Thien long bat bo hoi 21-30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hoi 21 Rõ ràng người đó chẳng là Chung Linh?

Các vị giang hồ hào kiệt nhất nhất cùng Bảo Định Đế làm lễ tương kiến: Mã

Ngũ Đức và Tả Tử Mục tỏ ra rất mực khiêm cung, đặc biệt là Liễu Cung Hư

Tần Nguyên Tôn vẫn giữ thái độ kiêu kỳ. Bọn Kim Đại Bằng, Sử An thi lễ

theo tư cách hàng hậu bối, không dám bác bậc mà cũng không quá khúm

núm.

Sau cuộc lễ tương kiến Chung Vạn Cừu lên tiếng:

- Đoàn huynh chưa dễ mấy khi hạ cố, xin lưu lại đây mấy hôm cũng là một

dịp may cho anh em được học hỏi thêm.

Bảo Định Đế đáp:

- Xá điệt là Đoàn Dự, vì xúc phạm tới Chung động chúa, đã bị lưu lại quý

xứ nên hôm nay tại hạ thân hành đến đây một là để tỏ tình thân, hai là để

xin lỗi, dám mong Chung động chúa nể mặt tại hạ mà thứ tội cho đứa con

nít ngây ngô, dại dột, tại hạ xiết bao cảm kích.

Quần hùng nghe nhà Vua nói, ai cũng kính phục khen thầm:

- Lâu nay thường nghe Đoàn hoàng đế nước Đại Lý, bao giờ cũng theo

đúng quy luật võ lâm tiếp đãi đồng đạo, quả nhiên danh bất h truyền. Chỗ

này thuộc phạm vi giang sơn của mình, nhà Vua chỉ cần phái mấy trăm binh

mã đến bắt người về là được thế mà người lại thân hành tới nơi, dùng lời lẽ

ôn tồn, năn nỉ cầu xin.

Chung Vạn Cừu cời khanh khách chưa kịp trả lời thì Hắc Bạch kiếm Sử An

đã cướp lời:

- Thế ra công tử Đoàn Dự đắc tội với Chung động chúa.

Tại hạ đối với Đoàn công tử có mang ơn cứu mạng, cũng xin động chúa gia

ơn cho!

Nam Hải Ngạc Thần bỗng lớn tiếng quát:

- Đây là việc của đồ đệ ta, ai khiến mi nói chõ vào?

Cao Thăng Thái cười lạt nói:

- Đoàn công tử là sư phụ ngươi chứ? ngươi đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi kia

mà? Chẳng lẽ bây giờ ngươi lại ăn lời?

Nam Hải Ngạc Thần thẹn đỏ mặt tía tai mắng lại:

- Mẹ nó! Lão gia không thèm nuốt lời đâu. Hôm nay lão gia muốn giết

quách gã sư phụ hữu danh vô thực đó đi. Lão đây phải thờ một gã tiểu tử

làm thầy, thẹn chết đi được.

Mọi người không hiểu đầu đuôi, đều phải sửng sốt. Thư Bạch Phụng nói:

- Chung động chúa! Tha hay không các hạ nói cho dứt khoát.

Chung Vạn Cừu cười đáp:

- Tha, tha chứ! tôi giữ lệnh lang ở đây làm chi?

Vân Trung Hạc tự nhiên nói xen vào:

- Đoàn công tử là một trang thiếu niên anh tuấn, Chung phu nhân lại là bậc

tuyệt sắc giai nhân nếu lưu Đoàn công tử ở đây phỏng có khác chi rước voi

dày mả tổ, nuôi ong tay áo. Chung động chúa dĩ nhiên phải tha công tử rồi,

chả dám giữ đâu.

Mọi người nghe gã đều phải ngạc nhiên. Ai cũng nghĩ bụng: "thằng cha

cùng hung cực ác này ăn nói càn dở, chẳng kiêng nể gì, thậm chí đến Chung

Vạn Cừu mà gã cũng chẳng coi vào đâu. Không trách gã tự xưng là cùng

hung cực ác thật đúng lắm".

Chung Vạn Cừu căm giận quay lại bảo Vân Trung Hạc:

- Vân huynh! Sau khi đã giải quyết xong vụ này tại hạ sẽ xin lãnh giáo mấy

hiệp.

Vân Trung Hạc đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta vẫn có ý định giết anh chồng để chiếm cô vợ, mưu

đoạt gia tài, chiếm luôn nhà ở.

Mọi người cả kinh thất sắc. Nhất phi xung thiên Kim Đại Bằng lên tiếng:

- Anh hùng hảo hán trong chốn giang hồ chưa chết hết đâu. Các ngươi bản

lãnh cao cường đến mấy chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi đạo trời

chí công được đâu.

Diệp Nhị Nương bật lên tiếng cười the thé phản đối:

- Kim tướng công! Nhị Nương này chưa hề xúc phạm gì tới ngươi, sao

ngươi vơ đũa cả nắm?

Nghe giọng nói thôi miên trấn áp cả tâm hồn Kim Đại Bằng không khỏi

rùng mình. Tả Tử Mục sực nhớ chuyện mụ cướp con mình bữa trước, trong

bụng hãy còn nơm nớp lo âu, đa mắt nhìn trộm mụ một cái. Diệp Nhị

Nương cười sằng sặc hỏi:

- Tả chưởng môn! Mấy bữa nay chắc lệnh lang lớn lên và mập mạp trắng

trẻo lắm đấy nhỉ?

Tả Tử Mục bất đắc dĩ hàm hồ khẽ đáp:

- Bữa trước cháu bị cảm mạo phong hàn, tới nay vẫn chưa khỏi.

Diệp Nhị Nương nói tiếp:

- A! Đó đều là lỗi tại tôi. Lúc quay về tôi sẽ qua thăm thằng cháu Sơn Sơn

rất ngoan ngoãn.

Tả Tử Mục thất kinh, vội gạt đi:

- Không dám phiền đại giá giáng lâm lần nữa.

Bảo Định Đế thấy rõ tình hình, nghĩ thầm: "thế này thì ra bon tứ ác hoành

hành quá tệ, kết oán đã nhiều. Đợi khi cứu Đoàn Dự ra rồi ta phải tìm cơ

hội tiêu diệt bọn chúng để trừ mối đại hại. Đứng đầu bọn tứ ác là thái tử

Diên Khánh, tay cùng người họ Đoàn ta không tiện hạ thủ nhưng nếu xét ra

quả tội ác đầy rẫy thì cũng không thể dung thứ được.

Thư Bạch Phụng thấy mỗi người một điều, toàn chuyện đâu đâu, liền trở lại

vấn đề. Bà đứng phắt lên nói:

- Chung động chúa đã nhận lời tha thằng nhỏ. Vậy xin cho gọi nó ra để mẹ

con ta được gặp nhau.

Chung Vạn Cừu cũng đứng lên đáp:

- Được rồi.

Rồi đột nhiên quay lại hầm hầm, trừng mắt nhìn Đoàn Chính Thuần và than

rằng:

- Đoàn Chính Thuần! Mi đã có vợ đẹp con khôn như thế mà lòng tham vẫn

chưa đủ ? Hôm nay mi mang tiếng ô nhục với thiên hạ, đó là mình làm

mình chịu, đừng oán trách gì Chung Vạn Cừu này nữa.

Đoàn Chính Thuần ngay từ lúc đầu nghe Chung Vạn Cừu hứa trả con trai đã

nghĩ ngay: câu chuyện đâu có thể dễ dàng như thế được? Tất nhiên đối

phương còn có âm mưu, quỷ kế gì đây. Bây giờ nghe hắn nói vậy càng thêm

chột dạ, vội đứng phắt dậy, bước tới trước mặt Chung Vạn Cừu bảo:

- Chung động chúa! Nếu ngươi còn cố ý hại người thì Đoàn mỗ sẽ có

phương pháp đối phó khiến ngươi cũng phải hối hận suốt đời.

Chung Vạn Cừu thấy Vương gia tướng mạo đường đường, phong độ thanh

cao đài các, mình thực chẳng bén gót chân. Phần thì thẹn vì mình xấu xa,

phần thì ghen tức, lửa giận bốc lên đùng đùng, lớn tiếng quát:

- Đã đến nước này Chung mỗ có bị nhà tan người chết, thây phân muôn

đoạn cũng quyết theo đuổi ăn thua với mi cho đến cùng. Mi muốn lấy lại

con, được lắm, hãy đi theo vào đây.

Nói xong hùng hổ rảo bước ra ngoài sảnh đường. Đoàn người đi theo Chung

Vạn Cừu đến trước bức tường cây. Vân Trung Hạc muốn phô tài khinh

công, liền nhảy vọt sang qua bên kia trước tiên. Đoàn Chính Thuần nghĩ

bụng: "Việc này không thể giải quyết êm đẹp được rồi, chi bằng mình ra oai

trước để đối phơng biết chừng mà nhượng bộ" bèn hạ lệnh:

- Đốc Thành! Ngươi chặt mấy gốc cây này để mở lối cho mọi người đi!

Thái Tân Khách Tiêu Đốc Thành đáp:

- Xin vâng!

Đoạn giơ búa thép lên chặt ngang từng gốc cây chẳng khác gì dao bén thái

đậu phụ. Điểm Thương Nông Đổng Tư Quy phóng chưởng lực ra đánh bật

những cây đã ngã xuống hất ngược lên dựa vào rặng cây hai bên, để lộ ra

một lối nhỏ. Cây cương phủ loá lên một vài nhát nữa, thế là 5 gốc cây bị

chặt phăng trong nháy mắt và mở thành một lối đi rộng rãi. Chung Vạn Cừu

trồng bón được thành một bức tường đã tốn bao nhiêu tâm huyết chứ đâu

phải chuyện dễ dàng? bây giờ bỗng bị Tiêu Đốc Thành vung 5 nhát búa

chém mất 5 cây lớn thì tức giận vô cùng nhưng hắn lại nghĩ rằng: "họ Đoàn

nước Đại Lý phen này bị nhục nhã ê chề, cái việc phá hoại nhỏ mọn này có

thấm vào đâu?". Nghĩ vậy liền theo lối trống đi vào. Vừa đi khỏi bức tường

cây thấy Huỳnh Mi hoà thượng và Thanh bào khách mỗi người tay trái đang

cầm một đầu gậy trúc, trên đầu bật lên một luồng hơi trắng thì ra hai người

đang đấu nội lực. Thốt nhiên Huỳnh Mi đưa ngón tay bên phải ra xoáy

mạnh vào tảng đá xanh trước mặt, lõm xuống một lỗ nhỏ. Thanh bào khách

suy tính một chút, rồi tay phải cầm gậy trúc thứ hai vạch một vòng tròn lên

tảng đá đó. Bảo Định Đế chú ý nhìn biết ngay là Huỳnh Mi sư huyng đang

cùng thái tử Diên Khánh vừa đánh cờ vừa đấu nội công. Thế là vừa đấu trí

vừa đấu lực. Cuộc đấu đặc biệt lạ lùng này thật nguy hiểm khôn lường.

Thảo nào một ngày một đêm rồi mà sư huynh chưa thấy hồi âm. Té ra hai

người vẫn tiếp tục đấu chọi từ bấy đến giờ mà vẫn chưa thắng bại. Bảo Định

Đế đưa mắt nhìn vào bàn cờ, thấy hai người đang tranh đấu đến độ một còn

một mất, dường như cuộc thắng bại có quan hệ đến kiếp vận con người. Bên

Huỳnh Mi hoà thượng bị kém thế rõ ràng, đang chật vật gỡ cho thoát chết.

Bảo Định Đế lại quay nhìn về phía nhà đá thì thấy sáu tên đồ đệ của Huỳnh

Mi hoà thượng đương ngồi xếp bằng ở trước cửa, người nào nét mặt cũng

xám ngắt, hình như thần khí bị đoạn tuyệt gần chết đến nơi rồi. Đế thất kinh

trong bụng nghĩ thầm: "Có lẽ sáu người này đến giao đấu với thái tử Diên

Khánh trước nên đều bị trọng thương rồi chăng?". Bảo Định Đế liền chạy

vội tới, đặt tay nghe huyệt mạch môn Phá Tham hoà thượng thì thấy mạch

chạy nhát gừng, yếu quá, lúc có lúc không, xem chừng nguy đến nơi rồi.

Tức thời nhà Vua móc trong bọc ra một bình nhỏ bằng bạch ngọc, đổ lấy

sáu viên thuốc đỏ tươi như máu bỏ vào mồm 6 vị hoà thượng mỗi người một

viên. Đó là sáu viên hổ phách hoàn, thuốc chữa người bị thương rất hay và

kiêm cả công hiệu bồi bổ nguyên thần. Có biết đâu sáu hoà thượng này

không phải bị thương, mà bị hấp lực Chu cáp thần công hút hết mất chân

khí trong người. Bệnh một đằng, thuốc chữa một nẻo nên chẳng ăn thua gì.

Đoàn Chính Thuần hô bọn Thiên Lý:

- Bốn ngươi lại đẩy khối đá này đi để mở cho Đoàn Dự ra.

Bốn người vâng lệnh, nhất tề tiến lại, Chung Vạn Cừu thét:

- Hãy thong thả! Quý vị có biết trong nhà đá này còn có ai nữa không?

Đoàn Chính Thuần và bọn Lăng Thiên Lý đều không ai biết Mộc Uyển

Thanh đã bị thái tử Diên Khánh bắt về, đem giam cùng một chỗ với Đoàn

Dự và cũng không biết hai người đã uống phải Âm dơưng hoà hợp tán, một

thứ độc dược có tính chất mãnh liệt. Vì thế Chung Vạn Cừu mới cho cả

người ngoài vào, chủ ý để mọi người mục kích một tấn kịch nhơ nhuốc của

họ Đoàn là Đoàn Dự đã loạn dâm với em gái.

Nghe Chung Vạn Cừu hỏi, Đoàn Chính Thuần bất giác trống ngực đánh

thình thình, lo cho số phận con mình đang bị chặt tay chân hay bị khoét mắt

rồi cũng nên. Ông nói:

- Chung động chúa! Nếu động chúa làm cho con tôi thân thể tàn tật thì động

chúa cũng nên nhớ rằng người cũng có vợ con đấy.

Chung Vạn Cừu cười lạt mỉa mai:

- Hừ, ngươi nói đúng đó, Chung Vạn Cừu này cũng có vợ có con thật,

nhng nhờ trời không đến nỗi trai gái loạn luân như loài muông thú.

Đoàn Chính Thuần giận tái mặt quát hỏi:

- Mi nói lăng nhăng gì thế?

Chung Vạn Cừu hỏi lại:

- Hương dược xoa Mộc Uyển Thanh có phải là con ngoại tình của mi

không?

Đoàn Chính Thuần giận mắng:

- Thân thế Mộc Uyển Thanh có can dự gì đến mi? Sao mi lại cứ hay can

thiệp vào chuyện không đâu?

Chung Vạn Cừu cười ha hả nói:

- Việc đó chưa chắc đã là chuyện không đâu. Họ Đoàn nước Đại Lý trị vì

trời nam, làm chúa tể một phương, thanh dang vang dội khắp giang hồ.

Nhưng hôm nay các vị anh hùng hảo hán sẽ mở to mắt ra coi một tấn bi hài

kịch: con trai và con gái Đoàn Chính Thuần phượng đảo, loan điên kết

thành vợ chồng.

Nghe Chung Vạn Cừu nói Đoàn Chính Thuần trong lòng nghi hoặc: chẳng

lẽ Mộc Uyển Thanh cũng ở trong nhà đá này? Chẳng lẽ hai anh em nó lại...

nhưng khi đem những lời hắn nói từ trước tới sau, suy đi nghĩ lại thì thấy rõ

ràng không còn nghi ngờ gì nữa. Ông lạnh toát cả người như rơi vào hồ

băng tuyết, lòng ông tê tái, miệng lẩm bẩm: "mưu kế quá thâm độc, mưu kế

quá thâm độc".

Chung Vạn Cừu quay về phía Nam Hải Ngạc Thần giơ tay làm hiệu rồi hai

người vung tay dùng chưởng lực để đánh tảng đá ở cửa nhà thạch thất. Đoàn

Chính Thuần định cản lại nói:

- Khoan đã!

Nhưng Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc hai người hai bên cùng đánh ra

một chưởng. Đoàn Chính Thuần đưa hai tay ngăn chặn chưởng lực của Diệp

Nhị Nương còn Cao Thăng Thái thì nghiêng người bước xéo lên để cản

chưởng lực của Vân Trung Hạc. Không ngờ hai chưởng lực của Diệp Nhị

Nương và Vân Trung Hạc chỉ là đòn đánh dứ. Trong lúc vung tay phải lên

thì tay trái đã đánh ngoặt lại, đều nhằm vào chỗ tảng đá. Tảng đá này tuy

nặng tới mấy ngàn cân nhưng bị bốn chưởng lực đánh vào một lúc, tức thời

lăn hẳn sang bên phải. Kể ra Vân Trung Hạc cùng Chung Vạn Cừu không

ưa gì nhau nhưng trong vụ này họ đã có bàn định với nhau từ trước. Chúng

dàn cảnh hư hư thực thực, Đoàn Chính Thuần biết đâu mà ngăn chặn được?

Thực ra Đoàn Chính Thuần cũng nóng lòng, mong sớm được nhìn mặt con

nên cũng không cố tâm ngăn cản lắm. Khối đá vừa lăn ra, mở một lối đi tối

om, nhìn vào không rõ cảnh tượng bên trong.

Chung Vạn Cừu vừa cười vừa nói:

- Trai trơ, gái trọi, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn nhà tối thế thì họ

còn làm cái trò gì hay ho nữa chứ?

Vừa nói dứt lời, bỗng thấy một thanh niên đầu bù tóc rối, mình trần trùng

trục xồng xộc chạy ra. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, tay ôm ngang một

thiếu nữ, đang mê mẩn như là người say rượu. Bảo Định Đế thẹn quá mặt

đỏ bừng. Đoàn Chính Thuần cũng cúi gầm mặt xuống, không dám ngửng

lên, Thư Bạch Phụng thì hai mắt đẫm lệ, miệng lẩm bẩm: "oan nghiệt, oan

nghiệt".

Hắc bạch kiếm Sử An vì nhớ ơn cứu mạng của Đoàn Dự bây giờ thấy chàng

bị biêu riếu trước công chúng, trong lòng không nỡ, nhảy thoắt lại, đứng

chắn trước mặt chàng.

Nam Hải Ngạc Thần quát lớn:

- Quân đê tiện này, đứng tránh ra!

Chung Vạn Cừu cười ha hả, đang dương dương đắc ý, thốt nhiên ngừng bặt,

nét mặt sa sầm, tiếng cười biến thành tiếng la bi thảm:

- Linh! Linh! Mi đấy hử?

Mọi người thấy vậy giật mình, ai cũng giương mắt nhìn theo thì thấy Chung

Vạn Cừu chạy tới trước mặt Đoàn Dự thò tay giật lấy thiếu nữ mà chàng

đang ẵm ngang trước bụng. Nhìn rõ cô bé diện mạo còn nhỏ tuổi hơn Mộc

Uyển Thanh mà vóc người cũng nhỏ thon hơn, nét mặt vẫn còn thơ ngây

măng sữa. Cô bé này đâu phải Mộc Uyển Thanh, chính là Chung Linh, con

gái Chung Vạn Cừu.

Vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ, Chung Vạn Cừu đưa tay ẵm con nhưng vừa

chạm vào cánh tay Chung Linh thì bỗng toàn thân giật nảy lên một cái, rồi

chân khí trong người cuồn cuộn như muốn thoát ra.

Đoàn Dự thần trí vẫn chưa được tỉnh táo hẳn, trong lúc mơ màng thấy nhiều

người đứng xúm quanh trước mặt, chàng nhìn thấy có cả song thân và bá

phụ, vội buông Chung Linh ra ú ớ gọi:

- Má má, gia gia, bá phụ.

Đoàn Dự buông Chung Linh ra, chân khí trong người Chung Vạn Cừu mới

khỏi bị hấp lực Chu cáp thần công hút ra nữa. Vì bị giam hãm lâu trong nhà

tối, bây giờ bị ánh dương quang rọi vào, Đoàn Dự chói mắt không mở ra

được. Song chàng thấy tinh thần sung mãn, chân tay mình nhẹ nhàng như

muốn bay bổng khỏi mặt đất.

Thư Bạch Phụng chạy đến ôm Đoàn Dự vào lòng, ân cần hỏi:

- Dự con! Con... con làm sao đấy?

Đoàn Dự đáp:

- Con... con cũng không biết nữa. Hiện giờ con... ở chỗ nào đây?

Chung Vạn Cừu không ngờ muốn làm hại người mà thành ra hại mình. Hắn

ngẩn người ra một lúc rồi buông con gái xuống.

Chung Linh thấy mình mặc phong phanh có mỗi bộ quần áo lót, thẹn quá

mặt đỏ bừng. Chung Vạn Cừu cởi áo dài ra khoác vào cho nàng rồi đánh

theo luôn một chưởng, làm cho cô bé sưng húp một bên má. Hắn mắng con:

- Quân mặt dầy! Ai bảo mày theo thằng súc sinh đi ở với nhau một chỗ?

Chung Linh bị mắng oan nhưng không biết biện bạch sao được nàng chỉ nức

nở khóc. Chung Vạn Cừu chợt lại nghĩ ra một điều: tảng đá lớn như thế Mộc

Uyển Thanh chắc không thể nào đẩy mà ra được, nhất định nàng hãy còn ở

trong nhà đá, vậy hãy gọi nàng ra để cùng chia bớt một phần ô nhục với

Chung Linh.

Hắn gọi luôn ba tiếng mà tuyệt nhiên không thấy ai thưa. Chung Vạn Cừu

tiến thẳng vào trong nhà. Căn nhà này chả rộng là mấy, không quá một

trượng vuông, thoáng đưa mắt đã nhìn khắp lượt mà tuyệt nhiên không thấy

một bóng người nào. Chung Vạn Cừu tức vỡ ngực, nhảy thót ra, lại đánh

con gái thêm một chưởng nữa và quát mắng:

- Ta phải đánh chết con bé thối tha này.

Giữa lúc đó, thốt nhiên Chung Vạn Cừu thấy một bàn tay thò ra, rồi một

ngón vô danh và một ngón út đương nhằm điểm vào cổ tay hắn. Chung Vạn

Cừu vội rụt tay lại để tránh, nhìn ra thì người định điểm lén hắn chính là

Đoàn Chính Thuần. Hắn căm giận quát hỏi:

- Ta dạy đứa con gái mất nết của ta có can dự gì đến mi?

Đoàn Chính Thuần cười khì khì đáp:

- Chung động chúa! Động chúa thực đã ưu đãi thằng nhỏ nhà tôi, sợ nó ở

một mình tĩnh mịch, đã để lệnh ái là một vị thiên kim tiểu thư ở chung cho

có bạn. Tại hạ rất cảm kích. Bây giờ cơ sự đã đến thế này, lệnh ái đã thành

người nhà họ Đoàn rồi, tại hạ không thể không can thiệp được.

Chung Vạn Cừu quát hỏi:

- Làm sao lại bảo con gái ta là người họ Đoàn nhà mi được?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Lệnh ái ở trong nhà đá này cùng thằng Dự bầu bạn mấy ngày mấy đêm.

Trai trơ, gái trọi lại thân thể loã lồ, tất chúng đã thành hảo sự với nhau rồi.

Con tôi là thái tử của Trấn Nam Vương, tuy đã đính hôn cùng tiểu thư con

Thiện xiển hầu Cao hiền đệ, song làm trai năm thê, bảy thiếp vẫn được chứ

sao? Thế thì động chúa với tôi là chỗ thông gia với nhau rồi còn gì?

Nói xong lại tiếp một chuỗi cười ha hả. Chung Vạn Cừu giận muốn phát

điên, không nhịn được nữa, nhảy xổ vào đá "vu vu vu" luôn ba cước. Đoàn

Chính Thuần vẫn cười ngặt nghẽo, mà đối phương đánh cước nào ông cũng

tránh né dễ như chơi.

Các tay hào kiệt đều tự nghĩ: "Thế lực họ Đoàn nước Đại Lý quả là không

thể khinh thường được. Không hiểu họ dùng cách nào mà bắt được con gái

Chung Vạn Cừu nhốt vào nhà đá để đánh tráo đem Mộc Uyển Thanh đi.

Nguyên do vụ này là tự tay bọn Hoa Hách Cấn mà ra. Bản ý của họ lúc mới

bắt Chung Linh đem vào địa đạo chẳng qua là giữ cô bé khỏi tiết lộ sự bí

mật về công việc của họ mà thôi. Nhưng sau khi nghe thấy câu chuyện đối

thoại giữa hai vợ chồng Chung Vạn Cừu mới biết rõ hắn cùng thái tử Diên

Khánh xếp đặt một quỷ kế rất hiểm độc, cố ý làm bại hoại thanh danh nhà

họ Đoàn. Bọn Hoa Hách Cấn cùng nhau thương nghị, đều thấy rằng việc

này quan hệ rất lớn, lại là việc rất khẩn cấp. Chờ cho Chung phu nhân đã đi

khỏi, Ba Thiên Thạch từ trong đường hầm chui lên ra ngoài, dùng khinh

công tuyệt đỉnh điều tra đích xác vị trí ngôi nhà đá và còn cách xa bao nhiêu

rồi quay lại báo cho Hoa Hách Cấn biết rõ để ấn định lại lộ tuyến của đường

hầm. Ba ngời lại hì hục đào mải miết thêm một đêm nữa, đến sáng hôm

sau thì vừa tới đích. Hoa Hách Cấn khoét một lỗ từ dưới nhà đá chui lên,

thấy Đoàn Dự đang nắm chặt bàn tay của một người đứng bên ngoài nhà đá

thò vào. Hoa rất đỗi ngạc nhiên, không biết là bàn tay Phá Sản hoà thượng

mà cho là bàn tay thái tử Diên Khánh nên không dám lớn tiếng hỏi Đoàn

Dự mà chỉ khẽ đập nhẹ trên bàn tay trái chàng. Không ngờ ngón tay vừa

chạm vào mu bàn tay Đoàn Dự Hoa Hách Cấn thấy toàn thân run bắn lên

một cái, chẳng khác chi chạm phải một khối than hồng. Hoa nhìn lại Đoàn

Dự thì thấy mắt chàng dường như phun ra lửa không khỏi chột dạ. Trong

lúc vội vàng Hoa dùng sức kéo mạnh, mong lôi được chàng xuống đường

hầm để trốn thoát cho mau. Nào ngờ lúc vừa nắm chặt bàn tay Đoàn Dự,

Hoa Hách Cấn cảm thấy chân khí trong người cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài,

không thể nhịn được hoảng hốt la: "ối chao! ối chao!". Ba Thiên Thạch và

Phạm Hoa đều là người thính tai mẫn tiệp, từ đường hầm nhảy lên ngay,

hợp lực lôi Hoa Hách Cấn ra bấy giờ mới thoát khỏi sức hút của Chu cáp

thần công. nội lực của ba người so với Phá Sản hòa thượng cao hơn một bậc,

hơn nữa lại đều là tay cơ trí, ứng biến mau lẹ mà cũng sợ toát cả mồ hôi.

Trong bụng đều cho là tà phép của thái tử Diên Khánh cực kỳ lợi hại. Rồi

không ai dám đụng vào mình Đoàn Dự nữa vì sợ Diên Khánh dùng ta thuật,

chuyền qua cánh tay Đoàn Dự mà hút lấy chân khí của họ. Giữa lúc đó

bỗng thấy phía ngoài nhà có tiếng xôn xao, lại nghe rõ cả Bảo Định Đế và

Trấn Nam Vương cũng đã tới nơi. Chung Vạn Cừu thì đang huênh hoang

diễu cợt. Phạm Hoa một tay hoạt kê có biệt tài, lại lắm mưu nhiều trí,

thoáng nảy ra một ý nghĩ kỳ khôi: "Thằng cha Chung Vạn Cừu này thật là

khả ố, âu là ta chơi khăm cho hắn bị một vố ê chề để làm trò cười chơi".

Nghĩ vậy Phạm Hoa vội cởi áo ngoài của Chung Linh ra, mặc cho Mộc

Uyển Thanh. Đoạn ra hiệu cho bạn đưa Mộc Uyển Thanh xuống đường

hầm, dắt Chung Linh vào chỗ Mộc Uyển Thanh. Xong xuôi lấy phiến đá

đậy cửa hầm lại, không còn để một dấu vết gì khả nghi nữa.

Đoàn Dự tuy hút được chân khí của sáu vị hoà thợng nhưng không biết quy

nạp vào huyệt đan điền để mà vận dụng nên chỉ thấy sáu luồng chân khí

chạy nhộn trong mình làm cho lục phủ ngũ tạng nôn nao, rất là khó chịu,

người cũng lảo đảo đi đứng không vững. Bảo Định Đế thấy thế, cho là Đoàn

Dự đã trúng phải kịch độc, liền đưa ngón tay điểm dứ vào ba huyệt: "nhân

trung", "thái dương", "linh đài" cho chàng. Sáu luồng chân khí không xông

vào óc được nữa, Đoàn Dự tuy trong người vẫn còn bứt rứt khó chịu, nhưng

đầu óc đã thanh sảng liền thưa với Bảo Định Đế:

- Bá phụ! Cháu bị trúng độc Âm dương hoà hợp tán.

Bảo Định Đế thấy tính mạng Đoàn Dự không có gì đáng lo ngại nữa đã hơi

yên lòng. Nhưng lại nghĩ tới cuộc đấu cờ thí mạng giữa Huỳnh Mi hòa

thượng và thái tử Diên Khánh đã tới giai đoạn ngàn cân treo sợi tóc. Bất

luận là đấu cờ hay đấu nội lực cả hai mặt đều nguy hiểm, chỉ sai một tý nữa

là nguy đến tính mạng nên Bảo Định Đế tạm ngưng việc giải độc cho Đoàn

Dự, chạy vội đến chỗ hai người đấu cờ.

Huỳnh Mi hòa thượng mồ hôi trán nhỏ giọt xuống bàn cờ, còn Diên Khánh

nét mặt vẫn thản nhiên. Xem qua tình thế đủ biết cuộc thắng bại đã rành

rành, sự sinh tử của Huỳnh Mi hòa thượng đã đến lúc cực kỳ nguy hiểm.

Đoàn Dự thần trí vừa được sảng khoái, cũng quan tâm ngay tới cuộc thắng

bại trên bàn cờ, vội chạy lại xem. Thấy quân bên Huỳnh Mi đã bị mất sạch,

Diên Khánh chỉ bắt thêm một quân nữa là Huỳnh Mi không còn quân ra, tất

phải chịu thua.

Thái tử Diên Khánh đưa đầu gậy trúc điểm xuống bàn cờ, trỏ đúng điểm

then chốt, chỉ đi một nước đó nữa là bên Huỳnh Mi vô phương cứu vãn.

Đoàn Dự trong dạ bồn chồn, liền nghĩ ra một kế: "A ta phải làm cho lão đi

sai một nước". Nghĩ vậy chàng đưa tay giữ lấy đầu gậy của thái tử Diên

Khánh. Diên Khánh vừa đưa gậy trúc tới điểm "lục thất", góc thượng vị thì

thốt nhiên lão cảm thấy lòng bàn tay nóng ran lên, rồi nội lực trên cánh tay

cuồn cuộn thoát ra ngoài. Thái tử Diên Khánh kinh ngạc vô cùng, ghé mắt

nhòm xuống thấy Đoàn Dự đưa hai ngón tay cặp vào đầu gậy.

Chính Đoàn Dự cũng không biết rằng sau khi mình nuốt đôi Mãng Cổ chu

cáp đã phát ra hiện tượng quái dị là hút cả được chân khí của người nào

chạm tới mình. Chàng thấy tay mình cầm vào đầu gậy trúc mà thái tử Diên

Khánh không điểm được gậy xuống bàn cờ, chàng chỉ mong kéo dài được

phút nào hay phút đó, trêu chọc cho lão rối loạn tâm trí, hoạ may Huỳnh Mi

có cơ xoay lại cục diện cũng chưa biết chừng nên chàng cứ bám chặt đầu

gậy, nhất định không chịu buông ngón tay ra.

Thái tử Diên Khánh trong đầu óc nẩy ra vô số nghi vấn: khi trước bọn mình

bắt thằng nhỏ này thấy nó không hiểu một chút võ công nào cả kia mà!

Nghệ thuật tối đa của nó chẳng qua là mấy bước bộ pháp để né tránh mà

thôi. Không hiểu sao mới trong vài ngày, đột nhiên nó lại nảy ra cái tà thuật

hút được nội công của người ta? Phải chăng lúc đầu nó có ý dấu diếm tài

nghệ, không chịu tiết lộ, chờ khi người tiếp viện đến rồi mới ra tay? Ngoài

ra không thể tìm được nguyên nhân minh bạch nào khác để giải đáp. Thái tử

Diên Khánh vừa nghĩ vừa vận khí vào huyệt đan điền, dồn sức mạnh ra cánh

tay. Chiếc gậy trúc lúc đó phát xuất được một sức mạnh tuyệt luân, đầu gậy

trúc rung lên một cái, đẩy bật cánh tay Đoàn Dự ra.

Nội lực của thái tử Diên Khánh thâm hậu dị thường, không mấy ai sánh kịp.

Đoàn Dự tuy mới hút vào người được chân lực của bọn Phá Tham hòa

thợng nhưng lại cha biết vận dụng, mơừi phần không phát động được một

nên đầu gậy trúc của thái tử Diên Khánh hất mạnh một cái chàng đã phải

buông tay ra.

Đoàn Dự cảm thấy nửa mình bị tê chồn, người lảo đảo muốn té vật xuống,

phải vội vàng đưa tay vịn vào phiến đá mới đứng vững lại được.

Thái tử Diên Khánh phát xuất kình lực đẩy bật được tay Đoàn Dự ra nhưng

lúc thu hồi chân khí chỉ còn được có phân nửa nên trong lòng rất đỗi kinh

hoàng, kinh hoàng hơn cả Đoàn Dự. Vì tâm trạng quá hoang mang, thái tử

Diên Khánh trước định đi nước cờ "lục thất", giờ lại điểm sang nước "thất

bát" trên thượng vị. Lão biết mình đi lỡ, lẩm bẩm la lên: "thôi chết rồi", lão

toan nhấc đầu gậy lên đi lại thì không kịp nữa. Trên điểm "thất bát" đã vạch

thành nửa vòng tròn. Những bậc cao thủ đấu cờ hạ tịch bất hồi, huống chi

đã khắc đá làm bàn, rạch đá làm quân, công lực điểm tới đâu đá nát tới đó,

có lý đâu đã hạ quân rồi lại bỏ được? Khốn nỗi đi vào điểm "thất bát" trong

góc thượng vị đó tức là tự mình lại lấp mắt mình. Phàm người đã biết đánh

cờ thì ai cũng hiểu: "hai mắt là sống, một mắt là chết". Trong ván cờ này

thái tử Diên Khánh đã tạo thành thế đủ cả hai mắt để nhằm tấn công vào cơ

sở bên Huỳnh Mi hoà thượng, quyết không có lý nào lại tự lấp đi một mắt.

Theo lẽ đương nhiên là thế nhưng mà đã trót hạ lầm quân thì lại tỏ ra kém

nội lực để xẩy ra nước cờ lầm lạc. Cờ đi sai một nước đành thua cả bàn, thái

tử Diên Khánh lại là người rất có tên tuổi, hiểu lẽ "Tỉnh ăn, lầm thua",

quyết không bao giờ tranh chấp về những việc đuối lý như thế. Lão lập tức

đứng dậy, hai tay chống bàn cờ, chú ý nhìn lại cuộc cờ hồi lâu không nhúc

nhích.

Các tay hào kiệt có mặt tại đây phân nửa chưa từng gặp mặt thái tử Diên

Khánh bây giờ thấy lão có nhiều vẻ khác thường nên ai cũng chăm chú nhìn

vào.

Thái tử Diên Khánh lặng lẽ ngó bàn cờ lúc lâu rồi đột nhiên cầm đôi gậy

trúc chống một đầu xuống đất, nhảy lên đi cao lênh khênh nhưư người đi cà

kheo, bước rất dài, thoáng cái đã đi khá xa. Bất thình lình một luồng gió tây

thổi ngược lại, tảng đá bàn cờ rung rung mấy cái, tiếp đó mấy tiếng loảng

choảng, tảng đá đó vỡ ra làm mười mấy mảnh, ngổn ngang trên mặt đất.

Thế là bàn cờ đá đánh dấu một cuộc đấu trí và đấu lực rất gay go, cổ kim hy

hữu đã vỡ tan tành, không còn gì lưu lại về sau nữa.

Mọi người đều thất kinh ngơ ngác nhìn nhau và trong lòng cùng nghĩ như

nhau: "lão Thanh bào quái khách này người chẳng ra người, quỷ chẳng ra

quỷ, trông như cái xác biết cử động mà sao võ công cao siêu tới mức không

thể lường được".

Huỳnh Mi hòa thượng thắng cuộc một cách bất ngờ, hai tay vịn đầu gối

đứng dậy, tâm thần bàng hoàng, hồi tưởng lại tình trạng nguy nan lúc nãy,

vẫn hãy còn hồi hộp, chưa lấy lại được bình tĩnh. Trong bụng nhà sư vẫn

băn khoăn, không hiểu tại sao thái tử Diên Khánh đang lúc đã nắm vững

phần thắng rồi lại thốt nhiên hạ một nước cờ kỳ cục, lấp ngay một mắt của

mình đi rõ hình như có ý nhờng mình. Nhưng không lý nào trước tình thế

nghiêm trọng như vậy mà lão lại chịu nhường bao giờ.

Tất cả mọi biến cố đó Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và bọn Cao Thăng

Thái đều mơ hồ không ai hiểu ra sao cả. Nhưng may mà cứu được Đoàn Dự

ra về, thanh danh họ Đoàn không bị tổn thất mảy may, thái tử Diên Khánh

lại bị thua cờ bỏ trốn, có thể nói là chiếm được toàn thắng vậy. Còn những

chi tiết nhỏ bên trong chưa tìm ra nguyên do cũng chẳng tra cứu ngay vội.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười quay sang bảo Chung Vạn Cừu:

- Chung động chúa! con tôi quyết không phải là đứa bạc tình. Lệnh ái đã

thành cơ thiếp của y, vài hôm nữa chúng tôi sẽ phái người đến đón dâu. Vợ

chồng tôi sẽ hết sức chiêu đãi nàng, coi như con gái mình. Xin động chúa

cứ yên tâm.

Chung Vạn Cừu là kẻ lỗ mãng, bụng dạ đã hẹp hòi lại hay cáu kỉnh. Nghe

lời Đoàn Chính Thuần dường như trêu chọc, hắn nổi hung cũng chẳng thèm

hỏi Chung Linh đã thất thân với Đoàn Dự hay chưa "soạt" một cái, hắn rút

luôn "bội đao" ở bên hông ra, nhắm thẳng đầu Chung Linh chém xuống và

quát to:

- Thế này thì tức chết đi được. Ta giết con tiện nhân này trước rồi sau sẽ

hay.

Bất thình lình một bóng người cao lênh khênh nhảy vụt đến nhanh như

chớp, ôm lấy Chung Linh rồi vèo một cái như làn gió thoảng qua đã phi

thân ra ngoài hai trượng. "Phập" một tiếng, lưỡi đao của Chung Vạn Cừu đã

chém ngập xuống đất. Chung Vạn Cừu nhìn xem người đã ôm Chung Linh

là ai té ra là Vân Trung Hạc liền quát hỏi:

- Mi... mi làm cái gì thế?

Vân Trung Hạc đáp:

- Con gái ngươi mà ngươi không thiết đến nữa, toan chém, vậy ngươi coi

như nàng đã chết rồi và để nàng cho ta.

Vân Trung Hạc vừa nói vừa chạy thêm mấy trượng nữa. Y tự biết, nếu bàn

về võ công cao hạ thì không những Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa thượng cao

hẳn hơn y rồi mà ngay Đoàn Chính Thuần hay Cao Thăng Thái y cũng

không thể ăn đứt được. Thấy tình thế không ổn, y liền ôm Chung Linh chạy

ra xa một nơi. Y mừng thầm, Ba Thiên Thạch không có ở đây vì ngoài Ba ra

kinh công bình thường cả, không ai có thể đuổi kịp nữa.

Chung Vạn Cừu cũng biết tài khinh công của Vân Trung Hạc hắn chỉ dậm

chân loạn xạ, la mắng om sòm.

Bảo Định Đế cùng mọi người hôm trước đây đã thấy qua bản lĩnh khinh

công của Vân Trung Hạc trong khi y cùng Ba Thiên Thạch đuổi nhau chạy

vòng quanh. Bây giờ thấy y tay ôm Chung Linh mà nhảy đi vẫn lẹ làng như

không đều biết là vô phương đuổi kịp y rồi. Đoàn Dự tâm linh cơ biến sực

nhớ đến Nam Hải Ngạc Thần liền gọi lên:

- Nhạc lão tam! Sư phụ có lệnh truyền! Ngươi mau mau đi cướp lại Chung

cô nương về đây cho ta!

Nam Hải Ngạc Thần sửng sốt, cả giận hỏi lại:

- Thằng oắt con kia! mi nói láo gì đó?

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi nhận ta làm thầy, chẳng đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi là gì? Bây giờ

ngươi còn mở miệng cãi lời thì ai mà ngửi được?

Nam Hải Ngạc Thần tuy là người rất hung dữ nhưng lão cũng có chỗ khả

thủ là nói sao làm vậy chứ không bao giờ cãi xoá. Lão nhận Đoàn Dự làm

thầy dù là chuyện bất đắc dĩ nhưng cũng không chối. Lão chỉ tức mình,

trừng mắt cau mày quát lại:

- Ta đã hứa tất nhiên ta nhớ. Ngươi là sư phụ ta thì bây giờ ngươi muốn điều

chi nói ngay đi! Đừng có mà lôi thôi, ta điên tiết lên thì ta chém cả cái thứ

sư phụ như ngươi đó.

Đoàn Dự đáp:

- Ngơi đã nhận ta làm thầy là được rồi. Chung cô nương đây là vợ ta, tức là

sư mẫu ngươi đó. Sư mẫu bị Vân Trung Hạc bắt đem đi, vậy ngươi phải

đuổi theo bắt lại. Nếu để Vân Trung Hạc làm nhục nàng tức là làm nhục sư

mẫu ngươi. Sư mẫu ngươi bị y làm nhục thì ngươi còn chi là thể diện? Anh

hùng hảo hán mà để kẻ khác lăng nhục sư mẫu hay sao?

Nam Hải Ngạc Thần nghe choáng cả người, nghĩ lời sư phụ nói rất đúng.

Song thốt nhiên lão nghĩ tới Đoàn Dự đã nhận Mộc Uyển Thanh làm vợ mà

sao bây giờ lại nhận cả cô bé họ Chung này làm vợ nữa nên lão liền hỏi lại:

- Thế thì ta có mấy vị sư mẫu cả thảy?

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi đừng có hỏi lôi thôi nữa! Tóm lại nếu ngươi không cướp lại được sư

mẫu ngươi về thì chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy các bậc anh hùng

hào kiệt nữa. Tất cả những tay hảo hán ở đây ai ai cũng biết rõ Vân Trung

Hạc là người em út trong hàng tứ ác mà ngươi còn không hạ được thì địa vị

ngươi phải giáng xuống hàng thứ năm, thứ sáu cũng chưa biết chừng.

Nam Hải Ngạc Thần bị nói khích, tức không nhịn được vì lão đang muốn

tranh ngôi thứ lên hàng nhì, trên Diệp Nhị Nương mà Đoàn Dự lại đặt lão

xuống dưới Vân Trung Hạc thì cái nhục còn sâu cay hơn là bị chặt đầu. Lão

gầm lên như điên cuồng, hộc tốc chạy đi đuổi Vân Trung Hạc, vừa đuổi vừa

gọi:

- Muốn yên thân thì buông sư mẫu ta ra!

Vân Trung Hạc vừa chạy vừa nói:

- Nhạc lão tam! Ngươi là thằng ngốc, bị mắc hợm người ta rồi.

Nam Hải Ngạc Thần là người xốc nổi, hiếu thắng, giầu lòng tự ái, thấy Vân

Trung Hạc mắng mình là thằng ngốc bị mắc hợm trước mặt bao nhiêu người

càng làm lão nộ khí xung thiên, ráng sức đuổi theo. Hai người đuổi nhau

chớp mắt đã khuất vào khe núi. Chung Vạn Cừu tuy trong lúc cáu giận, giơ

đao định chém chết con gái song bây giờ thấy Chung Linh bị gã cùng hung

cực ác bắt mất, phần thì phụ tử tình thâm, phần thì nghĩ tới lúc vợ hỏi đến

biết trả lời ra sao, ruột nóng như lửa cũng vác đao đuổi theo Vân Trung

Hạc.

Bảo Định Đế thấy chủ nhân bỏ đi rồi, chắp tay nói với Tuệ Thiền hoà

thượng và mọi ngời:

- ít khi được liệt vị quang lâm nước Đại Lý, xin mời cùng tới tệ xứ, dùng

chén rượu suông, để tại hạ đón tiếp cho trọn nghĩa địa chủ.

Tuệ Thiền cùng mọi người đều muốn giao kết với Bảo Định Đế Đoàn Chính

Thuần, người đã được giới võ lâm cho biệt hiệu là "Thiên Nam đệ nhất

nhân", thấy nhà Vua khiêm cung, hiếu khách nên ai cũng vui vẻ nhận lời.

Chỉ một mình Diệp Nhị Nương tủm tỉm cười nói:

- Lão nương đây sợ các ngươi mổ thịt chia nhau đánh chén vậy nên xin

kiếu, chuồn sớm đi là hơn.

Nói xong cười hì hì trở gót đi liền. Bảo Định Đế cùng tất cả mọi người rời

khỏi hang Vạn Kiếp trở về Đại Lý. Sáu hoà thượng trong bọn Phá Tham tức

lúc bị hấp lực của "chu cáp" hút mất chân khí, thân thể hư nhược, đứng

không vững, phải nhờ bọn Lăng Thiên Lý dìu lên ngựa. Rồi cùng quần hùng

kéo cả về phủ Trấn Nam Vương.

Gia nhân đa tin vào báo, bọn Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa và Ba Thiên

Thạch từ trong Vương phủ ra tận ngoài cửa nghinh đón. Một vị nữ lang

cũng theo ra, cách phục sức cực kỳ hoa lệ, vẻ kiều diễm cũng nổi bật lên,

đó chính là Hương dược xoa Mộc Uyển Thanh.

Đoàn Dự từ lúc uống phải Âm dương hoà hợp tán, chất độc trong người

chưa giải trừ được bây giờ đột nhiên nhìn thấy Mộc Uyển Thanh, người

không tự chủ được nữa, vội chạy lên mấy bước định đưa tay ôm lưng nàng

nhưng may tâm linh vẫn còn một tia sáng suốt, chàng giật mình tỉnh ngộ,

biết thế là một hành động điên rồ liền dừng chân lại. Âm dương hoà hợp tán

không những tai hại ở chỗ chất độc mãnh liệt lâu dài, mà lại còn làm cho cả

hai bên trai cũng như gái, sau khi uống phải cùng ưa kích thích quyến rũ

nhau. Hai bên ở xa nhau thì thôi, chứ có dịp gần nhau là hai người đều cảm

thấy tâm thần mê mẩn, không thể nào kìm hãm được. Bảo Định Đế thấy

thần sắc hai người lộ vẻ khác thường, mặt đỏ như gấc chín, rõ ràng bị trúng

độc quá nặng, nhà Vua tức khắc chìa ngón tay điểm dứ hai cái, bỗng nghe

thấy "xuỳ xuỳ hai tiếng", Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh tức thời mê man té

vật ra. Chu Đan Thần ẵm Đoàn Dự, Thư Bạch Phụng ẵm Mộc Uyển Thanh

đem về phòng riêng tĩnh dưỡng.

Phủ Trấn Nam Vương bày một tiệc lớn khoản đãi các vị hào kiệt. Tân khách

mời Tuệ Thiền ngồi ghế chủ tịch, vì các phái võ đều coi phái Thiếu Lâm là

bậc đàn anh trong võ lâm.

Trong khi dự tiệc Phạm Hoa có thuật lại việc đào đường hầm và đem Chung

Linh vào trong nhà đá cho mọi người nghe nhưng còn việc cứu Mộc Uyển

Thanh ra thì giấu kín không nhắc tới. Các bậc hào kiệt hiểu rõ nguyên nhân

về việc Chung Vạn Cừu định làm hại người không được, trái lại thành ra hại

mình mọi người đều vỗ tay cười vang.

Đoàn Chính Thuần băn khoăn về việc con trai bị trúng độc, đưa ra hỏi khắp

các vị hào kiệt nhưng mọi người chỉ ngơ ngác nhìn nhau không ai biết

đường giải cứu. Giữa lúc đó có tên gia đinh cầm một phong thư đưa vào cho

Đoàn Chính Thuần và nói người đưa thư là một ả nữ tỳ, trong thư có phương

thuốc giải độc cho thế tử. Đoàn Chính Thuần vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ,

vội mở thư ra xem, thấy trong thư vẻn vẹn có sáu chữ: "Chỉ uống sữa người

là khỏi". Đoàn Chính Thuần nhận được bút tích biết là thư của Chung phu

nhân gửi cho, bất giác trong lòng xúc động, tay áo quẹt đổ chiếc chén trước

mặt, rượu nóng đổ hết vào người mà ông cũng không hay.

Bảo Định Đế hỏi:

- Chính Thuần hiền đệ! Phương thuốc chi vậy?

Đoàn Chính Thuần vẫn ngẩn người ra chưa hiểu hỏi gì. Bảo Định Đế phải

nhắc lại lần nữa:

- Phương thuốc gì đó?

Đoàn Chính Thuần giật mình đáp:

- Trong thư nói chỉ uống sữa người là khỏi.

Bảo Định Đế gật đầu nói:

- Ta cứ thử xem, uống nhiều sữa người dù không công hiệu cũng chẳng hại

gì.

Thư Bạch Phụng liền sai gia đinh đi mua sữa người của các bà nhũ mẫu

trong dân gian. Sữa người là thứ rất dễ kiếm, hơn nữa trong Vương phủ làm

việc gì mà chẳng mau chóng. Bữa tiệc chưa tan, Đoàn Dự và Mộc Uyển

Thanh đã giải độc xong, bước ra hội kiến với mọi người.

Đoàn Dự ân cần ngỏ lời thâm tạ Huỳnh Mi hòa thượng cùng bọn Hoa Hách

Cấn. Chàng hay tin bọn Phá Tham, cả sáu nhà sư đều bị trọng thương thì

trong lòng cảm thấy vô cùng bứt rứt. Đến bấy giờ sáu hòa thượng vẫn chưa

nói được, nên không ai hiểu bọn họ bị thoát mất hết nội công. Cả Huỳnh Mi

cũng chưa biết rõ nội tình. Đoàn Dự lại càng không ngờ tự mình đã gây nên

đại hoạ cho người. Đoàn Chính Thuần tuyên bố với mọi người rằng Mộc

Uyển Thanh là nghĩa nữ của ông. Bọn Tần Nguyên Tôn và Tuệ Thiền hoà

thượng tuy có cừu hận với Mộc Uyển Thanh nhưng lúc này không tiện trở

mặt. Hơn nữa lại e dè uy lực bốn tay cao thủ: Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa

thượng, Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái nên không dám bỗng nhiên

gây sự.

Trong bữa tiệc, các vị hào kiệt nói hết chuyện giang hồ đại sự lại quay sang

vợ chồng Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái và Đoàn Dự để chúc mừng

cuộc hôn nhân giữa hai họ Đoàn Cao, chén tạc, chén thù rất là náo nhiệt.

Mộc Uyển Thanh liếc mắt nhìn trộm Đoàn Dự thấy chàng cúi gầm mặt

xuống, tỏ vẻ buồn thiu. Nàng hồi tưởng lại tình cảnh những ngày cùng

chàng ở trong nhà thạch thất mà tan nát gan vàng. Nàng hiểu rõ giấc mộng

lương duyên giữa chàng và nàng kiếp này đành vỡ mất rồi. Khi nghe đến

chuyện Đoàn Dự hoà duyên cùng Cao tiểu thư mà lòng tê tái, khóc không ra

tiếng. Nàng nhìn Cao Thăng Thái bằng đôi mắt căm hờn. Có lúc nàng toan

phóng ám tiến giết Cao để trả thù: sao ông lại sinh con gái để cướp mất tình

lang của nàng. Nhưng nàng hiểu Cao Thăng Thái võ công trác tuyệt, khó

lòng bắn trúng nên lại thôi. Nàng thấy mọi người hoan hỉ giao bôi, rất là

hào hứng thì e mình không nhịn được phải buông tiếng khóc tỏ ra con người

khiếp nhược nên đứng phắt dậy nói:

- Tôi nhức đầu không ăn uống gì được.

Thế rồi băng băng đi vào nhà trong. Từ Bảo Định Đế trở xuống nàng không

thèm ngỏ lời cáo từ một ai. Đoàn Chính Thuần có ý ngượng, cười gượng đỡ

đòn:

- Con nhỏ này khó dạy quá, chẳng biết một chút lễ độ nào cả xin đại ca

cùng quý vị miễn chấp.

Giữa lúc đó bỗng nhiên có một tên gia tướng xăm xăm bước vào, hai tay

cầm một tờ danh thiếp, chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần cúi đầu nói:

- Quá ngạn chi thiền gia ở Hổ Tốt quan xin vào yết kiến Vương gia.

Đoàn Chính Thuần rất đỗi ngạc nhiên, nghĩ thầm: "quá ngạn chi biệt hiệu

Truy hồn thủ là đại đồ đệ của Kha Bách Tuế phái Tung Sơn đã nổi tiếng đại

hiệp trong chốn giang hồ từ lâu. Võ công y vào hạng siêu quần, có điều đối

với họ Đoàn chưa từng qua lại giao du, chẳng hay bữa nay y từ muôn dặm

đến tìm ta không hiểu có việc gì đây?". Nghĩ thế liền đứng dậy nói với mọi

người:

- Có Truy hồn thủ Quá địa hiệp tới ta nên ra ngoài nghênh tiếp.

Hoi 22 Một phái võ kinh hồn ở Cô Tô

Những hào kiệt có mặt tại đây đều đã nghe tiếng "Truy hồn thủ Quá Ngạn

Chi". Tuệ Thuyền hòa thượng và Kim Đại Bằng đã từng gặp mặt Quá mấy

lần. Quần hùng nghe tin Quá đến đều răm rắp rời khỏi chỗ ngồi theo Đoàn

Chính Thuần ra đón. Trừ có bốn vị là Bảo Định Đế, Huỳnh Mi hòa thượng,

Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn là vẫn ngồi yên.

Quá Ngạn Chi tuy thanh danh lừng lẫy giang hồ lại là khách phương xa tới,

song lấy địa vị trong võ lâm mà nói thì Bảo Định Đế và Huỳnh Mi hòa

thượng dĩ nhiên không phải ra cửa đón. Còn Tả Tử Mục và Tần Nguyên

Tôn cũng có ý tự trọng, đặt địa vị mình vào tôn sư đứng đầu một phái dù

Quá Ngạn Chi thanh danh có lừng lẫy mấy chăng nữa nhưng trên hãy còn sư

phụ là Kha Bách Tuế. Tả Tử Mục và Tần Nguyên Tôn đều tự ví mình ngang

hàng với sư phụ của Quá nên cũng cứ ngồi yên tại chỗ chứ không ra đón.

Đoàn Chính Thuần ra tới cửa, thấy một người trung niên tầm vóc cao lớn,

tay trái dắt một con tuấn mã sắc trắng rất oai hùng đang đứng trước cửa.

Người này mặc tang phục, đầu đội mũ vải gai, mặt đượm vẻ phong trần, hai

mắt đỏ mọng sưng húp rõ ra người mới có thân nhân vừa tạ thế.

Kim Đại Bằng rảo bước đến trơức mặt ân cần chào hỏi:

- Quá đại ca vẫn được mạnh giỏi chứ?

Người vận tang phục đó là Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi đáp:

- Kim hiền đệ đấy ? Đã lâu nay ta không được gặp nhau nhỉ.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Quá đại hiệp quang lâm nước Đại Lý mà tiểu đệ không được biết trước để

đi đón tận ngoài xa, thực là có lỗi, xin đại hiệp miễn thứ cho.

Nói xong vái dài một cái. Quá Ngạn Chi nghĩ bụng: "ta vẫn nghe tiếng anh

em họ Đoàn nước Đại Lý là người đại phú quý mà không kiêu căng chút

nào, thực là tiếng đồn không ngoa". Quá Ngạn Chi vội vàng đáp lễ và khiêm

nhường nói:

- Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu ở nơi thảo dã, dám phiền Vương gia ra

tận cửa đón, thực áy náy vô cùng.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Tước hiệu "Vương gia" chẳng qua là theo thế tục đặt ra mà thôi. Còn đối

với đại hiệp thanh danh vang dội khắp nơi, tại hạ vốn có lòng ngưỡng mộ,

chúng ta nên xưng hô nhau bằng anh em, bất tất câu chấp thứ, nghi lễ hư

văn đó làm gì?

Đoạn mời Quá Ngạn Chi vào phủ rồi giới thiệu với Bảo Định Đế và các vị

hào kiệt. Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "Trong đám giang hồ hảo hán này

cố nhiên là nhiều người tính tình khoát đạt, hào sảng nhưng cũng không ít

kẻ bụng dạ hẹp hòi. Thường thường chỉ vì một câu nói hay cách tiếp đãi hơi

thiếu sót một chút là gây thù kết oán ngay. Bây giờ cách xếp đặt chỗ ngồi

Quá Ngạn Chi thế nào cho ổn cũng là một chuyện rất khó. Nghĩ vậy ông

nói:

- Quá huynh đang cữ tang, không hiểu dùng những món gì được? Gia nhân

đâu sắp một tiệc riêng ra đây để tiếp Quá đại hiệp!

Quá Ngạn Chi lắc đầu từ chối:

- Đa tạ thịnh tình, tại hạ còn có việc gấp, xin cho uống một chén thanh trà

là đủ.

Đoạn nâng chén trà uống một hơi cạn, Quá nói tiếp:

- Vương gia! Sư thúc tôi ký ngụ ở Vương phủ, xin cho người báo tin giùm,

để tại hạ được diện kiến và trình việc gấp.

Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:

- Sư thúc Quá huynh là ai?

Ông tự hỏi: trong Vương phủ có ai là nhân vật của phái Tung Sơn đâu?

Quá Ngạn Chi đáp:

- Sư thúc tôi thay họ đổi tên, nhờ nơi Vương phủ để tỵ nạn nên người chưa

dám nói rõ ra với Vương gia, thực là có tội lớn, dám xin Vương gia mở

lượng khoan hồng miễn trách cho. Tại hạ thay sư thúc tạ lỗi cùng Vương

gia.

Nói xong liền vái dài. Đoàn Chính Thuần đáp lễ nhưng nghĩ mãi không ra

sư thúc của Quá Ngạn Chi là ai. Bỗng thấy Cao Thăng Thái quay sang bảo

tên gia đinh đứng bên:

- Mi vào phòng giấy trình Hoắc tiên sinh rằng: Truy hồn thủ Quá đại hiệp

tới đây có việc cần muốn bẩm với Kim toán bàn Thôi lão tiền bối, xin mời

tiên sinh ra đại sảnh nói chuyện.

Tên gia đinh vâng lời vừa trở gót bỗng nghe tiếng lẹp kẹp: một người đang

ngất nga ngất ngưởng từ hậu đường đi ra, vừa đi vừa nói lè nhè:

- Nó làm thế này thì mình khó mà ngồi mát bát dầy được nữa.

Các tay hào kiệt nghe thấy bảy chữ: "Kim toán bàn Thôi lão tiền bối", có

người lờ mờ không hiểu là gì, có người biến sắc tự hỏi: chẳng lẽ thằng cha

Kim toán bàn Thôi Bách Kế lại ẩn tích ở đây ?

Giữa lúc đó, một lão già mặt mũi bần tiện, cười khì khì đi ra. Mọi người

trong Vương phủ từ trên chí dưới ai cũng biết đó là Hoắc tiên sinh, người

trông nom giúp sổ chi tiêu các việc vặt trong Vương phủ. Ngày nào cũng

như ngày nào, nếu lão không say bí tỷ thì lại đâm đầu vào đánh bạc với bọn

tôi đòi, thật là con người bê bối. Trong phòng kế toán, chỉ vì lão mà phương

diện tiền bạc mất cả quy củ. Mười mấy năm nay vẫn mặc lão làm lộn bậy

thế nào thì làm.

Đoàn Chính Thuần xiết đỗi ngạc nhiên lẩm bẩm: "không ngờ Hoắc tiên sinh

lại chính là Thôi Bách Kế ? Thật mình có mắt không tròng, kể cũng bẽ

mặt. May mà Cao Thăng Thái gọi trúng tên lão. Các tay hào kiệt vẫn cho là

trong phủ Trấn Nam Vương đã biết lão từ trước rồi nên Đoàn Chính Thuần

này cũng không đến nỗi mất thể diện.

Hoắc tiên sinh vẫn bảy phần say, ba phần tỉnh vẻ mặt thì ngơ ngác. Nhìn

thấy Quá Ngạn Chi vận tang phục lão giật mình hỏi:

- Mi... mi có chuyện chi vậy?

Quá Ngạn Chi bước lên mấy bước, lạy sụp xuống đất, khóc oà lên nghẹn

ngào đáp:

- Sư thúc ơi! Sư phụ... sư phụ cháu đã bị người hạ sát rồi.

Thôi Bách Kế biến hẳn thần sắc, nét mặt đang ngơ ngác thoáng cái đã đầy

vẻ lo âu, dè dặt. Lão từ từ hỏi:

- Kẻ thù là ai?

Quá Ngạn Chi nức nở đáp:

- Bởi cháu tài hèn, tra hỏi mãi mà chưa biết đích kẻ thù là ai. Song theo sự

suy đoán thì có phần đúng là một nhân vật trong họ Mộ Dung ở Cô Tô.

Hoắc tiên sinh lộ vẻ kinh sợ nhưng chỉ thoáng qua rồi nét mặt trở nên

nghiêm nghị. Ông nói bằng một giọng trầm trầm:

- Việc này phải bàn tính một cách cẩn thận mới được.

Chuyện nọ đẩy sang chuyện kia. Vì Quá Ngạn Chi muôn dặm đưa tin mà

Kim toán bàn Thôi Bách Kế phải lòi đuôi. Vì hỏi hung tin của Kha Bách

Tuế mà đề cập đến Mộ Dung thị. Tiếng tăm Thôi Bách Kế và Quá Ngạn

Chi những tay hào kiệt ngồi đây phần nhiều đều biết rõ. Có điều Thôi Bách

Kế tuy là sư thúc nhưng mấy năm gần đây ẩn tích một nơi không xuất đầu

lộ diện, nên thanh danh chẳng những không vang dội được bằng sư huynh

Kha Bách Tuế, chưởng môn phái Tung Sơn mà lại kém cả sư điệt Quá Ngạn

Chi nữa. Còn về những nhân vật trong họ Mộ Dung lợi hại thế nào thì mọi

người đều mờ mịt, ít ai biết đến. Chỉ riêng có Bảo Định Đế và Huỳnh Mi

hòa thượng cùng đưa mắt nhìn nhau rồi Huỳnh Mi tăng lại khẽ thở dài.

Thôi Bách Kế tâm linh cực kỳ tế nhị, một tiếng thở dài khẽ của Huỳnh Mi

cũng không qua khỏi lỗ tai lão được. Lão bước tới trước mặt nhà sư kính

cẩn vái dài nói:

- Chốn giang hồ sắp sinh tai hoạ, đại sư là bậc từ bi, xin chỉ điểm cho con

đường sáng sủa.

Huỳnh Mi hoà thượng đứng dậy đáp lễ và trả lời:

- Thí chủ nói rất phải, tiếc rằng bần tăng kiến văn hủ lậu, lại ở nơi hoang

sơn hẻo lánh, ít được nghe những vụ rồng tranh hổ đấu giữa các phái võ ở

Trung Nguyên. Tỷ như Thôi thí chủ là một nhân vật anh hùng đến thế, lại ở

ngay phủ Trấn Nam Vương mấy năm rồi mà bần tăng cũng không biết mảy

may. Thế thì nói chi tới những việc ngoài chốn giang hồ nữa?

Thôi Bách Kế thần sắc thảm đạm quay sang nói với Quá Ngạn Chi:

- Quá hiền điệt! Sư huynh ta làm sao mà phải bỏ mạng? tình tiết xảy ra như

thế nào, hiền điệt thuật lại tận tường cho ta nghe.

Quá Ngạn Chi đáp:

- Thù thầy cũng như thù cha, chậm ngày nào cha báo được là tiểu điệt ăn

không ngon, ngủ không yên. Xin sư thúc hãy lên đường ngay cho. Trong

lúc đi đường tiểu điệt sẽ bẩm rõ để khỏi chậm thời giờ.

Thôi Bách Kế nhìn mặt biết là Quá Ngạn Chi có ý e ngại, ở trong đại sảnh

này có rất nhiều tai mắt, nói ra có điều bất tiện chứ không phải là tranh thủ

sớm muộn một hai thời khắc. Thôi Bách Kế suy tính trong bụng: "mình ký

ngụ ở phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm tuyệt không để lộ hình tích thế mà

Cao Thăng Thái cũng biết rõ hành tung, nếu bây giờ mình không xin lỗi

Trấn Nam Vương tức là mình đắc tội với họ Đoàn. Huống chi muốn vì sư

huynh báo cừu mà xung đột với Mộ Dung thị, việc đó quyết không thể một

mình có đủ sức làm được. Nếu họ Đoàn phái người tương trợ thì lực lượng

sẽ mạnh hơn nhiều. Thêm bạn bớt thù là một điều rất quan trọng". Nghĩ vậy

Thôi Bách Kế liền chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần, quỳ hai gối xuống

đất và buông tiếng khóc oà lên. Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên. Đoàn

Chính Thuần vội đưa hai tay đỡ dậy, nhưng không ngờ mó vào người Thôi

Bách Kế thì thấy người lão vững như là đóng đinh xuống đất, không tài nào

lay chuyển được. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: "thằng quỷ bét rượu này,

võ công lão gớm thật". Lâu nay mình bị lão đánh lừa hoài". Đoàn Chính

Thuần vận kình lực vào hai cánh tay nhấc bổng lão lên. Thôi Bách Kế cũng

không vận nội lực chống lại nữa, mượn đà đứng phắt dậy. Nhưng vừa đứng

được thẳng người lên, lão cảm thấy xương cốt trong mình đều đau ê ẩm, rất

là khó chịu, tựa như con thuyền nhỏ ngoài khơi bị một cơn sóng gió đánh

tơi bời. Lão biết là Đoàn Chính Thuần có ý cảnh giác mình. Lão là người đa

mưu quả xứng đáng với cái tên Thôi Bách Kế. Lão nghĩ thầm: "nếu mình

còn vận nội lực để chống lại, Trấn Nam Vương sẽ không hả giận mà chưa

biết chừng ông còn ngờ mình trà trộn vào nằm trong Vương phủ để mưu

toan việc gian ác". Vì nghĩ thế nên Thôi Bách Kế theo đà lúc chân khí trong

người đang tản mát tức thời té ngồi phệt xuống kêu lên: "ối chà". Đoàn

Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo Thôi Bách Kế dậy, đồng thời xoa luôn

một cái để tiêu giải những bứt rứt trong cơ thể họ Thôi.

Thôi Bách Kế nói:

- Trấn Nam Vương gia! Thôi Bách Kế này bị kẻ thù bức bách, không còn

đường chạy nên phải vác cái mặt dầy tới Vương phủ nương tựa uy danh

Vương gia sống được tới nay, vậy mà Bách Kế chưa thổ lộ chân tướng với

Vương gia, thật là tội đáng muôn chết.

Cao Thăng Thái ngắt lời:

- Thôi huynh bất tất phải quá khiêm? Vương gia đây cũng biết rõ thân thế

và lai lịch các hạ từ lâu rồi. Có điều các hạ là bậc chân nhân, không muốn

lộ tướng nên Vương gia đây cũng không muốn nói ra thôi. Đừng nói Vương

gia hiểu rõ đã đành, mà ngay những người chung quanh cũng biết cả. Hôm

thế tử đối phó với cuộc đánh quyền của Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã giắt

Thôi huynh ra đóng vai sư phụ của chàng là gì? Vì thế tử biết rõ trong

Vương phủ chỉ có mình Thôi huynh khả dĩ đối phó được với Nam Hải Ngạc

Thần mà thôi.

Kỳ thực bữa đó Đoàn Dự kéo Thôi Bách Kế ra để mạo nhận là sư phụ chẳng

qua là sự ngẫu nhiên mà trúng đấy thôi. Đoàn Dự thấy Thôi Bách Kế dáng

điệu ngớ ngẩn, hình dong cổ quái nên đem lão ra cố ý để trêu cợt Nam Hải

Ngạc Thần làm một trò cười. Song bây giờ nghe Cao Thăng Thái nói Thôi

Bách Kế lại tin là sự thực.

Cao Thăng Thái lại nói tiếp:

- Vương gia đây vốn là người hiếu khách, đừng nói gì Thôi huynh lưu trú tại

nước Đại Lý chúng tôi tuyệt không có âm mưu ác ý gì đã đành, mà giả tỷ

có lòng bất trắc đối với nước tôi chăng nữa, Vương gia đây vẫn đại lượng

bao dung, lấy thành thực để tiếp đãi. Thôi huynh bất tất phải băn khoăn về

điểm đó.

Lời Cao Thăng Thái nói còn ngụ ý nữa là: anh không có vết tích gì bất

lương nên mới dung dưỡng tới ngày nay, bằng không thì chúng tôi đã sửa

anh từ lâu rồi.

Thôi Bách Kế lại nói:

- Tuy hầu gia dạy thế, song Thôi mỗ vì sao phải vào Vương phủ nương náu

thì trước khi cáo biệt cũng cần phải trình bày cho rõ nếu không chẳng hoá

ra còn tệ hơn phường du côn hay sao? Chỉ vì việc này liên quan tới nước

ngoài, nên Thôi mỗ mạo muội xin mượn tạm một nơi để tiện việc đàm luận.

Đoàn Chính Thuần quay lại bảo Quá Ngạn Chi:

- Báo cừu cho sư phụ là việc trọng đại, Quá huynh chẳng nên hấp tấp nóng

nảy, nán chờ chốc lát. Sau khi tan tiệc, chúng ta sẽ từ từ thương nghị cũng

chưa chậm.

Các tay hào kiệt ở đây đều là những người lịch duyệt giang hồ nên rất thiệp

đời, không muốn làm mất thì giờ và phiền cho người khác trong lúc cấp

bách nên đều ăn uống lào thào cho qua bữa rồi răm rắp đứng dậy cáo từ.

Trấn Nam Vương đối với bạn hữu giang hồ rất là trọng hậu, thấy tân khách

đứng dậy liền sai gia nhân đem lễ vật ra rồi chính tay đưa tặng mọi người.

Riêng đối với Kim Đại Bằng và Sử An là những khách từ phương xa tới lại

đặc biệt tặng thêm tiền lộ phí nữa. Trong đám hào kiệt những người hào

sảng thản nhiên nhận tiền còn những người câu nệ lễ nghi thì nhún nhường

bái tạ.

Giữa lúc chủ khách ân cần tiễn biệt bỗng nghe ngoài cổng phủ có tiếng

niệm:

- A di đà Phật! A di đà Phật!

Tiếng tuy không to nhưng ai nghe cũng rõ mồn một, tựa như chỉ cách độ hai

ba thước. Các tay hào kiệt trong sảnh đường hết thảy đều kinh ngạc. Phủ

Trấn Nam Vương địa thế rất rộng, từ ngoài cổng vào đại sảnh cách xa tới

hơn mười trượng, quãng giữa lại còn những tường vách, cửa ngõ ngăn chặn,

thế mà tiếng nói bên ngoài đại môn ở trong nghe rõ mồn một đủ biết về

môn Thiên lý truyền âm người này thực đã luyện tới chỗ thượng thừa tuyệt

đỉnh.

Đoàn Chính Thuần nghe tiếng Thiên lý truyền âm biết ngay người đó thuộc

phái Thiếu Lâm nên đã từ trong đáp vọng ra:

- Một vị cao tăng phái Thiếu Lâm giá lâm nước Đại Lý Đoàn Chính Thuần

này không biết để ra nghênh đón từ xa, thật thất lễ quá.

Đoàn Chính Thuần vừa nói vừa chạy ra đón. Ông bước rất mau, nháy mắt đã

ra tới cổng ngoài. Một vị hòa thượng người khô như hạc, tuổi chừng năm

mươi trở lại chắp tay nói:

- Bần tăng là Tuệ Chân ở chùa Thiếu Lâm xin tham kiến Đoàn Vương gia.

Trong lúc Đoàn Chính Thuần đang đáp lễ thì Tuệ Thiền hòa thượng cũng

theo ra tới nơi, ngạc nhiên hỏi:

- Sư huynh! Sưư huynh cũng tới nước Đại Lý hẳn có chuyện gì?

Tuệ Chân hai mắt đỏ hoe, đầy vẻ buồn rầu đáp:

- Sư đệ ơi! Sư phụ đã viên tịch về Tây phương rồi.

Tuệ Thiền tuy là đệ tử nhà Phật nhưng tính tình bộp chộp, vừa nghe hung

tin nhảy sấn lại cầm chặt lấy tay Tuệ Chân run run hỏi lại:

- Thực... thực vậy ?

Tuệ Chân chưa kịp đáp thì nước mắt Tuệ Thiền đã dòng dòng chảy xuống.

Tụê Chân nói với Đoàn Chính Thuần:

- Sư đệ bần tăng vì quá xúc động trước sự bất hạnh của gia sư nên thất lễ

trước giá, khiến vương gia phải bật cười.

Đoàn Chính Thuần vội đáp:

- Không dám! Không dám!

Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "Sư phụ Tuệ Thiền là Huyền Bi đại sư, vẫn

nổi tiếng võ công trác tuyệt. Thế này thì phái Thiếu Lâm lại mất một bậc

cao thủ rồi".

Tuệ Thiền nghẹn ngào nói tiếp:

- Sư phụ bị bệnh gì? Ngài vẫn khoẻ mạnh cơ mà?

Thấy trước cửa nhiều người qua lại rất phức tạp, Tuệ Chân hai tay cầm

phong thư đưa cho Đoàn Chính Thuần và nói:

- Thưa Vương gia! Bần tăng vâng mệnh chưởng môn sư bá, tới đây đệ trình

tâm thư lên Bảo Định Hoàng gia cùng Vương gia.

Đoàn Chính Thuần đón lấy thư rồi nói:

- Hoàng huynh tại hạ cũng ở đây, tại hạ xin đa đại sư vào tương kiến.

Nói xong dẫn Tuệ Chân và Tuệ Thiền vào nội sảnh.

Đoàn Chính Thuần đệ thư tín lên. Bảo Định Đế mở ra coi, thấy phần trên

nói đại khái mấy câu sáo ngữ, xưng tụng đức độ anh em mình và tỏ lòng

ngưỡng mộ còn phần chính đề chỉ vắn tắt mấy câu: "Nay võ lâm kiếp vận

tới nơi, xin đừng nghĩ cháy nhà hàng phố bình chân như vại, sự thể thế nào

hãy hỏi sư điệt Tuệ Chân sẽ rõ". Dưới ký tên chưởng môn trụ trì tại chùa

Thiếu Lâm là Huyền Từ kính thư.

Xem xong Bảo Định Đế kính cẩn nói:

- Xin mời hai vị ngồi! Đại sư bên Thiếu Lâm đã có pháp dụ, chúng ta hết

thảy đều ở trong phái võ lâm cả. Bất luận điều gì mà sức có thể làm được sẽ

xin vâng mệnh.

Tuệ Chân quỳ hai gối dập đầu "binh binh" xuống đất, vừa lạy vừa khóc

không ra tiếng. Tuệ Thiền thấy sư huynh như vậy, tuy chưa hiểu rõ nguyên

do, cũng quỳ xuống một bên nhưng không khấu đầu. Bảo Định Đế thấy Tuệ

Chân dùng đại lễ như thế, trong bụng biết chắc là quan trọng: trong phái

Thiếu Lâm thiếu gì cao thủ tuyệt vời, nhân tài thật lắm, có việc gì trọng đại

không giải quyết được mà phái Tuệ Chân đến cầu mình ân cần thế này? Nhà

Vua liền đưa hai tay đỡ hai hoà thượng dậy nói:

- Chúng ta đều là đồng đạo trong võ lâm, tôi không dám nhận đại lễ như

vậy.

Tuệ Chân khóc nức nở đáp:

- Gia sư bỏ mạng dưới bàn tay Cô Tô Mộ Dung thị, phái Thiếu Lâm không

thể độ lực báo được mối thù này. Xin Hoàng gia xuất mã chủ trương đại

cuộc cho!

Bảo Định Đế nghe nói đến năm chữ "Cô tô Mộ Dung thị" mặt hơi biến sắc.

Tuệ Thiền lại khóc oà lên nói:

- Thế thì chúng ta đành liều mạng với kẻ thù thôi.

Tuệ Chân nghiêm nét mặt đáp:

- Trước mặt Hoàng gia đây không được thất lễ.

Tuệ Chân người bé nhỏ lại gầy đét còn Tuệ Thiền thì khôi ngô tuấn tú

nhưng rất nể sợ sư huynh, nghe sư huynh chỉ trích mấy câu không dám nói

gì nữa nhưng vẫn nức nở khóc thầm.

Bảo Định Đế nói:

- Hai vị hãy ngồi đây thong thả nói chuyện. Hơn hai mươi năm trước đây tôi

từng nghe ở Tô Châu có một nhân vật trong họ Mộ Dung tên gọi Mộ Dung

Bác, kẻ vừa gây sự với phái Thiếu Lâm có phải là người đó không?

Tuệ Chân nghiến răng đáp:

- Tiểu tăng chỉ biết kẻ đối đầu là người họ Mộ Dung, nhưng không biết rõ

tên.

Bảo Định Đế nói tiếp:

- Thiếu Lâm là một phái có tiếng tăm lừng lẫy nhất trong võ lâm, bốn bề

đều ngưỡng mộ đại danh. Lệnh sư Huyền Bi hoà thượng nội lực ngoại công

đều tới chỗ tuyệt cao, hơn nữa là người xuất gia, không có tranh chấp gì với

người đời. Không hiểu tại sao lại bị người đời sát hại?

Tuệ Chân sa lệ đáp:

- Hôm đó tiểu tăng ngồi tĩnh toạ trong trai phòng thấy sư bá sai người tới

gọi, tiểu tăng tới nơi thì thấy thi thể gia sư để nằm một bên. Sư bá bảo là

người trong làng ở chân núi Tung Sơn thấy thi thể gia sư, họ biết là sư phụ

trong chùa nên vội đem lên chùa trả. Không hiểu rõ được gia sư lỡ tay thế

nào mà bị địch thủ ám toán. Còn tên họ và mặt mũi hung thủ, cho mãi tới

bây giờ vẫn chưa tra ra được.

Huỳnh Mi hòa thượng từ trước vẫn ngồi yên lắng tai nghe, bây giờ thốt

nhiên cất tiếng hỏi:

- Phải chăng Huyền Bi đại sư bị trúng một đòn "Kim cương chữ" của kẻ

địch vào trước ngực rồi viên tịch?

Tuệ Chân kinh ngạc đáp:

- Đại sư đoán đúng lắm! Như vậy nghĩa là làm sao?

Huỳnh Mi tăng nói tiếp:

- Lâu nay vẫn nghe tiếng Huyền Bi đại sư phái Thiếu Lâm có môn Kim

cương chữ là một môn trác tuyệt trong võ lâm, đối phương bị trúng phải sẽ

đứt gãy hết gân cốt. Môn đó cố nhiên là lợi hại lắm rồi, nhưng xét cho kỹ

thì lại quá bá đạo, những đệ tử nhà Phật không nên học môn đó để mà nổi

tiếng.

Đoàn Dự buột miệng cũng nói xen vào:

- Phải rồi! Cái môn đó quả là hiểm độc thái quá.

Tuệ Chân và Tuệ Thiền nghe Huỳnh Mi đả kích sư phụ mình trong lòng đã

thấy bất mãn nhưng còn kính nể ông là bậc cao tăng tiền bối không dám trả

lời lại thấy Đoàn Dự ở bên cũng lẹ miệng hùa theo, bất giác hai người cả

giận đều quắc mắt nhìn. Đoàn Dự vẫn tảng lờ như không trông thấy, chẳng

lý gì đến nữa.

Đoàn Chính Thuần hỏi Huỳnh Mi hòa thượng:

- Tại sao sư huynh biết Huyền Bi đại sư chết vì trúng Kim cương chữ?

Huỳnh Mi tăng thở dài đáp:

- Vì vừa nghe nói Huyền Từ đại sư bên Thiếu Lâm thấy di thể sư đệ mà

đoán biết được hung thủ là nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Nhà này tuyên bố chủ

trương của họ là: ai giỏi môn gì thì họ lấy chính môn đó để mà hạ thủ.

Đoàn Chính Thuần nghe xong phải lắc đầu, còn Huỳnh Mi hòa thượng thì

lẩm bẩm đọc đến hai ba lần câu: "Ai giỏi môn gì thì lấy môn đó để mà hạ

thủ" trên nét mặt thoáng những nét sợ sệt.

Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần quen biết Huỳnh Mi đại sư từ mấy chục

năm nay chưa từng thấy ông lộ vẻ sợ hãi bao giờ. Cả lúc ông cùng thái tử

Diên Khánh đấu cờ thí mạng, đã trông rõ thế bại rồi, tuy ông có bối rối

nhưng nét mặt vẫn thản nhiên. Thế mà bây giờ ông phải sợ ra mặt đủ biết

phái Mộ Dung lợi hại đến chừng nào.

Im lặng hồi lâu Huỳnh Mi tăng lại từ từ lên tiếng:

- Lão tăng nghe nói Mộ Dung Bác là người giỏi số một trên thế gian. Có lẽ

họ lấy tên là Bác để phô cái võ công uyên bác đến cực điểm của họ. Tựa hồ

như trong võ lâm, bất luận về môn tuyệt kỹ của một phái nào họ đều thông

hiểu. Kể cũng lạ thật, khi họ muốn giết chết ai nhất định lại dùng cái môn

tuyệt kỹ đã nổi tiếng của người đó để sát hại.

Đoàn Dự nói xen vào:

- Vâng! quả là một điều kỳ dị ngoài sức tưởng tượng của con người. Võ

công trong thiên hạ biết bao nhiêu là môn, làm sao mà họ học được cả?

Huỳnh Mi đáp:

- Đoàn công tử nói đúng đó. Việc học rộng như biển cả, ai mà thông suốt

hết được bao giờ? Có điều kẻ thù của Mộ Dung Bác cũng chẳng có nhiều.

Nếu họ chưa học được hết môn tuyệt kỹ của cừu nhân đến mức có thể dùng

để giết đối phương thì họ sẽ không động thủ được.

Bảo Định Đế nói:

- Tôi cũng nghe thấy ở Trung Nguyên có người kỳ dị như thế. Lạc thị tam

hùng ở Hà Bắc nổi tiếng về môn phi truỳ rồi sau ba người đó đều chết vì bị

trúng phi truỳ. Rồi Chương Hư đạo nhân ở Sơn Đông lúc định giết ai bao giờ

cũng chém cụt hết chân tay, để địch thủ phải kêu khóc hàng nửa ngày rồi

mới chết được. Sau chính Chương Hư đạo nhân cũng bị thảm báo như thế.

Lời tuyên bố của nhà Mộ Dung từ cửa miệng Chương Hư đạo nhân truyền

đi.

Ngừng một lúc Bảo Định Đế lại nói tiếp:

- Hồi ấy, ở Tế Nam giữa phiên chợ náo nhiệt không biết bao nhiêu người

quây quần chung quanh Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu gào dưới đất.

Nói tới đó Bảo Định Đế phảng phất dường như đang mục kích cái thảm

trạng Chương Hư đạo nhân trong lúc lâm tử. Nét mặt nhà Vua đầy vẻ bất

mãn.

Đoàn Chính Thuần gật đầu nói:

- Thế thì đúng rồi.

Chợt nhớ ra một việc Đoàn Chính Thuần nói tiếp:

- Tôi nghe nói Kha Bách Tuế, sư phụ của Quá đại hiệp rất thiện sử cây

nhuyễn tiên, lúc giết kẻ địch thường dùng nhuyễn tiên quấn chặt vào cổ đối

phương khiến cho địch thủ chết vì nghẹt thở. Phải chăng lúc...

Đoàn Chính Thuần chưa nói hết câu đã vỗ tay ba cái gọi một tên thị bộc tới

bảo:

- Mi đi gọi Thôi tiên sinh và Quá đại hiệp tới đây để cùng ta thương nghị

việc cần.

Tên bộc thị ngập ngừng chưa hiểu Thôi tiên sinh là ai. Đoàn Dự lại phải nói

cho gã biết Thôi tiên sinh tức là Hoắc tiên sinh, người giữ sổ sách chi tiêu

trong Vương phủ. Bấy giờ tên bộc thị mới hiểu rõ chạy đi mời. Trong giây

phút Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đã đến sảnh đường.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Quá đại hiệp! Tại hạ có một việc muốn hỏi, xin đại hiệp miễn trách!

Quá Ngạn Chi đáp:

- Không dám.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Tại sao lệnh sư Kha tiền bối bị họ ám toán và bị tử thương đến trí mạng?

vì quyền cước hay vì binh khí?

Quá Ngạn Chi thẹn đỏ ửng cả mặt, lúng túng mãi mới trả lời được:

- Gia sư bị hại vì một đòn "linh xà chiến đẩu".

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự đưa mắt nhìn nhau trong lòng

đều thấy rùng rợn.

Tuệ Chân vội chạy tới trước mặt Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi chắp tay

vái chào nói:

- Anh em bần tăng cùng hai vị đều căm phẫn một kẻ thù chung. Nếu không

diệt được nhà Mộ Dung ở Cô Tô...

Tuệ Chân nói dở câu thì trong bụng nghĩ thầm: "chưa chắc mình đã diệt nổi

nhà Mộ Dung. Nếu không xong thì lại là một điều rất nguy hiểm". Nhà sư

nghiến răng nói tiếp:

- Bần tăng nhất quyết liều mạng với họ.

Quá Ngạn Chi hai mắt đẫm lệ đáp:

- Thế ra phái Thiếu Lâm cũng kết mối thâm thù với nhà Mộ Dung rồi ?

Bấy giờ Tuệ Chân mới đem việc sư phụ Huyền Bi chết về tay Mộ Dung thế

nào, thuật qua lại một lượt.

Bảo Định Đế thấy Quá Ngạn Chi lộ vẻ sầu bi, căm hờn, nghiến răng thống

hận kẻ thù, còn Thôi Bách Kế chỉ cúi đầu rũ rượi chẳng nói năng gì tựa hồ

như không quan tâm gì đến mối thù sư huynh bị sát thân, trong lòng rất lấy

làm kỳ dị. Tuệ Thiền hoà thượng tính vốn thẳng thắn bộp chộp, buột miệng

hỏi ngay:

- Thôi tiên sinh! Có phải tiên sinh sợ bọn Mộ Dung ở Cô Tô chăng?

Tuệ Chân vội mắng át:

- Sư đệ! Không được vô lễ.

Kha Bách Tuế qua đời rồi thì Thôi Bách Kế sẽ là chưởng môn phái Tung

Sơn. Phái Tung Sơn ở gần kề ngay phái Thiếu Lâm. Nên nhớ rằng ông thuỷ

tổ dựng ra phái Tung Sơn đã dám đến bên cạnh phái Thiếu Lâm, dựng ra

một môn phái, nêu cao ngọn cờ võ thuật phi phàm thì đủ biết bản lãnh phái

này thế nào. Hơn nữa thầy trò Kha Bách Tuế và Quá Ngạn Chi đều thanh

danh lừng lẫy khắp Trung Nguyên, danh vị Thôi Bách Kế trong võ lâm tất

nhiên cũng không phải là hèn kém. Nào ngờ Thôi Bách Kế vừa nghe Tuệ

Thiền nói đã lơ láo ngó lui, ngó tới tựa hồ sợ trong vách có tai hay kẻ thù

ghê gớm rình rập sắp ập vào, tỏ ra con người khiếp nhược.

Tuệ Thiền thấy dáng điệu Thôi Bách Kế như vậy, cho là một kẻ hèn nhát

đáng khinh, liền hừ một tiếng và nói lẩm bẩm một mình:

- Đại trượng phu lúc đáng chết thì chết làm gì phải sợ sệt đến thế?

Lúc đó Tuệ Chân cũng biểu đồng tình về sự khiếp nhược của Thôi Bách Kế

nên mặc cho sư đệ muốn nói gì thì nói, cũng không ngăn cản nữa.

Huỳnh Mi hòa thượng khẽ đằng hắng rồi nói:

- Việc này...

Huỳnh Mi vừa nói được hai tiếng thì Thôi Bách Kế toàn thân run lẩy bẩy,

đứng bật lên như cái lò xo, đụng phải chiếc chén nước trên khay trà rơi

"binh" xuống đất, vỡ tan ra. Thôi tiên sinh định thần lại, thấy mọi người đều

chú mục nhìn mình, bất giác đỏ mặt tía tai ngượng nghịu nói:

- Không xong rồi! Không xong rồi!

Quá Ngạn Chi chau đôi mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ. Đoàn

Chính Thuần nghĩ bụng: "lão Thôi Bách Kế này không có một chút gan dạ

nào hết", rồi quay sang hỏi Huỳnh Mi:

- Việc này sư huynh nghĩ sao? Xin cho nghe nốt!

Huỳnh Mi hấp một hớp nước trà rồi thủng thẳng hỏi:

- Thôi thí chủ đã gặp Mộ Dung Bác rồi?

Thôi Bách Kế vừa nghe ba chữ "Mộ Dung Bác" đã giật mình rú lên một

tiếng kinh hãi, rồi hai tay vịn vào ghế cho khỏi té, giọng run run đáp:

- Cha... tôi đã... không... gặp bao giờ.

Tuệ Thiền hỏi lớn:

- Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác chưa? Xin nói rõ!

Thôi Bách Kế giương đôi mắt nhìn trời như kẻ mất hồn. Bọn Đoàn Chính

Thuần thấy thế đều lắc đầu, ngấm ngầm thất vọng. Quá Ngạn Chi vốn dĩ

bảo trọng danh dự của môn phái, bây giờ thấy sư thúc, người kế vị chưởng

môn tỏ vẻ hèn nhát trước mặt mọi người lại càng cảm thấy bứt rứt khó chịu.

Đợc một lúc Thôi Bách Kế mới cất giọng run run đáp:

- Chưa... ờ... hình như chưa gặp bao giờ.

Huỳnh Mi nói:

- Lão tăng đã từng có phen đích thân nếm trải, vậy xin thuật lại để các vị

tham tường cũng chẳng hại gì. Việc xảy ra đã bốn mươi ba năm trước đây

rồi. Lúc đó bần tăng còn ít tuổi sức mạnh, vừa xuất thân đã chiếm được chút

thanh danh trong chốn giang hồ, khác nào trâu nghé mới sinh chưa biết sợ

hổ là gì. Vẫn tưởng là khắp thế gian rộng lớn này, ngoài sư phụ ra không

còn ai võ nghệ cao cường bằng mình nữa. Năm đó, tôi hộ tống một ông

quan đã mãn nhiệm kỳ tại kinh về quê với cả gia quyến. Khởi hành từ Biện

Lơng về Sơn Đông. Khi tới rặng núi phụ cận Thanh báo cương thì gặp bốn

tên cường đạo. Bọn này không cướp tiền của đồ vật mà chỉ định bắt tiểu thưcon vị quan đó. Bần tăng đang độ thanh niên khí khái, quyết chẳng dung

tình, hạ thủ ngay bằng những đòn hiểm độc. Dùng môn Kim cương chỉ hạ

sát luôn bốn tên cường đạo, tên nào cũng bị ngón tay đâm thủng vào tận

tim, chết không kịp ngáp. Giữa lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp,

hai ngời cỡi lừa đi ngang qua. Bần tăng đang lúc vênh vang đắc ý, quá

kiêu ngạo, nói phun bọt rãi, khoe khoang với vị kinh quan: "dù có tám,

chín, mười đứa cường đạo nữa tới tôi cũng dùng kim cương chỉ giết cho chết

hết". Bỗng một người ngồi trên lưng lừa "hừ" một tiếng, nghe tựa như tiếng

đàn bà. Trong cái hừ đó dường như chứa đựng đầy vẻ khinh miệt, chế diễu.

Tôi quay đầu nhìn lại, quả thấy một thiếu phụ rất đẹp, chừng 32, 33 tuổi

ngồi trên lưng lừa và một cậu trai nhỏ chừng 12, 13 tuổi, mi thanh mục tú,

hình dung tuấn nhã cỡi trên lnưg một con lừa khác. Hai người đều có trọng

tang, mặc toàn đồ trắng. Cậu bé nói: "Má! Hay chi cái trò "Kim cương chỉ"

mà gã kia cũng đem ra khoe khoang khoác lác?".

Lai lịch Huỳnh Mi tăng thế nào, ngoài anh em Bảo Định Đế ra ít ai biết rõ.

Song lúc ở trong hang Vạn Kiếp nhà sư dùng sức Kim Cương chỉ vạch đá

làm bàn cờ, ấn lõm đá thành quân cờ, cuộc đấu trí đấu lực với thái tử Diên

Khánh rất gay go và hi hữu đó đã trở thành một câu chuyện rất hào hứng

trong võ lâm. Mọi ngời đều đem lòng kính ngưỡng nhà sư và rất khâm

phục môn "Kim cơng chỉ". Bây giờ nghe hoà thượng thuật lại lời cậu bé, ai

cũng cho là đứa trẻ nít không biết gì nói bậy. Không ngờ Huỳnh Mi khẽ thở

dài rồi nói tiếp:

- Nghe cậu bé nói, bần tăng tuy cũng có ý tức giận, song cho là lời ngông

càn của con nít, không đáng chấp nên chỉ lừ mắt nhìn qua, rồi cũng chẳng

thèm lý đến nữa. Nào ngờ thiếu phụ lại chỉ trích thêm: "Môn Kim cương chỉ

của người đó là môn chính tông Bồ Đề Đạt Ma, về nghệ thuật kể cũng được

tới ba thành rồi đấy. Mi là con nít biết gì mà nói? Mi phóng ngón tay chắc

cha được trúng bằng người ta đâu". Bần tăng nghe thiếu phụ nói vừa kinh

ngạc lại vừa phẫn nộ. Nguồn gốc môn phái bần tăng khách giang hồ ít ai

biết rõ. Thế mà thiếu phụ này công nhiên nói toạc ra, lại còn biết bần tăng

luyện môn "Kim cương chỉ" mới được có ba thành, điều này khiến bần tăng

không thể nhịn được. Ôi! kỳ thực bần tăng chưa hiểu trời cao đất rộng, công

lực của bần tăng ngày ấy mà bảo đã luyện được tới ba thành là nói quá lên

rồi chứ đúng ra mới được hơn hai thành mà thôi. Bần tăng lớn tiếng thách

thức: "Vị phu nhân kia tôn tính là gì? Đã coi thường "Kim cương chỉ" của

tại hạ, chắc là có ý dạy cho mấy đòn chăng?". Cậu bé gò cương lại, vừa toan

trả lời, thì thiếu phụ thốt nhiên hai mắt đỏ ngầu, rớm lệ bảo con: "Gia gia

mi lúc lâm chung đã dặn những gì? Mi chóng quên thế?". Cậu bé đáp: "Dạ!

Khi nào con dám quên?". Hai con lừa lại tiếp tục cất bớc đi về phía trước.

Bần tăng càng nghĩ lại càng bất phục, liền thúc ngựa đuổi theo gọi: "Ô kìa!

Trong đám giang hồ có ai lại mở miệng chỉ trích bừa bãi võ công của người

khác rồi không ở lại tỷ thí mấy hiệp, cứ bỏ đi ngay mà được bao giờ?". Con

tuấn mã của bần tăng đi rất mau, vừa nói dứt lời nó đã vượt lên chắn trước

mặt hai ngơừi. Thiếu phụ quay lại bảo con: "Mi coi đó mà coi! Cứ buột

miệng nói bừa ngời ta đâu có chịu ngơ đi?". Cậu bé này xem chừng đối với

mẫu thân rất là hiếu thuận, không dám ngước nhìn bần tăng nữa. Bần tăng

thấy họ đã sợ mình, nghĩ bụng: "đây là một cặp mẹ goá con côi, mình có

thắng họ cũng chẳng vẻ vang gì, hà tất ta phải cố chấp như mọi người khác?

Song nghe lời thiếu phụ thì dường như đứa bé này đã biết môn "Kim cương

chỉ". Về môn này bần tăng phải tốn công phu trong một thời gian 10 năm

mới luyện được tới mức đó vậy đứa con nít này có lý nào hiểu được? Chắc

là nói phóng đại đó thôi". Bần tăng liền nói đổng một câu: "Hôm nay ta để

cho các ngươi đi về sau thì nói năng nên cẩn thận một chút nghe!". Thiếu

phụ đó vẫn không nhìn bần tăng, quay lại bảo con: "Thúc thúc đây nói phải

đó, về sau con nói năng nên cẩn thận một chút". Nếu câu chuyện tới đây mà

thôi đi thì hai bên đều không mất thể diện. Khốn nỗi thời đó bần tăng đang

độ trẻ tuổi hung hăng, kéo ngựa sang bên đường nhường cho thiếu phụ đi

trước, đến lúc cậu bé vừa vỗ mình lừa cho cất bước, bần tăng giơ roi quất

vào mông lừa của cậu bé và cười vang lên bảo: "Đi mau mau lên nhé". Đầu

roi của bần tăng còn cách mông lừa chừng một thước, bỗng nghe rắc một

tiếng, cậu bé quay đầu lại, luồng chỉ lực đã xé không khí vụt tới đánh đứt

chiếc roi ngựa của bần tăng ra làm đôi. Một thế đánh làm cho bần tăng

hoảng vía ngẩn người ra, biết rằng chỉ lực quá lợi hại, muôn ngàn lần bần

tăng không thể kịp được. Lại nghe thiếu phụ bảo con: "Đã trót ra tay thì

phải làm sao cho kết liễu đi chứ?". Cậu bé đáp: "Vâng". Cậu nghiêng mình

xuống lừa, chẳng nói năng gì, giơ một ngón tay nhằm điểm vào cổ chân bần

tăng. Cậu bé nhỏ và thấp, bần tăng lại ngồi trên mình ngựa, ngón tay cậu

chỉ chấm tới chân bần tăng, song thế đánh của cậu bé rất hay, đúng là thủ

pháp "Kim cơng chỉ". Bần tăng buông người từ trên mình ngựa xuống,

không dám khinh thị cậu chút nào, cũng dùng "Kim cơng chỉ" để tiếp

chiến. Hai bên giao đấu, càng đánh bần tăng càng thấy sợ sệt vì chỉ pháp

của cậu bé tuy chưa thuần thục lắm, ngẫu nhiên cũng có chỗ sai, song chỉ

lực đi tới đâu cũng phát ra âm hưởng veo veo. Bần tăng quả thực không dám

tiếp chiến một cách cứng rắn. Đánh chưa được chín hiệp, thì trước ngực

phía bên trái cảm thấy đau nhói, rồi kình lực toàn thân bị mất hết.

Thuật tới đây Huỳnh Mi để lộ bộ ngực gầy gò, chìa cả mấy giẻ xương sườn

ra. Mọi người thoáng nhìn đều sự tái mặt, vì thấy phía bên trái lồng ngực,

nhằm đúng vào tâm tạng, có một lỗ thủng sâu tới một tấc. Tuy lỗ thủng đã

thành sẹo rồi nhng vẫn có thể tưởng tượng lúc mới bị đâm thì vết thương

đó hệ trọng tới mức nào. Có một điều kỳ dị là vết thương đó đã đâm thủng

vào sâu đến tâm tạng mà nhà sư vẫn không chết, còn sống được mãi tới

ngày nay. Huỳnh Mi tăng lại trỏ vào phía ngực bên phải cho mọi người xem

thì thấy da thịt chỗ đó luôn luôn phập phồng. Bấy giờ họ mới hiểu Huỳnh

Mi hòa thượng có tướng khác lạ, tâm tạng lại lệch về bên phải chứ không

thiên sang bên trái nh người thường, vì thế mà năm đó hòa thượng mới

thoát chết.

Huỳnh Mi xốc lại áo, thắt lại đai lưng rồi nói tiếp:

- Tâm tạng nằm lệch về bên phải như thế, thực là hàng vạn người không có

một. Cậu bé thấy dùng chỉ lực đánh trúng tâm tạng mà bần tăng vẫn không

chết, vội nhảy lùi lại một bước, sắc mặt lộ vẻ kinh dị. Bần tăng nhìn lồng

ngực máu cứ ồng ộc tuôn ra, cho là tính mạng không thể bảo toàn được nữa

nên chẳng còn kiêng nể, cất tiếng mắng tràn: "Thằng giặc con kia! Mi bảo

mi biết sử dụng "Kim cương chỉ", hừ hừ Kim cương chỉ của Đạt Ma hạ viện,

có bao giờ đánh người đến chảy máu mà vẫn không giết được người?". Cậu

bé nhảy lại trơức mặt, toan đánh tiếp một chỉ. Lúc đó thì bần tăng hoàn toàn

không còn khả năng chống cự gì đưược nữa, chỉ có cách bó tay đợi chết.

Không ngờ thiếu phụ lại cầm roi ngựa vung ra, quấn chặt lấy lưng cậu bé,

nhấc lên một cái, nâng bổng cậu bé, đặt lên lng lừa. Trong lúc mê man, tôi

còn nghe văng vẳng tiếng thiếu phụ chỉ trích con: "Họ Mộ Dung đất Cô Tô

có đứa trẻ nào tranh hơi như mi đâu? Kim cương chỉ của mi đã không học

đợc tới nơi, tới chốn nên không giết được y, ta sẽ phạt mi trong bảy

ngày...". Nghe đang dở câu thì tôi bị ngất xỉu, không biết gì nữa, chẳng hiểu

bà ta phạt con trong bảy ngày như thế nào.

Kim toán bàn Thôi Bách Kế hỏi:

- Đại sư... về sau... về sau có gặp bọn họ nữa không?

Huỳnh Mi đáp:

- Nói ra càng thêm xấu hổ. Từ lúc bần tăng trải qua việc đó đâm ra chán

nản, vì thấy đứa bé nhỏ xíu mà bản lãnh đã cao siêu đến thế, dù mình có

luyện võ công đến mấy đi nữa, cũng không tài nào kịp họ được. Sau khi

khỏi vết thương, lập tức bần tăng rời khỏi địa giới nước Đại Tống tìm đến

nước Đại Lý, nương nhờ ở dưới quyền cai trị của Đoàn Hoàng gia. Qua

được mấy năm, bần tăng xuất gia đầu Phật. Trong thời gian tu hành, bần

tăng tuy đã thẩm thấu được lẽ sinh tử, không đem sự vinh nhục năm xa để

vào trong tâm nữa song ngẫu nhiên hồi tởng đến, vẫn thấy ghê ngời,

chẳng khác gì con chim phải tên.

Mọi người nghe nói đều mặc nhiên không nói gì mà lòng khinh bỉ Thôi

Bách Kế đã giảm đi một phần. Vì võ công Huỳnh Mi cực kỳ lợi hại mà đối

với nhà Mộ Dung còn phải e dè thế thì Thôi Bách Kế có sợ thất thần cũng

nên nguyên lượng.

Thôi Bách Kế hình như cũng hiểu tâm tình mọi người bèn nói:

- Huỳnh Mi đại sư là bậc đàn anh trong đám giang hồ còn đem việc dĩ vãng

phơi bày ra hết, không dấu giếm mảy may thì Thôi mỗ là hạng người gì mà

sợ không dám thổ lộ những điều kém cỏi của mình? Vậy tại hạ cũng xin

đem nguyên do phải trốn vào phủ Trấn Nam Vương tường trình bệ hạ cùng

Vương gia. Nơi đây chẳng có ai là người ngoài, tại hạ cũng xin nói hết để

các vị suy xét.

Thôi Bách Kế còn lấm lét, nghển cổ trông ra phía ngoài cửa sổ, uống luôn

hai chén trà thấm giọng rồi nói tiếp:

- Việc này xảy ra từ mười tám năm trước đây. ở trong thành Vô ô quân, có

một tên thổ hào họ Thái là người trọc phú bất nhân, áp chế dân lành. Một

người bạn của sư huynh tôi bị y hãm hại, toàn gia đều chết dưới bàn tay tên

thổ hào đó.

Quá Ngạn Chi ngắt lời hỏi:

- Sư thúc! Có phải sư thúc nói tên tặc tử Thái khánh Đồ đó không?

Thôi Bách Kế tiếp:

- Đúng rồi! Sư phụ mi mỗi khi nhắc tới tên Thái Khánh Đồ lại nghiến răng

căm hờn, có điều sư phụ mi là người tốt, chỉ biết an thân thủ phận. Ông có

làm cáo tạng lên kêu quan mấy lần nhưng đều bị Thái Khánh Đồ đem tiền

hối lộ để quan nha ỉm đi. Nếu sư phụ mi dùng nhuyễn tiên giết Thái Khánh

Đồ thì là một việc rất dễ dàng, song ông không chịu làm việc gì phạm pháp.

Còn Thôi mỗ trái lại, trộm gà, bắt chó, đĩ bợm, cờ bạc, giết người đốt nhà

không từ việc gì hết. Một đêm kia, Thôi mỗ nóng tiết, mò vào nhà Thái

Khánh Đồ, giết sạch toàn gia y hơn 30 người. Tôi giết từ cổng giết vào,

thẳng tới vườn hoa ở phía sau. Cả đến những người coi vườn nữ tỳ cũng

không để sót một mống nào. Khi vào đến giữa vườn hoa, bỗng thấy trên cửa

sổ một toà lầu nhỏ có ánh đèn lọt ra. Tôi chạy tuốt lên lầu, đạp tung cửa vào

thì thấy đó là một chư phòng, những giá gác xung quanh xếp toàn sách vở,

hoạ đồ. Một đôi nam nữ thanh niên, ngồi sánh vai nhau bên bàn đang mở

sánh xem. Thanh niên chừng 28 tuổi, phong độ thanh tao hoà nhã. Thiếu nữ

còn ít tuổi hơn, ngồi quay lưng ra ngoài nên tôi không nhìn rõ diện mạo.

Nàng mặc áo mỏng mầu lục nhạt, dưới ánh đèn lấp lánh trông rất thanh nhã.

Con mẹ nó...

Thôi Bách Kế vốn dĩ nói năng rất văn hoa, trái ngược hẳn với hành vi trong

lúc bình thường. Không ngờ bây giờ lại đột nhiên văng một câu chửi tục ra,

mọi người đều lấy làm ngạc nhiên.

Thôi Bách Kế không để ý tiếp tục kể:

- Tôi giết một hơi ba mươi mấy người, đang lúc hứng bỗng thấy đôi trai gái

chó chết này, con mẹ nó, tôi rất lấy làm kỳ vì những người trong nhà Thái

Khánh Đồ toàn là một giống thô lỗ hung dữ, sao lại mọc ra đôi nam nữ

thanh tú này? phải chăng là Trương Quân Thuỵ và Thôi Oanh Oanh trong

vở kịch? Tôi đứng ngẩn người ra nhìn hồi lâu, không muốn ra tay hạ sát.

Hoi 23 Quần hùng khiếp vía

Đoàn Dự nghe Thôi Bách Kế kể tới đây, trong bụng nhẩm tính: "thằng nhỏ

12, 13 tuổi mà Huỳnh Mi tăng gặp cách đây bốn mươi ba năm với thanh

niên Thôi Bách Kế gặp trước đây mười tám năm không thể là một người vì

thằng nhỏ kia tới ngày đó đã lớn tuổi hơn nhiều".

Thôi Bách Kế kể tiếp:

- Trong lúc tôi đang ngẩn người ra, bỗng nghe người thanh niên hỏi:

"Nương tử! Từ "quy muội" đến "vô vọng" bày hàng thế này có đúng

chăng?".

Đoàn Dự nghe đến "quy muội", "vô vọng" biết ngay là thanh niên nói những

quẻ trong kinh dịch.

Thôi Bách Kế kể tiếp:

- Người đàn bà trầm ngâm một lúc rồi đáp: "Cần phải khởi từ góc đông bắc

đi xéo sang "minh di" rồi lại quay về "tốn vị", chàng coi có thể đi thông suốt

được chăng?".

Đoàn Dự giật mình ngắt lời:

- Những lời thiếu phụ nói đó rõ ràng là ở trong phép Lăng Ba Vi Bộ có điều

vị trí hơi lệch lạc chưa đúng hẳn. Chẳng lẽ thiếu phụ này lại có liên quan

đến pho tượng thần ở trong thạch động kia?

Thôi Bách Kế hoàn toàn không hiểu gì về câu hỏi của Đoàn Dự, tiếp tục kể:

- Tôi thấy vợ chồng cứ giảng luận sách vở hoài, nóng ruột không nhịn được

nữa, lớn tiếng quát: "Cặp trai gái chó dê này! mẹ chúng bay! Ta cho chết

hết". Không ngờ hai người đó giả điếc, vờ như không nghe thấy, mắt vẫn

nhìn vào sách, người vợ lại hỏi nhỏ chồng: "Từ chỗ này tới "tốn vị" mà chín

bước thì làm sao mà đi tới được?". Tôi lại quát mắng: "Đi đi... đi xuống cõi

âm để gặp ông tổ 18 đời nhà mi à?". Dứt lời tôi toan nhẩy đến, thì thốt

nhiên người chồng cả cười vỗ tay reo: "Hay lắm! Hay lắm! âm tức là quẻ

"khôn", ông tổ mười tám đời, phải lắm, 9 lần 2 là mười tám, bộ này chuyển

đến "khôn vị" được. Thế là bộ pháp chỗ này ta thông hiểu được cả". Đoạn

người chồng thuận tay chụp xuống chiếc bàn tính trên ngăn sách, không

hiểu gã làm thế nào, đột nhiên ba con toán bay vút ra. Tôi cảm thấy trước

ngực đau nhói, người mình như bị đóng đinh xuống, không nhúc nhích được

nữa. Hai người vẫn chẳng thèm nhìn đến tôi, lại tiếp tục bàn luận nghĩa

sách. Tôi nghe chẳng hiểu gì cả, trong lòng sợ hãi không biết đến đâu mà

kể. Sở dĩ người ta tặng tôi cái ngoại hiệu "Kim toán bàn" vì lúc nào tôi cũng

mang theo một chiếc bàn tính đúc bằng hoàn kim. Trong đó có 17 con toán,

chuyên dùng vào việc đả thương địch thủ khi cần đến. Có điều trong bàn

tính của tôi phải đặt máy móc, dùng sức đẩy bằng lò xo. Còn bàn tính của

người này chỉ là cái bàn tính thường làm bằng gỗ đỏ. Tôi nhìn kỹ lại thì

thấy một cái suốt tre ở giữa bàn tính của gã đã gẫy làm mấy đoạn. Rõ ràng

đã dùng nội lực bẻ gãy chiếc suốt đó, đồng thời dùng nội lực bắn con toán

ra, kỹ thuật gã tới mức độ thật không ai có thể tưởng tượng được. Hai người

đàm luận càng hứng thú bao nhiêu thì tôi càng sợ hãi bấy nhiêu, nghĩ thầm:

"mình vừa mới gây nên huyết án, giết hết ba mươi mấy mạng trong nhà này.

Bây giờ người bị cứng đờ, đứng trơ trơ ở đây, cử động không được, nói

không ra lời. Đã đành giết người khác đến thường mạng là cùng, có chết

cũng chẳng oan nhưng e rằng thế tất nhiên phải liên luỵ đến sư huynh, điều

đó làm tôi rất băn khoăn. Bị cầm chân hàng hai trống canh thật là cơ cực, cơ

cực hơn 20 năm chịu khổ hình. Mãi đến lúc bốn bề xao xác tiếng gà gáy,

người chồng mới vui vẻ bảo vợ: "Mấy bộ pháp trước mình tưởng hôm nay

không thể nào nghĩ ra được. Bây giờ chúng ta đi thôi chứ?". Người vợ đáp:

"Kim toán bàn Thôi lão sư đã giúp huynh nghĩ ra được một bộ pháp kỳ

diệu, vậy cũng nên tạ ơn vị đó mới phải chứ?". Tôi vừa mừng vừa sợ, không

hiểu sao họ lại biết cả tính danh mình. Người chồng nói tiếp: "Đã thế thì để

cho y sống thêm mấy năm nữa. Lần sau gặp ta sẽ kết liễu tính mạng y".

Đoạn hai người thu nhặt sách vở, cầm tay nhau từ trong cửa sổ nhảy ra.

Tướng mạo người đàn bà thế nào thuỷ chung tôi vẫn không thấy rõ, chỉ có

lúc ra đi nàng đưa tay trái về phía sau lưng tôi phất nhẹ để giải huyệt cho.

Tôi cúi đầu xuống nhìn thì thấy vạt áo trước ngực mình bị thủng ba chỗ, hai

con toán đã lặn vào bên trên hai vú và một con nữa lặn vào chỗ chính giữa.

Ba con toán song song một hàng và phân khoảng rất đều, tưởng lấy thước

đo mà đặt vào chưa chắc đã đúng được thế. Đây các vị thử coi xem!

Nói xong Thôi Bách Kế liền cởi áo ra, mọi người trông thấy đều không nhịn

cười được. Ba con toán lặn sâu vào trong thịt thành một hàng thẳng tắp,

phân quãng rất đều ở trước ngực mà không hiểu sao không tìm cách lấy ra.

Thôi Bách Kế lắc đầu, cài lại khuy áo rồi nói tiếp:

- Ba con toán lặn sâu vào trong da người là một tội khổ cực không gì bằng.

Tôi định dùng giao nhọn khoét lấy ra nhưng đấy là những huyệt đạo, chỉ

động tới một chút là ngất xỉu ngay tức khắc, mà phải lâu đến hàng 12 giờ

chưa tỉnh lại được. Còn lấy giũa hay giấy ráp mà mài cọ dần thì cũng đau

đến phải la làng. Tội nghiệp này không có khác gì oan hồn ám ảnh suốt đời.

Mỗi khi thời tiết thay đổi, mưa gió thất thường chỗ đó lại càng đau nhức

không thể nào chịu được.

Thôi Bách Kế thở dài nói tiếp:

- Gã thanh niên ấy còn bảo: "lần sau gặp y nữa là phải chết". Mạng mình

mình phải giữ, khi nào để cho y kết liễu? Nhưng nếu vô phúc chạm trán y

thì đừng có mà hòng sống sót. Muốn bảo toàn tính mạng chỉ có cách duy

nhất là đừng để cho hắn bắt gặp nên bất đắc dĩ phải cao chạy xa bay, thay

đổi họ tên, trà trộn vào làm người giúp việc trong phủ Trấn Nam Vương.

Tôi vẫn đinh ninh rằng nước Đại Lý ở tận góc trời nam, hẻo lánh những

nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên chẳng mấy khi đến đây, vạn nhất mà quân

chó đẻ đó có đến tìm, thì nơi đây còn có Đoàn Vương gia, Cao hầu và Lăng

bằng hữu, bao nhiêu tay cao thủ, chẳng lẽ cứ giương mắt ra mà nhìn, để

mặc cho y giết tôi sao? Ba con toán oan nghiệt này khảm vào trong người

tôi, mỗi khi đau lên chỉ còn cách uống rượu say bí tỷ mê man cho quên đi

mà thôi, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, danh vọng vứt mẹ nó ra ngoài chín

tầng mây.

Mọi người đều thấy rằng cuộc tao ngộ của Huỳnh My tăng và Thôi Bách Kế

đại khái giống nhau, chỉ khác ở phần tiểu tiết mà thôi, một người xuất gia tu

hành, một người mai danh ẩn tích.

Đoàn Dự thốt nhiên hỏi:

- Hoắc tiên sinh! (chàng quen miệng vẫn gọi thế). Sao tiên sinh biết đôi vợ

chồng đó là Mộ Dung thị?

Thôi Bách Kế gãi đầu đáp:

- Đây là do sư huynh tôi nghĩ ra. Sau khi tôi bị nạn ba con toán rồi tôi về

bàn với sư huynh tôi thì người cho là: tất cả các phái võ lâm riêng nhà Mộ

Dung mới dùng cái lối "gậy ông đập lưng ông". Chúng tôi tự lượng, không

thể đối chọi được với các gia đình mà nhân vật toàn là yêu ma quỷ quái đó,

chỉ có cách tránh đi là yên, đành làm cái kiếp con rùa rụt cổ vậy.

Thôi Bách Kế quay lại nói với Đoàn Chính Thuần:

- Đoàn vương gia! Sự tình tôi đã bộc bạch cả rồi. Vậy bây giờ xin kiếu đi

tìm Mộ Dung thị đây. Sư huynh tôi với tôi khác nào tình ruột thịt, cái thù

giết anh nhất định phải báo.

Đoạn quay sang bảo Quá Ngạn Chi:

- Sư điệt! Chúng ta đi thôi.

Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi vái chào mọi người rồi cùng cất bước lên

đường. Mọi người đều ngạc nhiên trước thái độ thay đổi bất ngờ của Thôi

Bách Kế. Lúc trước đối với nhà Mộ Dung sợ hãi là thế, song nhắc đến sự

báo thù cho sư huynh, biết rõ ra đi phen này tất chết mà vẫn quả quyết

không chút rụt rè nên mọi người đều đem lòng kính trọng và cũng không

tiện ngăn cản nữa.

Tuệ Chân hòa thượng đứng lên cung kính nói với anh em họ Đoàn:

- Chưởng môn nhân, sư bá của tệ phái có gửi lời bẩm cùng liệt vị Bảo Định

Hoàng Đế là bậc chí tôn không dám làm phiền nhọc đại giá nhưng nếu được

Trấn Nam Vương đến tệ xá mà chỉ giáo phương sách đối phó với nhà Mộ

Dung cho thì thực là phúc lớn cho võ lâm. Sư bá tôi lại nói thêm: đáng lý ra

người phải thân hành đến lãnh giáo ý kiến Đoàn hoàng gia mới phải, ngặt vì

trong chùa đã phái sư huynh đi mời các bậc cao thủ khắp nơi về hội họp tại

chùa Thiếu Lâm. Sư bá tôi là chủ nhân không dám đi đâu, phải túc trực ở

nhà để đón tiếp các vị anh hùng thiên hạ cho khỏi mang tiếng thất kính.

Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "Thiếu Lâm tự mở cuộc đại hội anh hùng, đó

là một cơ hội tốt hiếm có. Đi dự cuộc họp với khắp các nhân vật trong võ

lâm ở Trung Nguyên là một điều rất hứng thú". Ông có ý muốn đi liền đưa

mắt nhìn Bảo Định Đế, chờ huynh trưởng phát lạc.

Bảo Định Đế nghiêm trang trả lời:

- Họ Đoàn chúng tôi nguyên cũng ở trong võ lâm tại Trung Nguyên ra, mấy

trăm năm nay không bao giờ dám vong bản. Các bạn võ lâm từ Trung

Nguyên đến Đại Lý, chúng tôi đều đón tiếp nồng hậu. Duy có một điều: tổ

tiên họ Đoàn tôi đã có di chúc dặn con cháu không được tham dự vào những

cuộc tư thù, chém giết giữa các phái võ. Đoàn Chính Minh này lâu nay hằng

ngưỡng mộ Huyền Bi đại sư về nhân cách cũng nh về võ công. Tuy nhiên

đối với việc đại sư dặn bảo đây, trái với gia quy tổ tiên chúng tôi nên không

thể tuân mệnh được. Mong sư huynh chuyển lại lời cùng Huyền Bi đại sư

lượng thứ cho.

Tuệ Chân thất vọng, không biết nói thế nào thì đột nhiên Tuệ Thiền quỳ hai

gối xuống, khẩn cầu:

- Trấn Nam Vương tới Thiếu Lâm tự, không phải là chúng tôi dám mong

ngài trực tiếp chiến đấu với bọn Mộ Dung đâu. Vương gia là bậc lá ngọc

cành vàng, đâu có thể khinh xuất mạo hiểm được? Có điều là võ công của

bọn Mộ Dung ở Cô Tô kỳ diệu khôn lường. Gia sư mời các bậc anh hùng

tới, không phải chủ ý nhiều người để nắm lấy phần thắng, mà chỉ mong tập

hợp nhiều ý kiến cho thêm phần bổ ích. Góp nhặt những điều sở trường của

các phái để cùng Mộ Dung so tài cao thấp. Họ Đoàn nước Đại Lý là một

phái võ chính tông về môn Nhất Dương Chỉ ở miền nam, anh hùng trong

bốn bể ai cũng nghe danh và đem lòng kính ngưỡng. Trong cuộc đại hội anh

hùng tại chùa Thiếu Lâm nay mai, nếu họ Đoàn nước Đại Lý không đến dự

là một điều khiếm khuyết rất lớn. Chúng tôi e rằng sẽ không có tay địch thủ

được với gia đình họ Mộ Dung.

Bảo Định Đế phất tay áo một cái, mép tay áo khẽ lướt qua bả vai Tuệ

Thiền. Tuệ Thiền cảm thấy có một làn hơi êm dịu và hùng hậu nâng vai

mình lên. Lão tự nhiên không tự chủ được, đứng phắt dậy, trong lòng rất là

khâm phục la lên:

- Hoàng gia! Nội công Hoàng gia thật là tuyệt diệu.

Bảo Định Đế ôn tồn nói:

- Thiền sư mới từ xa tới, còn đương mệt nhọc, hãy xin mời vào trong sảnh

đường dùng cơm và nghỉ ngơi chút đã. Tại hạ được nghe chuyện hung tin

của tôn sư trong lòng rất thương tiếc. Nhưng họ Đoàn tôi không thể đặt

mình vào trong vòng ân oán của võ lâm được, vì tổ tiên đã có minh huấn để

lại, xin lượng thứ cho!

Lời Bảo Định Đế tuy khiêm tốn ôn hoà song là lời tuyên bố của bậc chí tôn,

tỏ ra tâm ý quyết định rồi, dù có khẩn cầu mấy cũng vô ích nên Tuệ Chân

và Tuệ Thiền đành cáo từ ra đi.

Lúc đó trong nhà đại sảnh còn lại toàn người trong nước. Đoàn Chính

Thuần hỏi Bảo Định Đế:

- Hoàng huynh! Cô tô Mộ Dung nếu quả có kỹ thuật thần diệu như thế thì

tiếng tăm phải lừng lẫy thiên hạ mới phải, vậy mà sao trong võ lâm ít khi

nghe thấy ai nhắc tới?

Bảo Định Đế đáp:

- Một là vì họ ít hành động, hai là lúc tranh đấu với ai, không thổ lộ đúng

họ tên. Ngay như việc xung đột với hai phái Thiếu Lâm và Tung Sơn cũng

chưa biết rõ người đối đầu là ai cả.

Huỳnh Mi tăng cũng nói:

- Chính Minh không chịu tham dự vào cuộc rắc rối này thật là cao kiến.

Việc này khởi phát ra e rằng sẽ thành một cuộc tranh phong đẫm máu giữa

các phái võ, sát hại không biết bao nhiêu nhân mạng đây. Nước Đại Lý ta

mấy năm nay quốc thái dân an, nếu họ Đoàn đi dự cuộc đại hội ở Thiếu

Lâm, sau này tất có những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên sẽ tìm đến Đại

Lý, khiêu khích sinh sự mãi mãi, không bao giờ dứt được.

Đang lúc nói chuyện thốt nhiên có tên vệ sĩ vào bẩm:

- Trình Vương gia, ở cổng ngoài có vị đạo trưởng xin vào tham kiến. Người

nói là cố nhân ở núi Thiên Thai tới thăm bạn cũ.

Đoàn Chính Thuần vui vẻ nói với Bảo Định Đế:

- Hoàng huynh! Thạch thanh tử đạo huynh đã đến.

Nói xong liền chạy ra nghênh tiếp. Bảo Định Đế và Huỳnh Mi tăng nhìn

nhau, tự nhiên thấy Huỳnh Mi tăng đứng dậy nói:

- Lão tăng lánh mặt đây.

Bảo Định Đế mỉm cưười đáp:

- Những ý nghĩ giận hờn trước kia, đến bây giờ mà sư huynh vẫn còn giữ

mãi à?

Huỳnh Mi khẽ nhếch mép cười nói tiếp:

- Phật pháp tinh diệu, chính quả khó thành. Khi lão tăng khám phá ra được

manh mối vượt khỏi chữ "sân", tức là lúc từ giã Đoàn huynh rồi đó.

Nói xong đứng dậy ra khỏi nhà khách sảnh, đi thăm bệnh tình sáu đồ đệ.

Một lát nghe tiếng cười oang oang từ cửa đưa vào, Bảo Định Đế liền đứng

dậy chờ. Đoàn Chính Thuần và một vị đạo nhân dẫn tay nhau bước vào. Đạo

nhân đội mũ, mặc áo vàng, da sáng như ngọc, phong độ thanh nhã như thần

tiên dưới thế. Đạo nhân cúi đầu chao Bảo Định Đế và nói:

- Chính minh ca ca! Bấy lâu nay ca ca phú quý tôn vinh, đại hưởng thanh

bình hạnh phúc lắm đa.

Bảo Định Đế khoanh tay đáp lễ và mỉm cười trả lời:

- Anh chàng mũi trâu kia bôn tẩu giang hồ mãi mãi vẫn chưa dạn mặt phong

trần nhỉ.

Thạch Thanh Tử cười khanh khách nói tiếp:

- Cha cha! Kìa anh Thăng Thái! Mạnh giỏi chứ? còn anh chuyên đào mả

trộm gần đây có phát tài không? Phạm huynh vẫn tươi đẹp như thường,

thêm được mấy vị công tử nữa rồi? Anh chàng Thiên Thạch để nổi danh

mỗi ngày một gày đét để nổi danh "Thiên hạ đệ nhất khinh công" kể cũng

vinh dự lắm đấy! Lại còn anh chàng câu cá này nữa! đã câu được con rùa to

nào chưa?

Thạch Thanh Tử gọi tên từng người ngồi trong khách sảnh, hỏi đùa giỡn

như bạn cố tri một cách rất thân mật, không câu nệ lễ phép chút nào.

Đoàn Dự biết rõ tính bá phụ hòa nhã nhưng chưa bao giờ nghe thấy ông nói

đùa cợt với ai cả. Bây giờ vị đạo nhân này tới, làm cho bầu không khí vui

tươi hẳn lên, đến bá phụ cũng gọi đùa đạo nhân là "chàng mũi trâu". Thế

mới biết Thạch Thanh Tử quả khéo khôi hài và nói chuyện rất có duyên.

Đoàn Chính Thuần gọi bảo Đoàn Dự:

- Con mau chạy ra lạy chào đạo trưởng đi! Vị này là "Đông Phương đệ nhất

kiếm" Thạch Thanh Tử mà thường nhật ta vẫn nhắc tới đó. Người tinh thông

kiếm pháp, có thể là "đệ nhất kiếm pháp" thời nay vậy.

Thực ra Đoàn Dự cha từng nghe phụ thân nhắc tới tên vị này bao giờ. Song

bây giờ không tiện hỏi, chàng vâng lệnh tới lạy chào.

Thạch Thanh Tử vui vẻ khen:

- Cha nào con nấy, quả là một nhân vật phong lưu tuấn tú. Tử đệ nhà họ

Đoàn nước Đại Lý, một nhà võ học uyên thâm, chắc võ công công tử phải

cao siêu lắm.

Thạch Thanh Tử vừa dứt lời liền đưa tay đỡ Đoàn Dự đứng lên nhưng trong

tay đã vận chút ít nội lực chủ ý thử xem võ công Đoàn Dự đã tới mức nào.

Đoàn Dự vội kêu lên:

- Xin đạo trưởng nới tay, cháu chưa học võ công đâu.

Đoàn Dự nói chưa dứt lời thì hai tay Thạch Thanh Tử đã chạm vào bàn tay

Đoàn Dự. Đột nhiên ông giật mình đánh thót một cái. Kình lực vừa phát ra

phút chốc đã biến mất tăm dạng, chẳng khác gì hòn đất quẳng xuống biển,

thấy trong tay Đoàn Dự có một hấp lực rất mạnh hút cuồn cuộn lấy nội lực

trong người mình.

Thạch Thanh Tử đi di lịch khắp thiên hạ, thấy nhiều hiểu rộng, sau khi kinh

hoàng miệng lẩm bẩm: "Đây là môn hoá công đại pháp của phái Tinh Tú

Hải ở núi Côn Luân. Họ Đoàn nước Đại Lý là một chính phái tiếng tăm

lừng lẫy, sao lại để con cháu luyện môn tà thuật này? một môn mà hết thảy

võ lâm đều thống hận, ghê tởm". Ông liền ngưng tụ kình lực, lật hai bàn tay

đập mạnh vào trên mu bàn tay Đoàn Dự mới gỡ được tay ra, khỏi bị dính

chặt vào tay chàng.

Đoàn Dự cảm thấy hai tay đau nhói, tựa hồ xương tay bị gẫy nát, chàng

đem lòng oán hận Thạch Thanh Tử, lẩm bẩm một mình: "Lão này tệ thật,

mình có nhã ý ra lạy chào lão mà lão lại trở mặt đánh mình đau thế này".

Chàng có hiểu đâu rằng Thạch Thanh Tử tưởng lầm là chàng đem tà thuật

hại ông. Ông biết môn "hoá công đại pháp" có một ma lực ghê gớm, một

người luyện võ suốt đời tâm khổ mới thành tài, nhưng chỉ trúng tà pháp này

thì bao nhiêu nội công, ngoại lực đều mất hết, trở thành người không biết

một chút võ công nào nữa. Có điều người dùng môn tà thuật đó tuy làm tổn

hại cho người nhưng cũng chẳng bổ ích gì cho mình cả. Khác với sức "chu

cáp thần công" trong người Đoàn Dự, mỗi khi đụng vào ai thì nó hút lấy nội

lực người đó nhập vào nội lực của mình và cứ mỗi lần tiếp xúc như thế nội

lực lại tăng thêm. Vừa rồi một ít nội lực của Thạch Thanh Tử cũng đã bị

chuyển sang người chàng.

Bọn Bảo Định Đế thấy trạng thái Thạch Thanh Tử có vẻ khác lạ đều lấy làm

kinh ngạc. Đoàn Chính Thuần sợ Thạch Thanh Tử dùng độc thủ đánh con

mình, tức khắc bước tới gần, mỉm cười nói:

- Anh chàng mũi trâu này lâu lắm mới gặp nhau, định dùng món quà gì để

tặng cho con tôi đó?

Đoàn Chính Thuần vừa nói vừa vận dụng nội lực để dự bị đối phó. Vì Thạch

Thanh Tử không những về kiếm thuật đã lừng danh bốn bể mà cả về môn

nội công quyền cước Thạch cũng là một tay trác tuyệt. Nếu để Đoàn Dự bị

trúng một đòn, thì dù chẳng chết cũng bị trọng thương.

Thạch Thanh Tử cười nhạt hỏi:

- Họ Đoàn ở nước Đại Lý, riêng về môn Nhất Dương Chỉ cũng đã nổi tiếng

với thiên hạ hãy còn chưa đủ à? Sao còn phải cho con đi học môn tà thuật

của Tinh tú Hải lão ma làm gì?

Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi:

- Có phải anh nói môn tà thuật "hoá công đại pháp" đó chăng? ai học môn

ấy?

Thạch Thanh Tử đáp:

- Anh để lệnh lang đi vào con đường bàng môn tả đạo mà không sợ làm ô

uế thanh danh họ Đoàn nước Đại Lý ?

Đoàn Chính Thuần lại càng kinh ngạc cho là Thạch Thanh Tử ám chỉ môn

phái Nam Hải Ngạc Thần nên mỉm cười nói tiếp:

- Nam Hải Ngạc Thần tuy cố ý thu nạp con tôi làm đồ đệ nhưng ngờ đâu

trái lại y phải nhận con tôi làm thầy. Dù sao chỉ là chuyện đùa chứ đâu phải

sự thực?

Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp:

- Nam Hải Ngạc Thần cố nhiên là một phái võ có sở trường riêng nhưng y

có biết gì về môn "hoá công đại pháp"?

Đoàn Chính Thuần có vẻ bực bội hỏi:

- Anh chàng mũi trâu này chỉ có một điều "hoá công đại pháp" hai điều

"hoá công đại pháp", định giở trò ma quỷ gì đây?

Thạch Thanh Tử có biết đâu đến chuyện Đoàn Dự có "chu cáp thần công"

trong mình? Chẳng những Bảo Định Đế cùng vợ chồng Đoàn Chính Thuần

không hay mà chính chàng cũng không hiểu nốt. Thạch Thanh Tử cho là

Đoàn Chính Thuần lừa bịp mình, nên đứng phắt dậy, giận dỗi nói:

- Hai vị Đoàn gia! Thạch mỗ tuy mây ngàn hạc nội, phiêu bạt giang hồ

nhưng hai bàn chân không phải là sắt, lẽo đẽo từ Giang Nam đến Đại Lý,

đâu có phải vì một chén thanh trà? Các vị đã không coi tôi là bạn thì thôi,

tôi xin cáo biệt.

Nói xong quay gót đi liền.

Bảo Định Đế mỉm cười bảo Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch:

- Hai người ra giữ lấy anh chàng mũi trâu lại! Bắt gã phải nói cho vỡ lẽ? Vì

lý do gì đã vì tình bạn hữu qua chơi nước Đại Lý, lại chưa ăn uống no say

đã trở gót? Đâu có thể để gã ra đi một cách dễ dàng thế được?

Hoa Hách Cấn và Ba Thiên Thạch cùng là bạn với Thạch Thanh Tử nên đều

cười khanh khách, nhảy ra chặn cửa. Hoa Hách Cấn nói:

- Thạch đạo trưởng! Đạo trưởng qua chơi nước Đại Lý mà không mang theo

trường kiếm, đủ tỏ là đạo trưởng có thịnh tình và giữ thể diện cho bên

Hoàng gia chúng tôi nhưng cũng vì thế mà đạo trưởng muốn qua khỏi cửa

này không phải chuyện dễ dàng.

Thạch Thanh Tử thấy mặt mọi người đều không có gì là kình địch nên trong

lòng nghĩ lại: "cứ như địa vị và danh vọng họ Đoàn quyết nhiên không chịu

để cho con cháu luyện môn tà thuật ô uế của Tinh tú Hải hay là Đoàn Dự đã

học lén và giấu cả cha, bác chăng? nếu mình nói toạc ra e lại kết oán với

Đoàn Dự. Có điều mình đối với Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần là chỗ

thâm giao, chẳng lẽ biết mà không nói?". Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử liền

quay lại, nghiêm nét mặt nói với Đoàn Dự:

- Đoàn công tử ơi! Thạch mỗ dù chẳng có ra gì chăng nữa cũng vẫn là vai

trên công tử. Hôm nay ta có câu chuyện nói ra hơi khó nghe song vì muốn

giữ danh diện cho lệnh bá và lệnh tôn nên buộc lòng ta phải nói. Xin công

tử miễn trách.

Đoàn Dự vội đáp:

- Thạch đạo trưởng có điều chi dạy bảo, Đoàn Dự xin cung kính tuân theo.

Thạch Thanh Tử nghĩ thầm:

- Thằng lỏi con này giả vờ khéo đây! nó làm ngây như thật!

Nghĩ vậy Thạch Thanh Tử hỏi luôn:

- Đoàn công tử học "hoá công đại pháp" được mấy năm rồi? Phải chăng

lệnh sư là một vị chân nhân dưới trướng Tinh Tú Hải lão ma?

Đoàn Dự tuyệt nhiên không hiểu câu hỏi ra sao, chàng hỏi lại:

- Trưởng lão nói sao? "hoá công đại pháp" rồi Tinh Tú Hải lão ma là chi

vậy? Vãn sinh hôm nay mới được nghe trưởng lão nói là một.

Thạch Thanh Tử lại cho là người truyền thụ môn này cho Đoàn Dự cố ý

giấu kín về lai lịch môn phái và giấu luôn cả tên gọi môn võ công đó chăng?

Đạo nhân hỏi tiếp:

- Vậy người truyền môn này cho công tử tướng mạo thế nào?

Đoàn Dự đáp:

- Vãn sinh chưa từng học qua môn võ nào cả.

Giữa lúc đó, Huỳnh Mi tăng từ nội đường xăm xăm chạy ra, nắm lấy tay

phải Đoàn Dự. Nhưng vừa chạm vào tay chàng, nhà sư cảm thấy người run

bần bật và nội lực trong mình cứ thế tuôn ra, không sao hãm lại được. Tức

quá ông liền co chân đá Đoàn Dự bắn đi lăn long lóc.

Mọi người thấy vậy, sợ tái xanh mặt, nhất tề đứng dậy hỏi:

- Chi vậy? Chi vậy?

Huỳnh Mi tăng đáp:

- Hai vị Đoàn huynh! Các vị có đánh chết thằng nhỏ này không? hay để cho

lão tăng phải ra tay?

Giọng nói nhà sư run lên vì tức giận, những thớ thịt trên mặt giật lên trông

rõ. Sở dĩ Huỳnh Mi tăng có hành động này là vì sáu đồ đệ sau khi tỉnh lại

đã kể rõ cho biết chuyện họ bị Đoàn Dự hút hết cả nội lực, nên sự xét đoán

của Huỳnh Mi tăng hoàn toàn giống Thạch Thanh Tử và cho là chàng đã

học môn "hoá công đại pháp" của Tinh Tú Hải. Huỳnh Mi tăng lại còn bực

mình ở chỗ Đoàn Dự còn đem oán trả ơn, làm hư hoại nội lực cả sáu đồ đệ

ông, rồi lúc chính ông chạm vào tay Đoàn Dự lại cảm thấy rõ công lực của

mình cũng bị hao tổn, thế là ông tin chắc, không còn nghi ngờ gì nữa.

Thoạt mới nghe Thạch Thanh Tử nói, Bảo Định Đế lấy làm kỳ quái cũng

cho là tính hạnh Thạch xa nay vẫn a khôi hài, quen lối hoạt kê, cố ý gây

một trò cười, nhưng từ lúc thấy Huỳnh Mi tăng cử chỉ như vậy nhà Vua mới

biết là sự tình nghiêm trọng lắm. Bảo Định Đế đưa tay trái nắm lấy bàn tay

Đoàn Dự dắt dậy. Hai tay vừa chạm vào nhau, nhà Vua cũng cảm thấy trong

lòng xao xuyến và nội lực cứ tiết ra ngoài, liền kìm hãm kình lực lại, phất

mạnh tay áo một cái, đẩy Đoàn Dự lùi ra ba bước và quát hỏi:

- Mi học môn tà thuật này từ bao giờ?

Đoàn Dự từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ bị bá phụ tức giận quát mắng như thế,

sợ quá quỳ mọp xuống lạy, bẩm:

- Cháu chưa từng học môn võ công nào khác, ngoài phép Lăng Ba Vi Bộ.

Nếu có phải đó là một môn tà thuật ác độc thì... từ nay cháu không sử dụng

đến nó nữa, quên nó đi là xong.

Bảo Định Đế vốn biết Đoàn Dự có tính khí cương trực, không hề nói dối

bao giờ, hơn nữa đối với bá phụ vẫn có một niềm kính mến, quyết không có

lý do nào lại dùng tà thuật để hại bác, tất có điều gì bí ẩn bên trong nên lại

hỏi tiếp:

- Mi dùng tà thuật để tiêu tán mất công lực của ta, đó là tự ý mi hay là kẻ

nào bắt buộc, đến nỗi không tự chủ được?

Đoàn Dự lại càng kinh ngạc đáp:

- Cháu không biết mảy may gì cả. Khi nào cháu dám dùng tà thuật làm tiêu

tan nội lực bá phụ? Cháu thực không hiểu một chút gì về tà thuật.

Từ lúc Tuệ Chân và Tuệ Thiến mới đến, Thư Bạch Phụng giữ địa vị một bậc

vương phi, không tiện ra ngoài tiếp tân khách nên vẫn ngồi trong nhà. Sau

khi nghe báo Đoàn Dự bị Huỳnh Mi tăng đá lăn đi và đang bị Bảo Định Đế

chất vấn nóng ruột quá mới chạy ra xem. Bà thấy con đang quỳ dưới đất,

nét mặt hốt hoảng lo sợ, trong lòng xiết bao thương xót, đưa tay cầm lấy

cánh tay con khuyên nhủ:

- Đoàn Dự! Con đừng lo! Có gì cứ trình rõ cho bá phụ... biết là xong...

Vừa chạm vào tay con, Thư Bạch Phụng đã cảm thấy nội lực cứ cuồn cuộn

tiết ra, không sao kìm hãm lại được.

Bảo Định Đế đã biết trước và đề phòng, song giữa anh chồng với em dâu,

không tiện đưa tay ra nắm lại, chỉ dùng tay áo phất mạnh một cái, một

luồng kình lực phóng ra, tựa lưỡi sắt mỏng lách vào giữa, hai tay mẹ con

Đoàn Dự tức khắc rời ra.

Thư Bạch Phụng vừa rút tay ra được kinh hoảng hỏi con:

- Mi... Mi...

Đoàn Dự thấy mẫu thân lảo đảo lùi lại không hiểu ra sao, vừa toan chạy đến

định đỡ cho mẫu thân đứng vững. Đoàn Chính Thuần gọi giật giọng:

- Dự nhi! Đứng yên đấy!

Vừa nói vừa nhảy vội đến, đứng xen vào giữa hai mẹ con Đoàn Dự. Tới lúc

này thì mọi người đều thay đổi ý nghĩ, biết trong người Đoàn Dự có cái gì

quái lạ, không ai còn nghi ngờ chàng đã học môn "hoá công đại pháp" để cố

ý làm hại người nữa. Những vị này am hiểu thế cố, chỉ nhìn vào cử chỉ và

trạng thái Đoàn Dự cũng biết chàng chẳng có mảy may gì là giảo hoạt gian

trá. Dù chàng có là kẻ đại gian, đại ác đến đâu chăng nữa, cũng không có lý

nào lại định làm hại đến cả mẫu thân được.

Cao Thăng Thái thốt nhiên nói với Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử:

- Tôi đố hai vị tìm ra được nguyên nhân vụ này và thi xem ai nói đúng trước

là thắng.

Hai người trừng mắt lườm nhau một cái rồi đều gia công suy nghĩ.

Nguyên trước kia Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử là đôi bạn rất thân

nhưng có một lần ngẫu nhiên tranh luận về hai giáo lý Phật và Đạo rồi

không bên nào chịu bên nào. Cuộc tranh luận giáo lý đưa đến cuộc tỷ thí võ

lực. Mỗi bên đều có sở trường riêng, bất phân cao hạ. Sau còn đấu liên tiếp

mấy lần, cuối cùng đi tới chỗ cả hai người cùng suýt chết, may nhờ Bảo

Định Đế dùng nội lực thượng thừa mới giải cứu được. Song cả ba người

cùng hao tổn công lực. Từ đó bên nhà sư và bên thầy đạo không trông mặt

nhau nữa. Không ngờ hôm nay lại gặp nhau tại phủ Trấn Nam Vương này.

Cao Thăng Thái có ý định hoà giải cuộc đấu tranh vô vị giữa hai bên, chỉ

mong hai người nhân dịp này tỷ thí về kiến văn chứ không tỷ thí về võ lực

để phân rõ thắng phụ mà kết liễu cuộc tranh chấp đó đi. Song Cao Thăng

Thái là bạn thâm giao với Thạch Thanh Tử, ra mục đề như thế không khỏi

có ý thiên lệch ở bên trong. Vì Thạch Thanh Tử là người đi khắp đó đây tất

lịch duyệt hơn. Trong một năm chả được mấy ngày thảnh thơi ngồi nhàn,

còn Huỳnh Mi tăng ở nơi hoang sơn, hẻo lánh kiến văn bằng Thạch Thanh

Tử thế nào được? Có điều Huỳnh Mi tăng cố nhiên là không hiểu được rồi

còn Thạch Thanh Tử thì ngoài sự suy tưởng cho là môn "hoá công đại pháp"

của Tinh Tú Hải ra cũng không sao tìm được câu giải đáp nào khác nữa.

Đoàn Chính Thuần từ hồi nào vẫn ngồi yên, bây giờ thốt nhiên tỏ vẻ phẫn

nộ nói:

- Đoàn Dự trong lúc bị giam trong nhà đá nhất định bị Thanh bào khách

dùng dùng thứ chất độc ghê gớm gì đây, nên trong người có tà thuật mà y

không biết.

Bảo Định Đế gật đầu đáp:

- Thuần đệ suy đoán rất có lý. Đoàn Dự nhất định bị lão dùng thủ đoạn sâu

độc gì chứ không thoát được.

Đoàn Dự đáp:

- Có! Cháu bị hôn mê bất tỉnh, ít nhất cũng tới bốn, năm lần.

Đoàn Chính Thuần vỗ tay nói:

- Đúng rồi, Thanh bào khách nhân lúc Dự nhi hôn mê đem tà thuật làm tiêu

tan công lực chuyền vào trong người nó. Thế là lão mượn tay Dự nhi để làm

hại những người chí thân trong nhà. Cái kế hiểm độc của lão làm cho tất cả

công lực của chúng ta đều bị huỷ hoại về tay Đoàn Dự. Con người thâm độc

như thế hỏi ai không căm phẫn cho được? Đại ca! Việc này không thể chậm

trễ. Ta phải nghĩ cách khử trừ tà thuật cho Dự nhi ngay.

Thư Bạch Phụng lại càng lo lắng, vội hỏi:

- Dự nhi! Con có thấy trong người bứt rứt khó chịu không?

Đoàn Dự chau mày đáp:

- Khắp trong người con chỗ nào cũng toàn chướng khí, chỗ nào cũng bị

căng thẳng muốn chết đi được vì không lối thoát ra ngoài, nó cứ chạy quẩn

trong người. Lục phủ ngũ tạng dường như bị đảo lộn cả lên.

Mọi người thấy thế đều thương xót cho Đoàn Dự, nhất là Thư Bạch Phụng

tình mẫu tử lại càng thấm thía nên nói với Bảo Định Đế:

- Thưa đại bá! Phải nghĩ cách nào để trừ độc cho Dự nhi mới được chứ!

Bảo Định Đế đáp:

- Đệ muội hãy khoan tâm! Hai vị trước mặt ta đây: một tăng, một đạo đều là

nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, một ông mắng thằng bé hết lời,

một ông đá nó quay long lóc, tất nhiên họ phải lãnh trách nhiệm trị bệnh,

giải độc cho y.

Hai người đầu óc đang bận suy nghĩ tìm xem Đoàn Dự mắc phải tà thuật gì

hay là trúng phải nọc độc nên chưa nghe thấy lời Bảo Định Đế vừa nói.

Thốt nhiên Huỳnh Mi tăng reo lên:

- A ha! Phải rồi!

Ai nấy cả mừng chăm chú nhìn vào ông. không ngờ Huỳnh Mi tăng lại lắc

đầu xua tay, cải chính:

- Nhưng mà không đúng! Không đúng! Thứ thuốc độc đó chỉ có thể làm

tiêu tan được công lực bản thân người trúng thôi chứ không thể làm tiêu tan

sức mạnh của người khác.

Đoạn lại thấy Thạch Thanh Tử vỗ đét vào đùi và nói:

- Nhất định là thế này rồi.

Cao Thăng Thái mừng rỡ hỏi:

- Thế nào?

Thạch Thanh Tử vẻ mặt hớn hở đáp:

- Trên núi Trường Bạch ngoài biển thuộc Liêu Đông, có một cái đảo rắn...

Nói tới đây nét mặt vui mừng lạt dần, rồi biến thành thất vọng buồn thiu.

Thạch Thanh Tử lắc đầu nói tiếp:

- Tôi nghĩ lầm rồi! Có một chỗ nói không xuôi được.

Trong toà khách sảnh lại im hơi lặng tiếng hồi lâu, không ai nói năng gì hết.

Trong lúc bầu không khí nặng trĩu bao phủ thoáng nghe có tiếng chân bước

lật đật, một tên thái giám chạy từ ngoài vào đến cửa đã lên tiếng bẩm:

- Khải tâu đức vạn tuế, có hai tên giả câm giả điếc, chúng dám viết những

câu đại nghịch bất đạo vào trước ngực, hiện đã bắt giữ, để ngoài cửa cung.

Bảo Định Đế vừa nghe thấy bốn chữ: "giả câm giả điếc" chợt nghĩ ra điều gì

hỏi lại:

- Người đó bị câm thật hay bị cắt lỡi?

Thái giám đáp:

- Đức vạn tuế thật là bậc thánh minh nhìn xa muôn dặm. Hai tên gian tế này

quả là bị cắt lưỡi.

Bảo Định Đế đưa mắt nhìn Huỳnh Mi tăng cùng Thạch Thanh Tử và Đoàn

Chính Thuần. Mọi người đều tự hỏi: "phải chăng lung á lão nhân cũng ra

tay, thế này thì lại càng thêm phiền cho mình".

Bảo Định Đế quay sang bảo Ba Thiên Thạch:

- Ngươi ra mời hai người khách đó vào đây!

Được một lát Ba Thiên Thạch dẫn hai gã thanh niên chừng 18, 19 tuổi vào

bẩm:

- Có sứ giả dưới trướng Thông Biện tiên sinh vào triều kiến bệ hạ.

Nguyên Lung á lão nhân vừa điếc vừa câm nhưng lại mang ngoại hiệu

Thông Biện tiên sinh, ra điều tai ta tuy điếc nhưng lại nghe rõ hơn mọi

người, miệng ta tuy câm nhưng lại hùng biện hơn ai hết. Lung á tiên sinh là

một nhân vật rất nổi tiếng trong võ lâm, không thuộc phe tà mà cũng không

hẳn phe chính. Lão đã kết oán với ai thì suốt đời tranh đấu liên miên. Nếu

chưa làm được cho kẻ thù tàn tạ thì không bao giờ chịu thôi. Vì thế những

người trong võ lâm có võ công tương đương với lão, hoặc cao hơn lão cũng

xử nhũn với lão để tránh mọi sự phiền não.

Mọi người thấy hai gã thanh niên khí vũ hiên ngang, diện mạo thanh tú,

cùng mặc áo bào trắng dài lợt thợt, trước ngực có viết hai hàng chữ: "Sứ

giả dưới trướng Thông Biện tiên sinh có việc báo cho Đoàn Chính Minh tiên

sinh hay". Khắp trong nước Đại Lý ai cũng phải kiêng hai chữ Chính Minh

không được nhắc tới. Bây giờ thấy hai gã này dám công nhiên viết "Đoàn

Chính Minh tiên sinh" vào trước ngực nên một nhóm triều thần và thái giám

cho là kẻ đại nghịch bất đạo.

Bảo Định Đế tủm tỉm cười nói:

- Thông Biện tiên sinh gọi ta bằng tiên sinh, thế cũng là nể ta lắm đó.

Hai thanh niên tới trước mặt Bảo Định Đế chỉ vái chào chứ không quỳ lạy.

Ba Thiên Thạch lấy giấy bút trên bàn viết mấy chữ: "Thông Biện tiên sinh

có điều chi muốn nói? Các ngươi tâu lên Hoàng thượng đi!".

Lung á lão nhân tính tình rất là cổ quái, những đệ tử dưới trớng cùng

những người hầu cận lão đều bị cắt lưỡi và chọc thủng màng tai để trở thành

những người câm điếc như lão, đã chẳng nghe thấy gì lại không nói được.

Thật là một quy luật đặc biệt nên khách giang hồ ai cũng biết tiếng. Gã

thanh niên đứng mé trái cởi bọc đeo trên lưng xuống, mở ra lấy một bộ

quần áo con gái mầu hồng nhạt mặc vào rồi lại lấy phấn sáp thoa lên mặt.

Còn một gã giúp hắn sẻ tóc ra, buộc làm hai túm, quấn chỉ mầu hồng vào,

hoá trang làm một vị nữ lang. Mọi người thấy thế vừa kinh ngạc vừa buồn

cười, đều nghĩ mãi không hiểu Lung á tiên sinh phái hai gã sứ giả này đến

để giở trò quỷ quái gì. Gã thanh niên giả dạng thiếu nữ xong, liền thướt tha

bước hai bước tới rồi lại õng ẹo múa chân, múa tay một hồi, điệu bộ thướt

tha cho ra vẻ một thiếu nữ khả ái. Mọi người tuy buồn cười nẻ ruột song đều

cho là Lung á lão nhân giở trò này tất có thâm ý gì nên ai cũng giữ vẻ trầm

mặc, không cười lên tiếng. Riêng mình Đoàn Dự chẳng cần hiểu Lung á lão

nhân là hạng người nào, vỗ tay cả cười hỏi:

- Ngươi đóng vai một vị nữ lang, còn gã kia thủ vai gì?

Gã thanh niên thứ hai không cải trang chi hết, ngẩng đầu lên, nhìn cao bước

dài, tựa hồ một nhân vật hiên ngang, tung hoàng thiên hạ không ai bằng

mình. Hắn đi quanh một vòng, tới trước mặt thiếu nữ giả nghiêng đầu nhoẻn

cười và đưa mắt liếc, rồi lại thò tay vuốt má. Thiếu nữ giả cũng tủm tỉm

cười, môi mấp máy làm bộ như người nói được. Thốt nhiên thanh niên ghé

miệng hôn má thiếu nữ giả. Thiếu nữ giả tức mình đưa tay tát bốp vào má

thanh niên một cái thật mạnh. Thanh niên vụt chìa ngón tay trỏ ra, điểm vào

cạnh sườn thiếu nữ giả. Trong lúc thanh niên đưa ngón tay trỏ ra thì từ Bảo

Định Đế, Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng Thái, Huỳnh Mi tăng, Thạch

Thanh Tử cho đến bọn tam công nước Đại Lý, không hẹn nhau mà cùng

kêu rú lên một tiếng. Đoàn Chính Thuần và Thạch Thanh Tử rời chỗ ngồi,

đứng phắt dậy vì thấy ngón tay điểm huyệt của thanh niên này, về thủ pháp

cùng cương vị nhất nhất đúng phép "Nhất Dương Chỉ" gia truyền của họ

Đoàn.

Về thủ pháp Nhất Dương Chỉ thoáng nhìn thì tựa hồ chẳng có chi là khó

nhưng kỳ thực trong đó chứa đựng bao nhiêu biến hoá kỳ diệu. Ngón tay

phóng ra phải tuỳ theo phương tiện, đứng cách xa bao nhiêu, rồi đưa cả bàn,

không một chỗ nào có thể sai lầm bằng dây tơ sợi tóc, không thế thì uy lực

không thể phát huy ra được. Bọn Huỳnh Mi tăng, Thạch Thanh Tử, Cao

Thăng Thái tuy chưa học môn Nhất Dương Chỉ song đối với họ Đoàn là chỗ

thân mật từ lâu nên về thủ pháp đúng hay sai, thoáng trông đã hiểu ngay.

Mọi người đều biết rõ Lung á lão nhân về võ công tự lập ra một phái võ

chuyên về môn âm nhu trái ngược với môn Nhất Dương Chỉ chuyên về sở

trường dương cương. Hai đằng khác hẳn nhau, không hiểu sao đồ đệ lão lại

học được môn chỉ pháp đó? Mọi người còn đang kinh dị thì trong chớp

nhoáng, sự biến hoá lại phát sinh ngay trước mắt. Thiếu nữ giả thấy ngón

tay thanh niên điểm tới, vụt đưa bàn tay ra nắm lấy, ngón tay trỏ thanh niên

kêu rắc một tiếng. Ngón tay thanh niên đã bị gãy xương. Miếng bẻ đó thật

là kỳ diệu. Mọi người đều nhìn thấy rõ ràng, nhưng không ai ngờ được là cô

thiếu nữ giả hiệu lại biết sử dụng thế đánh hiểm hóc này. Thanh niên lại

bước lên một bước, dùng ngón tay trỏ bên trái điểm trước ngực thiếu nữ giả,

vẫn theo phép Nhất Dương Chỉ. Thiếu nữ giả hai tay vừa chập vào nhau đã

nghe cấc một tiếng, ngón tay trái thanh niên lại bị gãy nốt. Thanh niên bị

gãy liền hai ngón tay và tựa hồ không đau đớn gì vẫn tiếp tục tấn công.

Trong khoảnh khắc gã sử dụng luôn sáu thế về phép Nhất Dương Chỉ. Thiếu

nữ giả phản công bằng đủ mọi cách, hoặc bật lên đè xuống, hoặc nắm lấy

hất ra, hoặc móc vào giữ lại. Kết cục đối phương lại gẫy thêm sáu ngón tay

nữa, chỉ còn trơ lại hai ngón tay cái, thanh niên phải xoay người sang mé

bên trái chạy trốn. Thiếu nữ giả vỗ tay cười ha hả, ra chiều đắc ý rồi lại cầm

bút viết mấy chữ: "họ Đoàn nước Đại Lý còn thua nhà Mộ Dung ở Cô Tô".

Viết xong ném bút xuống, dắt tay thanh niên bị gãy ngón tay đó đi liền.

Ba Thiên Thạch cản lại nói:

- Hãy thong thả.

Bảo Định Đế lắc đầu nói:

- Cứ để cho họ đi.

Hai gã đi khỏi, mọi người đều cảm thấy đầu óc nặng trĩu, yên lặng không ai

nói gì. Mọi người đều hiểu rằng Lung á lão nhân sở dĩ phái hai tên sứ giả

này tới cốt ý bảo rõ cho Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần biết là nhà Mộ

Dung ở Cô Tô đã có cách phá môn Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn rồi. Dĩ

nhiên Bảo Định Đế hay Đoàn Chính Thuần sử dụng phép Nhất Dương Chỉ

tất uy lực sẽ mạnh hơn nhiều, song đây đối phương tượng trưng bằng một

thiếu nữ, đến lúc bậc cao thủ khác của Mộ Dung ra tay, tất nhiên các đường

đánh còn kỳ diệu hơn gấp mấy. Điều làm cho mọi người băn khoăn nhất là

thanh niên đó công nhiên sử dụng luôn được tám đường trong môn Nhất

Dương Chỉ, tuy còn kém về sức mạnh song cách thức thì không sai mảy

may. Tám thủ pháp để khắc chế địch thủ của thiếu nữ giả lại càng kỳ diệu

và biến hóa không biết đâu mà lường được.

Bảo Định Đế không nhắc tới chuyện vừa rồi, quay sang mỉm cười hỏi Thạch

Thanh Tử:

- Đạo huynh! Đạo huynh lận đận từ Giang Nam đến đây, phải chăng cũng

có chuyện gì liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung?

Thạch Thanh Tử lắc đầu đáp:

- Đối với bọn Mộ Dung thì chẳng có liên quan gì nhưng đối với họ Đoàn thì

có việc liên quan rất lớn. Số là đệ tử họ Đoàn đã gây ra tại thành Dương

Châu một việc rắc rối không thể tả được. Hoàng đế nhà Đại Tống tuy có nể

mặt Đoàn huynh, không muốn truy cứu làm gì, song những nhân sĩ võ lâm

ở Trung Nguyên đều nổi công phẫn.

Bảo Định Đế kinh ngạc hỏi:

- Con cháu họ Đoàn chúng tôi mới chỉ có mỗi Đoàn Dự, song y chưa rời

khỏi nước Đại Lý lấy nửa bước thế thì làm sao đến quấy rối tận Dương

Châu được?

Thạch Thanh Tử đáp:

- Trong một đêm mà 28 mạng của ba nhà Hạ Hầu Túc, Kim Trung và

Vơng Thúc Kiền tức Dương Châu tam hùng đều bị chết sạch về đòn Nhất

Dương Chỉ. Vậy Dương Châu tam hùng trước kia có đắc tội gì với Đoàn

huynh không?

Hoi 24 Lục Mạch thần kiếm

Bảo Định Đế hỏi:

- à này! Thạch đạo huynh! Có phải 28 người đó đã đích xác chết về phép

Nhất Dương Chỉ không?

Thạch Thanh Tử hỏi lại:

- Phép Nhất Dương Chỉ giết người một cách rất Vương đạo. Đối phương sau

khi trúng Nhất Dương Chỉ khoan khoái dị thường. Chân tay gân cốt thư thái

vô cùng nên lúc chết còn để lại nét mặt vui tươi, khắp mình không một vết

thương. Có đúng thế không?

Đoàn Chính Thuần cười đáp:

- Anh chàng mũi trâu ơi! Anh nói không sai chút nào. Chắc anh đã được

nếm mùi Nhất Dương Chỉ rồi thì phải.

Thạch Thanh Tử không cười nữa, nghiêm sắc mặt nói:

- Quả 28 gã hán tử trong nhà tam hùng tại Dương Châu đều ngậm cười mà

chết, khắp mình không có thương tích gì hết.

Đoàn Chính Thuần lại hỏi:

- Phải chăng người mềm như bún, thân không co quắp?

Thạch Thanh Tử nói:

- Đúng thế! Tôi biết có thứ thuốc độc giết người, xác chết còn lộ vẻ mặt tươi

cười nhưng thây mềm nhũn như bún thì ngoài phép Nhất Dương Chỉ ra khắp

thiên hạ không còn loại nào nữa.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Họ Đoàn nhà ta không được đa đinh, hàng con cháu chỉ có mình thằng Dự

thế mà đến nay y vẫn chưa chịu học phép Nhất Dương Chỉ.

Bảo Định Đế hỏi Thạch Thanh Tử:

- Đạo huynh! Đạo huynh vừa bảo trong nhà tam hùng ở Dương Châu chỉ

toàn đàn ông bị chết mà thôi, không có người đàn bà nào cả. Vậy thì mặt

mũi hung thủ hẳn có người nhận được chứ?

Thạch Thanh Tử đáp:

- Hạ Hầu phu nhân cùng Vương phu nhân đều nói rằng hung thủ lấy khăn

xanh bịt kín, không nhìn rõ mặt. Cứ xem tầm vóc mà đoán thì rõ ràng là

một người còn ít tuổi.

Bảo Định Đế thở dài đưa mắt nhìn Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần

nói:

- Thạch đạo huynh! Từ vụ thằng con tôi bị kịch độc cho tới vụ giết người

đều do tay một người trong họ Đoàn tôi. Người đó mang danh hiệu "thiên

hạ đệ nhất ác nhân". Đoạn đem chuyện Đoàn Dự bị cướp đem đi ra sao,

Huỳnh Mi tăng gia công giải cứu thế nào thuật sơ qua lại một lượt. Lại kể

cả cuộc đấu cờ, chính ra Huỳnh Mi tăng sắp thua rồi, sau thái tử Diên

Khánh đi nhầm một nước nên nỗi bị bại.

Huỳnh Mi tăng nói:

- Đoàn nhị huynh bất tất phải che cái xấu cho ta? Rõ ràng là lão tăng phải

thua ông ta mà ngay đến lão mũi trâu cũng không đấu nổi đâu.

Thạch Thanh Tử nói:

- Chưa chắc!

Huỳnh Mi tăng nói:

- Chúng ta đấu chơi một bàn nào!

Thạch Thanh Tử nói:

- Tôi đang muốn lĩnh giáo đây.

Huỳnh Mi tăng cười lạt nói:

- Thật đáng nực cười!

Thạch Thanh Tử hỏi:

- Hoà thượng sao lại cười ta?

Huỳnh Mi đáp:

- Lão tăng buồn cười cái người không có một chút kiến thức nào cả. Hiển

nhiên là đám môn hạ Đoàn Diên Khánh làm nên tội lỗi lại đổ tiếng ác cho

Đoàn Hoàng gia.

Thạch Thanh Tử đỏ mặt lên cãi:

- Đoàn Diên Khánh không phải người họ Đoàn hay sao? Môn đệ Đoàn Diên

Khánh thì cũng là môn đệ họ Đoàn chứ gì?

Huỳnh Mi cười lạt nói:

- Thôi đừng lý sự cùn nữa.

Thạch Thanh Tử cũng cười lạt nói:

- Chính hòa thượng hay nói hươu nói vượn thì có.

Bảo Định Đế thấy hai người cãi nhau cũng mỉm cười nói:

- Theo lời tiên sinh thì cô gái nhà Mộ Dung phá phép Nhất Dương Chỉ mà

chàng trai trêu cợt cô gái đó có lẽ là thủ phạm giết người nhà tam hùng ở

Dương Châu.

Tới đây Bảo Định Đế nói bằng một vẻ trịnh trọng:

- Thuần đệ! Tổ tiên ta đã có minh huấn, không bao giờ can thiệp vào những

vụ trả ân, trả oán giữa các phái võ ở Trung Nguyên. Nhưng trong vụ này

mắt mình ngó thấy có người đem phép Nhất Dương Chỉ ra làm càn rỡ thì họ

Đoàn không thể điềm nhiên ngồi nhìn được.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Chính thế!

Cả hai anh em Bảo Định Đế đều để bụng không nói ra miệng vụ nhà Mộ

Dung ở Cô Tô cậy có võ công lợi hại up hiếp phép Nhất Dương Chỉ của

môn đệ họ Đoàn, nếu bỏ không can thiệp thì oai danh họ Đoàn nước Đại Lý

sẽ bị tổn thương rất nhiều.

Bảo Định Đế lại nói:

- Hoàng đệ cùng tam công, Tứ ẩn (tức Ngư, Tiều, Canh, Độc) đến chùa

Thiếu Lâm thăm Huyền Từ đại sư, đồng thời nếu quan sát cho biết rõ được

môn võ công tuyệt thế của phái Mộ Dung ở Cô Tô thì hay lắm. Còn thái tử

Diên Khánh là dòng dõi chính thống của Tiên Hoàng, đối với người không

được vô lễ! Giả tỷ bọn môn đệ người có làm điều ác đức cũng phải điều tra

cho rõ ràng rồi giao lại để người trừng trị, bọn ta không được tự tiện hạ sát.

Đoàn Chính Thuần cùng tam công, tứ ẩn cúi đầu lĩnh chỉ. Bảo Định Đế lại

thấy Cao Thăng Thái cũng có vẻ nhơn nhơn, muốn ra đi liền mỉm cười phán

bảo:

- Các tay cao thủ trong triều thế là đi gần hết rồi Thiện xiển hầu cần phải ở

nhà phò tá quả nhân.

Cao Thăng Thái vâng mệnh. Đoàn Dự cũng bước ra bẩm:

- Thưa bá phụ! Xin cho cháu cùng đi với gia gia để cháu thêm phần lịch

duyệt.

Bảo Định Đế lắc đầu phán:

- Cháu bị trúng độc chưa khỏi. Ta còn phải tìm cách giải độc, trừ tà cho

cháu mất mấy bữa nữa. Vả cháu không biết võ nghệ, vào Trung Nguyên chỉ

tổ làm mất thể diện cho họ Đoàn nước Đại Lý.

Đoàn Dự thẹn mặt đỏ bừng. Bây giờ chàng mới có ý hối hận, tiếc rằng giá

mình chịu học võ rồi có phải ngày nay được vào Trung Nguyên du ngoạn

thì hay biết chừng nào?

Hôm ấy trong phủ Trấn Nam Vương mở tiệc tẩy trần thết Thạch Thanh Tử.

Đoàn Dự ngồi riêng một chiếu vì không ai dám đụng chạm vào chàng, sợ bị

nhiễm tà độc. Lúc ăn uống hay chuyện trò cùng chàng ai nấy đều phải ngồi

cách xa chàng, đã là một sự làm cho chàng mất cả hứng thú. Da dĩ trong cơ

thể còn chứa đựng bao nhiêu chân khí hút ở ngoài vào, chàng không có cách

nào quy tụ lại được khiến chàng vô cùng bứt rứt. Đoàn Dự ngồi ăn tiệc càng

lâu chàng càng thấy khó chịu nên nhấp xong ba chung rượu rồi chàng cáo từ

mọi người về phòng riêng. Chàng nằm hồi tưởng lại những chuyện đã xẩy

đến cho chàng mấy hôm vừa qua thật là ly kỳ. Rồi chàng lại nhớ tới Mộc

Uyển Thanh cùng Chung Linh, là hai nàng chàng mới quen biết, không hiểu

bây giờ buồn bực đến thế nào? Sau nữa chàng nghĩ đến việc song thân đòi

hỏi Cao My tiểu thư cho chàng làm vợ. Chàng chưa biết mặt Cao tiểu thư,

không hiểu tính tình Cao tiểu th có hợp với mình không? dung mạo tiểu

thư đẹp hay xấu? Đầu óc Đoàn Dự bị đảo lộn bởi bao làn sóng tư tưởng.

Trong cơ thể chàng, chân khí chạy tứ tung chẳng khác gì đàn ngựa bất

kham chạy không dừng vó hay đàn vượn trên núi nhảy nhót tha hồ. Tuy

không đến nỗi thảm hại như hôm uống phải Âm dương hoà hợp tán, lửa

lòng khôn bề dập tắt, nhưng cũng khó chịu vô cùng. Hồi lâu Đoàn Dự mê

man ngủ đi lúc nào không biết. Nửa đêm chàng thức giấc thấy hai lòng bàn

tay mình có người nắm chặt, chàng giật mình la lên một tiếng thì lập tức bị

một tấm khăn nhét vào miệng. Chàng nghiêng đầu nhìn qua một bên, dưới

ánh đèn lờ mờ chàng nhìn rõ bộ mặt anh tuấn như đang mỉm cười chính là

Thạch Thanh Tử. Chàng lại nghếch mắt quay sang bên phải nhìn thấy cặp

lông mày dài sắc vàng: đó là Huỳnh Mi tăng với bộ mặt gầy đét nhưng đầy

vẻ từ bi vừa mỉm cười vừa gật đầu bảo chàng đừng sợ hãi gì rồi rút tấm khăn

trong miệng chàng ra. Đoàn Dự thấy một nhà sư và một thầy đạo bên mình

mới yên tâm toan dậy thi lễ. Thạch Thanh Tử khẽ bảo:

- Hiền điệt bất tất đa lễ. Cứ nằm yên để chúng ta trừ tà giải độc cho.

Đoàn Dự ngỏ lời cảm tạ thì Huỳnh Mi tăng ngắt lời:

- Chúng ta là chỗ tâm giao với bá phụ hiền điệt. Có làm gì chút việc nhỏ

mọn này mà cháu phải bận tâm?

Thạch Thanh Tử cười lạt nói móc:

- Đã chắc đâu hoà thượng trừ tà giải độc được cho y, hãy làm đi rồi hẵng

nói khoác.

Đoàn Dự toan nói nữa thì đột nhiên hai bàn tay run lên đồng thời hai luồng

chân khí chuyển vào thân thể chàng. Chàng giật nẩy mình, mặt đỏ bừng lên

như người say rượu. Hai luồng chân khí chuyển vào kinh mạch, lúc đầu

chàng cũng thấy nó chạy nhộn lên trong người, dần dần chạy yếu đi rồi yên

hẳn lại. Chừng trong khoảng thời gian ăn xong bữa cơm, Đoàn Dự thấy nửa

mình bên phải nóng ran, ngược lại nửa mình bên trái lạnh toát. Nhưng lạ

thay, tuy người phát hàn nhiệt như vậy mà trong lòng rất là thư thái dễ chịu.

Chàng biết hai tay cao thủ dùng nội công thượng thừa để trừ tà giải độc cho

mình.

Đoàn Dự đoán vậy chỉ đúng có một phần thôi. Nguyên hai vị Huỳnh Mi

tăng và Thạch Thanh Tử đã cùng nhau tỷ thí đủ thứ: đấu văn, đấu võ, đấu

quyền cước, đấu gươm đao, đấu nội công, đấu kiến văn. Mấy chục năm nay

hai ông đấu biết bao nhiêu phen mà khôn phần cao thấp. Hôm nay hai ông

ngồi dự tiệc khích bác nhau rồi nửa đêm đưa nhau ra hoa viên bàn nhau đấu

võ, lấy việc trừ tà giải độc cho Đoàn Dự làm tiêu chuẩn. Hai ông này đã hai

phen tỷ thí, hao phí công lực quá nhiều nếu không được Bảo Định Đế giải

cứu kịp thời thì quy tiên cả rồi. Phen này hai ông dùng cách đấu kỳ khôi

này đã tưởng nhất cử lưỡng tiện: một là so tài cao thấp, hai là đỡ cho Bảo

Định Đế chút công nhỏ mọn. Về cách dùng nội công để trị bệnh ngoại

thương thì khắp thiên hạ không còn môn nào hơn được phép Nhất Dương

Chỉ. Hai vị ước hẹn với nhau: mỗi vị trị một nửa người Đoàn Dự, ai thành

công trước là được. Đành rằng hai vị trừ tà giải độc, cái hảo tâm là ở chỗ đó

nhưng lại đem con người ta ra làm đề mục để đánh đố. Nhà sư và thầy đạo

nghĩ rằng sức mạnh tà độc trong mình Đoàn Dự cực kỳ lợi hại. Nếu phải

gắng vận động cho nội công thấm vào người chàng mới khu trừ ra được và

nếu không khu trừ hết được tà độc ra ngoài nhất định cũng không tổn hại gì.

Hai vị đâu có biết rằng trong mình Đoàn Dự không súc tích tà độc mà chứa

toàn chân khí hút ở ngoài vào và bị một vật chí bảo trên thế gian là đôi

Mãng Cổ chu cáp chế hoá làm cho công phạt. một khi đã nuốt chu cáp vào

rồi thì nó biến hoá thấm vào cơ thể trong người, còn tài nào mà trục ra

được? Nguyên một hấp lực của đôi chu cáp cũng đã mạnh ghê gớm rồi,

huống chi còn thêm vào đó chân khí của sáu nhà sư, đồ đệ Huỳnh Mi tăng.

Hiện giờ về nội lực Đoàn Dự không thua kém Huỳnh Mi và Thạch Thanh

Tử. Chỉ có rằng chàng chưa biết cách vận dụng và phát huy ra mà thôi.

Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử vận chân khí vào người Đoàn Dự, sức

thần công của chu cáp hút lấy. Cơ sự này do mệnh hệ Đoàn Dự xui nên, gặp

được hai tay cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm tự nguyện vận chuyển nội lực

vào trong người chàng. Nếu là trường hợp ngẫu nhiên thì dù hấp lực của chu

cáp có mạnh đến đâu hai ông ít ra cũng còn đủ lực để thoát thân.

Huỳnh Mi luyện nội công theo lối thuần dương, lấy cương làm tiêu chuẩn.

Trái lại, Thạch Thanh Tử theo lối thuần âm, lấy nhu làm tôn chỉ. Hai vị một

tăng, một đạo, tôn giáo đã khác nhau, bản lãnh về nội công lại người âm kẻ

dương hai ngả, chả trách không bao giờ hai vị hoà hoãn với nhau được.

Hai vị tống chân khí vào người Đoàn Dự hồi lâu, cảm thấy trong mình trống

trải. Nhưng lần này chân khí thoát đi chẳng khác gì đá chìm biển cả, không

thu về được nữa. Hai vị cùng tranh nhau thủ thắng, càng gắng sức phóng

kình lực cho mau. Chẳng mấy chốc Huỳnh Mi tăng thấy người bả lả vì nội

lực cạn dần, biết rằng việc này lỡ bét nếu còn vận thêm lúc nữa thì nội công

trong người sẽ hết sạch sành sanh liền ngẩng đầu lên nói với Thạch Thanh

Tử:

- Thạch đạo huynh! Vụ này xem ra nhiêu khê lắm! Ta hãy dừng tay xem

sao đã.

Chính Thạch Thanh Tử cũng cảm thấy khó chịu và cũng muốn đình bãi

nhưng vốn tính hiếu thắng, nghĩ thầm: "thế là anh chịu mở miệng xin buông

tha rồi đây" liền đáp:

- Nếu đại sư không đủ nội công thì xin cứ việc mà rút lui trước đi. Bần đạo

chẳng dám cưỡng ép con người bất lực.

Huỳnh Mi cả giận nói:

- Gã thầy đạo mũi trâu kia! công lực anh đến mức nào ta còn lạ gì mà anh

lại muốn lên mặt anh hùng hảo hán cả với ta nữa ?

Thạch Thanh Tử cũng tự biết công lực mình cùng Huỳnh Mi chẳng chênh

lệch nhau mấy nỗi. Song lại nghĩ rằng Huỳnh Mi vừa mới dốc hết lực lượng

ra sống mái với người ác nhất thiên hạ là thái tử Diên Khánh thì nội công tất

bị hao tổn rất nhiều. Thật là cơ hội ngàn năm một thuở để mình có thể

thắng được địch thủ cho thoả nguyện bình sinh. Nếu bỏ lỡ cơ hội này thì từ

giờ đến chết cũng không còn dịp nào để phân thắng bại nữa. Vì thế mà đạo

nhân cố gắng chống chọi lúc nữa, buộc bên kia phải lùi bước trước để giữ

phần thắng về mình. Nào ngờ Huỳnh Mi tăng xa nay vẫn là người bụng dạ

rộng rãi, tính nết khoan hòa, không muốn tranh hơi mà đối với Thạch Thanh

Tử nhà sư lại kèn cựa từng tý, không chịu nhượng bộ một ly. Hai vị gắng

gượng chịu đựng thêm lát nữa. Một mặt chân lực trong người Đoàn Dự càng

lên cao, hấp lực càng mạnh, một đằng nhà sư và thầy đạo cảm thấy tàn lực

dốc ra tuồn tuột, không còn cách nào ngưng tụ lại được. Trong lúc cấp bách

hai vị muốn tạm gác việc tranh đua thì đã không kịp rồi, thậm chí toan rút

tay ra khỏi bàn tay Đoàn Dự cũng không đủ lực nữa. Tay bị dính chặt,

chẳng khác gì bọn Phá Tham 6 người trước đây. Huỳnh Mi tăng và Thạch

Thanh Tử đưa mắt nhìn nhau và cùng có ý hối hận. Sở dĩ lâm vào bước

khốn cùng này chẳng qua vì chưa bỏ dứt được nết háo thắng mà ra. Giả tỷ

thấy cơ sự bắt đầu nguy biến, rụt tay về ngay thì đâu đến nỗi?

Một lúc nữa nhà sư và thầy đạo thần sắc lợt lạt, hơi thở yếu dần. Đoàn Dự

có biết đâu cơ sự nhường này. Giả tỷ chàng hiểu rằng hai vị tiếp vận chân

khí cho mình mà phải tổn thương đến nội lực của người thì chàng nhất định

từ chối. Chàng vẫn tưởng rằng hai vị truyền nội lực để trừ tà tiêu độc cho

mình cũng chẳng cần gì. Chân khí trong người chàng lên cuồn cuộn tựa

nước triều dâng, mỗi lúc một bành chướng. Sau chàng mê man như người

say rượu, tỉnh không tỉnh hẳn, ngủ chẳng ngủ cho. Hai vị tăng đạo lâm vào

tình trạng nguy khốn mà chàng chẳng biết gì. Tình trạng này nếu còn kéo

dài chừng nửa giờ nữa là Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử sẽ thành phế

nhân.

Ngay lúc ấy cửa phòng mở ra, một người bớc vào, vừa ngó mặt hai vị liền

thất kinh la lên:

- Thôi hỏng to rồi!

Dứt lời cầm tay áo Huỳnh Mi giật ra đằng sau một cái, bật rời khỏi tay

Đoàn Dự, rồi giật đến tay Thạch Thanh Tử ra, lẩm bẩm:

- Ta đã biết hai vị đụng đầu nhau là có chuyện nên vừa không trông thấy hai

vị đâu liền đi kiếm khắp cả. Ai ngờ đã chui vào đây làm rùm?

Người mới vào đó chính là Bảo Định Đế. Nhà vua nhìn sắc mặt hai vị rồi

bất giác than rằng:

- Hai người đã sống đến bằng này tuổi đầu, còn chi là không hiểu nữa? Thế

mà hôm nay vì một chuyện tranh hơi để đến nỗi tổn hại bao nhiêu công lực.

Nhà Vua cầm cổ tay Huỳnh Mi xem, thấy mạch chạy yếu quá, xem đến

Thạch Thanh Tử cũng vậy thì lắc đầu lia lịa cho là hai người đi vào vết xe

đổ cũ để xảy ra cơ sự nhường này. Ai ngờ nội lực hai bậc cao thủ đều bị

cháu mình hút cả. Nhà Vua lại quay sang nhìn Đoàn Dự, thấy cháu mình

thiêm thiếp chưa tỉnh lẩm bẩm: "Hai vị lão hữu tỷ thí làm thằng bé bị hoạ

lây". Vừa cầm mạch xem thì thấy nội lực chàng cực kỳ sung mãn, âm

dương giao hợp, cương nhu điều hòa nhưng hấp lực rất mạnh làm giật cả tay

mình lên.

Bảo Định Đế trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm: "cứ xem tình hình này mà

đoán thì nội lực hai vị tăng, đạo đã bị thu vào thân thể Đoàn Dự mất cả".

Liền gọi nội thị dìu hai vị vào hai phòng riêng xa cách nhau để tĩnh dưỡng,

đừng để hai vị gần nhau lỡ sinh tai vạ.

Sáng sớm hôm sau, Đoàn Chính Thuần xuất lĩnh tam công, tứ ác từ biệt

Hoàng huynh cùng vợ con, theo Tuệ Chân, Tuệ Thiền sang chùa Thiếu

Lâm. Tuy ông cũng băn khoăn về Đoàn Dự chưa khỏi bệnh nhưng đã có

hoàng huynh lo điều trị, cũng không có gì đáng ngại. Lúc ra đi, ông vào

ngó con lần nữa, thấy chàng mặt mũi hồng hào, đang ngủ ngon giấc nên

cũng vững dạ.

Bảo Định Đế tiễn hoàng đệ cùng các vị hảo hán rồi trở vào thăm Huỳnh Mi

cùng Thạch Thanh Tử thì thấy đang tĩnh toạ. Sắc mặt Huỳnh Mi trắng bệch,

người run lẩy bẩy còn Thạch Thanh Tử lại mặt đỏ nhừ vì hư hoả bốc lên. Cả

hai người đều do bị thương cực kỳ trầm trọng mà ra, nguyên khí hao tổn

mất nhiều.

Nhà Vua dùng phép Nhất Dương Chỉ điểm vào các huyệt trọng yếu nhà sư

và thầy đạo, lại đem chân khí mình ra để chữa nội thương cho hai vị. Bảo

Định Đế lại sang thăm Đoàn Dự. Vừa đến cửa phòng đã nghe tiếng "loảng

choảng" không ngớt phát ra, do các đồ vật đổ vỡ. Gã nội thị giữ cửa Vương

phủ, quỳ xuống tiếp giá, nét mặt đầy vẻ kinh hoàng, bẩm rằng:

- Thế tử... bị ma làm... đang nổi cơn điên.... hai quan thái y hiện ở trong

phòng điều trị.

Bảo Định Đế gật đầu đẩy cửa bước vào, thấy Đoàn Dự đang khoa chân múa

tay. Bất luận bàn ghế, ấm chén hay các đồ vật trần thiết chàng xô gẫy ngổn

ngang, đập vỡ tan tành. Hai quan thái y lẩn tránh chạy cuống cả lên. Nhà

Vua tiến lại cất tiếng hỏi:

- Dự nhi! Con làm sao vậy?

Đoàn Dự vẫn tỉnh táo, chỉ vì chân khí trong người đầy rẫy dưường như muốn

xé thịt nứt da cho tràn bớt ra ngoài. Có tay đấm, chân đá, đập phá đồ đạc

mới hơi thư thái một chút. Chàng thấy bá phụ vào liền gọi to:

- Bá phụ ơi! Cháu muốn chết đây!

Chàng vừa gọi vừa vung tay loạn xạ.

Bảo Định Đế hỏi:

- Con thấy trong mình thế nào?

Đoàn Dự dậm chân thình thịch đáp:

- Toàn thân cháu chỗ nào cũng mọng lên. Bá phụ cho lấy bớt máu trong

người cháu ra!

Bảo Định Đế nghĩ bụng: "hay là làm thử cách này xem sao?". Liền quay

sang bảo quan thái y:

- Ngươi thử lấy bớt máu y ra!

Thái y vâng mệnh, mở cái hộp sành lấy ra một con đỉa. Đỉa là vật chuyên

hút máu, dùng để chữa cho người ứ huyết rất tiện, người bệnh lại không đau

đớn gì. Quan thái y cầm chặt tay Đoàn Dự, đặt mồm con đỉa vào đúng mạch

máu. Quan thái y này không hiểu võ công, trong người ông cha luyện

thành chân khí, nội lực cho nên chạm vào người chàng không bị hút chặt

như người có chân khí. Có điều con đỉa này đặt vào tay Đoàn Dự thì nó cựa

quậy, không chịu nằm yên mà làm thế nào nó cũng không hút máu. Quan

thái y rất lấy làm lạ, phải ráng sức giữ chặt nó. Nhưng chỉ được một lát, con

đỉa giãy lên một cái rồi chết ngay. Quan thái y bất lực trước mặt nhà Vua,

vừa thẹn vừa sợ, mồ hôi trán nhỏ xuống tong tong, vội vàng lấy con đỉa

khác ra nhưng rồi cũng bị chết như con trước.

Còn vị thái y thứ hai tỏ vẻ lo lắng tâu rằng:

- Khải tấu Hoàng thượng! Thế tử ngộ độc dữ quá, chất độc phát ra làm chết

cả đỉa.

Ông có biết đâu rằng Đoàn Dự nuốt Mãng Cổ chu cáp rồi, bất luận rắn rết

hay giống gì độc đến đâu cũng phải xa lánh. Đệ nhất độc là rắn còn phải

khiếp phục huống chi là con đỉa.

Bảo Định Đế nghe thái y nói lại càng nóng ruột, phán hỏi:

- Thuốc độc gì mà ghê gớm đến thế?

Một quan thái y tâu:

- Theo ngu kiến hạ thần thì mạch thái tử nóng dữ quá tất là trúng phải nhiệt

độc.

Quan thái y kia cãi:

- Không phải! Mạch thái tử âm hư thế là trúng hàn. Cần bốc thuốc nhiệt để

điều hoà.

Sự thực thì trong mình thế tử một bên chứa nội lực thuần dương của Huỳnh

Mi tăng, một bên lại chứa nội lực thuần âm của Thạch Thanh Tử. Hai quan

thái y xem mạch tương phản nhau là bởi thế. Hai vị thái y này đã nổi tiếng

danh sư nước Đại Lý. Nhà Vua nghe hai vị danh y tranh luận hàn nhiệt với

nhau mãi nghĩ thầm: "tà độc trong mình Đoàn Dự rất là kỳ dị". Bảo Định

Đế lại thấy Đoàn Dự xé rách cả quần áo thì trong lòng ái ngại, nghĩ bụng:

"thật là một vấn đề cực nan giải, chỉ còn cách lên chùa Thiên Long thỉnh

thị". Nhà Vua liền bảo Đoàn Dự:

- Dự con! Ta đưa con lên bái yết mấy vị tiền bối, thế nào các người cũng có

cách chữa cho con hết bệnh.

Đoàn Dự vâng lời. Chàng thấy mỗi lúc một khó chịu thêm, chỉ mong sao

khỏi bệnh nên mặc áo dài vào đi ngay. Ra khỏi cổng phủ, chàng cưỡi riêng

một ngựa theo Bảo Định Đế trông về hướng tây bắc mà đi. Chùa Thiên

Long ở trên đỉnh ngọn Thiên Long. Ngọn Thiên Long là ngọn chính trong

dãy núi Thiên Long. Dãy núi này chạy từ mé tây bắc xuống vào đến nước

Đại Lý là hết, trông tựa như hình một con rồng khổng lồ. Tổ tiên họ Đoàn

táng ở núi này. Ngọn Thiên Long là đầu rồng, chùa Thiên Long dựng trên

đầu rồng, thống lĩnh cả dãy núi, phong cảnh rất là hùng vĩ. Những Hoàng

đế nước Đại Lý bỏ ngôi báu xuất gia đầu Phật đều quy y ở chùa này. Có thể

nói chùa Thiên Long là chùa của Hoàng gia nước Đại Lý. Kể tất cả các

chùa trong nước thì chùa Thiên Long tôn vinh hơn cả. Tuy nhiên đệ tử nhà

Phật rất nhún nhường kiệm ước. Một khi nhà Vua xuất gia rồi thì đến ngày

sinh nhật, con cháu đều lên chùa làm lễ triều bái, mỗi lần đến triều bái đều

đem dâng quý vật hoặc tiền bạc. Vì thế mà chùa xây rộng ra mãi. Cách kiến

trúc của chùa này có phần tráng lệ hơn cả các ngôi chùa lớn ở Trung

Nguyên như Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa, Nga Mi... Nhưng vì ở mãi miền

biên giới xa xăm nên không được nổi tiếng bằng các chùa ở Trung Nguyên.

Đoàn Dự theo bá phụ lên đến trước chùa, nhìn ánh dương quang chiếu vào

các tấm kính pha lê ngũ sắc lợp trên nóc chùa cực kỳ sán lạn. Cổng ngõ,

phòng ốc cũng uy nghiêm tráng lệ chẳng khác gì trong Hoàng cung nước

Đại Lý. Bảo Định Đế thường thường lên chùa. Tuy nhà Vua ở địa vị chí tôn

trong một nước, song các vị cao tăng chùa này đều là tiền bối ngài cả nên

cách tiếp đãi chỉ một lòng thánh kính chứ không câu nệ lễ nghi thái quá.

Bảo Định Đế cùng Đoàn Dự trước hết vào yết kiến Thiên Nhân đại sư. Theo

vị thứ ngoài trần tục thì đại sư đứng vào hàng thúc phụ nhà Vua. Các người

xuất gia không câu nệ lễ vua tôi mà cũng không cố chấp thứ bậc trong gia

đình, làm lễ tương kiến một cách bình đẳng. Bảo Định Đế thuật vắn tắt

nhưng đủ ý về chuyện Đoàn Dự trúng tà độc. Thiên Nhân đại sư trầm ngâm

hồi lâu rồi nói:

- Hãy theo ta lên phòng mâu ni ra mắt bốn vị sư huynh, sư đệ.

Bảo Định Đế nói:

- Chúng tôi đến phiền nhiễu các vị đại hoà thượng, thực là lỗi lớn.

Thiên Nhân nói:

- Thế tử con Trấn Nam Vương là người kế vị sau này. Thân thế y có quan

hệ đến hạnh phúc của trăm họ. Kiến thức và bản lãnh ngươi còn trên ta một

bậc mà phải đến đây hỏi tất là một việc rất khó giải quyết.

Ba người theo dãy hành lang dài đi về phía tây đến chỗ mấy gian phòng

toàn bằng gỗ thông. Cả đến cột trụ hay ván ghép, cánh cửa nhất nhất để cả

vỏ cây chứ không bào gọt, trông có vẻ thiên nhiên chất phác, so với Phật

đờng vàng son chói lọi thật khác xa nhau. Nhiều chỗ vách ván, cột trụ đã

mục nát cả. Mấy gian nhà này trông tựa hồ những nhà của khách đi săn thú,

ngụ trong một khu rừng hẻo lánh. Thiên Nhân đại sư vẻ mặt trịnh trọng

chắp tay nói:

- A di đà Phật! Thiên Nhân nay có việc nghi nan khó bề giải quyết, đến

quấy nhiễu ba vị sư huynh, sư đệ đây.

Trong nhà có tiếng đáp vọng ra:

- Xin mời phương trượng vào trong này!

Thiên Nhân từ từ đẩy cửa ra. Cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt, đủ tỏ là

cửa này ít khi mở ra khép vào. Đoàn Dự theo sau phương trượng và bá phụ

đi vào. Chàng vừa nghe phương trượng bảo đến ra mắt ba vị mà trong căn

nhà lại thấy những bốn vị hòa thượng ngồi bốn ghế. Ba vị ngồi quay mặt ra

ngoài thì hai vị gày đét, một vị tráng kiện khôi ngô. Đầu đằng đông lại còn

một vị hòa thượng quay mặt vào tường vách, ngồi yên không nhúc nhích,

thuỷ chung vẫn không ngoảnh mặt ra ngoài.

Bảo Định Đế nhận ra hai vị gày đét pháp danh là Thiên Quan, Thiên Tướng

là sư huynh Thiên Nhân phương trượng. Còn nhà sư mặt mũi khôi ngô là

Thiên Tham, sư đệ Thiên Nhân. Nhà Vua chỉ biết ba vị cao tăng Quan,

Tướng, Tham trong viện mâu ni chùa Thiên Long. Còn vị thứ tư quay mặt

vào vách kia thì chưa biết là ai. Bảo Định Đế khom lưng chào, ba nhà sư

mỉm cười đáp lễ. Còn vị thứ tư không hiểu là đang tham thiền hay đang

nhẩm kệ, không thể phân tâm được nên ai làm gì cũng mặc. Nhà Vua đã

hiểu nhiều về quy củ nhà Phật "mầu ni" có nghĩa là trầm lặng, vắng vẻ. Vậy

ngồi trong mầu ni đường ít nói được chừng nào hay chừng ấy. Nhà Vua tóm

tắt bệnh trạng Đoàn Dự rồi nói:

- Cầu bốn vị đại đức chỉ đường cho!

Thiên Quan trầm ngâm suy nghĩ, lại đưa mắt nhìn Đoàn Dự hồi lâu rồi hỏi:

- Hai sư đệ nghĩ sao?

Thiên Tham nói:

- Mình có mất ít nội lực tưởng cũng không phương ngại đến việc luyện Lục

Mạch Thần Kiếm.

Bảo Định Đế vừa nghe bốn chữ "Lục Mạch Thần Kiếm" bất giác giật mình

nghĩ thầm: "Hồi mình còn nhỏ, ngẫu nhiên nghe gia gia nói đến ông tổ họ

Đoàn ta có môn võ "Lục Mạch Thần Kiếm" uy mãnh vô cùng. Gia gia còn

bảo môn này chỉ nghe thấy truyền miệng thế thôi, chứ chưa có bậc cao nhân

nào hiểu biết công trình môn đó thần kỳ ra sao. Nay lại thấy Thiên Tham

đại sư đề cập tới, chắc chắn là có môn kỳ công đó rồi". Nhà Vua lại nghĩ

rằng: "xem chừng ba vị đại sư muốn đem nội lực tẩy độc cho thằng Dự, làm

như vậy thì trở ngại đến việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm của các vị. Khốn

nỗi đến cả hai vị Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử đồng thời ra tay giải

độc cho y cũng không xong. Nếu không trông vào lực lượng của các vị đây

thì làm sao chịu nổi?".

Nhà Vua nghĩ vậy tuy trong lòng áy náy mà không dám mở miệng khước

từ. Thiên Tướng hoà thượng không nói năng gì, đứng dậy cúi đầu, đứng xéo

về góc đông bắc. Thiên Quan, Thiên Tham cũng mỗi người đứng ra một

góc. Thiên Nhân phương trượng nói:

- Phúc đức! Thật là phúc đức.

Rồi cũng đứng ra góc Tây Nam. Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự:

- Bốn vị trưởng lão không tiếc tâm lực trừ tà giải độc cho con. Con mau

khấu đầu bái tạ đi!

Đoàn Dự nhìn thần sắc và cử chỉ của bá phụ cùng bốn vị tổ sư biết công

việc này cực kỳ nghiêm trọng lập tức phục xuống lạy mỗi vị một lạy.

Bảo Định Đế lại giục:

- Dự nhi! Ngồi xếp bằng lại! Dù có đau đớn hay ngứa ngáy cũng phải ráng

chịu, đừng có hoảng hốt.

Đoàn Dự vâng lệnh ngồi yên.

Thiên Quan hoà thượng đưa ngón tay cái bên phải ra ngưng thần một chút

rồi đặt lên sau gáy trấn trên huyệt "phong phủ" của Đoàn Dự, đem nội lực

Nhất Dương Chỉ ra phóng vào. Thiên Tướng hoà thượng điểm mạch "Tử

Sang". Thiên Tham hoà thượng điểm mạch "Âm duy". Thiên Nhân phương

trượng điểm hai đường huyệt đạo "Xung mạch" và "đối mạch". Bảo Định Đế

điểm vào mạch "âm kiểu". Trong tám kinh mạch, năm vị để hở hai mạch

"dương duy" và "dương kiểu" không trấn áp. Cả năm vị đều vận dụng phép

Nhất Dương Chỉ khu trục tà khí trong người Đoàn Dự, do hai mạch bỏ trống

tiết ra ngoài. Năm tay đại cao thủ họ Đoàn này bản lãnh Nhất Dương Chỉ

xuýt soát như nhau, vận động nội lực năm đường nội công phát ra tiếng kêu

vù vù, dốc vào cơ thể Đoàn Dự. Toàn thân chàng run lên bần bật rồi tựa như

trời rét được phơi ra ánh nắng mặt trời trong người ấm áp thư thái vô cùng.

Đoàn Dự hấp thụ nội lực của năm tay đại cao thủ mỗi lúc một nhiều. Bảo

Định Đế cùng bốn nhà sư cảm thấy nội lực trong người mỗi lúc một trống

rỗng thêm, thu về không được mà hấp lực bên người Đoàn Dự lại ghê gớm

khác thường. Năm người đa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc. Bất

thình lình một tiếng quát ầm ầm vang dội, mọi người sợ run. Bảo Định Đế

biết đó là tiếng một người trong cửa Phật có võ công vào hạng thượng thừa

và mệnh danh là "Sư tử hống". Tiếng quát còn chứa một nội lực rất thâm

hậu, có thể trấn áp được kẻ địch. Bỗng thấy nhà sư quay mặt vào vách cất

tiếng nói:

- Nội nhật hôm nay bọn cường địch sẽ đến đây. Uy danh chùa Thiên Long

mấy trăm năm nay đang bị đe doạ. Thằng nhỏ miệng còn hơi sữa trúng tà,

trúng độc gì gì hãy bỏ đó. Trong lúc gấp rút này mà còn vì nó hao phí công

lực một cách vô ích nữa ?

Mấy câu nói cực kỳ oai nghiêm khiến người nghe phải lạnh gáy, không dám

trái lệnh. Thiên Nhân phương trượng bẩm:

- Lời sư thúc truyền dạy rất phải.

Dứt lời vẫy tay trái một cái, năm người đồng thời lùi lại phía sau. Hấp lực

"chu cáp thần công" trong mình Đoàn Dự tuy mãnh liệt thật nhưng đồng

thời giữ cả năm tay đại cao thủ thế nào nổi?

Bảo Định Đế thấy Thiên Nhân kêu vị đó bằng sư thúc vội vàng cáo lỗi:

- Vãn bối không biết Khô Vinh trưởng lão ở đây, chưa kịp kính bái, tội

nhiệt thật nặng.

Nguyên vị trưởng lão đây là một vị tiền bối vào bậc cao nhất trong chùa

Thiên Long. ít người trong chùa được thấy mặt trưởng lão. Bảo Định Đế

cũng chỉ nghe danh chưa từng được bái kiến. Người ta đồn trưởng lão chỉ

một mình luyện khô thuyền trong viện Song Thụ, hơn mười năm trời nay

không ai nhắc đến, họ cho là trưởng lão viên tịch rồi.

Khô Vinh trưởng lão nói:

- Công việc phải tuỳ theo tầm quan trọng hoặc thời gian trì hoãn hay gấp rút

của nó mà làm. Lời ước hẹn của Đại Luân Minh Vương chớp mắt đã đến.

Đoàn Chính Minh ngươi coi xem sẽ rõ.

Bảo Định Đế ngạc nhiên nghĩ thầm Đại Luân Minh Vương trên Đại Tuyết

Sơn là một bậc Phật pháp uyên thâm, có dây mơ rễ má gì với bọn mình

đâu?

Thiên Nhân phương trượng lấy trong bọc ra một phong thơ ánh vàng rực rỡ

trao tay cho Bảo Định Đế. Bảo Định Đế đón lấy, cầm tay nhấc thấy khá

nặng rất lấy làm kỳ. Thì ra phong bì làm bằng vàng dát mỏng. Trên phong

bì dùng bạch kim khảm thành mấy chữ trắng viết theo lối chữ Phạn. Bảo

Định Đế thông hiểu Phật học, đại ý chữ trên phong bì là: "Kính đệ phương

trượng chùa Thiên Long". Bảo Định Đế mở phong bì vàng ra, bên trong có

một lá thư cũng bằng vàng dát cực mỏng. Thư cũng viết bằng chữ Phạn, đại

ý nguyên văn như sau: "Ngày nọ tiểu Vương cùng Mộ Dung tiên sinh ở Cô

Tô đến hội họp tại Thiên Tần đã cùng nhau kết mối thâm giao, đàm luận về

võ công trên đời hiện nay. Mộ Dung tiên sinh có ngỏ lời rất lấy làm tiếc

chưa được đọc cuốn kinh Lục Mạch Thần Kiếm của quý tự và biết quý tự

rất tôn sùng cuốn kinh đó. Tiểu Vương vừa được tin Mộ Dung tiên sinh đã

quy tiên rất đỗi xót thương. Để báo đáp tình tri kỷ, cầu xin quý tự cho Tiểu

Vương quyển kinh đó để đốt trước mộ Mộ Dung tiên sinh. Trong ngày hôm

nay sẽ đến lấy, xin chớ chối từ. Tiểu vương xin đem báu vật đến báo đền,

chẳng dám lấy không. Đại tuyết sơn Đại Luân Minh Vương kính thư". Chữ

trong thư cũng khảm rất tinh vi bằng bạch kim do tay thợ khéo và phải tốn

bao nhiêu công phu cùng ngày giờ mới chế tạo thành bức thư. Hãy nói một

cái phong bì. Hãy nói một cái phong bì, một lá thư như vậy cũng đã là bảo

vật hiếm có, đủ biết Đại Luân Minh Vương là tay hào phóng xa xỉ đến mực

nào rồi.

Bảo Định Đế vốn biết Đại Luân Minh Vương là Hộ quốc pháp vương nước

Thổ Phồn. Cứ năm năm một lần Đại Luân Minh Vương lại mở đàn giảng

kinh, thuyết pháp. Các vị cao tăng đại đức nước Thiên Trúc bên Tây Vực

đều đến chùa Đại Luân trên núi Tuyết Sơn hội họp đông đủ để nghiên cứu

kinh điển. Sau kỳ thuyết pháp ra về ai cũng hoan hỷ ca tụng Minh Vương.

Bảo Định Đế lại nhớ trong thư Đại Luân Minh Vương có nói cùng Mộ

Dung tiên sinh đàm luận võ công, kết bạn tri kỷ. Vậy thì hiển nhiên Minh

Vương cũng là một tay cao thủ trong võ lâm. Hạng người đại trí tuệ không

học võ thì thôi, khi họ đã đi vào đường đó tất nhiên không phải tay vừa.

Bảo Định Đế còn đang ngẫm nghĩ thấy Thiên Nhân phương trượng nói:

- Cuốn Lục Mạch Thần Kiếm là vật chí bảo của bản tự, lại là pháp yếu môn

võ tối cao của họ Đoàn nước Đại Lý. Chính Minh! Môn võ cao thâm của họ

Đoàn nước Đại Lý hiện ở chùa Thiên Long đây. Ngươi là người trần tục thì

dù là con cháu trong nhà nhưng những điều bí ẩn này cũng không thể tiết lộ

cho ngươi biết được.

Bảo Định Đế nói:

- Thưa vâng! Điều đó vãn bối đã biết rồi

Thiên Quan nói:

- Chùa đây tàng trữ pho Lục Mạch Thần Kiếm kinh, ngay Chính Minh,

Chính Thuần còn chưa hay, sao bọn Mộ Dung ở Cô Tô lại biết được?

Thiên Tham tức giận nói:

- Đại Luân Minh Vương đã nổi tiếng khắp thế gian là một vị cao tăng, sao

lại không thông tình lý? Dám cưỡng ép bọn ta đòi lấy bảo kinh mà được bao

giờ. Chính Minh cùng phương trượng sư huynh nên biết rằng nếu họ tử tế tất

không đến mà họ đã đến là chẳng tử tế gì. Đây là một việc trọng đại, bọn ta

không tác chủ được, phải thỉnh Khô Vinh sư thúc nắm vững đại cuộc cho.

Thiên Nhân lại nói:

- Chùa nhà có pho kinh này thật nhưng nói ra lại xấu hổ. Bọn ta đây đã

không ai đủ tài lực để luyện thành môn võ trong sách thì chớ, cả những điều

ảo diệu trong kinh cũng chưa hiểu nổi. Đại Luân Minh Vương biết đây có

pho kinh này mà vẫn dám đến yêu sách thì ra y ỷ mình quá, không còn sợ

gì môn tuyệt học của Lục Mạch Thần Kiếm nữa.

Khô Vinh lạnh lùng nói:

- Y không dám coi thường Lục Mạch Thần Kiếm đâu. Theo lời trong thư y

rất kính phục Mộ Dung tiên sinh, mà Mộ Dung tiên sinh ao ước pho kinh

này vô cùng. Đại Luân Minh Vương đã cân nhắc lắm đấy. Y biết trong chùa

này không có cao nhân siêu quần xuất chúng, sách quý mà chẳng ai luyện

nổi để đó thật uổng mà thôi.

Thiên Tham lớn tiếng nói:

- Nếu y ngưỡng mộ cuốn kinh, muốn cầu khẩn mượn về xem mình nể là bậc

cao tăng cho mượn thì được, chẳng cho cũng thôi có phải tử tế không? Đằng

này y lại bảo lấy về đốt đi cho kẻ đã chết rồi, thế mới đáng giận. Có phải y

coi chùa Thiên Long ta chẳng ra gì cả?

Thiên Tướng thở dài than rằng:

- Sư đệ không nên vì thế mà đem lòng giận dữ. Ta xem Đại Luân Minh

Vương không phải là hạng người càn rỡ. Đó chẳng qua vì y quá tình thiết

tha với Mộ Dung tiên sinh mà ra. Hỡi ôi! Bạn vàng đã qua đời, không còn

bao giờ được thấy mặt cố nhân, lòng quyến luyến khôn bề bộc lộ. ý chừng y

muốn bắt chước Ngô Quý Chi thuở xa đem bảo kiếm treo trên mồ bạn.

Bảo Định Đế hỏi:

- Thiên Tướng đại sư có biết Mộ Dung tiên sinh là người thế nào không?

Thiên Tướng lắc đầu đáp:

- Ta chưa từng quen biết, song cứ suy Đại Luân Minh Vương là nhân vật thế

nào mà còn khiêm ngưỡng cũng đủ biết Mộ Dung tiên sinh tất phải là bậc

phi thường.

Thiên Nhân phương trượng nói:

- Cứ lời sư thúc vừa xét đoán thì thế địch lợi hại vô cùng. Chúng ta không

luyện mau những phép Lục Mạch Thần Kiếm thì e rằng kinh báu bị người

cướp và Thiên Long tự đến phải thất điên bát đảo mất. Khổ một điều là

luyện môn thần kiếm chủ chốt ở nội lực phi thường, không thể chỉ trong

chốc lát mà nên. Chính Minh đừng tưởng bọn ta không quan tâm đến vụ

thằng cháu Dự bị trúng độc đâu, chỉ e ai nấy nội lực đều bị tổn hại quá

nhiều, cường địch lại sắp đến, không còn đủ sức lực để đối phó. Xem ra tuy

y bị trúng độc nặng lắm đấy nhưng trong vài ngày chưa đáng lo ngại gì đến

tính mạng. Hãy để y tĩnh dưỡng ở đây mấy bữa, nếu bệnh tình có biến

chuyển, chúng ta sẽ liệu cách chữa trị. Chờ khi đuổi xong kẻ địch, chúng ta

sẽ dùng toàn lực khu trục tà độc cho y. Vậy ngươi nghĩ sao?

Bảo Định Đế tuy rất lo cho bệnh tình Đoàn Dự, song Đế là người có kiến

thức bao quát, nhà Vua hiểu rằng chùa Thiên Long là căn bản của họ Đoàn

nước Đại Lý, mỗi khi Hoàng gia gặp hoạn nạn là chùa lại dốc hết lực lượng

ra cứu viện, chuyển nguy thành yên. Họ Đoàn nước Đại Lý lập quốc từ đời

Ngũ Đại đến nay đã được 158 năm, trung gian bao lần phải chịu phong ba.

Vậy mà xã tắc không bị nghiêng đổ phần lớn là nhờ ở chùa Thiên Long.

Chùa có một mối quan hệ vô cùng trọng đại đến việc giữ vững kinh kỳ.

Hiện nay chùa lâm vào tình trạng bất an thì có khác gì hoàng thành gặp cơn

nguy biến? Nhà Vua nghĩ vậy liền đáp:

- Phương trượng thực là nhân đức. Vãn bối cảm kích vô cùng. Trong công

cuộc đối phó với Đại Luân Minh Vương liệu Chính Minh này có thể góp

được phần nhỏ đường dây tơ sợi tóc nào chăng?

Thiên Nhân trầm ngâm một lát rồi đáp:

- Kể ra thì ngươi là tay cao thủ nhất trong những người họ Đoàn còn ở ngoài

thế tục đó. Thêm ngươi vào chống địch, lực lượng sẽ tăng lên nhiều. Có

điều để người tục tham dự vào việc tranh đấu giữa các đệ tử nhà Phật thì

không khỏi bị Đại Luân Minh Vương cười bọn Thiên Long ta không có

người.

Bỗng thấy Khô Vinh nói:

- Việc luyện Lục Mạch Thần Kiếm nếu cứ riêng biệt để một người thì đây

không ai làm nổi. Vậy bọn ta phải tìm ra một phương pháp khôn ngoan:

Mỗi người tập một mạch và phải có sáu người, lúc đối địch để một người ra

tay, còn năm người kia đứng ngoài dồn nội lực vào tiếp viện. Chỉ cần một

điều đừng để đối phương nhìn rõ cơ quan của mình là chế phục được bên

địch. Kể ra cách này cũng không được chính đại quang minh nhưng tình thế

gấp rút quá rồi, ta phải tòng quyền chứ biết sao bây giờ? Có điều chùa

Thiên Long này tính đi tính lại không tìm đâu ra được sáu tay cao thủ, bản

lĩnh tương đương nhau. Chính Minh ngươi đến thế là vừa vặn, nhưng ngươi

phải xuống tóc, mặc áo thầy chùa vào mới được.

Trưởng lão càng nói càng hăng, tựa hồ lòng người rất là phấn khởi. Tuy

nhiên giọng nói vẫn lạnh lùng.

Bảo Định Đế thưa:

- Chính Minh này vốn có chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có điều kỳ công về

kiếm thần chưa biết mảy may nào cả.

Hoi 25 Đại Luân Minh Vương

Bảo Định Đế vừa nói xong, Thiên Tham hoà thượng cướp lời vội đáp:

- Nếu theo phương pháp khôn ngoan của Khô Vinh đại sư vừa nói thì ngươi

đã tự hiểu cả rồi, chỉ cần nhớ thêm phép kiếm nữa là xong.

Bảo Định Đế ngạc nhiên hỏi lại:

- Vãn bối chưa hiểu, xin đại sư chỉ giáo rõ cho!

Thiên Nhân phương trượng nói:

- Ngươi hãy ngồi xuống đây nói chuyện.

Bảo Định Đế ngồi xếp bằng xuống bồ đoàn. Thiên Nhân tiếp:

- Phép Lục Mạch Thần Kiếm không phải là đánh kiếm thật, mà là dùng chỉ

lực trong phép Nhất Dương Chỉ biến hoá thành kiếm khí. Chỉ có thực chất

chứ không hình thể rõ rệt cho nên phép này có thể gọi là vô hình kiếm. Trên

cổ tay ngươi có sáu mạch là: Thái Âm, Quyết Âm, Thiếu Âm, Thái Dương,

Dương Minh, Thiếu Dương.

Thiên Nhân vừa nói vừa thò tay vào phía sau cái bục lấy ra một cuốn trục

lụa. Vì lâu ngày quá lụa đã biến thành mầu vàng. Thiên Tham tiếp lấy treo

lên vách, mở cuộn trục ra. Nguyên cuộn trục này cuốn bức tranh vẽ đồ hình

một người đàn ông khỏa thân, chua rõ các huyệt. Các đường chuyển vận lưu

thông về sáu mạch vẽ mầu xanh, đỏ. Bảo Định Đế là bậc cao thủ về phép

Nhất Dương Chỉ, mà kinh Lục Mạch Thần Kiếm lại lấy Nhất Dương Chỉ

làm căn bản và cùng một đường lối võ công của họ Đoàn nên nhà Vua chỉ

xem qua đã hiểu ngay.

Thiên Nhân lại nói:

- Chính Minh! Ngươi làm chúa tể nước Đại Lý, việc cải trang chỉ là quyền

nghi nhất thời nếu để đối phương khám phá ra thì rất tổn hại đến uy danh cả

nước, được bề nọ mất bề kia, nên chăng tuỳ ý ngươi tự quyết lấy.

Bảo Định Đế chắp tay đáp:

- Mạnh dạn thẳng tiến mới là người dũng, không suy hơn tính thiệt mới gọi

là nghĩa.

Thiên Nhân nói:

- Thế thì hay lắm! Kinh Lục Mạch Thần Kiếm này không truyền cho con

em ở ngoài tục luỵ. Ngươi phải xuống tóc ta mới truyền thụ cho.

Bảo Định Đế đứng lên, bước ra quỳ xuống đất nói:

- Xin đại sư mở lượng từ bi.

Khô Vinh đại sư nói:

- Ngươi lại đây ta là phép thế phát cho.

Bảo Định Đế rảo bước tới, quỳ ở phía sau Khô Vinh. Lúc đó Đoàn Dự cũng

đứng dưới đất, tinh thần đang tỉnh táo, nghe mấy vị đối thoại nghĩ thầm

trong bụng: các ông bàn đi tính lại, té ra việc này có liên quan đến bọn Mộ

Dung. Chàng thấy bá phụ muốn thay đổi trang phục, mặc áo thầy tu không

khỏi ngấm ngầm kinh dị.

Bỗng thấy Khô Vinh đại sư đa tay phải vòng lại phía sau giữ đầu Bảo Định

Đế. Bàn tay này chỉ còn da bọc lấy xương. Khô Vinh đại sư vẫn không xoay

người lại, miệng lâm râm đọc kệ, cất tay lên một cái bao nhiêu tóc Bảo

Định Đế rơi xuống đất hết, còn lại cái đầu trụi nhẵn thín hơn là lấy dao cạo.

Đoàn Dự cả kinh còn các vị Thiên Quan, Thiên Nhân trong lòng bội phục

vô cùng lẩm bẩm: "Khô Vinh lão thúc tu luyện khô thuyền công lực đã cao

thâm đến mức này, thật là hãn hữu".

Khô Vinh đại sư dõng dạc tuyên bố:

- Ngươi đã quy y cửa Phật, đặt cho pháp hiệu Thiên Trần.

Bảo Định Đế đáp:

- Tạ ơn sư phụ đã ban pháp danh cho.

ở nơi cửa Phật không kể đến vai vế gia đình ngoài trần tục, nên Thiên Nhân

phương trượng đứng vào hàng thúc phụ của Bảo Định Đế nhưng từ đây Bảo

Định Đế đã chịu phép thế phát của Khô Vinh trở thành sư đệ Thiên Nhân.

Khô Vinh lại nói:

- Không chừng sớm tối hôm nay Minh Luân Đại Vương sẽ tới. Thiên Nhân!

Ngươi đem ngay những điều bí mật về Lục Mạch Thần Kiếm truyền thụ cho

Thiên Trần.

Thiên Nhân vâng lời, đưưa Bảo Định Đế đến trước đồ hình về kinh mạch treo

trên vách. Bảo Định Đế chuyên trị mạch Thiếu Dương, đường mạch đi ra

sao từ đâu đến đâu, qua những huyệt đạo nào Thiên Nhân nhất nhất chỉ dẫn

tường tận, đồng thời giảng cho Bảo Định Đế về cách phóng kiếm khí do

huyệt "Quan xung" ở ngón tay vô danh. Bảo Định Đế y theo lời giảng dạy,

vận động nội lực từ ngón tay vô danh phát ra những tiếng vù vù, chân khí từ

huyệt "quan xung" phóng ra mãnh liệt.

Khô Vinh đại sư cả mừng nói:

- Nội lực của ngươi đã đến mức phi thường. Kiếm pháp này tuy biến ảo

khôn lường, song kiếm khí đã thành hình thì có thể tuỳ ý người sử dụng.

Thiên Nhân nói:

- Sư thúc luyện "Thương kiếm" ở ngón tay cái. Tôi luyện "Dương kiếm" ở

ngón tay trỏ. Thiên Quan sư huynh luyện "Xung kiếm" ở ngón tay giữa.

Thiên Trần sư đệ luyện "Quan xung kiếm" ở ngón vô danh. Thiên Tướng sư

đệ luyện "thiếu xung kiếm" ở ngón út. Thiên Tham sư đệ luyện "Thiếu trạch

kiếm" ở ngón út bên tay trái. Việc gấp đến nơi, không thể trì hoãn được nữa

chúng ta phải bắt đầu luyện ngay từ bây giờ.

Nói xong mở hết sáu bức đồ hình treo lên bốn bức vách. Trên đồ hình nào

cũng vẽ đủ đường ngang, đường dọc, đường giáp nhau, đường vòng tròn và

đường cánh cung. Mỗi vị đều theo đồ hình mà luyện đờng kiếm khí của

mình, giơ ngón tay lên không nào điểm nào vạch.

Đoàn Dự đứng đó cảm thấy chân khí trong người rung động nhộn lên, so

với trước đây còn tệ hại hơn, không thể chịu đựng được nữa vì nhận thêm

chân khí của Bảo Định Đế cùng năm nhà sư chùa Thiên Long tống vào.

Nhưng chàng thấy bá phụ cùng các phương trượng đang định thần, dụng

công luyện kiếm khí nên không dám lên tiếng sợ kinh động mọi người.

Chàng chỉ ngồi trân trân ra đó hồi lâu, thấy trong người càng thêm bứt rứt

buồn tẻ, ngẫu nhiên nhìn lên đồ hình vẽ kinh mạch treo trên vách. Giữa lúc

ấy chàng cảm thấy ngón tay trái giật lên không ngớt, dường như bên trong

có con gì muốn cắn da thịt để chui ra. Chỗ đầu ngón tay cắn nhôn nhốt đó

đúng chỗ trên hình chua rõ là huyệt "hội tông". Đoàn Dự nghiêng đầu nhìn

bá phụ thấy người đang ngưng thần, chăm chú để mắt dán vào mạch "thiếu

dương đi tam tiêu" trên bản đồ, ngón tay vô danh bên phải đang búng tanh

tách. Đoàn Dự thuận mắt liền ngó theo đường vạch đỏ từ huyệt "hội tông" ra

lạc "tam dương" qua đường "tứ độc" nhập vào khu "thiên tỉnh". Chàng đem

tâm theo dõi kinh mạch thì chân khí trong người chàng đang tả xung hữu

đột tự nhiên được tâm ý hướng dẫn vào đường lối cũng đi từ cổ tay chuyển

qua cẳng tay, đi lên khuỷu tay ngược lên cánh tay cho đến đầu, bả vai. Chân

khí theo đường kinh mạch chuyển vận rất có thứ tự. Toàn thân chàng đang

bứt rứt khó chịu bỗng nhiên trở nên khoan khoái. Đoàn Dự định thần tĩnh trí

đưa đường chân khí đó vào trong "tam tiêu". Nhưng dẫn chân khí được vào

trong "tam tiêu" phải là tay giỏi nội công thì chàng lại chưa am hiểu bí

quyết đó. Chỉ trong thời gian uống cạn chén trà chàng không chịu nổi được

nữa kêu lên "ối chao! ối chao!". Bảo Định Đế chợt nghe tiếng la cấp bách

vội hỏi:

- Dự nhi! Con làm sao vậy?

Đoàn Dự đáp:

- Cháu thấy trong người không biết bao nhiêu là luồng chân khí đang chạy

nhộn lên không thể chịu nổi. Cháu đem tâm theo dõi những vạch đỏ trên đồ hình của bá phụ, chân khí cũng cuồn cuộn chảy về huyệt "đan điền". Trời ơi có lẽ huyệt này đầy quá, tắc nghẽn, bụng cháu muốn nổ tung ra bây giờ.

Có ai qua cầu mới biết sự phản ứng về nội công làm cho ruột gan chướng

lên như muốn nổ tung ra mà người ngoài trông chẳng thấy trạng thái gì khác

lạ. Bảo Định Đế là người có bản lãnh về nội công rất thâm hậu, biết rõ rằng

chân khí nhiều đến nỗi bành chướng huyệt đan điền thì ít ra cũng phải luyện

nội công đên 20 năm, đằng này Đoàn Dự cha biết võ công mà trạng thái

này xuất hiện thì chỉ là do tà độc trong người đến lúc phát động. Bảo Định

Đế kinh dị nghĩ thầm: "nếu không dẫn khí vào chỗ chứa tất sinh tai vạ

nhưng lại e đa tà khí vào sâu nội phủ sau này trục xuất rất là khó khăn".

Nhà Vua bình nhật giải quyết mọi vấn đề nghi nan một cách quả quyết mau

lẹ song đứng trước mối hoạ phúc một đời của Đoàn Dự chỉ sai một chút là

lập tức nguy hiểm đến tính mạng chàng nhà Vua không khỏi do dự. Nhìn

mắt chàng hào quang tán loạn dường sắp nổi cơn điên không còn đủ thì giờ

nghĩ tới nghĩ lui được nữa nhà Vua quyết định tạm thời cứu nguy trước mắt

rồi sẽ liệu bèn bảo Đoàn Dự:

- Dự nhi! Ta dạy con phép dẫn khí về nơi trống rỗng.

Vừa nói vừa truyền thụ phương pháp này cho chàng. Môn nội công họ Đoàn

nước Đại Lý quả tinh diệu hơn đời, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã vận

chuyển được chân khí vào các tạng phủ. Chàng cảm thấy thân thể như thư

thái nhẹ nhàng tựa hồ như muốn bay bổng lên không. Bảo Định Đế thấy

Đoàn Dự lộ vẻ vui tươi trong lòng vẫn không khỏi lo ngại chỉ sợ tà khí từ

đây cố kết trong nội tạng khó lòng khu trừ cho tuyệt diệt, phải mang luỵ

suốt đời, bất giác thở dài sườn sượt.

Khô Vinh đại sư thuỷ chung vẫn tĩnh toạ, quay mặt vào vách song hai người

đối thoại câu nào cũng lọt vào tai. Đại sư thấy Bảo Định Đế truyền thụ xong

phép "đạo khí quy hư" rồi cất tiếng thở dài liền lên tiếng bảo nhà Vua:

- Thiên Trần! Việc đời nhất thiết đều có tiền định cả. Cát hung hoạ phúc

đều do lòng người mà ra. Ngươi bất tất quá lo xa cho người, phải gấp rút

luyện đường "thiếu dương kiếm" đi!

Bảo Định Đế vâng lời, trấn định tâm thần rồi tiếp tục luyện môn "thiếu

dương kiếm". Trong thân thể Đoàn Dự chân khí nhiều quá, đầy rẫy khắp nơi

không thể chốc lát thu về hết ngay được song chàng đã biết phương pháp

thực hành mỗi lúc một thuần thục. Sáu nhà sư trong tăng xá ai nấy gia công

luyện kiếm thâu đêm, bất giác trời đã rạng đông. Tiếng gà xao xác gáy dồn.

Đoàn Dự cảm thấy chân khí trong mình không còn chạy nhộn lên nữa.

Chàng đứng dậy cử động chân tay, vẫn thấy bá phụ cùng năm vị cao tăng

chuyên tâm luyện kiếm, chàng không dám mở cửa ra ngoài, cũng không

dám lên tiếng, e làm kinh động mọi người. Không có việc gì cũng buồn,

chàng lại trông lên đồ hình của bá phụ, hết nhìn nhận về các đường kinh

mạch lại nhìn nhận đến lời giảng giải về kiếm pháp "thiếu dương". Trong

lúc đang nhìn nhận suy nghĩ, bỗng nhiên cảm thấy một luồng chân khí từ

trong huyệt "đan điền" tuôn đến đầu bả vai, qua các huyệt "nao hội", "tiểu

lạc", "thanh lãnh uyển" nhập vào huyệt "quan xung" ở ngón vô danh. Đầu

ngón tay chàng chướng lên rất khó chịu. Chàng liền nghĩ: âu là ta dẫn khí

trở về huyệt "đan điền". Chàng tư tưởng như vậy quả nhiên luồng chân khí

lại qua những đường huyệt trở về "đan điền". Thế là Đoàn Dự đã vô tình học

được phương pháp căn bản về nội công vào hạng thượng thừa. Nhưng đó

mới chỉ là cách cho chân khí chạy đi chạy về, chàng đã lấy làm vui sướng

vô cùng. Trong mầu ni đường có ba nhà sư thì Thiên Tớng đại sư là người

vui vẻ dễ thân cận hơn hết. Đoàn Dự liền nghiêng đầu về nhà sư này để xem

đồ hình từ huyệt "thiếu âm" đến "tâm kinh" của ông. Đồ hình này bắt nguồn

từ huyệt "cực toàn" dưới nách, qua huyệt "thanh linh", "thiếu hải" ở khu vực

khuỷu tay rồi do các huyệt "linh đạo", "thông lý", "thần môn", "thiếu phủ"

ăn thông vào huyệt "tiểu xung" trên ngón tay út. Đoàn Dự lại đem hết tinh

thần nghĩ vào đó, quả nhiên một luồng chân khí lại do những kinh mạch này

đi ra theo đúng ý nghĩ của mình. Rồi chàng lần lượt nhìn những đồ hình

khác, cũng theo phương pháp đó, bất tất phải nói hết cho rườm lời. Mất nửa

ngày nhìn nhận chàng đã thông suốt được cả kinh mạch trên sáu bức đồ

hình. Chàng cảm thấy tinh thần sảng khoái, quên cả đói khát. Sau không

biết làm gì nữa để giết thời giờ Đoàn xem đến lời giảng dạy về kiếm pháp

trên sáu bức đồ hình về sáu thế kiếm "thiếu thương", "thiếu dương", "trung

xung", "quan xung", "thiếu xung" và "thiếu trạch". Nhưng chàng chỉ thấy

những vạch đen, vạch đỏ đi ngang đi dọc hoặc giao tiếp nhau trông rối mắt

khó lòng nhận ra được. Chàng lẩm bẩm: "những đường kiếm rắc rối thế này

thì làm sao mà nhớ được?". Rồi chàng tự hỏi: "hai chú tiểu sao mãi không

thấy mang cơm chay đến cho mình? Mình phải ra ngoài tìm chút gì ăn cho

đỡ đói". Ngay lúc ấy, mũi chàng ngửi thấy mùi gỗ đàn hương thơm ngát,

tiếp theo có tiếng hát kệ bằng Phạn ngữ từ xa vẳng lại nghe không rõ. Khô

Vinh đại sư buồn rầu nói:

- Hay quá! Hay quá Đại Luân Minh Vương đã tới. Các ngươi luyện kiếm

pháp kết quả ra sao?

Thiên Tham đáp:

- Tuy chưa được thuần thục nhưng cũng đủ để nghênh địch.

Khô Vinh lại bảo Thiên Nhân:

- Ta không đi được! Ngươi ra mời Đại Luân Minh Vương vào mầu ni đường

nói chuyện.

Thiên Nhân vâng lời đi ra. Thiên Quan lấy năm chiếc chiếu trải ra đầu đằng

đông rồi chính mình ngồi vào chiếu đầu. Thiên Tướng ngồi chiếu thứ hai,

Bảo Định Đế ngồi chiếu thứ tư, chiếu thứ ba dành cho Thiên Nhân còn

Thiên Tham ngồi chiếu thứ năm.

Đoàn Dự không được ngồi đứng ở phía sau Bảo Định Đế. Khô Vinh và bọn

Thiên Quan biết cường địch đã đến còn ôn lại lời giảng giải trên đồ hình lần

cuối cùng rồi mới cuốn lại để trước mặt Khô Vinh.

Bảo Định Đế bảo Đoàn Dự:

- Dự nhi! Lát nữa sẽ xảy ra cuộc ác chiến, trong nhà kiếm khí phóng vùn

vụt ra khắp mọi chỗ, rất là nguy hiểm. Ta không thể phân tâm ra bảo vệ con

đợc vậy con ra ngoài kia nghe!

Đoàn Dự rất đỗi băn khoăn nghĩ bụng: "nghe miệng lưỡi các người thì lão

Đại Luân Minh Vương lợi hại lắm đấy mà bá phụ mình bữa nay mới luyện

"quan xung kiếm pháp" lần đầu, chưa chắc đã địch được lão, nếu có chỗ sơ

hở biết làm thế nào bây giờ?". Nghĩ vậy chàng đáp:

- Bá bá ơi! Cháu... cháu phải ở luôn bên cạnh bá bá. Mình bá bá ở lại đấu

kiếm với họ, cháu chẳng... yên tâm chút nào.

Mấy tiếng sau chàng vừa nói vừa nghẹn ngào. Bảo Định Đế cũng động lòng

nghĩ thầm: "Thật là một đứa bé hiếu thảo". Khô Vinh đại sư gọi:

- Dự nhi! Cháu lại ngồi trước mặt ta đây! dù Đại Luân Minh Vương có lợi

hại đến đâu cũng không động đến chân lông cháu được.

Lời đại sư tuy lạnh lùng song ngụ ý cao ngạo. Đoàn Dự vâng lời, khom lưng

đến ngồi trước mặt Khô Vinh nhưng không dám ngoảnh lại nhìn đại sư, chỉ

quay mặt vào vách. Khô Vinh cao hơn chàng nhiều, che lấp hẳn chàng đi.

Bảo Định Đế vừa cảm kích lại vừa yên dạ. Nhà Vua nghĩ đại sư vừa lấy

phép khô thuyền để xuống tóc cho mình, một môn thần công đó cũng đủ

ngạo đời rồi. Còn việc bảo vệ Đoàn Dự tất đại sư thừa sức.

Trong mầu ni đường yên lặng như tờ. Lát sau nghe tiếng Thiên Nhân

phương trượng mời:

- Minh Vương pháp giá đã quang lâm, xin mời người vào mầu ni đường

đàm thoại.

Rồi thấy tiếng người khác đáp:

- Xin phương trượng đi trước cho tôi theo gót.

Đoàn Dự nghe giọng nói của khách lạ có vẻ ôn hòa, khiêm nhường đúng lễ,

tuyệt không phải là hạng cường hung ác bá. Chàng lại nghe tiếng chân bước

có tới hàng chục người. Đoạn thấy Thiên Nhân mở cửa nói:

- Xin rước Minh Vương vào cho!

Đại Luân Minh Vương đáp:

- Xin lỗi.

Minh Vương bước vào trong nhà, hướng vào phía Khô Vinh chắp tay thi lễ

nói:

- Kẻ vãn bối bên nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí xin tham kiến tiền bối đại

s.

Đoạn đọc luôn bốn câu kệ:

Hữu thường mà hoá vô thường

Bốn bề song thụ một trường khô vinh

Đông, Tây, Nam, Bắc phân minh

Đã hình như giả lại hình như không.

Đoàn Dự lẩm bẩm: "thế ra vị Đại Luân Minh Vương này tên gọi Cưu Ma

Trí, nhng không biết bốn câu kệ ông vừa đọc có ngụ ý gì?".

Khô Vinh đại sư không khỏi giật mình nghĩ thầm: "Đại Luân Minh Vương

thật là người học vấn uyên thâm, tinh tế, tiếng đồn quả đã không ngoa. Lão

vừa mới gặp mặt lần đầu đã khám phá ra lai lịch phép luyện khô thuyền của

mình".

Nguyên trước đức Thích Ca mầu ni tịch giữa những cặp sa la tại thành Câu

Thi Na, bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc đều có hai cây này mà mặt nào cũng

cây tươi cây héo nên gọi là "Tứ khô tứ vinh". Trong kinh Phật giải thích

rằng: hai cây ở mặt đông tượng trưng cho thuyết "thường dã vô thường", hai

cây ở phương tây tượng trưng cho thuyết "ngã dữ vô ngã", hai cây phương

nam tượng trưng cho thuyết "lạc dữ vô lạc", hai cây ở phương bắc tượng

trưng cho thuyết "tĩnh dữ vô tĩnh". Những cây tươi tốt rườm rà tượng trưng

cho sự có thật là "hữu thường", "hữu ngã", "hữu lạc", "hữu tĩnh". Trái lại

những cây khô héo tàn tạ tượng trưng cho sự không có gì hết: vô thường, vô

ngã, vô lạc, vô tĩnh. Đức Phật Nh Lai (Thích Ca) tịch giữa tám cây tượng

trưng cho tám thuyết trên, hay nói một cách khác là phi khô, phi vinh, phi

giả, phi không.

Khô Vinh đại sư trên mời năm trời tu luyện khô thuyền mới tu được đến

cõi "bán khô, bán vinh" chứ chưa được đến cõi cao hơn là "phi khô phi

vinh" hay "diệc khô diệc vinh" nên đại sư vừa nghe mấy câu kệ của Đại

Luân Minh Vương không khỏi giật mình đáp:

- Minh Vương từ xa đến đây, lão tăng không kịp đi đón xin mở lượng từ bi.

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí nói:

- Uy danh chùa Thiên Long tiểu tăng bấy lâu ngưỡng mộ. Hôm nay được

diện yết tôn nghiêm hoan hỉ vô cùng.

Thiên Nhân phương trượng mời ngồi, Cưu Ma Trí tạ ơn rồi mới ngồi xuống.

Đoàn Dự chưa trông rõ tướng mạo Đại Luân Minh Vương liền nép mình vào

cạnh Khô Vinh, ngấp nghé trông ra thì thấy một vị sư mặc áo thầy chùa sắc

vàng, chưa tới 50 tuổi, áo vải giày cỏ, cũng chẳng có gì khác người thường,vẻ mặt tươi hơn hớn dường như minh châu bảo ngọc tự có ánh hào

quang. Chàng mới thấy mặt đã sinh lòng kính cẩn, muốn được thân cận.

Chàng lại nhìn qua khe cánh cửa ra ngoài thấy 8, 9 gã hán tử đứng đó, cao

có thấp có, mặt mũi tên nào cũng đanh ác, đáng ghê, không ra tuồng nhân

sĩ ở Trung Nguyên. Đó là những người tuỳ tùng mà Minh Vương đem từ

Trung Thổ đến.

Cưu Ma Trí chắp tay nói:

- Tuy đức Phật có dạy rằng: không sống, không chết, không nhơ, không

sạch song tiểu tăng tư chất ngu muội chưa suốt lẽ yêu, ghét, sống, chết.

Tiểu tăng có ông bạn tâm giao người đất Cô Tô, nước Đại Tống ở họ Mộ

Dung. Năm trước tiểu tăng hạnh ngộ ông bạn này tại nước Thiên Trúc rồi

cùng ông đàm luận võ nghệ. Mộ Dung tiên sinh biết hết các môn võ khắp

thiên hạ một cách rất tinh tường. Trong mấy ngày, tiểu tăng được tiên sinh

chỉ giáo cho những điểm nghi ngờ nên được hiểu hết. Không ngờ bậc đại

anh hùng chẳng được sống lâu, vội về cực lạc. Tiểu tăng có điều thỉnh

nguyện khó nghe, xin các vị trưởng lão mở lượng từ bi cho.

Thiên Nhân đã biết ý Đại Luân Minh Vương liền đáp:

- Minh Vương cùng Mộ Dung tiên sinh có mối nhân duyên kết bạn một hồi.

Nay duyên phận đã hết thì thôi hà tất phải miễn cưỡng môi cầu điều này

điều khác. Mộ Dung tiên sinh đã về thế giới cực lạc, lễ Phật nơi toà sen, còn

để ý đâu đến cái nghề võ ở nhân gian nữa? Minh Vương làm việc này chẳng

hoá ra rắn vẽ thêm chân ?

Cưu Ma Trí nói:

- Lời phương trượng chỉ điểm cho quả là đúng lý, song tiểu tăng vốn tính cố

chấp mê si, đã đóng cửa 40 ngày mà không sao quên được người tri kỷ.

Năm đó Mộ Dung tiên sinh có đề cập đến kiếm pháp khắp thiên hạ, xác

nhận môn Lục Mạch Thần Kiếm tại chùa Thiên Long đây đứng vào bậc

nhất. Tiên sinh ân hận chưa được xem qua, đó là một điều tiên sinh suốt đời

hối tiếc.

Thiên Nhân nói:

- Tệ tự ở tận biên cương hẻo lánh, được Mộ Dung tiên sinh có lòng quá yêu,

thực là một vinh dự cho chúng tôi. Nhưng không hiểu tại sao ngay ngày đó

tiên sinh không thân hành tới đây mượn về xem?

Cưu Ma Trí thở dài não ruột, thay đổi sắc mặt, lặng yên hồi lâu rồi lại nói:

- Mộ Dung tiên sinh thực ra đã biết cuốn kinh này là vật chí bảo để chấn

chùa, dù có đến mượn chắc cũng không được. Người còn nói rằng họ Đoàn

nước Đại Lý tuy ngôi chúa tể một nước mà không quên nghĩa khí thuở còn

là khách giang hồ, có lòng thương dân, gia ơn cho khắp cả trăm họ, tiên

sinh không tiện đến lấy trộm hay cưỡng đoạt.

Thiên Nhân tạ rằng:

- Đa tạ thịnh tình Mộ Dung tiên sinh quá khen. Mộ Dung đã để họ Đoàn

nước Đại Lý tôi lọt vào mắt xanh, Minh Vương lại là tri kỷ với tiên sinh

tưởng cũng nên nghĩ tới ý chí tiên sinh còn để lại.

Cưu Ma Trí nói:

- Chỉ vì hồi đó tiểu tăng đã trót khoe với tiên sinh rằng tiểu tăng là quốc sư

nước Thổ Phồn, đối với họ Đoàn nước Đại Lý chưa từng quen biết, nếu tiên

sinh không tiện thân hành đến lấy thì để tiểu tăng lấy cho. Tiểu răng nghĩ

rằng bậc đại trượng phu đã nói một lời dù sống chết cũng không thay đổi.

Tiểu tăng đã hứa nhất quyết không dám sai lời.

Dứt lời lão khẽ vỗ tay ba cái, hai hán tử khiêng một cái rương bằng gỗ đàn

hương vào, đặt dưới đất. Cưu Ma Trí phất tay áo một cái, nắp rương tự

nhiên mở ra, bên trong có một cái hộp bằng vàng. Cưu Ma Trí cúi xuống,

lấy hộp lên cầm tay.

Thiên Nhân nghĩ thầm: bọn ta đã là người thoát vòng tục luỵ còn tham lam

làm chi những đồ kỳ trân, dị bảo. Hơn nữa họ Đoàn làm Vua một nước dư

trăm rưởi năm nay, súc tích thiếu gì kim ngân châu báu.

Nhưng Cưu Ma Trí mở nắp hộp ra chỉ có ba quyển sách cũ. Lão tiện tay mở

ra. Thiên Nhân liếc mắt trông qua thấy trong sách có hình vẽ và có chữ

nghĩa đều do tay người viết và họa bằng mực, bằng son. Cưu Ma Trí nhìn ba

cuốn sách thốt nhiên rớt nước mắt ướt cả tràng áo, nét mặt sầu thảm vô

cùng. Bọn Thiên Nhân đều lấy làm lạ.

Khô Vinh đại sư nói:

- Minh Vương lúc nào cũng nghĩ đến người bạn thuở xa, trần duyên chưa

sạch, há không thẹn với hai chữ "cao tăng" ?

Đại Luân Minh Vương cúi đầu nói:

- Đại sư là bậc đại trí tuệ, đại thần thông tiểu tăng bì thế nào được? Ba

quyển võ công quyết yếu này do chính tay Mộ Dung tiên sinh soạn ra, diễn

thuật những điều chính yếu trong 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, có cả

phép luyện, phép phá nữa.

Mọi người nghe nói cả kinh nghĩ thầm: "72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm

lẫy lừng khắp thiên hạ. Người ta đồn rằng từ khi phái Thiếu Lâm sáng lập,

ngoại trừ một vị cao tăng về đời Tống kiêm được 56 môn còn chưa có người

thứ hai nào luyện tới 36 môn. Thế mà bảo Mộ Dung tiên sinh quán được cả

72 môn đã khó tin rồi, huống hồ lại biết cả cách phá giải nữa thì không ai

dám nghĩ đến.

Cưu Ma Trí tiếp:

- Mộ Dung tiên sinh tặng ba cuốn kỳ thư này cho tiểu tăng, tiểu tăng nghiên

cứu nhiều điều rất bổ ích. Nay xin đưa sang đây đổi lấy cuốn Lục mạch

thần kiếm kinh. Các vị đại sư có thể tất cho thì tiểu tăng mới vẹn được lời

ước hẹn năm xa và lòng cảm kích nói sao cho xiết?

Thiên Nhân phương trượng không nói gì nghĩ thầm: "nếu quả nhiên ba cuốn

sách này ghi chép đầy đủ 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm thì chùa Thiên

Long này sau khi học được ba cuốn đó võ công không chỉ ngang hàng với

phái Thiếu Lâm mà thôi lại còn có phần cao hơn một bậc vì bao nhiêu môn

sở trường của Thiếu Lâm mình đã biết hết mà phái Thiếu Lâm chưa biết gì

về những môn tuyệt kỹ của chùa này.

Cưu Ma Trí nói:

- Khi quý tự ban cho cuốn Bảo kinh đó vẫn để bản sao lại không thiệt hại gì

mà tiểu tăng được các đại sư gia ơn cho tất phải khắc xương để dạ. Đó là

một điều lợi. Tiểu tăng bái lãnh bảo kinh xin niêm phong lại lập tức, quyết

không xem trộm, thân hành đưa đến phần hoá ngay trước mồ Mộ Dung tiên

sinh. Tuyệt kỹ của quý tự không tiết lộ cho ai biết cả, đó là hai điều lợi. Các

vị đại sư ở quý tự đây võ học uyên thâm, không cần đi đâu mà nơi khác đem

đá đến cho có thể mài giũa nên ngọc quý. 72 môn tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm

có nhiều bí quyết độc đáo, tỷ như phép "niêm hoa chỉ", "vô tướng kiếp chỉ",

"Đa la diệp chỉ". Ba chỉ pháp này cùng phép Nhất Dương Chỉ của quý tự

đây có thể bồi bổ cho nhau. Đó là ba điều lợi.

Cưu Ma Trí nói thao thao một hồi nghe rất hợp tình hợp lý. Bảo Định Đế

cùng Đoàn Dự lúc đầu xem bức thư vàng lời lẽ có vẻ ép buộc chùa Thiên

Long để lấy bảo kinh một cách vô lý nhưng bây giờ nghe Cưu Ma Trí trình

bày như vậy tựa hồ chùa Thiên Long được lợi rất nhiều mà không thua thiệt

gì. Hơn nữa lão làm như thân hành kính dâng hậu lễ vậy. Thiên Tướng đại

sư là người hiền hoà dễ dãi nhất, bổn tính ưa giúp được việc cho người trong

tâm có ý ưng thuận. Song nói về tôn ti thì trên còn có sư thúc về địa vị phải

nhường phương trượng nên không dám nói ra.

Cưu Ma Trí tiếp:

- Tiểu tăng hãy còn ít tuổi và kiến thức hẹp hòi, lời nói chưa đủ thủ tín cùng

các vị đại sư vậy xin đem ba môn chỉ pháp cùng nằm trong 72 môn tuyệt kỹ

của phái Thiếu Lâm ra phô trương trước mặt quý vị, chẳng quản múa rìu

qua mắt thợ.

Lão liền đứng dậy rào đón:

- Đây chỉ là nhân lúc tiểu tăng cao hứng, công phu luyện tập thô sơ nên còn

nhiều chỗ kém cỏi, xin quý vị chỉ điểm cho. Tiểu tăng xin bắt đầu bằng

môn "niêm hoa chỉ".

Nói xong lão đưa ngón cái và ngón trỏ bên tay phải ra, nhẹ nhàng để gần

vào nhau, tựa hồ đang cầm một đoá hoa tươi. Nét mặt mỉm cười lão lại đưa

những ngón tay trái ra búng. Trong mầu ni đường trừ Đoàn Dự ra, còn toàn

là những tay nghiên cứu chỉ pháp đến mức tinh vi, vừa thấy lối chỉ pháp của

Cưu Ma Trí cực kỳ nhẹ nhàng êm dịu. Mỗi lần tay trái búng ra tựa hồ gảy

những hạt sương đọng trên hoa đi, lại tỏ vẻ không dám đụng mạnh, sợ cánh

hoa rụng xuống. Miệng vẫn ung dung mỉm cười. Nguyên kinh Phật có chép

rằng: Đức Thích ca mầu ni thuyết pháp trên núi Linh Sơn, tay cầm bông hoa

Ba la sắc vàng, mọi người nghe không ai nói gì, chỉ có Gia Diệp phá lên

cười, Đức Thích Ca biết ngay Gia Diệp đã lĩnh hội tâm pháp của mình liền

nói:

- Ta có các môn "chính nhãn pháp tàng", "nát bàn pháp môn", "thục tướng

vô tướng", "vi diệu pháp môn" không chép vào sách để ta truyền cho Gia

Diệp.

Tâm truyền là một điều trọng đại của Thuyền Tông. Phái Thiếu Lâm lại ở

trong phạm vi Thuyền Tông nên môn "niêm hoa chỉ" này được nghiên cứu

rất tinh vi.

Lúc Cưu Ma Trí búng ngón tay chưa thấy gì kỳ lạ. Lão búng liền một lúc

mấy chục cái rồi giơ tay áo lên thổi thì thấy những mảnh vải tròn, chỉ lớn

bằng những con cờ bay phất phới, tay áo lộ ra đến mấy chục chỗ thủng. Thì

ra lúc lão búng ngón tay lão đã dùng "niêm hoa chỉ" điểm vào tay áo cho

thủng rồi. Nhưng trước chưa trông thấy gì, tay áo tựa như vẫn nguyên lành

lúc thổi vào những mảnh áo mới bay tung ra.

Bọn Thiên Nhân, Thiên Quan, Bảo Định Đế thấy vậy đều lấy làm kinh dị

nghĩ thầm: "kể ra thì bọn mình mang Nhất Dương Chỉ điểm cho thủng áo

cũng được, chẳng có gì là khó. Song đưa ngón tay ra một cách mềm mại,

nét mặt vẫn vui vẻ tươi cười mà vận động nội lực mạnh đến thế thì mình

không làm được. Rút lại môn Nhất Dương Chỉ cùng môn "niêm hoa chỉ"

hoàn toàn khác biệt ở chỗ phát ra kình lực theo cách âm nhu mà môn Nhất

Dương Chỉ lại theo phép dương cương.

Cu Ma Trí tươi cười nói:

- Tiểu tăng đã phô bày môn "niêm hoa chỉ" một cách vụng về, còn kém

Huyền Độ đại sư chùa Thiếu Lâm xa lắm. Đến môn "Đa la diệp chỉ" tiểu

tăng sắp trình bày đây, chắc lại còn sai lạc hơn nữa.

Dứt lời Cưu Ma Trí đủng đỉnh đi vòng quanh cái rương gỗ đặt dưới đất,

mười đầu ngón tay điểm ra trông tựa như lá rụng hoa bay rồi những miếng

rương gỗ tung lên không ngớt. Chớp mắt những mãnh gỗ đó đã nát vụn, rơi

xuống thành một đống mùn cưa. Bảo Định Đế cùng các nhà sư coi việc làm

cho cái rương gỗ vụn ra chẳng có chi kỳ dị nhưng cả những đai sắt, bản lề

đồng mà chỉ lực cũng đánh gãy nát được thì không khỏi kinh hãi.

Cưu Ma Trí cười nói:

- Tiểu tăng sử dụng môn "Đa la diệp chỉ" này cũng là miễn cưỡng, công phu

luyện tập hãy còn thiển cạn.

Lão vừa nói vừa thủ tay vào trong áo thế mà thốt nhiên đống gỗ nát vụn tự

nhiên bay lên loạn xạ, tựa hồ có cây vô hình khuấy lên vậy. Nét mặt Cưu

Ma Trí vẫn ôn hoà tươi cười, cái áo thầy chùa rộng thùng thình vẫn không

lay động mảy may. Thần tình ở chỗ chỉ lực bên trong tay áo phóng ngầm ra,

tuyệt không lộ hình tích chút nào.

Thiên Tướng không nhịn được bất giác trầm trồ:

- Môn "vô tướng kiếp chỉ" hay quá! Quả nhiên danh bất hư truyền! Bần tăng

xin bội phục!

Cưu Ma Trí lễ phép nói:

- Đại sư quá khen đấy chứ! Đống gỗ nát vụn lên còn là hữu tướng. Luyện

được đến chỗ vô hình, vô tướng thì phải hết đời.

Thiên Tướng đại sư hỏi:

- Trong cuốn kỳ thư của Mộ Dung tiên sinh để lại có nói đến phép phá môn

"vô tướng kiếp chỉ" không?

Cưu Ma Trí đáp:

- Có có! Phép phá "vô tướng kiếp chỉ" cũng có tên giống như pháp danh của

đại sư.

Thiên Tương trầm ngâm hồi lâu rồi tiếp:

- ừ phải! Đem thiên tướng để phá vô tướng thật là cao tuyệt.

Ba nhà sư Thiên Nhân, Thiên Quan, Thiên Tham nhìn Cưu Ma Trí diễn

xong ba môn chỉ lực đã thấy chột dạ, biết rằng ba cuốn kỳ thư đúng là chép

72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đã có ý muốn đem bản sao các đồ

hình về Lục mạch thần kiếm đánh đổi nhưng còn trù trừ chưa dám nói ra.

Thiên Nhân nói:

- Bạch sư thúc! Minh Vương từ xa tới đây với tầm lòng thành thực! ý kiến

sư thúc thế nào chỉ thị cho!

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Thiên Nhân! Chúng ta luyện công tập nghị để làm gì?

Thiên Nhân phương trượng nghe sư thúc hỏi vặn không khỏi ngạc nhiên

đáp:

- Cốt để mở rộng phép mầu, bảo vệ quốc gia.

Khô Vinh lại hỏi:

- Khi gặp hạng quỷ quái ở đâu đến, đạo pháp mình hãy còn thiển cận không

đủ điểm hoá được chúng cần phải tru diệt cho yên thì dùng cách gì?

Thiên Nhân đáp:

- Nếu bất đắc dĩ phải ra tay, sẽ dùng Nhất Dương Chỉ.

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Ngươi luyện Nhất Dương Chỉ đã đến bậc nào?

Thiên Nhân toát mồ hôi trán đáp:

- Đệ tử ngu muội lại thiếu chuyên cần nên mới luyện đến bậc thứ năm.

Khô Vinh đại sư lại hỏi:

- Theo ý kiến ngươi thì môn Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý so

với các môn "niêm hoa chỉ", "Đa la diệp chỉ", "Vô tướng kiếp chỉ" của phái

Thiếu Lâm ai hơn ai kém?

Thiên Nhân đáp:

- Về chỉ pháp không có hơn kém, chỉ có công phu rèn luyện là có kẻ cao

người thấp mà thôi.

Khô Vinh đại sư nói:

- Đúng đó. Giả tỷ mà môn Nhất Dương Chỉ của chúng ta luyện được đến

chỗ tuyệt đỉnh thì sẽ ra sao?

Thiên Nhân đáp:

- Phép mầu uyên thâm như biển cả khôn lường. Đệ tử đâu dám nói càn?

Khô Vinh hỏi:

- Tỷ dụ như ngươi thọ đến trăm tuổi, sẽ luyện được tới bậc nào?

Mồ hôi trán nhỏ giọt, Thiên Nhân đáp:

- Đệ tử cũng không biết nữa.

Khô Vinh hỏi:

- Liệu có luyện được đến chỗ tuyệt đỉnh không?

Thiên Nhân đáp:

- Quyết không thể được.

Thấy Khô Vinh không nói gì nữa Thiên Nhân tiếp:

- Lời sư thúc dạy chí phải. Môn Nhất Dương Chỉ của mình còn chưưa luyện

được đến nơi đến chốn thì nói chi đến kỳ kinh võ học của ai nữa? Minh

Vương lặn lội cực nhọc đến đây tệ tự xin thết tiệc chay tẩy trần.

Vừa nghe lời cự tuyệt Đại Luân Minh Vương thở dài sườn sượt nói:

- Chỉ vì tiểu tăng trót lỡ miệng một câu không thì nay Mộ Dung tiên sinh đã

qua đời, việc cầu kinh Lục mạch thần kiếm có được hay không cũng chẳng

quan hệ gì. Hôm nay tiểu tăng hỏi câu này khí vô lễ:

- Môn Lục mạch thần kiếm quả có tinh diệu đến như lời Mộ Dung tiên sinh

thì e rằng quý tự đây không ai luyện nổi. Giả tỷ có người luyện thành rồi thì

chắc nó chả tinh diệu như Mộ Dung tiên sinh đã tưởng tượng.

Khô Vinh nói:

- Lão tăng cũng có một nghi vấn mong Minh Vương chỉ giáo.

Cưu Ma Trí nói:

- Không dám!

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Bản tự có pho kinh Lục mạch thần kiếm, chính con cháu họ Đoàn còn ở

trong vòng tục luỵ cũng không thể biết, không hiểu Mộ Dung tiên sinh đã

nghe ai mách?

Cưu Ma Trí đáp:

- Mộ Dung tiên sinh không nói rõ. Song tiểu tăng đoán ra dường như tiên

sinh có mối quan hệ với thái tử Diên Khánh họ Đoàn.

Thiên Nhân gật gù hỏi:

- Thái tử Diên Khánh có biết Mộ Dung tiên sinh?

Cưu Ma Trí đáp:

- Mộ Dung tiên sinh có chỉ điểm cho thái tử bảy, tám thế võ nhưng không

chịu thu nạp y làm đồ đệ.

Khô Vinh đại sư hỏi:

- Tại sao vậy?

Cưu Ma Trí đáp:

- Đó là chuyện riêng của tiên sinh, tiểu tăng không tiện hỏi kỹ.

ý tứ câu nói của Cưu Ma Trí là xin Khô Vinh đừng hỏi nữa. Khô Vinh nói:

- Thái tử Diên Khánh là con em họ Đoàn, chùa Thiên Long cùng trưởng tộc

có trách nhiệm về hành động của y.

Cưu Ma Trí lạnh lùng đáp:

- Chính thế!

Thiên Nhân phương trượng nói:

- Trên mười năm trời sư thúc bần tăng không tiếp kiến ai. Chỉ có Minh

Vương là bậc cao tăng hiện nay nên người mới phá lệ đó ra tiếp kiến chốc

lát mà thôi. Nào xin mời Minh Vương.

Nói xong đứng dậy tỏ ý tiễn chân.

Cưu Ma Trí nói:

- Tôi tưởng kinh Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh, quý tự hà tất phải coi

quan trọng như thế làm gì? để đến nỗi thương tổn đến hoà khí giữa Thiên

Long tự và Đại Luân tự, lại tổn thương cả đến mối bang giao giữa hai nước

Đại Lý cùng Thổ Phồn.

Thiên Nhân nói:

- Minh Vương muốn nói thế nào thì nói chúng tôi cũng không thuận giao

kinh đâu. Chẳng lẽ vì thế mà Đại Lý cùng Thổ Phồn sẽ xảy cuộc binh đao?

Bảo Định Đế thường phái trọng binh đồn trú tại miền biên giới tây bắc để

đề phòng nước Thổ Phồn đem quân vào xâm lấn giờ nghe Cưu Ma Trí nói

vậy nhà Vua càng để ý theo dõi câu chuyện.

Cưu Ma Trí nói:

- Quốc Vương nước Thổ Phồn chúng tôi lâu nay vẫn hâm mộ nhân vật vùng

phong thổ nước Đại Lý, từng đòi mở cuộc săn bắn với Hoàng Thượng bên

quý phái song tiểu tăng e rằng làm như vậy tổn thương nhân mạng quá

nhiều, trái với đức hiếu sinh của Thượng Đế nên tiểu tăng phải ráng sức

ngăn cản mới thôi.

Bọn Thiên Nhân nghe qua đã biết lời lão có ngụ ý uy hiếp. Cưu Ma Trí là

quốc sư nước Thổ Phồn. Nước Thổ Phồn cũng như nước Đại Lý, từ quốc

vương trở xuống ai ai cùng sùng tín đạo Phật. Cưu Ma Trí được quốc vương

Thổ Phồn rất tín nhiệm, hoà hay chiến phần lớn là do lão quyết định. Nếu vì

một pho kinh mà để xảy ra chinh chiến, nhân dân hai nước phải lầm than thì

khí quá. Nhưng nếu để người ngoài vào hăm doạ một câu đã phải hai tay

mang bảo kinh đem dâng cho họ thì còn ra thể thống gì nữa?

Khô Vinh đại sư nói:

- Nếu Minh Vương cần pho kinh của tệ tự quá, không có không được thì

bọn lão tăng đâu dám tiếc? Còn chuyện Minh Vương bảo đem pho sách có

72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm đánh đổi, tệ tự không dám bái lãnh.

Lão tăng tuy đã mấy chục năm quay mặt vào vách song cũng biết những

chuyện tuyệt kỹ chùa Đại Luân hãy còn hơn 72 môn của phái Thiếu Lâm

nhiều.

Cưu Ma Trí chắp tay hỏi:

- Theo ý đại sư, phải chăng đại sư muốn cho tiểu tăng phải lòi cái kém cỏi

ra?

Khô Vinh đại sư nói:

- Minh Vương vừa bảo pho kinh Lục mạch thần kiếm của tệ tự chỉ có hư

danh không được việc gì. Bọn lão tăng xin đem môn Lục mạch thần kiếm

thỉnh giáo Minh Vương vài thế oanh liệt. Nếu quả đúng như lời Minh

Vương: Lục mạch thần kiếm chỉ có hư danh không được việc gì thì chẳng

có chi đáng quý thật, Minh Vương cứ việc lấy đi.

Cưu Ma Trí nghe Khô Vinh nói vậy không khỏi chột dạ. Trước lão cùng Mộ

Dung tiên sinh đàm luận về môn "Lục mạch thần kiếm" đã biết kiếm pháp

này cực cao, chỉ sợ sức người không luyện được đến nơi đến chốn. Bây giờ

nghe miệng lưỡi Khô Vinh thì môn này không những ông ta biết sử dụng

mà thôi, dường như chư tăng ở đây cũng đã rèn luyện. Chùa Thiên Long nổi

danh hơn trăm năm nay mình không thể coi thường họ được. Vẻ mặt Cưu

Ma Trí lúc này càng nghiêm cẩn hơn, lão nghiêng mình nói:

- Chư vị cao tăng cho biết tuyệt nghệ về môn thần kiếm này để tiểu tăng

được mở rộng nhãn giới thì may mắn nào bằng?

Thiên Nhân phương trượng nói:

- Minh Vương dùng thứ khí giới gì? Xin lấy ra!

Cưu Ma Trí vỗ tay một cái, một gã hán tử cao lớn từ ngoài cửa bước vào.

Sau khi nghe Cưu Ma Trí nói tiếng Phiên mấy câu gã gật đầu ra mở rương

lấy một nắm hương đưa cho lão rồi lại ra ngoài cửa chờ.

Ai cũng lấy làm kỳ. Nắm hương kia đụng đến là gãy, chẳng lẽ lại dùng làm

khí giới được ? Bỗng thấy Cưu Ma Trí tay trái cầm một nén hương, tay

phải quờ xuống đống gỗ rương gãy vụn bóp nhỏ ra để cắm hương. Lão tiếp

tục làm như vậy, cắm đủ sáu nén hương bày hàng chữ nhất, nén nọ cách nén

kia vào khoảng một xích. Cưu Ma Trí ngồi xếp bằng sau những nén hương

cách xa chừng năm xích. Bỗng nhiên lão xát hai bàn tay vào đầu nén hương

vài cái rồi buông ra. Đầu nén hương cháy sáng lên, mọi người tưởng lão

thắp hơng bằng cách đó, ai nấy cả kinh ghê cho nội lực của lão đã đến

mức không ai có thể tưởng tượng được.

Thiên Nhân phương trượng cùng Bảo Định Đế thoảng ngửi thấy mùi lưu

hoàng đoán biết là đầu sáu nén hương đều có hoả dược và không phải Cưu

Ma Trí dùng nội lực để thắp nén hương mà dùng nội lực xát hoả dược cho

đều nén hương bật cháy lên. Tuy nhiên làm được thế cũng gớm lắm rồi. Phe

Bảo Định Đế không ai làm nổi.

Sáu nén hương cháy rồi sáu luồng hơi bốc thẳng lên như sáu sợi dây trắng.Ma Trí vòng tay như kiểu ôm quả cầu tròn, vận động nội lực cho sáu

ngọn khói hương quanh lại chỗ chư tăng. Sáu luồng khói hương lướt tới

trước mặt sáu vị: Khô Vinh, Thiên Quan, Thiên Tướng, Thiên Nhân, Bảo

Định Đế và Thiên Tham mỗi vị một luồng riêng biệt. Sáu chưởng lúc này

gọi là Hoả diệm đao tuy bay lơ lửng trên không chẳng ai nắm được nhưng

vô hình trung nó có thể giết người một cách ghê gớm. Lúc này Cưu Ma Trí

còn lưu tâm dè dặt vào việc mưuợn bảo kinh nên không có ý giết người. Lão

dở trò này một là để diễu võ dương oai ra điều ta đây chỉ có uy hiếp người

chứ không sợ ai, hai là để tỏ ra lão lấy đạo từ bi làm trọng, chỉ cần so sánh

võ nghệ mà thôi.

Hoi 26 Ngàn năm một thuở

Sáu đường bạch tuyến đó lại tới trước mặt bọn Thiên Nhân cách chừng ba

thước tức khắc ngừng lại không chuyển động nữa. Mọi người thấy thế đều

kinh dị. Vì dùng nội công để thúc đẩy luồng khói trắng đi là việc bình

thường nhưng làm thế nào cho luồng hơi lờ lững, vô định ngưng đọng, đứng

nguyên một chỗ trên không là một việc rất khó. Thiên Tham đưa thẳng

ngón tay út bên trái lên, tức thời một đường kiếm khí từ trong huyệt "thiếu

xung" bắn ra, nhằm đâm vào luồng khói trắng ở trước mặt. Luồng khói

trắng lập tức bị đẩy hất ngược trở lại với tốc độ rất mau nhằm vào người

Cưu Ma Trí. Luồng khói còn cách lão chừng hai xích, lão phải tăng gia nội

lực vào thế hoả diệm đao để chặn đứng.

Cưu Ma Trí gật đầu lẩm bẩm:

- Người ta bảo môn Lục mạch thần kiếm có thế "thiếu xung kiếm" quả

nhiên không sai.

Hai bên dùng nội lực dằng co vài hiệp nữa, Thiên Tham đại sư nhận thấy

nếu mình cứ ngồi lỳ một chỗ thì khó lòng phát huy được uy lực trong kiếm

pháp, liền đứng dậy tiến lên ba bước, đi chênh chếch về phía bên trái.

Luồng nội lực đó tức khắc từ phía bên trái tấn công chéo sang mé bên phải.

Cưu Ma Trí liền đa tay trái ra dùng chưởng lực để chặn đón. Thiên Quan

chĩa thẳng ngón tay giữa lên để phóng "trung xung kiếm" đâm thẳng về phía

trước.

Cưu Ma Trí la lên:

- Phải lắm! Quả có "trung xung kiếm pháp" thật.

Mình lão đánh với hai người mà chưa hề nao núng.

Đoàn Dự ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư, ghé cổ nghiêng đầu, chăm chú

theo dõi cuộc đấu kiếm lớn lao, nghìn năm chưa có một lần trong võ lâm.

Tuy chàng chưa hiểu võ nghệ, song chàng cũng hiểu rõ cuộc đấu kiếm bằng

nội lực của mấy vị cao tăng đây đem so sánh với những cuộc đấu bằng

gươm đao thực sự cầm trong tay còn nguy hiểm và khốc liệt hơn nhiều.

May nhờ có sáu nén hương của Cưu Ma Trí thắp lên, Đoàn Dự mới căn cứ

vào những luồng khói trắng phất phơ bay đi bay lại để nhận định những

đường kiếm thế đao của ba người. Sau khi xem được tới mười mấy hiệp

Đoàn Dự chợt nghĩ ra lẩm bẩm:

- à đúng rồi! Trung xung kiếm pháp của Thiên Quan đại sư giống hệt nét vẽ

trong đồ hình.

Đoàn Dự khẽ mở đồ hình về "trung xung kiếm" xem lại và đối chiếu những

luồng khói trắng đi quanh quẩn với những đường kiếm trong đồ phổ lập tức

nhận ra ngay, không còn điểm nào nan giải cả. Đoàn Dự say sưa theo dõi

cảm thấy hứng thú vô cùng. Khi xem đến Thiếu Trạch kiếm pháp của Thiên

Tham cũng vậy, chẳng qua mỗi kiếm pháp có một đặc sắc riêng. Trung

xung kiếm thì phép phóng ra thu về phải rộng lớn, khí thế rất là hùng mạnh.

Thiếu trạch kiếm thì đường qua lại vun vút, biến hoá thật tinh vi. Thiên

Nhân phương trượng thấy cả hai sư huynh và sư đệ liên hiệp động thủ mà

vẫn chưa chiếm được mảy may ưu thế, trong bụng thầm nghĩ: "về kiếm pháp

bọn ta luyện cha được thuần thục, đường kiếm không đánh được lâu. Cần

phải dùng chiến thuật đánh mau và đánh mạnh. Vậy sáu người phải sớm

đồng thời xuất thủ là hơn. Đại Luân Minh Vương là tay thông minh tuyệt

đỉnh, lão vẫn để ý xem kiếm pháp của Thiên Quan và Thiên Tham chứ chưa

đưa toàn lực ra công thủ. Thiên Nhân nghĩ vậy liền hô:

- Hai sự đệ Thiên Tướng và Thiên Trần! Chúng ta nhất tề động thủ.

Vừa dứt tiếng Thiên Nhân đã phóng ngón tay trỏ để phát huy "thương

dương kiếm", theo liền với "thiếu xung kiếm" của Thiên Tướng và "quan

xung kiếm" của Bảo Định Đế. Ba đường kiếm khí đồng thời nhằm đánh vào

ba đường khói trắng.

Đoàn Dự bắt đầu nhìn "thiếu xung kiếm" rồi đến "quan xung kiếm",

"thương dương kiếm" cùng một lúc. Chàng nhận thấy cả mấy thế kiếm đem

đối chiếu với quyển đồ hình tuy cũng hiểu được nhưng thấy rối loạn, không

ra mạch lạc nào nên không nhớ được. Đoàn Dự đang chú ý nhìn nhận về

"thiếu xung kiếm" trên đồ hình chợt thấy một ngón tay gầy đét thò ra viết

lên trên quyển đồ hoạ: "học riêng biệt từng thế kiếm một", thuộc rồi sẽ học

sang thế khác!". Chàng hiểu ngay là Khô Vinh đại sư chỉ điểm cho mình

biết cách học liền quay đầu lại, mỉm cười tỏ ý tạ ơn. Không ngờ Đoàn Dự

vừa nhìn lên, chàng bỗng cả kinh thất sắc vì khuôn mặt Khô Vinh đặc biệt

kỳ dị: nửa mặt bên trái hồng hào tươi nhuận, da thịt đầy đặn mũi mĩm như

đứa trẻ nít, còn nửa mặt bên phải thì ngược lại: chỉ có làn da vàng héo bọc

ngoài xương, những đầu xương gồ lên, trông như nửa cái đầu lâu người

chết. Đoàn Dự sợ quá trông ngực đánh hơn trống làng, không dám nhìn lâu

và cũng không dám nghĩ tới, mặc dầu chàng biết rõ đó là kết quả của công

phu luyện "khô thuyền" mà nhà sư đã đạt được. Cái khuôn mặt nửa tươi, nửa

héo trông rất khó coi và đáng sợ, khiến ai đã nhìn thấy cũng không thể bình

tĩnh được. Khô Vinh đại sư lại đưa ngón tay viết thêm: "Dịp may đừng bỏ

lỡ, chú ý xem kiếm pháp". Đoàn Dự gật đầu chú ý xem "quan xung kiếm

pháp" của bá phụ rồi lại lần lượt xem đến hai kiếm pháp "thiếu xung" và

"thương dương". Trong năm ngón tay của con người thì ngón vô danh vụng

về nhất và ngón trỏ là nhanh nhẹn hơn. Vì thế nên kiếm pháp "quan xung"

thủ thắng ở điểm vụng về chất phác mà kiếm pháp "thương dương" thủ

thắng ở điểm xảo diệu, linh hoạt, biến hoá khôn lường. Hai kiếm pháp

"thiếu xung" và "thiếu trạch" đều phóng ra bằng ngón tay út, song một bên

tay phải, một bên tay trái nên kiếm pháp cũng khác nhau ở chỗ khéo hoặc

vụng, mau hay chậm. Tuy nhiên vụng mà vẫn được việc, chậm mà không

giảm uy lực chỉ cần phân biệt ở phương pháp sử dụng: đánh bất ngờ hay

đánh thẳng thắn mà thôi. Đoàn Dự lúc đầu chỉ là do tính hiếu kỳ thúc đẩy,

nhìn đường khói trắng bay đi bay lại, đem đối chiếu với những đường vẽ

trong đồ hình, chẳng qua cũng coi như một trò chơi đánh đố, mỗi lần đường

kiếm diễn biến là một lần suy nghĩ cho ra. Nhưng từ lúc được nghe lời chỉ

điểm "dịp may đừng bỏ lỡ" của Khô Vinh, Đoàn Dự mới chuyên tâm, nhất

trí nhận xét. Đoàn Dự vừa học xong được ba thế kiếm thì Thiên Tham và

Thiên Quan lại sử dụng kiếm pháp đến lần thứ hai. Lần này Đoàn Dự không

cần xem đồ hình nữa, chỉ để mắt nhìn đương khói trắng và đem những

đường kiếm đã thuộc lòng ra đối chứng. Chàng nhận ra rằng những nét vẽ

trong đồ hình chỉ là những đường chết mà những đường khói trắng đi đi lại

lại một cách linh động, biến hoá vô cùng, có phần phong phú phiền phức

hơn nhiều. Đoàn Dự theo dõi một hồi thì Thiên Nhân, Thiên Tướng và Bảo

Định Đế lại sử dụng xong một lượt kiếm pháp nữa. Thiên Tướng bật ngón

tay út một cái, sử dụng đường kiếm lần thứ hai theo thế "phân hoa phất

liễu". Đoạn tiếp đến Thiên Nhân và Bảo Định Đế cũng sử dụng lại hai kiếm

pháp vừa đánh xong.

Cưu Ma Trí khẽ gật đầu rồi đột nhiên những tiếng "vu vu" phát ra, huy thế

hoả diệm đao mạnh lên gấp bội, đẩy lui tất cả nội lực kiếm khí của năm

người trở lại. Lúc đầu Cưu Ma Trí chỉ giữ thế thủ, cốt để xem xét đủ các thế

đánh trong Lục mạch thần kiếm rồi mới phản kích. Đang thế thủ đổi sang

thế công, năm luồng khói trắng bay lợn tung hoành, linh hoạt vô song, còn

luồng thứ sáu vẫn ngưng lại ở phía sau Khô Vinh đại sư cách chừng ba bốn

thước, đứng im tăm tắp, không chuyển động chút nào. Khô Vinh đại sư để ý

nhận xét cho thấu triệt tình hình địch thủ, xem Cưu Ma Trí duy trì tình trạng

"năm ngả công một ngả đừng" này được đến bao giờ. Quả nhiên Cưu Ma

Trí không kéo dài tình trạng đó được nữa vì muốn giữ cho luồng khói trắng

thứ sáu đứng yên một chỗ như thế hao tốn rất nhiều sức lực. Lão phải di

động cho nó tiến dần từng bước một, thẳng đến sau gáy Khô Vinh đại sư.

Đoàn Dự hốt hoảng la lên:

- Đại sư phụ ơi! Đường khói trắng của địch đã tập công tới nơi!

Khô Vinh gật đầu và mở tới chỗ "thiếu thương kiếm" trong quyển đồ hoạ

đưa cho Đoàn Dự xem.

Đoàn Dự thâm cảm mỹ ý của Khô Vinh, để hết tinh thần vào nhận xét đồ

hình, thấy kiếm pháp "thiếu thương" này giống như một bức tranh thuỷ mạc,

tuy chỉ dọc ngang xiên chếch sơ sài nhưng sức đánh mãnh liệt như phong ba

bão táp, đá lở trời long. Đoàn Dự tuy mắt xem kiếm phổ nhưng vẫn để ý tới

luồng khói trắng tiến lại sau gáy Khô Vinh. Chàng vừa quay đầu lại thấy

luồng khói trắng chỉ còn cách độ ba bốn tấc là tới nơi, hoảng hốt kêu:

- Đại sư phụ! Hãy coi chừng!

Khô Vinh đại sư đưa tay về đằng sau đồng thời búng mạnh hai ngón tay cái,

tức thời hai luồng kiếm khí vù vù phát ra nhằm đánh vào hai điểm trước

ngực bên phải và vai bên trái Cưu Ma Trí. Khô Vinh đại sư không cần

chống đỡ thế công của đối phương mà lại phóng ra hai đạo "kỳ binh" đánh

gấp vào địch thủ, vì đại sư tin chắc là Cưu Ma Trí kìm hãm nội lực "hoả

diệm đao" cho tiến một cách từ từ thì dù có đả thương được mình cũng còn

phải mất giây lát nữa, nếu mình dùng lối đánh "hậu phát, tiên đáo" thì đối

phương không kịp trở tay.

Cưu Ma Trí cũng không phải tay vừa, liệu lượng rất chu đáo, đã dự bị sẵn

một đường chưởng lực phòng hờ trước ngực để kịp thời ứng phó với miếng

đánh hiểm độc bất thần của đối phương. Tuy nhiên lão mới nghĩ tới một thế

công ác liệt của "thiếu dương kiếm" thôi chứ chưa nghĩ tới Khô Vinh lại

đồng thời xuất phát luôn hai đường kiếm khí đánh vào hai chỗ khác nhau.

Cưu Ma Trí giơ tay phát động đường chưởng lực đã phục sẵn để chống đỡ

với một đường kiếm khí của đối phương đâm vào trước ngực bên phải và

tiếp liền nhún chân bên phải vội lùi lại phía sau. Song dù lão có mau lẹ mấy

chăng nữa vẫn không lẹ bằng kiếm khí. Bỗng nghe "xoẹt" một tiếng nhe

nhẹ, vai áo thầy tu của Cưu Ma Trí đã bị rách một miếng và máu tươi ròng

ròng chảy ra. Hai ngón tay Khô Vinh quay tròn một vòng, kiếm khí rút trở

lại, sáu nén hương của Cu Ma Trí đều bị đứt tày giữa quãng.

Bọn Thiên Nhân, Bảo Định Đế đều thu kiếm khí về ngừng chiến. Trong tay

ai nấy đều đẫm mồ hôi và đến bây giờ họ mới yên lòng.

Cưu Ma Trí rảo bước tiến vào trong nhà nói:

- Thiền Công của Khô Vinh đại sư thật là siêu việt, tiểu tăng đây rất lấy làm

bội phục. Còn về Lục mạch thần kiếm nguyên chỉ có hư danh mà thôi.

Thiên Nhân phương trượng hỏi:

- Thế nào Minh Vương lại bảo là chỉ có hư danh? Bần tăng cần phải lãnh

giáo mới được.

Cưu Ma Trí đáp:

- Năm xưa Mộ Dung tiên sinh ngưỡng mộ Lục mạch thần kiếm là ngưỡng

mộ về kiếm pháp chứ không phải ngưỡng mộ về kiếm trận. Một toà kiếm

trận này của Thiên Long tự, cố nhiên là uy lực lớn lắm. Song xét cho cùng

chỉ ngang hàng với "La hán kiếm trận" của phái Thiếu Lâm, hoặc "hỗn độn

kiếm trận" của phái Côn Luân mà thôi, dường như chưa phải là một kiếm

pháp vô song.

Cưu Ma Trí nói kiếm trận chứ không phải là kiếm pháp là có ngụ ý chỉ

trách đối phơng về điểm sáu người nhất tề tham chiến, bày thành thế trận

chứ đâu phải một người sử dụng cả Lục mạch thần kiếm như một mình lão

sử dụng "hoả diệm đao".

Thiên Nhân thấy Cưu Ma Trí nói có lý chưa tìm được câu trả lời thì Thiên

Tham đã cười lạt, hỏi lại:

- Bất luận kiếm pháp hay kiếm trận gì gì đi nữa nhưng cuộc tỷ đao luận

kiếm vừa đây thì Minh Vương được hay chùa Thiên Long chúng tôi được?

Cưu Ma Trí không trả lời, nhắm mắt trầm tư một lát chừng uống cạn chén

trà rồi mở to mắt ra đáp:

-Trận đấu thứ nhất thì quý tự hơi chiếm được ưu thế nhưng trận đấu thứ hai

đây thì tiểu tăng sẽ nắm chắc phần thắng.

Thiên Nhân kinh ngạc hỏi:

- Minh Vương lại muốn liều một trận thứ hai nữa ?

Cưu Ma Trí đáp:

- Đại trượng phu đã nói thì phải giữ lời, tôi đã hứa với Mộ Dung tiên sinh

đâu có thể ngại khó mà rút lui được?

Thiên Nhân hỏi tiếp:

- Nhưng sao Minh Vương biết đã nắm chắc phần thắng?

Cưu Ma Trí hơi nhếch mép cười đáp:

- Các vị đều là những bậc đại sư võ học uyên thâm, chẳng lẽ lại không suy

đoán ra hay sao? Xin hãy tiếp chiến đã!

Nói dứt lời hai bàn tay lão từ từ đẩy ra phía ngoài. Bên Khô Vinh, Thiên

Nhân, Bảo Định Đế sáu người đều cảm thấy hai luồng kình lực phân tách ra

và tập trung vào nhiều chỗ khác nhau. Bọn Thiên Nhân đều nhận thấy

không thể dùng kiếm pháp "Lục mạch thần kiếm" mà chống đỡ kịp nên ai

cũng đánh luôn hai chưởng một lúc để chống với hai luồng chưởng lực của

đối phương. Riêng Khô Vinh đại sư vẫn dùng hai ngón tay cái búng mạnh

ra, dùng thiếu dương kiếm để tiếp chiến với nội lực của địch thủ.

Cưu Ma Trí sau khi đẩy hai luồng chưởng lực ra lại thu về ngay nói:

- Xin lỗi!

Thiên Nhân, Bảo Định Đế và đồng bọn đưa mắt nhìn nhau và cũng hiểu

ngầm rằng chưởng lực của đối phương có thể chia tách ra làm mấy đường

cùng một lúc. Thiếu dương song kiếm của Khô Vinh sư thúc nếu có chia ra

hai đường đánh ập lại, lão vẫn đủ sức chống đỡ. Chúng ta cần phải bỏ kiếm

dùng chưởng, vì Lục mạch thần kiếm hiển nhiên thấy không kịp "hoả diệm

đao" của lão rồi. Giữa lúc mọi người đương suy tính, chợt thấy trước mặt

Khô Vinh đại sư khói bốc lên ngùn ngụt, một luồng khói đen tách ra làm

bốn nhằm bay về phía Cưu Ma Trí tập công.

Từ lúc vào đến giờ Cưu Ma Trí vẫn thấy lão hoà thượng ngồi quay mặt vào

vách, không lúc nào ngoảnh mặt ra, trong bụng lão lúc nào cũng nơm nớp e

ngại. Bây giờ thốt nhiên thấy những luồng khói đen tấn công, không hiểu

đối phương dụng ý ra sao. Lão vẫn dùng hoả diệm đao chia ra làm bốn

đường chống đỡ. Cưu Ma Trí hiện giờ chỉ giữ thế thủ, chứ chưa thể khởi

công, một mặt phòng bị bọn Thiên Nhân đánh ập tới, một mặt cần bình tĩnh

để coi tình hình biến chuyển, xem Khô Vinh còn có đòn gì ác hại hơn đánh

tiếp chăng? thấy luồng khói đen mỗi lúc một dày đặc, thế công rất là lợi hại

Cưu Ma Trí rất đỗi ngạc nhiên, tự hỏi: người ta đã có câu: "Ma không qua

ngọ, gió không qua mùi". Không hiểu đối phương sao lại dùng toàn lực ra

đánh thì phỏng được mấy hơi? Khô Vinh là một vị cao tăng như thế lẽ nào

không nghĩ đến? Y dùng thủ đoạn hấp tấp cứng rắn như thế để ứng địch tất

phải có quỷ kế gì đây. Vì nghĩ thế nên Cưu Ma Trí chỉ giữ môn hộ vững

vàng để tâm linh sáng suốt nhận định tình thế và tuỳ cơ ứng biến.

Chừng uống cạn tuần trà, thì bốn luồng khói đen đó đột nhiên mỗi luồng

chia ra làm hai, hai lại chia ra bốn, cộng lại tất cả thành mười sáu luồng vây

bọc bốn bên tám mặt, tiến ập vào đánh Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí vẫn bình

tĩnh cho là cung mạnh đã đến cuối tầm, không còn gì đáng kể nữa. Lão liền

sử dụng hoả diệm đao và cũng chia ra thành nhiều đạo để ngăn chặn các lực

đạo của đối phương. Hai lực đạo vừa chạm nhau thì 16 tia khói đen của Khô

Vinh thốt nhiên tản ra bốn phía, chỉ trong tích tắc hơi khói toả ra mờ mịt

khắp trong nhà. Cu Ma Trí vẫn điềm nhiên không hề nao núng, phát động

chân lực tới mức độ cực mạnh, phòng giữ khắp toàn thân. Được một lát lớp

khói lạt dần. Trong lớp khói lạt lờ mờ thấy bọn Thiên Nhân cả thảy năm

hoà thượng đều quỳ dưới đất coi vẻ rất trang nghiêm. Đặc biệt là Thiên

Quan và Thiên Tham, hai mắt đầy vẻ bi phẫn. Cưu Ma Trí không khỏi ngạc

nhiên trước tình thế ly kỳ, song chỉ thoáng một cái là lão hiểu ngay và nói

thầm một mình: "Hỏng rồi! Khô Vinh biết rõ không chống cự nổi nên đem

quyển đồ hoạ Lục mạch thần kiếm đốt đi". Khô Vinh đại sư không muốn để

Lục mạch thần kiếm lọt vào tay Cưu Ma Trí nên một mặt dùng nội lực Nhất

Dương Chỉ đốt cháy hết cho thật mau mọi trang trong quyển đồ hoạ, một

mặt thúc đẩy những luồng khói đen đến tập kích cho lão phải ra sức chống

đỡ. Tới khi khói lạt thì sách đã cháy hết rồi. Bọn Thiên Nhân đều là những

bậc cao thủ nghiên cứu về Nhất Dương Chỉ nên vừa nhìn thấy luồng khói

đen đã hiểu rõ nguyên do nghĩ bụng: "đây là sư thúc đã quyết tâm cam bề

ngọc nát còn hơn yên phận ngói lành nên đã đem bảo vật trấn tự huỷ đi chứ

nhất định không chịu để lọt vào tay kẻ địch".

Thế là từ đây đã gây nên mối thâm cừu giữa Thiên Long tự cùng Đại Luân

Minh Vương, khó mà gỡ ra được nữa.

Cưu Ma Trí vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, lão vốn tự phụ là người có mưu trí

mà hôm nay hai lần liên tiếp bị bại dưới tay Khô Vinh đại sư. Quyển đồ

hình Lục mạch thần kiếm đã bị thiêu huỷ hoàn toàn. Thế là chuyến đi này

chẳng những không thu hoạch được chút gì còn kết thêm mối thâm cừu.

Cưu Ma Trí đứng dậy, chắp tay nói:

- Khô Vinh đại sư hà tất phải nóng tính như thế? Thà rằng gẫy nát không

chịu cong queo kể cũng cao thượng đấy. Vì tiểu tăng mà đại sư huỷ mất bảo

kinh của quý tự, trong lòng tiểu tăng có điều áy náy. Nhưng xét cho cùng

quyển kinh này không phải sức một người nào luyện được, thế thì huỷ đi

hay không cũng thế mà thôi. Tiểu tăng xin cáo biệt.

Cưu Ma Trí xoay người đi một chút, không đợi Thiên Nhân và Khô Vinh trả

lời, bất thình lình đưa tay ra nắm chặt mạch đạo ở cổ tay phải Bảo Định Đế

rồi nói tiếp:

- Quốc vương tôi lâu nay vẫn ngưỡng mộ phong độ hoàng đế, ao ước được

gặp một lần, xin mời bệ hạ khuất giá tới Thổ Phồn để quốc vương tôi được

dịp thừa tiếp.

Sự biến diễn bất ngờ, mọi người đều giật mình. Cưu Ma Trí hành động một

cách quá đột ngột. Bảo Định Đế dù là bậc võ công cao cường nhưng không

kịp phòng bị, hơn nữa thủ pháp bắt người của Cưu Ma Trí rất là kỳ dị. Bảo

Định Đế vừa bị nắm chặt cổ tay, vội vàng vận động nội lực, thúc đẩy chân

khí ra huyệt đạo, liên tiếp chuyển đẩy tới bảy tám lần mà vẫn không sao gỡ

tay ra được. Những bậc cao thủ tỷ thí với nhau, chỉ lỡ một nước là người

ngoài khó bề cứu gỡ. Bảo Định Đế đã bị địch thủ chế ngự được yếu huyệt

rồi tức là tính mạng ở trong tay đối phương, bất cứ giờ phút nào lão bắt chết

cũng phải chết. Bọn Thiên Nhân đều biết Cưu Ma Trí hành động như vậy là

quá đê hèn, mất hết danh sự một bậc cao thủ tuyệt đỉnh song chỉ căm

phẫn ngấm ngầm chứ không có cách gì cứu gỡ được.

Khô Vinh đại sư cười nói:

- Đoàn Chính Minh trước đây là Bảo Định Đế, hiện giờ đã thoái vị đi tu

pháp danh Thiên Trần. Quốc vương Thổ Phồn đã có ý thỉnh mời Thiên Trần

cứ đi cũng được.

Bảo Định Đế không sao được nên cũng gượng đáp:

- Xin vâng.

Bảo Định Đế biết rõ dụng ý của Khô Vinh thiền sư. Cưu Ma Trí thấy mình

là một vị quốc vương mà lão bắt được mới coi là một hoá phẩm trân kỳ.

Đằng này mình đã thoái vị đi tu, bất quá là một hoà thượng ở chùa Thiên

Long, lão bắt được cũng chẳng có gì kỳ lạ. Chưa biết chừng vì thế mà lão

thả ra cũng nên.

Sử dụng Lục mạch thần kiếm dù chỉ là một thế trong lục kiếm cũng phải là

tay cao thủ bậc nhất, tinh thần cả võ lực lẫn nội công mới mong đạt được

kết quả. Những tay cao thủ hạng này đều biết nhau cả. Nhất là những bậc

danh gia họ Đoàn, cả tăng lẫn tục ở nước Đại Lý hay chùa Thiên Long đối

với Cưu Ma Trí thì chẳng những về diện mạo và niên kỷ lão đã dò hỏi tận

tường mà cả về tính khí cùng bản lãnh từng người lão cũng biết rõ đến chín

phần mười. Cưu Ma Trí còn thông tỏ ngõ ngách trong chùa Thiên Long,

ngoài Khô Vinh đại sư ra các vị cao thủ cùng hàng pháp danh đệm chữ

Thiên chỉ có bốn người. Bây giờ thốt nhiên xuất hiện thêm một vị Thiên

Trần nữa mà nội lực võ công cũng tương đương với bốn vị hoà thượng kia,

dung mạo oai nghiêm, khí sắc đầy vẻ phú quý vinh hoa thì làm gì mà lão

chẳng nhận ra ngay là Bảo Định Đế. Vừa nghe Khô Vinh đại sư nói Bảo

Định Đế đã thoái vị đi tu Cưu Ma Trí sực nhớ ra lâu nay vẫn nghe các bậc

đế vương họ Đoàn nước Đại Lý khi cao tuổi rồi thường thoái vị, xuất gia thì

đối với việc Bảo Định Đế thốt nhiên vào tu tại chùa Thiên Long cũng chẳng

lấy gì làm lạ. Chỉ có rằng một vị Hoàng đế xuất gia đi tu tất có toàn quốc cử

hành diễn lễ rất trọng thể: thết sư, lễ Phật, tu lý chùa chiền cho nổi đình

đám mấy hôm. Có lý nào nhà Vua lại xuất gia một cách không trống không

kèn? Cu Ma Trí nghĩ vậy liền đáp:

- Bảo Định Đế xuất gia hay không xuất gia cũng được, dù sao cũng xin mời

người sang chơi Thổ Phồn một chuyến để triều kiến quốc vương bên bần

tăng.

Lão vừa nói vừa dắt Bảo Định Đế ra ngoài. Thiên Nhân liền lên tiếng:

- Hãy khoan!

Đoạn cùng với Thiên Quan nhảy ra, đứng chắn trước cửa.

Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng quyết không có ý gia hại Bảo Định hoàng thượng nhưng nếu các

vị bức bách tiểu tăng quá thì tiểu tăng cũng không thể bảo toàn được đâu.

Lão vừa nói vừa vờ đưa tay trái đánh dứ vào hậu tâm Bảo Định Đế. Bọn

Thiên Nhân trong lúc giao thủ với Cưu Ma Trí vừa rồi đã hiểu rõ chưởng lực

"hoả diệm đao" của lão lợi hại thế nào rồi. Bảo Định Đế hiện bị lão nắm

chặt mạch đạo rồi thì lão muốn giết hay làm gì thì làm nhà Vua không còn

sức phản kháng được nữa. Nếu mọi người hợp lực tấn công phần thì e ném

chuột tất vỡ đồ phần e chưa chắc nắm được phần thắng.

Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Tiểu tăng mất công đi lại vất vả, rất hổ thẹn cùng người bạn đã khuất, may

mà mời được Bảo Định hoàng đế cùng về mới khỏi mang tiếng là một

chuyến đi không về rồi. Xin tránh đường cho tôi đi chứ!

Bọn Thiên Nhân do dự đứng đờ người suy nghĩ: Bảo Định Đế là một vị

quốc vương nước Đại Lý, không lẽ để cho địch nhân bắt đem đi? nhưng

chưa biết đối phó bằng cách nào đánh tháo cho được.

Cưu Ma Trí lại nói lớn:

- Tôi vốn nghe đại danh các vị cao tăng chùa Thiên Long, không ngờ đối

với một việc nhỏ mọn thế này mà cũng bịn rịn, bắt chước thói đàn bà con

nít.

Đoàn Dự thấy bá phụ bị bắt rất buồn bực. Lúc mới đầu chàng vẫn tưởng võ

công của bá phụ cao cường tới bực nào, có sợ gì Cưu Ma Trí? Chẳng qua

người phải tạm thời nhẫn nại, chờ cơ hội đến là người có thể tự thoát thân

được ngay. Không ngờ mỗi lúc một thấy nguy nan. Giọng nói và nét mặt

Cưu Ma Trí đầy vẻ kiêu ngạo, thần sắc Thiên Nhân, Thiên Quan và mọi

người đều lộ vẻ buồn phiền phẫn nộ mà không làm sao được. Tới lúc Cưu

Ma Trí cầm tay Bảo Định Đế lôi đi, chạy ra ngoài cửa, Đoàn Dự hoảng hốt

không kịp nghĩ ngợi gì nữa, chàng la ầm lên:

- ối! Mi buông bá phụ ta ra!

Đoàn Dự vừa la vừa đứng phắt dậy chạy theo. Cưu Ma Trí ngay lúc mới vào

đã thấy một người ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư nhưng vẫn chưa suy

đoán người đó là ai và cũng không hiểu Khô Vinh bảo gã ngồi đó có dụng ý

gì. Bây giờ thấy Đoàn Dự đứng dậy đuổi theo, liền động tính hiếu kỳ quay

lại hỏi:

- Tôn giá là ai?

Đoàn Dự đáp:

- Mi đừng hỏi ta là ai vội! Hãy buông bá phụ ta ra trước đã rồi sẽ nói

chuyện sau!

Nói xong Đoàn Dự đưa tay ra nắm lấy cổ tay Bảo Định Đế. Bảo Định Đế lật

bàn tay lại, nắm lấy tay Đoàn Dự nói:

- Dự nhi! Cháu không phải bận lòng vì ta nữa! mau mau về giục phụ thân

cháu lên ngôi Đại Bảo, nắm lấy việc triều chính. Còn ta bây giờ đã thành

một vị lão tăng mây ngàn hạc nội, không đáng quan tâm nữa.

Bàn tay Bảo Định Đế vừa chạm vào tay Đoàn Dự người bỗng giật thót lên

một cái và cảm thấy hấp lực của Chu cáp thần công hút mạnh. Cưu Ma Trí

cũng đồng thời cảm thấy chân lực trong mình cứ cuồn cuộn tiết ra ngoài.

Song công lực của lão rèn luyện còn cao cường hơn Bảo Định Đế nhiều.

Lão ngờ là Bảo Định Đế vận dụng công phu kỳ lạ để hút lấy nội lực của

mình, lão liền ngưng tụ nội lực, định tranh đoạt cùng chân khí của Bảo Định

Đế. Bảo Định Đế sở dĩ bị Cưu Ma Trí chế ngự được là do trong lúc bất ngờ

không đề phòng, bị đối phương đột nhiên dùng kỹ thuật tiểu nhân nắm được

mà thôi, còn về nội lực võ công trong bản thân chưa bị hao tổn mảy may.

Bỗng nhiên nhà Vua cảm thấy hai tay đồng thời có một mãnh lực giằng co

liền dùng ngay phương pháp tá lực đả lực dẫn hai luồng nội lực cho gặp

nhau ở một chỗ để hai bên kháng cự lẫn nhau. Bảo Định Đế lợi dụng lúc đó

chỉ khẽ vẫy tay một cái đã thoát khỏi sự trói buộc của Cưu Ma Trí một cách

dễ dàng, đem Đoàn Dự cùng nhảy lùi lại và thầm tự nhủ: "Kể cũng đáng hổ

thẹn, hôm nay mình phải nhờ đến Dự nhi cứu cho mới thoát được".

Cưu Ma Trí kinh hoảng vô cùng nghĩ thầm: "trong võ lâm lại mới xuất hiện

một vị cao thủ thế mà sao mình không hay biết gì hết? Người này tuổi còn

nhỏ, mới độ hai mươi trở lại mà sao bản lĩnh cao cường đến thế?".

Thấy Đoàn Dự gọi Bảo Định Đế bằng bá phụ Cưu Ma Trí trong lòng nghi

hoặc tự hỏi: "Quái lạ! Sao ta chưa hề nghe nói tới trong đám con em họ

Đoàn nước Đại Lý có một nhân vật đặc sắc như thế bao giờ?". Cưu Ma Trí

dở thủ đoạn thầm lén, nắm giữ được mạch đạo Bảo Định Đế một cách dễ

dàng, tưởng thành công đến nơi mà lại sẩy. Lão không ngờ một gã thanh

niên xen ngang vào phá đám, khiến lão căm giận, không thể nào nhịn được.

Vẫn ra vẻ bình tĩnh, lão gật đầu lên giọng nói mát:

- Tiểu tăng vẫn tưởng họ Đoàn nước Đại Lý xa nay chỉ chuyên về võ học

tổ truyền, không theo những môn tạp nham không ngờ các bậc hiền tài hậu

bối lại đi kết giao cả với Tinh tú Hải lão nhân để khảo luyện các kỳ môn võ

học như môn "hoá công đại pháp" chẳng hạn. Thế thì lạ thật, quả là lạ thật!

Cưu Ma Trí tuy là người uyên bác hiểu rộng vẫn lầm tưởng "chu cáp thần

công" của Đoàn Dự là môn "hoá công đại pháp". Có điều lão còn biết tự

trọng, không buông lời nói phũ phàng đả kích ai. Vì thế nên "Tinh Tú Hải

lão ma" lão gọi đổi ra "Tinh Tú Hải lão nhân". Nhân vĩ võ lâm đều gọi "hoá

công đại pháp" là yêu công hay tà thuật lão lại gọi tránh đi là kỳ môn võ

học. Lão không dùng chữ đệ tử lão ma mà chỉ dùng chữ kết giao đủ biết lão

là người rất tế nhị. Tuy lão cũng ngộ nhận như Thạch Thanh Tử song biết

lựa lời thanh lịch, không như Thạch Thanh Tử hỏi một cách sống sượng,

bốp chát.

Bảo Định Đế cũng cười lạt nói móc:

- Lâu nay bần tăng vẫn ngưỡng mộ Đại Luân Minh Vương là bậc đại trí tuệ,

kiến thức sâu xa, thế mà sao cũng ăn nói hồ đồ đến thế? Tinh Tú lão ma

làm nhiều điều phi nghĩa, con cháu họ Đoàn khi nào lại có liên lạc với hắn?

Cu Ma Trí đã hơi chột dạ, Đoàn Dự lại nói tiếp:

- Mi là khách ở xa tới, chùa Thiên Long ta tiếp đãi trọng thể, thế mà mi cả

gan dám xúc phạm đến bá phụ ta. Chẳng qua chúng ta thấy mi cũng là đệ tử

nhà Phật nên mọi việc đều nhân nhượng, thì trái lại mi lại càng ngang ngược

thêm. Những người đã xuất gia có ai lại như mi? Chẳng biết giữ thanh quy

một chút nào hết.

Mọi người thấy Đoàn Dự lấy đại nghĩa trách mắng Cu Ma Trí cũng hả dạ,

đồng thời để hết tinh thần giới bị, sợ Cưu Ma Trí cáu tiết lên lại gia hại

Đoàn Dự một cách đột nhiên. Song lão sắc mặt vẫn điềm nhiên và nhã nhặn

nói:

- Hôm nay được biết thêm một bậc cao hiền, còn hân hạnh nào bằng? xin

đừng tiếc công chỉ giáo cho mấy hiệp, khiến tiểu tăng được thêm phần tiến

ích.

Đoàn Dự thản nhiên đáp:

- Ta không hiểu võ công và cũng chưa học võ bao giờ.

Cưu Ma Trí cười khành khạch đáp:

- Thật là cao minh! Cao minh! Thôi tiểu tăng xin cáo biệt vậy!

Lão vừa nghiêng người đi một chút đã phất tay áo đồng thời vươn bàn tay

ra, lập tức bốn đường "hoả diệm đao" phát xuất nhằm đánh vào Đoàn Dự.

Đoàn Dự hoàn toàn không hiểu cách chống đỡ môn võ công thượng thặng

này, chợt thấy những đòn ác liệt tập công tới chàng vẫn ù ù cạc cạc đứng ỳ

ra. Bảo Định Đế và Thiên Tham đồng thời đánh luôn hai ngón tay ra để

ngăn chặn bốn đường "hoả diệm đao". Bỗng thấy Cưu Ma Trí thân hình

rung động không ngừng, chính là lúc lão tăng cường nội kình đến cực độ để

xung kích. Thiên Tướng "oẹ" một tiếng, hộc máu tươi ra. Bấy giờ Đoàn Dự

mới biết Cưu Ma Trí lại dùng cách đánh lén lút, liền nổi cơn thịnh nộ, chỉ

vào mặt Cưu Ma Trí mắng:

- Gã phiên tăng kia! Mi thật là dã man vô lý.

Đoàn Dự vừa mắng vừa đưa ngón tay trỏ dùng sức phóng mạnh ra, tâm khí

giao thông, tự nhiên sử dụng thành thế "phương dương kiếm" với một nội

lực hùng hậu vô song.

Đoàn Dự lúc trước ngồi trước mặt Khô Vinh đại sư để xem đồ hình và các

vận dụng Lục mạch thần kiếm. Sau khi nhận xét và ghi nhớ tỏ tường bây giờ

đem sử dụng thí nghiệm một ngón đầu tiên không ngờ lại ám hợp đúng như

trong kiếm phổ. Sức nội kình phóng ra mãnh liệt, nghe kêu "vo vo" nhằm

đâm thẳng vào Cưu Ma Trí, đấy chính là đòn "kim châm độ kiếp".

Cưu Ma Trí không thể tưởng tượng được nội lực của Đoàn Dự lại ghê gớm

đến thế. Đòn "kim châm độ kiếp" này lúc phóng ra tuyệt ở chỗ vụng mà

khéo, trơn mà rít hợp với yếu quyết của kiếm pháp thượng thừa. Cưu Ma Trí

hốt hoảng, vội vàng dùng chưởng lực đẩy mạnh "hoả diệm đao" để chống

đỡ.

Đoàn Dự ra tay chẳng những làm cho Cưu Ma Trí phải kinh dị mà ngay đến

Khô Vinh cùng bọn Thiên Nhân cũng cho là một sự không bao giờ nghĩ tới.

Nhất là Bảo Định Đế và chính Đoàn Dự lại càng lấy làm quái lạ. Đoàn Dự

tự nghĩ: "sao mình ngẫu nhiên đánh ra một chỉ mà Cưu Ma Trí lại phải để

hết tâm thần ra chống đỡ như thế? Rồi chàng lại tự trả lời: phải rồi, phải rồi,

chắc là mình xuất chỉ đúng cách thức nên lão cho là mình biết sử dụng Lục

mạch thần kiếm. Ha ha! đã thế ta phải cho lão hoảng vía một phen". Chàng

liền quát lớn:

- Thế "thương dương kiếm" có chi đáng kể? Để ta sử dụng mấy đường

"trung xung kiếm" cho mi coi!

Nói xong chàng đưa ngón tay giữa ra điểm. Song chỉ pháp tuy đúng nhưng

kình lực không vận dụng tiếp theo được, thành ra chỉ là đường đánh hư

không, mà chẳng có mảy may hiệu lực.

Cưu Ma Trí lúc mới thấy Đoàn Dự điểm ngón tay giữa đã sắp sẵn các thế để

tiếp chiến, không ngờ đối phơng đánh không thấy một chút kình lực nhưng

lão vẫn còn nghi hoặc cho là đối phương dùng lối hư hư thực thực mà sẽ có

đường đánh lợi hại tiếp theo. Dợi tới khi Đoàn Dự sử dụng đường thứ hai

vẫn rỗng tuếch như trước, lúc đó Cưu Ma Trí mới mừng thầm nghĩ bụng: "ta

vẫn nói ở trên đời này làm gì có người sử dụng được "thương dương kiếm"

mà kiêm được cả "trung xung kiếm" nữa? quả nhiên thằng lỏi này hư trương

thanh thế để chộ người. Đã thế thì ta cho nó một phen bở vía chơi".

Cưu Ma Trí là người rất tự phụ, mà đã tự phụ tất sinh lòng đố kỵ. Chuyến

này lão đến chùa Thiên Long bị thất thế luôn mấy lần. Lão nghĩ nếu không

làm cho tỏ mặt một phen thì oai danh Đại Luân Minh Vương bị tổn thương

nhiều lắm. Tức thì lão đưa tay trái đánh liên tiếp hai chưởng, hướng cả về

hai bên tả hữu, dùng kình lực để phong toả đường cứu viện của Bảo Định

Đế và mọi người. Tiếp theo lão dùng thế "bạch hồng quán nhật" trong đao

pháp "hoả diệm đao" chém thẳng vào vai bên phải Đoàn Dự. Lão dùng

đường đao tinh diệu này cốt chém cho Đoàn Dự cụt cánh tay phải.

Bảo Định Đế, Thiên Nhân và Thiên Tham đồng thanh la lên:

- Phải cận thận đấy!

Rồi mọi người đều đa ngón tay ra điểm về phía Cưu Ma Trí. Ba người xuất

chiến đều là những đòn trong võ công thượng thừa, bắt buộc đối phương

phải thu chiêu về để tự cứu. Nào ngờ Cưu Ma Trí đã vận dụng nội kình để

phòng giữ tất cả các chỗ yết huyệt trong toàn thân rồi nên lão không cần thu

đao về, cứ nhằm thẳng Đoàn Dự bổ xuống. Đoàn Dự nghe tiếng bá phụ biết

ngay là nguy đến nơi rồi, chàng vội đưa hai tay đồng thời đánh luôn hai chỉ.

Trong lúc kinh hoảng, chân khí tự nhiên xuất phát, "thiếu trạch kiếm" bên

tay phải, "thiếu xung kiếm" bên tay trái, hai kiếm đồng thời xông ra đón

"hoả diệm đao". Dư thế vẫn còn phát ra những tiếng "vo vo", phản kích lại

Cưu Ma Trí. Cưu Ma Trí hốt hoảng không kịp suy nghĩ gì hết, vội dừng tay

trái phát động kình lực để chặn đòn. Đoàn Dự sau khi phóng mấy thế kiếm,

trong lòng đã hơi hiểu rõ cách sử dụng kiếm khí. Trước hết phải có một ý

niệm, rồi mới vận chân khí ra ngón tay, có thế chân khí mới xuất phát ra

được. Song chàng vẫn không hiểu tại sao phải làm như vậy. Đoàn Dự khẽ

búng ngón tay giữa, lại sử dụng "trung xung kiếm pháp". Chỉ trong chớp

mắt, sáu đường kiếm ở trong quyển đồ hình mà chàng vừa được xem qua

trong lúc ngồi trước mặt Khô Vinh đại sưu lần lượt hiển hiện ra trước mặt

chàng một cách rất rõ ràng. Mười đầu ngón tay cứ liên tiếp bật ra, qua

đường này tiếp đến đường khác, tự nhiên thấy kiếm pháp nhập diệu, tựa hồ

một nghệ sỹ tài cao tay vẫn gẩy đàn mà mắt vẫn nhìn chim nhạn bay qua.

Cưu Ma Trí lại càng kinh hoảng, luôn luôn tiếp vận nội lực để chống đỡ với

Lục mạch thần kiếm. Trong căn nhà lúc này chỉ thấy kiếm khí dọc ngang,

gươm đao bay lợn, xung kích chen lấn nhau tựa hồ sấm vang gió rít. Giao

đấu được một lúc, Cưu Ma Trí nhận thấy đối phương kình lực mỗi lúc một

mạnh, kiếm pháp cũng biến hoá khôn lường, tuy từng lúc từng chỗ nó tự

sáng tác ra những điểm mới lạ khiến cho người không biết đâu mà mò. Cưu

Ma Trí mỗi lúc một thêm kinh hoảng và hối hận, lão nghĩ thầm: "không ngờ

trong chùa Thiên Long lại có bậc cao thủ còn nhỏ tuổi như thế. Hôm nay

Cưu Ma Trí này chính là tự mình đi chuốc lấy cái nhục vào thân". Đột nhiên

nghe "vu vu vu". Cưu Ma Trí đánh liền ba đao và nói:

- Hãy ngừng tay!

Đoàn Dự tuy học được Lục mạch thần kiếm song chưa thể phát động chân

khí hay thu về theo ý mình được. Vừa nghe đối phương kêu ngừng tay,

chàng luýnh quýnh không biết cách thu nội lực về, đành đưa ngón tay chỉ

thẳng lên nóc nhà đồng thời bụng nghĩ: "thôi ta cũng không nên phát kình

lực ra nữa, để xem y nói gì đã".

Cưu Ma Trí quả thông minh hơn người, nhìn Đoàn Dự có vẻ lờ ngờ, đồng

thời lúc thu điểm chân khí chân tay luống cuống, trông rõ dáng điệu người

kém võ công. Lão chợt nảy ra một ý nghĩ, tức thời nhảy lên một bước giơ

tay đấm thẳng một quyền vào mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự nhờ duyên cơ đưa

tới, tuy có học được môn võ rất cao thâm Lục mạch thần kiếm nhưng ngoài

ra về các môn quyền cước binh khí thông thường khác chàng hoàn toàn

không hiểu tý gì. Đoàn Dự đưa cánh tay lên đỡ đường quyền của đối

phương một cách rất ngượng ngịu. Cưu Ma Trí liền lật bàn tay phải túm

ngay "thần phong huyệt" ở trước ngực chàng. Tức khắc người chàng mềm

nhũn, chân tay không cử động được nữa.

Cưu Ma Trí tuy đã khám phá được nhược điểm trong võ học của Đoàn Dự

nhưng cũng không ngờ bắt được chàng một cách quá dễ dàng như thế. Lão

vẫn còn sợ chàng giả vờ ngớ ngẩn mà dùng quỷ kế gì khác chăng nên lúc

nắm được "thần phong huyệt" rồi lão đưa ngón tay điểm luôn thêm ba đại

huyệt: "đản trung", "đại thôi" và "kinh môn". Người đã bị điểm những đại

huyệt đó rồi, quyết không thể nào còn phản kháng lại được nữa. Song đồng

thời Cưu Ma Trí cảm thấy chân lực trong mình luôn luôn theo bàn tay phải

tiết ra ngoài. Lão vội vàng đưa bàn tay trái nắm chặt lấy tay phải của mình,

lùi lại ba bước rồi nói:

- Vị tiểu thí chủ này trong bụng đã nhớ hết đồ hình về Lục mạch thần kiếm.

Quyển đồ hình đã bị Khô Vinh đại sư đốt cháy rồi...

Lúc Cưu Ma Trí cất tiếng nói thì lại không giữ được chân khí khỏi bị tiết ra

ngoài nên y vội vội vàng vàng nói vắn tắt:

- Tiểu thí chủ đây là quyển đồ hình sống... đem gã đốt sống trước mồ Mộ

Dung tiên sinh, cũng như là đốt quyển đồ hình vậy...

Cưu Ma Trí sợ phe Khô Vinh đại sư nhận thấy nhược điểm của mình trong

lúc nói năng mà xúm lại tấn công chăng, lão liền giơ tay trái đánh luôn ra

năm đường đao, nhằm về phía trước. Bóng lão thoáng chuyển động một cái

đã rút lui ra khỏi cửa mầu ni đường. Bọn Bảo Định Đế, Thiên Quan, Thiên

Nhân rượt theo để cướp người lại đều bị sức ngũ đao liên hoàn vây bọc,

ngăn giữ không có cách nào tiến lên đơực. Cưu Ma Trí cầm Đoàn Dự quăng

cho chín tên hán tử đợi ở ngoài cửa rồi quát giục:

- Các người rút cho mau!

Hai tên hán tử đồng thời đưa tay đón lấy Đoàn Dự, rồi đi xuyên qua rừng

cây, chạy rẽ đi lối khác chứ không theo đường cái. Cưu Ma Trí sau khi trao

Đoàn Dự cho người khác, chân khí không bị tiết ra nữa. Lão lại huy động

"hoả diệm đao" chém tới tấp vào cửa mầu ni đường.

Bọn Bảo Định Đế đều dùng phép Nhất Dương Chỉ xung kích nhưng vẫn

không sao phá vỡ được vòng vây bằng lỡi đao vô hình của đối phương. Cưu

Ma Trí nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, biết là thủ hạ đã đem Đoàn Dự lên

đường về bắc rồi. Lão đắc ý cười một tràng dài nói:

- Đốt mất quyển đồ hình chết, lại được quyển đồ hình sống. Mộ Dung tiên

sinh lại có bạn ở dưới suối vàng sẽ khỏi phải tịch mịch.

Đoạn lão dùng tay phải đánh chéo lại một chưởng. Nghe tiếng kêu rắc rắc.

Hai cây cột ở toà mầu ni đường đã bị "hoả diệm đao" chém gẫy rồi. Lão phi

thân thoảng như một làn khói, thoắt đã biệt dạng, không biết đi về phương

hướng nào. Bảo Định Đế và mọi người đều dùng kinh công tuyệt đỉnh đuổi

theo, nhằm thẳng về phía bắc.

Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí điểm các huyệt đạo, không cử động gì được nữa,

chàng bị gác ngang lưng ngựa, mặt cúi sấp xuống, chỉ nhìn thấy mặt đất

như chạy lùi về phía sau. Vó ngựa chạy như bay, miệng mũi đầy cát bụi, tai

nghe những tên hán tử nói líu lo toàn tiếng Phiên, chẳng hiểu là chúng nói

gì. Đoàn Dự đếm được bốn mươi chân ngựa, biết là cả bọn chúng đi có

mười người. Đi được chừng hơn mười dặm, tới khúc đường rẽ, chàng thấy

Cưu Ma Trí nói líu lo mấy câu rồi năm con ngựa đi về bên trái, còn Cưu Ma

Trí và một tên áp giải chàng cùng ba người nữa đi rẽ về bên phải. Lại đi

chừng hai dặm nữa thì tới chỗ rẽ thứ hai năm người này lại đi ra làm hai

ngả. Đoàn Dự biết Cưu Ma Trí sở dĩ chia ra đi mấy ngả như thế là chủ ý

đánh lạc hướng, khiến cho truy binh không biết đâu mà đuổi theo. Lại đi

một hồi nữa, Cưu Ma Trí xuống ngựa, lấy một đoạn dây da, buộc ngang

lưng Đoàn Dự, tay trái lão xách ngang người chàng đi về phía rặng núi còn

hai tên hán tử đi rẽ về phía tây. Đoàn Dự ngấm ngầm xuýt xoa và tự nghĩ:

"dù bá phụ có phái một đoàn thiết giáp kỵ binh, đuổi theo không ngừng

bước, bất quá cũng chỉ bắt hết được chín tên tuỳ tùng là cùng, không thể

nào cứu được mình về. Cưu Ma Trí xách một người bên tay mà lão đi nhẹ

như không, mỗi lúc đi một mau hơn. Đi như thế chừng độ ba giờ mà toàn

xuyên qua rừng qua núi. Mặt trời đã ngả về phía tây, ánh nắng rọi từ bên

trái tới Đoàn Dự biết là Cưu Ma Trí đem mình về hướng bắc. Đến lúc gần

tối, Cưu Ma Trí gác Đoàn Dự lên một cành cây rồi lấy dây da trói vào. Lão

chẳng nói câu gì hết, thậm chí chẳng thèm nhìn đến nữa, chỉ đặt lên trên

lưng chàng mấy cái bánh khô rồi đưa ngón tay giải một huyệt đạo cổ tay

trái cho chàng để có thể lấy được bánh mà ăn. Đoàn Dự duỗi tay trái ra,

định vận khí để sử dụng "thiếu trạch kiếm" để đánh lão nhưng chàng có biết

đâu sau khi các đại huyệt trong người bị điểm rồi thì toàn thân chân khí bị

phong toả nên ngón tay chàng hí hoáy mãi mà không có chút nội lực nào

phát ra hết. Hai ngày liền Cưu Ma Trí vẫn xách Đoàn Dự đi về phía bắc.

Mấy lần chàng gợi chuyện, hỏi lão sao lại bắt chàng và đem chàng về bắc

để làm gì Cưu Ma Trí vẫn làm thinh không trả lời. Đi mãi tới mười ngày, đã

ra khỏi địa giới nước Đại Lý, Đoàn Dự nhận thấy Cưu Ma Trí lại xoay

hướng đi về phía đông bắc nhưng vẫn tránh không đi đường lớn, cứ đi tắt

qua những cánh rừng hoang núi rậm. Chàng để ý nhìn nhận thấy địa thế mỗi

lúc một bằng phẳng, núi dần dần ít đi mà sông ngòi lại nhiều ra. Trong một

ngày phải đi qua mấy lần đò. Cưu Ma Trí xách Đoàn Dự đi đường như vậy

cũng làm cho người qua đường phải kinh khủng. Về sau hễ ra cửa là gặp

người đi lại rồi song cũng không có ai hỏi han gì. Đoàn Dự lòng phẫn uất,

chàng nhớ lại lúc bị cô em Mộc Uyển Thanh bắt, tuy ngày nào cũng bị đánh

vùi đánh dập kể có đau thật nhưng không đến nỗi buồn bực như lần này. Lại

đi hơn mười ngày nữa, Đoàn Dự nghe thấy tiếng người nói thanh nhã dịu

dàng thì nghĩ bụng: "chắc đây là địa giới Giang Nam rồi, nếu lão đem mình

đi tế sống Mộ Dung tiên sinh thì chỉ một ngày nữa là tới nơi. Lão Phiên

tăng này võ công lợi hại như thế, ngay phe bá phụ mình sáu người hợp lại

mà còn không ngăn nổi lão. Bây giờ mình đã lọt vào tay lão rồi, chỉ có cách

để mặc lão muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ chứ chẳng còn hi vọng gì

nữa. ý chí ngang bướng đã chớm nở, chàng không thèm lo nghĩ gì hết ngẩng

đầu lên ngắm phong cảnh. Tiết trời đang độ tháng ba, ngõ hạnh đầy hoa,

ven hồ rủ liễu, gió xuân phơi phới thổi nhẹ bên mình khiến cho người chàng

nh say sa ngây ngất. Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí xách đi hơn một tháng, khổ

cũng quen rồi, bây giờ thấy thắng cảnh ngày xuân phong quang như vậy,

bất giác trong lòng sảng khoái, buột miệng ngâm:

Trường Giang từng đợt sóng dồi

Ngẩn ngơ bờ liễu lôi thôi mấy hàng

Bốn bề xa vắng thôn trang

Phất phơ hoa hạnh, ánh dương tà tà.

Hoi 27 Cái mũi thần tình

Cưu Ma Trí nghe Đoàn Dự ngâm thơ, cười lạt nói:

- Chết đến gáy mà mi vẫn còn khoái lắm nhỉ. Vài bữa nữa rồi xuống âm

cung mà ngâm thơ vịnh phú với Diêm Vương.

Đoàn Dự cười nói:

- Thiên hạ ai là người không chết? Mi sống thêm mấy năm nữa có hơn ai

được cái gì không?

Cưu Ma Trí không nói nữa, quay ra hỏi thăm những người qua đường Tham

Hợp trang ở đâu. Lão hỏi đến bảy tám người mà chẳng ai biết. Sau có ông

già bảo:

- Thành Cô Tô không có đâu là Tham Hợp trang cả. Có lẽ hoà thượng nghe

lầm chăng?

Cưu Ma Trí lại hỏi:

- Lão trượng có biết đại trang chúa người họ Mộ Dung ở đâu không?

Ông già đáp:

- Trong thành Tô Châu này chỉ có họ Cố, họ Lục, họ Trương, họ Chu, họ

Văn... làm gì có đại trang chúa cùng Mộ Dung? Tôi chưa thấy ai nói đến

cả.

Cưu Ma Trí chưa biết tìm cách nào để hỏi cho ra địa chỉ Mộ Dung tiên sinh,

chợt nghe tiếng một người đang đi trên còn đường nhỏ về phía tây nói: tôi

nghe nói họ Mộ Dung ngụ ở ngoài thành, đi về phía tây chừng 30 dặm, chỗ

đó gọi là Yến Tử ổ. Chúng ta tới đó xem sao?

Rồi lại có tiếng người khác gạt đi:

- Thôi! Đây đã đến địa đầu rồi. Ta phải cẩn thận mới được.

Hai người nói rất khẽ, Đoàn Dự không nghe thấy chi cả Cưu Ma Trí vì tuyệt

giỏi nội công mới nghe rõ. Lão nghĩ thầm: phải chăng hai người này chủ

tâm nói cho ta nghe tiếng?

Cưu Ma Trí đưa mắt nhìn về phía vừa phát ra tiếng nói thì thấy một người

khí vụ hiên ngang, vận đồ tang phục còn một người thấp lủn thủn và gầy

đét, trông chẳng khác chi ác quỷ hung thần. Cưu Ma Trí biết ngay người đó

có võ công đáng kể. Lão còn đang suy nghĩ có nên cùng bọn này bắt

chuyện không bỗng Đoàn Dự lên tiếng gọi to:

- Hoắc tiên sinh! Hoắc tiên sinh đi đâu đấy?

Nguyên người thấp lủn thủn, hình dung cổ quái đó chính là Kim Toán bàn

Thôi Bách Kế và sư điệt ông là Truy hồn thủ Quá Ngạn Chi. Hai người sau

khi từ biệt Trấn Nam Vương phủ nước Đại Lý ra đi, quyết tâm báo thù cho

Kha Bách Tuế. Mặc dầu họ biết rõ khó có thể địch lại nhà Mộ Dung, mối

thù không đội trời chung vị tất đã trả được nhưng là những người nghĩa

dũng, họ can đảm tìm đến Cô Tô. Công việc đầu tiên của hai người là thám

thính họ Mộ Dung ngụ tại Yến Tử ổ, đang đi trên đường thì gặp Cưu Ma Trí

cùng Đoàn Dự. Thôi Bách Kế chợt nghe tiếng Đoàn Dự gọi rất đỗi ngạc

nhiên nhảy ngay đến trước mặt Cưu Ma Trí hỏi:

- Tiểu Vương gia đó ? Ô kìa đại hoà thượng! Xin buông ngay công tử

xuống cho! Hoà thượng có biết công tử là ai đó không?

Thực ra Cưu Ma Trí chẳng coi hai người vào đâu nhưng lão nghĩ rằng từ lúc

chưa đến Trung Nguyên mình đã biết khó lòng tìm ra chỗ ở của Mộ Dung

tiên sinh. Nay có bọn này dẫn lối cho kể cũng là một dịp may cho mình bèn

buông Đoàn Dự xuống, để chàng đứng vững rồi giải các huyệt đạo ở hai

chân chàng, đoạn quay lại bảo hai người:

- Tôi cũng đến chỗ Mộ Dung tiên sinh đây. Phiền hai vị dẫn đường cho!

Thôi Bách Kế tuy là người lịch duyệt giang hồ, biết nhiều hiểu rộng mà

chưa đoán ra lai lịch nhà sư này, bèn hỏi:

- Xin hỏi đại sư chúng tôi xưng hô với đại sư thế nào cho phải? sao đại sư

lại làm khó dễ với tiểu Vương gia họ Đoàn như vậy? Đại sư lên phủ Mộ

Dung có việc gì?

Cưu Ma Trí đáp lộc cộc:

- Bất tất phải hỏi nhiều, tới nơi sẽ biết!

Thôi Bách Kế lại hỏi:

- Phải chăng đại sư là chỗ bạn thân với nhà Mộ Dung?

Cưu Ma Trí đáp:

- Phải! Mộ Dung tiên sinh ở Tham Hợp trang, không biết đi về ngả nào?

Hoắc tiên sinh có biết thì chỉ dùm cho!

Lão thấy Đoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng y là

Hoắc thật mặc dầu lão trí mưu hơn người nhưng cũng chưa hiểu lý do.

Thôi Bách Kế bóp trán suy nghĩ rồi hỏi Đoàn Dự:

- Tiểu vương gia! Bây giờ Tiểu Vương gia tính sao đây?

Câu hỏi này khiến cho Đoàn Dự phải chưng hửng. Chàng nghĩ thầm: "Cưu

Ma Trí võ công ghê gớm, trên đời này sợ không ai địch nổi. Bọn Thôi, Quá

tất nhiên so với lão không thấm vào đâu. Nếu hai người này lại cố ý cứu

mình thì chẳng những không ăn thua gì mà chết uổng hai mạng". Nghĩ vậy

chàng dùng lời cảnh cáo để bọn họ biết đường cao chạy xa bay là hơn chàng

nói:

- Vị đại sư đây một mình mà đánh bại bá phụ tôi cùng năm tay cao thủ nước

Đại Lý, bắt tôi đem đến đây. Nguyên đại sư là bạn cố tri với Mộ Dung tiên

sinh, nay đại sư đưa tôi đến hoả thiêu trước mồ Mộ Dung tiên sinh để tế

vong hồn người bạn quá cố. Tôi tưởng hai vị không có dính líu gì đến nhà

Mộ Dung thì nên chỉ đường cho đại sư rồi về đi là hơn.

Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi nghe lão đại sư này đánh bại Bảo Định

Đế cùng bọn cao thủ nước Đại Lý quả nhiên chột dạ, khi nghe lão là bạn

với bọn Mộ Dung thì lại càng khiếp sợ. Thôi Bách Kế tuy mặt mũi xấu xa,

hình dung cổ quái nhưng có nghĩa khí hào hiệp nghĩ thầm: "mình đã ẩn thân

tại phủ Trấn Nam Vương mười mấy năm trời chưa từng báo đáp ơn sâu.

Nay tiểu vương gia gặp nạn có lý đâu mình tự thủ bàng quan được? Hơn nữa

mình đã tìm vào Cô Tô thì cái mạng này coi có cũng như không, bất luận

chết dưới lưỡi đao của kẻ địch hay chết bới tay người khác cũng thế thôi".

Nghĩ vậy Thôi liền thò tay vào bọc lấy ra một cái bàn tính bằng hoàng kim

sáng rực, giơ cao lên, lắc cho nó kêu loảng xoảng rồi bảo Cưu Ma Trí:

- Này này đại hoà thượng! Đại hoà thượng là bạn thân với Mộ Dung tiên

sinh thì tiểu vương gia đây cũng là hảo hữu của tôi, đại hoà thượng nên

buông tha tiểu vương gia ra!

Thôi Bách Kế chưa nói dứt câu Cưu Ma Trí đã vươn tay ra giựt được cây

nhuyễn tiên của Quá Ngạn Chi đang cầm, rồi thuận tay lão quăng nhuyễn

tiên quấn lấy bàn tính ở trong tay Thôi Bách Kế. Hai binh khí chạm vào

nhau, rời khỏi tay người cầm, bay tung ra rớt xuống hồ. Ai nấy đều nhìn

thấy cặp khí giới quý báu này sắp chìm xuống đáy hồ. Không ngờ đà kình

lực Cưu Ma Trí xử khéo làm sao, một đầu cây nhuyễn tiên văng lại, mắc

vào một cành liễu trên mặt hồ.

Quá Ngạn Chi ngoại hiệu là "truy hồn thủ" ra tay cực kỳ mau lẹ, sử dụng

cây nhuyễn tiên lại là một môn tuyệt kỹ của chàng vậy mà chưa đánh xong

một đòn đã bị Cưu Ma Trí giật rời khỏi tay. Mấy cử động của Cưu Ma Trí:

nào xích lại gần, nào vươn tay giật roi nhuyễn tiên, nào vẫy roi cuốn lấy bàn

tính, nào lui về chỗ cũ lẹ đến nỗi cả Thôi Bách Kế lẫn Quá Ngạn Chi hai

người cũng không trông rõ nữa.

Cưu Ma Trí chắp hai tay để trước ngực, nét mặt vẫn thản nhiên như không

có chuyện gì xảy ra nói:

- Phiền đại giá hai vị dẫn đường cho!

Thôi, Quá hai người ngơ ngác nhìn nhau, không biết làm thế nào. Cưu Ma

Trí lại nói tiếp:

- Nếu hai vị không dẫn đường thì xin chỉ nẻo cho biết Yến Tử ổ, Tham Hợp

trang đi về ngả nào, đường lối ra sao, để tiểu tăng tự đi đến nơi cũng được.

Thôi, Quá hai người thấy võ công lão vô cùng lợi hại mà vẻ mặt lại khiêm

tôn, ôn hoà là thế muốn trở mặt không được mà không trở mặt không xong.

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng rạt rào, trên mặt hồ nước biếc một con

thuyền nhỏ đang rẽ nước lướt tới. Trên thuyền một thiếu nữ áo xanh cầm

đôi mái chèo khuấy nước cho thuyền chạy, miệng cô đang ca khúc "Hạm

thiều hương". Giọng hát dịu dàng không có vẻ lả lơi khiến người nghe cũng

cảm thấy nỗi vui mừng.

Đoàn Dự ở nước Đại Lý từng đọc văn chương thơ phú của cổ nhân, tán tụng

phong cảnh nhân vật Giang Nam. Nay chàng được nghe khúc hát này tâm

hồn bất giác say sa như lạc vào cõi mộng. Quên mình đang đứng trước

hoàn cảnh hiểm nghèo quay ra nhìn thiếu nữ. Tay nàng nhỏ nhắn, nước da

trắng mịn ánh xuống hồ nước xanh biếc và trong leo lẻo.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi tuy đứng trước mặt kẻ địch ghê gớm cũng

không khỏi đưa mắt nhìn cô gái mấy lần. Chỉ mình Cưu Ma Trí là tựa hồ

như không trông thấy hay không nghe thấy gì mà thôi. Lão nói:

- Nếu hai vị không chịu chỉ Tham Hợp trang cho thì tiểu tăng xin cáo từ.

Lúc đó thiếu nữ đã chèo thuyền đến gần bờ. Nàng nghe Cưu Ma Trí nói vậy

liền cất tiếng:

- Chẳng hay đại hoà thượng đến Tham Hợp trang có việc gì?

Giọng nàng cực kỳ thanh tao êm ái khiến ai nghe cũng lọt tai. Thiếu nữ mới

chừng 15, 16 tuổi, nét mặt ôn nhu, con người thanh tú. Đoàn Dự nghĩ thầm:

"các cô gái ở Giang Nam có tiếng là xinh đẹp tưởng cũng đến thế này mà

thôi".

Cưu Ma Trí hỏi:

- Tiểu tăng muốn đến Tham Hợp trang. Tiểu nương tử có thể trỏ đường lối

cho tiểu tăng được không?

Thiếu nữ mỉm cười hỏi lại:

- Cái tên Tham Hợp trang người ngoài không ai biết đến. Đại sư nghe đâu

mà biết?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng là bạn phương xa với Mộ Dung tiên sinh. Hôm nay đến tế mộ

tiên sinh cho vẹn lời ước năm xưa.

Thiếu nữ trầm ngâm rồi nói:

- Nếu vậy không may cho đại sư rồi! Hôm kia Mộ Dung công tử mới ra đi.

Giả tỷ đại sư đến đây trước ba hôm thì được gặp.

Cưu Ma Trí nói:

- Tiểu tăng thật vô duyên cùng công tử nghĩ cũng đáng buồn. Song tiểu tăng

từ nước Thổ Phồn, đường xa muôn dặm, lặn lội về đến Trung Nguyên chỉ

mong được tới trước mồ Mộ Dung tiên sinh lạy một lạy cho chọn nghĩa xưa.

Thiếu nữ nói:

- Nếu đại sư đã là chỗ giao hữu cùng Mộ Dung tiên sinh thì xin mời đại sư

hãy vào dùng trà để cháu sẽ vào báo trang nên chăng?

Cưu Ma Trí hỏi lại:

- Tiểu nương tử là người thế nào trong phủ công tử? Xưng hô sao cho phải

phép?

Thiếu nữ mỉm cười đáp:

- Cháu là kẻ nữ tỳ chầu chực công tử trong cung đàn tiếng sáo tên gọi A

Bích. Xin đại sư miễn khách sáo và đừng kêu bằng đại nương tử tiểu nương

tử chi hết. Cứ gọi thẳng tên A Bích cho tiện.

Đoạn nàng tiếp:

- Từ đây vào Yến tử ổ toàn là đường thuỷ. Quý vị có muốn vào thì xuống

thuyền để tiểu nữ chở đi.

Cưu Ma Trí cám ơn rồi nắm tay Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền,

thuyền chỉ đầm xuống một chút chứ không tròng trành.

A Bích nhìn Cưu Ma Trí và Đoàn Dự mỉm cười tựa hồ thán phục võ công

của hai người.

Quá Ngạn Chi khẽ hỏi Thôi Bách Kế:

- Sư thúc tính sao bây giờ?

Hai người cốt tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù nhnưg chưa tới nơi đã xẩy

ra mấy vụ rùng rợn vẫn còn nơm nớp lo âu.

A Bích tươi cười nói:

- Hai vị đã đến Tô Châu nếu không có việc gì gấp xin mời vào tệ xá xơi

nước. Cái thuyền này tuy nhỏ nhưng hai vị xuống nữa cũng được.

Nàng vừa nói vừa ghé thuyền vào bên cây liễu, giơ bàn tay xinh xắn ra với

lấy cây bàn tính, tiện tay nàng gẩy bàn tính lách cách.

Đoàn Dự nghe vui tai buột miệng nói:

- Cô gẩy khúc thái tang tử phải không?

A Bích mỉm cười nói:

- Công tử tinh thông âm nhạc gẩy chơi một khúc đi!

Đoàn Dự thấy nàng ăn nói tự nhiên, tính tình khả ái cười đáp:

- Tôi không biết gẩy đàn bằng bàn tính.

Rồi chàng quay lại bảo Thôi Bách Kế:

- Hoắc tiên sinh! Cái bàn tính của tiên sinh mà cô nương đây gẩy nghe cũng

vui tai đấy chứ?

Thôi Bách Kế cười hềnh hệch đáp:

- Quả vậy! Hay lắm! Cô nương thực là người tao nhã. Cái đồ vật phàm tục

dùng làm sinh kế vào tay cô nương cũng thành ra nhạc khí được.

- Trời ơi! ghê quá! Của tiên sinh đấy ? Bàn tính gì mà đẹp quá vậy? Chắc

tiên sinh giàu có lắm, cái bàn tính cũng đúc bằng vàng ruột. Tôi xin trả tiên

sinh đây!

Nàng vừa nói vừa cầm bàn tính giơ lên. Thôi Bách Kế đứng trên bờ không

với tới, lẹ làng nhảy xuống thuyền, đưa tay ra với lấy bàn tính rồi quay đầu

lại trừng mắt nhìn Cưu Ma Trí một cái. Cưu Ma Trí thuỷ chung vẫn giữ bộ

mặt tươi cười vui vẻ, tuyệt không lộ vẻ gì tức giận cả. A Bích lại đưa tay trái

ra lượm cây nhuyễn tiên, năm ngón tay nàng cũng bật cũng gõ vào cây roi

thành những âm thanh trong trẻo vang dội như kiểu gẩy đàn tỳ bà. Thì ra cả

đến những binh khí của các bậc anh hùng hào kiệt vào tay nàng cũng thành

nhạc khí cả.

Đoàn Dự lại reo lên:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cô nương gảy khúc nữa đi!

A Bích trông lên Quá Ngạn Chi hỏi:

- Cây nhuyễn tiên của tiên sinh phải không? tôi đem ra nghịch thực vô lễ

quá. Tiên sinh xuống thuyền đi rồi tôi hái cho tiên sinh mấy trái hồng lăng.

Quá Ngạn Chi nóng lòng báo cừu cho sư phụ chàng căm thù cả bè lũ nhà

Mộ Dung thấu xương nhưng thấy cô bé này xinh tươi, chất phác không có

vẻ gì là nham hiểm độc ác nên chàng tuy giận đầy ruột mà không dám phát

cáu. Chàng nghĩ thầm: "thị dẫn ta về nhà là có chuyện không hay đây. Thôi

được, nếp tẻ gì không cần, ta hãy vào giết mấy đứa cho hả giận đã". Nghĩ

vậy chàng gật đầu bước xuống thuyền.

A Bích trịnh trọng quấn cây nhuyễn tiên lại đưa cho Quá Ngạn Chi. Đoạn

thả mái chèo xuống nước, quay thuyền bơi về hướng tây.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau mấy lần. Hai người cùng

nghĩ bụng: "nay mình vào hang cọp, chưa biết sống chết ra sao. Bọn Mộ

Dung thủ đoạn ác độc vô cùng. Cô bé này xem ra tuy không phải là hạng

đóng kịch giả hiệu nhưng biết đâu chẳng là kế kiêu binh của chúng để mình

phóng tâm không đề phòng cho chúng dễ bề hạ thủ?". Thuyền đi vòng vèo

vài khúc quanh thì đến cái hồ lớn rộng bát ngát, mông mênh những nước

cùng trời. Quá Ngạn Chi chột dạ nghĩ thầm: "cái hồ này có lẽ là Thái Hồ

đây. Mình cùng Thôi sư thúc đều không quen bơi lội, thuyền chỉ lật đi một

cái thời mình đành làm mồi cho cá, còn đâu nữa mà báo cừu cho sư phụ?".

Thôi Bách Kế cũng tưởng đến chỗ đó tự nhủ: "giả tỷ mình cầm mái chèo

trong tay thì ả này có muốn lật thuyền cũng không phải dễ", liền nói:

- Cô nương! cô để tôi bơi thuyền đỡ một lúc. Cô cứ chỉ đường cho tôi là

được.

A Bích cười nói:

- Trời ơi! cháu đâu dám thế? Công tử mà biết ra sẽ trách phạt cháu về tội

khinh mạn tân khách.

Thôi Bách Kế thấy nàng không chịu lại càng ra dạ ngờ vực bèn xoay chiều:

- Thật ra không dám giấu gì cô nương. Xin cô nương cho chúng tôi nghe

thêm vài khúc đàn nhuyễn tiên tuyệt kỹ nữa.

A Bích cười nói:

- Tiên sinh dạy quá lời.

Thôi Bách Kế lấy cây nhuyễn tiên trong tay Quá Ngạn Chi đưa cho A Bích

miệng bảo nàng gẩy đàn, tay đưa ra đón lấy mái chèo.

A Bích nói:

- Tiên sinh cho tôi mượn cả cái bàn tính nữa.

Thôi Bách Kế ngấm ngầm nghĩ bụng: "ả thu cả khí giới của bọn mình, hay

là có âm mưu gì đây?". Nghĩ vậy thì nghĩ chứ không có cách nào từ chối

đành cầm bàn tính đưa cho nàng.

A Bích đặt bàn tính xuống tấm ván gỗ đầu thuyền ngay trước mặt. Tay trái

nàng giữ lấy chuôi nhuyễn tiên, chân phải dậm lên một đầu cho cây roi

dựng thẳng lên, năm ngón tay phải vừa bật vừa vê đi vuốt lại, cây nhuyễn

tiên phát ra tiếng leng keng, tuy không trong trẻo vang dội bằng tiếng đàn tỳ

bà nhưng nghe cũng thành nhạc điệu giòn dã, du dương. Năm ngón tay A

Bích vừa lần gẩy nhuyễn tiên vừa gẩy xen lẫn tiếng bàn tính kêu lách cách

tựa hồ tiếng sắt tiếng vàng chen nhau nghe càng thêm thú vị. Giữa lúc đó

đôi chim én lượn qua đầu thuyền, bay về hướng tây. Đoàn Dự nghĩ bụng:

chỗ Mộ Dung ở gọi là Yến Tử ổ chắc có nhiều chim én. Bỗng nghe A Bích

cất tiếng hát. Đoàn Dự nghe giọng hát du dương mà lòng những bâng

khuâng như say như tỉnh. Chàng lẩm bẩm một mình: "nếu mình suốt đời ở

tận nơi đèo heo hút gió thì làm sao nghe được những khúc tiên nhạc này?

Công tử Mộ Dung có những ả nữ tỳ tài tình thế này tất không phải hạng tầm

thường". A Bích ca hát một hồi rồi đưa trả bàn tính cùng nhuyễn tiên cho

Thôi, Quá và cười nói:

- Đàn hát kém quá, chỉ tổ làm trò cười cho quý khách. Xin Hoắc tiên sinh

quay mũi thuyền về mé tả, sắp đến nhà rồi.

Thôi Bách Kế lái mũi thuyền theo tay nàng trỏ, đi vào lạch nước đầy sen

mọc. Nếu không có A Bích trỏ nẻo thì không ai ngờ giữa chỗ lá sen chi chít

lại là lối thuyền đi. Thôi Bách Kế chèo một lúc nữa A Bích lại trỏ tay bảo:

- Đi vào nẻo trong kia!

Quãng này trên mặt nước toàn một giống hồng lăng. Nước biếc lá xanh,

phong cảnh tuyệt đẹp. A Bích đưa tay ra hái ít trái hồng lăng đa cho mọi

người. Đoàn Dự tuy hai tay đã cử động được nhưng từ sau khi bị điểm huyệt

không còn mảy may khí lực nào nữa, vỏ trái hồng lăng hơi rắn một chút mà

chàng không sao bóc được.

A Bích cười nói:

- Công tử không phải là người Giang Nam, không biết bóc vỏ hồng lăng, để

cháu bóc cho.

Nàng bóc luôn mấy trái đặt vào tay Đoàn Dự. Nhân cùng thịt trái này trắng

bóng và tinh khiết. Đoàn Dự cầm bỏ vào miệng ăn, vừa ngọt vừa thơm,

chàng cười bảo A Bích:

- Mùi vị của trái thuý hồng lăng này cũng ngon ngọt như khúc hát của cô

nương.

A Bích hai má ửng hồng cười nói:

- Đa tạ công tử. Đem điệu hát ví với trái hồng lăng, nay cháu mới nghe thấy

công tử nói là một.

Chưa đi hết lạch hồng lăng, A Bích lại trỏ tay cho thuyền đi ra ngả có lau

sậy rậm rạp. Đến khu này cả Cưu Ma Trí cũng phải lưu tâm nhớ lấy nẻo đi,

để đề phòng lúc về biết lối mà ra. Vì chỉ trông thấy toàn một mầu lá lau, lá

lăng, lá giao, lá sen rất khó phân biệt đường đi. Hơn nữa chỉ một cơn gió là

các thứ hoa trên mặt nước này bay qua, lướt lại, mất hết dấu vết, dù có nhận

xét kỹ càng nhưng thoáng cái cucï diện lại biến đổi khác đi. Cưu Ma Trí, Thôi

Bách Kế, Quá Ngạn Chi ba người đều để ý nhìn nhận phương pháp tìm nẻo

đi của A Bích, xem nàng lấy gì làm mục tiêu nhưng chỉ thấy nàng cứ điềm

nhiên hái trái hồng lăng mà chẳng cần để ý gì đến đường đi. Thuyền đến

chỗ quanh, chỗ rẽ là nàng thuận miệng chỉ bảo, tựa hồ những lối dọc ngang

trên mặt hồ nàng đã thuộc lòng, không cần để ý nhìn nhận nữa. Thuyền đi

ngang rẽ dọc không biết bao nhiêu chỗ vào khoảng giờ mùi thì xa xa giữa

rặng liễu xanh om lộ ra một mái nhà.

A Bích nói:

- Đến nơi rồi, hôm nay cháu làm nhọc sức Hoắc tiên sinh bơi thuyền đến

quá nửa ngày.

Nàng thấy Đoàn Dự gọi Thôi Bách Kế là Hoắc tiên sinh cũng tưởng ông ta

họ Hoắc. Thôi Bách Kế miệng cười méo mó đáp:

- Cứ được ăn hồng lăng, lại được nghe thanh ca, dù có phải bơi thuyền hàng

năm cũng không biết mỏi.

A Bích vỗ tay cười nói:

- Tiên sinh muốn ăn hồng lăng cùng nghe hát thì khó gì? Cứ ở cùng tụi trên

hồ này không ra nữa là được.

Thôi Bách Kế nghe A Bích nói: "cứ ở trên hồ này, không ra nữa" bất giác

thất kinh, đưa mắt nhìn hồi lâu thì chỉ thấy lúc nào nàng cũng tươi cười dễ

dãi, tuyệt không lộ vẻ con người tâm cơ xảo trá. Tuy nhiên Thôi vẫn không

vững dạ chút nào.

A Bích đón lấy mái chèo, gạt thuyền vào dưới bóng liễu, đến chỗ có cành

cây tùng rủ xuống mặt nước. Nàng vừa buộc thuyền vào cành cây xong,

chợt nghe tiếng một con chim nhỏ hót líu lo, giọng hót rất trong trẻo và

vang dội. A Bích cũng bắt chước giọng chim gáy lên vài tiếng rồi quay lại

bảo mọi người:

- Xin mời quý vị lên bờ.

Mọi người lên bờ trông vào thấy lưa thưa có bốn năm căn nhà nhỏ, dựng

trên một cái đảo nhỏ hay cái bán đảo thì đúng hơn. Các phòng ốc tuy bé

nhỏ nhưng rất sáng sủa, xinh xắn.

Cưu Ma Trí hỏi:

- Phải chăng đây là Tham Hợp trang trong yến tử ổ?

A Bích lắc đầu đáp:

- Không phải! chỗ này công tử dựng lên cho cháu ở, chật hẹp, quê mùa

không đáng để tiếp khách. Đại sư bảo vào tế mồ Mộ Dung tiên sinh, tôi đâu

dám tác chủ, chẳng qua thỉnh quý vị vào đây ngồi chờ, để cháu nói cho A

Châu tỷ nương hay.

Cưu Ma Trí có vẻ không bằng lòng, nét mặt lầm lỳ. Cưu Ma Trí là một vị

hộ quốc pháp vưng nước Thổ Phồn, địa vị cao sang là thế. Phi chỉ quốc

vương nước Thổ Phồn đem lòng kính trọng, mà sang đến triều đình nước

Đại Tống hay các nước Đại Lý, Liêu Quốc các vị vua chúa cũng tiếp đãi lão

vào hàng thượng khách. Huống chi lão là bạn cố tri với Mộ Dung tiên sinh,

vì tình nghĩa mà thân hành đến tế mộ. Công tử Mộ Dung vắng nhà không

biết đã đành còn những người ở nhà cũng không mời lão vào đại sảnh, tiếp

đãi long trọng, lại để cho con thị tỳ đưa vào nhà riêng, thực là đáng giận.

Nhưng lão thấy A Bích luôn miệng tươi cười, tuyệt không tỏ vẻ khinh mạn

thì nghĩ rằng: "Nó là con ăn con ở, có hiểu gì đâu mà mình đem đặt nó vào

địa vị người có kiến thức?". Nghĩ vậy lão trở lại nét mặt ôn hoà vui tươi.

Thôi Bách Kế hỏi:

- A Châu tỷ nương là ai?

A Bích cười đáp bằng một giọng ngây thơ:

- A Châu tỷ nương là A Châu tỷ nương! vì chị A Châu lớn hơn cháu một

tháng nên cháu kêu bằng A Châu tỷ nương chứ biết sao được? Ai bảo chị

lớn hơn cháu một tháng làm gì? Như tiên sinh thì cần gì phải gọi A Châu là

tỷ nương? nhưng nếu cứ gọi A Châu tỷ nương thì chị ta cũng khoái lắm.

Nàng nói liến láu một hồi, giọng nói trong trẻo như người tấu nhạc rồi dẫn

bốn người vào trong nhà. Đoàn Dự nhìn lên thấy trên cửa căn nhà nhỏ có

tấm biển viết hai chữ "cầm vân", nét chữ rất tốt. A Bích mời mọi người ngồi

chơi. Một lát có gã con trai bưng trà và bánh điểm tâm ra. Đoàn Dự vừa

cầm chén trà thì một mùi thơm ngát đưa lên mũi. Chàng thấy nước trà màu

xanh lạt, cánh trà mầu xanh biếc, nhỏ như hạt châu, trên mặt lá có lông nhỏ

li ti. Thứ trà này chàng chưa thấy bao giờ. Chàng vừa nhấp thử một hớp,

miệng đượm mùi thơm, lưỡi dơm dớp vị ngọt. Cưu Ma Trí và Thôi Bách Kế

thấy lá trà kỳ dị không dám uống. (Nguyên thứ trà này là đặc sản ở miền

phụ cận Thái Hồ, đời sau gọi là trà Bích La Xuân. Bấy giờ về đời Bắc Tống,

chưa có cái tên thanh nhã này.) Cưu Ma Trí ở khu Tây Vực và cư trú tại

miền rừng núi nước Thổ Phồn, chỉ quen uống trà sắc đen, vị chát, giờ thấy

thứ trà sắc xanh biếc, có lông ngờ là có chất độc.

Bốn thứ điểm tâm là mứt mai côi, bánh dẻo phục linh, bánh nướng Phi Thuỷ

và bột ngó sen. Thứ nào cũng chế rất công phu, tựa hồ như làm để bày cho

đẹp chứ không phải để ăn. Đoàn Dự khen nức nở rồi hỏi:

- Những món điểm tâm coi đẹp thế này mà bỏ vào miệng ăn đi thì uổng quá

phải không cô nương?

A Bích nói:

- Mời công tử dùng đi! Trong nhà hãy còn.

Đoàn Dự ăn đến đâu lại trầm trồ khen ngợi đến đó. Cưu Ma Trí và Thôi

Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi không dám ăn. Đoàn Dự thấy vậy trong lòng

sinh nghi tự hỏi: "Cưu Ma Trí tự xưng là bạn thân với Mộ Dung tiên sinh

vậy mà sao chỗ nào lão cũng gia tâm đề phòng? Nhà Mộ Dung đối đãi với

lão tựa hồ không có vẻ trịnh trọng là nghĩa gì?

Cưu Ma Trí thật là người rất nhẫn nại, lão đợi đến nửa ngày chờ sau khi

Đoàn Dự đã uống trà và ăn điểm tâm đủ thứ mới cất tiếng giục A Bích:

- Bây giờ xin cô nương đi mời A Châu cô nương đến cho!

A Bích cười đáp:

- Trại chị A Châu ở cách đây xa tới bốn chín đường thuỷ, bữa nay đi không

kịp mất rồi. Mời bốn vị hãy ở lại đây một đêm, sáng sớm mai cháu sẽ đưa

quý vị sang "thính hương tiểu trúc".

Thôi Bách Kế hỏi:

- Bốn chín đường thuỷ là nghĩa làm sao?

A Bích đáp:

- Một chín là 9 dặm, hai chín là 18 dặm, bốn chín là 36 dặm.

Nguyên một giải Giang Nam tính lộ trình từng 9 dặm một.

Cưu Ma Trí lại nói:

- Giá biết thế này thì cô nương đưa chúng tôi đến thẳng Thính hương tiểu

trúc có phải hay hơn không?

A Bích cười đáp:

- Cháu ở đây một mình không có ai trò chuyện, buồn chết đi được. Chẳng

mấy khi có quý khách đến chơi, thế nào cũng lưu quý vị ở lại đây một hôm.

Từ hồi nào tới giờ Quá Ngạn Chi chỉ ngồi lầm lỳ không nói câu gì, đột

nhiên đứng phắt dậy, quát hỏi:

- Thân nhân nhà Mộ Dung trú ngụ nơi đâu? Quá Ngạn Chi này đến Tham

Hợp trang không phải để ăn cơm, uống nước cũng không phải để gẫu

chuyện giải buồn cho ai đâu nhé. Ta đến để giết người báo thù, để đổ máu

cùng gây án mạng. Quá mỗ đã vào trong này, cô nương đi bảo chúng hay,

ta đây là đệ tử Kha Bách Tuế phái Tung Sơn đến đòi món nợ máu của sư

phụ ta.

Nói xong cầm cây nhuyễn tiên đập mạnh làm cho chiếc kỷ trà gỗ đàn hương

cùng cái ghế bằng thứ trúc Tương Phi gẫy ra từng mảnh.

A Bích không sợ hãi mà cũng không tức giận nàng nói:

- Các vị anh hùng hào kiệt đến chơi với Mộ Dung công tử mỗi tháng mấy

lần, cũng đã nhiều vị hùng hùng hổ hổ như Quá đại gia đây...

Nàng chưa dứt lời, chợt thấy một lão già nhỏ bé thấp lủn thủn, đầu tóc bạc

phơ chống gậy từ hậu đường đi ra hỏi:

- A Bích! Ai làm gì mà ầm lên thế?

Thôi Bách Kế đang ngồi ghế cũng nhảy vọt ra, đứng bên Quá Ngạn Chi

quát hỏi:

- Sư huynh ta là Kha Bách Tuế bị ai sát hại? Nói mau!

Đoàn Dự thấy lão già lưng còng, mặt mũi dăn deo chừng tám chín chục tuổi

nói ấp úng trong cổ họng:

- Kha Bách Tuế, Kha Bách Tuế ? đã thọ đến Bách Tuế thì chết là đáng đời

rồi còn gì?

Từ lúc Quá Ngạn Chi đến Tô Châu, tưởng đến thẳng nhà Mộ Dung chém

giết để báo thù cho ân sư nào ngờ gặp phải Cưu Ma Trí đoạt khí giới, mất

hết nhuệ khí, đang bực mình thì lại gặp A Bích, một cô gái rất hiền hoà khả

ái, bao nhiêu thù oán không phát tiết vào đâu được nên giờ vừa nghe lão già

ăn nói ỡm ờ, vô lễ liền vung roi nhằm hậu tâm lão quất xuống. Chàng sợ

Cưu Ma Trí ra tay can thiệp nên thấy Cưu ngồi đầu đằng tây liền giơ roi về

phía đông quất tới. Nào ngờ Cưu Ma Trí vươn tay ra, bàn tay lão tựa hồ có

đá nam châm, lão ngồi xa mà chụp được nhuyễn tiên nói:

- Quá đại hiệp! Chúng ta là khách phương xa đến, lấy lời lẽ dàn xếp với

nhau là hơn, hà tất phải dùng đến võ lực?

Đoạn lão cuộn cây nhuyễn tiên lại, trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn

Chi thẹn mặt đỏ bừng, đón lấy roi thì tức mình mà không đón lấy cũng

không tiện. Sau cùng nghĩ bụng: "mình đến đây cốt để báo thù là việc lớn,

hãy tạm nhẫn nhục trong nhất thời rồi sẽ liệu sau". Nghĩ vậy chàng đưa tay

ra đón lấy cây roi.

Cưu Ma Trí hỏi lão già:

- Tôn tính đại danh thí chủ là gì? Là người thân thích hay bạn hữu với Mộ

Dung tiên sinh?

Lão già toét miệng ra cười đáp:

- Già này là lão bộc của công tử Mộ Dung, làm gì có tôn tánh đại danh? Già

nghe nói đại sư là bạn thân với cố chủ nhận, vậy người có điều chi dạy bảo?

Cưu Ma Trí nói:

- Bần tăng cần gặp Mộ Dung công tử để trình bày.

Lão già đáp:

- Thế thì không may rồi! Công tử tôi mới ra đi hôm kia, không chừng một

hai ngày nữa mới về.

Cưu Ma Trí lại hỏi:

- Công tử đi chơi đâu?

Lão già nghiêng đầu, nghẹo cổ, đưa ngón tay lên gõ trán rồi nói:

- Tôi tuổi già lẫn lộn, không nhớ được rành mạch, dường như công tử sang

Tây Hạ hay Liêu Quốc gì đó, mà không chừng còn qua Thổ Phồn, Đại Lý

cũng nên.

Cưu Ma Trí hứ một tiếng, tỏ vẻ không bằng lòng vì lão già ấm ớ, chỉ trừ có

Đại Tống là không còn bốn nước thuộc hạt lão nói hết. Cưu lại biết rõ lão

già này giả bộ ngớ ngẩn liền nói tiếp:

- Đã vậy thì bần tăng không thể chờ công tử được, nhờ quản gia đưa bần

tăng đến tế mồ Mộ Dung tiên sinh cho tận tình cố nhân.

Lão già khua tay rối lên nói:

- Việc này tôi không thể tác chủ được đâu, tôi cũng không phải là quản gia,

quản giếc chi cả.

Cu Ma Trí lại hỏi:

- Vậy ai là quản gia tôn phủ? Xin mời ra đây nói chuyện?

Lão già gật đầu luôn mấy cái nói:

- Được thế thì được lắm! Tôi xin mời quản gia đến.

Lão trở gót người run lẩy bẩy đi ra, vừa đi vừa càu nhàu: "Cha này đáo để

thật! Trên đời chẳng có việc ác nào là lão từ, lại giả bộ thầy tu. Mình đã

ngần này tuổi đầu còn lạ gì trò hề mà lão toan bịp cả mình nữa mới đáng

ghét".

Đoàn Dự nghe lão nói bật lên tiếng cười khanh khách. A Bích vội quay sang

nói với Cưu Ma Trí:

- Xin đại sư phụ đừng giận, Hoàng lão bá có tính lẩn thẩn lại phải cái tật là

tự cho mình thông minh hiểu đời, ai cũng chê bai.

Thôi Bách Kế kéo áo Quá Ngạn Chi ra một chỗ khẽ bảo:

- Cái thằng trọc tự xưng là bạn với Mộ Dung tiên sinh kia, sao nhà này

không thấy ai tiếp đãi y một cách trọng vọng? Hiền điệt đừng có xung khắc

với lão, phải để ý xem sao rồi sẽ liệu.

Quá Ngạn Chi vâng lời về lại chỗ ngồi. Nhưng cái ghế dành cho chàng đã bị

đập gẫy nát rồi, thành ra phải đứng. A Bích vội bê cái ghế nàng đang ngồi

lại, tươi cười nói:

- Mời Quá đại gia ngồi đây.

Quá Ngạn Chi gật đầu, chàng tự nhủ: "giả tỷ mình vào đây, có giết hết cả

nhà Mộ Dung, cũng nên tha cho con nhỏ này".

Từ lúc lão bộc họ Hoàng ra nhà khách, Đoàn Dự cảm thấy trong lòng thắc

mắc, hình như có điều chi lệch lạc, không ăn nhập với nhau trong hoàn cảnh

chỗ này mà chàng nghĩ mãi không ra. Chàng hết nhìn cái phòng khách nhỏ

bé cùng đồ cần thiết trong nhà, lại nhìn mấy bức hoạ treo trên vách, các

khóm hoa ngoài sân rồi chàng lại nhìn A Bích, Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế,

Quá Ngạn Chi mà không sao tìm ra cái trạng thái mỗi lúc chàng càng cảm

thấy kỳ dị hơn. Đoàn Dự còn đang nghĩ ngợi phân vân, bỗng nghe thấy

tiếng chân người rồi từ trong nhà đi ra một ông già trạc ngoại ngũ tuần,

người ốm o, nước da vàng vọt, dưới cằm có một túm râu ngắn nh râu dê

nhưng vẻ mặt tinh lanh mẫn cán, cách phục sức rõ ra một tên quản gia trong

phủ Mộ Dung.

Gã gầy nhom quay mặt về phía Cưu Ma Trí cùng mọi người thi lễ nói:

- Tiểu nhân là Tôn Tam xin bái kiến liệt vị. Thưa đại sư phụ! Nay người có

thịnh ý đến tế mồ Mộ Dung lão gia chúng tôi cảm kích vô cùng. Song công

tử chúng tôi vắng nhà, không ai đáp lễ sao cho phải đạo kính khách. Vậy

chờ công tử về, tiểu nhân sẽ đem thịnh ý của đại sư phụ trình lại công tử là

đủ...

Gã vừa nói đến đây thì mũi Đoàn Dự bỗng thoáng ngửi thấy một mùi hương

thoang thoảng, chàng chợt nghĩ ra điều gì tự hỏi: "chẳng lẽ lại thế ?".

Nguyên lúc nãy người lão bộc họ Hoàng đến, Đoàn Dự cũng đã ngửi thấy

một mùi hương u nhã. Mùi hương này cũng phảng phất như mùi hương

trong người Mộc Uyển Thanh tiết ra. Tuy có chỗ khác nhau thật song lại

vẫn là mùi hương của thiếu nữ. Thoạt tiên thì chàng cho là mùi hương ở

mình A Bích tiết ra nên không để ý. Thế rồi sau khi lão bộc ra khỏi nhà

khách, mùi hương đó tự nhiên đi đâu mất. Đoàn Dự sở dĩ thắc mắc mãi là ở

điểm này: có lý đâu một ông già tám chín chục tuổi đầu lại còn tiết ra một

mùi hương của cô gái mười tám đôi mư. Bây giờ gã gầy nhom tự xưng là

Tôn Tam này vừa vào, chàng lại ngửi thấy mùi hương ban nãy. Trong bụng

suy nghĩ lung lắm, bao nhiêu câu hỏi xoay lộn trong óc: phải chăng phía

sau nhà khách có thứ kỳ hoa, dị thảo gì nên mỗi khi người ở nhà trong đi ra

lại quyện lấy mùi hương này đi theo, khiến người ngửi phải mê mẩn tâm

thần? Nếu không đúng thế thì cả lão bộc già nua kia lẫn quản gia gầy nhom

này đều do một thiếu nữ đóng vai. Mùi hương tuy làm cho Đoàn Dự sinh

nghi nhưng nó rất đạm bạc, nó rất vi tế, phải là cái mũi đặc biệt của Đoàn

Dự mới ngửi thấy còn Cưu Ma Trí, Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi thì

không hay biết gì hết. Sở dĩ Đoàn Dự có được cái mũi thần tình như thế là

vì chàng đã bị giam cầm trong thạch thất với Mộc Uyển Thanh. Trải qua

một thời gian cực kỳ nguy hiểm mũi chàng quen thuộc với mùi hương của

nàng. Có thể nói là chàng đã khắc xương ghi dạ cái mùi hương thiếu nữ tiết

ra. Đối với cái mũi của chàng, mùi hương này mạnh hơn cả cái thơm của gỗ

đàn hương hay của bách hoa.

Đoàn Dự tuy nghi Tôn Tam là thiếu nữ hoá trang, song chàng ngó lui, ngó

tới mà không sao khám phá ra được. Gã Tôn Tam cũng rất thần tình, từ

tướng mạo cho đến cử chỉ, nói năng hoàn toàn ra vẻ đàn ông, không có kẽ

hở mảy may nào để lộ chân tướng. Sau chàng chợt nghĩ ra: Gái giả trai

muốn giỏi đến đâu thì giỏi cũng không thể nào giả ra được cái bìu cổ họng.

Thế rồi chàng cứ nhè chỗ cổ họng Tôn Tam để khám phá... Nhưng gã đã

khôn ngoan để chùm râu dê rủ xuống che khuất cái bìu đi, không sao mà

nhìn thấy được. Chàng liền đứng dậy, giả vờ xem những chữ treo trên vách,

rồi lại gần bên Tôn Tam, ghé mắt trông vào chỗ bìu cổ, quả cổ phẳng lỳ

không có tật nổi lên, rồi thì chàng lại nhìn xuống thấy bộ ngực gồ lên. Tuy

chưa chắc đã là ngực đàn bà nhưng đã trông nét mặt gầy đét của gã đàn ông

thì quyết nhiên ngực không thể đầy thế được. Đoàn Dự khám phá ra điều bí

mật này, chẳng lấy làm thú vị, lẩm bẩm: vai trò vẫn còn dài, chưa hết. Thử

xem cô ả diễn xuất ra sao?

Bỗng thấy Cưu Ma Trí thở dài nói với Tôn Tam:

- Bần tăng gặp quý chủ nhân hồi ở bên Thiên Trúc có bàn đến võ nghệ rồi

cùng nhau ý hợp tâm đầu, kết bạn tâm giao. Ai ngờ trời chẳng cho thọ, để

mình kẻ phàm phu tục tử này sống trộm ở đời, còn quý chủ nhân vội về thế

giới cực lạc. Bần tăng lặn lội từ nước Thổ Phồn xuống đến Trung Nguyên

chẳng qua vì tình bạn hữu thâm trọng, cốt sao được lạy trước mộ một lạy

còn có người đáp lễ hay không phỏng có chi là quan hệ? Phiền quản gia dẫn

bần tăng đến nơi là được.

Tôn Tam chau mày ra chiều suy nghĩ, gã ngập ngừng:

- Việc này... việc này...

Cưu Ma Trí ngắt lời:

- Nếu có điều chi nan giải, xin nói rõ cho biết!

Tôn Tam nói:

- Đại sư phụ là chỗ thâm giao với lão gia tiểu nhân, hẳn biết rõ tính người

lúc sanh thời. Lão gia tiểu nhân ghét cay, ghét đắng bất luận là ai đến thăm

người. Người thường bảo: những bọn đến đây chẳng là hạng tới sinh sự báo

thù thì lại là kẻ đến tầm sư học nghệ, dưới nữa là phường đến vay mượn,

hoặc thừa cơ đục nước buông câu, nhân lúc lộn xộn chẳng dắt trộm cừu

cũng khuân đồ vật. Người còn nói: đám sư mõ đến lại càng khó chịu... Chết

rồi... khó nói quá...

Gã nói đến đây tựa hồ như người buột miệng lỡ lời xúc phạm đến Cưu Ma

Trí, vội giơ tay lên bịt miệng. Những cử chỉ càng rõ ra vẻ một thiếu nữ, mắt

tròn xinh xinh và con ngươi đen láy. Tuy gã vội chớp mắt, rủ lông mày

xuống che đi nhưng làm sao dấu nổi Đoàn Dự đang lưu tâm dò xét. Chàng

thấy nàng bại lộ cơ quan, bất giác cả mừng lẩm bẩm: Gã Tôn Tam phi chỉ

là đàn bà mà còn là một vị nữ lang đang độ xuân xanh. Chàng liếc nhìn A

Bích thì khoé hạnh cô này đang nở một nụ cười ranh mãnh. Chàng không

còn nghi ngờ gì nữa, nghĩ thầm: "Cả gã Tôn Tam này cho chí lão già họ

Hoàng lúc nãy chỉ là một người, chưa biết chừng chính là A Châu tỷ

nương".

Cu Ma Trí vẫn giữ một bộ mặt từ bi than rằng:

- Người đời gian trá thì nhiều mà thật thà thì ít, Mộ Dung tiên sinh không

muốn giao kết với người phàm tục là phải lắm.

Tôn Tam nói:

- Quả vậy! Lão gia tiểu nhân có di ngôn rằng bất luận kẻ nào đến xin viếng

mồ quét mả, nhất thiết không cho vào. Thậm chí người còn bảo: mấy thằng

cha trọc, đa số không phải vì hảo tâm mà đến, chúng chỉ có ý muốn quật

mả ta lên mà thôi. Trời ơi! Đại sư phụ đừng phiền, lão gia tiểu nhân thoá

mạ thằng trọc là thoá mạ người ta kia, không phải có ý mạt sát sư phụ đâu.

Đoàn Dự nghe nói phải cười thầm: ai đời lại trước mặt nhà sư mà thoá mạ

thằng trọc bao giờ? Rồi chàng lại nghĩ: lão Cưu Ma Trí này bị người thoá

mạ đến thế mà y vẫn bình tĩnh được, tuyệt không lộ vẻ cáu giận chút nào.

Lão là con người đại gian đại ác phi thờng mới giữ được thái độ này.

Cưu Ma Trí nói:

- Quý chủ nhân di ngôn lại mấy câu đó rất có lý. Vì hồi sinh thời ông uy

danh lừng lẫy khắp thiên hạ, do đó mà dễ kết mối thâm cừu rất nhiều. Còn

sống họ không làm gì được nên ông chết rồi tất họ cố tình tìm đến động

chạm vào di thể ông để trả thù đó là một điều dĩ nhiên.

Hoi 28 Cái mũi thần tình

Tôn Tam đáp:

- Muốn động đến di thể lão gia tiểu nhân ? Ha ha! Cái đó thì đừng hòng.

Cưu MaTrí nói:

- Tôi với Mộ Dung tiên sinh vốn là chỗ tri giao, nên tôi chỉ cốt đến viếng

mộ thôi, ngoài ra không có ý gì khác, quản gia bất tất phải đa nghi?

Tôn Tam vẫn cương quyết đáp:

- Thực ra việc này tiểu nhân không thể tự chủ được. Nếu làm trái với lời di

ngôn của lão gia, khi công tử về tra hỏi ra sẽ đánh tiểu nhân gãy cẳng mất.

Thôi để tiểu nhân hỏi ý kiến lão thái thái xem sao, rồi sẽ trả lời.

Cưu Ma Trí hỏi:

- Lão thái thái là ai?

Tôn Tam đáp:

- Là thúc mẫu lão gia tiểu nhân. Các bạn hữu của lão gia mỗi khi tới đây

vào chào lão thái thái đều phải cúi đầu lạy. Khi công tử vắng nhà thì mọi

việc đều phải lĩnh ý lão thái thái.

Cưu Ma Trí nói:

- Như thế càng hay! Nhờ quản gia vào bẩm với lão thái thái là có Cưu Ma

Trí ở nước Thổ Phồn tới thăm.

Tôn Tam đáp:

- Ông khách khí quá, chúng tôi không dám.

Khi Tôn Tam quay vào nhà trong rồi, Đoàn Dự ngẫm nghĩ: "cô gái này thật

là tinh quái. Không hiểu cô ta trêu cợt Cưu Ma Trí với dụng ý gì?". Được

một lúc văng vẳng có tiếng hoàn hội leng keng, một bà già từ trong nội

đường đi ra, người chưa tới mà mùi hương đã thoang thoảng đưa vào mũi

Đoàn Dự. Đoàn Dự không nhịn cười được. Lần này chàng nhận rõ đó là một

thiếu nữ hoá trang thành bà lão, mình mặc áo đoạn màu da đồng, cổ tay đeo

vòng ngọc, cách phục sức rất sang trọng, trên má có nhiều vết nhăn, mặt

mũi kèm nhèm, tựa hồ như không trông rõ gì hết. Đoàn Dự trong bụng

không khỏi khen thầm: cô bé này hoá trang giỏi tuyệt, trá hình ai ra người

ấy, khó mà khám phá ra được. Tài nhất là chỉ trong khoảnh khắc nàng đã

cải trang xong, chân tay mau lẹ đến cực điểm.

Bà già tay chống gậy, người run lẩy bẩy tiến ra tới nhà ngoài liền hỏi:

- A Bích! Bạn của lão gia mi đã tới đấy ? Sao không thấy bái kiến ta?

Mụ nghiêng đầu nhìn bên đông lại nghẹo cổ ngó bên tây, hai mắt như bị

quáng loà, không nhận ra người nào ở chỗ nào. A Bích quay sang Cưu Ma

Trí, khoa tay làm hiệu và khẽ nói:

- Hoà thượng mau mau dập đầu bái kiến đi! lão thái thái mà vừa lòng thì

muốn yêu cầu việc gì cũng được hết.

Bà già nghiêng đầu, đưa bàn tay lên, kéo vành tai lại tựa hồ để nghe cho rõ

rồi lớn tiếng hỏi:

- Con ranh con! Mi nói cái gì vậy? Người ta đã cúi đầu lạy chưa?

Cưu Ma Trí bèn lên tiếng:

- Lão phu nhân mạnh giỏi! Tiểu tăng xin thi lễ.

Đoạn chắp tay xá dài, kình lực từ hai bàn tay phát ra, đập xuống thềm gạch

kêu "binh binh" nghe tựa như là tiếng dập đầu xuống đất lạy.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đưa mắt nhìn nhau và phập phòng lo sợ: lão

sư này nội lực mạnh đến thế, e rằng khó lòng đấu nổi với lão được một đòn.

Bà già gật gù thủng thẳng nói:

- Ngán cho cái thế giới này! Kẻ gian trá thì nhiều, người thực thà thì ít.

Ngay một việc cúi đầu lạy còn có đứa tồi tệ, dở tuồng ranh mãnh giả dối,

rành rành nó không sụp lạy mà nó làm trò cho dưới đất phát ra tiếng kêu tựa

hồ như tiếng đập đầu xuống thềm. Nó khinh ta không nhìn thấy gì mà! Để

xem ta có khen nó ngoan, nó giỏi, sụp đầu lạy vang lên những tiếng "bốp

bốp".

Đoàn Dự không nhịn được, phì ra một tiếng cười lí nhí.

Bà già từ từ quay đầu lại hỏi:

- A Bích! Đứa nào hư hỗn, vô ý thế hử?

Bà vừa nói vừa đưa tay lên bưng mũi. A Bích bật cười nói:

- Thưa lão thái thái! không phải cái trò bất lịch sự đâu. Đoàn công tử phì ra

tiếng cười trong cổ họng đấy ạ.

Bà già làm bộ nghễnh ngãng, nghe không ra hỏi lại:

- "Đoạn" gì? Làm sao mà đoạn? Cái gì đứt đoạn?

A Bích đáp:

- Không phải đoạn. Người ta họ Đoàn, công tử họ Đoàn.

Bà già gật đầu nói tiếp:

- Chà! Công tử gì mà lắm thế? Mi nhớ công tử của mi lắm nhỉ!

A Bích đỏ mặt đáp:

- Lão phu nhân cũng mong nhớ công tử hoài đấy thôi.

Bà già lại hỏi:

- Mi... mi nói cái gì? Công tử muốn ăn dưa hấu ?

A Bích bĩu môi cười đáp:

- Vâng! công tử muốn ăn dưa hấu, đồng thời muốn ăn cả anh đào nữa.

Đoàn Dự nghe hai người nói nói cười cười mà câu nào cũng có thêm nghĩa

bóng nữa. Càng nghe càng thấy rõ người giả dạng bà già này đúng là một cô

gái khác cải trang. Bà già đó quay sang hỏi Đoàn Dự:

- Thằng lỏi này! Sao thấy lão thái thái lại không cúi đầu lạy?

Đoàn Dự nói lảng sang chuyện khác:

- Lão thái thái! tại hạ có câu chuyện riêng muốn thưa cùng lão thái thái

nhưng cần phải giữ kín, không thể để cho người thứ hai nghe được.

Bà già quay đầu lại hỏi:

- Mi bảo sao?

Đoàn Dự ghé tai nói nhỏ với bà lão:

- Tại hạ có một đứa cháu gái tên gọi A Châu dặn bảo: Y có câu chuyện

khẩn yếu cần trình lão thái thái trong phủ Mộ Dung.

Bà già đó lắc đầu lia lịa đáp:

- Không được nói nhảm, nói láo.

Đoàn Dự mỉm cười nói tiếp:

- Con cháu A Châu quả là đứa hay nói nhảm, nói láo, lại ưa hoá trang, chơi

cái trò con khỉ con hươu, nay giả dạng đàn ông, mai lại giả dạng đàn bà, nó

còn biết cả nghề đóng kịch nữa. Mỗi khi tôi bắt được đánh cho bết đít mà

vẫn không chừa.

Bà già này chính là A Châu, một ả nha hoàn khác trong phủ Mộ Dung hoá

trang. Thuật hoá trang của nàng khéo nhất trần gian, chẳng những về dung

mạo, mà về ngôn ngữ, cử chỉ, giọng nói điệu cười nhất nhất giống như in.

Có thể nói không sơ hở chút nào để người khám phá ra được. Chả thế mà

thông minh giảo quyệt như Cưu Ma Trí, lão luyện giang hồ như Thôi Bách

Kế cũng đều tin là thực chứ không mảy may nghi ngờ. Ai ngờ Đoàn Dự lại

phát giác ra được chân tướng của nàng nhờ ở cái mùi hương thoang thoảng

êm dịu từ trong người nàng tiết ra mà nàng vô phương che dấu. Nghe Đoàn

Dự nói A Châu giật mình. Song nàng trấn tĩnh được ngay không hề thay đổi

sắc mặt vẫn giữ bộ dạng già nua, mắt mờ tai điếc, nàng nói bóng với Đoàn

Dự:

- ừ thằng nhỏ tinh khôn lắm, thực là một đứa thông minh tuyệt trần. Trên

đời này ta chưa thấy đứa nhỏ nào tinh khôn được thế. Mi phải khôn ngoan

giữ mồm giữ miệng, bà thương yêu đặc biệt nghe!

Đoàn Dự nghe lời nàng biết nàng có ý khuyên chàng đừng tiết lộ hành tông

của nàng, để nàng đối phó với thằng giặc Cưu Ma Trí. Chính chàng cũng

cần nàng giúp sức để thoát hiểm thế thì nàng đối với chàng là bạn chứ

không phải là thù nên chàng đáp:

- Xin lão thái thái cứ yên tâm! Tại hạ đã tới tôn phủ thì nhất thiết mọi điều

đều tuỳ ở nơi lão thái thái xếp đặt.

A Châu a đóng kịch, nàng nói tiếp:

- Mi có biết nghe lời ta mới là đứa trẻ ngoan ngoãn. Trước hết hãy cúi đầu

lạy ta ba lạy đi đã! Ta sẽ nhất quyết không để thiệt cho mi đâu.

Đoàn Dự ngẩn người ra và tự nghĩ: "ta đường đường là một vị thế tử con

Trấn Nam Vương ở nước Đại Lý, lẽ nào lại lạy một ả nữ tỳ?".

A Châu thấy Đoàn Dự có vẻ lúng túng, nàng cười khà khà nói tiếp:

- Có kẻ chết đến sau gáy mà còn tự cao, tự đại. Thằng nhỏ ngoan! Ta bảo

mi, mi hãy lạy lão nương mấy lạy đi nào!

Đoàn Dự quay đầu sang bên chợt thấy A Bích nhếch mép tủm tỉm cười ranh

mãnh liếc mắt nhìn chàng, nước da trắng mịn như nhân trái hồng lăng mới

bóc vỏ, ở bên mép có một nốt ruồi nhỏ lại càng tăng thêm vẻ kiều mỵ khiến

lòng chàng rung động, cất tiếng hỏi:

- A Bích tỷ nương! nghe nói trong tôn phủ còn có chị A Châu tỷ nương,

nàng có mỹ miều nhuần nhã như tỷ nương không?

A Bích mỉm cười đáp:

- Trời ơi! Tôi xấu như ma lem có chi đáng kể? Chị A Châu mà nghe thấy

công tử hỏi thế tất giận lắm đó. Tôi đâu dám bì với chị A Châu, chị còn

tuấn tú gấp mười tôi.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Quả vậy ?

A Bích đáp:

- Tôi nói dối công tử làm gì?

Đoàn Dự lắc đầu hoài nghi:

- Đẹp gấp mười chị? Trên đời này làm gì có người như vậy? Trừ phi là... là

nàng tiên ở trong thạch động kia thôi, còn người thì đẹp xuýt soát như chị

cũng đã là hiếm có lắm rồi.

A Bích hai má ửng hồng có vẻ thẹn thùng, nàng nói:

- Lão thái thái bảo anh cúi đầu lạy chứ ai bảo anh tán róc lấy lòng tôi.

Đoàn Dự lại hỏi:

- Lão phu nhân lúc đương thì chắc cũng là một vị tuyệt sắc giai nhân

nghiêng nước, nghiêng thành đấy nhỉ. Nói thực ra, lão thái thái đối với tôi

tốt hay không chưa biết nhưng Đoàn Dự này vẫn chưa có một ấn tượng gì ở

trong lòng. Có điều cúi lạy một vị tuyệt thế giai nhân thì tôi rất cam tâm.

Nói xong quỳ gối xuống liền và nghĩ thầm: "Ta đã lạy thì phải dập đầu cho

thật kêu. Trước mình lạy pho ngọc tượng trong động hàng nghìn lạy còn

được thì nay có lạy người đẹp đất Giang Nam ba lạy đã ăn thua gì?". Thế

rồi chàng dập đầu xuống đất kêu "kịch kịch kịch" ba tiếng. A Châu rất hài

lòng nghĩ thầm: "Đoàn công tử biết rõ ta là một đứa nha hoàn mà công

nhiên chịu cúi đầu lạy, thật là hiếm có". Nàng khen:

- Thằng nhỏ ngoan lắm! Tốt lắm! Tiếc rằng ta không đem tiền kiến diện...

để thưởng cho mi.

A Bích nói xen vào:

- Lão thái thái đừng quên là được rồi. Lần sau sẽ bù cho ngươi ta cũng thế.

A Châu đưa mắt nguýt A Bích rồi quay sang nói với Thôi Bách Kế và Quá

Ngạn Chi:

- Còn hai vị khách này tại sao không cúi đầu lạy, làm lễ bái kiến ta?

Quá Ngạn Chi hứ một tiếng và hỏi một cách sống sượng:

- Mụ có biết võ nghệ hay không?

A Châu ra vẻ nghễnh ngãng chưa nghe rõ, hỏi lại:

- Ngươi bảo sao?

Quá Ngạn Chi nhắc lại:

- Ta hỏi mụ có biết võ nghệ không? nếu là người võ công cao cường thì Quá

Ngạn Chi này tình nguyện lãnh cái chết ở dưới tay Mộ Dung lão thái thái,

còn nếu không phải là nhân vật trong võ lâm thì ta bất tất nhiều lời với mụ

làm gì?

A Châu vờ nhãng tai nghe "võ công cao cường" ra "ngô công bách cước"

nàng lắc đầu đánh trống lảng:

- Ngươi bảo "ngô công bách cước" chi chi đó, ta xem chừng ngươi say mất

rồi. Con rết trăm chân thì đâu mà chẳng có nó cắn người đau lắm đấy.

A Châu lại quay sang hỏi Cưu Ma Trí:

- Còn đại hoà thượng! Nghe nói mi muốn quật mả Mộ Dung tiên sinh lên,

định lấy trộm bảo bối phải không?

Cưu Ma Trí tuy không ngờ mụ là thiếu nữ hoá trang nhưng cũng biết là mụ

giả điếc, giả ngây, quyết không phải là một bà già đã đến mức lẫn lộn nhưthế nên lão vẫn dè dặt và nghĩ thầm trong bụng: "Mộ Dung tiên sinh đã giỏi như thế thì bậc tiền bối tiên sinh tất nhiên không phải hạng bản lãnh tầm

thường". Lão liền vờ như không nghe rõ hai chữ "quật mả" bèn đáp:

- Tiểu tăng cùng Mộ Dung tiên sinh là chỗ bạn tri giao, được nghe tin buồn

tiên sinh tạ thế nên lặn lội từ nước Thổ Phồn đến đây với mục đích duy nhất

là kính bái trước linh vị Mộ Dung tiên sinh mà thôi. Tiểu tăng có một điều

ước hẹn với tiên sinh từ lúc sinh tiền là lấy được quyển đồ hoạ Lục Mạch

Thần Kiếm đưa cho tiên sinh xem. Lời ước đó không thực hành được, tiểu

tăng rất lấy làm hổ thẹn.

A Châu nghe đến chữ "Lục Mạch Thần Kiếm" không khỏi giật mình, nàng

cũng biết đó là một môn võ công siêu việt, gần đây chính nàng cũng được

nghe công tử nhắc tới. A Châu và A Bích đưa mắt nhìn nhau và đều biết là

Cưu Ma Trí đã nói vào chính đề rồi. A Châu hỏi:

- Lấy được quyển đồ hoạ "Lục Mạch Thần Kiếm" thì sao? Mà không lấy

được thì làm gì?

Cưu Ma Trí đáp:

- Năm xưa tiên sinh cùng ước hẹn với tiểu tăng: nếu tiểu tăng lấy được

quyển đồ họa Lục Mạch Thần Kiếm đưa cho tiên sinh xem mấy ngày thì

tiên sinh sẽ cho tiểu tăng đến xem mấy quyển thiên thư tại Lang hoàn thuỷ

các trong quý tự.

A Châu thất kinh nghĩ bụng: "lão sư này biết cả đến cái tên Lang hoàn thuỷ

các, có lẽ lão nói thực cũng chưa biết chừng". Tức thời nàng giả vờ nghễnh

ngãng nghe "lang hoàn thuỷ các" ra "đường cao thuỷ giáo" liền hỏi lại:

- Ngươi muốn ăn bánh ngọt, canh gà ? Cái đó dễ lắm nhưng ngươi đã xuất

gia làm sao ăn được món mặn?

Cưu Ma Trí quay sang bảo A Bích:

- Lão thái thái đây không hiểu là lẫn lộn thực hay giả vờ. Tôi có nghe những

tay cao thủ các phái võ Trung Nguyên đương tụ họp tại Thiếu Lâm tự để

thương nghị đối phó với nhà Mộ Dung ở Cô Tô đây. Tiểu tăng nghĩ tình hữu

nghị với Mộ Dung tiên sinh, cũng muốn đem chút tài mọn để giúp một tay.

Song xem thái độ lão thái thái thế này là cự tuyệt cả đến người ở xa hàng

mấy ngàn dặm há chẳng khiến cho bạn hữu phải bào tâm ru?

A Châu vẫn một giọng ỡm ờ:

- Sao? Nhà sư lạnh bụng à? A Bích đâu mau đi lấy một tô cháo tiết gà tiết

vịt nóng để đại sư ăn cho ấm ruột gan lại.

A Bích nhịn cười đáp:

- Đại sư phụ có ăn mặn được đâu?

A Châu đưa tay lên gõ nhẹ vào trán nói:

- Phải đó, phải đó! Nhà sư không ăn mặn được, thế thì đừng dùng gà vịt thật

mà dùng gà vịt chay vậy!

A Bích hỏi:

- Thưa lão thái thái! Gà chay thì làm gì có tiết?

A Châu phều phào:

- ừ nhỉ! Thế ra mình lẩn thẩn thực biết làm thế nào bây giờ?

Hai nàng đối thoại, kẻ tung người hứng, toàn là chuyện bịa đặt. Người ở Tô

Châu ai cũng mồm miệng bẻo lẻo, nói năng hoạt bát. Đời sau nơi đây kỹ

thuật ca kịch nổi tiếng với thiên hạ cũng do tập quán này mà ra. Hai ả nha

hoàn này bình nhật vẫn trơ tráo cười đùa quen rồi, cái lối đùa dai của chúng

khiến cho Cưu Ma Trí bực mình mà không làm gì được. Cưu Ma Trí đi Cô

Tô chuyến này cốt gặp Mộ Dung công tử để thương lượng một công cuộc to

tát. Nào ngờ không gặp được người chủ mà lại gặp toàn những người ngoài

cuộc xen vào chẳng hiểu tâm địa họ ra sao? Cách đón tiếp hữu ý hay vô

tình, hư hư thực thực, khiến cho lão không biết đối phó thế nào cho phải.

Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí cũng là một nhân vật ghê gớm, sau một

lúc suy nghĩ lão đã đoán chắc cả ba người: lão thái thái, Tôn Tam và Hoàng

lão bộc đều có ý thoái thác, không muốn cho y xem sách trong lang hoàn

thuỷ các. Lão quyết định: bất chấp đối phương bày mưu lập kế thoái thác

bằng cách nào đi chăng nữa lão cũng nói thẳng vào đề ngay rồi sau hoặc đối

xử bằng cách nhân nhượng hay là phải cương quyết dùng võ lực, cũng cần

hiểu rõ để liệu chiều đối phó.

Cưu Ma Trí ôn tồn nói:

- Quyển đồ họa Lục Mạch Thần Kiếm tiểu tăng đã mang theo đây nên mới

dám cả gan muốn vào xem sách trong lang hoàn thuỷ các của quý phủ.

A Bích đáp:

- Mộ Dung tiên sinh đã qua đời, hoà thượng nói sao chúng tôi hay vậy chứ

khẩu thuyết vô bằng biết đâu mà tin. Hơn nữa giả tỷ đại sư có mang đồ hình

tới đây chúng tôi cũng không ai xem được. Thế thì trước kia hai bên có lời

giao ước với nhau thế nào bây giờ cũng không còn hiệu lực nữa.

A Châu hỏi xen vào:

- Quyển đồ hoạ gì vậy? ở đâu đưa ta coi trước xem thật hay giả?

Cưu Ma Trí chỉ Đoàn Dự đáp:

- Đoàn công tử đây đã thuộc lòng quyển đồ hoạ đó nên tôi có đem chàng đi

theo cũng như mang quyển đồ hoạ đó vậy.

A Bích mỉm cười nói:

- Tôi cứ tưởng có quyển đồ hoạ đó thật, té ra đại sư nói đùa.

Cưu Ma Trí nói tiếp:

- Tôi đâu dám nói đùa? Nguyên quyển đồ hoạ chính đã bị Khô Vinh đại sư

chùa Thiên Long nước Đại Lý đốt mất rồi. Cũng may mà Đoàn công tử còn

nhớ được rành mạch cả, vậy công tử đây tức là quyển đồ hoạ sống đó.

A Bích nói:

- Đoàn công tử nhớ được thì việc đó thuộc về việc riêng Đoàn công tử mà

người được vào lang hoàn thuỷ các xem sách cũng sẽ phải là Đoàn công tử,

có can dự gì đến đại sư?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng muốn được thực hiện lời ước ngày trước, đem Đoàn công tử đốt

trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh.

Mọi người nghe nói đều thất kinh, nhìn nét mặt Cưu Ma Trí vẫn thản nhiên

chứ không có vẻ gì là lão nói đùa cả.

A Bích hỏi:

- Đại sư phụ nói đùa hẳn. Đường đường là một con người chứ có phải mớ

củi đâu mà muốn đốt lúc nào thì đốt?

Cưu Ma Trí đáp:

- Tiểu tăng mà định đốt y thì tin chắc rằng y không thể chống cự lại được.

A Bích nhếch mép cười nói tiếp:

- Thế mà đại sư phụ bảo Đoàn công tử thuộc lòng cả quyển đồ hoạ Lục

Mạch Thần Kiếm! Điều đó hoàn toàn bịa đặt. Tôi nghe nói "Lục Mạch

Thần Kiếm" lợi hại vô cùng, nếu Đoàn công tử biết kiếm pháp đó thì khi

nào lại chịu khuất phục dưới bàn tay đại sư?

Cưu Ma Trí gật đầu đáp:

- Điều đó cũng có lý nhưng cô nương mới biết có một mà chưa biết hai.

Đoàn công tử đã bị tiểu tăng điểm huyệt nên kình lực trong người không thể

vận dụng được, vì thế mà y phải chịu khuất phục.

A Châu vẫn lắc đầu lia lịa nói:

- Ta không thể tin ngươi được. Ngươi hãy giải các huyệt đạo cho công tử,

để chàng sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm cho ta xem đã. Chứ ta thấy chín

mươi phần trăm là ngươi nói dối.

Cưu Ma Trí gật đầu đáp:

- Được rồi! Để tiểu tăng thử cho lão thái thái coi.

A Bích và A Châu rất có cảm tình với Đoàn Dự. Nghe Cưu Ma Trí nói đã

điểm huyệt chàng, hai nàng tìm cách bịp lão để lão chịu giải huyệt đạo cho

chàng. Không ngờ hai nàng vừa nói, Cưu Ma Trí đã đưa bàn tay vỗ hờ trên

các chỗ huyệt đạo ở lưng, trước ngực và vế đùi Đoàn Dự mấy cái. Lập tức

Đoàn Dự đã cảm thấy những mạch máu trong các huyệt đạo lưu thông được

ngay chứ không còn bế tắc nữa. Chàng chỉ hơi vận khí một chút đã thấy nội

lực chuyển động dễ dàng như không. Chàng lại thử chiêu theo phương pháp

vận khí trong "trung xung kiếm pháp" vận nội lực ra huyệt trung xung ở

ngón tay giữa bên phải, tức khắc cảm thấy ngón tay giữa nóng ran, chàng

biết chỉ duỗi ngón tay ra là một đường kiếm khí đã phóng theo liền.

Cưu Ma Trí nói:

- Đoàn công tử! Mộ Dung lão thái thái không tin rằng công tử đã luyện

được Lục Mạch Thần Kiếm, xin công tử như tôi đây để chém đứt một cành

trên cây quế kia xuống.

Lão nói xong vận động chân lực vào bàn tay, rồi giơ tay chém một đường

theo pháp hoả diệm đao. Bỗng nghe rắc một tiếng, một cành quế rất lớn ở

trên cây giữa sân đã không gió mà gãy và chỗ gãy tầy như dùng dao kiếm

sắc bén chém đứt vậy.

Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi bất giác đều kêu lên một tiếng "úi chà". Hai

người tuy biết võ công Cưu Ma Trí rất ghê gớm từ lâu, khó lòng mà địch nổi

lão được, song chỉ cho là loại có tà thuật về bàng môn tả đạo mà thôi. Bây

giờ thấy lão dùng chưởng lực chặt đứt một cành cây to như thế mới biết nội

lực lão thâm hậu đến cực điểm trên đời ít người bì kịp.

Đoàn Dự lắc đầu đáp:

- Tôi không hiểu một chút võ công nào hết và cũng chẳng biết gì về Lục

Mạch Thần Kiếm hay Bát mạch thần đao nào cả. Một cành quế hoa đẹp đẽ

như thế của người ta, sao ngươi lại chặt đi?

Cưu Ma Trí nói:

- Công tử quá khiêm làm gì thế? võ nghệ công tử vào bậc nhất trong các vị

cao thủ họ Đoàn nước Đại Lý. Hiện nay ngoại trừ Mộ Dung công tử và tại

hạ ra thì ít ai địch nổi công tử. Trong phủ Cô Tô Mộ Dung đây là một kho

tàng về võ học, công tử hãy thi thố vài đường để lão thái thái chỉ điểm thêm

cho! Đó là một điều rất hay chứ sao?

Đoàn Dự giận dỗi đáp:

- Suốt dọc đường ngươi đối với ta vô lễ như thế nào, đem ta cắp ngang, xách

dọc, rút xuôi, kéo ngược, lôi ta đến Giang Nam này thế tức là ta đã bị khuất

nhục dưới võ công của ngươi mà đành bó tay không làm sao được. Chính ta

không muốn nói gì với ngươi nữa. Nhưng ta thấy nơi đây phong cảnh hữu

tình, lại có người đẹp như tiên, những sự oán hờn chứa chất trong lòng ta đã

tiêu tan hết. Thế là thôi, sự liên quan giữa chúng ta từ đây cắt đứt, không ai

nói đến ai nữa.

A Châu và A Bích thấy cái dáng điệu đồ gàn của Đoàn Dự cũng đã buồn

cười lại nghe thấy chàng nói tán dương mình bất giác trong lòng cũng cảm

thấy hứng thú.

Cưu Ma Trí lại nói:

- Công tử không chịu diễn thử Lục Mạch Thần Kiếm, tức là cố ý để tỏ ra lời

tôi nói bịa đặt chứ gì?

Đoàn Dự đáp:

- Chính ngươi vẫn quen mở mồm bịa chuyện, nếu thực có ước hẹn với Mộ

Dung tiên sinh thì sao ngươi không đến Đại Lý lấy kiếm kinh sớm đi mà lại

đợi Mộ Dung tiên sinh quy tiên rồi, không còn người đối chứng mới đến

phủ Mộ Dung nói thiên hô bách sát? theo chỗ ta nhận xét thì ngươi có ý

hâm mộ võ công cao siêu của nhà Mộ Dung đây rồi bịa chuyện ra, đánh lừa

lão thái thái cho ngươi vào tàng thư các, xem trộm hộ kinh kiếm pháp để

xưng hùng với thiên hạ. Cưu Ma Trí ngươi thử nghĩ coi! Người ta đã là nhân

vật lừng danh trong võ lâm chẳng lẽ lại không hiểu rõ cái mánh khoé bịp

bợm của ngươi hay sao? Nếu ngươi dùng những lời hoa mỹ xảo trá mà đánh

lừa lấy cắp được bí quyết võ công của nhà Mộ Dung thì những kẻ lừa bịp

thiên hạ này thiếu gì? Còn đâu đến lần ngươi nữa mà hòng?

Cưu Ma Trí lắc đầu cải chính:

- Đoàn công tử! Sự suy đoán của công tử sai rồi. Tiểu tăng và Mộ Dung tiên

sinh tuy đính ước với nhau đã lâu, song vì tiểu tăng còn phải đóng cửa luyện

môn "hoả diệm đao" trong chín năm chưa thành, không ra khỏi ngõ. Vì thế

mà chưa đến nước Đại Lý. Giả tỷ tiểu tăng chưa thấu đáo được môn "hoả

diệm đao" thì lần này không yên thân mà ra khỏi chùa Thiên Long được

nữa...

Đoàn Dự ngắt lời:

- Đại hòa thượng! Ngươi đã có tham danh lại đủ quyền vị võ công cao

cường đến thế, ung dung là một vị hộ pháp quốc vương nước Thổ Phồn. Cứ

ở yên trong cái địa vị đó há chẳng vinh dự rồi sao? Hà tất còn xuống Giang

Nam đánh lừa người ta? Ta khuyên ngươi nên quay về sớm đi là hơn!

Cưu Ma Trí nói:

- Nếu quả công tử không chịu diễn Lục Mạch Thần Kiếm thì đừng trách

tiểu tăng vô lễ.

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi đã vô lễ nhiều rồi, chẳng lẽ lại còn cách nào vô lễ hơn thế nữa? Chỉ

còn cách chém ta một đao giết đi là cùng chứ gì?

Cưu Ma Trí lại hỏi vắn tắt:

- Bây giờ công tử có theo lời tiểu tăng hay không?

Đoàn Dự thủng thẳng đáp:

- Thế hử! Rất có thể...

Cư Ma Trí hớn hở nói:

- Thế thì xin diễn thử mấy đường thần kiếm!

Đoàn Dự hỏi lại:

- Thần kiếm à? Mi có kiếm không? cho mượn một thanh coi!

Cưu Ma Trí trong lòng có vẻ bực bội đáp:

- Công tử chủ ý định làm nhục bần tăng! hãy coi đao pháp đây!

Nói xong lão giơ tay trái lên, tức thời một luồng kinh phong từ trong tay

phát ra nhằm đánh thẳng vào mặt Đoàn Dự.

Đoàn Dự đã có chủ ý từ trước, tự biết võ công mình không kịp đối phương,

có giao đấu hay không giao đấu kết quả cũng nh ưnhau mà thôi. Lão đã

muốn bắt buộc chàng phải chứng minh là có biết sử dụng Lục Mạch Thần

Kiếm cho mọi người hay, đã thế chàng làm ngược hẳn lại ý định của Cưu

Ma Trí. Chàng thấy đao của lão chém tới, cứ để mặc, chẳng đánh lại mà

cũng chẳng thèm chống đỡ.

Cư Ma Trí kinh hoảng vì lão chưcó ý định dùng kình lực giết chàng ngay

bây giờ. Lão vội đưa bàn tay hất ngực lên, một luồng gió lạnh vèo qua, xén

đứt hẳn một mớ tóc trên đầu chàng. Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi nhìn

nhau hoảng vía. A Châu và A Bích cũng đều tái mặt.

Cưu Ma Trí tiu nghỉu nói:

- Thế nào công tử đành chịu chết chứ không chịu ra tay sao?

Đoàn Dự đã sớm gạt sự sống chết ra ngoài tâm trí rồi nên chàng khanh

khách cười đáp:

- Đại hoà thượng đủ cả: tham, sân, ái, dục, si mà còn công nhiên nhận làm

một vị cao tăng cửa Phật thì ra chỉ có hư danh thôi.

Cưu Ma Trí đột nhiên đánh luôn vào A Bích một chưởng và nói:

- Dùng lời tử tế không xong thì trước hết ta phải giết một con bé trong phủ

Mộ Dung cho biết tay.

Bị đánh bất thình lình A Bích thất kinh vội nghiêng người né tránh khỏi

đường đao. Bỗng nghe thấy "sầm" một tiếng, chiếc ghế ở sau nàng đã bị

kình lực đụng phải gãy vụn ra. Cưu Ma Trí lại giơ tay phải đánh luôn đao

thứ hai. A Bích nằm phục xuống, lăn đi một vòng. Tuy nàng mau lẹ nhưng

cũng sợ hãi rụng rời. Cưu Ma Trí quát to lên một tiếng rồi phóng ra đường

đao thứ ba chém tới. A Bích sợ tái mặt. Tuy nàng chân tay lanh lẹ nhưng

đối với sức nội kình vô hình vô ảnh nàng không biết đánh đỡ cách nào cho

đúng. A Châu đối với A Bích như tình ruột thịt. Thấy bạn bị nguy nàng

không kịp suy nghĩ gì hết liền giơ gậy lên nhằm đánh thẳng vào sau lưng

Cưu Ma Trí. Lúc A Châu đứng nói chuyện hay là lúc từ từ cất bước đi trông

giống hệt như một bà già bảy tám mươi không sai một mảy may nào nhưng

lúc này vì sự nguy cấp đành liều mạng thì thân pháp nàng lại cực kỳ mau lẹ.

Cưu Ma Trí thoáng nhìn đã khám phá ra ngay, lão mỉm cười nói:

- ồ thiên hạ lại có bà già 17, 18 tuổi, nàng định lừa bịp hoà thượng này đến

bao giờ?

Nói xong lão đánh trả lại luôn một chưởng. Chiếc gậy trúc của A Châu bị

gãy làm ba đoạn. Đồng thời lão lại phóng luôn một đao nhằm chém bổ vào

A Bích.

Trong lúc hoảng hốt A Bích quờ tay vớ liều một cái bàn, nghiêng mặt bàn

ra đỡ. Bỗng nghe "chát chát" mấy tiếng, chiếc mặt bàn bằng gỗ tử đàn đã bị

gãy vụn, chỉ còn trơ lại hai chân trong tay A Bích.

Đoàn Dự thấy A Bích lưng tựa vào vách, không còn đất lùi mà Cưu Ma Trí

lại đánh tiếp luôn chưởng nữa. Lúc đó Đoàn Dự chỉ nghĩ đến việc cứu người

là khẩn cấp chứ không kịp suy tính ra mình không phải là địch thủ của Cưu

Ma Trí, chàng liền duỗi ngón tay giữa ra một cái, luồng kình lực từ huyệt

trung xung bắn vụt ra kèm những tiếng kêu "vo vo". Đó chính là trung xung

kiếm pháp.

Kỳ thực Cưu Ma Trí đâu có định giết A Bích, bất quá lão chỉ cần bức bách

Đoàn Dự phải ra tay. Không thế thì lão đã sử dụng những thế thần diệu

trong "hỏa diệm đao" là A Bích hết đường né tránh. Cưu Ma Trí thấy Đoàn

Dự quả nhiên trúng kế, lão lại trở tay đánh luôn A Châu một chưởng. Luồng

chưởng lực phát ra làm cho A Châu lảo đảo cả người, vai áo rách toạc, A

Châu kinh hoảng rú lên. Đoàn Dự lại tức khắc sử dụng "thiếu mạch kiếm" ở

bên tay trái để chặn đón hoả diệm đao ở tay trái Cưu Ma Trí. Hai đao của

Cưu Ma Trí đều bị Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự chặn đón, chàng đã

bảo vệ cho hai nàng A Châu, A Bích thoát khỏi cơn nguy hiểm. Cưu Ma Trí

vừa muốn biểu dương bản lĩnh của mình vừa muốn cho mọi người thấy

Đoàn Dự biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm nên cố ý phát huy kình lực cho

thật mạnh, những tiếng gió phát ra "vu vu" không ngớt. Đoàn Dự nhờ có

chu cáp thần công đã thu hút được bao nhiêu nội lực của mấy tay đại cao

thủ vào trong người nên lúc này nếu so về nội lực thì Đoàn Dự có phần

mạnh hơn Cưu Ma Trí. Song khốn nỗi chàng không hiểu một tý võ công nào

ngoài mấy thế kiếm mà chàng học được ở chùa Thiên Long. Chàng chỉ nhớ

một cách bất di bất dịch mấy đường trong Lục Mạch Thần Kiếm theo đúng

chiêu thức của nó chứ không biết biến hoá để ứng dụng. Cưu Ma Trí đem

chàng ra để đùa giỡn với chưởng lực. Nội lực hai bên xung đột, sức mạnh

phát ra làm cho tường vách và cửa sổ chung quanh nhà vỡ nát thành nhiều lỗ

thủng.

Cưu Ma Trí vừa đấu vừa khen:

- Lục Mạch Thần Kiếm quả nhiên lợi hại, trách nào năm xưa Mộ Dung tiên

sinh đã đem lòng hâm mộ.

Thôi Bách Kế cũng rất lấy làm kinh ngạc, lão lẩm bẩm: "trước mình vẫn

tưởng Đoàn Dự võ công tầm thường, nào ngờ lại có bản lãnh đến thế? họ

Đoàn nước Đại Lý đúng là danh bất hư truyền. Cũng may mà mình khi ở

phủ Trấn Nam Vương chưa làm việc gì xằng bậy nếu không thì chắc đã bị

họ Đoàn tống cổ đi rồi". Thôi Bách Kế nghĩ lại, mồ hôi toát ra lạnh toát cả

người.

Hai người giao đấu một hồi lâu, kỳ thực thì hiểm nào Cưu Ma Trí cũng có

thể đẩy Đoàn Dự vào tử địa được. Có điều lão cố ý kéo dài cuộc đấu để đùa

giỡn và phô trương tài năng. Sau lão hiểu rằng kiếm pháp Đoàn Dự quả có

chỗ độc đáo nhưng không hiểu sao chàng lại không biết phát huy ra chẳng

khác gì một đứa trẻ lên ba mà trong tay lại có gia tài hàng triệu nhưng

không biết tiêu xài. Rồi lão đâm ra khinh thị. Đánh vài hiệp nữa, thốt nhiên

Cưu Ma Trí lại nghĩ khác "nếu cứ giằng dai mãi, lỡ ra đối phơng chỉ tâm

linh lĩnh hội được yếu quyết võ công, thêm vào nội lực kiếm pháp hai môn

sở trường riêng của chàng chẳng hoá ra trở thành một kẻ kình địch vô cùng

lợi hại ?".

Đoàn Dự cũng biết là giờ phút này sự sống chết của chàng hoàn toàn đặt

trong tay Cưu Ma Trí, chàng gọi:

- A Châu! A Bích! Hai vị tỷ nương chạy đi mau lên! Không thì không kịp

đâu.

A Châu hỏi:

- Đoàn công tử! Tại sao công tử lại cứu chị em chúng tôi?

Đoàn Dự đáp:

- Vì tôi ghét tên hoà thượng này ỷ mình võ công cao cường, hoành hành bá

đạo, khinh khi người chung quanh. Đáng tiếc tôi không hiểu về võ công,

khó lòng địch lại lão. Các chị chạy mau đi thôi!

Cưu Ma Trí mỉm cười nói:

- Chạy cũng không thoát đâu!

Vừa nói dứt lời, Cưu Ma Trí đưa ngón tay trỏ bên trái nhằm điểm huyệt của

Đoàn Dự. Đoàn Dự kêu rú lên toan né tránh nhưng đã muộn. Ba yếu huyệt

của chàng đã bị Cưu Ma Trí điểm trúng, tức thời hai chân bị tê bại, té nhào

xuống đất. Chàng gọi ầm lên:

- A Châu, A Bích! Chạy mau đi! Chạy mau đi!

Cưu Ma Trí bật cười nói:

- Chết đến cổ họng, thân không giữ nổi lại còn thương hoa tiếc ngọc.

Đoạn lão ung dung lại chỗ ngồi nói với A Châu:

- Cô nương cũng bất tất phải dở trò quỷ quái làm gì nữa. Ai là người làm

chủ mọi việc trong phủ này? Đoàn công tử đã thuộc lòng cả quyển đồ hoạ

Lục Mạch Thần Kiếm. Có điều hắn không hiểu võ công nên khó mà sử

dụng được đó thôi. Ngày mai tôi sẽ đem hắn ra đốt trước mồ Mộ Dung tiên

sinh, nếu tiên sinh dưới suối vàng có linh thiêng, chắc cũng chứng dám lòng

thành cho ngưbạn già đã không phụ lời ước năm xa.

A Châu cũng hiểu rằng hiện tình trong toà "cẩm vận tinh xá" này không có

ai đối thủ nổi với Cưu Ma Trí. Nàng chau đôi mày liễu gượng cười nói:

- Được rồi! Lời lão hòa thượng nói chúng tôi có thể tin được. Phần mộ của

lão gia tôi cách đây chừng một ngày đường thuỷ. Hôm nay thì trời đã tối

rồi, sáng sớm mai chị em chúng tôi xin thân hành dẫn hòa thượng cùng

Đoàn công tử đi tảo mộ. Xin bốn vị hãy nghỉ ngơi một chút để đợi dùng

cơm chiều.

Nói dứt lời A Châu đứng dậy kéo tay A Bích cùng đi vào trong nhà. Đoàn

Dự nhìn theo bóng hai nàng nhăn nhó cười.

Sau độ nửa giờ thì thấy một tên hầu trai ra nói:

- Hai cô nương có lời mời bốn vị qua nhà "thính vũ" dùng cơm chiều.

Cưu Ma Trí cám ơn rồi dắt tay Đoàn Dự đi theo tên hầu trai. Quanh co theo

một con đừng nhỏ rải toàn đá sỏi lớn bằng quả trứng ngan một vòng, qua

mấy chỗ núi đá, cây hoa ra bờ hồ. Dưới một gốc liễu có buộc chiếc thuyền

nhỏ. Tên hầu chỉ một căn nhà nho nhỏ ở giữa hồ, bốn mặt đều có cửa sổ

nói:

- Nhà "thính vũ" kia rồi.

Tên hầu mời bốn người xuống thuyền rồi từ từ chèo ra. Khi tới gần thấy toà

nhà này làm toàn bằng cây thông, để cả vỏ trông thực trang nhã và đượm vẻ

thiên nhiên. Đoàn Dự vừa bước lên bờ đã thấy A Bích đứng đó đón khách.

Nàng mặc áo dài màu xanh lạt, má thoa một lần phấn mỏng. Đứng tựa bên

nàng là một vị nữ lang mặc áo hồng tuổi chừng 15, 16 nhìn Đoàn Dự tựa

như cời mà không phải cười, nét mặt đầy vẻ khôn ngoan lanh lợi. A Bích

thì khuôn mặt trái xoan trông rất thanh nhã và tươi đẹp, còn nữ lang kia

khuôn mặt tròn hai mắt linh động, mỗi người có một vẻ kiều diễm riêng để

làm rung cảm lòng người.

Đoàn Dự tới gần ngửi thấy một mùi hương phảng phất êm dịu và quen quen,

chàng mỉm cười hỏi:

- A Châu tỷ nương! cô là một vị nữ lang xinh đẹp như vậy mà giả trang làm

đàn bà lại giống đến thế? thật là tài tình.

Nữ lang này chính là A Châu. Nàng liếc mắt mỉm cười hỏi Đoàn Dự:

- Công tử bấy giờ phải cúi đầu lạy tôi ba lạy chắc bực mình lắm phải

không?

Đoàn Dự lắc đầu ngoay ngoảy đáp:

- Ba lạy đó rất có ý nghĩa. Có điều tôi đoán không được trúng lắm thôi.

A Châu hỏi:

- Công tử đoán thế nào mà không trúng?

Đoàn Dự đáp:

- Trước tôi đã đoán cô nương và cô A Bích cũng như nhau, đều là mỹ nhân

hiếm có ở đời. Tôi đinh ninh là hai cô chẳng khác nhau mấy, nào ngờ tới

khi gặp mặt thì cô này... cô này...

A Châu cướp lời:

- Phải chăng tôi còn kém A Bích xa?

Đồng thời A Bích cũng chen vào:

- Công tử thấy chị ấy đẹp gấp mười tôi, nhìn thấy phải giật mình chứ gì?

Đoàn Dự lắc đầu đáp:

- Trật hết, tôi cảm thấy cái tài tình của ông tạo hoá thực là khiến cho người

ta phục sát đất. Ông đã dốc tâm trí ra tạo nên một trang tuyệt sắc giai nhân

là A Bích cô nương, tưởng rằng bao nhiêu linh tú ở Giang Nam đã dùng hết

nhẵn rồi nào ngờ ông lại còn tạo thêm được một vị A Châu tỷ nương nữa.

Hai dung mạo khác nhau nhưg mỗi người đều có một vẻ đẹp ưa nhìn riêng,

tôi nghĩ mãi mà chưa tìm được câu nào để tỏ được cái vẻ diễm lệ của hai cô.

A Châu cười nói:

- Chà công tử thật là mồm mép trơn như mỡ, đã tán dương một tràng dài lại

còn bảo là không tìm được một câu nào để mô tả.

A Bích chậm rãi mời:

- Bốn vị giá lâm nơi hoang dã này không có gì đặc biệt để thết các vị, hãy

xin các vị dùng ly rượu nhạt và dùng mấy thứ món ăn ở địa phương Giang

Nam.

Đoàn nàng mời bốn người vào tiệc. Nàng và A Châu ngồi bồi tiếp ở ghế

đầu. Đoàn Dự thấy bát chén toàn bằng đồ sứ rất mỹ thuật và tinh xảo trong

bụng đã khen thầm. Ngoài các món xào nấu: tôm, cá, thịt còn bao nhiêu

hoa quả, bánh trái, trông đã đẹp mắt lại có mùi hương ngào ngạt.

Đoàn Dự tán dương:

- Có non sông gấm vóc mới nảy ra những bậc tuyệt thế giai nhân, có những

nhân vật tuyệt thế, tất có thông minh tài tử đặc biệt để chế tạo những món

ăn mỹ vị thanh cao.

A Châu hỏi:

- Công tử thử đoán xem các món ăn đây tôi làm hay A Bích làm?

Đoàn Dự đáp:

- Các món ăn mầu sắc rực rỡ mùi hương nồng nàn là của cô nương làm, còn

những món mầu sắc đạm nhạt, mùi vị thanh tân là cô A Bích làm.

A Châu vỗ tay cười đùa nói:

- Không ngờ thầy đồ gàn đoán đúng thế. A Bích cô bảo thưởng cho thầy cái

gì đây.

A Bích tủm tỉm cười đáp:

- Đoàn công tử sai bảo điều gì chúng ta sẽ hết sức tuân theo. Làm gì mà

thưởng mới chả thưởng, chúng ta chỉ là người phục dịch cho công tử.

A Châu hừ một tiếng và nói:

- Hễ cô mở miệng là nói bênh người ta rồi. Trách nào ai ai cũng bảo cô tốt,

còn tôi chẳng ra gì.

Đoàn Dự mỉm cời:

- Một cô thuỳ mị ôn hoà, một cô hoạt bát lanh lợi mỗi cô một vẻ riêng. A

Bích cô nương! lúc ngồi thuyền tôi có được nghe cô nương gẩy một khúc

đàn bằng cây nhuyễn tiên, dư âm hãy còn văng vẳng bên tai. Vậy dám cả

gan xin cô nương cho nghe một khúc bằng nhạc khí thực. Được thế thì dù

ngày mai có bị Cưu Ma Trí đốt thành tro cũng không uổng một đời.

A Bích nhẹ nhàng đứng dậy nói:

- Công tử không hiềm nhơ tai tôi xin hiến cái nghề mọn vụng về để vui lòng

quý khách.

Nói xong liền chạy vào phía sau bình phong lấy một cây dao cầm. Cây đàn

này ngắn hơn cây thất huyền cầm một thước mà có những chín dây, các dây

mầu sắc khác nhau. A Bích ngồi ngay ngắn trên chiếc cẩm đàn, để cây cửu

huyền cầm trước mặt và quay sang nói với Cưu Ma Trí:

- Xin đại s phụ chỉ giáo thêm cho!

Cưu Ma Trí đáp:

- Không dám.

Cưu Ma Trí băn khoăn, không hiểu sao nàng lại yêu cầu mình chỉ giáo?

Chẳng hay nàng có dụng ý gì?

A Bích hai tay trắng muốt như ngọc, hai ngón tay búp măng bên trái lần nhẹ

trên dây đàn, tay phải vừa bật vừa gảy, tiếng đàn tình tang nổi lên.

Đoàn Dự tuy không hiểu gì về võ công nhưng về các môn cầm kỳ thi hoạ

chàng rất thông thạo, vừa nghe qua mấy tiếng chàng đã hiểu ngay là chín

sợi dây đàn này chế tạo bằng chín thứ chất liệu khác nhau như thép đồng và

tơ chẳng hạn, cương thì rất cương mà nhu cũng rất nhu.

A Bích vừa dạo mấy cung, tiếng đàn trầm xuống dần dần, mỗi lúc một nhu

hòa. Bốn người ngồi nghe đều cảm thấy mí mắt nặng chĩu xuống, mơ màng

như người buồn ngủ.

Thôi Bách Kế thông hiểu nhiều về các loại quỷ mỵ trên chốn giang hồ nên

ngay từ lúc mới bắt đầu vào Mộ Dung trang đã nhất nhất đề phòng. Y vừa

nhắm mắt muốn ngủ nhưưng thốt nhiên kinh hoàng nghĩ thầm: "không xong

rồi! Con ranh này chắc nó ám toán gì chúng ta đây!". Rồi y gọi lớn:

- Quá hiền điệt! Những thủ đoạn gian hiểm trên chốn giang hồ thực đủ điều

kỳ dị! Hiền điệt phải lưu ý cẩn thận đó.

Quá Ngạn Chi gật đầu và trả lời một cách hàm hồ:

- Đúng thế! chúng ta phải sáng suốt mà nhận định.

Nói chưa dứt lời thì lại tiếp luôn một cái ngáp dài. Cái ngáp này tựa hồ có

sức truyền nhiễm, rồi cả Thôi Bách Kế, Đoàn Dự cũng ngáp theo. Tiếng

đàn lại càng dịu dàng réo rắt, bốn bề im lặng như tờ, mọi người đều cảm

thấy mệt mỏi, chỉ muốn nằm vật ra ngủ liền. Đột nhiên nghe "tưng" một

tiếng nhè nhẹ. Đoàn Dự đột nhiên cảm thấy trong miệng nóng ran rồi huyệt

"thiên trì" ở khuỷu tay thông chuyển được ngay. Đoàn Dự vừa mừng vừa sợ

nhưng chàng vẫn cho là lúc Cưu Ma Trí điểm huyệt chàng lão chưa dùng

toàn lực nên hiệu lực không được lâu, tới lúc này là nó tự giải đấy thôi. Nào

ngờ A Bích gẩy một lúc nữa lại bật lên một tiếng "tưng" thì huyệt "phách

hộ" sau lưng chàng cũng thông chuyển được. Đoàn Dự ngầm vận nội lực thử

xem thế nào thì thấy nội khí nửa người phía trên đã lưu thông được như

thường, không còn trở ngại gì nữa. Bấy giờ chàng mới biết là tiếng đàn của

A Bích cũng cảm ứng với nội khí người ta, nó công nhiên có năng lực giải

được huyệt đạo. Một lúc nữa hai huyệt đạo ở hai đùi cũng theo tiếng đàn mà

giải được hết. Đoàn Dự đưa mắt nhìn A Bích và trong lòng vô cùng cảm

kích. Thấy A Bích đang ngưng thần chuyển khí, hai tay lựa nắn giây đàn.

Một bên thì Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi đang say ngủ ngáy pho pho,

một bên thì Cưu Ma Trí đang chắp tay ngồi, dường như lão đang vận kình

lực để chống lại với tiếng đàn của A Bích. Đoàn Dự nhìn chừng uống xong

chén trà thì thấy trên trán nàng rơm rớm mồ hôi, chỗ mái tóc có làn khói

nhè nhẹ bốc lên. Cưu Ma Trí hình lộ vẻ mỉm cười, đôi mắt vẫn sáng rực.

Đoàn Dự có vẻ băn khoăn lo rằng tiếng đàn của A Bích nếu không lung lạc

được Cưu Ma Trí thì e rằng trái lại nàng sẽ bị lão đả thương mất. Thế thì

mình đối phó thế nào để cứu được nàng? giữa lúc đó bỗng lại nghe A Châu

cất tiếng hát:

Gió heo sông Dịch lạnh lùng

Ra đi tráng sĩ còn mong đâu về?

Tiếng đàn rất là mềm mại mà ý nghĩa trong lời ca thì lại thẳng thắn hiên

ngang, hai đằng không ăn nhịp với nhau. Đoàn Dự lắng nghe cảm thấy có

điều quái dị.

Hoi 29 Mạn Đà sơn trang

A Châu hát đi hát lại ba lần câu:

Gió heo sông Dịch lạnh lùng

Ra đi tráng sĩ còn mong đâu về?

Đoàn Dự nhìn đoá hoa nhỏ cài bên món tóc mai nàng lúc nào cũng động

rung rinh, đôi môi tươi thắm biến thành lợt lạt, chàng sực nhớ ra lẩm bẩm

một mình: "Phải rồi! A Châu sở dĩ hát đi hát lại hai câu thơ này là nhủ ta

làm cái việc Kinh Kha hành thích Tần Thuỷ Hoàng. Nội lực A Bích không

thể địch nổi lão hòa thượng này, nếu cứ miễn cưỡng chống chọi hoài thì e

rằng nàng tất bị nội thương nguy kịch". Nghĩ vậy chàng ngấm ngầm ôn lại

các thế Lục Mạch Thần Kiếm. Chàng thử vận động khí lực ra thì đã thấy

thông đồng lu loát, không bị vấp váp ngăn trở chỗ nào. Chàng đọc sách

thánh hiền từ thuở nhỏ, lại thêm thấm nhuần kinh Phật, chí khí không khỏi

có đôi phần ngạo nghễ. Chàng nghĩ rằng: "các bậc đại trượng phu làm việc

phải cho quang minh lỗi lạc, thừa cơ người ta không phòng bị để đánh lén là

hành động đê hèn. Trong lòng đang còn phân vân chưa quyết, bỗng nghe

đánh "binh" một cái, một sợi dây đàn của A Bích đứt, nàng rùng mình một

cái. A Châu cũng im bặt tiếng hát, đôi đũa cầm trong tay toan ném vào Cưu

Ma Trí, thì lại "bục" một tiếng, một sợi dây đàn nữa đứt.

Thôi Bách Kế cùng Quá Ngạn Chi rú lên những tiếng kinh hồn. Đoàn Dự

thấy tình thế cực kỳ cấp bách, miệng lẩm bẩm: "vì việc cứu người ta đành

phải tòng quyền hành động đê hèn một chút vậy". Chàng vươn tay phải lên,

hai luồng kình lực ở ngón tay trỏ phóng ra nhằm Cưu Ma Trí đâm tới nhanh

như chớp. Đó là hai thế kiếm khí "thương dương" và "trung xung".

Giả tỷ Cưu Ma Trí đang công nhiên đấu kiếm cùng Đoàn Dự thì dù những

thế kiếm cấp bách hơn nữa lão cũng chống dễ như chơi. Nhưng lão yên trí

rằng huyệt đạo chàng mới bị phong toả, chưa làm gì được nên lão đem hết

nội lực ra đấu với tiếng đàn của A Bích. Giữa lúc lão chiếm được ưu thế,

những tưởng dùng tiếng đàn phản kích làm cho tâm thần A Bích phải mê

loạn, rồi quay sang hạ chốt A Châu là xong. Lão tuyệt nhiên không ngờ tới

chuyện Đoàn Dự phóng kiếm khí ra đâm mình. Lão kêu rú lên một tiếng,

người bắn tung đi. Đồng thời dây đàn A Bích đứt luôn năm sợi. Những tia

máu đỏ phun ra như tới, đó là lưỡi thần kiếm do Đoàn Dự phóng ra đã đâm

trúng vai bên phải Cưu Ma Trí.

A Bích tay trái kéo A Châu, tay phải níu Đoàn Dự nhảy vọt ra. Ba người

nhảy qua cửa sổ ra ngoài, rơi đúng vào con thuyền nhỏ. A Châu đưa tay ra

dúi đầu Đoàn Dự thấp xuống, rồi cầm luôn lấy mái chèo bơi thuyền đi.

Đoàn Dự bỗng nghe thấy thùm một tiếng rất lớn, chiếc thuyền tung lên rồi

lại hạ xuống, chẳng khác gì đang đi ngoài biển cả sóng to. Nước hồ bắn lên

tung toé, khắp mình mẩy ướt đẫm. Chàng quay đầu nhìn lại thấy Cưu Ma

Trí đứng trên bờ, đang lấy bàn đá, ghế đá ném xuống không ngớt. Cũng

may A Châu đã chèo thuyền ra xa một chút và Cưu Ma Trí đã bị trúng kiếm

khí bị trọng thương, kình lực kém đi nên liệng không tới thuyền.

A Châu thấy hoà thượng sức khoẻ như thần, nàng sợ hãi vô cùng khấn thầm:

"cầu trời cho lão đừng đuổi kịp". Nàng bơi thuyền xa thêm vài chục trượng

nữa, nhìn lại thấy Cưu Ma Trí không đuổi kịp nữa rồi. A Bích thở phì phì

nói:

- Đoàn công tử ơi! Nhờ công tử mà nay tôi được thoát nạn nếu không thì đã

chết về tay lão hoà thượng này rồi.

Đoàn Dự nói:

- Đáng lý tôi phải tạ ơn cô mới đúng. Lão hoà thượng này nói sao là làm

được vậy, lẽ ra tôi bị lão đem đi đốt sống rồi.

A Châu vội gạt đi:

- Hãy khoan nói đến chuyện cô tạ ơn cậu, cậu tạ ơn cô đã! Việc trốn sao

cho thoát khỏi tay lão trọc còn gấp hơn nhiều.

Giữa lúc ấy Đoàn Dự nghe có tiếng mái chèo bơi nước đang đuổi theo,

chàng giật mình la lên:

- Trời ơi! Lão sư đang đuổi theo chúng ta rồi.

A Bích đã mệt nhoài, không thể lấy ngay lại sức lực trong chốc lát được.

Nàng tựa vào mạn thuyền nói:

- A Châu tỷ nương! bọn ta đến tạm lánh tại trang Lục đại gia.

A Châu có vẻ bực tức đáp cộc lốc:

- Đành là thế vậy.

Rồi nàng lại tiếp:

- Thật là bực mình. Lục đại gia thường cười chị em mình võ công chẳng ra

gì. Bây giờ gặp kẻ đại địch túng thế phải vào ẩn trong nhà y, chắc rồi y cười

mình suốt đời.

Từ khi Đoàn Dự tăng nhiều nội lực trong người, chàng rất thính tai. Nghe rõ

tiếng mái chèo bơi mỗi lúc một lại gần thêm liền cầm lấy một mái chèo để

phụ A Châu bơi thuyền cho lẹ hơn. Thuyền thêm một mái chèo nên lại cách

xa chiếc thuyền đuổi theo hơn được ít nữa.

Đoàn Dự nói:

- Bản lãnh lão sư này ghê gớm lắm. Hai vị tỷ nương còn nhỏ tuổi thế này

thua lão cũng chẳng có gì là nhục.

Bỗng nghe có tiếng gọi từ đằng xa vọng lại:

- A Châu, A Bích hai cô bơi thuyền trở lại mau! bần tăng đã là bạn với công

tử Mộ Dung có lý đâu lại làm khó dễ các cô?

Đúng là tiếng Cưu Ma Trí. Mấy câu nói cực kỳ êm dịu thân mật, khiến

người nghe bất giác không tự chủ được nữa, khó mà chống cự lại, quả nhiên

muốn theo ý lão.

A Châu giật mình nói:

- Lão gọi chúng ta trở lại, tất không gia hại đâu.

Đoạn nàng dừng chèo không bơi nữa, trong lòng dường như có vẻ xao

xuyến.

A Bích cũng nói:

- Vậy chúng ta quay lại quách.

Đoàn Dự vì nội lực rất mạnh nên giọng nói Cưu Ma Trí không mê hoặc nổi

vội nói:

- Lão bịp đấy! Tin thế nào được?

Lại thấy Cưu Ma Trí tiếp tục gọi bằng một giọng rất hòa hoãn rất êm tai:

- Hai vị cô nương ơi! Công tử nhà các cô đã về tới, cần gặp các cô ngay, các

cô mau mau bơi thuyền trở lại.

A Châu nói:

- Vâng!

Rồi bơi thuyền quay đầu lại. Đoàn Dự nghĩ thầm: "nếu quả công tử Mộ

Dung trở về thì chính y lên tiếng gọi A Châu, A Bích hà tất phải mượn lão

sư gọi hộ? Đúng là lão giở phép thu hồn phách cực kỳ lợi hại ra đây. Chàng

liền nghĩ được một kế, vội xé mảnh áo đút nút lỗ tai A Châu, A Bích lại.

A Châu định thần được ngay thất thanh la lên:

- Trời ơi! Chết cha!

A Bích cũng tỉnh táo lại nói:

- Lão sư này biết cả phép thu hồn phách người ta. Ta bị lão lung lạc mất rồi.

A Châu ra sức chèo thuyền nói:

- Đoàn công tử! Chèo cho mau! chèo cho mau!

Hai người chèo thuyền thẳng vào chỗ dầy đặc hồng lăng. Hồi lâu bên tai

không còn vẳng nghe thấy tiếng Cưu Ma Trí gọi nữa. Bấy giờ Đoàn Dự mới

ra hiệu cho hai người móc nút để trong tai ra.

A Châu vỗ ngực thở một hơi dài rồi hỏi:

- Bây giờ tính sao đây?

A Bích đáp:

- A Châu tỷ nương! chúng ta đi đến Khiếu Thiên thôn. Giả tỷ lão hoà

thượng có theo tới đó, Lục đại gia quyết không chịu thua sẽ cùng lão chơi

nhau đến cùng.

A Châu nói:

- Không được đâu! Lục đại gia tuy võ nghệ cao cường nhưng không có

khiếu thông linh quỷ quái bằng Cưu Ma Trí. Thế thì thà rằng cứ lênh đênh

trên mặt hồ này, đói bóc hồng lăng hoặc móc ngó sen lên mà ăn, dù có ở

đây mười ngày hoặc nửa tháng cũng chẳng hề gì.

A Bích mỉm cười nói:

- Tỷ nương tính thế nào cũng đưược, song chưa biết ý Đoàn công tử ra sao?

Đoàn Dự vỗ tay cười nói:

- Hồ này phong cảnh đẹp, lại có hai vị tỷ nương làm bạn ở đây ngao du

mươi ngày, thật sướng hơn tiên.

A Bích cũng trề môi ra cười nói:

- ở đây đi về phía đông nam có đến hàng ngàn hải cảng, hàng trăm vũng

vịnh, chi lu, sông nhỏ cũng nhiều. Trừ bọn chài lưới địa phơng ra, không

ai tìm được đường lối. Bọn ta đi vào chỗ trăm khúc quanh co trong hồ này,

quyết nhiên nhà sư kia không thể đuổi tới nơi được.

Đoàn Dự đang lúc cao hứng, ra sức bơi thuyền. Mỗi khi đến chỗ rẽ thì hai

nàng lại bàn tính một hồi rồi mới ấn định nẻo đi. Chèo thuyền đi một hồi

lâu, Đoàn Dự thoang thoảng ngửi thấy một mùi hoa thơm đặc biệt khác lạ.

Lúc mới ngửi thì thấy đầu óc choáng váng nhng lát sau thì trong người lại

khoan khoái dễ chịu. Thuyền càng tiến lên thì mùi hoa thơm lại càng sực

nức.

Đoàn Dự hỏi:

- Hai vị tỷ nương có biết mùi hoa gì đó chăng?

A Bích khẽ đáp:

- Công tử đừng hỏi nữa! bọn ta phải mau mau rời khỏi nơi này!

Đoàn Dự thấy giọng nói của nàng đầy vẻ sợ hãi, rất lấy làm kỳ. A Châu

cũng nói nhỏ bảo A Bích:

- Chúng ta lầm đường mất rồi. Mi bảo rẽ qua bên trái là đúng. Ta lại bảo rẽ

qua mé phải mới chết chứ. A Bích mi đã biết rõ, sao còn đi nghe ta?

A Bích đáp:

- Bấy giờ em cũng không dám chắc lắm. Cứ tởng tỷ nương biết đích hơn,

nên mới nghe theo.

Lúc này A Bích tinh thần đã hồi phục, đón lấy mái chèo ở trong tay A

Châu, quay thuyền và gắng sức bơi theo lối cũ trở ra.

Đoàn Dự nghe hai người đối đáp, đoán là trong mùi hoa thơm này tất có

điều gì nguy hiểm, chàng toan hỏi lại thì A Châu trông chàng vẫy tay ra

hiệu bảo đừng hỏi nữa. Trời đã tối mịt, Đoàn Dự trông không rõ nét mặt hai

người nhng cũng biết tình thế rất nghiêm trọng chẳng kém gì lúc Cưu Ma

Trí đuổi theo.

A Châu ghé miệng vào tận tai Đoàn Dự nói thầm:

- Bây giờ tôi lớn tiếng nói chuyện với A Bích, công tử chớ có nói xen vào,

phải nằm yên!

Đoàn Dự gật đầu, đưa mái chèo cho nàng rồi nằm xuống lòng thuyền. Đêm

hôm ấy trời đầy sao lấp lánh, Đoàn Dự cảm thấy có điều chi kỳ dị mà

không nói ra được, bỗng nghe A Châu lên tiếng:

- A Bích muội nương! Chỗ này rất khó nhận đường đi, em phải cẩn thận kẻo

lạc lối nghe.

A Bích đáp:

- Vâng! lão sư ấy đuổi bọn mình để hãm hại, mình phải chạy trốn. Giả tỷ

mà mình lạc đường, người ta còn bảo mình chịu mệnh công tử cố ý đến đây

rắc rối mới khổ chứ.

Hai người nói chuyện sang sảng, tựa hồ để cho người ngoài nghe rõ. Nhưng

Đoàn Dự nghển lên mạn thuyền trông ra thì bốn mặt chỉ thấy toàn lá hồng

lăng bát ngát. Ngoài tiếng thuyền chạm vào lá hồng lăng, tuyệt không thấy

động tĩnh gì nữa. Mùi hoa thơm mỗi lúc một ngào ngạt thêm. So với mai côi

thì mùi thơm không nồng nàn bằng nhưng so với hoa quế thì nó lại kém bề

êm dịu. Thật là một mùi hương khó tả.

Thốt nhiên A Bích cất giọng hát. Nàng hát bài Nguyễn lang quy. Nàng mới

hát được vài câu nghe giọng đã run run, phải ngừng một chút cho định thần

rồi mới hát tiếp. Tiếng hát mỗi lúc một lên cao vòi vọi nhưng không giấu

nổi nỗi phập phồng lo sợ.

Đoàn Dự ghé lại gần A Châu khẽ hỏi:

- Phải chăng lão sư đó đuổi gần tới nơi?

A Châu vội đư bàn tay bịt miệng chàng, ra hiệu cho đừng lên tiếng. Nàng

nghiêng đầu lắng tai nghe, bốn bề vẫn im lặng như tờ. Bấy giờ mới ghé

miệng sát vào tai Đoàn Dự nói thầm:

- Chúng ta lầm đường mất rồi. Gặp người này còn ghê gớm hơn cả lão sư

ban nãy.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Người ta có câu: tránh nơi sóng cả, ngã nơi Tuần

Vường là đúng lắm". Rồi chàng lại nghĩ: "có lẽ hai nàng chưa biết kỹ bản

lãnh lợi hại của Cưu Ma Trí đó thôi. Trên đời làm gì còn có người ghê gớm

hơn lão? Huống chi đây lại ở cạnh nách sào huyệt nhà Mộ Dung. Khi nào y

còn để cho ai ăn ngon ngủ yên được?".

A Bích ca xong khúc hát, không nói gì nữa, lặng lẽ nhìn lên trời, tìm sao

bắc đẩu, nhận định phương hướng rồi cùng A Châu ra sức chèo thuyền..

Đoàn Dự ngoảnh nhìn bốn phía, chỉ thấy mênh mông những nước cùng trời.

Tuyệt không có một con thuyền, một cái nhà, không thấy đâu là bờ bến hay

một bóng người nào cả, đến một con chim cũng không có. Vậy mà không

biết làm sao hai nàng lại sợ hãi đến thế?

Con thuyền nhỏ đi bồng bềnh trên mặt nước được quãng dài nữa thì đến chỗ

hai dòng sông giao nhau. A Châu và A Bích lại thương lượng một hồi và tìm

nhận lối đi khi gặp chỗ rẽ. Chàng cũng chẳng hiểu hai nàng lấy gì làm tiêu

chuẩn, chỉ biết hai nàng đã bơi thuyền nửa ngày, nửa đêm, có vẻ mệt nhoài,

thở lên hồng hộc. Đoàn Dự xem chừng A Châu đã kiệt lực rồi, liền đón lấy

mái chèo bơi thuyền đỡ nàng một lúc. Hồi lâu bỗng A Bích kêu lên:

- A Châu tỷ nương ơi! chúng ta... sao chúng ta... lại quay về chỗ cũ rồi?

Đoàn Dự quả nhiên lại ngửi thấy mùi hoa thơm lúc nãy. Thì ra đêm khuya

trời tối hai nàng không nhận ra lối đi, chèo quanh quẩn tựa hồ đi theo một

lối vòng tròn khổng lồ, bây giờ lại quay về chỗ ban đầu. Trời đã gần sáng,

nét mặt A Bích trở nên bơ phờ, ủ rũ. Đột nhiên nàng buông mái chèo

xuống, đưa tay lên bưng mặt khóc hu hu.

A Châu ôm nàng vào lòng an ủi:

- Không phải là chúng ta cố ý đến đây, chờ gặp Vương phu nhân rồi sẽ bày

tỏ chân tình, em đừng sợ gì cả.

Tuy nàng tự cường để vỗ về A Bích mà tiếng nói nàng cũng run run, tpr ra

nàng đang trải qua một trận bão lòng kinh hãi.

Giữa lúc ấy, trên không về phía tây nổi lên vài tiếng chim kêu quang quác.

Một con chim rất lớn bay tới, toàn thân lông trắng như tuyết, cao lênh

khênh như con hạc nhưng không phải hạc. Dường như là một giống thủy

điểu. Con bạch điểu này nhằm chỗ thuyền dừng quyện một vòng trên không

rồi từ từ bay về góc tây bắc.

A Châu nhặt mái chèo lên thở dài nói:

- Không đi không xong rồi! Chúng ta đành tới đó rồi muốn ra sao thì ra.

Nàng bơi thuyền hướng theo con bạch điểu mà đi.

Đoàn Dự hỏi:

- Có phải con chim đó là sứ giả dẫn đường đó chăng?

A Bích đáp:

- Đoàn công tử! Công tử là người xa đến, chưa biết quy củ nơi đây. Lúc vào

đến Mạn đà sơn, phu nhân bảo làm sao công tử phải nghe vậy, chớ có

kháng cự mà khốn.

Đoàn Dự hỏi:

- Tại sao vậy? Chẳng lẽ chủ nhân trại này lại dã man đến mức không phân

biệt phải trái nữa hay sao? Bọn mình lạc đường vào đây thì xin cho ra, chứ

làm gì nên tội?

A Bích quầng mắt đỏ hoe đáp:

- Đoàn công tử không biết. Còn có nhiều chuyện rắc rối bên trong, không

thể một lúc mà nói hết ra được. Người ta sở dĩ không cho ai giở lý sự cũng

là có cớ. Rút cục chỉ tại lão sư đó mà ra. Nếu lão không đuổi gấp quá thì

làm gì đến nỗi mình hoang mang mà đi lầm vào đây?

A Châu vốn tính hoạt bát cười nói:

- Người lành tự nhiên có thiên tướng bảo hộ. Giả tỷ chỉ có hai chị em mình

tới đây tất là hỏng bét nhưng có Đoàn công tử đây là người lành may ra

chúng ta thoát nạn cũng chưa biết chừng.

A Bích buồn rầu đáp:

- Em thì lại lo thay cho Đoàn công tử. Vương phu nhân thấy có đàn ông đến

Mạn đà sơn trang, chắc người sẽ sai chặt chân khoét mắt. Phu nhân nói sao

làm vậy. A Châu tỷ nơưng ơi! mình đưa công tử đến đây để chàng phải vạ

lây.

Nói đến đó, nàng úp hai bàn tay lên mặt, nước mắt tràn qua kẽ ngón tay, rớt

xuống từng giọt.

A Châu nói:

- Biết đâu phu nhân chẳng tự nhiên đại phát từ bi hoặc Đoàn công tử khéo

biện bạch, lay chuyển được tấm lòng sắt đá của người mà tha cả ba chúng ta

cũng nên.

Đoàn Dự hỏi:

- Vương phu nhân là người thế nào?

A Bích đưa mắt nhìn A Châu toan nói lại thôi. A Châu vỗ tay vài cái rồi

nhớn nhác ngó quanh, không thấy ai bấy giờ mới nói:

- Vương phu nhân đây, về võ công không biết đến đâu mà lường được.

Khắp các nhân vật trong võ lâm đều chịu người là đệ nhất. Ngay đến công

tử chúng tôi, bản tính không chịu phục ai mà chỉ bội phục có mình phu

nhân thôi.

Nàng vừa nói vừa lắc đầu lè lỡi, lộ ra nhiều vẻ kinh dị. Đoàn Dự rất lấy

làm kỳ tự hỏi: "bọn mình nói chuyện trong thuyền, bốn bề chẳng có một ai.

Chẳng lẽ bà Vương phu nhân nào đó có phép thần thông nghe được cả ?".

Bỗng thấy con bạch điểu lúc nãy lại trở về, liệng quanh cái thuyền một

vòng. Chim bay nhanh, thuyền bơi châm, nó bay đi bay lại như vậy để chờ.

Thuyền cứ trông hút bóng chim bơi theo chừng nửa giờ, qua mấy chỗ vũng

biển. Đoàn Dự nghĩ thầm: "con chim kia bay trên không nên nhận đường lối

dễ hơn. Đằng này bơi thuyền dưới nước, giữa cái hồ mênh mông, dù bản

lãnh giỏi đến đâu cũng khó lòng giữ cho khỏi lạc đường".

Thuyền đi đến trước một hàng đăng ken bằng tre chẻ ra vót sẵn. Người

Giang Nam thường cắm đăng ngang sông, hồ để nuôi cá, bắt giải. Nước vẫn

lưu thông nhưng cá và giải vướng đăng không chui ra được. Thuyền lại sát

đăng, tưởng bị chặn lối đi, không ngờ đầu thuyền vừa chạm vào đăng, đăng

chìm ngay xuống nước, để hở lối cho thuyền đi qua. Thì ra trên các hàng

đăng này có đặt cơ quan tự động mở ra đóng lại được. Qua mấy tầng đăng

như vậy thì đến rặng liễu buông rủ xuống nước. Hết rặng liễu, xa xa nhìn

thấy trên bờ hồ hoa lá rực rỡ như hoa trà, ánh xuống nước đỏ rực một vùng.

Đoàn Dự buột miệng khẽ reo lên một tiếng: "ô kìa". A Châu vội hỏi:

- Chi vậy?

Đoàn Dự chỉ vào bụm cây hoa đáp:

- Đây là cây sơn trà ở nước Đại Lý chúng tôi đó. Làm sao ở Thái Hồ cũng

trồng được thứ điền trà này nhỉ?

Nên biết rằng thứ sơn trà sản xuất ở Vân Nam có danh tiếng hơn cả nên

người ta mệnh danh là điền trà.

A Châu nói:

- Có đúng thế không? tôi tưởng sơn trà nước Đại Lý không bằng được sơn

trà ở Cô Tô chúng tôi đây. Chỗ này là Mạn đà sơn trang, mạn đà la đứng

vào bậc nhất thiên hạ, sơn trà nước Đại Lý của công tử bằng thế nào được?

Đoàn Dự cho lời bình luận của A Châu là sai. Chàng nghĩ rằng: "nhân vật ở

Giang Nam kể ra cũng làm cho người ta phải ngây ngất thật. Nước Đại Lý

có nhiều thứ thua kém nhưng mà bảo sơn trà nước Đại Lý thua trà Giang

Nam thì nhất định không chịu". Chàng thấy A Châu đưa mắt ra hiệu biết

rằng gần đến sơn trang rồi. âu là cứ buông xuôi câu chuyện cho êm.

A Châu chèo thuyền lại buộc vào gốc một khóm sơn trà, dừng chân đứng

nhìn một hồi. Trên bờ toàn hoa trà đỏ trắng lẫn lộn, không có nhà cửa

phòng ốc chi hết.

Đoàn Dự sinh trưởng ở nước Đại Lý, mặc dầu sơn trà đối với chàng chẳng

có chi là lạ nhưng cũng theo chiều tấm tắc khen ngợi cho qua, trong lòng

thầm nghĩ: "sơn trà ở đây tuy nhiều thật, song giai phẩm này đã lấy chi làm

quý?".

A Châu kéo ghệch thuyền vào bờ rồi cất tiếng thong thả mềm mỏng nói:

- Tiểu tỳ là A Châu, A Bích ở Tham Hợp trang bên Yến Tử ổ bị kẻ địch

đuổi đánh, lầm đường lạc vào nới cấm địa quý trang đây, tội đáng muôn

thác. Xin Vương phu nhân mở lượng hải hà bỏ qua đi cho! Bọn tiểu tỳ cảm

kích vô cùng.

A Châu dứt lời, trong rừng hoa chưa thấy tiếng người đáp lại, nàng lại tiếp:

- Cùng đi với bọn tiểu tỳ còn có Đoàn quân là một người khách phương xa

đến. Đoàn quân chưa từng quen biết công tử bon tiểu tỳ và quả tình không

dính líu mảy may gì đến vụ này cả.

A Bích cũng nói:

- Đoàn công tử đến Cô Tô với mục đích tìm chủ nhân bọn tiểu tỳ để rửa

hận, vô tình lạc vào quý trang.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "xem giọng lưỡi hai cô này đều bảo ta là kẻ thù của

công tử Mộ Dung chứ không phải bạn thì đủ hiểu rằng giữa chủ nhân khu

vực này cùng công tử Mộ Dung có mối bất hoà. Dường như cứ ai là kẻ địch

của công tử Mộ Dung thì không đến nỗi họ bị làm khó dễ". Lát sau thấy có

tiếng chân bước sột soạt trong rừng hoa rồi một ả tiểu hoàn áo xanh đi ra,

trong tay cầm một bó hoa. ả này lớn hơn A Châu, A Bích chừng một vài

tuổi, vừa chạy ra bờ hồ vừa cười nói:

- A Châu, A Bích! Các cô này to gan thật! Dám lẻn đến đây dòm ngó

chuyện gì? Phu nhân ta xuống lệnh phải rạch ngang, rạch dọc cái bộ mặt

đẹp tựa như hoa ngọc của các cô ra đó.

A Châu trông nét mặt ả đã vững tâm đưuợc phần nào, tươi cười hỏi:

- U Thảo tỷ nưng đấy ? Phu nhân vắng nhà phải không?

U thảo cười đáp:

- Phu nhân còn bảo hai cô còn dắt cả chàng trai nào đó đến Mạn đà sơn

trang vậy phải chặt hai chân gã đi!

Nàng chưa dứt lời đã toét miệng ra cười. A Bích vỗ bụng nói:

- U thảo tỷ nương! có phải chị hăm doạ chúng tôi đó không?

A Châu cười nói:

- A Bích đừng sợ! Cô ta doạ đấy! Phu nhân mà ở nhà thì đời nào cô ả dám

cười cượt như vậy? U thảo em ơi! Phu nhân đi đâu vậy?

U Thảo cười nói:

- Lêu lêu! Cô bao nhiêu tuổi mà đòi làm chị ta? Con lỏi này giỏi đoán đó,

phu nhân quả không ở nhà.

Rồi ả lại thở dài nói:

- A Châu, A Bích hai em! Mấy khi hai em qua tới đây, ta muốn lưu hai em

ở chơi bên này một vài ngày.

A Bích cũng nói:

- Em cũng muốn được đón tiếp chị! U thảo tỷ nương ơi! Bữa nào chị sang

chơi bên em? Em thức ròng rã ba ngày ba đêm để tiếp chuyện chị được

không?

Bỗng lại nghe tiếng chân bước trên lá cây lạo xạo, một đứa tiểu hoàn nữa đi

tới, cười hì hì nói:

- A Châu, A Bích! cô nương muốn mời các chị vào xơi nước.

A Châu nói:

- Hoàng Ly đó hả? Em về trình cô nương qua bên nhà chơi, công tử đi vắng

rồi. Bữa nay chúng ta đi lầm đường thế nào lại lạc vào quý phủ. Cô nương

cho uống trà, chúng tôi xin có lời đa tạ cô nương nhé!

Hoàng Ly nói:

- Không được đâu! Cô nương cho gọi hai chị, hai chị không chịu vào thì

đừng hòng được "bạch y sứ giả" đưa chị ra khỏi nơi đây.

A Châu cùng A Bích đưa mắt nhìn nhau ra chiều khó nghĩ, A Bích nói:

- Hoàng Ly tỷ nương! chị thật là người thông minh. Cô nương đã cho gọi

chị em chúng tôi, chúng tôi đâu dám trái lệnh? Chỉ sợ lần chần phu nhân về

đến nhà thì nguy quá.

U Thảo nói:

- Phu nhân đi chơi xa, mới đi hôm qua, đâu có về ngay mà ngại? Các chị

còn chưa hiểu tâm sự cô nương hay sao?

A Châu đáp:

- Vâng! A Bích! Thôi chị em chúng mình cũng đành mạo hiểm vào đi!

Hai người kéo thuyền lên bờ. A Bích bảo Đoàn Dự:

- Đoàn công tử! Xin công tử hãy đứng đây chờ chúng tôi một lúc. Chúng tôi

vào ra mắt chủ nhân xong ra ngay.

Đoàn Dự đáp:

- Được rồi! Các cô đi lẹ lên.

Bốn cô nha hoàn dắt tay nhau cười cười nói nói đi vào rừng hoa. Đoàn Dự

ngồi thuyền chờ lâu, nóng ruột đứng dậy lên bờ nhòm ngó rừng mạn đà la

xem có giống hoa gì khác lạ không? nhưng đây chỉ toàn sơn trà không có

thứ hoa cỏ gì khác nữa. Cả những thứ hoa rất thường về mùa xuân mọc khắp

nơi như: Khiên Ngu, Oản đậu, Du Thái mà đây cũng không có. Sơn trà thì

nhiều thật nhưng toàn những thứ bình thường, không có loại nào quý cả.

Chàng đang ngắm xem bỗng ngửi thấy một mùi hoa thơm phảng phất. Mùi

thơm này đượm không ra đượm, lạt không ra lạt, thật khó tả cho ra. Đúng là

mùi hương chàng đã ngửi thấy đêm hôm trước, lúc ngồi thuyền. Chàng tự

hỏi: "ở đây không có hoa cỏ gì khác ngoài sơn trà, chẳng lẽ trên đời lại có

thứ sơn trà mùi hương kỳ dị thế này?". Chàng nổi tính hiếu kỳ, lần theo phía

phát ra mùi thơm mà đi, đi chừng vài chục trượng thấy sơn trà có thêm

nhiều loại khác, thỉnh thoảng cũng được vài khóm quý. Chàng đang đi tự

nhiên mùi thơm kỳ dị đó biến mất tăm. Chàng đi khắp mọi ngả để kiếm mà

tuyệt không ngửi thấy mùi hương đó nữa, chàng lẩm bẩm: "ta trở về chỗ

thuyền đậu thôi! Kẻo A Châu, A Bích trở ra không thấy mình lại nóng

ruột". Đoàn Dự trở gót đi đợc mấy bước, bỗng kêu lên: "Thôi hỏng rồi". Vì

mải để tâm vào chuyện đi kiếm thứ hoa kỳ dị chàng không nhớ lối ra. Chưa

biết tìm cách nào để trở về chỗ cũ chàng nghĩ thầm: "thôi đành ra tới bờ hồ

sẽ hay, bất luận là chỗ nào". Thế rồi chàng cứ đi bừa, đi càng lâu thì thấy

mình càng lạc lõng. Bất thình lình Đoàn Dự nghe thấy có tiếng người nói,

rõ ràng là tiếng A Châu, chàng cả mừng nghĩ bụng: "ta hãy đợi nàng ở đây

một lát, chờ cho nàng nói chuyện xong với người nào đó rồi sẽ kêu nàng

cùng về. Bỗng thấy A Châu nói:

- Công tử vẫn được mạnh, ăn uống điều hoà. Trong hai tháng nay công tử

luyện môn đả cẩu bổng pháp của Cái Bang. ý chừng người muốn tỷ thí với

các nhân vật nơi đó.

Đoàn Dự nghĩ thầm: "A Châu đang nói chuyện về Mộ Dung công tử với ai

đây. Mình chẳng nên đi sau nghe trộm, phải đi xa ra một chút kẻo họ bảo

mình không biết lễ". Giữa lúc đó bỗng thấy tiếng một cô gái thở dài. Tiếng

thở dài này lọt vào tai Đoàn Dự làm cho chàng bất giác toàn thân run bần

bật, trái tim nhảy loạn lên, hai má nóng bừng bừng. Chàng tự hỏi thầm: "sao

trên đời này lại có tiếng người thở dài nghe êm tai đến thế?". Rồi một giọng

u buồn cất tiếng hỏi:

- Chuyến này chàng ra đi có nói là đi đâu không?

Đoàn Dự mới nghe tiếng thiếu nữ thở dài lòng đã xúc động, giờ lại nghe

thêm mấy câu này nữa toàn thân chàng máu như sôi lên sùng sục. Trong

lòng vừa cay đắng vừa đau khổ, phần vì ngưỡng mộ, phần vì ghen tuông nói

sao cho hết? Chàng lẩm bẩm: "rõ ràng nàng hỏi chuyện công tử Mộ Dung.

Nàng đối với gã thân thiết là thế! nhớ mong là thế! công tử Mộ Dung thật là

người có diễm phúc.

Lại nghe tiếng A Châu đáp:

- Lúc công tử ra đi có nói là đến Lạc Dương. Lữ đại ca cùng Bao tiên sinh

hai người đi theo công tử. Xin cô nương cứ yên lòng không có điều chi đáng

ngại.

Thiếu nữ hỏi:

- Các ngươi có coi công tử luyện môn "đả cẩu bổng pháp" chưa? Có thấy

chỗ nào khó khăn hoặc chậm chạp không?

A Bích đáp:

- Bổng pháp này công tử đã luyện thành thục lắm rồi, từ đầu chí cuối công

tử phát động tựa hồ mây bay nước chảy...

Đột nhiên thiếu nữ "hứ" lên một tiếng rồi nói tiếp:

- Thế là hỏng rồi! Có phải... chàng sử môn này mau lẹ lắm không?

A Bích đáp:

- Vâng! vậy mà có chỗ chưa được hay sao?

Thiếu nữ nói:

- Dĩ nhiên là hỏng rồi. Phép "Đả cẩu bổng pháp" có hai thế: thế chiền thì

càng chậm càng hay, thế thiểu thì lúc nhanh lúc chậm. Nếu chỉ một chiều

đánh mau thì không phát huy được chỗ tinh vi mầu nhiệm của phép này.

Vậy các ngươi... các ngươi có cách nào đưa tin được đến chỗ công tử

không?

A Châu tặc lưỡi đáp:

- Bọn tiểu tỳ không biết công tử đến đâu trước? Và hiện giờ họp mặt cùng

các bậc trưởng lão ở Cái Bang chưa? Thưa cô nương! vậy ra phép "Đả cẩu

bổng pháp" mà sử dụng thật mau, có chỗ không ổn hay sao?

Thiếu nữ đáp:

- Dĩ nhiên không ổn rồi, còn có... chỗ gì nữa. Sao lúc chàng... chàng ra đi,

không đến đây gặp ta?

Thiếu nữ vừa nói vừa dậm chân ra chiều nóng nẩy, áy náy... Đoàn Dự nghe

xong rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm: "ta tưởng khắp thiên hạ, ai cũng kính sợ nhà

Mộ Dung ở Cô Tô, thế thì còn ai bì với nhà này được mà sao nghe cô nương

đây nói thì dường như công tử Mộ Dung còn phải nhờ cô này truyền dạy võ

nghệ cho. Chẳng lẽ một cô thiếu nữ nhỏ tuổi này lại có bản lãnh đến thế kia

?

Lại thấy thiếu nữ bước lui bước, tới tựa hồ chưa tìm ra được kế gì, rồi nàng

lẩm bẩm: "trước mình đã bảo chàng học bộ pháp đó nhưng chàng không

chịu, giả tỷ mà chàng biết phép Lăng Ba Vi Bộ ..."

Đoàn Dự nghe đến bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ bất giác kêu lên một tiếng "A

ha". Chàng tự biết mình lỡ lời đa tay lên bịt miệng thì đã không kịp mất

rồi. Thiếu nữ quát hỏi:

- Ai đó?

Đoàn Dự biết rằng không thể giấu diếm được nữa liền đằng hắng lên vài

tiếng rồi đáp:

- Tại hạ là Đoàn Dự đang ngắm xem rừng trà báu của quý trang, đột ngột

tới đây, xin người tha tội cho!

Thiếu nữ nói khẽ bảo A Châu:

- A Châu! Phải chăng đây là cậu cùng đi với ngươi?

A Châu vội đáp:

- Thưa phải! gã này chỉ là anh đồ gàn, cô nương bất tất phải nói đến gã làm

gì. Ta đi ra ngả khác quách.

Thiếu nữ nói:

- Hãy khoan! Ngưi hãy chờ ta viết thư nói rõ mọi điều cốt yếu về phép sử

môn "đả cẩu bổng pháp" để các ngươi liệu cách đưa đến cho công tử.

A Châu tỏ vẻ ngần ngại đáp:

- Cái đó... phu nhân đã bảo rồi mà...

Thiếu nữ giật giọng hỏi:

- Sao bọn ngưi chỉ biết vâng lời phu nhân? Không chịu nghe ta phải

không?

Nghe câu nói có vẻ hằn học A Châu vội đáp:

- Xin cô nương đừng lộ cho phu nhân biết. Lẽ nào tiểu tỳ lại không tuân

lệnh, huống chi lại là việc lợi cho công tử.

Thiếu nữ nói:

- Hai người theo ta về phòng lấy thư nghe.

A Châu đáp:

- Vâng!

Từ lúc Đoàn Dự thấy thiếu nữ thở dài rồi sau càng nghe nàng nói càng mê

đặc. Giờ thấy nàng toan trở gót về phòng chàng nghĩ bụng: "để cho nàng đi

e rằng không còn dịp nào được gặp mặt nữa thì thật là điều hối tiếc suốt đời.

Ta đành một liều ba bảy cũng liều, tìm cách ngăn trở để nhìn cho thấy mặt

rồi muốn tội tình hay trách mắng gì cũng chịu". Nghĩ vậy chàng bèn lớn

tiếng gọi:

- A Bích cô nương ở lại đây với tôi được không?

Chàng vừa gọi vừa rảo bước đi ra. Thiếu nữ thấy chàng sấn sổ bước tới vội

la lên một tiếng "ô hay" rồi quay đi. Đoàn Dự ở trong bụi cây bưước ra, chỉ

thấy một vị nữ lang mặc áo tơ trắng đang nhìn lên những bông hoa, vẻ

người mềm mại, tóc dài bỏ xuống sau lưng, dùng dây tràng buộc cho gọn.

Đoàn Dự mới trông thấy bóng dáng sau lưng nàng, cốt cách đã ra vẻ thần

tiên, bên mình dường nh có khói mây bao bọc, chứ không ra tuồng khách

tục. Chàng liền vái dài nói:

- Tại hạ Đoàn Dự xin bái kiến cô nương.

Nữ lang dậm chân trái xuống đất gắt:

- A Châu! Các ngươi thật là rắc rối! Ta có chạm mặt với nam giới bên ngoài

bao giờ đâu?

Nói rồi đi thẳng về phía trước. Qua mấy khúc quanh người nàng đã che

khuất vào trong bụi hoa mất rồi. A Bích nhìn Đoàn Dự mỉm cười nói:

- Đoàn công tử! Cô nương này rất khó tính khó nết. Chúng ta chuồn đi thôi.

A Châu cũng mỉm cười nói:

- May nhờ có Đoàn công tử đến giải vây cho không thì thế nào cũng bị

Vương cô nương bắt đưa thư, gửi thiếp rất là phiền phức, có khi nguy hiểm

đến tính mạng chị em tôi nữa.

Đoàn Dự lật đật chạy ra bị nữ lang nói mấy câu làm chàng cụt hứng, tưởng

còn bị A Châu, A Bích oán ghét nữa là khác nào ngờ lại được hai nàng cảm

ơn, thật là một điều không bao giờ nghĩ đến.

Lúc đó ba người đã ra đến chỗ thuyền đậu, A Châu cầm lấy mái chèo toan

bơi thuyền đi thì A Bích nói:

- A Châu tỷ nương! chị em mình không có "bạch y sứ giả" dẫn đường, dễ gì

mà mà biết lối ra? đành là phải ngồi đây chờ cô nương viết xong thư. Chúng

ta bị tình thế bắt buộc dù phu nhân có biết ra cũng không trách chúng ta

được.

A Châu thở dài nói:

- Cái ông sư đó thật là tai hại, nghĩ đến lúc nào lại bực ông ta lúc ấy.

Chưa dứt lời, bất thình lình nổi lên một tiếng hú từ đằng xa đưa lại như tiếng

rồng gấm nghe choáng cả tai.

A Châu, A Bích đều cả kinh thất sắc. Đoàn Dự cũng giật mình lẩm bẩm:

- Tiếng gầm này nghe quen tai. à thôi! chết rồi! Có lẽ là đồ đệ ta, Nam Hải

Ngạc Thần sắp tới. Hừ nhưng quyết không phải lão.

Nguyên lúc buổi đầu Đoàn Dự gặp Nam Hải Ngạc Thần đã nghe tiếng hú

này. Nhng lúc Nam Hải Ngạc Thần đã đến bên chàng mà chàng vẫn còn

nghe tiếng hú râm ran, rồi Nam Hải Ngạc Thần nghe tiếng hú đó hốt hoảng

chạy theo.

Bình nhật đã đành A Bích lúc nào cũng có vẻ mặt lo lắng đáng thương

nhưng A Châu vốn là người hoạt bát lanh lẹ mà lúc đó chân tay cũng luống

cuống, ra chiều sợ hãi vô cùng. A Bích khẽ gọi:

- Đoàn công tử ơi! phu nhân về tới nơi rồi! Bọn ta đành sống thác mặc trời.

Công tử càng tỏ ra vô lễ ngạo ngược với chị em chúng tôi chừng nào càng

được việc chừng ấy.

Đoàn Dự từ khi bỏ Vương phủ lén đi đến nay đã trải bao phen thập tử nhất

sinh, đã bao lần gặp nguy hiểm gian nan, chàng nghĩ thầm: "người ta sống

chết có số, nếu số phải chết thì dù muốn tránh cũng chẳng được nào thì tội

gì mà tỏ ra con người không biết điều đối với hai nàng nhu mì khả ái này?".

Chàng liền mỉm cười nhìn hai nàng nói:

- Thà rằng giữ lễ mà chịu chết còn hơn vô lễ để níu lấy cái sống. Này A

Châu cô nương ơi! cô bảo tôi là đồ gàn thì quả tôi có cái tính gàn dở của kẻ

nhai văn nhấm chữ.

A Châu cũng nhìn chàng thở dài mà kêu trời.

Lúc này trên mặt hồ đã xuất hiện một con thuyền, lướt tới như bay, chớp

mắt đã đến gần tới nơi. Chiếc khoái thuyền này chạm hình đầu rồng, miệng

há hốc ra, trông mà gớm khiếp. Thuyền vừa cập bến, Đoàn Dự bất giác la

lên một tiếng "trời ơi". Nguyên trên sừng rồng chạm đầu thuyền có treo ba

cái đầu lâu lủng lẳng vừa mới chặt ở đâu về, hãy còn đầm đìa những máu,

khiến ai trông thấy cũng phải ghê rợn, không dám nhìn lâu. Những răng

trong miệng rồng nhô ra cũng dính đầy máu tươi.

A Châu khẽ nói:

- Chắc Vương phu nhân giữa đường gặp giặc nên mới về sớm thế này.

Chúng mình thật là xúi quẩy.

Thuyền rồng vừa sắp vào bờ A Châu, A Bích đã đứng dậy khép nép cúi đầu,

vẻ mặt cực kỳ nghiêm cẩn. A Bích nhìn Đoàn Dự luôn luôn ra hiệu cho

chàng đứng dậy. Đoàn Dự chỉ mỉm cười lắc đầu nói:

- Bao giờ phu nhân bước ra đầu thuyền lên tiếng, tôi sẽ đứng lên để tỏ lòng

kính cẩn là được rồi. Ai lại đường đường nam tử trượng phu mà phải khúm

núm bao giờ?

Bỗng thấy tiếng một người đàn bà từ trong thuyền vọng ra:

- Gã trai kia! Mi to gan thật! Sao dám thiện tiện đến Mạn đà sơn trang làm

chi, mi lại không biết bất luận gã đàn ông nào đã vào đây đều bị chặt chân

?

Giọng nói rất oai nghiêm, trong trẻo, ai cũng nghe rõ.

Đoàn Dự đáp:

- Tại hạ là Đoàn Dự, lầm đường lạc vào bảo trang, thực không có ý đường

đột chút nào, xin nghiêng mình tạ lỗi.

Người đàn bà "hừ" một tiếng rồi không nói nữa. Thuyền áp mạn xong, hai ả

tỳ nữ áo xanh ở trong chui ra, một ả phi thân lên sừng rồng, loáng một cái

đã nhấc ba chiếc đầu lâu nhảy xuống rất lẹ làng.

Đoàn Dự thấy hai ả cùng đeo trường kiếm lẩm bẩm: "thị nữ còn lợi hại thế

này thì bà chủ chắc là ghê gớm lắm. Mình cũng chỉ có mỗi cái thủ cấp, cắt

thì cắt phứt đi cho xong". Chàng nghĩ tới câu: "đến chết là cùng", rồi trong

bụng thản nhiên như không.

Người đàn bà lại cất tiếng gọi:

- A Châu, A Bích, hai con nhãi kia cũng đến đó hả? Cái thằng lỏi Mộ Dung

Phục điều hay không học, chỉ chuyên dở cái trò yêu quái.

A Bích thưa:

- Khai bẩm phu nhân! Tiểu tỳ bị kẻ địch đuổi đánh, đêm khuya trời tối đã

lầm đường, vô tình lạc vào đây. Công tử tiểu tỳ ra đi rồi. Việc tiểu tỳ lạc

đến đây, công tử quả không biết tý gì.

Nàng không tỏ vẻ nơm nớp lo sợ thì ra con người ta đã đến cùng đường tự

nhiên đâm liều, nàng cứ thẳng thắn biện bạch.

Tiếng ngọc đeo loảng xoảng vang lên, trong thuyền thị nữ áo xanh xếp hàng

đôi đi ra, lưng đeo trường kiếm, lưỡi kiếm sáng loáng, ánh kiếm lập loè tựa

hoa bay. Bọn này tám đôi, cộng cả hai ả ra trước nữa là mời tám người.

Sau cùng là một vị nữ lang ăn mặc ra kiểu khách cung phi. Đoàn Dự vừa

nhìn thấy tướng mạo nữ lang, không thể nhịn được, bất giác la lên một tiếng

kinh dị, líu cả lưỡi lại, miệng há hốc ra tựa hồ như lạc vào cõi mộng.

Nguyên vị nữ lang này mình mặc áo dài bằng lụa trắng, từ y phục cho đến

đồ trang sức hệt như pho ngọc tượng trong thạch động bên nước Đại Lý. Có

điều nữ lang này tuy đẹp như vậy nhưng đã đứng tuổi trạc độ tứ tuần còn

pho tượng kia là một thiếu nữ chừng 18, 19 tuổi. Đoàn Dự nhìn kỹ lại thì vị

nữ lang này chỉ khác pho tượng ở chỗ nhiều tuổi hơn nên vẻ mặt dầy dạn

phong trần, còn ngoài ra không khác tý gì, càng nhìn lâu lại càng giống hệt,

khác nào bà này là chị mà pho tượng kia là em.

A Châu, A Bích thấy Đoàn Dự cứ giương mắt nhìn phu nhân trừng trừng có

vẻ cực kỳ vô lễ, trong lòng đều ngấm ngầm kinh sợ, luôn luôn giơ tay ra

hiệu nhắc chàng đừng nhìn nữa. Nhưng mắt chàng tựa hồ dán chặt vào mặt

phu nhân.

Hoi 30 Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa

Vương phu nhân nói:

- Gã này vô lễ. Trước hết chặt chân gã rồi sẽ móc mắt và cắt lưỡi gã đi.

Một ả thị nữ cao lớn, nước da ngăm ngăm khom lưng đáp:

- Xin vâng!

Đoàn Dự lo thầm: "họ làm thế này thì giết mình đi còn hơn". Đằng này họ

chặt chân, móc mắt, cắt lưỡi, sống không sống được, chết chẳng chết cho,

cái đó mới thực khổ cho mình". Đến bây giờ chàng quả thấy trong lòng sợ

hãi. chàng quay đầu lại nhìn A Châu, A Bích một lần nữa thì thấy hai mặt

xám như gà cắt tiết, người đứng đờ ra như tượng gỗ.

Phu nhân lên bờ rồi, hai tên thị nữ áo xanh ở thuyền ra sau rốt, trong tay

đều cầm đầu dây lôi một chàng thanh niên mi thanh, mục tú, có vẻ là con

nhà giàu sang và một người nữa, ngoại hiệu là Nộ Giang Vương Tần

Nguyên Tôn. Lúc Tần đến vây đánh Mộc Uyển Thanh thì oai phong là thế

mà bây giờ bị trói chặt, lão cúi gầm mặt xuống chẳng khác gì cái xác không

hồn hay như cá nằm trên thớt tuỳ người muốn băm vằm mổ xẻ gì thì làm.

Đoàn Dự rất lấy làm kỳ tự hỏi: "ông này ở Vân Nam sao cũng bị Vương

phu nhân bắt về đây?".

Bỗng nghe Vương phu nhân quay sang hỏi Tần Nguyên Tôn:

- Rõ ràng mi là người nước Đại Lý, làm sao không chịu nhận đi?

Tần Nguyên Tôn đáp:

- Tôi ở Vân Nam, quê quán tôi không thuộc về nước Đại Lý.

Vương phu nhân lại hỏi:

- Nhà ngươi cách nước Đại Lý bao xa?

Tần Nguyên Tôn đáp:

- Hơn bốn trăm dặm.

Vương phu nhân nói:

- Chưa đầy năm trăm dặm, thế cũng là người Đại Lý rồi. Đem y chôn sống

dưới gốc Mạn đà la để bón cho cây.

Tần Nguyên Tôn kêu lên:

- Nhưng tôi phạm tội gì mới được chứ? Nếu không nói rõ thì chết cũng

không nhắm mắt.

Vương phu nhân cười lạt đáp:

- Cứ là người Đại Lý hoặc người họ Đoàn mà gặp ta là ta chôn sống, chỉ có

thế thôi. Tuy ngươi không phải ở Đại Lý, nhưng là người lân cận nước Đại

Lý thì cũng thi hành như nhau.

Đoàn Dự lẩm bẩm: à ra mụ này nói có vẻ châm chọc mình. Ta chẳng cần

chờ mụ hỏi, cứ nhận trước đi cho rồi. Nghĩ vậy chàng lớn tiếng nói:

- Ta là người nước Đại Lý, lại chính trong họ Đoàn. Ngươi muốn chôn sống

ta thì hạ thủ ngay đi!

Vương phu nhân lạnh lùng nói:

- Ngươi đã báo danh rồi. Tên là Đoàn Dự chứ gì? được lắm! Người họ Đoàn

nước Đại Lý đâu có được chết dễ dàng thế?

Phu nhân vẫy tay một cái, tên thị nữ kéo Tần Nguyên Tôn đi. Nhưng Tần

vừa bị điểm huyệt vừa bị trọng thương, không sao kháng cự được, lão kêu to

lên:

- Thế gian sao lại có cái luật lệ kỳ dị như vậy? Mấy trăm vạn nhân dân nước

Đại Lý liệu có giết hết được không?

Lão kêu gào thế nào cũng mặc, thị nữ lôi tuột lão đi vào rừng trà mỗi lúc

một xa, tiếng la cũng nhỏ dần. Phu nhân nghiêng đầu đi một chút nhìn

chàng thanh niên mày thanh, mắt sáng hỏi:

- Mi có điều chi muốn nói nữa chăng?

Chàng thanh niên vội quỳ rạp xuống đất, dập đầu lạy luôn mấy cái nói:

- Gia phụ làm quan tại triều, dưới gối chỉ có mình tôi là con. Xin phu nhân

tha mạng cho. Dù phu nhân muốn điều chi, gia phụ cũng nhất định vâng

theo.

Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

- Cha mi làm quan lớn trong triều, lẽ nào ta không biết? Ngươi muốn sống

cũng chẳng khó gì. Chỉ có điều hôm nay mi phải về nhà giết vợ con đi, rồi

sáng mai đem đủ sáu lễ cưới Miêu thị là người đã có tư tình với mi. Mi có

bằng lòng không?

Chàng thanh niên đáp:

- Về việc đang tay... chém giết vợ con, tôi không dám làm. Còn việc cho

mối lái và cưới xin đàng hoàng để lấy Miêu thị thì song thân tôi nhất định

không chịu. Không phải là tôi...

Chàng chưa dứt lời phu nhân đã ra lệnh:

- Đem gã chôn sống đi!

Tên thị nữ dắt chàng lúc nãy chỉ "vâng" một tiếng rồi kéo chàng đi.

Chàng thanh niên sợ run bắn người vội nói:

- Tôi... tôi xin tuân mệnh.

Vương phu nhân nói:

- Tiểu Thuý! Mi áp giải gã về thành Cô Tô và chính mắt mi phải nhìn thấy

rõ gã ra tay giết vợ, cùng Miêu cô nương thành thân rồi hãy về đây phục

mệnh.

Tiểu Thuý vâng lời, lôi chàng bỏ xuống chiếc thuyền nhỏ Đoàn Dự đang

ngồi. Chàng thanh niên miệng vẫn năn nỉ:

- Xin phu nhân mở lượng từ bi, phu nhân không có thù oán gì với vợ tôi, lại

không quen biết Miêu cô nương. Tôi cũng chưa từng quen biết phu nhân, hà

tất phu nhân bắt tôi giết vợ để lấy người khác làm chi? Từ nay tôi không

dám làm điều gì để đắc tội với phu nhân.

Vương phu nhân nói:

- Mi đã có vợ con, sao còn đi dùng lời ngon ngọt để chàng màng với các cô

gái khác? Ta không biết thì thôi, một khi đã biết ra ta đều xử theo đường lối

này. Vả mi có phải mới phạm một lần này mà thôi đâu? Còn oán hận gì

nữa? Tiểu Thuý vụ này là vụ thứ mấy rồi hả?

Tiểu Thuý đáp:

- Những chỗ tiểu tỳ quen biết như những vụ xảy ra ở Đan Dương, Vô Tích,

Gia Hưng cả thảy bảy vụ. Còn những vụ nào nữa thì phu nhân hỏi Tiểu Lan,

Tiểu Thi sẽ rõ.

Chàng công tử nghe mà bủn rủn cả người, luôn miệng kêu than.

Tiểu Thuý buông mái chèo, bơi thuyền đi luôn.

Đoàn Dự thấy Vương phu nhân hành động cực kỳ khốc liệt, không đếm xỉa

đến lý lẽ thì miệng há hốc ra, mắt mở trừng trừng như người sắp nổi cơn

điên. Trong lòng chàng vẫn quanh quẩn với ý nghĩ: "sao lại có con người vô

lý đến như thế?". Bất giác chàng buột miệng la lên:

- Có lý nào thế được? Có lý nào thế được?

Phu nhân "hừ" một tiếng rồi nói tiếp:

- Mi còn hỏi việc thiên hạ có lý nào thế được ? Này này ta bảo còn nhiều

việc hơn thế nữa là khác.

Đoàn Dự vừa thất vọng lại vừa khó chịu. Chàng nhớ lại bữa trước chàng vào

thạch động gần sông Thương Lan, thấy pho tượng thần tiên mà chàng xiết

bao ngưỡng mộ, bây giờ chàng thấy Vương phu nhân tướng mạo giống pho

ngọc tượng như đúc mà hành vi chẳng khác gì yêu ma quỷ quái.

Đoàn Dự đang cúi đầu lầm lỳ chán nản thì bốn con nữ tỳ chui vào thuyền bê

ra bốn chậu hoa. Chàng vừa trông thấy, tự nhiên tinh thần lại thấy phấn

khởi. Nguyên bốn chậu hoa này đều là những thứ sơn trà rất hiếm. Khắp

thiên hạ đều ca tụng sơn trà Đại Lý là quý hơn hết. Trong phủ Trấn Nam

Vương không biết bao nhiêu là sơn trà có danh tiếng thì bốn chậu trà này

cũng đứng vào hàng nhất trong phủ. Từ thuở nhỏ Đoàn Dự xem trà đã quen.

Lúc rồi chàng thường ngồi nghe thợ làm trà bàn tán phê bình về tính chất

cùng ưu liệt điểm của từng thứ trà. Chàng không học tập nghề trồng trà

nhưng trong lòng cũng thuộc như cháo, khác nào con nhà nông phân biệt

lúa má hay con cháu ngư ông sành sỏi về các loại cá tôm? Lúc trước chàng

đã đi lại mấy dặm để ngắm xem rừng trà mà chưa thấy có một gốc trà nào

vào hàng giai phẩm, trong lòng chàng đã nghĩ đến cái tên "mạn đà sơn

trang" đặt cho khu trại này thật uổng.

Bỗng nghe Vương phu nhân gọi:

- Tiểu Trà! Bốn chậu trà "mãn nguyệt" này khó kiếm lắm đấy! Mi phải

trông nom chăm chút nghe!

ả thị nữ tên gọi Tiểu Trà đáp:

- Vâng!

Đoàn Dự nghe giọng hách dịch kiêu điệu thì hề hề cười lạt. Vương phu

nhân không thèm nói gì đến chàng lại dặn tiếp:

- Đi trên mặt hồ gió to, bốn chậu trà để luôn trong thuyền mấy ngày, thiếu

ánh mặt trời chiếu vào, mi phải đem ra phơi nắng và gia công bón vào.

Tiểu Trà lại "vâng" một tiếng.

Bây giờ thì Đoàn Dự lớn tiếng cười ha hả. Vương phu nhân nghe tiếng cười

có vẻ hỗn xược hỏi:

- Mi cười gì?

Đoàn Dự đáp:

- Ta buồn cười cho mi đã chẳng biết tý gì về sơn trà lại ưa trồng trà. Những

thứ trà quý thế kia lọt vào tay ngươi thật là uổng, chẳng khác gì chim cú đậu

cành mai.

Vương phu nhân nổi giận nói:

- Mi bảo ta không hiểu sơn trà, dễ thường cái ngữ mi hiểu được chăng?

Rồi dường như phu nhân sực nhớ ra điều gì lẩm bẩm: ừ mà gã này là con

cháu họ Đoàn nước Đại Lý, không chừng gã hiểu sơn trà cũng nên. Nghĩ

vậy thì nghĩ nhưưng phu nhân vẫn ra vẻ kiêu kỳ:

- Mi không nghe nói bản trang đây xưng danh "mạn đà sơn trang" hay sao?

Và không thấy khắp sơn dã trà mạn đà chỗ nào cũng tốt như rừng đấy ?

Đoàn Dự cười lạt đáp bằng giọng khinh khỉnh:

- Tuồng chi rừng mạn đà của ngươi chẳng khác chi giống người vai u thịt

bắp, vứt đâu mà chẳng to chẳng lớn? Ta nói là nói bốn chậu chà này này,

nếu ngươi trồng được nó tươi tốt thì ta quyết không phải người họ Đoàn.

Vương phu nhân vốn rất ưa hoa trà, không kể tốn phí, đi tìm khắp nơi để

mua giống quý nhưng cứ đem về Mạn đà sơn trang trồng thì các thứ trà

hiếm có chỉ được một năm hay dăm bảy tháng rồi sinh bệnh mà chết. Phu

nhân thường buồn phiền về những vụ này. Giờ thấy Đoàn Dự nói vậy,

không giận mà lại mừng thầm, tiến lại hai bước hỏi:

- Bốn chậu trà này có gì đặc biệt? Muốn trồng cho tươi tốt phải làm thế

nào?

Đoàn Dự nói:

- Nếu ngươi muốn thỉnh giáo thì phải có đủ lễ nghi, còn người muốn làm

oai làm phước thì chặt chân ta trước rồi hỏi cũng chưa muộn mà.

Vương phu nhân tức mình nói:

- Mi muốn chặt chân phỏng có khó gì? Tiểu Thi đâu! Mi đem chặt chân trái

gã đi nghe!

ả nữ tỳ tên gọi Tiểu Thi "vâng" một tiếng rồi chống kiếm bước ra.

A Bích vội la lên:

- Thưa phu nhân! Không nên chặt chân Đoàn quân. Cậu là người rất quật

cường, thà chết chứ không chịu nói đâu.

Thực ra Vương phu nhân cũng chỉ hăm doạ chàng mà thôi, liền giơ tay trái

lên, Tiểu Thi vội dừng bước.

Đoàn Dự cười nói:

- Sao không chặt hai chân ta để chôn bên gốc bốn khóm bạch trà này để bón

cho tốt? Bốn khóm trà này quý vô cùng, hoa nó lớn bằng miệng bát chậu.

Ha ha thật là thứ trà rất đẹp, rất quý.

Trong lòng Vương phu nhân chỉ mong có thứ trà quý nhưng nghe giọng lưỡi

chàng toàn là bướng bỉnh, phu nhân không biết nói thế nào, ngẫm nghĩ hồi

lâu rồi bảo:

- Mi chỉ toàn nói ba hoa. Ta hỏi mi: bốn chậu bạch trà của ta quý thì quý ở

chỗ nào? Mi nói cho ta nghe thử! Nếu đúng ta sẽ theo lễ đối đãi với mi cũng

chưa muộn.

Đoàn Dự đáp:

- Vương phu nhân! Ngươi bảo bốn chậu bạch trà này tên là "mãn nguyệt" là

láo toét. Một thứ tên gọi "Hồng trang tố lý", một thứ là "trảo phá mỹ nhân

kiểm"...

Phu nhân lấy làm lạ ngắt lời:

- "Trảo phá mỹ nhân kiểm"? tên trà gì mà kỳ thế? Vậy chậu trà nào có tên

thế?

Đoàn Dự nói:

- Ngươi muốn thỉnh giáo ta thì phải theo đúng lễ ta mới chỉ bảo cho.

Vương phu nhân không biết làm thế nào nhưng thấy mình vô tình lấy được

mấy khóm trà có những tên đặc biệt trong lòng hớn hở vui mừng liền mỉm

cười nói:

- Hay lắm! Tiểu Thi đâu! Mi bảo nhà bếp sửa tiệc tại lầu Vân Cẩm để ta

khoản đãi Đoàn tiên sinh nghe!

Tiểu Thi vâng dạ đi ngay. A Châu, A Bích chỉ nhìn nhau. Hai nàng thấy

Đoàn Dự chẳng những không chết lại còn được Vương phu nhân tiếp đãi

vào hạng thượng tân thì khác nào như mơ mộng.

Phu nhân quay lại dặn ả thị nữ cầm ba cái đầu lâu:

- Mi đem ba cái thủ cấp này chôn xuống bên khóm hoa hồng trước lâu

Hồng Hà.

Thị nữ vâng lệnh đi ngay, Vương phu nhân quay lại nói với Đoàn Dự:

- Nào xin mời Đoàn công tử lên đây!

Đoàn Dự đáp:

- Vãn sinh mạo muội! Xin hiền chủ nhân thứ lỗi.

Vương phu nhân nói:

- Đại hiền giá lâm khác nào rồng đến nhà tôm?

Hai người vừa đối đáp những câu khách sáo vừa đi rất ung dung, khác hẳn

lúc nãy, tính mạng Đoàn công tử dường như ngàn cân treo đầu sợi tóc. A

Châu, A Bích theo sau. Hai người biết tính Vương phu nhân hốt hỷ hốt nộ,

nói cười đấy rồi trở mặt ngay đấy nên trong lòng vẫn phập phồng lo sợ.

Vương phu nhân dẫn Đoàn Dự đi qua một chiếc cầu đá, theo con đường

chật hẹp đến trước một toà lầu nhỏ. Đoàn Dự ngẩng đầu lên trông thấy dưới

mái hiên có treo tấm biển đề ba chữ vàng: "Vân Cẩm lâu". Bốn mặt toà lầu

này trồng toàn hoa trà. Những bông trà ở đây đem so với trà bên Đại Lý chỉ

đáng đứng vào hàng thứ ba, thứ tư trở xuống. Đình tạ, lầu các cực kỳ lịch sự

mà cỏ hoa lại tầm thường nên mất cả vẻ tương xứng.

Vương phu nhân lộ vẻ đắc ý hỏi Đoàn Dự:

- Đoàn công tử! Bên quý quốc nhiều trà thật nhưng có lẽ còn thua bên này.

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Vâng! bên Đại Lý quả không trồng những thứ trà này.

Vương phu nhân lại càng tự đắc hỏi:

- Vậy ?

Đoàn Dự đáp:

- Vì bên nước tôi từ kẻ dân dã, ngu phu tục tử cũng rất sành về các loại trà.

Họ cho trồng những thứ trà tạp nham này làm cảnh chơi sẽ làm mất cả

phẩm giá con người.

Vương phu nhân tức thời biến sắc hỏi:

- Công tử nói sao? Những trà của ta đây là những thứ không ra gì? Thế thì

công tử khinh người quá!

Đoàn Dự đáp:

- Phu nhân không tin tôi thì đó là quyền của người.

Chàng vừa nói vừa chỉ một khóm hoa trà có vân ngũ sắc trước lầu nói tiếp:

- Tỷ như khóm trà này phu nhân cho là quý lắm! Chà cái lan can bên cạnh

mới thực là đẹp. Chàng tấm tắc khen cái giàn hoa đẹp còn chính cây hoa lại

không đếm xỉa gì đến, có khác gì người bình phẩm chữ viết chỉ khen mực

đen bóng mà không đả động đến nét chữ. Khóm hoa trà này có bông hồng,

bông trắng, bông tía, bông vàng rất là sặc sỡ, trước nay Vơng phu nhân

vẫn cho là quý báu lắm giờ xem Đoàn Dự có ý mỉa mai thì tỏ vẻ không

bằng lòng.

Đoàn Dự hỏi:

- Thưa phu nhân! Miệt Giang Nam gọi tên thứ hoa này là gì?

Vương phu nhân đáp:

- ở đây không có tên riêng, chỉ gọi là ngũ sắc trà hoa.

Đoàn Dự nói:

- Bên Đại Lý chúng tôi gọi nó là "lạc đệ tú tài".

Vương phu nhân bĩu môi nói:

- Tên gì mà khó nghe thế? Chẳng qua là công tử muốn đặt ra vậy thôi.

Khóm hoa này đủ mầu mỹ lệ đường hoàng, có vẻ gì gọi là cậu tú hỏng thi

đâu?

Đoàn Dự nói:

- Phu nhân thử đếm coi! Khóm trà đó có bao nhiêu kiểu hoa khác nhau?

Vương phu nhân đáp:

- Ta đã đếm rồi! ít ra cũng có đến 15, 16 thứ.

Đoàn Dự nói:

- Cả thảy có 17 thứ mới đúng. Bên Đại Lý tôi có thứ trà kêu bằng "thập bát

học sĩ". Đó là thứ quý nhất thiên hạ. Cả khóm có 18 bông mà mầu sắc

không bông nào giống bông nào: hồng thì toàn hồng, tía cũng toàn tía, chứ

không hỗn tạp. Về hình dạng cũng khác nhau, mỗi bông có một vẻ đẹp

riêng. Cả 18 bông nở cùng một lúc, tàn tạ cũng trong một giờ. Phu nhân đã

được xem chưa?

Vương phu nhân lắc đầu đáp:

- Thiên hạ có thứ trà quý thế kia ? Tôi chưa từng nghe thấy ai nói đến.

Đoàn Dự lại nói tiếp:

- Sau hạng "thập bát học sĩ", còn có những thứ kém đi từng bậc một, tỷ như

"bát tiên quý hải", một gốc sinh ra tám bông hoa khác nhau, "thất tiên nữ"

có bảy bông, "phong trần tam hiệp" có ba bông, "nhị kiều" có hai bông một

trắng một hồng. Tất cả các bông hoa phải thuần một sắc, nếu hoa hồng có

pha mầu trắng, hoặc hoa trắng có pha sắc tía đều là hạng kém.

Vương phu nhân vừa nghe vừa gật đầu. Đoàn Dự lại nói tiếp:

- Riêng về thứ "phong trần tam hiệp" lại chia ra làm hai: hạng chánh và

hạng phó. Trong ba bông thì bông tía phải lớn hơn hết tợng trưng cho Cầu

nhiêm Khánh, bông trắng thứ nhì tượng trưng cho Lý Tĩnh, bông hồng đẹp

và nhỏ nhất tượng trưng cho Hồng phất Nữ. Nếu bông hồng lớn hơn hai

bông kia là hạng phó, như thế là giá trị kém đi nhiều.

Vương phu nhân ngồi nghe ra chiều thú vị, than rằng:

- Ngay hạng phó tôi cũng chưa được thấy qua chứ đừng nói đến hạng chánh.

Đoàn Dự lại trỏ thứ trà bông ngũ sắc phê bình:

- Luận về tư cách loại này so với "thập bát học sĩ" thì còn thiếu một bông,

ngoài ra các mầu sắc lại còn bác tạp, không được thuần nhất, bông to bông

nhỏ, hay nở sớm, nở muộn không đều phỏng có khác chi bì phấn với vôi? tỷ

như sĩ tử văn bài kém cả phân điểm, lẽ tất nhiên thi rớt nên mới có cái tên

"Lạc đệ tú tài".

Vương phu nhân nghe có lý thích quá, bật cười nói:

- Kể ra đúng đấy. Nhưng cái tên có vẻ mỉa mai khinh bạc.

Vương phu nhân nghe tới đây biết Đoàn Dự rất sành sỏi về sơn trà đem lòng

tín phục. Phu nhân dẫn chàng lên lầu "cẩm vân", chẳng mấy chốc đã thấy

gia nhân bày tiệc rượu. Các món ăn của A Bích mời chàng thì lấy sự đơn

giản tinh khiết, khéo tay khéo chân làm sở trường còn tiệc của Vương phu

nhân lại chú trọng về những món ăn trân tu làm sang. Nhưng Đoàn Dự đã

sinh trưởng ở nơi Đế Vương đài các nên thứ gì chàng cũng coi là thường,

chàng có vẻ thích những món ăn của A Bích hơn.

A Châu, A Bích được các tỳ nữ bồi tiếp và ăn uống riêng biệt ở chỗ khác.

Vương phu nhân đối với Đoàn Dự rất mực cung kính. Bà ngồi chỗ dưới để

bồi tiếp chàng. Rượu đã ba tuần Vương phu nhân hỏi:

- Vừa rồi công tử cho nghe những lời bình phẩm xác đáng về các thứ trà tôi

rất đồng ý, còn bốn chậu trà tôi mới lấy về đây thì những thợ trồng hoa ở

đất Cô Tô này kêu bằng trà "mãn nguyệt" mà công tử lại bảo một chậu là

"Hồng trang tố lý", một chậu "mỹ nhân trảo phá kiếm", vậy có những điểm

nào để phân biệt? Xin công tử nói rõ cho biết!

Đoàn Dự nói:

- Chậu hoa trắng mà lớn có vân đen nho nhỏ mới kêu là "mãn nguyệt"

những vân đen đó tượng trưng các cành quế ở cung trăng. Chậu hoa cánh

trắng mà có vân hồng gọi là "hồng trang tố lý". Cánh trắng mà có điểm một

tia đỏ nhỏ như sợi tơ là "mỹ nhân trảo phá kiếm". Thứ giống như "mỹ nhân

trảo phá kiếm" nhưng cánh có nhiều tia hồng thì gọi là "ỷ lan kiều". Phu

nhân thử nghĩ coi: đã là mỹ nhân thì phải thuần nhã ôn nhu, trên má lỡ tay

cào toạc ra một dây máu thì chả hại gì nhưng khắp mặt sây xát, tỏ ra đã bao

phen cùng người xô xát thì còn đâu là vẻ mỹ nhân?

Vương phu nhân đang chăm chú nghe, thốt nhiên sa sầm nét mặt quát lên:

- Quân này to gan thật! Mi dám mạt sát ta ?

Đoàn Dự cả kinh:

- Khi nào tôi dám thế? Tôi có mạo phạm phu nhân ở chỗ nào đâu?

Vương phu nhân hỏi:

- Ngươi nghe ai sai khiến đến đây nói hươu nói vượn để nhục mạ ta? Ai bảo

mi đàn bà học võ công là mất vẻ mỹ miều? Nhuần nhã ôn nhu thì đã hơn ai?

Đoàn Dự giật mình đáp:

- Vãn sinh nói đây chỉ là theo lẽ thông thường. Thiếu gì đàn bà con gái giỏi

võ mà vẫn kiều diễm đoan trang?

Không ngờ câu nói này đã làm cho Vương phu nhân chối tai hơn. Bà hỏi

vặn:

- Ta có đoan trang hay không?

Đoàn Dự đáp:

- Đoan trang hay không thì phu nhân tự biết, vãn sinh đâu dám nói càn. Đại

khái những việc như bắt người ta giết vợ để đi lấy vợ khác người đoan trang

không làm.

Chàng nổi cơn bực tức nên mấy câu sau chàng không kiêng nể gì nữa.

Vương phu nhân khẽ đập tay ba cái, ba ả thị nữ vội chạy lên lầu, bỏ thõng

tay đứng chờ lệnh. Vương phu nhân nói:

- Bọn mi dẫn tên này đi tưới hoa.

Bọn thị nữ vâng lời. Phu nhân quay lại bảo Đoàn Dự:

- Ngươi đã ở nước Đại Lý, lại là người họ Đoàn đáng chết lắm nhưng hiểu

biết tính chất các loại trà vậy ta hãy tạm để tội chết lại, phạt ngươi phải

trông nom bón tưới những khóm trà ở xung quanh trang, nhất là bốn chậu

trà mới lấy về, lại càng phải trông nom cẩn thận. Ta bảo cho ngươi biết

trước nếu trong bốn khóm trà này mà ngươi để chết một khóm sẽ bị chặt

một tay, chết hai khóm sẽ bị chặt hai tay, chết hết bốn khóm thì chân tay sẽ

bị chặt hết đó.

Đoàn Dự cười nói:

- Còn trường hợp bốn khóm trà sống cả thì sao?

Vương phu nhân đáp:

- Nếu bốn khóm trồng được tơi tốt cả thì ngươi phải kiếm những giai phẩm

như "thập bát học sĩ", "bát tiên quá hải", "Thất tiên nữ", "nhị kiều" mỗi thứ

mấy cây, không kiếm được cho ta sẽ bị móc mắt.

Đoàn Dự nói:

- Thế thì mụ giết quách ta đi còn hơn. Hôm nay chặt tay, ngày mai móc

mắt, ta chịu sao nổi?

Vương phu nhân quát mắng:

- Tên này giỏi thật, trước mặt ta mà dám buông lời càn rỡ! Chúng bay lôi cổ

nó đi!

Ba ả thị nữ chạy lại, hai ả túm đằng trước, còn một ả phía sau đẩy đi. Ba ả

này đều có võ, Đoàn Dự không thể kháng cự lại được đành để bọn thị nữ

kéo xuống lầu, đưa đến một chỗ trong vườn hoa. Một ả đa cho chàng cái

xuổng xới đất, một ả lấy cho chàng cái bình tưới và bảo chàng:

- Ngươi đã nghe rõ lời phu nhân dặn bảo. Thôi chịu khó ở đây trồng cây

tưới hoa để bảo toàn sinh mạng. Thế là đại phước lắm đó. Những chàng trai

đã đặt chân lên Mạn đà sơn trang chưa có ai sống mà trở về đấy nhé.

Một ả nữa nói:

- Ngươi chỉ biết việc ở đây trồng tỉa sơn trà, đừng len lỏi vào các nơi cấm

địa mà nguy đó! Nếu không nghe lời ta tức là tự đi tìm lấy cái chết không ai

cứu được đâu.

Ba ả thị nữ dặn dò cẩn thận rồi mới bỏ đi. Đoàn Dự đứng thừ người ra,

chàng lâm vào tình trạng khóc dở mếu dở. Tại nước Đại Lý chàng ở vào địa

vị thế tử, phụ thân chàng là Trấn Nam Vương, một ngày kia lên kế vị Bảo

Định Đế, thì tự nhiên chàng lên bậc Hoàng thái tử, có ngờ đâu bị người bắt

đem xuống Giang Nam định đốt, định giết, toan chặt chân tay, móc mắt.

Rồi bây giờ bị người bắt ép làm kẻ trồng cây tưới hoa. Tuy nhiên tính chàng

bình dị vui vẻ, lúc ở nhà tại hoàng cung cũng như ở Vương phủ thường nhật

chàng vẫn xem thợ sửa hoa cắt cỏ, xới đất bón cây rồi cùng bọn thợ cười

cười nói nói. Chàng đang ở địa vị công tử vương tôn, giờ phải xuống làm

nghề hạ tiện nhưng may chàng vốn tính linh lợi vui tươi nên dù gặp nghịch

cảnh đầy đoạ chàng có âu sầu chăng nữa cũng chỉ được một lúc rồi lại cao

hứng như thường. Chàng lại khai thác nguồn hứng thú ở ngay cái việc hiện

tại đang đẩy vô mình. Chàng lý luận: lúc ta vào thạch động đã hạ bái thần

tiên tỷ nương nhận làm thầy. Nay Vương phu nhân tướng mạo giống thần

tiên tỷ nương, bất quá phu nhân nhiều tuổi hơn mà thôi, thế thì ta thờ phu

nhân làm sư phụ cũng được chứ sao? Sư phụ đã ra mệnh lệnh, đạo làm đệ tử

là phải vì thầy xuất lực có chi quá đáng? huống chi trồng hoa là công việc

thanh nhã của bọn văn nhân so với việc khai thương múa đao học võ thì

trồng hoa còn cao thượng hơn nhiều. Thoát khỏi tay Cưu Ma Trí định đem

mình đốt sống trước mộ Mộ Dung tiên sinh để được ra đây làm cái việc

trồng hoa khoái lạc này là vinh hạnh lắm rồi. Chỉ đáng tiếc có một điều là

các loại trà hoa kém cỏi này mà phải dùng đến vương tử nước Đại Lý ra tay

trồng tỉa kể cũng hơi phí. Lý luận hồi lâu lòng chàng khoan khoái, miệng

bật lên khúc hát vang lừng, vác xuổng cất bước. Chàng tự nhủ thầm: "Vương

phu nhân giao cho ta cái trọng trách phải trồng cho đặng sống bốn bồn bạch

trà này phải lắm! Trà này cũng vào hạng có tên tuổi rồi đây, phải được tay

văn nhã như mình trồng mới thành thân". Đoàn Dự vừa đi vừa ngắm phong

cảnh đột nhiên chàng cười ha hả nghĩ bụng: "Vương phu nhân kể ra cũng

kỳ, chẳng hiểu mảy may gì về sơn trà mà lại ưa trà hoa, chỗ nào cũng trồng

trà, rồi lại đặt tên cho trang trại của mình là Mạn đà sơn trang, nghe ra có

vẻ hay ho lắm. Phu nhân có biết đâu rằng trà ưa khí âm chứ không hợp với

khí dương. Trồng trà vào nơi giải nắng thì chẳng chết cũng chột, khó lòng

tơi tốt được, vun bón thế nào cũng vô ích. Biết bao nhiêu thứ trà quý để

phu nhân làm hỏng hết. Đáng tiếc, đáng tiếc!". Chàng tránh những lối nắng

chang chang tìm vào những nơi rậm rạp âm u, đi quanh hết hòn núi nhỏ

bỗng nghe tiếng suối khe róc rách, bên tả toàn là trúc mọc xanh rì, bốn bề

tịch mịch, mặt trời không chiếu vào đến nơi, đúng là khu âm trái núi.

Vương phu nhân thấy nơi này đất cớm cho là không thể trồng hoa được nên

tuyệt không có một gốc trà nào. Đoàn Dự cả mừng lẩm bẩm: "chỗ này trồng

trà tuyệt diệu". Đoạn chàng rảo bước quay về chỗ cũ bưng hai chuyến, bốn

chậu trà đến đó. Chàng khoét lỗ bên cạnh khóm trúc, ghè cho vỡ chậu sành

rồi đặt cả bầu xuống. Tuy chàng chưa làm qua công việc trồng tỉa nhưng đã

được xem nhiều, cứ theo cách thức mà làm cho được chu đáo. Hồi lâu

chàng trồng xong cả bốn khóm bạch trà ngay cạnh rặng trúc: đầu bên trái là

khóm "Trảo phá mỹ nhân kiểm", đầu bên hữu hai khóm "hồng trang tố lý"

và "mãn nguyệt", còn khóm "ỷ lan kiều" thì trồng chênh chếch mé sau khối

đá lớn bên bờ suối cho hợp với câu:

E thẹn ôm đàn che nửa mặt

Ai kêu ai gọi cũng mần thinh

Đoàn Dự rất đắc ý đã trồng khóm "ỷ lan kiều" vào nơi nửa kín nửa hở cho

hợp cảnh và tăng thêm vẻ đẹp.

Người Trung Quốc từng đem hoa ví với mỹ nhân, việc trồng hoa cũng như

việc trang điểm cho mỹ nhân.

Đoàn Dự xuất thân tại chốn hoàng cung, đọc thi thư từ thuở nhỏ, cách thức

trồng cây cỏ cũng hơn người một bậc. Trồng xong bốn khóm hoa chàng

xuống suối rửa sạch chân tay ngồi sau phiến đá lớn ngắm nghía khóm "ỷ lan

kiều" lấy làm khoái chí. Bỗng nghe có tiếng chân bước sột soạt, hai thiếu nữ

ngang qua, một cô nói:

- Chỗ này tịch mịch, không có ai qua lại...

Đoàn Dự thoáng nghe đã giật nảy mình vì chàng nhận ra vị nữ lang mặc áo

trắng lúc trước. Đoàn Dự nín hơi, không dám ho he một tiếng, nghĩ bụng:

"nàng đã bảo không nhìn mặt chàng trai nào không có liên quan gì tới nàng.

Ta chỉ cần nghe nàng nói mấy câu phỏng có khác gì được nghe giọng ca

nhạc của tiên nương, cũng đã phúc lắm rồi. Nhất quyết ta phải cố giữ cho

nàng không trông thấy mình mới được. Chàng chỉ ngấp nghe nhìn chênh

chếch chứ không dám nhìn thẳng mặt. Chàng vừa nghiêng đầu nghẹo cổ

nhìn trộm vừa sợ đụng chạm phát ra tiếng làm kinh động nữ lang.

Nữ lang tiếp tục nói chuyện với thị tỳ:

- Tiểu Thi! Mi được tin gì về chàng?

Đoàn Dự nghe hỏi bất giác chua xót trong lòng. Chàng biết rằng tiếng

"chàng" mà nữ lang gọi đó là chỉ công tử Mộ Dung. Chàng đã nghe Vương

phu nhân gọi gã bằng tên là Mộ Dung Phục mà thôi. Chàng lại thấy nữ lang

hỏi vặn thị tỳ về tin tức công tử Mộ Dung có vẻ thiết tha mong nhớ. Chàng

nghĩ thầm: "Giả tỷ cô nương này đối với mình tha thiết như vậy thì dù mình

có phải chết ngay tức khắc cũng rất vui lòng. Nực cười Đoàn Dự là một gã

si tình lạ lùng. Nào chàng đã được nhìn rõ mặt nữ lang áo trắng đâu, chẳng

biết nàng đẹp hay xấu, chẳng hiểu tên họ nàng là gì, chẳng rõ nàng hiền

lành hay hung dữ tính tình nàng tốt hay xấu. Từ lúc Đoàn Dự mới nghe

tiếng nữ lang áo trắng nói vài câu ngoài bờ hồ ban nãy chàng đã nặng tình

rồi. Giả tỷ chàng có vì nàng mà phải hy sinh tính mạng cũng không ăn năn

hối hận chút nào. Tại sao chàng đã nẩy ra tâm ý như vậy chính chàng cũng

không hiểu nữa. Chàng thấy nàng bất cứ lúc nào hay chỗ nào cũng chỉ bàn

tới việc công tử Mộ Dung thì chàng hoặc ngưỡng mộ nàng hoặc tự thương

cho mình.

Nghe thiếu nữ hỏi, Tiểu Thi ấp úng hồi lâu, dường như sợ không dám nói

thẳng. Nữ lang giục:

- Mi nói mau đi! không bao giờ ta quên lòng tốt của mi.

Tiểu Thư vẫn ngần ngừ:

- Cháu sợ... cháu chỉ sợ... phu nhân trách phạt.

Nữ lang tức mình hăm doạ:

- Con này điên hả? Mi cứ nói cho ta hay. Dĩ nhiên là ta không kể với phu

nhân đâu. Nếu mi không nói ta hỏi Tiểu Trà, Tiểu Thuý sẽ biết, sau phu

nhân có hỏi đến ta sẽ đổ cho mi mách ta đó!

Tiểu Thi hốt hoảng hỏi lại:

- Tiểu thư! Sao tiểu thư... lại chực đổ oan cho cháu?

Nữ lang cười đáp:

- Có gì là lạ? Kẻ nào làm tâm phúc cho ta dĩ nhiên ta phải nâng đỡ và hộ vệ

nó. Đứa nào không chịu nghe lời ta thì ta đổ tội cho chứ sao?

Tiểu Thi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:

- Thôi cháu đành nói rõ cho cô nương nghe. Cô nương phải giữ tuyệt đối bí

mật, chớ để cho câu chuyện tiết lộ ra ngoài.

Nữ lang nói:

- Ta xem mi không muốn nói cứ ấp úng hoài. Ta chỉ tin ngươi được phần

nào thôi. Giả tỷ mi đừng giấu ta câu nào thì ta quyết với mi rằng vĩnh viễn

mi không bị phu nhân quở trách.

Tiểu Thi thở dài nói:

- Biểu thiếu gia đến chùa Thiếu Lâm đó.

Nữ lang giật giọng hỏi:

- Mi bảo chàng đến chùa Thiếu Lâm ? Sao A Châu A Bích lại nói chàng

đến Cái Bang ở Lạc Dương kia mà?

Đoàn Dự tự hỏi: "Biểu thiếu gia nghĩa là gì? à thôi phải rồi! Công tử Mộ

Dung là biểu huynh cô nương đây, hai người là anh em họ với nhau".

Tiểu Thi nói:

- Hôm vừa rồi, phu nhân ra đi giữa đường gặp Phong tứ gia bên yến tử ổ nói

cho biết là người đi chùa Thiếu Lâm bên Tung Sơn để tiếp ứng cho biểu

thiếu gia.

Nữ lang hỏi:

- Chàng đi chùa Thiếu Lâm có việc gì?

Tiểu Thi đáp:

- Phong tứ gia kể rằng biểu thiếu gia đưa tin về có rất nhiều phái võ đến

chùa Thiếu Lâm, mở cuộc anh hùng đại hội gì đó để đối phó với nhà Mộ

Dung mà thiếu gia chưa biết rõ có những ai. Cháu lại nghe nói bên yến tử ổ

còn có nhiều người đi tiếp ứng.

Nữ lang lại hỏi:

- Phu nhân đã được tin như vậy sao lại quay về? Không đi giúp biểu thiếu

gia?

Tiểu Thi đáp:

- Điều đó cháu cũng không hiểu. Dường nh phu nhân không ưa biểu thiếu

gia.

Nữ lang hậm hực nói:

- Hừ! ưa hay không ưa là một chuyện. Dù sao thiếu gia cũng là người trong

nhà. Để thiếu gia mất mặt với người ngoài thì mình vẻ vang lắm hay sao?

Tiểu Thi nói:

- Đúng thế!

Nữ lang tức mình hỏi:

- Đúng cái gì?

Tiểu Thi run sợ đáp:

- Đúng là... chẳng vẻ vang gì.

Nữ lang chạy đi chạy lại bên rặng trúc xanh để lo mưu tính kế. Chợt trông

ba khóm bạch trà Đoàn Dự mới trồng, mảnh chậu đập ra còn bỏ đó, nàng

ngạc nhiên hỏi:

- Ai trồng trà ở đây thế này?

Đoàn Dự vội vàng từ sau phiến đá lớn chạy vụt ra vái dài sát đất nói:

- Tiểu sinh vâng mệnh phu nhân, đang trồng trà tại đây, không ngờ lại gặp

tiểu thư.

Tuy vái dài tỏ ra rất cung kính nhưng mắt chàng cứ chằm chặp nhìn thẳng

vào mặt nữ lang. Vì chàng sợ lại phải nghe nàng nói một câu dứt khoát như

lần trước: "ta không nhìn bất cứ gã trai nào không có liên can gì đến ta" rồi

trở gót đi thẳng thì lại lỡ mất cơ hội. Đoàn Dự vừa nhìn thấy mặt nữ lang đã

tai ù mắt hoa, hai đầu gối nhũn ra không tự chủ được nữa, quỳ mọp xuống

đất, nếu không miễn cưỡng chống lại thì đến cái đầu cũng đập xuống đất

mà lạy. Miệng chàng lắp bắp nói luôn:

- Thần tiên nương tử ơi! tôi nhớ nương tử muốn chết đi được.

Nguyên tướng mạo nữ lang áo trắng này giống hệt pho tượng ngọc trong

thạch động bên nước Đại Lý. Vương phu nhân cũng đã giống pho tượng này

nhưng cao tuổi hơn còn nữ lang áo trắng có khác là chỉ ở bộ áo mặc ngoài

mà thôi. Từ mặt mũi, tai mắt, mồm miệng cho chí tầm vóc, chân tay cùng

màu da đố ai tìm được chỗ nào khác. Thực là pho tượng ngọc tái sinh. Đoàn

Dự như người đang lạc vào cõi mộng. Chàng đã trải không biết mấy ngàn

mấy trăm lần tưởng nhớ đến pho ngọc tượng. Lúc này chính mắt chàng nhìn

thấy người thật mà chàng chẳng hiểu ở nơi nao ở trần gian hay thượng giới.

Nữ lang thấy cử động cùng cách xưng hô của Đoàn Dự cho là chàng mắc

bệnh điên cuồng vừa khẽ hỏi vừa lùi lại hai bước:

- Ngươi... ngươi...?

Đoàn Dự đứng dậy nói:

- Hôm đó ở trong thạch động tôi được bái kiến tiên dung thần tiên nương tử,

đã mừng cho mình phúc duyên rất lớn, không ngờ ngày nay lại thấy dung

nhan nương tử thì ra trên đời này quả có tiên tử không sai.

Nữ lang quay lại hỏi Tiểu Thi:

- Gã nói chi đó? Gã là ai vậy?

Tiểu Thi nói:

- Gã là một anh đồ gàn đến với A Châu, A Bích. Gã nói nhăng nói cuội thế

nào mà phu nhân tin lời mới nực cười.

Nữ lang quay ra hỏi Đoàn Dự:

- Tên đồ gàn kia! Ta vừa nói chuyện với thị nữ đây ngươi có nghe thấy

không?

Đoàn Dự cười đáp:

- Tôi họ Đoàn tên Dự, người nước Đại Lý, không phải là đồ gàn đâu. Vừa

rồi thần tiên nương tử nói chuyện với chị Tiểu Thi đây vô tình tôi đã nghe rõ

cả. Xin thần tiên nương tử cùng chị Tiểu Thi cứ yên lòng, tiểu sinh nhất

quyết không tiết lộ một câu nào cho ai biết cả và xin bảo đảm cho chị Tiểu

Thi không bị phu nhân quở trách vì tôi.

Nữ lang sa sầm nét mặt hỏi:

- Ngươi xưng hô lăng nhăng như vậy còn cãi không phải đồ gàn. Ngươi thấy

ta từ lúc nào?

Đoàn Dự hỏi lại:

- Tôi không xưng hô bằng thần tiên nương tử thì xưng hô thế nào cho phải

nhẽ?

Nữ lang đáp:

- Ta họ Vương, ngươi cứ gọi ta bằng Vương cô nương là được rồi.

Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói:

- Không được! Không được! Khắp thiên hạ cô nương họ Vương kể có hàng

ngàn hàng vạn còn cô nương đây là nhân vật thần tiên, phi phàm mà cũng

chỉ gọi bằng Vương cô nương như người thường thế nào được? Bây giờ biết

xưng hô cách nào đây? ấy thế mà khó đấy! Gọi vắn tắt là Vương tiên tử

chăng? cũng không được! Nhà Đại Tống rồi các nước Đại Lý, Liêu Quốc,

Thổ Phồn nước nào chẳng có công chúa nhưng bì với cô nương thế nào

được?

Nữ lang nghe Đoàn Dự nói tràng giang đại hải, toàn những câu gàn gàn dở

dở. Dù thấy gã tán dương sắc đẹp mình một cách quá lố chăng nữa nhưng

trong lòng nàng vẫn cảm thấy vui vui, nàng mỉm cười nói:

- Dù sao thì ta cũng cho ngươi là tốt phúc vì chưa bị mẫu thân ta chặt chân.

Đoàn Dự lại nói:

- Thần tiên nương tử cùng lệnh đường phu nhân tướng mạo giống nhau

nhưng tính tình thực khác xa nhau. Phu nhân động một tý là giết người, có

điều không xứng đáng với thể chất thần tiên...

Nữ lang nhíu đôi lông mày ngắt lời:

- Thôi ngươi tiếp tục trồng hoa đi! đừng đứng đây bẻm mép nữa. Bọn ta có

việc phải bàn.

Nàng nói câu đó với vẻ mặt coi Đoàn Dự như một tên thợ trồng hoa không

hơn không kém. Đoàn Dự không lấy làm tủi nhục về thái độ kiêu căng của

nàng. Chàng chỉ mong được cùng nàng nói câu nào hay câu ấy, nhìn phút

nào hay phút ấy. Chàng tính kế: "muốn cho nàng bắt chuyện thì không gì

bằng việc đề cập đến công tử Mộ Dung. Bụng dạ nàng để cả vào gã, ngoài

ra nàng không thiết một việc gì hết". Nghĩ vậy chàng liền nói:

- Các anh hùng thiên hạ hội họp cùng phái Tung Sơn và phái Thiếu Lâm

thương nghị việc đả phá nhà Mộ Dung. Nhân vật các phái dĩ nhiên không

phải là ít, công tử Mộ Dung cô thân, dấn mình vào nơi hiểm địa, thật là

đáng lo ngại.

Quả nhiên nữ lang giật mình. Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt

nàng, chàng nghĩ thầm: "nàng vì cái thằng khốn kiếp Mộ Dung Phục mà

phải băn khoăn trong dạ. Ta xem dường như nàng muốn sa luỵ là khác. Tà

áo trắng nàng vẫn lay động, rồi bằng một giọng êm dịu như tiếng tiêu nàng

hỏi:

- Ngươi có biết tình hình chùa Thiếu Lâm ra sao không? nói cho ta nghe.

Đoàn Dự thấy nàng nhỏ nhẹ cầu khẩn mình cầm lòng không đậu muốn đem

hết tất cả những điều mình hay biết nói cho nàng nghe. Song chàng nghĩ lại:

"nếu có điều gì mình đem dốc ra hết, nàng nghe xong rồi lại giục mình đi

trồng trà thì mình tìm đâu ra đề tài để hòng được nói nữa với nàng, thế mới

khó chứ! Chi bằng mình phải tìm cách kéo dài câu chuyện, mỗi ngày cho ra

một mẩu để ngày ngày nàng phải đến tìm mình hỏi chuyện. Hễ tìm đến

mình không được tất phải nóng ruột khó chịu. Nghĩ vậy chàng đằng hắng

rồi bắt đầu vào chuyện:

- Về võ công tôi chẳng biết tý gì cả. Cả những thế võ tầm thường như "kim

kê độc lập", "hắc hổ thâu tâm" gì gì đi nữa tôi cũng không hay nhưng trong

nhà tôi có anh bạn họ Chu, tên gọi Chu Đan Thần, ngoại hiệu là "nghiên

sinh". Trông bề ngoài anh ta cũng chỉ là gã văn nhược thư sinh như tôi này

thôi, hay gọi là tên đồ gàn cũng được. Hà hà thế mà võ công anh ta đáo để

lắm. Một hôm anh ta cầm cái quạt quay ngược đầu lại đánh "chát" một

tiếng, cán quạt trúng vào bả vai một gã đại hán, thế mà gã này người co rúm

lại, chẳng khác gì một đống đất lù lù, không sao nhúc nhích được nữa.

Nữ lang nói:

- ừ đó là đòn thứ 38 để đánh vào huyệt đạo trong phép "thanh lương phiến,

trở đầu quạt đánh xéo vào huyệt "kiên trinh", vậy thì Chu tiên sinh là đệ tử

dưới trướng Tam Nhân Quán, một chi nhánh phái Côn Luân đó. Võ công

phái này dùng bút cũng lợi hại như dùng quạt thôi. Ngươi nói vào cốt

chuyện đi đừng nói về võ công với ta nữa.

Giả tỷ mà Chu Đan Thần được nghe chuyện nàng nói tất phải phục sát đất

và không những nàng gọi rõ tên cúng cơm thế võ mà thôi, nàng còn nói rõ

ràng cả lai lịch tông chỉ người dạy môn đó nữa. Không những Chu Đan

Thần đến ngay những nhà võ học uyên thâm tỷ như bá phụ Đoàn Dự là

Đoàn Chính Minh, phụ thân chàng là Đoàn Chính Thuần, cũng phải giật

mình tự hỏi: "cô nương nhỏ tuổi này mà sao kiến thức về võ học đã sâu rộng

đến thế?". Nhng đối với anh chàng Đoàn Dự chẳng biết tý võ công nào nên

mấy lời phác hoạ nàng nói vừa rồi chỉ thoáng qua tai chàng mà thôi. Giả tỷ

câu chuyện này đưa ra ngoài tất làm chấn động giang hồ, thành một đề tài

sốt dẻo và trọng đại bậc nhất đối với các phái võ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fiction