𝑷𝒍𝒚𝒎𝒐𝒖𝒕𝒉 𝑮𝒊𝒏 43°

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

“𝐄m đã cố bày trí nó giống căn phòng thời đại học nhất có thể, nhưng có lẽ cũng chỉ mang tính tượng trưng, anh nhớ cẩn thận cái sàn.”

Căn phòng mà Augenste đang ở nằm trên tầng hai quán Forelsket, có vẻ đã được xây dựng từ rất lâu rồi. Tấm ván lót sàn dưới chân thỉnh thoảng lại phát ra tiếng kẽo kẹt như sắp hỏng, chính giữa căn phòng đặt một cái bàn trà và một cái ghế sô pha lớn mà rượu vang trông rất mới, đối lập hẳn với mấy tấm rèm màu hồng đào đã hơi phai màu đi vì nắng chiếu. Suzume cố tìm kiếm trong phần ký ức bụi bặm một chút sắc hồng trong căn phòng cũ thời đại học mà Augenste từng ở. Dường như đã từng có cái màu hồng cam của những quả đào chín mọng từng tồn tại đâu đó trong đoạn đời đấy, nhưng chắc chắn là không phải ở trên các tấm rèm.

“Anh biết đấy, chiến tranh sẽ luôn nuốt chửng mất của chúng ta một cái gì đó.”

Augenste tìm kiếm trong các tủ chạn một chút gì đó để hai người có thể vừa uống vừa nói chuyện. Hầu như chẳng còn gì, chỉ còn một chai Gin hiệu Plymouth bốn ba độ cùng một ít phô mai Gouda và vài gói bánh quy giòn. Anh lấy tất cả ra, bày bánh và phô mai lên một chiếc đĩa có vân sứ màu xanh dương, lại lấy thêm hai cái ly thủy tinh nhỏ có chân để uống rượu. Từ khi nào mà Augesnte bắt đầu trữ rượu trong nhà như thế này? Anh cũng chẳng còn nhớ nổi nữa. Có thể là sau khi vừa giải ngũ về chưa dứt được thói quen mỗi ngày đều phải tống thật nhiều rượu vào để xua đi cái lạnh và nỗi sợ bỏ đời lại giữa hoang tàn chiến trận. Có thể là sau những đêm dài ám ảnh mà không thứ thuốc an thần nào có thể xoa dịu được, anh đã chọn cách uống gần cả nửa chai rượu mạnh, bất kể là rượu gì, để hơi men có thể vật ngã mình vào giấc ngủ cùng với cơn đau đầu khủng khiếp và vết thủng trong lòng thì ngày một lan rộng ra hơn. Dần dần, quãng đời đó cũng chìm lút vào sương mù. Và Augenste chỉ còn biết rằng khi nhận ra, anh đã quen với cái mùi hăng nồng đắng chát đó đến mức không có nó thì sẽ chẳng thể nào ngủ yên được.

Anh quay trở lại phòng khách. Suzume không còn ngồi trên ghế sô pha nữa, hắn đứng lặng lẽ ở góc nhà, ngắm nhìn bức tranh vẽ chì đã cũ lắm rồi được lồng trong khung hình mạ vàng, nom trang trọng như một bức tranh quý. Những nét vẽ bằng than chì đã bị thời gian làm mờ đến nỗi người trong tranh chỉ còn lại một hình bóng mờ ảo như bóng ma, không còn nhận ra được đẹp hay xấu. Chất giấy đã từng rất tốt cũng ngả hết sang màu ố vàng, sờn rách hết các góc. Đâu đó trên bề mặt giấy lấm tấm vài đốm đen trông như vết máu khô. Cho dù danh tính của người đàn ông trong tranh đã chẳng còn có thể nhận dạng được nữa, nhưng Suzume biết đó chính là hắn. Chính là hắn một buổi sớm mùa thu năm 1937 nhận lời làm mẫu vẽ bán khỏa thân cho lớp mỹ thuật cơ bản của thầy Atkinson. Chính là hắn trong quá khứ, cũ kỹ và đã mất đi gần hết nhân dạng xưa, vào cái ngày họ gặp nhau lần đầu tiên ấy.

“Khi ấy em ngồi ngay chính diện tầm mắt của anh, em đã căng thẳng đến mức cứ ngồi ngây ra đó mà nhìn anh suốt gần nửa tiết.” Augenste mỉm cười đến gần, nhẹ nhàng chạm tay lên vai người đàn ông nọ. “Đến nỗi mà giờ giải lao, anh còn phải đích thân xuống giúp em sửa lại tranh.”

“Sau mười lăm năm, tôi đã không dám nghĩ rằng em vẫn còn nhớ về tôi như vậy…”

“Thú thực thì có những lúc em tưởng mình đã quên anh.” Augenste mỉm cười chua xót. “Người ta mất nhiều thứ trong chiến tranh hơn là những ký ức về một người quan trọng, đã có những buổi sáng em tỉnh dậy và nhận ra mình đã bắt đầu quên mất anh. Đầu tiên là giọng nói, kế đó là khuôn mặt, dần dần, em chẳng còn giữ lại được gì ngoài một cái bóng mờ của anh.”

“Suzume ạ, có lẽ anh không biết, nhưng thời ấy anh là một trong số ít những tồn tại giữ cho em vẫn còn tỉnh trí giữa ngần ấy những đạn bom và ngày nào em cũng phải chứng kiến những khuôn mặt quen thuộc nhạt nhòa đi ngoài chiến trường. Em đã mang theo bức chân dung ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau, nhờ có nó… em vẫn còn giữ được một góc áo của anh.”

Mười lăm năm, đi qua biết bao nhiêu là chiến tranh khói lửa, bức tranh vốn từng được vẽ trên loại giấy thượng hạng nhất thời bấy giờ đã trở thành một tấm giấy nhàu nhĩ, lấm tấm những đốm máu khô, những vết cháy xém, thiếu điều muốn rách làm đôi. Đã có nhiều lần, Augenste tưởng mình chẳng giữ được nó nữa. Bức tranh ấy không chỉ là một cái mỏ neo ngăn anh khỏi bay mất vào trong những cột khói cuồn cuộn sau mỗi đợt bom nổ, mà còn là một dấu mốc, một minh chứng cho cái thời kỳ vui vẻ anh từng sống và cho cái ngày đầu tiên họ gặp nhau trong đời.

Có đôi lần, một vài đồng đội trẻ tuổi nghịch ngợm của Augenste cố tìm cách xem cho bằng được bức tranh mà anh vẫn hằng quý trọng. Trong suy nghĩ trẻ thơ của họ, người trong bức tranh hẳn phải là một thiếu nữ dịu dàng như hoa, mái tóc dày tết thành hai bím dài xinh xắn, đôi mắt trong veo và môi lúc nào cũng nhoẻn cười e thẹn; hoặc ít nhất thì đó cũng sẽ là một bức tranh gia đình, với bố và mẹ cùng một cô em gái nhỏ dễ thương đứng bên cạnh lò sưởi ấm cúng. Augenste chưa bao giờ để họ có được cơ hội đó, anh giữ bức tranh như người ta giữ khư khư lấy một món châu ngọc quý giá, cũng chưa bao giờ tiết lộ về người đàn ông Nhật Bản trong tranh, bởi đó là một điều cấm kỵ. Tình yêu của họ là một điều cấm kỵ, là trái với lẽ thường thuở ấy. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như những người bạn này của anh biết được anh yêu một người lính Nhật Bản, không những vậy còn là đàn ông?

Augenste không biết. Anh chỉ biết rằng nếu chuyện đó xảy ra, anh sẽ không bao giờ còn được gặp lại Suzume nữa.

Không bao giờ.

“Em đã mất đi nhiều thứ trong chiến tranh, nhưng bức tranh này vẫn ở bên cạnh em cho đến tận bây giờ. Thế nên em đã luôn nghĩ đó là một điềm báo, một lời tiên tri rằng em sẽ được gặp lại anh, Suzume ạ. Thế nhưng cho đến tận giây phút nhìn thấy anh, trọn vẹn và chân thật, đứng trước mặt em tối nay, em mới dám tin rằng mình không đang mơ một giấc mơ hão huyền. Em đã sống sót sau chiến tranh và em vẫn còn yêu anh, đối với em thế đã là đủ, nhưng với cả hai chúng ta thì chưa. Em biết người Mỹ đã mang bom đến để ép nước Nhật vào cục diện không còn đường trở mình, nhưng lại không biết rằng anh có đứng dưới bầu trời đó ngày bom rơi hay không. Em biết quân đội Nhật đã bị giải giáp khỏi Mãn Châu, nhưng em không biết được liệu anh có ở trên cùng một chiếc tàu với những người lính trở về đó hay không. Em chẳng biết gì cả Suzume ạ, mọi nguồn thông tin đều chẳng dẫn em tìm lại được bóng dáng anh. Em không thể bay sang đó để tìm anh, nên tất cả những gì em có thể làm là chờ đợi. Em đợi anh đến tìm em ở nước Mỹ, như chúng ta đã từng hứa với nhau, nhưng lúc đó em không thể đi ngay được, vì em vẫn còn đang phải điều trị chấn thương hậu chiến tranh. Em sợ anh đã đến đó trước mà không tìm thấy được em. Em sợ chúng ta sẽ bỏ lỡ nhau mãi mãi.

Suzume ạ, em đã luôn sống trong lo sợ như thế, mãi đến khi anh đến và tìm em.”

Đến tận giờ phút này, Augenste vẫn còn sợ hãi. Anh sợ rằng người ở bên cạnh mình hóa ra lại chỉ là một cái bóng được kết tạo lại từ những tàn tích của giấc mơ và rượu mạnh, một cái bóng mà chỉ cần mặt trời ló dạng sẽ vĩnh viễn biến mất như chưa từng tồn tại trên cõi đời,

Suzume không nói gì. Hắn nhẹ nhàng vòng tay ôm lấy anh, để mái đầu anh tựa vào lồng ngực nóng hổi. Hơi thở của hắn gần sát đến nỗi thấm lan qua hơi thở của anh, hòa lại trong nhịp tim thổn thức bất chợt. Augenste thấy mình ngã xuống một vũng xoáy của sự chân thật không chút ngụy tạo, của những nỗi buồn xác xơ từ lâu đã hóa hình vào trong hơi thở dưới bóng dáng của ly rượu mạnh họ uống cùng nhau suốt cả đêm thâu.

Plymouth Gin bốn ba độ ướp lạnh, đời thuở nào cũng ngây ngất cuồng say như thế.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro