THIÊN VĂN HỌC CỔ TRUNG HOA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

II. ĐIỀM TRỜI VIỆC NGƯỜI TƯƠNG ỨNG VỚI NHAU

Các triều đại Trung Hoa sau này thường cho rằng mỗi khi có điềm trời gì khác lạ, thì ở trần gian trước sau cũng sẽ có những chuyện tương ứng sẽ xảy ra.

Tư Mã Thiên đã ghi trong bộ Sử Ký của ông nơi sách Thiên quan như sau:

«Trong vòng 242 năm đời Xuân Thu có 36 lần nhật thực, 3 lần sao chổi hiện. Đời Tấn Tương Công có vẫn thạch rơi xuống như mưa.

«Thiên tử suy yếu, chư hầu cai trị bằng vũ lực. Ngũ bá thay nhau mà cầm quyền, lấy lệnh mình thay lệnh vua. Thế rồi, đông hiếp ít, lớn hiếp bé. Tần, Sở, Ngô, Việt tuy là di địch nhưng cũng xưng bá một phương.

«Năm thứ 15 đời Tần Thủy Hoàng, sao chổi xuất hiện 4 lần, lần lâu nhất là 80 ngày, dài suốt cả khung trời.

«Sau đó Tần hưng binh diệt 6 nước, thôn tính Trung Quốc, đuổi di địch bốn phương, người chết như rạ.

«Về sau, khi nước Sở dấy lên, trong vòng 30 năm, binh sĩ dày xéo lên nhau chết không biết cơ man nào mà kể. Từ thời Si Vưu đến lúc bấy giờ, chưa hề có như vậy bao giờ.

«Khi Hạng Võ cứu Cự Lộc, thì sao chổi Uổng Thỉ xẹt phía trời Tây. Phía Đông, chư hầu bèn hợp tung; phía Tây người ta giết dân Tần, và tàn sát dân chúng đất Hàm Dương.

«Khi nhà Hán hưng lên, có ngũ tinh liên châu (5 sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) thẳng hàng nhau nơi chòm sao Đông Tỉnh (năm thứ 7 đời Hán Cao Tổ, năm 200 tcn).

«Khi Hán Cao Tổ bị vây ở Bình Thành, trăng quầng 7 vòng ở chòm sao Sâm, Tất.

«Khi họ Lã phản loạn, có nhật thực và ngày trở nên hôn ám.

«Khi 7 nước phản loạn (trong đó có Ngô, Việt) thì sao chổi hiện ra dài mấy trượng và sao Thiên Cẩu (cũng là một loại sao chổi) xẹt qua không phận nước Lương. Sau đó binh cách xảy ra và trong vùng đó, người chết đầy dãy, máu chảy chan hòa.

«Những năm Nguyên Quang (134-129) và Nguyên Thú (122-117) đời Hán Vũ Đế sao chổi cờ Si Vưu lại xuất hiện hai lần, dài choán nửa vòm trời.

«Sau đó quân ở kinh sư xuất chinh 4 lần, giết Hung Nô trong vòng mấy chục năm, chinh phạt rợ Hồ còn khốc liệt hơn nữa.

«Khi nước Việt mất (111 tcn) sao Huỳnh Hoặc (Hỏa Tinh) đóng ở chòm sao Đẩu (sao Nam Đẩu là phân dã của Ngô- Việt). Khi Cao Ly bị diệt (108 tcn) có sao chổi hiện ra ở vùng Hà Giới (ở vào các chòm sao Nam Hà và Bắc Hà).

«Khi quân ta hạ nước Đại Uyển, sao chổi hiện ra nơi sao Chiêu Diêu.

«Đó là đại khái những hiện tượng chính, còn những hiện tượng nhỏ thì không sao kể xiết. Như vậy, mỗi khi có một hiện tượng lạ trên trời, là sẽ có một biến cố dưới đất ứng với.» [5]

Tấn Thư- Thiên văn chí sau này cũng ghi các biến tượng trên trời song song với các biến cố dưới đất trong vòng khoảng 200 năm, từ năm 250 đến 450.

III. THIÊN VĂN VÀ LỊCH SỐ

Đời xưa cần biết thiên văn để làm lịch số. Lịch số cốt là cho ngày tháng gian trần được tương ứng với sự vận chuyển của mặt trời mặt trăng. Do đó đoán định đại khái trước được thời tiết, và biết ngày giờ thuận tiện mà làm các công việc nông tang.

Nhà vua xưa giành lấy độc quyền làm lịch. Theo Nguyệt Lệnh thì đời xưa phát lịch năm tới vào tháng cuối thu năm trước.

IV. BẦU TRỜI LÀ ĐÀI QUAN SÁT HẠ GIỚI

Các vua chúa Trung Hoa xưa còn dùng bầu trời như là một đài quan sát để kiểm soát, để theo dõi tình hình các miền trong nước và phiên trấn.

Vì thế mới phân trời đất thành châu, thành dã; mỗi vùng trời lại ứng với vùng đất, rồi nhân các điềm trời xảy ra ở vùng trời nào thì biết được các biến cố sẽ xảy ra ở vùng đất nào.

V. THIÊN VĂN VÀ QUÂN SỰ

Đời xưa, phàm là tướng soái giỏi đều phải biết thiên văn.

Lưu Địch, vị quân sư tương lai của Tống Từ Vận, đêm nọ vào ngủ nhờ nơi miếu của Gia Cát Võ Hầu. Đến đêm, được Võ Hầu ứng mộng truyền cho ba quyển thiên thư. Võ Hầu bảo Lưu Địch: «Lưu Địch, ngươi hãy ngồi đó đặng ta truyền thụ cho ngưới ba cuốn thiên thư của ta, đã để nơi phía sau lưng của ta đây. Vậy ngươi phải cất lấy sách mà đọc thuộc, thì ngươi sẽ có kế định quốc an bang, lục thao tam lược. Đây này, cuốn thứ nhất nói về việc thiên văn, coi xét nhật, nguyệt, tinh, thần, phong, sương, lôi, vũ mà rõ biết thời vận thịnh suy. Cuốn thứ nhì thì coi về việc quá khứ vị lai, lành dữ thế nào và dạy vẽ việc hành binh bố trận. Cuốn thứ ba thì dạy việc địa lý, bày kiểu cách mai phục, lên núi xuống sông thế nào, và dạy thế đạp cang bộ đẩu mà phá trừ yêu thuật. Mấy lời ta dặn đó thì ngươi phải ghi tạc vào lòng, đặng có bảo phò chân chúa, giúp vận quốc gia.» [6]

Truyện này chân giả khó lường, nhưng nó cho ta biết những điều kiện cần phải có của một vị nguyên nhung hay của một vị tham mưu trong quân lữ.

Muốn biết thiên văn quan trọng thế nào đối với vấn đề quân sự, ta hãy đọc đoạn Tam Quốc sau:

Tư Mã Ý đem 40 vạn quân đi đánh Thục. Khổng Minh sai hai tướng Vương Bình và Trương Ngục đem một nghìn quân ra ngả Trần Thương để chặn quân Ngụy.

Hai tướng nghe lệnh giật mình hỏi:

- Nghe tin báo: quân Ngụy kéo tới 40 vạn, nói phao lên là 80 vạn, thanh thế quá lớn như vậy, sao Thừa Tướng chỉ cho một ngàn quân đi giữ ải? Nếu quân Ngụy ào đến thì chúng tôi chống làm sao?

Khổng Minh giục:

- Thôi cứ đi đi. Ta cũng muốn cho nhiều, nhưng sợ quân sĩ thêm vất vả…

Hai tướng ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám đi. Khổng Minh nói:

- Nếu sa sẩy chuyện gì thì không phải lỗi ở các người ! Thôi đừng nói nữa, lập tức đi cho mau !

Hai tướng càng sợ, mếu máo bẩm:

- Nếu Thừa Tướng muốn giết hai chúng tôi, xin hãy giết ngay đây. Chúng tôi thực không dám đi !

Khổng Minh bật cười rồi giảng giải rằng:

- Sao mà ngu đến thế ! Đã sai đi tức là ta đã có chủ kiến rồi chứ? Đêm qua ta đã xem thiên văn, thấy sao Tất đi xen vào thiên phận Thái Âm, ắt trời sẽ mưa dầm dề suốt tháng này. Thế thì quân Ngụy dù có 40 vạn cũng chẳng dám vào sâu nơi đường lầy núi hiểm. Cho nên ta chẳng đưa nhiều quân ra làm gì cho vất vả. Các ngươi nhất định không «bị hại» đâu ! Ta đem đại quân ra Hán Trung, cứ việc đóng lại một tháng nghỉ ngơi cho khỏe. Đợi Ngụy quân bị mưa dầm khốn khổ phải rút lui ta mới xua đại binh truy kích, thong thả đánh kẻ mệt mỏi, ắt 10 vạn quân ta thắng 40 vạn quân Ngụy !

Vương Bình, Trương Ngục vỡ lẽ mới hớn hở bái từ ra đi…

Mà quả thực Tư Mã Ý xem thiên văn biết sẽ có mưa dầm, nên truyền lệnh án binh bất động.[7]

VI. ẢNH HƯỞNG TÂM LÝ CỦA THIÊN VĂN

Thiên văn có ảnh hưởng lớn lao đến tâm lý dân gian, vì thế các chính trị gia thường lợi dụng thiên văn để đánh đòn tâm lý quần chúng.

Khi Vương Mãng tiếm ngôi nhà Hán, Lưu Tú – một hậu duệ của nhà Hán muốn phục hưng cơ đồ – đã dùng chiến thuật này. Ông được coi là sao Tử Vi, còn những tướng tá phụ bật ông đều được coi là hàng Nhị thập bát tú giáng trần. Ví dụ Sầm Bành là Vĩ Hỏa Hổ, Mã Võ là Khuê Mộc Lang, Ngô Hán là Cang Kim Long, v.v.[8]

VII. THIÊN VĂN VỚI CÁC TRIỀU ĐẠI TRUNG HOA

Vì các điềm trời có ảnh hưởng lớn lao đến nhân sự như thế, nên khoa thiên văn được vua chúa Trung Hoa hết sức sùng thượng.

Vua Nghiêu tỏ ra rất thông thiên văn,[9] vua Thuấn đã biết dùng Tuyền ky để độ 7 sao Bắc Đẩu.[10]

Thời vua Trọng Khanh nhà Hạ (2159-2146), hai nhà thiên văn Hi Hòa đã tỏ ra trễ nãi không đoán trước được nhật thực xảy ra vào năm 2154, nên vua đã sai Dậu hầu cử binh đi chinh phạt Hi Hòa. Câu chuyện còn ghi nơi thiên Dậu chinh trong Thư Kinh.

Theo Hồng Phạm Cửu Trù thì một vị vua xứng đáng với danh nghĩa phải thông thiên văn lịch số.

Chính vì thế mà trong chương trình giáo hóa các vị đông cung thái tử, tức là các vị vua tương lai, ta thấy có môn thiên văn. Trong bài «Cách huấn luyện một vị hoàng đế tương lai» (L’instruction d’un futur empereur de Chine en l’an 1193) đăng trong tập I bộ Đông Phương Ký Sự (Mémoires concernant l’Asie Orientale) của Sénart, Barth, Chavannes và Cordier; Chavannes đã cống hiến cho ta đầy đủ tài liệu về vấn đề này.

Các vua chúa xưa thường xây Linh Đài gần nhà Minh Đường để xem tinh tượng.

Đức Khổng cũng rất am tường về thiên văn, ngài viết Xuân Thu, tức là một bộ sử mà đã nhiều lần lấy thiên văn phối hợp với nhân sự. Đường lối này đã được các sử gia Trung Hoa bắt chước. Đọc Sử Ký Tư Mã Thiên hay Tấn Thư ta sẽ thấy rõ điều đó.

Xuân Thu Tả Truyện chép: «Mùa Đông tháng 12 (năm Ai Công XII) có châu chấu phá hoại. Quí Tôn hỏi Khổng Tử. Khổng Tử đáp: «Khâu tôi nghe rằng: chiều mà không thấy sao Hỏa nữa thì côn trùng ẩn phục hết. Nay sao Hỏa vẫn còn thấy chuyển vận về phía Tây. Chắc các nhà làm lịch đã nhầm.»

Ý nói nay theo lịch là tháng chạp. Đáng lý ra thì sao Hỏa không còn thấy được vào buổi chiều. Sâu bọ phải ẩn phục hết rồi, vì lạnh. Thế mà nay sao Hỏa vẫn còn thấy hiện, côn trùng còn phá phách, như vậy các nhà làm lịch đã nhầm, đáng lẽ phải có tháng nhuận nữa mới phải.

Mạnh Tử cũng luận về thiên văn như sau: «Trời thì cao lồng lộng, các ngôi tinh tú thì xa tít mù, nhưng nếu người ta để tâm tìm tòi việc vận hành tự nhiên của tinh tú, người ta có thể ngồi một chỗ mà biết rất đúng thời tiết đông chí trong mỗi năm, dẫu đến ngàn năm cũng không hề sai vậy.» [11]

Các vua chúa về sau, nhất là từ thời Hán trở đi, thường coi thiên văn là một bộ của triều đình. Nơi kinh đô thường có hai đài thiên văn, một đài là Thiên Văn Viện ở ngay trong cung, một đài là Tư Thiên Giám ở ngoài cung. Hai đài hằng đêm xem tinh tượng, rồi đối chiếu với nhau để trình lên nhà vua. Những hiện tượng quan trọng đều được ghi lại cho hậu thế.[12]

Tấn Thư chẳng hạn đã ghi chép tất cả các biến cố trên trời từ nhật thực, nguyệt thực, đến sao chổi, đến yêu tinh, yêu khí, tường vân, thụy khí xảy ra trong vòng mấy trăm năm , từ 250 đến 450.

Vua Văn Tông (827-840) nhà Đường còn ra sắc chỉ cấm các nhà thiên văn học tiếp xúc với các bộ khác hoặc với thường dân để khỏi tiết lộ bí mật.[13]

Sau này, đời Khang Hi (1662-1723), ta thấy các giáo sĩ dòng Tên như Ferdinand Verbiest, Terrentius, Schall von Bell, James Rho (La Nhã Cốc), Nicholas Longobardi (Long Hoa Dân) đã dùng thiên văn để chinh phục vua và triều đình Mãn Thanh, tức là dùng thiên văn để dọn đường cho cuộc giảng giáo Phúc Âm tại Trung Hoa.[14]

Mới hay thiên văn quan trọng là vậy.

Để kết thúc chương này, ta nhận định như sau:

Thiên văn học Trung Hoa xưa có một điểm rất đặc biệt: Ấy là xem thiên văn không phải là để ghi nhận những biến tượng trên trời, nhưng mà còn là để đoán định xem điềm trời ấy ứng vào ai, vào năm nào, xứ nào, và sẽ đem lại hậu quả gì. Đoán rồi lại còn phải theo dõi xem biến cố xảy ra có đúng như lời dự đoán hay không.

Ví dụ, Xuân Thu chép:

1. Mùa Đông có sao chổi hiện ra ở chòm sao Đại Thần (Thiên Yết), năm ấy là năm Chiêu Công XVII, tức là 524.

2. Đoán: sao chổi hiện ra nơi sao Hỏa, như vậy sẽ có hỏa hoạn tại các vùng ứng với sao Hỏa, đó là các nước Tống, Vệ, Trần, Thịnh.

3. Biến cố đã thực sự xảy ra: Xuân Thu chép mùa hè, tháng 5 (năm Chiêu Công XVIII, tức 523), ngày Nhâm Ngọ, Tống, Vệ, Trần, Thịnh bị hỏa tai.

Như vậy biến cố đã xảy ra đúng với lời đoán năm trước.

Ví dụ như trong Tam Quốc, Khổng Minh xem thiên văn biết trước sẽ mưa dầm một tháng. Sự việc xảy ra đã đúng như sự tiên đoán của Khổng Minh.

Như vậy không thể bảo người xưa đoán liều được. Chúng ta chỉ có thể nói rằng: những điềm trời có ảnh hưởng gì đến nhân sự hay không? Và dĩ nhiên chúng ta phải trả lời rằng có.

Chúng ta không thể nói được rằng ngày nay khoa học đã chứng minh nhật thực, nguyệt thực, sao chổi hoặc các vết trên mặt trời mọi sự xảy ra đều có định kỳ, như vậy thì làm gì có chuyện lành dữ, tốt xấu.

Nhận định như vậy thiết tưởng không sâu sắc và cũng không khoa học. Bởi vì, ngày nay khoa học bắt đầu công nhận các hiện tượng thiên nhiên có ảnh hưởng đến các biến cố dưới đất.

Các khoa học gia mới chú trọng đến những hiện tượng trên mặt trời như những vết đen (taches solaires) hay những sự phun lửa trên vòng sắc cầu (éruptions chromosphériques).

Nhiều khoa học gia đã đưa ra giả thuyết rằng có nhiều loại biến cố dưới đất có liên lạc với những vết đen trên mặt trời và tăng giảm theo chu kỳ vết đen là 11 năm. Ví dụ: giá lúa mì, nạn thất nghiệp, những tảng phù băng (icebergs), ôn dịch, mưa gió, điên cuồng, chiến tranh, v.v. Đã đành về nhiều điểm cũng chưa chứng minh được rõ ràng, tuy nhiên, nay ai ai cũng công nhận:

- Các vết đen có ảnh hưởng đến từ trường mặt đất và có thể gây nên những cơn giông tố từ lực (orages magnétiques).

- Sự xuất hiện của các vết đen làm cho bầu điện tử của trái đất bị xáo trộn (pertubations ionosphériques).

- Chu kỳ các vết đen ảnh hưởng đến sự phát triển của thảo mộc. Nếu cưa một thân cây ra ta sẽ thấy nhiều vòng khoanh tròn, mỗi khoanh tròn tiêu biểu cho sự tăng trưởng của cây trong một năm.

Gặp những năm mà mặt trời có nhiều vết đen, thì những khoanh nơi cây ấy dầy hơn, chứng tỏ rằng những năm ấy nóng hơn, ẩm thấp hơn, và làm cho cây cối được phát triển nhiều hơn.[15]

Linh mục Théophile Moreux, đồng thời cũng là một nhà thiên văn học, là người đầu tiên đã lưu ý đến ảnh hưởng của mặt trời đối với sức sản xuất của lúa mì và rượu nho. Ông cũng nhận ra rằng mỗi khi có những sự thác loạn về từ trường thì trong các học đường học trò bị phạt nhiều hơn, và ngoài đời thì bệnh sưng khớp xương nhiều hơn.

Từ năm 1922, bác sĩ Maurice Faure cùng với nhà khoa họx Joseph Vallot đã công nhận rằng: cứ mỗi khi mà mặt trời phun lửa, thì dưới đất xảy ra rất nhiều biến cố như chết bất ưng, tự tử, tội ác, tai nạn xe hơi hay hầm mỏ, các bệnh kinh niên tái phát, v.v. Ông bèn lập ra khoa vũ trụ sinh lý học (cosmobiologie) và đến năm 1932 lập ra một hiệp hội quốc tế để khảo sát vấn đề này.

Năm 1938, một giáo sư người Nga là Tchijevski cho xuất bản một cuốn sách lớn cho rằng mặt trời là chủ xướng về các vụ ôn dịch. Ông cho rằng cứ vào những thời kỳ hoạt động cao nhất của chu kỳ mặt trời là hay có dịch tả. Có lẽ vi thời kỳ đó, mặt trời phát ra nhiều làn sóng ngắn hơn, làm cho vi trùng dễ nảy nở hơn.

Năm 1959, các ông Poumailloux và Viart thông báo cho Hàn Lâm Viện Y Khoa biết rằng các bệnh tắc nghẽn mạch máu tim (infarctus) bị ảnh hưởng của các biến chuyển mặt trời và xảy ra những khi từ trường trái đất bị xáo trộn,

Năm 1960, Hàn Lâm Viện Khoa Học Leningrad xác nhận rằng những người bị bệnh tim hay bệnh mạch máu dễ bị ảnh hưởng bởi các cuộc phun lửa của mặt trời…

Theo sự điều tra của Picardi đồng thời căn cứ vào những nhận định của các nhà khoa học nổi tiếng là đứng đắn, chúng ta có thể nói được rằng những nhận định trên không phải là những ý kiến mơ hồ, vô căn cứ, mà chính là những sự kiện đã được kiểm chứng. Tương lai sẽ trả lời về vấn đề này.[16]

Nếu chúng ta chấp nhận mặt trời ảnh hưởng đến nhân sự, thì chúng ta cũng phải chấp nhận mặt trăng và các ngôi sao cũng ảnh hưởng đến nhân sự. Trong trường hợp này, thiên văn Trung Hoa với tiêu đề «Điềm trời ứng với việc người» vẫn còn là một thách đố cho trí thức con người và vẫn còn là một cửa ngõ rộng mở cho những chương trình khảo cứu về thiên văn mai hậu.

 . PHƯƠNG PHÁP XEM SAO

Trên nguyên tắc, người ta có thể quan sát được tinh tượng, tiên tượng:

- Sáng sớm, lúc mặt trời mọc (giờ Mão).

- Trưa, lúc mặt trời chính ngọ (giờ Ngọ).

- Hoàng hôn, lúc mặt trời lặn (giờ Dậu).

- Nửa đêm (giờ Tí).

Sáng, chiều, tối xem sao, đã dĩ nhiên; trưa không xem được sao, nhưng đo được bóng nêu. Cái đó cũng quan hệ như ta đã thấy.

Đó chính là phương pháp vua Nghiêu đã áp dụng. Gustave Schlegel, bình thiên Nghiêu điển của Thư Kinh, đã cho thấy:

Vua Nghiêu sai các thiên văn gia đi bốn phương để quan sát tinh tượng, thiên tượng.

- Thiên văn gia đi về phía Đông, trong mùa Xuân, phải quan sát tinh tượng sáng sớm, khi mặt trời mọc.

- Thiên văn gia đi về phía Nam, trong mùa Hạ, phải quan sát thiên tượng, ban ngày, lúc chính ngọ.

- Thiên văn gia đi về phía Tây, trong mùa Thu, phải quan sát tinh tượng, lúc buổi chiều, khi mặt trời lặn.

- Thiên văn gia đi về phía Bắc, trong mùa Đông, phải quan sát tinh tượng lúc nửa đêm.[1]

Và ông kết luận:

- Xem sao mọc sáng sớm để định mùa Xuân.

- Xem sao lặn buổi chiều cùng với mặt trời để định mùa Thu.

- Xem sao qua đỉnh đầu nửa đêm để định mùa Đông.

- Xem sao qua kinh tuyến phía dưới buổi trưa (trên lý thuyết) để định mùa Hạ.[2]

Linh mục Du Halde, tác giả tập kỷ yếu về đời nhà Thanh, đã viết:

«Quanh năm, ngày cũng như đêm, luôn có 5 thiên văn gia túc trực nơi thiên văn đài để quan sát tinh tượng, để biết rõ tất cả các hiện tượng xảy ra:

- Một người quan sát giữa trời.

- Một người quan sát phía Đông.

- Một người quan sát phía Tây.

- Một người quan sát phía Nam.

- Một người quan sát phía Bắc.

“Họ phải báo cáo chính xác lên quan thái sử lệnh, để vị này làm phúc trình lên nhà vua. Các điều đã quan sát được phải ghi chú rõ ràng với đầy đủ hình ảnh kèm theo ấn ký của tác giả và ngày giờ.» [3]

Để giản dị hoá vấn đề, chúng ta chỉ cần xem sao buổi sáng sớm và buổi chập tối, vì lúc ấy chúng ta có thể dùng được mặt trời và mặt trăng như là hai cứ điểm chính để xem sao.

Chúng ta có thể:

1- Xem sao mọc và lặn cũng với mặt trời tức là xem những sao cùng mọc với mặt trời buổi sáng, cùng lặn với mặt trời buổi chiều (lever et coucher héliaque des étoiles). Xem sáng hay tối cũng đủ, vì vẫn là một chòm sao.

2- Xem sao mọc cùng với mặt trăng ngày hôm rằm ở phía trời Đông (lever acronyque des étoiles, en opposition solaire).

3- Xem sao qua đỉnh đầu buổi chiều tối, hoặc nửa đêm (culmination des étoiles, passage au méridien des étoiles).

Nói như thế, tức là người Trung Hoa đã không theo một tiêu chuẩn nhất định để xem sao; lúc thì dùng mặt trời; lúc thì dùng mặt trăng.

1- Mùa Xuân và mùa Thu thì xem sao mọc cùng với trăng hôm rằm, ở phía trời Đông (lever acronyque des étoiles, en opposition solaire).

2- Mùa Hạ và mùa Đông thì xem sao mọc và lặn cùng với mặt trời (lever et coucher héliaque des étoiles en conjonction solaire).

Những vì sao nói đây dĩ nhiên là những vì sao trong Nhị thập bát tú.

Nhị Thập Bát Tú

Người Trung Hoa cho rằng:

- Mùa Xuân sẽ thấy các sao Giác 角, Cang 亢, Đê 氐, Phòng 房, Tâm 心, Vĩ 尾, Cơ 箕lần lượt hiện ra ở phía trời Đông cùng với trăng rằm.

- Mùa Hạ sẽ cho thấy các sao Tỉnh 井, Quỉ 鬼, Liễu 柳, Tinh 星, Trương 張, Dực 翼, Chẩn 軫mọc lặn cùng với mặt trời.

- Mùa Thu, sẽ thấy các sao Khuê 奎, Lâu 婁, Vị 胃, Mão 昴, Tất 畢, Chủy 觜, Sâm 參hiện ra ở phía trời Đông cùng với trăng rằm.

- Mùa Đông, sẽ thấy các sao Đẩu 斗, Ngưu 牛, Nữ 女, Hư 虛, Nguy 危, Thất 室, Bích 璧mọc lặn cùng với mặt trời.

(Xem hình vẽ trên và xét vị trí của Nhị thập bát tú theo 4 phương hướng, vào lúc sáng sớm, ban ngày, chiều, tối.)

Còn như ta muốn biết mùa nào, mặt trời ở chòm sao nào trong Nhị thập bát tú ta sẽ thấy:

- Mùa Xuân, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm.

- Mùa Hạ, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

- Mùa Thu, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

- Mùa Đông, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Nói cách khác, tùy theo mùa, những chòm sao nói trên sẽ lần lượt mọc và lặn với mặt trời.

So sánh hình trong cuốn sách Traitéde Médecine chinoise Tập 5, tr. 56) và hình Nhị thập bát tú trong cuốn Trung Quốc Ngũ Thiên Niên Sử (q. I, tr. 49), ta thấy mùa Hạ và mùa Đông thì các sao giống nhau. Giống nhau vì trong cả hai trường hợp ta đều xem sao mọc và lặn cùng với mặt trời.

Mùa Xuân và mùa Thu thì các sao ngược nhau. Ngược nhau, vì một đàng ta xem sao lặn và mọc với mặt trời; một đàng ta xem sao mọc cùng với trăng rằm ở phía Đông, ngược với vị trí mặt trời 180o.

Chamfrault và Léopold de Saussure đã giải thích tường tận vấn đề này. Léopold de Saussure viết: «Vậy, sao Giác, sao Cang (sừng rồng) là tượng trưng cho ngày Lập Xuân Trung Hoa. Thế nhưng vào kỳ ấy, mặt trời không ở trong chòm sao Giác, mà lại ở cung đối với chòm sao Giác, tức là ở trong chòm sao Khuê. Nhưng khi mặt trời ở chòm sao Khuê, thì trăng rằm lại mọc cùng với chòm sao Giác.» [4]

Như vậy, người Trung Hoa đã dùng cả hai tiêu chuẩn mặt trời và mặt trăng để xem sao.

II. QUAN SÁT SAO BẮC ĐẨU

Xem sao Bắc Đẩu buổi chiều khoảng 18 giờ sẽ biết dưới trần gian đang ở vào mùa nào. Thí dụ:

- Tháng 11 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Tí.

- Tháng 12 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Sửu.

- Tháng 1 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Dần.

- Tháng 2 ta, chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, v.v.

Như vậy, sao Bắc Đẩu chính là đồng hồ để chỉ mùa, chỉ tháng quanh năm.

Sao Bắc Đẩu còn quay một vòng trong một ngày, như chiếc kim đồng hồ. Thí dụ: Lúc 18 giờ buổi chiều nào đó, ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão, thì 6 giờ sau tức vào nửa đêm, ta sẽ thấy nó chỉ hướng Ngọ. Sáu giờ sau nữa (tức 6 giờ sáng ngày hôm sau), nó sẽ chỉ hướng Dậu. Suy ra thì 12 giờ trưa hôm sau nó sẽ chỉ hướng Tí, để rồi 18 giờ chiều lại chỉ hướng Mão, v.v.

Lê Quí Đôn viết trong Vân Đài Loại Ngữ như sau:

«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mão (tháng 2), chính là tiết Xuân Phân, cho đến tiết Lập Hạ giữa tháng Tị (tháng 4) là lúc Thiếu Dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Tị (tháng 4), chính là tiết Tiểu Mãn, cho đến tiết Tiểu Thử vào giữa tháng Mùi (tháng 6) là lúc Thiếu Âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Mùi (tháng 6), chính là tiết Đại Thử, cho đến tiết Bạch Lộ vào giữa tháng Dậu (tháng 8), là Thái Âm thấp thổ làm chủ khí, tiết trời lúc ấy mây mưa nhiều, khí ẩm thấp bốc lên.

«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Dậu (tháng 8), chính là tiết Thu Phân, cho đến tiết Lập Đông vào giữa tháng Hợi (tháng 10), là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Hợi (tháng 10), chính là tiết Tiểu Tuyết, cho đến Đại Tuyết (vào giữa tháng 12) là Thái Dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

«Từ khi chuôi sao Bắc Đẩu chỉ hướng Sửu (tháng 12), chính là tiết Đại Hàn, cho đến tiết Kinh Trập (vào giữa tháng 2) là lúc Quyết Âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là mỗi tiết khí ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.» [5]

Lê Quí Đôn tuy bàn về tiết khí nhưng chính cũng đã gián tiếp cho ta thấy chuôi sao Bắc Đẩu có thể dùng để chỉ các tháng trong năm.

III. XEM SAO NÀO QUA KINH TUYẾN (tức là qua đỉnh đầu lúc ban chiều)

Ta cũng có thể xem sao qua đỉnh đầu lúc ban chiều vào khoảng 18 giờ. Ta sẽ quay mặt về hướng Nam và có thể cắm xuống một cây nêu dài để xem lúc ấy có ngôi sao nào qua đỉnh đầu.

IV. QUAN SÁT THIÊN TƯỢNG CÁC NGÀY NHỊ PHÂN, NHỊ CHÍ

Xuân Thu Tả Truyện viết: «Năm thứ 5 đời Hi Công (654), mùa Xuân, mồng 1 tháng giêng, ngày Tân Hợi, mặt trời tới cực Nam. Hi Công truyền báo cáo ngày sóc; sau đó vua lên đài để xem [bóng nêu] và [các thiên văn gia] ghi [độ dài của bóng] như thường lệ. Các ngày Đông Chí, Hạ Chí cũng như các ngày Xuân Thu Phân, và các ngày đầu mùa Xuân, Hạ (khải), đầu mùa Thu, Đông (bế) đều ghi chú các hiện tượng mây để dự phòng và liệu biện.»

V. QUAN SÁT SAO BẮC THẦN (Étoile polaire)

Trước kia người ta tưởng sao Bắc Thần là một sao cố định ở giữa Bắc Cực. Sau này người ta mới biết thực ra sao Bắc Thần cũng xoay quanh Bắc Cựcvà theo đà thời gian đã có nhiều sao khác nhau giữ địa vị của sao Bắc Thần. Thí dụ:

- Tả Khu và Hữu Khu (khoảng năm 3000 tcn Bắc Cực đã ở giữa hai sao này).

- Thiên Ất (3067i Draconis) và Thái Ất (42 hay 184 Draconis)

(Hai sao này ở gần sao Hữu Khu và có lẽ đã được coi là Bắc Thần. Thái Ất là Bắc Thần khoảng năm 2000 và 1500 tcn; Thiên Ất là Bắc Thần khoảng năm 1500, 1000 tcn.)

- Thiên Đế tinh (b Ursae Minoris, Kochad) là Bắc Thần khoảng năm 1000 tcn.

- Thiên Trụ hay Nữu Tinh (4339 Camelopardi) có lẽ đóng vai sao Bắc Thần đời Hán.

- Thiên Hoàng đại đế (a Ursae Minoris) đóng vai sao Bắc Thần hiện nay.

Trầm Quát (1030-1094) ― mộ Trầm Quát tại Hàng Châu, lập năm 1963

Trầm Quát, thiên văn gia đời Tống, đã viết:

«Trước đời Hán, người ta tưởng rằng sao Bắc Thần ở trung tâm điểm trời, vì thế gọi là Cực tinh. Tổ Hằng Chi (430-501) dùng ống vọng đồng đã nhận ra rằng điểm cố định trên trời cách sao Bắc Thần chừng 1o. Đời vua Thần Tông (1068-1077), tôi được lệnh vua coi thiên văn đài. Tôi liền cố dùng ống vọng đồng để xác định Bắc Cực. Ngay tối đầu tiên, tôi nhận thấy sao Bắc Thần dần dần chuyển dịch ra khỏi ống vọng đồng. Tôi biết là lòng ống vọng đồng còn quá nhỏ, nên tôi tăng dần lỗ ống cho to hơn. Sau ba tháng trời điều chỉnh, tôi mới nhìn thấy sao Bắc Thần quay trong lòng ống, không chếch ra ngoài nữa. Và tôi thấy sao Bắc Thần cách Bắc Cực khoảng 3o.» [6]

VI. PHÉP QUAN SÁT NGŨ TINH

Ngũ tinh hay ngũ vĩ, ngũ bộ là 5 hành tinh chính của mặt trời. Ngũ tinh là:

(1) Kim Tinh (Thái Bạch, Khải Minh, sao Mai), chu kỳ 1 năm.

(2) Mộc Tinh (Mộc Đức, Tuế Tinh, Kỷ Tinh), chu kỳ 12 năm.

(3) Thủy Tinh (Thủy Diệu, Thần Tinh, Tiểu Chính), chu kỳ 1 năm.

(4) Hỏa Tinh (Vân Hán, Huỳnh Hoặc), chu kỳ 2 năm.

(5) Thổ Tinh (Thổ Tú, Trấn Tinh), chu kỳ 28 năm.

Ngũ tinh là những hành tinh lưu động trên vòng Hoàng Đạo, qua 28 cung sao (Nhị thập bát tú).

Ngũ tinh thường không lấp lánh như các sao khác, trừ khi bầu khí quyển bị chấn động.

Thủy Tinh rất gần mặt trời, nên thường rất khó thấy.

Kim Tinh vì gần mặt trời nên mọc và lặn xấp xỉ như mặt trời. Sáng mọc phía Đông gọi là Sao Mai, Tối lặn phía Tây gọi là Sao Hôm. Kim Tinh là một ngôi sao sáng nhất trên trời.

Mộc Tinh cũng là sao rất sáng, màu sáng bạc.

Hỏa Tinh thì màu sáng đỏ.

Thổ Tinh màu trắng nhợt.

Mộc Tinh (chu kỳ 12 năm), Thổ Tinh (chu kỳ 28 năm) ở mỗi cung sao rất lâu.

Nhận được sao rồi, phải xét xem nó vận chuyển nhanh chậm, nghịch thuận ra sao.

Sách Khải Nguyên Chiêm Kinh đã đề ra những thuật ngữ sau đây:

. Thuận hành: Đông tiến

. Nghịch hành: Tây tiến

. Xuất: mọc

. Tiến: tiến lên

. Phản, Thoái: đổi chiều, lùi lại

. Nhập: lặn

. Xúc: lui chậm, lui tạm thời

. Doanh, Tật, Tốc hành: tiến nhanh

. Cư, Lưu: dừng lại

. Thủ, Phạm: dừng lại quá 20 ngày

. Thủ: dừng lại gần một cung sao

Sau đây là đại khái đường vận chuyển kỳ dị của các hành tinh Mộc, Thổ; các hành tinh Kim, Thủy. 

Các hành tinh Mộc và Thổ                     Các hành tinh Kim và Thủy 

Rồi lại phải xét xem ánh sáng nó ra sao, động tĩnh ra sao. Có các thuật ngữ sau đây:

. Phong: chiếu sáng

. Mang: chiếu tia sáng 4 phía

. Giác: chiếu tia sáng dài 4 phía

. Động: giao động, mờ tỏ không chừng

. Hoàn nhiễu: vòng vo vặn vẹo

. Hoàn: quay đủ vòng

. Nhiễu: quay không đủ vòng

. Câu kỷ: có hình cong

. Biến sắc: thay đổi màu sắc

. Hội: từ 3 đến 5 hành tinh gặp nhau ở cùng một cung sao

Tóm lại, ngày nay theo hệ thống của Copernic, thì các hành tinh đều quay quanh mặt trời theo những quỹ đạo hình bầu dục. Còn ngày xưa, người Trung Hoa cũng như người Âu Châu quan sát tinh tượng từ trái đất và bằng mắt trần, nên thấy các hành tinh có những đường lối hết sức phức tạp, lắt léo, lúc tiến, lúc lui, lúc đi lúc đứng, lúc ẩn, lúc hiện, lúc cấp, lúc trì, ánh sáng cũng tùy thời tiết, tùy theo các lớp mây, lớp mù mà biến sắc, do đó họ cho là các vì sao biết giận, biết vui như con người; tiến thì hay, thoái thì dở.

Họ cho rằng Thổ Tinh là phúc tinh, ứng vào nước nào thì nước ấy được phúc khánh. Mộc Tinh hay Tuế Tinh cũng là phúc tinh. Còn Hỏa Tinh là sao đem đến loạn lạc, giặc giã. Kim Tinh hay Thái Bạch chủ quân bình, nên tướng soái phải tùy Thái Bạch cao thấp, nhanh, chậm, tĩnh, táo, ẩn, hiện mà bắt chước điều binh. Thủy Tinh chỉ tứ thời: sắc vàng thì được mùa, đen thì hồng thủy, v.v.

VII. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHÁC

Ngoài ra còn phải biết:

+ Phân châu, phân dã để xem miền nào trên trời ứng với miền nào dưới đất.

+ Phải biết thế nào là:

     . Tử Vi viên,

     . Thái Vi viên,

     . Thiền Thị viên

+ Phải biết thế nào là:

     . Tường vân,

     . Yêu khí,

     . Yêu tinh, v.v.

Những vấn đề này sẽ được lần lượt trình bày trong các chương sau.

VIII. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TỌA ĐỘ SAO

Định độ vị của một vì sao, cũng như định độ vị của một điểm trong toán học, cần phải có hai trục tung và hoành.

A. Tung tuyến

Trong khoa thiên văn ngày nay, người ta đã chấp nhận 4 loại kinh tuyến:

1- Lấy kinh tuyến g làm gốc(đó là kinh tuyến qua khởi điểm của cung Bạch Dương, tức là giao điểm của vòng Hoàng Đạo và vòng Xích Đạo ngày Xuân Phân). Nếu tính từ đó sang phía Tây cho tới phương vị của sao, ta sẽ có:

     * Góc giờ sao theo kinh tuyến g (sidereal hour angle, SHA)

Nếu tính sang phía Đông cho tới phương vị sao, ta sẽ có:

     * Độ xích kinh của sao (right ascension, RA, ascension droite)

2- Lấy kinh tuyến qua Greenwich làm gốc. Nếu tính từ đó sang phía Tây cho tới phương vị của sao, ta sẽ có: Góc giờ sao theo kinh tuyến Greenwich (local hour angle, GHA).

3- Lấy kinh tuyến qua đỉnh đầu làm gốc. Nếu tính sang phía Tây cho tới phương vị của sao, ta sẽ có: Góc giờ sao theo kinh tuyến mỗi nơi (local hour angle, LHA).

4- Lấy kinh tuyến qua Bắc Cực Ngân Hà và giao điểm của đường Xích Đạo Ngân Hà và đường Xích Đạo trời làm gốc (cách kinh tuyến g 80o). Nếu tính sang phía Đông cho tới phương vị của sao, ta sẽ có: Kinh độ Ngân hà của sao (galactic longitude).

B. Hoành tuyến

1- Lấy Xích Đạo trời làm vĩ tuyến gốc. Lúc ấy độ Xích vĩ được gọi là déclinaison.

2- Lấy Hoàng Đạo trời làm vĩ tuyến gốc. Lúc ấy vĩ độ của sao được gọi là celestial latitude (céleate).

3- Lấy mặt phẳng qua nhãn giới làm vĩ tuyến gốc (horizon). Lúc ấy độ vĩ độ của sao được gọi là altitude.

4- Lấy Xích Đạo Ngân Hà làm vĩ tuyến gốc (horizon). Lúc ấy độ vĩ độ của sao được gọi là galactic latitude (latitude galactique).

Người Hi Lạp xưa dùng 2 tiêu chuẩn: (1) Vòng Hoàng Đạo trời; (2) Kinh tuyến qua giao điểm Xuân Phân g (giao điểm của Xích Đạo và Hoàng Đạo ngày Xuân Phân). Lúc ấy, Kinh độ của sao gọi là longitude céleste; Vĩ độ của sao gọi là latitude céleste.

Người Ả Rập xưa dùng 2 tiêu chuẩn: (1) Đường nhãn giới (horizon); (2) Kinh tuyến đỉnh đầu (local celestial meridian; méridien céleste local). Lúc ấy, Kinh độ của sao gọi là azimuth (độ phương vị); Vĩ độ của sao gọi là altitude (độ cao).

Người Trung Hoa xưa và thiên văn học nay dùng 2 tiêu chuẩn: (1) Vòng Xích Đạo trời; (2) Kinh tuyến đỉnh đầu. Lúc ấy, Kinh độ của sao gọi là ascension droite (độ xích kinh); Vĩ độ của sao gọi là déclinaison (độ xích vĩ).

Để mã độ cao, người Trung Hoa dùng những thuật ngữ sau đây:

- Độ

- Nhược: 1/8 độ (kém hơn độ đã cho)

- Bán: 1/2 độ

- Thiếu: 1/4 độ

- Cường: 1/8 độ

- Thiếu cường: 5/16 độ

- Bán nhược: 3/8 độ

- Thái: 3/4 độ

- Thiếu nhược: 3/16 độ

- Bán cường: 5/8 độ

Nhờ những qui ước ấy, người Trung Hoa xưa đã lập được những bản đồ sao, và những hồn tượng tức là những bầu trời nhân tạo với các vì sao.

Khoảng thế kỷ 4 trước Công nguyên, Thạch Thân, Cam Đức, và Vu Hàm là những người đã vẽ những bản đồ sao đầu tiên.

Sau này, Trần Trác (thế kỷ 4 cn) cũng bắt chước học mà lập bản đồ sao.

Tiền Lạc Chi (khoảng 424-453) cũng đã làm những bản đồ sao trên giấy phẳng.

Sau này, Hoắc Vân Tất Đạt (715) trong quyển Khai Nguyên Chiêm Kinh cũng phỏng theo các tài liệu cũ mà vẽ lại các bản đồ sao. Ngày nay, quyển sách này cũng như quyển Tinh Kinh hãy còn.

Tùy Thư - Thiên Văn Chí viết:

«Trần Trác, một thiên văn gia nước Ngô (thời Tam Quốc) là người đầu tiên đã làm một bản đồ sao (khoảng năm 310) theo đường lối 3 thiên văn gia xưa (Cam Đức, Thạch Thân, Vu Hàm).

«Tất cả có 254 chòm sao; 1283 sao; 28 tú (Nhị thập bát tú), và phụ thêm 182 sao nữa. Vị chi tất cả có 283 chòm sao và 1565 vì sao.

«Tiền Lạc Chi đời Tống Văn Đế (424-453) đã đúc một hình thiên cầu dùng 3 màu đỏ, đen, trắng để phân biệt sao của 3 phái (Cam Đức, Thạch Thân, Vu Hàm) và cũng theo bảng sao của Trần Trác.

«Đầu đời Tùy, Cao Đế đánh được nước Trần, bắt được Chu Phần và chiếm được các dụng cụ thiên văn lưu truyền từ xưa cho đến đời Nam Tống (Lưu Tống). Vua liền truyền cho Dữu Quí Tài và nhiều người khác kiểm điểm lại các bản đồ sao cũ, công cũng như tư, thuộc các đời Chu, Tề, Lương, Trần mà trước kia Tổ Hằng Chi và Tôn Tằng Hóa giữ. Mục đích là để đúc một cái đồ 蓋 圖, tức là một bán thiên cầu với các sao của 3 môn phái thiên văn xưa.» [7]

Ta thấy nền thiên văn học Trung Hoa với những dụng cụ và phương pháp kể trên đã thực sự bước vào con đường của khoa học thực nghiệm. Nó tiến tới một mức độ nào rồi ngừng, vì không tìm được thiên lý kính.

Quan tượng đài Bắc Kinh vào đời Thanh, Khang Hi sơ niên (1662)

Đến đời nhà Thanh, khoảng thế kỷ 17, các linh mục dòng Tên đã du nhập thiên lý kính vào Trung Hoa , và từ đấy nền thiên văn học Trung Hoa mất dần dần cái phong thái cổ kính và độc đáo của nó.[8]

I. Thái Cực và vòng Dịch với thiên văn học

Trong dân gian ta thường thấy trước cửa nhà có treo hình Bát quái với Thái Cực ở tâm điểm. Tại sao dân chúng lại trọng kính Bát quái đến như vậy?

Thưa vì, truy kỳ nguyên, Thái Cực chính là Trời, là Thượng Đế, còn Bát quái tượng trưng cho các hiện tượng, cho vạn hữu, quần sinh. Như vậy bát quái có Tâm, mà Tâm ấy chính là Thái Cực.

Dịch là hình ảnh của vũ trụ. Nếu Dịch có tâm, có trục, thì bầu trời bao la này cũng phải có tâm có trục. Trục ấy và Tâm ấy ở đâu trên bầu trời?

Khảo thiên văn Trung Hoa ta thấy có hai thuyết:

a. Tâm vũ trụ là sao Bắc Thần.

b. Tâm của vũ trụ cách sao Bắc Thần chừng vài độ.

a. Tâm vũ trụ là sao Bắc Thần (étoile polaire)

Người Trung Hoa xưa tin rằng sao Bắc Thần (étoile polaire) là tâm điểm của bầu trời và các tinh cầu đều vận chuyển chung quanh sao bắc Thần.

Luận Ngữ có câu: «Vi chính dĩ đức, thí như Bắc Thần, cư kỳ sở, nhi chúng tinh củng chi.» 為政以德 , 譬如北辰居其所而眾星拱之(Làm chính trị mà dùng đức độ [thì mọi người sẽ tùng phục qui thuận] y như sao Bắc Thần ở một chỗ mà mọi vì sao đều chầu về.)[1]

Thiên văn Trung Hoa xưa gọi sao Bắc Thần là:

- Thiên Hoàng Thượng Đế.[2]

- Bắc Cực.

- Thiên Cực.[3]

Lại cho rằng đấng Tối cao ngự trị tại đó.[4]

Như vậy, đối với dân Trung Hoa xưa, Bắc Thần đã là tâm điểm của hoàn võ, là nơi Thượng Đế ngự trị.

Còn vòng Hoàng Đạo, Xích Đạo có thể sánh với vòng Dịch bên ngoài, biến chuyển không ngừng nghỉ.

b. Tâm của vũ trụ gần sao Bắc Thần

Tuy nhiên quan niệm thiên văn trên không làm cho chúng ta được thỏa mãn, bởi lẽ: Tâm điểm của vòng Dịch là Thái Cực vô hình tướng. Chẳng lẽ trung tâm vũ trụ là sao bắc Thần lại hữu hình hữu tướng hay sao?

Theo Dịch, cái gì đã có hình tướng thì tất phải biến thiên. Như vậy, chẳng lẽ sao Bắc Thần, có hình tướng như mọi vì sao khác, lại bất biến, bất động hay sao?

Quả nhiên sau này Trầm Quát, một thiên văn gia đời Tống, đã sửa lại quan điểm của người xưa. Ông nhận định rằng sao Bắc Thần không phải là tâm điểm vũ trụ; trái lại, nó cách tâm điểm của bầu trời chừng 3 độ, và xoay quanh tâm điểm ấy.

Ông viết: «Trước thời nhà Hán, người ta tin rằng sao Bắc Thần là tâm điểm của bầu trời, vì thế được gọi là Cực Tinh. Tổ Hằng Chi (thế kỷ 5) nhờ ống vọng đồng đã tìm thấy rằng tâm điểm cố định của bầu trời cách sao Bắc Thần chừng non 1o.

«Trong những năm Hi Ninh (1068-1077, đời vua Tống Thần Tông) tôi vâng mệnh vua coi Khâm thiên giám. Tôi liền cố tìm Bắc Cực bằng ống vọng đồng. Ngay từ tối hôm đầu, tôi nhận thấy rằng: vì sao mà tôi có thể nhìn qua ống vọng đồng một lát sau lại chuyển động ra ngoài ống vọng đồng. Tôi cho rằng lỗ ống còn quá nhỏ. Cho nên tôi làm những ống có lỗ to dần thêm. sau ba tháng thí nghiệm, tôi mới làm được một ống nhòm có lỗ to đủ để nhìn thấy sao Bắc Thần xoay quanh mà không trật ra ngoài. Tôi nhận thấy rằng sao Bắc Thần xoay quanh và cách Bắc Cực khoảng 3o.

«Tôi liền vẽ nhiều đồ bản ghi chú vị trí của sao Bắc Thần từ khi sao lọt vào tầm ống nhòm, lúc chập tối, lúc nửa đêm, và lúc tảng sáng. Hơn 200 đồ bản như vậy đã chứng minh rằng sao Bắc Thần cũng là một sao xoay quanh Bắc Cực. Tôi liền làm sớ tấu trình lên vua để báo cáo.» [5]

Nhận định của Trầm Quát[6] có giá trị về ba phương diện:

a. Về phương diện triết học, nó cho thấy Vô là chủ chốt cho Hữu: Vô hình là chủ chốt cho hữu hình, hữu tướng.

b. Vì là Vô như vậy, nó mới có thể vừa làm cho tâm điểm giải thiên hà (galaxie) của chúng ta, vừa có thể làm tâm điểm hay trục cho các giải thiên hà khác.

c. Về phương diện khoa học, nó cho thấy tại sao các sao Bắc Thần lại có thể thay đổi sau một vài nghìn năm.

Và đây là các sao đã giữ vai trò Bắc Thần từ xưa đến nay trong thiên văn Trung Hoa:

(1) Tả Khu 左樞, Hữu Khu 右 樞(khoảng năm 3000 tcn). Bắc Cực ở giữa hai sao này.

(2) Thiên Ất 天乙(3067 i Draconis)

(3) Thái Ất 太乙(42 hay 184 Draconis). Hai sao Thiên Ất và Thái Ất ở gần sao Hữu Khu và có lẽ đã được coi là sao Bắc Thần. Thái Ất được coi là sao Bắc Thần vào khoảng năm 2000, 1500 tcn.

(4) Thiên Đế Tinh 天帝星(b Ursae Minoris, Kochab) đóng vai Bắc Thần khoảng năm 1000 tcn.

(5) Thiên Khu 天樞hay Nữu Tinh 紐星(4339 Camelopardi). Sao này có lẽ đã đóng vai Bắc Thần thời Hán (200 tcn - 200 cn).

(6) Thiên Hoàng Đại Đế 天皇大帝(a Ursae Minoris) đóng vai Bắc Thần hiện nay.[7]

Có cái lạ là trong khi người Trung Hoa từ xưa đã biết lấy Bắc Thần làm tâm điểm vũ trụ thì người Âu Châu hãy còn ở trình độ lấy trái đất làm tâm điểm vũ trụ. Người Âu Châu xưa cho rằng: Trái đất bất động, làm tâm điểm vũ trụ.

Ngoài trái đất ra ta còn có 9 tầng trời:

Tầng thứ 1: Thái âm thiên (Mặt trăng: Lune)

Tầng thứ 2: Thủy tinh thiên (Thủy tinh: Mercure)

Tầng thứ 3: Kim tinh thiên (Kim tinh: Vénus)

Tầng thứ 4: Thái dương thiên (Mặt trời: Soleil)

Tầng thứ 5: Hùnh hoặc thiên (Hỏa tinh: Mars)

Tầng thứ 6: Tuế tinh thiên (Mộc tinh: Jupiter)

Tầng thứ 7: Trấn tinh thiên (Thổ tinh: Saturne)

Tầng thứ 8: Liệt tinh thiên (Monde des étoiles)

Tầng thứ 9: Tôn động thiên (Empyrée). Tôn động thiên không có sao nào, mà là nơi thần thánh ở.[8]

Như vậy, ít ra ta cũng thấy rằng: Quan niệm về tâm điểm vũ trụ của phương Đông và phương Tây ngược nhau.

Phương Đông cho rằng: Bắc Cực trên trời là tâm điểm vũ trụ. Phương Tây cho rằng: Trái đất là tâm điểm vũ trụ (ví dụ: Trời ở tâm điểm vũ trụ).

Phương Đông cho rằng: Cái gì ở tâm điểm là cao quý nhất, còn ở chu vi thì thấp kém nhất. Phương Tây cho rằng: Cái gì ở trung điểm thì thấp kém nhất, cái gì ở chu vi là cao quý nhất (ví dụ: Thượng Đế và liệt thánh ở vòng trời ngoài cùng).

Thiên văn học Trung Hoa, áp dụng Dịch lý, đã cho ta thấy rằng Thượng Đế là tâm điểm, là chủ chốt cho muôn loài, muôn vật, cho vũ trụ, quần tinh.

Như vậy, khảo Dịch, khảo thiên văn học Trung Hoa, ta biết được tín ngưỡng Trung Hoa xưa cao thấp ra sao, sánh với tín ngưỡng các dân tộc khác.

III. Quan niệm Âm Dương trong thiên văn học

Người Trung Hoa, trung thành với thuyết Âm Dương, đã phân trời đất, tinh cầu, vạn sự, vạn vật thành Âm Dương.

Trời là Dương; Đất là Âm.

Khinh thanh là Dương; Trọng trọc là Âm.

Mặt trời là Thái Dương; Mặt trăng là Thái Âm.

Đông Nam (là Dương); Tây Bắc là Âm, v.v.

Các sao trên trời cũng được phân thành Âm, Dương; điển hình nhất là các sao trong khoa Tử Vi.

Như ta đã biết, Dương tượng trưng cho: mặt trời, vua, cha, chồng, hiền nhân, quân tử, Trung Quốc, v.v.; Âm tượng trưng cho: đất, mặt trăng, hoàng hậu, con, bầy tôi, tiểu nhân, di địch, v.v.

Cho nên mỗi khi có nhật thực (éclipse de soleil), người Trung Hoa cho rằng ở dưới trần thế cương thường đã lỗi: tôi phản vua, con hại cha, hoàng hậu lấn át quyền vua, tiểu nhân lấn át quân tử, di địch lấn át Trung Hoa, v.v.

Tệ nhất là nhật thực vào tháng 4 và tháng 10. Tháng 4 là tháng thuần Dương (Kiền), là tháng Dương mạnh nhất. Mạnh nhất mà còn bị lấn át thì dĩ nhiên là nguy. Tháng 10 là tháng thuần Âm (Khôn) (tuy rằng vẫn được gọi là dương nguyệt). Tháng này dĩ nhiên là Dương quá yếu. Dương đã quá yếu mà còn bị lấn át nữa, thì còn gì là Dương.[16]

Người Trung Hoa vì trọng Dương khinh Âm nên trong sách Xuân Thu chỉ ghi nhật thực chứ không ghi nguyệt thực (éclipse de lune).

IV. Tứ Tượng với thiên văn

Nếu Dịch có Tứ Tượng, thì thiên văn học Trung Hoa cũng có Tứ Linh, và Nhị thập bát tú trên vòng Hoàng Đạo cũng được chia thành 4 nhóm, tương ứng với Tứ Linh. Vì thế ta có:

(1) Chòm Thanh Long phía Đông gồm 7 sao: Giác 角, Cang 亢, Đê 氐, Phòng 房, Tâm 心, Vĩ 尾, Cơ 箕.

(2) Chòm Chu Tước phía Nam gồm 7 sao: Tỉnh 井, Quỉ 鬼, Liễu 柳, Tinh 星, Trương 張, Dực 翼, Chẩn 軫.

(3) Chòm Bạch Hổ phía Tây gồm 7 sao: Khuê 奎, Lâu 婁, Vị 胃, Mão 昴, Tất 畢, Chủy 觜, Sâm 參.

(4) Chòm Huyền Võ phía Bắc gồm 7 sao: Đẩu 斗, Ngưu 牛, Nữ 女, Hư 虛, Nguy 危, Thất 室, Bích 璧.

Trong khoa thiên văn Âu Châu thời cổ, Tứ Tượng được thể hiện bằng:

- Bốn phương đất.

- Bốn phương trời.

- Bốn mùa.

- Bốn vì sao, đánh dấu bốn mùa: Aldebaran (sao Thiên Cao), Antarès (sao Tâm), Régulus (sao Nữ Chủ), và Fomalhaut (Bắc Lạc Sư Môn).

Tứ linh tượng trưng cho bốn cung trời. Bốn cung trời chính Tứ Linh là:

- Bò, tức là cung Kim Ngưu (Taureau).

- Sư tử, tức là cung Sư Tử (Lion).

- Phượng, tức là cung Thiên Yết (Scorpion).

- Người, tức là cung Bảo Bình (Verseau).[17]

V. Quan niệm Ngũ Hành với thiên văn học Trung Hoa

Dịch có Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, thì thiên văn cũng có:

- Kim Tinh (Vénus)

- Mộc Tinh (Jupiter)

- Hỏa Tinh (Mercure)

- Hỏa Tinh (Mars)

- Thổ Tinh (Saturne)

VI. Từ các quẻ Dịch đến quan niệm vũ trụ bất đồng đẳng (Anisotropie) trong Thiên văn học (Univers anisotropes)

Nếu ta nhận xét về Bát quái trên vòng Tiên thiên, hay Hậu thiên, ta sẽ thấy 8 quẻ ở vào 8 hướng và không quẻ nào giống quẻ nào.

Suy ra, vũ trụ và không gian hữu hình không thể nào đồng đẳng, mà mỗi hướng đều khác. Nhiều thiên văn gia và nhiều học giả ngày nay cũng chủ trương như vậy

VII. Định luật biến thiên và sinh trưởng, thu tàng áp dụng vào thiên văn

Dịch chủ trương bất kỳ hiện tượng gì cũng có biến dịch, cũng có đầy vơi, tăng giảm, cũng chịu định luật sinh trưởng, thu tàng.

Thiên văn học ngày nay đã chứng nghiệm điều đó. Vì trái đất quay nên bất kỳ thiên thể nào trên trời cũng y như rong ruổi trên đường trời. Nếu chúng ta chụp ảnh bầu trời từng ngày, từng tháng, từng mùa, ta sẽ thấy sự thay đổi vị trí các vì sao càng ngày càng rõ rệt. Trên vòng Hoàng Đạo, mỗi mùa đều có chòm sao riêng…

Ta cũng có thể chứng nghiệm điều này bằng cách quan sát bầu trời mỗi đêm. Ví dụ: vào khoảng giữa tháng 8 dương lịch, khoảng 10 giờ đêm, ta thấy nơi đỉnh đầu các sao Ngưu Lang (Altair), Chức Nữ (Véga). Trông về phía Nam, ta thấy các sao Tâm (Antarès), Vĩ (trong chòm Scorpion), Cơ (trong chòm Sagittaire).

Khoảng 5 giờ sáng, ta lại thấy ở đỉnh đầu là các sao: Khuê (chòm Carré du Pegase), Lâu (Hamal du Bélier), Mão (Pléiades), Thiên Thuyền (Mirfak du Persée). Nhìn sang phía Đông, ta thấy các sao Tất (Hyades), Chủy (chòm Orion 1 et 2 de la Tête), Sâm (Bételgeuse) và Thiên Cẩu (Sirius).

Sang tháng 10 dương lịch, khoảng 10 giờ đêm, ta lại thấy các sao Thất Bích (chòm Pégase) nơi đỉnh đầu. Khoảng 5 giờ sáng, ta sẽ thấy các sao Tất, Chủy, Sâm, và Thiên Cẩu nơi đỉnh đầu, v.v.

Các vì sao y như là những diễn viên, cứ đúng ngày, đúng giờ, lại hiện ra nơi sân khấu trời.

Vả lại các sao cũng có non, già, nóng, lạnh. Có những vì sao sơ sinh, có những sao gần mãn kiếp, y như số phận con người nơi trần gian này.

Ngày nay, các thiên văn gia phân loại sao thành 10 thứ hạng như sau:

- Hạng O    sức nóng 30.000o

- Hạng B     sức nóng 20.000o

- Hạng A    sức nóng 10.000o

- Hạng F     sức nóng 7.500o

- Hạng G    sức nóng 5.600o

- Hạng K    sức nóng 4.000o

- Hạng M    sức nóng 3.000o

- Hạng N và hạng R sức nóng xấp xỉ như hạng K và M

- Hạng S     thuộc hạng sao lạnh.

Các sao càng trẻ càng trắng. Các sao có tuổi thì ngả màu vàng. Các sao già thì biến sang màu đỏ.[19]

VIII. Định luật tụ tán của Dịch áp dụng vào thiên văn

Nói đến Âm Dương tức là nói đến định luật vãng lai, tụ tán. Hiểu được định luật tụ tán tức là hiểu được quá khứ vị ali của vũ trụ.

Thực vậy, nếu ta coi vũ trụ như là một bầu tròn và chấp nhận rằng vũ trụ này không im lìm, mà biến dịch luôn, thì tất nhiên ta phải chấp nhận rằng: hoặc nó đang trong thời kỳ tán, hoặc nó đang trong thời kỳ tụ.

Đầu thế kỷ 20, khoa thiên văn học Âu Châu mới khám phá ra rằng vũ trụ chúng ta đang ở trong thời kỳ tán.

Nhờ phương pháp thâu quang phổ (spectroscopie) và dựa vào định luật Doppler Fizeau[20] các thiên văn gia khám phá ra rằng các giải thiên hà (galaxies) đang đua nhau tiến về miền biên viễn của vũ trụ, y như là cái bọt xà phòng của trẻ con chơi, đang được thổi phồng lên, theo lý thuyết của Georges Lemaître, đã được Hubble và Eddington chấp nhận.[21]

Nếu như vậy thì khi vũ trụ tán đến một cực điểm, sẽ bắt đầu tụ dần lại, co lại, vì «Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu» và đại vũ trụ sẽ trở dần về tâm điểm, thực hiện một cuộc phản bản hoàn nguyên vĩ đại.[22]

Kết luận

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#bluesky