𝑮𝒓𝒆𝒆𝒏 𝒄𝒉𝒂𝒓𝒕𝒓𝒆𝒖𝒔𝒆 𝒍𝒊𝒒𝒖𝒆𝒖𝒓

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

𝐐uãng chín giờ tối hôm qua, sau khi Augenste vừa chơi xong bản Concerto cung Mi thứ của Mendelssohn theo yêu cầu của một vị khách người Tây Ban Nha thì Friedrich, ông chủ quán Forelsket đến bên chiếc dương cầm của anh và đặt lên đó một cốc THE LAST WORD màu xanh lục nhạt, trên miệng cốc còn được trang trí bằng một xiên những quả anh đào chín đỏ và vài lát vỏ chanh xanh xanh.

“Một vị khách đã trả tiền để mời em một ly này. Anh ta nói rằng muốn nghe em chơi Paganini, bản Caprice số 34.”

“Nhưng Madame Antoinette vẫn còn đang chờ để được nghe thêm bản Kẹp Hạt Dẻ cơ mà.”

Augenste khẽ nghiêng đầu nhìn xuống những dãy bàn dài của Forelsket ngập tràn trong khói thuốc dày như khói sương, Madame Antoinette, trẻ trung và kiêu hãnh trong chiếc áo lông thú đắt tiền, chân váy trắng đính đầy sequins lấp lánh như một dải ngân hà thu nhỏ trong ánh đèn mờ tối, vẫn ngồi nguyên ở cái bàn gần sân khấu nhất, bên cạnh cốc Ramos Gin Fizz trắng đục bọt cao gần một lóng tay. Kể từ ngày mà Augenste bắt đầu làm nhạc công ở Forelsket, Madame Antoinette chính là người hào phóng nhất trong số những người sẵn sàng vung tiền ra để mua lấy riêng cho mình một bản nhạc vào một đêm phù du. Chính sự phù phiếm đó mà khách rượu quen ở đây đã đặt cho nàng cái tên Madame Antoinette, phỏng theo tên của bà vương hậu khét tiếng xa hoa thời kỳ Bourbon, có những kẻ xấu tính ác mồm độc miệng hơn vẫn hay gọi là con ả l’autrichienne, rồi đoán già đoán non xem khi nào nàng sẽ trở thành Madame Déficit. Cũng chẳng biết sau này nàng có thật sự trở thành Chúa Chổm hay không, nhưng sự xa hoa của Madame Antoinette đã trở thành một nét màu không thể thiếu tại Forelsket, và dần dà, người ta quên bẵng đi tên thật của Madame Antoinette, mà chính nàng về sau này cũng dùng cái danh tính mà Forelsket đã tạo ra cho mình để mà tự giới thiệu với người khác. “Tôi là Madame Antoinette, giống như Vương hậu Marie Antoinette.”, nàng đã từng tự giới thiệu với Augenste như thế. Không ai biết vì cơn cớ gì mà người phụ nữ lắm tiền nhiều của này lại sẵn sàng chi đậm cho một quán rượu với dàn nhạc công hạng hai, thay vì tự mua lấy cho mình một lô ghế VIP trong nhà hát thành phố để mà tận hưởng trọn vẹn nhất phức cảm và vẻ đẹp của âm nhạc, chỉ biết rằng một khi cô nàng đã muốn, thì không một ai có thể tranh với nàng được cả. “Đó chính là cách mà đám người giàu tiêu tiền đấy.” Friedrich vẫn thường hay nói với anh như vậy bằng chất giọng rất chi là lỡm đời. Dưới danh nghĩa là một tay kinh doanh có nghề gần chục năm, Friedrich cực kì hoan nghênh những người như Madame Antoinette đây ghé lại quán mình, thậm chí, theo những gì anh vô tình được nghe Friedrich kể lúc cao hứng, đã có đôi lần người anh họ này còn bỏ công bỏ sức lùng sục khắp hang cùng ngõ hẹp để tìm những nhân tài âm nhạc không gặp thời, theo cách gọi của Madame Antoinette, về biểu diễn tại Forelsket, vì biết đâu chừng chúng ta đang được nghe Mozart hay Debussy tương lai biểu diễn thì sao. Cứ mỗi lần quán có thêm một nhạc công mới chơi được bản nhạc đủ làm mướt tai Madame Antoinette, nàng sẽ không ngần ngại chi một khoản thật đậm để thưởng cho cả chủ quán cả nhạc công. Cho đến tận bây giờ, hai người là có thể moi được nhiều tiền từ ví của của Madame Antoinette nhất chính là Augenste và anh chàng tình nhân của ông chủ Friedrich. Lần đầu tiên họ chơi nhạc cùng nhau, Madame Antoinette đã rút hẳn một nghìn đô la để trả cho buổi hòa nhạc tuyệt hảo không thua gì buổi trình diễn của The Royal Concertgebouw ấy. Friedrich lúc đó đã phải cố gắng lắm lắm để bảo vệ hình tượng quý ông lịch lãm của mình, trước khi cười ngoác mang tai rồi phấn khích ôm người yêu mình hôn chùn chụt sau khi đóng cửa quán.

“Đã có một cuộc đấu giá nho nhỏ, và lần này cô Donahue có vẻ cũng không thật sự muốn nghe Kẹp Hạt Dẻ cho lắm.” Friedrich rút từ trong túi áo vest bóng bẩy ra một điếu xì gà Cuba mà anh ta mua lậu được từ một con buôn người Mỹ, xoay hai ba vòng trên tay trước khi châm lửa. Anh là một trong số hiếm hoi những người vẫn được Madame Antoinette cho phép gọi đúng tên thật sau cuộc thay đổi danh tính.  “Nói tóm lại là em cứ chơi đi, người ta đã có lòng thế rồi.”

Anh chàng nhạc công gốc Đức đã ngồi sẵn vào đàn dương cầm chờ đợi, Augenste nâng cốc cocktail lên, uống non nửa ly, giờ anh đã chẳng còn ở cái tuổi có thể một hơi uống cạn cả một ly rượu mạnh nữa rồi. Mùi vị thảo mộc và rượu mùi hòa cùng với hương vị mạnh mẽ của Plymouth Gin bốn ba độ ướp từng tế bào trong người anh trong một dự cảm lạ lùng, một dự cảm như muốn nổ tung cả vị giác lẫn linh hồn. Một dự cảm của chua chát, ngọt ngào và hăng nồng, giống như ngày xưa xưa lắm ấy, khi cuộc đời vẫn chỉ xoay vần quanh những vui thú cuồng say, khi mà cõi phù thế vẫn còn thân thiết như một chốn nương náu an toàn. Khi ấy, Augenste nhớ rõ, anh cũng đã từng choáng ngợp trong rượu mạnh và những buổi đàn hát thâu đêm suốt sáng. 

Một dự cảm được kết tạo từ Những lời cuối và Caprice số 34, đánh thức lại một lần nữa cõi sao xoay đã ngủ yên trong ký ức của Augenste mười năm về trước.

Chiếc vĩ cầm Scherl & Roth SR41E2H cũ kĩ đã theo gót anh suốt từ thuở thiếu thời đến bao năm dài chinh chiến có một mối liên kết những rung cảm đặc biệt với chủ nhân mà không một cây vĩ cầm đắt giá nào khác có thể làm được, ngay từ khoảnh khắc cây vĩ kéo của anh chạm vào thân đàn, Augenste đã thấy như mình đang quay lại chính cái khoảnh khắc nhiệm màu ấy trong quán Nàng tiên xanh mười hai năm về trước, khi mà đạn bom còn chưa chạm đến cửa ngõ và phía dưới những dãy bàn chìm lút trong bóng tối, ánh mắt của người nọ vẫn dõi về phía anh, chăm chú và rực rỡ, tựa như sao trời trong đêm vắng, hệt như thế này. Người đàn ông đó ngồi ở tít tận góc tối nhất của quán rượu, bên cạnh một gã đàn ông trung niên người Mỹ mặc áo vest da hoẵng, trước mặt họ, Plymouth Gin bốn ba độ ướp lạnh đã uống được hơn phân nửa, và dù cho cả khuôn mặt người nọ gần như chìm lỉm trong khoảng tối nhờ nhờ của quán rượu, anh vẫn nhận ra được đôi mắt đen sâu thẳm như đáy biển, lặng lẽ dõi về phía anh như ngàn đời vẫn thế.

Bất giác, Augenste mỉm cười. 

Phải, hệt như thế này.

Anh biết, người đó đang cho anh một dấu hiệu.

Augenste đặt người cộng sự xinh đẹp của mình lên trên hõm vai, lần đầu tiên sau bao nhiêu năm trời lạc lối đã tìm lại được chút ít niềm hưng cảm trong những nốt nhạc réo rắt. Những tiếng rì rầm nơi quán rượu xa dần xa dần đến tận khi không còn thấy bóng dáng, chỉ còn lại anh với tiếng chuông ngân thánh thót thần kỳ, hệt như cái thời mà tất cả mọi người trong Nàng tiên xanh vẫn còn chăm chú lắng nghe từng bản nhạc mà anh chơi với niềm ngưỡng mộ chân thành nhất. Thuở ấy, Augenste Cereja, sẽ tròn đôi mươi vào khoảng hai tháng nữa, vẫn còn nguyên vẹn cái phẩm cách kiêu hãnh của một chàng trai tuổi mới lớn, từng quả quyết rằng sẽ không bao giờ chơi nhạc cho bất cứ ai ngoài bản thân mình. Anh từng nghĩ rằng, bởi vì anh không có dự định trở thành một nghệ sĩ - dù anh vẫn là một sinh viên khoa nghệ thuật, thế nên anh không muốn biến những nốt nhạc của mình thành tài sản tinh thần của chung toàn cõi nhân loại. Anh cất giấu những giai điệu như người ta cất giấu tâm tư, và giả như có là đích thân Đức vua đến yêu cầu, anh cũng sẽ không nghiêng mình kính cẩn mà chơi cho ngài một bản. Thế rồi, vào một ngày tháng Năm trời hanh oi nồng, trong ánh đèn mờ ảo nhập nhoạng của quán bar Nàng tiên xanh, khi người nọ bước chân vào trong quán bar mà bọn sinh viên các anh vẫn thường hay ghé, áo sơ mi màu xanh rêu hững hờ không cài chiếc nút trên cùng, và dù một phần dung nhan bị che khuất đi bởi chiếc kính gọng vàng, thì anh vẫn thấy được cặp mắt đen láy, sáng ngời và sâu thẳm, như lối dẫn đến cổng thiên đường. Cứ như vậy, đó là lần đầu tiên trong đời, chàng thanh niên kiêu ngạo Augenste đã chịu cảnh khuất phục toàn diện dưới một đôi ánh mắt.

Người đấy đi cùng với nhóm cỡ ba bốn du học sinh Nhật Bản, tóc đen và mắt cũng rặt một màu đen tuyền, trên khuôn mặt điểm nét Á châu khiến họ trông trẻ hơn so với đa số bạn học. Khác với sự đồn đại về tính nghiêm túc pha với đôi chút lạnh lùng máy móc mà người ta vẫn thường hay đồn về những con người đến từ châu lục cách xa họ tận hai bờ đại dương, nhóm người này khoác lên mình một vẻ gì đó rất mực phiêu đãng và phóng túng, chẳng khác gì những kẻ bohème vô loài, Augenste nhớ đã từng có một giáo sư khó tính đánh giá họ như vậy. Họ đến từ nhiều khoa khác nhau, Toán có, Vật Lý có, Nghệ Thuật và Văn Chương chắc chắn cũng chẳng thiếu chân góp mặt, tựa như những linh hồn hoang dại phiêu bạt khắp nơi, để rồi hội ngộ trong những quán cà phê, những quán rượu mở thâu đêm, cho đến những tiệm nhảy óng ánh sắc đèn đóm xen lẫn với sequins đính trên làn váy các quý cô. Họ học theo đám văn sĩ ở Pháp, tự lập nên một salon văn chương trong tâm tưởng cho riêng mình, chiếm lĩnh lấy một góc bàn trong quán làm của riêng, vừa nốc rượu như nốc nước lã và kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện văn chương văn nghệ.

“Nếu chúng ta vẫn còn ở Nhật Bản lúc này, thì làm sao có thể có được những phút giây ngây ngất đỉnh cao như thế này, anh nói xem có đúng không hả, anh Suzume?” Một người trong số họ vỗ vào vai người đàn ông có cặp kính gọng vàng nọ, cất cao giọng. “Thật sai lầm, chính sách hạn chế những chốn phù thế thần tiên của Tổ quốc chúng ta ấy mà, sai lầm quá thể. Bọn họ rồi sẽ biến người Nhật thành những cỗ máy chỉ còn biết có quân sự với kinh tế mà thôi!”

Người nọ không trả lời, hắn vẫn thường kiệm lời như thế trong suốt những cuộc say sưa, tay nâng cốc absinthe lên nhấp một ngụm thay lời đồng ý.

Nhờ thế mà Augenste biết được tên của hắn là Suzume.

Augenste không còn nhớ cụ thể tình huống, dường như khi ấy hai bàn bọn họ ngồi cạnh nhau, và đã có một cuộc giao lưu nho nhỏ xảy ra. Dường như có ai đó, có lẽ là anh chàng Wright bên khoa Vật Lý, đã đưa ra một lời thách thức, thách họ làm quen được với nhóm người Nhật Bản bên kia, bởi theo lý lẽ mà cậu ta đưa ra, thì mấy đứa da vàng đó nhìn phóng khoáng thế thôi chứ thực ra toàn tự co lại trong một cái vòng tròn an toàn của mình, mời mãi không chịu ra. Dĩ nhiên, đó có thể không hoàn toàn là những gì Wright nói, thời gian đã quá lâu và trí nhớ của anh về cái thời đại vui vẻ ấy cũng đã bị chắp vá bởi nhiều ảo ảnh vô thực do tâm trí tự tô vẽ nên, nhưng về đại ý thì anh vẫn nhớ rõ. Anh cũng nhớ rõ cái cách mà bạn bè mình ồ lên kinh ngạc khi anh xung phong nhận lấy thử thách này. Thông thường, Augenste chỉ đóng vai trò là một người trọng tài, một nhân chứng cho những trò thi gan của bọn họ, cũng có đôi lúc cao hứng, anh chấp nhận thử thách khiêu vũ cùng một cô gái lạ mặt nào đó một điệu flamenco cơ bản, nhưng đa phần, Augenste chưa bao giờ để đời mình vương lại ở bất kì một quãng tạm bợ nào được dựng nên chỉ bằng đôi ba trò thách thức, nhưng lần này thì khác.

Lần này thì khác.

Anh có thể cảm nhận được ánh mắt của Suzume cũng vừa vặn dõi về phía mình, khi anh đang chầm chậm đi đến bên chiếc bàn nhỏ nhóm sinh viên Nhật Bản đang ngồi bằng những bước chân bay bổng như người vừa tỉnh dậy khỏi cơn mộng mị. Tầm mắt họ giao nhau trong một khoảnh khắc đó và cứ thế cuốn chặt vào nhau, đong đầy ánh vàng ấm áp của ngọn đèn và mùi hương hăng nồng của rượu Gin choáng ngợp, Augenste thấy mình sa xuống. Tựa như một chú chim đã không còn thiết tha gì đến đôi cánh bay, chỉ muốn chìm xuống, chìm mãi mãi, vào trong vòng tay của nhung lụa đen tuyền như màn đêm.

“Em có thể mời anh một ly không?” Anh hỏi, em có thể mời anh một ly không?

Lúc đấy, dường như cả những cậu sinh viên Nhật Bản lẫn bạn bè của Augenste đều đang nhìn về phía này bằng ánh mắt tò mò xen lẫn ít nhiều thích thú. Tất cả bọn họ đều hiểu rằng khoảnh khắc này chính là một dấu mốc cho một cái gì đó, một câu chuyện, một sự kiện mà đời này bọn họ sẽ chỉ có duy nhất một lần được chứng kiến. Họ đã có được cái quyền dự vào trong thời khắc mà một hạt mầm đâm chồi từ dưới lớp đất cằn, một câu chuyện được bắt đầu, một ngày xửa ngày xưa ấy. Họ chứng kiến nó bằng sự tò mò nhiệt huyết của tuổi trẻ, và cũng bằng sự kính trọng tuyệt đối của những người theo đuổi sự bất diệt.

“Có thể…” Xuyên qua lớp kính dày, Augenste có thể thấy đôi mắt Suzume lấp lánh như đang phản chiếu lại sao trời Cambridge. “Một ly The Last Word, dùng loại Gin bốn ba độ, và nếu cậu không phiền thì thêm một bản của Paganini nữa, cảm ơn.”

Khi bản nhạc kết thúc, tiếng vỗ tay vang to và lâu hơn thường lệ, dường như cả quán Forelsket đã thoát ra khỏi bầu không khí lơ đễnh lãng đãng bấy lâu của mình, tất cả các vị khách, dù còn tỉnh táo hay đã ngà ngật say khướt, dù là người trong nghề hay kẻ chẳng có tí tẹo hiểu biết gì về nhạc lý, đều đã nghiêm túc lắng nghe bản tấu mà có lẽ đối với một số người ở đây, sẽ trở thành phiên bản đỉnh cao nhất về niềm say đắm và sự rung cảm mà họ từng nghe trong đời. Không ít khách hàng hưng phấn yêu cầu họ chơi thêm bản này bản kia, những tạp âm hỗn loạn chồng chéo sượt qua vành tai Augenste rồi biến mất không chút dấu vết, anh thậm chí còn không nghe được lời người bạn đàn vừa thì thầm với mình, tầm mắt chăm chú dõi về một góc tối tăm, nơi người đó đã chọn để giấu mình vào giữa miên viễn những khách khứa vãng lai qua quán. Anh không thể nhìn thấy được biểu cảm hay thậm chí là cử chỉ của Suzume, người đàn ông Mỹ nọ đã hút hết toàn bộ ánh sáng chung quanh hắn đi rồi. Mà đó liệu có thật là Suzume hay không? Hay chỉ là một bóng ma bước ra từ quá khứ, một ngày nọ dựa vào xì gà và rượu mạnh, cùng vô số những món thuốc điều trị chứng mất ngủ đã được hữu hình hóa, bước vào Forelsket và gợi lại trong anh ngần ấy những dư âm xa vắng mà chẳng để làm gì cả?

“Làm sao vậy, Cereja?”

“Xin lỗi, anh lo tiếp ở đây giúp tôi nhé.”

Augenste vỗ nhẹ vào vai người bạn đàn, ngơ ngơ ngẩn ngẩn cúi chào khán giả rồi bước vội xuống khỏi sân khấu như người mất hồn. Anh muốn tiến đến góc bàn tối tăm đó và bắt lấy dư ảnh của Suzume, trong lòng rối bời bởi trăm ngàn nỗi sợ. Anh sợ rằng nếu đó thật sự chỉ là một cái bóng vọng lại từ quá khứ, thì giấc mộng này của mình sẽ hóa ra trống rỗng. Anh sợ rằng nếu đến không đủ nhanh, thì ngay cả một tàn ảnh anh cũng sẽ chẳng nắm giữ được nữa.

Ngay khi vừa rời khỏi sân khấu, tầm nhìn của Augenste đã bị choáng ngợp bởi cơ man là những bóng người, xám xịt và mờ ảo như bóng ma. Anh không còn thấy được góc bàn trong chỗ tối ấy nữa, không còn nắm giữ được hư ảnh mở ảo ấy trong tầm mắt mình được nữa, thành thử anh đâm ra sốt ruột. Có một vài vị khách nhận ra anh, muốn níu lại để bày tỏ chút lòng hâm mộ, nhưng Augenste còn có tâm trí nào cho việc đấy nữa. Không đếm hết được bao nhiêu lần bước chân vội vã của anh vấp vào những chân ghế cao, làm kinh động đến các vị khách ngà ngật say khướt. Tiếng phàn nàn vang dội khắp một góc Forelsket, còn Augenste thì vẫn mất hồn lách qua dòng người để theo đuổi một giấc mộng xa vời.

“Xin lỗi… xin lỗi… Tôi rất tiếc… Làm ơn cho tôi qua, làm ơn…”

Mãi đến khi anh đến được chiếc bàn trong góc tối, đã chẳng còn lại gì ngoài người đàn ông mặc áo vest da hoẵng và vài ly Gin uống dở.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro