bát Kỵ theo, người nào cũng có thể một chống mười, lại thêm ngựa cưỡi đều là thiên lý lương câu, nếu như gặp nguy, nếu chỉ mong thoát thân thì không phải là chuyện khó.
Đoàn người đi đến Hà Nam, Tiêu Phong bắt một đệ tử Cái Bang hạng thấp tra hỏi, biết được là A Tử đã lòa hai mắt, ngàng ngày cùng tân bang chủ như hình với bóng, lúc này đã đi theo y tới chùa Thiếu Lâm rồi. Tiêu Phong vừa lo vừa tức, nghĩ bụng mắt A Tử bị người ta làm mù rồi, chẳng nói cũng biết là sẽ bị người trong Cái Bang tra khảo đánh đập vô cùng thảm thiết, lập tức vội vã chạy theo, hi vọng trên đường gặp được thì ra tay cướp lấy để khỏi phải hội diện với các cao tăng phái Thiếu Lâm.
Đến núi Thiếu Thất, nghe văng vẳng môn nhân phái Tinh Tú la hét om sòm, nào là phái Tinh Tú võ công hơn xa Hàng Long Thập Bát Chưởng, không khỏi nổi cơn lôi đình. Ông tuy không còn là bang chủ Cái Bang nhưng Hàng Long Thập Bát Chưởng là do ân sư Uông Kiếm Thông đích thân truyền thụ, sao có thể để cho người ngoài khinh rẻ coi thường được?
Ông giục ngựa chạy lên, chào hỏi bọn đệ tử Cái Bang ba bốn túi xong, liếc mắt nhìn qua, thấy Đinh Xuân Thu tay nắm một cô gái áo tím, thân hình mảnh dẻ, khuôn mặt trái soan trắng ngần, chính là A Tử. Thế nhưng mắt nàng vô quang, đồng tử bị hủy rồi hiển nhiên đã mù.
Tiêu Phong trong lòng hết sức xót xa, lại thêm phẫn nộ, lập tức hùng dũng tiến tới, tay trái vạch một vòng, tay phải nhắm thẳng vào Đinh Xuân Thu đánh vù ra một chưởng, chính là chiêu Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Khi ông ra chiêu còn cách Đinh Xuân Thu đến mười lăm, mười sáu trượng nhưng nói đến là đến ngay, khi chưởng đánh ra thì hai người chỉ còn cách nhau bảy tám trượng.
Võ thuật trong thiên hạ dù chưởng lực có hùng mạnh đến bực nào thì cũng không đánh ra ngoài năm trượng. Đinh Xuân Thu đã từng nghe danh Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung nên không dám coi thường chút nào, thấy ông từ ngoài xa mười lăm, mười sáu trượng đánh tới, đâu có ngờ rằng chưởng đó đánh vào mình, lại càng không ngờ rằng chưởng Tiêu Phong vừa đánh ra thì thân hình đã tiến đến chỉ còn ba bốn trượng, lại tiếp theo một chiêu Kháng Long Hữu Hối nữa, chưởng sau đè lên chưởng trước, hai luồng chưởng lực cùng ập tới một lượt chẳng khác gì bài sơn đảo hải.
Chỉ trong một nháy mắt, Đinh Xuân Thu thấy hơi thở như nghẹn lại, chưởng lực đối phương chẳng khác gì sóng triều ụp tới, thế không sao đương cự nổi, lại chẳng như một bức tường vô hình giạt vào người. Y còn đang kinh hãi, đâu có thì giờ suy nghĩ cách chống đỡ, nhưng biết nếu giơ đơn chưởng ra nghinh địch thể nào cũng gãy tay, trật xương, không chừng gân cốt toàn thân nát nhừ, vội vàng cầm A Tử ném tới trước, song chưởng vạch liên tiếp ba hình bán nguyệt trước mặt để hộ vệ thân mình, đồng thời gót chân nhún một cái nhảy lùi về sau.
Tiêu Phong lại đánh thêm một chiêu Kháng Long Hữu Hối, chưởng lực chiêu trước chưa hết thì chiêu sau lại đến rồi. Đinh Xuân Thu không dám chống đỡ mũi nhọn từ chính diện, chưởng phải xeo xéo tung ra đánh vào chưởng lực của Tiêu Phong nhưng thấy cánh tay phải tê đi, khí tức trong ngực nặng như chì, vội vàng mượn thế nhảy ra ngoài xa ba trượng, lại sợ địch nhân tiếp tục truy kích, giơ chưởng lên che ngực, ám vận độc khí lên lòng bàn tay.
Tiêu Phong nhẹ nhàng vươn tay ra bắt lấy A Tử đang từ trên không rơi xuống, tiện tay giải huyệt cho nàng. A Tử tuy mắt không nhìn thấy, bị Đinh Xuân Thu bắt giữ không nói được nhưng những gì xảy ra ở chung quanh đều nghe rõ ràng, huyệt đạo trên người vừa giải khai lập tức mừng rỡ nói:
- Hảo tỉ phu, may quá có anh đến cứu em.
Tiêu Phong trong lòng hết sức xót xa, dịu dàng an ủi:
- A Tử, những ngày qua chắc ngươi khốn khổ lắm nhỉ, cũng tại tỉ phu làm lụy đến cô.
Ông vẫn tưởng các thủ lãnh Cái Bang hận thù ghê gớm nhưng không làm gì được, biết rằng A Tử là thân nhân duy nhất của ông nên đến Nam Kinh bắt cóc đem về, hành hạ một phen, có đâu ngờ mọi chuyện của A Tử đều do mình làm mình chịu.
Khi Tiêu Phong lên đến trên núi, quần hùng lập tức rúng động. Hôm đó đại chiến Tụ Hiền Trang, ông một thân một mình một lúc đánh chết mấy chục hảo thủ, quả là uy chấn thiên hạ. Quần hùng Trung Nguyên giận ông tận xương tủy nhưng ai nấy nghe tới cũng bạt vía kinh hồn, bây giờ đột nhiên thấy ông lên núi Thiếu Thất, chắc mẩm không thể tránh khỏi một trường ác chiến. Những người khi trước có tham dự đại hội Tụ Hiền Trang, nhớ lại cái cảnh máu chảy thịt rơi vung vãi nơi đại sảnh, bụng vẫn còn phập phồng, không khỏi ớn lạnh. Lại vừa thấy ông chỉ ra một chiêu Kháng Long Hữu Hối đã đánh cho kẻ số một đời nay là Tinh Tú Lão Quái phải cụp đuôi bỏ chạy, càng thêm sợ hãi, trên núi người nào người nấy mặt mày bần thần, không ai nói được lời nào.
Chỉ có độ vài chục môn nhân phái Tinh Tú vẫn nhơn nhơn nói không biết ngượng:
- Họ Kiều kia, trên người mi đã trúng phải tiên thuật của Tinh Tú Lão Tiên, chưa đầy mười ngày sẽ biến thành đống mủ mà chết.
- Tinh Tú Lão Tiên thấy ngươi là đồ hậu sinh tiểu bối nên mới nhường cho ngươi ba chiêu đấy thôi.
- Tinh Tú Lão Tiên thân phận nhường nào mà thèm động thủ với ngươi? Nếu mi không biết hối cải, lập tức quì xuống van xin tha mạng, sau này ắt chết không có đất mà chôn.
Có điều thanh âm tiếng được tiếng mất, không còn lớn lối như trước nữa. Du Thản Chi trông thấy Tiêu Phong trong bụng khiếp hãi, tới khi thấy ông vươn tay ôm A Tử vào lòng mà mặt nàng đầy vui sướng, cực kỳ thân thiết, không còn nhẫn nại được nữa liền nhảy tới kêu lên:
- Ông mau … mau bỏ A Tử cô nương xuống!
Tiêu Phong đặt A Tử xuống đất hỏi lại:
- Các hạ là ai?
Du Thản Chi gặp phải đôi mắt lẫm lẫm sinh uy của ông chiếu vào, lập tức chột dạ, ấp úng:
- Tại hạ … tại hạ là bang chủ Cái Bang … Trang Tụ Hiền … tức là Trang bang chủ.
Trong Cái Bang có người kêu lên:
- Ngươi đã bái nhập làm môn hạ phái Tinh Tú, sao còn làm bang chủ Cái Bang được?
Tiêu Phong giận dữ quát lớn:
- Sao ngươi dám làm hỏng đôi mắt của A Tử cô nương?
Du Thản Chi bị uy thế của ông trấn nhiếp, giật mình lùi lại hai bước nói:
- Không … không phải tôi … quả thực không phải …
A Tử nói:
- Tỉ phu, mắt em là do lão tặc Đinh Xuân Thu làm mù đó, anh mau mau móc mắt lão ra báo thù cho tiểu muội.
Tiêu Phong nhất thời không hiểu chân tướng mọi việc ra sao, đảo mắt một vòng, thấy trong đám đông có Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc, trong lòng chua xót, nhưng cũng mừng thầm lớn tiếng nói:
- Đại Lý Đoàn vương gia, lệnh ái thiêm kim ở đây, mong ông chăm sóc cho tử tế.
Ông dắt tay A Tử đi đến trước mặt Đoàn Chính Thuần, nhẹ nhàng đẩy nàng một cái. Nguyễn Tinh Trúc khóc đã đẫm cả cánh tay áo, lúc này nước mắt như mưa, vội vàng chạy ra ôm lấy A Tử nói:
- Cục cưng ơi, mắt … mắt con sao thế này?
Đoàn Dự thấy Tiêu Phong đột nhiên xuất hiện, trong lòng mừng rỡ đã toan chạy ra tương kiến nhưng ông vừa tiến lên đã vung chưởng đánh Đinh Xuân Thu, cứu A Tử rồi lại hội kiến Du Thản Chi, không có lúc nào lơi ra được. Đến khi Nguyễn Tinh Trúc ôm A Tử khóc òa lên, chàng không khỏi toát mồ hôi: “Sao Kiều đại ca lại bảo cô nương mù kia là lệnh ái thiên kim?”. Thế nhưng chàng đã hằng nghe cha mình đi đến đâu tình rơi đến đó, nên cũng đoán ngay được nội vụ, vội vàng rảo bước đi ra kêu lên:
- Đại ca, lâu nay vẫn khỏe chứ? Tiểu đệ nhớ đại ca biết chừng nào!
Tiêu Phong từ khi cùng chàng thi rượu kết nghĩa nơi thành Vô Tích đến nay, tuy mới gặp chốc lát mà tưởng chừng quen biết đã lâu, đem hết ruột gan đối đãi, ý hợp tâm đầu, lập tức tiến lên nắm chặt hai tay nói:
- Huynh đệ, từ khi xa nhau biết bao nhiêu chuyện, một lời không thể hết, may sao anh em ta đều bình yên cả.
Bỗng nghe trong đám người có tiếng ai đó quát lớn:
- Họ Kiều kia, ngươi giết huynh trưởng ta, mối huyết cừu đó chưa trả được, hôm nay ta phải cùng ngươi thí mạng.
Lại có người khác cũng kêu:
- Gã Kiều Phong kia là Hồ Lỗ Khất Đan, ai ai cũng phải tru diệt, hôm nay quyết không để cho y chạy thoát xuống núi Thiếu Thất.
Rồi tiếng người la ó rầm rĩ cả lên, kẻ thì chửi Tiêu Phong giết con, người thì bảo ông giết bố. Tiêu Phong hôm trước đại chiến Tụ Hiền Trang, giết người quả không phải ít. Bây giờ các lộ anh hùng tụ tập tại chùa Thiếu Lâm, lắm người có cha anh thân thuộc, tri giao cố hữu, tuy sợ Tiêu Phong nhưng nghĩ đến mối huyết cừu cũng phải chửi toáng lên. Tiếng rủa sả càng lúc càng to, mọi người thấy Tiêu Phong tùy hành chỉ có mười tám người, vốn cùng Cái Bang và Thiếu Lâm có thâm thù đại oán, mới rồi lại đánh chưởng đẩy lui Đinh Xuân Thu nên cũng đã thành kẻ địch của phái Tinh Tú, mấy nghìn người vây đánh mười chín kẻ Khất Đan thì dẫu ông có bản lảnh thông thiên cũng khó mà thoát khỏi trùng vi. Thanh thế càng lúc càng thịnh, đảm khí mọi người cũng tăng dần.
Quần hùng đông người nhiều miệng lưỡi, có kẻ thô lỗ, bụng oán thù không khỏi ăn nói tục tằn, chủi rủa càng lúc càng thêm độc địa. Mấy chục người rút binh khí, múa đao vung kiếm, toan xông cả lên băm vằm Tiêu Phong ra.
Mười chín người của bọn Tiêu Phong đến Trung Nguyên vốn định đột nhiên tập kích, cứu lấy A Tử trở về Nam Kinh, đâu có ngờ rằng lại có nhiều đối đầu tụ tập một chỗ đến thế. Ông từ bé đã hành tẩu giang hồ ở Trung Nguyên, cùng các lộ anh hùng không quen thuộc thì cũng đã nghe danh, biết những người đó đều là hiệp nghĩa, sở dĩ kết oán với mình, một là mình là người Khất Đan, hai nữa có kẻ đứng trong xúc xiểm nên hiểu lầm nhau.
Cuộc chiến nơi Tụ Hiền Trang không phải do tâm nguyện của ông, nếu như hôm nay thêm một lần đại chiến nữa, sát thương thêm một số người thì chỉ càng thêm đau lòng, dẫu mình có toàn mạng chạy thoát nhưng những anh em trong Yên Vân Thập Bát Kỵ đi theo không khỏi thương vong nặng nề, trong bụng tính toán thầm: “Cũng may mình đã cứu được A Tử giao cho cha mẹ cô ta rồi, tâm nguyện của A Châu coi như đã xong, ta chỉ mau mau tính chuyện thoát thân, việc gì phải dây dưa với họ làm chi?”. Nghĩ thế ông bèn quay lại nói với Đoàn Dự:
- Huynh đệ, hiện nay tình hình gay cấn, anh em ta không thể thăm hỏi nhau nhiều, hiền đệ tạm thời lui ra, núi cao sông rộng, có ngày sẽ gặp lại nhau.
Ông muốn Đoàn Dự đứng qua một bên để khi phá vòng vây chạy xuống, người ngoài khỏi ra tay đánh nhầm chàng. Đoàn Dự thấy anh hùng các lộ phải đến mấy nghìn người, ai nấy muốn giết nghĩa huynh bông dưng nổi lòng nghĩa hiệp, dõng dạc nói:
- Đại ca, đứa em này kết nghĩa đệ huynh với anh đã từng nói những gì? Có phải là có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu, không mong sinh ra cùng tháng cùng năm nhưng nguyện chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Hôm nay đại ca lâm nạn, huynh đệ lẽ nào mong được sống lấy một mình?
Trước đây mỗi lần chàng gặp nguy nan đều thi triển bộ pháp xảo diệu Lăng Ba Vi Bộ, từ trong đám đông chạy ra. Lúc này tình thế hung hiểm, máu nóng trong ngực sôi lên, quyết tâm cùng chết với Tiêu Phong để toàn tình anh em kết nghĩa, dù có chuyện gì cũng nhất định không bỏ chạy.
Phần lớn các hào kiệt đều không biết Đoàn Dự là hạng người nào, thấy chàng tự xưng là anh em kết nghĩa của Tiêu Phong, nhất quyết cùng ông ta liên thủ đối địch với mọi người, vẻ người văn nhược nho nhã, tuổi lại trẻ nên chẳng ai thèm coi chàng vào đâu, tiếng la ó lại càng rầm rĩ. Tiêu Phong nói:
- Huynh đệ, hảo ý của chú, người anh này hết sức cảm tạ. Bọn họ muốn giết ta cũng không phải dễ. Ngươi mau tránh sang một bên, kẻo ta lại phải chia tay bảo hộ cho chú đâm ra vướng víu khó nghinh địch.
Đoàn Dự nói:
- Đại ca không phải bảo hộ tiểu đệ làm chi. Bọn họ cùng đệ không thù không oán, lẽ nào lại giết em?
Tiêu Phong vẻ mặt chua chát, trong lòng thấy thật thê lương nghĩ thầm: “Nếu như không thù không oán thì chẳng hại nhau, thù oán trên thế gian này từ đâu mà có?”.
Đoàn Chính Thuần hạ giọng nói với Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch các người:
- Vị Tiêu đại hiệp này đối với ta có ơn cứu mạng, đến lúc nguy cấp, bọn mình xông vào giúp y thoát hiểm.
Phạm Hoa đáp:
- Tuân lệnh!
Y liếc sang mấy nghìn hào kiệt đang lăm lăm binh khí mấy lần, nói:
- Đối phương đông quá, không biết chúa công có diệu sách gì không?
Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:
- Đại trượng phu ân oán phân minh, cứ hết sức mà làm, đành lấy cái chết để báo đền thôi.
Chúng sĩ Đại Lý cùng đáp:
- Cũng mong được như thế!
Phía bên kia bọn người nhà Mộ Dung Yến Tử Ổ cũng thì thầm thương nghị. Công Dã Can từ khi đối chưởng thi rượu với Tiêu Phong ở thành Vô Tích, trong lòng hết sức ngưỡng mộ, chủ trương ra tay tương trợ. Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cũng hết sức bội phục Tiêu Phong, cũng loi choi toan nhảy ra giúp ông một tay. Mộ Dung Phục bèn nói:
- Chúng vị huynh trưởng, với chúng ta việc hưng phục là chuyện quan trọng nhất, chẳng lẽ chỉ vì một gã Tiêu Phong mà đắc tội với anh hùng thiên hạ hay sao?
Đặng Bách Xuyên nói:
- Lời của công tử chí phải, vậy thì mình phải làm thế nào đây?
Mộ Dung Phục đáp:
- Thu phục lòng người để trợ giúp cho ta.
Đột nhiên y hú lên một tiếng dài bước ra lớn tiếng nói:
- Tiêu huynh là anh hùng Khất Đan nên coi hào kiệt Trung Nguyên chẳng ra gì, hôm nay Cô Tô Mộ Dung Phục này mong được lãnh giáo cao chiêu của các hạ. Tại hạ gục ngã dưới chưởng của Tiêu huynh thì âu cũng vì hào kiệt Trung Nguyên bỏ chút công mọn, dẫu chết cũng vinh.
Mấy câu y nói cốt để cho quần hào Trung Nguyên nghe thấy, có thế thì dù thua dù được từ nay anh hùng hào kiệt cũng sẽ coi Cô Tô Mộ Dung là chỗ sinh tử chi giao.
Quần hùng tuy đã quyết ý rồi nhưng chưa một ai dám xông lên khiêu chiến. Ai cũng biết rằng, đánh nhau sau cùng rồi cũng giết được Kiều Phong nhưng mấy chục người đầu tiên thể nào cũng bỏ mạng, lúc này đột nhiên thấy Mộ Dung Phục thượng trường, ai nấy thở phào nhẹ nhõm, lên tinh thần. Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung hai người vốn dĩ tề danh, Mộ Dung Phục xông ra đánh trước, dẫu không địch nổi thì cũng khiến cho đối phương phải hết sức chống đỡ, hao phí nội lực. Liền theo đó tiếng hò reo vang dậy bốn bề.
Tiêu Phong bỗng thấy Mộ Dung Phục bước ra khiêu chiến, không khỏi kinh ngạc, vòng hai tay ôm quyền tương kiến nói:
- Đã từng nghe anh danh của công tử, hôm nay gặp được cao hiền, quả là thỏa nguyện bình sinh.
Đoàn Dự vội nói:
- Mộ Dung huynh, việc này xem ra ngươi không phải. Đại ca ta mới gặp ngươi lần đầu, vốn không hiềm khích, sao ngươi lại thừa lúc nước đục thả câu? Huống chi lúc người khác nghi oan cho ngươi lại chính đại ca ta vì ngươi mà phân biện?
Mộ Dung Phục cười khẩy một tiếng nói:
- Đoàn huynh nếu muốn tỏ ra anh hùng hảo hán can thiệp vào chuyện bất bình thì cứ việc tiến lên tứ giáo luôn thể.
Y thấy Đoàn Dự cứ luẩn quẩn bên cạnh Vương Ngữ Yên nên đã bực từ lâu, lúc này được dịp nói cho hả tức. Đoàn Dự đáp:
- Ta có bản lãnh gì mà tứ giáo Mộ Dung huynh được? Chỉ có mấy câu công đạo nói ra thôi.
Đinh Xuân Thu bị Tiêu Phong mấy chưởng đánh bật ra thật là bẽ mặt, bao nhiêu tuyệt kỹ của mình chưa có dịp thi thố, lập tức nhảy ra cười ha hả nói:
- Họ Tiêu kia, lão phu thấy ngươi còn trẻ nên lúc nãy mới nhường ngươi ba chiêu, chiêu thứ tư này không nhường nữa đâu nhé!
Du Thản Chi tiến lên nói:
- Họ Trang này đa tạ ngươi cứu được A Tử cô nương, thế nhưng mối thù giết bố, không đội trời chung. Họ Tiêu kia, hôm nay chúng mình giải quyết cho xong.
Huyền Sinh đại sư của phái Thiếu Lâm cũng ngầm truyền hiệu lệnh: “La Hán Đại Trận chặn hết các ngả đường hạ sơn. Tên ác đồ này giết chết Huyền Khổ sư huynh, nhất quyết không để cho y xuống núi Thiếu Thất lần nữa”.
Tiêu Phong thấy ba đại cao thủ đứng thành thế chân vạc vây quanh mình rồi mà quần tăng Thiếu Lâm thì đông một đoàn, tây một tụm xem ra tưởng chừng tạp loạn không thành đường lối nhưng bên trong ám tàng trận pháp cực kỳ lợi hại, tình hình so với ở Tụ Hiền Trang còn nguy hiểm bội phần. Bỗng nghe mấy tiếng ngựa hí lên bi thảm, mười chín con tuấn mã từng con từng con ngã xuống, miệng sùi bọt mép, chết lăn ra.
Mười tám võ sĩ Khất Đan luôn mồm xí xố, vung đao xuất chưởng, chỉ chốc lát chém chết bảy tám tên môn đệ phái Tinh Tú nhưng cũng có mấy tên chạy được. Thì ra Đinh Xuân Thu tiến lên khiêu chiến, các môn nhân của lão liền chia nhau hạ độc, ám toán tọa kỵ của người Khất Đan để cho Tiêu Phong không thể dựa vào tuấn mã mà xông ra khỏi trùng vi.
Tiêu Phong trong một thoáng thấy con ngựa yêu trước khi chết còn đưa mắt nhìn mình, lộ vẻ thê lương luyến chủ, nghĩ mình cưỡi con ngựa đã lâu, nghìn dặm xuôi nam, sớm tối không rời, ngờ đâu giờ phút này bỏ mạng về tay kẻ gian, ngực sôi lên, nổi máu anh hùng hú một tiếng dài nói:
- Mộ Dung công tử, Trang bang chủ, Đinh lão quái, cả ba vị cùng tiến lên, Tiêu mỗ này há sợ gì đâu?
Ông hận phái Tinh Tú ra tay tàn độc, vù một tiếng phóng chưởng đánh vào Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu đã lãnh giáo chưởng lực lợi hại của ông rồi nên hai bàn tay cùng đưa ra đem toàn lực chống đỡ. Tiêu Phong thuận thế kéo một cái, đem chưởng lực của cả mình lẫn người dẫn lệch ra, xiên xiên đánh vào Mộ Dung Phục.
Bản lãnh tối cao siêu của Mộ Dung Phục là môn Đẩu Chuyển Tinh Di để chuyển hoán phương vị đối phương đánh tới quay ngược về bên địch, thế nhưng chiêu của Tiêu Phong lại bao gồm lực đạo của cả hai người quá là hùng hồn, vừa xoay chuyển, không biết ông muốn đánh vào đâu, thành thử không cách nào dẫn được đành phải ngưng vận nội lực, song chưởng đẩy ra, đồng thời nhẹ nhàng vọt về sau ba trượng.
Tiêu Phong hơi nghiêng mình tránh khỏi chưởng lực của Mộ Dung Phục, quát lên một tiếng, chẳng khác gì sét đánh giữa trời, tay phải nhằm Du Thản Chi đấm ra một quyền. Ông thân thể cao to, so với Du Thản Chi hơn hẳn một cái đầu nên quyền đó đánh thẳng vào mặt y. Du Thản Chi vốn sẵn úy kỵ, nghe tiếng quát như sấm rền khiến cho chân tay bủn rủn, quyền của Tiêu Phong lại đến quá nhanh, chưởng đánh Đinh Xuân Thu, tránh đòn Mộ Dung Phục, quyền đả Du Thản Chi tuy có trước có sau thật nhưng ba chiêu đó liền lạc với nhau, nhanh như ánh chớp, Du Thản Chi muốn chống đỡ thì quyền lực đã đến trước mặt. Cũng may y chuyên cần luyện Dịch Cân Kinh nên thể lực tự nhiên sinh ra phản ứng, đầu lập tức ngửa về sau, lộn mèo hai vòng, tránh được cú đấm nghìn cân của Tiêu Phong chỉ trong đường tơ kẽ tóc.
Du Thản Chi thấy mặt mát rượi, nghe quần hùng “Ồ” lên một tiếng, rồi thấy từng mảng như đàn bướm tung vãi khắp nơi, thì ra chiếc mặt nạ Du Thản Chi che trên mặt đã bị quyền của Tiêu Phong đánh tan nát. Người đứng xem thấy mặt bang chủ Cái Bang lồi lồi lõm lõm, chỗ đỏ chỗ đen, mặt mày vằn vện đầy sẹo, ngũ quan méo mó, xấu xí đáng sợ ai nấy đều bở vía.
Tiêu Phong trong ba chiêu đã ép cho ba đại cao thủ phải dạt ra, hào khí dâng lên, thét lớn:
- Mang rượu ra đây!
Một tên võ sĩ Khất Đan liền cởi trên lưng một con tuấn mã đã chết ra một túi da, rảo bước đi tới, hai tay dâng lên. Tiêu Phong mở nút bình, cầm túi giơ cao lên, hơi nghiêng xuống, một dòng rượu trắng chảy ồng ộc xuống. Ông ngửa cổ uống ừng ực không ngừng.
Chiếc bình đựng đầy rượu, ít ra cũng phải hai chục cân, nhưng Tiêu Phong uống một hơi cạn sạch không còn một giọt. Chỉ thấy bụng ông hơi phồng lên một tí nhưng mặt vẫn đen đủi như bình thời không có vẻ gì say cả. Quần hùng còn đang ngơ ngác, Tiêu Phong phất tay phải một cái, mười bảy tên võ sĩ còn lại người nào cũng cầm một bầu rượu mang đến trước mặt.
Tiêu Phong nói với mười tám tên võ sĩ:
- Này các huynh đệ, vị Đại Lý Đoàn công tử đây, là anh em kết nghĩa của ta. Hôm nay chúng mình bị hãm trong trùng vi, quả bất địch chúng, thế quả khó mà thoát thân.
Ông mới rồi cùng bọn Mộ Dung Phục trao đổi một chiêu, tuy đã chiếm được thượng phong, nhưng cũng biết ba đại cao thủ đều là những người thân mang tuyệt kỹ, ba người đánh một, mình ắt không thể địch nổi, huống chi ngoài những kẻ đang hầm hè kia bên cạnh còn hàng nghìn hàng trăm hào kiệt đứng chờ sẵn đó.
Ông nắm tay Đoàn Dự nòi:
- Huynh đệ, ta với ngươi sống chết có nhau, quả không uổng một trường kết nghĩa, chết cũng được mà sống cũng được, chúng mình uống với nhau một trận cho thống khoái đã nào!
Đoàn Dự bị hào khí của ông khích động, cũng cầm ngay lấy bao da nói:
- Phải lắm, đang muốn cùng đại ca uống một phen đây.
Từ đám tăng nhân Thiếu Lâm một người mặc áo màu tro chạy ra, dõng dạc nói:
- Đại ca, tam đệ, hai người uống rượu, sao không rủ ta?
Người đó chính là Hư Trúc. Y ở trong đám đông thấy Tiêu Phong cưỡi ngựa chạy lên, quả nhiên anh khí hơn người, coi quần hùng chẳng đáng vào đâu, không khỏi sờn lòng, lại thấy Đoàn Dự nghĩ tình kết nghĩa, nguyện cùng nhau chết chung một chỗ, nhớ tới hôm trước trên ngọn Phiêu Miểu cùng Đoàn Dự kết bái, cũng đã từng đem cả Tiêu Phong vào. Đại trượng phu một lời nói ra, sinh tử chẳng nề, nghĩ đến hào khí khẳng khái cùng Đoàn Dự một trận say mèm nơi cung Linh Thứu, bao nhiêu an nguy sinh tử, thanh qui giới luật, bèn bỏ hết qua một bên.
Tiêu Phong chưa từng gặp Hư Trúc bao giờ, bỗng nghe y gọi mình “đại ca” không khỏi sững sờ. Đoàn Dự bèn bước qua cầm tay Hư Trúc, nói với Tiêu Phong:
- Đại ca, đây là kết nghĩa ca ca của tiểu đệ. Khi y xuất gia pháp danh là Hư Trúc, hoàn tục gọi là Hư Trúc Tử. Khi hai người chúng em kết bái cũng có để luôn cả đại ca vào. Nhị ca, mau mau bái kiến đại ca.
Hư Trúc lập tức tiến lên, quì xuống rập đầu nói:
- Đại ca ở trên, tiểu đệ khấu đầu ra mắt.
Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm: “Nghĩa đệ ta có phần gàn dở nên khi cùng người kết bái đem luôn cả ta vào. Ta sống chết trong khoảnh khắc, tình thế cực kỳ hung hiểm, vậy mà người này không sợ nguy nan, dám xông ra, đủ biết là bậc đại trượng phu, hảo hán tử trọng nghĩa khinh sinh. Tiêu Phong được kết nghĩa với những người như thế này, quả không uổng một đời”.
Ông lập tức quì xuống nói:
- Huynh đệ, Tiêu mỗ được kết nghĩa với một bậc anh hùng hảo hán như ngươi, quả thật vui mừng.
Hai người lạy nhau tám cái, ngang nhiên trước mặt anh hùng thiên hạ kết nghĩa kim lan. Tiêu Phong không biết Hư Trúc thân mang võ công tuyệt thế, thấy y chỉ là một tăng nhân thấp kém trong phái Thiếu Lâm, đoán chừng võ công hữu hạn nhưng dám khẳng khái phó nghĩa, nếu như bảo y đứng tránh sang một bên e rằng coi thường y quá, bèn cầm túi da nói:
- Hai vị huynh đệ, mười tám võ sĩ Khất Đan đây đối với ca ca trung thành son sắt, lúc bình thời đối xử với nhau chẳng khác gì chân tay, tất cả cùng uống một trận cho đã đời rồi ra tay đại sát.
Ông mở nắp túi da, uống một ngụm lớn, giao bình rượu cho Hư Trúc. Hư Trúc trong lòng máu nóng dâng lên, còn coi ngũ giới lục giới, thất giới bát giới cửa Phật ra gì nữa, cũng cầm túi da lên uống một ngụm, giao cho Đoàn Dự. Đoàn Dự uống một ngụm rồi, giao lại cho một võ sĩ Khất Đan. Các võ sĩ liền cùng cầm túi da lên uống một mạch cho thỏa chí.
Hư Trúc nói với Tiêu Phong:
- Đại ca, gã Tinh Tú Lão Quái kia làm hại sư phụ, sư huynh môn phái sau của đệ, lại làm hại thái sư thúc Huyền Nạn, Huyền Thống đại sư thuộc môn phái trước của đệ là phái Thiếu Lâm. Huynh đệ muốn báo thù.
Tiêu Phong trong bụng lạ lùng hỏi:
- Ngươi …
Chưa nói được tiếng thứ hai, Hư Trúc song chưởng vù vù, đã đánh về phía Đinh Xuân Thu. Tiêu Phong thấy y chưởng pháp tinh kỳ, nội lực hồn hậu, không khỏi vừa mừng rỡ, vừa ngạc nhiên nghĩ thầm: “Thì ra nhị đệ võ công ghê gớm như thế, quả thật không thể ngờ được”. Ông cũng quát lên:
- Coi quyền đây!
Vù vù hai tiếng, chia ra đấm vào Mộ Dung Phục và Du Thản Chi. Du Thản Chi và Mộ Dung Phục chia ra xuất chiêu chống đỡ. Mười tám tên võ sĩ Khất Đan biết được tâm ý chúa công, liền chia ra vây quanh Đoàn Dự hộ vệ.
Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn Lục Dương Chưởng múa tít lên, liên tiếp tấn công. Đinh Xuân Thu hôm đó lẻn vào căn nhà gỗ dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán ám hạ độc thủ Tô Tinh Hà và Hư Trúc, Tô Tinh Hà trúng độc bỏ mạng nhưng Hư Trúc vẫn không sao, Đinh Xuân Thu đối với y e dè sợ sệt thầm, nên lúc này không dám sử dụng độc công, sợ Hư Trúc đẩy chất độc ngược trở về mình, hại người không xong lại vạ cho mình, bèn đem chưởng pháp bản môn ra đối phó, nghĩ thầm: “Thằng trọc này giải được thế cờ Trân Lung, ắt đã được lão tặc truyền thụ, trở thành chưởng môn phái Tiêu Dao. Lão tặ quỉ kế đa đoan, thể nào chẳng ngầm an bài kế sách hại ta trong đó, mình phải hết sức đề phòng mới được”.
Võ công phái Tiêu Dao cốt ở chỗ nhẹ nhàng phiêu dật, nhàn nhã thanh thoát, Đinh Xuân Thu cùng Hư Trúc một khi giao thủ rồi người ta chỉ thấy một bên đồng nhan bạch phát, như thể thần tiên, một bên tay áo phất phơ, đi mây về gió. Hai bên cứ vừa chạm vào nhau thì lại dang ra, chẳng khác gì một đôi bướm giữa muôn hoa, chập chờn bất định, hai chữ “tiêu dao” phát huy đến cùng cực.
Quần hùng đứng xem phần nhiều chưa từng thấy võ công phái Tiêu Dao bao giờ, khiến cho ai nấy tâm hồn bay bổng, nghĩ thầm: “Hai người này chiêu nào cũng đầy hung hiểm, tấn công vào nơi yếu hại của địch nhân, vậy mà tư thức sao lại thanh nhã dễ coi, chẳng khác gì đang múa. Cái lối chưởng pháp nặng mà tợ nhẹ, tiêu sái như ý quả mình chưa thấy bao giờ, không hiểu đó là công phu chi vậy? Tên gọi ra sao?”.
Ở bên kia Tiêu Phong một mình đánh với Mộ Dung Phục và Du Thản Chi, mười chiêu đầu tiên hơi thắng thế một chút, thế nhưng đến mười chiêu sau, thấy Du Thản Chi mỗi quyền đấm ra, mỗi chưởng đánh ra đều chứa đầy khí âm hàn. Tiêu Phong còn phải dùng toàn lực chống đỡ Mộ Dung Phục, Du Thản Chi tiếp tục tấn công, không khỏi khí lạnh phả vào người, khó mà chịu nổi. Khi đó Băng Tàm hàn độc trong người Du Thản Chi đã được nội công Dịch Cân Kinh bồi dưỡng, chính tà hỗ trợ, thủy hỏa đắp đổi đã trở thành một môn nội công lợi hại vào bậc nhất thiên hạ, lại thêm Mộ Dung Phục sử dụng Đẩu Chuyển Tinh Di áo diệu khôn lường, khiến cho Tiêu Phong đấu với hai đại cao thủ, so với hôm trước ở Tụ Hiền Trang cùng hàng trăm hảo hán võ lâm giao chiến cũng hung hiểm chẳng khác gì.
Thế nhưng ông vốn người thần võ, vào cảnh ngộ càng bất lợi, dũng lực tiềm ẩn trong người càng có dịp phát dương, dùng chưởng lực dương cương số một thiên hạ là Hàng Long Thập Bát Chưởng đánh ra, khiến cho Mộ Dung Phục và Du Thản Chi không có cách gì đến gần mà hàn độc Băng Tàm cũng không thể vào người ông được. Thế nhưng Tiêu Phong phát chưởng như thế, nội lực tiêu hao rất nhiều về sau thể nào chưởng lực cũng phải suy giảm.
Du Thản Chi không nhìn ra yếu quyết bên trong nhưng Mộ Dung Phục thì rõ như ban ngày, biết rằng cứ đấu tiếp thì mình và gã Trang bang chủ kia chỉ cần giữ cho được nửa giờ, về sau thể nào cũng chiếm thượng phong. Thế nhưng Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung vốn dĩ tề danh, hôm nay lần đầu trước mặt quần hùng giao đấu, bên mình phải nhờ bang chủ Cái Bang tương trợ, dù có giết được Tiêu Phong thì Nam Mộ Dung hiểu nhiên không bằng được Bắc Kiều Phong rồi.
Mộ Dung Phục trong bụng tính toán mấy lượt, nghĩ thầm: “Hưng phục mới là chuyện lớn, tiếng tăm chỉ là chuyện nhỏ. Nếu ta giúp cho anh hùng võ lâm Trung Nguyên trừ được một tên đại hại thì bao nhiêu hào kiệt Đại Tống dù quen biết hay không, ai nấy cũng sẽ hoài ân cảm đức, xem ra cái chức võ lâm minh chủ, chẳng vào tay mình thì còn tay ai? Khi đó chỉ cần giơ tay hô một tiếng, việc khôi phục Đại Yên có cơ thành tựu. Huống chi khi đó Kiều Phong chết rồi, dẫu Nam Mộ Dung có không bằng Bắc Kiều Phong thì cũng đã là chuyện đã qua”.
Y lại nghĩ sang: “Sau khi giết được Kiều Phong rồi, Trang Tụ Hiền sẽ thành đại địch, nếu như chức võ lâm minh chủ bị y đoạt mất, mình ngược lại phải nghe lệnh của hắn thì thật là đại đại bất ổn”. Thành thử khi ra chiêu phát chưởng, Mộ Dung Phục ngầm giữ lại vài phần nội lực, để phần lớn bắt Du Thản Chi phải chịu. Mộ Dung Phục thân pháp tinh kỳ, người đứng xem không một ai nhìn ra được.
Chỉ trong giây lát, ba người qua qua lại lại trao đổi đến hơn trăm chiêu. Tiêu Phong luôn luôn sử dụng xảo kình dụ cho Du Thản Chi mắc hỡm. Du Thản Chi rất ít kinh nghiệm, mấy lần suýt nữa vào tròng, may được Mộ Dung Phục ở bên lo liệu, hóa giải kịp thời nhưng những chưởng lực cương mãnh vô tỉ của Tiêu Phong thì Du Thản Chi vẫn phải đem toàn lực nội công thâm hậu ra mới chống đỡ nổi.
Đoàn Dự đứng trong vòng vây của mười tám võ sĩ Khất Đan, thấy nhị ca từng bước từng bước lấn lướt, không bị hạ phong chút nào, còn phía đại ca một đánh hai, tuy nhiên thần uy lẫm lẫm nhưng chưởng nào chưởng nấy tựa như cuồng phong gầm hú, cát chạy đá bay, xem ra khó mà được lâu, nghĩ bụng: “Ta mồm loa mép giải lúc nào cũng bảo cùng hai vị ca ca chịu chung hoạn nạn, đến khi có việc lại trốn giữa đám đông, để cho người ta bảo hộ thì còn nói gì là nghĩa khí? Nói gì đồng sinh cộng tử? Đằng nào thì cũng chết, lão tam này thật chẳng ra trò trống gì. Ta tuy không có chút võ công gì thật, nhưng dùng Lăng Ba Vi Bộ quấy phá Mộ Dung Phục một phen, để cho đại ca rảnh tay đánh bại gã Trang bang chủ xấu xí kia trước, thế cũng hay lắm”.
Chàng suy nghĩ đã quyết, lách người lòn ra khỏi vòng vây của mười tám gã võ sĩ Khất Đan, lớn tiếng nói:
- Mộ Dung công tử, ngươi và đại ca ta tề danh, đáng ra phải đánh tay đôi với đại ca ta mới phải, sao lại để người tương trợ mới ráng mà chống đỡ nổi? Nếu quả miễn cưỡng bình thủ, chẳng thấy ê mặt với thiên hạ hay sao? Mau mau ra đây, nếu ngươi có giỏi thì đánh ta một quyền xem nào.
Nói xong thân hình lạng một cái, lẻn ra sau lưng, giơ tay chộp vào cổ Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục thấy y đến nhanh như chớp, xoay tay đánh ngược lại một chưởng, vả trúng ngay mặt chàng, má bên phải Đoàn Dự lập tức sứt da chảy máu, đau đến ứa nước mắt. Lăng Ba Vi Bộ của chàng vốn dĩ thần diệu, khi thi triển ra, người nào muốn đánh trúng người chàng thật khó bằng trời, thế nhưng đây là lần đầu chàng ra tay đánh người khác. Chàng đưa tay quờ quạng chụp một cái, làm sao trúng được một người võ công tuyệt đính là Cô Tô Mộ Dung? Bị y đánh ngược lại một chưởng, Đoàn Dự lại không biết tránh né, thành thử vỡ mày vỡ mặt đau không sao kể xiết.
Thế nhưng bàn tay Mộ Dung Phục chỉ lướt qua mặt chàng, bỗng thấy nội lực tuôn ra ngoài, rồi không còn tung tích gì cả, bàn tay cánh tay lập tức tê đi, giật mình kinh hãi: “Môn yêu thuật của phái Tinh Tú nổi tiếng thiên hạ tiểu tử này cũng học được rồi, mình phải cẩn thận”. Y bèn chửi:
- Tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi đầu nhập phái Tinh Tú bao giờ thế?
Đoàn Dự ngơ ngác:
- Ngươi nói …
Chưa dứt lời, ngờ đâu Mộ Dung Phục đá ra một cái khiến chàng lộn mèo. Mộ Dung Phục cũng không nghĩ mình đánh lén một cái lại dễ dàng đến thế, trong bụng mừng thầm, lập tức nhảy tới, chân phải đạp lên ngực Đoàn Dự, quát lớn:
- Ngươi muốn sống hay muốn chết?
Đoàn Dự nghiêng đầu qua thấy Tiêu Phong còn đang ác đấu với Trang Tụ Hiền, nghĩ bụng nếu mình nói bướng, y sẽ giết mình ngay, rồi lại rảnh tay tương trợ cho Trang Tụ Hiền, đại ca sẽ lại khó khăn nên phải cùng y diên trì được chút nào hay chút nấy, liền đáp:
- Chết thì có gì thú? Đương nhiên là sống trên cõi đời so ra vẫn hơn chứ.
Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự đến nước này vẫn còn nói bông lơn, sầm mặt xuống, quát:
- Nếu muốn sống thì …
Y định bảo Đoàn Dự lạy mình một trăm cái cho y nhục nhã một phen trước đông người, nhưng chợt nghĩ ra y có bộ pháp xảo diệu, nếu thả ra thật chẳng dễ gì bắt lại, liền đổi giọng nói:
- … gọi ta một trăm tiếng “ông ơi!”.
Đoàn Dự cười nói:
- Ngươi chỉ hơn ta vài tuổi, làm sao là ông nội ta được? Nghe thối bỏ mẹ.
Mộ Dung Phục đánh vù ra một chưởng, trúng ngay bên cạnh đầu Đoàn Dự, lập tức bụi đất bay mù mịt, đất hằn thành một cái vũng, nếu chỉ nhích sang vài phân thì đầu Đoàn Dự sẽ nát nhừ. Mộ Dung Phục lại quát:
- Có gọi không thì bảo?
Đoàn Dự nghiêng đầu qua, tránh đất đá văng vào mặt, trong chớp mắt thấy đằng xa Vương Ngữ Yên đứng cạnh Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, đôi mắt đăm đăm nhìn mình nhưng vẻ mặt không một chút gì quan thiết, hiển nhiên trong lòng nàng đang nghĩ chẳng qua là: “Biểu ca có giết Đoàn công tử không nhỉ?”. Nếu biểu ca nàng có giết Đoàn Dự chăng nữa, nàng cũng chẳng có gì phải thương tâm.
Chàng vừa thấy vẻ mặt Vương Ngữ Yên, đột nhiên trong lòng chán nản, chỉ mong sao lập tức chết dưới tay Mộ Dung Phục, để khỏi phải chịu mối tương tư dày vò, bèn ảo não đáp:
- Sao ngươi không gọi ta một trăm tiếng “ông ơi” đi?
Mộ Dung Phục giận quá, giơ chưởng phải lên, nhắm thẳng ngay mặt Đoàn Dự đánh xuống, bỗng thấy hai bóng người bay vụt đến như tên. Một người kêu lên:
- Đừng hại con ta!
Một người kêu lên:
- Đừng hại sư phụ ta!
Hai người tuy nhanh thật nhưng thế đến không thể nào cản kịp chưởng lực đánh xuống Đoàn Dự. Có điều Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần đều là những nhân vật võ công cực cao, hai luồng chưởng lực trước sau đánh vào chỗ yếu hại của Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục nếu không thu về chống đỡ, chưởng của y tuy đánh chết Đoàn Dự thật nhưng chính mình cũng bị trọng thương. Y lập tức rút tay phải về, gạt song chưởng của Đoàn Chính Thuần ra, tay trái khua lên một vòng sau lưng, hóa giải thế đánh của Nam Hải Ngạc Thần. Ba người chưởng lực chạm nhau, đều kinh hãi thấy đối phương võ công quả là ghê gớm. Đoàn Chính Thuần nóng lòng giải cứu con yêu, ngón tay trỏ bên phải dùng Nhất Dương Chỉ điểm ra, chiêu số đã quang minh chính đại mà nội lực lại hùng hồn.
Vương Ngữ Yên kêu lên:
- Biểu ca cẩn thận, đây là Nhất Dương Chỉ của nhà họ Đoàn Đại Lý, không nên khinh địch.
Nam Hải Ngạc Thần rống lên ồ ồ:
- Con bà ngươi chứ, cái gã sư phụ bỏ mẹ của ta tuy chẳng ra đếch gì, nhưng cũng là thầy của Nhạc lão nhị. Ngươi đánh sư phụ ta thì có khác gì đánh Nhạc lão nhị? Nếu như sư phụ ta tham sống sợ chết, gọi ngươi một tiếng ông ơi, thì Nhạc lão nhị này từ nay còn ra cái giống gì nữa? Gặp ngươi biết gọi là gì cho phải? Chẳng phải là ngươi cao hơn ta đến ba bậc hay sao? Hóa ra ta thành thằng chắt rồi còn gì? Thế quả khinh người quá đỗi, hôm nay ta phải sống mái với ngươi.
Y mồm thì chửi rủa, tay lấy ngạc chủy tiễn ra, cắt bên trái, cắt bên phải, không ngừng xông vào Mộ Dung Phục. Y bình sinh sợ nhất là chuyện vai vế phải đứng dưới người, ngay trong Tứ Đại Ác Nhân mà cái tiếng lão nhị, lão tam cũng đã tranh giành với Diệp Nhị Nương. Hôm nay nếu như Đoàn Dự gọi Mộ Dung Phục một tiếng ông ơi, Nam Hải Ngạc Thần sẽ biến thành “thằng chắt” thì còn làm sao mà ngóc đầu lên nổi, thà đầu rơi xuống đất còn hơn chứ cái tiếng “chắt” không thể nào chịu nổi.
Mộ Dung Phục không biết y xí xố cái gì, chân phải vẫn đạp trên Đoàn Dự, hai tay chia ra đánh hai người. Sách giải đến hơn chục chiêu, thấy Nam Hải Ngạc Thần tuy có một món binh khí lợi hại nhưng lại dễ đối phó, còn Nhất Dương Chỉ của Đoàn Chính Thuần không thể coi thường, thành thử y chính diện chăm chú đấu với Đoàn Chính Thuần, còn dư lực mới hóa giải ngạc chủy tiễn, thỉnh thoảng mới dùng một hai chiêu đánh ép cho Nam Hải Ngạc Thần phải nhảy ra ngoài vài trượng tránh né.
Đoàn Dự bị y đạp xuống, cố gắng dãy dụa định nhỏm lên nhưng làm sao nổi? Đoàn Chính Thuần thấy con bị chế ngự, nghĩ thầm chân y chỉ cần nhấn xuống một cái, nhi tử ắt sẽ hộc máu chết ngay, trước mắt phải làm cách nào tốc chiến, cốt sao cứu được con ra đã rồi tính sau, nên thi triển Nhất Dương Chỉ vù vù đánh ập vào. Bỗng nghe có tiếng người eo éo nói:
- Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý vốn dĩ khí tượng sâm nghiêm, ung dung tiêu mục, trong cái uy mãnh vẫn không mất phong độ đế vương. Xem cái bộ ngươi đánh thí mạng như đứa ăn mày chưa có túi nào, sao gọi là Nhất Dương Chỉ được? Ha ha, ha ha, thế chẳng phải là để cho người ta coi rẻ họ Đoàn Đại Lý hay sao?
Đoàn Chính Thuần nghe tiếng chính là kẻ đại đối đầu Đoàn Diên Khánh, câu nói của y vốn chẳng sai, nhưng ái tử bị nạn, trong bụng rối bời, còn hơi sức đâu mà lo chuyện khí tượng ung dung, với chẳng phong độ vương giả? Nhất Dương Chỉ tung ra mỗi lúc một nặng, lúc này biến thành độc địa có thừa mà trầm ổn không đủ, vừa lúc một chỉ điểm ra, Mộ Dung Phục lại nhích tới, nghe soẹt một tiếng, điểm trúng ngay xương đòn gánh Nam Hải Ngạc Thần.
Nam Hải Ngạc Thần kêu oai oái, chửi:
- Con bà …
Nghe tiếng loảng xoảng, ngạc chủy tiễn tuột tay, rơi xuống trúng ngay ống quyển. Y vừa đau vừa tức, đang định ngoạc mồm rủa xả nhưng lại nghĩ ra: “Y là ông già của sư phụ, nếu ta chửi y, có phải làm loạn bối phận hay sao? Người này giết thì được nhưng không thể chửi, sau này nếu có cơ duyên, ta cắt soẹt cái đầu lâu y đi là xong …”.
Ngay khi đó, Mộ Dung Phục nhân lúc Đoàn Chính Thuần đánh nhầm đối thủ, tâm thần hơi nhãng, ngón tay giữa bên trái đâm ra, nhanh như điện điểm trúng ngay huyệt Trung Đình trên ngực Đoàn Chính Thuần.
Huyệt Trung Đình nằm bên dưới huyện Đãn Trung một tấc sáu phân. Huyệt Đãn Trung là khí hải của toàn thân, hội tụ của bách tức, hết sức trọng yếu, bị địch điểm trúng rồi, lập tức khí tức đóng chặt. Mộ Dung Phục biết đối phương tài giỏi, nếu như điểm được vào huyệt Đản Trung thì mới xong nhưng dẫu lệch ra như thế, Đoàn Chính Thuần cũng thấy ngực đau nhói, nội tức khó mà vận lên được.
Vương Ngữ Yên thấy biểu ca xuất chỉ trúng địch thủ rồi, vỗ tay reo lên:
- Biểu ca, chiêu Dạ Xoa Thám Hải đó hay quá!
Đúng ra phải điểm trúng biển khí ở huyệt Đãn Trung mới gọi là Dạ Xoa Thám Hải, nhưng nàng đối với ý trung nhân không khỏi vài phần rộng lượng, tuy chiêu dó còn sai một tấc sáu phân nhưng cũng nhập nhằng gọi là Dạ Xoa Thám Hải.
Mộ Dung Phục cũng biết chiêu này không điểm trúng yếu huyệt của địch, lập tức giáng thêm một đòn, hữu chưởng đánh ra, trúng ngay ngực Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần chưa kịp đổi hơi, không cách gì chống đỡ bị Mộ Dung Phục đánh mạnh một cái, một ngụm máu tươi hộc ra. Ông lo cho con nên vẫn không chịu lùi lại, vội vàng vận khí thì chiêu thứ hai của Mộ Dung Phục đã đánh tới.
Đoàn Dự đang bị đè dưới chân Mộ Dung Phục bỗng thấy phụ thân hộc máu mồm, chưởng thứ hai của Mộ Dung Phục lại đánh tiếp, trong lòng hoảng hốt, ngón tay trỏ bên phải chỉ vào y kêu lên:
- Sao dám đánh cha ta?
Trong cơn nguy cấp, nội lực tự nhiên theo ngón tay trỏ bật ra chính là Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ soẹt một tiếng, cánh tay áo của Mộ Dung Phục đã bị vô hình kiếm khí cắt đứt, kế đó kiếm khí đụng vào chưởng lực của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục chỉ thấy cánh tay tê rần, giật mình kinh hãi, vội vàng nhảy lùi lại.
Đoàn Dự được tự do rồi, lập tức nhỏm ngay lên, ngón tay út bên trái điểm ra, dùng chiêu Thiếu Trạch Kiếm bắn thẳng vào y. Mộ Dung Phục vội vung tay trái lên nghinh địch, soẹt soẹt hai tiếng, tay áo bên trái cũng bị kiếm khí cắt đứt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:
- Công tử cẩn thận, đây là vô hình kiếm khí, dùng binh khí nhé?
Y rút kiếm khỏi bao, xoay cán kiếm lại ném cho Mộ Dung Phục. Đoàn Dự nghe thấy Vương Ngữ Yên reo hò khi Mộ Dung Phục đánh ngã cha mình, trong bụng đau xót, nội lực cuồn cuộn tuôn ra, cùng một lúc Thiếu Thương, Thương Dương, Trung Xung, Quan Xung, Thiếu Xung, Thiếu Trạch lục mạch kiếm pháp tung hoành múa may, tùy tâm ứng thủ tưởng như có thần nhập vào.

datlucky_way

26-07-2009 07:42 PM

Hồi 42(a) : LÃO MA TIỂU XÚ - KHỞI KHẢM NHẤT KÍCH THẮNG CHI BẤT VÕ 






Bấm vào đây để xem nội dung.

Thầy trò chiêng trống khua vang,
Gặp bùa sinh tử cũng hàng mà thôi.
Bao năm che lấp chuyện đời,
Mây tan trăng tỏ biết người biết ta.
*
* *








Mộ Dung Phục bắt được trường kiếm Đặng Bách Xuyên ném cho, lên tinh thần, lập tức sử dụng kiếm pháp gia truyền của họ Mộ Dung, chiêu chiêu liên miên bất tuyệt, chẳng khác gì nước chảy mây trôi, chỉ trong phút chốc một màn kiếm quang đã bao quanh toàn thân. Nhân sĩ võ lâm xưa nay chỉ nghe tiếng nhà Mộ Dung võ công uyên bác, mọi nhà mọi phái không đâu không biết, đâu có ngờ kiếm pháp tinh diệu đến thế.
Thế nhưng chiêu số của Mộ Dung Phục dù cho lợi hại cách nào cũng không sao tiến được đến gần Đoàn Dự trong vòng một trượng. Chỉ thấy Đoàn Dự hai tay chỉ chỉ trỏ trỏ đã ép cho Mộ Dung Phục phải nhảy lên hụp xuống, né đông tránh tây. Đột nhiên nghe cách một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục đã bị vô hình kiếm khí của Đoàn Dự chấn gãy thành hai ba chục mảnh vụn chừng một tấc, bay tung tóe lên không, ánh tà dương chiếu vào, lấp lánh từng điểm trắng xóa.
Mộ Dung Phục hết sức kinh hãi nhưng không hoảng loạn, tả chưởng vội vàng đánh ra, biến những mảnh kiếm gãy kia thành ám khí, dùng thủ pháp Mãn Thiên Hoa Vũ bắn ra. Đoàn Dự kêu lên: “Ối trời!”, chân tay cuống quít không biết làm sao đành nằm mọp xuống đất khiến những mảnh kiếm gãy bay xớt ngang đầu chàng. Cao thủ tỉ võ mà như ra chiêu “chó ăn phân” thế kia thật là bẽ mặt, khó coi biết bao. Mộ Dung Phục tuy trường kiếm gãy rồi nhưng chuyển bại thành thắng, tiêu sái ung dung, so ra còn nở mày nở mặt hơn Đoàn Dự.
Phong Ba Ác kêu lên:
- Công tử, tiếp đao!
Y liền cầm đơn đao trong tay ném tới. Mộ Dung Phục cầm đao rồi, thấy Đoàn Dự đứng lên bèn cười nói:
- Cái chiêu “Ác Cẩu Ngật Xí” của Đoàn huynh có phải là tuyệt kỹ gia truyền của họ Đoàn Đại Lý hay chăng?
Đoàn Dự ngẩn người đáp:
- Không phải!
Ngón út tay phải điểm tới, một chiêu Thiếu Xung Kiếm đâm ra. Mộ Dung Phục múa đao đề ngự, chỉ thấy y lúc thì sử dụng Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao, lúc thì Bát Quái Đao nhưng chỉ vài chiêu lại đổi qua Lục Hợp Đao, trong khoảnh khắc đã liên tiếp sử dụng tám chín lộ đao pháp, lộ nào cũng đến chỗ cùng yếu thâm sâu, hiển hiện được cái tinh nghĩa của nó, những danh gia sử đao đứng ngoài ai nấy đều phải tấm tắc.
Thế nhưng tuy đao pháp của y tinh kỳ thật, thủy chung vẫn không sao đến sát Đoàn Dự được. Đoàn Dự dùng một chiêu Thiếu Xung Kiếm trừ trái vòng qua, đụng phải đao của Mộ Dung Phục, nghe keng một tiếng, thanh đao sắc bén đó đã gãy đôi.
Công Dã Can liền thẩy một cái , hai ngọn phán quan bút đã bay tới tay Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục vứt chiếc đao gãy xuống, bắt lấy phán quan bút ra chiêu điểm huyệt, đầu bút vùn vụt tiếng gió, đủ biết trong đó có chứa nội lực. Đoàn Dự đánh đến hơn trăm chiêu rồi, nỗi sợ trong lòng dần dần biến mất, nhớ lại nội công tâm pháp bá phụ và Khô Vinh đại sư truyền cho, sáu luồng thần kiếm sử dụng càng lúc càng nhuần nhuyễn, tròn trịa. Bỗng nghe Tiêu Phong nói:
- Tam đệ, Lục Mạch Thần Kiếm của chú chưa được thuần thục, sáu luồng kiếm khí cùng sử dụng, khi thay qua đổi lại không khỏi có chỗ sơ hở, thành thử đối phương thừa cơ tránh được. Hiền đệ chỉ sử dụng một ngọn kiếm pháp xem sao.
Đoàn Dự đáp:
- Dạ, đa tạ đại ca chỉ điểm.
Chàng liếc qua thấy Tiêu Phong khoanh tay đứng bên cạnh, ra vẻ nhàn nhã, Trang Tụ Hiền nằm lăn dưới đất, hai chân gãy lìa, lớn tiếng rên rỉ. Thì ra Tiêu Phong giảm được một cường địch là Mộ Dung Phục, đơn đả độc đấu với Du Thản Chi, lập tức hơn hẳn, chỉ cùng y đấu thêm mấy chiêu, song chưởng chạm nhau đều lạnh run lên, hàn khí nhập thể, thực là khó chịu, lập tức vù vù đánh luôn mấy cái, nhân lúc Du Thản Chi đem toàn lực chống đỡ liền đá quét ngang.
Sở trường của Du Thản Chi là Băng Tàm hàn độc và nội công Dịch Cân Kinh còn công phu quyền cước toàn học của A Tử, hết sức tầm thường, chỉ thấy chân đau nhói, lách cách một tiếng, hai bên đùi đều gãy , ngã lăn quay ra. Tiêu Phong nghiêm nghị nói:
- Cái Bang xưa nay vốn lấy nhân hiệp làm đầu, ngươi thân là chủ một bang, sao lại cùng bọn Tinh Tú yêu nhân cá mè một duộc? Chẳng phải làm ô danh mấy trăm năm qua của Cái Bang hay sao?
Du Thản Chi sở dĩ được làm bang chủ Cái Bang đều do võ công hơn người, còn như kiến thức khí độ không đủ để bang chúng kính phục, huống chi lại đeo mặt nạ, thần thần bí bí, thập thà thập thò, chuyện gì cũng do A Tử và Toàn Quan Thanh sai sử, bọn ăn mày vốn đã bất mãn từ lâu. Hôm nay lại liên tục chộp chết đệ tử bản bang, khấu đầu trước Đinh Xuân Thu, gia nhập môn hạ phái Tinh Tú, người trong Cái Bang không còn coi y là bang chủ nữa. 
Tiêu Phong đá gãy hai chân y rồi, bọn ăn mày mừng thầm trong bụng, chẳng một ai tiến ra tương trợ. Toàn Quan Thanh và một số ít phe cánh của y tuy có ý muốn ra cứu viện nhưng thấy Tiêu Phong uy phong lẫm lẫm, dại gì mà ra nạp mạng?
Tiêu Phong đánh ngã Du Thản Chi xong đứng xem Hư Trúc đấu với Đinh Xuân Thu có chừng thắng thế, Đoàn Dự tuy biết Lục Mạch Thần Kiếm, có lúc tinh xảo, có lúc lại thật vụng về, bao nhiêu cơ hội thắng lại để vuột mất nên nhịn không nổi phải lên tiếng chỉ điểm.
Đoàn Dự vừa nghiêng đầu nhìn Tiêu Phong và Du Thản Chi hai người, tinh thần hơi nhãng ra, Lục Mạch Thần Kiếm lập tức có chỗ sơ hở, Mộ Dung Phục hết sức tinh tế, tay trái vung ra, một thanh phán quan bút bay vụt ra như gió bắn thẳng vào ngực Đoàn Dự, xem chừng thủng ngực đến nơi. Đoàn Dự thấy thế bay của phán quan bút thật đáng sợ, chân tay luống cuống kêu lên:
- Đại ca, hỏng rồi!
Tiêu Phong từ bên cạnh đánh ra một chiêu Hiện Long Tại Điền , phán quan bút bị chưởng phong đánh giạt đi, cán cong vòng nên bay sượt qua đầu Đoàn Dự rồi quay ngược trở về Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục vội vàng vung đơn bút trong tay gạt ra, nghe keng một tiếng, hai bút chạm nhau, chấn động khiến cánh tay ê ẩm. Y không để cho cây bút cong rơi xuống liền vươn tay trái chộp lấy múa lên thành ra đơn câu câu pháp.
Quần hùng thấy chưởng lực Tiêu Phong mạnh như thế, lại thấy Mộ Dung Phục ứng biến thật nhanh, câu pháp tinh kỳ, nhịn không nổi lớn tiếng reo hò, biết hôm nay được coi những kỳ tài đương thế ra tay, quả thực đại khai nhãn giới, không uổng công một chuyến du hành lên núi Thiếu Thất.
Đoàn Dự thoát được cái họa bút xuyên qua ngực, vội giơ ngón tay cái lên sử động Thiếu Thương kiếm pháp. Lộ kiếm pháp này đóng mở rộng rãi, khí mạch hoằng vĩ, mỗi kiếm đâm ra đều như trời long đất lở, gió táp mưa sa, Mộ Dung Phục một bút một câu xem chừng khó bề chống đỡ. Đoàn Dự được Tiêu Phong chỉ điểm nên chỉ sử dụng một đường Thiếu Thương kiếm pháp, quả nhiên kết cấu nghiêm cẩn không còn chút sơ hở nào.
Vốn dĩ Lục Mạch Thần Kiếm sáu đường kiếm pháp đắp đổi tới lui, uy lực so với một đường mạnh mẽ gấp bội, thế nhưng Đoàn Dự không biết yếu quyết bên trong, sử dụng một đường lại thành thục hơn, nên chỉ hơn một chục kiếm đã thấy Mộ Dung Phục toát mồ hôi trán, liên tiếp thối lui, tới khi gặp một cây hòe mới tựa vào đó mà chống đỡ.
Đoàn Dự sử dụng xong Thiếu Thương kiếm pháp, ngón cái co lại, ngón trỏ bung ra biến thành Thương Dương kiếm pháp. Thương Dương kiếm pháp so với Thiếu Thương không hoằng đại bằng nhưng lại khinh linh huyền ảo, ngón tay trỏ vận động, từng kiếm từng kiếm bắn ra nhanh nhẹn không gì sánh kịp.
Sử kiếm toàn nhờ cổ tay linh hoạt, nhưng tung ra thu về, dù có nhanh nhẹn cỡ nào, cũng phải cách nhau vài thước, còn chàng dùng ngón tay vận dụng kiếm khí vô hình, chỉ dùng ngón tay chuyển động trong vài tấc, đâm ra điểm tới thật tiện lợi biết bao? Huống chi Mộ Dung Phục bị chàng đẩy lùi ra ngoài hơn một trượng, không cách gì hoàn thủ được. Đoàn Dự nếu như cùng y từng chiêu sách giải thì chưa đến chiêu thứ hai đã bị Mộ Dung Phục lấy mạng rồi, bây giờ chỉ công mà không cần thủ, sử dụng Thương Dương kiếm pháp học được nơi chùa Thiên Long quả thật tiện nghi quá đỗi.
Vương Ngữ Yên thấy biểu ca tình thế nguy cấp, trong bụng lo lắng vô cùng, tuy nàng am tường võ công chiêu số mọi môn phái trong thiên hạ nhưng Lục Mạch Thần Kiếm lại chẳng biết gì, không làm sao buông lời chỉ điểm được, chỉ biết quýnh quít mà thôi.
Tiêu Phong thấy vô hình kiếm khí của Đoàn Dự càng lúc càng thần diệu, cảm thấy khoan tâm, lại thêm bội phục nhưng chạnh nhớ đến A Châu lòng thêm chua xót: “A Châu hôm đó cam nguyện chết thay cho phụ thân, cũng chỉ vì sợ ta giết phụ thân nàng rồi, họ Đoàn Đại Lý sẽ tìm ta báo thù, e rằng ta chống đỡ không nổi môn Lục Mạch Thần Kiếm này. Tam đệ kiếm pháp thần kỳ như thế, nếu ta ở vào địa vị của Mộ Dung Phục quả thực cũng không chống đỡ nổi. A Châu đem tính mạng nàng ra cứu ta khỏi chết, ta … ta chỉ là một kẻ vũ phu Khất Đan, làm sao báo đáp thâm ân hậu tình của nàng cho được?”.
Quần hùng thấy Mộ Dung Phục bị Đoàn Dự đẩy vào thế quẫn bách, có người đang định chạy lên giúp đỡ bỗng nghe phía tây nam có tiếng đàn bà quát lên:
- Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi dám cùng chủ nhân cung Linh Thứu ngọn Phiêu Miểu động thủ? Mau mau quì xuống khấu đầu đi thôi.
Mọi người ngó qua thấy bên sườn núi đứng lố nhố đến mấy trăm người đàn bà, chia thành tám đội, mỗi đội mặc một loại quần áo khác màu, đỏ vàng xanh tím, trông thật đẹp mắt. Bên cạnh tám đội đàn bà đó còn thêm mấy trăm hào khách giang hồ, ăn mặc phục sức khác hẳn người thường. Những hào khách đó cũng nhao nhao lên:
- Chủ nhân, cấy cho y mấy miếng Sinh Tử Phù. 
- Đối phó với Tinh Tú Lão Quái thì Sinh Tử Phù là thần hiệu hơn cả.
Võ công nội lực Hư Trúc đều hơn hẳn Đinh Xuân Thu, vốn dĩ đã có thể thủ thắng rồi, nhưng có điều kinh nghiệm lâm địch còn ít quá, công lực bản thân chỉ phát huy được sáu bảy thành, hai nữa y có lòng từ bi, nhưng chiêu sát thủ lấy mạng người khác đều chỉ ra đòn một nửa rồi rút về, ba là toàn thân Đinh Xuân Thu đều có chất độc, Hư Trúc cũng hơi e dè, không dám để cho đụng vào người, có biết đâu rằng mình có nội công thâm hậu, chất kịch độc của Đinh Xuân Thu không làm gì nổi thành thử đấu đã lâu mà chưa hạ được y.
Bỗng nghe có tiếng đàn ông đàn bà cùng reo hò như thế, hoan hô trợ uy cho mình, Hư Trúc đưa mắt nhìn về phía thanh âm, không khỏi vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc. Chỉ thấy chư nữ Cửu Thiên đã có tám lộ đến nơi, riêng Loan Thiên Bộ chắc ở lại thủ ngự cung Linh Thứu. Còn đàn ông kia thì là động chủ ba mươi sáu động, đảo chủ bảy mươi hai đảo và các bộ thuộc, nhân số không phải là ít, dù các động chủ đảo chủ không đến đủ thì cũng phải đến tám chín phần.
Hư Trúc kêu lên:
- Dư bà bà, Ô tiên sinh, các vị cũng đã đến rồi đấy ư?
Dư bà bà đáp:
- Khải bẩm chủ nhân, thuộc hạ nhận được thư truyền của bốn vị cô nương Mai Lan Cúc Trúc mới hay bọn giặc trọc chùa Thiếu Lâm toan làm khó chủ nhân, thành thử cùng các động các đảo bộ thuộc, đêm ngày chạy đến. Nhờ trời chủ nhân không sao, thuộc hạ mừng sao cho xiết.
Hư Trúc nói:
- Phái Thiếu Lâm là sư môn của ta, bà bà không được nói năng vô lễ, mau mau tạ tội cùng phương trượng chùa Thiếu Lâm đi.
Y miệng nói nhưng tay vẫn sử dụng Thiên Sơn Chiết Mai Thủ, Thiên Sơn Lục Dương Chưởng thật là tuyệt diệu. Dư bà bà tỏ vẻ hoảng hốt, khom lưng nói:
- Dạ, mụ già này biết tội rồi.
Bà ta đi đến trước mặt Huyền Từ phương trượng, quì hai gối xuống, cung kính rập đầu bốn lần nói:
- Thuộc hạ của chủ nhân Linh Thứu Cung là Hạo Thiên Bộ Dư bà, ngôn ngữ vô lễ, mạo phạm chúng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm, cung kính khấu đầu tạ tội trước phương trượng, cẩn lãnh đại sư xử phạt.
Bà ta nói giọng tuy thành khẩn nhưng tiếng thật vang động đủ biết nội lực sung mãn, đã đạt tới trình độ nhất lưu cao thủ. Huyền Từ phất tay áo một cái nói:
- Không dám, xin nữ thí chủ đứng lên.
Cái phất tay đó sử dụng đến năm phần nội lực, tưởng sẽ nhắc được Dư bà lên, ngờ đâu Dư bà chỉ hơi nhúc nhích một chút nhưng không đứng dậy. Bà ta lại khấu đầu nói:
- Lão bà tử mạo phạm đến sư môn của chủ nhân, tội đáng muôn thác.
Lúc đó mới chậm rãi đứng lên, quay trở về đội mình. Những nhà sư trong vai vế chữ Huyền đã nghe Hư Trúc thuật lại việc y lên làm chủ nhân Linh Thứu Cung nên hiểu ra, còn quần hùng và những nhà sư khác đều hết sức lạ lùng: “Mụ già này nội lực tu tập quả là ghê gớm, những người kia xem ra cũng chẳng phải vừa, sao lại là bộ hạ của tiểu hòa thượng chùa Thiếu Lâm, quả là kỳ quái”. Có người thấy Hư Trúc tương trợ Tiêu Phong, mà y lại có một bầy thủ hạ nam nữ kéo tới, Tiêu Phong thêm nhiều cường viện, muốn giết được ông cũng không phải dễ đâm ra lo lắng.
Môn nhân phái Tinh Tú thấy trong chư nữ bát bộ có nhiều đàn bà con gái trẻ đẹp, lập tức giở giọng bông lơn chớt nhả. Các động chủ đảo chủ cũng toàn là bọn thô lỗ, lập tức chửi lại ngay, lập tức hai bên nói qua nói lại rầm rĩ vang cả núi. Các động chủ, đảo chủ loạt soạt rút đao rút kiếm thách bên kia nhưng môn nhân phái Tinh Tú chưa được lệnh sư phụ, không dám bước ra ứng chiến, chỉ còn nước chửi già, càng lúc càng tục tĩu gấp bội. Có kẻ thấy sư phụ đánh lâu chưa thắng, cục diện chưa hẳn đã hay, mắt trước mắt sau chấp chới toan tìm đường chạy xuống núi.
Đoàn Dự không chú ý đến bên ngoài nên chư nữ cung Linh Thứu lên chàng không hề hay biết, tập trung tinh thần sử động Thương Dương kiếm pháp, từng chiêu từng chiêu đánh ép vào Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục lúc này nhìn không ra đạo lộ của vô hình kiếm khí, chỉ còn nước múa tít một bút một câu gió mưa không lọt, hộ vệ toàn thân.
Bỗng nhiên nghe soẹt một tiếng, kiếm khí của Đoàn Dự đã đâm thủng vòng vây, mũ của Mộ Dung Phục bị cắt đứt, tóc xõa tung ra trông thật thảm thương. Vương Ngữ Yên kinh hoảng kêu lên:
- Đoàn công tử, xin nhẹ tay cho!
Đoàn Dự trong lòng chột dạ, thở dài một tiếng, kiếm thứ hai không tung ra nữa, rút tay về ôm ngực nghĩ thầm: “Ta biết lòng nàng chỉ nghĩ đến một người là biểu ca, nếu như ta lỡ tay giết y, nàng sẽ vô cùng đau đớn, từ nay không bao giờ nở một nụ cười. Đoàn mỗ kính nàng yêu nàng, không thể nào để cho nàng đau thương không chịu nổi”.
Mộ Dung Phục sắc mặt như chàm, nghĩ đến hôm nay trên núi Thiếu Thất đấu kiếm bị thua, quả là kỳ sỉ đại nhục, lại phải để một cô gái mở miệng van xin đối phương mới tha mạng cho mình, từ nay sao còn chỗ đứng trên giang hồ nữa? Y rống lên:
- Đại trượng phu có chết thì chết, ai cần mi mua chuộc nhường chiêu.
Y vũ động cương câu, xông thẳng vào Đoàn Dự. Đoàn Dự hai tay xua lia lịa nói:
- Chúng mình không thù không oán, tái đấu làm gì? Không đánh nữa, không đánh nữa.
Mộ Dung Phục tính tình cao ngạo, vẫn coi người bằng nửa con mắt, hôm nay trước bao nhiêu hào kiệt, bị Đoàn Dự đánh cho không trả lại được miếng nào, nhờ Vương Ngữ Yên nên đối phương mới dung tha, mối hận đó làm sao chịu nổi? Cương câu của y móc vào mặt còn phán quan bút thì đâm thẳng vào ngực địch thủ, trong bụng tính thầm: “Ngươi dùng kiếm khí vô hình giết ta đi, thôi cả hai đồng qui ư tận, còn hơn lê kiếp sống thừa”. Y xông lên không còn coi tính mạng mình ra gì nữa.
Đoàn Dự thấy Mộ Dung Phục hung hăng xông đến, nếu dùng Lục Mạch Thần Kiếm đâm vào chỗ yếu hại của y e rằng sẽ bỏ mạng, nhất thời luống cuống, đứng chết sững, không nghĩ ra phải dùng Lăng Ba Vi Bộ tránh né. Mộ Dung Phục chí đã muốn chết, xốc tới nhanh biết chừng nào, chỉ thấy bóng người thấp thoáng, phụp một cái, phán quan bút đã đâm vào người Đoàn Dự. Cũng may trong cơn nguy cấp Đoàn Dự né qua bên trái, tránh được chỗ yếu hại trên ngực, bút đâm ngập vào vai phải. Đoàn Dự rú lên một tiếng, sợ đến run lẩy bẩy đứng không vững. Mộ Dung Phục liền dùng cương câu bên tay trái móc ngang ót Đoàn Dự, chiêu Đại Hải Liệu Châm là một chiêu số lợi hại của Ngư Tẩu Câu Pháp của họ Thác Bạt ngoài Bắc Hải, lấy từ cách móc cá đánh cá ngoài bể khơi biến hóa thành, vừa chính xác, vừa hiểm độc.
Đoàn Chính Thuần và Nam Hải Ngạc Thần thấy tình thế không xong, cả hai lại cùng nhào tới, lúc này lại có thêm Ba Thiên Thạch và Thôi Bách Tuyền. Lần này Mộ Dung Phục quyết tâm giết cho bằng được Đoàn Dự, dù cho chính mình có bị trọng thương cũng chẳng ngừng tay nên chẳng thèm để ý gì đến bọn bốn người Đoàn Chính Thuần. Xem ra đầu cương câu bổ vào sau ót Đoàn Dự tới nơi, đột nhiên sau lưng y tê đi, Huyệt Thần Đạo bị chộp trúng lập tức hai tay ê ẩm, cầm cương câu không còn vững nữa, thân hình đã bị ai đó xách lên cao. Y chỉ nghe Tiêu Phong nghiêm nghị quát lên:
- Người ta tha mạng cho mi, mi lại trả lại bằng độc thủ, còn gì là anh hùng hảo hán?
Thì ra Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục hung hăng xông tới, để hở hết cả phía trước, nghĩ thầm Đoàn Dự chỉ cần sử dụng một chiêu vô hình kiếm khí là lấy mạng y ngay, đâu có ngờ rằng chàng lại đứng chết sững, thế của Mộ Dung Phục nhanh quá, mặc dù Tiêu Phong ra tay rất nhanh nhưng cũng không sao giải cứu được thế đâm của thanh bút. Thế nhưng khi Mộ Dung Phục sử dụng chiêu Đại Hải Liệu Châm, Tiêu Phong lập tức xuất thủ, chộp ngay huyệt Thần Đạo ở sau lưng.
Võ công Mộ Dung Phục vốn có kém Tiêu Phong một chút nhưng cũng không đến nỗi chỉ một chiêu đã bị bắt, có điều khi đó y đang phẫn khích, chỉ chăm chăm vào việc giết cho được Đoàn Dự, không lo gì cho chính mình. Chiêu của Tiêu Phong lại là một chiêu cầm nã thủ rất tinh diệu, đã nắm được yếu huyệt rồi, Mộ Dung Phục còn cử động sao được.
Tiêu Phong thân hình to lớn, tay dài chân cao, cầm Mộ Dung Phục nhắc lên bông bênh trên không, thật chẳng khác gì diều hâu bắt gà con. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác bốn người cùng kêu lên:
- Đừng giết công tử nhà ta!
Cả bọn cùng xông lên, Vương Ngữ Yên cũng từ đám đông chạy ra kêu lên:
- Biểu ca! Biểu ca!
Mộ Dung Phục hận không thể chết ngay tại chỗ cho khỏi nhục nhã đến mực này. Tiêu Phong cười khẩy đáp:
- Tiêu mỗ thân đại hảo nam nhi vậy mà lại bị xếp ngang hàng với cái quân này!
Ông vẫy tay một cái, ném bịch y ra ngoài. Mộ Dung Phục bay thẳng ra đến bảy tám trượng, vặn người một cái nhắc người lên, ngờ đâu khi Tiêu Phong nắm huyệt Thần Đạo của y, nội lực đã ngấm vào các kinh mạch, không cách gì trong nháy mắt giải trừ được tê dại trên tay chân, nghe bình một tiếng, sống lưng giáng xuống, ngã bò lăn bò càng.
Bọn Đặng Bách Xuyên vội đổi hướng chạy sang phía Mộ Dung Phục, Mộ Dung Phục vận chuyển nội tức, không đợi bọn thủ hạ chạy tới, đã đứng lên được rồi. Y mặt tái nhợt, rút phắt thanh kiếm đeo nơi hông Bao Bất Đồng, tay trái vung ra một vòng, gạt bọn Đặng Bách Xuyên dạt ra mấy thước, cổ tay phải lật lại đưa kiếm cứa ngang cổ một cái. Vương Ngữ Yên kêu lên:
- Biểu ca! Chớ có …
Ngay lúc đó, có tiếng gió rít xé không, một món ám khí từ mươi trượng xa vọt ngang quảng trường, đụng vào thanh kiếm trên tay Mộ Dung Phục, nghe keng một tiếng, thanh kiếm tuột tay văng ra, bàn tay đầy máu, hổ khẩu đã bị rách rồi.
Mộ Dung Phục kinh hãi không sao kể xiết, ngửng đầu nhìn lên chỗ ném ám khí ra thấy trên sườn núi có một nhà sư mặc áo xám đứng đó, mặt bịt khăn vải cũng màu tro. Tăng nhân đó nhanh nhẹn tiến đến bên cạnh Mộ Dung Phục hất hàm hỏi:
- Ngươi có con cái gì chưa?
Giọng nói có vẻ già cả. Mộ Dung Phục đáp:
- Tôi chưa lấy vợ, làm sao có con?
Tăng nhân áo xám lạnh lùng hỏi:
- Thế ngươi có tổ tông không nhỉ?
Mộ Dung Phục bực bội, lớn tiếng đáp:
- Dĩ nhiên là có! Tôi tự nguyện tìm cái chết, có liên can gì đến ông? Sĩ khả sát bất khả nhục, Mộ Dung Phục đường đường nam tử, đâu để cho người ta nói lời vô lễ như thế.
Nhà sư áo xám nói:
- Ông cố ngươi có con có cái, ông cụ ngươi, ông nội ngươi, cha ngươi ai cũng có con cái, chỉ có ngươi là không có con cái. Ha ha! Nước Đại Yên xưa kia có Mộ Dung Hoảng, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Đức anh hùng nhường nào, ngờ đâu lại thành đoạn chủng tuyệt đại không ai nối dõi.
Mộ Dung Hoảng, Mộ Dung Khác, Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Đức đều là những anh quân, danh chúa của nước Đại Yên ngày trước, uy chấn thiên hạ, sự nghiệp hết sức lẫy lừng, chính là liệt tổ liệt tông của Mộ Dung Phục. Y trong lúc đầu óc quay cuồng, tức giận như điên đột nhiên nghe nhắc đến tên bốn vị tiên nhân, thật chẳng khác gì dội một chậu nước lạnh lên đầu, nghĩ thầm: “Tiên phụ năm xưa dặn đi dặn lại, bảo ta lấy chuyện hưng phục Đại Yên làm chí nguyện suốt đời, hôm nay ta vì cái phẫn uất nhất thời, tính toán nông cạn, họ Mộ Dung nước Tiên Ti từ nay tuyệt đại. Đến con cái ta cũng chưa có, nói gì đến chuyện quang tông phục quốc?”. Y không khỏi trán toát mồ hôi lạnh, lập tức lạy phục xuống đất nói:
- Mộ Dung Phục kiến thức thô thiển, được cao tăng chỉ dạy bến mê, đại ân đại đức đó suốt đời không dám quên.
Nhà sư áo xám thản nhiên để cho y quì lạy nói:
- Xưa nay những người làm nên đại công nghiệp, có ai không phải trải qua trăm đắng nghìn cay? Hán Cao Tổ bị khốn đành cầu hòa ở Bạch Đăng, Đường Cao Tổ phải chịu nhục hàng phục Đột Quyết, nếu cũng như ngươi rút kiếm tự vẫn thì cũng chỉ là một kẻ tâm địa hẹp hòi mà thôi, nói gì đến chuyện khai quốc kiến cơ? Đến như Câu Tiễn, Hàn Tín ngươi cũng chưa sánh kịp, quả thật là vô tri vô thức.
Mộ Dung Phục quì đó nghe giảng dạy, bỗng nhiên kinh hoảng: “Vị thần tăng này xem chừng biết hết những chuyện ấp ủ trong ruột gan ta nên mới đen Hán Cao Tổ, Đường Cao Tổ là những khai quốc đế vương ra so sánh”. Y bèn nói:
- Mộ Dung Phục biết sai rồi!
Nhà sư áo xám nói:
- Đứng lên đi!
Mộ Dung Phục cung kính khấu đầu ba lần rồi mới đứng dậy. Nhà sư áo xám lại tiếp:
- Võ công gia truyền của họ Cô Tô Mộ Dung nhà ngươi thần kỳ tinh áo, không đâu sánh kịp, chỉ có điều ngươi học chưa đến đầu đến đũa chứ lẽ nào lại không bằng Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý hay sao? Xem kỹ này!
Ông ta vươn ngón tay trỏ, lăng hư điểm ba cái. Khi đó Đoàn Chính Thuần và Ba Thiên Thạch hai người đứng ngay bên cạnh Đoàn Dự, Đoàn Chính Thuần đã dùng Nhất Dương Chỉ phong bế các huyệt đạo chung quanh vết thương, còn Ba Thiên Thạch đang định rút chiếc phán quan bút ra khỏi vai Đoàn Dự, không ngờ chỉ phong của nhà sư điểm tới, hai người ngực ê ẩm, ngã vật xuống, còn cây bút phán quan cũng bật ra, nghe cạch một tiếng cắm phập xuống đất.
Nhà sư áo xám hiển nhiên thủ hạ lưu tình, nếu không hư điểm đã lấy mạng hai người rồi. Chỉ nghe nhà sư sang sảng nói:
- Đây chính là Tham Hợp Chỉ của nhà Mộ Dung ngươi! Năm xưa lão nạp học được của tiên nhân ngươi, nhưng cũng chỉ biết lờ mờ một chút vỏ ngoài, ngoài ra họ Mộ Dung còn biết bao nhiêu môn võ công thần diệu khác. Ha ha! Không lẽ chỉ mới thứ trẻ con học qua chút ít như ngươi mà sáng tạo được cái phép “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” lừng danh thiên hạ hay sao?
Quần hùng trước nay vẫn chấn động trước uy danh Cô Tô Mộ Dung, bây giờ thấy Mộ Dung Phục bị Đoàn Dự đánh bại, rồi lại thua cả Tiêu Phong, trong lòng ai cũng nghĩ: “Tai nghe không bằng mắt thấy! Tuy không dám nói là y chỉ được cái danh hão nhưng cũng chẳng có gì gọi là kinh thế hãi tục, không ai sánh kịp cả”. Đến lúc này thấy nhà sư áo xám kia hiển thị chút thần công bảo là đó mới chỉ là chút vỏ ngoài của Tham Hợp Chỉ không khỏi kính ngưỡng trở lại bốn chữ Cô Tô Mộ Dung nhưng ai ai cũng lấy làm lạ: “Nhà sư áo màu tro này là ai nhỉ? Ông ta có liên hệ gì đến nhà Mộ Dung?”.
Nhà sư áo xám quay sang chắp tay hành lễ với Tiêu Phong:
- Kiều đại hiệp võ công trác tuyệt, quả nhiên danh bất hư truyền, lão nạp mong được lãnh giáo vài chiêu.
Tiêu Phong vốn đã đề phòng nên khi ông ta chắp tay hành lễ, lập tức vòng tay nói:
- Không dám!
Hai luồng nội lực đụng nhau, cả hai thân hình đều hơi rung động. Ngay lúc đó từ trên không một bóng đen chẳng khác gì một con diều hâu sà xuống, đáp ngay vào giữa Tiêu Phong và nhà sư áo xám. Người đó đột ngột từ trên trời bay xuống, mọi người ai nấy kinh ngạc, reo ầm cả lên, đến khi hai chân ông ta chạm đất rồi mới nhìn rõ. Thì ra trong tay ông ta cầm một sợi dây dài, một đầu buộc vào một cây to cách ngoài mươi trượng. Chỉ thấy người đó đầu trọc áo đen, vải đen che mặt, chỉ để lộ đôi mắt sáng quắc như điện, cũng lại là một nhà sư nữa.
Hai nhà sư áo xám áo đen đứng đối diện nhau, qua một hồi lâu, thủy chung không ai nói một lời nào. Quần hùng thấy hai nhà sư này thân hình ai cũng cao nghệu, có điều nhà sư áo đen có hơi vạm vỡ, còn nhà sư áo xám thì rất là mảnh khảnh.
Tiêu Phong rất vui mừng, lại thêm cảm kích, vừa thấy thân pháp nhà sư áo đen dùng dây đánh đu từ đằng xa xuống đã nhìn ra ngay đó là đại hán áo đen cứu mình ở Tụ Hiền Trang hôm nào nhưng khi đó người áo đen đầu bịt khăn, mặc quần áo người thường, còn bây giờ đã thay tăng trang. Những người hiện đang trên núi Thiếu Thất không ít người năm xưa đã tham dự đại hội Tụ Hiền Trang, nhưng đại hán áo đen đến là đi ngay không ai nhìn ra thân pháp ông ta thế nào nên bây giờ không nhận ra thôi.
Một hồi lâu, hai nhà sư áo đen áo xám cùng cất tiếng:
- Ngươi …
Thế nhưng chỉ một tiếng “ngươi” ra khỏi miệng, hai bên cùng ngưng lại. Lại một hồi nữa, nhàsư áo xám mới hỏi:
- Ngươi là ai?
Nhà sư áo đen cũng hỏi lại:
- Thế ngươi là ai?
Quần hùng nghe nhà sư áo đen hỏi đều nghĩ thầm: “Hòa thượng này thanh âm già cả, hóa ra là một lão tăng”. Tiêu Phong nghe thanh âm nhận ra ngay chính là người ở nơi hoang sơn đã giáo huấn mình, tim đập thình thình, chỉ muốn lập tức tiến lên nhận nhau, lạy ta cái ơn cứu mạng.
Nhà sư áo xám nói:
- Ngươi trốn ở trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm là để làm chi?
Nhà sư áo đen cũng hỏi lại:
- Ta cũng đang định hỏi ngươi, ngươi trốn ở trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm là để làm gì?
Hai nhà sư vừa mở miệng, quần tăng Thiếu Lâm từ phương trượng Huyền Từ đổ xuống ai nấy kinh ngạc vô cùng, mặt mày bần thần, nghĩ bụng: “Sao hai lão tăng này ở trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm mà mình không hay biết gì cả? Có chuyện đó thật chăng?”.
Chỉ nghe nhà sư áo xám đáp:
- Ta tàng thân trong chùa Thiếu Lâm là để đi tìm một vật.
Nhà sư áo đen cũng đáp:
- Ta tàng thân trong chùa Thiếu Lâm cũng là để đi tìm một vật. Món ta cần tìm ta đã kiếm ra rồi, món ngươi định kiếm chắc cũng đã tìm thấy. Nếu không như thế thì tại sao ba lần mình so tài mà lại chẳng ai hơn ai.
Nhà sư áo xám nói:
- Đúng thế! Tôn giá võ công thật cao siêu, tại hạ bình sinh ít thấy, hôm nay mình có tỉ thí nữa hay thôi?
Nhà sư áo đen đáp:
- Huynh đệ cũng mười phần bội phục võ công các hạ, dẫu có tỉ thí nữa, e rằng cũng khó mà biết được ai hơn ai.
Mọi người thấy hai nhà sư đổi giọng xưng hô “các hạ, huynh đệ”, không phải ngôn ngữa của kẻ xuất gia, lại càng không hiểu đầu đuôi sao cả. Nhà sư áo xám nói:
- Hai chúng ta cùng khâm phục lẫn nhau, chẳng cần phải so tài thêm nữa.
Nhà sư áo đen đáp:
- Hay lắm!
Hai người cùng gật đầu, sánh vai đi tới một gốc cây to ngồi xuống, nhắm mắt như đang nhập định, không nói gì thêm nữa. Mộ Dung Phục vừa sượng sùng, vừa cảm kích nghĩ thầm: “Vị cao tăng này quen biết với tiên nhân nhà Mộ Dung, không biết đó là ông nội hay là cha ta? Việc hưng phục đại nghiệp không thể không nhờ vị cao tăng này chỉ điểm, để từ rày về sau chẳng đển tái phạm lỗi lầm”. Nghĩ vậy y đứng tránh qua một bên, không dám tới làm phiền, định đợi khi nào nhà sư áo xám kia đứng lên sẽ đến rập đầu xin học hỏi.
Vương Ngữ Yên nghĩ đến việc y mới rồi toan cứa cổ tự tử, bây giờ vẫn còn hoảng vía chưa yên, cầm tay áo y mà nước mắt tuôn rơi lã chã. Mộ Dung Phục trong lòng khó chịu nhưng biết nàng vì lòng tốt với mình nên không nỡ giựt tay ra đuổi đi.
Kể từ khi hai nhà sư áo xám, áo đen liên tiếp xuất hiện rồi đến gốc cây đả tọa thì bên kia Hư Trúc và Đinh Xuân Thu vẫn tiếp tục đánh nhau kịch liệt. Bấy giờ quần hùng lại quay qua xem hai người.
Cúc Kiếm trong Linh Thứu Tứ Chu bỗng nhiên nghĩ ra một việc, đến trước mười tám võ sĩ Khất Đan nói:
- Chủ nhân ta đấu với người cần uống chút rượu cho tăng thêm lực khí.
Một tên võ sĩ Khất Đan đáp:
- Rượu đây nhiều lắm, xin cô nương cứ việc dùng.
Nói xong đưa ra hai túi da lớn. Cúc Kiếm cười nói:
- Đa tạ! Chủ nhân chúng tôi tửu lượng không mấy cao, một túi cũng đủ rồi.
Cô ta cầm một bầu liệt tửu, mở nút gỗ ra, chậm rãi đi đến gần nơi Hư Trúc và Đinh Xuân Thu đang đấu, kêu lên:
- Chủ nhân cấy Sinh Tử Phù cho Tinh Tú Lão Quái, dùng rượu đây cũng được rồi.
Cô ta để ngang túi da, dùng sức hắt mạnh một cái, rượu vọt ra thành một cái vòi bắn vào Hư Trúc. Mai Lan Trúc ba cô liền vỗ tay reo hò:
- Cúc muội, hay lắm.
Bỗng nghe dưới sườn núi có tiếng đàn bà yểu điệu hát rằng:
Một cành hoa thắm sương ngựng đọng,
Ân ái non Vu luống chạnh lòng. 
Bệ hạ ôi!
Rượu ngon ta cạn chén,
Cho thần thiếp họ Dương,
Say sưa chân lảo đảo,
Quỵ xuống lầu Trầm Hương.
Hư Trúc đấu với Đinh Xuân Thu đã lâu nhưng chưa có cách nào chế ngự y, nghe nam nữ bộ hạ cung Linh Thứu nhắc đến là bùa Sinh Tử, thấy Cúc Kiếm hắt rượu tới, vừa giơ tay chộp lấy một nắm, đã thấy từ sau núi tám người đi ra, chính là Cầm Điên Khang Quảng Lăng, Kỳ Ma Phạm Bách Linh, Thư Ngai Cẩu Độc, Họa Cuồng Ngô Lãnh Quân, Thần Y Tiết Mộ Hoa, Xảo Tượng Phùng A Tam, Hoa Si Thạch Thanh Lộ, Hí Mê Lý Khổi Lỗi trong Hàm Cốc bát hữu.
Tám người đó thấy Hư Trúc trao quyền đổi cước với Đinh Xuân Thu đang lúc mê mải, lập tức cùng reo lên trợ uy:
- Chưởng môn sư thúc hôm nay đại hiển thần thông, mau giết gã Đinh Xuân Thu để báo thù cho tổ sư gia và sư phụ chúng đệ tử.
Khi đó rượu trong tay Cúc Kiếm không ngớt hắt về phía Hư Trúc, nàng võ công bình thường nên một phần lại tạt sang hướng Đinh Xuân Thu. Tinh Tú Lão Quái ác đấu với Hư Trúc, qua lại đã hơn nửa giờ thấy những chiêu số cao siêu của đối phương không hề giảm đi chút nào khiến ông ta bó chân bó tay, bao nhiêu tà thuật không cách gì thi triển được. Lúc này thấy rượu bắn tới, chợt nghĩ ra liền phất tay áo bên trái, hất vòi rượu thành muôn ngàn hạt mưa tung tóe tạt vào Hư Trúc.
Khi đó toàn thân Hư Trúc nội công kình lực bung ra, hàng nghìn hàng vạn giọt rượu bắn tới vừa tới gần bâu áo, đã bị bắn văng ra, nghe “A! A!” hai tiếng Cúc Kiếm đã khuỵu ngay xuống. Đinh Xuân Thu biến rượu thành những hạt mưa hất ra thì đã nhiễm chất kịch độc rồi, Cúc Kiếm đứng gần bị trúng độc vũ nên ngã gục.
Hư Trúc lo cho Cúc Kiếm, hết sức kinh hoảng nhưng không biết phải làm thế nào để cứu cô thị tì, bỗng nghe Tiết Mộ Hoa kêu lên:
- Sư thúc, chất độc này lợi hại lắm, mau mau chế ngự lão tặc để ép y đưa giải dược ra cứu chữa.
Hư Trúc kêu lên:
- Đúng đó!
Tay phải vung lên, liên tiếp tấn công Đinh Xuân Thu, chưởng tâm bên trái ngầm vận nội lực, nghịch chuyển Bắc Minh chân khí chẳng mấy chốc rượu nơi lòng bàn tay đã đọng thành bảy tám phiến hàn băng, tay phải liên tiếp đánh luôn ba chưởng.
Đinh Xuân Thu bỗng thấy gió lạnh ùa tới, hết sức kinh hãi: “Tên trọc con này nội lực dương cương, sao tự nhiên lại biến đổi thế này?’. Y vội vàng tập trung toàn lực chống đỡ, đột nhiên huyệt Khuyết Bồn trên vai hơi lạnh như chạm phải một bông hoa tuyết, rồi tới huyệt Thiên Khu nơi bụng dưới, huyệt Phục Thố trên đùi, huyệt Thiên Tuyền trên vai ba nơi cũng thấy tê tê.
Đinh Xuân Thu càng ra sức đẩy chưởng lực ra đề kháng, đột nhiên huyệt Thiên Trụ sau cổ, huyệt Thần Đạo sau lưng, huyệt Chí Thất ở ngang eo ba nơi cũng thấy lành lạnh, Đinh Xuân Thu lạ lùng: “Chưởng lực của y dù có âm hàn thực nhưng không thể nào lại có thể vòng qua sau lưng, huống chi những chỗ đó lại đều là những huyệt đạo, không biết tên giặc trọc con này có tà môn cổ quái gì đây? Mình phải cẩn thận mới được”.
Hai tay áo phất tới dấu chân bên trong nhắm ngay Hư Trúc đá một cái. Ngờ đâu chân phải đá tới nửa chừng đột nhiên huyệt Phục Thố và huyệt Dương Giao đều ngứa không chịu nổi, nhịn không nổi kêu lên “Ối chà” một tiếng. Mũi chân phải rõ ràng đã chạm đến tăng y của Hư Trúc rồi nhưng vì hai nơi huyệt đạo ngứa quá, tự nhiên lại phải trụt xuống. Y lại kêu “Ối ối!” rồi lại thêm “Ối ối! Ối ối!” hai tiếng nữa.
Bọn môn nhân liền cao giọng tán dương:
- Tinh Tú Lão Tiên thần thông quảng đại, hai tay chỉ phẩy nhẹ một cái là thằng nhãi kia trúng phép ngã lăn quay.
- Lão tiên nhân gia đá một cái trời long đất lở, vẫy cánh tay nhật nguyệt mịt mờ.
- Cánh tay áo lão tiên vẫy động, miệng thổ chân ngôn, khiến chúng bay bàng môn tả đạo, ngưu quỉ xà thần chết không có đất mà chôn.
Tiếng ca công tụng đức xen lẫn mấy tiếng “Ối ối!” rồi lại “Ui chao!” kêu la thật chẳng ăn khớp chút nào. Những môn nhân tinh ý kinh ngạc vội ngừng bặt nhưng phần đông vẫn cứ tiếp tục gào rống lên.
Đinh Xuân Thu trong giây lát đã thấy bảy nơi huyệt đạo Khuyết Bồn, Thiên Khu, Phục Thố, Thiên Tuyền, Thiên Trụ, Thần Đạo, Chí Thất cùng ngứa không chịu nổi, chẳng khác gì hàng nghìn hàng vạn con kiến bò tới cắn. Rượu kia biến thành những mảnh băng có chứa nội lực của Hư Trúc, hàn băng nhập thể lập tức tan ngay nhưng nội lực vẫn giữ lại nơi các huyệt đạo kinh mạch. Đinh Xuân Thu chân tay cuống cuống, mò vào trong bọc lấy ra bảy tám loại thuốc giải uống ngay, lại vận liền năm sáu lần nội tức nhưng huyệt đạo càng lúc lại càng ngứa. Nếu gặp phải người khác chắc đã ngã lăn quay ra rồi nhưng Đinh Xuân Thu thần công kinh người vẫn gắng gượng chịu được, chân loạng choạng tưởng như đang say rượu, mặt lúc đỏ lúc trắng, hai tay múa loạn lên tình trạng hết sức khiếp đảm.
Bảy nơi huyệt đạo đều bị Hư Trúc dùng rượu hóa thành Sinh Tử Phù cấy vào, so với hàn băng tầm thường có khác. Môn nhân phái Tinh Tú thấy sư phụ khổ sở như thế, từng đứa từng đứa im dần, chỉ còn vài người cố gượng thêm vài câu:
- Tinh Tú Lão Tiên đang vận dụng Đại La Kim Tiên Vũ Khiêu Công để cho chú tiểu kia nếm mùi.
- Tinh Tú Lão Tiên mỗi lần kêu “Ối ối!” thì đã hút hết một phần trong ba hồn bảy vía của chú tiểu rồi.
Thế nhưng những kẻ đó dù mặt dày mày dạn mà nói thế nhưng giọng cũng yếu xìu, chỉ lý nhí không ra hơi. Lý Khổi Lỗi lại lớn tiếng hát lên:
Ngựa đốm hoa năm sắc,
Áo cừu giá nghìn vàng.
Kêu con mau đổi rượu.
Cùng tiêu sầu mênh mang. 
Ha ha!
Ta là Lý Thái Bạch đây! Trong ẩm trung bát tiên, đứng đầu là Thi Tiên Lý Thái Bạch, thứ hai là Tinh Tú Lão Tiên Đinh Xuân Thu.
Quần hùng thấy Đinh Xuân Thu lảo đảo lại nghe Lý Khổi Lỗi hát như thế, cười ồ cả lên. Chẳng bao lâu, Đinh Xuân Thu không còn chịu đựng được nữa rồi, đưa tay bứt râu, vặt từng nắm râu đẹp trắng như cước, theo gió thả bay tung tóe, kế đó xé rách áo, để lộ làn da trắng nõn, y tuổi đã già nhưng thân thể vẫn mịn màng như thanh niên, ngón tay đến đâu, máu tươi tươm ra đến đấy, hết sức cào cấu, miệng không ngớt rên la:
- Ngứa chết ta mất! Ngứa chết ta mất!
Một hồi sau, đầu gối trái sụm xuống, tiếng kêu càng thêm thảm thiết. Hư Trúc hơi hối hận: “Người này tuy tội có báo ứng nhưng khổ sở phải chịu quả ghê gớm thật. Nếu ta biết thế chỉ cần cấy một hai lá bùa Sinh Tử cũng đủ rồi”.
Quần hùng thấy một võ lâm cao nhân, đồng nhan hạc phát trông như thần tiên kia chỉ chốc lát biến thành chẳng khác gì quỉ mị, kêu rống lên như dã thú, ai nấy kinh hãi thất sắc, đến Lý Khổi Lỗi cũng sợ quá phải ngậm miệng không hát tiếp được nữa. Chỉ có hai nhà sư áo xám, áo đen ngồi dưới gốc cây vẫn nhắm mắt tĩnh tọa, làm như không nghe thấy.
Huyền Từ phương trượng nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Hư Trúc, ngươi hãy giải khổ nạn cho Đinh thí chủ đi thôi.
Hư Trúc đáp:
- Vâng ! Cẩn tuân pháp chỉ của phương trượng!
Huyền Tịch vội nói:
- Khoan đã! Phương trượng sư huynh, Đinh Xuân Thu tác ác đa đoan, hai sư huynh Huyền Nạn, Huyền Thống chết dưới tay y, lẽ nào tha y dễ dàng như thế?
Khang Quảng Lăng nói:
- Chưởng môn sư thúc đứng đầu bản phái việc gì phải nghe lời người ngoài? Đại cừu của sư tổ, sư phụ chúng tôi lẽ nào không báo?
Hư Trúc nhất thời không biết tính sao cho phải. Tiết Mộ Hoa nói:
- Sư thúc, lấy thuốc giải của y trước là việc quan trọng hơn.
Hư Trúc gật đầu:
- Chính thế. Mai Kiếm cô nương, cô đem cho y uống nửa viên Trấn Dưỡng Hoàn.
Mai Kiếm đáp:
- Tuân lệnh!
Cô gái lấy trong túi ra một chiếc bình màu xanh lục, đổ ra một viên thuốc to bằng hạt đậu nhưng thấy Đinh Xuân Thu như điên như cuồng không dám tới gần. Hư Trúc cầm lấy viên thuốc, bẻ ra làm đôi kêu lên:
- Đinh tiên sinh, há mồm ra để ta cho uống thuốc chống ngứa.
Đinh Xuân Thu thở phì phò há mồm, Hư Trúc búng nhẹ một cái, nửa viên thuốc liền bắn tới, chui tọt vào cổ họng y. Dược lực nhất thời chưa ngấm, Đinh Xuân Thu ngứa đến lăn lộn trên mặt đất, phải đến thời gian một bữa ăn bớt rồi mới đứng lên được.
Y thần trí trước sau không mất, biết không thể phản kháng được, chẳng đợi Hư Trúc mở lời, tự lấy thuốc giải ra giao cho Tiết Mộ Hoa nói:
- Thuốc đỏ bôi bên ngoài, thuốc trắng để uống.
Y kêu gào đã lâu, nói giọng khàn khàn không thành tiếng. Tiết Mộ Hoa tin chắc y không dám tác quái, theo đúng thế mà cho Cúc Kiếm bôi thuốc uống thuốc. Mai Kiếm lớn tiếng nói:
- Tinh Tú Lão Quái, nửa viên thuốc Chỉ Dưỡng Hoàn tạm cho ngươi hết ngứa ba ngày. Sau ba ngày sẽ lại ngứa trở lại, lúc đó chủ nhân ta sẽ lại ban thêm linh dược, để xem ngươi có tuân phục không.
Đinh Xuân Thu toàn thân run rẩy không nói nên lời. Môn nhân phái Tinh Tú lập tức có mấy trăm người chen nhau chạy ra quì xuống trước mặt Hư Trúc, khẩn cầu được thu lục, có kẻ nói:
- Chủ nhân cung Linh Thứu anh hùng vô địch, tiểu nhân trung thành qui phụ, có chết cũng cam, mong được đem thân khuyển mã báo đáp.
Có kẻ nói:
- Cái ghế võ lâm minh chủ trong thiên hạ chẳng chủ nhân thì còn ai. Chỉ cần chủ nhân ra lệnh động thủ, tiểu nhân dù phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy, vạn tử bất từ.
Lại thêm bao nhiêu kẻ khác muốn tỏ ra mình là kẻ lòng dạ son sắt nên chỉ vào Đinh Xuân Thu mà chửi bới, nào là “ánh lửa đuốc đèn mà đòi tranh với hai vầng nhật nguyệt”, nào là “tâm tính lươn lẹo, tà ác gian manh”, lại có kẻ giục Hư Trúc mau mau xử tử Đinh Xuân Thu để trừ cho thế gian một kẻ vô loài. Lại nghe tiếng chiêng trống đàn sáo nổi lên, các môn nhân lớn tiếng hát rằng:
Linh Thứu cung chủ nhân xuất thế,
Tài đức kia như thể đất trời.
Uy danh lừng lẫy cõi đời,
Cổ kim chưa có ai người sánh ngang.
Chỉ đổi câu đầu thay vì Tinh Tú Lão Tiên thì biến thành Linh Thứu chủ nhân, các câu khác đều giữ nguyên không khác gì bài Tinh Tú Lão Tiên Tụng. Hư Trúc tuy là người chất phác nhưng nghe môn nhân phái Tinh Tú ca tụng mình như thế cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng, hởi lòng hởi dạ. Lan Kiếm quát:
- Các ngươi quả là tiểu nhân ti bỉ, sao dám đem mấy câu cũ rích, ngôn ngữ vô sỉ dùng để ca tụng Tinh Tú Lão Quái, để quay sang ca tụng chủ nhân ta? Thật là vô lễ.
Môn nhân phai Tinh Tú ai nấy sợ hãi, có kẻ đáp:
- Vâng! Vâng! Để tiểu nhân lập tức sửa lại văn chương cho thêm phần huê dạng, bao giờ tiên cô mãn ý mới thôi.
Có kẻ nói:
- Bốn vị tiên cô nguyệt thẹn hoa nhường, hơn Tây Thi, Dương quí phi xa lắc.
Các môn nhân phái Tinh Tú khấu đầu bái kiến Hư Trúc rồi, lập tức tự ý chạy qua đứng phía sau các động chủ, đảo chủ, đứa nào đứa nấy mặt mày câng câng ra chiều vinh dự lắm, coi quần hào Trung Nguyên, bang chúng Cái Bang, chư tăng Thiếu Lâm bằng nửa con mắt.
Huyền Từ nói:
- Hư Trúc, ngươi tự lập môn hộ, ngày sau nên đi theo con đường hiệp nghĩa chính đạo, ước thúc môn nhân đệ tử, đừng để cho họ làm điều càn rỡ, làm hại giang hồ, tích phúc đức tư lương, trồng nhân lành, dù tại gia hay xuất gia cũng chẳng có gì khác cả.
Hư Trúc nghẹn ngào đáp:
- Vâng! Hư Trúc nguyện tuân theo lời giáo huấn của phương trượng.
Huyền Từ lại tiếp:
- Nghi thức phá môn không thể bỏ qua nhưng những roi đòn thì có thể miễn cho được.
Bỗng nghe có người cười ha hả nói:
- Ta vẫn tưởng chùa Thiếu Lâm trọng thị giới luật, chấp pháp như sơn có ngờ đâu cũng một phường a dua xu nịnh. Ha ha! Linh Thứu chủ nhân, Đức phối thiên địa. Uy chấn đương thế, Cổ kim vô tỉ.
Mọi người quay qua nhìn người vừa nói, thì ra chính là quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí. Huyền Từ mặt biến sắc nói:
- Quốc sư đem đại nghĩa trách cứ, lão nạp biết sai rồi. Huyền Tịch sư đệ, lấy pháp trượng ra.
Huyền Tịch đáp:
- Vâng!
Ông quay qua nói:
- Pháp trượng đã sẵn sàng!
Rồi nói với Hư Trúc:
- Hư Trúc, ngươi hiện tại vẫn còn là đệ tử Thiếu Lâm, mau cúi xuống chịu đòn.
Hư Trúc khom lưng đáp:
- Vâng!
Y quì xuống hành lễ với Huyền Từ và Huyền Tịch nói:
- Đệ tử Hư Trúc, vi phạm đại giới bản tự, cung lãnh trượng trách của phương trượng và thủ tọa Giới Luật Viện.
Môn nhân phái Tinh Tú đột nhiên la hét ầm lên:
- Sao bọn sư sãi chùa Thiếu Lâm dám mạo phạm quí thể của lão nhân gia?
- Các ngươi dám động vào một sợi lông măng của lão nhân gia, thì thể nào ta cũng một phen sống mái, dù phải vì lão nhân gia tan xương nát thịt, chết cũng còn vinh.
- Ta chữ trung làm đầu, cái thân huyết nhục này nguyện dâng lên cho chủ nhân cung Linh Thứu.
Dư bà bà quát lớn:
- “Chủ nhân bọn ta” bốn chữ đó đâu có phải bọn yêu ma quỉ quái các ngươi được quyền xưng hô? Mau câm cái mõm chó chúng bay lại.
Môn nhân phái Tinh Tú nghe bà ta quát mắng, lập tức lặng như tờ, đến thở mạnh cũng không dám. Các nhà sư chấp pháp trong Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm nghe Huyền Tịch quát:
- Dụng trượng!
Lập tức vén tăng y Hư Trúc lên để lộ lưng trần, một tăng nhân liền giơ Thủ Giới Côn lên. Hư Trúc nghĩ thầm: “Ta chịu đòn cũng vì ta không giữ giới luật, mỗi một gậy tội nghiệt tiêu giải một phần. Nếu như vận khí đề ngự, tuy thân không đau đớn nhưng trượng đó có đánh cũng như không”.
Bỗng nghe tiếng đàn bà rít lên lanh lảnh:
- Khoan đã! Khoan đã! Ngươi … ngươi trên lưng có gì thế?
Mọi người quay sang nhìn lưng Hư Trúc, thấy trên vùng ngang thắt lưng có chín nốt hương đốt thật ngay ngắn. Tăng nhân thụ giới, vết hương đốt bao giờ cũng ở trên đỉnh đầu, ai ngờ Hư Trúc ngoài vết hương trên đầu trên lưng cũng có sẹo nữa. Vết đốt trên lưng to bằng đồng tiền, đủ biết đốt từ khi còn nhỏ, càng lớn lên vết sẹo càng to dần, đến bây giờ không còn tròn trịa như cũ.

datlucky_way

26-07-2009 07:42 PM

Hồi 42(b) : LÃO MA TIỂU XÚ - KHỞI KHẢM NHẤT KÍCH THẮNG CHI BẤT VÕ 





Bấm vào đây để xem nội dung.

Thầy trò chiêng trống khua vang,
Gặp bùa sinh tử cũng hàng mà thôi.
Bao năm che lấp chuyện đời,
Mây tan trăng tỏ biết người biết ta.
*
* *







Từ trong đám đông một phụ nữ trung niên mặc trường bào xanh nhạt chạy ra, trên má trái phải mỗi bên có ba vết cào, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương trong Tứ Đại Ác Nhân. Bà ta hấp tấp chạy đến, giơ tay gạt hai nhà sư chấp pháp của Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm ra, rồi đưa tay cầm quần Hư Trúc định lột ra.
Hư Trúc hết sức hoảng hốt, bật nhỏm dậy, nhảy vọt về sau mấy trượng lắp bắp:
- Bà … bà làm gì thế?
Diệp Nhị Nương run bắn người, kêu lên:
- Con … con ta ơi!
Bà ta giang tay, định ôm lấy Hư Trúc. Hư Trúc lách một cái, Diệp Nhị Nương chộp vào khoảng không. Mọi người nghĩ thầm: “Mụ này phát khùng rồi chăng?”. Diệp Nhị Nương liên tiếp chộp mấy bận đều bị Hư Trúc nhẹ nhàng tránh được. Bà ta như điên như cuồng, kêu lên:
- Con ơi! Sao con không nhận mẹ?
Hư Trúc trong lòng bàng hoàng, một ánh chớp lóe lên, run rẩy hỏi lại:
- Bà … bà là mẹ tôi ư?
Diệp Nhị Nương kêu lên:
- Con ơi! Mẹ sinh con chưa bao lâu thì đã điểm giới hương trên lưng và hai bên mông con. Có phải hai bên mông con cũng có chín vết sẹo không hả?
Hư Trúc vô cùng kinh hãi, trên hai bên mông y quả có chín vết hương thật. Y từ bé đã có như thế, trước nay chẳng hiểu vì sao lại sợ đồng môn chê cười, lúc tắm rửa trông thấy, cho rằng mình có duyên với cửa Phật, trời sinh ra thế, lại càng dốc lòng mộ đạo bây giờ nghe Diệp Nhị Nương nói, thật chẳng khác gì sét đánh ngang trời, lập cập hỏi:
- Đúng! Đúng! Hai … hai bên mông tôi quả có chín vết hương, do bà … do mẹ … do mẹ điểm cho con đấy ư?
Diệp Nhị Nương khóc òa lên, kêu la:
- Đúng rồi! Đúng rồi! Nếu không phải ta châm cho con thì làm sao mà biết được? Ta … ta tìm được con rồi, tìm được đứa con thân yêu của ta rồi!
Bà ta vừa khóc, vừa giơ tay vuốt ve khuôn mặt Hư Trúc. Hư Trúc không tránh né nữa, để cho bà ta ôm vào lòng. Y từ bé không cha không mẹ, cứ tưởng mình là đứa con côi được tăng nhân trong chùa nuôi dưỡng, những vết hương trên người chỉ một mình y biết, Diệp Nhị Nương đã nói như thế thì còn giả làm sao được? Y chưa từng biết được tấm lòng mẹ hiền thương yêu như thế nào, nay bỗng dưng cảm nhận, nước mắt chảy ròng ròng, kêu lên:
- Mẹ … mẹ! Bà đúng là mẹ của con rồi!
Việc xảy ra quá đột ngột, người đứng coi ai nấy lạ lùng nhưng thấy hai mẹ con ôm nhau khóc, vừa buồn vừa vui, một bên lòng mẹ bao la, một bên tình con chan chứa, quần hùng không ít kẻ phải mủi lòng. Diệp Nhị Nương nói:
- Hài tử, năm nay con hai mươi bốn rồi, trong hai mươi bốn năm qua, không ngày nào mẹ không thương nhớ đến con, đêm khuya nghĩ tới con, ta lại ghen với người khác, con yêu của ta bị tên trời đánh nào đó trộm mất rồi. Ta … ta đành đi ăn cắp con người khác, thế nhưng … thế nhưng … con người ta chứ có phải con mình rứt ruột đẻ ra đâu?
Nam Hải Ngạc Thần cười sằng sặc nói:
- Tam muội! Ngươi vẫn thường đi ăm trộm những đứa con nít mập mạp hồng hào về đùa chơi, đùa chán rồi giết chết, hóa ra con ngươi bị người ta ăn trộm mất. Nhạc lão nhị vặn hỏi ngươi, ngươi nhất định chẳng chịu nói ra! Hay lắm! Hay thiệt! Hư Trúc tiểu tử, má má ngươi là nghĩa muội của ta, ngươi mau gọi ta Nhạc nhị bá đi nào!
Y nghĩ đến vai vế mình còn cao hơn cả chủ nhân cung Linh Thứu thật sung sướng không để đâu cho hết. Vân Trung Hạc gãi đầu nói:
- Không được, không được! Hư Trúc Tử là bả huynh của sư phụ ngươi, ngươi phải gọi y là sư bá. Ta là nghĩa đệ của mẫu thân y, vai vế cao hơn ngươi hai bậc, ngươi mau gọi ta là “sư thúc tổ”.
Nam Hải Ngạc Thần ngẩn ngơ, nhổ bẹt một bãi đờm chửi:
- Con bà ngươi chứ, lão tử không gọi.
Diệp Nhị Nương thả đầu Hư Trúc ra, cầm lấy vai y, nhìn qua nhìn lại, mừng không sao kể xiết, quay sang nói với Huyền Tịch:
- Y là con ta, ngươi không được đánh y nữa.
Nói xong quay lại Hư Trúc lên giọng:
- Tên cẩu tặc trời đánh nào ăn trộm con ta, để cho mẹ con mình phải hai mươi bốn năm xa cách. Hài nhi! Hài nhi, mẹ con mình đi khắp chân trời góc biển để tìm cho được đưa chó má đó, băm vằm nó ra muôn nghìn mảnh. Mẹ đánh không lại thì đã có con võ công cao cường giúp mẹ báo thù tuyết hận.
Nhà sư áo đen từ nãy giờ vẫn ngồi bất động dưới gốc cây bỗng đứng lên, chậm rãi hỏi:
- Thế con ngươi là do người ta ăn cắp, hay là bị người ta ăn cướp? Sáu vết sẹo trên mặt ngươi là do đâu?
Diệp Nhị Nương đột nhiên biến sắc, kêu rú lên:
- Ngươi … ngươi là ai? Sao … sao ngươi biết?
Nhà sư áo đen nói:
- Không lẽ mụ không nhận ra ta sao?
Diệp Nhị Nương lại thảng thốt kêu lên:
- A! Thì ra là ngươi, chính là ngươi.
Bà ta xông tới, còn cách ông ta chừng một trượng, đột nhiên đứng lại, giơ tay chỉ vào mặt nghiến răng nghiến lợi cực kỳ phẫn nộ nhưng không dám tới gần hơn. Nhà sư áo đen nói:
- Đúng đó! Con ngươi chính là ta đã cướp đi, sáu vết huyến ngấn trên mặt ngươi cũng do ta cào đó.
Diệp Nhị Nương kêu lên:
- Vì cớ gì? Sao ngươi lại cướp đứa con ta? Ta với ngươi chưa từng quen biết, vô oán vô cừu. Ngươi … ngươi … ngươi làm ta khổ quá. Ngươi làm ta hai mươi bốn năm qua, ngày đêm lòng đau như cắt, quả là vì cớ gì? Vì … vì cớ gì?
Nhà sư áo đen chỉ vào Hư Trúc, hỏi:
- Thế cha đứa bé đó là ai?
Diệp Nhị Nương run bắn lên ấp úng:
- Y … y … ta không nói được.
Hư Trúc hoang mang, chạy lại trước mặt Diệp Nhị Nương gọi lớn:
- Mẹ, mẹ nói cho con hay, cha con là ai?
Diệp Nhị Nương lắc đầu quầy quậy nói:
- Mẹ không thể nói được.
Nhà sư áo đen chậm rãi nói:
- Diệp Nhị Nương, ngươi vốn dĩ là một cô nương con nhà gia giáo, ôn nhu xinh đẹp, đoan trang trinh thục. Thế nhưng năm ngươi mười tám tuổi lại bị một gã đàn ông võ công cao cường, thân phận cực lớn dụ dỗ, thất thân với y mới sinh ra đứa con này, có phải vậy không?
Diệp Nhị Nương đứng sững như trời trồng, một hồi lâu sau mới gật đầu nói:
- Đúng thế! Có điều không phải y dụ dỗ ta mà là ta đến dụ dỗ y.
Nhà sư áo đen nói:
- Gã con trai đó chỉ biết tới thanh danh tiền trình của mình, chẳng đoái hoài đến một cô gái thanh xuân, chưa chồng mà chửa, tình huống thê thảm biết dường nào.
Diệp Nhị Nương vội cãi:
- Không, không! Y lo cho ta lắm chứ, y cho ta rất nhiều tiền, sắp xếp cho ta ung dung sinh sống.
Nhà sư áo đen nói:
- Thế sao y lại để ngươi phải lang thang phiêu bạt giang hồ một thân một mình?
Diệp Nhị Nương nói:
- Ta không thể lấy y. Y cũng làm sao lấy ta cho được? Y là người rất tốt, trước sau đối với ta rất tốt. Chính ta không muốn liên lụy đến y. Y … y là người rất tử tế.
Giọng điệu bà ta đối với kẻ tình lang đã ruồng rẫy mình vẫn đầy vẻ trìu mến thiết tha, tình xưa nghĩa cũ không vì tháng năm khổ sở, hoa niên phôi pha mà buông lời hối tiếc. Mọi người đều nghĩ: “Diệp Nhị Nương tiếng ác vang lừng ngờ đâu đối với người tình năm xưa lại thâm sâu đến thế. Không biết người đàn ông đó là ai?”.
Đoàn Dự, Nguyễn Tinh Trúc, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch tất cả những người Đại Lý nghe hai người nói chuyện phong lưu thuở xa xưa, không khỏi len lén liếc Đoàn Chính Thuần một cái, ai nấy thấy người tình lang của Diệp Nhị Nương, thân phận, tính tình, xử sự, tuổi tác không chỗ nào là không giống ông. Lại có người nghĩ ra: “Hôm đó cả Tứ Đại Ác Nhân đều đến Đại Lý, chắc là đi tìm Trấn Nam Vương để đòi món nợ oan khiên này”.
Đến cả Đoàn Chính Thuần cũng hồ nghi: “Những người đàn bà ta quen rất là đông, không lẽ cũng có cả bà ta nữa hay sao? Sao mình không nhớ được chút nào? Nếu đúng là ta làm lụy đến nàng như thế, thì dẫu thanh danh một đời bỏ đi trước mặt anh hùng hào kiệt, Đoàn mỗ cũng quyết không bao giờ ruồng rẫy nàng. Chỉ có điều … có điều … sao mình không nhớ ra được tí gì nhỉ?”.
Nhà sư áo đen dõng dạc nói:
- Phụ thân của đứa bé đó, hiện giờ cũng có mặt nơi đây, sao bà không chỉ y ra cho mọi người biết?
Diệp Nhị Nương kinh hoảng lắp bắp:
- Không! Không! Ta không thể nói được.
Nhà sư áo đen hỏi lại:
- Vì cớ gì trên lưng, trên mông đứa bé kia lại điểm ba chín hai mươi bảy dấu giới hương?
Diệp Nhị Nương ôm mặt đáp:
- Tôi không biết! Tôi không biết! Tôi van ông, đừng hỏi tôi nữa.
Giọng nhà sư áo đen vẫn thản nhiên như không động tâm chút nào, hỏi tiếp:
- Khi con bà sinh ra bà muốn cho nó đi tu à?
Diệp Nhị Nương đáp:
- Không phải, không phải thế!
Nhà sư áo đen lại tiếp:
- Vì sao? Vì sao bà lại điểm trên người y dấu giới hương của Phật môn?
Diệp Nhị Nương chối bai bải:
- Ta không biết! Ta không biết!
Nhà sư áo đen sang sảng nói:
- Ngươi không chịu nói, ta cũng biết rồi. Chỉ vì cha đứa bé đó cũng là đệ tử cửa Phật, là một cao tăng hữu đạo rất … rất là nổi danh.
Diệp Nhị Nương rên lên một tiếng, không còn chịu nổi nữa ngã lăn ra bất tỉnh. Quần hùng ai nấy xôn xao, thấy tình cảnh Diệp Nhị Nương như thế, đủ biết lời nhà sư áo đen không phải là sai, thì ra người tư thông với bà ta lại chính là một nhà sư, một cao tăng nổi danh. Mọi người ghé tai nhau thì thầm, bàn tán ầm ỹ.
Hư Trúc đỡ Diệp Nhị Nương, kêu lên:
- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Tỉnh lại mẹ ơi.
Một hồi sau, Diệp Nhị Nương từ từ tỉnh lại, nói nhỏ:
- Hài nhi, mau mau đỡ mẹ xuống núi. Người đó … người đó là yêu quái, sao … sao y lại biết được. Ta không muốn thấy y nữa. Mối thù … mối thù này không cần báo nữa.
Hư Trúc đáp:
- Được rồi mẹ ạ! Mẹ con mình đi thôi.
Nhà sư áo đen nói:
- Khoan đã, ta đã nói xong đâu. Ngươi không muốn báo thù nhưng ta lại muốn báo thù. Diệp Nhị Nương, tại sao ta cướp con ngươi, ngươi có biết không? Chỉ vì … chỉ vì có người đã cướp con ta, làm ta nhà tan người mất, vợ chồng cha con không được đoàn viên. Ta vì thế mà báo thù.
Diệp Nhị Nương hỏi lại:
- Có người cướp con của ngươi ư? Vì thế mà ngươi phải báo thù?
Nhà sư áo đen đáp:
- Đúng thế, ta cướp đưa con ngươi, bỏ vào trong vườn rau chùa Thiếu Lâm, để cho sư chùa Thiếu Lâm nuôi dưỡng y khôn lớn, dạy cho y võ nghệ cũng chỉ vì con của ta cũng bị người ta cướp mất, nuôi cho khôn lớn, cũng do sư chùa Thiếu Lâm dạy y võ công. Ngươi có muốn nhìn bộ mặt thật của ta không?
Không đợi Diệp Nhị Nương trả lời, nhà sư áo đen giơ tay gỡ khăn che mặt. Quần hùng kinh ngạc “Ồ” lên một tiếng, thấy y mặt vuông tai to, râu quai nón rậm rạp, tướng mạo mười phần uy võ, tuổi chừng trên dưới sáu mươi.
Tiêu Phong vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, tiến tới lạy phục dưới đất, run run hỏi:
- Ông … ông là cha tôi …
Người kia cười ha hả nói:
- Hảo hài tử, hảo hài tử, ta chính là cha con đây. Cha con mình thân hình tướng mạo giống hệt nhau, chẳng cần phải nói thì ai cũng biết ta là cha ngươi rồi.
Ông đưa tay, vạch ngực mình ra, lộ ra một cái đầu sói xâm nơi đó, tay trái nhắc Tiêu Phong lên. Tiêu Phong cũng vạch ngực mình ra cũng để lộ một đầu sói màu xanh nhe răng. Hai người ngồi xuống, đột nhiên cùng ngẩng lên hú, tiếng như gió táp gầm rít truyền ra chấn động cả sơn cốc, hàng nghìn hào kiệt nghe tiếng, ai nấy đều nổi da gà. Yên Vân Thập Bát Kỵ rút phắt trường đao, cùng lên tiếng phụ họa, tuy chỉ có hai mươi người nhưng thanh thế lẫy lừng, tưởng như thiên quân vạn mã.
Tiêu Phong lấy trong bọc một cái bao vải dầu, mở đem ra một mảnh vải trắng lớn gồm nhiều mảnh khâu lại với nhau, chính là miếng vải đồ di văn trên vách đá, đầy những chữ Khất Đan rỗng ruột hòa thượng Trí Quang cho ông ta. Ông già râu xồm chỉ vào mấy chữ sau cùng cười nói:
- Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút, Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút! Ha ha! Này con, hôm đó ta đau lòng quá, nhảy xuống vực tự tận, ngờ đâu mạng chưa tận, rơi ngay một cành cây ở dưới đáy sơn cốc, cho nên không chết. Khi đó cha lại không muốn chết nữa mà lại muốn báo thù. Hôm đó ở ngoài Nhạn Môn Quan, quần hào Trung Nguyên không hỏi đầu đuôi, liền giết mẹ ngươi dù nàng không biết võ công, con thử nghĩ xem thù này có nên báo hay không?
Tiêu Phong nói:
- Thù cha mẹ không đội trời chung, lẽ nào không báo?
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Năm xưa kẻ hại mẹ con, hầu hết ta đã giết ngay tại chỗ. Nhà sư Trí Quang và gã tự xưng là Triệu Tiền Tôn kia thì con đã giết rồi. Bang chủ tiền nhiệm Cái Bang Uông Kiếm Thông bị bệnh mà chết, thật may cho lão. Chỉ còn tên “đại ác nhân” đầu sỏ, đến nay vẫn còn. Hài nhi, con thử nghĩ xem mình bắt được hắn rồi làm gì?
Tiêu Phong vội hỏi:
- Người đó là ai?
Tiêu Viễn Sơn lại hú lên một tiếng dài, quát lớn:
- Người đó là ai ư?
Mục quang ông như điện, quét ngang quần hùng từng người một. Quần hào gặp ánh mắt của ông ai nấy khiếp sợ, mặc dù họ đối với việc ngoài Nhạn Môn Quan năm nào không liên can gì, nhưng thấy thần tình cha con họ Tiêu, ai nấy nín thở không dám cựa quậy, chỉ sợ họa đổ lên đầu mình.
Tiêu Viễn Sơn nói:
- Hài nhi, hôm đó ta và mẹ con bồng con trên tay, sang bên bà ngoại, nào ngờ khi đến Nhạn Môn Quan lại bị mấy chục tên võ sĩ Trung Thổ đột nhiên nhảy ra, giết mẹ con lẫn bọn tùy tòng. Đại Tống có thù với Khất Đan, hai bên giết lẫn nhau không phải là chuyện lạ nhưng bọn võ sĩ Trung Thổ mai phục ở sau núi, hẳn có dự mưu. Này con, con có biết vì duyên cớ gì chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Con nghe Trí Quang đại sư kể lại, bọn họ nghe tin tưởng nhầm là võ sĩ Khất Đan định đến chùa Thiếu Lâm cướp đoạt kinh điển võ học, nằm trong âm mưu nước Liêu xâm chiếm giang sơn Đại Tống nên mới nhảy ra tấn công giết chết mẹ con.
Tiêu Viễn Sơn cười thê thảm:
- Ha ha! Ha ha! Năm xưa cha ngươi nào có ý đoạt võ học điển tịch, bọn họ nghi oan cho ta. Được, được! Tiêu Viễn Sơn đã làm thì làm luôn thể, người ta nghi oan ta, thì ta làm cho mà biết. Trong ba mươi năm qua, Tiêu Viễn Sơn ẩn thân trong chùa Thiếu Lâm, đọc hết ráo kinh điển của bọn chúng rồi. Chư vị cao tăng Thiếu Lâm ơi, bọn ngươi có giỏi thì giết Tiêu Viễn Sơn này đi, nếu không võ học sẽ lưu truyền qua Đại Liêu đó. Các ngươi dẫu có ra Nhạn Môn Quan mai phục thì cũng không kịp nữa rồi.
Quần tăng Thiếu Lâm nghe thế, ai nấy biến sắc, xem chừng lời của y không phải là giả, võ công bản phái nếu lưu truyền qua nước Liêu thì người Khất Đan khác gì hổ thêm cánh, biết làm sao đây? Trong quần hào võ lâm, ai nấy đều nghĩ thầm: “Hôm nay không thể nào để cho gã này sống sót xuống núi được”.
Tiêu Phong nói:
- Gia gia! Tên đại ác nhân giết mẹ con, có thể nói rằng vì năm xưa nhầm lẫn, tuy lỗ mãng thật nhưng không phải cố ý làm việc ác. Thế nhưng y lại đến giết cả ông bà họ Kiều nghĩa phụ nghĩa mẫu con khiến cho con mang tiếng xấu cái đó mới thật là tệ hại. Vậy người đó là ai, xin cha cho con biết.
Tiêu Viễn Sơn lại cười ha hả nói:
- Hài nhi, cái đó con sai rồi.
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:
- Con sai ư?
Tiêu Viễn Sơn gật đầu nói:
- Không đúng, vợ chồng họ Kiều là do ta giết đó.
Tiêu Phong kinh hoảng lắp bắp:
- Do cha giết ư? Vì … vì sao thế?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Ngươi là con ruột của ta, vốn dĩ cha con vợ chồng đoàn tụ một nhà, sung sướng biết bao? Thế mà bọn võ nhân Nam triều coi người Khất Đan không bằng chó lợn, chẳng làm gì họ cũng giết, bắt con ta đi, giao cho người khác làm con nuôi. Vợ chồng họ Kiều mạo xưng là cha mẹ con, cướp đoạt cái thiên luân chi lạc của ta, lại không nói rõ cho con nghe, thế quả là đáng chết.
Tiêu Phong trong lòng xót xa nói:
- Nghĩa phụ nghĩa mẫu đãi con cực kỳ ân nghĩa, hai vị lão nhân gia quả là người tử tế. Như thế kẻ đốt Đơn gia trang, giết Đàm công, Đàm bà mọi việc, chắc cũng …
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Đúng thế! Đều do cha con làm cả. Kẻ đàn anh đứng đầu vụ giết mẹ con ở Nhạn Môn Quan năm xưa là ai, những kẻ đó rõ ràng là biết, lại không chịu nói, còn cố gắng che đậy cho y, không đáng giết hay sao?
Tiêu Phong lặng thinh, bồi hồi nghĩ thầm: “Ta mất bao nhiêu công sức truy tầm kẻ “đại ác nhân”, hóa ra lại chính là cha ta, làm … làm thế nào bây giờ?”. Ông chậm rãi nói:
- Huyền Khổ đại sư đích thân truyền thụ võ công cho hài nhi, mười năm trời nắng không chừa, mưa không ngại, con được như hôm nay, đều do ân sư vun đắp …
Nói đến đây, ông cúi đầu nước mắt rưng rưng. Tiêu Viễn Sơn nói:
- Bọn võ nhân Nam triều gian trá âm hiểm, có tốt lành gì đâu? Huyền Khổ bị ta đánh một chưởng chết đấy.
Quần tăng Thiếu Lâm cùng cất tiếng tụng:
- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Thanh âm cực kỳ bi phẫn tuy nhất thời không ai bước ra khiêu chiến với Tiêu Viễn Sơn nhưng tiếng kinh chứa đầy tâm tình trầm thống đủ biết đã bao hàm quyết tâm, không thể bỏ qua việc này. Mọi người đều nghĩ thầm: “Hóa ra xưa nay mình trách nhầm Tiêu Phong, thế nhưng cha con là một, cha ăn mặn, con khát nước có đổ lên đầu y cũng phải”.
Tiêu Viễn Sơn lại tiếp:
- Trong số những kẻ đại cừu giết vợ yêu của ta, đoạt con cưng của ta có bang chủ Cái Bang, cũng có cả cao thủ phái Thiếu Lâm nữa, ha ha, bọn chúng tưởng có thể mãi mãi che dấu cái tội lỗi tanh hôi kia, biến con ta thành người Hán, bảo con ta bái kẻ thù làm thầy, kế vị kẻ đại cừu làm bang chủ Cái Bang. Ha ha, hài nhi, tối hôm đó ta đánh Huyền Khổ một chưởng xong, ẩn thân ở bên cạnh, chẳng mấy chốc ngươi lại đến thăm lão trọc. Gã Huyền Khổ thấy cha con ta tướng mạo giống nhau, cứ tưởng là ngươi ra tay, đến chú tiểu cũng không phân biệt được cha con mình. Con ơi, người Khất Đan mình bị họ khinh khi hiếp đáp có phải là ít đâu?
Tiêu Phong bấy giờ mới vỡ lẽ ra, tại sao Huyền Khổ đại sư tối hôm đó thấy mình lại kinh ngạc quá đỗi, đến tiểu sa di cũng khăng khăng chính mình đã đánh chết nhà sư. Có ai ngờ được rằng kẻ hành hung kia với mình lại tướng mạo tương tự, huyết nhục tương liên? Ông bèn nói:
- Những người đó do cha giết hay do con giết thì có khác gì đâu, hài nhi có bị cái tiếng thì cũng chẳng oan uổng. Thế kẻ đại ác đứng đầu võ nhân Trung Nguyên mai phục ở Nhạn Môn Quan, cha đã tìm ra là ai chưa?
Tiêu Viễn Sơn cười:
- Ha ha! Lẽ nào lại không tìm ra cho rõ được? Kẻ đó hại ta nhà tan người chết, nếu ta một chưởng đánh chết y thì chẳng tiện nghi cho y lắm hay sao? Diệp Nhị Nương, khoan đã.
Ông ta thấy Diệp Nhị Nương vịn vào Hư Trúc, hai mẹ con đang đi ra, lập tức gọi giật lại, nói tiếp:
- Kẻ cùng với ngươi sinh đứa con đó là ai, nếu ngươi không nói thì ta sẽ nói. Ta ẩn náu trong chùa Thiếu Lâm ba mươi năm, có chuyện gì qua khỏi mắt ta đâu? Các ngươi gặp nhau trong Tử Vân Động, y mời Kiều bà bà đến đỡ đẻ cho ngươi, mọi chuyện đầu đuôi, ngươi có muốn ta nói rành rọt tất cả cho mọi người nghe không?
Diệp Nhị Nương quay lại chạy đến cách Tiêu Viễn Sơn mấy bước, quì phục xuống nói:
- Tiêu lão anh hùng, xin ông đại nhân đại nghĩa, giơ cao đánh sẽ bỏ qua cho y. Con tôi và quí công tử có tình bát bái chi giao, kết làm kim lan huynh đệ, y … y … trong võ lâm tiếng tăm cực lớn, với thân phận địa vị đó … tuổi cũng lớn rồi, ông muốn đánh muốn giết, chỉ một mình tôi chịu, xin đừng … đừng làm khó đến y.
Quần hùng nghe Tiêu Viễn Sơn nói cha của Hư Trúc là một “hữu đạo cao tăng”, bây giờ lại nghe Diệp Nhị Nương nói ông ta trong võ lâm thanh danh cực lớn, địa vị cực cao, bấy nhiêu việc ghép lại, không lẽ đây là một nhà sư vai vế rất cao trong chùa Thiếu Lâm? Ai nấy không hẹn mà cùng đưa mắt nhìn vào những nhà sư râu tóc bạc phơ.
Bỗng nhiên Huyền Từ phương trượng cất tiếng nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Đã tạo nghiệp nhân thì phải chịu nghiệp quả. Hư Trúc, ngươi lại đây.
Hư Trúc đi đến trước mặt phương trượng quì xuống. Huyền Từ chăm chăm nhìn y một hồi lâu, giơ tay vuốt đầu y, mặt đầy vẻ ôn nhu từ ái, nói:
- Ngươi ở trong chùa hai mươi bốn năm, vậy mà ta nào có biết ngươi chính là con ta.
Lời đó vừa nói ra, quần tăng và các anh hùng hào kiệt ai nấy nhốn nháo cả lên. Kẻ ngạc nhiên, người kinh hãi, kẻ khinh thị, người phẫn nộ, kẻ khủng khiếp, người xót thương, đủ mọi vẻ khó mà hình dung. Huyền Từ phương trượng đức cao vọng trọng, trong võ lâm không ai là không khâm phục, ai ngờ lại ra nông nỗi này? Một hồi lâu sau, lời bàn tán mới dần dần dịu xuống.
Huyền Từ giọng vẫn an tĩnh trấn định không khác gì lúc bình thời chậm rãi nói:
- Tiêu lão thí chủ, thí chủ và lệnh lang xa cách ba mươi năm không được gặp nhau nhưng đã sớm biết y võ công tinh tiến, thanh danh lừng lẫy, là một anh hùng hảo hán bậc nhất trên giang hồ, trong lòng cũng có chút an ủi.
Còn ta với con ta ngày ngày thấy nhau, nhưng vẫn tưởng y đã bị cường đạo cướp mất rồi, sống chết không hay, đêm ngày nhớ mong khắc khoải.
Diệp Nhị Nương khóc nói:
- Ông ... ông khỏi cần nói nữa, bây … bây giờ biết tính sao đây? Làm thế nào đây?
Huyền Từ ôn tồn đáp:
- Nhị nương, nếu đã làm nên nghiệp ác, có hối cũng vô ích, dấu diếm cũng vô ích. Bao nhiêu năm qua, thật khổ cho nàng!
Diệp Nhị Nương khóc đáp:
- Thiếp không khổ! Ông khổ mà không nói ra được, cái đó mới gọi là khổ.
Huyền Từ chậm rãi lắc đầu, quay sang Tiêu Viễn Sơn:
- Tiêu lão thí chủ, chiến dịch ngoài Nhạn Môn Quan, lão nạp tính toán quả thực hết sức sai lầm. Bao nhiêu huynh đệ vì lão nạp che đậy chuyện này đều táng mạng cả. Lão nạp hôm nay có chết cũng là muộn rồi.
Đột nhiên ông cao giọng:
- Mộ Dung Bác Mộ Dung lão thí chủ, hôm đó ông loan truyền tin thất thiệt, bảo rằng người Khất Đan đem đại đội binh mã đến chùa Thiếu Lâm cướp võ học điển tịch, để rồi tạo thành một sai trái rất lớn, có khi nào ông hổ thẹn với lòng hay chăng?
Mọi người nghe ông đột nhiên nói đến “Mộ Dung Bác” lại càng ngạc nhiên. Ai ai cũng biết cha của Mộ Dung công tử đơn danh là Bác, nghe nói người đó chết đã lâu, sao Huyền Từ lại bất ngờ gọi tên y ra? Không lẽ người báo tin giả lại là Mộ Dung Bác?
Quần hào theo hướng ánh mắt ông thấy Huyền Từ chăm chăm nhìn vào nhà sư áo xám ngồi dưới gốc cây. Nhà sư đó cười dài một tiếng, đứng dậy nói:
- Phương trượng đại sư nhãn quang quả là lợi hại đã nhận ra mỗ rồi.
Ông ta kéo khăn che để lộ khuôn mặt thần thanh mục tú, hai hàng lông mi bạc rủ xuống. Mộ Dung Phục vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ kêu lên:
- Gia gia! Cha … cha chưa … chưa chết?
Trong đầu nổi lên bao nhiêu nghi vấn, hôm xưa phụ thân từ trần, đâu phải y chỉ thăm hơi thở một lần mà thôi, lại đích thân tẫn liệm an táng, làm sao sống lại được? Hẳn là ông dùng thần công bế khí giả chết. Thế nhưng tại sao ông lại phải giả chết? Tại sao lại phải đánh lừa cả chính con ruột mình?
Huyền Từ nói:
- Mộ Dung lão thí chủ, ta với ông giao hảo lâu năm, trước nay vẫn kính trọng ông là một hảo hán. Hôm đó ông cho ta hay tin, lão nạp không nghi ngờ gì cả, để đến giết lầm người tốt, về sau không còn thấy ông trở lại. Lại nghe tin ông bị bệnh qui tiên, lão nạp càng thêm đau khổ, cho rằng ông cũng như ta chẳng qua chỉ vì tin lời người khác, để đến nỗi sai xẩy nên trong lòng dằn vặt mà qua đời lúc tuổi thanh xuân. Có biết đâu … ôi!
Nhà sư thở dài một tiếng, tiếng thở dài chất chứa biết bao oán than hối hận. Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người nhìn nhau, đến lúc này hai cha con mới biết kẻ giả truyền âm tấn, xúc xiểm thọc gậy bánh xe chính là Mộ Dung Bác. Tiêu Phong lại nổi lên một ý niệm: “Năm xưa thảm sự xảy ra nơi Nhạn Môn Quan, tuy Huyền Từ là kẻ đứng đầu, nhưng ông ta thân phận là phương trượng chùa Thiếu Lâm, quan tâm đến an nguy nhà Đại Tống và điển tịch bản tự nên làm hết sức mình, âu cũng là vì chữ nghĩa mà ra. Đến khi thấy sai lầm rồi ông liền tận lực sửa chữa, như vậy kẻ đại ác nhân đích thực phải là Mộ Dung Bác chứ không phải là Huyền Từ”.
Mộ Dung Phục nghe Huyền Từ nói như thế, lập tức hiểu ra: “Cha ta đưa tin giả, cốt để khiêu khích cho võ nhân Liêu Tống đánh nhau, Đại Yên mình đứng giữa thủ lợi. Sau đó Huyền Từ thể nào cũng chất vấn cha ta, cha ta biết không thể nào biện giải được, thân phận đại anh hùng đại hào kiệt như ông không thể nào thú nhận để hủy mất anh danh. Ông đoán được tính cách của Huyền Từ nên đành giả chết, biết rằng Huyền Từ sẽ không nói huỵch toẹt mọi chuyện ra làm tổn hại tiếng tăm người đã khuất.
Y lại nghĩ thêm một mức: “Đúng rồi! Cha ta chết rồi tiếng tăm nhà Mộ Dung không suy suyển, ta vẫn có thể tiếp tục hưng phục đại nghiệp. Nếu không như thế, anh hào Trung Nguyên tất cả cùng coi nhà Mộ Dung là kẻ thù, tự tồn đã khó nói gì chuyện phục quốc? Khi đó ta còn bé, nếu như biết rằng cha mình giả chết, thể nào cũng để lộ ra thành ra đến cả con ruột cha ta cũng dấu”. Nghĩ đến phụ thân phải tính toán khổ sở như thế, chỉ vì hưng phục Đại Yên mà phải bỏ hết mọi chuyện, y càng thấy trọng trách trên vai nặng nề.
Huyền Từ lại chậm rãi tiếp:
- Mộ Dung lão thí chủ, hôm nay lão nạp nghe những lời ông khuyên dạy lệnh lang mới biết họ Cô Tô Mộ Dung là hậu duệ đế vương, có mưu tính rất lớn. Thành thử việc ông giả truyền âm tấn cái dụng ý đã rõ ràng. Thế nhưng đại sự ông mưu đồ rồi cũng không đến đâu, chẳng khỏi uổng mạng bao nhiêu sinh linh vô tội đấy ư?
Mộ Dung Bác đáp:
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Vẻ mặt Huyền Từ buồn bã nói:
- Huyền Bi sư đệ phụng mệnh ta đến Cô Tô hỏi chuyện này, chắc là ngôn ngữ có điều đắc tội, lúc ở quí phủ lại nhìn thấy đầu mối gì, đoán được âm mưu tạo phản cho nên thí chủ đã giết y diệt khẩu. Thế nhưng sao ông đã ẩn nhẫn lâu năm, lại phải đợi đến khi y đi Đại Lý mới ra tay hạ thủ? Ôi, ông định gây sự để cho họ Đoàn Đại Lý và chùa Thiếu Lâm tương tranh, chắc hẳn khi đánh lén Huyền Bi sư đệ đã dùng Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia nhưng vì sở học chưa tinh nên không làm gì được, sau cùng đành phải dùng ngón gia truyền “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân” của nhà Mộ Dung ra đối phó giết chết sư đệ của ta.
Mộ Dung Bác cười khẩy, người hơi nghiêng đi, đánh một quyền về phía cây cổ thụ bên cạnh, cách cách mấy tiếng, hai cành to từ trên cây gãy xuống. Ông ta đánh vào thân cây, mà hai cành cây cách cả trượng lại chấn động rơi ra, thần công như thế quả phi phàm.
Hơn chục lão tăng Thiếu Lâm cùng kêu lên:
- Vi Đà Chử!
Giọng nói đầy vẻ kinh hãi. Huyền Từ gật đầu:
- Ông ở tệ tự lâu năm, quả đã luyện được một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm là Vi Đà Chử thần công. Thế nhưng chiêu Thiên Linh Thiên Liệt của phái Phục Ngưu tỉnh Hà Nam, với thân phận võ công như thí chủ chắc chẳng đời nào chịu mất thì giờ để luyện. Ông giết Kha Bách Tuế Kha thí chủ quả đã sử dụng võ công gia truyền chân chính của họ, không biết là làm thế nào?
Mộ Dung Bác cười lạnh lẽo nói:
- Lão phương trượng tinh minh vô tỉ, chân không ra khỏi chùa vậy mà việc trên giang hồ rành rẽ như chỉ bàn tay khiến người ta phải bội phục. Chuyện đó xin đại sư đoán xem …
Mới nói tới đây, đột nhiên hai người ở đâu cùng rống lên, nhảy xổ vào ông ta, chính là Kim Toán Bàn Thôi Bách Tuyền và sư điệt là Quá Ngạn Chi. Mộ Dung Bác phất tay áo một cái, Thôi Quá hai người đã bị hất văng ra mấy trượng, nằm gục dưới đất không động đậy gì được, trong nháy mắt đã bị ông ta dùng Tụ Trung Chỉ điểm huyệt rồi. Huyền Từ nói:
- Vị Kha thí chủ kia gia tài giàu có, hành sự xưa nay vốn kỹ lưỡng. Ôi, ông chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương thấy Kha thí chủ có tiền nên muốn lấy để dùng, hẳn là Kha thí chủ đã không khứng chịu, không chừng còn toan đi báo quan phủ.
Mộ Dung Bác cười ha hả, giơ ngón tay cái lên khen ngợi:
- Lão phương trượng giỏi thật, giỏi thật! Tiếc thay ngài trôn kim thì nhìn rõ mà lại không thấy cái cột đình. Tại hạ và Tiêu huynh đây ẩn trong quí tự bao nhiêu năm thì ông lại không biết.
Huyền Từ chậm rãi lắc đầu, thở dài một tiếng nói:
- Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì tối. Khắc địch đã khó mà khắc phục được tham sân si tam độc trong lòng mình lại càng khó thay.
Mộ Dung Bác nói:
- Lão phương trượng, niệm cái giao tình bao nhiêu năm giữa hai ta, chuyện gì cũng nói thẳng hết, ông có còn điều gì phải hỏi nữa không?
Huyền Từ đáp:
- Cứ người như Tiêu Phong Tiêu thí chủ thì Mã Đại Nguyên Mã phó bang chủ Cái Bang, Mã phu nhân, Bạch Thế Kính trưởng lão ba vị chắc không phải ông ta giết đâu, không biết là do Mộ Dung lão thí chủ hay Tiêu lão thí chủ ra tay?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Mã Đại Nguyên là do vợ y cùng Bạch Thế Kính đồng mưu giết chết, Bạch Thế Kính do ta giết. Chuyện đầu đuôi bên trong, Đoàn vương gia nước Đại Lý chính mắt trông thấy, chính tai nghe thấy. Phương trượng muốn biết rõ ngọn ngành xin hỏi Đoàn vương gia.
Tiêu Phong tiến lên hai bước, chỉ vào mặt Mộ Dung Bác quát lớn:
- Mộ Dung lão tặc, ngươi mới chính là tội khôi họa thủ, mau tiến ra chịu chết.
Mộ Dung Bác cười một tiếng dài, nhảy vọt ra chạy lên núi. Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong cùng hét:
- Đuổi theo!
Hai người chia hai bên rượt theo. Ba người đều võ công đến mức đăng phong tạo cực, chỉ một thoáng đã chạy thật xa rồi. Mộ Dung Phục kêu lên:
- Gia gia! Gia gia!
Y cũng đuổi theo, tuy khinh công cũng ghê gớm thật nhưng so với ba người kia hiển nhiên còn kém một mức. Chỉ thấy Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong một người chạy trước, hai người đuổi theo cùng chạy về hướng chùa Thiếu Lâm. Một bóng xám, hai bóng đen trong phút chốc đã mất hút sau những tòa tự viện tường vàng ngói biếc.
Quần hùng hết sức kinh ngạc, nghĩ thầm: “Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn võ công không phân hơn kém, hai người đều có con tiếp tay nhưng nhà Mộ Dung hẳn không thể nào địch nổi, sao Mộ Dung Bác không chạy xuống chân núi mà lại chạy lên chùa Thiếu Lâm?”.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác, cả đến mười tám võ sĩ Khất Đan cũng định chạy lên trên núi tương trợ chủ nhân nhưng vừa dợm bước đã nghe Huyền Tịch quát lên:
- Kết trận chặn họ lại!
Hơn trăm nhà sư Thiếu Lâm cùng đáp lời, dàn ngang đường, người cầm thiền trượng, kẻ giơ giới đao không cho ai vượt qua. Huyền Tịch nghiêm nghị nói:
- Chùa Thiếu Lâm là nơi Phật môn thiện địa, đâu có phải là đấu trường, chúng vị thí chủ xin đừng tiến lên nữa.
Bọn Đặng Bách Xuyên thấy thanh thế những nhà sư Thiếu Lâm biết rằng không cách nào có thể xông qua được, tuy lòng lo cho chủ thâät nhưng cũng đành dừng bước. Bao Bất Đồng nói:
- Đúng quá! Không trật vào đâu được! Chùa Thiếu Lâm là nơi đất lành cửa Phật…
Y xưa nay hễ mở mồm là nói: “Sai bét rồi! Không phải vậy!” tự nhiên lần này lại nói: “Đúng quá! Không trật vào đâu được!” khiến những người biết y ai nâáy ngạc nhiên, thì đã nghe nói tiếp:
- … chỉ nuôi con hoang là tốt nhất.
Y vừa nói ra, mấy trăm cặp mắt hầm hầm đổ dồn vào nhưng Bao Bất Đồng to gan lớn mật, tuy biết trong số các nhà sư Thiếu Lâm cao thủ rất đông, người nào trong hàng chữ Huyền y cũng không phải là địch thủ, nhưng y thích là nói, xưa nay chẳng kiêng nể gì. Mấy trăm nhà sư gườm gườm nhìn y, y cũng trợn mắt đáp lại.
Huyền Từ lớn tiếng nói:
- Lão nạp phạm vào đại giới Phật môn, làm ô uế thanh danh chùa Thiếu Lâm. Huyền Tịch sư đệ, cứ theo bản tự giới luật thì phải xử thế nào?
Huyền Tịch ấp úng:
- Cái đó … sư huynh …
Huyền Từ nói:
- Nước có phép nước, nhà có luật nhà. Xưa nay môn phái bang hội, tông tộc tự viện đâu đâu chẳng có những kẻ sai quấy. Thanh danh có bảo toàn được hay không chẳng phải là do không có ai lầm lỗi mà là việc nào ra việc nấy, xử trí nghiêm minh, không lấp liếm. Chấp pháp tăng, đánh cho Hư Trúc một trăm ba mươi côn, một trăm côn là tội của y, ba mươi côn là do y cam nguyện chịu thay cho nghiệp sư.
Chấp pháp tăng đưa mắt nhìn Huyền Tịch. Huyền Tịch gật đầu, Hư Trúc quì xuống chịu đánh. Chấp pháp tăng liền giơ hình trượng, từng gậy từng gậy đánh lên lưng, lên mông Hư Trúc, đánh một hồi đã xé da nát thịt, máu me đầm đìa. Diệp Nhị Nương đau lòng nhưng bà ta vốn sợ Huyền Từ uy nghiêm, không dám mở miệng van xin.
Đánh xong một trăm ba mươi côn rồi, Hư Trúc vì không vận nội công đề ngự nên đau đến đứng không nổi. Huyền Từ nói:
- Từ giờ trở đi ngươi đã phá môn hoàn tục, không còn là sư chùa Thiếu Lâm nữa.
Hư Trúc nhỏ lệ đáp:
- Vâng!
Huyền Từ lại nói:
- Huyền Từ phạm phải dâm giới, tội không khác gì Hư Trúc, thân là phương trượng, tội càng gấp bội. Chấp pháp tăng đánh cho Huyền Từ hai trăm côn. Danh dự chùa Thiếu Lâm không thể thiên vị che đậy được.
Nói xong quì phục xuống, quay mặt về phía tượng Phật nơi đại hùng bảo điện, tự mình cởi tăng bào, để lộ lưng ra.
Quần hùng ai nấy sửng sốt, phương trượng chùa Thiếu Lâm thụ hình trước mặt mọi người, quả chưa ai từng nghe từng thấy, không phải là chuyện thường tình chút nào. Huyền Tịch nói:
- Sư huynh …
Huyền Từ nghiêm giọng nói:
- Thanh dự của chùa Thiếu Lâm hàng nghìn năm qua, lẽ nào để hỏng về tay ta sao?
Huyền Tịch ngậm nước mắt đáp:
- Vâng! Chấp pháp tăng, dụng hình!
Hai người chấp pháp tăng chắp tay khom lưng nói:
- Phương trượng, xin đắc tội!
Nói rồi đứng thẳng người, giơ hình trượng lên đánh xuống lưng Huyền Từ. Hai nhà sư biết rằng phương trượng chịu phạt, cái khó nhất là phải chịu nhục trước mặt mọi người chứ không phải cái đau đớn xác thân, nếu như hạ thủ dung tình khiến bên ngoài trông thấy, đưa tiếng dèm pha thì chuyện phương trượng chịu nhục hóa ra công cốc. Thành thử côn nào côn nấy đánh xuống, chát chát thật mạnh, trong chốc lát trên lưng trên mông Huyền Từ đã đầy những lằn gậy, máu thấm đẫm cả tăng bào.
Quần tăng nghe chấp pháp tăng đếm “năm, mười” số gậy đánh xuống, ai nấy cúi đầu trầm tư lẩm nhẩm niệm Phật. Đạo Thanh đại sư của chùa Phổ Độ bỗng nói:
- Huyền Tịch sư huynh, quí tự tôn trọng giới luật Phật môn, cả đến phương trượng cũng thụ hình, bần tăng hết sức kính phục. Có điều Huyền Từ sư huynh tuổi tác đã cao, lại không vận công hộ thân, hai trăm gậy e rằng không chịu nổi. Bần tăng mạo muội xin nể tình, bây giờ đã đánh đến tám mươi côn, số còn lại xin cho khất.
Quần hùng vô số người cũng hùa theo:
- Phải lắm, phải lắm, tất cả chúng ta cùng xin nể chút tình.
Huyền Tịch chưa kịp trả lời, Huyền Từ đã dõng dạc nói:
- Đa tạ thịnh ý của quí vị, có điều giới luật nặng như núi, không thể khoan dung. Chấp pháp tăng, mau mau dụng trượng.
Hai người chấp pháp tăng vốn đã ngừng tay chờ, nghe phương trượng ngữ khí kiên quyết, lại đành tiếp tục năm, mười đánh xuống. Đánh thêm chừng bốn mươi trượng nữa, Huyền Từ chịu không nổi, hai tay chống dưới đất nhũn ra ngã sấp mặt xuống. Diệp Nhị Nương khóc òa:
- Chuyện này đừng trách phương trượng, chỉ ở ta không ra gì! Ta bị người ta khinh khi nên cố ý đến dụ dỗ phương trượng … Những … những … côn còn lại, để ta chịu cho.
Bà ta vừa khóc vừa chạy đến toan nằm đè lên người Huyền Từ chịu đòn thay. Huyền Từ tay trái điểm ra, nghe soẹt một tiếng nhỏ, phong trụ huyệt đạo của Diệp Nhị Nương, miệng mỉm cười nói:
- Kẻ mê muội kia ơi, ngươi không phải ni cô cửa Phật, chẳng hề phá giới ái dục, có tội gì đâu?
Diệp Nhị Nương đứng sững tại chỗ không cử động được nhưng nước mắt vẫn chảy ròng ròng. Huyền Từ lại quát:
- Hành trượng!
Đến khi hai trăm trượng đánh đủ số, máu me chảy đầy mặt đất, Huyền Từ mới miễn cưỡng đề khí hộ tâm để khỏi đau đến ngất đi. Hai nhà sư chấp pháp giơ trượng lên nói với Huyền Tịch:
- Bẩm báo thủ tọa, Huyền Từ phương trượng chịu đòn đã xong.
Huyền Tịch gật đầu, không biết nói sao cho phải. Huyền Từ gắng gượng đứng lên, điểm một chỉ vào Diệp Nhị Nương định giải huyệt cho bà ta, ngờ đâu bị thương quá nặng, chân khí không thể ngưng tụ nên không công hiệu.
Hư Trúc thấy thế vội vàng chạy đến giải huyệt cho mẫu thân. Huyền Từ nhìn hai người vẫy tay, Diệp Nhị Nương và Hư Trúc liền chạy đến bên cạnh. Hư Trúc ngần ngừ, không biết nên gọi là “gia gia” hay vẫn gọi là “phương trượng”.
Huyền Từ đưa tay ra, tay phải cầm cổ tay Diệp Nhị Nương, tay trái nắm Hư Trúc nói:
- Hơn hai mươi năm qua, ta đêm ngày mong nhớ mẹ con bà, biết mình thân phạm đại giới, lại không dám sám hối cùng tăng chúng, hôm nay thế là được giải thoát rồi, từ giờ không còn sợ hãi băn khoăn, tâm được an lạc.
Rồi ông đọc một bài kệ:
Con người nơi trần thế,
Hễ tham muốn yêu thương.
Ắt phiền não khổ sở,
Cực lạc lòng không vương. 
Đọc xong ông từ từ nhắm mắt lại, nở một nụ cười hiền hòa. Diệp Nhị Nương và Hư Trúc không dám cử động, chờ xem ông còn nói gì nữa nhưng thấy bàn tay ông lạnh dần. Diệp Nhị Nương kinh hãi vội đưa tay thăm mũi thì hơi thở đã ngừng từ bao giờ, biến sắc kêu:
- Ông … ông … sao ông bỏ tôi ông ơi!
Đột nhiên bà ta nhảy vọt lên cao, từ trên không lao xuống, nghe bình một tiếng rơi ngay bên chân Huyền Từ, dãy mấy cái rồi cũng bất động. Hư Trúc kêu lên:
- Mẹ, mẹ ơi! Mẹ … mẹ đừng .. đừng …
Y đưa tay đỡ mẹ lên thì thấy một thanh chủy thủ đâm ngập vào tim, chỉ còn hở cái chuôi ra ngoài, xem ra không còn sống nữa. Hư Trúc vội điểm huyệt đạo chung quanh vết thương, lại đem chân khí truyền vào Huyền Từ phương trượng, chân tay luýnh quýnh muốn cứu một lượt cả hai người.
Tiết Thần Y chạy tới giúp nhưng thấy hai người tim đã ngừng đập, hơi thở đã tắt không còn cách gì nữa bèn khuyên:
- Sư thúc đừng buồn. Hai vị lão nhân gia không còn cứu được nữa rồi.
Hư Trúc vẫn không nản chí, vận Bắc Minh chân khí một hồi lâu nhưng cha mẹ không ai động đậy gì nữa. Nỗi buồn dâng lên, nhịn không nổi khóc rống lên. Hai mươi bốn năm qua, y vẫn nghĩ mình là đứa con côi không cha không mẹ, chưa bao giờ được hưởng cái đầm ấm gia đình, hôm nay được gặp cha mẹ ruột, ngờ đâu chưa đầy một giờ thì cả hai đã thảm vong.
Quần hùng mới đầu nghe Huyền Từ nhận mình là cha Hư Trúc, ai nấy thấy ông không giữ thanh qui nên cũng có bụng coi rẻ, đến khi ông thản nhiên đương chúng thụ hình để bảo toàn thanh dự cho chùa Thiếu Lâm, đại dũng đó người thường không ai làm nổi. Ai cũng tưởng ông thụ trọng hình là để đền tội năm xưa lỡ bước, có ngờ đâu khi chịu đòn xong lại lập tức tuyệt kinh mạch.
Xưa nay nếu đã chết rồi thì coi như muôn việc đều xong, ông vốn đã có ý tìm cái chết thì cái nhục hai trăm trượng kia chẳng cần phải nhận, thế nhưng ông lại chịu đòn trước để duy trì cái tiếng cho chùa Thiếu Lâm, sau đó mới tự tận, quả là thái độ của kẻ anh hùng hảo hán. Quần hùng kính ngưỡng ông quả là người nên không ít kẻ tiến lên khom lưng lạy di thể.
Nam Hải Ngạc Thần mếu máo:
- Nhị tỉ chết mất rồi, Nhạc lão tam không tranh giành cái thứ bậc với chị nữa, để tỉ tỉ làm lão nhị cho xong.
Bao nhiêu năm nay, y nhất định đòi đứng trên Diệp Nhị Nương, nghĩ mình võ công hơn bà ta, xứng đáng là kẻ Thiên Hạ Đệ Nhị Ác Nhân, bây giờ chịu nhường quả không phải dễ. Một phần y đau lòng cái chết của Diệp Nhị Nương nhưng một phần khác cũng vì kính trọng sự nghĩa liệt của tỉ tỉ.

datlucky_way

27-07-2009 08:46 AM

Hồi 43(a) : VƯƠNG BÁ HÙNG ĐỒ – HUYẾT HẢI THÂM HẬNTẬN QUI TRẦN THỔ 





Bấm vào đây để xem nội dung.

Dẫu ôm mộng xưng vương xưng đế,
Nuôi hận thù vay trả trả vay.
Một khi nhắm mắt xuôi tay,
Sang hèn âu cũng đã hay kiếp người.
*
* *










Cả bọn Cái Bang hùng hùng hổ hổ kéo đến chùa Thiếu Lâm những tưởng phen này nhờ vào tài nghệ “thâm bất khả trắc” của bang chủ mà đoạt được chức minh chủ, Cái Bang sẽ đứng trên phái Thiếu Lâm trở thành lãnh tụ võ lâm Trung Nguyên. Ngờ đâu Trang bang chủ đã bái Đinh Xuân Thu làm thầy thì chớ, lại bị Tiêu Phong đá gãy hai chân, ai nấy cụt hứng không còn gì để vênh váo nữa.
Ngô trưởng lão lớn tiếng nói:
- Chúng vị huynh đệ, mình còn ở đây làm gì nữa? Không lẽ còn muốn xin cơm thừa canh cặn nữa hay sao? Thôi mình xuống núi.
Quần cái đáp ứng vang dậy, lục tục kéo nhau đi. Bao Bất Đồng đột nhiên gọi giật lại:
- Khoan đã! Khoan đã! Bao mỗ có một việc muốn cáo tri với Cái Bang.
Trước đây Trần trưởng lão đã từng ác đấu với Bao Bất Đồng ở thành Vô Tích, biết được gã này mồm miệng chẳng bao giờ nói được câu nào cho tử tế, dậm chân một cái hầm hè hỏi:
- Họ Bao kia, có gì cần nói thì nói chứ đừng đổ rắm đổ rít ra nữa.
Bao Bất Đồng giơ tay bịt mũi kêu ầm lên:
- Thối quá! Thối quá! Này, tên ăn mày hay đổ rắm kia, trong bang của ngươi có tên ăn mày già nào tên là Dịch Đại Bưu chăng?
Trần trưởng lão nghe y nhắc đến Dịch Đại Bưu lập tức chăm chú nghe, hỏi lại:
- Có thì đã sao? Mà không có thì sao?
Bao Bất Đồng nói:
- Ta đang nói chuyện với một thằng ăn mày thích rắm rít sao ngươi lại chõ mồm vào, hay là tự nhận mình hay vãi rắm?
Trần trưởng lão quan tâm đến chuyện đại sự trong bản bang, chẳng hơi đâu mà đôi co những việc chẳng đâu vào đâu với y bèn nói:
- Ta hỏi ông Dịch Đại Bưu ra sao rồi? Y quả là đệ tử bản bang, phái sang Tây Hạ công cán, các hạ có tin tức gì của y chăng?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ta đang định nói với ngươi một chuyện đại sự ở nước Tây Hạ, có điều Dịch Đại Bưu đã đi chầu Diêm Vương rồi.
Trần trưởng lão nói:
- Lời đó có thật không? Xin hỏi có liên quan gì đến đại sự nước Tây Hạ?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ngươi chửi ta ăn nói như rắm thối, thế bây giờ có muốn ta đánh rắm đánh rít không?
Trần trưởng lão tức đến rung cả hàm râu bạc nhưng nghĩ đến đại sự quan trọng hơn, đành phải cười hề hề nói:
- Mới rồi nói năng đắc tội với các hạ, lão phu xin lỗi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Cũng chẳng cần phải xin lỗi, từ rày ngươi nên đánh rắm cho nhiều, nói in ít thôi thế là được rồi.
Trần trưởng lão ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Y nói thế là sao nhỉ?”. Thế nhưng hiện đang có việc phải cầu đến y, chẳng muốn nói năng dây dưa bèn mỉm cười, không nói gì thêm nữa. Bao Bất Đồng đột nhiên kêu ầm lên:
- Thối quá! Thối quá! Ngươi thật chẳng ra cái đếch gì.
Trần trưởng lão ngạc nhiên:
- Sao lại bảo ta chẳng ra gì?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ngươi không chịu mở mồm, hơi không có chỗ nào ra, phải tìm đường phát tiết.
Trần trưởng lão nghĩ thầm: “Gã này quả là rầy rà, ta chỉ một câu vô lễ, y liền nói qua nói lại tìm cách bắt bẻ mãi. Hay nhất là mình không nói năng gì cả, chứ không y sẽ nói quanh nói co không đi vào đề mục chính”. Nghĩ thế y bèn mỉm cười, không nói gì thêm.
Bao Bất Đồng lắc đầu:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi cứ nhất định gây sự với ta thật không ra gì cả.
Trần trưởng lão mỉm cười:
- Tại hạ chẳng mở miệng, sao lại bảo là gây sự với các hạ được?
Bao Bất Đồng đáp:
- Ngươi không mở miệng, chỉ đánh rắm, đâu cần phải mở miệng nữa.
Trần trưởng lão cau mày đáp:
- Chỉ đùa thôi!
Bao Bất Đồng thấy y càng lúc càng nhịn, mình đã chiếm được thượng phong rồi liền nóiL
- Ngươi đã mở miệng nói rồi, ấy là không còn gây sự với ta nữa. Thế thì ta nói cho ngươi nghe. Vài tháng trước, ta cùng công tử nhà ta, Đặng đại ca, Công Dã nhị ca tất cả một đoàn, trên đường đi Cam Lương ngang qua một rừng cây, gặp phải một bọn ăn mày, chết nằm la liệt, kẻ thì đầu một nơi mình một nẻo, kẻ thì lòi ruột vỡ bụng, thật là tội nghiệp, đáng thương làm sao.
Những người đó ai ai cũng đeo túi vải, kẻ ba cái, kẻ bốn cái, kẻ năm cái, kẻ sáu cái không chừng.
Trần trưởng lão nói:
- Chắc là anh em trong tệ bang rồi.
Bao Bất Đồng tiếp:
- Khi ta gặp họ thì các lão huynh đó chết đã lâu, chẳng biết lúc đó đã ăn cháo lú chưa, lên Vọng Hương Đài chưa, hay đang ở trong điện nào của Thập Đại Diêm Vương chịu tra khảo. Bọn họ không ai nói được, dĩ nhiên ta làm sao hỏi họ hỏi tên, quê quán nơi nào, bang nào phái nào, vì sao mà chết? Nếu không ắt là khi thành ma rồi thể nào chẳng chửi ta một câu: “Có gì cần nói thì nói chứ đừng đổ rắm đổ rít ra nữa” thì oan cho ta biết mấy?
Trần trưởng lão nghe y kể có rất nhiều anh em trong bang bị chết nên hết sức quan tâm, không dám mở mồm mà cũng không dám cà khịa với y, chỉ đành nói vớt vát:
- Bao huynh nói phải lắm.
Bao Bất Đồng lắc đầu:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Họ Bao này bình sinh chúa ghét những đứa a dua phụ họa, mồm ngươi thì nói “Bao huynh nói phải lắm!” nhưng trong bụng thì đang réo “con mẹ mày, đồ rùa đen đê tiện” ấy là “nghĩ một đằng nói một nẻo”, là thói của bọn vô sỉ phái Tinh Tú.
Chứ như đã là nam tử hán, đại trượng phu, đúng thì nói đúng, sai thì bảo sai, người ta có ý kiến gì thì kệ xác người ta, mình có ý kiến của mình. “Tự phản nhi xúc, tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ!”. Một mình mình làm, một mình mình đứng, không hùa theo ai, có thế mới là anh hùng hảo hán.
Y lên tiếng dạy dỗ Trần trưởng lão một chập, lúc ấy mới nói:
- Trong số đó có một vị lão huynh bị thương nhưng chưa chết, tuy chưa ngủm củ tỏi nhưng cũng chẳng còn được bao lăm hơi. Y tự xưng là tên Dịch Đại Bưu, từ bên nước Tây Hạ trở về, mang theo một trương bảng văn của quốc vương nước Tây Hạ, có liên quan trọng đại, giao cho bọn ta nhờ bọn ta giao lại cho trưởng lão quí bang.
Tống trưởng lão nghĩ thầm: “Trần huynh đệ ăn nói đắc tội với y, chi bằng mình đi ra lo liệu việc này cho xong”. Y lập tức tiến ra vái một cái nói:
- Bao tiên sinh trượng nghĩa truyền tin, tệ bang trên dưới ai ai cũng cảm đại đức.
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Chưa chắc gì tất cả trên dưới trong quí bang đã cảm cái đại đức của ta đâu.
Tống trưởng lão ngỡ ngàng hỏi:
- Bao tiên sinh nói như thế là do đâu mà ra?
Bao Bất Đồng chỉ vào Du Thản Chi nói:
- Bang chủ quí bang chưa chắc đã có cảm tình với tại hạ mà trong lòng còn hận ta không đâu cho hết.
Tống Trần hai trưởng lão cùng kêu lên:
- Thế là vì cớ gì? Xin Bao tiên sinh chỉ giáo.
Bao Bất Đồng đáp:
- Gã Dịch Đại Bưu khi sắp chết có nói rằng, bọn họ cả bầy đã bị Trang bang chủ của quí bang sai người giết chết, chỉ vì họ không phục tên tiểu tử họ Trang làm bang chủ, nên tiểu tử đó sai người đuổi theo tàn sát. Ôi! Đáng thương xiết bao. Dịch Đại Bưu nhờ bọn ta truyền ngôn, dặn Ngô trưởng lão và các vị trưởng lão phải hết sức đề phòng.
Bao Bất Đồng vừa dứt lời, quần cái ai nấy rúng động. Ngô trưởng lão rảo bước đến trước Du Thản Chi, hầm hè quát hỏi:
- Lời đó có thật hay không?
Du Thản Chi bị Tiêu Phong đá gãy hai chân, nãy giờ vẫn ngồi dưới đất, không nói không rằng tiềm vận nội lực cho bớt đau, đột nhiên nghe Bao Bất Đồng nói lộ bí mật đó ra, không khỏi hết sức kinh hoàng, lại nghe Ngô trưởng lão chất vấn bèn ấp úng:
- Đó là Toàn … Toàn Quan Thanh ra lệnh, chẳng … chẳng liên quan gì đến tôi cả.
Tống trưởng lão không muốn vạch áo cho người xem lưng trước mặt quần hùng, hầm hầm nhìn Toàn Quan Thanh trừng mắt, nghĩ thầm: “Chuyện trong bang từ từ mình tính lại cũng không muộn”. Y bèn quay sang Bao Bất Đồng:
- Bảng văn Dịch Đại Bưu huynh đệ giao cho tiên sinh, không biết tiên sinh có mang theo trong người không?
Bao Bất Đồng quay lại nói:
- Không mang!
Tống trưởng lão hơi biến sắc, nghĩ thầm ngươi nói năng tự nãy giờ mà lại toan không đưa bảng văn ra, không lẽ định đem mình làm trò đùa hay sao? Bao Bất Đồng vái một cái thật sâu nói:
- Thanh sơn bất cải, lục thủy trường lưu, mình sau này có lúc gặp lại.
Nói xong quay mình đi ra. Ngô trưởng lão vội gọi:
- Bức bảng văn của Tây Hạ kia, vì cớ gì các hạ không chịu chuyển giao?
Bao Bất Đồng đáp:
- Cái đó lạ nhỉ? Sao ngươi biết là Dịch Đại Bưu giao tấm bảng văn đó vào tay ta? Sao lại dùng hai chữ “chuyển giao” được? Không lẽ hôm đó chính mắt ngươi trông thấy hay sao?
Tống trưởng lão cố nén giận nói:
- Bao huynh vừa mới nói, Dịch Đại Bưu Dịch huynh đệ từ Tây Hạ trở về, mang theo một trương bảng văn của quốc vương nước này, nhờ Bao huynh giao lại cho trưởng lão tệ bang. Câu nói đó có bao nhiêu anh hùng hảo hán cùng nghe cả, Bao huynh tự nhiên lại đổi giọng là sao?
Bao Bất Đồng lắc đầu:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ta có nói thế bao giờ đâu?
Y thấy Tống trưởng lão biến sắc liền tiếp:
- Ta từng nghe các trưởng lão Cái Bang ai ai cũng là hảo hán mặt sắt đen sì, sao nay trước mặt anh hùng thiên hạ nói trắng thành đen, đen thành trắng, hỗn loạn thị phi, có phải là đem thanh danh một đời để trôi theo dòng nước hay chăng?
Tống Trần Ngô ba người đưa mắt nhìn nhau, mặt mày đăm chiêu ngơ ngáo, chẳng biết nên lập tức ra tay động thủ hay cố nhịn thêm chút nữa. Trần trưởng lão nói:
- Các hạ đã nói thế thì chúng tôi cũng chẳng biết phải làm sao, thị phi ắt có công luận, chứ chỉ bẻm mép suông, cưỡng từ đoạt lý thì cũng chẳng đến đâu.
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi bảo “chỉ bẻm mép suông thì chẳng đến đâu” thế xưa kia Tô Tần chỉ nhờ tài miệng lưỡi mà đeo tướng ấn sáu nước thì sao? Tại sao Trương Nghi cũng chỉ nhờ tài ăn nói mà dùng kế liên hoành, giúp cho nước Tần gồm thâu lục quốc?
Tống trưởng lão thấy y càng nói càng xa đề, chỉ đành cười gượng nói:
- Bao tiên sinh giá mà sinh vào thời Chiến Quốc, ắt đã ăn đứt Tô Trương, thân đeo tướng ấn bảy nước, tám nước.
Bao Bất Đồng đáp:
- Như vậy là ngươi mỉa mai ta sinh bất phùng thời chứ gì? Bảo ta số đen như mõm chó chăng? Được rồi, họ Bao này nếu như từ nay về sau có chuyện xui xẻo, nhức đầu nóng sốt, đau lưng bại chân, ho hen kéo cữ thì cũng bởi cái miệng ngươi trù ẻo.
Trần trưởng lão chán nản hỏi:
- Thế thì quả thực Bao huynh muốn gì? Cứ nói thẳng ra cho biết!
Bao Bất Đồng đáp:
- Ôi, sao ngươi nóng tính thế? Trần trưởng lão, hôm đó ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, ngươi cùng Phong tứ đệ của ta tỉ thí võ công, tay ngươi cầm một cái túi vải lớn, trong đó có một con bò cạp lớn, đuôi bò cạp có một cái kim độc, cái kim độc đó chích vào ai thì sưng thành một cục u to, cục u đó sẽ làm cho đối phương táng mạng, có phải thế không?
Trần trưởng lão nghĩ thầm: “Có một câu mà nói vòng vo, chuyện nhỏ chuyện lớn gì ngươi cũng ba hoa chích chòe thành đủ chuyện”. Y bèn đáp:
- Đúng thế!
Bao Bất Đồng nói:
- Hay lắm! Ta đánh cuộc với ngươi, nếu ngươi thắng thì ta lập tức đem tin tức gã ăn mày già họ Dịch từ Tây Hạ về nói cho ngươi hay. Còn như ta thắng thì ngươi phải lấy cái túi vải, lẫn con bò cạp trong cái túi vải đó, cả cái bình thuốc tiêu giải chất độc, tất cả đưa cho ta, ngươi có dám không?
Trần trưởng lão hỏi lại:
- Bao huynh muốn đánh cuộc chuyện gì?
Bao Bất Đồng đáp:
- Các trưởng lão quí bang vu hãm cho ta, khăng khăng bảo là ta cất dấu bảng văn Dịch Đại Bưu đem từ Tây Hạ về, nhờ ta chuyển giao lại cho các trưởng lão. Thực ra ta nào có nói thế bao giờ, vậy hai người mình đánh cuộc. Nếu quả đúng là ta có nói thế thì là ngươi thắng, còn như ta không có nói thế, ấy là ta thắng.
Trần trưởng lão đưa mắt nhìn Tống, Ngô trưởng lão, hai người gật đầu, ý muốn nói: “Có mấy nghìn người ở đây làm chứng, dù y có cãi nhăng cãi cuội cách nào thì cũng khó mà chây được. Cứ việc đánh cuộc đi!”.
Trần trưởng lão nói:
- Được rồi, tại hạ cùng Bao huynh đánh bạc. Thế nhưng không biết Bao huynh làm sao chứng minh ai thua ai được? Không lẽ mình phải suy cử vài vị đức cao vọng trọng ra làm công chứng nhân xét xử cho công bình hay sao?
Bao Bất Đồng lắc đầu:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi bảo suy cử ra vài vị đức cao vọng trọng làm công chứng nhân xét xử, ví thử đưa ra được tám người, mười người, không lẽ ngoài tám người mười người đó, hàng nghìn hàng trăm người còn lại không phải anh hùng hảo hán, đức không cao, vọng không trọng hay sao? Nếu đức không cao, vọng không trọng thì hóa ra là kẻ ti bỉ hạ lưu, vô danh tiểu tốt chăng? Vậy là coi rẻ anh hùng thiên hạ, Cái Bang các ngươi quả thật vô lễ.
Trần trưởng lão nói:
- Bao huynh chỉ đùa, tại hạ nào dám có ý đó. Vậy thì theo sở kiến của Bao huynh mình phải thế nào?
Bao Bất Đồng đáp:
- Trái phải ngay cong, một lời là xong, để tại hạ mổ xẻ cho các vị. Đưa đây!
Y vừa nói “Đưa đây!” vừa chìa tay ra. Trần trưởng lão hỏi lại:
- Đưa cái gì?
Bao Bất Đồng đáp:
- Túi vải, con bò cạp, thuốc giải độc.
Trần trưởng lão nói:
- Bao huynh chưa chứng minh được, sao đã coi là mình thắng?
Bao Bất Đồng đáp:
- Chỉ sợ ngươi thua rồi lại lần khân không chịu đưa.
Trần trưởng lão cười ha hả nói:
- Một con độc vật nho nhỏ thì có đáng gì? Nếu Bao huynh muốn, tại hạ lập tức dâng lên, việc gì phải đánh đố thua được cho thêm phiền?
Nói xong cởi một chiếc túi sau lưng, lấy trong túi ra một chiếc bình nhỏ, giao cả hai món cho y. Bao Bất Đồng không khách khí gì đưa tay nhận ngay, mở miệng túi ra nhìn vào thấy trong túi có bảy tám con bò cạp rằn ri, liền thắt miệng túi lại nói:
- Để bây giờ ta cho ngươi coi chứng cứ, cho ngươi biết tại sao ta thắng mà ngươi lại thua.
Y vừa nói, vừa cởi thắt lưng trường bào, xăn tay áo lên, vạch túi ra, cho mọi người nhìn thấy trên người y ngoài vài lượng bạc, hỏa đao, hỏa thạch ra, không còn vật gì khác. Tống Trần Ngô ba người không hiểu ý tứ y ra sao, vẻ mặt hoang mang. Bao Bất Đồng nói:
- Nhị ca cầm bảng văn trong tay cho bọn họ nhìn qua một chút.
Công Dã Can từ nãy đến giờ vẫn lo cho an nguy cha con Mộ Dung Bác nhưng thấy không cách gì có thể vượt qua được La Hán Đại Trận của quần tăng Thiếu Lâm, nên cũng chỉ đành nóng ruột suông, nghe thế liền lấy bảng văn ra cầm trên tay. Quần hùng nhìn bảng văn, thấy đó là một tờ giấy vàng lớn trên có dấu son đỏ, viết đầy những chữ ngoại quốc, tuy khó mà biết thật hay giả nhưng xem chừng không phải là đồ mạo hóa.
Bao Bất Đồng nói:
- Khi trước ta đã nói “Dịch Đại Bưu có đem một trương bảng văn nước Tây Hạ giao lại cho bọn ta, nhờ bọn ta giao lại cho trưởng lão quí bang” có đúng không nào?
Tống Trần Ngô ba trưởng lão thấy y đột nhiên thừa nhận việc đó vui mừng đáp:
- Đúng thế!
Bao Bất Đồng nói:
- Thế mà Tống trưởng lão lại chỉ ta mà nói “Dịch Đại Bưu có đem một trương bảng văn nước Tây Hạ giao lại cho ta, nhờ ta giao lại cho trưởng lão quí bang” có phải không nào?
Ba trưởng lão cùng đáp:
- Đúng thế! Nói thế thì có gì sai đâu?
Bao Bất Đồng lắc đầu:
- Sai chứ, sai chứ! Sai bét đi chứ! Đầu trâu làm sao gắn với mõm ngựa được. Sai một ly đi một dặm! Ta nói là “bọn ta”, Tống trưởng lão lại bảo là “ta”. Nói đến “bọn ta”, họ Cô Tô Mộ Dung có biết bao nhiêu người, bên trong có cả Mộ Dung công tử, có Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Phong tứ ca, lại có cả Vương cô nương. Còn như “ta” là chỉ có một thân một mình Bao Bất Đồng này, cái thằng ba trợn mở mồm ra là “Sai bét rồi! Không phải vậy!” thôi. Các vị anh hùng thử nhìn xem, Vương cô nương hoa dung nguyệt mạo, là một đại khuê nữ, với cái tên “phi dã phi dã” Bao Bất Đồng Bao lão tam khác hẳn nhau làm sao có thể nhập làm một được?
Tống Trần Ngô ba trưởng lão mặt mày ngơ ngẩn, có ngờ đâu y chẻ sợi tóc ra làm tư, hai chữ “bọn ta” với “ta” mà giải thích khác nhau xa lắc. Lại nghe Bao Bất Đồng nói tiếp:
- Cái trương bảng văn đó, Dịch Đại Bưu giao tận tay Công Dã nhị ca. Ta báo tin cho quí bang là do chủ ý của Mộ Dung công tử. Ta nói “bọn ta” cái đó không có gì sai. Còn như nếu nói “ta” thì thế là không đúng sự thật. Tại hạ không biết văn tự Tây Hạ, nhận bảng văn này làm gì? Tại hạ đã từng đụng với người của quí bang bên ngoài thành Vô Tích, bị đánh cho thua một vố đau, không đến tìm quí bang báo thù thì thôi, chứ đến báo tin làm gì? Nói tóm lại, hay tóm lại mà nói, nhận trương bảng văn đến quí bang báo tin đều là “bọn ta” Cô Tô Mộ Dung toàn thể, chứ không phải chỉ mình “ta” Bao Bất Đồng này mà thôi.
Y quay lại nói với Công Dã Can:
- Nhị ca, bọn họ thua rồi, cất bảng văn đi.
Trần trưởng lão nghĩ thầm: “Ngươi đi vòng vèo, nói qua nói lại, chẳng qua cũng chưa quên cái sỉ nhục bị thua nơi ngoài thành Vô Tích”. Y bèn vòng tay nói:
- Hôm xưa Bao huynh tay không đánh với Hề trưởng lão của bản bang cầm cương trượng nặng sáu mươi cân mà cũng hơn đứt. Tệ bang thấy không địch nổi mới kết “Đả … đả … đả …” cái trận pháp đó, mới chế ngự nổi Bao huynh. Bang chủ tệ bang thời đó là Kiều Phong phải đem hết những quân tinh nhuệ nhất xông lên, vậy mà cũng phải đấu một hồi lâu mới miễn cưỡng thắng được nửa chiêu. 
Đến khi Bao huynh hùng tráng vừa hát vừa phiêu nhiên ra đi, đấu đã cao minh, đi cũng tiêu sái, tệ bang trên dưới mỗi khi nhắc tới, ai cũng tấm tắc quả là người khoáng đạt, không thể không không phục. Bao huynh sao lại quá khiêm, nói trớ ra là thua dưới tay tệ bang, àm gì có chuyện đó cho được. Gã Kiều Phong kia giờ này không còn liên quan gì đến tệ bang nữa, thậm chí có thể nói là kẻ thù chung rồi.
Y có biết đâu Bao Bất Đồng nói hươu nói vượn, chẳng qua chỉ để bắt bẻ cái câu sau cùng của y, chứ không phải vì cái nhục đánh thua nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, cũng chẳng phải để vặn mấy tiếng “có gì cần nói thì nói chứ đừng đổ rắm đổ rít ra nữa”. Bao Bất Đồng luôn luôn dùng cái thuật tiện đâu đánh đó, lựa gió giương buồm, bèn nói:
- Nếu đã thế thì thật tốt quá. Vậy chúng mình cùng chung cừu địch, ngươi tất lãnh huynh đệ trong bang tóm cổ gã Kiều Phong lại. Khi đó bọn ta sẽ niệm tình bằng hữu mà đem bảng văn hai tay dâng lên. Lão huynh nếu không biết thứ văn tự hi kỳ cổ quái kia, Công Dã nhị ca ta sẽ nghĩ tình làm ơn cho trót, từ đầu chí cuối, không sót một chữ giảng giải cho nghe, ngươi nghĩ sao?
Trần trưởng lão đưa mắt nhìn Tống trưởng lão, lại dò ý Ngô trưởng lão, chưa biết tính sao. Đột nhiên có người cao giọng nói:
- Cứ thế mà làm còn nghi ngại gì nữa?
Mọi người cùng nhìn qua thấy kẻ vừa nói đó chính là Thập Phương Tú Tài Toàn Quan Thanh. Y lúc đó đã được thăng lên trưởng lão chín túi, lại nghe y tiếp tục:
- Liêu quốc là tử cừu đại địch của Đại Tống ta. Cha Tiêu Phong là Tiêu Viễn Sơn đã thú nhận là y ẩn trốn trong chùa ba mươi năm qua, tham duyệt hết võ công bí tịch của Thiếu Lâm tự. Nếu hôm nay mình không đồng tâm hiệp lực trừ đi, để y trở về nước Liêu, truyền bá võ công thượng thừa của Trung Thổ, người Khất Đan như hổ thêm cánh, lúc đó trở sang tấn công Đại Tống, bọn con cháu Viêm Hoàng chúng ta lúc đó sẽ thành kẻ vong quốc mất thôi.
Quần hùng nghe y nói quả là hữu lý, có điều Huyền Từ viên tịch rồi, Trang Tụ Hiền đã gãy chân, hai cây cột lớn của võ lâm Trung Nguyên là Thiếu Lâm và Cái Bang nay như rắn mất đầu, không còn ai chủ trì đại cuộc.
Toàn Quan Thanh tiếp:
- Vậy xin mời ba vị cao tăng chữ Huyền của phái Thiếu Lâm, với Tống Trần Ngô ba vị trưởng lão Cái Bang chung phát hiệu lệnh, tất cả mọi người cùng nghe sai khiến. Trước hết phải giết cho được cha con Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong để trừ cái đại hoạn trong gan ruột của Đại Tống. Những việc khác cần làm, từ từ tính sau.
Y thấy Du Thản Chi thân bại danh liệt, mình đã mất chỗ dựa trong bang rồi, việc giết Dịch Đại Bưu và những người kia đã bị tiết lộ, trong lòng hết sức lo lắng nên vội vàng xúc xiểm gây chuyện phong ba để che lấp tội lỗi để hòng tìm cách thoát thân. Y tuy cũng nằm trong tứ trưởng lão của Cái Bang nhưng lúc này không dám đứng ngang hàng với Tống Trần Ngô ba người nữa.
Quần hùng liền nhao nhao lên:
- Lời đó nghe phải lắm, xin mời ba vị cao tăng, ba vị trưởng lão ra lệnh.
- Chuyện này liên quan đến an nguy thiên hạ, lục vị tiền bối đương nhân bất nhượng , nghĩa bất dung từ.
- Chúng ta cùng nghe hiệu lệnh xông lên giết cho được hai tên Liêu cẩu.
Chỉ trong giây lát, tiếng loảng xoảng vang lên, ai nấy rút binh khí, có người đã toan xông vào giết mười tám võ sĩ Khất Đan. Dư bà bà kêu lên:
- Các vị huynh đệ Khất Đan, xin qua đây nói chuyện.
Mười tám võ sĩ chưa biết Dư bà bà có dụng ý gì nên không đi qua, người nào cũng cầm đao trên tay, đứng xếp hàng, quả bất địch chúng nhưng cũng quyết một phen tử chiến. Dư bà bà quát:
- Bát bộ Linh Thứu Cung hãy hộ vệ mười tám vị bằng hữu.
Chư nữ tám bộ liền xông lên chặn trước mặt mười tám võ sĩ Khất Đan, các động chủ, đảo chủ cũng xếp chung quanh. Các môn nhân phái Tinh Tú muốn lập công cho chủ mới, lập tức phất cờ la ó, thanh thế trông thật dữ dội.
Dư bà bà khom lưng nói với Hư Trúc:
- Chủ nhân, mười tám võ sĩ này là hạ thuộc của nghĩa huynh chủ nhân, nếu để họ bị loạn đao phân thi trước mặt chủ nhân thì quả là mất mặt cho cung Linh Thứu. Chúng ta nên trông coi lo liệu cho họ, kính xin chủ nhân phát lạc.
Hư Trúc đau thương cha mẹ vừa mất, không còn lòng dạ nào mà nghĩ ngợi điều gì, liền gật đầu đáp:
- Cung Linh Thứu ta và phái Thiếu Lâm là bạn chứ không phải địch, mọi người đừng để tổn thương hòa khí, tàn sát lẫn nhau.
Huyền Tịch thấy thanh thế của cung Linh Thứu như vậy, biết đây là một đại kình địch, nghe Hư Trúc nói liền bảo:
- Mười tám võ sĩ Khất Đan này giết họ hay không cũng chẳng liên quan gì đến đại cuộc, nể mặt Hư Trúc tiên sinh, tạm để đó đã. Hư Trúc tiên sinh, chúng ta cầm sát Tiêu Phong, tiên sinh tương trợ phe nào?
Hư Trúc trù trừ đáp:
- Phái Thiếu Lâm là xuất thân chi địa của tại hạ, Tiêu Phong là nghĩa huynh của tại hạ, một bên thì là ân, một bên thì là nghĩa. Tôi … tôi … chẳng tương trợ bên nào. Chỉ mong … mong …, tại hạ mong sư thúc tổ để cho Tiêu đại ca ra đi, tại hạ sẽ khuyên y không đem quân công đả Đại Tống.
Huyền Tịch nghĩ thầm: “Uổng cho ngươi võ công cao cường, lại là chủ của một phái, nói năng nghe như đứa con nít lên ba”. Ông bèn đáp:
- Ba chữ “sư thúc tổ”, từ nay Hư Trúc tiên sinh đừng đề cập đến nữa.
Hư Trúc đáp:
- Vâng, vâng, tại hạ quên mất.
Huyền Tịch nói:
- Linh Thứu Cung hai bên không tương trợ bên nào, phái Thiếu Lâm cùng quí phái là bạn chứ không phải thù, hai bên không tổn thương hòa khí lẫn nhau.
Ông quay sang nói với ba trưởng lão Cái Bang:
- Ba vị trưởng lão, tất cả chúng ta cùng đến tệ tự xem động tĩnh ra sao, được chăng?
Tống Trần Ngô ba trưỡng lão cùng đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Chúng huynh đệ Cái Bang, tất cả cùng lên chùa Thiếu Lâm.
Thế là tăng lữ Thiếu Lâm đi trước, Cái Bang cùng quần hùng Trung Nguyên tất cùng reo hò đi lên trên núi. Đặng Bách Xuyên vui mừng nói:
- Tam đệ, ngươi quả giỏi thật, chỉ mấy câu của ngươi mà khiến cho chúa công cùng công tử có thêm bao nhiêu người giúp đỡ.
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Tiểu đệ nói dây dưa bấy lâu, không biết ấy là họa hay phúc cho chúa công và công tử, ai được ai thua.
Vương Ngữ Yên vội nói:
- Mau đi theo! Đừng có lải nhải “phi dã, phi dã” nữa.
Nàng vừa nói vừa rảo bước đi lên, đã thấy Đoàn Dự đi lẽo đẽo bên cạnh bèn hỏi:
- Đoàn công tử, công tử định giúp nghĩa huynh để làm khó biểu ca tôi phải không?
Giọng nói có vẻ bực bội. Mới rồi Mộ Dung Phục hoành kiếm tự vẫn, suýt chết cũng chỉ vì thua Đoàn Dự và Tiêu Phong, thẹn quá hóa liều, Vương Ngữ Yên hỏi thế là có vẻ giận Đoàn Dự. Đoàn Dự ngẩn ngơ, dừng chân lại. Chàng từ khi quen biết Vương Ngữ Yên đến nay, đối với nàng thiên y bách thuận, biết bao lần vì nàng xả thân nguy hiểm không nề sống chết, chưa bao giờ thấy nàng có vẻ không vui với mình như thế, nhất thời hoảng hốt cuống quít, bụng rối như tơ vò, một lúc lâu sau mới đáp:
- Tôi … tôi nào có định làm khó cho Mộ Dung công tử …
Khi chàng ngửng lên chỉ thấy quần hùng đang lũ lượt kéo qua, Vương Ngữ Yên và bọn Đặng Bách Xuyên đã rời từ hồi nào, chẳng biết đi đâu.
Anh chàng lại ngơ ngẩn nghĩ thầm: “Vương cô nương đã có bụng nghi ngờ, mình hà tất phải đi lên cho thêm khó chịu?”. Nhưng Đoàn Dự lại nghĩ: “Cả nghìn người như đàn ong kéo lên, định vây đánh Tiêu đại ca, anh ta ở vào cảnh ngộ cực kỳ hung hiểm. Hư Trúc nhị ca đã nói rõ là không giúp bên nào, nếu ta không hết sức ra tay giúp đỡ thì cái tình kim lan kết nghĩa còn đâu? Dẫu cho Vương cô nương có giận thì mình cũng đành chịu vậy thôi”. Chàng bèn đi theo quần hào chạy lên trên núi.
Khi đó Đoàn Chính Thuần thấy Đoàn Diên Khánh gườm gườm nhìn mình, lập tức để tay lên đốc kiếm, vận khí chờ địch. Quần hào Đại Lý cũng chăm chăm dè chừng nên việc Đoàn Dự tất tưởi chạy đi chẳng một ai chú ý.
Đoàn Dự đến được chùa Thiếu Lâm rồi một mình đi vào trong cổng. Chùa Thiếu Lâm khuôn viên cực rộng, tiền điện hậu xá, không biết bao nhiêu trăm nghìn gian, chỉ thấy tăng lữ và quần hùng Trung Nguyên qua qua lại lại nơi các điện đường, lao xao bàn tán đi tìm cha con Tiêu Viễn Sơn và cha con Mộ Dung Bác.
Một số người nhảy lên mái nhà từ trên cao nhìn xung quanh, bốn phía người chạy lung tung, loạn cả lên. Mọi người vào phòng này, sang phòng khác, chạy qua chạy lại ai ai cũng hỏi nhau:
- Ở đâu thế? Đã kiếm thấy chưa?
Tòa Thiếu Lâm cổ sát trang nghiêm bỗng chốc ồn ào náo nhiệt như phiên chợ. Đoàn Dự chạy lăng quăng một hồi, đột nhiên trông thấy hai Hồ tăng lẻn từ cửa hông ra, mắt chấp chới nhìn ngang nhìn ngửa, lấp ló thập thò. Đoàn Dự trong lòng chợt động: “Hai nhà sư người Hồ này không phải sư chùa Thiếu Lâm, họ đang lén lút làm trò gì đây?”. Bụng hiếu kỳ nổi lên, lập tức thi triển Lăng Ba Vi Bộ lẳng lặng theo sau hai người chạy ra ngoài khu rừng bên cạnh chùa. 
Đi hết một con đường mòn, chạy về hướng tây bắc, qua mấy chỗ ngoẹo, trước mắt bỗng thấy một khoảng không, nghe tiếng nước chảy róc rách, bên cạnh giòng suối là một tòa lầu, trên lầu có một biển ngạch viết ba chữ: “Tàng Kinh Các”. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm vang danh thiên hạ, thì ra kiến lập ở nơi đây. Phải rồi, tòa nhà này xây ngay bên cạnh giòng suối, xa cách chùa chiền để phòng khi có hỏa tai không hủy mất những kinh điển trân quí”.
Hai gã Hồ tăng rùn người xuống len lén lần tới Tàng Kinh Các, Đoàn Dự lập tức đuổi theo. Đột nhiên có hai nhà sư trung niên ở đâu vọt ra, cùng tằng hắng một tiếng nói:
- Hai vị đến nơi đây có việc gì?
Một người Hồ tăng đáp:
- Sư huynh ta đã ngưỡng mộ Tàng Kinh Các của chùa Thiếu Lâm từ lâu, nên muốn đến ngắm một chút.
Người nói đó chính là Ba La Tinh. Y và sư huynh Triết La Tinh thấy chùa Thiếu Lâm đang lúc hỗn loạn, toan bề nước đục thả câu, định lẻn đến Tàng Kinh Các ăn trộm kinh. Một nhà sư Thiếu Lâm nói:
- Kính xin đại sư lưu bộ, đây là trọng địa tàng kinh của bản tự, người ngoài không thể vào được.
Còn đang nói qua lại thì đã thấy thêm bốn nhà sư cầm thiền trượng, chặn ngay cửa. Triết La Tinh và Ba La Tinh hai người đưa mắt nhìn nhau, biết rằng mưu tính khó mà thành công, đành bỏ cuộc lui ra. Đoàn Dự cũng quay lại, đang định đi kiếm Tiêu Phong bỗng nghe một giọng già cả từ trên lầu cao truyền xuống:
- Ngươi trông thấy y chạy về hướng nào?
Y nhận ra đó chính là giọng của Huyền Tịch. Lại một người khác nói:
- Chúng đệ tử bốn người canh tại đây thì nhà sư áo xám xông vào, ra tay điểm huyệt mê của cả bọn, đến khi sư bá cứu tỉnh thì nhà sư áo xám kia đi đâu không biết.
Lại một giọng già nua khác nói:
- Ở đây cửa sổ bị rách, chắc hẳn y chạy ra hậu sơn.
Huyền Tịch nói:
- Đúng vậy!
Lão tăng kia lại tiếp:
- Nhưng không biết bọn chúng có ăn trộm cuốn kinh thư nào trong các hay không?
Huyền Tịch nói:
- Hai gã này tiềm phục nơi bản tự mấy chục năm rồi thế mà cả chùa từ trên xuống dưới ngu ngơ có ai biết gì đâu, đủ biết mình chẳng tài cán gì cả. Bọn họ muốn ăn trộm kinh, mấy chục năm qua ngày nào chẳng được, việc gì phải đợi đến hôm nay?
Lão tăng kia nói:
- Sư huynh nói phải lắm.
Hai nhà sư cùng buông tiếng thở dài. Đoàn Dự nghĩ chừng hai người đang nói về chuyện mất mặt của chùa Thiếu Lâm, không tiện nghe lóm, có biết đâu các nhà sư nói rất khẽ, chỉ vì chàng nội lực thâm hậu nên mới nghe được mà thôi. Đoàn Dự chầm chậm lẻn ra nghĩ thầm: “Bọn họ nói Tiêu đại ca đi ra sau núi, mình đi xem ra thế nào?”.
Sau núi Thiếu Thất địa thế hiểm trở, rừng rậm đường khó đi, Đoàn Dự đi được mấy dặm thì không còn nghe tiếng lao xao từ trong chùa truyền ra nữa, núi rừng tĩnh mịch, chỉ còn tiếng chim ríu rít trên cành cây. Trong rừng sâu giữa núi không có ánh mặt trời, nên hơi lành lạnh. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cha con Tiêu đại ca đã ra đến đây thì thoát thân quá dễ dàng, quần hùng khó mà vây đánh được”. Chàng thấy yên tâm hơn nhưng nghĩ đến vẻ mặt oán hờn của Vương Ngữ Yên, trong lòng lại bàng hoàng: “Nếu như đại ca giết được Mộ Dung công tử, thì … thì … mình phải làm sao đây?’. Sau lưng không khỏi toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm: “Nếu như Mộ Dung công tử chết rồi, Vương cô nương hẳn đau lòng, cả đời uất hận khôn nguôi”.
Chàng như tỉnh như mê đi lang thang trong rừng rậm, lúc thì nghĩ đến Mộ Dung Phục, lúc lại nghĩ đến Tiêu đại ca, khi nghĩ đến gia gia, má má và bá phụ nhưng nghĩ đến nhiều hơn cả vẫn là Vương Ngữ Yên, nhất là gương mặt oán hận của nàng nhìn mình.
Không biết chàng suy nghĩ miên man như thế trong bao lâu, bỗng nghe theo gió truyền đến văng vẳng có tiếng niệm Phật tụng kinh:
Tâm kia tức là Phật,
Phật kia cũng là tâm.
Tâm sáng thì thấy Phật,
Thấy Phật ắt minh tâm.
Rời tâm không còn Phật,
Rời Phật đâu còn tâm … 
Thanh âm rõ ràng hồn hậu nhưng trước nay chàng chưa hề nghe bao giờ. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra ở đây lại có một nhà sư, mình thử đến hỏi xem ông ta có gặp Tiêu đại ca không?” rồi lần theo thanh âm đi tới.
Qua khỏi một khu rừng trúc thấy trên một bãi cỏ tụ tập không ít người. Một nhà sư mặc thanh bào đã cũ ngồi trên một tảng đá xoay lưng lại, tiếng niệm kinh chính là do ông ta phát ra, phía trước thật đông người ngồi, trong đó có cả cha con Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong, Mộ Dung Bác, Mộ Dung Phục, rồi cả hai nhà sư người Hồ là Ba La Tinh, Triết La Tinh chàng mới thấy ở Tàng Kinh Các, những cao tăng từ các chùa khác đến, và vài nhà sư chữ Huyền của chùa Thiếu Lâm, tất cả cùng ngồi dưới đất chắp tay, rủ mi cúi đầu, cung kính nghe thuyết pháp. Bên ngoài xa chừng năm sáu trượng đứng lố nhố có cả quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí, vẻ mặt khinh khỉnh xem chừng trong lòng bất phục.
Đoàn Dự xuất thân từ nơi Phật quốc, từ bé đã cùng các cao tăng tìm hiểu Phật pháp, nghĩa lý kinh điển thông hiểu khá nhiều, có điều Phật pháp Đại Lý từ phương nam truyền lên, gần với tiểu thừa, không phải Thiền tông như của Thiếu Lâm, sở học có chỗ không giống nhau, nghe nhà sư đọc kệ, tưởng như nông cạn nhưng bao hàm lý lẽ thâm sâu, nghĩ thầm: “Nhìn phục sắc vị cao tăng này thì có vẻ là tăng lữ trong chùa Thiếu Lâm nhưng chức vị thấp kém, chỉ là loại tạp dịch quét nhà pha nước, sao các cao tăng lẫn Tiêu đại ca cũng đều lắng nghe ông ta giảng kinh thuyết pháp là sao?”.
Chàng mon men đến, muốn xem thử vị cao tăng này dung mạo ra sao, là hạng người gì. Thế nhưng nếu muốn nhìn tận mặt vị cao tăng kia thì phải đi vòng ra phía sau lưng bọn Tiêu Phong, chàng không dám kinh động mọi người, rón rén đi vòng một quãng xa, đang định rùn người lẻn tới gần bên, đột nhiên thấy Cưu Ma Trí quay người lại mỉm cười. Đoàn Dự cũng cười đáp lại.
Đột nhiên một luồng kình phong cực kỳ lăng lệ xốc tới ngực, Đoàn Dự kêu lên:
- Chao ôi!
Đang muốn dùng Lục Mạch Thần Kiếm để chôáng đỡ nhưng không kịp nữa rồi, chỉ thấy ngực nhói lên, trong cơn mơ màng nghe tiếng người niệm A Di Đà Phật rồi không còn biết gì nữa.
*
* *
Mộ Dung Bác bị Huyền Từ vạch rõ chân tướng là người năm xưa giả truyền tin tức gây ra vụ huyết án Nhạn Môn Quan, biết rằng chẳng những hai cha con họ Tiêu phải bắt được mình mới cam tâm mà cả quần hào Trung Nguyên cũng không tha nên lập tức phi thân chạy về hướng chùa Thiếu Lâm.
Chùa Thiếu Lâm phòng ốc rất nhiều, ông ta quen thuộc địa hình nên dù ẩn náu nơi đâu thì cha con họ Tiêu cũng chưa dễ tìm ra được. Thế nhưng Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người hận ông ta tận xương tủy, như bóng với hình đuổi nà theo. Tiêu Viễn Sơn và ông hai người tuổi tác tương đương, công lực cũng ngang ngửa, Mộ Dung Bác chạy trước một chút, Tiêu Viễn Sơn không dễ gì đuổi kịp. Thế nhưng Tiêu Phong đang lúc tráng niên, võ công tinh lực đến mức tuyệt đỉnh, ra sức đuổi theo nên khi Mộ Dung Bác chạy đến cổng chùa rồi, Tiêu Phong từ xa mấy trượng đánh ra một chưởng, chưởng lực đã đến sau lưng.
Mộ Dung Bác hồi chưởng chống đỡ, toàn thân chấn động, cánh tay ngâm ngẩm đau, không khỏi kinh hãi: “Tên tiểu cẩu Khất Đan này công lực lợi hại thật”. Ông ta liền nghiêng người lách vào trong cửa chùa.
Tiêu Phong đâu để ông ta thoát thân, vọt lên chặn lại. Thế nhưng Mộ Dung Bác đã vào trong chùa rồi, chỗ nào cũng có điện đường hành lang, chưởng lực Tiêu Phong tuy mạnh thật nhưng đánh cũng không trúng ông ta được.
Ba người một chạy trước, hai đuổi theo, trong chốc lát đã chạy đến Tàng Kinh Các. Mộ Dung Bác phá cửa sổ nhảy vào, vừa ra tay đã điểm huyệt mê bốn nhà sư canh giữ các, quay người lại cười khẩy nói:
- Tiêu Viễn Sơn, cả hai cha con ngươi cùng tiến lên hay lại vẫn hai lão già đơn đả độc đấu một phen sống chết?
Tiêu Viễn Sơn chặn ngay cửa các nói:
- Hài nhi, con chặn cửa sổ đừng để y chạy thoát.
Tiêu Phong đáp:
- Vâng!
Ông nhảy đến bên cửa sổ, giang tay, hai cha con cùng vây lại, xem chừng Mộ Dung Bác không cách gì thoát thân được. Tiêu Viễn Sơn nói:
- Thâm cừu đại oán của ta với ngươi, không chết thì không cởi được. Đây không còn là tỉ thí võ công xem ai cao ai thấp mà là hai cha con ta cùng xông vào lấy mạng của ngươi.
Mộ Dung Bác cười ha hả, đang định trả lời bổng nghe tiếng chân người ở cầu thang rồi thấy một người đi lên, chính là Cưu Ma Trí. Y quay sang Mộ Dung Bác chắp tay chào nói:
- Mộ Dung tiên sinh, năm xưa từ biệt, đến sau lại nghe tiên sinh tây qui, tiểu tăng đau lòng khôn xiết, thì ra tiên sinh ẩn cư không ra ngoài là có thâm ý, hôm nay được trùng phùng khiến cho tiểu tăng vui mừng khôn tả.
Mộ Dung Bác ôm quyền hoàn lễ cười nói:
- Tại hạ vì chuyện nước chuyện nhà đành phải giả chết, phiền đại sư phải mong nhớ, quả đáng hổ thẹn xiết bao.
Cưu Ma Trí đáp:
- Không dám, không dám! Năm xưa tiểu tăng cùng tiên sinh giải cấu tương phùng, đàm võ luận kiếm, may được tiên sinh chỉ điểm cho mấy ngày, bao nhiêu nghi nghĩa bình sinh đều khai thông cả, lại được tiên sinh tặng cho yếu chỉ bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, vẫn hằng khắc tạc trong lòng.
Mộ Dung Bác cười đáp:
- Cái chuyện nhỏ nhặt đó có đáng gì mà phải nhắc tới?
Ông ta quay sang cha con họ Tiêu nói:
- Tiêu lão hiệp, Tiêu đại hiệp, đây là Cưu Ma Trí thần tăng, Đại Luân Minh Vương của nước Thổ Phồn, Phật pháp đã cực kỳ uyên thâm mà võ công còn cao hơn tại hạ bội phần, có thể nói trên đời hiếm ai sánh kịp.
Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: “Gã phiên tăng này chưa chắc đã hơn Mộ Dung Bác đâu nhưng chắc cũng phải tài giỏi lắm. Y với Mộ Dung Bác uyên nguyên thật sâu xa, thể nào chẳng tương trợ y, cuộc chiến này ai thắng ai thua cũng còn khó nói lắm”.
Cưu Ma Trí đáp:
- Mộ Dung tiên sinh quá khen. Đương niên tiểu tăng nghe tiên sinh luận kiếm pháp, nói là Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn Đại Lý là thiên hạ đệ nhất, tiếc rằng chưa được xem qua để cho trở thành mối hận bình sinh. Tiểu tăng nghe tin chẳng lành của tiên sinh, nên đã đến chùa Thiên Long Đại Lý, mong xin được kiếm phổ Lục Mạch Thần Kiếm đem về phàn hóa trước mộ tiên sinh, báo tình tri kỷ. Ngờ đâu lão sư già Khô Vinh của chùa Thiên Long giảo hoạt mưu mô, gặp lúc khẩn cấp quan đầu liền dùng nội lực thiêu hủy kiếm phổ. Tiểu tăng tuy vẫn mong được theo gương Quí Trát treo gươm, ngờ đâu không được toại nguyện, quả là mối hận sâu xa.
Mộ Dung Bác nói:
- Đại sư có ý đó tại hạ cũng đã cảm kích lắm rồi. Huống hồ Lục Mạch Thần Kiếm họ Đoàn vẫn còn tồn tại nơi dương thế, mới rồi Đoàn công tử nước Đại Lý cùng khuyển tử giao đấu, kiếm khí tung hoành, quả là danh bất hư truyền cái tiếng thiên hạ đệ nhất kiếm.
Ngay lúc đó một bóng người thấp thoáng, trong Tàng Kinh Các đã có thêm một người, chính là Mộ Dung Phục. Y chậm hơn mấy bước, khi đến chùa thì đã mất dấu phụ thân và cha con Tiêu Phong, khi tìm được Tàng Kinh Các thì Cưu Ma Trí đã đến trước rồi. Y nghe loáng thoáng cha mình nói chuyện mình bị Đoàn Dự dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh thắng không khỏi cực kỳ ngượng ngập.
Mộ Dung Bác lại tiếp:
- Ở đây cha con họ Tiêu nhất định phải giết mỗ mới cam lòng, chẳng hiểu ý của đại sư ra sao?
Cưu Ma Trí đáp:
- Cái tình tri kỷ, lẽ nào lại tụ thủ được sao?
Tiêu Phong thấy Mộ Dung Phục đã đến, biến thành bên địch ba người mà mình chỉ có hai, Mộ Dung Phục tuy kém hơn một chút nhưng cũng không phải là dở, e rằng cái chuyện không thể không giết Mộ Dung Bác lại biến thành hai cha con bỏ mạng nơi gác chứa kinh. Thế nhưng ông can đảm dũng mãnh, chẳng vì chuyện thân lâm nghịch cảnh mà sờn lòng, quát lớn:
- Chuyện hôm nay không kẻ sống người chết thì không xong. Tiếp chiêu đây!
Nghe vù một chưởng, Tiêu Phong đã nhắm Mộ Dung Bác đánh tới. Mộ Dung Bác phất tay trái, ngưng vận công lực, định hóa giải chưởng lực của ông. Lách cách lách cách, một giá sách phía bên trái đã vỡ tan nát thành mấy mảnh, sách vở kinh điển trên kệ rơi ập xuống.
Chưởng của Tiêu Phong kình lực hùng hồn, Mộ Dung Bác tuy đã đẩy giạt ra được nhưng không tiêu giải, chỉ có thể chuyển hướng phương vị đánh vào cái kệ sách.
Mộ Dung Bác mỉm cười nói:
- Nam Mộ Dung, bắc Kiều Phong quả nhiên tiếng đồn không ngoa. Tiêu huynh, ta có một lời, không biết huynh đệ có chịu nghe không?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Ngươi đừng có định dùng hoa ngôn xảo ngữ mà bảo ta bỏ qua mối thù giết vợ.
Mộ Dung Bác nói:
- Ngươi định giết ta báo thù, với cục diện hôm nay e rằng chưa chắc gì làm được. Bên ta ba người địch với cha con ngươi hai người, thử hỏi xem bên nào thắng thế hơn?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Đương nhiên bên ngươi thắng thế. Đại trượng phu dĩ quả địch chúng, có gì mà phải sợ?
Mộ Dung Bác nói:
- Cha con họ Tiêu anh danh cái thế, trên đời này còn sợ gì nữa? Có điều sợ thì chẳng sợ, hôm nay muốn giết được ta quả khó lắm thay. Ta muốn đánh đổi với ngươi một chuyện, ta để cho ngươi toại nguyện báo thù nhưng cha con ngươi phải bằng lòng làm cho ta một việc.
Tiêu Viễn Sơn và Tiêu Phong hai người hết sức ngạc nhiên: “Lão tặc này không biết có ngụy kế gì đây?”. Mộ Dung Bác lại tiếp:
- Miễn là cha con ngươi bằng lòng làm cho ta một việc thì lập tức tiến lên giết ta báo thù. Tại hạ bó tay chịu chết, quyết không kháng cự, Cưu Ma sư huynh và Phục nhi cũng không được tiến lên cứu viện.
Y vừa dứt lời, cha con Tiêu Phong ngỡ ngàng mà Cưu Ma Trí và Mộ Dung Phục cũng không hiểu nổi. Mộ Dung Phục kêu lên:
- Gia gia, bên ta đông, bên kia ít …
Cưu Ma Trí cũng nói:
- Mộ Dung tiên sinh sao lại nói thế? Tiểu tăng còn một hơi thở cũng không bao giờ để người ta đụng một ngón tay vào tiên sinh.
Mộ Dung Bác đáp:
- Cao nghĩa của đại sư, tại hạ được kết giao với một bằng hữu như thế, có chết cũng còn gì mà tiếc nuối nữa? Tiêu huynh, tại hạ có một chuyện thỉnh giáo. Năm xưa ta giả truyền tin tức để đến nỗi gây ra đại họa, thế Tiêu huynh có biết tại hạ làm một việc vô hạnh bại đức như thế là vì cớ gì chăng?
Tiêu Viễn Sơn giận bừng bừng, chỉ tay mắng chửi:
- Ngươi là kẻ ti bỉ tiểu nhân, làm điều càn rỡ, hạnh tai lạc họa thì còn có dụng ý gì nữa?
Ông tiến lên một bước bụp một tiếng đánh ra một quyền. Cưu Ma Trí nghiêng qua chặn lại, song chưỡng đẩy ra biïch một tiếng quyền phong chưởng lực chạm nhau, dội ngược lên trên khiến bụi trên mái lả tả rơi xuống. Quyền chưởng đụng nhau tuy chưa phân cao hạ nhưng hai bên đều phục ngầm lẫn nhau.
Mộ Dung Bác nói:
- Tiêu huynh tạm dằn nộ khí, để nghe tại hạ nói hết lời. Mộ Dung Bác tuy là kẻ chẳng vào đâu nhưng trên giang hồ cũng tạo được chút danh con con, chưa từng quen biết Tiêu huynh, ắt là vô oán vô cừu. Đến như Huyền Từ phương trượng của phái Thiếu Lâm, tại hạ cũng có tình giao hảo lâu năm, vậy mà tại hạ hết công hết sức xúc xiểm gây rối để cho hai bên lưỡng bại câu thương, cứ theo lý thường mà nói, ắt phải có một nguyên do cực kỳ trọng đại.
Tiêu Viễn Sơn đôi mắt dường như đổ lửa, quát lớn:
- Còn có nguyên do trọng đại gì? Nói … nói mau!
Mộ Dung Bác nói:
- Tiêu huynh là người Khất Đan, còn Cưu Ma Trí minh vương là người nước Thổ Phồn. Bọn võ nhân Trung Thổ kia đều bảo các vị là phiên bang di địch, không biết ăn mặc theo thượng quốc y quan. Lệnh lang rõ ràng là bang chủ Cái Bang, tài lược võ công đều vượt trội, hơn hẳn mọi người, quả là một anh hùng hào kiệt xưa nay hiếm có trong Cái Bang. Thế mà trong bang vừa mới biết y là dòng dõi Khất Đan dị tộc, lập tức lật mặt không còn tình nghĩa gì, chẳng nhận y là bang chủ nữa đã đành, mà còn nhất định phải giết cho bằng được mới cam tâm. Tiêu huynh thử nghĩ chuyện đó có công bằng không?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Tống Liêu đời đời oán thù, hai nước chiến tranh công phạt đã hơn một trăm năm. Ở nơi biên cương, người Tống người Liêu gặp nhau là giết, trước nay vẫn thế. Người Cái Bang biết được con ta là người Khất Đan, làm sao có thể tôn kẻ thù làm chủ được? Cái đó cũng là thường lý mà thôi, có gì bảo là không công bằng đâu?
Ông ngừng một chút lại tiếp:
- Huyền Từ phương trượng, Uông Kiếm Thông bọn họ giết vợ ta, thuộc hạ ta vốn không phải do bản ý. Mà dẫu có cái bụng dạ đó chăng nữa, thì cũng là Tống Liêu tương tranh, không có gì lạ, còn như ngươi bày mưu tính kế hãm hại thì không thể bỏ qua cho được.
Mộ Dung Bác nói:
- Cứ như ý kiến Tiêu huynh, hai nước tương tranh, giao chiến sát phạt, chỉ cần làm sao thắng địch lập nên đại công, chứ không cần phải nói chuyện nhân nghĩa đạo đức chứ gì?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Binh bất yếm trá, từ xưa đến nay vẫn vậy. Ngươi nói chuyện không liên quan gì đến là làm sao?
Mộ Dung Bác mỉm cười nói:
- Tiêu huynh thử xem Mộ Dung Bác mỗ đây là người nước nào?
Tiêu Viễn Sơn hơi kinh ngạc nói:
- Ngươi Cô Tô Mộ Dung thị, hẳn phải là người Hán Nam triều chứ còn gì nữa, không lẽ lại là người ngoại quốc hay sao?
Huyền Từ học thức uyên bác, khi nghe Mộ Dung Bác ngăn trở Mộ Dung Phục đừng tự sát, chỉ qua vài câu ông ta nói ra liền đoán ngay ra thân thế lai lịch. Tiêu Viễn Sơn là một võ nhân Khất Đan, không biết chuyện xưa tích cũ nên chẳng biết bên trong nghĩa lý thế nào.
Mộ Dung Bác lắc đầu đáp:
- Tiêu huynh đoán thế là sai rồi.
Ông ta quay sang nói với Mộ Dung Phục:
- Hài nhi, chúng ta là người nước nào thế?
Mộ Dung Phục đáp:
- Chúng ta họ Mộ Dung vốn là bộ tộc Tiên Ti, năm xưa nước Đại Yên danh chấn Hà Sóc, lập nên giang sơn gấm vóc, tiếc rằng kẻ địch hung hiểm tàn ác, lật đổ bản quốc.
Mộ Dung Bác hỏi tiếp:
- Cha đặt tên con dùng một chữ “Phục” là có hàm nghĩa gì?
Mộ Dung Phục đáp:
- Gia gia bảo hài nhi không giờ phút nào được quên di huấn của liệt tổ tông, phải cố hưng phục Đại Yên lấy lại giang sơn.
Mộ Dung Bác nói:
- Ngươi đem truyền quốc ngọc tỉ của nước Đại Yên ra cho Tiêu lão hiệp xem.
Mộ Dung Phục đáp:
- Vâng!
Y cho tay vào túi lấy ra một quả ấn tạc bằng một khối ngọc đen. Chiếc ngọc tỉ đó trên núm khắc một đầu báo rất sinh động, Mộ Dung Phục lật lên để lộ ấn văn. Cưu Ma Trí thấy chữ trên đó khắc thành sáu chữ Đại Yên Hoàng Đế Chi Bảo. Cha con họ Tiêu không biết chữ triện nhưng thấy ngọc tỉ điêu khắc tinh mỹ, các góc cũng đã sứt mẻ, đủ biết có từ lâu, qua nhiều trắc trở, tuy không biết thật giả ra sao nhưng không phải vật tầm thường, cũng không phải mới chế tạo.

datlucky_way

27-07-2009 08:47 AM

Hồi 43(b) : VƯƠNG BÁ HÙNG ĐỒ – HUYẾT HẢI THÂM HẬNTẬN QUI TRẦN THỔ 





Bấm vào đây để xem nội dung.

Dẫu ôm mộng xưng vương xưng đế,
Nuôi hận thù vay trả trả vay.
Một khi nhắm mắt xuôi tay,
Sang hèn âu cũng đã hay kiếp người.
*
* *








Mộ Dung Bác lại tiếp:
- Ngươi đem Đại Yên hoàng đế thế hệ phổ cho Tiêu lão hiệp xem qua.
Mộ Dung Phục đáp:
- Vâng!
Y cất ngọc tỉ vào trong bọc, thuận tay lấy một bao bằng vải dầu, mở ra để lộ một bức lụa vàng, hai tay trương lên. Mọi người thấy trên tấm lụa viết đầy hai loại văn tự bằng bút son, bên phải là chữ ngoằn ngoèo, chẳng ai đọc được, chắc là chữ nước Tiên Ti. Phía bên trái là chữ Hán, dòng đầu tiên viết: Thái Tổ Văn Minh Đế húy Hoảng, bên dưới là Liệt Tổ Cảnh Chiêu Đế húy Tuyến, dưới nữa là U Đế húy Vĩ. Lại đến một hàng chữ viết Thế Tổ Võ Thành Đế húy Thùy, bên trên viết Liệt Tông Huệ Mẫn Đế húy Bảo, bên dưới viết Khai Phong Công húy Tường, Triệu Vương húy Lân.
Bên dưới tấm lụa viết Trung Tông Chiêu Võ Đế húy Thịnh, Chiêu Văn Đế húy Hi v. ..v… các loại danh húy Hoàng Đế, tất cả đều thiếu nét . Đến năm Thái Thượng thứ sáu nhà Đại Yên Mộ Dung Siêu mất nước, các đời sau đều là dân thường, không còn là công hầu đế vương nữa. Niên đại đã lâu, con cháu đầy rẫy, Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong và Cưu Ma Trí ba người không hơi sức đâu mà coi cho kỹ. Thế nhưng xem đến thế hệ biểu người sau cùng thì là Mộ Dung Phục, bên trên là Mộ Dung Bác.
Cưu Ma Trí nói:
- Thì ra Mộ Dung tiên sinh là vương tôn nước Đại Yên, quả là thất kính.
Mộ Dung Bác thở dài:
- Kẻ vong quốc lưu lạc, còn giữ được cái đầu trên cổ ấy cũng là may mắn lắm rồi. Có điều bao đời tổ tông di huấn, ai nấy dặn dò con cháu hưng phục, Mộ Dung Bác vô năng, bôn ba giang hồ hơn nửa đời người mà cũng chẳng nên cơm cháo gì. Tiêu huynh, họ Mộ Dung Tiên Ti ta có ý quang phục cố quốc, ngươi thử nghĩ có nên không?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Được làm vua, thua làm giặc. Quần hùng đuổi hươu ở Trung Nguyên, có gì để bảo là nên hay không nên?
Mộ Dung Bác đáp:
- Hay lắm! Lời của Tiêu huynh quả đúng như lòng ta nghĩ. Họ Mộ Dung muốn hưng phục Đại Yên, ắt cần có cơ hội mà nương theo. Nghĩ đến họ Mộ Dung ta nhân đinh đơn bạc, thế lực sơ sài, muốn lấy lại nước có phải là chuyện dễ dàng đâu? Cái cơ duyên duy nhất là thiên hạ đại loạn, bốn bề giặc giã như ong.
Tiêu Viễn Sơn sầm mặt xuống:
- Ngươi ngụy tạo âm tấn, xúi bị giục nguyên, cốt để Tống Liêu hục hặc đại chiến chứ gì?
Mộ Dung Bác đáp:
- Chính thế! Nếu như Tống Liêu hai bên nổi cơn binh lửa, Đại Yên có thể lựa gió phất cờ. Năm xưa nhà Đông Tấn có cái loạn tám vương tranh chấp, họ Tư Mã tự tàn sát lẫn nhau, Ngũ Hồ ta mới có dịp cát cứ một mảnh đất của Trung Nguyên. Cuộc diện hôm nay, cũng gần như thế.
Cưu Ma Trí gật đầu nói:
- Không sai! Nếu như Tống triều có họa hoạn từ bên ngoài, ắt sẽ sinh nội biến, không những cái mộng phục quốc của Mộ Dung tiên sinh có cơ thành hình, nước Thổ Phồn ta cũng được húp chút canh.
Tiêu Viễn Sơn cười khẩy một tiếng, liếc xéo hai người. Mộ Dung Bác nói:
- Lệnh lang đang giữ chức Nam Viện Đại Vương, tay cầm binh phù, trấn thủ Nam Kinh, nếu như xua quân xuống phương nam, chiếm tất cả đất của Nam triều mạn Bắc sông Hoàng Hà, kiến lập một công nghiệp hiển hách, tiến thì tự lập làm chủ một cõi, thoái cũng phú quí lâu dài. Lúc đó thuận tay gom cả quần hào Trung Nguyên giết sạch thì cũng chẳng khác gì đạp lên đàn kiến, mối bực tức năm xưa bị Cái Bang trục xuất có phải chỉ một buổi là rửa sạch hay không?
Tiêu Viễn Sơn hỏi lại:
- Ngươi tưởng con ta sẽ vì thế mà tận lực cho các ngươi có dịp nước đục thả câu, thực hiện dã tâm hưng phục Đại Yên hay sao?
Mộ Dung Bác đáp:
- Đúng thế! Khi đó họ Mộ Dung sẽ giương ngọn nghĩa kỳ, hưởng ứng tiếng gọi của Đại Liêu, đem binh từ Sơn Đông đánh ra đồng thời Thổ Phồn, Tây Hạ, Đại Lý ba nước cùng nổi lên, chúng ta năm nước qua phân Đại Tống không phải là chuyện khó. Nước Đại Yên ta nhất quyết không dám lấy một phân một thước đất của Đại Liêu, nếu có kiến quốc cũng chỉ lấy đất của Nam triều. Việc này đối với Đại Liêu có lợi rất lớn, Tiêu huynh còn gì mà không vui vẻ thuận theo?
Ông ta nói đến đây, đột nhiên lật ngửa tay phải, trong tay đã thêm một con dao găm sáng loáng, vung lên cắm phập vào chiếc bàn gần bên nói:
- Tiêu huynh chỉ cần bằng lòng nghe theo đề nghị đó, lập tức xin lấy mạng tại hạ để báo thù cho phu nhân, mỗ nhất quyết không phản kháng.
Soạt một tiếng Tiêu Viễn Sơn đã mở phanh áo, lộ ngực ra. Câu nói đó quả ngoài dự liệu của cha con Tiêu Phong, người này đang chiếm ưu thế rất lớn nhưng lại bó tay chịu chết, nhất thời không biết phải trả lời sao. Cưu Ma Trí nói:
- Mộ Dung tiên sinh, người đời vẫn nói rằng: Không phải cùng giống mình thì tâm tình cũng khác. Huống chi quân quốc đại sự thì lại càng dễ cơ trá. Ví như Mộ Dung tiên sinh cam tâm chịu chết rồi sau đó cha con họ Tiêu không làm theo lời tiên sinh, cái … chết của tiên sinh chẳng hóa ra nhẹ tợ lông hồng hay sao?
Mộ Dung Bác nói:
- Tiêu lão hiệp ẩn cư mấy chục năm, cái tiếng hiệp nghĩa nhân gian ít người biết tới. Thế nhưng Tiêu đại hiệp thanh danh vang lừng thiên hạ, một lời nặng như chín cái đỉnh, lẽ nào lại hối hận? Tiêu dại hiệp chỉ vì một thiếu nữ vô thân vô cố mà còn dám mạo hiểm một mình đến Tụ Hiền Trang cầu chữa bệnh, lẽ nào cầm đao đâm vào lão hủ rồi lại nuốt lời? Tại hạ trù tính đã lâu, đây chính là lương cơ thiên tải nhất thời. Chút tàn niên của lão hủ như ngọn đèn trước gió, đem một mạng đổi lấy cơ nghiệp vạn đại, cái giá hời như thế đời nào bỏ qua?
Ông ta nở một nụ cười, chăm chăm nhìn Tiêu Phong chỉ mong ông sớm ra tay hạ thủ. Tiêu Viễn Sơn nói:
- Này con, cái ý của người này xem chừng không phải là giả, con thấy sao?
Tiêu Phong đáp:
- Không được.
Đột nhiên ông giơ chưởng đánh xuống cái bàn gỗ, nghe chát một tiếng vỡ thành mấy mảnh, thanh chủy thủ rơi ngay xuống đất, lạnh lùng nói:
- Mối thù giết mẹ đâu có thể đem làm món hàng trao đổi? Thù này báo được thì báo, nếu không trả được thì cha con ta cùng chịu chết nơi đây. Cái trò nhơ bẩn này đâu phải là việc cha con Tiêu mỗ có thể nhúng tay vào được!
Mộ Dung Bác ngẩng mặt lên cười ha hả, lớn tiếng nói:
- Ta từng nghe Tiêu Phong Tiêu đại hiệp tài lược cái thế, kiến thức hơn người, có biết đâu hôm nay gặp được lại chỉ là kẻ không biết đại nghĩa, hành vi chí khí chỉ là một kẻ dũng phu. Ha ha, nực cười ơi là nực cười!
Tiêu Phong biết y dùng lời khích mình, lạnh lùng nói:
- Tiêu Phong là anh hùng hào kiệt cũng được, mà có là phàm phu tục tử cũng chẳng hề gì, miễn là không vào tròng của ngươi, trở thành con dao giết người để ngươi lợi dụng.
Mộ Dung Bác nói:
- Ăn lộc vua thì phải hết mình báo chúa. Ngươi là trọng thần một nước, mà chỉ nhớ đến mối thù cha mẹ, không nghĩ bề tận trung báo quốc, liệu có phải với Đại Liêu hay không?
Tiêu Phong tiến lên một bước hiên ngang đáp:
- Ngươi đã thấy cảnh Tống Liêu thù hận giết lẫn nhau ở biên quan chưa? Đã thấy người Tống người Liêu vợ lìa chồng, con mất cha, nhà tan người chết chưa? Hai nước Liêu Tống bãi binh mấy chục năm nay, nếu như binh đao trở lại, thiết kỵ Khất Đan xâm nhập Nam triều, ngươi có biết sẽ thêm bao nhiêu người Tống chết thảm hay không? Bao nhiêu người Liêu chết chẳng toàn thây hay không?
Ông nói tới đây, nghĩ lại cảnh tượng tàn khốc lính Tống binh Liêu “đi gặt” nên càng lúc càng lớn tiếng:
- Binh hung chiến nguy, trên đời này làm gì có cái chuyện bảo là tất thắng? Đại Tống binh nhiều tiền bạc lắm, chỉ cần một hai danh tướng dẫn binh hết sức đánh, Đại Liêu Thổ Phồn hợp lại chắc gì đã thắng được? Chúng ta đánh một trận máu chảy thành sông, xác chất như núi để cho họ Mộ Dung nhà ngươi thừa cơ hưng phục nước Yên. Ta đối với Đại Liêu tận trung báo quốc là ở giữ gìn bờ cõi, vỗ yên trăm họ, chứ đâu phải lo chuyện vinh hoa phú quí cho bản thân để mà giết người cướp đất, kiến công lập nghiệp?
Bỗng nghe từ bên ngoài trường song tiếng nói già cả của ai đó vọng vào:
- Thiện tai! Thiện tai! Tiêu cư sĩ trạch tâm nhân thiện, nghĩ đến thương sinh thiên hạ quả là có lòng bồ tát.
Năm người nghe nói, đều kinh hãi, sao ở bên ngoài có người mà mình không hay biết? Nghe giọng nói của người này, tựa hồ ở bên ngoài cửa sổ đã lâu. Mộ Dung Phục quát lên:
- Ai đó?
Không đợi đối phương trả lời, bình một chưởng hai cánh cửa bật tung bay mất, rơi ra ngoài các. Chỉ thấy bên ngoài hành lang một nhà sư già gầy ốm mặc áo bào xanh tay cầm cây chổi, đang khom lưng quét dọn. Nhà sư đó tuổi tác đã cao, cằm lưa thưa mấy sợi râu cũng đã bạc trắng, hành động chậm chạp, hữu khí vô lực, không ra vẻ người có võ công. Mộ Dung Phục lại hỏi:
- Ông trốn ở nơi đây bao lâu rồi?
Vị lão tăng từ từ ngẩng đầu lên nói:
- Thí chủ hỏi ta trốn ở nơi đây … đã … đã bao lâu ư?
Năm người cùng đăm đăm nhìn ông già, thấy đôi mắt đục lờ không chút tinh thần nhưng giọng nói chính là người mới vừa lên tiếng ca ngợi Tiêu Phong. Mộ Dung Phục đáp:
- Chính thế, ta hỏi ông trốn ở nơi đây từ bao giờ?
Nhà sư già bấm đốt ngón tay lẩm nhẩm tính toán một hồi lâu, lắc đầu, vẻ mặt ra chiều hoang mang nói:
- Ta … ta không nhớ rõ nữa, chẳng biết là bốn mươi hai năm, hai là bốn mươi ba năm. Tối hôm đầu tiên khi vị Tiêu lão cư sĩ này đến xem kinh thì … thì ta cũng đã ở đây hơn chục năm. Về sau … về sau Mộ Dung lão cư sĩ cũng đến, rồi mấy năm trước, nhà sư Thiên Trúc Ba La Tinh cũng lại đến trộm kinh. Ôi! Kẻ đến người đi lục lạo kinh thư trong các loạn cả lên chẳng biết để làm cái gì?
Tiêu Viễn Sơn hết sức kinh ngạc, nghĩ bụng khi mình đến chùa Thiếu Lâm lén nghiên cứu võ công, tăng nhân toàn chùa nào có ai hay, làm sao nhà sư này lại biết nhỉ? Chắc hẳn ông ta ở ngoài nghe trộm lời mình nói, rồi giả vờ nói khuếch nói khoác, bèn đáp:
- Thế sao trước nay ta không hề gặp ông?
Vị lão tăng đáp:
- Cư sĩ chỉ chăm chăm vào võ học điển tịch, đâu có để ý gì đến chuyện ngoài thành thử đâu có trông thấy lão tăng. Ta còn nhớ tối hôm đầu cư sĩ đến đây mượn đọc là bản “Vô Tướng Kiếp Chỉ Phổ”. Ôi, thế là từ đó cư sĩ rơi vào ma đạo mất rồi, tiếc thay, tiếc thay!
Tiêu Viễn Sơn sợ hãi không đâu cho hết, tối đầu tiên đến đọc lén trong Tàng Kinh Các quả là tìm được một bản Vô Tướng Kiếp Chỉ Phổ là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, tưởng chỉ một mình mình biết, không lẽ lúc đó vị lão tăng này trông thấy thật hay sao?
Ông chỉ biết ấp úng:
- Ông … ông … ông …
Nhà sư già nói tiếp:
- Lần thứ hai cư sĩ đến mượn xem là bản Bát Nhã Chưởng Pháp . Khi đó lão tăng thầm tắc lưỡi, biết rằng cư sĩ đã nhập ma càng lúc càng sâu, trong lòng không nỡ nên để một bộ Pháp Hoa và một bộ Tạp A Hàm ở nơi cư sĩ thường hay lấy kinh mong cho cư sĩ mượn để nghiên cứu tìm đường giải thoát.
Ngờ đâu cư sĩ trầm mê trong võ công, không lý gì đến Phật pháp chính tông, bỏ hai bộ đó sang một bên tìm được một quyển Phục Ma Trượng Pháp, hí hửng đem đi. Ôi, đắm chìm vào trong biển khổ, không biết đến bao giờ mới biết quay đầu?
Tiêu Viễn Sơn nghe ông ta thuận mồm nói ra, thuật lại chuyện ba mươi năm trước mình vào Tàng Kinh Các xem kinh thế nào không sai một mảy, từ ngạc nhiên biến sang sợ hãi, từ sợ hãi biến thành kinh hoàng, mồ hôi lạnh toát đầy lưng, trái tim tưởng chừng ngừng đập.
Vị lão tăng chầm chậm quay đầu lại nhìn Mộ Dung Bác. Mộ Dung Bác thấy mắt ông lờ đờ tưởng nhìn mà không thấy nhưng dường như những gì bí mật ẩn dấu trong tâm khảm mình, chuyện gì cũng biết rõ mồn một, không khỏi nổi gai ốc, cực kỳ bối rối. Chỉ nghe nhà sư thở dài một tiếng nói:
- Mộ Dung cư sĩ tuy là người bộ tộc Tiên Ti, nhưng đã di cư đến Giang Nam mấy đời rồi, lão tăng chắc mẩm cũng đã tập nhiễm văn thái phong lưu của Nam triều, ngờ đâu khi đến Tàng Kinh Các cũng chẳng coi chút vi ngôn pháp ngữ của tệ phái tổ sư cùng ngữ lục các vị cao tăng đời trước vào đâu cả, nhất thiết bỏ qua như chiếc dép rách, kiếm ra một bản Niêm Hoa Chỉ Pháp lại coi như châu bảo. Truyện đời xưa có người mãi độc hoàn châu , để tiếng cười chê muôn thuở. Hai vị cư sĩ là đương thế cao nhân, sao cũng làm chuyện ngu si như vậy. Ôi, dù cho mình hay cho người thì cũng chỉ có hại mà thôi.
Mộ Dung Bác trong lòng thảng thốt, quả thực khi vừa vào Tàng Kinh Các bộ võ công bí tịch đầu tiên ông tìm xem, đúng là Niêm Hoa Chỉ Pháp nhưng lúc đó ông đã tra xét bốn bề, rõ ràng trong Tàng Kinh Các không có một ai, sao vị lão tăng này lại trông thấy nhỉ?
Lại nghe vị lão tăng kia tiếp:
- Bụng dạ cư sĩ so với Tiêu cư sĩ lại còn ôm đồm hơn. Tiêu cư sĩ tu tập chẳng qua cũng chỉ những cách làm thế nào khắc chế võ công phái Thiếu Lâm, còn Mộ Dung cư sĩ thì gom tất cả bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự đem đi, sao ra, rồi sau mới quay lại Tàng Kinh Các trả lại chỗ cũ. Hẳn là trong bao nhiêu năm qua cư sĩ đã tận tâm kiệt lực để dung hợp quán thông cả bảy mươi hai môn, không chừng đã truyền lại cho lệnh lang nữa kìa.
Ông ta nói đến đây, đưa mắt nhìn sang Mộ Dung Phục liếc một cái, rồi lắc đầu, lại nhìn sang Cưu Ma Trí, lúc ấy mới gật gù nói:
- Đúng rồi, lệnh lang niên kỷ còn nhỏ, công lực chưa đủ không cách gì nghiên tập bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, thì ra truyền cho vị cao tăng Thiên Trúc này đây. Đại Luân Minh Vương sai rồi, hoàn toàn sai lầm rồi, thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối mà thôi.
Cưu Ma Trí chưa từng vào trong Tàng Kinh Các nên không kính sợ gì vị lão tăng này, lạnh lùng đáp:
- Cái gì mà thứ tự đảo lộn, đại nạn chỉ trong sớm tối? Lời của đại sư, chẳng phải là toan hù dọa người ta hay sao?
Vị lão tăng nói:
- Không phải nguy ngôn tủng thính đâu. Xin Minh Vương giao trả lại bộ Dịch Cân Kinh đi.
Cưu Ma Trí bấy giờ mới hoảng, nghĩ thầm: “Sao lão lại biết ta cướp được của gã đầu sắt bộ Dịch Cân Kinh? Bảo ta trả lại đâu có dễ dàng như thế?”. Miệng vẫn nói cứng:
- Cái gì mà Dịch Cân Kinh? Lời của đại sư khiến chẳng ai hiểu gì cả!
Nhà sư già tiếp:
- Võ công bản phái truyền từ Đạt Ma lão tổ. Môn đệ nhà Phật học võ cốt để cường thân kiện thể, bảo hộ đạo pháp, hàng phục yêu ma. Dù cho tu tập võ công gì chăng nữa cũng phải giữ lòng từ bi nhân thiện. Nếu không chịu lấy Phật học làm cơ sở thì khi luyện võ sẽ làm tổn thương mình trước. Công phu luyện càng thâm sâu, thân mình bị thương càng nặng. Nếu như luyện tập chỉ là tay đấm chân đá, binh nhận ám khí các loại ngoại công thì cũng chẳng sao, có hại cho thân thể cũng chỉ chút ít, nếu như thân thể cường tráng thì cũng có thể vượt qua được …
Bỗng dưới lầu có tiếng người lao xao, rồi lộp cộp mấy tiếng lên cầu thang, tám chín tăng nhân nhảy lên trên các. Đi đầu là hai vị cao tăng Huyền Sinh, Huyền Diệt, theo sau là Thần Sơn thượng nhân, Đạo Thanh đại sư, Quán Tâm đại sư mấy vị cao tăng từ ngoài đến, rồi đến hai nhà sư Thiên Trúc Triết La Tinh, Ba La Tinh huynh đệ, kế nữa là hai nhà sư chữ Huyền Huyền Cấu, Huyền Tịnh.
Các nhà sư thấy cha con Tiêu Viễn Sơn, cha con Mộ Dung Bác, cả Cưu Ma Trí năm người đều ở trong các, chăm chú nghe một lão tăng mặt mũi tầm thường, đều hết sức ngạc nhiên. Những nhà sư đó đều là những người công phu tu tập cao minh nên không tiến lên làm rộn mà cùng đứng sang một bên, nghe ông ta nói gì.
Mọi người đi lên nhưng nhà sư kia làm như không hay biết, vẫn tiếp tục nói:
- Nếu như luyện võ công thượng thừa của bản phái, chẳng hạn như Niêm Hoa Chỉ, Đa La Diệp Chỉ , Bát Nhã Chưởng các loại mà không dùng lòng từ bi của nhà Phật ngày ngày hóa giải thì lệ khí thấm vào tạng phủ mỗi lúc một sâu, còn hại gấp trăm lần chất độc từ bên ngoài. Đại Luân Minh Vương vốn dĩ là đệ tử nhà Phật, tinh nghiên Phật pháp, hiểu biết lý luận trên đời có một không hai, thế nhưng nếu không giữ tâm từ bi bố thí, phổ độ chúng sinh thì dù cho điển tịch yêm thông, biện bác không có chỗ nào vướng mắc nhưng rồi cũng không thể tiêu giải được cái khí chất tai ngược mà khi luyện công phu thượng thừa kia nhiễm vào.
Quần tăng mới nghe qua mấy câu đã thấy những lời nhà sư già nói ra chứa đầy tinh nghĩa, những điều đó trước nay chưa từng được nghe qua, trong bụng ai nấy bàng hoàng. Có mấy người liền chắp tay tán thán:
- A Di Đà Phật! Thiện tai, thiện tai!
Lại nghe nhà sư nói tiếp:
- Chùa Thiếu Lâm từ khi kiến tạo nghìn năm qua, cổ vãng kim lai, chỉ có Đạt Ma tổ sư là một thân kiêm thông đủ các tuyệt kỹ, sau đó không một vị cao tăng nào biết hết bấy nhiêu võ công, là bởi tại đâu? Điển tịch của bảy mươi hai tuyệt kỹ đều có đủ trong các này, xưa nay không cấm đoán môn nhân đệ tử tham duyệt, Minh Vương có biết vì sao hay không?
Cưu Ma Trí đáp:
- Chuyện đó là riêng của bảo sát, làm sao người ngoài biết được?
Huyền Sinh, Huyền Diệt, Huyền Cấu, Huyền Tịnh đều nghĩ thầm: “Vị lão tăng này ăn mặc chỉ là một phục sự tăng lo việc quét dọn lặt vặt, sao lại biết nhiều hiểu rộng đến thế nhỉ?”.
Phục sự tăng tuy cũng là sư trong chùa Thiếu Lâm nhưng chỉ cạo đầu mà không bái sư, không được truyền thụ võ công, không tu thiền định, chẳng được liệt vào Huyền Tuệ Hư Không các hàng vai vế, ngoài việc tụng kinh lễ Phật chỉ nhóm lửa, cuốc đất, quét nhà, bổ củi. Bọn Huyền Sinh là cao tăng đệ nhất trong chùa, không biết nhà sư này cũng không phải là chuyện lạ, có điều nghe ông ta nói năng cao nhã, kiến thức trác tuyệt, không khỏi toát mồ hôi.
Vị lão tăng lại nói tiếp:
- Bảy mươi hai hạng tuyệt kỹ của bản tự, công phu nào cũng có thể làm tổn thương chỗ yếu hại, lấy mạng người khác, độc ác ghê gớm không hợp với tính từ hòa của trời đất, thành thử mỗi hạng tuyệt kỹ đều phải có Phật pháp từ bi tương ứng để hóa giải. Cái đạo lý đó không phải tăng nhân trong chùa ai cũng biết, chỉ có những ai đã luyện đến bốn năm môn tuyệt kỹ rồi, khi đó lãnh ngộ thiền lý tự nhiên sẽ thấy có chướng ngại. Trong phái Thiếu Lâm ta, cái đó gọi là Võ Học Chướng, so với Tri Kiến Chướng của các tông phái khác thì cũng thế thôi.
Nêu biết Phật pháp là để cứu độ thế gian, còn võ công lại để giết người, hai đằng ngược chiều nhau, khắc chế lẫn nhau. Chỉ những người Phật pháp càng cao, lòng từ bi càng thịnh thì võ công tuyệt kỹ mới luyện được nhiều nhưng cao tăng đạt tới cảnh giới tu tập đó, lại chẳng còn ham muốn đi học thêm những pháp môn giết người lợi hại nữa rồi.
Đạo Thanh đại sư gật đầu nói:
- Được nghe lão sư phụ thuyết giảng, tiểu tăng hôm nay quả là như vén đám mây mù.
Nhà sư già chắp tay đáp:
- Không dám, lão nạp có chỗ nào nói sai mong các vị chỉ điểm cho.
Quần tăng cùng đáp lễ:
- Thỉnh sư phụ tiếp tục giảng Phật pháp cho nghe.
Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Bảy mươi hai tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm bị Mộ Dung tiên sinh ăn trộm, tiết lộ ra ngoài rồi, các nhà sư Thiếu Lâm lòng không cam chịu, chẳng biết làm sao nên bày đặt đưa một lão tăng ra làm ma làm quỉ, để dọa cho người khác không dám luyện võ công của họ. Ha ha, Cưu Ma Trí này đâu có dễ gì mà mắc mưu?’.
Vị lão tăng lại tiếp:
- Trong bản tự dĩ nhiên cũng có người Phật pháp tu hành chưa đủ nhưng đã cố gắng luyện tập võ công thượng thừa thành ra đến khi luyện rồi nếu không tẩu hỏa nhập ma thì cũng nội thương không chữa được. Huyền Trừng đại sư của bản tự một thân siêu phàm tuyệt tục về võ học, so với tất cả các cao tăng hai trăm năm qua thì là người võ công số một. Vậy mà chỉ qua một đêm đột nhiên cân mạch đứt hết, thành kẻ phế nhân cũng vì lẽ đó mà ra.
Huyền Sinh, Huyền Diệt hai người đột nhiên quì xuống nói:
- Đại sư có cách nào cứu được Huyền Trừng sư huynh hay không?
Nhà sư lắc đầu:
- Chậm mất rồi, không thể cứu được nữa. Năm xưa khi Huyền Trừng đại sư đến Tàng Kinh Các lấy kinh điển, lão nạp đã từng ba lần nhắc nhở ông ta nhưng thủy chugn vẫn chấp mê không tỉnh ngộ. Bây giờ kinh mạch đứt rồi, đâu có cách gì nối lại? Thực ra, ngũ uẩn giai không, cái sắc thân này thụ thương rồi từ nay không còn luyện võ được nữa sẽ khiến ông ta cần tu Phật pháp, vì thế mà được khai ngộ ấy là nhân họa mà được phúc. Sở kiến hai vị đại sư xem ra còn chưa theo kịp Huyền Trừng đại sư.
Huyền Sinh, Huyền Diệt cùng đáp:
- Quả thế! Đa tạ đại sư khai thị.
Đột nhiên soẹt soẹt soẹt ba tiếng nhỏ nhưng sau đó không thấy gì khác. Bọn Huyền Sinh ai nấy đều biết đây là công phu Vô Tướng Kiếp Chỉ của bản môn nên cùng quay sang Cưu Ma Trí, thấy y mặt hơi biến sắc nhưng vẫn gượng mỉm cười.
Thì ra Cưu Ma Trí càng nghe càng không phục nghĩ thầm: “Ngươi bảo bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm không thể cùng học một lượt, thế ta chẳng học hết cả rồi hay sao? Thế sao cân mạch không đứt đoạn thành người tàn phế?”. Y dấu hai tay trong áo, ngầm vận Vô Tướng Kiếp Chỉ, thần không hay, quỉ không biết nhắm ngay nhà sư búng ra. Ngờ đâu chỉ lực chỉ đến cách nhà sư chừng ba thước liền đụng phải một bức tường mềm nhũn, nhưng cũng hết sức cứng rắn chặn lại, chỉ lực liền tan biến không còn dấu vết gì, nhưng cũng không bật ngược lại. Cưu Ma Trí cực kỳ kinh hãi, nghĩ thầm: “Nhà sư này quả nhiên có tà thuật, không phải chỉ khoác lác lòe người”.
Nhà sư già vẫn như không hay biết, chỉ nói:
- Xin hai vị đứng lên. Lão nạp ở chùa Thiếu Lâm để cho các vị sai khiến, hai vị hành đại lễ như thế, làm sao dám nhận?
Huyền Sinh, Huyền Diệt không thấy nhà sư giơ tay hay phất tay gì cả nhưng thấy một luồng lực khí nhu hoà nhẹ nhàng nhắc mình lên không gượng được quả là lạ lùng, nghĩ thầm thần công tiềm vận như thế này, tâm đến đâu, lực đến đó, có lẽ đây là bồ tát hóa thân, nếu không sao có thần thông quảng đại, Phật pháp vô biên như vậy?
Vị lão tăng nói tiếp:
- Bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự đều chia ra “thể” và “dụng” hai đường. Thể là nội lực bản thể, dụng là vận dụng pháp môn. Tiêu cư sĩ, Mộ Dung cư sĩ, Đại Luân Minh Vương, Thiên Trúc Ba La Tinh sư huynh bản thân vốn dĩ nội công thượng thừa đầy đủ rồi nên khi đến tập ở bản tự, chỉ cần học phép vận dụng bảy mươi hai tuyệt kỹ thành thử dù có tổn hại nhưng nhất thời cũng không hiện ra. Nội công của Minh Vương đã luyện, có phải là Tiểu Vô Tướng Công của phái Tiêu Dao chăng?
Cưu Ma Trí hoảng hốt, y vốn học trộm Tiểu Vô Tướng Công của phái Tiêu Dao trước nay có ai biết đâu, sao lão tăng này lại nhìn ra được? Y xoay chuyển ý nghĩ lập tức hiểu ra: “Mới rồi Hư Trúc đấu với ta đã từng sử dụng Tiểu Vô Tướng Công. Chắc là Hư Trúc nói cho ông ta hay, chứ có gì đâu?”. Y bèn đáp:
- Tiểu Vô Tướng Công nguyên xuất phát từ Đạo gia nhưng gần đây Phật môn đệ tử học cũng nhiều lắm, rồi trở nên kiêm thông cả hai bên Phật và Đạo. Chẳng hạn như trong quí tự đây, cũng có vô khối cao thủ theo đường đó.
Vị lão tăng tỏ vẻ ngạc nhiên nói:
- Trong chùa Thiếu Lâm cũng có người biết Tiểu Vô Tướng Công sao? Lão nạp hôm nay mới nghe nói lần đầu.
Cưu Ma Trí nghĩ thầm: “Ngươi vờ vĩnh bịp bợm cũng ra vẻ lắm” bèn mỉm cười nhưng không nói toạc ra. Vị lão tăng tiếp tục nói:
- Tiểu Vô Tướng Công tinh vi uyên thâm, lấy đó làm căn bản, còn bảy mươi hai tuyệt kỹ của bản tự được dùng để sử dụng, có điều những chỗ tế vi khúc chiết, ắt không khỏi có điểm tưởng là thế mà không phải thế.
Huyền Sinh quay sang nói với Cưu Ma Trí:
- Minh Vương tự xưng là kiêm thông bảy mươi hai tuyệt kỹ của tệ tự, hóa ra là ở cái phép đó.
Trong lời nói có vẻ mỉa mai châm chọc. Cưu Ma Trí làm như không nghe, chẳng trả lời. Nhà sư già lại tiếp:
- Minh Vương nếu như chỉ học phép sử dụng những tuyệt kỹ đó thì thương thế chỉ ẩn phục, tuy có hại đấy nhưng nhất thời không nguy hại tới bản nguyên. Có phải lúc này huyệt Thừa Khấp có màu đo đỏ, huyệt Văn Hương có màu tim tím lộ ra, huyệt Giáp Xa cân mạch hay giựt giựt, những dấu hiệu đó cho thấy sau khi Minh Vương luyện bảy mươi hai tuyêt kỹ rồi, lại cưỡng luyện nội công trong bí cập Dịch Cân Kinh …
Ông ta nói tới đây, nhè nhẹ lắc đầu, trong ánh mắt lộ vẻ thương cảm xót xa. Cưu Ma Trí mấy tháng trước đoạt được của gã đầu sắt cuốn Dịch Cân Kinh, biết là võ học chí bảo, lập tức kiếm một nơi an tĩnh để khổ luyện. Y đọc được Phạn văn nên thông hiểu kinh nghĩa có điều luyện tới luyện lui, vẫn không tiến bộ được chút nào, nghĩ bụng nội công thượng thừa, không thể chỉ sớm chiều mà xong. Dịch Cân Kinh của chùa Thiếu Lâm và Lục Mạch Thần Kiếm của chùa Thiên Long đứng ngang hàng, Mộ Dung Bác đã bảo đây là hai môn vô thượng chí tôn của võ học, chắc phải luyện tám năm mười năm khi đó mới quán thông được. Có điều trong những lúc luyện công gần đây, hơi thấy tâm thần phiền não, bụng dạ bồn chồn, đầu óc lung tung, không kiềm hãm được, hay là vị lão tăng này nói đúng, mình quả “thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối” thực chăng?
Nhưng y lại nghĩ: “Kẻ tu luyện nội công không thành đến nỗi tẩu hỏa nhập ma âu cũng là chuyện thường, thế nhưng ta tinh thông nội ngoại võ học bí áo, đâu có phải như người thường? Ông sư già này nói thánh nói tướng, nếu ta trúng kế y thì cái anh danh một đời của Cưu Ma Trí trôi theo dòng nước”.
Vị lão tăng thấy y lúc đầu có vẻ hơi lo, sau lại nhướng mày, rồi lại đầy vẻ nhơn nhơn tự phụ, hiển nhiên coi lời mình như gió thổi ngang tai, thở dài nhè nhẹ, nói với Tiêu Viễn Sơn:
- Tiêu cư sĩ, gần đây các huyện Lương Môn, Thái Ất nơi bụng dưới có phải hơi ngâm ngẩm đau chăng?
Tiêu Viễn Sơn giật bắn người nói:
- Thần tăng minh kiến, quả đúng là như thế.
Nhà sư già lại tiếp:
- Thế huyệt Quan Nguyên lâu nay chai đi không có cảm giác, bây giờ ra sao rồi?
Tiêu Viễn Sơn lại càng kinh hãi, run run đáp:
- Chỗ chai đó mười năm trước chỉ bằng đầu ngón tay út, bây giờ … bây giờ to bằng miệng chén uống trà rồi!
Tiêu Phong nghe thế biết rằng triệu chứng tại ba nơi huyệt đạo của phụ thân là do cố gượng luyện tập tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm mà ra, nghe lời nói thì đã làm phiền ông ta nhiều năm nhưng không có cách gì khu trừ trở thành một mối ưu tư lớn nên lập tức tiến lên hai bước, quì xuống lạy vị lão tăng:
- Thần tăng nếu đã biết bệnh căn của gia phụ, xin mở lòng từ bi cứu chữa cho.
Vị lão tăng chắp tay đắp lễ nói:
- Xin thí chủ đứng lên. Thí chủ trạch tâm nhân thiện, nghĩ đến thiên hạ thương sinh, không vì tư cừu mà làm hại quân dân hai nước Liêu Tống, tấm lòng đại nhân đại nghĩa đó thì dù có sai bảo chuyện gì lão nạp cũng nghe theo, không phải đa lễ.
Tiêu Phong mừng lắm lại khấu đầu hai lần nữa mới đứng lên. Vị lão tăng thở dài một tiếng nói:
- Tiêu lão thí chủ trước đây giết người quá nhiều, quả thương tổn đến những người vô tội, chẳng hạn như vợ chồng Kiều Tam Hòe, Huyền Khổ đại sư là những người không nên giết.
Tiêu Viễn Sơn là anh hùng Khất Đan, tuổi tuy già nhưng vẫn còn hung hăng, nghe vị lão tăng trách cứ mình như thế liền lớn tiếng nói:
- Lão phu tự biết mình thụ thương đã nặng nhưng tuổi cũng đã ngoài lục tuần rồi, con cũng đã thành nhân, dù trong khoảnh khắc có chết chăng nữa thì có gì đáng tiếc? Thần tăng muốn lão phu nhận sai sám hối, thì không thể nào được.
Nhà sư lắc đầu:
- Lão nạp nào có dám bảo lão thí chủ nhận sai sám hối. Có điều thương thế của lão thí chủ là do luyện võ công Thiếu Lâm mà ra, nếu muốn hóa giải thì phải tìm trong Phật pháp.
Ông ta nói tới đây, quay sang Mộ Dung Bác nói:
- Mộ Dung lão thí chủ coi cái chết như trở về nhà, chắc chẳng cần lão nạp lắm lời nhiều chuyện. Thế nhưng nếu như lão nạp chỉ cho con đường giúp cho thí chủ thoát cái khổ vạn kim châm chích nơi các huyệt Dương Bạch, Liêm Tuyền, Phong Phủ mỗi ngày ba bận thì thí chủ nghĩ sao?
Mộ Dung Bác sắc mặt đại biến, tự nhiên thân hình run bắn lên. Ba nơi huyệt đạo Dương Bạch, Liêm Tuyền, Phong Phủ cứ lúc sáng sớm, giữa trưa và nửa đêm quả đúng là như hàng vạn chiếc kim đâm vào, đau không chịu nổi, dù uống linh đan diệu dược gì chăng nữa cũng không hiệu nghiệm mà vận nội công thì cơn đau lại ngấm vào tận xương tủy. Mỗi ngày chết đi sống lại ba lần thì còn gì là nhân sinh lạc thú?
Những cơn đau đó gần đây lại càng tệ hại, ông ta cam nguyện chịu chết để đổi lấy việc Tiêu Phong hưng binh đánh Tống, tuy nói là vì đại nghiệp hưng phục nước Yên nhưng một phần cũng vì cái ác tật không tên kia khó lòng mà chịu đựng nổi. Lúc này bỗng nghe vị lão tăng đề cập đến căn bệnh của mình, quả thực ông kinh ngạc không đâu kể hết.
Với một người võ công cao thâm như Mộ Dung Bác, dù cho có tiếng sét nổ ngay mang tai giữa thanh thiên bạch nhật thì cũng không kinh hãi chút nào, mà có đến mười tiếng sấm liền thì cũng chỉ coi như tiếng trung tiện của nhà trời, chẳng thèm để ý. Thế mà mấy câu nói thật bình thường của vị lão tăng kia lại khiến cho ông ta hoảng hốt run bần bật, sợ hãi không biết là dường nào.
Ông ta run rẩy mấy cái, bỗng thấy ba nơi huyệt đạo Dương Bạch, Liêm Tuyền, Phong Phủ đau nhói như ai lấy kim đâm vào, thì ra lại phát tác. Đúng ra lúc này không phải là thời điểm lên cơn nhưng vì tâm thần chấn đãng nên bị hành, chỉ đành nghiến răng cố chịu đựng. Thế nhưng răng không khép chặt được, hàm trên hàm dưới đụng nhau kêu lên lách cách.
Mộ Dung Phục biết tính cha sính cường hiếu thắng, thà chết chứ không tỏ ra hèn yếu trước mặt người khác, còn y cũng không muốn làm như Tiêu Phong quì xuống cầu khẩn nhà sư chữa trị cho phụ thân, bèn quay sang cha con Tiêu Phong vòng tay nói:
- Núi xanh không đổi, nước biếc chảy hoài, hôm nay tạm thời từ biệt. Hai vị nếu muốn kiếm cha con mỗ báo thù, chúng tôi ở Tham Hợp trang, Yến Tử Ổ đất Cô Tô cung kính chờ đón đại giá.
Y nắm tay Mộ Dung Bác nói:
- Gia gia, mình đi thôi!
Vị lão tăng hỏi:
- Ngươi nhẫn tâm để cho cha mình phải chịu cái đau đớn quái đản tận xương tủy kia ư?
Mộ Dung Phục mặt tái nhợt, cầm tay Mộ Dung Bác dợm bước đi. Tiêu Phong quát lớn:
- Ngươi định chạy hay sao? Trên đời này làm gì có chuyện dễ dàng như thế? Phụ thân ngươi đang cơn đau, đại trượng phu không nhân lúc người ta nguy nan mà nước đục thả câu, ta tha cho y được, còn ngươi đâu có bệnh tật đau đớn gì?
Mộ Dung Phục cũng nổi hung lên quát lại:
- Vậy thì để mỗ tiếp cao chiêu của Tiêu huynh.
Tiêu Phong không nói năng sử chiêu Hiện Long Tại Điền trong Hàng Long Thập Bát Chưởng nhắm ngay Mộ Dung Phục đánh vù ra. Ông thấy trong Tàng Kinh Các chật hẹp, cao thủ đánh nhau không nên kéo dài thành thử sử dụng đủ mười thành công lực cốt sao chỉ vài chiêu đã lấy mạng địch thủ rồi. Mộ Dung Phục thấy chưởng thế của Tiêu Phong hung mãnh liền vận hết công lực bình sinh định dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di để hóa giải.
Lão tăng chắp hai tay nói:
- A Di Đà Phật, cửa Phật đất lành, hai vị thí chủ chớ nên vọng động vô minh.
Hai tay ông ta chỉ vừa sáp lại đã có một luồng lực đạo như một bức tường chặn giữa hai người, chưởng lực bài sơn đảo hải của Tiêu Phong chạm phải lập tức vô ảnh vô tung không còn hình bóng gì nữa.
Tiêu Phong trong bụng sợ hãi, bình sinh trong đời ông chưa từng gặp địch thủ, thế nhưng trước mắt thì vị lão tăng này công lực so với mình mạnh hơn nhiều, nếu ông ngăn trở mối thù hôm nay khó mà có thể báo được. Ông nghĩ đến nội thương của cha lại khom lưng nói:
- Tại hạ là kẻ thất phu lỗ mãng, vốn hàng thảo dã không biết lễ nghi, mạo phạm đến thần tăng xin được tha thứ.
Vị lão tăng đáp:
- Nói quá đấy thôi! Lão tăng đối với thí chủ có bụng tương kính, chẳng thẹn là bản sắc của bậc đại anh hùng.
Tiêu Phong đáp:
- Gia phụ phạm tội nghiệt sát nhân cũng đều từ tại hạ mà ra, khẩn cầu thần tăng trị thương cho gia phụ, bao nhiêu tội lỗi nợ nần đều do tại hạ lãnh chịu, dù vạn tử cũng cam lòng.
Vị lão tăng mủm mỉm cười nói:
- Lão nạp đã nói rồi, nếu muốn hóa giải nội thương của Tiêu lão thí chủ thì phải tìm trong Phật pháp. Phật do tâm sinh, Phật tức thị giác. Người ngoài có thể chỉ điểm nhưng không thể chịu thay được. Ta hỏi Tiêu lão thí chủ một câu: Nếu như ông biết cách trị thương thì nội thương của Mộ Dung lão thí chủ ông có chịu chữa hay không?
Tiêu Viễn Sơn ngạc nhiên lắp bắp:
- Ta … ta trị thương cho … cho Mộ Dung lão … lão thất phu ư?
Mộ Dung Phục quát lên:
- Ngươi liệu mà giữ mồm!
Tiêu Viễn Sơn nghiến răng hậm hực nói:
- Mộ Dung lão thất phu giết chết ái thê của ta, hủy cả một đời ta, ta hận không được băm vằm y thành muôn nghìn mảnh, xẻo y từng miếng thịt.
Vị lão tăng nói:
- Chẳng lẽ ông không thấy Mộ Dung lão thí chủ chết không toàn thây thì không tiêu mối hận trong lòng hay sao?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Chính thế! Lão phu trong ba mươi năm qua, trong lòng đêm ngày canh cánh mối huyết hải thâm cừu này.
Vị lão tăng gật đầu:
- Thế thì dễ lắm.
Ông chậm rãi đi lên, giơ chưởng ra vỗ lên đầu Mộ Dung Bác một cái. Mộ Dung Bác lúc đầu thấy nhà sư đến gần cũng không để ý, đến khi ông ta đánh lên thiên linh cái rồi mới giơ tay trái lên gạt ra, lại sợ đối phương võ công quá ư lợi hại, tay giơ lên đỡ liền nhảy về sau một bước. Võ học gia truyền nhà họ Cô Tô Mộ Dung vốn dĩ rất cao siêu, lại nghiên cứu bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm thật chẳng khác gì hổ thêm cánh. Khi ông ta gạt tay, nhảy ra trông thì bình thường không có gì lạ nhưng chưởng đó đỡ được mọi chiêu tấn công trong thiên hạ, còn nhảy ra thì dù bị truy kích cách nào cũng chạy thoát, thế thủ nghiêm mật phiêu dật đã đến mức tận cùng rồi, không còn sao hơn được nữa.
Trong các ai ai cũng là cao thủ võ học, thấy ông ta sử dụng hai chiêu đó đều phải khen thầm đến cả cha con Tiêu Viễn Sơn cũng phải tấm tắc. Ngờ đâu vị lão tăng chưởng nhẹ nhàng đánh xuống, nghe bịch một tiếng nhỏ trúng ngay huyệt Bách Hội, còn thế gạt tay nhảy lùi của Mộ Dung Bác toàn nhiên không hiệu lực. Huyệt Bách Hội là nơi quan yếu nhất trên cơ thể con người, dù người không biết chút võ công nào đánh trúng thì cũng thụ thương, nên nhà sư đánh xuống rồi, Mộ Dung Bác chỉ dãy được một cái, ngã bật ngửa ra tắt thở ngay.
Mộ Dung Phục kinh hãi, xông ra đỡ lên kêu:
- Gia gia! Gia gia!
Thế nhưng cha y miệng mím chặt, mắt nhắm nghiền, mũi không còn hơi thở vội đưa tay rờ ngực thì tim cũng đã ngừng đập rồi. Mộ Dung Phục vừa tức vừa buồn, thật không ngờ vị lão tăng miệng luôn nói chuyện từ bi Phật pháp lại đột nhiên hạ độc thủ, kêu lên:
- Ngươi … ngươi … thằng giặc trọc!
Y để xác cha dựa vào cột, phi thân nhảy lên, song chưởng cùng đánh vào vị lão tăng. Nhà sư dường như không nghe cũng không thấy, chẳng hề để ý. Chưởng của Mộ Dung Phục đánh đến trước ngực ông ta chừng hai thước bỗng như chạm phải một bức tường vô hình, lại như rơi vào một cái lưới cá, chưởng lực tuy mạnh nhưng không có cách nào thi triển mà bị bức tường kia bật ngược lại đụng vào một giá sách.
Chưởng lực của y vốn cương mãnh sức bật trở lại hẳn rất khủng khiếp ngờ đâu bị bức tường vô hình hóa giải tất cả, rồi nhẹ nhàng đẩy y ra, lưng đụng vào kệ sách nhưng không đổ mà những sách trên kệ cũng không rơi xuống.
Mộ Dung Phục hết sức cơ cảnh, tuy đau lòng vì cha chết nhưng biết rằng vị lão tăng tài nghệ cao gấp mười lần mình, nếu nhào lên đánh thì chẳng làm gì được ông ta, nên đứng dựa vào giá sách, giả vờ thở hồng hộc, trong bụng tính toán làm cách nào tìm được lúc ông ta vô ý mà đánh trộm.
Vị lão tăng quay sang Tiêu Viễn Sơn thản nhiên nói:
- Tiêu lão thí chủ muốn chính mắt trông thấy Mộ Dung lão thí chủ chết ngay tại chỗ cho hả mối thù mấy chục năm qua. Bây giờ Mộ Dung lão thí chủ chết rồi đó, mối hận đó đã tan chưa?
Tiêu Viễn Sơn thấy nhà sư đánh một chưởng chết Mộ Dung Bác, vốn dĩ kinh ngạc hết sức, lại nghe ông ta hỏi như vậy, không khỏi bàng hoàng, há hốc mồm không nói nên lời. Trong ba mươi năm qua, ông lúc nào cũng chăm chăm nung nấu chuyện trả mối thù giết vợ sao cho hả dạ. Đến khi mọi việc đã sáng tỏ như ban ngày, bao nhiêu hào kiệt Trung Nguyên tham gia chiến dịch Nhạn Môn Quan năm xưa ông từng người giết sạch, đến cả Huyền Khổ đại sư và vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng chết dưới tay ông. Sau khi biết được kẻ “đàn anh đứng đầu” chính là phương trượng Huyền Từ của chùa Thiếu Lâm, ông đã nói toạc gian tình của ông ta với Diệp Nhị Nương trước mặt quần hùng để cho thân bại danh liệt dồn nhà sư vào chỗ phải tự sát, mối thù như thế là báo đến cùng rồi.
Thế nhưng Huyền Từ chết cũng quang minh lỗi lạc, không mất vẻ anh hùng khí khái, trong tâm khảm Tiêu Viễn Sơn không khỏi thấy mình đi hơi quá đà, rồi Diệp Nhị Nương cũng chết theo làm cho ông thấy áy náy không yên.
Thế nhưng kẻ gian đồ loan truyền tin giả để gây ra thảm biến năm xưa lại chính là nhà sư áo xám Mộ Dung Bác, người cùng ông ẩn phục trong chùa Thiếu Lâm, đã từng ba lần giao thủ không phân cao hạ. Bao nhiêu hận thù tức tối nay trút lên đầu y, hận không thể ăn thịt lột da, rút gân nghiền xương cho hả dạ. Ai ngờ đâu tự nhiên lại xuất hiện một lão tăng, một chưởng nhẹ như chơi đánh chết kẻ đại cừu. Chỉ trong chốc lát, ông thấy mình như rơi vào đám mây mù, hoang mang vô định không còn chỗ đứng trên cõi đời này.
Tiêu Viễn Sơn khi còn trẻ hào khí can vân, học được võ công xuất thần nhập hóa, một lòng một dạ vì nước nỗ lực kiến lập công danh để mai hậu tên ghi trong sử sách. Ông và vợ vốn có tình thanh mai trúc mã từ thuở còn thơ, hai bên thương yêu lẫn nhau, thành hôn chẳng bao lâu đã sinh được một cậu con trai kháu khỉnh. Tiêu Viễn Sơn tính tình sảng lãng thầm cho rằng việc gì trên đời cũng có thể thành tựu, ngờ đâu nơi Nhạn Môn Quan gặp phải kỳ biến nên khi rơi xuống sơn cốc mà không chết tính tình ông trở nên khác hẳn, công danh sự nghiệp, tiền tài danh vọng nay dưới mắt ông chẳng khác gì đất bùn, trong lòng ngày đêm chỉ nghĩ tới việc làm sao được đâm mũi dao vào tim kẻ thù mới thỏa được cái đại hận.
Ông vốn dĩ là một đại hán hào sảng thuần phác miền sa mạc, chẳng để bụng chuyện gì lâu, bây giờ lòng đầy thù hận, tính tình càng lúc càng cay nghiệt. Sau khi tiềm cư trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm, ngày ẩn đêm ra, cần luyện võ công, cả năm không nói chuyện với ai một câu nào, tính tình dĩ nhiên biến đổi.
Đột nhiên bao nhiêu kẻ ông thù hận tận xương tận tủy mấy chục năm qua lần lượt chết trước mắt mình, đúng lý ra phải vui sướng lắm mới phải nhưng không hiểu sao trong đáy lòng ông thấy thật là tịch mịch thê lương, thấy trên đời này không còn gì để làm, có sống cũng thật là vô vị.
Ông đưa mắt nhìn cái xác Mộ Dung Bác nay đang dựa vào cột, thấy khuôn mặt bình hòa, khóe môi như điểm một nụ cười, tưởng như chết rồi lại sung sướng hơn lúc còn sống. Tiêu Viễn Sơn trong lòng dường như có chiều ước mơ được có phúc như y, thấy rằng chết là xong, mọi sự đều kết thúc không còn gì vướng mắc nữa. Trong khoảnh khắc ông thấy lòng mang mang trống vắng: “Kẻ thù chết cả rồi, mối thù của ta đã báo. Bây giờ ta biết đi đâu đây? Trở lại Đại Liêu chăng? Để làm gì? Ra ngoài Nhạn Môn Quan ẩn cư chăng? Để làm gì? Cùng với Phong nhi đi tận chân trời, vân du bốn bể chăng? Để làm gì?
Nhà sư già nói:
- Tiêu lão thí chủ, ông muốn đi đâu, xin cứ tùy tiện.
Tiêu Viễn Sơn lắc đầu:
- Ta … ta đi đâu bây giờ? Ta chẳng có chỗ nào mà về.
Lão tăng lại tiếp:
- Mộ Dung lão thí chủ chính tay ta đánh chết rồi, ông không được chính tay trả thù nên lòng ấm ức không yên chứ gì?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Không phải vậy! Ví như ông không đánh chết y, tôi cũng chẳng còn muốn giết y nữa.
Nhà sư gật gù:
- Đúng thế! Mộ Dung thiếu hiệp đây đau lòng vì cái chết của phụ thân, thể nào cũng kiếm ta và thí chủ báo thù, thì biết làm sao đây?
Tiêu Viễn Sơn trong lòng chán nản nói:
- Đại hòa thượng thay ta xuất thủ, Mộ Dung thiếu hiệp muốn báo thù cho cha thì cứ việc giết ta đi.
Ông thở dài một tiếng nói:
- Thôi để y lấy mạng ta cho xong. Phong nhi, con trở về đại mạc cho rồi, mọi việc mình coi như đã làm xong, đường đã đi đến cuối rồi.
Tiêu Phong kêu lên:
- Gia gia …
Vị lão tăng nói:
- Mộ Dung thiếu hiệp nếu như giết ông, con ông thể nào cũng giết Mộ Dung thiếu hiệp trả thù, cứ thế oan oan tương báo, đến bao giờ mới dứt được? Chi bằng bao nhiêu tội nghiệt đều đổ lên đầu ta cho xong.
Nói xong tiến lên một bước, giơ chưởng lên đánh xuống đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Phong kinh hãi, nhà sư đã một chưởng đánh chết Mộ Dung Bác ắt cũng đánh chết cha mình liền quát lên:
- Ngừng tay!
Song chưởng cùng nhắm ngay ngực vị lão tăng đánh ra. Ông vốn dĩ cực kỳ kính trọng nhà sư nhưng lúc này vì phải cứu phụ thân nên dùng hết sức. Vị lão tăng đưa tay trái, chống đỡ song chưởng của Tiêu Phong, tay phải vẫn tiếp tục đánh xuống đầu Tiêu Viễn Sơn. Tiêu Viễn Sơn không nghĩ tới chống đỡ, trước mắt chưởng của nhà sư đánh xuống đỉnh đầu, nhà sư đột nhiên quát lớn một tiếng, hữu chưởng chuyển qua đánh vào Tiêu Phong.
Song chưởng của Tiêu Phong đang chịu tay trái ông ta, đột nhiên tay phải xoay qua đánh vào mình, vội vàng rụt tay trái về gạt, đồng thời kêu lên:
- Gia gia! Chạy mau, chạy mau!
Ngờ đâu chiêu của nhà sư giữa đường đổi hướng chỉ là hư chiêu, cốt để dụ cho Tiêu Phong giơ tay gạt ra để giảm lực đạo đánh vào mình. Tiêu Phong tay trái rụt về, hữu chưởng của lão tăng cũng vòng trở lại, nghe bịch một cái trúng ngay đỉnh đầu Tiêu Viễn Sơn.
Đồng thời lúc đó chưởng của Tiêu Phong cũng đánh ra rồi, bình một tiếng trúng ngực nhà sư nghe tiếng lách cách gân cốt mấy chỗ gãy. Vị lão tăng mỉm cười:
- Công phu ghê gớm thật! Hàng Long Thập Bát Chưởng quả nhiên đứng đầu thiên hạ.
Vừa dứt lời miệng hộc máu ra. Tiêu Phong sững sờ, chạy đến đỡ cha lên thì thấy ông đã ngừng thở, tim không còn đập, dĩ nhiên khí tuyệt rồi trong lòng dau đớn nhưng nhất thời không biết phải làm sao. Vị lão tăng nói:
- Thôi đến lúc rồi, mình đi thôi.
Ông ta tay phải nắm cổ Tiêu Viễn Sơn, tay trái nắm cổ Mộ Dung Bác lướt đi, chỉ mấy bước đã vọt ra ngoài cửa sổ. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục cùng kêu:
- Ông … ông làm gì thế?
Hai người cùng vung chưởng nhắm ngay lưng nhà sư đánh tới. Mới đây hai người còn không đội trời chung, nhất định sống mái cho bằng được, bây giờ phụ thân bị hại đâm ra cùng phe, lập tức liên thủ đuổi theo kẻ đối đầu. Chưởng lực hai người hợp lại, lực đạo quả là rất lớn. Nhà sư bị chưởng phong hai người đẩy tới chẳng khác gì một con diều giấy bay vèo ra ngoài mấy trượng, hai tay vẫn còn nắm chặt hai tử thi, cả ba người cùng tà tà tưởng như không phải là cái thân huyết nhục nữa.
Tiêu Phong tung mình nhảy theo thấy lão tăng đó tay cầm hai cái xác chạy thẳng lên núi vội vàng gia tăng cước bộ, nghĩ bụng chỉ vài bước sẽ đuổi tới sau lưng ngờ đâu khinh công nhà sư lạ lùng trên đời chưa từng thấy, không khác gì kẻ có tà thuật.
Tiêu Phong hết sức đuổi theo, gió núi vù vù bên tai như dao cắt, đủ biết nhanh là chừng nào, nhưng vẫn cách nhà sư chừng hai ba trượng, tuy liên tiếp đánh ra nhưng chưởng vẫn chỉ vào khoảng không.
Nhà sư chạy nơi núi hoang lúc rẽ trái, lúc quẹo phải đến một nơi bằng phẳng trong rừng mới bỏ hai cái xác xuống một gốc cây, dựng họ ngồi xếp bằng, rồi ngồi sau lưng đè song chưởng lên sau lưng hai người. Ông ta vừa ngồi xong thì Tiêu Phong đã đến nơi.
Tiêu Phong thấy nhà sư cử chỉ có chiều lạ lùng nên không tiến lên động thủ. Bỗng nghe vị lão tăng nói:
- Ta xách họ chạy đi một hồi cho máu huyết lưu thông.
Tiêu Phong không còn tin vào tai mình được nữa, người chết rồi còn máu huyết lưu thông nỗi gì, thế nghĩa là sao đây? Ông thuận mồm hỏi:
- Máu huyết lưu thông ư?
Vị lão tăng đáp:
- Bọn họ nội thương quá nặng, trước hết phải để cho họ ngủ thiếp đi theo lối qui tức, rồi mới có thể giải cứu được.
Tiêu Phong trong bụng bàng hoàng: “Không lẽ cha ta chưa chết? Ông ta … ông ta đang trị thương cho gia gia chăng? Trên đời này sao lại có chuyện đánh chết trước rồi chữa bệnh sau bao giờ?”.
Chẳng bao lâu, Mộ Dung Phục, Cưu Ma Trí, Huyền Sinh, Huyền Diệt cùng bọn Thần Sơn thượng nhân trước sau chạy đến, thấy trên đầu hai xác chết đột nhiên bốc ra những luồng bạch khí.
Nhà sư lúc đó mới quay hai người lại cho mặt đối mặt, hai tay người nọ nắm hai tay người kia. Mộ Dung Phục kêu lên:
- Ông … ông … làm gì thế?
Nhàsư không trả lời, chầm chậm chạy quanh hai người, liên tiếp vung chưởng đánh ra, khi thì vào huyệt Đại Trùy của Tiêu Viễn Sơn, khi thì vào huyệt Ngọc Trẩm của Mộ Dung Bác nhưng hơi trắng trên đỉnh đầu hai người càng lúc càng đậm.
Qua chừng thời gian uống một chén trà, cả Tiêu Viễn Sơn lẫn Mộ Dung Bác đều hơi cục cựa. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, cùng kêu lên:
- Cha ơi!
Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác chầm chậm mở mắt ra, nhìn đối phương rồi lại nhắm mắt. Chỉ thấy Tiêu Viễn Sơn mặt đỏ bừng còn mặt Mộ Dung Bác thì hơi men mét. Mọi người bấy giờ mới hiểu ra, ở Tàng Kinh Các vị lão tăng đánh chết hai người chỉ là để hai người tạm thời đình chỉ hô hấp, tim không nhảy, chính là một pháp môn trọng đại để trị nội thương. Rất nhiều kẻ sĩ cao thâm đã từng luyện môn qui tức, ấy là tự mình ngừng hô hấp còn như đánh người khác cho ngừng thở mà không chết thì chưa ai dám nghĩ đến. Vị lão tăng vốn dĩ có lòng tốt, sao không nói trước, hà cớ gì phải đùa như thế khiến cho Tiêu Phong, Mộ Dung Phục tức giận như điên cuồng, để đến nỗi thân mình bị một chưởng của Tiêu Phong phải hộc máu? Mọi người ai nấy nghi hoặc nhưng thấy vị lão tăng tập trung hết tinh thần vừa chuyển động vừa xuất chưởng nên không ai dám mở miệng.
Tiếng thở của Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác mới đầu còn nhẹ sau mạnh dần, càng lúc càng hổn hển, mặt Tiêu Viễn Sơn càng lúc càng đỏ về sau tưởng như muốn bật máu ra, còn Mộ Dung Bác thì mặt càng lúc càng tái đi, xanh lét đáng sợ. Người đứng chung quanh ai cũng biết một người dương khí thái vượng, hư hỏa thượng xung còn người kia âm khí thái thịnh, phong hàn nhập thể. Huyền Sinh, Huyền Diệt, Đạo Thanh trong người ai cũng mang diệu dược trị thương, nhưng không biết thứ nào dùng cho phải.
Đột nhiên vị lão tăng quát lên:
- Thôi! 
Hai tay nắm lấy hai tay, nội tức hai bên tương ứng. 
Âm này giúp đỡ dương kia, dương kia hóa giải âm này.
Hùng tâm mưu bá đồ vương, rồi ra cũng thành cát bụi. 
Dù cho huyết hải thâm thù, tiêu tan hình bóng cũng không.
Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn đang tay nắm tay, nghe nhà sư quát lên, lập tức bóp chặt lại, nội tức trong cơ thể đổ dồn qua đối phương, hòa lẫn với nhau, lấy hữu dư bổ bất túc, mặt hai người đỏ thì giảm bớt, xanh thì hồng lên rồi cùng trắng bệch, một lúc lâu sau mở mắt ra nhìn nhau mỉm cười.
Tiêu Phong và Mộ Dung Phục thấy cha mình đã mở mắt mỉm cười, sung sướng không đâu cho hết. Chỉ thấy Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác nắm tay nhau đứng lên, cùng quì xuống trước vị lão tăng. Nhà sư hỏi:
- Hai đứa ngươi từ chỗ sống đi vào chỗ chết, rồi lại từ chỗ chết đi ra, trong lòng có còn gì không cởi được nữa chăng? Nếu như các ngươi chết đi rồi thì cái gì hưng phục Đại Yên, báo phục thê cừu có còn nữa chăng?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Đệ tử ở chùa Thiếu Lâm ba mươi năm làm hòa thượng cũng chỉ là giả, trong lòng chẳng có chút gì từ tâm của nhà Phật, nay mong sư phụ thu lục.
Vị lão tăng đáp:
- Thế mối thù giết vợ ngươi không còn muốn trả nữa hay sao?
Tiêu Viễn Sơn đáp:
- Đệ tử bình sinh giết kẻ vô tội có đến hàng trăm, nếu như quyến thuộc những người bị đệ tử sát hại cũng chăm chăm đòi mạng phục thù thì đệ tử dẫu chết trăm lần e rằng chưa đủ.
Vị lão tăng quay sang Mộ Dung Bác hỏi:
- Còn ngươi thì sao?
Mộ Dung Bác mỉm cười nói:
- Thứ dân cũng là cát bụi mà vua chúa cũng là cát bụi. Không khôi phục Đại Yên cũng là không mà có khôi phục được thì cũng là không.
Nhà sư cười ha hả nói:
- Quả là đại triệt đại ngộ! Thiện tai! Thiện tai!
Mộ Dung Bác nói:
- Cầu sư phụ thu làm đệ tử để sớm được khai đường mở lối.
Vị lão tăng nói:
- Các ngươi muốn xuất gia làm sư thì phải nhờ các vị đại sư chùa Thiếu Lâm thế độ. Ta có mấy lời để cho các ngươi nghe.
Nói xong ngồi xuống thuyết pháp. Tiêu Phong và Mộ Dung Phục thấy cha mình quì xuống cũng quì theo. Huyền Sinh, Huyền Diệt, Thần Sơn, Đạo Thanh, Ba La Tinh nghe thấy nhà sư nói những lời tinh diệu không khỏi vui mừng, tự nhiên sinh lòng kính ngưỡng, ai nấy đều quì xuống. Khi Đoàn Dự đến nơi thì đang lúc nhà sư giảng Phật nghĩa cho mọi người nghe, định vòng qua trước mặt xem hình dung thế nào, ngờ đâu Cưu Ma Trí thốt nhiên hạ độc thủ, ngực trúng phải Hỏa Diễm Đao của y.

datlucky_way

27-07-2009 08:49 AM

Hồi 44(a) : NIỆM UỔNG CẦU MỸ QUYẾNLƯƠNG DUYÊN AN TẠI 






Bấm vào đây để xem nội dung.

Mong sao thành được lương duyên,
Kết thân hai nước giữ yên cõi bờ.
Tưởng đâu phận gái cống Hồ,
Thân trai giờ cũng trông nhờ đục trong.
*
* *







Đoàn Dự hôn mê không biết bao lâu mới từ từ tỉnh dậy, mở mắt ra vật đầu tiên chàng thấy là một cái đình màn bằng vải rồi phát giác mình đang nằm trên giường giữa đống chăn mền. Chàng nhất thời đầu óc chưa tỉnh táo nên không rõ ràng, chỉ mang máng nhớ là mình bị Cưu Ma Trí ám toán, còn tại sao lại nằm trên giường thì không sao nghĩ ra được. Đoàn Dự khát khô cả cổ đang định ngồi dậy nhưng vừa cựa mình thì ngực đau nhói, nhịn không nổi kêu “A” lên một tiếng.
Chỉ thấy bên ngoài có tiếng một thiếu nữ reo lên:
- Đoàn công tử tỉnh dậy rồi, Đoàn công tử tỉnh dậy rồi!
Giọng đầy vẻ vui mừng. Đoàn Dự nghe tiếng cô gái có vẻ quen quen nhưng không nghĩ ra được là ai, rồi một thiếu nữ mặc áo xanh rảo bước vào phòng. Cô gái mặt bầu bầu, khóe miệng có núm đồng tiền, chính là Chung Linh, người năm xưa chàng từng gặp nơi núi Vô Lượng.
Cha nàng là Kiến Nhân Tựu Sát Chung Vạn Cừu có thù với cha chàng nên tính chuyện gia hại, ngờ đâu khi Đoàn Dự từ thạch thất đi ra lại ôm trong tay một cô gái quần áo xốc xếch chính là Chung Linh, khiến cho kẻ hại người kia hóa ra hại mình, làm Chung Vạn Cừu tức muốn chết. Trong địa đạo nơi Vạn Kiếp Cốc, mọi người co kéo xô đẩy, Đoàn Dự ngu ngơ vô tình hút không ít nội lực người khác, chẳng bao lâu sau đã bị Cưu Ma Trí bắt đem qua Trung Nguyên, xa cách cả năm có đâu ngờ lại gặp nhau ở chỗ này.
Chung Linh vừa nhìn thấy Đoàn Dự mặt đã đỏ bừng, nũng nịu hỏi:
- Công tử quên em rồi chăng? Có còn nhớ tiểu muội họ gì không?
Đoàn Dự vừa nhìn thấy nàng, trong đầu đã hiện ra ngay một bức tranh. Hôm đó nàng ngồi trên xà nhà tại Vô Lượng Cung, hai chân đong đưa, miệng cắn hạt dưa, trên đầu đôi hài xanh mỗi bên thêu một đóa hoa vàng nho nhỏ bây giờ hiện ra rõ mồn một, chàng liền buột miệng hỏi:
- Đôi giày xanh có thêu đóa hoa vàng của cô đâu rồi?
Chung Linh mặt ửng đỏ, hết sức vui mừng mỉm cười nói:
- Đi rách rồi, công tử còn nhớ được sao? Hóa ra … anh … anh chưa quên em.
Đoàn Dự cười nói:
- Sao cô không cắn hạt dưa nữa?
Chung Linh đáp:
- Hay nhỉ, mấy hôm nay phục thị anh dưỡng thương lo lắng muốn chết, ai ở không mà cắn hạt dưa?
Nàng buột miệng nói hớ để lộ tâm tình khiến cho mặt lại đỏ lên. Đoàn Dự ngẩn ngơ nhìn nàng, nghĩ bụng nàng vốn dĩ đã mong làm vợ mình, về sau lại phát giác chính là em gái, bèn thở dài một tiếng nói:
- Hảo muội tử, sao cô đến được nơi đây?
Chung Linh vẫn bẽn lẽn nhưng ánh mắt lóe lên một vẻ vui mừng nói:
- Dự ca rời khỏi Vạn Kiếp Cốc rồi chẳng hề quay lại, khiến tiểu muội giận ơi là giận.
Đoàn Dự vội hỏi:
- Giận ta chuyện gì?
Chung Linh liếc xéo chàng một cái nói:
- Giận ai đó quên em chứ sao?
Đoàn Dự thấy mắt nàng đầy vẻ tình tứ, bỗng chạnh lòng kêu lên:
- Hảo muội tử!
Chung Linh ra vẻ ngúng nguẩy nói:
- Tiểu muội chắc là bấy lâu nay Dự ca cùng ai thân mật nên không thèm thăm em một lần, giận quá tìm đến Trấn Nam Vương phủ nghe ngóng mới hay anh bị một gã ác hòa thượng bắt đi. Tiểu muội … tiểu muội sốt ruột quá, nên mới đi ra ngoài tìm.
Đoàn Dự hỏi:
- Chuyện của cha ta với má má cô, mẹ cô đã kể lại cho cô nghe chưa?
Chung Linh đáp:
- Chuyện gì thế? Tối hôm đó công tử cùng vương gia đi rồi, mẹ em liền lăn ra bất tỉnh, từ đó người không khỏe, mỗi lần thấy em lại sụt sùi, gợi chuyện thì mẹ em chẳng nói gì hết.
Đoàn Dự ngập ngừng:
- Ôi, phu nhân không nói gì với cô ư? Hóa ra … hóa ra cô chưa biết gì cả.
Chung Linh hỏi:
- Không biết cái gì?
Đoàn Dự đáp:
- Không biết cô chính là … chính là …
Chung Linh mặt đỏ ửng, cúi đầu, khe khẽ nói:
- Làm sao em biết được? Hôm đó ở trong thạch thất, công tử đang bồng em, bỗng dưng thấy bao nhiêu là người, tiểu muội sợ muốn chết, lại thêm xấu hổ, chỉ còn nước nhắm mắt lại, những gì cha anh nói, tiểu muội … tiểu muội nghe thấy rõ ràng.
Cả hai cùng nghĩ đến hôm ở bên ngoài căn nhà đá, Đoàn Chính Thuần đã từng nói với Chung Vạn Cừu: “Lệnh ái ở trong thạch thất với tiểu nhi cũng đã lâu. Cô nam quả nữ cởi trần cởi truồng ở trong một căn phòng tối tăm thế này, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là thế tử Trấn Nam Vương tuy chưa chắc đã lấy con gái ngươi làm chính phi được, nhưng năm thê bảy thiếp có gì mà chẳng xong? Ta với ông thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì? Ha ha! Ha ha! Ha ha ha!”
Đoàn Dự thấy nàng mặt càng lúc càng đỏ, nên nhỏ nhẹ nói:
- Hảo muội tử, … hóa ra cô … cô chưa biết những nguyên do bên trong … cô em ơi! Cái đó … cái đó không được đâu.
Chung Linh hoảng hốt:
- Bộ Mộc tỉ tỉ không bằng lòng ư? Có phải Mộc tỉ tỉ không?
Đoàn Dự đáp:
- Không đâu, cô ấy … cô ấy cũng là …
Chung Linh mỉm cười nói:
- Thì cha anh đã chẳng bảo trai năm thê bảy thiếp, đâu có dám không nhường cho chị ấy, chị ấy hung dữ lắm, em có dám tranh giành gì đâu?
Vừa nói vừa le lưỡi. Đoàn Dự thấy nàng đầy vẻ thơ ngây trong trắng, ngực lại nhói lên nhưng lúc này không tiện cho nàng biết sự thật bèn hỏi:
- Thế sao cô đến được chốn này?
Chung Linh đáp:
- Em đi tìm anh, đất Trung Nguyên chạy đông chạy tây chẳng nghe tin tức gì. Mấu bữa trước khéo làm sao lại gặp gã học trò của Dự ca là Nhạc lão tam nhưng y không thấy em. Em nghe thấy y nói chuyện với người ta rằng các lộ hảo hán đang đi lên chùa Thiếu Lâm, có trò vui lắm, bọn họ cũng đi nữa. Gã ác nhân Vân Trung Hạc mới ghẹo y là thể nào cũng có dịp gặp sư phụ. Nhạc lão tam nổi cọc, bảo là vừa gặp Dự ca là sẽ bẻ cổ ngay. 
Em vừa vui mừng, vừa lo lắng nên len lén đi theo nhưng sợ Nhạc lão tam và Vân Trung Hạc trông thấy nên không dám đến gần, chỉ lang thang dưới chân núi, gặp ai cũng hỏi thăm tin tức định dặn anh cẩn thận kẻo đồ nhi sẽ bẻ cổ. Em thấy một căn nhà không có ai ở, chẳng ngại ngùng gì vào ở luôn.
Đoàn Dự nghe cô gái nói qua loa như thế nhưng dung nhan nhuốm vẻ phong sương, không còn vẻ ngây thơ không lo không buồn như lần đầu gặp nàng nơi núi Vô Lượng, nghĩ bụng nàng mới bấy nhiêu tuổi đầu đã lặn lội đi tìm mình, một thân bôn tẩu giang hồ, trong những ngày qua ắt hẳn phải chịu bao nhiêu khổ sở, tình ý đối với mình sâu đậm biết bao, nhịn không nổi giơ tay cầm tay nàng, nói khẽ:
- Hảo muội tử, cũng may trời còn thương cho ta được gặp cô.
Chung Linh mỉm cười nói:
- Cũng may trời còn thương nên cho em được gặp Dự ca. Hì hì, nói vậy chẳng thừa sao? Anh gặp em dĩ nhiên em cũng gặp anh rồi.
Nàng ngồi xuống giường hỏi:
- Sao anh lại đến được nơi đây thế?
Đoàn Dự mở to mắt nói:
- Ta đang định hỏi cô đây, tại sao ta lại đến được chỗ này? Ta chỉ còn nhớ gã ác hòa thượng đột nhiên ám toán, ngực ta trúng phải đao khí vô hình của y, bị thương rất nặng, rồi sau chẳng còn biết gì nữa.
Chung Linh nhíu mày nói:
- Thế thì quả là kỳ quái. Hôm qua lúc xế chiều, em đi ra vườn hái rau, đem vào bếp rửa sạch sẽ, đang định nấu ăn, nghe thấy trong phòng có tiếng rên. Em sợ hết hồn, cầm con dao thái rau chạy vào phòng thấy trên giường đã có người nằm. Em hỏi luôn mấy câu: “Ai thế? Ai thế?” không nghe trả lời. Em chắc mẩm là kẻ tồi bại, giơ dao lên định chém xuống giường. May sao … may sao anh nằm ngửa nên em nhìn thấy mặt anh … lúc đó … lúc đó tưởng như muốn ngất đi, đến con dao bầu cũng rớt xuống đất mà không hay.
Nàng nói tới đây đưa ta đấm nhè nhẹ lên ngực mình, chắc là nghĩ đến tình hình hung hiểm lúc bấy giờ, nghĩ lại vẫn còn khiếp đảm. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm không xa, có lẽ mình thụ thương rồi,có người nào đưa mình đến đây”. Chung Linh nói tiếp:
- Em gọi anh mấy tiếng nhưng anh chỉ rên, chẳng mở mắt nhìn em. Em sờ đầu thấy nóng ơi là nóng, trên áo lại dính đầy máu, biết anh đã bị thương nên cởi áo ra xem thương thế ra sao thì đã băng bó kỹ càng. Em sợ động đến vết thương nên không dám cởi dây buộc. Đợi mãi mà anh không tỉnh lại. Ôi, em vừa mừng lại vừa lo, không biết phải làm sao đây!
Đoàn Dự nói:
- Để khiến cô phải lo, thật quả là áy náy lắm.
Đột nhiên mặt Chung Linh sầm xuống nói:
- Anh là người chẳng ra gì, nếu sớm biết anh vô lương tâm như thế thì em chẳng thèm nhớ tới anh làm gì. Bây giờ thôi em mặc kệ, anh sống chết gì cũng vậy, em không nhìn anh nữa đâu.
Đoàn Dự nói:
- Sao thế? Sao tự nhiên cô lại nổi giận là sao?
Chung Linh hứ một tiếng, bĩu môi nói:
- Anh tự mình biết, còn phải hỏi em làm gì?
Đoàn Dự hốt hoảng:
- Ta … ta quả không biết thật. Hảo muội tử, cô nói cho ta nghe đi nào.
Chung Linh hậm hực đáp:
- Hứ, ai là hảo muội tử của anh? Khi anh nằm mơ anh nói những gì? Anh tự biết chứ, việc gì phải hỏi tôi? Quả là gớm thật.
Đoàn Dự lập cập nói:
- Khi ta nằm mơ nói những gì? Đó là những lời nói nhăng nói cuội, đừng có coi là thật. A, ta nghĩ ra rồi, chắc là ta nằm mơ gặp được cô, vui mừng quá đỗi nên ăn nói vô ý vô tứ, xúc phạm đến cô chứ gì?
Chung Linh đột nhiên ứa nước mắt, cúi đầu nói:
- Đến giờ phút này mà sao anh vẫn còn muốn lừa dối tôi. Trong giấc mộng anh gặp ai?
Đoàn Dự thở dài:
- Sau khi ta bị thương, từ đó hôn mê bất tỉnh, thật chẳng biết nói lảm nhảm những gì.
Chung Linh đột nhiên sẵng giọng:
- Thế ai là Vương cô nương? Vương cô nương là người nào? Tại sao khi anh hôn mê chỉ gọi tên cô ta là sao?
Đoàn Dự trong lòng chua xót hỏi lại:
- Ta quả gọi tên Vương cô nương thật sao?
Chung Linh đáp:
- Còn gì mà không gọi? Anh hôn mê bất tỉnh cũng gọi, hừ, đủ biết lúc nào cũng nhớ đến cô ta. Được, anh đi gọi Vương cô nương nhà anh đến hầu hạ anh đi, tôi không lo cho anh nữa.
Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:
- Trong tim Vương cô nương đâu có hình bóng ta, ta có nhớ đến cô ấy cũng chỉ bằng không.
Chung Linh hỏi lại:
- Sao lại thế?
Đoàn Dự nói:
- Cô ta chỉ thích biểu ca nàng thôi, còn với ta có lý gì đến đâu.
Chung Linh đang giận đổi sang mừng rỡ, cười nói:
- Tạ ơn trời đất, đúng là ác giả ác báo.
Đoàn Dự hỏi:
- Bộ ta là người ác sao?
Chung Linh nghiêng đầu, một bên mái tóc xõa ra, cười nói:
- Học trò anh Nhạc lão tam là đại ác nhân, đến học trò đã ác thế, sư phụ đương nhiên còn ác hơn gấp bội.
Đoàn Dự cười nói:
- Thế còn sư nương thì sao? Nhạc lão tam đã chẳng gọi cô là sư nương đấy ư?
Chàng buột miệng nói ra bỗng cảm thấy hối hận: “Sao mình lại nói với em gái mình những câu bông lơn như thế được?”. Chung Linh đỏ mặt, hứ một tiếng nhưng trong lòng vô cùng sung sướng, đứng lên, xuống bếp múc bưng lên một tô cháo gà nói:
- Nồi cháo này nấu đã lâu lắm rồi, chờ anh tỉnh dậy vậy mà lửa vẫn chưa tắt.
Đoàn Dự nói:
- Thật chẳng biết lấy gì tạ ơn cô được.
Chàng thấy Chung Linh bưng cháo đến, gượng ngồi lên, động đến vết thương, nhịn không nổi phải suýt soa. Chung Linh vội nói:
- Anh không phải ngồi dậy, để em đến đút cháo cho ông cha phường gian ác.
Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi:
- Cái gì mà lại ông cha phường gian ác?
Chung Linh đáp:
- Thì anh là sư phụ của đại ác nhân, không phải ông cha phường gian ác thì là gì?
Đoàn Dự cười:
- Thế còn cô …
Chung Linh giơ thìa cháo đang bốc hơi nghi ngút lên, để ngang mặt Đoàn Dự nghiêm giọng nói:
- Anh thử nói quàng nói xiên xem em có hắt muỗng cháo vào người không nào?
Đoàn Dự le lưỡi đáp:
- Không dám đâu! Không dám đâu! Ác nhân đại tiểu thư, ác nhân cô cô quả là gớm thật, quả là ác quá.
Chung Linh phì cười, lúc đó muỗng cháo đã đến gần Đoàn Dự sợ đổ nên vội vàng tập turng tâm thần, đưa lên môi nếm thử một tí thấy không nóng quá lúc ấy mới đưa vào mồm Đoàn Dự.
Đoàn Dự húp mấy muỗng cháo, thấy mặt nàng đỏ au, môi trên lấm tấm mấy giọt mồ hôi. Khi ấy đang lúc tháng sáu trời nóng gắt, cánh tay nàng thò ra ngoài, trắng nõn như ngọc, Đoàn Dự tâm hồn lãng đãng nghĩ thầm: “Tiếc thay nàng lại là em gái ta! Nàng là em gái ta cũng chẳng hề chi … ôi, giá như người đút cháo cho ta mà là Vương cô nương, thì dù có là thuốc độc nát gan đứt ruột ta cũng thấy ngọt như đường”.
Chung Linh thấy chàng ngẩn ngơ nhìn mình, đâu có nghĩ rằng Đoàn Dự đang nghĩ tới người khác, mỉm cười hỏi:
- Có gì mà phải nhìn?
Bỗng nghe kẹt một tiếng, ai đó đã đẩy cửa bước vào, rồi nghe tiếng một thiếu nữ:
- Thôi mình ở đây nghỉ một lát.
Rồi có tiếng đàn ông đáp:
- Phải lắm! Cô nương chắc mệt lắm rồi, tôi … tôi rất áy náy.
Cô gái đáp:
- Chỉ nói tầm xàm!
Đoàn Dự nghe tiếng hai người nói chính là A Tử và bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền. Chàng tuy chưa từng gặp mặt hay nói chuyện với A Tử lần nào nhưng đã từng nghe bọn Chu Đan Thần kể lại, cô bé này chính là con riêng của phụ thân, cũng lại là một cô em khác của mình nữa, lạy trời lạy đất may mà không có thêm một mối tình nghiệt với mình. Cô em đó từ bé đã đầu nhập môn hạ phái Tinh Tú nên tiêm nhiễm tà ác, muốn làm gì là làm, một trong Tứ Đại Vệ Hộ của phủ Trấn Nam Vương là Chử Vạn Lý đã bị cô ta làm nhục tức quá mà chết. Đoàn Dự từ nhỏ đã cùng Chử Cổ Phó Chu bốn Hộ Vệ giao tình rất thân thiết, nghĩ đến cái chết của Chử Vạn Lý nên cũng không muốn gặp cô em bướng bỉnh này làm gì, huống chi hôm qua chính mình đã tương trợ Tiêu Phong đối địch với Trang Tụ Hiền, nếu như bây giờ y trông thấy e rằng tính mạng khó mà an toàn nên vội đưa tay ra hiệu đừng lên tiếng.
Chung Linh gật đầu, cầm lăm lăm bát cháo gà không dám đặt xuống bàn, e sợ mình gây ra một tiếng động nhỏ. Bỗng nghe A Tử kêu lên:
- Này, có ai không đấy? Có ai không?
Chung Linh nhìn Đoàn Dự không lên tiếng nghĩ thầm: “Người này chắc là Vương cô nương, cô ta đi cùng với biểu ca cho nên Đoàn lang không muốn gặp đây mà”. Nàng rất muốn ra xem Vương cô nương người như thế nào, dung hoa nguyệt mạo ra sao mà khiến cho Đoàn Dự thần hồn điên đảo nhưng không dám bước đi, nghĩ thầm nếu như Đoàn lang gặp lại cô nàng, e rằng không hay nên để cô ta gọi một hồi, không nghe tiếng trả lời ắt sẽ cùng biểu ca bỏ đi.
A Tử lại kêu to:
- Trong nhà bộ chết hết rồi sao không ai ra? Còn không chịu ra, cô nương đốt nhà các ngươi bây giờ.
Chung Linh nghĩ thầm: “Vương cô nương này quả là ngang ngược”. Du Thản Chi nói nhỏ:
- Đừng lên tiếng nữa, có người đến đó!
A Tử hỏi:
- Ai vậy? Cái Bang chăng?
Du Thản Chi đáp:
- Chưa biết nữa. Có bốn năm người, không chừng là người Cái Bang. Họ đang đi về hướng này.
A Tử nói:
- Bọn trưởng lão Cái Bang đều thối tha, ngoài Toàn trưởng lão ra không có kẻ nào tốt cả. Bọn họ đang có bụng tạo phản, nếu để họ thấy thì hai đứa mình hỡi ôi.
Du Thản Chi hỏi:
- Vậy biết làm sao?
A Tử đáp:
- Vào trong phòng trốn đã rồi tính sau, ngươi bị thương nặng, không nên cùng họ động thủ.
Đoàn Dự kêu khổ thầm, vội vàng ra hiệu cho Chung Linh bảo nàng tìm cách lẩn trốn. Thế nhưng nhà cửa miền núi, phòng bé nhỏ, vừa vào là thấy ngay, không có chỗ nào mà ẩn náu cả. Chung Linh đưa mắt nhìn bốn bề, chưa biết tính sao thì đã nghe tiếng chân, từ ngoài sảnh có hai người tiến vào phòng bèn nói nhỏ:
- Chui xuống dưới gầm giường.
Nàng đặt bát cháo xuống, không đợi Đoàn Dự bằng lòng hay không, liền ôm chàng lên cả hai chui xuống. Trên núi Thiếu Thất cứ đến mùa thu, mùa đông khí trời lạnh buốt, dân chúng ai cũng đốt lửa dưới gầm giường cho ấm , lúc này đang mùa nóng nên không chụm lửa nhưng dưới gầm giường đầy tro than, Đoàn Dự vừa chui vào đã bay đầy mặt, không chịu nổi muốn hắt hơi nhưng cố gượng lại.
Chung Linh thò đầu ra xem thấy một đôi chân nhỏ nhắn mang giày bằng gấm tím vào phòng, rồi nghe tiếng đàn ông nói:
- Ồ, tôi cứ bảo cô cõng tới cõng lui, quả là cực nhọc cô quá đỗi.
Thiếu nữ nói:
- Chúng ta người thì mù, người thì què, phải lo liệu cho nhau chứ.
Chung Linh ngạc nhiên nghĩ thầm: “Thì ra Vương cô nương là người mù, cô ta cõng biểu ca trên lưng thành thử mình không nhìn thấy chân gã này”. A Tử đẩy Du Thản Chi lên trên giường nói:
- Ồ, đã có người ngủ trên giường này rồi, chiếu vẫn còn ấm.
Chỉ nghe bình một tiếng, cửa đã bị ai đó đá tung ra, có mấy người xông vào. Một người ồm ồm nói:
- Trang bang chủ, chuyện đại sự trong bang chưa xong, sao đã buông xuôi bỏ đi, có ý gì đây?
Người đó chính là Tống trưởng lão. Ông ta dẫn theo hai đệ tử bảy túi, hai đệ tử sáu túi, đuổi theo Du Thản Chi. Cha con Tiêu Phong, cha con Mộ Dung Phục cùng quần tăng chùa Thiếu Lâm và quần hùng Trung Nguyên chạy vào chùa rồi, bọn ăn mày thấy hôm nay mất mặt quá nếu không sắp xếp cho ổn thỏa e rằng bang hội lớn nhất Trung Nguyên không còn đất đứng trong võ lâm. Việc oán thù giữa cha con họ Tiêu và cha con họ Mộ Dung người trong Cái Bang không quan tâm đến nên không muốn nhúng tay vào, tuy nói với Bao Bất Đồng rằng đồng cừu địch khái thật, muốn kiếm Tiêu Phong rửa hờn nhưng bản bang từ nay làm sao an thân lập mệnh mới thực sự là việc quan trọng hơn cả, người nào cũng chỉ nghĩ tới làm sao lập được một bang chủ anh minh để trùng chấn hùng phong, vãn hồi lại thanh danh cho Cái Bang.
Thế nhưng khi tìm Trang Tụ Hiền thì trong lúc hỗn loạn không biết y đã bỏ đi đâu mất. Quần cái vẫn tưởng hai chân y gãy rồi không cách gì chạy được xa, thành thử chia nhau đi tìm. Còn như tìm ra y sẽ tính sao thì chưa quyết định, cũng chưa ai biết làm sao bắt được y nhưng chắc chắn không thể để y làm bang chủ được nữa, ai nấy đều đồng ý không dị nghị. Có người lên tiếng chửi rủa y đã bái Tinh Tú Lão Quái làm thầy, làm mất mặt Cái Bang; có người thì chửi y sai người ám hại anh em trong bang, nhất định phải kiếm y đòi nợ máu. Còn Toàn Quan Thanh thì cũng đã bị Tống trưởng lão và Ngô trưởng lão hợp lực bắt được, trói lại chờ khi bắt được Trang Tụ Hiền rồi xử tội luôn thể.
Tống trưởng lão dẫn bốn người theo hướng đông nam núi Thiếu Thất đi tìm, nhìn thấy xa xa có bóng người áo tím thấp thoáng đi vào một nhà nông, cho rằng chính là A Tử, lại thấy lưng nàng có cõng một người, trông giống như Trang Tụ Hiền lập tức đuổi tới, quả nhiên thấy hai người ngồi sóng đôi trên giường.
A Tử lạnh lùng nói:
- Tống trưởng lão, nếu ngươi vẫn gọi y là bang chủ, sao lại la ó om sòm không ra vẻ gì là qui củ yết kiến ?
Tống trưởng lão chưng hửng, nghĩ bụng lời của nàng không phải là vô lý bèn đấu dịu:
- Bang chủ, mấy nghìn huynh đệ hiện còn đang ở trên núi Thiếu Thất tính toán để xem bang chủ chỉ thị thế nào.
Du Thản Chi đáp:
- Các ngươi vẫn còn coi ta là bang chủ hay sao? Các ngươi bảo ta quay lại, cốt để giết ta cho bõ tức chứ gì? Ta không đi đâu.
Tống trưởng lão quay sang bốn tên đệ tử nói:
- Mau đi báo tin, bang chủ đang ở nơi đây.
Bốn tên đệ tử cùng đáp:
- Vâng!
Rồi quay mình đi ra. A Tử quát lên:
- Ra tay!
Du Thản Chi nghe lời một chưởng đánh ra, dưới gầm giường Chung Linh và Đoàn Dự thấy khí lạnh buốt thấu xương, bốn tên đệ tử Cái Bang không kịp hự lên một tiếng, lăn ra chết liền. Tống trưởng lão vừa tức giận vừa sợ hãi, giơ tay lên che ngực, quát lên:
- Ngươi … ngươi … đối với anh em trong bang mà hạ độc thủ như vậy sao?
A Tử nói:
- Giết luôn cả y đi.
Du Thản Chi lại đánh ra một chưởng, Tống trưởng lão giơ tay gạt, kêu lên một tiếng văng ra ngoài cửa. A Tử cười khanh khách nói:
- Gã này không sống nổi nữa rồi! Ngươi có đói không? Mình đi kiếm xem có gì ăn không?
Nàng ta lại cõng Du Thản Chi lên lưng, hai người cùng đi xuống bếp, lấy đồ ăn Chung Linh đã nấu sẵn đem lên trên sảnh ngồi ăn. Chung Linh ghé tai Đoàn Dự:
- Hai đứa này không biết xấu, ăn hết nồi cháo em nấu cho anh rồi.
Đoàn Dự cũng nói nhỏ:
- Bọn họ thật là độc địa, vừa ra tay đã giết người, ăn xong thể nào cũng vào đây. Mình mau mau theo cửa sau chạy đi thôi.
Chung Linh không muốn Đoàn Dự gặp cái “cô nàng họ Vương” kia, nghe nói thế quả thật đúng là cầu được ước thấy. Hai người rón rén từ dưới gậm giường chui ra, Chung Linh thấy Đoàn Dự đầu tóc đầy tro than, tức cười quá phải lấy tay bịt mồm lại. Ra khỏi phòng rồi, đi ngang qua bếp vừa mới bước ra cửa sau, Đoàn Dự ngứa mũi quá, nhịn không nổi phải “Ách xì” một tiếng. Chỉ nghe tiếng Du Thản Chi kêu lên:
- Có người!
Chung Linh thấy bốn bề không chỗ nào có thể trốn được chỉ có sau bếp là một gian phòng chứa củi, vội vàng lôi Đoàn Dự chui vào trong đám rơm củi kia. Lại nghe A Tử quát hỏi:
- Người nào đó? Sao lại thập thò, có mau ra đây không?
Du Thản Chi nói:
- Chắc là mấy người nhà nông, ta nghĩ mình chẳng cần phải để ý.
A Tử nói:
- Sao lại không cần phải để ý? Ngươi sao đoảng thế, mai sau ắt có lúc nguy to, thôi đừng lên tiếng nữa.
Nàng từ khi mắt mù, tai lại càng thêm linh mẫn, nghe thấy tiếng sột soạt trong đống rơm liền nói:
- Trong đống củi có người.
Chung Linh trong lòng kinh hoảng, bỗng thấy có nước nhỏ xuống mặt mình, giơ tay sờ, thấy nhờn nhờn lại ngửi thấy mùi tanh, giật mình hỏi nhỏ:
- Anh … vết thương anh ra sao?
Đoàn Dự đáp:
- Đừng lên tiếng.
A Tử chỉ vào phòng chứa củi kêu lên:
- Ở phía đó.
Du Thản Chi đánh vù ra một chưởng, nghe rắc rắc, cánh cửa vỡ tan cùng với rơm củi bay tung tóe. Chung Linh kêu lên:
- Chớ có đánh, chớ có đánh, để chúng tôi chui ra.
Nàng đỡ Đoàn Dự, từ trong đống củi bò ra. Đoàn Dự trước đây bị Cưu Ma Trí đánh một chiêu Hỏa Diễm Đao thụ thương khá nặng, đã chui xuống gầm giường, lại chui ra ẩn sau đống củi, di động mấy lần vết thương lại vỡ ra. Chàng bị thương rồi không còn bụng dạ nào mà đánh nhau, tuy nội lực cực kỳ hồn hậu nhưng cho rằng mạng mình sắp chết đến nơi, không nghĩ đến việc dùng Lục Mạch Thần Kiếm để ngự địch.
A Tử nói:
- Sao lại có giọng của một tiểu cô nương?
Du Thản Chi đáp:
- Có một gã con trai dắt một cô gái, trốn trong đống củi, người đầy máu, cô gái mắt long lanh đang nhìn cô đó.
A Tử từ khi bị mù, ghét nhất là nghe ai nói tới “mắt”, Du Thản Chi không những đã nói tới mắt mà lại còn bảo “cô gái mắt long lanh” khiến cho chạm tới vết thương lòng của nàng, bèn hỏi:
- Cái gì mà mắt long lanh? Bộ mắt cô ta đẹp lắm hay sao?
Du Thản Chi có ngờ đâu A Tử đang tức tối lắm nói:
- Cô ta người dơ dáy lắm, chắc là con nhà nông, còn đôi mắt thì đen lay láy, cực kỳ linh hoạt.
Chung Linh chui xuống gầm giường người dính đầy mồ hóng, bụi bậm nhưng đôi mắt vẫn đen nháy long lanh như nước mùa thu. A Tử giận quá, nói:
- Được, Trang công tử, ngươi mau mau móc mắt nó ra.
Du Thản Chi ngạc nhiên hỏi:
- Đang yên lành sao lại móc mắt người ta?
A Tử thuận miệng đáp:
- Mắt của ta bị Đinh lão quái làm mù rồi, ngươi móc mắt cô ta ra lắp vào cho ta để ta lại nhìn thấy chẳng hay lắm sao?
Du Thản Chi ngầm kinh hãi, nghĩ thầm: “Nếu như mắt cô ta sáng ra, thấy hình dáng như quỉ của ta thì sẽ không còn để ý đến ta nữa, không chừng lại nhìn ra bộ mặt thật, biết ta chính là “thằng hề sắt”, thế thì hỡi ôi. Chuyện naà nhất định không thể nào được”. Y bèn nói:
- Nếu như có thể chữa được đôi mắt cho cô thì thật hay biết mấy … có điều, cái cách của cô, e rằng … e rằng không hữu hiệu.
A Tử biết thừa là móc mắt người khác ráp vào cho mình đâu có được nhưng từ khi nàng bị mù, lòng bực tức oán hận, chỉ mong tất cả thiên hạ ai ai cũng mù cả thế mới vừa lòng liền đáp:
- Ngươi chưa thử qua, sao biết là không được? Động thủ mau, móc mắt nó ra xem nào.
Nàng vẫn đang cõng Du Thản Chi trên lưng nên lập tức xông về phía Đoàn Dự và Chung Linh. Chung Linh nghe hai người nói qua nói lại, trong bụng hãi lắm, vội vàng bỏ chạy, trong nháy mắt đã chạy xa hơn chục trượng. A Tử mắt đã mù, lại phải cõng Du Thản Chi trên lưng, dĩ nhiên làm sao đuổi kịp, huống chi Du Thản Chi cũng chẳng muốn đuổi theo Chung Linh làm gì nên chỉ đường có lệch đi một chút, nói năng lại ấm a ấm ớ cố tình bỏ lỡ cơ hội. 
A Tử nghe tiếng chân của Chung Linh, biết rằng đuổi không kịp được, quay lại quát lên:
- Con bé đó chạy mất rồi, thôi quay về giết thằng đàn ông vậy.
Chung Linh nghe nàng nói vậy, kêu hoảng lên, dừng chân lại, quay đầu thấy Đoàn Dự đang nằng lăn dưới đất, máu bên người vẫn tiếp tục chảy ra. Nàng liền quay trở lại kêu lên:
- Con nhỏ đui kia! Chớ có hại anh ta.
Khi đó nàng đang nhìn thẳng vào mặt A Tử, thấy A Tử dung mạo đẹp đẽ, quả là một tiểu mỹ nhân có ngờ đâu bụng dạ lại tàn độc đến thế. A Tử quát:
- Điểm huyệt nó!
Du Thản Chi tuy không muốn nhưng nàng đã bảo gì thì đâu dám cãi lời, khi ở Nam Viện vương phủ ở Nam Kinh nước Liêu đã vậy mà đến khi làm bang chủ Cái Bang rồi cũng thế, lập tức cúi xuống giơ ngón tay điểm Chung Linh ngã lăn ra. Chung Linh kêu lên:
- Vương cô nương, cô chớ có làm hại anh ta, anh ta … trong giấc mơ vẫn nhắc đến tên cô, đối với cô quả thành tâm thành ý.
A Tử lạ lùng:
- Ngươi nói sao? Ai là Vương cô nương?
Chung Linh đáp:
- Cô … cô không phải là Vương cô nương sao? Thế thì cô là ai?
A Tử cười nhạt nói:
- Hừ, ngươi gọi ta là “con nhỏ đui”, thì ngươi cũng sắp biến thành “con nhỏ đui” đây, còn hỏi đông hỏi tây gì nữa? Nhân lúc còn đôi mắt, cố nhìn thêm vài cái mới là cần.
Nàng bỏ Du Thản Chi xuống nói:
- Móc hai mắt tiểu cô nương này cho ta.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Y giơ tay nắm cổ Chung Linh. Chung Linh sợ quá kêu lên:
- Đừng có móc mắt ta, đừng có móc mắt ta.
Đoàn Dự nằm nửa mê nửa tỉnh dưới đất nhưng cũng biết hai người này đang toan móc mắt Chung Linh để ráp vào mắt cho A Tử. Chàng cũng biết đáng lẽ Chung Linh chạy thoát rồi, chỉ vì muốn cứu mình mà quay đầu trở vào miệng hùm nanh cọp. Đoàn Dự liền hít một hơi cố nói:
- Các ngươi … hãy móc mắt ta đi, ta với nó … ta với nó cùng một nhà … dùng hợp hơn.
A Tử không hiểu anh chàng nói gì nên chẳng thèm để ý, chỉ thúc giục Du Thản Chi:
- Sao ngươi còn chưa động thủ?
Du Thản Chi không còn biết sao hơn, đành đáp lời:
- Vâng!
Y liền kéo Chung Linh lại gần, ngón tay trỏ đưa ra toan đâm vào mắt phải của Chung Linh. Bỗng có tiếng đàn bà nói:
- Này, các ngươi ở đây làm gì thế?
Du Thản Chi ngửng đầu lên, vẻ mặt lập tức đại biến, thấy bên cạnh giòng suối có hai người đàn ông cùng bốn cô gái đứng đó. Hai người đàn ông là Tiêu Phong và Hư Trúc, còn bốn thiếu nữ chính là thị nữ Mai Lan Cúc Trúc tứ kiếm.
Chỉ trong chớp mắt, Tiêu Phong đã thấy Đoàn Dự nằm dưới đất, lập tức xốc tới bồng chàng lên, chau mày:
- Vết thương lại vỡ ra, chảy nhiều máu lắm.
Ông quì xuống để Đoàn Dự dựa vào đùi, xem xét vết thương. Hư Trúc cũng chạy tới, xem vết thương của Đoàn Dự nói:
- Đại ca không phải hốt hoảng, Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của đệ đây trị thương cực kỳ linh nghiệm.
Y liền điểm huyệt chung quanh vết thương cho máu ngừng chảy rồi cho Đoàn Dự uống thuốc. Đoàn Dự kêu lên:
- Đại ca, nhị ca, … mau … mau cứu người … đừng để họ móc mắt Chung cô nương. Chung cô nương là … là … em gái của đệ đó.
Tiêu Phong và Hư Trúc cùng quay sang Du Thản Chi. Du Thản Chi trong lòng sợ hãi, huống chi vốn đã không muốn móc mắt Chung Linh, lập tức thả nàng ra. A Tử nói:
- Tỉ phu, khi chị em sắp chết nói những gì? Những gì chị ấy dặn dò lúc sắp chết không còn nhớ gì nữa hay sao?
Tiêu Phong nghe nàng nhắc đến A Châu, vừa đau lòng vừa tức tối, hừ một tiếng, không trả lời. A Tử lại tiếp:
- Tỉ phu chẳng lo liệu cho em, đến như Đinh lão quái đánh mù mắt mà cũng chẳng ngó ngàng gì đến. Tỉ phu ơi, ai ai cũng bảo anh là đại anh hùng số một đời nay, vậy mà không bảo vệ nổi một cô em vợ. Hay là anh chẳng có tài cán gì chăng? Hứ, rõ ràng Đinh lão quái đánh không lại anh, có điều anh chẳng thèm bảo vệ tiểu muội, chẳng thèm lo lắng gì đấy mà thôi.
Tiêu Phong buồn bã nói:
- Ngươi bị người trong Cái Bang bắt đi để đến nỗi hai mắt phải mù cũng bởi ta bảo vệ không chu đáo, quả là có lỗi với ngươi thật.
Mới đầu ông thấy A Tử ngang ngược đòi móc mắt Chung Linh trong bụng khó chịu nhưng khi nhìn thấy đôi mắt vô quang của nàng, lại nhớ đến lời dặn dò của A Châu lúc lâm chung. Cái đêm hôm mưa gió bão bùng bên cái cầu đá xanh kia, A Châu sau khi bị đánh một chưởng chí mạng, nằm gục trong lòng ông dặn dò: “Thiếp chỉ có một đứa em gái, hai đứa từ nhỏ đã không được ở gần nhau, xin chàng trông nom cho nó, thiếp chỉ lo nó đi chẳng đi vào đường ngay nẻo chánh.” Khi đó mình đã từng nói: “Nói gì một điều, dẫu có trăm điều, nghìn điều ta cũng bằng lòng”. Thôi đành vậy, A Tử dẫu sao cũng đã bị mù, dù cô ta có xấu xa bậc nào thì cũng bởi vì mình bảo vệ không chu đáo. Nghĩ đến đây ông trong lòng chua chát, sắc mặt tự nhiên dịu lại, ánh mắt trở nên hiền từ.
A Tử đã ở với ông lâu ngày hiểu rõ tính tình Tiêu Phong, biết rằng chỉ cần mình nhắc đến A Châu, thì dù cho việc gì có khó khăn đến đâu ông cũng làm, trăm lần không sai một. Nàng cực kỳ thù hận Chung Linh gọi mình là “con nhỏ đui”, nghĩ bụng: “Ta phải cho ngươi nếm mùi trở thành “con nhỏ đui” cho ngươi biết tay”. Nghĩ thế bèn thở dài buồn bã, nói với Tiêu Phong;
- Tỉ phu, mắt em mù mất rồi, chẳng còn nhìn thấy gì cả, chi bằng chết quách cho xong.
Tiêu Phong nói:
- Ta đã giao ngươi lại cho cha ngươi rồi, sao bây giờ lại đi với gã Trang bang chủ này là sao?
Bấy giờ ông đã nhìn ra, A Tử đi với Trang Tụ Hiền là do tự nguyện, bởi vì Trang Tụ Hiền tuyệt đối nghe lời nàng bèn bảo:
- Thôi ngươi theo cha ngươi về Đại Lý đi. Mắt ngươi tuy mù nhưng trong vương phủ có rất nhiều tì bộc hầu hạ, cũng không khó chịu lắm đâu.
A Tử nói:
- Mẹ em có phải là Vương Phi đâu, tiểu muội đến Đại Lý, trong vương phủ người này kèn cựa người kia, biết bao nhiêu chuyện, thủ hạ của cha em ai ai cũng thù em bằng chết, mắt em lại mù, thể nào cũng bị người ta mưu hại.
Tiêu Phong nghĩ thầm lời nàng quả là có lý, liền nói:
- Thế thì ngươi theo ta về Nam Kinh, sống cho yên lành, hơn là mạo hiểm đi lại trên giang hồ.
A Tử hỏi lại:
- Quay trở lại vương phủ của tỉ phu ư? Ôi chao, trước kia mắt em chưa mù cũng đã chán muốn bịnh luôn, đời nào em quay lại nữa? Anh đâu có được như Trang bang chủ đây, xưa nay chưa hề trái lời em bao giờ. Em thà ở trên giang hồ lênh đênh trôi giạt trong lòng còn thoải mái hơn.
Tiêu Phong nhìn Du Thản Chi một cái nghĩ thầm: “Xem chừng A Tử thích cái gã bang chủ này”. Bèn nói:
- Gã Trang bang chủ này lai lịch ra sao, ngươi đã hỏi y chưa?
A Tử đáp:
- Dĩ nhiên là tiểu muội có hỏi rồi. Có điều người ta nói về lai lịch của mình đâu dễ gì mà tin được. Tỉ phu, hồi trước khi anh làm bang chủ Cái Bang, lẽ nào lại nói với người khác mình là người Khất Đan sao?
Tiêu Phong nghe nàng nói có chiều châm chọc, hừ một tiếng không nói nữa, trong bụng chưa biết có nên để nàng đi theo gã Trang bang chủ tính tình hèn hạ này hay chăng?
A Tử nói:
- Tỉ phu, anh chẳng coi sóc gì em nữa sao?
Tiêu Phong nhíu mày:
- Thế thì ngươi muốn thế nào?
A Tử đáp:
- Tiểu muội muốn tỉ phu móc mắt cô gái kia lắp vào cho em.
Nàng ngừng một lát lại tiếp:
- Trang bang chủ đang định làm chuyện đó cho em, nếu anh không đến phá rối thì y đã làm xong rồi. Hứ, tỉ phu làm cho em thì làm, để xem anh đối với em tốt hay Trang bang chủ đối với em tốt. Ngày trước anh bồng em đi Quan Đông chữa thương, khi đó bảo gì làm nấy, em đòi gì anh cũng chiều ngay. Mình ở trong lều, dù ngày hay đêm, lúc nào anh cũng bồng em không rời. Tỉ phu, sao bây giờ anh quên hết cả rồi?
Đôi mắt Du Thản Chi bỗng phát ra những tia oán độc, trừng trừng nhìn Tiêu Phong như muốn nói: “A Tử cô nương là của ta, từ nay trở đi đừng hòng đụng vào cô ta nữa”. Tiêu Phong không để ý đến y nói:
- Khi đó ngươi đang bị thương nặng, ta dùng chân khí truyền vào để giữ mạng cho ngươi nên không thể không chiều ngươi. Cô nương đây là bằng hữu của người em kết nghĩa, sao lại có thể móc mắt cô ta ra cho ngươi được? Huống chi trên đời này làm gì có y thuật nào được như thế, cái ý tưởng của ngươi quả là quái đản.
Hư Trúc đột nhiên xen vào:
- Tiểu đệ xem hai mắt của Đoàn cô nương chẳng qua chỉ là bị hỏng lớp vỏ ngoài, nếu có đôi mắt người sống đem thay vào, không chừng có thể sáng trở lại.
Y thuật của phái Tiêu Dao cực kỳ cao minh, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y chính là sư điệt của Hư Trúc. Về chữa bệnh tuy Hư Trúc biết chẳng bao nhiêu nhưng ở với Thiên Sơn Đồng Mỗ mấy tháng, những phương pháp nối chân, thay tay đã từng nghe bà ta nói qua rồi.
A Tử reo lên một tiếng, hết sức mừng rỡ:
- Hư Trúc tiên sinh, ông không đánh lừa tôi đấy chứ?
Hư Trúc đáp:
- Người xuất gia đâu dám nói …
Y chợt nghĩ lại mình không còn là “xuất gia nhân” nữa rồi, mặt mày bẽn lẽn, nói:
- Lẽ dĩ nhiên ta chẳng lừa cô làm gì, có điều … có điều …
A Tử hỏi lại:
- Có điều làm sao? Hư Trúc tiên sinh tốt bụng ơi, ông kết nghĩa kim lan với tỉ phu của tiểu nữ, hai chúng ta là người nhà rồi. Tiên sinh nên nghe lời tỉ phu ta, anh ấy cưng ta lắm. Tỉ phu, tỉ phu, dù gì chăng nữa, anh cũng năn nỉ nghĩa đệ chữa mắt cho tiểu muội.
Hư Trúc đáp:
- Ta có nghe sư bá nói rằng nếu như mắt không hoàn toàn bị hủy, thay đôi tròng mắt người sống vào thì có thể sáng ra. Có điều phương pháp thay con ngươi thì ta lại chưa được học.
A Tử nói:
- Thế thì chắc sư bá của tiên sinh phải biết phương pháp đó, xin tiên sinh cầu khẩn lão nhân gia giùm cho.
Hư Trúc thở dài một tiếng nói:
- Sư bá ta bất hạnh qua đời rồi.
A Tử dậm chân kêu lên:
- Thế ra ngươi nói nhăng nói cuội để cho vui vậy thôi.
Hư Trúc lắc đầu quầy quậy nói:
- Không phải đâu! Không phải đâu! Trên cung Linh Thứu, núi Phiêu Miểu có rất nhiều y thư dược điển, phương pháp thay mắt chắc tàng trữ trên đó. Tuy nhiên … tuy nhiên …
A Tử nửa mừng nửa lo nói:
- Sao ông là một đại nam nhân mà ăn nói ấp a ấp úng, còn “tuy nhiên” với chả “có điều” gì nữa?
Hư Trúc nói:
- Tuy nhiên … tuy nhiên … con mắt quí báu biết là chừng nào, có ai mà lại bằng lòng cho cô được?
A Tử cười hì hì nói:
- Ta lại tưởng chuyện gì khó khăn chứ muốn có mắt người sống thì dễ ợt! Ông cứ móc mắt cô bé kia là xong ngay.
Chung Linh kêu ré lên:
- Không được, không được! Các ngươi không được móc mắt ta.
Hư Trúc đáp:
- Đúng thế! Suy bụng ta ra bụng người, cô không muốn bị mù, Chung cô nương lẽ nào lại muốn mất đôi mắt. Tuy rằng đức Thích Ca kiếp trước khi còn là bồ tát đã từng đem mắt mũi máu thịt, xương tủy chân tay bố thí cho người khác thật nhưng Chung cô nương làm sao có thể sánh được với Phật tổ Như Lai? Hơn nữa, Chung cô nương là bạn tốt của tam đệ ta …
Đột nhiên y thấy chấn động: “Chết rồi! Không xong! Hôm trước ở trong cung Linh Thứu, ta và tam đệ uống rượu say thổ lộ nỗi niềm, thì ra ý trung nhân của y chính là “Mộng Cô”. Xem ra thế này, tam đệ đối với Chung cô nương tốt như thế, vừa rồi mới nghe y nói với A Tử, thà để móc mắt y ra còn hơn là làm hại tới Chung cô nương. Con người có ngũ quan tứ chi, mắt là trọng yếu hơn cả, tam đệ vì Chung cô nương dám bỏ cả đôi mắt chẳng nói cũng biết là tình ý thâm trọng lắm. Không lẽ Chung cô nương đây chính là Mộng Cô, người đã cùng mình vui vầy ba đêm ở trong hầm băng hay sao?”.
Y nghĩ tới chuyện đó, không khỏi run lên, quay đầu lén liếc Chung Linh một cái, thấy nàng tuy mặt mũi dính đầy tro than, rơm rạ nhưng không dấu được vẻ yêu kiều. Hư Trúc ở với Mộng Cô một thời gian khá lâu, có điều trong hầm băng tối thui không có ánh sáng nên mặt mũi Mộng Cô ra sao, y hoàn toàn không nhận biết được, ngoại trừ giơ tay mò mò trên mặt nàng thì may ra còn có chút mối manh, hay vòng tay ôm chiếc eo thon, cũng có chút đầu dây mối nhợ. Thế nhưng đang ở nơi thanh thiên bạch nhật, bao nhiêu cặp mắt đổ dồn vào, ai lại dám giơ tay sờ mặt Chung Linh? Còn như chuyện ôm ngang lưng thì lại càng không dám.
Nghĩ đến chuyện ôm Mộng Cô trong tay, mặt Hư Trúc liền đỏ bừng, giọng của Chung Linh so với Mộng Cô có khác nhau thật nhưng lại cho rằng người nói chuyện trong hầm băng với ở ngoài đồng không mông quạnh dĩ nhiên phải khác, huống chi những lời Mộng Cô nói với y chỉ là ỏn thót ái ân, còn Chung Linh lúc này đang kêu ré lên vì sợ, tình hình dĩ nhiên khác xa, ngữ âm có đổi thì cũng không phải là chuyện lạ. Hư Trúc châm bẩm nhìn Chung Linh, chỉ muốn thò tay ra vuốt má nàng một cái, để xem nàng có phải là “Mộng Cô” của mình hay chăng? Y trong lòng tình ý dâng tràn, vẻ mặt tự nhiên đầy vẻ say sưa đắm đuối.
Chung Linh thấy anh chàng có vẻ dễ chịu thân cận, xem ra không muốn móc mắt mình nên cũng yên tâm. A Tử nói:
- Hư Trúc tiên sinh, ta là em ruột của tam đệ ông, còn Chung cô nương kia chẳng qua chỉ là bạn bè. Em gái và bằng hữu hai bên dĩ nhiên phải khác xa chứ?
Đoàn Dự được uống Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu, trong giây lát máu không còn chảy ra nữa, thần trí dần dần tỉnh lại, việc thay mắt nghe không rõ ràng nhưng câu sau cùng của A Tử thì nghe rõ mồn một, nhịn không nổi hừ lên một tiếng nói:
- Thì ra ngươi đã sớm biết là em gái của ta rồi, vậy sao còn gọi người định giết hại ta?
A Tử cười nói:
- Tiểu muội trước nay đã nói chuyện với ca ca đâu, làm sao nhận ra tiếng nói được? Hôm qua nghe gia gia, má má nói, mới biết được vị đại anh hùng cùng anh rể mình và Hư Trúc tiên sinh kết nghĩa anh em, đánh cho Mộ Dung công tử thua liểng xiểng lại chính là anh ruột, quả thực hay biết bao. Tỉ phu em cũng là đại anh hùng, mà anh ruột cũng là đại anh hùng, thật sướng quá!
Đoàn Dự xua tay nói:
- Có gì đâu mà đại anh hùng? Chả bõ làm trò cười cho người khác.
A Tử cười đáp:
- Chao ôi, ca ca sao khách sáo thế! Anh hai ơi, anh chui trong đống củi, tiểu muội làm sao biết được ai với ai? Mắt em lại không nhìn thấy gì, đến khi nghe gọi tỉ phu em là “đại ca” lúc đó mới biết là anh hai.
Đoàn Dự nghĩ thầm cô ta nói quả không sai bèn nói:
- Nhị ca nếu đã biết cách chữa mắt, thể nào cũng tìm cách chữa cho ngươi, còn mắt của Chung cô nương thì nhất định không thể nào xâm phạm được. Cô ấy … cô ấy cũng là em gái ta.
A Tử cười khanh khách:
- Mới rồi khi ở trên núi, em thấy anh hai hết sức lấy lòng Vương cô nương, sao bây giờ trong chớp mắt lại chuyển qua Chung cô nương rồi? Cả đến “em gái ta” mà cũng dám mở mồm nói được thì tiểu ca ca ơi, anh quả là không biết hổ ngươi chút nào.
Đoàn Dự bị nàng nói khiến mặt đỏ như gấc vội vàng khỏa lấp đi:
- Chỉ nói nhăng nói cuội!
A Tử nói:
- Ví như Chung cô nương là chị dâu em thì dĩ nhiên không ai dám đụng đến mắt cô ta, còn như không phải chị dâu em thì sao lại không đụng chạm gì được? Tiểu ca ca, hỏi lại nè, cô ấy có phải chị dâu em không?
Hư Trúc liếc mắt thăm dò Đoàn Dự, trống ngực đánh thùng thùng, không biết Chung Linh có phải là Mộng Cô hay chăng, nếu không phải thì chẳng nói làm gì, còn như nếu quả là Mộng Cô mà lại để Đoàn Dự lấy làm vợ thì thật không biết nói sao? Y trong bụng thấp thỏm đợi câu trả lời của Đoàn Dự, chỉ một giây mà tưởng chừng như mấy giờ liền.
Chung Linh cũng đợi Đoàn Dự trả lời nghĩ thầm: “Hóa ra con nhỏ đui này là em gái anh chàng, đến cô ta cũng nói là anh ta lấy lòng Vương cô nương, xem ra chuyện anh ta mê cô ả họ Vương không phải là giả. Thế sao mới đây lại bảo ta là sư nương của Nhạc lão tam? Sao anh ta lại đành lòng đem mắt mình để chịu thế cho mắt của ta ? Sao trước mặt bao nhiêu người lại bảo ta là “em gái” ?”.
Chỉ nghe Đoàn Dự đáp:
- Dầu gì chăng nữa cũng không thể để ngươi làm hại đến Chung cô nương. Ngươi còn ít tuổi mà đã không chịu làm điều tốt. Chử Vạn Lý Chử đại ca của nước Đại Lý cũng do ngươi chọc tức mà chết. Ngươi còn có bụng dạ xấu xa, nhị ca ta sẽ không chữa bệnh cho ngươi đâu.
A Tử vênh mặt lên bĩu môi nói:
- Xí, làm ra vẻ anh hai lắm. Mới nói chuyện với nhau lần đầu, đã không ân cần thì thôi, lại ra chiều lên mặt dạy đời.
Tiêu Phong thấy Đoàn Dự vẫn còn nhợt nhạt nhưng nói năng rành mạch, trung khí tạm thời hưng vượng, biết rằng Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu đã cấp kỳ hiệu nghiệm, tính mệnh không còn gì đáng lo liền nói:
- Tam đệ, thôi tất cả cùng vào ntrong nhà nghỉ ngơi một lát rồi bàn tính xem phải làm gì.
Đoàn Dự nói:
- Hay lắm!
Chàng liền đứng lên định bước đi. Chung Linh vội kêu:
- Ấy chết, Dự ca chớ nên loạn động khiến cho vết thương lại vỡ ra.
Giọng nàng đầy vẻ lo lắng. Tiêu Phong mừng rỡ nói:
- Nhị đệ, linh dược trị thương của ngươi quả là thần kỳ không gì sánh bằng.
Hư Trúc ậm ừ, trong bụng vẫn phập phồng về mấy câu nói quan thiết của Chung Linh, hoang mang như kẻ mất hồn. Mọi người đi vào trong nhà, Đoàn Dự lên giường nằm, còn bọn Tiêu Phong ngồi ở đằng trước. Khi đó trời đã nhá nhem, bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc liền châm đèn, kẻ pha trà người nấu cơm phục thị Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự và Chung Linh, còn A Tử và Du Thản Chi thì không ngó ngàng gì tới. A Tử trong bụng tức tối, ngựa quen đường cũ tính chuyện gia hại bốn người nhưng nghĩ đến muốn cho mắt được sáng trở lại thì phải cầu khẩn Hư Trúc nên đành nén giận.
Tiêu Phong chẳng thèm để ý đến A Tử có giận hay không, tiện tay mở chiếc ô kéo ở bàn bên cạnh giường, không khỏi ngẩn ngơ. Đoàn Dự và Hư Trúc thấy ông mặt mày khác lạ, nhìn vào thấy bên trong đầy đồ chơi của trẻ con, hoặc con hổ bằng gỗ, chó nặn bằng đất, cái giỏ đan bằng cỏ, ống tre đựng dế … và vài con dao rỉ. Những vật đó vẫn thường thấy nơi các nhà nông, không có gì là lạ. Tiêu Phong cầm con hổ lên, chăm chăm xuất thần.
A Tử không biết ông đang làm gì, trong bụng tức tối, giơ tay vò đầu, cạch một tiếng khuỷu tay đụng phải cái guồng quay tơ ở bên cạnh. Cô ta liền rút phắt thanh kiếm đeo bên hông, soẹt một tiếng, chém đứt đôi chiếc guồng tơ.
Tiêu Phong mặt biến sắc, quát lớn:
- Ngươi … ngươi làm gì đó?
A Tử đáp:
- Cái guồng đó đụng làm đau tiểu muội, chặt nó đi thì đã sao?
Tiêu Phong giận dữ nói:
- Ngươi cút ra ngoài đi! Những đồ vật trong nhà này, ai cho ngươi tùy tiện phá hủy?
A Tử nói:
- Ra thì ra đã sao nào?
Nàng rảo bước đi ra, trong cơn cuồng nộ nên hơi vội, bình một tiếng trán đụng ngay vào khung cửa. A Tử chẳng nói chẳng rằng, đưa tay mò đường, hấp tấp đi ra. Tiêu Phong trong lòng ái ngại, liền bước ra đỡ tay nàng, nhỏ nhẹ nói:
- A Tử, em đụng có đau không?
A Tử quay người lại sà vào lòng ông, khóc nức nở. Tiêu Phong nhè nhẹ vỗ lên lưng cô gái, nói nhỏ:
- A Tử, ta thật không phải, mới rồi lớn tiếng nói nặng cô.
A Tử vẫn thút thít:
- Anh đổi khác rồi! Đổi khác rồi! Không còn tốt với em như xưa nữa.
Tiêu Phong dịu dàng nói:
- Thôi ngồi xuống nghỉ đi, uống chút trà, có được không?
Ông bưng chén trà của mình lên, để ghé vào miệng A Tử, tay trái vòng qua lưng nàng. Năm xưa khi A Tử bị ông đánh đứt gân cốt rồi, Tiêu Phong chăm chút cho nàng cả đến hơn một năm, không nói cho ăn cho uống, đến cả thay áo chải đầu, đại tiểu tiện cũng phải lo cho cô gái. Khi đó gân cốt nàng đã đứt không thể nào ngồi dậy được, mỗi khi cho nàng uống thuốc, ăn cháo, bao giờ tay trái cũng vòng qua hông, lâu dần thành thói, bây giờ cho nàng uống trà cũng một lối đó. A Tử nằm trong tay ông uống mấy ngụm trà, trong lòng sung sướng, bật cười khúc khích nói:
- Tỉ phu có còn xua đuổi em nữa hay thôi?
Tiêu Phong bỏ nàng ra, quay lại để chén trà xuống bàn, trong bóng đêm đột nhiên thấy một cặp mắt đầy oán độc, hung tợn như loài dã thú, trừng trừng nhìn mình. Tiêu Phong hơi ngạc nhiên, thấy Du Thản Chi ngồi thu lu một góc nhà, nghiến răng, mũi phập phồng, tưởng như muốn xông lên cắn xé mình. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Gã này không biết lai lịch ra sao nhưng mọi việc đều cực kỳ cổ quái”. Lại nghe A Tử nói tiếp:
- Tỉ phu, em chặt đứt cái guồng quay tơ, sao anh lại tức giận đến thế?
Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:
- Đây chính là nhà của nghĩa phụ, nghĩa mẫu ta, ngươi chặt đứt chính là cái guồng quay tơ của mẹ nuôi ta đó.
Mọi người đều kinh ngạc. Tiêu Phong cầm con hổ nhỏ bằng gỗ lên, chăm chú nhìn. Dưới ánh đèn vàng vọt, cái bóng to cao của ông chiếu lên tường. Ông lấy ngón tay giữa và ngón tay trỏ vuốt ve món đồ chơi, vẻ mặt hết sức trìu mến nói:
- Con hổ này chính tay cha nuôi ta gọt cho ta, năm đó ta vừa lên năm, nghĩa phụ … khi đó ta gọi ông là gia gia … cũng ở dưới ánh đèn vàng như thế này, gọt cho ta con hổ gỗ. Má má ở bên cạnh se tơ, còn ta ngồi bên cạnh cha, thấy cái tai cái mũi con hổ gọt thành, trong lòng hết sức cao hứng …
Đoàn Dự hỏi:
- Đại ca cứu tiểu đệ đến đây phải không?
Tiêu Phong gật đầu:
- Đúng thế!
Thì ra khi nhà sư vô danh kia đang thuyết pháp, Cưu Ma Trí đột nhiên hạ độc thủ đả thương Đoàn Dự. Vô danh lão tăng liền phất tay áo, đẩy Cưu Ma Trí bật ra ngoài mấy trượng. Cưu Ma Trí không dám ở lại, quay mình chạy như bay xuống chân núi.
Tiêu Phong thấy Đoàn Dự bị thương nặng, vội vàng cứu chữa. Huyền Sinh liền lấy linh dược trị thương bôi lên vết thương. Hỏa Diễm Đao của Cưu Ma Trí thế đạo cực kỳ lăng lệ, nếu không phải Đoàn Dự nội lực thâm hậu, đao thế chạm vào ngực lập tức phát sinh ám kình đề ngự thì đã chết tươi ngay tại đương trường rồi.
Tiêu Phong thấy trên núi gió thổi mạnh, Đoàn Dự đã bị thương không nên ở ngoài gió, nên đã bồng chàng đến nơi mình ở xưa kia. Ông đặt Đoàn Dự nằm trên giường rồi lập tức quay lại định gặp phụ thân và sắp xếp cho mười tám võ sĩ Khất Đan, có ngờ đâu ngôi nhà bỏ không của cha mẹ nuôi mấy hôm nay lại có người ở, mà người đó với Đoàn Dự cũng từng quen biết.
Ông lên trở lại núi Thiếu Lâm thì mọi việc đã ổn thỏa. Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác sau khi được nhà sư vô danh điểm hóa Phật pháp đã qui y tam bảo, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm. Hai người không những đã xóa hết oán thù mà nay còn là sư huynh đệ.
Võ học Thiếu Lâm của Tiêu Viễn Sơn chưa truyền sang nước Liêu, quần hùng Trung Nguyên vì thế cũng an lòng. Tiêu Phong không thấy bóng dáng cha đâu, mười tám võ sĩ Khất Đan được bộ thuộc cung Linh Thứu bảo vệ cũng bình an, không ai gia hại được. Các lộ anh hùng thấy mọi việc đã xong cũng lục tục hạ sơn. Tiêu Phong không muốn gặp ai để lại gây thêm tranh chấp nên trốn ở một cái hang bên cạnh chùa, đến chiều tối mới đến cửa chùa xin cầu kiến, xin được gặp phụ thân.
Tri khách tăng chùa Thiếu Lâm quay vào bẩm báo, một hồi sau quay trở ra nói:
- Tiêu thí chủ, lệnh tôn đã ở lại bản tự xuất gia làm sư rồi. Ông muốn ta chuyển cáo với thí chủ là việc trần duyên đã dứt, tâm đã giải thoát, thực là bình an vui vẻ, từ nay nhất tâm học Phật tham Thiền, xin thí chủ chẳng nên nhớ đến nữa. Tiêu thí chủ làm đại quan nước Liêu, chỉ mong sao Tống Liêu không bao giờ gậy chuyện can qua. Nếu như Liêu đế có bụng xâm lăng Đại Tống, xin thí chủ mở lòng từ bi nghĩ đến nghìn vạn sinh linh hai nước.
Tiêu Phong chắp tay đáp:
- Vâng!
Trong lòng cực kỳ bi thương nghĩ thầm: “Gia gia tuổi tác đã lớn, hôm nay không muốn gặp mặt ta nữa, e rằng từ nay không còn bao giờ gặp lại nhau”. Tiêu Phong lại nghĩ: “Ta là Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu, cả một dãy nam cương đều ở trong tay. Nếu như Đại Tống tính chuyện xâm lăng nước Liêu, ta dĩ nhiên phải điều binh khiển tướng chặn lại, còn như nếu hoàng thượng muốn phát binh đánh xuống Đại Tống thì ta cũng cực lực ngăn trở”.
Còn đang suy nghĩ đã nghe tiếng chân người rầm rập bảy tám lão tăng trong chùa đi ra trong đó gồm Thần Sơn thượng nhân, cùng bọn Triết La Tinh cao tăng bên ngoài. Huyền Tịch, Huyền Sinh mọi người hành lễ từ biệt, Ba La Tinh đứng ở sau lưng tất cả cùng chắp tay tiễn khách.

datlucky_way

27-07-2009 08:50 AM

Hồi 44(b) : NIỆM UỔNG CẦU MỸ QUYẾNLƯƠNG DUYÊN AN TẠI 






Bấm vào đây để xem nội dung.


Mong sao thành được lương duyên,
Kết thân hai nước giữ yên cõi bờ.
Tưởng đâu phận gái cống Hồ,
Thân trai giờ cũng trông nhờ đục trong.
*
* *








Triết La Tinh nói:
- Sư đệ, ta trở về Thiên Trúc, hôm nay chia tay rồi cách xa nghìn trùng, không biết bao giờ mới có dịp gặp lại. Ngươi quyết ý không về cố hương, định ở cho tới chết già ở Trung Thổ hay sao?
Y dường như muốn cho các nhà sư Thiếu Lâm khỏi hồ nghi nên dùng tiếng Hoa nói chuyện với sư đệ. Ba La Tinh mỉm cười:
- Sư huynh sao vẫn còn chưa tham ngộ? Thiên Trúc cũng là Trung Thổ, Trung Thổ cũng là Thiên Trúc, chính là ý của Đạt Ma sư tổ khi đông lai.
Triết La Tinh hơi thảng thốt nói:
- Một lời của sư đệ đã khiến ta thức tỉnh. Ngươi không còn là sư đệ mà là sư phụ ta rồi.
Ba La Tinh cười đáp:
- Nhập môn có người trước kẻ sau, ngộ đạo có kẻ sớm người muộn. Sớm cũng tốt mà muộn cũng tốt, được tham ngộ lại càng tốt hơn.
Hai người nhìn nhau cười xòa. Tiêu Phong náu mình ở một bên, đợi cho Thần Sơn, Đạo Thanh, Triết La Tinh tất cả hạ sơn rồi, ông mới mon men đi phía sau. Mới được mấy bước thì có một người trong chùa đi ra, chính là Hư Trúc. Y trông thấy Tiêu Phong mừng rỡ vô cùng tiến đến gần nói:
- Tiểu đệ đang đi khắp nơi tìm đại ca, nghe nói tam đệ bị thương nặng, không hiểu thương thế ra sao?
Tiêu Phong đáp:
- Ta cứu y hạ sơn, để nằm trong một gia trang.
Hư Trúc hỏi:
- Thế thì mình cùng đi thăm y có được chăng?
Tiêu Phong đáp:
- Thế thì hay lắm, hay lắm.
Hai người sóng vai cùng đi, được mươi trượng thì bốn nàng Mai Lan Cúc Trúc ở trong rừng chạy ra, đi phía sau Hư Trúc. Hư Trúc cho Tiêu Phong hay chư nữ cung Linh Thứu cùng quần hào bảy mươi hai đảo, ba mươi sáu động đã xuống núi cả rồi, mười tám võ sĩ Khất Đan cũng đi cùng, xem chừng quần hào Trung Nguyên không dễ gì dám gây sự. Tiêu Phong lập tức tạ ơn, nghĩ thầm: “Vị nghĩa đệ của ta đây quả là kỳ lạ, do tam đệ thay ta kết bái kim lan chi giao, ngờ đâu đến khi hoạn nạn lại giúp sức thật nhiều”.
Hư Trúc cũng cho hay đã bắt Đinh Xuân Thu giao cho Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm giám quản, mỗi năm hai tiết Đoan Ngọ và tiết Trùng Dương, các nhà sư chùa Thiếu Lâm sẽ cho y uống thuốc của cung Linh Thứu để cho y khỏi bị Sinh Tử Phù phát tác. Cái mạng y ở trong tay người khác rồi, xem chừng không còn dám làm điều sai quấy nữa. Tiêu Phong vỗ tay cười ha hả nói:
- Nhị đệ đã trừ được một đại hại cho võ lâm. Gã Đinh Xuân Thu kia được Phật pháp điểm hóa, mai sau những điều xấu xa tàn ác bớt dần, không biết sẽ đi về đâu.
Hư Trúc vẫn rầu rĩ không vui nói:
- Tiểu đệ nguyện xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm nhưng sư phụ sư tổ lại đuổi ra ngoài, còn gã Đinh Xuân Thu thương thiên hại lý, làm không biết bao nhiêu điều ác độc thì lại được ở chùa Thiếu Lâm thanh tu, sao cái nghiệp báo sướng khổ hai người lại chẳng giống nhau?
Tiêu Phong mỉm cười nói:
- Nhị đệ, ngươi mong được như Đinh lão quái nhưng Đinh lão quái còn mong gấp trăm gấp nghìn lần để được như ngươi. Ngươi thân là chủ nhân cung Linh Thứu, thống suất ba mươi sáu động chủ, bảy mươi hai đảo chủ, uy chấn thiên ha, sao lại bảo là không hay?
Hư Trúc lắc đầu:
- Trong cung Linh Thứu toàn là đàn bà con gái, tiểu đệ chỉ là một chú tiểu, ở chung với họ thật cực kỳ bất tiện.
Tiêu Phong cười ha hả nói:
- Ngươi vẫn còn là tiểu hòa thượng hay sao?
Hư Trúc lại tiếp:
- Cái bọn tâng bốc bợ đỡ phái Tinh Tú vẫn cứ luẩn quẩn bên tiểu đệ, không biết làm sao đuổi được chúng đi.
Tiêu Phong đáp:
- Những kẻ đó không phải bẩm tính trời sinh như thế, chỉ vì làm môn hạ lão quái mà ra, nếu không tâng bốc bợ đỡ thì khó lòng mà sống được. Nhị đệ, từ rày ngươi cố gắng quản giáo, nếu họ vẫn khăng khăng không chịu đổi thay, lúc đó hãy tống cổ đi cũng vừa.
Hư Trúc nghĩ đến cha mẹ mình trong một ngày đã tìm ra được nhưng lại rồi cùng chết cả, lại càng bi thương, nhịn không nổi lệ nhỏ ròng ròng. Tiêu Phong an ủi:
- Nhị đệ, những việc không vừa ý trên đời này rất nhiều. Năm xưa ta bị trục xuất khỏi Cái Bang, anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ ai ai cũng muốn giết ta cho rảnh, trong lòng ta hết sức chua xót, sau một thời gian từ từ rồi cũng nguôi ngoai.
Hư Trúc chợt nói:
- Đúng thế! Đúng thế! Năm xưa đức Như Lai thuyết pháp trong thành Vương Xá nơi núi Linh Thứu, như vậy hai chữ Linh Thứu cũng có liên quan đến Phật pháp. Rồi cũng có ngày tiểu đệ sẽ đổi cung Linh Thứu thành chùa Linh Thứu, dạy cho các bà bà, tẩu tẩu, cô nương thành ni cô hết thảy.
Tiêu Phong ngửa mặt cười sằng sặc nói:
- Trong chùa hòa thượng lại đầy ni cô, quả là chưa hề nghe nói đến.
Hai người vừa đi vừa nói, đến nhà Kiều Tam Hòe vùa đúng lúc Du Thản Chi đang định móc mắt Chung Linh nên may mà ngăn lại kịp. Đoàn Dự hỏi:
- Đại ca, nhị ca có thấy gia gia của đệ không?
Tiêu Phong đáp:
- Về sau thì không gặp lại nữa.
Hư Trúc nói:
- Trong khi hỗn loạn quần hùng tứ tán khắp nơi, tiểu huynh không kịp đến bái kiến lão bá, quả thực thất lễ.
Đoàn Dự đáp: 
- Nhị ca chẳng phải khách sáo. Gã Đoàn Diên Khánh kia là đại đối đầu của gia đình tiểu đệ, chỉ sợ y sẽ làm khó cho gia gia của đệ thôi.
Tiêu Phong nói:
- Việc đó không thể không lo, thôi để ta đi tìm lão bá có gì tiếp ứng.
A Tử chen vào:
- Sao tỉ phu cứ luôn mồm lão bá, tiểu bá, chẳng gọi một tiếng “nhạc phụ đại nhân”?
Tiêu Phong thở dài:
- Đây chính là mối hận một đời của ta đó, còn có gì để nói đâu?
Nói xong ông đứng lên định ra khỏi phòng. Khi đó Mai Kiếm vừa bưng một bát cháo gà vào phòng định đút cho Đoàn Dự ăn, nghe mọi người nói thế bèn nói:
- Tiêu đại hiệp không phải nhọc công đi tìm nữa, để tì tử truyền hiệu lệnh của chủ nhân, sai thuộc hạ cung Linh Thứu truy tầm bốn phía, nếu thấy Đoàn Diên Khánh có ý hành hung thì lập tức bắn pháo bông làm hiệu, mình sẽ chạy tới cứu viện, liệu có được không?
Tiêu Phong mừng rỡ đáp:
- Hay lắm! Cung Linh Thứu thuộc hạ cả hơn nghìn người, chia nhau ra lo liệu so với chúng ta chỉ có vài người thì hẳn hơn nhiều.
Thế rồi Mai Kiếm lập tức ra lệnh. Các bộ của cung Linh Thứu liên lạc với nhau cực kỳ mau chóng, Hư Trúc vừa đến nhà của Kiều Tam Hòe thì chư nữ thuộc Huyền Thiên Bộ do Phù Mẫn Nghi tất lãnh đã biết rồi, liền chạy đến gần đó, ngầm bảo vệ.
Đoàn Dự vì thế cũng đỡ lo, lại nhớ đến Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Trong lòng nàng hận ta biết chừng nào, chỉ e sau này gặp lại không thèm nhìn mặt mình nữa”. Nghĩ đến đây tự nhiên thở dài một tiếng.
Chung Linh hết sức quan hoài liền hỏi:
- Dự ca vết thương lại đau ư?
Đoàn Dự đáp:
- Cũng không đau lắm.
A Tử nói:
- Chung cô nương, tuy cô thích tiểu ca ca ta thật nhưng đâu có biết được tâm sự của y. Ta xem tấm lòng tương tư của cô rồi cũng chẳng đến đâu hết.
Chung Linh nói:
- Ta đâu có thèm nói chuyện với ngươi, sao lại xía vào làm gì?
A Tử cười đáp:
- Ta chẳng thèm xía vào, cũng chẳng có liên can chi hết. Chỉ e rằng có người xinh đẹp gấp mười ngươi, dịu dàng gấp mười ngươi, hấp dẫn gấp mười ngươi xen vô, lúc đó anh hai ta chẳng còn nhớ gì đến ngươi nữa. Ca ca ta vì cớ gì thở dài, ngươi không biết hay sao? Thở dài là bởi trong lòng có chỗ chưa vừa ý. Ngươi được săn sóc ca ca ta, trong lòng vui sướng lắm rồi nên mới không thở dài. Còn anh hai ta thở lên thở xuống, cũng bởi vì nghĩ đến người khác.
A Tử không còn cách gì móc mắt Chung Linh được nên lấy lời châm chọc, miễn sao cho nàng đau lòng mới hả dạ. Chung Linh nghe nói thế, hết sức tức tối, nhưng nghĩ lại lời cô ta quả không sai, bao nhiêu bực bội biến thành buồn phiền. Cũng may tuổi nàng còn nhỏ, vốn dĩ ngây thơ hoạt bát, tuy đối với Đoàn Dự có mối thâm tình nhưng cũng chưa đến nỗi khắc ghi trong xương tủy, chỉ sao được ở cùng một chỗ với tình lang là đã thoải mái lắm rồi, trong lòng Đoàn Dự nghĩ đến người khác, không nhớ đến mình, tuy đau lòng thật nhưng ngoài chuyện đó ra cũng không đến nỗi nào.
Đoàn Dự vội nói:
- Chung … Chung … Linh muội muội, cô đừng có nghe A Tử nhắm mắt đoán mò.
Chung Linh nghe Đoàn Dự gọi mình là muội muội chứ không còn là Chung cô nương, đủ biết thân mật chừng nào, mặt mày tươi như hoa bèn nói:
- Cô ta thích châm chọc người khác, em cũng chẳng thèm để ý.
A Tử nổi giận đùng đùng, từ khi mắt nàng mù đến nay, ghét nhất ai nhắc đến chữ “mắt”, chữ “mò”, thà rằng Đoàn Dự bảo nàng nói nhăng, nói ẩu thì nàng chỉ cười ruồi, nào ngờ lại dùng mấy chữ “nhắm mắt đoán mò”, bèn hỏi:
- Nè anh hai, quả thực ca ca thích Vương cô nương hơn hay thích Chung cô nương hơn? Vương cô nương đã ước hẹn với tiểu muội, để khi gặp lại anh sẽ chính miệng nói ra hay để em phải nói?
Đoàn Dự nghe nói thế, lập tức nhỏm dậy hỏi dồn:
- Cô có ước hẹn gặp lại Vương cô nương sao? Ở nơi nào? Bao giờ? Có chuyện gì phải nói?
Chỉ cần xem bộ dạng anh chàng bồn chồn như thế, chẳng cần nói thêm, Chung Linh đã hiểu ngay trong bụng Đoàn Dự thế nào, Vương cô nương kia quả hơn mình không biết bao nhiêu lần. Nàng xưa nay bụng dạ rộng rãi, trước kia tuy có lúc tha thiết thật nhưng đến lúc này cũng đã nhạt nhòa. Nếu như Vương Ngữ Yên ở vào địa vị nàng, thấy ý trung nhân yêu thương người khác, ắt sẽ đau lòng muốn chết quách cho xong, Mộc Uyển Thanh thì sẽ bắn ngay cho Đoàn Dự một mũi tên, A Tử thì sẽ tìm cách giết chết đối thủ. Chung Linh chỉ nói:
- Đừng cử động, cẩn thận không vết thương lại vỡ ra, chảy máu nữa.
Hư Trúc ở bên cạnh nghe ba người nói, nghĩ thầm: “Chung cô nương đối với tam đệ tình ý thân mật thế, chắc không phải là Mộng Cô của mình. Nếu không khi cô ta nghe giọng của mình, sao chẳng có gì khác lạ cả?”. Chợt y nghĩ lại bèn kêu thầm: “Chết rồi! Không phải! Đồng Mỗ sư bá, Lý Thu Thủy sư thúc, cho chí Dư bà, Thạch tẩu, Phù cô nương … tất cả đàn bà con gái, người nào người nấy bụng dạ khôn lường, khác xa với đám đàn ông con trai. Không chừng Chung cô nương quả là Mộng Cô, đã sớm nhận ra ta rồi nhưng chỉ chôn sâu trong dạ”.
Còn Đoàn Dự thì vẫn cứ hỏi tới xem A Tử ước hẹn với Vương Ngữ Yên gặp nhau ở đâu. A Tử thấy anh chàng nôn nao như thế, tính toán trong bụng xem làm sao đùa rỡn anh ta một phen, có khi được lợi không chừng, thành thử cứ thuận mồm đưa đẩy.
Lan Kiếm quay trở vào báo, cho hay Huyền Thiên Bộ đã truyền lệnh ra rồi xin Đoàn Dự cứ yên tâm. Đoàn Dự nói:
- Đa tạ tỉ tỉ nhọc lòng, tại hạ cảm kích không đâu cho hết.
Lan Kiếm thấy chàng ở ngôi vị vương tử nước Đại Lý tôn quí như thế nhưng lời ăn tiếng nói, hành động cử chỉ không ra vẻ gì ta đây, tự nhiên sinh lòng mến mộ, lại nghe Đoàn Dự hỏi dò A Tử về việc ước hẹn, nhịn không nổi xen vào:
- Đoàn công tử, cô em công tử nói đùa chơi với ông đấy thôi, chớ có coi là thật.
Đoàn Dự hỏi:
- Sao tỉ tỉ lại biết xá muội nói đùa?
Lan Kiếm cười đáp:
- Nếu tiểu tì nói ra e rằng Đoàn cô nương sẽ bảo là tiểu tì lắm lời, cũng không biết chủ nhân có cho phép hay chăng?
Đoàn Dự vội quay sang Hư Trúc:
- Nhị ca cho cô ta nói đi.
Hư Trúc gật đầu nói với Lan Kiếm:
- Tam đệ và ta đâu còn phân biệt ai với ai, các cô chớ có dấu diếm điều gì.
Lan Kiếm nói:
- Mới đây chúng tôi thấy cả bọn Mộ Dung công tử cùng nhau xuống núi Thiếu Thất, nghe họ bàn nhau đi qua Tây Hạ, Vương cô nương cũng đi theo biểu ca, khi đó cũng đã cách xa đến vài chục dặm làm sao ngày mai còn gặp Đoàn cô nương được nữa?
A Tử gắt lên:
- Đồ nha đầu thối tha, đã biết ta sẽ bảo ngươi lắm chuyện sao còn nói ra? Bốn chị em ngươi toàn là lũ hay thèo lẻo, chủ nhân nói chuyện, chẳng biết qui củ là gì dám ghé vào nói leo.
Bỗng nhiên từ ngoài cửa sổ có tiếng con gái vọng vào:
- Đoàn cô nương sao dám la mắng tỉ tỉ bọn ta? Chìa khóa Thần Nông Các trên cung Linh Thứu do ta chưởng quản, cô nương có biết chăng? Chủ nhân muốn tìm phương cách chữa mắt cho cô nương, không thể không đến Thần Nông Các lục tìm sách vở để chế tác thuốc men.
Người nói đó chính là Trúc Kiếm. A Tử chột dạ nghĩ thầm: “Con xú a đầu này xem chừng nói thật, trước khi thằng cha sư chết toi Hư Trúc chữa mắt cho ta, mình không nên đắc tội với mấy đứa đầy tớ của hắn, khiến chúng giở quẻ ngầm thay mấy món thuốc thì mắt mình hết đường chữa. Hừ hừ, để khi mắt ta trị xong rồi sẽ cho chúng bay biết tay A Tử”. Cô nàng bèn ngồi yên không nói gì nữa.
Đoàn Dự nói với Lan Kiếm:
- Đa tạ tỉ tỉ đã cho hay. Bọn họ đi Tây Hạ ư? Không biết để làm gì thế?
Lan Kiếm đáp:
- Tiểu tì cũng không nghe họ nói gì về việc này.
Hư Trúc nói:
- Tam đệ, việc này thì ta biết. Ta nghe Công Dã tiên sinh nói với các trưởng lão Cái Bang là trên đường đi có gặp một đệ tử Cái Bang từ Tây Hạ trở về Trung Thổ, mang theo một trương bảng văn của quốc vương Tây Hạ, thông tri là công chúa nước này đã đến tuổi cập kê nên định vào ngày Trung Thu tháng tám năm nay kén rể. Nước Tây Hạ lập quốc bằng cánh cung vó ngựa nên mời anh hùng hào kiệt thiên hạ đến biểu diễn võ công để quốc vương có dịp tuyển được một phò mã tài mạo song toàn.
Mai Kiếm nhịn không nổi lại chen vào:
- Sao chủ nhân không đến Tây Hạ thử một phen? Chỉ cần Tiêu đại hiệp và Đoàn công tử không tranh giành thì cái chức phò mã gia quả dễ như trở bàn tay.
Mai Lan Cúc Trúc bốn nàng tính tình vốn dĩ lí lắt, Đồng Mỗ vẫn coi các cô chẳng khác gì con cái trong nhà, tuy danh nghĩa là chủ tớ nhưng tình nghĩa thì chẳng khác gì bà với cháu. Có điều Đồng Mỗ tính tình nghiêm nghị, mỗi khi gặp chuyện chẳng vừa lòng liền trừng phạt ra oai ngay thành thử bốn chị em lúc nào cũng nơm nớp không dám phóng túng. Còn Hư Trúc tính tình lại thật hiền hòa, bình thời ở gần họ chẳng có chút gì ra vẻ chủ nhân tôn nghiêm, vừa giản dị lại vừa kính trọng bọn họ, thành thử các cô nghĩ sao nói vậy, chẳng còn e ngại gì nữa.
Hư Trúc liên tiếp xua tay nói:
- Không đi đâu! Không đi đâu! Ta là người xuất gia …
Y thuận mồm nói ra là kẻ tu hành nhưng chưa dứt câu mặt đã đỏ ửng, đưa mắt nhìn trộm Chung Linh một cái, thấy nàng đang ngẩn ngơ nhìn Đoàn Dự, dường như không để ý gì đến câu nói của mình. Bỗng dưng lòng y lại nghĩ: “Nếu mình đi qua Tây Hạ, ta … ta và Mộng Cô vốn gặp nhau ở hầm băng trong hoàng cung, Mộng Cô không chừng hiện cũng đang ở Linh Châu, tam đệ không nói cho ta hay nàng đang ở nơi nào, sao mình không qua Tây Hạ nghe ngóng xem sao?”.
Y vừa tính như thế thì Đoàn Dự đã lên tiếng:
- Nhị ca, cung Linh Thứu và nước Tây Hạ rất gần nhau, cũng cùng đường về, sao mình không nhân tiện đi Tây Hạ một chuyến? Cái vị tỉ tỉ chẳng biết là gì Kiếm kia … ấy chết xin lỗi, bốn cô tướng mạo giống nhau quá, quả thực tại hạ không thể nào phân biệt … vị tỉ tỉ kia bảo nhị ca đi ứng tuyển phò mã, tuy nghe như nói đùa nhưng nghĩ ra ngày rằm tháng tám, hào kiệt bốn phương tụ tập ở Linh Châu, chắc là náo nhiệt lắm. 
Đại ca cũng chẳng cần phải trở về Nam Kinh gấp, tất cả chúng mình cùng đi Tây Hạ du ngoạn, sau đó quay trở lại cung Linh Thứu thưởng thức rượu ngon trăm năm của Thiên Sơn Đồng Mỗ, thực là một dịp vui biết mấy. Hôm trước tiểu đệ ở Linh Thứu Cung cùng nhị ca hai người uống một trận sau khướt, quả là khoái hoạt.
Khi Tiêu Phong đi lên núi Thiếu Thất, mười tám tên võ sĩ Khất Đan đều mang theo liệt tửu thế nhưng lúc này các võ sĩ không có mặt nơi đây, ông đã lâu chưa uống rượu, nghe Đoàn Dự nhắc đến bách niên giai nhưỡng của Thiên Sơn Đồng Mỗ trên cung Linh Thứu không khỏi ứa nước dãi, góc miệng nhếch một nụ cười.
A Tử chen vào:
- Đi, đi thôi! Tỉ phu, thôi tất cả mình cùng đi nha.
Nàng biết rằng muốn chữa lành mắt mình thì phải theo Hư Trúc lên cung Linh Thứu nhưng nếu không có Tiêu Phong che chở cho mình thì Hư Trúc dù có muốn chữa cũng bị bốn cô ả thủ hạ mồm năm miệng mười làm khó, không khỏi đêm dài lắm mộng. Nàng nghe Tiêu Phong trầm ngâm không trả lời nghĩ thầm: “Tỉ phu bề ngoài thô hào nhưng trong lòng cực kỳ tinh tế, hẳn anh ta đã biết rõ dụng tâm của mình, chi bằng nói thẳng ra cầu xin thì mới dễ nhận lời”. Nghĩ thế nàng bèn đứng lên, nắm vạt áo Tiêu Phong lắc lắc mấy cái năn nỉ:
- Tỉ phu, nếu anh không đưa em lên cung Linh Thứu, thì em … thì em mãi mãi không bao giờ còn được thấy ánh mặt trời.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Việc chữa sáng đôi mắt cho cô ta quả là một việc lớn”. Rồi lại tính toán: “Ta ở Đại Liêu chức vị tuy cao thật nhưng chung quanh chẳng có bạn bè nào mà nói chuyện. Hào kiệt Trung Nguyên thì mình đắc tội đã nhiều, cũng may kết giao được với hai người huynh đệ khẳng khái hào hiệp, ở với nhau thêm vài hôm cũng là đại khoái sự. Vả lại mình đã kiếm được A Tử rồi, bây giờ dù có trở về Nam Kinh cũng không có việc gì làm, thật chán muốn chết”. Ông bèn nói:
- Được, nhị đệ, tam đệ, tất cả chúng mình đi Tây Hạ một chuyến, sau đó sẽ lên Linh Thứu Cung, uống vài ngày cho đã đời rồi nhờ nhị đệ chữa mắt cho Đoàn cô nương.
Hôm sau tất cả cùng lên đường. Hư Trúc lại đến sơn môn chùa Thiếu Lâm khấu đầu vái lạy, lẩm nhẩm khấn tạ ân đức tổ sư và công lao của chư tăng dưỡng dục hơn hai mươi năm trời cùng vong linh phụ thân Huyền Từ và mẫu thân Diệp Nhị Nương.
Khi xuống chân núi thì chư nữ cung Linh Thứu đã chuẩn bị xe lừa để cho Đoàn Dự và Du Thản Chi nằm trong xe dưỡng thương. Du Thản Chi trong lòng tức tối lắm nhưng đành bấm bụng chịu đựng vì không đành chia tay với A Tử. Giá như A Tử thỉnh thoảng vén rèm xe lên, nói với y một hai câu thì cũng đủ khiến y lên tinh thần một hồi lâu, khổ nỗi A Tử lại cưỡi ngựa, khi trước khi sau nhưng lúc nào cũng ở bên cạnh Tiêu Phong. Du Thản Chi trong bụng khó chịu lắm nhưng đâu có dám tỏ vẻ không vui với A Tử.
Đi được hai ngày, quần nữ trong cung Linh Thứu dần dần tụ lại. Thủ lãnh Loan Thiên Bộ bẩm với Hư Trúc và Đoàn Dự rằng họ đã gặp Trấn Nam Vương, cho ông hay thương thế Đoàn Dự đã đỡ nhiều, không có gì phải lo lắng. Trấn Nam Vương yên tâm nhờ Loan Thiên Bộ nói với Đoàn Dự mau sớm trở về Đại Lý. Chư nữ Loan Thiên Bộ lại nói:
- Đoàn người của Trấn Nam Vương đi về hướng đông bắc, còn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc lại đi về hướng tây hai bên không thể nào chạm mặt được.
Đoàn Dự mừng lắm, cảm ơn chư nữ Loan Thiên Bộ. Chung Linh hỏi Đoàn Dự:
- Lệnh tôn muốn công tử trở về Đại Lý nhưng sao chính họ lại đi về phía đông bắc là sao?
Đoàn Dự mỉm cười, chưa kịp trả lời, A Tử đã cười nói:
- Gia gia chắc là bị mẹ em giữ rịt lấy rồi, không cho về Đại Lý nữa. Chung cô nương nếu như định giữ rịt trái tim ca ca ta thì phải học cách của má má ta.
Hai ngày qua, Đoàn Dự suy đi tính lại, mấy lần toan nói rõ cho Chung Linh hay nàng chính là em gái mình, nhưng thấy chuyện này nói ra quả là xấu mặt, đã làm Chung Linh đau lòng lại tổn hại đến thanh danh phụ thân nên nghĩ bụng tạm không nói ra là hơn.
Chung Linh cũng biết rõ Đoàn Dự sở dĩ muốn đến Tây Hạ chẳng qua cũng chỉ mong gặp lại cái cô nàng họ Vương kia, thế nhưng ngày ngày nàng được kề cận bên Đoàn Dự cũng thỏa tâm nguyện nên không cần nghĩ đến ngày sau khi Đoàn Dự và Vương cô nương gặp nhau thì sẽ ra sao, còn những lời chua ngoa khích bác của A Tử nàng chỉ bỏ ngoài tai.
Khi đó trời đang lúc viêm nhiệt, trưa đến nắng chang chang, cũng may còn lâu mới tới Trung Thu, đoàn người chỉ đi lúc sáng sớm và khi chiều tối, mỗi ngày chỉ được sáu bảy chục dặm còn thì phải nghỉ. Đi đường xa đâu phải chỉ một ngày, thương thế Đoàn Dự khỏi rất nhanh. Hư Trúc ghép xương gãy lại cho Du Thản Chi, dùng kẹp ép hai bên buộc chặt xem ra cũng có cơ hồi phục. Du Thản Chi không nói chuyện với ai, đến Hư Trúc chữa chân cho y mà chỉ lầm lầm lì lì đến tiếng “cảm ơn” cũng không mở miệng.
Hôm đó đoàn người đi đến đường cũ Hàm Dương, Đoàn Dự kể cho bọn Tiêu Phong nghe chuyện xưa kia Lưu Bang, Hạng Vũ tranh bá như thế nào. Tiêu Phong và Hư Trúc không từng đọc sách, nghe Đoàn Dự giơ roi thuật lại các anh hào đời trước cảm thấy cực kỳ hứng thú.
Đột nhiên có tiếng vó ngựa rầm rập, từ phía sau có hai người cưỡi ngựa vượt qua. Bọn Tiêu Phong giục ngựa tránh qua bên vệ đường nhường đường cho họ. Riêng A Tử còn đứng sừng sững giữa đường, đợi đến khi hai con ngựa kia chạy đến sau lưng mới vung roi quất một cái đánh vào đầu con ngựa vừa chạy đến.
Người cưỡi ngựa giơ roi lên cản roi A Tử lại, miệng kêu lên:
- Đoàn công tử, Tiêu đại hiệp!
Đoàn Dự quay lại nhìn, hóa ra là Ba Thiên Thạch, người phía sau là Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch giơ roi hất mã tiên của A Tử ra rồi cùng Chu Đan Thần nhảy xuống, quay về phía Đoàn Dự lạy phục xuống. Đoàn Dự cũng vội vàng xuống ngựa hoàn lễ hỏi:
- Cha ta bình an chứ?
Chỉ nghe vút một tiếng, A Tử lại vung roi đánh xuống đầu Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch chưa kịp đứng lên,thân hình nghiêng qua, một bên vẫn còn quì dưới đất. A Tử đánh không trúng, Ba Thiên Thạch đầu gối ấn xuống, chặn đầu roi lại. A Tử cố sức giựt ra nhưng không sao nhúc nhích. Nàng biết rằng nội lực mình không thể nào bì kịp đối phương, lập tức vung tay lên ném chiếc cán roi vào đầu Ba Thiên Thạch.
Ba Thiên Thạch ghét cô ta chọc cho Chử Vạn Lý tức quá mà chết, vốn đã có bụng trừng trị một mẻ, ngờ đâu mắt nàng tuy mù rồi nhưng hành động cực kỳ cơ biến, cán roi đến thật nhanh, Ba Thiên Thạch vừa nghe hơi gió, vội nghiêng đầu tránh qua, tuy không trúng mặt nhưng cạch một tiếng, cán roi cũng trúng ngay vai.
Đoàn Dự quát lớn:
- Tử muội, không được phá rối.
A Tử đáp:
- Tiểu muội có phá rối gì đâu? Y muốn lấy roi của ta thì ta cho y đấy chứ.
Ba Thiên Thạch cười hì hì nói:
- Đa tạ cô nương ban cho cây roi.
Y đứng lên lấy trong túi ra một phong thư, hai tay trình cho Đoàn Dự. Đoàn Dự cầm lấy nhìn qua thấy trên đề ba chữ: “Dự nhi lãm”, chính là thủ bút của phụ thân vội vàng hai tay nâng lên, sửa lại áo quần, cung kính mở ra, thấy trong đó Trấn Nam Vương bảo chàng đi qua Tây Hạ, nếu có cơ duyên thì tìm cách lấy công chúa nước này làm vợ. Trong thư viết:
Nước Đại Lý ta lánh riêng một cõi Nam cương, quốc tiểu binh nhược, khó lòng mà kháng cự ngoại địch, nếu như kết làm xuôi gia với Tây Hạ thì được thêm một cường viện, là thượng sách giữ đất an dân. Con phải coi cơ nghiệp tổ tông là quí, lấy xã tắc bách tính làm trọng mà ra sức làm cho xong.
Đoàn Dự đọc hết lá thư rồi, mặt lúc thì đỏ, lúc thì trắng, bẽn lẽn nói:
- Cái đó … cái đó …
Ba Thiên Thạch lại lấy ra một phong thư lớn, trên bao thư đóng dấu đỏ chót: Đại Lý Quốc Hoàng Thái Đệ Trấn Nam Vương Bảo Quốc Đại Tướng Quân, nói:
- Đây là biểu cầu thân do chính tay vương gia viết, sau khi đến Linh Châu xin công tử trình lên hoàng đế Tây Hạ.
Chu Đan Thần cũng cười mủm mỉm nói:
- Xin chúc công tử mã đáo thành công, cưới một cô công chúa như hoa tựa ngọc về Đại Lý để cho giang sơn nước nhà được vững như bàn thạch.
Đoàn Dự ngượng ngùng hỏi lại:
- Sao gia gia lại biết là ta đi sang Tây Hạ?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Vương gia được tin Mộ Dung công tử đi sang Tây Hạ cầu thân, liệu rằng công tử … cũng … cũng đi qua để xem trò náo nhiệt. Vương gia dặn rằng, công tử phải xem chuyện quốc gia đại sự làm trọng, lấy tư tình nhi nữ làm khinh.
A Tử cười khúc khích nói:
- Thiệt đúng là biết con không ai bằng cha. Gia gia nghe tin Mộ Dung Phục qua Tây Hạ, chắc là Vương cô nương cũng đi cùng, đứa con trai cưng của ổng hẳn là lót tót đằng sau. Hứ, kèo vênh thì cột cũng lệch, chính ông ta cũng có lấy quốc gia đại sự làm trọng, tư tình nhi nữ làm khinh đâu? Cớ sao ông ấy cũng đi mất đất, bao lâu nay không về Đại Lý?
Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Đoàn Dự nghe thấy A Tử mở lời bất kính với cha ruột của mình như thế, ai nấy mặt mày biến sắc. Những điều cô ta nói tuy là chuyện thực nhưng đời ai phận con gái lại mở miệng nói điều không phải của cha ra?
A Tử lại tiếp:
- Ca ca, trong thư gia gia còn viết gì nữa? Có nhắc gì đến em không?
Đoàn Dự đáp:
- Gia gia đâu có biết cô cũng ở chung với ta.
A Tử đáp:
- Xí, vậy đó, ông ấy không biết. Thế gia gia có dặn ca ca đi tìm em không? Có dặn dò anh tìm cách lo liệu cho đứa em gái đui mù không?
Trong thư Đoàn Chính Thuần đâu có đề cập những chuyện đó nhưng Đoàn Dự nghĩ như nếu mình nói thẳng ra không khỏi đau lòng cô em, bèn quay sang đưa mắt cho Ba Chu hai người để họ thừa nhận phụ vương có ra lệnh cho mình đi tìm A Tử. Ngờ đâu Ba Chu hai người làm như không hiểu nên không hùa theo. Chu Đan Thần nói:
- Trấn Nam Vương bảo hai chúng tôi đi theo phục thị công tử, để công tử gia sai bảo cốt làm sao lấy được công chúa nước Tây Hạ. Nếu không khi trở về Đại Lý, dẫu vương gia không trách tội thì chúng tôi cũng chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy ai.
Lời nói đó ám chỉ Đoàn Chính Thuần sai hai người đi theo giám thị Đoàn Dự, không thể không đi Tây Hạ ứng tuyển phò mã. Đoàn Dự gượng cười nói:
- Ta vốn không biết võ công, lại thêm trọng thương mới khỏi, chân khí không đề lên được, làm sao sánh được với anh hùng hảo hán trong thiên hạ.
Ba Thiên Thạch quay sang khom mình thi lễ với Tiêu Phong, Hư Trúc nói:
- Trấn Nam Vương sai tiểu nhân bái kiến Tiêu đại hiệp, Hư Trúc tiên sinh xin hai vị niệm tình kết nghĩa kim lan, giúp cho công tử chúng tôi một tay. Trấn Nam Vương cũng nói: “Trên núi Thiếu Thất lật đật vội vã nên không kịp gần gũi thăm hỏi hai vị, thật là thiếu sót” nên đặc biệt sai tiểu nhân dâng lên chút lễ bạc.
Nói xong lấy ra một con sư tử chạm bằng bích ngọc hai tay đưa cho Tiêu Phong. Chu Đan Thần cũng lấy ra một chiếc quạt xếp làm bằng ngà voi, trên có thư pháp của Đoàn Chính Thuần, trình lên Hư Trúc.
Hai người cảm ơn nhận lấy cùng nói:
- Việc của tam đệ, chúng tôi dĩ nhiên hết sức tương trợ, chẳng cần Đoàn bá phụ phải dặn dò! Được ban cho vật quí thế này, thật quả không dám.
A Tử nói:
- Bộ mấy người tưởng gia gia tốt bụng đó hả? Đó là biểu hai người đừng có giành chức phò mã của anh hai đó. Gia gia sợ cục cưng không đánh lại hai người, hai người nhận lời ấy là mắc vô cái rọ của gia gia.
Tiêu Phong thở hắt ra một hơi nói:
- Từ khi chị ngươi chết đi, ta nào có nghĩ đến chuyện lấy ai được nữa?
A Tử đáp:
- Ngoài miệng thì anh nói vậy nhưng biết anh bụng dạ thế nào? Hư Trúc tiên sinh, ông trung hậu thực thà, không phải như anh hai tôi phong lưu hiếu sắc, đáo xứ lưu tình, trước nay ông chưa hề có tình ý với cô nương nào, qua lấy công chúa Tây Hạ đi chẳng phải hay lắm sao?
Hư Trúc mặt đỏ bừng, liên tiếp xua tay:
- Không! Không! Ta … ta quyết không đâu, ta và đại ca giúp cho tam đệ hoàn thành việc cầu thân.
Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần hai người nhìn nhau, quay sang bái tạ Tiêu Phong và Hư Trúc nói:
- Đa tạ hai vị đáp lời.
Trong võ lâm khi một lời đã nói ra thì ngựa tứ cũng không đuổi kịp, Tiêu Phong và Hư Trúc cùng nhận tương trợ rồi thì dẫu có chuyện gì, Ba Chu hai người cũng không sợ họ nuốt lời đứng ta tranh giành với Đoàn Dự.
Đoàn người đi về hướng tây càng lúc càng gần thành Linh Châu, trên đường người trong võ lâm càng lúc càng gặp thêm nhiều. Tây Hạ tuy cương thổ so với Đại Liêu, Đại Tống có nhỏ hơn thật nhưng cũng là một nước lớn ở biên thùy, khi đó quốc vương nước này đã xưng đế, đương kim hoàng đế là Lý Càn Thuận, sử gọi là Sùng Tông Thánh Văn Đế niên hiệu Thiên Hựu An Dân, thời đó quốc thái dân an, triều chính thanh bình.
Người trong võ lâm nếu như lấy được công chúa Tây Hạ, vinh hoa phú quí thật dễ dàng, trên đời còn gì hơn được nữa? Có điều trong võ lâm nhân vật thành danh phần lớn đã lấy vợ sinh con, còn những thanh niên mới lớn thì võ công lại chẳng cao nên không hiếm lão niên anh hùng dẫn dắt con cháu đệ tử, đi thử vận may xem sao. Cũng vô số cướp sông cướp biển, hào khách bang hội, một thân một mình tuy chẳng một mảy hi vọng gì cũng nườm nượp hướng về phía thành Linh Châu. Không hiếm người nhủ thầm: “Nhân duyên một sợi xích thằng, Trời già đã buộc ai giằng cho ra. Biết đâu chừng mình có số lấy được công chúa Tây Hạ, chó ngáp phải ruồi, võ công không thắng được người khác nhưng hai người có duyên, gặp ta vừa mắt thế là có hi vọng làm phò mã gia”.
Trên đường đi vô số anh hào trẻ tuổi, ai nấy áo quần tươm tất, đến binh khí dụng cụ cũng đều sang trọng, tưởng như đi thi võ không bằng. Người đời vẫn nói: Nghèo học văn, giàu học võ, con nhà võ phần lớn nhà cửa khá giả, những kẻ phẩm hạnh không đoan chính thì tiền bạc lại càng dễ dàng, thành thử đi qua Tây Hạ mười người đến chín y phục hoa lệ, mong được lọt vào mắt xanh của công chúa. Những người quen biết, gặp nhau chọc ghẹo xong, không thể không dò hỏi xem dung mạo công chúa thế nào, võ nghệ cao hay thấp. Còn người không quen thì trừng mắt hầm hầm nhìn nhau, coi người kia như kẻ thù.
Hôm đó bọn Tiêu Phong đang đi trên đường bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, một con ngựa từ trước mặt chạy đến, người trên lưng ngựa cánh tay phải treo bằng một mảnh vải trắng vòng lên cổ, quần áo tả tơi, trông thật thảm hại. Bọn Tiêu Phong không để tâm nghĩ bụng người này nếu không phải là té ngã thì cũng bị ai đó đả thương, chuyện đó cũng là bình thường. Ngờ đâu thêm một hồi nữa, lại có thêm ba người cưỡi ngựa chạy tới, người nào cũng bị trọng thương, không gãy tay thì cũng què chân. Ba người đó mặt mày bơ phờ, cực kỳ ngượng ngập, cúi gầm xuống chạy ngang, không dám ngẩng lên nhìn bọn Tiêu Phong. Mai Kiếm hỏi:
- Trước mặt có đánh nhau chăng? Sao có nhiều người bị thương thế?
Nói chưa dứt câu, lại có hai người nữa chạy đến. Hai người này không cưỡi ngựa, mặt mày đầy máu me, một người đầu bịt khăn xanh máu vẫn còn rỉ ra không ngớt. Trúc Kiếm nói:
- Này, ngươi có cần thuốc trị thương không? Sao lại bị thương thế?
Người kia hầm hầm nhìn cô gái, nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, lầm lũi đi thẳng. Cúc Kiếm giận quá, rút phắt trường kiếm, định xông vào chém y. Hư Trúc lắc đầu nói:
- Thôi bỏ qua đi! Người này bị thương nặng lắm rồi, đừng chấp làm gì.
Lan Kiếm nói:
- Trúc muội hỏi y có cần thuốc trị thương không, người này vô lễ như thế, để cho y chết vì đau cho đáng kiếp.
Vừa lúc đó từ đằng trước bốn con ngựa vùn vụt chạy tới, phía trái hai người, phía phải hai người. Người trên lưng ngựa to mồm chửi bới, một người nói:
- Cũng chỉ vì ngươi cóc tía mà đòi ăn thịt thiên nga, không biết lượng sức mình được bao lăm mà đòi đi Linh Châu làm phò mã.
Lại một người khác chửi lại:
- Ngươi có bản lãnh sao không qua được cửa ải đó đi? Đánh thua rồi quay qua vặc với ta là sao?
Người bên kia đáp lời:
- Nếu không phải vì ngươi ở phía sau ám tiễn thương nhân, ta thua làm sao được?
Bốn người đó phóng ngựa chạy nhanh, không hiểu cãi nhau chuyện gì, chỉ chốc lát đã đến trước mặt. Bọn họ thấy bọn Tiêu Phong đông, không dám giành đường nên lách ngựa qua hai bên lề nhưng vẫn tiếp tục chỉ trỏ sỉ mắng nhau, nghe loáng thoáng thì cả bốn người đều tính chuyện đi Linh Châu mong làm phò mã, nhưng gặp cái cửa ải nào đó, cả bốn đều không qua nổi, người nọ đùn người kia để đến nỗi bị đánh tả tơi chạy về.
Đoàn Dự nói:
- Đại ca, tiểu đệ xem …
Nói chưa dứt câu, đằng trước lại có mấy người chạy bộ đến, người nào cũng bị thương, người thì vỡ đầu chảy máu, kẻ thì khập khiễng què chân. Chung Linh tính hiếu kỳ nhịn không nổi giục ngựa chạy lên hỏi:
- Này, kẻ giữ ải phía trước lợi hại lắm hay sao?
Một hán tử trung niên đáp:
- Hừ, ngươi là con gái có qua cũng không ai ngăn trở. Thế nhưng đàn ông thì nên quay về là hơn.
Y nói như thế khiến Tiêu Phong, Hư Trúc cả bọn đều ngạc nhiên cùng nói:
- Đi lên xem thế nào!
Rồi giục ngựa chạy tới. Cả đoàn đi thêm chừng bảy tám dặm thấy sơn đạo hiểm trở, chỉ còn một con đường bên cạnh là vực sâu ngoằn ngoèo chạy lên trên, vòng qua mấy khúc quanh đã thấy người đứng lố nhố. Bọn Tiêu Phong đến gần, thấy trên đường đứng kế nhau là hai đại hán, người nào cũng cao hơn sáu thước , to lớn dị thường, một người cầm thiết chử, một người hai tay cầm đôi đồng chùy, giận dữ nhìn đoàn người đang tiến đến.
Trước mặt hai người đó là khoảng mười bảy mười tám người, bàn tán xôn xao, mỗi người một câu. Có kẻ dùng lời cung kính lễ độ:
- Xin tránh ra một chút! Bọn ta đang định đi Linh Châu, xin hai vị nhường đường cho.
Lại có người khích động lòng tham:
- Hai vị định thu tiền mãi lộ chăng? Không hiểu một lượng một người, hay là hai lượng một người? Miễn là hai vị tránh ra, chuyện gì cũng có thể thương lượng được.
Lại có người lấy lời mà uy hiếp:
- Các ngươi nếu không tránh ra, để lão tử nổi cọc lên băm vằm chúng bay ra, lúc đó có muốn trở lại như cũ thì cũng không được nữa, chi bằng ngoan ngoãn tránh ra để khỏi đại họa lâm đầu.
Lại có kẻ lấy sắc ra dụ:
- Hai vị tướng mạo đường đường, uy phong lẫm lẫm, sao không đến Linh Châu ứng tuyển phò mã? Nếu như để nàng công chúa đẹp như hoa kia vào tay người khác, chẳng tiếc lắm sao?
Bọn người mồm năm miệng mười nhưng hai gã nọ thủy chung không lý gì tới. Đột nhiên trong đám người có kẻ quát lên:
- Tránh ra!
Hàn quang lấp loáng, một lưỡi kiếm đã nhắm ngay người bên trái đâm tới. Đại hán đó thân hình cực lớn, binh khí cũng cực kỳ nặng nề, ngờ đâu hành động lại thật nhanh nhẹn, song chùy gõ vào nhau, chính là định kẹp trường kiếm vào giữa. Hai thanh đồng chùy hình bát giác kia mỗi thanh phải nặng đến bốn chục cân, nghe keng một tiếng, trường kiếm gẫy thành mươi mảnh. Đại hán đó nhảy qua một bước, đá luôn vào bụng dưới người nọ. Người kia chỉ kêu lên một tiếng, văng ra đến bảy tám trượng, ngã dúi xuống không đứng dậy nổi.
Lại thấy một người xông lên hai tay múa song đao thành một luồng bạch quang, bảo vệ toàn thân. Khi vừa đến trước hai đại hán, người kia quát lên một tiếng, đột nhiên biến thành địa đường đao pháp, lăn xuống dưới đất tiến tới, song đao nhắm ngay chân hai đại hán mà chém. Đại hán cầm thiết chử xem thế đánh của người kia, giơ chiếc chày lên, đánh mạnh xuống vòng ánh sáng một cái. Chỉ nghe “A” một tiếng thảm khốc, song đao của người kia bị chày sắt đánh gãy, mũi đao cắm luôn vào ngực, lăn long lóc xuống dưới vực.
Hai dại hán liên tiếp đả thương hai người, những người còn lại không ai dám tiến lên nữa. Bỗng nghe tiếng vó lộp cộp, từ bên đường hẻm có một con lừa chạy ra. Trên lưng lừa là một thanh niên thư sinh, tuổi chỉ chừng mười tám, mười chín, quần chùng áo dài, dáng vẻ nho nhã, dung mạo cực kỳ tuấn mỹ. Y cưỡi lừa chạy ngang bọn Tiêu Phong, ai cũng thấy người này so với hào khách gặp trên đường không giống chút nào, nên không khỏi liếc nhìn y mấy bận. Đoàn Dự đột nhiên buột miệng “A” lên một tiếng, lắp bắp:
- Ngươi … ngươi … ngươi …
Thư sinh kia không thèm nhìn đến chàng, vượt qua mọi người tiến lên trước. Chung Linh ngạc nhiên hỏi:
- Anh nhận ra vị tướng công này ư?
Đoàn Dự bẽn lẽn đáp:
- Không đâu! Ta lầm người rồi. Y … y là đàn ông, làm sao ta nhận ra được?
Câu trả lời của chàng xem ra có vẻ hơi sàm sỡ, A Tử nghe thế bèn cười rộ lên nói:
- Hóa ra ca ca chỉ nhận được đàn bà con gái chứ không nhận được đàn ông con trai.
Nàng ngừng lại một chút rồi hỏi lại:
- Không lẽ đó lại là đàn ông sao? Rõ ràng là đàn bà mà.
Đoàn Dự hỏi gặng:
- Ngươi bảo đây là đàn bà à?
A Tử nói:
- Đương nhiên là thế. Người cô ta có mùi thơm, đúng là mùi đàn bà rồi.
Đoàn Dự nghe nói đến “mùi thơm”, tim đập thình thình: “Không lẽ … không lẽ đúng là cô ta sao?”. Khi đó thư sinh kia đã cưỡi lừa chạy đến trước mặt hai đại hán, quát lên:
- Tránh ra!
Mấy tiếng đó giọng trong trẻo, đúng là của đàn bà. Đoàn Dự không còn hoài nghi gì nữa, kêu lên:
- Mộc cô nương, Uyển Thanh muội tử! Cô … cô … cô … ta … ta …
Chàng miệng thì gọi loạn cả lên, tay thì thúc ngựa chạy tới. Hư Trúc kêu lên:
- Tam đệ coi chừng vết thương!
Y liền cùng Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cùng giục ngựa chạy lên. Thư sinh kia ngồi trên lưng lừa chỉ trừng trừng nhìn hai đại hán, không quay đầu lại, Chu Đan Thần từ bên hông ngó qua thấy y dung nhan đẹp đẽ, chính là Mộc Uyển Thanh, người năm xưa Đoàn Dự đã dẫn về Trấn Nam Vương phủ nước Đại Lý. Hai người kêu thầm: “Xấu hổ thật, bọn mình mắt sáng mà không tinh tường bằng một cô gái mù”. Có biết đâu A Tử không nhìn thấy nhưng tai mũi đều nhạy bén hơn người thường, Mộc Uyển Thanh người có mùi hương nên cô ta ngửi qua là biết ngay đàn bà. Còn người khác chỉ thấy đây là một thư sinh, trong nhất thời không để ý là nam hay nữ.
Đoàn Dự giục ngựa chạy đến bên cạnh Mộc Uyển Thanh, giơ tay để lên đầu vai, dịu dàng nói:
- Muội tử, lâu nay cô ở đâu? Ta nhớ cô biết là chừng nào.
Mộc Uyển Thanh rụt về tránh bàn tay của chàng, quay đầu nhìn lại, lạnh lùng hỏi:
- Anh nhớ đến tôi? Vì cớ gì anh lại nhớ đến tôi? Có thực anh nhớ tôi không?
Đoàn Dự sững sờ, ba câu hỏi của nàng chàng không trả lời được câu nào. Người cầm chày cười ha hả nói:
- Hay lắm, thì ra ngươi là một cô gái, vậy ta để ngươi đi qua.
Đại hán cầm chùy cũng kêu lên:
- Đàn bà con gái thì qua được còn bọn đàn ông thối tha thì đừng hòng. Này, ngươi mau cút về đi, cút về đi.
Y vừa nói vừa chỉ Đoàn Dự, quát lên:
- Cái thứ mặt trắng đĩ đực kia, lão tử vừa trông thấy đã muốn nổi hung. Mi lên thêm một bước, ta không đánh cho nhừ tử chớ kể làm người.
Đoàn Dự đáp:
- Tôn huynh nói thế là sai rồi! Đây là đại đạo ai ai cũng có quyền đi, tôn huynh cớ gì lại không cho ta qua? Mong được chỉ rõ.
Đại hán kia đáp:
- Tông Tán vương tử nước Thổ Phồn có lệnh: Cửa ải này đóng mười ngày, sau kỳ Trung Thu tháng tám mới mở trở lại. Trước tiết Trung Thu thì đàn bà qua được, đàn ông không được, sư sãi qua được, tục gia không được, già cả qua được, trẻ tuổi không được, người chết qua được, người sống không được. Ấy gọi là “bốn hạng người qua được, bốn hạng người không qua được”.
Đoàn Dự nói:
- Như thế thì còn đạo lý gì nữa?
Gã kia lớn tiếng đáp:
- Đạo lý ư? Đạo lý ư? Cái chùy đồng của lão tử đây, cái chày sắt của lão nhị đây thì là đạo lý chứ còn phải hỏi. Lời của Tông Tán vương tử là đạo lý. Ngươi là nam nhân, không phải hòa thượng, tuổi cũng chưa già, muốn qua khỏi ải thì chỉ có thể là người chết thì mới được thôi.
Mộc Uyển Thanh giận dữ nói:
- Hừm, sao lại có những qui củ thối tha tầm bậy tầm bạ gì lắm thế?
Tay phải vung ra, soẹt soẹt hai tiếng, hai mũi tên nhỏ chia ra bắn vào hai đại hán, chỉ nghe bộp bộp như trúng vào da bò, hai mũi tên rõ ràng bắn trúng ngực hai người nhưng không tổn hại gì cả. Gã cầm chùy giận dữ quát lên:
- Tiểu cô nương quả không biết tốt xấu, dám phóng ám tiễn phải không?
Mộc Uyển Thanh kinh hãi nghĩ thầm: “Hai gã này chắc là có mặc nhuyễn giáp, độc tiễn của ta bắn chúng chẳng ăn thua gì”. Người cầm thiết chử giơ bàn tay to xù chộp vào Mộc Uyển Thanh. Gã đó thân hình cao to, Mộc Uyển Thanh tuy cưỡi trên lưng lừa nhưng khi tay y vươn ra đã chộp vào ngực nàng. Đoàn Dự kêu lên:
- Tôn huynh chớ có vô lễ.
Tay trái vung ra gạt tay y, gã đại hán lật bàn tay một cái, nắm ngay được cổ tay Đoàn Dự. Đại hán cầm chùy kêu lên:
- Hay lắm! Anh em ta xé đôi thằng lỏi mặt trắng ra đi.
Y đưa song chùy sang tay trái, tay phải chộp ngay cổ tay trái Đoàn Dự, dùng sức kéo mạnh. Mộc Uyển Thanh hốt hoảng kêu lên:
- Không được đả thương ca ca ta.
Soẹt soẹt lại thêm mấy mũi tên bắn ra nhưng đều như hòn đá ném xuống biển, tuy trúng người hai đại hán thật nhưng chẳng tổn hại chút nào. Nàng định bắn vào đầu vào mắt hai gã nọ nhưng ở giữa có Đoàn Dự, e rằng khiến chàng bị thương. Hai bên là hai vách núi sừng sững, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần ba người bị tọa kỵ của Mộc Uyển Thanh chắn ngang, không có cách gì lên cứu được.
Hư Trúc phi thân rời khỏi yên ngựa nhảy đến bên cạnh gã cầm chày, giơ tay toan điểm vào sườn y nhưng nghe Đoàn Dự cười ha hả nói:
- Nhị ca không phải kinh hoảng, bọn họ không đả thương được tiểu đệ đâu.
Chỉ thấy hai đại hán cao to như cột đình kia từ từ sụm xuống, đầu lắc lư, đứng không vững chẳng bao lâu đã nghe bình bình hai tiếng ngã gục xuống đất. Bắc Minh thần công của Đoàn Dự chuyên hút nội lực địch nhân, nội lực hai đại hán nọ kiệt rồi, dù có thần lực trời sinh cũng đành vô dụng, khi đã gục xuống chỉ còn như hai mớ giẻ rách. Đoàn Dự nói:
- Các ngươi đánh chết bao nhiêu người, phải trừng trị như thế này để về sau không còn tái phạm được nữa.
Chung Linh lúc này mới chạy được tới nơi, cười nói:
- Chỉ sợ sau này hai người không còn bản lãnh đánh ai cho được.
Nàng quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:
- Mộc tỉ tỉ, em không ngờ lại là chị.
Mộc Uyển Thanh lạnh lùng đáp:
- Ngươi là em gái ta, chỉ gọi “tỉ tỉ” cũng đủ rồi, việc gì phải thêm một chữ “Mộc” nữa?
Chung Linh ngạc nhiên:
- Mộc tỉ tỉ, chị nói đùa đấy ư? Em tại sao lại là em gái của tỉ tỉ được?
Mộc Uyển Thanh chỉ vào Đoàn Dự nói:
- Ngươi đi hỏi y xem sao?
Chung Linh quay sang Đoàn Dự đợi nghe giải thích. Đoàn Dự mặt đỏ bừng, ấp úng:
- Phải, phải … có điều … có điều lúc này không tiện nói rõ …
Thì ra những người bị hai đại hán kia chặn lại, lúc này đang lách qua người chàng, rảo bước chạy về phía thành Linh Châu. A Tử kêu lên:
- Ca ca, vị cô nương có mùi thơm kia, cũng lại là “người quen cũ” đấy ư? Sao anh hai không dẫn em lại giới thiệu?
Đoàn Dự đáp:
- Chớ có nói càn, đây là … đây là chị … chị ruột ngươi, mau lại đây chào hỏi.
Mộc Uyển Thanh giận dữ đáp:
- Ta làm gì có phúc như thế!
Nàng vỗ nhẹ vào mông con lừa, chạy thẳng về phía trước. Đoàn Dự cũng giục ngựa đuổi theo hỏi:
- Trong bao lâu nay cô ở nơi nào? Muội tử, cô … cô … sao độ này xanh xao thế.
Mộc Uyển Thanh tâm cao khí ngạo, hơi một tí là ra tay giết người, thế nhưng nghe những lời dịu ngọt, trong lòng xót xa, hơn một năm qua lênh đênh không nhà, chịu biết bao nhiêu sương pha nắng gội, chua chát đắng cay, bây giờ nỗi niềm dâng lên, không cầm được nước mắt, hai giòng lệ trào ra tuôn rơi lã chã. Đoàn Dự nói:
- Hảo muội tử, chúng ta nhiều người lo liệu cho nhau được, muội tử đi cùng với bọn ta nhé.
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Ai cần anh lo liệu cho tôi? Không có anh, tôi một thân một mình cũng vẫn sống được bấy lâu nay.
Đoàn Dự đáp:
- Ta có biết bao nhiêu chuyện cần nói với cô. Hảo muội tử, cô bằng lòng đi chung với bọn ta đi thôi!
Mộc Uyển Thanh hỏi lại:
- Anh có gì mà bảo là cần nói với tôi? Chắc chỉ toàn chuyện tầm phào chứ gì?
Miệng tuy không bằng lòng nhưng giọng điệu đã dịu lại. Đoàn Dự hết sức mừng rỡ vội tán tỉnh:
- Hảo muội tử, tuy cô dạo này hơi gầy đi nhưng càng ngày càng đẹp ra.
Mộc Uyển Thanh sầm mặt xuống nói:
- Anh là huynh trưởng của tôi, không được ăn nói như thế nữa.
Nàng trong lòng rối như tơ vò, biết rõ Đoàn Dự là anh em cùng cha khác mẹ với mình nhưng lòng thương nhớ yêu đương không vì thế mà tiêu giảm mà càng ngày lại càng tăng. Đoàn Dự cười nói:
- Ta nói cô càng lớn càng xinh thì có gì mà không được? Hảo muội tử, vì cớ gì cô lại cải nam trang để đến Linh Châu? Đi ứng tuyển phò mã chăng? Một thư sinh tuấn tú như cô, công chúa Tây Hạ vừa trông thấy là sẽ mê ngay.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Thế sao anh cũng đến Linh Châu làm gì?
Đoàn Dự sượng sùng đáp:
- Ta đi xem trò vui chứ không có gì khác.
Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:
- Anh đừng có nói dối. Gia gia bảo anh đi Tây Hạ ứng tuyển phò mã, sai họ Ba, họ Chu đưa thư đến cho anh, anh tưởng tôi không biết hay sao?
Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:
- Ồ, thế ra cô cũng biết thế à?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Mẹ em gặp cha chúng ta, em đi cùng với má má lẽ dĩ nhiên chuyện gì chả biết.
Đoàn Dự nói:
- Thì ra là thế! Cô biết ta đi Linh Châu nên chạy theo để kiếm ta có phải không?
Mộc Uyển Thanh hơi đỏ mặt, lời Đoàn Dự nói đúng tâm sự nàng nhưng vẫn cãi bướng:
- Em đi kiếm anh làm gì? Em đi là để xem công chúa Tây Hạ đẹp cỡ nào mà làm cho thiên hạ náo loạn cả lên như thế.
Đoàn Dự định nói: “Ví như chỉ cần đẹp bằng nửa cô thì cũng đã đẹp lắm rồi”. Thế nhưng nghĩ lại câu đó nói với tình nhân thì được,còn với em gái mình thì không nên, lời ra đến đầu môi vội vàng hãm lại. Mộc Uyển Thanh nói:
- Em cũng định đi xem Đoàn vương tử của nước Đại Lý ta, có vói được cành quế hay chăng?
Đoàn Dự nói khẽ:
- Ta nhất quyết không làm phò mã Tây Hạ đâu. Muội muội, câu đó cô chớ có tiết lộ cho ai đấy nhé. Nếu như gia gia ép ta nữa, ta lại bỏ nhà ra đi.
Mộc Uyển Thanh hỏi lại:
- Không lẽ gia gia đã ra lệnh như thế, anh lại dám kháng cự hay sao?
Đoàn Dự đáp:
- Ta nào có kháng lệnh, ta chỉ bỏ đi thôi.
Mộc Uyển Thanh cười nói:
- Đào tẩu và kháng lệnh có gì khác nhau đâu? Một công chúa cành vàng lá ngọc sao anh lại không thích?
Từ khi gặp lại nhau, đây là lần đầu tiên nàng nở một nụ cười, Đoàn Dự trong lòng vui lắm nói:
- Thế cô tưởng ta cũng giống như gia gia sao? Gặp ai yêu nấy, đến sau rứt ra không được.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Hừ, em xem anh và gia gia cũng có khác gì nhau đâu, quả đúng là cha nào con nấy. Có điều anh không được may mắn như gia gia mà thôi.
Nàng thở dài một tiếng nói tiếp:
- Như mẹ em chẳng hạn, ở sau lưng nói tới gia gia thì hận ông lắm lắm. Thế nhưng vừa thấy mặt nhau thì đã tươi như hoa, chuyện gì cũng tha thứ cả. Các cô trẻ tuổi bây giờ có còn ai được như mẹ em đâu.

datlucky_way

27-07-2009 08:52 AM

Hồi 45(a) : KHÔ TỈNH ĐỂ, Ô NÊ XỨ 






Bấm vào đây để xem nội dung.

Đáy khô má tựa lòng thêm ấm,
Lá mục môi kề dạ ngát hương.
*
* *










Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cả bọn liền đến chào Mộc Uyển Thanh rồi dẫn cô ta đến bái kiến Tiêu Phong, Hư Trúc. Ba Chu hai người tuy biết đây là con gái của Trấn Nam Vương nhưng vì chưa chính thức cử hành nghi lễ nhận con nên vẫn chỉ gọi là Mộc cô nương.
Đoàn người đi được mấy dặm, bỗng từ phía trái có tiếng quát tháo, rồi có người kêu cứu nghe ra là Nam Hải Ngạc Thần, dường như có chuyện gì nguy hiểm. Đoàn Dự nói:
- Đồ đệ ta đó!
Chung Linh kêu lên:
- Bọn mình mau chạy lại xem, đồ đệ của ca ca xem ra cũng không phải là người đốn mạt lắm đâu.
Hư Trúc cũng hùa theo:
- Phải đó!
Mẫu thân y là Diệp Nhị Nương cũng cùng bọn với Nam Hải Ngạc Thần nên không khỏi có chút tình hương lửa. Mọi người giục ngựa chạy đến phía có tiếng kêu, qua khỏi vài khúc quanh thấy trước mặt là một khu rừng rậm, huyền nhai phía bên kia xẩy ra một cảnh tượng kinh hoàng.
Một khối đá lớn thò ra ngoài vực, trên mỏm núi mọc chơ vơ một cây tùng, hình thù cổ quái. Cây tùng có một rễ lớn mọc đâm ra, một người mặc áo bào xanh cầm gậy móc vào rễ cây, chính là Đoàn Diên Khánh. Tay trái y nắm cây gậy, tay phải cầm một đầu gậy khác, phía đằng kia là một người nắm chặt, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Nam Hải Ngạc Thần một tay lại nắm mớ tóc dài của một người khác, chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc.
Hai tay Vân Trung Hạc chia ra hai bên cầm hai tay một cô gái, bốn người như kết thành một sợi dây, treo lơ lửng giữa trời, quả thực hung hiểm, dù bất cứ người nào tuột tay thì người bên dưới cũng rớt ngay xuống đáy vực sâu mấy chục trượng. Dưới đáy cốc là đá tai mèo lởm chởm, trông như những mũi dao cắm ngược lên, nếu rơi xuống chắc chắn không thể nào sống sót.
Vừa lúc đó một ngọn gió thổi đến nơi, khiến cho Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc và cô gái kia đong đưa quay một nửa vòng. Cô gái vốn dĩ xoay lưng lại, bấy giờ mới nhìn rõ mặt, Đoàn Dự bất giác “Ối chao!” một tiếng, từ trên ngựa nhảy ngay xuống.
Người con gái kia nào phải ai xa lạ, chính là Vương Ngữ Yên, người chàng hằng ngày mong đêm nhớ, không lúc nào quên. Đoàn Dự sau khi định thần, thấy mỏm đá thò ra cực kỳ hiểm trở, không thể nào giục ngựa lên được nên lập tức nhảy xuống chạy tới. Chàng đến trước cội tùng, thấy ngay một gã đầu to vừa lùn vừa mập, cầm đại phủ đang chặt cây. Đoàn Dự thấy thế kinh hãi không để đâu cho hết kêu lên:
- Này, này! Ngươi làm gì đó?
Gã lùn mập không thèm để ý, vẫn từng búa từng búa chém xuống, nghe bình bình, gỗ vụn bay tung tóe. Đoàn Dự vung ngón tay ra, đề khởi chân khí định dùng Lục Mạch Thần Kiếm đả thương y, ngờ đâu môn kiếm khí này lúc cần thì lại không dùng được, chỉ trỏ mấy cái, chẳng thấy gì hết kinh hoàng kêu lớn:
- Đại ca, nhị ca, hai cô em gái ơi, bốn cô nương tốt bụng ơi, mau mau đến cứu người.
Còn đang kêu gọi thì Tiêu Phong và Hư Trúc đã chạy đến. Thì ra gã mập đó khuất sau tảng đá, đứng bên ngoài không ai thấy. Cũng may cây tùng đó to lớn, nhất thời chặt chưa đứt được. Bọn Tiêu Phong thấy tình hình như thế, ai nấy hết sức kinh dị, không hiểu vì sao lại thành một cảnh quái lạ nhường này. Hư Trúc kêu lên:
- Này lão huynh mập ơi, mau ngừng tay không được chặt cây nữa.
Gã mập đáp:
- Cây này do ta trồng, ta muốn chặt đem về nhà đóng một cỗ quan tài để nằm, ngươi làm sao ngăn ta được?
Y miệng nói nhưng tay nào có ngừng, còn bên dưới thì Nam Hải Ngạc Thần vẫn kêu réo luôn mồm. Đoàn Dự nói:
- Nhị ca, người này không thể nói phải quấy, nhị ca mau chế ngự y rồi tính sau.
Hư Trúc đáp:
- Hay lắm!
Y vừa nói vừa chạy xuống. Đột nhiên có một người chống hai cây gậy, chạy vụt qua bên cạnh, nhún nhẩy mấy cái, đã đến trước mặt gã mập, chính là Du Thản Chi, không biết y từ xe lừa lẻn ra lúc nào. Du Thản Chi chống một cây gậy xuống đất, một cây giơ lên lạnh lùng nói:
- Không người nào được qua đây.
Mộc Uyển Thanh trước nay chưa hề gặp người này, đột nhiên thấy khuôn mặt xấu xí đáng sợ, không khỏi thất sắc “A” lên một tiếng. Đoàn Dự vội nói:
- Trang bang chủ mau mau chế ngự nhân huynh mập kia để y không chặt cây nữa.
Du Thản Chi cười khẩy hỏi lại:
- Tại sao ta lại phải chế ngự y? Có được lợi gì không?
Đoàn Dự đáp:
- Cây tùng mà gãy thì người bên dưới đều rơi xuống vực chết cả.
Hư Trúc thấy tình thế hung hiểm, tung mình nhảy tới, định bụng dù không chế ngự được gã mập thì cũng cứu được Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần và mấy người ở dưới lên. Y nghĩ đến trước đây sở dĩ giải được thế cờ Trân Lung toàn là nhờ có Đoàn Diên Khánh chỉ điểm, rồi sau học được một thân bản lãnh cũng từ đó mà khởi đầu, bao nhiêu chuyện khác tiếp theo chưa biết là phúc hay họa nhưng Đoàn Diên Khánh đối với y cũng là hảo ý.
Du Thản Chi cắm cây gậy bên phải xuống đất, tay đánh ra một luồng chưởng lực âm hàn. Hư Trúc tuy không sợ độc phong của y nhưng cũng biết y công lực thâm hậu, không thể coi thường lập tức ngưng thần đánh lại một chưởng. Du Thản Chi lập tức nhắm ngay cây tùng đánh ra một chưởng thứ hai, cành cây rung động, bốn người ở dưới huyền nhai đong đưa không ngừng.
Đoàn Dự hoảng hốt kêu lên:
- Nhị ca đừng tiến lên nữa, có chuyện gì mình bàn lại với nhau không nên làm dữ. Trang bang chủ có thù oán với ai? Sao lại hại người?
Du Thản Chi nói:
- Đoàn công tử nếu muốn ta ngăn chặn gã mập này thì cũng không khó, nhưng công tử làm được gì cho ta nào?
Đoàn Dự đáp:
- Chuyện … chuyện gì ta cũng làm … cho … ngươi … ngươi muốn gì ta cho nấy. Ta nhất quyết không cò kè nói qua nói lại gì đâu. Mau lên, mau lên, chậm chút nữa là không kịp đó.
Du Thản Chi nói:
- Ta chế ngự gã mập này rồi sẽ lập tức cùng A Tử cô nương ra đi, công tử và Tiêu Phong, Hư Trúc các người không ai được ngăn trở. Chuyện đó có bằng lòng không?
Đoàn Dự đáp:
- A Tử ư? Cô ấy … cô ấy đang muốn nhờ nhị ca ta chữa mắt cho sáng lại, nếu đi với ngươi thì tính làm sao đây?
Du Thản Chi nói:
- Nếu Hư Trúc tiên sinh có thể chữa cho cô ta sáng mắt trở lại thì ta sẽ tìm cách trị được cho cô ấy.
Đoàn Dự đáp:
- Chuyện đó … chuyện đó …
Trong khi đó gã mập vẫn hết búa này tới búa khác chặt xuống cây tùng, trong lúc nghìn cân treo trên sợi tóc này, việc cứu người mới là quan trọng nên chàng bèn nói:
- Ta bằng lòng … ta bằng lòng đó! Ngươi … ngươi … mau …
Du Thản Chi lập tức vung hữu chưởng đánh vào gã mập. Gã kia cười khẩy, buông búa, xuống tấn, quát lên một tiếng song chưởng cùng đỡ, chưởng phong vù vù thế đạo cực kỳ mãnh liệt, trong khi chưởng của Du Thản Chi lại hoàn toàn không có một chút tăm hơi.
Đột nhiên gã mập biến sắc, thần thái đang từ cao ngạo đổi sang kinh ngạc như trông thấy một việc hết sức kỳ quái không tin nổi, rồi hai dòng máu từ mép chảy ra, thân hình rúm lại, ngã bổ chửng xuống vực sâu. Phải mất một hồi lâu mới nghe bịch một tiếng vọng từ đáy cốc lên, dường như va phải loạn thạch, mọi người nghĩ đến cảnh y tan xương nát thịt, không khỏi lạnh mình.
Hư Trúc phi thân nhảy xuống cành tùng, thấy gậy sắt của Đoàn Diên Khánh cắm sâu vào thân cây, toàn dùng nội lực dính chặt vào đó mà treo lủng lẳng bốn người, thâm hậu như thế quả là trên đời hiếm có. Hư Trúc vươn tay nắm lấy cương trượng, nhắc lên.
Nam Hải Ngạc Thần ở bên dưới tấm tắc khen:
- Chú tiểu này, ta biết ngay ngươi là một kẻ tốt bụng. Ngươi là con trai tỉ tỉ ta, ấy là điệt nhi của Nhạc lão nhị, mà đã là điệt nhi của Nhạc lão nhị thì bản lãnh đương nhiên phải giỏi rồi. Nếu không có ngươi đến giúp một tay, bọn ta chắc phải ở đây đến ba ngày ba đêm, thật chẳng thích thú chút nào.
Vân Trung Hạc nói:
- Gã kia chỉ được cái khoác lác chứ làm sao chịu nổi ba ngày ba đêm?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:
- Ta nếu chịu không nổi thì buông tay thả ngươi ra, thế là xong. Ngươi có muốn thử không thì bảo?
Hai người đang trong cơn nguy cấp nhưng vẫn tiếp tục cãi vã không thôi. Chỉ trong giây lát, Hư Trúc đã kéo được Đoàn Diên Khánh lên, kế đó là Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc, sau cùng là Vương Ngữ Yên. Nàng hai mắt nhắm nghiền, chỉ còn thoi thóp đã mê man từ bao giờ.
Đoàn Dự đã yên tâm nhưng lại thương xót, thấy hai cổ tay nàng bầm tím, in sâu vết tay của Vân Trung Hạc, nghĩ đến gã này hung tàn hiếu sắc, từng có ý định phi lễ với Mộc Uyển Thanh và Chung Linh, lần nào cũng may có Nam Hải Ngạc Thần cứu kịp. Ngày hôm nay việc tái diễn, chàng nổi cơn thịnh nộ hậm hực nói:
- Đại ca, nhị ca, gã Vân Trung Hạc này tính tình gian ác, mình giết quách y cho xong.
Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:
- Không đâu! Không đâu! Đoàn … cái anh chàng sư phụ ơi… hôm nay chính là nhờ lão tứ cứu … cứu được … được mụ vợ của ngươi … được sư nương … nếu không thì, con vợ ngươi chết ngoẻo rồi còn đâu.
Tuy mấy câu đó y nói chẳng đâu ra đâu nhưng mọi người đều hiểu rõ ràng. Mới rồi Đoàn Dự vì Vương Ngữ Yên mà lập cập hốt hoảng, bọn Mộc Uyển Thanh ai ai cũng thấy tận mắt, khi chưa cứu được Vương Ngữ Yên lên người nào cũng thầm chua xót, đến khi thấy nàng thần thanh cốt tú, dung mạo đoan lệ vô song, lại càng đau lòng khôn tả.
Chỉ thấy Vương Ngữ Yên từ từ mở mắt, “Ôi” một tiếng hỏi khẽ:
- Đây có phải là chốn hoàng tuyền địa phủ hay chăng? Ta … ta đã chết chưa?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:
- Cái con nhỏ này nói năng tầm bậy tầm bạ. Nếu đây là hoàng tuyền địa phủ, không lẽ bọn ta cũng chết hết ráo hay sao? Hiện giờ ngươi chưa làm vợ sư phụ ta, ta có đắc tội mấy câu thì không tính là phạm thượng được. Có điều thời giờ không có bao nhiêu, theo ta nghĩ, sớm muộn gì ngươi cũng thành sư nương, dịp may chớ để vuột mất, gọi ngươi vài câu “con nhỏ” cho sướng mồm. 
Này, ta hỏi con nhỏ kia, đời nhà ai đang khi không lại đi tìm cái chết là sao? Ngươi có chết là do ngươi chọn, cũng mặc xác ngươi nhưng lại kéo thêm gã bả đệ Vân Trung Hạc của ta nữa. Vân Trung Hạc có chết thì cũng đành, Đoàn lão đại của bọn ta cũng chết theo, thật đáng tiếc biết mấy. Mà dẫu Đoàn lão đại có chết thì cũng còn được, Nhạc lão nhị cũng bị vạ lây, ấy là một chuyện không thể chấp nhận được.
Đoàn Dự dịu dàng an ủi:
- Vương cô nương còn chưa hoàn hồn, thôi ngồi xuống dựa vào gốc cây nghỉ một lát.
Vương Ngữ Yên lại khóc òa lên, hai tay ôm mặt nức nở:
- Các ngươi bỏ mặt ta, ta … ta … ta không muốn sống làm chi nữa.
Đoàn Dự kinh hoảng: “Hóa ra nàng toan đi tìm cái chết thật, không hiểu là vì cớ gì? Không lẽ … không lẽ …”. Chàng đưa mắt liếc Vân Trung Hạc, thấy y hung hăng dữ tợn, trong bụng kêu thầm: “Chết rồi! Chắc Vương cô nương bị y làm nhục cho nên mới tính chuyện hủy mình”.
Chung Linh tiến lên một bước chào:
- Nhạc lão tam khỏe chứ?
Nam Hải Ngạc Thần vừa thấy nàng mừng quá kêu lên:
- Tiểu sư nương cũng bình an chứ? Hiện nay ta đã lên Nhạc lão nhị rồi, không còn là Nhạc lão tam nữa.
Chung Linh nói:
- Ngươi đừng gọi ta là tiểu gì gì đó, khó nghe lắm. Nhạc lão nhị, ta hỏi đây, vị cô nương này vì cớ gì mà lại đi tìm cái chết? Có phải do cái cây tre miễu kia gây ra họa chăng? Để ta thọc léc y một mẻ.
Nàng vừa nói vừa đưa tay lên, thổi phù phù mấy cái. Vân Trung Hạc hoảng hốt, lùi lại hai bước. Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy nói:
- Không phải, không phải đâu! Tạ trời tạ đất, chẳng hiểu sao lão tứ bây giờ lại đổi tính đổi nết, làm một chuyện tốt. Bọn chúng ta thiếu mất Diệp Nhị Nương, ai nấy trong lòng không vui, nên đi ra ngoài cho khuây khỏa. Đến nơi đây, bỗng thấy con nhỏ này nhảy xuống vực tự tận, thị nhảy mạnh quá nên lão tứ chụp không kịp, ôi chao, y vốn dĩ là đứa cùng hung cực ác, sao đột nhiên thay đổi, có điều không biết lượng sức mình …
Vân Trung Hạc hầm hầm xen vào:
- Con bà ngươi chứ, ta có thiện tâm bao giờ mà làm chuyện tốt? Họ Vân chỉ thích gái đẹp, thấy Vương cô nương nhảy xuống vực tìm cái chết, bỏ qua rất uổng nên kéo trở lại lấy làm vợ vài ngày.
Nam Hải Ngạc Thần tính nóng như lửa, chỉ mặt Vân Trung Hạc chửi ngay:
- Con bà ngươi thì có, Nhạc lão nhị tưởng ngươi đổi tính ra tay cứu người, nghĩ tình cùng là bọn đại ác trong thiên hạ nên mới thò tay nắm tóc ngươi, nếu sớm biết vậy thì để cho ngươi rơi xuống chết quách cho rồi.
Chung Linh cười nói:
- Nhạc lão nhị, ngươi vốn dĩ có ngoại hiệu Hung Thần Ác Sát chuyên làm điều xấu xa, không làm chuyện tốt, sao lại đổi tính từ bao giờ? Học của sư phụ ngươi chăng?
Nam Hải Ngạc Thần giơ tay gãi đầu nói:
- Không phải, không phải! Ta nào có đổi tính, nhất định không đổi. Có điều Tứ Đại Ác Nhân thiếu mất một người, thành thử có chiều hụt hẫng. Ta vừa nắm được tóc Vân lão tứ bị y giựt một cái cũng nhào xuống dưới vực, may nhờ Đoàn lão đại võ công cao cường, vung trượng ra cho ta chụp được. Thế nhưng ba người nặng đến bốn trăm cân, kẻ lôi người kéo khiến cho lão đại cũng suýt nữa té theo. Y mới vung gậy ra móc vào cây tùng, định từ từ tính nước trèo lên, ngờ đâu có gã lùn mập người Thổ Phồn vác búa chạy đến chặt cây.
Chung Linh hỏi:
- Gã lùn mập đó người nước Thổ Phồn ư? Sao y lại định hại mạng bọn ngươi?
Nam Hải Ngạc Thần nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất nói:
- Bọn ta Tứ Đại Ác Nhân là cao thủ hạng nhất hạng nhì của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ, ý không, không, chỉ là hạng ba hạng tư, các ngươi đã ngưỡng mộ từ lâu rồi, phải không? Lần này hoàng thượng tuyển phò mã cho công chúa, sai các cao thủ Nhất Phẩm Đường ra ngoài tuần tra, không để cho bọn rỗi hơi ăn hại đến khuấy phá. 
Có ngờ đâu vương tử nước Thổ Phồn ngang ngược không coi ai vào đâu, cho người chặn hết các ngả vào Tây Hạ, không cho một ai vào ứng tuyển, chỉ tiểu tử đó một mình một chợ thôi. Bọn ta dĩ nhiên không chịu, hai bên đánh nhau một trận, đánh chết hơn chục võ sĩ Thổ Phồn, thành ra tam đại ác nhân trở thành kẻ thù của võ sĩ Thổ Phồn, không còn bạn bè gì nữa.
Y nói mấy câu đó mọi người mới nghe ra chút đầu mối nhưng Vương Ngữ Yên vì cớ gì mà quyên sinh thì chưa hiểu rõ. Nam Hải Ngạc Thần lại tiếp:
- Vương cô nương, sư phụ ta đến rồi đó, hai người kết thành vợ chồng đi thôi, cô đừng có tìm cái chết nữa.
Vương Ngữ Yên quay đầu lại, khóc rưng rức:
- Ngươi còn ăn nói lăng nhăng coi thường ta, ta … ta sẽ đập đầu chết ngay tại chỗ.
Đoàn Dự vội khuyên:
- Ấy chớ có làm thế, không nên!
Chàng quay sang nói với Nam Hải Ngạc Thần:
- Nhạc lão tam, ngươi chớ có …
Nam Hải Ngạc Thần sửa lại:
- Nhạc lão nhị!
Đoàn Dự đáp:
- Thì Nhạc lão nhị cũng được! Ngươi không được ăn nói tầm phào nữa. Thế nhưng ngươi vì thầy cứu người quả là có công lao, sau này ta sẽ dạy ngươi một chút công phu.
Nam Hải Ngạc Thần giương đôi mắt ti hí, liếc Vương Ngữ Yên nói:
- Ngươi không chịu làm sư nương của ta, nào có phải thiếu gì đâu? Đây là đại sư nương, đây là tiểu sư nương, cũng đều là sư nương của ta cả.
Y vừa nói vừa chỉ vào Mộc Uyển Thanh và Chung Linh. Mộc Uyển Thanh ngượng ngập, đánh trống lảng:
- Ồ cái tên xú bát quái đâu rồi?
Mọi người mới rồi chăm chăm để ý xem Hư Trúc cứu người, bấy giờ nhìn lại quả nhiên Du Thản Chi và A Tử không biết đã đi đâu mất. Đoàn Dự hỏi:
- Đại ca, bọn họ đi rồi sao?
Tiêu Phong đáp:
- Hai đứa đi rồi. Ngươi đã bằng lòng nên ta không tiện ngăn trở.
Giọng điệu nhuốm vẻ buồn rầu, không biết A Tử theo Du Thản Chi mà đi rồi sẽ ra sao. Nam Hải Ngạc Thần kêu lên:
- Lão đại, lão tứ, mình đi về ư?
Y thấy Đoàn Diên Khánh và Vân Trung Hạc đã đi về hướng tây vội vàng quay lại nói với Đoàn Dự:
- Thôi ta cũng đi đây!
Y hấp tấp chạy theo Đoàn Diên Khánh và Vân Trung Hạc đi về phía thành Linh Châu. Chung Linh nói:
- Vương cô nương, chúng mình ngồi xe nhé!
Nàng đỡ Vương Ngữ Yên lên chiếc xe lừa trước đây dành cho A Tử. Thế là đoàn người cùng về hướng tây đến sẩm tối đã vào nội thành Linh Châu.
Khi đó Tây Hạ đang lúc cường thịnh, tổng cộng có hai mươi hai châu. Phía nam Hoàng Hà thì có Linh Châu, Hồng Châu, Ngân Châu, Hạ Châu. Phía tây Hoàng Hà thì có Hưng Châu, Kinh Châu, Cam Châu, Túc Châu nay là một dải Cam Túc, Ninh Hạ, Tuy Viễn. Nơi đây nhờ có nước sông Hoàng Hà nên cây cỏ tốt tươi, mùa màng phong thịnh. “Hoàng Hà trăm nơi hại, chỉ một khúc cong lợi”, nước Tây Hạ chính là chỗ này. Lại thêm binh cường mã tráng, tổng cộng có đến năm mươi vạn quân. Sĩ tốt Tây Hạ dũng mãnh thiện chiến, Tống sử có chép là:
Người Tây Hạ thích dùng hư binh, mai phục bao vây quân địch. Họ dùng thiết kỵ để tấn công, cưỡi ngựa tốt, giáp dày đâm không thủng, người buộc chặt vào tọa kỵ nên dẫu có chết cũng không rơi xuống đất. Khi chiến đấu họ dùng thiết kỵ xung trận trước, khi nào trận loạn rồi liền xua quân đánh lên, bộ binh đi chung với kỵ binh cùng tiến.
Hoàng đế Tây Hạ tuy họ Lý nhưng chính thực là họ Thác Bạt đời Đường Thái Tông được ban họ Lý là họ nhà vua. Người Tây Hạ luôn luôn đánh nhau với các nước chung quanh nên cương giới thay đổi, quốc đô cũng di chuyển. Linh Châu là thành lớn của Tây Hạ nhưng so với thành thị Trung Nguyên thì còn kém xa.
Tối hôm đó bọn Tiêu Phong không thể nào tìm ra được khách điếm. Linh Châu vốn là chỗ phồn hoa, lại đang lúc gần tiết Trung Thu, hào kiệt bốn phương đông nườm nượp, mấy căn khách điếm lớn đều chật ních. Bọn Tiêu Phong không muốn ra ngoài thành, đành vào một cái miếu ở tạm, đàn ông bên phía đông, đàn bà bên phía tây.
Đoàn Dự từ khi gặp lại Vương Ngữ Yên, vừa hoan hỉ, vừa buồn bã, tối hôm đó trằn trọc mãi không ngủ được. Chàng trong bụng tự hỏi: “Vì cớ gì mà Vương cô nương lại muốn quyên sinh? Làm cách nào khuyên giải nàng đây? Ôi, ta không biết vì sao nàng chán đời thì làm sao mà khuyên giải được?”.
Trước mắt trăng sáng vằng vặc chiếu qua cửa sổ xuống đất. Chàng rón rén trở dậy đi ra ngoài sân, vầng trăng chưa tròn hẳn đang từ từ lên khỏi ngọn hai cây ngô đồng bên cạnh tường. Khi đó mùa nực mới qua nhưng một dải Cam Lương buổi tối đã hơi trở lạnh, Đoàn Dự quanh quẩn dưới gốc cây vài vòng thấy vết thương trên ngực lại ngâm ngẩm đau, biết rằng vì ban ngày chạy nhanh quá nên lại động đến vết thương, không khỏi tự hỏi: “Sao nàng lại đi tìm cái chết nhỉ?”.
Chàng thuận chân đi ra ngoài miếu, dưới ánh trăng thấy xa xa bên cạnh bờ ao thấp thoáng một người đàn bà áo trắng trông như thể Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự kinh hãi kêu thầm: “Không xong rồi, nàng lại tự tử nữa”. Lập tức thi triển khinh công, xông ngay tới chỉ nháy mắt đã đến sau lưng người đàn bà kia.
Dưới ao nước xanh biếc phẳng như mặt gương, phản chiếu bóng người, quả chính là Vương Ngữ Yên thật. Đoàn Dự không dám mạo muội tiến lên, nghĩ thầm: “Ở trên núi Thiếu Thất nàng chán ghét ta, lần này gặp lại, vẻ mặt vẫn chưa vui chút nào, chắc là cơn giận chưa hết. Nàng sở dĩ toan bề quyên sinh, không chừng là vì bực với mình. Ôi, Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi đường đột đắc tội với giai nhân để nàng buồn bã muốn lìa đời, thì dù có trăm lần chết cũng không đủ chuộc lỗi lầm”.
Chàng đứng náu sau một gốc cây, tự oán tự thán, càng nghĩ càng thấy tội nghiệt thâm trọng. Nếu trên đời này có người muốn kết liễu đời mình thì người đó phải là Đoàn Dự mới phải chứ không thể là cô gái đang đứng trước mặt tên gọi Vương Ngữ Yên.
Bỗng thấy mặt nước trong xanh như ngọc tự nhiên khuấy động, có mấy vòng tròn từ từ loang ra. Đoàn Dự ngưng thần nhìn kỹ, thì chính là những giọt lệ của Vương Ngữ Yên nhỏ xuống. Đoàn Dự càng thêm đau lòng, nghe nàng buồn bã thở dài, nói nhỏ:
- Thôi … thôi ta đành đi tìm cái chết cho xong, để khỏi phải chịu nỗi thống khổ vô cùng vô tận này.
Đoàn Dự lại càng nhịn không nổi, từ sau gốc cây bước ra nói:
- Vương cô nương, nghìn lần không nên, vạn lần không nên, mọi sự chẳng qua chỉ vì Đoàn Dự này không ra gì, xin để tại hạ chịu thay. Cô nương … cô nương nếu như vẫn còn giận, tại hạ xin tạ tội trước mặt cô nương.
Chàng nói đến đây, hai gối khuỵu xuống, quì ngay trước mặt nàng. Vương Ngữ Yên giật nảy mình, vội nói:
- Công tử … công tử làm chi đó? Mau đứng lên, chớ để mọi người nhìn thấy thì còn thể thống gì nữa?
Đoàn Dự nói:
- Bao giờ cô nương tha thứ cho tôi, không còn giận nữa lúc đó tại hạ mới đứng lên.
Vương Ngữ Yên lạ lùng:
- Ta tha thứ cho công tử chuyện chi? Trách cứ chuyện chi? Có liên can gì đến anh đâu?
Đoàn Dự nói:
- Ta thấy cô nương đau lòng, nghĩ bụng cô nương mọi chuyện đều vui vẻ, chỉ vì ta đắc tội với Mộ Dung công tử khiến y khó chịu để đến nỗi cô cũng bực mình lây. Lần tới nếu gặp lại y, y muốn đánh muốn giết ta cũng chỉ bỏ chạy, quyết không hoàn thủ.
Vương Ngữ Yên dậm chân thở dài:
- Ôi, anh … anh sao mà ngốc thế, ta thương tâm là chuyện của ta, nào có liên quan gì đến anh đâu.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Nếu nói thế có nghĩa là cô nương không trách gì ta phải không?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Dĩ nhiên là không rồi.
Đoàn Dự nói:
- Thế thì ta cũng yên tâm.
Chàng đứng một hồi, đột nhiên cảm thấy chán phèo chẳng còn ra gì nữa. Nếu như Vương Ngữ Yên vì ghét mình mà đau lòng tính chuyện quyên sinh, cho chí đánh chàng chửi chàng, hay rút kiếm đâm cho một cái, vung đao chém cho một nhát thì hẳn mười phần sung sướng, ngờ đâu nàng chỉ hững hờ: “Ta thương tâm là chuyện của ta, nào có liên quan gì đến anh đâu”, thật chẳng khác gì bị dội một gáo nước lạnh, cuộc đời nhạt nhẽo làm sao.
Lại thấy Vương Ngữ Yên cúi đầu, từng giọt từng giọt lệ rơi xuống ngực, không thấm vào áo nên lăn xuống đất. Đoàn Dự cảm thấy sôi lên nói:
- Cô nương có chuyện gì đau lòng, nói cho tôi nghe. Tôi sẽ tận tâm kiệt lực để làm cho cô, nhất quyết sẽ khiến cô hết giận thành vui.
Vương Ngữ Yên chậm rãi ngửng đầu lên, dưới ánh trăng mắt nàng long lanh đẫm lệ trông như hai viên thủy tinh. Hai khối thủy tinh đó lóe lên một tia vui mừng, nhưng lại tắt ngay. Vương Ngữ Yên rầu rĩ nói:
- Đoàn công tử đãi thiếp thật tốt bụng, trong lòng thiếp … trong lòng thiếp cảm kích biết bao. Có điều chuyện này công tử không thể nào làm được, công tử dẫu muốn giúp cũng không xong.
Đoàn Dự nói:
- Bản thân ta quả chẳng tài cán gì, thế nhưng Tiêu đại ca, Hư Trúc nhị ca ai cũng đầy võ công, đều ở đây cả. Tại hạ với hai vị huynh đệ kim lan kia tình như cốt nhục, dù có cầu chuyện gì chăng nữa cũng sẽ bằng lòng. Cô nương có chuyện gì thương tâm, nói cho ta nghe. Nếu quả đành phải bó tay không cách nào vãn hồi được thì sau khi nói ra những chuyện đau lòng nỗi buồn cũng nhẹ bớt phần nào.
Khuôn mặt trắng bệch của Vương Ngữ Yên bỗng hơi ửng đỏ, nàng quay sang chỗ khác không dám nhìn thẳng vào Đoàn Dự nữa, nhỏ nhẹ nói, tiếng chỉ vo ve như muỗi kêu:
- Y … y muốn làm phò mã Tây Hạ. Công Dã nhị ca đến khuyên thiếp, bảo là … bảo là vì công cuộc hưng phục Đại Yên phải quên đi chuyện nhi nữ tư tình.
Nàng nói mấy câu đó xong rồi quay lại gục đầu vào vai Đoàn Dự, khóc nức nở. Đoàn Dự được nàng thân cận như thế đâm ra hoảng vía, đứng như trời trồng không dám động đậy chút nào, vừa chợt hiểu ra bỗng thấy ngẩn ngơ, không biết nên vui mừng hay nên đau xót. Thì ra Vương Ngữ Yên đau lòng chỉ vì Mộ Dung Phục muốn ứng tuyển phò mã Tây Hạ, nếu lấy được công chúa Tây Hạ dĩ nhiên không màng gì đến Vương Ngữ Yên nữa.
Đoàn Dự tự nhiên nghĩ ngay: “Nếu nàng không lấy biểu ca, không chừng sẽ đổi thái độ với mình. Ta cũng không dám mong nàng hạ cố lấy mình, chỉ mong được thường trông thấy nàng cũng đủ thỏa lòng thỏa dạ. Nàng thích thanh tĩnh ta sẽ dẫn nàng đi những nơi không dấu chân người, hoang sơn cô đảo, sáng chiều thấy nhau, sung sướng biết bao?”. Nghĩ đến chuyện được như thế không khỏi hoa chân múa tay. 
Vương Ngữ Yên giật mình, lùi lại một bước, thấy Đoàn Dự mặt tươi như hoa, giận dỗi nói:
- Anh … anh … ta vẫn tưởng anh là người tốt nên mới ngỏ lời tâm sự. Ai ngờ đâu công tử hạnh tai lạc họa quay lại chế nhạo ta.
Đoàn Dự vội đáp:
- Không, không đâu! Vương cô nương, có trời có đất chứng giám, nếu Đoàn Dự này có nửa phần hạnh tai lạc họa đối với cô nương thì xin cho sét đánh bửa đôi đầu, nghìn vạn mũi tên bắn trúng.
Vương Ngữ Yên hỏi:
- Nếu anh không có ý xấu thì cũng chẳng sao, việc gì phải thề thốt thế? Vậy vì cớ gì anh lại cao hứng?
Nàng vừa buột mồm hỏi xong chợt hiểu ngay ra, Đoàn Dự sở dĩ hớn hở ra mặt, chỉ vì Mộ Dung Phục lấy được công chúa Tây Hạ thì anh chàng sẽ bớt một kẻ tình địch, may ra có hi vọng kết thân với mình. Đoàn Dự vì nàng say đắm, tình ý nồng nàn, lẽ nào Vương Ngữ Yên lại không biết?
Có điều bao nhiêu tình cảm của nàng từ trước tới nay dồn hết cho biểu ca, có khi nghĩ tới mối tình si của Đoàn Dự, cũng hơi tội nghiệp nhưng bảo là “yêu” thì chưa từng có chuyện đó. Nàng hiểu rõ vì sao Đoàn Dự hoa chân múa tay rồi, thẹn thùng lại thêm ngượng ngập, hai má đỏ bừng hậm hực nói:
- Anh tuy không cười tôi, thế nhưng bụng dạ cũng không tốt lành gì. Tôi … tôi … tôi …
Đoàn Dự kinh hoảng, nghĩ thầm: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, sao ngươi chợt nảy ra cái tính nhỏ nhen ti tiện, toan bề dậu đổ bìm leo như thế? Thế hóa ra là một kẻ tiểu nhân vô sỉ hay sao?”.
Chàng thấy nàng thật yếu đuối đáng thương, nếu như có thể làm cho nàng được một đời bình an vui vẻ thì dù có chết vạn lần cũng cam lòng, tự nhiên hào khí nổi lên nghĩ thầm: “Vừa rồi ta chỉ nghĩ đến làm sao được cùng nàng rong chơi nơi hoang sơn cô đảo, sớm tối bên nhau, vui vầy sung sướng. Có biết đâu rằng “vui vầy sung sướng” kia là của Đoàn Dự mà thôi chứ nào có phải là của Vương Ngữ Yên? Cái vui của Đoàn Dự chính là nỗi buồn của Vương Ngữ Yên, ta cầu niềm vui cho mình như thế chỉ là yêu mình, còn như phải làm thế nàng cho nàng vui, ấy mới thực là yêu nàng, lo lắng cho nàng”.
Vương Ngữ Yên hạ giọng:
- Có phải ta nói sai chăng? Công tử giận ta chăng?
Đoàn Dự vội đáp:
- Không, không đâu! Ta làm gì mà giận nàng?
Vương Ngữ Yên nói:
- Thế sao công tử không nói gì cả?
Đoàn Dự đáp:
- Ta đang nghĩ đến một chuyện.
Chàng trong lòng không ngớt tính toán: “Ta so với Mộ Dung công tử, văn tài võ công không kịp mà nhân phẩm phong thái cũng kém, đến tiêu sái tiếng tăm cũng không bằng, có thể nói mặt nào cũng thua xa lắc. Huống chi hai người lại là anh em cô cậu, từ tấm bé có tình thanh mai trúc mã, gắn bó đã lâu ta thật không thể nào sánh được. Thế nhưng có một chuyện ta hơn được Mộ Dung công tử, ta phải cho Vương cô nương hay rằng nói đến chân tâm thành ý lo lắng cho nàng thì Mộ Dung công tử không thể nào bì kịp ta. Hai mươi năm sau khi Vương cô nương cùng Mộ Dung công tử sinh con đẻ cái, có cháu có chắt rồi thì trong tấm lòng sâu thẳm của nàng, mỗi khi nghĩ đến Đoàn Dự, biết rằng trên đời không có kẻ thứ hai thật tình được như ta”.
Chàng trong bụng đã quyết liền nói:
- Vương cô nương, cô không phải đau lòng, để ta đến khuyên Mộ Dung công tử đừng đi ứng tuyển phò mã Tây Hạ, mau mau trở về thành hôn với cô đi thôi.
Vương Ngữ Yên giật mình nói:
- Không, làm thế sao được? Biểu ca ta hận công tử thấu xương, y không nghe công tử khuyên giải gì đâu.
Đoàn Dự nói:
- Ta sẽ nói chuyện đại nghĩa để chỉ vẽ cho y quay về nẻo sáng, trên đời này quan trọng nhất là vợ chồng phải tâm đầu ý hợp, hai bên cùng vui. Y và công chúa Tây Hạ hai người chẳng ai biết ai, cũng chẳng biết cô ta đẹp hay xấu, thiện hay ác, vừa mới gặp nhau đã nên duyên thật không ổn chút nào. Ta cũng sẽ nói với y, Vương cô nương thanh nhã xinh đẹp tuyệt trần, trên đời này ít ai sánh kịp, lại thêm ôn nhu trinh thục, kiếm khắp thiên hạ cũng chẳng ra được một người thứ hai. Người như thế kiếm một nghìn năm cũng chẳng ra, mà có kiếm thêm một nghìn năm nữa cũng không có. Huống chi Vương cô nương đối với ngươi Mộ Dung công tử một mối thâm tình, sao ngươi nỡ trở thành một gã lang quân bạc hãnh, khiến cho tất cả những người đang yêu trên đời này mắng chửi, để cho hảo hán anh hùng trên giang hồ cười chê?
Vương Ngữ Yên nghe chàng nói một thôi như thế, thật là cảm động, buồn bã nói:
- Đoàn công tử, công tử khen thiếp như thế chẳng qua tại chàng có lòng ái mộ, yêu mến thiếp …
Đoàn Dự vội cãi:
- Sai bét rồi! Không phải vậy!
Chàng vừa mở miệng nhớ ngay là mình đã tập nhiễm cái giọng của Bao Bất Đồng, học được câu đầu môi chót lưỡi của y, nhịn không nổi cười hộc lên một tiếng, nói tiếp:
- Ta chỉ một tấm lòng thành, câu nào cũng từ trong gan ruột mà ra.
Vương Ngữ Yên nghe câu:”Phi dã, phi dã” của chàng khiến cho đang khóc cũng phải bật cười đáp:
- Chuyện hay anh không học, lại học cái lối cù nhầy của Bao tam ca.
Đoàn Dự thấy nàng mặt mày rạng rỡ, hết sức hoan hỉ nói:
- Ta sẽ hết sức tìm đủ mọi cách khuyên giải Mộ Dung công tử để y không còn ý muốn làm phò mã Tây Hạ mà sớm sớm cùng cô nương thành hôn.
Vương Ngữ Yên đáp:
- Anh làm thế là vì sao? Có chỗ nào lợi cho anh đâu?
Đoàn Dự đáp:
- Chỉ cần sao cô nương vui tươi nhí nhảnh, trong bụng thoải mái, ấy là cái lợi cho ta đó.
Vương Ngữ Yên trong lòng rung động, nghe một câu hết sức vu vơ như thế cũng đủ biết chàng đối với mình một mối chân tình. Thế nhưng nàng vốn nhất tâm nhất ý chỉ có một mình Mộ Dung Phục, tuy cảm kích nhưng chỉ thoáng qua rồi quên ngay, thở dài một tiếng nói:
- Anh không biết tấm lòng của biểu ca. Trong lòng y việc hưng phục Đại Yên là chuyện to lớn nhất trong thiên hạ. Công Dã nhị ca nói với ta rằng, biểu ca có nói: Phận nam nhi phải lấy đại nghiệp làm trọng, nếu lại như nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản thì còn đâu là anh hùng nữa.
Anh ta còn nói: Công chúa Tây Hạ dù có xấu như Chung Vô Diệm, chanh chua tai ngược thì y cũng chẳng để vào đâu, chỉ có hưng phục Đại Yên mới là quan trọng hơn cả.
Đoàn Dự trầm ngâm đáp:
- Cái đó chắc là thật đấy. Họ Mộ Dung nhất tâm nhất ý mong làm hoàng đế, nước Tây Hạ có thể giúp họ hưng binh phục quốc, chuyện này … chuyện này … quả là khó thực.
Lại thấy Vương Ngữ Yên nước mắt doanh tròng sắp sửa trào ra, Đoàn Dự nghĩ mình dù có phải lên núi đao, xuống vạc dầu cũng chẳng sá gì bèn ưỡn ngực nói:
- Cô nương cứ yên tâm đi, để ta đi làm phò mã Tây Hạ. Biểu ca cô không làm phò mã thì lúc đó không thể không thành hôn với cô nương.
Vương Ngữ Yên vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc, hỏi lại:
- Cái gì?
Đoàn Dự đáp:
- Để ta đi giật lấy cái chức phò mã đô úy là xong.
Vương Ngữ Yên chính mắt nhìn thấy trên núi Thiếu Thất Đoàn Dự đã từng dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh cho Mộ Dung Phục không cách gì trở tay, nghĩ thầm võ công Đoàn Dự quả cao hơn biểu ca, nếu chàng có bụng đi giành chức phò mã e rằng chưa chắc đã vào tay Mộ Dung Phục được, nói khẽ:
- Đoàn công tử, chàng đối với thiếp thật hết lòng, nhưng nếu như thế, biểu ca sẽ hận chàng không đâu kể xiết.
Đoàn Dự đáp:
- Thế thì đã sao? Hiện bây giờ y cũng đã hận ta rồi.
Vương Ngữ Yên nói:
- Thế nhưng công tử vừa mới nói, không biết công chúa Tây Hạ xấu hay đẹp, thiện hay ác, vậy sao chàng lại vì thiếp mà thành thân với cô ta, chẳng hóa ra … chẳng hóa ra … thiệt thòi cho công tử lắm hay sao?
Đoàn Dự định nói: “Chỉ vì nàng, dù ta có phải thiệt thòi thế nào chăng nữa cũng cam gánh chịu” nhưng lại nghĩ ra: “Ta làm cho nàng nhưng lại khiến cho nàng phải chịu ơn thì đâu còn là hành vi của người quân tử nữa”. Chàng bèn đáp:
- Ta nào có vì nàng mà chịu thiệt thòi đâu. Cha ta đã ra lệnh bảo ta đi tìm cách lấy công chúa Tây Hạ làm vợ, đó là ta tuân lệnh gia gia, có liên quan gì đến cô nương đâu?
Vương Ngữ Yên là người cực kỳ thông tuệ, mối thâm tình của Đoàn Dự đối với mình, lẽ nào không thấu đáo? Chỉ vì chàng say mê mình mà cam nguyện thành hôn với một người chưa từng quen biết, vì mình mà làm một chuyện hết sức trái với tâm tư, lại không kể công, trong lòng càng thêm cảm kích, đưa tay ra nắm tay Đoàn Dự nói:
- Đoàn công tử, thiếp … thiếp … kiếp này không biết lấy gì báo đáp, thôi đành để kiếp sau …
Nàng nói đến đây, giọng nghẹn ngào không nói tiếp được nữa. Hai người mấy lần cùng chung hoạn nạn, giúp đỡ nâng dắt lẫn nhau, đụng da chạm thịt không phải chỉ một lần nhưng trước nay chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Còn lần này chính là vì trong lòng Vương Ngữ Yên cảm động, đưa tay ra nắm tay Đoàn Dự. Đoàn Dự cảm thấy bàn tay mềm mại nhẵn nhụi của nàng cầm lấy tay mình, trong nhất thời thật dẫu có lên tiên cũng không sướng bằng, niềm vui dâng tràn thấy nàng đãi mình như thế thì dù có phải lấy cả một lượt công chúa Tây Hạ, công chúa Đại Tống, công chúa nước Liêu, công chúa Thổ Phồn, công chúa Cao Ly chàng cũng không nề. Chàng bị thương chưa khỏi, trong cơn sung sướng như điên như cuồng, nhiệt huyết dâng lên, tinh thần xem chừng không chịu nổi, bỗng nhiên đầu váng mắt hoa, trời đất quay cuồng, thân hình lảo đảo, ùm một tiếng đã lộn nhào xuống ao.
Vương Ngữ Yên kinh hãi quá kêu lên:
- Đoàn công tử! Đoàn công tử!
Nàng vội vàng đưa tay ra nắm lấy Đoàn Dự. Cũng may cái ao đó rất nông, Đoàn Dự bị ngấm nước nên đầu óc tỉnh lại, ướt lướt thướt trèo lên. Tiếng kêu của Vương Ngữ Yên khiến cho những người trong miếu đều thức giấc. Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần tất cả cùng túa ra, thấy tình trạng Đoàn Dự như thế, còn Vương Ngữ Yên thì ngượng ngập đứng một bên, vẻ mặt cực kỳ bẽn lẽn, ai cũng cho rằng hai người hò hẹn lúc canh khuya, không khỏi cười thầm nhưng không tiện dò hỏi. Đoàn Dự tuy muốn chống chế vài câu nhưng cũng không biết phải làm thế nào.
Hôm sau là ngày mười hai tháng tám, chỉ còn ba ngày nữa là đến tiết Trung Thu. Ba Thiên Thạch mới sáng sớm đã đi vào thành lo liệu công việc. Đến giờ tị, y lật đật quay về bẩm với Đoàn Dự:
- Công tử, lá thư cầu thân của vương gia gửi hoàng đế Tây Hạ, tiểu nhân đã trình cho bộ Lễ rồi. Cũng may đích thân Lễ Bộ thượng thư trông thấy, hết sức khách khí, nói là được công tử đến cầu thân, nước Tây Hạ vô cùng vinh dự hi vọng công tử sẽ hoàn thành sở nguyện.
Chẳng bao lâu, một đoàn người ngựa chạy đến trước miếu rồi có tiếng người gọi. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần liền chạy ra đón vào, thì ra đó là Đào thị lang của bộ Lễ cùng với nhân viên đến nghinh tiếp Đoàn Dự, mời vào tân quán nghỉ ngơi. Tiêu Phong là Nam Viện Đại Vương của nước Liêu, thịnh thế nước Liêu hơn Đại Lý nhiều, nếu Tây Hạ biết được có cả ông ở đây, ắt là tiếp đón còn long trọng hơn nữa. Có điều ông đã dặn mọi người đừng hở phong thanh là có cả ông cùng đi, chỉ cùng Hư Trúc nhận là tùy tùng của Đoàn Dự, tất cả vào nhà khách.
Mọi người yên vị rồi, bỗng nghe trong viện có kẻ cất giọng thô lỗ chửi rủa:
- Ngươi là cái thá gì mà đòi ngấm nghé công chúa Tây Hạ? Cái chức phò mã Tây Hạ, tiểu vương tử bọn ta đã định chiếm rồi, bọn chúng bay mau mau cúp đuôi cút đi thôi.
Bọn Ba Thiên Thạch nghe nói thế ai nấy nổi hung lên, nghĩ thầm kẻ nào sao dám vô lễ như thế, dám đến trước cửa nhục mạ? Mở cửa ra thấy có đến mười bảy mười tám đại hán, đứng đầy trong viện kêu la om sòm.
Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần đều là những bầy tôi cực kỳ tinh tế trong triều đình Đại Lý, chỉ khác là Chu Đan Thần có vài phần nho nhã văn chương, còn Ba Thiên Thạch thì bặm trợn hơn một chút. Hai người không ai nói gì, chỉ đứng ở cửa.
Chỉ thấy bọn kia càng chửi càng thô tục, trong đó xen vào nhiều tiếng Phiên không ai hiểu gì nhưng mồm năm miệng mười “tiểu vương tử nhà ta” thế này thế khác, xem chừng là hạ thuộc của vương tử nước Thổ Phồn.
Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần hai người nhìn nhau cười mỉm, đang định ra tay đánh đuổi bọn chúng đi, đột nhiên cửa bên cánh trái mở toang, một người áo vàng, một người áo đen xông ra, tay đấm chân đá, trong nháy mắt đã có ba đại hán bò lê bò càng kêu la rầm rĩ, ngoài ra còn mấy người khác bị đánh văng ra ngoài ngõ.
Người áo đen nói:
- Khoái quá! Khoái quá!
Gã áo vàng nói:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Chưa đủ gọi là khoái!
Một người chính là Phong Ba Ác còn người kia là Bao Bất Đồng. Bỗng nghe những võ sĩ Thổ Phồn chạy được ra khỏi cửa lớn tiếng:
- Họ Mộ Dung kia, ta khuyên ngươi nên sớm về Cô Tô cho xong. Ngươi định lấy công chúa Tây Hạ làm vợ sẽ khiến tiểu vương tử bọn ta bực mình, sử dụng môn “ăn miếng trả miếng”, cưới quách con em ngươi làm vợ bé là ngươi bỏ mẹ.
Phong Ba Ác lại chạy vụt ra như gió, nghe tiếng bì bộp đánh đấm, ối ối mấy tiếng, những tên võ sĩ Tây Hạ bỏ chạy tán loạn, tiếng chửi vọng lại càng lúc càng xa. Vương Ngữ Yên ngồi ở trong phòng, nghe tiếng Bao Phong cùng bọn võ sĩ Thổ Phồn, lông mày nhíu lại, giọt châu rưng rưng, không biết phải làm thế nào, có nên đi ra gặp bọn họ hay không?
Bao Bất Đồng chắp tay chào Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần nói:
- Ba huynh, Chu huynh đến Tây Hạ để xem trò vui chăng, hay còn có mưu tính chuyện gì khác?
Ba Thiên Thạch cười nói:
- Bao Phong hai vị làm gì thì hai người chúng ta cũng làm chuyện ấy.
Bao Bất Đồng biến sắc hỏi:
- Đoàn vương tử nước Đại Lý cũng tới cầu thân ư?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Chính thế! Công tử gia bọn ta là thế tử của hoàng thái đệ nước Đại Lý, ngày sau thân đăng đại vị, là vua một cõi ngoảnh mặt về phương nam, cùng với Tây Hạ kết thân, quả là môn đương hộ đối. Mộ Dung công tử chỉ chân bạch đinh, nhân phẩm tuy cao nhưng gia cảnh xem ra không xứng đôi vừa lứa.
Mặt Bao Bất Đồng lại càng khó coi nói:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Ngươi biết một mà chẳng biết hai. Công tử nhà ta là phượng hoàng trong loài người, cái tên ngốc họ Đoàn nhà ngươi làm sao bì được?
Phong Ba Ác lại xông ra nói:
- Tam ca hà tất phải tranh hơi cãi vã làm gì? Để mai đây kim điện tỉ thí, hai bên thi triển tài nghệ là biết ngay.
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Tỉ thí nơi kim điện ấy là chuyện của công tử gia, còn cãi vã hơn thua chính là việc của bọn mình.
Ba Thiên Thạch cười nói:
- Cãi vã hơn thua thì Bao huynh là số một trong thiên hạ, cổ vãng kim lai không ai bì kịp. Tiểu đệ đành chịu nước lép, chi bằng nhận thua trước cho xong.
Y vừa nói vừa cùng Chu Đan Thần lui vào trong phòng, nói:
- Chu hiền đệ, nghe gã Bao Bất Đồng nói ra thì công tử gia phải tham dự cái gì gọi là kim điện tỉ thí. Công tử gia bị thương nặng chưa hoàn toàn khỏi hẳn, võ công lại lúc được lúc không, đâu có gì chắc chắn, nếu khi tỉ thí Lục Mạch Thần Kiếm không dùng được, đã không thành phò mã mà lại còn nguy đến tính mạng, mình phải tính sao đây?
Chu Đan Thần cũng bó tay, hai người đành đi tìm Tiêu Phong, Hư Trúc để bàn tính. Tiêu Phong nói:
- Việc thi ở điện vàng kia không biết tỉ thí cách nào? Một đánh một chăng, hay là bao nhiêu bộ thuộc cũng xuất trận? Nếu như người đi theo cũng tham dự giác đấu được thì không có gì phải lo.
Ba Thiên Thạch đáp:
- Quả đúng thế. Chu hiền đệ, bọn mình đến gặp Đào thượng thư hỏi xem cách thức kén rể, tỉ thí ra sao cho rõ ràng, lúc đó hãy bàn tính lại.
Hai người bèn khăn gói ra đi. Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự ba người ngồi uống rượu, chén chú chén anh thật là hào sảng. Tiêu Phong nhân dịp hỏi Đoàn Dự học Lục Mạch Thần Kiếm như thế nào, định truyền cho chàng những pháp môn vận chuyển chân khí để có thể tùy ý mà sử dụng. Ngờ đâu Đoàn Dự chẳng biết một tí nội công, ngoại công nào cả thì làm sao có thể học được trong một ngày một buổi? Tiêu Phong thấy không cách gì hơn chỉ còn nước lắc đầu, giơ bát lên uống ừng ực. Hư Trúc và Đoàn Dự tửu lượng kém xa, uống hết năm sáu bát liệt tửu thì đã say mèm không còn biết trời trăng gì nữa.
Đoàn Dự mơ mơ hồ hồ tỉnh lại, thấy giấy dán trên cửa sổ in hình cành cây rõ mồm một, ánh trăng chiếu vào thì ra đã khuya lắm. Chàng trong lòng rung động: “Hôm qua ta và Vương cô nương nói chuyện chưa xong, chỉ vì sơ ý nên lộn cổ xuống ao, không biết nàng có còn gì để nói với mình nữa hay không? Hay là vẫn ở bên ngoài chờ mình? Chết rồi, không xong! Nếu để nàng đợi một hồi lâu thấy mình không ra, chắc chán nản quay về ngủ mất, hóa ra chẳng hỏng hết đại sự hay sao?”. Chàng vội vàng nhỏm dậy, rón rén mở cửa phòng đi qua sân đang toan mở then cổng chính, bỗng nghe đằng sau có người nói khẽ:
- Đoàn công tử lại đây, ta có chuyện muốn nói.
Đoàn Dự bất thần nghe tiếng người giật bắn lên, giọng nói lạnh lùng dường như không có ý tốt, định quay lại xem là ai bỗng thấy sau lưng bị nắm chặt rồi. Đoàn Dự nhận ra tiếng, hỏi lại:
- Có phải Mộ Dung công tử đó không?
Người kia đáp:
- Không dám, chính là mỗ đây, xin Đoàn huynh di giá ra ngoài nói chuyện.
Quả đúng là Mộ Dung Phục. Đoàn Dự nói:
- Mộ Dung công tử đã sai bảo, tại hạ đâu dám không phụng bồi? Xin bỏ tay ra đã.
Mộ Dung Phục đáp:
- Cũng chẳng cần phải buông ra làm chi.
Đoàn Dự đột nhiên thấy mình nhẹ bỗng, người bay bổng như đằng vân giá vụ, đã bị Mộ Dung Phục nắm sau lưng nhảy lên mái nhà. Đoàn Dự nếu như há mồm kêu thì cũng đánh thức Tiêu Phong, Hư Trúc và những người khác chạy ra cứu viện nhưng lại nghĩ: “Nếu ta kêu lên thì Vương cô nương cũng nghe tiếng, nàng thấy hai người lại hục hặc nhau, hẳn sẽ không hài lòng. Nàng không bao giờ trách biểu ca đâu, bao nhiêu tội vạ lại đổ lên đầu ta, lẽ nào ta lại để nàng phải bực tức?”. Chàng nghĩ thế nên không la ó, để mặc cho Mộ Dung Phục xách trên tay chạy băng băng ra ngoài.
Khi đó tuy là canh khuya nhưng cũng sắp tới ngày Trung Thu, ánh trăng vằng vặc, thấy Mộ Dung Phục lúc đầu chạy trên đường lót đá xanh rồi sau đến một con đường mòn đất thịt, hai bên là cỏ cao nửa xanh nửa vàng.
Mộ Dung Phục chạy được một lát rồi ngừng lại, cầm Đoàn Dự ném phịch xuống đất một cái khá mạnh, bình một tiếng, vai và hông Đoàn Dự chạm vào đất nhưng không đau lắm. Chàng nghĩ thầm: “Gã này mặt mũi trông cũng văn nhã nhưng hành động lại như kẻ dã man” bèn lồm cồm bò dậy nói:
- Mộ Dung huynh có điều gì thì nói đâu cần phải hung hăng như thế.
Mộ Dung Phục cười khẩy đáp:
- Tối hôm qua ngươi nói gì với biểu muội ta?
Đoàn Dự đỏ mặt, ngượng ngập đáp:
- Cũng … cũng đâu có chuyện gì? Chẳng qua vô tình chạm mặt nhau nói vài câu chuyện tầm phào thôi mà.
Mộ Dung Phục nói:
- Ngươi là nam tử hán, đại trượng phu, người quang minh không làm điều lén lút, đã nói chuyện gì, làm việc gì thì hà tất phải chối quanh?
Đoàn Dự bị y khích bác, máu nóng nổi lên nói:
- Đương nhiên việc gì ta phải dấu diếm, ta nói với Vương cô nương là muốn đến khuyên nhủ ngươi một chuyện.
Mộ Dung Phục cười nhạt nói:
- Có phải ngươi muốn khuyên ta: “Trên đời này quan trọng nhất là vợ chồng phải tâm đầu ý hợp, hai bên cùng vui. Ta và công chúa Tây Hạ chẳng ai biết ai, cũng chẳng biết cô ta đẹp hay xấu, thiện hay ác, vừa mới gặp nhau đã nên duyên thật không ổn chút nào”, có phải thế không? 
Ngươi lại còn nói: “Huống hồ biểu muội đối với ta một mối thâm tình, nếu như trở thành một gã lang quân bạc hãnh, sẽ khiến cho tất cả những người đang yêu trên đời này mắng chửi, để cho hảo hán anh hùng trên giang hồ cười chê?” có phải thế không?
Y nói một câu Đoàn Dự đã ngẩn người, đến khi nói hết chàng mới lắp bắp:
- Vương … Vương cô nương kể lại cho ngươi rồi ư?
Mộ Dung Phục đáp:
- Đời nào nàng lại dám nói cho ta nghe?
Đoàn Dự hỏi lại:
- Thế tối hôm qua ngươi đứng náu ở một bên nghe được ư?
Mộ Dung Phục lại cười nhạt:
- Ngươi có lừa là lừa được một cô nương ngây thơ không hiểu chuyện đời chứ tính chuyện xí gạt ta sao nổi.
Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:
- Ta lừa ngươi chuyện gì?
Mộ Dung Phục đáp:
- Nói thế mà chưa rõ hay sao? Ngươi bản thân muốn được làm phò mã Tây Hạ, sợ ta đến tranh giành nên mới đặt điều định dụ ta vào tròng. Ha ha, Mộ Dung Phục này có phải là đứa trẻ lên ba đâu, không lẽ lại vào bẫy của ngươi được? Ngươi … ngươi đừng có nằm mơ nữa.
Đoàn Dự thở dài:
- Ta chỉ có lòng tốt, mong cho Vương cô nương và ngươi thành hôn, kết thành thần tiên quyến thuộc, nâng án ngang mày, trăm năm đầu bạc đấy thôi.
Mộ Dung Phục lại cười khẩy:
- Đa tạ cái miệng vàng của ngươi. Họ Đoàn Đại Lý với Cô Tô Mộ Dung vô thân vô cố, cũng chẳng giao tình, sao ngươi lại chúc tụng những điều tốt đẹp đến thế? Chỉ cần ta bị vướng mắc với biểu muội không thoát ra được, thế là ngươi thong dong quần là áo lượt, hiên ngang đi nhận cái chức phò mã Tây Hạ chứ gì?
Đoàn Dự giận dữ đáp:
- Ngươi thốt ra như thế không phải là ăn càn nói bậy hay sao? Ta thân vương tử nước Đại Lý, tuy chỉ là tiểu quốc nhưng có đến nỗi phải coi cái chức “phò mã” kia to như trời đâu? Mộ Dung công tử, ta có lòng tốt khuyên ngươi, vinh hoa phú quí, chỉ chớp mắt là qua không còn gì nữa, dù cho ngươi có thành phò mã Tây Hạ thì rồi lại mong được làm hoàng đế Đại Yên, phải giết không biết bao nhiêu mạng người? Dẫu cho người Trung Nguyên máu chảy thành sông, xương chất như núi, cái chức hoàng đế Đại Yên thành hay không, thực đâu có gì chắc chắn.
Mộ Dung Phục không lấy gì tức giận, chỉ lạnh lùng nói:
- Ngươi nói ra toàn chuyện nhân từ đạo đức, thế nhưng bụng dạ thì rắn rết sài lang.
Đoàn Dự vội đáp:
- Ngươi không tin ta có hảo ý thì là chuyện của ngươi, nói gì thì nói, ta không nhường ngươi lấy công chúa Tây Hạ đâu. Ta không đành lòng thấy Vương cô nương đứt ruột, phải tìm cách quyên sinh.
Mộ Dung Phục hỏi lại:
- Ngươi không nhường ta lấy ư? Ha ha, liệu ngươi có tài cán làm chuyện đó không? Ta cứ lấy thì ngươi làm gì ta?
Đoàn Dự đáp:
- Ta sẽ tận tâm kiệt lực, ngăn trở cho việc không thành. Nếu như ta vô năng vô lực thì sẽ nhờ bạn bè giúp.
Mộ Dung Phục hơi chột dạ. Tiêu Phong, Hư Trúc hai người võ công đến đâu, y biết rõ rồi, thậm chí bản thân Đoàn Dự, khi thi triển Lục Mạch Thần Kiếm chính mình đã không cách gì chống đỡ, cũng may kiếm pháp của y lúc được lúc không, không thể nghĩ sao làm vậy, nên phải lợi dụng lúc sơ hở. Y nghĩ thế bèn ngửng đầu lên cao giọng:
- Biểu muội, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.
Đoàn Dự vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng quay lại nhưng cả một vùng đồng không mông quạnh, nào có thấy bóng dáng Vương Ngữ Yên đâu? Chàng ngưng thần nhìn quanh quất, xem ở nơi cây cối um tùm trước mặt có gì động đậy không, đột nhiên sau lưng bóp lại, lại bị Mộ Dung Phục nắm được huyệt đạo nhắc lên, lúc ấy mới biết mình bị mắc hỡm, cười gượng nói:
- Ngươi đã hung hăng lại thêm trí trá, thực không phải hành vi của người quân tử.
Mộ Dung Phục cười nhạt:
- Đối phó với những đứa tiểu nhân như ngươi việc gì phải dùng thủ đoạn quân tử?
Y nhắc Đoàn Dự lên chạy qua một bên đường có lẽ định đi tìm một cái hố nào đó, đánh cho một chưởng chết tươi vứt xuống vùi lại. Y chạy được mấy trượng chỉ thấy một cái giếng khô, giơ lên ném luôn chàng xuống dưới đó. Đoàn Dự chỉ kịp kêu lên: “Trời ơi!” thì đã rơi bịch xuống dưới đáy. Mộ Dung Phục định đi tìm thêm vài tảng đá lấp miệng giếng lại cho chàng chết đói, bỗng nghe có tiếng đàn bà:
- Biểu ca thấy tiểu muội rồi ư? Muốn nói chuyện gì? Ối chao, biểu ca làm gì Đoàn công tử đó?
Người đó chính là Vương Ngữ Yên. Mộ Dung Phục sững sờ, mày cau lại. Y gọi vói ra sau lưng Đoàn Dự, chẳng qua chỉ cốt dẫn dụ chàng quay đầu nhìn để dễ bề nắm lấy huyệt đạo sau lưng, ai ngờ đâu quả có Vương Ngữ Yên ở gần bên thật.
Thì ra đêm hôm đó Vương Ngữ Yên lòng buồn rười rượi không sao ngủ được nên ngồi bên song cửa ngắm trăng, tình cảnh Mộ Dung Phục bắt giữ Đoàn Dự thế nào nàng đều thấy cả, e ngại hai người tranh chấp, Mộ Dung Phục không địch lại Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự nên lập tức đuổi theo sau. Hai người tranh biện những gì từng câu từng câu nàng đều nghe rõ. Nàng thấy những lời Đoàn Dự nói ra đều tự tâm can phế phủ nhưng Mộ Dung Phục lại cho rằng chàng có dụng tâm. Đến khi Mộ Dung Phục buông lời đánh lừa Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên vẫn tưởng y trông thấy mình thật, nên mới hiện thân.
Vương Ngữ Yên chạy đến bên miệng giếng, cúi xuống xem xét gọi lớn:
- Đoàn công tử! Đoàn công tử! Công tử có bị thương không?
Đoàn Dự khi bị ném, đầu lộn xuống dưới chân chổng lên trên, trán va vào bùn khô đã ngất đi từ bao giờ. Vương Ngữ Yên gọi luôn mấy bận không nghe tiếng đáp lại, cho rằng Đoàn Dự đã chết rồi, nghĩ đến bình thời chàng đối với mình thật hết lòng hết dạ, lần này cũng vì mình mà bỏ mạng, nhịn không nổi khóc òa lên kêu réo:
- Đoàn công tử, chàng … chàng sao lại … sao lại chết thảm như thế này?
Mộ Dung Phục lãnh đạm nói:
- Ngươi đối với y quả là một mối thâm tình.
Vương Ngữ Yên nghẹn ngào đáp:
- Anh ta có lòng tốt khuyên bảo biểu ca, nghe hay không là quyền mình, có gì mà phải giết anh ta như thế?
Mộ Dung Phục đáp:
- Người này là đại đối đầu của ta, ngươi không nghe y nói là sẽ tận tâm kiệt lực ngăn trở không cho ta lấy được công chúa Tây Hạ hay sao? Hôm trước trên núi Thiếu Thất, y làm ta mất mặt không còn đường nào đứng trên cõi giang hồ, ta không thể nào dung tha cho nổi.
Vương Ngữ Yên nói:
- Việc trên núi Thiếu Thất thì quả là anh ta không phải, tiểu muội đã từng trách cứ, anh ta cũng nhận là mình sai quấy.
Mộ Dung Phục cười khẩy:
- Hừ, hừ! Tự nhận là sai quấy? Chỉ nói bâng quơ một câu thế thôi là tưởng xóa được món nợ này hay sao? Ta Mộ Dung Phục hành tẩu giang hồ, để cho người ta đứng sau lưng chỉ chỉ trỏ trỏ, bảo ta thua vì Lục Mạch Thần Kiếm họ Đoàn Đại Lý, ngươi thử tưởng tượng xem từ nay ta có còn làm người được nữa chăng?
Vương Ngữ Yên nhỏ nhẹ nói:
- Biểu ca, chuyện thua được nhất thời, sao lại cứ ghi nhớ mãi trong tim? Chuyện đấu kiếm trên núi Thiếu Thất hôm đó chính dượng cũng đã khai mở cho biểu ca rồi, việc đã qua còn nói lại làm chi?
Nàng không biết Đoàn Dự đã chết thật chưa, lại thò đầu xuống giếng gọi thêm:
- Đoàn công tử! Đoàn công tử!
Thế nhưng không nghe thấy tăm hơi gì cả. Mộ Dung Phục nói:
- Ngươi quan tâm đến y như thế sao không lấy quách y cho xong? Hà tất lại còn lẽo đẽo chạy theo ta?
Vương Ngữ Yên trong lòng chua xót nói:
- Biểu ca, thiếp đối với chàng một mối chân tâm, không lẽ … không lẽ chàng chưa tin được hay sao?
Mộ Dung Phục cười nhạt:
- Ngươi đối với ta một tấm lòng thành, ha ha! Hôm xưa ở tại bên bờ Thái Hồ, nơi máy xay lúa, ngươi trần truồng cùng gã họ Đoàn chui dưới đống rơm để làm gì thế? Cái đó chính mắt ta trông thấy, không lẽ lại còn giả hay sao? Khi đó ta đã định một đao chém chết tiểu tử đó đi, nhưng chính ngươi chỉ điểm cho y làm khó ta, thế trong lòng ngươi nghĩ tới ai vậy? Ha ha, ha ha!
Y nói đến đây rồi buông tiếng cười sằng sặc. Vương Ngữ Yên kinh hãi đến chết sững, run run hỏi:
- Nơi nhà máy xay lúa bên cạnh Thái Hồ … cái người … cái người võ sĩ Tây Hạ che mặt … che mặt …
Mộ Dung Phục cướp lời:
- Đúng vậy, kẻ giả làm võ sĩ Tây Hạ Lý Diên Tông, chính là ta đó.
Vương Ngữ Yên nói nhỏ:
- Thảo nào, tiểu muội vốn đã nghi. Hôm đó biểu ca còn nói: “Nếu như một ngày nào đó ta lên làm Hoàng Đế Trung Nguyên…” giọng điệu đó … đúng … đúng là của biểu ca rồi, đáng lẽ phải sớm nhận ra mới phải.

datlucky_way

27-07-2009 08:56 AM

Hồi 45(b) : KHÔ TỈNH ĐỂ, Ô NÊ XỨ 





Bấm vào đây để xem nội dung.


Đáy khô má tựa lòng thêm ấm,
Lá mục môi kề dạ ngát hương.
*
* *








Mộ Dung Phục cười nhạt:
- Ngươi đáng lẽ sớm nhận ra hay bây giờ mới nhận ra thì cũng đâu có trễ.
Vương Ngữ Yên vội nói:
- Biểu ca, hôm đó tiểu muội trúng phải hơi độc của bọn võ sĩ Tây Hạ, may được Đoàn công tử cứu, giữa đường gặp mưa ướt hết cả quần áo, thành thử mới phải vào trong nhà máy xay đó đụt mưa, biểu ca …biểu ca … chớ có đa nghi.
Mộ Dung Phục đáp:
- May sao lại có cái nhà máy xay lúa để đụt mưa. Vậy mà khi ta đến nơi rồi, hai đứa vẫn còn lấp la lấp ló, gã họ Đoàn đưa tay sờ mặt ngươi, ngươi nào có tránh né. Khi đó ta nói những gì, ngươi có còn nhớ được hay chăng? Chỉ e ngươi toàn tâm toàn ý chỉ còn biết đến gã họ Đoàn, lời ta nói nào có lọt vào tai đâu.
Vương Ngữ Yên hơi xao xuyến, nhớ lại cảnh tượng ở trong nhà xay lúa, những lời của gã võ sĩ Tây Hạ bịt mặt Lý Diên Tông còn rõ mồn một bên tai, lẩm bẩm:
- Khi đó.. khi đó … biểu ca cười khẩy mấy tiếng, nói gì nhỉ? Biểu ca nói … nói … là “Ta bảo ngươi lên học võ công để giết ta chứ có bảo hai đứa chúng bay … hai đứa chúng bay …”. 
Nàng nhớ rành rọt hôm đó Mộ Dung Phục còn nói: “… hai đứa chúng bay lên đó cười cợt, ôm ấp nhau đâu.” nhưng không sao nói ra được.
Mộ Dung Phục nói:
- Hôm đó ngươi cũng bảo là nếu như ta giết gã tiểu tử họ Đoàn thì ngươi sẽ quyết ý giết ta báo thù cho y. Vương cô nương, ta nghe cô nương nói mấy câu đó nên mới tha mạng cho y, ngờ đâu dưỡng hổ di hoạn, để đến nỗi trước mặt bao nhiêu anh hùng hảo hán trên núi Thiếu Thất bị nhục nhã không còn mặt mũi gì.
Vương Ngữ Yên thấy y đột nhiên không còn gọi mình là “biểu muội” nữa mà đổi giọng thành “Vương cô nương”, trong lòng xót xa, run run nói:
- Biểu ca, hôm đó nếu như em biết được đó là biểu ca thì không bao giờ lại nói những điều như thế. Quả thực, biểu ca ơi, em … nếu em biết được… quyết chẳng dám nói. Chàng cũng biết em một lòng một dạ đối với chàng … hết sức thương yêu.
Mộ Dung Phục nói:
- Ví phỏng như vì ta đeo mặt nạ ngươi không nhận ra tướng mạo, ví như ta giả vờ ú ớ, ngươi không nhận ra khẩu âm, thế nhưng không lẽ đến cả võ công ngươi cũng nhận không ra? Ha ha! Trong võ học ngươi là kẻ uyên bác phi phàm, ai sử chiêu gì thế gì, ngươi biết ngay lai lịch, gia số, thế mà ta cùng tiểu tử kia động thủ đến trên trăm chiêu, ngươi cũng vẫn không nhận ra ta ư?
Vương Ngữ Yên nói nhỏ:
- Tuy thiếp có nghi tâm thật, nhưng … nhưng biểu ca, chúng ta lâu lắm không gặp nhau, võ công tiến cảnh của biểu ca thiếp đâu có nghĩ …
Mộ Dung Phục không lấy làm căm giận, mấy câu đó của Vương Ngữ Yên, rõ ràng cho rằng võ công của mình tiến bộ quá chậm, không như nàng mong đợi, bèn nói:
- Hôm đó ngươi nói: “Lúc đầu ta thấy đao pháp ngươi phức tạp quả có bội phục thật, nhưng coi độ năm chục chiêu rồi thấy chẳng qua cũng chỉ đến đó, bảo là “Kiềm lô kỹ cùng” thì có hơi khắc bạc nhưng nói trắng ra hiểu biết của ngươi còn kém xa ta.”. Vương cô nương, hiểu biết của ta kém cô nương xa thật, … ngươi … ngươi viêc gì mà phải di theo ta? Trong bụng ngươi đã coi ta chẳng vào đâu, đúng thế, Mộ Dung Phục này đường đường trượng phu, vậy mà lại để một cô nương coi chẳng ra gì.
Vương Ngữ Yên tiến lên mấy bước, dịu dàng nói:
- Biểu ca, hôm đó quả là em nói sai, thôi để tiểu muội bồi tội nơi đây.
Nói rồi khom lưng quì xuống hành lễ, nói tiếp:
- Thiếp thật không biết đó là biểu ca … chàng đại nhân đại lượng, chẳng nên để trong lòng. Thiếp từ nhỏ kính trọng biểu ca, từ nhỏ vẫn một niềm ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy, từ nay không dám vi phạm điều gì. Hôm đó thiếp nói năng lăng nhăng, xin chàng niệm tình xưa nghĩa cũ, tha thứ cho thiếp một phen.
Những lời nói của Vương Ngữ Yên nơi nhà máy xay lúa, Mộ Dung Phục tâm cao khí ngạo, nghe rồi hết sức khó chịu, hậm hực mãi không quên. Từ đó đến nay, hai người tuy gần nhau lâu ngày nhưng y vẫn để bụng, đối với nàng không khỏi có phần gượng gạo.
Bây giờ nghe nàng dịu dàng câàu khẩn, dưới ánh trăng một cô nương xinh đẹp tuyệt trần mà tình ý triền miên với mình như thế, lại biết chắc giữa nàng và Đoàn Dự không có gì, nói năng đụng chạm chẳng qua vô tâm, nghĩ đến tình thanh mai trúc mã, Mộ Dung Phục không khỏi động tâm bèn giơ tay ra cầm lấy tay Vương Ngữ Yên gọi nhỏ:
- Biểu muội!
Vương Ngữ Yên mừng quá, biết rằng biêåu ca đã tha thứ cho mình rồi, bèn sà vào lòng y, tựa đầu lên vai Mộ Dung Phục, nói khẽ:
- Biểu ca giận em, muôán đánh muốn chửi gì cũng được, nhưng đừng bao giờ dể trong lòng không nói ra nhé.
Mộ Dung Phục ôm tấm thân mềm mại ấm áp của nàng vào lòng, nghe những lời dịu ngọt thiết tha, không khỏi tâm thần lãng đãng, đưa tay vuốt tóc Vương Ngữ Yên ôn tồn nói:
- Ta đời nào lại mắng chửi em? Ấy là trước kia ta giận đấy thôi chứ bây giờ hết giận rồi.
Vương Ngữ Yên nói:
- Biểu ca, chàng đừng đi làm phò mã Tây Hạ nữa nhé?
Mộ Dung Phục nghe vậy toàn thân rúng động, nghĩ thầm: “Chết rồi! Không được! Mộ Dung Phục ơi! Sao ngươi nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản như thế, suýt nữa thì làm hỏng đại sự. Đến chút tình riêng ngươi còn không bỏ được thì còn nói gì đến chuyện “đả thiên hạ” để gây dựng đại nghiệp nữa?”.
Nghĩ như thế y bèn giơ tay đẩy Vương Ngữ Yên ra, cứng rắn trở lại, lắc đầu:
- Biểu muội, duyên phận đôi ta đến đây chấm dứt. Cô biết chứ, ta xưa nay thù dai lắm, những gì cô đã nói ra, những gì sai quấy, ta không đời nào quên được.
Vương Ngữ Yên buồn bã nói:
- Vừa rồi biểu ca mới nói là hết giận rồi mà.
Mộ Dung Phục đáp:
- Ta không giận nữa nhưng có điều … có điều cuộc đời này chúng ta không đi xa hơn tình anh em cô cậu được.
Vương Ngữ Yên nói:
- Như thế anh nhất định không tha thứ cho tôi ư?
Trong lòng Mộ Dung Phục “tư tình” và “đại nghiệp” hai đàng giằng xé, y ngần ngừ một phút, rồi cương quyết lắc đầu. Vương Ngữ Yên bao nhiêu tâm tình tắt lịm, hỏi thêm lần nữa:
- Anh định đi lấy công chúa Tây Hạ nên không ngó ngàng gì đến tôi nữa chứ gì?
Mộ Dung Phục thu hết can đảm, gật đầu. Vương Ngữ Yên trước đây biết chuyện Mộ Dung Phục định ứng tuyển phò mã Tây Hạ là do Công Dã Can nói lại, tuyệt vọng định tìm cái chết nên cố ý rơi lại phía sau, tránh được bọn Đặng Bách Xuyên rồi bèn nhảy xuống vực tự tận, may được Vân Trung Hạc cứu thoát. 
Đến lúc này do chính miệng ý trung nhân cự tuyệt, nàng đau lòng như điên như cuồng, tưởng chừng hộc máu, đột nhiên nghĩ ra: “Đoàn công tử đối với ta một dạ si mê, vậy mà từ trước tới giờ, đến liếc mắt đưa tình vờ vịt ta cũng chưa làm, lần này y lại bỏ mạng vì ta, quả đãi anh ta hết sức bạc bẽo. Thôi bây giờ ta cũng không muốn sống nữa làm gì, Đoàn công tử chết nơi chiếc giếng sâu, ắt bên dưới là mỏm nhọn đá cứng. Chi bằng ta chết cùng một chỗ với anh ta, để đáp đền lại phần nào mối thâm tình”.
Nàng nghĩ thế bèn từ từ đi đến bờ giếng, quay lại nói:
- Biểu ca, tôi chúc cho anh được toại nguyện, lấy được công chúa Tây Hạ để mai này lên ngôi Đại Yên hoàng đế.
Mộ Dung Phục biết Vương Ngữ Yên đi tìm cái chết, tiến lên một bước định nắm lấy cánh tay nàng, toan ngăn lại: “Không được!”. Thế nhưng trong lòng y lại biết rằng nếu mình lên tiếng, giơ tay giữ lại thì từ nay có thể thoát ra khỏi tấm nhu tình quấn quít của biểu muội nữa hay không quả khó mà biết được. Biểu muội ôn nhu xinh đẹp, trên đời khó kiếm, được người vợ như vậy còn ân hận nỗi gì? Huống chi nàng từ bé với mình ái tình thâm trọng, nếu như một phút yếu lòng, kết thành mối nghiệt duyên thì việc hưng phục Đại Yên sẽ bị sứt mẻ. Y trong lòng nghĩ thế, miệng há ra nhưng không thành tiếng, tay vươn ra nhưng lại không giữ ghịt Vương Ngữ Yên.
Vương Ngữ Yên nhìn thần sắc Mộ Dung Phục cũng đoán được tâm tình, những tưởng dẫu không còn đằm thắm thì cũng vẫn còn là anh em cô cậu chí thân, nào ngờ thấy mình đi tìm cái chết y vẫn không có ý gì ngăn trở, thật còn kém cả đứa cùng hung cực ác là Vân Trung Hạc, kẻ bạc bẽo như thế thì còn nói gì thêm, nên kêu lên:
- Đoàn công tử, thiếp xin được chết ở bên chàng!
Nàng tung mình nhảy lên, lao đầu xuống miệng giếng. Mộ Dung Phục kêu lên một tiếng tiến lên, giơ tay định nắm lấy chân nàng. Với võ công như y, muốn chộp được Vương Ngữ Yên thật dễ như trở bàn tay nhưng vì ngần ngừ chưa quyết nên vẫn để mặc cho nàng tự tận. Y thở dài một tiếng, lắc đầu:
- Biểu muội, lòng ngươi vốn yêu thương Đoàn công tử, hai người sống không được thành vợ chồng nhưng khi chết chôn chung một huyệt, thế cũng thỏa nguyện rồi.
Đột nhiên sau lưng có tiếng người nói:
- Giả dối thật! Ngụy quân tử!
Mộ Dung Phục kinh hãi: “Sao có người đến bên cạnh mình mà mình không hề hay biết?”. Y vung tay đánh ngược lại một chưởng, rồi mới quay đầu, dưới ánh trăng thấy một bóng mờ theo chưởng bay đi, thân pháp khinh linh thực là hiếm có.
Mộ Dung Phục phi thân tới, không đợi cho người kia rơi xuống, vừa đánh thêm một chưởng vừa giận dữ quát lên:
- Ai đó? Sao đám đùa rỡn với công tử nhà ngươi?
Người kia ở trên không cũng đánh xuống, chạm phải chưởng lực của Mộ Dung Phục, lại bay vọt ra ngoài thêm hơn một trượng nữa mới rơi xuống đất, hóa ra là quốc sư nước Thổ Phồn Cưu Ma Trí.
Lại nghe y nói tiếp:
- Rõ ràng ngươi bức bách Vương cô nương lao đầu xuống giếng tự tận, vậy mà dám mở mồm nói là để cho nàng thỏa nguyện. Mộ Dung công tử, như thế liệu có âm hiểm tàn nhẫn quá hay chăng?
Mộ Dung Phục cáu tiết đáp:
- Đó là chuyện riêng của ta, ai khiến ngươi phải rỗi hơi xen vào?
Cưu Ma Trí đáp:
- Ngươi làm chuyện thương thiên hại lý như thế, hòa thượng này đành phải chen vào. Huống chi ngươi lại còn toan ứng tuyển phò mã Tây Hạ thì đó đâu còn là chuyện riêng nữa?
Mộ Dung Phục nói:
- Thế bộ hòa thượng như ngươi mà cũng mong được làm phò mã hay sao?
Cưu Ma Trí cười rộ lên đáp:
- Hòa thượng đi làm phò mã, làm gì có chuyện đó bao giờ?
Mộ Dung Phục cười nhạt:
- Ta vốn đã biết nước Thổ Phồn có bụng bất lương, có phải ngươi vì tiểu vương tử mà ra mặt hay không?
Cưu Ma Trí hỏi lại:
- Cớ gì mà lại bảo là “có bụng bất lương”? Nếu định cưới công chúa Tây Hạ làm vợ là có bụng bất lương, thế thì các hạ lương hay không lương thiện nào?
Mộ Dung Phục đáp:
- Ta muốn cưới công chúa Tây Hạ đều do năng lực bản thân để tranh đoạt chức phò mã chứ không phải sai thủ hạ hô phong hoán vũ, quấy rối làm càn khiến cho anh hùng hào kiệt ở Linh Châu này ai ai cũng mỉa mai khinh bỉ.
Cưu Ma Trí cười nói:
- Bọn ta đánh dẹp hết những đứa du thủ du thực để cho kinh thành Linh Châu bớt đi những kẻ quang côn, mặt dày mày dạn, rơm rác bụi bậm, không lượng sức mình, trông mà phát ghét. Thế cũng là dọn đường giúp cho các hạ còn mong gì nữa?
Mộ Dung Phục đáp:
- Nếu quả là như thế thì thật đẹp. Vậy chắc vương tử nước Thổ Phồn sẽ dùng bản lãnh chân thực mà tranh đoạt với người ta chăng?
Cưu Ma Trí đáp:
- Chính thị.
Mộ Dung Phục thấy y nhơn nhơn ra chiều không ngại ngùng gì, làm như chắc ăn rồi, trong bụng không khỏi nghi nan, bèn hỏi:
- Như thế tiểu vương tử quí quốc hẳn là võ công cao cường, anh hùng vô địch, đã cầm chắc cái thắng trong tay chăng?
Cưu Ma Trí đáp:
- Tiểu vương tử điện hạ là học trò ta, võ công tuy không dở, anh hùng vô địch thì chưa hẳn nhưng bảo là chắc ăn thì có thể.
Mộ Dung Phục lại càng kinh ngạc nghĩ thầm: “Nếu ta hỏi thẳng chắc y không trả lời đâu, chi bằng khích tướng mới được”. Y bèn nói:
- Thế thì lạ thật, tiểu vương tử quí quốc cũng chắc ăn mà ta đây cũng chắc ăn, không biết hai người ai mới thực là ăn chắc.
Cưu Ma Trí cười đáp:
- Tiểu vương tử chúng ta có cái gì mà bảo là chắc thắng, hẳn ngươi cũng muốn biết qua, phải vậy chăng? Chi bằng ngươi nói trước cái phương cách của ngươi ra, sau đó ta sẽ cho biết cách của ta. Hai bên trao đổi xem bên nào cao minh hơn bên nào.
Mộ Dung Phục tự thị vốn chỉ là võ công cao cường, hình mạo tuấn nhã, còn như bảo là cách nào chắc thắng thì chưa có, bèn nói:
- Ngươi là kẻ ngụy kế đa đoan, nói ra không ai tin được. Nếu ta nói phương pháp của ta ra, rồi ngươi không chịu nói có phải mắc hỡm ngươi hay không?
Cưu Ma Trí cười khà khà nói:
- Mộ Dung công tử, bề gì ta cũng quen biết lệnh tôn lâu năm, hai bên tương kính lẫn nhau. Nói quá một chút, ta dẫu sao cũng là trưởng bối của các hạ, ngươi nói thế không phải là đi quá phận mình hay sao?
Mộ Dung Phục khom lưng hành lễ:
- Minh Vương trách cứ quả là đúng lẽ, kẻ hậu sinh mong được tha thứ một phen.
Cưu Ma Trí cười đáp:
- Công tử thông minh thật, đã chịu nhận là vãn bối rồi, ta nể tình cha ngươi nên không thể nào chiếm tiện nghi được. Cái điểm tất thắng của tiểu vương tử nước Thổ Phồn, nói ra cũng chẳng đáng đồng xu. Ấy là những ai định tranh chức phò mã, ta sẽ giải quyết từng người một. Nếu như không còn ai tranh giành thì lẽ nào tiểu vương tử lại không trúng tuyển? Ha ha, ha ha!
Mộ Dung Phục lập tức biến sắc ấp úng:
- Nếu nói như thế, ta …
Cưu Ma Trí cướp lời:
- Ta với lệnh tôn giao tình không phải nhẹ, dĩ nhiên không lấy mạng ngươi đâu. Ta thành ý khuyên công tử, lập tức rời Tây Hạ ngay đi, đó là thượng sách.
Mộ Dung Phục nói:
- Nếu như ta không chịu bỏ đi thì sao?
Cưu Ma Trí mỉm cười:
- Ta cũng chẳng thèm giết công tử, chỉ cần móc hai mắt, hay chặt một chân một tay thành người tàn phế. Công chúa Tây Hạ dĩ nhiên chẳng đời nào hạ mình đi lấy một đứa ngũ quan không đủ, chân tay què quặt dù cho có là bậc anh hùng hảo hán.
Y dài giọng khi nói đến bốn chữ “anh hùng hảo hán”, ra chiều châm chọc mỉa mai.
Mộ Dung Phục hết sức tức tối nhưng còn e ngại y võ công cao cường, không dám tiến lên động thủ, cúi đầu suy tính xem phải đối phó cách nào. Dưới ánh trăng bỗng thấy bên chân có vật gì hơi rung động, ngưng thần quan sát, hóa ra đó là bóng cánh tay phải của Cưu Ma Trí. Mộ Dung Phục kinh hãi, cho rằng đối phương đang ngựng tụ công lực, trong chớp mắt sẽ đánh ra, lập tức cũng ngầm vận kình, chuẩn bị chống đỡ. Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Công tử bức bách lệnh biểu muội tự tận, quả là thương tổn âm đức quá nhiều. Nếu như ngươi rời khỏi Tây Hạ ngay thì chuyện bức tử Vương cô nương, ta sẽ bỏ qua không truy cứu.
Mộ Dung Phục hừ một tiếng đáp:
- Ấy là cô ta đâm đầu xuống giếng tuẫn tình, có liên can gì đến ta đâu?
Tuy mồm y nói thế nhưng vận chăm chăm nhìn vào cái bóng dưới đất, thấy hai tay Cưu Ma Trí vẫn rung động liên tiếp. Mộ Dung Phục trong lòng khởi nghi: “Võ công của y cao cường như thế, nếu như muốn ra tay đả thương người, việc gì phải liên tiếp ngưng tụ chân lực? Không lẽ y khệnh khạng ra chiêu định dọa cho mình bỏ chạy hay sao?”.
Y chăm chăm nhìn kỹ hơn nữa, thấy vạt áo, ống quần của ông ta cũng hơi rung động đủ biết đang run lên không tự chủ được. Mộ Dung Phục chợt nghĩ ra: “Hôm trước nơi Tàng Kinh Các trong chùa Thiếu Lâm, lão tăng vô danh có nói rằng Cưu Ma Trí luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm rồi, lại gắng gượng luyện thêm Dịch Cân Kinh chi đó, đã bảo ông ta “thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối”, nếu tu luyện tuyệt kỹ Thiếu Lâm mà không giữ tâm từ bi, lại vun trồng lệ khí thì họa sẽ không sao lường được. Vị lão tăng đó đã nói đúng bệnh của gia gia và Tiêu Viễn Sơn, cực kỳ linh nghiệm, vậy thì những lời nói về Cưu Ma Trí xem ra cũng chẳng phải hư ngôn”. Y nghĩ đến đó bỗng dưng hết sức vui mừng: “Ha ha, gã hòa thượng này chính mình đại họa lâm đầu, vậy mà còn dở trò dọa dẫm ta, bảo nào là khoét mắt, cắt chân chặt tay”.
Thế nhưng y không dám chắc, bèn thử một chuyến, liền nói:
- Ôi, thứ tự điên đảo, đại nạn chỉ trong sớm tối! Đã luyện môn công phu thượng thừa này mà lâm vào đường tẩu hỏa nhập ma thì thật ghê gớm biết mấy.
Cưu Ma Trí đột nhiên kêu rống lên như tiếng sói tru, như bò rống, thanh âm cực kỳ ghê rợn, giơ tay chộp Mộ Dung Phục, quát lên:
- Ngươi nói gì? Ngươi … ngươi bảo ai?
Mộ Dung Phục nghiêng người tránh ra, Cưu Ma Trí liền quay người lại, dưới ánh trăng chiếu lên khuôn mặt y thấy hai mắt đỏ ngầu, lông mày dựng ngược, sắc mặt cực kỳ hung tợn, thần khí tuy dũng mãnh thật nhưng không dấu được vẻ hoảng hốt.
Mộ Dung Phục không còn hoài nghi gì nữa nói:
- Ta có một câu lương ngôn thành ý khuyên ông. Minh Vương tức tốc rời khỏi Tây Hạ trở về Thổ Phồn, miễn là đừng vận khí, không nổi giận, chẳng ra tay đánh nhau thì may ra hồi qui cố thổ, còn không, lời vị thần tăng Thiếu Lâm kia xem chừng ứng nghiệm rồi.
Cưu Ma Trí kêu lên khè khè, cái vẻ ung dung bình thời không còn đâu nữa, lớn tiếng:
- Ngươi … ngươi biết những gì? Ngươi biết những gì?
Mộ Dung Phục thấy vẻ mặt y hết sức hung dữ, chẳng còn chút gì ra vẻ thánh tăng, không khỏi sợ hãi, vội lùi lại một bước. Cưu Ma Trí quát lên:
- Ngươi biết những gì? Mau nói ra cho ta nghe.
Mộ Dung Phục cố gắng trấn tĩnh, thở dài một tiếng:
- Nội tức Minh Vương chạy vào đường rẽ rồi, đang lúc cực kỳ hung hiểm, nếu không lập tức quay về Thổ Phồn thì hãy chạy lên chùa Thiếu Lâm xin vị thần tăng kia cứu chữa, may ra cũng còn chút hi vọng.
Cưu Ma Trí cười nham hiểm nói:
- Làm sao ngươi biết được là nội tức ta chạy vào đường rẽ? Chỉ nói năng tầm bậy tầm bạ.
Nói xong vươn tay trái ra chộp vào mặt Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục thấy năm ngón tay ông ta hơi run run nhưng trảo pháp nghiêm cẩn, trầm ổn lão luyện chẳng có vẻ gì là nội lực bất túc, trong bụng kinh hãi thầm: “Không lẽ mình đoán trật hay sao?”. Y lập tức vận nội lực lên, ngưng thần tiếp chiến, tay phải gạt ra rồi lập tức biến thành móc nắm lấy cổ tay Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí quát lớn:
- Nghĩ đến cha ngươi, trong mười chiêu đầu ta không dùng sát thủ, ấy là giữ chút tình hương hỏa với cố nhân.
Nghe vù một tiếng đấm thẳng vào vai bên phải Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nhẹ nhàng tránh được, chiêu thứ hai của Cưu Ma Trí đã đến rồi, giữa hai chiêu không có chút gì sơ hở. Mộ Dung Phục tuy giỏi về Đẩu Chuyển Tinh Di dùng sức đánh sức nhưng chiêu số đối phương quá ư tinh diệu, mỗi chiêu chỉ sử dụng một nửa, còn nửa sau biến hóa, y những toan tá lực thì không biết phải tựa vào đâu, chỉ đành nghiêm thủ những chỗ yếu hại để chờ cơ hội đánh trả.
Thế nhưng chiêu số của Cưu Ma Trí cực kỳ linh động, quả là bình sinh chưa thấy bao giờ, quyền đánh ra giữa chừng lại biến thành chỉ, thủ trảo ra đến bên người lại chuyển thành chưởng. Đến khi mười chiêu xong rồi, Cưu Ma Trí liền quát lên:
- Hết mười chiêu, ta lấy mạng mi đây!
Mộ Dung Phục chỉ thấy mắt hoa lên, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng thấy bóng của Cưu Ma Trí, bên trái đá một cái, bên phải đấm một quyền, đằng trước đánh một chưởng, phía sau đâm một chỉ, dường như mọi chiêu số cùng đến một lượt, không biết chống đỡ cách nào, đành múa song chưởng, ngưng vận nội lực, thủ mà không công, dùng quyền pháp tự bảo lấy mình.
Bỗng nghe Cưu Ma Trí thở hồng hộc, tiếng nghe phì phò, càng thở càng nhanh, Mộ Dung Phục lên tinh thần nghĩ thầm: “Lão hòa thượng này nội tức loạn rồi, thở không ra hơi nữa. Ta chỉ cần giữ cho được một hồi lâu không để cho y đánh ngã, thời khắc diên trì, y thể nào cũng ngã lăn ra chết”.
Thế nhưng tuy Cưu Ma Trí thở rốc thật, chiêu số càng lúc càng gia tăng, đột nhiên quát lên một tiếng, Mộ Dung Phục thấy huyệt Tích Trung ngang hông, Thương Khúc ở bụng đồng thời đau nhói, đã bị điểm trúng, chân tay liền tê bại, không còn cử động được nữa.
Cưu Ma Trí cười khẩy mấy tiếng, vẫn thở hổn hển, nói:
- Ta đã bảo ngươi cút đi, vậy mà không chịu nghe, không còn trách gì được ta nữa nhé. Ta … ta … ta phải làm gì đây nhỉ?
Y chúm môi huýt lên một tiếng. Một hồi sau, từ trong rừng bốn võ sĩ Thổ Phồn chạy ra, khom lưng hỏi:
- Xin cẩn nghe pháp chỉ của Minh Vương.
Cưu Ma Trí nói:
- Đem gã tiểu tử này chặt đầu.
Bốn tên võ sĩ đáp:
- Tuân lệnh!
Mộ Dung Phục không cử động được nhưng tai vẫn nghe rõ mọi chuyện, trong bụng kêu khổ thầm: “Mới đây giá như ta nhận lời biểu muội, không đi tranh chức phò mã Tây Hạ, hai bên khắng khít vui vầy thì đâu có bị cái họa rơi đầu? Ta chết đi rồi thì còn gì là hi vọng khôi phục Đại Yên nữa?”. Y cố gắng mở miệng định tình nguyện rời khỏi Linh Châu không tranh cái chức phò mã nữa, khổ nỗi không sao nói được thành lời mà Cưu Ma Trí lại quay đi nơi khác không nhìn nhõi gì đến y, thành thử Mộ Dung Phục muốn đưa mắt van xin cũng không sao làm được.
Bốn tên võ sĩ Tây Hạ nắm lấy Mộ Dung Phục, một tên rút phắt loan đao, toan chặt cổ. Cưu Ma Trí bỗng kêu:
- Khoan đã! Ta với phụ thân tiểu tử này vốn quen biết nhau, thôi cho y chết được toàn thây. Các ngươi đem vứt y xuống dưới cái giếng khô kia, rồi đi tìm mấy tảng đá lớn chèn miệng giếng lại để y khỏi xung khai huyệt đạo bò ra được.
Các võ sĩ Thổ Phồn liền đáp:
- Tuân lệnh!
Rồi cầm Mộ Dung Phục bỏ xuống giếng khô, nhìn quanh quất bốn bề chẳng thấy khối đá nào lớn, vội vàng chạy ra sau núi kiếm đá tảng. Còn Cưu Ma Trí đứng bên bờ giếng, thở hổn hển không ngớt, ngực tức dường như không chịu nổi. 
Hôm đó sau khi y dùng Hỏa Diễm Đao ám toán Đoàn Dự rồi, sợ các cao thủ vây đánh, lập tức bỏ chạy xuống núi, chưa khỏi núi Thiếu Thất đã thấy trong đan điền hơi nóng như sôi lên, lập tức ngừng lại điều hòa hơi thở nhưng thấy nội lực vận chuyển khó khăn, không khỏi kinh hãi thầm: “Lão giặc trọc kia bảo là ta cưỡng luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm, đã nhiễm lệ khí khiến cho mầm họa sinh ra rồi, sau lại còn luyện Dịch Cân Kinh, gốc ngọn đảo ngược, đại nạn chỉ trong sớm tối. Không lẽ … không lẽ lời lẽ quái quỉ của lão trọc kia, lại ứng nghiệm thực hay sao?”. Y vội vàng đi tìm một sơn động, tĩnh tọa nghỉ ngơi, nếu không vận nội công thì hơi nóng dần dần bình phục, còn như chỉ hơi sử kình, thì từ đan điền hơi nóng lại bốc lên, tưởng như lửa đốt.
Đến tối hôm đó, không thấy chùa Thiếu Lâm có ai đuổi theo, y mới chậm rãi xuôi nam. Những thám tử liên lạc của Thổ Phồn trên đường tìm được y, cho hay quốc vương đã sai tiểu vương tử sang Linh Châu cầu thân, ứng tuyển phò mã. Thám tử còn nói rằng tiểu vương tử lần này ra đi dẫn theo rất đông cao thủ võ sĩ, kim ngân châu báu và các đồ vật quí giá, danh mã bảo đao. Ngựa tốt đao quí là để dâng lên hoàng đế Tây Hạ đồ vật quí giá là để biếu công chúa, còn tiền bạc châu báu là để đút lót hậu phi thái giám và các quan lớn nhỏ.
Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn, lo liệu mọi việc quân chính đại sự, tuy thân mang bệnh nhưng việc cầu thân thành hay bại liên quan đến hưng suy của Thổ Phồn nên lập tức lên đường đi Tây Hạ ngay để chủ trì toàn cục, điều đồng sai phái các cao thủ đối phó với những địch thủ toan tranh giành chức phò mã của tiểu vương tử.
Vào khoảng trên dưới mồng mười tháng tám, võ sĩ Thổ Phồn đã đánh đuổi đến mấy trăm thanh niên dị tộc, giang hồ hào khách. Những người đến đây tuy đông thật nhưng phần lớn chỉ là có ý định riêng tư, khi chạm địch nào có giúp đỡ gì nhau thành thử chẳng một ai có thể chống được với bọn võ sĩ Thổ Phồn vây đánh.
Cưu Ma Trí đến Linh Châu rồi liền tìm nơi tĩnh dưỡng, hơi nóng bừng bừng như lửa trong người dần dần dịu trở lại, thế nhưng mỗi khi tâm thần khích động thì chân tay mình mẩy lại run lên, không tự chủ được. Đến về sau, dẫu cho tâm định thần nhàn mà ngón tay, lông mày, khóe miệng, đầu vai vẫn cứ giật giật, không lúc nào yên.
Y không muốn cho ai thấy cái tình trạng quái lạ ấy nên bình thời sống riêng rẽ không chung đụng với ai, rất ít tiếp xúc. Hôm đó y nghe võ sĩ thủ hạ bẩm báo là Mộ Dung Phục đã đến Linh Châu, rồi có mấy võ sĩ Thổ Phồn bị thủ hạ của y đả thương. Cưu Ma Trí nghĩ bụng Mộ Dung Phục dung mạo anh tuấn, văn võ toàn tài, là một nhân vật tài ba vào bậc nhất đương thời, nếu không đánh đuổi y đi, tiểu vương tử thể nào cũng phải cùng y tỉ thí. Xét trong đám võ sĩ thủ hạ, Cưu Ma Trí không thấy người nào có thể địch lại Mộ Dung Phục, nên y đành phải tự mình xuất mã. Y nghĩ võ công mình cao siêu cỡ nào, Mộ Dung Phục cũng đã biết rồi, chắc chẳng cần động thủ chỉ dọa cho y bỏ đi cũng đủ cho nên mới tìm vào tân quán.
Khi y đến nơi thì Mộ Dung Phục đã bắt được Đoàn Dự đem đi rồi. Chung quanh nhà khách có võ sĩ Thổ Phồn mai phục giám thị, Cưu Ma Trí liền hỏi phương hướng theo đó đuổi theo. Khi đến khu rừng thì Mộ Dung Phục đã ném Đoàn Dự xuống giếng, đang nói chuyện với Vương Ngữ Yên. Sau dó hai bên động thủ, tuy Cưu Ma Trí bắt được Mộ Dung Phục nhưng nội tức cũng dâng tràn như sóng biển, xung đột lung tung nơi các kinh mạch huyệt đạo, muốn bung khỏi cơ thể nhưng không có đường ra, quả là khó chịu.
Y giơ tay cào trên ngực nhưng nội tức vẫn tiếp tục bành trướng, tưởng như đầu, ngực, bụng các nơi đều phình ra sắp sửa nổ tung, vỡ tan thành mảnh nhỏ. Y cúi đầu xem xét bụng ngực thấy vẫn bình thường, không phồng thêm chút nào vậy mà trong người thì thấy căng tròn như quả bóng, nội tức vẫn cuồn cuộn đổ thêm vào.
Cưu Ma Trí hết sức kinh hoàng, giơ ngón tay đâm vào vai trái và hai bên đùi, để mong chân khí theo ba cái lỗ đó tiết ra. Ba vết thương đó máu chảy như suối nhưng nội tức lại chẳng bớt đi chút nào. Lời của vị lão tăng Thiếu Lâm nơi Tàng Kinh Các như vang vọng bên tai, lúc này mới biết không phải hư ngôn, vì mình tham lam muốn được cho thật nhiều, luyện sai bảy mươi hai tuyệt kỹ và Dịch Cân Kinh, gốc ngọn ngược ngạo, đại họa đã đến rồi.
Y tuy hoảng hốt nhưng dẫu sao cũng đã tu luyện lâu năm, công phu thiền định Phật gia thâm hậu, thành thử thần trí không đến nỗi thác loạn, trong đầu chợt thoáng một ý nghĩ: “Y … y tự mình sao không luyện? Sao y chỉ luyện một vài môn, còn bao nhiêu bí quyết của bảy mươi hai tuyệt kỹ giao lại cho ta? Ta với y chỉ bèo mây gặp gỡ, dẫu có trò chuyện tâm đầu ý hợp, nhất kiến như cố thì cũng đâu đã có giao tình đến vậy?”.
Cưu Ma Trí gặp phải nguy nan mới hiểu rõ dụng ý của Mộ Dung Bác khi trao tặng cho mình “Thiếu Lâm thất thập nhị tuyệt kỹ bí quyết”. Khi Mộ Dung Bác trao tặng cho y bí quyết rồi, y cũng suy nghĩ rất lâu, e ngại đối phương không có hảo ý. Thế nhưng khi đọc đi đọc lại, môn tuyệt kỹ nào cũng vô cùng tinh diệu, với kiến thức cao siêu như y, thật giả biết ngay, nhìn kỹ lại bí cập, thấy giấy không tẩm thuốc độc nên bao nhiêu nghi ngại đều tan biến, lập tức khổ luyện, mỗi khi xong một môn thì lại cảm kích Mộ Dung Bác thêm một phần.
Đến lúc này sống không được, chết không xong, y mới hiểu rõ dụng tâm độc ác của Mộ Dung Bác: “Y ẩn phục trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm, chắc hẳn cũng đã nghe các nhà sư bàn luận là các tuyệt kỹ không thể luyện hết, nên khi gặp mình, thấy võ công tài lược có phần đáng ngại nên mới đem bí quyết giao lại cho ta. Y vốn dĩ một mặt muốn thử xem nếu luyện hết mọi tuyệt kỹ thì hậu hoạn thế nào, hai nữa muốn ta kết thù oán với chùa Thiếu Lâm, khích bác cho Thổ Phồn và Đại Tống hai bên tranh chấp. Khi đó họ Mộ Dung sẽ đục nước béo cò, hưng phục Yên quốc. Bảy mươi hai tuyệt kỹ hẳn y cũng sao lục phó bản rồi, điều đó hiển nhiên chẳng nói cũng biết”.
Y mới rồi bắt được Mộ Dung Phục, không khỏi không nghĩ đến ân tình phụ thân y tặng mình bí cập bảy mươi hai tuyệt kỹ, nên tuy biết y là mối lo tâm phúc nhưng cũng không lập tức chém đầu, chỉ vứt y xuống giếng cho được toàn thây. Bây giờ hiểu rõ cái dụng ý của Mộ Dung Bác khi tặng sách cho mình, nghĩ bụng mình phải chịu khổ sở thế này toàn là ác quả y gieo cấy, tức tối đến điên cuồng, cúi xuống miệng giếng liên tiếp đánh ra ba chưởng.
Ba chưởng đánh ra bên dưới không nghe tiếng gì cả, đủ biết giếng sâu lắm, chưởng lực không thể tới đáy được. Cưu Ma Trí vẫn như điên dại, lại một quyền hết sức đấm xuống. Quyền đó đánh ra rồi, nội tức lại bùng lên như nước vỡ bờ, tưởng như đang muốn theo mười vạn tám nghìn lỗ chân lông trào ra, nhưng lại chạm phải bức tường chặn lại không thoát được.
Y đang kinh hãi lại thêm giận dữ, đột nhiên trước ngực rung động, một vật gì đó từ trong áo rơi vào trong miệng giếng. Cưu Ma Trí đưa tay ra bắt nhưng không kịp, vội vàng vận “Cầm Long Thủ” lăng không chộp ra. Nếu phải bình thời, y đã giựt lại được vật đó rồi nhưng lúc này nội kình không thể sử dụng như ý muốn, chỉ phồng lên căng ra nhưng không vận vào chưởng tâm được, nghe bạch một tiếng, vật đó đã rơi xuống đáy. Cưu Ma Trí kêu thầm: “Hỏng rồi!”, giơ tay mò vào bọc, quả nhiên vật vừa rơi xuống chính là cuốn Dịch Cân Kinh.
Y biết rằng nội tức của mình vận hành lệch lạc cũng bởi luyện Dịch Cân Kinh mà ra, người buộc chuông mới có thể cởi chuông được, muốn trừ tai họa này thì cũng phải nghiên cứu Dịch Cân Kinh mới xong. Đây là một vật liên hệ đến sống chết, làm sao có thể để thất lạc được? Y không nghĩ ngợi gì nữa, lập tức tung mình nhảy vào trong giếng.
Y sợ dưới đáy có đá nhọn hay cành cây gì chăng có thề làm đau chân, lại sợ Mộ Dung Phục có khi giải huyệt được rồi, mai phục đánh lén nên khi hai chân chưa rơi tới đất, tay phải đã đánh trước hai chưởng cho giảm sức rơi, tay trái sử chiêu Hồi Phong Lạc Diệp bảo vệ các chỗ yếu hại chung quanh người.
Có ngờ đâu nội tức của y đã biến đổi hẳn, chiêu số tuy tinh vi nhưng lực đạo đánh ra đã tản mạn xiêu vẹo, không còn chuẩn xác nữa. Hai chưởng đó không những không giảm được lực đạo rơi xuống, lại khiến cho thân hình y nhồi một cái, bình một tiếng, đầu va mạnh vào lớp gạch lót ở thành giếng.
Với công lực của một người như y, tuy không dám nói là đã luyện thành mình đồng da sắt, nhưng đầu đập vào như thế cũng không đến nỗi bị thương, trái lại gạch còn vỡ tan mới phải. Thế nhưng lúc này thật là chó cắn áo rách, chỉ có vậy mà mắt nổ đom đóm, đầu óc quay cuồng, nằm mọp xuống đáy giếng.
Cái giếng này bỏ không dùng đã lâu, lá khô cỏ mục chất đống nát mủn thành bùn, mấy chục năm qua, bùn đọng dưới đáy càng lúc càng dày. Cưu Ma Trí vừa ngã xuống, mặt lao ngay vào đống bùn đen, rồi thân hình từ từ chìm xuống, cố gắng vùng vẫy để ngoi lên nhưng chân tay không có hơi sức. Y còn đang kinh hoàng, bỗng nghe bên trên có tiếng người gọi:
- Quốc sư! Quốc sư!
Chính là bốn tên võ sĩ Thổ Phồn. Cưu Ma Trí vội kêu:
- Ta ở dưới này!
Y vừa mở mồm, bùn đất liền tràn vào mồm làm sao kêu ra tiếng được? Chỉ loáng thoáng nghe bốn tên võ sĩ ở bên trên nói với nhau:
- Quốc sư không có ở đây, không biết ngài đi đâu?
Người khác nói:
- Chắc là quốc sư đợi lâu quá không chờ được, lão nhân gia đã dặn mình lấy đá chèn miệng giếng, mình cứ theo lệnh mà làm là xong.
Gã khác đáp:
- Đúng thế!
Cưu Ma Trí kêu lớn:
- Ta ở dưới đây, mau cứu ta lên!
Y càng hoảng hốt, bùn chui vào mồm càng nhiều, chưa kịp lưu thần đã nuốt mất hai ngụm, thối tha không chịu nổi. Chỉ nghe bình bình mấy tiếng thật lớn, bốn tên võ sĩ Thổ Phồn đã vần một tảng đá lớn chặn miệng giếng. Mấy gã đó xưa nay kính trọng Cưu Ma Trí như thần, quốc sư đã ra lệnh thật đâu có kém gì chỉ dụ của quốc vương, một khối đá e chưa đủ, lại vần thêm khối nữa chồng lên, trong giây lát đã bịt kín miệng giếng tổng cộng phải đến mười hai mười ba cục mỗi cục nặng cả trăm cân.
Bọn võ sĩ vần đá lấp giếng xong rồi, reo hò ra đi. Cưu Ma Trí nghĩ thầm mấy nghìn cân đá tảng chặn miệng giếng rồi, đừng nói mình võ công đã mất, dẫu còn như xưa ở bên dưới dễ gì đẩy lên được, e rằng đành bỏ mạng nơi chiếc giếng khô này.
Y võ công Phật học, tài ba mưu mẹo, không phải chỉ xưng hùng một cõi Tây Vực mà còn đứng đầu đương thế, ai có ngờ đâu lại chết rục nơi một đống bùn đen. Trên đời có ai mà không chết, thế nhưng chết như vầy thì thật không vẻ vang chút nào? Nhà Phật coi thân thể chỉ là một cái túi da hôi thối, sắc là vô thường mà vô thường là khổ, cái thân này nào phải là chân ngã nên phải chán ghét xa rời, cái đạo lý cơ bản đó, Cưu Ma Trí đã từng thuyết pháp, biện bác rõ ràng minh bạch, chỗ nào cũng đầy đạo lý, người nghe có ai không hoan hỉ tán thán?
Thế nhưng lúc này thân ở dưới đáy chiếc giếng khô, trên đầu bị đá bịt cứng, miệng đầu bùn đất, so với nơi pháp đàn hương trầm nghi ngút, mùi sen ngào ngạt thật khác nhau xa, những gì thường lạc ngã tịnh nơi cõi niết bàn, tự tại vô ngại tất cả đều bỏ ra ngoài thọ tưởng hành thức, chỉ thấy ngũ uẩn đều là thực cả, tâm hữu quái ngại đâm ra hết sức hoảng hốt, yết đế yết đế, ba la tăng yết đế, không sao qua khỏi được cái nguy khốn khổ sở ở chốn giếng sâu.
Nghĩ đến chỗ bi thương đó, nước mắt không khỏi trào ra. Người y đầy bùn đen, vốn dĩ không còn ra hình thù gì, nhưng theo thói quen, giơ tay gạt nước mắt, tay giơ lên bỗng mò thấy một vật gì đó, thuận tay cầm lên chính là cuốn Dịch Cân Kinh. Đến nước này thật dở khóc dở cười, kinh thư tìm được rồi nhưng bây giờ có còn dùng được việc gì nữa đâu?
Bỗng nghe có tiếng đàn bà nói:
- Chàng xem, võsĩ Thổ Phồn dùng đá bịt miệng giếng lại rồi, chúng mình làm sao ra được?
Nghe giọng nói chính là Vương Ngữ Yên. Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng người, tinh thần phấn khởi, nghĩ thầm: “Thì ra nàng ta chưa chết, không biết đang nói chuyện với ai? Nếu có thêm người khác, mấy người hợp lực lại, may ra có thể đẩy được đá thoát ra được”. Lại nghe tiếng đàn ông trả lời:
- Chỉ cần được ở bên cạnh nàng, chẳng cần phải ra cũng có sao đâu? Nếu có nàng ở kề bên, giếng bùi hôi hám cũng thành Chúng Hương Quốc. Dù cho Đông Phương Lưu Ly thế giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới, hay là cung trời Đâu Suất, Dạ Ma các thiên đường lạc thổ, cũng không sung sướng được như nơi đây.
Cưu Ma Trí hơi kinh hãi: “Cả gã họ Đoàn cũng chưa chết hay sao? Tên này bị trúng Hỏa Diễm Đao, ta với y cừu hận cực thâm. Hiện giờ nội lực ta vận lên không được, nếu như y thừa cơ báo thù thì biết làm thế nào đây?”.
Người đang nói chuyện chính là Đoàn Dự. Khi chàng bị Mộ Dung Phục vứt xuống thì đã ngất xỉu, chân tay không cử động gì được, tuy rơi vào đống bùn nhưng không đến nỗi bị khốn khổ như Cưu Ma Trí. Đáy giếng địa thế nhỏ hẹp, đến khi Vương Ngữ Yên nhảy xuống rồi, thật may làn sao, đầu nàng va phải lại đúng ngay huyện Đãn Trung trên ngực Đoàn Dự, chàng liền tỉnh lại. Vương Ngữ Yên rơi đúng ngay lòng Đoàn Dự nên không bị thương, đến bùn nhơ cũng không bị dính nhiều.
Đoàn Dự thấy trong lòng mình có thêm một người, hết sức ngạc nhiên, bỗng nghe từ trên miệng giếng tiếng Mộ Dung Phục vọng xuống:
- Biểu muội, lòng ngươi vốn yêu thương Đoàn công tử, hai người sống không được thành vợ chồng nhưng khi chết chôn chung một huyệt, thế cũng thỏa nguyện rồi.
Mấy câu đó truyền vào trong giếng rõ rành rành, Đoàn Dự nghe thế, không khỏi ngơ ngẩn, lẩm bẩm:
- Cái gì? Không, không! Ta … ta … Đoàn Dự ta nào có được may mắn đến thế?
Đột nhiên người nằm ở trong lòng chàng dịu dàng nói:
- Đoàn công tử, thiếp quả thực hồ đồ không đâu cho hết, chàng xưa nay đối với thiếp tử tế dường nào, thiếp … thiếp lại …
Đoàn Dự ngạc nhiên đến đờ người ra, hỏi lại:
- Vương cô nương đấy ư?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Chính thiếp đây.
Đoàn Dự đối với nàng vốn dĩ mười phần tôn kính, không bao giờ dám có ý sỗ sàng, nghe tiếng vừa mừng vừa sợ, vội vàng trỗi dậy, buông nàng ra. Thế nhưng đáy giếng rất hẹp, lại đầy bùn nhơ, Đoàn Dự vừa đứng lên, hai chân liền tụt xuống, bùn dâng lên đến tận ngực, nếu buông Vương Ngữ Yên vào trong đống bùn thì thật không ổn chút nào nên đành bồng nàng nằm ngang, luôn mồm xin lỗi:
- Đắc tội! Đắc tội! Vương cô nương, chúng mình đang ở trong đống bùn đành phải tòng quyền vậy.
Vương Ngữ Yên thở dài một tiếng, trong lòng cảm kích. Nàng hai lần từ cõi sống sang cõi chết, lại từ cõi chết trở về cõi sống, bụng dạ Mộ Dung Phục nàng hiểu quá rõ rồi, bây giờ dẫu có muốn tự tận lần nữa cũng không còn năng lực, lại thêm Đoàn Dự đối với mình thành tâm thành ý, so sánh hai bên thấy rõ một bên tình sâu nghĩa nặng, một bên bạc bẽo như vôi. Từ trên miệng giếng xuống đến đáy, tuy chỉ trong chớp mắt, nội tâm thay đổi biết bao nhiêu, khi trước tự thương thân mình, quyết tìm cái chết báo đền ân tình của Đoàn Dự, có ngờ đâu cả chàng lẫn mình đều không chết, thật ra ngoài dự liệu, trong lòng hết sức hân hoan. Nàng trước nay nhàn nhã lễ độ, đoan trang giữ gìn, nhưng lúc này qua cơn biến chuyển trong lòng khích động, nhịn không nổi phải thổ lộ nỗi niềm cùng Đoàn Dự:
- Đoàn công tử, thiếp lại tưởng chàng đã qua đời, nghĩ lại đối với thiếp bao nhiêu ân nghĩa, thành thử đã hết sức thương tâm, lại thêm hối tiếc, cũng may trời già có mắt, gia hộ cho chàng được bình an. Thiếp ở trên kia nói những gì, chắc hẳn chàng cũng đã nghe rồi?
Nàng nói đến đây không khỏi thẹn thùng, dụi đầu vào cổ Đoàn Dự. Đoàn Dự trong một thoáng, cảm thấy tâm hồn bay bổng lên tận mây xanh, như vào cõi mộng. Cái cảnh tượng mà chàng ngày đêm trông đợi kia bây giờ đã thành sự thực, trong cơn mừng rỡ, hai chân bủn rủn, đứng không vững, lưng tựa vào thành giếng, hai tay ôm lấy người Vương Ngữ Yên. Ngờ đâu mấy sợi tóc của Vương Ngữ Yên lại chạm vào mũi chàng, khiến cho Đoàn Dự phải liên tiếp “Ách xì” mấy cái. Vương Ngữ Yên hỏi:
- Chàng … chàng sao thế? Bị thương ư?
Đoàn Dự đáp:
- Không … không đâu … ách xì …ách xì … ta không có bị thương, ách xì … cũng không trúng gió, chỉ vì vui quá. Vương cô nương … ách xì … ta sướng đến muốn xỉu luôn.
Trong cái giếng tối đen như mực, hai bên nào có nhìn thấy nhau. Vương Ngữ Yên mỉm cười không nói gì, trong lòng cũng hết sức êm đềm hoan lạc. Nàng từ bé si mê biểu huynh thế nhưng chưa bao giờ được y yêu lại, cho đến lúc này mới được hưởng cái phong vị hai kẻ yêu nhau.
Đoàn Dự ấp úng hỏi:
- Vương cô nương, lúc nãy nàng ở trên kia nói những gì? Ta không nghe thấy.
Vương Ngữ Yên mỉm cười:
- Thiếp vẫn tưởng chàng là người quân tử chí thành, hóa ra cũng biết ỡm ờ. Chàng rõ ràng nghe thấy rồi, lại còn muốn thiếp nhắc lại hay sao? Mắc cở lắm, thiếp không nói đâu.
Đoàn Dự vội nói:
- Ta … ta quả thực không nghe thấy, nếu ta nghe được thì trời phạt …
Chàng đang tính thề thốt thì môi bỗng ấm đi, Vương Ngữ Yên đã đưa tay bịt miệng rồi nghe tiếng nàng nói:
- Không nghe thấy thì thôi, đâu có phải chuyện gì to lớn mà phải thề thốt?
Đoàn Dự mừng quá, từ khi biết nàng tới nay, nàng chưa bao giờ đối với mình ân cần như thế liền nói:
- Thế thì khi ở trên kia nàng nói những gì?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Thiếp nói …
Nàng bỗng thấy e thẹn, mỉm cười nói:
- Thôi để chuyện đó mình nói sau, ngày rộng tháng dài, có gì mà phải gấp gáp?
“Ngày rộng tháng dài, có gì mà phải gấp gáp?” Câu nói đó lọt vào tai Đoàn Dự, thật không khác gì được uống thuốc tiên, e rằng bao nhiêu chim Già Lăng nơi chốn tây phương cực lạc cùng cất tiếng hót cũng nghe không êm ái được như thế, ý rõ ràng muốn bảo là từ nay hai người sẽ chung sống mãi mãi bên nhau. Đoàn Dự nghe thế dường như không tin nổi tai mình hỏi lại:
- Nàng bảo từ nay lúc nào mình cũng kề cận bên nhau chăng?
Vương Ngữ Yên giơ tay bá cổ chàng, ghé vào tai nói nhỏ:
- Đoàn lang, chỉ cần chàng đừng ghét bỏ em, không giận em trước đây hờ hững với chàng, thiếp nguyện chung thân sẽ ở bên chàng, không … không bao giờ lìa xa chàng nữa.
Trái tim Đoàn Dự tưởng như muốn nhảy ra ngoài, vội vàng hỏi lại:
- Thế còn biểu ca nàng thì sao? Nàng vốn dĩ … vốn dĩ yêu thương Mộ Dung công tử mà?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Trước nay y đâu có để ý đến thiếp. Cho đến giờ phút này thiếp mới hiểu ra rằng ở trên đời ai là người thực bụng yêu thương thiếp, thương xót thiếp, ai là người coi mạng thiếp hơn mạng mình.
Đoàn Dự run run hỏi lại:
- Nàng nói đến ta chăng?
Vương Ngữ Yên rưng rưng đáp:
- Đúng thế! Biểu ca thiếp cả đời chỉ mơ làm hoàng đế Đại Yên. Thế nhưng cũng chẳng trách y được, họ Mộ Dung đời này sang đời khác, người nào cũng mang giấc mơ đó cả. Tổ tông mấy chục đời nhà y đã mơ tưởng chuyện đó rồi, truyền đến đời y, làm sao nghĩ rằng y có thể tỉnh thức được? Biểu ca thiếp vốn dĩ không phải là người xấu, chỉ vì quá mơ tưởng được làm hoàng đế Đại Yên, nên không coi việc gì vào đâu nữa.
Mộ Dung Phục nghe Vương Ngữ Yên dường như muốn trần tình cho Mộ Dung Phục, trong bụng bồn chồn hỏi lại:
- Vương cô nương, nếu như biểu ca nàng hồi tâm, bỗng dưng tốt lại với nàng, liệu … liệu sẽ ra sao?
Vương Ngữ Yên thở dài:
- Đoàn lang, thiếp tuy là một người đàn bà ngu xuẩn nhưng đâu có phải là kẻ đức hạnh chẳng ra gì. Hôm nay thiếp đã cùng chàng đính ước tam sinh, nếu như vẫn còn lòng kia dạ nọ luống chẳng hoen ố danh tiết hay sao? Như thế thì làm sao bù đắp được thâm tình hậu ý của chàng?
Đoàn Dự như cởi tấm lòng, ôm lấy Vương Ngữ Yên nhảy lên, nghe bọp bẹp một tiếng, lại rơi phịch xuống đống bùn, ghé mồm định hôn lên môi nàng một cái. Vương Ngữ Yên cũng theo đà đáp lại, hai miệng vừa sắp chạm nhau, đột nhiên trên đầu có tiếng gió vù vù, vật gì đó đang rơi xuống.
Hai người cực kỳ kinh hãi, vội vàng nép vào một bên, bình một tiếng ai đó đã rơi vào trong giếng. Đoàn Dự hỏi:
- Ai đó?
Người kia hừ một tiếng đáp:
- Ta đây!
Chính là Mộ Dung Phục. Thì ra sau khi Đoàn Dự tỉnh lại rồi, cùng Vương Ngữ Yên trò chuyện, hai người toàn tâm toàn ý chỉ nghĩ đến nhau, thật dẫu có trời long đất lở cũng không nghe thấy, thành thử Mộ Dung Phục và Cưu Ma Trí ở trên kia hô hoán ác đấu, cả hai đều không biết gì cả. Đến khi Mộ Dung Phục rơi xuống rồi, cả hai cùng kinh hoàng, tưởng y nhảy xuống tính xen vào chuyện của mình.
Vương Ngữ Yên run run hỏi:
- Biểu ca … biểu ca xuống đây làm gì? Tấm thân em giờ đây đã thuộc Đoàn công tử, nếu như biểu ca định giết anh ta, thì giết luôn cả tiểu muội nữa đi.
Đoàn Dự mừng quá, chàng vốn không sợ Mộ Dung Phục nhảy xuống gia hại mình, chỉ sợ Vương Ngữ Yên gặp lại Mộ Dung Phục rồi, tình cũ trỗi dậy, lại quay về với biểu ca. Chàng nghe nàng nói thế bấy giờ mới yên lòng, lại thấy Vương Ngữ Yên đưa tay ra nắm lấy tay mình, lại càng tin tưởng gấp bội bèn nói:
- Mộ Dung công tử, ngươi đi tranh chức phò mã Tây Hạ đi, ta nhất quyết không ngăn trở. Biểu muội nhà ngươi nay thuộc về ta rồi, ngươi không đoạt lại được đâu. Ngữ Yên, nàng xem có phải không?
Vương Ngữ Yên đáp:
- Chính thế. Đoàn lang, bất luận dù sống dù chết, thiếp lúc nào cũng theo chàng.
Mộ Dung Phục bị Cưu Ma Trí điểm trúng huyệt đạo, nghe được nói được nhưng lại không cử động được, thấy hai người nói thế nghĩ thầm: “Hai đứa này đâu đã biết Cưu Ma Trí đánh ta xơ xác, bị chế ngự rồi, ngược lại đâm ra úy kỵ, sợ ta ra tay làm hại. Thế thì tốt quá, ta phải tính kế dùng họ làm viện thủ”. Nghĩ thế y bèn nói:
- Biểu muội, ngươi thành hôn với Đoàn công tử rồi, chúng mình thành người nhà với nhau, Đoàn công tử sẽ thành em rể ta, lẽ nào ta còn hại y nữa?
Đoàn Dự tâm tính trung hậu còn Vương Ngữ Yên tính tình ngây thơ, cả hai đều không thông hiểu chuyện đời, nghe y nói thế, cả hai hết sức mừng rỡ một người nói:
- Đa tạ Mộ Dung huynh.
Còn người kia nói:
- Đa tạ biểu ca.
Mộ Dung Phục nói:
- Đoàn huynh đệ, chúng mình đã thành người nhà, nếu như ta đi ứng tuyển phò mã Tây Hạ, ngươi sẽ không xen vào nữa chứ?
Đoàn Dự đáp:
- Cái đó dĩ nhiên rồi. Tiểu đệ đã cùng lệnh biểu muội thành quyến thuộc thật không còn tâm nguyện gì khác nữa. Dù có là thần tiên, là la hán tiểu đệ cũng không màng.
Vương Ngữ Yên khe khẽ tựa vào người chàng, vui mừng vô hạn. Mộ Dung Phục ngầm vận khí định xung khai những huyệt bị Cưu Ma Trí điểm nhưng nhất thời không sao làm được nhưng lại không muốn Đoàn Dự giúp mình, trong lòng hơi tức tối: “Người ta đã bảo đàn bà có mới nới cũ, quả nhiên đúng thật. Nếu lúc bình thời, biểu muội đã chạy đến bên ta, đỡ ta dậy rồi, còn bây giờ chẳng thèm ngó ngàng gì đến”.
Đáy giếng đó chẳng qua chỉ tròn chưa đầy một trượng, ba người rất gần bên nhau. Vương Ngữ Yên thấy Mộ Dung Phục nằm trên đống bùn nhưng cũng không ngồi dậy. Nàng chỉ cần tiến lên một bước là đã đến bên cạnh Mộ Dung Phục đỡ y dậy được rồi nhưng lại sợ Mộ Dung Phục có mưu kế gì để hại Đoàn Dự, lại e ngại Đoàn Dự nghĩ ngợi nọ kia nên dù một bước cũng không tiến tới.
Mộ Dung Phục trong lòng bấn loạn, huyệt đạo càng khó mở ra hơn nên vội vàng định tâm, vận khí giải khai những huyệt đạo bị phong, đưa tay vịn vào thành giếng đứng lên, nghe bạch một tiếng, có vật gì đó rơi xuống bên cạnh mình, chính là cuốn Dịch Cân Kinh của Cưu Ma Trí. Trong bóng tối y không biết đó là vật gì nên vội tránh sang một bên. Cũng may nhờ tránh ra như thế nên Cưu Ma Trí nhảy xuống mới không đạp lên người y.
Cưu Ma Trí nhặt được quyển kinh rồi, đột nhiên cười ha hả. Cái giếng đó cực kỳ chật hẹp, tiếng cười cứ chạy loanh quanh chấn động ở bên trong khiến ba người tai ù ù, thật là khó chịu. Tiếng cười của Cưu Ma Trí không sao ngừng được, nội tức bành trướng, thần trí hỗn loạn, ở trong đống bùn tay đấm chân đá, chân tay đụng vào thành gạch, khi thì sức mạnh vô cùng khiến cho gạch vỡ tan tành, có khi lại hoàn toàn không một chút khí lực.
Vương Ngữ Yên cực kỳ kinh hãi, nép chặt vào người Đoàn Dự, nói nhỏ:
- Y điên rồi! Y điên rồi!
Đoàn Dự đáp:
- Quả là y điên thật.
Mộ Dung Phục vội vàng thi triển công phu Bích Hổ Du Tường theo thành giếng trèo lên. Cưu Ma Trí vẫn cười sằng sặc, rồi lại thở hổn hển, quyền cước càng lúc càng nhanh. Vương Ngữ Yên cố thu hết dũng khí khuyên giải:
- Đại sư ngồi xuống nghỉ một lát cho định thần lại.
Cưu Ma Trí chửi mắng:
- Ta … ta định.. định thần được thì đã phúc. Có định cái đầu ngươi này.
Y vung tay chộp vào nàng. Trong khuôn viên đáy giếng, làm gì có chỗ nào tránh né? Trảo chụp tới trúng ngay đầu vai Vương Ngữ Yên. Vương Ngữ Yên kinh hoảng kêu lên một tiếng, vội vàng rụt về. Đoàn Dự vội vàng xông lên che cho nàng kêu lớn:
- Nàng ẩn vào sau lưng ta.
Ngay khi đó, hai bàn tay Cưu Ma Trí đã chộp được yết hầu chàng, dùng sức bóp lại. Đoàn Dự thấy bị nghẹt thở, không nói ra lời. Vương Ngữ Yên kinh hãi, vội vàng đưa tay ghì lấy cánh tay y. Khi đó Cưu Ma Trí như điên như cuồng, nội tức tuy không vận dụng như ý được, khí lực vẫn đâu phải tầm thường, Vương Ngữ Yên vít tay y xuống thật chẳng khác gì chuồn chuồn lay cột đá, không sao chuyển động được chút nào lại càng kinh hãi, sợ Cưu Ma Trí giết Đoàn Dự bèn kêu lên:
- Biểu ca, biểu ca! Mau mau giúp một tay, hòa thượng này … hòa thượng này giết Đoàn công tử mất.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Gã tiểu tử Đoàn Dự trên núi Thiếu Thất đánh ta không còn mặt mũi nào, khiến cho uy danh ta trên giang hồ từ nay trôi theo dòng nước, y chết mặc y, ta ra tay cứu y làm gì? Huống chi gã hung tăng đó võ công vô cùng cao cường, ta làm sao sánh kịp, chi bằng để hai đứa đánh nhau lưỡng bại câu thương, tốt nhất là đồng qui ư tận. Ta bây giờ mà chen vào thì quả là bất trí”. Y nghĩ thế năm ngón tay vẫn bấu chặt vào khe gạch, dán cứng bên thành giếng, không nói tiếng nào. Vương Ngữ Yên gọi đến rát cả cổ, Mộ Dung Phục vẫn làm như không nghe tiếng.
Vương Ngữ Yên nắm tay đấm loạn xạ lên đầu lên lưng Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vừa thở hồng hộc, vừa cười sằng sặc, bóp cổ Đoàn Dự càng lúc càng mạnh thêm.

datlucky_way

27-07-2009 08:59 AM

Hồi 46(a) : TỬU BÃI VẤN QUÂN TAM NGỮ 






Bấm vào đây để xem nội dung.


Chàng đòi kết tóc se tơ,
Ba câu thiếp hỏi đáp cho vừa lòng.
*
* *

S áng sớm hôm sau, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần hai người tỉnh giấc không thấy Đoàn Dự đâu, chạy đến phòng Vương Ngữ Yên gọi mấy tiếng không nghe trả lời, thấy cửa chỉ khép hờ, gõ thử mấy cái rồi đẩy cửa bước vào, trong phòng nào thấy một ai.
Ba Chu hai người luôn mồm kêu khổ. Chu Đan Thần nói:
- Vị tiểu vương tử nhà ta thật như hệt tính vương gia, đáo xứ lưu tình, chắc hẳn đã cùng Vương cô nương nửa đêm lẻn đi, không biết về hướng nào.
Ba Thiên Thạch gật đầu:
- Tiểu vương tử phong lưu tiêu sái, quả đúng là thứ “giang sơn coi nhẹ, tình coi nặng”. Y phải lòng Vương cô nương, chuyện đó ai mà chẳng biết, bảo y đi ứng tuyển phò mã Tây Hạ … ôi, vị tiểu vương tử này có chịu nghe ai bao giờ, năm xưa hoàng thượng và vương gia muốn y luyện võ, y nhất quyết không luyện, đối đế quá bèn bỏ nhà ra đi.
Chu Đan Thần nói:
- Thôi mình chỉ đành có nước chia nhau ra đuổi theo rồi hết lời khuyên giải y.
Ba Thiên Thạch giang hai tay gượng gạo nở một nụ cười. Chu Đan Thần lại tiếp:
- Ba huynh, nhớ lại năm xưa vương gia sai tiểu đệ đi kiếm tiểu vương tử, may sao tìm được, ai ngờ tiểu vương tử …
Nói tới đây, y hạ giọng nói nhỏ:
- … tiểu vương tử lại mê cái cô nàng Mộc Uyển Thanh, hai người nửa đêm lẻn ra, tiểu đệ hay tin, đã chặn sẵn trên đường có thế mới giữ anh chàng lại được.
Ba Thiên Thạch vỗ đùi nói:
- Ồ, Chu hiền đệ, thế thì đây là lỗi chú mày. Nếu ngươi đã có kinh nghiệm đó rồi, sao nay lại để đi vào vết xe cũ? Đã thế thì mình phải chia phiên mà canh giữ y suốt đêm mới phải chứ.
Chu Đan Thần thở dài một tiếng nói:
- Ta vẫn tưởng công tử nhà ta trông vào nghĩa khí với Tiêu đại hiệp và Hư Trúc tiên sinh, không đến nỗi dứt áo bỏ đi, có ai ngờ.. có ai ngờ công tử lại …
Mấy chữ “lấy nữ sắc làm trọng mà bạn bè coi khinh” đem ra bình phẩm e rằng phạm thượng, hơn nữa Đoàn Dự có giao tình với Chu Đan Thần rất hậu nên không tiện nói ra.
Hai người không biết tính sao, đành đến báo cho Tiêu Phong và Hư Trúc rồi chia nhau đi tìm, suốt cả một ngày vẫn không thấy tăm hơi đâu cả.
Đến chiều tối, cả bọn tụ tập ở chiếc phòng để không của Đoàn Dự cùng nhau bàn thảo. Còn đang lo lắng thì một vị chủ sự của bộ Lễ Tây Hạ đến tân quán, gặp Ba Thiên Thạch cho hay chiều tối hôm sau ngày rằm tháng tám hoàng thượng sẽ thiết yến ở Tây Hoa Cung để đãi các giai khách đến cầu thân, xin mời Đoàn vương tử nước Đại Lý quang lâm. Ba Thiên Thạch thật như người câm ăn ớt, chỉ đành vâng vâng dạ dạ nhận lời.
Gã chủ sự đó đã được lót tay rồi nên thái độ hết sức thân thiết, lúc cáo từ Ba Thiên Thạch lại đích thân tiễn chân ra cửa, bấy giờ mới ghé tai thì thầm:
- Ba tư không, ta có tin này nói riêng cho ông. Đêm mai hoàng thượng tứ yến cốt để xem xét tài mạo cử chỉ những kẻ rắp ranh, sau khi ăn xong không chừng sẽ có những trò vui như bắn cung, đấu võ để khách anh hùng phân tài cao thấp. Chuyện đó với việc lựa chọn ai là phò mã, xứng đáng gá nghĩa cùng công chúa nương nương rất có liên quan, mong Đoàn vương tử để tâm một chút.
Ba Thiên Thạch chắp tay bái tạ, lấy từ tay áo ra một đĩnh hoàng kim nặng nhét vào tay y. Khi quay vào tân quán, Ba Thiên Thạch thuật lại cho mọi người nghe, thở dài:
- Trấn Nam Vương căn dặn hàng nghìn hàng vạn lần là phải làm mọi cách để cho tiểu vương tử lấy được công chúa đem về, anh em mình làm không xong việc thì còn mặt mũi nào mà về bái kiến vương gia?
Trúc Kiếm đột nhiên nhoẻn miệng cười nói:
- Ba lão gia, tiểu tì muốn nói một câu có được không?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Xin tỉ tỉ cứ tự tiện.
Trúc Kiếm mỉm cười:
- Phụ vương Đoàn công tử muốn lấy cho được công chúa Tây Hạ chẳng qua cũng chỉ để kết thân, hai nước Tây Hạ, Đại Lý thành hôn nhân chi quốc, có gì lo liệu nâng đỡ lẫn nhau, phải không nào?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Quả là như thế.
Cúc Kiếm nói:
- Còn như cô công chúa Tây Hạ đẹp như Tây Thi hay xấu như Chung Vô Diệm, ông bố chồng Đoàn vương gia kia cũng đâu cần biết, có đúng không?
Ba Thiên Thạch nói:
- Con người ta là vai công chúa tôn quí như thế dẫu không có nhan sắc trầm ngư lạc nhạn thì chắc cũng phải bậc trung.
Mai Kiếm nói:
- Chị em chúng tôi có một chủ ý, miễn là lấy được công chúa về Đại Lý, còn có kịp thời tìm ra Đoàn công tử hay không thì cũng đâu có liên quan gì đến đại cuộc.
Lan Kiếm cười:
- Đoàn công tử và Vương cô nương đi du ngoạn giang hồ cho chán chê, qua một năm sáu tháng, hai năm ba năm lúc đó mới về Đại Lý, khi đó cùng công chúa động phòng hoa chúc cũng đâu có muộn.
Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần vừa king ngạc vừa mừng rỡ, cùng hỏi:
- Không có tiểu vương tử ở đây, làm cách nào mà lấy công chúa về Đại Lý được? Bốn vị cô nương có diệu kế gì, xin nói rõ cho.
Mai Kiếm nói:
- Mộc cô nương đây nếu ăn mặc giả trai thành một thư sinh, có phải còn đẹp trai hơn Đoàn công tử nhiều không? Nhờ cô ta đi phó yến tối mai thì trên bàn tiệc dù có trăm ngàn thanh niên anh hùng thì cũng đâu có ai anh tuấn tiêu sái hơn được?
Lan Kiếm nói:
- Mộc cô nương là em ruột của Đoàn công tử, thay ca ca đi lấy chị dâu về, lập đại công cho quốc gia khiến gia gia hoan hỉ, thế có phải là nhất cử tam tứ tiện hay không?
Trúc Kiếm nói:
- Mộc cô nương đoạt được chức phò mã, bái đường thành thân thì cũng còn phải mất một thời gian, đến lúc đó chắc cũng kiếm ra Đoàn công tử rồi.
Cúc Kiếm nói:
- Dẫu cho lúc đó Đoàn công tử chưa hiện thân, Mộc cô nương phải thay anh bái đường thì làm sao?
Vừa nói cô ta vừa che miệng, cả bốn cô cùng cười ngặt nghẽo. Bốn nàng cùng một tâm tư, cùng một giọng nói, bốn người mà chẳng khác gì một người.
Ba Chu hai người tần ngần, đều cảm thấy kế này thật là táo bạo, nếu như bị lộ tẩy, thân gia chẳng xong lại thành oan gia, hoàng đế Tây Hạ nổi giận hưng binh, mối họa đó thật lớn quá đỗi. Mai Kiếm đoán được tâm sự hai người bèn nói:
- Thực ra Đoàn công tử có vị nghĩa huynh là Tiêu đại hiệp thì chẳng cần phải ve vãn Tây Hạ làm gì, có điều đây là lệnh của vương gia, không thể không theo. Nếu quả như có chuyện gì xảy ra, Tiêu đại hiệp là Nam Viện Đại Vương nước Liêu, mấy chục vạn hùng binh trong tay, lúc đó chỉ cần nói vài lời phân giải là Tây Hạ không còn dám sinh sự với Đại Lý nữa.
Tiêu Phong mỉm cười, gật đầu. Ba Thiên Thạch là Tư Không nước Đại Lý, chấp chưởng chính sự, việc Tiêu Phong là cường viện của Đại Lý y cũng đã nghĩ đến rồi, có điều chính mình nói ra thì không tiện, nghe Mai Kiếm nói thế, Tiêu Phong lại gật gù, biết rằng thế nước vững như bàn thạch, nếu cầu thân không xong thì quốc gia cũng không đến nỗi nào, nghĩ thầm: “Mưu kế của bốn cô nhỏ này thoạt nghe thì tưởng như trò đùa, thế nhưng ngoài ra, thật không còn cách nào hay hơn nữa, chỉ không biết Mộc cô nương có dám mạo hiểm hay không?”. Y bèn đáp:
- Những lời đề nghị của bốn vị côn nương quả là diệu kế nhưng làm việc này quả là hung hiểm thái quá, chẳng may sơ hở để lộ ra, e rằng Mộc cô nương sẽ bị bắt giữ. Huống chi anh tài thiên hạ tu tập lại đây, dẫu rằng ngoại mạo Mộc cô nương đúng là bậc nhất thật, thế nhưng nếu tỉ thí võ công, muốn lấn áp quần hùng thì e rằng cũng không phải dễ.
Mọi người cùng nhìn vào Mộc Uyển Thanh xem ý định cô ta thế nào. Mộc Uyển Thanh nói:
- Ba tư không chẳng cần khích ta làm gì, cái người anh đó, cái người anh đó …
Nàng ấp úng được hai câu “cái người anh đó”, đột nhiên nước mắt ròng ròng, nghĩ đến Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên hai người trốn đi với nhau, thật không khác gì năm xưa cùng mình nắm tay rong ruổi, nếu y không phải là huynh trưởng của mình thì chắc chẳng thay lòng đổi dạ đâu, thế mà hôm nay y cùng người khác chàng chàng thiếp thiếp, sung sướng khác nào thần tiên, còn mình ở đây đơn chiếc lạnh lùng, thần tử nước Đại Lý lại nhờ mình thay y đi lấy vợ. Nàng càng nghĩ càng tủi thân, lại thêm tức tối, giơ tay ra đập mạnh lên chiếc bàn trước mặt, khiến cho ấm trà, chén trà loảng xoảng nhảy cả lên, rồi đứng phắt dậy đi ra khỏi phòng.
Mọi người ai cũng chưng hửng, mất cả hứng. Ba Thiên Thạch điềm nhiên nói:
- Chuyện này cũng bởi ta cả, nếu như nói nhỏ nhẹ cầu xin, chắc Mộc cô nương cũng nhận lời, nhưng ta lại nói câu khích bác khiến nàng ta bực mình.
Chu Đan Thần lắc đầu:
- Mộc cô nương bực tức nào phải vì mấy câu của Ba huynh đâu, mà có nguyên nhân khác. Ôi, một lời không sao nói hết được.
Hôm sau mọi người chia nhau đi tìm Đoàn Dự, thấy nơi phố phường thanh niên phục sức hoa lệ diêm dúa, xem chừng phải đến quá nửa là sắp đến hoàng cung dự yến đêm Trung Thu, thỉnh thoảng lại gặp người chửi mắng cãi vã, xem ra các võ sĩ Thổ Phồn vẫn đang hết lòng hết sức vì chủ mà thanh trừ địch thủ. Còn như Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên thì vẫn không thấy đâu cả.
Đến xế chiếu hôm đó, mọi người trước sau trở về tân quán. Tiêu Phong nói:
- Tam đệ nếu đã đi rồi, chúng mình cũng về thôi, dù cho ai làm phò mã thì cũng chẳng liên can gì đến cả.
Ba Thiên Thạch nói:
- Tiêu đại hiệp nói phải lắm, thôi để khỏi thấy người khác làm phò mã thêm bực mình.
Chung Linh bỗng nói:
- Chu tiên sinh, ông có vợ chưa nhỉ? Đoàn công tử không chịu làm phò mã, sao ông không thử một phen? Nếu ông lấy được công chúa Tây Hạ thì cũng vẫn giúp được Đại Lý chớ gì?
Chu Đan Thần cười nói:
- Cô nương chỉ đùa, vãn sinh đã có vợ lớn vợ bé rồi, con trai con gái đầy đủ.
Chung Linh le lưỡi, Chu Đan Thần lại tiếp:
- Tiếc rằng cô nương tướng mạo yêu kiều quá, má núm đồng tiền, không có vẻ gì đàn ông, nếu không đưa cô ra thay, lấy công chúa Tây Hạ thay cho ca ca …
Chung Linh ngạc nhiên:
- Cái gì? Thay cho anh trai ta ư?
Chu Đan Thần biết mình lỡ lời, nghĩ thầm: “Cô là con riêng của Trấn Nam Vương, việc này chưa nên công khai, không tiện nói càn”. Y vội đáp:
- Tại hạ nói là thay tiểu vương tử làm việc lớn …
Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng người nói:
- Ba tư không, Chu tiên sinh, mình đi chưa nào?
Cánh cửa mở ra, một thanh niên anh tuấn tiến vào, chính là Mộc Uyển Thanh ăn vận nam trang theo lối thư sinh. Mọi người vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ cùng nói:
- Cái gì? Mộc cô nương bằng lòng ư?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Tại hạ họ Đoàn tên Dự, là thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý, các vị nói năng cũng nên giữ ý giữ tứ một chút.
Giọng nói sang sảng, tuy vẫn còn chút nữ nhân nhưng người còn trẻ âm điệu có hơi trong trẻo cũng không phải là lạ. Mọi người thấy nàng giả vờ giống lắm, ai nấy cười khanh khách.
Thì ra Mộc Uyển Thanh nổi giận lên, trở về phòng ngồi khóc một hồi, nghĩ đi nghĩ lại, thấy mình đắc tội với quá nhiều người, quả là áy náy, lại thấy nếu mình giả làm Đoàn Dự đi lấy được công chúa Tây Hạ thật là thú vị, trong lòng cũng tính thầm: “Ngươi tưởng cùng Vương cô nương hai người cao chạy xa bay để vui vầy với nhau là đã xong ư? Để ta thay ngươi lấy công chúa Tây Hạ về, mai mốt đánh nhau cãi nhau cho ngươi biết thân”.
Nàng nhớ lại khi mới vào thành Đại Lý, cha mẹ Đoàn Dự đúng là “Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng”, gặp nhau trăm đường ngượng ngập, Đoàn Dự nếu có một nàng công chúa minh môi chính thú làm vợ cả rồi, Vương Ngữ Yên còn làm sao là phu nhân được. Mình không lấy được Đoàn Dự thì cũng đành nhưng lẽ nào lại để cái cô nàng họ Vương õng a õng ẹo kia ngang nhiên phỗng tay trên. Nàng càng nghĩ càng đắc ý bèn đứng lên cải trang đi phó yến thay Đoàn Dự.
Bọn Ba Thiên Thạch ai ai cũng lên tinh thần, vội vàng chuẩn bị mọi việc. Ba Thiên Thạch nghĩ thầm, gã Lễ Bộ thị lang kia đến tân quán đã từng gặp Đoàn Dự rồi, nên lấy ra ba trăm lạng hoàng kim, nhờ Chu Đan Thần đem cho Đào thị lang.
Đúng ra lễ vật cũng đã đem đến rồi, đây là món quà đặc biệt cho thêm, dặn Chu Đan Thần đừng nói gì hết, vì biết Đào thị lang nếu có thấy gì sơ hở ắt cũng làm lơ, biết ngay ba trăm lạng kia là để chặn họng mình, ấy chính là “ngậm miệng ăn tiền”.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Tiêu đại ca, Hư Trúc nhị ca, tốt hơn hết hai vị cùng đi với tiểu đệ phó yến, có thế mới không sợ gì. Nếu không lỡ phải động thủ, tiểu đệ làm sao đánh nổi người ta? Bên trong hoàng cung, nếu bắn độc tiễn giết người thì đâu còn thể thống gì nữa.
Lan Kiếm cười nói:
- Đúng đó! Nếu như Đoàn công tử dùng tên độc bắn lung tung, hoàng cung Tây Hạ thây chất thành đống, công chúa nương nương chắc tởn quá chẳng dám lấy đâu.
Tiêu Phong cũng cười:
- Ta và nhị đệ đã được Đoàn bá phụ ủy thác, dĩ nhiên phải tận lực rồi.
Thế là mọi người thay đổi y phục, cùng vào hoàng cung dự tiệc. Tiêu Phong và Hư Trúc ăn mặc giả làm tùy tòng trong phủ Trấn Nam Vương đi theo Đoàn Dự. Chung Linh và bốn cô gái cung Linh Thứu toan ăn mặc giả trai đi xem trò vui nhưng Ba Thiên Thạch nói:
- Mộc cô nương một người cải trang cũng đã sợ người ta nhìn ra, lại thêm năm cô nương khác giả trai nữa thể nào cũng lộ chuyện.
Chung Linh và bốn nàng đành phải chịu vậy. Đoàn người ra khỏi tân quán, Ba Thiên Thạch đột nhiên kêu lên:
- Chết rồi, suýt nữa làm hỏng hết đại sự. Gã Mộ Dung Phục kia cũng đi tranh chức phò mã, y sẽ nhận ra Đoàn công tử, làm thế nào đây?
Tiêu Phong mỉm cười nói:
- Ba huynh chẳng phải lo, Mộ Dung công tử cũng như Đoàn tam đệ, không từ biệt mà đi đâu mất. Ta mới vừa thăm dò, Đặng Bách Xuyên, Bao Bất Đồng cũng đang bồn chồn như kiến bò trong chảo nóng.
Mọi người mừng quá, đều thở phào:
- Kể cũng khéo thật!
Chu Đan Thần tiếp lời:
- Tiêu đại hiệp quả là chu đáo, đã đi tra xét tình hình Mộ Dung công tử rồi.
Tiêu Phong mỉm cười:
- Ta cũng chẳng phải chu đáo gì, chỉ nghĩ Mộ Dung công tử dáng người tuấn nhã, võ công cao cường, quả là kình địch của Mộc cô nương, ha ha, ha ha!
Ba Thiên Thạch cười theo:
- Thế ra Tiêu đại hiệp định đến khuyên y hôm nay đừng đi phó yến chứ gì?
Chung Linh trợn tròn đôi mắt hỏi lại:
- Y nghìn dặm đường xa diệu vợi đến đây, chỉ cốt được làm phò mã, lẽ nào lại nghe lời khuyên của đại hiệp? Tiêu đại hiệp chắc có giao tình rất thân thiết với Mộ Dung công tử?
Ba Thiên Thạch cười đáp:
- Tiêu đại hiệp và gã kia giao tình cũng chẳng có gì đặc biệt, có điều Tiêu đại hiệp nói chuyện bằng chân tay, không nghe không được.
Chung Linh bấy giờ mới rõ, cười nói:
- Nếu như đem thượng cẳng chân, hạ cẳng tay ra nói chuyện thì ai mà chẳng phải nghe?
Thế rồi Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần năm người cùng đến cửa hoàng cung. Ba Thiên Thạch đưa danh thiếp của Đoàn Dự vào, thượng thư bộ Lễ của nước Tây Hạ đích thân ra ngoài nghinh tiếp.
Vào đến điện Trung Hòa đã thấy người đến dự cũng phải hơn trăm, ngồi rải rác ở khắp các nơi. Chính giữa điện là một mâm tiệc, bàn ghế đều phủ nhiễu vàng thêu rồng, chính là ngự tọa của hoàng đế Tây Hạ. Hai bàn đông tây đều phủ gấm tía, phía đông ngồi ngất ngưởng một đại hán mi rậm mắt to, thân thể cao to, hình dáng uy võ, mặc áo bào đại hồng, trên áo bào thêu một con hổ giơ nanh múa vuốt, đằng sau là tám võ sĩ đứng hầu. Ba Thiên Thạch vừa nhìn đã biết ngay đây là Tông Tán vương tử của nước Thổ Phồn.
Lễ bộ thượng thư dẫn Mộc Uyển Thanh đến mâm tiệc phía tây, không phải ngồi chung với ai còn bọn Tiêu Phong đứng đằng sau nàng. Xem như thế trong những người đến ứng tuyển hôm nay, chỉ có vương tử nước Thổ Phồn vàvương tử nước Đại Lý là tôn quí hơn hết nên hoàng đế Tây Hạ mới kính trọng đến vậy. Ngoài ra các tử đệ con nhà quyền quí cũng đều ngồi xen lẫn với các thanh niên dân gian ở các mâm khác. Mọi người lục tục tiến vào chia nhau ra ngồi.
Sau khi các mâm đã ngồi chật, hai người Trị Điện tướng quân liền hô lớn:
- Tân khách đến đủ rồi, đóng cửa lại.
Trong tiếng chiêng trống, hai phiến cửa dày của điện môn được bốn người vệ sĩ cầm kích đóng lại. Trong số binh sĩ cầm võ khí sáng loáng, một đoàn vệ sĩ giáp vàng cầm kích đi ra, mũi kích lấp lánh dưới ánh lửa đuốc bập bùng.
Rồi lại tiếng nhạc, tiếng trống, hai đội nội thị từ trong nội đường tiến ra, tay người nào cũng cầm một đỉnh hương bằng bạch ngọc, trong lò hương bay nghi ngút. Mọi người đều biết hoàng đế sắp xuất hiện, ai nấy nín thở không dám nói gì nữa.
Sau cùng là bốn tên nội thị mặc cẩm bào, tay không cầm gì cả, chia ra đứng hai bên ngự tọa. Tiêu Phong thấy bốn người đó huyệt Thái Dương gồ lên, biết đây là thị vệ đứng bảo vệ hoàng đế, võ công không phải dở. Một tên nội thị lớn tiếng xướng:
- Vạn tuế đến, nghinh giá!
Tất cả mọi người liền quì xuống. Rồi có tiếng giày lẹp kẹp, một người từ bên trong đi ra, ngồi lên trên ngự ỷ. Gã nội thị kia lại xướng:
- Bình thân!
Mọi người lúc đó mới đứng thẳng lên. Tiêu Phong liếc qua hoàng đế Tây Hạ, thấy ông ta thân hình không cao lắm, vẻ mặt cũng có đôi chút tinh nhanh, trông như một nhân vật anh hùng trong giới thảo mãng. Viên Lễ bộ thượng thư đứng bên cạnh ngự tọa, giở một quyển trục ra, lớn tiếng đọc:
Pháp thiên ứng đạo, quảng thánh thần võ, Tây Hạ hoàng đế sắc viết:
Chư quân ứng chiếu viễn lai, trẫm kỳ gia hứa, kỳ tứ chỉ tửu
Khâm tai 
Mọi người quì xuống tạ ơn. Gã nội thị lại xướng:
- Bình thân!
Mọi người lại đứng dậy. Nhà vua liền nâng chén lên, đưa lên môi nhấp rồi rời chỗ ngồi, quay vào nội đường. Cả đoàn nội thị cũng theo sau, chỉ một thoáng đã đi hết không còn ai nữa.
Mọi người hết sức ngạc nhiên, không ngờ vị hoàng đế đó lại không nói câu nào, không uống ngụm rượu nào, cũng không ở qua bữa tiệc. Ai nấy nghĩ thầm: “Tướng mạo bọn ta ra sao, y chưa nhìn một người nào, làm sao mà tuyển con rể đây?”.
Viên Lễ bộ thượng thư nói:
- Xin chư quân ngồi xuống, tùy tiện uống rượu ăn uống.
Thái giám liền bưng các đĩa đồ ăn lên. Tây Hạ là vùng đất rất lạnh miền tây bắc, ăn uống thường ngày dùng thịt bò, thịt trừu là chính, tuy là ngự yến trong hoàng cung nhưng thịt bò thịt trừu miếng nào miếng nấy cắt thành cục lớn.
Mộc Uyển Thanh thấy bọn Tiêu Phong đứng hầu ở bên cạnh, trong lòng áy náy không yên, hạ giọng nói nhỏ:
- Tiêu đại ca, Hư Trúc nhị ca, hai người ngồi xuống ăn đi.
Tiêu Phong và Hư Trúc cùng cười lắc đầu. Mộc Uyển Thanh biết Tiêu Phong thích rượu, nghĩ ra một kế, vẫy tay một cái nói:
- Rót rượu!
Tiêu Phong liền theo lệnh rót rượu ra. Mộc Uyển Thanh nói:
- Ngươi uống một bát trước ta xem.
Tiêu Phong mừng quá, một hơi uống hết ngay bát rượu. Mộc Uyển Thanh lại ra lệnh:
- Uống nữa xem nào!
Tiêu Phong lại uống thêm một bát nữa.
Gã vương tử nước Thổ Phồn ngồi ở bàn phía đông uống mấy ngụm rượu rồi liền cầm một tảng thịt bò lớn trong bát lên gặm, gặm được mấy miếng còn một cục xương to, tiện tay liệng ra, không biết vô tình hay cố ý quăng luôn về phía Mộc Uyển Thanh, kình phong ném ra cực kỳ mãnh liệt.
Chu Đan Thần liền xòe quạt hất cái xương bò, cục xương liền quay ngược lại bắn về phía Tông Tán vương tử. Một tên võ sĩ Thổ Phồn giơ tay chụp lấy chửi một tiếng, cầm chiếc bát trên bàn ném luôn về phía Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch vung chưởng đánh ra, chưởng phong đánh chiếc bát vỡ tan tành trên không thành mấy chục mảnh, văng trở về đám võ sĩ Thổ Phồn. Một tên võ sĩ Thổ Phồn lập tức cởi áo khoác ngoài, cuốn một cái túm lại, thu hết mấy chục mảnh bát vỡ vào trong trường bào, thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn.
Những người đến phó yến tại hoàng cung ai nấy đều nghĩ bụng đã đến đây ai cũng mong được làm phò mã, gặp nhau ắt phải hầm hè, lúc dự tiệc thể nào cũng có tranh chấp, nhưng có ngờ đâu chưa nói đã đánh, vừa vào bàn đã động thủ nhanh như thế. Chỉ nghe loảng xoảng leng keng rầm rĩ cả lên.
Đột nhiên có tiếng chuông kêu boong boong, từ nội đường hai hàng người tiến ra, người thì quần áo bó chẽn, kẻ lại quần chùng áo dài, phần lớn ai cũng cầm những loại binh khí kỳ dị. Một viên quí quan Tây Hạ mặc cẩm bào lớn tiếng nói:
- Hoàng cung nội viện, chư quân không được vô lễ. Những người này đều ở trong Nhất Phẩm Đường của tệ quốc, nếu các vị có hứng thì chia nhau ra tỉ thí xem sao, chứ loạn đả quần đấu thì nhất định không thể được.
Bọn Tiêu Phong ai cũng biết Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ là nơi tuyển mộ anh hùng hảo hán, nhân tài không phải là ít nên lập tức ngừng tay. Những chén bát bọn võ sĩ Thổ Phồn liệng tới, bọn Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần chỉ bắt lấy rồi để xuống chứ không ném trả lại. Thế nhưng bọn võ sĩ Thổ Phồn nào có chịu thôi, đến thịt bò, thịt cừu cũng cầm ném sang phía Mộc Uyển Thanh.
Viên quan mặc cẩm bào liền nói với vương tử nước Thổ Phồn:
- Xin điện hạ ra lệnh cho họ ngừng tay, để chúng tôi phải can thiệp vào thì thật bất tiện.
Tông Tán vương tử thấy Nhất Phẩm Đường ít ra cũng phải trên trăm người, huống chi mình đang ở trong cung cấm của đối phương, lập tức vẫy tay một cái bảo thuộc hạ ngừng lại. Lễ bộ thượng thư Tây Hạ liền quay sang viên quan mặc cẩm bào chắp tay:
- Hách Liên Chinh Đông, không biết công chúa nương nương sai bảo thế nào?
Viên quí quan mặc áo gấm kia là tổng quản Nhất Phẩm Đường Hách Liên Thiết Thụ, quan phong Chinh Đông đại tướng quân, năm ngoái đã từng suất lãnh các võ sĩ Nhất Phẩm Đường đi qua Trung Nguyên, bị Mộ Dung Phục mặc giả Lý Diên Tông, dùng Bi Tô Thanh Phong làm cho mê man. Cả bọn Hách Liên Thiết Thụ sau đó bị Cái Bang bắt giữ, may nhờ có Đoàn Diên Khánh cứu thoát, lủi thủi quay về. Y từng nhìn thấy A Châu giả làm Kiều Phong và Đoàn Dự giả làm Mộ Dung Phục nhưng Tiêu Phong thật và Đoàn Dự giả có mặt ở trong điện hôm nay thì chưa từng gặp qua. Bọn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần tuy cũng là cao thủ Nhất Phẩm Đường nhưng họ đã thương lượng trước, không chịu trong vòng quản thúc.
Hách Liên Thiết Thụ lớn tiếng nói:
- Công chúa nương nương có dụ rằng, xin quí vị tân khách sau khi ăn uống, cùng vào thư phòng bên ngoài Thanh Phượng Các để dùng trà.
Mọi người nghe nói thế, ai nấy kêu lên kinh ngạc. Ngân Xuyên công chúa ở gác Thanh Phượng, nhiều người đã biết rồi, nếu như nàng ta mời tất cả đến uống trà, hẳn là để chính mắt xem xét, tự mình kén chồng. Các thanh niên nghe nói thế ai nấy cực kỳ cao hứng, nghĩ thầm: “Dẫu cho công chúa không chọn ta thì mình cũng chính mắt thấy nàng. Người Tây Hạ ai nấy đều bảo rằng công chúa của họ thiên kiều bách mị, dung mạo trên đời có một không hai, mình được ngó thấy cũng không uổng công đường xa cất bước đến đây”.
Vương tử nước Thổ Phồn liền đưa tay áo chùi miệng, đứng phắt lên nói:
- Lúc nào ăn thịt uống rượu mà chẳng được? Bây giờ cần gì ăn, mình đi xem công chúa đi thôi.
Tám tên võ sĩ tùy tòng cùng lên tiếng đáp ứng:
- Tuân lệnh!
Vương tử nước Thổ Phồn quay sang nói với Hách Liên Thiết Thụ:
- Ngươi dẫn đường đi!
Hách Liên Thiết Thụ đáp:
- Được, xin mời điện hạ.
Y quay sang chắp tay nói với Mộc Uyển Thanh:
- Xin mời Đoàn điện hạ.
Mộc Uyển Thanh cũng nói giọng ồm ồm:
- Mời tướng quân.
Cả đoàn người được Hách Liên Thiết Thụ dẫn đường, đi ngang một cái vườn hoa lớn, vài khúc quẹo, qua một dãy giả sơn, Mộc Uyển Thanh bỗng thấy bên cạnh mình có thêm một người, liếc mắt nhìn xem, không khỏi giạât mình kêu lên một tiếng kinh ngạc. Người đó đai ngọc, áo gấm, chính là Đoàn Dự chứ còn ai!
Đoàn Dự nhoẻn miệng cười nói nhỏ:
- Đoàn điện hạ có sợ không?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Dự ca biết rồi ư?
Đoàn Dự cười nói:
- Không phải biết hết mọi chuyện nhưng xem xét tình hình cũng đoán được một hai. Quả là khó cho Đoàn điện hạ thật.
Mộc Uyển Thanh liếc qua hai bên xem có quan viên Tây Hạ nào không, thấy ngay sau lưng Đoàn Dự có thêm hai thanh niên công tử. Một người chừng ba mươi, hai lông mày xếch lên, thái độ ra chiều cao ngạo, còn người kia dung mạo tuyệt đẹp. Mộc Uyển Thanh nhìn kỹ lại, nhận ra ngay người thanh niên đẹp trai kia chính là Vương Ngữ Yên giả trang, nàng giận sôi máu nói:
- Anh giỏi nhỉ, không nói không rằng cùng Vương cô nương bỏ đi, để tôi phải thay anh đứng mũi chịu sào.
Đoàn Dự đáp:
- Hảo muội tử, cô chớ có nổi cáu, chuyện này nói ra dài lắm. Ta bị người ta vứt xuống một giếng bùn, suýt nữa thì chết đói dưới đó rồi.
Mộc Uyển Thanh nghe chàng nói từng bị nguy hiểm, lập tức bớt giận mà lại đâm lo, vội hỏi:
- Thế Dự ca không bị thương chứ? Ta xem khí sắc anh không được khỏe.
Thì ra khi đó ở dưới đáy giếng Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí bóp cổ, ngạt thở tưởng chừng sắp ngất đi. Mộ Dung Phục bám trên tường cao của thành giếng, hạnh tai lạc họa, mừng thầm trong bụng, chỉ mong Cưu Ma Trí bóp chết Đoàn Dự. Vương Ngữ Yên hết sức xông vào đánh Cưu Ma Trí nhưng y nào có buông tay, trong cơn nguy cấp, đột nhiên ghé miệng cắn lên cánh tay phải Cưu Ma Trí một cái.
Cưu Ma Trí thấy huyệt Khúc Trì nơi cánh tay đau nhói lên, nội lực đang căng phồng trong người lập tức tuôn thẳng vào chưởng tâm chảy vào đầu vào cổ Đoàn Dự. Nội tức của y vốn dĩ bành trướng toàn thân như muốn vỡ tan, bây giờ có chỗ thoát ra liền cảm thấy thoải mái ngay, bàn tay đang bóp cổ Đoàn Dự lập tức nới lỏng.
Y luyện công đã đến mức cực kỳ ổn định, kình lực ngưng tụ không dễ gì mà bị khuấy động, tuy đã tiếp xúc với cơ thể Đoàn Dự nhưng vì không chạm vào những huyệt đạo trên ngón tay cái hay cổ tay mà Đoàn Dự lại không biết vận dụng Bắc Minh thần công thành thử không thể nào hút nội lực của y được.
Thế nhưng khi Vương Ngữ Yên cắn vào huyệt Khúc Trì, Cưu Ma Trí giật mình, các mạch trong người lập tức thư giãn, nội lực liên miên bất tuyệt cuồn cuộn chảy vào huyệt Liêm Tuyền nơi yết hầu Đoàn Dự. Huyệt Liêm Tuyền thuộc Nhâm Mạch, đi qua các huyệt Thiên Đột, Tuyền Ki, Hoa Cái, Tử Cung, Trung Đình rồi vào biển khí nơi huyệt Đãn Trung.
Cưu Ma Trí thần trí đang mơ mơ hồ hồ, nội tức vừa thoát ra lập tức tỉnh táo, chột dạ nghĩ thầm: “Chết rồi! Chân khí của ta bị y hút ào ào như thế này, chẳng mấy chốc sẽ thành người tàn phế, biết làm sao đây?”. Y lập tức vận kình hết sức chống lại nhưng trễ mất rồi. Nội lực của y vốn dĩ đã không mạnh bằng Đoàn Dự, lại thêm non nửa đã chảy vào cơ thể đối phương, bên tiêu bên trưởng, mạnh yếu chênh lệch mỗi lúc một xa, tuy cố sức đề kháng nhưng không cách gì giữ lại được.
Trong đêm tối, Vương Ngữ Yên thấy mình cắn Cưu Ma Trí một cái rồi y không còn xiết cổ Đoàn Dự nữa cũng thấy đỡ lo, nhưng sao bàn tay y vẫn cứ dính chặt vào cổ Đoàn Dự, dù nàng cố sức giằng ra vẫn không được.
Vương Ngữ Yên tuy biết hết các danh gia danh phái trong thiên hạ nhưng nào có đoán ra được môn công phu này của Cưu Ma Trí nhưng chắc hẳn chẳng phải là chuyện tốt lành gì, ắt có hại cho Đoàn Dự nên lại càng hết sức kéo ra.
Cưu Ma Trí thì chỉ mong sao nàng lôi được mình ra, còn Vương Ngữ Yên thì chợt rùng mình một cái, nội lực cũng tuôn ra ngoài. Thì ra Bắc Minh thần công của Đoàn Dự đâu có phân biệt bạn thù, đến chút nội lực thô thiển của Vương Ngữ Yên cũng bị hút mất. Chẳng bao lâu, cả ba người Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên lẫn Cưu Ma Trí đều ngất đi.
Qua một hồi sau, Mộ Dung Phục thấy cả ba người không còn động tĩnh gì, gọi mấy tiếng không nghe trả lời nghĩ thầm: “Xem chừng ba người đồng qui ư tận cả rồi”. Y lúc đầu thì vui sướng lắm, đến lúc nghĩ lại thân tình của mình với Vương Ngữ Yên, không khỏi thương xót. Y chợt nghĩ ra: “Chết rồi, miệng giếng bị đá tảng lấp mất, nếu như ba người kia không chết, bốn người hợp lực thì may ra còn thoát ra được, bây giờ chỉ còn một mình ta thì còn khó hơn nhiều. Ôi, các ngươi chết sao không ra đến ngoài rồi hãy chết, để mình ta sống có phải hay không?”.
Y giơ tay đẩy lên nhưng hàng chục tảng đá chồng lên miệng giếng, còn đang xem xét bỗng nghe bên trên có tiếng người nói lao xao, thanh âm thô tạp, hẳn là nông dân nước Tây Hạ. Thì ra bốn người náo loạn hồi lâu bây giờ trời đã sáng, dân chúng chung quanh thành đang gánh rau đem vào Linh Châu bán, đi ngang qua giếng.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Nếu mình gọi họ đến giúp, những tên nhà quê này chắc gì đã hăng hái đến vần những tảng đá mỗi cục cả mấy trăm cân, lay vài cái thấy không đến đâu chắc họ sẽ bỏ đi mất, ta phải lấy lợi để dụ mới được”. Nghĩ thế y bèn lớn tiếng kêu:
- Bao nhiêu vàng bạc châu báu đều là của ta, các ngươi không được nổi lòng tham. Nếu chúng bay muốn ta chia cho ba nghìn lượng bạc thì ta cũng đành chịu vậy.
Nói xong y lại đổi giọng eo éo:
- Dưới đây biết bao nhiêu là kim ngân tài bảo, ai tìm thấy cũng có phần, cứ người nào có mặt là có một chút.
Nói xong y lại chuyển giọng khàn khàn:
- Ấy chớ có để ai nghe thấy, ai cũng có phần, dù vàng bạc châu báu nhiều thật nhưng chia ra rồi cũng chẳng được mấy tí.
Những lời đối đáp y đều dùng nội lực truyền ra ngoài. Những người nhà quê nghe thấy thế, ai nấy mừng rỡ, xúm lại như đàn ong vần những tảng đá. Đá tuy nặng thật nhưng bấy nhiêu người hợp lực nên hết cục nọ đến cục kia đều được nhắc ra, Mộ Dung Phục không đợi cho tảng đá lớn kéo ra hoàn toàn, vừa thấy khe hở đủ lọt thân mình liền bò men theo thành giếng, quát một tiếng nhún mình vọt ra ngoài.
Bọn người nhà quê chỉ thấy y thấp thoáng rồi biến mất không còn đâu nữa, kinh hãi không biết thần hay quỉ, tuy sợ hãi nhưng máu tham vẫn còn, hì hục vần hơn chục tảng đá qua một bên, dùng dây buộc rau nối lại thòng một gã bạo dạn nhất xuống.
Gã nọ đến đáy giếng rồi, thấy bọn Cưu Ma Trí ba người nằm gục nơi đó không cục cựa gì cả, nghĩ bụng chắc chết cả rồi, sợ đến mất hồn mất vía, vội vàng giựt giây cho đồng bọn kéo lên.
Tất cả ai nấy thất vọng, bàn tán một hồi, đốt mấy cành cây, lại xuống giếng soi thêm lần nữa. Chỉ thấy ba người không cử động nằm trong đống bùn, chắc hẳn chết đã lâu, chứ nào có thấy tiền bạc gì đâu? Bọn nhà quê nghĩ bụng chết người không phải chuyện nhỏ, nếu để cho quan phủ biết được, không chừng các ngài lại vu cho mình giết người cướp của. Thế là ai nấy run lên bần bật, lập cập chạy về nhà, kẻ phát sốt kẻ phát rét.
Chẳng bao lâu có kẻ thêm mắm dặm muối, đồn ầm lên trong đám dân ngu khu đen rằng cứ mỗi độ trăng tròn, bên miệng giếng lại có bốn con quỉ người đầy bùn tác yêu tác quái, ai trông thấy sẽ nhiễm bệnh lên cơn sốt, phải cúng kiến ngay mới khỏi. Từ đó trở đi bên miệng giếng quanh năm khói hương lúc nào cũng nghi ngút.
Mãi đến lúc quá trưa, ba người dưới giếng mới từ từ tỉnh lại. Người mở mắt đầu tiên là Vương Ngữ Yên, cô nàng công phu thô thiển, nội lực tuy mất hết nhưng vốn dĩ cũng chẳng bao nhiêu nên không tổn hại gì mấy. Nàng tỉnh dậy nghĩ ngay đến Đoàn Dự, tuy lúc đó là ban ngày trời sáng nhưng dưới đáy giếng vẫn tối om om. Nàng vừa mò ra đụng ngay phải Đoàn Dự, kêu lên:
- Đoàn lang, Đoàn lang! Chàng … chàng … chàng … sao ra nông nỗi này?
Vương Ngữ Yên không nghe Đoàn Dự trả lời, nghĩ bụng chắc chàng đã bị Cưu Ma Trí bóp cổ chết rồi, không khỏi ôm “thây” tình nhân khóc òa lên, ôm chặt vào ngực:
- Đoàn lang! Đoàn lang! Chàng đối với thiếp tình sâu nghĩa nặng, nhưng thiếp nào đã được một ngày dịu ngọt, thân mật với chàng. Những tưởng từ nay liễu bồ tùng quân quấn quít bên nhau để bù lại những gì thiếu sót. Ai ngờ đâu … ai ngờ đâu … chàng lại vắn số, chết dưới tay tên ác tăng …
Bông nghe tiếng Cưu Ma Trí nói:
- Cô nương nói đúng một nửa thôi! Lão nạp tuy là ác tăng thật nhưng Đoàn công tử không phải chết vì tay ta.
Vương Ngữ Yên kinh hãi hỏi:
- Không lẽ … không lẽ do biểu ca ta hạ độc thủ hay sao? Sao y … y nỡ nào tàn nhẫn thế?
Cũng vừa lúc đó nội tức Đoàn Dự thuận lợi trở lại nên cũng tỉnh dậy, nghe tiếng Vương Ngữ Yên thánh thót bên tai, sung sướng quá đỗi, thấy được nàng ôm trong lòng nên không động đậy gì cả e nàng phát giác sẽ buông mình ra. Lại nghe Cưu Ma Trí nói tiếp:
- Đoàn lang của cô không phải chết vì tay ác tăng mà ngược lại, ác tăng suýt nữa chết về tay Đoàn lang của cô.
Vương Ngữ Yên thút thít khóc:
- Đến nước này mà ông còn nhẫn tâm đùa cợt được hay sao? Ông có biết lòng ta tan nát, chi bằng ông giết nốt ta đi để cho ta được theo Đoàn lang xuống suối vàng.
Đoàn Dự nghe nàng nói mấy câu thâm tình như thế thật như mở cờ trong bụng, sung sướng không đâu cho hết. Cưu Ma Trí nội lực tuy mất nhưng đầu óc vẫn cực kỳ tinh tế, kiến thức vẫn trác tuyệt như xưa, nghe tiếng thở nhè nhẹ của Đoàn Dự, đủ biết chàng đang hết sức kiềm chế, cũng đoán được dụng ý, thở dài nói:
- Đoàn công tử, bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm ta học sai đường đến nỗi tẩu hỏa nhập ma, ở vào tình trạng cực kỳ hung hiểm, nếu không nhờ có công tử hút hết nội lực, lão nạp chắc đã lên cơn điên mà chết. Bây giờ lão nạp tuy võ công mất hết rồi nhưng tính mệnh lại còn, phải bái tạ cái ơn cứu mạng của công tử mới được.
Đoàn Dự vốn là người khiêm khiêm quân tử, bỗng nghe ông ta nói chuyện bái tạ mình nhịn không nổi vội vàng lên tiếng:
- Đại sư việc gì phải khiêm nhường như thế? Tại hạ có tài đức gì đâu mà cứu được mạng đại sư?
Vương Ngữ Yên bỗng nhiên nghe Đoàn Dự mở miệng, hết sức mừng rỡ nhưng lại sững sờ, chợt hiểu ngay ra anh chàng cố ý nằm yên để cho mình ôm vào lòng, không khỏi bẽn lẽn đẩy một cái, hứ một tiếng nói:
- Cái anh này!
Đoàn Dự bị nàng nhìn ra dụng ý cũng ngượng ngập, mặt đỏ bừng vội đứng lên tựa vào tường phía bên kia. Cưu Ma Trí thở dài:
- Lão nạp tuy ở trong cửa Phật nhưng cái tâm tranh cường hiếu thắng còn gấp mấy người thường, cái quả hôm nay ấy là do nhân đã trồng từ ba mươi năm trước. Ôi, tham,, sân, si tam độc không qua được cửa nào, thế mà dám tự cho là cao tăng, đã kiêu ngạo, lại ngã mạn, không biết thẹn, không biết ngượng. Ôi, khi chết đi rồi ắt sẽ thân đọa địa ngục, vạn kiếp chẳng được siêu sinh.
Đoàn Dự trong lòng lo lắng không biết Vương Ngữ Yên có giận mình không, nghe Cưu Ma Trí nói mấy lời chán chường như thế, cảm thấy thương hại, hỏi lại:
- Sao đại sư lại buông những lời như thế? Đại sư mới rồi không được khỏe, bây giờ đã đỡ hơn chưa?
Cưu Ma Trí không nói gì, một hồi sau ám vận chân khí, quả nhiên công phu gian khổ mấy chục năm nay chỉ một buổi đã hết sạch rồi. Ông ta vốn là người đại trí đại tuệ, tu tập Phật học cực kỳ tinh thâm, chỏ vì học võ mà tâm hiếu thắng nổi lên, Phật tâm nhạt dần nên mới có cảnh hôm nay. Ông ta ngồi nơi đống bùn lầy bỗng nhiên tỉnh ngộ: “Như Lai dạy đệ tử rằng việc đầu tiên là phải khứ tham, khứ ái, khứ thu, khứ triền mới mong có thể giải thoát. Còn ta thì chưa bỏ được cái gì, bị danh bị lợi trói cứng không sao thoát ra được. Hôm nay võ công tuy mất, biết đâu chẳng là do đấng Thế Tôn điểm hóa, bảo ta cải tà qui chánh để được thanh tĩnh giải thoát?”. Ông ta nghĩ lại những điều mình đã từng làm mấy chục năm qua, mồ hôi trán nhỏ xuống ròng ròng, vừa hổ thẹn lại vừa chua xót.
Đoàn Dự không nghe thấy ông ta trả lời, quay sang hỏi Vương Ngữ Yên:
- Mộ Dung công tử đâu rồi?
Vương Ngữ Yên kêu lên một tiếng nói:
- Biểu ca ư? Ôi chao! Thiếp quên khuấy đi mất.
Đoàn Dự nghe nàng nói “Thiếp quên khuấy đi mất”, thật chẳng khác gì được nghe tiếng nhạc nhà trời, không gì hay bằng. Vốn dĩ Vương Ngữ Yên toàn tâm toàn ý chỉ nghĩ đến Mộ Dung Phục, bây giờ cả nửa ngày không nhớ gì đến y, đủ biết nàng đối với mình bằng cái lòng chí thành, trong tâm khảm bây giờ hình ảnh mình đã thay Mộ Dung Phục rồi.
Lại nghe Cưu Ma Trí tiếp:
- Lão nạp trước đây sai lầm đã nhiều, nay xin tạ tội.
Nói xong chắp tay cúi đầu hành lễ. Đoàn Dự tuy không nhìn thấy ông ta cúi chào nhưng cũng vội vàng đáp lễ nói:
- Nếu vãn sinh không được đại sư dẫn tới Trung Nguyên thì làm sao có dịp gặp được Vương cô nương? Vãn sinh đối với đại sư quả là cực kỳ cảm kích.
Cưu Ma Trí đáp:
- Cái đó chẳng qua là phúc báo của công tử nên những điều ác lão nạp làm lại hóa thành trợ duyên. Công tử tâm địa nhân hậu, mai sau phúc đức vô cùng. Lão nạp hôm nay xin cáo biệt, từ nay vạn dặm cách xa, e rằng không còn có dịp gặp lại nhau nữa. Cuốn kinh thư này, sau này nếu công tử thuận tiện, xin thay lão nạp trao trả về cho chùa Thiếu Lâm. Cung chúc hai vị cử án tề mi, bạch đầu giai lão.
Nòi xong đưa cuốn Dịch Cân Kinh dính đầy bùn đất cho Đoàn Dự. Đoàn Dự nói:
- Đại sư định trở về Thổ Phồn chăng?
Cưu Ma Trí đáp:
- Ta muốn quay về nơi chốn cũ của mình nhưng đâu có phải chỉ ở Thổ Phồn mới có.
Đoàn Dự đáp:
- Vương tử quí quốc đang định cầu thân công chúa Tây Hạ, đại sư không đợi cho việc kết thúc rồi về cùng ư?
Cưu Ma Trí mỉm cười đáp:
- Đã đứng ngoài cuộc đời rồi lẽ nào còn để những tục sự đó vướng mắc hay sao? Lão nạp từ nay đi đâu ở đâu đều không định trước, chỉ tùy theo gặp gỡ mà an bài thôi. Tâm đã trụ vào chỗ an lạc rồi thì thân ắt cũng ở vào chỗ an lạc.
Nói xong cầm sợi dây thừng những người nhà quê để lại, giựt giựt thử biết chắc bên trên buộc vào một tảng đá, từ từ trèo lên. Kể từ đó, Cưu Ma Trí đại triệt đại ngộ, về sau thành một vị cao tăng, chuyên tâm dịch kinh luận từ tiếng Thiên Trúc sang Tạng văn, hoằng dương Phật pháp độ được cho rất nhiều người.
Về sau Phật pháp Thiên Trúc suy vi, kinh luật luận ba tạng đều bị thất tán nhưng còn giữ được nhiều ở Tây Tạng cũng do công lao của Cưu Ma Trí một phần lớn.
Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người nhìn nhau đến tiếng thở cũng nghe thấy, tuy đắm chìm trong chỗ bùn đen nhưng trong lòng đầy nỗi vui sướng, không ai còn nghĩ đến việc trèo ra khỏi giếng. Hai người chầm chậm đưa tay ra nắm lấy tay nhau, hai bên cùng một lòng một ý.
Một lúc lâu sau, Vương Ngữ Yên nói:
- Đoàn lang, không biết cổ họng chàng có bị thương không? Đi về xem thế nào?
Đoàn Dự đáp:
- Ta chẳng thấy đau chút nào cả, không cần phải đi vội.
Vương Ngữ Yên dịu dàng nói:
- Chàng không muốn rời khỏi nơi đây, thiếp cũng ở lại với chàng.
Nàng quả là thiên y bách thuận, không trái ý một điều gì. Đoàn Dự cảm thấy thương nàng quá, cười nói:
- Người như nàng mà dầm mình trong đám bùn đen chẳng uổng lắm ru?
Tay trái chàng vòng qua ôm ngang chiếc eo thon, tay phải cầm rợi dây rút một cái, ngờ đâu lực mạnh vô cùng, chỉ hơi dùng sức hai người đã vọt lên đến mấy thước. Đoàn Dự ngạc nhiên, có biết đâu sau chàng vừa hút được nội lực tu tập cả một đời của Cưu Ma Trí, cứ tưởng mình vui quá nên tinh thần phấn chấn, lại được nằm ngủ một giấc cho nên công lực gia tăng.
Hai người ra khỏi giếng rồi, dưới ánh mặt trời thấy người kia mình đầy bùn đất, trông thật nhem nhuốc, liệu tưởng mặt mũi mình chắc cũng chẳng hơn gì, bật cười khanh khách. Hai người bèn tìm một khe nước nhảy xuống tắm rửa hồi lâu, bao nhiêu đất bùn trên đầu tóc, mũi miệng, quần áo, giày dép đều sạch sẽ. Sau đó hai anh chị mới ướt lướt thướt bước ra khỏi suối, nghĩ lại đêm trước Đoàn Dự rơi xuống ao tình cảnh cũng không khác gì, có điều tâm tình hai lần khác nhau xa, thật quả như ở một kiếp nào.
Vương Ngữ Yên nói:
- Hai chúng ta hình dáng thế này không khỏi để người ta dòm ngó, thật là mắc cỡ biết mấy.
Đoàn Dự đáp:
- Chi bằng mình ở lại đây phơi cho khô, đợi đến tối hãy vào thành.
Vương Ngữ Yên gật đầu khen phải, ngồi tựa vào một tảng đá. Đoàn Dự thấy giai nhân như ngọc, mái tóc xanh ướt đẫm trong lòng hết sức hoan hỉ. Vương Ngữ Yên thấy tình lang đăm đăm nhìn mình, e thẹn quay đầu sang một bên. Hai người trong lòng lâng lâng, bao nhiêu chuyện trên đời đều gác bỏ, cảm thấy thời gian sao qua thật mau, trong nháy mắt vầng thái dương đã khuất sau dãy núi phương đoài, mà quần áo giày vớ cũng đã khô từ bao giờ.
Đoàn Dự trong lòng vui sướng chợt nghĩ đến Mộ Dung Phục bèn nói:
- Yên muội, hôm nay tâm nguyện ta đã thỏa rồi, thật thần tiên cũng chưa bằng, không biết biểu ca nàng cầu hôn công chúa Tây Hạ có thành hay không?
Vương Ngữ Yên trước nay mỗi khi nghĩ đến chuyện đó thì đau lòng muốn quyên sinh nhưng lúc này tâm tình đã chuyển biến, đối với Mộ Dung Phục lại cảm thấy có điều áy náy, mong sao cho y lấy được công chúa Tây Hạ bèn nói:
- Đúng đó, chúng mình đi xem thử coi sao.
Hai người lật đật trở về nghinh tân quán, vừa đến cổng bỗng nghe bên kia tường có tiếng người nói:
- Các ngươi cũng về rồi đấy ư?
Chính là tiếng của Mộ Dung Phục. Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên cùng vui mừng nói:
- Phải đó! Thì ra tôn huynh cũng ở nơi đây.
Mộ Dung Phục hừ một tiếng nói:
- Mới vừa đánh nhau với bọn võ sĩ Thổ Phồn, giết được hơn chục tên nhưng cũng làm ta mất bao nhiêu thời giờ. Họ Đoàn kia, sao ngươi không đến hoàng cung phó yến mà lại để cô nương kia giả làm ngươi đi thay? Ta … ta không thể nào để cho ngươi giở trò trí trá, nhất định phải tới tố giác mới được.
Y từ trong giếng chạy ra sau khi tắm rửa, giặt quần áo, nằm ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy gặp ngay bọn võ sĩ Thổ Phồn, hai bên đánh nhau một trận, tuy đắc thắng nhưng cũng phí mất bao nhiêu hơi sức, chạy về tân quán thì đã thấy bọn Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch một đoàn đi ra. Y nép vào góc tường quan sát động tĩnh, đang định đi tìm bọn Đặng Bách Xuyên thương nghị kế sách đã thấy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người sóng đôi đi vào.
Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại có cô nương nào giả mạo làm tiểu đệ? Thật đệ không hề hay biết chuyện gì.
Vương Ngữ Yên cũng nói:
- Biểu ca, chúng em vừa mới chui trong giếng ra …
Nàng chợt nghĩ ra những lời của mình không hoàn toàn đúng sự thật, mình và Đoàn Dự đã ngồi bên khe suối hủ hỉ với nhau cả nửa ngày, đâu có thể nói là vừa ở giếng chui ra, không khỏi sượng sùng. Cũng may trời đang sâm sẩm tối nên Mộ Dung Phục không nhìn thấy vẻ mặt nàng bẽn lẽn, y chỉ mong mau tới hoàng cung chứ chẳng để ý rằng quần áo hai người không còn chút bùn đất nào nữa, không thể nào vừa mới trong giếng chui ra. Lại nghe Vương Ngữ Yên nói tiếp:
- Biểu ca, y … y … Đoàn công tử … cùng em, quả đối với anh không phải chút nào, chỉ mong biểu ca lấy được công chúa Tây Hạ làm vợ.
Mộ Dung Phục tinh thần phấn chấn, vui mừng hỏi lại:
- Ngươi nói thật chứ? Đoàn huynh quả thực không tranh chức phò mã với ta?
Y trong bụng nghĩ thầm: “Chắc thằng ngốc này nổi tính gàn lên, không nghĩ đến chuyện làm phò mã nữa, chỉ nhất định lấy cho bằng được biểu muội, trên đời này sao lại có kẻ hồ đồ như thế, thật là nực cười. Y có Tiêu Phong, Hư Trúc tương trợ, nếu không còn tranh ngôi phò mã với mình, thì đã bớt được một kình địch thực lợi hại”.
Đoàn Dự nói:
- Ta quyết không tranh công chúa Tây Hạ với tôn huynh nhưng tôn huynh cũng không được tranh Yên muội của mỗ. Đại trượng phu đã nói ra thì không bao giờ hối hận.
Chàng gặp lại Mộ Dung Phục trong lòng không khỏi băn khoăn. Mộ Dung Phục vui mừng nói:
- Vậy thì chúng mình mau mau tới hoàng cung. Ngươi sẽ bảo cô nương kia không được giả làm ngươi đi tranh chức phò mã.
Thế rồi y hối hả kể lại chuyện Mộc Uyển Thanh giả trang làm sao, Đoàn Dự hiểu ngay vì mình thất tung, Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần vì đã được Trấn Nam Vương giao phó nên mới xúi Mộc Uyển Thanh thay huynh trưởng đi cầu thân. Thế là hai người lập tức đi theo Mộ Dung Phục về nơi cư ngụ.
Bọn Đặng Bách Xuyên đang bồn chồn nóng ruột, vừa thấy công tử trở về, thật mừng hết cỡ. Trước mắt thấy thời giờ cấp bách, mọi người lật đật thay đổi y phục. Đoàn Dự nói thế nào cũng không chịu cách xa Vương Ngữ Yên, thà rằng không tới hoàng cung còn hơn. Mộ Dung Phục không còn đường nào khác đành bảo Vương Ngữ Yên cải trang làm đàn ông cùng nhập cung.
Ba người cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đến được cung vua thì cửa đã đóng nhưng bọn Mộ Dung Phục đâu có vì thế mà bỏ cuộc, len lén đi đến một khúc vắng vẻ trèo tường mà vào. Phong Ba Ác nhảy lên đầu tường, đưa tay kéo Đoàn Dự. Đoàn Dự một tay nắm Vương Ngữ Yên, tay phải thò ra nắm tay Phong Ba Ác dùng sức nhảy lên. Ngờ đâu khi vừa nhún một cái, hai người đã nhẹ nhàng vượt qua đầu Phong Ba Ác, còn cao hơn đến ba bốn thước mới nhẹ nhàng rơi xuống như chiếc lá, không một tiếng động. Mộ Dung Phục đang ở bên trong hoàng cung, Phong Ba Ác ở trên đầu tường, luôn Công Dã Can, Đặng Bách Xuyên bên ngoài cùng cất tấm tắc:
- Hảo khinh công!
Chỉ riêng Bao Bất Đồng nói:
- Ta xem cũng chỉ bình thường.
Bảy người lẻn vào ngự hoa viên tìm nơi tân khách dự yến, định vào đại sảnh cùng ăn tiệc, ngờ đâu những tân khách vừa ngồi xuống đã đi ngay, bao nhiêu thanh niên được Ngân Xuyên công chúa mời uống trà đều tới Thanh Phượng Các. Thành thử Đoàn Dự, Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên ba người mới gặp lại Mộc Uyển Thanh ở hoa viên.
Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch cả bọn thấy Đoàn Dự thần xuất quỉ một ra mặt nơi đây, ai nấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Mọi người vội thì thầm thương nghị, cho rằng người cầu hôn đông thế này, quan viên Tây Hạ vị tất đã phát giác, tất cả cứ đi tới Thanh Phượng Các trước rồi tính sau. Đoàn Dự đã tới thì không còn ngại gì bị lộ nữa.
Cả đoàn người đi qua ngự hoa viên, thấy xa xa thấp thoáng một góc lâu đài dưới tàn cây, bên dưới treo hai ngọn cung đăng. Hách Liên Thiết Thụ dẫn mọi người đến nơi rồi, lớn tiếng nói:
- Giai khách bốn phương đến yết kiến công chúa.
Cửa mở toang, bốn cung nữ đi ra, mỗi người cầm một ngọn đèn lồng bằng sa mỏng, đằng sau là một nữ quan mặc áo dài tím nói:
- Các vị gian khổ từ xa đến đây, công chúa mời các vị vào Thanh Phượng Các dùng trà.
Tông Tán vương tử nói:
- Hay lắm, hay lắm! Ta đang khát đây. Được gặp công chúa thì có đi thêm một chút đâu có đáng chi? Có gì mà bảo gian khổ hay không gian khổ? Ha ha, ha ha!
Y cười hô hố ngang nhiên đi ngang qua người vị nữ quan kia vào trong các. Những người còn lại cũng chen vai thích cánh đi theo, ai cũng mong chiếm được một chỗ tốt, càng gần công chúa càng hay.
Chỉ thấy bên trong các là một toà đại sảnh, dưới sàn trải thảm dày dệt bằng lông cừu, trên thêu hoa năm sắc, cực kỳ đẹp đẽ. Những kỷ trà nhỏ bày thành hàng, trên xếp những chén có nắp bằng men hoa xanh. Bên cạnh mỗi chiếc chén có một đĩa thanh hoa, bên trong đựng kẹo sữa, bánh ngọt những loại điểm tâm. Ở tận cùng sảnh đường là một cái sàn cao chừng ba bốn thước, trải thảm màu vàng nhạt, trên bày một chiếc ghế đẩu lót gấm. Mọi người ai nấy tin chắc đây chính là chỗ ngồi của công chúa nên người nọ chen người kia cốt sao cho được ngồi gần bình đài một chút. Chỉ có Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên nắm tay nhau, ngồi ở một góc khuất nẻo thì thầm to nhỏ, mặt mày hớn hở nói chuyệng riêng.
Mọi người yên chỗ rồi, vị nữ quan mới giơ lên một chiếc búa đồng nhỏ, gõ vào một chiếc khánh ngọc kêu lên coong coong coong ba tiếng, sảnh đường lập tức lặng yên không một tiếng động, đến cả Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên cũng không nói nữa, đợi công chúa xuất hiện.
Một hồi sau, chỉ nghe tiếng hoàn bội leng keng, từ nội đường đi ra tám cung nữ áo lục, chia thành hai hàng đứng hai bên, rồi sau một lát là một thiếu nữ mặc áo xanh uyển chuyển bước ra.
Mọi người ai nấy trố mắt nhìn, chỉ thấy thiếu nữ đó thân hình mảnh dẻ, cử chỉ nhàn nhã, diện mạo cực kỳ xinh đẹp. Mọi người ai nấy tấm tắc khen thầm: “Người ta thường bảo Ngân Xuyên công chúa tuyệt sắc vô song, quả thực danh bất hư truyền”. Mộ Dung Phục nghĩ bụng: “Ta trước đây vẫn lo Ngân Xuyên công chúa không được xinh đẹp, hóa ra nàng ta tuy so với biểu muội có sút một tí, nhưng cũng là người trong nghìn, vạn người có một, những gì mình e ngại đều là thừa. Xem hình mạo nàng đoan chính thế kia, mai sau có làm hoàng hậu nước Yên, mẫu nghi thiên hạ thì cũng đáng. Ta cùng nàng sinh con đẻ cái, đời đời làm chủ nước Đại Yên”.
Thiếu nữ kia chậm rãi đi lên bình đài, hơi khom lưng hành lễ với mọi người. Mọi người thấy nàng đi ra cũng đã đứng dậy, thấy nàng cúi chào đều đáp lễ, có người thấy công chúa khiêm tốn như thế, không có chút gì ra vẻ ta đây, lại càng tấm tắc khen ngợi. Người con gái đó, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tâm, mục quang trước sau không để mắt vào ai cả, hiển nhiên cực kỳ e thẹn. Mọi người đến thở mạnh cũng không dám, e rằng kinh động giai nhân, ai nấy nghĩ thầm: “Công chúa cành vàng lá ngọc trước nay ở trong cung cấm, đột nhiên thấy biết bao nhiêu là đàn ông, dĩ nhiên là phải như thế mới hợp với thân phận tôn quí của mình”.
Qua một lúc sau, thiếu nữ kia mới bẽn lẽn nhỏ nhẹ nói:
- Công chúa điện hạ chỉ dụ rằng: Chư vị giai khách từ xa đến đây, tiếc thay Thanh Phượng Các không có trà thơm và đồ ăn ngon đãi khách, quả là giản phác, vậy xin quí vị tùy tiện.
Mọi người ai nấy chưng hửng nhìn nhau, không khỏi kêu thầm: “Quả là hổ thẹn, hóa ra nàng ta không phải công chúa, xem ra chỉ là một cung nữ hầu hạ công chúa mà thôi”. Thế nhưng ai nấy nghĩ lại: “Mới chỉ là một thị nữ mà đã thế này, công chúa ắt còn phải hơn nhiều”. Sau cơn ngỡ ngàng ai nấy lại thêm vài phần phấn khởi.
Tông Tán vương tử nói:
- Thì ra nàng không phải công chúa, vậy mau mau mời công chúa ra đi. Rượu ngon thịt béo ta còn không thèm ăn, ham gì cái thứ trà thơm với lại điểm tâm?
Cung nữ kia đáp:
- Để các vị dùng trà và điểm tâm xong, công chúa điện hạ sẽ có chỉ dụ.
Tông Tán cười nói:
- Được lắm, được lắm, công chúa điện hạ đã bảo như thế thì ta cứ theo thôi.
Y nhắc chén trà lên, mở nắp ra, nghiêng chén đổ tọt cả lá trà lẫn trà vào mồm, nhai trệu trạo rồi nuốt ực xuống bụng. Người Thổ Phồn uống trà có cho thêm muối, sữa đông, cả trà lẫn lá đều nhai nuốt cả. Y uống trà chưa xong đã bốc những món điểm tâm, nhét vào mồm, ú ớ nói:
- Xong rồi! Ta vâng lệnh ăn xong rồi, mời công chúa ra đi.
Cung nữ kia nhỏ nhẹ đáp:
- Vâng!
Thế nhưng vẫn đứng yên đó không cử động. Tông Tán biết nàng đợi cho những người khác ăn xong mới chịu vào thông báo, trong bụng bồn chồn khó chịu, luôn mồm giục:
- Này, tất cả ăn mau lên chứ, lẹ lẹ đi thôi! Lá trà chứ có gì đâu mà không ăn được?
Đến khi hầu hết mọi người đã uống trà ăn điểm tâm xong, Tông Tán vương tử lại hỏi:
- Thế đã được chưa?
Nàng cung nữ mặt hơi ửng đỏ, thần sắc thẹn thùng nói:
- Công chúa điện hạ mời chúng vị giai khách dời gót vào nội thư phòng, thưởng ngoạn thư họa.
Tông Tán hừ một tiếng nói:
- Thư họa thì có gì đáng coi đâu? Mỹ nữ trong tranh đâu có đẹp bằng người thật? Sờ không được, ngửi không được, toàn là giả.
Tuy nói thế nhưng y cũng đứng lên. Mộ Dung Phục trong lòng mừng thầm: “Thế thì hay quá, công chúa muốn mình đến thư họa phòng, ngoài thì nói là quan thưởng thư họa mà kỳ thực là để khảo nghiệm văn tài, cái thứ thô lỗ quê mùa như Tông Tán vương tử, biết đếch gì là thi từ ca phú, thư pháp hội họa? Chỉ e nói ra vài lời thì đã bị công chúa đuổi ra khỏi thư phòng”. Y lại nghĩ thầm: “Chỉ riêng tỉ thí võ công ta cũng đủ áp đảo quần hùng, bây giờ lại thêm khảo nghiệm văn tài, thế thì mình ăn đứt”. Y nghĩ thế mặt dương dương hớn hở đứng lên.
Cung nữ kia lại tiếp:
- Công chúa điện hạ có dụ rằng: Phàm là các cô nương nữ nhân mặc giả nam trang, những người trên bốn mươi tuổi xin ngồi lại Ngưng Hương Đường này nghỉ ngơi uống trà. Còn ngoài ra các vị giai khách xin mời vào nội thư phòng.
Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên đều kinh hãi thầm: “Thì ra ta là gái giả trai họ đã biết cả rồi”. Bỗng nghe có tiếng người nói:
- Sai bét rồi! Không phải vậy!
Người cung nữ mặt đỏ bừng, nàng ta từ bé nhập cung, mấy năm sau chỉ gặp những thái giám bán nam bán nữ, chưa bao giờ gặp đàn ông con trai thực sự, đến hoàng đế và hoàng thái tử cũng chưa thấy, bây giờ gặp nhiều đàn ông đến thế này, trong lòng không khỏi thắc thỏm, lại thêm e thẹn nên một hồi sau mới đáp:
- Không biết vị tiên sinh đây có cao kiến gì?
Bao Bất Đồng nói:
- Cao kiến thì không có, nhưng đê kiến thì có.
Những người nói năng mồm năm miệng mười như Bao Bất Đồng thì cung nữ này chưa từng gặp qua nên nàng không biết phải ứng phó ra sao. Bao Bất Đồng lại tiếp theo:
- Chắc hẳn cô nương muốn hỏi ta: Không biết vị tiên sinh đây có đê kiến gì? Ta thấy cô sượng sùng e thẹn, thôi ta miễn cho khỏi phải hỏi, để ta nói ra cũng được rồi.








datlucky_way

27-07-2009 09:02 AM

Hồi 46(b) : TỬU BÃI VẤN QUÂN TAM NGỮ 





Chàng đòi kết tóc se tơ,
Ba câu thiếp hỏi đáp cho vừa lòng.
*
* *


C ung nữ nọ mỉm cười:
- Đa tạ tiên sinh.
Bao Bất Đồng nói:
- Bọn ta đường sá xa xôi, bôn ba đến gặp công chúa, trên đường đi, có kẻ táng thân nơi gió cát sa mạc, có kẻ bỏ mình nơi miệng cọp hàm sư, có người bị thủ hạ của vương tử Thổ Phồn giết chết, đến được Linh Châu, mười phần chỉ còn một hai. Ai ai cũng chỉ mong được nhìn dung nhan công chúa một lần, ngờ đâu chiû vì cha mẹ sinh sớm mất vài năm thành thử tại hạ quá bốn mươi rồi, bao nhiêu công lao trở thành công cốc. Nếu biết thế này, ta ắt chẳng ra đời sớm làm gì.
Người cung nữ che miệng cười khúc khích nói:
- Tiên sinh nói đùa đấy thôi, con người sinh ra sớm hay muộn, nào có phải do chủ ý của mình đâu?
Tông Tán nghe Bao Bất Đồng lèm bèm nói mãi, hầm hầm nhìn y, quát lớn:
- Công chúa điện hạ đã truyền như thế, tất cả cứ tuân lệnh là xong, ngươi còn lải nhải nỗi gì?
Bao Bất Đồng thản nhiên nói:
- Vương tử điện hạ, ta nói thế là cốt cho điện hạ đấy thôi. Năm nay ngươi đã bốn mươi mốt tuổi, tuy không phải là già nhưng cũng đã là ngoại tứ tuần, không được vào gặp công chúa. Hôm trước ta coi số bát tự dùm điện hạ, ngươi sinh năm bính dần, tháng canh tí, ngày ất sửu, giờ đinh mão, tính ra là vừa đúng bốm mươi mốt.
Tông Tán vương tử kỳ thực chỉ mới hai mươi tám, có điều râu ria xồm xoàm, thành thử bao nhiêu tuổi khó mà biết. Cung nữ kia mới gặp đàn ông lần này là lần đầu dĩ nhiên không sao đoán được, nghe Bao Bất Đồng nói đâm ra bán tín bán nghi, thấy Tông Tán vương tử nghiến răng nghiến lợi như muốn ăn sống nuốt tươi, định xông lên đánh Bao Bất Đồng, trong lòng sợ hãi ấp úng:
- Ta nói … ta nói a, người nào sinh năm nào thì người đó nhớ rõ, nếu quá bốn mươi thì ở lại nơi đây, chưa đến bốn mươi thì mời vào nội thư phòng.
Tông Tán nói:
- Hay lắm, ta đến ba mươi cũng chưa tới, đương nhiên được vào nội thư phòng.
Vừa nói y vừa hùng dũng đi vào nội đường. Bao Bất Đồng cũng bắt chước giọng y nói:
- Hay lắm, ta đến tám mươi cũng chưa tới, đương nhiên được vào nội thư phòng. Tuy ta không dấu tuổi nhưng tính cách thì không thể không dấu, dấu nhiều hay dấu ít mà thôi.
Y lách người tiến vào, cung nữ kia định ngăn lại nhưng rụt rè không dám. Thế là đoàn người ùn ùn kéo vào, không nói gì đến bốn mươi mà năm mươi sáu mươi cũng không ít. Chỉ có độ mươi ông già trang nghiêm ổn trọng, hành xử đoan chính mới ở lại ngoài sảnh đường.
Mộc Uyển Thanh và Vương Ngữ Yên cũng không vào. Đoàn Dự vốn dĩ muốn ở lại bầu bạn với Vương Ngữ Yên nhưng cô nàng giục mãi, muốn chàng đi vào giúp đỡ Mộ Dung Phục nên dùng dằng mãi mới chịu vào, bước đi một bước lại quay đầu chẳng khác gì một chuyến đi xa vạn dặm, ba năm năm năm mới gặp lại nhau.
Đoàn người đi xuyên qua một đường hầm dài, trong bụng ai nấy thầm ngán ngẩm: “Tòa Thanh Phượng Các này từ bên ngoài nhìn vào, không thấy có vẻ gì hùng vĩ thế mà bên trong lại có những kiến trúc to lớn thế này”. Thông đạo đó dài đến mấy chục trượng, đi hết rồi tới hai cánh cửa đá thật lớn.
Cô cung nữ lấy ra một món đồ bằng kim loại nhỏ, gõ vào cửa đá leng keng mấy tiếng, thạch môn từ từ mở ra. Mọi người thấy cánh cửa là một phiến đá dày chừng một thước, kiên cố dị thường, ai nấy chột dạ nghĩ thầm: “Cả bọn vào trong này một khi cửa đóng lại có phải là bị họ quét một mẻ vét sạch hay sao? Biết đâu nước Tây Hạ chẳng lấy cớ chiêu thân cho công chúa để dụ anh hùng hảo hán trong thiên hạ vào vòng la võng?”. Thế nhưng thôi thì một liều ba bảy cũng liều, đã đến đây có ai lại lui ra để người ta bảo mình là nhát.
Tất cả vào trong rồi, thạch môn từ từ đóng lại, bên trong lại là một đường hầm khác, hai bên hang treo đèn dầu. Đi hết thông đạo, lại đến một cửa đá khác, qua khỏi cửa lại là một đường hầm, liên tiếp ba đại thạch môn, ba thông đạo. Đến lúc này thì những người can đảm nhất cũng rợn người. Đi qua một khúc quanh, bỗng nghe có tiếng róc rách, tới bên một khe nước sâu.
Ở trong cung cấm nay lại gặp một dòng suối như thế này, quả thực không ai ngờ nổi. Mọi người ngơ ngẩn nhìn nhau, có kẻ tính nóng đã toan nổi cọc. Cung nữ kia nói:
- Muốn vào nội thư phòng thì phải đi ngang qua U Lan Giản này, xin mời các vị.
Nói rồi hăng hái lội ngang dòng nước. Hai bên suối cắm bốn ngọn đuốc sáng choang, ai nấy nhìn rõ cô ta vừa bước tới đã vào ngay con suối, không khỏi kinh hãi kêu lên.
Chỉ thấy nàng cung nữ uyển chuyển bước đi như lướt trên mặt nước. Mọi người sau cơn ngạc nhiên, biết ngay dòng suối ắt có xích sắt hay thứ gì tương tự để làm cầu đi qua, chứ ai mà có thể lăng không đi qua bao giờ. Ai nấy cúi đầu nhìn kỹ quả nhiên có một sợi dây sắt bắc ngang mặt nước từ bờ bên này sang bờ suối bên kia, có điều sợi dây đó rất nhỏ, lại sơn đen, trong đêm tối, dưới ánh lửa chập chờn thật khó mà nhìn ra được.
Con suối này xem chừng rất sâu, nếu như trượt chân rơi xuống thì dù không mất mạng cũng thật nguy hiểm, thế nhưng những người tới Tây Hạ cầu thân hoặc tùy tùng đều là những người võ công cao siêu, lập tức có người thi triển khinh công, đạp lên sợi dây chạy qua bên kia.
Đoàn Dự võ công thì chẳng bằng ai nhưng môn Lăng Ba Vi Bộ luyện đã cực kỳ thành thục, Ba Thiên Thạch cầm tay chàng, nhẹ nhàng kéo một cái hai người đã chạy ngang qua. Mọi người qua xong rồi, cung nữ kia không biết ấn vào cơ quan nào trên vách đá, chỉ nghe soạt một tiếng, sợi cương ti đã rút vào trong đám cỏ, chẳng hiểu đi đâu. Ai nấy thấy vậy đều kinh hãi, nghĩ thầm cái suối này đã sâu lại rộng, khó lòng nhảy qua, không lẽ nước Tây Hạ quả có ý xấu chăng? Chứ lẽ nào nơi thâm khuê của công chúa lại có bố trí cơ quan? Ai nấy bắt đầu dè chừng nhưng không người nào dám mở miệng. Có người thầm hối hận: “Sao mình lại ngu đến thế, khi vào cung không mang theo binh khí, ám khí?”.
Cung nữ kia lại nói:
- Mời các vị đi vào đây.
Mọi người lại theo cô ta đi vào một khu rừng tùng, đến trước một sơn động, người cung nữ gõ mấy cái, cửa hang mở ra. Cô gái nói:
- Xin mời!
Nàng ta đi trước dẫn đường. Chu Đan Thần hỏi nhỏ Ba Thiên Thạch:
- Tính sao?
Ba Thiên Thạch cũng không biết có nên bảo Đoàn Dự ở ngoài hay cứ mạo hiểm, khổ nỗi nếu không vào trong sơn động thì không có hi vọng gì trúng tuyển. Hai người còn đang trù trừ, Đoàn Dự đã sóng vai cùng Tiêu Phong đi vào. Ba Chu hai người vội vàng cũng nắm tay nhau đi theo.
Vào sơn động lại đi xuyên qua một đường hầm nữa, bỗng thấy trước mắt sáng lòa, mọi người đã vào trong một đại sảnh. Sảnh đường đó so với chỗ uống trà hồi nãy phải to gấp ba, hiển nhiên là một hang động thiên nhiên chìm sâu trong núi, lại thêm nhân công tu bổ mà thành. Vách đá mài thật nhẵn nhụi, chỗ nào cũng treo đầy tự họa. Thường thường hang núi bao giờ cũng ẩm thấp rỉ nước nhưng cái động này lại khô ráo lạ thường, những tranh treo trên tường không có vẻ gì bị mốc. Một bên để một bàn viết lớn bằng gỗ tử đàn, trên để văn phòng tứ bảo, bi thiếp cổ ngoạn, lại thêm mấy chiếc giá sách và vài ba chiếc đôn đá, ghế đá.
Cung nữ kia nói:
- Đây chính là nội thư phòng của công chúa điện hạ, xin quí vị tùy ý quan thưởng thư họa.
Mọi người thấy sảnh đường này từ hình dáng đến cách bài trí cực kỳ khác thường, tất cả trống trơn, không có hơi hướm son phấn, vậy mà bảo là thư phòng của công chúa thì kể cũng lạ. Những người ở đây mười phần đến chín là võ biền thô lỗ, bảo đọc vài chữ đã khó thì còn biết gì đến thư họa? Thế nhưng trên tường treo đúng là tự họa thật thì còn đọc làm sao nổi.
Tiêu Phong, Hư Trúc võ công tuy cao nhưng nghệ thuật thì chẳng biết tí gì, hai người sóng đôi ngồi bệt xuống, lưu thần xem xét động tĩnh những người kia. Kiến thức kinh lịch Tiêu Phong gấp trăm lần Hư Trúc, tuy bề ngoài ông ra vẻ thản nhiên như không, làm như chẳng chú ý gì đến những bức thư họa treo trên vách, nhưng thực ra mắt không lúc nào rời nàng cung nữ áo xanh. Ông biết rằng nàng cung nữ này là đầu giây mối nhợ, nếu bên trong nước Tây Hạ có gian kế thì nhất định phải do người con gái mảnh mai ẻo lả này ra tay.
Tiêu Phong lúc này như một con báo rình mồi, tuy bề ngoài toàn vô động tĩnh nhưng thực ra đang vểnh tai giương mắt, toàn thần chăm chú, từng sợi gân, từng thớ thịt đều chứa đầy kình lực, nếu thấy có biến cố gì lập tức bay tới chế ngự nàng cung nữ, quyết không để cô ta giở trò.
Đoàn Dự, Chu Đan Thần, Mộ Dung Phục, Công Dã Can cả bọn kéo đến các bức tường xem tự họa. Đặng Bách Xuyên xem xét kỹ các trục treo tranh có lỗ nhỏ nào khả dĩ có thể phun hơi độc, môn Bi Tô Thanh Phong của Tây Hạ quả là lợi hại, nhân vật võ lâm Trung Nguyên đã từng nghe tiếng. Ba Thiên Thạch cũng giả vờ đi coi tranh, nhưng thực ra là tra xét những bức tường, góc nhà xem có cơ quan hay lối ra vào gì không?
Chỉ riêng có Bao Bất Đồng là ba hoa thiên địa, mở miệng chê bai các bức tự họa treo trên vách, bức thì bố cục không hay, bức thì bút lực chưa đủ. Nước Tây Hạ tuy ở biên thùy, lập quốc chưa lâu, trong cung tự họa tàng trữ so ra không thể bằng Đại Tống, Đại Liêu được, thế nhưng trong nhà hoàng đế, tinh phẩm cất giữ không phải là ít. Trong thư phòng của công chúa cũng có thư pháp đời Tấn, đời Bắc Ngụy, tranh vẽ đời Đường, đời Ngũ Đại nhưng đều bị Bao Bất Đồng chê không đáng một xu.
Thời đó phép viết chữ của Tô, Hoàng lưu truyền khắp thiên hạ, trong hoàng cung nước Tây Hạ cũng có vô số tự tích của Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc nhưng qua lời bình phẩm của Bao Bất Đồng thì không những Nhan Liễu Tô Hoàng cũng chỉ tầm thường mà đến cả Chung Vương Trương Chử cũng không đáng để mắt.
Nàng cung nữ thấy y đại ngôn phê bình loạn cả lên, không khỏi kinh ngạc vạn phần, vội tiến đến nhỏ nhẹ nói:
- Bao tiên sinh, những bức thiếp này quả thật không đúng phép ư? Vậy mà công chúa điện hạ bảo là đẹp tuyệt trần.
Bao Bất Đồng đáp:
- Công chúa điện hạ ở Tây Hạ, chưa từng xem thư pháp những đại tài tử, những danh sĩ chân chính của Trung Nguyên, sau này có dịp cũng nên qua lại để mở mang kiến thức. Tiểu muội tử, ngươi nên theo công chúa điện hạ du ngoạn Trung Nguyên một chuyến để khỏi mang tiếng là cô lậu quả văn.
Nàng cung nữ gật đầu khen phải, mỉm cười nói:
- Muốn được đi Trung Nguyên du ngoạn thật không phải dễ.
Bao Bất Đồng đáp:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Công chúa điện hạ lấy được anh hùng Trung Nguyên thì chẳng đi đến Trung Nguyên thì là gì?
Đoàn Dự đi xem những bức tự họa trên vách, đột nhiên thấy một bức vẽ một người đàn bà ăn mặc theo lối xưa đang múa kiếm, không khỏi kinh ngạc vô cùng, kêu lên một tiếng. Người mỹ nữ trong tranh dung mạo giống hệt Vương Ngữ Yên, chỉ y phục trang sức là khác, trông hao hao thần tiên tỉ tỉ trong sơn động núi Vô Lượng. Người trong tranh tay phải cầm kiếm, tay trái bắt kiếm quyết, múa kiếm bên cạnh một chiếc hồ, thần thái phiêu dật, xinh đẹp kiều mị không sao tả xiết.
Đoàn Dự trông thấy bức tranh hồn vía bay bổng, có lúc tưởng chừng như đã quay trở lại bên cạnh Vương Ngữ Yên, có lúc thì tưởng như trở về thạch động trên núi Vô Lượng, ngơ ngẩn hồi lâu đột nhiên kêu lên:
- Nhị ca, lại đây mà xem.
Hư Trúc đáp lời chạy tới, vừa thoạt nhìn, cũng hết sức kinh ngạc, nghĩ thầm sao ở đây lại có một bức tranh Vương cô nương, mặt mũi giống hệt hình vẽ sư phụ giao cho mình, chỉ có tư thức là khác thôi.
Đoàn Dự càng xem càng thấy lạ, bất giác đưa tay sờ vào bức tranh, cảm thấy tường đá phía sau dường như chỗ lồi chỗ lõm, cũng có hình vẽ trên đó. Chàng nhè nhẹ gạt bức tranh qua một bên, quả nhiên trên vách đá khắc rất nhiều đường chỉ, xem kỹ lại hóa ra có rất nhiều hình người, kẻ thì ngồi hành công, người nhảy lên, tư thức đủ mọi hình dạng. Những hình vẽ đó bao quanh một vòng tròn, bên cạnh đa số có chú thích số mục bằng thiên can địa chi.
Hư Trúc vừa trông thấy đã nhận ra ngay, những hình vẽ này cùng với hình vẽ khắc trên cung Linh Thứu đại đồng tiểu dị, chỉ xem vài bức, trong bụng nghĩ thầm: “Đây xem chừng như là võ công của Lý Thu Thủy sư thúc”. Bất chợt hiểu ra ngay: “Lý sư thúc là Hoàng thái phi nước Tây Hạ, trong cung khắc những đồ hình này cũng không có gì lạ”. Y nghĩ đến đồ hình còn đây mà người nay mất rồi, không khỏi chạnh lòng. Hư Trúc biết rằng đây là bí quyết võ công thượng thừa của phái Tiêu Dao, nếu như nội lực tu tập chưa đủ, xem vào sẽ mê man, nặng thì tẩu hỏa nhập ma, nhẹ cũng hôn mê bất tỉnh, hôm trước Mai Lan Cúc Trúc bốn nàng cũng vì coi các hình vẽ trên thạch bích mà bị thương.
Y sợ Đoàn Dự cũng bị tổn hại vội nói:
- Tam đệ, những hình vẽ này không nên coi.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Sao thế?
Hư Trúc nói khẽ:
- Đây là võ công cực kỳ cao thâm, nếu như tập luyện không đúng phương pháp, chỉ thêm tổn hại chứ không ích lợi gì cả.
Đoàn Dự vốn dĩ không ham thích võ công, chỉ muốn xem bức tiếu tượng Vương Ngữ Yên chứ chẳng coi đồ phổ làm gì, bèn để bức tranh lại chỗ cũ, tiếp tục coi “Hồ Bạn Vũ Kiếm Đồ”. Thân hình dung mạo của Vương Ngữ Yên chàng nhớ kỹ từng li từng tí, thành thử khi nhìn lại người trong tranh thấy quả có đôi chỗ khác biệt. Người trong tranh hơi đẫy đà hơn một chút, đầu mày cuối mắt nhuốm vẻ tinh anh, không như Vương Ngữ Yên dịu dàng văn nhã, niên kỷ cũng phải hơn nàng ba bốn tuổi, so với pho tượng thần tiên tỉ tỉ trên núi Vô Lượng xem chừng giống hơn.
Bao Bất Đồng tuy mồm nói lăng nhăng tầm phào nhưng Hư Trúc và Đoàn Dự làm gì nói gì y không để sót một mảy, nghe nói hình vẽ trên vách là võ công rất cao thâm, lập tức khịt mũi một cái nói:
- Có quái gì đâu mà bảo là võ học cao thâm? Chú tiểu chỉ giỏi lòe người.
Y liền vạch đồ họa ra một bên, chăm chú xem những hình vẽ. Đoàn Dự nghiêng người hiếng mắt, kiễng chân lên tiếp tục coi mỹ nữ trong tranh. Nàng cung nữ liền nói:
- Bao tiên sinh, những hình vẽ này không được coi. Công chúa điện hạ có nói là, nếu như công phu chưa đủ, xem chỉ có hại mà thôi.
Bao Bất Đồng đáp:
- Công phu nếu đủ thì sao? Thế thì có ích chứ gì? Công phu của ta có thừa là khác.
Y sính cường hiếu thắng, vốn chẳng có bụng coi trộm võ học của người ta, ngờ đâu vừa xem mấy tư thức bên trong vòng tròn thấy quả thiên biến vạn hóa, không nhịn nổi giơ tay nắm lấy chân, bắt chước hình vẽ.
Chỉ trong giây lát đã có người khác nhìn thấy hình thù quái dị của y, lại phát giác trên tường có đồ hình. Rồi nghe có tiếng người nói:
- Ồ, ở đây cũng có đồ họa.
Phía bên kia cũng có tiếng nói:
- Bên này cũng có đồ hình.
Mọi người ai nấy vội gạt những tự họa qua một bên, xem những hình vẽ khắc trên vách đá, chỉ một chốc đã hoa chân múa tay làm theo.
Hư Trúc kinh hãi thầm vội chạy đến bên cạnh Tiêu Phong nói:
- Đại ca, những hình vẽ này không nên coi, chỉ coi thêm chút nữa e rằng mọi người sẽ bị trọng thương, nếu như có người phát điên thì tình hình sẽ thành đại loạn.
Tiêu Phong nghe vậy hoảng hốt, quát lên:
- Tất cả không được coi hình vẽ trên tường, chúng ta đang ở nơi hiểm địa, mau mau họp nhau lại bàn tính xem sao.
Ông vừa nói xong lập tức có mấy người chạy đến gần nhưng những hình vẽ trên vách quá ư hấp dẫn, vừa suy nghĩ đã cảm thấy dường như hình vẽ đang xem chính là đáp án của những nạn đề võ học mình thường khổ tâm suy nghĩ, thế nhưng tư thức đó ra sao thì chỉ mơ mơ hồ hồ, không rõ ràng, vội vàng ngưng thần suy nghĩ. Tiêu Phong thấy mọi người đờ đẫn như bị ma nhập, trong bụng không khỏi kinh hoàng.
Bỗng có người rú lên, quay quay mấy vòng, lảo đảo ngã lăn ra. Lại có người miệng kêu hà hà, xông vào cào cấu vách đá, tưởng như muốn móc những hình vẽ đó xuống. Tiêu Phong suy nghĩ một chút đã tìm ra một kế, đưa tay ra chộp một chiếc ghế bẻ cắc một cái đã gẫy chỗ dựa lưng, để vào tay vò vò mấy cái nghiền thành mấy chục mảnh, vung tay ném ra. Chỉ nghe vèo vèo liên tiếp, mỗi tiếng lại có một chiếc đèn dầu hoặc ngọn nến tắt phụp, ném hết mấy chục miếng rồi bao nhiêu đèn đóm tắt ngóm, thư phòng tối đen như mực.
Trong đêm đen chỉ nghe tiếng người thở phì phò, có người nói nhỏ:
- Nguy hiểm thực! Nguy hiểm thực!
Có người thì kêu:
- Mau đốt đèn lên! Ta chưa đọc kỹ.
Tiêu Phong sang sảng nói:
- Xin các vị ở đâu ngồi đó, không được tùy ý chạy đi chạy lại để khỏi chạm vào cơ quan trong nhà. Đồ hình trên vách mê hoặc tâm thần, không được đưa tay lên mò kẻo mắc vào vòng tai họa.
Trước khi ông nói vẫn có người đang rờ rẫm những đường vẽ trên thạch bích, nghe nói thế vội vàng thu nhiếp cố gượng lại. Tiêu Phong nói nhỏ:
- Tha lỗi cho đã đắc tội! Mau mau mở thạch môn thả bọn ta ra.
Thì ra trước khi ông ném tắt đèn đuốc đã nhanh như cắt, xông tới nắêm ngay cổ tay người cung nữ. Cô gái kinh hãi giơ tay lên định đánh, Tiêu Phong thuận tay bắt luôn. Người cung nữ vừa sợ vừa thẹn, không dám cử động nữa, bây giờ nghe Tiêu Phong nói thế liền đáp:
- Ông … ông bỏ tay tôi ra đã.
Tiêu Phong buông nàng ra nhưng trong đêm tối vẫn có thể thính thanh biện hình, không sợ cô ta giở trò gì. Người cung nữ nói:
- Tiện thiếp đã bảo Bao tiên sinh không thể coi đồ hình trên vách, nếu như công phu chưa đủ, có xem cũng chỉ tổn hại mà không ích lợi gì cả. Vậy mà ông ta nhất định phải xem.
Bao Bất Đồng ngồi dưới đất, thấy đầu nhức như búa bổ, bụng dạ trộn trạo, tức ngực tưởng chừng muốn ói, cố gắng trấn tĩnh nói:
- Ngươi bảo ta xem thì ta không xem, còn như bảo ta đừng xem, thì ta nhất định xem.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người cung nữ này quả có khuyên mọi người đừng nên xem những đồ hình trên vách đá, xem ra không phải có ý gia hại. Thế nhưng công chúa Tây Hạ mời bọn mình tới đây là có dụng ý gì?”.
Ngay lúc đó đột nhiên mọi người ngửi thấy một mùi thơm dìu dịu, thật sảng khoái. Tiêu Phong kinh hãi, vội đưa tay bịt mũi, nghĩ đến năm xưa bang chúng Cái Bang bị mê man vì trúng phải Bi Tô Thanh Phong của Nhất Phẩm Đường Tây Hạ, vận thử nội tức may không thấy có gì đáng ngại.
Lại nghe tiếng một cung nữ khác dìu dặt uyển chuyển xướng:
- Công chúa điện hạ giá lâm.
Mọi người nghe thấy công chúa đến, ai nấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, có điều trong phòng tối đen nên không ai trông thấy mặt mũi công chúa thế nào. Lại nghe tiếng kiều mị của thiếu nữ kia nói tiếp:
- Công chúa điện hạ có dụ: Đồ hình võ học khắc trên thạch bích thư phòng, nhân sĩ phái khác không nên coi thành thử phải dùng tự họa treo lên che khuất, không ngờ lại có người khám phá ra được. Công chúa điện hạ truyền rằng: Tất cả các vị không được đốt đèn lên, cũng không được đánh lửa, nếu không sẽ gặp nguy hiểm. Công chúa điện hạ phải nói trước như thế, nếu trong đêm tối có gì thất kính, xin các vị tha lỗi cho.
Chỉ thấy tiếng kẹt kẹt, cửa đá mở ra. Thiếu nữ kia lại tiếp:
- Nếu như các vị không muốn lưu lại nơi đây thì xin trở ra, quay về Ngưng Hương Điện dùng trà nghỉ ngơi. Trên đường sẽ có người đưa đón, không sợ lạc đường.
Mọi người nghe thấy công chúa đã đến thì làm sao còn trở lui nổi? Lại nghe cung nữ đó giọng điệu bình hòa xem ra không có gì ác ý, cửa phòng cũng mở toang ai muốn ra vào tùy tiện nên bao nhiêu sợ hãi đều giảm hẳn không một ai bỏ đi.
Một hồi sau, cung nữ kia lại tiếp:
- Các vị từ xa đến đây, công chúa điện hạ hết sức cảm kích thịnh tình. Tệ quốc chiêu đãi không chu đáo, xin rộng lượng cho. Công chúa xin kính cẩn đem những thư pháp hội họa bình thời rất trân quí tặng cho mỗi vị một bức để xin tạ tội. Những bức vẽ đây đều là chân tích của danh gia, xin các vị thu nạp. Trước khi các vị đi cứ việc tháo trên vách xuống.
Những giang hồ hào khách nghe nói công chúa tặng lễ vật, tưởng gì hóa ra tự họa, ai nấy không khỏi thất vọng. Cũng có người sành đời, biết rằng những tự họa này đem về Trung Nguyên, đều rất có giá, còn hơn hoàng kim châu báu, trong bụng mừng thầm. Chỉ riêng Đoàn Dự là sướng nhất, nhất định lấy bức Hồ Bạn Vũ Kiếm Đồ để mai này cùng Vương Ngữ Yên hai người sánh vai thưởng ngoạn.
Tông Tán vương tử nghe qua nghe lại, toàn là cung nữ thay mặt công chúa nói mà thôi, đâm ra nóng ruột, lớn tiếng nói:
- Công chúa điện hạ, nếu như trong đây không tiện đốt đèn, vậy mình đến chỗ khác kiến diện có được chăng? Ở đây tối mò mò, nàng chẳng thấy ta, mà ta cũng chẳng thấy nàng.
Cung nữ kia đáp:
- Các vị muốn thấy công chúa điện hạ cũng không có gì khó.
Trong bóng đêm, hàng trăm miệng người cùng cất tiếng:
- Chúng tôi muốn thấy mặt công chúa! Chúng tôi muốn thấy mặt công chúa!
Lại cũng có người la lối om xòm:
- Mau đốt đèn lên, chúng tôi nhất định không xem đồ hình trên vách đá đâu.
- Chỉ cần đốt vài ngọn đèn chung quanh công chúa cũng đủ rồi, chúng tôi chỉ ngắm công chúa, không xem đồ hình.
- Đúng đó! Đúng đó! Xin công chúa điện hạ hiện thân.
Lao xao một lúc lâu, tiếng ồn ào mới dần dần lắng xuống. Cung nữ kia lại chậm rãi nói:
- Công chúa điện hạ mới các vị đến Tây Hạ, vốn dĩ muốn được hội kiến giai khách. Công chúa có ba câu hỏi, kính mong các vị trả lời. Nếu ai đáp đúng ý công chúa, sẽ xin mời gặp mặt.
Mọi người nghe thế rất lấy làm hào hứng, có kẻ nói:
- Thì ra công chúa ra đề khảo thí.
Có kẻ nói:
- Mỗ chỉ biết múa thương sử đao, bảo mỗ trả lời đề mục thơ văn thì khó cho mỗ quá! Có hỏi thì hỏi võ công chiêu số đi!
Cung nữ kia nói:
- Đề mục công chúa định hỏi đã nói cho tì tử biết cả rồi. Không biết vị tiên sinh nào muốn lên trả lời trước?
Mọi người chen nhau, ai nấy đều nói:
- Để nhường ta! Ta đáp trước! Ta đáp trước!
Cung nữ kia cười khúc khích nói:
- Các vị không cần phải tranh nhau. Người trả lời trước có khi lại đâm ra thiệt thòi.
Mọi người lúc ấy nghĩ lại xem chừng có lý, trả lời sau được nghe câu trả lời của những người khác, thu thập kinh nghiệm ứng đối mà thêm bớt. Đến lúc đó lại chẳng một ai chen lên nữa. Đột nhiên có một người kên tiếng:
- Nếu tất cả mọi người tranh nhau lên thì mỗ ở lại sau, còn như bây giờ ai cũng sợ lên trước bị hố, thì mỗ lại thân tiên sĩ tốt xông lên trước. Tại hạ là Bao Bất Đồng, có vợ có con rồi, chỉ mong được thấy phương dung công chúa chứ không có ý gì khác.
Cung nữ kia nói:
- Bao tiên sinh quả là sảng trực. Công chúa điện hạ có ba vấn đề muốn thỉnh giáo. Câu hỏi thứ nhất: Trong đời Bao tiên sinh thì ở nơi đâu cảm thấy tiêu dao khoái lạc nhất?
Bao Bất Đồng suy nghĩ một chập rồi nói:
- Ở trong một cửa hàng đồ sứ. Khi còn nhỏ ta học việc trong một nhà làm đồ gốm, bị người chủ tiệm hành hạ quá sức, ngày nào cũng đánh cũng chửi. Một bữa kia ta nổi sùng lên, đem bao nhiêu đồ sành đồ sứ, bát đĩa bình trà, bồn hoa, nhân tượng đập tan nát hết. Trong đời ta có lần đó là thống khoái nhất. Cung nữ cô nương, ta trả lời thế có đúng không nào?
Cung nữ kia đáp:
- Trúng hay không, tì tử không biết mà phải do công chúa điện hạ quyết định. Câu hỏi thứ hai: Người Bao tiên sinh thương yêu nhất đời, kẻ đó tên gì?
Bao Bất Đồng không suy nghĩ đáp ngay:
- Tên là Bao Bất Tịnh.
Cung nữ kia lại tiếp:
- Câu hỏi thứ ba: Người Bao tiên sinh yêu thương nhất đó tướng mạo ra sao?
Bao Bất Đồng đáp:
- Người đó vừa tròn sáu tuổi, mắt thì bên to bên bé, tai đón gió, mũi huyếch lên trời, Bao mỗ bảo gì thì nó nhất định không nghe, bảo nó khóc thì nó cười,bảo nó cười thì nó khóc, mỗi lần khóc hai giờ liền chưa nín, chính là đứa con gái cưng của mỗ tên là Bao Bất Tịnh.
Cung nữ kia cười khúc khích, các hào khách cũng cười rộ lên. Cung nữ kia nói:
- Xin mời Bao tiên sinh đứng ra một nơi nghỉ ngơi, mời vị thứ hai.
Đoàn Dự nóng ruột muốn sớm gặp lại Vương Ngữ Yên, gặp công chúa hay không chẳng có gì quan trọng, lập tức tiến lên, trong bóng đêm khom người vái một cái nói:
- Tại hạ là Đoàn Dự nước Đại Lý, xin thành tâm hỏi thăm công chúa điện hạ. Tại hạ náu mình ở chốn nam cương, hôm nay tới thăm thượng quốc, được hậu đãi như thế này, quả là cảm kích thịnh tình.
Cung nữ kia nói:
- Hóa ra đây là thế tử Trấn Nam Vương nước Đại Lý, vương tử không phải quá khiêm. Vương tử từ xa khó nhọc đến đây, tệ quốc tiếp đón quá ư giản mạn, nơi chật hẹp này không đủ để đãi quí khách, xin vương tử rộng lòng cho.
Đoàn Dự đáp:
- Tỉ tỉ không phải khách sáo quá như thế, công chúa nếu hôm nay không thư thả thì để hôm khác ban ơn cho gặp cũng chẳng hề chi.
Cung nữ kia nói:
- Vương tử đã lên đến đây, xin trả lời ba câu hỏi. Câu thứ nhất: Trong đời vương tử thì ở nơi đâu cảm thấy tiêu dao khoái lạc nhất?
Đoàn Dự buột miệng đáp:
- Nơi vũng bùn nát tại một cái giếng khô.
Mọi người nghe thấy thế cười ầm cả lên, ngoài một mình Mộ Dung Phục ra, không ai hiểu tại sao ở nơi vũng bùn nát trong một cái giếng khô mà lại tiêu dao khoái lạc được? Có kẻ hạ giọng phê bình:
- Không lẽ y là một con rùa đen, nên ở trong bùn mới sung sướng chăng?
Cung nữ kia che miệng cười khúc khích, hỏi tiếp:
- Người vương tử thương yêu nhất đời, kẻ đó tên gì?
Đoàn Dự đang định trả lời, đột nhiên thấy cánh tay áo bên trái, chéo áo bên phải đồng thời có ai giật lại. Ba Thiên Thạch ghé tai chàng thì thầm:
- Trả lời Trấn Nam Vương.
Chu Đan Thần ở bên kia cũng kề tai nói nhỏ:
- Trả lời Trấn Nam Vương phi.
Hai người nghe Đoàn Dự trả lời câu đầu cực kỳ thất lễ, chỉ sợ câu thứ hai nói ra cũng làm trò cười cho thiên hạ. Hơn nữa mình đang tới đây cầu thân với công chúa, nếu như chàng lại trả lời người trên đời này yêu thương nhất là Vương Ngữ Yên hay Mộc Uyển Thanh, hoặc một cô gái nào khác thì đời nào công chúa lại chịu lấy? Người bảo chàng nói yêu cha, trung quân hiếu phụ ấy là suy nghĩ của tam công trong triều, người kia bảo chàng nói yêu mẹ, kính mến từ mẫu ấy là suy nghĩ của văn học chi sĩ.
Đoàn Dự nghe nàng cung nữ hỏi ai là người mình yêu thương nhất, đang định buột miệng nói là Vương Ngữ Yên, nhưng Ba Chu hai người đã nhắc thế rồi, Đoàn Dự liền nghĩ mình là phận vương tử Trấn Nam Vương nước Đại Lý, sang đến Tây Hạ nhất cử nhất động đều có liên quan đến thanh danh bản quốc, mình bẽ mặt cũng chẳng hề chi nhưng làm mất thể diện nước Đại Lý thì không được, bèn đáp:
- Người ta yêu thương nhất dĩ nhiên là gia gia, má má rồi.
Chàng vừa nhắc đến cha mẹ trong lòng tự nhiên dâng lên tâm tình kính mến hai đấng sinh thành, thấy lòng hiếu thảo và tình yêu trai gái thật khác nhau xa, không thể nói bên nào nông bên nào sâu được, có nói mình yêu thương phụ mẫu nhất trên đời cũng không phải là nói ngoa.
Người cung nữ hỏi tiếp:
- Thế thì lệnh tôn lệnh đường tướng mạo ra sao? Có giống vương tử không?
Đoàn Dự đáp:
- Cha ta mặt vuông, mi rậm mắt to, hình mạo cực kỳ uy võ, thế nhưng thực ra tính tình lại rất hiền hòa …
Chàng nói tới đây chợt hơi xao xuyến: “Thì ra mặt ta giống mẹ chứ không giống cha chút nào. Chi tiết đó đến lúc này ta mới nghĩ tới”. Cung nữ kia nghe chàng nói chỉ một nửa, còn nửa sau ngập ngừng không trả lời nghĩ thầm mẹ chàng là một vương phi tôn quí, chàng không tiện trình bày tướng mạo mẹ mình trước đám đông, bèn tiếp:
- Đa tạ vương tử, mời vương tử ra bên cạnh nghỉ ngơi.
Tông Tán vương tử nghe thấy cung nữ đó nói chuyện với Đoàn Dự hết sức khách sáo, ra chiều thân thiết, cảm thấy ghen tị nghĩ thầm: “Ngươi là vương tử, ta cũng là vương tử. Nước Thổ Phồn so với Đại Lý còn to lớn cường thịnh hơn nhiều. Không lẽ để tên mặt trắng kia chiếm lợi thế hay sao?”. Y không đợi thêm nữa, hung hăng chen lên trước nói:
- Tông Tán vương tử nước Thổ Phồn xin được hội diện với công chúa.
Cung nữ kia đáp:
- Vương tử quang lâm, tất cả người trên kẻ dưới trong tệ quốc ai nấy đều vinh hạnh. Công chúa tệ quốc có ba câu hỏi xin được chất vấn.
Tông Tán tính nết cực kỳ bộc tuệch, cười hềnh hệch nói:
- Ba câu hỏi của công chúa ta nghe cả rồi, ngươi không cần phải hỏi lại nữa, ta cứ việc trả lời luôn cho tiện. Trong đời ta nơi khoái lạc tiêu dao hơn cả là sau này được làm phò mã, động phòng cùng công chúa, kết nghĩa phu thê. Người ta bình sinh yêu quí nhất, ắt là Ngân Xuyên công chúa. Nàng đương nhiên họ Lý, khuê danh lúc này ta chưa biết, mai sau khi thành vợ chồng lúc đó mới cho ta hay. Còn như tướng mạo công chúa ra sao, hẳn là đẹp như tiên, trên trời đã hiếm mà dưới đất thì chẳng ai bằng. Ha ha, ta trả lời thế có đúng không nào?
Trong đám người có đến quá nửa cũng định bụng trả lời ba câu hỏi tương tự như Tông Tán, nghe thấy y nói rồi, không khỏi hối tiếc nghĩ thầm: “Biết thế mình tranh lên trả lời trước, bây giờ nếu cũng nói thế chẳng ra học mót của y hay sao?”.
Tiêu Phong đứng nghe cung nữ kia hỏi ba câu, người nào cũng cố hết sức nịnh nọt, lấy lòng công chúa, kẻ thì khoe tài khoe mẽ càng nghe càng chán ngắt nên không muốn theo cho đến cùng định lẻn ra ngoài trước.
Đang lúc khó chịu bỗng nghe thấy tiếng Mộ Dung Phục:
- Tại Cô Tô Yến Tử Ổ Mộ Dung Phục, đã ngưỡng mộ phương danh công chúa từ lâu, nay xin bái hội.
Cung nữ kia nói:
- Thì ra đây là Mộ Dung công tử với môn “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”, tì tử tuy ở thâm cung nhưng cũng nghe đến đại danh công tử.
Mộ Dung Phục trong bụng mừng thầm: “Đến một cung nữ cũng còn nghe đến tên ta, đương nhiên công chúa phải biết, không chừng đã bàn tán về mình rồi là khác”. Nghĩ thế y bèn trả lời:
- Không dám, tiện danh không đáng để vào tai.
Cung nữ kia lại tiếp:
- Nước Tây Hạ chúng tôi tuy ở nơi biên thùy nhưng cũng đã từng nhiều lần nghe đến anh danh “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung”. Nghe nói Bắc Kiều Phong Kiều đại hiệp đã đổi sang họ Tiêu, làm quan lớn ở Đại Liêu, không hiểu chuyện đó có thực hay không?
Mộ Dung Phục đáp:
- Chính thị.
Y vốn đã thấy Tiêu Phong cùng đến Thanh Phượng Các nhưng không muốn nói ra. Cung nữ kia hỏi tiếp:
- Công tử và Tiêu đại hiệp cùng đứng ngang tên, ắt hẳn hai người thân nhau lắm. Không biết vị Tiêu đại hiệp đó nhân phẩm thế nào? Võ công so với công tử ai hơn ai kém?
Mộ Dung Phục nghe hỏi thế mặt đỏ tía tai. Y và Tiêu Phong đấu với nhau trên chùa Thiếu Lâm, bị Tiêu Phong xách như con gà, giáng xuống một cái thật mạnh, võ công thua ông xa lắc, chuyện đó bao nhiêu người cùng trông thấy, làm sao dám phủ nhận để cho hào kiệt thiên hạ chê cười. Thế nhưng y lại không muốn thú thực không bằng Tiêu Phong nên sẵng giọng hỏi lại:
- Cô nương hỏi như thế có nằm trong ba câu hỏi của công chúa hay chăng?
Cung nữ kia vội đáp:
- Không phải. Công tử đừng trách, tì tử mấy năm nay nghe đến anh danh của Tiêu đại hiệp, ngưỡng mộ đã lâu nên tò mò hỏi thêm đấy thôi.
Mộ Dung Phục đáp:
- Tiêu quân hiện giờ cũng ở bên cạnh cô nương, cô nương nếu có hứng thì xin hỏi chính ông ta là hơn.
Lời đó nói ra, sảnh đường liền nhốn nháo. Uy danh Tiêu Phong vang lừng, võ lâm nhân sĩ ai ai cũng chấn động. Cung nữ đó nghe thế cũng nao nao, run run nói:
- Thì ra Tiêu đại hiệp cũng không hiềm ngôi vị cao quí của mình đến viếng tệ bang, chúng tôi không biết trước nên quá ư giản mạn, Tiêu đại hiêp khoan hồng đại lượng chắc cũng bỏ qua cho.
Tiêu Phong ậm ừ không trả lời. Mộ Dung Phục nghe giọng nói của cung nữ này xem ra đối với Tiêu Phong có vẻ coi trọng hơn mình, không khỏi hoang mang: “Cái gã Tiêu Phong kia cũng chưa vợ, thân ở ngôi Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu, chưởng ác binh quyền, một tên bạch đinh như mình làm sao sánh kịp? Võ công y lại cao hơn ta nhiều, mình không thể nào tranh được với y, biết … biết làm sao đây?”.
Cung nữ kia nói:
- Để tì tử hỏi Mộ Dung công tử trước, xin Tiêu đại hiệp chờ một chút, quả là đắc tội, đắc tội.
Nàng ta luôn mồm xin lỗi rồi mới quay sang hỏi Mộ Dung Phục:
- Thỉnh vấn công tử, trong đời công tử thì ở nơi nào tiêu dao khoái lạc hơn cả?
Câu này Mộ Dung Phục đã nghe hỏi bốn năm chục người thế mà khi đến lượt mình cũng ú ớ không biết phải trả lời ra sao. Y võ công cao cường, danh mãn thiên hạ, trên giang hồ không ai là không kính sợ, hẳn là công thành danh toại, thế nhưng trong thâm tâm thực ra chưa bao giờ cảm thấy vui vẻ thực sự. Y ngẩn ngơ một lúc mới đáp:
- Nếu bảo ta sung sướng thực sự thì chắc là trong tương lai chứ không phải ở quá khứ.
Cung nữ kia nghĩ bụng Mộ Dung Phục cũng trả lời tương tự như Tông Tán vương tử và những người khác, để đến khi thành phò mã rồi, cùng công chúa thành thân, lúc đó mới vui sướng thực sự, có ngờ đâu Mộ Dung Phục nói về vui sướng chân chính ấy là nói về sau này thân đăng đại bảo, trở thành hoàng đế trung hưng nước Đại Yên. Nàng ta mỉm cười, hỏi tiếp:
- Người công tử yêu quí nhất đời tên gọi là gì?
Mộ Dung Phục sững sờ, trầm ngâm giây lát, thở dài một tiếng đáp:
- Ta không có ai gọi là yêu quí nhất cả.
Cung nữ kia nói:
- Nếu như thế câu hỏi thứ ba không cần đề cập đến nữa.
Mộ Dung Phục đáp:
- Ta mong được sau khi gặp công chúa rồi sẽ có thể trả lời cho thư thư câu hỏi thứ hai và thứ ba.
Cung nữ kia nói:
- Mời công tử tránh qua một bên nghỉ ngơi. Tiêu đại hiệp giá lâm tệ quốc chỉ đành có gì tiếp nấy. Tì tử có ba vấn đề muốn đem mạo phạm hổ uy, mong được rộng lượng hải hà, tì tử xin tạ lỗi trước.
Cô ta nói luôn mấy lần nhưng không nghe tiếng trả lời. Hư Trúc nói:
- Đại ca chúng tôi đã đi khỏi rồi, xin cô nương miễn trách.
Cung nữ kia kinh ngạc hỏi lại:
- Tiêu đại hiệp đi khỏi rồi ư?
Hư Trúc đáp:
- Đúng thế!
Tiêu Phong thấy công chúa Tây Hạ sai cung nữ hỏi anh hùng thiên hạ ba câu, liệu tưởng chắc bên trong có thâm ý nhưng quả không phải để gia hại mọi người, nghĩ đến lượt mình thì phải đối đáp ra sao đây? Nhớ tới A Châu lòng đau như cắt, lại không muốn thổ lộ tâm tình trước mặt người khác, ông bèn quay người lẻn ra khỏi thạch thất. Khi đó cửa động đã mở, ông rón rén đi ra thật nhẹ nhàng, không một ai hay biết.
Cung nữ kia hỏi thêm:
- Không biết tại sao Tiêu đại hiệp lạ bỏ đi? Hay là trách chúng tôi làm thế này vô lễ chăng?
Hư Trúc đáp:
- Đại ca chúng tôi chẳng phải là người tính khí nhỏ nhen, không vì vậy mà phiền lòng. Ồ, chắc hẳn con sâu trong bụng phát tác nên đi ra ngoài kiếm rượu uống đấy thôi.
Cung nữ kia bật cười:
- Chắc hẳn thế đấy. Từng nghe Tiêu đại hiệp là người hào ẩm, tửu lượng trên đời ít có ai hơn, chúng tôi không chuẩn bị nên không giữ được khách quí, thực quá giản mạn. Tiên sinh khi nào gặp lại Tiêu đại hiệp cho chúng tôi chuyển lời công chúa điện hạ xin tạ lỗi.
Người cung nữ đó nói năng đâu ra đấy, ngôn ngữ quả là đắc thể, so với cô gái thẹn thùng đón khách ở bên ngoài thì lưu loát hơn nhiều. Hư Trúc đáp:
- Khi chúng tôi gặp lại đại ca thể nào cũng chuyển lời như thế.
Cung nữ kia hỏi tiếp:
- Tiên sinh tôn tính đại danh là gì?
Hư Trúc ấp úng:
- Tại hạ … tại hạ … đạo hiệu Hư Trúc Tử. Ta là … là … người xuất … không phải đến đây cầu thân, chỉ đi theo tam đệ mà thôi.
Cung nữ kia hỏi thêm:
- Trong đời tiên sinh thì ở nơi nào khoái lạc nhất?
Hư Trúc thở dài đáp:
- Ở trong một hầm nước đá tối om om.
Bông nghe có tiếng đàn bà kinh ngạc khẽ kêu lên rồi có tiếng loảng xoảng, dường như một chiếc chén sứ rơi xuống đất vỡ tan tành. Cung nữ kia hỏi tiếp:
- Người tiên sinh yêu nhất trên đời tên gọi là gì?
Hư Trúc đáp:
- Ôi! Ta … ta … cũng chẳng biết tên cô nương đó là gì.
Mọi người cười lên ha hả, ai nấy nghĩ rằng người này quả đúng là một gã ngốc, đối phương tên gì cũng không biết mà lại thương yêu mê mẩn. Cung nữ kia tiếp:
- Không biết tên cô nương kia cũng không phải chuyện lạ. Ngày xưa hiếu tử Đổng Vĩnh gặp tiên nữ hạ phàm, cũng đâu có biết tên cô ta là gì mà vẫn đem lòng yêu thương. Hư Trúc Tử tiên sinh, cô nương đó dung mạo đẹp đẽ lắm chăng?
Hư Trúc đáp:
- Mặt mũi nàng ra sao, ta cũng chưa từng trông thấy.
Nghe nói thế cả thạch thất tiếng cười phá lên như sấm động, quả là trên đời chưa từng nghe tới, có người lại cho rằng Hư Trúc cố tình nói bông lơn. Trong khi mọi người còn đang huyên náo bỗng có tiếng đàn bà hỏi thật khẽ:
- Chàng … chàng có phải Mộng Lang đấy không?
Hư Trúc vô cùng kinh ngạc, lắp bắp hỏi:
- Nàng … nàng … có phải Mộng Cô chăng? Ta nhớ nàng biết chừng nào.
Y không tự chủ nổi chạy vội lên mấy bước, mũi ngửi thấy một mùi thơm ngát, đồng thời một bàn tay mềm mại thò ra nắm lấy tay y, một giọng nói quen thuộc rót vào tai:
- Mộng Lang, thiếp không kiếm được chàng đành phải xin phụ hoàng hạ bảng văn mới mời được chàng tới đây.
Hư Trúc lại càng kinh ngạc hơn nữa run run hỏi:
- Nàng … nàng … chính là …
Thiếu nữ kia đáp:
- Thôi mình đi vào đây nói chuyện. Mộng Lang, thiếp ngày ngày đêm đêm, chỉ mong sao được có phút này …
Nàng vừa nhỏ nhẹ nói, vừa cầm tay Hư Trúc lặng lẽ kéo qua khỏi màn trướng, bước trên tấm thảm dày đi vào nội đường. Trong thạch thất mọi người vẫn còn ồn ào cười nói như họp chợ.
Người cung nữ vẫn tiếp tục hỏi ba câu hỏi từng người một cho đến khi hết hẳn mới nói:
- Xin mời các vị ra ngoài Ngưng Hương Điện dùng trà nghỉ ngơi. Những đồ họa trên vách dùng để kính tặng, xin các vị thu nhận. Công chúa điện hạ nếu muốn gặp vị nào sẽ cho người ra mời.
Lập tức có rất nhiều người nhao nhao lên:
- Chúng tôi muốn gặp công chúa.
- Bọn ta muốn gặp ngay bây giờ.
- Cứ bảo bọn ta đi tới đi lui, bộ tưởng định dỡn mặt hay sao?
Người cung nữ đáp:
- Các vị nên ra ngoài ngồi nghỉ là hơn, đừng để công chúa điện hạ phải phiền lòng.
Câu sau cùng quả là hiệu nghiệm, mọi người tới Linh Châu ai ai cũng mong được làm phò mã, nếu như không nghe lời công chúa ắt sẽ chẳng được gọi vào gặp mặt, đã không gặp mặt thì còn mong gì phò mã hay không phò mã? Ngay đến cả phò ngưu, phò dương cũng chẳng tới lượt. Mọi người nghe vậy liền lắng xuống, lũ lượt theo nhau đi ra khỏi thạch thất, bên ngoài đốt đuốc sáng trưng, ai nấy theo đường cũ quay về Ngưng Hương Điện uống trà.
Đoàn Dự gặp lại Vương Ngữ Yên, kể lại cho nàng nghe công chúa hỏi ba câu. Vương Ngữ Yên nghe chàng nói là bình sinh trong đời nơi giếng khô, chỗ bùn nhơ là khoái lạc nhất, không khỏi bật cười khúc khích, hai má hây hây, khẽ nói:
- Thiếp cũng nghĩ như chàng.
Mọi người uống trà, bàn tán xôn xao, nhắc lại bao nhiêu câu trả lời rồi tự hỏi ai là người được lọt vào mắt xanh của công chúa. Qua một hồi sau, nội giám bưng những quyển trục thư họa ra, mời mỗi người lấy một bức. Những người ngồi đây ai nấy bụng dạ bồn chồn, hoạn đắc hoạn thất, khắc khoải không biết công chúa có gọi đến mình không, còn bụng dạ nào mà nghĩ đến thư họa. Đoàn Dự dễ dàng kiếm ngay được bức Hồ Bạn Vũ Kiếm Hồ, không một ai đến tranh giành.
Chàng và Vương Ngữ Yên sóng vai quan thưởng, Vương Ngữ Yên thở dài:
- Người trong tranh trông thật giống mẫu thân thiếp.
Nàng nghĩ đến đã xa mẹ lâu ngày trong lòng nhớ nhung khôn xiết. Đoàn Dự nghĩ đến Hư Trúc cũng có một bức tranh tương tự, định bảo y đem ra so sánh nhưng đưa mắt nhìn quanh, không thấy hình bóng Hư Trúc đâu cả. Chàng gọi:
- Nhị ca, nhị ca!
Không nghe thấy tiếng trả lời. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Y và đại ca cùng đi đâu mất rồi, không lẽ gặp chuyện gì hung hiểm chăng?”. Còn đang lo lắng đột nhiên có một cung nữ đi đến bên cạnh thưa:
- Hư Trúc tiên sinh có lá thư gửi Đoàn vương tử.
Nói xong đưa trình ra một phong bì kim nhũ. Đoàn Dự cầm lấy, ngửi thấy một mùi thơm ngát, mở ra coi thấy trên thư viết:
Ta khỏe lắm, cực kỳ khỏe, sung sướng không sao kể xiết. Để ngươi phải tay không trở về, quả thật có lỗi, lại thất tín với Đoàn lão bá nhưng đành vậy. Thư gửi tam đệ.
Bên dưới viết hai chữ “Nhị ca”. Đoàn Dự vẫn biết ông anh “chú tiểu” này chữ nghĩa chẳng có bao nhiêu, văn lý không được trơn tru, lá thư viết chẳng đầu đuôi, không biết định nói gì, cầm trong tay mà ngơ ngẩn.
Tông Tán vương tử từ xa nhìn thấy người cung nữ giao thư cho Đoàn Dự, hẳn là công chúa muốn gặp anh chàng này, nổi cơn ghen tức, nghĩ thầm: “Giỏi nhỉ, quả nhiên tên mặt trắng này phỗng tay trên, ta đâu có để cho y ngon ăn như thế”. Y liền quát lên:
- Không thể tha cho ngươi được.
Y huỳnh huỵch chạy tới, tay trái giựt phắt lá thư, tay phải thoi ra một quyền vào ngực Đoàn Dự. Đoàn Dự còn đang suy nghĩ xem thư Hư Trúc viết thế là có ý gì, quyền của Tông Tán vương tử đánh tới, không nghĩ đến tránh né, mà dẫu có muốn tránh thì võ công như chàng cũng không sao tránh được cú đấm nhanh như điện của Tông Tán.
Bình một tiếng trúng ngay giữa ngực, nội lực căng tràn trong người Đoàn Dự lập tức phát ra một sức bật dội ngược lại, nghe vù một tiếng, rồi nào là lách cách, loảng xoảng, ui da loạn cả lên, thì ra Tông Tán vương tử đã bay vọt ra đụng vỡ một chiếc bàn trà, bao nhiêu ấm, chén trên đó vỡ tan tành.
Tông Tán kêu “Ui da!” rồi, chưa kịp ngồi dậy đã giơ lá thư ra lớn tiếng đọc:
- Ta khỏe lắm, cực kỳ khỏe, sung sướng không sao kể xiết.
Mọi người thấy y rõ ràng bị Đoàn Dự hất văng ra, ngã huỵch xuống bò lê bò càng, sao lại thốt lên: “Ta khỏe lắm, cực kỳ khỏe, sung sướng không sao kể xiết”, không khỏi ngạc nhiên. Vương Ngữ Yên vội đến bên Đoàn Dự hỏi:
- Y đánh chàng có đau không?
Đoàn Dự đáp:
- Không hề chi. Nhị ca gửi cho ta một lá thư, gã vương tử cai lại hiểu lầm, tưởng là công chúa mới ta hội kiến.
Bọn võ sĩ Thổ Phồn thấy chủ bị đánh ngã, lập tức kẻ thì chạy lại đỡ lên, người thì hung hăng sấn sổ đến khiêu chiến với Đoàn Dự. Đoàn Dự nói:
- Nơi đây là chỗ thị phi, ở thêm cũng chẳng ích gì, chúng ta về đi thôi.
Ba Thiên Thạch vội ngăn lại:
- Công tử đã đến được đây, có gấp gáp gì đâu?
Chu Đan Thần cũng nói:
- Trong nội viện hoàng cung Tây Hạ có sợ gì bọn Thổ Phồn hành hung gây hấn? Không chừng công chúa sẽ cho mời mình bây giờ, nếu bỏ đi có phải là thất lễ hay không?
Hai người không ngớt khuyên giải cố giữ Đoàn Dự lại. Quả nhiên người trong Nhất Phẩm Đường liền đi ra, quát nạt bọn võ sĩ Thổ Phồn không được vô lễ. Tông Tán vương tử bò dậy, thấy lá thư không phải là giấy mời Đoàn Dự tương kiến, trong bụng cũng dịu lại.
Còn đang nhốn nháo, Mộc Uyển Thanh bỗng dưng nhìn Đoàn Dự ngoắc ngoắc, trong tay cầm một tờ giấy đưa lên. Đoàn Dự gật đầu, vội đi qua cầm lấy. Tông Tán vương tử lại thấy Đoàn Dự mở một tờ giấy khác ra coi, cảm thấy hoang mang nghĩ thầm: “Chắc đây mới là giấy mời của công chúa”. Y quát lớn:
- Lần đầu ngươi đã đánh lừa ta, lần này còn lừa được nữa hay thôi?
Y nhún một cái lại nhảy tới, giựt ngay lá thư trên tay Đoàn Dự. Lần này y có kinh nghiệm, không dám giơ quyền đánh vào ngực Đoàn Dự nữa, giựt được tờ giấy liền giơ chân phải đá luôn vào bụng dưới đối phương. Nơi đây chính là đan điền ở dưới rốn, căn nguyên nội tức của những người luyện khí, không cần vận chuyển nội kình lập tức tự nhiên sinh ra, chỉ nghe bình một cái, rồi lại lách cách, loảng xoảng, ui da rầm cả lên, Tông Tán vương tử vượt qua đầu mấy chục người bay vọt ra ngoài, đổ vỡ bảy tám cái bàn trà rồi mới lăn quay ra đất.
Gã vương tử đó dày da lắm thịt, Đoàn Dự lại không cố ý vận khí đả thương y nên tuy ngã mạnh thật nhưng cũng chẳng hề hấn gì. Y vừa ngã xuống đã giơ ngay tờ giấy vừa giựt được của Đoàn Dự lớn tiếng đọc:
Có kẻ ghê gớm lắm đang tính chuyện giết cha tôi, cũng là cha anh, mau mau đi cứu.
Mọi người nghe thế lại càng chẳng hiểu đầu đuôi, Tông Tán vương tử nói: “Cha tôi cũng là cha anh”, thế là làm sao? Thế nhưng Đoàn Dự, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cả bọn đều hoảng hốt, những dòng đó do Mộc Uyển Thanh viết, cái mà nàng bảo là “cha tôi, cũng là cha anh” kia là chỉ Đoàn Chính Thuần, thành thử liền sà tới vây quanh Mộc Uyển Thanh hỏi cho ra lẽ.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Các vị vào trong đó chưa lâu thì hai tỉ tỉ Mai Kiếm và Lan Kiếm cũng tiến cung, có chuyện cần bẩm báo với Hư Trúc tiên sinh. Hư Trúc Tử không thấy ra, bọn họ liền cho tiểu muội hay, nói là nhận được tin có mấy nhân vật lợi hại định giăng một cái bẫy để làm hại gia gia. Cái bẫy đó bố trí suốt một dãy Thục Nam, là nơi khi trở về Đại Lý gia gia sẽ phải ngang qua. Linh Thứu Cung đã phái Huyền Thiên, Chu Thiên hai bộ đi tìm gia gia dặn ông phải đề phòng, đồng thời cho người sang phương tây báo tin.
Đoàn Dự sốt ruột nói:
- Mai Kiếm, Lan Kiếm hai vị tỉ tỉ đâu rồi? Sao ta không thấy đâu cả?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Trong mắt ông anh chỉ thấy có một mình Vương cô nương thì còn nhìn thấy ai khác nữa? Mai Kiếm, Lan Kiếm hai vị tỉ tỉ vốn dĩ định nói với huynh trưởng, lên tiếng gọi mấy lần, không biết ca ca cố ý không màng tới, hay là không trông thấy thật.
Đoàn Dự mặt đỏ lên ấp úng:
- Ta …ta quả thực không trông thấy họ.
Mộc Uyển Thanh lại khinh khỉnh nói:
- Bọn họ sốt ruột đi tìm Hư Trúc nhị ca, nên không thể đợi Dự ca được. Tiểu muội gọi mấy lần, ca ca cũng chẳng thèm ngó tới, đành phải viết thư định giao lại cho ông anh.
Đoàn Dự ngượng ngập, biết mình không còn chú ý gì đến mọi chuyện xảy ra chung quanh, mắt chỉ còn biết nỗi buồn điệu vui của giai nhân, tai chỉ còn nghe tiếng cười giọng nói của người đẹp, dù cho trời sập chàng cũng không thèm để ý, thành thử Mộc Uyển Thanh gọi từ xa, dĩ nhiên thị nhi bất kiến, nếu không có Tông Tán vương tử đấm cho một cái thì chắc cũng không ngẩng đầu lên để trông thấy Mộc Uyển Thanh ngoắc ngoắc tay. Chàng liền quay sang nói với Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần:
- Chúng mình ngày đêm lên đường, đuổi theo gia gia.
Ba Chu hai người cùng đáp:
- Chính thế!
Mọi người đều nghĩ nếu Trấn Nam Vương gặp chuyện nguy nan thì không còn việc gì khác quan trọng hơn nữa, Đoàn Dự có làm phò mã hay không cũng phải gác sang một bên. Thành thử cả bọn liền đứng dậy đi ra ngoài cửa.
Đoàn Dự về đến tân quán gặp lại Chung Linh, thu thập hành lý lập tức lên đường. Ba Thiên Thạch đến cáo biệt với Lễ bộ thượng thư nước Tây Hạ, bảo là Trấn Nam Vương trên đường đi bị nhuốm bệnh nặng, thế tử phải quay về ngay để săn sóc thuốc men, không kịp vào khấu biệt hoàng đế. Phụ thân bị bệnh, làm con phải ngày đêm chạy về lo liệu cho cha, quả là thiên kinh địa nghĩa, viên Lễ bộ thượng thư tấm tắc hết lời đại loại như : “Lòng hiếu của vương tử động đến trời, Đoàn vương gia thể nào cũng gặp thầy gặp thuốc…”. Ba Thiên Thạch từ biệt xong, lật đật đi ra cửa thành Linh Châu, thi triển khinh công đuổi theo Đoàn Dự, khi bắt kịp thì đã cách kinh thành hơn ba chục dặm.

datlucky_way

27-07-2009 09:02 AM

Hồi 47(a) : VI THÙY KHAI, TRÀ HOA MÃN LỘ 






Bấm vào đây để xem nội dung.


Chạnh nhớ hương xưa hoa hé nụ, 
Thầm thương chốn cũ nét vờn tranh. 

* * 
C ả bọn Đoàn Dự ngựa không dừng vó nhưng từ Linh Châu đi Cao Châu, Tần Châu qua phương đông về Hán Trung, ngang qua Quảng Nguyên, Kiếm Các rồi tới Thục Bắc đường đi nào chỉ một ngày. 
Trên đường liên tiếp nhận được tin tức của quần nữ hai bộ Huyền Thiên, Chu Thiên cung Linh Thứu truyền tới cho biết Trấn Nam Vương đang đi về hướng nam. Có một lần tin tức nói là hai nữ quyến Trấn Nam Vương dẫn theo, ở Tử Đồng đánh nhau một trận không phân thắng bại. 
Đoàn Dự biết là hai phu nhân, một người là mẫu thân của Mộc Uyển Thanh Tần Hồng Miên còn người kia là mẹ của A Châu, A Tử Nguyễn Tinh Trúc. Luận võ công thì Tần Hồng Miên có vẻ giỏi hơn, về mưu trí thì Nguyễn Tinh Trúc lại vượt trội nhưng nhờ có cha mình ở giữa hòa giải nên không thành lớn chuyện. Quả nhiên cách hai ngày sau lại có tin truyền đến, hai vị phu nhân đã làm lành với nhau, cùng Trấn Nam Vương uống rượu tại một tửu quán. Huyền Thiên Bộ cũng đã cáo tri với Trấn Nam Vương là có kẻ đối đầu đang tính đường gia hại.
Trên đường đi Đoàn Dự đã cùng Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần thương nghị mấy lần, ai cũng thấy kẻ thù trừ người số một trong Tứ Đại Ác Nhân là Đoàn Diên Khánh ra không còn ai khác. Đoàn Diên Khánh võ công cực cao, nước Đại Lý trừ chính Bảo Định Đế ra không ai có thể địch nổi, nếu y đuổi theo gây chuyện với Trấn Nam Vương thì quả thật đáng lo.
Trước mắt chỉ còn cách cố gắng đi thật nhanh để gặp được Trấn Nam Vương, cùng góp sức để có thể đấu với Đoàn Diên Khánh. Ba Thiên Thạch nói:
- Chúng mình một khi gặp Đoàn Diên Khánh, thì một liều ba bảy cũng liều, tất cả cứ xông lên lấy đông đánh ít, đừng để lâm vào vết xe cũ nơi Tiểu Kính Hồ, để y đơn đả độc đấu với vương gia.
Chu Đan Thần nói:
- Chính thế! Bọn mình ở đây có Đoàn thế tử, Mộc cô nương, Chung cô nương, Vương cô nương, hai chúng ta, thêm vương gia và hai vị phu nhân, lại còn Hoa tư đồ, Phạm tư mã, Cổ đại ca tất cả bấy nhiêu người, có thêm các cô nương trong Linh Thứu Cung tương trợ. Người nhiều thế mạnh, nếu không giết nổi Đoàn Diên Khánh thì cũng không thể để cho y hiếp đáp được.
Đoàn Dự gật đầu đáp:
- Ta cũng nghĩ thế.
Đoàn người đến Cẩm Châu bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập từ phía trước, hai kỵ mã chạy đến. Hai người đàn bà từ trên lưng ngựa nhảy xuống kêu lên:
- Thuộc hạ Huyền Thiên Bộ cung Linh Thứu tham kiến Đại Lý Đoàn công tử.
Đoàn Dự vội vàng hạ mã đáp lễ:
- Hai vị quả là gian khổ, không biết đã gặp gia phụ chưa?
Người đàn bà trung niên bên phải đáp:
- Khải bẩm công tử, Trấn Nam Vương sau khi nhận được lời cảnh giác của chúng thuộc hạ thì đã đổi đường đi qua hướng đông, nói là sẽ vòng một vòng lớn trước khi về Đại Lý để khỏi gặp phải kẻ đối đầu.
Đoàn Dự nghe nói thế mới yên tâm, vui mừng nói:
- Thế thì hay lắm. Thân thể vàng ngọc của gia gia, lẽ nào lại đi tranh hơi với bọn hung đồ? Tránh voi chẳng xấu mặt nào, thứ hùm beo rắn rết 
mình kiềng mặt chúng là hơn chứ có phải sợ gì đâu. Thế hai vị có biết đối đầu là ai không? Tin tức từ đâu mà có?
Người đàn bà đáp:
- Đầu tiên là Cúc Kiếm cô nương nghe một cô nương khác cho hay. Vị cô nương đó tên gọi A Bích …
Vương Ngữ Yên vui mừng ngắt lời:
- Thì ra là A Bích. Đã lâu nay ta không gặp cô ấy.
Đoàn Dự tiếp lời:
- À, thì ra A Bích cô nương, ta biết cô đó. Cô ta vốn dĩ là thị tì của Mộ Dung công tử.
Người đàn bà nói:
- Quả đúng như thế. Cúc Kiếm cô nương nói rằng, A Bích cô nương và cô ta tuổi tác chẳng chênh lệch bao nhiêu, mặt mũi xinh xắn thật dễ thương, có điều giọng Giang Nam nên nói chuyện nghe chẳng hiểu rõ cho lắm. A Bích cô nương là đệ tử của Khang Quảng Lăng, sư điệt của chủ nhân chúng tôi, nói đúng ra với cung Linh Thứu cũng là người một nhà. Cúc Kiếm cô nương nói là chủ nhân cùng đi với công tử đến hoàng cung để cầu thân, A Bích cô nương cũng định đi Tây Hạ gặp Mộ Dung công tử. Trên đường nghe được tin có một nhân vật cực lợi hại muốn gây sự với Trấn Nam Vương, cô ta bảo Đoàn công tử đãi cô rất tốt nên nhờ chúng tôi tìm cách đưa tin đến công tử.
Đoàn Dự nhớ lại lần mới gặp A Bích ở Cô Tô, cũng nhờ cô ta và A Châu dẫn đường nên mới biết đến Vương Ngữ Yên, lần này lại chính nàng truyền tin, trong lòng hết sức cảm kích bèn hỏi:
- Vị A Bích cô nương đó bây giờ đang ở đâu?
Người đàn bà trung niên đáp:
- Thuộc hạ không biết. Đoàn công tử, cứ như lời của Mai Kiếm cô nương, kẻ gây chuyện với Đoàn vương gia thật là lợi hại. Chính vì thế Mai Kiếm cô nương không đợi chủ nhân ra lệnh đã sai Huyền Thiên, Chu Thiên hai bộ ra tay, công tử cũng nên cẩn thận.
Đoàn Dự nói:
- Đa tạ đại tẩu phí tâm tận lực, quí tính đại tẩu là chi, lần sau nếu ta có gặp nhị ca sẽ nhắc tới.
Người đàn ba kia cực kỳ hoan hỉ, cười nói:
- Bọn thuộc hạ Huyền Thiên, Chu Thiên tất cả mọi người trong hai bộ đều cùng làm, công tử chẳng cần phải đề cập tiện danh làm gì. Công tử gia có hảo tâm như thế, tiểu phụ nhân xin đa tạ.
Nói rồi cùng người đàn bà kia kéo vạt áo lên hành lễ, cất tiếng chào những người khác rồi lên ngựa ra đi. Đoàn Dự hỏi Ba Thiên Thạch:
- Ba thúc thúc nghĩ chuyện này ra sao?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Vương gia nếu đã đi vòng qua hướng đông thì mình cứ tiếp tục xuôi nam, có lẽ sẽ gặp vương gia ở Thành Đô.
Đoàn Dự gật đầu đáp:
- Chính thế.
Cả đoàn đi qua Cẩm Châu, đến Thành Đô. Thành Cẩm Quan phồn hoa trù phú ở phía tây nam. Bọn Đoàn Dự ở trong thành du ngoạn mấy ngày vẫn không thấy Đoàn Chính Thuần đến nơi, ai nấy thầm nghĩ: “Trấn Nam Vương có hai vị phu nhân bầu bạn, trên đường du sơn ngoạn thủy hưởng cái thú ôn nhu diễm phúc nên có đi chậm một chút cũng không sao. Về đến Đại Lý thì đâu còn có thể tiêu dao khoái lạc được nữa”.
Cả đoàn lại tiếp tục đi về hướng nam, mỗi một bước lại gần Đại Lý thêm một bước, trong lòng cũng cảm thấy thư thái hơn. Trên đường đi qua nhiều thành thị hoa lệ nhưng Đoàn Dự không dám thân mật với Vương Ngữ Yên sợ Mộc Uyển Thanh và Chung Linh khó chịu, cũng không dám nhạt nhẽo với hai cô em gái. Mộc Uyển Thanh trên đường đi đã cho Chung Linh hay Đoàn Dự chính là huynh trưởng của hai người, Chung Linh đích thực là con Đoàn Chính Thuần nên hai nàng đổi sang chị chị em em, thấy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người nói nói cười cười, 
thần thái thân mật chỉ đành ngậm đắng nuốt cay chứ biết làm sao bây giờ.
Đến chiều hôm đó lúc sắp đến Dương Liễu Trường thì tiết trời thay đổi, mưa từng giọt to bằng hạt đậu rơi ào xuống. Mọi người vội vàng giục ngựa chạy cho nhanh tìm chỗ trú mưa, qua một rặng liễu thấy bên bờ sông có bảy tám căn nhà tường trắng ngói đen, ai nấy mừng rỡ vội đánh ngựa chạy đến. Đến nơi thấy một ông già chắp tay sau lưng đang nhìn mây đen ùn ùn dâng lên ở cuối chân trời.
Chu Đan Thần nhảy xuống ngựa, tiến lên chắp tay nói:
- Chào lão trượng, tại hạ một đoàn người đi đường xa, mong được vào bảo trang đụt mưa một lát.
Ông lão đáp:
- Không dám! Không dám! Ai chả có lúc cơ nhỡ có người nào đi đường mà vác theo cả cái nhà mình bao giờ? Mời liệt vị quan nhân, cô nương vào.
Chu Đan Thần nghe ông ta ăn nói rõ ràng, không phải giọng miền nam, hai mắt lấp lánh hữu thần, trong bụng không khỏi dè dặt, chắp tay nói:
- Vậy xin đa tạ.
Mọi người vào cửa rồi, Chu Đan Thần chỉ Đoàn Dự nói:
- Vị này là Dư công tử chủ nhân chúng tôi đi lên Thành Đô thăm song thân trở về. Vị này là Thạch lão ca, còn tại hạ họ Trần. Không dám lão trượng quí tính là chi?
Lão hán kia cười ha hả nói:
- Lão hủ họ Giả. Dư công tử, Thạch đại ca, Trần đại ca, mấy vị cô nương, xin mời vào nội đường uống chén trà. Cứ xem điệu này chắc mưa sắp đổ xuống rồi đây.
Bọn Đoàn Dự thấy Chu Đan Thần xưng tên họ giả biết ngay có chuyện gì đáng ngờ thành thử ai nấy đều lưu tâm. Ông già họ Giả dẫn mọi người đến một căn phòng. Trong phòng trên tường treo mấy bức tự 
họa, trần thiết có chiều nhã khiết, xem ra không phải là nhà của một dân quê, Chu Đan Thần và Ba Thiên Thạch hai người vừa thoáng thấy, lại càng giữ ý.
Đoàn Dự thấy những bức họa đều do tay tầm thường vẽ nên cũng chẳng xem kỹ làm gì. Ông già họ Giả nói:
- Để lão đi ra bảo người đun trà.
Chu Đan Thần đáp:
- Không dám làm phiền lão trượng.
Giả lão cười nói:
- Chỉ e tiếp đãi quí nhân không chu đáo thôi.
Nói xong quay mình đi ra, khép cửa phòng lại. Cửa vừa đóng rồi, đằng sau cánh cửa lộ ra một bức tranh, trên vẽ mấy đóa sơn trà thật lớn, một đóa màu đỏ tươi mơn mởn, một đóa màu trắng cành tuy gầy guộc nhưng mạnh mẽ xanh tươi.
Đoàn Dự nhìn đóa hoa trong lòng tự nhiên vui vẻ, thấy bên cạnh bức tranh có đề một hàng chữ:
Trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập hữu nhất, đại ư mẫu đơn, nhất vọng nhược hỏa ( ) vân ( ), thước nhật chưng ( ).
Cả câu viết để trống mấy chỗ, chính là một câu trích trong Điền Trung Trà Hoa Ký, Đoàn Dự vốn đã thuộc lòng, rõ ràng “hoa trà có bảy mươi loại, trong đó có hai” thì lại viết là “bảy mươi loại, trong đó có một”. Chàng liếc mắt thấy trên bàn có sẵn văn phòng tứ bảo, nhịn không nổi giơ bút chấm mực ngay chữ “nhất” vạch thêm một nét ngang thành chữ “nhị”, dưới chữ “hỏa” thêm một chữ “tề”, dưới chữ “vân” thêm một chữ “cẩm”, dưới chữ “chưng” thêm một chữ “hà”.
Thêm vào mấy chữ rồi, câu đề biến thành:
Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập hữu nhị, đại ư mẫu đơn, nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà.2
Những chữ đó viết theo lối của Chử Toại Lương, Đoàn Dự cũng theo đúng kiểu đó thêm vào, không dấu vết gì để người khác biết được là đã sửa đổi. Chung Linh vỗ tay reo lên:
- Dự ca thêm vào như thế, bức tranh mới hoàn toàn không còn khuyết điểm gì nữa.
Đoàn Dự bỏ bút xuống chưa lâu thì Giả lão đã đẩy cửa bước vào, thuận tay đóng lại, thấy bức họa đã điền vào đầy đủ, mặt mày tươi rói, cười nói:
- Thật quí hóa quá! Tiểu lão nhi quả là thất kính. Bức tranh này do một người bạn cũ vẽ nhưng trí nhớ lại không tốt, lúc đề tự quên mất mấy chữ bảo là về nhà tra lại sách vở, lần sau đến sẽ viết thêm vào. Ôi, ngờ đâu y về nhà chưa lâu, bị bệnh không trở dậy được nữa, từ đó không ai điền vào được. Đâu có ngờ Dư công tử thông kim bác cổ, giúp cho lão hủ và người bạn quá cố hoàn thành tâm nguyện, dọn rượu, dọn rượu mau.
Y vừa nói vừa đi ra quát người nhà làm cơm. Chẳng mấy chốc, ông già họ Giả đã thay một trường bào mới ra mời bọn Đoàn Dự vào trong sảnh uống rượu. Mọi người nhìn ra ngoài cửa sổ thấy trời mưa như trút, làm thành hàng trăm dòng suối nhỏ chảy về phía đông, biết không thể nào ra đi được lại thấy Giả lão ý thành, không thể nào từ chối được đành phải vào trong nhà thấy trên mâm đã bày cá tươi, thịt heo, gà vịt, rau cỏ xếp đầy hàng chục bát. Đoàn Dự cả bọn cám ơn rồi ngồi vào bàn.
Ông già rót rượu ra cười nói:
- Chỉ có cây nhà lá vườn, ăn chẳng vừa miệng. Dư công tử, tiểu lão nhi vốn người đất Giang Nam, khi còn trẻ cũng có học qua một chút võ công thô thiển, đánh nhau với người ta lỡ tay giết chết hai kẻ thù, không thể ở cố hương được nữa đành phải trốn đến Tứ Xuyên. Ôi, thấm thoát 
mấy chục năm rồi, bụng nhớ nhà lắm, rượu vùng quê lão so với loại rượu ủ bằng men này thì không mạnh bằng.
Ông ta vừa nói vừa rót rượu. Mọi người nghe ông già kể chuyện thân thế, tuy không tin hẳn nhưng thấy ông ta tự xưng là biết võ công cũng bớt hẳn nghi kỵ, sau khi rót xong lại nói:
- Xin uống trước để tỏ lòng kính trọng.
Nói xong uống một hơi cạn chén, mọi người lúc ấy yên tâm tận tình ăn uống. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần uống rất ít, đến món ăn cũng đợi Giả lão gắp trước rồi mới đụng đũa gắp theo. Ăn uống xong trời vẫn chưa dứt hạt, ông già lại hết sức giữ khách lại, bọn Đoàn Dự đành ngủ qua đêm.
Trước khi ngủ, Ba Thiên Thạch nói khẽ với Mộc Uyển Thanh:
- Mộc cô nương, tối nay mình nên đề phòng, ta xem nơi này có điều gì tà môn.
Mộc Uyển Thanh gật đầu, để nguyên quần áo ngủ trên giường, trong tay áo dấu sẵn độc tiễn, nghe thấy bên ngoài vẫn mưa tí tách, chập chờn cho đến khi trời sáng nhưng không thấy chuyện gì khác lạ.
Mọi người rửa mặt xong thấy mưa đã ngớt nên lập tức cáo từ. Giả lão tiễn ra đến mấy chục trượng, cử chỉ hết sức cung kính. Mọi người đi một quãng xa vẫn còn tấm tắc lấy làm lạ. Ba Thiên Thạch nói:
- Giả lão đây không biết lai lịch thế nào mà sao cổ quái đến thế? Lần này ta quả đoán không ra!
Chu Đan Thần đáp:
- Ba huynh, đệ đoán lão già họ Giả này có bụng bất lương thế nhưng sau khi thấy công tử điền thêm mấy chữ khuyết trên bức họa, tự nhiên đổi hẳn thái độ. Công tử thử nghĩ bức tranh đó với mấy hàng chữ đề có liên can thế nào?
Đoàn Dự lắc đầu nói:
- Hai đóa sơn trà đó thật bình thường. Một đóa Phấn Hầu, một đóa Tuyết Tháp, tuy nói là danh chủng thật nhưng đâu phải là loại hiếm có.
Mọi người đoán mãi không ra nên đành bỏ mặc không lý tới nữa. Chung Linh cười nói:
- Tốt nhất là trên đường đi gặp thêm vài bức vẽ thiếu chữ nữa, Đoàn công tử nhà ta cứ tiếp tục điền thêm vào, vung bút một cái là mình có ngay hai bữa rượu thịt, ngủ qua một đêm mà chẳng tốn xu teng nào cả.
Mọi người nghe thế cười rộ cả lên. Thế nhưng lạ làm sao, câu nói đùa của Chung Linh trên đường đi lại mấy lần xảy ra thật. Trên bức tranh nào cũng vẽ hoa trà, có khi đề từ bị khuyết, có khi viết chữ sai, có khi lại có cành mà chẳng có hoa, có hoa mà chẳng có lá. Đoàn Dự vừa gặp phải liền cầm bút thêm vào ngay. Mỗi khi đề xong, chủ nhân lập tức bước ra ân cần khoản đãi, rượu thịt ê hề mà không hề lấy đồng tiền nào cả.
Chu Đan Thần và Ba Thiên Thạch mấy lần gặng hỏi, đối phương người nào cũng có cùng một câu trả lời, ấy là người vẽ còn thiếu sót, khuyết chữ, may nhờ Đoàn Dự giúp cho nên thực là cảm kích.
Đoàn Dự và Chung Linh tính còn trẻ con, thấy vậy vui lắm nên chỉ mong càng nhiều tự họa thiếu nét, thiếu chữ càng tốt. Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự vui vẻ nên cũng thấy vui theo. Còn Mộc Uyển Thanh trước nay trời không sợ, đất không kiêng nên đối phương có ý tốt cũng được, mà có ý xấu nàng cũng chẳng coi vào đâu. Chỉ riêng Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần càng lúc càng lo âu, thấy bên địch bố trí rất chặt chẽ, bên trong hẳn có ý đồ trọng đại nhưng không nhìn ra được chút manh mối gì.
Ba Chu hai người mỗi khi được tiếp đãi ân cần đều hết sức quan sát từng ly từng tí, xem rượu thịt có chất độc gì không. Thế nhưng loại mạn tính độc dược thật khó mà biết được, bị phục độc đến cả chục lần mới phát ra. Ba Thiên Thạch hiểu nhiều biết rộng, nếu như đối phương hạ độc thì cũng khó mà qua mắt được y nhưng trước sau cơm rượu không thấy có gì khác lạ mà chủ nhân bao giờ cũng ăn uống trước để khỏi ai nghi ngại.
Càng đi càng về hướng nam nên tuy đã thượng tuần tháng mười mà khí trời cũng chưa đến nỗi lạnh. Đường càng lúc càng nhiều rừng rậm, núi sâu, cỏ cao so với khung cảnh của Tây Hạ ở phương bắc thật khác xa. Buổi chiều hôm đó cả bọn đến một cánh đồng cỏ thật lớn, màu xanh tít 
mù đến tận cuối trời, bên trái là một khu rừng, xem ra cả chục dặm đường không người ở. Ba Thiên Thạch nói:
- Công tử, nơi đây địa thế hiểm ác, mình nên tìm chỗ nào trú chân là hơn.
Đoàn Dự gật đầu:
- Đúng thế! Hôm nay mình chắc không thể nào vượt qua được cánh đồng này, không biết kiếm chỗ nào mà nghỉ đây?
Chu Đan Thần nói:
- Trong đồng cỏ muỗi mòng rắn rết nhiều lắm, lại thêm chướng khí. Xem ra quế hoa chướng sắp qua, phù dung chướng đang tới, hai loại chướng khí trộn với nhau càng thêm độc địa. Nếu mình không tìm ra chỗ nghỉ thì chỉ còn nước trèo lên cây cao ngủ tạm, chướng khí không xông tới, trùng độc muỗi độc cũng ít đi.
Thế là cả đoàn rẽ qua bên trái nhắm hướng rừng già mà tới. Vương Ngữ Yên nghe Chu Đan Thần nói chướng khí ghê gớm lắm mới hỏi quế hoa chướng, phù dung chướng là thế nào? Chu Đan Thần đáp:
- Chướng khí là hơi độc từ núi non đầm lầy bốc lên, tháng ba thì có đào hoa chướng, tháng năm thì có lựu hoa chướng là lợi hại nhất. Thực ra chướng khí nào cũng như nhau nhưng thời tiết không giống nên cứ theo nguyệt lệnh mùa hoa nào thì đặt tên thế. Từ tháng ba đến tháng năm trời nóng, độc trùng muỗi mòng sinh sản nhiều nên ghê gớm nhất. Sở dĩ lúc đó đáng ngại vì chưng khí hậu ẩm thấp hơn cả nên cỏ mục tích chứa nhiều, chướng khí vì vậy rất mạnh mẽ.
Vương Ngữ Yên hỏi:
- Ồ, thế thì có trà hoa chướng không?
Bọn Đoàn Dự, Ba Thiên Thạch đều cười ồ. Chu Đan Thần đáp:
- Người Đại Lý chúng tôi rất thích hoa trà nên không đem chướng khí đáng ghét kia gộp chung với hoa trà.
Vừa đi vừa nói đã đến bìa rừng. Chân ngựa đạp vào bùn lầy, phọp phẹp khó đi thật là bất tiện. Ba Thiên Thạch nói:
- Xem chừng mình chẳng nên vào sâu thêm nữa, tối nay làm tổ trên cây ngủ qua đêm vậy. Đợi sáng mai mặt trời lên, chướng khí tan hết lúc đó lại lên đường.
Vương Ngữ Yên hỏi:
- Mặt trời mọc thì chướng khí không độc nữa hay sao?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Đúng thế!
Chung Linh đột nhiên chỉ về phía đông bắc, thất thanh kêu lên:
- Trời ơi, hỏng rồi! Bên kia chướng khí bốc lên cao quá, đó là chướng gì đây?
Mọi người nhìn theo hướng cô ta chỉ quả nhiên thấy một đám mây cuồn cuộn bốc lên. Ba Thiên Thạch đáp:
- Cô nương, đây là thiêu phạn chướng.
Chung Linh thấp thỏm hỏi:
- Thiêu phạn chướng là chướng gì? Có ghê gớm lắm không?
Ba Thiên Thạch cười nói:
- Cái này không phải chướng khí, mà là khói người ta nấu cơm bốc lên.
Quả nhiên trong khói xanh có lẫn màu đen, lại tỏa màu trắng đúng là do củi đốt. Mọi người ai nấy cười ồ, cảm thấy lên tinh thần cùng nói:
- Mình đi kiếm chỗ thiêu phạn chướng xem sao.
Chung Linh bị mọi người chế riễu, bẽn lẽn đỏ mặt. Vương Ngữ Yên liền an ủi:
- Linh muội, cũng may muội muội nhìn thấy … nhìn thấy khói nấu cơm nên mình khỏi phải trèo lên cây ngủ.
Cả đoàn người đi về hướng khói bốc lên, đến gần mới thấy trong rừng có bảy tám căn nhà, bên cạnh nhà chất đầy gỗ súc, hiển nhiên là nơi ở của thợ mộc. Chu Đan Thần giục ngựa lên trước, lớn tiếng gọi:
- Các đại ca thợ mộc ơi, chúng tôi đi đường xa muốn ngủ nhờ một đêm có được không?
Đợi một hồi không thấy tiếng ai trả lời, Chu Đan Thần lại gọi thêm lần nữa nhưng cũng không ai đáp lại. Khói từ trên mái nhà vẫn tiếp tục bốc lên, hẳn là trong nhà phải có người. Chu Đan Thần lấy trong bọc ra chiếc quạt nan thép dùng làm binh khí cầm trong tay, nhè nhẹ đẩy cửa đi vào nhà.
Trong nhà không một bóng người nhưng vẫn nghe tiếng củi nổ lép bép. Chu Đan Thần đi xuống nhà sau vào trong bếp thấy bên cạnh lò có một bà lão đang đun nấu. Chu Đan Thần nói:
- Lão bà bà, ở đây còn ai khác nữa không?
Bà lão giương mắt nhìn làm như nghe mà không hề hay biết. Chu Đan Thần hỏi tiếp:
- Chỉ có mình bà ở đây hay sao?
Bà già chỉ vào tai, rồi chỉ vào mồm ú ớ mấy tiếng biểu thị mình vừa câm vừa điếc. Chu Đan Thần quay trở vào thì bọn Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh đã đi tra xét một vòng những căn nhà khác, trong bảy tám căn ngoài bà lão ra không còn một ai khác. Trong gian nhà nào cũng có ván gỗ nhưng chẳng thấy chăn mền gì xem ra lúc này thợ thuyền chưa khai công. Ba Thiên Thạch ra ngoài đi vòng vòng hai lượt, xem xét các nơi không thấy gì khác lạ.
Chu Đan Thần nói:
- Bà lão này vừa câm vừa điếc, không có cách nào hỏi chuyện bà ta được. Vương cô nương kiên nhẫn hơn hết, cô thử vào ra hiệu hỏi xem sao?
Vương Ngữ Yên mỉm cười gật đầu nói:
- Được, để ta thử xem.
Nàng đi vào trong bếp, giơ tay giơ chân ra hiệu cho bà lão, lấy ra một đĩnh bạc cho bà ta cho đến khi hiểu rõ mọi chuyện. Mọi người chờ cho bà ta nấu cơm xong mới hỏi gạo đun cơm, trong đây không rượu không thịt, tất cả chỉ đành ăn cơm trắng cho qua bữa.
Ba Thiên Thạch nói:
- Chúng mình ngủ trong nhà này đừng phân tán.
Thế là đàn ông qua bên cánh đông, con gái ngủ bên cánh tây, bà lão thắp ở phòng giữa một ngọn đèn dầu. Mọi người vừa định ngủ bỗng có tiếng cạch cạch ở phòng giữa, có ai đó đang dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lửa nhưng đánh tới đánh lui mãi vẫn không xong. Ba Thiên Thạch lấy đồ đánh lửa trong túi mình ra, cạch một tiếng đánh lửa lên đi qua châm vào ngọn đèn. Bà lão vẻ mặt mừng rỡ, ra hiệu muốn mượn hỏa đao, hỏa thạch chỉ xuống bếp làm như muốn dóm lửa. Ba Thiên Thạch đưa cho bà ta rồi quay về phòng nằm ngủ.
Một hồi sau, lại nghe có tiếng cạch cạch cạch nữa, bọn Đoàn Dự nhắm mắt đang định ngủ lại bị tiếng động khiến mở choàng mắt ra nhìn qua khe cửa không thấy ánh sáng chiếu ra, thì ra chiếc đèn dầu đã tắt rồi. Chu Đan Thần cười nói:
- Bà lão này già cả lẩm cẩm mất rồi.
Y định mặc kệ bà ta nhưng tiếng đánh lửa cạch cạch cạch mãi, tưởng chừng suốt cả buổi chưa xong, vẫn tiếp tục thêm một buổi nữa. Chu Đan Thần nghe thế khó chịu trở dậy đi vào phòng, thấy mờ mờ trong bóng đêm bà già đang lịch kịch đưa lên đưa xuống, cạch cạch đánh lửa.
Chu Đan Thần lấy hỏa đao hỏa thạch của mình ra, đánh lửa châm vào ngọn đèn dầu. Bà lão nhe răng cười, giơ tay làm hiệu muốn mượn đồ đánh lửa đem xuống bếp dùng. Chu Đan Thần liền đưa cho bà lão rồi quay về phòng.
Ngờ đâu chỉ một lúc sau, phòng giữa lại có tiếng cạch cạch vọng ra. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần đều bực tức cất tiếng chửi:
- Mụ già này không biết làm trò quái quỉ gì đây!
Thế nhưng cứ nghe tiếng cạch cạch mãi không thôi, Ba Thiên Thạch nhỏm dậy, đi ra giựt bộ đánh lửa trên tay bà ta đánh thử, cạch cạch mấy cái không thấy đốm lửa nào bắn ra, mò mò thử thấy không phải bộ đồ đánh lửa của mình, lớn tiếng hỏi:
- Hỏa đao, hỏa thạch của ta đâu?
Y vừa mở miệng không khỏi bật cười: “Sao mình lại nổi giận với một bà lão vừa câm vừa điếc làm gì?”. Khi đó Mộc Uyển Thanh cũng đã dậy, lấy đồ đánh lửa ra nói:
- Ba thúc thúc muốn đốt đèn ư?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Bà lão này thật là cổ quái, có một ngọn đèn mà cứ châm rồi lại tắt, tắt rồi lại châm tới tận nửa đêm.
Y cầm lấy hỏa đao, hỏa thạch đánh một cái châm vào ngọn đèn. Bà già coi bộ mãn nguyện, cười khì khì chăm chăm nhìn ngọn lửa. Ba Thiên Thạch nói với Mộc Uyển Thanh:
- Cô nương đi đường cũng mệt, thôi đi ngủ cho khỏe.
Nói xong liền quay trở về phòng. Ngờ đâu chỉ chừng thời gian uống một chén trà, lại nghe cạch cạch cạch tiếng đánh lửa vọng vào. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cùng đứng lên, định chạy ra nhưng chợt nghĩ ra: “Trên đời này làm gì có bà già nào quái lạ đến vậy? Hẳn là có ngụy kế gì đây!”. Hai người nhẹ nhàng nắm tay nhau, rón rén ra khỏi phòng, chia ra hai bên ập vào vừa định xông lên, đột nhiên mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, thì ra người đang đánh lửa kia chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người lập tức rụt về, Ba Thiên Thạch nói:
- Cô nương đấy ư?
Mộc Uyển Thanh đáp:
- Đúng thế! Tôi thấy ở nơi đây có vẻ không bình thường, định đốt đèn lên soi xem có chuyện gì.
Ba Thiên Thạch đáp:
- Để tôi châm lửa cho.
Nào ngờ đánh cạch cạch mấy cái không thấy có lửa tóe ra. Ba Thiên Thạch kinh ngạc kêu lên:
- Hỏa thạch này không phải, bị bà lão kia tráo mất rồi.
Chu Đan Thần nói:
- Mau đi kiếm, không để cho mụ ta chạy mất.
Mộc Uyển Thanh chạy xuống bếp còn Ba Chu hai người chạy ra ngoài nhưng chỉ mới một thoáng mà bà lão kia đã biến đâu mất rồi. Ba Thiên Thạch nói:
- Đừng đuổi xa, bảo hộ công tử quan trọng hơn.
Hai người trở vào nhà, Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, Chung Linh cũng nghe tiếng động tỉnh dậy rồi. Ba Thiên Thạch nói:
- Ai có hỏa đao, hỏa thạch? Đốt đèn lên rồi tính sau.
Chỉ nghe Vương Ngữ Yên và Chung Linh cùng kêu lên:
- Hỏa đao hỏa thạch của tôi bà lão kia mượn mất rồi.
Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cùng kêu khổ ngầm: “Mình đề phòng từng li từng tí, đâu có ngờ ở nơi đây lại trúng ngụy kế của địch nhân”. Đoàn Dự lấy trong túi đồ đánh lửa ra, đánh cạch cạch mấy tiếng nhưng cũng nào có cháy lên đâu? Chu Đan Thần nói:
- Mụ già kia cũng mượn của công tử để dùng rồi chứ gì?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế! Ngay lúc trước khi ăn cơm, bà ta đánh lửa xong liền trả lại cho ta.
Chu Đan Thần nói:
- Thế thì đá lửa cũng bị tráo mất rồi.
Trong nhất thời mọi người ai nấy lặng thinh, nghe tiếng côn trùng kêu trong đêm. Hôm ấy đúng ngày đầu tháng nên không có bóng trăng, sáu người tụm lại một chỗ, chỉ thấy lờ mờ bóng những người kia, ai nấy đều cảm thấy ở vào một tình cảnh cực kỳ nguy hiểm. Từ khi Đoàn Dự điền chữ lên những bức tranh được ông già họ Giả tiếp đãi ân cần đến giờ, sáu người tưởng như bị ai bịt mắt, không chủ định được tự đi vào tròng, biết rằng kẻ địch bày mưu tín khế thế nhưng độc địa đến chừng nào thì không hề hay biết. Ai nấy nghĩ thầm: “Nếu kẻ địch xông ùa lên thì đã không sợ, còn đằng này lấp ló thập thò, khiến cho không sao đề phòng được”.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Mụ già kia lấy hết hỏa đao hỏa thạch của mình cốt để mình không sao đốt lửa được, bọn chúng trong đêm tối thi hành ngụy kế.
Chung Linh đột nhiên rú lên:
- Tiểu muội sợ nhất là bọn chúng sẽ thả rết hay kiến ra đốt mình.
Ba Thiên Thạch chột dạ nói:
- Trong đêm tối mà những vật bé nhỏ như thế đến tấn công thì thật khó đề phòng.
Đoàn Dự đáp:
- Hay là mình đi ra ngoài ngủ trên cây?
Chu Đan Thần đáp:
- E rằng trên cây cũng đã gài sẵn độc vật rồi.
Chung Linh lại “A” lên một tiếng, níu chặt lấy tay Mộc Uyển Thanh. Ba Thiên Thạch nói:
- Cô nương không việc gì phải sợ, mình đốt đèn lên rồi tính sau.
Chung Linh hỏi lại:
- Không có đá lửa lấy gì mà đốt đèn?
Ba Thiên Thạch đáp:
- Địch nhân có dụng ý gì đến lúc này thật chưa biết được. Thế nhưng họ không muốn mình đốt lửa nếu mình cứ đốt đèn thì hẳn cũng không phải là sai.
Y nói xong quay mình đi xuống bếp, lấy hai khúc củi lên đưa cho Chu Đan Thần:
- Chu huynh đệ cắt vụn cây củi này ra càng nhỏ càng tốt.
Chu Đan Thần nghe thế hiểu ngay đáp:
- Đúng vậy, mình đâu để bó tay chờ họ đến tấn công.
Y lấy trong túi ra một con dao nhỏ, cắt khúc củi thành từng miếng. Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, Chung Linh cũng tiếp tay 
lấy chủy thủ tiểu đao ra cắt gỗ, kẻ băm người nghiền thành một đống mạt nhỏ. Đoàn Dự than:
- Tiếc rằng ta không có thần công như Khô Vinh sư tổ ở chùa Thiên Long truyền nội công vào là bén lửa lên ngay, hiện giờ chỉ có Cưu Ma Trí mới có tài ba như thế.
Thực ra nội lực súc tích trong người chàng lúc này còn cao hơn Khô Vinh đại sư và Cưu Ma Trí nhiều, có điều không biết vận dụng mà thôi. Mấy người luôn tay băm gỗ ra thật nhuyễn nhưng trong lòng ai nấy thấp thỏm không an, chẳng một ai nói năng gì, chỉ lắng tai nghe xem bên ngoài có động tĩnh gì không, nghĩ thầm: “Mụ già kia đánh lừa lấy được hỏa đao hỏa thạch của mình rồi, chắc không để lâu, e rằng lập tức phát động”.
Ba Thiên Thạch mò thấy mạt gỗ đã được khoảng một bát ăn cơm rồi liền vun lại thành một đống, hai tay cầm hai thanh đao đập vào nhau nghe keng một tiếng, sống đao chạm nhau, lửa tóe ra bén vào mạt gỗ. Có điều vừa lửa bùng lên lại tắt ngay không cháy vào bùi nhùi được, mọi người còn đang tiếc rẻ thì Ba Thiên Thạch đã liên tiếp cọ đao vào nhau, leng keng không dứt, đến độ mươi cái thì mới cháy được miếng giấy dầu.
Cả bọn vui mừng reo lên, lấy lửa châm vào đèn. Chu Đan Thần sợ một ngọn đèn có thể bị gió thổi tắt nên bao nhiêu đèn đóm dưới bếp và các phòng bên lấy cả về đốt lên. Ngọn lửa yếu ớt nhợt nhạt chiếu lên mặt người, khói lại dầy xông vào mũi thật khó ngửi. Thế nhưng có được ngọn lửa rồi ai nấy tinh thần phấn chấn như vừa thắng một trận lớn.
Căn nhà gỗ cực kỳ giản lậu, gió theo khe cửa thổi vào. Sáu người nhìn nhau, ai nấy tay cầm sẵn binh khí, lắng tai nghe. Thế nhưng chỉ thấy tiếng gió thổi vào cây xào xạc, trộn lẫn với tiếng giun dế kêu vang bên ngoài không có gì khác.
Ba Thiên Thạch thấy một hồi lâu không động tĩnh gì, tra xét kỹ càng mọi nơi trong căn nhà gỗ, thấy mấy cây cột có bao bằng đệm rơm, bên ngoài dùng cỏ buộc lại, nhớ lại khi mới vào nhà không như thế, bèn chặt đứt những dây bện, đệm cỏ rơi xuống. Đoàn Dự thấy hai bên cột có khắc hai hàng câu đối, câu trên là:
Xuân câu thủy động trà hoa ( )
Câu dưới là: Hạ cốc ( ) sinh lệ chi hồng.
Mỗi bên đều thiếu mất một chữ. Chàng quay lại thấy Chu Đan Thần đã gỡ bỏ những đệm cỏ bao quanh hai cây cột khác để lộ trên cột khắc một đôi câu đối khác:
Thanh quần ngọc ( ) như tương thức
Cửu ( ) trà hoa mãn lộ khai.
Đoàn Dự nói:
- Ta đi trên đường điền thêm chữ cho tới nay là họa hay phúc cũng chưa biết được. Bọn chúng lấy đệm cỏ bao quanh cột cốt là để ta không nhìn thấy những câu đối này, vậy mình cứ làm ngược lại, để xem đối phương có kế gì.
Chàng nói xong đưa tay ra, nghe soẹt soẹt, bên dưới chữ “hoa” viết thêm một chữ “bạch”, bên dưới chữ “cốc” viết thêm một chữ “vân” biến thành một câu đối toàn vẹn:
Xuân câu thủy động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ chi hồng
(Khe xuân nước động hoa trà trắng
Cốc hạ mây đùn vải đỏ tươi)
Chàng nội lực thâm hậu, chỉ lực đến đâu mạt gỗ bay lả tả đến đó. Chung Linh vỗ tay reo lên:
- Nếu biết sớm, ca ca lấy ngón tay vạch vào gỗ mấy cái là có mạt vụn ngay, việc gì mình phải mất công như thế.
Chỉ thấy chàng lại tiếp tục điền vào câu đối còn lại, miệng ngâm nga:
Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai.
(Quần xanh mặt ngọc dường quen thuộc
Tháng chín hoa trà nở khắp nơi)
Chàng vừa nghiêng đầu ngâm nga, vừa liếc Vương Ngữ Yên. Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng, quay đầu sang chỗ khác. Chung Linh nói:
- Không biết cột này làm bằng gỗ gì mà thơm quá!
Mọi người hít mấy cái, quả nhiên thấy những ngấn tay Đoàn Dự khắc lên gỗ xông mùi thơm lừng, tưởng như hoa quế mà không phải hoa quế, tựa như hoa hồng mà không phải hoa hồng. Đoàn Dự nói:
- Thơm thật!
Chỉ thấy mùi thơm càng lúc càng nồng, ngửi vào thật khoan khoái, tinh thần sảng lãng. Chu Đan Thần mặt biến sắc nói:
- Hỏng rồi, mùi hương này coi chừng có độc, tất cả bịt mũi lại.
Mọi người được y nhắc nhở, vội vàng lấy khăn tay hoặc tay áo bịt chặt mũi miệng nhưng lúc đó đã hít khá nhiều hương khí rồi, nếu quả là hơi độc thì phải đầu váng mắt hoa, tức ngực khó chịu chứ có lý đâu lại thoải mái.
Qua một hồi sau, ai nấy ngộp thở, nhịn không nổi đành phải há mồm ra thở mấy hơi nhưng không thấy gì khác. Mọi người từ từ bỏ tay bịt mũi ra, lao xao bàn bạc, không đoán ra được kẻ địch có dụng ý gì.
Thêm một lúc nữa, bỗng nghe có tiếng ù ù. Mộc Uyển Thanh kinh hãi kêu lên:
- Trời ơi! Chất độc phát tác rồi, tai tôi có tiếng gì lạ quá.
Chung Linh đáp:
- Em cũng thế!
Ba Thiên Thạch nói:
- Không phải trong tai có tiếng gì lạ đâu mà dường như một đàn ong đang bay tới.
Quả nhiên tiếng ù ù mỗi lúc một lớn, dường như hàng ngàn hàng vạn con ong từ bốn phương tám hướng đang bao vây. Ong mật vốn không có gì đáng sợ nhưng bay nhiều đến thành tiếng động lớn như thế thì chưa
từng nghe bao giờ, cũng không biết có phải là ong hay không. Trong phút chốc ai nấy đều sững sờ không biết phải làm sao. Tiếng u u càng lúc càng gần, tưởng chừng như vô số yêu ma quỉ quái kêu gào gầm thét, nhảy múa toan đến cắn người ta. Chung Linh nắm chặt tay Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên nắm chặt tay Đoàn Dự. Mọi người tim đập thình thình, tuy biết có kẻ địch phục sẵn nhưng không sao tưởng tượng được trước khi tấn công lại có tiếng quái đản như thế này.
Đột nhiên nghe bạch một tiếng, một vật gì bé nhỏ đập vào vách căn nhà gỗ, rồi tiếp theo bạch bạch bạch bạch liên tiếp, không biết bao nhiêu vật gì đập vào, Mộc Uyển Thanh và Chung Linh cùng kêu lên:
- Ong đó!
Ba Thiên Thạch chạy ra đóng chặt cửa sổ lại, bỗng nghe bên ngoài tiếng ngựa hí lên thảm thiết, rồi tiếng rống lên lao xao. Chung Linh kêu:
- Ong đốt ngựa.
Chu Đan Thần nói:
- Để ta ra ngoài cắt dây cương.
Y cởi trường bào trùm lên đầu, tay trái vừa đẩy cánh cửa bên ngoài đã có một trận gió ập tới, hàng nghìn hàng vạn con ong bay vào trong nhà. Chung Linh và Vương Ngữ Yên cả hai cùng rú lên.
Ba Thiên Thạch vội vàng kéo Chu Đan Thần trở vào, đưa đầu gối chặn lấy cánh cửa, thế nhưng trong nhà đã đầy ong rồi. Những con ong đó vừa vào được trong nhà lập tức túa ra đốt mọi người, chỉ trong nháy mắt trên đầu, trên tay, trên mặt người nào cũng bị ong đốt bảy tám chỗ. Chu Đan Thần xòe quạt ra đập lấy đập để còn Ba Thiên Thạch thì cởi áo ra quật túi bụi, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, Chung Linh bốn người cũng phải cố nhịn đau xông ra đập.
Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh khi ra tay ai nấy vận hết kình lực, chẳng bao lâu trong nhà chỉ còn hai ba chục con ong, nhưng thật lạ lùng những con ong đó thật chẳng khác gì thiêu thân thấy đèn, cứ xông vào chích bất kể sống chết nhưng chỉ một lát sau bao nhiêu ong đều bị đập chết cả.
Chung Linh và Vương Ngữ Yên đau đến ứa nước mắt, tai vẫn nghe tiếng ong đập vào cửa rào rào như mưa rào, không biết bao nhiêu ngàn vạn con ong vẫn tiếp tục tấn công căn nhà gỗ. Mọi người sợ hãi mặt nhợt nhạt, quên cả đau, vội vàng xé vạt áo, tay áo chèn các khe cửa.
Cả sáu người trên mặt, trên tay, chỗ thì đỏ chỗ thì sưng, trông thật thảm hại. Đoàn Dự nói:
- Cũng may ở đây có căn nhà gỗ dung thân, nếu như ở nơi đồng trống, hàng nghìn hàng vạn con ong đến đốt mình thì chắc chết đứ đừ.
Mộc Uyển Thanh nói:
- Những con ong này do kẻ địch xua tới, bọn chúng đâu đã để cho mình yên? Không lẽ họ không biết phá nhà ra hay sao?
Chung Linh kinh hãi kêu lên:
- Tỉ tỉ.. tỉ tỉ nói họ sẽ phá nhà ư?
Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời đã nghe trên đầu bình một tiếng, một tảng đá rơi xuống nóc nhà, rui mè rung rinh nhưng may chưa gãy. Thế nhưng lại nghe cách cách, hai khối đá đã chọc thủng mái rơi xuống khiến ngọn đèn tắt phụp.
Đoàn Dự vội vàng ôm Vương Ngữ Yên vào lòng để che chở khuôn mặt nàng. Thế nhưng nghe tiếng vù vù muốn điếc cả tai, ai nấy đều biết mình có xua đuổi chúng cũng vô ích, chỉ còn nước kéo áo lên trùm đầu trùm mặt. Trong nháy mắt bàn chân, bàn tay, cánh tay, đùi đều bị châm hàng vạn chỗ, trong phút chốc cả sáu người đã hôn mê không còn biết gì nữa.
Đoàn Dự đã ăn được con mãng cổ chu cáp vốn dĩ bách độc bất xâm, nhưng những con ong này là do người nuôi, cái kim của nó ngoài chất độc ra còn có thuốc tê, ai bị mấy trăm con ong chích cũng đều mê man cả. Chàng nội lực thâm hậu hơn cả nên trong sáu người thì là người tỉnh lại trước tiên. Đoàn Dự vừa hồi phục tri giác đã đưa tay ra nắm lấy Vương Ngữ Yên nhưng tay không sao cử động được mà Vương Ngữ Yên cũng không còn ở trong lòng mình nữa.
Chàng mở mắt ra thấy tối đen như mực. Thì ra hai chân hai tay đã bị trói chặt còn mắt thì bị người ta dùng vải đen che lại, miệng cũng bị nhét một hạt dẻ hô hấp cũng đã khó khăn huống hồ nói năng. Chàng thấy khắp mình mẩy hàng trăm hàng nghìn chỗ đau nhói, đó là những chỗ bị ong đốt, lại thấy mình đang ngồi dưới đất nhưng ở nơi nào, ngất đi bao lâu thì không sao biết được.
Còn đang hoang mang bỗng nghe tiếng đàn bà gay gắt hỏi:
- Ta mất bao nhiêu công lao cốt để bắt con chó già họ Đoàn nước Đại Lý, sao chúng bay lại bắt thằng chó con là sao?
Đoàn Dự nghe giọng nói quen lắm nhưng nhất thời không nghĩ ra là ai. Tiếng một người đàn bà già nua đáp:
- Tì tử nhất nhất theo đúng lời tiểu thư sai bảo mà làm, không sai một mảy.
Người đàn bà kia nói:
- Hừ, ta xem bên trong phải có gì khác thường. Con chó già kia từ Tây Hạ xuôi nam phải theo đường cái ngang qua Tây Xuyên mới phải, sao lại đột nhiên chuyển qua hướng đông là sao? Bao nhiêu rượu thuốc ta sắp đặt trên đường hóa ra thằng chó con này uống sạch.
Đoàn Dự biết ngay kẻ mà mụ ta gọi “con chó già” chính là để chỉ phụ thân Đoàn Chính Thuần, còn “thằng chó con” chẳng phải chính mình thì còn ai vào đây nữa. Tiếng người đàn bà nói chuyện với mụ lão bộc dường như còn cách một bức tường, có lẽ ở căn phòng bên cạnh.
Người lão phụ nói:
- Đoàn vương gia lần này đến Trung Nguyên thời giờ ở lại cũng không phải ít, nửa đường quay sang hướng đông …
Người đàn bà kia giận dữ nói:
- Ngươi còn gọi y là Đoàn vương gia được sao?
Bà lão đáp: - Vâng, trước kia … tiểu thư bảo gọi là Đoàn công tử, nhưng bây giờ y tuổi cũng cao rồi …

datlucky_way

27-07-2009 09:04 AM

Hồi 47(b) : VI THÙY KHAI, TRÀ HOA MÃN LỘ 






Bấm vào đây để xem nội dung.


Chạnh nhớ hương xưa hoa hé nụ, 
Thầm thương chốn cũ nét vờn tranh. 

* * 
N gười đàn bà quát lên:
- Thôi đừng nói nữa.
Bà lão đáp: - Vâng!
Người đàn bà thở dài một tiếng, nhắc lại:
- Y … y bây giờ tuổi đã cao rồi …
Giọng nói đầy vẻ thê lương. Đoàn Dự bấy giờ cũng yên tâm, nghĩ thầm: “Ta cứ tưởng ai? Thì ra lại là một người tình cũ của gia gia. Bà ta đi tìm gia gia chẳng qua vì nổi cơn ghen lồng ghen lộn. Đúng rồi, bà ta sắp đặt ong mật cốt để bắt cho bằng được cha ta, ngờ đâu bị ta thay cha làm hỏng hết mọi việc. Nếu quả như thế thì chắc không đến nỗi hạ độc thủ với bọn mình. Thế nhưng bà dì này là ai mới được chứ? Ta nhất định đã từng nghe giọng bà ta rồi”.
Chỉ nghe người đàn bà nói tiếp:
- Chúng ta ở các nơi khách điếm, sơn trang đều treo những tự họa thiếu chữ, thiếu nét, ngươi bảo tên “chó con” này điền vào được cả ư? Ta không tin nổi, sao những câu “con chó già” kia thuộc lòng, “thằng chó con” cũng lại nhớ trong bụng? Sao lại có chuyện lạ lùng đến thế?
Người lão phụ đáp:
- Thơ phú ông bố thuộc lòng, con nghe cũng nhớ được thì có gì là lạ đâu?
Người đàn bà giận dữ nói:
- Con tiện tì Đao Bạch Phượng là giống man di, làm sao sinh được đứa con thông minh thế? Ta không thể nào tin được.
Đoàn Dự nghe bà ta nhục mạ mẫu thân không khỏi nổi cơn thịnh nộ, toan lên tiếng cãi lại nhưng miệng vừa mấp máy đã nhận ra trong miệng có nhét hạt dẻ làm sao nói năng gì được?
Chỉ nghe bà già lên tiếng khuyên nhủ:
- Tiểu thư, chuyện xảy ra cũng đã lâu, sao tiểu thư còn để bụng làm gì? Huống chi người không phải với tiểu thư là Đoàn công tử chứ có phải con y đâu? Cô … cô … cũng nên tha cho y trẻ người non dạ, “túy nhân phong” của mình đốt đau lắm rồi, xem ra cũng đủ.
Người đàn bà rít lên:
- Ngươi bảo ta tha cho tên tiểu tử họ Đoàn ư? Chậc chậc, ta băm vằm nó ra thành nghìn vạn mảnh rồi mới tha được.
Đoàn Dự nghĩ thầm: ‘Cha ta đắc tội với bà chứ ta có làm gì đâu, sao lại hận ta đến thế? Thì ra giống ong này tên gọi “túy nhân phong”, không biết bà ta làm sao kiếm được nhiều đến thế để xua ra chích bọn mình? Người đàn bà này là ai vậy? Đây đâu phải Chung phu nhân, hai người khẩu âm khác nhau xa”.
Bỗng có tiếng đàn ông nói:
- Thưa mợ, sanh nhi xin khấu đầu bái kiến.
Đoàn Dự giật mình, bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều vỡ lẽ, giọng nam nhân kia chính là Mộ Dung Phục. Y gọi bà ta là mợ, dĩ nhiên đây là Vương phu nhân của Mạn Đà Sơn Trang ở Cô Tô, mẹ ruột của Vương Ngữ Yên, nhạc mẫu tương lai của mình.
Trong nháy mắt, Đoàn Dự cảm thấy mình như bị dội mười lăm mười sáu thùng nước lạnh lên đầu, đầu quay mòng mòng rối như tơ vò, bao nhiên hình ảnh của Mạn Đà Sơn Trang cùng hiện ra trước mắt: 
Hoa trà còn gọi là hoa Mạn Đà La, nổi tiếng nhất là những chủng loại trồng nơi Đại Lý. Hoa trà vùng Cô Tô không lấy gì làm đẹp, trong Mạn Đà Sơn Trang trồng nhiều hoa trà nhưng danh chủng thì chẳng có bao nhiêu, lại trồng không đúng cách nên ra hoa rất nhỏ, cây thì còi cọc. Thế nhưng sao tòa trang viện đó lại lấy tên là Mạn Đà Sơn Trang? Trong sơn trang đó ngoài hoa trà ra không trồng một loại hoa nào khác là vì cớ gì? Mạn Đà Sơn Trang lại có luật hễ nam nhân vào trong trang thì sẽ bị chặt hai chân. Vương phu nhân còn bảo:
- Hễ cứ người Đại Lý hoặc họ Đoàn mà vào đây thì sẽ bị chôn sống.
Gã đệ tử Vô Lượng Kiếm bị Vương phu nhân bắt đâu có phải người Đại Lý, chỉ có tội là nhà ở cách Đại Lý chưa quá bốn trăm dặm nên cũng bị chôn sống. Vương phu nhân còn bắt một gã công tử ép y phải về giết ngay người vợ kết tóc se tơ, lấy cô gái y đang trăng hoa về làm vợ chính, gã kia không chịu bà ta toan giết khiến y đành phải nghe theo. Đoàn Dự cũng nhớ khi đó Vương phu nhân căn dặn đầy tớ:
- Ngươi áp tống y trở lại thành Tô Châu, chính mắt thấy y giết vợ, bái đường thành thân với Miêu cô nương, sau đó hãy trở lại. 
Gã công tử kia van xin:
- Chuyết kinh với bà không thù không oán, bà cũng không biết Miêu cô nương là ai, sao lại bênh cô ấy, ép tôi giết vợ lấy người khác làm chi?
Khi đó Vương phu nhân trả lời:
- Ngươi đã có vợ rồi, sao lại còn lân la ngon ngọt tán tỉnh con gái nhà người ta. Đã chim chuột thì không thể không lấy.
Cứ như lời bà ta thì chỉ riêng con tì nữ Tiểu Thúy ở các vùng Thường Thục, Đan Dương, Vô Tích, Gia Hưng đã thực hiện bảy vụ án như thế. Chàng là người Đại Lý, lại họ Đoàn chỉ vì biết trồng hoa trà nên Vương phu nhân mới không xử tử lại còn thiết yến khoản đãi ở Vân Cẩm Lâu. Có điều khi Đoàn Dự và bà ta đàm luận, đề cập đến một loại sơn trà cánh trắng có sợi chỉ màu đỏ tên gọi “Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm”. Khi đó chàng nói:
- Cánh hoa trắng nhưng có lẩn sắc đỏ tên gọi là Hồng Trang Tố Lý. Còn cánh trắng nhưng có quầng mầu xanh, thêm vạch mờ mờ màu đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Thế nhưng nếu những vạch đỏ đó có nhiều thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều. 
Phu nhân thử nghĩ xem, đã là mỹ nhân thì phải ôn tĩnh nhàn nhã, trên mặt thỉnh thoảng bị sước một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình 
cào phải mặt, hoặc giả không phải do mình thì cũng chỉ chơi đùa với con anh vũ, bị chim quẹt trúng âu cũng là chuyện thường. 
Thành thử vết chàm trên cánh hoa kia không thể không có, đó là lông chim vương phải. Còn như nếu đầy mặt chỗ nào cũng tươm máu thì nàng con gái đẹp kia hẳn đã đánh nhau với ai, như thế còn gọi là đẹp nỗi gì?
Câu đó khiến Vương phu nhân nổi cơn thịnh nộ, mắng chàng:
- Ngươi nghe đứa nào xúi bẩy mà đến gặp ta ăn nói những lời nhăng cuội như thế? Ai bảo đàn bà con gái học võ công thì không còn đẹp nữa? Nhàn nhã ôn tĩnh thì có gì là hay?
Chỉ vì thế mà bà ta đuổi chàng ra khỏi tiệc rượu, suýt nữa thì bị giết chết. Bao nhiêu chuyện đó, lúc đó chàng chỉ nghĩ rằng vị phu nhân này hành sự không theo tình người ngoài mấy chữ “có lý nào như thế được” không còn gì khác để mà hình dung. Đến bây giờ thấy người đàn bà kia là Vương phu nhân, chàng bỗng hiểu ngay: 
Thì ra bà ta là người tình cũ của gia gia, thảo nào đối với hoa trà thì yêu như tính mạng còn đối với họ Đoàn Đại Lý lại thù hận tận xương. Vương phu nhân thích hoa trà, hẳn là khi gia gia cùng bà ta qua lại có liên quan gì đến loại hoa này. Còn bà ta bắt được người họ Đoàn Đại Lý là chôn sống ngay, chỉ vì cha ta người Đại Lý, họ Đoàn ruồng rẫy bà ta nên tức tối, bao nhiêu thù hận trút lên người họ Đoàn. 
Bà ta bức bách những ai có tính trăng hoa giết vợ cả lấy tình nhân, chính là nói lên cái nguyện vọng thầm kín trong tâm khảm, chỉ mong gia gia giết chính thất để lấy bà ta. Mình trong câu chuyện nói là đàn bà thích đánh nhau thì không còn đẹp nữa đã khiến bà ta nổi trận lôi đình, có lẽ năm xưa khi cùng cha ta tư tình đã từng đánh nhau một trận nhưng hẳn là cha mình nhường nhịn đấy thôi.
Đoàn Dự suy nghĩ thấy bao nhiêu chuyện hoài nghi đều trở thành rõ ràng minh bạch nhưng không phải vì thế mà trút được mối lo, trái lại càng lúc càng nặng như chì. Vì lý do gì, nhất thời chàng không nói ra được chỉ thấy việc mẹ Vương Ngữ Yên và cha mình có tình ý với nhau trước đây thật không ổn chút nào, trong tâm khảm sâu xa dâng lên một nỗi sợ 
khủng khiếp nhưng không dám nói lên cái điều ám ảnh mình mà chỉ thấy tâm thần càng lúc càng bực bội, âu lo.
Lại nghe Vương phu nhân nói:
- Phục quan đấy chăng, gớm nhỉ! Ngươi mong ước được làm hoàng đế Đại Yên, thế đã đăng cơ chưa vậy?
Nghe giọng có vẻ mỉa mai chế riễu. Thế nhưng Mộ Dung Phục vẫn trang nghiêm đáp lại:
- Đó là di chí của tổ tông, sanh nhi không có khả năng, bôn ba giang hồ đến bây giờ vẫn chưa nên cơm cháo gì, đang muốn xin mợ chỉ điểm.
Vương phu nhân cười nhạt nói:
- Ta có gì mà chỉ điểm được? Nhà ta là họ Vương, nhà ngươi là họ Mộ Dung, họ Vương có liên can gì đến mộng làm hoàng đế của họ Mộ Dung đâu? Ta không cho ngươi đến Mạn Đà Sơn Trang, không cho Ngữ Yên gặp mặt ngươi cũng vì sợ nó bị vướng mắc liên lụy với nhà Mộ Dung. Còn Ngữ Yên? Ngươi dẫn nó đi tới chốn nào rồi?
“Còn Ngữ Yên?” Ba tiếng đó chẳng khác gì sấm động bên tai, Đoàn Dự nãy giờ vẫn lo về chuyện này. Khi ong độc đến chích thì chàng đang ôm Vương Ngữ Yên ở trong lòng, vậy lúc này nàng ở đâu? Nghe giọng nói của Vương phu nhân xem chừng bà ta không biết thật. Chỉ nghe Mộ Dung Phục đáp:
- Biểu muội đi đâu, cháu làm sao biết được? Nàng vẫn đi cùng Đoàn công tử nước Đại Lý, không chừng hai người đã bái đường thành vợ chồng rồi.
Vương phu nhân run run nói:
- Ngươi … ngươi chỉ nói tầm xàm.
Bình một tiếng, bà ta vỗ mạnh xuống bàn giận dữ nói:
- Sao ngươi không chăm sóc nó? Để cho một đứa con gái nhỏ hành tẩu giang hồ? Ngươi không nghĩ gì đến chút tình anh em cô cậu nữa hay sao?
Mộ Dung Phục đáp:
- Sao mợ lại nổi giận như thế? Mợ sợ cháu lấy biểu muội, sợ nàng sẽ thành con dâu nhà Mộ Dung để đi theo cháu mơ tưởng thành hoàng đế. Bây giờ thế là ổn rồi, biểu muội lấy Đoàn công tử, tương lai đường đường chính chính làm hoàng hậu Đại Lý, không phải là duyên trời khéo se ư?
Vương phu nhân lại giơ tay đánh xuống mặt bàn lần nữa, quát lên:
- Chỉ láo! Cái gì mà duyên trời khéo se? Nhất quyết không được.
Đoàn Dự ở bên này đang lo, nghe thấy “nhất quyết không được” trong bụng kêu trời luôn mồm: “Khổ quá, khổ quá! Ta với Vương Ngữ Yên phải trải qua trăm cay nghìn đắng mới được thế này, bây giờ mẹ nàng lại nhất định không chịu thì làm sao”.
Bỗng nghe ngoài song có tiếng người:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Vương cô nương và Đoàn công tử là một cặp trời sinh, một đôi đất khiến, phu nhân nói nhất quyết không được là trật lất rồi.
Vương phu nhân giận dữ nói:
- Bao Bất Đồng! Ai cho ngươi vô phép vô tắc dám cãi lại ta? Ngươi không nghe ta sai người giết con gái ngươi lập tức.
Bao Bất Đồng vốn dĩ là kẻ không sợ trời, sợ đất gì cả nhưng khi nghe Vương phu nhân gay gắt trách mắng thì im bặt không còn dám lèm bèm nữa. Đoàn Dự trong bụng khấn thầm: “Bao tam ca, Bao tam thúc, Bao tam gia, Bao tam thái gia, lạy ngài xin ngài cãi với phu nhân vài câu nữa. Bà ta nói năng chẳng đâu vào đâu, chỉ có ngài mới anh hùng hảo hán, dám đấu lý với bà ta thôi”.
Ngờ đâu bên ngoài không một tiếng động, Bao Bất Đồng không còn mở miệng thêm câu nào. Thực ra Bao Bất Đồng không phải là sợ gì Vương phu nhân giết đứa con gái Bao Bất Tịnh, có điều gia đình y mấy đời theo họ Mộ Dung, là bộ thuộc một lòng son sắt, Vương phu nhân là trưởng bối chí thân của Mộ Dung Phục, cũng không khác gì chủ nhân, nếu như đứng ra cãi tay đôi thì không khỏi bất phân thượng hạ.
Vương phu nhân thấy Bao Bất Đồng đã im, cơn giận cũng hạ bớt, hỏi Mộ Dung Phục:
- Phục quan, ngươi đến tìm ta là có ý chàng màng chuyện gì? Hẳn lại có mưu đồ chi chăng?
Mộ Dung Phục cười đáp:
- Thưa mợ, sanh nhi là kẻ chí thân nên trong bụng cũng khắc khoải nhớ đến mợ, không lẽ đến thăm cũng không được hay sao? Hà tất cứ phải có mưu đồ gì mới được?
Vương phu nhân cười khẩy đáp:
- Ha ha, ngươi quả là tốt bụng quá, lại còn nhớ đến cả bà mợ. Nếu ngươi quả là thương nhớ ta như thế thì đời ta đâu đến nỗi thê lương như thế này.
Mộ Dung Phục cười:
- Mợ có chuyện không vui sao không nói cho sanh nhi nghe, thể nào cháu cũng làm cho mợ vừa lòng.
Vương phu nhân nói:
- Chậc, chậc, chậc! Mới có mấy năm không gặp mà ngươi học đâu được cái thói miệng trơn như mỡ thế?
Mộ Dung Phục hỏi lại:
- Sao lại bảo là miệng trơn như mỡ? Người khác có tâm sự gì thì còn khó đoán chứ mợ trong bụng nghĩ đến ai, sanh nhi đoán chẳng đủ mười phần thì cũng được tám. Muốn cho mợ xứng tâm toại ý, cháu chẳng nói ngoa chứ cũng hiểu được bảy tám phần.
Vương phu nhân nói:
- Thế ngươi đoán thử xem, nếu nói năng tầm bậy tầm bạ, xem ta có nắm tai đánh cho một trận không nào.
Mộ Dung Phục dài giọng ra ngâm:
Thanh quần ngọc diện như tương thức,
Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai.
Vương phu nhân giật nảy người ấp úng:
- Ngươi … ngươi sao lại biết? Ngươi đã vào trong mấy căn nhà gỗ ở đồng cỏ rồi chăng?
Mộ Dung Phục đáp:
- Việc gì mợ phải hỏi cháu tại sao lại biết mà chỉ nên hỏi làm thế nào để gặp người kia thôi?
Vương phu nhân lắp bắp:
- Gặp … gặp người đó ư?
Giọng bà ta trở nên hết sức nhu mì, xem ra có vẻ cầu khẩn, so với thanh âm uy nghiêm, lãnh đạm mới rồi thật khác xa. Mộ Dung Phục nói:
- Người mà sanh nhi nói là người mà mợ vẫn hằng thương nhớ đó.
Xuân câu thủy động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ chi hồng
Vương phu nhân run run hỏi:
- Ngươi bảo là ta có thể gặp được y ư?
Mộ Dung Phục đáp:
- Mợ tốn biết bao nhiêu công lao định bắt cho bằng được người này, có ngờ đâu cờ đi sai một nước khiến y tránh được. Sanh nhi nghĩ rằng gặp được y nào có khó chi đâu nhưng để mà làm gì. Chi bằng bắt y phải ngoan ngoãn nghe lời của mợ, ấy mới là hơn cả. Mợ bảo sang đằng đông y không dám đi đằng tây, mợ bảo vẽ lông mày, y không được dồi phấn.
Hai câu sau cùng y nói cực kỳ khinh bạc nhưng Vương phu nhân tâm tình khích động không hề để tâm, chỉ thở dài một tiếng nói:
- Cái bẫy ta dương ra sắp đặt cực kỳ khít khao, vậy mà y vẫn chạy thoát, ta không còn nghĩ được cách nào tốt hơn được nữa.
Mộ Dung Phục nói:
- Sanh nhi biết được chỗ ở của người này, nếu như mợ tin cháu, đem bao nhiêu chuyện sắp đặt nói rõ cho cháu nghe, không chừng cháu có thể làm cho kiến hiệu.
Vương phu nhân đáp:
- Mình nói gì thì cũng là người nhà, có gì mà bảo không tin nhau nữa? Lần này ta sử dụng ấy là kế “túy nhân phong”. Ở Mạn Đà Sơn Trang ta có nuôi mấy trăm tổ ong, trong trang ngoài hoa trà ra không còn một loại hoa nào khác. Sơn trang cách xa đất liền, ong không thể nào bay vào đâu để kiếm mật.
Mộ Dung Phục reo lên:
- Phải rồi, túy nhân phong ngoài hoa trà ra không thích những loại hương nào khác.
Vương phu nhân nói:
- Nuôi cho được những tổ ong này làm ta hao tốn mười năm tâm huyết. Trong mật dùng để nuôi ong ta có trộn thêm thuốc mê, lại thêm một loại dược vật khiến cho ong này chích rồi sẽ làm cho mê man, bất tỉnh nhân sự bốn năm ngày liền.
Đoàn Dự nghe nói giật mình: “Không lẽ ta đã ngất đi bốn năm ngày rồi hay sao?”. Mộ Dung Phục nói:
- Mợ quả là thần cơ diệu toán, người ngoài quả thực không sao bì kịp, có điều làm thế nào mà xua chúng đi chích người ta được?
Vương phu nhân đáp:
- Cái đó là ở đồ ăn ta có bỏ thêm một loại dược vật, loại thuốc đó không có chất độc, không mùi không vị chỉ hơi đắng nên không dám cho ăn nhiều một lần. Ngươi cũng biết gã đó tinh linh như quỉ, bọn đầy tớ thủ hạ của y lại thông minh tài trí, nếu dùng thuốc mê, thuốc độc gì chăng nữa để đối phó với y thì không cách nào làm được. Thành thử ta mới nghĩ cách sai người trên đường cung ứng rượu thịt, bên trong có ngầm rải thuốc.
Đoàn Dự bấy giờ mới vỡ lẽ: “Thì ra trên đường bao nhiêu tự họa thiếu nét, thiết chữ là do Vương phu nhân dụ cho gia gia điền vào, nếu điền đúng thì người mà bà ta bố trí sẵn biết ngay đây là Đại Lý Đoàn vương gia, liền dâng lên đồ ăn thức uống có bỏ dược vật”. Vương phu nhân lại tiếp:
- Ai ngờ trời xui đất khiến, gã đó đi đường khác, thằng con hắn lại xông vào. Tên tiểu quỉ đó bao nhiêu thơ phú của cha y thuộc nằm lòng, quả đúng là một lãng tử phong lưu hiếu sắc, phóng đãng vô hạnh. Bao nhiêu tự họa thiếu nét, thiếu chữ trên đường tên tiểu quỉ đó đều điền đúng cả, tham ăn thích uống, nốc hết sạch dược tửu dành cho ông già nó, mò được đến mấy căn nhà gỗ nơi đồng cỏ.
Trong nhà đó những đèn dầu đã có sẵn dược liệu, các cột nhà cũng để sẵn dược liệu, đến khi tên tiểu quỉ đó làm thủng mấy cây cột, mấy loại hương khí liền trộn với nhau dụ cho túy nhân phong bay đến. Ôi, kế của ta thì không sai, chỉ có người đến là sai thôi. Tên tiểu quỉ đó làm hỏng hết việc của ta! Hừ, nếu không đem chặt y ra làm mười bảy mười tám mảnh thì làm sao mà phát tiết được nỗi hận trong lòng?
Đoàn Dự nghe giọng điệu oán độc như thế, không khỏi rợn người, nghĩ thầm: “Cái bẫy của bà ta bố trí cực kỳ chặt chẽ, bên trong cột cũng để sẵn dược phấn để dụ cho ta điền thêm những chữ còn khuyết, làm vỡ cây cột để cho bột bay ra. Ôi, Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi từng bước từng bước rơi vào tròng của người ta, vậy mà không hề biết chút gì, quả thật hồ đồ đến cực điểm”. 
Thế nhưng chàng liền nghĩ lại: “Ta trên đường điền vào những tự họa thiếu nét thiếu chữ khiến cho nha trảo của Vương phu nhân tưởng ta là gia gia, bao nhiêu tinh thần đều nhằm vào ta cả, vì thế mà gia gia mới thoát hiểm. Ta thay mặt cho cha để chịu đại họa thì có gì mà phải oán trách nữa đâu? Chuyện đó đúng là cầu còn chưa được nữa kìa”.
Chàng nghĩ như thế thấy lòng dịu xuống nhưng lại không khỏi nghĩ thêm: “Vương phu nhân bắt được ta rồi thì muốn băm chém ta thành mười bảy mười tám mảnh, còn như bắt được cha ta thì lại hết sức ngoan ngoãn chiều chuộng ông. Hai cha con mà sao đối đãi khác nhau một trời một vực”.
Chỉ nghe Vương phu nhân hậm hực hỏi:
- Ta đã bảo đứa tì tử này giả làm một bà già câm điếc để chủ trì đại cuộc, mụ cũng không phải là không nhận ra được y, vậy mà sao còn để xảy ra cái chuyện trớ trêu như thế này?
Người lão phụ biện bạch:
- Tiểu thư, tì tử đã bẩm cáo với tiểu thư là trong số những người này không có Đoàn công tử trong đó, thành thử mới đánh tráo hết hỏa đao hỏa thạch của họ để họ không đốt đèn dầu lên được, lại cũng dùng đệm cỏ che đi các câu đối trên cột nhà để khỏi dụ túy nhân phong bay đến. Ai bảo bọn chúng tự mua cái họa vào thân, cố tìm cách đốt lửa để đọc thấy đôi câu đối.
Vương phu nhân hừ một tiếng nói:
- Nói gì thì nói ngươi cũng là đồ vô tích sự.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lão bà bà này đánh lừa lấy hết đồ đánh lửa lại dùng đệm cỏ bao các cột lại, là do lòng tốt với mình, nào có biết đâu”.
Mộ Dung Phục nói:
- Thưa mợ, loại ong này đốt người ta rồi không còn dùng được nữa hay sao?
Vương phu nhân đáp:
- Ong chích người ta xong chẳng bao lâu sẽ chết. Thế nhưng ta nuôi ong hàng nghìn hàng vạn, mất vài trăm con thì thấm vào đâu?
Mộ Dung Phục vỗ tay reo lên:
- Thế thì được rồi. Trẻ bắt trước, già bắt sau thì đã sao? Sanh nhi nghĩ rằng nếu đem y quan bội ngọc hay binh khí đồ dùng của tiểu tử kia, đem đến cho … cho … người ấy của mợ coi, dụ cho y vào trong căn nhà gỗ trong đồng cỏ thì nào có khó gì?
Vương phu nhân “A” lên một tiếng, đứng phắt dậy nói:
- Hảo sanh nhi, ngươi còn trẻ đầu óc quả là sáng suốt. Kế của mợ không xong đầu óc đâm ra lú lẫn, không còn nghĩ ra nước cờ nào khác. Đúng lắm! Đúng lắm! Y cha con nghĩa nặng nếu biết con mình rơi vào tay ta thể nào chẳng chạy đến cứu, lúc đó ta lại dùng túy nhân phong cũng đâu có muộn màng gì.
Mộ Dung Phục cười đáp:
- Đến lúc đó e rằng chẳng cần đến túy nhân phong cũng xong. Mợ chỉ cần bỏ thuốc mê vào rượu, mời y ba chén lẽ nào y lại từ chối? Nói trắng ra, chỉ cần y trông thấy dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn của mợ rồi thì cần gì ong, cần gì rượu? Lúc đó y mê man ngây ngất làm gì chẳng xong?
Vương phu nhân hứ một tiếng, mắng:
- Chỉ láo nào, với mợ mà ăn nói cười cợt được sao?
Thế nhưng khi bà nghĩ đến lúc được gặp lại Đoàn Chính Thuần, chuốc rượu cho tình lang, không khỏi tâm hồn điên đảo, liền dịu dàng nói:
- Phải đó! Ngươi nói không sai, cứ theo như thế mà làm.
Mộ Dung Phục nói:
- Thưa mợ, cái chủ ý của cháu có dùng được chăng?
Vương phu nhân cười:
- Nếu như mọi việc êm xuôi, ta sẽ không quên lòng tốt của cháu đâu. Việc trước tiên là phải tra xét xem hiện nay gã vô lương tâm kia đang ở chỗ nào?
Mộ Dung Phục đáp:
- Sanh nhi cũng nghe phong thanh nên việc này nếu có làm cũng còn hai điều khó.
Vương phu nhân cau mày nói:
- Có cái gì mà khó? Sao ngươi cứ hay kín kín hở hở tính chuyện ra giá là sao?
Mộ Dung Phục đáp:
- Người đó hiện nay đang bị bắt giữ, tính mạng chỉ trong sớm tối.
Loảng xoảng một tiếng, tay áo Vương phu nhân chạm phải chén trà rơi xuống đất vỡ tan tành. Đoàn Dự cũng giật mình kinh hãi, nếu trong miệng không bị nhét hạt dẻ thì đã kêu lên thành tiếng. Vương phu nhân lắp bắp:
- Bị … bị người ta bắt giữ ư? Sao không nói sớm? Mình phải tìm cách cứu y ngay mới được.
Mộ Dung Phục lắc đầu:
- Thưa mợ, kẻ đối đầu võ công cực cao, sanh nhi không phải là địch thủ của y, mình chỉ nên dùng trí, không nên dùng sức.
Vương phu nhân nghe giọng y dường như cũng chưa có gì gấp gáp lắm, tuy hung hiểm thật nhưng cũng khoan tâm hỏi dồn:
- Dùng trí là thế nào? Dùng mẹo nào đây?
Mộ Dung Phục đáp:
- Cái kế dùng túy nhân phong của mợ vẫn còn dùng được. Chỉ cần thay mấy cái cột, khắc lại trên cột mấy chữ khác, chẳng hạn như vế trên là “Đại Lý quốc đương kim thiên tử Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh”, người kia trông thấy ắt hẳn nổi cơn thịnh nộ, xóa những chữ Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đi, hương khí sẽ từ trong cột bay ra.
Vương phu nhân hỏi:
- Thế ngươi nói người đang bắt giữ y là kẻ tranh ngôi vua Đại Lý với Đoàn Chính Minh, tên là Đoàn Diên Khánh gì đó phải không?
Mộ Dung Phục đáp:
- Chính hắn.
Vương phu nhân kinh hãi nói:
- Y … y … y rơi vào tay Đoàn Diên Khánh, hẳn là dữ nhiều lành ít. Đoàn Diên Khánh lúc nào cũng chăm chăm giết chết y, không chừng … không chừng giờ này đã xử tử y rồi …
Mộ Dung Phục đáp:
- Xin mợ chớ có quá lo, bên trong còn có một điểm cực quan trọng mà mợ chưa nghĩ đến.
Vương phu nhân hỏi:
- Điểm quan trọng gì?
Mộ Dung Phục đáp:
- Hiện nay hoàng đế nước Đại Lý là Đoàn Chính Minh. Đoàn công tử của mợ vốn được phong làm hoàng thái đệ, toàn dân Đại Lý ai ai cũng đều biết cả. Đoàn Chính Minh đánh thuế nhẹ, ít lao dịch, chăm lo chính sự, thương yêu trăm họ người người đều ca tụng ông ta là thánh minh thiên tử, Trấn Nam Vương cũng được nhân dân tin cậy, hoàng vị đó khó mà lay chuyển nổi. Đoàn Diên Khánh muốn giết ông ta thật chỉ cần nhắc tay là xong nhưng một đao chém xuống rồi, thế nước Đại Lý ắt loạn to, ngôi bảo tọa hoàng đế Đại Lý chắc đâu đã vào tay Đoàn Diên Khánh?
Vương phu nhân nói:
- Ngươi nói vậy nghe cũng có lý, nhưng làm sao mà biết?
Mộ Dung Phục đáp:
- Có cái thì do sanh nhi nghe được mà cũng có chỗ thì suy đoán ra.
Vương phu nhân nói:
- Ngươi cả đời chỉ mơ tưởng được làm hoàng đế, những chỗ lắt léo đó, ắt đã nghiền ngẫm cho thật tỏ tường.
Mộ Dung Phục đáp:
- Cám ơn mợ đã quá khen. Thế nhưng sanh nhi liệu tưởng rằng Đoàn Diên Khánh bắt được Trấn Nam Vương, quyết không thể nào giết ngay mà thể nào cũng tìm cách cho y đăng cơ làm hoàng đế trước, sau đó mới nhường ngôi cho mình. Có thế mới danh chính ngôn thuận, quan dân Đại Lý mới không dị ngôn.
Vương phu nhân hỏi lại:
- Thế nào mà danh chính ngôn thuận?
Mộ Dung Phục đáp:
- Phụ thân Đoàn Diên Khánh vốn là hoàng đế Đại Lý, chỉ nhân gian thần soán vị, trong cơn hỗn loạn y không biết lạc đi đâu mất. Đoàn Chính Minh lên ngôi hoàng đế nhưng Đoàn Diên Khánh mới đích thực mười mươi “Diên Khánh thái tử”, nhân dân Đại Lý ai mà chẳng biết. Trấn Nam Vương lên ngôi hoàng đế rồi, y không có người nối dõi, lập Đoàn Diên 
Khánh làm hoàng thái đệ, thế thì thật là hợp tình hợp lý, danh chính ngôn thuận.
Vương phu nhân ngạc nhiên hỏi:
- Y … y … rõ ràng có con trai, sao lại bảo là không người nối dõi?
Mộ Dung Phục cười đáp:
- Mợ vừa mới nói sao thoáng cái đã quên rồi? Chẳng phải mợ bảo là sẽ đem tiểu tử họ Đoàn chặt ra thành mười bảy mười tám mảnh hay sao? Trên đời này làm gì có hoàng thái tử nào mười bảy mười tám mảnh bao giờ?
Vương phu nhân vui mừng nói:
- Phải lắm! Đây là thứ dã tạp chủng do con tiện tì Đao Bạch Phượng sinh ra, để nó sống ta cứ nghĩ đến là lộn tiết lên rồi.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lần này đúng là hung đa cát thiểu, Ngữ Yên không biết ở nơi đâu? Nếu không Vương phu nhân may ra thương con mà tha mạng cho mình”.
Vương phu nhân nói:
- Nếu trước mắt mạng sống của y chưa có gì đáng lo thì ta cũng yên tâm. Ta cũng chẳng cần y phải đi làm hoàng đế Đại Lý gì cho cực nhọc, chỉ cần y ở cạnh ta nơi Mạn Đà Sơn Trang mà thôi.
Mộ Dung Phục đáp:
- Trấn Nam Vương nhường ngôi xong, đương nhiên sẽ theo mợ về Mạn Đà Sơn Trang, lúc đó ông ta có ở lại Đại Lý cũng chẳng có gì hứng thú mà Đoàn Diên Khánh lẽ nào tha cho y sống để thành mầm họa sau này? Có điều Trấn Nam Vương thể nào cũng phải lên làm hoàng đế, dăm bữa cũng được, nửa tháng cũng hay, nhưng nhất định là phải qua sông thì mới chặt cầu, nếu không thì Đoàn Diên Khánh sẽ không khứng chịu.
Vương phu nhân nói:
- Hứ, y khứng chịu hay không khứng chịu thì có liên quan gì đến ta? Mình bắt được Đoàn Diên Khánh rồi, cứu Đoàn công tử xong thì trước hết chém cho y một dao, y còn chịu hay không chịu gì nữa?
Mộ Dung Phục thở dài một tiếng nói:
- Mợ vẫn còn quên một điều, chúng ta đã bắt được Đoàn Diên Khánh đâu, từ giờ tới lúc đó còn là một quãng dài.
Vương phu nhân hỏi:
- Y đang ở đâu, ngươi chắc phải biết rồi. Hảo sanh nhi, bụng dạ cháu thế nào mợ chẳng lẽ không biết hay sao? Ngươi giúp ta làm chuyện đó muốn ta đáp lại những gì? Thôi mình cứ hai năm rõ mười, mất lòng trước được lòng sau, muốn gì cứ nói trắng ra đi.
Mộ Dung Phục đáp:
- Mình là chỗ người nhà, cháu giúp mợ một chút đâu có dám đòi hỏi công lao gì? Sanh nhi cứ làm hết sức chẳng dám xin xỏ gì cả.
Vương phu nhân nói:
- Bây giờ ngươi không nói, sau này nếu đề cập đến mà ta không bằng lòng thì đừng có trách đấy nhé!
Mộ Dung Phục cười đáp:
- Cháu đã bảo không đòi hỏi công lao là không đòi hỏi gì cả. Nếu lúc đó nếu như mợ thấy vui lòng, thưởng cho vài vạn lạng vàng, hay cho vài bộ võ học bí điển trong Lang Hoàn Các, thế là quá đủ.
Vương phu nhân hừ một tiếng, nói:
- Ngươi cần tiền tiêu thì cứ đến nói với ta, có bao giờ ta lại không cho? Ngươi muốn xem võ học bí yếu trong Lang Hoàn Các, ta lúc nào cũng hoan nghênh. Chỉ buồn ngươi không lo chuyện chính đáng, lêu lổng chẳng màng chuyện tiến thân, ta thật không biết trong bụng ngươi tính toán những gì? Thôi được, làm sao bắt được Đoàn Diên Khánh, làm sao cứu người, ngươi sắp xếp ra sao?
Mộ Dung Phục đáp:
- Bước thứ nhất là dụ cho Đoàn Diên Khánh đem Trấn Nam Vương đến căn nhà gỗ trong đồng cỏ, có phải thế không?
Vương phu nhân hỏi:
- Đúng thế! Ngươi có cách nào dụ được Đoàn Diên Khánh không?
Mộ Dung Phục đáp:
- Chuyện này thật dễ dàng. Đoàn Diên Khánh muốn được làm hoàng đế Đại Lý, ắt phải làm được hai chuyện: Thứ nhất là bắt được Đoàn Chính Thuần ép cho ông ta phải nhường ngôi, thứ hai làgiết Đoàn Dự để cho Đoàn Chính Thuần trở thành “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.
Chuyện thứ nhất thì Đoàn Diên Khánh đã làm xong, bắt được Đoàn Chính Thuần rồi. Còn Đoàn Dự thì vẫn còn đây. Ta lấy một món gì của Đoàn Dự đem cho Đoàn Chính Thuần coi, Đoàn Chính Thuần thể nào cũng tìm cách cứu con, Đoàn Diên Khánh sẽ theo y đến. Việc mợ bắt được tên tiểu tử họ Đoàn kia đâu có gì là sai, chính là có việc dùng, không có mồi thơm làm sao bắt được con ba ba?
Vương phu nhân cười nói:
- Ngươi bảo tên tiểu tử họ Đoàn là cái mồi thơm à?
Mộ Dung Phục cũng cười đáp:
- Cháu xem chừng y nửa thơm nửa thối.
Vương phu nhân hỏi lại:
- Thế là sao?
Mộ Dung Phục đáp:
- Một nửa do Trấn Nam Vương sinh ra thì là thơm, còn một nửa do con tiện nhân Trấn Nam Vương phi thì là thối.
Vương phu nhân cười khanh khách nói:
- Ngươi quả là một tiểu tử mồm trơn như mỡ, biết cách làm cho ta vui lòng.
Mộ Dung Phục cười đáp:
- Thì chỉ mong sao ngựa đã hay lại ra roi mà chạy, làm xong sớm chừng nào thì mợ vui lòng chừng nấy. Xin mợ cho đem tiểu tử đó ra đây.
Vương phu nhân nói:
- Y bị túy nhân phong chích rồi, tối thiểu cũng phải ba ngày mới tỉnh lại được. Nếu không tiểu tử đó nhốt ở ngay vách bên kia mình nói lớn như thế y nghe được cả hay sao? Ta còn một chuyện nữa muốn hỏi ngươi, gã … gã Trấn Nam Vương kia tuy là kẻ vô lương tâm nhưng cũng là kẻ cứng cỏi, Đoàn Diên Khánh làm thế nào mà ép y nhường ngôi cho được? Không lẽ y lại hành hạ dày vò … khiến y phải khổ sở hay sao?
Bà ta nói tới đây giọng đầy vẻ lo lắng. Mộ Dung Phục thở dài một tiếng nói:
- Thưa mợ, chuyện đó việc gì còn phải hỏi, có nói ra chỉ làm cho mợ thêm bực mình.
Vương phu nhân hỏi dồn:
- Nói mau, nói mau, ngươi còn định trao đổi cái gì nữa đây?
Mộ Dung Phục thở dài:
- Nếu bảo gã họ Đoàn Đại Lý vô lương tâm, ấy là đúng lắm. Một người dung nhan như mợ, văn võ song toàn, đốt đèn kiếm khắp thiên hạ liệu có tìm được người thứ hai chăng? Không biết kiếp trước y tu thế nào mà lại được người như mợ chiếu cố đến, vậy mà không biết chung thủy một lòng, lại đi … ôi, trên đời này với những thứ sâu bọ không biết phải quấy như thế, có phúc không biết hưởng, Hằng Nga nơi cung nguyệt không yêu, lại màng đến con lợn nái vũng bùn lầy …
Vương phu nhân tức tối hỏi lại:
- Ngươi bảo là y … y … cái gã vô lương tâm kia, lại đèo bòng con đàn bà khác hay sao? Đứa nào thế? Đó là đứa nào?
Mộ Dung Phục đáp:
- Ối, cái thứ đàn bà hạ tiện liễu ngõ hoa tường, không đáng xách dép cho mợ kia, chỉ đáng là vợ con những thằng cha căng chú kiết, việc gì phải hạ mình bực tức với những đồ như thế.
Vương phu nhân nổi cơn tam bành, giơ tay đập bàn thình thình, quát tháo:
- Nói mau! Thằng khốn kiếp, nó bỏ ta về Đại Lý làm cái thứ vương gia gì gì thì ta không thèm trách. Y có sẵn vợ nhà, ta cũng không thèm trách, vì chưng lúc ta biết y thì hắn đã là chồng người khác rồi! Thế nhưng … thế nhưng … ngươi bảo y lại đi giăng dện với những con đàn bà khác, thế đó là đứa nào? Là đứa nào?
Đoàn Dự ở bên này thấy bà ta nổi cơn lôi đình, không khỏi phát sốt phát rét, nghĩ thầm: “Ngữ Yên ôn nhu hòa thuận bao nhiêu sao mà bà mẹ lại dữ dằn đến thế? Gia gia có thể chiều bà ta được, quả không phải dễ”. Chàng lại nghĩ ngay: “Sao những cựu tình nhân của cha ta người nào tính tình cũng kỳ quái, Tần a di sai con đến giết mẹ ta, Nguyễn a di thì sinh được A Tử muội muội, tính nết không chịu nổi, Cam a di đã lấy Chung Vạn Cừu rồi mà vẫn còn vương vấn gia gia. Bà vợ của Mã phó bang chủ Cái Bang thì khỏi nói. Ngay cả đến má má mình, bà nhất định không ở chung với cha ta, ra đạo quan bên ngoài thành làm đạo cô, dẫu Hoàng bá phụ, Hoàng bá mẫu khuyên lơn cũng không chịu. Ôi, sao cả mẹ mình mà cũng cá mè một lứa thế nhỉ?”.
Mộ Dung Phục nói:
- Thưa mợ, làm gì mà phải nổi cơn tam bành lên thế? Mợ nghỉ một lát, sanh nhi sẽ từ từ kể hết đầu đuôi.
Vương phu nhân nói:
- Ngươi chẳng nói thì ta cũng đoán ra rồi, có phải Đoàn Diên Khánh bắt được một con đàn bà đê tiện của tiểu tử họ Đoàn, ép y sau khi làm hoàng đế phải nhường ngôi, nếu không bằng lòng thì sẽ làm khó con tiện nhân, phải không nào? 
Tính khí gã tiểu tử họ Đoàn ta đã biết thừa. Người khác bức bách y làm gì, dù có dao kề cổ, y thà chết cũng không hạ mình, thế nhưng ai đụng vào kẻ y thương yêu thì việc gì cũng làm, đến mạng mình cũng chẳng coi vào đâu.
Hừ, thế con tiện nhân đó mặt mũi thế nào? Cái thứ hồ li tinh đó không biết dùng thủ đoạn gì để rù quến y? Nói mau, con đàn bà hư đốn đó là ai?
Mộ Dung Phục đáp:
- Thưa mợ, thôi cháu đành phải nói thôi, mong mợ bớt giận làm lành, thứ đàn bà đê tiện kia đâu phải chỉ một đứa mà thôi.
Vương phu nhân vừa ngạc nhiên vừa tức tối, bình một tiếng vỗ xuống bàn một cái thật mạnh nói:
- Cái gì? Không lẽ lại những hai đứa hay sao?
Mộ Dung Phục thở dài một tiếng u uẩn đáp:
- Đâu phải chỉ có hai.
Vương phu nhân càng lồng lộn lên:
- Cái gì? Chẳng lẽ y đi đường lại còn bạ đâu xâu đó, hoa hái đầy tay, một người chưa đủ lại phải hai ba hay sao?
Mộ Dung Phục lắc đầu ngán ngẩm:
- Trước mắt là phải đến bốn người đàn bà đi cùng với y. Thưa mợ, mợ việc gì mà phải giận cho nhọc người? Sau này y lên ngôi hoàng đế, tam cung lục viện muốn bao nhiêu mà chẳng được? Dẫu rằng Đại Lý là nước nhỏ, chẳng thể sánh được với Đại Tống, Đại Liêu, “hậu cung giai lệ” chẳng được ba nghìn thì cũng phải đến ba trăm.
Vương phu nhân gắt:
- Hừ hừ! Chính thế mà ta đâu có muốn y làm hoàng đế. Ngươi nói ta nghe bốn con tiện nữ đó là những đứa nào?
Đoàn Dự cũng thấy lạ lùng, chàng chỉ biết có Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc hai người đi theo phụ thân, sao nay lại có thêm hai bà nào nữa?
Chỉ nghe Mộ Dung Phục nói tiếp:
- Một người họ Tần, một người họ Nguyễn …
Vương phu nhân ngắt lời:
- Hừ, Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc, hai con hồ li tinh đó lại quấn lấy y.
Mộ Dung Phục tiếp:
- Còn một người đàn bà đã có chồng, nghe bọn họ gọi là Chung phu nhân, hình như là đi tìm con gái thì phải. Vị Chung phu nhân này giữ gìn khuôn phép lắm, không hề tỏ vẻ âu yếm Trấn Nam Vương, Trấn Nam Vương cũng lấy lễ đãi lại, có điều đầu mày cuối mắt mỗi khi gọi bà ta “Bảo Bảo, Bảo Bảo”, xem chừng cực kỳ thân mật.
Vương phu nhân lại bùng lên:
- Đó là con tiện nhân Cam Bảo Bảo, cái gì mà “lấy lễ đãi lại”? Chỉ vờ vịt vải thưa che mắt thánh, nếu quả thực giữ gìn khuôn phép thì tránh cho xa có được không, việc gì mà phải sán lại? Thế con tiện nữ thứ tư là ai?
Mộ Dung Phục đáp:
- Còn người thứ tư không phải tiện nữ tử, đó chính là nguyên phối chính thất của Trấn Nam Vương, tức là Trấn Nam Vương phi.
Cả Đoàn Dự lẫn Vương phu nhân đều sửng sốt. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao má má lại đến đó?” còn Vương phu nhân thì kêu lên một tiếng, hiển nhiên thật ngoài dự liệu. Mộ Dung Phục cười đáp:
- Mợ thấy lạ lắm chăng? Thực ra mợ thử nghĩ mà xem, chẳng có gì là lạ. Trấn Nam Vương rời Đại Lý hơn một năm nay chưa về, gái đẹp Trung Nguyên vô số, đã có những người xinh đẹp như mợ, lại thêm nào là Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc những con hồ li tinh, Trấn Nam Vương phi làm sao yên bụng được?
Vương phu nhân hừ một tiếng nói:
- Sao ngươi dám xếp ta chung một bầy với những con hồ li tinh? Bốn mụ đàn bà hiện nay cùng ở cạnh y ư?
Mộ Dung Phục cười nói:
- Xin mợ cứ yên tâm. Trên bãi Hồng Sa, bên bờ Song Phượng hai bên ác đấu một trận, Trấn Nam Vương hoàn toàn thất bại. Đoàn Diên Khánh một mẻ lưới vét sạch, cả nam lẫn nữ bị y điểm trúng huyệt đạo, bắt hết cả rồi. Đoàn Diên Khánh chỉ cốt đối phó với bọn Trấn Nam Vương, đâu có để ý đến sanh nhi náu ở một bên, nhìn thấy hết từ đầu chí cuối. Sanh nhi vội vàng hộc tốc chặn đầu trước một trăm dặm. Thưa mợ, 
việc không nên trì hoãn, một mặt mình bố trí mê dược và túy nhân phong, một mặt sai người đến dụ Đoàn Diên Khánh…
Chữ “Khánh” vừa nói xong, từ đằng xa có một giọng the thé cực kỳ khó nghe truyền đến:
- Ta đã đến đây rồi, chẳng cần phải dụ nữa, túy nhân phong và mê dược cứ việc bố trí đi.

__________________________
1- Hoa trà vùng Vân Nam (Điền là tên gọi tắt vùng Vân Nam, tức Đại Lý). Về mặt lịch sử thì đời Tống trở về trước, người Trung Hoa chưa biết nhiều về hoa trà Đại Lý, chỉ có đôi ba thi nhân làm thơ ca tụng. Phải đến đời Minh mới có sách vở viết về hoa trà (chúng tôi sẽ viết rõ về Hoa Trà Đại Lý trong một biên khảo riêng)
Hoa trà Đại Lý có khắp nơi, trong bảy mươi loại có hai giống to như mẫu đơn, sắc đỏ như lửa 2-chẳng khác gì ráng mây như gấm bao quanh mặt trời.
3-Cháu gọi bằng cậu hay mợ (khác họ, ngược với điệt là cháu gọi bằng cô hay chú cùng họ với mình)
4-Ở đây Kim Dung lại viết là Mỹ Nhân Trảo Phá Kiểm, người dịch để lại giống như chương 12
5- tiếng để gọi người có chức phận ở đây hàm ý mỉa mai

datlucky_way

27-07-2009 09:06 AM

Hồi 48(a) : VƯƠNG TÔN LẠC PHÁCH, CHẨM SINH TIÊU ĐẮCDƯƠNG CHI NGỌC LỘ 






Bấm vào đây để xem nội dung.




Một thân lưu lạc dãi dầu,
Nào đâu địa ngục nào đâu thiên đường.
Đâu là ngọc lộ cành dương,
Đâu là nước mắt mang mang bể sầu.
*
* *

T iếng nói đó ít ra cũng phải ngoài mươi trượng nhưng truyền vào tai Mộ Dung Phục và Vương phu nhân tưởng chỉ cách chưa đầy một thước. Hai người mặt tái đi, bên ngoài tiếng Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng cùng quát tháo, xông về phía có thanh âm. Mộ Dung Phục lẻn ra ngoài, dưới ánh trăng một bóng màu xanh lay động, tiếp theo một bóng màu xám, một bóng màu vàng từ bên cạnh lướt tới chính là Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can từ hai bên chia ra tấn công.
Đoàn Diên Khánh chống gậy xuống đất, trượng bên kia quét ngang điểm vào Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can, soẹt soẹt soẹt mấy cái, trong nháy mắt tung ra sát thủ liên tiếp. Đặng Bách Xuyên miễn cưỡng đối phó được, còn Công Dã Can chịu không nổi, liên tiếp lùi lại hai bước. Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác hai người cũng xông vào trợ chiến. Đoàn Diên Khánh tuy một mình đánh với bốn người nhưng vẫn ung dung, thế lấn lướt hẳn.
Mộ Dung Phục rút phắt trường kiếm đeo ngang hông, múa lên thành một vùng ánh sáng xanh đâm vào Đoàn Diên Khánh. Đoàn Diên Khánh bị năm người vây đánh, Mộ Dung Phục lại là một cao thủ hạng nhất nhưng trượng ảnh vẫn vù vù, ra chiêu cực kỳ lăng lệ.
Thuở Vương phu nhân và Đoàn Chính Thuần hai người ái tình nồng thắm, khi dạo nguyệt, lúc xem hoa, ngoài việc thề non hẹn biển cũng còn đàm luận võ công. Đoàn Chính Thuần cũng đã đem Nhất Dương Chỉ và kiếm pháp họ Đoàn các loại thí diễn cho tình nhân xem. Lúc này Vương phu nhân sử dụng chiêu thức chẳng khác gì Đoàn lang thuở nào, làm sao không khỏi thương tâm?
Bà nghĩ đến người tình hiện đã bị bắt, chắc cũng gần đâu đây, sao không nhân dịp này đi cứu chàng ra? Bà vừa toan ra ngoài đi tìm bỗng nghe Phong Ba Ác kêu rú lên một tiếng. Chỉ thấy y nằm lăn trên mặt đất, cương trượng trên tay Đoàn Diên Khánh còn cách y chừng một thước vạch qua vạch lại nhưng không tấn công vào chỗ yếu hại. Binh khí của bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên tấn công Đoàn Diên Khánh đều bị binh khí của y đánh bật ra. Tình thế đó hiển nhiên cho thấy nếu Đoàn Diên Khánh muốn lấy mạng Phong Ba Ác thật dễ như trở bàn tay nhưng tạm thời thủ hạ lưu tình đấy thôi.
Mộ Dung Phục nhảy lùi về sau kêu lên:
- Khoan đã!
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người cũng lùi lại. Mộ Dung Phục hỏi:
- Đoàn tiên sinh, đa tạ tiên sinh đã nới tay, hai chúng ta xưa nay không thù không oán, từ rày về sau, Cô Tô Mộ Dung cam chịu hạ phong.
Phong Ba Ác kêu lên:
- Họ Phong học nghệ không tinh xảo, một mạng này có đáng gì? Công tử gia đừng vì họ Phong mà phải chịu nước lép.
Đoàn Diên Khánh từ cổ họng phát ra một tiếng cười ú ớ nói:
- Họ Phong quả là một hảo hán tử.
Y vừa nói vừa rút trượng về. Phong Ba Ác dùng thế Lý Ngư Đả Đĩnh, vụt một cái tung người lên vung đơn đao chém thẳng xuống đầu Đoàn Diên Khánh, quát:
- Nếm một đao của ta.
Đoàn Diên Khánh hất trượng lên, cuốn lấy đơn đao. Phong Ba Ác thấy một lực đạo cực mạnh chấn động bàn tay, thanh đao tuột khỏi tay rồi hông đau nhói, đã bị đối phương điểm một gậy, hất ra ngoài hàng chục trượng. Tay trái Đoàn Diên Khánh hơi chếch xuống, nội lực từ cương trượng truyền xuống đơn đao, leng keng leng keng mấy tiếng đã gẫy thành hàng chục mảnh, đụng vào nhau bay tung tóe. Vương phu nhân, Mộ Dung Phục cả bọn kẻ nhảy lên, người hụp xuống tránh né, trong bụng ai nấy khiếp đảm.
Mộ Dung Phục vòng tay nói:
- Đoàn tiên sinh thần công cái thế, bội phục, bội phục! Chúng mình bây giờ đổi thù thành bạn, nên chăng?
Đoàn Diên Khánh nói:
- Ngươi vừa bảo là sẽ bố trí túy nhân phong để hại ta, bây giờ thấy không địch nổi nên nói nhũn, thế là có ý gì đây?
Mộ Dung Phục đáp:
- Nếu tiên sinh và tại hạ hai người nắm tay cùng mưu tính thì có lợi hơn nhiều. Diên Khánh thái tử, tiên sinh là đích hệ trữ quân của nước Đại Lý, ngôi báu bị người ta cướp mất, sao không tìm cách đoạt lại?
Đôi mắt quái đản của Đoàn Diên Khánh liếc nhìn y, lạnh lùng hỏi:
- Chuyện đó có liên can gì đến ngươi đâu?
Mộ Dung Phục nói:
- Nếu tiên sinh muốn làm hoàng đế Đại Lý thì không thể không nhờ tại hạ tương trợ.
Đoàn Diên Khánh cười khẩy nói:
- Ta không tin ngươi lại muốn giúp ta, e rằng trong bụng chỉ mong đâm ta một kiếm.
Mộ Dung Phục đáp:
- Tại hạ muốn giúp tiền bối lên ngôi hoàng đế Đại Lý, cũng là do tính toán cho mình nữa. Thứ nhất, tại hạ hận tên tiểu tử Đoàn Dự, trên núi Thiếu Thất ép cho tại hạ phải xấu hổ toan tự tận, khiến họ Mộ Dung không còn đất đứng trên giang hồ nên muốn giết gã đoạt lại hoàng vị cho tiền bối để rửa mối hận lòng. Thứ hai, tiền bối lên ngôi hoàng đế Đại Lý rồi, tại hạ cũng có việc nhờ giúp lại.
Đoàn Diên Khánh biết rõ Mộ Dung Phục là kẻ túc trí đa mưu, với mình chẳng có bụng tốt lành gì, nhưng nghe y nói thế, cũng phải tin đến bảy tám phần. Hôm trước trên núi Thiếu Thất, Đoàn Dự dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh cho Mộ Dung Phục không còn đường chống đỡ là chuyện chính mắt Đoàn Diên Khánh chứng kiến. Y nhớ lại chuyện cũ, trong bụng cực kỳ lo âu, tuy đã bắt được Đoàn Chính Thuần rồi nhưng biết mình không thể nào địch lại Đoàn Dự, nếu như hai bên đụng độ thì thể nào cũng bỏ mạng dưới kiếm khí vô hình của đối phương, cách đối phó duy nhất là đem tính mạng vợ chồng Đoàn Chính Thuần ra uy hiếp, rồi tìm cách chế ngự Đoàn Dự nhưng cũng không lấy gì làm chắc. Y bèn hỏi:
- Các hạ đã không phải là đối thủ của Đoàn Dự rồi thì lấy cách gì chế phục y?
Mộ Dung Phục ngượng ngập đáp:
- Sức không đánh nổi thì dùng mưu. Nói gì thì nói, miễn là tại hạ bắt được Đoàn Dự giao lại cho các hạ là xong.
Đoàn Diên Khánh mừng rỡ, chuyện y lo âu nhất là võ công Đoàn Dự quá cao siêu không sao địch nổi, nếu Mộ Dung Phục có thể bắt được y, ấy là trừ khử cho mình một mối họa cực lớn nhưng lại sợ Mộ Dung Phục chỉ khoác lác để lòe mình, không thể dễ dàng mắc hỡm y được liền nói:
- Ngươi bảo là bắt được Đoàn Dự, nói thế chẳng là không tưởng, khẩu thuyết vô bằng hay sao?
Mộ Dung Phục mỉm cười nói:
- Vị Vương phu nhân đây là cữu mẫu[1] của tại hạ, gã tiểu tử Đoàn Dự đã bị mợ tôi bắt được rồi. Bà ta đang định đem Đoàn Dự để đổi với các hạ một người, bọn tôi muốn dụ các hạ đến đây cũng vì lẽ đó.
Khi đó Vương phu nhân đã đưa mắt nhìn bốn bề để tìm xem Đoàn Chính Thuần ở chỗ nào, nghe Mộ Dung Phục nói thế vội vàng quay lại. Đoàn Diên Khánh cất tiếng eo éo từ trong bụng ra:
- Chẳng hay phu nhân định đổi lấy ai thế?
Vương phu nhân mặt đỏ lên, người mà bà ngày đêm nhung nhớ, lúc nào cũng nghĩ đến chính là Đoàn Chính Thuần, ngặt nỗi thân phận đàn bà góa mà lại công nhiên thổ lộ tâm sự với người ngoài thì không tiện, ngần ngại không biết phải trả lời sao. Mộ Dung Phục nói:
- Phụ thân của tiểu tử Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần, năm xưa đắc tội với mợ tôi, quả thực thù sâu như biển. Mợ tôi chỉ mong các hạ thuận cho một điều, sau khi được nhường ngôi vua Đại Lý thì giao lại Đoàn Chính Thuần, lúc đó lột da xẻ thịt, vạc dầu, nướng than tùy ý phu nhân định liệu.
Đoàn Diên Khánh cười ặc ặc nghĩ thầm: “Y nhường ngôi rồi, ta vốn định đem y ra xử tử, nay ngươi thay ta làm chuyện đó thì còn gì bằng”. Thế nhưng xem chừng chuyện này quá dễ dãi, e rằng bên trong có ngụy trá gì đây bèn hỏi:
- Mộ Dung công tử, ngươi bảo khi ta đăng cơ xong sẽ có chuyện nhờ ta giúp, không biết việc đó tại hạ có đủ sức không, xin nói ra trước, để khỏi sau này ta làm không xong, thành kẻ tiểu nhân vô tín nghĩa.
Mộ Dung Phục đáp:
- Đoàn điện hạ đã nói như thế càng làm cho tại hạ tin tưởng vạn phần. Chúng ta đã trao đổi với nhau một chuyện tày trời như thế này, việc trong tâm khảm của tại hạ lẽ nào còn dấu diếm điện hạ làm chi? Họ Mộ Dung ở Cô Tô là hậu duệ của hoàng tộc nước Đại Yên, liệt tổ liệt tông từng di huấn phải hết sức hưng phục cơ nghiệp. Tại hạ lực lượng đơn bạc, khó mà thành được đại sự. Đợi cho điện hạ chính vị ngôi vua Đại Lý rồi, Mộ Dung Phục mong được quốc chủ cho mượn một vạn binh, đầy đủ lương thực để dùng vào việc hưng phục Đại Yên.
Việc Mộ Dung Phục là hoàng duệ nước Đại Yên, khi Mộ Dung Bác ngăn trở việc y tự vẫn trên núi Thiếu Thất, Đoàn Diên Khánh ở ngoài nhìn vào đã đoán được bảy tám phần, nay lại nghe Mộ Dung Phục thổ lộ đại bí mật của mình, đủ biết trong lòng thành thực, nghĩ thầm: “Y muốn hưng phục Đại Yên thì phải cùng một lúc đối địch với cả Đại Tống, Đại Liêu. Nước Đại Lý ta đất hẹp người thưa, tự bảo vệ mình còn chưa xong, làm sao lại dám gây sự với các đại quốc? Huống chi ta vừa mới lên ngôi, nhân tâm chưa ổn định, lẽ đâu lại gây chuyện binh đao? Thôi được, bây giờ mình cứ giả vờ ưng thuận, đến lúc đó tính kế trừ y đi là xong, bụng người quân tử há lại nhỏ nhen, tâm kẻ trượng phu sao không độc địa?”. Y bèn đáp:
- Đại Lý nước nhỏ dân nghèo, một vạn binh e rằng khó mà cung đốn nổi, chỉ có thể có được năm nghìn thôi. Mong rằng một khi đại công cáo thành, Đại Yên, Đại Lý hai nước sẽ mãi mãi có tình hôn nhân huynh đệ.
Mộ Dung Phục phục xuống lạy một cái thật sâu, nhỏ lệ đáp:
- Mộ Dung Phục nếu khôi phục được cơ nghiệp tổ tông, đời đời thế thế sẽ làm bình phong cho Đại Lý, quyết không dám quên đại ân đại đức của bệ hạ.
Đoàn Diên Khánh thấy y đổi giọng gọi mình là “bệ hạ”, hết sức sung sướng, lại nghe y nói tới câu sau cùng giọng nghẹn ngào vô cùng thành khẩn, vội vàng đưa tay đỡ lên nói:
- Công tử bất tất đa lễ. Không biết tên tiểu tử Đoàn Dự nay ở đâu?
Mộ Dung Phục chưa kịp hồi đáp, Vương phu nhân đã tiến lên hai bước hỏi:
- Đoàn Chính Thuần gã kia bây giờ ở đâu?
Mộ Dung Phục nói:
- Xin bệ hạ dẫn các tùy tòng đến nhà cữu mẫu tại hạ nghỉ chân. Đoàn Dự dĩ nhiên đã trói sẵn dâng lên ngay lập tức.
Đoàn Diên Khánh vui mừng nói:
- Thế thì hay lắm.
Đột nhiên từ trong bụng y phát ra một tiếng rít rền rĩ. Vương phu nhân còn đang kinh ngạc đã nghe từ xa có tiếng chân dồn dập, lọc cọc, mấy chiếc xe lừa chạy đến. Chẳng bao lâu đã thấy bốn người cưỡi ngựa, áp tống ba cỗ xe từ đường cái chạy vào. Vương phu nhân nhún người nhảy tới, chắc mẩm Đoàn Chính Thuần ắt đang ở trong xe nên bồn chồn tiến tới mở ngay rèm che chiếc xe thứ nhất.
Đột nhiên một người mồm rộng mắt hí, đầu hói tai vểnh từ đâu đã nhảy ra chặn ngay trước mặt, cất tiếng eo éo quát lên:
- Làm gì thế?
Vương phu nhân giật mình nhảy ra ngoài, nhìn lại thấy gã xấu xí kia tay cầm roi, chính là người đánh xe. Đoàn Diên Khánh nói:
- Tam đệ, vị này là Vương phu nhân, tất cả chúng ta cùng đến trang viện của phu nhân nghỉ ngơi. Những người khách trong xe cũng đem theo luôn.
Người xa phu đó chính là Nam Hải Ngạc Thần. Rèm xe vén ra, một người uy nghi bước xuống. Vương phu nhân thấy ông ta dung nhan tiều tụy, mặc một chiếc áo bào nhăn nhúm, chính là Đoàn lang người không ngày nào bà không nghĩ đến, ngực nóng hổi, nước mắt ròng ròng, vội vàng tiến lên kêu khẽ:
- Đoàn … Đoàn … chàng … chàng khỏe chứ?
Đoàn Chính Thuần nghe tiếng kinh hãi hết sức, quay lại thấy Vương phu nhân, mặt liền biến sắc. Ông đi đến đâu cũng để lại những món nợ phong lưu, nhưngï chỉ có Vương phu nhân là gay go hơn hết. Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc thì cũng chỉ muốn ông bầu bạn sớm hôm là đủ mãn nguyện còn Vương phu nhân thì thật là đanh đá, xuất quyền động đao, nhất định ép ông phải về giết nguyên phối Đao Bạch Phượng để lấy bà ta làm vợ, chuyện đó Đoàn Chính Thuần làm sao thực hiện được? Bà ta làm dữ đến nỗi ông không thể công khai từ giã mà phải lén trốn đi, tưởng đã thoát nợ, ngờ đâu ngay lúc mình trong cơn quẫn bách lại gặp phải oan gia.
Đoàn Chính Thuần tuy không phải là kẻ chuyên nhất một mối tình nhưng được cái đối với ai cũng hết sức chân thành, qua cơn hoảng hốt, lập tức nghĩ ngay đến nguy nan của người tình cũ, vội vàng kêu lên:
- A La! Chạy cho mau! Lão già áo xanh đây là đại ác nhân, chớ để rơi vào tay y.
Ông nghiêng người, chắn giữa Đoàn Diên Khánh và Vương phu nhân, luôn mồm giục giã:
- Chạy mau! Chạy mau!
Thực ra ông đã bị Đoàn Diên Khánh điểm trúng trọng huyệt rồi, cử động cực kỳ khó khăn, còn hơi sức nào mà che chở cho Vương phu nhân?
Thế nhưng chỉ lên tiếng gọi “A La” đầy vẻ trìu mến chân thành, bao nhiêu oán hận trong lòng Vương phu nhân trong nháy mắt biến thành muôn vạn mối nhu tình, có điều trước mặt Đoàn Diên Khánh và Mộ Dung Phục không thể nào lộ ra được, lập tức cười khẩy một tiếng nói:
- Thật là tượng đất qua sông, mình chẳng lo được cho mình còn lo cho ai? Y là đại ác nhân, không lẽ ngươi là đại hảo nhân chăng?
Bà ta quay sang Đoàn Diên Khánh:
- Điện hạ, xin mời!
Đoàn Diên Khánh biết rõ tính nết Đoàn Chính Thuần, bây giờ nhìn cử động thần sắc của ông, rõ ràng đối với Vương phu nhân yêu thương nồng nàn nhưng Vương phu nhân lại đầy lòng oán hận, hẳn là yêu quá hóa thù, nghĩ thầm: “Hai người này có quan hệ với nhau không phải tầm thường, mình chớ có mắc hỡm của chúng”. Y tài cao mật lớn nên đâu có sợ hãi gì, ngang nhiên tiến vào trong nhà.
Đây là một tòa trang việc Vương phu nhân kiến tạo đặc biệt đễ bắt giữ Đoàn Chính Thuần, kiến trúc qui mô không phải nhỏ, vào bên trong là một tòa nhà lớn, trồng đầy hoa trà, dưới ánh trăng bóng hoa lung linh, cực kỳ nhã khiết.
Đoàn Chính Thuần thấy hoa trà bài trí giống hệt như khu vườn ở Mạn Đà Sơn Trang ngày nào hai người liền cành chắp cánh, trong lòng xót xa, nói khẽ:
- Thì ra … thì ra đây là nơi nàng ở.
Vương phu nhân cười nhạt đáp:
- Ngươi cũng nhận được ra sao?
Đoàn Chính Thuần nói:
- Sao lại không nhận ra. Ta chỉ tiếc năm xưa không cùng nàng ăn ở đến răng long đầu bạc ở Mạn Đà Sơn Trang …
Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc cũng dẫn hết tất cả những người bị bắt để trong hai cỗ xe kia vào trong nhà. Một cỗ xe là Đao Bạch Phượng, Chung phu nhân Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc bốn người đàn bà, còn một cỗ xe là bọn Phạm Hoa ba người công thần của Đại Lý, lại thêm Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi. Cả chín người đều bị Đoàn Diên Khánh điểm trúng trọng huyệt.
Thì ra Đoàn Chính Thuần phái Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần hộ tống Đoàn Dự sang Tây Hạ cầu thân rồi, chẳng bao lâu lại tiếp được sứ giả của Bảo Định Đế gửi sang đem chỉ dụ đòi ông ta phải về Đại Lý ngay tức khắc để đăng cơ tiếp vị, còn Bảo Định Đế định lên chùa Thiên Long xuất gia.
Hoàng thất nước Đại Lý sùng tín Phật pháp, những vì vua về già nhường ngôi đi tu rất nhiều, thành thử Đoàn Chính Thuần khi nhận được chỉ dụ trong lòng thương cảm nhưng cũng không lấy gì làm lạ, lập tức cùng Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc thủng thẳng xuôi nam, định sẽ bí mật sắp xếp cho hai bà ở một nơi trong thành Đại Lý, không cho vương phi Đao Bạch Phượng hay biết. Ngờ đâu Đao Bạch Phượng và Cam Bảo Bảo hai người trước sau lại đến. Đến khi nhân được tin báo của chư nữ cung Linh Thứu cảnh giác, nói là có kẻ đối đầu lợi hại đang giăng bẫy, khuyên Đoàn Chính Thuần gia tâm đề phòng.
Đoàn Chính Thuần cùng bọn Phạm Hoa thương nghị, ai nấy đều cho rằng kẻ “đối đầu lợi hại” kia ắt là Đoàn Diên Khánh chứ không còn ai, người này khó mà đối phó chi bằng tránh mặt là hơn nên lập tức chuyển đường qua hướng đông. Ông có ngờ đâu tin tức trên là do A Bích nghe được của thị tì Vương phu nhân, mà chỉ biết là Vương phu nhân đang giăng bẫy nhưng có biết đâu tuyệt nhiên không có ý làm hại Đoàn Chính Thuần.
Đoàn Chính Thuần đổi đường đi rồi, bao nhiêu những sắp xếp của Vương phu nhân đều trút lên đầu Đoàn Dự, còn Đoàn Chính Thuần thì lại đụng đầu Đoàn Diên Khánh. Ở nơi bãi Hồng Sa, bến Phượng Hoàng[2] hai bên đánh nhau, cả bọn Đoàn Chính Thuần bị thua to, Cổ Đốc Thành bị Nam Hải Ngạc Thần đánh văng xuống sông, chết mất xác những người còn lại đều bị Đoàn Diên Khánh điểm huyệt, giải về phương nam.
Mộ Dung Phục sai bọn Đặng Bách Xuyên bốn người canh gác ở bên ngoài, còn chính y ngang nhiên đóng vai chủ nhân, quát tháo tì bộc khoản đãi khách.
Vương phu nhân chăn chăm nhìn Đao Bạch Phượng, Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, thấy bốn người người nào cũng có nét yêu kiều xinh đẹp, tuy bản thân mình không kém cạnh gì nhưng gọi họ bằng những chữ “tao hồ ly”, “tiện nữ nhân” xem ra không ổn, cái cảnh “trông người mà nghĩ đến ta”, tự nhiên có lòng thương cảm.
Đoàn Dự ở vách bên kia thấy cả cha lẫn mẹ cùng rơi vào tay địch, trong bụng tuy có chút vui mừng nhưng không khỏi lo âu. Chỉ nghe Đoàn Diên Khánh nói:
- Vương phu nhân, để khi đại sự xong rồi, ta sẽ giao lại Đoàn Chính Thuần cho bà xử trí sao cũng được. Còn gã tiểu tử Đoàn Dự nay ở đâu?
Vương phu nhân vỗ tay ba tiếng, hai đứa thị tì liền chạy ra ngoài cửa, khom lưng chờ lệnh. Vương phu nhân nói:
- Đem tiểu tử họ Đoàn ra đây!
Đoàn Diên Khánh ngồi trên ghế, tay trái giữ vai Đoàn Chính Thuần. Y cực kỳ úy kỵ Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, lại sợ Vương phu nhân và Mộ Dung Phục dùng ngụy kế, đem Đoàn Dự ra đối phó với mình, hoặc giả Vương phu nhân và Mộ Dung Phục có thành ý nhưng Đoàn Dự võ công cao siêu, một khi thoát khốn thì không thể nào chế phục được nữa, nếu hờm sẵn trên vai Đoàn Chính Thuần thì Đoàn Dự nghĩ đến tình cha con không dám làm dữ.
Chỉ nghe tiếng chân người rầm rập, bốn đứa thị tì đỡ ngang người Đoàn Dự khiêng ra. Chàng tay chân đều bị trói chặt bằng gân bò, miệng lại nhét hạt dẻ, mắt bị che bằng vải đen, nhìn vào chẳng biết còn sống hay đã chết. Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng thất thanh kêu lên:
- Dự nhi!
Rồi toan xông ra đoạt con lại. Vương phu nhân giơ tay đẩy vào vai bà một cái, quát lên:
- Ta bảo ngồi xuống đây.
Đao Bạch Phượng bị điểm trọng huyệt rồi bao nhiêu lực khí mất hết, bị xô một cái, lập tức ngã phịch xuống ghế, không cử động gì được. Vương phu nhân nói:
- Tiểu tử này bị phục thuốc mê rồi, tuy không chết nhưng tri giác chưa khôi phục. Diên Khánh thái tử, ông xem lại xem có nhầm người khác không?
Đoàn Diên Khánh gật đầu:
- Đúng rồi!
Vương phu nhân vẫn tưởng đàn ong độc lợi hại có biết đâu Đoàn Dự đã ăn phải con mãng cổ chu cáp, chỉ hôn mê không lâu đã tỉnh lại, có điều bị trói chặt nên tỉnh hay không tỉnh thỉ cũng vậy thôi. Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:
- A La, nàng bắt Dự nhi làm gì thế? Y có đắc tội với nàng đâu.
Vương phu nhân hừ một tiếng không trả lời, bà không muốn để cho người khác thấy tấm lòng mình với Đoàn Chính Thuần, lại cũng không muốn nói đụng đến ông. Mộ Dung Phục sợ tình cảm cũ của Vương phu nhân khêu dậy làm hỏng đại sự liền nói:
- Sao lại không đắc tội với mợ ta? Y … dụ dỗ biểu muội Ngữ Yên, làm hoen ố tấm thân thanh bạch của nàng. Thưa mợ, tên tiểu tử này chết là đáng lắm, chẳng cần phải đợi y tỉnh lại …
Y nói chưa dứt câu, Đoàn Chính Thuần và Vương phu nhân cùng hoảng hốt kêu lên:
- Cái gì? Y … y và …
Đoàn Chính Thuần mặt tái nhợt, quay sang Vương phu nhân, hỏi nhỏ:
- Đứa con gái đó tên là Ngữ Yên ư? 
Tính nết Vương phu nhân vốn dĩ nóng nảy, trước nay chưa từng nín nhịn lâu như thế này bao giờ, không còn cách nào chế ngự được nữa, khóc òa lên, chu chéo:
- Cũng tại ông là đồ bạc bẽo vô lương tâm, hại đời tôi chưa đủ lại còn làm hại cả đời con gái ông. Ngữ Yên, Ngữ Yên … nó … nó chính là hòn máu của ông.
Bà quay lại giơ chân đá túi bụi lên người Đoàn Dự, miệng chửi:
- Cái con quỉ hiếu sắc thật không bằng cầm thú, đồ lãng tử táng tận lương tâm, đến em gái mình cũng không tha, ta … ta hận không thể băm vằm thứ súc vật như ngươi thành muôn ngàn mảnh.
Bà ta chân đá miệng kêu, người trong sảnh ai nấy kinh ngạc. Đao Bạch Phượng, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Nguyễn Tinh Trúc bốn người ai cũng biết tính hạnh của Đoàn Chính Thuần, lập tức hiểu ngay, biết rằng ông và Vương phu nhân kết mối tư tình, sinh được một đứa con gái đặt tên “Ngữ Yên”, ngờ đâu Đoàn Dự lại gắn bó với nàng. Tần Hồng Miên cũng nghĩ ngay đến con mình Mộc Uyển Thanh, Cam Bảo Bảo nghĩ đến Chung Linh, cùng cảm thấy vừa ngượng ngập, vừa hổ thẹn. Còn lại Đoàn Diên Khánh, Mộ Dung Phục cũng chỉ thoáng suy nghĩ đều hiểu ngay.
Tần Hồng Miên kêu lên:
- Con giặc cái kia, hôm trước hai mẹ con ta đến Cô Tô định giết con hồ li tinh mà mi trốn mất, sai binh tôm tướng cá ra chặn bọn ta. Tiếc rằng hôm đó ta không giết được mi, bây giờ còn đá được ai?
Vương phu nhân không để ý vẫn tiếp tục đá Đoàn Dự liên tiếp. Nam Hải Ngạc Thần thấy người nằm lăn dưới đất chính là sư phụ mình, vội đưa tay đẩy vào vai Vương phu nhân một cái, quát lên:
- Này, đây là sư phụ của ta. Mụ đá sư phụ ta thì có khác gì đá ta? Mụ chửi sư phụ ta là cầm thú thì có khác gì chửi ta là cầm thú? Mụ dữ dằn như thế, ta lại lách cách một tiếng, bẻ cái cổ trắng ngồn ngộn của mụ bây giờ.
Đoàn Diên Khánh quát:
- Nhạc lão tam, không được vô lễ với Vương phu nhân. Gã tiểu tử họ Đoàn là quân vô sỉ, hoa ngôn xảo ngữ đánh lừa bắt ngươi gọi bằng sư phụ để ngươi không còn mặt mũi nào mà nhìn anh em trên giang hồ, hôm nay chính là dịp trừ y đi. 
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
- Y chính hiệu mười mươi là sư phụ của ta chứ có lừa bịp gì đâu, sao lại giết y được?
Y vừa nói vừa đưa tay cởi sợi dây trói Đoàn Dự. Đoàn Diên Khánh nói:
- Lão tam, ngươi mau nghe lời ta, lấy ngạc chủy tiễn ra, cắt đầu tiểu tử này đi.
Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy đáp:
- Không được! Lão đại, hôm nay lão tam này không nghe lời đâu, nhất quyết phải cứu sư phụ mới được.
Vừa nói y vừa giựt mạnh, đứt ngay một sợi dây gân bò. Đoàn Diên Khánh hoảng hốt, nghĩ thầm nếu Đoàn Dự thoát thân, y sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm thì còn ai chống đỡ nổi, không những đại sự cũng hỏng mà tính mạng mình cũng chưa chắc đã còn, trong cơn gấp rút, vù một tiếng giơ trượng nhắm ngay lưng Nam Hải Ngạc Thần đâm ra, nội lực kèm theo, cây gậy lập tức xuyên qua ngực.
Nam Hải Ngạc Thần thấy lưng đau nhói, rồi một đầu gậy thò ra đằng trước ngực. Y nhất thời kinh ngạc, quay lại nhìn Đoàn Diên Khánh, ánh mắt đầy vẻ hồ nghi, không hiểu sao lão đại bất ngờ tung ra sát thủ với mình. Đoàn Diên Khánh vốn dĩ hung ác nên mới đứng đầu được Tứ Đại Ác Nhân, ra tay độc địa là dĩ nhiên, hai nữa vốn úy kỵ Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, sợ rằng Nam Hải Ngạc Thần cởi trói cho chàng thành thử tuy không có ý giết Nam Hải Ngạc Thần nhưng một trượng đâm ngay vào chỗ yếu hại.
Đoàn Diên Khánh nhìn ánh mắt của người nghĩa đệ, thoáng dâng lên một niềm hối tiếc, thấy mình quả là sai lầm nhưng chỉ gợn lên rồi qua ngay, tay phải rung một cái, rút cây gậy về quát lên:
- Lão tứ, đem y đi chôn. Người nào không nghe lời ta là thế đó.
Nam Hải Ngạc Thần kêu lên một tiếng nằm gục xuống, vết thương nơi ngực và lưng máu tuôn xối xả, đôi mắt trợn tròn, quả là chết không nhắm mắt. Vân Trung Hạc xách xác y chạy ra ngoài. Y với Nam Hải Ngạc Thần tuy cũng cùng trong Tứ Đại Ác Nhân nhưng xưa nay không hòa thuận, Nam Hải Ngạc Thần đã từng nhiều lần kỳ đà cản mũi, có điều võ công không bằng nên đành phải nhịn, bây giờ thấy Nam Hải Ngạc Thần bị lão đại giết y thấy cực kỳ hả hê.
Mọi người đều biết Nam Hải Ngạc Thần là đồng đảng của Đoàn Diên Khánh, thế mà chỉ một câu không hợp đã lấy mạng y rồi, hung ác tàn nhẫn, quả là trên đời khó gặp, ai nấy bàng hoàng.
Đoàn Dự thấy máu Nam Hải Ngạc Thần bắn tung tóe cả lên mặt mình, cổ mình, nghĩ đến mình tuy mang danh là sư phụ đã lâu nhưng chưa từng dạy y được điều gì cho ra hồn, thế nhưng y lại mấy lần cứu mình, hôm nay vì thầy mà bỏ mạng, trong lòng hết sức thương xót. Đoàn Diên Khánh cười khẩy nói:
- Theo ta thì sống, chống ta thì chết.
Y giơ trượng lên toan đâm vào ngực Đoàn Dự. Bỗng nghe tiếng đàn bà ngâm lên:
Chùa Thiên Long, cội bồ đề,
Ăn mày nhếch nhác cận kề Quan Âm.[3]
Đoàn Diên Khánh nghe thấy bốn chữ “Ngoài chùa Thiên Long”, cây gậy liền giữ lại không đâm xuống, nghe xong cả bốn câu, tay run run, từ từ rút về. Y quay lại, nhìn Đao Bạch Phượng, thấy ánh mắt bà ta dường như có trăm ngàn điều muốn nói, trong lòng chấn động, run run hỏi:
- Quan … Quan Thế Âm Bồ Tát …
Đao Bạch Phượng gật đầu, nói khẽ:
- Ngươi … ngươi có biết thằng bé này là ai không?
Đoàn Diên Khánh đầu óc quay cuồng, chỉ thấy một hình ảnh mơ hồ, tưởng chừng trở lại một đêm trăng tròn hơn hai mươi năm trước.
Hôm đó y từ Đông Hải trở về Đại Lý, đến bên ngoài chùa Thiên Long. Trên đường Hồ Quảng, Đoàn Diên Khánh bị kẻ thù vây đánh, tuy giết sạch được kẻ địch nhưng chính mình cũng bị trọng thương, gẫy hai chân, mặt mày bị hủy, cổ họng bị cắt một đao, không còn nói năng gì được nữa. Y trông không còn ra người, toàn thân ô uế, khắm khú, vết thương đầy ròi bọ, hàng chục con ruồi nhặng bay vần vũ chung quanh.
Y vốn dĩ là hoàng thái tử nước Đại Lý, khi trước phụ hoàng bị gian thần giết chết, trong cơn hỗn loạn chạy thoát được học thành võ công mới quay về. Đương kim hoàng đế Đại Lý Đoàn Chính Minh là anh họ nhưng đích thực ngôi vua phải là của y chứ không phải là Đoàn Chính Minh. Y biết rằng Đoàn Chính Minh thương dân, nhân từ rất được lòng bách tính, từ văn võ bách quan trong triều, đến sĩ tốt dân đen ai cũng hết lòng kính trọng nhà vua, không còn nhớ đến hoàng thái tử tiền triều, ví thử y công khai hiện thân ở Đại Lý, nếu có người nào muốn lập công với hoàng đế ắt sẽ giết y ngay. Y vốn dĩ võ nghệ cao cường, vạn người khôn địch nhưng lúc này đang bị trọng thương, đến một binh sĩ tầm thường cũng không địch nổi.
Y cố gắng lê lết đến được chùa Thiên Long chỉ còn một hi vọng cuối cùng là nhờ Khô Vinh đại sư chủ trì công đạo. Khô Vinh đại sư là một cao tăng hữu đạo, em ruột của cha y, chú họ của Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh. Chùa Thiên Long vốn dĩ là bình phong che chở cho họ Đoàn Đại Lý, bao nhiêu đời mỗi khi hoàng đế thoái vị vi tăng đều đến tu ở đây. Y không dám ra mặt tại thành Đại Lý mà phải đến chùa Thiên Long cầu kiến Khô Vinh đại sư trước.
Thế nhưng tri khách tăng chùa Thiên Long bảo là Khô Vinh đại sư đang tu khô thiền, nhập thất đã năm ngày, phải nửa tháng mười ngày nữa không biết đã xuất định chưa, mà dẫu có xuất định thì cũng không gặp người ngoài. Y hỏi Đoàn Diên Khánh có chuyện gì cần nhắn lại, hoặc muốn nhờ y bẩm với phương trượng không? Đối với một gã ăn mày hôi hám, người không ra người, quỉ không ra quỉ, tri khách tăng tiếp đãi như thế cũng là khách khí lắm rồi.
Thế nhưng Đoàn Diên Khánh làm sao dám thổ lộ thân phận mình? Y đành chống cùi chỏ xuống đất, lết ra được một gốc cây bồ đề bên cạnh chùa, đợi Khô Vinh đại sư, trong bụng nghĩ thầm: “Gã hòa thượng này bảo là Khô Vinh đại sư xuất định rồi cũng chưa chắc đã chịu tiếp người ngoài. Ta ở Đại Lý thêm giờ phút nào là nguy hiểm thêm phút ấy, nếu như bị ai nhận ra … liệu có lập tức bỏ chạy không?”.
Người y đang lên cơn sốt, những vết thương đau đớn khôn tả, lại ngứa ngáy, thực không sao chịu nổi, nghĩ thầm: “Ta chịu bao nhiêu dày vò hành hạ, làm sao qua nổi đây? Nếu mình không chết thì cũng nên tự tận cho xong”.
Y cố gượng đứng lên toan đập đầu vào gốc cây mà chết nhưng toàn thân không còn một chút hơi sức nào,vừa đói vừa khát, nằm gục xuống không muốn cử động, sống chẳng nổi mà chết cũng không xong.
Mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu, bỗng dưng y nhìn thấy một bóng người đàn bà mặc áo trắng toát từ trong đám sương mù từ từ đi đến …
Trong đám cây cỏ phủ một làn sương mỏng, người đàn bà kia tóc xõa xuống vai, chân bồng bềnh như không hề chấm đất. Khuôn mặt nàng ngược với ánh trăng mờ mờ ảo ảo nhìn không rõ nhưng dáng vẻ tú mỹ yêu kiều khiến Đoàn Diên Khánh kinh ngạc vô chừng. Y chỉ thấy bóng người đàn bà không khác gì nét đoan chính thanh khiết của Phật Quan Thế Âm, nghĩ thầm: “Thánh thiên tử có bách thần phù hộ. Nhất định đây là bồ tát hạ phàm đến cứu độ cho một chân mệnh đế vương lâm nạn. Nam mô Quan Thế Âm bồ tát cứu khổ cứu nạn, xin người giúp ta giành lại ngôi báu, trẫm nguyện sẽ tô tượng lập miếu, đời đời hương khói thờ phụng người”.
Người đàn bà chậm rãi đến gần. Đoàn Diên Khánh chỉ nhìn nghiêng thấy khuôn mặt trắng toát không một chút huyết sắc. Bỗng dưng nghe nàng lẩm bẩm: “Ta hết lòng hết dạ với ngươi, ngươi … ngươi lại chẳng coi ta vào đâu cứ hết người đàn bà này đến người đàn bà khác, những lời thề nguyền khi quì trước Phật điện đều quên sạch. Ta tha thứ cho ngươi đã bao lần, bây giờ không còn tha thứ cho ngươi được nữa. Ngươi đối với ta chẳng vào đâu, ta cũng chẳng coi ngươi ra gì. Ngươi phản bội ta để đi với người khác, ta cũng đi tìm người khác mà trao thân. Bọn người Hán các ngươi không coi đàn bà Bãi Di chúng ta vào đâu, khinh khi phụ rẫy, coi ta như chó như mèo, như bò như lợn, ta … ta nhất định phải báo thù, đàn bà Bãi Di ta cũng chẳng coi bọn người Hán các ngươi là người nữa”.
Giọng nàng hết sức khẽ, chỉ tự nói một mình nhưng trong ngữ khí chứa đầy vẻ tức tối. Đoàn Diên Khánh trong lòng nguội lạnh nghĩ thầm: “Hóa ra không phải Quan Âm bồ tát mà chỉ là một người đàn bà Bãi Di bị người Hán ruồng rẫy”.
Bãi Di là một chủng tộc lớn của Đại Lý, giống người này đàn bà phần lớn xinh đẹp, da dẻ trắng trẻo nhưng đàn ông thì yếu đuối, nhân số lại ít nên hay bị người Hán hiếp đáp. Người đàn bà kia đi càng lúc càng gần, Đoàn Diên Khánh chợt nghĩ: “Không phải rồi, người Bãi Di tuy con gái nổi tiếng là đẹp nhưng làm gì có ai trông như thần tiên thế này! Huống chi áo trên người dường như là lụa bạch, người Bãi Di lấy đâu ra quần áo tinh nhã như thế? Đây hẳn là bồ tát hóa thân, ta … ta không nên bỏ lỡ cơ hội”.
Y lúc đó ở vào tình trạng cận kề sống chết, cùng đường chỉ có bồ tát hiện ra thì mới giải thoát cho y khỏi khốn cảnh được thôi, ở vào tình trạng, thấy Phật bà càng lúc càng xa, hết sức nhỏm dậy định kêu lên:
- Xin bồ tát cứu tôi với!
Thế nhưng yết hầu đã đứt rồi nên chỉ tru lên được mấy tiếng u ú. Người đàn bà áo trắng thấy dưới gốc cây bồ đề có tiếng sột soạt, quay đầu lại, thấy trong đống đất cát có một vật gì người chẳng ra người, thú chẳng ra thú đang vùng vẫy, nhìn kỹ lại thấy đó là một gã ăn mày thối tha, thân thể đầy máu me thật kinh tởm. Nàng đến gần thêm chút nữa, nhìn kỹ thấy tên ăn mày đó trên đầu trên cổ, tay chân chỗ nào cũng đầy vết thương còn đang rỉ máu, ròi bọ lúc nhúc xông mùi gớm ghiếc.
Người đàn bà đó lúc này tấm lòng thù hận lên đến cực điểm, quyết ý báo thù cái tính trăng hoa của đức ông chồng, càng hết sức muốn làm cho mình trở nên nhơ nhớp. Nàng nhìn thấy gã ăn mày hình dạng ghê rợn như thế, lúc đầu cũng kinh hãi định bỏ chạy nhưng chợt nghĩ lại: “Ta định đi kiếm một người xấu xí nhất trần gian, ô uế không đâu bằng, ti tiện hết chỗ nói để trao thân cho y. Ngươi là vương gia, là đại tướng quân, đã vậy ta gần gũi với tên ăn mày cho biết”.
Nàng không nói một lời, từ từ cởi bỏ y phục, đến trước mặt Đoàn Diên Khánh, buông mình vào trong lòng y, đưa bàn tay trắng muốt như cánh sơn trà ra ôm lấy cổ …
Một đám mây lững lờ bay ngang, tưởng như Hằng Nga e thẹn nên vẫy vầng mây lại che cho mình để khỏi nhìn thấy tình cảnh kỳ quái của người đàn bà cao quí đem tấm thân kiều diễm như những cánh hoa kia trao cho một kẻ ăn mày người đầy máu me bê bết.
Bạch y nữ tử đi đã lâu rồi, Đoàn Diên Khánh vẫn mơ màng tưởng chừng trong giấc mộng, thật hay hư? Vì bản thân y thần trí mơ màng, hay là bồ tát giáng trần thực sự? Mũi y vẫn còn ngửi thấy mùi thơm dìu dịu từ thân hình người đàn bà áo trắng, nghiêng qua trên đất vẫn còn mấy chữ y dùng ngón tay vạch lên:
- Bà có phải là Quan Thế Âm Bồ Tát chăng?
Y viết mấy chữ đó hỏi nàng, vị bồ tát đó gật đầu. Đột nhiên mấy giọt nước nhỏ xuống bên cạnh những hàng chữ, đó là nước mắt của người đàn bà kia, hay là nước cam lồ của Phật bà rưới lên người y? Đoàn Diên Khánh từng nghe người ta kể rằng, Phật Quan Âm thường hiện thành nữ thân, phổ độ cho chúng sinh đang trầm luân trong bể khổ, là vị bồ tát từ bi hơn hết. Y nghĩ thầm: “Nhất định đây là Quan Thế Âm bồ tát hóa thân, đến điểm hóa cho ta, bảo ta đừng thất vọng. Ta không phải người thường, ta là chân mệnh thiên tử, nếu không sao lại gặp được Phật bà?”.
Đoàn Diên Khánh đang ở trong cảnh dở sống dở chết, đột nhiên được vị Quan Âm bồ tát tóc dài hiện ra an ủi, lập tức tinh thần phấn khởi, tin tưởng thiên mệnh đã đến với mình, ngày sau ắt lên ngôi báu, những nguy nan trước mắt thể nào cũng qua. Y trong lòng kiên định thấy một tia sáng lóe lên trước mặt, sáng hôm sau không còn hỏi xem Khô Vinh đại sư đã xuất định chưa, quì xuống gốc cây bồ đề lạy tạ ân đức của Phật Bà Quan Âm, bẻ hai cành cây làm nạng kẹp dưới nách lặng lẽ ra đi.
Y không dám ở trong địa giới Đại Lý mà xuống tận vùng hoang dã phương nam, dưỡng thương khỏi rồi, khổ luyện võ công gia truyền. Năm năm đầu tiên chỉ tập dùng trượng thay chân, đem công phu Nhất Dương Chỉ biến thành trượng pháp, lại luyện thêm năm năm nữa sau đó mới đến cùng Lưỡng Hồ, bao nhiêu kẻ thù giết sạch không còn một mống, thủ đoạn độc ác tàn nhẫn khiến ai nghe đến cũng phải rùng mình, thành thử dạt được danh hiệu”Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân”. Sau đó y thu dụng Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc ba người làm vây cánh. Y cũng đã mấy phen lẻn về Đại Lý, toan chuyện khôi phục nhưng lần nào cũng thấy Đoàn Chính Minh căn cơ vững chãi không thể nào lay chuyển nổi, nên đành ngậm đắng nuốt cay ra đi.
Lần sau cùng y cùng Hoàng Mi Tăng tỉ đấu nội lực, đã tưởng thắng thế, ngờ đâu tên tiểu tử Đoàn Dự nửa chừng xông lên phá đám, khiến y thất bại, xôi hỏng bỏng không. Lần này y đang định dùng trượng đâm chết Đoàn Dự để cho tuyệt dòng Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần, đột nhiên Đoàn phu nhân lại ngâm mấy câu thơ:
Chùa Thiên Long, cội bồ đề,
Ăn mày nhếch nhác cận kề Quan Âm.
Mấy câu đó tuy rất khẽ nhưng Đoàn Diên Khánh nghe rồi thật không khác gì sấm nổ giữa lúc trời quang. Y nhìn thần sắc Đoàn phu nhân, trong lòng tự hỏi: “Không lẽ … không lẽ … bà ta là vị Quan Âm bồ tát …”. Chỉ thấy Đao Bạch Phượng chậm rãi giơ tay lên cởi dây buộc, những sợi tóc mượt như tơ xõa xuống, trải dài trên vai, rủ trên mặt, chính là hình tượng của Phật Bà y gặp đêm nào ngoài chùa Thiên Long dưới cội bồ đề. Đoàn Diên Khánh không còn hoài nghi gì nữa: “Ta vẫn tưởng đấy là bồ tát, ai ngờ lại là Trấn Nam Vương phi”.
Thực ra hồi đó sau mấy ngày, thương thế đã bớt, cơn sốt qua đi, thần trí tỉnh táo lại, cũng đã biết người đàn bà áo trắng đêm đó trao thân cho mình chính là người chứ không phải bồ tát, nhưng y không muốn tâm nguyện của mình thành bọt nước trôi sông, nên vẫn cố tự nhủ lòng: “Đấy là bạch y Quan Âm, đấy là bạch y Quan Âm”.
Đến lúc này y đã rõ mọi chuyện, trong lòng lại nổi lên một nghi vấn thật to lớn: “Sao bà ta lại làm như thế? Sao bà ta lại biết được mình chính là gã ăn mày ô uế năm xưa?”. Y cúi đầu suy nghĩ, đột nhiên thấy mấy giọt nước nhỏ xuống, nghĩ đến năm nào, đây là lệ thủy hay là ngọc lộ dương chi?
Y ngẩng đầu nhìn lên, thấy Đoàn phu nhân nước mắt rưng rưng, bụng dạ chai đá của y bỗng dịu xuống, ú ớ hỏi:
- Bà muốn ta tha mạng cho con bà ư?
Đao Bạch Phượng lắc đầu, nói nhỏ:
- Trên cổ … cổ nó có đeo một kim bài nhỏ, khắc ngày giờ sinh.
Đoàn Diên Khánh ngạc nhiên:
- Bà không muốn ta tha mạng cho con bà mà lại bảo ta xem kim bài, thế là ý gì?
Từ lúc y hiểu rõ việc “Ngoài chùa Thiên Long, Dưới cội bồ đề” là thế nào rồi, trong lòng nẩy ra một mối cảm kích kính yêu Đoàn phu nhân nên giơ gậy lên giải huyệt cho bà trước, sau đó mới cúi xuống nhìn cổ Đoàn Dự, thấy chàng có đeo một sợi dây chuyền thật nhỏ, giơ tay cầm lấy dưới cùng là một kim bài hình chữ nhật, một bên khắc “Trường Mệnh Bách Tuế”, lật qua bên kia thấy khắc một hàng chữ nhỏ: “Đại Lý Bảo Định nhị niên Quí Hợi thập nhất nguyệt trấp tam nhật sinh”.[4]
Đoàn Diên Khánh thấy mấy chữ “Bảo Định nhị niên”, trong bụng thảng thốt: “Bảo Định năm thứ hai? Chính tháng hai năm đó ta bị người vây đánh trọng thương, đến ngoài chùa Thiên Long. Trời ơi! Y … y sinh tháng mười một, cách đó đúng mười tháng, không lẽ mười tháng hoài thai, y … y.. y chính là con của ta chăng?”.
Trên mặt y bị mấy vết thương gân cốt đứt đoạn, những kinh hãi ngạc nhiên không ai thấy được nhưng trong một thoáng mặt cũng tái đi, trong lòng hết sức khích động, quay lại nhìn Đoàn phu nhân, chỉ thấy bà lặng lẽ gật đầu, nói khẽ:
- Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Đoàn Diên Khánh cả đời chưa biết đến ái tình trai gái, nỗi vui nghi thất nghi gia, bây giờ biết được là mình có một đứa con trai, trong bụng sung sướng không thể nào hình dung cho hết, thấy trên đời này dù cho danh lợi vinh hoa, ngôi vua tước chúa cũng không quí bằng một đứa con, mừng mừng tủi tủi, muốn nhảy cẫng lên, keng một tiếng cương trượng đã tuột tay rơi xuống đất.
Y bỗng thấy đầu óc quay cuồng, tay trái không còn hơi sức, keng một tiếng nữa, cây gậy bên kia cũng rơi theo, trong lòng như có tiếng reo vang:
- Ta có một đứa con! Ta có một đứa con!
Y nhìn lại Đoàn Chính Thuần thấy ông ta ngơ ngác, hiển nhiên những câu của vợ mình hoàn toàn không hiểu gì cả. Đoàn Diên Khánh nhìn Đoàn Chính Thuần, lại nhìn Đoàn Dự, thấy một bên mặt vuông, một bên mặt trái soan, hai bên hoàn toàn không giống, trái lại hình mạo tuấn tú của Đoàn Dự so với mặt mũi mình lúc thanh niên xem ra lại giống đến bảy tám phần, trong lòng không còn hoài nghi gì nữa, thầm so sánh: “Dù ngươi có làm hoàng đế Đại Lý mà ta không được làm chăng nữa, thì cũng có đáng gì? Ta có con trai, ngươi không có”. Y thấy đầu óc đê mê, mắt nhòa đi nghĩ bụng: “Ta thật sung sướng không đâu cho hết”.
Bỗng nghe huỵch một tiếng, ai đó đã ngã ngay bên ngạch cửa, chính là Vân Trung Hạc. Đoàn Diên Khánh kinh hãi kêu thầm: “Hỏng rồi!”. Tay trái lăng không chộp ra, định dùng hư kình thu cây trượng về, ngờ đâu nội lực không thể nào vận lên được, chiếc gậy dưới đất không hề nhúc nhích. Đoàn Diên Khánh lại càng hoảng hốt nhưng bề ngoài vẫn làm ra vẻ thản nhiên, tay phải lại vận kình chộp ra nhưng không sao đề khí được, biết rằng trong lúc mình sơ ý đã trúng kế của người rồi.
Chỉ nghe Mộ Dung Phục nói:
- Đoàn điện hạ, bên phòng kia có người cần gặp, xin mời điện hạ di giá qua tiếp một chút.
Đoàn Diên Khánh đáp:
- Người đó là ai? Sao Mộ Dung công tử không đưa y qua đây?
Mộ Dung Phục nói:
- Y không thể nào cử động được, xin phiền điện hạ quá bộ một chút.
Chỉ nghe câu đó Đoàn Diên Khánh hiểu ngay, người lén dùng thuốc mê hại mình chính là Mộ Dung Phục chứ không ai. Y ngại mình võ công lợi hại, sợ dược lực không đủ không dám công nhiên trở mặt nên muốn mình cử động thử xem kình lực còn hay mất. Y cũng đã dè dặt đề phòng, từ khi bước vào nhà không hề uống qua một ngụm trà, cũng không ngửi thấy mùi gì khác lạ, sao lại trúng phải độc kế của y? Đoàn Diên Khánh nghĩ thầm: “Có lẽ khi mình nghe Đoàn phu nhân nói rồi, mừng quá nên nhãng ra không đề phòng chung quanh, nên bị y giở trò”. Y bèn thản nhiên nói:
- Mộ Dung công tử, họ Đoàn Đại Lý ta không giỏi dùng độc, ngươi phải dùng Nhất Dương Chỉ đối phó với ta mới phải.
Mộ Dung Phục mỉm cười nói:
- Đoàn điện hạ một đời anh kiệt, đâu có phải như những người thường? Món Bi Tô Thanh Phong của tại hạ trước đây lấy từ Tây Hạ, nhưng có thêm thắt ít nhiều nên khi sử dụng không bị cay chảy nước mắt. Đoàn điện hạ từng có tên trong Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, tại hạ dùng Bi Tô Thanh Phong để tiếp đãi, đâu có đến nỗi mất gia phong “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”.
Đoàn Diên Khánh ngầm kinh hãi, năm xưa cao thủ Nhất Phẩm Đường Tây Hạ dùng Bi Tô Thanh Phong làm cho vô số bang chúng Cái Bang hôn mê, tất cả bị bắt sạch, sau đó cả bọn luôn cả tướng quân Hách Liên Thiết Thụ, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc đều bị trúng độc, bị Cái Bang bắt trở lại, may nhờ mình đoạt được thuốc giải, cứu cả bọn ra. Khi đó trên tường có đề “dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”, kẻ sử dụng chất độc hiển nhiên là Cô Tô Mộ Dung, như thế trong tay Mộ Dung Phục hẳn là phải có độc dược nhưng vì chuyện đã lâu rồi nên y quên không nghĩ đến. Y chỉ còn trách mình sơ xẩy không lưu ý, nên nhắm mắt không trả lời, nghĩ cách đẩy chất độc ra khỏi người.
Mộ Dung Phục cười nói:
- Muốn giải chất độc Bi Tô Thanh Phong, vận công ngưng khí đều vô ích …
Câu nói chưa dứt, Vương phu nhân đã quát lên:
- Sao đến ta mà ngươi cũng hạ độc, mau đem thuốc giải ra đây.
Mộ Dung Phục đáp:
- Thưa mợ, sanh nhi đắc tội, một lát nữa sẽ đem thuốc giải ra cho mợ.
Vương phu nhân giận dữ hỏi lại:
- Cái gì mà lát nữa với không lát nữa? Mau mau đem thuốc giải cho ta.
Mộ Dung Phục đáp:
- Quả thật có lỗi với mợ, thuốc giải cháu lại không mang theo trong người.
Đoàn phu nhân Đao Bạch Phượng bị điểm trọng huyệt vốn dĩ đã được giải rồi nhưng chẳng bao lâu lại trúng Bi Tô Thanh Phong. Trong sảnh đường chỉ có Mộ Dung Phục đã dự bị sẵn hít thuốc giải trước và Đoàn Dự bách độc bất xâm là không bị trúng độc mà thôi. Thế nhưng Đoàn Dự thì đang bị dày vò, trong lòng đau khổ không sao kể xiết. Chàng đã nghe Vương phu nhân nói:
- Cũng tại ông là đồ bạc bẽo vô lương tâm, hại đời tôi chưa đủ lại còn làm hại cả đời con gái ông. Ngữ Yên, Ngữ Yên … nó … nó chính là hòn máu của ông.
Khi đó máu chàng dâng lên chặn lấy ngực, tưởng chừng như muốn ngất đi. Khi chàng còn ở vách bên kia nghe Mộ Dung Phục và Vương phu nhân kể chuyện tư tình giữa cha mình và bà ta, trong lòng chàng đã bồn chồn lo lắng, hết sức sợ hãi rồi đây Vương Ngữ Yên cũng lại như Mộc Uyển Thanh, cũng là một đứa em của mình. Đến khi chính miệng Vương phu nhân công khai nói trước mặt mọi người thì chàng còn hoài nghi gì nữa? Trong nháy mắt chàng thấy trời đất quay cuồng, nếu như chân tay không bị trói, miệng không bị chặn, ắt đã vùng vẫy đập đầu, kêu la ầm ỹ.
Chàng trong lòng đau khổ, thấy ngực như nghẹn lại, khí tức không sao vận chuyển được, chân tay lạnh ngắt càng lúc càng cứng đơ, hết sức sợ hãi: “Chết rồi, cái này chắc là tẩu hỏa nhập ma như bá phụ nói, nội công càng thâm hậu thì lúc bị càng hung hiểm. Ta … ta sao lại bị tẩu hỏa nhập ma nhỉ?”.
Chỉ thấy hơi lạnh trong giây lát đã chạy lên đến cùi chỏ, khoeo chân, Đoàn Dự lúc đầu sợ hãi nhưng lại nghĩ ngay: “Nếu như Ngữ Yên là anh em cùng cha với mình, mối tương tư của ta rồi cũng hóa ra bọt nước, sống trên đời có còn thú vị gì nữa đâu? Chi bằng tẩu hỏa nhập ma trong phút chốc trở thành tro bụi, vô tri thức để khỏi cả đời phiền não”.
Đoàn Diên Khánh vận nội tức ba lần nhưng đều chẳng đi đến đâu, ngực chỉ càng thêm trộn trạo nên đành không nói nửa lời, ngồi yên nhắm mắt. Mộ Dung Phục nói:
- Đoàn điện hạ, tại hạ tuy bỏ thuốc mê cho ông nhưng tuyệt nhiên không có ý gia hại, chỉ mong điện hạ đáp ứng một việc, tại hạ không những đem thuốc giải dâng lên mà còn khấu đầu bồi tội.
Lời y nói ra cực kỳ khiêm cung. Đoàn Diên Khánh cười khẩy nói:
- Họ Đoàn này sống đến hôm nay, bao nhiêu gió to sóng cả đã từng, đâu lại để người ta áp chế bức bách phải chịu bằng lòng hay sao?
Mộ Dung Phục nói:
- Tại hạ nào có dám áp chế bức bách điện hạ đâu? Ở đây có bao nhiêu người làm chứng, tại hạ bồi tội với điện hạ trước, sau đó mới cung kính cầu khẩn một việc.
Nói xong hai chân quỳ xuống, bình bình bình bình rập đầu bốn cái, bộ điệu cực kỳ cung thuận. Mọi người thấy Mộ Dung Phục đột nhiên hành đại lễ, ai nấy không khỏi ngạc nhiên. Y hiện đang khống chế toàn cục, chết sống mọi người đều do một mình y, dẫu y có theo nghĩa khí giang hồ, đối với một vị tiền bối như Đoàn Diên Khánh không muốn thất lễ thì cũng chỉ vái sâu một cái cũng đủ rồi, lẽ nào hạ mình quì xuống khấu đầu.
Đoàn Diên Khánh cũng không hiểu tại sao nhưng thấy y cung kính như thế, nỗi tức tối cũng giảm được vài phần nói:
- Người đời thường nói: “Lễ hạ ư nhân, tất hữu sở cầu”. Công tử hành đại lễ như thế, tại hạ quả không dám nhận, không biết công tử có điều gì sai bảo?
Trong ngôn ngữ đã có phần khách khí. Mộ Dung Phục đáp:
- Tâm nguyện của tại hạ, điện hạ vốn dĩ đã biết rồi. Thế nhưng muốn hưng phục Đại Yên, không phải một sớm một chiều mà xong. Vậy thì hôm nay tại hạ xin khuông phù điện hạ lên ngôi hoàng vị Đại Lý trước. Điện hạ không con không cái, xin điện hạ thu tại hạ làm nghĩa tử. Nếu hai người mình đồng tâm hợp lực để hoàn thành đại sự có phải là lưỡng toàn kỳ mỹ hay chăng?
Đoàn Diên Khánh nghe y nói “điện hạ không con không cái”, nhịn không nổi đưa mắt nhìn Đoàn phu nhân một cái, bốn mắt chạm nhau, trong chớp mắt mà như trao đổi muôn ngàn lời nói. Đoàn Diên Khánh cười ục ục nhưng không trả lời, nghĩ thầm: “Nếu ngươi nói câu đó trước đây một lúc thì đúng là “lưỡng toàn kỳ mỹ”. Thế nhưng lúc này ta đã biết ta có con trai, lẽ nào lại đem ngôi vua truyền cho ngươi?”.
Lại nghe Mộ Dung Phục nói tiếp:
- Giang sơn nhà Đại Tống vốn từ ở họ Sài nhà Hậu Chu. Năm xưa Chu Thái Tổ Quách Uy vô hậu nhận Sài Vinh làm con. Sài Thế Tông hùng tài đại lược, chỉnh đốn binh bị, dương danh nhà Hậu Chu. Họ Quách được hưởng huyết thực[5] biết bao nhiêu năm, trở thành một giai thoại cho đời sau. Chuyện đó xảy ra chưa lâu, xin điện hạ nhủ lòng xem xét.
Đoàn Diên Khánh nói:
- Có thực ngươi muốn ta thu làm nghĩa tử hay không?
Mộ Dung Phục đáp:
- Chính thế!
Đoàn Diên Khánh nghĩ thầm: “Hiện giờ ta trúng phải thuốc độc, chỉ còn nước miễn cưỡng chấp nhận, đến khi giải được độc tính rồi sẽ lập tức giết quách y đi”. Y bèn thản nhiên trả lời:
- Như thế thì ngươi phải đổi qua họ Đoàn chứ? Khi ngươi lên ngôi hoàng đế Đại Lý rồi thì hãy bỏ ý niệm hưng phục nước Yên đi. Họ Mộ Dung từ nay vô hậu, những chuyện đó ngươi có làm được không?
Y biết rõ Mộ Dung Phục đã có tính toán rồi, chỉ muốn một khi lên làm vua Đại Lý, trong vài năm sẽ gài người thân tín khắp nơi, giết sạch những người còn trung với họ Đoàn và những kẻ chống mình, khôi phục lại họ Mộ Dung, không chừng còn cải quốc hiệu Đại Lý là Đại Yên. Bây giờ sở dĩ hỏi y ba điều khó như thế, ấy là lấy tiến làm thoái, để y tin tưởng không nghi ngờ gì chứ nếu mình bằng lòng dễ dàng quá, y sẽ biết ngay là có ý xấu không thành thực.
Mộ Dung Phục trầm ngâm giây lát, trù trừ nói:
- Cái đó …
Thực ra y đã nghĩ đến việc sau này lên ngôi vua Đại Lý sẽ phải làm gì rồi, so với việc Đoàn Diên Khánh đòi hỏi cũng không khác lắm nhưng cũng biết nếu mình vội vàng bằng lòng ngay thì cũng lộ cái ý giả trá bất lương, nên cũng vờ vịt suy nghĩ rồi mới đáp:
- Tại hạ tuy không phải là kẻ vong bản bất hiếu, nhưng muốn thành đại sự không nên nề hà tiểu tiết, đã bái điện hạ làm cha thì phải trung với họ Đoàn, một lòng một dạ.
Đoàn Diên Khánh cười khằng khặc nói:
- Hay lắm, hay lắm! Lão phu phiêu bạt giang hồ, không vợ không con, không ngờ đến cuối cuộc đời lại có được một đứa con xứng ý, quả là thỏa nguyện bình sinh. Con ta trẻ tuổi anh tuấn, quả là sung sướng biết chừng nào. Trong đời ta thật không có chuyện gì sung sướng hơn. Có Phật Bà ở trên, đệ tử cảm kích đến rơi nước mắt, dù phải tan xương nát thịt cũng không báo đáp được một trong muôn vàn ân đức của bạch y Quan Thế Âm bồ tát.
Y trong lòng khích động, hai hàng lệ tuôn rơi trên hai gò má, cúi đầu chắp tay, chính là hướng về phía Đoàn phu nhân. Đao Bạch Phượng chậm rãi gật đầu, ánh mắt nhìn về đứa con đang nằm dưới đất.
Mấy câu đó của Đoàn Diên Khánh là nói về đứa con ruột của y Đoàn Dự, ngoại trừ Đoàn phu nhân ra, không ai hiểu ý tại ngôn ngoại thế nào. Mọi người thấy giọng chân thành cứ tưởng y thu nghĩa tử, tương lai sẽ truyền ngôi cho, nên không một ai nghi ngờ. Kẻ gọi là thiên hạ đệ nhất đại ác nhân rơi lệ trước mặt mọi người, quả là chưa từng nghe đến. Mộ Dung Phục mừng rỡ nói:
- Điện hạ là tiền bối anh hiệp trong võ lâm, một lời nói ra nặng như chín cái đỉnh, quyết không hối hận. Nghĩa phụ ở trên, hài nhi xin khấu đầu.
Hai gối khuỵu lại liền quì xuống.
Bỗng ngoài cửa có người lớn tiếng nói:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Việc này nhất định là không nên.
Cửa mở ra, một người hùng hổ tiến vào, chính là Bao Bất Đồng. Mộ Dung Phục đứng bật dậy, mặt hơi biến sắc, quay lại nói:
- Bao tam ca có chuyện gì muốn nói?
Bao Bất Đồng đáp:
- Công tử gia đường đường là hậu duệ của hoàng tộc họ Mộ Dung nhà Đại Yên, sao lại đổi thành họ Đoàn được? Đại nghiệp hưng phục nước Yên tuy gian nan vạn phần, nhưng chúng ta cũng đành cúc cung tận tụy, hết sức mà làm. Thành đại sự dĩ nhiên là tốt nhất, nhưng nếu không thành công thì cũng đường đường chính chính là hảo hán tử. 
Còn như công tử gia nếu như lạy kẻ người không ra người, quỉ không ra quỉ kia làm cha nuôi, dẫu mai sau có làm hoàng đế cũng chẳng vinh hạnh gì, huống chi một người họ Mộ Dung lên làm hoàng đế Đại Lý thì quả là khó càng thêm khó.
Mộ Dung Phục nghe y ăn nói vô lễ, trong lòng tức tối nhưng Bao Bất Đồng là người thân tín tâm phúc, cái khéo của dùng người là không nên nói thẳng vào mặt nên chỉ thản nhiên nói:
- Bao tam ca, có rất nhiều sự tình mà tam ca nhất thời chưa minh bạch, để sau này ta sẽ từ từ giải thích cho tam ca nghe.
Bao Bất Đồng lắc đầu:
- Sai bét rồi! Không phải vậy! Công tử gia, Bao Bất Đồng này tuy khù khờ thật nhưng dụng ý của công tử mười phần cũng đoán được một hai. Công tử định học Hàn Tín luồn trôn, tạm nhẫn nhịn cái nhục nhất thời, chờ mai này phi hoàng đằng đạt. Công tử nghĩ rằng hôm nay đổi qua họ Đoàn, đến khi chưởng ác đại quyền lúc đó quay lại họ Mộ Dung, thậm chí đến quốc hiệu Đại Lý cũng có thể đổi thành Đại Yên là khác, hoặc giả hưng binh chinh Tống phạt Liêu, khôi phục cương vực cũ của Yên quốc. 
Công tử gia, tuy chủ tâm của công tử có tốt thật nhưng nếu làm như thế, há chẳng thành kẻ bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, đâm thẹn với lòng, để cho thiên hạ mai mỉa. Theo thuộc hạ thì cái ngôi hoàng đế ấy cũng chẳng nên màng làm chi.
Mộ Dung Phục cực kỳ tức tối, lớn tiếng nói:
- Bao tam ca nói nặng nhỉ, ta có gì mà bảo là bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa?
Bao Bất Đồng đáp:
- Công tử đầu nhập Đại Lý, mai sau toan chuyện phản bạn, ấy là bất trung. Công tử bái Đoàn Diên Khánh làm cha ắt phải hiếu với họ Đoàn, đối với họ Mộ Dung là bất hiếu, còn như hiếu với họ Mộ Dung thì bất hiếu với họ Đoàn. Mai sau đại sát quần thần và người vô tội, ấy là bất nhân, công tử …
Y chưa nói dứt câu, đột nhiên nghe bộp một tiếng, sau lưng đã bị đánh một chưởng, rồi có tiếng Mộ Dung Phục lạnh lẽo nói:
- Còn ta mãi hữu cầu vinh, ấy là bất nghĩa chứ gì?
Chưởng đó y sử dụng âm nhu nội kình đến cực điểm, trúng ngay giữa hai đại huyệt Linh Đài, Chí Dương là một chưởng chí mạng. Bao Bất Đồng không thể ngờ vị công tử gia mình phù trợ từ bé đến giờ lại đột nhiên ra tay độc ác như thế, oa lên một tiếng hộc máu ngã lăn ra chết ngay.
Khi Bao Bất Đồng lên tiếng cãi lẫy với Mộ Dung Phục thì Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác đứng ở ngoài cửa lắng nghe, ai cũng thấy giọng lưỡi Bao Bất Đồng tuy có quá phận mình một chút nhưng đạo lý quả thực không sai, đột nhiên thấy Mộ Dung Phục đánh Bao Bất Đồng, ba người hoảng hốt vội xông ngay vào.
Phong Ba Ác ôm lấy Bao Bất Đồng gọi rối rít:
- Tam ca! Tam ca! Sao thế này?
Chỉ thấy từ trên má Bao Bất Đồng hai giọt lệ nhỏ xuống, đưa tay thăm mũi thì không còn thở nữa, biết y khi lâm tử đau lòng vô hạn. Phong Ba Ác khóc rống lên:
- Tam ca, có phải anh tắt thở rồi nhưng vẫn còn muốn hỏi công tử gia: “Vì cớ gì lại hạ độc thủ giết ta?”
Nói xong y quay đầu lại gườm gườm nhìn Mộ Dung Phục, ánh mắt đầy oán hận. Đặng Bách Xuyên lớn tiếng nói:
- Công tử gia, Bao tam đệ xưa nay vẫn thường hay cà khịa với người ngoài, công tử cũng đã biết rồi. Ví như y có nói năng hơi vô lễ, không biết trên dưới thì cũng chỉ nên trách cứ là đủ, lẽ nào lại hại mạng y?







____________________________
[1] Mợ, vợ của cậu mình
[2] Chương 47 viết là Song Phượng
[3] Thiên Long tự ngoại, Bồ đề thụ hạ. Hóa tử liệp thạp, Quan Âm trường phát.
[4] Sinh ngày 23 tháng 11 năm Quí Hợi, Bảo Định thứ hai nước Đại Lý tức năm 1083 theo chính sử.
[5] Nghĩa là được hưởng cúng tế của người ngoài không phải con cháu mình

datlucky_way

27-07-2009 12:52 PM

Hồi 48(b) : VƯƠNG TÔN LẠC PHÁCH, CHẨM SINH TIÊU ĐẮCDƯƠNG CHI NGỌC LỘ 





Bấm vào đây để xem nội dung.




Một thân lưu lạc dãi dầu,
Nào đâu địa ngục nào đâu thiên đường.
Đâu là ngọc lộ cành dương,
Đâu là nước mắt mang mang bể sầu.
*
* *

T hực ra Mộ Dung Phục bực tức chẳng phải vì Bao Bất Đồng nói năng vô lễ, mà là vì ghét y nói huỵch toẹt ra những gì mình mưu tính trong lòng. Nếu như thế Đoàn Diên Khánh ắt sẽ không chịu thu y làm con nuôi nữa, cũng chẳng truyền ngôi, mà dẫu lập y làm hoàng thái tử thì cũng bố trí tay chân khiến cho âm mưu khôi phục Đại Yên của y càng thêm khó, cái vương miện đã đến tận tay, lại theo gió bay lên trời thành thử trong khi gấp gáp, không thể không hạ độc thủ. Y nghe Phong Đặng hai người nói thế, nghĩ thầm: “Việc hôm nay tiến thoái lưỡng nan, đành phải đắc tội với Phong Đặng hai người chứ không thể để thái tử Diên Khánh có bụng nghi ngờ được”. Y bèn nói:
- Bao Bất Đồng ăn nói hỗn hào thì có đáng gì đâu? Y theo ta đã lâu năm, lẽ nào vì một vài câu cãi lẫy mà sát hại y cho đành? Có điều ta một dạ chí thành, bái Đoàn điện hạ làm cha, vậy mà y dám đâm thọc ly gián tình cha con, làm sao có thể dung tha được?
Phong Ba Ác dõng dạc nói:
- Đối với công tử gia, hơn một chục năm vào sinh ra tử của Bao Bất Đồng mà lại kém xa một Đoàn Diên Khánh ư?
Mộ Dung Phục đáp:
- Phong tứ ca chẳng nên nổi giận. Ta đổi qua họ Đoàn Đại Lý, ấy là toàn tâm toàn ý, không hề có bụng dạ nào khác. Bao tam lấy lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử, nên ta không thể không dùng trọng thủ.
Công Dã Can lạnh lùng nói:
- Công tử gia tâm ý đã quyết rồi, không còn thay đổi được nữa hay sao?
Mộ Dung Phục đáp:
- Đúng thế.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác người nọ nhìn người kia, cả ba một lòng, cùng gật đầu. Đặng Bách Xuyên dõng dạc nói:
- Công tử gia, bốn người chúng tôi tuy không kết bái thành huynh đệ nhưng cũng nguyện sống chết có nhau, tình như cốt nhục, công tử chắc cũng biết rồi.
Mộ Dung Phục nhướng đôi lông mày dài, lạnh lùng hỏi:
- Đặng đại ca muốn báo thù cho Bao tam ca chăng? Ba vị cứ cùng tiến lên, Mộ Dung Phục này há lại sợ hay sao?
Đặng Bách Xuyên thở dài một tiếng nói:
- Chúng tôi xưa nay vẫn là gia thần của nhà Mộ Dung, lẽ nào lại đám mạo phạm công tử gia? Người xưa có nói rằng: “Hợp nhau thì ở, không hợp thì đi”. Ba người chúng tôi không còn hầu hạ công tử được nữa. Quân tử tuyệt giao, bất xuất ác thanh, mong công tử gia tự lo cho mình được chu toàn.
Mộ Dung Phục thấy ba người định bỏ mình mà đi, nghĩ đến sau này về Đại Lý không còn ai là người tâm phúc, hành sự cực kỳ khó khăn, không thể không giữ họ lại. Y liền nói:
- Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Phong tứ ca, các vị biết ta là người như thế nào, trong tương lai nhất định không phản bội họ Đoàn, ta đối với ba người cũng không hẹp hòi, sao lại nỡ chia tay? Năm xưa gia phụ đối với các vị cũng không có gì sai quấy, ba vị cũng đã từng bằng lòng tận tâm kiệt lực giúp đỡ ta, nay dứt áo ra đi, chẳng phải là phản bội lại lời hứa năm xưa hay chăng?
Đặng Bách Xuyên mặt đanh lại nói:
- Công tử không đề cập đến lão tiên sinh thì chẳng nói làm gì, còn như nhắc đến lão tiên sinh thì việc nhận người ngoài làm cha, đổi họ phản quốc kia còn làm sao mà nhìn lão tiên sinh nữa? Chúng tôi quả đã từng lập thệ với lão tiên sinh, kiếp này nhất quyết tận tâm kiệt lực phò tá công tử khôi phục Đại Yên, quang đại thanh danh nhà Mộ Dung, chứ nào phải giúp công tử làm vẻ vang cho nước Đại Lý, quang đại thanh danh cho họ Đoàn?
Câu đó khiến cho Mộ Dung Phục mặt lúc thì tái nhợt, lúc lại trắng bệch không còn biết trả lời làm sao nữa. Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Phong Ba Ác ba người vái một cái rạp tận đất nói:
- Bái biệt công tử.
Phong Ba Ác vác xác Bao Bất Đồng lên vai, cả bọn xăm xăm đi ra không ngoái đầu lại nữa.
Mộ Dung Phục cười khẩy mấy tiếng, quay sang nói với Đoàn Diên Khánh:
- Nghĩa phụ minh giám, bốn người đó là gia thần của hài nhi, khuông phò đã lâu năm nhưng hài nhi vì trung với họ Đoàn Đại Lý mà chính tay giết một người, đuổi ba người đi. Hài nhi một thân một mình gia nhập Đại Lý đủ biết không hề nhị tâm, không có ý khác.
Đoàn Diên Khánh gật đầu đáp:
- Tốt, tốt! Hay lắm! 
Mộ Dung Phục nói:
- Vậy hài nhi giải độc cho nghĩa phụ.
Y đưa tay vào túi, lấy ra một chiếc bình sứ nhỏ, đang định đưa ra bỗng chợt nghĩ: “Ta giải độc Bi Tô Thanh Phong cho y rồi thì từ nay không còn thể nào uy hiếp cái gì được nữa, chỉ còn lấy lòng y, không dám làm gì trái ý. Y hận nhất là tiểu tử Đoàn Dự, chi bằng giết y trước”. Nghĩ thế bèn soẹt một tiếng, trường kiếm rút ra khỏi vỏ nói:
- Nghĩa phụ, công lao đầu tiên là giết tên tiểu tử này để cho tuyệt hậu tự của Đoàn Chính Thuần khiến y không thể không truyền ngôi cho nghĩa phụ.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngữ Yên nay biến thành em gái ta rồi, ta cũng chẳng muốn sống nữa, ngươi một kiếm giết ta thì tốt quá”. Một là chàng đang muốn chết quách cho xong, hai nữa khí tức đang tắc nghẹn, dẫu muốn kháng cự cũng không có hơi sức, đành vươn cổ chịu chém.
Đoàn Chính Thuần và những người kia thấy y vung kiếm qua phía Đoàn Dự, ai nấy thất sắc. Đoàn phu nhân kêu rú lên thảm thiết. Đoàn Diên Khánh vội nói:
- Hài nhi, lòng hiếu của con quả thực đáng khen. Thế nhưng tiểu tử này cực kỳ đáng ghét, đã nhiều lần đắc tội với cha. Bác hắn, cha hắn đoạt ngôi vua của ta hại ta toàn thân tàn phế, hình thể chẳng còn nguyên vẹn nên ta muốn chính tay giết tên tiểu tặc này thì mới phát tiết được nỗi hận trong tim.
Mộ Dung Phục đáp:
- Vâng!
Y xoay lại toan đưa kiếm cho Đoàn Diên Khánh nói:
- Chết thật, hài nhi quả là hồ đồ, phải giải độc cho nghĩa phụ trước mới phải.
Nói xong tra kiếm vào vỏ, lại lấy cái bình sứ ra, trong một thoáng y thấy ánh mắt Đoàn Diên Khánh lóe lên ra chiều đắc ý, dường như đưa mắt cho ai. Mộ Dung Phục nhìn theo thấy Đoàn phu nhân hơi gật đầu, vẻ mặt vừa cảm kích vừa mừng rỡ.
Mộ Dung Phục thấy thể nổi dạ nghi ngờ nhưng dẫu có nằm mơ cũng không bao giờ tưởng tượng được Đoàn Dự lại là con của Đoàn Diên Khánh và Đoàn phu nhân. Đoàn Diên Khánh thà phải bỏ mạng chứ nhất quyết không để ai làm hại đến đứa con yêu quí của y, ngay cả ngôi vua cũng chỉ là thân ngoại chi vật.
Thế nhưng Mộ Dung Phục lại nghĩ ngay: “Hay là Đoàn Diên Khánh và Đoàn Chính Thuần có cấu kết ngầm với nhau? Dẫu sao họ cũng cùng một nhà họ Đoàn Đại Lý, lại là anh em họ, người đời thường bảo sơ bất gián thân, anh em họ Đoàn có lý đâu lại coi một kẻ chẳng dây mơ rễ má gì như mình ở trong lòng?”. Thế nhưng y lại nghĩ: “Tình thế hôm nay, chỉ có nước lập một số đại công với Đoàn Diên Khánh để cho y thêm phần tin tưởng”. Y quay sang nói với Đoàn Chính Thuần:
- Trấn Nam Vương, ông về đến Đại Lý, trong bao lâu sẽ tiếp nhiệm ngôi vua, sau khi lên ngôi rồi, trong bao lâu sẽ truyền ngôi cho nghĩa phụ ta?
Đoàn Chính Thuần hết sức khinh bỉ gã này nên chỉ lạnh lùng nói:
- Hoàng huynh ta nội công thâm hậu, tinh lực dồi dào, ít ra cũng phải làm vua ba mươi năm nữa. Khi truyền ngôi cho ta rồi, ta cũng phải làm một thời gian để tạo phúc cho dân, ít naht cũng phải ba mươi năm. Sáu mươi năm sau, con ta Đoàn Dự cũng đã tám mươi, nếu như làm vua hai chục năm thôi thì cũng phải tám mươi năm nữa …
Mộ Dung Phục quát lên:
- Chỉ nói bá láp, ai mà đợi được lâu như thế? Ta kỳ hạn cho ngươi một tháng phải đăng cơ lên ngôi báu, sau một tháng nữa là phải nhường ngôi cho Diên Khánh thái tử.
Đoàn Chính Thuần đã hiểu rõ tình thế trước mắt, Mộ Dung Phục và Đoàn Diên Khánh muốn dùng mình làm cái thang để trèo lên ngôi vua Đại Lý, một khi truyền ngôi cho Đoàn Diên Khánh rồi bọn họ lập tức giết mình ngay. Thế nhưng lúc này thì họ chẳng dám, nếu như có kẻ địch tới làm hại mình thì bọn chúng còn hết sức bảo vệ, còn Đoàn Dự thì cực kỳ nguy ngập. Ông cất tiếng cười ha hả nói:
- Ngôi vua ta chỉ truyền cho con ta Dự nhi, nếu muốn ta truyền ngôi sớm thì cũng được còn bảo truyền ngôi cho người ngoài thì nhất định là không thể được.
Mộ Dung Phục giận dữ nói:
- Giỏi nhỉ, ta đâm cho tên tiểu tử Đoàn Dự một kiếm để xem ngươi có truyền ngôi cho cái hồn ma ấy được không?
Nói xong lại soẹt một tiếng rút kiếm ra khỏi bao. Đoàn Chính Thuần vẫn cười sằng sặc nói:
- Ngươi tưởng Đoàn Chính Thuần này là hạng người nào? Ngươi sát hại con ta, ta vẫn còn cam tâm để cho ngươi sắp xếp được hay sao? Ngươi muốn giết thì cứ giết, giết hết cả bọn ta đi.
Mộ Dung Phục nhất thời trù trừ chưa biết tính sao, lúc này muốn giết Đoàn Dự thì chỉ cất tay là xong, thế nhưng lại sợ Đoàn Chính Thuần hận y giết con mình, đến tính mệnh cũng chẳng màng, lúc đó đến việc Đoàn Diên Khánh lên ngôi vua cũng không xong. Đoàn Diên Khánh không thành hoàng đế, dĩ nhiên mình không thể nào đụng tới cái ngôi vua Đại Lý được. Y tay cầm trường kiếm, mũi kiếm thanh quang lấp lánh chiếu lên khuôn mặt trắng trẻo của y một màu xanh lục, nghiêng đầu nhìn Đoàn Diên Khánh chờ lệnh.
Đoàn Diên Khánh nói:
- Gã này tính khí quật cường, nếu vì chuyện này mà y tự tận thì bao nhiêu tâm kế của mình sẽ tan ra bọt nước. Thôi được, tên tiểu tử Đoàn Dự tạm thời chưa giết vội, y dẫu sao cũng trong tay cha con ta rồi, còn sợ y bay lên trời hay sao. Ngươi đưa thuốc giải cho ta rồi tính sau.
Mộ Dung Phục đáp:
- Vâng!
Y lại nghĩ: “Mới rồi Diên Khánh thái tử dưa mắt cho Đoàn phu nhân, không biết có dụng ý gì? Cái nghi vấn đó chưa hiểu rõ, mình chớ nên đưa thuốc giải cho y vội. Thế nhưng nếu mình vẫn diên trì ắt là y sẽ nổi nóng, vậy mình biết làm sao đây?”.
Ngay lúc đó Vương phu nhân đã kêu lên:
- Mộ Dung Phục, ngươi bảo đầu tiên sẽ giải độc cho ta, thế sao vừa mới lạy người ta làm cha thế là chỉ biết hết lòng hết dạ chiều chuộng tên xú bát quái đó. Ngươi không sợ ta đem những tiếng thô tục ra chửi y hay sao, cái đồ người không ra người …
Mộ Dung Phục nghe thế đâm chột dạ vội quay sang Đoàn Diên Khánh cười nịnh:
- Nghĩa phụ, cữu mẫu của hài nhi tính tình cương cường, nếu có ăn nói đắc tội đến lão nhân gia, xin cũng nới cho một hai … Để cho bà ta khỏi buông lời vô lễ, hài nhi giải độc cho cữu mẫu trước, sau đó lập tức hóa giải cho nghĩa phụ ngay.
Nói xong đưa chiếc bình để vào mũi Vương phu nhân. Vương phu nhân ngửi thấy một mùi hôi thối kinh khủng, tưởng chừng muốn mửa, đang toan chửi mắng bỗng thấy tứ chi kình lực dần dần khôi phục, đưa mắt nhìn Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân, cùng Tần Nguyễn Cam ba người đàn bà, máu ghen xông lên không còn chịu nổi, lớn tiếng nói:
- Phục nhi, mau mau giết hết bốn con đàn bà đê tiện này đi cho ta.
Mộ Dung Phục chợt nghĩ ra: “Cữu mẫu đã nói rằng Đoàn Chính Thuần tính tình cương cường, quyết không chịu cho ai uy hiếp, thế nhưng đối với vợ con, còn coi trọng hơn cả tính mạng mình. Sao mình không thử uy hiếp xem sao?”. Y bèn cầm kiếm đến trước mặt Nguyễn Tinh Trúc, quay lại hỏi Đoàn Chính Thuần:
- Trấn Nam Vương, mợ ta bảo giết mụ này, ý ông ra sao?
Đoàn Chính Thuần hết sức bối rối nhưng không biết làm sao, chỉ đành quay sang Vương phu nhân:
- A La, từ nay nàng muốn gì ở ta, ta sẽ làm vậy, mọi điều đều nghe theo nàng. Không lẽ nàng muốn hai ta kết một mối thù chung thân không cởi được? Nếu như nàng bảo người ta giết những người này, từ rày về sau ta còn yêu thương nàng được nữa sao?
Vương phu nhân tuy có máu ghen rất nặng nhưng nghe Đoàn Chính Thuần nói thế quả không sai, vì ông ruồng rẫy mình nên mười mấy năm qua thù hận tận xương tủy, đến nỗi khi gặp người Đại Lý họ Đoàn đều giết hết ngay, thế nhưng lúc này khi thấy mặt ông thì tình xưa ý cũ lại trỗi dậy, bèn nói:
- Hảo sanh nhi, khoan hãy động thủ, để ta tính lại xem sao.
Mộ Dung Phục nói:
- Trấn Nam Vương, chỉ cần ông bằng lòng truyền ngôi cho Diên Khánh thái tử, ta sẽ bảo toàn các chính phi trắc phi của ông, không để ai đụng đến một sợi lông măng.
Đoàn Chính Thuần cười khẩy mấy tiếng không thèm lý gì đến. Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Gã này nổi tiếng phong lưu, trên đời ai mà chẳng biết, quả là kẻ bất ái giang sơn, ái mỹ nhân. Nếu muốn y truyền ngôi thì phải dùng thủ đoạn đối phó với những người đàn bà của y mới xong”. Y giơ kiếm lên, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực Nguyễn Tinh Trúc nói:
- Trấn Nam Vương, ông là nam tử hán đại trượng phu, chỉ cần nói một lời là đủ. Nếu như ông gật đầu, tại hạ lập tức đem thuốc giải ra cho những người này, sau đó thiết yến tạ tội, hóa địch thành bạn, thế có phải là chuyện cực kỳ tốt đẹp không? Còn như ông không bằng lòng, kiếm ta sẽ đâm ngay xuống.
Đoàn Chính Thuần đưa mắt nhìn Nguyễn Tinh Trúc, thấy đôi mắt đẹp của bà ta lộ vẻ kinh hoàng, trong lòng hết sức thương xót, nghĩ thầm: “Ta có bằng lòng thì cũng chẳng hề chi, ngôi vua Đại Lý làm sao sánh bằng Trúc muội được? Thế nhưng gã gian tặc này muốn lấy lòng Diên Khánh thái tử ắt sẽ giết Dự nhi ngay lập tức”. Ông không đành lòng bèn quay đầu sang chỗ khác.
Mộ Dung Phục kêu lên:
- Ta đếm một, hai, ba nếu như ngươi không gật đầu thì đừng trách Mộ Dung Phục này thủ hạ vô tình.
Y dài giọng ra đếm:
- Một … hai …
Đoàn Chính Thuần quay lại nhìn Nguyễn Tinh Trúc, trên mặt đầy vẻ trìu mến nhưng không biết làm sao hơn. Mộ Dung Phục đếm tiếp:
- Ba … Trấn Nam Vương, ngươi nhất định không chịu ư?
Đoàn Chính Thuần đang mơ màng nghĩ đến khi ông và Nguyễn Tinh Trúc hai người mới gặp nhau, đôi bên quấn quít, đột nhiên bên tai nghe một tiếng rú lên thảm thiết, trường kiếm của Mộ Dung Phục đã đâm suốt qua ngực nàng.
Vương phu nhân thấy các bắp thịt trên mặt Đoàn Chính Thuần giựt giựt đủ biết ông đau lòng đến chừng nào, dẫu nhát kiếm đó có đâm qua người ông cũng còn dễ chịu hơn, kêu lên:
- Mau, mau cứu sống lại, ta có bảo ngươi giết nó đâu, chỉ cốt uy hiếp gã vô lương tâm kia đấy thôi?
Mộ Dung Phục lắc đầu nghĩ thầm: “Đằng nào thì ta cũng kết thù chuốc oán rồi, giết hơn một người, kém một người cũng có khác gì đâu?”. Mũi kiếm y chỉ sang Tần Hồng Miên, quát lên:
- Trấn Nam Vương, uổng cho cái tiếng giang hồ khen ngươi là đa tình đa nghĩa, vậy mà không dám nói lên một tiếng để cứu tình nhân. Một, hai, ba.
Tiếng “ba” vừa dứt, nghe soẹt một tiếng lại giết luôn Tần Hồng Miên. Đến lúc đó Cam Bảo Bảo sợ đến mặt tái mét không còn giọt máu nhưng cố gắng trấn tĩnh lớn tiếng nói:
- Ngươi muốn giết thì cứ giết, việc gì phải uy hiếp Trấn Nam Vương. Ta là vợ của Chung Vạn Cừu, có liên hệ gì đến Trấn Nam Vương đâu? Ngươi chớ có làm điếm nhục thanh danh của Chung gia Vạn Cừu Cốc.
Mộ Dung Phục cười khẩy một tiếng đáp:
- Ai chẳng biết Đoàn Chính Thuần hoa hái đầy tay, khuê nữ cũng tốt, sương phụ cũng hay, gái có chồng cũng được, bé chẳng tha già chẳng thương.
Y vừa hỏi mấy câu lại giết luôn Cam Bảo Bảo. Vương phu nhân trong lòng không biết tính sao, tuy bình thời giết người không nháy mắt nhưng thấy Mộ Dung Phục chỉ trong khoảnh khắc đã giết chết ba người tình nhân của Đoàn Chính Thuần, tim không khỏi đập thình thình, đâu còn dám nhìn Đoàn Chính Thuần nữa, không hiểu giờ này khuôn mặt ông ra thế nào.
Bỗng nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói:
- A La, nàng cùng ta một thời thân ái, sao chưa hiểu được lòng ta? Trong biết bao nhiêu đàn bà ở thế gian này, ta lúc nào cũng chỉ yêu một mình nàng thôi. Dẫu cho hoa hái đầy tay nhưng cũng chỉ là để mua vui trong chốc lát, có để tâm đến ai đâu! Ngoại sanh nàng giết ba người tình của ta cũng có đáng gì, miễn là y đừng đụng đến nàng là ta yên tâm.
Mấy câu đó ông nói hết sức ngọt ngào nhưng Vương phu nhân nghe vào tai lại cực kỳ sợ hãi, biết rằng Đoàn Chính Thuần hận mình biềt chừng nào, muốn dụ cho Mộ Dung Phục giết bà ta, kêu lên:
- Hảo sanh nhi, ngươi chớ có tin lời y.
Mộ Dung Phục bán tín bán nghi, trường kiếm tự nhiên quay sang chỉ vào ngực Vương phu nhân, máu ròng ròng nhỏ xuống vạt áo. Vương phu nhân biết Mộ Dung Phục thủ đoạn độc ác, để thỏa nguyện được lên làm vua thì có còn nghĩ gì đến tình mợ cháu nữa? Chỉ cần Đoàn Chính Thuần tiếp tục nói thêm mấy câu trìu mến, ắt y sẽ dùng tính mạng mình để uy hiếp, run run u oán nói:
- Đoàn lang, Đoàn lang! Không lẽ chàng hận thiếp đến như thế, không giết được thiếp thì không xong ư?
Đoàn Chính Thuần thấy ánh mắt Vương phu nhân khiếp sợ, khuôn mặt đầy vẻ xót xa, nhớ lại mối ân tình năm xưa, cảm thấy mềm lòng, cất tiếng chửi:
- Ngươi là đồ đàn bà đê tiện, vẫn còn cái tính ghen lồng ghen lộn năm nào, bụng dạ nhỏ nhen để đến nỗi ba người đàn bà ta yêu thương phải chết đau chết đớn, chân tay ta mà được tự do thì nhất quyết sẽ băm vằm ngươi ra. Mộ Dung Phục, mau mau đâm một nhát, sao không giết con mụ khốn kiếp kia đi?
Ông biết càng chửi nặng chừng nào thì Mộ Dung Phục lại càng không muốn giết Vương phu nhân. Vương phu nhân trong lòng minh bạch, lúc đầu Đoàn Chính Thuần giả vờ yêu thương bà hết mực cốt là để xúi cho Mộ Dung Phục giết mình, báo thù cho Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, bây giờ đổi qua mắng mỏ, thế là đã tha thứ rồi. Thế nhưng mười mấy năm qua, bà vẫn thường ngày đêm thương nhớ Đoàn Chính Thuần, hôm nay mới được gặp lại tình lang, trong lòng hết sức rối ren, nhìn trước mắt ba người đàn bà chết trên mặt đất, mũi kiếm đầy máu chỉ vào ngực mình, đầu óc không khỏi hoang mang. Đến khi nghe Đoàn Chính Thuần buông lời rủa xả, nào là “đàn bà đê tiện”, nào là “mụ khốn kiếp”, so với những lời thề non hẹn biển, nưng như nưng trứng, hứng như hứng hoa năm xưa thật một trời một vực, nhịn không nổi giọt châu lã chã, nghẹn ngào nói:
- Đoàn lang, năm xưa chàng đã nói thế nào, bây giờ không còn nhớ gì nữa sao? Sao chàng không còn nghĩ gì đến thiếp? Đoàn lang, thiếp một lòng một dạ thương yêu chàng, chúng mình xa cách bao năm, đâu có dễ gì gặp lại, chàng … chàng lẽ nào chẳng nói với em được một lời yêu thương? Em sinh cho chàng đứa con gái Ngữ Yên, chàng đã gặp nó chưa? Chàng có thích nó không?
Đoàn Chính Thuần thầm kinh hãi: “A La hẳn là đầu óc mê muội mất rồi, nếu như ta nói một câu nhắc đến tình yêu cũ thì nàng còn sống sao nổi?”. Ông lập tức hầm hầm quát mắng:
- Ngươi làm chết ba người ta yêu thương, ta hận ngươi tận xương tủy. Tình cảm giữa hai chúng ta, mười mấy năm trước đã cắt đứt rồi, tình đoạn nghĩa tuyệt, bây giờ chỉ hận không được đá cho mi mấy cái cho hả mối thù đấy thôi.
Vương phu nhân khóc òa lên:
- Đoàn lang! Đoàn lang!
Đột nhiên bà lao người tới, đâm thẳng vào mũi kiếm trước mặt. Mộ Dung Phục nhất thời không biết nên rút kiếm hay không, chỉ hơi ngần ngừ một chút thì trường kiếm đã đâm suốt qua ngực Vương phu nhân. Mộ Dung Phục vội rút kiếm về, máu tươi vọt ra như suối.
Vương phu nhân run rẩy hỏi:
- Đoàn lang! Quả thực chàng hận em đến thế sao?
Đoàn Chính Thuần thấy mũi kiếm đâm trúng chỗ yếu hại, biết bà ta không thể nào sốngn ổi, nhịn không nổi nước mắt tuôn rơi trên hai gò má, nghẹn ngào đáp:
- A La, ta chửi nàng như thế, chẳng qua chỉ mong cứu được nàng. Hôm nay mình gặp lại nhau, ta sung sướng không biết đâu mà kể, lẽ nào lại hận nàng? Lòng ta đối với em mãi mãi như ngày nào hái tặng cho nhau một đóa mạn đà hoa.
Vương phu nhân khóe miệng nhếch một nụ cười, thều thào:
- Nếu thế thì hay lắm, thiếp vẫn … vẫn biết trong lòng chàng, mãi mãi có hình bóng em, không bao giờ quên em. Lòng em cũng thế, mãi mãi chỉ yêu chàng … chàng đã từng bằng lòng, hai đứa sẽ cùng nhau lên núi Vô Lượng ở Đại Lý, đến thạch động hồi nhỏ em ở với mẹ em, hai đứa mình chung sống bên nhau không bao giờ ra ngoài nữa. Chàng có nhớ không?
Đoàn Chính Thuần đáp:
- A La, dĩ nhiên ta nhớ chứ, chúng mình mai sẽ đi ngay, đi xem pho ngọc tượng của mẹ em.
Vương phu nhân vẻ mặt sáng bừng lên, nói khẽ:
- Vậy … vậy thì hay lắm … Trên thạch bích, có bóng một thanh bảo kiếm, xanh xanh đỏ đỏ, đẹp ơi là đẹp. Chàng xem kìa, xem kìa, chàng có thấy không …
Tiếng nói bà ta nhỏ dần, đầu ngoẹo đi, tắt thở. Mộ Dung Phục lạnh lùng nói:
- Trấn Nam Vương, bao nhiêu tình nhân của ông, đều vì ông mà chết cả rồi, không lẽ cuối cùng cả nguyên phối vương phi, cũng muốn để cho chết hay sao?
Nói xong y chậm rãi chỉ mũi kiếm vào ngực Đoàn phu nhân. Đoàn Dự nằm dưới đất, tai nghe thấy Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Vương phu nhân từng người chết dưới kiếm của Mộ Dung Phục, Vương phu nhân nói đến thạch động nơi Vô Lượng sơn, đến tượng ngọc, đến kiếm ảnh trên vách đá, tuy có nghe vào tai nhưng không còn thời giờ đâu mà suy nghĩ, đến lúc Mộ Dung Phục lại đem tính mạng mẹ chàng ra uy hiếp phụ thân, khiến chàng nóng như lửa đốt, nhịn không nổi kêu lên:
- Không được giết mẹ ta! Không được giết mẹ ta!
Thế nhưng miệng chàng đã bị nhét hạt dẻ, không phát xuất ra được tiếng nào, chỉ đành cố gắng vùng vẫy nhưng toàn thân nội tức bị bế tắc, đến cục cựa một chút cũng không được. Chỉ nghe Mộ Dung Phục gay gắt nói:
- Trấn Nam Vương, ta lại đếm một, hai, ba nếu như ngươi không chịu nhường ngôi cho thái tử Diên Khánh thì vương phi của ngươi ta cũng giết ngay.
Đoàn Dự kêu to:
- Đừng giết mẹ ta.
Văng vẳng có tiếng Đoàn Diên Khánh nói:
- Khoan đã chớ có động thủ, việc này cần phải tính kỹ xem sao.
Mộ Dung Phục đáp:
- Nghĩa phụ, việc này can hệ rất lớn, nếu như Trấn Nam Vương không chịu truyền ngôi cho cha thì bao nhiêu tính toán của mình đều ra sông ra biển. Một…
Đoàn Chính Thuần nói:
- Nếu ngươi muốn ta bằng lòng thì phải làm cho ta một việc.
Mộ Dung Phục hỏi:
- Bằng lòng thì bằng lòng, không bằng lòng thì không bằng lòng, ta không để mắc kế hoãn binh của ngươi đâu. Hai … Sao đây?
Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:
- Ta một đời làm nhiều tội nghiệt, tất cả cùng chết một lượt thì cũng đúng thôi.
Mộ Dung Phục hỏi:
- Thế có nghĩa là ngươi không bằng lòng? Ba …
Mộ Dung Phục đếm đến tiếng thứ ba, thấy Đoàn Chính Thuần quay mặt đi nơi khác không nhìn nữa, đang định đâm vào ngực Đoàn phu nhân thì nghe Đoàn Diên Khánh quát lên:
- Khoan đã!
Mộ Dung Phục hơi ngần ngừ, quay sang nhìn Đoàn Diên Khánh, đột nhiên thấy Đoàn Dự từ dưới đất nhảy bật lên, lấy đầu húc vào bụng dưới mình. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh được, hết sức kinh ngạc: “Tên tiểu tử này đã bị Túy Nhân Phong chích rồi, lại thêm trúng độc Bi Tô Thanh Phong, hai món đó càng làm thêm mê man, sao lại nhảy lên được nhỉ?”.
Thì ra lúc đầu Đoàn Dự nghĩ đến chuyện Vương Ngữ Yên lại chính là em gái mình, trong lòng sầu khổ, nội tức đi vào đường rẽ, đến khi thấy Mộ Dung Phục định giết mẫu thân chàng, lập tức chẳng còn nghĩ gì đến tình nhân nữa, cũng chẳng cần biết mình có bị tẩu hỏa nhập ma hay không, nội tức lại tự nhiên quay về chính đạo. 
Phàm người tu tập nội công thì phải nghĩ đến việc dẫn nội tức theo các kinh mạch mà đi nhưng khi bị tẩu hỏa nhập ma rồi thì đều muốn dẫn các luồng nội tức đã sai đường quay trở lại nên trong lòng không khỏi chỉ chú tâm vào những kinh mạch nhỏ, bụng dạ càng bồn chồn thì nội tức lại càng tán phát. 
Đến lúc này chàng chỉ nghĩ đến an nguy của mẹ, nội tức không còn bị ý chí làm rối loạn nữa, nên lại quay trở lại vận hành như bình thường. Chàng nghe thấy Mộ Dung Phục đếm đến “ba”, không còn nghĩ rằng mình đang bị trói chặt, vội vàng nhảy lên, lao vào bụng Mộ Dung Phục, thì ra thân thể đã hoạt động được rồi. Đoàn Dự húc một cái không trúng, đầu vai đụng mạnh vào cạnh bàn, hai tay vận lực giằng mạnh ra, những sợi gân bò liền đứt đoạn.
Hai tay chàng vừa được tự do đã nghe Mộ Dung Phục chửi:
- Tiểu tử này giỏi thật!
Đoàn Dự liền vung tay điểm ra, sử dụng Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm đâm luôn vào Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh, đâm ngược lại một kiếm. Đoàn Dự mắt bị vải đen che. Miệng lại bị nhét hạt dẻ, không nói được đã đành mà cũng không nhìn thấy Mộ Dung Phục ở đâu, trong cơn hoảng loạn, quên cả giơ tay kéo tấm vải che mặt, hai tay múa lung tung, sợ Mộ Dung Phục tiến đến làm hại mẹ mình.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Gã này đã thoát ra rồi, ghê gớm lắm, mình phải thừa cơ y còn bị che mắt giết y ngay”. Y lập tức sử chiêu Đại Giang Đông Khứ, trường kiếm đâm thẳng vào ngực Đoàn Dự. Đoàn Dự đang múa may loạn xạ, nghe thấy tiếng gió rít lên, vội vàng tránh qua, soẹt một tiếng mũi kiếm đã đâm trúng vai, đau quá, vội tung mình nhảy ra. Ở trong chiếc giếng khô đã hút được nội lực thâm hậu của Cưu Ma Trí nên chỉ nhảy nhẹ một cái đã vọt lên cao hơn một trượng, bình một tiếng, đầu va vào xà nhà. Chàng còn đang ở trên không, nghĩ thầm: “Mắt ta không thấy thành thử y giết ta được mà ta không giết được y, làm sao bây giờ? Y giết ta thì cũng chẳng hề gì nhưng ta không cứu được mẹ được cha”. Hai chân lại dãy dụa, nghe roạt một cái, những sợi gân bò trói chân cũng đứt rời.
Đoàn Dự mừng rỡ nghĩ thầm: “Hay quá! Hôm trước ở nơi nhà máy xay, y giả trang làm Lý tướng quân nước Tây Hạ, ta dùng Lăng Ba Vi Bộ né tránh, y không giết được ta”. Chân trái vừa chấm đất, lập tức chuyển sang nửa bước, thân hình hơi nghiêng đã tránh được kiếm của Mộ Dung Phục vừa đâm tới chỉ cách chừng vài tấc. Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn vương phi ba người thấy ánh kiếm lấp loáng vù vù chung quanh người Đoàn Dự, hung hiểm hết sức, ai nấy sợ đến sững sờ, lại thấy phương pháp tránh né của chàng khéo léo không thể hình dung. Sự việc quả là xảo diệu, nếu như mắt nhìn thấy mà lại không dùng Lăng Ba Vi Bộ thì một người không biết võ công như Đoàn Dự không thể nào tránh được một nhát kiếm của Mộ Dung Phục.
Mộ Dung Phục càng tung ra càng nhanh nhưng trước sau vẫn không thể nào chạm được đến người Đoàn Dự. Y càng gấp gáp, lại thêm hổ thẹn, thấy Đoàn Dự vẫn không chịu gỡ tấm vải che mặt ra, lại tưởng chàng cố tình bỡn cợt, không coi mình ra gì có biết đâu Đoàn Dự vội quá nên đâm ra hồ đồ. Y nghĩ thầm: “Đến một người bịt mắt mà ta còn không thắng được thì còn mặt mũi nào sống thừa ở trên đời?”. Đôi mắt y như tóe lửa, thanh quang thấp thoáng, trường kiếm sử dụng chẳng khác gì một trái cầu xanh, trong sảnh đường lăn qua lăn lại, trong nháy mắt đã bao chặt Đoàn Dự trong vòng kiếm khuyên, chiêu nào cũng đều sát thủ chí mạng.
Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Thôi Bách Tuyền mọi người bị kiếm quang ép tới, chỉ thấy hàn khí phả vào mặt, lông tóc trên mặt rơi lả tả, tay áo bâu áo cũng bị cắt thành từng mảnh nhỏ. Đoàn Dự trong vòng kiếm quang nhảy qua bước lại, nghiêng đông tránh tây chẳng khác gì người đang dạo mát trong sân, vậy mà lưỡi kiếm sắc bén của Mộ Dung Phục cũng không cắt được một mảnh dây lưng. Thế nhưng tuy bước chân Đoàn Dự có vẻ nhàn nhã, trong lòng lại hết sức rối ren: “Ta chỉ thủ mà không công, mắt không nhìn thấy, nếu như y lấy kiếm đâm cha mẹ ta thì biết làm thế nào?”.
Mộ Dung Phục biết rằng chỉ có Đoàn Dự mới đích thực là mối lo to lớn nhất của mình nên đâu có để ý tới việc giết Đoàn phu nhân, thấy đã hơn trăm chiêu kiếm đánh ra nhưng không cách nào đả thương được đối phương, nghĩ thầm: “Tên tiểu tử này giỏi tài “nghe gió tránh ám khí”, nếu như ta sử dụng Liễu Nhứ kiếm pháp, nhẹ nhàng không có tiếng động để xem y có còn tránh né được không?”. Kiếm pháp của y lập tức biến đổi, chậm rãi đâm ra. Y có biết đâu Lăng Ba Vi Bộ của Đoàn Dự chỉ tự mình mình đi, không cần biết kẻ địch tấn công như thế nào, dù cho đối phương ra chiêu ầm ầm cũng thế, mà nhẹ nhàng lững lờ cũng thế chẳng liên can gì đến chàng.
Với kiến thức cao minh như Đoàn Diên Khánh thì cũng có thể nhìn ra được yếu quyết ở bên trong nhưng quan tâm quá hóa ra bối rối, y thấy Mộ Dung Phục đổi sang chậm rãi dấu hết những tiếng gió của binh khí, trong bụng kinh hãi, ú ớ lên tiếng:
- Hài nhi, ngươi mau mau giết gã Đoàn Dự kia đi. Nếu như y gỡ được miếng vải che mắt xuống thì e cha con mình sẽ chết vì tay y.
Mộ Dung Phục ngạc nhiên nghĩ bụng: “Lão già này thật hồ đồ, như thế có khác gì nhắc cho y?”. Quả nhiên câu nói đó khiến Đoàn Dự như từ cơn mơ tỉnh dậy, chàng liền chợt nhớ ra đưa tay giựt mảnh vải che mắt xuống, trước mắt thấy sáng lòa, mắt hoa lên, thấy một mũi kiếm lặng lẽ đâm vào mặt. Chàng không biết võ công lại không quen ứng biến, vừa kinh hãi chân tay đã cuống quít, soẹt một tiếng, chân trái đã bị trúng kiếm, nằm lăn ra.
Mộ Dung Phục mừng quá, giơ kiếm đâm xuống. Đoàn Dự nằm nghiêng dưới đất, phóng lại một đường Thiếu Trạch Kiếm, Mộ Dung Phục vội vàng nhảy ngược trở về tránh được. Tuy máu trên đùi Đoàn Dự vẫn chảy xối xả nhưng Lục Mạch Thần Kiếm sử dụng vẫn khí thế tung hoành, chỉ trong chốc lát đã khiến cho Mộ Dung Phục lách tả né hữu trông thật thảm hại.
Hôm trước ở trên núi Thiếu Thất, Mộ Dung Phục đã không địch lại Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự rồi, bây giờ Đoàn Dự lại có thêm nội lực thâm hậu của Cưu Ma Trí, uy lực của kiếm pháp càng thêm mãnh liệt. Chỉ trong vài chiêu đã nghe keng một tiếng nhỏ, trường kiếm của Mộ Dung Phục tuột khỏi tay bắn tung lên cắm ngập vào xà nhà. Tiếp theo nghe vụt một tiếng, kiếm khí đã trúng vai Mộ Dung Phục. Y biết rằng nếu chỉ lưu lại giây lát sẽ bị Đoàn Dự giết ngay, kêu rống lên phóng qua cửa sổ chạy như bay như biến.
Đoàn Dự vịn vào cạnh bàn cố đứng lên, kêu to:
- Mẹ ơi! Cha ơi! Hai vị lão nhân gia không bị thương chứ?
Đoàn phu nhân nói:
- Con mau mau xé vạt áo buộc vết thương lại.
Đoàn Dự đáp:
- Chưa cần vội.
Chàng lấy trong tay Vương phu nhân chiếc bình sứ đưa cho cha mẹ ngửi để giải thuốc mê, sau đó theo đúng lời phụ thân chỉ điểm, dùng nội lực giải cho họ những huyệt đạo bị phong. Sau đó Đoàn phu nhân băng bó vết thương cho con.
Đoàn Chính Thuần tung mình nhảy lên, nhổ thanh kiếm còn cắm trên xà nhà. Lưỡi kiếm đó đã nhuốm máu Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Vương phu nhân bốn người đàn bà, người nào cũng đã từng ông ước hẹn đến bạc đầu, thịt da chung đụng. Đoàn Chính Thuần tuy trời sinh tính phong lưu, không phải là kẻ chuyên nhất nhưng mỗi khi yêu thương ai cũng thắm thiết, một dạ chí thành, muốn đem trao hẳn trái tim cho tình nhân. Lúc này ông thấy bốn người đàn bà chết nằm dưới đất, Vương phu nhân đầu tựa vào đùi Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo gục trong lòng Nguyễn Tinh Trúc. Cả bốn người khi sống ai cũng thương yêu nhớ nhung mình, ruột đau như cắt, vui ít lo nhiều, đến cuối cùng lại vì mình mà chết một cách thảm thiết. Khi Nguyễn Tinh Trúc bị Mộ Dung Phục giết, trong bụng Đoàn Chính Thuần đã nguyện sẽ tuẫn tình, bây giờ lại càng kiên định nghĩ thầm: “Dự nhi đã khôn lớn thành người rồi, văn võ song toàn, nước Đại Lý không sợ chẳng có một vị anh chủ minh quân, ta còn có lo gì nữa?”. Ông quay lại nói với Đoàn phu nhân:
- Phu nhân, ta quả thật đối với nàng chẳng ra gì. Trong lòng ta những người đàn bà này với nàng thật cũng không khác gì, ai ai cũng là tâm can bảo cụ, ta yêu họ với một tấm lòng thành thực mà đối với nàng cũng thật chí tình.
Đoàn phu nhân kêu lên:
- Thuần ca! Chàng … chàng không nên …
Bà lập tức nhào về phía chồng. Đoàn Dự vừa rồi lo chuyện cứu mẹ nên xông ra đánh với Mộ Dung Phục, đến khi địch thủ bỏ chạy rồi, chàng mới hoàn hồn, đột nhiên nghĩ ra: “Ta rõ ràng bị tẩu hỏa nhập ma, sao lại khỏi rồi?”. Chàng bàng hoàng, lập tức toàn thân mềm nhũn, người xụm xuống không sao đứng lên được nữa.
Chỉ nghe Đoàn phu nhân kêu lên thảm thiết, thì ra Đoàn Chính Thuần đã đâm ngược mũi kiếm vào ngực rồi. Đoàn phu nhân vội vàng rút trường kiếm, tay trái chặn trên vết thương, sụt sùi:
- Thuần ca! Thuần ca! Dù chàng có đến một nghìn, một vạn người đàn bà, thiếp vẫn một mực yêu chàng. Cũng có lúc em lòng dạ u mê, nổi cơn tức tối, đó cũng … đó cũng là chuyện đã qua … nhưng cũng chính vì yêu chàng …
Thế nhưng mũi kiếm đó Đoàn Chính Thuần đã nhắm đúng tâm tạng đâm vào nên tắt thở ngay đâu còn có nghe ai nói gì nữa. Đoàn phu nhân quay mũi kiếm, định đâm vào ngực mình bỗng nghe Đoàn Dự kêu lên:
- Mẹ! Mẹ!
Một phần vì kiếm quá dài, phần khác vì nhãng ra nên mũi kiếm hơi lệch đi, đâm ngay xuống bụng. Đoàn Dự thấy cả cha lẫn mẹ cùng tự tận, sợ đến hồn vía lên mây, hai chân tưởng như nhúng vào thùng cường toan, vừa tê vừa xót không còn chút hơi sức nào, chỉ còn nước chống hai tay, bò đến gần kêu lên:
- Mẹ ơi! Cha ơi! Hai người … sao …
Đoàn phu nhân nói:
- Hài nhi, cha và mẹ cùng đi, con … con cố lo cho mình …
Đoàn Dự khóc đáp:
- Mẹ ơi! Mẹ đừng chết! Mẹ đừng chết! Còn cha con ? Sao … sao thế?
Chàng đưa tay ôm chặt lấy đầu mẹ, định rút thanh kiếm ra, lại sợ rút ra chỉ càng làm cho bà thêm chóng chết nên lại không dám. Đoàn phu nhân thều thào:
- Con nên học theo bá phụ, làm một ông vua tốt …
Đột nhiên nghe Đoàn Diên Khánh nói:
- Mau lấy thuốc giải cho ta ngửi, để ta cứu mẹ ngươi.
Đoàn Dự giận dữ, quát lớn:
- Cũng bởi tên gian tặc là ngươi, bắt giữ cha ta để bao nhiêu người phải chết thảm. Ta với ngươi có thù bất cộng đái thiên.
Chàng vùng dậy, nhặt một cây gậy sắt dưới đất lên, định đập xuống đầu Đoàn Diên Khánh. Đoàn phu nhân kêu rú lên:
- Không được.
Đoàn Dự ngẩn ngơ, quay lại hỏi:
- Mẹ, gã này là đại đối đầu của mình, hài nhi muốn giết y báo thù cho cha con.
Đoàn phu nhân lại thét lên:
- Không được! Con … con không nên phạm vào đại tội đó.
Đoàn Dự trong bụng nghi hoặc, hỏi lại:
- Con … con không thể … phạm đại tội đó là sao?
Chàng nghiến răng hậm hực quát:
- Không thể không giết tên gian tặc này.
Vừa giơ gậy lên, Đoàn phu nhân liền nói:
- Con cúi xuống đây ta nói cho nghe.
Đoàn Dự ghé tai vào sát miệng mẹ mình, chỉ thấy mẫu thân thều thào:
- Hài nhi, gã Đoàn Diên Khánh kia, mới chính thực là cha ruột của con. Cha con tệ bạc với mẹ, mẹ giận quá nên cũng không phải với cha con. Sau đó mới sinh ra con. Cha con không biết đâu, vẫn tưởng con là con ruột thực ra không phải. Cha con không phải là cha ruột, người đó mới là cha con, con không giết y được, nếu không … nếu không sẽ phạm tội giết cha. 
Ta không bao giờ thương yêu gã đó cả, nhưng vì … nhưng vì không muốn con phạm tội, mai sau chết đi, phải đọa a tì địa ngục, không sang được Tây phương cực lạc thế giới. Ta … ta cũng chẳng muốn nói cho con nghe, để khỏi làm tổn thương danh dự cha con, thế nhưng không còn cách nào khác, không thể không nói …
Chỉ trong không đầy một giờ, biết bao nhiêu chuyện không ngờ được cùng xảy ra, chẳng khác gì sét đánh ngang tai, liên tiếp tiếng này sang tiếng khác, khiến cho Đoàn Dự kinh ngạc đến há hốc mồm. Chàng ôm chặt lấy mẹ, kêu lên:
- Mẹ, mẹ! Chuyện này không thể có, không thể có!
Đoàn Diên Khánh nói:
- Mau đưa thuốc giải cho ta để ta cứu mẹ ngươi.
Đoàn Dự thấy hơi thở Đoàn phu nhân mỗi lúc một yếu, không còn dám suy nghĩ gì thêm, nhặt chiếc bình dưới đất lên đưa cho Đoàn Diên Khánh giải độc. Đoàn Diên Khánh vừa khôi phục kình lực, lập tức giơ cương trượng lên, vèo vèo vèo mấy cái, điểm luôn các huyệt đao chung quanh vết thương của Đoàn phu nhân. Đoàn phu nhân lắc đầu:
- Ngươi không được chạm đến mình ta nữa.
Bà cauy sang Đoàn Dự nói:
- Hài nhi, ta còn muốn nói với con một chuyện.
Đoàn Dự vội vàng ghé tai vào miệng bà. Đoàn phu nhân khẽ mấp máy:
- Người đó tuy với cha con cùng họ, cùng hàng nhưng không phải là anh em. Những người con của cha con, nào là Mộc cô nương, Vương cô nương, Chung cô nương, con thích người nào thì đều có thể lấy người đó … Những gì người Đại Tống không làm, cái gì đồng tính bất hôn, người Đại Lý mình không tính đến, chỉ cần không phải anh em ruột là đủ. Bao nhiêu cô nương đó con lấy ai cũng được, thật là hay lắm. Con … con có thích không?
Đoàn Dự nước mắt ròng ròng, đâu nghĩ gì đến chuyện thích hay không thích. Đoàn phu nhân thở dài một tiếng nói:
- Con ngoan ơi, tiếc thay mẹ không được chính mắt trông thấy con mặc long bào, ngồi trên bảo tọa hoàng đế, để làm … làm một đấng minh quân. Thế nhưng mẹ biết chắc rằng con sẽ là ông vua tốt …
Đột nhiên bà cầm cán kiếm ấn mạnh, kiếm xuyên qua người. Đoàn Dự kêu lên:
- Mẹ ơi!
Chàng ôm chầm lấy mẹ nhưng mắt mẫu thân từ từ khép lại, khóe miệng vẫn còn nở một nụ cười. Đoàn Dự khóc rống lên:
- Mẹ ơi! …
Đột nhiên lưng chàng tê đi, rồi kế đó ngang hông, trên đùi, cạnh vai mối chỗ đại huyệt đều bị điểm trúng, có tiếng vo ve truyền vào tai:
- Ta là phụ thân ngươi Đoàn Diên Khánh, vì muốn bảo toàn thanh danh cho Trấn Nam Vương, bây giờ ta dùng thuật truyền âm nhập mật để nói chuyện với ngươi. Lời mẹ ngươi nói, ngươi nghe cả rồi chứ?
Hai câu sau cùng Đoàn phu nhân nói với con tuy rất nhỏ nhưng lúc đó Đoàn Diên Khánh được giải độc rồi, nội kình đã khôi phục nên đều nghe thấy cả, biết rằng Đoàn phu nhân đã tiết lộ bí mật thân thế cho con.
Đoàn Dự kêu lên:
- Ta không nghe, ta hoàn toàn không nghe! Ta chỉ biết đến cha mẹ của ta thôi.
Chàng nói “chỉ biết đến cha mẹ của ta thôi” thì đã vô hình chung thừa nhận lời mẫu thân rồi Đoàn Diên Khánh nổi giận nói:
- Thế ngươi không nhận ta sao?
Đoàn Dự gào to:
- Không nhận! Ta không tin, ta nhất định không tin!
Đoàn Diên Khánh nói nhỏ:
- Hiện giờ tính mạng ngươi nằm trong tay ta, giết ngươi dễ như trở bàn tay. Huống chi ngươi là con ta thật, ngươi không nhận cha ruột của mình chẳng là đại bất hiếu hay sao?
Đoàn Dự không biết trả lời sao, biết rằng lời mẹ chàng không phải giả nhưng hơn hai mươi năm gọi Đoàn Chính Thuần là cha rồi, ông đối với mình hết sức từ ái, lẽ nào lại đi nhận một người không liên can gì làm cha? Huống chi cái chết của cha mẹ mình có thể nói là đầu giây mối nhợ ở Đoàn Diên Khánh mà ra, bảo chàng nhận kẻ thù làm cha thì nhất định không thể được. Chàng nghiến răng đáp:
- Ngươi muốn giết thì cứ giết, ta mãi mãi không bao giờ nhận ngươi đâu.
Đoàn Diên Khánh càng giận thêm, lại thất vọng, nghĩ thầm: “Ta tuy có con nhưng con mình không nhận mình thì cũng có khác gì không con?”. Nhất thời hung tính nổi lên, y giơ trượng lên toan đâm vào người Đoàn Dự nhưng trượng vừa chạm vào áo chàng, không khỏi mềm lòng, thở dài một tiếng, nghĩ thầm: “Đời ta khổ bao nhiêu rồi, trên đời này chẳng có ai là người thân, bây giờ có được đứa con, lẽ nào lại chính tay mình giết nó cho đành? Y nhận ta cũng được, không nhận ta cũng được, dẫu sao nó cũng là con ta”. Y lại nghĩ ra: “Đoàn Chính Thuần chết rồi, ta không còn cách nào tranh ngôi vua với Đoàn Chính Minh được nữa. Thế nhưng hoàng vị nước Đại Lý, sau cùng rồi cũng vào tay con ta. Ta tuy không làm hoàng đế nhưng có khác gì làm vua, mơ ước coi như cũng toại nguyện rồi”.
Đoàn Dự kêu lên:
- Ngươi muốn giết ta, sao không mau mau hạ thủ?
Đoàn Diên Khánh giải huyệt cho chàng rồi dùng truyền âm nhập mật nói:
- Ta không giết đứa con ruột của ta! Nếu ngươi không nhận ta thì dùng Lục Mạch Thần Kiếm giết ta báo thù cho Đoàn Chính Thuần và mẹ ngươi đi.
Nói xong y ưỡn ngực, chờ Đoàn Dự ra tay. Từ thuở năm xưa bị người ta đâm chém, y cảm thấy thương xót cho thân phận, nỗi đau đớn dày vò nên phát tiết ra bằng những hành vi tàn ác, đến bây giờ nhìn lại cuộc đời chẳng thành được công nghiệp gì, cuối cùng lại chết trong tay chính con mình, thôi thì mọi việc cũng là xong.
Đoàn Dự giơ tay quệt nước mắt, trong lòng cảm thấy hoang mang, toan dùng Lục Mạch Thần Kiếm giết gã nguyên hung cự ác trước mặt báo thù cho cha mẹ, nhưng lời của mẫu thân còn văng vẳng bên tai, nói y chính là cha ruột mình, thế thì làm sao xuống tay cho được?
Đoàn Diên Khánh đợi một hồi, thấy Đoàn Dự giơ gậy lên rồi lại hạ xuống, bỏ xuống lại giơ lên, không sao quyết định được, buồn bã nói:
- Nam tử hán đại trượng phu, ra tay là ra tay, còn sợ gì nữa?
Đoàn Dự nghiến răng, rụt tay về nói:
- Má má không thể lừa dối ta, ta không thể giết ngươi được.
Đoàn Diên Khánh mừng rỡ, cười khà khà, biết rằng đứa con sau cùng đã nhận mình là cha, lòng như mở cờ trong bụng, cầm hai cây gậy điểm xuống đất, chạy vụt đi, chẳng thèm quay đầu nhìn Vân Trung Hạc còn đang nằm dưới đất.
Đoàn Dự trong lòng vẫn còn một chút hi vọng mong manh, vội chạy đến bắt mạch cha mẹ, thăm hơi thở, biết rằng không còn cách gì có thể hồi sinh lúc ấy mới lăn ra đất khóc òa lên. Khóc một hồi lâu, bỗng nghe đằng sau có tiếng đàn bà nói:
- Đoàn công tử xin chớ quá bi lụy. Chúng tôi đến cứu viện chậm trễ, tội đáng muôn thác.
Đoàn Dự quay đầu nhìn lại, thấy trước cửa có bảy tám người đàn bà đứng đó, hai người đầu tiên tướng mạo giống hệt nhau, nhận ra là hai trong tứ nữ cung Linh Thứu, thủ hạ Hư Trúc nhưng không biết là hai người nào trong Mai Lan Cúc Trúc. Trên mặt chàng nước mắt nước mũi lem nhem, nghẹn ngào nói:
- Cả cha ta, mẹ ta đều bị người ta giết cả rồi.
Nhị nữ cung Linh Thứu đến đây là Trúc Kiếm, Cúc Kiếm. Trúc Kiếm nói:
- Đoàn công tử, chủ nhân chúng tôi nghe tin tôn đại nhân trên đường gặp nạn, sai tì tử suất lãnh mọi người chạy đến cứu viện. Rủi thay lại chậm mất một bước.
Cúc Kiếm nói:
- Bọn Vương Ngữ Yên cô nương bị giam trong địa lao đã cứu được rồi, không sao cả, xin công tử yên tâm.
Bỗng từ xa có tiếng còi tu tu truyền đến, Trúc Kiếm nói:
- Mai thư và Lan thư cũng đến rồi đây.
Chẳng bao lâu đã nghe tiếng vó ngựa rầm rập, hơn chục kỵ mã chạy đến, đi đầu chính là Mai Kiếm, Lan Kiếm. Hai người chạy đến trước nhà, thấy đầy tử thi, liên tiếp dậm chân kêu:
- Trời ơi! Trời ơi!
Mai Kiếm hành lễ với Đoàn Dự xong liền nói:
- Chủ nhân chúng tôi gửi lời chào Đoàn công tử, nói là có một chuyện quả là hết sức có lỗi với công tử, nhưng không thể nào khác hơn. Chủ nhân chúng tôi phải nuốt lời nên không dám gặp công tử, xin công tử thứ tội.
Đoàn Dự chẳng hiểu cô ta nói về chuyện gì, sụt sùi đáp:
- Chúng ta là kim lan huynh đệ, còn cái gì của ta của ngươi? Cha ta, mẹ ta đều chết cả rồi, ta còn nghĩ gì đến chuyện khác nữa?
Khi đó Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Phó Tư Qui, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi năm người cũng đã được ngửi giải dược, những huyệt đạo bị điểm cũng đã giải rồi. Hoa Hách Cấn thấy Vân Trung Hạc nằm dưới đất, cơn giận xông lên, vung đao chém xuống, Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc đầu một nơi, mình một nẻo. Cả bọn năm người liền quì xuống lạy di thể vợ chồng Đoàn công tử rồi khóc rống lên.
Sáng sớm hôm sau, bọn Phạm Hoa ra ngoài chia nhau đi tìm mua quan tài. Đến trưa, chư nữ Chu Thiên Bộ cung Linh Thứu dẫn Vương Ngữ Yên, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh tất cả đến. Bọn họ trúng phải chất kịch độc túy nhân phong, vẫn còn mơ mơ màng màng, chưa hồi tỉnh.
Sau đó Đoàn Dự và bọn Phạm Hoa tẫn liệm các thi thể. Chốn này đã là đất của Đại Lý rồi, Phạm Hoa liền truyền lệnh cho các châu huyện. Các châu quan, huyện quan nghe nói vợ chồng Trấn Nam Vương bị “bạo bệnh từ trần” ngay trên đất mình, sợ đến trợn tròn đôi mắt, tưởng chừng muốn ngất đi, nghĩ thầm cái gì chứ tội “xao nhãng việc quan, tiếp đón không chu đáo” thì không sao thoát được. Cũng may Phạm Tư Mã không trách mắng gì, vội vàng lật đật chiêu tập phu phen đưa linh cữu vợ chồng Trấn Nam Vương về kinh đô. Chư nữ cung Linh Thứu sợ trên đường về còn xảy ra chuyện gì không hay nên đi tiễn Đoàn Dự về đến tận kinh thành. Vương Ngữ Yên, Ba Thiên Thạch cả bọn trên đường đi cũng lần lượt tỉnh lại.
Cái tin vợ chồng Trấn Nam Vương chết trên đường, thế tử phù linh cữu về đã truyền đến kinh thành Đại Lý. Trấn Nam Vương có công với đất nước, rất được lòng dân, quan lại bách tính ra đón tận ngoài thành mười dặm, chỗ nào tiếng khóc cũng vang lên không dứt. Đoàn Dự, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch lập tức nhập cung, bẩm lại cho hoàng thượng về cái chết của Trấn Nam Vương. Vương Ngữ Yên và bọn Mai Kiếm được Chu Đan Thần đưa ra tân quán nghỉ ngơi.
Đoàn Dự vào cung, thấy Đoàn Chính Minh hai mắt đỏ mọng, định lạy phục xuống, Đoàn Chính Minh liền hỏi:
- Hài tử, sao … sao lại xảy ra cớ sự?
Ông đưa tay ra, hai bác cháu ôm chặt lấy nhau. Đoàn Dự không dấu diếm chút nào, kể lại mọi việc đầu đuôi, kể cả di ngôn của Đoàn phu nhân cũng không bỏ sót. Chàng nói xong quì xuống lạy, khóc nói:
- Nếu như cha cháu không phải là thân sinh của cháu, hài nhi chỉ là nghiệt chủng, cũng không thể nào … không thể nào sống ở Đại Lý được nữa.
Đoàn Chính Minh kinh hãi, chỉ còn biết luôn miệng thở dài:
- Oan nghiệt! Oan nghiệt!
Ông đưa tay đỡ Đoàn Dự lên nói:
- Hài nhi, những duyên nghiệp bên trong, trên đời này chỉ có mình con và Đoàn Diên Khánh biết mà thôi, cháu chẳng cần phải bẩm lại cho ta làm gì. Thế nhưng cháu không hề dấu diếm, đủ biết thành thực là bao. Ta và cha cháu đều không có con nối dõi, không nói gì cháu là người họ Đoàn, mà dù có không phải họ Đoàn chăng nữa thì ta cũng nhất quyết chọn cháu làm người thừa kế. Ngôi vua của ta đây, vốn dĩ là của Diên Khánh thái tử, ta đã ăn trộm của y mấy chục năm nay, trong lòng vẫn thường áy náy, nay có hoàng thiên an bài vậy thì thật hay biết bao.
Ông nói xong giở chiếc hoàng mạo xuống, thấy đầu đã cạo nhẵn thín, trên đỉnh thiêu mười hai vết hương. Đoàn Dự hết sức kinh hãi, kêu lên:
- Bá phụ sao lại …
Đoàn Chính Minh nói:
- Hôm trước khi đề ngự Cưu Ma Trí nơi chùa Thiên Long, sư phụ đã thế phát truyền giới cho ta rồi, việc này chính mắt ngươi trong thấy.
Đoàn Dự nói:
- Vâng!
Đoàn Chính Minh nói:
- Ta thân đã vào cửa Phật, đáng lẽ truyền ngôi cho cha cháu. Chỉ vì khi đó cha cháu đang ở Trung Nguyên, nước không thể một ngày không có vua, ta đành phải trái lời sư phụ mà tạm nhiếp đế vị. Cha cháu trên đường về chẳng may từ trần, hôm nay ta truyền ngôi cho cháu.
Đoàn Dự càng kinh ngạc hơn vội đáp:
- Hài nhi tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, làm sao đảm nhận ngôi vị lớn được? Huống chi hài nhi thân thế chưa minh bạch, hài nhi … cháu … cháu muốn vào nơi rừng sâu núi thẳm …
Đoàn Chính Minh quát lớn:
- Chuyện thân thế từ nay trở đi không được đề cập đến nữa. Cha cháu, mẹ cháu đối với cháu ra sao?
Đoàn Dự nghẹn ngào đáp:
- Ơn cha mẹ sâu nặng như trời như bể.
Đoàn Chính Minh nói:
- Nếu đã thế, cháu phải lo báo đáp ơn sinh thành bảo toàn thanh danh cho cha mẹ. Làm vua cháu phải nhớ kỹ hai điều. Điều thứ nhất là thương dân, điều thứ hai là nghe lời can gián. Cháu thiên tính nhân hậu, đối với bách tính chắc là không bạo ngược. Có điều khi lớn tuổi rồi, nhất quyết chớ có tự thị mình là người thông minh, việc nước sằng bậy, gây động can qua với lân quốc.



datlucky_way

27-07-2009 12:53 PM

Hồi 49(a) : TỆ TỈ VINH HOA, PHÙ VÂN SINH TỬ, THỬ THÂN HÀ CỤ 





Bấm vào đây để xem nội dung.


Giàu sang phú quí mà chi, Xem như dép cũ bỏ đi cho rồi. 
Cuộc đời mây nổi ai ơi, Đến như sống chết đã coi ra gì. 

* * 
Trong hoàng cung Đại Lý, Đoàn Chính Minh truyền ngôi cho cháu là Đoàn Dự, dặn dò phải biết ái dân, nạp gián, lại nhắn nhủ việc nước không được bừa bãi làm càn, dấy động binh đao. Cũng vào thời kỳ đó, nơi kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, trong hoàng cung ở hậu các Sùng Khánh điện, thái hoàng thái hậu Cao thị bệnh nặng, đang trăn trối cho cháu là Triệu Hú(1) : 
- Hài nhi, tổ tông sáng nghiệp thật gian nan vất vả, nhờ phúc trạch ông cha thâm hậu nên mới có cảnh tượng thái bình như ngày hôm nay. Thế nhưng cha ngươi khi trị nước để cho dân tình sôi sục, suýt nữa gây ra đại biến, đến giờ trăm họ nghĩ đến còn kinh, ngươi có biết vì do đâu chăng? 
Triệu Hú đáp: 
- Hài nhi thường nghe nãi nãi2 nói rằng, phụ hoàng nghe lời Vương An Thạch, sửa đổi phép tắc cũ khiến cho dân chúng không đủ sống. 
Khuôn mặt khô héo của thái hoàng thái hậu hơi rung động, thở dài nói: 
- Vương An Thạch là người có học vấn, có tài năng, vốn không phải là kẻ xấu. Dụng tâm tuy là vì nước vì dân, có điều … ôi … chỉ bởi cha ngươi, vốn dĩ tính tình nóng nảy, chỉ mong sao chóng thành công, có biết đâu việc trên đời này dục tốc tắc bất đạt, thành ra rối loạn hỏng việc. 
Bà lão nói đến đây ho sù sụ một hồi rồi mới tiếp: 
- Thứ đến … thứ đến y không bao giờ muốn nghe câu nào trái tai, chỉ thích người ngoài ca công tụng đức, gọi y là thánh minh thiên tử y mới vui lòng, còn như bảo y sai lầm không đúng, can gián một câu thì lập tức nổi cơn lôi đình, kẻ thì bãi chức, người thì đi đày, cứ như thế, còn ai dám trực ngôn can gián nữa? 
Triệu Hú đáp: 
- Bà ơi, tiếc thay di chí của phụ hoàng chưa thành, bao nhiêu lương pháp mỹ ý của tiên đế đều bị kẻ tiểu nhân làm hỏng cả. 
Thái hoàng thái hậu hoảng hốt, run rẩy hỏi lại: 
- Cái … cái gì mà lương pháp mỹ ý? … Ai … ai là tiểu nhân? 
Triệu Hú đáp: 
- Phụ hoàng đặt ra phép thanh miêu, phép bảo mã, phép bảo giáp … chẳng phải là phú quốc cường binh lương pháp thì là gì? Chỉ hận bọn hủ nho Tư Mã Quang, Lã Công Trứ, Tô Thức làm hỏng đại sự. 
Thái hàng thái hậu biến sắc, chống tay cố ngồi lên nhưng đã suy nhược quá rồi, thân hình chỉ nhỏm lên được một hai tấc rồi không gượng nổi nữa, ho sù sụ. Triệu Hú nói: 
- Bà nội đừng tức tối, hãy nằm xuống nghỉ đi, sức khỏe mới là quan trọng. 
Tuy miệng y thì khuyên bảo như thế nhưng giọng điệu chẳng có chút nào thân cận. Thái hoàng thái hậu ho một hồi, tạm bình tĩnh lại nói: 
- Hài nhi, cháu làm hoàng đế cũng đã chín năm rồi, thế nhưng trong chín năm đó … trong chín năm đó, người làm vua đích thực là bà nội đây, chuyện gì cháu cũng nghe lời bà mà làm, trong bụng … trong bụng cháu chắc tức tối lắm, ghét bà lắm, có phải không? 
Triệu Hú đáp: 
- Bà nội làm hoàng đế giùm cháu, ấy là thương cháu chứ, sợ cháu làm hỏng việc đấy thôi. Dùng người cũng bà dùng, thánh chỉ cũng bà đưa xuống, hài nhi thật là rảnh rỗi, có gì không thích đâu? Sao cháu lại trách bà được? 
Thái hoàng thái hậu thở hắt ra, khẽ nói: 
- Mày thật giống cái thằng cha mày, cứ cho là mình thông minh tài trí phải làm nên một đại sự nghiệp. Trong bụng ngươi ghét ta lắm, không lẽ … không lẽ ta lại không biết hay sao? 
Triệu Hú mỉm cười khinh khỉnh nói: 
- Bà nội chuyện gì chẳng biết. Trong cung ngự lâm quân cũng là người thân tín của bà, chỉ huy nội thị thái giám cũng là tâm phúc của bà, trong triều văn võ đại thần cũng do bà sắp đặt. Hài nhi ngoài việc ngoan ngoãn nghe lời bà dặn bảo ra, có dám tùy tiện làm gì đâu, có dám nói gì đâu? 
Thái hoàng thái hậu nhìn lên đình màn nói: 
- Ngươi ngày ngày mong mỏi chuyện hôm nay, chờ tới khi ta bệnh chết rồi, lúc đó … lúc đó mới tha hồ mặc sức bay nhảy. 
Triệu Hú đáp: 
- Chuyện gì cũng do bà ban cho hài nhi, trước đây nếu không có bà nội chủ trì, khi phụ hoàng băng giá, triều đình nếu chẳng lập Ung Vương thì cũng lập Tào Vương. Ơn sâu của bà nội, hài nhi đâu thể nào quên được? Có điều … có điều… 
Thái hoàng thái hậu nói: 
- Có điều cái gì? Ngươi muốn nói gì thì cứ nói ra, sao lại còn ấp úng mãi thế? 
Triệu Hú đáp: 
- Hài nhi từng nghe người ta nói rằng, sở dĩ bà muốn lập cháu lên làm vua, chỉ vì hài nhi còn nhỏ, có thế mới dễ cho bà tự mình đảm trách việc triều chính. 
Y thu hết can đảm nói được câu đó ra, tim đập thình thình, nhìn trộm ra ngoài cửa mấy lượt, thấy những thái giám canh gác ngoài điện môn đều là người tâm phúc của mình, thủ vệ nghiêm mật, thế mới yên tâm. 
Thái hoàng thái hậu chậm rãi gật đầu nói: 
- Ngươi nói quả không sai. Ta quả muốn chính mình cai trị quốc gia, trong chín năm qua ta làm việc ra thế nào? 
Tây Hạ lấy trong túi ra một cuộn giấy nói: 
- Bà ơi, những lời ca công tụng đức của văn sĩ trong triều ngoài nội, trong chín năm qua không biết là bao nhiêu, chắc bà nghe đã phát chán rồi. Hôm nay ở phương bắc có người xuống đây, nói rằng tể tướng nước Liêu có một bản tấu chương dâng lên Liêu đế, có đề cập đến việc thi hành chính sách của bà nội. Đây là nghị luận của đại thần nước Liêu, nãi nãi có muốn nghe không? 
Thái hoàng thái hậu thở dài: 
- Cả thiên hạ khen thì cũng thế mà cả thiên hạ chê thì cũng vậy, lão … lão thân chắc chẳng sống được tới chiều nay đâu. Ta … ta chẳng biết có còn thấy mặt trời mọc ngày mai nữa không? Tể tướng Liêu quốc … y … y nói về ta thế nào? 
Tây Hạ mở cuốn trục ra nói: 
- Trong tấu chương gã tể tướng đó nói thái hoàng thái hậu: Từ khi ở sau rèm đến nay3, tuyển dụng danh thần, bãi bõ chính sách hà khắc của tân pháp, trông coi triều chính chín năm qua, triều đình sáng sủa, Hoa hạ yên ổn. Ngăn chặn các thăng thưởng vô lối, bãi bỏ các ân sủng cho người 





nhà, các tấu chương trình lên, lớn nhỏ đều coi xét kỹ lưỡng, suốt đời không tơ hào một li … 
Y đọc đến đây, ngừng lại một chút, thấy ánh mắt lờ đờ của thái hoàng thái hậu lóe lên một vẻ phấn khởi, liền đọc tiếp xuống: 
- … người đời gọi bà ta là nữ trung Nghiêu Thuấn! 
Thái hoàng thái hậu lẩm bẩm: 
- Người đời gọi là nữ trung Nghiêu Thuấn! Người đời gọi là nữ trung Nghiêu Thuấn! Dù có thực là Nghiêu Thuấn chăng nữa thì cũng không thể không chết. 
Đột nhiên trong đầu óc mỗi lúc một mơ hồ chậm lụt của bà nảy ra một điểm linh quang, bèn hỏi: 
- Tại sao tể tướng nước Liêu lại nhắc đến ta? Hài nhi, cháu … cháu phải lưu tâm, bọn họ biết ta chết rồi là sẽ chèn ép cháu ngay. 
Trên khuôn mặt non trẻ của Triệu Hú lộ vẻ kiêu ngạo nói: 
- Định chèn épcháu ư? Hừ, đúng thế đấy nhưng chắc không phải dễ đâu. Bọn Khất Đan có thám tử ở Đông Kinh, biết nãi nãi đang bệnh nặng, bộ mình không có người dò thám ở Thượng Kinh hay sao? Tấu chương của tể tướng bọn chúng mình chả có trong tay là gì? Quân dân Khất Đan bàn tính, một khi bà … một khi bà thiên thu vạn tuế rồi, nếu như văn võ đại thần không có gì thay đổi, không thi hành tân pháp, bảo vệ bờ cõi, nhân dân yên ổn thì không sao. Còn như nếu hài nhi … hà hà … có gì làm ẩu làm liều … khinh suất vọng động, thì bọn chúng cũng lớn mật làm càn một phen. 
Thái hoàng thái hậu hoảng hốt hỏi: 
- Họ định sẽ xua quân xuống phương nam ư? 
Tây Hạ đáp: 
- Đúng vậy. 
Y quay người đi ra phía cửa sổ, nhìn theo cái cán chòm sao Bắc đẩu thấy ngôi đế tọa lấp lánh trên bầu trời, lẩm bẩm nói một mình: 
- Đại Tống ta binh tinh mã nhuệ, lương thảo đầy đủ, dân số lại đông, lẽ nào lại sợ bọn Khất Đan? Bọn chúng không đem quân xuống nam thì ta cũng xua quân lên bắc thử một keo cho biết. 
Thái hoàng thái hậu tai nghễnh ngãng nghe không rõ hỏi lại: 
- Ngươi nói gì? Cái gì mà thử một keo cho biết? 
Triệu Hú đi đến bên giường bệnh nói: 
- Nãi nãi, người Đại Tống chúng ta so với người Liêu đông gấp mười, lương thảo gấp ba mươi lần, có phải thế không? Lấy mười chọi một, không lẽ đánh không lại chúng sao? 
Thái hoàng thái hậu run run hỏi: 
- Ngươi định gây chiến với nước Liêu chăng? Chân Tông hoàng đế năm xưa anh vũ là dường nào, ngự giá thân chinh vậy mà còn phải lập minh ước Thiền Uyên, ngươi … ngươi lẽ nào lại dám tính chuyện đao binh? 
Triệu Hú hậm hực đáp: 
- Bà vẫn cứ coi thường hài nhi, cứ coi cháu như đứa trẻ miệng còn hơi sữa, chẳng biết chuyện gì. Hài nhi tuy không bằng vua Thái Tổ, Thái Tông nhưng chưa chắc đã kém gì Chân Tông hoàng đế! 
Thái hoàng thái hậu nói nhỏ: 
- Đến như Thái Tông hoàng đế, năm xưa cũng còn thua Bắc quốc, trọng thương phải quay về, vết thương không khỏi nên chính vì thế mà băng hà. 
Triệu Hú nói: 
- Chuyện trong thiên hạ, đâu phải cứ có một bề mà luận. Trước kia mình đánh không lại bọn Khất Đan đâu phải mãi mãi lúc nào cũng thua. 
Thái hoàng thái hậu có biết bao nhiêu điều muốn nói, nhưng thấy tinh lực càng lúc cào hao kiệt dần, trước mắt chỉ thấy một quầng mây trắng bay qua bay lại, trong óc trống rỗng, nói năng đã cực kỳ gian nan nhưng trong đáy lòng bà ta vẫn có một tiếng nói hết sức rõ ràng vọng lên: “Việc 
chiến tranh là nguy hiểm, sinh linh đồ thán, nhất quyết không thể khinh suất làm càn”. 
Một lúc sau bà ta mới lấy hơi, chậm rãi nói: 
- Hài nhi, trong chín năm qua ta nắm hết đại quyền, chưa từng cùng ngươi phân tích cho rõ ràng, nãi nãi quả là thiếu sót. Ta vẫn tưởng mình chắc còn sống được lâu, đợi đến khi ngươi khôn lớn rồi, lúc đó mới chỉ bảo cho cháu, ắt ngươi sẽ hiểu biết tường tận, có ngờ đâu … có ngờ đâu … 
Bà lão ho khan mấy tiếng nói tiếp: 
- Chúng ta người đông lương đủ, điều đó không sai. Có điều người Đại Tống văn nhược, không dũng mãnh như người Khất Đan. Hơn nữa một khi đánh nhau rồi, quân dân gan óc đầy đất, không biết bao nhiêu người chết, cháy không biết bao nhiêu nhà cửa, thiên hạ không biết bao nhiêu gia đình nhà tan người chết, vợ chồng chia lìa, con cái ly tán. Làm vua thì lúc nào cũng phải nghĩ đến điều “nhân”, không nói gì chuyện thắng bại chưa liệu trước được, mà dẫu ở thế tất thắng chăng nữa nếu không phải đánh thì vẫn hơn. 
Triệu Hú đáp: 
- Yên Vân thập lục châu của ta bị bọn người Liêu chiếm mất, hàng năm mình còn phải tiến cống cho chúng vàng bạc lụa là, chẳng khác gì phiên thuộc, lại như nước bầy tôi, hài tử thân làm thiên tử Đại Tống, cái nhục đó làm sao nuốt nổi? Không lẽ mình mãi mãi chịu người Liêu áp chế hay sao? 
Giọng y càng lúc càng to: 
- Trước đây Vương An Thạch biến pháp, thi hành phép bảo giáp, bảo mã, chẳng phải là để cho quốc phú dân cường, tẩy rửa cái nhục tổ tông hay sao? Làm con làm cháu, phải rửa nhục cho ông cha, ấy mới là đại hiếu. Phụ hoàng một đời chuyên cần chăm lo chẳng phải vì lẽ đó đấy ư? Hài tử định rằng sẽ kế thừa chí hướng của gia gia. Chí đó không thành nguyện như chiếc ghế này. 
Đột nhiên y rút phắt bội kiếm đeo ở hông, chém đứt đôi một chiếc ghế. Hoàng đế trừ khi tập luyện duyệt binh, xưa nay không đeo đao kiếm. Thái hoàng thái hậu đột nhiên thấy thằng bé rút kiếm ra chém chiếc ghế, 
không khỏi hoảng hồn, mơ mơ hồ hồ nghĩ bụng: “Y tại sao lại đeo kiếm? Định đến giết ta chăng? Hay y không muốn ta thùy liêm thính chính? Thằng bé này lớn mật làm càn, ta phải phế bỏ y đi”. Bà ta tuy tính tình từ ái nhưng chưởng ác quyền bính đã lâu, nay thấy quyền lực lung lay, lập tức nghĩ ngay đến loại trừ địch thủ, dẫu cho là kẻ cốt nhục chí thân cũng không khoan thứ, trong một thoáng bà quên rằng mình đang vào cảnh đèn khô dầu kiệt, trong chốc lát sẽ lìa đời. 
Còn Triệu Hú đang chú tâm vào việc làm sao phá trận sát địch, thu phục lại Yên Vân mười sáu châu, huyễn tưởng mình đang ngồi trên lưng ngựa, thống suất trăm vạn hùng binh, đánh vào Thượng Kinh, Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ cởi trần ra hàng. Y giơ thanh bội kiếm lên, ngang nhiên nói: 
- Quốc gia đại sự đều bị bọn hủ nho nhát gan làm hỏng việc. Bọn họ tự xưng quân tử, thực ra chỉ là đồ tiểu nhân tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, ta … ta phải trừng trị bọn chúng một phen cho hả tức. 
Thái hoàng thái hậu tỉnh táo trở lại, nghĩ thầm: “Thằng bé này là đương kim hoàng đế, y có chủ ý riêng, ta không còn bảo nó phải nghe lời mình nữa rồi. Ta bây giờ chỉ là một bà lão sắp chết, còn y là một ông vua đang lúc thanh niên khỏe mạnh, y là vua, y là vua”. Bà cố hết sức nói thêm một câu: 
- Hài nhi, cháu có tâm chí như thế, nãi nãi sung sướng lắm. 
Triệu Hú mừng rỡ, tra kiếm trở vào bao nói: 
- Bà ơi, cháu nói thế là đúng rồi, phải không? 
Thái hoàng thái hậu đáp: 
- Thế cháu có biết thế nào là kế sách vạn toàn, nhất định phải thắng hay không? 
Triệu Hú cau mày nói: 
- Tuyển tướng luyện binh, tích trữ lương thảo cùng người Liêu một trận thư hùng thì có thể thắng nhưng bảo là nhất định là thắng thì chưa chắc. 
Thái hoàng thái hậu nói: 
- Cháu cũng biết rằng hai bên ra trận không có cái gì gọi là “tất thắng chi lý”. Thế nhưng người Tống chúng ta còn biết phép không cần đánh mà vẫn khuất phục được người. 
Triệu Hú đáp: 
- Cho dân nghỉ ngơi, thi hành nhân chính, ấy là không cần đánh mà vẫn khuất phục người, có phải thế không? Bà ơi, đó là kiến thức hủ nát của bọn thư sinh Tư Mã Quang, làm sao nên nổi đại sự cho được? 
Thái hoàng thái hậu thở dài một tiếng, chậm rãi nói: 
- Tư Mã tướng công kiến thức trác việt, sao cháu lại bảo là kiến thức hủ nát của bọn thư sinh? Ngươi là chủ của một nước, phải luôn luôn chịu khó đọc Tư Trị Thông Giám của Tư Mã tướng công soạn ra. Hơn nghìn năm qua, những triều đại sở dĩ hưng suy bại vong ra sao, trong sách đều có viết rõ ràng. Đất nước Đại Tống chúng ta đất đai màu mỡ, dân số đông đảo, gấp mười nước Liêu, nếu không có chiến tranh, chỉ trong mười, hai mươi năm chúng ta càng thêm phú túc. Người Liêu dũng mãnh hiếu chiến, chúng ta chỉ cần nghiêm thủ biên cảnh, các bộ lạc của chúng ắt sẽ tàn sát lẫn nhau, giao tranh qua lại, khi đó nguyên khí sẽ cực kỳ thương tổn. Cái loạn Sở vương năm trước, bao nhiêu tinh binh nhuệ tốt của nước Liêu chết không phải là ít …
Triệu Hú vỗ đùi nói: 
- Đúng đó, lúc đó hài nhi đã tính xua quân lên miền Bắc, để nội ngoại giáp công, người Liêu đang có mối lo trong gan ruột không dễ gì ứng phó. Ôi, tiếc thay lại để mất một dịp may nghìn năm một thuở. 
Thái hoàng thái hậu gắt lên: 
- Ngươi lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện đánh nhau với nước Liêu, ngươi … ngươi … ngươi … 
Đột nhiên bà ngồi nhỏm dậy, ngón tay phải giơ ra chỉ thẳng vào Triệu Hú. Thái hoàng thái hậu tích uy đã lâu, Triệu Hú sợ quá lùi lại ba bước, chân lập cập tưởng như ngã đến nơi, tay để lên đốc kiếm, tim đập thình thình, kêu lên: 
- Mau lên, các ngươi mau vào đây. 
Bọn thái giám nghe thấy hoàng thượng gọi, vội vàng chạy vào điện. Triệu Hú run rẩy nói: 
- Bà … bà ấy … các ngươi xem bà ấy ra sao rồi? 
Y mới rồi hùng tâm đại chí, muốn cùng người Khất Đan một trận tử chiến, thế nhưng một bà lão sắp chết vừa phát uy, thì đã sợ đến hồn bất phụ thể, chân tay luống cuống. Một tên thái giám tiến lên mấy bước, chăm chăm nhìn thái hoàng thái hậu một hồi, thu hết can đảm, giơ tay cầm mạch bà ta rồi nói: 
- Khải tấu hoàng thượng, thái hoàng thái hậu đã thừa long qui thiên. 
Triệu Hú mừng rỡ, cười ha hả, thở phào: 
- Hay lắm! Hay lắm! Ta là hoàng đế rồi! Ta là hoàng đế rồi! 
Y tuy đã làm vua chín năm nhưng thực ra chỉ hữu danh vô thực, đại quyền nằm trong tay thái hoàng thái hậu, cho đến lúc này mới thực là được làm vua. 
Triệu Hú thân lý chính vụ, việc đầu tiên là cách chức Lễ Bộ thượng thư Tô Thức4, biếm xuất ra làm tri phủ Định Châu. Tô Thức văn chương nổi danh thiên hạ, người đương thời ai ai cũng trọng vọng. Ông là kẻ đối đầu số một của Vương An Thạch, xưa nay luôn luôn phải đối tân pháp. Thời Nguyên Hựu, thái hoàng thái hậu thùy liêm thính chính, trọng dụng Tư Mã Quang, và hai anh em Tô Thức, Tô Triệt. Bây giờ thái hoàng thái hậu chết rồi, hoàng đế liến biếm trục Tô Thức, trong triều cho chí dân gian ai nấy đều lo sợ, bụng bảo dạ: “Hoàng đế chắc lại định thi hành tân chính, làm khổ trăm họ lần nữa”. Thế nhưng cũng có những kẻ trong bụng mừng thầm, hoàng đế thi hành chính sách mới thì họ lại có dịp thăng quan phát tài. 
Vào thời đó chấp chính trong triều đều là cựu thần của thái hoàng thái hậu. Hàn Lâm học sĩ Phạm Tổ Vũ5 tâu lên: 
Tiên thái hoàng thái hậu lấy tấm lòng đại công chí chính, bãi bỏ tân pháp của bọn Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh mà thi hành chính sách cũ của tổ tông khiến cho xã tắc đang nguy trở lại thành an, lòng người đang ly trở về thành hợp. Đến ngay cả Liêu chúa cũng bàn với tể tướng rằng: “Nam triều tuân hành chính sự của Nhân Tông, giữ vững Yên Kinh, ước thúc quân lính đóng ở biên giới, không sinh sự”. Bệ hạ quan sát tình hình nước địch như thế ắt cũng biết được lòng dân Trung quốc như thế nào rồi. 
Đến nay bệ hạ trông coi triều chính, kẻ tiểu nhân ắt mong có thay đổi, kẻ tham lợi ắt cũng ngóng trông. Thần mong mỏi bệ hạ nghĩ đến công lao gian khổ của tổ tông và tiên thái hoàng thái hậu, đau lòng nhức óc, ghi lòng tạc dạ rằng phải làm sao hết sức tránh xa kẻ tiểu nhân, tuân thủ phép nước đời Thiên Hựu, một lòng vững chãi như kim thạch, nặng như sơn nhạc, để trong triều ngoài nội ai ai một lòng, quay về đường ngay nẻo chính, thế thì quả là cái may cho thiên hạ. 
Triệu Hú càng coi càng tức tối, vứt tấu chương xuống bàn nói: 
- “Đau lòng nhức óc, ghi lòng tạc dạ rằng phải làm sao hết sức tránh xa kẻ tiểu nhân”, câu này đúng lắm. Thế nhưng biết ai là quân tử, ai là tiểu nhân? 
Nói xong mặt hầm hầm nhìn Phạm Tổ Vũ. Phạm Tổ Vũ khấu đầu đáp: 
- Bệ hạ minh sát: Khi thái hoàng thái hậu vừa mới thính chính, trong triều ngoài nội quan dân dâng biểu vô số, ai ai cũng nói rằng chính lệnh không hợp lòng người, khổ hại cho dân đen. Thái hoàng thái hậu thuận theo dân tâm thiên hạ, thay đổi chính sách, những ai có tội thì đuổi đi, bệ hạ và thái hoàng thái hậu đều theo ý dân mà làm, những người bị biếm trục ắt phải là kẻ tiểu nhân. 
Triệu Hú cười nhạt, lớn tiếng nói: 
- Chuyện thái hoàng thái hậu trách phạt đuổi về nào có liên can gì đến ta? 
Y liền phất tay áo bãi triều. Tuy Triệu Hú căm ghét quần thần nhưng vì mới thân chính chưa lâu, không tiện đuổi hết bao nhiêu đại thần nên mới hạ chiếu thăng cho nội thị Nhạc Sĩ Tuyên, Lưu Duy Giản, Lương Tòng Chính … lên làm quan, tưởng thưởng công lao phò tá mình, rồi thác bệnh lâu ngày không nhập triều. 
Thái giám đưa vào một phong tấu chương, nét chữ mập mạp cứng cỏi, thự danh Tô Thức. Triệu Hú nói: 
- Gã râu rậm họ Tô này viết chữ đẹp nhỉ, không biết lại nói lăng nhăng gì đây? 
Thấy trên sớ viết: 
Thần hầu hạ trong trướng bệ hạ đã lâu, nay được sai ra nơi biên cảnh, mong sao được diện kiến long nhan trước khi lên đường. Tiểu thần nay phải xa bệ hạ, trong lòng bịn rịn, quả là khó thay. 
Triệu Hú nói: 
- Ta không muốn gặp cái lão râu rậm này, suốt đời không muốn gặp lại y. 
Y tiếp lấy tờ sớ đọc xuống dưới thấy viết: 
Thế nhưng thần không dám vì cái lòng ngu trung mà không ra sức. Thánh nhân thời cổ đã từng làm tướng, ắt trước hết phải ở nơi chỗ tối mà quan sát chỗ sáng, ở vào chỗ tĩnh mà quan sát chỗ động, ắt là mọi vật trước mắt đều rõ ràng. Bệ hạ thánh trí hơn người, tuổi đang lúc thanh niên … 
Triệu Hú mỉm cười, nghĩ thầm: “Gã râu rậm này quả là giảo hoạt, cũng biết giở trò bợ đỡ, nói ta là”thánh trí tuyệt nhân”. Thế nhưng y lại thêm “tuổi đang thanh niên” chẳng phải bảo ta còn nhỏ, mà tuổi trẻ thì chẳng biết gì hay sao?”. Đọc tiếp xuống viết: 
Thần nguyện sẽ để lòng trống không để xem xét cho rõ lý lẽ, mọi việc để nguyên chưa làm gì vội, cố gắng quan sát chỗ chính tà của bề dưới, xem chỗ lợi, chỗ hại, ba năm sau rõ ràng mọi chuyện, lúc đó mới tùy theo tình hình mà làm, có như thế thiên hạ mới không oán hận, bệ hạ không phải hối tiếc. Xem như thế thì cũng rõ ràng những việc bệ hạ cần làm, chỉ sợ quá sớm chứ không sợ trễ. Thần chỉ sợ những kẻ ham điều lợi muốn tiến nhanh, chưa tính toán kỹ đã giục bệ hạ cải biến nên phải nói ra, chỉ mong bệ hạ lưu tâm thì đó là điều đại hạnh của thiên hạ, đại phúc cho tông miếu xã tắc. 
Triệu Hú đọc xong tấu chương nghĩ thầm: “Người người ai cũng bảo gã râu rậm họ Tô thông minh tuyệt đỉnh, quả nhiên danh bất hư truyền. Y biết ta nhất quyết đi theo tiên đến khôi phục lại tân pháp nên không dám đến ngăn cản, chỉ khuyên ta tạm hoãn ba năm. Ôi, cái gì mà “đến lúc thi hành thiên hạ mới không oán giận, bệ hạ không phải hối tiếc”. Y nói quanh nói co nhưng ý thì cũng vậy thôi chứ có khác gì? Y bảo ta nếu như mong cái lợi gấp gáp, nóng nảy muốn làm chuyện lớn ắt thiên hạ sẽ oán hận, rồi sau ta sẽ hối hận mà thôi”. Triệu Hú giận dữ, cầm bản tấu chương xé tan nát. 
Mấy ngày sau vào triều, Phạm Tổ Vũ lại dâng sớ tâu lên: 
Đầu thời Hi Ninh, Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh đặt ra ba tân pháp, thay đổi chính sách của tổ tông dẫn đến kẻ tiểu nhân làm hỏng việc quốc gia. Nếu những người ủng hộ đường lối cũ không được dùng, những kẻ sĩ trung chính bị đẩy đi xa. Kế đó lại dùng binh nơi biên cảnh, kết oán với ngoại di, thiên hạ sầu khổ, bách tính bỏ đi. 
Triệu Hú đọc đến đây hết sức tức tối nghĩ thầm: “Ngươi chê trách Vương An Thạch, Lã Huệ Khanh nhưng kỳ thực chẳng là chê phụ hoàng hay sao?”. Y đọc xuống dưới thấy viết: 
Sái Xác liên tiếp xây thêm nhà ngục, Vương Thiều thu phục Hi Hà, Chương Đôn6 khơi năm khe nước, Thẩm Khởi làm phiền đất Giao7, Thẩm Quát 8 hưng binh Tây sự, dân binh chết không dưới hai chục vạn người. Tiên đế lâm triều khi đó mới hối hận, chỉ dụ triều đình từ nay không được phạm vào những sai lầm đó nữa …
Triệu Hú càng đọc càng thêm giận dữ, bỏ qua mấy hàng, bên dưới tiếp: 
… dân chúng ai nấy buồn đau, nhà nhà chỉ mong làm loạn, may được bệ hạ và thái hoàng thái hậu cứu cho, người trong thiên hạ, tưởng chừng trút được … 
Triệu Hú đọc đến đây không còn nhẫn nại thêm được nữa, vỗ long án đứng phắt dậy. Y lúc này vừa mười tám tuổi, ở trong vai hoàng đế tôn quí lại càng thêm oai nghi, ở giữa triều nổi nóng, triều thần không ai là không kinh hãi, nghe y gay gắt nói: 
- Phạm Tổ Vũ, tấu chương của ngươi như thế này chẳng là phỉ báng tiên đế hay sao? 
Phạm Tổ Vũ liên tiếp khấu đầu tâu: 
- Bệ hạ minh giám, vi thần vạn lần không dám. 
Triệu Hú vừa mới nắm đại quyền thấy quần thần ai nấy run sợ, cực kỳ đắc ý, nộ khí giảm dần nhưng mặt vẫn làm ra vẻ hung dữ, lớn tiếng nói: 
- Tiên đế thiên tính tài ba, hùng tâm đại chí có ý dẹp giống man di, thống nhất thiên hạ, rủi thay đương lúc thịnh niên bất hạnh băng hà, trẫm kế thừa di chí của tiên đế, có gì là không phải? Vậy mà các ngươi lèm bèm nói mãi, dám bảo biến pháp của tiên đế là sai lầm. 
Trong đám quần thần một người bước ra, tướng mạo thanh tú thoạt trông đã có uy, chính là Tể Tướng Tô Triệt. Triệu Hú trong lòng không vui, nghĩ thầm: “Gã này là em của lão râu rậm họ Tô, hai anh em hung hăng kết đảng, thứ miệng chó làm sao mọc ngà voi được”. Chỉ nghe Tô Triệt tâu lên: 
- Bệ hạ minh sát, tiên đế đã thi hành rất nhiều việc, quả là vượt xa tiền nhân. Chẳng hạn như tiên đế tại vị mười hai năm, vậy mà suốt đời không đặt tôn hiệu, bọn thần dâng tấu chương ca tụng công đức, tiên đế khiêm tốn không nhận. Còn như chính sự có điều không phải, thì có triều đại nào lại không tránh được chỗ sơ sót? Đời cha làm, đời con chữa, ấy là đức hiếu của người xưa. 
Triệu Hú hừ một tiếng, lạnh nhạt hỏi lại: 




- Cái gì mà bảo là “đời cha làm, đời con chữa”? 
Tô Triệt tâu: 
- Đó là lời của Tỉ Phương nói về chuyện Hán Võ Đế. Hán Võ Đế bên ngoài gây chuyện với tứ di, bên trong xây cất cung điện, quốc khố trống rỗng, thành thử phải đặt ra thuế muối, thuế sắt, độc quyền rượu, quân du9, chiếm đoạt tài nguyên lợi vật của bách tính khiến cho mấy lần dân nổi loạn lớn. Sau khi Võ Đế băng hà, Chiêu Đế nối ngôi, trong dụng Hoắc Quang, bãi bỏ những chính sách hà khắc nên cơ nghiệp nhà Hán mới an định được. 
Triệu Hú lại hừ một tiếng nghĩ thầm: :Ngươi dám ví phụ hoàng với Hán Võ Đế”. Tô Triệt thấy hoàng đế vẻ mặt không vui, sự tình có chiều hung hiểm, nghĩ thầm: “Nếu còn nói thêm, hoàng thượng nổi giận, ta sẽ mất mạng không chừng, nhưng nếu cứ hùa theo thì thiên hạ lại trở nên khốn khó. Hàng nghìn hàng vạn người sẽ đói rét lầm than, lưu vong thất thổ, đương quốc đại thần như ta lẽ nào lại ngồi yên? Hôm nay chính là lúc ta lấy cái tính mạng nhỏ bé báo đáp thâm ân của thái hoàng thái hậu”. Ông bèn tiếp: 
- Thời Hậu Hán, vua Minh Đế để ý từng li từng tí, lấy việc bói toán để quyết đoán mọi sự, lại tin những lời huyền hoặc quái lạ, tra xét ngôn ngữ cử chỉ các bầy tôi, chuyện gì cũng xét nét, thiên hạ ai ai cũng sợ hãi, bụng dạ phập phồng. Chương Đế nối ngôi, hiểu rõ những thất bại của đời trước nên dùng chính sách nhân hậu khoan thứ, lòng người vui vẻ, thiên hạ đại trị, ấy cũng là con mà chống đỡ được cái sai sót của cha, thi hành cái đại hiếu của thánh nhân. 
Tô Triệt đoán chừng Triệu Hú tức vị khi mới lên mười, chín năm qua mọi việc đều nghe lời thái hoàng thái hậu, trong bụng thể nào cũng oán hận, quyết ý hủy chính sự của thái hoàng thái hậu mà khôi phục biến pháp đời Thần Tông để tỏ lòng hiếu đối với cha, thành thử mới nhắc đến “thánh nhân chi đại hiếu” để khuyên nhủ hoàng đế. 
Triệu Hú lớn tiếng nói: 
- Hán Minh Đế tôn sùng nho thuật, có gì bảo là không hay đâu? Ngươi dám đem Hán Võ Đế để đem so sánh với tiên đế, ấy là có dụng ý gì? Không phải là công nhiên phỉ báng hay sao? Hán Võ Đế hiếu chiến làm khổ dân, hành vi hoang tàn bị đời sau cười chê, cuối đời phải tự hạ chiếu trách cứ mình thật là thống thiết, sao lại sánh với tiên đế được? 
Y càng nói càng lớn tiếng, giọng điệu cực kỳ gay gắt. Tô Triệt liên tiếp khấu đầu, lui xuống giữa sân quì xuống chịu tội, không còn dám nói thêm câu nào nữa. Nhiều người trong đám đại thần nghĩ thầm: “Biến pháp của tiên đế làm cho dân khốn khổ, buổi sớm không biết có sống được đến chiều không, Hán Võ Đế còn khá hơn ông ta nhiều”. Thế nhưng có ai dám nói ra, lại cũng có ai dám phân trần biện giải cho Tô Triệt? 
Một vị đại thần râu bạc tiến ra, chính là Phạm Thuần Nhân, ung dung nói: 
- Xin bệ hạ bớt giận. Tô Triệt nói năng tuy có điều thất thố nhưng cũng chỉ vì có ý tốt tỏ bụng ái quốc trung quân. Bệ hạ mới vừa thân chính, đối với đại thần cũng nên lễ mạo, không thể coi như đầy tớ. Huống chi Hán Võ Đế cuối đời hối hận về việc sai lầm đã qua, tri quá năng cải, cũng không phải là một ông vua tồi bại. 
Triệu Hú nói: 
- Người đời ai ai cũng bảo “Tần Hoàng, Hán Võ”, Hán Võ Đế đứng ngang với Tần Thủy Hoàng bạo ngược, không phải là kẻ cực kỳ vô đạo thì là gì? 
Phạm Thuần Nhân đáp: 
- Lời luận của Tô Triệt ấy là nói về thời thế và sự tình chứ không phải nói về người. 
Triệu Hú thấy Phạm Thuần Nhân bẻ lại mình, lại càng giận hơn nữa không sao dằn nổi, quát lên: 
- Tô Triệt vào đây! 
Tô Triệt từ sân đình tiến vào trong điện, không dám đứng vào vị trí cũ, quì xuống cuối hàng nói: 
- Vi thần đắc tội với bệ hạ, xin được bãi chức. 
Hôm sau có chiếu, giáng Tô Triệt xuống làm Đoan Minh Điện học sĩ, đưa ra trấn nhậm tri châu Nhữ Châu, đường đường một vị tể tướng nay xuống làm một chức quan nhỏ bé. 
Động tĩnh ở Nam Triều lập tức có tế tác báo về Thượng Kinh. Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ được tin thái hoàng thái hậu băng hà, thiếu quân Triệu Hú cách chức đại thần, hiển nhiên muốn trở lại thi hành tân chính, trong bụng mừng lắm nói: 
- Ta phải xuống Nam Kinh ngay, cùng Tiêu đại vương nghị sự. 
Gia Luật Hồng Cơ lại tiếp: 
- Nam triều có không ít gián điệp ở Thượng Kinh, nếu biết ta đi xuống Nam Kinh, ắt sẽ đề phòng. Chúng ta chỉ nên chuẩn bị giản dị, ít kẻ tùy tòng, đi cho nhanh, không cần phải thông tri cho Nam Viện Đại Vương. 
Lập tức dẫn ba nghìn giáp binh, đi về hướng nam. Để tránh cái cảnh Sở vương làm loạn năm nào hoàng đế để Tiêu hậu thống lãnh tất cả binh mã còn lại Thượng Kinh, chỉ đem mười vạn tinh binh hộ giá chia đường đi theo xuống. 
Chỉ một ngày, ngự giá đến ngoài thành Nam Kinh. Hôm đó Tiêu Phong đem theo hai mươi vệ binh đi săn ở mạn bắc, bỗng nghe Liêu chúa đến, vội vàng ruổi ngựa chạy lên nghinh giá, từ xa trông thấy tàn vàng tán tía, lập tức xuống ngựa, hối hả chạy đến, lạy phục xuống. 
Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, giục ngựa lên nói: 
- Huynh đệ, ta với ngươi danh thì là quân thần, tình thực thì như ruột thịt, việc gì phải hành đại lễ như thế? 
Y lập tức đưa tay đỡ lên, cười hỏi: 
- Có săn được nhiều dã thú không? 
Tiêu Phong đáp: 
- Mấy hôm nay trời lạnh ngắt, bao nhiêu thú chạy xuống phương nam tránh lạnh, đi săn đã lâu chỉ được mấy con chó sói, mấy con cheo chứ không được thú lớn. 
Gia Luật Hồng Cơ vốn rất thích săn bắn liền nói: 
- Vậy mình xuống phía nam xem sao! 
Tiêu Phong đáp: 
- Ngoại thành phía nam tiếp giáp với Nam triều, thần sợ làm mất hòa khí giữa hai nước nên nghiêm cấm hạ thuộc săn bắn nơi đây. 
Gia Luật Hồng Cơ hơi nhíu mày hỏi lại: 
- Thế thì còn đi “gặt lúa” thì làm sao? 
Tiêu Phong đáp: 
- Thần cũng cấm tuyệt rồi. 
Gia Luật Hồng Cơ nói: 
- Hôm nay anh em mình gặp nhau, phá lệ một chuyến, có được không? 
Tiêu Phong đáp: 
- Vâng! 
Tiếng tù và thổi u u, Gia Luật Hồng Cơ và Tiêu Phong hai người cưỡi ngựa chạy song song, vòng qua thành Nam Kinh đi thẳng về phương nam. Ba nghìn giáp binh tùy tòng cũng chạy theo. Chạy được chừng hai chục dặm, các giáp binh cùng reo hò, chia ra hai bên đông tây thành hình cánh quạt vây lại. Chỉ nghe tiếng ngựa hí chó sủa rầm rĩ, bốn phía thắt vòng vây, trong đám cỏ có mấy con thỏ, con chồn chạy ra. 
Gia Luật Hồng Cơ không muốn bắn thú nhỏ, đợi một lúc lâu, vẫn không thấy những loại gấu hay hổ nào chạy ra, còn đang bẽ bàng bỗng nghe tiếng người kêu la, từ phía đông nam chừng mươi hán tử chạy đến, nhìn y phục ra vẻ tiều phu thợ săn Nam triều. Liêu binh không đuổi được dã thú, biết rằng hoàng thượng mất vui, liền đi kiếm mấy kẻ nam nhân vây lại, hò hét xua đuổi, dồn họ đến trước ngựa của hoàng đế. 
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: 
- Thật tốt quá! 
Y liền cởi chiếc cung nạm vàng khảm ngọc, lắp lang nha tiễn lông điêu, liên tiếp bắn ra, vèo vèo vèo mấy tiếng, không mũi tên nào trật, trúng sáu Nam nhân. Những người còn lại sợ đến mất hết hồn vía, quay mình bỏ chạy nhưng lại bị lính Liêu dùng mâu chặn đuổi trở lại. 
Tiêu Phong thấy vậy hết sức bất nhẫn, kêu lên: 
- Bệ hạ! 
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: 
- Những kẻ còn lại để cho ngươi, để ta xem thần tiễn của huynh đệ thế nào! 
Tiêu Phong lắc đầu: 
- Những người này có tội gì đâu, tha cho họ đi. 
Gia Luật Hồng Cơ cười: 
- Người nam nhiều quá, cần phải giết sạch thì thiên hạ mới thái bình. Bọn chúng đầu thai lầm chỗ làm người phương nam, thế là có tội rồi. 
Nói xong lại liên tiếp bắn ra, mỗi mũi tên là một người, túi đựng tên bắn đến một nửa hơn chục người Hán không ai thoát được, kẻ thì chết ngay, kẻ thì trúng bụng chưa tắt thở nằm gục xuống rên la. Đám quân Liêu reo hò ầm ỹ cùng hô: 
- Vạn tuế! 
Tiêu Phong lúc ấy nếu như ra tay ngăn cản thì thừa sức đánh giạt những vũ tiễn của Liêu đế nhưng công nhiên làm mất mặt nhà vua trước mắt quân lính thì quả là đại nghịch bất đạo, nhưng vẻ khó chịu không thể không tỏ ra nét mặt. Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: 
- Sao thế? 
Y đang định cất cung đi, bỗng thấy một con ngựa vượt vòng săn, chạy vùn vụt tới. Gia Luật Hồng Cơ thấy người ngồi trên ngựa ăn vận theo kiểu Hán nhân, không cần hỏi han, tra tên vào loan cung bắn vụt ra phía người kia. Người kia giơ hai ngón tay kẹp được ngay mũi tên. Ngay khi đó mũi tên thứ hai của Gia Luật Hồng Cơ cũng đã bắn tới, tay trái người kia lại thò ra, kẹp được ngay. Thế nhưng con ngựa không chậm lại, vẫn băng băng chạy về phía Liêu chúa. Gia Luật Hồng Cơ tên bắn liên tiếp, hết mũi nọ đến mũi kia tưởng chừng như đầu tên nọ nối đuôi mũi tên kia. 
Thế nhưng y bắn đã nhanh mà đối phương bắt tên lại còn nhanh hơn, chỉ trong khoảnh khắc, người bắn ra bảy mũi tên thì người kia bắt đủ bảy. 
Liêu binh bảo vệ hoàng đế liền la ó, cùng giơ trường mâu ra chặn ngang trước mặt Gia Luật Hồng Cơ, en ngại kẻ kia phạm giá. Khi đó hai bên còn cách nhau chẳng bao xa, Tiêu Phong nhì rõ được mặt người kia rồi, giật mình kinh hãi kêu lên: 
- A Tử, ngươi đấy ư? Không được vô lễ với hoàng thượng. 
Người trên ngựa cười khanh khách, ném bảy mũi tên bắt được cho bọn vệ binh, nhảy xuống ngựa, quay sang Gia Luật Hồng Cơ quì xuống hành lễ nói: 
- Hoàng thượng, tiểu nữ bắt tên của hoàng thượng, xin đừng trách. 
Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: 
- Hảo thân thủ! Hảo bản sự! 
A Tử đứng thẳng dậy kêu lên: 
- Tỉ phu ra đón tiểu muội đấy ư? 
Hai chân nàng nhún một cái nhảy ngay tới trước mặt con ngựa Tiêu Phong đang cưỡi. Tiêu Phong thấy hai mắt cô gái lóng lánh có thần, vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ kêu lên: 
- A Tử, sao mắt cô sáng lại rồi? 
A Tử cười đáp: 
- Đó là nhị đệ của tỉ phu chữa cho em đó, anh thử nghĩ có giỏi không? 
Tiêu Phong lại chăm chú nhìn cô gái, đột nhiên rùng mình một cái, dường như trong ánh mắt A Tử có điều gì hết sức u uẩn thương tâm. Nói cho đúng ra mắt nàng đã khỏi, lại gặp lại mình thì phải mười phần hoan hỉ mới phải, vậy mà sao lại toát ra một vẻ buồn khổ như thế? Chỉ có tiếng cười của nàng là đầy vẻ sung sướng mà thôi. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là trên đường đi tiểu A Tử gặp nhiều điều khốn khó”. 
Đột nhiên A Tử kêu rú lên một tiếng, vọt lên phía trước. Tiêu Phong cũng cảm thấy có người ở sau lưng mình đột nhiên ra tay ám toán, lập tức quay lại, thấy một cái chĩa ba dùng để đi săn đang lao về mình. A Tử thò tay ra chộp lấy, thuận tay ném lại, chiếc đinh ba liền đâm thẳng vào ngực một người đang nằm dưới đất. Người đó là một thợ săn Hán nhân, bị Gia Luật Hồng Cơ bắn trúng nhưng chưa chết, thu hết tàn lực, phóng chiếc đinh ba vào lưng Tiêu Phong. Y thấy Tiêu Phong ăn mặc theo lối cao quan nước Liêu, chỉ mong giết được ông để rửa mối thù bị người ta sát hại. 
A Tử chỉ vào cái xác gã thợ săn chửi: 
- Đồ chó lợn không biết lượng sức mình kia, sao dám tính chuyện ám hại tỉ phu ta? 
Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử phóng chiếc chĩa ba giết gã thợ săn, trong bụng mừng rỡ nói: 
- Hảo cô nương, cô thân thủ nhanh nhẹn, quả là tài giỏi thật. Mũi xoa đó dĩ nhiên không thể nào làm gì được Nam Viện Đại Vương, nhưng nếu như vì thế mà bị thương nhẹ thì không khỏi làm hỏng đại sự của trẫm. Hảo cô nương, cô muốn ta thưởng gì đây? 
A Tử đáp: 
- Hoàng thượng phong cho tỉ phu của tiểu nữ làm quan to, cũng cho tiểu nữ một chức quan đi nhé? Chẳng cần phải to như của tỉ phu nhưng cũng đừng nhỏ quá để người ta coi thường thiếp. 
Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: 
- Bên nước Liêu nữ nhân chỉ làm việc nhà chứ không làm quan. Nếu đã thế, ngươi vốn đã là quận chúa rồi, ta thăng ngươi lên một cấp, phong ngươi làm công chúa, gọi là công chúa gì đây nhỉ? Được rồi, gọi là Bình Nam công chúa. 
A Tử dẩu miệng nói: 
- Công chúa thì không làm. 
Gia Luật Hồng Cơ ngạc nhiên: 
- Sao lại không làm? 
A Tử đáp: 
- Hoàng thượng kết nghĩa anh em với tỉ phu thiếp, nếu phong cho tiểu nữ làm công chúa thì có khác gì con gái của hoàng thượng, như vậy hóa ra bị tụt một vai hay sao? 
Gia Luật Hồng Cơ thấy A Tử đối với Tiêu Phong thần tình thân thiết mà Tiêu Phong lại không gần nữ sắc, cứ theo tục thường của người Liêu, làm quan to như thế, chẳng nói tam thê tứ thiếp mà đến ba chục vợ bốn chục nàng hầu cũng còn được, ắt hẳn cũng có tình ý với A Tử, nhưng vì chưng nàng còn nhỏ tuổi nên không tiện thành thân. Y bèn cười đáp: 
- Công chúa của ngươi đây là trưởng công chúa, ngang vai với em gái ta, chứ không phải ngang với con gái ta. Chẳng những ta phong ngươi làm Bình Nam công chúa mà cả tâm nguyện của ngươi ta cũng sẽ thành toàn cho, vậy đã được chưa? 
Khuôn mặt xinh xắn của A Tử hơi ửng hồng nói: 
- Tiểu nữ có tâm nguyện gì đâu? Làm sao bệ hạ biết được? Bệ hạ là thân hoàng đế sao cũng lại bạ đâu nói đấy như thế? 
Nàng xưa nay chẳng sợ trời sợ đất, không biết kiêng nể ai đối với Gia Luật Hồng Cơ cũng chẳng giữ lễ quân thần. Nước Liêu lễ pháp vốn còn thô sơ, Tiêu Phong lại là quí nhân được Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sủng tín, A Tử nói thế mà y chỉ cười khì khì nói: 
- Nếu chức Bình Nam công chúa ngươi còn không chịu thì ta đành chịu thôi. Một, hai, ba, có chịu hay không thì bảo? 
A Tử khoan thai lạy phục xuống, nói nhỏ: 
- A Tử tạ ân. 
Tiêu Phong cũng khom lưng hành lễ nói: 
- Tạ bệ hạ ân điển. 
Ông coi A Tử chẳng khác gì em gái mình, nàng được Liêu đế phong thưởng, Tiêu Phong cũng phải cảm ơn. Gia Luật Hồng Cơ áng chừng mình đoán không sai nghĩ thầm: “Để ta tổ chức cho y một lễ cưới thật long trọng, sau đó mới sai đi đánh Tống, lúc đó ắt sẽ tận lực mà làm”. Còn Tiêu Phong trong bụng cũng tự hỏi: “Hoàng thượng phen này xuôi nam là có dụng ý gì? Sao lại phong cho A Tử cái danh hiệu Bình Nam công chúa? Bình Nam, chẳng lẽ hoàng thượng muốn động đao binh với Nam triều chăng?”. Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói: 
- Huynh đệ, anh em ta lâu ngày không gặp, phải tâm tình với nhau một lúc. 
Hai người cưỡi ngựa cùng chạy về hướng nam, ngựa hay, đường lại phẳng nên chỉ chốc lát đã ra ngoài chục dặm. Cả một cánh đồng mênh mông bỏ hoang, trên ruộng mọc đầy gai góc cỏ dại. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người Tống sợ ta xua quân ra “đi gặt”, đến nỗi cả chục vạn mẫu ruộng tốt thế này mà không ai cày cấy”. 
Gia Luật Hồng Cơ giục ngựa chạy lên trên một cái gò nhỏ, ghìm cương đứng trên đỉnh đồi, nhìn quanh quất đầy vẻ tự hào. Tiêu Phong cũng lên theo, đưa mắt nhìn về phương nam, chỉ thấy núi non trùng điệp, không biết đến đâu là bến bờ. 
Gia Luật Hồng Cơ giơ roi chỉ xuống nói: 
- Huynh đệ, nhớ lại hơn ba mươi năm trước, phụ hoàng cũng đã từng dắt ta đến đây, chỉ về phương nam cho ta thấy giang sơn của người Tống quả là gấm vóc. 
Tiêu Phong đáp: 
- Quả đúng vậy! 
Gia Luật Hồng Cơ nói: 
- Ngươi tự nhỏ lớn lên ở đất nam man, hiểu biết nhiều sơn xuyên nhân vật, ở phương nam hẳn là thoải mái hơn chúng ta phương bắc lạnh ngắt chứ gì? 
Tiêu Phong đáp: 
- Địa phương ở nơi nào thì cũng vậy. Nói đến “thoải mái” thì chỉ cần không phải lo lắng, trong lòng vui sướng là được rồi. Người phương bắc không quen ở phương nam, người phương nam cũng không quen ở phương bắc. Ông trời đã sắp đặt như thế rồi, nêá nhất định đổi chỗ cho nhau thì chỉ thêm phiền não. 
Gia Luật Hồng Cơ nói: 
- Ngươi là người Bắc nhưng cư ngụ ở phương nam, lâu quá hóa quen rôài, nay phải di cư lên phía bắc, không thấy bực bội hay sao? 
Tiêu Phong đáp: 
- Thâàn là kẻ lãng đãng giang hồ, bốn bể đâu cũng là nhà, không phải như bọn nhà nông hay kẻ chăn nuôi. Thần được bệ hạ ban cho nơi ăn chốn ở, cao quan hậu lộc vẫn hằng thâm cảm ân đức, còn có gì đâu mà phiền não? 
Gia Luật Hồng Cơ quay lại, nhìn chăm chăm vào mặt ông. Tiêu Phong không tiện bốn mắt nhìn nhau, mỉm cười rồi đưa mắt sang chỗ khác. Gia Luật Hồng Cơ chậm rãi nói: 
- Huynh đệ, ngươi với ta tuy kẻ chúa người tôi, nhưng là anh em kết nghĩa, lâu ngày không gặp nhau sao có vẻ hờ hững thế? 
Tiêu Phong đáp: 
- Trước đây vi thần không biết bệ hạ là thiên tử nước Liêu này, nên đã không khỏi mạo muội, ngạo mạn vói cao, nhưng sau này biết rồi, lẽ nào còn dám coi như huynh đệ kết nghĩa? 
Gia Luật Hồng Cơ thở dài: 
- Làm hoàng đế hóa ra chẳng có thể kết giao được với vài người tâm phúc, nghĩa khí thâm trọng hay sao? Huynh đệ, ví như ta theo ngươi hành tẩu giang hồ, không gì câu thúc, có khi lại sung sướng hơn! 
Tiêu Phong mừng rỡ đáp: 
- Bệ hạ nếu thích có bạn bè, cũng đâu có khó gì. Thần có hai người anh em kết nghĩa ở Trung Nguyên, một người là Hư Trúc Tử ở cung Linh Thứu, một người là Đại Lý Đoàn Dự, đều là những người nhiệt tình can đảm. Nếu như bệ hạ bằng lòng gặp họ, thần sẽ mời đến thăm Liêu quốc một chuyến. 
Ông từ khi trở lại Nam Kinh, ngày ngày chung sống với đám thuộc hạ lính tráng, ngôn ngữ tính nết đều không hợp nhau, nên càng thêm nhớ nhung Hư Trúc, Đoàn Dự, chỉ mong hai người đến đây hàn huyên một phen. 
Gia Luật Hồng Cơ mừng rỡ đáp: 
- Nếu đã là anh em kết nghĩa của huynh đệ, thì cũng là anh em của ta. Ngươi mau mau sai người đưa thư, bảo hai người đó đến Liêu quốc, trẫm sẽ phong quan chức to cho họ. 
Tiêu Phong mỉm cười nói: 
- Mời họ qua đây chơi thì không khó nhưng bảo qua đây làm quan thì chắc họ không đi đâu. 
Gia Luật Hồng Cơ trầm ngâm một chút rồi nói: 
- Huynh đệ, ta xem thần tình ngôn ngữ nhà ngươi, trong lòng dường như có điều gì rầu rĩ không vui. Ta có cả thiên hạ, đưa binh đi bốn bể chỗ nào chả được, có chuyẹân gì lo cho ngươi mà không xong? Sao hiền đệ không nói cho người anh này biết? 
Tiêu Phong trong lòng cảm động nói: 
- Không dám dấu bệ hạ, chuyện này là mối hận bình sinh của thần, đã gây ra một sai lầm rất lớn, không thể nào vãn hồi được. 
Nói rồi ông đem chuyện ngộ sát A Châu kể lại qua loa. Gia Luật Hồng Cơ vỗ đùi một cái lớn tiếng nói: 
- Thảo nào huynh đệ đã ngoài ba mươi mà không lấy vợ, thì ra chỉ vì không quên được người cũ. Huynh đệ, ngươi sở dĩ gây ra cái sai lầm đó, chẳng qua cũng bởi bọn nam man người Hán tệ bạc, thêm bọn ăn mày người Hán vong ân phụ nghĩa. 
Chú mày không việc gì phải buồn rầu, ta lập tức hưng binh, đánh cho bọn nam man một trận, bắt sạch bọn võ lâm Trung Nguyên, luôn cả bọn Cái Bang đem giết hết, để cho hả cái thù chết mẹ của huynh đệ nơi Nhạn Môn Quan, và cái hận bị vây khốn nơi Tụ Hiền Trang. Nếu chú mày thích gái đẹp người nam, ta sẽ chọn cho một nghìn đứa, hai nghìn đứa đến hầu hạ, có gì khó đâu? 
Tiêu Phong trên mặt thoáng hiện vẻ gượng gạo, nghĩ thầm: “Ta đã giết lầm A Châu, kiếp này còn lấy ai nữa? A Châu là A Châu, tứ hải liệt quốc, thiên thu vạn tải cũng chỉ có một nàng A Châu mà thôi. Dù cho một nghìn, một vạn mỹ nữ người Hán cũng đâu có thể thay thế nàng? Hoàng thượng quen với cảnh hậu cung hàng trăm hàng nghìn cung nga phi tần, đâu có biết “tình” là thế nào?”. Ông bèn nói: 
- Đa tạ hậu ân của bệ hạ, nhưng cừu oán của thần với võ lâm Trung Nguyên đã một bút sổ toẹt rồi. Dưới tay vi thần đã giết không ít người trong võ lâm Trung Nguyên, lấy oán báo oán, quả là vô cùng vô tận. Chiến tranh xảy ra, liên miên không dứt, họa nọ tiếp họa kia, sự việc không biết sẽ đến chừng nào. 
Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói: 
- Người Tống văn nhược, chỉ giỏi ăn to nói lớn, đến khi ra trận chưa đánh đã thua. Huynh đệ anh hùng vô địch, thống suất binh mã nam chinh, chỉ vài ngày là định được đất nam man, làm gì có chuyện binh liên họa kết? Huynh đệ, ca ca lần này xuống miền nam, ngươi có biết tại vì cớ gì không? 
Tiêu Phong đáp: 
- Cũng đang mong được bệ hạ chỉ thị cho rõ ràng. 
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: 
- Chuyện thứ nhất là muốn được cùng hiền đệ gặp nhau cho bõ những ngày xa cách. Hiền đệ mới rồi đi qua phương tây, nước Tây Hạ hình thế khó hay dễ, binh mã yếu hay mạnh, ắt đã ghi nhớ trong lòng rồi. Theo ý kiến của hiền đệ, liệu có thu được Tây Hạ hay không? 
Tiêu Phong bàng hoàng, nghĩ thầm: “Hoàng thượng đồ mưu quả không phải nhỏ, đã có bụng nam chiến Đại Tống, lại còn tính cả tây thu Tây Hạ”. Ông liền đáp: 
- Thần tử chuyến vừa qua tây du, chỉ định xem trò náo nhiệt công chúa Tây Hạ chiêu thân, đâu có nghĩ gì đến chiến trận công thủ. Bệ hạ minh giám, thần tử qua lại giang hồ lâu năm, cận chiến quyền cước thì cũng có chút kinh nghiệm, còn hành binh bố trận, thật chẳng biết tí gì. 
Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: 
- Hiền đệ việc gì phải khiêm tốn quá như thế? Quốc vương Tây Hạ kỳ này đánh trống khua chiêng tuyển phò mã, ai ngờ đầu voi đuôi chuột, không đâu vào đâu, thật chẳng bõ cười. Biết vậy kỳ đó hiền đệ dẫn theo mười vạn tinh binh, lấy quách cô công chúa Tây Hạ đem về Nam Kinh, thế mới thật là hay đấy. 
Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ thầm: “Hoàng thượng cứ nghĩ binh hùng tướng mạnh trong tay là muốn gì được nấy”. Gia Luật Hồng Cơ nói tiếp: 
- Ca ca sở dĩ lần này xuống đây, ấy là để thăng tước thăng quan cho hiền đệ. Hiền đệ nghe đây. 
Tiêu Phong đáp: 
- Vi thần thụ ân như thế đã quá nhiều, không dám vọng tưởng … 
Gia Luật Hồng Cơ lớn tiếng nói: 
- Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong nghe đây! 
Tiêu Phong chỉ đành nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất. Gia Luật Hồng Cơ nói: 
Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong tận trung thể quốc, phò tá trẫm như tay chân, nay thăng tước lên Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái, thống suất ba quân. 
Khâm thử. 
Tiêu Phong trong bụng ngần ngừ, không biết phải làm sao, nói: 
- Vi thần không có công lao gì, thực không dám nhận trọng ân như thế. 
Gia Luật Hồng Cơ lạnh lùng hỏi: 
- Sao thế? Ngươi cự mệnh không nhận chăng? 
Tiêu Phong thấy giọng y có vẻ gay gắt, biết rằng không thể nào từ chối, chỉ đành khấu đầu nói: 
- Thần Tiêu Phong tạ ân. 
Hồng Cơ cười ha hả nói: 
- Có thế mới là hảo huynh đệ của ta chứ. 
Y đưa tay đỡ Tiêu Phong dậy nói: 
- Huynh đệ, ta lần này xuống nam không phải chỉ đến Nam Kinh mà còn muốn ngự giá đến tận Biện Lương. 
Tiêu Phong lại càng kinh hãi, run run hỏi: 
- Bệ hạ muốn đến Biện Lương? Chẳng … chẳng phải là … 
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: 
- Huynh đệ là Bình Nam đại nguyên soái thống suất ba quân, vì ta đi trước, chúng mình đánh thẳng tới Biện Lương. Sau này hoàng cung của thằng nhãi Triệu Hú kia sẽ là phủ Tống Vương của hiền đệ. 

datlucky_way

27-07-2009 12:53 PM

Hồi 49(b) : TỆ TỈ VINH HOA, PHÙ VÂN SINH TỬ, THỬ THÂN HÀ CỤ 





Bấm vào đây để xem nội dung.


Giàu sang phú quí mà chi, Xem như dép cũ bỏ đi cho rồi. 
Cuộc đời mây nổi ai ơi, Đến như sống chết đã coi ra gì. 

* * 
Tiêu Phong hỏi lại: 
- Thế có nghĩa là bệ hạ định khai chiến với Nam triều ư? 
Hồng Cơ đáp: 
- Không phải là ta muốn gây sự với Nam triều mà là bọn Nam man muốn cùng ta so tài cao thấp. Thời con mụ già thái hoàng thái hậu của Nam triều còn chấp chính, mọi việc chuyện gì đâu ra đó, ta tuy có bụng nam chinh nhưng không chắc ăn. Bây giờ bà lão đó chết rồi, thằng nhãi Triệu Hú miệng còn hôi sữa kia lại cho người sang dò thám phương bắc, huấn luyện quân đội, chiêu binh mãi mã, tích thảo đồn lương, ha ha, thằng nhãi đó không phải muốn đối phó ta thì còn ai nữa? 
Tiêu Phong đáp: 
- Nam triều huấn luyện sĩ tốt mình cũng chẳng cần phải để ý làm gì. Mấy năm qua Tống Liêu không giao tranh, hai nước thái bình, Triệu Hú đến xâm phạm thì mình sẽ đánh cho chúng một trận tan tành. Còn như nếu y sợ thanh uy của bệ hạ, không dám vọng động khinh suất thì mình cũng chẳng cần chấp nhất tên tiểu tử đó làm chi. 
Gia Luật Hồng Cơ nói: 
- Huynh đệ có chỗ chưa am tường, Nam triều đất rộng người đông, sản vật phong phú, nếu như có được một minh chúa, nhất định đối phó với Đại Liêu thì chúng ta không thể nào địch nổi. May sao gã Triệu Hú kia hành động càn rỡ, biếm trục trung thần, đến cả gã râu rậm họ Tô cũng bị đuổi rồi. Lúc này vua tôi không hòa thuận, lòng người không theo, quả đúng là cái cơ hội nghìn năm một thuở. Lúc này không khởi sự thì còn chờ đến bao giờ? 
Tiêu Phong đưa mắt nhìn xuống phương nam, trước mắt như hiện ra một cảnh tượng huyễn ảo: Hàng nghìn hàng vạn quân Liêu đang ào ào tiến xuống, nhà cửa cháy ngút trời, bao nhiêu là nam phụ lão ấu rên xiết dưới vó ngựa, tên bay khắp nơi, binh lính Tống Liêu chém giết, xác người rơi từ trên mình ngựa xuống, máu hòa lẫn với nước sông cuốn đi, xương trắng đầy đồng … 
Gia Luật Hồng Cơ lớn tiếng nói: 
- Liệt tổ tông người Khất Đan chúng ta ai ai cũng mong thu đất Nam triều vào bản đồ, nhưng mấy lần đều thất bại. Hôm nay mệnh trời đã đến, đại công sẽ thành ở trong tay ta. Hảo huynh đệ, tên vua tôi hai chúng ta sẽ mãi mãi ghi trong thanh sử, chẳng phải là chuyện hay lắm sao? 
Tiêu Phong quì phục xuống, liên tiếp khấu đầu nói: 
- Bệ hạ, vi thần có một việc khẩn cầu. 
Gia Luật Hồng Cơ hơi kinh ngạc hỏi: 
- Ngươi muốn điều chi? Nếu ca ca có thể làm được thì không chối từ một chuyện gì hết. 
Tiêu Phong đáp: 
- Xin bệ hạ vì muôn vạn sinh linh hai nước Tống Liêu, thu hồi thánh ý Nam chinh. Người Khất Đan chúng ta xưa nay sinh sống bằng đường du mục, dẫu có lấy được đất của Nam triều cũng chẳng làm gì. Huống chi binh đao là chuyện hung hiểm, chiến tranh là chỗ nguy nan đâu có nhất định chắc thắng, nếu như thất bại, lại khiến cho tổn thương đến uy danh của bệ hạ. 
Gia Luật Hồng Cơ nghe giọng điệu của Tiêu Phong từ đầu chí cuối không muốn nam chinh, nghĩ đến vương công quí nhân, tướng soái đại thần Khất Đan trước nay hễ nghe đến “nam chinh” thì ai nấy nhảy cỡn lên reo hò, sao chỉ riêng Tiêu Phong lại ngăn trở? Y liếc nhìn Tiêu Phong thấy ông lông mày nhíu lại tỏ vẻ lo lắng nghĩ thầm: “Ta phong y làm Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái, ở Đại Liêu là một cao quan, chỉ dưới một người, ở trên vạn người, sao y lại không thấy vui là thế nào? Đúng rồi, y tuy là người Liêu nhưng từ bé được giống Nam man nuôi nấng lớn khôn, có thể nói một nửa là giống Nam man. Đại Tống là phụ 




mẫu chi bang của y, nghe ta phát binh chinh phạt nên vội vàng hết sức ngăn trở. Xem như thế này, nếu ta miễn cưỡng ép y cầm binh tiến về nam, chỉ sợ y không tận lực”. Y bèn nói: 
- Ý định nam chinh của ta đã quyết rồi, huynh đệ không nên nhiều lời. 
Tiêu Phong đáp: 
- Chinh chiến là đại sự của quốc gia, xin bệ hạ suy nghĩ cho kỹ. Nếu như hoàng thượng nhất quyết nam chinh xin giao cho người hiền năng thì hơn. Để thần thống lãnh đại binh, e rằng làm hỏng việc của bệ hạ. 
Phen này Gia Luật Hồng Cơ hùng hùng hổ hổ xuống phương nam, phong thưởng quyền cao tước trọng cho Tiêu Phong, sai ông thống suất hùng binh, ấy là nghĩ đến tình anh em kết nghĩa, ban cho Tiêu Phong một ân điển cực lớn, vẫn tưởng chắc ông sẽ sung sướng lắm, nào ngờ ông nói như thế chẳng khác nào đổ một thùng nước lạnh vào mặt mình, lại không chịu nhận chức Bình Nam đại nguyên soái, trong lòng hết sức bất mãn, lạnh lùng nói: 
- Trong lòng ngươi Nam triều coi hơn cả nước Liêu ư? Ngươi thà trung với Nam triều chứ không chịu trung với Đại Liêu chăng? 
Tiêu Phong lạy phục xuống nói: 
- Bệ hạ minh giám. Tiêu Phong là người Khất Đan, dĩ nhiên phải trung với Đại Liêu rồi. Đại Liêu nếu gặp nguy nan, Tiêu Phong này dù phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy, tận trung báo quốc, vạn tử bất từ.
Gia Luật Hồng Cơ hỏi: 
- Thằng nhãi con Triệu Hú đã có bụng thôn tính lãnh thổ Đại Liêu. Người đời thường bảo: Tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương. Nếu chúng ta không tiên phát chế nhân, không chừng có cái họa vong quốc diệt chủng. Ngươi bảo là tận trung báo quốc, vạn tử bất từ, vậy sao ta bảo ngươi vì nước thống lĩnh hùng binh, ngươi lại không phụng mệnh? 
Tiêu Phong đáp: 
- Thần bình sinh giết người đã nhiều, thật không muốn hai tay dính thêm máu tanh nữa, xin bệ hạ bằng lòng cho thần từ quan, ẩn cư nơi rừng sâu núi thẳm. 
Gia Luật Hồng Cơ nghe ông đòi từ quan, lại càng phẫn nộ, bụng nảy ra sát ý, tay liền để lên cán đao, muốn rút phắt ra chém đầu Tiêu Phong nhưng lập tức nghĩ lại: “Người này võ công ghê gớm, ta chém y một cái không chết thể nào cũng bị y làm hại. Huống chi trước đây y có công lớn dẹp loạn, lại cùng ta kết nghĩa anh em, bây giờ một lời không hợp đã giết công thần, như thế làm tổn đến ân đức”. Y bèn thở dài một tiếng, buông cán đao ra nói: 
- Ngươi với ta sở kiến không giống nhau, nhất thời không thể miễn cưỡng. Thôi ngươi quay về suy nghĩ lại cho kỹ, mong sẽ hồi tâm chuyển ý, nhận lệnh nam chinh. 
Tiêu Phong tuy bái phục trên mặt đất nhưng người ở bên cạnh dù chỉ nhướng mày, giơ một ngón tay ông cũng đã cảnh giác ngay, huống chi Gia Luật Hồng Cơ tay để lên cán đao, trong lòng nổi ý định giết người thì làm gì ông không biết? Ông biết rằng nếu như mình còn nói thêm nữa, càng nói thì càng thêm hục hặc, e sẽ nghịch nhau bèn đáp: 
- Tuân chỉ. 
Ông liền đứng lên, dắt con ngựa của Gia Luật Hồng Cơ lại. Gia Luật Hồng Cơ không nói một lời, nhảy lên ngựa, phóng vụt đi. Lúc trước xuôi nam, hai người quân thần cưỡi ngựa song song nay trở về bắc người sau kẻ trước, cách nhau cả dặm. Tiêu Phong biết Gia Luật Hồng Cơ đã có bụng nghi mình, nếu đi quá gần không khỏi khiến y bất an mà lỡ đề cập đến chuyện nam chinh, không lẽ không trả lời nên chỉ theo ở xa xa. 
Về đến thành Nam Kinh, Tiêu Phong mời Liêu đế vào ở trong vương phủ Nam Viện Đại Vương, Gia Luật Hồng Cơ cười đáp: 
- Ta không đến làm phiền ngươi đâu, để ngươi bình tĩnh lại, suy nghĩ cho kỹ họa phúc lợi hại, ta quay về ngự doanh nghỉ được rồi. 
Tiêu Phong liền cung kính tiễn Gia Luật Hồng Cơ trở về ngự doanh. Gia Luật Hồng Cơ đem từ Thượng Kinh rất nhiều bảo đao lợi kiếm, tuấn mã mỹ nữ ban thưởng cho ông, Tiêu Phong tạ ơn đem cả về vương phủ. 
Tiêu Phong bình thời rất ít khi đích thân giải quyết chính vụ, các loại văn vật thư tịch không màng đến, thành ra vương phủ không có thư phòng. Ông chỉ thường cùng chư tướng ngồi bệt xuống trong đại sảnh, gọi đem rượu ra uống, cắt lấy thịt mà ăn, không mất cái phong vị hào sảng trước đây khi ở cùng bọn Cái Bang. Người Khất Đan sinh sống trong sa mạc, nơi trướng phủ cũng đều như thế, thấy đại vương cũng hòa hợp với mình, đối xử thân thiết nên ai nấy đều hoan hỉ. 
Lúc Tiêu Phong từ ngự doanh trở về thì trời đã tối, vừa bước chân vào đại sảnh, đã thấy dưới ánh đuốc mỡ bò bập bùng, một thiếu nữ áo tím nằm phục trên tấm da hổ, chính là A Tử. 
Nàng nghe tiếng chân người vội vàng nhỏm dậy, nhào tới ôm cổ Tiêu Phong, nhìn vào mắt ông hỏi: 
- Em trở về tỉ phu có mừng không? Sao mặt mày lại có vẻ khó chịu như thế? 
Tiêu Phong lắc đầu nói: 
- Ta buồn là vì chuyện khác. A Tử, ngươi trở về, ta mừng lắm chứ. Ở trên đời này, ta chỉ còn khắc khoải một mình cô thôi, sợ không biết cô có gặp chuyện gì nguy hiểm không? Ngươi trở lại ở bên cạnh ta, mắt lại chữa khỏi rồi, chẳng còn gì phải lo lắng. 
A Tử cười nói: 
- Tỉ phu, không những mắt em khỏi rồi mà hoàng thượng lại còn phong em làm công chúa, anh có thấy vui không? 
Tiêu Phong đáp: 
- Có phong công chúa hay không thì tiểu A Tử vẫn là tiểu A Tử. Hoàng thượng cũng vừa thăng quan cho ta, ôi! 
Ông vừa nói vừa thở dài sườn sượt, nhắc một chiếc túi da bò đựng đầy rượu lên, mở nắp tu một hơi. Trong đại sảnh chỗ nào cũng để toàn là túi rượu, mỗi khi Tiêu Phong thèm là uống, chẳng cần ai phục dịch. A Tử cười nói: 
- Chúc mừng tỉ phu được thăng quan. 
Tiêu Phong lắc đầu nói: 
- Hoàng thượng phong ta làm Tống Vương, Bình Nam đại nguyên soái, sai ta đem binh đi công đả Nam triều. Ngươi thử nghĩ xem, một khi chinh chiến thì biết bao nhiêu quan quân bách tính sẽ phải chết? Ta không chịu bái mệnh, thành thử hoàng thượng bực tức lắm. 
A Tử đáp: 
- Tỉ phu quả là quái lạ. Tiểu muội nghe nói ở Tụ Hiền Trang tỉ phu đã từng giết vô số hào kiệt Trung Nguyên, chẳng thấy thở dài chút nào. Bọn man tử võ lâm Trung Nguyên ức hiếp anh đến thế, hôm nay được hoàng thượng cho thổ khí dương mi, sai suất lãnh đại quân về giết sạch sành sanh bọn khốn kiếp đó, đại ca lại không vui là sao? 
Tiêu Phong giơ chiếc bao da lên uống một ngụm lớn, lại thở dài một tiếng nói: 
- Hôm đó ta và tỉ tỉ ngươi bị họ vây đánh, nếu không hết sức chiến đấu thì sẽ bị loạn đao phân thi, đó là thế chẳng đặng đừng. Hôm đó những người bị ta giết có vô số bạn cũ của ta, sau này nghĩ lại trong lòng hết sức xót xa. 
A Tử kêu lên một tiếng: 
- Ồ, tiểu muội biết rồi, năm xưa tỉ phu vì chị A Châu nên mới đành lòng giết người. Thế như bây giờ tiểu muội năn nỉ tỉ phu đi giết bọn man tử Nam triều, liệu có được không? 
Tiêu Phong lườm cô ả, gắt lên: 
- Mạng người là chuyện lớn, vậy mà ngươi nói ra tưởng như giết bò giết cừu không bằng. Cha ngươi tuy là người Đại Lý nhưng mẹ ngươi cũng là người nước Tống Nam triều. 
A Tử bĩu môi quay mặt đi nói: 
- Tiểu muội đã biết trong lòng tỉ phu, dù một nghìn em cũng chẳng bằng được chị ấy, một vạn A Tử sống cũng chẳng bằng được một A Châu đã qua đời. Xem ra chỉ có nước em chết quách cho xong, lúc đó anh mới mủi lòng được một chút. Giá biết thế … em … em chẳng hơi đâu phải đường sá xa xôi lặn lội đi tìm anh. Anh … anh có bao giờ coi ai ra gì đâu? 
Tiêu Phong nghe nàng nói giọng lưỡi ra chiều u oán, không khỏi bàng hoàng, nhớ đến khi trước cô ta phát xạ độc châm ám toán mình, cũng chỉ cốt để mình mãi mãi ở bên cạnh nàng, bèn đáp: 
- A Tử, ngươi còn nhỏ, chỉ được cái bướng bỉnh ngang ngược, không hiểu chuyện người lớn … 
A Tử cướp lời: 
- Cái gì mà người lớn với chẳng trẻ con? Em không còn là con nít nữa. Tỉ phu đã nhận lời tỉ tỉ lo liệu cho em, anh … anh chỉ lo cho em cơm ăn, áo mặc, chứ có … chứ có bao giờ lo đến lòng dạ em đâu? Anh có bao giờ hỏi đến tâm sự em thế nào đâu? 
Tiêu Phong càng nghe càng thêm kinh hoảng, không dám tiếp lời. A Tử quay lưng lại, nói tiếp: 
- Khi mắt em bị mù, em biết là tỉ phu sẽ chẳng bao giờ thích em nên có dám gần gũi đâu? Bây giờ mắt em sáng lại rồi, anh cũng chẳng thèm ngó ngàng gì đến, em … em có chỗ nào không bằng A Châu? Mặt mũi không xinh đẹp ư? Hay là không thông minh bằng? Cũng bởi vì chị ấy chết rồi nên anh mới ngày đêm khắc khoải. Em … em … tiếc thay hôm đó không bị anh một chưởng đánh chết, như thế anh sẽ mãi mãi nhớ đến em như nhớ A Châu … 
Nàng nói đến tâm sự đau lòng đó, đột nhiên quay lại sà vào lòng Tiêu Phong, khóc nức nở. Tiêu Phong lúng túng, không biết phải nói thế nào cho phải. 
A Tử thút thít một hồi rồi nói: 
- Thế tiểu muội còn trẻ con ở chỗ nào? Hôm ở bên chiếc cầu đêm mưa bão sấm sét, thấy anh đánh chết chị em rồi, khóc lóc thật não lòng, em cảm thấy thương mến không biết chừng nào. Em tự nhủ: “Đại ca chẳng nên khổ sở như thế. Không có A Châu thì em sẽ là A Châu, hết lòng hết dạ yêu thương anh”. Em đã nhất định rồi, nguyện sẽ suốt đời ở bên anh. Thế nhưng đại ca lại cứ duỗi ra khiến tiểu muội phải tự nói với mình: “Giỏi nhỉ, anh không cho tôi đi theo, đã thế tôi sẽ làm cho anh tàn phế, mọi việc sẽ phải tùy thuộc vào tôi, sẽ phải theo tôi mãi mãi”. 
Tiêu Phong lắc đầu: 
- Chuyện cũ không cần phải nhắc lại nữa. 
A Tử gắt lên: 
- Sao lại là chuyện cũ? Trong lòng em thì lúc nào nó cũng như mới ngày hôm nay. Em không nói với tỉ phu nữa, xưa nay anh vẫn nào có coi em ra gì đâu? 
Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt mái tóc mềm mại của cô gái nói khẽ: 
- A Tử, tuổi của ta hơn gấp đôi tuổi cô, lo liệu cho cô như chú như anh. Trong đời ta chỉ yêu thương có một người con gái, đó là chị cô thôi. Mãi mãi sẽ không có người đàn bà nào thay thế cho A Châu được, ta cũng quyết không yêu thương một người thứ hai nào. Hoàng thượng ban cho ta hơn một trăm mỹ nữ, đến nay ta cũng chưa nhìn thẳng vào mặt người nào. Ta lo lắng cho cô cũng chỉ vì A Châu mà thôi. 
A Tử tức tối, đột nhiên giơ tay tát bốp một cái lên mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong nếu như muốn tránh thì chưởng đó làm sao trúng mặt được? Chỉ vì ông thấy A Tử tức giận đến mặt tái nhợt, trong ánh mắt đầy vẻ thê lương, càng nhìn càng thấy xót xa nên không tránh né để nàng tát một cái cho hả dạ. 
A Tử đánh được một cái lại đâm hối hận, kêu lên: 
- Tỉ phu, em quả là tệ hại, anh … anh đánh lại đi, đánh lại đi! 
Tiêu Phong nói: 
- Thế chẳng phải tính trẻ con thì là gì? A Tử, trên đời này có chuyện gì gọi là lớn đâu, cũng chẳng phải đau lòng đến thế. Sao ánh mắt ngươi lại có vẻ bi thương như vậy? Tỉ phu là một hán tử thô lỗ, ngươi quả như muốn bầu bạn với ta thì chỉ thêm bực mình. 
A Tử đáp: - Có thực mắt em tỏa ra vẻ bi thương đau đớn hay chăng? Ôi, cũng tại cái tên xú bát quái đó làm khổ em. 
Tiêu Phong hỏi lại: 
- Cái gì mà bảo tên xú bát quái đó làm khổ ngươi? 
A Tử đáp: 
- Đôi mắt của em đây, chính là của tên đầu sắt xấu như ma cho em đó. 
Tiêu Phong nhất thời chưa rõ nàng nói chuyện gì nên nhắc lại: 
- Tên đầu sắt? Xấu như ma? 
A Tử đáp: 
- Cái gã bang chủ Cái Bang Trang Tụ Hiền, tỉ phu có biết đó là ai không? Nói ra quả khiến người ta cười đến vỡ bụng, y chính là kẻ em đã đeo cho một cái mặt nạ sắt Du Thản Chi. Y chính là con của nhị trang chủ Tụ Hiền Trang Du Câu, đã từng dùng vôi bột ném vào anh đó. Cũng chẳng biết y học ở đâu được môn võ công cổ quái cứ lẽo đẽo theo em, cố hết sức làm cho em vui lòng. Em bị y đánh lừa thật khổ quá, khi đó mắt em mù, cũng chẳng ai săn sóc nên cứ một Trang công tử ơi, hai Trang công tử hỡi. Bây giờ nghĩ lại thật là mắc cở. 
Tiêu Phong lạ lùng: 
- Thì ra gã Trang bang chủ của Cái Bang chính là người bị ngươi bắt làm Thiết Sửu, thảo nào mặt mày đầy sẹo, chắc là lúc y gỡ chiếc mặt nạ ra nên mới bị thương. Gã hề sắt đó là Du Thản Chi đấy sao? Ôi, ngươi quả thực tai quái hết cỡ, hành hạ người ta đến mức ấy. Gã đó không thù ngươi, lại chăm lo săn sóc ngươi, quả là hiếm có. 
A Tử cười khẩy đáp: 
- Hứ, cái gì mà hiếm có? Y có tốt lành gì đâu? Y chỉ muốn em lấy y đấy thôi. 
Tiêu Phong nhớ lại tình cảnh ánh mắt Du Thản Chi nhìn A Tử trên núi Thiếu Thất quả là đầy mối thâm tình, có điều khi ấy ông không chú ý bèn nói: 
- Ngươi biết rõ mọi sự rồi, tức quá liền giết y đi rồi móc hai mắt y chứ gì? 
A Tử lắc đầu: 
- Không phải, em nào có giết y, đôi mắt này do y tự nguyện cho em đó. 
Tiêu Phong lại càng không hiểu: 
- Vì cớ gì y lại bằng lòng móc mắt mình ra đem cho ngươi? 
A Tử đáp: 
- Quả thực chưa thấy ai ngu như gã này. Tiểu muội cùng y đến Phiêu Miểu Phong cung Linh Thứu rồi, tìm được nghĩa đệ của tỉ phu là Hư Trúc Tử, nhờ ông ta chữa mắt. Hư Trúc Tử lục sách thuốc đọc thật kỹ, nói là phải kiếm cho được mắt người sống còn tươi thay vào mới được. 
Trên cung Linh Thứu ai ai cũng là hạ thuộc của Hư Trúc Tử, em có cầu y chữa, y cũng chẳng bằng lòng móc mắt họ ra. Em lại bảo Du Thản Chi xuống dưới núi bắt một người nào đó đem lên thì gã liền khóc lóc, bảo là sau khi em chữa khỏi mắt rồi, nhìn rõ bộ mặt của hắn sẽ không còn ngó ngàng gì đến y nữa. Em bảo em sẽ không bỏ y, y không tin. 
Có ngờ đâu y kiếm một con dao đến tìm Hư Trúc Tử nguyện ý tặng đôi mắt cho em. Hư Trúc Tử nhất định không chịu, gã đầu sắt liền lấy dao rạch ngang vạch dọc mấy đường trên người, trên mặt mình bảo là nếu Hư Trúc Tử không bằng lòng y sẽ tự sát ngay. Hư Trúc Tử không biết làm sao, chỉ đành lấy đôi mắt y thay vào cho em. 
Nàng kể có vẻ giản dị tưởng như một chuyện thật bình thường nhưng Tiêu Phong nghe rồi hết sức kinh hãi, những chuyện hung hiểm kinh tâm động phách ông từng trải cũng không sao hơn được. Hai tay ông run run, bịch một tiếng vứt túi ruợu trên tay xuống nói: 
- A Tử, có thật Du Thản Chi cam tâm tình nguyện đem đôi mắt thay cho ngươi hay chăng? 
A Tử đáp: - Đúng vậy. 
Tiêu Phong nói: 
- Ngươi … ngươi quả là lòng lim dạ đá, người ta đem đôi mắt cho ngươi mà ngươi cũng nhận hay sao? 
A Tử nghe ông nói có vẻ gay gắt, mắt chớp chớp, lại muốn khóc, đột nhiên nói: 
- Tỉ phu, nếu như mắt anh bị mù thì em cũng cam tâm tình nguyện đem mắt tặng cho anh ngay. 
Tiêu Phong nghe nàng nói thật hết sức sắt đá, không phải chuyện đùa, trong lòng hết sức cảm động, dịu dàng nói: 
- A Tử, vị Du quân đó đối với ngươi một mối thâm tình, ngươi quả là có phúc mà không biết hưởng. Ngoài y ra trên đời này kiếm đâu ra được một tình lang như thế nữa? Hiện giờ y đang ở đâu? 
A Tử đáp: 
- Hẳn y vẫn còn ở cung Linh Thứu. Y không có mắt, ngọn Phiêu Miểu hiểm trở như thế làm sao xuống được? 
Tiêu Phong nói: 
- Ồ, không chừng nhị đệ đã kiếm được mắt của một tử tù nào thay mắt cho y rồi. 
A Tử đáp: 
- Không thể được, chú tiểu đó … ấy quên, Hư Trúc Tử có nói, mắt của tiểu muội chỉ bị lão tặc Đinh Xuân Thu làm hỏng giác mạc nhưng cân mạch không sao thành ra mới thay được. Thiết Sửu thì mắt bị móc ra rồi, gân mạch đứt hết, không thể nào thay được nữa. 
Tiêu Phong nói: 
- Vậy ngươi mau mau trở lại bầu bạn với y, từ nay không bao giờ rời xa y nữa. 
A Tử lắc đầu: 
- Tiểu muội không đi, em chỉ đi theo tỉ phu thôi, cái thứ người xấu như yêu quái kia, trông thấy đã buồn nôn, ai lại ở với hạng người như thế bao giờ? 
Tiêu Phong giận dữ nói: 
- Người ta mặt mũi tuy xấu nhưng lòng dạ còn đẹp gấp trăm lần ngươi. Ta không cần ngươi phải ở với ta, không muốn thấy mặt ngươi nữa. 
A Tử dậm châm khóc òa lên: 
- Em … em … 
Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng chân người, hai tên vệ sĩ cùng hô lớn: 
- Thánh chỉ đến! 
Sau đó sảnh môn mở ra, Tiêu Phong và A Tử cùng quay lại, thấy một sứ giả của hoàng đế đang tiến vào. Lễ nghi triều đình nước Liêu không phiền phức như của Đại Tống, thần tử trông thấy sứ giả của nhà vua, chỉ cần đứng thẳng nghe đọc thánh chỉ, không phải chạy đi thay triều phục, bày hương án, quì xuống tiếp chỉ. Gã sứ giả lớn tiếng đọc: 
- Hoàng thượng cho gọi Bình Nam công chúa kiến giá. 
A Tử đáp: 
- Vâng! 
Nàng vội vàng quệt nước mắt, theo sứ giả đi ra. Tiêu Phong nhìn theo sau lưng A Tử, nghĩ thầm: “Gã Du Thản Chi đối với cô nàng tình ái thâm trọng, trên đời xưa nay hiếm có. Chỉ vì ta đối với A Tử là mối tình đầu, lại ở bên cạnh ngày đêm không rời, sau khi nàng trọng thương, chẳng tị hiềm nam nữ, hết sức chiếu liệu, thành thử cô ả mới nảy sinh ra một tình quyến luyến thật trẻ con. Ta phải làm thế nào khuyên A Tử quay trở lại bên cạnh Du quân chứ người ta đối với cô nàng như thế, một người đã móc mắt tặng cho mình bây giờ bỏ rơi thì trời đất còn dung sao được”. 
Tiếng chân của sứ giả và A Tử xa dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa, lại nhớ đến chỉ ý của Gia Luật Hồng Cơ sai mình đi chinh phạt Tống triều: “Hoàng thượng gọi A Tử có chuyện gì thế nhỉ? Chắc là bảo nàng khuyên ta nhận lời chinh phạt nhà Tống. Nếu như ta nhất quyết không phụng chiếu thì còn gì là quốc pháp nữa? Vừa rồi ở nam giao tranh chấp, hoàng thượng để tay lên cán đao, đã toan giết ta, có lẽ còn nghĩ tình quân thần, nghĩa huynh đệ mà phải cố khắc chế. Nếu như ta phụng mệnh phạt Tống, đem binh sang giết hàng nghìn hàng vạn người thì sao đành lòng? Huống chi cha ta đang xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, nghe tin ta đem quân xuống phương nam, ắt sẽ thất vọng lắm. Ôi, nếu ta kháng lại mệnh vua thì là kẻ bất trung, không coi tình kim lan vào đâu thì là bất nghĩa, còn như tấn công xuống phương nam, tàn sát bách tính thì lại là kẻ bất nhân, vi phạm vào chí hướng của cha thì là kẻ bất hiếu. Trung hiếu nan toàn, nhân nghĩa không thể hai bề vẹn cả, bây giờ mình phải làm sao? Bỏ, bỏ, bỏ đi thôi! Cái chức Nam Viện Đại Vương này ta không thèm làm nữa, chi bằng treo ấn đóng kho, không từ biệt hoàng thượng mà đi là xong. Thế nhưng đi đâu bây giờ? Trời đất mang mang, sao lại không có chỗ cho Tiêu Phong này dung thân?”. 
Ông cầm chiếc túi rượu lên tu hai ngụm, nghĩ thầm: “Thôi mình đợi A Tử về, cùng nàng đi lên Phiêu Miểu Phong, một là đưa nàng đến gặp Du quân, hai là cùng nhị đệ hàn huyên một chuyến, sau đó tính lại”. 
A Tử theo sứ giả đi tới ngự doanh, vừa gặp Gia Luật Hồng Cơ đã lanh chanh nói ngay: 
- Hoàng thượng, cái tước Bình Nam công chúa ban cho tiểu nữ, tiểu nữ không nhận đâu. 
Gia Luật Hồng Cơ cho đòi A Tử đến quả đúng như Tiêu Phong dự liệu, chính là để bảo nàng khuyên Tiêu Phong phụng chỉ nam chinh, gặp nàng chưa gì đã nói phủ đầu như thế không khỏi nhíu mày, hậm hực nói: 
- Triều đình phong thưởng là chuyện quốc gia đại sự, chứ có phải trò đùa của trẻ con đâu mà để ngươi thích thì lấy, không thích thì thôi. 
Ông vốn dĩ nghĩ đến cái tình với Tiêu Phong, yêu ai yêu cả đường đi, thành thử đối với A Tử luôn luôn dịu ngọt, bây giờ nói thế là nặng lắm rồi. A Tử oa lên một tiếng khóc hu hu. Gia Luật Hồng Cơ giậm chân quát: 
- Quá lắm rồi! Quá lắm rồi! Chẳng ra thể thống gì cả. 
Bỗng nghe từ sau trướng có tiếng đàn bà yểu điệu nói: 
- Hoàng thượng, sao lại giận thế? Lẽ nào lại dọa một cô bé con đến khóc òa lên thế kia? 
Kế đó nghe tiếng vòng kêu leng keng, một phụ nữ sang trọng đủng đỉnh đi ra. Người đàn bà đó đôi mắt long lanh, vừa chải đầu vừa cười nửa miệng, A Tử nhận ra đó chính là Mục quí phi, người được hoàng thượng sủng ái nhất, liền sụt sùi nói: 
- Mục quí phi, tỉ tỉ lại đây xem thử có công bình không nào? Tiểu muội chỉ nói là không nhận chức Bình Nam công chúa, thế mà hoàng thượng liền la tiểu muội ngay. 
Mục quí phi thấy nàng khóc lóc thật đáng thương, hai người đã lâu không gặp, thân hình A Tử đã cao lớn hơn nhiều, mặt mày cũng thêm xinh đẹp, bèn nháy mắt cho Gia Luật Hồng Cơ, nhếch mép cười nói: 
- Hoàng thượng, nếu cô ấy không chịu làm Bình Nam công chúa thì hoàng thượng phong cho cô ấy làm Bình Nam quí phi đi. 
Gia Luật Hồng Cơ vỗ đùi quát: 
- Chỉ nói xàm! Ta phong cho đứa bé này là vì Tiêu Phong huynh đệ, một người là Bình Nam đại nguyên soái, một người là Bình Nam công chúa để cho hai người nở mày nở mặt mà thành hôn. Có ngờ đâu Tiêu Phong không chịu làm Bình Nam đại nguyên soái, còn cô nhỏ này thì không chịu làm Bình Nam công chúa. Phải rồi, ngươi là người nam man nên không chịu vì ta mà bình nam, phải vậy không? 
Trong giọng nói có ẩn ý uy hiếp. A Tử đáp: 
- Tiểu nữ chẳng cần biết bình nam hay không bình nam! Bệ hạ bình đông cũng được, bình tây cũng được, tiểu nữ chẳng cần biết đến. Có điều tỉ phu của tiểu nữ … tỉ phu lại ép tiểu nữ lấy một gã mù hai mắt xấu như ma. 
Hồng Cơ và Mục quí phi hai người nghe thế hết sức lạ lùng, cùng hỏi: 
- Sao thế? 
A Tử không muốn nói rõ đầu đuôi, chỉ đáp: 
- Tỉ phu không thích tiểu nữ nên ép lấy người khác. 
Ngay khi đó, ngoài trướng có người gọi nhỏ: 
- Hoàng thượng! 
Gia Luật Hồng Cơ đi ra thấy tên vệ sĩ thân tín của Tiêu Phong, gã kia nói nhỏ: 
- Khải bẩm hoàng thượng: Tiêu đại vương dán một bao thư bên ngoài kho, còn chiếc ấn vàng dùng vải bao lại treo tại xà nhà, xem như thế, chắc … chắc là có ý bỏ đi không từ biệt rồi. 
Gia Luật Hồng Cơ nghe thế, lập tức nổi cơn thịnh nộ kêu lên: 
- Phản rồi, phản rồi! Y có còn coi ta là hoàng đế nữa hay thôi? 
Y suy nghĩ rồi nói: 
- Mau triệu Đô Chỉ Huy ngự doanh lại đây. 
Chỉ giây lát Đô Chỉ Huy ngự doanh đã đến nơi. Gia Luật Hồng Cơ nói: 
- Ngươi dẫn binh mã, vây bốn phía Nam Viện vương phủ lại cho ta. 
Y lại hạ chỉ: 
- Truyền lệnh đóng chặt cửa thành, không cho bất cứ ai xuất nhập. 
Y lại sợ Tiêu Phong dẫn binh làm phản nên không ngớt ra lệnh, truyền cho các đại tướng bộ hạ của Nam Viện đại vương đến chầu. Mục quí phi ở trong trướng nghe thấy tiếng tù và bên ngoài từng hồi nổi lên không dứt, tiếng vó ngựa lộp cộp, hiển nhiên đang có biến cố. Người Khất Đan giới hạn nam nữ rất nhẹ nên bà ta liền đi ra ngoài hỏi nhỏ Gia Luật Hồng Cơ: 
- Bệ hạ, có chuyện gì thế? Làm gì mà nộ khí xung thiên như vậy? 
Gia Luật Hồng Cơ giận dữ đáp: 
- Gã Tiêu Phong không biết phải quấy, toan tính phản ta bỏ đi. Gã này lòng vẫn hướng về Nam triều, chắc hẳn định báo cho bọn Nam man. Y biết nhiều chuyện quân quốc bí mật của Đại Liêu, nếu sang Tống triều sẽ trở thành mối lo trong gan ruột. 
Mục quí phi trầm ngâm nói: 
- Từng nghe bệ hạ nói rằng, người đó võ công ghê gớm lắm, nếu như không bắt được, để y thoát vòng vây thì quả là mầm họa lớn. 
Gia Luật Hồng Cơ đáp: 
- Chính thế. 
Y quay sang nói với vệ sĩ: 
- Truyền lệnh Phi Long Doanh, Phi Hổ Doanh, Phi Báo Doanh, hỏa tốc đến tăng viện cho Nam Viện Đại Vương phủ. 
Ngự doanh vệ sĩ nghe lệnh vội vàng truyền xuống. Mục quí phi lại nói: 
- Bệ hạ, thiếp có một kế. 
Bà ta ghé tai Gia Luật Hồng Cơ nói một hồi. Gia Luật Hồng Cơ gật gù: 
- Sử dụng được đấy. Nếu việc này xong, trẫm sẽ trọng thưởng. 
Mục quí phi mỉm cười nói: 
- Chỉ cần bệ hạ vui lòng, đó là trọng thưởng rồi. Bệ hạ đãi thiếp như thế này còn mong mỏi gì hơn nữa? 
Việc điều động binh mã ngự doanh bên ngoài tuy A Tử ngồi trong trướng nhưng chẳng thèm để ý. Người Khất Đan hò hét chạy qua chạy lại xưa nay nàng nghe đã nhiều, mỗi khi ra ngoài đi săn cũng đã rầm rĩ lên rồi, có biết đâu là Gia Luật Hồng Cơ đang chỉ huy lùng bắt Tiêu Phong. Nàng ngồi trên một chiếc yên lạc đà, bụng dạ rối bời: “Lòng ta đối với tỉ phu đâu phải là anh ta không biết, chỉ có điều … có điều y không để ý đến ta đấy thôi, lại bảo ta đi bầu bạn với tên người không ra người, ngợm không ra ngợm kia. Ta … ta thà chết còn hơn chứ nhất định không chịu, không chịu, muôn vạn lần không chịu”. Trong bụng nàng nghĩ như thế, bàn chân không ngớt đá vào hình đầu con hổ dệt trên tấm thảm lót dưới sàn. 
Đột nhiên có một bàn tay nhẹ nhàng để lên vai nàng, A Tử hoảng hốt ngẩng đầu lên, nhận ra đôi mắt dịu dàng thân mật của Mục quí phi, nghe bà ta cười hỏi: 
- Tiểu muội muội nghĩ ngợi gì mà thẫn thờ như thế? Lại nghĩ đến tỉ phu có phải không? 
A Tử nghe nhắc đến tâm sự của mình, tự nhiên bẽn lẽn cúi đầu không nói. Mục quí phi ngồi xuống ngang với nàng, cầm bàn tay nhẹ nhàng vuốt ve, nhỏ nhẹ nói: 
- Tiểu muội muội, đàn ông người nào cũng thô lỗ nóng nảy, hoàng thượng đây cũng như Nam Viện Đại Vương, hai người đều là anh hùng hảo hán đương thế, muốn thu phục họ quả không dễ chút nào. 
A Tử gật đầu thấy bà ta nói quả là hữu lý. Mục quí phi lại tiếp: 
- Đàn bà trong cung hàng trăm hàng nghìn, thiếu gì kẻ đẹp hơn chị, chiều chuộng hoàng thượng hơn chị. Thế nhưng hoàng thượng sủng ái chị hơn cả, tuy một phần cũng là duyên phận nhưng một phần cũng là do vị lão hòa thượng chùa Thánh Đức ở Thượng Kinh chiếu cố. Tiểu muội tử, hiện giờ lòng của tỉ phu không quyến luyến em thì cũng chẳng nên rầu rĩ. Đợi khi về Thượng Kinh rồi, em đi với chị đến chùa Thánh Đức xin với vị cao tăng kia may ra ngài có giúp được chăng? 
A Tử lạ lùng hỏi: 
- Thế lão hòa thượng kia có cách gì thế? 
Mục quí phi đáp: 
- Việc này chị nói riêng với em, em không được nói cho một người thứ hai nào biết. Em phải thề độc quyết không tiết lộ bí mật mới được. 
A Tử liền nói: 
- Nếu tôi đem bí mật của Mục quí phi nói cho ai nghe thì sẽ bị loạn đao phân thi, chết không yên lành. 
Mục quí phi trầm ngâm rồi nói: 
- Không phải chị không tin em có điều việc này liên hệ rất lớn, em phải thề độc một lần nữa. 
A Tử lại nói: 
- Được, nếu như em tiết lộ việc bí mật chị nói cho em hay, thì em.. thì em sẽ bị tỉ phu một chưởng đánh chết tươi. 
Nàng nói tới đây, trong lòng vừa ngọt ngào lại vừa chua chát. Mục quí phi gật đầu nói: 
- Bị một người mình thương yêu một chưởng đánh chết còn thê thảm gấp trăm lần loạn đao phân thi. Vậy thì chị tin em rồi. Hảo muội tử, vị cao tăng đó Phật pháp vô biên, thần thông quảng đại, sau khi ta quì xuống khẩn cầu, ông ta cho chị hai lọ nước thánh, bảo chị thành tâm khấn vái cầu xin, len lén cho người mình thương yêu uống một bình. Người đàn ông đó từ nay sẽ mãi mãi thương yêu, đến chết cũng không thay đổi. Ta đã cho hoàng thượng uống một lọ rồi, nay còn lại một bình. 
Bà ta nói xong lấy trong túi ra một cái bình sứ màu hồng, nắm chặt trong tay, dường như sợ mất. Thực ra dưới sàn trải thảm thật dày, dẫu có rơi cũng chẳng hề chi. A Tử vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cầu khẩn: 
- Hảo tỉ tỉ, chị cho em xem đi. 
Nàng từ nhỏ đã làm môn hạ phái Tinh Tú những loại bùa mê thuốc lú hớp hồn người ta nàng vốn tin sẵn từ lâu. Mục quí phi nói: 
- Xem thì được nhưng đừng làm đổ đấy nhé. 
Hai tay cầm chặt, trịnh trọng đưa ra. A Tử cầm lấy, mở nắp ra đưa lên mũi ngửi, thấy có mùi thơm nhè nhẹ. Mục quí phi vội đưa tay lấy lại, đóng nắp, vặn kỹ mấy lần, dường như sợ dược tính bay mất nói: 
- Thực ra chị có chia cho em cũng chẳng hề chi. Có điều chị sợ nếu như hoàng thượng thay lòng đổi dạ thì phải dùng đến thứ nước thánh này. 
A Tử nói: - Chị đã bảo hoàng thượng uống một lọ rồi thì vĩnh viễn không thay đổi mà? 
Mục quí phi mỉm cười đáp: 
- Nói thì thế nhưng làm sao biết được thứ nước thánh này có hiệu quả bao lâu, nếu không vị thánh tăng kia sao lại cho chị đến hai lọ? Chị cũng sợ nếu như nước thánh lạc vào tay một phi tần khác, họ lại len lén cho hoàng thượng uống, hoàng thượng đối với chị dẫu không đổi dạ nhưng e lại hai lòng … 
Vừa nói tới đây bỗng có tiếng Gia Luật Hồng Cơ ở ngoài trướng gọi lớn: 
- A Mục, nàng ra đây. Ta có chuyện muốn nói. 
Mục quí phi liền đáp: 
- Thiếp ra đây. 
Bà ta lật đật đi ra, cạch một tiếng nhẹ, chiếc bình sứ từ trong bọc rơi ra, nhưng nào có biết gì đâu. A Tử mừng rỡ, đợi cho bà ta ra khỏi trướng, vội vàng nhỏm dậy nhặt chiếc bình lên, bỏ luôn vào túi nghĩ bụng: “Mình mau mau cho tỉ phu uống, sau đó lấy nước lạnh đổ vào, trả lại cho Mục quí phi. Thực ra hoàng thượng đã sủng ái bà ta lắm rồi, thứ nước thánh này đâu có còn cần nữa”. Nàng nghĩ vậy rồi mở phía sau len lén bò ra, chạy vụt trở về Nam Viện Đại Vương phủ. 
Chỉ thấy xung quanh vương phủ sĩ tốt tràn ngập tưởng chừng Nam Viện Đại Vương đang điều động binh mã. A Tử vào đến đại sảnh đã thấy Tiêu Phong chắp tay sau lưng, đang đi qua đi lại trước hàng hiên, ra vẻ sốt ruột lắm. Ông vừa trông thấy A Tử mừng rỡ kêu lên: 
- A Tử, ngươi đã trở về, thật tốt quá. Ta chỉ sợ ngươi bị hoàng thượng bắt giữ rồi không chạy thoát được. Mình phải đi ngay, nếu chậm trễ e không kịp. 
A Tử ngạc nhiên hỏi: 
- Đi đâu bây giờ? Sao lạ sợ trễ thì không kịp? Vì cớ gì mà hoàng thượng lại bắt em? 
Tiêu Phong đáp: 
- Ngươi nghe thì biết. 
Hai người yên lặng lắng tai thấy chung quanh vương phủ tiếng vó ngựa rầm rập, rồi tiếng áo giáp loảng xoảng, binh khí leng keng, bốn bề đông nam tây bắc chỗ nào cũng có. A Tử hỏi: 
- Sao thế? Tỉ phu định đem quân đi đánh trận hay sao? 
Tiêu Phong gượng cười: 
- Những binh lính này đâu phải do ta điều động đâu. Hoàng thượng có ý nghi ta nên sai người đến bắt đó. 
A Tử reo lên: 
- Hay lắm! Mình lâu ngày không đánh nhau, hai người mình xung sát vượt vòng vây nhé. 
Tiêu Phong lắc đầu: 
- Hoàng thượng đãi ta ân đức không phải nhỏ, phong làm Nam Viện Đại Vương, lần này lại đích thân đến đây để thăng quan tiến tước cho ta, bây giờ sở dĩ nghi ngờ, cũng bởi vì ta nhất quyết không chịu nam chinh. Nếu ta sát hại bộ thuộc của y thì làm mất đi tình huynh đệ khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười, bảo Tiêu Phong này vong ân phụ nghĩa, đối xử không ra gì. A Tử, thôi mình đành đi vậy, len lén bất biệt nhi hành, để y khỏi bắt được ta thế cũng xong thôi. 
A Tử đáp: 
- Ừ đi thì đi. Tỉ phu, thế mình đi đâu đây? 
Tiêu Phong đáp: 
- Sự tình khẩn cấp, có đến được Phiêu Miểu Phong hay không, phải qua khỏi nơi hiểm địa rồi mới biết được. 
A Tử nghĩ thầm: “Thì ra anh chàng định đưa mình đến ngọn Phiêu Miểu, đủ biết chẳng coi ta vào đâu, vậy mình phải cho y uống nước thánh mới xong. Chỉ cần làm sao cho anh ta thương yêu mình, nghe lời mình là được. Nếu còn chần chừ, e rằng Mục quí phi đến lấy lại mất”. Nàng bèn nói: 
- Cũng được, để em đi lấy mấy bộ quần áo. 
Nói xong nàng lật đật đi vào hậu đường, lấy một chiếc chén, đổ nước thánh trong chiếc lọ ra, rồi rót thêm rượu vào cho đầy, trong bụng khấn nguyện: “Xin Bồ Tát linh thiêng phù hộ cho Tiêu Phong sau khi uống nước thánh rồi, hết lòng hết dạ yêu thương A Tử, lấy thiếp làm vợ, không còn nhớ gì đến A Châu tỉ tỉ nữa”. Nàng quay lại đại sảnh nói: 
- Tỉ phu uống chút rượu cho lên tinh thần. Lần này mình đi sẽ không bao giờ còn quay trở lại nữa. 
Tiêu Phong cầm lấy bát rượu, dưới ánh đuốc thấy bàn tay A Tử run run, ánh mắt lộ vẻ khác thường, mặt mày lại ra chiều phấn khởi, đầy vẻ ôn nhu, trong lòng không khỏi xúc động: “Năm xưa A Châu đối với ta hết lòng thương mến, vẻ mặt cũng như thế này. Ôi, xem ra A Tử quả thực hết dạ say mê ta rồi”. Ông liền cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch hỏi thêm: 
- Ngươi đã lấy đủ quần áo chưa? 
A Tử thấy Tiêu Phong đã uống hết thánh thủy, trong bụng mừng rỡ nói: 
- Thôi chẳng cần lấy quần áo, mình đi được rồi. 
Tiêu Phong đeo một cái bao lên lưng, trong túi chỉ có vài bộ quần áo, ít tiền bạc, nói nhỏ: 
- Bọn họ sợ ta chạy xuống miền nam, chi bằng mình chạy lên miền bắc. 
Ông nắm tay A Tử, nhẹ nhàng mở cửa hông, thò đầu ra ngoài thám thính, thấy hai vệ sĩ sóng vai đi tuần qua. Tiêu Phong nấp vào sau cửa, tằng hắng một cái, hai tên vệ sĩ vội vàng chạy đến xem xét. Tiêu Phong giơ ngón tay điểm cho hai người ngã xuống kéo luôn vào trong bụi rậm, nói nhỏ: 
- Mau thay đổi khôi giáp của hai người này. 
A Tử mừng rỡ: 
- Hay lắm! 
Hai người liền lột mũ áo của hai vệ sĩ ra mặc vào người, tay cầm trường mâu, song song đi tuần. A Tử kép chiếc mũ sụp xuống che lông mày, len lén nhìn Tiêu Phong, thấy ông rụt người lại mà đi không khỏi tức cười. Hai người đi được chừng hai chục bước thì thấy một tên thập phu trưởng ở soái doanh dẫn mươi tên lính đi tuần ngang. Tiêu Phong và A Tử vội đứng nép sang một bên giơ giáo lên chào kính. 
Gã thập phu trưởng gật đầu, đi ngang qua, dưới ánh lửa bập bùng, thấy A Tử áo quần lê thê quét đất, chẳng vừa vặn chút nào, không khỏi đưa mắt nhìn nàng, lại thấy yêu đao trễ xuống, tức giận giơ tay đấm vào vai cô gái, quát lên: 
- Ngươi ăn mặc quần áo kiểu gì thế này? 
A Tử lại tưởng hành tung đã bị lộ, vòng tay móc một cái, chộp trúng cổ tay, chân đá bật lên trúng ngay hông y. Tên thập phu trưởng chỉ kêu lên được một tiếng đã văng ra tận đằng xa. 
Tiêu Phong nói: 
- Chạy mau! 
Ông nắm tay A Tử xông lên. Mười tên thân binh cùng la ó om xòm: 
- Có thích khách! Có gian tế! 
Họ vẫn không biết hai người chính là Tiêu Phong và A Tử. Hai người chạy được một quãng thì thấy từ phía trước có độ mươi kỵ binh chạy đến, Tiêu Phong giơ trường mâu lên quét ngang một cái, những người ngồi trên lưng ngựa lịch bịch ngã xuống, tay phải hất mạnh, ném A Tử lên trên yên, chính mình cũng nhảy lên một con, gò cương quay lại chạy thẳng về phía cửa bắc. 
Khi đó tướng sĩ trong Nam Viện Đại Vương phủ đã nghe được tin nên từ bốn phía vây lại. Tiêu Phong giục ngựa chạy nhanh, quả nhiên đúng như ông dự liệu, quân lính mười phần đến tám dồn xuống phía nam đề phòng ông chạy về Nam triều, phía bắc chỉ lưa thưa có mấy người. Bọn đó bụng vốn đã khiếp tuy phải theo quân lệnh tiến ra ngăn trở nghe Tiêu Phong quát lên một tiếng thì liền dạt cả ra, chỉ từ xa xa hô hoán rượt đuổi, đến khi Ngự Doanh Đô Chỉ Huy tăng viện người tới, Tiêu Phong và A Tử đã chạy xa rồi. 
Tiêu Phong giục ngựa chạy đến cửa bắc, thấy cửa thành đóng chặt, đằng trước lố nhố đến hơn trăm tên lính, ai nấy cầm trường mâu chặn đường. Nếu như Tiêu Phong xung sát tiến qua, một trăm tên lính làm sao chặn nổi ông thế nhưng chỉ cầu thoát thân, thực không muốn sát hại quân sĩ bản quốc, lập tức vòng tay qua ôm lấy A Tử, chân phải điểm lên bàn đạp, hai chân đã đứng sừng sững trên lưng ngựa, hít một hơi, nhảy ngay lên trên đầu thành. Nhảy một cái vốn không thể lên cao như thế được nhưng ông đã dự bị từ trước, khi thân hình vừa hơi trầm xuống, trường mâu bên phải đã chống vào tường, tá lực hất một cái người vọt lên trên. 
Ông nhìn ra ngoài thấy tối đen như mực không một ánh lửa, quả không ai ngờ ông chạy ra cửa bắc nên không có binh sĩ thủ ngự. Tiêu Phong hú lên một tiếng dài quay lại nói với người trong thành: 
- Các ngươi quay về bẩm với hoàng thượng là Tiêu Phong đắc tội với đấng chí tôn, không dám gặp để từ biệt. Đại ân đại đức của hoàng thượng, Tiêu Phong này mãi mãi không quên. 
Ông nắm ngang hông A Tử, quay người lại chỉ cần nhảy xuống khỏi thành thì chim sổ lồng đã tìm về trời cao, cá thoát lưới đã ra được bể rộng, không còn gì câu thúc nữa.Ông lòng mừng thầm, đang định nhún mình đột nhiên thấy bụng đau quặn lên, hai cánh tay mềm nhũn, tay cầm ngang lưng A Tử lỏng ra, rồi hai đầu gối sụm xuống, ngồi bệt dưới đất, tưởng chừng có hàng nghìn hàng vạn lưỡi dao nhỏ đang đậm chém trong người, nhịn không nổi kêu ối lên một tiếng. A Tử kinh hãi, kêu lên: 
- Tỉ phu sao thế? 
Tiêu Phong toàn thân co quắp, hai hàm răng đập vào nhau, hổn hển nói: 
- Ta … ta … ta trúng … chất kịch độc … Đợi ta … vận khí … vận khí đẩy chất độc … 
Ông lập tức vận khí vào đan điền, toan trục chất độc trong bụng ra. Ngờ đâu không vận khí thì còn đỡ, vừa mới đề khí thì tứ chi luôn cả toàn thân đau nhói lên, nội tức trong đan điền chỉ đưa lên được vài tấc, lại tụt ngay xuống. Tiêu Phong nghe tiếng vó ngựa dồn dập, mấy nghìn kỵ binh từ phía nam chạy lên, lại cố gắng đề khí một lần nữa, thấy chân tay tê dại không còn biết gì, biết mình trúng phải chất độc cực kỳ lợi hại, không thể nào dùng nội lực tống ra được liền nói: 
- A Tử, em mau mau chạy đi. Anh … anh không thể nào đi cùng với cô được nữa rồi. 
A Tử chỉ suy nghĩ qua liền hiểu ngay đã trúng phải ngụy kế của Mục quí phi, nước thánh bà ta đánh lừa mình đem cho Tiêu Phong uống nào phải bùa bả gì đâu mà là thuốc độc. Nàng vừa kinh hoàng vừa hối hận, ôm chặt lấy cổ Tiêu Phong, khóc nức nở: 
- Tỉ phu, … em hại anh rồi, chất độc đó chính là em đã cho anh uống. 
Tiêu Phong hoang mang không hiểu cô ta nói gì hỏi lại: 
- Vì cớ gì mà cô lại muốn giết ta? 
A Tử khóc òa lên: 
- Không! Không! Mục quí phi đưa cho em một lọ nước, bảo là nếu anh uống thì sẽ mãi mãi thương yêu em, sẽ … sẽ lấy em làm vợ. Em sao ngu ngơ quá, tỉ phu ơi, thôi em cùng chết với anh, từ nay hai đứa mình không còn rời xa nhau nữa. 
Nói xong nàng rút phắt yêu đao, định đưa lên cứa ngang cổ mình. Tiêu Phong vội ngăn lại: 
- Khoan … khoan đã! 
Ông toàn thân như đang chìm trong bể lửa, lại như đang có muôn ngàn lưỡi dao xẻ da lóc thịt, cả ngoài lẫn trong cực kỳ đau đớn, không còn tính toán gì được nhưng chỉ suy nghĩ qua đã hiểu ngay tâm tư của A Tử liền nói: 
- Ta không đến nỗi nào đâu, cô chớ có tìm cái chết. 
Chỉ nghe tiếng kẹt kẹt hai cánh cửa nặng của bắc môn mở toang, mấy trăm kỵ mã chạy ra xí xố bày trận, rồi từng đội từng đội từ phía nam tiếp ứng đi ra khỏi thành. Tiêu Phong ngồi trên đầu thành nhìn về phương bắc thấy ánh lửa dài đến mấy dặm như những con rồng đang ngoằn ngoèo bò lên, nhìn lại phương nam đến non nửa thành đều có ánh đuốc bập bùng, nghĩ thầm: “Hoàng thượng đem bao nhiêu binh mã ngự doanh điều động ra cả, chỉ cốt bắt được một mình ta”. Chỉ nghe bên trong bên ngoài thành tướng sĩ hô lớn: 
- Phản tặc Tiêu Phong, mau mau đầu hàng. 
Tiêu Phong lại thấy trong bụng đau nhói, nói nhỏ: 
- A Tử, cô tìm cách chạy đi thôi. 
A Tử đáp: 
- Chính tay em hạ độc giết anh, làm sao sống một mình cho được? 
E.m … em … em nguyện cùng chết ở bên anh. 
Tiêu Phong gượng gạo nở một nụ cười: 
- Đây không phải là độc dược giết người mà chỉ làm cho người ta bị trọng thương, không thể cử động thôi. 
A Tử mừng rỡ hỏi: 
- Thật không? 
Cô gái quay lại kéo Tiêu Phong nằm phục lên lưng mình. Thế nhưng nàng thân hình mảnh khảnh, Tiêu Phong lại cực kỳ cao to, A Tử cõng ông đứng lên, hai chân Tiêu Phong vẫn còn lệt sệt dưới đất. Ngay lúc đó, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan đã trèo được lên đầu thành, kẻ thì cầm đao, kẻ thì cầm đuốc giơ lên nhưng vẫn sợ Tiêu Phong không dám đến gần. Tiêu Phong nói: 
- Kháng cự vô ích, thôi để bọn chúng bắt mình đi. 
A Tử nức nở: 
- Không, không đâu! Ai đụng đến một sợi lông của anh, em sẽ giết nó ngay. 
Tiêu Phong đáp: 
- Đừng để vì ta mà phải giết người. Nếu như ta chịu giết người thì đã phụng chỉ lãnh binh nam chinh cho xong, việc gì mà phải náo loạn để gây ra nông nỗi này. 
Ông cao giọng quát: 
- Làm gì mà thập thà thập thò như thế, còn đâu khí độ nam nhi Khất Đan? Tất cả theo ta đi yết kiến hoàng thượng. 
Chúng võ sĩ ngạc nhiên, cùng khom lưng cung kính đáp: 
- Tuân lệnh! Chúng tôi phụng chỉ sai khiến nên vô lễ với đại vương, xin đại vương miễn trách. 
Tiêu Phong làm Nam Viện Đại Vương không lâu nhưng hậu đãi bộ thuộc, uy vọng bao trùm phương bắc, tướng sĩ Khất Đan rất là kính phục. Trong đám người những kẻ trước đây phụ họa “phản tặc Tiêu Phong” bây giờ ai nấy ngượng ngập, sinh lòng sợ sệt không ai còn dám vô lễ. 
Tiêu Phong vịn vào vai A Tử, cố gượng đứng lên, lục phủ ngũ tạng tưởng như bị ai xoắn lại cắn xé, các binh sĩ đứng cách xa cả trượng tra đao vào vỏ, nhìn theo ông từng bậc, từng bậc xuống thành. Các tướng sĩ thấy Tiêu Phong hạ thành rồi, ai nấy vội vàng xuống ngựa, hàng nghìn hàng vạn người đột nhiên im phăng phắc. 
Trong ánh lửa lập lòe, Tiêu Phong nhìn những khuôn mặt chất phác nghiêm cẩn kia, trong lòng nổi lên một tình cảm ấm áp: “Nếu như ta nam chinh thì hơn một vạn tướng sĩ nơi đây, chẳng biết có được tới một nửa quay về Bắc quốc hay không? Nếu như ta thực sự cứu được bấy nhiêu sinh linh thì dù hoàng thượng đem ra xử tử cũng không có gì hối hận. Chỉ sợ rằng hoàng thượng giết ta xong lại sai người khác lãnh binh xuống phương nam thôi”. Nghĩ đến đó, ngực lại đau nhói lên thân hình dường như sắp sửa gục xuống. 
Một viên tướng dắt ngay con ngựa mình đang cưỡi tới, đỡ cho Tiêu Phong lên yên. A Tử cũng cưỡi một con đi theo sau. Một đoàn người tiền hô hậu ủng, quay về vương phủ. Các tướng sĩ tuy bắt được Tiêu Phong, đúng ra là lập đại công nhưng chẳng một ai ra chiều vui vẻ. Chỉ nghe thấy tiếng giáp sắt loảng xoảng, hàng vạn con ngựa chạy lộp cộp trên đường lát đá nhộn nhịp cả lên nhưng tuyệt nhiên không một ai cất tiếng reo hò. 
Đoàn người đi qua con đường cái ở cửa bắc, đến bên cầu Bạch Mã, Tiêu Phong giục ngựa lên cầu. A Tử đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân nhún vào yên nghe tùm một tiếng đã nhảy xuống sông. 
Tiêu Phong thấy vậy thật ngoài dự liệu, không khỏi kinh hãi nhưng lập tức lại mừng thầm, nhớ lại lần đầu tiên gặp cô bé bướng bỉnh này, nàng đã lặn xuống dưới Tiểu Kính Hồ giả chết, bơi lội giỏi như thế trên đời hiếm có, đến cả cha mẹ cô ta cũng còn mắc lừa, bây giờ nếu như cô ta theo dòng nước mà trốn đi thì còn gì hơn, có điều từ nay trở đi e rằng khó có ngày gặp lại, trong lòng không khỏi bùi ngùi, lớn tiếng nói: 
- A Tử, cô việc gì phải nông cạn thế? Hoàng thượng có làm khó gì em đâu, hà tất phải nhẩy xuống sông tự tận? 
Chúng tướng sĩ nghe Tiêu Phong nói thế, đợi một hồi thấy A Tử không trồi lên, tin tưởng rằng nàng quả thực trầm mình rồi. Hoàng đế chỉ hạ chỉ bắt Tiêu Phong, A Tử có chết cũng vậy, có chạy cũng vậy không một ai thèm để tâm, đứng trên cầu trông ngóng một lúc thấy dòng sông không động tĩnh gì bèn cùng Tiêu Phong đi tiếp. 

____________
1 Sử gọi là vua Triết Tông. Đoạn này mâu thuẫn với những chi tiết ở trước. Đoàn Dự sinh năm 1083, tới lúc này khoảng trên dưới 20, vậy phải vào năm 1102 tức là đời vua Huy Tông (lên ngôi 1101). Vua Triết Tông lên ngôi từ 1086 lúc 10 tuổi, bà Thái hậu Cao thị nhiếp chính, khi Cao thị mất (1093) thì Đoàn Dự chỉ mới 10. (Xin xem thêm Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ của Nguyễn Duy Chính) 
2 bà nội, tiếng gọi thân mật và kính trọng 
3 thùy liêm (thính chính) là buông rèm xuông ngồi đằng sau nhà vua nhắc việc nước 
4 tức Tô Đông Pha 
5 1041-1098 
6 (1035-1105) được Vương An Thạch dùng làm Tam Ti Sứ (quan trông coi việc tài chánh, thuế má và khai thác các mỏ), là một nhân vật trong yếu trong việc thi hành Tân Pháp. 7 Thẩm Khởi muốn tâng công với Vương An Thạch dâng sớ xin đánh Giao Châu (tức nước ta) để thị uy chư hầu. Triều đình nhà Tống sai Lưu Gi chuẩn bị, đặt ra nhiều lề luật sách nhiễu nước nam nên vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đảng đánh sang tận châu Khâm, châu Liêm. 8 (1031-1095) là một nhà bác học lỗi lạc của Trung Hoa tác giả bộ Mộng Khê Bút Đàm không biết có phải Thẩm Quát này không? Người dịch chưa tìm ra ông sai lầm gì trong việc thi hành chính sách mà bị chỉ trích ở đây. Đoạn này chỉ tạm dịch theo nguyên văn, khi nào tìm thấy thêm chi tiết mới chúng tôi sẽ bổ cứu. 
9 quân du: nhà nước mua những chỗ có hàng hóa dư, đem phân phối chỗ thiếu cho khỏi bị đầu cơ tích trữ làm giá của con buôn (xem thêm Hậu Cảnh TLBB, biên khảo của Nguyễn Duy Chính) 

datlucky_way

27-07-2009 12:54 PM

Hồi 50(a) : GIÁO ĐƠN VU CHIẾT TIỄN, LỤC QUÂN TÍCH DỊCH, PHẤN ANH HÙNG NỘ 





Bấm vào đây để xem nội dung.


Tống Liêu thoát khỏi một trường can qua. 
Nhân, tình, nghĩa vẹn cả ba, 
Thân kia dẫu thác danh đà lưu phương. 

* * 
Về đến vương phủ, Gia Luật Hồng Cơ không cho Tiêu Phong gặp mà chỉ hạ lệnh cho Ngự Doanh Đô Chỉ Huy Sứ đem ông giam lại. Ngờ đâu Đô Chỉ Huy Sứ lại tưởng Tiêu Phong trời sinh thần lực, những nhà ngục tầm thường nhốt sao nổi ông ta, bèn sai người đi lấy những loại khóa sắt, xích sắt to lớn nhất, cùm chân tay Tiêu Phong rồi nhốt vào một cái cũi lớn. Cái cũi đó ngày xưa A Tử dùng để nhốt sư tử, chấn song cái nào cái nấy to bằng cánh tay trẻ con. 
Bên ngoài cũi lại sai một trăm thân binh, tay cầm giáo dài vây quanh mấy tầng, nếu Tiêu Phong ở trong cũi có gì khác lạ thì bọn thân binh sẽ lập tức dùng mâu đâm ngay, dù ông có khỏe đến mấy cũng không thể trong nháy mắt đã tháo được xích sắt, khóa sắt, phá được cũi chui ra. Bên ngoài vương phủ lại có thêm một tầng thân binh canh gác nghiêm nhặt. Những tướng sĩ trước đây ở Nam Kinh đều bị Gia Luật Hồng Cơ điều đi nơi khác để phòng bọn họ còn trung thành với Tiêu Phong mà nổi loạn cứu ông ta ra. 
Tiêu Phong níu chặt lấy lan can bên trong chiếc cũi, nghiến răng cố chịu đựng cơn đau, không còn hơi đâu mà suy nghĩ chuyện gì khác. Mãi tận chiều hôm sau, độc tính của thuốc độc mới dần dần tiêu giải, cơn đau giảm đi. Tiêu Phong lực khí hơi khôi phục lại rồi nhưng vào tình cảnh này thì làm cách nào mà thoát nổi? Ông nghĩ thầm có buồn rầu cũng chẳng đến đâu, vả lại trong đời nguy nan kinh lịch cũng nhiều, không lẽ Tiêu Phong này một đời hào kiệt lại đành chịu chết trong cái chuồng sắt này hay sao? Cũng may các thân binh kính trọng ông là người anh hùng, canh gác tuy dám không lơ là nhưng vẫn đem đồ ăn thức uống đến cho ông, đối xử không kém phần lễ mạo. Tiêu Phong cứ việc uống tì tì, mấy ngày sau chung quanh đầy những bình không. 
Gia Luật Hồng Cơ trước sau không hề đến thăm nhưng lại sai mấy người khéo mồm khéo miệng đến khuyên giải, nào là hoàng thượng khoan hồng đại lượng, còn nghĩ đến tình cũ nghĩa xưa nên không nỡ gia hình, mong Tiêu đại vương hối hận xin tha. Tiêu Phong coi bọn thuyết khách này không bằng nửa con mắt, chỉ tự rót rượu uống một mình. 
Cứ như thế đến hơn một tháng, bốn tên thuyết khách đó vẫn chưa chịu chán, ngày ngày cũng chỉ có bấy nhiêu, nói qua nói lại lèm bèm mãi, nào là “Hoàng thượng đãi Tiêu đại vương ân đức như núi, chỉ có đường nghe theo lời của hoàng thượng mới mong sống sót mà thôi”, nào là “Hoàng thượng thần võ có thể trông thấu suốt chuyện ngoài vạn dặm, cho đến một trăm đời sau, thánh thiên tử đã đoán thì không thể nào sai trật, đại vương nên theo con đường hoàng thượng đã vạch ra là hơn” … Bọn thuyết khách đó rõ ràng biết rằng không thể nào khuyến dụ được Tiêu Phong, vậy mà vẫn cứ lải nhải mãi không ngừng. 
Đến một ngày kia Tiêu Phong đột nhiên nổi bụng nghi ngờ: “Hoàng thượng đâu phải người hồ đồ, sao lại cứ phải cho người đến ỉ ôi khuyên dụ ta? Bên trong hẳn có điều gì khúc mắc”. Ông suy nghĩ một chút, đột nhiên nghĩ ra: “Đúng rồi, hoàng thượng đã điều binh khiển tướng, cử đại quân nam chinh nên giả vờ sai mấy tên dấm dớ này đến đây cầm chân ta. Rõ ràng ta đâu còn phản kháng gì được nữa, y muốn giết lúc nào thì giết, việc gì còn phải phí công như thế?”. 
Tiêu Phong lại suy nghĩ thêm một chút, đã hiểu ngay: “Hoàng thượng tự cho mình là anh hùng, muốn ta phải tâm phục khẩu phục nên ngự giá thân chinh bình nam, sau khi thu giang sơn nhà Đại Tống sẽ đòi mình lên huênh hoang một phen. Y sợ ta nổi máu cương cường, tuyệt thực tự tận nên mới sai bọn tiểu nhân này đến đây nói trời nói đất”. 
Ông vốn đã chẳng còn coi an nguy sinh tử vào đâu nên dẫu bị giam vào lồng, cũng chẳng thèm tức tối. Tuy không muốn đốc quân nam chinh nhưng Tiêu Phong đâu phải là hạng lo cái lo trước thiên hạ, nghĩ đến Gia Luật Hồng Cơ đã phát binh rồi, không thể nào vãn hồi đại kiếp được nữa, chỉ đành thở dài một tiếng, uống liền tù tì mươi bát rượu cho sướng miệng rồi gác sang một bên không nghĩ đến nữa. 
Chỉ thấy bốn gã thuyết khách kia cứ leo lẻo nói mãi, Tiêu Phong bất chợt hỏi: 
- Đại quân của Khất Đan chúng ta đã qua sông Hoàng Hà chưa vậy? 
Bốn tên thuyết khách hết sức ngạc nhiên, chưng hửng nhìn nhau một hồi, một tên đáp: 
- Tiêu đại vương nói thật đúng quá, đại quân của ta đợi ngày sẽ tiến, tuy chưa qua sông Hoàng Hà nhưng chắc cũng chỉ nay mai. 
Tiêu Phong gật đầu: 
- Thế ra đại quân chưa xuất phát, không biết đến bao giờ mới là ngày Hoàng Đạo? 
Bốn tên thuyết khách đưa mắt nhìn nhau, một tên nói: 
- Bọn chúng tôi chỉ là thứ tiểu lại hạ liêu, không nghe biết gì về quân tình. 
Một gã tiếp lời: 
- Chỉ mong Tiêu đại vương hồi tâm chuyển ý, hoàng thượng sẽ đích thân đến gặp đại vương để bàn chuyện quân quốc đại sự. 
Tiêu Phong hừ một tiếng, không hỏi thêm nữa, nghĩ thầm: “Nếu hoàng thượng tiến quân thế như chẻ tre, chiếm được Đại Tống rồi sẽ giải ta đến Biện Lương đẩ gặp. Còn như thua trận trở về thì còn mặt mũi nào mà gặp ta, người đầu tiên phải xử tử ấy chính là mình. Nếu thế thì mình mong y lấy được Đại Tống, hay mong y bại trận? A ha! Tiêu Phong hỡi Tiêu Phong, chính ngươi cũng chẳng phải biết nói sao bây giờ!”. 
Hôm sau vào lúc chiều tối, bốn tên thuyết khách lại lọt tọt đi vào. Những thân binh canh gác Tiêu Phong vốn đã nghe mấy tên này nói lèm bèm phát chán ngấy, vừa trông thấy bọn chúng đã cau mặt, tránh ra mấy bước. Hơn một tháng qua Tiêu Phong không hề có vẻ gì tỏ ra định đào thoát, nên việc giám thị không còn nghiêm nhặt như lúc đầu. Tên thuyết khách đi đầu tằng hắng một cái mở màn: 
- Tiêu đại vương, hoàng thượng hạ chỉ, xin đại vương nghinh tiếp: Nếu đại vương cự tuyệt không phụng mệnh, ấy là tội đại ác cực. 
Câu này Tiêu Phong nghe đến cả trăm lần rồi, nhưng lần này nghe giọng có vẻ bất thường như thể bị sưng cổ họng, không khỏi đưa mắt nhìn y, vừa thoạt trông đã thấy khác lạ. Chỉ thấy tên thuyết khách đó nhướng mày đảo mắt, vẻ mặt có chiều quái đản, Tiêu Phong nhìn thêm, thấy người đó tướng mạo không giống trước, nhìn kỹ hơn nữa không khỏi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, những sợi râu loe hoe của y đều là râu giả gắn vào, mặt mày bôi nham nhở, lem luốc thật khó coi nhưng bên dưới làn da vàng ệch là cái miệng anh đào, mũi thon xinh xinh, chính là A Tử. Chỉ nghe nàng hạ giọng ậm à ậm ừ: 
- Hoàng thượng đã nói ắt không thể nào sai, đại vương nếu bằng lòng tuân theo sẽ có chỗ hay. Đây là thánh dụ của Đại Liêu hoàng đế, đại vương đọc kỹ vài lần thì biết. 
Y nói xong lấy trong tay áo ra một tờ giấy đưa cho Tiêu Phong. Lúc đó trời đã nhá nhem, đèn đuốc trong sảnh đã được mấy tên thân binh thắp sáng. Tiêu Phong soi lên ánh đèn thấy trên giấy viết tám chữ: “Đại viện đến rồi, tối nay thoát hiểm”. Tiêu Phong hừ một tiếng ngao ngán lắc đầu. A Tử nói: 
- Lần này bên ta phát binh, quân mã không phải là ít, sĩ cường mã tráng, thể nào cũng kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công, đại vương không phải lo gì cả. 
Tiêu Phong đáp: 
- Bản ý ta chẳng muốn chết thêm sinh linh nên hoàng thượng mới giam ta lại. 
A Tử nói: - Nếu muốn thắng trận phải nhờ vào thần cơ diệu toán chứ đâu phải chỉ giết người mà thôi. 
Tiêu Phong lại đưa mắt nhìn vào ba tên thuyết khách còn lại thấy đứa thì cầm quạt phe phẩy, hoặc đưa tay áo rộng hở hở kín kín, không dám nhìn thẳng vào người khác, hẳn là những người A Tử gọi đến tiếp tay. Tiêu Phong thở dài một tiếng nói: 
- Hảo ý của các ngươi, Tiêu mỗ cực kỳ cảm kích, có điều kẻ địch thủ ngự nghiêm mật, công thành chiếm đất, thật chẳng có hi vọng gì … 
Còn đang nói, bỗng nghe những tên thân binh thất thanh la hoảng: 
- Rắn độc! Rắn độc! Sao rắn ở đâu nhiều thế này? 
Chỉ thấy từ cửa cái, cửa sổ vô số rắn bò lổm ngổm, ngóc đầu lè lưỡi, ngoằn ngoèo tiến vào, trong sảnh lập tức rối loạn cả lên. Tiêu Phong chợt hiểu: “Xem trận thế của độc xà dường như do anh em Cái Bang đích thân chỉ huy”. 
Các thân binh giơ trường mâu, yêu đao vừa đập vừa chém. Người cai quản đội thân binh quát lên: 
- Những ai đang hầu hạ Tiêu đại vương không được di động một bước, vi lệnh sẽ bị chém đầu. 
Gã quản đội đó cực kỳ bén nhạy, thấy bầy rắn có vẻ khác thường, chỉ sợ lúc đang lộn xộn, Tiêu Phong sẽ thừa cơ thoát thân.. Những thân binh vây quanh cái cũi lập tức đứng yên, dùng trường mây chĩa thẳng vào lồng nhưng vẫn đưa mắt xem chừng những con rắn độc, có con nào bò đến gần liền dùng giáo đập ngay. 
Còn đang hỗn loạn, bỗng nghe phía sau vương phủ có tiếng người la ó: 
- Lấy nước ra, mau mau cứu hỏa, mau mau cứu hỏa. 
Tên quản đội lại quát: 
- Khải Hổ Nhi, mau đi bẩm với Chỉ huy Sứ đại nhân, có di chuyển Tiêu đại vương đi không? 
Khải Hổ Nhi là một bách phu trưởng, đáp lời quay đi, đang định chạy ra bỗng nghe tiếng người từ sảnh môn hầm hè truyền vào: 
- Chớ có trúng phải kế điệu hổ ly sơn của bọn gian tế, nếu có người cướp ngục thì đâm chết Tiêu Phong trước. 
Người đó chính là Chỉ Huy Sứ Ngự Doanh Quân. Y tay cầm trường đao, uy phong lẫm lẫm đứng chặn ngay trước cửa. Đột nhiên có một bóng xanh thấp thoáng, ai đó cầm một con rắn xanh ném vào mặt y. Gã chỉ huy sứ liền giơ đao gạt ra, chỉ nghe vèo vèo liên tiếp, có người bắn ám khí, bao nhiêu đèn đuốc trong đại sảnh tắt phụp, căn phòng tối đen như mực. Gã chỉ huy sứ kêu lên một tiếng, trúng phải ám khí, ngã bật ngửa. 
A Tử lấy trong tay áo ra một thanh bảo đao thò vào trong cũi, lách cách mấy tiếng, chặt đứt những sợi dây xích sắt trói Tiêu Phong. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Những song sắt cái chuồng này vừa to vừa cứng, bảo đao đó chưa chắc đã chặt được”. Vừa lúc đó, sàn dưới chân bỗng sụp xuống, A Tử ở bên ngoài chiếc cũi sắt nói nhỏ: 
- Theo địa đạo chạy ra. 
Kế đó một người nào đó từ dưới hố thò tay nắm chân Tiêu Phong kéo một cái, cả thân hình ông liền rơi tụt vào, thì ra tay thợ lành nghề đào đất của Đại Lý là Hoa Hách Cấn đã đến. Y phải mất hơn mười ngày công phu mới đào được một địa đạo luồn tới cái chuồng đang nhốt Tiêu Phong. 
Hoa Hách Cấn nắm được Tiêu Phong rồi liền theo đường hầm bò ngược trở ra, nhanh chẳng khác gì người ta đi trên mặt đất, trong khoảnh khắc đã được hơn trăm trượng, lúc đó mới đỡ Tiêu Phong đứng lên, từ trong hang chui ra. 
Chỉ thấy bên ngoài có ba người mặt mũi tươi tỉnh ùa đến, chính là Đoàn Dự, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch. Đoàn Dự kêu lên: 
- Đại ca! 
Vừa nói vừa xông đến ôm chầm lấy Tiêu Phong. Tiêu Phong cười ha hả nói: 
- Đã nghe đến thần kỹ của Hoa tư đồ từ lâu, hôm nay chính mình được thử, quả là bội phục. 
Hoa Hách Cấn vui vẻ đáp: 
- Được kim khẩu của Tiêu đại vương khen một lời, quả là vinh hoa đệ nhất trong đời tiểu nhân. 
Nơi đây cách Nam Viện Đại Vương phủ không xa, bốn bề có tiếng Liêu binh huyên náo. Bỗng nghe có tiếng tù và, kỵ mã từ ngoài chạy tới lớn tiếng kêu la: 
- Quân địch đánh vào cửa Đông, thân binh ngự doanh ở đâu thì ở đó, không được di chuyển. 
Phạm Hoa nói: 
- Tiêu đại vương, mình chạy ra cửa tây. 
Tiêu Phong gật đầu: 
- Hay lắm, bọn A Tử đã thoát hiểm chưa? 
Phạm Hoa chưa kịp trả lời, tiếng của A Tử từ dưới hang đã vọng lên: 
- Tỉ phu, thì ra anh vẫn còn nhớ đến em. 
Giọng nói đầy vẻ sung sướng. Nghe tiếng loạt soạt, từ dưới hang chui lên, mặt dán râu, đầu cổ đầy đất cát tro than, cực kỳ dơ dáy, thế nhưng dưới mắt Tiêu Phong, từ khi biết nàng đến nay, bây giờ là hình ảnh đẹp hơn cả. Nàng rút bảo đao, định chặt còng cho Tiêu Phong nhưng cái còng đó dính sát vào tay, nếu chỉ lệch đi một chút thì ắt sẽ bị thương, không phải dễ cắt. Nàng bèn đưa bảo đao cho Đoàn Dự: 
- Ca ca chặt đi. 
Đoàn Dự cầm lấy bảo đao, truyền nội lực vào, chặt cái khóa sắt thật chẳng khác gì gỗ mục. Vừa lúc đó trong hang lại chui ra thêm ba người nữa, một người là Chung Linh, một người là Mộc Uyển Thanh còn người thứ ba là một đệ tử tám túi trong Cái Bang. Y là một hảo thủ giỏi nghề sai khiến rắn, vừa rồi độc xà chạy lung tung trong đại sảnh chính là do y trổ tài. Gã đó thấy Tiêu Phong không hề hấn gì mừng đến chảy nước mắt ấp úng: 
- Bang chủ, lão nhân gia … 
Tiêu Phong đã lâu không nghe ai gọi mình là bang chủ, thấy thần tình của gã đệ tử Cái Bang, trong lòng hết sức xúc động, nói: 
- Thật mất công ngươi quá nhỉ? 
Ông khen một câu khiến gã ăn mày lại càng cảm kích, lại vừa vinh dự, nước mắt ròng ròng. Phạm Hoa nói: 
- Nhân mã nước Đại Lý đang động thủ tại cửa đông, mình nên thừa cơ hỗn loạn chạy đi thôi. Tiêu đại vương tốt hơn hết đừng ra tay để người ta có thể nhận ra được. 
Tiêu Phong đáp: 
- Phải lắm. 
Chín người lập tức từ cửa lớn xông ra. Tiêu Phong quay đầu lại nhìn, thì ra đây là một căn nhà gạch đổ nát, bên ngoài trông rất bệ rạc. A Tử dùng tiếng Khất Đan kêu lớn: 
- Lấy nước mau! Lấy nước mau! 
Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn cả bọn bắt chước nàng, cũng la lối theo. Ba Thiên Thạch, Phạm Hoa nhìn quanh quất không thấy tên Liêu binh nào nên đến đâu châm lửa đến đó, chẳng mấy chốc đã đốt đến bảy tám chỗ. 
Chín người chạy về hướng tây. Bọn Đoàn Dự vốn đã thay y phục Khất Đan rồi, trong thành lại đang đại loạn thành thử chẳng ai chú ý, chỉ khi nào thấy đại đội binh mã Khất Đan đuổi theo thì mới kiếm những chỗ tối tăm ẩn náu. Chạy qua khỏi hơn chục con đường đã nghe phương bắc có tiếng tù và rầm rĩ, tiếng người lao xao, kêu la: 
- Chao ôi, quân địch đánh vào cửa bắc, hoàng thượng bị địch bắt rồi. 
Tiêu Phong hoảng hốt vội ngừng chân hỏi: 
- Liêu đế bị bắt ư? Tam đệ, Liêu đế là anh kết nghĩa của ta, y tuy đối với ta bất nhân nhưng ta không thể đối với y bất nghĩa, nhất định không nên giết y … 
A Tử cười đáp: 
- Tỉ phu yên tâm, đây là ba mươi sáu động động chủ, bảy mươi hai đảo đảo chủ của cung Linh Thứu. Tiểu muội dạy họ thuộc lòng mấy câu Khất Đan, bây giờ la lên để phao tin nhảm làm loạn lòng người đấy thôi. Trong thành Nam Kinh trọng binh trú đóng, hoàng đế có đến hơn vạn thân binh bảo hộ, làm sao bắt được? 
Tiêu Phong mừng rỡ hỏi: 
- Thuộc hạ của nhị đệ cũng đến rồi hay sao? 
A Tử đáp: 
- Nào chỉ thuộc hạ của tiểu hòa thượng thôi đâu, chính chú tiểu cũng đến nữa, luôn cả vợ y cũng đi theo. 
Tiêu Phong ngạc nhiên: 
- Cái gì mà lại vợ chú tiểu? 
A Tử cười đáp: 
- Tỉ phu không biết đâu, vợ của Hư Trúc Tử chính là công chúa Tây Hạ, có điều mặt lúc nào cũng lấy khăn che kín mít, trừ một mình tiểu hòa thượng ra, không một ai thấy cả. Tiểu mưội có hỏi y: “Vợ nhị ca đẹp không?” thì y chỉ cười không trả lời. 
Tiêu Phong khi đó bỏ đi bây giờ lại nghe chuyện lạ lùng thế này, tuy mừng thầm cho Hư Trúc, nhưng không khỏi đưa mắt dò ý Đoàn Dự. Đoàn Dự cười nói: 
- Đại ca chớ có lo xa, tiểu đệ không để bụng đâu, nhị ca cũng không phải là thất tín. Chuyện này nói ra dài dòng, mình sẽ từ từ nói chuyện sau. 
Nói tới đây thì đoàn người đã chạy thêm được một quãng, thấy đằng trước trên một bãi đất rộng có một cái đài cao, lửa cháy ngút trời, hai cột cờ lớn trước mặt lửa đang cháy lem lém. Tiêu Phong biết khu đất này là đại hiệu trường, dùng cho Liêu binh tập luyện, không biết cái đài này dựng lên từ bao giờ mà mình không hay biết. 
Ba Thiên Thạch nói với Đoàn Dự: 
- Bệ hạ, điểm tướng đài và soái tự kỳ của Liêu đế bị đốt thế này, quả là điềm gở cho quân Liêu, chuyến hành quân phạt Tống của Gia Luật Hồng Cơ e rằng không xong. 
Đoàn Dự gật đầu: 
- Quả đúng như thế. 
Tiêu Phong nghe y gọi là “bệ hạ” mà Đoàn Dự cũng gật gù, trong bụng lấy làm lạ hỏi: 
- Tam đệ, ngươi … ngươi đã lên ngôi hoàng đế rồi đấy ư? 
Đoàn Dự buồn bã đáp: 
- Tiên phụ bất hạnh giữa đường băng tồ, hoàng bá phụ lại bỏ ngai vàng đi tu, xuất gia ở chùa Thiên Long nên ép tiểu đệ tiếp vị. Tiểu đệ không tài không đức, ở ngôi cao thế này, thực là xấu hổ. 
Tiêu Phong kinh hãi: 
- Ối trời, bá phụ khứ thế rồi ư? Tam đệ, ngươi là chúa một nước Đại Lý, sao lại vì ta mà đem thân vào chỗ nguy nan, mạo hiểm thế này? Nếu bị tổn thương, thì ta … ta… thật không phải với quân dân Đại Lý. 
Đoàn Dự cười khì khì nói: 
- Đại Lý chỉ là một nước nhỏ ở một góc nam cương, hai chữ “hoàng đế” kể cũng quá đáng. Tiểu đệ ngờ nghệch, trông chẳng ra vẻ ông vua, có chút nào giống hoàng đế đâu? Để người ta gọi là “bệ hạ” quả thật xấu hổ. Anh em ta tình như cốt nhục, đại ca bị nạn, tiểu đệ lẽ nào không chia xẻ với nhau một chút hay sao? 
Phạm Hoa nói: 
- Tiêu đại vương lần này hết sức can ngăn Liêu đế, khuyên đừng phạt Tống, tệ quốc từ trên xuống dưới ai ai cũng thâm cảm đại đức. Liêu đế nếu lấy được Đại Tống rồi, bước kế tiếp ắt sẽ thu Đại Lý. Tệ quốc binh ít tướng yếu, làm sao chống chọi được với tinh binh Đại Liêu? Tiêu đại vương cứu Đại Tống mà cũng là cứu Đại Lý, Đại Lý từ rày hết lòng hết dạ ra sức vì đại vương thì cũng là chuyện đương nhiên thôi. 
Tiêu Phong nói: 
- Ta chỉ là một kẻ dũng phu, chỉ vì không đành lòng để hai nước giao chiến, hại thương bách tính, chứ đâu có công lao gì? 
Vừa nói đến đây, bỗng thấy phía nam lửa bốc lên ngút trời, một đoàn người tay xách nách mang, chen vào đoàn quân cùng chạy qua, ai nấy kêu la: 
- Các hòa thượng chùa Thiếu Lâm cùng vô số hảo hán đang đánh vào cửa nam. 
Lại có người nói: 
- Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong làm loạn, hàng nhà Tống rồi, đã giết mất hoàng đế Đại Liêu. 
Lập tức có mấy người Khất Đan nghiến răng trợn mắt nói: 
- Gã Tiêu Phong phản quốc hàng địch, bọn ta hận không được lột da ăn thịt y. 
Một người khác liền hoảng hốt hỏi lại: 
- Có thực là vạn tuế gia bị tên gian tặc Tiêu Phong sát hại không? 
Một người liền đáp: 
- Sao lại không thực? Chính mắt ta thấy gã Tiêu Phong cưỡi một con ngựa trắng, xông đến trước mặt vạn tuế, đâm một giáo từ ngực vạn tuế gia suốt tận bên kia. 
Một ông già nói: 
- Tên cẩu tặc Tiêu Phong đó sao vô lương tâm thế? Thế thì quả thực y là người Khất Đan hay là người Hán? 
Một hán tử đáp: 
- Nghe nói y là man tử Nam triều giả làm người Khất Đan, tên cẩu tặc đó thật gian ác, quả không bằng loài cầm thú. 
A Tử nghe những người đó nhục mạ Tiêu Phong nổi giận, vung roi đánh ngựa, tính quật vào gã Khất Đan ở bên cạnh. Tiêu Phong vội giơ tay gạt ra, lắc đầu nói nhỏ: 
- Cứ để cho họ nói gì thì nói. 
Ông hỏi thêm: 
- Có thực là các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đã đến rồi chăng? 
Gã đệ tử tám túi đáp: 
- Xin bẩm với bang chủ: Đoàn cô nương từ Nam Kinh đi ra gặp ngay Ngô trưởng lão của bản bang, nói là bang chủ vì sinh mạng của bách tính Đại Tống nên nhất định khuyên Liêu đế đừng xuất quân chinh phạt nên đã bị cầm tù. Ngô trưởng lão không tin, bảo là bang chủ người Liêu, lẽ nào lại lo cho người Tống? Y bèn lẻn vào Nam Kinh đích thân nghe ngóng, thấy lời của Đoàn cô nương quả không sai. Ngô trưởng lão lập tức truyền “Thanh Trúc Lệnh” của bản bang, đem hành vi đại nhân đại nghĩa của bang chủ truyền khắp anh hùng thiên hạ. Võ lâm Trung Nguyên cảm kích ân đức nên do các cao tăng Thiếu Lâm thống lãnh tất cả đều đến cứu viện bang chủ. 
Tiêu Phong nghĩ đến năm xưa nơi Tụ Hiền Trang đối địch với quần hùng Trung Nguyên, giết không ít anh hùng hảo hán, hôm nay họ lại đi cứu mình, trong lòng không khỏi băn khoăn, lại thêm cảm kích. A Tử nói: 
- Tin tức do các bạn ăn mày trong Cái Bang truyền ra thảo nào nhanh đến thế! Chao ôi, hỏng rồi, tiếc quá, tiếc quá! 
Đoàn Dự hỏi lại: 
- Tiếc cái gì? 
A Tử đáp: - Cái tòa Thần Mộc Vương Đỉnh của em, đốt hương để trong đại sảnh để dụ rắn, lập cập quá nên quên mang theo. 
Đoàn Dự cười nói: 
- Cái thứ bàng môn tả đạo đó, quên thì thôi, mang theo làm gì? 
A Tử đáp: 
- Hứ, cái gì mà bàng môn tả đạo? Không có món bảo vật đó, làm sao dụ được nhiều rắn độc đến mau như vậy, để cho tỉ phu có thể dễ dàng thoát thân? 
Còn đang nói chuyện đã nghe tiếng binh khí chạm nhau leng keng leng keng không dứt, dưới ánh lửa thấy vô số Liêu binh đánh lẫn nhau. Tiêu Phong lạ lùng: 
- Ồ, sao bên mình … 
Đoàn Dự đáp: 
- Đại ca, người nào cổ có buộc vải trắng là phe ta. 
A Tử lấy ra một manh vải trắng đưa cho Tiêu Phong nói: 
- Tỉ phu buộc vào đi. 
Trong một thoáng, Tiêu Phong biết là Liêu binh không phân biệt ai là bạn, ai là thù không biết phải giết ai. Đánh nhau một hồi trở thành người Liêu tàn sát lẫn nhau. Những người cổ có buộc vải trắng chém đao nào, đâm mũi giáo nào cũng nhằm binh sĩ nước Liêu. Tiêu Phong thấy người Liêu chết nằm ngổn ngang, máu đầy mặt đất, tay cầm miếng vải mà run lên bần bật, trong lòng nghe như có tiếng vang lên: “Ta là người Khất Đan, không phải người Hán! Ta là người Khất Đan, không phải người Hán!”. Miếng vải đó ông không làm sao buộc lên cổ mình được. 
Ngay lúc đó có tiếng kẹt kẹt vang lên, hai cánh cửa thành nặng nề từ từ mở. Đoàn Dự và Phạm Hoa kèm Tiêu Phong cùng chạy ra. Ngoài thành dưới ánh lửa đuốc bập bùng, vô số người của Cái Bang dắt ngựa chờ sẵn, vừa thấy Tiêu Phong xông ra lập tức reo hò ầm ỹ: 
- Kiều bang chủ! Kiều bang chủ! 
Lửa sáng rực cả bầu trời, tiếng người vang động mặt đất. Lại thấy hai con rồng lửa uốn éo ở hai bên, một người cưỡi ngựa từ chính giữa chạy thẳng đến. Ngồi trên ngựa là một người ăn mày già hai tay cầm cây gậy đánh chó, tín vật của bang chủ Cái Bang giơ lên khỏi đầu, chính là Ngô trưởng lão. Y chạy đến trước mặt Tiêu Phong, nhảy xuống ngựa, quì dưới đất nói: 
- Ngô Trường Phong được chúng huynh đệ ủy thác, giao đả cẩu bổng của bản bang lại cho bang chủ. Chúng tôi quả thực hồ đồ đáng chết, đầu óc lú lẩn, nghi oan cho người ngay, khiến cho bang chủ phải chịu muôn vàn khổ sở. Chúng tôi thật không bằng con heo con chó, chỉ mong bang chủ không chấp nhất lỗi lầm của kẻ tiểu nhân, thương hại bọn chúng tôi bơ vơ côi cút, không nơi nương tựa mà quay trở lại nhận chức bang chủ. Chúng tôi bị kẻ gian xúi biểu, bảo bang chủ là Hồ cẩu Khất Đan, quả là đáng chết. Chúng tôi đã đem tên gian đồ Toàn Quan Thanh loạn đao phân thi để rửa hờn cho bang chủ rồi. 
Nói xong y đưa chiếc gậy đánh chó cho Tiêu Phong. Tiêu Phong trong lòng chua chát nói: 
- Ngô trưởng lão, tại hạ quả thực là người Khất Đan. Được các vị trọng nghĩa đối đãi như thế, tại hạ cảm kích không đâu cho hết nhưng chức vị bang chủ quả vạn lần không dám đảm đương. 
Ông vừa nói vừa đưa tay đỡ Ngô trưởng lão lên. Ngô Trường Phong thần tình hoang mang, vò đầu bứt tai ấp úng: 
- Ông … ông cũng bảo ông là người Khất Đan ư? Ông … không nhận chức bang chủ? Kiều bang chủ, xin ông rộng lượng đừng giận chúng tôi nữa. 
Bỗng nghe phía trong thành tiếng trống nổi lên rồi đại đội Liêu binh xông ra. Tiêu Phong kêu lên: 
- Ngô trưởng lão, chúng mình chạy đi thôi. Liêu binh dũng mãnh, nếu kết thành trận thế thì không thể nào chống nổi. 
Tiêu Phong biết rằng Cái Bang và quần hùng Trung Nguyên nhất thời chiếm được thượng phong, chẳng qua là do tấn công bất ngờ khiến đối phương trở tay không kịp, còn như thực sự hai bên giao chiến thì một nghìn, vài trăm nhân vật giang hồ làm sao chống nổi với hàng vạn quân tinh nhuệ? Huống chi nếu đã hỗn chiến rồi, hai bên tử thương đều nặng như thế trái với bản ý của mình, bèn nói: 
- Ngô trưởng lão, vấn đề bang chủ, để từ từ rồi tính sau cũng chưa muộn. Ông mau truyền lệnh cho các anh em rút lui về hướng tây. 
Ngô Trường Phong đáp: 
- Vâng! 
Y lập tức truyền lệnh ra, bang chúng Cái Bang hậu đội đổi thành tiền đội, chạy về hướng tây. Chẳng bao lâu Hư Trúc Tử cũng suất lãnh các thuộc hạ chư nữ cùng các dị sĩ bảy mươi hai đảo, ba mươi sáu động đánh rốc qua để cùng nhau hợp lại. Chạy được mấy dặm, các võ sĩ Đại Lý dưới quyền điều động của Phó Tư Qui, Chu Đan Thần cũng chạy đến. Thế nhưng quần tăng Thiếu Lâm và quần hào Trung Nguyên thì vẫn không thấy đâu. Chỉ nghe văng vẳng tiếng chém giết trong thành Nam Kinh vọng ra. 
Tiêu Phong nói: 
- Quần hào và phái Thiếu Lâm bị kẹt lại trong thành rồi, mình chịu khó chờ thêm chút nữa. 
Một hồi sau, tiếng la ó trong thành càng thêm rầm rĩ. Đoàn Dự nói: 
- Đại ca đợi ở đây để tiểu đệ đi vào tiếp ứng bọn họ chạy ra. 
Chàng liền dẫn võ sĩ Đại Lý chạy trở vào thành Nam Kinh. Khi đó trời đã sáng dần, Tiêu Phong trong lòng lo lắng, không biết quần hào Nam Kinh có thoát hiểm chăng, lại nghe sát thanh càng lúc càng lớn, các võ sĩ Đại Lý quay trở vào đã lâu mà không thấy một ai chạy ra được. 
Một tên thám tử Cái Bang cưỡi ngựa chạy ra báo: 
- Mấy nghìn quân thiết giáp Liêu binh chặn cửa Tây rồi, võ sĩ Đại Lý không qua nổi, mà quần hào Trung Nguyên cũng không ra được. 
Hư Trúc phất tay một cái nói: 
- Linh Thứu Cung chúng ta xông vào tiếp ứng. 
Y liền dẫn hai nghìn hảo hán các lộ, cùng cửu bộ chư nữ quay trở lại. Tiêu Phong cưỡi trên mình ngựa, nhìn qua hướng đông, thấy trong thành Nam Kinh khói bốc khắp nơi, đông một ngọn lửa, tây một ngọn lửa không biết hỗn loạn như thế nào rồi. Đợi đến hơn nửa giờ, lại thêm một tên thám tử nữa chạy ra báo: 
- Đoàn hoàng gia Đại Lý và Hư Trúc Tử tiên sinh cung Linh Thứu đã mở một đường máu vào được trong thành rồi. 
Trước đây mỗi khi có giao chiến Tiêu Phong bao giờ cũng thân tiên sĩ tốt, lần này lại phải đứng ở xa xa chỉ biết sốt ruột lo lắng, thật chịu không nổi, bèn nói: 
- Để ta đi xem! 
A Tử, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh ba người cùng khuyên: 
- Người Liêu phải bắt được đại ca mới thôi, nhất định chớ nên mạo hiểm. 
Tiêu Phong đáp: 
- Không sao! 
Ông giục ngựa chạy lên, các bang chúng Cái Bang liền theo sau. Đến bên ngoài cửa tây thành Nam Kinh thấy dưới chân thành, trên bờ thành cùng dưới hào có đến mấy trăm người chết, cả binh tướng nước Liêu lẫn bộ thuộc của Đoàn Dự và Hư Trúc. Cửa thành còn đang đóng hờ, hai tên đảo chủ tay cầm đại đao, chặn ngay cửa thành đang đánh nhau với quân Liêu không cho chúng đóng cửa lại. 
Bỗng nghe từ phía nam phía bắc tiếng vó ngựa dồn dập, Tiêu Phong kinh hãi: 
- Không xong rồi, đại đội Liêu binh đang chia hai đường bao vây lại, chúng mình không nên chịu khốn ở nơi đây. 
Ông cầm lấy một cái giáo gẫy nhảy vọt lên, chống mũi giáo vào tường, mượn sức nhảy thêm lần nữa, liên tiếp mấy lần đã lên được đầu thành, nhìn vào bên trong, thấy trong khoảng mấy dặm vuông ở mạn tây, chỗ này một đám, chỗ kia một đám, hào kiệt Trung Nguyên bị quân Liêu vây đánh, xem ra nơi nào cũng chỉ ở đâu lo đấy. Quần hào tuy võ công cao cường nhưng mỗi người phải đánh với bảy tám, có khi mười người không chừng, một hồi lâu đều lâm vào thế quả bất địch chúng. 
Tiêu Phong đứng ở trên đầu thành, nhìn vào trong thành rồi lại nhìn ra ngoài, thực không biết phải chọn bên nào. Quần hào vì cứu mình mà đến, không lẽ lại đứng giương mắt trơ trơ nhìn họ bị Liêu binh giết hại, thế nhưng nếu nhảy xuống cứu, thì là công khai chống lại nước Liêu, thành kẻ Liêu gian phản quốc, không những bất hiếu bất mục với tổ tông mà còn để cho muôn đời sỉ tiếu. Còn như chạy khỏi Nam Kinh bỏ nước tị nạn, người ngoài chẳng qua chỉ mỉa mai “Tiêu Phong bất trung” chứ nếu quay giáo chống Liêu thì tội lỗi đối với đất nước trở thành cực kỳ to lớn. 
Tiêu Phong hành sự xưa nay hào sảng thẳng thắn, quyết đoán cực nhanh, bây giờ ở vào thế hai mặt đều là đường cùng, trong một thoáng đã thấy bên tường thành bảy tám tên võ sĩ Khất Đan vây đánh hai nhà sư Thiếu Lâm. Một nhà sư múa giới đao, miệng hộc máu, đủ biết đã bị thương nặng, Tiêu Phong chăm chú nhìn nhận ra đó là Huyền Minh, còn nhà sư kia múa thiền trượng hết sức hộ vệ, chính là Huyền Thạch. Hai tên Liêu binh múa trường đao chém xuống Huyền Minh. Huyền Minh đã bị trọng thương, không đỡ nổi. Huyền Thạch vội đảo thiền trượng, hất cán lên, đánh giạt hai thanh đao ra. Chỉ nghe Huyền Minh kêu rú lên một tiếng, vai trái đã trúng đao. Huyền Thạch vội tạt trượng ra đánh tên lính Liêu xương gân gãy nát. Thế nhưng cũng vì thế mà ngực bị trống, một tên võ sĩ Khất Đan liền cầm mâu đâm vào, trúng ngay bụng Huyền Thạch. Thiền trượng Huyền Thạch liền đập xuống, tên lính kia nát đầu nhưng xem ra y cũng chỉ chết trước ông giây lát. Huyền Minh múa loạn thanh đao chẳng còn chiêu số gì nữa, nước mắt chảy dài kêu lên: 
- Sư đệ! Sư đệ! 
Tiêu Phong thấy thế nhiệt huyết dâng tràn, không còn nhịn thêm được nữa quát lớn: 
- Tiêu Phong ở đây, muốn giết thì đến giết ta đi, chớ có hại người vô tội. 
Ông từ trên tường thành nhảy xuống, còn ở trên không đã đá văng hai tên lính Liêu ra xa, chân vừa chấm đất đã một tay chộp Huyền Minh, tay kia tiếp lấy thiền trượng của Huyền Thạch, kêu lên: 
- Tại hạ cứu viện quá chậm, tội nghiệt quả là thâm trọng. 
Ông liền vung thiền trượng hất hai tên võ sĩ Khất Đan ra ngoài mấy trượng. Huyền Thạch gượng gạo đáp: 
- Chúng tôi vu oan cho cư sĩ là người Khất Đan, tội nghiệt còn nặng hơn, thiện tai, thiện tai! Hôm nay cạn ao bèo … 
Hai chữ “xuống đất” chưa nói hết đã hộc máu, đầu ngoẹo qua tắt thở. Tiêu Phong tay đỡ Huyền Minh, xông qua bên trái vào nơi mấy tên võ sĩ Đại Lý đang bị vây. Binh tướng nước Liêu thấy Nam Viện Đại Vương thần uy lẫm lẫm xuất hiện, ai nấy khiếp đảm. Tiêu Phong vũ động thiền trượng, xa thì đâm, gần thì đánh, tuy không giết người nhưng ai gặp phải cũng đều bị thương. Lính Liêu vội vàng bỏ chạy, Tiêu Phong tả xung hữu đột, trong khoảnh khắc đã tụ được hai trăm người lại một chỗ. Ông lớn tiếng kêu: 
- Các vị chớ có tách rời nhau. 
Ông cùng hai trăm người đó chạy khắp nơi, thấy dâu có người bị vây liền xông đến, cứu người ra, chẳng khác gì tuyết lăn, càng lúc càng lớn, đến lúc được trên nghìn người rồi thì Liêu binh không còn ngăn cản được nữa. Sau đó Tiêu Phong cùng Hư Trúc, Đoàn Dự và Huyền Độ đại sư của phái Thiếu Lâm dẫn quần hào Trung Nguyên xông ra cửa thành. 
Tiêu Phong tay cầm thiền trượng, đứng bên cổng thành, nhường cho quần hào Đại Lý, Linh Thứu và Trung Nguyên lần lượt đi ra. Binh tướng nước Liêu chỉ đứng xa xa hò hét, không ai dám xông lên tấn công. Tiêu Phong đợi cho mọi người ra hết rồi mới ra sau cùng, ra khỏi cửa thành quay đầu nhìn lại, thấy xác chết khắp nơi, trận chiến này chết không biết bao nhiêu người, còn thấy hai nữ tướng cung Linh Thứu nằm gục trong đống máu rên rỉ quằn quại, ông lại quay vào chộp lưng hai người đó xách chạy ra. 
Bỗng nghe tiếng trống đánh rầm trời, hai đội kỵ binh theo hai bên nam bắc xông tới. Tiêu Phong trông thấy mà rùng mình, hai đội này mỗi đội phải trên một vạn người, bên mình đánh đã lâu, người nào không bị thương thì cũng mỏi mệt lắm rồi làm sao ngự địch được nữa? Ông bèn kêu lên: 
- Bang chúng Cái Bang đoạn hậu, nhường ngựa cho các anh em bị thương chạy trước. 
Những người Cái Bang lớn tiếng đáp ứng, lục tục xuống ngựa. Tiêu Phong lại quát: 
- Kết thành Đả Cẩu Đại Trận. 
Bang chúng Cái Bang miệng đọc bài “Liên Hoa Lạc”, sắp thành một bức tường người. Tiêu Phong hô tiếp: 
- Huyền Độ đại sư, nhị đệ, tam đệ, mau mau suất lãnh các bằng hữu rút lui về hướng tây để cho Cái Bang đi sau chặn đường. 
Mặt trời lúc ấy vừa mới lên, chiếu vào lưỡi đao mũi giáo quân Liêu lấp loáng, hàng vạn vó ngựa nhịp trên mặt đất khiến cho núi đồi rung chuyển. Hư Trúc và Đoàn Dự thấy thế của quân Liêu, biết Đả Cẩu Đại Trận của Cái Bang không thể nào ngăn chặn nổi, liền đứng hai bên Tiêu Phong nói: 
- Đại ca, anh em mình kết nghĩa, có nạn cùng chịu, sống chết bên nhau. 
Tiêu Phong đáp: 
- Vậy các ngươi mau bản bản bộ nhân mã rút lui trước đi. 
Hư Trúc, Đoàn Dự lập tức truyền lệnh. Thế nhưng bộ thuộc Linh Thứu Cung nhất định không bỏ chủ nhân ở lại, tướng sĩ Đại Lý cũng không chịu để hoàng đế ở nơi hiểm địa, bỏ chạy lấy mình. Trước mắt thấy quân Liêu mỗi lúc một gần, tên bắn rơi chỉ còn cách bọn Tiêu Phong chừng mươi trượng, Huyền Độ vốn dĩ đã dẫn quần hào Trung Nguyên chạy được một quãng, lúc này thấy tình hình hung hiểm, lại có mấy chục người quay trở lại trợ chiến. 
Tiêu Phong bụng ngầm than khổ, nghĩ thầm: “Những người này ai nấy võ công cao cường nhưng tụ tập một nơi cũng chỉ là một bầy ô hợp, không theo binh pháp bố trí thì đánh sao lại quân Liêu? Ta có chết cũng chẳng hề chi, nhưng tất cả mọi người sẽ đều chết bên ngoài thành Nam Kinh này, thế mới … thế mới …”. 
Còn đang chưa biết tính sao, đột nhiên trong đại quân Liêu phèng la rầm rĩ, chính là tiếng chiêng thu quân. Đám quân Liêu đang hùng hổ phóng tới nghe tiếng phèng la, vội vàng chuyển đầu ngựa, hậu đội biến thành tiền đội, chia ra hai hướng nam bắc quay trở về. Tiêu Phong ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, chỉ thấy phía sau đoàn quân tiếng hò reo rầm rĩ, bụi bay mù mịt, dường như có quân mã đang tấn công vào hậu diện, lại càng kỳ quái: “Sao phía sau quân Liêu lại có binh mã, không lẽ có kẻ nào nổi loạn hay sao? Hoàng thượng trước mặt sau lưng đều thụ địch, e rằng có chuyện không hay”. Ông thấy quân Liêu bị khốn lập tức nghĩ đến an nguy của Gia Luật Hồng Cơ. 
Tiêu Phong nhảy lên lưng ngựa, nhìn qua trận thế quân Liêu, thấy khắp nơi cờ trắng phất phới, tên bắn như mưa rào, quân Liêu lả tả rơi xuống ngựa. Tiêu Phong lập tức hiểu ra: “À, các bằng hữu của bộ tộc Nữ Chân đã đến rồi đây, không biết vì sao họ lại biết tin?”. 
Người Nữ Chân tiễn pháp thật thần kỳ, lại thêm dũng mãnh, cứ một trăm người thành một tiểu đội, nằm nép qua một bên ngựa, hò hét vang rân xông vào xung sát, trong chốc lát đã làm loạn thế trận của quân Liêu. Người Nữ Chân tuy nhân số không đông nhưng dũng mãnh thiện chiến, lại tấn công bất ngờ nên viên chỉ huy quân Liêu thấy tình hình bất lợi, sợ nhân mã của Tiêu Phong tấn công phía trước vội vàng thu binh rút lui vào trong thành. 
Phạm Hoa là đại tư mã của Đại Lý, tinh thông binh pháp, thấy có thể khai thác cơ hội vội vàng bẩm với Tiêu Phong: 
- Tiêu đại vương, mình nên mau mau xung sát, bây giờ chính là lương cơ để phá giặc. 
Tiêu Phong lắc đầu. Phạm Hoa lại nói: 
- Nơi đây còn cách Nhạn Môn Quan rất xa, nếu không thừa cơ phá tan quân Liêu thì sẽ để lại hậu hoạn. Quân địch đông, quân ta ít thực khó mà rút lui cho an toàn được. 
Tiêu Phong lại lắc đầu. Phạm Hoa không hiểu tại sao, nghĩ thầm: “Tiêu đại vương không muốn đuổi tận sát tuyệt, không lẽ còn muốn giữ lại chút tình trước đây với Liêu đế chăng?”. 
Trong đám khói bụi mù mịt, một đoàn người Nữ Chân kẻ thì cởi trần thân trên, kẻ thì khoác da thú, cưỡi ngựa xông tới chém giết, tên nỏ bắn vèo vèo không để sót một ai. Khoảng hơn một nghìn quân Liêu đi sau cùng không kịp vào thành đều bị người Nữ Chân bắn chết nằm gục dưới chân thành. 
Người Nữ Chân cạo sạch tóc phía trước trán, đằng sau tết thành đuôi sam, ai nấy mặt mày dữ tợn, người đầy máu, bắn chết địch thủ rồi liền vung dao chặt luôn thủ cấp, đeo vào lưng, có người đeo đến hơn chục cái đầu lâu. Quần hào ở trên giang hồ từng chứng kiến xung sát đã nhiều nhưng hung ác tàn nhẫn của những người man rợ này bây giờ mới thấy lần đầu, không ai là không kinh hãi. 
Một gã thợ săn cao lớn đứng trên mình ngựa, lớn tiếng gọi: 
- Tiêu đại ca, Tiêu đại ca, Hoàn Nhan A Cốt Đả đến giúp đại ca đây. 
Tiêu Phong phóng ngựa chạy vụt lên, hai người bốn bàn tay nắm chặt lấy nhau. A Cốt Đả vui mừng nói: 
- Tiêu đại ca, hôm đó đại ca không từ biệt mà đi mất khiến cho huynh đệ ngày ngày thương nhớ, về sau nghe thám tử nói Tiêu đại ca làm quan to bên nước Liêu, cũng yên tâm. Có điều người Liêu giảo hoạt, đại ca làm quan e không được lâu bền. Quả nhiên hôm trước nghe báo: đại ca bị tên hoàng đế chó má kia giam tại trong ngục, huynh đệ vội đem binh mã tới cứu, may quá ca ca không chết cũng không bị thương, huynh đệ vui mừng lắm. 
Tiêu Phong đáp: 
- Đa tạ người anh em tới cứu. 
Nói chưa dứt câu, trên đầu thành tên bắn xuống như mưa nhưng hai người đứng khá xa nên tên không thể bắn tới được. A Cốt Đả giận dữ nói: 
- Đồ Khất Đan chó má! Ta đang cùng ca ca nói chuyện lại dám phá đám. 
Y giương cung lên, vèo vèo vèo từ chân thành bắn luôn ba mũi tên, chỉ nghe ba tiếng kêu thảm thiết, ba tên Liêu binh trúng tiễn, từ bên trên lộn nhào xuống. Liêu binh bắn không tới y trong khi y dùng cung cứng tên dài bắn được xa hơn, ba phát trúng cả ba. Trên đầu thành lính Liêu kêu la rầm rĩ, vội vàng lấy cung về đưa khiên ra đỡ. Chỉ nghe trong thành tiếng trống đánh thùng thùng, thì ra quân Liêu đã tập hợp binh lính, kiểm điểm tướng sĩ. 
A Cốt Đả lớn tiếng nói: 
- Bầy sói nghe đây! Bọn chó má Khất Đan đang tính chui ra khỏi cái lỗ chó đó, mình xông vào giết chúng một mẻ nữa cho sướng tay. 
Người Nữ Chân lớn tiếng reo hò tưởng chừng như hàng vạn con thú cùng tru lên. Tiêu Phong nghĩ bụng nếu hai bên đánh trận này, tử thương ắt là rất nặng vội can: 
- Huynh đệ, ngươi tới cứu ta, lúc này ta đã thoát hiểm rồi, còn đánh nữa làm gì? Hai anh em ta lâu ngày không gặp, đi tìm chỗ nào an tĩnh uống một trận cho túy lúy xem nào. 
Hoàn Nhan A Cốt Đả nói: 
- Nếu đại ca đã nói thế thì thôi mình đi. 
Chỉ thấy cửa thành mở toang, một đội thiết giáp quân Liêu cưỡi ngựa phóng ra. A Cốt Đả cất tiếng chửi: 
- Giết cho sạch bọn Khất Đan chó má. 
Y lắp tên giương cung bắn vụt ra, trúng ngay mặt tên đi đầu, lập tức ngã xuống ngựa. Những người Nữ Chân còn lại cũng bắn ra, bắn phát nào cũng trúng mặt người Liêu. Những người đó tiễn pháp rất tinh xảo, đầu mũi tên lại tẩm thuốc độc, người trúng tên không kip hự lên tiếng nào đã lăn ra chết ngay, chỉ phút chốc ngoài cửa thành đã có đến mấy trăm người chết, người ngựa khôi giáp chất thành một cái gò nhỏ, chặn mất cửa thành. Những người Liêu còn lại sợ đến hết hồn vội đóng chặt cửa thành không dám ra thêm nữa. 
Hoàn Nhan A Cốt Đả liền suất lãnh người trong bộ tộc mình dưới chân thành diệu võ dương uy, to mồm chửi rủa. Tiêu Phong nói: 
- Huynh đệ, thôi mình đi. 
A Cốt Đả đáp: 
- Được! 
Y chỉ tay lên thành chửi: 
- Bọn chó Khất Đan nghe đây, may cho các ngươi không đụng tới một sợi lông măng của Tiêu đại ca nên hôm nay tha cho khỏi chết. Nếu không ta đã phá thành bắt bọn chó chúng bay từng đứa một ra bắn bỏ. 
Sau đó y cùng Tiêu Phong cưỡi ngựa song song đi về hướng tây, đi hơn chục dặm đến một ngọn đồi. A Cốt Đả nhảy xuống ngựa, từ bên yên ngựa lấy ra một túi rượu đưa cho Tiêu Phong nói: 
- Ca ca, uống rượu. 
Tiêu Phong cầm lấy, uống ừng ực một hơi hết nửa bình rồi giao lại cho A Cốt Đả. A Cốt Đả uống sạch chỗ còn lại nói: 
- Ca ca, chi bằng ca ca theo huynh đệ đến núi Trường Bạch, săn bắn uống rượu, tiêu dao khoái hoạt. 
Tiêu Phong biết rõ tính khí Gia Luật Hồng Cơ, hôm nay bị A Cốt Đả đánh thua một trận ở Nam Kinh lại lên tiếng nhục mạ, thật là mất mặt, ắt sẽ không bỏ qua, thể nào cũng đem binh sang đánh. Người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng dẫu sao cũng ít người, thắng bại thực không thể biết trước chi bằng không đánh nhau là hơn. Ông nghĩ đến hồi trước ở núi Trường Bạch, ngoài việc trị thương cho A Tử ra không phải lo nghĩ gì, cũng chẳng tranh danh đoạt lợi với ai, nếu từ nay ở với người Nữ Chân thì sẽ tránh được bao nhiêu phiền nhiễu bèn nói: 
- Huynh đệ, những anh hùng hào kiệt từ Trung Nguyên đến đây cũng đều vì cứu ta mà ra, để ta tiễn họ đến Nhạn Môn Quan rồi sẽ cùng người anh em gặp lại. 
A Cốt Đả mừng rỡ đáp: 
- Bọn man tử Trung Nguyên xí xa xí xô phần nhiều không phải người tốt, ta cũng chẳng muốn gặp họ làm chi. 
Nói xong dẫn tất cả tộc nhân chạy về hướng bắc. Quần hào Trung Nguyên thấy những người Nữ Chân đó đến đi nhanh như gió thoảng, cực kỳ táo tợn nghĩ thầm: “Bọn người Phiên này còn ghê gớm hơn cả bọ Liêu cẩu, cũng may họ là bằng hữu của Kiều bang chủ, nếu không thì nguy to”. 
Các lộ nhân mã dần dần tụ lại một chỗ, bàn tán xôn xao về trận ác chiến dưới thành Nam Kinh mới rồi. Tiêu Phong cúi rạp tận đất nói: 
- Đa tạ các vị đại nhân đại nghĩa, không nhớ chuyện ác cũ của Tiêu mỗ, nghỉn dăm bôn ba đến cứu, ân đức này Tiêu mỗ mãi mãi không thể nào báo đền nổi. 
Huyền Độ nói: 
- Kiều bang chủ nói thế là thế nào? Những chuyện ngày trước cũng đều vì hiểu lầm mà sinh ra cớ sự, võ lâm đồng đạo gặp nạn tương trợ cũng là chuyện đương nhiên. Huống chi Kiều bang chủ không nề sinh tử an nguy, từ bỏ vinh hoa phú quí cũng chỉ vì sinh linh bách tính Trung Nguyên, nhân đức ấy thấm nhuần thiên hạ, chúng tôi phải cảm ơn Kiều bang chủ mới phải. 
Phạm Hoa lớn tiếng nói: 
- Chúng vị anh hùng, tại hạ xem xét binh thế quân Liêu, e rằng họ chưa chịu thua đâu, thể nào cũng truy kích, không biết các vị có cao kiến gì không? 
Quần hùng đồng thanh đáp ứng: 
- Chúng tôi quyết cùng bọn Liêu binh một trận sống mái, há lại sợ chúng hay sao? 
Phạm Hoa nói: 
- Bên địch nhiều, bên ta ít, giao phong trên đồng bằng chúng ta quả thật bất lợi. Theo ý kiến tại hạ chúng mình nên lui về hướng tây, một là gần với nơi quân Tống trú đóng, có gì tiếp ứng lẫn nhau, hai nữa quân địch đuổi càng xa nhân số càng giảm đi, chúng ta có thể thừa cơ phản kích. 
Quần hào ai nấy khen phải. Sau đó Hư Trúc dẫn bộ thuộc cung Linh Thứu đi thành một toán, Đoàn Dự dẫn binh mã Đại Lý đi một toán khác, còn Huyền Độ dẫn quần hào Trung Nguyên thành toán thứ ba, còn Tiêu Phong cùng bang chúng Cái Bang đoạn hậu. Bốn lộ nhân mã, mỗi đoàn cách nhau chừng vài ba dặm, thám tử cưỡi ngựa chạy tới chạy lui truyền tin, nếu có quân địch sẽ cứu ứng lẫn nhau. Đi suốt ngày hôm đó, buổi chiều ở nơi sơn dã nghỉ ngơi, đến tối cũng không thấy quân Liêu đuổi tới ai nấy mới yên tâm. 
Sáng sớm hôm sau mọi người lại lên đường, Tiêu Phong hỏi A Tử: 
- Vị Du quân kia có còn ở cung Linh Thứu nữa hay không? 
A Tử bĩu môi nói: 
- Ai mà biết? Chắc là còn, y mù hai mắt, làm sao xuống núi được? 
Nghe giọng nàng dường như chẳng hề quan tâm đến y. Hôm đó cả bọn đến Bạch Lạc Bảo dưới chân Ngũ Đài Sơn, đào hố nấu cơm. Đi đến đâu Phạm Hoa cũng cắt đặt người mai phục khắp nơi, chặt cầu ngăn đường, để kéo dài thì giờ Liêu binh truy kích. Đến ngày thứ ba, bỗng thấy phía đông khói phân sói1 bay thẳng vút lên, chính là tín hiệu quân Liêu đang đuổi theo. Quần hào ai nấy giật mình, những hào kiệt trẻ tuổi đã toan quay lại trợ giúp những tiểu đội mai phục dọc đường, nhưng bị Huyền Độ, Phạm Hoa ngăn trở. 
Đến chiều hôm đó, quần hào nghỉ lại một triền núi. Ngủ đến nửa đêm, bỗng có người kinh hoàng kêu lên khiến ai nấy tỉnh dậy, thấy phương bắc đỏ rực cả một góc. Tiêu Phong và Phạm Hoa hai người nhìn nhau, trong bụng thầm biết hẳn là có chuyện chẳng lành. Phạm Hoa nói nhỏ: 
- Tiêu đại vương nghĩ có phải quân Liêu đi vòng qua giáp công chăng? 
Tiêu Phong gật đầu. Phạm Hoa nói: 
- Lửa lớn thế, không biết đốt mất bao nhiêu nhà của dân chúng? Than ôi! 
Tiêu Phong không muốn kể xấu Gia Luật Hồng Cơ nhưng biết ngay lần này bị thua dưới tay người Nữ Chân, bao nhiêu tức tối trong lòng trút lên đầu bách tính, trên đường tiến quân tây chinh, gặp ai giết nấy, nhà cửa đốt sạch. 
Lửa cháy mãi tới khi trời sáng cũng chưa tắt. Đến trưa hôm đó, phương nam cũng có lửa bốc lên, dưới ánh nắng chang chang không thấy lửa mà chỉ thấy khói mù mịt bốc lên tận mây. Đoàn của Huyền Độ vốn dĩ đi đầu thấy phương nam lửa bốc cao như thế liền gò cương đứng lại bên đường đợi Tiêu Phong tới nơi bèn hỏi: 
- Kiều bang chủ, quân Liêu chia ba mặt tấn công, Nhạn Môn Quan liệu có giữ nổi không? Ta đã liên tiếp sai người chạy đến báo tin nhưng thống soái giữ ải nhu nhược, không dám phát binh sợ không chống nổi thiết kỵ Liêu binh. 
Tiêu Phong không biết phải trả lời thế nào, Huyền Độ lại tiếp: 
- Xem ra chỉ có người Nữ Chân là có thể chống lại quân Liêu, trong tương lai nếu như Đại Tống liên thủ với Nữ Chân, nam bắc giáp công thì may ra sẽ khiến cho thiết kỵ Khất Đan không tiến xuống nam thôi. 
Tiêu Phong hiểu ý ông ta muốn mình tìm cách liên lạc với thủ lãnh Nữ Chân Hoàn Nhan A Cốt Đả nhưng nghĩ mình vốn là người Khất Đan, làm sao có thể cấu kết ngoại địch đánh lại nước mình. Ông đột nhiên nhớ ra hỏi lại: 
- Huyền Độ đại sư, phụ thân tôi ở quí bảo sát có bình an không? 
Huyền Độ ngạc nhiên nói: 
- Lệnh tôn qui y tam bảo, thanh tu ở hậu viện chùa Thiếu Lâm, trước khi đi Nam Kinh chúng tôi không gặp lệnh tôn để khỏi làm động lòng trần của người. 
Tiêu Phong nói: 
- Tại hạ quả là muốn gặp gia gia, hỏi ông một câu. 
Huyền Độ ồ lên một tiếng. Tiêu Phong nói: 
- Tại hạ muốn thỉnh vấn lão nhân gia: Nếu như quân Liêu tiến đánh chùa Thiếu Lâm, thì phải xử trí thế nào? 
Huyền Độ đáp: 
- Thì phải hết sức kháng địch, hộ tự vệ pháp, còn gì khác nữa? 
Tiêu Phong nói: 
- Thế nhưng cha tôi là người Khất Đan làm sao có thể bảo ông ta vì người Hán mà giết người Khất Đan cho được? 
Huyền Độ trầm ngâm rồi nói: 
- Thì ra bang chủ quả thực là người Khất Đan. Bỏ chỗ tối ra chỗ sáng, quả là đáng kính đáng phục. 
Tiêu Phong nói: 
- Đại sư là người Hán thì nói Hán là sáng, Khất Đan là tối. Thế nhưng người Khất Đan chúng tôi thì lại bảo Đại Liêu là sáng, Đại Tống là tối. Nghĩ đến tổ tông người Liêu chúng tôi bị người Yết2 tàn sát, bị người Tiên Ti hiếp đáp, chạy đông chạy tây, khổ không kể đâu cho hết. Thời nhà Đại Đường, võ công người Hán các ông cực thịnh, giết không biết bao nhiêu dũng sĩ Khất Đan, bắt bao nhiêu đàn bà con gái Khất Đan. Đến bây giờ người Hán võ công không được như cũ thì người Khất Đan lại quay trở lại tấn công người Hán. Cứ như thế giết qua giết lại không biết đến bao giờ mới thôi? 
Huyền Độ lặng thinh, qua một lúc mới niệm: 
- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! 
Đoàn Dự giục ngựa chạy đến, chỉ nghe được phần sau của câu chuyện giữa hai người bèn ngâm nga: 
Lửa hồng kia chửa tắt, 
Chinh chiến hẳn chưa nguôi. 
Tráng sĩ giờ đây đã thác rồi, 
Ngửng đầu tiếng ngựa hí bi ai. 
Sĩ tốt phơi thây ngọn cỏ, 
Tướng quân trơ trọi một ngươi. 
Kên kên rỉa xác nơi đồng nội, 
Cành khô vất vưởng ruột tanh hôi. 
Than ôi! 
Xưa nay binh lửa là hung khí, 
Thánh nhân chẳng đặng mới dùng thôi.3
Tiêu Phong khen ngợi: 
Xưa nay binh lửa là hung khí, 
Thánh nhân chẳng đặng mới dùng thôi. 
- Hiền đệ, ngươi làm thơ hay thật. 
Đoàn Dự đáp: 
- Không phải thơ đệ làm đâu, đó là của đại thi nhân Lý Bạch đời Đường đó. 
Tiêu Phong nói: 
- Ta ở đây cũng nghe người trong bộ tộc hát một khúc như vầy. 
Nói xong ông cao giọng hát: 
Núi Kỳ Liên đã mất rồi, 
Trâu bò gia súc mệt nhoài kiếm ăn. 
Gò Yên Chi cũng mất tăm, 
Đàn bà con gái hom hem gầy mòn.4
Ông trung khí sung túc, tiếng hát vang vang mãi tận xa nhưng giọng đầy vẻ thê lương. Đoàn Dự gật đầu: 
- Đó là điệu hát của người Hung Nô. Năm xưa Hán Võ Đế chinh phạt Hung Nô, cướp mất một phần lớn đất đai của họ, người Hung Nô khốn khổ đáng thương, chắc hẳn tiếng hát vẫn còn truyền đến tận ngày nay. 

datlucky_way

27-07-2009 12:55 PM

Hồi 50(b) : GIÁO ĐƠN VU CHIẾT TIỄN, LỤC QUÂN TÍCH DỊCH, PHẤN ANH HÙNG NỘ 





Bấm vào đây để xem nội dung.


Tống Liêu thoát khỏi một trường can qua. 
Nhân, tình, nghĩa vẹn cả ba, 
Thân kia dẫu thác danh đà lưu phương. 

* * 
Tiêu Phong đáp: 
- Tổ tiên người Khất Đan chúng ta thời đó cũng khổ chẳng khác gì người Hung Nô. 
Huyền Độ thở dài một tiếng nói: 
- Chỉ khi nào tất cả vua chúa tướng lãnh trong thiên hạ đều sùng tín Phật pháp, giữ lòng từ bi thì lúc đó mới hết được cái thảm cảnh chiến tranh. 
Tiêu Phong đáp: 
- Không biết đến năm nào tháng nào mới có được một thế giới thái bình như thế. 
Cả đoàn người tiếp tục đi về hướng tây, thấy ba phía đông nam bắc chỗ nào cũng lửa đỏ rực, suốt đêm chưa tắt, quân Liêu vẫn đốt phá chém giết đuổi theo. Quần hùng trong dạ ai ai cũng phẫn nộ, luôn mồm chửi rủa, nguyện cùng quân địch một trận tử chiến. Phạm Hoa nói: 
- Quân Liêu càng đuổi càng gần, cuối cùng rồi mình sẽ vào cảnh lui cũng không xong. Theo ý kiến của huynh đệ, chi bằng chúng ta phân tán ra khắp nơi khiến bọn chúng không biết hướng nào mà đuổi. 
Ngô Trường Phong lớn tiếng nói: 
- Thế thì có khác gì chịu thua? Phạm tư mã, ông chớ có làm tăng khí thế địch mà làm giảm uy phong mình, thắng cũng được mà thua cũng được, nhất quyết phải cùng bọn Liêu cẩu kia một mất một còn. 
Còn đang nói chuyện đột nhiên nghe vút một tiếng, một mũi vũ tiễn từ góc đông nam bắn tới, một bang chúng Cái Bang trúng tên ngã xuống, kế đó từ sau núi một đội Liêu binh hò hét xông ra. Toán quân đột kích đó chừng độ năm trăm tên, vượt qua những người đoạn hậu, chạy một mạch theo đường tắt tấn công ngang hông. Ngô Trường Phong gào lên: 
- Giết! 
Y xông lên trước tiên. Quần hùng nén giận đã lâu, ai nấy hết sức chiến đấu, người đã đông hơn lại ai nấy võ nghệ cao cường, vừa la hét vừa chém giết thế như chặt dưa tàn sát quân Liêu, chỉ chừng nửa giờ hơn năm trăm lính Liêu đã bị giết không còn một mống. Độ hơn chục tên trèo núi bỏ trốn nhưng đều bị những hào kiệt khinh công cao cường đuổi theo giết nốt. 
Quần hào đánh thắng một trận, reo hò vang dội, tinh thần phấn chấn. Phạm Hoa len lén thương nghị với Huyền Độ, Hư Trúc, Đoàn Dự: 
- Chúng ta chỉ mới thắng được một đội nhỏ quân Liêu, một trận đánh rồi, đại quân Liêu sẽ đến ngay, mình mau chạy về hướng tây. 
Nói chưa dứt lời đã nghe phía đông có tiếng ầm ầm vọng đến. Quần hào cùng quay sang thấy bụi bay mù mịt như một đám mây đang bốc lên che cả bầu trời. Chỉ trong khoảnh khắc, ai nấy mặt mày bần thần, không nói năng gì nữa, nghe tiếng rầm rầm chẳng khác gì sấm động truyền từ xa, hiển nhiên đại đội binh mã đang kéo tới, không biết bao nhiêu vạn người. 
Quần hào đã từng chứng kiến chém giết nhiều lần nhưng đại quân tiến như thế này thì chưa từng nghe, so với cuộc chiến ngoài thành Nam Kinh quân Liêu đông không biết gấp bao nhiêu lần. Ai nấy tuy đều là những tráng sĩ lớn mật nhưng thấy quân uy chấn động đất trời đều không khỏi khiếp vía, toát mồ hôi lạnh. 
Phạm Hoa kêu lớn: 
- Chúng vị huynh đệ, địch nhân thế lớn, chết chỉ uổng mạng. Núi xanh vẫn còn đó, Không sợ thiếu củi đun. Hôm nay chúng ta tạm nhường chúng rồi tìm cách phản kích sau. 
Quần hào lập tức lên ngựa, chạy về hướng tây nhưng tiếng rầm rầm vẫn đuổi theo không ngớt. Tối hôm đó mọi người không nghỉ ngơi, mỗi lúc thấy một gần Nhạn Môn Quan nên càng ra roi, biết rằng nếu qua được cửa ải rồi, cố găng thủ ngự, quân địch tuy đông nhưng phá được cửa quan cũng không phải dễ. 
Trên đường ngựa liên tiếp ngã lăn ra chết, người thì thi triển khinh công, kẻ thì hai người cưỡi chung một con. Chạy đến khi trời sáng thì chỉ còn cách Nhạn Môn Quan chừng mươi dặm, ai nấy lúc ấy mới yên tâm, xuống ngựa cầm cương chậm rãi đi bộ để cho con vật lấy lại sức. Thế nhưng tiếng rầm rầm của binh mã đuổi theo đằng sau thì vẫn còn, mỗi lúc một thêm vang dội. 
Tiêu Phong từ sơn lãnh trở xuống sườn núi bất chợt thấy một tảng đá lớn không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Năm xưa Huyền Từ phương trượng, Uông bang chủ đã thống lãnh quần hào Trung Nguyên, phục kích cha ta, giết chết mẹ ta cùng không ít võ sĩ Khất Đan cũng là ở chỗ này”. Ông nghiêng đầu nhìn thấy tên vách núi vẫn còn dấu búa bạt chữ đi, chính là nơi Huyền Từ xóa bỏ tự tích của Tiêu Viễn Sơn. 
Tiêu Phong chậm rãi quay đầu lại, thấy bên cạnh thạch bích có một cây hoa, tai còn văng vẳng nghe tiếng A Châu nấp sau cây này nói: 
- Kiều đại gia, ông còn đánh nữa, chắc ngọn núi này cũng sẽ đổ mất thôi. 
Ông ngơ ngẩn, mấy câu nói nhu mì của A Châu vẫn còn vang vang trong đầu: 
- Thiếp... thiếp ở đây chờ đại gia đã năm ngày năm đêm, chỉ sợ ông không đến. Ông... ông quả nhiên đến rồi, nhờ trời phù hộ nên ông vẫn khỏe mạnh bình thường. 
Tiêu Phong nước mắt ròng ròng, đi đến bên cạnh, giơ tay xoa xoa thân cây thấy nay đã cao hơn khi ông gặp lại A Châu nhiều, nhất thời trong lòng thương cảm quên hết cả mọi sự chung quanh. Bỗng nghe có tiếng lảnh lót gọi: 
- Tỉ phu! Mau chạy thôi! Chạy thôi! 
A Tử chạy đến nắm áo Tiêu Phong. Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn thấy ở xa xa đông nam bắc ba mặt trường mâu quân Liêu chĩa lên trời tua tủa như rừng, hiển nhiên đang vây mình lại. Tiêu Phong gật đầu nói: 
- Được, mình lui vào trong Nhạn Môn Quan rồi tính sau. 
Khi đó quần hào đã tụ tập ở trước cửa ải rồi. Tiêu Phong và A Tử cưỡi ngựa song song chạy đến nhưng cửa vẫn đóng chặt. Trên cửa quan một viên quan người Tống đứng trên đầu thành, lớn tiếng nói: 
- Phụng mệnh Trương tướng quân chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan có ra lệnh rằng: Các ngươi nếu là bách tính Trung Nguyên thì được nhập quan nhưng không biết có cấu kết với quân Liêu làm gian tế hay không, thành thử các ngươi vứt binh khí xuống để tra xét từng người. Nếu trên người không có dấu quân khí, Trương tướng quân sẽ khai ân, để cho các ngươi vào trong ải. 
Câu nói vừa dứt, quần hào liền nhao nhao lên. Có người nói: 
- Bọn ta nghìn dặm bôn ba, hết sức chống với quân Liêu, sao lại nghi làm gian tế là thế nào? 
Có người nói: 
- Bọn ta mang theo binh khí là để giúp tướng quân kháng Liêu. Nếu như không có binh khí trong tay thì làm sao đánh với quân Liêu được? 
Gặp người tính tình nóng nảy táo tợn liền chửi ngay: 
- Mẹ ngươi chứ, không mở cho ông vào hả? Tất cả tấn công vào bây giờ. 
Huyền Độ vội vàng ngăn lại, quay sang gã quan quân nói: 
- Phiền các hạ bẩm lại với Trương tướng quân: Chúng tôi đều là bách tính trung nghĩa của Đại Tống. Địch quân chớp mắt sẽ đến ngay, nếu còn tra xét thì sẽ mất thời giờ, khi đó cửa mở ra sẽ rất nguy hiểm. 
Gã quan quân đã nghe có tiếng người chửi rủa, lại thấy quần hào không hiếm những người ăn mặc quái lạ, không giống nhân sĩ Trung Thổ bèn nói: 
- Lão hòa thượng, ông bảo tất cả đều là lương dân Trung Thổ, ta xem nhiều người đâu phải dân Trung Quốc? Được rồi, ta mở cho một mặt lưới, người Đại Tống thì được vào ải, còn không phải dân Đại Tống thì không được vào. 
Quần hào ngơ ngẩn nhìn nhau, ai nấy phẫn nộ. Bộ thuộc của Đoàn Dự là thần dân nước Đại Lý, còn bộ thuộc của Hư Trúc thì có đủ các bộ tộc, Tây Vực có, Tây Hạ có, Thổ Phồn có, Cao Ly có, nếu chỉ người Đại Tống mới được vào thì đại bộ phận của nước Đại Lý và cung Linh Thứu sẽ bị chặn lại. Huyền Độ nói: 
- Tướng quân minh giám: Chúng tôi ở đây có rất nhiều đồng bạn, có kẻ là người Đại Lý, có kẻ là người Tây Hạ, tất cả liên thủ chống lại quân Liêu, đều là anh em cả, chứ đâu có phân biệt ai là người Tống, ai không? 
Lần này Đoàn Dự dẫn bộ thuộc lên phương bắc giữ gìn cực kỳ bí mật, không tiết lộ mình là chủ một nước, để phòng đại thần Tống triều gia hại hay bắt giữ làm con tin, vả lại Đại Lý và Liêu quốc hai bên cách nhau xa thật nhưng cũng không muốn công khai đối địch nên Huyền Độ không đề cập đến việc Đại Lý có một nhân vật cực trọng yếu nơi đây. 
Gãn quan quân kia khinh khỉnh nói: 
- Nhạn Môn Quan là yết hầu của Đại Tống, quan trọng là dường nào? Đại đội binh mã quân Liêu sẽ tới ngay, nếu như ta tùy tiện mở cửa quan, Liêu binh thừa cơ xông vào, cái tội tày trời đó rồi sau này ai chịu cho? 
Ngô Trường Phong không còn nhịn nổi nữa, lớn tiếng quát nạt: 
- Ngươi bớt la lối một câu, mau sớm mở cửa, có phải mọi sự xong xuôi hay không? 
Gã quan quân cáu tiết quát lại: 
- Thằng ăn mày già kia, trước mặt bản quan, ai cho ngươi được mở mồm? 
Y phất tay một cái, trên thành lập tức xuất hiện hơn nghìn cung thủ, cung tên giương sẵn, nhắm thẳng xuống dưới. Gã quan quân lại hét: 
- Mau mau lui ra, các ngươi còn ở đây nói lời xằng bậy mê hoặc lòng người, nhiễu loạn lòng quân thì ta sẽ ra lệnh phát tiễn đó. 
Huyền Độ thở dài một tiếng, không biết phải tính sao. Nhạn Môn Quan hai bên núi cao vút tận mây, cửa ải này có tên là Nhạn Môn, ý nói hồng nhạn khi bay về phương nam, cũng phải theo khe giữa hai ngọn núi mà bay đủ biết địa thế hiểm yếu dường nào. Quần hào tuy không hiếm kẻ khinh công cao cường có thể trèo non vượt lãnh nhưng phần đông không thể nào chạy được ắt sẽ bị quân Liêu giết chết. 
Chỉ thấy quân Liêu đi theo đường núi từ hai mặt đông tây càng lúc càng khép lại dần cùng theo chính diện tiến tới. Thế nhưng ngoài tiếng vó ngựa, tiếng giáp sắt, tiếng gió thổi không nghe một tiếng hò reo nào, quân kỷ quả thực nghiêm minh, đúng là một quân lữ tinh nhuệ. Từng đội quân Liêu xếp thành trận thế ép tới cửa ải, tới khi trong tầm bắn tên rồi liền dừng lại. Nhìn ra ba phía đông tây bắc chỗ nào cũng cờ quạt phất phới, nhân mã không biết là bao nhiêu mà kể. 
Tiêu Phong lớn tiếng nói: 
- Các vị ở đâu tại đó không nên di động, chờ tại hạ phân giải với Liêu đế. 
Ông không đợi Đoàn Dự, A Tử ngăn trở, đã một mình một ngựa chạy lên. Hai tay ông giơ cao khỏi đầu, ý cho biết không có binh khí cung tên, sang sảng cất tiếng: 
- Tiêu Phong có vài lời muốn tâu lên Đại Liêu hoàng đế, xin bệ hạ ra mặt. 
Mấy câu đó ông dùng nội lực truyền ra, thanh âm vang vọng tận xa, mấy vạn quân Liêu ai nấy đều nghe rõ ràng không khỏi biến sắc. Một hồi sau, từ trong quân Liêu tiếng tù và vang dậy, thiên quân vạn mã tựa như sóng bể dạt sang hai bên, tám lá cờ vàng do tám kỵ sĩ từ trong trận cầm chạy ra phần phật tung bay trước gió. Sau tám lá hoàng kỳ là những đội quân cầm trường thương, đao phủ, cung tên, thuẫn bài chia thành hai đội, cuối cùng mới đến mười đại tướng mặc giáp sắt bảo vệ Gia Luật Hồng Cơ tiến ra khỏi trận. 
Quân Liêu liền hô to: 
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! 
Tiếng hô vang dậy chấn động cả sơn cốc. Quân Tống trên ải thấy uy thế Liêu binh không khỏi bàng hoàng. Gia Luật Hồng Cơ tay cầm bảo đao giơ cao, quân Liêu lập tức im bặt, trừ tiếng ngựa hí, không còn một tiếng nào khác. Gia Luật Hồng Cơ hạ bảo đao xuống, cười ha hả nói: 
- Tiêu đại vương, ngươi bảo sẽ dẫn quân Liêu nhập quan, sao cửa ải chưa thấy mở? 
Lời vừa nói ra, trên ải lập tức có người thông dịch lại cho viên quan trấn thủ nghe. Quan quân giữ thành lập tức huyên náo, chỉ mặt Tiêu Phong chửi bới ầm ĩ. Tiêu Phong biết là Gia Luật Hồng Cơ tính dùng kế ly gián, để quân Tống không mở cửa cho bên mình vào, trong lòng chua xót, lập tức nhảy xuống ngựa tiến lên mấy bước nói: 
- Bệ hạ, Tiêu Phong này phụ bạc ân điển thâm hậu khiến cho hoàng thượng phải ngự giá thân chinh, quả là đáng chết. 
Còn đang nói bỗng có hai bóng người lao vụt tới nhanh như ánh chớp, xông thẳng vào Gia Luật Hồng Cơ, chính là Hư Trúc và Đoàn Dự. Hai người thấy tình thế có chiều bất lợi, biết rằng việc ngày hôm nay chỉ còn cách bắt lấy Liêu đế để uy hiếp thì mới mong bảo trì được đại cục, ra dấu cho nhau rồi chia hai bên tiến vào.
Khi Gia Luật Hồng Cơ ra trận đã hờm trước đề phòng Tiêu Phong lại giở lối cũ bắt sống cha con Sở vương năm nào. Chỉ huy sứ đội thân binh liền quát lên một tiếng, hơn ba trăm tên lính cầm khiên lập tức tụ lại xếp thành một bức tường, chắn ngay trước mặt vua Liêu. Lính cầm trường mâu, lính cầm đao phủ cũng đứng xếp hàng khít khao ngay trước mặt đội thuẫn bài. 
Thế nhưng Hư Trúc không phải còn như ngày trước, nay đã được chân truyền của Thiên Sơn Đồng Mỗ, lại từng nghiên cứu tất cả các võ học bí áo trên vách đá Linh Thứu Cung, võ công cao siêu tới mức tùy tâm sở dục. Đoàn Dự thì sau khi hút được trọn vẹn công lực một đời của Cưu Ma Trí, nội lực thâm hậu, cũng vào loại chấn cổ thước kim, thi triển Lăng Ba Vi Bộ thì làm sao quân sĩ nước Liêu ngăn nổi? 
Đoàn Dự chẳng khác gì con chạch lách đông lượn tây, lẻn qua đám lính cầm giáo cầm đao khít khao chỉ cách chưa đầy một thước. Bọn lính cầm mâu đã không đâm trúng được Đoàn Dự lại vì quá gần nên vướng lẫn nhau, người nọ đụng phải người kia. 
Hư Trúc liên tiếp vươn tay, chộp ngực chộp lưng quân Liêu, ném ra bên ngoài, càng lúc càng xông vào gần Gia Luật Hồng Cơ. Hai viên đại tướng giục ngựa xông ra, mũi thương cùng đâm vào ngực Hư Trúc. Hư Trúc đột nhiên nhảy vọt lên, hai chân chia ra đá vào đầu hai mũi giáo. Hai viên tướng Liêu cùng quát lên, rung thương một cái định chấn động cho Hư Trúc rớt xuống. Hư Trúc liền mượn ngay sức bật của ngọn giáo, nhảy vọt lên thêm một lần nữa, từ trên không nhảy bổ xuống đầu Hồng Cơ. 
Một người thì trơn tuột như cá lượn, một người thì vùn vụt như chim bay, cùng tấn công khiến Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vung bảo đao lên chém vào Hư Trúc đang còn ở trên không. Tay trái Hư Trúc lập tức vươn ra, chộp được sống đao, thừa thế đang rơi cuộn lại bắt luôn cổ tay Liêu đế. Ngay lúc đó Đoàn Dự cũng đã vượt qua được rừng người, xông vào nắm được vai Gia Luật Hồng Cơ. Hai người cùng quát: 
- Đi thôi! 
Cả hai cùng đưa tay vật một cái đã lôi được thân thể cao to của y xuống khỏi lưng ngựa, quay đầu chạy ra. Quân Liêu bốn phía thấy hoàng đế bị bắt, kinh hãi la hoảng lên, nhất thời không biết phải làm thế nào. Mấy chục thân binh liều mạng xông lên cứu chúa đều bị Hư Trúc, Đoàn Dự đá văng ra xa. 
Hai người bắt được Liêu đế rồi, trong bụng mừng rỡ đột nhiên thấy Tiêu Phong phi thân ra chặn lại, cùng kêu lên: 
- Đại ca! 
Ngờ đâu Tiêu Phong song chưởng đánh tới, vù vù hai tiếng chia ra tập kích hai bên. Hai người kinh hãi, thấy chưởng lực chẳng khác gì bài sơn đảo hải, đành phải giơ tay lên đỡ, bình bình bốn chưởng đụng nhau. Chưởng phong rung chuyển, Tiêu Phong tiến lên thừa thế nắm ngay Gia Luật Hồng Cơ. 
Khi đó quân Liêu và quần hào Trung Thổ cũng đã từ hai bên ùa tới, một bên định cứu hoàng đế, một bên muốn tiếp ứng cho Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự. 
Tiêu Phong quát lớn: 
- Không ai được động đậy. Ta muốn nói chuyện với hoàng đế Đại Liêu. 
Liêu quân và quần hào lập tức dừng lại, bên nào cũng sợ bên mình bị thương nên chỉ đứng xa xa hò hét không dám xung sát, cũng không ai dám buông tên. Hư Trúc và Đoàn Dự cũng đã lui ra ba bước, chia ra đứng sau lưng Gia Luật Hồng Cơ đề phòng y chạy trở về, đồng thời ngăn trở cao thủ Khất Đan xông lên cứu giá. 
Gia Luật Hồng Cơ mặt cắt không còn giọt máu, nghĩ thầm: “Tiêu Phong này tính tình cực kỳ táo tợn, ta nhốt y vào chuồng sư tử, làm nhục y quá đỗi. Bây giờ rơi vào tay y rồi, chắc hẳn y sẽ báo thù không để cho ta sống sót”. Bỗng nghe Tiêu Phong nói: 
- Bệ hạ, hai người này là anh em kết nghĩa của thần, không làm hại bệ hạ đâu, hoàng thượng cứ yên tâm. 
Gia Luật Hồng Cơ hừ một tiếng quay lại nhìn Hư Trúc, rồi quay sang nhìn Đoàn Dự. Tiêu Phong tiếp: 
- Nhị đệ của thần là Hư Trúc, chủ nhân cung Linh Thứu, còn tam đệ là Đoàn công tử nước Đại Lý, vi thần đã từng tâu lên bệ hạ rồi. 
Gia Luật Hồng Cơ gật đầu: 
- Quả là giỏi thật. 
Tiêu Phong nói: 
- Chúng tôi sẽ thả bệ hạ về trận, chỉ mong bệ hạ ban thưởng cho. 
Gia Luật Hồng Cơ tưởng chừng không tin vào tai mình nữa, nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có chuyện dễ dàng thế nhỉ? A, đúng rồi, Tiêu Phong đã hồi tâm chuyển ý, cầu ta phong cho ba người làm quan”. Y đổi mặt tươi cười nói: 
- Các ngươi cầu khẩn chuyện gì, ta tự nhiên không gì không thuận. 
Y vốn dĩ giọng nói run run nhưng hai câu này đã trở lại vẻ tôn nghiêm của một hoàng đế. Tiêu Phong nói: 
- Bệ hạ đã là tù binh của hai vị huynh đệ, cứ theo qui củ của người Khất Đan chúng ta, bệ hạ phải lấy tài hóa đem ra chuộc. 
Gia Luật Hồng Cơ nhíu mày: 
- Các ngươi muốn gì? 
Tiêu Phong đáp: 
- Vi thần mạo muội thay hai vị huynh đệ mở lời, chỉ xin kim khẩu bệ hạ bằng lòng thôi. 
Hồng Cơ cười ha hả nói: 
- Trên cõi đời này, những gì ta kiếm không ra chắc cũng chẳng nhiều, con mãnh sư kia cứ việc nói ra đi. 
Tiêu Phong đáp: 
- Chỉ xin bệ hạ bằng lòng lập tức thoái binh, trong đời bệ hạ không để một tên quân, một tên lính vượt qua biên giới Liêu Tống. 
Đoàn Dự nghe nói hết sức hả dạ, nghĩ thầm: “Liêu quân không vượt biên giới Tống Liêu thì đâu có thể chắp cánh mà bay sang xâm phạm Đại Lý mình được”. Chàng liền đáp ngay: 
- Đúng thế, chỉ cần hoàng thượng đáp lời là chúng tôi sẽ thả về ngay. 
Lại chợt nghĩ: “Bắt giữ hoàng đế nước Liêu, công lao nhị ca còn nhiều hơn ta, không biết y muốn gì?”. Đoàn Dự liền quay sang hỏi Hư Trúc: 
- Nhị ca muốn hoàng đế Khất Đan chuộc thân bằng gì? 
Hư Trúc lắc đầu nói: 
- Ta cũng chỉ muốn y bằng lòng điều đó thôi. 
Khuôn mặt Gia Luật Hồng Cơ sầm xuống, trầm giọng hỏi: 
- Các ngươi dám lớn mật uy hiếp ta sao? Nếu ta không bằng lòng thì thế nào? 
Tiêu Phong dõng dạc nói: 
- Nếu thế thì thần xin được cùng bệ hạ đồng qui ư tận, ngọc đá đều tan. Hai chúng ta năm xưa kết nghĩa đã từng có lời thề chỉ mong cùng năm, cùng tháng, cùng ngày chết chung với nhau. 
Gia Luật Hồng Cơ chột dạ, nghĩ thầm: “Gã Tiêu Phong này không sợ trời, không sợ đất, là đồ vong mệnh, xưa nay nói một là một, hai là hai. Nếu như ta không chịu ắt thể nào cũng mạo phạm, chết dưới tay tên mãng phu này thì quả là uổng quá”. 
Y bèn cười ha hả lớn tiếng nói: 
- Chỉ một mạng Gia Luật Hồng Cơ này mà đổi lấy mấy chục năm bình an của hai nước Tống Liêu. Hảo huynh đệ, ngươi coi mạng ta quả là đáng trọng. 
Tiêu Phong đáp: 
- Bệ hạ là chúa tể Đại Liêu, khắp thiên hạ còn gì quí trọng hơn được nữa? 
Gia Luật Hồng Cơ lại cười nói: 
- Nếu nói thế, năm xưa người Nữ Chân đòi ta ba mươi xe vàng, ba trăm xe bạc, ba nghìn tuấn mã thế là còn ít, phải không? 
Tiêu Phong chỉ hơi khom lưng, không dám trả lời. Gia Luật Hồng Cơ quay đầu lại thấy tướng sĩ thủ hạ, kẻ gần nhất cũng phải cách mình đến hơn trăm bước, không cách nào có thể cứu mình thoát hiểm, tính toán hơn thiệt, trên đời này có gì quí hơn tính mạng, lập tức từ ống tên rút ra một mũi điêu vũ lang nha tiễn, hai tay bẻ gập lại, cắc một tiếng, gãy ra làm đôi, vứt xuống đất nói: 
- Ta bằng lòng đó! 
Tiêu Phong khom lưng đáp: 
- Đa tạ bệ hạ. 
Gia Luật Hồng Cơ quay người lại, cất bước toan đi thấy Hư Trúc và Đoàn Dự vẫn trừng trừng nhìn mình, không có vẻ gì muốn tránh ra nhường lối, quay lại nhìn Tiêu Phong, thấy ông cũng không nói năng gì, lập tức hiểu ra, biết ba người sợ mình sau này nuốt lời, lập tức rút phắt bảo đao giơ lên cao lớn tiếng nói: 
- Ba quân Đại Liêu nghe đây! 
Trong quân Liêu tiếng trống trận thúc lên rộn rã, vừa hết một hồi, lập tức ngưng lại. Gia Luật Hồng Cơ nói: 
- Đại quân trở lại phương bắc, không tiếp tục nam chinh nữa. 
Y ngừng lại một chút nói tiếp: 
- Trong suốt đời ta sẽ không để một người lính của nước Liêu xâm phạm biên giới Đại Tống. 
Y nói xong hạ đao xuống, tiếng trống trong quân lại nổi lên. Tiêu Phong khom lưng nói: 
- Vi thần cung kính tiễn đưa bệ hạ về trận. 
Hư Trúc và Đoàn Dự tránh sang hai bên, đi vòng ra sau lưng Tiêu Phong. Gia Luật Hồng Cơ vừa mừng vừa sợ, lại thêm hổ thẹn tuy muốn ra khỏi nơi hiểm địa cho mau nhưng không muốn để cho Tiêu Phong và quân Liêu thấy mình kém thế nên cố gắng trấn tĩnh, khoan thai trở về. 
Trong đám quân Liêu có vài mươi thân binh phi ngựa chạy ra nghinh tiếp. Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu bước đi còn chậm rãi nhưng càng lúc càng nhanh, chân lảo đảo dường như không còn hơi sức, tay run lẩy bẩy, mồ hôi trán tươm ra ròng ròng, khi thị vệ xuống ngựa dắt tọa kỵ của y đến thì Gia Luật Hồng Cơ người mềm như bún, chân trái đã đặt vào bàn đạp rồi mà không sao lên yên nổi. Hai tên thị vệ liền đỡ sau lưng, dụng lực nhấc bổng lên, Gia Luật Hồng Cơ mới lên ngựa được. 
Quân Liêu thấy hoàng đế bình yên trở về, cùng cất tiếng reo hò: 
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! 
Khi đó binh lính người Tống trên Nhạn Môn Quan, quần hào ở dưới đã cùng nghe thấy Liêu đế hạ lệnh thoái binh, lại thề suốt đời không đem quân phạm giới, ai nấy hoan hỉ reo hò như sấm động. Mọi người đều biết người Khất Đan tuy hung tàn hiếu sát nhưng lại cực kỳ thủ tín, đã giao ước gì với Đại Tống rồi, rất hiếm khi nuốt lời, huống chi Liêu đế đứng trước trận tiền chính miệng hạ chỉ, ngày sau trở mặt thì dân chúng cùng bách quan trên dưới còn ai coi ông ta ra gì nữa, cái ngôi hoàng đế chưa chắc đã yên. 
Gia Luật Hồng Cơ vẻ mặt uất hận, nghĩ thầm phen này mình bị Tiêu Phong bức bách, đáp lời một chuyện trọng đại như thế mới được yên thân trở về, thật không còn mặt mũi nào nữa, vô cùng tổn thương đến quốc uy nước Đại Liêu. Thế nhưng nghe tiếng hò reo vạn tuế của quân Liêu đầy vẻ chí thành, y đưa mắt nhìn khắp lượt sĩ tốt, thấy ai nấy mặt mày hớn hở, niềm vui lộ hẳn ra mặt. 
Các sĩ tốt nghĩ đến mọi người lập tức ban sư, trở về đoàn viên cùng cha mẹ vợ con, không phải vạn dặm xa xôi chinh chiến, bỏ thân nơi xứ lạ quê người, mừng không sao kể xiết. Người Khất Đan tuy dũng mãnh thiện chiến, nhưng binh hung chiến nguy, ai dám chắc là mình không chết, hôm nay được miễn cái thảm họa này, ngoài một số tướng lãnh muốn chinh chiến để có dịp thăng quan phát tài, người người đều hoan hỉ. 
Gia Luật Hồng Cơ trong dạ bàng hoàng: “Thì ra tướng sĩ của ta cũng chẳng mấy ai muốn tiến đánh Nam triều, nếu như xua binh nam chinh, chưa hẳn chỉ một trận đã toàn thắng”. Y lại chợt nghĩ: “Cái bọn man tử Nữ Chân kia cực kỳ khả ố, để chúng ở sau lưng Khất Đan, thực là mối lo trong gan ruột, ta sẽ phái binh quét sạch chúng đi rồi tính sau”. Y liền giơ bảo đao lên, cao giọng nói: 
- Bắc Viện Đại Vương mau mau truyền lệnh, hậu đội biến thành tiền đội, ban sư Nam Kinh. 
Trong quân tiếng kèn trống vang lừng, ngự chỉ truyền xuống, tiếng hò reo mới đầu ở gần dần dần truyền mỗi lúc một xa. Gia Luật Hồng Cơ quay đầu lại thấy Tiêu Phong vẫn còn đứng sừng sững tại chỗ cũ, cười khẩy một tiếng lớn tiếng nói: 
- Tiêu đại vương, ngươi lập đại công cho Đại Tống như vầy, cao quan hậu lộc kể là nắm chắc trong tay rồi. 
Tiêu Phong nói lớn: 
- Bệ hạ, Tiêu Phong là người Khất Đan, hôm nay uy hiếp bệ hạ, thành đại tội nhân của nước Liêu, còn mặt mũi nào đứng trong trời đất? 
Ông cúi xuống nhặt hai nửa mũi tên gãy, vận nội công vào, hai cánh tay giựt mạnh một cái, nghe phụp một tiếng cắm thẳng vào tim. Gia Luật Hồng Cơ kêu lên một tiếng kinh hoàng, giục ngựa chạy lên mấy bước nhưng lại gò cương dừng vó. Hư Trúc và Đoàn Dự hồn phi phách tán, cùng chồm tới kêu lên: 
- Đại ca! Đại ca! 
Thế nhưng hai nửa mũi lang nha tiễn đã cắm trúng tim, Tiêu Phong đôi mắt nhắm nghiền tắt thở rồi. Hư Trúc vội xé áo ông ra toan cứu chữa nhưng vết thương ở ngay tâm tạng không còn làm gì được nữa. Chỉ thấy trên ngực ông xâm hình một con thanh lang nhe răng, thần tình cực kỳ dữ tợn. Hư Trúc và Đoàn Dự khóc rống lên, phục xuống lạy. 
Người trong Cái Bang cùng xông lên, vây quanh sì sụp, Ngô Trường Phong đấm ngực kêu than: 
- Kiều bang chủ, tuy ông là người Khất Đan nhưng so với bọn người Hán vô dụng chúng tôi còn anh hùng gấp vạn lần. 
Quần hào Trung Nguyên cũng xúm xít, có kẻ hạ giọng nghị luận: 
- Kiều bang chủ quả thực là người Khất Đan sao? Thế sao ông ta lại quay sang tương trợ Đại Tống? Xem ra người Khất Đan cũng có anh hùng hào kiệt. 
- Y từ nhỏ lớn lên với người Hán nên học được cái tính đại nhân đại nghĩa của người Hán. 
- Hai nước bãi binh, ông ta trở thành một đại công thần hòa giải khó khăn, sao lại tự tìm cái chết nhỉ? 
- Y tuy có công với Đại Tống nhưng ở nước Liêu thì thành tên giặc bán nước, phản quốc trợ địch, cho nên sợ tội tự sát. 
- Cái gì mà sợ với chẳng không sợ? Kiều bang chủ anh hùng như thế, trên đời này còn sợ gì nữa? 
Gia Luật Hồng Cơ thấy Tiêu Phong tự tận rồi, trong lòng hết sức hoang mang nghĩ thầm: “Y đối với Đại Liêu ta có công hay có tội? Y hết sức khuyên ta đừng phạt Tống, thế là vì người Tống hay vì người Khất Đan? Y cùng ta kết nghĩa anh em, trước sau đối với ta trung thành son sắt, hôm nay chết trước Nhạn Môn Quan, đâu phải vì tham cái công danh phú quí của Nam triều, thế … thế là thế nào?”. Y gượng nở một nụ cười, lắc đầu, quay ngựa đi thẳng vào đám Liêu binh. 
Tiếng vó ngựa dồn dập trổi lên, hàng nghìn hàng vạn quân Liêu đi về hướng bắc. Tướng sĩ không ngừng quay đầu, ái ngại nhìn thi thể Tiêu Phong nằm dưới đất. Chỉ nghe tiếng quác quác, một đoàn hồng nhạn bay ngang trên đầu đại quân qua Nhạn Môn Quan. 
Hư Trúc, Đoàn Dự tất cả mọi người đứng vây quanh xác Tiêu Phong, người thì khóc nức nở, kẻ ngậm ngùi âm thầm rơi nước mắt. Bỗng nghe tiếng một thiếu nữ lanh lảnh kêu lên: 
- Tránh ra, tránh ra! Tất cả tránh cả ra! Các người làm chết tỉ phu của ta rồi, còn ở đây giả vờ khóc lóc để làm gì? 
Nàng vừa nói vừa hết sức xô mọi người ra chen vào, chính là A Tử. Bọn Hư Trúc chẳng ai muốn tranh cãi với nàng, thấy vậy vội dạt ra. A Tử trừng trừng nhìn vào thi thể Tiêu Phong, ngẩn ngơ một hồi, dịu dàng nói: 
- Tỉ phu ơi, tất cả mọi người đều xấu xa, chẳng nên chấp họ làm gì, chỉ có A Tử là thực bụng yêu thương tỉ phu thôi. 
Nói xong cúi xuống ôm lấy xác Tiêu Phong bồng lên. Tiêu Phong thân thể cao to, nửa trên cô gái kéo lên được nhưng hai chân vẫn lệt xệt dưới đất. A Tử lại tiếp: 
- Tỉ phu bây giờ mới thực là ngoan, thiếp ôm chàng, chàng không đẩy thiếp ra. Phải thế chứ, thế mới là hay chứ. 
Hư Trúc và Đoàn Dự hai người nhìn nhau nghĩ thầm: “Nàng thương tâm quá đỗi, xem ra thần trí thất thường”. Đoàn Dự sụt sùi nói: 
- Tiểu muội, Tiêu đại ca khẳng khái tựu nghĩa, người chết không thể nào sống lại được, em … em … 
Chàng tiến đến toan đỡ lấy xác Tiêu Phong. A Tử sừng sộ gắt lên: 
- Anh đừng đến đây cướp tỉ phu của tôi, anh ấy là của tôi, không ai được đụng đến. 
Đoàn Dự quay đầu nháy mắt với Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh hiểu ý đi đến bên cạnh A Tử, dịu dàng nói: 
- Tiểu muội tử, Tiêu đại ca qua đời, chúng mình bàn chuyện chôn cất anh ấy ra sao… 
A Tử đột nhiên rú lên lanh lảnh khiến Mộc Uyển Thanh giật nảy người vội nhảy ngược trở ra. A Tử thét: 
- Cút ra, cút ra ngay! Ngươi còn đến gần là ta một kiếm đâm chết tươi. 
Mộc Uyển Thanh chau mày nhìn Đoàn Dự lắc đầu. Bỗng từ trong dãy núi bên cạnh cửa ải có tiếng người gọi: 
- A Tử, A Tử, ta nghe thấy tiếng cô rồi, cô nương ở đâu đó? Cô nương ở đâu đó? 
Giọng nói cực kỳ thê thảm, một số đông nhận ra đó là tiếng của Du Thản Chi, người giả tên Trang Tụ Hiền cũng là bang chủ Cái Bang. Mọi người quay qua nhìn về phía có tiếng nói, thấy Du Thản Chi hai tay cầm hai cây gậy trúc, gậy bên trái dò đường, gậy bên phải móc vào vai một hán tử trung niên, từ thung lũng đi lên. Người đàn ông trung niên kia chính là kẻ được chỉ định ở lại giữ Linh Thứu Cung Ô Lão Đại. Chỉ thấy y hình dung tiều tụy, áo quần rách rưới, thần tình ra chiều cam chịu, bọn Hư Trúc thoạt nhìn đã biết ngay Du Thản Chi ép y phải dẫn đi tìm A Tử, trên đường hẳn phải chịu nhiều đắng cay. 
A Tử giận dữ đáp: 
- Ngươi đến đây làm chi? Ta không muốn thấy ngươi, ta không muốn gặp ngươi. 
Du Thản Chi vui mừng nói: 
- A, quả nhiên cô nương ở đây, tôi nghe được tiếng cô nương rồi, sau cùng rồi cũng kiếm được cô nương. 
Gậy bên phải vận kình đẩy một cái, Ô Lão Đại không tự chủ chạy vọt về phía trước. Hai người chạy thật nhanh, chỉ trong khoảnh khắc đã đến trước mặt A Tử. Hư Trúc và Đoàn Dự còn chưa biết tính sao, thấy Du Thản Chi cùng nghĩ thầm người này cam nguyện đem hai mắt tặng cho A Tử, có liên hệ với nàng cực kỳ sâu xa, may ra có thể khuyên giải cô gái, liền lùi lại mấy bước để mặc hai người trò truyện với nhau. Du Thản Chi nói: 
- A Tử cô nương, cô khỏe chứ? Có ai coi rẻ cô nương không? 
Trên khuôn mặt xấu xí hiện lên một nét tươi vui, lại ra chiều quan thiết. A Tử đáp: 
- Nếu có người coi thường ta thì ngươi làm gì được họ? 
Du Thản Chi vội đáp: 
- Kẻ nào dám đắc tội với cô nương? Cô nương mau bảo tôi, tôi sẽ thí mạng với hắn. 
A Tử cười nhạt một tiếng, chỉ vào mọi người đứng chung quanh nói: 
- Tất cả bọn họ ai ai cũng khinh khi ta, ngươi giết sạch họ đi xem nào. 
Du Thản Chi đáp: 
- Vâng! 
Y hỏi Ô Lão Đại: 
- Lão Ô, ai là kẻ đắc tội với cô nương? 
Ô Lão Đại đáp: 
- Đông người lắm, ngươi giết không hết đâu. 
Du Thản Chi đáp: 
- Giết không hết cũng cứ giết, ai bảo họ dám đắc tội với cô nương. 
A Tử bực tức nói: 
- Ta hiện nay ở chung với tỉ phu, vĩnh viễn không bao giờ ngăn cách. Ngươi mau mau cút cho xa, ta không muốn thấy mặt ngươi nữa. 
Du Thản Chi hết sức đau lòng, lắp bắp: 
- Cô … cô nương không còn muốn gặp tôi … 
A Tử cao giọng đáp: 
- À, phải rồi, mắt ta là do ngươi tặng cho. Tỉ phu bảo là ta còn nợ ngươi một mối ân tình, bảo ta phải tử tế với ngươi, ta nghe thế không vui chút nào. 
Nàng nói tới đây đưa tay phải lên đâm luôn vào mắt mình, đã móc được đôi con ngươi, hết sức ném vào Du Thản Chi kêu lên: 
- Trả ngươi đó! Trả ngươi đó! Từ nay về sau, ta chẳng còn nợ nần gì ngươi nữa. Có thế tỉ phu ta mới khỏi ép ta, bảo ta phải đi theo ngươi. 
Du Thản Chi tuy không nhìn thấy gì nhưng nghe tiếng người chung quanh la hoảng, thanh âm đầy vẻ hoảng hốt, biết ngay đã có đột biến, nghẹn ngào nói: 
- A Tử cô nương! A Tử cô nương! 
A Tử ôm xác Tiêu Phong, nhỏ nhẹ nói: 
- Tỉ phu, chúng mình chẳng còn nợ nần ai điều gì. Hồi trước thiếp dùng độc châm bắn chàng, chỉ vì muốn chàng mãi mãi ở cạnh em, hôm nay quả đã được như tâm nguyện. 
Nói xong lệt sệt ôm xác Tiêu Phong bước đi. Quần hào thấy máu từ đôi mắt nàng chảy ròng ròng trên khuôn mặt trắng bệch không khỏi kinh hãi nên đi đến đâu mọi người tránh ra đến đó. Chỉ thấy cô gái đi thẳng về phía sơn cốc ở bên sườn núi. Mọi người ai nấy kêu lên: 
- Dừng lại! Dừng lại! Trước mặt là vực sâu. 
Đoàn Dự phi thân chạy tới kêu lên: 
- Tiểu muội, em … 
Thế nhưng A Tử càng chạy nhanh hơn, đột nhiên chân đạp hẫng vào chỗ không, nhào người xuống vực sâu vạn trượng. Đoàn Dự giơ tay ra nắm lại, soẹt một tiếng chỉ nắm được chút vạt áo, đột nhiên bên cạnh có tiếng gió gấp gáp, ai đó đã bổ nhào tới, vội vàng nghiêng qua thấy Du Thản Chi cũng đã lao theo. Đoàn Dự kêu lên: 
- Ối trời! 
Chàng đưa mắt nhìn xuống chỉ thấy mây mù bao phủ, không biết vực núi sâu tới đâu. Quần hào đứng bên sơn cốc, ai nấy ngậm ngùi thở dài, người võ công hơi kém thấy vách đá đầy những đá tai mèo lởm chởm, nhọn hoắt như dao, không khỏi kinh tâm. 
Những người tuổi cao như Huyền Độ, nhớ lại năm xưa Huyền Từ, Uông bang chủ phục kích võ sĩ Khất Đan ngoài Nhạn Môn Quan, biết mẫu thân Tiêu Phong cũng chết ở ngay cái vực này. 
Bỗng nghe từ trên ải tiếng trống đánh thì thùng, gã quan quân kia lại lớn tiếng nói: 
- Phụng đô chỉ huy sứ trấn thủ Nhạn Môn Quan truyền tướng lệnh: Các ngươi quả không phải là gian tế nước Liêu nên đặc biệt cho nhập quan nhưng phải an phận giữ gìn, không được ồn ào, nhất mực tuân thủ phép nước. 
Quần hào đứng dưới liền nhao nhao chửi rủa: 
- Bọn ta thà chết chứ không đi qua cái cửa ải do tên quan chó má kia trấn giữ. 
- Nếu chẳng vì tên cẩu quan khiếp nhược kia thì Tiêu đại hiệp đâu có đến nỗi phải chết. 
- Tất cả xông vào giết quách tên chó má kia đi! 
Mọi người hung hăng chỉ vào cửa ải, hoa tay dậm chân không tiếc lời. Hư Trúc, Đoàn Dự cúi xuống vực sâu lạy mấy lạy, sau đó vượt qua núi mà đi. 
Gã trấn thủ Nhạn Môn Quan thấy quần hào uy thế dũng mãnh vội đổi lệnh đóng chặt cửa không cho ai vào nữa, đợi cho mọi người chán lời, bỏ đường cái trèo qua núi xuôi nam cả rồi lúc ấy mới yên lòng. Y lập tức viết biểu báo tin thắng trận, cho khoái mã đưa về Biện Lương, nói là đích thân thống lãnh bộ hạ tướng sĩ, huyết chiến mấy ngày với hơn một chục vạn quân Liêu, nhờ hồng phúc tề thiên của hoàng thượng cùng chỉ bảo đúng đắn của đại thần trong triều nên đã xả thân giết được đại tướng nước Liêu là Nam Viện Đại Vương Tiêu Phong cùng mấy nghìn quân địch, Liêu chúa Gia Luật Hồng Cơ phải cụp đuôi chạy dài. 
Tống đế Triệu Hú nhận được biểu hết sức mừng rỡ, truyền chỉ khao thưởng quân sĩ đóng ở chung quanh cửa quan, từ chỉ huy sứ trở xuống ai ai cũng được thăng quan tấn tước. Triệu Hú tự cho mình là anh minh vũ dũng, vượt xa Thái Tổ Thái Tông, ngày đêm cùng triều thần yếm ẩm, hoan lạc với các phi tần ở hậu cung, tiếng ca công tụng đức nghe đầy cả tai, biểu văn khánh chúc đại thắng gửi về nườm nượp. * 
* * 
Đoàn Dự cùng Hư Trúc, Huyền Độ, Ngô trưởng lão và quần hùng chia tay rồi liền cùng Mộc Uyển Thanh, Chung Linh, Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần trở về Đại Lý. Vào đến quốc cảnh, Vương Ngữ Yên và thị vệ võ sĩ Đại Lý đã ra tận biên giới nghênh tiếp, nghe Đoàn Dự kể lại tình trạng Tiêu Phong và A Tử ai nấy đều ngậm ngùi. Cả đoàn về nam, Đoàn Dự không muốn kinh động bách tính nên truyền lệnh không mặc sắc phục bách quan, ra đi thế nào cứ để nguyên như thế mà lên đường. 
Hôm đó về đến kinh thành, Đoàn Dự muốn lên chùa Thiên Long để bái kiến Khô Vinh đại sư và bá phụ Đoàn Chính Minh nhưng trời đã sắp tối mà còn cách chùa đến hơn sáu mươi dặm, đành phải kiếm chỗ nghỉ ngơi. Bỗng nghe trong rừng có tiếng trẻ con reo lên: 
- Bệ hạ! Bệ hạ! Chúng tôi lạy bệ hạ rồi, sao bệ hạ không cho kẹo? 
Mọi người nghe thế ai nấy đều ngạc nhiên: “Sao lại có người nhận ra được hoàng thượng nhỉ?”. Cả bọn tiến vào xem xét, nghe thấy trong rừng có người nói: 
- Các ngươi phải xướng: Nguyện ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế, thế mới có kẹo. 
Tiếng nói đó cực kỳ quen thuộc, chính là Mộ Dung Phục. Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hoang mang, vội nắm lấy tay nhau, nép vào sau gốc cây, nhìn về phía có thanh âm, thấy Mộ Dung Phục ngồi trên một cái gò đất, đầu đội mũ giấy cao nghệu, thần sắc nghiêm trang. 
Bảy tám đứa trẻ con nhà quê quì trước đống đất, lao xao nhắc lại: 
- Nguyện ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế! 
Bọn chúng vừa chúc tụng rầm rĩ vừa lạy như tế sao, có đứa thò tay giục: 
- Cho kẹo đi, cho bánh đi! 
Mộ Dung Phục đáp: 
- Chư khanh bình thân, trẫm đã hưng phục được Đại Yên, lên ngôi đại bảo rồi, mọi người ai cũng được phong thưởng. 
Bên cạnh gò đất một cô gái đứng ủ rũ, chính là A Bích. Nàng mặc một chiếc áo dài màu xanh lợt, khuôn mặt xinh xắn nhuốm vẻ tiều tụy buồn rầu, lấy kẹo bánh từ trong một chiếc giỏ, chia cho đám trẻ con miệng nói:
- Các cháu ngoan lắm, mai ra chơi nữa, lại được kẹo được bánh. 
Giọng nàng nghẹn ngào, mấy giọt nước mắt lã chã rơi trên giỏ tre. Bọn trẻ con vỗ tay reo hò giải tán cùng nói: 
- Mai lại ra nữa! 
Vương Ngữ Yên biết rằng biểu ca thần trí đã thất thường, cái mộng đế vương càng lúc càng sâu, không khỏi bùi ngùi. Đoàn Dự nhìn thấy thần tình A Bích như thế, nỗi thương xót dâng tràn, định lên tiếng gọi nàng và Mộ Dung Phục cùng về Đại Lý để tính đường sắp xếp cho ổn thỏa nhưng thấy cô gái nhìn Mộ Dung Phục hết sức nhu tình, còn Mộ Dung Phục thì mặt mày đầy vẻ đắc ý thỏa mãn, trong bụng bàng hoàng: “Mỗi người có một duyên pháp khác nhau, Mộ Dung huynh và A Bích như thế này, với người khác thì thấy họ đáng thương, có biết đâu trong lòng họ lại hết sức hoan lạc không chừng? Ta việc gì phải lắm chuyện?”. Chàng nhẹ nhàng cầm tay áo Vương Ngữ Yên ra hiệu. 
Mọi người lặng lẽ lui ra. Chỉ thấy Mộ Dung Phục ngồi chễm chệ quay mặt về hướng nam, miệng vẫn lảm nhảm không thôi. 

HẾT 
Bắt đầu dịch 4/2001 
Dịch xong 4/2003 
___________
1 Lang yên: phân chó sói khi đốt khói bốc lên cao, ngày xưa dùng để làm tín hiệu báo động 
2 một giống Hung Nô
3 Phong hỏa nhiên bất tức, 
Chinh chiến vô dĩ thời. 
Dã chiến cách đấu tử, 
Bại mã hiệu minh hướng thiên bi. Điểu diên trác nhân trường, 
Xung phi thượng quải khô chi thụ. 
Sĩ tốt đồ thảo mãng, 
Tướng quân không nhĩ vi. 
Nãi tri binh giả thị hung khí, 
Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi. 
4 Vong ngã Kỳ Liên sơn, 
Sử ngã lục súc bất phiên tức. 
Vong ngã Yên Chi sơn, 
Sử ngã phụ nữ vô nhan sắc. 







Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro