Thơ Hàn Dũ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

              Xuân tuyết
   Phiên âm:
Tân niên đô vị hữu phương hoa,
Nhị nguyệt sơ kinh kiến thảo nha.
Bạch tuyết khước hiềm xuân sắc vãn,
Cố xuyên đình thụ tác phi hoa.
   Dịch:
Đầu năm chẳng thấy chút màu tươi
Kinh ngạc tháng hai cỏ nảy chồi
Tuyết trắng chạnh lòng xuân tới chậm
Lồng cây sân hoá rợp hoa bay.

      Sơ xuân tiểu vũ
   Phiên âm
Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô,
Thảo sắc dao khan, cận khước vô.
Tối thị nhất niên xuân hảo xứ,
Tuyệt thăng yên liễu mãn hoàng đô.

  Dịch :
Mưa phùn làm đường đi bóng loáng
Từ xa nhìn như có màu cỏ, lại gần chẳng có gì
Đây là lúc đẹp nhất của mùa xuân trong một năm
Vì khắp kinh đô các hàng liễu như mờ trong sương khói.

                Cổ ý
   Phiên âm:
Thái Hoá phong đầu ngọc tỉnh liên,
Khai hoa thập trượng ngẫu như thuyền.
Lãnh tỷ tuyết sương cam tỷ mật,
Nhất phiến nhập khẩu trầm kha thuyên.
Ngã dục cầu chi bất đạn viễn,
Thanh bích vô lộ nan di duyên.
An đắc trường thê thướng trích thực,
Hạ chủng thất trạch căn chu liên.

  Dịch:
Sen trong giếng ngọc trên đầu núi Hoá,
Nở hoa mười trượng, ngó tựa thuyền.
Lạnh như tuyết sương ngọt như mật,
Ngậm một miếng bệnh trầm cũng khỏi.
Ta mong cầu khỏi sợ đường xa,
Sườn dốc xanh không có lối trèo.
Sao được thang dài leo lên hái,
Xuống trồng gốc sen trong bảy đầm.

           Thạch cổ ca
  Phiên âm:
Trương sinh thủ trì "Thạch cổ" văn,
Khuyến ngã thí tác "Thạch cổ ca".
Thiếu Lăng vô nhân Trích Tiên tử,
Tài bạc tương nại thạch cổ hà.
Chu cương lăng trì tứ hải phí,
Tuyên Vương phẫn khởi huy thiên qua.
Đại khai Minh Đường thụ triều hạ,
Chư hầu kiếm bội minh tương ma.
Sưu ư Kỳ Dương sính hùng tuấn,
Vạn lý cầm thú giai già la.
Tuyên công lặc thành cáo vạn thế,
Tạc thạch tác cổ huy tha nga.
Tòng thần tài nghệ hàm đệ nhất,
Giản tuyển soạn khắc lưu sơn a.
Vũ lâm nhật chích dã hoả liệu,
Quỷ vật thủ hộ phiền huy a.
Công tòng hà xứ đắc chỉ bản,
Hào phát tận bị vô sai ngoa.
Từ nghiêm nghĩa mật độc nan hiểu,
Tự thể bất loại lệ dữ khoa.
Niên thâm khởi miễn hữu khuyết hoạ,
Khoái kiếm chước đoạn sinh giao đà.
Loan tường phượng chứ chúng tiên hạ,
San hô bích thụ giao chi kha.
Kim thằng thiết sách toả nữu tráng,
Cổ đỉnh dược thuỷ long đằng thoa.
Lậu nho biên thi bất thu nhập,
Nhị nhã biển bách vô uỷ xà.
Khổng Tử tây hành bất đáo Tần,
Kỷ trích tinh túc di Hy Nga.
Ta dư hiếu cổ sinh khổ vãn,
Đối thử thế lệ song bàng đà.
Ức tích sơ mông bác sĩ trưng,
Kỳ niên thuỷ cải xưng Nguyên Hoà.
Cố nhân tòng quân tại Hữu Phụ,
Vị ngã độ lường quật cữu khoa.
Trạc quan mộc dục cáo sái tửu,
Như thử chí bảo tồn khởi đa.
Chiên bao tịch khoả khả lập trí,
Thập cổ kỳ tải sổ lạc đà.
Tiến chư thái miếu tỷ Cao đỉnh,
Quang giá khởi chỉ bách bội quá.
Thánh ân nhược hứa lưu thái học,
Chư sinh giảng giải đắc thiết tha.
Quan kinh hồng đô thượng điền yết,
Toạ kiến cử quốc lai bôn ba.
Oan đài dịch tiển lộ tiết giác,
An trí thoả thiếp bình bất pha.
Đại hạ thâm thiềm dữ cái phúc,
Kinh lịch cửu viễn kỳ vô đà.
Trung triều đại quan lão ư sự,
Cự khẳng cảm khích đồ an a.
Mục đồng xao hoả ngưu lệ giác,
Thuỳ phục trước thủ vi ma sa.
Nhật tiêu nguyệt thước tựu mai một,
Lục niên tây cố không ngâm nga.
Hy Chi tục thư sấn tư mị,
Thư chỉ thượng khả bác bạch nga.
Kế chu bát đại tranh chiến bãi,
Vô nhân thu thập lý tắc na.
Phương kim thái bình nhật vô sự,
Bính nhậm nho thuật sùng Khâu Kha.
An năng dĩ thử thượng luận liệt,
Nguyện tá biện khẩu như huyền hà.
Thạch cổ chi ca chỉ ư thử,
Ô hô! Ngô ý kỳ tha đà.
  Dịch:
Trương Tịch tay cầm bài văn khắc trên trống đá,
Khuyên ta phổ thành bài ca trống đá.
Đỗ Phủ không còn, Lý Bạch đã mất,
Ta kém tài sao làm được bài ca trống đá?
Phép nước đời Chu nay lỏng lẻo, khắp nơi như cảnh nước sôi lửa bỏng,
Vua Tuyên Vương ức lòng múa giáo thần chấn chỉnh lại.
Thành công rồi vua sai mở đại sảnh ngồi nhận chúc mừng,
Chư hầu các nơi về chầu, kiếm đeo chạm châu báu nghe leng keng.
Trong lễ săn bắn ở Kỳ Dương vua coi rất hùng dũng và anh tuấn,
Chim muông và thú vật trong vạn dặm đều bị vây bắt.
Vua truyền ghi khắc công thành lưu truyền đời sau biết,
Việc lấy đá đẽo thành trống đã huỷ hoại các đỉnh núi cao.
Tuyển chọn trong đám bầy tôi đi theo lấy người giỏi nhất,
Soạn bài khắc lên trống đá, rồi để lại chơ vơ trên sườn núi.
Mặc cho mưa tạt nắng chiếu, lửa đồng nội thiêu đốt,
Dù có quỷ thần bảo hộ, trống đá cũng bị nứt nẻ.
Ông kiếm được bản văn trên giấy này ở đâu thế?
Chân tơ kẽ tóc đều đầy đủ không sai dối.
Lời văn trang nghiêm, ý nghĩa bí mật, đọc khó hiểu,
Thể chữ không giống loại chữ lệ hay chữ khoa.
Vùi lâu năm dưới đất mà chữ chẳng bị thiếu nét,
Nét khắc chữ sắc bén như vết khoái kiếm chém đứt rồng rắn.
Chữ viết như loan bay phượng lượn, như các tiên giáng trần,
Hình trạng như cây ngọc san hô xanh đan cành.
Như những sợi vàng sợi sắt buộc nút chặt,
Lại siêu thoát như đỉnh cổ nhảy xuống nước, như thoa hoá rồng bay lên trời.
Tiếc thay nhà Nho kém cỏi khi chép lại Kinh Thi đã bỏ bớt nhiều chỗ,
Nên hai phần Đại nhã và Tiểu nhã hạn hẹp không còn uyển chuyển.
Khổng Tử chu du phương tây mà chưa tới đất Tần,
Nên khi chép lại Kinh Thi chỉ lấy sao mà bỏ qua mặt trời mặt trăng.
Ta ưa chuộng đồ cổ nhưng sinh ra trễ quá,
Trước thạch cổ văn này nước mắt đầm đìa.
Nhớ lúc trước vừa đội ơn vua nhận chức bác sĩ,
Vào năm Nguyên Hoà mới đổi.
Có người bạn thân giúp việc quân tại Hữu Phụ,
Giúp ta đào bới tìm trống đá.
Ta sẽ giặt mũ, tắm sạch bẩm quan tế tửu, bảo vật được bấy nhiêu há chẳng nhiều sao?
Trống đá được gói bên trong chăn dạ,
Chiếu cói bọc bên ngoài.
Chuyên chở mười chiếc, chỉ cần đủ số lạc đà là được.
Đem dâng trống đá vào thái miếu, so với đỉnh xứ Cao đặt ở phía bắc,
Giá trị sáng ngời há chẳng gấp trăm lần sao?
Nhưng nếu còn được vua ban ơn, cho bày ở nhà thái học,
Học sinh được giảng dạy sẽ thu thập được nhiều điều bổ ích.
Xem văn trống đá niêm yết ở cửa hồng đô,
Người trong cả nước chạy lại.
Cạo hết rong rêu cho chữ lộ ra góc cạnh,
Đặt trống đá vững vàng ngay ngắn.
Đáng nhẽ nên được để trong nhà lớn mái cao, có lọng che,
Thì qua bao nhiêu lâu cũng chẳng hư hại.
Đằng này các quan lớn trong triều hiểu biết mọi sự,
Nhưng trước sự kiện này lại trù trừ không quyết đoán.
Để lăn lóc trong sân thái miếu cho trẻ mục đồng nhóm lửa, trâu mài sừng,
Đâu còn ai ra tay lau chùi.
Ngày qua ngày, tháng qua tháng, trống đá suy tàn vùi lấp,
Suốt sáu năm ta vọng về phương tây ngâm nga những lời than vãn suông.
Hy Chi viết thư pháp không cổ nhã chạy theo nét đẹp tầm thường,
Mà chỉ cần vài tờ là có thể đổi được một con ngỗng trắng.
Sau đời Chu, tám triều đại kế tiếp đã hết chiến tranh,
Nét bút trong trống đá chẳng ai thâu nhặt là tại làm sao?
Nay đất nước đã thái bình vô sự,
Chính quyền nâng đỡ đạo Nho tôn sùng Khổng Mạnh.
Yên ổn rồi cũng nên đem vấn đề này ra bàn luận,
Ước mong sẽ có những nhà hùng biện trôi chảy như sông trời.
Bài ca cho trống đá ngừng ở đây,
Than ôi, ý ta khó mà nói hết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro