Thien Long Bat Bo - KIM DUNG - Hoi 26-30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

hồi 26(a)

XÍCH THỦ ĐỒ HÙNG TRÓC HỔ

Xa xôi vạn dặm đường trường,

Tay không bắt cọp như tuồng mèo con.

Anh hùng giữa cảnh núi non,

Can vân hào khí vẫn còn như xưa.

*

* *

Tiêu Phong trong lúc ngàn cân treo trên sợi tóc thoát được hiểm nghèo

như thế, kêu thầm: Hú vía, ý niệm đầu tiên nghĩ đến là: Con tiểu yêu

nữ này tâm địa độc ác thật, dám dùng cách đó ám toán ta. Ông biết ám

khí phái Tinh Tú thật là lợi hại, độc địa đến cực điểm, nếu như bị bắn

trúng thì thật khó mà sống được, không khỏi tim đập thình thình.

Đến khi ông nhìn lại A Tử bị một chưởng đánh văng xa hơn chục

trượng, đột nhiên thất kinh: Chết rồi, chưởng đó cô ta làm sao chịu nổi?

E rằng bị mình đánh chết rồi. Ông nhún một cái phóng mình nhảy tới,

thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, máu từ hai bên khóe miệng ứa ra, mặt

vàng khè như đồ hàng mã, lần này quả là ngừng thở thật rồi.

Tiêu Phong ngẩn ngơ nghĩ bụng: Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại

giết luôn cả cô em gái của nàng. Nàng ... nàng khi sắp chết đã dặn ta lo

lắng cho muội muội, ngờ đâu ... ngờ đâu ... ta lại đánh chết luôn cả nó.

Tuy ý nghĩ đó chỉ vụt qua đầu nhưng bởi ông tâm thần hoảng hốt nên

tưởng như trải qua một thời gian thật dài. Ông lắc đầu, vội vàng giơ

chưởng đè vào sau lưng A Tử, đem chân khí nội lực hết sức truyền vào.

Một lúc sau, thân hình A Tử hơi rung động, Tiêu Phong mừng quá gọi:

- A Tử, A Tử, em đừng chết, bằng giá nào ta cũng nhất định sẽ cứu

em.

Thế nhưng A Tử chỉ cựa một cái rồi lại nằm yên. Tiêu Phong hết sức

bồn chồn, lập tức ngồi xếp bằng ngay trên mặt tuyết, nhè nhẹ đỡ A Tử

lên, để ngồi trước mặt đưa song chưởng để vào sau lưng, đem chân lực từ

từ truyền vào người cô gái. Ông biết rằng A Tử bị thương rất nặng, lúc

này chỉ cốt sao giữ cho nàng còn thoi thóp, tạm thời không chết rồi tìm

cách cứu chữa sau thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức

chậm rãi. Độ chừng thời gian một bữa ăn, trên đầu ông tỏa ra những làn

hơi trắng đủ biết đã dùng toàn lực rồi.

Cứ như thế liên tục hành công chừng nửa giờ A Tử mới hơi động đậy,

rên khẽ lên một tiếng:

- Tỉ phu!

Tiêu Phong mừng quá, tiếp tục truyền vào nhưng không nói chuyện

với nàng, thấy thân thể cô ta dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở nhè nhẹ.

Tiêu Phong e ngại có chuyện không hay nên không dám ngừng chuyển

nội lực, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn mặc dù mặt vẫn

xanh mét không một chút máu. Ông liền bồng ngang nàng trên tay, rảo

bước chạy đi.

Ông gia tăng cước bộ, cố sao vừa nhanh vừa ổn, tay trái vẫn để lên sau

lưng A Tử, không ngừng chuyển chân khí vào. Chạy đến hơn một giờ mới

đến một tiểu thị trấn, nơi đó không có khách điếm, đành phải tiếp tục đi

về hướng bắc, chạy đến hơn hai chục dặm, mới tìm ra được một nhà trọ

thật sơ sài. Khách điếm đó không có tiểu nhị, do chính chủ nhân tự hầu

hạ khách hàng. Tiêu Phong bảo người chủ đem lại cho ông một bát cháo

nóng, dùng thìa múc đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng chỉ uống được

ba thìa, rồi lại ói ra cả, trong nước cháo có lẫn máu bầm.

Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương kỳ này xem ra

khó mà trị được, Diêm Vương Địch Tiết Thần Y nào có biết đang ở nơi

nao, mà dẫu có ở gần bên, cũng chưa chắc đã làm được gì. Hôm trước A

Châu bị thương không trực tiếp do chưởng lực của phương trượng chùa

Thiếu Lâm mà đã nguy hiểm vạn phần, lại được bôi linh cao của Đàm

Công Thái Hàng sơn, rồi được Tiết Thần Y cứu chữa, có thế mới khỏi.

Tuy ông biết tính mạng A Tử khó mà bảo tồn nhưng không vì thế mà chịu

bó tay, chỉ nghĩ: Dù ta phải hết lòng hết sức, chân khí nội lực hao kiệt

hoàn toàn cũng cố còn nước còn tát. Không phải ta muốn cứu cô ta mà

chính là vì không muốn phụ lời trăn trối của A Châu.

Ông vẫn biết A Tử ra tay ám toán mình trước, trong hoàn cảnh đó, nếu

không đánh chưởng đó ra, tính mạng ắt không còn. Người võ công cao

cường như ông, mỗi khi gặp nguy đâu còn kịp suy nghĩ gì lập tức ra tay

chống đỡ giải nạn. Ông bị bắt buộc phải đả thương A Tử, ví như A Châu

có mặt nơi đây thì cũng không trách cứ gì được vì chính A Tử tự gây ra

họa cho mình chứ không liên quan đến ai, có điều vì A Châu không biết

nên ông cảm thấy có lỗi với nàng.

Đêm hôm đó ông không chợp mắt được chút nào, thâu đêm không

ngừng truyền chân khí để duy trì tính mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu

bị thương, chỉ khi nào hơi thở thoi thóp Tiêu Phong mới ra tay, còn hiện

giờ bàn tay ông không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, nếu không sẽ lập tức

chết ngay.

Tối hôm sau cũng y như thế. Tiêu Phong công lực tuy mạnh thật nhưng

hai ngày hai đêm hao tốn hơi sức cũng mệt mỏi vô cùng. Hai vò rượu mà

tiểu khách điếm trữ được đã bị ông uống sạch không còn một giọt, muốn

bảo chủ quán đi mua thêm nhưng túi đã cạn.

Ông một ngày không ăn cơm cũng chẳng hề gì nhưng một buổi không

có rượu thì thật khó chịu, lúc này trong bụng đang buồn bực lại càng cần

có rượu cho tỉnh táo, nghĩ thầm: Trên người A Tử ắt có mang theo tiền

bạc.

Ông cởi cái bị của nàng ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ, vài đĩnh

bạc lẻ. Ông lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy cái túi có một sợi

dây vải màu tím, một đầu buộc vào ngang hông. Tiêu Phong nghĩ thầm:

Gớm cô bé này cẩn thận quá, sợ cái túi bị rơi mất, không biết cái gì mà

buộc dính chặt vào người thế này mới yên bụng. Ông cởi cái nút buộc

vào lưng, cái nút đó tết thật kỹ, dùng một tay phải mất bao nhiêu công

lao mới gỡ ra được. Cái dây vừa tuột ra dường như đầu kia còn có vật gì

dấu trong quần.

Ông buông tay ra nghe cách một tiếng, vật đó rơi xuống sàn, chính là

một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi

xuống nhặt lên đặt trên bàn. Chiếc đỉnh đó điêu khắc cực kỳ tinh mỹ

bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, trong thớ có thấp thoáng vân đỏ.

Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa

Công Đại Pháp, cảm thấy chán ghét nên chỉ liếc qua rồi không màng tới

nữa, nghĩ thầm: Tiểu cô nương này quả là giảo hoạt, mồm năm miệng

mười bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh đã giao cho ta rồi, có ai ngờ vẫn dấu

trong ống quần. Có lẽ đồng môn của nàng tưởng đã giao lại cho ta thật,

hoặc giả không tiện tra xét đàn bà con gái nên trước sau không ai khám

phá ra được. Ôi, hôm nay tính mạng nàng cũng chẳng giữ được, cái thứ

thân ngoại chi vật này có làm gì?.

Ông bèn gọi chủ quán vào bảo y cầm lượng bạc đi mua rượu thịt, còn

mình tiếp tục dùng nội lực bảo trì tính mạng cho A Tử. Đến sáng ngày thứ

tư, ông không còn chịu đựng được nữa, chỉ còn nước hai tay nắm một bàn

tay A Tử, ôm nàng vào lòng cho dựa lên người mình, đem nội lực truyền

theo chưởng tâm, chỉ được một lát hai mắt không còn mở nổi, lơ mơ ngủ

luôn.

Thế nhưng ông khắc khoải tính mạng A Tử nên chỉ chợp mắt một tí rồi

lại choàng tỉnh, cũng may trong khi nằm ngủ, chân khí lưu động miễn sao

lòng bàn tay không xa rời A Tử nên hơi thở của cô ta không bị đứt quãng.

Cứ như thế thêm hai ngày nữa, tuy A Tử miễn cưỡng không tắt hơi

nhưng thương thế chẳng bớt chút nào, dẫu nằm chết bẹp trong tiểu điếm

này cũng chẳng đi đến đâu? Thỉnh thoảng A Tử cũng mở được mắt nhưng

thần thái lờ đờ, hiển nhiên không biết gì cả, cũng không nói năng được

câu nào. Tiêu Phong hết sức suy nghĩ nhưng không tìm ra kế sách, nghĩ

thầm: Thôi đành ôm nàng lên đường, may ra còn có cơ hội chứ ở trong

khách điếm này rồi cũng vô phương.

Ông bèn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng bỏ vào bọc,

thấy cái đỉnh trên bàn nghĩ thầm: Cái thứ đồ này chỉ dùng để hại người,

chi bằng đập vỡ nó đi cho xong. Ông định giơ chưởng đánh xuống bỗng

chợt nghĩ lại: A Tử trăm đắng nghìn cay mới ăn trộm được cái vật này.

Bây giờ xem ra thương thế nàng không thể nào chữa được, lúc sắp chết

hồi quang phản chiếu, có thể tỉnh táo lại trong phút chốc, không chừng lại

hỏi đến cái mộc đỉnh, lúc đó ta đem ra cho nàng xem để nàng an tâm mà

chết còn hơn ôm hận xuống tuyền đài.

Ông bèn cầm cái đỉnh gỗ lên, vừa chạm phải cảm thấy dường như bên

trong có cái gì cựa quậy, hết sức lạ lùng, chăm chú nhìn, mới hay chung

quanh có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn nơi cổ đỉnh có đường ngấn,

xem ra có thể tháo ra. Ông lấy ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh,

dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ xoay phía trên qua bên trái, quả nhiên

chuyển động được. Xoay được mấy vòng, mở nắp nhìn vào trong không

khỏi ngạc nhiên, lại thấy kinh khiếp. Thì ra bên trong có hai con độc

trùng, một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau hết sức dữ dội.

Mấy hôm trước khi ông bỏ chiếc đỉnh trên bàn, trong đỉnh rõ ràng có

gì đâu, xem ra con rết và con bò cạp này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong

đoán chừng đây là phương pháp tìm bắt độc trùng độc vật của phái Tinh

Tú nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất, lấy chân dẵm chết,

sau đó đóng nắp lại, bỏ lại vào trong túi vải. Tiêu Phong tính toán tiền

nong xong xuôi rồi, ôm A Tử lên xông gió đạp tuyết đi về hướng bắc.

Ông kết oán thù cực kỳ sâu xa với hào kiệt Trung Nguyên, đường đi

càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng

đầu nhân vật võ lâm. Ông không muốn giết người kết thêm thù oán, lại

không muốn cải trang, thêm trên tay ôm A Tử nếu phải động thủ với

người thực là bất tiện thành thử tránh đường lớn, chỉ tìm những đường

mòn hẻo lánh ở chốn sơn dã mà đi nên suốt mấy trăm dặm vẫn bình an

vô sự.

Hôm đó đến một thị trấn lớn, thấy một tiệm thuốc bên ngoài có treo

bảng: Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí, nghĩ

bụng: Địa phương nhỏ chắc không có danh y đâu nhưng mình cũng cứ

vào thử xem thế nào. Ông liền ôm A Tử đi vào xin chữa trị.

Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại

bắt mạch A Tử lần nữa, lại nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt cực kỳ khác lạ, đột

nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong bực tức nói:

- Này thầy lang, ta nhờ ông chữa bệnh cho em gái ta chứ nào có nhờ

thầy chữa cho ta đâu.

Vương Thông Trị lắc đầu nói:

- Ta xem ông cũng có bệnh, đầu óc khật khùng, tâm thần rối loạn

đảo điên, cần phải chữa trị ngay đi.

Tiêu Phong đáp:

- Ta làm gì mà đầu óc khật khùng?

Vương Thông Trị đáp:

- Vị cô nương này mạch đã ngừng, vốn dĩ chết rồi, có điều thân thể

chưa cứng đấy thôi. Ngươi ôm cô ta đi tìm thầy thuốc làm gì? Thế chẳng

phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể

sống lại, ngươi cũng chẳng nên quá thương tâm mà ôm xác lệnh muội, chi

bằng mau mau đem chôn, thế cũng là xong.

Tiêu Phong dở khóc dở cười nhưng ngẫm lại lời ông lang này cũng có

lý, đúng là A Tử chết rồi, chỉ còn nhờ chân khí của mình mà thoi thóp,

thầy lang tầm thường làm sao biết được? Ông đứng lên quay người đi ra.

Bỗng thấy một người ăn mặc theo lối quản gia hấp tấp chạy vào tiệm

thuốc giục giã:

- Mau lên! Mau lên! Cho loại lão sơn nhân sâm1 tốt nhất. Lão thái

gia nhà ta bị trúng phong, sắp tắt hơi đến nơi, cần nhân sâm để giữ cho

khỏi chết.

Dược điếm chưởng quĩ vội đáp:

- Có đây! Có đây! Thượng hảo hạng lão sơn nhân sâm đây.

Tiêu Phong nghe nói lão sơn nhân sâm để giữ cho khỏi chết lập tức

nhớ ra cũng từng nghe người bệnh nặng sắp tắt thở nếu cho uống mấy

ngụm sâm thang sắc đặc thì có thể cầm hơi, sống thêm được một lúc, trối

trăn vài câu, có điều không nghĩ tới để dùng cho A Tử. Gã chưởng quĩ lấy

ra một cái hộp gỗ gụ, trịnh trọng mở nắp trong đó có ba củ sâm to bằng

ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, bên

1 Nhân sâm mọc hoang lâu năm

ngoài nhăn nhúm càng quí nếu lại thành hình người, đủ cả đầu mình chân

tay ấy là loại già dặn cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông

chẳng có gì đặc biệt, gã quản gia lấy một củ lật đật đi ngay.

Tiêu Phong lấy đĩnh vàng ra, mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm

thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc giùm khách hàng, lập tức bảo nấu sâm

thang đút cho A Tử uống mấy hớp. Lần này may quá nàng không nôn ra.

Lại cho nàng uống thêm mấy ngụm nữa, Tiêu Phong cảm thấy mạch

nhảy mạnh hơn, hơi thở cũng đều hòa được một chút, trong bụng không

khỏi mừng thầm.

Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên cạnh, liên tiếp lắc đầu nói:

- Lão huynh, nhân sâm không phải dễ kiếm, phí phạm thế thật uổng.

Nhân sâm cũng chẳng phải linh chi tiên thảo, nếu như cứu người chết

sống lại được thì kẻ có tiền chắc sống đời đời.

Mấy hôm nay Tiêu Phong không hề rời xa A Tử được lấy một bước,

trong lòng buồn bực đã lâu, nghe gã Vương Thông Trị đứng kế bên lèm

bèm rặt giọng bàn ra, tức khí xông lên, vung tay toan đánh cho y một

chưởng. Thế nhưng ông vừa cất tay thì cố nhịn: Đánh bừa bãi kẻ không

biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?. Ông bèn rụt tay về, ôm A

Tử lên đi ra khỏi tiệm thuốc bắc, văng vẳng nghe Vương Thông Trị vẫn

còn khinh khỉnh nói theo:

- Hán tử này quả là hồ đồ, ôm cái xác chết chạy ngược chạy xuôi,

xem ra tính mạng y cũng chẳng được bao lâu.

Ông thầy lang có biết đâu mình vừa đến quỉ môn quan lại quay trở lại,

nếu như Tiêu Phong tức giận đánh cho bõ tức thì dẫu có mười Vương

Thông Trị cũng thành bất trị.

Tiêu Phong ra khỏi dược điếm rồi nghĩ thầm: Nghe nói lão sơn nhân

sâm chỉ có ở nơi cực lạnh trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó

cầu may. Vẫn biết cứu sống A Tử quả là thiên nan vạn nan, nhưng giữ

cho nàng sống thêm được ngày nào, A Châu ở trên trời có linh thiêng thì

trong lòng cũng vui vẻ thêm được chừng nấy.

Nghĩ thế ông chuyển qua bên phải tìm đường đi về phía đông bắc.

Trên đường đi mỗi khi gặp tiệm thuốc liền đi vào mua nhân sâm, đến sau

tiền bạc tiêu hết, chẳng ngại ngùng gì vào lấy không, vài tên phổ ky2 làm

gì ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng

có thể mở mắt ra, kêu khẽ: Tỉ phu! đến tối cũng ngủ được vài giờ

không cần tiếp chân khí mà vẫn tự mình thoi thóp được. Cứ như thế càng

đi càng lạnh, sau cùng Tiêu Phong cũng bế A Tử đến được núi Trường

Bạch. Tuy nói là trong dãy Trường Bạch có nhiều nhân sâm nhưng nếu

không phải là người chuyên môn đã quen thuộc địa thế, trong nghề sành

sỏi lâu năm, thì dẫu có một năm sáu tháng cũng chưa chắc tìm ra một củ.

Tiêu Phong tiếp tục lên hướng bắc, người đi đường càng lúc càng thưa,

đến sau chung quanh chỉ là rừng sâu cỏ dày, núi cao đồi tuyết, luôn mấy

ngày cũng không gặp một ai, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm: Chết

rồi! Khắp nơi chỗ nào cũng băng tuyết, làm thế nào mà tìm được sâm?

Chi bằng trở về nơi nào có buôn bán, có tiền thì mua, không tiền thì

cướp. Nghĩ thế ông ôm A Tử tìm đường quay trở về.

Khi đó khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng cao mấy thước

thật là khó đi, nếu ông không phải là người võ công trác tuyệt thì dù

không chết cóng cũng bị sa lầy vào trong tuyết trắng chẳng thoát ra được.

Đi đến ngày thứ ba, trời u ám, xem ra bão tuyết đang kéo đến, đưa

mắt trái phải trước sau chỗ nào cũng trắng xóa, trên mặt đất không thấy

một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong trong bụng

hoang mang, tựa hồ đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến chỉ

có tiếng gió rít thổi ù ù bên tai.

Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy bận nhảy lên trên cây cao nhìn

bốn bề, chung quanh chỉ toàn cây cối rậm rạp tuyết phủ trắng xóa nào có

biết đâu là đông, là tây, là nam, là bắc? Ông sợ A Tử bị lạnh, cởi trường

bao ra bọc nàng lại ôm vào lòng. Ông tuy trước nay không sợ trời sợ đất

gì cả nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn lại

một thân một mình, không khỏi chột dạ. Nếu quả như chỉ mình ông thôi

thì cũng đành, biển tuyết tuy mênh mông nhưng cũng không đến nỗi

tuyệt vọng, thế nhưng khỗ nỗi trong tay lại ôm một nàng A Tử đang mê

man, sống dở chết dở.

2 khỏa kế, tức người giúp việc trong tiệm

Đã ba hôm nay ông không ăn uống gì, tính chuyện bắt một con gà

rừng hay con thỏ dại chi đó nhưng cũng không thấy nghĩ thầm: Mình cứ

chạy lung tung thế này chẳng đi đến đâu, chi bằng ngủ lại một đêm trong

rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao sẽ có thể tìm ra phương hướng.

Ông kiếm một nơi khuất gió, kiếm ít củi khô, đốt một đống lửa. Lửa

cháy to rồi, trong lòng cũng cảm thấy ấm áp nhưng bụng đói đến sôi sùng

sục, nhìn dưới gốc cây có những cây nấm dại màu trắng xám xem chừng

không độc liền hái nướng lên ăn đỡ dạ.

Ăn đến hơn hai chục tai nấm rồi tinh thần cũng hơi phấn chấn, bèn đỡ

A Tử nằm dựa vào ngực mình để sưởi. Đang toan nhắm mắt ngủ bỗng

nghe một tiếng à uôm thật lớn, chính là tiếng hổ gầm. Tiêu Phong

mừng quá: Xem ra có thú lớn đến đây, mình có thịt hổ ăn rồi.

Ông lắng tai nghe, thấy có hai con hổ từ tuyết địa chạy tới, kế đó có

tiếng lao xao, dường như có người đang đuổi theo. Ông nghe thấy tiếng

người thật mừng hết cỡ, lắng tai nghe thấy hai con dã thú chạy về hướng

tây, lập tức đặt A Tử xuống bên cạnh đống lửa, thi triển khinh công, đi tắt

chặn đầu chúng lại. Khi đó tuyết đổ đang nhiều, gió bấc thổi mạnh, khiến

cho khắp trời chỗ nào cũng mù mịt.

Chỉ mới chạy được độ mươi trượng đã thấy trên mặt tuyết hai con hổ

vằn vện đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán lưng khoác da thú,

tay cầm đinh ba đang rượt nà theo. Hai con cọp đó thật lớn, chạy được

một quãng thì một con gầm lên quay phắt lại chồm vào người thợ săn.

Hán tử đó liền giơ chĩa lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh thú đâm tới. Con

cọp đó hết sức nhanh nhẹn, hất đầu qua tránh được thiết xoa, cùng lúc đó

con hổ kia cũng xông tới vồ.

Người thợ săn lập tức đảo đinh ba lại, nghe bịch một tiếng đã dùng cán

chĩa quật ngang bụng con vật. Con vật bị đau, rống lên một tiếng, cụp

đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng không màng lập tức chạy theo.

Tiêu Phong thấy người thợ săn thân thể cao to, cánh tay thật khỏe

nhưng không biết võ công, chỉ quen với tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y

đã để thiết xoa đón trước, chính là cách liệu địch cơ tiên nhưng muốn

đâm chết hai con cọp quả không phải dễ.

Tiêu Phong kêu lên:

- Lão huynh, ta đến giúp ngươi đây.

Ông từ trong phóng ra chặn đường hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu

Phong xông ra, hết sức kinh hãi, lớn tiếng la lối om sòm, không phải Hán

ngữ. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì cũng chẳng để ý, giơ tay phải lên,

nhắm ngay đầu một con cọp đánh cho một chưởng, bình một tiếng, con

vật tung lên, lộn tùng phèo, kêu rống lên rồi phóng thẳng vào ông.

Chưởng mới rồi Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành lực, dù là kẻ võ

công cao cường, nếu trúng đòn thì thể nào cũng vỡ đầu nhưng mãnh hổ sọ

cứng xương thô, chưởng lực liệt thạch khai bi kia cũng chỉ khiến nó lộn đi

một vòng rồi lại xông vào. Tiêu Phong khen thầm: Giỏi nhỉ, mi quả là

gớm thật! nghiêng người né qua, tay phải từ trên chém xéo xuống, nghe

bụp một tiếng, trúng ngay ngang sườn con vật.

Cú chém đó ông tăng thêm một thành công lực, con mãnh hổ loạng

quạng mấy bước, rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp

trúng ngay đuôi con cọp, tay trái cũng phụ vào, quát lên một tiếng, thi

triển thần lực kéo ghì con hổ lại. Con cọp đang phóng về phía trước bị

Tiêu Phong giữ ghịt, hai luồng lực đạo chõi nhau khiến con vật bị hất tung

lên.

Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong

quăng con cọp lên kinh ngạc không sao kể xiết. Con cọp ở trên không

nhe răng, giương vuốt, từ cao vồ xuống. Tiêu Phong lại quát lên một

tiếng, song chưởng cùng tung ra, nghe hự một tiếng, trúng ngay bụng dưới

con vật. Bụng hổ là nơi thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng đó chính

là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp liền vỡ nát, lăn lộn

một hồi trên mặt tuyết rồi chết tươi.

Người thợ săn trong lòng hết sức kính phục, người ta tay không đánh

cọp, mình dùng đinh ba giết một con không xong, chẳng khiến người ta

coi thường lắm ru? Nghĩ thế y bèn đâm trái một cái, đâm phải một cái,

hết nhát nọ đến nhát kia nhằm ngay mình hổ mà nhử. Con cọp bị trúng

mấy nhát, hung tính nổi lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.

Gã thợ săn nghiêng qua tránh được, đinh ba đảo ngang, nghe phụp một

tiếng đã đâm ngay vào cổ con thú, hai tay đẩy một cái, con vật rống lên

thảm thiết ngã lăn ra đất. Người đó vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp

xuống mặt tuyết. Chỉ nghe tiếng soạt soạt liên tiếp, quần áo bằng da thú

trên người y đã bục ra một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn

cuộn trông thật hùng vĩ.

Tiêu Phong nhìn thấy khen thầm: Hảo hán tử!. Con hổ nằm chổng

bốn chân lên trời, móng vuốt cào cấu vùng vẫy, chỉ một lát không còn

động đậy gì nữa. Người thợ săn rút chiếc đinh ba ra, cười lên ha hả, quay

người lại, nhìn Tiêu Phong giơ lên một ngón tay cái, nói xí xố mấy câu.

Tiêu Phong tuy không hiểu y nói gì nhưng nhìn thần tình của y cũng biết

đang khen ngợi mình quả là anh hùng, bèn bắt chước bộ dạng của y, cũng

giơ hai ngón tay cái lên nói:

- Anh hùng! Anh hùng!

Người đó mừng lắm, chỉ chỉ vào đầu mũi mình nói:

- Hoàn Nhan A Cốt Đả!

Tiêu Phong nghĩ chắc đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói:

- Tiêu Phong!

Người kia hỏi lại:

- Tiêu Phong? Khất Đan?

Tiêu Phong gật đầu nói:

- Khất Đan! Ngươi?

Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp:

- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!

Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao

Ly có một giống người tên gọi Nữ Chân, tộc nhân dũng mãnh thiện

chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả này là người thuộc giống này3. Tuy

ngôn ngữ không thông nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng gặp được

một đồng bạn cũng vui mừng khôn xiết, lập tức hoa chân múa tay cho y

3 tức Mãn Châu sau này

biết là còn một người nữa, sau đó vác con hổ chết lên đi lại phía A Tử

đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y lên đi theo ở đằng sau.

Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại cắt cổ cho

máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt được nhưng vẫn biết

uống, đến trên chục ngụm mới thôi. Tiêu Phong rất mừng, cắt hai đùi

nướng trên lửa. A Cốt Đả thấy ông tay không xé con vật như người ta xé

con gà, thủ kình như thế y chưa từng thấy, chưa từng nghe, ngơ ngẩn nhìn

hai cánh tay ông một hồi rồi nhẹ nhàng vuốt ve cổ tay, cánh tay ông, nét

mặt đầy vẻ kính phục.

Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn đến no. A Cốt Đả

mới ra hiệu hỏi ông đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng chỉ trỏ ý nói đi tìm

nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc lối. A Cốt Đả cười ha hả, lại

múa may lung tung nói là muốn có nhân sâm thì rất dễ, đi theo y bao

nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay

phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả giơ tay lên khen:

- Khỏe thật!

Địa thế vùng này A Cốt Đả rất quen thuộc tuy trời gió bão lớn nhưng

không lầm lẫn chút nào. Hai người đi đến chiều tối thì ngủ lại trong rừng,

đến sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa

ngày thứ ba, Tiêu Phong thấy trên mặt tuyết rất nhiều dấu chân. A Cốt

Đả liên tiếp ra hiệu nói là đã đến gần tộc nhân rồi. Quả nhiên đi qua hai

cái thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm tấm đến mấy trăm

căn lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, từ trong doanh

trướng lập tức có người ra đón.

Tiêu Phong theo A Cốt Đả tới gần, thấy trước mỗi căn lền đều có một

đống lửa, vô khối đàn bà ngồi đầy chung quanh kẻ thì may da thú, người

thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ngay chính

giữa, vén màn đi vào. Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng

mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn, đang uống rượu, vừa thấy mặt

A Cốt Đả đã lớn tiếng reo hò ầm ỹ. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói

huyên thuyên, nhìn bộ dạng đoán chừng đang kể lại chuyện ông tay

không đánh chết hổ.

Mọi người liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên,

không ngớt tấm tắc khen ngợi. Còn đang xôn xao, một gã người Hán ăn

mặc theo lối con buôn bước vào, quay sang hỏi Tiêu Phong:

- Vị gia đài này có nói được tiếng Hán không?

Tiêu Phong mừng rỡ đáp:

- Được chứ! Đươc chứ!

Hỏi ra mới biết căn lều này là doanh trướng của tộc trưởng Nữ Chân.

Người ngồi giữa có râu đen là trưởng tộc Hòa Lý Bố. Ông ta có cả thảy

mười một người con, người nào cũng anh hùng, A Cốt Đả là con trai thứ.

Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, năm nào đến mùa đông cũng tới

đây thu mua nhân sâm, da thú đến đầu mùa xuân mới quay về. Hứa Trác

Thành biết nói tiếng Nữ Chân nên làm thông dịch cho Tiêu Phong.

Người Nữ Chân với người Khất Đan thường thường vẫn đánh lẫn nhau

nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả

là người lanh lợi giỏi giang, rất được phụ thân yêu thích, người trong bộ

lạc cũng kính trọng y, nay luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên không ai

hiềm rằng ông là người Khất Đan mà đều đối xử như khách quí.

A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở, Tiêu

Phong chối từ mấy câu nhưng A Cốt Đả nhất định không chịu. Tiêu

Phong thấy y thành thực nên đành chấp nhận.

Tối hôm đó người Nữ Chân mở một đại tiệc để đón chào Tiêu Phong,

thịt hai con mãnh hổ đương nhiên trở thành món ăn trân quí. Đã nửa

tháng nay môi Tiêu Phong không được chạm đến một giọt rượu, bây giờ

người Nữ Chân đem túi da này đến túi da khác, đến đâu hết đó, Tiêu

Phong được một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị cay sè cực

mạnh, người thường chỉ cần nửa bao đã say nhưng Tiêu Phong uống luôn

một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Người Nữ Chân xưa nay vẫn

xem lượng rượu uống nhiều ít mà coi là hảo hán, chuyện ông tay không

đánh cọp chỉ nghe kể chưa thấy tận mắt nhưng cách uống rượu thế này,

mười hảo hán Nữ Chân đến uống thi mà chẳng một ai hơn khiến tất cả

đều kính phục.

Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân nể sợ ông nên cũng hết sức

chiều đãi. Tiêu Phong nhàn rỗi không việc gì làm, ban ngày cùng với A

Cốt Đả đi săn, đến tối về lại học tiếng Nữ Chân với Hứa Trác Thành.

Học được bốn năm thành rồi, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không

lẽ không biết nói tiếng Khất Đan xem ra thật không phải nên lại nhờ y

dạy. Hứa Trác Thành đi lại nhiều nơi, chẳng nói tiếng Nữ Chân mà tiếng

Tây Hạ, tiếng Khất Đan cũng đều lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ vốn

không thông minh nhưng tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan so với tiếng

Hán thì giản dị hơn nhiều, ngày rộng tháng dài rồi cũng đủ cho người ta

hiểu không cần phải thông dịch nữa.

Thấm thoát đã mấy tháng qua, đông đi xuân tới, A Tử ngày ngày dùng

nhân sâm thay cơm, thương thế cũng đỡ. Người Nữ Chân đào nhân sâm

nơi hoang sơn dã lãnh, đều là loại sâm già hạng nhất, còn quí hơn cả

hoàng kim. Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều giết được rất nhiều dã thú,

đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng, nếu vào người khác dẫu là hào

phú có một tiểu thư ăn uống sâm nhiều như thế e rằng cũng đến khánh

tận.

Tiêu Phong vẫn ngày ngày dùng nội lực giúp nàng vận khí, bây giờ

một ngày chỉ cần hai lần chứ không phải như trước đây chưởng bất ly

thân. A Tử cũng có lúc nói chuyện được vài câu nhưng chân tay tê bại

không cử động, thành thử đi đứng nằm ngồi, chuyện ăn chuyện uống đều

do Tiêu Phong lo liệu cả. Ông nghĩ đến mối thâm tình của A Châu nên

không hiềm lo toan mệt nhọc, ngược lại còn thấy chăm sóc A Tử thêm

một lần là báo đáp được A Châu thêm một chút nên trong lòng thấy thật

an ủi.

Ngày hôm đó A Cốt Đả dẫn mươi người cùng bộ tộc định đi lên miền

tây bắc săn gấu rủ Tiêu Phong đi cùng nói là gấu da dày lông rậm, rất

nhiều mỡ, bàn chân gấu ăn thật ngon còn mật gấu trị thương rất là linh

nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử tinh thần đã khá nhiều, cũng yên tâm đi

săn nên vui vẻ nhận lời. Đoàn người trời chưa sáng đã ra đi, thẳng đường

về hướng bắc.

Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết đang tan đấy bùn trơn trượt,

trong rừng đầu những cành nát lá mục cực kỳ khó đi nhưng những người

Nữ Chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn đi đứng vẫn thật mau. Đến khoảng trưa,

một người thợ săn già kêu lên:

- Gấu kìa! Gấu kìa!

Mọi người đưa mắt theo hướng tay y chỉ thấy ở xa xa trên đất lầy có

những vết chân lớn, cách không xa lại có một dấu nữa chính là dấu chân

gấu. Mọi người ai nấy cao hứng lập tức theo vết chân lần theo.

Vết chân gấu dẵm xuống bùn cái nào cái nấy sâu đến mấy tấc nên trẻ

con cũng theo được, cả đoàn người hò hét la ó, rảo bước tiến lên. Những

vết chân đó đi về hướng tây, về sau ra khỏi bùn lầy trong rừng ra ngoài

thảo nguyên mọi người đi càng nhanh hơn nữa.

Còn đang rảo bước đuổi theo bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, xa

xa đằng trước bụi bay mù mịt một đại đội nhân mã đang phóng tới. Lại

cũng thấy một con gấu đen thật lớn chạy lên, đằng sau là bảy tám người

cưỡi ngựa to cao vừa hét vừa đuổi, ai nấy tay cầm trường mâu, có kẻ tay

cầm cung tên ra chiều hăm hở.

A Cốt Đả kêu lớn:

- Người Khất Đan đó, bọn chúng đông người, chạy mau, chạy mau!

Tiêu Phong nghe thấy là người đồng bộ tộc với mình, trong lòng cảm

thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả quay đầu bỏ chạy, nhưng không chạy

theo mà đứng lại xem ra thế nào. Thế nhưng bọn người Khất Đan đã hét

lên:

- Bọn mọi Nữ Chân, bắn tên! Bắn tên!

Chỉ nghe tiếng rít lên liên tiếp, vũ tiễn bắn tới như mưa. Tiêu Phong

trong bụng bực tức nghĩ thầm: Chẳng có lý do gì vừa thấy đã bắn là sao?

Cớ chi không hỏi cho rõ ràng?. Mấy mũi tên bắn đến mặt ông đều bị

ông đưa tay gạt ra cả. Bỗng nghe một tiếng A thảm thiết, người thợ săn

Nữ Chân già lưng đã trúng tên, gục xuống chết ngay.

A Cốt Đả cùng cả bọn chạy qua khỏi một ngọn đồi, nằm mọp xuống,

cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong ở giữa,

không biết phải giúp bên nào cho phải. Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn

tiếp tục bắn vào Tiêu Phong như mưa bấc, Tiêu Phong bắt lấy một mũi

tên thuận tay múa lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra, lớn tiếng kêu:

- Làm gì đó? Không nói năng gì đã ra tay giết người là sao?

A Cốt Đả ở đằng sau cái gò gọi:

- Tiêu Phong, Tiêu Phong, chạy lại đây ngay! Bọn chúng không biết

ngươi là người Khất Đan đâu!

Ngay lúc đó, hai tên Khất Đan cầm trường mâu, giục ngựa xông vào

Tiêu Phong, hai ngọn giáo cùng giơ lên chia ra đâm vào hai bên tả hữu.

Tiêu Phong không muốn giết người cùng bộ tộc mình, hai tay chộp hai

cán giáo, hẩy nhẹ một cái, hai gã Khất Đan cùng từ trên yên ngựa ngã

phịch xuống đất. Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai người lên, hai gã

kia kêu rú lên, tung bay trở về rơi xuống một hồi lâu không dậy nổi. A

Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền reo hò khen ngợi.

Một người trung niên mặc áo bào đỏ trong bọn Khất Đan liền lớn

tiếng xí xố ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đan liền chia thành hai

cánh, bao vây bọn Nữ Chân lại để chặn đường rút lui của A Cốt Đả,

nhưng người áo đỏ vẫn còn mấy chục người đứng bảo vệ chung quanh.

A Cốt Đả thấy tình hình bất lợi, lớn tiếng kêu la, vẫy gọi tộc nhân và

Tiêu Phong bỏ chạy. Người Khất Đan bắn tên ra như mưa, chết thêm hai

người Nữ Chân nữa. Bên phía Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không

trật mũi nào, trong khoảnh khắc đã bắn hạ được khoảng chục kỵ sĩ Khất

Đan, có điều quả bất địch chúng nên phải vừa bắn vừa chạy.

Tiêu Phong thấy bọn người Khất Đan ngang ngược chẳng biết phải trái

gì, tuy là người cùng bộ tộc với mình nhưng cũng chịu không nổi, cướp

lấy một cánh cung, vụt vụt vụt vụt, bắn liền bốn mũi tên, mũi tên nào

cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn người đều ngã xuống

ngựa nhưng không ai chết. Người mặc hồng bào lại quát tháo lập tức có

kẻ phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.

Tiêu Phong thấy bên mình nay chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên

đang hết sức bôn đào, vừa chạy vừa bắn trả còn những người khác bị

trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không chỗ nào có thể ẩn nấp,

xem chừng nếu tiếp tục đánh thêm ngay cả A Cốt Đả cũng sẽ bị giết nốt.

Ông nghĩ người Nữ Chân trước nay đối với mình như quí khách, nay bạn

tốt cũng không bảo vệ được thì làm sao còn gọi là anh hùng hảo hán?

Thế nhưng ra tay đại sát một phen để cho bọn người Khất Đan thấy khó

mà lui ắt phải giết rất nhiều người cùng bộ tộc với mình, chi bằng bắt lấy

người thủ lãnh áo đỏ kia, ép y phải hạ lệnh triệt thoái thì mới mong hai

bên bãi đấu được.

Ông định bụng như thế rồi nên dùng tiếng Khất Đan kêu lớn:

- Này, các ngươi mau mau rút lui! Nếu không thoái binh ta sẽ không

nể nang gì nữa đâu nhé!

Soẹt soẹt soẹt ba tiếng, ba mũi giáo đã nhắm ngay mặt ông ném tới.

Tiêu Phong nghĩ thầm: Bọn chúng bay quả không còn biết phải quấy là

gì. Ông rùn mình xuống, xông thẳng về phía người mặc hồng bào. A Cốt

Đả thấy bạn mình mạo hiểm liền kêu lên:

- Tiêu Phong, không được đâu, mau quay lại!

Tiêu Phong không để ý tới, tiếp tục phóng tới thật nhanh. Bọn người

Khất Đan lập tức nhốn nháo, trường mâu vũ tiễn đều nhắm ông mà tấn

công tới. Tiêu Phong chộp lấy một thanh trường mâu, bẻ làm đôi cầm

thanh mâu gãy sử dụng như một thanh trường kiếm, gạt tất cả những binh

khí phóng tới, bước chân vẫn như bay, xông ngay đến trước ngựa người

áo đỏ.

Người đó mặt đầy râu ria, thần tình uy võ, thấy Tiêu Phong xông đến

không tỏ vẻ gì hoảng sợ, giựt lấy ba thanh tiêu thương4 của thủ hạ chung

quanh, vụt một tiếng phóng vào Tiêu Phong. Tiêu Phong khua tay bắt

được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt luôn. Ông vung tay một

cái hai mũi lao bay ra, đâm luôn hai gã hộ vệ hai bên người áo đỏ ngã

xuống ngựa. Người mặc hồng bào kêu lên:

- Giỏi lắm!

Mũi thương thứ ba liền ném ra, Tiêu Phong giơ tả chưởng lên, đẩy đầu

mũi lao, tá lực đả lực, mũi lao vụt bay ngược lại bắn thẳng vào ức con

ngựa y đang cưỡi. Người áo đỏ hoảng hốt kêu lên: Ối trời! vội vàng

4 mũi lao (javelin)

nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, tay trái vươn ra

chộp ngay được đầu vai bên phải của y. Ông nghe phía sau có tiếng gió

ập tới, vội vàng nhún một cái, nhảy vụt về phía trước hơn một trượng,

nghe phập phập, hai thanh trường mâu đã cắm thẳng xuống đất. Tiêu

Phong ôm người áo đỏ nhảy sang bên tả, rơi xuống sau lưng một kỵ sĩ

Khất Đan, vung tay đánh y một chưởng văng xuống rồi giục ngựa chạy ra.

Người áo đỏ giơ quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, ông giơ tay trái

lên kẹp một cái, gã đó không còn cử động gì được nữa. Tiêu Phong quát

lên:

- Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, nếu không ta kẹp chết ngươi

chết tươi bây giờ.

Người mặc hồng bào không còn cách gì khác hơn, đành kêu lên:

- Tất cả lui ngay, không được đánh nữa.

Bọn người Khất Đan xôn xao tiến đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra

tay cứu người. Tiêu Phong để mũi chiếc giáo gãy vào má gã áo đỏ, quát

lớn:

- Các ngươi muốn ta đâm chết y chăng?

Một lão già Khất Đan quát lên:

- Mau thả thủ lãnh của bọn ta ra, nếu không ngươi sẽ bị ngũ mã phân

thi ngay lập tức.

Tiêu Phong cười ha hả, vù một tiếng, nhắm ngay lão già kia lăng

không đánh ra một chưởng. Chưởng đó ông cố tình ra oai dọa cho bọn

chúng một mẻ để khỏi phải giết người nhiều hơn nữa nên kình lực sử

dụng đủ mười thành. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, lão già Khất Đan kia

trúng chưởng, từ trên lưng ngựa ngã văng ra mấy trượng, hộc máu mồm

xem ra không còn sống được nữa.

Bọn Khất Đan xưa nay chưa từng chứng kiến thần kỹ phách không

chưởng, lực đạo vô ảnh vô tung thật chẳng khác gì yêu pháp, ai nấy

hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ Tiêu Phong đánh

trúng mình. Tiêu Phong quát lớn:

- Các ngươi không lui ra, ta sẽ một chưởng đánh y chết trước.

Nói xong giơ tay lên làm như định đánh xuống đầu người áo đỏ. Người

áo đỏ vội kêu:

- Các ngươi lùi ra ngay, ta sẽ ra sau!

Cả bọn lập tức lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi. Tiêu Phong

nghĩ thầm: Khu vực này chỗ nào cũng là đồng cỏ mênh mông, nếu mình

thả thủ lãnh của chúng về, bọn họ cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không thể

nào chạy thoát được. Ông quay sang nói với người áo đỏ:

- Ngươi bảo chúng đem lại đây tám con ngựa.

Y theo đúng thế ra lệnh, các kỵ sĩ Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn

mã giao cho A Cốt Đả. A Cốt Đả căm hận bọn này giết đồng bọn mình,

đấm một tên dắt ngựa nghe bình một tiếng khiến y lăn chòng chọc. Bọn

Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả. Tiêu Phong lại tiếp:

- Ngươi hạ lệnh bảo bọn chúng giết con ngựa đang cưỡi, không để

sót con nào.

Người mặc hồng bào cực kỳ dứt khoát, không tranh biện lớn tiếng

truyền lệnh:

- Mọi người xuống ngựa, giết ngay con ngựa của mình đi.                                                                              Tất cả các kỵ sĩ không ai chần chừ gì, lập tức nhảy xuống, kẻ dùng bội

đao, kẻ dùng trường mâu giết ngay con ngựa của mình. Tiêu Phong không

ngờ quân sĩ tuân lệnh lẹ làng đến thế, trong lòng ngầm bội phục nghĩ

thầm: Gã mặc áo đỏ này xem ra chức vị không phải là thấp, mở miệng

nói ra một câu, các võ sĩ không ai dám trái lệnh. Quân lệnh của người

Khất Đan nghiêm minh thật, thảo nào giao chiến với người Tống bao giờ

cũng thắng nhiều thua ít. Ông bèn nói:

- Ngươi bảo tất cả quay trở về, không ai được đuổi theo. Nếu một

người đuổi theo, ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt

hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì tứ chi đều chặt hết.

Gã áo đỏ tức đến râu ria dựng ngược lên, nhưng bị kẹp chặt không thể

làm gì khác chỉ đành truyền lệnh:

- Các ngươi quay trở về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt

người Nữ Chân.

Các võ sĩ hô to:

- Tuân lệnh!

Tất cả cùng khom lưng hành lễ. Tiêu Phong quay đầu ngựa, đợi cho

bọn A Cốt Đả sáu người lên yên rồi cả bọn theo đường cũ trở về. Đi được

mấy dặm, Tiêu Phong thấy người Khất Đan quả nhiên không đuổi theo,

bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ cưỡi một mình một

con. Tám con ngựa không dừng bước chạy thẳng về đại doanh, A Cốt Đả

bẩm lại cho phụ thân Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, được Tiêu

Phong cứu, bắt được thủ lãnh bọn Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố rất vui

mừng nói:

- Hay lắm, đem tên chó Khất Đan lên đây ta xem.

Người áo đỏ bước vào trong trướng nhưng thần thái vẫn uy võ, đứng

hiên ngang không chịu khuất phục. Hòa Lý Bố biết y là quí nhân của

Khất Đan bèn hỏi:

- Ngươi tên gì? Tại nước Liêu làm chức quan chi?

Gã kia ương ngạnh đáp:

- Có phải ngươi bắt được ta đâu, làm gì có quyền hỏi ta?

Người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán, mỗi khi bắt được

ai thì kẻ đó là nô lệ của mình. Hòa Lý Bố cười ha hả nói:

- Ngươi nói đúng lắm!

Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, khuỵu chân phải, một bên

gối quì xuống, tay phải để lên trán nói:

- Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại ông, bên ta đông

mà vẫn thua. Ta bị ông bắt được, không có điều gì oán hận, nếu ông chịu

thả ta về, ta sẽ đền lại năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba

chục con tuấn mã.

Chú của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói:

- Ngươi là đại quí nhân của Khất Đan, tiền chuộc bấy nhiêu ít quá.

Tiêu huynh đệ, ngươi bảo y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn

lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.

Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, đem giá cả tăng lên gấp

mười, cốt để hai bên trả giá. Với lối sống giản dị của người Nữ Chân, cái

giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã

là một tài sản hãn hữu. Người Nữ Chân giao chiến với người Khất Đan

mấy chục năm qua, chưa bao giờ có món tiền chuộc nào lớn đến thế, nếu

người áo đỏ không chịu tăng thêm cứ theo đúng những gì y hứa trả đã là

một món hoạnh tài khổng lồ.

Ngờ đâu người áo đỏ không cần suy nghĩ đáp ngay:

- Được rồi, cứ thế mà tính.

Những người Nữ Chân trong trướng nghe vậy không khỏi giật mình,

tưởng như không tin ở tai mình nữa. Người Nữ Chân hay Khất Đan nói láo

để đánh lừa nhau không phải là không có, thế nhưng trong giao dịch mua

bán, hoặc đã hứa với ai điều gì thì một là một, hai là hai không bao giờ

nuốt lời. Huống chi đang nói đây là tiền chuộc, một khi người Khất Đan

không giao đủ, hoặc như nói rồi lại không muốn làm thì người áo đỏ

không thể nào trở về bản tộc được thành thử có hứa cuội cũng vô ích.

Phả Lạp Tô sợ rằng y bị bắt rồi kinh hoảng mất trí, đầu óc rối loạn

bèn nói:

- Này, ngươi đã nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng,

bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!

Người áo đỏ vẻ đầy kiêu ngạo, lạnh lùng nói:

- Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã

ba trăm con thì đã là bao? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có bậc nhất thiên

hạ, con số đó coi chẳng vào đâu.

Y quay sang nói với Tiêu Phong, đổi sắc mặt cung kính nói:

- Chủ nhân, ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta

không thèm nghe đâu.

Phả Lạp Tô nói:

- Tiêu huynh đệ thử hỏi y xem y ở nước Liêu làm quan chức gì?

Tiêu Phong chưa kịp mở lời người kia đã nói:

- Chủ nhân nếu muốn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo

đánh lừa ông, ông cũng không biết thật hay giả. Thế nhưng ông là anh

hùng hảo hán, ta cũng anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông thành

thử xin đừng hỏi làm gì.

Tiêu Phong tay trái lật một cái, rút phắt thanh đao đeo nơi hông, tay

phải vỗ vào sống đao, nghe cạch một tiếng lưỡi đao đó liền cong lại, hầm

hè quát:

- Ngươi lớn mật không nói chăng? Nếu bàn tay ta chém xuống đầu

ngươi thì sẽ ra sao?

Người áo đỏ không tỏ vẻ gì sợ hãi, đưa ngón cái tay phải lên nói:

- Tài giỏi thật! Ghê gớm thật! Hôm nay ta được gặp đương thế đệ

nhất anh hùng, quả không uổng! Tiêu anh hùng, nếu ông dùng lực uy

hiếp muốn ta phải chịu khuất phục thì không xong đâu. Ông muốn giết cứ

việc giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cũng cứng cỏi không

kém gì ông đâu.

Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Giỏi, giỏi lắm! Ta không giết ngươi ở đây đâu. Nếu ta một đao giết

ngươi, ngươi chắc không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, ác đấu

một trận nữa.

Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng khuyên giải:

- Tiêu huynh đệ, người này giết đi thật uổng, chi bằng để y sống lấy

tiền chuộc tốt hơn. Nếu như ngươi tức giận, chi bằng dùng gậy gỗ roi da

đánh cho y một chập thật đau là được.

Tiêu Phong đáp:

- Không được! Y muốn cho mình là anh hùng hảo hán thì ta để cho y

toại nguyện.

Ông quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung

tên, nắm tay người áo đỏ cùng ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa ra lệnh:

- Lên ngựa mau!

Người mặc hồng bào không một chút sợ hãi, biết chắc đấu với Tiêu

Phong thì chỉ có chết mà thôi, y đòi đấu thêm một trận nữa chẳng qua chỉ

là mèo vờn chuột, muốn đùa rỡn một hồi rồi mới giết mình nhưng không

sờn lòng lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.

Tiêu Phong theo sau, hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói:

- Quay qua hướng tây!

Người áo đỏ đáp:

- Nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại nơi đây.

Tiêu Phong nói:

- Tiếp lấy!

Ông cầm trường mâu và cung tên ném qua, người kia đều bắt được cả,

lớn tiếng nói:

- Tiêu anh hùng, ta biết chắc không phải là đối thủ nhưng người Khất

Đan thà chết không chịu khuất phục! Ta ra tay đây!

Tiêu Phong đáp:

- Hãy khoan! Tiếp lấy đã!

Ông lại cầm cây giáo và cung tên còn lại trên tay mình thẩy qua, chỉ

còn hai tay không, môi nở một nụ cười khó hiểu. Người áo đỏ cực kỳ giận

dữ, gầm lên:

- Hừ, ngươi định tay không đấu với ta, chẳng phải làm nhục ta quá

lắm hay sao?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Không phải thế! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng bậc anh hùng, yêu

thích người hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta thật nhưng là kẻ

đại đại anh hùng, hảo hán, Tiêu mỗ muốn kết bạn với ngươi! Thôi ngươi

trở về bộ tộc của mình đi.

Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại:

- Cái ... cái gì?

Tiêu Phong mỉm cười đáp:

- Ta nói Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho ngươi bình

an quay trở về.

Người mặc hồng bào tưởng chết đến nơi lại bình yên vô sự, vui sướng

không sao kể xiết hỏi lại:

- Có thực ngươi thả ta về chăng? Ngươi ... chẳng hay ngươi ... muốn

gì? Ta về rồi sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.

Tiêu Phong hiên ngang đáp:

- Ta coi ngươi là bạn, sao ngươi lại không coi ta là bạn? Tiêu mỗ

đường đường hán tử thế này, lẽ đâu lại còn tham ngoại thân tài vật hay

sao?

Người áo đỏ đáp:

- Đúng thế!

Y ném binh khí đi, nhảy xuống ngựa, quì phục xuống đất vái lạy nói:

- Đa tạ ân công tha mạng!

Tiêu Phong quì xuống hoàn lễ đáp:

- Tiêu mỗ không giết bằng hữu, cũng không nhận bạn bè vái lạy.

Còn như là phận nô lệ, thì dẫu có lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mỗ cũng chẳng

tha đâu.

Người áo đỏ lại càng mừng hơn nữa, đứng lên nói:

- Tiêu anh hùng, ông luôn mồm nhận ta là bè bạn, vậy ta cùng ông

kết làm anh em, nên chăng?

Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Trong bang vai vế

phân biệt thật nghiêm minh, từ bang chủ, phó bang chủ trở xuống, còn có

Truyền Công, Chấp Pháp, tứ đại hộ pháp trưởng lão, rồi đến hương chủ

các đà, xuống đến đệ tử tám túi, đệ tử bảy túi cho chí kẻ chưa được mang

túi nào. Thế nhưng ông chỉ lo lập công để được thăng cấp, chưa từng giao

bái anh em với ai, mãi đến sau này ở thành Vô Tích cùng Đoàn Dự đấu

rượu với nhau, có lòng cảm mến bấy giờ mới kết nghĩa kim lan. Bây giờ

nghe người mặc hồng bào nói như thế, nghĩ đến trước đây ở Trung

Nguyên giao thiệp với đủ mọi loại anh hùng, hôm nay lưu lạc, ăn nhờ ở

đậu nơi đất man di, quả thực thất thế biết bao. Bây giờ nghe đề cập đến

chuyện này, ông không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ hào

hùng, quả là một hảo hán liền đáp:

- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi.

Tôn huynh quí canh bao nhiêu?

Người kia cười đáp:

- Tại hạ là Gia Luật Cơ, so với ân công thì lớn hơn mười ba tuổi.

Tiêu Phong nói:

- Huynh trưởng sao vẫn còn gọi tiểu đệ là ân công? Huynh trưởng là

đại ca, xin nhận một lạy của đệ.

Nói xong bèn phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.

Hai người bèn lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi làm

hương, hướng lên trời lạy tám lạy, kết làm anh em. Gia Luật Cơ trong

lòng cực kỳ vui sướng nói:

- Huynh đệ họ Tiêu cũng chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.

Tiêu Phong đáp:

- Chẳng dấu gì huynh trưởng, tiểu đệ chính là gốc người Khất Đan.

Nói xong cởi áo ra, để lộ chiếc đầu sói xanh xâm trên ngực. Gia Luật

Cơ vừa thấy thật mừng nói:

- Quả nhiên đúng vậy, ngươi thuộc về họ bên hoàng hậu Khất Đan.

Huynh đệ, đất Nữ Chân lạnh lắm, chi bằng theo ta đi về Thượng Kinh,

chung hưởng phú quí.

Tiêu Phong đáp:

- Đa tạ hảo ý của ca ca, có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, xem ra

không hợp đời sống giàu sang. Tiểu đệ sống với người Nữ Chân, săn bắn

uống rượu thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Ngày sau nếu nhớ ca ca, thể nào

cũng có lúc qua nước Liêu đi kiếm.

Ông xa cách A Tử cũng đã lâu, khắc khoải không hiểu thương thế

nàng thế nào bèn nói:

- Ca ca nên sớm quay về để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.

Sau đó hai người hành lễ cáo biệt. Tiêu Phong quay ngược đầu ngựa

đã thấy A Cốt Đả cùng hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy

Tiêu Phong đi lâu không về, e ngại không biết có trúng phải ngụy kế của

người áo đỏ hay chăng, trong bụng không an nên đến tiếp ứng. Tiêu

Phong kể lại đã thả y trở về nước Liêu, A Cốt Đả là kẻ rất hiểu biết, rất

anh hùng thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng

như thế lại càng thán phục.

Một ngày kia, Tiêu Phong nhàn rỗi nói chuyện chơi với A Cốt Đả, cho

y hay sở dĩ A Tử thụ thương vì lỡ trúng phải chưởng lực của mình, tuy

dùng nhân sâm có thể duy trì tính mạng nhưng đã lâu không thuyên giảm,

hết sức buồn phiền. A Cốt Đả nói:

- Tiêu đại ca, thì ra cô em của đại ca bị ngoại thương, người Nữ Chân

chúng tôi trị ngoại thương sai khớp xưa nay vẫn dùng ba vị thuốc gân hổ,

xương hổ và mật gấu rất là hiệu nghiệm. Sao đại ca không thử xem thế

nào?

Tiêu Phong mừng quá nói:

- Cái gì chứ gân hổ, xương hổ ở đây thiếu gì? Còn như mật gấu ư, ta

sẽ cố gắng giết ít con là xong.

Ông hỏi kỹ cách dùng, lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao đút cho A

Tử. Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang, đầm lớn kiếm

gấu. Ông đi một mình, có thể thi triển khinh công, so với cùng đi cả đoàn

tiện hơn nhiều. Hôm đầu không thấy dấu vết gấu, hôm thứ hai săn được

một con. Ông mổ lấy mật, chạy về nơi đóng doanh, đút cho A Tử uống.

Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm kiếm nơi rừng sâu núi

thẳm đều là những dược phẩm cực kỳ trân quí dùng để trị thương, mật

gấu tươi lại càng khó kiếm bội phần. Tiết Thần Y tuy nói là y đạo như

thần nhưng không có thuốc thỉ cũng đành chịu, nếu phải dùng lão sơn

sâm cho bệnh nhân dùng thay cơm thì ông cũng không thể nào làm nổi,

còn như Tiêu Phong, cứ vài ngày đi đánh chết một con gấu lấy mật tươi

cho A Tử uống thì càng khó hơn.5

Hôm đó, Tiêu Phong đang ngồi trong trướng nấu xương hổ, gân hổ làm

cao, một gã Nữ Chân hấp tấp chạy đến nói:

- Tiêu đại ca, có khoảng chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại

ca.

Tiêu Phong gật đầu, biết là do nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người đem

tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa chậm rãi tiến vào,

trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật. Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã

nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ xa

đã vội vàng nhảy xuống ngựa, rảo bước tới trước mặt, lạy phục nói:

- Chủ nhân từ khi từ biệt Tiêu đại gia đến nay, nhớ nhung lắm lắm,

đặc biệt sai tiểu nhân Thất Lý đem chút bạc lễ, lại mời Tiêu đại gia đến

Thượng Kinh hàn huyên.

Nói xong khấu đầu mấy lượt, hai tay trình lễ đơn6, thần thái cực kỳ

cung kính. Tiêu Phong đưa tay cầm danh sách cười nói:

- Quả là có lòng, xin hãy đứng dậy đã.

Ông mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan liền nói:

- Ta không biết chữ, chẳng cần xem làm gì.

Thất Lý nói:

- Chút bạc lễ này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng

bạch ngân, một nghìn súc cẩm đoạn, một nghìn thạch lúa mạch hạng

ngon, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài

ra còn một số quần áo đồ dùng.

Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật như thế gấp mười tiền

chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Ông thấy hơn chục con ngựa chở đến

5 sự thực nhân sâm, hùng đảm, hổ cốt là những vị thuốc, dược tính rất mạnh, việc điều

chế và dụng pháp phức tạp không phải là thực phẩm mà có thể dùng thay cơm. Ở đây

tác giả viết theo lối kết cấu của tiểu thuyết, xin độc giả đừng tin là thật.

6 lễ đơn là danh sách viết những vật phẩm mang tới

đã quá nhiều, nếu cứ theo đúng danh sách viết đây thì không biết phải

bao nhiêu ngựa xe mới đủ.

Thất Lý khom lưng nói:

- Chủ nhân sợ các sinh vật đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò

ngựa đều sai mang thêm một phần trừ hao nhưng may nhờ hồng phúc chủ

nhân và Tiêu đại gia, bọn chúng tôi đi đường không bị gió bão dã thú,

sinh khẩu7 tổn thất rất ít.

Tiêu Phong thở dài:

- Gia Luật ca ca tính toán thật chu đáo, nếu ta không nhận thì phụ

tấm lòng tốt của anh ta, còn nếu nhận tất cả, thì e quá đáng, không biết

sao cho phải.

Thất Lý nói:

- Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu như Tiêu đại gia khách sáo không

nhận, tiểu nhân trở về thể nào cũng bị phạt nặng.

Bỗng nghe tiếng tù và u u thổi, người Nữ Chân các doanh trướng đều

cầm đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng truyền lệnh:

- Quân địch đến tấn công, dự bị nghênh chiến.

Tiêu Phong nhìn về phía tiếng tù và thổi thấy bụi bay mù mịt, tưởng

chừng vô số quân mã đang tràn đến. Thất Lý lớn tiếng kêu:

- Các vị đừng hoảng hốt, đây là bò cừu ngựa của Tiêu đại gia đó.

Y dùng tiếng Nữ Chân liên tiếp gọi mấy lần nhưng những người kia

chẳng ai chịu tin, Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy

tộc nhân dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.

Tiêu Phong lần đầu tiên thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ

thầm: Bộ tộc Nữ Chân không đông nhưng người nào cũng nhanh nhẹn

dữ dằn, các kỵ sĩ Khất Đan dưới quyền Gia Luật ca ca xem chừng không

ghê gớm lắm, chưa bằng được khí thế người Nữ Chân, còn như quan binh

nhà Đại Tống thì còn kém hơn nữa. Thất Lý kêu lên:

7 con vật còn sống

- Để tiểu nhân đi bảo bộ thuộc tạm ngừng không tiến lên nữa để

khỏi hiểu lầm.

Y chuyển thân lên ngựa, phóng về hướng tây. A Cốt Đả giơ tay một

cái, bốn tên thợ săn Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm người rong ngựa

chầm chậm tiến tới thấy trên đồng cỏ bụi mù toàn là bò cừu ngựa, hơn

trăm mục nhân Khất Đan dùng sào dài xua đuổi, ngoài ra không có quân

sĩ.

Bốn người Nữ Chân cười rộ lên quay về, bẩm lại cho Hòa Lý Bố.

Chẳng bao lâu, đội gia súc đến gần hơn, tiếng bò kêu ngựa hí rầm rĩ, át

cả tiếng người không nghe thấy gì cả.

Tối hôm đó Tiêu Phong bảo người Nữ Chân giết cừu xẻ bò để đãi

khách phương xa. Hôm sau, ông lấy một phần vàng bạc gấm vóc, thưởng

cho bọn người đưa lễ vật đến. Đợi khi người Khất Đan cáo từ rồi, ông

đem hết tất cả bò cừu ngựa, vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả bảo y chia

cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân tụ tập sống chung với nhau,

không có của riêng, một người được thì toàn thể bộ tộc hưởng chung, thấy

Tiêu Phong khẳng khái như thế không cho là lạ lùng nhưng tự nhiên ở

trên trời rơi xuống nhiều tài vật như thế, ai nấy đều vui vẻ. Toàn bộ tộc

ăn uống vui chơi mấy ngày liền, người người đều cảm kích lòng tốt của

Tiêu Phong.

Qua mùa hạ rồi sang mùa thu, bệnh của A Tử cũng đỡ được vài phần,

thần trí vừa tỉnh táo thấy ngày ngày phải nằm trong trướng dưỡng thương

thật chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa nàng ra ngoài cưỡi ngựa rong

chơi cho thư thái tâm hồn. Hai người cưỡi chung một con, nàng ngồi đằng

trước dựa vào ngực Tiêu Phong nên không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu

Phong chiều chuộng cô gái hết mực, trong mấy tháng liền, trừ những

ngày gió lớn, bão to hai người ngày nào cũng cùng nhau nhàn du. Về sau

những nơi gần đi mãi cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng

trại ngủ ở bên ngoài, mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân dịp

đó đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc

châm, gấu đen, mãnh hổ cả một dãy Trường Bạch bị chết khá nhiều,

không biết bao nhiêu con táng mạng dưới chưởng của Tiêu Phong.

Tiêu Phong vì muốn đi đào sâm nên mỗi lần đều theo hướng đông

hoặc hướng bắc. Hôm đó A Tử bảo rằng phía đông phía bắc phong cảnh

coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây chơi. Tiêu Phong nói:

- Phía tây chỉ là một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông

ngòi gì mà coi.

A Tử đáp:

- Đại thảo nguyên cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả, tiểu muội

chưa từng được thấy biển cả thực bao giờ. Tinh Tú Hải tuy nói là biển

nhưng vẫn còn bến còn bờ.

Tiêu Phong nghe nàng đề cập đến biển Tinh Tú cũng thấy chột dạ.

Trong một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ

lâm đã dần dần quên lãng, A Tử không hành động được, muốn làm

chuyện xấu xa cũng chẳng có cách gì. Còn ông chỉ cố hết sức giúp nàng

trị thương cứu mạng, nhưng lại sợ rằng một khi thuyên giảm, ác tính cả

nàng lại phát tác, lúc đó biết làm sao?

Ông quay đầu nhìn A Tử, thấy khuôn mặt tái mét không một chút

máu, má hóp lại, đôi mắt to đen lõm vào, dung sắc cực kỳ tiều tụy, người

gầy tong teo chỉ còn da bọc xương. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong

lòng: Nàng vốn dĩ là một cô bé con khả ái hoạt bát biết là dường nào, bị

ta đánh đến chết đi sống lại, có khác gì một bộ xương khô, sao ta lại chỉ

nghĩ đến những điều xấu của nàng?. Ông bèn mỉm cười:

- Nếu cô thích đi qua hướng tây thì mình đi qua đó xem sao. A Tử,

khi nào bệnh em đỡ nhiều rồi, ta sẽ đưa em đến biên giới nước Cao Ly để

xem biển cả thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bến bờ,

cảnh đó coi mới thật là hùng vĩ.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Hay quá! Hay quá! Thực ra chẳng cần phải đợi cho bệnh của em

khỏi hẳn lúc ấy mình mới đi.

Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa mừng vừa sợ hỏi:

- A Tử, hai tay của em cử động được như thường rồi.

A Tử cười đáp:

- Nửa tháng trước hai tay tiểu muội đã cử động được, hôm nay lại

càng linh hoạt hơn nhiều.

Tiêu Phong mừng rỡ nói:

- Thế thì hay lắm! Ngươi quả là một con bé cứng đầu, vậy mà sao lại

dấu ta?

Đôi mắt A Tử lóe lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp:

- Em chỉ mong được vĩnh viễn không cử động, có thế tỉ phu mới ngày

ngày ở bên cạnh em. Chú nếu như thương thế em khỏi rồi, tỉ phu sẽ lại

đuổi em đi.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật chân thành, trong bụng không khỏi

thương hại nói:

- Ta là một hán tử lỗ mãng, hôm đó không cẩn thận, lỡ tay đánh cô

ra nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta có gì vui đâu?

A Tử không trả lời, một lát sau mới khẽ hỏi:

- Sao hôm đó tỉ phu xuất chưởng đánh em mạnh như thế?

Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp:

- Chuyện đó vốn đã qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử, ta đánh cô đến bị

thương như thế này, trong lòng cảm thấy thật áy náy, em có giận ta

không?

A Tử đáp:

- Lẽ dĩ nhiên tiểu muội không giận, có việc gì em phải giận tỉ phu

đâu? Em vốn chỉ mong được anh ở kề cận bên mình, bây giờ chẳng phải

được như thế hay sao? Trong lòng em hết sức sung sướng là khác.

Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy thấy ý nghĩ của tiểu cô nương

này thật là quái lạ, nhưng gần đây thấy nàng trở nên tử tế hơn trước, nghĩ

bụng mình hết sức lo lắng cho cô ta đã làm cái tính độc ác của nàng giảm

đi thật nhiều. Ông quay về dự bị ngựa xe, màn trướng, lương khô mọi thứ.

Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được trên chục dặm,

A Tử bỗng hỏi:

- Tỉ phu có đoán ra được chưa?

Tiêu Phong hỏi lại:

- Đoán ra cái gì?

A Tử nói:

- Hôm đó em đột nhiên dùng độc châm đả thương anh, tỉ phu có biết

vì cớ gì không?

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Tâm tư cô thần xuất quỉ một, làm sao ta đoán nổi?

A Tử thở dài một tiếng nói:

- Nếu anh không đoán ra, thì chi bằng đừng nghĩ tới nữa. Tỉ phu xem

thử sao những con vịt trời kia, sao lại làm thành một đoàn bay về hướng

nam là sao?

Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy bên trời hai đoàn đại nhạn, bay thành

hình chữ nhân, quả thực đang bay về hướng nam bèn nói:

- Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam

tránh tuyết.

A Tử hỏi:

- Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về? Mỗi năm bay đi bay

lại chẳng khổ sở khó nhọc lắm ru? Bọn chúng nếu sợ lạnh sao không ở

luôn phương nam, cần gì phải quay lại.

Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ từng suy nghĩ

về tập tính của cầm thú côn trùng, bị nàng hỏi như thế, không sao trả lời

được, lắc đầu cười nói:

- Ta cũng chẳng hiểu sao chúng lại không ngại gian khổ, chắc có lẽ

là chim nhạn sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.

A Tử gật đầu nói:

- Chắc là thế. Anh xem con nhạn sau cùng kia, tuy còn nhỏ vậy mà

cũng ráng bay về phương nam. Mai này cha nó, mẹ nó, chị nó, anh rể nó

cùng bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng đi theo.

Tiêu Phong nghe nàng nói "chị nó, anh rể nó", trong lòng chợt động

đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô bé đang ngẩng đầu mơ màng nhìn về phía

đàn chim nơi chân trời, hiển nhiên câu đó nói ra không có ý gì, nghĩ

thầm: "Nàng buột miệng nói ra, vậy mà đem ta cùng với cha mẹ bỏ

chung một giỏ, đủ biết trong lòng nàng coi mình là một người rất thân, từ

nay không thể nào tùy tiện bỏ rơi nàng. Để đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta

sẽ đưa nàng trở về Đại Lý, giao lại cho cha mẹ, lúc đó gánh nặng trên vai

mới trút đi được.

Trên đường, hai người vừa đi vừa nói chuyện. Đến khi A Tử mệt mỏi,

Tiêu Phong liền bồng nàng từ trên lưng ngựa xuống, bỏ vào thùng xe ở

đằng sau cho nàng ngủ. Khi dêm xuống, hai người tìm rừng cây dựng lều.

Cứ như thế mấy ngày liền, đã đến bên bờ đồng cỏ. A Tử đưa mắt nhìn

quanh thấy đại thảo nguyên không bờ không bến, trong lòng hết sức cao

hứng nói:

- Mình nhìn qua hướng tây chẳng thấy đâu là tận cùng, còn như biển

cả mênh mông thì nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ

không bến.

Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa đồng cỏ, không muốn trái

ý nàng, giơ roi lên quất một cái giục ngựa đi tiếp về hướng tây.

Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả đến lúc nhìn

chung quanh bốn phía, không còn thấy biên giới dồng cỏ là đâu. Khi đó

vào mùa thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng rì rào, xào xạc thật là dễ chịu.

Trong đồng cỏ những thú nhỏ rất nhiều, Tiêu Phong săn bắt con nào ăn

con đó, không lo không sầu.

Lại đi thêm mấy ngày nữa, hôm ấy đến trưa, nhìn đằng xa thấy có vô

số doanh trướng, lại thêm cờ xí mao tiết, dường như chỗ đóng quân, lại

trông như nơi bộ lạc sống chung với nhau. Tiêu Phong nói:

- Trước mặt đông người lắm, không biết họ đang làm gì, mình đi về

dể khỏi gây thêm rắc rối.

A Tử nói:

- Không! Không! Em muốn đến xem. Hai chân em còn chưa cử động

được, đâu có thể gây rắc rối gì cho anh?

Tiêu Phong cười nói:

- Chuyện rắc rối đâu có phải chỉ do ngươi mà ra, có khi người khác

gây cho mình, ngươi có muốn tránh cũng không được.

A Tử cười nói:

- Thế thì mình đến xem cũng chẳng sao cả.

Tiêu Phong biết cái tính trẻ con thích chỗ náo nhiệt của nàng nổi lên,

nên giục ngựa đi chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế phẳng lì, những

doanh trướng đó từ đằng xa đã nhìn thấy nhưng đi cho tới nơi, lộ trình

cũng không phải ngắn. Đi đến bảy tám dặm rồi, bỗng nghe tiếng kèn

hiệu thổi u u, tiếp theo bụi bay mù mịt, hai hàng nhân mã mở ra, một đội

đi về hướng bắc, một đội phóng về phía nam.

Tiêu Phong hơi kinh hãi nói:

- Không xong, đây là kỵ binh người Khất Đan.

A Tử nói:

- Là người của anh đấy ư? Thế thì hay quá chứ có gì bảo là không

hay?

Tiêu Phong đáp:

- Nhưng ta không biết họ là ai, thôi mình quay về.

Ông ghìm cương ngựa quay đầu, theo đường cũ để trở về. Chưa được

mấy bước, bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, lại có mấy đội kỵ binh

Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: Bốn bề không thấy có

địch nhân đâu cả, không lẽ họ thao luyện tập trận chăng?.

Chỉ nghe tiếng người vang lên:

- Bắn hươu đi! Bắn hươu đi!

Phía tây, phía bắc, phía nam chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn

hươu. Tiêu Phong nói:

- Thì ra họ vây để săn thú, thanh thế như vậy quả không phải nhỏ.

Ông bèn bồng A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông

nhìn ra. Chỉ thấy kỵ binh Khất Đan người nào cũng mặc cẩm bào, bên

trong có áo giáp sắt. Cẩm bào màu sắc đội thì đỏ, đội thì xanh, đội thì

vàng, đội thì tím, cờ quạt với áo cùng màu, tới lui nhanh chậm, mã tráng

binh cường trông thật đẹp mắt, Tiêu Phong và A Tử đứng coi mà khen

ngợi thầm. Quân sĩ nghe theo quân lệnh dọc ngang tiến thoái, giơ trường

mâu ra xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử, cũng chỉ liếc một cái

rồi không để ý gì tới nữa. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn bên, dồn

mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con theo khe hở chạy

được ra ngoài thì lập tức có một toán quân nhỏ đi ra cản, vây thành vòng

tròn đuổi trở lại vào trong.

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 27(a)

KIM QUA ĐÃNG KHẤU AO BINH

Thiên quân vạn mã vào ra,

Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.

Cuộc đời như giấc mộng lành,

Hôm nay khất cái mai thành đại vương.

*

* *

Tiêu Phong còn đang đứng xem bỗng nghe có người lớn tiếng gọi:

- Bên kia có phải Tiêu đại gia đấy chăng?

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ai mà lại nhận ra ta nhỉ?”. Ông quay lại

thấy từ đội áo xanh một người phóng ngựa chạy thẳng tới, thì ra là gã

đội trưởng Thất Lý, người mấy tháng trước Gia Luật Cơ sai đem lễ vật

đến cho mình.

Y chạy đến còn cách Tiêu Phong hơn chục trượng đã vội vàng nhảy

xuống ngựa, đi bộ lên, quì đầu gối phải xuống nói:

- Chủ nhân chúng tôi đang ở đằng trước không xa là mấy. Chủ nhân

thường vẫn nhớ mong nhắc đến Tiêu đại gia luôn. Hôm nay không biết

ngọn gió lành nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp

chủ nhân chúng tôi.

Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ cũng ở gần đây, thật là hoan hỉ

nói:

- Ta chỉ tùy ý ngao du, có ngờ đâu nghĩa huynh cũng ở quanh đây,

thế thì hay lắm. Được rồi, nhờ ngươi dẫn đường đến gặp anh ta.

Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy

đến. Y dặn dò:

- Các ngươi mau đi bẩm báo nói là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch

qua thăm.

Hai tên kỵ binh khom lưng nhận lệnh, phóng ngựa chạy đi ngay.

Những người còn lại tiếp tục cuộc săn hươu, riêng Thất Lý tất lãnh một

đội kỵ binh áo xanh, hộ tống Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.

Khi Gia Luật Cơ gửi cho Tiêu Phong vàng bạc bò cừu, ông đã biết y

ắt phải là một đại quí nhân người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế

như vậy xem chừng vị nghĩa huynh này phải là tướng quân, đại quan chi

đó.

Trên thảo nguyên ngựa chạy đi chạy lại như mắc cửi, người nào

cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói:

- Tiêu đại gia hôm nay đến chơi quả là đúng lúc, sáng sớm mai ở

đây có một buổi hội thật là vui nhộn.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng mặt tươi hẳn lên liền hỏi:

- Cái gì mà vui nhộn?

Thất Lý đáp:

- Ngày mai là ngày hội diễn võ. Hai đội vệ quân Vĩnh Xương, Thái

Hòa đều khiếm khuyết chức vụ thống lãnh. Người Khất Đan chúng tôi ai

nấy sẽ ra sức biểu diễn võ nghệ để xem ai là người vận may, được giữ

hai chức vụ này.

Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng nổi

lên, hết sức cao hứng, cười nói:

- Thế thì đúng là khéo thật, được dịp xem võ nghệ người Khất Đan

như thế nào.

A Tử cười nói:

- Đội trưởng ơi, vậy ông ra đại hiển thân thủ, chúc mừng ông đoạt

được một chức thống lãnh.

Thất Lý lè lưỡi nói:

- Tiểu nhân nào có cái gan đó?

A Tử lại cười:

- Đoạt được chức thống lãnh thì đã sao? Chỉ cần tỉ phu ta dạy cho

ông dăm ba miếng võ là ông đoạt được chức đó ngay chứ gì.

Thất Lý vui mừng nói:

- Tiêu đại gia nếu bằng lòng chỉ cho tiểu nhân thì quả là cầu còn

không được. Còn chức thống lãnh gì kia, tiểu nhân không có phúc phận

chẳng dám mơ tưởng tới.

Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, đi độ mươi dặm đã thấy trước

mặt một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới. Thất Lý nói:

- Đây là đội Phi Hùng trong bì thất quân của đại trướng.1

Những người đó đều mặc áo, đội mũ làm bằng da gấu, áo ngoài

bằng lông gấu đen, mũ cao làm bằng lông gấu trắng, hình dáng thật là

uy võ. Đội binh đó chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời hạ

mã, chia ra đứng hai bên nói:

- Cung nghinh Tiêu đại gia.

Tiêu Phong đáp:

- Không dám! Không dám!

Ông giơ tay chào, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng cũng lục

tục theo sau. Đi được hơn chục dặm, lại có một đội binh khác, mặc áo da

hổ, mũ da hổ là đội Phi Hổ Binh chạy đến nghinh tiếp. Tiêu Phong nghĩ

thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm chức quan gì lớn thế mà sao nghi

vệ rầm rộ thế này”. Có điều Thất Lý không nói, mà lần gặp trước Gia

Luật Cơ nhất định không thổ lộ thân thế mình, Tiêu Phong đành chịu

không hỏi nữa.

Đi đến xế chiều tới một nơi đóng quân thật lớn thì người trong đội

Phi Báo, tất cả đều mặc áo đội mũ da báo chạy ra nghinh tiếp, đón Tiêu

Phong và A Tử vào trong căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong vẫn

tưởng vào trong lều này ắt sẽ được gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong

trướng giường nệm khí mãnh đều là đồ sang trọng, trên bàn nhỏ để đầy

đồ ăn, hoa quả nhưng không thấy chủ nhân đâu. Đột trưởng đội Phi Báo

nói:

- Chủ nhân mời Tiêu đại gia ở đây nghỉ lại một đêm, ngày mai sẽ

tương kiến.

Tiêu Phong cũng không hỏi thêm, đến bên bàn cầm bát rượu lên

uống. Bốn tên quân sĩ, kẻ rót rượu, người cắt thịt, hầu hạ rất cung kính.

Sáng hôm sau trở dậy lại tiếp tục đi, ngày hôm dó đi về hướng tây phải

đến hai trăm dặm, đến tới lại ngủ lại một nơi đóng quân lớn.

Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý nói:

- Đi qua khỏi triền núi phía trước mặt thì mình sẽ tới.

Tiêu Phong thấy ngọn núi đó thật là hùng vĩ, một con sông lượn

dưới chân núi chảy cuồn cuộn về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua

sườn núi, trước mắt cờ sí rợp trời, trên đại thảo nguyên chỗ nào cũng đầy

doanh trướng, có đến hàng vạn kỵ binh, bộ tốt, bao chung quanh một

khoảng đất trống ngay chính giữa. Các đội Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ

tống Tiêu Phong liền lấy kèn ra, thổi lên nghe u u u.

Đột nhiên tiếng trống đánh tùng tùng vang lên dữ dội, thêm tiếng

pháo hiệu nổ ầm ầm, trên bãi đất trống quan binh rẽ ra hai bên, một con

ngựa vàng cao to từ trong chạy ra, trên lưng là một đại hán râu xồm,

chính thị Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong kêu lớn:

- Tiêu huynh đệ, có nhớ ca ca chăng?

Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người cùng nhảy xuống,

bốn tay nắm chặt, mừng rỡ không sao kể xiết. Chỉ nghe bốn bề chung

quanh quân sĩ reo hò vang dội:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Binh sĩ lại kêu vạn tuế là sao?”. Ông

đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quân quan sĩ tốt ai nấy khom lưng, cầm đao

chống xuống đất, Gia Luật Cơ cầm tay ông đứng ngay chính giữa, nhìn

ngang nhìn ngửa, vẻ mặt cực kỳ đắc ý. Tiêu Phong hiểu ra lắp bắp:

- Ca ca, thì ra ca ca ... là ... là ...

Gia Luật Cơ cười ha hả nói:

- Nếu như ngươi biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e

rằng sẽ chẳng cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu huynh đệ, tên thực

của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Cái ơn cứu mạng của ngươi ta vĩnh viễn

không bao giờ quên.

Tiêu Phong tuy khoáng đạt hào sảng nhưng trong đời chưa từng diện

kiến hoàng đế bao giờ, hôm nay thấy nghi vệ như thế, không khỏi bối

rối, ấp úng:

- Tiểu nhân không biết bệ hạ, mạo phạm đã nhiều, quả là tội đáng

muôn thác.

Nói xong quì xuống. Ông là thần dân nước Khất Đan, gặp bản quốc

hoàng đế dĩ nhiên phải quì xuống.

Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ dậy, cười nói:

- Không biết thì không có tội. Này huynh đệ, ngươi với ta là anh em

kim lan, ngày hôm nay chỉ tính chuyện nghĩa khí, ngày mai hãy dùng lễ

vua tôi cũng không muộn.

Ông ta giơ tay trái lên vẫy một cái, trong quân lập tức chiêng trống

đánh lên để chào mừng khách quí. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong

hai người cùng đi vào đại trướng.

Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan dựng thành mấy tầng toàn

bằng da bò, trang trí đủ loại màu sắc vàng bạc, cực kỳ rực rỡ, gọi là bì

thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong

ngồi ngay bên cạnh, chẳng mấy chốc bách quan văn võ cũng lục tục vào

tham kiến, Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Vu Việt, Nam

Viện Khu Mật Sứ, Bì Thất Đại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã

Quân Chỉ Huy Sứ, Bộ Quân Chỉ Huy Sứ ... Tiêu Phong nhất thời không

thể nào nhớ cho hết tên bao nhiêu người.

Tối hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng đàn bà

con gái nên A Tử cũng được dự phần tại bì thất đại trướng. Quả đúng là

rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử thấy thế cực kỳ hứng thú, mặt

tươi như hoa. Rượu đã mềm môi, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan ra trước

mặt vua vật nhau làm trò, người nào cũng cởi trần, bắt nắm khoèo vật,

thật là kịch liệt. Tiêu Phong thấy những võ sĩ Khất Đan ai nấy đều thân

hình rắn chắc, cánh tay cuồn cuộn, đưa tay thò chân đều có dáng con

nhà võ, biến hóa xảo diệu tuy không được bằng võ sĩ người Hán nhưng

miếng nào miếng nấy đều sát phạt, thẳng thừng dùng trong chiến trận

quần đấu xem chừng kiến hiệu hơn võ của Trung Nguyên.

Các quan viên văn võ nước Liêu tiến ra mời Tiêu Phong uống rượu.

Tiêu Phong thì ai cũng không từ chối, đến đâu cạn bôi đến đó, trước sau

phải đến hơn ba trăm chén, vậy mà sắc mặt vẫn như không, mọi người

hết sức kinh ngạc.

Gia Luật Hồng Cơ xưa nay vẫn tự phụ là người dũng lực, lần này bị

Tiêu Phong bắt, cả nước ai cũng biết nên cũng có ý muốn Tiêu Phong

biểu lộ cái năng lực phi phàm để che dấu cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ

đâu chưa cần phải ngày hôm sau Tiêu Phong đại hiển tài nghệ võ công

nơi tỉ võ đại hội, bây giờ chỉ lộ chút tửu lượng đã áp đảo quần hùng

khiến ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sung sướng nói:

- Huynh đệ, ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.

A Tử đột nhiên xen vào:

- Không đâu, anh ấy chỉ mới thứ nhì.

Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi lại:

- Tiểu cô nương, y mới chỉ thứ hai thôi sao? Thế thì vị đệ nhất đại

anh hùng là ai?

A Tử đáp:

- Vị anh hùng hảo hán số một ư, cái dó dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi.

Tài nghệ của tỉ phu tiểu nữ tuy giỏi thật nhưng vẫn phải nghe lời bệ hạ,

không dám trái lệnh, thế thì bệ hạ chẳng là đệ nhất anh hùng thì là gì?

Nàng là môn hạ của Tinh Tú lão nhân, nghệ thuật tâng bốc đã

thuộc hàng siêu đẳng, nói ra câu đó thật chẳng khác gì dùng dao mổ trâu

để giết gà. Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Cô nói thế thật hay lắm! Tiêu huynh đệ, ta muốn phong cho ngươi

một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem đã, phong ngươi làm gì cho

xứng?

Khi đó y đã uống say đến bảy tám phần mười, đưa ngón tay gõ gõ

lên trán. Tiêu Phong vội nói:

- Không đâu! Không đâu! Tiển nhân tính tình giản phác, khó mà

hưởng phú quí được, xưa nay vẫn lang thang bốn phương, vãng lai vô

định, quả là không thích làm quan.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Được rồi! Để ta phong ngươi một chức quan chỉ uống rượu không

phải làm gì cả...

Ông nói chưa dứt lời bỗng từ xa truyền lại một hồi tù và u u u inh ỏi,

nghe thật gấp rút. Những người Liêu vốn dĩ đang ngồi bệt dưới đất, uống

rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng hiệu giác, ai nấy kêu toáng lên, cùng nhỏm

dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới

nghe còn cách khoảng hơn chục dặm, lần thứ hai đã gần thêm vài dặm,

lầm thứ ba lại gần thêm vài dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời

này làm gì có con ngựa nào chạy lẹ thế, dẫu có đệ nhất đẳng khinh công

thì cũng không thể nhanh như vậy được. Đúng rồi, chắc là có những trạm

truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, một khi nghe tiếng tù

và lập tức truyền ngay xuống trạm kế tiếp”. Chỉ thấy tiếng hiệu giác cứ

truyền tới, trong nháy mắt đến ngoài bì thất đại trướng thì ngừng lại.

Mấy trăm người ngồi trong trướng vốn dĩ đang ăn uống hò reo, ồn ào

như chợ vỡ, lúc này đột nhiên lặng như tờ.

Gia Luật Hồng Cơ thần sắc trấn tĩnh, chầm chậm nâng kim bôi lên,

uống cạn chén rượu nói:

- Có phản đồ làm loạn ở Thượng Kinh, thôi mình đành phải về vậy.

Nhổ trại!

Hành quân đại tướng lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng

“Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn,

thanh âm càng lúc càng lớn nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự không có vẻ

gì náo loạn mất trật tự. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu ta lập

quốc đã hơn hai trăm năm, quốc uy vang dậy thiên hạ, lúc này tuy có nội

loạn nhưng không có vẻ gì bối rối, đủ biết Liêu chúa bình thời chỉ huy

quân đội có phép tắc hẳn hòi”.

Bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, đội tiền phong xích hậu quân2

ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong cũng lên đường, rồi tiền

quân, tả quân, hữu quân từng đội từng đội đi về hướng nam hồi kinh.

Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói:

- Mình ra xem thế nào!

Hai người ra khỏi trướng, chỉ thấy trong đêm đen mỗi lá quân kỳ

đều có gắn một chiếc đèn lồng, đỏ, vàng, xanh, trắng màu sắc lấp lánh,

hơn một chục vạn quân xuôi nam nhưng chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp,

không một tiếng người. Tiêu Phong hết sức thán phục nghĩ thầm: “Trị

quân như thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng

thượng cậy mạnh đi săn một mình nên ta mới bắt được. Ví như đại quân

cùng đi, người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng ít cũng không chống

nổi với số đông.

Hai người vừa ra khỏi trướng, các vệ sĩ lập tức rỡ lều, chỉ một

thoáng đã đâu đó gọn gàng sạch sẽ, hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất

lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái liền ra lệnh, mọi người

lập tức khởi hành. Bắc Viện Đại Vương, Vu Việt, Thái Sư, Thái Phó

bách quan theo hầu đằng trước đằng sau Gia Luật Hồng Cơ, mặt mày ai

nấy nghiêm trọng nhưng cũng không nói lời nào. Tin tức về vụ nổi loạn

trong kinh tuy đã truyền ra nhưng nội vụ thế nào, tình huống ra sao hiện

giờ vẫn chưa rõ rệt.

Đại đội nhân mã theo đường về nam được ba ngày, tối hôm đó vừa

đóng quân xong thì một tên thám tử phóng ngựa chạy đến bẩm với Gia

Luật Hồng Cơ:

- Nam Viện Đại Vương nổi loạn, chiếm cứ hoàng cung, từ hoàng

thái hậu, hoàng hậu trở xuống đến các vương tử, công chúa cùng gia

quyến bách quan đều đã bị chúng bắt giữ cả rồi.

Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vẻ mặt lập tức biến sắc.

Việc quân quốc trọng sự nước Liêu do hai viện Nam Bắc chia ra

cáng đáng. Lần này Bắc Viện Đại Vương tùy giá đi săn để Nam Viện

Đại Vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện Đại Vương Gia Luật

Niết Lỗ Cổ, tước phong Sở Vương, bản thân y không nói làm gì nhưng

cha y Gia Luật Trọng Nguyên, đương kim Hoàng thái thúc, quan phong

Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, ấy mới thực là đáng ngại.

Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là

Thánh Tông. Con trai trưởng của Thánh Tông là Tông Chân, con trai thứ

là Trọng Nguyên. Tông Chân tính nết hiền lành, bụng dạ rộng rãi còn

Trọng Nguyên lại rất võ dũng, có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà

có di mệnh truyền ngôi cho con trưởng Tông Chân. Thế nhưng hoàng

hậu lại thương con trai thứ hơn nên âm mưu lập Trọng Nguyên lên ngôi.

Nước Liêu từ xưa tới nay, hoàng thái hậu quyền thế rất lớn thành thử

ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng

khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem mật mưu của mẫu hậu báo

cho huynh trưởng khiến cho bao nhiêu tính toán của hoàng thái hậu đều

không thành. Tông Chân vì chuyện đó nên đối với em cực kỳ cảm kích,

lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền

ngôi cho ông ta để báo đền ân đức.

Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, nhưng khi ông ta

qua đời, hoàng vị lại không truyền cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà

lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.

Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên

phong cho Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc, để minh định rằng chú

mình sẽ kế thừa ngôi vua của nước Liêu, lại phong thêm chức Thiên Hạ

Binh Mã Đại Nguyên Soái, lúc lâm triều miễn lạy, miễn xưng tên, ban

cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu trong triều phải

nói là người được tôn sủng bậc nhất. Con ông ta là Niết Lỗ Cổ được

phong Sở Vương, chấp chưởng mọi việc quân chính yếu vụ Nam Viện

nên được gọi là Nam Viện Đại Vương.

Năm xưa Gia Luật Trọng Nguyên rõ ràng là được ngôi vua nhưng

nhường cho huynh trưởng đủ biết ông ta là người trọng nghĩa khí, lại tốt

nhịn. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu việc quân

quốc trọng vụ ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi

ngại chút nào. Bây giờ nghe tin truyền đến kẻ mưu phản là Nam Viện

Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, Gia Luật Hồng Cơ vừa lo lắng vừa kinh

hoàng, vốn biết tính tình Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự rất là tàn

nhẫn, nếu y mưu phản thì cha y ắt không đứng ngoài.

Bắc Viện Đại Vương tâu rằng:

- Bệ hạ đừng lo vội, Hoàng thái thúc ắt nhìn vấn đề rõ ràng, không

thể nào tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc

này đã đem quân bình loạn rồi.

Gia Luật Hồng Cơ đáp:

- Cũng mong là thế.

Mọi người ăn cơm tối xong, tên thám tử thứ hai lại đến bẩm báo:

- Nam Viện Đại Vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra

chiếu cáo tri thiên hạ.

Y không dám tâu tiếp phần bên dưới, chỉ hai tay dâng lên chiếu của

tân hoàng đế. Hồng Cơ cầm lấy xem qua thấy chiếu thư tố cáo đích danh

Gia Luật Hồng Cơ là soán vị ngụy đế, nói là tiên đế đã lập Gia Luật

Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ, trong hai mươi bốn năm ai ai cũng

biết, nhưng khi băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, ăn trộm ngôi

đại bảo, người người ai ai cũng phẫn nộ, hiện Hoàng thái đệ đã chính vị

lên làm vua, đốc suất binh mã thiên hạ đi trừ nghịch ngụy ...

Gia Luật Hồng Cơ trong cơn cuồng nộ, cầm chiếu thư vứt luôn vào

đống lửa, nhưng trong bụng cực kỳ lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu

này lời đanh thép đâu ra đấy, quân dân Liêu quốc xem chỉ e lòng người

hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên

Soái, trong tay cầm binh phù, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh

mã, chưa kể thêm quân dưới tay con ông ta là Nam Viện Đại Vương. Ở

đây tùy giá ta chỉ có chưa đầy mười vạn, quả bất địch chúng, làm thế

nào bây giờ đây?”. Tối hôm đó ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ

được.3

Tiêu Phong nghe thấy Liêu đế định phong cho ông một chức quan

đã toan nhân lúc đêm khuya dẫn theo A Tử không từ biệt lẻn đi, thế

nhưng lúc này thấy nghĩa huynh gặp cảnh nguy nan, chẳng nỡ bỏ rơi ông

ta, bằng giá nào cũng phải ra tay giúp nhau một chuyến cho khỏi phụ

tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó ông ra ngoài doanh dạo chơi,

nghe thấy các quan binh thì thầm to nhỏ, đều nói cha mẹ vợ con đang ở

Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt giữ cả, e rằng tính mạng không còn.

Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc dao động

lòng người, quan binh khác trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ

sụt sùi. Quan tướng thống binh tuy cực lực ngăn trở, chém đầu mấy kẻ

khóc to hơn cả làm gương nhưng cũng không sao dứt hết được.

Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy tiếng khóc vang động biết rằng lòng

quân có chiều ly tán, lại càng lo lắng.

Sáng sớm hôm sau, thám tử lại đến báo rằng Hoàng thái thúc và Sở

Vương dẫn binh năm mươi vạn, đang tiến lên phía bắc mưu toan phạm

giá. Hồng Cơ nghĩ thầm: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn

đường lui, nếu như bại trận thì cũng đành một phen tử chiến cho xong”.

Ông lập tức chiêu tập bách quan để thương nghị. Quần thần ai nấy một

lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện cùng chết với chủ nhưng

chỉ lo lòng quân không còn vững chãi.

Hồng Cơ truyền lệnh xuống:

Tất cả các quan binh hãy ra sức bình nghịch thảo tặc, khi dẹp yên

được giặc rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.

Ông mặc giáp trụ bằng vàng, tự mình đốc suất ba quân nghinh chiến

với quân của Hoàng thái thúc. Các quan binh thấy hoàng thượng tự mình

cầm quân ra chống địch lập tức dũng khí bùng lên, hô vạn tuế ba lần

quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn quân chia thành bốn bộ

phận tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang

tiến về phía nam, thêm những tiểu đội du kỵ đi tuần ở hai bên.

Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ đóng

vai hộ vệ tùy giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng binh bảo hộ cho A Tử ở

hậu quân. Tiêu Phong thấy Gia Luật Hồng Cơ lông mày nhăn tít lại, biết

ông chưa có được kế hoạch gì trong trận chiến này.

Quân đi đến giữa trưa bỗng nghe đằng trước tiếng tù và nổi lên.

Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh:

- Xuống ngựa!

Các kỵ binh ai nấy nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn

Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là còn ngồi trên yên. Tiêu Phong

không hiểu sao các kỵ binh lại hạ mã, còn đang thắc mắc, Gia Luật

Hồng Cơ cười hỏi:

- Huynh đệ ở tại Trung Nguyên lâu ngày nên không biết phương

pháp hành quân của người Khất Đan, phải không?

Tiêu Phong đáp:

- Thần đang mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười đáp:

- Ha ha, cái hai chữ bệ hạ kia không biết có còn được tới lúc mặt

trời lặn ngày hôm nay nữa hay không? Ta với ngươi dùng tình anh em

mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?

Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông nhuốm vẻ cay đắng bèn nói:

- Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải lo lắng quá như vậy.

Hồng Cơ nói:

- Giao phong trên đất bằng, quan trọng nhất là sức ngựa, sức người

chỉ đứng hàng thứ hai.

Tiêu Phong bấy giờ mới hiểu nói:

- À, thì ra thế! Kỵ binh xuống ngựa để cho tọa kỵ khỏi mệt mỏi.

Hồng Cơ gật đầu nói:

- Dưỡng sức cho ngựa khi lâm địch xung phong hãm trận vẫn còn

khỏe như lúc đầu. Người Khất Đan đông chinh tây thảo, đánh đâu thắng

đó chính là nhờ cái bí quyết quan trọng này.

Ông ta nói tới đây, từ xa xa đằng trước bụi bay mù mịt, bốc lên cao

đến mươi trượng, chẳng khác gì một đám mây vàng cuồn cuộn kéo tới.

Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói:

- Hoàng thái thúc và Sở Vương đều chinh chiến lâu năm, là những

tướng tài của nước Liêu ta sao lại xua binh kéo đến ầm ầm, không dưỡng

sức cho ngựa là sao? Hừ, thì ra bọn chúng hữu thị vô khủng4 cho rằng thể

nào cũng thắng nên không úy kỵ gì cả.

Ông còn đang trù trừ đã nghe tù và tả quân và hữu quân cùng trổi

lên. Tiêu Phong đưa mắt nhìn thấy phía đông cũng có hai cánh quân,

phía tây cũng có hai cánh quân, địch từ năm phía công tới. Gia Luật

Hồng Cơ mặt liền biến sắc quay sang vị tướng chỉ huy trung quân ra

lệnh:

- Kết trận lập trại mau!

Trung quân tướng quân đáp lời:

- Tuân lệnh!

Y giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu

quân cùng quay đầu lại đồng thời một toán quân dùng búa đóng các cột

dùng để dựng bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông,

chỉ chốc lát đã ghép gỗ thành một bức tường cực lớn giữa thảo nguyên,

tiền hậu tả hữu chỗ nào cũng có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn

sau thành, cung trong tay sẵn sàng, đợi giờ buông tên.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai

thắng ai bại thì người Khất Đan đồng tộc của ta cũng thây đầy đồng nội.

Hay hơn hết vẫn là nghĩa huynh đắc thắng, nếu như chẳng may thua trận

thì ta cũng cố tìm cách cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến được nơi

an toàn, còn chuyện có còn làm hoàng đế hay không cũng chẳng sao”.

Doanh trại của Liêu đế kết xong chưa bao lâu thì đội tiền phong của

loạn quân đã tới nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại xa xa nơi

cung nỏ bắn không tới được. Thế nhưng vẫn nghe tiếng trống tiếng kèn

liên miên bất tuyệt, từng đội, từng đội loạn quân tiến đến vây quanh,

bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa

mắt nhìn ra thấy đầy mặt đất chỗ nào cũng là quân địch không biết đâu

là cùng nghĩ thầm: “Binh thế nghĩa huynh kém xa, quả bất địch chúng,

xem chừng thua mất thôi. Trời sáng không tiện xung đột trùng vây đào

tẩu, chỉ còn nước cố giữ cho đến tối lúc đó ta tìm cách cứu y”. Thế nhưng

bóng nắng những cây gỗ đóng trại chiếu xuống đất còn ngắn ngủn, mặt

trời đang chói chang chỉ mới xế trưa một chút.

Chỉ nghe tiếng cạp cạp cạp mấy tiếng, một đàn vịt nước bay thành

đội giữa lưng trời. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu nhìn ngơ ngẩn, cười

gượng nói:

- Chỉ có nước biến thành con nhạn chứ có chắp cánh cũng không

bay khỏi nơi đây được.

Bắc Viện Đại Vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau biến sắc,

biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân trong lòng khiếp sợ. Quân địch

đánh trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng

chỉ huy trung quân hét lớn:

- Đánh trống!

Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng tùng tùng vang lên.

Phía bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang

trời dậy đất, cầm mâu xông thẳng qua. Khi thấy tiền phong quân của

địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng

trống của ngự doanh lập tức ngừng, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra,

quân tiền phong của địch lả tả ngã xuống. Thế nhưng quân địch kẻ trước

ngã người sau tiến lên, quân mã đi trước biến thành tấm mộc chắn cho

kẻ đi sau. Bộ binh cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân xông được tới

nơi bắn tên vào ngự doanh.

Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu quả có hơi khiếp sợ nhưng khi tiếp chiến

rồi, dũng khí lập tức tăng gia gấp bội, đứng trên cao tay cầm trường đao,

ra lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc

chiến đều hô lớn:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bên địch nghe thấy “Vạn tuế!” ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng

Cơ hoàng bào kim giáp, đứng ngay tại đài cao trong ngự doanh, nhất thời

sợ uy của ông nên ngần ngừ không dám tiến. Hồng Cơ thấy có dịp may

liền quát lớn:

- Kỵ binh tả quân xông ra vây lại.

Tả quân do Bắc Viện Khu Mật Sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng

ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền từ ngang hông đánh ra vây quân địch. Loạn

quân còn đang do dự, ngự doanh quân đã tới nơi, trận thế lập tức đại

loạn. Trống của ngự doanh quân đánh liên hồi như sấm, quân địch chỉ

tiếp chiến được một lát phải rút về, ngự doanh quân liền xông lên truy

sát, khí thế cực kỳ hung tợn.

Tiêu Phong mừng lắm kêu lên:

- Đại ca, trận này mình đại thắng rồi.

Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân

tiếp viện. Đột nhiên nghe tiếng tù và nổi lên, chủ lực của quân phản

loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh, chỉ trong một thoáng

vũ tiễn trường mâu phóng tới vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu

trời, máu me vung vãi. Tiêu Phong xem mà trong bụng hãi thầm: “Cảnh

ác đấu như thế này ta bình sinh chưa từng thấy bao giờ. Một người dù võ

công thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng

dùng được vào việc gì, cùng lắm cũng chỉ tự bảo vệ được mình là may.

Cảnh đại quân giao chiến với cảnh tỉ đấu trong võ lâm, không thể nào có

thể so sánh với nhau được”.

Bỗng nghe tiếng phèng la từ phía sau phản quân vang lên ra hiệu

thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui rồi, tên chặn đường liền bắn ra

như mưa, Trung Quân tướng quân và Bắc Viện Khu Mật Sứ ba lần xung

phong nhưng không qua khỏi được trận thế của địch, ngược lại còn bị

bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Sĩ tốt chết nhiều quá, tạm thời thu binh.

Lập tức ngự doanh quân cũng gióng chiêng thu binh.

Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông đến tập kích

nhưng trung quân đã phòng bị trước, giả như thua chạy, hai cánh quân

liền đánh ập vào vây luôn ba nghìn quan quân vào giữa, còn mấy trăm

người khác xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh

quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm người. Trận ác đấu đó

chưa đầy một giờ nhưng chém giết nhau cực kỳ thảm khốc.

Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống giữa

hai bên đầy xác người, những người bị thương rên rỉ kêu la thật là thê

thảm. Lại thấy hai bên mỗi bên xông ra một đội áo đen khoảng ba trăm

người, ngự doanh quân đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng

kiểm tra những người bị thương. Tiêu Phong tưởng những người này ra

tìm người bị thương để cứu chữa, nào ngờ những quan binh áo đen kia rút

phắt trường đao, giết sạch thương binh của đối phương. Những người bị

thương chết cả rồi, sáu trăm người đó rống lên một tiếng hai bên liền

đấu với nhau.

Sáu trăm hắc y quân võ công ai nấy không phải dở, trường đao lấp

loáng, ra sức ác đấu, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém chết

lăn ra. Những người áo đen đội mũ vàng thuộc đội ngự doanh võ công

tương đối cao hơn, số bị giết chỉ độ vài chục người khiến cục thế biến

thành hai ba người đánh một và như thế việc thắng phụ đã rõ ràng. Đấu

thêm một lúc nữa, biến thành ba bốn người hợp đấu một người. Thế

nhưng quan binh hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản

loạn tụ thủ bàng quan chứ không cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng

ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân

còn sống sót khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là

người Liêu có cái phép tắc như thế”.

Lần ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn như lần

trước nhưng lại kinh tâm động phách hơn nhiều. Hồng Cơ giơ cao trường

đao, lớn tiếng nói:

- Quân phản loạn tuy đông nhưng không có chí chiến đấu. Đánh

thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy mà thôi.

Quân ngự doanh cùng la to:

- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bỗng từ phía trong phản quân có tiếng tù và, năm người cưỡi ngựa

chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay bưng một mảnh da cừu, lớn tiếng

đọc bản chiếu thư của Hoàng thái thúc ban bố:

Gia Luật Hồng Cơ soán vị, là một ngụy quân, hiện nay Hoàng thái

thúc đã lên ngôi chính thống. Phàm là quan binh trung thành của nước

Liêu ta thì ngay hôm nay phải về kinh qui phục, ai nấy được thăng ba

cấp...

Quân ngự doanh lập tức có hơn một chục binh sĩ bắn tên ra, nghe

kêu vút vút. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên bảo vệ. Gã kia vẫn tiếp

tục đọc, đột nhiên năm con ngựa cùng bị bắn ngã, nhưng năm người vẫn

đứng nấp sau thuẫn bài đọc cho hết “chiếu thư” của Hoàng thái thúc, lúc

đó mới quay về.

Bắc Viện Đại Vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ

động lòng liền quát lớn:

- Ra chửi lại đi!

Ba chục tên lính liền bước ra hơn chục trượng, hai chục người cầm

thuẫn bài bảo hộ, còn lại là mười tên “thợ chửi”, đứa nào cũng mồm to

giọng lớn, tên thứ nhất liền bắt đầu, nào là “phản quốc gian tặc, chết

không có đất mà chôn” ... tên thứ hai lại tiếp, đến sau toàn những câu

hết sức thô tục. Tiếng Khất Đan Tiêu Phong biết chẳng bao nhiêu, ngôn

từ của những tay “thợ chửi” này ông phần lớn không hiểu nhưng thấy

Gia Luật Hồng Cơ luôn luôn gật gù, có vẻ thích thú, ắt là những “mạ

thủ” này chửi cũng có đầu có đuôi.

Tiêu Phong nhìn qua phía trận thế bên địch, thấy xa xa dưới lọng

vàng tiết mao rực rỡ có hai người cưỡi ngựa, tay cầm roi chỉ trỏ. Một

người toàn thân hoàng bào, đầu đội mũ xung thiên, râu hoa râm dài, còn

người kia mặc hoàng kim giáp trụ, gương mặt gầy choắt, dáng điệu tinh

anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra hai người này hẳn là cha con

Hoàng thái thúc và Sở Vương rồi”.

Đột nhiên mười tên “thợ chửi” kia hạ giọng thì thầm bàn tán một

hồi, rồi cùng cất cao giọng vạch trần những chuyện xấu xa của Hoàng

thái thúc và Sở Vương. Hoàng thái thúc dường như là người đứng đắn,

không có chuyện gì có thể bới móc thành ra cả mười tên chỉ lôi toàn

chuyện Sở Vương, nói y gian dâm phi tử của phụ thân, cậy quyền thế

cha làm điều càn rỡ. Những lời đó hiển nhiên cốt để đâm thọc, ly gián

cha con. Cả mười người cùng cao giọng, luận điệu cũng na ná như nhau

truyền ra xa đến mấy dặm nên trong đám mấy chục vạn quân không ít

người nghe rõ ràng.

Sở Vương giơ roi vẫy một cái, phản quân cùng gào lên một lượt,

người nào cũng a a ầm ỹ, ồn ào rức lác lập tức át hết giọng mười tên

“thợ chửi” kia.

Hai bên loạn lên một hồi, bên địch bỗng tẽ thành hai, đẩy ra mấy

chục chiếc xe đến trước quân ngự doanh thì ngừng lại. Những quân lính

đẩy xe lôi từ trong xa ra mấy chục người đàn bà, có người thì tóc trắng

như bông, có người tuổi còn non choẹt, quần áo ai nấy cực kỳ sang trọng.

Những người đó vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức ngừng bặt.

Gia Luật Hồng Cơ kêu lên:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Thể nào con cũng sẽ bắt bọn phản đồ, băm chúng

ra thành vạn mảnh để cho mẹ vui lòng hả dạ.

Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẹ của Gia Luật Hồng

Cơ tức đương kim Hoàng Thái Hậu, ngoài ra là Tiêu hoàng hậu và các

phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở Vương thừa cơ Hồng Cơ ra

ngoài đi săn nổi loạn, vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu và tất cả

những người kia.

Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:

- Bệ hạ đừng nghĩ gì đến mẹ già vợ con, cứ ra sức trừ loạn giết giặc

đi.

Mấy chục tên quân sĩ liền rút trường đao nhứ vào cổ các hậu phi,

những phi tần tuổi trẻ ai nấy kinh hãi khóc òa lên. Gia Luật Hồng Cơ nổi

giận, quát lên:

- Bắn chết bọn đàn bà đang khóc cho ta!

Chỉ nghe vèo vèo, hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra, những phi tần đang

khóc bị trúng tên ngã xuống chết ngay. Hoàng hậu reo lên:

- Bệ hạ bắn giỏi lắm, giỏi lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể nào để

hủy diệt trong tay gian tặc được.

Sở Vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều cứng cổ như thế,

không thể bức bách được Hồng Cơ, ngược lại còn làm dao động quân

tâm bên mình bèn ra lệnh:

- Đẩy bọn đàn bà lên xe, lui lại.

Các binh sĩ liền áp giải Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mọi người lên

xe đẩy về phía sau. Sở Vương lại hạ lệnh:

- Đem gia quyến quân địch ra.

Chỉ nghe tu tu tu tiếng còi tre thổi lên nghe thật thê lương, quân mã

lại giạt sang hai bên, rồi tiếng xích kêu loảng xoảng không ngớt, một

đoàn người già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát tiếng

khóc hai bên vang dậy. Thì ra đây là gia quyến của ngự doanh quân.

Ngự doanh quân vốn là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ

đặc biệt ưu đãi nên cho gia đình của họ ở trong kinh thành, một là để cho

binh lính cảm kích, khi có việc ra sức liều thân, thứ nữa cũng để canh

chừng khiến đội quân tinh nhuệ này xuất chinh không dám hai lòng, ngờ

đâu lần này đi săn mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia nhân quyến thuộc

của ngự doanh quân phải đến hơn hai chục vạn người, giải đến trận tiền

bất quá chỉ chừng ba vạn, trong đó vô khối người bị bắt oan nhưng chưa

phân biện được thành thử bồng con bế cháu, người nọ níu người kia loạn

cả lên.

Một tên tướng của Sở Vương giục ngựa chạy ra lớn tiếng nói:

- Chúng quan binh ngự doanh quân nghe đây: Người nhà các ngươi

lớn nhỏ đã bị bắt cả rồi, ai đầu hàng thì được xum họp với gia đình,

thăng quan ba cấp lại có thưởng. Còn như không đầu hàng thì tân hoàng

đế đã có chỉ dụ sẽ giết sạch hết gia quyến chúng bay.

Người Khất Đan xưa nay tàn nhẫn hiếu sát, nay nói đến “giết sạch”

thì không phải là chuyện dọa xuông. Trong đám ngự doanh quân có

người nhận ra thân thuộc mình “Cha ơi, mẹ ơi, con ơi, mình ơi, em ơi ...”

hai bên gọi nhau ơi ới rầm rĩ.

Trong đám phản quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ

hung hăng bước ra, tay cầm đao sáng quắc. Tiếng trống vừa ngừng lại,

hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia thuộc của ngự

doanh quân. Gã tướng quân kia lại quát lên:

- Kẻ nào đầu hàng tân hoàng đế thì có trọng thưởng, bằng không,

bao nhiêu người thân bị giết sạch.

Y giơ tay lên, tiếng trống lại đánh inh ỏi. Ngự doanh quân biết rằng

một khi y phất tay, tiếng trống sẽ ngừng, hai nghìn thanh đao sáng quắc

kia sẽ chém xuống. Đám thân binh kia xưa nay trung thành với Gia Luật

Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở Vương có đem “thăng quan” “trọng

thưởng” ra dụ, cũng không ăn thua, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con

vươn cổ chờ chém, làm gì mà không hoảng sợ?

Tiếng trống vẫn tùng tùng không ngớt, tim trong lồng ngực đám ngự

doanh quân cũng thình thình đập theo. Đột nhiên trong đám quân có kẻ

kêu lên:

- Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng giết mẹ tôi!

Y quăng trường mâu xuống, chạy bổ nhào về một bà lão trong đám

địch quân. Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh quân bắn ra,

trúng ngay giữa lưng người nọ. Người đó chưa chết ngay vẫn còn tiếp tục

lao về phía người mẹ. Chỉ nghe thấy tiếng ”Mẹ ơi! Con ơi!” ồn ào vang

dậy, mấy trăm người trong ngự doanh quân cùng chạy ùa lên. Những

tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém loạn xạ nhưng

làm sao ngăn nổi? Mấy trăm người đó chạy qua rồi, chẳng mấy chốc

thành mấy nghìn người. Sau mấy nghìn người đó trận thế liền hỗn loạn,

trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua có đến sáu bảy vạn người

qua bên kia.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng biết rằng đại thế đã hỏng, thừa

cơ thân quân gặp gỡ gia quyến tình hình đang náo loạn chặn lối đối

phương lập tức ra lệnh:

- Lui quân về phía đất bằng trên núi cao mạn tây bắc.

Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra, số chưa chịu hàng cũng

còn khoảng hơn tám vạn người, hậu quân đổi thành tiền quân, rút lui về

hướng tây bắc. Sở Vương vội vàng sai kỵ binh đuổi theo nhưng trên

chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu, ngựa chạy không

nhanh được, đến khi dẹp được bọn họ ra thì Gia Luật Hồng Cơ cùng ngự

doanh quân đã đi xa rồi.

Tám vạn thân quân khi đến được chân núi thì đã về chiều, quân sĩ

vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, từ cao trông xuống để làm

thế phòng ngự. Sau khi doanh trại đã xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở

Vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến chặn dưới chân núi, lập tức đánh lên.

Quân ngự doanh bắn tên lăn đá xuống như mưa, đẩy lùi quân phản loạn.

Sở Vương thấy từ dưới công lên không có lợi nên đành thu binh, an

doanh ở chân núi.

Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng cạnh mỏm núi nhìn về phía

nam thấy lửa trong trại phản quân đầy như đom đóm, xa xa lại có ba con

rồng lửa ngoằn ngoèo, đó là ba đạo quân kéo đến tiếp viện vi công.

Hồng Cơ trong lòng buồn bã, đang định vào trướng thì Bắc Viện Khu

Mật Sứ đến bẩm:

- Một vạn năm nghìn quân của thần đã chạy xuống dưới núi đầu

hàng quân phản nghịch. Thần trị quân không ra gì, thật đáng chết.

Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói:

- Cái dó không phải lỗi nhà ngươi, thôi xuống đi nghỉ.

Ông quay đầu lại thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa

xa bèn nói:

- Khi trời sáng, phản quân sẽ đem toàn lực đánh lên, chúng mình sẽ

bị bắt cả. Ta là vua một nước, không thể nào chịu nhục với bọn phản đồ,

đành tự vẫn báo đền xã tắc. Huynh đệ nhân lúc trời tối xông ra đi, ngươi

võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.

Ông nói tới đây vẻ mặt cực kỳ buồn bã, lại tiếp:

- Ta vốn định phong cho ngươi một chức quan thật lớn để hưởng phú

quí, có ngờ đâu người anh này cái thân cũng chẳng bảo toàn được, lại

làm lụy đến cả ngươi.

Tiêu Phong đáp:

- Đại ca, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, hôm nay chiến trận không

lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca ra khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi

lại tính sau.

Hồng Cơ lắc đầu:

- Đến mẹ già vợ con ta còn không bảo vệ nổi, nói gì đến đại trượng

phu? Dưới mắt người Khất Đan, kẻ thắng là kẻ anh hùng, kẻ thua là kẻ

phản nghịch. Ta đã thua sạch rồi còn cách gì ngoi lên nổi nữa? Ngươi

hãy một mình đi thôi.

Tiêu Phong biết ông ta thực tình liền khẳng khái đáp:

- Nếu đã thế thì tiểu đệ nguyện cùng với ca ca, ngày mai một trận

tử chiến với bọn phản khấu. Ca ca và đệ nghĩa kết kim lan, ca ca là

hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, đối với Tiêu mỗ cũng đều

là nghĩa huynh. Huynh trưởng có nạn thì người em này nguyện cùng anh

đồng sinh cộng tử chứ lẽ nào lại bỏ chạy bao giờ?

Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay ông nói:

- Hảo huynh đệ, cám ơn em.

Tiêu Phong quay trở vào trong trướng thấy A Tử nằm co tại một

góc, mở tròn đôi mắt to, hóa ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi:

- Tỉ phu có giận em không?

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Giận ngươi chuyện gì?

A Tử đáp:

- Cũng tại em chẳng ra đâu, nếu như em không đòi ra đại thảo

nguyên du ngoạn thì anh đâu có bị khốn khổ ở nơi đây. Tỉ phu, chúng

mình sẽ chết ở đây có phải không?

Ánh lửa từ bên ngoài lều chiếu lên mặt nàng, trong vẻ xanh xao có

thoáng một chút hồng đầy vẻ ngây thơ trẻ con. Tiêu Phong trong lòng

cực kỳ thương xót dịu dàng đáp:

- Ta lẽ nào lại trách em? Nếu như ta không đả thương cô thì chúng

mình đâu có đến chỗ này.

A Tử mỉm cười nói:

- Nếu không vì em bắn kim độc vào anh thì anh đâu có đả thương

em.

Tiêu Phong giơ bàn tay thô kệch vuốt tóc nàng. A Tử bị trọng

thương rồi, tóc rụng đến quá nửa, vừa vàng vừa thưa. Tiêu Phong thở dài

một tiếng nói:

- Em còn nhỏ quá vậy mà theo ta chi cho khổ.

A Tử nói:

- Tỉ phu ơi, trước kia em không hiểu vì lẽ gì tỉ tỉ lại thích anh, bây

giờ thì em hiểu rồi.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chị cô đối với ta tình nghĩa thật sâu nặng,

một đứa bé con như cô thì biết gì. Thực ra, vì cớ gì A Châu lại yêu một

kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng còn chưa rõ thì ngươi làm sao mà hiểu

được đây?”. Ông nghĩ tới đây buồn bã lắc đầu.

A Tử nghiêng ngó nhìn ông rồi nói:

- Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó em lại bắn độc châm vào anh

chưa? Em thực chẳng muốn bắn chết anh mà chỉ cốt anh không còn cử

động được để em được hầu hạ anh thôi.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Thế để làm gì?

A Tử mỉm cười đáp:

- Anh không cử động được thì mãi mãi không bao giờ xa em. Nếu

không anh đâu có coi em vào đâu, lúc nào cũng bỏ em mà đi được,

không ngó ngàng gì đến em nữa.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật rặt giọng trẻ con nhưng biết không

phải bạ đâu nói đấy, cảm thấy chột dạ nghĩ thầm: “Thôi thì đằng nào

sáng mai cũng chết hết, an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”. Ông bèn

nói:

- Em thật đúng là trẻ con. Nếu quả như cô muốn theo ta thì cứ nói

thẳng lẽ nào ta lại không bằng lòng.

Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng bừng lên, vui mừng nói:

- Tỉ phu ơi, sau khi em khỏi bệnh rồi, em muốn đi theo anh, mãi mãi

không quay lại với sư phụ và phái Tinh Tú nữa. Anh đừng bỏ rơi em nhé!

Tiêu Phong biết cô ta đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, quả thực

chẳng dám quay lại đâu nên cười nói:

- Cô là truyền nhân đại sư tỉ của môn phái, nếu không quay về thì

quần long vô thủ biết làm sao bây giờ?

A Tử cười khanh khách đáp:

- Để cho bọn chúng loạn bát nháo lên cũng hay. Em mặc kệ họ.

Tiêu Phong cầm chiếc mền kéo lên đắp tới cổ cho cô gái, xong xuôi

rồi mới kiếm một góc trướng trải chăn da nằm ngủ. Lửa bên ngoài lúc

mờ lúc tỏ, lấp loáng bất định nghe có tiếng khóc văng vẳng, biết là ngự

doanh quân nhớ người thân. Ai cũng biết một trận sáng mai tính mạng sẽ

chẳng còn, có điều trung với hoàng thượng nên không phản bội.

Mới sớm hôm sau Tiêu Phong đã dậy rồi, dặn Thất Lý chuẩn bị

ngựa sẵn sàng lo cho A Tử, còn mình cũng xong xuôi, ăn một cân thịt

cừu, uống ba cân rượu rồi đi ra ngoài sườn núi. Khi đó chung quanh trời

còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh

quân thổi tù và u u, tiếng leng keng của binh giáp võ khí chạm nhau

không dứt. Trong doanh từng đội binh mã đi ra, thủ ngự những nơi xung

yếu. Tiêu Phong từ cao nhìn xuống thấy phía đông, phía nam và phía

đông nam ba mặt chỗ nào cũng đầy người, đều là phản quân cả. Ở phía

xa xa một làn sương trải dài, thành thử loạn quân không biết đâu là cuối.

Ngay khi đó vầng thái dương từ chân trời nhô lên như một vòng

cung tỏa ra thành muôn ngàn tia nắng chiếu thẳng vào màn bạch lộ,

sương tan dần thấy ẩn dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã.

Khắp nơi tiếng trống đánh vang rền, từ trong quân địch hai đội cầm cờ

vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc và Sở Vương cưỡi ngựa đến

dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên trên cao bàn tán.

Gia Luật Hồng Cơ dẫn thị vệ đứng ngay sườn núi, thấy tình hình đó

cơn giận dâng lên, cầm ngay cung tiễn trong tay lính hầu giương thẳng

cánh nhắm vào Sở Vương bắn ra một mũi tên. Từ trên cao nhìn xuống

tưởng chừng như hai bên không xa, thực ra còn cách đến mấy đường tên

mới tới, mũi tên chưa được nửa đường thì đã hết sức, rơi xuống rồi.

Sở Vương cười ha hả lớn tiếng nói:

- Hồng Cơ, ngươi soán đoạt ngôi vua của cha ta, làm ngụy quân bao

nhiêu lâu rồi, bây giờ phải nhượng vị thôi. Ngươi mau mau đầu hàng cha

ta sẽ tha cho khỏi chết, còn giả nhân giả nghĩa phong cho ngươi làm

Hoàng thái điệt nữa đấy! Ha ha ha!

Mấy câu đó hiển nhiên mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm

Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa. Hồng Cơ cơn giận xung thiên,

chửi lại:

- Đồ phản tặc vô liêm sỉ, còn bẻo mép nữa ư?

Bắc Viện Khu Mật Sứ kêu lên:

- Chúa bị nhục thì bầy tôi đành phải chết! Chúa thượng đối với thần

ơn nặng tày non, hôm nay chính là lúc bọn thần báo đền ơn nghĩa.

Y liền dẫn ba nghìn thân binh, cùng gầm lên từ trên cao xông

xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ trong bộ tộc Khất Đan, lần này

có ý quyết tử thành thử một có thể đánh mười, chỉ nghe tiếng gào thét

vang trời động đất, máu chảy thịt rơi. Ba nghìn người càng đánh càng ít

dần, đến sau đều chết cả. Bắc Viện Khu Mật Sứ giết được vài người, rồi

tự cắt cổ mà chết. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao

nhìn xuống thấy rõ ràng nhưng không làm sao cứu được nghĩ đến lòng

trung nghĩa của Bắc Viện Khu Mật Sứ, ai nấy đều nhỏ lệ.

Sở Vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói:

- Hồng Cơ, ngươi có chịu hàng hay không thì bảo? Cái đám quân

lưa thưa của ngươi thì làm được gì? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại

Liêu, sao nỡ để họ phải chết theo ngươi? Là nam nhi đại trượng phu, hãy

cho đâu ra đấy, hàng thì hàng, chiến thì chiến, còn như biết rằng khí số

hết rồi, sao chưa tự vẫn để tạ thiên hạ, khỏi làm chết thêm sĩ tốt.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hổ nhãn rưng rưng, rút đao

cầm tay nói:

- Giang sơn gấm vóc này thôi đành nhường cho cha con chúng bay

vậy. Ngươi nói quả không sai, chúng ta chú cháu anh em, cốt nhục tương

tàn, việc gì phải làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.

Nói xong ông giơ đao lên đâm vào cổ mình. Tiêu Phong vươn tay ra,

đoạt ngay con dao nói:

- Đại ca, kẻ anh hùng hảo hán có chết cũng chết nơi chiến trường,

lẽ nào lại tự tận bao giờ?

Hồng Cơ thở dài:

- Huynh đệ, bao nhiêu tướng sĩ đây theo ta đã lâu, ta đành chết còn

hơn là để cho họ phải vì ta mà bỏ mạng.

Sở Vương lại lớn tiếng giục:

- Hồng Cơ, ngươi còn chờ đến bao giờ mới tự vẫn?

Ngọn roi trong tay y chỉ thảng vào mặt, thái độ cực kỳ phách lối.

Tiêu Phong thấy y càng đến càng gần, trong lòng chợt động, nói nhỏ:

- Đại ca nói chuyện cầm chừng với y, tiểu đệ lẻn tới gần, bắn y một

mũi.

Hồng Cơ biết ông tài nghệ cao cường, mừng rỡ nói:

- Thế thì hay lắm, nếu bắn chết được y rồi ta có chết cũng nhắm

mắt.

Nói rồi cao giọng kêu lên:

- Sở Vương, ta đãi cha con ngươi không bạc, nếu cha ngươi quả

muốn làm vua thì có gì là không được, việc gì phải làm chết bao nhiêu

dũng sĩ, dân đen bản quốc, làm tổn thương nguyên khí cho nước Đại

Liêu?

Tiêu Phong cầm một bộ cung cứng, lấy mười mũi lang nha trường

tiễn, dẫn một con tuấn mã len lén qua bên núi, rùn người xuống chui

dưới bụng ngựa, hai chân quặp vào yên, lấy gót chân dậm một cái, con

vật liền chạy thẳng xuống.

Phản quân dưới núi thấy một con ngựa trên lưng không có người, lại

tưởng bị sút dây cương đi lạc là chuyện cực kỳ tầm thường nên chẳng ai

để ý. Thế nhưng chẳng mấy chốc quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có

người lập tức hô hoán rầm rĩ.

Tiêu Phong dùng đầu ngón chân thúc ngựa, xông thẳng vào Sở

Vương, thấy chỉ còn cách y chừng hai trăm bước, nằm dưới bụng ngựa

giương cung lên, nghe vút một tiếng bắn y một mũi. Vệ sĩ đứng bên cạnh

Sở Vương liền giơ thuẫn bài lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong giục ngựa

chạy tới, tên bắn liên tiếp, giết ngay tên vệ sĩ kia, mũi tên thứ hai lại

nhắm vào ngực Sở Vương.Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng

roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người

bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào

đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi

một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên

“Chao ôi!” một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.

Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần,

mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được

một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.

Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: “Sao mình không

thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc”.

Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm

mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng

đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy

vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo,

cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.

Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.

Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân

địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như

dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.

Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm

thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường

đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ

bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay

nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc

đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi

tên.

Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi

nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng

thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn

bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy

mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba

mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái

thúc.

Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy

nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng

là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung

Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung

hiểm, may có người khác cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn

làm sao chạy thoát được đây?

Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy

lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi

xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt,

giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi

xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn

sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn:

- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ

binh khí xuống.

Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không

nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai,

hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu

Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động

khinh suất?

Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn:

- Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe

tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả

quan binh, không truy cứu bất cứ ai.

Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm

còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau

núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong

Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát

khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội,

nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức

tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ

chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại,

trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói

liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.

Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của

quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định

được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ

nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục,

mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể

diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói:

- Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức

lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết

không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy

mau mau bỏ binh khí xuống.

Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy

người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua

người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số

người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.

Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa

chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập

tức tránh ra nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng

núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi

trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói:

- Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí

xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.

Hoàng thái thúc run run hỏi lại:

- Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?

Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn

cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết

nghĩ thầm: “Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái

thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ

càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa”. Ông liền nói:

- Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng

chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.

Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con

ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi,

chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp:

- Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.

Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói:

- Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.

Hoàng thái thúc lớn tiếng nói:

- Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng

khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ

binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.

Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn

mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào

dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn

quân đều vứt binh khí xuống đất.

Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia

Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ,

tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói:

- Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi

chung hưởng.

Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.

Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói:

- Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng

thương xót.

Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu

Phong:

- Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?

Tiêu Phong đáp:

- Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu

xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!

Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương:

- Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu Phong làm Sở Vương, giữ

chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5

Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc

chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn

tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho

chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại

Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong:

- Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong

cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng

đi.

Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ:

- Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng

về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức

nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm

quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.

Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói:

- Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc

cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần

phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn

cách nào khác nữa.

Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: “Ca ca vui quá, nói năng

chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần

quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa”. Ông

đành quì xuống nói:

- Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.

Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói:

- Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là

kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy

xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.

Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói:

- Quyết không sao cả.

Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca:

- Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò

tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.

Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay

sang Tiêu Phong tham bái nói:

- Tham kiến đại vương!

Hồng Cơ nói:

- Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn

quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.

Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn

người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng

thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật

Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi

sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen

ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.

Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc

Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra,

thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam

Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong

thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không

phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì

với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang

nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe

lệnh của ông.

Tiêu Phong nói:

- Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi,

từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản

trắc.

Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm:

- Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến

chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu

tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.

Tiêu Phong gật đầu:

- Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.

Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca:

- Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi

kinh.

Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham

kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ

Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào

kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm,

nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra

mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào

đấy.

Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu

và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu

Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi

trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu

Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào

rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến

một nửa không khỏi tức cười.

A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương,

bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại

chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu

Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.

A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn:

- Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội

đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không?

Làm em lo ơi là lo.

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có định

trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.

A Tử nói:

- Tỉ phu qua đây.

Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của

nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa

gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại

vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.

A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi:

- Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?

Tiêu Phong đáp:

- Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình

nhân, thú vị quá.

A Tử bực bội đáp:

- Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.

Tiêu Phong vẫn cười:

- Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc

chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy

thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta

nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi.

A Tử nói:

- Tỉ phu cũng sợ chết sao?

Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu:

- Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết.

A Tử nói:

- Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu

quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại

dám xông vào?

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông

vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không

dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay

một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại

cắn thôi.

A Tử bật cười:

- Anh so sánh mình với loài súc vật.

Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt

nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài

như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải

chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.

A Tử hết sức vui lòng nói:

- Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh

Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất

cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý.

Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ

phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang

hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn

chúng cho được việc.

Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói:

- Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái Bang không chịu cho

ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn

bè ta, sao lại giết họ?

A Tử đáp:

- Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết

chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của

anh nữa hay sao?

Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc

mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu

hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp:

- Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước

Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay

không về?

Tiêu Phong mủm mỉm cười:

- Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán

nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng

từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.

A Tử nói:

- Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở

xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: “Qua khỏi dãy núi kia là Trung

Nguyên”. Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương

nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng

bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh

không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam

Viện Đại Vương.

A Tử nói tiếp:

- Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong

anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh

với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách

thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia,

đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình

chẳng thắng thì là gì?

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay

quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi,

Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh

thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái,

giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn

thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.

A Tử gật đầu nói:

- Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết

Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì

trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có

được không?

Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự

tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại

gian đại ác, dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chỉ

nói gọn một câu: “Đã giết được những ai những ai ...” còn như bao nhiêu

gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa

ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong

đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo

lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói:

- Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không

được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.

A Tử nói:

- Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại

Tụ Hiền Trang.

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Làm sao cô biết?

A Tử đáp:

- Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ

em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ

công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc

đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ

nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con

ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp

ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân

phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân

tình.

Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc

lại:

- Ôi, “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc”, anh hùng hảo hán

Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao?

A Tử an ủi ông:

- Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói

là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan

trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn

hiếu sắc”, nhưng đối với tình nhân thì lại cũng “phụ nghĩa hiếu sắc”, đối

với con cái thì “tàn nhẫn vô tình” chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội

đứng một bên vỗ tay tán thành.

Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.

Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân

chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu

Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không

ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ

nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia

quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa

Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy:

- Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.

- Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại

phú đại quí!

Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào

người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: “Kẻ ở

trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn

vạn người. Khi ta bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng

nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với

bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều

tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ

nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu

tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói”.

Ông lại nghĩ: “Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc

thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo

cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại

càng khó tưởng ra nổi”.

Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước

lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế

nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng

Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém

xa.

Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở

Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang.

Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ?

Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập

hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một

cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.

Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu,

tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất

lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày.

Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất

các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái

thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết

rồi.

Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không

hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu

việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ,

đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn

tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng

hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả

thật chất cao như núi.

Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét

công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến

tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai

Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp ... nhất thời không nhớ hết được. Sau đó là

quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu,

rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích

Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến chào. Thuộc quốc của nước

Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết,

Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương,

Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng ... Những nước đó đều có sứ thần tại

Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều

đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.

Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt

thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán

dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật

Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo:

- Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn

Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không

muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau

sớm đem binh xuống phía nam.

Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong

bụng kinh hoảng nói:

- Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần

Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở

trường.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở

Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang,

cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể

tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong

đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần

phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống

phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem

binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Vâng! Quả là như thế!

Hồng Cơ nói:

- Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm

họ nhân tâm qui phục?

Tiêu Phong đáp:

- Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười sằng sặc nói:

- Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài

bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa

đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo,

cố mua được càng nhiều càng tốt.

Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa

nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau,

mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết

người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua

chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ

lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống,

trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong

ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không

khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta

xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng

kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi

anh ta không trách gì được”. Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử

xuống Nam Kinh.

Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là

Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường

nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên

Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế,

Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng,

Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.

Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại

Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại

được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng

trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một

mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự.

Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào,

dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao

đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi

thật lớn.

Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ

phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam

triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay

về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn

mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.

Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa.

Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai

Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn

phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi

là Thông Thiên, Củng Thần7 ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của

hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu

Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền,

đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.

Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười

sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh,

phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn

như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải

dọn vào vương phủ.

Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam

Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính

vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.

Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những

dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm

thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi

ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du

ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu,

đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.

Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo

Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói:

- Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi

săn nhé.

Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe

nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để

ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng

phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ

thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A

Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.

Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.

Tiêu Phong nói:

- Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.

Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục

dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay

để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh

cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau

nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay

nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống.

Những người đi theo reo ầm cả lên.

Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng,

lạ lùng hỏi:

- Sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?

A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức:

- Em ... em thành phế nhân rồi, đến giương cung ... mà cũng chẳng

xong.

Tiêu Phong dỗ dành:

- Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là

tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng

tăng gia sức khỏe.

A Tử đang khóc bật cười nói:

- Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công

đấy nhé.

Tiêu Phong đáp:

- Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.

Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân

ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu

Phong đưa mắt nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người

Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn

xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng

chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mình làm gì có

giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?”.

Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay

sang nói với kẻ tùy tòng:

- Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế?

Gã tùy tòng liền đáp: “Vâng” rồi hỏi:

- Có phải các anh em “đi gặt” về đấy chăng?

Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu,

bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền

lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước

đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói:

- Đại vương thiên tuế!

Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp:

- Miễn lễ!

Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa

chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm,

phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều

theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.

Gã đội trưởng nói:

- Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi “đi gặt”, nhờ phúc

đại vương nên thu được cũng kha khá.

Y quay lại quát:

- Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu

quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.

Các quan binh cùng reo lên:

- Tuân lệnh!

Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại

lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan

binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng,

hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và

những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.

Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh

nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi

bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ

chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu

quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả

tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính

qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân

cận, gọi là “gặt hái”, thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan

binh Tống triều cũng lại đi qua “gặt hái” của người Liêu để trả thù.

Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng

nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô

đạo, có điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt

làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân

quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm

trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã

đội trưởng:

- Các ngươi ở đâu ... “gặt hái” ở đâu về thế?

Gã đội trưởng cung kính đáp:

- Bẩm cáo đại vương, chúng tôi “đi gặt” tại bên ngoài cảnh giới

Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không

dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của

người Tống ngay tại bản châu”. Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ

đang đứng trước đầu ngựa:

- Cô là người ở đâu?

Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói:

- Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho

tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.

Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người

bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng

sừng sững không chịu quì.

Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm

nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi:

- Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?

Thanh niên kia đáp:

- Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.

Tiêu Phong đáp:

- Được, ngươi lại đây!

Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói:

- Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người

khác nghe thấy được.

Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: “Một đứa bé thế này làm

gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía

nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?”. Y

là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại

Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có

chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra

cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy:

- Lại đây!

Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói:

- Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn

trình lên.

Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng

chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây

thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu

Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi:

- Ngươi có cái gì?

Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói:

- Đại vương xem thì biết.

Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón

lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt

Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì

ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe

khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay.

Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó

thường dùng.

Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng bé này lớn mật, thì ra

không phải là Hán gian”. Ông gật đầu hỏi:

- Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta?

Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói:

- Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.

Thanh niên đáp:

- Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.

Tiêu Phong hỏi:

- Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?

Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt

Tiêu Phong lớn tiếng nói:

- Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta ... ta giận

không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.

Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình

giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn

hỏi:

- Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?

Thanh niên đáp:

- Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi

họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu!

Tiêu Phong “À” lên một tiếng nói:

- Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là

Du Câu Du nhị gia không?

Ông ngừng lại một chút nói tiếp:

- Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt

buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và

lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.

Ông nói tới đây lắc đầu tiếp:

- Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của

bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?

Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp:

- Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được

cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.

Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên

đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con

dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền:

- Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết

kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.

Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên:

- Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác?

Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.

Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ

ngẩn nhìn, không nói ra lời. A Tử hỏi:

- Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được

nếm mùi.

Nàng quay lại nói với Tiêu Phong:

- Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh,

vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết.

Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng:

- Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được

chăng?

Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp:

- Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại

vương.

Tiêu Phong nói:

- Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến

vương phủ lãnh thưởng.

Các quan binh vui vẻ đáp:

- Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải

thưởng.

Tiêu Phong nói:

- Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ

đến lãnh thưởng.

Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi:

- Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng

bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò

này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy

không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe

mạnh.

Nói xong hành lễ dẫn binh đi. “Muốn dùng bọn Tống chư làm bia

sống chứ gì”, câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước

mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm

người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong

khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết

từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất

Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai

cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra,

chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn

người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những

người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe

chuyện “bắn bia sống”, bây giờ sợ đến mất vía.

Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam

nghĩ thầm: “Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta

vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một

thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người,

lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly

làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi “gặt lúa”, ta sang đất ngươi ta đốt nhà?

Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?”. Trong nhất thời,

lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.

Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo

không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân:

- Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.

Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ

bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp:

- Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi

“gặt lúa” bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu

được lần thứ hai đâu.

Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả

cùng quì xuống khấu đầu nói:

- Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại

vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.

Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh “gặt lúa” bắt

được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng,

còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được

về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy

vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo

khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình

thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho

về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.

Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia

đi về hướng nam nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại

thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở,

ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?”.

Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn

đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói:

- Sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc

gì không?

Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong

mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu

nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân

Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa

Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao

không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói:

- Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì

tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.

Du Thản Chi lớn tiếng nói:

- Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì

cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói

cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!

Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối

thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô

ích bèn bảo:

- Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến

kiếm ta cũng được.

A Tử vội nói:

- Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng

cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi

bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.

Tiêu Phong lắc đầu:

- Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn

hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu.

Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải

chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả

con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?

Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo:

- Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.

A Tử bĩu môi nói:

- Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ

ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?

Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu

ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu

nói:

- Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy

kiếm tỉ phu ta báo thù.

Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.

Chú Thích :

1 Trướng của nhà vua (xem ở dưới)

2 Quân đi dò thám, tiền sát viên

3 Điểm này Kim Dung không biết căn cứ vào đâu. Theo sử sách, ngay trong giai

đoạn thịnh trị nhất, nước Liêu cũng chỉ độ hơn ba triệu người, trong đó người Khất

Đan chừng non một triệu, còn lại là người Hán dưới quyền cai trị của họ (do việc

đánh chiếm và nhường đất của Tống triều). Tuy dân số không đông, họ rất thiện

chiến. Trong thời kỳ này, người Nữ Chân chỉ mới là một bộ tộc, cũng dưới quyền

kiểm soát của người Khất Đan chứ chưa tách riêng thành một nước riêng biệt. Với

dân số như thế thật khó mà có được một đội quân non một triệu người. Hơn nữa, số

binh lính điều động trong một chiến dịch thường chỉ một phần nào trong toàn bộ

binh lính trong nước chứ không phải muốn đem bao nhiêu thì đem. Đi săn mà mang

theo 10 vạn quân là điều khó tin.

4 ỷ mình không kiêng nể gì cả

5 Chính sử chép như sau: Vua Khất Đan Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ đi săn ở

Loan Hà Thái Tử Sơn, Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên khởi binh tấn công

hành cung (nơi vua đang ở), Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Nhân Tiên đánh trả,

Gia Luật Trọng Nguyên thua chạy, tự sát (Bá Dương: Trung Quốc Lịch Sử niên

biểu – tập hạ [in lần thứ sáu] Tinh Quang Đài Bắc 2001 tr. 963-964)

6 tức Bắc Kinh ngày nay

7 Củng Thần là tinh tú chầu về ý nói nhà vua như sao Bắc Thần (Bắc Cực) ở giữa,

các ngôi sao đều chạy theo.

8 Tức con chương, một loại hươu nhưng nhỏ hơn (moschus chinloo)

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hôi28(a)

THẢO MỘC TÀN SINH LÔ CHÚ THIẾT

Chết đi sống lại mấy lần,

Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.

Kim chi ngọc diệp còn đâu,

Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.

*

* *

Du Thản Chi thấy Tiêu Phong cùng đoàn người đi thẳng về hướng

bắc, không thấy quay lại, lúc ấy mới chắc rằng mình thoát chết, nghĩ

thầm: Tên gian tặc này sao không giết ta nhỉ? Hừ, chắc là y coi ta chẳng

vào đâu, giết mình chỉ thêm bẩn tay. Y ... y ở nước Liêu làm cái chức đại

vương quái gì đó, mình sau này báo thù xem ra còn khó hơn. Thế nhưng ít

nhất mình cũng biết được tên gian tặc đó ở chỗ nào.

Y cúi xuống nhặt cái túi vôi sống lên, rồi đi kiếm con dao của y mà

Tiêu Phong đoạt bằng roi ngựa vứt ra, bỗng thấy trong bụi cỏ ở bên trái

có một cái bao vải dầu nhỏ, chính là của Tiêu Phong lấy từ trong bọc ra

rồi lại bỏ trở vào, liền nhặt lên, mở ra thấy bên trong là một cuốn sách,

thuận tay lật lật mấy trang, trang nào cũng viết đầy những chữ ngoằn

ngoèo, không đọc được lấy một chữ.

Thì ra Tiêu Phong thấy vật lại nhớ người, tâm hồn lãng đãng, bỏ bản

Dịch Cân Kinh vào trong túi không kỹ nên khi ngựa lồng lên, cái bao liền

văng ra rơi vào trong đám cỏ mà không hay biết gì cả.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Chắc cái này là chữ Khất Đan đây. Quyển

sách này tên gian tặc luôn luôn mang theo trong người, hẳn rất quan

trọng. Ta lấy luôn không trả lại, để y khổ một phen cho đáng kiếp. Y

cảm thấy có phần nào báo được thù nên trong bụng khoái chí, lấy bao vải

dầu gói cuốn sách lại, bỏ vào túi rồi thẳng đường xuôi nam.

Y từ nhỏ theo cha học võ, có điều thân thể gầy gò, cánh tay yếu ớt,

không hợp với công phu cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng,

học ba năm võ công nhưng tiến bộ chẳng mấy tí, thật chẳng đáng gọi là

con cháu danh môn. Y học đến năm mười hai, Du Câu chán nản hết hi

vọng, mới bàn với ca ca là Du Ký. Hai người cùng tính:

- Nếu con cái nhà họ Du mình ra ngoài mà võ nghệ quều quào như

thế chẳng khiến người ta cười đến sái quai hàm hay sao? Huống chi nếu

ai nghe y là con cháu Du Thị Song Hùng, không động thủ thì thôi chứ ra

tay thì phải toàn lực, ngay chiêu đầu đã lấy mạng y rồi. Chi bằng cho y

học văn, có thế mới bảo toàn được tính mạng.

Thành thử Du Thản Chi từ mười hai tuổi trở lên thì không học võ

nữa, Du Câu mới mời một vị túc nho dạy y văn chương. Thế nhưng y học

chữ cũng không chuyên cần, lúc nào hồn vía cũng để đâu đâu. Thầy đồ

dạy:

- Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?1 Y liền đáp:Cái

đó cũng còn phải xem học cái gì mới biết được, gia gia dạy đệ tử đánh

quyền, con học rồi tập luyện, có thấy vui sướng gì đâu.

Thầy đồ cáu tiết nói:

- Khổng phu tử nói là nói chuyện học đạo thánh hiền, đại nghiệp

kinh bang tế thế chứ nào phải là chuyện múa quyền đánh gậy đâu?

Du Thản Chi nói:

- Được, thầy bảo cha con, bác con múa quyền đánh gậy là chẳng ra

gì, để con đi nói cho cha con biết.

Cứ như thế y làm cho thầy đồ tức quá phải bỏ đi. Y liên tiếp chọc

giận hết thầy đồ này tới thầy đồ khác không ai chịu nổi, Du Câu đánh nó

không biết bao nhiêu trận, nhưng thằng bé này càng đánh càng lỳ lợm.

Du Câu thấy con chẳng vâng lời, cứng đầu khó dạy chẳng biết làm sao

chỉ còn nước thở dài sườn sượt, để ra sao thì ra. Thành thử năm nay Du

Thản Chi đã mười tám rồi, tuy dòng dõi danh môn mà thật đúng là văn

dốt võ dát, đến khi bá phụ và phụ thân tự vẫn, mẫu thân đập đầu vào cột

tuẫn phu, y cô khổ lênh đênh, đi lang thang không nhà không cửa, trong

đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc làm sao kiếm được Kiều Phong để

báo thù.

Trận đại chiến Tụ Hiền Trang hôm đó, y náu ở góc nhà xem đánh

nhau, tướng mạo hình dạng Kiều Phong y đã ghi nhớ kỹ càng, nghe nói

ông người Khất Đan bèn tất tưởi đi lên miền bắc. Y thấy trên giang hồ

một tên du thủ du thực ném vôi sống làm mù mắt địch nhân, cảm thấy

cách này có thể dùng được, nên cũng học theo tìm một gói vôi bột dắt

trong người. Y ở biên giới chạy đôn chạy đáo để sao bọn quan binh Khất

Đan đi gặt lúa bắt được thành ra mới gặp Tiêu Phong, có dịp ném bao

vôi bột ra quả thực là cơ hội ngàn năm một thuở.

Y trong bụng nghĩ thầm: Việc trước mắt là chạy sao cho càng xa

càng tốt đừng để y bắt lại được. Rồi mình sẽ tìm cách đi bắt một con rắn

độc hay một con rết lớn, len lén vứt vào giường y, y vừa chui vào chăn là

nó cắn chết tươi. Còn tiểu cô nương kia ... còn tiểu cô nương kia, chao ôi,

sao ... sao mà có người đẹp thế!.

Y vừa nghĩ đến khuôn mặt A Tử, lồng ngực thấy nóng hổi, rồi mặt

cũng bừng bừng chỉ còn nghĩ: Không biết đến bao giờ mình mới được

gặp lại cô gái xinh đẹp có khuôn mặt xanh xao, thân hình ẻo lả kia.

Y cúi đầu rảo bước, chẳng mấy chốc đã vượt qua đoàn người vừa

được Tiêu Phong thả ra. Có người tử tế gọi y nhập bọn đi chung, y cũng

chẳng thèm để ý, cứ lầm lũi mà đi. Đi được hơn chục dặm, bụng đói đến

kêu lên ùng ục, y đưa mắt nhìn ngang nhìn ngửa xem có gì ăn được không

nhưng trên thảo nguyên ngoài cỏ khô và tuyết trắng ra chẳng còn gì khác

nghĩ thầm: Nếu như mình là con bò, con cừu thì tốt biết mấy. Ăn cỏ

uống tuyết thật sung sướng bao nhiêu. Ôi, nếu như mình chỉ là một con

cừu non, người ta đem cha mẹ mình hai con vật già ấy xẻ thịt ăn thì liệu

mình có báo thù không nhỉ? Thù cha mẹ không đội trời chung, dĩ nhiên

phải trả rồi. Thế nhưng báo thù cách nào đây? Lấy hai cái sừng húc gã đồ

tể giết cha mẹ mình ư? Người ta nuôi bò nuôi cừu, vốn là để xẻ ra làm

thịt ăn, sao lại nói đến chuyện trả thù được?.

Y nghĩ ngợi gần xa, lại cất bước đi, đột nhiên nghe tiếng chân ngựa

lộp cộp, ba gã kỵ binh Khất Đan từ trên mặt tuyết chạy tới, vừa thấy y đã

lớn tiếng reo hò. Một tên Khất Đan vung sợi dây thòng lọng trên tay ra,

nghe soạt một tiếng quàng ngay vào cổ Du Thản Chi, kéo một cái sợi dây

liền xiết lại. Du Thản Chi đưa tay toan gỡ, tên Khất Đan huýt một tiếng,

con ngựa liền chạy tới. Du Thản Chi đứng không vững, ngã lăn ra, bị gã

kia lôi đi xềnh xệch. Du Thản Chi kêu lên thảm thiết nhưng chỉ được mấy

tiếng thì cổ họng đã bị dây thừng chẹn rồi, không còn ú ớ được nữa.

Tên Khất Đan cũng sợ y chết ngạt nên dừng cương lại. Du Thản Chi

ở dưới đất cố gắng lồm cồm đứng lên, gỡ chiếc dây đang buộc nơi cổ. Gã

Khất Đan kéo mạnh một cái, Du Thản Chi lảo đảo, lại ngã phịch xuống,

ba tên Khất Đan cùng cười sằng sặc. Tên Khất Đan cầm sợi dây buộc cổ

Du Thản Chi nói mấy tiếng nhưng y không hiểu được câu nào, chỉ biết

lắc đầu. Gã Khất Đan vẫy tay một cái, lại giục ngựa chạy tiếp nhưng lần

này không chạy nhanh. Du Thản Chi sợ bị xiết cổ lần nữa, không thở

được nên đành đi hai bước lại chạy ba bước cho kịp.

Y thấy ba tên lính Khất Đan đi về hướng bắc, trong bụng chột dạ:

Tên khốn kiếp Kiều Phong miệng nói nghe thật dễ nghe, bảo thả mình

về, vừa quay đi quay lại đã sai bộ thuộc bắt lại. Lần này bị bọn chúng bắt

rồi, mạng mình còn sao được nữa?. Khi y bỏ nhà đi lên mạn bắc, trong

bụng chăm chăm lo việc báo thù, chẳng biết trời cao đất dày là gì, nên

khi gặp được Tiêu Phong, hình ảnh thê thảm của cha mẹ hiện ra trước

mắt, cơn giận bùng lên, định dùng vôi bột ném mù mắt ông ta, rồi sẽ rút

dao đâm ông chết. Thế nhưng tấn công mà không trúng, nhuệ khí tiêu

tan, chỉ mong sao thoát thân, ngờ đâu lại bị lính Khất Đan bắt lại.

Khi trước y bị bọn lính Khất Đan đi gặt lúa bắt được, để lẫn trong

đám đàn bà con gái, nữ nhân đi đứng không được nhanh, cước bộ của y

cũng theo kịp nên không bị hành hạ mấy tí, ngoài một sống dao chém

vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này thì khác hẳn, bước thấp bước cao,

chạy lên chạy xuống, thở hồng hộc, chưa được mấy bước lại vấp một cái,

mỗi lần vấp ngã xuống, dây thừng lại xiết vào sau ót một đường lằn. Gã

kỵ binh Khất Đan nào có chịu ngừng, cũng chẳng thèm xem coi y còn

sống hay đã chết, kéo y một mạch tới thành Nam Kinh. Vào trong thành

rồi, Du Thản Chi người đầy máu me, chỉ mong sao chết sớm chừng nào

đỡ khổ chừng nấy.

Ba tên lính Khất Đan vào trong thành còn chạy thêm mấy dặm nữa,

lúc ấy mới lôi y vào trong một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy dưới đất lót

toàn phiến đá xanh, cột cao cửa rộng, không biết là nơi nào. Ở ngoài cửa

ngừng lại chưa đến thời gian uống một chén trà, tên kỵ binh kéo y vào

trong một tòa đại sảnh, đột nhiên chúm môi huýt một tiếng, hai chân kẹp

thúc mạnh, con ngựa liền chồm tới trước. Du Thản Chi đâu có ngờ gã kia

vào trong viện rồi lại phóng ngựa chạy nhanh, nên chỉ được ba bước đã

ngã lăn ra.

Tên lính Khất Đan luôn mồm giục ngựa, lôi Du Thản Chi chạy ba

vòng trong tòa nhà đó, càng lúc càng nhanh, có thêm mấy chục tên quan

binh đứng chung quanh hò hét trợ uy. Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra y

định kéo mình lê dưới đất cho chết. Trán, chân tay, thân thể y đụng vào

đá dưới sàn, không chỗ nào không đau.

Trong tiếng reo vang của bọn quan binh Khất Đan, có lẫn tiếng cười

trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi trong cơn mơ mơ màng màng,

loáng thoáng nghe cô gái cười nói:

- Ha ha, cái diều người này e rằng không thả nổi.

Du Thản Chi tự hỏi: Diều người là cái gì thế nhỉ?. Ngay lúc đó y

thấy dây buộc cổ xiết chặt, thân hình tung lên không, lập tức hiểu ra, tên

lính Khất Đan kia cưỡi ngựa chạy cho nhanh để y bay bổng lên, làm như

thả con diều bằng giấy.

Y toàn thân lăng không, sau ót đau buốt, mồm miệng bị gió thổi vào

thật ngộp thở, không còn biết gì nữa, lại nghe thiếu nữ kia vỗ tay reo lên:

- Hay quá! Hay quá! Quả thực đã phóng được con diều người lên

rồi.

Du Thản Chi nhìn ra phía có tiếng nói thấy người vỗ tay reo hò kia

chính là cô gái xinh đẹp mặc áo tím. Y vừa thấy nàng lập tức ngực như bị

chấn động mạnh, không biết nên buồn hay vui, thân hình trên không bay

lạng vù vù không cách gì suy nghĩ được.

Cô gái mỹ miều kia chính là A Tử. Nàng thấy Tiêu Phong thả cho

Du Thản Chi đi, trong bụng không vui, cưỡi ngựa đi được một quãng liền

cố ý tụt ra sau, khẽ dặn tùy tòng quay lại bắt Du Thản Chi đem về nhưng

không được để cho Tiêu đại vương hay biết. Bọn tùy tòng biết nàng được

Tiêu Phong cực kỳ sủng ái, nên vui vẻ tuân lời, giả vờ sửa lại dây buộc

yên ngựa, đứng lại ở triền núi, đợi Tiêu Phong và cả đoàn đi xa mới quay

lại bắt Du Thản Chi.

A Tử trở về Nam Kinh liền đến nơi xa Tiêu Phong ở là Hựu Thánh

Cung ngồi chờ. Đến khi bắt được Du Thản Chi về, nàng mới hỏi bọn Khất

Đan xem có trò gì đánh đập, hành hạ tội nhân mới mẻ thú vị không. Có

người đề nghị thả diều người, trò đó quả là hợp ý A Tử, nàng ra lệnh

thi hành ngay, nên bọn chúng liền đem Du Thản Chi ra thả diều.

A Tử xem thấy thú vị quá, luôn mồm khen hay, nói:

- Để cho ta thả diều một tí.

Nàng nhảy lên yên ngựa tên lính kia, cầm lấy dây thừng nói:

- Ngươi xuống đi.

Tên lính kia liền nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. A

Tử cầm dây thừng giục ngựa chạy một vòng, miệng reo hò, suýt soa:

- Thích quá! Thích quá!

Thế nhưng nàng bị thương mới đỡ, tay vẫn còn yếu, cổ tay chùng ra,

chiếc thừng liền hạ xuống, nghe bình một tiếng, Du Thản Chi rơi bịch

xuống một cái thật đau, lăn trên nền đá, trán va phải góc nhọn của bậc

thềm, sứt thành một cái lỗ, máu chảy túa ra. A Tử cụt hứng, bực tức nói:

- Cái thằng ngốc này sao nặng thế?

Du Thản Chi tưởng chừng ngất xỉu, nghe nàng trách mình thân thể

nặng quá, đang định giãi bày mấy câu nhưng đau quá không nói thành

lời. Một tên quân Khất Đan bước tới, cởi chiếc thòng lọng buộc trên cổ,

một tên khác xé vải trên áo y, buộc qua quít vết thương, nhưng máu tươi

vẫn tiếp tục chảy thấm ra ngoài, làm sao ngừng được?

A Tử nói:

- Thôi thế được rồi, được rồi! Mình thả diều thêm lần nữa cho

vui, càng cao càng thích.

Du Thản Chi không hiểu nàng nói tiếng Khất Đan những gì, nhưng

thấy nàng hoa chân múa tay, chỉ lên trên cao xem ra không phải chuyện

tốt lành. Quả nhiên một tên Khất Đan cầm chiếc dây thừng luồn dưới

nách y, vòng một vòng để y khỏi bị xiết cổ ngộp thở, quát lên một tiếng:

- Lên nào!

Y giục ngựa chạy cho nhanh, kéo lê Du Thản Chi dưới đất mấy

vòng, rồi lại phóng lên. Sợi dây thừng trong tay tên lính Khất Đan mỗi

lúc một dài thêm, thân hình Du Thản Chi cũng mỗi lúc một cao.

Tên lính Khất Đan đột nhiên buông tay, nghe vèo một tiếng, Du

Thản Chi thật chẳng khác gì tên rời khỏi dây cung, bay vút lên trời. A Tử

và các quan binh đều reo hò khen ngợi. Du Thản Chi thân hình tự nhiên

bật văng lên không, trong bụng chỉ nghĩ được: Thôi lần này chết thật

rồi!.

Khi sức văng đã hết, y đầu lộn xuống đất, chân chổng lên trời lao

thẳng xuống, xem ra thể nào cũng lao vào nền đá xanh, bốn tên quan

binh Khất Đan cùng tung thòng lọng ra, buộc chặt ngay hông y, cùng kéo

ghì về bốn phía. Du Thản Chi khi đó đã ngất đi, nhưng bốn luồng lực đạo

giữ y bông bênh giữa trời, chỉ còn cách đất chừng ba thước. Cái cảnh đó

quả thực nguy hiểm cùng cực, trong bốn người chỉ cần một người ra tay

hơi chậm, lực đạo không cân, đầu Du Thản Chi thể nào cũng rơi thẳng

xuống vỡ sọ ngay. Người Khất Đan thường thường đem người Tống ra để

làm trò vui, tù binh bị đem ra thả diều, mười người thì đến tám chín

người chết. Nếu như ở ngoài thảo nguyên đất mềm, từ trên cao như thế

đâm bổ xuống, ví như không vỡ đầu thì cũng gãy cổ chết như nhau.

Trong tiếng hò reo, bốn tên lính Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A

Tử lấy tiền, thưởng cho mỗi đứa năm lượng bạc. Các quan binh lớn tiếng

tạ ơn, hỏi thêm:

- Cô nương có còn muốn thêm trò vui gì nữa không?

A Tử thấy Du Thản Chi đã ngất xỉu, cũng chẳng biết y còn sống hay

chết rồi, mới đây nàng thả diều, dùng sức quá độ, ngực ngâm ngẩm

đau, không còn hơi đâu mà vui chơi thêm nữa bèn nói:

- Vui thế đủ rồi. Gã tiểu tử này nếu chưa chết, ngày mai lại mang y

đến cho ta, để ta nghĩ cách nào tiêu khiển. Tên này định ám toán Tiêu

đại vương, không thể để y chết dễ dàng quá như thế được.

Các quan binh cùng vâng lời, lôi cổ Du Thản Chi mình mẩy đầy máu

me ra.

Khi Du Thản Chi tỉnh lại, thấy một mùi ẩm mốc hôi hám xông thẳng

vào mũi, mở choàng mắt ra thấy chung quanh tối đen như mực, không

nhìn thấy một chút gì. Ý niệm đầu tiên y nghĩ đến là Không biết mình

đã chết chưa? nhưng lập tức thấy toàn thân chỗ nào cũng đau nhức, cổ

họng khô ran không sao chịu nổi liền rên lên mấy tiếng:

- Nước! Nước!

Thế nhưng nào có ai ngó ngàng gì đến y?

Y kêu được mấy tiếng, lại mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi, thấy nào

bá phụ, phụ thân cùng Kiều Phong đại chiến, giết nhau đến máu văng

đầy mặt đất, rồi mẫu thân ôm mình trong lòng, dịu dàng an ủi, bảo mình

đừng sợ. Rồi kế đó A Tử hiện ra với khuôn mặt thật tú lệ, đôi mắt trong

veo với quang thái thật lạ lùng. Khuôn mặt bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành

đầu một con rắn hình tam giác, lè chiếc lưỡi dài đỏ au, lộ hai chiếc nanh

nhọn hoắt mổ vào người y. Du Thản Chi hết sức vùng vẫy nhưng không

cách nào động đậy được, con rắn đó cứ day từng miếng thịt, trên tay, dưới

đùi, cạnh cổ chỗ nào cũng cắn, khi đến trán lại càng đau hơn. Y thấy

mình từng miếng thịt bị nhả xuống, muốn kêu toáng lên, nhưng không

phát ra một tiếng nào ...

Cứ như thế trằn trọc cả đêm, tỉnh dậy thì bị hành hạ đã đành mà

trong giấc mộng cũng thật là khổ sở. Hôm sau hai tên lính Khất Đan lại

áp giải y đến gặp A Tử. Cơn sốt đêm qua chưa lui, bước một bước lại ngã

bổ nhào về trước. Hai tên lính Khất Đan chia nhau xốc hai bên, lớn tiếng

chửi rủa, kéo lê y vào một tòa nhà lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Không biết

chúng đưa mình đi đâu? Đem mình đi giết chăng?. Đầu y mê mê mẩn

mẩn, không thể nào suy tính gì được, thấy đi xuyên qua hai hành lang dài,

đến trước một sảnh đường. Hai tên lính Khất Đan đứng ngoài cửa bẩm

báo gì đó mấy câu, bên trong có tiếng một thiếu nữ đáp lại một tiếng,

sảnh môn đẩy ra, lính Khất Đan liền đưa y vào.

Du Thản Chi ngẩng đầu lên, thấy trong sảnh trải một tấm thảm cực

lớn, thêu hoa văn sặc sỡ, một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên một tấm nệm

ngay đầu đằng kia, chính là A Tử. Hai bàn chân nàng để trần, để trên

thảm. Du Thản Chi vừa nhìn thấy hai bàn chân nhỏ nhắn trắng trẻo, mịn

màng như ngọc, mềm mại như gấm của nàng lập tức tim đập thình thình,

hai mắt đăm đăm dính chặt đôi chân, thấy tưởng chừng lưng đôi chân cô

gái có phát ra ánh sáng, lờ mờ mấy đường gân xanh quả muốn chạy đến

vuốt ve cho thỏa dạ.

Hai tên lính Khất Đan thả y ra, Du Thản Chi lảo đảo một hồi, sau

cùng cũng gượng đứng được nhưng mục quang không lúc nào rời bàn

chân A Tử, thấy mười đầu ngón chân nàng sơn màu hồng nhạt, trông

chẳng khác gì mười cánh hoa.

A Tử cũng nhìn ra gã thanh niên xấu xí toàn thân đầy máu me,

khuôn mặt nhăn nhúm, cằm vêu vao kia ánh mắt hau háu một vẻ thèm

thuồng. Nàng nhớ lại một con sói đói mà nàng cùng hai sư huynh săn

được khi còn ở biển Tinh Tú, nàng bắn trúng con vật một mũi tên nhưng

chưa chết hẳn. Con vật đó bị trọng thương, mắt gườm gườm nhìn mình,

lúc bấy giờ chẳng khác gì Du Thản Chi, dường như chỉ muốn xông lên

cắn chết nàng, tuy không nhảy lên được, nhưng vẫn nhe hàm răng nhọn

hoắt gầm gừ.

A Tử thích thú nhìn ánh mắt đầy dã tính đó, lại nghe tiếng gừ gừ

nhưng chẳng làm gì được mình, tiếc rằng Du Thản Chi yếu đuối quá rồi,

không phản kháng gì được nữa quả thực chẳng còn gì thú vị. Ngày hôm

qua y ném túi vôi bột vào Tiêu Phong, lại không chịu quì lạy, ăn nói ra

vẻ ngang tàng, không chịu nhận tiền của Tiêu Phong, A Tử thích thú lắm

tưởng như bắt được một con thú dữ lợi hại. Nàng muốn hành hạ y cho

người y bị thương nhiều như vẩy cá, để y mỗi khi bị thương lại muốn xông

lên cắn mình một cái nhưng dĩ nhiên nàng không để cho y cắn trúng

được.

Đến khi bắt được y làm cái diều người rồi, con dã thú này lại

không chống cự, chết dở sống dở, thật chẳng có gì thích thú. Nàng hơi

nhíu lông mày nghĩ thầm: Có cách nào mới mẻ để hành hạ y cho vui

đây?.

Đột nhiên cổ họng Du Thản Chi phát tiếng hà hà, cũng không biết

một luồng lực đạo từ đâu đến, y chẳng khác gì một con báo nhanh nhẹn

lạ thường phóng đến A Tử, ôm chặt lấy bắp chân nàng, cúi đầu hôn hít

lưng bàn chân cô gái. A Tử hoảng hốt, kêu toáng lên. Hai tên lính Khất

Đan và bốn tì nữ phục thị A Tử cùng quát mắng, xông lên lôi gã ra.

Thế nhưng hai tay y cứ ôm chặt, chết cũng không buông. Tên lính

Khất Đan vừa kéo một cái, kéo luôn cả A Tử tuột khỏi chiếc nệm bông,

ngồi phệt xuống dưới thảm. Hai binh sĩ Khất Đan vừa sợ vừa tức, không

dám kéo thêm nữa, một tên đấm lên lưng y mấy cú thật mạnh, còn một

đứa thì đánh vào mặt. Người Du Thản Chi vẫn còn sưng vều, lại thêm cơn

sốt chưa hết, thần trí mê loạn không khác gì một người điên, những gì

đang gánh chịu dường như không biết đến. Y vẫn ôm chặt lấy chân A Tử,

tiếp tục hôn chân nàng.

A Tử cảm thấy đôi môi vừa nóng hổi, vừa khô khan của y chạm vào

chân mình, trong bụng sợ lắm, lại thêm cảm giác nhột nhạt2 lạ lùng, đột

nhiên kêu hoảng lên:

- Ối trời! Y cắn ngón chân ta.

Nàng quay sang nói với hai tên lính Khất Đan:

- Các ngươi mau ra chỗ khác, người này nổi cơn điên, ối chao, đừng

để y cắn đứt ngón chân ta.

Du Thản Chi mơn man ngậm ngón chân cô gái, A Tử tuy không thấy

đau nhưng lại sợ y bất thần cắn mạnh một cái, trong cơn gấp gáp, biết là

không thể dùng sức mà xong, sợ hai tên lính đánh y, y không kể sống

chết cắn một cái thì khốn.

Hai tên lính Khất Đan không biết làm sao, đành phải buông tay. A

Tử lại kêu:

- Đừng có cắn, ta tha ngươi khỏi chết, ối ối, ta sẽ thả ngươi ra.

Du Thản Chi bấy giờ tâm thần cuồng loạn, có còn biết nàng nói

những gì? Một tên lính Khất Đan cầm chặt yêu đao, định bụng bất thần

rút ra khỏi vỏ chém xuống ót y một nhát, chặt đứt đầu y, nhưng có điều y

ôm chân A Tử chặt quá, một đao chém xuống lại sợ làm nàng bị thương

cho nên ngần ngừ không dám.

A Tử lại tiếp:

- Này này, ngươi nào có phải là dã thú sao lại cắn người là sao?

Mau nhả ra, ta sẽ sai người trị thương, thả ngươi trở về Trung Nguyên.

Du Thản Chi vẫn không lý tới nhưng răng không cắn xuống nên

không làm nàng đau chút nào, hai tay vuốt ve lưng bàn chân, trong lòng

lâng lâng bay bổng, thật chẳng khác gì một cánh diều đang lững lờ giữa

từng mây.

Một tên lính Khất Đan chợt nảy ra một ý, xông vào bóp cổ Du Thản

Chi. Du Thản Chi bị nghẹt thở, tự nhiên há mồm, A Tử vội vàng rụt chân

lại, rút được ngón chân ra khỏi miệng y, đứng phắt dậy, lại sợ y nổi cơn

điên cắn nữa, dấu hai chân vào sau tấm nệm. Hai tên lính Khất Đan liền

giữ chặt Du Thản Chi, đấm liên tiếp vào ngực gã, đánh được độ mươi

quyền, y oa oa há mồm hộc ra mấy ngụm máu, làm bẩn cả tấm thảm rực

rỡ kia.

A Tử quát:

- Ngừng tay! Đừng đánh y nữa.

Sau một trận kinh hoàng, nàng cảm thấy gã tiểu tử này có điều quái

lạ thật vui nên không muốn đánh chết y ngay. Tên lính Khất Đan không

đánh nữa, A Tử ngồi xếp bằng trên tấm nệm, để ngoặt hai bàn chân trần

dưới mông, trong bụng tính toán: Có cách nào hành hạ y cho thật bõ

nhỉ?.

A Tử ngửng đầu lên, thấy Du Thản Chi mắt vẫn chăm chăm nhìn

mình, liền hỏi:

- Ngươi nhìn ta làm chi?

Du Thản Chi vốn chẳng còn kể sống chết vào đâu liền đáp:

- Cô nương đẹp quá đỗi, cho nên tôi thích nhìn.

A Tử bẽn lẽn nghĩ thầm: Tên tiểu tử này lớn mật thật, dám nói với

ta những lời khinh bạc. Thế nhưng trong đời nàng, chưa bao giờ có một

chàng trai nào dám ca tụng nàng đẹp ngay tận mặt. Khi nàng học nghệ ở

phái Tinh Tú, chư sư huynh đều coi nàng là một cô bé con ngang ngược

lanh lợi, còn khi đi cùng với Tiêu Phong, nếu không sợ nàng gây chuyện

thì cũng lo nàng chết bất ngờ, chưa bao giờ để ý xem nàng đẹp hay xấu.

Những lời ca ngợi sống sượng của Du Thản Chi, quả là xuất tự đáy lòng,

nàng không khỏi vui sướng ngầm nghĩ thầm: Ta giữ y lại ở gần bên,

thỉnh thoảng đem ra tiêu khiển cũng thích lắm. Có điều tỉ phu đã bảo là

thả y về, nếu như biết ta sai người bắt lại ắt sẽ bực mình. Chỉ dấu được

anh ấy hôm nay nhưng làm sao dấu được mãi. Nếu muốn tỉ phu không thể

nào biết được thì làm gì đây? Không cho ai nói thì cũng còn được, nhưng

nếu tỉ phu bất thần đi vào, bắt gặp y thì làm sao?.

Nàng trầm ngâm một hồi, bỗng chợt nghĩ tới: A Châu rất giỏi hóa

trang, giả làm cha ta đến nỗi tỉ phu còn không nhận ra, ta đem tiểu tử này

thay hình đổi dạng, anh ta sẽ không nhận ra được. Thế nhưng nếu y

không tự nguyện, mình hóa trang y rồi y sẽ rửa sạch đi, trở lại hình dáng

cũ thế thì có ích gì đâu?.

Đôi hàng mi cong của nàng hơi nhíu lại, lập tức tìm ra ngay, vỗ tay

reo lên:

- Hay lắm! Thật là hay! Cứ thế mà làm.

Nàng quay sang hai tên Khất Đan nói một hồi, hai tên lính đó có chỗ

nào chưa rõ lại hỏi lại. A Tử giải thích thêm rồi gọi thị nữ lấy ra năm

chục lượng bạc đưa cho họ. Hai tên Khất Đan cầm lấy, khom lưng hành

lễ, xốc Du Thản Chi ra khỏi sảnh.

Du Thản Chi kêu lên:

- Ta muốn ngắm nàng! Ta muốn ngắm cô gái xinh đẹp tàn ác kia.

Lính Khất Đan và thị nữ nào có hiểu tiếng Hán nên chẳng ai hiểu y

đang nói gì. A Tử cười mủm mỉm nhìn theo sau lưng y, nghĩ đến chủ định

thông minh của mình, càng thêm đắc ý.

Du Thản Chi bị đem trở về địa lao, vứt trên một đống cỏ khô. Đến

chiều hôm đó, có người đem đến cho y một bát thịt cừu, vài cái bánh bao.

Cơn sốt của Du Thản Chi chưa hạ, luôn mồm lảm nhảm khiến gã kia sợ

quá bỏ vội thức ăn xuống, chạy vội ra ngoài. Du Thản Chi không biết đói

nên chẳng đụng tới thịt hay bánh bao.

Tối hôm đó có ba tên Khất Đan đi vào. Du Thản Chi thần trí mơ hồ,

thấy vẻ mặt ba gã kia đầy vẻ quái đản, xem ra không phải tốt lành gì, chỉ

mang máng biết là nguy đến nơi nên cố gắng lồm cồm đứng lên, tính

chuyện đào tẩu. Hai gã Khất Đan xông đến đè nghiến y xuống, lật ngửa

mặt lên. Du Thản Chi chửi toáng lên:

- Quân Khất Đan chó má, chết đường chết chợ, đại gia sẽ băm vằm

chúng bay ra.

Vừa tới đó, gã Khất Đan thứ ba bưng một cái gì trăng trắng, trông

tựa như bông, lại giống như tuyết, dùng sức ập lên mặt y. Du Thản Chi

thấy mặt mình vừa ẩm vừa mát, đầu óc tỉnh lại nhưng không thở nổi, nghĩ

thầm: Thì ra bọn chúng bịt chặt thất khiếu cho mình chết ngạt.

Thế nhưng xem chừng y đoán không đúng, gã kia lại châm cho thủng

mũi mồm khiến y vẫn thở được nhưng mắt mở không ra, chỉ thấy mặt

dính đầy thứ gì nhão nhoẹt, rồi ai đó nắn khắp mặt y, tưởng như trát lên

một lớp bột nát. Du Thản Chi mơ mơ hồ hồ nghĩ thầm: Không biết tên

ác tặc này dùng cách quái ác gì giết mình đây?.

Một hồi sau, lớp bùn mềm trên mặt được người ta nhẹ nhàng gỡ ra,

Du Thản Chi mở mắt nhìn, thấy một khối bột mì in thành hình một mặt

người, chính là vừa ở mặt mình ra. Tên Khất Đan đó trịnh trọng bưng cái

vật đó, dường như sợ hư mất. Du Thản Chi lại chửi:

- Đồ Liêu cẩu thối tha, chúng mày rồi sẽ chết không có đất mà

chôn.

Ba gã Khất Đan không thèm để ý đến y, bưng cái khối bột nhão đó

đi mất. Du Thản Chi chợt nghĩ ra: Đúng rồi, bọn chúng nó tô lên mặt

mình một lớp thuốc độc, rồi chẳng bao lâu, mặt mình sẽ lở loét thối tha,

da thịt vỡ nát, biến thành quỉ quái .... Y càng nghĩ càng kinh, nghĩ thầm:

So với để bọn chúng hành hạ mình đến chết, chi bằng mình đập đầu

chết còn hơn. Y bèn húc đầu vào tường, bình bình bình ba cái. Ngục tốt

nghe tiếng vội vàng chạy vào, trói chặt chân tay y lại. Du Thản Chi đập

đầu đã thành sống dở chết dở, nay đành nằm yên chịu vậy.

Qua luôn mấy ngày, mặt y không hề đau đớn, cũng không lở lói,

nhưng y đã quyết ý chết, bụng tuy đói nhưng nhất định không ăn thức ăn

ngục tốt mang vào. Đến ngày thứ tư, ba gã Khất Đan kia lại trở vào địa

lao, lôi y đi. Trong cơn đau đớn, Du Thản Chi bỗng nảy ra một ý vị ngọt

ngào, nghĩ thầm chắc A Tử sai đem mình ra xỉ vả đánh đập, tuy thân thể

có phải khổ sở nhưng lại có cơ hội được nhìn khuôn mặt tú lệ kia, trên

khuôn mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.

Ba tên Khất Đan dẫn y đi qua mấy ngõ hẹp rồi vào trong một căn

nhà đá tối om om. Chỉ thấy lửa bập bùng chiếu sáng một bên vách đá,

một gã thợ rèn gân guốc cởi trần, đứng bên cạnh một cái đe sắt lớn, đang

xăm xoi xem một vật gì đen sì trên tay. Ba tên Khất Đan đẩy Du Thản

Chi đến trước mặt người thợ rèn, hai người chia ra nắm hai tay y, còn một

người giữ chặt sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu qua, nhìn mặt y, lại

đăm đăm nhìn vào vật trong tay, dường như muốn so sánh.

Du Thản Chi nhìn vào vật trên tay y, thấy đó là một cái mặt nạ bằng

sắt mới đúc xong, trên có đục hai mắt mũi mồm bốn cái lỗ. Y còn đang

suy nghĩ, không biết cái này để làm gì thì tên thợ rèn đã cầm mặt nạ lên,

chụp vào mặt Du Thản Chi. Du Thản Chi tự nhiên hất đầu về sau tránh,

nhưng sau ót đã bị người ta giữ chặt, không cách gì thoát được, chiếc mặt

nạ liền áp vào mặt y. Y cảm thấy trên mặt lạnh ngắt, da thịt chạm vào

kim loại, mà kỳ lạ làm sao, cái mặt nạ đó thật khít khao kể cả mắt mũi

mồm, tưởng chừng như chế riêng cho y vậy.

Du Thản Chi chỉ ngạc nhiên giây lát lập tức hiểu ngay nguyên do,

một làn hơi lạnh chạy thẳng từ đỉnh đầu xuống xương sống: Chết rồi, cái

mặt nạ này chính là để cho ta, hôm trước bọn chúng dùng bột mì nhồi

thành khuôn. Bọn chúng làm cái mặt nạ sắt đó để làm gì? Không lẽ ...

không lẽ .... Y đã đoán ra cái dụng ý ác độc của người Khất Đan, nhưng

để làm gì thì không biết, không còn dám nghĩ thêm chỉ hết sức vùng vẫy

mong sao thoát ra được.

Người thợ rèn bỏ chiếc mặt nạ ra, gật gù tỏ vẻ hài lòng, rồi dùng

một chiếc kìm lớn kẹp bỏ vào lò lửa nung cho đỏ lên, tay phải cầm búa,

đập xuống choang choang. Y đập chiếc mặt nạ một lúc, đưa tay rờ rẫm

xương gò má và trán Du Thản Chi, rồi sửa những chỗ chưa được hoàn

toàn ăn khớp.

Du Thản Chi kêu lên:

- Bọn Liêu cẩu trời đánh kia, các ngươi làm chuyện thương thiên

hại lý, hung tàn ác độc thế này, ông trời sẽ giáng họa xuống tất cả chúng

bay không được chết yên chết lành, đến cả bò ngựa nhà bay cũng chết

nốt, con nít cũng chết non.

Y ngoác mồm chửi rủa nhưng người Khất Đan chẳng hiểu câu nào.

Gã thợ rèn đột nhiên quay phắt lại, hầm hầm nhìn y, cầm chiếc kìm sắt

đang nóng đỏ, dí vào mắt y khiến Du Thản Chi sợ đến hét ầm lên.

Thế nhưng gã thợ rèn chỉ dọa y một mẻ, cười sằng sặc, rút chiếc kìm

về, lại lấy ra một khối sắt hình cong ướm thử vào sau ót Du Thản Chi.

Sau khi gõ cho vừa, tên thợ rèn bèn đem cả mặt nạ lẫn cái chụp hình bán

cầu bỏ vào lửa nung cho đỏ, lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên Khất Đan liền

kéo Du Thản Chi lên bắt nằm trên một cái phản gỗ, để đầu y thò ra ngoài

bìa. Lại có thêm hai người Khất Đan khác đến giúp, dùng sức giữ chặt

đầu tóc y, khiến cho y không thể nhúc nhích. Năm người kẻ giữ chân

người nắm tay, thử hỏi Du Thản Chi còn cục cựa làm sao được?

Tên thợ rèn kẹp chiếc mặt nạ nóng đỏ lên, ngừng lại một chút cho

nguội bớt, quát lớn một tiếng, rồi áp lên mặt Du Thản Chi. Khói trắng

xèo xèo bốc lên đồng thời mùi thịt cháy khét bay tứ tán. Du Thản Chi chỉ

kêu lên được một tiếng rồi ngất xỉu. Năm tên Khất Đan lật người y lại, gã

thợ rèn lại kẹp nửa đầu bên kia, để vào sau ót, hai mảnh bán cầu ráp lại

thành một trái cầu sắt bao chặt đầu Du Thản Chi lại. Cái lồng sắt còn

nóng lắm, đụng vào thịt liền đốt cháy thành một khối bầy nhầy. Gã thợ

rèn đó là thiết công khéo léo vào bậc nhất ở thành Yên Kinh, hai nửa

chiếc lồng sắt dính chặt làm một chỗ nào cũng thật khít khao.

Du Thản Chi chẳng khác gì rơi vào địa ngục, bị thiêu đốt trong vạn

trượng lửa không biết bao lâu mới dần dần tỉnh lại nhưng trước mặt và

sau ót đau đớn khôn cùng chịu không nổi, lại ngất đi. Cứ như thế ba lần

tỉnh lại, ba lần ngất xỉu, y lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những

tiếng ú ớ không ra tiếng người.

Y đành nằm yên cố gắng không suy nghĩ gì khác, nghiến răng cố

chịu đựng nỗi đau đớn ở mặt và ót phải đến hơn hai giờ mới đưa được tay

lên sờ thử, tay đụng phải vật gì vừa cứng vừa lạnh, biết ngay những gì

mình đoán không sai, cái mặt nạ kia đã chụp lên đầu mình rồi. Trong cơn

phẫn khích, y cố giằng nó ra nhưng cái lồng sắt đó đúc thật kiên cố,

không hề suy suyển chút nào. Y càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng nhịn

không nổi khóc òa lên.

Thế nhưng dẫu sao y tuổi cũng còn trẻ, nỗi thống khổ tuy lớn lao

nhưng rồi cũng chịu được không đến nỗi chết, qua mấy ngày sau vết

thương dần dần se da, đau đớn cũng bớt, bụng cảm thấy đói. Y ngửi thấy

mùi thịt cừu và bánh bao nhịn không nổi cầm lấy ăn. Lúc này y đã mò kỹ

biết rõ chiếc lồng sắt ấy bao chặt đầu mình như thế nào, không thể nào

thoát ra được, mấy ngày đầu nổi cơn cuồng nộ nhưng rồi cũng bình tĩnh

lại, tự hỏi: Tên cẩu tặc Kiều Phong chụp lên đầu ta cái lồng sắt này,

không biết có dụng ý gì?.

Y vẫn nghĩ tất cả đều do lệnh của Tiêu Phong làm sao có thể đoán ra

rằng sở dĩ A Tử làm cái đầu sắt chính là che dấu để ông không nhận ra y.

Cái công trình đó, tất cả đều do đội trưởng Thất Lý theo lệnh A Tử mà thi

hành.

Ngày ngày A Tử đều hỏi Thất Lý xem Du Thản Chi sau khi đeo cái

lồng sắt tình hình ra sao, lúc đầu thì lo y chết sẽ mất vui, về sau biết y

vẫn còn sống, trong bụng hết sức hoan hỉ. Hôm đó nàng nghe tin Tiêu

Phong đi xuống Nam Giao duyệt binh liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi

đến Đoan Phúc Cung. Gia Luật Hồng Cơ vì muốn cho Tiêu Phong vui

lòng nên đã phong nàng là Đoan Phúc quận chúa, tòa Đoan Phúc Cung

này là ban riêng cho nàng ở.

A Tử vừa nhìn thấy hình dạng Du Thản Chi liền cảm thấy một niềm

vui vô bờ bến từ đáy lòng dâng lên, nghĩ thầm: Cái cách này của ta thật

được việc. Tiểu tử này đeo cái mặt nạ thì tỉ phu dẫu có đứng trước mặt y

cũng không thể nào nhận ra. Du Thản Chi lại đi tới mấy bước, A Tử vỗ

tay khen ngợi nói:

- Thất Lý, cái mặt nạ này đúc khéo quá, ngươi đem năm chục lạng

bạc thưởng thêm cho gã thợ rèn.

Thất Lý đáp:

- Vâng! Đa tạ quận chúa.

Du Thản Chi từ trong hai cái lỗ mắt nhìn ra, thấy A Tử mặt mày tươi

rói, cực kỳ kiều diễm, lại được nghe tiếng nói thanh tao của nàng, không

khỏi ngơ ngẩn như trời trồng. A Tử thấy y đội chiếc mặt nạ, thần tình quái

lạ, nhưng mắt vẫm đăm đăm nhìn mình nên cũng biết được bèn hỏi:

- Này thằng ngốc kia, ngươi nhìn ta làm gì thế?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi ... tôi ... không biết nữa. Cô ... cô nương đẹp quá.

A Tử mỉm cười:

- Ngươi đeo cái mặt nạ đó, thích hay không thích?

Du Thản Chi hậm hực hỏi lại:

- Thế cô nghĩ có thích hay không?

A Tử cười khanh khách đáp:

- Ta không nghĩ ra.

Nàng thấy miệng trên cái mặt nạ của y chỉ mở một đường thật hẹp,

miễn cưỡng có thể húp canh ăn cơm, còn như muốn ăn thịt thì phải dùng

tay xé nhỏ mới đút vào được, có muốn cắn ngón chân mình thì cũng

không được bèn cười nói:

- Ta đeo cho ngươi cái mặt nạ đó để ngươi mãi mãi không thể nào

cắn ta được.

Du Thản Chi trong lòng chợt mừng hỏi lại:

- Cô nương sẽ cho tiểu nhân ... cho tiểu nhân ... được ... luôn luôn ở

gần bên hầu hạ hay sao?

A Tử đáp:

- Hứ, ngươi là một tên tiểu tử xấu xa, ở gần bên lúc nào cũng tính

chuyện hại ta thì sao mà chịu được.

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân ... tiểu nhân ... nhất quyết không bao giờ hại cô nương.

Kẻ thù của tiểu nhân chỉ một mình Kiều Phong thôi.

A Tử nói:

- Ngươi muốn hại tỉ phu ta ư? Thế thì cũng như hại ta vậy? Có khác

gì đâu?

Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thấy một nỗi chua xót dâng lên

trong lòng, không biết phải trả lời sao. A Tử cười nói:

- Ngươi muốn hại anh rể ta thật còn khó hơn lên trời. Này thằng

ngốc, ngươi có muốn chết không?

Du Thản Chi đáp:

- Lẽ dĩ nhiên tiểu nhân không muốn chết. Thế nhưng bây giờ trên

đầu đeo cái đồ chết tiệt này, người không ra người, quỉ không ra quỉ, so

với chết thì có khác gì bao nhiêu?

A Tử nói:

- Nếu ngươi quả là thà chết sướng hơn, thì cũng được, ta sẽ giúp

ngươi tròn tâm nguyện, có điều không phải muốn chết là chết ngay đâu.

Ta chặt tay trái ngươi trước đã.

Nàng quay sang Thất Lý đang đứng hầu bên cạnh truyền lệnh:

- Thất Lý, ngươi đem y ra, chặt tay trái trước.

Thất Lý đáp lời:

- Vâng!

Y đưa tay ra nắm lấy cánh tay Du Thản Chi. Du Thản Chi sợ quá kêu

lên:

- Đừng! Đừng! Cô nương, tiểu nhân không muốn chết, cô nương ...

cô nương đừng chặt tay tôi.

A Tử cười nhạt nói:

- Ta đã nói rồi không lẽ không tính, trừ phi ... trừ phi ... ngươi quì

xuống khấu đầu.

Du Thản Chi còn hơi ngần ngừ, Thất Lý đã cầm tay y lôi đi. Du Thản

Chi không còn dám lần khân nữa, khuỵu hai đầu gối, lập tức quì xuống

rập đầu, cái lồng sắt đập vào nền gạch, nghe boong một tiếng. A Tử cười

khanh khách nói:

- Tiếng khấu đầu sao dễ nghe quá, ta chưa từng nghe thấy bao giờ,

ngươi sụp lạy ta thêm vài cái nữa xem nào.

Du Thản Chi là tiểu trang chủ của Tụ Hiền Trang, tuy học văn không

được, học võ không thông, trong trang ai cũng biết y là loại ăn hại đái nát

nhưng Du Ký có con lại chết non, Du Câu thì chỉ có một cậu con vàng con

ngọc này, tiểu trang chủ nhất hô bách nặc3, từ nhỏ đã được nuông chiều

tôn kính, có bị khinh khi như thế này bao giờ đâu? Y mới gặp Tiêu Phong

vẫn còn một chút ngạo khí thà chết không chịu khuất phục nhưng mấy

hôm nay, thân thể cũng như tâm linh đều bị những vết thương cực kỳ lợi

hại, bao nhiêu hào khí của tuổi thanh niên đều tiêu tán không còn gì nữa,

nghe A Tử nói như vậy, lập tức liên tiếp khấu đầu, leng keng vang dội,

được vị cô nương trông như nàng tiên này khen mình sụp lạy dễ nghe,

trong lòng thầm hoan hỉ.

A Tử nở một nụ cười duyên dáng nói:

- Hay lắm! Từ nay ngươi phải vâng lời ta, không cưỡng lại thì

không sao, bằng không ta sẽ chặt tay ngươi, nhớ không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng! Vâng!

A Tử lại tiếp:

- Ngươi đúng là một thằng ngu, ta cứu mạng ngươi, ngươi lại không

biết ơn. Tiêu đại vương muốn băm vằm ngươi ra, ngươi không biết hay

sao?

Du Thản Chi đáp:

- Y là kẻ thù giết cha tôi, dĩ nhiên không thể tha tôi được.

A Tử nói:

- Ông ta giả vờ tha ngươi ra, nhưng lại sai người đuổi theo bắt lại

để băm ngươi ra thành tương. Ta thấy ngươi không đến nỗi tệ lắm, giết đi

thật tội nghiệp, nên cố gắng che đậy cho ngươi. Thế nhưng nếu như Tiêu

đại vương bắt gặp thì liệu ngươi có sống được hay chăng? Ngay cả ta

cũng phải chịu liên lụy rất lớn.

Du Thản Chi lập tức hiểu ra bèn đáp:

- À, thì ra cô nương đúc cái đầu sắt này cho tiểu nhân đội chính là

vì có lòng tốt, cốt để cứu mạng cho tôi. Tiểu nhân ... tiểu nhân thật là

cảm kích, thật thế ... hết sức cảm kích.

A Tử đánh lừa được y khiến cho y biết ơn mình nên rất đắc ý, mỉm

cười nói:

- Vì thế lần sau ngươi gặp Tiêu đại vương thì không được nói năng

gì để ông ta không nhận ra tiếng ngươi. Nếu như ông ta biết được là

ngươi, hừ, hừ, thì sẽ chặt ngay tay trái, một hồi sau lại chặt luôn tay phải.

Thất Lý, ngươi mau đem y ra thay đổi y phục Khất Đan, tắm cho y một

cái chứ người đầy máu mủ tanh hôi, nặng mùi quá.

Thất Lý đáp lời dẫn y ra ngoài. Chẳng mấy chốc, Thất Lý lại đưa Du

Thản Chi vào, đã thay đổi quần áo Khất Đan cho y. Thất Lý muốn A Tử

vui lòng cố ý mặc cho y thật sặc sỡ, nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ,

trông như một thằng hề.

A Tử nhếch mép cười:

- Để ta đặt cho ngươi một cái tên, gọi là ... gọi là ... Hề Sắt. Từ nay

ta gọi Hề Sắt ngươi phải dạ nghe chưa. Hề Sắt!

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Dạ!

A Tử cực kỳ sung sướng, đột nhiên nghĩ ra một việc nói:

- Thất Lý, nước Đại Lương bên Tây Vực có đem qua một con sư tử,

phải không? Ngươi bảo huấn sư đem nó qua đây, lại gọi thêm mười vệ sĩ.

Thất Lý vâng lời ra ngoài truyền lệnh. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm

trường mâu tiến vào trong điện, quay về phía A Tử khom lưng hành lễ,

rồi đứng lên, mười sáu mũi giáo chĩa ra ngoài, bảo vệ chủ nhân. Chẳng

mấy chốc đã nghe ngoài cửa điện có tiếng sư tử gầm, tám người đàn ông

khỏe mạnh khiêng một cái chuồng bằng sắt lớn, trong chuồng là một con

sư tử đực đi qua đi lại, chòm lông đuôi dài rủ xuống, răng nhọn vuốt sắc,

thần tình thật là uy võ. Người luyện thú đi trước, tay cầm roi da.

A Tử thấy con sư tử đó thật là hung dữ đáng sợ, vui mừng nói:

- Hề Sắt, mồm ngươi nói thì nghe hay lắm nhưng chẳng biết có thật

hay không. Để ta thử xem cho biết, coi ngươi có nghe lời ta chăng.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y vừa trông thấy con mãnh sư đã hoảng thầm, không biết có dụng ý

gì nghe nàng nói thế, lập tức tim đập thình thình. A Tử nói:

- Không biết chiếc lồng trên đầu ngươi có chắc chắn hay không,

ngươi thử thò đầu vào trong chuồng cho sư tử cắn mấy cái, xem nó có cắn

vỡ được cái lồng sắt đó hay không?

Du Thản Chi hoảng hốt ấp úng:

- Cái đó ... cái đó chẳng nên thử làm gì. Nếu nó cắn vỡ thì đầu tiểu

nhân ...

A Tử nói:

- Cái đồ ngươi thật là vô dụng. Có một việc như thế mà cũng sợ,

nam tử hán đại trượng phu thì phải xem cái chết như trở về nhà4 mới phải

chứ. Ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.

Du Thản Chi năn nỉ:

- Cô nương, việc này đâu phải trò đùa, ví như nó cắn không vỡ, con

súc sinh này lại làm cái lồng méo đi thì cái đầu tiểu nhân ...

A Tử cười khanh khách nói:

- Thì cùng lắm cái đầu ngươi cũng bị méo thôi. Tên tiểu tử này thật

lắm chuyện, vốn dĩ ngươi cũng đâu có đẹp đẽ gì, dù đầu có méo thì cũng

vẫn còn ở trong cái lồng có ai nhìn thấy đâu mà lo, sợ gì đẹp hay xấu.

Du Thản Chi vội đáp:

- Tiểu nhân nào có thích đẹp hay không đẹp ...

A Tử mặt sầm xuống nói:

- Ngươi không nghe lời ta, được, thôi ta biết rồi. Ngươi có ý đánh

lừa ta, vậy ta sẽ vứt ngươi vào trong lồng cho sư tử ăn thịt.

Nàng dùng tiếng Khất Đan dặn dò Thất Lý, Thất Lý liền đáp:

- Vâng!

Rồi lập tức xông lên nắm tay Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Nếu như mình bị đẩy vào chuồng sư tử thì còn sống sao nổi, chi bằng

nghe lời cô nương, đút cái đầu sắt vào thử, may nhờ rủi chịu. Y liền kêu

lên:

- Đừng kéo! Đừng kéo! Cô nương, tôi xin nghe lời.

A Tử cười nói:

- Có thế mới ngoan ngoãn chứ! Ta bảo này, từ rày ta bảo ngươi làm

gì là phải làm ngay, đừng có lừng khừng để cô nương phải bực mình. Thất

Lý, đánh cho y ba chục roi.

Thất Lý đáp:

- Tuân lệnh!

Y cầm chiếc roi da trong tay người dạy sư tử, nghe chát một tiếng đã

quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá, kêu lên oai oái. A Tử

nói:

- Hề Sắt, ta bảo này, ta sai người đánh ngươi là coi trọng ngươi đó.

Ngươi kêu toáng lên như thế tức là không thích ta đánh chứ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân thích lắm chứ, đa tạ ân điển cô nương.

A Tử nói:

- Thế thì được, đánh đi.

Thất Lý đánh chát chát luôn một chập mười roi, Du Thản Chi chỉ

đành nghiến răng cố chịu, không dám hé răng, thế nhưng nhờ có chụp cái

lồng sắt nên roi không đánh vào đầu, còn roi da đánh vào ngực bụng

cũng đành phải ráng chịu. A Tử thấy y không kêu nữa cảm thấy vô vị nói:

- Hề Sắt, ngươi bảo ngươi thích ta cho người đánh ngươi, phải

không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Chính thế!

A Tử nói:

- Ngươi nói thế là thật hay giả? Hay chỉ là nói quấy nói quá để lừa

ta?

Du Thản Chi đáp:

- Đúng là thế, tiểu nhân nào dám đánh lừa cô nương.                                                                                    A Tử nói:

- Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? Sao không nói là

được đánh thật sướng quá?

Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ,

chỉ đành xuôi theo:

- Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là

sướng đời.

A Tử nói:

- Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.

Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu:

- Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.

Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì

đã quá ba chục. A Tử xua tay nói:

- Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.

Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên

chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến

lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn

chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A

Tử quát:

- Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?

Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm

tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt

răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một

luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình

đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.

Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc

lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử

cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.

Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn

bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản

Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy

vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép

tại một góc lồng.

Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản

Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót

gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử,

khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói:

- Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau

xem ai sống ai chết.

Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra,

nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết

sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất

định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên:

- Cắn! Cắn y ngay!

Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ

nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng

nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn

óc tung tóe đầy mặt đất.

A Tử cười nói:

- Hề Sắt thắng rồi!

Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài,

nói với Du Thản Chi:

- Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được!

Thưởng cái gì đây nhỉ?

Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói:

- Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một

việc.

A Tử hỏi:

- Ngươi cầu xin gì?

Du Thản Chi đáp:

- Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô

nương.

A Tử ngạc nhiên:

- Làm đầy tớ cho ta ư? Sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết

rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù

cho cha mẹ chứ gì?

Du Thản Chi vội đáp:

- Không! Không! Không phải thế đâu.

A Tử nói:

- Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được,

hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào.

A Tử hỏi:

- Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên

hạ. Tiểu nhân ... tiểu nhân ... mong được ngày ngày trông thấy cô nương.

Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là

lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn

nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại

thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất

trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình

mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.

Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng

nghe một tên cung vệ lên tiếng báo:

- Đại vương đến thăm.

A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi:

- Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?

Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng:

- Không sợ!

Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng5, chậm

rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi,

lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ

lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử:

- Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới

chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?

A Tử cười đáp:

Bối cảnh xã hội đời Tống

- Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến

cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi

nè, đây là vết răng sư tử đó.

Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú

thật. A Tử lại tiếp:

- Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?

Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng

chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần

hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá

phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì

thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau

khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở

trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.

Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát

tiếng leng keng cười nói:

- Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng

lắm.

A Tử nói:

- Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh

nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng

hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi

làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y

thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?

Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.

Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói:

- Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này

từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem

lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?

Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn

nói:

- A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta

sống dở chết dở như thế?

A Tử hứ một tiếng nói:

- Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?

Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không

thèm đến thăm.

Tiêu Phong nói:

- Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận

tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô

một lúc hay sao?

A Tử phụng phịu:

- Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái

lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá

như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời

một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.

Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được,

chỉ đành cười trừ nói:

- Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em

không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?

A Tử hậm hực đáp:

- Trẻ con, trẻ con ... em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích

chơi với em, sao còn đến đây làm gì?

Tiêu Phong đáp:

- Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?

A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá

một cái nói:

- Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái

mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.

Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ

dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì

càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói:

- Thôi em đi nghỉ đi thôi.

Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn

khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc

muốn trút lên đầu y bèn quát:

- Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng!

Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên:

- Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?

A Tử không đáp, vẫy tay nói:

- Đánh mau!

Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu:

- Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần

sau khỏi tái phạm.

Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói:

- Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta

đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi

cho nên ta mới đánh.

Du Thản Chi nói:

- Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô

nương đã sai đánh rồi mà.

Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói:

- Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả

nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó

chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên

muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động

hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng

không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh

cũng chẳng sao.

Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run

lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau

đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi

còn hơn, vội nói:

- Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích

cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.

A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói:

- Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người

khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta

cao hứng tha cho ngươi chứ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô

nương.

A Tử nói:

- Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng

đấy chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.

A Tử nói:

- Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh

cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.

Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì

mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo

mình không muốn, nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên

đành lặng thinh không dám nói gì cả.

A Tử hỏi:

- Sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ

gì? Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?

Du Thản Chi đành gượng đáp:

- Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng

tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân.

A Tử nói:

- Thế sao ngươi không nói gì cả?

Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp:

- Cái đó ... cái đó ... tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày

non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai

làm thế nào để báo đáp.

A Tử nói:

- Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh

ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.

Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu:

- Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện

báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương

tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng

không từ.

A Tử nói:

- Được, thế thì đánh đi.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng.

Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục

roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm

xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một

tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ

đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ

rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã

ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó

mới ngừng.

A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không

khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý

đến mình, trong bụng ấm ức nói:

- Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào

nữa không?

Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới

khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành

hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải

làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu,

nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.

Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng

làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.

Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người

khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi

qua thì mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một

chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh

đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng

cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.

Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi

theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp

thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp,

mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói:

- Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời

nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.

Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh

cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt

xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình

thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.

A Tử lại gọi:

- Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?

Du Thản Chi lúc ấy mới đáp:

- Thưa cô nương, vâng.

Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười

nói:

- Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân vẫn mong ... vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà

chưa được nên không thể chết.

A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói:

- Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để

làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc,

nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.

Du Thản Chi đáp ngay:

- Vâng!

Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên

vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng

đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên

đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì

xẩy ra bèn nói:

- Xin cô nương sớm quay về phủ.

Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục

ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ

vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai

người da thịt như se lại.

A Tử nói:

- Thôi, ở đây được rồi!

Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo:

- Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ

cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa?

Du Thản Chi vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi

theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập

thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc

lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói:

- Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối

om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Vâng!

A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có

mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi

cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên

châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói:

- Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.

A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng,

ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang

thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn

tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y

phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh

viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu

bên cạnh.

Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt,

một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết

thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác

xa những con rết thường.

Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới,

chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy

trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên

trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong

chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói:

- Thôi đi!

Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ

thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt

hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái

gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.

A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở

bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng

rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã

sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong

điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành,

mở nắp ra cười nói:

- Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?

Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm

qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để

san bên cạnh, rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết

kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng

độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như

muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ:

- Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công

được rồi!

Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn

công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng

nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.

Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì

hỏi:

- Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.

A Tử hỏi thêm:

- Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi,

xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện

gì tiểu nhân nhất định không từ chối.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn

công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng

giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng

trọng thưởng cho ngươi.

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần

phải thưởng.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.

Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí,

một hồi sau mới nói:

- Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi,

ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng

nhiều càng tốt.

Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu

gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay,

đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần

ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại:

- Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không muốn, có điều ... có điều ...

A Tử ngắt ngang:

- Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?

Ngươi là người hay ngươi là gà trống?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân không phải là gà trống.

A Tử nói:

- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là

gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông

vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì

đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?

Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy

nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình

mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:

- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.

Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào

trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị

đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:

- Giữ yên đó! Không được động đậy!

Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang

cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai

ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.

Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A

Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm

sao dám cử động?

Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ

phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một

lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến

thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên

cánh tay.

Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn

thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau

tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.

A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám

sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất

động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:

- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó,

đừng làm nó tổn thương.

Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh

để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong

chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa

tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó

vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của

ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô

Công độc chưởng.

Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp

ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn

tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết

máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ

không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút

con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản

Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được

nữa.

Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc

ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh

tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn

con rận cùng cắn một lượt.

Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng

ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo

ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật

khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc

đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất

đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.

Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải

dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh

thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy

kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn

sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy

như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng

hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt

chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.

Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính

đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong

quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ

quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm

hai cổ chân.

Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy

người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung

tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ

ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế,

đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái

rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay

phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.

Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa,

không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn

thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư

thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức

cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy

như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu

ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa

ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của

nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn

nhiều.

Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng

nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng

quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi

tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức

mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến

ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm

cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ

chịu mà thôi.

Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc

gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở

bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa

mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa

trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực

bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến

mất.

Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào

cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa

đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến

nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay

chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh

tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.

Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn

toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc

cả rồi.

Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau

này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn

sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa

thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà

sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống

đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng

sắt gõ xuống đất kêu boong boong.

Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha

với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu

lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của

hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà

sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình

vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du

Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa

rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp

trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép

Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.

Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo

hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi,

đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y

chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn

một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong

điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:

- Sao ngươi còn chưa chết?

Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:

- Vì ... tiểu nhân ... tiểu nhân còn sống.

Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử

nói:

- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo

ta đi bắt độc trùng lần nữa.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan

hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn

một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.

A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc

Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút

máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện

màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng

theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.

Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy

có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư

phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ

đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.

Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung

quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng

hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối,

không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng

phải đi xa hơn.

Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử

đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột

soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:

- Nằm xuống!

Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng

lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi

tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động,

thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn

mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi.

Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng

như thế xưa nay chưa từng thấy.

Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến

hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng

nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái

đầu to lớn húc vào.

A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức

kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du

Thản Chi nói nhỏ:

- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi

ôi!

Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới,

tự nhiên hăng máu lên nói cứng:

- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.

Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe

thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ

chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như

thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.

Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có

một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm

sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là

trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém

vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.

Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa

ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so

với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng

bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem

chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.

Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một

mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo

xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con

sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch,

chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái

bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.

A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:

- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.

Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này

nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu

đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc

đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh

tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ

còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.

A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:

- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!

Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du

Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con

tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa

đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên

không mất dấu.

Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước

có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến

suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm

đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân

than thở:

- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết,

ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.

Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có

thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm

tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:

- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không

thì đừng gặp ta nữa.

Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản

Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến

bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại

có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:

- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!

Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo

vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở

phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến

trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc

Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem

xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy

sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng

chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng

này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.

Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người

trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy

vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.

Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có

con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng

rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng

vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:

- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài

chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay

về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà

mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày

biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau

chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!

Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương

xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản

Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem

đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ

thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.

Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì

một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du

Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia

đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.

Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa

sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất

cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó

chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng

khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái

vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi

được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ

thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.

Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật

gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín,

xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở

nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu

hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một

nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều

lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.

Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng

người gọi:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!

Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu

dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây

làm gì?

Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục

lên luống rau đáp:

- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.

Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:

- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không

trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên!

Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa

Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ

chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?

Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:

- Vâng!

Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con

tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai

cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận

mới được!.

Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội

vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái

vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi

tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn

chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống

rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu

vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt

vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng

chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy

về đường cũ.

Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ

lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du

Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa

qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn

cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí

lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi,

tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y

liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng

không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái

bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương

mỏng.

1 Khổng tử nói: Học rồi được thực hành, chẳng vui sướng lắm sao? (Luận Ngữ)

2 tickling

3 gọi một tiếng trăm người dạ

4 thị tử như qui

5 quần áo của người quyền quí đời xưa (Xem thêm , phần y phục của Nguyễn Duy Chính)

6 tức Yoga

7 python (con trăn)

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 29(a)

TRÙNG NGÃI NGƯNG HÀN CHƯỞNG TÁC BĂNG

Ngoài điện nắng hè dường đổ lửa,

Trong nhà lạnh buốt nước thành băng.

Trùng lạ xem chừng chưa đáng sợ,

Dẫu độc sao bằng dạ sói lang.

*

* *

Du Thản Chi xách chiếc hồ lô, rảo bước đi về thành Nam Kinh, bẩm

lại cho A Tử là đã bắt được con băng tàm. A Tử mừng lắm vội vàng bảo y

bỏ con tằm vào trong chiếc hũ sành để nuôi. Lúc đó đang vào tháng bảy,

giữa mùa hè trời nóng gắt ngờ đâu vừa nuôi con băng tàm ở điện phụ, lập

tức trong nhà càng lúc càng lạnh, chẳng bao lâu nước trong bình trà chén

trà cũng kết thành băng.

Đêm hôm đó, Du Thản Chi nằm trong chăn mà run lẩy bẩy, không

sao ngủ được, nghĩ thầm: Con tằm này thật lạ trên đời ít có. Nếu như cô

nương đem nó hút máu mình thì dù không chết vì chất độc, cũng lạnh

cóng mà chết.

A Tử liên tiếp bắt mấy con rắn độc, trùng độc đem đến đấu với nó,

đều bị con băng tàm chạy quanh vài vòng là đông cứng chết ngay để cho

nó hút hết trấp dịch. Đến hơn mười ngày, không giống độc trùng nào

đương cự nổi.

Hôm đó A Tử đến điện phụ nói:

- Hề Sắt, hôm nay mình phải giết con băng tàm, ngươi thò tay vào

trong hũ để cho con tằm hút máu.

Du Thản Chi những ngày qua lúc nào cũng lo ngay ngáy, đêm trằn

trọc sợ cái giờ phút này, quả nhiên cô nương chẳng chút dung tình, rồi

cũng bắt y và con băng tàm cùng hi sinh, trong lòng buồn bã, quay sang

nhìn A Tử một lát không nói năng, không cử động. Về phần A Tử nàng

chỉ nghĩ: Ta vô tình được bảo vật hiếm có này, độc chưởng công phu khi

luyện thành rồi e rằng so với sư phụ còn ghê gớm hơn. Nàng liền giục:

- Ngươi thò tay vào hũ đi thôi.

Nước mắt Du Thản Chi nhỏ ròng ròng, quì xuống khấu đầu nói:

- Cô nương luyện thành độc chưởng rồi, đừng quên tiểu nhân vì cô

nương mà phải chết. Tôi họ Du, tên Thản Chi chứ không phải là Hề Sắt.

A Tử mỉm cười nói:

- Được, tên ngươi là Du Thản Chi, ta nhớ rồi. Ngươi trung thành với

ta, tốt lắm, đúng là một đứa đầy tớ hết lòng với chủ.

Du Thản Chi được nàng khen ngợi mấy câu như thế, cảm thấy hết sức

an ủi, lại khấu đầu thêm hai lần nữa nói:

- Đa tạ cô nương!

Thế nhưng y vẫn không muốn bó tay chịu chết bèn rùn người, vòng

xuống chui đầu qua hai đùi, tay trái nắm cổ chân, tay phải thò vào trong

hũ, trong đầu nghĩ đến những mũi tên nhỏ ở hai chữ quái dị bên cạnh nhà

sư khỏa thể trong cuốn sách. Đột nhiên đầu ngón tay trỏ hơi ngứa, một

làn khí lạnh như băng chạy thẳng lên như tên bắn, theo cánh tay vào

trong ngực. Du Thản Chi trong đầu chỉ nhớ đến hướng của mũi tên, luồng

hàn khí kia đi đúng theo những kinh mạch y đang nghĩ tới, từ ngón tay lên

cánh tay rồi từ ngực chạy lên đỉnh đầu, sợi dây nhỏ đó đi đến đâu tỏa hơi

lạnh buốt thấu xương.

A Tử thấy tư thế cổ quái của Du Thản Chi thật tức cười, qua một lúc

sau, thấy y đứng lộn tùng phèo như thế, không khỏi ngạc nhiên, đến gần

xem thấy con băng tàm vẫn cắn chặt ngón tay trỏ. Thân con tằm óng ánh

trong suốt như thủy tinh, nhìn kỹ thấy có một dòng máu chạy từ miệng đổ

vào, đi vòng qua phía tả, quấn quanh một vòng, rồi từ bên phải chảy

ngược trở về ngón tay trỏ Du Thản Chi.

Thêm một lúc nữa, trên chiếc đầu sắt, y phục, chân tay Du Thản Chi

đều phủ một làn sương mỏng, A Tử nghĩ thầm: Tên nô tài này chắc là

chết rồi. Người sống trên mình phải có hơi ấm, làm sao kết thành sương

được?. Thế nhưng trong người con băng tàm máu vẫn còn lưu chuyển,

hiển nhiên hút máu chưa xong. Đột nhiên trên mình con tằm có những sợi

nhiệt khí như tơ bốc ra.

A Tử còn đang kinh ngạc thì đã nghe bộp một tiếng, con tằm từ ngón

tay Du Thản Chi rơi xuống đáy hũ, vội dùng cây gậy cầm sẵn trong tay

giã xuống một cái. Nàng vẫn tưởng con tằm bản thể linh dị, một gậy như

thế chưa chắc đã giết được nó, ngờ đâu khi rơi xuống rồi, con vật chỉ nằm

phơi bụng không lật lại nổi, thành thử một gậy của A Tử đã đâm băng

tàm nát ngướu.

A Tử mừng lắm vội vàng thò tay vào hũ, bôi huyết dịch con tằm vào

lòng bàn tay, nhắm mắt hành công, hút hết vào trong người. Nàng cứ xoa

lên hết lần này sang lần khác đến khi không còn tí gì mới thôi.

Hành công lâu như thế trong người mệt mỏi, A Tử ngáp dài một

tiếng, đứng dậy, thấy đầu Du Thản Chi vẫn còn lộn ngược chui giữa hai

đùi, toàn thân trắng xóa, kết đầy băng sương. Nàng hết sức sợ hãi, đưa

tay sờ thử người y thấy lạnh buốt, quần áo đóng băng cứng ngắc. Nàng

vừa lạ lùng vừa tức cười, gọi Thất Lý vào bảo đem Du Thản Chi đi chôn.

Thất Lý liền cùng hai tên lính Khất Đan nữa, vứt xác Du Thản Chi

lên một chiếc xe ngựa, chạy ra khỏi thành. A Tử không dặn y phải chôn

cất cho chu đáo, Thất Lý cũng chẳng phí sức đào một cái huyệt, thấy bên

cạnh đường có một khe nước, liền vứt luôn xuống suối, rồi quay về.

Thế nhưng cũng chính vì Thất Lý làm biếng một chút mà lại cứu được

mạng Du Thản Chi. Thì ra ngón tay y bị băng tàm cắn rồi bèn dùng phép

vận công của Dịch Cân Kinh để hóa giải độc khí, huyết dịch bị con tằm

hút ra lại theo ngón tay quay ngược trở về huyết quản đem bao nhiêu tinh

hoa kịch độc của con băng tàm vào người. A Tử sau đó hút huyết tương

của con tằm chỉ mất công toi chứ không còn hiệu dụng gì cả.

Nếu như Du Thản Chi đã học toàn bộ phép hành công của Dịch Cân

Kinh thì sẽ có thể tiêu giải chất độc của con băng tàm nhưng vì y chỉ mới

học được có một pháp môn, thu vào mà không biết đẩy ra nên chất kỳ

độc đệ nhất âm hàn của con sâu kia đã khiến cho người y bị đông cứng.

Còn như Thất Lý đem y chôn xuống đất thì sẽ thành một cái xác ướp

dù có vài trăm năm sau cũng chưa chắc đã rữa được. Du Thản Chi bị vứt

xuống suối trôi theo dòng, hơn một chục dặm sau gặp chỗ uốn khúc,

vướng vào một đám lau sậy. Chẳng bao lâu, nước chung quanh người y đã

biến thành băng chẳng khác gì một chiếc quan tài thủy tinh. Nước suối

tiếp tục soi mòn, tiêu giải từng chút từng chút hàn khí khiến cho khối

băng bao quanh y dần dần tan hết.

Cũng may đầu Du Thản Chi có cái lồng sắt, kim loại mau nóng mà

cũng mau nguội nên đá trên đầu tan ra trước. Nước suối ọc vào mồm y

khiến Du Thản Chi ho sặc sụa, đầu óc tỉnh táo liền từ dưới khe nước bò

lên, nước đá trên người chạm vào nhau kêu loong coong.

Khi thân thể mới biến thành băng không phải y hoàn toàn không biết

gì cả mà chỉ vì bị kết trong khối băng không cử động được mà thôi. Đến

sau y hôn mê không còn biết gì nữa, bây giờ chết đi sống lại thật không

khác một giấc mộng dài.

Du Thản Chi ngồi trên bờ suối, nghĩ mình đối với A Tử một lòng

trung thành sắt son cam nguyện đem thân nuôi độc trùng để giúp nàng

luyện công, vậy mà khi mình chết đi, A Tử chẳng thèm thở dài lấy một

tiếng. Y từ trong băng nhìn ra thấy A Tử mặt mày hớn hở có được huyết

tương của con băng tàm đem chà vào lòng bàn tay, chỉ nghiêng đầu nhìn

mình, thấy y chết xem chừng thú vị, lại hơi kỳ quái, hoàn toàn chẳng có

chút gì thương xót.

Y lại nghĩ: Băng tàm độc địa như thế, đã từng hút chất độc của hàng

nghìn độc trùng độc xà, cô nương nay hút hết vào trong lòng bàn tay rồi,

độc chưởng chắc đã luyện thành. Nếu như ta quay về... Y đột nhiên run

bắn người lên, nổi gai ốc nghĩ thêm: Cô ta vừa thấy mình thể nào chẳng

đem ra thử độc chưởng. Nếu như đã luyện thành thể nào đánh một cái là

mình chết tươi. Còn như luyện chưa xong, thì lại sai mình đi bắt rắn độc,

trùng độc nữa cho đến bao giờ luyện xong một chưởng đánh chết mình

lúc ấy mới thôi. Hai đằng đằng nào cũng chết, quay về làm gì?.

Du Thản Chi đứng lên, nhảy nhót vài cái rũ hết những mảnh băng

còn bám trên người nghĩ thầm: Bây giờ mình biết đi đâu đây?. Đi tìm

Kiều Phong báo thù cho cha ư, điều đó y nào dám nghĩ đến. Nhất thời y

không biết tính sao, chỉ đành lang thang trong đồng rộng núi hoang, hái

trái dại, bắt chim chóc, thú nhỏ mà ăn. Đến chiều hôm sau, không có việc

gì làm, y bèn mang cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn ra định học theo

tư thức của nhà sư trần truồng trong sách.

Cuốn sách đó khi rơi xuống suối đã ướt mèm, đến giờ vẫn chưa khô.

Y cẩn thận giở từng tờ, chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng có hình một quái

tăng, tư thức mỗi người một khác. Y suy nghĩ một hồi rồi cũng hiểu ra,

hình trong quyển sách gặp nước thì lộ ra chứ chẳng phải bồ tát hiện thân

cứu mạng gì cả, bèn làm theo tư thức thứ nhất trên trang đầu tiên, lần

theo mũi tên đỏ trên những chữ quái lạ thấy có một sợi chỉ nhỏ thật lạnh

chạy ngang chạy dọc khắp tứ chi và xương cốt, chẳng khác gì con băng

tàm còn sống bò trong cơ thể mình. Y kinh hãi vội vàng đứng lên, lập tức

con tằm lạnh trong người liền biến mất.

Suốt hai giờ sau y chỉ nghĩ đến: Không biết con tằm chui vào người

mình đã chạy đi chưa?. Thế nhưng y không sờ thấy, cũng chẳng mò ra,

không hình không bóng, sau cùng nhịn không nổi lại tập theo tư thức cổ

quái kia rồi nghĩ theo mũi tên đỏ trên hai chữ quái lạ, chẳng bao lâu lại

thấy có một con băng tàm bò trong cơ thể. Y kêu lên một tiếng, vội

ngừng lại không còn dám nghĩ thêm lập tức con tằm biến mất nhưng cứ

vừa nghĩ đến thì nó lại bò ra.

Mỗi lần con tằm bò một vòng, y lại thấy toàn thân thoải mái không

biết đâu mà kể. Trong cuốn sách hình những nhà sư khỏa thể rất nhiều, từ

những chữ lạ lùng kia những mũi tên đỏ cái cong cái thẳng, biến hóa

phức tạp. Y cứ theo những tư thức khác nhau mà gọi con tằm, trong người

khi nóng khi lạnh, mỗi lúc có một lối thư thái riêng.

Cứ như thế luôn mấy tháng trời, tay chân y bắt cầm thú càng lúc càng

linh hoạt, nhảy nhót cũng xa hơn, chạy thêm nhanh nhẹn mà trước kia

không thể nào bì kịp. Một buổi chiều, một con chó sói đói ở đâu đi kiếm

mồi, chồm đến vồ Du Thản Chi. Y kinh hãi, đang định bỏ chạy nhưng con

sói đã giương vuốt ra chộp vào đầu vai, nhe răng nhọn hoắt, định ngoặp

vào cổ họng. Du Thản Chi hết sức kinh hoàng, tiện tay đánh một chưởng

trúng ngay đầu con vật. Con chó sói đó văng ra xa, quằn quại mấy cái rồi

nằm thẳng cẳng. Du Thản Chi quay người chạy ra mấy trượng thấy con

chó sói vẫn nằm đó, trong bụng lạ lùng, nhặt một cục đá ném trúng ngay

thân nhưng con lang vẫn nằm yên. Y vừa mừng vừa sợ, rón rén đến gần

xem hóa ra con chó sói đã chết tự bao giờ.

Y thật không dám nghĩ tới chuyện mình chỉ tiện tay đánh một cái mà

ghê gớm đến thế, giơ tay lên lật qua lật lại xem kỹ, không thấy có gì

khác, nhịn không nổi kêu lên:

- Hồn ma con tằm này thiêng quá!

Y vẫn tưởng con tằm kia chết rồi hồn nó nhập vào người mình nên

mới có tài phép như thế chứ có ngờ đâu đó hoàn toàn do công lực từ Dịch

Cân Kinh, lại thêm băng tàm là vật kịch độc hãn hữu, luồng âm hàn ghê

gớm đó bị y hút vào trong người, chứa vào nội công thượng thừa của Dịch

Cân Kinh nên mỗi khi đánh ra đều có chứa âm kình cực kỳ ghê gớm.

Dịch Cân Kinh là bảo điển chí cao vô thượng trong võ học, có điều

pháp môn tu tập không phải dễ dàng, cần phải phá được cảnh giới ngã

tướng, nhân tướng, trong bụng không còn nghĩ đến chuyện tu tập võ

công. Thế nhưng tăng lữ tập môn thượng thừa này, ai chẳng muốn tinh

tiến thật nhanh, mong cho chóng thành để công phu được ích lợi? Muốn

đến được tâm vô sở trụ1 quả thật là thiên nan vạn nan.

Trong mấy trăm năm qua, các cao tăng chùa Thiếu Lâm tu tập Dịch

Cân Kinh không phải là ít, thế nhưng dụng công năm chày tháng tận, vẫn

không mấy ai đạt được thành thử các nhà sư cho rằng kinh này không linh

hiệu, hôm trước A Châu ăn cắp mất, tăng chúng trong chùa tức giận thật

nhưng cũng không coi là chuyện lớn.

Hơn một trăm năm trước, chùa Thiếu Lâm có một nhà sư, xuất gia từ

thuở bé, tâm trí đần độn, điên điên khùng khùng. Sư phụ ông ta khổ công

tu tập Dịch Cân Kinh không thành, giận quá mà tọa hóa2. Nhà sư điên kia

nhặt được quyển kinh ở bên cạnh di thể của sư phụ, hăm hăm hở hở đem

ra luyện, ngẫu nhiên sao thành một đại cao thủ. Thế nhưng võ công ông

ta tại sao cao cường như thế, đến lúc viên tịch tây qui, cũng vẫn không

sao giải thích được, chẳng một ai biết đó là công phu Dịch Cân Kinh.

Đến bây giờ Du Thản Chi vô tâm luyện công phu này, chỉ tưởng là

gọi con băng tàm trong người bò ra bò vào cho đỡ buồn, có biết đâu ngày

một tiến bộ, chính là theo được con đường của nhà sư khùng hồi trước.

Mấy hôm sau y lại liên tiếp đánh chết thêm mấy con dã thú khác, bấy

giờ mới biết chưởng lực của mình rất mạnh, trong bụng cũng can đảm

thêm được một chút. Du Thản Chi tiếp tục đi về hướng nam, trong bụng

ngay ngáy sợ rằng nếu mình bỏ quên không gọi hồn con băng tàm một

ngày, ma tằm sẽ bỏ đi mất, thành thử ngày nào cũng phải kêu nó ra,

không dám lơ là. Com ma tằm bây giờ cực kỳ linh dị, gọi là ra ngay.

Du Thản Chi đi càng lúc càng xa, hôm đó đã đến địa giới tỉnh Hà

Nam ở trung châu. Y cũng biết cái đầu sắt của mình làm người ta sợ hãi

nên ban ngày chỉ ẩn náu tại những sơn động hoang dã hay rừng sâu, bao

giờ trời tối mới mò ra nhà dân chúng ăn trộm đồ ăn. Lúc này thân thủ y

mẫn tiệp dị thường nên không bao giờ bị người ta phát giác.

Ngày hôm đó y chui vào một chiếc miếu hoang bên vệ đường nằm

ngủ, bỗng nghe thấy tiếng bước chân, có ba người đi vào trong am. Y vội

vàng chui xuống dưới bệ thờ, không dám để cho người ta thấy. Ba người

đó đi vào trong miếu, ngồi xuống đất, lục đục ăn uống, nói năng chuyện

trên giang hồ. Bỗng nhiên một người hỏi:

- Ngươi thử nghĩ Kiều Phong bây giờ trốn ở đâu, sao hơn một năm

nay, không ai nghe thấy tin tức gì của y cả?

Du Thản Chi vừa nghe thấy hai tiếng Kiều Phong liền chột dạ, vội

vàng cố lắng tai nghe. Lại nghe một người khác nói:

- Tên đó tác ác đa đoan bây giờ rụt đầu rụt cổ như con rùa, chắc

không kiếm được y đâu.

Người nói lúc nãy lại tiếp:

- Chưa hẳn thế đâu. Y đợi đúng lúc mới ra tay, một khi người ta lơ là,

lúc ấy mới hạ thủ. Ngươi thử nghĩ mà xem, sau khi đại chiến Tụ Hiền

Trang rồi, y còn giết thêm bao nhiêu người nữa? Từ trưởng lão, vợ chồng

Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn, toàn gia Thái Sơn Thiết Diện Phán

Quan Đơn lão anh hùng, Trí Quang lão hòa thượng của núi Thiên Thai,

rồi Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, ôi, quả là đếm

không hết.

Du Thản Chi nghe đến đại chiến Tụ Hiền Trang, trong lòng đau xót

nên những gì người đó nói sau không nghe thấy gì cả, một lúc sau mới

nghe một giọng già nua:

- Kiều bang chủ xưa nay đãi người nhân nghĩa, không ngờ... ôi...

không ngờ... quả thật là số kiếp nó làm ra thế. Thôi mình đi.

Nói xong ông ta đứng lên. Người kia nói:

- Này lão Uông, ông bảo bản bang đang bầu tân bang chủ, thế thì

phải cử ai đây?

Người già cả kia đáp:

- Nào ta có biết! Bầu tới bầu lui, đã hơn một năm rồi cũng chưa tìm

ra một anh hùng hảo hán nào được toàn bang bội phục. Thôi, chúng mình

đi xem sao.

Người kia nói:

- Thôi tôi biết bụng ông rồi, chắc ông mong Kiều Phong quay trở lại

làm bang chủ chứ gì? Thôi đừng mơ mộng hão huyền nữa, lỡ chuyện đó

truyền ra đến tai Toàn đà chủ thì ông khó sống đó!

Ông già họ Uông hốt hoảng nói:

- Tiểu Tất, câu đó là ngươi nói chứ ta có bao giờ bảo là mong Kiều

bang chủ trở lại làm bang chủ bản bang đâu?

Tiểu Tất cười khẩy:

- Ông mở miệng ra là Kiều bang chủ này, Kiều bang chủ nọ chẳng

phải bụng mong y về làm bang chủ hay sao?

Lão Uông bực tức đáp:

- Ngươi mà còn nói bậy nói bạ xem ta có đập chết cái đồ chó đẻ như

ngươi không?

Người thứ ba can:

- Thôi được rồi! Mình là chỗ anh em, đừng để mích lòng nhau, đi

nhanh lên không lại trễ. Kiều Phong làm sao làm bang chủ của mình

được? Y là giống Khất Đan chó má, mình gặp y là hai bên nhất định một

sống một chết rồi. Vả lại, ví như mình mời y về làm bang chủ, chắc gì y

đã chịu?

Lão Uông thở dài một tiếng nói:

- Ngươi nói thế phải lắm.

Nói xong cả ba người cùng đi ra khỏi miếu. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái Bang muốn kiếm Kiều Phong mà kiếm không ra, bọn họ có biết đâu

gã đó đang ở nước Liêu làm Nam Viện Đại Vương, ta phải nói cho họ

biết mới được. Cái Bang người nhiều thế mạnh, lại ước định thêm anh

hùng hảo hán Trung Nguyên may ra có thể giết được tên ác tặc đó. Ta sẽ

theo bọn họ đi giết Kiều Phong. Y nghĩ đến quay lại Nam Kinh sẽ gặp A

Tử, trong ngực lập tức nóng bừng bừng.

Du Thản Chi rón rén từ trong miếu đi ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang

đi đường núi về hướng tây, liền lẳng lặng theo sau. Lúc này trời đã tối

mịt, hoang sơn không một bóng người, đi được vài dặm đến một thung

lũng, nhìn xa xa nơi sơn cốc có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Cái đầu sắt của mình thật quái đản, bọn họ trông thấy thể nào cũng hô

hoán rầm rĩ lên, chi bằng trốn trong bụi cỏ nghe ngóng rồi hãy tính.

Y chui vào trong đám cỏ dày, bò dần đến gần đống lửa. Bò được mấy

trượng, ngừng lại một chút, lại bò tiếp, nghe thấy tiếng người xôn xao,

xem ra người tụ tập chung quanh đám lửa không phải là ít. Du Thản Chi

lâu nay từng chịu biết bao nhiêu hành hạ dày vò nên không dám sơ sẩy

chút nào, bò càng gần càng chậm lại, tới sau một tảng đá cách chừng vài

trượng thì không dám tiến xa hơn nữa nên nằm phục tại đó lắng tai nghe.

Những người chung quanh đống lửa ai nấy đều đứng nói chuyện, Du

Thản Chi nghe một hồi mới biết ra đây là người của Đại Trí phân đà tụ

hội thương nghị về việc đại hội Cái Bang sắp tới sẽ suy cử ai lên làm

bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người lại muốn

Ngô trưởng lão. Một người nói:

- Nói đến trí dũng song toàn thì phải bầu cho Toàn đà chủ của bản

bang, tiếc rằng Toàn đà chủ hôm trước đã bị tên Kiều Phong giả công vi

tư đuổi ra khỏi bang rồi, việc quay trở lại bang chưa ổn thỏa.

Lại một người khác nói:

- Gian mưu của Kiều Phong chính là do Toàn đà chủ đứng ra vạch

trần, Toàn đà chủ lập được đại công cho bản bang, việc trở lại thật dễ

dàng. Một khi đại hội khai mạc, chúng ta trước hết lo việc Toàn đà chủ

qui bang, sau đó mới nói đến công lao khi trước, rồi bầu ông ta lên làm

bang chủ.

Một giọng sang sảng cất lên:

- Việc bản nhân trở lại bang cũng là chuyện thuận lý. Thế nhưng

việc các huynh đệ bầu mỗ lên làm bang chủ thì chưa nên đề cập đến vội,

nếu không người khác lại tưởng huynh đệ vạch trần gian mưu của Kiều

Phong là có ý đồ riêng tư.

Một người khác lớn tiếng nói:

- Toàn đà chủ, nếu gặp việc thì đương nhân bất nhượng3. Ta xem

trong mấy vị trưởng lão của bản bang, võ công tuy cao cường thật nhưng

kể về mưu trí thì không ai bì kịp với ông được. Chúng ta đối phó với tên

gian tặc Kiều Phong, là việc đấu trí chứ không phải đấu sức, Toàn đà

chủ...

Gã Toàn đà chủ kia ngắt lời:

- Thi huynh đệ, ta chưa chính thức trở lại bang, ba chữ Toàn đà chủ

xin đừng gọi thế vội.

Hơn hai trăm người ăn mày đang đứng quanh đống lửa nhao nhao lên:

- Tống trưởng lão đã có dặn rằng nhờ ông tạm thời giữ chức đà chủ

bản đà, ba chữ Toàn đà chủ kia có gì mà không được?

- Tương lai ông lên làm bang chủ, thì chẳng còn hơn chức đà chủ hay

sao?

- Toàn đà chủ nếu chưa đảm đương bang chủ thì ít nhất cũng phải

lên chức trưởng lão, nhưng khi đó cũng phải kiêm lãnh cả bản đà.

- Đúng lắm, dẫu Toàn đà chủ có làm bang chủ vẫn có thể kiêm luôn

cả chức đà chủ Đại Trí phân đà.

Còn đang bàn luận xôn xao, một bang chúng từ cửa sơn cốc chạy vào,

lớn tiếng báo:

- Khải bẩm đà chủ, Đoàn vương tử nước Đại Lý xin bái phỏng.

Toàn đà chủ Toàn Quan Thanh lập tức đứng bật dậy hỏi:

- Đoàn vương tử nước Đại Lý ư? Bản bang trước nay có giao thiệp gì

với nước Đại Lý đâu?

Y liền lớn tiếng nói:

- Các vị huynh đệ, Đoàn gia nước Đại Lý là thế gia trứ danh trong võ

lâm, Đoàn vương tử tự mình đến đây, tất cả cùng đứng lên nghênh tiếp.

Nói xong tất lãnh mọi người cùng đi ra ngoài sơn khẩu đón khách.

Chỉ thấy một thanh niên công tử mặt mày tươi tỉnh đứng ngay tại đó, đằng

sau có bảy tám người tùy tòng. Thanh niên đó chính là Đoàn Dự, hai

người chắp tay chào, hóa ra biết nhau rồi, đã từng gặp ở trong rừng hạnh

ngoài thành Vô Tích. Toàn Quan Thanh lúc đó chưa biết lai lịch, thân

phận Đoàn Dự, nghĩ lại khi đó mình bị Kiều Phong đuổi ra khỏi bang

Đoàn Dự đều biết cả, không khỏi ngượng ngùng, nhưng lập tức trấn tĩnh

ngay, ôm quyền nói:

- Không biết Đoàn vương tử tới thăm nên không ra xa nghinh tiếp,

xin lượng thứ cho.

Đoàn Dự cười đáp:

- Không dám! Không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có một

việc muốn phụng cáo quí bang cho nên mới đến làm phiền.

Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu đi cùng là Cổ

Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần ba người. Toàn Quan Thanh mời

Đoàn Dự đến ngồi tại một phiến đá trước đống lửa, sau đó bang chúng

đem rượu ra mời. Đoàn Dự tiếp lấy uống cạn rồi nói:

- Mấy tháng trước4, gia phụ ở tại Trung Châu có đến phủ của cố Mã

phó bang chủ quí bang, gặp một kỳ sự, chính mắt trông thấy cái chết của

Bạch Thế Kính Bạch trưởng lão. Việc này có liên can trọng đại đến quí

bang, lại cả đến anh hùng võ lâm Trung Nguyên nữa nên muốn trình cho

các nhân vật thủ não của quí vị. Có điều gia phụ thụ thương, dưỡng bệnh

đến nay mới đỡ mà các trưởng lão trong bang hành tung vô định, không

sao gặp được, khiến cho phong thư gia phụ viết vẫn chưa có cách nào

trình lên. Mấy bữa trước gia phụ nghe tin quí đà tụ hội nơi đây nên mới

sai vãn sinh đưa tới.

Nói xong chàng lấy trong tay áo ra một phong thư, đứng lên đưa ra.

Toàn Quan Thanh cũng vội vàng đứng dậy, hai tay nhận lấy nói:

- Phải phiền đến Đoàn công tử đích thân đưa thư, cái tấm lòng

thương yêu của Đoàn vương gia khiến cho tất cả tệ bang từ trên xuống

dưới ai ai cũng cảm đại đức.

Y nhìn thấy phong thư đó gắn rất kỹ, trên phong bì viết tám chữ lớn:

Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải5

Y nghĩ thầm tự mình không tiện mở ra xem bèn nói:

- Tệ bang không lâu nữa sẽ khai đại hội, các trưởng lão sẽ đều đến

cả, tại hạ sẽ đem thư của Đoàn vương gia trình lên cho chư vị thủ lãnh.

Đoàn Dự nói:

- Như thế xin phiền vậy, vãn sinh cáo biệt.

Toàn Quan Thanh luôn mồm cảm ơn, tiễn khách ra rồi mới nói:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân của tệ bang bất hạnh bị gian tặc

Kiều Phong hạ độc thủ, hôm đó chính mắt Đoàn vương gia trông thấy hay

sao?

Đoàn Dự lắc đầu:

- Bạch trưởng lão và Mã phu nhân không phải do Kiều đại ca giết

hại đâu, sát hại Mã phó bang chủ cũng là người khác. Trong phong thư

này của gia phụ có nói rất rõ ràng, sau này Toàn đà chủ đọc thư sẽ biết

rõ mọi chuyện.

Chàng trong bụng nghĩ thầm: Việc này nói ra dài dòng, nhà ngươi

đâu phải là người tốt, không nên nói nhiều làm chi. Ta đoán chừng ngươi

không dám dấu lá thư của cha ta đâu. Đoàn Dự quay sang ôm quyền

chào Toàn Quan Thanh nói:

- Sau này gặp lại, không dám phiền chư vị tiễn ra xa.

Chàng quay mình đi ra sơn cốc, vừa trở đầu đã thấy hai tên bang

chúng Cái Bang dẫn hai hán tử tiến vào. Hai người đó đưa mắt cho nhau,

đi lên mấy bước khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, trình lên một tờ danh

thiếp màu đỏ chói. Đoàn Dự cầm lấy xem qua, thấy trên tờ thiếp viết bốn

hàng chữ:

Tô Tinh Hà cung kính mời những vị tinh thông kỳ nghệ6 trong thiên hạ,

đến ngày mồng tám tháng hai giá lâm hang Thiên Lung Địa Á, núi Lôi Cổ,

tỉnh Hà Nam để gặp gỡ một phen.

Đoàn Dự vốn thích đánh cờ thấy bốn hàng chữ đó, tinh thần phấn

chấn vui vẻ nói:

- Thế thì hay lắm, nếu vãn sinh không có chuyện tục vụ gì vướng

bận, thể nào cũng đến. Thế nhưng xin hỏi tại sao hai vị lại biết vãn sinh

thích đánh cờ?

Hai hán tử lộ vẻ vui mừng, mồm ú ớ, giơ tay múa chân, hóa ra hai

người đó bị câm. Đoàn Dự không hiểu hai người đó chỉ trỏ ra hiệu những

gì, mỉm cười hỏi Chu Đan Thần:

- Núi Lôi Cổ có xa lắm không?

Nói xong chàng giao tờ thiếp lại cho ông ta. Chu Đan Thần cầm lấy

xem qua, trước hết vòng tay hành lễ với hai người kia nói:

- Trấn Nam Vương thế tử Đoàn công tử nước Đại Lý, xin gửi lời

chào đến Thông Biện tiên sinh, trước hết tạ ơn bao giờ đến kỳ sẽ đến bái

phỏng.

Ông ta chỉ vào Đoàn Dự, chỉ trỏ mấy cái biểu thị sẽ đến phó hội. Hai

hán từ khom lưng hành lễ với Đoàn Dự, sau đó lại lấy ra một tờ thiếp nữa

đưa cho Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh cầm lấy xem qua, cung

kính trả lại xua tay nói:

- Người tạm lãnh chức Phân Đà Chủ Đại Trí phân đà của Cái Bang

là Toàn Quan Thanh, xin kính chào Thông Biện tiên sinh núi Lôi Cổ,

Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chẳng bõ làm trò cười, không dám phó hội,

xin Thông Biện tiên sinh tha lỗi cho.

Hai hán tử khom lưng hành lễ, sau đó quay qua chào Đoàn Dự,

chuyển thân đi ra. Chu Đan Thần lúc đó mới trả lời Đoàn Dự:

- Lôi Cổ Sơn ở phía nam Tung Huyện, đông bắc Khuất Nguyên

Cương, đến đó cũng không xa lắm.

Đoàn Dự từ biệt Toàn Quan Thanh rồi, ra khỏi thung lũng lúc đó mới

hỏi Chu Đan Thần:

- Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người thế nào? Là quốc thủ về

đánh cờ ở Trung Nguyên hay sao?

Chu Đan Thần đáp:

- Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh7.

Đoàn Dự ồ lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh chàng ở Đại Lý đã

từng nghe bá phụ và phụ thân nhắc tới, biết đó là một cao thủ kỳ túc của

võ lâm Trung Nguyên, vừa điếc vừa câm nhưng nghe nói võ công lại rất

cao cường, khi đề cập đến ông ta giọng của bác chàng xem chừng kính

trọng. Chu Đan Thần lại tiếp:

- Lung Á tiên sinh tuy tàn tật nhưng nhất định tự xưng mình là Thông

Biện tiên sinh, cho rằng mình tâm thông, bút biện còn hơn xa người

thường nhĩ thông, thiệt biện.8

Đoàn Dự gật đầu nói:

- Kể cũng có lý.

Chàng đi thêm mấy bước bỗng cất tiếng thở dài. Đoàn Dự nghe Chu

Đan Thần nói Lung Á tiên sinh tâm thông, bút biện hơn cả người thường

nhĩ thông, thiệt biện không khỏi chạnh lòng nhớ tới Vương Ngữ Yên

đánh võ miệng còn giỏi hơn người ta đánh võ tay chân binh khí.

Chàng ở thành Vô Tích cùng A Châu cứu được bọn người Cái Bang

rồi, chẳng bao lâu Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai người đến tụ hội với

Vương Ngữ Yên. Năm người đó muốn lên miền bắc đi kiếm Mộ Dung

công tử, Đoàn Dự dĩ nhiên cũng muốn đi theo, Phong Ba Ác nhớ ơn

chàng đã dùng mồm hút nọc độc con bò cạp nên rất hoan nghênh, có điều

Bao Bất Đồng ăn nói cực kỳ sỗ sàng, trách cứ Đoàn Dự giả trang làm Mộ

Dung công tử làm bại hoại tiếng tăm y đi. Đến sau y tỏ ý ngươi không

cút đi, ta sẽ đập cho một trận, trong khi Vương Ngữ Yên chỉ lo bàn với

Phong Ba Ác cách nào kiếm được biểu ca, coi tình cảnh quẫn bách của

Đoàn Dự như không biết đến.

Đoàn Dự chẳng còn biết sao hơn đành phải chia tay cùng Vương Ngữ

Yên nhưng cũng đi lên miền bắc nghĩ bụng: Các ngươi muốn đi Hà Nam

tìm Mộ Dung Phục, ta cũng đang định đi Hà Nam. Hà Nam là đất trung

châu chứ có phải của riêng nhà Mộ Dung các ngươi đâu, Mộ Dung Phục

và Bao Bất Đồng đến được, chẳng lẽ Đoàn Dự không đến được? Nếu như

trên đường chạm trán họ thì cũng là ý trời, Bao tam tiên sinh kia làm sao

trách mình được?.

Thế nhưng trời già nào có cho Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên giải cấu

tương phùng, suốt thời gian đó, Đoàn Dự ở Hà Nam lang thang đi khắp

mọi nơi, tiếng là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực ra đến đâu mắt cũng dáo

dác, chỉ mong sao được nhìn thấy mớ tóc dài óng ả, một chéo áo của

Vương Ngữ Yên, còn núi non sông nước chàng nào có để mắt đến.

Một hôm, Đoàn Dự đang ở chùa Bạch Mã thành Lạc Dương đàm luận

với phương trượng về kinh A Hàm, nghiên thảo việc đức Phật giảng về

truyện chuyển luân thánh vương có bảy bảo vật. Đoàn Dự nghe nói

bảo vật ngọc nữ không dài không vắn, không trắng không đen, mùa đông

thân thể ấm áp, mùa hạ thân thể mát mẻ cực kỳ hứng thú nhưng phương

trượng lắc đầu quầy quậy nói:

- Đoàn cư sĩ, đó chẳng qua là thí dụ của nhà Phật đấy thôi, huống chi

Phật dạy thất bảo cũng đều là vô thường...

Vừa nói tới đây, bỗng có ba người vào chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ

Đốc Thành và Chu Đan Thần. Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần rời nhà

họ Mã ở phủ Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, mới đi tìm chỗ dưỡng

thương, nghĩ đến việc Tiêu Phong bị Cái Bang đổ tiếng oan giết Mã Đại

Nguyên không thể không biện bạch giùm cho ông ta nên mới viết một

phong thư, sai bọn Phó Tư Qui ba người đem tới đưa cho Cái Bang.

Bọn Phó Tư Qui đến Lạc Dương tìm tổng đà Cái Bang, không gặp

nhân vật thủ lãnh nào, lại nghe phân đà Đại Trí tụ hội gần bên nên dự

định đem thư đến. Ngờ đâu khi ở tại tửu lâu họ nghe lỏm người ta kể

chuyện một chàng thư sinh gàn dở, hình dáng có phần tương tự như Đoàn

Dự nên mới hỏi xem công tử đó nơi đâu rồi tìm đến Bạch Mã tự.

Bốn người gặp nhau hết sức mừng rỡ. Đoàn Dự nói:

- Để ta theo các vị đi đưa thư, rồi chư vị đưa ta đến bái kiến phụ

vương.

Chàng nghe nói cha mình cũng đang ở Hà Nam nên càng nóng lòng

muốn gặp, nhưng bao lâu nay không nghe tin tức gì về Vương Ngữ Yên

ngày đêm nhung nhớ, chỉ mong nơi Đại Trí phân đà có các nhân vật

giang hồ, may ra thấy được ngọc dung tiên nhan của người đẹp nhưng hỡi

ôi tất cả đều chỉ là một chữ không.

Chu Đan Thần thấy chàng thở vắn than dài, lại tưởng chàng mong

nhớ Mộc Uyển Thanh, việc này không thể nào khuyên giải gì được, nghĩ

bụng cách tốt nhất là làm cho chàng phân tâm qua chuyện khác nên nói:

- Vị Thông Biện tiên sinh này phát thiếp rộng rãi mời thiên hạ đến

đánh cờ, kỳ lực ắt phải cao lắm. Công tử gia sau khi bái kiến Trấn Nam

Vương rồi, cũng nên đến gặp Thông Biện tiên sinh đánh vài ván xem

sao!

Đoàn Dự gật đầu đáp:

- Đúng đó! Cuộc đen trắng cũng là cách tiêu khiển khiến cho con

người bớt ưu phiền. Có điều tuy nàng tinh thông các môn phái võ công

thiên hạ, bụng chứa binh giáp, muôn nhà muôn vẻ nhưng lại không biết

đánh cờ. Buổi hội ngộ đấu cờ của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không

tới đâu!

Chu Đan Thần ngơ ngẩn hoang mang, không biết chàng đang nói đến

ai, trên đường đi thấy công tử hồn vía đâu đâu, câu trước đầu Ngô, câu

sau mình Sở nghe cũng đã nhiều nên không tiện gặng hỏi.

Cả đoàn người rong ruổi chạy về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên

lưng ngựa, lúc thì nhíu tít lông mày, lúc lại cười mủm mỉm, lẩm bẩm một

mình:

- Kinh Phật có dạy rằng: Khi nghĩ đến mỹ nữ thì hãy nhớ thân thể ai

thì cũng chỉ là máu mủ, một trăm năm sau thì cũng thành một bộ xương

trắng mà thôi. Lời nhà Phật tuy không sai nhưng người như nàng dù có

một trăm năm nữa hóa thành bạch cốt, thì mớ xương đó cũng đẹp hơn

những bộ xương người thường.

Chàng còn đang mơ màng nghĩ đến bộ xương trong người Vương Ngữ

Yên ra thế nào, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chân dồn dập, hai con

ngựa ở đâu chạy tới, trên yên mỗi con nằm phục một người, trong lúc trời

tối không nhìn rõ là hạng người nào.

Hai con ngựa đó dường nhưng không ai cầm cương, chạy xông đến

bọn Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành hai người chia ra mỗi người

giữ một con lại, thấy người nằm trên đó không còn cử động gì nữa. Phó

Tư Qui hơi kinh hãi, lại gần xem cho kỹ hóa ra chính là hai sứ giả của

Lung Á tiên sinh, trên mặt nở một nụ cười kỳ bí, đều đã chết cả rồi. Hai

người này vừa mới đây đưa thiếp mời Đoàn Dự còn khỏe như vâm, sao

chỉ quay đi quay lại đã lăn ra chết là sao? Họ đều là sứ giả của Lung Á

tiên sinh, sao nét mặt lại kỳ lạ như thế? Phó Tư Qui vừa thoạt nhìn biết

ngay hai người bị trúng chất cực độc vội kéo cương ngựa lùi lại hai bước

không dám đứng gần hai cái tử thi.

Đoàn Dự giận dữ nói:

- Gã họ Toàn của Cái Bang độc ác thật, tại sao lạ hạ thủ những

người này? Ta phải hỏi cho ra lẽ.

Chàng trở đầu ngựa, toan quay lại tra vấn Toàn Quan Thanh. Phía

trước trong bóng tối có người lên tiếng hỏi:

- Tên tiểu tử kia chẳng biết trời cao đất dày là gì, khắp thiên hạ trừ

môn hạ Tinh Tú lão tiên ra thì có ai mà giết người một cách vô hình như

thế được? Lão già câm điếc rụt đầu rùa trốn một chỗ thì còn được chứ

nếu thò mặt ra thì Tinh Tú lão tiên không tha cho y đâu. Này, thằng bé

kia, chuyện không liên can gì đến ngươi, mau cút đi nơi khác.

Chu Đan Thần ghé tai Đoàn Dự nói nhỏ:

- Công tử, đây là người của phái Tinh Tú, mình không nên dây dưa

với họ, đi thôi!

Đoàn Dự kiếm không thấy Vương Ngữ Yên nên đang rảnh rỗi, hai sứ

giả của Lung Á lão nhân gặp chuyện nguy hiểm, chàng thể nào cũng

xông lên cứu viện, nhưng lúc này lại chết rồi, nên cũng không muốn rắc

rối, thở dài một tiếng nói:

- Nếu chỉ mới miệng câm tai điếc thì cũng chưa đủ, còn phải thêm

mắt mù, mũi không ngửi thấy mùi hương, trong lòng không còn ý niệm gì

thì mới mong giải thoát khỏi phiền não.

Chàng nói đây là nói về nếu gặp lại Vương Ngữ Yên, giọng nói hình

dáng, nhất cử nhất động của nàng đã ăn sâu vào tâm khảm mình rồi, dẫu

có vừa câm vừa điếc thì nỗi nhớ mong cũng đâu có vì thế mà dứt được.

Ngờ đâu người phía bên kia nghe chàng nói thế lại cười hềnh hệch, vỗ

tay nói:

- Đúng đó! Đúng đó! Ngươi nói thật có lý, phải chọc mù mắt y đi, cắt

mũi y đi, rồi đánh cho y đến khi nào phải đổi ý mới xong.

Đoàn Dự thở dài:

- Ngoại lực dù có ép thế nào chăng nữa thì cũng chẳng đến đâu. Phải

chính bản thân mình tu hành sao cho tâm không bám vào những gì nhìn

thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy mà phải đạt tới chỗ vô trụ xứ

9 có thế mới rời xa được hình tướng, trở thành bồ tát. Chúng ta là kẻ

phàm phu tục tử, làm sao tu đến mức đó được? Ghét nhau mà phải ở gần

nhau, yêu nhau mà phải xa nhau, muốn mà không được10 năm nhóm11 đó

thiêu đốt con người cho nên sống trên đời mới đầy đau khổ.

Du Thản Chi nằm trong đám cỏ phía sau tảng đá thấy bọn Đoàn Dự đi

rồi quay trở lại, sau đó phía trước có tiếng người quát tháo, vừa lúc đó hai

tên đệ tử Cái Bang chạy đến, nói nhỏ với Toàn Quan Thanh:

- Toàn đà chủ, hai gã câm kia không hiểu sao bị người ta giết rồi, kẻ

hạ thủ tự xưng là thủ hạ của cái gì Tinh Tú lão tiên phái Tinh Tú.

Toàn Quan Thanh kinh hãi, mặt liền biến sắc. Y đã từng nghe tiếng

Tinh Tú Lão Quái ở biển Tinh Tú chuyên sử chất độc cực mạnh, võ công

cũng thật cao cường nghĩ thầm: Bọn họ giết sứ giả của Lung Á lão nhân,

chuyện này không liên can gì đến mình, chẳng nên gây chuyện với họ

làm gì. Y liền nói:

- Ta biết rồi, bọn chúng hai đằng quỉ đánh với ma, mình chẳng dây

vào.

Đột nhiên trước mặt có tiếng người nói:

- Bọn chúng bay ăn nói láo lếu, đã biết ta là môn hạ của Tinh Tú lão

tiên, sao dám chửi ta là ma là quỉ? Bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Toàn Quan Thanh kinh hãi, giật mình lùi lại một bước, dưới ánh lửa

thấy một người đứng sừng sững trước mặt, chính là một tên bang chúng

thủ hạ. Y chăm chú quan sát kỹ, gã đó trông cười mà chẳng ra cười, hình

dạng thật kỳ bí, dường như sau lưng y còn có ai nữa thì phải, bèn quát

lên:

- Các hạ là ai, giả ma giả quỉ dọa người để làm gì thế?

Người nấp ở sau gã đệ tử Cái Bang giọng lạnh như tiền nói:

- Quả là to gan! Ngươi lại nói thêm một chữ quỉ. Lão tử là môn hạ

Tinh Tú lão tiên, Tinh Tú lão tiên giá lâm Trung Nguyên, đang cần ngay

hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Các ngươi trong Cái Bang

xưa nay lúc nào cũng sẵn độc trùng, độc xà, mau mau dâng lên coi. Tinh

Tú lão tiên thấy các ngươi ngoan ngoãn dễ bảo may ra tha cho bọn ăn

mày khốn khó. Còn nếu không, hà hà, tất cả cũng như tên này thôi.

Nghe bình một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đột nhiên bay tung lên, rơi

bịch xuống cạnh đống lửa, không còn động đậy gì nữa, hóa ra chết từ bao

giờ. Gã đệ tử đó vừa văng đi, để lộ ra một gã thấp bé mặc áo vải, không

biết y đã lẻn tới từ lúc nào mà lại giết được một đệ tử Cái Bang rồi náu ở

đằng sau như thế.

Toàn Quan Thanh vừa kinh hãi vừa tức giận, trong giây lát trong đầu

xoay chuyển bao nhiêu ý nghĩ: Tinh Tú Lão Quái đổ lên đầu Cái Bang,

việc trước mắt nếu không khuất phục thì đến phải một mất một còn. Việc

này tuy hung hiểm thật nhưng nếu y chỉ mới dọa một câu, ta đã đem rắn

độc trùng độc dâng lên thì anh em trong bang từ nay còn coi ta vào đâu

nữa. Ta dĩ nhiên không còn dám tơ tưởng cái chức bang chủ mà cũng

chẳng còn mặt mũi nào ở trong bang. Cũng may Tinh Tú Lão Quái chưa

đích thân đến đây, chỉ mới có một mình gã này, không có gì phải sợ cả.

Y nghĩ thế nên cười khì khì nói:

- Thì ra đây là nhân huynh của phái Tinh Tú, cao tính đại danh các

hạ là chi?

Gã lùn đáp:

- Pháp danh ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau dự bị cho đủ độc

trùng độc xà đi thôi.

Toàn Quan Thanh cười đáp:

- Các hạ nếu cần độc trùng độc xà thì cũng chỉ là chuyện cỏn con, có

gì mà phải lo lắng?

Y tiện tay cầm một chiếc túi vải ở dưới đất lên nói:

- Trong đây có mấy con rắn, xin các hạ xem thử xem Tinh Tú lão

tiên dùng có được không?

Gã lùn Thiên Lang Tử kia thấy Toàn Quan Thanh mở miệng một điều

Tinh Tú lão tiên hai điều Tinh Tú lão tiên, trong lòng cực sung

sướng, thấy y thần thái cung thuận, nghĩ thầm: Nghe nói gì Cái Bang là

bang lớn số một của Trung Nguyên, vừa nghe tên của sư phụ lão nhân gia

đã sợ đến mất vía. Ta đem mấy con rắn độc trùng độc về, chắc sư phụ

hoan hỉ lắm, sẽ khen ta chu đáo, được việc. Nói gì thì nói, cũng là nhờ uy

danh của sư phụ lão nhân gia.

Nghĩ thế y bèn thò đầu vào túi vải để xem. Đột nhiên mắt tối sầm,

cái túi đó đã chụp lên đầu y, Thiên Lang Tử kinh hãi, vội vàng múa

chưởng đánh ra nhưng không trúng vào đâu cả. Vừa khi đó, trên mặt, trên

trán, sau ót đều đau nhói lên, đã bị độc vật trong túi cắn trúng rồi. Thiên

Lang Tử không kịp bỏ chiếc túi trên đầu xuống, vội đánh ra hai chưởng

nữa rồi bỏ chạy thục mạng. Y trên đầu vẫn còn chiếc túi nên không thấy

đường, tay đánh loạn xạ, chỉ thấy khắp đầu, khắp mặt chỗ nào cũng bị

cắn, càng hoảng hốt thêm cứ tiếp tục chạy cho nhanh, ngờ đâu bước hụt

một cái, lục tục từ trên triền núi lăn xuống, rơi tõm ngay vào khe suối

dưới thung lũng, theo dòng trôi đi.

Toàn Quan Thanh vốn dĩ định giết y bịt miệng, ngờ đâu y lại chạy

mất, tuy y đã bị bò cạp cắn trúng rồi, lại rơi xuống suối, tính mạng khó

bảo toàn, nhưng phái Tinh Tú vốn giỏi sử dụng độc vật, rất có thể y có

cách giải độc, còn ở vùng biển Tinh Tú thì chắc biết bơi. Nếu như gã này

không chết, phái Tinh Tú hay được, thể nào cũng tới báo thù.

Y trầm ngâm giây lát rồi nói:

- Chúng ta bố trí Cự Mãng Trận, hơn thua với phái Tinh Tú một

phen. Không lẽ Kiều Phong đi khỏi, Cái Bang chúng ta không còn đứng

vững được nữa, ai sai bảo gì cũng được hay sao? Phái Tinh Tú biết sử

dụng chất độc, mình không nên dùng quyền cước binh khí mà cũng phải

dĩ độc công độc.

Người của Cái Bang nhao nhao khen phải, lập tức giàn ra bốn bề, bố

trí trận thế cách đống lửa mấy trượng, người người ngồi xuống xếp bằng.

Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng túi vải đuổi được Thiên

Lang Tử chạy mất nghĩ thầm: Thì ra trong cái túi của y có độc vật, bọn

họ có nhiều túi vải như thế, túi nào cũng toàn là rắn độc trùng độc hay

sao? Bọn ăn mày giỏi nghề bắt trùng bắt rắn không có gì lạ. Nếu mình ăn

cắp được vài cái túi đem về cho A Tử cô nương chắc cô ta vui mừng

lắm.

Y thấy người của Cái Bang ngồi xuống rồi không ai nói năng một lời,

người nào bên cạnh cũng để mấy cái túi, có cái thì thật lớn, bên trong có

gì cục cựa, Du Thản Chi nhìn mà lạnh người. Lúc này bốn bề hoàn toàn

yên tĩnh, nếu như y bò ra thể nào cũng bị người của Cái Bang phát giác,

nghĩ thầm: Nếu bọn họ chụp chiếc túi lên đầu mình, mình có cái lồng

sắt không việc gì phải sợ, thế nhưng nếu chúng bắt mình bỏ luôn vào bao

chung với rắn rết thì mới thực là hỡi ôi!.

Mấy giờ sau đó vẫn không thấy động tĩnh gì, lại thêm một hồi nữa,

trời bắt đầu tờ mờ sáng rồi mặt trời nhô lên, chiếu khắp núi đồi. Trên đầu

cành chim hót líu lo, bỗng nghe Toàn Quan Thanh kêu khẽ:

- Đến rồi! Tất cả anh em đề phòng!

Y ngồi xếp bằng trên một phiến đá bên ngoài xà trận, bên cạnh cũng

để mấy cái túi, tay cầm thiết địch. Chỉ nghe phía tây bắc văng vẳng tiếng

đàn tiếng sáo, một đoàn người chậm rãi đi lên, trong tiếng nhạc có lẫn cả

chiêng trống, nghe rất là réo rắt. Du Thản Chi tự hỏi: Có đám cưới

chăng?.

Tiếng nhạc càng lúc càng gần, đến cách xa chừng mươi trượng thì

ngừng lại, có tiếng mấy người cùng cất lên:

- Tinh Tú lão tiên pháp giá Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau

tiến lên quì xuống nghênh tiếp.

Câu nói vừa dứt, lập tức trống đánh tùng tùng tùng. Ba hồi trống vừa

dứt, thanh la đánh choang một cái, tiếng trống liền ngưng bặt, mấy chục

người cùng cao giọng:

- Cung thỉnh Tinh Tú lão tiên hoằng thi đại pháp, hàng phục bọn tiểu

xú Cái Bang.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nghe như đạo sĩ làm phép trừ tà bắt ma. Y

len lén từ sau tảng đá thò đầu ra nhìn, thấy nơi phía tây bắc có đến hơn

hai chục người xếp thành hàng ngang, kẻ thì cầm chiêng trống nhạc khí,

kẻ thì cầm phướn cầm cờ, cái xanh cái đỏ trông thật đẹp đẽ, xa xa thấy

thấp thoáng trên những lá cờ đó có thêu: Tinh Tú lão tiên, thần thông

quảng đại, pháp lực vô biên, uy chấn thiên hạ... nhiều câu khác

nhau. Trong tiếng tơ tiếng sáo dặt dìu, một ông lão chậm rãi bước ra,

những người đứng sau lưng lập tức chia thành hai hàng, lẽo đẽo đi theo

cách xa ông ta chừng vài trượng.

Ông lão đó tay cầm một chiếc quạt bằng lông ngỗng, ánh mặt trời

chiếu vào, thấy mặt mũi hồng hào, tóc trắng như bông, dưới cằm là ba

chòm râu trắng như cước, đồng nhan hạc phát, thật chẳng khác gì người

trong truyện thần tiên.

Ông lão đó đi đến còn cách bọn ăn mày chừng ba trượng thì ngừng

lại, đột nhiên chúm môi thổi mấy cái, phát ra tiếng thật chói tai, giơ quạt

phất một cái đẩy tiếng sáo tới (?), bốn tên bang chúng Cái Bang ngồi

dưới đất lập tức ngã ngửa ra.

Du Thản Chi kinh hãi: Tinh Tú lão tiên này pháp thuật quả nhiên

quảng đại thật. Ông lão nở một nụ cười, thổi toe một tiếng, quạt phẩy ra,

lại có một người ngã, xem chừng tiếng thổi là một loại ám khí vô hình

cực kỳ lợi hại, chỉ trong phút chốc trong Cái Bang đã có sáu bảy người

lăn quay ra. Lập tức đằng sau ông lão, tiếng người ca tụng rộn lên:

- Công lực sư phụ chói lọi cổ kim! Bọn ăn mày kia dám đối đầu với

mình, thật đúng là đom đóm lập lòe đua tranh cùng vầng nhật nguyệt.

- Châu chấu đá xe quả không biết lượng sức mình, thật tức cười quá

đỗi!

- Sư phụ chỉ nói nói cười cười mà đưa cả bọn yêu ma tiểu xú Cái

Bang vào chỗ chết, thật dễ như bẻ củi mục mà được toàn thắng, đồ nhi

thật chưa từng thấy, đến nghe cũng chưa nghe tới bao giờ.

- Đây là công nghiệp vĩ đại trên đời chưa từng có, nếu sư phụ lão

nhân gia không lộ một chút thân thủ thì bọn võ học Trung Nguyên nào có

biết trên đời lại có công phu ghê gớm đến mức này.

Trong khi cả bọn ca công tụng đức, nghe chối cả tai thì tiếng ti trúc

quản huyền vẫn tấu lên thật là réo rắt. Đột nhiên có mấy tiếng tu tu,

Toàn Quan Thanh đã đưa sáo sắt lên môi thổi mấy tiếng. Du Thản Chi

nghĩ thầm: Y thổi sáo làm gì thế? Để nghênh đón Tinh Tú lão tiên

chăng?.

Bỗng nghe dưới đất có tiếng sột soạt, từ trong những chiếc túi vải

mấy con rắn lớn vằn vện ngũ sắc bò thẳng tới chỗ ông lão. Những đệ tử

chung quanh ông lão kinh hoảng kêu lên:

- Rắn kìa! Có rắn độc!

- Chao ôi! Không xong, sao lắm rắn độc thế này.

- Sư phụ ôi, những con rắn độc này lại xông tới mình là sao?

Chỉ thấy tất cả những cái túi của bọn ăn mày đâu đâu cũng có rắn bò

ra, con lớn con bé đủ cả, phùng mang lè lưỡi, xông tới chỗ ông lão và bọn

đệ tử. Bọn chúng đứa nào đứa nấy quýnh quáng kêu la ỏm tỏi.

Đệ tử phái Tinh Tú liền cầm cương trượng lên, đập túi bụi những con

rắn đang lúc nhúc bò tới, chỉ riêng ông lão thần sắc vẫn bình thường, lại

chúm môi huýt một tiếng, vẫy quạt đánh ra. Toàn Quan Thanh cũng thổi

địch liên tiếp, người trong Cái Bang cũng hò hét trợ uy.

Đàn rắn càng lúc càng đông, chỉ trong phút chốc chung quanh phải

đến hàng trăm con, trong đó có dăm con trăn lớn. Mấy con mãng xà bò

tới gần, dùng đuôi cuốn được hai người, tiếp theo lại quấn chết thêm hai

người nữa. Nếu đệ tử phái Tinh Tú bỏ chạy, những con rắn chắc không

theo kịp, thế nhưng sư tôn còn đang nghinh địch, quần đệ tử nào ai dám

bỏ đi một bước, chỉ đành múa binh khí, đâm chém loạn cả lên, khiến rắn

độc bị chúng giết chết cũng phải đến tám chín chục con, còn người bị rắn

cắn cũng đến bảy tám người.

Những con trăn lớn kia càng lợi hại hơn nữa, da thô thịt dày, gậy đập

vào không thấm đâu, quấn được ai rồi càng lúc càng xiết chặt, nhất định

không buông. Theo tiếng sáo, từ trong túi bò ra mỗi lúc một nhiều, tổng

cộng phải đến hai mươi bảy, hai mươi tám con cự mãng.

Ông lão thấy tình thế không ổn, toan tấn công Toàn Quan Thanh để

rút lui, thì có hai con rắn nhỏ phóng tới cắn vào mặt ông ta. Ông lão quát

lên:

- Gớm nhỉ!

Quạt trong tay phất lên, kình phong đổ ra, đánh bạt hai con rắn

xuống, bỗng thấy một vật gì mềm nhũn cuốn lấy gót chân, biết là không

xong, phi thân vọt lên, bỗng nghe tiếng địch vi vu, bốn con trăn cùng

vung đuôi lên, quật vào người ông ta. Ông lão đang ở trên không, bình

bình đánh ra hai chưởng, đánh bật hai con trăn phía trước và phía trái,

người lắc một cái đã vọt ra ngoài hai trượng. Ngay lúc đó con rắn thứ ba

và thứ tư cùng dùng đuôi tấn công tới. Trong cơn nguy cấp, ông lão vận

kình đánh ra, chưởng phong đánh nát đầu một con trăn lớn.

Thế nhưng bầy rắn vẫn xông vào, ông lão tuy đánh chết được ba con

cự mãng nhưng hông và đùi bên phải đã bị hai con trăn quấn được. Ông

ta vận nội lực lên, quát lớn một tiếng, giơ ngón tay chộp vào bụng con

trăn đang quấn ngang lưng khiến cho máu me tung tóe đầy người. Ngờ

đâu trăn là giống rất dai, tuy bụng đã bị vỡ nhưng không chết ngay, bị

đau liền xiết người lại, tưởng chừng quấn nát người ông lão. Ông ta dùng

sức dãy hai lần, kế đó lại có hai con mãng xà xông tới, quấn thêm mấy

vòng nữa trên người ông ta, đến cánh tay cũng cuốn luôn vào, khiến cho

không còn cách nào kháng cự. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ chứng

kiến trận đấu kinh tâm động phách, tưởng chừng thở không ra hơi.

Toàn Quan Thanh trong bụng mừng lắm, thấy bên địch ai nấy bị trăn

quấn cả rồi, chỉ còn rên rỉ, chửi rủa, không còn cách gì kháng cự nữa nên

không tiếp tục thổi sáo, tiến lên cười khì khì hỏi:

- Tinh Tú Lão Quái, phái Tinh Tú ngươi và Cái Bang ta trước nay

đường ai nấy đi, nước sông không phạm nước giếng, sao lại đến gây sự

với bọn ta là sao? Bây giờ còn gì để nói nữa không?

Ông lão đồng nhan hạc phát kia chính là người mà võ lâm nhân sĩ

Trung Nguyên ghét cay ghét đắng Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu. Vì

một trong tam bảo của phái Tinh Tú là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử

A Tử ăn cắp mất, liên tiếp phái các đệ tử ra đuổi bắt, thậm chí cả đại đệ

tử Trích Tinh Tử cũng sai đi nhưng lần nào bồ câu đem thư về cũng thấy

tình thế thật là bất lợi. Về sau ông ta nghe nói A Tử dựa vào thế anh rể là

Kiều Phong của Cái Bang, đánh bại Trích Tinh Tử, Đinh Xuân Thu vừa

tức tối vừa kinh hoàng, biết Cái Bang là bang hội lớn nhất trong võ lâm

Trung Nguyên không dễ gì đối phó, lại nghe Lung Á lão nhân tái xuất

đầu lộ diện cũng đang hoành hành trong võ lâm vài năm qua, mối lo

trong gan ruột kia chưa trừ được thì không yên tâm, một khi đoạt lại được

vương đỉnh rồi phải thừa cơ thanh toán cho xong chuyện cũ, thành thử

đem hết đệ tử đích thân đi vào Trung Nguyên.12

Môn Hóa Công Đại Pháp y luyện thường phải dùng các loại chất độc

của rắn rết bôi lên lòng bàn tay, hút vào trong người, nếu bảy ngày không

có thì không những công lực giảm thiểu mà chất độc tích tụ trong cơ thể

mấy chục năm qua không có chất mới khắc chế có thể dần dần phát tác,

họa hại ghê gớm khó mà hình dung.

Chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh trời sinh có một mùi kỳ lạ, lại thêm

hương liệu đốt ở trong đỉnh, chỉ trong giây lát là có thể dẫn dụ độc vật

đến, trong vòng mười dặm chung quanh khó có con vật nào gượng lại nổi

sức thu hút của nó. Đinh Xuân Thu có chiếc kỳ đỉnh đó trong tay nên bắt

trùng độc chẳng khó khăn gì, thành thử Hóa Công Đại Pháp càng luyện

càng cao thâm, càng luyện càng tinh tiến. Năm xưa Đinh Xuân Thu có

một tên đệ tử đắc ý được y đích thân truyền dạy Hóa Công Đại Pháp, đã

có chút thành tựu, ngờ đâu về sau ỷ mình có tài, không còn cung thuận

như trước. Đinh Xuân Thu chế ngự được y rồi, không cần phải dùng đến

đao trượng xử tội, chỉ nhốt y vào một gian thạch thất, khiến y không cách

nào bắt được các loại trùng độc tu luyện thêm, kết quả độc tố trong người

phát tác, nhịn không nổi tự mình cấu từng miếng thịt, rên rỉ mãi, bốn chục

ngày sau mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý nhưng cũng thêm phần

cẩn thận, môn Hóa Công Đại Pháp từ đó không truyền cho người nào

nữa. Thành thử bọn Trích Tinh Tử không một ai biết, A Tử muốn luyện

môn thần công này đành phải học lén, ăn cắp bảo đỉnh trốn đi.

A Tử tính toán thật kỹ, ngay hôm sư phụ mới bắt được độc vật luyện

công liền trốn về phương đông, đến khi Tinh Tú Lão Quái phát giác ra

Thần Mộc Vương Đỉnh bị ăn trộm thì đã bảy ngày, A Tử đi đã xa lắm rồi.

Nàng đi toàn theo đường nhỏ, các sư huynh truy nã tuy võ công cao hơn

cô ta nhiều nhưng mưu kế lại kém xa, bị A Tử liên tiếp dùng ngụy kế hư

trương thanh thế, thanh đông kích tây nên đều trốn thoát được.

Vùng Tinh Tú Lão Quái ở là một thâm cốc rậm rạp tối tăm, độc xà

độc trùng không hiếm gì, tuy mất Thần Mộc Vương Đỉnh nhưng muốn đi

bắt rắn để thêm chất độc cũng chẳng khó khăn, nhưng chỉ bắt được những

loại tầm thường, còn những loại đặc biệt, hiếm quí quái lạ, kịch độc lợi

hại như trước thì chỉ còn nước cầu may.

Một chuyện khác cũng khiến ông ta lo lắng là nếu như võ lâm Trung

Nguyên biết được lai lịch chiếc đỉnh thì ai cũng có thể lập tức hủy ngay,

thành thử một ngày chưa lấy lại được thì thêm một ngày không an tâm.

Ông ta gặp lại bọn đệ tử ở Thiểm Tây, đại đệ tử Trích Tinh Tử tuy

không chết nhưng võ công mất hết13 bị bọn đệ tử kia trên đường lăng

nhục chửi bới không còn ra người nữa, còn nhị đệ tử là gã mũi lân Sư

Hống Tử tạm thời lên thay đại sư huynh.

Bọn đệ tử thấy đích thân sư phụ ra tay, ai nấy vừa kinh hoàng vừa sợ

hãi, biết rằng sư mệnh không hoàn thành, tội vạ kỳ này chắc là phải ghê

gớm khó mà chịu nổi. Cũng may Tinh Tú Lão Quái đang cần người nên

tạm thời gác việc trách phạt sang một bên để mọi người có cơ đái tội lập

công.

Đoàn người vừa đi vừa thăm dò tin tức của Cái Bang nhưng một là

bọn họ hình tướng kỳ dị, ngôn ngữ khiến cho người ta ghét bỏ nên chẳng

ai tiết lộ cho họ chuyện gì, thứ nữa Tiêu Phong đã sang nước Liêu làm

Nam Viện Đại Vương, trong võ lâm chẳng mấy ai hay, thành thử dò hỏi

mãi mà không ra đến cả tổng đà Cái Bang dọn đi đâu cũng không biết.

Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe được phân đà Đại Trí tụ hội,

muốn tâng công liền một thân một mình xông vào nên bị Toàn Quan

Thanh ám toán. Thế nhưng người y vốn đầy chất độc nên nọc bò cạp

không giết nổi, thoát chết rồi liền cấp báo sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức

đi tới, ngờ đâu một thân đầy chất độc và võ công thâm hậu như thế nhưng

bị trăn quấn cũng không sao thoát ra được.

Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, chỉ khinh

khỉnh hỏi:

- Trong Cái Bang chúng bay có một gã tên Kiều Phong, bây giờ ở

đâu? Mau gọi y ra gặp ta.

Toàn Quan Thanh trong lòng chợt động, hỏi lại:

- Các hạ muốn gặp Kiều Phong là để làm gì?

Đinh Xuân Thu ngạo mạn hỏi lại:

- Tinh Tú lão tiên hỏi ngươi, sao ngươi không trả lời, lại còn hỏi tới

hỏi lui? Kiều Phong đâu?

Toàn Quan Thanh thấy y đã bị trăn quấn chặt không còn cách gì

kháng cự, vậy mà ăn nói vẫn còn phách lối, khả ố như thế quả trên đời

hiếm có, bèn nói:

- Tinh Tú Lão Quái ai ai cũng nghe nói tới, ngờ đâu chỉ có hư danh,

có mấy con rắn quèn mà đối phó không xong. Thôi đành xin lỗi, chúng ta

vì thiên hạ mà trừ mối hại cho người.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Lão phu không cẩn thận nên chẳng may bị mấy con súc sinh máu

lạnh này làm hại, hôm nay về chốn tây phương cực lạc, thôi cũng đành...

Y nói chưa dứt câu, một đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn đột

nhiên cất tiếng:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, xin ngài tha cho con có nhiều cái lợi

lắm. Sư phụ con rất nhiều ngụy kế, ngài đề phòng không nổi đâu. Ngài

chỉ sơ ý một chút là bị ông ta lật ngược ngay.

Toàn Quan Thanh cười khẩy hỏi:

- Thả ngươi ra thì có lợi những gì?

Gã kia đáp:

- Phái Tinh Tú có cả thảy ba món bảo vật, gọi là Tinh Tú tam bảo.

Chỉ có Tinh Tú Lão Quái và con là biết chỗ dấu ở đâu thôi. Ngài tha chết

cho con, sau khi giết Tinh Tú lão quái rồi, con sẽ lấy ra dâng lên. Nếu

như ngài giết con thì Tinh Tú tam bảo vĩnh viễn không có được.

Lại một tên đệ tử khác của phái Tinh Tú gào lên:

- Đại anh hùng ơi, đại anh hùng ơi, ngài đừng có mắc lừa tên đó.

Trong Tinh Tú tam bảo thì có một món bị người ta ăn cắp mất rồi. Ngài

tha con ra là hơn cả, chỉ có mình con đối với ngài trung thành không bao

giờ lừa dối mà thôi.

Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Tinh Tú liền nhao nhao lên:

- Đại anh hùng Cái Bang ơi, ngài tha mạng cho con là hay hơn hết,

bọn kia chẳng có đứa nào trung tâm chỉ có mình con một lòng một dạ, hết

lòng hết sức.

- Đại anh hùng ơi, công phu của môn phái Tinh Tú, chỉ có mình con

biết nhiều nhất, tất mọi thứ con sẽ nói hết cho ngài nghe, không dám dấu

diếm tí gì.

- Bản phái đến Trung Nguyên lần này là có mưu tính ghê gớm lắm,

chủ yếu là để đối phó với Cái Bang. Các vị đại anh hùng ơi, các ngài có

muốn biết rõ không?

- Chúng tôi chôn dấu rất nhiều bạc vàng châu báu ở biển Tinh Tú,

chỗ nào nơi nào nhà cháu cũng biết. Nhà cháu xin dẫn các ngài đến đào,

các vị anh hùng hảo hán Cái Bang từ nay khỏi phải đi ăn xin nữa.

Mấy người đó mồm năm miệng mười, người nào cũng nịnh nọt khoe

mình trung thành, kẻ thì lấy lợi ra dụ, người lại muốn gợi tính tò mò của

đối phương, có đứa thì lại công nhiên nói phét, một tấc lên đến trời. Cả

đến kẻ đã bị rắn độc cắn trúng, hoặc bị trăn cuốn thở không ra hơi cũng

sợ mình đi sau thiên hạ, phều phào van lạy xin tha.

Người trong Cái Bang đâu có ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại hèn mạt đến

thế, không khỏi khinh thị, lại thêm hiếu kỳ, lục tục đến gần nghe cho rõ.

Toàn Quan Thanh cười khẩy:

- Các ngươi đối với sư phụ còn chả trung thành, làm gì có chuyện hết

lòng với người ngoài chẳng có liên hệ gì? Nghe thật tức cười quá!

Một tên đệ tử phái Tinh Tú vội nói:

- Không thể so sánh thế được! Hoàn toàn không giống! Hoàn toàn

không giống! Tinh Tú Lão Quái bản lãnh thấp kém, chúng tôi có coi y ra

gì đâu? Trung thành với y để làm gì? Còn các anh hùng Cái Bang võ

công uy chấn thiên hạ, lại có đại pháp thuật khu xà chế địch14, Tinh Tú

Lão Quái làm sao bì kịp?

- Cái Bang nếu thu nạp đệ tử phái Tinh Tú thì võ lâm cả Trung

Nguyên lẫn Tây Vực đều chấn động, ai mà chẳng bội phục Cái Bang anh

hùng?

- Hai chữ anh hùng đâu đã đủ ca ngợi các vị cao nhân hiệp sĩ, mà

phải gọi là đại hiệp, thánh nhân, vị cứu tinh mới đúng.

- Ta nói giỏi làm hay, từ nay chu du bốn phương, đi đâu cũng tuyên

dương uy đức thì danh vọng các đại hiệp Cái Bang ai ai cũng biết.

- Gớm, danh đầu các đại hiệp Cái Bang thiên hạ ai mà chẳng biết,

cần đếch gì đến ngươi ca tụng?

- Mấy tiếng thánh nhân cứu tinh là do tiểu nhân nói trước tiên,

bọn kia chỉ theo đuôi, chẳng có công lao gì.

Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang cau mày nói:

- Bọn các ngươi hèn hạ tiểu nhân như thế, nói lèm bèm chỉ thêm bẩn

tai. Tinh Tú Lão Quái, sao ngươi đốn mạt thế, thu nạp toàn bọn đệ tử vô

liêm sỉ là sao? Ta thanh toán ngươi trước, sau đó sẽ đưa luôn cả bọn này

theo ngươi, lão tử hôm nay đại khai sát giới.

Nói xong nghe bình một tiếng đánh thẳng vào Đinh Xuân Thu.

Chưởng đó hơi gió vù vù, kình đạo thật là cương mãnh, trúng ngay ngực

Đinh Xuân Thu. Ngờ đâu Đinh Xuân Thu dường như không sao cả, còn

gã Cái Bang kia hai gối nhũn đi, phục ngay xuống đất, co rúm lại, dãy

dụa mấy cái rồi không còn động đậy gì nữa. Quần cái kinh hãi, cùng kêu

lên:

- Sao thế này?

Lập tức có hai tên ăn mày đến đỡ y dậy, hai gã đó vừa chạm vào

người tên kia, cũng lại lảo đảo mấy cái rồi ngã xuống. Ba tên đệ tử Cái

Bang đứng bên cạnh thuận tay đưa ra giữ lại, cũng chẳng khác gì hai tên

kia, cùng gục xuống. Người Cái Bang còn lại ai nấy kinh hãi đến thất

thần, không còn ai dám xông lên tiếp cứu đồng bọn.

Toàn Quan Thanh quát lên:

- Lão già đó trên người có chất độc, mọi người chớ có chạm vào y.

Ném ám khí!

Tám chín tên đệ tử bốn, năm túi liền móc ám khí ra, cương tiêu, phi

đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch cùng vèo vèo ném vào Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu quát lên một tiếng, lắc đầu một cái, tóc bạc trên đầu xổ

tung ra, thật chẳng khác gì một loại nhuyễn tiên ngắn, hất ngược tất cả

hơn chục món ám khí lại. Chỉ nghe ối ối liên tiếp, sáu bảy têm đệ tử Cái

Bang bị bắn trúng. Những ám khí đó không phải cái nào cũng trúng chỗ

yếu hại, có món chỉ trầy xước ngoài da nhưng mấy tên Cái Bang lập tức

ngã lăn ra chết.

Toàn Quan Thanh kêu lớn:

- Lui ra! Lui ra!

Đột nhiên vụt một cái, một mũi cương tiêu phóng thẳng ra, chính là

do Đinh Xuân Thu dùng tóc giữ lại bây giờ vận kình ném vào người y.

Toàn Quan Thanh vội vàng dùng thiết địch trong tay gạt ra, nghe keng

một tiếng, hất bắn mũi cương tiêu ra thật xa. Y thấy Tinh Tú Lão Quái

quả nhiên lợi hại, chi bằng thúc giục trăn quấn chết y cho xong, bèn đưa

ống tiêu lên môi toan thổi, bỗng thấy môi tê đi, đầu choáng váng, mắt

hoa lên, biết là không ổn, vội vàng ném thiết địch, bịch một tiếng ngã lăn

ra.

Người của Cái Bang kinh hãi lập tức có hai người đến đỡ y, Toàn

Quan Thanh mơ mơ hồ hồ kêu lên:

- Ta... ta trúng độc rồi, các... các ngươi... mau chạy... chạy đi.

Quần cái ai nấy mất hồn mất vía, vội dìu y chạy bay chạy biến, để lại

xác chết, túi vải, rắn rết vung vãi khắp nơi.

Du Thản Chi nằm phục trong đám cỏ, hết sức kinh hãi, không dám cử

động. Bốn bề tĩnh mịch, hơn chục tên ăn mày co rút thành một cục, chẳng

khác gì những con nhím gặp phải nguy cơ, hiển nhiên đều chết cả rồi.

Những con trăn không còn nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh

thúc giục nữa, không dám giết người, chỉ quấn chặt thầy trò Đinh Xuân

Thu. Người trong phái Tinh Tú không ai dám ngọ ngoạy, chỉ sợ khích

động hung tính của loài rắn, ngoặp cho một cái thì bỏ đời.

Yên lặng một hồi như thế, một tên trong bọn cất giọng nói trước:

- Sư phụ ôi, lão nhân gia thần công độc bộ thiên hạ, chỉ nói nói cười

cười ra tay một cái đã đánh cho bọn ăn mày ăn nhặt vạn ác bất xá kia

chạy cong đuôi...

Y nói chưa dứt câu đã có một tên khác cướp lời:

- Sư phụ đừng nghe y bợ đít, mới vừa đây chính nó gọi bọn ăn xin kia

là đại hiệp, thánh nhân chứ còn ai.

Lại có một đệ tử khác lên tiếng:

- Chúng ta theo sư phụ bao nhiêu năm nay, ai mà chẳng biết thầy

mình có tài thông thiên triệt địa? Vừa rồi chúng mình nói khuếch nói

khoác với bọn ăn mày, chẳng qua là để đánh lừa chúng, để khi chúng ỷ y

không đề phòng, sư phụ lúc ấy mới thi triển pháp lực vô biên.

Đột nhiên một người khóa òa lên:

- Sư phụ ôi! Sư phụ ôi! Đệ tử thật là đáng chết, đệ tử hồ đồ, tham

sống sợ chết, đầu hàng địch nhân, bây giờ hối hận còn làm sao kịp, đành

nguyện cho rắn độc cắn chết chứ không dám xin sư phụ nhiêu dung.

Cả đám bấy giờ mới vỡ lẽ ra, sư phụ ghét nhất là đổ tội cho người

khác, chỉ có cách tự xỉ vả mình hồ đồ đáng chết, đem bao nhiêu tội vạ

trút lên đầu mình may ra được sư phụ khai ân tha thứ. Chỉ trong phút

chốc, ai nấy đều tự chửi mình, nào là có lòng bất lương, nào là tội đáng

muôn thác. Riêng Du Thản Chi nằm trong bụi cỏ thấy hoa mắt nhức đầu,

chẳng hiểu ra sao.

Đinh Xuân Thu ám vận kình lực, định giựt đứt ba con trăn đang quấn

chặt lấy mình. Thế nhưng mãng xà có thể dãn ra co lại, Đinh Xuân Thu

vận sức, ba con rắn chỉ nhỉnh ra một chút, nhưng không đứt được. Người

lão ta chỗ nào cũng đầy chất độc, đến cả quần áo tóc tai cũng có nên bọn

đệ tử Cái Bang bắn ám khí vào lão ta đều bị nhiễm độc. Thế nhưng

những con trăn da dày, vảy trơn, độc tố khó mà xâm nhập. Chỉ nghe bọn

đệ tử lải nhải mãi không thôi, Đinh Xuân Thu bực quá quát lên:

- Đứa nào tìm cách đuổi được rắn đi thì ta tha chết cho đứa ấy.

Không lẽ chúng bay chưa biết tính ta nữa hay sao? Ai mà còn dùng được

thì ta chưa giết. Còn nói năng nhăng cuội có ích gì đâu?

Y vừa nói xong, quần đệ tử bèn lặng như tờ. Một lúc sau có người

nói:

- Chỉ cần có ai đốt một mồi lửa dí vào mấy con rắn thế là bọn súc

sinh này sẽ chạy te ngay.

Đinh Xuân Thu chửi liền:

- Cái con bà mày, nói thối bỏ mẹ. Nơi đây đồng không mông quạnh,

đằng trước không thôn, đằng sau không xóm, có ai qua đây bây giờ? Ví

phỏng có dân đi ngang qua, bọn chúng thấy lắm rắn độc thế này, sợ khiếp

vía chạy còn không kịp, lấy đâu ra chuyện đốt lửa mà hun?

Thế là bọn đệ tử lại rầm rĩ cả lên, nhưng chẳng có cách nào dùng

được, sở dĩ bọn chúng tranh nhau nói, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, tỏ ra

mình tuân theo sư mệnh hết sức vắt óc ra để tìm mưu. Cứ như thế một hồi

lâu thì có một tên đệ tử bị trăn quấn nghẹt thở không chịu nổi, trong khi

mê loạn há mồm cắn vào thân mãng xà một cái. Con rắn bị đau, ngoặp

ngay cổ họng y, tên đó chỉ kêu lên thảm thiết rồi chết ngay.

Đinh Xuân Thu càng lúc càng nóng ruột, nếu như bị địch nhân vây

khốn thì trong bấy lâu y đã có thể hạ độc tính mưu tìm cách thoát thân,

thế nhưng những con rắn này vô tri vô thức, dù mưu kế hay cách mấy

cũng không sao thi hành được, chỉ sợ một khi chúng đói rồi, sẽ há mồm

nuốt mình vào bụng.

Mối lo của y quả nhiên đúng thực, một con trăn lâu không nghe thấy

tiếng sáo, bụng đói lắm rồi, há mồm ngoạm tên đệ tử Tinh Tú đang quấn.

Tên đệ tử đó kêu lên:

- Sư phụ cứu con! Sư phụ cứu con!

Hai cái chân y bị trăn nuốt trước rồi đến mình cũng từ từ chui vào,

miệng vẫn kêu la thảm thiết nhưng răng mãng xà hình móc15, chân tên đệ

tử đó chui vào rồi, dần dần đến bụng, lên đến ngực. Y nhất thời chưa

chết, vẫn lớn tiếng kêu la, vang dậy cả cánh đồng.

Mọi người ai nấy biết rằng số phận mình trong chốc lát rồi cũng như

thế, không khỏi sợ đến vỡ mật. Một người thấy Tinh Tú Lão Quái cũng

đành bó tay chịu chết, tự nhiên lòng căm hận nổi lên, lớn tiếng chửi bới,

nói mọi chuyện chẳng qua chỉ vì y ép buộc, mình đang sinh sống yên lành

bằng nghề nuôi cừu ở biển Tinh Tú, bị y vừa uy hiếp vừa dụ dỗ, bắt phải

gia nhập làm môn hạ, hôm nay chết thảm nơi miệng độc xà, xuống đến

cõi âm, thể nào cũng dâng cáo trạng lên Diêm Vương.

Gã đó mở đầu, bao nhiêu người khác cũng chửi theo. Mọi người ngày

thường bị Tinh Tú Lão Quái hành hạ ngược đãi, lòng đầy oán hận, có

điều chỉ để trong bụng mà không dám nói ra lời, hôm nay cũng cùng chết

cả nên chửi một phen cho hả tức. Một người chửi lớn quá thân hình dao

động, khiêu khích con rắn đang quấn, mãng xà liền há mồm ngoạm ngay

đầu vai, y chỉ có nước kêu lên:

- Ối! Ối! Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Du Thản Chi thấy cả bọn ai cũng bị mãng xà quấn chặt không thể

nào thoát thân được, trong lòng không sợ hãi gì nữa, từ trong bụi cỏ đứng

lên, thấy nơi này không phải là chỗ tốt lành gì nên định chạy cho mau.

Người trong phái Tinh Tú đột nhiên thấy một quái nhân đầu đội lồng sắt,

ai nấy thất kinh nhưng lập tức có người nghĩ ra là chỉ còn trông vào y để

cứu mạng, liền kêu lên:

- Đại anh hùng ơi, đại hiệp sĩ ơi, nhờ ngài lấy nắm cỏ khô, đốt lửa

lên, đuổi giùm mấy con trăn này cho chúng tôi, mỗ lập tức tặng cho...

tặng cho ngài một nghìn lượng bạc.

Lại một người khác kêu lên:

- Một nghìn lượng đâu có đủ, phải ít nhất một vạn lượng.

Lại một người khác nói:

- Vị tiên sinh đây bụng nhân lòng hiệp, hết sức tử tế, chỉ chuyên

hành hiệp trượng nghĩa, huống chi đốt lửa dọa rắn thì có gì là nguy hiểm.

Chỉ trong giây lát tiếng ca tụng vang lên, còn kẻ hứa thưởng tiền thì

chỉ chớp mắt đã lên đến trăm vạn lượng hoàng kim. Những gã này mồm

miệng chửi ai thì số một đã đành mà nịnh bợ ca tụng thì cũng có bài có

bản. Du Thản Chi trong đời đã có bao giờ nghe ai gọi mình là đại hiệp

sĩ, đại anh hùng, người nhân kẻ hiệp, hảo hán trên đời có một

không hai bao giờ? Bây giờ nghe bọn người này tâng bốc lên tận mây

xanh, y cảm thấy hởi lòng hởi dạ, tưởng chừng như đang bay bổng, tự

nhiên cảm thấy mình có phong độ đại hiệp sĩ, đại anh hùng thật, một

trăm vạn lượng hoàng kim chẳng coi vào đâu, có điều A Tử cô nương

không được chính tai nghe những lời tán tụng mình quả cũng đáng tiếc.

Y bèn gom cỏ khô, mò trong người đồ đánh lửa châm vào nhưng khi

thấy bao nhiêu là trăn lớn trông thật hung dữ, trong bụng cũng sợ lắm,

nghĩ thầm thôi chẳng nên trêu vào những con rắn này, không chừng chính

mình cũng vướng vào trong rọ. Y suy nghĩ một lát bèn đi gom các cành

khô đốt thành một đống lửa thật lớn ở ngay trước mặt, sau đó mới cầm

một cành cây đang cháy, ném vào con trăn lớn gần mình nhất.Y đứng nấp ở sau đống lửa, nép người lại để nếu con mãng xà phóng

tới cắn mình thì sẽ lập tức co giò chạy thoát thân, cái danh đại anh

hùng, đại hiệp sĩ cũng chẳng màng chi nữa.

Trăn quả nhiên sợ lửa, thấy lửa lem lém ở bên cạnh lập tức đang

quấn người liền lỏng ra, chui vào trong cỏ. Du Thản Chi thấy đốt lửa kiến

hiệu, trong tiếng hoan hô của phái Tinh Tú, cầm hết que củi này đến que

củi khác vứt ra. Những con rắn lập tức lúc nhúc bỏ chạy, đến những con

trăn lớn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng đành thả người ra

chạy mất. Chỉ trong giây lát, mấy trăm con rắn và trăn đã đi hết sạch.

Các đệ tử phái Tinh Tú lớn tiếng ca tụng:

- Minh kiến của sư phụ quả xa vạn dặm, thật là thần cơ diệu toán,

dùng hỏa công linh nghiệm biết bao.

- Sư phụ hồng phúc tề thiên, phùng hung hóa cát.

- Mọi việc đều do sư phụ tính toán mới cứu được cái mạng kiến của

chúng con.

Bao nhiêu lời ca tụng toàn là nhắm vào công đức của sư tôn Tinh Tú

Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi chẳng ai nhắc

đến một câu. Du Thản Chi đứng ngơ ngẩn như trời trồng, hơi lấy làm lạ,

nghĩ thầm: Mới đây cả bọn chúng bay còn chửi sư phụ không tiếc lời,

bây giờ lại tán tụng tận mây xanh, cái tiếng đại anh hùng, đại hiệp sĩ

của ta nay thành thằng nhãi này, ấy là vì cớ gì?.

Đinh Xuân Thu vẫy tay nói:

- Thằng đầu sắt kia, lại đây, tên ngươi là gì?

Du Thản Chi bị người ta khinh khi đã quen, thấy đối phương vô lễ,

cũng chẳng để bụng nói:

- Tôi tên Du Thản Chi.

Nói xong đi tới mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi:

- Mấy tên ăn mày kia đã chết chưa? Ngươi thử lại sờ mũi y xem có

còn thở không nào?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y cúi xuống sờ mũi một tên đệ tử Cái Bang, thấy tay chạm vào lạnh

ngắt, gã đó chết từ lâu rồi. Y lại thăm một gã khác thì cũng đã tắt thở bèn

nói:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Chỉ thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú mặt mày hớn hở đứa nào đứa nấy ra

chiều hạnh tai lạc họa16. Y không hiểu vì sao, lại nhắc lại lần nữa:

- Chết cả rồi, không còn thở tí nào cả.

Những gã kia khuôn mặt đang nhăn nhở ra chiều diễu cợt bỗng nhiên

biến mất, từ từ chuyển sang lạ lùng, rồi trở thành kinh hãi. Đinh Xuân

Thu nói:

- Mỗi tên ăn mày ngươi thử dò xem có đứa nào còn cứu được không?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Y bèn thăm dò hết lượt hơn chục tên ăn mày rồi lắc đầu:

- Người nào cũng chết cả rồi. Công lực của lão tiên sinh ghê gớm

thật.

Đinh Xuân Thu cười khẩy:

- Công phu kháng độc của ngươi còn ghê gớm hơn nhiều.

Du Thản Chi lạ lùng hỏi:

- Tôi...cái gì... công phu kháng độc của tôi ư?

Y hoang mang không hiểu ý tứ câu nói của Đinh Xuân Thu ra sao,

cũng chẳng biết rằng mỗi lần mình thò tay xem hơi thở của người trong

Cái Bang là một lần đến quỉ môn quan, sờ thử hơn mười người, là trải qua

hơn mười lần chết đi sống lại. Y nào có biết được rằng, Tinh Tú Lão Quái

bị trăn quấn không sao thoát thân được tất cả đều do tiểu tử này cứu

mạng, nếu như truyền ra trên giang hồ thì chẳng còn mặt mũi nào, thành

thử khi rắn trăn đi khỏi rồi lập tức nảy ra ý định giết y để bịt miệng.

Ngờ đâu trong mấy tháng qua Du Thản Chi tập luyện liên tục nên độc

chất của con băng tàm đã dung hợp trong cơ thể, những gì Đinh Xuân Thu

thổi vào xác những tên đệ tử Cái Bang kia không làm gì y nổi.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Cứ nhìn da tay và nghe giọng nói của gã

này thì xem ra còn trẻ lắm, chắc không có bản lãnh gì chân thực đâu, có

lẽ trên người y có chất gì kỵ độc như hùng hoàng châu, tịch tà kỳ hương

chẳng hạn, hay đã uống sẵn thuốc giải nên không bị chất độc xâm nhập.

Y liền nói:

- Du huynh đệ, ngươi lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Du Thản Chi thấy y nói ra vẻ thành khẩn nhưng đã từng chứng kiến

thủ đoạn giết bọn Cái Bang thật là tàn độc, thầy trò y khi thì nịnh bợ tâng

bốc, lúc lại chửi bới nhục mạ lẫn nhau, biết hạng người này thật khó mà

đối phó, chi bằng kính nhi viễn chi là hơn bèn đáp:

- Tiểu nhân đang có chuyện cần, không thể phụng bồi, xin cáo từ.

Nói xong chắp tay chào, quay mình đi thẳng. Y mới đi được mấy

bước, đột nhiên thấy bên cạnh người có hơi một chút gió, hai cổ tay ghịt

lại thì ra đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn, thấy người nắm tay

mình chính là một đệ tử phái Tinh Tú. Y không hiểu đối phương có dụng

ý gì nhưng thấy mặt y nở một nụ cười nham hiểm, xem ra không có hảo

ý, trong lòng kinh hãi kêu lên:

- Bỏ ta ra!

Y giằng mạnh một cái, bỗng thấy có vật gì bay vụt ngang đầu, một

thân hình to lớn từ sau lưng nhảy qua người y, bình một tiếng, giáng mạnh

vào vách đá trước mặt, đầu vỡ tan, nát ngướu thành một cục bầy nhầy.

Du Thản Chi thấy gã đó đụng mạnh như thế, không sao tin nổi, còn

đang ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra chính là gã vừa nắm tay mình, càng

thêm kỳ quái: Gã này đang khỏe mạnh như thường, sao tự nhiên lại lao

đầu vào đá tự tử ? Không lẽ hóa điên chăng?. Y có ngờ đâu chính là vì

mình giãy một cái, một luồng kình lực đưa ra ném gã kia vào trong núi.

Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy sợ hãi kêu lên, mặt mày biến sắc.

Đinh Xuân Thu thấy y ra tay quật chết đệ tử mình, thủ pháp thật là

vụng về quờ quạng, không phải công phu thượng thừa, chỉ vì sức lực

mạnh lạ lùng mà ra, nghĩ thầm người này trời cho thần lực, võ công lại

tầm thường, lập tức nhún mình một cái, giơ tay chộp vào đầu y. Du Thản

Chi không kịp đề phòng lập tức bị đè đến quì xuống đất, bèn chõi lên

định đứng dậy, nhưng đầu tưởng như đang đội một khối đá vạn cân,

không cách nào động đậy gì được vội vàng van xin:

- Xin lão tiên sinh tha cho.

Đinh Xuân Thu thấy y mở miệng xin tha nên cũng yên tâm hỏi lại:

- Sư phụ ngươi là ai? Sao ngươi dám to gan, giết đệ tử của ta?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi... tôi không có sư phụ. Tiểu nhân chẳng bao giờ dám giết đệ tử

của lão tiên sinh.

Đinh Xuân Thu nghĩ bụng chẳng cần nhiều lời với y làm gì, giết

người diệt khẩu cho được việc, nên buông tay ra đợi Du Thản Chi vừa

đứng lên liền múa chưởng đánh vào ngực y. Du Thản Chi kinh hãi vội

vàng đưa tay gạt ra. Thế đánh của Đinh Xuân Thu thật chậm, Du Thản

Chi vừa đưa tay ra đụng ngay phải chưởng tâm của lão. Đinh Xuân Thu

vốn đã tính trước, chất độc trong người theo nội kình lòng bàn tay tống ra,

chính là công phu Hóa Công Đại Pháp thành danh mấy chục năm qua,

trong chưởng hoặc chứa kịch độc, hoặc hóa tán nội lực kẻ địch trong

khoảnh khắc, kẻ thì chết ngay tại chỗ, có kẻ đau đớn quằn quại mấy

tháng mới chết toàn do ý muốn thi triển khác nhau.

Trong đời Đinh Xuân Thu đã từng dùng pháp môn này giết không

biết bao nhiêu người, võ lâm nghe đến Hóa Công Đại Pháp ai ai cũng

căm hận chán ghét, sợ đến bủn rủn cả tay chân. Bắc Minh Thần Công

của Đoàn Dự hút nội lực người khác lấy làm của mình, khác hẳn với Hóa

Công Đại Pháp dùng chất kịch độc hóa tán nội công người khác, nhưng

người bị trúng phải thấy mình trong giây lát tiêu tán hết nội lực, chưa một

ai có kinh nghiệm của cả hai nên đều hiểu lầm. Đinh Xuân Thu thấy gã

đầu sắt sờ mũi hơn chục tử thi Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên lập

tức thi triển bản lãnh tối đắc ý của lão ra.

Hai người song chưởng chạm nhau, thân hình Du Thản Chi lảo đảo,

lịch bịch lùi luôn sáu bảy bước, định gượng dậy nhưng cũng phải ngồi

phệt xuống, vậy mà dư lực vẫn còn đẩy y ngã ngửa, đầu va xuống đất,

lộn tùng phèo ba bốn vòng mới ngừng lại được. Y vội vàng liên tiếp khấu

đầu van xin:

- Lão tiên sinh tha mạng! Lão tiên sinh tha mạng!

Đinh Xuân Thu hai tay đụng với y thấy Du Thản Chi nội lực hùng

mạnh, kình đạo âm hàn, thật là quái dị, lại có ngầm chứa chất cực độc,

tuy bị mình đẩy ngã lăn chòng chọc thật là thê thảm, nhưng nếu so sánh

nội lực và độc kình thì không kém gì mình, vậy mà lại van xin cầu tha

mạng? Không lẽ y thực sự không biết? Lão liền tiến lên hỏi lại:

- Ngươi cầu xin ta tha mạng, đó là thực lòng hay là giả ý?

Du Thản Chi vẫn một mực rập đầu van lạy:

- Tiểu nhân một lòng thành thực, cầu xin lão tiên sinh tha mạng cho

tiểu nhân.

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã này không biết dùng cách gì, gặp

được cơ duyên làm sao mà chất độc tích trong người còn hơn cả ta, quả là

một kỳ bảo. Ta phải tìm cách tóm lấy gã dò xem pháp môn luyện công ra

sao sau đó hút hết chất độc trong người y, lúc đó mới xử tử. Còn nếu chỉ

giết y đi thì thật uổng quá!. Ông ta giơ chưởng ấn xuống đầu Du Thản

Chi, hơi vận nội lực nói:

- Trừ phi ngươi bái ta làm thầy, nếu không ta làm sao tha mạng cho

ngươi được?

Du Thản Chi thấy chiếc lồng sắt trên đầu như bị đút vào lò lửa, nóng

đến mặt hừng hực, trong bụng hết sức sợ hãi. Y từ khi bị A Tử hành hạ

dày vò trở nên bảo sao nghe vậy, chẳng còn phân biệt thiện ác thị phi,

bao nhiêu cốt khí cứng cỏi ương ngạnh mất sạch, chỉ sao được bảo toàn

tính mạng nên lật đật nói:

- Sư phụ, đệ tử Du Thản Chi cam nguyện gia nhập môn hạ của sư

phụ, xin lão nhân gia thu nạp cho.

Đinh Xuân Thu mừng lắm, thản nhiên nói:

- Ngươi muốn bái ta làm thầy thì cũng được. Thế nhưng qui củ bản

môn thật nhiều, ngươi có tuân thủ được không? Ví thử sư phụ bảo làm gì,

ngươi có thành tâm thành ý làm hết lòng, quyết không vi kháng chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Đệ tử nguyện tuân thủ qui củ, phục tòng mệnh lệnh của sư tôn.

Đinh Xuân Thu hỏi thêm:

- Nếu sư phụ muốn lấy mạng ngươi, ngươi có cam tâm tình nguyện

chịu chết không?

Du Thản Chi ấp úng:

- Cái đó... cái đó...

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi nghĩ cho chín, cam tâm thì là cam tâm, không bằng lòng thì

nói không bằng lòng.

Du Thản Chi nghĩ thầm: Nếu ông muốn lấy mạng tôi thì dĩ nhiên

không cam tâm rồi. Nếu tới lúc đó trốn được là mình trốn ngay, còn như

chạy không xong thì dù không cam tâm cũng đành vậy chứ biết sao hơn.

Y bèn nói:

- Đệ tử cam tâm chịu chết vì sư phụ.

Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:

- Hay lắm, hay lắm! Ngươi đem tất cả mọi chuyện trong đời nói hết

cho ta nghe.

Du Thản Chi không muốn nói rõ hết cho ông ta nghe thân thế và

những gặp gỡ trong đời, chỉ nói mình là con nhà nông bị người Liêu bắt

trong một kỳ đi gặt, đội cho y một cái lồng sắt. Đinh Xuân Thu hỏi y

độc chất vì đâu mà có, Du Thản Chi chỉ thổ lộ vì sao thấy con băng tàm

và nhà sư Tuệ Tịnh, ăn cắp con tằm ra sao rồi nói láo là sơ ý nên bị con

băng tàm trong hồ lô cắn vào tay khiến cho toàn thân đông cứng, còn con

tằm thì chết, còn chuyện A Tử tu luyện độc chưởng y bỏ qua không đề

cập tới.

Đinh Xuân Thu hỏi kỹ lưỡng hình dáng và tình trạng con băng tàm,

trên mặt không khỏi lộ vẻ thèm thuồng thán phục. Du Thản Chi nghĩ

thầm: Nếu ta nói đến cuốn sách ướt hiện hình lên y thể nào cũng cướp

mất không trả lại đâu. Đinh Xuân Thu lại gặng hỏi công phu cổ quái y

luyện thế nào nhưng y nhất quyết không hé răng.

Đinh Xuân Thu vốn dĩ đâu có biết đó là công phu Dịch Cân Kinh thấy

võ công y hết sức kém cỏi lại tưởng vì y luyện được nội kình âm hàn

hoàn toàn chỉ do con băng tàm mà có, trong bụng không khỏi chửi thầm:

Loại thần vật như thế mà lại bị tên tiểu tử này thần xui quỉ khiến làm

sao hút được vào người, thật uổng quá. Y suy nghĩ một chút bèn hỏi

thêm:

- Thế nhà sư mập bắt được con tằm đó, ngươi bảo là nghe người khác

gọi là Tuệ Tịnh ư? Là sư chùa Thiếu Lâm, chấp tác nơi chùa Mẫn Trung

ở Nam Kinh?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng thế.

Đinh Xuân Thu nói:

- Gã Tuệ Tịnh đó bảo là bắt được con băng tàm ở trên đỉnh núi Côn

Lôn. Thế thì tốt lắm, ở đó đã có một con thì hẳn sẽ có hai con, ba con. Có

điều núi Côn Lôn vuông vức mấy nghìn dặm, nếu không phải người thuộc

đường đưa đi thì không phải dễ gì mà bắt được.

Lão đã đích thân nếm mùi linh nghiệm của con băng tàm, tính ra so

với Thần Mộc Vương Đỉnh còn quí hơn nhiều, thấy chuyện cần kíp trước

mắt phải làm sao ép được nhà sư Tuệ Tịnh dẫn đường đi lên núi Côn Lôn

bắt con trùng quí. Hòa thượng đó thuộc phái Thiếu Lâm, vốn cũng khó

mà động tới được, nay lại ở Nam Kinh thế thì may quá. Sau đó Du Thản

Chi làm lễ bái sư gia nhập phái Tinh Tú.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ có chiều thương mến y cho nên

lập tức xúm lại ninh bợ, tán tụng không tiếc lời. Mới rồi cả bọn chửi bới

Tinh Tú Lão Quái, phản nghịch hàng địch nhưng lúc này Đinh Xuân Thu

đang cần người nên giả bộ làm như không nhớ đến, vả lại những chuyện

đó thì y cũng đã biết thừa nên không thấy bực tức chút nào.

Đoàn người liền chuyển qua đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi đi

sau Đinh Xuân Thu thấy lão tay áo rộng phất phới, bộ pháp nhẹ nhàng

thật chẳng khác gì thần tiên, trong lòng tự nhiên sinh kính ngưỡng: Ta

bái một vị tài ba thế này làm sư phụ, quả đúng là kiếp trước khéo tu.

Người phái Tinh Tú đi ba ngày liền, đến xế trưa hôm đó, cả bọn ở lại

một tòa lương đình ở bên đường uống nước nghỉ ngơi, bỗng nghe phía sau

có tiếng vó ngựa, bốn kỵ sĩ từ phía đường bên kia chạy tới. Bốn con ngựa

đó chạy tới gần căn nhà mát, người đầu tiên kêu lên:

- Đại ca, nhị ca, trong đây có nước, mình ghé lại uống vài bát cho

ngựa nghỉ một chút.

Y vừa nói vừa nhảy xuống ngựa, đi vào lương đình, ba người còn lại

cũng hạ mã. Bốn người đó thấy bọn Đinh Xuân Thu, hơi gật đầu chào, đi

đến bên chum nước, cầm bát lên múc nước uống. Du Thản Chi thấy người

đi đầu mặc áo đen, bé nhỏ gầy gò, trên mép để hai chòm râu đuôi chuột

vẻ mặt ranh mãnh. Người thứ hai mặc áo bào màu hoàng thổ, cao lỏng

khỏng, hai lông mày xuôi xuống, vẻ mặt cáu kỉnh trông như người ốm dở.

Người thứ ba mặc trường bào màu đỏ cánh kiến, thân hình cao lớn, tai to

mặt vuông, dưới cằm là một bộ râu hoa râm khá rậm trông chẳng khác gì

một phú thương. Người sau cùng mặc áo xanh khăn áo theo vẻ nho sinh,

chừng trên dưới năm mươi, đôi mắt lờ đờ dường như vì đọc sách nhiều

quá nên cập kèm, không uống nước mà cầm chiếc hồ lô lên tu rượu ừng

ực.

Cũng vừa khi đó, từ phía đường trước mặt, một nhà sư xăng xái đi tới,

đến trước lương đình, chắp hai tay cung kính nói:

- Chúng vị thí chủ, tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào trong

đình nghỉ ngơi, uống bát nước.

Người áo đen cười đáp:

- Sư phụ chẳng phải đa lễ, ở đây ai cũng là người qua đường, tòa nhà

mát này có phải chúng tôi dựng lên đâu, xin mời vào nghỉ.

Nhà sư đáp:

- A Di Đà Phật, xin đa tạ.

Nói xong ông ta đi vào trong lương đình. Nhà sư đó tuổi chừng hai

mươi nhăm, hai mươi sáu, mắt to mày rậm, mũi to nhưng tẹt, mặt mày

không lấy gì làm đẹp trai, tăng bào tuy vá nhiều chỗ nhưng sạch sẽ. Y đợi

ba người kia uống xong lúc đó mới đến gần chum nước, dùng bát múc, hai

tay nâng lên, đôi mắt khép lại, cung kính đọc một bài kệ:

Phật quan nhất bát thủy

Bát vạn tứ thiên trùng

Nhược bất trì thử chú

Như thực chúng sinh nhục.

Ở trong lòng bát nước kia,

Phật trông thấy tám muôn tư côn trùng.

Chú này chưa tụng cho xong,

Khác gì ăn thịt một vùng chúng sinh.

Rồi y niệm:

- Am phọc thái ba la ma ni sa ha.

Niệm xong y mới bưng bát nước lên để vào miệng uống. Gã áo đen

lấy làm lạ bèn hỏi:

- Tiểu sư phụ, chú xí xa xí xố niệm chú gì đó?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng niệm đó là ẩm thủy chú. Phật dạy rằng trong mỗi bát

nước đều có tám vạn bốn ngàn loại côn trùng, người xuất gia giới sát

thành ra phải niệm ẩm thủy chú xong lúc đó mới uống được.

Người áo đen cười sằng sặc nói:

- Nước trong veo, đến một con trùng cũng không có, tiểu sư phụ chỉ

giỏi nói đùa.

Nhà sư nghiêm trang đáp:

- Thí chủ có chỗ không biết. Chúng ta là bọn phàm phu nhìn vào thì

trong nước không có côn trùng nhưng đức Phật nhìn bằng thiên nhãn, thấy

trong nước tiểu trùng hàng nghìn hàng vạn con.

Người áo đen cười hỏi lại:

- Thế chú niệm ẩm thủy chú rồi uống tám vạn bốn nghìn con trùng

kia vào bụng thì tiểu trùng không chết hay sao?

Nhà sư trù trừ rồi đáp:

- Cái... cái đó... sư phụ tiểu tăng chưa dạy. Có lẽ tiểu trùng không

chết đâu.

Người áo vàng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu trùng cũng vẫn chết chứ. Có điều

tiểu sư phụ niệm chú rồi, tám vạn bốn nghìn con trùng kia đi thẳng lên

tây phương cực lạc thế giới, tiểu sư phụ uống một bát nước ấy là siêu độ

cho tám vạn bốn nghìn chúng sinh. Công đức thật là vô lượng! Quả thật là

vô lượng!

Nhà sư kia không biết y nói thật hay nói đùa, hai tay vẫn cầm bát

nước đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mồm lẩm bẩm:

- Một lần siêu độ tám vạn bốn ngàn chúng sinh ư? Tiểu tăng làm sao

có pháp lực to lớn dường ấy?

Người áo vàng đi đến bên cạnh nhà sư, cầm lấy bát nước trong tay y,

nhìn chăm chăm miệng đếm:

- Một, hai, ba, bốn, năm, sáu... một nghìn, hai nghìn, một vạn, hai

vạn... Sai bét rồi, không phải vậy! Tiểu sư phụ ơi ơi, trong cái bát này có

cả thảy tám vạn ba nghìn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng, thiếu

đâu mất một con.

Nhà sư nói:

- Nam Mô A Di Đà Phật, thí chủ chắc nói đùa, thí chủ là người phàm

làm sao có thần thông thiên nhãn được?

Người áo vàng đáp:

- Thế chú có thần thông thiên nhãn không?

Nhà sư đáp:

- Tiểu tăng dĩ nhiên cũng không có.

Người áo vàng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Ta xem chú có thiên nhãn thông, nếu

không làm sao chú chỉ mới nhìn thoáng qua đã biết ngay ta là kẻ phàm

phu tục tử mà không phải là bồ tát giáng trần?

Nhà sư nhìn y, nhìn tới nhìn lui đầy vẻ hoang mang. Đại hán mặc áo

màu cánh kiến liền đi tới cầm lấy bát nước, trả lại cho nhà sư cười nói:

- Sư phụ uống nước đi! Thằng em tôi đùa chơi với chú đấy mà, đừng

có coi là thật.

Nhà sư tiếp lấy bát nước cực kỳ cung kính đáp:

- Đa tạ! Đa tạ!

Trong bụng không biết phải làm sao nên không dám uống. Đại hán

kia lại tiếp:

- Ta xem tiểu sư phụ đi đứng nhanh nhẹn chắc biết võ công. Xin hỏi

pháp danh là gì, đang xuất gia tại chùa nào?

Nhà sư liền để bát nước trên nắp chum, hơi khom lưng nói:

- Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.

Người áo đen kêu lên:

- Hay quá! Hay quá! Hóa ra chú là cao thủ chùa Thiếu Lâm. Ra đây,

ra đây mau! Hai đứa mình làm thử một keo nào.

Hư Trúc cuống quít xua tay nói:

- Tiểu tăng võ công kém cỏi, làm sao dám động thủ cùng thí chủ?

Người áo đen cười:

- Mấy hôm nay không đánh nhau, ngứa tay ngứa chân quá. Chúng

mình làm vài chiêu, không cần đánh thật, có gì đâu mà sợ?

Hư Trúc lùi lại hai bước nói:

- Tiểu tăng tuy có luyện võ mấy năm thật nhưng chỉ cốt để cho thân

thể khỏe mạnh chứ nào có đánh nhau được đâu?

Người áo đen nói:

- Sư chùa Thiếu Lâm ai cũng võ công cao cường, người mới học đâu

có ai được ra khỏi sơn môn. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn hẳn là phải nhất

lưu cao thủ. Lại đây nào! Hai đứa mình chỉ trao đổi một trăm chiêu, ai

thua ai được cũng chẳng sao cả.

Hư Trúc lại thoái lui thêm hai bước nữa nói:

- Thí chủ không biết, phen này tiểu tăng xuống núi chẳng phải vì võ

công đã đủ, chỉ vì nhà chùa sai rất đông đệ tử đi đưa thư, thiếu người nên

miễn cưỡng khiến luôn cả tiểu tăng cho đủ số. Tiểu tăng cầm cả thảy

mười trương anh hùng thiếp, sư phụ dặn kỹ là đưa đủ mười cái thiếp xong

là phải về chùa ngay, giá nào cũng không được động võ với ai, hiện nay

đã đưa được bốn lá thiếp rồi, trong người còn sáu cái. Thí chủ võ công

cao cường, vậy xin nhận một trương anh hùng thiếp.

Nói xong lấy trong túi ra một chiếc bao bằng vải dầu, mở lấy ra một

phong bì đỏ chói, cung kính đưa lên nói:

- Xin hỏi cao tính đại danh của thí chủ để tiểu tăng khi về chùa bẩm

lại với sư phụ.

Hán tử áo đen không cầm tờ thiếp chỉ nói:

- Nếu như ngươi không đánh nhau với ta thì ta còn anh hùng cẩu

hùng gì nữa? Hai đứa mình sách giải vài chiêu, ta có thắng ngươi lúc đó

mới dám nhận anh hùng thiếp.

Nói xong y tiến lên hai bước, nhứ tay trái, tay phải đấm luôn vào mặt

Hư Trúc nhưng quyền sắp đến đã thu lại kêu lên:

- Trả đòn mau.

Người cao to từ khi thấy Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp thì

đã chú ý lắng tai nghe lúc này lên tiếng:

- Tứ đệ, không nên tỉ võ vội, trước hết xem anh hùng thiếp xem nói

những gì.

Y cầm lấy lá thiếp từ tay Hư Trúc thấy trên đó viết:

Trụ trì chùa Thiếu Lâm Huyền Từ, chắp tay cung thỉnh anh hùng

thiên hạ, vào giai tiết Trùng Dương mồng chín tháng chín, xin vui lòng

đến Tung Sơn Thiếu Lâm Tự để kết mối thiện duyên, đồng thời chứng

kiến phong phạm dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung Cô

Tô.

Đại hán đó liền kêu lên một tiếng, cầm tờ thiếp giao cho nho sinh

đứng bên cạnh, nói với Hư Trúc:

- Phái Thiếu Lâm chiêu khai anh hùng đại hội, hóa ra là để gây

chuyện với Mộ Dung Cô Tô...

Hán tử áo đen liền la to:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta tên là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác, chính

là thủ hạ của họ Mộ Dung Cô Tô đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó

Mộ Dung Cô Tô thì chẳng việc gì phải mở anh hùng đại hội, ngay bây

giờ ta xin lãnh giáo thân thủ cao chiêu của phái Thiếu Lâm.

Hư Trúc lại lùi thêm hai bước, chân trái đã bước ra khỏi lương đình

nói:

- Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ tiểu tăng có dặn là, tệ tự cung thỉnh

Cô Tô Mộ Dung thí chủ đến chùa, quyết không dám đắc tội. Có điều là

trên giang hồ ai ai cũng xầm xì, trong võ lâm những năm gần đây không

ít anh hùng hảo hán bỏ mình vì thần công dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân

của nhà Mộ Dung Cô Tô. Sư bá tổ của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư viên

tịch tại chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên can gì với họ Mộ

Dung không, tệ phái từ phương trượng đại sư giở xuống, ai ai cũng nghi

hoặc, thành ra mới...

Người áo đen liền ngắt lời:

- Chuyện đó vốn dĩ chẳng liên quan gì đến nhà Cô Tô Mộ Dung

chúng ta cả, thế nhưng chúng ta nói các ngươi nào có ai chịu tin đâu, nếu

như nói chuyện không xong thì chỉ còn nước quyền cước phân hơn thiệt.

Ví như thế, hai người mình hôm nay đánh nhau một trận, cũng như trước

khi diễn trò thì đánh phèng la chiêng trống, sắp vào vở tuồng thì nói lối

mấy câu giáo đầu, có thế mới vui. Còn đến tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, Phong mỗ sẽ đến chùa Thiếu Lâm, từ dưới đánh lên, không

sót một mống, thế mới thống khoái. Có điều chỉ đánh được chừng mười

bảy mười tám mạng là Phong mỗ khắp người thương tích, không còn đánh

tiếp được nữa, muốn giao thủ với Huyền Từ lão phương trượng, chắc là

không thể nào có cơ duyên. Tiếc quá! Tiếc quá!

Y vừa nói vừa xắn tay áo dường như muốn xông lên động thủ. Hán tử

to cao nói:

- Tứ đệ, hãy khoan đã, nói năng cho minh bạch rồi đánh cũng chưa

muộn.

Người áo vàng chặn lại:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nói cho minh bạch xong thì đâu cần

đánh nữa. Tứ đệ, cơ hội tốt chớ để mất, nếu muốn đánh nhau thì chớ có

nói cho minh bạch.

Người đàn ông to cao kia không nhìn nhõi gì đến y quay sang nói với

Hư Trúc:

- Tại hạ là Đặng Bách Xuyên còn người này là nhị đệ Công Dã Can.

Y vừa nói vừa chỉ vào người nho sinh, rồi chỉ vào người áo vàng:

- Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, chúng tôi đều là thủ hạ của Mộ

Dung công tử.

Hư Trúc liền chắp tay chào bốn người miệng nói:

- Đặng thí chủ, Công thí chủ...

Bao Bất Đồng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Nhị ca ta họ kép là Công Dã, ngươi lại

gọi Công thí chủ, thật sai hết chỗ nói.

Hư Trúc vội nói:

- Xin lỗi! Xin lỗi! Tiểu tăng chẳng có học vấn, xin Công Dã thí chủ

đừng trách. Bao thí chủ...

Bao Bất Đồng lại chặn ngang:

- Nhà ngươi lại cũng sai nữa rồi. Ta tuy họ Bao thật nhưng xưa nay

đã từng bố thí cho sư cho vãi bao giờ đâu, không thể nào gọi ta là Bao thí

chủ được.

Hư Trúc lật đật nói:

- Dạ! Dạ! Bao tam gia, Phong tứ gia.

Bao Bất Đồng liền đáp:

- Ngươi lại sai rồi! Phong tứ đệ của ta muốn cùng người giao đấu,

không kể ai ăn ai thua thì ngươi cũng một phen thêm lịch duyệt, võ công

ắt là trường tiến, thế chẳng phải đã bố thí cho ngươi hay sao?

Hư Trúc vội đáp:

- Vâng! Vâng! Phong thí chủ, có điều là tiểu tăng nhất quyết không

đánh nhau. Người xuất gia tu hành là gốc, học võ chỉ là ngọn, võ công

trường tiến hay không, cũng không quan hệ gì lắm.

Phong Ba Ác thở dài:

- Ngươi coi võ học xem thường như thế, võ công chắc cũng tầm

thường, thôi trận này chẳng cần đấu nữa.

Nói xong lắc đầu quầy quậy ra chiều thất vọng. Hư Trúc chẳng khác

gì trút được gánh nặng trên vai, mặt mày tươi rói nói:

- Phải lắm! Phải lắm!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Hư Trúc sư phụ, cánh thiếp anh hùng này, chúng tôi đại diện công

tử nhận. Công tử chúng tôi mấy tháng trước đây đã từng đến bái phỏng

quí tự, không lẽ chưa tới nơi hay sao?

Hư Trúc đáp:

- Chưa thấy đến. Phương trượng đại sư vẫn mong Mộ Dung công tử

đến thăm nhưng đợi lâu quá mà không thấy, đã từng hai lần phái người

đến quí phủ bái phỏng, nghe tin Mộ Dung lão thí chủ qui tây, thiếu thí

chủ ra ngoài. Phương trượng đại sư lần này nhờ thủ tọa Đạt Ma Viện đến

tận tôn phủ ở Tô Châu đưa thư, lại sợ Mộ Dung thiếu thí chủ không có

nhà nên gửi anh hùng thiếp đến đông đảo đồng đạo giang hồ, những điều

thất lễ xin nhờ bốn vị bẩm lại Mộ Dung công tử cho minh bạch. Sang

năm Mộ Dung thí chủ giá lâm tệ tự, phương trượng đại sư sẽ đích thân tạ

tội sau.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiểu sư phụ không phải khách sáo quá. Kỳ hội còn đến hơn nửa

năm, tới lúc đó công tử chúng tôi thể nào cũng đến thăm quí tự, bái kiến

phương trượng đại sư.

Hư Trúc chắp tay khom lưng chào nói:

- Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm Thiếu Lâm Tự, phương

trượng đại sư chúng tôi cực kỳ hoan nghênh. Hai chữ bái kiến thật

không dám nhận.

Phong Ba Ác thấy y cực kỳ chấp nê, không có chút gì khẳng khái hào

sảng của võ lâm, tuy cũng là nhà sư đấy nhưng thật chẳng có vẻ gì là

hòa thượng chùa Thiếu Lâm danh tiếng trên đời, trong lòng không lấy

gì làm vui lắm, chẳng ngó ngàng gì đến y nữa, quay sang xem xét bọn

Đinh Xuân Thu. Y thấy quần đệ tử phái Tinh Tú tay cầm binh khí, hiển

nhiên cũng là người trong võ lâm, liền tìm xem có người nào xứng đáng

là đối thủ để mời ra đánh nhau một trận.

Du Thản Chi từ khi thấy bốn người này đi vào lương đình, lập tức nấp

vào đằng sau sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao to, che khuất y nên bọn

bốn người Đặng Bách Xuyên không nhìn thấy cái đầu sắt quái dị. Phong

Ba Ác thấy Đinh Xuân Thu đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt, trông

ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong bụng không khỏi có chiều kính ngưỡng,

thành thử chưa dám ngang nhiên tiến lên khiêu chiến liền hỏi:

- Vị lão tiền bối kia xin hỏi cao tính đại danh là gì?

Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp:

- Ta họ Đinh.

Vừa lúc đó Hư Trúc bỗng kêu lên một tiếng nói:

- Sư thúc tổ lão nhân gia cũng đã đến rồi.

Phong Ba Ác quay đầu lại thấy trên đường cái bảy tám hòa thượng đi

tới, đi đầu là hai vị lão tăng, còn lại có hai người khiêng một chiếc cáng,

trên đó có người nằm. Hư Trúc vội vã đi ra khỏi lương đình, hành lễ với

hai nhà sư già rồi bẩm lại lai lịch của bốn người Đặng Bách Xuyên.

Nhà sư phía bên phải gật đầu, đi vào trong đình tiến đến chào bọn

Đặng Bách Xuyên rồi nói:

- Lão nạp là Huyền Nạn.

Ông chỉ về nhà sư già kia nói:

- Còn đây là sư đệ của lão nạp Huyền Thống may mắn được gặp bốn

vị đại hiền của Cô Tô Mộ Dung Trang.

Bọn Đặng Bách Xuyên từng nghe danh Huyền Nạn từ lâu, thấy ông

mặt dăn deo nhưng đôi mắt thần quang thăm thẳm, vội vàng trả lễ. Phong

Ba Ác nói:

- Đại sư phụ là thủ tọa Đạt Ma Viện của chùa Thiếu Lâm, nghe nói

thần công ghê gớm lắm, hôm nay xin được lãnh giáo.

Huyền Nạn mỉm cười đáp:

- Lão nạp và Huyền Thống sư đệ phụng pháp dụ của phương trượng

đến phủ Mộ Dung thí chủ tại Giang Nam cung trình thiếp mời, đây là lần

thứ ba chùa chúng tôi sai người đến Yến Tử Ổ. Thế nhưng may sao ngay

tại đây được cùng quí vị giải cấu tương phùng, duyên pháp quả là không

nhỏ.

Nói xong từ trong túi lấy ra một thiếp mời màu đỏ. Đặng Bách Xuyên

hai tay cầm lấy thấy trên bao thư có viết:

Cung trình Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ đất Cô Tô

Bằng chữ lớn, liệu chừng bên trong thiếp cũng giống như cái thiếp Hư

Trúc vừa đưa cho bèn nói:

- Hai vị đại sư phụ là cao tăng đại đức của chùa Thiếu Lâm, vọng

trọng trong võ lâm mà phải thân lao đại giá đến tệ trang, quả thực Mộ

Dung Cô Tô được nở mày nở mặt quá. Mới đây vị Hư Trúc tiểu sư phụ

cũng đã đưa cho một danh thiếp anh hùng, chúng tôi đã nhận rồi, nhất

định thể nào cũng bẩm lại bề trên. Đến giai tiết Trùng Dương mồng chín

tháng chín, tệ thượng là Mộ Dung công tử thể nào cũng lên chùa lễ Phật,

đích thân cảm tạ các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm rồi trước mặt anh hùng

thiên hạ, nói rõ các chuyện hiểu lầm.

Huyền Nạn nghĩ thầm: Ngươi bảo các chuyện hiểu lầm, hóa ra

Huyền Bi sư huynh không phải do nhà Mộ Dung Cô Tô các ngươi giết

chết hay sao?. Bỗng nghe ở sau có tiếng người kêu lên:

- A, sư phụ, chính y đó!

Huyền Nạn nghiêng đầu nhìn qua, thấy một người hình thù kỳ quái

chỉ vào chiếc cáng, ghé tai một ông lão tóc bạc thì thầm. Du Thản Chi nói

với Đinh Xuân Thu:

- Gã sư mập nằm trên cáng kia chính là người bắt được con băng

tàm, không biết vì sao lại bị phái Thiếu Lâm bắt.

Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư đó là nguyên chủ của con băng tàm,

vui sướng không đâu cho hết, hỏi nhỏ:

- Ngươi không nhìn lầm người chứ?

Du Thản Chi đáp:

- Không đâu, tên y là Tuệ Tịnh. Sư phụ thử xem, cái bụng tròn quay

của y phồng lên thế kia.

Đinh Xuân Thu thấy bụng Tuệ Tịnh còn to hơn đàn bà chửa sắp đẻ,

nghĩ thầm một hòa thượng mập như thế, dù ai gặp y một lần thì suốt đời

không quên, bèn quay sang nói với Huyền Nạn:

- Đại sư phụ, vị hòa thượng Tuệ Tịnh kia có quen với ta, y bị bệnh gì

chăng?

Huyền Nạn chắp tay đáp:

- Cao tính đại danh thí chủ là chi? Không biết nguyên do nào mà lại

biết sư điệt của lão nạp?

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: Gã Tuệ Tịnh kia lại đi cùng với các hòa

thượng Thiếu Lâm, quả thực là phiền. Cũng may gặp ngay trên đường đi,

chặn lại cướp lấy thật dễ hơn vào trong chùa Thiếu Lâm mà bắt, mà lại

dễ dàng hơn nhiều. Y nghĩ đến sự linh dị thần hiệu của con băng tàm,

ngực không khỏi nóng hôi hổi nói:

- Tại hạ là Đinh Xuân Thu.

Ba tiếng Đinh Xuân Thu vừa ra khỏi cửa miệng, Huyền Nạn,

Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong

Ba Ác sáu người không hẹn mà cùng kinh ngạc kêu lên một tiếng, mặt ai

nấy đều hơi biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu vang

dậy thiên hạ, ai ngờ lại gặp nơi đây trông khí độ ung dung, phong thái

tiêu sái đến thế. Sáu người ai nấy lập tức đều có ý phòng bị.

Thế nhưng chỉ trong một nháy mắt Huyền Nạn đã bình tĩnh lại ngay

nói:

- Thì ra là Đinh lão tiên sinh của Tinh Tú Hải. Đã ngưỡng mộ đại

danh từ lâu, quả thực như sấm rền bên tai.

Những câu khách sáo như may mắn thay được gặp ông không nhắc

đến, nghĩ thầm: Người nào gặp phải ngươi đúng là kiếp trước vụng tu.

Đinh Xuân Thu nói:

- Không dám, môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tọa Đạt Ma Viện chùa

Thiếu Lâm nổi danh thiên hạ, lão phu cũng từng ngưỡng mộ lâu rồi. Vị

Tuệ Tịnh sư phụ này, ta đang muốn đi tìm đây, bây giờ gặp được nơi đây

thật là hay quá, hay thật là hay.

Huyền Nạn hơi nhíu mày nói:

- Nói ra quả thật xấu hổ, gã sư điệt Tuệ Tịnh của lão nạp đây, chỉ vì

bổn tự thiếu giáo huấn nên phạm nhiều thanh quy giới luật, hơn một năm

trước trốn ra khỏi chùa, làm nhiều điều ác. Phương trượng sư huynh của

tệ tự sai người đi khắp nơi tìm kiếm, chẳng dễ gì kiếm được y, bắt đem về

chùa. Đinh lão tiên sinh đã từng gặp y rồi ư?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Thì ra không phải y bị bệnh mà là bị người ta đả thương, thương thế

có nặng lắm không?

Huyền Nạn không trả lời, một hồi sau mới nói:

- Y không tuân theo pháp dụ của phương trượng, ngược lại còn ra tay

đánh người nữa.

Ông nghĩ thầm: Y kết giao với những loại tà ma ngoại đạo như

ngươi, lại phá thêm một đại giới nữa. Đinh Xuân Thu nói:

- Tại hạ ở núi Côn Lôn, tốn biết bao nhiêu tâm huyết mới bắt được

một con băng tàm, là một loại cực kỳ hữu dụng, ngờ đâu lại bị gã Tuệ

Tịnh sư điệt của đại sư ăn cắp mất. Tại hạ vạn lý xa xôi từ biển Tinh Tú

tới Trung Nguyên, chẳng qua cũng chỉ để lấy lại con băng tàm...

Y nói chưa dứt lời, Tuệ Tịnh đã kêu lên:

- Con băng tàm ư? Này, có phải ngươi trông thấy con băng tàm? Con

tằm đó ta khổ sở mới kiếm thấy được trong núi Côn Lôn... ngươi... ngươi

ăn trộm của ta phải không?

Từ khi Du Thản Chi tiến ra thì thầm, Phong Ba Ác chăm chăm nhìn

cái lồng trên đầu y, mắt láo liên, những gì Huyền Nạn, Đinh Xuân Thu

và nhà sư Tuệ Tịnh đối đáp y hoàn toàn không nghe gì cả. Y đi vòng

quanh Du Thản Chi mấy bận, thấy cái mặt nạ đúc thật khít khao, cứ đeo

mãi trên đầu không bỏ xuống, toan đưa tay ra ra gõ thử, lại coi thêm một

lát mới hỏi:

- Này bồ, khỏe chứ?

Du Thản Chi ấp úng:

- Tôi... tôi khỏe.

Y thấy Phong Ba Ác lúc nào cũng lanh chanh, tay chân không yên,

trong bụng cũng khiếp. Phong Ba Ác lại hỏi:

- Cái mặt nạ của bồ làm sao đúc được vậy? Tôi đi khắp nơi nhưng

chưa bao giờ thấy cái mặt nạ nào như vầy.

Du Thản Chi cực kỳ ngượng ngập, cúi đầu xuống nói:

- Hèm, tôi... tôi bị người ta ép buộc, không... không làm sao được.

Phong Ba Ác nghe y nói thấy thật đáng thương, giận dữ hỏi dồn:

- Sao có người chơi trò gì ác ôn vậy? Họ Phong muốn biết là đứa

nào.

Nói xong y liếc mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cho rằng đây là công trình

của lão già này. Du Thản Chi vội kêu:

- Không... không phải sư phụ tôi đâu.

Phong Ba Ác lại nói:

- Ai đời con người ta đang yên lành, nay đem nhốt trong cái mặt nạ

bằng sắt là sao? Lại đây, để ta tháo ra cho ngươi.

Y vừa nói vừa rút trong ống giày ra một con dao găm sáng quắc, đủ

biết cực kỳ sắc bén toan gỡ cái lồng sắt ra. Du Thản Chi biết rằng chiếc

mặt nạ này đã dính liền vào mặt mũi và sau đầu y, nếu cố tháo đi thì có

thể chết được vội vàng nói:

- Không, không tháo được đâu.

Phong Ba Ác đáp:

- Nhà ngươi chớ có sợ, thanh chủy thủ của ta gọt sắt như bùn, để ta

cắt cái mặt nạ, quyết không tổn thương thịt da đâu.

Du Thản Chi kêu lên:

- Không, không được.

Phong Ba Ác nói:

- Ngươi sợ người đội cho ngươi cái mũ sắt này, phải không nào? Kỳ

tới gặp lại y cứ nói là ta đây Nhất Trận Phong Phong Ba Ác tháo cho

ngươi đó, ngươi bị ta ép buộc nếu muốn gì cứ bảo ác nhân đó đi kiếm ta

là xong.

Y nói rồi liền chộp cổ tay Du Thản Chi. Du Thản Chi thấy con dao

găm trong tay y hàn quang lấp loáng, sợ quá quay đầu lại nhìn Đinh Xuân

Thu cầu cứu, kêu lên:

- Sư phụ, sư phụ!

Đinh Xuân Thu đứng ở bên cạnh chiếc cáng, đang khoái trá nhìn Tuệ

Tịnh, tiếng kêu của Du Thản Chi không nghe thấy. Phong Ba Ác giơ

chiếc dao lên toan cắt xuống chiếc mặt nạ. Du Thản Chi quýnh quáng,

tay phải đẩy đối phương ra nghe bịch một tiếng trúng ngay vai trái Phong

Ba Ác.

Phong Ba Ác đang hết sức chú tâm vào việc cắt chiếc mũ sắt, sợ lỡ

tay cắt không chuẩn, chạm vào mặt y, có ngờ đâu bất thần bị đánh một

chưởng. Thế đánh của chưởng đó vốn dĩ cực kỳ tầm thường, Phong Ba Ác

chỉ hự lên một tiếng, ngã sấp mặt xuống. Tay trái y chống xuống đất, đẩy

một cái nhảy vọt lên, ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng ba người thấy Du

Thản Chi đột nhiên hạ độc thủ khiến người em kết nghĩa của mình bị hố

to, mặt trắng bệch, ba người không khỏi lo âu. Công Dã Can vội đưa tay

bắt mạch, thấy mạch dồn dập, xem chừng có dấu hiệu trúng độc liền chỉ

mặt Du Thản Chi mắng:

- Hảo tiểu tử, môn nhân Tinh Tú Lão Quái lấy oán báo đức, vừa ra

tay đã giở thủ đoạn tàn độc hại người.

Y vội lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp đổ ra một viên thuốc

giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác còn Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cùng lạng người xông ra chặn Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi. Bao

Bất Đồng ám vận nội kình vào tay trái, năm ngón tay thành trảo toan

chộp vào ngực gã đầu sắt. Đặng Bách Xuyên kêu lên:

- Tam đệ ngừng tay.

Bao Bất Đồng rụt tay lại không đánh ra, đưa mắt nhìn đại ca, Đặng

Bách Xuyên nói:

- Chúng ta nhà Mộ Dung và phái Tinh Tú không thù không oán, tứ

đệ chỉ vì long tốt muốn giúp y tháo cái mặt nạ ra, sao người của phái Tinh

Tú lại ra tay đả thương là sao? Việc này xin Đinh lão tiên sinh chỉ giáo.

Đinh Xuân Thu thấy gã học trò mới thu chỉ một chưởng đã đánh bại

một hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, đại hiển uy phong cho phái Tinh

Tú nên không khỏi đắc ý ngầm, càng thêm khát khao ham muốn con

băng tàm, mỉm cười nói:

- Vị Phong tứ gia kia hung hăng hiếu đấu, thích nhúng tay vào

chuyện đâu đâu. Người của phái Tinh Tú ta đội trên đầu mũ sắt hay mũ

đồng thì có liên quan gì đến nhà Mộ Dung Cô Tô nhỉ?

Lúc này Công Dã Can đã đỡ Phong Ba Ác ngồi lên, thấy y run lẩy

bẩy, răng đánh vào nhau kêu lách cách, chẳng khác gì rơi vào một hầm

băng, trong giây lát môi tím lại, sắc mặt từ trắng chuyển thành xanh. Giải

độc hoàn của Công Dã Can cực kỳ linh nghiệm nhưng Phong Ba Ác uống

rồi chỉ như hòn đá ném vào biển cả, không còn tung tích gì.

Công Dã Can nóng ruột, giơ tay thăm hơi thở y, đột nhiên một làn gió

thổi buốt thấu xương vào gan bàn tay. Công Dã Can vội vàng rụt tay về

kêu lên:

- Không xong, sao lại lạnh đến thế này?

Y nghĩ thầm hơi trong miệng thở ra đã lạnh đến thế, ắt hẳn hàn độc

trong người phải ghê gớm đến chừng nào. Trong tình thế nguy cấp làm

vậy, không kịp nói chuyện phải quấy, y đành quay sang nói với Đinh

Xuân Thu:

- Người em kết nghĩa của tôi trúng phải độc thủ của đệ tử tiên sinh,

làm ơn ban cho thuốc giải.

Độc tính Phong Ba Ác trúng phải là do nội công Dịch Cân Kinh của

Du Thản Chi dồn chất kịch độc của con băng tàm ra, chẳng nói Đinh

Xuân Thu không có thuốc giải, mà dẫu có giải dược y cũng đời nào chịu

cho? Y ngửng đầu cười ha hả, niệm lớn:

- A ô lục lỗ cộng! A ô lục lỗ cộng!

Tay áo bào phất một cái, một luồng gió xoáy tung ra. Các đệ tử phái

Tinh Tú lập tức cả bọn chạy ra khỏi lương đình, chạy bay chạy biến. Bọn

Đặng Bách Xuyên và tăng chúng Thiếu Lâm biết tay áo y có chứa độc

phấn, thấy cơn gió lốc này như chọc vào mắt, thật là khó chịu, nước mắt

nước mũi ràn rụa, mở mắt không nổi kêu thầm: Không xong rồi!.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng

xông tới chặn trước mặt Phong Ba Ác, sợ rằng đối phương thừa cơ hạ độc

thủ. Huyền Nạn nhắm mắt đánh ra một chưởng, trúng ngay cây cột của

tòa lương đình, lập tức gãy đôi, lắc rắc mấy tiếng một bên căn nhà mát

liền nghiêng xuống, ngói đất đổ xuống ào ào. Đến khi mọi người mở

được mắt ra, Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi đã chạy đâu mất.

Mấy nhà sư Thiếu Lâm kêu lên:

- Tuệ Tịnh đâu rồi? Tuệ Tịnh đâu rồi?

Thì ra nhân lúc hỗn loạn, Tuệ Tịnh đã bị Đinh Xuân Thu bắt đi mất

rồi, chiếc cáng chụp lên đầu một nhà sư. Huyền Thống giận dữ quát lớn:

- Đuổi theo!

Ông phi thân chạy ra khỏi lương đình, Đặng Bách Xuyên và Bao Bất

Đồng cũng vội theo, Huyền Nạn phất tay một cái cùng các đệ tử đi sau

tiếp viện. Công Dã Can ở lại nửa mái đình còn chưa sụp lo cho nghĩa đệ

nhưng mắt cũng đau buốt, nước mắt ràn rụa. Phong Ba Ác trán toát mồ

hôi, chỉ trong giây lát liền đóng thành sương. Công Dã Can còn đang

hoang mang bỗng nghe tiếng chân người, ngẩng lên thấy Đặng Bách

Xuyên bế Bao Bất Đồng đang rảo bước quay về. Y kinh hoảng không sao

kể xiết, kêu lên:

- Đại ca, tam đệ cũng bị thương nữa ư?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Lại trúng phải độc thủ của tên đầu sắt.

Kế đó Huyền Nạn cũng dẫn quần tăng trở lại lương đình. Huyền

Thống nằm phục trên lưng Huyền Từ, lạnh run cầm cập, hai hàm răng

kêu lách cách. Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can ai nấy

bần thần. Đặng Bách Xuyên nói:

- Gã đầu sắt cùng tam đệ đối một chưởng, sau đó y lại cùng Huyền

Thống đại sư đánh một chưởng nữa. Có ngờ đâu... có ngờ đâu hàn độc

chưởng của phái Tinh Tú lại ghê gớm đến thế.

Huyền Nạn lấy trong túi ra một cái hộp gỗ nhỏ nói:

- Lục Dương Chính Khí Đơn của tệ phái có chút công hiệu khắc chế

hàn độc.

Ông mở nắp lấy ra ba viên thuốc đỏ chon chót, đưa cho Đặng Bách

Xuyên hai viên, còn viên thứ ba giao cho Huyền Thống. Sau chừng một

bữa cơm, cơn lạnh của ba người thấy đỡ. Bao Bất Đồng ngoạc mồm ra

chửi:

- Gã đầu sắt kia, con... con mẹ nó chứ, chưởng lực đó là cái gì thế?

Đặng Bách Xuyên vội khuyên:

- Tam đệ, để sau này chửi cũng không muộn, ngươi nên ngồi xuống

hành công đi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Giờ này không chửi, đợi đến khi ô hô

ai tai rồi thì đâu còn chửi gì được nữa.

Đặng Bách Xuyên mỉm cười nói:

- Chớ có lo, không chết đâu mà sợ.

Nói xong đưa bàn tay đè vào huyệt Chí Dương ở sau lưng y, dùng nội

lực giúp y khu trừ hàn độc. Công Dã Can và Huyền Nạn cũng chia ra

giúp cho Phong Ba Ác và Huyền Thống hai người.

Huyền Nạn, Huyền Thống hai người nội lực thâm hậu, chỉ một lát,

Huyền Thống đã thở một hơi dài nói:

- Khỏe rồi!

Ông đứng lên nói tiếp:

- Lợi hại thật!

Huyền Nạn có bụng muốn giúp cho Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hai

người trừ hàn độc có điều bên kia chưa lên tiếng yêu cầu, mình tự ý đưa

ra không khỏi coi họ nội công không đủ, trong võ lâm chuyện đó là điều

cấm kỵ.

Đột nhiên Huyền Thống lảo đảo mấy cái, hai hàm răng gõ vào nhau

kêu lách cách, vội vàng ngồi xuống hành công, nói:

- Sư... sư huynh, cái thứ... cái thứ hàn độc này... thật là quái dị...

Huyền Nạn vội vàng vận công tương trợ. Ba người liên tục hành công

nhưng thân thể chỉ dễ chịu được một chút rồi lại phát tác, cho đến khi

chiều tối, mỗi người uống ba viên Lục Dương Chính Khí Đơn mà hàn khí

không thấy bớt chút nào. Huyền Nạn chỉ mang theo mười viên đan dược,

bây giờ còn một viên, đành chia làm ba, đưa cho mỗi người một phần.

Bao Bất Đồng nhất định không uống nói:

- E rằng có uống đến một trăm viên, cũng... cũng chẳng đến đâu...

Huyền Nạn bó tay không còn cách nào khác bèn nói:

- Lời của Bao thí chủ đúng lắm, loại thuốc Lục Dương Chính Khí

Đơn này trị không đúng bệnh mà nội công của chúng ta cũng không đối

phó nổi với môn âm độc này. Lão nạp nghĩ chỉ còn một cách là đi tìm

Tiết Thần Y nhờ chữa cho, không biết bốn vị nghĩ sao?

Đặng Bách Xuyên mừng rỡ nói:

- Đã từng nghe Tiết Thần Y được người đời gọi là Diêm Vương Địch,

dù bệnh nặng cỡ nào ông ta đều có thể chữa khỏi. Đại sư có biết vị thần y

này ở đâu không?

Huyền Nạn nói:

- Tiết Thần Y nhà ở Liễu Tông Trấn, phía tây thành Lạc Dương từ

đây đến đó cũng không xa lắm. Ông ta với lão nạp có duyên gặp gỡ mấy

lần, nếu đến xin chữa trị, có lẽ không chối từ đâu.

Ông lại tiếp:

- Nhà Mộ Dung Cô Tô danh mãn thiên hạ, Tiết Thần Y xưa nay vẫn

ngưỡng mộ, nay có cơ duyên làm bạn với bốn vị anh hùng, ông ta chắc

cũng vui vẻ lắm.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Tiết Thần Y thấy bọn ta đến cửa chắc

là không vui vẻ gì. Có điều trong võ lâm ai ai cũng ghét cái môn dĩ bỉ

chi đạo hoàn thi bỉ thân của công tử chúng tôi, riêng có Tiết Thần Y là

không sợ. Mai này ví thử y có... mệnh hệ gì, thì chỉ cần đến cầu công tử

gia chúng tôi dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân, thế là... thế là cái mạng

già... của y có cơ cứu được.

Mọi người ai nấy cười ha hả, lập tức đi ra khỏi đình. Đến thị trấn

trước mặt họ liền mướn ba cỗ xe cho ba người bị thương nằm dưỡng bệnh.

Đặng Bách Xuyên lấy tiền mua thêm mấy con ngựa cho những nhà sư

Thiếu Lâm cưỡi.

Đoàn người cứ đi chừng hai ba giờ thì lại ngừng để trợ giúp ba người

bị thương kháng ngự hàn độc. Đến sau Huyền Nạn không còn tị hiềm gì,

dùng Thiếu Lâm thần công tương trợ Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác. Nơi

đây tuy chỉ cách Liễu Tông Trấn vài trăm dặm đường nhưng đường núi

gập ghềnh, lại phải ngừng luôn, nên đến chiều ngày thứ tư mới đến nơi.

Tiết Thần Y ở trong núi sâu cách Liễu Tông Trấn ba mươi dặm về

phía bắc, cũng may hôm ở Tụ Hiền Trang ông ta đã chỉ vẽ cho Huyền

Nạn rõ ràng đường đi nước bước nên không mất công dò hỏi, đã đến

trước cửa nhà Tiết Thần Y.

Huyền Nạn trông thấy bên cạnh giòng sông nhỏ mấy gian nhà lớn,

tường trắng ngói đen, đằng trước là một vườn cây thuốc rộng, biết ngay là

nơi ở của Tiết Thần Y. Ông giục ngựa chạy đến gần, từ xa đã thấy trước

cửa nhà treo hai chiếc lồng đèn bằng giấy trắng, hơi kinh hãi: Nhà họ

Tiết có bệnh nhân nào trị không được hay sao?. Đi thêm vài trượng nữa,

thấy trên ngạch cửa có đóng mấy vuông vải gai, bên cạnh cửa có mấy cột

phướn chiêu hồn, quả đúng là trong nhà có người chết. Lại thấy trên đèn

lồng viết hai hàng chữ đen:

Tiết Công Mộ Hoa chi tang, hưởng niên ngũ thập ngũ tuế17

Huyền Nạn hoảng hốt: Tiết Thần Y không chữa nổi cho mình, nay

chết mất rồi, thật là bất hạnh làm sao. Nghĩ đến cố nhân nay đã qui tiên,

âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi thương cảm. Vừa lúc đó Đặng

Bách Xuyên và Công Dã Can cũng đã tới nơi, hai người cùng kêu lên:

- Chao ôi!

Bỗng nghe trong nhà có tiếng đàn bà khóc vang lên:

- Ông ơi là ông ơi! Ông y thuật như thần, có ngờ đâu bất ngờ bị bệnh,

bỏ chúng tôi mà đi. Ông ơi! Ông xưng là Diêm Vương Địch, vậy mà sau

cùng cũng không thắng nổi Diêm Vương, e rằng khi xuống cõi âm, Diêm

Vương thể nào cũng đòi nợ cũ, hành hạ khổ sở lắm ông ơi!

Chẳng bao lâu ba cỗ xe và sáu nhà sư Thiếu Lâm trước sau cũng đến.

Đặng Bách Xuyên nhảy xuống ngựa, lớn tiếng nói:

- Thiếu Lâm Tự Huyền Nạn đại sư cùng bè bạn, có việc đặc biệt đến

cầu Tiết Thần Y.

Tiếng của y vang vang như chuông, tiếng khóc trong nhà liền ngưng

bặt. Một lúc sau, một ông già đi ra, ăn mặc theo lối đầy tớ, trên mặt còn

hoen ngấn lệ, sụt sùi cực kỳ thương tâm, đấm ngực nói:

- Lão gia qua đời xế trưa hôm qua, các ông ... các ông không gặp

được nữa rồi.

Huyền Nạn chắp tay hỏi lại:

- Tiết tiên sinh mắc phải chứng bệnh gì mà qua đời?

Người lão bộc khóc nói:

- Cũng chẳng biết bệnh gì nữa, đột nhiên thở hắt ra rồi chết. Lão gia

xưa nay thân thể khang kiện, tuổi cũng chưa già, có ai ngờ nổi. Lão nhân

gia đi trị bệnh cho người ta, bệnh nào cũng khỏi, vậy mà ... vậy mà bệnh

chính mình ...

Huyền Nạn lại gặng thêm:

- Tiết tiên sinh trong nhà còn những ai?

Người đầy tớ già nói:

- Chẳng còn ai cả, không còn một người nào.

Công Dã Can và Đặng Bách Xuyên hai người đưa mắt nhìn nhau,

cùng ngầm thấy người lão bộc này nói mấy câu đó có phần không thành

thực, huống chi vừa mới rồi ai cũng nghe tiếng đàn bà khóc. Huyền Nạn

thở dài nói:

- Chết sống đều có mạng, nếu đã thế thì cho chúng tôi tới trước linh

vị người bạn cũ lạy một lạy.

Người lão bộc ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ... vâng vâng!

Y dẫn mọi người vào trong cửa chính. Công Dã Can đi sau một bước

ghé tai hỏi nhỏ Đặng Bách Xuyên:

- Đại ca, tiểu đệ xem chừng có điều gì không minh bạch, tên lão bộc

này dường như ra chiều ỡm ờ.

Đặng Bách Xuyên gật đầu, đi theo tên đầy tớ tới linh đường. Linh

đường trần thiết sơ sài, mọi thứ còn chưa đầy đủ, trên linh bài có viết:

Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị

Mấy chữ đó nét bút cứng cỏi, hiển nhiên là thủ thư của một tay túc

học, quyết không phải tên lão bộc này viết được. Công Dã Can xem

nhưng không nói gì. Mọi người hành lễ trước linh vị, Công Dã Can quay

đầu lại thấy nơi sân trong có đến mươi món quần áo phơi trên sào tre, áo

đàn bà cũng có, lại cả quần áo trẻ con nam nữ, nghĩ bụng: Tiết Thần Y

rõ ràng có thân quyến, sao lão bộc này lại bảo là chẳng còn ai?.

Huyền Nạn nói:

- Chúng tôi từ xa xôi đến đây để cầu Tiết Thần Y trị bệnh, có ngờ

đâu Tiết tiên sinh lại đã tiên du, khiến cho không khỏi đau lòng. Trời

cũng tối rồi, đêm nay cho ở lại quí phủ qua đêm.

Người lão bộc xem chừng khó xử nói:

- Cái đó ... cái đó ... thôi, cũng được! Mời chư vị ngồi nghỉ ngoài

sảnh đường, tiểu nhân đi lo cơm nước.

Huyền Nạn nói:

- Quản gia chẳng cần phải lo lắng nhiều, cơm với chút rau dưa là

được rồi.

Người lão bộc đáp:

- Vâng! Vâng! Mời quí vị ngồi nghỉ.

Y dẫn mọi người ra ngoài sảnh đường rồi quay vào trong. Một hồi

lâu, người gia nhân đó vẫn không thấy đem trà ra, Huyền Nạn nghĩ thầm:

Người lão bộc này chủ mới chết, hồn vía để đâu đâu. Ôi! Huyền Thống

sư đệ trúng phải hàn độc, không biết phải làm sao đây?. Mọi người đợi

đến hơn nửa giờ, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đầy tớ già đâu.

Bao Bất Đồng nóng ruột nói:

- Để ta đi kiếm chút nước uống!

Hư Trúc nói:

- Bao tiên sinh, xin ông ngồi nghỉ. Để tiểu tăng đi xuống giúp người

lão bộc nấu nước.

Y đứng lên đi vào nội đường. Công Dã Can cũng muốn quan sát động

tĩnh trong nhà họ Tiết bèn nói:

- Để ta đi với tiểu sư phụ.

Hai người đi ra phía sau nhà, phòng ốc nhà họ Tiết không phải là ít,

trước sau cả thảy năm dãy, nhưng bên trong bên ngoài không thấy một

bóng người. Hai người tìm được nhà bếp nhưng cũng không thấy người

lão bộc đâu.

Công Dã Can biết có chuyện khác thường, rảo bước quay trở về sảnh

nói:

- Nhà này xem chừng không ổn, Tiết Thần Y có thể chỉ giả chết thôi.

Huyền Nạn đứng lên lạ lùng hỏi:

- Sao thế?

Công Dã Can đáp:

- Đại sư, tại hạ nghĩ mình nên đến xem cỗ quan tài.

Y chạy vào linh đường, giơ tay toan nhắc chiếc hòm, đột nhiên chợt

nghĩ ra, rút tay về, lấy ở ngoài sân một chiếc áo dài đang phơi, lót vào

tay. Phong Ba Ác nói:

- Sợ trên quan tài có độc ư?

Công Dã Can đáp:

- Lòng người khó lường, không thể không đề phòng.

Y vận kình nhắc chiếc quan tài lên, thấy cực kỳ trầm trọng, bên trong

nhất định không phải chỉ là một xác người bèn nói:

- Tiết Thần Y quả nhiên giả chết.

Phong Ba Ác rút đơn đao nói:

- Bẩy nắp hòm ra xem sao.

Công Dã Can nói:

- Người này được gọi là thần y, hẳn cũng giỏi sử dụng thuốc độc, tứ

đệ phải cẩn thận.

Phong Ba Ác đáp:

- Tiểu đệ biết rồi.

Y luồn mũi đao vào khe quan tài ấn xuống, nghe tiếng ken két nắp

hòm từ từ bật lên. Phong Ba Ác nín thở, sợ trong quan tài có phấn độc bay

ra. Bao Bất Đồng nhảy ra sân chộp hai con gà mái đang tìm giun bắt dế ở

dưới gốc quế, đem vào linh đường, vung tay ném hai con gà qua ngang

quan tài. Hai con gà kêu quang quác, đáp xuống trước linh tòa, rồi chạy

ra ngoài thiên tỉnh nhưng chỉ được mấy bước, đột nhiên ngã chổng cẳng,

hai chân dãy mấy cái rồi nằm chết đứ đừ. Vừa lúc đó trong hiên nhà một

luồng gió lạnh thổi qua, những chiếc lông trên mình hai con gà lập tức

bay lên phơi phới. Mọi người thấy thế ai nấy kinh hãi, hai con gà vừa

trúng độc chết mà bao nhiêu lông đã rụng sạch, đủ biết độc tính mạnh là

dường nào khiến cho không ai còn dám đến gần chiếc quan tài nữa.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ thử xem thế này là cớ gì? Tiết Thần Y quả thực trá tử

hay sao?

Ông vừa nói vừa nhún mình nhảy lên, tay trái chộp lấy xà ngang, nhìn

vào trong quan tài, thấy bên trong đầy những đá tảng, giữa những cục đá

là một bát lớn đựng đầy nước. Nước ở trong bát hiển nhiên phải là thuốc

độc. Huyền Nạn lắc đầu, buông mình nhảy xuống nói:

- Tiết thí chủ nếu không muốn trị thương, việc gì phải bố trí cơ quan

độc địa như thế này để hãm hại chúng ta. Phái Thiếu Lâm với y không

thù không oán, làm như thế không vô lý quá hay sao? Không lẽ ... không

lẽ ...

Ông ta nhắc lại hai chữ không lẽ rồi lặng thinh, trong lòng nghĩ

thầm: Không lẽ ông ta có thù oán sâu xa với họ Cô Tô Mộ Dung

chăng?. Bao Bất Đồng nói:

- Đại sư chớ có nghĩ ngợi lăng nhăng, Mộ Dung công tử và Tiết Thần

Y xưa nay chưa biết nhau, cũng không thù oán. Nếu như hai bên có

chuyện gì, bọn chúng tôi dù có phải đau đớn gấp mười chăng nữa, cũng

không bao giờ lại hạ mình đi nhờ kẻ thù chữa trị cho đâu. Đại sư coi họ

Bao, họ Phong là người hèn hạ, vô tư cách chăng?

Huyền Nạn chắp tay nói:

- Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng quả đoán sằng đoán bậy.

Ông ta là bậc cao tăng hữu đạo, trong bụng đã nghĩ như thế tuy chưa

nói ra lời nhưng cũng nhận là mình quấy. Đặng Bách Xuyên nói:

- Nơi đây độc khí cực thịnh, không nên rốn lại lâu, mình ra tiền sảnh

ngồi nghỉ.

Tất cả mọi người ra đến bên ngoài, người bàn thế này kẻ nói thế

khác nhưng cũng không ai đoán được tại sao Tiết Thần Y giả chết rồi bố

trí cơ quan giăng bẫy. Bao Bất Đồng nói:

- Gã Tiết Thần Y quả thật đáng ghét, mình cho một mồi lửa đốt rụi

cái tổ quỉ của lão đi.

Đặng Bách Xuyên ngăn lại:

- Ấy chết, không được đâu, dẫu sao Tiết tiên sinh cũng là một bằng

hữu của phái Thiếu Lâm, chúng ta phải nể kim diện Huyền Nạn đại sư

chớ có hồ đồ.

Lúc đó trời đã tối hoẳn, trong sảnh lại không đèn đóm gì, ai nấy vừa

đói vừa khát nhưng chẳng ai dám đụng chạm đến một ngụm nước, một ly

trà trong nhà. Huyền Nạn nói:

- Hay là chúng mình đi ra, tìm một nhà nông nào ở quanh đây xin

ngụm nước bữa cơm, Đặng thí chủ nghĩ thế nào?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Đúng đó. Thế nhưng chung quanh ba chục dặm tốt hơn hết không

nên ăn uống gì. Thầy lang họ Tiết này mưu kế lắm, quyết chẳng phải chỉ

sắp xếp một cỗ quan tài là xong đâu, nếu như các vị đại sư có chuyện gì,

anh em chúng tôi thật là ân hận.

Y và Công Dã Can tuy chưa biết rõ nguyên ủy ra sao nhưng cũng cho

rằng cái tiếng dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân của nhà Mộ Dung quá vang

dội, trên giang hồ kết biết bao nỗi oan cừu, có lẽ Tiết Thần Y có thân

bằng quyến thuộc bị hại, mối hận này đổ cả lên đầu nhà Cô Tô Mộ

Dung.

Mọi người đứng lên, đi ra cửa chính, đột nhiên trên bầu trời phía tây

bắc có ánh sáng lóe lên, kế đó một đốm lửa đỏ nổ tung ra, lập tức

chuyển sang màu lục thật chẳng khác gì mưa hoa đầy trời, lả tả rơi xuống

cực kỳ diễm ảo. Phong Ba Ác nói:

- Ồ, ai đốt pháo bông kìa!

Lúc đó không phải tiết Nguyên Tiêu, cũng chẳng phải Trung Thu, sao

lại có người đốt pháo bông18 nhỉ? Chẳng mấy chốc, lại có một chiếc pháo

bông màu vàng bay vút lên không, nở ra muôn vạn đóa sao băng, đụng

chạm lẫn nhau.

Công Dã Can chợt nghĩ ra, nói:

- Đây không phải pháo bông đâu, mà là tín hiệu của kẻ địch kéo đến

tấn công đó.

Phong Ba Ác kêu lên:

- Thế thì hay lắm! Đánh một trận cho sướng tay.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tam đệ, tứ đệ, các ngươi vào trong sảnh canh chừng, ta chặn phía

trước mặt, nhị đệ đoạn hậu. Huyền Nạn đại sư, việc này không liên quan

gì đến phái Thiếu Lâm, xin quí vị cứ dựa lưng vào tường đứng coi, miễn

là đừng giúp bên nào, nhà Mộ Dung thâm cảm đại đức.

Huyền Nạn nói:

- Đặng thí chủ sao lại nói thế? Nếu kẻ địch đến tấn công có thù oán

với chư vị thì phải trái ngay gian, chúng tôi sẽ theo công tâm mà xử,

không để cho họ thừa gió bẻ măng, cậy đông đánh ít. Nếu đúng là cùng

bọn với Tiết Thần Y, lén lút bố trí hầm bẫy để làm hại người thì các vị

với chúng tôi cũng cùng chung cừu địch, lẽ nào lại tụ thủ bàng quan? Này

các tì khưu19, chuẩn bị nghinh địch.

Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc cùng lớn tiếng đáp lời. Huyền Thống nói:

- Đặng thí chủ, lão nạp với hai vị sư đệ của thí chủ đồng bệnh tương

lân20 lẽ dĩ nhiên phải cùng nắm tay nhau mà kháng địch.

Còn đang nói chuyện, lại có thêm hai chiếc pháo bông nữa bắn thẳng

lên trời, lần này xem chừng gần hơn. Một hồi nữa, lại có thêm hai cái

pháo bông khác, trước sau như thế là sáu cái rồi. Mỗi chiếc pháo bông

màu sắc hình dáng không giống nhau, có cái giống như một cái bút thật

lớn, có cái thì vuông vức bốn bề, tông như một bàn cờ, cái thì lại giống

hình một chiếc đại phủ, có cái lại giống như một bông hoa mẫu đơn to.

Sau đó bầu trời lại tối đen như mực.

Huyền Nạn ra lệnh cho sáu đệ tử Thiếu Lâm canh chừng bốn phía

nhưng một hồi lâu vẫn không nghe động tĩnh gì. Ai nấy ngưng thần nín

thở, lại sau chừng một bữa ăn nữa, bỗng nghe phía đông có tiếng đàn bà

hát lên rằng:

Lông mày luống tỉa đã bao nhiêu,

Phấn nhạt hoen màu lệ nhỏ tiêu.

Đong đưa biếng chải thêm hờ hững,

Ngọc lấp sao đầy nỗi tịch liêu? 21

Giọng ca dịu dàng uyển chuyển đầy vẻ u oán thê lương. Giọng người

đó vừa hát xong một khúc, lập tức chuyển qua giọng nam rằng:

- Chao ôi ái khanh đấy ư? Quả nhân đã lâu lắm không được gặp

nàng, trong lòng thương nhớ xiết bao. Đây ta ban cho nàng một đấu trân

châu, khanh gia mau nhận lấy.

Người đó nói xong, lại chuyển qua giọng nữ:

- Bệ hạ đã có Dương phi bầu bạn, đến buổi chầu sớm cũng chẳng ra,

còn hơi đâu mà nhớ đến thần thiếp con người bạc mệnh này, than ôi ....

Nói tới đây liền cất tiếng khóc thút thít. Các nhà sư Thiếu Lâm không

biết việc đời, không hiểu sao người này lúc thì là nam, lúc lại là nữ, làm

trò quỉ quái gì đây, chỉ thấy nghe rồi trong lòng cực kỳ buồn bã. Bọn

Đặng Bách Xuyên thì biết người này đang diễn tích Đường Minh Hoàng22

và Mai Phi, khi thì đóng vai Mai Phi lúc lại đóng vai Đường Minh Hoàng,

giọng điệu thanh âm giống hệt, sao lại có người khéo đến thế, ai nấy

trong lòng rộn ràng, không hiểu có dụng ý gì.

Lại nghe người đó tiếp tục:

- Ái phi chớ nên khóc lóc, mau mau dọn yến tiệc ra. Nàng thổi tiêu,

quả nhân sẽ ca một khúc để giải sầu cho ái khanh.

Người kia lại chuyển qua giọng đàn bà nói:

- Tiện thiếp ngày ngày chảy nước mắt ra rửa mặt, chỉ mong được gặp

lại đấng quân vương một lần thôi. Hôm nay được toại nguyện rồi, dẫu có

chết cũng đành nhắm mắt ... hu hu ...hu hu ...

Bao Bất Đồng lớn tiếng nhại lại:

- Cô vương là An Lộc Sơn đây. Này vua nhà Đường Lý Long Cơ ơi,

ngươi là một gã hồ đồ, mau giao Dương Ngọc Hoàn ra cho ta.

Người bên ngoài kêu A lên một tiếng dường như kinh hãi đang

khóc lập tức im bặt. Chỉ trong giây lát, chung quanh bốn bề lặng như tờ.

Kim Dung

Thiên Long bát bộ (bản mới)

Dịch giả: Nguyễn Duy Chính

Hồi 30(a)

HUY SÁI PHỌC HÀO ANH

Bề ngoài phiêu dật tiêu dao,

Ra tay một mẻ ai nào thoát đâu.

Gặp khi tụ hội anh hào,

Tâm cơ bố trí cũng sao cho vừa.

*

* *

Một hồi sau, mọi người bỗng ngửi thấy một mùi hương thơm thoang

thoảng, Huyền Nạn kêu lên:

- Địch nhân phóng độc, mau nín thở, ngửi thuốc giải ngay.

Thế nhưng một hồi lâu không thấy có gì khác thường, ngược lại đầu

óc tỉnh táo, dường như mùi hoa thơm không có chất độc gì cả. Người ở

bên ngoài nói:

- Thất tỉ đến đấy ư? Trong nhà ngũ ca có một quái nhân, dám tự

xưng là An Lộc Sơn.

Có tiếng đàn bà đáp:

- Chỉ riêng đại ca là chưa đến. Nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ,

tất cả cùng ra mặt đi thôi.

Bà ta vừa dứt lời bên ngoài cửa đột nhiên sáng lòa, ánh sáng kỳ dị

chiếu vào năm người đàn ông, một người đàn bà. Một ông già râu đen

lớn tiếng nói:

- Lão ngũ, sao chưa chịu ra?

Trong tay ông ta cầm một phiến gỗ hình vuông, người đàn bà là một

mỹ phụ trung niên, trong bốn người còn lại hai người ăn mặc theo lối

nho sinh, một người trông như thợ mộc, tay cầm búa ngắn, vai đeo cưa.

Còn một người mặt xanh nanh vàng, tóc đỏ râu xanh, hình dáng thật là

dữ dằn dễ sợ như yêu quái, trên người mặc cẩm bào sáng lấp lánh.

Đặng Bách Xuyên chăm chú nhìn, biết ngay là mặt người đó vẽ

bằng màu chứ không phải có dị tướng, y ăn mặc chẳng khác gì một

phường tuồng trên sân khấu, người vừa mới đóng cả hai vai Đường

Minh Hoàng lẫn Mai Phi hẳn phải là y bèn lớn tiếng nói:

- Xin hỏi tôn tính đại danh của chư vị, tại hạ là Đặng Bách Xuyên,

môn hạ nhà Cô Tô Mộ Dung.

Bên kia còn chưa kịp trả lời, từ trong đại sảnh một bóng đen đã lao

ra, ánh đao lấp loáng, nhắm ngay người kép hát chém liên tiếp bảy

nhát liền, chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Người kép hát kia

không kịp đề phòng, né đông tránh tây, tình thế cực kỳ luống cuống.

Bỗng nghe y hát rằng:

Khí cao ngất trời chừ ... sức bạt núi

Thời thôi chẳng còn chừ ... ngựa chồn chân

Ngựa chồn chân chừ ... đành ...Thế nhưng thế công của Phong Ba Ác thật gấp gáp, câu thứ ba y hát

chưa hết thì không còn tiếp được nữa. Người râu đen liền mắng:

- Hán tử kia quả thực vô lý, vừa xông lên đã chém ngang chém

dọc, hãy nếm một chiêu Đại Thiết Võngcủa ta nào!

Chiếc bản vuông trong tay y liền vung ra, nhắm ngay đầu Phong Ba

Ác đập xuống. Phong Ba Ác trong bụng nhủ thầm: “Ta xưa nay đánh

nhau hàng mấy trăm trận lớn nhỏ nhưng chưa thấy ai dùng một phiến

gỗ vuông làm khí giới bao giờ”. Đơn đao y liền vung lên chém xuống

bản gỗ. Nghe keng một tiếng, lưỡi đao đụng phải cạnh phiến gỗ, nhưng

phiến gỗ không hề suy suyển, thì ra phiến vuông đó trông tưởng bằng

gỗ nhưng lại bằng thép, bên ngoài sơn giả như thớ gỗ mà thôi.

Phong Ba Ác lập tức thu đao, đang định chuyển thế chém tiếp ngờ

đâu cánh tay giựt lại nhưng đơn đao không kéo về được, lưỡi đao đã bị

thiết bản hút dính cứng. Phong Ba Ác hoảng hồn, vận kình giựt lại, lúc

ấy mới tách được đơn đao khỏi bản thép, quát lên:

- Thật là tà môn! Cái bửng sắt của ngươi làm bằng từ thiết phải

không?

Người kia cười đáp:

- Xin lỗi! Đây là món kiếm cơm của lão phu mà.

Phong Ba Ác trong một thoáng đã nhìn thấy trên phiến sắt đường

dọc, đường ngang rất nhiều vạch thẳng, hóa ra đó là một bàn cờ vâybèn nói:

- Lạ lùng thật! Để ta đấu với ngươi.

Y tiến đao như gió, càng đánh càng nhanh, có điều lưỡi đao không

dám để chạm vào bàn cờ bằng nam châm kia. Người kép hát thở hắt ra

một hơi, cất giọng ồm ồm hát:

Ngựa chồn chân chừ ... đành chịu vậy

Ngu Cơ nàng ơi chừ ... biết cho chăng?Đột nhiên y chuyển sang giọng đàn bà, õng ẹo ỏn thót:

Đại vương ơi! Chớ có ưu phiền,

Trận Cai Hạ hôm nay bất lợi.

Tiện thiếp sẽ một lòng một dạ,

Cùng chàng giục ngựa phá trùng vi.

Bao Bất Đồng quát lên:

Sớm biết phận hãy mau mau tự sát.

Mụ Ngu Cơ vợ Sở Bá Vương ơi,

Đừng để mỗ phải ra tay tru diệt,

Hàn Tín này có giết cũng hoài hơi.

Y tung mình nhảy ra vươn tay chộp vào vai gã kép hát. Người đóng

trò hạ vai xuống tránh qua hát tiếp:

Gió bão bùng chừ ... mây vần vũ

Không lẽ ...

- Ối chao, ta là Hán Cao Tổ giết Hàn Tín đây.

Y đưa tay mò vào thắt lưng lấy ra một cây nhuyễn tiên, soạt một

tiếng đã nhắm vào Bao Bất Đồng đánh tới. Huyền Nạn thấy mấy người

này đánh nhau tưởng như trò trẻ nhưng hai bên võ công đều cao cường,

mình chẳng biết lai lịch đối phương là ai, ông hơi nhíu mày, quát lên:

- Chư vị tạm ngừng tay, trước hết hỏi cho minh bạch đã.

Thế nhưng muốn Phong Ba Ác ngừng đấu thì quả là khó khăn vô

cùng, y biết rằng bị trùng phải hàn độc rồi, thể lực kém xa bình thường,

nhưng hàn độc tùy thời mà phát, cực kỳ nguy hiểm, thành thử thanh

đơn đao của y múa như gió táp mưa sa, mong thắng đối phương càng

sớm càng tốt.

Trong tiếng người hò hét giao đấu, đại sảnh lại xuất hiện thêm một

người, loảng xoảng loảng xoảng, hai thanh giới đao chạm nhau cực kỳ

uy phong, chính là Huyền Thống. Ông quát lớn:

- Bọn chúng bay là đám gian đồ bày độc kế hại người, hôm nay

lão tăng đại khai sát giới.

Ông suốt mấy hôm nay bị hàn độc hành hạ, tức tối không có chỗ

phát tiết, lúc này chẳng cần hỏi han gì nữa, song đao vung tới chém hai

người ăn mặc theo lối nho sinh kia. Một người né qua tránh được, còn

người kia thò tay vào túi, lấy ra một món binh khí hình phán quan bút,

thi triển tiểu xảo công phu đấu với Huyền Thống.

Người nho sinh kia lắc đầu chép miệng:

- Lạ thật! Người xuất gia sao nóng tính đến thế, không biết thế thì

tu ở chỗ nào?

Y cũng thò tay vào túi mò mò, thảng thốt kêu lên:

- Ủa, đâu mất rồi?

Y hết thò tay vào túi bên phải, lại mò vào túi bên trái, rũ rũ tay áo,

vỗ vỗ trên ngực, nhưng không cách nào tìm ra. Hư Trúc nổi tính hiếu

kỳ, hỏi:

- Thí chủ kiếm gì đó?

Nho sinh kia đáp:

- Vị đại hòa thượng này võ công cao cường quá, người anh em ta

đánh không lại nên ta muốn lấy binh khí ra để lấy hai đánh một, ủa, lạ

nhỉ, binh khí của ta đâu mất rồi?

Y gõ gõ trên trán, cố gắng nhớ lại, Hư Trúc nhịn không nổi cười bật

lên một tiếng nghĩ thầm: “Ra trận muốn đánh nhau mà lại quên không

biết để binh khí chỗ nào quả là thú vị”. Y bèn hỏi:

- Thí chủ dùng binh khí gì thế?

Nho sinh đáp:

- Người quân tử tiên lễ hậu binh, binh khí thứ nhất của ta là một

bộ sách.

Hư Trúc hỏi:

- Sách gì thế? Võ công bí quyết chăng?

Nho sinh đáp:

- Không phải, không phải. Đó là bộ Luận Ngữ . Ta muốn đem lời

của thánh nhân ra cảm hóa đối phương.

Bao Bất Đồng liền chen vào:

- Ngươi là học trò, đến Luận Ngữ cũng không thuộc, thì còn học

với hành gì?

Nho sinh đáp:

- Lão huynh mới chỉ biết một mà không biết hai. Nói đến Luận

Ngữ, Mạnh Tử, Xuân Thu, Thi Kinh thì ta thuộc như cháo chảy, có điều

đối phương là đệ tử Phật môn, đọc kinh thì nhiều nhưng sách vở nhà

nho chắc gì đã đọc, ta có nói ra, nếu như y không biết thì cũng vô ích

thôi! Thành thử ta muốn đem sách giở cho y xem, y mới không cãi

chầy cãi cối được, thế mới hiệu quả. Người đời thường bảo, nói phải có

sách, mách phải có chứng.

Y vừa nói vừa mầy mò khắp người để kiếm cuốn sách. Bao Bất

Đồng kêu lên:

- Tiểu sư phụ, mau đánh y đi.

Hư Trúc nói:

- Để vị thí chủ kia tìm ra binh khí đã, lúc đó mình động thủ cũng

chưa muộn.

Người nho sinh nói:

- Hai nước Tống Sở đánh nhau ở chỗ nước sâu, quân Sở qua sông

chưa xong, hàng ngũ chưa tề chỉnh, chính là lúc nên đánh nhưng Tống

Tương Công nói: “Đánh lúc này không phải là người quân tử”. Tiểu sư

phụ có bụng dạ như thế, quả là đã học được tấm lòng nhân của Tống

Tương Công.

Người trông như thợ mộc thấy song đao của Huyền Thống múa tít

lên, chém trên lia dưới, chiêu số cực kỳ độc địa, sách giải thêm mấy

chiêu nữa e rằng thư sinh cầm phán quan bút có thể mất mạng được,

bèn múa búa xông lên trợ chiến. Công Dã Can lập tức nhắm vào y

đánh vù ra một chưởng. Công Dã Can trông vẻ người nho nhã nhưng

chưởng lực thật hùng hồn, đã được gọi là “Giang Nam đệ nhị”, hôm

trước cùng Tiêu Phong tỉ thí uống rượu và chưởng lực, tuy thua đấy

nhưng Tiêu Phong vẫn phải kính trọng y, đủ biết nội lực và tài nghệ

không phải bình thường. Gã thợ nghiêng qua tránh được, vung búa

chém trả lại.

Người nho sinh tuy không tìm thấy quyển Luận Ngữ nhưng thấy

đồng bạn cầm phán quan bút chiêu pháp bắt đầu hỗn loạn, xem ra

chống không nổi song đao của Huyền Thống đại sư, bèn nói với Huyền

Thống:

- Này! Đại hòa thượng, đức Khổng Tử có nói rằng: Quân tử vô

chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị. Ông

chăm chăm định giết tứ đệ của ta, thế đâu còn là nhân nữa. Nhan Uyên

hỏi điều nhân, đức Khổng Tử trả lời: Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất

nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ qui nhân yên. Phu tử lại nói rằng: Phi

lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động. Ông múa

đao loạn cả lên, hung hăng chỉ chăm chăm định giết người, hành động

như thế sao gọi là “khắc kỷ” được? Như thế thật là “phi lễ”.

Hư Trúc quay sang hỏi nhỏ nhà sư Tuệ Phương đứng bên cạnh:

- Sư thúc thử nghĩ người này ngớ ngẩn giả hay thật?

Tuệ Phương lắc đầu:

- Ta cũng không biết. Lần này ra khỏi chùa, sư phụ có dặn ai nấy

phải cẩn thận, trên giang hồ người người gian trá, trò quái quỉ gì cũng

có thể làm được cả.

Gã đồ gàn kia lại nói với Huyền Thống:

- Đại hòa thượng, Tử viết: Nhân giả tất hữu dũng, dũng giả tất hữu

nhân. Ông dũng cảm thì có đấy nhưng chắc gì đã có lòng nhân, không

phải là người quân tử chân chính. Đức Khổng tử có nói rằng: Kỷ sở bất

dục, vật thi ư nhân. Nếu người ta giết ông ông có chịu không? Nếu

bản thân ông không muốn chết, sao lại muốn giết người khác?

Huyền Thống xông tới nhảy lui, múa đao vùn vụt, thế nhưng gã đồ

gàn đó tránh đông né tây, khi trái khi phải, khi nào cũng cách ông

chừng ba thước, mồm thì khuyên nhủ đủ biết võ công không phải tầm

thường. Huyền Thống ngầm cảnh giác: “Gã này lải nhải lăng nhăng,

hẳn là để cho ta phân tâm chờ sơ hở là xông ngay vào. Người này võ

công còn cao hơn tên cầm phán quan bút, không thể không phòng bị”.

Ông nghĩ như thế nên tinh thần sáu phần đề phòng gã đồ gàn, chỉ dành

bốn phần tấn công thư sinh cầm phán quan bút mà thôi. Chính vì thế

mà tình trạng thư sinh đỡ hẳn đi.

Lại trao đổi thêm hơn chục chiêu nữa, Huyền Thống bắt đầu nóng

ruột, quát lên:

- Tránh ra!

Ông xoay giới đao lại, dùng cán đao tống vào ngực gã đồ gàn. Ông

nhà nho kia vội tránh ra nói:

- Ta xem đại sư võ công cao cường, ta và tứ đệ hai người đánh

một, cũng chưa chắc thắng nổi ông, nên mới đem lời hay ra khuyên

nhủ, cốt để hai bên bãi đấu. Đức thánh Khổng nói rằng: Sâm hồ! Ngô

đạo nhất dĩ quán chi . Tăng Tử trả lời: Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ

hĩ.. Phàm làm người như chúng ta, cái đạo “ thứ ” kia phải nên giữ

cho kỹ, chớ nên quá ư là ngang ngược.Huyền Thống giận quá, nghe vút một tiếng, vung đao chém ngang,

miệng chửi:

- Trung thứ chi đạo cái gì? Nhân nghĩa đạo đức ở đâu? Thế sao

các ngươi lại bỏ thuốc độc vào trong quan tài để hại người? Lão nạp

nếu sơ ý thì giờ đây đã viên tịch tây qui, còn nghe nhà ngươi nói “kỷ sở

bất dục, vật thi ư nhân” nữa chăng? Thế ngươi có muốn trúng độc mà

chết không cơ chứ?

Gã đồ gàn lùi lại hai bước, ngạc nhiên hỏi:

- Lạ thật! Lạ thật! Ai mà lại bỏ thuốc độc vào quan tài? Ở trong

quan tài ắt phải là những món đồ chôn theo người chết. Đức Khổng tử

có nói rằng: Lý dã tử, hữu quan nhi vô quách.Trong quan tài bỏ

thuốc độc có phải giết chết cả cái tử thi hay sao? Ối chà, không phải,

tử thi vốn chết sẵn rồi còn đâu!

Bao Bất Đồng chen vào:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Trong quan tài các ngươi đâu có để

xác chết mà để thuốc độc, cốt là để giết người sống chúng ta đấy chứ!

Người nho sinh gàn dở kia lắc đầu quầy quậy nói:

- Các hạ đem lòng dạ tiểu nhân đo lường bụng người quân tử. Ở

đây đâu có quan tài, cũng chẳng có độc dược.

Bao Bất Đồng đáp:

- Đức Khổng tử nói rằng: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng

dã. Ngươi chính là tiểu nhân.

Y vừa nói vừa chỉ người mỹ phụ trung niên:

- Còn mụ ta là đàn bà, hai người chúng bay quả thực là khó dạy

quá. Lời đức thánh Khổng, không lẽ còn sai hay sao?

Gã đồ gàn sững sờ nói:

- Vương cố tả hữu nhi ngôn tha, lời của nhà ngươi ta không thèm

để ý, cũng chẳng trả lời làm gì.

Nhân lúc Bao Bất Đồng nói chuyện với anh đồ gàn, Huyền Thống

được thể không còn gì nghi ngại, song đao càng đánh ép tới khiến cho

thư sinh cầm phán quan bút phải luống cuống. Gã đồ gàn lạng người

tiến đến bên cạnh Huyền Thống nói:

- Tử viết: Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như

nhạc hà?Đại hòa thượng ơi, người mà bất nhân thì thật kém cỏi quá

lắm.

Huyền Thống bực tức đáp:

- Ta là đệ tử Thích gia, bọn hủ nho các ngươi nói gì thi thư lễ nhạc,

người mà bất nhân, không làm động đến tâm ta được đâu.

Gã nho sinh giơ ngón tay lên gõ gõ vào trán nói:

- Đúng lắm! Đúng lắm! Ta quả là nói toàn những chuyện sách vở

của đám nhà nho, quả đúng là anh đồ gàn. Đại hòa thượng rõ ràng là

đệ tử cửa Phật, ta nói chuyện nhân nghĩa đạo đức Khổng Mạnh, thì

đúng là không đâu với đâu.

Phong Ba Ác đấu với người sử dụng bàn cờ làm khí giới đã lâu

nhưng khó mà thắng được, thời gian càng dài trong bụng thấy ngâm

ngẩm hàn độc bắt đầu tấn công. Bao Bất Đồng đấu với gã kép hát,

thấy đối phương võ công không thật là cao nhưng chiêu số biến hóa lại

cực kỳ phức tạp, khi thì đóng vai Tây Thi, nói năng yểu điệu ỏn ẻn,

chau mày ôm bụng, bước chân uyển chuyển như cánh sen, rõ ra là

phong tư của một tuyệt đại giai nhân, thế nhưng trong nháy mắt lại

đóng vai kẻ thơ túi rượu bầu Lý Thái Bạch, chân nam đá chân xiêu,

say sưa loạng choạng. Cái khéo là y đóng vai trò nào đều có võ công

phối hợp theo, nhuyễn tiên trong tay lúc thì biến thành tay áo của

người đẹp, lúc lại biến thành bút hoa của văn sĩ, khiến cho Bao Bất

Đồng cười không xong, khóc cũng dở, nhất thời không biết phải thế

nào.

Gã đồ gàn tự trách mình một hồi, đột nhiên cất tiếng ngâm lớn:

Ký dĩ xá nhiễm lạc, tâm đắc thiện nhiếp bất?

Nhược đắc bất trì tán, thâm nhập thực tướng bất?Huyền Nạn và Huyền Thống hai người cùng kinh ngạc: “Gã đồ gàn

này quả thực uyên bác, ngay cả mấy câu kệ của cao tăng đời Đông

Tấn Cưu Ma La Thậpy cũng thuộc”. Lại nghe y ngâm tiếp:

Tất cánh không tướng trung, kỳ tâm vô sở lạc.

Nhược duyệt thiền trí huệ, thị pháp tính vô chiếu.

Hư cuống đẳng vô thực, diệc phi đình tâm xứ.- Này đại hòa thượng, hai câu sau là gì thế nhỉ? Ta quên khuấy

mất rồi.

Huyền Thống đáp:

Nhân giả sở đắc pháp, hạnh nguyện thị kỳ yếu.Gã đồ gàn lúc ấy mới cười ha hả nói:

- Đúng quá! Đúng quá! Này đại sư nhà Phật ơi, đấy chẳng nhắc

đến “người nhân” đấy sao? Mọi đạo lý trong thiên hạ, cũng cùng một

dạng. Ta khuyên ông cũng chỉ là quay đầu lại thấy bờ, bỏ dao đồ tể

xuống mà thôi.

Huyền Thống trong lòng thảng thốt, đột nhiên đại triệt đại ngộ, nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà

Phật!

Chỉ thấy loảng xoảng mấy tiếng, hai thanh giới đao đã vứt xuống,

ông ngồi xếp bằng trên mặt nở một nụ cười, đôi mắt khép lại không

nói một lời. Thư sinh kia đang cùng ông ta đấu đến hồi ác liệt, chợt

thấy ông ta làm thế, cũng lại giật mình, tay lăm lăm cầm phán quan bút

nhưng không tấn công nữa. Hư Trúc kêu lên:

- Sư thúc tổ, hàn độc lại phát tác hay sao?

Y đưa tay định đỡ ông ta dậy, Huyền Nạn liền quát lên:

- Không được chạm vào.

Ông đưa tay thăm hơi thở Huyền Thống, thấy hô hấp đã ngừng rồi,

thì ra đã viên tịch. Huyền Nạn chắp hai tay, niệm Vãng Sinh Chú. Các

nhà sư Thiếu Lâm thấy Huyền Thống đã chết rồi, ai nấy khóc ầm lên,

lấy thiền trượng giới đao, toan cùng hai ông nhà nho kia thí mạng.

Huyền Nạn liền nói:

- Ngừng tay! Huyền Thống sư đệ tham ngộ chân như, vãng sinh

cực lạc, như thế là tròn chính quả rồi, các ngươi phải vui mới phải.

Những người đang kịch đấu đột nhiên thấy biến cố đó, ai nấy ngừng

tay nhảy ra ngoài. Gã đồ gàn kêu lên:

- Lão ngũ, Tiết ngũ đệ, mau mau ra đây, có người bị ta khích một

câu mà lăn ra chết đây này. Ngươi Tiết Thần Y cái con mẹ gì mà

không ra cứu người cho mau thì thật chẳng còn ra gì nữa.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiết Thần Y không có trong nhà, vị tiên sinh đây ...

Gã đồ gàn bèn mở toang cửa, ngó dáo dác kêu lên:

- Tiết Mộ Hoa, Tiết lão ngũ, Diêm Vương Địch, Tiết Thần Y, có

mau ra cứu người không nào? Tam ca của ngươi chọc tức người ta đến

chết, người ta không để yên cho bọn ta đâu.

Bao Bất Đồng bực tức nói:

- Ngươi làm cho người ta chết còn giả tảng giở trò gì nữa đây?

Vù một chưởng, y vung tay đánh tới, chưởng trái lại tiếp theo lòn

bên dưới tay phải, sử chiêu Lão Long Thám Châu, chưởng biến thành

trảo nắm râu gã kia. Gã đồ gàn nghiêng qua tránh được, Phong Ba Ác,

Công Dã Can lại nổi hứng lên, chưa chịu ngừng tay lại xông ra đánh

tiếp. Đặng Bách Xuyên quát lớn:

- Ngã này!

Tay trái vươn ra, chộp ngay vào sau lưng người kép hát. Đặng Bách

Xuyên là người đứng đầu trong các thủ hạ của Mộ Dung Cô Tô ở Yến

Tử Ổ, võ công cao cường, nội lực hùng hậu, trên giang hồ tuy danh

tiếng không vang dội nhưng những ai biết đến ông ta đều kính trọng.

Ông ta giơ tay nắm lấy người đóng trò, thuận tay ném xuống. Người

kép hát đó thật là nhanh nhẹn, vai trái vừa chạm đất, lập tức xoay đi

nửa vòng, chân phải quét ngang, đá vào đùi Đặng Bách Xuyên. Thế

đánh đó thật là đột ngột, Đặng Bách Xuyên thân thể to béo nên

chuyển động không được nhanh, xem chừng khó mà tránh né, lập tức

dồn khí xuống hạ bàn, ngang nhiên chịu một đá. Chỉ nghe lắc rắc, trong

hai bắp chân có một người gãy đôi rồi.

Người kép hát lại lăn thêm mấy vòng nữa, ra ngoài xa mấy trượng

rồi quát lên:

Ta chửi là chửi mi,

Này Mao Diên Thọ kia.

Ngươi là đồ gian tặc,

Tàn hại kẻ trung lương,

Ối ối ối,

Cái chân tôi ...

Thì ra hai luồng kình lực đụng nhau, người kép hát chịu không nổi,

xương đùi đã gãy lìa. Người đàn bà trung niên xinh đẹp trước sau vẫn

đứng ngoài thản nhiên coi, lúc này thấy người kép hát gãy chân, những

đồng bọn khác cũng bị tấn công thật nguy ngập liền nói:

- Các ông vì cớ gì lại chiếm đóng nhà của ngũ ca ta, chẳng hỏi

đầu đuôi đã ra tay đả thương người là sao?

Bà ta tuy lên tiếng chất vấn đối phương nhưng giọng nói vẫn ôn nhu

dịu dàng. Người kép hát nằm dưới đất, ngửng đầu lên nhìn thấy trước

cửa nhà treo hai cái đèn lồng, kinh hoảng kêu lên:

- Sao thế này? Sao thế này? Tiết công Mộ Hoa chi tang, ngũ ca ta

đã ra người thiên cổ rồi ư?

Người sử dụng bàn cờ, hai nho sinh, người thợ mộc cầm búa và

người đàn bà cùng hướng theo tay y chỉ, thấy hai chiếc đèn lửa đã tắt

từ bao giờ, treo trong đêm tối, mọi người đến cổng nhưng không chú

tâm, mãi đến khi người đóng trò nằm dưới đất lúc ấy mới ngẩng đầu

nhìn ra.

Người kép hát khóc òa lên, hát rằng:

Ca ca ơi!

Anh em ta đào viên kết nghĩa,

Tại cổ thành gặp gỡ một phen.

Mới ngày nào anh quá ngũ quan,

Chém sáu tướng uy danh lừng lẫy ...

Khúc đầu y hát là bài ca Khóc Quan Vũ, đến sau tâm tình khích

động, hát không còn ra vần điệu gì nữa. Năm người còn lại nhao nhao

hỏi:

- Ai làm hại ngũ đệ?

- Ngũ ca ơi là ngũ ca, hung thủ giết anh là đứa nào?

- Hôm nay ta và các ngươi phải một phen sống mái.

Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:

“Những người này xem ra đều là anh em kết nghĩa của Tiết Thần Y”.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Chúng ta có đồng bạn bị thương nên đến đây cầu Tiết Thần Y

chữa trị, nào ngờ...

Người đàn bà ngắt lời:

- Nào ngờ y không chịu chữa, các ngươi liền giết y đi, phải không

nào?

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Không ...

Chữ “phải” chưa kịp nói ra thì người đàn bà đã phất tay áo, ai nấy

đều ngửi thấy một mùi thơm nồng, đầu óc choáng váng, chân bông

bênh như đi trên mây, đứng không vững nữa. Người mỹ phụ kêu lên:

- Ngã này!

Đặng Bách Xuyên giận quá, quát lớn:

- Hảo yêu phụ!

Ông ta vận sức lên bàn tay, vù một tiếng đánh ra. Người đàn bà

thấy Đặng Bách Xuyên đang loạng choạng, tưởng ông ta đã vào tròng,

ngờ đâu lại còn đủ sức xuất chưởng, đang định nghiêng qua né tránh thì

không còn kịp nữa rồi, chỉ thấy một luồng lực đạo mãnh liệt như bài

sơn đảo hải ập đến, lập tức nghẹn thở, thân hình không còn điều khiển

được nữa bay vụt ra ngoài. Lách cách mấy tiếng, ngực bà ta đã gãy

mấy chiếc xương sườn, chưa rơi tới đất đã ngất đi rồi. Đặng Bách

Xuyên cũng thấy trước mắt tối sầm, ngã lăn ra.

Hai bên mỗi bên ngã một người, những người còn lại đều xông ra

xuất thủ. Huyền Nạn nghĩ thầm: “Việc này bên trong có điều gì thật là

bí mật, trước phải làm sao bắt hết đối phương, có thế mới khỏi thương

vong”. Ông bèn ra lệnh:

- Lấy thiền trượng ra.

Tuệ Kính quay lại cầm chiếc thiền trượng dựa nơi cửa đưa cho

Huyền Nạn. Người thư sinh sử dụng phán quan bút tung mình nhảy tới,

cây bút bên phải điểm vào ngực Tuệ Kính. Chưởng trái của Huyền

Nạn liền đánh ra, tay chưa đến, chưởng lực đã trúng hậu tâm y, gã thư

sinh liền ngã ngay xuống. Huyền Nạn cười một tiếng dài, trượng cầm

trên tay tiến lên hai bước, múa gậy đánh vào người cầm bàn cờ.

Người kia thấy thế đánh thật mãnh liệt, thiền trượng chưa đến mà

trượng phong đã bao trùm thân mình, lập tức vận kình lên cánh tay, giơ

bàn cờ lên chịu đòn, nghe keng một tiếng lớn, đốm lửa bắn ra tứ bề.

Người kia thấy cánh tay ê ẩm, hổ khẩu tay rách toạc. Huyền Nạn nhắc

trượng lên, cả chiếc bàn cờ cũng bị nhấc lên theo. Cái bàn cờ đó từ tính

cực mạnh, trước đây chuyên dùng để hút binh khí đối phương, hôm nay

địch mạnh ta yếu, khiến cho lại bị thiền trượng của Huyền Nạn lấy

mất.

Thiền trượng của Huyền Nạn lại đập xuống đầu người kia, y kêu

lên:

- Cái thế Trấn Thần Đầu lại thêm Ỷ Cái, ta đỡ không nổi.

Y lập tức chạy vọt về phía trước. Huyền Nạn đảo ngược thiền

trượng, quát lên:

- Tên đồ gàn, đến lượt ngươi.

Ông vung trượng đánh quét ngang, uy thế mạnh không gì đương cự

được. Người nho sinh kia đáp:

- Phu tử là bậc thánh nhân cũng phải theo thời. Gió thổi thì cỏ rạp

xuống, nằm xuống thì nằm có sao đâu?

Mấy câu đó nói chưa xong, y đã nằm phục xuống, mấy nhà sư

Thiếu Lâm liền xông tới đè nghiến y lại. Thủ tọa Đạt Ma Viện của

chùa Thiếu Lâm quả nhiên không phải tầm thường, chỉ vừa ra tay đã

đánh ngã ba cao thủ của đối phương. Người cầm búa đang phải đánh

với hai người Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, tránh đông né tây, có

chiều thua đến nơi. Người cầm bàn cờ nói:

- Ngừng lại! Lục đệ, thôi chúng mình chịu thua cho xong, bàn cờ

này không cần phải đi tiếp nữa. Đại hòa thượng, ta hỏi ông, ngũ đệ của

bọn ta phạm tội gì mà các ông lại giết y?

Huyền Nạn đáp:

- Đâu có chuyện đó ...

Hai người chưa dứt câu chuyện, bỗng nghe tính tang hai tiếng đàn từ

xa truyền tới. Hai tiếng đàn đó vào tai mọi người, tim ai nấy nhói lên

hai cái. Huyền Nạn còn đang ngạc nhiên, lại nghe thêm hai tiếng đàn

nữa. Lúc này xem chừng đã gần hơn nhiều, tim mọi người thót càng

mạnh hơn, Phong Ba Ác thấy trong lòng buồn bực, tay phải lơi ra, nghe

keng một tiếng, đơn đao đã rớt xuống. May nhờ có Bao Bất Đồng xuất

chưởng ra đỡ không thì búa của địch nhân đã chém xuống đầu vai y.

Gã đồ gàn kêu lên:

- Đại ca đến mau, mau lên! Thôi đừng có chướng nữa! Sao đại ca

vẫn còn ung dung đàn địch cái quái gì? Tử viết: Quân mệnh triệu, bất

hậu giá hành hĩ.Tiếng đàn liên tiếp vang lên, một ông lão mặc áo tay rộng phất phơ

chậm rãi đi tới, đầu cao trán dồ, hình thù lạ lùng cổ quái, miệng cười

khì dung mạo đầy vẻ hòa nhã dễ thân, trong tay ôm một cỗ dao cầm.Bọn gã đồ gàn cùng kêu lên:

- Đại ca!

Người đó đến gần, ôm quyền chào Huyền Nạn nói:

- Vị cao tăng nào của Thiếu Lâm ở đây thế? Tiểu lão nhi thật là

thất lễ.

Huyền Nạn cũng chắp tay đáp:

- Lão nạp là Huyền Nạn.

Người kia nói:

- Ồ, thì ra là Huyền Nạn sư huynh. Huyền Khổ đại sư của quí phái

có phải sư huynh đệ với đại sư phụ chăng? Tiểu lão nhi với ông ta có

duyên gặp gỡ mấy lần, truyện trò cực kỳ tâm đầu ý hợp, độ này ông ấy

có khang kiện không?

Huyền Nạn buồn bã đáp:

- Huyền Khổ sư huynh bất hạnh bị đứa nghịch đồ ám toán, đã viên

tịch tây qui rồi.

Người kia chết sững một hồi, đột nhiên nhảy vọt lên, phải cao đến

hơn một trượng, chưa rơi tới đất, giữa lưng trời đã khóc òa lên thật là

thảm thiết. Huyền Nạn và bọn Công Dã Can ai nấy kinh ngạc, không

ngờ một người tuổi tác đã cao như thế, vậy mà khóc lóc chẳng khác gì

một đứa trẻ thơ.

Hai chân ông ta vừa chạm đất, lập tức ngồi thụp xuống, tay vặt râu,

hai chân dậm thình thình, khóc lóc:

- Huyền Khổ ơi, sao ông không bảo ta một tiếng rồi hãy chết?

Trên đời này sao lại có chuyện như thế được? Bản đàn Phạn Âm Phổ

An Tấu của ta biết bao nhiêu người nghe rồi nhưng có ai hiểu được đạo

lý bên trong đâu, chỉ mình ông nói được ra rằng trong khúc nhạc này có

chứa rất nhiều thiền ý, đòi nghe hết lần này sang lần khác. Gã Huyền

Nạn sư đệ, chắc gì đã có được ngộ tính như ông, dẫu đàn cho y nghe,

thì khác gì đàn gảy tai trâu, đem hồng ngâm cho chuột vọc. Hu hu, sao

ta khổ thế này!

Huyền Nạn lúc đầu nghe ông ta khóc lóc thảm thiết, lại tưởng là

người chí tính với sư huynh mình, đau lòng vì cái chết của Huyền Khổ,

không khỏi cảm kích, nhưng càng nghe càng không phải, hóa ra y thất

vọng vì trên đời thiếu mất một kẻ tri âm. Tiếng khóc về sau, lại bảo

đàn cho mình nghe có khác gì “đàn gảy tai trâu”. Ông là một cao tăng

hữu đạo nên cũng chẳng bực mình, chỉ mỉm cười nghĩ thầm: “Cả bọn

này người nào cũng dở dở ương ương, người này tính tình tâm sự thật là

ăn khớp với đám anh em kết nghĩa, quả đúng là vật dĩ loại tụ”.

Lại nghe người kia khóc tiếp:

- Huyền Khổ ơi là Huyền Khổ, ta hết lòng tận lực vì người tri kỷ

sáng tác ra một bản đàn để báo đáp chút tình, đặt tên là Nhất Vi Ngâm

để ca tụng thủy tổ của phái Thiếu Lâm từng qua sông bằng một cành

lau, sao ngươi lại không sống mà nghe?

Đột nhiên y quay đầu lại hỏi Huyền Nạn:

- Phần mộ Huyền Khổ sư huynh ở nơi nào? Ông mau mau đưa ta

đến, mau mau! Càng mau càng tốt. Ta đến trước mồ đàn tân khúc này,

biết đâu y nghe rồi trong lòng thoải mái, sống lại không chừng.

Huyền Nạn đáp:

- Thí chủ chớ nên nói năng loạn xạ, sư huynh ta viên tịch đã hỏa

hóa thành tro rồi còn đâu.

Người kia bần thần, đột nhiên nhảy nhổm lên nói:

- Thế thì càng tốt, ngươi cho ta cốt hôi đó, ta dùng keo trộn với tro

dán vào đáy cây dao cầm, từ nay mỗi khi đàn một bản nào, y cũng đều

được nghe cả. Ngươi thử nghĩ thế có khéo không? Ha ha! Ha ha! Chủ ý

đó hay nhỉ?

Y càng nói càng cao hứng, nhịn không nổi vỗ tay cười ha hả, đột

nhiên nhìn thấy người đàn bà xinh đẹp nằm gục một bên kinh hoảng

kêu lên:

- Ối, thất muội sao vậy? Ai đả thương cô thế?

Huyền Nạn nói:

- Việc này bên trong có chỗ hiểu lầm, bọn ta đang muốn nói năng

cho rành mạch.

Người kia đáp:

- Hiểu lầm thế nào? Ai hiểu lầm? Nói gì thì nói, người đả thương

thất muội không phải là người tốt. Ối trời, bát đệ cũng bị thương nữa,

người đả thương bát đệ cũng không thể là người tốt được. Sao lại tới

mấy người không tốt? Mọi người báo danh tính đi, rồi cho biết ý kiến,

điều đó đã hẳn rồi.

Người kép hát nói:

- Đại ca ơi, bọn họ giết chết ngũ ca, đại ca mau mau trả thù rửa

hận cho anh ta.

Gương mặt của người đánh đàn biến đổi kịch liệt, kêu lên:

- Có chuyện đó sao? Lão ngũ là Diêm Vương Địch, Diêm La

Vương làm gì được y?

Huyền Nạn đáp:

- Tiết Thần Y chết giả đó, trong quan tài chỉ có độc dược, không

có xác người.

Cả bọn phe ông lão đánh đàn đều mừng ra mặt, nhao nhao hỏi dồn:

- Lão ngũ vì cớ gì mà giả chết thế?

- Xác chết bây giờ quàn ở đâu?

- Y chưa chết, lấy đâu ra xác chết bây giờ?

Đột nhiên từ đằng xa có tiếng nhỏ vo ve vọng tới:

- Tiết Mộ Hoa, Tiết Mộ Hoa, sư thúc lão nhân gia của ngươi đã

tới, mau mau ra ngoài nghinh tiếp.

Tiếng nói đó lúc có lúc không, còn cách rất xa thế nhưng vào tai

thật rõ ràng đủ biết người nói câu này nội công thâm hậu không biết

chừng nào. Người kép hát, gã đồ gàn, anh thợ mộc cả bọn kia không

hẹn mà cùng kêu lên kinh hoàng. Ông lão đánh đàn hoảng hốt:

- Ôi thôi, đại họa lâm đầu rồi.

Y dáo dác nhìn quanh, thần sắc cực kỳ sợ hãi miệng lắp bắp:

- Chạy mau kẻo không kịp, mau lên, mau lên, tất cả vào trong nhà

ngay.

Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:

- Cái gì mà đại họa lâm đầu? Bộ trời sập hay sao?

Ông già kia run run nói:

- Mau, vào mau! Trời sập cũng không sợ, cái này ...

Bao Bất Đồng đáp:

- Xin lão tiên sinh tự tiện, ta không vào đâu.

Ông già kia đột nhiên vung tay phải ra, chộp vào huyệt đạo trên

ngực Bao Bất Đồng. Y ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, Bao Bất Đồng không

kịp đề phòng nên bị chế ngự ngay, hai chân rời mặt đất, lập tức bị ông

ta xách lên kéo chạy vào trong nhà.

Huyền Nạn và Công Dã Can đều thật ngạc nhiên, đang định mở

miệng hỏi, người cầm bàn cờ đã nói nhỏ:

- Đại sư phụ, tất cả chúng mình nên vào trong nhà ngay, có một

tên đại ma đầu cực kỳ ghê gớm chớp mắt sẽ đến đây.

Huyền Nạn một thân thần công, trong võ lâm ít người là đối thủ, có

gì mà phải sợ đại ma đầu, tiểu ma đầu? Ông hỏi lại:

- Có một đại ma đầu ư? Kiều Phong chăng?

Người kia lắc đầu:

- Không phải, không phải! So với Kiều Phong còn ghê gớm, tàn

nhẫn hơn nhiều. Đó là Tinh Tú Lão Quái.

Huyền Nạn hơi nhếch mép:

- Tinh Tú Lão Quái ư? Thế thì hay quá, lão nạp đang muốn đi

kiếm y đây.

Người kia nói:

- Đại sư phụ võ công cao cường, dĩ nhiên không sợ. Có điều ở đây

ai ai cũng sẽ bị y giết sạch, còn mình đại sư sống được thôi, thật là từ bi

quá đỗi.

Y nói câu này đầy vẻ châm chọc nhưng thật công hiệu, Huyền Nạn

ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Được rồi, tất cả cùng vào vậy.

Vừa ngay lúc đó, ông già đánh đàn đã bỏ Bao Bất Đồng xuống, từ

trong nhà chạy ra luôn mồm thúc giục:

- Mau! Mau! Còn chờ gì nữa?

Phong Ba Ác quát hỏi:

- Tam ca ta đâu?

Ông già nọ đánh ngược tay trái lại một chưởng, quét ngang má phải

của y. Hàn độc trong người Phong Ba Ác lại vừa phát tác, tưởng chừng

chịu không nổi, thấy ông ta đánh tới, vội vàng hụp xuống. Ngờ đâu

chưởng của ông già nọ chưa hết tay, đột nhiên đổi hướng đánh thấp

xuống, chộp ngay được sau ót Phong Ba Ác, miệng nói:

- Mau, mau đi vào!

Ông ta xách y lên chẳng khác gì một con gà. Công Dã Can tuy thấy

lão già kia xem chừng không có ác ý, nhưng hai người anh em của

mình chỉ một chiêu đã bị chế ngự rồi, lập tức kêu la ỏm tỏi xông lên

toan động thủ. Thế nhưng ông già thân pháp nhanh như gió, đã tới đại

môn. Người thư sinh liền ôm gã kép hát, gã thợ mộc đỡ người đàn bà,

cùng đi vào trong nhà.

Huyền Nạn nghĩ bụng chuyện ngày hôm nay rất nhiều ngụy kế đa

đoan, không nên lỗ mãng làm hỏng việc nên nói:

- Công Dã thí chủ, tất cả cùng vào rồi mình tính sau.

Hư Trúc và Tuệ Phương khiêng xác Huyền Thống, Công Dã Can bế

Đặng Bách Xuyên tất cả cùng tiến vào. Ông già đánh đàn lại ra giục

giã, thấy mọi người đều vào cả, lập tức đóng cổng lại, chặn then cửa.

Người cầm bàn cờ nói:

- Đại ca, cái cổng chính này nên mở ra. Cái đó gọi là thực giả hư

chi, hư giả thực chi khiến cho y không dám ngang nhiên tiến vào.

Ông già kia hỏi:

- Vậy sao? Được, ta nghe lời ngươi. Liệu ... liệu có được không?

Giọng nói ông ta dường như không tự tin chút nào. Huyền Nạn và

Công Dã Can hai người nhìn nhau, cùng nghĩ:

- Lão già này võ công cao cường, sao lúc gặp chuyện hoảng hốt

đến thế? Cái cánh cửa này thì đến trộm cướp tầm thường cũng chẳng

coi vào đâu, huống chi là Tinh Tú Lão Quái, đóng hay không đóng

cũng thế mà thôi. Cái điệu này y đã từng bị thua đậm dưới tay Tinh Tú

Lão Quái thành ra kinh cung chi điểu, vừa mới nghe thấy y ở quanh

đây đã hồn vía lên mây.

Ông già kia lại luôn mồm:

- Lục đệ, ngươi tính xem thế nào? Mau nghĩ cách nào coi?

Huyền Nạn tuy công phu hàm dưỡng khá cao nhưng thấy ông ta

cuống quít như thế cũng không khỏi bực mình bèn nói:

- Lão trượng, người đời có câu: Binh đến thì tướng ngăn, nước lên

thì be bờ. Tinh Tú Lão Quái dẫu có ghê gớm tàn ác cỡ nào, bọn chúng

ta liên thủ kháng địch cũng chưa chắc thua y đâu, việc gì mà phải ...

mà phải ... ờ ... mà phải quá lo xa như thế.

Lúc đó trong sảnh đã đốt lên một ngọn đuốc, chỉ trong một thoáng

ông thấy lão già kia thần sắc kinh hoàng đã đành mà cả người đánh cờ,

gã đồ gàn, anh thợ mộc, người sử dụng phán quan bút cả bọn ai nấy

mặt mày đăm chiêu. Huyền Nạn chính mắt thấy những người này võ

công không phải là kém, lại thêm ương ương gàn gàn xem chừng đều

là những hào sĩ phóng khoáng coi thường thế sự, đột nhiên sợ sệt khiếp

đảm tuồng như những kẻ hèn nhát, quả thực không biết nói sao.

Công Dã Can thấy Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đều khỏe khoắn

ngồi trên ghế, có điều hàn độc phát tác, người run như cầy sấy, lập tức

đỡ Đặng Bách Xuyên lên trên một chiếc ghế khác, cũng may mạch

ông ta vẫn đều hòa, chỉ lơ mơ như người say rượu xem ra không có gì

nguy hiểm.

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, một lúc sau người thợ sử dụng đoản

phủ lấy từ trong người ra một cái thước gấp, nhắm nhắm nơi góc nhà,

lắc đầu, cầm cây đèn đi vào hậu sảnh. Mọi người liền đi theo y, thấy

người đó nhìn quanh quất bốn bề tính toán, đột nhiên nhảy lên, vạch

vào xà ngang một cái, lại lắc đầu đi tiếp ra sau, đến trước chiếc quan

tài giả của Tiết Thần Y, nhìn qua nhìn lại, lắc đầu nói:

- Tiếc thay! Tiếc thay!

Ông già đánh đàn hỏi:

- Không dùng được ư?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Không được! Sư thúc thể nào cũng nhìn ra.

Ông già đánh đàn giận dữ nói:

- Ngươi ... ngươi còn gọi y là sư thúc ư?

Người cầm búa lại lắc đầu, không nói một lời đi tiếp xuống nhà

dưới. Công Dã Can nghĩ thầm: “Người này ngoài việc lắc đầu chắc

chẳng còn biết làm gì khác”. Người thợ lại nhìn góc nhà tính toán, đếm

bước đi, bấm đốt ngón tay, dáng như người đang tính toán việc xây

phòng, đi ra bên ngoài vườn sau. Y cầm cây đuốc, suy nghĩ hồi lâu, đi

đến chỗ đặt một hàng năm cái cối nơi hành lang, lại suy nghĩ một hồi

nữa, vứt cây đuốc xuống, đi tới bên cạnh cái cối đá lớn thứ nhì, bỏ vài

nắm cám và đất vào trong cối, cầm chiếc chày đá ở bên cạnh, bắt đầu

giã, bình một tiếng lại bình một tiếng, chày đá nặng nề rơi xuống cực

kỳ mạnh mẽ.

Công Dã Can thở dài một tiếng nghĩ thầm: “Phen này đúng là số

mình đen như mõm chó, gặp một lũ điên, đến lúc này mà còn rỗi hơi đi

giã gạo. Nếu như giã gạo thì cũng còn được, còn đằng này trong cối

toàn là vỏ trấu với đất bùn, chán thật!”. Một hồi sau, hàn độc trong

người Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác tạm bớt, cũng chạy theo ra hậu

viên.

Bình! Bình! Bình! Bình! Bình! Tiếng chày giã gạo cứ liên miên bất

tuyệt. Bao Bất Đồng nói:

- Này lão huynh, ngươi định giã gạo nấu cơm ăn chăng? Trong cối

có gạo gì đâu! Chi bằng tụi mình cuốc đất lên, bỏ ít hạt lúa vào chờ

cho nảy mạ ...

Đột nhiên cách chừng bảy tám trượng nơi góc đông nam khu vườn

hoa có tiếng kẹt kẹt, tuy nhỏ nhưng có chiều lạ lùng. Cả bọn Huyền

Nạn, Công Dã Can theo hướng tiếng động nhìn theo, thấy nơi đó có

bốn cây hoa quế trồng thành một hàng.

Bình một tiếng lại bình một tiếng, người cầm búa vẫn tiếp tục giã

xuống, mà lạ thay, cây quế thứ hai về hướng đông ở bên ngoài mấy

trượng bỗng cành lá dao động, từ từ di chuyển ra bên ngoài. Một lát

sau, mọi người ai cũng thấy rõ, mỗi lần chày nện xuống một cái, cây

quế lại di chuyển một tấc nửa tấc. Ông già đánh đàn reo lên mừng rỡ,

chạy lại phía cây quế kia, nói khẽ:

- Đúng rồi! Đúng rồi!

Mọi người theo ông ta chạy ra, chỉ thấy chỗ cây quế di chuyển ra, lộ

ra một phiến đá lớn, trên thạch bản có cái vòng để cầm tay. Công Dã

Can càng thêm bội phục, lại cũng tẽn tò nói:

- Cơ quan dưới đất này xếp đặt thật là khéo léo, thực khó mà tin

nổi. Vậy mà vị nhân huynh đây trong khoảnh khắc đã phát hiện được

cách mở cơ quan, thông minh tài trí so ra không kém gì người làm ra cơ

quan này.

Bao Bất Đồng nói:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Làm sao nhị ca biết không phải

chính y là người làm ra cơ quan này?

Công Dã Can cười nói:

- Ta nói tài trí so ra không kém người làm ra cơ quan này, nếu quả

đúng là y làm ra, tài trí của y lẽ dĩ nhiên không thể kém tài trí của

chính mình.

Bao Bất Đồng vẫn lắc đầu:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Không kém nhưng cũng không thể

hơn. Tài trí của y làm sao lại có thể hơn chính mình?

Người dùng búa lại giã thêm độ một chục chày nữa, phiến bửng đá

đã hoàn toàn lộ ra. Người đánh đàn cầm chiếc vòng sắt, kéo mạnh lên

nhưng không chuyển động chút nào, đang tính dùng sức kéo thêm lần

nữa, người cầm búa kinh hãi kêu lên:

- Đại ca! Ngừng tay.

Y tung mình nhảy vào trong một cái cối lớn ở bên cạnh, vén quần

lên, tiểu ngay một bãi đồng thời kêu lên:

- Tất cả mau tới đái vào đây.

Lão già đánh đàn sau phút kinh ngạc, vội bỏ chiếc vòng xuống, chỉ

phút chốc người cầm bàn cờ, gã đồ gàn, người sử phán quan bút thêm

cả ông lão đánh đàn và người dùng búa cùng đái vào trong cối.

Bọn Công Dã Can thấy năm người đó đột nhiên lên cơn dở người

cùng tiểu tiện, ai nấy cười nghiêng ngả, nhưng chỉ trong khoảnh khắc

đều ngửi thấy mùi khét lẹt của thuốc nổ. Người cầm búa nói:

- Được rồi, hết nguy hiểm.

Chỉ có ông già đánh đàn đái lâu nhất, vẫn còn tiếp tục chảy tồ tồ,

mồm lẩm bẩm:

- Đáng chết thật! Đáng chết thật! Ta lại làm hỏng mất một cơ

quan. Lục đệ, nếu không nhờ ngươi phát giác cơ quan sớm thì bọn mình

ai nấy tan xương nát thịt rồi.

Bọn Công Dã Can ai nấy chết khiếp, biết rằng mình vừa mới từ quỉ

môn quan quay về, hiển nhiên bên dưới chiếc vòng sắt có nối với hỏa

thạch, hỏa đao, ngòi nổ nên vừa nhắc lên lập tức đốt cháy dây dẫn hỏa,

thuốc nổ chôn sẵn dưới đó sẽ nổ tung, may nhờ người mang búa ngắn

kia cực kỳ cơ cảnh, tất cả đều đái vào làm ướt sợi dây nên mới tránh

được tai họa.

Người mang búa đi tới bên cái cối đá thứ nhất, dùng sức vần chiếc

cối xoay qua bên phải ba vòng, ngẩng đầu lên, miệng lâm râm khẩu

quyết, tính toán một hồi, lại xoay ngược cái cối qua bên trái sáu vòng

bán nguyệt. Chỉ nghe những tiết ken két liên tiếp, chiếc bửng đá chạy

qua một bên, lộ ra một cái hầm. Lần này ông già đánh đàn không còn

dám ẩu tả xông vào mà quay sang người cầm búa vẫy tay, bảo y đi

trước. Người cầm búa quì xuống quan sát kỹ cái cối đá thứ nhất.

Đột nhiên từ dưới đất có tiếng người chửi:

- Tinh Tú Lão Quái, con bà nhà ngươi, quân đê tiện! Được lắm,

được lắm, rồi ra ngươi cũng kiếm được ta, quả là ghê gớm thật. Ngươi

làm điều càn rỡ, rồi sẽ có ngày bị quả báo. Tới đây đi, mau xuống đây

giết ta đi!

Gã thư sinh, người thợ mộc, anh kép hát cả bọn cùng reo lên:

- Lão ngũ quả nhiên chưa chết.

Ông già đánh đàn gọi lớn:

- Ngũ đệ, bọn ta tới đây.

Tiếng nói dưới hầm ngừng bặt rồi có tiếng kêu lên:

- Quả thực là đại ca đó sao?

Giọng nói đầy vẻ vui mừng. Roạt một tiếng, từ trong hầm một người

chui ra, chính là Diêm Vương Địch Tiết Thần Y. Y có ngờ đâu ngoài

những nghĩa huynh nghĩa đệ còn có rất nhiều người ngoài, không khỏi

kinh ngạc quay sang Huyền Nạn nói:

- Đại sư cũng đến nữa! Những vị này cũng là bằng hữu, phải

không?

Huyền Nạn hơi ngần ngừ rồi đáp:

- Phải, đều là bằng hữu.

Trước đây chùa Thiếu Lâm vẫn cho rằng Huyền Bi đại sư chết về

tay Cô Tô Mộ Dung nên vẫn coi họ Mộ Dung là đại đối đầu. Thế

nhưng lần này ông cùng bọn Đặng Bách Xuyên cùng đi cầu thầy chữa

bệnh, trên đường Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can hết sức giải thích

Huyền Bi đại sư quyết không phải do Mộ Dung công tử ra tay, Huyền

Nạn cũng đã tin đến sáu bảy phần, lại thêm lần này cùng gặp nguy

nan, đồng hội đồng thuyền nên đã coi những người này là bạn. Công

Dã Can nghe ông ta nói thế, quay sang gật gù. Tiết Thần Y nói:

- Nếu cũng là bạn cả thì thật tốt quá, tất cả cùng xuống đây. Xin

mời Huyền Nạn đại sư đi trước.

Tuy ông ta nói thế nhưng vẫn nhanh nhẹn xuống hầm đầu tiên. Một

cái hang tối thui như thế này hẳn là cực kỳ hung hiểm, trên giang hồ

lòng người trá ngụy khó dò, có ai lại dám tin ai nên mình phải xuống

trước, ấy là đạo đãi khách.

Tiết Thần Y tiến vào rồi, Huyền Nạn lúc ấy mới xuống, mọi người

đỡ kẻ bị thương theo sau, cả thi thể của Huyền Thống cũng khiêng nữa.

Tiết Thần Y điều khiển máy móc, phiến đá đóng lại, ông ta lại tiếp tục

vận động nghe có tiếng lẹt kẹt vang lên, mọi người liệu rằng ông ta

đang di chuyển cây quế trở về chỗ cũ.

Ở bên dưới là một địa đạo lót đá, ai nấy phải khom lưng mới đi

được, một lát sau đường hầm rộng hơn dẫn đến một cái hang thiên

nhiên, thêm chừng chục trượng thì tới một thạch động rộng rãi. Bên

cạnh một đống lửa ở một góc là khoảng hai chục người, già trẻ lớn bé

đều có cả. Những người đó nghe thấy tiếng chân người đều quay lại

nhìn. Tiết Thần Y nói:

- Đây đều là người nhà của tại hạ, sự tình khẩn bách nên không

bảo họ ra chào quí vị được, thất lễ xin đừng trách. Đại ca, nhị ca, sao

hai người lại đến đây?

Ông ta không đợi ông già đánh đàn trả lời, lập tức xem xét thương

thế cho mọi người. Người đầu tiên ông ta coi là Huyền Thống, Tiết

Thần Y nói:

- Vị đại sư này ngộ đạo viên tịch, quả là đáng mừng.

Y lại coi đến Đặng Bách Xuyên, mỉm cười nói:

- Phấn hoa của thất muội ta chỉ làm cho người say sưa, một hồi

nữa sẽ tỉnh, không có chất độc.

Người đàn bà trung niên và gã kép hát cũng chỉ bị ngoại thương, tuy

không phải nhẹ nhưng Tiết Thần Y chỉ coi là chuyện nhỏ. Ông ta lại

coi mạch cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, ngửng đầu nhắm mắt lại,

hết sức suy nghĩ. Một hồi sau, Tiết Thần Y lắc đầu:

- Lạ thật! Lạ thật! Ai là kẻ đả thương hai vị huynh đài này?

Công Dã Can đáp:

- Là một thanh niên hình mạo cực kỳ cổ quái.

Tiết Thần Y lắc đầu:

- Thanh niên ư? Người này võ công bao gồm cả sở trường hai bên

chính tà, nội công thâm hậu, ít nhất cũng phải có ba mươi năm tu tập,

sao lại còn là thanh niên được?

Huyền Nạn đáp:

- Quả thực là một thanh niên nhưng chưởng lực hùng hậu, Huyền

Thống sư đệ của ta đối chưởng với y, cũng bị hàn độc mà bị thương. Y

là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái.

Tiết Thần Y kinh hoảng hỏi lại:

- Đệ tử của Tinh Tú Lão Quái mà lợi hại đến thế sao? Ghê gớm

quá!

Ông ta lắc đầu:

- Thật xấu hổ, hàn độc của hai vị huynh đài này, tại hạ không có

cách nào chữa được. Hai tiếng Thần Y, từ nay không còn dám xưng

nữa.

Đột nhiên nghe tiếng một người nói oang oang:

- Tiết tiên sinh, nếu đã thế, chúng tôi xin cáo từ.

Người đó chính là Đặng Bách Xuyên, ông ta bị phấn hoa làm mê

man, lúc này đã tỉnh lại rồi, nghe Tiết Thần Y nói mấy câu sau cùng.

Bao Bất Đồng cũng phụ họa:

- Đúng thế! Đúng thế! Trốn ở dưới cái hang này làm gì? Đại

trượng phu sinh tử hữu mệnh, lẽ nào lại theo cái thói của con rùa con

chuột, chui dưới cái hang hay sao?

Tiết Thần Y cười nhạt:

- Thí chủ quả là khoa trương. Liệu ngươi có biết ở ngoài đó là ai

không?

Phong Ba Ác đáp:

- Các ngươi sợ Tinh Tú Lão Quái chứ ta cóc sợ. Thật uổng thay

những người võ công cao cường mà mới nghe cái tên của Tinh Tú Lão

Quái đã kinh hồn bạt vía.

Ông già đánh đàn nói:

- Đến ta ngươi đánh còn chưa lại, Tinh Tú Lão Quái là sư thúc của

ta, ngươi nghĩ y lợi hại hay không nào?

Huyền Nạn vội nói lảng sang chuyện khác:

- Những điều lão nạp trông thấy, nghe thấy hôm nay, thật nhiều

chỗ không hiểu, đang muốn thỉnh giáo.

Tiết Thần Y nói:

- Chúng tôi sư huynh đệ tám người, xưng là Hàm Cốc bát hữu.

Ông ta chỉ vào ông già đánh đàn:

- Vị này là đại sư ca của chúng tôi, tôi là thứ năm, còn những việc

khác, một là nói ra thật dài dòng, hai nữa không tiện cho người ngoài

biết ...

Vừa nói tới đây, bỗng có tiếng gọi thật nhỏ truyền tới:

- Tiết Mộ Hoa, sao ngươi chưa ra gặp ta?

Thanh âm đó mong manh như tơ, tưởng chừng chỉ loáng thoáng nghe

thấy nhưng người ở trong hang sâu vẫn nghe thật rõ ràng, tựa hồ một

sợi dây kim loại thật nhỏ, xuyên qua đất dày hơn chục trượng mà

xuống, lại cũng như theo đường hầm quanh co mà chạy vào tai mỗi

người.

Ông già đánh đàn kêu lên một tiếng, nhảy nhổm lên run run nói:

- Tinh ... Tinh Tú Lão Quái!

Phong Ba Ác lớn tiếng:

- Đại ca, nhị ca, tam ca, chúng mình đi ra quyết một phen tử chiến.

Lão già đánh đàn nói:

- Không được đâu, nhất định là không được. Các ngươi ra khỏi đây

dẫu có chết uổng mạng cũng không sao nhưng lại làm lộ cái mật thất ở

dưới đất, trong này mấy chục mạng người cũng sẽ chết vì cái “nhất

dũng chi phu” của các ngươi.

Bao Bất Đồng nói:

- Tiếng nói của y có thể truyền đến tận đây không lẽ không biết

bọn mình chỗ nào hay sao? Ngươi cam nguyện làm con rùa rụt đầu rụt

cổ nhưng y nhất định lôi ngươi ra thì có trốn cũng không được.

Thư sinh sử phán quan bút nói:

- Nhất thời tam khắc y chưa thể vào được, tất cả chúng mình nên

tìm một cách gì cho phải lẽ.

Người cầm búa ngắn hình dáng như thợ thuyền kia trước sau vẫn

không nói năng gì, lúc này mới xen vào:

- Đinh sư thúc tài nghệ tuy cao thật nhưng muốn tìm hiểu được cơ

quan vào địa đạo này, ít ra cũng phải mất hai giờ. Nếu muốn tìm ra

cách tấn công vào lại phải mất thêm hai giờ nữa.

Ông già đánh đàn nói:

- Hay lắm, như thế chúng mình có bốn giờ để bàn tính kế sách, có

phải không nào?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Bốn giờ rưỡi.

Ông già đánh đàn ngạc nhiên hỏi lại:

- Sao lại có thêm nửa giờ là sao?

Người cầm búa ngắn đáp:

- Trong bốn giờ đó, tiểu đệ có thể bố trí ba cơ quan, ngăn trở y

thêm được nửa giờ nữa.

Ông già đánh đàn nói:

- Hay lắm! Huyền Nạn đại sư, một khi đại ma đầu tới đây, anh em

tám người chúng tôi chắc không thể nào thoát khỏi độc thủ của y. Các

vị là người ngoài, một khi đại ma đầu kia chuyên tâm đối phó với bọn

sư điệt, các vị ắt có cơ hội bỏ chạy. Các vị nhất định đừng có ỷ mình

anh hùng hảo hán, tranh đấu với y làm gì. Nên biết rằng người nào

chạy thoát được độc thủ của Tinh Tú Lão Quái cũng đã là anh hùng

lắm rồi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Thối quá! Thối quá!

Mọi người hít hít nhưng không ai thấy có gì hôi, ai nấy nhìn Bao Bất

Đồng như dò hỏi. Bao Bất Đồng chỉ vào ông già đánh đàn nói:

- Người này đánh rắm thối quá, chịu không nổi.

Y mới rồi chỉ có một chiêu đã bị người đánh đàn chế ngự, trong

bụng vẫn còn ấm ức, tuy lúc đó là lúc đang bị hàn độc phát tác, chân

tay không có sức, nhưng cũng biết võ công mình kém y xa, đối thủ

càng mạnh y lại càng muốn chửi.

Người sử dụng bàn cờ lườm y một cái nói:

- Ngươi muốn thoát khỏi được bàn tay của đại sư huynh ta cũng đã

không phải dễ, huống hồ gì sư thúc ta võ công gấp mười lần đại sư

huynh ta, như vậy thử hỏi ai mới là người đánh rắm thối?

Bao Bất Đồng đáp:

- Sai bét rồi, không phải vậy! Võ công cao cường với đánh rắm có

liên quan gì đâu. Võ công cao cường không lẽ không đánh rắm? Không

đánh rắm là nhất định phải võ công cao cường hay sao? Khổng phu tử

không biết võ công, không lẽ lão nhân gia là người chuyên đánh rắm ...

Đặng Bách Xuyên nghĩ thầm: “Những người này nói không hẳn

hoàn toàn vô lý, Bao tam đệ cùng với họ cãi qua cãi lại chỉ làm hao phí

thời gian”. Y liền nói:

- Lai lịch của chư vị tại hạ chưa được cung kính lắng nghe thành

thử lầm lỡ đã nhiều, đánh nhầm vị nương tử đây, tại hạ muôn phần có

lỗi. Hôm nay nếu cùng chống lại yêu ma, tất cả coi như người nhà. Khi

cường địch tới, thủ hạ Cô Tô Mộ Dung công tử tuy chẳng bằng ai

nhưng bỏ chạy thì quyết không bỏ chạy, nếu quả không chống nổi thì

tất cả chúng ta cũng đành bỏ mạng thôi.                                                                                                            Huyền Nạn nói:

- Tuệ Kính, Hư Trúc các người nếu có cơ hội thì nên tìm cách

thoát thân, trở về đến chùa, bẩm lại cho phương trượng, để khỏi tất cả

bị yêu nhân quăng một mẻ lưới bắt sạch, đến tin tức cũng không truyền

được ra ngoài.

Sáu nhà sư Thiếu Lâm chắp tay đáp:

- Cung lãnh pháp chỉ.

Bọn Tiết Mộ Hoa và Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói như

thế, biết ông đã quyết chí cùng mọi người đồng sinh cộng tử, nhưng có

đối phó nổi với Tinh Tú Lão Quái hay không thì cũng không ai biết

được.

Ông già đánh đàn ngẩn ngơ, đột nhiên vỗ tay cười nói:

- Tất cả cùng nhau chết hết. Huyền Khổ sư huynh nếu như giờ này

còn sống thì từ rày về sau cũng không còn bao giờ được nghe vô

thượng chí khúc Nhất Vi Ngâm của ta nữa, ta lẽ nào còn vì cái chết của

y mà thương tâm? Ôi! Có ngưới bảo Khang Quảng Lăng này là một tên

cực kỳ ngốc nghếch, ta vẫn không phục, thế nhưng xem ra nếu không

phải là cực kỳ ngốc thì cũng hơi hơi ngốc.

Bao Bất Đồng nói:

- Nhà ngươi chính hiệu là tên đại ngốc, là tên cực kỳ khù khờ.

Ông già đánh đàn Khang Quảng Lăng đáp:

- Ta cũng chẳng ngốc bằng ngươi.

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi ngốc gấp mười lần ta.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ngươi ngốc gấp trăm lần ta.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi ngốc gấp ngàn lần ta.

Khang Quảng Lăng nói:

- Ngươi ngốc gấp vạn lần ta.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi ngốc gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, nghìn vạn lần, vạn

vạn lần ta.

Tiết Mộ Hoa chen vào:

- Hai vị kẻ tám lạng, người nửa cân, không người nào ngốc hơn

người nào. Các vị sư phụ phái Thiếu Lâm, các vị về đến chùa rồi,

phương trượng đại sư hỏi đến tiền nhân hậu quả e rằng quí vị không trả

lời được. Việc này vốn dĩ là một điều đáng hổ thẹn của tệ phái, đáng

lẽ không cho người ngoài hay. Thế nhưng để tiêu diệt cái họa hoạn cho

võ lâm, nếu không do các cao tăng Thiếu Lâm chủ trì đại cuộc thì khó

mà thành công. Tại hạ phải thuật lại tỏ tường cho quí vị, có điều các vị

chỉ nói lại cho phương trượng của quí tự chứ đừng nói với ai khác.

Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc cùng đáp:

- Những gì Tiết Thần Y nói ra đây, bọn tiểu tăng chỉ nói cho

phương trượng tệ tự nghe, ngoài ra quyết không nói cho ai khác nửa

câu.

Tiết Mộ Hoa nhìn Khang Quảng Lăng nói:

- Đại sư ca, những nguyên do trong vụ này, tiểu đệ muốn nói cho

mọi người nghe.

Khang Quảng Lăng tuy vị trí đứng đầu tám người, võ công cũng cao

hơn các đàn em xa lắc nhưng lại là người tính tình ấu trĩ, Tiết Mộ Hoa

sở dĩ hỏi ông ta một câu cũng chỉ vì có người ngoài nên muốn cho đẹp

mặt. Khang Quảng Lăng đáp:

- Lạ nhỉ, mồm là mồm của ngươi, ngươi muốn nói thì cứ nói, sao

lại hỏi ta?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Huyền Nạn đại sư, Đặng sư phó, thụ nghiệp ân sư của chúng tôi

ở trong võ lâm người ta gọi là Thông Biện tiên sinh ...

Huyền Nạn và Đặng Bách Xuyên cả bọn ai nấy ngạc nhiên, cùng

hỏi:

- Vậy sao?

Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á lão nhân. Ông ta vừa điếc

vừa câm nhưng lại lấy ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh, đệ tử của

ông ta người nào cũng bị dùi thủng tai cho điếc, cắt lưỡi cho câm trên

giang hồ ai ai cũng biết. Thế nhưng bọn Khang Quảng Lăng ai nấy tai

thính miệng trơn, như thế quả thật lạ kỳ.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Môn hạ đệ tử của gia sư ai ai cũng vừa câm vừa điếc là việc chỉ

mới vài chục năm nay. Còn trước đó, gia sư không phải là người câm,

cũng chẳng điếc, mà vì bị sư đệ là Đinh Xuân Thu khích, biến thành

câm điếc.

Bọn Huyền Nạn ai nấy ồ lên kinh ngạc. Tiết Mộ Hoa nói:

- Tổ sư chúng tôi cả thảy chỉ thu hai người đệ tử, đại đệ tử họ Tô,

tên trên Tinh dưới Hà, đó là gia sư, nhị đệ tử Đinh Xuân Thu. Võ công

hai người vốn ngang ngửa nhau, thế nhưng về sau mới phân thành kẻ

cao người thấp ...

Bao Bất Đồng chen vào:

- Ha ha, chắc hẳn là sư thúc ngươi Đinh Xuân Thu thắng được sư

phụ ngươi, cái đó còn việc gì phải nói.

Tiết Mộ Hoa tiếp:

- Nói ra thì cũng không hẳn vậy. Tổ sư chúng tôi học đủ mọi thứ

trên trời đưới đất, bụng chứa bao la vạn tượng ...

Bao Bất Đồng nói:

- Chưa chắc đâu!

Tiết Mộ Hoa biết người này chuyên môn cà khịa với người khác

nên không ngó ngàng gì đến y, vẫn tiếp tục nói:

- Ban đầu sư phụ chúng tôi và Đinh Xuân Thu chỉ cùng học võ

công, nhưng về sau sư phụ chúng tôi phân tâm, học tổ sư gia đánh đàn,

âm vận ...

Bao Bất Đồng chỉ vào Khang Quảng Lăng nói:

- Ha ha, cái môn đánh đàn quỉ quái của ngươi là học ở đó chứ gì?

Khang Quảng Lăng trừng mắt nhìn y nói:

- Bản lãnh của ta không học sư phụ không lẽ học của ngươi sao?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Nếu như sư phụ ta chỉ học một môn đánh đàn thì cũng không có

gì vướng mắc lắm, có điều tổ sư gia sở học quá bao la, cầm kỳ thư họa,

y bốc tinh tướng, công nghệ tạp học, buôn bán cấy trồng, cái gì cũng

biết, cái gì cũng tinh. Sư phụ ta lúc đầu chỉ học đánh đàn, chẳng bao

lâu lại học đánh cờ, rồi sang thư pháp, rồi sang hội họa.

Các vị thử nghĩ xem, mỗi môn môn nào cũng hao phí rất nhiều thời

gian tâm huyết, Đinh Xuân Thu lúc đầu cũng giả vờ học thử, nhưng chỉ

dăm bữa nửa tháng thì bảo là mình tư chất đần độn, khó mà học cho

xong, nên chỉ chuyên tâm về võ công thôi. Cứ như thế tám năm, mười

năm, hai sư huynh đệ võ công liền có kẻ cao người thấp.

Huyền Nạn liên tiếp gật gù nói:

- Chỉ một môn đánh đàn hay chơi cờ không thôi cũng đã hao sinh

lực một nửa đời người, vậy mà Thông Biện tiên sinh tinh thông mấy

loại, quả thực khó thay. Còn Đinh Xuân Thu chuyên tâm một môn, võ

công thắng được sư huynh thì cũng không có gì là lạ.

Khang Quảng Lăng nói:

- Lão ngũ, còn một việc hết sức quan trọng, sao ngươi không nói

ra đi, mau lên, mau lên!

Tiết Mộ Hoa nói:

- Đinh Xuân Thu chuyên tâm học võ, vốn dĩ cũng là chuyện tốt,

có điều ... có điều ... ôi ... chuyện này nói ra, thật xấu xa cho sư môn

quá. Nói tóm lại, Đinh Xuân Thu sử dụng mọi thủ đoạn hèn hạ, không

biết học đâu ra mấy môn tà thuật cực kỳ lợi hại, đột nhiên ra tay đánh

tổ sư gia bọn ta trọng thương.

Tổ sư gia vốn dĩ thân mang tuyệt học, tuy bị ám toán bất ngờ không

kịp đề phòng nhưng vẫn gắng gượng chống trả được cho đến khi sư phụ

bọn ta đến cứu viện. Võ công sư phụ bọn ta không bì được với tên ác

tặc, sau một trận ác đấu, sư phụ ta cũng bị thương còn tổ sư gia rơi

xuống dưới thâm cốc, chẳng biết sống chết thế nào.

Sư phụ ta vì tạp học mà xao nhãng võ công nhưng những môn đó

không phải không có chỗ dùng. Vào lúc nguy nan, sư phụ ta thi triển

thuật kỳ môn độn giáp, ngũ hành bát quái làm loạn tai mắt Đinh Xuân

Thu khiến y không thể giải được.

Đinh Xuân Thu không thể nào phá trận mà vào giết sư phụ ta, hơn

nữa, y cũng biết bản môn còn nhiều thần công áo diệu mà tổ sư gia

chưa truyền cho hai sư huynh đệ, ắt rằng khi lâm tử ắt thể nào cũng nói

cho sư phụ ta biết nơi cất dấu bí cập, cần phải từ từ bức bách sư phụ ta

thổ lộ, vì thế hai người mới đính ước với nhau, nếu như sư phụ ta từ nay

không mở miệng nói một câu nào thì y sẽ không đi tìm sư phụ ta trả

đũa.

Khi đó môn hạ của sư phụ ta chỉ gồm tám đứa đệ tử chưa thành tài.

Sư phụ ta mới viết một phong thư khai trừ cả tám người không nhận

làm học trò nữa, từ đó quả nhiên giả vờ câm điếc, không nghe không

nói, nếu có thu đệ tử cũng chọc tai cắt lưỡi, lập ra Lung Á Môn.

Theo như ta đoán ý của sư phụ, chắc là cực kỳ hối hận năm xưa đã

phân tâm theo đuổi các môn tạp học để đến nỗi võ công không bằng

Đinh Xuân Thu nên sau khi câm điếc rồi, những môn tạp học đó không

hề dạy nữa.

Anh em sư huynh đệ bọn ta tám người, ngoài võ công ra còn học

của sư phụ một môn tạp học. Đó là từ trước khi Đinh Xuân Thu phản

thầy, lúc đó gia sư chưa thấy rõ được cái hại to lớn của phân tâm, nên

không cấm đoán mà còn khuyến khích, gia công chỉ điểm. Khang đại

sư huynh Quảng Lăng học đánh đàn.

Bao Bất Đồng nói:

- Y đúng là “đàn mình mình nghe cũng còn chẳng lọt tai”.

Khang Quảng Lăng hầm hầm hỏi lại:

- Ngươi bảo ta đàn không hay phải không? Để ta đàn thử cho

ngươi nghe.

Vừa nói vừa để cây dao cầm lên trên gối. Tiết Mộ Hoa vội vàng

xua tay chặn lại rồi chỉ vào người cầm bàn cờ:

- Phạm nhị sư huynh Bách Linh, học môn cờ vây, trên đời này khó

có ai gọi là địch thủ.

Bao Bất Đồng đưa mắt nhìn Phạm Bách Linh rồi nói:

- Thảo nào ngươi dùng bàn cờ làm binh khí. Có điều bàn cờ làm

bằng từ thiết, hút binh khí người ta, không khỏi lợi thế, chẳng phải là

hành vi của kẻ chính nhân quân tử.

Phạm Bách Linh đáp:

- Trong thuật đánh cờ, cố nhiên là phải đường đường chính chính

nhưng kỳ binh ngụy đạo cũng chẳng cấm đoán.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Bàn cờ của Phạm nhị sư ca sở dĩ dùng nam châm đúc thành, vốn

là để nghiên cứu kỳ thuật. Dù cho đi đứng nằm ngồi, đột nhiên nghĩ

đến một thế cờ đều có thể dùng quân đen quân trắng bày thành trận

ngay. Bàn cờ của anh ta làm bằng từ thiết, để quân cờ bằng sắt lên, dù

trên xe trên ngựa cũng không xê xích, rơi rụng. Về sau để cho tiện với

kỳ nghệ nên dùng luôn bàn cờ làm binh khí, quân cờ dùng làm ám khí

chứ không phải muốn dùng bàn cờ bằng từ thiết để lấn lướt người ta.

Bao Bất Đồng trong bụng cũng đồng ý nhưng mồm vẫn lèm bèm:

- Nói thế thật chẳng thông, không thông chút nào. Với võ công

như Phạm lão nhị, nếu có dùng một bàn cờ gỗ, dùng quân cờ sắt gắn

lên, lẩn hẳn vào trong gỗ thì quân cờ đó còn làm sao rơi ra được?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Thế nhưng cũng không tiện bằng bàn cờ sắt. Còn Cẩu tam sư ca

của ta đơn danh là Độc, tính thích đọc sách, đọc đủ mọi loại, sách gì

cũng ngó đến, là một túc nho bụng đầy chữ nghĩa, chắc các vị cũng đã

lãnh giáo qua rồi.

Bao Bất Đồng nói:

- Tiểu nhân chi nho thì có đáng gì!

Cẩu Độc giận dữ hỏi:

- Cái gì? Ngươi bảo ta là “tiểu nhân chi nho” ư? Không lẽ ngươi là

“quân tử chi nho” chăng?

Bao Bất Đồng đáp:

- Đâu dám! Đâu dám!

Tiết Mộ Hoa biết rằng một khi hai người tranh cãi rồi, có đến ba

ngày ba đêm cũng chưa dứt vội vàng ngắt ngang, chỉ vào thư sinh sử

dụng phán quan bút:

- Còn đây là tứ sư ca của ta, giỏi về nét đan thanh, sơn thủy nhân

vật, cỏ cây hoa lá món gì cũng tinh xảo. Y họ Ngô, trước khi vào làm

môn đệ gia sư, đã từng làm chức lãnh quân của Tống triều thành thử ai

ai cũng gọi y là Ngô lãnh quân.

Bao Bất Đồng nói:

- E rằng lãnh quân đánh đâu thua đó, vẽ vời thì người chẳng ra

người, ngợm chẳng ra ngợm.

Ngô lãnh quân đáp:

- Nếu như phải vẽ tôn dung của các hạ, thì đúng là nhân quỉ nan

phân.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:

- Lão huynh khi nào rảnh, lấy dung mạo Bao lão tam này làm mẫu

vẽ một bức Quỉ Thú Đồ thì thật hay lắm.

Tiết Mộ Hoa cười nói:

- Bao huynh anh tuấn tiêu sái, sao lại quá khiêm tốn như thế? Tại

hạ đứng hàng thứ năm, học môn y thuật, trên giang hồ cũng có chút

danh còm, thật không dám quên ơn của sư phụ.

Bao Bất Đồng nói:

- Ho cảm phong hàn thì may ra chữa được, còn gặp phải hàn độc

của tại hạ thì cũng bó tay. Cái đó đúng là bệnh nặng chữa không xong,

bệnh nhẹ chữa không chết. Ha ha, cái tiếng Thần Y quả là danh bất hư

truyền.

Khang Quảng Lăng giơ tay vuốt râu, đưa mắt nhìn Bao Bất Đồng:

- Vị lão huynh này tính tình kỳ khôi, thật đúng là không giống ai.

Bao Bất Đồng đáp:

- Ha ha, ta họ Bao, tên Bất Đồng, thì dĩ nhiên là không giống ai

rồi.

Khang Quảng Lăng cũng cười khà khà nói:

- Ngươi họ Bao thật sao? Tên Bất Đồng thật sao?

Bao Bất Đồng đáp:

- Không lẽ còn giả hay sao? Này, còn vị nhân huynh chuyên chế

tạo cơ quan đây, hẳn là tinh thông mộc nề xây cất, môn hạ của Lỗ Ban

tiên sư chăng?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Chính thế! Lục sư đệ Phùng A Tam, vốn dĩ là thợ mộc xuất thân,

trước khi đầu nhập sư môn từng là một người thợ khéo, về sau lại học

thêm nghề của gia sư, khéo càng thêm khéo. Thất sư muội họ Thạch,

giỏi về hoa cỏ, kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ cây nào cô ta trồng cũng

tốt tươi.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Dược vật Thạch cô nương dùng để làm ta mê man ắt hẳn lấy từ

các loại phấn hoa chứ không phải thuốc độc.

Người đàn bà xinh đẹp họ Thạch kia khuê danh là Thanh Lộ, mỉm

cười đáp:

- Mới rồi quả là đắc tội, mong Đặng lão sư tha thứ cho.

Đặng Bách Xuyên đáp:

- Tại hạ lỗ mãng, ra tay quá nặng, mong cô nương rộng lượng.

Tiết Mộ Hoa chỉ vào người cứ mở miệng là hát xướng nói:

- Bát đệ Lý Khổi Lỗi cả đời chỉ mê diễn trò đóng tuồng, dở dở

ương ương thành thử võ học không khỏi chểnh mảng. Ôi, thế nhưng nào

chỉ mình y đâu! Bọn chúng tôi tám người, ai ai cũng đều thế cả. Thực

ra võ công sư phụ chúng tôi truyền thụ tu tập cũng chưa xong vậy mà

còn ôm đồm nhiều thứ, học cả tuyệt chiêu của người ngoài, đến nỗi ...

ôi ...Lý Khổi Lỗi vẫn nằm dưới đất, hát lên:

Cô vương đây chính thị,

Lý Tồn Húc là ta Giang sơn nào đáng trọng,

Đóng tuồng mới thật ưa.

Ải ải ải!

Thích ơi là thích.

Bao Bất Đồng nhại lại:

Cô vương đây chính thị,

Tên gọi Lý Tự Nguyên,Giang sơn ta lấy được,

Chém đầu đứa hôn quân.

Gã đồ gàn Cẩu Độc chen vào:

- Lý Tồn Húc bị bọn thủ hạ kép hát Quách Tòng Khiêm giết chết

chứ nào phải chết vì tay Lý Tự Nguyên.

Bao Bất Đồng không thông sử sách biết mình cãi không lại Cẩu

Độc bèn cất giọng ngâm:

Ử ử ử,

Nào ai còn phải hỏi,

Quách Tòng Khiêm là ta.

A a a!

Tần Thủy Hoàng cũng mỗ,

Đốt sách chôn học trò.

Học trò ta ghét nhất,

Bọn tiểu nhân chi nho.

Tiết Mộ Hoa nói tiếp:

- Bọn huynh đệ chúng tôi tám người tuy đã bị trục xuất ra khỏi sư

môn nhưng không dám quên ân đức giáo huấn của sư phụ nên mới lấy

cái tên Hàm Cốc bát hữu cốt để ghi nhớ năm xưa được thụ nghệ ở

ngoài ải Hàm Cốc. Người ngoài chỉ tưởng chúng tôi chỉ vì cũng cám

hấp như nhau ...

Bao Bất Đồng khịt khịt mũi nói:

- Hôi thật, hôi thật!

Cẩu Độc nói:

- Hệ Từ trong kinh Dịch có viết: “Lời kẻ đồng lòng, hôi cũng

thành lan”. Hôi cũng là thơm, lão huynh chẳng biết gì cả.

Bao Bất Đồng đáp:

- Lời của lão huynh, mùi thơm như rắm.

Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:

- Không ai biết chúng tôi là huynh đệ đồng môn. Chúng tôi cũng

đề phòng Tinh Tú Lão Quái quay trở lại Trung Nguyên một mẻ vét

sạch nên chỉ hai năm gặp nhau một lần, còn lúc bình thường thì ở rải

rác mỗi người một nơi.

Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên nghe Tiết Thần Y nói rõ lai

lịch tám anh em, những nghi vấn trong lòng giảm đi quá nửa. Công Dã

Can hỏi lại:

- Nếu nói thế Tiết tiên sinh giả vờ chết, trong quan tài bố trí độc

dược cũng chỉ là để đối phó với Tinh Tú Lão Quái mà thôi. Thế tại sao

Tiết tiên sinh biết được là y sẽ đến đây?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Hai hôm trước đây, tôi đang ngồi không trong nhà, bỗng có bốn

người đến xin chữa bệnh, trong đó có một hòa thượng béo trục béo

tròn, trên ngực sau lưng có đến tám chiếc xương sườn bị gãy, bị thương

vì chưởng lực của phái Thiếu Lâm nhưng chỗ gãy đã nối lại rồi chỉ để

một thời gian cũng tự lành được, không có gì hung hiểm. Có điều trong

tạng phủ y có ẩn hàn độc, tuy không liên quan gì đến ngoại thương

nhưng chẳng bao lâu sẽ phát tác mà chết.

Huyền Nạn nói:

- Thật là xấu hổ! Y chính là Tuệ Tịnh hòa thượng, môn hạ phái

Thiếu Lâm. Nhà sư này không giữ thanh qui, làm điều càn rỡ nên tệ tự

đã sai người đi bắt y về để trừng trị theo giới luật, vậy mà y lại ra tay

trước đả thương người. Thì ra trên thân y đã vốn có hàn độc rồi nhưng

chuyện đó chẳng có liên can gì đến bọn ta, không biết ai đã đưa y đến

đây chữa trị?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đi cùng với y là một bệnh nhân thật kỳ quái, đầu đội một cái

lồng sắt ...

Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác cùng nhảy dựng lên kêu lớn:

- Đả thương bọn ta chính là tên tiểu tử đầu sắt đó.

Tiết Thần Y lạ lùng hỏi:

- Thanh niên đó công lực cao cường vậy sao? Tiếc thay lúc y đến

lật đà lật đật, ta không kịp đưa tay coi mạch, nếu không tình trạng nội

lực của y thế nào ít ra cũng biết được chút đầu dây mối nhợ.

Bao Bất Đồng hỏi thêm:

- Thế tiểu tử đó bị bệnh gì thế?

Tiết Thần Y đáp:

- Y muốn nhờ ta gỡ bỏ cái lồng sắt trên đầu y ra. Thế nhưng lúc ta

coi lại, cái lồng đó dính chặt vào đầu y rồi, không thể gỡ ra được.

Bao Bất Đồng nói:

- Lạ nhỉ? Không lẽ cái đầu sắt đó là do cha sinh mẹ đẻ ra đã có,

từ bé đã thế rồi sao?

Tiết Thần Y nói:

- Không phải thế. Cái lồng đó khi người ta chụp lên đầu y thì còn

nóng hổi thành thử làm lở loét, chín rục thịt ra, đến khi máu đông kết

thành sẹo rồi thì dính chặt vào mặt vào ót. Nếu phá đi thì sẽ lột luôn cả

mí mắt, miệng, mũi không còn ra hình thù gì nữa.

Bao Bất Đồng hạnh tai lạc họa, cười khẩy nói:

- Nếu y đã nhờ ông tháo ra thì cứ làm nát bấy ngũ quan lẫn khuôn

mặt, y đâu có trách gì ông được.

Tiết Thần Y nói:

- Ta còn đang ngẫm nghĩ xem có cách gì không, hai tên đồng bạn

của y bỗng lớn tiếng thúc giục, bảo ta mau mau ra tay. Họ Tiết này cả

đời có cái tính xấu hễ ai nhờ ta trị bệnh thì phải nói ngon nói ngọt, còn

như ỷ mạnh lấn lướt thì Tiết mỗ thà chết dưới đầu đao mũi kiếm chứ

nhất định không chữa chạy gì cả. Nhớ năm xưa anh hùng đại hội ở Tụ

Hiền Trang, gã Kiều Phong kia mạo hiểm đánh liều đưa một tiểu cô

nương đến nhờ ta chữa bệnh. Kiều Phong tuy ngang ngạnh tàn ác vô

cùng nhưng khi đến cầu ta, trong ngôn ngữ cũng không dám có chỗ nào

thất lễ ...

Ông ta nói tới đây, nghĩ đến về sau A Châu điểm huyệt ông ta, cạo

sạch bộ râu, quả là kỳ sỉ đại nhục trong đời nên không nói tiếp nữa.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi phét lác cái gì? Họ Bao này cũng có cái tính chẳng giống

ai, nếu như ai muốn chữa bệnh cho ta thì phải ngon ngọt cầu xin, còn

như đối phương cậy mạnh áp bức, Bao mỗ thà để cho bệnh đến chết

chứ không cho ai chữa.

Khang Quảng Lăng cười ha hả nói:

- Ngươi là cái quái gì mà báu thế? Người ta muốn chữa bệnh cho

ngươi mà phải năn nỉ, họa chăng ... họa chăng ...

Ông ta chưa nghĩ ra “họa chăng” cái gì thì Bao Bất Đồng đã tiếp:

- Họa chăng ngươi có là con ta thì mới thế.

Khang Quảng Lăng ngơ ngẩn, nghĩ bụng lời y quả không sai, nếu

như cha mình bị bệnh mà không chịu đi thầy lang thì mình đành phải

năn nỉ ông ta vậy. Ông ta là người rất biết đạo lý, không nghĩ đến

chuyện Bao Bất Đồng nói câu đó là chơi trèo mình, liền đáp:

- Đúng thật! Thế nhưng ta nào có phải là con ngươi đâu?

Bao Bất Đồng đáp:

- Ngươi có phải là con ta hay không, chỉ có mẹ ngươi mới biết chứ

ngươi làm sao mà biết được?

Khang Quảng Lăng ngẩn người nhưng rồi cũng gật gù nói:

- Ngươi nói quả có lý.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nghĩ thầm: “Gã này đúng là một tên

đại ngốc, nếu mình còn tiếp tục chơi gác y thì có thắng cũng chẳng

vinh dự gì”.

Công Dã Can nói:

- Tiết tiên sinh, hai người kia nếu quả ngôn ngữ vô lễ, ông liền từ

chối hay sao?

Tiết Thần Y gật đầu nói:

- Chính thị. Khi đó ta còn nói: “Tại hạ tài năng hữu hạn, không

làm được, chư quân đi kiếm người khác cao minh hơn”. Gã đầu sắt đối

với ta hết sức khiêm cung, lúc ấy mới nói: “Tiết tiên sinh, y đạo của

ông thiên hạ vô song trên giang hồ đặt tên là Diêm Vương Địch, trong

võ lâm ai mà không kính ngưỡng? Tiểu nhân trước nay kính trọng bội

phục tiên sinh, gia phụ vốn cũng là bạn cũ của lão nhân gia, xin tiên

sinh mở lòng từ bi cứu chữa cho đứa con khốn khổ của cố nhân.

Mọi người ai cũng quan tâm đến lai lịch của gã đầu sắt, lập tức sáu

bảy người nhao nhao hỏi:

- Thế phụ thân y là ai?

Lý Khổi Lỗi đột nhiên xen vào:

- Y là con ai thì chỉ có mẹ y mới biết được chứ y làm sao mà biết?

Gã bắt chước giọng của Bao Bất Đồng không sai một mảy. Bao Bất

Đồng cười nói:

- Hay lắm, ngươi học cách nói của ta giống y chang, xem chừng

không cần phải bắt chước mà chính là cha nào con nấy.

Lý Khổi Lỗi lại hát:

Hoàng Đế đích thực mỗ,

Ông tổ cả Trung Nguyên,

Phàm là dân Hoa Hạ,

Có ai không cháu con.

Y muốn đóng vai ai là ý tưởng tuôn ra đóng được ngay vai đó, Bao

Bất Đồng lấn lướt chơi trèo y cũng chẳng để vào tai. Tiết Mộ Hoa tiếp

tục nói:

- Ta nghe gã đầu sắt tự nhận là con của người quen lập tức hỏi

ngay cha y là ai thì gã trả lời: “Tiểu nhân gặp cảnh không may làm

nhục đến tiên nhân cho nên tên của phụ thân không dám nhắc đến.

Thế nhưng khi tiên phụ còn tại thế, quả thực là chỗ chí giao với tiên

sinh, việc đó hoàn toàn có thật, tiểu nhân không dám đem cha mình ra

để đánh lừa ai”.

Ta nghe thấy y thành khẩn như thế, chắc không phải là lời nói

không. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bằng hữu không phải là ít, nghe

y nói phụ thân đã qua đời rồi, trong nhất thời không đoán ra được là ai.

Ta cũng định khi tháo được cái mặt nạ cho y rồi, xem diện mạo may ra

biết được cha y là người nào.

Thế nhưng để gỡ được cái lồng sắt đó nhưng làm sao cho mặt y ít

bị tổn thương, quả không phải dễ, còn đang trầm ngâm thì một tên

đồng bạn của y liền nói: “Pháp chỉ của sư phụ, việc trước hết là trị cho

lành vết thương của hòa thượng Tuệ Tịnh, còn cái lồng sắt của gã này

tháo được hay không, chẳng quan hệ lắm”. Ta nghe nói thế, lửa giận

bốc lên bừng bừng nói: “Tôn sư là ai? Pháp chỉ của ông ta là cho các

ngươi, chứ làm sao bắt ta phải theo cho được?”. Gã kia hầm hầm nói:

“Tên sư phụ của ta nói ra, chỉ e ngươi sợ đến vỡ mật. Lão nhân gia bảo

ngươi mau mau trị cho khỏi vết thương của nhà sư mập này, nếu còn

diên trì thời khắc, làm hỏng chuyện của lão nhân gia thì sẽ cho ngươi

đi chầu Diêm Vương ngay”.

Khi ta vừa mới nghe y nói, trong bụng tức lắm thế nhưng y nói

xong thấy khẩu âm của y không thuần, lơ lớ giọng người Hồ ở Tây

Vực, nhìn lại diện mạo y thấy mắt sâu tóc quăn, khác hẳn người Trung

Hoa mình, chợt nghĩ ra một người bèn hỏi: “Ngươi từ biển Tinh Tú đến

đây chăng?”. Người kia vừa nghe thế, mặt liền biến sắc nói: “Hừ, mắt

của ngươi sắc bén nhỉ? Đúng đó, ta từ Tinh Tú Hải đến đây. Nếu ngươi

đã đoán ra được thì mau mau chữa bệnh đi thôi”. Ta thấy y ngang

nhiên nhận là đệ tử của Tinh Tú Lão Quái, nghĩ thầm: “Thâm cừu của

sư môn không thể không báo”. Ta liền giả vờ làm như sợ hãi lắm hỏi

thêm: “Đã từ lâu ngưỡng mộ pháp thuật của Đinh lão tiên ở biển Tinh

Tú thông thiên triệt địa, đệ tử khâm phục xiết bao nhưng chưa từng có

duyên bái kiến, không biết lão tiên lão nhân gia có đến Trung Nguyên

hay không?”.

Bao Bất Đồng nói:

- Chậc, chậc! Ngươi nói Tinh Tú Lão Quái cũng được mà ngươi

nói Tinh Tú Lão Ma cũng được, hà cớ gì cam tâm hạ mình, gọi y là

“lão tiên”! Thật đáng thẹn ơi là đáng thẹn!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tam đệ, Tiết tiên sinh cố ý dùng lời thăm dò, chứ có phải thực

lòng gọi y là “lão tiên” đâu?

Bao Bất Đồng nói:

- Chuyện đó thì dĩ nhiên đệ biết rồi. Nếu như muốn dò hỏi thì lại

càng phải gọi là “lão quỉ”, “lão yêu”, “lão tặc” để khích cho bọn yêu

tử tặc tôn gầm lên cũng phải thổ lộ chân tình chứ gì nữa.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Lời của Bao tiên sinh quả là hữu lý. Lão phu không giỏi dối trá,

miệng vừa gọi y là “lão tiên” nhưng mặt lại lộ vẻ phẫn nộ. Yêu nhân

kia cực kỳ giảo hoạt, vừa thấy thế là nghi ngay, giơ tay chộp lấy mạch

môn của mỗ, quát hỏi: “Ngươi tra vấn hành tung sư phụ ta là dụng ý

gì?”. Ta thấy việc bị bại lộ, đối phó với môn hạ phái Tinh Tú không

thể dung tình được, lật tay đâm ra một chỉ điểm ngay vào tử huyệt của

y. Yêu nhân thứ hai rút ngay ra một thanh chủy thủ tẩm thuốc độc,

xông tới đâm.

Ta trong tay không có binh khí, yêu nhân đó võ công cũng ghê gớm

lắm, trong lúc nguy cấp bỗng tên đầu sắt đưa tay đoạt con dao găm nói:

"Sư phụ sai chúng ta đi cầu thầy chữa thuốc chứ nào có bảo mình đi

giết người". Yêu nhân kia giận dữ đáp: “Thập nhị sư đệ bị y giết rồi,

ngươi không thấy hay sao? Sao ... sao ngươi ... ngươi dám che chở cho

người ngoài?”. Gã đầu sắt nói: “Nếu ngươi muốn giết vị thần y này là

tùy ngươi, thế nhưng nếu gã sư mập này không cứu chữa, tính mạng

khó toàn. Y không chỉ đường được để đi tìm băng tàm, sư phụ sẽ hỏi

đến ngươi đó”.

Ta nhân lúc hai đứa đó cãi nhau, lập tức rút binh khí ra. Yêu nhân

kia thấy giết ta không phải dễ, lại nghe tên đầu sắt nói cũng phải liền

nói: “Nếu đã thế, ngươi bắt lấy tên quỉ y sinh này đem về cho sư phụ”.

Gã đầu sắt đáp: “Hay lắm!”. Y vừa nói vừa đâm ngay thanh chủy thủ

vào ngực, giết luôn tên kia.

Mọi người ai nấy ồ lên kinh ngạc. Bao Bất Đồng nói:

- Thế thì có gì là lạ. Tên đầu sắt kia có chuyện cầu đến ông nên ra

tay giết đồng môn để lấy lòng.

Tiết Mộ Hoa thở dài một tiếng nói:

- Trong giờ phút đó, ta nào biết được chân ý của y ra sao, không

hiểu vì ta là bạn của phụ thân y, hay vì y muốn tỏ chút ân huệ với

mình. Ta vừa định hỏi, bỗng nghe đằng xa có một tiếng còi, gã đầu sắt

mặt liền biến sắc nói: “Sư phụ tại hạ giục phải quay về. Tiết bá phụ,

tốt hơn cả bá phụ chữa cho gã hòa thượng mập này đi. Sư phụ trong

lòng vui vẻ không chừng sẽ tha cho bá phụ cái tội giết đồ đệ của ông

ta”. Ta đáp: “Tinh Tú lão yêu cùng ta thù sâu tợ bể, bất cứ ai có liên

quan với y một chút là ta nhất định không trị. Ngươi có giỏi thì cứ giết

ta đi”.

Gã đầu sắt mới nói: “Tiết bá phụ, tiểu điệt quyết không dám đắc tội

với bá phụ”. Y đang định giãi bày thì tiếng còi của Tinh Tú lão yêu lại

nổi lên, y bèn cắp gã sư mập hấp tấp chạy đi.

Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên rồi, hai tên đệ tử của lão chết

nơi nhà ta, sớm muộn gì rồi lão cũng tìm đến. Dẫu gã đầu sắt có dấu

giùm ta chăng nữa thì cũng chẳng dấu được lâu. Thành thử ta đành

phải giả chết, trong quan tài ám tàng thuốc độc cực mạnh mong sẽ dụ

được y tới. Toàn gia già trẻ lớn bé đều trốn trong địa đạo này. Khi các

vị đến tệ xá, người lão bộc của tại hạ, tuy trung thành thật đấy nhưng

đầu óc chậm lụt, lại tưởng các vị là kẻ đối đầu mà ta đang e ngại ...

Bao Bất Đồng nói:

- Ha ha, y lại tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái, còn

bọn chúng ta là đồ tử đồ tôn của y trong phái Tinh Tú. Bao mỗ và mấy

người bạn hình dung quái dị, bảo là yêu ma của phái Tinh Tú cũng còn

giống vài phần, thế nhưng Huyền Nạn đại sư cao nhã từ tường, đạo

mạo trang nghiêm, vậy mà lại nhận lầm thành Tinh Tú Lão Quái thì

quả là vô lễ thật.

Mọi người ai nấy cười ồ lên. Tiết Mộ Hoa mỉm cười nói:

- Quả đúng thế, việc đó đáng phải đánh đòn. Thế nhưng lại khéo

làm sao, cũng đúng vào dịp hai năm một lần tám anh em chúng tôi tụ

hội. Người lão bộc thấy tình thế gấp gáp, không đợi dặn dò, đốt ngay

lưu tinh hỏa pháo báo tin cho đồng môn lên. Lưu tinh hỏa pháo đó là

do lục sư đệ khéo léo chế tạo, bắn lên trên không rồi có thể chiếu ra

chung quanh mấy dặm, tám anh em đồng môn, mỗi người một kiểu

không giống nhau.

Chuyện này phải nói là vừa may, vừa không may. May là Hàm Cốc

bát hữu trong lúc nguy nan lại tụ lại một chỗ, chung sức kháng địch, thế

nhưng nếu như thế thì Tinh Tú Lão Quái một mẻ vét sạch, quả là cực

kỳ bất hạnh.

Bao Bất Đồng nói:

- Tinh Tú Lão Quái bản lãnh dẫu có lợi hại cũng chắc gì thắng

được cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn đại sư? Lại thêm bao

nhiêu binh tôm tướng cá chúng ta đứng bên hò hét trợ uy, liều chết một

trận thì đã biết mèo nào cắn mỉu nào. Việc gì phải ... việc gì phải ...

phải làm thế ...

Y ấp úng mấy tiếng, hai hàm răng đập vào nhau kêu lộp cộp, hàn

độc đang phát tác nói không nổi nữa. Lý Khổi Lỗi lớn tiếng hát:

Tay Kinh Kha bạo Tần kia phải chết,

Gió thổi hắt hiu chừ, người lạnh ngắt.

Tráng sĩ phều phào chẳng ra hơi,

Người run cầm cập răng lách cách.

Đột nhiên một bóng người thấp thoáng phóng tới dùng đầu húc vào

ngực y. Lý Khổi Lỗi “Ối trời” một tiếng, dùng vai đẩy y ra. Người kia

nắm được y rồi liền đấm đá túi bụi, chính là Nhất Trận Phong Phong

Ba Ác. Đặng Bách Xuyên vội kêu:

- Tứ đệ, không được làm càn.

Y đưa tay lôi Phong Ba Ác lại. Ngay lúc đó, một giọng nhỏ vo ve

truyền vào sơn động:

- Hỡi các đồ tử đồ tôn của Tô Tinh Hà, mau mau ra đầu hàng may

ra còn giữ được tính mạng, nếu còn dùng dằng thì đừng trách lão nhân

gia không nghĩ đến nghĩa khí đồng môn.

Khang Quảng Lăng giận dữ đáp:

- Tên này quả là không biết xấu, vẫn còn nói gì đến nghĩa khí

đồng môn.

Phùng A Tam quay sang nói với Tiết Mộ Hoa:

- Ngũ ca, cái hang này cứ xem thớ gỗ và đất cát thì phải kiến tạo

ít ra cũng ba trăm năm, không biết do thợ khéo của phái nào?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đây là sản nghiệp tổ truyền của gia đình, là chỗ dùng để tị nạn

đời đời truyền xuống, quả ta không biết ai đã dựng nên.

Khang Quảng Lăng nói:

- Giỏi nhỉ, nhà ngươi có cái hang rùa thế này vậy mà trước nay

chưa từng hở môi cho ai biết.

Tiết Mộ Hoa sượng sùng:

- Đại ca rộng lượng cho. Cái hang này nào có phải cái gì đáng

khoe khoang, thành thử không dám đề cập ...

Nói chưa dứt câu bỗng nghe ầm một tiếng thật lớn, tưởng chừng như

có động đất, mọi người trong hang ai cũng thấy dưới chân lắc lư, đứng

không vững. Phùng A Tam thất sắc nói:

- Không xong rồi, Đinh lão tặc dùng thuốc nổ phá hoại, chỉ phút

chốc sẽ đến đây ngay.

Khang Quảng Lăng hầm hầm:

- Thật là hèn hạ vô sỉ không đâu cho hết. Tổ sư gia và sư phụ đều

là những người tinh thông kiến trúc, giỏi cách sắp đặt cơ quan, coi đó là

bản lãnh chân thực của bản môn. Tên Tinh Tú Lão Quái này không phí

thì giờ giải quyết cách sắp xếp, chỉ dùng thuốc nổ phá vỡ, thế thì còn

xưng là đệ tử bản môn sao được?

Bao Bất Đồng khinh khỉnh nói:

- Y đã giết sư phụ, hại sư huynh, không lẽ ngươi vẫn còn coi y là

sư thúc trong bản môn hay sao?

Khang Quảng Lăng đáp:

- Cái đó ...

Vừa lúc đó lại một tiếng ầm thật lớn, trong sơn động bụi bay mù mịt

khiến cho mọi người không ai mở mắt nổi. Trong động bị bịt mất lỗ

thông hơi, dưới sức chấn động không khí giật thật mạnh khiến người

nào cũng ù cả tai.

Huyền Nạn nói:

- Nếu như y dùng thuốc nổ tấn công vào địa động, chi bằng mình

đi ra thì hơn.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cả

bốn người cùng hùa theo khen phải. Phạm Bách Linh nghĩ Huyền Nạn

là một cao tăng Thiếu Lâm, nay trốn dưới hầm sâu để tránh địch, quả

thực tổn thương đến uy danh chùa Thiếu Lâm rất lớn, huống chi nay chỉ

còn một mất một còn, không thể nào ẩn dưới này mãi được bèn nói:

- Nếu đã thế thì tất cả bọn mình đi ra một lượt, cùng lão quái sống

mái một phen.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Huyền Nạn đại sư cùng lão quái không thù không oán, chẳng

may bị vướng mắc vào vụ này, vậy xin chư tăng chùa Thiếu Lâm tụ

thủ bàng quan.

Huyền Nạn đáp:

- Mọi việc liên quan đến võ lâm Trung Nguyên, phái Thiếu Lâm

đều muốn nhúng tay vào, xin các vị tha lỗi cho. Huống chi Huyền

Thống sư đệ viên tịch, cũng khởi đầu do trúng phải độc thủ của đệ tử

phái Tinh Tú, phái Thiếu Lâm và phái Tinh Tú nào phải là không thù

không oán đâu.

Phùng A Tam nói:

- Đại sư trượng nghĩa tương trợ, sư huynh đệ chúng tôi cực kỳ cảm

kích. Chúng mình theo đường cũ mà ra để cho lão quái kinh hoảng một

phen.

Mọi người đều gật đầu đồng ý. Phùng A Tam lại nói:

- Gia quyến của Tiết ngũ ca và hai vị Bao Phong có thể ở lại nơi

đây, lão quái chưa chắc đã tìm ra được.

Bao Bất Đồng đưa mắt lườm y nói:

- Sao ngươi không ở lại đi có hay hơn không?

Phùng A Tam vội vàng phân trần:

- Tại hạ nào có dám coi thường hai vị, có điều hai người đang bị

trọng thương, nếu phải ra tay e rằng không thuận lợi lắm.

Bao Bất Đồng đáp:

- Càng bị thương nặng ta đánh ra kình lực càng mạnh thêm.

Bọn Phạm Bách Linh ai nấy lắc đầu, thấy người này quả là ngang

bướng. Kế đó Phùng A Tam vận động cơ quan, nhanh nhẹn tiến lên

trước. Chỉ nghe kẹt kẹt mấy tiếng, cửa hang mở được một khe nhỏ,

Phùng A Tam liền ném hỏa pháo ra, ầm ầm ầm ba tiếng, khói trắng

mù trời. Ba viên hỏa pháo phá vỡ thạch bản đậy miệng hang một lỗ

lớn đủ một người chui lọt, Phùng A Tam lại ném ra thêm ba viên hỏa

pháo nữa, sau đó chuồi người phóng qua.

Hai chân Phùng A Tam chưa chạm đất, trong khói trắng mịt mù một

bóng đen lướt ngang qua mình xông vào đám người đang đứng ở bên

ngoài kêu lớn:

- Tên nào là Tinh Tú Lão Quái, họ Phong muốn gặp ngươi.

Người đó chính là Nhất Trận Phong Phong Ba Ác. Y thấy trước mặt

có một gã mặc áo gai liền quát:

- Nếm của ta một quyền!

Bình một tiếng đã đánh trúng ngay ngực y. Gã đó là đệ tử thứ chín

của phái Tinh Tú, thân hình lảo đảo, quyền thứ hai của Phong Ba Ác

lại trúng ngay vai. Chỉ nghe chát chát bộp bộp liên miên bất tuyệt,

Phong Ba Ác ra tay cực kỳ nhanh nhẹn, dường như quyền nào chưởng

nào cũng trúng đối phương. Có điều sau khi bị thương rồi không còn

lực khí, đánh không ngã được đệ tử phái Tinh Tú. Huyền Nạn, Đặng

Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa tất cả mọi người đều từ

dưới động chui lên.

Một lão già thân hình cao to đứng ngay nơi góc tây nam, đằng trước

sau lưng, bên trái bên phải cao thấp hai hàng không đều đứng lố nhố,

gã đầu sắt dĩ nhiên cũng ở trong số đó. Khang Quảng Lăng kêu lên:

- Đinh lão tặc, sao ngươi chưa chết? Ngươi còn nhớ ta không?

Lão già đó chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu, y chỉ liếc

mắt đã nhận ra đối phương gồm những ai, quạt trong tay phe phẩy mấy

cái, nói:

- Mộ Hoa hiền điệt, nếu như ngươi có thể chữa khỏi được gã sư

Thiếu Lâm mập thì ta tha cho ngươi khỏi chết, nhưng có điều phải bái

ta làm thầy, gia nhập làm môn hạ phái Tinh Tú.

Y chỉ mong Tiết Mộ Hoa chữa khỏi Tuệ Tịnh để y đưa mình lên

đỉnh núi Côn Lôn bắt con băng tàm, xem giọng lưỡi chẳng coi những

người trước mặt vào đâu, tưởng như sinh tử tồn vong của cả bọn đều do

y muốn làm gì thì làm. Tiết Mộ Hoa biết rõ người sư thúc này rất lợi

hại, trong bụng cũng hơi e dè nhưng vẫn nói cứng:

- Đinh lão tặc, trên đời này ta chỉ nghe lời một người, chỉ có lão

nhân gia bảo ta chữa cho ai thì ta chữa cho người đó. Ngươi muốn giết

ta, thật dễ như trở bàn tay. Thế nhưng bảo ta trị bệnh cho người thì

ngươi phải đi cầu vị lão nhân gia đó mới được.

Đinh Xuân Thu lạnh lùng hỏi lại:

- Ngươi chỉ nghe lời Tô Tinh Hà, có phải thế không?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Chỉ có giống cầm thú mới có dạ khi sư diệt tổ.

Lời của ông ta nói ra, Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh, Lý

Khổi Lỗi cả bọn cùng reo hò tán trợ. Đinh Xuân Thu nói:

- Được rồi, các ngươi đều là những đứa học trò ngoan của Tô Tinh

Hà, thế nhưng Tô Tinh Hà đã từng cho người đến báo cho ta hay, bảo

là đã đuổi cả tám đứa chúng bay ra khỏi môn tường, không coi là môn

hạ nữa. Hay là họ Tô kia không đếm xỉa đến lời đã nói ra, vẫn lén lút

giữ danh phận sư đồ?

Phạm Bách Linh đáp:

- Nhất nhật vi sư, chung thân như phụ. Sư phụ quả đã đuổi bọn

tám người chúng ta ra khỏi môn phái thật, trong bao nhiêu năm nay

bọn ta chưa hề gặp lại được lão nhân gia một lần, có lên núi bái yết lão

nhân gia cũng không tiếp. Thế nhưng cái bụng kính yêu sư phụ của

chúng ta không vì thế mà giảm chút nào. Họ Đinh kia, tám anh em ta

sở dĩ biến thành thứ ma trơi vất vưởng như thế này, không môn không

phái cũng là do ngươi tên lão tặc mà ra.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Ngươi nói đúng lắm. Tô Tinh Hà vì sợ ta hạ độc thủ, đem từng

đứa ra giết sạch nên mới đuổi các ngươi ra khỏi môn tường để mong

bảo toàn cái mạng ong kiến của chúng bay. Y không đục tai, cắt lưỡi

các ngươi đủ biết tình cảm sâu xa là dường nào. Ôi, cứ lèo nhèo như

tuồng đàn bà thì làm sao nên chuyện lớn? Ha ha, hay lắm, hay lắm.

Các ngươi nói lại đi, Tô Tinh Hà có còn là sư phụ chúng bay nữa hay

không?

Bọn Khang Quảng Lăng nghe y nói thế đều hiểu rằng nếu như

không phủ nhận danh hiệu “đệ tử của Tô Tinh Hà” thì Đinh Xuân Thu

sẽ ra tay giết họ ngay, thế nhưng ơn thầy sâu nặng, lẽ nào tham sống

sợ chết mà phản bội sư môn, trong tám người trừ Thạch Thanh Lộ đang

bị thương nặng, còn ở trong địa động không ra ngoài, cả bảy người

đồng thanh nói:

- Bọn ta tuy bị sư phụ trục xuất khỏi môn tường nhưng dạnh phận

thầy trò không bao giờ thay đổi.

Lý Khổi Lỗi đột nhiên lớn tiếng hát:

Ta mẹ ruột của ngươi,

Tinh Tú Lão Quái ơi!

Năm xưa ta tư thông,

Với con Hao Thiên Khuyển,

Đẻ ra loài súc sinh.

Đánh gãy cái cẳng chó,

Đồ khốn kiếp hôi tanh.

Y bắt chước giọng một bà già, kế đó gâu gâu gâu sủa lên mấy

tiếng. Khang Quảng Lăng, Bao Bất Đồng cả bọn ai cũng cười sằng sặc.

Đinh Xuân Thu giận không đâu cho hết, đôi mắt lóe ra một tia sáng lạ

kỳ, tay áo trái phất một cái, một đốm lân tinh màu xanh biếc nhanh

hơn cả sao băng bắn vào người Lý Khổi Lỗi. Lý Khổi Lỗi một bên

chân đã gãy, tay chống gậy nên không còn nhanh nhẹn muốn tránh né

cũng không kịp nữa rồi, nghe soẹt một tiếng, áo quần bốc cháy. Y vội

vàng lăn tròn dưới đất nhưng càng lăn thì đốm lửa lân tinh càng bốc

lên. Phạm Bách Linh vội vàng bốc bùn đất rắc vào người y.

Tay áo của Đinh Xuân Thu lại liên tiếp bắn ra thêm năm đốm hỏa

tinh nữa, chia ra bắn vào năm người Khang Quảng Lăng, chỉ trừ Tiết

Mộ Hoa mà thôi. Khang Quảng Lăng song chưởng cùng vung lên, đánh

bạt đốm lân tinh. Huyền Nạn cũng dao động song chưởng, đánh tan hai

đốm lửa khác. Thế nhưng Phạm Bách Linh, Phùng A Tam hai người

vẫn bị trúng lân hỏa, chỉ trong chốc lát ba người bọn Lý Khổi Lỗi bị

đốt cháy kêu ầm cả lên.

Lời ca tụng sư phụ của bọn đệ tử Đinh Xuân Thu liền vang lên:

- Sư phụ chỉ mới thi triển một trò vặt vãnh đã đốt chúng bay như

heo quay, sao chưa mau mau quì xuống đầu hàng.

- Sư phụ có tài thông thiên triệt địa, tiền vô cổ nhân, hậu vô lai

giả, nay dạy cho bọn chó lợn Trung Nguyên biết tay phái Tinh Tú.

- Sư phụ lão nhân gia đánh đâu được đó, công đâu cũng thắng, anh

hùng hảo hán xưa nay nghe thấy đều chạy giạt hết.

Bao Bất Đồng la lớn:

- Rắm thối quá! Làm ta ngứa muốn chết! Đinh lão tặc, ngươi quả

là đồ mặt dày.

Bao Bất Đồng nói chưa xong, hai điểm hỏa tinh đã bắn thẳng vào y.

Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can vội vàng mỗi người tung ra một

chưởng, đánh giạt hai đốm lửa nhưng cả hai cảm thấy ngực như trúng

phải một búa, hự lên một tiếng, lịch bịch lùi lại ba bước. Thì ra Đinh

Xuân Thu đưa nội lực cực kỳ hùng mạnh của ông ta vào trong đốm lửa,

Huyền Nạn nội lực tương đương nên khi đánh bạt hai đốm lửa vẫn

không bị thương, còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Can thì chịu

không nổi.

Huyền Nạn lạng người đến trước Lý Khổi Lỗi đánh ra một chưởng,

chưởng lực nhẹ nhàng tống ra, phụp một tiếng áo đã nát bấy văng đi

một mảng lớn, nhưng đốm lân tinh đang cháy trên người y cũng bị đánh

tắt ngúm.

Một tên đệ tử phái Tinh Tú kêu lên:

- Con lừa trọc chưởng lực không phải yếu, so ra cũng được một

phần mười của sư phụ ta.

Một tên khác vội vàng cãi lại:

- Xì, chỉ được một phần trăm của sư phụ thôi.

Huyền Nạn nương theo tiếp thêm hai chưởng nữa, đánh tắt hai đốm

lửa lân tinh trên người Phạm Bách Linh và Phùng A Tam. Khi đó Đặng

Bách Xuyên, Công Dã Can, Khang Quảng Lăng cũng đã nhảy tới tấn

công bọn đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu vuốt bộ râu dài nói:

- Thiếu Lâm cao tăng quả thực công lực phi phàm, hôm nay lão

phu xin được lãnh giáo.

Nói xong tiến lên, tả chưởng nhẹ nhàng đánh vào Huyền Nạn.

Huyền Nạn đã biết Đinh lão quái toàn thân đầy chất độc, lại giỏi môn

Hóa Công Đại Pháp nên không dám sơ sẩy, lập tức song chưởng múa

tít lên, đánh liên tiếp mười tám chưởng liền. Mười tám chưởng đó liên

hoàn, tả chưởng chưa thu về hữu chưởng đã đánh ra, nhanh nhẹn dị

thường khiến cho Đinh Xuân Thu không có lúc nào ở không mà sử

dụng độc dược được. Môn Khoái Chưởng của phái Thiếu Lâm, quả

nhiên uy lực cực mạnh ép cho Đinh Xuân Thu phải liên tiếp thối lui,

Huyền Nạn đánh ra mười tám chưởng thì Đinh Xuân Thu phải lùi mười

tám bước. Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng, hai chân lại liên

hoàn uyên ương, nhanh như chớp đá liền ba mươi sáu lần, bóng vùn vụt

khiến không ai biết đó là chân phải hay chân trái.

Đinh Xuân Thu triển động thân hình tránh né thật nhanh, ba mươi

sáu cú đá đó đều vuột ra ngoài, nhưng nghe bạch bạch hai tiếng, đầu

vai đã bị trúng hai quyền, thì ra Huyền Nạn đá hai cú sau cùng cũng

giơ tay đấm luôn hai cái. Đinh Xuân Thu tuy tránh được ngọn cước

nhưng không tránh kịp song quyền, thân hình loạng choạng kêu lên:

- Ghê gớm thật!

Huyền Nạn bỗng thấy choáng váng hoa cả mắt, lảo đảo muốn ngã,

biết có sự chẳng lành, quần áo Đinh Xuân Thu có tẩm thuốc độc, vừa

rồi đánh trúng y hai quyền đã bị ám toán, lập tức thở mạnh một cái,

chân khí trong người lưu chuyển, quyền bên trái lại đánh vào Đinh

Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu giơ hữu chưởng chặn cú đấm của Huyền Nạn, tiếp

theo chưởng bên trái tống ra. Huyền Nạn sau khi trúng độc cử động

không còn linh hoạt nữa nên không tránh nổi, đành giơ chưởng ra

chống đỡ. Đến nước đó hai cao thủ chỉ còn cách đấu bằng chân lực,

Huyền Nạn trong bụng hoảng thầm: “Ta không thể đấu nội lực với y

được”. Thế nhưng nếu quyền không sử dụng nội kình thì chân khí của

đối phương ào tới ắt tạng phủ sẽ nát ngướu, thành thử biết là đi vào

chỗ chết nhưng vẫn phải vận sức lên chống đỡ. Ông vừa vận kình, bỗng

thấy nội lực cuồn cuộn chảy ra không cách gì giữ lại được nữa.

Chưa đầy thời gian uống một chén trà, Đinh Xuân Thu cười ha hả,

hất vai một cái, nghe bịch một tiếng đã xô Huyền Nạn ngã lăn quay,

toàn thân hư thoát không còn hơi sức. Đinh Xuân Thu đánh ngã Huyền

Nạn rồi đưa mắt nhìn quanh, thấy Công Dã Can và Phạm Bách Linh

hai người cũng nằm dưới đất đang run cầm cập, thì ra đã trúng phải hàn

độc chưởng của Du Thản Chi. Ngoài ra bọn Đặng Bách Xuyên, Tiết

Mộ Hoa thì đang đánh với các đệ tử khác, phái Tinh Tú có đến bảy

người hoặc chết, hoặc bị thương.

Đinh Xuân Thu cười một hồi dài, tay áo rộng phất lên, lướt tới sau

lưng Đặng Bách Xuyên cùng y đối một chưởng lại quay về đá một cái

trúng Bao Bất Đồng. Đặng Bách Xuyên hữu chưởng đụng phải Đinh

Xuân Thu, trong ngực cảm thấy trống trải, muốn hít một hơi ngưng thần

thì Đinh Xuân Thu lại đánh ra thêm một chưởng khác. Đặng Bách

Xuyên không còn cách nào hơn, chỉ còn nước xuất chưỡng ra đỡ, lòng

bàn tay thấy hơi lạnh, toàn thân đã mềm xèo không còn lực khí, trước

mắt chỉ thấy mờ mờ một làn sương trắng. Một tên đệ tử phái Tinh Tú

bước tới giơ tay đẩy một cái, Đặng Bách Xuyên liền ngã lăn ra.

Chỉ trong khoảnh khắc các bộ thuộc của nhà Mộ Dung, chư tăng do

Huyền Nạn dẫn theo, bọn Khang Quảng Lăng Hàm Cốc bát hữu đều bị

Đinh Xuân Thu và Du Thản Chi hai người chia nhau đánh ngã. Du

Thản Chi vồn dĩ nội lực cực kỳ hồn hậu tuy võ nghệ thật tầm thường

nhưng đã được Đinh Xuân Thu chỉ điểm ít ngày, cũng biết được bảy

tám chiêu chưởng pháp, lấy võ công mà luận thì so với những người

học võ bình thường cũng còn kém xa nhưng nhờ phát huy được hàn độc

của con băng tàm tích kết trong người thành ra uy lực phi phàm. Bọn

Công Dã Can xuất chưởng đánh trúng người y, vừa đụng phải đều bị

hàn độc trong người y phản kích bị thương, lại bị y đánh thêm một

chưởng không còn cách gì chống đỡ.

Khi đó chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa chưa bị thương, ông ta xung

kích mấy lần, bọn đệ tử phái Tinh Tú đều chỉ mủm mỉm cười tránh ra,

cũng không trả đòn. Đinh Xuân Thu cười nói:

- Tiết hiền điệt, võ công ngươi so với các sư huynh đệ giỏi hơn

nhiều.

Tiết Mộ Hoa thấy các sư huynh đệ đồng môn từng người ngã xuống,

chỉ còn mình không sao cả, biết là Đinh Xuân Thu thủ hạ lưu tình. Ông

thở dài một tiếng nói:

- Đinh lão tặc, gã sư mập kia ngoại thương dễ khỏi, nội thương khó

lòng, chỉ còn sống được vài ngày, ngươi nghĩ có thể bức bách ta cứu

người ư, thôi đừng mơ tưởng hão.

Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi:

- Tiết hiền điệt lại đây!

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Ngươi muốn giết ta cứ việc giết, dù ngươi nói gì chăng nữa, ta

quyết không nghe lời.

Lý Khổi Lỗi lại hát rằng:

Đại nghĩa thay con người Tiết ngũ,

Há sánh cùng Tô Vũ kém chi.

Hai chục năm nơi đất Hồ di,

Vẫn một dạ hướng về đất Hán.

Đinh Xuân Thu mỉm cười, đi đến cách Tiết Mộ Hoa chừng ba bước

thì đứng lại, tả chưởng để nhẹ lên đầu vai y mỉm cười hỏi:

- Tiết hiền điệt, ngươi tập luyện võ công được bao nhiêu năm rồi?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Bốn mươi nhăm năm.

Đinh Xuân Thu nói:

- Bốn mươi nhăm năm, đông qua hè đến không phải dễ. Nghe nói

ngươi dùng y thuật trao đổi võ học với người, học được không ít các

chiêu thức tinh diệu của nhiều môn phái, có đúng vậy không?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Ta học những chiêu thức đó cũng chỉ mong dùng để giết ngươi,

ngờ đâu ... ngờ đâu dù chiêu thức tinh diệu mực nào, gặp phải tà thuật

cũng đành vô dụng ... ôi!

Nói xong lắc đầu thở dài. Đinh Xuân Thu nói:

- Không phải thế. Dù gì chăng nữa, nội lực mới là gốc rễ, chiêu số

chỉ là lá cành. Gốc rễ có vững chắc, lá cành mới tốt tươi, chiêu số

không phải hoàn toàn vô dụng. Ngươi đầu nhập môn hạ ta, ta sẽ truyền

cho ngươi nội lực thiên hạ vô song, từ nay tung hoành Trung Nguyên

thật dễ như lật bàn tay.

Tiết Mộ Hoa giận dữ đáp:

- Ta đã có sư phụ rồi. Muốn Tiết Mộ Hoa này vào làm môn hạ

ngươi, thà ta đập đầu mà chết còn hơn.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Nếu muốn đập đầu mà chết cũng cần phải có sức mới được. Nếu

như nội lực của ngươi bị hủy mất rồi, đi một bước cũng đã khó, nói gì

đến chuyện đập đầu mà chết? Bốn mươi nhăm năm khổ luyện, ha ha,

tiếc nhỉ, thật đáng tiếc.

Tiết Mộ Hoa nghe thế mồ hôi trán vã ra, cảm thấy bàn tay y đặt

trên vai mình hơi nóng lên, hiển nhiên y chỉ cần hơi động tâm một chút

là sử dụng ngay Hóa Công Đại Pháp, bốn mươi nhăm năm cần tu khổ

luyện của mình, lập tức đổ ra sông ra biển. Ông nghiến răng đáp:

- Ngươi lòng lang dạ sói dám giết cả sư phụ, tàn hại sư huynh, có

giết thêm tám người chúng ta thì cũng có là gì đâu? Bốn mươi năm khổ

luyện của ta bị hủy đi trong một buổi quả đáng tiếc thật, nhưng đến

tính mệnh còn chẳng giữ được, nói gì khổ công hay không khổ công?

Bao Bất Đồng reo lên:

- Mấy câu đó quả là cứng cỏi. Môn hạ phái Tinh Tú làm gì có ai

anh hùng như thế?

Đinh Xuân Thu nói:

- Tiết hiền điệt, ta tạm thời không giết ngươi, chỉ hỏi ngươi tám

câu: “Ngươi có chịu chữa cho gã sư mập đó không?”. Câu thứ nhất

ngươi trả lời không chữa, ta sẽ giết đại sư huynh Khang Quảng Lăng

của ngươi. Câu thứ hai trả lời không chữa, ta sẽ giết nhị sư huynh Phạm

Bách Linh. Đứa sư muội thích trồng hoa của ngươi trốn đâu rồi? Thể

nào ta cũng kiếm ra nó. Câu thứ sáu hỏi ngươi không chữa ta sẽ giết

đứa sư muội xinh đẹp kia. Câu thứ bảy giết đến bát sư đệ Lý Khổi Lỗi.

Đến câu thứ tám hỏi ngươi, ngươi vẫn còn trả lời không chữa thì ngươi

thử đoán sẽ ra sao?

Tiết Mộ Hoa nghe y đưa ra phương pháp thảm khốc đó, mặt tái nhợt

run run đáp:

- Lúc đó ngươi sẽ giết ta thì cũng đâu có gì là lớn chuyện. Như thế

cả tám người cùng chết mà thôi.

Đinh Xuân Thu mỉm cười:

- Ta đâu có giết ngươi làm gì. Nếu câu thứ tám ngươi vẫn trả lời

không chữa, ta sẽ đi giết một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh Tô

Tinh Hà.

Tiết Mộ Hoa thất thanh kêu lên:

- Đinh lão tặc, ngươi có giỏi thì đụng tới một sợi lông sư phụ ta đi.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Có gì mà không dám? Tinh Tú lão tiên xưa nay hành sự độc lai

độc vãng, hôm nay nói mai đã quên. Ta tuy đáp ứng Tô Tinh Hà là nếu

như y từ nay không mở miệng nói thì ta không giết y. Thế nhưng ngươi

làm ta bực mình, học trò nợ thì thầy phải trả, ta muốn đến giết y thì

trên đời này còn ai ngăn ta nổi?

Tiết Mộ Hoa trong bụng rối như mớ bòng bong, biết rằng tên lão tặc

này bức bách mình chữa chạy cho Tuệ Tịnh là có dụng ý cực kỳ âm

độc, nếu ra tay trị bệnh cho gã sư mập thì có khác gì nối giáo cho giặc,

thế nhưng nếu mình nhất định không bằng lòng, tính mệnh bảy người

anh em không bảo toàn được đã đành, ngay cả sư phụ Thông Biện tiên

sinh cũng phải chết dưới tay y. Ông trầm ngâm một hồi nói:

- Được, ta đành chịu khuất phục, có điều ta chữa khỏi cho gã sư

mập rồi, ngươi không được làm khó các vị bằng hữu nơi đây cùng sư

phụ và các sư huynh đệ của ta.

Đinh Xuân Thu mừng lắm, vội đáp:

- Được, được, được! Ta bằng lòng tha cái mạng chó cho chúng nó.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Đại trượng phu hôm nay trúng phải độc thủ của bọn gian tà, chết

cũng đành, ai cần ngươi tha mạng?

Y vốn dĩ tiếng oang oang như chuông nhưng lúc này chân khí hao

tán hết rồi, ngôn ngữ tuy vẫn khẳng khái hiên ngang nhưng giọng thều

thào chẳng ra hơi. Bao Bất Đồng la to:

- Tiết Mộ Hoa, chớ có tin y, chính miệng tên cẩu tặc này vừa mới

nói, y nói mà chẳng giữ lời.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đúng đó, ngươi vừa mới bảo “hôm nay nói mai đã quên”.

Đinh Xuân Thu đáp:

- Tiết hiền điệt, ta hỏi ngươi câu thứ nhất: “Ngươi chữa hay không

chữa cho gã sư mập?”.

Y vừa nói vừa duỗi chân phải ra, gót chân nhắm vào huyệt Thái

Dương của Khang Quảng Lăng, hiển nhiên nếu Tiết Mộ Hoa chỉ nói:

“Không chữa” là y đạp xuống ngay, giết Khang Quảng Lăng ngay lập

tức. Mọi người ai nấy tim đập thình thình, bỗng nghe một người nói lớn:

- Không chữa.

Người la lên câu đó không phải Tiết Mộ Hoa mà là Khang Quảng

Lăng. Đinh Xuân Thu cười khẩy nói:

- Ngươi tưởng ta đạp một cái lấy mạng ngươi sao, đâu có dễ dàng

như thế.

Y quay lại nói với Tiết Mộ Hoa:

- Ngươi có muốn mượn tay ta giết tên đại sư ca này đi chăng?

Tiết Mộ Hoa thở dài:

- Thôi được! Thôi được! Ta bằng lòng chữa cho gã sư mập kia.

Khang Quảng Lăng chửi liền:

- Tiết lão ngũ, sao ngươi không biết nhục. Đinh lão tặc là đại cừu

nhân của sư môn, ngươi lẽ nào tham sống sợ chết, bị y uy hiếp phải

khuất phục?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Y giết anh em ta tám người cũng không có gì đáng kể. Thế

nhưng tên lão tặc này còn định đến gây chuyện với sư phụ nữa, sư ca

mới rồi không nghe y nói hay sao?

Nghĩ đến an nguy của sư phụ, bọn Khang Quảng Lăng không ai dám

nói thêm câu nào. Bao Bất Đồng nói:

- Nhát ...

Y định nói “nhát như cáy” nhưng y vừa mới nói được một chữ, Đặng

Bách Xuyên đã đưa tay bịt mồm y lại. Bao Bất Đồng đối với vị đại ca

này năm phần kính sợ, cố nhịn không chửi tiếp nữa. Tiết Mộ Hoa nói:

- Họ Đinh kia, ta đành phải khuất phục, trị bệnh cho nhà sư mập,

ngươi đối với bạn bè ta phải nể nang một chút.

Đinh Xuân Thu đáp:

- Được rồi, ta sẽ y lời ngươi.

Đinh Xuân Thu lập tức bảo đệ tử khiêng Tuệ Tịnh lại. Tiết Mộ Hoa

hỏi Tuệ Tịnh:

- Ngươi năm chầy tháng rộng tiếp xúc với các vật lợi hại để đến

nỗi hàn độc xâm nhập tạng phủ, ấy là loại gì thế?

Tuệ Tịnh đáp:

- Đó là băng tàm trên đỉnh Côn Lôn.

Tiết Mộ Hoa lắc đầu, không hỏi thêm nữa, trước hết châm cứu cho

y, sau đó lấy ra hai viên thuốc to màu đỏ chót cho y uống. Kế tiếp

người nào cần tiếp cốt thì ông tiếp cốt, người nào cần trị thương thì trị

thương, mãi đến lúc trời đã sáng bạch bấy giờ mới xong. Những người

bị thương chia nhau ra kẻ nằm trên giường, người nghỉ ngơi trên cánh

cửa tháo ra thay phản. Người nhà họ Tiết nấu mì đem ra cho mọi người

ăn.

Đinh Xuân Thu ăn hết hai tô mì rồi, quay sang cười với Tiết Mộ

Hoa nói:

- Cũng may ngươi hiểu thời vụ không bỏ thuốc độc vào trong đồ

ăn.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Nói đến sử dụng thuốc độc thì trên đời này còn ai hơn được ông?

Ta cũng có bụng ấy nhưng đâu dám đánh trống qua cửa nhà sấm.

Đinh Xuân Thu cười sằng sặc nói:

- Ngươi bảo gia nhân đi mướn cho ta mươi cỗ xe lừa.

Tiết Mộ Hoa hỏi lại:

- Làm gì mà phải cần mười cỗ xe?

Đinh Xuân Thu trừng mắt lên khinh khỉnh nói:

- Chuyện của ta ngươi hỏi làm gì? Tiết Thần Y ở đây chắc quen

biết nhiều, muốn mướn mười cỗ xe đâu phải là chuyện khó?

Tiết Mộ Hoa không biết làm sao hơn, đành phải dặn dò gia nhân ra

ngoài tìm xe. Đến trưa, mười chiếc xe lừa đã thuê đủ, Đinh Xuân Thu

nói:

- Đem giết hết các phu xe đi.

Tiết Mộ Hoa kinh hãi nói:

- Sao thế?

Chỉ thấy các đệ tử phái Tinh Tú vung chưởng lên, bộp bộp mấy

tiếng, mười người xa phu đã chết lăn dưới đất. Tiết Mộ Hoa giận dữ

nói:

- Đinh lão tặc, những người phu xe này có làm gì nên tội đâu?

Ngươi ... ngươi ... cớ gì lại hạ độc thủ?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Phái Tinh Tú muốn giết vài người, không lẽ còn phải xem có tội

hay không có tội, giảng đạo lý nữa hay sao? Tất cả các ngươi lên xe

hết cho ta. Không ai được ở lại! Tiết hiền điệt, ngươi có thuốc men,

sách vở gì thì mang theo người, ta đốt nhà ngươi đây.

Tiết Mộ Hoa lại càng kinh hãi, nhưng nghĩ lão quái này không

chuyện ác gì không làm, có nói cũng phí lời, các loại sách thuốc ông

đã đọc thuộc lòng, chẳng cần phải mang, thế nhưng bao nhiêu cao đơn

hoàn tán dày công chế tạo bằng những dược tài cực kỳ khó kiếm, thành

thử vừa dọn thuốc vừa luôn mồm chửi rủa. Ông chưa thu thập xong, các

đệ tử phái Tinh Tú đã châm lửa đốt phía sau nhà.

Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc trong phái Thiếu Lâm vốn đã được Huyền

Nạn dặn dò, muốn về chùa báo tin ngờ đâu Đinh Xuân Thu bố trí

nghiêm nhặt nên chạy chưa xa đã bị bắt lại. Bọn Huyền Nạn cả thảy

bảy người, Cô Tô Mộ Dung trang cả thảy bốn người, Hàm Cốc bát hữu

thêm tám người, tổng cộng mười chín người ngoại trừ Tiết Mộ Hoa

không bị tổn thương, ngoài ra nếu không bị Hóa Công Đại Pháp tiêu

hao nội lực thì cũng bị chưởng lực của Đinh Xuân Thu, hoặc phải hàn

độc băng tàm của Du Thản Chi, hoặc bị trúng độc của đệ tử phái Tinh

Tú thành thử không ai cử động được. Ngoài ra còn người nhà của Tiết

Mộ Hoa cũng chia nhau lên mười cỗ xe đó.

Còn đệ tử phái Tinh Tú chia ra kẻ làm xa phu, số còn lại cưỡi ngựa

đi bên cạnh áp tống. Xe bỏ màn xuống rồi còn dùng thừng buộc chặt,

bên trong tối như bưng, không nhìn thấy bên ngoài như thế nào. Huyền

Nạn cả bọn ai ai cũng nổi dạ nghi ngờ: “Tên lão tặc này đưa mình đi

đâu đây?”. Mọi người biết rằng nếu như mở miệng dò hỏi thì chỉ thêm

nhục, phái Tinh Tú nhất định sẽ không trả lời nên đành tự nhủ: “Tạm

thời nhẫn nại, đến đâu khắc biết”. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro