4. THIỀN SƯ Vân Phong (? - 956) (Một tên nữa là Chủ Phong)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Chùa Khai quốc(1) , kinh đô Thăng Long, người Từ Liêm, quận Vĩnh Khương(2) , họ Nguyễn. Khi mẹmang thai, bà thường ăn chay, tụng kinh, lúc sinh có ánh sáng lạ chiếu khắp nhà. Cha mẹ thấy điềm lạ,nên cho Sư đi xuất gia. Lớn lên, Sư theo hầu sư Thiện Hội ở Siêu loại làm đệ tử nhập thất(3) , lặng nắmhuyền chỉ, thiền học ngày thêm càng tiến triển. Hội có lần bảo Sư: "Sống chết là việc lớn, cần phải giảiquyết ngay". 

Sư hỏi: "Khi sống chết đến, làm sao tránh khỏi?" 

Hội đáp: "Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh". 

Sư hỏi: "Thế nào là chỗ không sống chết?" 

Hội đáp: "Ngay trong sống chết nắm lấy nó mới được". 

Sư hỏi: "Làm sao mà hiểu?" 

Hội đáp: "Ngươi hãy đi, chiều nay sẽ đến". 

Chiều Sư [8a1] lại vào, như đã hẹn, Hội bảo: "Đợi đến sáng mai đông đủ, sẽ chứng minh chongươi".   

Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy. 

Hội hỏi: "Ngươi thấy đạo lý gì?" 

Sư thưa: "Con đã lĩnh hội". 

Hội hỏi: "Ngươi hiểu như thế nào?". 

Sư đưa nắm tay lên, thưa: "Bất tiếu là cái này đây". 

Hội liền bảo thôi. 

Về sau, Sư mất vào năm Bính thìn Hậu Chu Hiển Đức thứ 3 (956).   

<----------------
Chú Thích:

1: Tây hồ chí, phần về Cổ tích, ghi: "Chùa Khai quốc ở tại bờ sông Nhị hà, phía bắc của hồ (Tây), nay là bến Yên phụ mé ngoài đê.Nguyên Nam Đế nhà Tiền Lý nhân nền cũ của chùa An trì của triều Hồng Bàng, mà dựng lên, nên có tên Khai quốc. Sau danhtăng triều Ngô là Nguyễn Vân Phong người Từ Liêm tu bổ lại. Trong khoảng hai triều Đinh và Lê, Quốc sư Ngô Khuông Việtthường trụ trì tại đó. Nhà Lý trùng tu lại". Đến phần về chùa chiên, Tây hồ chí lại ghi: "Chùa Khai quốc do Nam đế triều Tiền Lýnhân nền cũ chùa An trì, mà dựng lên. Chùa ở bến Yên Phụ trên bờ sông phía ngoài đê thuộc mạn bắc hồ. Khi họ Lý dời đô đến,có sửa sang lại. Những danh tăng như Lý Thảo Đường, Ngô Thông Biện, đến Viên Học và Tịnh Không đều có ở đó. Triều Trầnthường hay đến chơi. Trong khoảng Đại Bảo nhà Tiền (phải đọc là Hậu) Lê (1428 - 1789), vua ban tên An quốc. Tiên nhân TrầnTú Uyên sinh ở đó nên có tên vậy. Trong khoảng Hoằng định (1600 - 1618) nhà Hậu Lê, bờ sông bị lở, người trong ấp dời vàobên hồ, nay là chùa Trấn bắc". 

 Về chùa Trấn bắc này, nó viết tiếp: "Trấn bắc là chùa An quốc dời vào, đổi tên như vậy, nay ở trong phần đất phường Anphụ. Bãi Rùa trên hồ nguyên có điện Hàm nguyên của triều Trần việc dựng điện có nói trong phần về cổ tích, nền cũ nó vẫn còn.Năm Lê Hoằng Định thứ 16 (1615) sông lở, chùa gần sụp. Người trong ấp dời vào dựng lại ở đấy. Trong khoảng Chính hoà (1680- 1704), vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn quốc. Trong khoảng Vĩnh Hựu (1735 - 1739) và Cảnh Hưng (1740 - 1786) có nhữngdanh Tăng như Hà Giác Quan, Đỗ Tu Ma, Đỗ Trung Nghĩa đều ở đó. Ba tháp Thông quang, Linh quang và Viên quang cùng tượngcủa họ hiện còn. Đời Gia Long của triều ta, Bùi phương trượng kế đăng, tháp Tịch quang của Sư này nay vẫn còn. Đầu đời ThiệuTrị, vua tuần du Bắc hà, đổi tên chùa là Trấn Bắc, sắc cho quan tỉnh làm bảng vàng treo, nay còn". Đó là lai lịch chùa Khai quốccủa thủ đô Hà nội viết vào khoảng sau năm 1851, năm Nguyễn Đăng Giai được bổ làm kinh lược sứ sáu tỉnh miền Bắc, mà Tây hồchí nhắc tới. Đây là niên đại chậm nhất xuất hiện trong nó. Về chùa Trấn bắc này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết:"Chùa Trấn bắc vốn tên là chùa Trấn quốc, ở bên Hồ Tây, phường Yên phụ, huyện Vĩnh Thuận, xây vào khoảng Lê Hoằng Định(1600 - 1618) đến khoảng Vĩnh Tộ (1619 - 1628) thì trùng tu nên cơ sở trở nên rộng rãi, cảnh trí trở nên đẹp đẽ. Bi ký của Trạngnguyên Nguyễn Xuân Chính viết đang còn. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) triều ta vua ban cho chùa 20 lạng bạc. Đến năm ThiệuTrị thứ hai, vua xa giá đến chơi cúng chùa một đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền kẽm, đổi biển chùa làm chùa Trấn Bắc". 

2: Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6 nói: "Vào thời Lý, Trần, đặt trấn Vĩnh Khương, ở Từ liêm". Về huyện Từ liêm, Đại nam nhất thống chí,tỉnh Hà nội, viết: "Huyện Từ liêm, từ đông sang tây rộng 11 dặm, từ bắc xuống nam rộng 14 dặm, đông đến huyện Vĩnh thuậnmột dặm, tây đến địa giới huyện Đan phụng 10 dặm, nam đến địa giới huyện Thanh trì, phủ Thường tín 5 dặm, bắc đến bờ sôngNhị hà đối diện với địa giới huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh và huyện An lãng, tỉnh Sơn tây 9 dặm. Đời Hán là đất huyện Luy lâu.Đời Tuỳ đổi làm huyện Giao chỉ. Đường Vũ Đức năm thứ tư (621) cắt ra, đặt tên huyện Từ liêm, rồi đặt Từ châu vì huyện đó cósông Từ và sông Liêm, nên gọi tên đó. Năm thứ 6 (623) đổi làm Nam Từ châu. Năm đầu Trinh Quán (627) bỏ châu đó đi, đem bahuyện sáp nhập vào huyện Giao chỉ thuộc Đô hộ phủ. Sau phục nguyên tên huyện chưa rõ đời nào. Đời thuộc Minh, nó thuộc phủGiao châu. Đời Lê Quang Thuận nó thuộc thống hạt của phủ Quốc oai tỉnh Sơn tây. Năm đầu Gia Long triều ta nhân theo. NămMinh Mạng thứ 12 (1832) cải thuộc phủ Hoài đức kiêm lý, gồm 13 tổng, 87 xã thôn sở". Nay là đất huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây. 

3:  Nhập thất đệ tử, chỉ người đệ tử đắc ý nhất. Ý nghĩa rút ra từ câu "Do giả thăng đường hỷ, vị nhập ư thất giả" của chương Tiêntiến trong Luận ngữ. Xem Luận ngữ 11 tờ 3b7.   

---------------------------------->

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro