Thien Long Bat Bo - KIM DUNG - Hoi 1-3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 1(a)

THANH SAM LỖI LẠC HIỂM PHONG HÀNH

Xem dưới dạng PDF

Sểnh nhà cất bước đi ra,

Áo xanh Tư Mã xông pha hiểm nghèo.

*

***

Ánh sáng xanh lấp loáng, mũi kiếm thép nhắm ngay vào vai trái của hán tử trung niên đâm tới. Người thanh niên sử kiếm không đợi cho kiếm chiêu hoàn tất, cổ tay rung một cái kiếm mũi kiếm ngóc lên đâm xéo vào bên phải cổ đối phương. Người trung niên giơ kiếm gạt ra, nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau tiếng ngân u u chưa dứt đã trao đổi được ba chiêu. Hán tử trung niên giơ kiếm nhắm giữa đỉnh đầu thanh niên chém xuống, thanh niên né qua bên phải, kiếm quyết bên tay trái lướt theo, thanh kiếm liền chúc xuống đâm vào đùi kẻ địch.

Hai người kiếm pháp nhanh nhẹn, ra hết sức đấu với nhau.

Trong luyện võ sảnh, phía bên đông có hai người ngồi. Ngồi trên là một đạo cô trung niên tuổi trạc trên dưới bốn mươi, mặt hầm hầm, môi mím chặt. Ngồi bên dưới là một ông già tuổi trên dưới năm mươi, giơ tay vuốt chòm râu dài, mặt mày thật đắc ý. Hai người ngồi cách nhau chừng hơn một trượng, đằng sau đứng phải đến trên hai chục đệ tử nam nữ. Phía tây là một hàng ghế ngồi chừng hơn chục tân khách, cả hai phía ai nấy chăm chú theo dõi cuộc giác đấu.

Chỉ một thoáng chàng thanh niên và hán tử trung niên đã trao đổi đến hơn bảy chục chiêu, càng lúc càng gay go nhưng chưa có vẻ gì phân thắng bại. Đột nhiên người trung niên dùng sức đâm mạnh ra một kiếm, thân hình hơi lảo đảo, dường như muốn ngã. Một chàng trai trẻ tuổi mặc áo dài xanh trong số khách ngồi phía tây nhịn không nổi cười hộc lên một tiếng. Y lập tức biết mình thất thố, vội vàng giơ tay bịt miệng.

Ngay lúc đó, nghe vù một tiếng thanh niên đã giơ tay trái nhắm ngay lưng hán tử nọ đánh ra. Người đàn ông liền tiến lên một bước tránh được, trường kiếm trong tay vòng lại, quát lên một tiếng:

- Trúng!

Đâm ngay vào đùi thanh niên, một chân y liền khuỵu xuống, trường kiếm chống xuống đất đứng lên toan đấu tiếp nhưng người trung niên đã tra kiếm vào vỏ, cười nói:

- Cám ơn Chử sư đệ đã nhường nhịn, vết thương không nặng chứ?

Thanh niên kia mặt tái đi, bậm môi nói:

- Đa tạ Cung sư huynh đã nương tay.

Ông già râu dài mặt mày dương dương, mỉm cười:

- Đông Tông đã thắng được ba trận rồi, xem chừng Kiếm Hồ Cung lại nhường Đông Tông ở thêm năm năm nữa. Tân sư muội, mình liệu có còn phải đấu thêm nữa chăng?

Người đạo cô ngồi bên dưới cố nén lửa giận, nói:

- Tả sư huynh quả thực huấn luyện được học trò giỏi thật. Thế nhưng không biết Tả sư huynh nghiên cứu Vô Lượng Ngọc Bích năm năm qua đã được gì chưa?

Người râu dài trừng mắt nhìn bà ta, nghiêm mặt nói:

- Sư muội không lẽ quên qui củ của bản phái rồi sao?

Người đạo cô hừ một tiếng, không nói thêm tiếng nào nữa. Người đàn ông họ Tả, tên Tử Mục, là chưởng môn Đông Tông của Vô Lượng Kiếm. Đạo cô kia họ Tân, đạo hiệu là Song Thanh, là chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm.

Vô Lượng Kiếm phái chia ra làm Đông, Tây, Bắc tam tông nhưng Bắc Tông mấy chục năm nay suy đồi, còn Đông Tây hai chi phái nhân tài đông đúc. Vô Lượng Kiếm kiến lập từ thời kỳ Ngũ Đại đời Hậu Đường, sáng phái ở núi Vô Lượng nước Nam Chiếu, người chưởng môn cư ngụ tại Kiếm Hồ Cung. Từ thời Nhân Tông nhà Tống, phái Vô Lượng chia ra làm ba tông, cứ năm năm một lần, môn hạ đệ tử của ba nhánh này lại gặp nhau ở Kiếm Hồ Cung tỉ võ đấu kiếm, bên nào thắng thì được ở Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng năm năm, đến năm thứ sáu thì lại tỉ thí.

Đấu năm trận, bên nào thắng ba coi như thắng. Trong năm năm đó, phe thua dĩ nhiên hết sức tập luyện cốt sao kỳ tới sẽ rửa được cái nhục bại trận, nhưng bên thắng cũng không dám lơ là chút nào. Bắc Tông bốn mươi năm trước thắng trận được vào ở nơi Kiếm Hồ Cung, năm năm sau thua phải ra đi, người chưởng môn bực tức dẫn môn nhân đệ tử dọn qua Sơn Tây, từ đó không còn trở lại tỉ kiếm, cũng không liên lạc gì với hai phe Đông Tông, Tây Tông nữa. Trong hai mươi lăm năm qua, hai phe Đông Tây thắng qua thua lại, Đông Tông thắng bốn lần, còn Tây Tông cũng được hai lần. Gã trung niên hán tử họ Cung kia đấu với thanh niên họ Chử, là trận đấu thứ tư, họ Cung thắng rồi, Đông Tông bốn lần đấu ba lần thắng, lần thứ năm không cần đấu tiếp nữa.

Bên phía tây những người ngồi trên ghế bành gấm là các nhân sĩ phái khác, một số là do chưởng môn hai tông mời đến làm chứng, còn lại là những người đến xem. Những người đó, ngoại trừ một hậu bối vô danh là người thanh niên mặc áo xanh ngồi hàng cuối đã cười khi gã họ Cung bị lỡ trớn, đều là người nổi tiếng trong võ lâm tỉnh Vân Nam.

Thanh niên đó đi theo lão võ sư Mã Ngũ Đức ở Phổ Nhĩ đất Điền Nam đến đây. Mã Ngũ Đức là một nhà buôn trà nổi tiếng , đã giàu có lại hiếu khách, có cái phong vị Mạnh Thường, trên giang hồ nếu ai thất thế chạy đến nhờ vả ông ta đều hết sức tiếp đãi, thành thử quen biết nhiều mặc dầu võ công chỉ tầm thường mà thôi. Tả Tử Mục khi nghe Mã Ngũ Đức đưa tới giới thiệu thanh niên này họ Đoàn. Họ Đoàn là quốc tính của nước Đại Lý trong nước có đến hàng nghìn hàng vạn người nên khi nghe đến Tả Tử Mục không coi vào đâu, nghĩ bụng y hẳn là đệ tử của Mã Ngũ Đức, ngay lão họ Mã bản thân võ công cũng chỉ bình bình, dạy dỗ học trò chắc cũng chẳng đi đến đâu, thành thử ngay cả mấy tiếng khách sáo “Ngưỡng mộ đã lâu” y cũng chẳng thèm nói, chỉ chắp tay, mời vào ngồi mà thôi. Ngờ đâu gã trẻ tuổi này không biết trời cao đất dày là gì, gặp khi đệ tử đắc ý của Tả Tử Mục ra hư chiêu dụ địch lại dám mở miệng cười lên nhạo báng.

Thành thử Tả Tử Mục cười nói:

- Tân sư muội năm nay đưa ra bốn đệ tử, công phu kiếm thuật quả thật cao cường, trận thứ tư này bên chúng tôi thắng cũng chỉ nhờ may. Chử sư điệt tuổi trẻ như thế, vậy mà đã luyện được đến mức đó, tiền đồ thật không biết tới đâu, e rằng năm năm nữa hai bên đông tây chắc sẽ đổi chỗ mất, ha ha, ha ha!

Nói xong y cười ha hả không thôi, đột nhiên đảo mắt nhìn sang thanh niên họ Đoàn nói:

- Đứa học trò kém cỏi của mỗ khi thắng được nhờ sử hư chiêu Trật Phác Bộ, vị Đoàn thế huynh này xem chừng dường như không được vừa ý. Vậy xin Đoàn thế huynh bước ra chỉ điểm cho tiểu đồ một vài miếng có được chăng? Mã ngũ ca uy chấn Điền Nam, dưới tướng giỏi binh ắt không thường, tài nghệ Đoàn thế huynh hẳn là ghê gớm lắm.

Mã Ngũ Đức mặt hơi đỏ lên vội nói:

- Vị Đoàn huynh đệ này không phải đệ tử của ta đâu. Lão ca ca tài nghệ chỉ có vài miếng mèo quào, làm sư phụ được ai? Tả hiền đệ chớ có đem ngu huynh ra làm trò cười. Vị Đoàn huynh đệ đây đến tệ xá ở Phổ Nhĩ, nghe thấy ta sắp đi lên núi Vô Lượng nên cùng đi theo, nói là núi Vô Lượng sơn thủy thanh u nên muốn đến thưởng ngoạn phong cảnh.

Tả Tử Mục nghĩ thầm: “Nếu như y là đệ tử của ngươi thì ta còn nể mặt không nỡ cạn tàu ráo máng, còn như nếu chỉ là một người khách tầm thường thì chẳng phải e dè gì nữa. Kẻ nào dám đến Kiếm Hồ Cung nhạo báng võ công của Đông Tông Vô Lượng Kiếm, nếu không dạy cho y một phen đến đầu đến đũa đuổi xuống núi thì họ Tả này còn mặt mũi nhìn ai?”. Y bèn cười khẩy một tiếng nói:

- Thỉnh giáo đại hiệu của Đoàn huynh là gì, là môn hạ của vị cao nhân nào thế?

Thanh niên họ Đoàn mỉm cười nói:

- Tại hạ tên chỉ có một chữ Dự, trước nay chưa học qua võ nghệ bao giờ. Ta thấy người ta trượt chân, không cần biết ngã giả hay ngã thật đều nhịn không nổi nên cười đấy thôi.

Tả Tử Mục nghe giọng y nói không có vẻ gì cung kính, trong bụng không khỏi bực bội nói:

- Thế thì có gì mà phải cười?

Đoàn Dự phe phẩy cái quạt cầm trong tay, nói tỉnh bơ như không:

- Con người hoặc đứng hoặc ngồi, có gì là đáng cười đâu, có nằm trên giường thì cũng không ai cười cả nhưng nằm dưới đất, ha ha, thế thì đáng cười lắm chứ? Trừ khi là trẻ con lên ba thì mới không kể mà thôi.

Tả Tử Mục nghe y nói càng lúc càng cuồng ngạo, giận muốn sôi lên, quay sang nói với Mã Ngũ Đức:

- Mã ngũ ca, vị Đoàn huynh này có thân với ngũ ca chăng?

Mã Ngũ Đức mới quen Đoàn Dự, hoàn toàn chẳng biết y là người thế nào. Ông ta tính tình vốn hòa nhã, thấy Đoàn Dự đòi đi theo đến núi Vô Lượng không tiện thoái thác nên cho y cùng đi, lúc này nghe giọng Tả Tử Mục có chiều giận dữ, ra tay ắt sẽ ác độc lắm, một thanh niên còn trẻ thế này nỡ nào để cho y bị ăn đòn đau? Ông ta liền đáp:

- Đoàn huynh đệ với ta tuy không thâm giao nhưng cũng đã cùng đến đây. Ta xem Đoàn huynh dáng dấp nho nhã, chắc không biết võ công gì đâu, chỉ vô ý mà buột miệng cười đấy thôi. Thôi bỏ qua đi, lão ca ca bụng đói lắm rồi, Tả hiền đệ mau làm cho một mâm rượu để bọn ta uống mừng hiền đệ ba chén. Hôm nay ngày lành tháng tốt, Tả hiền đệ chấp nhất hạng hậu bối trẻ người non dạ làm gì?

Tả Tử Mục đáp:

- Nếu Đoàn huynh không phải là hảo bằng hữu của Mã ngũ ca, nếu như huynh đệ có đắc tội thì cũng không làm bẽ mặt Mã ngũ ca. Quang Kiệt, hồi nãy người ta cười ngươi, vậy ngươi hạ trường thỉnh giáo xem nào.

Gã trung niên Cung Quang Kiệt chỉ đợi sư phụ nói thế, lập tức rút phăng trường kiếm, bước ra đứng ngay bên ngoài , đảo ngược chuôi kiếm lại, chắp tay hướng về Đoàn Dự nói:

- Xin mời Đoàn bằng hữu!

Đoàn Dự nói:

- Hay lắm, ngươi luyện đi cho ta coi nào.

Y vẫn ngồi trên ghế không đứng lên. Cung Quang Kiệt mặt đỏ bừng, giận dữ nói:

- Ngươi ... ngươi nói sao?

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi cầm thanh kiếm trong tay múa bên đông, chém bên tây, chắc là muốn luyện kiếm, vậy thì cứ làm đi. Ta xưa nay không thích xem ai động đao sử kiếm, nhưng đã đến đây thì cũng đành chịu ngồi xem vậy.

Cung Quang Kiệt quát lên:

- Sư phụ ta bảo ngươi ra đây cùng ta tỉ thí.

Đoàn Dự phe phẩy cái quạt, lắc đầu nói:

- Sư phụ ngươi là thầy của ngươi chứ sư phụ ngươi có phải là thầy của ta đâu. Sư phụ ngươi sai ngươi thì được, chứ sư phụ ngươi làm sao sai được ta? Sư phụ ngươi bảo ngươi đấu kiếm với người ta thì ngươi cứ việc đấu kiếm với người ta. Sư phụ ngươi bảo ta tỉ kiếm với ngươi, thứ nhất ta không biết đấu kiếm, thứ hai ta sợ thua, thứ ba ta sợ đau, thứ bốn ta sợ chết, thành thử ta không đấu. Ta nói không đấu là không đấu.

Y nói một thôi một hồi sư phụ ngươi, sư phụ ta tưởng như líu lưỡi, trong võ sảnh mọi người nghe được, nhịn không nổi phải bật cười. Đám môn hạ Tây Tông Vô Lượng Kiếm của Song Thanh chiếm đến gần nửa, có mấy nữ đệ tử cười khúc khích. Luyện võ sảnh đang trang nghiêm lập tức biến thành một nơi hoạt náo.

Cung Quang Kiệt hung hăng tiến tới, giơ kiếm chỉ ngay vào ngực Đoàn Dự, quát lớn:

- Ngươi có thực không biết võ, hay chỉ giả ngây giả dại?

Đoàn Dự thấy mũi kiếm chỉ cách ngực mình chừng vài tấc nếu như đâm nhẹ một cái thì sẽ trúng ngay tim mình nhưng không tỏ vẻ gì kinh hoảng, nói:

- Ta dĩ nhiên là không biết võ, giả ngây giả dại làm cái gì?

Cung Quang Kiệt nói:

- Ngươi đến Kiếm Hồ Cung núi Vô Lượng phá rối, chắc không muốn sống hay sao? Ngươi là môn hạ của ai? Ai sai ngươi đến? Nếu không nói thực đừng trách kiếm của đại gia vô tình.

Đoàn Dự đáp:

- Ngươi bảo ngươi là đại gia, sao lại hung ác thế? Ta bình sinh không thích xem đánh nhau. Quí phái có tên là Vô Lượng Kiếm, lại ở trong núi Vô Lượng. Trong kinh Phật có dạy rằng: “Có bốn điều vô lượng: một là vô lượng từ, hai là vô lượng bi, ba là vô lượng hỉ, bốn là vô lượng xả. Tứ vô lượng đó quí vị chắc ai cũng hiểu rõ rồi; lấy trong lòng vui là từ, dứt được điều khổ là bi, vui thích khi thấy chúng sinh hết khổ trở thành sung sướng là hỉ, mong chúng sinh bỏ được oán niệm mà thành bình đẳng là xả. Vô lượng thọ Phật chính là Phật A Di Đà. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật ...

Y thao thao giảng Phật pháp, niệm kinh, Cung Quang Kiệt thu kiếm về đột nhiên vung tay trái ra, nghe bốp một tiếng, tát cho chàng ta một cái thật đau. Đoàn Dự nghiêng đầu qua toan né tránh thì tay của đối phương đã đánh trúng rồi, khuôn mặt trắng trẻo đã sưng tếu lên, năm ngón tay hiện rõ mồn một.

Mọi người ai nấy hết sức ngạc nhiên, thấy Đoàn Dự không coi địch thủ vào đâu, mồm miệng tuôn ra toàn điều nghe như đùa cợt, ai cũng tưởng chàng ắt mình mang tuyệt nghệ. Ngờ đâu Cung Quang Kiệt tiện tay đánh một chưởng, chàng không tránh được, xem ra quả thực không biết chút võ công nào. Cao thủ võ học cố ý làm như ngớ ngẩn để đùa cợt đối phương cũng là chuyện thường nhưng người không biết võ mà lại lớn mật cuồng ngạo như thế thì chưa hề có. Cung Quang Kiệt mới đánh một chưởng đã trúng cũng không khỏi ngẩn người ra, tiện tay liền chộp ngực Đoàn Dự, nhấc bổng lên, quát lớn:

- Ta cứ tưởng ngươi là một nhân vật ghê gớm thế nào, có biết đâu chỉ là đồ bị thịt.

Nói xong cầm chàng ném xuống đất một cái thật mạnh, Đoàn Dự ngã bịch một cái, đầu đụng ngay vào chân bàn. Mã Ngũ Đức thấy thế thương hại vội chạy tới đỡ lên nói:

- Hóa ra lão đệ không biết võ công thật, vậy thì tới đây làm gì?

Đoàn Dự xoa đầu nói:

- Tôi vốn dĩ chỉ định du sơn ngoạn thủy có biết đâu họ lại tỉ kiếm đánh nhau? Cái trò người nọ giết người kia thì có gì đáng để coi đâu? Thà đi xem người ta đem khỉ ra làm trò còn hay hơn nhiều. Mã ngũ gia, chào ông nhé, thôi tôi đi đây.

Một thanh niên đứng bên cạnh Tả Tử Mục liền nhảy ra, chặn ngay trước mặt Đoàn Dự nói:

- Nếu ngươi không biết võ công, nếu cứ cúp đuôi mà chạy thì chẳng nói làm gì, sao lại dám bảo bọn ta đấu võ tỉ kiếm không bằng khỉ làm trò là sao? Nói thế chẳng khinh người lắm hay sao? Ta cho ngươi chọn một trong hai con đường, hoặc là cùng ta tỉ thí một phen, để xem kiếm pháp không bằng trò khỉ của bọn ta thế nào; hoặc là khấu đầu lạy sư phụ ta tám lạy, tự miệng mình nói ra “Rắm rít” ba lần.

Đoàn Dự cười đáp:

- Ngươi đánh rắm chẳng thối lắm ư?

Gã kia giận quá, giơ quyền đấm luôn vào mặt Đoàn Dự, nghe vù một tiếng, xem ra chàng thể nào cũng vỡ mặt sưng mày. Ngờ đâu quyền vừa đến giữa đường, đột nhiên từ trên không phóng xuống một vật, quấn lấy cổ tay thanh niên. Vật đó lạnh như băng, trơn tuồn tuột, vừa quấn được cổ tay liền ngo ngoe cử động. Thanh niên giật mình kinh hãi, vội vàng rụt tay về, thấy quấn ở tay mình là một con rắn hổ mang màu xanh có chấm đỏ dài chừng một thước, trông thật ghê sợ.

Y hoảng hốt rú lên, vung vẩy mạnh nhưng con rắn vẫn quấn chặt lấy cổ tay, lắc thế nào cũng không tuột ra được. Cung Quang Kiệt đột nhiên kêu lớn:

- Rắn! Rắn!

Mặt y tái mét, giơ tay luồn vào cổ áo mình, mò sau lưng, nhưng nào thấy gì, chỉ đành nhảy tưng tưng, chân tay múa loạn xà ngầu cố cởi áo ra.

Hai biến cố đó thật là quái đản, mọi người còn đang kinh ngạc, bỗng nghe trên đầu có tiếng cười khúc khích. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên thấy một thiếu nữ ngồi trên xà nhà, hai tay cầm toàn những rắn là rắn.

Cô gái đó độ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mặc áo xanh, mặt tươi như hoa, trong tay cầm chừng một chục con rắn nhỏ dài chừng một thước. Những con rắn đó, con thì xanh, con thì hoa, đầu hình tam giác, toàn là rắn độc. Thế nhưng thiếu nữ đó cầm trong tay chẳng khác gì đồ chơi không có vẻ gì sợ hãi.

Mọi người vừa ngửng lên nhìn cô ta thì nghe Cung Quang Kiệt và gã sư đệ kêu oai oái, vội quay đầu nhìn sang hai người. Thế nhưng Đoàn Dự vẫn nhìn cô ta thấy thiếu nữ đó ngồi đong đưa hai chân, xem chừng ngồi trên xà nhà có vẻ thú vị lắm liền hỏi:

- Cô nương, phải cô cứu tôi đó chăng?

Cô gái đáp:

- Tên ác nhân kia đánh ngươi, sao ngươi không trả đòn?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Tôi không biết đánh trả ...

Bỗng nghe "A" một tiếng, mọi người cùng reo lên, Đoàn Dự nhìn xuống thấy Tả Tử Mục tay cầm trường kiếm, mũi kiếm có lấm tấm máu, một con rắn đã đứt đôi hiển nhiên đã bị y chém chết. Trong khi đó Cung Quang Kiệt đã cởi trần đang nhảy lung tung, một con rắn xanh nhỏ đang chạy trên lưng y, y vòng tay lại định chộp, nhưng mấy lần đều vói không tới.

Tả Tử Mục quát lên:

- Quang Kiệt, đứng yên chớ động đậy.

Cung Quang Kiệt sững người thấy một ánh trắng loáng lên, con rắn xanh đứt làm đôi. Tả Tử Mục vung kiếm nhanh như gió, không ai kịp nhìn y xuất thủ như thế nào giết con rắn mà lưng Cung Quang Kiệt không hề tổn thương mảy may. Mọi người liền lớn tiếng hoan hô.

Thiếu nữ ngồi trên xà nhà kêu lên:

- Ối ối! Lão già râu dài kia, sao lão lại giết chết hai con rắn của ta, ta không thèm nể nang lão nữa đâu.

Tả Tử Mục giận dữ đáp:

- Ngươi là con cái nhà ai, đến đây làm gì?

Tuy thế y trong lòng hơi hoảng, không biết thiếu nữ đến ngồi trên xà nhà từ bao giờ, dẫu rằng ai nấy chăm chú coi hai bên Đông Tông, Tây Tông tỉ kiếm nhưng lẽ nào trên đầu có người mà mọi người lại không hề hay biết. Nếu việc này truyền ra ngoài giang hồ, Vô Lượng Kiếm quả thật bẽ mặt. Thiếu nữ vẫn ngồi đong đưa chân, chân mang một đôi giày màu xanh nhạt, chung quanh thêu mấy đóa hoa nhỏ màu vàng, rõ ràng là cách ăn mặc của một cô gái nhỏ. Tả Tử Mục nói tiếp:

- Nhảy xuống mau!

Đoàn Dự vội kêu lên:

- Cao như thế nhảy xuống thì chết mất. Mau mau bảo ai mang thang đến mới được.

Chàng nói thế lập tức có mấy người cười ồ lên. Mấy cô đệ tử của Tây Tông nghĩ thầm: “Trông anh chàng này mặt mũi cũng sáng sủa, ngờ đâu chỉ là một chàng ngốc. Cô bé này lên ngồi trên xà nhà mà thần không hay, quỉ chẳng biết, khinh công dĩ nhiên chẳng vừa, việc gì phải cần đến thang mới xuống được”.

Cô gái nói tiếp:

- Ông đền hai con rắn cho tôi trước, tôi sẽ xuống nói chuyện với ông sau.

Tả Tử Mục nói:

- Hai con rắn nhỏ thì có đáng gì, bắt ở đâu chẳng được.

Lão ta thấy cô gái nghịch chơi mấy con rắn xem như không, cô ta tuổi còn nhỏ không có gì đáng ngại, có điều sư trưởng cha mẹ cô ta ở đằng sau e rằng là những nhân vật có tiếng tăm, thành thử lời ăn tiếng nói cũng dịu ngọt mấy phần. Cô gái cười nói:

- Sao ông nói dễ nghe thế, ông thử đi bắt hai con cho tôi xem nào.

Tả Tử Mục nói:

- Mau nhảy xuống đi!

Cô gái đáp:

- Tôi không xuống.

Tả Tử Mục nói:

- Ngươi không xuống ta sẽ lên lôi ngươi xuống.

Thiếu nữ cười khanh khách:

- Ông có giỏi thử lên bắt tôi xuống xem nào!

Tả Tử Mục là tông sư một môn phái, ở trước mặt biết bao nhiêu hảo thủ võ lâm, môn hạ đệ tử, lẽ nào lại cùng một cô gái nhỏ đôi co nên quay sang nói với Song Thanh:

- Tân sư muội, nhờ sư muội cho một nữ đệ tử lên bắt nó xuống dùm.

Song Thanh đáp:

- Trong môn hạ của Tây Tông chẳng có ai khinh công giỏi như thế cả.

Tả Tử Mục sầm mặt xuống, đang định đáp lời bỗng nghe thiếu nữ nói:

- Ông không chịu đền rắn cho tôi, để tôi cho ông biết tay.

Cô ta mở chiếc túi da bên hông lôi ra một vật gì lông lá ném về phía Cung Quang Kiệt. Cung Quang Kiệt nghĩ rằng đó là một thứ ám khí ghê gớm nên không đám đưa tay bắt, vội vàng tránh sang một bên, không ngờ cái vật lông lá đó lại rất nhanh nhẹn, ở trên không chỉ uốn một cái đã phóng ngay lên lưng Cung Quang Kiệt. Mọi người bấy giờ mới nhìn rõ, thì ra đó là một con chồn nhỏ màu xám nhạt. Con chồn đó nhanh nhẹn dị thường, luồn qua luồn lại trên lưng, trên ngực, trên cổ, trên mặt Cung Quang Kiệt. Cung Quang Kiệt giơ hai tay chộp, thế nhưng tuy y ra tay đã nhanh, con chồn kia còn nhanh gấp mười, thành thử chộp luôn mấy lần đều hụt cả. Người chung quanh thấy y giơ chân múa tay, chộp hết lên lưng lại lên ngực, vỗ trên mặt lại đập lên cổ nhưng con chồn kia vẫn chạy thoăn thoắt không ngừng.

Đoàn Dự cười nói:

- Hay thật! Hay thật! Con chồn này giỏi quá!

Con chồn đó dài chưa đầy một thước, mắt đỏ chót, bốn chân dường như móng sắc lắm nên chỉ giây lát, thân hình trần trùng trục của Cung Quang Kiệt đã đầy những vết xước. Bỗng nghe thiếu nữ chúm miệng huýt mấy tiếng còi, một bóng trắng thấp thoáng, con chồn kia liền chồm lên mặt Cung Quang Kiệt, cái đuôi rậm rì quật ngay vào mắt y. Cung Quang Kiệt vội đưa hai tay ra chộp nhưng con chồn đã luồn ra sau cổ, mấy ngón tay Cung Quang Kiệt liền chộp ngay vào mắt mình.

Tả Tử Mục tiến lên hai bước, trường kiếm đâm ra nhưng lúc đó con chồn đã vọt lên mặt Cung Quang Kiệt, Tả Tử Mục liền vung kiếm đâm theo. Con chồn rụt người lại, chui ra sau cổ Cung Quang Kiệt, kiếm của Tả Tử Mục vừa chạm vào mí mắt Cung Quang Kiệt liền ngừng lại ngay. Tuy nhát kiếm đó đâm không trúng con chồn nhưng người đứng ngoài ai nấy đều thán phục, mũi kiếm nếu chỉ đâm thêm nửa tấc, bên mắt đó của Cung Quang Kiệt sẽ bị hủy ngay. Song Thanh nghĩ thầm: “Kiếm thuật Tả sư huynh ghê gớm thật, ta không thể nào bì kịp. Chỉ riêng chiêu Kim Châm Độ Kiếp đó ta chẳng tài nào cao siêu đến mức đó được”.

Soẹt soẹt soẹt soẹt bốn tiếng, Tả Tử Mục đã đâm ra bốn nhát liền, kiếm chiêu tuy nhanh lạ thường nhưng con chồn kia vẫn nhanh hơn một bước. Cô gái kêu lên:

- Này lão râu dài kia, kiếm pháp ông giỏi nhỉ.

Cô ta lại huýt thêm hai tiếng nữa, con chồn đó liền nhảy xuống đất, thoắt một cái đã biến đi đâu mất. Tả Tử Mục còn đang ngơ ngẩn đã thấy Cung Quang Kiệt hai tay chộp loạn xạ lên đùi mình, thì ra con chồn đã luồn theo ống quần y chạy lên. Đoàn Dự cười sằng sặc, vỗ tay nói:

- Hôm nay quả được mở mắt, thật vui hết sức.

Cung Quang Kiệt hốt hoảng cởi luôn quần dài, lộ hai cái đùi mọc đầy lông đen. Thiếu nữ nói:

- Ngươi là tên ác ôn chỉ giỏi ăn hiếp người khác, để cho ngươi lột trần như nhộng xem có biết xấu hổ không nào.

Nàng lại toét toét huýt mấy tiếng còi, con chồn lập tức nghe lời, không bám vào đùi y nữa mà chui ngay vào quần lót. Trong luyện võ sảnh có rất đông phụ nữ, Cung Quang Kiệt không thể nào cởi luôn cả quần lót được, hai chân nhảy tưng tưng, hai tay đập liên tiếp lên bụng lên mông, hét lên một tiếng lếch thếch chạy vội ra ngoài.

Y vừa chạy đến cửa sảnh bỗng đâu có một người từ ngoài chạy vào, nghe bình một tiếng, hai người đụng nhau một cái đích đáng. Một người chạy ra, một người chạy vào hai bên đều gấp, Cung Quang Kiệt bị bắn ngược về sau, còn người ở ngoài chạy vào kia cũng ngã lăn cù. Tả Tử Mục thất thanh kêu lên:

- Dung sư đệ!

Cung Quang Kiệt không lý gì đến con chồn đang chạy từ đùi bên trái sang đùi bên phải, rồi từ đùi bên phải chạy lên mông, lật đật chạy tới đỡ người kia dậy, con chồn lập tức nhảy tới cào vào ngay chỗ hiểm. Y kêu “A” lên một tiếng, hai tay chộp vào con chồn, người kia lại ngã lăn ra.

Cô gái ngồi trên xà nhà cười khúc khích nói:

- Cho ngươi đáng kiếp.

Nàng huýt một tiếng dài, con chồn liền từ trong quần Cung Quang Kiệt chạy ra, theo tường thoăn thoắt trèo lên, chỉ thấy một bóng trắng thấp thoáng đã chui ngay vào lòng cô gái. Cô gái khen:

- Chồn ngoan lắm.

Nàng lấy hai ngón tay nhón đuôi một con rắn nhỏ, giơ lên nhứ nhứ trước mặt con chồn. Con vật liền giơ chân trước vồ lấy, há miệng ăn ngay, thì ra những con rắn nhỏ trong tay nàng là đồ ăn của con vật.

Đoàn Dự từ trước tới nay chưa thấy bao giờ nên xem chừng thú vị lắm, thấy con chồn đã ăn xong con rắn nhỏ liền chui ngay vào trong cái túi da ở bên hông nàng. Cung Quang Kiệt lại đỡ người kia lên kinh hoảng kêu lên:

- Dung sư thúc, sư thúc ... sao thế này!

Tả Tử Mục vội tiến lên thấy sư đệ Dung Tử Củ hai mắt trợn trừng đầy vẻ phẫn nộ nhưng đã tắt thở tự bao giờ. Tả Tử Mục kinh hãi vội vàng nắn bóp nhưng không làm sao cứu nổi. Tả Tử Mục biết võ công Dung Tử Củ tuy kém mình một chút nhưng so với Cung Quang Kiệt thì cao hơn nhiều, mới đụng một cái y đã không tránh được lại lăn ra chết thì ắt là trước khi bước vào cửa đã bị trọng thương nên vội vàng cởi áo ra xem thấy trên ngực có viết tám chữ:

Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm

Mọi người không hẹn mà cùng kinh hoảng kêu lên. Tám chữ đó ăn sâu hẳn xuống, không phải viết bằng mực bình thường, cũng chẳng phải dùng vật nhọn khắc vào, mà viết bằng dược vật kịch độc, ăn loét vào trong da thịt. Tả Tử Mục hơi suy nghĩ không khỏi giận dữ, thanh kiếm trong tay rung một cái lên tiếng u u, quát lớn:

- Để xem Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm hay là Vô Lượng Kiếm tru diệt Thần Nông Bang. Thù này không trả, ta còn là người sao được!

Y coi xét các nơi trên người Dung Tử Củ thấy không có vết thương nào khác bèn quát lên:

- Quang Hào, Quang Kiệt ra ngoài xem sao.

Can Quang Hào, Cung Quang Kiệt hai đại đệ tử liền cầm trường kiếm, lên tiếng đáp lời đi ra. Biến cố đó khiến cho đại sảnh nhốn nháo, vây quanh xác của Dung Tử Củ bàn tán, không còn ai để ý tới Đoàn Dự và cô gái đang ngồi trên xà nhà. Mã Ngũ Đức trầm ngâm nói:

- Thần Nông Bang càng ngày càng loạn không còn ra gì nữa. Tả hiền đệ, chẳng hay bọn họ và quí phái vì sao mà kết mối oán thù?

Tả Tử Mục thương xót sư đệ chết thảm, nghẹn ngào nói:

- Ấy cũng là việc hái thuốc mà ra. Mùa thu năm ngoái, bốn tên hương chủ trong Thần Nông Bang đến Kiếm Hồ Cung xin gặp, muốn ra sau núi của chúng tôi hái mấy vị thuốc. Hái thuốc vốn dĩ chẳng có gì quan trọng, Thần Nông Bang vốn làm nghề hái thuốc, chế thuốc mưu sinh, Vô Lượng Kiếm tuy không có giao tình gì với họ nhưng cũng không thù không oán. Nhưng Mã ngũ ca cũng đã biết rồi, chúng tôi không thể để người ngoài vào sau núi được, không nói Thần Nông Bang chỉ đối với chúng tôi lai vãng sơ sài, mà dẫu các hảo bằng hữu như các vị trước nay cũng không được du ngoạn phía hậu sơn bao giờ. Đó là qui củ tổ truyền, bọn tiểu bối chúng tôi không thể vi phạm kỳ thực cũng chẳng có gì gọi là ghê gớm ...

Cô gái ngồi trên xà nhà đem mấy chục con rắn trong tay bỏ vào một cái giỏ nhỏ đan bằng tre rồi móc trong túi ra một nắm hạt dưa ngồi nhai, hai chân đong đưa, bỗng cầm một hạt dưa ném lên đầu Đoàn Dự, trúng ngay trán chàng, cười hỏi:

- Này, có muốn ăn hạt dưa không? Lên đây!

Đoàn Dự đáp:

- Không có thang, tôi đâu có lên được.

Cô gái nói:

- Cũng dễ thôi!

Cô ta cởi ngang lưng ra một sợi dây đai màu xanh lục thòng xuống nói:

- Anh cầm sợi dây này tôi kéo lên.

Đoàn Dự đáp:

- Tôi nặng lắm cô kéo không nổi đâu.

Thiếu nữ cười:

- Cứ thử xem, ngã cũng không chết đâu mà sợ.

Đoàn Dự thấy cái thắt lưng thòng ngay trước mặt liền giơ tay cầm lấy. Thiếu nữ nói:

- Nắm cho chặt nhé!

Nàng nhè nhẹ kéo lên, thân hình Đoàn Dự đã rời khỏi mặt đất. Thiếu nữ hai tay liên tiếp rút, chỉ mấy lần đã kéo chàng lên trên xà nhà. Đoàn Dự nói:

- Con chồn nhỏ của cô thật dễ thương, lại biết nghe lời.

Cô gái lấy con chồn trong túi da ra, hai tay bồng lên. Đoàn Dự thấy con vật lông mượt, đôi mắt đỏ au long lanh nhìn mình, trông thật dễ thương bèn hỏi:

- Tôi vuốt ve nó một chút có được không?

Thiếu nữ đáp:

- Anh vuốt nó đi.

Đoàn Dự giơ tay vỗ nhè nhẹ lên lưng con chồn, thấy đám lông của nó thật là mềm mại ấm áp. Bất thình lình con chồn kêu chít một tiếng rồi chui tọt vào cái túi da ở bên hông cô gái. Đoàn Dự không đề phòng vội thụt lùi về sau, ngồi không vững suýt nữa thì ngã nhào xuống đất. Thiếu nữ vội giơ tay chộp lấy cổ áo, kéo chàng lại gần bên mình, cười nói:

- Quả thật anh không biết chút võ công nào, kể cũng lạ thật.

Đoàn Dự hỏi lại:

- Lạ cái gì?

Thiếu nữ đáp:

- Anh không biết võ công, lại một thân một mình, thảo nào chẳng bị bọn ác nhân kia hiếp đáp. Anh tới đây làm gì?

Đoàn Dự đang định kể cho cô ta nghe, bỗng nghe tiếng chân rầm rập, Can Quang Hào, Cung Quang Kiệt hai người chạy vào đại sảnh. Lúc này Cung Quang Kiệt đã mặc quần dài lại rồi nhưng thân trên vẫn cởi trần. Hai người thần sắc có vẻ kinh hoàng chạy đến trước mặt Tả Tử Mục. Can Quang Hào nói:

- Sư phụ, Thần Nông Bang tụ tập tại ngọn núi phía trước, chặn hết các ngả đường, nói không ai được hạ sơn cả. Chúng đệ tử thấy bên địch đông quá, chưa được lệnh của sư phụ nên không dám tùy tiện ra tay.

Tả Tử Mục hỏi:

- Hừ, họ độ chừng bao nhiêu người?

Can Quang Hào đáp:

- Phải đến bảy tám chục người.

Tả Tử Mục hắc hắc cười nhạt mấy tiếng nói:

- Bảy tám chục người mà đòi tru diệt Vô Lượng Kiếm sao? Chỉ sợ không dễ như thế.

Cung Quang Kiệt nói:

- Bọn chúng dùng tên bắn qua một bao thư, trên phong bì viết thật là vô lễ.

Nói xong y đem lá thư trình lên, Tả Tử Mục thấy trên phong bì viết: “Truyền cho Tả Tử Mục” năm chữ lớn, không thèm cầm nói:

- Ngươi mở ra xem viết gì.

Cung Quang Kiệt đáp:

- Vâng.

Y liền xé phong bì lôi lá thư ra. Thiếu nữ nói nhỏ:

- Trên phong bì và lá thư đều có chất độc.

Đoàn Dự hỏi:

- Ghê gớm đến thế sao?

Chỉ nghe Cung Quang Kiệt đọc:

- Thần Nông Bang truyền cho Tả ... nghe đây – y không dám nói thẳng tên sư phụ nên khi đọc đến chữ Tả rồi, hai chữ Tử Mục bèn bỏ qua không nhắc tới – Hạn kỳ cho các ngươi trong vòng một giờ phải tự chặt tay phải, bẻ gẫy binh khí, ra khỏi Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng, nếu không thì con gà con chó của Vô Lượng Kiếm cũng không tha.

Chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm Song Thanh cười nhạt nói:

- Thần Nông Bang là bọn nào mà lớn lối quá vậy?

Đột nhiên nghe “bình” một tiếng, Cung Quang Kiệt ngã ngửa ra. Can Quang Hào đứng bên cạnh kêu lên:

- Sư đệ!

Y đưa tay định đỡ dậy, Tả Tử Mục liền tiến lên hai bước, giơ tay giữ vào ngực y, hơi vận kình lực, đẩy y ra ngoài ba bước, quát lên:

- Coi chừng có độc, không được đụng vào y.

Chỉ thấy Cung Quang Kiệt mặt mày dúm dó giật giật không ngừng, bàn tay cầm lá thư chỉ chốc lát đã đen kịt, hai chân duỗi một cái đã chết rồi. Trước sau chỉ chừng thời gian một bữa ăn, Đông Tông Vô Lượng Kiếm chết mất hai hảo thủ, mọi người ai nấy không khỏi thất sắc. Đoàn Dự hạ giọng nói:

- Cô cũng ở trong Thần Nông Bang chăng?

Thiếu nữ giận dỗi đáp:

- Hứ, làm gì có, anh nói lăng nhăng gì thế?

Đoàn Dự hỏi:

- Thế sao cô biết được phong thư có độc?

Cô gái cười:

- Cách hạ độc đó thật là thô thiển, nhìn qua là biết ngay. Cái trò ngớ ngẩn đó chỉ giết được bọn vô tri mà thôi.

Mấy câu nói của cô ta trong sảnh mọi người đều nghe thấy, cùng ngửng đầu lên, thấy cô gái vẫn cắn hạt dưa, đôi chân đi giày hoa đong đưa không ngừng. Tả Tử Mục đưa mắt nhìn tờ giấy trong tay Cung Quang Kiệt không thấy có gì khác lạ, nghiêng đầu nhìn lại một lần nữa, quả nhiên thấy phong bì và lá thư có lấp loáng ánh lân quang, giật mình ngửng đầu nói với cô gái:

- Cô nương tôn tính đại danh là gì?

Thiếu nữ đáp:

- Tôn tính đại danh của ta không nói cho ông biết được, cái đó gọi là thiên cơ bất khả tiết lậu.

Nghe thấy cô ta nói như thế, Tả Tử Mục lửa giận bừng bừng nhưng cố nén không để phát tác nói:

- Thế thì lệnh tôn là ai? Tôn sư là vị nào thế?

Thiếu nữ cười đáp:

- Ha ha, tôi không mắc lỡm của ông đâu. Nếu tôi nói cho ông biết lệnh tôn của tôi là ai thì ông biết tôn tính của tôi còn gì. Nếu ông biết được tôn tính của tôi, thì thể nào cũng biết đại danh của tôi. Còn tôn sư của tôi là mẹ tôi, mà tên mẹ tôi thì không thể nào nói cho ông biết được.

Tả Tử Mục nghe giọng cô ta vừa uyển chuyển vừa ríu rít, đúng là người bản địa xứ Vân Nam, nghĩ thầm: “Trong võ lâm đất Vân Nam này có đôi vợ chồng nào khinh công cao siêu là cha mẹ cô ta nhỉ?” Cô gái đó chưa từng ra tay thành thử y không thể nào bằng võ công gia số mà đoán được, liền nói:

- Xin mời cô nương xuống đây để cùng chúng tôi thương nghị phương sách đối phó. Thần Nông Bang nói bất cứ ai cũng không xuống núi được, cả cô cũng sẽ bị giết nữa.

Thiếu nữ cười:

- Bọn họ không giết tôi đâu, Thần Nông Bang chỉ giết người Vô Lượng Kiếm thôi. Tôi đi đường nghe thấy tin tức đó nên tới đây xem trò giết người cho vui. Lão già râu dài kia, kiếm pháp của các ông không đến nỗi dở, có điều không biết sử dụng độc dược nên không đánh lại Thần Nông Bang đâu.

Mấy câu đó chính nói trúng vào nhược điểm của Vô Lượng Kiếm, nếu chỉ bằng tài nghệ chân thực thì hai phái Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm thêm tám hảo thủ của môn phái khác được mời đến làm chứng, không thể nào không địch lại Thần Nông Bang, thế nhưng nói đến dùng độc, giải độc thì không ai biết gì cả.

Tả Tử Mục nghe miệng lưỡi cô gái một giọng “hạnh tai lạc họa” tưởng như Vô Lượng Kiếm càng chết nhiều thì nàng ta càng khoái chí nên cười gằn một tiếng, hỏi lại:

- Cô nương trên đường nghe được tin tức gì?

Y trước nay quen giọng bề trên nên câu hỏi dường như khiến người nghe không thể không trả lời. Thiếu nữ bỗng hỏi:

- Ông có cắn hạt dưa không?

Tả Tử Mục mặt hơi tím lại, nếu như không vì đại địch ở bên ngoài thì đã nổi cáu đành phải nén giận nói:

- Không ăn.

Đoàn Dự chen vào:

- Hạt dưa của cô có mùi gì? Quế Hoa? Mai Côi? Hay là Tùng Tử?

Thiếu nữ nói:

- Ối chà, hạt dưa cũng có nhiều loại đến thế ư? Tôi cũng không biết nữa. Loại hạt dưa này mẹ tôi sao bằng mật rắn, ăn vào mắt sáng, anh thử cho biết.

Nói rồi nàng ta bốc một nắm nhét vào tay Đoàn Dự, nói tiếp:

- Ăn chưa quen thì hơi đắng nhưng thực ra ngon lắm.

Đoàn Dự không nỡ làm phật ý nàng, cầm một hạt dưa đưa lên miệng thấy quả có hơi cay nhưng nhấm thử thấy ngòn ngọt đầu lưỡi ra nước miếng nên ăn thử. Chàng cắn hạt dưa để vỏ lên trên xà nhà, còn cô gái chẳng e dè gì thuận mồm cứ nhả xuống, vỏ hạt bay tứ tung lên đầu mọi người, khiến ai nấy nhăn mặt tránh ra.

Tả Tử Mục hỏi tiếp:

- Cô nương trên đường nghe thấy tin tức gì, xin nói cho nghe, tại hạ ... tại hạ cảm kích vô cùng.

Y vì muốn thám thính tin tức nên giọng điệu cực kỳ khách khí. Thiếu nữ đáp:

- Tôi nghe người trong Thần Nông Bang nói cái gì Vô Lượng Ngọc Bích, thế cái đó có gì thích thú hay không?

Tả Tử Mục hơi sững người hỏi lại:

- Vô Lượng Ngọc Bích? Không lẽ trong núi Vô Lượng có bảo ngọc, bảo bích gì chăng? Ta chưa từng nghe đến. Song Thanh sư muội có nghe ai nói tới bao giờ chưa?

Song Thanh chưa kịp trả lời, cô gái đã cướp lời:

- Dĩ nhiên bà ta cũng chưa nghe. Các người đừng giả vờ kẻ tung người hứng, không muốn nói thì cạy răng cũng không nói. Hứ, quí báu nhỉ?

Tả Tử Mục sượng sùng nói:

- À, ta nghĩ ra rồi, Thần Nông Bang nói đến chắc là hòn đá bóng loáng ở cạnh Bạch Long Phong trên núi Vô Lượng. Phiến đá đó nhẵn như gương, soi rõ cả sợi lông sợi tóc, có người bảo đó là một khối ngọc, kỳ thực thì chỉ là một khối đá lớn nhẵn nhụi sáng loáng chứ có gì đâu.

Thiếu nữ nói:

- Sao ông không nói sớm có phải hay hơn không? Thế ông gây thù chuốc oán với Thần Nông Bang như thế nào? Cớ gì họ lại muốn giết sạch Vô Lượng Kiếm gà chó không còn?

Tả Tử Mục thấy mình trở nên lép vế, muốn con bé này nói rõ tin tức ra thì đành phải tiết lộ trước, tình hình trước mắt gấp gáp, lại có có bao nhiêu là người ngoài không thể nào tóm cổ cô gái để tra vấn bèn nói:

- Mời cô nương xuống đây đã để tôi trình rõ đầu đuôi.

Cô gái vẫn đong đưa bàn chân nói:

- Trình rõ đầu đuôi, chẳng cần phải như thế. Có điều lời của ông giả hay thật, ta chỉ tin được ba bốn phần, ông cứ nói nghe thử xem nào.

Đôi lông mày Tả Tử Mục nhướng lên, lộ vẻ giận dữ nhưng lập tức đổi sắc mặt nói:

- Năm ngoái bang Thần Nông muốn đến hậu sơn của chúng tôi hái thuốc, ta không bằng lòng. Bọn họ liền lén vào hái trộm, sư đệ ta Dung Tử Củ cùng mấy đệ tử trông thấy nên ra lời trách cứ. Bọn họ đáp lại: “Chỗ này nào có phải điện Kim Loan hay Ngự Hoa viên mà người ngoài không đến được? Không lẽ Vô Lượng Kiếm các ngươi mua đứt núi Vô Lượng rồi hay sao?”. Hai bên nói qua nói lại liền ra tay đánh nhau. Dung sư đệ ra tay không nể nang chút nào, giết của bên họ hai người, hai bên thành ra rắc rối. Về sau ở bên bờ sông Lan Thương , hai bên lại đánh nhau lần nữa, chết thêm mấy người.

Thiếu nữ nói:

- Ồ, thì ra là thế. Bọn họ muốn hái thứ thuốc gì vậy?

Tả Tử Mục đáp:

- Chuyện đó ta cũng không rõ.

Cô gái mặt mày nhơn nhơn có vẻ đắc ý nói:

- Hóa ra ông cũng không biết. Ông đã kể cho ta nghe chuyện kết oán gây thù thế nào thì ta cũng kể cho ông vài điều. Hôm đó tôi vào trong núi bắt rắn cho con thiểm điện điêu ăn ...

Đoàn Dự xen vào:

- Con chồn của cô tên là thiểm điện điêu đấy ư?

Cô gái đáp:

- Đúng thế, nó chạy chẳng nhanh như ánh chớp là gì?

Đoàn Dự khen ngợi:

- Đúng vậy, thiểm điện điêu, cái tên đó nghe hay quá!

Tả Tử Mục trừng mắt nhìn chàng, bực bội vì bị ngắt quãng nhưng thiếu nữ sắp nói đến đoạn gay cấn nếu như mình lên tiếng trách mắng Đoàn Dự chỉ sợ nàng ta nổi cáu không nói thêm nữa nên chỉ đành hầm hầm lặng thinh không nói lời nào.

Cô gái quay sang nói với Đoàn Dự:

- Thiểm điện điêu thích ăn rắn độc, còn ngoài ra không ăn gì khác. Ta nuôi nó từ khi còn nhỏ, nay đã bốn tuổi rồi, chỉ nghe lời một mình ta mà thôi, ngay cả cha ta mẹ ta nói nó cũng không nghe. Ta bảo nó dọa người là dọa người, cắn người là cắn người. Con chồn này ngoan lắm.

Nói xong cô gái thò tay vào túi vuốt ve con chồn. Đoàn Dự nói:

- Vị Tả tiên sinh này đang nóng ruột, cô nói cho ông ta nghe đi.

Cô gái mỉm cười cúi xuống nói với Tả Tử Mục:

- Lúc đó tôi đang ở trong đám cỏ bắt rắn nghe tiếng có mấy người đi tới. Một người nói: “Lần này nếu không giết sạch Vô Lượng Kiếm, chiếm lấy núi Vô Lượng, Kiếm Hồ Cung thì Thần Nông Bang chúng ta chỉ còn có nước cắt cổ mà chết”. Ta nghe nói bọn chúng giết sạch gà chó không tha, lấy làm thích thú nên nín hơi không lên tiếng. Lại nghe bọn chúng nói chuyện tiếp nghe nói gì phụng mệnh cung Linh Thứu trên núi Phiêu Miểu phải chiếm lấy Kiếm Hồ Cung để tra xét cho rõ Vô Lượng Ngọc Bích ra thế nào.

Cô ta nói đến đây, Tả Tử Mục và Song Thanh hai người liền đưa mắt nhìn nhau. Thiếu nữ hỏi:

- Thế núi Phiêu Miểu, cung Linh Thứu là cái gì? Sao Thần Nông Bang lại nghe hiệu lệnh của họ?

Tả Tử Mục đáp:

- Phiêu Miểu Phong cung Linh Thứu đây là lần đầu mới nghe cô nương nói đến. Ta thực quả không biết Thần Nông Bang nghe hiệu lệnh của người khác đến làm khó dễ với chúng tôi.

Nghĩ đến việc bang Thần Nông mà phải nghe lệnh của bên ngoài thì Phiêu Miểu Phong hẳn phải lợi hại ghê gớm, thế nhưng núi non ở Vân Nam có đến hàng ngàn hàng vạn mà chưa từng nghe nói đến núi Phiêu Miểu bao giờ khiến cho y càng lo lắng không khỏi nhíu mày.

Cô gái cắn thêm hai hạt dưa rồi nói tiếp:

- Lúc đó lại nghe một người khác nói: “Cái mầm bệnh của bang chủ nếu như thông thiên thảo trong núi Vô Lượng có thể giải được, anh em chúng tôi dù có phải chịu nghìn đao vạn kiếm cũng phải nhất định hái cho bằng được thứ cỏ này”.

Người kia thở dài: “Sinh Tử Phù cấy trên người ta ngoại trừ Thiên Sơn Đồng Mỗ lão nhân gia thì không ai có thể giải được. Thông thiên thảo tuy dược tính linh dị thật nhưng cũng chỉ giúp cho bớt được phần nào cái đau đớn khổ sở sống đở chết dở một khi Sinh Tử Phù phát tác ...”

Bọn họ vừa nói vừa đi mỗi lúc một xa. Ta nói thế có rõ ràng không?

Tả Tử Mục không trả lời, cúi đầu suy nghĩ. Song Thanh nói:

- Tả sư huynh, thông thiên thảo cũng chẳng có gì là quí báu, nếu như bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền muốn dùng để trị bệnh, giảm đau thì mình cứ cho họ có được không?

Tả Tử Mục giận dữ đáp:

- Cho họ thông thiên thảo thì có gì là khó? Thế nhưng họ còn muốn chiếm cung Kiếm Hồ và núi Vô Lượng kia mà, sư muội không nghe thấy hay sao?

Song Thanh hừ một tiếng, không nói nữa. Thiếu nữ vòng tay qua đỡ ngang lưng Đoàn Dự nói:

- Thôi đi xuống.

Nàng nhún mình một cái nhảy ngay từ xà nhà xuống. Đoàn Dự hoảng hốt “A” lên một tiếng thì thân hình đã ở trên không. Thiếu nữ đỡ chàng nhẹ nhàng rơi trên mặt đất, tay trái vẫn còn cần lấy tay phải chàng nói:

- Thôi mình đi ra ngoài coi xem bọn Thần Nông Bang như thế nào?

Tả Tử Mục tiến lên một bước nói:

- Hãy khoan, ta còn mấy câu muốn hỏi. Cô nương nói là lão Tư Không Huyền bị trúng phải Sinh Tử Phù nếu khi phát tác thì sống không được, chết không xong là như thế nào? Thiên Sơn Đồng Mỗ là ai thế?

Cô gái đáp:

- Thứ nhất, hai câu hỏi của ông ta đều không biết. Thứ hai, ông hỏi mà mặt hầm hầm hung hăng, nếu có biết ta cũng không nói cho mà nghe đâu.

Lúc này Vô Lượng Kiếm đang bị đại địch thúc ép ở bên ngoài, Tả Tử Mục không muốn gây thêm kẻ thù làm gì nhưng nghe cô ta nói bên trong dường như có rất nhiều điểm quan trọng có liên hệ đến sự tồn vong vinh nhục của Vô Lượng Kiếm không thể nào không hỏi cho rõ đầu đuôi ngọn ngành, thành thử lạng người một cái đã chắn ngay trước mặt thiếu nữ và Đoàn Dự nói:

- Cô nương, bọn ác đồ của Thần Nông Bang đang ở bên ngoài, nếu cô tự tiện đi ra, nếu có chuyện gì sơ sẩy, phái Vô Lượng Kiếm chúng tôi sẽ bị liên lụy.

Cô gái mỉm cười:

- Tôi không phải là khách do ông mời đến, hơn nữa, ông cũng chưa biết tôn tính đại danh của tôi. Nếu giả như Thần Nông Bang có giết tôi chăng nữa, cha mẹ tôi không thể nào trách ông không bảo vệ chu toàn được.

Nói xong nàng cầm tay Đoàn Dự tiến ra ngoài cửa. Tay phải Tả Tử Mục hơi rung một cái, rút phắt trường kiếm bên hông ra nói:

- Cô nương, xin dừng bước.

Cô gái hỏi lại:

- Ông muốn động võ chăng?

Tả Tử Mục nói:

- Ta chỉ muốn cô đem câu chuyện đó nói cho rõ ràng thôi.

Thiếu nữ lắc đầu nói:

- Nếu như tôi không nói, ông giết tôi chăng?

Tả Tử Mục đáp:

- Ta cũng không còn cách nào khác.

Thanh trường kiếm y liền đâm ra chặn ngay lối đi. Thiếu nữ quay sang nói với Đoàn Dự:

- Lão già râu dài này muốn giết tôi, anh tính thế nào?

Đoàn Dự phe phẩy cái quạt cầm trong tay nói:

- Cô nương muốn làm sao thì làm.

Cô gái nói:

- Nếu ông ta đâm một kiếm giết tôi thì làm sao bây giờ?

Đoàn Dự đáp:

- Chúng ta có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu, hạt dưa cắn chung, đao kiếm cùng lãnh.

Cô gái đáp:

- Mấy câu của anh nghe được lắm, quả thực anh đáng để kết giao không uổng quen biết nhau, thôi đi.

Nàng nói rồi tiến bước ra cửa coi như không nhìn thấy thanh kiếm lấp lánh xanh lè trong tay Tả Tử Mục. Tả Tử Mục rung tay một cái mũi kiếm chỉ ngay vào vai trái thiếu nữ, tuy ông ta không có ý định đả thương mà chỉ cốt để nàng ta không đi ra khỏi luyện võ sảnh. Thiếu nữ liền vỗ vào cái túi da bên hông một cái, miệng huýt hai tiếng còi, chỉ thấy một bóng trắng lấp loáng, thiểm điện điêu liền nhảy vọt ra chồm lên cánh tay Tả Tử Mục. Tả Tử Mục vội giơ tay ra chộp nhưng con chồn quả thực nhanh như chớp, nghe cách một tiếng đã cắn ngay vào cổ tay phải y, rồi lập tức chui tọt trở vào cái túi da bên hông cô gái.

Tả Tử Mục kêu oái lên một tiếng, trường kiếm rơi ngay xuống đất, chỉ trong giây lát đã thấy cổ tay phải tê chồn, kêu lên:

- Độc, độc! Ngươi ... con chồn quỉ của ngươi có chất độc!

Nói rồi tay trái nắm chặt cổ tay phải sợ độc tính chạy ngược lên. Các đệ tử Đông Tông Vô Lượng Kiếm vội vàng nhao nhao chạy lên, ba người chạy lại đỡ sư phụ, còn lại tay cầm trường kiếm vây quanh thiếu nữ và Đoàn Dự, quát lên:

- Mau, mau đưa thuốc giải đây, nếu không chúng ta sẽ cùng đâm chết ngay con tiểu a đầu.

Cô gái cười nói:

- Ta làm gì có giải dược. Các ngươi chỉ cần đi hái một nắm thông thiên thảo, sắc một bát thật đặc cho ông ta uống là sẽ xong ngay. Có điều trong ba giờ không được cử động, nếu không chất độc chạy lên tim thì ôi thôi. Các ngươi chặn ta làm gì? Muốn con chồn cắn cho mỗi người một miếng hay sao?

Nàng nói xong thò tay vào trong túi bế con chồn lên tay, tay kia cầm tay Đoàn Dự đi ra ngoài. Các đệ tử thấy sư phụ như thế, biết rằng tài sức như mình không thể nào tránh được con chồn nhanh như điện này nên đành giương mắt nhìn hai người ra khỏi luyện võ sảnh.

Những người khách đến Kiếm Hồ Cung thấy con thiểm điện điêu lanh lẹ dị thường nên ai nấy đều e ngại, chẳng dám đứng ra ngăn trở.

Thiếu nữ và Đoàn Dự sóng vai đi ra khỏi cửa, các đệ tử phái Vô Lượng Kiếm người thì ở trong sảnh, kẻ thì canh gác bên ngoài để phòng bang Thần Nông đến tấn công nên hai người ra khỏi Kiếm Hồ Cung mà không gặp ai khác. Cô gái nói nhỏ:

- Con thiểm điện điêu trước nay ăn không biết bao nhiêu là rắn độc nên răng nó độc địa lắm, lão già râu dài bị nó cắn một miếng, nếu như lúc ấy chặt ngay cánh tay đi thì không sao chứ nếu không để thêm một hai giờ thì chỉ sống được tám ngày nữa thôi.

Đoàn Dự hỏi:

- Thế sao cô bảo là chỉ cần hái một nắm cỏ thông thiên sắc một bát thật đặc uống vào là khỏi ngay?

Thiếu nữ cười:

- Đó là tôi nói dối chúng đó. Nếu không đời nào bọn họ để cho mình đi ra.

Đoàn Dự hoảng hốt:

- Cô đợi tôi một chút để tôi vào nói cho họ hay.

Thiếu nữ giơ tay giữ chàng lại, giận dỗi nói:

- Đồ ngốc, nếu anh nói ra thì mạng chúng mình có còn được hay chăng? Con chồn của tôi tuy lợi hại thật nhưng bọn họ cùng xông lên thì làm sao chống cự nổi? Anh đã nói hạt dưa cắn chung, đao kiếm cùng lãnh, tôi đâu có thể nào bỏ anh chạy một mình.

Đoàn Dự gãi đầu nói:

- Thế thì cô cho họ giải dược đi.

Cô gái đáp:

- Ồ, sao anh lại giở tính đàn bà, người ta đánh anh anh lại còn tốt bụng với họ là sao?

Đoàn Dự xoa má nói:

- Người ta đánh tôi cũng đã hết đau rồi, nhớ làm gì? Ôi, tiếc thay người đánh tôi đã chết rồi. Mạnh Tử nói: Lòng thương xót chính là đầu của đức nhân. Nhà Phật cũng dạy rằng: Dù xây chín đợt phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho một người. Tả Tử Mục Tả tiên sinh tuy hung hăng thật nhưng nói chuyện với cô cũng nể nang lắm, ông ta đã có râu dài thượt mà với một cô gái nhỏ như thế cũng vẫn xưng là “tại hạ”.

Thiếu nữ cười khúc khích nói:

- Lúc đó tôi đang ngồi trên xà nhà, y ở dưới đất, thì đúng là “tại hạ” rồi còn gì? Anh cứ nói tốt cho y để tôi đưa cho giải dược. Thế nhưng quả thật tôi không có. Thuốc giải chỉ cha tôi có thôi, hơn nữa, phái Vô Lượng Kiếm trong nháy mắt đã bị Thần Nông Bang giết sạch gà chó không còn, tôi có đến xin cha tôi thuốc giải đem tới thì gã Tả Tử Mục kia đầu cũng không còn trên cổ nữa rồi, cái xác chết thì giải độc hay không giải độc cũng có liên quan gì đến nhau đâu?

Đoàn Dự lắc đầu, đành không nói chuyện thuốc giải nữa, nhân vầng trăng sáng vừa lên chiếu trên khuôn mặt trắng trẻo ẩn hồng của nàng, thấy cô gái dung nhan xinh đẹp, bèn nói:

- Tôn tính đại danh của cô không chịu nói cho lão râu dài biết nhưng có thể nói cho tôi biết được chăng?

Thiếu nữ cười đáp:

- Có gì đâu mà tôn tính đại danh? Tôi họ Chung, cha mẹ tôi gọi tôi là Linh Nhi. Tôn tính thì có, đại danh thì không, chỉ có cái tiểu danh thôi. Chúng mình qua bên sườn núi ngồi chơi, anh kể cho tôi nghe anh đến núi Vô Lượng để làm gì?

Hai người bèn sóng vai đi đến sườn núi ở góc tây bắc. Đoàn Dự vừa đi vừa nói:

- Tôi từ nhà ra đi, ngao du tứ xứ đến Phổ Nhĩ thì trong túi không còn một đồng, nghe nói vị Mã Ngũ Đức Mã ngũ gia cực kỳ hiếu khách nên đến nhà ông ta ăn cơm chực. Vừa đúng lúc ông ta đang định lên núi Vô Lượng, tôi cũng nghe núi Vô Lượng phong cảnh thanh u nên đi theo ông ta du sơn ngoạn thủy.

Chung Linh gật đầu hỏi lại:

- Sao anh lại bỏ nhà ra đi là thế nào?

Đoàn Dự đáp:

- Cha tôi muốn dạy tôi học võ công, tôi không chịu học. Cha tôi ép quá, tôi chỉ có nước bỏ nhà ra đi.

Chung Linh giương đôi mắt to đen láy nhìn chăm chăm để xem chàng nói thật hay giả, trong bụng lấy làm kỳ lạ hỏi thêm:

- Vì cớ gì anh lại không thích học võ công, sợ khổ chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Khổ sở tôi không sợ. Có điều tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi không ra nên không nghe lời cha tôi. Cha tôi bực tức cùng mẹ tôi cãi lẫy một hồi ...

Chung Linh mỉm cười nói:

- Mẹ anh bênh anh, cãi lại cha anh có phải không nào?

Đoàn Dự đáp:

- Đúng thế.

Chung Linh thở dài nói:

- Mẹ tôi cũng thế.

Nàng nhìn ra phía xa xăm, ngơ ngẩn xuất thần lại hỏi tiếp:

- Anh nghĩ đi nghĩ lại nghĩ mãi không ra chuyện gì thế?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi từ nhỏ đã thụ Phật giới, cha tôi mời một thầy đồ dạy tôi tứ thư ngũ kinh , thi từ ca phú, lại mời một cao tăng dạy tôi kinh Phật. Hơn mười năm qua, tôi toàn học về tấm lòng nhân của Nho gia, giới sát giới sân, lòng từ bi của Phật gia vậy mà cha tôi lại bắt tôi học võ, học cách đánh người giết người, thành thử tôi thấy không phải chút nào. Cha tôi liên tiếp khuyên bảo ba ngày, tôi nhất định không chịu. Cha tôi dẫn kinh Phật toàn trật lất, giải thích lại cũng sai.

Chung Linh nói:

- Thế rồi cha anh nổi giận đánh anh một trận phải không nào?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Cha tôi không đánh tôi, ông ấy chỉ giơ tay điểm hai huyệt đạo. Chỉ trong giây lát, toàn thân tôi tưởng chừng như có hàng vạn con kiến cắn, lại tưởng như có thật nhiều muỗi bu vào hút máu. Cha tôi nói: “Cái mùi vị đó có thích không? Ta là cha ngươi thành thử sẽ giải huyệt cho ngươi, thế nhưng nếu như vào tay kẻ địch thì ngươi sẽ sống không xong, chết chẳng được. Ngươi thử tự sát xem nào?”. Tôi bị ông ấy điểm huyệt rồi, đến một ngón tay cũng không cử động được thì còn tự sát làm sao được. Hơn nữa, tôi đang sống yên lành cớ gì lại tự sát? Thế rồi mẹ tôi gây gỗ với cha tôi, cha tôi phải giải huyệt cho tôi hôm sau tôi liền len lén trốn đi.

Chung Linh ngơ ngẩn ngồi nghe, đột nhiên lớn tiếng nói:

- Thì ra cha anh biết điểm huyệt, lại là công phu điểm huyệt số một của thiên hạ, có phải là chỉ giơ tay ấn vào người anh, anh không cử động được, ngứa ngáy chịu không nổi, có phải không nào?

Đoàn Dự đáp:

- Đúng thế, nhưng có gì là kỳ lạ đâu?

Chung Linh mặt đầy vẻ kinh ngạc nói:

- Anh bảo không có gì kỳ lạ à? Không có gì kỳ lạ là sao? Trong võ lâm, nếu như có ai được học công phu điểm huyệt của gia gia anh, dẫu bảo y rập đầu một vạn lần, có phải van xin mười năm, hai mươi năm người ta cũng chịu. Còn anh thì lại nhất định không học, quả thực không còn kỳ lạ thì là gì?

Đoàn Dự đáp:

- Công phu điểm huyệt đó tôi chẳng thấy có gì là ghê gớm cả.

Chung Linh thở dài, nói:

- Câu chuyện đó anh không nên nói ra, cũng tuyệt đối chớ có cho ai biết.

Đoàn Dự lạ lùng:

- Vì sao?

Chung Linh đáp:

- Anh đã không biết võ công, những chuyện tồi bại trên giang hồ lại không am tường. Công phu điểm huyệt của họ Đoàn thiên hạ vô song, gọi là Nhất Dương Chỉ. Người học võ nghe thấy ba chữ Nhất Dương Chỉ ai nấy nước dãi chảy dài ba thước, thèm muốn đến mười ngày đêm không ngủ được. Nếu như có ai biết cha anh biết được công phu đó, không chừng nổi lòng xấu xa, bắt anh trói lại, đòi cha anh đem huyệt phổ của Nhất Dương Chỉ ra trao đổi thì làm thế nào?

Đoàn Dự gãi đầu:

- Có chuyện đó sao? Cha tôi nổi giận không chừng sẽ đánh cho người đó một trận.

Chung Linh nói:

- Thế sao. Nếu ra mặt gây sự với họ Đoàn nhà anh người ngoài dĩ nhiên không dám nhưng vì bí quyết của Nhất Dương Chỉ không chừng họ sẽ ra tay. Huống chi nếu như anh rơi vào tay người ngoài thì sự việc không phải dễ dàng giải quyết. Thành thử từ rày đừng nên nói cho người ta biết anh họ Đoàn.

Đoàn Dự đáp:

- Ở nước Đại Lý này họ Đoàn có đến hàng nghìn hàng vạn, đâu phải ai cũng biết phép điểm huyệt đó đâu. Nếu tôi không lấy họ đoàn thì cô bảo tôi lấy họ gì bây giờ?

Chung Linh mỉm cười nói:

- Vậy anh cứ tạm thời lấy họ của tôi cũng được.

Đoàn Dự cười nói:

- Thế thì hay lắm, cô phải gọi tôi là đại ca. Cô bao nhiêu tuổi?

Chung Linh đáp:

- Mười sáu. Còn anh?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi hơn cô ba tuổi.

Chung Linh vặt một lá cỏ, rứt ra từng khúc, đột nhiên lắc đầu nói:

- Nếu quả thực anh không muốn học công phu Nhất Dương Chỉ tôi không thể nào tin nổi. Anh đánh lừa tôi, phải không nào?

Đoàn Dự cười khì nói:

- Sao cô coi Nhất Dương Chỉ thần diệu đến thế, có ăn thay cơm được không? Tôi xem con thiểm điện điêu của cô còn hơn nhiều, có điều nó cắn là chết người nên tôi không thích lắm.

Chung Linh thở dài:

- Nếu như con thiểm điện điêu cắn không chết người thì để làm gì?

Đoàn Dự nói:

- Cô là một cô gái còn nhỏ, sao cứ nghĩ tới chuyện đánh nhau, giết người là cớ làm sao?

Chung Linh nói:

- Có thực anh không biết, hay anh chỉ giả vờ?

Đoàn Dự lạ lùng hỏi lại:

- Cái gì?

Chung Linh chỉ tay ra phương đông nói:

- Anh xem kìa!

Đoàn Dự nhìn theo hướng tay cô ta chỉ, thấy lưng chừng núi phía đông thấy từng cuộn, từng cuộn khói xanh bốc lên, phải đến hơn chục chỗ không hiểu việc gì. Chung Linh nói:

- Anh không muốn đánh nhau giết người, thế nhưng người ta muốn giết anh đánh anh, không lẽ anh cũng vươn cổ cho người ta chém à? Những đám khói đó là Thần Nông Bang đang nấu thuốc độc, để đối phó với Vô Lượng Kiếm. Theo tôi thì mình cứ lẳng lặng đi ra để khỏi liên lụy.

Đoàn Dự phe phẩy cái quạt làm như không có gì xảy ra nói:

- Những bọn giang hồ này đánh nhau giết nhau càng lúc càng không đâu vào đâu. Người của Vô Lượng Kiếm giết người của Thần Nông Bang, thì gã Dung Tử Củ kia cũng đã bị Thần Nông Bang giết rồi, lại giết cả Cung Quang Kiệt, nếu như một mạng đổi một mạng thì đã quá số rồi. Còn như vẫn còn chưa bằng lòng thì phải trình lên quan cho rõ ràng, để cho cha mẹ dân xét xử cho minh bạch, chứ có lý đâu động một tí là giết người phóng hỏa? Chẳng lẽ nước Đại Lý này không còn vương pháp nữa hay sao?

Chung Linh tặc lưỡi mấy tiếng, mặt lộ vẻ diễu cợt nói:

- Nghe anh nói tưởng anh là hoàng thân quốc thích, quan lớn quan bé gì đây. Dân ngu khu đen như chúng tôi đâu cần biết đến.

Nàng ngửng đầu nhìn bầu trời, chỉ về phía tây nam nói nhỏ:

- Đợi bao giờ mây đen kéo đến che mặt trăng thì mình cứ lẳng lặng theo phía đó mà ra đi, người của Thần Nông Bang chưa chắc biết được đâu.

Đoàn Dự đáp:

- Không được, tôi muốn đến gặp bang chủ của họ, giải thích cho họ biết, không để cho họ giết người bừa bãi như thế được.

Ánh mắt Chung Linh lộ vẻ thương hại nói:

- Đoàn đại ca, anh thật chẳng biết trời cao đất dày là gì. Bang Thần Nông hiểm ác độc địa, chuyên về sử dụng chất độc, mới giết hai người xong, chính mắt anh thấy rồi. Mình đừng nên sinh sự với họ, mau chạy đi là hơn.

Đoàn Dự đáp:

- Không được, việc này tôi không thể không nhúng tay vào, nếu như cô sợ thì ngồi đây chờ tôi vậy.

Chàng nói rồi liền đứng lên nhắm phía đông đi tới. Chung Linh đợi chàng đi mấy trượng bỗng nhiên nhỏm dậy đuổi theo, tay phải đưa ra chộp lên đầu vai. Đoàn Dự nghe tiếng chân người ở sau lưng, đang định quay đầu lại thì vai đã bị chộp trúng rồi. Chung Linh lại đưa chân khoèo một cái, Đoàn Dự đứng không vững, ngãn sấp mặt xuống, mũi va phải một cục đá tóe máu ra. Chàng bừng bừng giận dữ đứng lên, quát lớn:

- Sao cô ác thế? Làm tôi ngã đau đến thế này?

Chung Linh nói:

- Tôi muốn thử thêm lần nữa để xem anh giả vờ hay không biết võ thực để còn tính chuyện giúp anh.

Đoàn Dự hậm hực hỏi lại:

- Giúp cái gì?

Chàng đưa lưng bàn tay quệt ngang mặt thấy tay đầy máu, máu tươi vẫn tiếp tục chảy ròng ròng, ướt đẫm cả một khoảng trước ngực. Chàng bị thương rất nhẹ nhưng máu chảy nhiều như thế, mồm liên tiếp suýt soa. Chung Linh cũng hơi lo, vội vàng lấy khăn tay ra lau máu cho chàng. Đoàn Dự trong lòng bực bội, giơ tay đẩy ra nói:

- Không cần cô lấy lòng, tôi không thèm nhìn cô nữa.

Chàng không biết võ công, chẳng thành chiêu số gì, tiện thể đẩy ra, bàn tay ấn ngay lên ngực cô gái. Chung Linh không kịp suy nghĩ, tay liền vòng lại gạt ra, thuận tay tung một cái, Đoàn Dự lập tức ngã lăn cù, bình một tiếng, ót đập vào đá ngất đi.

Chung Linh thấy chàng nằm ngay đơ trên mặt đất, quát lên:

- Mau đứng dậy tôi muốn nói chuyện với anh.

Thế nhưng chàng trai vẫn không động đậy, nàng hơi hoảng vội tiến tới cúi mình xem xét, thấy Đoàn Dự hai mắt trợn ngược, hơi thở yếu ớt, quả thực đã bất tỉnh nhân sự nên vội đưa tay ấn vào nhân trung rồi dùng sức xoa bóp trên ngực.

Qua một hồi lâu, Đoàn Dự mới dần dần tỉnh lại, thấy lưng mình dựa vào một thân hình mềm mại, mũi ngửi thấy mùi thơm ngát nên từ từ mở mắt ra, thấy đôi mắt trong trẻo của Chung Linh đang lo lắng nhìn mình. Chung Linh thấy chàng đã tỉnh lại, thở phào một cái nói:

- May quá anh không chết.

Đoàn Dự thấy mình nằm dựa vào trong lòng nàng, đầu gối lên hông cô gái, trong lòng không khỏi đê mê, bỗng thấy vết thương sau đầu đau nhói từng chặp, nhịn không nổi rên lên một tiếng “Ôi chao”.

Chung Linh nhảy nhỏm lên vội hỏi:

- Sao thế?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi ... tôi đau quá mất thôi.

Chung Linh đáp:

- Anh không chết sao còn kêu réo om sòm là sao?

Đoàn Dự đáp:

- Nếu như tôi chết rồi thì còn kêu réo làm sao được?

Chung Linh cười khúc khích, đỡ đầu Đoàn Dự lên thấy sau ót sưng u lên một cục phải bằng quả trứng gà, tuy không chảy máu nhưng xem ra đau đớn lắm bèn hờn dỗi nói:

- Ai bảo anh ra tay khinh bạc hạ lưu, nếu như người khác thì tôi đã giết ngay tại chỗ, chỉ đẩy anh ngã là may cho anh lắm rồi.

Đoàn Dự ngồi dậy lạ lùng hỏi:

- Tôi ... tôi khinh bạc hạ lưu ư? Làm gì có chuyện đó? Thật là oan uổng hết sức.

Chuyện trai gái Chung Linh tưởng như hiểu mà thực chưa biết gì, nghe chàng ta nói, mặt hơi đỏ lên nói:

- Tôi không nói chuyện với anh nữa nhưng đúng là anh chẳng ra gì, ai bảo anh giơ tay đẩy vào chỗ đó ... chỗ đó ...

Đoàn Dự bấy giờ mới vỡ lẽ, thấy mình quả là không phải, định nói vài câu biện bạch nhưng không tiện bèn nói:

- Tôi ... tôi quả thực không cố ý.

Nói xong chàng gắng gượng đứng lên. Chung Linh cũng đứng theo nói:

- Anh không cố ý tôi mới tha cho anh. Cũng may mà anh tỉnh lại kẻo tôi bồn chồn hết sức.

Đoàn Dự nói:

- Khi ở Kiếm Hồ Cung nếu như không có cô ra tay cứu, chắc tôi sẽ còn ăn thêm vài cái tát nữa. Bây giờ cô làm tôi ngã hai lần, hai đứa mình coi như bù qua bù lại. Đúng là cái số tôi như thế, thật chạy trời không khỏi nắng.

Chung Linh nói:

- Anh nói thế, có phải anh còn giận tôi phải không?

Đoàn Dự đáp:

- Thế chẳng lẽ cô đánh tôi, tôi lại sung sướng nói là: “Cô nương đánh hay lắm, đánh thật tuyệt” hay sao? Hay cô còn muốn tôi phải cảm ơn mới phải?

Chung Linh cầm tay chàng dịu dàng nói:

- Từ nay trở đi, tôi sẽ không đánh anh nữa. Lần này anh đừng giận nhé.

Đoàn Dự đáp:

- Trừ phi cô để tôi đánh lại cô hai cái.

Chung Linh không muốn chút nào nhưng thấy chàng đang hầm hầm toan bỏ đi bèn ngẩng đầu lên nói:

- Được rồi, tôi để cho anh đánh tôi hai cái. Thế nhưng .. thế nhưng anh đừng đánh mạnh nghe chưa?

Đoàn Dự đáp:

- Nếu đánh không mạnh thì đâu phải là trả thù? Nhất định tôi phải đánh thật mạnh. Còn như cô không chịu cho tôi đánh thì thôi.

Chung Linh thở dài, nhắm mắt lại, nói nhỏ:

- Thôi được. Anh đánh rồi không được giận nữa nghe.

Qua một hồi không thấy tay Đoàn Dự đánh xuống, nàng mở mắt ra, thấy chàng đang mủm mỉm cười nhìn mình, Chung Linh ngạc nhiên hỏi:

- Sao anh không đánh?

Đoàn Dự giơ ngón tay út ra búng nhè nhẹ vào hai bên má nàng, cười nói:

- Đánh hai cái mạnh thế này, có đau lắm không?

Chung Linh mừng rỡ, cười nói:

- Tôi biết anh tử tế lắm mà!

Đoàn Dự thấy nàng đứng ngay trước mặt mình, cách nhau chưa đầy một thước, hơi thở tỏa ra thơm như lan, càng nhìn càng thấy nàng xinh đẹp không muốn rời ra, một lúc lâu sau mới nói:

- Được rồi, mối đại cừu của tôi đã báo, thôi để tôi đi kiếm lão bang chủ Tư Không Huyền.

Chung Linh vội nói:

- Chàng ngốc ơi, không được đâu. Chuyện trên giang hồ anh không biết chút nào, nếu phạm phải đại kỵ của võ lâm thì tôi không cứu nổi.

Đoàn Dự cười lắc đầu:

- Cô không phải lo cho tôi, tôi đi một lúc sẽ quay về, cô ở đây chờ nhé.

Nói xong chàng hùng dũng đi về phía những đám khói xanh đang cuồn cuộn tỏa lên. Chung Linh gọi giật lại nhưng Đoàn Dự không trả lời. Cô gái đứng ngơ ngẩn một hồi rồi nói:

- Được rồi, anh nói có hạt dưa cùng cắn, đao kiếm cùng chịu mà.

Nàng đuổi theo cùng sóng vai đi với Đoàn Dự nhưng không khuyên nhủ gì thêm nữa.

Hai người đi chỉ chừng uống cạn một tuần trà đã thấy hai gã mặc áo vàng bước ra ngăn lại, người bên trái có vẻ lớn tuổi quát lớn:

- Ai đó? Đến đây làm gì?

Đoàn Dự thấy hai người đó vai mang bọc thuốc, tay cầm đoản đao bản rộng liền đáp:

- Tại hạ Đoàn Dự, có chuyện xin cầu kiến Tư Không bang chủ của quí bang.

Lão già đáp:

- Có việc gì?

Đoàn Dự đáp:

- Để gặp quí bang chủ rồi sẽ nói rõ sau.

Lão già hỏi lại:

- Các hạ thuộc môn phái nào? Tôn sư tên họ là chi?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi không có môn phái. Thụ nghiệp sư phụ của tôi họ Mạnh, tên trên Thuật dưới Thánh, tự Kế Nho. Sư phụ tôi chuyên nghiên cứu về Dịch Lý, Thuyết Quái, Hệ Từ cũng khá thâm hiểu.

Chàng nói đến sư phụ chính là nói về ông thầy dạy chàng đọc sách, làm văn. Thế nhưng lão già kia nghe thấy nào là “dịch lý”, “thuyết quái, hệ từ” lại tưởng là những môn công phu đặc biệt, nhất là Đoàn Dự tay cầm quạt phe phẩy, trông cũng có vẻ như thân mang tuyệt nghệ đã luyện đến mức không lộ ra ngoài nên không dám coi thường, mặc dầu chưa nghĩ ra trong võ lâm ai là Mạnh Thuật Thánh nhưng đối phương dám tự khoe là “cũng khá thâm hiểu” thì chắc không phải thuận miệng huênh hoang, bèn nói:

- Nếu quả như thế, xin Đoàn thiếu hiệp chờ một chút để tôi vào thông báo.

Chung Linh thấy y lật đật đi vào, qua khỏi một sườn núi liền hỏi:

- Anh ba hoa với y dị lý, nan lý là cái công phu gì thế? Nếu Tư Không Huyền đem ra tra hỏi e rằng không dễ gì đánh lừa được y đâu.

Đoàn Dự đáp:

- Chu Dịch tôi đọc thuộc lắm rồi, những chỗ vi ngôn đại nghĩa, nếu Tư Không Huyền đem ra tra vấn chưa chắc đã qua mặt được tôi.

Chung Linh ngơ ngác không biết sao đáp lại. Bỗng thấy lão già kia mặt hầm hầm quay lại nói:

- Ngươi nói lăng nói nhăng gì thế? Bang chủ gọi ngươi vào.

Cứ trông điệu bộ của y biết ngay là y vừa bị Tư Không Huyền trách mắng. Đoàn Dự gật gù, cùng Chung Linh đi theo gã. Ba người đi một lát qua khỏi một khoảng đất trũng, thấy trong một đống loạn thạch lớn ngồi đến hai chục người. Đoàn Dự tới gần hơn, thấy ngay chính giữa có một ông già bé nhỏ ngồi trên một tảng đá cao hơn hết những người khác, dưới cằm để một bộ râu lưa thưa như râu dê, mặt mày khinh khỉnh, hẳn là bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền. Chàng bèn chắp tay vái chào nói:

- Được Tư Không bang chủ cho mời, tại hạ Đoàn Dự xin chào.

Tư Không Huyền gật đầu nhưng không đứng lên, hỏi:

- Các hạ đến đây có chuyện gì?

Đoàn Dự đáp:

- Nghe nói quí bang cùng Vô Lượng Kiếm kết oán thù, tại hạ chính mắt trông thấy hai người trong Vô Lượng Kiếm thảm tử, trong lòng thật là bất nhẫn nên đến đây khuyên giải. Oan gia nên cởi không nên buộc, huống chi đâm chém lẫn nhau là phạm vào phép nước, nếu quan nha biết được thì càng thêm rắc rối. Mong Tư Không bang chủ kịp dừng ngựa trước vực sâu, mau quay trở về đừng tìm cách trả thù Vô Lượng Kiếm nữa.

Tư Không Huyền lạnh lùng nghe chàng phân giải chẳng nói chẳng rằng, chỉ liếc mắt một cái không biết có ý gì. Đoàn Dự lại tiếp:

- Những lời của tại hạ nói đây là lời vàng ngọc, mong bang chủ suy nghĩ lại.

Tư Không Huyền lạ lùng nhìn Đoàn Dự, đột nhiên ngửa cổ cười sằng sặc nói:

- Tiểu tử ngươi là ai sao lại đám đến đây kiếm lão phu để đùa cợt? Ai sai ngươi đến vậy?

Đoàn Dự đáp:

- Có ai bảo tôi đến đâu? Tự tôi đến nói với ông đó.

Tư Không Huyền hừ một tiếng nói:

- Lão phu hành tẩu giang hồ hơn bốn mươi năm chưa từng gặp một thằng nhãi nào lớn mật làm càn đến thế. A Thắng, bắt hai đứa trai gái này lại.

Một đại hán ở bên cạnh đáp lời bước ra, vươn tay chộp lấy cánh tay Đoàn Dự. Chung Linh kêu lên:

- Khoan đã! Tư Không bang chủ, vị Đoàn tướng công đây lấy lời hay lẽ phải khuyên ông, ông không nghe thì thôi, sao lại giở trò ngang ngược?

Nàng quay sang nói với Đoàn Dự:

- Đoàn đại ca, Thần Nông Bang không nghe lời đại ca, thôi mình đừng nhúng tay vào chuyện người khác nữa, đi thôi.

A Thắng vốn đã vươn tay bẻ quặt hai bàn tay Đoàn Dự ra sau lưng giữ thật chặt, mắt nhìn Tư Không Huyền đợi y ra lệnh. Tư Không Huyền lạnh lùng nói:

- Thần Nông Bang ghét nhất là kẻ hay xía vào chuyện người khác, hai đứa nhãi này đến đây lảm nhảm, ắt hẳn bên trong có chuyện gì khác lạ. A Hồng, trói con bé này lại cho ta.

Một đại hán khác lại đáp lời đưa tay ra bắt Chung Linh. Chung Linh lắc mình một cái lướt ra ngoài ba bước nói:

- Tư Không bang chủ, không phải là tôi sợ ông đâu. Có điều cha mẹ tôi không muốn tôi ra ngoài gây chuyên thị phi, ông mau ra lệnh thả Đoàn đại ca ra, đừng ép tôi phải ra tay càng thêm bất tiện.

Tư Không Huyền cười sằng sặc nói:

- Con ranh này khoác lác quá lắm. A Hồng, sao chưa động thủ?

A Hồng lại đáp lời “Vâng” rồi giơ tay ra chộp Chung Linh. Chung Linh rụt tay về, chưởng trái vung ra, cạnh bàn tay thành hình đao chém ngay vào cổ A Hồng. A Hồng hụp xuống tránh, tay phải của Chung Linh liền đấm móc từ dưới lên, nghe bịch một cái, trúng ngay cằm A Hồng khiến y ngã ngửa. Tư Không Huyền lạnh lùng nói:

- Con nhãi này cũng có được một đôi miếng, nhưng thế mà cũng dám đến Thần Nông Bang để chơi trèo thì chưa đủ đâu.

Y đưa mắt cho một lão già thân hình cao gầy ở bên cạnh, tay phải phất một cái. Lão già đó liền đứng dậy, tiến tới hai bước. Y cao hơn Chung Linh phải đến hai thước, từ cao đánh xuống, hai tay cùng vung ra như mười chiếc vuốt chim chộp vào đầu vai Chung Linh.

Chung Linh thấy thế đánh của y hùng mạnh, vội tránh sang một bên, năm ngón tay trái của lão già lướt qua má nàng chỉ cách chừng năm tấc. Chung Linh thấy kình phong ghê gớm, trong lòng sợ hãi kêu lên:

- Tư Không bang chủ, mau mau bảo y ngừng tay, nếu không tôi không nể nang nữa đâu đấy nhé. Mai này cha tôi mắng tôi thì ông cũng chẳng hay ho gì đâu.

Trong khi nàng nói, lão già kia đã ra tay ba lần, lần nào Chung Linh cũng tránh được. Tư Không Huyền gay gắt nói:

- Giữ nó lại.

Lão già cao tay trái đánh xéo tới, tay phải vòng thành một vòng tròn nhỏ, năm ngón tay lật lại đã chộp được cánh tay Chung Linh. Chung Linh “A” lên một tiếng hoảng hốt, đau đến tái mặt, tay trái rung một cái, miệng huýt hai tiếng, chỉ thấy một làn bạch quang thấp thoáng, lão già đã hự một tiếng buông tay cô ta ra, ngồi bệt xuống đất. Thiểm điện điêu cắn được y một cái rồi, lập tức nhảy ngay trở về tay Chung Linh.

Một hán tử trung niên ở bên cạnh Tư Không Huyền liền tung mình nhảy ra, giơ tay đỡ lão già cao lên, chỉ thấy y toàn thân run rẩy, trên lưng bàn tay có một vầng đen. Chung Linh lại huýt hai tiếng nữa, thiểm điện điêu lại vọt ra xông tới trước gã A Thắng đang giữ Đoàn Dự. A Thắng giơ tay định gạt ra, thiểm điện điêu thuận mồm cắn ngay một miếng, trúng ngay cạnh bàn tay y. A Thắng võ công không bằng ông già cao nên lại càng chịu không nổi, người co rúm lại kêu toáng lên. Chung Linh nắm tay Đoàn Dự, quay mình định chạy nói nhỏ:

- Họa đến nơi rồi, chạy cho nhanh.

Những người ở chung quanh Tư Không Huyền đều là hảo thủ trong Thần Nông Bang, ai nấy cả đời hái thuốc luyện dược, có thể nói loại độc vật gì cũng từng biết qua nhưng con chồn này nhanh như ánh chớp, lại độc địa như thế nên không ai biết là con gì. Tư Không Huyền kêu lên:

- Mau bắt con bé đó đừng để cho nó chạy thoát.

Bốn người đáp lời xông ra, chia ra hai bên vòng lại. Chung Linh luôn mồm huýt còi ra lệnh, con thiểm điện điêu nhảy từ người này sang người khác, chỉ chốc lát đã cắn cả bốn người tất cả nằm lăn lộn dưới đất, người nào cũng co quắp giãy giụa. Bang chúng của Thần Nông Bang tuy thấy con chồn đó đáng sợ thật nhưng trước mặt bang chủ nào ai dám rụt đầu rụt cổ nên lại có thêm bẩy tám người la hét xông ra. Chung Linh kêu lên:

- Muốn chết thì ra đây.

Bảy tám người đó tay cầm binh khí, kẻ thì cầm mai thuổng đào thuốc, kẻ lại cầm đoản đao bản rộng, cốt làm sao để khỏi bị con thiểm điện điêu tập kích. Thế nhưng con chồn kia nhanh chẳng khác gì ám khí, chân chỉ điểm vào sống đao một cái đã bật ngay vào cắn trúng địch nhân, chỉ chớp mắt những người đó đều ngã nhào.

Tư Không Huyền cởi trường bào, lấy trong túi ra một bình thuốc nước, đổ lên lòng bàn tay, xoa khắp từ cánh tay đổ xuống, chỉ nhún mấy cái đã vọt ra chặn ngay trước mặt Chung Linh và Đoàn Dự, trầm giọng quát:

- Đứng lại.

Con thiểm điện điêu từ bàn tay Chung Linh liền nhảy tới, vồ vào mặt Tư Không Huyền. Tư Không Huyền trong bụng cũng hơi chột dạ, giơ tay lên đỡ không biết thứ thuốc kỵ rắn bí chế của mình có trị nổi con chồn độc chưa từng thấy này hay không, nếu như vô hiệu thì không những tính mạng sẽ lâm nguy mà cả bang Thần Nông cũng bị hủy. Con chồn lao vào đớp bàn tay đột nhiên giữa lưng chừng quay ngoắt lại, chân sau điểm vào ngón tay y, mượn sức nhảy trở về. Cơ thể con thiểm điện điêu tích đầy nọc rắn nhưng thứ thuốc bí chế của Tư Không Huyền cũng cực kỳ linh nghiệm, chính là để khắc chế rắn độc, con chồn ngửi thấy mùi thuốc xông ra mạnh quá, chịu không nổi. Tư Không Huyền mừng lắm, tay trái liền đánh ra, chưởng phong thật là mạnh mẽ, Chung Linh tránh không kịp, chân không vững suýt nữa thì ngã. Dư lực của chưởng đó ập tới, nghe bộp một cái đánh trúng phải Đoàn Dự khiến chàng ngã bổ chửng.

Chung Linh kinh hãi, liên tiếp huýt còi thúc con thiểm điện điêu tấn công địch thủ. Con chồn cố xông vào mấy lần nhưng chất xà dược bôi trên tay Tư Không Huyền là khắc tinh của nó, muốn cắn vào đầu vào đùi của y thì Tư Không Huyền song chưởng múa tít đẩy lùi con vật không sao đến gần được.

Tư Không Huyền thấy con chồn nhảy nhót nhanh như chớp, trong bụng sợ hãi, liên tiếp hò hét ra lệnh, lập tức có mấy chục tên bang chúng từ bốn phương tám hướng ào ra, trong tay người nào cũng cầm một nắm cỏ thuốc, đốt lên khói bay mù mịt. Đoàn Dự từ dưới đất cố gượng đứng lên, bỗng thấy đầu váng lại ngã lăn ra trong cơn mơ mơ màng màng thấy Chung Linh cũng loạng choạng, rồi gục xuống. Hai tên bang chúng tiến lên toan bắt giữ Chung Linh, con chồn hộ vệ cho chủ liền nhảy tới cắn cho mỗi đứa một miếng. Cả bọn kinh hãi lùi ra, vây quanh bốn phía, miệng quát tháo om sòm nhưng không ai dám xông vào hạ thủ.

Tư Không Huyền kêu lên:

- Phương đông đốt hùng hoàng, phương nam đốt sạ hương, còn phương tây phương bắc mọi người dãn ra.

Các bang chúng tuân lệnh lấy hùng hoàng, sạ hương ra đốt. Bang Thần Nông dược vật gì cũng đầy đủ, loại nào cũng đều là tinh phẩm hạng nhất. Hai món sạ hương hùng hoàng kia thuần chất nên rất mãnh liệt, vừa mới đốt lên, lập tức bốc khói cay nồng, theo gió đông nam thổi về phía Chung Linh. Ngờ đâu con thiểm điện điêu không sợ khói thuốc, lại nhanh nhẹn khôn ngoan, trong nháy mắt đã cắn thêm năm tên bang chúng.

Tư Không Huyền nhíu mày lập tức nghĩ ra một kế kêu lên:

- Lấy xẻng xúc đất đổ lên chôn sống cả con bé kia lẫn con chồn.

Các bang chúng trong tay có sẵn mai xẻng dùng để đào thuốc, lập tức đào đất bên sườn núi, hất lên mình Chung Linh. Đoàn Dự nghĩ tai họa do mình gây ra, Chung Linh nay bị chôn sống không lẽ mình sống một mình, cố hết sức chồm lên, che người cô gái ôm chặt lấy nàng kêu lên:

- Thôi thì mình cùng chết cả.

Chàng thấy đất đá đổ xuống như mưa trên đầu mình. Tư Không Huyền nghe thấy chàng nói : “Thôi thì mình cùng chết cả” trong bụng chợt động, nhìn quanh thấy đến hai chục bang chúng nằm ngổn ngang, trong đó có đến bảy tám người là nhân vật trọng yếu, gồm cả hai tên sư đệ của mình, nếu như giết chết cô gái này, tuy hả giận thực nhưng độc tính của con chồn kia chẳng phải tầm thường, không có thuốc giải đặc biệt của cô ta, e rằng khó lòng mà cứu sống được liền nói:

- Để cho hai đứa nó sống, chừa cái đầu ra.

Chỉ trong giây lát đất đá đã ngập tới cổ, Chung Linh thấy sức ép đè xuống thật nặng nề, Đoàn Dự ôm chặt lấy mình người của hai đứa đã bị chìm trong đất tuy đầu còn thò ra nhưng không sao nhúc nhích được.

Tư Không Huyền khinh khỉnh hỏi:

- Con nhãi kia, mày muốn sống hay muốn chết?

Chung Linh đáp:

- Dĩ nhiên tôi muốn sống. Nếu ông giết tôi và Đoàn đại ca, bao nhiêu người của ông cũng không sống được đâu.

Tư Không Huyền nói:

- Được, vậy thì ngươi đem thuốc giải chất độc con chồn ra cho ta, ta sẽ tha chết cho ngươi.

Chung Linh lắc đầu:

- Tha mạng một mình tôi chưa đủ, phải tha mạng cả hai người mới được.

Tư Không Huyền nói:

- Được rồi, tha mạng cả hai đứa bay cũng được, thế thuốc giải đâu?

Chung Linh đáp:

- Trên người tôi không có thuốc giải. Chất độc con thiểm điện điêu này chỉ cha tôi mới trị được. Tôi đã nói trước với ông rồi, đừng có ép tôi phải ra tay, nếu không cha tôi thể nào cũng mắng tôi, ông cũng không tốt lành gì?

Tư Không Huyền sẵng giọng:

- Con nhãi này bây giờ còn nói lăng nói nhăng, lão gia mà cáu lên thì để cho mày chết đói.

Chung Linh đáp:

- Tôi từ trước đến giờ nói thật với ông, tại ông không tin. Ôi, nói gì thì nói, chuyện này thật là khó xử, e rằng không dấu nổi cha tôi đâu, không biết làm sao bây giờ?

Tư Không Huyền nói:

- Cha ngươi tên là gì?

Chung Linh đáp:

- Ông già đầu mà không thông tình lý gì cả, tên cha tôi làm sao tôi có thể nói ra cho ông biết được?

Tư Không Huyền hành tẩu giang hồ đã mấy chục năm, trong võ lâm cũng có tên tuổi, hôm nay gặp Chung Linh và Đoàn Dự hai đứa trẻ con chưa ráo máu đầu mà đành bó tay. Y nghiến răng nói:

- Đem lửa lại đây để ta đốt tóc con nhãi con này xem nó có nói không nào?

Một tên bang chúng liền đem một bó đuốc tới, Tư Không Huyền cầm lăm lăm tiến lên hai bước. Dưới ánh lửa bập bùng, Chung Linh thấy mặt y đầy vẻ hung ác, trong lòng sợ hãi kêu lên:

- Thôi, thôi, ông khỏi phải đốt tóc tôi, cháy tóc đau lắm. Nếu ông không tin, thử đốt râu ông thì biết.

Tư Không Huyền bật cười:

- Lẽ dĩ nhiên ta biết là đau lắm, việc gì phải đốt râu mới biết.

Y giơ cao bó đuốc nhứ nhứ vào mặt Chung Linh. Chung Linh sợ đến kêu lên oai oái.

Đoàn Dự ôm chặt lấy nàng la lớn:

- Lão râu dê kia, việc này cũng tại ta mà ra, ngươi đốt tóc ta cho xong.

Chung Linh nói:

- Không được, đau lắm đó.

Tư Không Huyền nói:

- Nếu như ngươi sợ đau thì mau mau lấy thuốc giải ra để cứu chữa cho các anh em ta.

Chung Linh đáp:

- Sao ông ngốc thế. Tôi đã nói với ông rồi, chỉ có cha tôi mới trị được chất độc của con thiểm điện điêu thôi, đến mẹ tôi cũng còn không biết. Con thiểm điện điêu này trên đời ít thấy, là thần vật trời sinh, chất độc trên răng nó cực kỳ quái dị, ông tưởng dễ trị lắm hay sao?

Tư Không Huyền nghe thấy những người chung quanh bị con chồn cắn phải không ngớt rên la cực kỳ khác lạ, biết rằng chất độc con chồn này thật khó chữa, những người này đều là anh hùng hảo hán, dẫu có bị chặt chân gãy tay cũng không kêu than một lời. Những người đó đã được đồng bọn cho uống thuốc trị nọc rắn nhưng nghe rên la thì biết ngay rằng thuốc của bản bang không công hiệu. Bọn họ bèn lấy thuốc trị rết cắn, trị bò cạp, trị nhện độc các loại thuốc, đưa cho những bang chúng cấp thấp uống thử, ngờ đâu bọn chúng chỉ lại càng kêu la thêm thảm thiết hơn nữa. Tư Không Huyền trừng trừng nhìn Chung Linh, quát lớn:

- Cha ngươi tên gì? Mau nói ta nghe.

Chung Linh đáp:

- Có thực ông muốn tôi nói chăng? Ông không sợ hay sao?

Tư Không Huyền giận lắm, giơ bó đuốc đang toan đốt tóc Chung Linh, bỗng sau cổ đau nhói đã bị con gì đó cắn một miếng rồi. Tư Không Huyền sợ quá, vội hít một hơi để bảo vệ tâm đầu, ném bó đuốc xuống, giơ tay ra chộp đằng sau ót, bỗng thấy lưng bàn tay cũng nhói lên. Thì ra con thiểm điện điêu bị vùi dưới đất, len lén bò ra, thừa lúc Tư Không Huyền không phòng bị liền nhảy lên cắn trộm. Tư Không Huyền liên tiếp bị cắn hai lần, sợ đến mất vía, lập tức ngồi xếp bằng, vận công trừ độc. Các bang chúng vội hất đất cát lên vùi con thiểm điện điêu, con chồn lại nhảy lên cắn thêm hai người nữa, trong bóng đêm thấy một bóng trắng thấp thoáng đã chạy vào trong đám cỏ không còn thấy đâu nữa.

Thủ hạ trong bang Thần Nông vội vàng lấy thuốc trị rắn cắn ra, trong uống ngoài thoa phục thị bang chủ, lại nhét một củ dã sơn sâm vào miệng y. Tư Không Huyền lập tức vận công trị hai chỗ bị cắn nhưng chỉ chưa đầy thời gian uống một chén trà đã chịu không nổi, nghiến răng tay trái rút trong lưng ra một thanh đoản đao, nghe soẹt một tiếng chém xuống đứt ngay bàn tay phải. Thật đúng là “rắn độc cắn phải tay, tráng sĩ đành chịu cụt”, có điều vết thương sau cổ thì không thể nào chặt đầu vứt bỏ được. Các bang chúng trong lòng khiếp hãi, vội vàng lấy kim sang thuốc men ra băng bó cho bang chủ nhưng chỗ cánh tay đứt máu chảy như suối, mấy lần thuốc đắp lên đều trôi đi cả. Có người xé áo, buộc chặt lấy khuỷu tay, lúc ấy máu mới ngừng chảy.

Chung Linh thấy cảnh tượng thảm khốc đó, sợ đến mặt trắng bệch, không dám nói thêm câu nào. Tư Không Huyền trầm giọng hỏi:

- Bị con quỉ độc điêu kia cắn phải thì còn sống được bao lâu?

Chung Linh ấp úng đáp:

- Cha tôi nói là chỉ sống được bảy ngày. Thế nhưng ... thế nhưng Tư Không bang chủ nội lực thâm hậu, võ công lại hơn người, hẳn rằng ... sống lâu thêm được vài ngày nữa.

Tư Không Huyền hừ một tiếng nói:

- Lôi tên tiểu tử này ra.

Các bang chúng tuân lệnh, lôi Đoàn Dự từ trong đám đất đá ra. Chung Linh vội vàng kêu lên:

- Thôi thôi, việc này không liên can gì đến anh ta, đừng hại y.

Nàng vùng vẫy chân tay toan thừa cơ chui ra nhưng các bang chúng lại đem đất đá chèn vào chỗ Đoàn Dự khi nãy, Chung Linh liền không sao cử động được nữa, khóc òa lên.

Đoàn Dự trong bụng hãi lắm nhưng cố gắng trấn tĩnh, mỉm cười nói:

- Chung cô nương, đại trượng phu coi cái chết có khác gì trở về, trước mặt bọn ác nhân này không nên tỏ ra yếu đuối.

Chung Linh vừa khóc vừa nói:

- Tôi không phải là đại trượng phu! Tôi không coi cái chết là trở về, tôi cứ tỏ ra yếu đuối thì đã sao.

Tư Không Huyền trầm giọng nói:

- Cho tên tiểu tử này uống đoạn trường tán. Cho nó uống phân lượng bảy ngày.

Một tên bang chúng lấy một bình thuốc đổ ra nửa bình thuốc bột màu đỏ, bắt Đoàn Dự phải nuốt vào bụng. Chung Linh kêu lên:

- Thuốc độc đó không uống được đâu.

Đoàn Dự nghe tới cái tên đoạn trường tán biết ngay đó là một loại thuốc độc cực mạnh nhưng nghĩ mình đã rơi vào tay chúng rồi còn cách nào cự tuyệt không uống cho được? Chàng hiên ngang uống ngay, chép chép miệng cười nói:

- Thuốc ngọt lừ đấy mà. Tư Không bang chủ, ông cũng uống nửa bình chăng?

Tư Không Huyền giận dữ hừ một tiếng. Chung Linh đang khóc cũng cười rộ lên nhưng lại nín ngay khóc tiếp. Tư Không Huyền nói:

- Đoạn trường tán này bảy ngày sau chất độc sẽ phát tác, ruột đứt ra từng khúc mà chết. Ngươi đi lấy thuốc giải độc con chồn, nếu bảy ngày về kịp thì ta cho thuốc giải và thả tiểu cô nương này ra.

Chung Linh nói:

- Chỉ uống thuốc giải không chưa đủ, phải có cha ta vận nội công độc đáo của ông ta thì mới giải được chất độc con chồn.

Tư Không Huyền nói:

- Thế thì bảo y mời luôn cha ngươi tới đây cứu ngươi ra.

Chung Linh đáp:

- Sao ngươi nói dễ nghe thế, cha ta đời nào chịu ra khỏi núi? Ông ấy nhất định không ra khỏi sơn cốc một bước.

Tư Không Huyền trầm ngâm không nói nữa. Đoàn Dự nói:

- Nếu đã thế, tất cả chúng ta cùng đến phủ của Chung cô nương nhờ tôn đại nhân chữa bệnh giải độc có phải nhanh hơn không?

Chung Linh nói:

- Không được đâu, không được đâu. Cha ta đã nói trước rồi, dù cho là ai chăng nữa chỉ bước vào sơn cốc nhà ta một bước là sẽ phải chết.

Tư Không Huyền nghĩ thầm: “Chuyện của Vô Lượng Kiếm chưa xong ta làm sao đi khỏi nơi đây cho được? Nếu như làm hỏng việc, Thiên Sơn Đồng Mỗ đâu có tha, e rằng chết còn thảm khốc hơn nhiều”. Y thấy vết cắn sau cổ càng lúc càng ngứa, nhịn không nổi phải rên lên mấy tiếng.

Chung Linh nói:

- Tư Không bang chủ, xin lỗi ông nhé.

Tư Không Huyền bực tức đáp:

- Xin lỗi cái con khỉ mốc.

Đoàn Dự nói:

- Tư Không bang chủ, sao ông lại nói năng với Chung cô nương thô bỉ như thế, mất hết phong độ của người quân tử.

Tư Không Huyền quát lớn:

- Quân tử cái con bà nhà ngươi.

Y nghĩ thầm: “Trên người ta đã cấy Sinh Tử Phù rồi, khi phát tác ra khổ sở biết chừng nào, chi bằng chết ngay lúc này cho xong” bèn dịu giọng nói với Chung Linh:

- Ta còn nhiều việc phải làm, ngươi không đi mời cha ngươi được, thôi thì cả bọn cùng chết vậy.

Giọng của y nghe thật thê thảm, quả là “mình lại thương mình xót xa”. Chung Linh suy nghĩ rồi nói:

- Ông thả tôi ra để tôi viết thư cho cha tôi, nói ông ấy tới đây cứu ông. Ông sai đứa nào không sợ chết đem thư đi.

Tư Không Huyền đáp:

- Ta bắt tên tiểu tử họ Đoàn này đưa thư, việc gì phải sai ai khác?

Chung Linh nói:

- Ông quả thật hay quên quá. Bất luận ai bước chân vào sơn cốc nhà tôi một bước thì thể nào cũng chết. Tôi đã nói với ông rồi, phải không nào? Tôi không muốn Đoàn đại ca phải chết, ông hiểu chưa?

Tư Không Huyền lạnh lùng nói:

- Y không thể chết, không lẽ thủ hạ của ta lại đáng chết hay sao? Không đi thì thôi, tất cả chết hết. Để xem ngươi chết trước hay là ta chết trước.

Chung Linh lại rấm rứt khóc tiếp, kêu lên:

- Lão già kia thật không biết xấu, chỉ giỏi tài ăn hiếp trẻ con. Rồi đây trên giang hồ đồn ầm lên ai ai cũng biết bang chủ Thần Nông Bang không phải là bậc anh hùng hảo hán, thanh danh của ông đổ xuống sông xuống biển.

Tư Không Huyền điềm nhiên vận công chống lại chất độc, không thèm để ý đến cô ta nữa. Đoàn Dự nói:

- Chỉ vì tôi không ra gì. Chung cô nương, lệnh tôn thấy tôi đến báo tin gọi ông ta đến cứu cô, chắc không đến nỗi giết hại tôi đâu.

Chung Linh đột nhiên đổi ra vui mừng nói:

- Nghĩ ra rồi! Để tôi chỉ cho anh một cách, anh đừng nói với cha tôi là tôi đang ở nơi đâu, nếu giết anh ông ta sẽ không biết tôi ở chỗ nào. Để anh dẫn ông ta tới đây, rồi sẽ tìm cách bỏ trốn, nếu không thì nguy lắm.

Đoàn Dự gật đầu:

- Kế đó hay lắm.

Chung Linh nói với Tư Không Huyền:

- Tư Không bang chủ, Đoàn đại ca vừa tới đây là sẽ đào tẩu ngay, giải dược của đoạn trường tán làm sao đưa cho anh ấy được?

Tư Không Huyền chỉ về một tảng đá lớn ở phía góc tây bắc xa xa nói:

- Ta sai người đem thuốc giải, chờ ở ngay đó. Đoàn quân chạy trốn tới ở sau khối nham thạch sẽ có giải dược.

Tư Không Huyền muốn Đoàn Dự đi mời người tới cứu mạng y, cách nói năng liền đổi giọng tử tế ngay. Y truyền cho bộ hạ, bang chúng moi Chung Linh ra, lấy xích sắt buộc chặt hai tay nàng trước rồi sau mới gỡ đất ra sau. Chung Linh nói:

- Ông không cởi hai tay tôi ra làm sao viết thư?

Tư Không Huyền đáp:

- Con nhãi con này điêu ngoa cổ quái, muốn viết thư chắc lại định giở trò gì đây. Ngươi lấy ra một tín vật tùy thân, nhờ Đoàn quân mang đến cho cha ngươi được rồi.

Chung Linh cười nói:

- Tôi rất ghét viết thư, ông bảo tôi khỏi viết thì còn gì bằng. Tôi có tín vật gì nhỉ? Ồ, Đoàn đại ca, anh gỡ lấy đôi giày của tôi, cha mẹ tôi nhìn thấy là biết liền.

Đoàn Dự gật đầu, cúi xuống tháo đôi giày của nàng ra, tay trái giở gót chân, thấy bàn chân nàng nhỏ nhắn vừa cầm tới đã thấy trong lòng rung động, ngửng đầu nhìn lên, hai người nhìn nhau mỉm cười. Trong ánh lửa bập bùng, Đoàn Dự thấy khuôn mặt nàng rạng rỡ tuy trên má có điểm mấy giọt lệ nhưng ánh mắt đầy vẻ vui tươi, khiến chàng như ngây như dại.

Tư Không Huyền thấy thế vội giục giã:

- Thôi đi mau, đi mau, hai cô cậu tôi nhìn anh, anh nhìn tôi biết đến bao giờ? Đoàn huynh đệ, ngươi mau đi mời người tới đây, ta sẽ thả cô bé này cho ngươi lấy làm vợ. Sau này ngày rộng tháng dài, ngươi muốn sờ chân nàng lúc nào chẳng được.

Đoàn Dự và Chung Linh hai người mặt đỏ bừng, chàng vội cởi đôi giày hoa dưới chân cô gái bỏ luôn vào túi, nhịn không nổi lại liếc Chung Linh một cái. Chung Linh khúc khích bật cười. Tư Không Huyền nói:

- Đoàn huynh đệ, đi sớm về sớm, mọi người mệnh trong sớm tối, nếu trên đường đi có chuyện gì thì không ai toàn mạng cả. Chung cô nương, từ đây đến tôn phủ đi về mất bao nhiêu ngày?

Chung Linh đáp:

- Nếu đi nhanh thì hai ngày là tới, chỉ chừng bốn ngày là về lại đây.

Tư Không Huyền nghe thế cũng yên tâm vội giục:

- Thôi đi nhanh lên.

Chung Linh nói:

- Để tôi chỉ đường cho Đoàn đại ca, các ngươi đi ra chỗ khác, không ai được nghe lén.

Tư Không Huyền vẫy tay, các bang chúng đều lánh ra xa. Chung Linh nói:

- Cả ông cũng đi khỏi nữa.

Tư Không Huyền căm tức nghĩ thầm: “Để đến khi ta khỏi rồi nếu không cho con nhãi này một mẻ thì Tư Không Huyền này không phải là người”. Y đứng lên đi ra chỗ khác. Chung Linh thở dài nói:

- Đoàn đại ca, hai đứa mình hôm nay gặp nhau không ngờ lại chia tay sớm thế.

Đoàn Dự cười:

- Đi về chỉ bốn ngày cũng không lấy gì làm lâu lắc.

Đôi mắt to của Chung Linh chăm chăm nhìn chàng một hồi rồi nói:

- Anh đến gặp mẹ em trước, nói cho bà ấy biết rõ sự tình, rồi để mẹ em nói với cha em, như thế thì dễ hơn.

Nàng nói rồi giơ ngón chân ra vạch trên đất đường đi nước bước. Thì ra Chung Linh ở tại một sơn cốc tây ngạn sông Lan Thương, lộ trình không xa nhưng địa thế cực kỳ khó tìm, qua khỏi cửa rồi còn phải biết thêm mấy ám hiệu, nếu không được chỉ minh bạch thì người ngoài khó lòng mà vào được thung lũng. Đoàn Dự có trí nhớ rất tốt, Chung Linh vạch đường quẹo qua đông, vòng qua tây, xiên xuống nam, ngược lên bắc vậy mà chàng chỉ nghe một lần là nhớ hết. Đợi khi Chung Linh chỉ dẫn xong chàng bèn nói:

- Được rồi, thôi tôi đi.

Quay mình đi khỏi. Chung Linh đợi chàng đi độ mươi bước, đột nhiên nghĩ ra một chuyện gọi giật lại:

- Này, anh quay lại đã.

Đoàn Dự hỏi:

- Gì thế?

Rồi quay trở lại. Chung Linh nói:

- Anh đừng nói mình họ Đoàn, lại chớ nên nói là cha anh biết Nhất Dương Chỉ để ... để ... cha em khỏi nghĩ ngợi.

Đoàn Dự cười:

- Được rồi.

Chàng nghĩ bụng cô gái này tuổi còn nhỏ nhưng sao bụng dạ thật sâu xa, cao hứng cất tiếng hát thẳng đường đi ra.

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 2(a)

NGỌC BÍCH NGUYỆT HOA MINH

Xem dưới dạng PDF

Nghê Thường chưa trọn dây đà đứt,

Loan phượng chia tay cuộc chửa tàn.

Thoang thoảng hương thừa vương gót hạc,

Đìu hiu gương lạnh bóng mênh mang.

*

* *

Chuyện dây dưa một lúc lâu nên lúc này mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu. Đoàn Dự chuyển qua hướng tây mà đi, tuy chàng không biết võ công nhưng đang sức trai khỏe mạnh nên đi nhanh lắm được hơn chục dặm đã vòng qua đến hậu sơn của ngọn núi chính trong dãy Vô Lượng Sơn, nghe thấy tiếng nước chảy róc rách hóa ra đằng trước có một ngọn suối. Chàng đang khát nên lần đến cạnh khe nước, dưới ánh trăng sáng thấy dòng suối trong trẻo lạ thường toan thò tay vào bỗng nghe đằng xa có tiếng ai đạp vào cành cây khô nghe cách một tiếng, kế đó là tiếng bước chân của hai người. Đoàn Dự vội vàng nằm phục bên bờ suối, không dám động đậy.

Chỉ thấy một người nói:

- Ở đây có suối nước, uống xong mình lại đi tiếp.

Giọng nghe rất quen thuộc, Đoàn Dự liền nhận ra ngay đây là đệ tử của Tả Tử Mục Can Quang Hào khiến chàng lại càng không dám cử động. Chỉ thấy hai người đi đến bên trên dòng nước, tiếp theo nghe thấy tiếng tạt nước và tiếng người uống. Một lát sau Can Quang Hào nói:

- Cát sư muội, chúng mình đã thoát hiểm cảnh rồi, em đi cũng đã mệt, mình ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi tiếp.

Có tiếng một người đàn bà ừ một tiếng rồi tiếng loạt soạt ở bên bờ suối, hẳn là hai người đã ngồi xuống. Lại nghe người đàn bà nói:

- Sư huynh liệu Thần Nông Bang có cho người canh ở chỗ này không?

Nghe giọng hơi run run, xem chừng sợ hãi lắm. Can Quang Hào an ủi:

- Sư muội an tâm. Sơn đạo này rất là kín đáo, ngay cả trong Đông Tông chúng ta cũng chẳng mấy người đi tới, Thần Nông Bang không thể nào biết được đâu.

Người đàn bà lại hỏi:

- Thế sư huynh làm sao biết được con đường mòn này?

Can Quang Hào đáp:

- Cứ năm ngày một lần sư phụ lại dẫn đệ tử đến nghiên cứu khối Vô Lượng Ngọc Bích xem có gì bí áo, thế nhưng bao năm qua chúng ta chỉ cứ chăm chăm nhìn khối đá này, chưa nhìn ra được điều gì. Sư phụ lão nhân gia nói cái gì “người muốn làm nên đại công nghiệp thì phải có nghị lực bền bỉ”, lại thêm rằng “có chí thì nên”. Thế nhưng quả thực ta nhìn mãi chán lắm rồi, có khi giả vờ đi đại tiện rồi ra ngoài chạy lăng quăng nên mới tìm ra được tiểu lộ này.

Cô gái kia cười khúc khích nói:

- Thì ra anh không dụng công, chỉ trốn học đi chơi. Xem ra trong các đồng môn, sư huynh là người kém nghị lực hơn cả.

Can Quang Hào cười nói:

- Cát sư muội, năm năm trước tỉ kiếm trên Kiếm Hồ Cung ta bị thua sư muội rồi...

Cô gái ngắt lời:

- Thôi đừng nói “ta bị thua sư muội”. Lúc đó sư huynh giả vờ nội lực không đủ, cố ý nhường cho tiểu muội, người ngoài thì không thấy nhưng chẳng lẽ chính em cũng không biết hay sao?

Đoàn Dự nghe thấy thế nghĩ thầm: “Thì ra người đàn bà này thuộc về Tây Tông của Vô Lượng Kiếm”. Can Quang Hào đáp:

- Ta vừa thấy mặt em trong lòng đã phát trọng thệ, thể nào cũng phải được cùng nhau ăn ở suốt đời. May sao hôm nay mới gặp được cơ hội nghìn năm một thuở, Thần Nông Bang đột nhiên đến tấn công, lại thêm có hai đứa nhãi nhép đem con chồn độc đến, làm loạn cả lên khiến cho người trong Kiếm Hồ Cung nhốn nháo, hai đứa mình mới thừa cơ bỏ chạy, thế chẳng phải ‘có chí thì nên” thì là gì?

Cô gái kia cười khúc khích nhỏ nhẹ đáp:

- Em cũng thật là “có chí thì nên”.

Can Quang Hào nói:

- Cát sư muội, em đối với anh tốt như thế, một đời anh sẽ mãi mãi chiều theo em.

Nghe giọng nói thấy y vui sướng không để đâu cho hết. Cô gái kia thở dài một tiếng nói:

- Chúng mình lần này phản thầy rủ nhau đi trốn, thật không còn chỗ đứng trong võ lâm nữa. Mình phải đi càng xa càng tốt, kiếm chỗ nào thật là kín đáo mà ở, đừng để sư phụ và đồng môn biết được mới xong. Càng nghĩ đến sao em càng thêm sợ.

Can Quang Hào đáp:

- Em chớ lo làm gì. Ta xem phen này Thần Nông Bang đã chuẩn bị rồi mới đến, hai phái Đông Tây ngoài anh và em ra e rằng chẳng một ai thoát khỏi độc thủ của chúng được.

Người đàn bà lại thở dài nói:

- Cũng mong là thế.

Đoàn Dự nghe xong tức khí xông lên nghĩ thầm: “Hai đứa chúng bay muốn thành vợ chồng, thấy sư môn có nạn thừa cơ bỏ trốn thì cũng đành, nhưng sao lại mong sư trưởng đồng môn của mình đều bị độc thủ? Tâm địa chúng bay tàn độc thật.” Chàng nghĩ đến hai người tính tình thâm hiểm như thế, nếu như chúng phát giác ra mình, thể nào cũng giết đi diệt khẩu, thành thử đến thở mạnh cũng không dám.

Cô gái lại nói:

- Cái phiến Vô Lượng Ngọc Bích kia có cái gì lạ lùng khác thường, bên anh ở đây đã mười năm, không lẽ vẫn chưa tìm ra chút manh mối nào hay sao?

Can Quang Hào đáp:

- Mình đã là một nhà, lẽ nào anh lại còn dối em hay sao? Sư phụ nói, nhiều năm trước, lúc đó thái sư phụ của ngu huynh làm chưởng môn Đông Tông, những đêm trăng thấy trên bức tường ngọc có hình người múa kiếm, khi thì đàn ông, khi thì đàn bà, có khi đàn ông đàn bà đấu kiếm với nhau, đâm chém kịch liệt. Kiếm pháp trên khối ngọc bích dó tinh diệu lắm, chính thái sư phụ anh bình sinh chưa thấy bao giờ, dù có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi, hẳn là do tiên trên trời biểu diễn. Thái sư phụ anh chỉ mong học được vài chiêu tiên kiếm, thế nhưng kiếm ảnh trên vách núi quá ư là kỳ lạ, quá ư là lanh lẹ, lại mờ ảo khi có khi không, không cách nào coi cho rõ được, có muốn học nửa chiêu cũng không xong. Hình ảnh của tiên kiếm lại đâu phải lúc nào cũng có, có khi thì thật khuya mới có, có khi một hai tháng mới thấy một lần. Thái sư phụ mê say kiếm ảnh trên ngọc bích sao lãng cả việc luyện tập kiếm pháp bản môn, cũng lơ là cả việc đốc thúc đệ tử luyện tập nên về sau mới bị Tây Tông của em đánh bại. Cát sư muội, thái sư phụ em cùng đệ tử vào ở trong Kiếm Hồ Cung rồi có thấy cái gì không?

Cô gái nói:

- Cứ như sư phụ em nói, kiếm ảnh trên tường đó thái sư phụ em cũng thấy nhưng về sau chỉ thấy một người đàn bà múa kiếm, còn vị kiếm tiên đàn ông kia không còn đâu nữa. Chắc là vì thái sư phụ em là đàn bà nên chỉ có một nữ kiếm tiên hiện ra chỉ dạy thôi. Thế nhưng chỉ được hai năm thì vị nữ kiếm tiên kia cũng biến mất. Thái sư phụ có nói rằng, thân pháp kiếm pháp của những vị tiên hiện ra trên ngọc bích tuy thật là kỳ diệu, nhưng mơ hồ mông lung, lại quá nhanh không thể quan sát kỹ càng.

Bức tường ngọc đó lại cách khoảng kiếm hồ và một vực sâu thành thử không cách gì liều mạng đến gần mà coi được. Thái sư phụ tuy được thiên duyên nhưng lại không đủ phúc trạch nên không học được nửa chiêu, bán thức để có thể dương oai nơi võ lâm, trong lòng uất ức thế nào chẳng nói thì cũng biết.

Sau khi tiên ảnh biến mất rồi, thái sư phụ em ngày đêm ở trên đỉnh núi bàng hoàng, chăm chăm nhìn vào bức tường ngọc kia mà xuất thần, càng ngày càng thêm tiều tụy, chỉ nửa năm sau bệnh mà chết. Khi lâm chung lão nhân gia còn đang ở trên đỉnh núi, tuy hơi thở chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn không cho đệ tử đem về Kiếm Hồ Cung. Sư phụ em nói rằng khi thái sư phụ tắt thở, hai mắt vẫn còn trừng trừng nhìn vào ngọc bích.

Cô ta ngừng lại một chút nói tiếp:

- Can sư ca, anh nghĩ trên đời này có tiên thật chăng? Hai là hai vị thái sư phụ của anh và của em nói thế để đánh lừa người khác?

Can Quang Hào đáp:

- Nếu bảo hai vị thái sư phụ tạo ra câu chuyện đó để đánh lừa đệ tử thì chắc không phải, có được gì đâu. Hơn nữa, ta nghe Thẩm sư bá nói rằng khi người còn nhỏ quả đã chính mắt trông thấy hình ảnh của kiếm tiên. Thế nhưng trên đời này có tiên thật hay không, ta không biết nữa.

Người đàn bà nói:

- Hay là có hai vị cao nhân múa kiếm ở trước hồ rồi bóng họ in lên bức tường ngọc đó chăng?

Can Quang Hào đáp:

- Hồi đó thái sư phụ đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Thế nhưng trước bức tường ngọc là Kiếm Hồ, phía tây hồ lại là vực sâu, hai vị cao nhân kia dù có thể lăng ba đạp thủy múa kiếm ngay trên mặt hồ thì thái sư phụ cũng phải nhìn thấy rồi. Còn như nếu ở bên cạnh hồ mà múa kiếm thì cách xa như thế, cái bóng không sao có thể chiếu lên trên ngọc bích được.

Cô gái nói:

- Thái sư phụ em lìa đời rồi, các đệ tử đêm đêm thắp hương lễ bái trước bức tường ngọc, cầu xin khấn nguyện chỉ mong cái bóng của kiếm tiên hiện ra một lần nhưng không bao giờ thấy nữa. Sư phụ em chỉ mong được quay lại xem ra thế nào nhưng mười năm qua hai lần tỉ kiếm đều thua Đông Tông bên anh cả.

Can Quang Hào nói:

- Từ nay trở đi, hai đứa mình không còn phân biệt Đông Tông, Tây Tông gì nữa. Hai tông bây giờ đã hợp làm một ...

Chỉ nghe cô gái cười rúc rích, ứ hự mấy tiếng, nói sẽ:

- Đừng ... đừng làm thế.

Hiển nhiên Can Quang Hào có hành động sàm sỡ nên cô nàng mới ngúng nguẩy. Can Quang Hào nói:

- Em đi theo anh, nếu như sau này anh phụ bạc thì nguyện sẽ biến thành thằng chó má ngay ở cạnh hồ này.

Thiếu nữ cười khanh khách, nũng nịu nói:

- Nếu anh là tên chó má thì có khác gì anh rủa em là đứa hư thân mất nết chẳng ra gì?

Đoàn Dự nghe đến đây, nhịn không nổi bật cười lên một tiếng. Tiếng cười vừa thoát ra chàng biết ngay là không xong vội vàng nhỏm lên, bỏ chạy thục mạng. Chỉ nghe phía sau Can Quang Hào quát lớn:

- Ai đó?

Rồi thấy tiếng người rầm rập đuổi theo. Đoàn Dự kêu khổ thầm càng hết sức đào tẩu. Chỉ trong giây lát, phía bên tây đã có ánh sáng lấp loáng, một người đàn bà tay cầm trường kiếm chạy về phía sườn núi hẳn là định chặn đường của chàng. Đoàn Dự kêu lên:

- Ối chao!

Chàng liền quay sang hướng đông, trong bụng lẩm bẩm: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm bồ tát, cứu cho đệ tử Đoàn Dự thoát được tai kiếp này”. Tai chàng vẫn nghe thấy tiếng Can Quang Hào tiếp tục đuổi theo, chỉ được một lát Đoàn Dự đã thở hồng hộc thì nghe Can Quang Hào quát lớn:

- Cát sư muội! Mau chặn sơn khẩu.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta chết cũng không có gì quan trọng, ngặt là làm lụy cả Chung cô nương cũng không sống nổi, lại hại thêm bao nhiêu mạng người trong Thần Nông Bang, tội nghiệt thật nhiều. A Di Đà Phật! Quan Thế Âm bồ tát!”.

Chàng lại nghĩ tiếp: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, bọn chúng có thành chó má cũng đâu có sao, thành đứa chẳng ra gì cũng mặc kệ nó, có liên can gì đến ngươi? Việc gì mà phải cười người ta làm gì? Tiếng cười đó chẳng phải là giết đến mấy chục mạng hay sao? Người ta có là tuyệt sắc mỹ nhân thì một nụ cười mới nghiêng thành, còn ngươi Đoàn Dự là cái quái gì mà cũng cười làm chi? Nghiêng được cái gì đây không biết nữa?”.

Trong bụng tự oán tự trách như thế nhưng chân không chậm lại chút nào, chẳng cần chọn đường đi nước bước cứ chạy bừa vào phía rừng sâu rậm rạp.

Chạy thêm một lúc nữa, hai chân đã mỏi nhừ, hơi thở phì phò bỗng thấy tiếng nước chảy ào ào, gầm rú chẳng khác gì sóng biển đang xô tới, ngửng đầu nhìn lên thấy phía tây bắc như một dòng sông bạc treo ngược, chính là một ngọn thác lớn từ trên cao đổ xuống. Ở phía sau Can Quang Hào kêu lên:

- Đằng trước là cấm địa của bản phái, người ngoài không được tiến vào. Nếu ngươi còn đi sâu thêm vài trượng, phạm vào cấm kỵ thì chết không có đất mà chôn.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta không vào cấm địa của phái Vô Lượng, chẳng lẽ ngươi tha chết cho ta hay sao? Thì cùng lắm cũng đến chết là cùng, có hay không có đất chôn thì khác gì bao nhiêu”. Chàng chân càng thêm gắng sức cố chạy nhanh hơn. Can Quang Hào quát lớn:

- Mau ngừng lại, ngươi muốn chết hay sao? Trước mặt là ...

Đoàn Dự cười nói:

- Ta không muốn chết, thế mới chạy ...

Nòi chưa dứt câu, đột nhiên chân bước hụt một cái đạp vào chỗ không. Chàng không biết võ công đang chạy nhanh làm sao lùi lại cho kịp thân hình liền rơi thẳng xuống, chỉ mới kêu lên “Ối trời!” thì đã cách chỗ mỏm núi đến mấy chục trượng rồi. Chàng đang ở trên không, hai tay quơ loạn lên, chỉ mong nắm được vật gì, múa may như thế đã rơi thêm mấy trăm trượng nữa, độ nhiên nghe bùng một tiếng, mông đụng vào một cây cổ tùng thò từ vách núi ra, thân hình liền bắn trở lên. Lách cách lách cách mấy tiếng, cành tùng to lớn đã gãy lìa nhưng sức rơi xuống đã giảm bớt.

Đoàn Dự vừa rơi xuống tiếp hai tay liền chồm ra, ôm chặt lấy một cành tùng khác, đánh đu bông bênh giữa lưng trời, không ngừng lay động. Chàng cúi đầu nhìn xuống, trong thâm cốc mây mù che phủ, không thấy đâu là đáy. Chàng đong đưa thân hình một cái đã chạm vào sườn núi, vội vàng thò tay ra ôm chặt lấy một cành cây nhỏ, hai châm mò được một chỗ tựa, mới hơi bình tĩnh lại một chút, lần theo vách đá về phía cây tùng miệng nói:

- Ông thông già ơi, may nhờ hôm nay ông đại hiển thần thông, cứu được mạng cho Đoàn Dự này. Tổ tiên ông được Tần Thủy Hoàng trú mưa ngày xưa nên phong cho làm Ngũ Đại Phu. Che mưa so với cứu mạng người thì có đáng gì? Ta sẽ phong cho ông làm Lục Đại Phu, không, phải là Thất Đại Phu, Bát Đại Phu mới xứng.

Chàng xem kỹ thấy vách đá có một đường nứt lớn, nếu cố gắng có thể leo xuống được. Chàng thở một hồi nghĩ thầm: “Can Quang Hào và Cát sư muội của y chắc nghĩ mình đã nát như tương rồi, đâu có ngờ mình được “Bát Đại Phu” cứu. Giờ này chắc bọn chúng đã bỏ xuống dưới núi, hai người đang chàng chàng thiếp thiếp, Đông Tông Tây Tông hợp thành một rồi. Dưới đáy sơn cốc này chắc nguy hiểm lắm, nhưng dẫu rằng mình có đi đời nhà ma thì ở đây cũng thế thôi. Biết đâu may được Quan Thế Âm bồ tát phù hộ nên có khi không chết”.

Chàng men theo khe đá, từ từ tuột xuống. Cái khe đó có rất nhiều đá và cây cỏ nên không bị trượt. Có điều hang núi tưởng như vô cùng vô tận, một hồi sau quần áo bị gai xé rách, bên này một miếng bên kia một mảnh, chân tay cũng bị mấy nơi bầm dập. Không biết mất bao nhiêu thời giờ, chàng vẫn chưa xuống được tới đáy hang. May sao càng xuống sâu, vách núi càng thoai thoải không còn thẳng đứng như trước nên chàng bèn nằm phục tại sườn núi vừa trườn vừa lăn từ từ trượt xuống nên nhanh hơn nhiều.

Tiếng thác nước ỳ ầm ỳ ầm mỗi lúc một lớn khiến chàng không khỏi kinh hãi, nghĩ thầm: “Nếu dưới này sóng nước chảy xiết thì thật là nguy hiểm biết bao”. Chỉ thấy những giọt nước bắn tung tóe đầy mặt, đầy đầu khiến chàng hơi nhức nhối.

Thế nhưng Đoàn Dự đâu có thì giờ suy nghĩ, chỉ giây lát đã đến đáy vực rồi. Chàng đứng lên đột nhiên hét lên một tiếng, thấy phía bên trái trên sườn núi là một cái thác lớn chẳng khác gì một con rồng ngọc treo lơ lửng, cuồn cuộn tuôn xuống, chảy vào một chiếc hồ lớn nước trong trẻo lạ thường. Ngọn thác đó năm này tháng khác, chảy mãi không ngừng nhưng mặt hồ vẫn không đầy tràn hẳn là có chỗ nước thoát đi. Chỗ thác nước chảy xuống nước vỗ bập bềnh nhưng chỉ ra ngoài chừng mươi trượng thì mặt hồ lặng êm như gương. Dưới ánh trăng chiếu xuống, đáy hồ cũng có một vầng nguyệt sáng vằng vặc.

Đoàn Dự nhìn thấy kỳ cảnh của tạo hóa không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, nửa mừng nửa lo liếc chung quanh thấy bờ hồ mọc đầy những bụi hoa trà, lung linh trong ánh đêm. Hoa trà đất Vân Nam đứng đầu thiên hạ, Đoàn Dự vốn đã yêu thích, có ngờ đâu thân lạc vào nơi nguy hiểm lại thấy nó nên đến gần xem kỹ, lẩm bẩm:

- Nơi đây hoa trà tuy nhiều, nhưng cũng thường thường, chỉ có vài bụi Vũ Y Nghê Thường, so với ở nhà ta thì khá hơn. Còn mấy bụi Bộ Bộ Sinh Liên, phẩm chủng lại không thuần.

Chàng thưởng ngoạn hoa trà một hồi rồi đi đến bên bờ hồ, vốc lên uống vài ngụm. Nước trong vắt, vào đến miệng ngon ngọt lạ thường, mát rượi chạy tuột thẳng vào trong bụng. Chàng định thần đi men theo bờ hồ tìm lối ra khỏi vực sâu.

Cái hồ đó hình bầu dục quá nửa nằm ẩn trong những bụi hoa, tàn cây, chàng đi từ tây sang đông, lại từ đông sang tây đi giáp một vòng, phải đến ba dặm, phía đông nam và tây bắc là hai bên vách đá dựng đứng, không có lối nào ra, chỉ có chỗ chàng rơi xuống là tương đối thoai thoải còn nơi khác không cách nào có thể leo lên được.

Chàng ngửng đầu nhìn lên thấy mây mù che phủ miệng hang, đi xuống đã thấy biết bao gian nan, nghĩ đến việc trèo lên lại càng ngán ngẩm, nghĩ thầm: “Dù có là người võ công tuyệt đính cũng chưa chắc đã lên được. Có hay không có võ công thì cũng thế thôi”.

Khi đó trời đã hửng sáng nhưng trong thâm cốc vẫn lặng như tờ, không thấy vết tích con người ngay vết chân thú cũng không thấy có, chỉ có tiếng chim kêu ríu rít, đối đáp lẫn nhau. Chàng thấy tình cảnh như thế trong bụng buồn rầu, nghĩ thầm mình có chết đói nơi đây cũng không sao nhưng làm lụy tới cả Chung cô nương thì thật không phải chút nào, còn cha mẹ mình sẽ ngày đêm khắc khoải nhớ thương.

Chàng ngồi phịch xuống bên bờ hồ rầu rĩ, trong bụng chưa biết tính sao. Trong khi thất vọng lòng nảy ra một huyễn tưởng: "Giá như mình biến thành con cá, theo thác nước mà bơi ngược lên thì mới may ra thoát khỏi được vách đá dựng đứng này". Chàng đưa mắt nhìn theo dòng nước từ dưới đi lên, thấy bên phía phải của dòng thác có một vách đá nhẵn bóng, sáng loáng như ngọc, nghĩ thầm muôn ngàn năm trước chắc dòng thác lớn hơn bây giờ nhiều, qua không biết bao nhiêu thời gian mới mài cho nửa bên vách đá thành nhẵn nhụi đến thế, về sau lượng nước giảm ít mới lộ ra phiến đá lưu ly khiến cho vách núi trong như hình một mặt gương.

Ngay lúc đó chàng nhớ lại những lời mà Can Quang Hào và Cát sư muội của y nói chuyện, nghĩ thầm: “Xem ra đây chính là cái mà họ nói là Vô Lượng Ngọc Bích rồi. Họ kể lại năm xưa các chưởng môn Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm thường nhìn thấy trong những đêm trăng thấy trên vách núi này bóng các vị tiên hiện ra. Ngọc bích này dựng đứng bên cạnh cái hồ, nếu có chiếu lên thì phải ở trên mặt hồ còn không thì phải ở bờ hồ phía đông mà múa kiếm thì bóng mới chiếu lên trên đó được. Thế nhưng phía đông cũng lại là vách đá thẳng tắp phản chiếu ánh sáng, nếu không có ánh trăng thì không thể có bóng người. A, đúng rồi, chắc tại mặt hồ có chim bay qua lượn lại, bóng nó chiếu lên trên sơn bích, nhìn xa thấp thoáng thì thấy thân pháp linh động, vừa nhanh nhẹn, vừa kỳ lạ. Bọn họ trong đầu đã có chủ ý nên tưởng là tiên đang múa kiếm, mờ mờ tỏ tỏ không nhìn thấy rõ vì sao nên phải đi vào ma đạo”.

Chàng nghĩ ra rồi không khỏi bật cười. Từ lúc ăn uống ở trong Kiếm Hồ Cung tới giờ cũng đã bảy tám giờ nên bụng đói meo, thấy bên bờ hồ có một lùm cây đầy trái xanh xanh đỏ đỏ nên đến hái một chùm, cho vào miệng nhai thử thấy trái chua lè nhưng đang đói nên cũng không coi vào đâu, ăn luôn một hơi đến hơn chục chùm mới lưng lửng dạ, thấy toàn thân xương cốt mỏi nhừ nên lăn ra cỏ nằm thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ một giấc thật say, đến khi tỉnh dậy mặt trời đã ngả về phương tây, mặt hồ hiện ra một hình cầu vồng, đẹp không thể tả được. Đoàn Dự biết rằng hơi nơi thác nước xông lên gặp ánh mặt trời chiếu vào nên hiện ra hình cầu vồng, nghĩ thầm mình sắp chết đến nơi nhưng được thưởng thức mỹ cảnh, phúc lộc quả không phải nhỏ, lại được chết dưới bóng hoa nơi bờ hồ thật phong lưu biết bao, ánh hồ sáng loáng diễm lệ, chỉ hiềm hoa trà không phải là giai chủng nên có phần mỹ trung bất túc.

Chàng ngủ được một giấc rồi tinh thần phấn chấn, nghĩ thầm: “Không chừng sơn cốc có lối ra, ẩn sau cây cối nham thạch, đêm qua trời tối mình lật đật vội vã nên không thấy chăng”. Chàng lại cất tiếng hát véo von, cao hứng đi vòng quanh hồ tìm lần nữa. Lần này chàng chăm chú tìm kiếm ở những nơi kín đáo, thế nhưng phía sau những tùm cây hoa cỏ chỉ toàn là nham thạch cứng chắc, tảng nào cũng liền với bức vách núi cao vút tận mây, chẳng nói gì đường đi ra mà ngay cả hang thỏ lỗ rắn cũng chẳng có.

Tiếng hát của chàng càng lúc càng nhỏ dần, trong lòng càng lúc càng uể oải, đến lúc quay lại chỗ nằm ngủ hồi nãy thì chân đã mỏi nhừ, ngồi phịch xuống nghĩ thầm: “Chung cô nương vì cứu ta mà đâm ra chết oan”.

Nghĩ đến Chung Linh, chàng thò tay vào túi lấy đôi giày hoa ra ngắm nghía, hình dung đôi chân bé nhỏ, khuôn mặt xinh xắn của nàng, nhịn không nổi đưa đôi giày lên miệng hôn mấy cái rồi lại bỏ vào bọc nghĩ thầm: “Phen này ta chắc không thoát chết được rồi, Chung cô nương cũng bỏ mạng. Giá như nàng cũng ở nơi đây, hai đứa chết chung nơi bờ hồ này thì quả thật đẹp biết bao. Chỉ tiếc nàng giờ đây lại ở bên cạnh lão râu dê Tư Không Huyền thật là chán ngắt. Giờ đây ta đang nghĩ đến nàng chắc hẳn nàng cũng đang nghĩ đến ta”.

Chàng không có việc gì làm đành đi hái mấy quả chua kia ăn tạm, bỗng nghĩ ra: “Chỗ nào mình cũng tìm hết rồi, chỉ còn chỗ này chưa mò đến, không chừng cột nhà không nhìn nhìn trôn kim sờ sờ trước mắt mà không thấy”. Chàng liền vạch bụi cây ra lập tức lắc đầu. Đằng sau cái cây chỉ là một vách núi trơ trơ, bám đầy dây leo, làm gì có lối nào ra? Thế nhưng phiến thạch bích đó phẳng lạ thường, chẳng khác gì một tấm gương đồng nhưng so với vách đá bên phía tây hồ nước thì nhỏ hơn nhiều, trong lòng chợt động: “Hay đây mới thực là Vô Lượng Ngọc Bích?”. Chàng bèn gỡ hết các dây leo bám trên phiến đá, nhưng chỉ thấy đó là một bản đá phẳng lì tuyệt nhiên không có gì khác lạ. Chàng nghĩ bụng: “Ta chết nơi thâm cốc này vĩnh viễn không ai hay biết, chi bằng khắc vài chữ trên phiến đá này, à, khắc tám chữ Đại Lý Đoàn Dự chết tại nơi đây xem ra cũng thú”.

Chàng bèn dọn sạch các dây leo bám trên mặt đá, cởi trường bào ra, xuống dưới hồ nhúng nước, đem lên rửa thật sạch cho hết rong rêu khiến phiến đá đó trở nên trắng bóng như ngọc. Chàng nhặt một hòn đá nhọn lên vẽ chữ lên trên thạch bích, thế nhưng vách đá cứng rắn lạ thường, một hồi lâu mới xong một chữ Đoàn vừa nông vừa méo xẹo, chẳng ra trò trống gì, nghĩ thầm: “Người sau nhìn thấy sẽ cho rằng Đoàn Dự chữ không biết viết, viết tám chữ này có khác nào để tiếng xấu đến muôn đời”. Chàng thấy cổ tay mỏi nhừ, đau nhức nên liệng hòn đá đi không viết nữa.

Đến khi trời tối, chàng lại ăn thêm ít trái cây dại rồi nằm xuống ngủ. Trong giấc mơ chàng thấy một đôi giày bay qua lượn lại trước mắt, vải xanh thêu hoa vàng, chính là đôi giày của Chung Linh, vội vươn tay ra cầm lấy nhưng đôi giày chẳng khác gì bướm dại, chập chờn lên xuống, không sao bắt được. Một lúc sau, đôi giày hoa mỗi lúc một cao, Đoàn Dự kêu lên:

- Giày kia đừng bay nữa.

Chàng bàng hoàng tỉnh dậy thì mới hay là một giấc mộng, giơ tay dụi mắt, đưa tay ra sờ, đôi giày hoa vẫn còn trong túi bèn đứng lên ngửng đầu thấy mặt trăng tròn văng vặc, chiếu xuống chẳng khác gì tráng lên một lớp bằng bạc lên mặt hồ, đưa mắt nhìn khắp nơi đột nhiên giật mình thấy ở bức vách bên kia quả nhiên có một bóng người.

Chàng kinh hãi không để đâu cho hết, nhưng cũng xiết đỗi vui mừng, kêu lên:

- Các vị tiên ơi! Cứu tôi với! Các vị tiên ơi! Cứu tôi với!

Hình người kia hơi rung động nhưng không trả lời. Đoàn Dự định thần, chăm chú xem lại cho kỹ nhưng bóng người kia không rõ ràng, chỉ thấy áo dài, khăn nho sinh quả là một người đàn ông.

Chàng vội vàng tiến lên mấy bước đã đến bên cạnh hồ kêu to:

- Vị tiên ơi! Cứu tôi với!

Bóng người trên vách ngọc lắc lư mấy cái, lớn thêm lên nhiều. Đoàn Dự vội đứng lại, cái bóng đó cũng không di chuyển nữa. Chàng ngạc nhiên lập tức hiểu ra: “Thì ra đó là bóng của chính mình!” Chàng nghiêng qua bên trái, cái bóng đó cũng nghiêng qua bên trái, chàng bước qua bên phải cái bóng trên vách núi cũng qua bên phải, không còn hoài nghi gì nữa nhưng vẫn còn điều chưa hiểu được: “Vầng trăng từ tây nam chiếu qua làm sao lại chiếu được bóng ta lên bức tường trước mặt nhỉ?”.

Chàng quay đầu lại thấy chữ Đoàn chàng khắc lúc ban ngày cũng có một cái bóng in lên trên thạch bích, nhưng chữ đó bé và đâm nét hơn nhiều. Chàng nghĩ ra ngay: “ Thì ra bóng trăng chiếu bóng của ta lên trên phiến đá trước, sau đó mới rọi lên trên vách núi chẳng khác gì mình đứng giữa hai tấm gương, tấm gương lớn phản ảnh hình của ta trên tấm gương nhỏ”.

Chàng suy nghĩ thêm một chút, hiểu ra ngay cái si mê “ngọc bích tiên ảnh” của Vô Lượng Kiếm mấy chục năm qua chẳng có gì thần kỳ: “Năm xưa quả có ai đó đứng nơi đây múa kiếm, bóng chiếu lên trên bức vách đá. Đầu tiên có một nam một nữ, sau đó người đàn ông bỏ đi đâu hay chết rồi không biết, chỉ còn lại người đàn bà ở lại u cốc này tịch mịch cô đơn, hai năm sau cũng từ trần”.

Chàng nghĩ đến giai nhân lẻ bạn, sống vò võ nơi hang sâu, uất hận mà chết không khỏi ngậm ngùi. Thế nhưng sau khi hiểu được lý lẽ đó rồi, nỗi vui mừng biến mất không còn tăm hơi đâu nữa. Nỗi buồn kéo đến khiến chàng giơ tay múa chân, tay đấm chân đá, nghĩ thầm: “Giá như Tả Tử Mục, Song Thanh hai người đang ở trên mỏm núi kia bỗng thấy ngọc bích có hình bóng tiên hiện hiện ra, chắc tưởng là đang biểu diễn võ công thần kỳ, thể nào chẳng hết sức cố gắng học, vùi đầu nghiên cứu để truyền cho hậu thế, ha ha, ha ha!”. Chàng càng nghĩ càng khoái chí, nhịn không nổi cười lên sằng sặc.

Cười chán chê rồi, chàng bỗng nghĩ ra một việc: “Hai vị tiền bối kia ngày xưa thường thường cùng nhau múa kiếm, nếu như không ở ngay dưới đáy vực này thì cũng phải có đường đi ra đi vào. Dù cho hai người võ công cao đến đâu nhưng leo lên leo xuống để múa kiếm thì thật là phiền nhiễu hết sức, một hai lần thì được chứ ngày nào cũng làm thì xem ra không ổn”.

Chàng bỗng thấy một tia hi vọng trước mắt, nghĩ thầm: “Ngày mai mình sẽ cố gắng tìm đường ra. Gã Can Quang Hào đã chẳng nói: Có chí thì nên đấy ư? Ha ha! Ha ha! Y lập chí quyết lấy cho bằng được Cát sư muội làm vợ, còn ta lập chí nhất định phải thoát khỏi nơi đây”.

Chàng ngồi ôm gối, thản nhiên nhìn ánh trăng trên mặt hồ, bốn bề thanh tĩnh nghĩ thầm: “Có chí thì nên” câu đó tuy không phải là sai nhưng Khổng phu tử có nói: Người biết không bằng người hiền, người hiền không bằng người vui. Câu này xem ra hợp với bụng ta hơn.

Cha mẹ ta vẫn bảo ta là “si nhi”, từ thuở bé đã thích cái gì là mê mẩn như điên như cuồng. Năm ta bảy tuổi, ta mê một cây hoa trà Thập Bát Học Sĩ, từ sáng đến tối, đến nửa đêm còn len lén trở dậy nhìn ngơ ngẩn, bỏ ăn bỏ uống, quên cả học hành đến khi hoa tàn khóc mấy ngày chưa thôi. Lúc ta học đánh cờ cũng không ăn không ngủ, suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến bàn cờ, chẳng còn thiết gì khác.

Một hôm kia gia gia bảo ta luyện võ, thế nhưng lúc đó ta đang nghiên cứu Dịch Kinh, ngay cả khi ăn cơm giơ đũa ra gắp đồ ăn cũng nghĩ phương vị chiếc đũa bên này là Đại Hữu hay là Đồng Nhân . Ta không chịu học võ, không hiểu vì không muốn bỏ Kinh Dịch qua một bên hay thực sự không thích cái môn đánh nhau giết người này? Cha ta bảo ta “cưỡng từ đoạt lý” chắc hẳn quả ta có cãi chầy cãi cối thật không chừng. Mẹ ta hiểu bụng dạ tính nết ta lắm mới khuyên gia gia: “Thằng con “si” này một mai thích học võ rồi, ông có bảo nó bớt luyện đi một chút, nó cũng chẳng nghe đâu. Bây giờ nó không chịu học, cứng đầu không chịu có ép cũng không xong”. Ôi! Bảo ta lập chí làm điều gì quả là khó, nếu như một ngày nào đó ta mê luyện võ thì gia gia, má má, bá phụ hẳn sung sướng biết bao nhiêu. Ta luyện võ cho giỏi rồi, không đánh ai cũng chẳng giết ai, luyện võ đâu phải chỉ là để giết người. Bá phụ võ công cao cường biết bao nhưng tính tình nhân từ, e rằng xưa nay chưa từng giết qua một người nào. Có điều nếu như ông ấy muốn giết ai đâu có cần phải tự mình ra tay”.

Chàng ngồi bên bờ hồ, đầu óc suy nghĩ miên man không biết thời giờ trôi qua, bỗng chợt thấy vách đá bên cạnh dường như có ánh sáng đủ màu di động, vội chăm chú nhìn thấy bên dưới chữ Đoàn chàng khắc có bóng một thanh kiếm, hình ảnh rõ ràng lạ thường, có cả cán, cả vòn che tay, thân kiếm, mũi kiếm mọi thứ đều đâu ra đấy. Mũi kiếm nghiêng nghiêng chỉ xuống còn thanh kiếm có màu cầu vồng tỏa ra, lấp loáng chuyển động không ngừng. Chàng lấy làm lạ tự hỏi: “Sao bóng thanh kiếm lại hiện màu cầu vồng?”. Chàng ngửng đầu lên nhìn nhưng không thấy vầng trăng đâu thì ra bóng nguyệt đã chìm về phương tây, ẩn ở đằng sau vách núi rồi. Thế nhưng vách núi đó có một lỗ hổng, ánh trăng chiếu theo đó mà rọi xuống, trong cái hang đó có ánh sáng lấp lánh mới vỡ lẽ ra: “Đúng rồi! Thì ra trên vách núi kia có treo một thanh kiếm, trên thanh kiếm này có nạm các loại bảo thạch đủ màu, ánh trăng chiếu vào in hình thanh kiếm và các loại châu báu thành đủ màu sắc thành ra mới rực rỡ đến thế”.

Chàng nghĩ tiếp: “Như thế ắt phải đục được lưỡi kiếm ra rồi nạm bảo thạch cho ánh trăng chiếu qua được thành hình đủ màu. Còn như không đục được lưỡi kiếm thì ánh trăng đâu có thể chiếu xuyên qua bảo thạch. Người chế tạo ra chiếc kiếm quái lạ này thật là tốn nhiều công sức”.

Chàng thấy cái hang đó cách mặt đất đến mấy chục trượng không cách nào có thể trèo tới mà xem cho kỹ được, từ dưới trông lên, chỉ thấp thoáng thấy ánh sáng của mấy viên đá quí chiếu lên thạch bích vừa huyền ảo, vừa đẹp đẽ, nhìn mà mê mẩn tâm thần.

Chàng chỉ mới xem được một lát chừng thời gian uống một chén trà, ánh trăng đã di động, cái bóng đó mờ dần rồi biến mất, vách đá chỉ còn một màu trắng bệch. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thanh bảo kiếm này chắc là của hai vị cao nhân kia để trên đó. Sơn cốc thâm hiểm thế này, người của phái Vô Lượng Kiếm chẳng một ai dám mạo hiểm trèo xuống xem xét, cứ đứng trên đỉnh núi thì đâu có thấy được tiểu thạch bích, cũng không nhìn thấy cái hang trên bức vách bên kia có treo một thanh kiếm, thành ra phái Vô Lượng Kiếm có đứng trên đầu núi ngơ ngẩn một trăm năm nữa thì cũng không sao thấy được cái bí mật này. Thế nhưng lấy được thanh bảo kiếm kia thì có ích lợi gì?”. Chàng nghĩ ngợi một hồi rồi ngủ thiếp đi.

Trong giấc ngủ đột nhiên chàng choàng tỉnh dậy, nghĩ thầm: “Để có thể treo được thanh kiếm trên bức tường đá kia quả là một việc thực khó khăn, dẫu võ công có cao cường cũng không dễ gì làm được. Xếp đặt mất nhiều công lao như thế, phải có thâm ý gì. Hẳn là trong cái hang này còn cất dấu võ học bí cập chi đó”. Chàng nghĩ đến võ công thấy không còn gì hứng thú: “Võ công bí cập kia người của Vô Lượng Kiếm coi là quí giá chứ còn như ta, dù có để ngay trước mặt ta cũng chẳng thèm liếc mắt đến làm gì”.

Hôm sau chàng lại đi men theo chung quanh hồ, tính ra từ hôm rơi vào cái vực này đã đến ngày thứ ba, nghĩ thầm chỉ còn bốn ngày nữa, chất kịch độc của đoạn trường tán trong ruột phát tác, lúc đó có tìm được lối ra cũng thành vô dụng.

Đêm hôm đó chàng ngủ đến nửa đêm liền tỉnh dậy, đợi cho bóng trăng chìm về phương tây. Đến khoảng canh tư, ánh trăng chiếu vào cái hang núi, lại chiếu lên trên thạch bích hình thanh kiếm đủ màu. Chỉ thấy thanh kiếm trên bức vách xéo vào hướng bắc, mũi kiếm chỉ đúng vào một khối đá lớn, Đoàn Dự trong lòng chợt động: “Không lẽ khối nham thạch này có gì khác thường?”

Chàng đi đến bên tảng đá đẩy thử, tay chạm vào rêu xanh trơn tuồn tuột nhưng khối đá dường như hơi lắc lư. Chàng ra sức đẩy hai tay, lại thấy tảng đá rung rinh. Khối đá đó cao đến ngực, không hai nghìn cũng phải một nghìn cân, đúng ra không thể nào nhúc nhích được. Chàng đưa tay mò dưới đáy khối đá, thì ra tảng đá này không sát đất mà để ở trên một tảng đá nhỏ hơn, không biết trời sinh như thế hay là do người sắp đặt. Tim chàng đập thình thình nghĩ thầm: “Khối đá này quả có điều gì khác lạ!”.

Chàng dùng hai tay đẩy phía bên phải tảng đá, hòn đá lại lắc lư nhưng rồi lại trở về, nghe như có tiếng dây leo bị nghiến đứt biết là có các loại cây cỏ quấn chặt hai tảng đá với nhau. Lúc bấy giờ ánh trăng đã lặn, chàng chỉ thấy mờ mờ, nghĩ bụng: “Tối thế này nhìn không rõ, để đến sáng mai mình xem kỹ thử coi thế nào”.

Chàng nằm xuống bên cạnh tảng đá chợp mắt một lúc, đến khi sáng rõ mới trở dậy xem kỹ chung quanh rồi cúi xuống gỡ sạch các dây leo, cỏ dại quấn giữa hai tảng đá, lại vét cả đất cát ra sau đó mới giơ tay đẩy lần nữa, quả nhiên khối nham thạch từ từ chuyển động chẳng khác gì một cái cánh cửa lớn, xê dịch mới một nửa đã thấy để lộ ra một cái hang cao chừng ba thước.

Chàng mừng lắm, không kịp nghĩ xem trong động có gì nguy hiểm, liền khom lưng chui vào, đi được mươi bước thì cái hang đã tối om không còn chút ánh sáng nào. Chàng đành giơ hai tay ra, mỗi bước lại mò thử xem có gì không nhưng thấy dưới chân vững chãi chẳng khác gì đi trên một con đường đá, hẳn là hang này do tay người tu sửa nên càng mừng hơn. Thế nhưng cái hang đi xeo xéo xuống dưới, càng lúc càng thấp. Đột nhiên tay chàng sờ phải một vật gì hình tròn lạnh ngắt, vội buông ra nghe keng một tiếng, âm thanh trong trẻo, đưa tay ra mò lại lần nữa thì ra là một cái vòng cửa.

Đã có vòng cửa ắt là cửa lớn, chàng hai tay sờ thấy đến hơn một chục cái đinh đồng to bắng cái bát, trong lòng vừa sợ vừa mừng: "Nếu bên trong cửa này có người ở thì thật là kỳ quái". Chàng cầm môn hoàn gõ mạnh ba cái keng keng keng, đợi một lát thấy không có ai trả lời, chàng lại gõ thêm ba cái nữa, rồi mới đưa tay đẩy cửa.

Cái cửa đó dường như đúc bằng đồng bằng sắt, rất nặng nề nhưng bên trong không cài then, chàng vừa ra sức đẩy cánh cửa đã từ từ mở ra. Chàng lớn tiếng gọi:

- Tại hạ Đoàn Dự, không được mời mà đến tự tiện xông vào quí phủ, mong được chủ nhân thứ tội.

Chàng đợi một lúc, không thấy bên trong có âm hao gì, liền cất bước tiến vào. Mặc dù chàng mở mắt trừng trừng nhưng không nhìn thấy gì cả, chỉ thấy mùi ẩm mốc xông vào mũi dường như nơi đây đã lâu không có người ở. Chàng đi tiếp về phía trước, đột nhiên bình một tiếng, trán đã đụng phải vật gì. Cũng may chàng đi rất chậm nên cũng không đau mấy, giơ tay sờ thử thì ra nơi đây lại có một cái cửa khác. Chàng vận sức vào tay từ từ đẩy cửa mở ra, thấy bên trong là một thạch thất hình tròn, ánh sáng từ bên trái chiếu qua nhưng chỉ mờ mờ không phải ánh sáng mặt trời.

Chàng đi đến chỗ có ánh sáng, bỗng thấy có một con tôm lớn bơi ngoài cửa sổ. Chàng lấy làm lạ, đi thêm mấy bước nữa, lại thấy một con cá chép hoa vằn vện bơi qua. Chàng nhìn kỹ cái cửa sổ đó thì ra là một khối thủy tinh lớn nạm vào trong đá, to phải bằng cái mâm, ánh sáng chính là từ khối thủy tinh đó chiếu vào.

Chàng ghé mắt nhìn qua khối thủy tinh ra ngoài thấy nước xanh biếc cuồn cuộn chảy qua, các loài cá tôm thủy tộc bơi qua bơi lại, nhìn tới cùng cũng không thấy đâu là bờ là bến. Chàng hiểu ngay, thì ra nơi chàng đang đứng là dưới đáy hồ, năm xưa người kiến tạo thạch thất này hao tốn không biết bao nhiêu công sức mới đem được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, khối thủy tinh này là một bảo vật thật khó kiếm.

Chàng định thần suy nghĩ bỗng dưng kêu khổ thầm: “Chết rồi, chết rồi! Ta chạy vào dưới đáy hồ, đường đi chỉ toàn giơ tay lần mò không biết qua bao nhiêu chỗ quẹo, chui xuống đây rồi làm thế nào mà trở ra?”.

Chàng quay đầu lại, chỉ thấy trong gian phòng này có để một chiếc bàn đá, đằng trước có một chiếc ghế con, trên bàn là một chiếc gương đồng , bên cạnh còn để lược, thoa các loại, xem ra là nơi ở của người khuê các. Chiếc gương đồng đã hoen rỉ xanh lè, trên bàn cũng đóng bụi dầy cả tấc, không biết đã bao lâu chưa hề có người lui tới.

Chàng thấy tình cảnh đó không khỏi sững sờ, nghĩ thầm: “Nhiều năm trước hẳn là có một người đàn bà ở chốn hẻo lánh này, không hiểu vì sao mà lại đau lòng rời xa nhân gian lui về ở ẩn. Ôi! Chắc hẳn là người đàn bà đứng múa kiếm bên vách đá kia”. Chàng nghĩ ngợi một hồi, coi kỹ lại thấy trong gian phòng hai phía đông tây treo đầy những gương đồng, đếm lại có đến hơn ba mươi tấm. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc hẳn người đàn bà này là một giai nhân tuyệt thế, bạn tình chết đi rồi, sống lẻ loi vò võ ở chốn phòng khuê, ngày ngày chỉ còn biết cùng hình bóng của chính mình than thở. Tình cảnh đó thật là đau lòng xót dạ”.

Chàng đi đi lại lại trong gian phòng, khi thì tắc lưỡi, lúc thì thở dài thương cảm cho người chủ cũ. Một lúc sau, đột nhiên trong lòng chợt động: “Ồ, ta chỉ nghĩ đến cái đau lòng của người xưa, quên rằng chính mình thân lâm tuyệt cảnh”. Chàng lẩm bẩm một mình: “Đoàn Dự này quả là một thằng đàn ông thối tha, nếu như chết ở đây có phải là đường đột với giai nhân không, chết ở bên ngoài bờ hồ mới đúng. Kẻo rồi hậu nhân tìm đến, thấy khô lâu của ta, lại tưởng là nắm xương tàn của người đẹp, chẳng hóa ra ... chẳng hóa ra ...”.

Chàng chưa nghĩ ra “chẳng hóa ra” cái gì, thấy bên phía đông có một tấm gương treo hơi lệch phản chiếu ánh sáng, có hình góc tường phía tây nam, trên tường đá dường như có vết nứt. Chàng liền tiến đến, cố gắng đẩy bức tường đó, quả nhiên là một cánh cửa, từ từ mở ra, để lộ một cái hang. Chàng nhìn vào trong động, thấy có những bậc thang bằng đá.

Chàng vỗ tay reo lên, hoa chân múa tay một hồi rồi theo những bậc thang đó mà đi. Đi xuống chừng mươi bậc, mờ mờ phía trước dường như có một cánh cửa. Chàng giơ tay đẩy bỗng thấy sáng lòa, thất thanh kêu lên:

- Ối chao!

Trước mắt là một mỹ nữ ăn mặc theo lối người ở trong cung vua, tay cầm trường kiếm, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực chàng.

Qua một lúc lâu, chỉ thấy người đàn bà đó đứng yên không cử động, chàng định thần nhìn kỹ thấy nàng tuy hình dáng nghi biểu thật giống nhưng dường như không phải người sống, thu hết can đảm đến gần xem kỹ thì ra là một pho tượng bằng ngọc trắng. Pho tượng đó cũng to bằng người thật, tà áo lụa màu vàng nhạt hơi rung động, lạ nhất là đôi mắt trong sáng, thần thái linh hoạt. Đoàn Dự chỉ biết ấp úng:

- Xin lỗi! Xin lỗi! Tôi nhìn cô nương chăm chăm, thật là vô lễ.

Tuy biết là khiếm lễ nhưng mắt chàng vẫn không thể rời xa đôi mắt, không biết ngẩn ngơ đứng nhìn bao lâu, mới biết hai con ngươi tạc bằng bảo thạch màu đen, trong mắt tưởng như có quang thái lưu chuyển càng nhìn càng sâu thăm thẳm. Pho ngọc tượng này sở dĩ giống người thật như hệt, chỉ vì đôi mắt thật là linh động.

Những vân trên khuôn mặt pho tượng ngọc lại ẩn ẩn sắc hồng chẳng khác gì da dẻ người sống. Đoàn Dự nghiêng đầu ngó pho tượng, thấy ánh mắt của người đẹp cũng nhìn theo chẳng khác gì người thật. Chàng kinh hãi, nghiêng qua phía phải, đôi mắt của pho tượng dường như cũng đi theo. Dù chàng đứng ở phía nào thì đôi mắt pho tượng ngọc cũng chuyển hướng, ánh mắt thật là khó hiểu, không ra buồn mà cũng chẳng vui, dường như tràn đầy tình ý mà lại có vẻ ngậm ngùi.

Chàng ngơ ngẩn đứng nhìn, vái một cái thật sâu nói:

- Thần tiên tỉ tỉ, tiểu sinh Đoàn Dự hôm nay được trộm thấy phương dung, có chết cũng không có gì ân hận. Tỉ tỉ xa rời nhân thế một mình vò võ nơi đây, không tịch mịch lắm sao?

Bảo thạch trên đôi mắt pho tượng lung linh biến huyễn, tưởng như nghe được lời chàng nên tỏ ra chua xót. Lúc này Đoàn Dự đã mê mẩn tâm hồn, chẳng khác gì bị ma nhập, mắt như dính chặt vào pho tượng không rời nói. Chàng nghĩ thầm: “Không biết thần tiên tỉ tỉ xưng hô ra thế nào? Để coi chung quanh xem có lưu lại phương danh của tỉ tỉ chăng?”.

Chàng tra xét bốn bề, thấy bức tường bên phía đông viết đầy chữ nhưng không có bụng dạ nào mà xem, lại quay trở lại ngắm pho tượng ngọc bấy giờ mới hay tóc trên đầu pho tượng là tóc người thật, tóc mây từng cuộn bồng bềnh, lại rủ một chùm cong cong, bên cạnh cài một cái vòng ngọc, trên nạm hai hạt minh châu lấp lánh to bằng ngón tay. Trên tường cũng nạm đầy minh châu bảo thạch, chiếu sáng lẫn nhau, bên vách phía tây có sáu khối thủy tinh lớn, nhìn ra thấy nước thấp thoáng khiến cho gian phòng này so với gian phòng trước còn sáng hơn nhiều.

Chàng lại say sưa ngắm pho tượng ngọc một hồi rồi mới quay ra, thấy bức tường phía đông được mài nhẵn nhụi, trên khắc mấy hàng chữ đều lấy từ trong sách Trang Tử, các thiên Tiêu Dao Du, Dưỡng Sinh Chủ, Chí Lạc ... bút pháp phiêu dật dường như do một người nào đó có sức cổ tay rất mạnh dùng một vật nhọn khắc thành, nét nào nét nấy sâu vào trong đá đến nửa tấc. Cuối bài văn đó là một hàng lạc khoản đề: “Tiêu Dao Tử vi Thu Thủy muội thư. Động trung vô nhật nguyệt, nhân gian chí lạc dã”.

Đoàn Dự nhìn hàng chữ đó mà thừ người một hồi, nghĩ thầm: “Vị Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội hẳn là hai vị cao nhân nam nữ mấy chục năm trước cùng nhau múa kiếm dưới sơn cốc. Pho tượng ngọc có lẽ là người mà ông ta gọi là Thu Thủy muội, Tiêu Dao Tử được sống với bà ta ở nơi mật động dưới u cốc này, đúng là cực lạc của nhân gian. Thực ra thì đâu phải chỉ là chỗ cực lạc của nhân gian, mà ngay cả trên trời dễ gì có chỗ nào hơn”.

Mắt chàng nhìn đến mấy hàng chữ trên vách:

Miểu cô xạ chi sơn, hữu thần nhân cư yên. Cơ phu nhược băng tuyết, xước ước nhược xử tử, bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ.

(Ở nơi núi xa xăm mờ mịt, có thần nhân ở. Da trắng như tuyết, giữ mình như ngọc, không ăn ngũ cốc, hút gió uống sương)

Chàng lại quay đầu qua nhìn pho tượng nghĩ thầm: “Mấy câu này của Trang Tử đem ra để hình dung vị thần tiên tỉ tỉ quả thật đúng quá”. Chàng đi đến trước pho tượng, ngây ngất đứng nhìn, xem có đúng là nàng có da thịt trắng như tuyết không, chỉ tiếc là không được đưa một ngón tay ra vuốt ve thử, lòng như mê đi, thoang thoảng dường như ngửi thấy mùi lan xạ thơm ngát, vì yêu mà đâm ra kính trọng, từ kính trọng trở thành say đắm.

Một lúc sau chàng không nhịn nổi phải kêu lên:

- Thần tiên tỉ tỉ, tỉ tỉ có thể sống lại nói chuyện với ta một câu chăng, dù ta phải vì nàng mà chết một nghìn lần, một vạn lần thì cũng thực là vui sướng, hoan hỉ vô cùng.

Đột nhiên hai gối gập lại, quì xuống vái lạy. Chàng quì xuống rồi mới phát giác trước mặt pho tượng đã sẵn hai chiếc bồ đoàn, hẳn là để cho người ta chiêm bái, chỗ chàng quì là cái bồ đoàn lớn, dưới chân tượng còn một chiếc bồ đoàn nhỏ hơn, chắc để cho người ta rập đầu. Chàng rập đầu xuống mới thấy bên trong đôi giày của pho tượng hình như có thêu gì đó, nheo mắt xem kỹ mới thấy bên phải chiếc giày có những chữ:

Lạy ta nghìn lạy đi thôi,

Để ta sai khiến một đời chẳng sai.

Còn bên trái thì viết:

Hãy mau theo lệnh của ta,

Dù cho trăm chết chớ hề thở than.

Những chữ đó thêu bằng chỉ màu xanh đậm còn nhỏ hơn đầu con ruồi, hơi sậm hơn màu giày xanh lục một chút, trong ánh sáng mông lung của thạch thất nếu không rập đầu lại chăm chú nhìn cho kỹ thì không thể nào thấy được. Thế nhưng giá có phải lạy một nghìn lần thì âu cũng phải, còn để cho nàng sai phái thì cầu còn chưa được, huống chi tuân hành mệnh lệnh một mỹ nhân như thế này, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy cũng đâu có hối hận gì. Thành thử chàng không do dự, tâm thần mê mẩn cứ thế mà “năm, mười, mười lăm, hai mươi ...” mồm thì đếm, còn người thì cung kính lạy cho đủ số.

Chàng rập đầu đến năm, sáu trăm rồi thấy lưng đã mỏi, xương cốt đau nhức, cổ đã thấy cứng nhưng nghĩ thầm bằng giá nào mình cũng phải làm cho kỳ xong mới thôi. Mệnh lệnh đầu tiên của thần tiên tỉ tỉ đã không xong thì còn nói gì đến chuyện “dẫu chết trăm lần cũng không hối hận?”.

Đến lúc được trên tám trăm cái, mặt chiếc bồ đoàn nhỏ đã sờn, lộ ra bên dưới có vật gì đó. Chàng không để ý đến, vẫn cứ cung cung kính kính lên gối xuống gối cho đủ một nghìn lần. Khi xong rồi thấy lưng mỏi nhừ, vừa ngóc đầu đã khuỵu ngay xuống.

Chàng nằm lăn ra nghỉ cho lại sức, thấy mình đã tuân hành được một chuyện của người ngọc, chân càng chồn, gối càng mỏi thì trong lòng càng sung sướng. Qua một lúc sau chàng mới từ từ trở dậy, giơ tay mò vào chỗ rách của cái tiểu bồ đoàn thấy vật gì trơn nhẵn hóa ra là một cái túi bằng lụa nghĩ thầm: “Thì ra thần tiên tỉ tỉ đã sắp xếp, nếu ta không lạy đủ một nghìn cái thì cái đệm nhỏ này đâu có rách, vật báu của nàng tặng cho ta đâu có lộ ra được”. Chàng xưa nay châu báu ngọc ngà có coi vào đâu nhưng cái túi này là của thần tiên tỉ tỉ ban cho, dẫu bên trong chỉ là lá khô, cỏ mục, vải rách giấy vụn thì chàng cũng coi như quí giá nhất đời. Chàng lôi cái túi ra, hai tay bưng lên ngang ngực.

Cái túi đó dài chừng một thước, trên nền lụa trắng viết mấy chữ nhỏ:

“Ngươi đã lạy ta đủ một nghìn lần thì hãy tuân theo mệnh lệnh của ta suốt đời không hối hận, cuộn này là tinh yếu võ công của phái Tiêu Dao, mỗi ngày ba lần những giờ mão, ngọ, dậu cố gắng tu tập, nếu như biếng nhác thì ta thật đau lòng. Thần công thành tựu rồi, hãy tới Lang Hoàn Phúc Địa đọc cho kỳ hết các điển tịch nơi đây để biết hết gia số các môn phái trong thiên hạ mà dùng. Đừng gấp gáp, cứ thư thả, học xong rồi hạ sơn, giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, nếu sót một người thì ta ở trên trời dưới đất cũng khắc khoải chưa tiêu mối hận”.

Hay tay chàng run rẩy cầm cái bọc lụa nghĩ thầm: “Như thế là thế nào? Ta vốn đã không muốn học võ, còn việc giết sạch người của phái Tiêu Dao thì lại càng không thể làm được. Thế nhưng mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ lẽ nào không tuân hành? Ta đã rập đầu đủ một nghìn lần nghĩa là bằng lòng tuân theo mệnh lệnh của nàng ta, để cho người sai sử. Thế nhưng nàng bảo ta học võ giết người, biết làm sao đây?”.

Trong đầu chàng lúc này thật rối như tơ vò, nghĩ tiếp: “Nàng bảo ta học võ của phái Tiêu Dao, rồi lại bảo ta đi giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, thật là lạ lùng thay. Ôi, chắc là sư huynh sư đệ, sư tỉ sư muội trong phái Tiêu Dao của nàng làm nàng khốn khổ cho nên nàng mới mong báo thù. Nàng đến lúc chết vẫn chưa nguôi mối hận nên mới tính chuyện thu đệ tử để thay mình hoàn thành tâm nguyện. Những kẻ đó làm hại thần tiên tỉ tỉ đến điều như thế, hẳn là xấu xa, gian ác nhất trên đời có giết cho hết thì cũng phải. Khổng phu tử có nói: Dĩ trực báo oán , chính là như thế. Cha ta cũng nói rằng, nếu gặp kẻ xấu xa gian tà, mình không giết nó, nó cũng giết mình, nếu như không biết võ công thì có khác gì để cho người ta đâm chém gì cũng được. Câu đó xem ra không sai chút nào”.

Khi cha chàng ép chàng học võ, chàng đem ra đủ các đạo lý của nhà nho, nhà Phật nhất định không chịu học. Cha chàng sách vở không thông hiểu bằng chàng nên không sao biện giải được. Lúc này chàng vì say mê pho tượng ngọc mới nhận rằng lời cha là đúng.

Chàng nghĩ tiếp: “Thần tiên tỉ tỉ qui tiên đã mấy chục năm, chắc gì trên đời này còn phái Tiêu Dao? Người đời có nói: “Ác hữu ác báo” biết đâu những kẻ ác quán mãn doanh kia chẳng cần phải ta ra tay giết cũng đã chết cả rồi. Nếu không còn đệ tử phái Tiêu Dao, tâm nguyện của thần tiên tỉ tỉ đã hoàn thành, nàng ở trên trời dưới đất đâu có còn canh cánh khắc khoải nữa”.

Chàng nghĩ ra như thế rồi trong lòng cảm thấy dịu lại, khấn thầm: “Thần tiên tỉ tỉ, những việc tỉ tỉ sai bảo, Đoàn Dự này dĩ nhiên phải tuân theo không dám lỡ làng, nhưng mong rằng tỉ tỉ pháp lực vô biên, đệ tử phái Tiêu Dao ai nấy đều không bệnh hoạn mà chết cả rồi”.

Chàng hồi hộp mở cái bọc gấm ra, bên trong là một cuộn lụa cuốn tròn. Chàng mở cuộn lụa, hàng chữ đầu tiên viết “Bắc Minh thần công”, nét chữ mềm mại nhưng có lực, so với hàng chữ bên ngoài túi không khác gì. Bên dưới viết tiếp:

Trang Tử Tiêu Dao Du có viết:

Ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn vài nghìn dặm, không ai nhìn thấy bao giờ.

Lại viết:

Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ một chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn.

Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu nghĩa đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều chở được, cá lớn cá nhỏ đều dung được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn. Những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập.

Đoàn Dự khen ngợi:

- Đoạn này thần tiên tỉ tỉ viết thật là rõ ràng.

Chàng nghĩ thầm: “Bắc Minh thần công là công phu tu luyện nội lực, có học cũng không sao”. Tay trái chàng lần từ từ giở cuộn vải ra, đột nhiên “A” lên một tiếng, tim đập thình thình rồi mặt đỏ bừng, người nóng hổi. Thì ra trên tấm lụa là hình vẽ một người con gái nằm ngang, thân thể không một mảnh vải, diện mạo chẳng khác gì pho tượng ngọc. Đoàn Dự cảm thấy nếu như mình còn nhìn lâu thêm không khỏi coi thường thần tiên tỉ tỉ nên vội vàng cuộn lại không coi nữa. Một hồi sau chàng mới nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ có dặn là những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập, ta cũng chỉ theo lệnh mà làm không thể coi là bất kính”.

Chàng run run đưa tay mở cuộn vải ra, thấy bức hình người con gái khỏa thân kia như mỉm cười, đầu mày cuối mắt, trên môi trên má thật là kiều mị, so với pho tượng khuôn mặt trang nghiêm tuy dung mạo có giống nhưng thần tình khác hẳn. Chàng tưởng như thấy ngực mình rộn ràng, nghe được cả tiếng tim đập, liếc mắt nhìn trộm bức hình, thấy có một đường chỉ nhỏ màu xanh từ trên vai trái vòng xuống dưới cổ rồi chạy xéo xuống vú bên phải.

Chàng nhìn đến đôi nhũ hoa đầy đặn của người đẹp trong lòng thảng thốt, vội vàng nhắm mắt lại, một lát sau mới he hé nhìn thấy sợi chỉ xanh đó chạy xuống dưới nách rồi kéo dài đến tận cánh tay phải, qua cổ tay tới ngón tay cái mới ngừng. Chàng càng nhìn càng yên bụng, nghĩ thầm mình nhìn bàn tay, ngón tay của thần tiên tỉ tỉ thì không sao nhưng nghĩ đến cánh tay trắng muốt trong lòng không khỏi rộn ràng.

Lại có một sợi chỉ xanh khác từ cổ đi xuống, qua bụng rồi đi tiếp nữa tới cách rốn mấy tấc mới ngừng. Đoàn Dự không dám nhìn sợi dây đó lâu, chăm chú nhìn đường trên cánh tay, thấy bên cạnh sợi dây ghi đầy những chữ nhỏ, nào Vân Môn, Trung Phủ, Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế ... đến Thiếu Thương ở ngón tay cái thì ngừng lại. Chàng bình thời thường nghe cha mẹ bình luận võ công, tuy không lưu ý nhưng vào tai cũng đã nhiều biết ngay Vân Môn, Trung Phủ ... đều là tên các huyệt đạo trên thân thể con người.

Chàng mở thêm một chút thấy bên dưới có một hàng chữ:

Bắc Minh thần công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình. Nước lớn biển bắc không phải tự nhiên mà có. Lời rằng: Trăm sông đổ vào biển, nước của biển sở dĩ có là vì dung chứa nước của trăm sông. Biển cả bao la cũng là vì biết tích tụ. Thủ Thái Âm Phế Kinh này là bài học đầu tiên của Bắc Minh thần công.

Bên dưới viết kỹ phương pháp luyện môn công phu này. Sau cùng chép:

Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao ta lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình vào tới các huyệt. Nếu như nội lực kẻ địch mạnh hơn ta tức là nước biển chảy ngược vào sông hồ cực kỳ hung hiểm, phải hết sức cẩn thận. Bàng chi trong bản phái không biết được đạo lý này nên chỉ biết làm tiêu hao nội lực kẻ địch mà không biết đưa vào để dùng cho mình, khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt dưới đất, coi vật quí giá không ra gì chẳng nực cười ru!”.

Đoàn Dự thở dài một tiếng, mang máng thấy công phu này dường như không được quang minh, lấy nội lực của người làm của mình có khác gì ăn cắp tài vật người ta ư? Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: “Cái thí dụ của thần tiên tỉ tỉ thật là đúng, trăm sông đổ vào biển đấy là do tự ý chảy vào chứ biển cả có cướp đoạt nước của sông đâu. Ta lại cho rằng thần tiên tỉ tỉ đi lấy của người khác, thật là lếu láo, đáng đánh đòn!”.

Chàng giơ tay lên, vả ngay vào mặt mình một cái, má trái liền sưng lên thật là đau, lại vả bên phải một cái nữa nhưng nhẹ hơn, nghĩ thầm: “Kẻ xấu xa tàn ác dám mạo phạm đến thần tiên tỉ tỉ, thần tiên tỉ tỉ bèn lấy nội lực của chúng để dùng chính là bẻ nanh bẻ vuốt bọn chúng, có khác gì cướp con dao trong tay tên đồ tể chứ có phải giết y đâu. Thần tiên tỉ tỉ làm như thế có gì là không phải?”.

Chàng mở tiếp cuộn vải lụa, trên đó vẽ toàn là hình con gái khỏa thân, kẻ đứng người nằm, hoặc trước mặt, hoặc sau lưng cùng một khuôn mặt nhưng khi vui khi buồn, khi thì tình ý triền miên, lúc lại có vẻ bực bội mỗi bức một khác. Tất cả tổng cộng ba mươi sáu bức tranh, trên bức tranh nào cũng có những sợi chỉ màu, ghi rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công.

Đến sau cùng tên cuốn lụa có bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ, kế đó vẽ đầy những vết chân, ghi rõ Qui Muội, Vô Vọng các loại, đều là những phương vị trong Dịch Kinh. Mấy hôm trước đây Đoàn Dự toàn tâm toàn lực nghiên cứu kinh Dịch, vừa đọc đến những danh xưng lập tức tinh thần phấn khởi chẳng khác gì gặp lại người quen. Chỉ thấy dấu chân chằng chịt, không biết bao nhiêu trăm, bao nhiêu nghìn, từ bước nọ sang bước kia có một đường dây xuyên qua, trên đường đó có dấu mũi tên xem ra là một loại bộ pháp phức tạp. Sau cùng là một hàng chữ viết:

Nếu gặp phải cường địch, thì dùng cái này để bảo vệ chính mình, tích thêm nội lực sau đó sẽ quay lại giết kẻ địch.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bộ pháp của thần tiên tỉ tỉ để lại ắt thật là tinh diệu, khi gặp cường địch đào tẩu thoát thân thật tốt biết bao còn như việc “sau đó sẽ quay lại giết kẻ địch” bất tất phải nghĩ đến”.

Chàng cuộn tấm lụa lại, để lên vái hai cái rồi trịnh trọng bỏ vào trong túi, quay sang nói với pho tượng ngọc:

- Thần tiên tỉ tỉ dặn ta sáng trưa chiều ba lần luyện công, Đoàn Dự này không dám trái lời. Từ nay trở đi đối với người khác sẽ hết sức nể nang để cho người khác khỏi đánh, khỏi phải hút nội lực của người ta. Còn Lăng Ba Vi Bộ kia ta sẽ gia tâm luyện cho thành thục, nếu thấy không xong, lập tức chạy ngay khỏi phải hút nội lực của họ”.

Còn lời dặn “giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao” chàng không dám nghĩ đến. Chàng thấy bên trái có một cái cửa hình tròn nên chậm rãi đi vào, bên trong lại là một gian thạch thất khác, trong đó có một chiếc giường đá, trước giường để một cái nôi bằng gỗ nho nhỏ. Chàng ngơ ngẩn nhìn chiếc nôi đó nghĩ thầm: “Không lẽ thần tiên tỉ tỉ lại có con ư? Không phải, không phải, một cô nương xinh đẹp như thế, làm sao lại sinh con được?”. Chàng nghĩ đến người thần tiên tỉ tỉ “giữ mình như ngọc” kia lại có con không khỏi cực kỳ thất vọng, nhưng lại nghĩ ngay: “A, đúng rồi! Đây chắc là cái nôi của thần tiên tỉ tỉ nằm khi nàng còn bé, do cha mẹ nàng làm cho nàng. Hai người Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội chắc là song thân, đúng rồi, chắc là thế đó”. Chàng cũng không thèm nghĩ thêm xem những điều mình suy đoán có gì sơ xuất hay không nên tinh thần lại trở nên cao hứng.

Trong gian phòng này không có chăn gối quần áo gì, trên tường có treo một cây thất huyền cầm, dây đã đứt cả. Bên cạnh giường lại có một cái bàn đá, trên bàn khắc mười chín đường bàn cờ, trên còn sắp xếp đến hơn hai trăm quân, trắng đen đang kịch liệt xem ra chưa rõ được thua.

Đàn còn đó, cờ chưa xong mà giai nhân mờ mịt nơi nào. Đoàn Dự đứng sững sờ trong gian thạch thất, không khỏi bi thương, hai hàng lệ chảy dài trên má. Bỗng dưng chàng lại hoảng hốt: “Trời ôi! Nếu có bàn cờ, ắt phải có hai người giao đấu, e rằng thần tiên tỉ tỉ chính là Thu Thủy muội, cùng chồng là Tiêu Dao Tử ngồi đây đánh cờ. Ôi thôi! Thật là ... thật là ... Ồ, đúng rồi! Bàn cờ này không phải hai người đánh mà là thần tiên tỉ tỉ ở một mình nơi u cốc, tịch mịch không có gì làm, nên đánh cờ một mình. Thần tiên tỉ tỉ, năm xưa sao nàng không gọi lên vài tiếng? Đoàn Dự này nghe tiếng oanh êm ả, thể nào chẳng vào trong sơn cốc hầu cờ cùng tỉ tỉ?”. Chàng đến bên coi kỹ lại cuộc cờ, không ngờ càng xem càng kinh hãi.

Cuộc cờ đó biến hóa phiền phức không đâu sánh kịp, là thế cờ mà dịch nhân vẫn gọi là Trân Lung, hai bên tuy hết sức tranh đoạt nhưng vẫn có đường sống lại có kế lâu dài. Đoàn Dự đã từng nghiên cứu về cờ vây mấy năm qua, có lúc mê mẩn đã từng đánh cờ với Thôi tiên sinh trong nhà. Chàng vốn thông minh nên lúc đầu Thôi tiên sinh chấp chàng bốn quân mà sau một năm đã chấp lại ông ta ba quân, kỳ lực có thể nói là một tay cao thủ trong nước Đại Lý. Thế nhưng bàn cờ trước mắt rồi sẽ ra sao vẫn không thể nào nghĩ cho ra, bên đen trông như thắng mà bên trắng lại cũng có cách lật ngược lại. Chàng đứng trông hồi lâu, thế cờ càng lúc càng mờ mịt, thấy có hai chân đèn trên còn hai cây nến cháy dở, bên cạnh có cả hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi nên đánh lửa lên đốt đèn coi cho rõ. Chàng xem đến khi đầu váng mắt hoa, trong bụng bực bội.

Đoàn Dự đứng lên, vặn lưng cho bớt mỏi bỗng giật mình: “ Bàn cờ thế này khó quá, dù ta có nghĩ thêm tám ngày mười ngày chưa chắc đã giải nổi, đến lúc đó tính mạng mình đã không còn mà Chung cô nương thì cũng đã bị Thần Nông Bang chôn sống”. Chàng biết rằng nếu còn ngồi coi nữa thì không biết bao giờ mới nhãng ra được nên đành quay ra, tiện tay cầm luôn cây đèn không để mắt vào bàn cờ nữa, trong lòng đột nhiên mừng như điên cuồng: “Đúng rồi! Đúng rồi! Bàn cờ này phức tạp đến thế, chắc là thần tiên tỉ tỉ tự mình sắp đặt một thế Trân Lung, chứ nào có phải hai người đánh với nhau mà thành, quả thật hay quá!”.

Chàng ngửng đầu lên thấy dưới chân giường lại cũng có một cái cửa hình tròn, tường bên cạnh có bốn chữ Lang Hoàn Phúc Địa. Chàng nhớ đến câu thần tiên tỉ tỉ viết bên ngoài cuộn lụa, nghĩ thầm: “Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa ở ngay đây. Thần tiên tỉ tỉ có nói là điển tịch các môn phái trong thiên hạ đều có ở trong này. Ta đâu muốn học võ công, những điển tịch đó không xem là hơn. Thế nhưng thần tiên tỉ tỉ đã dặn đâu có thể nào trái lời”. Chàng bèn cầm đuốc tiến vào trong phòng đó.

Vừa bước chân vào Đoàn Dự đưa mắt nhìn bốn phía thở hắt ra khoan khoái, trong lòng nhẹ hẳn đi. Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa là một cái thạch động thật lớn, to gấp mấy lần những phòng ở bên ngoài, trong bày đầy những giá sách bằng gỗ có điều trên những kệ đó trống trơn, không còn một quyển nào. Chàng bưng cây nến lại gần thấy trên giá có cắm đầy những thẻ, nào là “Côn Lôn Phái”, “Thiếu Lâm Phái”, “Tứ Xuyên Thanh Thành Phái”, “Sơn Đông Bồng Lai Phái” ... bên trong có cả “Đại Lý Đoàn Thị”. Thế nhưng trong chiếc thẻ đề “Thiếu Lâm Phái” thì có chú thích “Thiếu Dịch Cân Kinh”, trong thẻ đề “Cái Bang” thì chú thích “Thiếu Hàng Long Thập Bát Chưởng”, còn thẻ đề “Đại Lý Đoàn Thị” thì ghi chú “Thiếu Nhất Dương Chỉ, Lục Mạch Thần Kiếm Kiếm Pháp, thật đáng tiếc”.

Như vậy hẳn là năm xưa trên những kệ sách này chất đầy đồ phổ, kinh sách của các môn phái nhưng nay đã bị người nào đó khuân đi hết rồi chỉ còn giá không. Thấy thế lòng Đoàn Dự tưởng như trút được tảng đá, vui sướng không để đâu cho hết: “Nếu như không còn võ công điển tịch nữa thì ta không học võ công cũng không thể nói là không tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ”. Thế nhưng trong lòng chàng bỗng cảm thấy hổ thẹn: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi vì không phải tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ mà lấy làm vui thì đã là bất trung với nàng rồi. Ngươi không thấy võ công điển tịch đáng lẽ phải thất vọng mới phải, sao lại lấy làm sung sướng là sao? Thần tiên tỉ tỉ trên trời dưới đất nếu có linh thiêng ắt sẽ không bằng lòng”.

Chàng thấy Lang Hoàn Phúc Địa này không có cửa ra, bèn quay lại gian phòng có pho tượng ngọc, vừa mới nhìn vào đôi mắt người đẹp, tâm hồn lại say mê điên đảo, ngơ ngẩn một hồi mới vái một cái thật sâu nói:

- Thần tiên tỉ tỉ, hôm nay ta có việc quan trọng đành phải tạm biệt, sau khi cứu xong Chung cô nương rồi, sẽ quay lại tụ hội với tỉ tỉ.

Chàng đành cầm chúc đài hăng hái ra khỏi thạch thất, vừa mới toan tìm đường đi thấy bên cạnh có một hàng bậc thang bằng đá chênh chếch đi lên, lúc đầu mắt vẫn còn dán chặt vào pho tượng ngọc nên không để tâm đến những thạch cấp. Mỗi bước đi lại dùng dằng do dự, biết bao nhiêu lần chàng toan quay lại nhìn pho tượng mỹ nhân, nhưng rồi nghiến răng hạ quyết tâm mới khắc chế được nỗi thèm muốn.

Đi được chừng hơn một trăm bước, qua ba khúc quẹo, nghe văng vẳng tiếng rì rầm ỳ ào của nước chảy, lại thêm hai trăm bậc nữa thì ầm ầm điếc cả tai, trước mắt có ánh sáng chiếu vào. Chàng càng đi nhanh hơn đến hết các bậc thang, trước mặt là một cái lỗ hổng chui lọt người, thò đầu ra thăm dò bỗng sợ đến tim đập thình thình.

Chàng vừa nhìn ra thấy bên ngoài sóng nước cuồn cuộn gầm rú, nước chảy rất xiết chính là một con sông lớn. Hai bên bờ sông là vách đá dựng, đứng sừng sững xem tình hình này đã đến bờ sông Lan Thương. Chàng vừa kinh hoàng, vừa vui sướng, từ từ chui ra khỏi động thấy chỗ đang đứng cao hơn mặt nước sông đến mươi trượng, nước sông có dâng lên cũng không thể nào tràn vào được nhưng nếu muốn đến được bờ sông cũng không phải dễ dàng. Chàng bèn dùng cả tay lẫn chân bò men lên, đồng thời đưa mắt nhìn tứ phía ghi nhớ kỹ cảnh vật để khi cứu người xong sẽ quay lại chốn này. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Từ nay mỗi năm ta để vài tháng vào trong hang này làm bạn với thần tiên tỉ tỉ”.

Bờ sông toàn là đá núi, không có đường đi, chập choạng leo lên leo xuống đi được chừng bảy, tám dặm. Chàng trông thấy một cây đào hoang, trên cành đầy trái nên hái ăn thật no, tinh thần phấn chấn đi thêm được mươi dặm nữa mới gặp một con đường mòn nhỏ. Chàng men theo con đường đó mãi đến lúc chiều tối mới gặp một chiếc cầu treo bằng xích sắt ngang qua sông, trên tảng đá bên cạnh cầu có khắc ba chữ lớn “Thiện Nhân Độ”.

Chàng rất mừng, con đường Chung Linh chỉ cho phải qua cầu treo Thiện Nhân Độ, như vậy đường chàng đang đi là đúng rồi. Chàng bèn bám sợi dây xích bước lên trên cầu. Cây cầu đó có cả thảy bốn sợi dây xích, hai sợi bên dưới để lát gỗ để đi qua, còn hai sợi ở hai bên là để vịn. Chàng vừa đặt chân, cây cầu đã đong đưa, đến giữa sông lại càng chao đảo, hé mắt nhìn thấy nước sông cuồn cuộn, sủi lên bao nhiêu là bọt nước, chẳng khác nào một bầy ngựa hoang chạy dưới chân, chỉ lỡ bước một cái là lộn nhào xuống sông dù bơi lội giỏi đến chừng nào cũng không sao thoát chết được.

Chàng không dám nhìn xuống nữa, chăm chăm hướng về phía trước, lập cập niệm tụng: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!” từng bước từng bước lần mãi cũng qua được bên kia.

Chàng ngồi nghỉ một lát rồi cứ theo đường Chung Linh chỉ mà đi cho nhanh. Đi chừng hơn nửa giờ thấy trước mặt là một khu rừng rậm biết là đã đến cửa Vạn Kiếp Cốc, nơi Chung Linh ở. Chàng đến gần quả nhiên thấy một hàng chín cây cổ tùng vươn lên cao vút. Chàng đếm từ bên phải đến cây thứ tư, theo đúng lời Chung Linh chỉ điểm, vòng qua phía sau vạch đám cỏ dài, quả nhiên trên cây có một cái hang, nghĩ thầm: “Cái Vạn Kiếp Cốc này quả thật kín đáo, nếu không được Chung cô nương cho hay thì nào ai biết được cửa cốc lại ở ngay một cây tùng”.

Chàng tiến vào cửa hang, một tay vạch cỏ ra tay phải mò thấy một cái vòng sắt lớn, dùng sức kéo lên, mộc bản liền mở bên dưới là một hàng bực thang bằng đá. Chàng đi xuống mấy bậc rồi hai tay lại nâng cánh cửa gỗ để lại chỗ cũ, tiếp tục đi xuống, khoảng chừng ba mươi bước thì đường ngoặt qua phía phải, sau mấy trượng lại trồi trở lên nghĩ thầm: “Ở đây làm bậc đá so với thần tiên tỉ tỉ kiến tạo những nấc thang trong hang thật dễ hơn nhiều”. Chàng đi lên chừng ba mươi bậc thì đến một khoảng đất bằng.

Trước mắt chàng thấy một bãi cỏ rộng, xa xa là những cây tùng. Chàng đi qua cánh đồng thấy một cây tùng lớn trên bạt đi một mảng vỏ dài chừng một trượng, ngang chừng một thước trên sơn trắng viết một hàng chữ lớn: “Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha”. Những chữ khác đều màu đen, riêng chữ “giết” lại màu đỏ.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao cốc chủ lại hận thù họ Đoàn ta đến thế? Dẫu như có người họ Đoàn đắc tội với y nhưng trên đời này người họ Đoàn hàng nghìn, hàng vạn, đâu phải gặp ai cũng giết”. Khi đó trời đã tối, những chữ đó trông như giơ nanh, múa vuốt, chữ giết kia màu đỏ chói trông chẳng khác gì rải đầy máu tươi, trông thật ghê rợn. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung cô nương bảo ta đừng xưng mình họ Đoàn thì ra là thế. Cô ta bảo mình gõ vào chữ thứ ba ba lần, tức là phải gõ vào chữ Đoàn. Lúc đó nàng không nói rõ ra, sợ ta nổi giận. Gõ thì đã sao, đánh cũng còn được. Nàng cứu mạng ta chẳng nói chi gõ vào chữ Đoàn ba lần mà có đánh cho Đoàn Dự này ba cái cũng không hề hấn gì”.

Chàng thấy trên cây có đóng một cái đinh, trên đinh treo một cái búa nhỏ, liền lấy xuống gõ vào chữ Đoàn một cái. Cái búa gõ xuống nghe tiếng kim loại vang lên, Đoàn Dự không đề phòng phải giựt nảy người, mới hay bên dưới chữ đoàn là một miếng sắt, phía sau rỗng, chỉ vì bên ngoài sơn trắng nên không nhìn ra. Chàng gõ thêm hai lần nữa rồi treo cái búa lại chỗ cũ.

Qua một lát đằng sau cây tùng có tiếng một thiếu nữ kêu lên:

- Tiểu thư về rồi!

Giọng nói nghe đầy vẻ vui mừng. Đoàn Dự nói:

- Tôi nhận lời ủy thác của Chung cô nương đến xin được gặp cốc chủ.

Cô gái kia “Ồ” một tiếng xem chừng như kinh ngạc lắm, ấp úng:

- Ngươi ... ngươi là người ngoài ư? Tiểu thư nhà ta đâu?

Đoàn Dự không nhìn thấy người cô ta, nói:

- Chung cô nương gặp phải hung hiểm tôi tới đây báo tin.

Thiếu nữ kinh hãi hỏi lại:

- Nguy hiểm gì?

Đoàn Dự đáp:

- Chung cô nương bị người ta bắt giữ, e rằng nguy hiểm đến tính mạng.

Thiếu nữ kêu lên:

- Trời ơi! Ngươi ... ngươi ... ngươi chờ một chút, để ta vào báo cho phu nhân.

Đoàn Dự đáp:

- Thế thì hay lắm.

Chàng nghĩ thầm: “Chung cô nương vốn dĩ muốn mình gặp mẹ nàng trước”. Chàng đứng đó một hồi thì nghe đằng sau cây có tiếng chân người gấp gáp, rồi giọng thiếu nữ hồi nãy nói:

- Phu nhân xin mời.

Cô gái bước ra, trông chừng mười sáu mười bảy, ăn mặc theo lối a hoàn nói:

- Tôn khách ... công tử xin đi theo tôi.

Đoàn Dự hỏi:

- Chẳng hay tỉ tỉ tên gọi thế nào?

Cô gái xua tay, ý nói không thể tiết lộ. Đoàn Dự thấy cô gái có vẻ sợ hãi nên không dám hỏi thêm nữa. Người tớ gái đó dẫn Đoàn Dự đi ngang qua một khu rừng cây, theo một con đường mòn đi về hướng trái đến trước một gian nhà ngói. Cô ta đẩy cửa quay sang vẫy Đoàn Dự rồi đứng tránh qua một bên nhường chàng đi trước. Đoàn Dự đi đến bên cửa thấy đó là một gian sảnh nhỏ, trên bàn có để một đôi nến lớn. Sảnh tuy nhỏ nhưng bày biện tinh nhã. Chàng ngồi xuống rồi, người a hoàn kia liền bưng trà lên nói:

- Mời công tử dùng trà, phu nhân sẽ ra gặp ngay.

Đoàn Dự nhấp hai ngụm thấy ở phía đông treo một bộ tứ bình trên vẽ mai lan cúc trúc bốn loại hoa cỏ nhưng thứ tự lại xếp thành lan, trúc, cúc, mai; bên phía tây có bốn bức tranh vẽ xuân hạ thu đông nhưng lại treo thành đông, hạ, xuân, thu nghĩ thầm: “Cha mẹ của Chung cô nương là con nhà võ, không rành thư họa, cũng không có gì lạ”.

Chỉ nghe thấy tiếng vòng leng keng, từ bên trong đi ra một người đàn bà mặc áo dài màu xanh nhạt, tuổi chừng ba mươi sáu, ba mươi bảy, mặt mày thanh tú, rất giống Chung Linh nên biết ngay đó là Chung phu nhân. Đoàn Dự đứng lên vái một cái thật sâu nói:

- Vãn sinh Đoàn Dự, bái kiến bá mẫu.

Chàng vừa nói xong, mặt liền biến sắc, bụng kêu thầm: “Chao ôi! Sao ta lại xưng tên thật của mình thế này? Ta chỉ chăm chăm xem bà ta có giống Chung Linh hay không, quên bẵng đi là mình phải dùng tên giả".

Chung phu nhân ngạc nhiên, kéo vạt áo lên đáp lễ nói:

- Công tử vạn phúc.

Rồi lập tức hỏi lại ngay:

- Cậu ... cậu họ Đoàn?

Vẻ mặt có chiều khác lạ. Đoàn Dự đã báo tính danh rồi, có muốn nói láo thì cũng đã muộn, đành nói:

- Vãn sinh họ Đoàn.

Chung phu nhân nói:

- Công tử quê quán ở đâu? Lệnh tôn xưng hô thế nào?

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hai việc này ta phải nói láo mới được để bà ta khỏi tìm ra thân thế mình”. Chàng bèn nói:

- Vãn sinh người ở phủ Lâm An, đất Giang Nam, gia phụ tên chỉ có một chữ Long.

Mặt Chung phu nhân lộ vẻ hoài nghi nói:

- Thế sao giọng nói của công tử nghe như tiếng người Đại Lý?

Đoàn Dự đáp:

- Vãn sinh đã ở Đại Lý ba năm rồi, học nói khẩu âm bản địa e rằng không được giống lắm, mong phu nhân đừng cười.

Chung phu nhân hừ một tiếng nói:

- Nghe giọng giống lắm, thật chẳng khác gì người chính gốc ở đây đủ biết công tử quả là thông minh. Mời công tử ngồi.

Hai người ngồi xuống rồi, Chung phu nhân nhìn trái nhìn phải chăm chăm đánh giá chàng khiến cho Đoàn Dự đâm ra ngượng nghịu nói:

- Vãn sinh trên đường đi gặp hung hiểm khiến cho áo quần rách rưới, quả thực thất lễ. Lệnh ái đang gặp hiểm nguy vãn sinh vội đến báo tin, việc quá gấp gáp không kịp thay đổi y quan xin phu nhân thứ tội.

Chung phu nhân thần sắc đang hoảng hốt nghe thấy thế như từ một giấc mơ choàng tỉnh dậy, lật đật hỏi:

- Tiểu nữ ra sao?

Đoàn Dự lấy trong túi ra đôi giày hoa của Chung Linh nói:

- Chung cô nương đưa cho vãn sinh vật này để làm tin đến bái kiến phu nhân trước.

Chung phu nhân cầm lấy đôi giày nói:

- Đa tạ công tử, không biết tiểu nữ gặp phải chuyện gì?

Đoàn Dự bèn đem chuyện chàng gặp Chung Linh ở Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng như thế nào, mình xen vào việc của Thần Nông Bang ra sao để Chung Linh bị bắt buộc phải sai con thiểm điện điêu ra cắn người rồi nàng phải nhờ mình đi cầu cứu, bị rơi vào hang núi mấy ngày qua nhưng không nhắc đến pho tượng ngọc trong động đá.

Chung phu nhân lặng lẽ ngồi nghe, vẻ mặt mỗi lúc một thêm lo lắng, đợi Đoàn Dự nói xong mới chậm rãi thở dài một tiếng nói:

- Cái con bé cứ ra khỏi nhà là gây chuyện.

Đoàn Dự nói:

- Chuyện này toàn do vãn sinh mà ra, không thể trách Chung cô nương được.

Chung phu nhân chăm chăm nhìn chàng, khẽ nói:

- Đúng thế, cũng chẳng nên trách nó làm gì, năm xưa ... năm xưa ta cũng thế ...

Đoàn Dự hỏi:

- Cái gì?

Chung phu nhân đôi má ửng hồng, bà ta tuy tuổi đã trung niên nhưng nét e thẹn cũng không khác gì một cô gái nhỏ, bẽn lẽn nói:

- Ta ... ta nhớ đến một chuyện cũ.

Bà nói tới đây, mặt càng đỏ hơn vội nói trớ ra:

- Ta ... ta nghĩ chuyện này .... xem ra ... thật khó lòng.

Đoàn Dự thấy bà ấp úng nghĩ thầm: “Thì chuyện này quả khó lòng, nhưng có gì đâu mà sao bà ta lại thẹn thùng đến thế. Con gái bà xem ra còn già dặn hơn nhiều”.

Ngay lúc đó, từ bên ngoài cửa có tiếng một người đàn ông ồm ồm nói:

- Hay nhỉ, Tiến Hỉ Nhi lại bị người ta giết là sao?

Chung phu nhân giật mình kinh hãi, nói nhỏ:

- Ngoại tử đến rồi, ông ta ... ông ta đa nghi lắm, Đoàn công tử tạm tránh qua một bên.

Đoàn Dự nói:

- Vãn sinh thể nào cũng phải bái kiến tiền bối, chi bằng ...

Chung phu nhân giơ tay ra bịt miệng chàng lại, tay kia cầm chàng kéo qua căn phòng phía đông, nói:

- Cậu trốn ở đây, tuyệt đối không được mở miệng nói năng. Ngoại tử tính nóng như lửa, có gì sơ xẩy tính mạng cậu e khó mà bảo toàn, dẫu ta cứu cũng không được.

Bà ta tuy hình dung mảnh dẻ nhưng một thân đầy võ công, vừa nắm vừa lôi, Đoàn Dự không sao kháng cự được, chỉ đành chịu một phép, trong bụng hơi bực bội: “Ta đường xa tới đây báo tin, dẫu sao cũng là một người khách, lấp lấp ló ló trốn nơi đây, có khác gì thằng ăn trộm vặt?”.

Chung phu nhân quay sang nhìn chàng mỉm cười vẻ thật ôn nhu. Đoàn Dự thấy nụ cười đó liền hết giận, gật đầu. Chung phu nhân quay mình đi ra khép cửa phòng trở lại khách sảnh.

Chỉ nghe thấy tiếng bước chân hai người đi vào trong phòng, một giọng đàn ông cất tiếng chào:

- Phu nhân!

Đoàn Dự nhìn qua khe tường thấy một người chừng ba mươi tuổi ăn mặc theo lối gia nhân, vẻ mặt kinh hoàng. Một người đàn ông khác mặc áo đen, vừa cao vừa gầy, mặt quay ra ngoài nên chàng không nhìn rõ tướng mạo chỉ thấy hai bàn tay to như hai cái quạt nan xuôi theo mình, trên lưng bàn tay nổi đầy gân xanh, nghĩ thầm: “Bàn tay cha Chung cô nương to thật”.

Chung phu nhân hỏi:

- Tiến Hỉ Nhi chết rồi ư? Có chuyện gì thế?

Người kia đáp:

- Lão gia sai Tiến Hỉ Nhi và tiểu nhân đến Bắc Trang đón khách. Lão gia nói là tất cả có bốn người, hôm nay lúc trưa mới có một vị, nói là họ Nhạc. Lão gia từng dặn nếu gặp họ Nhạc thì chào là “tam lão gia”. Tiến Hỉ Nhi tiến lên cung kính gọi “tam lão gia”. Ngờ đâu người đó bỗng nổi cơn lôi đình, quát lớn: “Ta là Nhạc lão nhị, cớ gì lại gọi ta là tam lão gia? Ngươi coi thường ta phải không?” Nghe bộp một cái đã đánh cho Tiến Hỉ Nhi sứt đầu chảy máu, lăn ra ngay.

Chung phu nhân nhíu mày:

- Trên đời này sao lại có kẻ ngang ngược đến thế! Nhạc lão tam trở thành Nhạc lão nhị từ bao giờ?

Chung cốc chủ nói:

- Nhạc lão tam xưa nay tính tình nóng nảy, lại điên điên rồ rồ.

Nói xong y bèn quay mình lại. Đoàn Dự từ bên kia bức vách nhìn ra không khỏi giật mình kinh hãi, thấy y mặt dài như mặt ngựa, mắt ở thật cao, cái mũi tròn xoay thì lại như dính liền với miệng, thành thử từ mắt xuống mũi có một khoảng trống bèn bẹt chẳng đâu vào đâu. Chung Linh dung mạo xinh đẹp như thế, ngờ đâu phụ thân lại cực kỳ khó coi, cũng may nàng chỉ giống mẹ không có chút nào giống cha.

Chung cốc chủ vốn dĩ mặt mày đăm đăm nhưng vừa mới gặp nương tử, lập tức chuyển sang nhu hòa, khuôn mặt xấu xa cũng có vài phần dễ chịu, nói:

- Nhạc lão tam tính tình ngang ngược, ta cũng sợ y kinh động đến phu nhân, nên không để cho y vào trong cốc. Chuyện nhỏ nhặt kia nàng đừng để tâm làm gì.

Đoàn Dự hơi cảm thấy khác lạ: “Khi nãy phu nhân nghe thấy chồng đến bỗng sợ đến tái người nhưng xem điệu bộ Chung cốc chủ thì y vừa yêu thương, vừa kính trọng”.

Chung phu nhân nói:

- Sao lại là chuyện nhỏ nhặt được? Tiến Hỉ Nhi trung thành chăm chỉ hầu hạ mình bao nhiêu năm nay, nay bị gã trư bằng cẩu hữu kia giết chết, trong lòng ta thật đau đớn xiết bao.

Chung cốc chủ cười gượng:

- Đúng, đúng lắm! Nàng thương xót kẻ ăn người làm, quả là tốt bụng.

Chung phu nhân hỏi gã gia nhân:

- Lai Phúc Nhi, rồi sau ra sao?

Lai Phúc Nhi đáp:

- Tiến Hỉ Nhi bị y đánh ngã xuống vốn đâu đã chết. Tiểu nhân vội vàng chào “Nhị lão gia, nhị lão gia, xin lão nhân gia đừng nóng nảy”. Y liền cười hề hề rất là cao hứng. Tiểu nhân bèn đỡ Tiến Hỉ Nhi dậy, rồi dọn một mâm rượu cho gã họ Nhạc kia ăn.

Y hỏi: “Chung ... Chung ... sao không ra tiếp ta?”. Tiểu nhân trả lời: “Lão gia chúng tôi chưa biết nhị lão gia đại giá quang lâm, nếu không thì đã ra nghinh tiếp rồi. Để tiểu nhân quay vào bẩm báo”.

Người đó gật đầu, thấy Tiến Hỉ Nhi khép na khép nép đứng bên cạnh hầu hạ, liền hỏi: “Hồi nãy ta đánh ngươi một chưởng, trong bụng ngươi thể nào cũng rủa thầm ta, có đúng không nào?”. Tiến Hỉ Nhi vội đáp: “Không, không, tiểu nhân đâu dám thế! Vạn lần không dám!”.

Người đó nói: “Ngươi trong bụng nhất định bảo ta là một đại ác nhân, ác không ai ác hơn, hà hà!”. Tiến Hỉ Nhi nói: “Không, không! Nhị lão gia là một người rất tốt, không ác một tí nào”. Người kia dựng ngược lông mày quát: “Ngươi bảo ta không ác chút nào ư?”.

Tiến Hỉ Nhi sợ đến toàn thân run rẩy, nói: “Ngài ... nhị lão gia ... không ác tí nào, chẳng ... hoàn toàn chẳng ác”. Người kia gầm lên một tiếng, đột nhiên giơ tay ra vặn cổ Tiến Hỉ Nhi ...”.

Y giọng vẫn còn run rẩy hiển nhiên chưa lại hồn. Chung phu nhân thở dài một tiếng, vẫy tay nói:

- Ngươi đã sợ hãi lắm rồi, thôi xuống nhà nghỉ ngơi đi.

Lai Phúc Nhi đáp lời:

- Vâng, để tiểu nhân ra xem Nhạc lão tam xem có gây thêm chuyện gì không.

Chung phu nhân nói:

- Ta khuyên ngươi nên gọi hắn là Nhạc lão nhị cho xong.

Chung cốc chủ nói:

- Hừ, tuy Nhạc lão tam hung ác thật nhưng ta lại không sợ, nghĩ tình y vạn dặm xa xôi đến đây giúp một tay, cũng là nể mặt ta lắm, việc giết Tiến Hỉ Nhi thôi cũng đừng tra hỏi làm gì.

Chung phu nhân lắc đầu:

- Hai người chúng ta ăn yên ở lành nơi đây, trong mười năm qua, ta chưa hề đặt chân ra khỏi cốc, phu quân cũng chưa vừa ý hay sao? Việc gì còn tính chuyện đi mời “Tứ Đại Ác Nhân” đến để một phen long trời lở đất? Bình thời ... chàng nói với ta những lời ngon ngọt thật dễ nghe, thực ra a! chàng có coi ta ra gì đâu.

Chung cốc chủ vội nói:

- Ta ... ta có làm gì mà bảo không coi nàng vào đâu? Ta mời bốn người đó tới đây chẳng phải vì nàng hay sao!

Chung phu nhân hừ một tiếng nói:

- Vì tôi ư? Thế thì cảm ơn ông. Nếu quả thực vì tôi thì hãy ra bảo Tứ Đại Ác Nhân đi về đi.

Đoàn Dự ở bên kia vách nghe thế bụng lấy làm lạ lùng: “Gã Nhạc lão tam kia chẳng duyên cớ gì ra tay giết người, thật ác không đâu bằng, không lẽ trên đời này còn có ba người cũng hung ác như y hay sao?”.

Chỉ thấy Chung cốc chủ hầm hầm giận dữ đi qua đi lại trong phòng khách, thở hổn hển nói:

- Gã họ Đoàn kia làm nhục ta quá lắm, thù này không báo, Chung Vạn Cừu này còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất nữa?

Đoàn Dự nghĩ bụng: “Thì ra tên ngươi là Chung Vạn Cừu. Cái tên đó xem ra không ổn. Người đời thường nói “Oan gia nên cởi không nên buộc”, nhớ một mối thù cũng đã không hay, huống chi lại Vạn Cừu? Thảo nào mặt ngươi mới dài thoòng như thế. Cứ như hình dung nhà ngươi, lấy được một người vợ như hoa như ngọc thì quả là một đại hạnh trên đời, phải đổi tên thành Chung Vạn Hạnh mới phải”.

Chung phu nhân nhướng mày lên, lạnh lùng đáp:

- Thực ra ông trong lòng hận tôi chứ đâu phải là hận người khác. Nếu quả như ông muốn gây chuyện với người ta, sao không tự mình đến kiếm y, một quyền một cưới so cao thấp? Nhờ người đến giúp, dẫu có thắng thì cũng đâu có vinh dự gì.

Gân xanh trên trán Chung Vạn Cừu cuồn cuộn nổi lên quát lớn:

- Người ta binh tôm tướng cá đông như thế, bà không biết hay sao? Ta muốn một chọi một y không chịu gặp, còn làm thế nào được bây giờ.

Chung phu nhân cúi đầu không nói, nước mắt tuôn tràn rơi xuống vạt áo. Chung Vạn Cừu vội nói:

- Ta xin lỗi, ta xin lỗi. A Bảo, A Bảo, xin nàng đừng giận, ta đúng ra không nên to tiếng với nàng như thế.

Chung phu nhân vẫn không nói gì, nước mắt càng thêm đầm đìa. Chung Vạn Cừu vò đầu bứt tai, thật là quýnh quáng, chỉ biết luôn miệng:

- A Bảo, nàng đừng giận, ta nhất thời không tự chế được, thật đáng chết.

Chung phu nhân nói nhỏ:

- Thì ra trong lòng ông chẳng bao giờ quên được chuyện cũ, tôi có sống cũng thật là vô vị. Chi bằng ông một chưởng đánh chết tôi đi, thế là kết thúc mọi chuyện, để trong bụng ông khỏi ấm ức. Sau đó ông ra ngoài kiếm một bà nào xinh đẹp làm vợ là xong.

Chung Vạn Cừu giơ bàn tay lên, vả luôn vào mặt mình hai cái, bốp bốp nói:

- Ta đáng chết! Ta đáng chết!

Đoàn Dự thấy bàn tay to như cái quạt của y đánh vào bộ mặt dài như ngựa, trông thật hoạt kê, nhịn không nổi phải cười hộc lên một tiếng. Tiếng cười vừa ra chàng biết ngay lần này mình gây họa còn lớn gấp mấy, chỉ mong Chung Vạn Cừu không nghe thấy nào ngờ đã nghe y quát tháo:

- Đứa nào đó?

Tiếp theo nghe bình một tiếng cửa phòng đã bị đá tung ra, ai đó đã bước vào. Đoàn Dự chỉ thấy bị nắm cổ lôi ra, giáng một cái mạnh trên sàn nhà, mắt tối sầm, bao nhiêu xương cốt tưởng như gãy hết.

Chung Vạn Cừu lại nắm cổ áo chàng kéo lên, quát hỏi:

- Ngươi là ai? Sao trốn ở trong phòng phu nhân làm gì?

Y thấy chàng dung mạo thanh tú, trong lòng nổi cơn nghi ngờ, quay sang hỏi Chung phu nhân:

- A Bảo, nàng ... nàng ... lại ... lại ...

Chung phu nhân giận dỗi nói:

- Cái gì mà lại với chẳng lại? Lại cái gì? Mau bỏ y ra, y tới báo tin cho mình đó.

Chung Vạn Cừu hỏi:

- Báo tin gì?

Y nhắc Đoàn Dự lên khỏi mặt đất, quát lớn:

- Thằng thối tha này, ta xem ngươi mặt trơ trán bóng, quyết không tốt lành gì. Ngươi lấp la lấp ló trốn trong phòng phu nhân là sao? Khai mau, khai mau! Ngươi chỉ nói láo nửa câu, ta sẽ đánh cho cái sọ ngươi nát như tương.

Y một quyền đấm xuống, nghe lách lách lách cách, chiếc bàn bằng gỗ lê đã vạt đi một nửa. Đoàn Dự bị quật một cái vốn đã đau, lại bị y nhấc bổng lên không sao vùng vẫy được, nghe giọng y xem chừng nghi mình có chuyện thậm thụt gì với vợ y, trong lòng không còn sợ mà hóa giận, lớn tiếng đáp:

- Ta họ Đoàn, ngươi muốn giết thì mau mau ra tay. Không biết gì thì đừng có nói bậy nói bạ.

Chung Vạn Cừu giơ tay lên, hầm hầm nói:

- Tên tiểu tử này cũng lại họ Đoàn ư? Lại cũng họ Đoàn nữa, lại ... lại cũng họ Đoàn nữa.

Nói đến câu sau, giọng phẫn nộ của y biến thành thê thảm, đôi mắt tròn xoe ứa nước mắt ra. Đoàn Dự bỗng nổi lòng thương xót đại hán này, dường như y biết tài mạo mình không xứng với vợ cho nên chuyện gì cũng dễ ghen tuông, thực ra y đáng thương biết bao. Chàng quên rằng mạng mình đang ở trong tay người, cất tiếng an ủi:

- Tôi họ Đoàn, trước đây chưa từng gặp mặt phu nhân, cốc chủ chớ có nghi ngờ cho khổ vào thân.

Chung Vạn Cừu mặt lộ vẻ vui mừng, nghẹn ngào nói:

- Thật thế sao? Ngươi trước nay chưa hề ... chưa hề gặp A Bảo ư?

Đoàn Dự nói:

- Tôi đến đây chỉ chưa đầy nửa giờ.

Chung Vạn Cừu ngoác mồm cười hề hề mấy tiếng nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! A Bảo mười năm nay chưa ra khỏi cốc, mười năm trước ngươi chỉ mới chín mười tuổi, không thể nào ... không thể nào ... không thể nào...

Thế nhưng y vẫn xách Đoàn Dự lên chưa thả xuống. Chung phu nhân mặt đỏ lên, nói:

- Mau thả Đoàn công tử ra!

Chung Vạn Cừu vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Y nhẹ nhàng để Đoàn Dự xuống, đột nhiên mặt lại lộ vẻ ngờ vực, hỏi:

- Đoàn công tử? Đoàn công tử? Thế ... thế cha ngươi là ai?

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta còn nói láo chẳng hóa ra mình quả có tà ý hay sao?”. Chàng ngang nhiên đáp:

- Hồi nãy tôi không nói thật với Chung phu nhân, thực ra chẳng có gì phải dấu diếm. Tôi tên Đoàn Dự, tự Hòa Dự, chính người Đại Lý. Cha tôi tên trên Chính dưới Thuần.

Chung Vạn Cừu thoạt đầu chưa nghĩ ra trên Chính dưới Thuần là gì, Chung phu nhân đã run run hỏi lại:

- Cha ngươi là ... là Đoàn ... Đoàn Chính Thuần ư?

Đoàn Dự gật đầu:

- Đúng thế!

Chung Vạn Cừu gào lên:

- Đoàn Chính Thuần!

Ba tiếng đó y hét lên long trời lở đất, đột nhiên mặt đỏ bừng, toàn thân run lên bần bật:

- Ngươi là ... ngươi là con thằng cẩu tặc Đoàn Chính Thuần đấy sao?

Đoàn Dự giận quá, quát lại:

- Sao ngươi dám lớn mật chửi mắng cha ta?

Chung Vạn Cừu bực bội nói:

- Có gì mà không dám? Đoàn Chính Thuần, ngươi là tên cẩu tặc, là đồ khốn nạn.

Đoàn Dự bấy giờ mới rõ, y viết ở ngoài cửa cốc: Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” chính là vì y cực kỳ căm hận cha mình, nên mới giận lây ra tất cả những người họ Đoàn khác nên thản nhiên đáp:

- Chung cốc chủ, nếu ông có thù với cha tôi thì nên quang minh chính đại kết thúc mối hận này. Ông có giỏi thì tới gặp tận mặt cha tôi mà chửi, còn chửi sau lưng thì đâu có gì là anh hùng hảo hán? Cha tôi ở trong thành Đại Lý, ông muốn kiếm thật dễ như trở bàn tay, việc gì mà phải để một tấm biển trước cửa nhà: Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha” làm gì?

Chung Vạn Cừu mặt lúc xanh, lúc đỏ xem ra những gì Đoàn Dự nói ra câu nào cũng trúng vào tim đen. Đôi mắt y trợn ngược lộ hung quang, xem chừng định ra tay giết người, đứng sừng sững một hồi, đột nhiên đấm bình bình hai cái, đánh vỡ tan hai chiếc ghế ngồi, giơ chân đá ra, trên vách liền vỡ một mảng lớn, kêu lên:

- Ta không sợ không đánh lại cha ngươi, ta ... ta chỉ sợ ... chỉ sợ cha ngươi biết được ... biết được A Bảo đang ở đây thôi ...

Nói tới mấy câu đó thanh âm đã lẫn tiếng nức nở, hai tay ôm mặt, kêu lên:

- Ta là đứa nhát gan! Ta là đứa nhát gan!

Y cắm đầu cắm cổ chạy ra, chỉ nghe bình bành, loảng xoảng liên tiếp không ngừng, hẳn là trên đường đụng phải các thứ kệ, bồn hoa, ghế đá. Đoàn Dự ngạc nhiên hồi lâu nghĩ thầm: “Cha ta biết được phu nhân của ngươi ở đây thì đã sao? Không lẽ đến đây giết bà ta chăng?”. Nghĩ lại lời mình nói ra quả có nặng nề, khơi dậy mối đau lòng của Chung Vạn Cừu nên chàng cảm thấy ăn năn, quay đầu lại thấy Chung phu nhân đang chăm chăm nhìn mình.

Hai người ánh mắt chạm nhau, Chung phu nhân lập tức quay đi chỗ khác, trên khuôn mặt xanh xao kia ẩn ẩn hiện lên sắc hồng, một hồi sau, hạ giọng hỏi:

- Đoàn công tử, lệnh tôn mấy năm nay có được khỏe không? Mọi việc vẫn trôi chảy chứ?

Đoàn Dự thấy bà ta hỏi thăm cha mình, vội vàng đứng lên, cung kính đáp:

- Gia nghiêm lúc này vẫn khỏe, mọi việc đều bình thường.

Chung phu nhân nói:

- Thế thì hay lắm. Ta ... ta cũng ...

Đoàn Dự thấy hàng lông mi dài của bà rưng rưng mấy giọt nước mắt, nói chưa dứt lời đã quay đi, giơ tay chùi lệ, trong lòng không khỏi thương cảm, an ủi bà ta:

- Chung cốc chủ tuy tính tình nóng nảy, đối với bá mẫu kính yêu biết mấy. Hai vị hôn nhân mỹ mãn, nếu có đôi khi lỡ lời thất hòa, bá mẫu cũng đừng phải đau lòng.

Chung phu nhân quay đầu lại, miệng mỉm cười nói:

- Cậu mới bấy nhiêu tuổi đầu, biết thế nào là nhân duyên mỹ mãn hay không mỹ mãn.

Đoàn Dự thấy nụ cười của bà xem ra có chiều ngây thơ, trong lòng chợt động, lập tức nghĩ đến Chung Linh, mắt liền quay qua nhìn đôi giày hoa của nàng trên ghế, nghĩ thầm: “Chung cô nương bị gã râu dê kia bắt giữ, một giờ một khắc cũng đau đớn biết bao, phải mau mau cứu nàng ra mới được”. Chàng bèn nói:

- Vãn sinh mới rồi ngôn ngữ vô lễ, xin bá mẫu chuyển lời tạ tội đến cốc chủ, xin cốc chủ sớm lên đường đi cứu lệnh ái.

Chung phu nhân đáp:

- Ngoại tử hiện đang bận tiếp những bằng hữu từ xa tới đây, thật khó có thể phân thân được. Công tử đã nghe qua rồi, những người khách đó tính tình cổ quái, ra tay không nói năng gì đã giết người, nếu như đối đãi với họ lễ số không chu toàn, không khỏi hậu hoạn vô cùng. Ôi! Sự đã đến nước này, ta đi theo công tử vậy.

Đoàn Dự mừng rỡ nói:

- Bá mẫu đích thân ra đi, thật tốt biết mấy.

Chàng nhớ lại lời của Chung Linh nên hỏi thêm:

- Bá mẫu có trị được chất độc của thiểm điện điêu chăng?

Chung phu nhân lắc đầu nói:

- Ta không trị được.

Đoàn Dự phân vân nói:

- Thế thì ... e rằng ...

Chung phu nhân quay vào phòng ngủ, lật đật viết một lá thư, vừa xong liền lấy trên tường xuống một thanh trường kiếm đeo vào lưng, quay trở lại sảnh đường nói:

- Thôi mình đi.

Bà ta xoay mình đi trước. Đoàn Dự thuận tay nhặt luôn đôi giày của Chung Linh bỏ vào túi. Chung phu nhân lặng lẽ lắc đầu, định nói gì, nhưng lại thôi.

Hai người ra khỏi cái hang sau thân cây, Chung phu nhân liền gia tăng cước bộ, nếu chỉ thấy thân hình mảnh dẻ của bà ta không ai dám bảo rằng bà ta chạy nhanh hơn Đoàn Dự nhiều. Đoàn Dự vẫn không yên tâm, nói:

- Bá mẫu nếu không biết trị chất độc của con chồn, e rằng Thần Nông Bang không chịu thả lệnh ái ra đâu.

Chung phu nhân thản nhiên nói:

- Ai cần chúng phải thả người? Thần Nông Bang dám bắt giữ con gái ta để uy hiếp chẳng phải không muốn sống hay sao? Ta không cứu người được, chẳng lẽ cũng không biết giết người?

Đoàn Dự không khỏi nổi da gà, nghe bà ta nói thản nhiên như không, tưởng như chỉ giết loài cây loài cỏ thật nào có kém gì gã Nhạc lão tam hung thần ác sát kia. Chung phu nhân hỏi lại:

- Cha cậu có tất cả bao nhiêu thị thiếp?

Đoàn Dự đáp:

- Chẳng có ai cả, một người cũng không. Mẹ cháu không chịu.

Chung phu nhân hỏi thêm:

- Cha cậu sợ mẹ cậu lắm sao?

Đoàn Dự cười nói:

- Cũng chẳng phải sợ, có lẽ là vì yêu mà đâm ra kính, cũng như cốc chủ đối với bá mẫu vậy thôi.

Chung phu nhân nói:

- Ồ, thế cha cậu hàng ngày có luyện võ không? Bao nhiêu năm nay, công lực chắc tiến triển rất nhiều rồi?

Đoàn Dự đáp:

- Cha cháu mỗi ngày đều luyện công nhưng công lực đến đâu thật cháu không biết tí gì.

Chung phu nhân nói:

- Nếu công phu ông ta không kém sút, ta ... ta cũng yên lòng. Sao cậu không biết chút võ công nào là sao?

Hai người vừa đi vừa nói chuyện đã đi hơn một dặm, Đoàn Dự đang định trả lời bỗng nghe đằng sau có tiếng người gầm gừ gọi tới:

- A Bảo, nàng ... nàng đi đâu đó?

Đoàn Dự quay đầu lại chỉ thấy Chung Vạn Cừu từ sau gốc cây đang đuổi tới như bay. Chung phu nhân giơ tay đỡ vào nách Đoàn Dự, quát lớn:

- Chạy cho nhanh.

Bà ta nhấc chàng lên lao vụt về phía trước. Đoàn Dự hai chân rời khỏi mặt đất, bị Chung phu nhân lôi đi không sao cưỡng lại được. Hai người chạy trước, một người đuổi theo ba người chỉ giây lát đã chạy được mấy chục trượng. Chung phu nhân khinh công tuy không kém trượng phu nhưng vì phải đỡ thêm một người thành thử Chung Vạn Cừu dần dần đuổi kịp. Lại chạy thêm vài chục trượng nữa, Đoàn Dự xem chừng hơi thở gấp rút của Chung Vạn Cừu đã ở ngay sau lưng. Đột nhiên soẹt một tiếng, chàng thấy lưng lạnh toát, áo đã bị Chung Vạn Cừu xé toạc một mảng.

Chung phu nhân tay trái vận kình ném Đoàn Dự ra xa hơn trượng, quát lên:

- Chạy mau!

Tay phải rút phắt trường kiếm đâm ngược về sau. Cứ như võ công của Chung Vạn Cừu, nhát kiếm đó không thể nào trúng y được, huống chi Chung phu nhân hoàn toàn không có ý đả thương trượng phu, chỉ cốt ngăn y khỏi đuổi tới. Ngờ đâu bà ta đâm ra, thấy mũi kiếm chạm phải vật gì ngăn lại đã đâm trúng ngay ngực chồng.

Thì ra Chung Vạn Cừu không né tránh cũng không đỡ gạt, lại ưỡn ngực tới để nhận nhát kiếm. Chung phu nhân giật mình kinh hãi, quay đầu lại, thấy chồng sắc mặt thê thảm, nước mắt rưng rưng, trên ngực trúng kiếm máu chảy túa ra, giọng run run nói:

- A Bảo, nàng ... rồi cũng bỏ ta mà đi sao?

Chung phu nhân thấy nhát kiếm đó ngay chính giữa ngực, tuy không trúng tim, nhưng mũi kiếm đâm vào mấy tấc, sống chết không biết ra sao, trong cơn khẩn cấp vội vàng rút kiếm ra, nhào tới giơ tay chặn vết thương lại, chỉ thấy máu chảy như suối, theo kẽ ngón tay mà cuồn cuộn ra ngoài.

Chung phu nhân giận dữ nói:

- Tôi nào có định giết ông, sao không tránh né?

Chung Vạn Cừu gượng cười đáp:

- Nàng ... nàng ... muốn bỏ ta mà đi, ta ... ta chết cho xong.

Nói xong liên tiếp ho sù sụ. Chung phu nhân nói:

- Ai bảo tôi bỏ ông mà đi? Tôi ra ngoài đi cứu con gái chúng mình, vài ngày sẽ quay lại, trên giấy đã viết rõ như thế đấy thôi?

Chung cốc chủ nói:

- Tôi có thấy tờ giấy nào đâu.

Chung phu nhân nói:

- Ôi, sao ông đểnh đoảng thế.

Bà ta vội vàng nói sơ qua việc Chung Linh bị Thần Nông Bang bắt giữ. Đoàn Dự thấy tình cảnh đó, sợ đến mất vía, cố gắng định thần, xé áo ra, lật đật đến băng bó cho Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu bỗng nhiên giơ chân đá phốc một cái khiến chàng lăn chòng chọc, quát lớn:

- Thằng chó đẻ, tao không muốn thấy cái mặt mày.

Y quay lại nói với Chung phu nhân:

- Bà lừa tôi, tôi không tin. Rõ ràng là nó ... nó đến gọi bà đi. Thằng khốn kiếp này là con nó ... Nó lại còn mở miệng chửi tôi ...

Nói xong y lại ho khúc khắc, mỗi lần ho máu trên ngực lại tuôn ra xối xả. Y quay sang Đoàn Dự:

- Giỏi thì lên đây. Ta bị thương nhưng cũng không sợ Nhất Dương Chỉ của ngươi đâu! Cứ tiến lên động thủ.

Đoàn Dự bị ngã đập vào một hòn đá, lồm cồm đứng lên, một bên mặt đầy máu nói:

- Tôi không biết sử dụng Nhất Dương Chỉ mà dẫu có biết, tôi cũng không đánh nhau với ông.

Chung Vạn Cừu lại ho thêm mấy tiếng, giận dữ nói:

- Thằng chó đẻ, ngươi còn giả vờ nữa sao? Ngươi ... ngươi đi gọi thằng bố mày tới đây.

Y nổi giận càng ho như xé phổi. Chung phu nhân nói:

- Cái bệnh ghen của ông sao không sao đổi được. Nếu ông không tin được y, thôi để tôi chết trước mặt ông cho xong.

Chung Vạn Cừu nghe nói thế vẻ mặt liền vui mừng, run run hỏi:

- A Bảo, có thật nàng không đi theo tên tiểu tạp chủng này chứ?

Chung phu nhân giận dữ nói:

- Người ta rõ ràng là một công tử họ Đoàn, cái gì mà tiểu tạp chủng, lão tạp chủng là sao? Tôi đi theo Đoàn công tử là để giết sạch Thần Nông Bang, cứu đứa con gái cưng của mình về.

Chung Vạn Cừu thấy vợ không tính chuyện bỏ mình, trong lòng vui mừng không sao kể xiết, nhìn nàng hờn dỗi lại càng thương hơn, vội cười:

- Nếu đã thế thì ta quả không ra gì. Chẳng qua ... chẳng qua, sao ta đuổi theo nàng lại không đứng lại nói cho ba mặt một nhời.

Chung phu nhân mặt hơi đỏ lên nói:

- Tôi không muốn ông gặp lại Đoàn công tử.

Chung Vạn Cừu đột nhiên lại nổi nghi ngờ, hỏi dồn:

- Thằng tiểu ... à Đoàn công tử, không phải là con bà đấy chứ?

Chung phu nhân vừa thẹn vừa giận, hứ một cái nói:

- Ông nói lăng nói nhăng gì đó? Lúc thì nghi y là tình lang của tôi, lúc lại nghi y là con tôi. Nói thực cho ông hay, y là cha tôi, là bố vợ ông đó.

Chung Vạn Cừu ngơ ngẩn nhưng hiểu ngay ra là vợ mình nói đùa, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Y cười khiến cho máu ở vết thương lại túa ra, Chung phu nhân sụt sùi nói:

- Làm ... làm sao bây giờ đây?

Chung Vạn Cừu vui sướng, đưa tay ra ôm lưng vợ nói:

- A Bảo, nàng quan tâm đến ta như thế, dẫu có chết ngay ta cũng cam lòng.

Chung phu nhân hai má đỏ hồng, nhẹ nhàng đẩy y ra nói:

- Có Đoàn công tử ở đây, ông đừng có điên điên rồ rồ như thế.

Chung Vạn Cừu vẫn cười hà hà, cực kỳ hoan hỉ, cười mấy tiếng lại ho mấy tiếng. Chung phu nhân thấy trượng phu thần tình ủ rũ, sắc mặt nhợt nhạt nên thật lo lắng nói:

- Thôi tôi không đi cứu Chung Linh nữa, tự nó gây chuyện, thôi đành phó thác cho trời.

Bà ta đỡ chồng lên, quay sang nói với Đoàn Dự:

- Đoàn công tử, cậu đi nói với Tư Không Huyền chồng ta là kẻ năm xưa tung hoành giang hồ Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu, còn ta là Cam Bảo Bảo, có cái ngoại hiệu chẳng dễ nghe chút nào là Tiếu Dược Xoa, nếu y dám động đến một sợi tóc Chung Linh thì đừng trách vợ chồng ta ra tay độc ác vô tình.

Bà ta nói câu nào Chung Vạn Cừu cũng gật gù:

- Đúng thế, không sai.

Đoàn Dự thấy tình hình như thế biết rằng Chung Vạn Cừu không thể nào đi được mà cả Chung phu nhân cũng chẳng thể bỏ mặc trượng phu để cứu con, chỉ với hai cái tên Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu và Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo liệu có đủ làm cho Tư Không Huyền khiếp sợ hay không, quả không sao biết được. Xem ra chất độc đoạn trường tán trong bụng mình thật không có cách gì giải cứu. Chàng nghĩ thầm: “Sự tình đã đến nước này, có nói nhiều cũng vô ích”. Chàng bèn nói:

- Vâng, vậy để vãn sinh đi chuyển lại những lời đó.

Chung phu nhân thấy chàng nói là làm, lập tức bỏ đi, hành sự quả thật tiêu sái không chấp trước khiến bà nhớ đến người xưa kêu lên:

- Đoàn công tử, ta còn một câu nữa.

Bà nhẹ nhàng bỏ Chung Vạn Cừu xuống, chạy đến bên cạnh Đoàn Dự, lấy trong túi ra một vật nhét vào tay chàng nói nhỏ:

- Cậu đem vật này về giao lại cho cha cậu, nhờ ông ta ra tay cứu con chúng ta.

Đoàn Dự đáp:

- Nếu như cha cháu chịu ra tay, thể nào cũng cứu được Chung cô nương. Chỉ có điều ở đây với Đại Lý chẳng phải gần, e rằng không kịp.

Chung phu nhân nói:

- Để ta đi mượn cho cậu một con ngựa, cậu chờ nơi đây. Đừng quên nói với cha cậu rằng: “Xin ông ta ra tay cứu con chúng ta”.

Bà không đợi Đoàn Dự đáp lời, quay mình chạy lại bên trượng phu, đỡ y dậy, dìu nhau đi. Đoàn Dự mở tay ra, thấy Chung phu nhân nhét vào tay mình là một cái hộp trang sức nhỏ bằng vàng, điêu khắc rất tinh mỹ, mở ra xem thấy bên trong có một mảnh giấy, sắc đã úa vàng, hiển nhiên đã cũ lắm rồi. Mảnh giấy có lấm tấm điểm mấy giọt máu, trên viết mười chữ: “Canh Thân Niên, Nhị Nguyệt, Sơ Ngũ, Sửu Thời, Nữ” nét bút mềm mại dường như do tay đàn bà, thư pháp xem chừng vụng về lắm, ngoài ra không còn gì khác. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Đây là ngày sinh tháng đẻ của ai đây? Chung phu nhân nói ta đem về đưa cho gia gia, không hiểu có dụng ý gì? Năm Canh Thân ...” Chàng bấm đốt ngón tay tính toán thì ra là mười sáu năm trước “ ... không lẽ lại là niên canh bát tự của Chung cô nương? Hay là Chung phu nhân muốn gả con gái cho ta nên nhờ cha ta đi cứu con dâu mình?”.

Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng nghe tiếng một người đàn ông gọi:

- Đoàn công tử!

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 3(a)

MÃ TẬT HƯƠNG U

Xem dưới dạng PDF

Hương trinh thoang thoảng đâu đây,

Vó câu muôn dặm càng say càng nồng.

*

* *

Đoàn Dự quay đầu lại thấy một hán tử ăn mặc theo lối gia nhân đang hấp tấp đi tới, chính là Lai Phúc Nhi, người lúc nãy chàng nhìn thấy qua khe vách. Y đi đến gần, hành lễ nói:

- Tiểu nhân Lai Phúc Nhi, phụng mệnh phu nhân hầu công tử đi mượn ngựa.

Đoàn Dự gật đầu:

- Hay lắm, thật phiền quản gia.

Lai Phúc Nhi liền đi trước dẫn đường, qua khỏi rừng tùng rồi, chuyển qua hướng bắc, đi vào một con đường nhỏ chừng sáu bảy dặm đến trước một tòa nhà lớn. Lai Phúc Nhi tiến lên cầm vòng cửa gõ nhẹ hai tiếng, ngừng lại một chút, lại gõ thêm bốn tiếng rồi lại gõ thêm ba tiếng. Cánh cửa kêu kẹt một cái rồi mở ra. Lai Phúc Nhi đứng ngoài cùng người mở cửa nói với nhau một hồi mật ngữ. Lúc này trời đã tối, Đoàn Dự nhìn lên những vì sao sớm trên bầu trời, bỗng nhớ đến thần tiên tỉ tỉ trong sơn động.

Chỉ nghe từ bên trong cửa một tiếng ngựa hí dài, Đoàn Dự không khỏi khen thầm: “Ngựa tốt thật!”. Cửa mở toang một con ngựa thò đầu ra, đôi mắt trong bóng đêm lấp lánh, chỉ thoáng nhìn đã biết ngay là loại thần tuấn phi phàm. Lộp cộp mấy tiếng một con ngựa ô đi ra, tiếng chân thật nhẹ, thân hình thon gầy nhưng bốn vó đều dài, hùng vĩ hiên ngang. Người dắt ngựa là một tiểu tì tóc thắt bím, trong đêm tối không nhìn rõ mặt mũi, xem ra chừng mười bốn, mười lăm tuổi.

Lai Phúc Nhi nói:

- Đoàn công tử, phu nhân sợ công tử không trở về Đại Lý kịp, nên đặc biệt đến mượn tuấn mã của tiểu thư đây. Tiểu thư nơi đây là bằng hữu của Chung cô nương chúng tôi, biết được công tử đi cứu bạn mình nên mới cho mượn ngựa, thực là vẻ vang hết sức.

Đoàn Dự đã từng thấy nhiều tuấn mã, chỉ cần nghe tiếng hí của con ngựa này cũng biết là loại lương câu trong nghìn vạn con mới có một bèn nói:

- Đa tạ!

Chàng đi đến nhận lấy dây cương. Con tiểu hoàn vỗ nhẹ lên bờm con vật, dịu dàng nói:

- Hắc Mai Côi hỡi Hắc Mai Côi, cô nương cho công tử gia này mượn ngươi để cưỡi, ngươi phải ngoan ngoãn nghe lời, đi sớm về sớm nghe chưa.

Con ngựa quay đầu lại, cọ cọ vào cánh tay cô gái, thần thái thật là thân mật. Con tiểu tì đưa giây cương cho Đoàn Dự nói:

- Con ngựa này không thích roi vọt, công tử tốt với nó chừng nào, nó càng chạy nhanh chừng đó.

Đoàn Dự nói:

- Vâng!

Chàng nghĩ thầm: “Con ngựa tên Hắc Mai Côi hẳn là ngựa cái” bèn nựng nói:

- Hắc Mai Côi tiểu thư ơi, tiểu sinh xin ra mắt.

Nói xong vái con ngựa một cái. Con tiểu tì cười khúc khích nói:

- Công tử thú vị thật. Này, cưỡi ngựa đừng có ngã đấy nhé!

Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy lên lưng ngựa, quay sang nói với con tiểu tì:

- Đa tạ tiểu thư nhà các cô.

Con tiểu tì cười:

- Thế không cám ơn tôi sao?

Đoàn Dự chắp tay:

- Đa tạ tỉ tỉ, khi trở lại tôi thể nào cũng mang cho các cô thật nhiều mứt mà ăn.

Con tiểu tì nói:

- Mứt thì không dám mong chỉ mong công tử cẩn thận đừng làm con ngựa bị thương.

Lai Phúc Nhi nói:

- Cứ thẳng hướng bắc mà đi sẽ đến được đại lộ để về Đại Lý. Xin công tử bảo trọng.

Đoàn Dự giựt cương, con ngựa phóng bốn chân, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã ở xa vài mươi trượng. Con Hắc Mai Côi này không cần phải thúc giục trong đêm tối vẫn chạy như bay, Đoàn Dự chỉ thấy cây cối trên đường vùn vụt chạy lùi về sau, đưa mắt liếc ngang lạ thay lưng ngựa bình ổn lạ thường không thấy nhấp nhô chút nào. Chàng nghĩ thầm: “Con ngựa này chạy nhanh thế, chỉ xế trưa mai là mình đã đến Đại Lý rồi!”.

Chỉ chưa đầy thời gian uống một chén trà chàng đã đi được đến trên mười dặm, trong đêm gió thổi vù vù, hơi cây cỏ mát mẻ bốc vào mũi. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cưỡi ngựa đêm khuya quả là một cái thú trên đời”. Đột nhiên trước mặt có tiếng người quát lên:

- Con giặc cái, đứng lại!

Trong bóng đêm có ánh đao lấp loáng, một thanh đơn đao nhắm ngay chàng chém tới. Thế nhưng con ngựa ô chạy nhanh quá, đao chém xuống tới nơi thì con vật đã chạy khỏi cả trượng rồi. Đoàn Dự quay đầu lại nhìn thấy hai đại hán một người cầm đơn đao, một người cầm hoa thương đang hung hăng chạy tới. Hai người cất tiếng chửi:

- Con giặc cái kia, định mặc giả trai đánh lừa chúng ông đấy hử?

Chỉ nhún một cái con ngựa đã bỏ hai người một quãng xa. Hai đại hán kia tuy chạy nhanh thật nhưng chỉ chốc lát thì đến tiếng kêu la cũng không còn nghe thấy nữa. Đoàn Dự tự hỏi:

- Sao hai gã này lại chửi mình là “con giặc cái”, nói ta là gái giả trai? Chắc chúng định đi tìm chủ nhân con Hắc Mai Côi này để thanh toán, họ nhìn ra con ngựa nhưng không nhìn ra người, thật là đoảng vị.

Chàng chạy được thêm chừng một dặm nữa bỗng nghĩ ra: “Chao ôi! Không được rồi, ta nhờ có ngựa chạy nhanh nên thoát được ổ phục kích của hai gã nọ, trông những người này xem chừng võ công khá cao, nếu như tiểu thư cho mình mượn ngựa không biết chuyện này, chẳng đề phòng mà lại đi ra thể nào chẳng bị ám toán. Ta đành phải quay về báo tin vậy”. Chàng bèn gò cương ngựa lại nói:

- Hắc Mai Côi, có kẻ toan ám toán tiểu thư nhà ngươi, mình phải qua lại báo tin ngay nói cô ta cẩn thận đừng ra khỏi cửa.

Nói xong chàng quay đầu ngựa theo dúng đường cũ quay về, tới gần chỗ hai gã nọ phục kích liền giục ngựa:

- Nhanh lên! Nhanh lên!

Con Hắc Mai Côi dường như hiểu ý người, nghe thấy hai tiếng “Nhanh lên” thôi thúc liền chạy nhanh hơn thế nhưng hai gã kia không biết đã đi đâu mất rồi. Đoàn Dự càng nóng ruột: “Nếu bọn chúng đến trang viện tập kích cô gái kia rồi, chẳng phải nguy lắm sao?”. Chàng luôn miệng kêu : “Nhanh lên”, con ngựa tưởng chừng như bốn vó không còn chạm đất lao vút đi.

Vừa đến trước nhà bỗng đâu có hai cây gậy vụt ngang chân con vật, Hắc Mai Côi không đợi Đoàn Dự ra lệnh tự nhảy vọt qua, hai chân đá ngược về sau, nghe bình một tiếng, trúng một gã cầm côn văng ra ngoài.

Hắc Mai Côi vừa đến trước cửa thì trong bóng đêm ở đâu xông ra bốn năm người, giơ tay ra nắm cương ngựa. Đoàn Dự thấy tay bị giữ chặt lôi xuống dưới đất. Một gã quát lớn:

- Thằng nhỏ này, ngươi đến đây làm gì? Sao dám xông bừa vào?

Đoàn Dự kêu khổ thầm: “Thế là ôi thôi! Chung quanh nhà đã bị vây chặt rồi, không biết chủ nhân có bị độc thủ không?”. Tay phải chàng bị ai đó nắm lấy chẳng khác gì một cái kềm sắt, nửa thân trên tê đi liền nói:

- Ta đến đây kiếm chủ nhân căn nhà này, sao các ngươi lại hung hăng như thế?

Một người giọng già nua nói:

- Tiểu tử này cưỡi con ngựa ô của đứa tiện nhân, chắc là nhân tình nhân ngãi gì của nó đây, cứ thả nó vào mình làm một mẻ vét sạch, nhổ cỏ tận rễ.

Đoàn Dự trong bụng hoang mang, rối như tơ vò: “Thế thì có khác gì mình chui đầu vào rọ. Thế nhưng đến nước này, chỉ còn nước chạy vào rồi đến đâu hay đó”. Chàng thấy kẻ nắm mình lỏng tay ra, vội vàng sửa lại y phục rồi thản nhiên đi vào trong cửa.

Chàng đi qua một cái sân hai bên đường lát đá trồng đầy hoa hồng, mùi thơm ngào ngạt. Con đường vòng vèo đi qua một cái cửa hình tròn, Đoàn Dự cứ thuận đường mà đi nhưng thấy lấp ló hai bên, đây một người, kia một người chỗ nào cũng có mai phục. Bỗng thấy trên cao có tiếng ho khẽ, chàng ngẩng đầu nhìn lên, thấy trên đầu tường cũng đứng lố nhố bẩy tám người, dưới bóng đêm binh khí trong tay lấp loáng. Chàng trong bụng sợ hãi: “Trong trang viện chẳng biết có được bao nhiêu người, nhưng kẻ địch tới vây thì thật đông, chẳng lẽ họ muốn đuổi tận sát tuyệt chăng?”.

Chỉ thấy những người đó trong đêm tối gườm gườm nhìn chàng, có kẻ tay cầm cán đao ra vẻ dọa nạt. Đoàn Dự chỉ đành cố gắng trấn tĩnh, cố nở một nụ cười, thấy tận cùng con đường đá là một tòa đại sảnh, từng hàng cửa sổ dài đến tận đất rọi ánh sáng từ bên trong ra. Chàng đến gần bên cửa lớn tiếng nói:

- Tại hạ có chuyện xin được gặp chủ nhân.

Từ trong sảnh có tiếng ai đó khàn khàn quát hỏi:

- Ai đó? Vào ngay đây.

Đoàn Dự bực mình đẩy cửa vào, bước qua ngưỡng cửa đưa mắt nhìn quanh thấy trong sảnh kẻ đứng người ngồi phải đến mười bảy mười tám người. Chính giữa là một người đàn bà mặc áo đen, lưng hướng ra ngoài nên không thấy mặt. Người đó hình dáng thon thả, mái tóc đen nhánh chải theo kiểu còn con gái. Ngoài hai bà già ngồi trên ghế bành phía đông là tay không còn hơn chục người còn lại ai cũng cầm binh khí. Bên dưới hai mụ già có một người nằm lăn dưới đất, đã chết rồi nhưng máu tươi trên cổ còn chảy ròng ròng, chính là gã Lai Phúc Nhi đã đưa Đoàn Dự sang mượn ngựa.

Đoàn Dự nghĩ gã này đối với mình cung kính lễ độ, ngờ đâu phút chốc đã tử nạn, cũng vì mình mà ra nông nỗi, trong lòng thương xót không sao kể xiết.

Bà già ngồi trên tóc đã bạc trắng, dáng người bé nhỏ giọng khàn khàn quát:

- Này, thằng nhỏ kia, ngươi đến đây có chuyện gì?

Đoàn Dự từ lúc đẩy cửa vào đã định bụng: “Đằng nào thì mình cũng đã vào hang cọp, nếu thoát thân được thì tốt nhất, còn không thì bọn mặt mày hung thần ác sát thế này, có nói gì cũng chỉ phí lời”. Vào trong sảnh lại thấy Lai Phúc Nhi chết nằm đó chàng đâm ra phẫn nộ ngang nhiên trả lời:

- Lão bà bất quá sống lâu hơn vài tuổi, làm gì mà gọi người khác bằng thằng nọ thằng kia, ăn nói vô lễ thế?

Mụ già đó mặt ngắn bành bành đầy vết nhăn, lông mày trắng rủ xuống, đôi mắt nhỏ lóe hung quang, đưa mắt đánh giá Đoàn Dự là hạng người nào. Mụ già ngồi bên dưới mụ ta bèn quát:

- Thằng nhỏ thối tha kia, thật ngươi chẳng biết trời trăng gì! Thụy bà bà đích thân mở miệng hỏi quả đã coi trọng ngươi lắm rồi. Ngươi có biết vị lão bà bà này là ai không? Đúng là có mắt mà không thấy núi Thái Sơn.

Bà già đó người thật to béo, cái bụng ưỡn ra trông như người có chửa bẩy tám tháng, đầu tóc hoa râm, mặt đầy thịt, giọng nói so với đàn ông con trai thông thường còn khó nghe hơn mấy phần, hai bên hông đeo hai thanh đoản đao bản rộng, một thanh còn dính đầy máu tươi hiển nhiên Lai Phúc Nhi đã bị mụ ta giết chết.

Đoàn Dự trông thấy thanh đao nhuốm máu đó, nỗi căm tức xông lên, lớn tiếng nói:

- Nghe giọng mụ là người ở phương xa, sao đám đến Đại Lý giết người bừa bãi, có biết Đại Lý tuy là nước nhỏ thật nhưng cũng có vương pháp, Thụy bà bà lai lịch thế nào, tại hạ không hề hay biết, nhưng dẫu có là Hoàng Thái Hậu nước Đại Tống cũng không thể đến đây tùy tiện ra tay giết người được.

Mụ già mập giận dữ, đứng phắt lên hai tay vung ra, mỗi bên đã cầm một thanh đoản đao, quát lớn:

- Để ta giết ngươi xem ngươi làm gì nào? Nước Đại Lý này có đứa nào tốt lành gì đâu, đáng giết sạch cả.

Đoàn Dự ngẩng đầu cười ha hả nói:

- Ngang ngược không đâu, tức cười thật, tức cười thật!

Mụ già mập tiến lên hai bước, đao bên tay trái chém luôn vào cổ Đoàn Dự. Nghe keng một tiếng, một thanh quài trượng bằng sắt phóng ra gạt đao đi, chính là Thụy bà bà ra tay ngăn trở. Mụ nói nhỏ:

- Bình bà bà hãy hượm đã, hỏi y cho rõ ràng rồi giết cũng không muộn.

Nói xong để quài trượng dựa vào bên ghế hỏi Đoàn Dự:

- Ngươi là ai?

Đoàn Dự đáp:

- Ta là người Đại Lý. Mụ mập này nói người Đại Lý ai cũng đáng chết, vậy thì ta cũng đáng chết.

Bình bà bà bực tức nói:

- Ngươi gọi ta là Bình bà bà cũng được, cớ gì lại phải mập hay không mập?

Đoàn Dự cười:

- Mụ thử sờ bụng xem mập hay không thì biết?

Bình bà bà mắng liền:

- Con bà ngươi!

Mụ vung đao chém nhứ hai nhát cách mặt chàng chừng một thước, tiếng nghe vù vù. Đoàn Dự sợ đến lưng chảy mồ hôi lạnh, tim đập thình thịch nhưng trên mặt cố làm ra vẻ dương dương tự đắc.

Thụy bà bà nói:

- Tên tiểu tử mặt mũi bảnh bao chắc ngươi là bạn trai của tiểu tiện nhân chứ gì?

Nói xong mụ giơ tay chỉ cô gái áo đen đang quay lưng lại. Đoàn Dự đáp:

- Vị cô nương này tôi chưa hề gặp bao giờ. Thế nhưng này Thụy bà bà, tôi khuyên mụ ăn nói cho khách khí một chút, ai đời mở miệng là chửi rủa người ta, vị cô nương này đại nhân đại lượng nên không đôi co làm chi chứ nhân phẩm như mụ cũng nào có cao quí gì.

Thụy bà bà hừ một tiếng nói:

- Thằng nhãi này bây giờ lại dạy ngược lại ta. Nếu ngươi không quen biết với con tiểu tiện nhân thì đến đây làm gì?

Đoàn Dự đáp:

- Ta đến đây báo tin cho chủ nhân căn nhà này.

Thụy bà bà hỏi:

- Báo tin gì?

Đoàn Dự thở dài đáp:

- Ta chậm mất một bước rồi, báo hay không báo thì cũng thế.

Thụy bà bà hỏi dồn:

- Báo tin gì nói mau.

Giọng mụ càng lúc càng gay gắt. Đoàn Dự nói:

- Ta gặp chủ nhân nơi đây sẽ nói, nói với mụ làm gì?

Thụy bà bà cười khẩy, một hồi sau mới nói:

- Ngươi muốn gặp mới nói thì nói đi chứ chỉ chốc lát hai đứa bay gặp nhau ở dưới âm rồi.

Đoàn Dự hỏi:

- Thế chủ nhân là ai? Tại hạ muốn cảm ơn đã cho mượn ngựa.

Lời của chàng vừa thốt ra bao nhiêu cặp mắt trong sảnh đều đổ dồn vào cô gái áo đen đang ngồi trên ghế. Đoàn Dự ngạc nhiên: “Không lẽ cô nương này là chủ nơi đây? Nàng ta là một cô gái mảnh mai, sao lại bị đông đảo cường địch vây quanh thế này, thật là nguy quá”.

Chỉ nghe cô gái chậm rãi nói:

- Ta cho ngươi mượn ngựa là vì nể mặt người khác, không cần gì ngươi phải tạ ơn. Ngươi không lo đi cứu người còn quay lại đây làm gì?

Nàng tuy nói nhưng mắt vẫn hướng vào trong không quay đầu lại. Đoàn Dự đáp:

- Tại hạ cưỡi con Hắc Mai Côi trên đường bị người ta phục kích, có kẻ ngộ nhận tôi là cô nương, mở miệng ăn nói hỗn hào xem ra bất ổn, không thể không quay lại báo cho cô nương hay.

Cô gái nói:

- Thế báo tin gì?

Tiếng nàng trong trẻo dễ nghe nhưng lạnh như băng chẳng có chút gì thân thiện, nghe không thoải mái chút nào, tưởng như nàng không hề quan tâm đến thế sự, lại giống như đối với ai cũng coi như kẻ thù, chưa giết sạch được mọi người trong thiên hạ thì chưa vừa lòng.

Đoàn Dự nghe cô ta ăn nói vô lễ cảm thấy không vui, nhưng nghĩ lại nàng đang bị kẻ thù bao vây, tình hình thực là nguy hiểm, tâm tình có khác lạ âu cũng là chuyện thường, thương người lại nghĩ đến mình nên ôn tồn nói:

- Tại hạ nghĩ rằng hai gã cường đồ có ý gia hại cô nương, phần mình vì nhờ có ngựa chạy nhanh nên thoát được nguy khốn, còn cô nương chắc chưa biết kẻ thù đến tấn công, nên quay lại báo tin, để xin cô nương tạm thời trốn tránh, ngờ đâu lại chậm một bước, kẻ thù đã tới rồi, thực đáng tiếc biết bao.

Cô gái cười khẩy hỏi:

- Ngươi giả đò xun xoe tới đây lấy lòng ta là có dụng ý gì?

Đoàn Dự nổi giận bừng bừng, lớn tiếng đáp:

- Tại hạ với cô nương vốn không quen biết, thấy có người định tâm gia hại, lẽ nào ngậm miệng làm thinh? Hai chữ “lấy lòng” ở đâu mà ra đây?

Cô gái hỏi:

- Thế ngươi biết ta là ai không?

Đoàn Dự đáp:

- Không biết.

Cô gái nói:

- Ta nghe Lai Phúc Nhi nói, ngươi hoàn toàn không biết võ công, vậy mà dám tới Vạn Kiếp Cốc nói toạc tội của cốc chủ ra, quả thực to gan. Bây giờ lại vướng vào cái vòng thị phi này, ngươi định thế nào?

Đoàn Dự ngạc nhiên nói:

- Tôi vốn chỉ muốn đến báo tin xong rồi lại lên đường về nhà.

Nói đến đây, chàng thở dài rồi tiếp:

- Xem ra cô nương gặp nguy nan đã đành mà tôi thì cũng họa lớn đến nơi rồi. Không biết cô nương thù oán gì với những người này thế?

Nữ lang áo đen cười khẩy một tiếng nói:

- Ngươi là cái thá gì mà dám hỏi ta?

Đoàn Dự lại thêm ngạc nhiên nói:

- Chuyện riêng của người khác đúng ra tôi chẳng nên hỏi tới. Thôi được, tin tôi đã báo rồi, với cô như thế là xong.

Cô gái áo đen nói:

- Ngươi có biết đâu lại mất mạng nơi đây phải không? Có hối hận chăng?

Đoàn Dự nghe miệng lưỡi nàng có ý diễu cợt, lớn tiếng nói:

- Đại trượng phu hành sự, thấy chuyện nghĩa thì làm, sao lại có chuyện hối hận?

Cô gái hừ một tiếng nói:

- Cỡ tài cán như ngươi mà cũng dám xưng là đại trượng phu hay sao?

Đoàn Dự đáp:

- Anh hùng hảo hán hay không đâu phải chỉ dựa vào võ công cao thấp? Dù là võ công đứng đầu thiên hạ mà hành sự đê tiện xấu xa thì cũng đâu có xứng đáng ba chữ “đại trượng phu”.

Cô gái áo đen cười:

- Ha ha, ngươi giữa đường gặp chuyện bất bình, trượng nghĩa đến đây báo tin, chẳng qua mong được làm đại trượng phu đấy thôi. Đến lúc đại trượng phu bị người ta chặt ra làm mười bảy, mười tám mảnh chỉ e lúc ấy hết còn anh hùng hảo hán gì được nữa.

Bình bà bà đột nhiên cất giọng ồm ồm:

- Tiểu tiện nhân định kéo nhì nhằng để làm gì? Có đứng dậy động thủ không thì bảo.

Mụ vung hai thanh đao đập vào nhau, tiếng choang choang nghe chói cả tai. Cô gái áo đen cười khẩy nói:

- Ngươi sống đã bấy nhiêu năm quá đủ nên muốn chết sớm một tí hay sao? Con mụ ác ôn họ Vương ở Tô Châu sao không đích thân tới đây cùng ta động thủ lại sai bọn đầy tớ chúng bay đến quấy hôi bôi nhọ là gì?

Thụy bà bà nói:

- Phu nhân bọn ta tôn quí dường ấy, con tiểu tiện nhân muốn gặp phu nhân một lần cũng đã khó bằng lên trời rồi. Ngươi có khôn hồn thì ngoan ngoãn đi theo chúng ta, rập đầu tạ tội với phu nhân, không chừng phu nhân chúng ta khoan hồng đại lượng, tha mạng cho ngươi, chuyện đào tẩu thì chớ có tơ tưởng đến. Sư phụ ngươi đâu?

Cô gái áo đen kêu rít lên:

- Sư phụ ta ở sau lưng các ngươi chớ đâu.

Thụy bà bà, Bình bà bà cả bọn giật mình kinh hãi cùng quay lại. Thế nhưng sau lưng nào có ai ?

Đoàn Dự thấy cả bọn ai nấy tưởng thật hoảng hồn thất sắc, nhịn không nổi cười lên khanh khách. Bình bà bà hầm hầm nói:

- Cười cái gì?

Đoàn Dự cười:

- Buồn cười quá! Buồn cười quá!

Bình bà bà hỏi lại:

- Cái gì mà buồn cười?

Đoàn Dự đáp:

- Ha ha, buồn cười quá đỗi.

Bình bà bà hỏi thêm:

- Cái gì mà buồn cười quá đỗi?

Đoàn Dự đáp:

- Hì hì, buồn cười quá đỗi, buồn cười đến chết mất thôi!

Bình bà bà bực mình:

- Cái gì mà buồn cười đến chết mất thôi?

Thụy bà bà nói:

- Bình bà bà, mặc xác thằng nhãi thối tha đó.

Mụ quay sang cô gái áo đen nói:

- Cô nương từ Giang Nam chạy tới Đại Lý, bọn ta vạn dặm xa xôi đuổi tới tận đây, liệu cô nghĩ chúng ta có bỏ qua không? Bọn ta dẫu có chết hết trong tay cô nương cũng phải nhất định bắt cô đem về. Thôi cô ra tay đi.

Đoàn Dự nghe giọng Thụy bà bà có vẻ e ngại cô gái này, không khỏi lạ lùng, thấy trong sảnh mười bảy mười tám người phùng mang trợn mắt, tay cầm binh khí, nhưng không một ai dám xông lên trước. Bình bà bà hai tay hai đao, mấy lần tiến đến gần sau lưng cô gái rồi lại rụt về.

Cô gái áo đen nói:

- Này, anh chàng đưa tin kia, bây nhiêu người toan xông vào đánh một mình ta, anh tính sao đây?

Đoàn Dự đáp:

- Ôi, con Hắc Mai Côi đang ở bên ngoài, nếu cô phá vòng vây chạy ra được cưỡi ngựa chạy đi, con ngựa này cước trình thật nhanh, bọn họ không đuổi kịp được.

Cô gái hỏi lại:

- Thế còn anh thì sao?

Đoàn Dự trầm ngâm rồi đáp:

- Tôi vốn không quen không biết gì họ, chẳng thù chẳng oán, chắc họ cũng chẳng làm gì tôi đâu, thế nhưng cũng chưa biết thế nào được.

Nữ lang áo đen cười khẩy mấy tiếng nói:

- Nếu họ biết điều phải quấy như thế thì đâu có bấy nhiêu người vây đánh một mình ta. Cái mạng của anh coi như không còn nữa rồi, nếu như ta chạy được, anh có tâm nguyện gì muốn ta làm giùm anh chăng?

Đoàn Dự trong lòng chua chát nói:

- Bạn của cô là Chung cô nương ở núi Vô Lượng bị Thần Nông Bang bắt giữ, mẹ cô ta đưa cho tôi cái hộp này, đưa đến cho cha tôi, nhờ ông ta đi cứu. Nếu như ... nếu như ... cô nương có thể thoát thân được thì làm dùm chuyện này, tại hạ thật là cảm kích.

Nói đến đây chàng tiến lên mấy bước, lấy cái hộp vàng ra đưa tới. Chàng tới gần cô gái chừng hai thước, bỗng ngửi thấy một mùi hương, như lan mà không phải lan, như xạ mà không phải xạ, tuy không đậm đà chỉ thoang thoảng dìu dịu nhưng ngửi thấy lòng không khỏi lâng lâng.

Cô gái áo đen không quay đầu lại hỏi:

- Chung Linh xinh đẹp lắm, là ý trung nhân của anh chăng?

Đoàn Dự đáp:

- Không đâu. Chung cô nương tuổi còn nhỏ, tính tình ngây thơ, tôi đâu dám có ... có ý đó.

Cô gái đưa tay trái về sau cầm lấy cái hộp vàng. Đoàn Dự thấy bàn tay cô ta đeo một bao tay bằng lụa đen mỏng, không để lộ ra ngoài chút da thịt nào bèn nói:

- Cha tôi ở nơi thành Đại Lý, cô chỉ cần ...

Cô gái chặn lại:

- Để từ từ rồi nói cũng được.

Nàng bỏ chiếc hộp vào túi nói:

- Lão họ Chúc kia, mau cút ra khỏi nơi đây.

Một ông già râu tóc bạc trắng run run hỏi lại:

- Ngươi nói sao?

Cô gái gằn giọng:

- Ngươi mau cút ra khỏi sảnh, hôm nay ta không muốn giết ngươi.

Ông già kia vung kiếm đâm ra, quát lên:

- Ngươi nói lếu láo gì đó?

Giọng y run run, không hiểu vì quá phẫn nộ hay vì sợ hãi. Cô gái áo đen nói:

- Ngươi không phải thủ hạ của ác bà nương họ Vương, chẳng qua bị hai mụ già này rủ lại đây coi trò vui. Trên đường đi ngươi đối với ta có chiều nể nang, tên khốn kiếp kia toan giở mạng che mặt ta ra xem, ngươi liên tiếp ngăn trở. Hừ, ngươi xem ra không đáng chết, vậy mau cút ra khỏi đây ngay.

Ông già kia mặt xám ngoét, mũi kiếm cầm trong tay từ từ chúc xuống. Đoàn Dự khuyên:

- Cô nương, cô bảo ông ta đi ra cũng đủ rồi, đâu cần phải dùng chữ “cút”. Cô nói năng chẳng nể nang chút nào, Chúc lão gia tử sao không khỏi bực tức?

Ngờ đâu ông già họ Chúc vẻ mặt lúc thì do dự, lúc thì hoảng hốt, đột nhiên nghe keng một tiếng, trường kiếm rơi xuống đất, hai tay ôm mặt, quả thực chạy bay chạy biến ra ngoài. Y vừa giơ tay đẩy cửa sảnh, Bình bà bà vung tay phải ra, một ngọn đoản đao phóng vụt ra trúng ngay giữa lưng. Ông già đó dãy dụa một hồi, lăn lộn dưới đất ra xa cả trượng mới chết hẳn.

Đoàn Dự giận dữ nói:

- Hừ, mụ mập kia, vị lão gia đó cũng là cùng bọn với ngươi, sao ngươi nỡ hạ độc thủ?

Bình bà bà tay phải rút trong lưng ra một thanh đoản đao, hai tay lại có mỗi tay một đao, hết sức chăm chú theo dõi thiếu nữ áo đen, những lời Đoàn Dự nói như nghe mà không biết. Trên sảnh ai nấy tiến lên mấy bước, ra thế dường như sắp xông lên cùng tấn công, xem chừng chỉ cần một người ra lệnh, cả chục món binh khí sẽ nhắm ngay cô gái chém tới.

Đoàn Dự thấy tình hình như thế không khỏi bừng bừng căm giận, quát lớn:

- Các ngươi đông người như thế, vây đánh một cô gái yếu đuối tay không, thật không còn biết gì đến vương pháp hay thiên lý nữa hay sao?

Chàng tiến lên mấy bước chặn sau lưng cô gái áo đen, quát lên:

- Các ngươi có giỏi thì ra tay đi!

Chàng tuy không biết chút võ công nào nhưng đường đường chính khí, trông cũng có chút uy phong. Thụy bà bà thấy chàng có vẻ bất cần đời như thế, trong bụng lại đâm hoang mang, liệu rằng nếu gã thanh niên này nếu không phải thân mang tuyệt nghệ, cố ý giả vờ thì hẳn có kẻ nào ghê gớm lắm đứng đằng sau. Mụ ta phụng mệnh dẫn đồng bọn từ Giang Nam đuổi theo cô gái áo đen tới tận Đại Lý, ở chốn đất khách quê người, thực không muốn gây thêm rắc rối bèn nói:

- Các hạ nhất định phải nhúng tay vào việc này hay sao?

Giọng điệu thật là khách khí, Đoàn Dự đáp:

- Đúng thế, ta không thể nào để cho các người lấy đông đánh một, cậy mạnh hiếp yếu được.

Thụy bà bà đáp:

- Các hạ thuộc môn phái nào? Đối với con tiểu tiện nhân này là họ hàng hay quen biết? Do ai sai khiến mà đến đây can thiệp vào chuyện này?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Ta không quen biết cũng chẳng họ hàng gì với cô nương này cả, thế nhưng trên đời này, việc gì cũng không qua khỏi chữ “lý”, ta khuyên các vị nếu bỏ qua được thì nên bỏ qua, bây nhiêu người mà hiếp đáp một cô gái đơn côi, có gì là vinh hạnh đâu?

Chàng nói nhỏ:

- Cô nương mau chạy đi, để tôi tìm cách nói phải quấy với họ.

Cô gái áo đen cũng nói nhỏ:

- Anh vì tôi mà chịu chết, sau này không hối hận hay sao?

Đoàn Dự trả lời như đinh đóng cột:

- Chết không hối hận.

Cô gái lại hỏi:

- Anh không sợ chết à?

Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:

- Dĩ nhiên là tôi sợ, có điều ... có điều ...

Cô gái đột nhiên lớn tiếng:

- Anh trói gà không chặt sao lại anh hùng hảo hán đến thế?

Tay phải cô ta vung ra một cái, hai sợi dây lưng sặc sỡ tung ra, chia ra trói hay tay hai chân Đoàn Dự. Thụy bà bà, Bình bà bà thấy cô ta bất thình lình tấn công Đoàn Dự, quả thực ra ngoài dự tính, ai nấy còn đang kinh ngạc thì tay trái của cô gái liên tiếp vung lên. Đoàn Dự chỉ nghe thấy tiếng huỳnh huỵch, bình bành liên tiếp, chung quanh đều có người ngã xuống, trước mắt đao kiếm lấp loáng, trong đại sảnh bao nhiêu đèn nến đột nhiên tắt cả, chỉ thấy tối om, còn mình thì như đằng vân giá vụ bị ai đó nhắc bổng lên.

Mấy biến cố đó nhanh thực là nhanh, chàng không còn biết mình đang ở đâu nữa, chỉ nghe chung quanh có tiếng người la hét nhốn nháo:

- Đừng để con tiện nhân trốn được.

- Coi chừng độc tiễn của nó.

- Ném phi đao! Ném phi đao!

Thế rồi leng keng, loảng xoảng liên tiếp, thân chàng bay bổng lên, tiếng vó câu thật dòn, chàng đã ở trên lưng ngựa, có điều chân tay bị trói chặt không sao nhúc nhích gì được.

Chàng thấy cổ mình tựa vào người ai, mũi ngửi thấy một mùi hương nồng nàn chính là mùi hương từ trên người cô gái. Ngựa chạy lộp cộp, vừa nhẹ nhàng, vừa vững chãi, tiếng hò hét của kẻ địch đuổi theo mỗi lúc một xa. Con Hắc Mai Côi thân thể đen tuyền, cô gái lại mặc toàn một màu đen, trong đêm trời tối mịt, có mở to mắt cũng không thấy gì, chỉ thấy một mùi hương thoang thoảng xông vào mũi, càng thêm kỳ bí.

Con ngựa chạy một hồi thì tiếng kêu la của địch nhân không còn nghe thấy nữa, Đoàn Dự nói:

- Cô nương, tôi có ngờ đâu cô tài nghệ ghê gớm đến thế, xin cô thả tôi ngồi dậy.

Cô gái áo đen chỉ hừ một tiếng, không để ý gì đến chàng. Chân tay Đoàn Dự bị trói chặt, con Hắc Mai Côi chạy một bước thì sợi dây lại chặt thêm một tí, chân tay mỗi lúc một đau, lại thêm chân cao đầu thấp, treo chéo trên lưng ngựa, càng lúc càng thêm nhức đầu hoa mắt, quả thực khổ sở biết bao liền nói:

- Cô nương, mau thả tôi ra nào.

Nghe bốp một tiếng, má chàng đã ăn một cái tát đau điếng. Cô gái cất giọng lạnh như tiền:

- Không được léo nhéo, cô nương không hỏi thì đừng mở mồm.

Đoàn Dự giận quá nói:

- Sao vậy?

Lại bốp bốp lãnh thêm hai cái nữa, lần này còn mạnh hơn kỳ trước, khiến chàng tai như ù đi. Đoàn Dự lớn tiếng kêu lên:

- Sao cô cứ động một tí là đánh người, có thả tôi ra không nào, tôi không muốn đi chung với cô nữa.

Đột nhiên chàng thấy thân mình tung lên, nghe bình một tiếng đã rơi bịch xuống đất, có điều tay chân đều bị trói chặt, một đầu dây vẫn còn trong tay cô gái, Đoàn Dự liền bị con ngựa giựt mạnh, kéo lê trên đường mà đi.

Cô gái quát một tiếng nhỏ ra lệnh cho con ngựa đi chậm lại, hỏi:

- Ngươi đã phục chưa? Có chịu nghe lời ta không nào?

Đoàn Dự lớn tiếng:

- Không phục, không phục! Không nghe, không nghe! Dù ta có chết ngay ta cũng không sợ. Ngươi mới hành hạ ta một tí, ta sợ ... ta sợ ...

Chàng vốn dĩ định nói “ta sợ gì đâu” nhưng ngay lúc đó trên đường có một cái gò, cháng bị xóc lên hai lần thành ra hai chữ “gì đâu” không nói ra được. Cô gái cười khẩy hỏi:

- Ngươi sợ rồi ư?

Nàng ta giựt một cái, chàng lại bật tung lên trên yên. Đoàn Dự nói:

- Ta muốn nói “Ta sợ gì đâu?” lẽ dĩ nhiên là không sợ, mau thả ta ra. Ta không muốn để ngươi lôi đi như thế này nữa.

Cô gái hừ một tiếng nói:

- Trước mặt ta đâu có ai được quyền nói? Ta muốn hành hạ ngươi, hay muốn ngươi chết dở sống đở, chứ đâu phải chỉ là “hành hạ một tí” mà thôi đâu?

Nói xong hất tay trái một cái lại quăng Đoàn Dự khỏi lưng ngựa, kéo lê dưới đất. Đoàn Dự trong bụng tức quá, nghĩ thầm: “Những kẻ kia mở miệng ra là gọi ngươi “tiểu tiện nhân” âu cũng phải”. Chàng bèn kêu lên:

- Nếu ngươi không thả ta ra, ta chửi cho đấy.

Cô gái trả lời:

- Ngươi có gan thì cứ chửi, trong một đời ta, bị chửi chưa đủ hay sao?

Đoàn Dự nghe thấy nàng trả lời dường như chứa đựng một nỗi đau lòng thành ra ba chữ “tiểu tiện nhân” vừa ra đến cửa miệng, trong lòng thấy xót xa, vội vàng ngừng lại.

Cô gái chờ một lát thấy chàng không mở miệng liền hỏi:

- Ồ, thì ra ngươi không dám chửi.

Đoàn Dự đáp:

- Ta nghe cô nói thấy đáng thương nên không nỡ chửi chứ nào có sợ gì đâu?

Cô gái huýt một tiếng dục ngựa, con Hắc Mai Côi liền tung bốn vó chạy nhanh hơn. Lần này Đoàn Dự thật là khổ, đầu cổ tay chân bị đá nhọn trên đường làm cho máu me dầm dề. Cô gái kêu lên:

- Ngươi có đầu hàng chưa nào?

Đoàn Dự lớn tiếng chửi:

- Ngươi không biết tốt xấu, trái phải, một đứa con gái tàn ác độc địa chẳng ra gì.

Cô gái đáp:

- Ta vốn dĩ tàn ác độc địa, việc gì phải đợi ngươi nói? Tưởng ta không biết hay sao?

Đoàn Dự đáp:

- Ta ... ta ... đối với ngươi ... đối với ngươi ... một lòng tử tế ...

Đột nhiên đầu chàng va vào một cục đá trồi lên, lập tức mê man không còn biết gì nữa. Không biết bao lâu, bỗng thấy đầu mát rượi, chàng liền tỉnh lại, tiếp theo nước òng ọc chảy vào mồm, chàng vội ngậm miệng lại, nhưng sặc sụa ho lên sù sụ khiến cho nước chảy vào mồm vào mũi càng nhiều. Thì ra chàng bị buộc dây kéo lê trên đường, cô gái thấy chàng hôn mê liền giục ngựa chạy ngang một con suối để cho chàng thấm nước mà tỉnh lại. Cũng may con suối đó rất hẹp, con ngựa chỉ bước vài bước đã qua, Đoàn Dự áo quần ướt đẫm, bụng uống đầy nước căng phồng, trên mình đầy vết thương, quả thật vừa đau đớn vừa khó chịu.

Cô gái kia hỏi:

- Ngươi đã phục chưa nào?

Đoàn Dự nghĩ thầm: "Trên đời này sao lại có đứa con gái ngang ngạnh không biết điều đến thế, quả thật đúng là trời già cay nghiệt, âu cũng là cái số kiếp mình phải chịu nên mới rơi vào tay cô ta, có nói thêm nữa cũng bằng thừa". Cô gái hỏi mấy lần:

- Ngươi đã phục chưa? Chịu khổ như thế đã đủ chưa nào?

Đoàn Dự chẳng nói chẳng rằng, làm như không nghe thấy. Cô gái sẵng giọng:

- Bộ tai ngươi điếc hay sao? Sao không trả lời ta hả?

Đoàn Dự vẫn không lên tiếng. Cô gái gò cương ngựa quay lại xem chàng đã tỉnh chưa. Khi đó trời sắp qua đêm, phương đông đã hừng sáng, nàng thấy Đoàn Dự hai mắt mở thao láo, hậm hực nhìn mình, bèn quát:

- Giỏi nhỉ, ngươi đâu có bất tỉnh, lại giả chết để dỡn mặt với ta. Để ta cho ngươi biết tay xem ngươi ghê gớm, hay ta ghê gớm.

Nói xong nàng nhảy xuống ngựa, nhẹ nhàng tung mình lên một cây lớn bẻ một cành cây, nghe vút một tiếng đã quất một roi ngay mặt Đoàn Dự. Đoàn Dự lần đầu cùng nàng đối diện, thấy nàng che mặt bằng một miếng vải đen, chỉ để lộ đôi mắt đen láy nhìn mình, mỉm cười nghĩ thầm: “Dĩ nhiên ngươi ghê gớm hơn, con đàn bà độc ác này, ai còn lợi hại hơn ngươi được nữa?”.

Cô gái hỏi:

- Đến nước này mà ngươi còn cười được ư? Ngươi cười gì?

Đoàn Dự nhìn nàng nhăn mặt trêu chọc, lại nhếch mép cười khiến cô gái giận dữ giơ roi quất luôn bảy tám cái. Đoàn Dự lúc này đã coi sống chết không vào đâu, mặt nhơn nhơn không thèm nói gì cả, cố hết sức nở một nụ cười. Thế nhưng cô gái kia ra tay thật là âm độc, khúc cây đánh xuống toàn nhằm vào chỗ nhược, dễ đau nhất khiến chàng mấy lần nhịn không nổi toan kêu lên nhưng rồi cố nghiến răng mà chịu.

Cô gái kia thấy chàng bướng bỉnh đến thế, hung hăng nói:

- Giỏi lắm, ngươi giả câm giả điếc, để ta cho ngươi thành điếc thật.

Nàng ta cho tay vào túi, lấy ra một thanh chủy thủ, mũi dao dài chừng bảy tấc, hàn quang lấp lánh tiến về phía chàng, giơ dao nhắm ngay tai phải Đoàn Dự quát lên:

- Ngươi không nghe ta nói hay sao? Ngươi muốn giữ hay không muốn giữ cái tai này?

Đoàn Dự cũng không thèm trả lời, cô gái mắt lộ hung quang giơ tay lên, chủy thủ trong tay đâm luôn vào tai chàng. Đoàn Dự hoảng quá kêu lên:

- Này, ngươi định đâm thật hay sao chứ? Ngươi đâm điếc tai ta, liệu có tài chữa cho khỏi hay không thì bảo?

Cô gái hứ một tiếng nói:

- Cô nương giết người còn làm cho sống lại được, ngươi không tin thì thử cho biết.

Đoàn Dự vội đáp:

- Ta tin, ta tin, khỏi cần thử làm gì.

Cô gái thấy chàng mở mồm nói, xem chừng phục mình lắm rồi nên không hành hạ thêm nữa, nhắc Đoàn Dự lên để lên yên ngựa, chính nàng ta cũng nhảy lên yên nhưng lần này để đầu cao chân thấp tử tế hơn một chút. Đoàn Dự không còn bị treo ngược đầu, tay chân tuy vẫn còn đau vì bị trói chặt, nhưng so với bị kéo lê dưới đất cũng một trời một vực nên không dám mở mồm chọc cho nàng ta nổi cáu.

Chạy được chừng hơn nửa giờ, Đoàn Dự mắc tiểu quá, muốn nói cô gái cho mình đi giải nhưng tay bị trói không cách nào ra hiệu, hơn nữa dẫu tay có tự do cũng không biết làm sao cho cô ta hiểu được nên đành phải nói:

- Tôi đau bụng xin cô nương thả tôi ra một chút.

Cô gái đáp:

- Hay lắm, thế là bây giờ ngươi hết câm rồi? Có còn gì để nói nữa không?

Đoàn Dự nói:

- Sự đến nước này đâu có dám để dây bẩn vào cô nương, cô nương là “hương mỹ nhân”, còn nếu như tôi biến thành “xú tiểu tử” thì thật đâu có hay ho gì.

Cô gái nhịn không nổi cười khì một tiếng, nghĩ bụng thôi thì đành phải thả y ra vậy nên rút kiếm ra cắt đứt dây cho chàng còn chính mình cũng đi ra chỗ khác. Đoàn Dự bị cô gái trói cả nửa ngày, chân tay tê cứng không sao cử động được, nằn lăn lộn trên mặt đất hồi lâu mới đứng lên nổi, đi tiểu xong thấy con Hắc Mai Côi đứng ở một bên gặm cỏ trông thật thuần tính nghĩ thầm: “Lúc này không chạy thì còn lúc nào?”. Chàng rón rén nhảy lên yên, con ngựa không kháng cự gì cả. Đoàn Dự cầm cương giựt ngựa chạy về hướng bắc.

Cô gái nghe tiếng ngựa hấp tấp đuổi theo nhưng con Hắc Mai Côi chạy nhanh vô tỉ, khinh công nàng tuy cao nhưng sao đuổi kịp. Đoàn Dự vòng tay nói:

- Cô nương, có ngày gặp lại.

Chàng chỉ nói được thế, con ngựa đã vọt lên đến hơn hai chục trượng. Chàng quay lại thấy cô gái đã bị hàng cây che khuất, thoát được độc thủ của con nữ ma đầu này rồi, trong lòng sung sướng không đâu cho hết, miệng liên tiếp giục ngựa:

- Ngựa ngoan ơi, ngựa tốt ơi! nhanh lên nào, nhanh lên nào!

Hắc Mai Côi chạy được chừng một dặm, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mình lằng nhằng mất một ngày, không biết có còn kịp cứu Chung cô nương nữa hay không? Nếu mình chạy suốt, không ăn không ngủ không kể sống chết chẳng biết Hắc Mai Côi chịu nổi hay không?”. Chàng còn đang suy tính, bỗng nghe từ đằng sau xa xa truyền lại một tiếng hú thật trong trẻo.

Hắc Mai Côi nghe thấy tiếng hú, lập tức quay đầu, theo đường cũ chạy ngược về. Đoàn Dự hết sức hoảng hốt, vội kêu:

- Ngựa tốt ơi, ngựa ngoan ơi! Đừng có quay lại.

Chàng hết sức gò dây cương cố bắt con ngựa quay đầu. Thế nhưng tuy con Hắc Mai Côi bị kéo ngoẹo cả đầu sang một bên, thân hình vẫn cứ thẳng đường chạy tới, không nghe chàng chỉ huy nữa.

Chỉ trong giây lát, con ngựa đã chạy tới trước mặt cô gái đứng phắt lại. Đoàn Dự dở khóc dở cười, thần sắc thật là ngượng ngùng. Cô gái kia lạnh lùng hỏi:

- Ta vốn chẳng muốn giết ngươi, thế nhưng ngươi len lén bỏ trốn, lại còn ăn cắp con Hắc Mai Côi của ta, thế có phải là đại trượng phu chăng?

Đoàn Dự nhảy xuống ngựa, ngang nhiên đáp:

- Ta nào có phải là nô lệ của cô đâu, muốn đi đâu thì đi, làm gì có chuyện “len lén bỏ trốn”? Hắc Mai Côi là cô cho ta mượn, ta đã trả lại đâu, sao lại gọi là ăn cắp được. Cô muốn giết ta thì giết có sao. Tăng Tử nói: “Tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân, ngô vãng hĩ”. Ta tự mình quay lại, có gì mà không phải đại trượng phu?

Cô gái nói:

- Cái gì mà “súc” với chả không “súc”? Ngươi có rụt đầu ta cũng cho ngươi một kiếm.

Nàng không hiểu Đoàn Dự dẫn kinh sách ra nói, tay cầm cán kiếm, rút ra nửa chừng nói:

- Ngươi lớn mật như thế, bộ tưởng ta không dám giết hay sao? Ngươi ỷ vào thế của ai mà dám ngang nhiên chống báng với ta?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi đối với cô nương không có điều gì phải hổ thẹn, việc gì phải dựa dẫm thế của người nào?

Đôi mắt lạnh như băng của cô gái nhìn thẳng vào Đoàn Dự, Đoàn Dự cũng giương mắt nhìn lại không hề hãi sợ chút nào. Hai người đứng nhìn nhau một hồi, nghe soạt một tiếng cô gái đã tra kiếm trở vào bao, quát lên:

- Ngươi đi đi! Ta tạm để cái đầu trên cổ ngươi, để khi nào cô nương cao hứng sẽ tới lấy.

Đoàn Dự vốn dĩ coi như mình chắc chết rồi, không ngờ nàng ta lại thả cho mình đi, hơi ngạc nhiên nhưng không dám nói thêm, quay mình khập khễnh bước đi.

Chàng đi được chừng mươi trượng, không nghe tiếng vó ngựa, quay đầu lại nhìn, thấy cô gái vẫn đứng đó ngơ ngơ ngẩn ngẩn, nghĩ thầm: “Chắc nàng ta đang tính toán chuyện gì thật ác độc như mèo vờn chuột, đùa rỡn với mình một hồi rồi mới giết. Thôi được, ta có chạy cũng không xong, chi bằng kệ nó đến đâu thì đến”. Ngờ đâu chàng càng đi càng xa nhưng vẫn không thấy cô gái cưỡi ngựa đuổi tới.

Chàng rẽ luôn qua mấy con đường nhánh bấy giờ mới thấy hơi yên tâm, những vết thương trên đầu trên cổ, trên chân trên tay lúc này mới thấy đau, nghĩ thầm: “Cô gái này bụng dạ thật là quái đản, hay là cô ta cha mẹ chết hết rồi, cuộc đời gặp phải biết bao nhiêu chuyện bất hạnh. Hay là cô ta mặt mũi thật xấu xa nên không dám lộ mặt ra nhìn ai, thế thì quả là đáng thương thật. Chao ôi! Cái hộp vàng của Chung phu nhân đưa cho ta nay ở bên nàng rồi”.

Chàng muốn quay lại đòi nhưng lại không dám, nghĩ thầm: “Ta gặp cha ta, cùng lắm là bằng lòng học võ công, cha ta thể nào cũng đi cứu Chung cô nương, còn như nếu cha ta không chính mình đi, cử người khác đi thì cũng được. Cái hộp đó cũng chẳng dùng được bao nhiêu nhưng ta không có ngựa cưỡi, điệu này đi về Đại Lý thì nửa đường đã bị chất độc phát tác chết rồi. Chung cô nương chờ đợi cứu viện mỏi mòn, một ngày dài như một năm, nàng không thấy ta quay lại, cha nàng cũng không tới chắc lại tưởng mình không đưa tin. Chi bằng mình quay lại núi Vô Lượng, cùng nàng chết chung một nơi để cho nàng hay ta không có ý phụ nàng”.

Chàng đã quyết ý như thế, lập tức nhắm kỹ phương hướng, hăng hái rảo bước, nhắm núi Vô Lượng mà đi. Bờ sông Lan Thương thật là hoang dã, đi đến mấy chục dặm vẫn không hề thấy một mái nhà. Hôm đó chàng đành hái một số trái cây dại ăn cho đỡ đói, đến đêm thì kiếm một cái hốc núi ngủ cho qua. Hôm sau quá trưa, lại đến một chiếc cầu làm bằng xích sắt, qua trở lại bờ sông bên kia, đi đến hơn ba chục dặm đến được một cái thị trấn nhỏ. Bao nhiêu tiền bạc khi chàng rơi xuống thâm cốc bên cạnh vách núi đã mất hết rồi. Nhìn lại toàn thân y phục rách bươm, bụng lại đói quá, chỉ còn miếng bích ngọc trên mũ là quí giá bèn lấy xuống đến một tiệm bán gạo trong thị trấn gạ đổi. Tiệm gạo nào có phải nơi đổi ngọc nhưng ở đây chỉ có tiệm này là lớn nhất, người chủ tiệm thấy chàng khí khái hiên ngang, không dám coi thường nhưng không biết giá trị của viên ngọc, chỉ trả có hai lạng bạc. Đoàn Dự cũng chẳng kèo nài, cầm tiền định đi mua áo mũ, nhưng thị trấn nhỏ quá không có chỗ bán y phục nên đành đến quán mua cơm ăn.

Chàng vừa ngồi xuống ghế, hai đầu gối theo chỗ rách thò ra, trường bào vạt trước vạt sau rách mất cả rồi, quần thì sau đũng cũng có mấy cái lỗ lớn, lộ cả mông ra, gió thổi hiu hiu nghĩ thầm: “Cái cảnh lòi da lòi thịt thế này trông thật bất nhã, phải tìm cách nào che đi mới được”.

Gã chủ quán mang đồ ăn lên nói:

- Hôm nay không gặp ngày, chẳng có cá thịt gì hết, xin tướng công ăn ít rau dưa đậu phụ qua bữa vậy.

Đoàn Dự đáp: “Không sao! Không sao!” Nói xong liền cầm đũa lên ăn ngay. Chàng con nhà quyền quí, hôm nay ăn mặc rách rưới hở cả mông, ngồi ăn mấy món bình dân nhưng vì mấy ngày qua không có hạt cơm nào vào bụng, tuy chỉ rau đậu nhưng ngon miệng vô cùng. Chàng ăn đến bát thứ ba bỗng nghe ngoài cửa tiệm có tiếng người nói:

- Nương tử, ở đây có cái quán nhỏ, vào xem có gì ăn không nào?

Có tiếng một người đàn bà ỏn ẻn:

- Gớm xem ra chàng chẳng bao giờ thấy no cả.

Đoàn Dự nghe thấy thanh âm thật quen thuộc, lập tức nhận ra ngay đó là Can Quang Hào của phái Vô Lượng Kiếm cùng với Cát sư muội của y, trong bụng hoảng hốt, vội vàng quay mặt vào tường, nghĩ thầm: “Sao y lại gọi là “nương tử” nhỉ? Ồ, thế ra họ đã thành vợ chồng. Ta xủ phải quẻ Vô Vọng, hào lục tam, Vô Vọng chi tai, hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai. Vị Can lão huynh kia được vợ, còn Đoàn công tử này lại bị vạ lây.

Lại nghe Can Quang Hào cười hì hì nói:

- Vợ chồng mới cưới, có biết thế nào là no?

Cô nàng Cát sư muội kia bèn hứ một cái, tủm tỉm cười nói nhỏ:

- Đồ chết tiệt! Thế chắc đến lúc răng long đầu bạc rồi lúc ấy mới no hay sao?

Giọng thị nghe đầy vẻ gió trăng. Hai người vào quán ngồi xuống, Can Quang Hào liền kêu lên:

- Chủ quán đâu, đem rượu thịt ra đây, có thịt bò thì lấy ra một bát trước ... ủa ...

Đoàn Dự nghe thấy tiếng bước chân ở đằng sau, một bàn tay to lớn chộp luôn vào vai phải, xoay ngược chàng lại, đối diện với Can Quang Hào. Đoàn Dự cười gượng:

- Can lão huynh, Can đại tẩu, kính chúc hai vị trăm năm hòa hợp, đầu bạc răng long, hai phái Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm nay hợp làm một.

Can Quang Hào cười ha hả, quay đầu liếc nhìn Cát sư muội của y một cái. Đoàn Dự thuận thế nhìn theo, thấy mụ Cát sư muội này mặt trái xoan, má bên trái có mấy nốt rỗ hoa, nhưng trông cũng khá xinh xắn. Có điều y thị đầy vẻ kinh ngạc, nhưng dần dần chuyển thành hung quang, gằn giọng hỏi:

- Hỏi nó cho rõ ràng làm sao đến được nơi đây? Chung quanh có người nào của Vô Lượng Kiếm không?

Vẻ tươi cười trên mặt Can Quang Hào liền biến mất, đổi thành hầm hầm hỏi:

- Vợ ta nói gì ngươi có nghe không? Nói mau.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta phải nói nhăng nói cuội một phen, dọa cho chúng bỏ chạy, nếu không hai đứa này thể nào cũng giết mình để bịt miệng”. Chàng bèn nói:

- Quí phái có bốn vị sư huynh, tay cầm trường kiếm, vừa mới hấp ta hấp tấp chạy qua đây, đi về hướng đông, dường như đang đuổi theo ai đó.

Can Quang Hào thất sắc, nói với Cát sư muội:

- Thôi đi.

Mụ vợ y liền đứng lên, tay phải ra thế giết người. Can Quang Hào gật đầu, rút phắt trường kiếm, nhắm ngay cổ Đoàn Dự chém tới. Nhát kiếm đó thật nhanh, Đoàn Dự thấy mụ Cát sư muội kia ra hiệu biết là không xong, vội rụt người về sau nhưng làm sao tránh kịp, chỉ thấy một lưỡi đao trắng vụt tới cổ mình, đột nhiên nghe bụp một tiếng nho nhỏ, Can Quang Hào ngã ngửa ra, trường kiếm tuột tay rơi xuống. Lại nghe bụp một tiếng khác, mụ Cát sư muội kia đang toan chạy ra, nghe thấy tiếng Can Quang Hào kêu lên, chưa kịp quay đầu lại nhìn, thì cũng đã gục ngay bên ngạch cửa.

Hai người chỉ kịp oằn oại mấy cái rồi nằm yên, trên cổ Can Quang Hào cắm một mũi tên nhỏ màu đen, còn Cát sư muội kia thì đằng sau ót trúng tiễn. Hai tiếng vụt vụt đó chính là tiếng mà cô gái áo đen tối hôm qua dập tắt nến, bắn ám khí giết địch nhân để tháo lui.

Đoàn Dự vừa mừng vừa lo, quay đầu nhìn ra thấy đằng sau không có ai cả, nhưng nghe bên ngoài cửa quán có tiếng ngựa hí đã thấy cô gái cưỡi con Hắc Mai Côi chầm chậm chạy ngang. Đoàn Dự kêu lên:

- Đa tạ cô nương cứu mạng.

Chàng chạy vội ra, cô gái không thèm liếc mắt nhìn chàng, cứ giục ngựa chạy tiếp. Đoàn Dự nói:

- Nếu không nhờ cô bắn hai mũi tên thì lúc này đầu tôi không còn trên cổ nữa rồi.

Cô gái cũng không buồn trả lời. Gã chủ quán đuổi theo kêu lên:

- Tướng ... tướng công, giết ... giết người rồi, đâu có bỏ đi được.

Đoàn Dự đáp:

- Ôi chao, ta chưa trả tiền ăn.

Chàng mò tay vào túi lấy tiền nhưng thấy con Hắc Mai Côi đã đi xa mấy trượng vội kêu:

- Trong người chết có tiền định dùng làm đám cưới, ngươi lấy đó mà dùng.

Nói rồi chàng đuổi theo con ngựa. Cô gái cho ngựa chạy chậm lại, cả hai chẳng mấy chốc đã ra khỏi thị trấn. Đoàn Dự lẽo đẽo theo sau, nói:

- Cô nương, cô đã tốt bụng thì làm ơn cho trót, nhờ cô đi cứu Chung cô nương luôn thể.

Cô gái lạnh lùng nói:

- Chung Linh là bạn ta, ta vốn định đi cứu có điều ta rất ghét ai xin xỏ. Ngươi cầu ta cứu Chung Linh, đã thế ta không đi cứu nữa.

Đoàn Dự vội nói:

- Được, thế thì tôi không cầu nữa.

Cô gái nói:

- Thế nhưng ngươi đã cầu rồi.

Đoàn Dự nói:

- Thôi thì những gì tôi nói không tính đến.

Cô gái hỏi:

- Hứ, ngươi là nam tử hán đại trượng phu, nói rồi lẽ nào lại không tính?

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lúc trước ta nhất định tự coi mình là đại trượng phu nàng đã biết rồi, thôi đành để cứu mạng Chung cô nương, mình có không phải đại trượng phu cũng không sao”. Chàng bèn nói:

- Tôi không phải là nam tử hán đại trượng phu, cái ... cái mạng giun dế của tôi ... tôi toàn là do cô nương cứu.

Cô gái bật cười, đưa mắt nhìn chàng xem nói thật hay đùa:

- Ngươi đối với con tiểu quỉ Chung Linh tốt quá nhỉ. Hôm qua ngươi thà chết chứ nhất định phải là đại trượng phu, sao hôm nay lại chịu làm giun dế? Hừ, ta không cứu Chung Linh đâu.

Đoàn Dự vội nói:

- Thế ... thế thì phải làm sao đây?

Cô gái đáp:

- Sư phụ ta có bảo rằng đàn ông con trai trên đời này chẳng có ai tử tế cả, toàn là đầu môi chót lưỡi để đánh lừa đàn bà con gái thôi, còn trong bụng thì toan tính chuyện xấu xa. Đàn ông con trai một câu cũng không tin nổi.

Đoàn Dự nói:

- Cái đó cũng không phải là hoàn toàn đúng, chẳng hạn ... chẳng hạn ...

Chàng nhất thời chưa nghĩ ra ai bèn nói:

- Chẳng hạn như cha cô nương, là người tử tế lắm chứ.

Cô gái đáp:

- Sư phụ ta bảo rằng, cha ta cũng không phải là người tốt.

Đoàn Dự thấy cô gái thúc ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn, mình đuổi không thể nào kịp bèn gọi:

- Cô nương, chậm lại.

Đột nhiên thấp thoáng, từ khu rừng bên cạnh bốn người xông ra chặn đường. Hắc Mai Côi liền ngừng vó, lùi lại hai bước. Cả bốn người đều là con gái còn trẻ, ai nấy đều mang áo khoác màu xanh biếc, trong tay cầm song câu, người đứng giữa quát lớn:

- Các ngươi hai người, hẳn là Can Quang Hào và Cát Quang Bội của Vô Lượng Kiếm, đúng không?

Đoàn Dự đáp:

- Không phải, không phải. Can Quang Hào và Cát cô nương, hai người đã .. hai người đã ..

Cô gái kia hỏi:

- Đã đã cái gì? Các ngươi một nam một nữ, tuổi trẻ đi chung với nhau, trông sớn sác đúng là dẫn nhau đi trốn, sao lại không phải là hai đứa bạn đồ Can Cát của Vô Lượng Kiếm?

Đoàn Dự cười nói:

- Cô nương nói sao vô lý quá. Cát Quang Bội trên mặt có mấy nốt rỗ hoa, còn cô nương đây hoa dung nguyệt mạo đâu có giống chút nào.

Cô gái quay sang quát nữ lang áo đen:

- Bỏ khăn che mặt xuống.

Bỗng tách tách tách tách, cô gái áo đen đã bắn ra bốn mũi đoản tiễn, keng keng hai tiếng, hai người đã giơ câu ra gạt được, còn hai người trúng tên ngã xuống. Bốn mũi tên bắn ra không có một dấu hiệu gì trước, thế đi lại thật nhanh vậy mà hai mũi tên cũng không trúng. Cô gái áo đen lập tức nhảy khỏi lưng ngựa, còn đang trên không đã rút phắt trường kiếm, chân trái vừa chấm đất, chân phải đã vọt lên soẹt soẹt đâm luôn hai nhát, tấn công hai cô gái kia. Hai cô gái cũng vừa múa câu xông lên, một người chống đỡ cô gái áo đen, còn một người vung lên đâm vào Đoàn Dự.

Đoàn Dự kêu “Ối trời!” một tiếng, chui tọt ngay vào dưới bụng con Hắc Mai Côi. Cô gái kia ngạc nhiên, không ngờ người này lại dùng một chiêu số quái đị đến thế, đang toan đuổi theo đâm Đoàn Dự, lưng bỗng đau nhói, lập tức ngã xuống, thì ra cô gái áo đen đã thừa cơ bắn một mũi tên.

Thế nhưng vì phải phân tâm, cánh tay trái của cô ta đã bị địch nhân móc phải, soẹt một tiếng rách mất một nửa tay áo, để lộ cánh tay trắng như tuyết, trên tay cũng bị rạch một đường dài cả thước, máu túa ra.

Cô gái áo đen liền múa kiếm tấn công nhưng người con gái sử câu kia võ nghệ ghê gớm quá, song câu huy động, chiêu số xảo diệu, đấu thêm một hồi thì đùi cô gái áo đen lại trúng câu, bị rạch rách cả quần. Nàng liên tiếp bắn ra hai mũi tên nhưng đều bị đối phương gạt ra được.

Người con gái kia luôn mồm quát hỏi:

- Ngươi là ai? Kiếm pháp của ngươi không phải Vô Lượng Kiếm.

Cô gái áo đen không trả lời kiếm chiêu càng lúc càng tấn công gấp rút hơn. Đột nhiên nàng “A” lên một tiếng, trường kiếm bị một thanh câu móc trúng, địch nhân liền xoay cổ tay một cái, thanh kiếm cầm không vững, bay tung lên trời vội vàng nhảy lên theo. Người sử câu lập tức liên tiếp đâm luôn mấy cái nhưng nàng đều tránh được.

Đoàn Dự đứng coi trong lòng bồn chồn vạn phần, khổ nỗi không có tài ba gì mà xông vào giúp đỡ, thấy cô gái áo đen nguy cấp đến nơi, không nghĩ ngợi thêm, ôm luôn một cái xác dưới đất bồng lên làm như một cây bổng lớn xông tới húc vào cô gái cầm song câu.

Nàng ta giật mình, thấy kẻ húc tới lại chính là đầu của chị em bên mình, trong lòng đau đớn, lấy câu đâm luôn vào mặt Đoàn Dự nhưng vì vướng cái xác chết nên còn cách xa đến cả nửa thước, nghe bình một tiếng, ngực đã bị cái đầu xác chết đụng vào. Ngay lúc đó, một mũi đoản tiễn đã bắn ngay vào mắt phải, ngã lăn ra chết ngay.

Đoàn Dự thấy cô gái áo đen khuỵu đầu gối vội kêu:

- Cô nương, cô ... cô có sao không?

Chàng chạy đến bên cạnh giơ tay đỡ, cô gái kia đứng bật dậy, ngờ đâu Đoàn Dự trong cơn hoảng loạn vẫn còn vác cả cái xác chết húc ngay đầu tử thi vào ngực nàng. Cô gái giơ tay đẩy đầu xác chết ra, Đoàn Dự kêu “Ối” một cái ngã lăn cù, cái xác kia liền đè lên người chàng.

Cô gái thấy chàng vụng về lúng túng như thế bật cười khúc khích, nghĩ lại cuộc chiến vừa qua nguy hiểm vạn phần, nếu lúc đầu không bất ngờ ra tay giết được hai người, lại không được Đoàn Dự đứng bên cạnh ra tay giúp, e rằng chỉ một người cầm song câu nàng đã không chống nổi. Không biết bốn thiếu nữ này lai lịch ra sao, võ công sao cao cường đến thế? Nàng kêu lên:

- Này, chàng ngốc ơi! Anh cứ ôm cái xác đó làm gì thế?

Đoàn Dự lồm cồm ngồi dậy, vứt cái xác xuống nói:

- Tội nghiệp! Tội nghiệp! Ôi, quả thật ta có lỗi. Các ngươi nhận lầm người, cứ thong thả hỏi han cho ra lẽ, sao lại nói năng lếu láo để cô nương phải nổi giận đến nỗi chết oan. Cô nương ơi! Đúng ra cô đâu cần giết họ làm gì, cứ mở khăn ra cho họ coi một tí thì đâu có gì xảy ra.

Cô gái hậm hực quát:

- Câm mồm! Ta phải để đến anh dạy dỗ nữa hay sao? Ai bảo chúng nói hai đứa mình dẫn nhau ... cái gì ... cái gì đó.

Đoàn Dự đáp:

- Đúng thế, đúng thế! Chính là họ nói năng không đâu vào đâu nhưng cô nương cũng chẳng nên giết người làm gì. A, cô ... vết thương của cô phải buộc lại chứ.

Chàng thấy đùi nàng lộ làn da trắng nõn, không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác. Cô gái bị chàng lải nhải trách cứ chuyện giết người, bực bội toan tiến lên vả cho chàng mấy cái, nghe đề cập đến vết thương, mới thấy tay và đùi đau đớn, cũng may cả hai vết thương chỉ bị móc vào da thịt rất nông, không chạm đến gân cốt, vội vàng lấy kim sang đắp lên, xé rách chiếc áo khoác của kẻ địch buộc đùi lại.

Đoàn Dự kéo mấy cái xác vào trong đám cỏ nói:

- Đúng ra mình nên chôn cất họ cho tử tế, thế nhưng nơi đây không có cuốc xẻng. Ôi, bốn cô gái tuổi còn thanh xuân, dung mạo tuy không nói là đẹp, nhưng cũng chẳng đến nỗi xấu ...

Cô gái nghe chàng nói đếu mặt mũi xấu đẹp liền hỏi:

- Này, sao anh biết tôi mặt không bị rỗ, lại bảo cái gì nguyệt thẹn hoa nhường là sao?

Đoàn Dự cười nói:

- Cái đó gọi là cái lý đương nhiên đấy thôi.

Cô gái hỏi:

- Cái lý đương nhiên là thế nào?

Đoàn Dự đáp:

- Cái lý đương nhiên có nghĩa là đương nhiên phải là như thế.

Cô gái nói:

- Chỉ đoán mò. Anh có nằm mơ cũng không biết được mặt mũi tôi ra sao, mặt tôi rỗ nhằng rỗ nhịt đó.

Đoàn Dự đáp:

- Không đâu, không đâu! Cô đừng quá khiêm nhường.

Cô gái thấy quần áo mình bị câu móc rách nên lột một chiếc áo khoác của xác chết choàng lên người. Đoàn Dự kêu lên: “Chao ôi!” nghĩ đến quần mình cũng bị toạc mấy lỗ lớn, mông đít lòi cả ra trước mặt cô gái này, còn ra thể thống gì nữa? Chàng không dám quay lưng về phía cô ta, vội vàng đi giật lùi bắt chước lột lấy một cái áo choàng trên một xác chết, khoác lên mình. Cô gái bật cười, Đoàn Dự mặt đỏ như gấc, nghĩ đến quần mình rách một mảng lớn, xấu hổ không đâu kể xiết.

Cô gái nhổ mấy mũi tên ngắn trên người những xác chết bỏ vào túi, lại đá luôn mấy cái vào kẻ đã móc trúng cô ta. Đoàn Dự nói:

- Đoản tiễn của cô “kiến huyết phong hầu” , thật là độc địa. Tôi khuyên cô nương từ nay về sau chỉ khi nào vạn bất đắc dĩ, chớ có nên dùng làm gì, làm tổn thương nhân mạng là phạm đến đức hiếu sinh của trời đất, nếu như ...

Cô gái quát:

- Anh mà còn lải nhải nữa liệu có muốn nếm mùi “kiến huyết phong hầu” hay chăng ?

Tay phải nàng vung lên, nghe vút một tiếng, một mũi độc tiễn xẹt ngang người Đoàn Dự cắm thẳng xuống đất. Đoàn Dự mặt xanh như tàu lá, không dám nói gì thêm. Cô gái nói:

- Nếu đã phong được yết hầu anh thì liệu có còn lải nhải được nữa hay không?

Nói xong nàng đi đến nhổ mũi tên lên, giơ tay nhứ nhứ về phía Đoàn Dự. Đoàn Dự sợ quá nhảy vọt về sau. Cô gái cười khanh khách, bỏ mũi tên vào túi, trừng mắt nhìn chàng nói:

- Anh khoác cái áo đó, muốn giả làm một cô gái thì phải kéo cái áo choàng lên che đầu. Lỡ có gặp ai, người ta không bảo là mình một nam một nữ bỏ ...

Đoàn Dự nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm!

Chàng nghe lời cởi chiếc mũ vuông trên đầu xuống, bỏ vào trong túi, kéo chiếc áo choàng lên che. Cô gái vỗ tay cười khanh khách. Đoàn Dự thấy nàng dáng thật ngây thơ, nghĩ thầm: “Xem thần tình nàng, e rằng còn ít tuổi hơn ta, sao lại ra tay giết người tàn độc đến thế?”. Chàng thấy chiếc áo khoác của nàng trên ngực có thêu một con chim đại bàng đen, ngửng đầu nhìn chằm chằm, thần thái uy mãnh, trên ngực mình cũng có một con y như thế bèn lắc đầu thở dài:

- Con gái nhà người khác có thêu thì thêu hoa, thêu bướm, ai lại thêu hình một con chim hung tợn thế này, xem ra thích gây gỗ quá.

Nói xong chàng lại lắc đầu quầy quậy. Cô gái trừng mắt nói:

- Anh nói bóng gió tôi đấy chăng?

Đoàn Dự vội đáp:

- Không đâu, không đâu! Ai dám thế! Ai dám thế!

Cô gái vặn lại:

- Thế thì anh quả là “không đâu” hay là “không dám”?

Đoàn Dự đáp:

- Không dám đâu.

Cô gái không nói thêm nữa. Đoàn Dự hỏi:

- Vết thương cô có đau lắm không? Mình nghỉ một chút nhé?

Cô gái đáp:

- Vết thương dĩ nhiên là đau, để tôi cắt trên người anh vài dao, xem anh có đau không nào?

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngang ngược chua ngoa đến như cô này là quá lắm rồi”. Cô gái lại hỏi:

- Có thực sự anh lo lắng cho tôi hay không? Trên đời này làm gì có người con trai nào tốt đến thế? Có phải anh mong tôi mau mau đi cứu Chung Linh nhưng không nói ra chứ gì? Thôi đi!

Nói xong nàng đi đến bên con Hắc Mai Côi, nhảy lên lưng ngựa, chỉ tay về hướng tây bắc nói:

- Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm ở phía đó, phải không nào?

Đoàn Dự đáp:

- Dường như là thế.

Hai người chầm chậm đi về hướng tây bắc. Được một lúc, cô gái lại hỏi:

- Trong cái hộp vàng có ngày sinh tháng đẻ là của ai thế?

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra cô ả đã mở ra coi rồi”. Chàng bèn nói:

- Tôi không biết.

Cô gái hỏi:

- Của Chung Linh, có phải không?

Đoàn Dự đáp:

- Quả thực tôi không biết.

Cô gái nói:

- Sao anh còn dấu tôi? Chung phu nhân hứa gả con gái cho anh, có phải không? Nói thật cho tôi nghe đi.

Đoàn Dự đáp:

- Không đâu, quả là không có. Đoàn Dự này nếu như nói láo cô nương, cô cứ việc cho tôi nếm mùi “kiến huyết phong hầu”.

Cô gái lại hỏi thêm:

- Anh họ Đoàn đấy ư? Tên là Đoàn Dự à?

Đoàn Dự đáp:

- Đúng thế! Chữ Dự là danh dự.

Cô gái nói:

- Hừ, thế danh dự anh có ra gì không? Sao tôi chẳng thấy gì cả.

Đoàn Dự cười đáp:

- Danh dự xấu thì có. Đó cũng là chữ dự.

Cô gái nói:

- Thế thì đúng rồi.

Đoàn Dự nói:

- Còn tôn tính của cô nương?

Cô gái nói:

- Sao tôi lại phải nói cho anh nghe? Tên anh tự miệng nói ra chứ tôi đâu có hỏi.

Chạy một đoạn nữa, cô gái lại hỏi:

- Đến khi mình cứu được Chung Linh ra rồi, con nhãi đó thể nào chả nói tên tôi ra, anh không được nghe đấy nhé.

Đoàn Dự cố nhịn cười:

- Được rồi, tôi không nghe đâu.

Cô gái xem chừng câu trả lời đó không xuôi nói thêm:

- Nếu như anh có nghe cũng không được nhớ.

Đoàn Dự đáp:

- Được rồi, nếu như có lỡ nhớ thì tôi cũng phải tìm cách quên đi.

Cô gái nói:

- Hứ, anh định nhạo báng tôi, tưởng tôi không biết hay sao?

Trong khi nói chuyện trời tối dần, chẳng bao lâu mặt trăng đã nhô lên ở phương đông, hai người nhờ có ánh trăng tìm đường mà đi. Đi được chừng hai canh, nhìn xa xa nơi triền núi có những đốm lửa điểm sáng lấp lánh, ở phía đông có một ngọn núi vươn lên cao, dưới chân núi là mươi gian nhà lớn, chính là Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm. Đoàn Dự chỉ vào những ngọn lửa nói:

- Thần Nông Bang ở phía bên kia, bọn mình lẳng lặng tới đó, cướp lấy Chung Linh rồi chạy, có được chăng?

Cô gái lạnh lùng hỏi:

- Chạy cách nào?

Đoàn Dự đáp:

- Cô và Chung Linh hai người cưỡi con Hắc Mai Côi chạy cho nhanh, Thần Nông Bang không thể nào đuổi kịp.

Cô gái hỏi:

- Còn anh thì sao?

Đoàn Dự đáp:

- Tôi bị Thần Nông Bang ép phải uống thuốc độc đoạn trường tán, Tư Không Huyền nói là sau bảy ngày, chất độc phát tác sẽ chết, thành thử tôi phải làm cách nào lừa chúng cho thuốc giải trước rồi mới chạy được.

Cô gái nói:

- Thì ra anh đã bị chúng ép uống thuốc độc rồi. Sao anh không tìm cách nào giải độc cho xong lại chạy về báo tin cho tôi làm gì?

Đoàn Dự dáp:

- Tôi vẫn nghĩ con Hắc Mai Côi chạy nhanh như thế, có quay trở về báo tin cũng chẳng mất bao nhiêu thời gian.

Cô gái hỏi vặn lại:

- Anh vốn là người trời sinh tốt bụng hay là một chàng ngốc?

Đoàn Dự cười:

- E rằng mỗi thứ một nửa.

Cô gái hừ một tiếng nói:

- Làm cách nào đánh lừa lấy được giải dược đây?

Đoàn Dự trù trừ rồi nói:

- Nói cho đúng nếu có thuốc giải thiểm điện điêu đem tới đổi cho chúng lấy thuốc giải đoạn trường tán là tốt nhất. Bọn chúng không có thuốc giải thiểm điện điêu thì thuốc giải đoạn trường tán thật khó mà đánh lừa để có được. Cô nương, cô có biện pháp gì không?

Cô gái đáp:

- Đàn ông con trai mới giỏi đánh lừa người khác, tôi làm gì có cách nào để lừa người ta. Chỉ có cách ép chúng phải vừa thả Chung Linh, vừa đưa thuốc giải.

Đoàn Dự rợn người biết rằng nàng toan đánh giết một trận, nghĩ thầm: “Hay nhất ... hay nhất ...”. thế nhưng cái hay nhất ấy thế nào, chàng vẫn nghĩ chưa ra.

Hai người sánh vai đi về phía đống lửa. Đi đến chỗ còn cách đống lửa to nhất chừng vài mươi trượng, trong bóng tối đột nhiên có hai người nhảy ra, tay cầm mai đào thuốc, giơ ngang ngực. Một người quát hỏi:

- Ai đó? Có việc gì?

Cô gái đáp:

- Tư Không Huyền đâu? Mao bảo y ra gặp ta.

Hai người đó dưới ánh trăng thấy cô gái và Đoàn Dự đều khoác áo choàng cẩm đoạn màu xanh biếc, trên ngực thêu một con đại bàng đen nên hoảng hồn, lập tức quì xuống. Một người nói:

- Vâng, vâng! Tiểu nhân không biết thánh sứ của Linh Thứu Cung giá lâm, quả ... quả là mạo phạm, mong thánh sứ tha tội cho.

Giọng y run run hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Đoàn Dự lấy làm lạ: “Cái gì mà thánh sứ Linh Thứu Cung là sao?” nhưng hiểu ngay: “À, đúng rồi, ta và cô nương này đều khoác áo choàng màu xanh biếc cho nên họ nhận lầm người”. Chàng nhớ lại mấy hôm trước Chung Linh đã kể lại nàng nghe lén thấy Tư Không Huyền nói chuyện với bộ hạ là phải nghe hiệu lệnh của Thiên Sơn Đồng Mỗ của Linh Thứu Cung núi Phiêu Miểu đến chiếm cho bằng được Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng. Thần Nông Bang đã là bộ thuộc của Linh Thứu Cung, thảo nào bọn này chẳng sợ hãi đến thế.

Cô gái dĩ nhiên không hiểu nguyên do, hỏi lại:

- Cái gì Linh ...

Đoàn Dự sợ nàng làm lộ chuyện vội vàng quát át đi:

- Mau gọi Tư Không Huyền ra đây.

Hai người kia vội vàng vâng dạ, đứng lên, lùi lại mấy bước rồi quay mình chạy về phía đống lửa. Đoàn Dự nói nhỏ với cô gái:

- Linh Thứu Cung là bề trên cao cấp nhất của bọn họ.

Chàng cuốn cái áo khoác lên che kím mồm mũi, chỉ để lộ hai con mắt. Cô gái toan hỏi thêm, Tư Không Huyền đã chạy tới, lớn tiếng nói:

- Thuộc hạ Tư Không Huyền cung nghinh thánh sứ, không kịp ra xa đón tiếp, xin tha tội cho.

Y chạy đến trước mặt, quì xuống khấu đầu nói:

- Thần Nông Bang Tư Không Huyền cung thỉnh Đồng Mỗ vạn thọ thánh an.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Đồng Mỗ là hạng người nào? Đâu phải hoàng đế, hoàng thái hậu, cái gì mà vạn thọ thánh an, thật không ra cái giống gì”. Chàng bèn gật đầu nói:

- Đứng lên đi!

Tư Không Huyền đáp:

- Vâng.

Y lại rập đầu thêm hai cái nữa, lúc ấy mới đứng dậy. Lúc này sau lưng y đã quì đầy những người, đều là bang chúng Thần Nông Bang. Đoàn Dự hỏi:

- Tiểu cô nương nhà họ Chung đâu? Mau đưa ra đây.

Hai tên bang chúng không đợi Tư Không Huyền dặn dò lập tức chạy ngay về phía đống lửa dẫn Chung Linh ra. Đoàn Dự tiếp:

- Cắt dây trói.

Tư Không Huyền đáp:

- Vâng.

Y rút chủy thủ cắt các dây trói chân tay Chung Linh. Đoàn Dự thấy nàng an toàn không sai sẩy gì trong lòng mừng rỡ, cố gắng giả giọng nói:

- Chung Linh, lại đây.

Chung Linh hỏi:

- Ngươi là ai vậy?

Tư Không Huyền gằn giọng quát:

- Trước mặt thánh sứ không được vô lễ. Lão nhân gia gọi ngươi đến.

Chung Linh nghĩ thầm: “Ta cóc cần biết lão nhân gia, tiểu nhân gia gì đâu. Có điều ngươi không để cho người khác trói ta, lão râu dê kia lại sợ ngươi một phép, thà nghe lời ngươi còn hơn”. Nghĩ thế nàng bèn đi đến trước mặt Đoàn Dự.

Đoàn Dự giơ tay ra nắm lấy tay Chung Linh, kéo lại bên mình, cào cào lòng bàn tay nàng, nhưng biết nàng không thể hiểu được nên chẳng lý đến nữa, nói với Tư Không Huyền:

- Đem thuốc giải đoạn trường tán ra đây.

Tư Không Huyền hơi lạ lùng nhưng vội sai thuộc hạ:

- Lấy thùng thuốc của ta ra, mau lên, mau lên!

Y hơi trầm ngâm lập tức hiểu ngay: “Ối chà! Chắc là tên họ Đoàn đi cầu thánh sứ Linh Thứu Cung đến bảo đưa thuốc”. Thùng thuốc đem đến nơi, y mở nắp, lấy ra một cái bình sứ, cung kính dâng lên, nói:

- Thỉnh thánh sứ thu dùng. Thuốc giải này uống liên tiếp ba ngày, mỗi ngày một lần, mỗi lần một đồng cân là đủ.

Đoàn Dự mừng lắm cầm ngay lấy. Chung Linh vội hỏi:

- Này, lão râu dê kia, giải dược ngươi có còn nữa không? Ngươi bằng lòng giải độc cho Đoàn đại ca, nếu như đưa cho người ta hết rồi, một khi Đoàn đại ca đưa cha ta tới giải độc cho ngươi thì lấy gì mà đưa?

Đoàn Dự trong lòng cảm kích, lại khều khều tay nàng. Tư Không Huyền nói:

- Cái đó ... cái đó ...

Chung Linh vội vã nói:

- Cái đó, cái đó là sao? Ngươi không giải độc được cho anh ta, ta bảo gia gia ta không giải độc cho ngươi đâu.

Cô gái áo đen nhịn không nổi quát lên:

- Chung Linh, không được lắm lời. Đoàn đại ca của ngươi không chết đâu.

Chung Linh nghe giọng nàng quen lắm “Ồ” một tiếng quay sang nhìn, thấy tấm khăn che mặt liền nhận ra ngay, vui mừng nói:

- A! Mộc ...

Nàng lập tức nghĩ ra, vội vàng giơ tay bịt miệng lại. Tư Không Huyền vốn dĩ hơi lo lắng, vội quì xuống nói:

- Khải bẩm hai vị thánh sứ: thuộc hạ bị con thiểm điện điêu của tiểu cô nương đây cắn phải, độc tính thật lợi hại, xin hai vị thánh sứ khai ân.

Đoàn Dự nghĩ thầm nếu như mình không cho y thuốc giải, chỉ sợ y đường cùng liều mạng nên quay sang nói với cô gái áo đen:

- Tỉ tỉ, linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ chị cho y một chút.

Tư Không Huyền nghe nói linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ, trong bụng mừng quá, liên tiếp rập đầu xuống đất kêu bình bình nói:

- Đa tạ Đồng Mỗ đại ân đại đức, thánh sứ ân đức, bọn thuộc hạ cả thảy mười chín người bị độc điêu cắn phải.

Cô gái nghĩ thầm: “Ta làm gì có “linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ”? Có điều cánh tay và đùi ta bị thương, muốn lo cho cả hai người này không phải dễ. Chi bằng nghe lời gã họ Đoàn giả vờ đánh lừa lão râu dê một chuyến”. Nàng lấy trong túi ra một cái bình nhỏ nói:

- Đưa tay đây!

Tư Không Huyền vội đáp:

- Vâng, vâng!

Y xòe tay ra, mắt nhìn xuống không dám nhìn thẳng. Cô gái đổ lên bàn tay y một ít bột màu xanh nói:

- Uống một chút là giải độc.

Nàng nghĩ thầm: “Hương phấn của ta chế tạo đâu có dễ, không thể cho ngươi nhiều được”. Khi nàng vừa mở bình, Tư Không Huyền đã thấy hương thơm sực nức bay xông lên mũi. Y cả đời nghiên cứu các loại thuốc men nhưng cũng không đoán ra là gồm những loại dược vật nào chế thành, đến khi bột thuốc để lên tay rồi, mùi bốc ra khiến toàn thân thư thái, nghĩ bụng Thiên Sơn Đồng Mỗ quả là thần thông quảng đại, linh đơn thánh dược này thật khác thường, trong bụng mừng lắm, luôn mồm cảm tạ, có điều tay đang đựng thuốc bột nên không dám khấu đầu.

Đoàn Dự thấy mọi việc đã xong xuôi bèn nói:

- Tỉ tỉ, chúng mình đi.

Chàng đang cơn đắc ý, quên cả chịt họng giả tiếng, cung may bọn Tư Không Huyền không ai nghi ngờ gì. Tư Không Huyền nói:

- Khải bẩm thánh sứ: Tả Tử Mục của Vô Lượng Kiếm chẳng biết phải quấy gì cả, đám ngang nhiên kháng mệnh. Thuộc hạ chỉ vì trúng độc bị thương, đứt mất một cánh tay nên việc chưa xong ngay được, thật là phụ ân đức của Đồng Mỗ, tội quả là đáng chết muôn lần. Thuộc hạ xin lập tức thống suất bộ thuộc, tấn công vào Kiếm Hồ Cung. Xin thánh sứ ở lại đốc chiến cho.

Đoàn Dự đáp:

- Cũng chẳng cần. Ta xem Kiếm Hồ Cung cũng không phải tấn công vào làm gì, các ngươi tức khắc thoái binh đi.

Tư Không Huyền kinh hãi quá, vốn biết tính nết của Đồng Mỗ, sứ giả sai đi nói năng càng dịu dàng thì sau này bị phạt càng nặng, thánh sứ của Linh Thứu Cung luôn luôn nói ngược, xem chừng mấy câu này thánh sứ trách mình biện sự bất lực nên vội vàng nói:

- Thuộc hạ đáng chết! Thuộc hạ đáng chết! Mong thánh sứ trước mặt Đồng Mỗ nói tốt cho vài câu.

Đoàn Dự không dám nói nhiều, vẫy tay một cái, cầm tay Chung Linh đi ra. Tư Không Huyền giơ cao bàn tay chứa phấn thơm, hai gối quì xuống, lớn tiếng nói:

- Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.

Những bang chúng đứng đằng sau cũng nhất loạt quì xuống, đồng thanh cất tiếng:

- Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.

Đoàn Dự đi được mấy trượng, thấy bấy nhiêu người cùng quì dưới đất không khỏi tức cười bèn lớn tiếng nói:

- Cung chúc Tư Không Huyền lão nhân gia vạn thọ thánh an.

Tư Không Huyền nghe chàng nói thế, xem ra ý nghĩa đảo ngược lại càng thêm ghê gớm, sợ đến mất vía, tưởng chừng muốn lăn ra bất tỉnh. Hai tên bang chúng ở đằng sau thấy bang chủ lảo đảo, sợ linh đan diệu dược trong tay đổ mất vội vàng tiếng lên đỡ y dậy.

Đoàn Dự cùng hai cô gái đi ra ngoài mấy chục trượng rồi không còn nghe thấy bang Thần Nông lao xao gì nữa. Chung Linh huýt sáo miệng liên tiếp, gọi con chồn quay lại nhưng không thấy đâu, bèn nói:

- Mộc tỉ tỉ, đa tạ hai vị đến cứu em nhưng tiểu muội muốn ở lại đây.

Cô gái hỏi:

- Ở lại đây để làm gì? Chờ con chồn của ngươi ư?

Chung Linh đáp:

- Không đâu! Tiểu muội muốn ở lại đây chờ Đoàn đại ca, anh ấy đi mời cha em tới giải độc cho Thần Nông Bang.

Nàng quay lại nói với Đoàn Dự:

- Còn vị tỉ tỉ này, đoạn trường tán đó có thể cho em được không?

Cô gái nói:

- Gã họ Đoàn kia không trở lại nữa đâu.

Chung Linh hấp tấp nói:

- Không đâu, không đâu! Anh ấy nói đến là thể nào cũng đến, dẫu cho cha em không chịu đi, Đoàn đại ca cũng sẽ quay lại một mình.

Cô gái nói:

- Hừ, đàn ông con trai chỉ giỏi lừa dối, lời của y làm sao ngươi tin được?

Chung Linh nghẹn ngào nói:

- Đoàn đại ca không lừa dối ... không lừa dối em đâu.

Đoàn Dự cười ha hả, lột chiếc áo choàng che trên đầu nói:

- Chung cô nương, Đoàn đại ca của cô quả là không đánh lừa cô đâu.

Chung Linh sững sờ nhìn chàng, mừng không để đâu cho hết, nhào tới ôm chặt lấy cổ chàng, kêu lên:

- Anh không lừa em! Anh không lừa em!

Cô gái kia đột nhiên nắm cổ áo, nhắc Chung Linh lên đẩy qua một bên, lạnh lùng nói:

- Không được làm thế!

Chung Linh sợ hãi tuy trong bụng hết sức hoan hỉ nhưng không dám trái lời bèn hỏi:

- Mộc tỉ tỉ, hai người làm sao mà lại gặp nhau?

Cô gái hừ một tiếng, không trả lời. Đoàn Dự nói:

- Thôi mình vừa đi vừa nói chuyện.

Chàng lo ngại Tư Không Huyền thấy thuốc không linh nghiệm sẽ đuổi theo. Cô gái nhảy lên lưng ngựa, tự mình chạy trước. Đoàn Dự thuật sơ qua cho Chung Linh nghe những việc xảy ra từ hôm hai người từ biệt tới giờ nhưng việc chàng bị cô gái hành hạ thì không nhắc đến, chỉ nói nàng đã cứu mạng mình mà thôi. Chung Linh lớn tiếng nói:

- Mộc tỉ tỉ, chị cứu Đoàn đại ca, em thật không biết làm sao mà đền đáp.

Cô gái kia bực bội nói:

- Ta cứu y có liên quan gì đến ngươi đâu?

Chung Linh quay sang Đoàn Dự le lưỡi, nhăn mặt làm trò. Cô gái lại nói:

- Này, Đoàn Dự, tên ta không cần phải để con tiểu quỉ Chung Linh nói cho anh hay, tự mình nói được rồi, tên ta là Mộc Uyển Thanh.

Đoàn Dự nói:

- Ồ, thủy mộc thanh hoa, uyển hề thanh dương! Họ đã hay mà tên cũng đẹp quá.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Có đẹp bằng tên anh, một khúc gỗ, danh dự chẳng ra gì không?

Đoàn Dự cười ha hả. Chung Linh cầm tay Đoàn Dự, nói nhỏ:

- Đoàn đại ca, anh đối với em tốt quá.

Đoàn Dự nói:

- Chỉ tiếc là con chồn của cô tìm không thấy.

Chung Linh lại huýt thêm mấy tiếng nói:

- Cái đó cũng không sao, đợi bọn ác nhân đi khỏi rồi, em sẽ quay lại tìm. Anh đi với em, có được không?

Đoàn Dự đáp:

- Được chứ!

Chàng nghĩ đến pho tượng ngọc trong sơn động liền tiếp:

- Từ nay anh sẽ thường thường quay lại đây.

Mộc Uyển Thanh bực bội nói:

- Anh không cần phải đi, nó muốn đi tìm con chồn tự mình nó đi được rồi.

Đoàn Dự quay sang Chung Linh le lưỡi, nhăn mặt, hai người cùng mỉm cười. Ba người không nói chuyện thêm, chầm chậm đi thêm mấy dặm, Mộc Uyển Thanh đột nhiên hỏi:

- Chung Linh, có phải sinh nhật ngươi là ngày mùng năm tháng hai, phải không?

Nàng ngồi trên lưng ngựa, nói chuyện nhưng không hề quay đầu lại. Chung Linh nói:

- Đúng đó, Mộc tỉ tỉ làm sao biết được?

Mộc Uyển Thanh giận quá, hậm hực nói:

- Đoàn Dự, anh không nói dối thì là gì?

Nàng giựt giây cương, con Hắc Mai Côi liền vọt lên trước.

Bỗng từ hướng tây bắc có tiếng người hú lên, rồi phía đông bắc có người vỗ tay bốn cái bốp bốp bốp bốp. Một bóng người chạy vụt qua, đến cách ba người chừng bảy tám trượng, đột nhiên đứng lại, giọng khàn khàn quát lên:

- Tiểu tiện nhân, ngươi còn chạy tới đâu được nữa?

Nghe giọng nói, chính là Thụy bà bà. Ngay lúc đó, ở đằng sau cũng có tiếng người cười gằn, Đoàn Dự vội quay đầu lại, dưới ánh trăng sao mờ mờ thấy đó chính là Bình bà bà, hai tay cầm đoản đao sáng lấp lánh. Thế rồi hai bên cũng thấy có người, bên trái là một ông già râu bạc, tay cầm ngang một chiếc xẻng sắt, bên phải là một hán tử còn trẻ, tay cầm trường kiếm. Đoàn Dự nhớ được hai người này cũng trong số những kẻ vây đánh Mộc Uyển Thanh.

Mộc Uyển Thanh cười khẩy nói:

- Các ngươi thật chẳng khác gì hồn ma đeo đẳng, đã đuổi đến tận đây quả là có chí lắm.

Bình bà bà đáp:

- Con tiểu tiện nhân dù có chạy đến chân trời, bọn ta cũng đuổi theo cho bằng được.

Nghe soẹt một tiếng Mộc Uyển Thanh đã bắn ra một mũi đoản tiễn, gã cầm kiếm mắt tinh tay lẹ liền giơ kiếm lên gạt đi. Mộc Uyển Thanh từ trên yên tung mình nhảy lên, xông thẳng vào lão già.

Ông già đó râu bay phất phới, tuổi tác xem chừng đã cao nhưng ứng biến thật là nhanh nhẹn, tay phải vung lên, chiếc xẻng đã đâm nhứ vào Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh chưa rơi tới đất, chân trái đã điểm vào cán xẻng mượn sức, kiếm trên tay đâm luôn vào Bình bà bà. Bình bà bà vung đao gạt ra, nghe cách một cái đầu thanh đao đã bị kiếm của Mộc Uyển Thanh chém gãy, tiếp theo thanh kiếm như một làm sương mỏng lao luôn xuống.

Thụy bà bà vội vàng vung thiết quài đánh vào sau lưng Mộc Uyển Thanh, cô gái không kịp sử kiếm đả thương Bình bà bà, trường kiếm đập ngang, lưỡi kiếm đè vào vai Bình bà bà một cái, thân hình lại vọt trở lên. Nếu như nàng không phải tránh thiết quài của Thụy bà bà, lưỡi kiếm thay vì tạt ngang mà đâm thẳng, Bình bà bà ắt đã bị đâm xuyên qua người.

Chung Linh ở bên ngoài liên tiếp giơ tay vẫy Đoàn Dự, kêu lên:

- Đoàn đại ca, mau lại đây.

Đoàn Dự chạy vội tới, hỏi:

- Cái gì thế?

Chung Linh đáp:

- Thôi mình chạy đi.

Đoàn Dự đáp:

- Mộc cô nương đang bị người ta vây đánh, mình nỡ nào bỏ chạy?

Chung Linh đáp:

- Mộc tỉ tỉ bản lãnh cao cường lắm, chị ấy sẽ có cách thoát thân.

Đoàn Dự lắc đầu:

- Cô ấy vì đi cứu em mà đến đây, nếu bây giờ mình bỏ cô ta mà đi, lòng sao yên được?

Chung Linh dậm chân nói:

- Anh thật đúng là đồ gàn! Anh ở lại đây có giúp gì được Mộc tỉ tỉ chăng? Ôi, tiếc thay con thiểm điện điêu của em lại chưa quay về.

Khi đó bốn người Thụy bà bà và Mộc Uyển Thanh đang đấu đến lúc hăng, thiết quài của Thụy bà bà và thiết sản của ông già là binh khí dài, múa lên nghe vù vù. Mộc Uyển Thanh tuy đang ác đấu nhưng vẫn nghe hết mọi phía, những gì Chung Linh và Đoàn Dự nói với nhau đều lọt vào tai. Lại nghe Đoàn Dự nói tiếp:

- Chung cô nương, cô đi trước đi. Nếu như tôi phụ Mộc cô nương thì không phải là đạo làm người. Một khi nàng không địch lại người ta, tôi ở bên ngoài khuyên nhủ, biết đâu lại không vãn hồi được cuộc thế.

Chung Linh nói:

- Anh ở đây chỉ uổng mạng thôi chứ chẳng ích gì. Thôi chạy mau, Mộc tỉ tỉ không trách anh đâu.

Đoàn Dự đáp:

- Nếu như không có Mộc cô nương tốt bụng cứu cho, cái mạng này đã không còn nữa rồi. Chết trễ nửa ngày là sống thêm được nửa ngày, không phải là không ích gì.

Chung Linh vội nói:

- Anh gàn bướng quá, nói với anh cũng chẳng đến đâu.

Nói xong nàng liền nắm tay Đoàn Dự lôi đi. Đoàn Dự kêu lên:

- Tôi không đi! Tôi không đi!

Thế nhưng chàng không khỏe bằng Chung Linh nên bị nàng ta lôi đi sềnh sệch. Bỗng nghe Mộc Uyển Thanh cao giọng quát:

- Chung Linh, ngươi nghe lời ta mau chạy đi, đừng kéo y như thế.

Chung Linh càng kéo Đoàn Dự nhanh hơn, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, tóc nàng rung rung, một mũi đoản tiễn đã cắm vào bím tóc cô gái. Mộc Uyển Thanh quát lên:

- Nếu ngươi không buông tay ta sẽ bắn vào mắt ngươi đó.

Chung Linh biết Mộc Uyển Thanh nói sao làm vậy, tuy được nàng khá nuông chiều nhưng quen biết cũng chưa lâu nên giao tình chưa lấy gì khắng khít, nàng ta nói bắn vào mắt mình là sẽ làm thật, đành phải buông Đoàn Dự ra.

Mộc Uyển Thanh quát lớn:

- Chung Linh, mau cút về với cha mẹ ngươi, đi mau, đi mau! Ngươi còn lẩn quẩn ở đây đợi Đoàn đại ca của ngươi ta sẽ bắn ngươi ba mũi tên đó.

Miệng tuy nói nhưng tay không chậm lại chút nào, liên tiếp gạt những binh khí tấn công ra. Chung Linh không dám trái lệnh, quay sang nói với Đoàn Dự:

- Đoàn đại ca, anh phải cẩn thận.

Nói xong cô gái ôm mặt chạy vào trong bóng tối. Mộc Uyển Thanh đuổi được Chung Linh đi rồi, trong vòng vây của bốn người vòng qua lượn lại, vết thương trên đùi ngâm ngẩm đau, kiếm chiêu đột nhiên biến đổi, từng vầng kiếm quang vùn vụt như sao băng, huyễn ảo vô định. Đột nhiên ông già kêu oái lên một tiếng, bên sườn trúng kiếm. Mộc Uyển Thanh liên tiếp đâm ra soẹt soẹt soẹt ba nhát, ép cho Thụy bà bà và gã cầm kiếm phải nhảy ra khỏi vòng để tránh, mũi kiếm quay trở lại quấn chặt lấy Bình bà bà. Chỉ trong khoảnh khắc, Bình bà bà đã bị ba vết thương nhưng mụ không coi vào đâu vẫn như một con hổ điên lăn xả vào Mộc Uyển Thanh.

Ba người kia quay trở lại đấu tiếp, Bình bà bà xông được vào gần bên Mộc Uyển Thanh đoản đao trong tay đâm vào đùi nàng. Mộc Uyển Thanh giơ chân đá mụ ta lăn cù, nhưng ngay khi đó thiết quài của Thụy bà bà đã điểm trúng mi tâm. Mộc Uyển Thanh vội vàng thu kiếm trở về, gạt quài trượng ra, thuận thế đâm luôn vào giữa ngựa kẻ địch.

Thụy bà bà nghiêng người tránh né, vung gậy lên tự bảo vệ mình. Mộc Uyển Thanh thở hắt ra một hơi đang toan biến chiêu, động nhiên nghe bịch một cái, vai trái đau nhói. Thì ra lão già sau khi bị thương rồi không còn sử dụng thiết sản được nữa liền rút dùi sắt thừa cơ đột nhập đâm luôn vào vai Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh quật ngược lại một chưởng, đánh cho mặt lão già nát bấy, lập tức chết ngay. Bọn Thụy bà bà lúc ấy đã tiến lên giáp kích, Bình bà bà kêu lên:

- Tiểu tiện nhân bị thương rồi, không cần bắt sống, giết nó cũng được.

Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh bị thương, trong lòng hoảng hốt, lại sử dụng đúng trò cũ, xông lên ôm xác lão già quật vào, nhưng vướng phải bốn người nên không tiến lên được, trong cơn gấp gáp, cởi chiếc áo choàng ra, xông vào hết sức múa lên chộp ngay lên đầu Bình bà bà. Bình bà bà không nhìn thấy gì, kinh hãi quá vội giơ tay ra gạt đi, nhưng quên mất trong tay mình đang cầm đoản đao nên đao đó chém phải mặt mình, kêu lên oai oái như heo bị chọc tiết.

Mộc Uyển Thanh không có thì giờ rút chiếc dùi ra khỏi vai, cố nhịn đau, gấp rút công luôn hai kiếm về phía Thụy bà bà, rồi đâm một nhát vào hán tử sử kiếm, ba chiêu đó thật áo diệu, bên má phải của Thụy bà bà bị rạch một đường, còn hán tử cầm kiếm cũng bị mũi kiếm xẹt ngang cổ. Hai người tuy bị thương nhẹ nhưng những nơi trúng kiếm đều là bộ vị yếu hại, trong cơn kinh hoảng, vội vàng nhảy qua một bên, giơ tay sờ thử vết thương. Mộc Uyển Thanh kêu thầm: “Tiếc quá, không giết được hai đứa này”. Nàng hít một hơi, cất tiếng hú lên, con Hắc Mai Côi liền chạy tới. Mộc Uyển Thanh nhảy vọt lên, thuận tay nắm cổ áo Đoàn Dự để lên yên, hai người cưỡi chung một con ngựa chạy vọt về hướng tây.

Chạy chưa đầy mươi trượng, trong rừng bỗng có tiếng người reo hò, hơn một chục người xông ra chặn ngang đường. Ở giữa là một lão già cao quát lớn:

- Tiểu tiện nhân, lão gia đợi ngươi ở đây đã lâu rồi.

Y vung tay toan cầm dây cương con Hắc Mai Côi, Mộc Uyển Thanh tay phải vươn ra, chát chát liên thanh ba mũi đoản tiễn liền bắn ra một lúc. Trong đám người ba kẻ trúng tên, lập tức ngã lăn ra. Lão già kia còn đang sững sờ, Mộc Uyển Thanh liền giựt cương con Hắc Mai Côi theo chỗ trống trên bức tường người vọt qua. Những người đó sợ độc tiễn của nàng ghê gớm, tuy chạy đuổi theo nhưng ai cũng múa binh khí bảo vệ trước mặt nên hai bên càng lúc càng xa. Chỉ nghe đoàn người nhao nhao mắng chửi:

- Tặc a đầu! Lại để nó chạy mất rồi.

- Dù cho ngươi chạy đến chân trời, ta cũng phải bắt cho kỳ được ngươi đem lột da, cắt gân.

- Tất cả đuổi theo!

Mộc Uyển Thanh để cho con Hắc Mai Côi ở trong núi chạy đâu thì chạy đến một tòa sơn cương, thấy trước mặt là một hang sâu bèn giục ngựa xuống núi tìm đường ra. Trên núi Vô Lượng đường đi ngoằn ngoèo, lượn bên đông vòng bên tây, không dễ gì nhận định được phương hướng.

Đột nhiên ở phía trước có tiếng người:

- Con ngựa chạy tới rồi đó!

- Theo hướng này mà đuổi!

- Tiểu tiện nhân quay lại rồi!

Mộc Uyển Thanh bị thương rồi không còn hơn sức nào mà đấu tiếp, vội vàng quay đầu ngựa ra phía khác, theo con đường dốc phía bên phải mà đi. Lúc này không còn có thể theo đường mà gặp đâu theo đó, cũng may Hắc Mai Côi là loại thần tuấn, trên triền núi đầy đá lởm chởm nhưng vẫn chạy như bay. Lại đi thêm một hồi nữa, chân trước Hắc Mai Côi bất thình lình khuỵu xuống, đầu gối va vào nham thạch, chân khập khễnh, bước bắt đầu loạng choạng, chạy chậm hẳn đi.

Đoàn Dự trong bụng lo lắng nói:

- Mộc cô nương, cô để tôi xuống, một mình cô dễ thoát thân hơn. Bọn họ với tôi không thù không oán, dù có bắt được tôi chắc cũng không sao.

Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng nói:

- Anh mà biết cái gì? Anh là người Đại Lý, nếu như họ bắt được anh lập tức một đao chém liền.

Đoàn Dự nói:

- Thế thì lạ lùng thật, người Đại Lý biết bao nhiêu, làm sao giết hết được? Cô nương thôi cứ chạy trước là hơn.

Mộc Uyển Thanh thấy trên đầu vai từng chập đau nhói, nghe thấy Đoàn Dự cứ lải nhải mãi, cáu tiết nói:

- Anh có câm mồm đi không? Đừng nhiều lời nữa.

Đoàn Dự đáp:

- Thôi được, vậy cô để tôi ngồi đằng sau lưng.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Để làm gì?

Đoàn Dự đáp:

- Chiếc khăn choàng của tôi chụp lên đầu mụ mập kia rồi.

Mộc Uyển Thanh hỏi:

- Thế thì đã sao?

Đoàn Dự đáp:

- Quần tôi bị rách một lỗ lớn, ngồi ở trước mặt cô, hở cả ... hở cả ... đối với cô nương, quả là ... quả là vô lễ.

Mộc Uyển Thanh vết thương đau dường như không chịu nổi, nghiến răng đưa tay nắm lấy vai Đoàn Dự, bóp một cái đầu xương kêu lên lốp cốp, quát lớn:

- Câm mồm!

Đoàn Dự đau quá, vội nói:

- Được rồi! Được rồi, tôi không nói nữa. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro