Bài Tựa In Lại Thiền Uyển Tập Anh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

[1a1]

Thiền uyển tập anh, sao dùng nghĩa đó? Xin thưa, dùng sự anh tú của nó làm nghĩa vậy. Sao thế?

Người theo Thiền tôn cố nhiên là nhiều, nhưng kẻ biết lẽ huyền thật ra lại hiếm: chính như một con phụng giữa bầy gà, một cây lan trong đám cỏ. Nếu chẳng phải phú bẩm anh dị, tri kiến siêu quần, làm sao thấu được ý chí huyền vi, để có thể làm lãnh tụ cho kẻ hậu học và mô thức cho người đời sau?

Đáng tin thay! Trong vườn Thiền, người anh kỳ là hiếm, nhân đấy trích lấy những bậc danh công, thạc đức để làm tỏ sự tổ thuật của Thiền học. Nên cái nghĩa của Tập anh chính do đó mà có tên.

Kể từ hỗn độn bắt đầu, bấy giờ có Phật Uy Âm xuất thế(1) , sáng làm tị tổ của Thiền tôn. Nhưng thời ấy, tục còn thuần hậu, người nhiều chất phác, kinh giáo ở tại hư không [1b1], không cần nói ra để làm máy hóa độ. Kẻ nào lấy ma làm Phật kẻ đó trá ngụy ngày càng sinh, gian dâm ngày càng dấy, nghiệp nợ kết đầy, chướng tội thêm thẳm. Nếu chẳng dùng đến thuyền từ cứu vớt, thì chẳng thể được.

Cho nên cha cả Thích Ca xuất hiện ở Ta Bà(2), vì họ mà nói ra kinh kệ, dạy dỗ chúng sanh, chín kiếp vượt tu(3) , công thành quả mãn. Do thế, Phật giáo đại hành, Thiền tôn tiếp nối, như gió thổi qua sáu nẻo(4) , để đem mát lành, tuyết rơi trên ba đường(5) để dẹp nóng dữ. Bí quyết thành Phật làm Tổ, từ đó mới mở được mối manh.

Nước Đại Việt ta, lời Phật thấm nhuần khắp cả, mưa pháp sóng gội nhiều nơi, cắt tóc xuất gia, chứng ấn ngộ không thì cũng có người. Về hành tích, lòng Thiền họ sáng như mặt trời, gương đạo trong như giá băng. Có người ra đời để giúp nước an dân, có kẻ nhập thế để đỡ ngã, vớt chìm. Có người sớm ngộ ấn tâm, chống gậy làm thần diệu cơ mầu của Đạt Ma(6) [2a1]. Có kẻ muộn vào cửa Thiền, chú sen(7) khiến hiển hiện bí quyết của Đồ Trừng. Còn những vị, chim rừng chuộng niềm đức, nghe kinh trong cửa, dã thú mến lòng nhân, cửa bếp dâng cơm. Đó là lòng thành cảm cách đã hiệp, chỗ học thần hóa được xong, há chẳng là sự mầu nhiệm của bốn mắt nhìn nhau ư ! Thật đã đủ để làm bậc anh tú trong vườn Thiền vậy.

------------------------------

Chú thích:

1: Uy Âm Phật: tức Đức Phật đầu tiên của thế giới Không kiếp, trước đó không có một Đức Phật nào hết. Cho nên tên Đức Phật này được dùng để chỉ cho ranh giới giữa giai đoạn lúc chưa có sự phân biệt của chúng sanh và giai đoạn sau đó khi đã có sự phân biệt. Xem Pháp hoa thông nghĩa 6 và Tổ đình sự uyển 5.

2: Ta bà: Phạn: Sahà, tên thế giới của chúng ta, được định nghĩa là thế giới "chịu nhận ba thứ độc (tức tham, sân, si) và các loại phiền não". Xem Bi hoa kinh 5 tờ 119c 22-23.

3: Cửu kiếp lịch tu: Điển tích Phật Thích Ca, nhờ ngợi ca Đức Phật Phất Sa bằng bài tán:

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật

Thập phương thế giới diệc vô tỉ

Thế gian sở hữu ngã tận kiến

Nhất thiết vô hữu như Phật giả.

trong khi đang làm một vị Bồ Tát trên đường đi tới giác ngộ, mà đã có thể thâu ngắn thời gian tu hành của mình bằng cách vượt được chín kiếp, để trở thành Phật Thích Ca, trong khi Di Lặc còn phải đợi chín kiếp nữa. Xem Đại trí độ luận 25 tờ 87b27.

4: Lục đạo: cũng gọi là Lục thú, tức chỉ cho sáu con đường sống sáu lối sống, đây là con đường sống của thiên thần, của con người, của phi thiên, của súc sanh, của quỉ đói và của địa ngục.

5: Tam đồ: tức ba con đường, đấy là: 1. con đường lửa chỉ cho chỗ lửa dữ của địa ngục, 2. Con đường máu chỉ cho thế giới ăn nuốt lấy sinh mạng của nhau tức loài súc sanh và 3. Con đường đao kiếm chỉ cho thế giới đấu tranh bức hiếp lẫn nhau tức loài quỷ đói.

Xem Tứ giải thoát kinh.

6: Tức Bồ Đề Đạt Ma, Phạn Bodhidharma, đến Trung quốc vào năm 520 và mất năm 528, người được coi thực sự khai sáng ra nền thiền Trung quốc. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 3 tờ 217a9 - 220b25 và Tục cao tăng truyện 16 tờ 551b27 - c26 và Lịch đại pháp bảo kỳ tờ 180 c3 - 181a18.

7: Tức Phật Đồ Trừng (232 - 348). Chú sen có nghĩa là đọc chú làm cho hoa sen mọc lên từ một bát nước. Sự tích lấy từ truyện Trừng gặp Thạch Lặc, và Lặc hỏi Trừng về chuyện "Đạo Phật có linh nghiệm gì? Trừng biết Lặc không hiểu tới lẽ sâu của Đạo, nên có thể dùng đạo thuật để làm bằng cớ, nhân đó nói rằng: "Đạo cả tuy xa, nhưng có thể lấy việc gần để làm chứng". Bèn lấy một cái bình bát đựng đầy nước, đốt hương và niệm chú thì phút chốc mọc lên một hoa sen xanh, sắc đẹp sáng chói mắt. Lặc do đó tin phục. Xem Cao tăng truyện 9 tờ 383c3 - 10.

--------------------------------------

Ôi ! Phật đạo chí huyền, mà lòng lại huyền ở trong huyền(1) . Phật đạo rất lớn mà lòng lại lớn ở trong lớn. Lòng ư ! Lòng ư ! Nó là cái chủ tể của sự tu đạo ư !

Một sách Thiền uyển này, bắt đầu từ Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền đạo, đèn đèn nối nhau, ánh ánh huy hoàng, song rút gọn lời dài, làm ngắn chuyện rộng thì cũng đều cái lòng ấy là Chánh giác vô thượng vậy. Xét nguyên do nó, nếu chẳng phải gột rửa sáu trần, rời bỏ bốn tướng(2) mà có thể được như thế sao?

Tôi ròng học sách Nho, xem [2b1] thêm kinh Phật, xét về lý hữu vô của chúng, tuy nói là hai đường, nhưng khảo về chỗ quy kỉnh thì tợ cùng một lẽ. Nhân khi rảnh rỗi giảng dạy ở trường(3) , gặp một bạn thiền đến bàn lời Phật, đối thoại hồi lâu, là những vấn đề lông rùa sừng thỏ. Ông nhân đó lấy ra từ trong tay áo, có Tập anh một tập nhờ tôi chỉnh cú, để tiện in lại, nhằm khỏi sai lầm. Tôi xem trong sách ấy có nhiều cao thiền, danh tổ, học tu hết sức, chứng ngộ rất thiêng bất giác ttrong lòng vừa kính vừa phục. Họ bàn không, nói giác, đấy đương nhiên không phải nằm trong phần việc của tôi.

Nhưng kinh Dịch có nói: "Trẻ nhỏ cầu ta"(4) . Cho nên, tôi không thể không theo lời xin của ông để sửa lại những chữ thiếu và mất, thêm vào những chỗ sót và thoát lạc. Trong khoảng tuần nhật, lời văn nghĩa lý của sách này rõ ràng trở lại như xưa, không kém gì ánh trăng thêm sáng. Ông nhân đó xin tôi một bài tựa dùng để khắc vào đầu sách, nhằm hiển dương Phật giáo [3a1]. Tôi không tiếc công, cho gọi đứa ở đến trước mặt, bảo lấy bút giấy, chuẩn bị viết lách, rồi thảo một thiên lời quê. Ông nhân đó vái chào mà nhận. Cẩn tự.

In lại vào ngày tốt tháng tư năm Lê Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715).

[3b1] Thác tích của Thiền tôn: Thích tử Như Trí

Môn đồ:

Sa di

Tính Nhu

Tính Xuyến

Tính Trung

Tính Huy

Tính Kiến

Tính Bổn

Thiện nam tử

Tính Phận

Tính Thành

Tính Từ

Tính Hưng

Tính Minh

Tính Băng

Thiện nữ nhân

hiệu Diệu Tặng

hiệu Diệu Đạo

Tính Phụng

--------------------------

Chú thích:

1: Huyền trung chi huyền: Đây là một trong ba thứ huyền của phái Lâm tế, đấy là: 1. Huyền trung huyền, 2. Thể trung huyền và 3. Cú trung huyền. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 311b19. Xem thêm Lão Tử, Đạo đức kinh thượng thiên tờ 1b3, Huyền chi hựu huyền, Chúng diệu chi môn.

2: Sáu trần: tức sáu đối tượng của sáu giác quan, mà thông thường thì gồm sắc là đối tượng của mắt, thanh là đối tượng của tai, hương là đối tượng của mũi, vị là đối tượng của lưỡi, xúc là đối tượng của thân, và pháp là đối tượng của ý.

Bốn tướng: tức bốn diễn trình của sự vật, đấy là sự sinh ra, sự trì giữ, sự thay đổi và sự diệt chết. Xem Câu xá luận 5 tờ 27a12 - 20a9.

3: Chiên đường: Điển lấy từ việc Dương Chấn (? - 124) dạy học, trước nhà có treo bảng một con chim ngậm trong mỏ ba con cá chiên, nên sau này người ta gọi nhà chiên hay chiên đường, để chỉ chỗ các thầy đồ dạy học. Xem Hậu Hán thư 84 tờ 1b5-9.

4: Dẫn Chu dịch: "Quẻ Mông": "Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã". Xem Chu dịch 1 tờ 9a3.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro