Thư kiếm ân cừu lục - bản cũ 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 10

Phận rủi còn đeo người nghĩa khí

Trời già vẫn tựa kẻ gian hùng

Trương-Siêu-Trọng xuống ngựa, tuốt bảo kiếm ra tiến tới. Bỗng nhiên đàng sau lưng có tiếng người nói lớn:

-Trương đại nhân cứ để nó cho tôi!

Thì ra đó là Châu-Tổ-Âm. Trương-Siêu-Trọng lui về một bước nói:

-Châu huynh phải cẩn thận, chớ nên khinh địch.

Châu-Tổ-Âm cầm đao bước tới hét lớn:

-Tên cuồng nô lớn mật kia! Mi dám cả gan cướp khâm khạm hả? Hãy xem bản lãnh của ta đây!

Dứt lời Châu-Tổ-Âm xông tới phía Trần-Gia-Cách bổ xuống một đao ngay đầu. Trần-Gia-Cách bình tĩnh đưa tấm thuẫn bài lên đỡ. Ngọn đao của Châu-Tổ-Âm như bị dính chặt vào tấm thuẫn bài kia. Hắn cố thâu đao về nhưng không làm sao rút binh khí của mình ra được. Châu-Tổ-Âm kinh hãi, hắn chưa bao giờ được nhìn thấy một món binh khí nào lạ lùng như vậy. Lúc đó hắn mới nhìn thấy trên tấm thuẫn bài có chín ngọn đáo câu vô cùng lợi hại.

Chín ngọn đáo câu lóe lên một cái, Châu-Tổ-Âm sợ quá buông tay để rớt ngọn đao xuống đất, lùi ra sau hai bước. Trần-Gia-Cách lại giơ tấm thuẫn bài lên một cái, năm sợi thằn sách bung ra đánh ngay vào mặt Châu-Tổ-Âm. Mỗi sợi thằn sách có một khúc cương cầu.

Châu-Tổ-Âm định tung mình lên tránh né nhưng không còn kịp nữa, cương câu đã điểm trúng vào huyệt ‘chỉ đương’ ở hậu tâm làm cho hắn nhói lên một cái. Chưa kịp la lên một tiếng thì sợi thằn sách lại quật trúng ngay nhượng chân ngã qụy xuống đất.

Trần-Gia-Cách bước tới xách ngang hông Châu-Tổ-Âm quăng lên tảng đá. Trương-Siêu-Trọng thấy vậy liền bước tới đỡ Châu-Tổ-Âm dậy, móc trong người ra một viên thuốc màu đỏ nhét vào miệng, sau đó khai giải huyệt đạo cho hắn. Một lát sau Châu-Tổ-Âm mới tỉnh dậy được, thấy toàn thân như lạnh run, không mở miệng ra nói năng được một lời.

Trương-Siêu-Trọng sai người săn sóc Châu-Tổ-Âm rồi rút thanh Ngân-Bích-Kiếm ra khỏi vỏ nhìn Trần-Gia-Cách nói:

-Võ nghệ của ngươi cũng thuộc hạng khá lắm đó! Sư phụ ngươi là ai?

Trần-Gia-Cách chưa kịp trả lời thì Tâm-Nghiện đứng một bên đã lên tiếng:

-Ngươi là cái thá gì mà đòi lên giọng hách dịch? Vậy chứ sư phụ ngươi là ai?

Trương-Siêu-Trọng mặt đỏ tía tai nói:

-Mi là đứa con nít miệng còn hôi sữa chỉ biết nói xàm, ta không thèm chất nhặt!

Tâm-Nghiệm cả cười nói:

-Mi tự phụ là bậc võ lâm tiền bối cao thủ mà tại sao nhìn binh khí của công tử ta lại không biết, còn hỏi một câu ngu xuẩn như vậy? Hãy vập đầu xuống lạy ta ba lạy ta sẽ nói cho biết!

Trương-Siêu-Trọng cả giận nhưng không thèm tranh luận nữa, vung kiếm nhắm vào bả vai Trần-Gia-Cách chém tới. Trần-Gia-Cách tay phải vụt sợi thằn sách lên đỡ mũi kiếm còn tay trái giơ tấm thuẫn bài nhắm Trương-Siêu-Trọng phang một cái.

Biết là gặp phải cao thủ, Trương-Siêu-Trọng không dám coi thường, vội thi triển Nhu-Vân Kiếm-Thuật mà đỡ lấy tấm thuẫn bài, rồi sau đó giở hết các ngón tuyệt kỹ ra giao đấu. Hai bên đánh qua đỡ lại hơn mấy chục hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại.

Đang lúc hai người tranh phong kịch liệt thì hai người lái đò đã đến gần đám xạ thủ Thanh-Binh. Đám xạ thủ liền buông tên bắn như mưa nhưng đều bị hai người dùng binh khí gạt hết xuống đất.

Hai người lái đò kia, một người cầm cây thiết tương chính là Tưởng-Tứ-Căn, còn người kia cầm song đao, chính là Uyên-Ương-Đao Lạc-Băng. Cả hai xông tới mặc sức đánh giết đám Thanh-binh như vào chỗ không người.

Tưởng-Tứ-Căn vung cây thiết tương múa như bay khiến không ai dám lại gần. Lạc-Băng chạy lại chỗ hai chiếc tù xa, vén màn một chiếc lên gọi lớn:

-Tứ ca! Anh có ở trong xe không?

Chẳng ngờ người trong xe không phải là Văn-Thái-Lai mà lại là Dư-Ngư-Đồng. Bị trọng thương nằm mơ mơ màng màng lại nghe giọng nói và nhìn được khuôn mặt của Lạc-Băng, Dư-Ngư-Đồng tưởng đây là chốn âm ty nên mừng rỡ hỏi ngơ ngẩn:

-Ủa! Chị xuống mãi tận nơi này mà tìm em đó sao?

Nghe giọng nói quen quen nhưng thấy không phải là Văn-Thái-Lai nên Lạc-Băng làm như không quan tâm tới, tức tốc chạy đến tù xa thứ nhì. Nàng vừa định vén màn lên bỗng chợt nghe hơi gió của một ngọn đao từ đàng sau chém tới.

Lạc-Băng quay lại vung đao lên đỡ, đồng thời móc trong người ra hai ngọn phi đao phóng liên tiếp vào kẻ đánh lén mình. Một phi đao ghim ngay vào bả vai, còn phi đao kia ghim vào ngay chân khiến cho hắn gục hẳn xuống.

Rồi một người khác rút ra ngọn ‘Cú-xỉ đao’ xông tới tấn công Lạc-Băng. Nhận ra người nay là Đoàn-Đại-Lân, một những tên thị vệ có nhúng tay vào việc bắt sống Văn-Thái-Lai ở Túc-Châu, máu hận thù của nàng bỗng sôi lên sùng sục, liền dùng ‘Hàn-Vương đao pháp’ (#1) do thân phụ đích thân truyền thụ cho mà phản kích dữ dội. Đánh nhau được vài hiệp, bọn thị vệ kéo đám Thanh-binh tới đông như kiến vây chặt hai người Tưởng-Tứ-Căn cùng Lạc-Băng lại. Rồi hai tên thị vệ xông tới hợp sức với Đoàn-Đại-Lân cùng đánh Lạc-Băng.

Vừa lúc ấy ở hướng Đông-Bắc có bốn kỵ mã phi tới như giông. Người đi đầu là Vệ-Xuân-Hoa, ba người đi sau là Dương-Thanh-Hiệp, Chương-Tấn và Châu-Ỷ. Vệ-Xuân-Hoa múa song câu đánh dẹp bọn Thanh-binh đang cản đường cho nhóm người tiến tới. Chàng vừa dùng một thế ‘Bàn xà nhập huyệt’ đánh vỡ sọ hai tên Thanh-binh thì ba người kia cũng vừa đến nơi.

Bốn người sau đó xông vào giữa đám quân chém giết không ngừng tay. Đám Thanh-binh hoảng sợ, loạn hết cả tinh thần, đua nhau tìm đường chạy trốn.

Thấy viện binh đã tới, Lạc-Băng phấn khởi tinh thần, liên tiếp chém chết hai tên thị vệ và trổ hết tài nghệ đánh Đoàn-Đại-Lân không kịp thở. Đánh thêm được vài hiệp, Lạc-Băng chém cho Đoàn-Đại-Lân hai nhát, máu tuôn đầm đìa ướt hết cả áo. Hắn phải vứt bỏ binh khí để mà chạy. Trong khi đó, Tưởng-Tứ-Căn cũng hứng chí, hết mình ra sức đánh giết, diệt thêm được nhiều quân lính.

Thấy bên mình đã nắm được thượng phong, Lạc-Băng liền chạy đến tù xa thứ hai, vén màn nhìn lên. Đang hồi hộp chưa biết ra sao thì bên trong tù xa có tiếng người vọng ra:

-Ai đó?

Nghe tiếng hỏi, Lạc-Băng cả mừng, nhận ngay ra giọng của Văn-Thái-Lai. Không còn nghi ngờ gì nữa, nàng ngả mình vào tù xa đưa tay khẽ đỡ đầu Văn-Thái-Lai dậy. Lạc-Băng quã đỗi vui mừng, nước mắt tuôn ra như suối. Văn-Thái-Lai khi nhận ra là người vợ yêu của mình thì cũng hết sức sung sướng tưởng như mình đang nằm chiêm bao. Muốn ôm vợ vào lòng an ủi nân niu nhưng ngặt nỗi hai tay bị trói chặt nên đành chịu, Văn-Thái-Lai chỉ còn biết nhìn vợ mà nghẹn ngào. Lạc-Băng chẳng chút do dự nhảy vào trong xe ôm lấy Văn-Thái-Lai. Hai người âu yếm nhau, cảm thấy không gian và vũ trụ không còn gì là vô tận nữa. Tưởng như đây là chốn phòng the, hai vợ chồng tha hồ tâm sự yêu đương mà không cần biết gì đến những gì đang xảy ra ở bên ngoài. Mãi cho đến lúc thấy tù xa di động, hai người như mới bàng hoàng tỉnh giấc.

Từ bên ngoài, Chương-Tấn đưa đầu vào nói:

-Tứ ca! Anh cứ yên lòng đi! Anh em cùng nhau đưa anh về đây. Chẳng còn gì phải lo sợ nữa.

Dứt lời, Chương-Tấn nhảy lên tung một cước đá tên xa phu ngã xuống và ngồi thế vào chỗ của hắn. Chương-Tấn sau đó liền ra roi, giục ngựa về hướng Bắc mà chạy.

Đám Ngự-lâm thị vệ định liều chết xông tới đoạt lại tù xa thì bị bốn người Dương-Thanh-Hiệp, Vệ-Xuân-Hoa, Tưởng-Tứ-Căn và Châu-Ỷ quay lại đánh. Chúng nhắm cụ không nổi bốn người nên vừa chạy vừa lớn tiếng gọi đám xạ thủ:

-Bắn! Bắn! Mau lên!

Mấy chục tên xạ thủ cùng buông tên một lượt. Giữa đêm tăm tối, ai nấy nghe Dương-Thanh-Hiếp thét lên:

-Ối chao!

Vệ-Xuân-Hoa nhìn thấy cánh tay trái Dương-Thanh-Hiệp bị ghim một mũi tên thì hoảng hốt, lên tiếng hỏi thăm:

-Bát ca! Anh có sao không?

Dương-Thanh-Hiệp lắc đầu ra dấu như ý muốn nói chẳng hề gì. Chàng cắn răng rút mũi tên ra rồi nhìn đám xạ thủ nói lớn:

-Được rồi! Cái này là tại chúng bây gây sự trước!

Rồi không cần để ý gì đến vết thương, Dương-Thanh-Hiệp múa cương tiên xông thẳng tới. Vệ-Xuân-Hoa cũng lớn tiếng nói:

-Bát ca! Chờ em với! Để em giúp anh một tay cho chúng một trận!

Dương-Thanh-Hiệp đáp:

-Tốt lắm! Mau tiến lên kẻo chúng chạy đi hết!

Một cương tiên và song câu trong chớp nhoáng đã giết một hơi mấy chục tên xạ thủ. Những tên còn lại cắm đầu mà chạy trối chết, chẳng còn nghĩ gì đến hàng ngũ nữa. Nhưng chưa cạy được bao xa, chúng lại đụng phải Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường. Mạnh-Kiện-Hùng cầm một nắm phi đạn ném vào đám tàn quân khiến cho đứa lủng đầu, đứa sứt trán... kêu la thảm thiết. Hai người đệ tử của Châu-Trọng-Anh sau đó cũng trổ tài, xông tới chém giết đám Thanh-binh không ngừng...

Trong khi Dương-Thanh-Hiệt và Vệ-Xuân-Hoa truy sát đám Thanh-binh thì Tưởng-Tứ-Căn và Châu-Ỷ cùng nhau hộ tống tù xa bên trong chở Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng cho Chương-Tấn làm xa phu thoát ra khỏi vòng vây an toàn.

Đến một gò mạch cao, Chương-Tấn dừng cương ngựa lại. Mọi người từ trên cao nhìn xuống xem trận chiến đang xảy ra vô cùng khốc liệt giữa Trần-Gia-Cách và Trương-Siêu-Trọng. Cả hai bên cùng đem hết sở trường ra sử dụng để quyết hạ đối phương. Xem trận đấu thì có vẻ ngang tài ngang sức, nhưng nếu để ý nhìn cho kỹ thì Trần-Gia-Cách càng đánh càng hăng, dần dà lất át được Trương-Siêu-Trọng. Chiêu thế của Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội mỗi lúc một biến ảo làm Trương-Siêu-Trọng không biết đâu mà lường, chỉ còn biết cố sức chống đỡ và né tránh chứ không còn nghĩ gì đến chuyện tấn công nữa...

Văn-Thái-Lai liền hỏi:

-Bên ngoài ai đang đánh với ai vậy?

Lạc-Băng đáp:

-Tổng-Đà-Chủ đại chiến Hỏa-Thủ Phán-Quan.

Văn-Thái-Lai lại hỏi:

-Phải chăng Thiếu-Đà-Chủ đã...

Lạc-Băng gật đầu đỡ lời:

-Chính thức trở thành Tổng-Đà-Chủ danh chánh ngôn thuận theo di mệnh của Vu tổng-đà-chủ tiền nhiệm.

Văn-Thái-Lai nói:

-Thế thì hay lắm! Không biết Tổng-Đà-Chủ có thủ thắng được với Trương-Siêu-Trọng không? Mình để ý xem và nói lại cho anh biết.

Lạc-Băng khẽ gật đầu, say mê thưởng thức trận đấu giữa hai cao thủ thượng thặng trong võ lâm.

Đột nhiên, Lạc-Băng vui mừng reo lên:

-Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Võ công Tổng-Đà-Chủ thật là tuyệt thế vô song! Hay quá hay quá! Kiếm báu của Trương-Siêu-Trọng đã bị thuẫn bài của Tổng-Đà-Chủ hút chặt vào rồi! Kìa, một sợi dây thằn sách đang đánh vào người Trương-Siêu-Trọng... Á...

Văn-Thái-Lai vội vàng hỏi:

-Chuyện gì vậy em?

-Không xong! Thanh Ngân-Bích Kiếm của Trương-Siêu-Trọng quả thật là bảo kiếm, đã chặt đứt hai câu tử trên thuẫn bài của Tổng-Đà-Chủ rồi! Không xong! Kìa, Tổng-Đà-Chủ tay không đấu với Trương-Siêu-Trọng!... Hay quá, Vô-Trần Đạo-Nhân đã đến nơi, tuốt kiếm nhảy vào. Tổng-Đà-Chủ lui ra nhường chỗ cho Vô-Trần Đạo-Nhân... Kìa, Vô-Trần Đạo-Nhân sử dụng thế kiếm Ngũ-Đại-Quỷ trong pho Truy-Hồn Đoạt-Mệnh-Kiếm vô cùng linh động, Trương-Siêu-Trọng phải quay về thế thủ...

Lạc-Băng vừa theo dõi trận đấu, vừa tường thuật tỉ mỉ cho Văn-Thái-Lai nghe.

Văn-Thái-Lai nghe mà cảm thấy hứng thú như chính mình đang tận mắt nhìn vậy. Chàng hỏi:

-Em nhìn thử Trương-Siêu-Trọng chiếm giữ phương nào trong Bát-Quái?

Lạc-Băng đáp:

-Hắn đang chuyển từ cung Ly sang cung Càn. Ủa, bây giờ thì đạo trưởng lại chuyển sang cung Khảm rồi đổi sang vị trí cung Chấn. Thế là sao? Em thật không hiểu nổi!

-Theo anh đoán thì không phải Trương-Siêu-Trọng thật tình thay đổi phương hướng trong Bát-Quái đồ như em trông thấy đâu! Nghe nói Nhu-Vân Kiếm-Thuật của phái Võ-Đang là một môn võ kỳ tuyệt, chuyên về thế thủ cốt ý làm tiêu hao dần dần khí lực của địch thủ rồi mới phản công. Theo kiếm thuật này thì hai chân phải luân chuyển không ngừng trong vòn Bát-Quái.

Văn-Thái-Lai vừa dứt lời thì Lạc-Băng reo lên:

-Đạo trưởng dùng gót chân thi triển ‘liên hoàn mê tung’ bộ pháp lợi hại khôn tả, làm Trương-Siêu-Trọng có vẻ như đang luống cuống!

Văn-Thái-Lai nói:

-Chỉ vì đạo trưởng mất cánh tay trái nên mới phải luyện gót chân để bù vào thiếu sót đó. Lần đó đạo trưởng lấy uy danh khắc phục Thanh-Kỳ bang cũng chỉ dùng hai gót chân!

Sau đó, Văn-Thái-Lai đem chuyện cũ về thân thế của Vô-Trần đạo-Nhân kể lại cho Lạc-Băng nghe...

Nguyên hồi còn thanh niên, Vô-Trần sống qua những ngày phiêu đãng trong chốn lục lâm, gây nên không biết bao nhiêu vụa án làm kinh hồn khiếp đảm bọn cường hào ác bá. Võ công Vô Trần cao siêu, chí khí hào hùng, là một trang hiệp-sĩ khét tiếng khiến cho các quan lại triều đình Mãn-Thanh ăn không ngon ngủ không yên...

Rồi hôm ấy, Vô-Trần trông thấy một tiểu thư đài các, con gái một vị đường quan thì trái tim trở nên rung động...

Oái ăm thay! Nàng tiểu thư đài các chỉ đem sự giả dối mà đáp lại tấm lòng thành thật, tha thiết yêu thương của người đã dâng trọn tâm hồn và trái tim cho mình.

Vâng lời theo lời của cha, vị đường quan, một đêm nọ nàng tìm đến Vô-Trần dùng mọi thủ đoạn để làm cho chàng hiệp sĩ Vô-Trần kia say mê rồi bắt đầu thi hành kế hoạch.

Biết Vô-Trần đã nằm gọn trong ‘lưới mỹ nhân’, nàng tiểu thư nói:

-Cứ xem hành động và cử chỉ của anh, em hiểu đó chỉ là một thứ ái-tình giả dối, chỉ làm tuồng để gạt gẫm gái hiền lương.

Vô-Trần sau đó thề thốt đủ điều, hứa trọn đời chung tình với nàng. Nhưng nàng tiểu thư đài các chỉ mỉm cười nói:

-Nếu quả thật là anh yêu em thì hãy chặt đứt một cánh tay đi! Chỉ có vậy em mới tin được thôi.

Vô-Trần thản nhiên lấy kiếm tự chặt đứt cánh tay trái của mình. Lúc ấy, cha nàng đã mai phục sẵn quân lính chung quanh liền ào ra bắt Vô-Trần trói lại đem về nhốt, định đem ra xử trảm.

Tấm thảm kịch sắp sửa diễn xong màn chót thì các anh em kết nghĩa trong giới lục lâm nghe tin được liền đến giải cứu. Cả gia đình vị quan lớn kia đều bị bắt sống không thoát được một người, giao cho Vô-Trần toàn quyền quyết định. Nhưng khi nhìn thấy mặt người mình yêu thì bao nhiêu hận thù đều tiêu tan hết, bèn ra lệnh phóng thích nàng đồng thời tha cho cả gia đình.

Đêm hôm ấy vào giờ Tý... Vô-Trần ra đi xuất gia đầu Phật, và từ đó mang tên là Vô-Trần Đạo-Nhân...

Lạc-Băng nghe Văn-Thái-Lai kể lại lai lịch thiếu thời của Vô-Trần Đạo-Nhân thì lại càng khâm phục nói:

-Kìa, Trương-Siêu-Trọng như lạc phương hướng, tay chân luýnh quýnh loạn kiếm chiêu... Đáng lý ra phải nới ra vòng ngoài thì hắn lại giẫm lên phương vị Bát-Quái của Vô-Trần Đạo-Nhân.

Văn-Thái-Lai nghe nói mừng rỡ:

-Thế à!

Bỗng nhiên Lạc-Băng lại la lên một tiếng như hốt hoảng, nói:

-Đạo trưởng đang thắng thế bỗng nhiên xoay mình như chong chóng, kiếm vung loạn xạ! Hình như là Trương-Siêu-Trọng dùng ám khí!

Văn-Thái-Lai định thần lắng tai nghe, nói với Lạc-Băng:

-Phải rồi! Đó là một thứ ám khí vô cùng lợi hại của phái Võ-Đang mang tên là Phù-Dung kim châm!

Lạc-Băng lại reo lên:

-Đạo trưởng hay quá! Hình như ông ta đã gạt hết được Phù-Dung kim châm của Trương-Siêu-Trọng rồi! Giờ ông đã chiếm được ưu thế, Trương-Siêu-Trọng bại chắc thôi!

Lúc ấy, mọi người cũng dời chỗ đóng, lùi ra sau thêm mấy bước. Văn-Thái-Lai nói:

-Em mở sợi dây trói ở tay cho anh đi!

Đang định mở trói cho Văn-Thái-Lai, chợt nghe một tiếng ‘keng’ bên ngoài. Lạc-Băng náo nức đưa mình ra ngoài ngó.

-Kiếm của đạo trưởng bị Trương-Siêu-Trọng chặt gẫy rồi! Thật thanh Ngân-Bích-Kiếm của hắn quả là một bảo kiếm lợi hại!

Nghe hai tiếng gió ‘vèo vèo’, Văn-Thái-Lai nói ngay:

-Hắn dùng ‘trục tiền’, lại kèm thêm cả ‘Phi hoàng thạch’ nữa!

Lạc-Băng lại reo hò lên nói:

-Hay quá! Triệu tam ca đã nhảy vào thế chỗ Vô-Trần, bắt được ám khí của Trương-Siêu-Trọng!

Quả tình thế như vậy. Sau khi thấy Vô-Trần Đạo-Nhân chiếm được ưu thế nhưng lại bị thanh bảo kiếm của Trương-Siêu-Trọng chặt gẫy, Triêụ-Bán-Sơn chẳng cần đắn đo gì nữa, nhảy ngay vào vòng chiến. Trương-Siêu-Trọng liền dùng hai món ám khí lợi hại phóng tới nhưng Triệu-Bán-Sơn bắt cả hai một cách hết sức tài tình và dễ dàng, đồng thời còn dùng ám khí phóng trả lại nữa.

Trương-Siêu-Trọng hết sức kinh hãi, dùng bảo kiếm gạt được tất cả ám khí nhưng cũng một phen hoảng vía, sợ toát cả mồ hôi. Đang hoang mang, bỗng Trương-Siêu-Trọng thấy một hình thù cong cong sáng loáng không rõ từ đâu xẹt tới. Cầm ‘hồi long bích’ chưa kịp phóng ra, Trương-Siêu-Trọng đã phải bỏ lại ngay vào tay áo mà nhảy sang một bên để tránh. Vừa tránh khỏi, Trương-Siêu-Trọng lại nghe ‘vèo vèo’ hai tiếng, hai ngọn ‘phi yến ngân thoa’ chia hai đường tả hữu nhắm hai bên hông của y bay tới. Trương-Siêu-Trượng tung mình lên cao hơn một trượng để né tránh. Chưa kịp định thần, hai mũi ngân thoa chuyển biến thành vòng cung từ dưới bắn vụt lên không trung. Đang lơ lửng trên không, Trương-Siêu-Trọng đưa tay bắt lấy một mũi ngân thoa, nhưng mũi ngân thoa bên kia không làm sao tránh kịp nên bị trúng vào ngay gót chân.

Triệu-Bán-Sơn thấy Trương-Siêu-Trọng bị thương liền vung kiếm đâm tới một nhát. Trương-Siêu-Trọng thấy vậy liền quay kiếm ra đỡ rồi chém lại một nhát.

Biết bảo kiếm trong tay Trương-Siêu-Trọng là một bảo vật hiếm có, Triệu-Bán-Sơn nghĩ không nên để cho nó đụng vào binh khí của mình. Vì vậy, khi kiếm Trương-Siêu-Trọng vừa vung ra, Triệu-Bán-Sơn lách qua một bên tránh khỏi. Chém không trúng, Trương-Siêu-Trọng bèn quay mũi kiếm lại nhắm hông Triệu-Bán-Sơn đâm một cái. Triệu-Bán-Sơn hoành kiếm lên, dùng một thế ‘Thái-Cực kiếm’ hất lấy mũi kiếm của đối phương.

Trương-Siêu-Trọng kinh ngạc, nhủ thầm:

-“Không hiểu vì sao mà Hồng Hoa Hội lại có được nhiều cao thủ lợi hại đến như thế?”

Nhìn chung quanh, Trương-Siêu-Trọng thấy bao nhiêu quan binh thị vệ đã trốn đi cả, còn Văn-Thái-Lai đã bị cướp đi thì trong lòng hết sức bối rối và phẫn nộ. Y bèn dùng Ngân-Bích-Kiếm đánh loạn xạ khiến Triệu-Bán-Sơn phải lui về mấy bước vì ngại không muốn chạm binh khí với hắn. Thừa cơ, Trương-Siêu-Trọng rút mũi ngân thoa bị cắm ở chân nhắm yết hầu Triệu-Bán-Sơn phóng tới. Triệu-Bán-Sơn vừa tránh khỏi thì Trương-Siêu-Trọng đã bay tới sát bên tù xa.

Từ lúc nhìn thấy Trương-Siêu-Trọng bị thương, Lạc-Băng hết sức vui mừng. Nhưng có ngờ đâu sau khi bị thương y lại đâm ra liều mạng, chẳng kể gì đến sống chết nữa mà quyết ra tay bắt lại Văn-Thái-Lai cho kỳ được. Nay thấy y xuất hiện ngay bên mình thì Lạc-Băng không khỏi kinh hãi liền rút song đao ra để cản ngăn.

Bỗng Châu-Trọng-Anh từ đâu nhảy tới nhìn Trương-Siêu-Trọng hét lớn:

-Tên giặc khống kiếp kia! Mi dám thừa lúc ta vắng nhà đến Thiết-Đảm-Trang bắt người, xem thường đạo nghĩa võ lâm! Mi há chẳng biết đến quy luật của gaing hồ là gì sao?

Dứt lời, Châu-Trọng-Anh vung đại đao đến bổ cho Trương-Siêu-Trọng một cái thật mạnh. Nhìn Châu-Trọng-Anh, Trương-Siêu-Trọng nhận ra ngay vị minh-chủ võ lâm của vùng Tây-Bắc nên không dám khinh thường, vội đưa bảo kiếm lên đỡ với vẻ vô cùng thận trọng. Hai bên đánh được vài hiệp thì Trương-Siêu-Trọng nhắm vai Châu-Trọng-Anh chém mạnh xuống một kiếm. Châu-Trọng-Anh liền xoay cán đại đao ra đỡ. Chỉ nghe ‘rột’ một tiếng khô khan, cán đao của Châu-Trọng-Anh đã bị Ngân-Bích-Kiếm của Trương-Siêu-Trọng chặt mẻ mất một đường.

Cùng lúc ấy, Châu-Ỷ, Chương-Tấn, Từ-Thiện-Hoằng, Tây-Xuyên Song-Hiệp cũng đã tới nơi. Tất cả liền rút binh khí ra cùng xông vào một lượt.

Thấy địch thủ quá đông, Trương-Siêu-Trọng liền dùng thế ‘Vân hoành tấn lãnh’, quay tròn thanh Ngân-Bích kiếm một vòng.

Ai nấy đều sợ binh khí của mình bị Ngân-Bích-Kiếm của Trương-Siêu-Trọng chặt gẫy nên bèn thây vội về. Trương-Siêu-Trọng thừa cơ quay ra mé Châu-Ỷ để thoát thân thì bị nàng nhắm vào đầu chém cho một đao. Trương-Siêu-Trọng đưa tay trái ra nắm cứng lấy khuỷu tay của nàng và cướp được ngọn đao một cách dễ dàng. Châu-Trọng-Anh thấy thế bèn rút ra hai ngọn Thiết-đảm mai phóng thẳng vào người Trương-Siêu-Trọng. Cùng lúc ấy, ba quân cờ của Trần-Gia-Cách cũng chia ra ba ngã nhắm và ba huyệt ‘nhuyễn ma, quan nguyên, khúc trì’ của Trương-Siêu-Trọng phóng tới.

Trương-Siêu-Trọng lạnh cả người, đưa bảo kiếm lên vận công dùng hết sức bình sinh gạt ba quân cờ của Trần-Gia-Cách và đưa tay kia bắt lấy một mũi Thiết-đảm mai. Nhưng còn mũi Thiết-đảm mai thứ nhì chưa kịp lách mình tránh khỏi đã ghim ngay vào bụng Trương-Siêu-Trọng.

Trương-Siêu-Trọng lảo đảo nhưng không dám thở mạnh, khẽ tung mình một cái đã phóng qua đầu Từ-Thiện-Hoằng và Chương-Tấn rồi đánh liều xông tới tù xa. Lạc-Băng liền nhắm ngực địch thủ chém một nhát thật mạnh. Trương-Siêu-Trọng dù bị thương nhưng kiếm pháp vẫn lợi hại. Cây Ngân-Bích-Kiếm trên tay y vô cùng lanh lẹ, đánh dạt lưỡi đao của Lạc-Băng qua một bên đồng thời đâm tới một nhát thật mạnh. Lạc-Băng đưa đao ra gạt lấy kiếm của Trương-Siêu-Trọng thì ‘keng’ một tiếng, đao của nàng đã bị văng xuống đất. Trương-Siêu-Trọng không bỏ qua cơ hội tốt, nhảy lên xe nắm cứng bả vai bên trái của Lạc-Băng như gọng kìm. Nguyên cánh tay bị tê lại, ngọn đoản đao trên tay Lạc-Băng trở thành vô dụng.

Không để cho kẻ thù uy hiếp, Lạc-Băng dùng bàn tay mặt thoi vào mặt Trương-Siêu-Trọng một quyền. Trương-Siêu-Trọng khẽ gạt một cái làm cánh tay của Lạc-Băng rúng động. Sau đó y nắm Lạc-Băng thảy lại phía Tây-Xuyên Song-Hiệp. Sợ Lạc-Băng bị thương, Tây-Xuyên Song-Hiệp phải giơ tay mà đỡ lấy nàng rồi đặt xuống đất cẩn thận, nhẹ nhàng.

Đột nhiên Trương-Siêu-Trọng thét lên một tiếng làm ai nấy giật mình. Thì ra trong lúc xuất kỳ bất ý, y bị Văn-Thái-Lai tống cho một quyền ngay hậu tâm. Trương-Siêu-Trọng cảm thấy mặt mày choáng váng, hai mắt đổ hào quang, dùng hai ngón tay điểm vào ‘Liễm huyệt’ của Văn-Thái-Lai làm cho chàng bất tỉnh rồi cất tiếng hét to lên:

-Ta cảnh cáo tất cả! Văn-Thái-Lai đang nằm trong tay ta. Bất luận một người nào bưóc lên xe thì ta lập tức giết chết hắn ngay!

Nói đoạn, Trương-Siêu-Trọng múa thanh Ngân-Bích-Kiếm vùn vụt trước mặt Văn-Thái-Lai. Kiếm quan bao phủ trông thấy như muốn lạnh cả người.

Lạc-Băng khóc rống lên nói:

-Thà là em cùng chết với anh chứ quyết không bỏ anh đâu!

Nói đoạn, Lạc-Băng định nhảy lên xe. Lục-Phỉ-Thanh sợ Trương-Siêu-Trọng giết chết Văn-Thái-Lai vội nắm cứng lấy nàng mà giữ lại. Trương-Siêu-Trọng định nói thêm vài câu nữa bỗng nghe yết hầu như đau đớn và nghẹn cứng. Y kinh hãi thét lên và khạc ra một búng máu tươi.

Lúc đó, Lục-Phỉ-Thanh mới gọi Trương-Siêu-Trọng hỏi:

-Trương-Siêu-Trọng! Mi đã nhận ra ra là ai chưa?

Có lẽ vì cách biệt nhau khá lâu, vả lại vầng trăng mờ không cung cấp đủ ánh sáng nên Trương-Siêu-Trọng không trông thấy rõ. Lục-Phỉ-Thanh liền rút Bạch-Long-Kiếm múa qua một đường. Mũi kiếm và chuôi kiếm xoay tròn thành những vòng chằng chịt. Lưỡi kiếm uốn cong như lá liễu hổng chĩa vào chuôì kiếm phát ra một tiếng ‘keng’. Thanh kiếm như kéo dài ra, kiếm quan thì nhấp nháy.

Trương-Siêu-Trọng “ủa” một tiếng kinh ngạc nói:

-Thì ra là Lục sư huynh! Chúng ta đã vạch đất đoạn tình, ân nghĩa cắt đứt lâu rồi! Sư huynh còn đến đây làm gì?

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Hôm nay mi bị thương nặng, mà toàn thể anh em Hồng Hoa Hội lạ có mặt đông đủ nơi đây, lại có thêm Châu lão anh hùng ở Thiết-Đảm-Trang tới đây ủng hộ nữa. Hoàn cảnh của mi đến nước này là tuyệt vọng, không còn trông mong gì vào sự may mắn tình cờ nào nữa. Ta nghĩ tuy rằng mi là đứa vô tình, nhưng ta không thể nào làm người vô nghĩa được. Nhớ lại ngày nào ân sư trước khi khuất núi có dặn dò ta đến chỉ vẽ cho người một đường sống sót.

Trương-Siêu-Trọng “hừ” một tiếng mà chẳng nói năng gì cả. Thình lình ở phía Đông có tiếng người reo hò, vó câu vang rền như thiên binh vạn mã đang tràn tới như bão tố mưa sa. Đám hào hiệt Hồng Hoa Hội ai nấy đều kinh ngạc lộ vẻ lo lắng.

Trương-Siêu-Trọng cũng chẳng hiểu người ngựa từ phương nào đến nên nghĩ thầm:

-“Có lý nào mà Hồng Hoa Hội lại ‘thần thông quảng đại’ đến độ biết rõ nơi đây có cuộc giao tranh mà điều động lực lượng võ trang của chúng từ vùng Tây-Bắc kéo sang?”

Lục-Phỉ-Thanh lại nói:

-Mi mau giao Văn tứ ca lại cho Hồng Hoa Hội, ta sẽ xin đám anh hùng ấy để cho mi thoát thân, tự tìm lấy một con đường sống mà không theo làm khó dễ. Mi chỉ cần phải thề một lời thôi.

Trương-Siêu-Trọng nói thì có vẻ trầm ngâm suy nghĩ. Trước mắt y hiện thời toàn là những cao thủ thượng thừa đang vây chặt quanh xe.

Thấy Trương-Siêu-Trọng lặnh thinh, Lục-Phỉ-Thanh lại hỏi:

-Thế nào?

Trương-Siêu-Trọng hỏi lại:

-Thế nào nghĩa là sao?

Lục-Phỉ-Thanh dõng dạc nói:

-Mi chỉ thề một câu là từ nay không theo làm tay sai cho Mãn-Thanh nữa là đủ!

Trương-Siêu-Trọng là người có nhiều tham vọng. Y cả đời chỉ lo phục vụ cho phú quý và danh vọng. Nếu nghe theo lời Lục-Phỉ-Thanh thì phải vứt bỏ tất cả. Nghĩ đến cái ngày không còn áo mão cân đai và lầu cao cửa rộng, y không thể nào chịu nổi, nghĩ thầm:

-Không lẽ công lao nửa đời khó nhọc mà một phút trở thành mây khói? Chẳng thà là ta liều mạng! Sống thì được quan cao chức trọng, mà chết thì cũng được triều đình chiếu cố đến vợ con.

Suy tính điều lợi hại xong, Trương-Siêu-Trọng lớn tiếng nói:

-Các ngươi ỷ đông thắng ít! Ta, Trương-Siêu-Trọng dù thua cũng không coi nguy hiểm vào đâu! Hôm nay ta cùng chết với Văn-Thái-Lai để được lưu danh muôn thuở!

Dương-Thanh-Hiệp nghe xong liền lớn tiếng mắng:

-Mi là một đứa ‘chó săn chim mồi’, nối dáo cho giặc! Bút nào mà lại đi ghi chép một tên như ngươi cho bẩn cả giấy mực! Thật là khốn nạn! Đến nước này mà còn dám chường mặt ra nói tiếng anh hùng!

Trương-Siêu-Trọng bị mắng những lời ấy thì lửa giận bốc lên phừng phừng. Một tay giữ chặt Văn-Thái-Lai, còn tay kia thì nắm cương ngựa giục tiến về phía trước.

Đám hào kiệt trong cái thế ‘liệng chuột sợ bể đồ’, muốn nhảy lên bắt Trương-Siêu-Trọng nhưng sợ hắn lâm vào đường cùng làm liều giết chết Văn-Thái-Lai nên do dự không quyết. Lạc-Băng thấy chồng bị kẻ thù kềm giữ thì lòng đau như dao cắt, mắt nhìn theo cỗ xe mỗi lúc một xa dần...

Lúc ấy, tiếng quân mã reo hò vang trời mỗ lúc mỗi đến gần. Trần-Gia-Cách thấy thế gọi lớn:

-Vệ cửu ca! Tưởng thập tam ca! Mạnh đại ca! An đại ca! Các anh cứ việc thẳng tay tàn sát quân ‘chó săn’ của nhà Thanh mà đừng tha một con nào!

Người nào người nấy đều nhất nhất theo lệnh, tung đao múa kiếm xông vào đại binh Mãn-Thanh mà tàn sát như điên.

Sau lưng Lục-Phỉ-Thanh bỗng nhiên có một người bước ra nói:

-Con đi đây!

Trần-Gia-Cách suy nghĩ một hồi mới nhận ra được người ấy là Lý-Mộng-Ngọc. Đêm hôm trước Lục-Phỉ-Thanh ở lại gặp Lý-Mộng-Ngọc kể hết cho nàng nghe mọi chuyện. Trước sự ngạc nhiên của Lục-Phỉ-Thanh, Lý-Mộng-Ngọc đòi đi cứu Văn-Thái-Lai. Ban đầu Lục-Phỉ-Thanh ngại ngùng, nhưng rồi lại không nỡ để cho đứa học trò cưng buồn nên bằng lòng. Nhưng ông cũng bắt Lý-Mộng-Ngọc là phải giữ kín mọi bí mật mà không được tiết lộ bất cứ điều gì. Đến lúc thấy bọn Vệ-Xuân-Hoa xông vào chém giết quân Thanh, Lý-Mộng-Ngọc cũng hăng máu vào tiếp tay với mọi người tàn sát mà quên cả phụ thân mình là một đại tướng của Thanh-triều.

Trần-Gia-Cách sau đó truyền lệnh, phân công cho đám hào kiệt Hồng Hoa Hội. Triệu-Bán-Sơn lên trước, cầm hai mũi ‘đinh trục tiền’ ném vào giữa mặt của con ngựa đang kéo tù xa khiến nó đau quá, hí vang lên làm xe dừng lại. Chương-Tấn nhảy tới phía sau xe chặt đứt sợi dây niệt con ngựa. Tây-Xuyên Song-Hiệp chia nhau hai phía giữ chiếc xe.

Trương-Siêu-Trọng không ngờ đám hào kiệt Hồng Hoa Hội dũng cảm mưu mô như vậy nên không làm sao phòng bị kịp.

Tây-Xuyên Song-Hiệp hai mặt cùng tấn công tới một lượt. Trương-Siêu-Trọng liền dùng bảo kiếm chống đỡ. Dương-Thanh-Hiệp thừa cơ nhảy vót vào xe cướp lấy Văn-Thái-Lai. Trương-Siêu-Trọng thấy thế liền bỏ Tây-Xuyên Song-Hiệp nhảy ra sau xe tống ra một quyền. Dương-Thanh-Hiệp tránh khỏi, ôm được Văn-Thái-Lai vào lòng, đánh trả lại một quyền vào vai trái Trương-Siêu-Trọng.

Trương-Siêu-Trọng liền dùng kiếm chém bổ vào mình Văn-Thái-Lai. Đàng sau, Vô-Trần Đạo-Nhân và Từ-Thiện-Hoằng tấn công như vũ bão.

Trần-Gia-Cách gọi Tâm-Nghiện bảo:

-Lên mau!

Cả hai dùng thế ‘Phi yến xuyên vân’ bay lên xe. Bốn quyền sau đó nhắm đầu Trương-Siêu-Trọng đè mạnh xuống.

Cùng lúc đó, Tây-Xuyên Song-Hiệp phải xông tới bảo vệ Dương-Thanh-Hiệp vì biết một mình chàng không đủ sức bảo vệ nổi Văn-Thái-Lai. Hai người chia nhau hai bên hông, cùng tấn công Trương-Siêu-Trọng một lượt.

Trương-Siêu-Trọng dùng kiếm chém tả đâm hữu. Một mặt dùng ‘Vô cực huyền công quyền’ đỡ chiêu thế của Tây-Xuyên Song-Hiệp, sau đó dùng thủ pháp ‘Đảo đề kim chung’ hóa giải chiêu ‘Cầm nã thủ’ của Dương-Thanh-Hiệp một cách tài tình và đẩy chàng xuống khỏi xe.

Hỏa-Thủ Phán-Quan sau đó có cảm tưởng như trên đầu, sau lưng đều bị người xung kích liền nghiêng mình ra phía trước tránh khỏi mấy chưởng, đồng thời rút ra một nắm Phù-Dung châm nhắm đàng trước và sau xe mà phóng.

Vừa nhìn thấy Trương-Siêu-Trọng vung tay, Trần-Gia-Cách biết ngay là y dùng ám khí vội đưa thuẫn bài ra đỡ, một tay đẩy Tâm-Nghiện xuống xe. Mặc dù Trần-Gia-Cách lanh trí đẩy Tâm-Nghiện xuống xe nhưng cậu bé thư đồng đã trúng phải khí. Trần-Gia-Cách liền nhảy xuống xe cứu chữa cho Tâm-Nghiện.

Chiếc tù ca vụt tới, Vô-Trần-Đạo-Nhân và Từ-Thiện-Hoằng tấn công không ngừng. Trương-Siêu-Trọng lại tiếp tục phóng thêm Phù-Dung châm để ngăn cản hai người. Vô-Trần Đạo-Nhân tránh khỏi dễ dàng nhưng Từ-Thiện-Hoằng thì dù kịp thời đưa tấm nệm xe lên đỡ nhưng vẫn cảm thấy bên vai trái của mình đau nhói lên và rơi luôn xuống xe. Chương-Tấn nhảy tới đỡ Từ-Thiện-Hoằng bỗng nghe sau lưng đau nhói lên. Thì ra một mũi tên từ đâu bắn tới ghim vào lưng Thập đương-gia.

Trần-Gia-Cách bèn lớn tiếng gọi:

-Các anh em! Mau hợp sức lại mà cùng tấn công một lượt!

Lúc ấy, tên từ mé sau chợt bắn tới như mưa làm đám hào kiệt lên không nổi. Chương-Tấn lúc đó vịn vai Vô-Trần Đạ-Nhân định vác song phủ tiến lên thì Vô-Trần nghiêm nghị bảo:

-Thập đệ! Chớ có liều lĩnh!

Khi ấy, quân Thanh từ phía Đông tràn tới như nước vỡ bờ. Đám hào kiệt đành bỏ Trương-Siêu-Trọng mà lo chống đỡ.

Trần-Gia-Cách nói vớ'i Vô-Trần Đạo-Nhân và Vệ-Xuân-Hoa rằng:

-Hai người mau tiến lên tàn sát quân Thanh một trận. Còn tam ca, ngũ ca và lục ca cùng với tôi chia làm bốn ngã rượt theo Trương-Siêu-Trọng, hợp sức tấn công đợi tình thế biến chuyển.

Vệ-Xuân-Hoa múa song câu, mạo hiểm vào trong ‘rừng tên’ chém giết tưng bừng. Vô-Trần Đạo-Nhân tay không, dùng thế ‘dĩ nhân đả nhân’, nắm tên quân này dùng làm vũ khí ném tên quân nọ nhưng vẫn không làm sao vào được bên trong. Thấy không xong, Nhị đương-gia liền giết một tên tướng Thanh đoạt lấy kiếm rồi xông xáo đánh tới. Kiếm của Vô-Trần vung tới đâu, đầu quân Thanh rụng tới đó, như vào chỗ không người.

Lúc đó, đám Thanh-binh đi tiên phong đã tới sát đám hào kiệt Hồng Hoa Hội. Trương-Siêu-Trọng thấy có viện binh thì trong lòng vui sướng khôn tả. Đang hí hửng thì Trần-Gia-Cách đột nhiên phi thân đến sát tù xa tấn công.

Biết không thể chống cự nổi, Trương-Siêu-Trọng nghĩ ra được một quỷ kế liền xách Văn-Thái-Lai làm mộc đỡ đòn khiến cho Trần-Gia-Cách phải dừng tay, không dám động thủ.

Cũng lúc ấy, đoàn quân thiết kỵ đã tới nơi, đao thương tua tuả sáng ngời vây chặt Trần-Gia-Cách vào giữa. Trần-Gia-Cách thổi lên một hồi tiêu làm hiệu lệnh, cùng Triệu-Bán-Sơn và Tây-Xuyên Song-Hiệp dùng khinh công vượt khỏi vòng vây, trở về gò đất nơi dùng làm địa điểm ước hẹn.

Kiểm điểm lại nhân số, Trần-Gia-Cách thấy Vô-Trần Đạo-Nhân cùng với Vệ-Xuân-Hoa còn kẹt trong vòng vây. Từ-Thiện-Hoằng, Châu-Ỷ, Lý-Mộng-Ngọc, Châu-Trọng-Anh, Mạnh Kiện-Hùng thì vắng mặt.

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Có ai thấy Thất đương-gia và Châu lão anh hùng ở đâu không?

Chương-Tấn đang bị thương nằm trên cỏ, nghe hỏi như vậy thì ngóc đầu lên nói:

-Thất ca đã bị thương, chưa về tới nơi à? Tôi phải đi tìm mới được!

Dứt lời Chương-Tấn gượng đứng dậy, cầm song phủ chạy đi. Nhưng chạy chưa được mấy bước đã thấy choáng váng cả mặt mày vì vết thương máu ra quá nhiều, ngã qụy xuống.

Thạch-Song-Anh nói:

-Để tôi đi cho!

Tưởng-Tứ-Căn cũng hăng hái nói:

-Tôi cũng đi nữa!

Trần-Gia-Cách lắ đầu nói:

-Không! Một mình Thạch-Song-Anh là đủ rồi. Thập-tam đệ phải cùng Văn tứ tẩu cấp tốc mở đường máu, đến bến đò chuẩn bị cho mọi người cùng xuống ghe qua sông.

Lạc-Băng như người có xác không hồn, chẳng hiểu gì cả, chỉ lầm lũi mà đi theo Tưởng-Tứ-Căn.

Lúc bấy giờ, quân Thanh đến đông như kiến cỏ. Thạch-Song-Anh ngơ ngác chẳng biết Từ-Thiện-Hoằng lạc về hướng nào! Quỷ-Kiến-Sầu xưa nay chưa hề biết sợ là gì nên cứ xông bừa vào trong đám quân Thanh mà chém giết. Một lát sau thì Châu-Trọng-Anh và Mạnh-Kiện-Hùng về đến địa điểm.

Trần-Gia-Cách hỏi Châu-Trọng-Anh:

-Châu côn nương đâu, thưa lão tiền bối?

Châu-Trọng-Anh nghe hỏi thì ngản cả người ra, đứng lặng im như một pho tượng.

Không thấy Lý-Mộng-Ngọc đâu, Lục-Phỉ-Thanh cũng hoảng hốt nói:

-Đứa đồ đệ của lão phu cũng lạc đâu mất rồi! Lão phu phải đi kiếm!

Trần-Gia-Cách sai Triệu-Bán-Sơn, Tây-Xuyên Song-Hiệp, Dương-Thanh-Hiệp, Mạnh-Kiện-Hùng xem xét địa hình, địa vật; chia nhau giữ chặt các cửa ngõ quan trọng để canh chừng, bảo vệ cho Tâm-Nghiện và Chương-Tấn.

Trần-Gia-Cách nói:

-Tên bắn dữ quá! Đao thương khó mà chống cự! Để tôi đi đoạt một số cung tên đem về dùng mới tiện.

Sau đó, Trần-Gia-Cách xông vào đội xạ thủ của quân Thanh đoạt cung tên như lấy đồ chơi. Ba đường thằn sách trong thuẫn bài của Trần-Gia-Cách như ba con ngân xà (#2) liên tục phóng mình đánh rơi tất cả những gì đến gần người chàng. Đoạt được một số cung tên khá nhiều, Trần-Gia-Cách định quay ngựa trở về chỗ cũ.

Bỗng nhiên, trong đám quân Thanh đông đúc chợt đi vẹt ra một đường để nhường chỗ cho một vài kỵ mã đang thoát ra. Trần-Gia-Cách nhìn rõ người đi đầu là Vô-Trần Đạo-Nhân đang dùng Truy-Hồn Đoạt-Mệnh-Kiếm mỏ đường máu cho Vệ-Xuân-Hoa tay vịn vào An-Kiện-Cường mà đi.

Nhìn thấy toàn thân Vệ-Xuân-Hoa như nhuộm đầy máu thì bất giác kinh hồn lập tức chạy ra sau yểm trợ, làm hậu vệ, cản không cho quân Thanh rượt theo. Nhờ vậy, tất cả về lại được địa điểm tụ họp bình an vô sự. Giao cung tên cho Triệu-Bán-Sơn lo việc phân phát cho mọi người, Trần-Gia-Cách vội vàng xem xét vết thương của Vệ-Xuân-Hoa.

Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Cửu đệ say máu giết giặc đến kiệt sức!

Thấy còn thiếu mấy người, Vô-Trần lại vác kiếm đi tìm. Trần-Gia-Cách dặn dò thêm:

-Nhị ca cố gắng tìm Châu cô nương và cao đồ của Lục tiền bối nhé!

Vô-Trần Đạo-Nhân gật đầu ra đi. Vừa xuống dưới đã gặp ngay một Thanh-tướng cầm thương chặn lại. Chẳng nói chẳng rằng, Vô-Trần Đạo-Nhân vung lên một nhát kiếm, đầu Thanh-tướng lìa khỏi cổ rụng xuống lăn lông lốc. Xông vào trận, thấy một số đông võ tướng đang vây đánh Thạch-Song-Anh, Vô-Trần Đạo-Nhân cất tiếng gọi lớn:

-Thập-nhị đệ! Có nhị ca đến tiếp tay đây!

Thạch-Song-Anh một mình đấu với 6 võ tướng, tuy không lép vế nhưng không cách nào thoát ra được. Nay thấy Vô-Trần Đạo-Nhân xông vào, tinh thần bỗng hăng lên gất bội, hỏi:

-Đã tìm được thất ca chưa?

Vô-Trần Đạ-Nhân đáp:

-Chưa phải là lúc nói chuyện. Em mở đường máu phía trước, để 6 tên cắc ké này cho anh đối phó! Ra khỏi vòng vây sẽ tính sau.

Thạch-Song-Anh nghe lời, dùng song đao múa như bay, chém giết quân Thanh mở đường. Chưa được bao lâu đã nghe tiếng cười ha hả của Vô-Trần Đạo-Nhân. Thạch-Song-Anh khẽ quay đầu nhìn lại, thấy xác 6 tên võ tướng nằm la liệt dưới đất. Sau đó, Vô-Trần Đạo-Nhân cùng với Thập-nhị đương gia cố gắng ra sức, chẳng mấy chốc đã ra khỏi được vòng vây, về lại địa điểm tụ họp của Hồng Hoa Hội. Nhưng bóng dáng Từ-Thiện-Hoằng vẫn chưa thấy đâu, ai nấy đều bối rối lo âu.

Lúc này quân Thanh đã phát giác được nơi gò đất là ‘bản doanh’ của đám người Hồng Hoa Hội nên bèn cử một dũng tướng đem một đội xạ thủ tấn công thật mãnh liệt vào trong. Chờ cho đám xạ thủ Thanh-binh đến gần, Triệu-Bán-Sơn mới ra lệnh cho mọi người buông tên.

Trần-Gia-Cách dắt con tuấn mã lên trên gò, nói với An-Kiện-Cường:

-An đại ca! Làm ơn trông chừng, đừng cho quân thù bắn trúng ngựa tôi!

Dứt lời, Trần-Gia-Cách tung mình nhảy lên yên ngựa đứng quan sát tình hình tứ phía. Bỗng nhiên, một hồi tù và nổi lên, một đoàn quân Thanh vô cùng đông đảo, trên tay mỗi tên cầm một cây đuốc, trông như một con rồng lửa đang tiến dần về phía gò đất như tên bay. Trên hiệu kỳ hiện rõ sáu chữ lớn thêu bằng kim tuyến ‘Chinh Tây Triệu Đại Nguyên-Soái’. Đoàn quân gồm toàn những quân lính mạnh mẽ, trang bị bằng giáp sắt, dùng bát xà-mâu phương-thiên hoạch-kích, truy mệnh thương...

Vô-Trần Đạo-Nhân trong lòng nóng như lửa đốt vì một số anh em vẫn thất lạc chưa về kịp, bèn nói:

-Chúng ta phải chia nhau đi tìm mấy người kia chứ không lẽ ở đây mãi sao?

Vừa lúc ấy, Tưởng-Tứ-Căn phi ngựa như bay từ xa xông tới, la hét như muốn hụt cả hơi:

-Mau! Mau! Tất cả mọi người mau rời khỏi chỗ này! Đạo quân... đạo quân thiết kỵ sắp sửa càn quét... tới nơi rồi! Mau lên! Mau lên! Ở lại... ắt chết... chết hết cả thôi!

Thì ra Tưởng-Tứ-Căn sau khi vâng lệnh Trần-Gia-Cách đi cùng với Lạc-Băng ra bến đò chuẩn bị thuyền ghe, tình cờ khám phá được đại binh của Chinh Tây Đại Nguyên-Soái Triệu-Huệ do Càn-Long sai đi chinh phục một xứ Hồi đang kéo quân đi suốt đêm không nghỉ, định qua sông Hoàng-Hà trước khi mặt trời mọc. Sau đó, đạo quân thám mã quay về phi báo là đàng trước có một đám thổ phỉ đang hoành hành làm trở ngại cuộc tiến quân. Triệu-Huệ nghe báo lập tức truyền lệnh cho phó tướng Vương-Bổn-Lương đem quân tàn sát cho kỳ hết đám thổ phỉ. Nhưng chẳng ngờ đám ‘thổ phỉ’ vẫn không xem Vương-Bổn-Lương vào đâu, vẫn tung hoành ngang dọc như vào chỗ không người. Triệu-Huệ nghe báo tin lần thứ nhì liền sai danh tướng Viên-Thừa-Sơ kéo 1000 quân thiết kỵ xung phong đến diệt trừ. Được tin này, Tưởng-Tứ-Căn cả kinh nên để Lạc-Băng ở lại bến đò, một mình phi ngựa cấp tốc về báo tin cho Trần-Gia-Cách.

Không dám chậm trễ, Trần-Gia-Cách ra lệnh cho tất cả mọi người lên ngựa cấp tốc ra bến sông Hoàng-Hà.

Mọi người vừa lên ngựa xong, đám thiết kỵ cũng vừa kéo đến nơi. Thường-Thích-Chí bàn:

-Đám thiết kỵ này mạnh lắm, chúng ta không cách nào qua lọt được đâu! Chi bằng tiến theo ngã quân binh đóng thì hơn.

Thường-Bá-Chí nói:

-Cách này thật hay!

Tây-Xuyên Song-Hiệp đi tiên phong, tiến thẳng về mặt trước của đại quân Thanh-triều. Mọi người chia nhau ra làm ba mặt để hộ tống những người bị thương, liều mạng xông pha.

Trận xung sát dữ dội quá, đám quân Thanh trở nên hỗn loạn, đạp lên nhau mà chạy. Cả bến sông Hoàng-Hà trở nên hỗn loạn. Lạc-Băng thấy đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đã tới thì lập tức chèo thuyền vào bờ. Trần-Gia-Cách truyền lệnh:

-Tất cả mau xuống thuyền! Còn Vô-Trần Đạo-Nhân, Triệu tam ca, Châu lão anh hùng và tôi...

Lệnh truyền chưa dứt thì đạo Thanh-binh mang danh hiệu ‘Thần Tý Cung’ đã đến bờ sông.

Vô-Trần Đạo-Nhân hô lớn:

-Đánh!

Một nhát kiếm sau đó đâm ngay vào yết hầu một tên quân của đội ‘Thần Tý Cung’. Nhưng tên quân vẫn chẳng hề hấn chi. Thì ra lưỡi kiếm của Vô-Trần Đạo-Nhân cả đêm giết giặc, va chạm với vô số binh khí của địch quân đã cong hết cả lưỡi, không còn là một vũ khí lợi hại nữa. Tên quân đâm trả lại một thương. Vô-Trần Đạo-Nhân liệng gươm, đưa tay gạt mạnh một cái, tên quân ngã nhào xuống ngựa.

Châu-Trọng-Anh vung đại đao chém ra một loạt, nhiều thanh binh đỡ không nổi, rơi xuống ngựa chết tươi.

Triệu-Bán-Sơn tung ám khí phóng ra như mưa. Những mũi ‘lại tiễn, liên tử’ trúng ngay vào ‘nhuyễn ma huyệt’ của đám võ tướng chỉ huy, khiến chúng thi nhau ngã xuống đất như sung rụng.

Liền sau đó, một đám thiết kỵ kéo đến. Lần này, đao thương và ám khí của đám hào kiệt Hồng Hoa Hội không làm tổn hại gì được bởi trên người chúng đều có mang một lớp giáp sắt che chở. Triệu-Bán-Sơn phải dùng ám khí bắn vào mắt mới đẩy lui được chúng.

Hộ tống cho mấy chiếc thuyền ra khơi an toàn xong, bốn người Vô-Trần-Đạo-Nhân, Châu-Trọng-Anh, Triệu-Bán-Sơn cùng Trần-Gia-Cách mới lần lượt xuống thuyền.

Trần-Gia-Cách chưa kịp vào thuyền thì phó tướng Vương-Bổ-Lương đã tới nơi, dùng đao định chặn bắt lại.

Trần-Gia-Cách liền quất lẹ một thằn sách cuốn lấy cây đao của Vương-Bổn-Lương, đồng thời một tay điểm huyệt Vương-Bổn-Lương, xách bổng lên mang luôn vào trong thuyền. Triệu-Bán-Sơn tiếp tục phóng ám khí, ngăn chặn tất cả những tên quân nào đuổi theo. Cho đến khi thuyền ra đến giữa dòng ngoài tầm tên bắn, Triệu-Bán-Sơn mới chịu vào bên trong khoang thuyền. Nước sông Hoàng-Hà càng lúc càng dậy sóng, gây thêm nhiều trở ngại cho cuộc tiến binh của Thanh nguyên-soái Triệu-Huệ.

Ngồi kiểm điểm lại tình hình vừa qua, Trần-Gia-Cách kết luận:

-Lần này chúng ta tin chắc cứu được Văn tứ ca cả mười phần. Tánh mạng Trương-Siêu-Trọng khác nào như cá nằm trên thớt. Có ngờ đâu vào phút chót lại đụng phải đoàn thiết kỵ của Triệu-Huệ! Đúng là ‘mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên’! Nhưng chúng ta đừng bao giờ nản chí mà hãy tiếp tục nuôi hy vọng. Thua keo này, bày keo khác!

Thấy Lạc-Băng ngồi ủ rũ, Trần-Gia-Cách lại khuyên:

-Văn tứ tẩu không nên quá buồn rầu như vậy. Hãy nhìn gương của nhị vị Châu, Lục lão tiền bối kia. Một người lạc mất ái nữ, còn một người lạc mất cao đồ. Còn thất ca của chúng ta cũng không biết lạc về đâu. Nhưng tôi tin chắc tất cả đều vững niềm tin, và cuộc trùng phùng sẽ đến với chúng ta một ngày gần đây thôi!

Quay sang phía Vương-Bổn-Lương, Trần-Gia-Cách giải huyệt cứu y tỉnh lại rồi hỏi:

-Đại quân của Triệu-Huệ đang đem vượt sông Hoàng-Hà để làm gì? Vì sao mà có cuộc hành quân gấp rút như thế này?

Vương-Bổn-Lương đáp:

-Chinh Tây Đại Nguyên-Soái Triệu-Huệ vâng thánh chỉ đi đánh dẹp xứ Hồi bát ngờ... Hoàng-Thượng ra hẹn trước tất cả ngày đến, ngày nào phải thắng, cũng như ngày phải ban sư. Triệu nguyên-soái lo sợ không đủ thì giờ, lại lo người Hồi được tin biết trước để phòng bị nên bắt buộc phải tiến quân cho lẹ, bất kể ngày đêm.

Trần-Gia-Cách lại hỏi:

-Người xứ Hồi đã tuân theo vương hóa của Thanh-triều, chẳng hay đã đắc tội gì mà vua Càn-Long lại lén lút đem quân đi chinh phạt?

Vương-Bổn-Lương nghe hỏi chợt ấp úng:

-Việc ấy... sở dĩ... Việc ấy tôi không hiểu biết gì cả!

Nghe giọng ngập ngừng của Vương-Bổn-Lương, Trần-Gia-Cách biết ngay có nhiều điều bí ẩn. Suy nghĩ một hồi, Trần-Gia-Cách hỏi thăm quân số, các ngã tiền quân, về cách thức vận lương...

Vương-Bổ-Lương ban đầu định nói dối, nhưng biết đám hào kiệt Hồng Hoa Hội trước mặt y toàn là những nhân vật phi thường, trí dũng và kiến thức có thừa, khó lòng qua mặt nổi nên đành khai hết sự thật, không dám giấu diếm điều gì. Thấy Vương-Bổn-Lương không dám ươn ngạnh hay ngoan cố, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đối xử với y rất tử tế.

Bỗng Trần-Gia-Cách kêu lên:

-Nước! Nước!

Thì ra Hoàng-Hà ngập lụt, nước dâng lên ngập cả gò cao. Trần-Gia-Cách xoay qua nói với Tây-Xuyên Song-Hiệp:

-Ngũ ca và lục ca hãy quay lại chỗ cũ bí mật dọ thám tin tức tứ ca và thất ca cùng với Châu cô nương và cao đồ của Châu lão tiền bối xem bị thất lạc nơi nào. Nếu chẳng may họ chết trong đám loạn quân thì âu là số mạng, chúng ta đành chịu. Nếu họ lọt vào tay giặc Mãn thì thế nào chúng cũng giải về Bắc-Kinh. Chúng ta sau đó sẽ chặn đường chúng lại, thế nào cũng cứu được người của chúng ta ra.

Xoay qua Thạch-Song-Anh, Trần-Gia-Cách nói:

-Về phần Thập-nhị đương-gia, tôi muốn nhờ cậy một việc.

Thạch-Song-Anh khẩn khoản nói:

-Nếu Tổng-Đà-Chủ đã sai bảo, tôi dám nào không hết lòng hay từ nan.

Trần-Gia-Cách ngồi thảo một phong thư rồi nói:

-Anh đem thư này lập tức qua xứ Hồi trao tận tay tù trưởng Mộc-Trác-Luân lão anh hùng.

Kế đến, Trần-Gia-Cách lại nói với Lạc-Băng:

-Văn tứ tẩu hãy cho Thập-nhị đương gia mượn thần mã. Việc quá gấp rút, phải tiến hành ngay mới kịp!

Cắt đặt mọi việc đâu đó xong xuôi, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội lại xuôi theo dòng nước tách xa bờ 20 dặm. Neo thuyền dưới vực hạ lưu Hoàng-Hà, Trần-Gia-Cách bảo Tưởng-Tứ-Căn trói trói Vương-Bổn-Lương trong khoang thuyền rồi cùng nhau lên bờ tìm nơi tạm nghỉ chân...

Hồi 11

Trong cơn biến mấy người vì bạn

Gặp lúc nguy ai kẻ giúp mình

Nói về Châu-Ỷ, lạc lối trong đám loạn quân, tìm mãi mà không gặp được người nào đồng bọn. Nhìn chung quanh, quân Thanh đã bít kín tất cả các cửa ngõ. Vung đao chém chết mấy chục tên quân, Châu-Ỷ vẫn không mở đường ra khỏi trùng vi (#1). Quân Thanh càng lúc càng đông thêm. Vòng vây mỗi lúc một thắt chặt.

Châu-Ỷ phi ngựa chạy đến đâu cũng đụng phải quân Thanh. Nàng không dám ham đánh, chỉ cố mà tìm đường tẩu thoát. Phần thì đói, phần thì mệt, phần thì sợ hãi nên ngồi trên yên ngựa mà không thấy vững. Và đến lúc không còn chịu đựng nổi nữa, Châu-Ỷ xây xẩm mặt mày, ngã xuống đất, va vào một tảng đá nằm hôn mê bất tỉnh. Nhưng cũng may là nhờ trời tối nên quân Thanh không để ý mà phát giác ra được. Khi tỉnh lại, Châu-Ỷ cảm thấy đầu óc nặng nề. Rồi trời bắt đầu đổ mưa.

Châu-Ỷ vùng đứng dậy, thấy bên mình cũng có một người hình như cũng đang ngồi gần đó cùng đứng dậy một lượt với mình. Nàng thất kinh hét lên một tiếng, định cầm đao chém tới thì chợt há hốc..., nhận ra người kia không phải ai xa lạ mà chính là Từ-Thiện-Hoằng.

Châu-Ỷ ngơ ngác thu đao về. Từ-Thiện-Hoằng hỏi:

-Châu cô nương! Vì sao cô lại ở đây?

Bình nhật, Châu-Ỷ rất ghét Từ-Thiện-Hoằng, luôn dùng lời đả kích, hết sức cứng cỏi với chàng. Thế nhưng lúc này nàng bỗng tuôn ra hai hàng lệ hỏi:

-Cha tôi đâu? Anh có gặp không?

Bỗng nhiên Từ-Thiện-Hoằng kéo Châu-Ỷ ngồi xuống khẽ nói:

-Đừng nói lớn! Có quân Thanh đang đi đến.

Hai người mọp sát xuống đất, hai tay níu nhau bò đến một gò đất cao. Trời đã sáng, đại quân đã kéo đi cả, chỉ còn lại độ vài chục tên quân đang loay hoay thu dọn các tử thi của đám binh sĩ tử trận trong đêm để đem đi chôn cất.

Một tên, hình như là viên chỉ huy của đám quân cất tiếng hỏi:

-Mấy người hãy kiểm soát lại một lần cho kỹ càng xem còn sót lại cái thây ma nào không!

Có tiếng người đáp lại:

-Thưa thượng cấp, còn hai mạng nữa!

Châu-Ỷ nghe nói giật mình, toan nhảy tới thì Từ-Thiện-Hoằng cản lại bảo nhỏ:

-Cô đừng vội, đợi cho chúng lại gần mình mà ra tay có hơn không!

Đoạn Từ-Thiện-Hoằng và Châu-Ỷ nằm yên giả chết, chờ cho hai tên kia đến lục soát ‘kiếm ăn’ mới vùng dậy cho mỗi tên một đao chết tốt. Thấy sẵn đó có một con ngựa đang gặm cỏ, Từ-Thiện-Hoằng la lớn:

-Châu cô nương, mau lên ngựa mà chạy.

Châu-Ỷ không chút chậm trễ, phóng ngay lên yên. Từ-Thiện-Hoằng tỵ hiềm nam nữ nên dùng khinh công mà bám sát đuôi ngựa mà chạy theo. Bọn lính Thanh thấy hai người tẩu thoát thì xách đao kiếm rượt theo.

Từ-Thiện-Hoằng chạy được một khúc thì cảm thấy bả vai đau nhức khô tả vì mũi Phù-Dung châm của Trương-Siêu-Trọng nên quỵ xuống hôn mê. Châu-Ỷ quay lại thấy vậy thì xuống ngựa bế xốc Từ-Thiện-Hoằng bỏ lên yên rồi giục ngựa chạy hết tốc lực.

Chạy được một đoạn khá xa, thấy không có ai đuổi theo, Châu-Ỷ mới yên tâm ghìm cương cho ngựa chạy chậm trở lại. Thấy Từ-Thiện-Hoằng mặt nhợt nhạt, mắt nhắm kín, hơi thở thoi thóp, Châu-Ỷ lo ngại vô cùng. Nhìn trước mặt là một cụm rừng âm u, Châu-Ỷ không cần đắn đo, phi ngay vào trong, tìm một thảm cỏ, gò cương lại nghỉ mệt.

Từ-Thiện-Hoằng vẫn chưa tỉnh lại. Châu-Ỷ bèn bế chàng đặt xuống thảm cỏ nằm. Châu-Ỷ nhìn Từ-Thiện-Hoằng tự nhiên khóc như mưa, lệ nhỏ xuống ướt cả mặt chàng. Giữa lúc ấy thì Từ-Thiện-Hoằng đột nhiên tỉnh lại. Nhìn cặp mắt Châu-Ỷ đỏ hoe và lệ rớt xuống mặt mình, Từ-Thiện-Hoằng hết sức hoang mang chưa biết nói gì thì Châu-Ỷ đã đưa khăn lau vội nước mắt, mắc cở nói:

-Tại anh đụng đầu vào ngay mắt tôi đó! Sao không tránh đi?

Từ-Thiện-Hoằng cố chống tay gượng mình đứng dậy. Châu-Ỷ nói:

-Anh thử nghĩ xem có kế nào không? Chẳng lẽ ở mãi trong rừng này?

Từ-Thiện-Hoằng ‘nũng nịu’ nói:

-Bả vai tôi đau nhức thế này thì còn tính toán gì được! Cô làm ơn xem giùm vết thương thế nào!

Châu-Ỷ trề môi nói:

-Đâu có được! Tôi không thích xem, mà cũng chẳng thích làm ơn!

Nói thì nói vậy, song Châu-Ỷ vẫ cúi sát xuống bả vai xem xét một hồi rồi nói:

-Không thấy vết tích chi cả! Mà cũng không thấy máu nữa!

Từ-Thiện-Hoằn thều thào nói:

-Bên trong lớp thịt có ba mũi kim châm ghim thấu vào xuơng, cần phải rút ra mới hết đau nhức.

-Ở đây vô phương rồi! Phải ráng nhịn đau ra ngoài thị trấn tìm danh y mới tiện!

-Không được! Đêm rồi mình đánh nhau với quan binh. Nếu ra đó mà trị thương thì có khác nào đem thân nạp cho chúng! Bây giờ cô lóc thịt bả vai giùm tôi. Cô có đem theo đá lửa không?

-Có! Để làm chi vậy?

-Cô nhặt củi và lá cô đốt cháy thành tro. Chờ khi tôi lấy được kim châm ra rồi thì dùng tro ấy mà đắp lên vết thương. Bây giờ cô làm phúc mổ giùm tôi đi!

Châu-Ỷ tay mặt cầm dao, tay trái chặn sát bả vai Từ-Thiện-Hoằng rạch chỗ thịt nơi có ba lỗ nhỏ li ti. Hai người cùng nhìn sát vào. Hai gò má kề cận nhau, hai người cùng thở một nhịp ra cùng lúc với nhau.

Từ-Thiện-Hoằng thấy Châu-Ỷ vừa đụng mũi kim bỗng nhiên lại dừng tay lại bèn hỏi:

-Sao vậy? Cô sợ à?

-Sợ cái gì? Anh kề sát đầu vào mặt người ta còn thấy làm sao được, bảo sao không dừng tay lại!

Từ-Thiện-Hoằng cười, khẽ ngẩng đầu lên cao một chút cho khỏi vướng víu nàng. Châu-Ỷ rút được ba mũi kim châm ra liền lấy tro đắp lên vết thương. Thấy Từ-Thiện-Hoằng bị thương mà vẫ tươi cười không kêu đau, nàng bất giác đem lòng mến phục.

Châu-Ỷ nói:

-Anh ngồi đây. Để tôi đi kiếm nước về cho uống. Nàng lấy trong gói hành trang một cái áo đem đi nhúng nước trở về vắt ra cho Từ-Thiện-Hoằng uống.

Từ-Thiện-Hoằng hết sức cảm kích nói:

-Đa tạ cô nương!

Châu-Ỷ nói dửng dưng:

-Tôi không cần ai cám ơn cả!

Nghỉ một chập, hai người lại lên đường. Đi được một lúc thấy từ xa có hơi khói xông lên, hai người cả mừng, biết rằng mình sắp tới một thôn làng. Mệt và đói, hai người tìm một căn nhà bước vào trong ngõ.

Từ-Thiện-Hoằng đến trước cửa gọi:

-Có ai ở trong nhà không? Làm ơn cho tôi hỏi thăm!

Tiếng chó sủa vang lên, một bà lão bước ra. Từ-Thiện-Hoằng thật tình cho biết hai người muốn xin một bữa ăn thì lỡ đường, lại không tìm được quán xá.

Thấy hai người ăn mặc khác thường, bà lão sửng sốt nói:

-Chắc các vị đây là quan lớn! Kẻ bần dân đâu dám vô phép. Xin hỏi quý tánh đại danh hai vị?

Từ-Thiện-Hoằng vộ đáp:

-Anh em chúng tôi đây họ Châu.

Châu-Ỷ nghe nói liền nheo mắt nhìn chàng. Bà lão mời hai người vào nhà, bưng ra một mâm khoai. Đang đói bụng, Châu-Ỷ và Từ-Thiện-Hoằng ăn thật ngon lành.

Hai bên sau đó chuyện trò qua loa. Bà lão tả tình cảnh đau khổ của mình. Bà ta họ Đường, goá chồng, có một đứa con trai lớn. Mấy năm liên tiếp thất mùa không đủ lúa đóng cho điền-chủ nên bị hắn cho người đến hành hung, đánh cho một trận, phát bệnh nặng mà chết. Con dâu bà đau khổ, nửa đêm tự vận nên chỉ còn lại một thân một mình không biết nhờ cậy vào ai. Châu-Ỷ nghe xong thì giận dữ, hỏi xem tên điền-chủ kia tên họ là gì, ở đâu.

Bà lão nói:

-Ông ta cũng họ Đường. Dân chúng gọi là Đường lục lang hay là Đường Tú Tài. Nhưng sau lưng họ lại lén gọi là ‘Đường mắc mưa’. Tôi chỉ nghe vậy chứ không biết rõ tên ông ta là gì. Ông ta có nhà cao cửa rộng ở ngoài Văn-Quang thị trấn.

Châu-Ỷ hỏi:

-Văn-Quang trấn ở nơi đâu?

Bà lão đáp:

-Cách đây chừng 25 dặm về hướng Bắc. Từ đây tới đó phải qua một gò đất cao dẫn tới đại lộ. Đi về hướng Đông chừng 20 dặm thì thấy.

Châu-Ỷ xách đao đứng dậy nói với Từ-Thiện-Hoằng:

-Anh... anh... tôi đi một lát đây. Anh ở đây nằm nghỉ nhé...

Xem cử chỉ, Từ-Thiện-Hoằng biết ngay Châu-Ỷ muốn đi tìm giết người điền-chủ họ Đường kia. Chàng mỉm cười nói:

-Tôi có hứng dùng bữa hơn! Nếu cô muốn ‘ăn Đường’ (#2) cũng thủng thẳng mà từ từ thôi!

Châu-Ỷ ngạc nhiên không hiểu sao chàng biết rõ ý định của mình nên ngẫm nghĩ một chút rồi gật đầu ngồi xuống.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Lão bà! Tôi bị thương, đi xa không được. Bà có thể cho tá túc lại đây một đêm không?

Bà lão đáp:

-Quan gia muốn ở tạm mấy ngày cũng được. Chỉ hiềm miền rừng núi này quê mùa, lại chẳng có gì ăn cả!

-Lão bà chỉ cần cho anh em chúng tôi ở tạm là quý lắm rồi, chúng tôi vô cùng cảm kích. Giờ đây em gái tôi quần áo lại ướt hết. Lão bà có bộ nào cho nó mượn thay đỡ không?

-Con dâu tôi qua đời có để lại mấy bộ quần áo. Nếu cô nương không ngại thì cứ lấy đó mà dùng tạm.

Châu-Ỷ thay đồ xong, trở lại thấy Từ-Thiện-Hoằng mình nóng ran, vết thương ở bả vai sưng vù lên. Châu-Ỷ ruột rối như tơ vò, câm đao múa một hồi rồi gục đầu lên bàn khóc. Bà lão thấy thương hại nhưng không dám dùng lời khuyên giải. Khóc một hồi, Châu-Ỷ ngước mặt lên thấy bà lão đang nhìn mình trân trân bèn hỏi:

-Ở ngoài thị trấn có lương y không lão bà?

Bà lão đáp:

-Có... có Tào-Ty-Bằng là lương y danh tiếng nhất vùng này. Nhưng thật không dễ gì mà rước được ông ta đi đâu! Xưa nay ông ta chỉ chuẩn mạch hốt thuốc cho những nhà giàu, có quyền thế mà thôi.

Châu-Ỷ đứng lên nói:

-Không sao! Tôi sẽ đi rước Tào-Ty-Bằng về. Nhờ lão bà trông chừng hộ anh tôi nhé...

Khi Châu-Ỷ đến thị trấn Văn-Quang thì trời đã nhá nhem tối. Nàng đi qua một quán cơm ngửi thấy mùi thức ăn thì thèm nhỏ rãi. Nhưng sực nhớ ra không còn chút ngân lượng nào nên lại lắc đầu bỏ đi. Trên đường gặp một đứa trẻ nít, Châu-Ỷ bèn hỏi thăm nhà ở của người lương y tên Tào-Ty-Bằng kia...

Đến trước một cửa nhà có treo chiếc lồng đèn, Châu-Ỷ bèn bước lại gõ cửa. Một người gia nhâ tránh đinh mặt mày cao có bước ra nói lớn, giọng cáu kỉnh:

-Đêm hôm tăm tối mà làm gì đập cửa mạnh thế?

Châu-Ỷ giận lắm, nhưng nghĩ lại mình đang đi cầu người nên cố nhịn mà nhỏ nhẹ:

-Tôi có người bệnh nặng nên đến đây cầu khẩn, xin Tào lương y mở lượng từ bi cứu nhân độ thế mà đến chữa trị giùm cho.

Người gia nhân tráng đinh khịt giọng mũi một cái rồi nói như nạt nộ:

-Không có thầy ở nhà. Về đi!

Chưa nói dứt câu, y đã quay lưng đi vào. Châu-Ỷ lẹ tay nắm tay y kéo lại, rút đao ra lớn tiếng hỏi:

-Có Tào-Ty-Bằng ở nhà không?

-Đã nói thầy tôi không có nhà! Hiện ở ngoài chợ... Ối!...

Châu-Ỷ hỏi tiếp:

-Làm gì ngoài chợ? Tại nhà ai? Nói mau!

Lúc đó tên gia nhân tráng đinh kia mới biết sợ, run lẩy bẩy thưa:

-Tại Bạch-Mai-Khôi kỹ-viện.

-Mi nói láo!

-Thưa đại vương... quên, cô nương... Tôi không dám dối...

Châu Ỷ lại hỏi:

-Thầy mi là bậc lương y cao quý, đến nơi ấy mà làm chi?

-Bạch-Mai-Khôi có tình cảm mật thiết với lão gia!

-Mi mau dắt ta đến ngay nhà ấy.

Gã tráng đinh sau đó dắt Châu-Ỷ đến một đường phố nhỏ. Chỉ vào bên trong Bạch-Mai-Khôi kỹ-viện hắn nói:

-Lão nhân gia ở trong đó!

-Mi mau vào trong mời chủ mi ra ngoài này cho ta nói chuyện!

Không dám cãi lời, tên tránh đinh bước tới trước cửa gõ ba tiếng, hình như đó là ám hiệu đặc biệt của Tào-Ty-Bằng với người nhà khi có việc gấp rút cần gọi đến mình.

Một mụ tào kê (#3) sồn sồn mở hé cửa ló đầu ra nhìn. Người tránh đin hỏi:

-Thím làm ơn nói với chủ tôi rằng có người đến rước đi coi mạch.

Mụ Tào-Kê nhún vai, chu mỏ ‘xì’ một tiếng xô cửa đóng sầm lại rồi đi vào. Châu-Ỷ bèn tung mình một cái theo thế ‘phi yến xuyên liêm’, nhảy qua tường vào tận bên trong.

Bên trong có hai đại-hán (#4) đang ngồi đối diện với nhau nói chuyện. Một người thì to lớn mập mạp, còn người kia thì vừa cao lại vừa gầy. Trên đùi đại hán cao gầy là một thiếu nữ với gương mặt đẹp đẽ, ra chiều nũng nịu làm duyên:

-Cúi mong đại nhân tha cho em để lưu phúc đức lại cho con cháu đời sau. Bổn phận em...

Chưa nói hết câu nàng đã lấm lét bước ra khỏi phòng đi thẳng xuống nhà sau. Đại-hán người to lớn mập mạp bỗng móc ra 400 lượng bạc bỏ trên bàn nói với đại-hán gầy rằng:

-Tào lão ca, 200 lượng bạc cho nàng, còn 200 lượng trả công lão huynh làm mai mối đấy!

Đại-hán cao gầy tạ ơn, nói mấy lời nịnh bợ:

-Đường lục gia! Nhân lúc đại quân qua nơi này thâu góp quân lương, thật là một cơ hội tốt để đại gia phát tài đó!

Nghe đến đây, Châu-Ỷ ‘à’ một tiếng nghĩ thầm:

-Thì ra tên vừa cao vừa gầy đó chính là lão lương y Tào-Ty-Bằng và tên to lớn mập mạp kia là gã ‘Đường’... mắc mưa... hay mắc dịch chi đó!

Căn cứ vào cuộc đối thoại của chúng, nàng tin chắc là ‘đại quân’ kia là của nguyên-soái Triệu-Huệ kéo đến và tên ‘Đường mắc mưa’ này lãnh nhận phần thâu góp quân lương cho y.

Châu-Ỷ sau đó nghe gã họ Đường nói:

-Bộ ông tưởng dễ ăn lắm sao? Suốt mấy ngày mấy đem phải chạy Đông chạy Tây tìm đủ thủ đoạn để hăm dọa mới thâu góp được đủ dố quân lương. Muốn kiếm chút lợi lộc tất nhiên phải đổ mồ hôi rồi! Có ai lại bao chịu khổ nhọc mà đi làm không bao giờ? Dân chúng có sợ chết mới chịu móc hầu bao!

Tào-Ty-Bằng cười nói:

-Hai gói thuốc đó, Đường lục gia mang về đi. Đó là thứ thuốc gia truyền công hiệu nhất đời! Cái gói hồng thì để cho phu nhân uống. Chừng nào hết gói thì đại gia muốn gì phu nhân cũng cho toại nguyện.

Hai người nhìn nhau đắc ý cười. Tào-Ty-Bằng lại nói:

-Quên dặn lục gia mốt điều này nữa! Cái gói giấy đen thì cho chàng thanh niên ấy uống, nhớ đừng nhầm lẫn nhé! Đường gia cứ nói đó là thứ thuốc trị thương công hiệu như thần. Mà sự thật, quả là như vậy! Chỉ cần uống vào, trong giây lát máu ở vết thương sẽ chảy ra rồi... chết không kịp ngáp! Cho dù người nào khám nghiệm tử thi cũng không nhận ra. Giết người mà không sợ bị tội, thế mới là tài tình.

Gã họ Đường gật đầu nói:

-Tài tình lắm! Xong việc sẽ có trọng thưởng.

Tào-Ty-Bằng cười nói:

-Đường lục gia thử xét lại công tôi chứ 200 lượng bạc hẹp lắm, không đủ tiền bồi dưỡng nữa!

-Tôi đã nói với Tào lão ca 400 lượng đó là tiền gì rồi mà! Tiền thuốc và công lao của lão ca tôi đã nói đến đâu!

Tào-Ty-Bằng cười nói:

-Tôi chỉ sợ lục gia quên, nhập hai việc chung lại thôi. Miễn lục gia nhớ cho là được rồi, còn thù lao thì lúc nào nhận cũng được.

-Xong việc là trao ngay! Ngoài 1000 lượng trả tiền công và tiền thuốc, tôi sẽ tặng thêm 200 lượng nữa gọi là thưởng tài.

Tào-Ty-Bằng đi sát gã họ Đường nói:

-Còn một điều nữa tôi quên nói. Còn chàng thanh niên đẹp trai như Tống-Ngọc, Phan-An đi chung với gã thanh niên có cây sáo quý giá kia thì tôi quả quyết là gái giả trai. Nếu sau này phát giác ra đúng như vậy, lục gia để cho tôi, đừng dành phần luôn mà thiệt thòi cho Tào-Ty-Bằng này lắm nhé!

-Hẳn vậy rồi! Hà tất cứ phải nhắc đi nhắc lại mãi! Nếu là gái thì ta cho Tào lão đem về làm nàng hầu. Nếu ta sai lời, lão ca cứ gọi 36 đời thằng họ Đường này ra mà chửi. Thôi, để ta về thi hành kế hoạc cho sớm không thì để mất hết cơ hội quý báu, nghìn năm một thuở!

Tào-Ty-Bằng vẫn chưa chịu dứt, còn ráng nói thêm:

-Này Đường lục gia! Ông đoán thử xem cái ống sáo vàng của người thanh niên đẹp trai kia được bao nhiêu lượng?

-Theo mắt tôi nhận xét thì không dưới 50 lượng!

Dứt lời, gã họ Đường móc túi lấy ra một chiếc nhẫn vàng cười nói:

-Đây là món quà mừng tân hôn trước cho Tào lão ca. Ngày mai, lão ca tự đeo vào tay cho dì tư nó nhé!

Châu-Ỷ nghe hết đầu đuôi câu chuyện thì dằn lòng không được, đạp tung cánh cửa ra. Gã họ Đường hốt hoản kêu lên:

-Ơ kìa!

Dứt lời, y nhanh nhẹn tung một cước vào khuỷu tay Châu-Ỷ. Nhưng ngọn cước chưa tới nơi thì Châu-Ỷ đã lẹ tay giơ đao lên chém vào cổ y một nhát. Gã họ Đường thất kinh, vội nhảy sang bên trái mà tránh thì mũi đao của nàng đã xoay ngược lại đâm ngược vào bụng chết không kịp ngáp. Tào-Ty-Bằng định chạy trốn nhưng bị Châu-Ỷ chặn đứng lại nên đành phải đứng im.

Thấy Tào-Ty-Bằng run lên phát rét, miệng thì ngậm câm, mắt láo liên, Châu-Ỷ chỉa đao vào ngay bụng hắn hỏi:

-Mi là Tào-Ty-Bằng phải không?

Tào-Ty-Bằng hai gối sụm xuống, vừa quỳ lạy, vừa van xin:

-Xin cô... cô nương... tha cho tánh... tánh mạng...

Châu-Ỷ thuận tay chụp lấy 400 lượng bạc cùng hai gói thuốc nói:

-Muốn sống thì đi theo ta!

Tào-Ty-Bằng làm sao dám cãi lời, đành tiu ngỉu mà đi theo. Đem ngựa đến, Châu-Ỷ ra lệnh cho Tào-Ty-Bằng lên ngồi phía trước rồi phi ra khỏi trấn. Nắm chặt lấy người Tào-Ty-Bằng, Châu-Ỷ nói:

-Liệu hồn! Mi mà kêu lên một tiếng thì đầu rụng ngay xuống đất!

Tào-Ty-Bằng sợ quá, năn nỉ luôn miệng:

-Xin đừng giết tôi... Tôi không dám cãi lệnh cô nương...

Chỉ một lát sau, cả hai đã đến trước cửa nhà tại thôn làng nọ. Bà lão bước ra mở cửa, thấy Châu-Ỷ đem được Tào-Ty-Bằng về thì hết sức lạ lùng.

Châu-Ỷ chạy vào bên trong, thấy Từ-Thiện-Hoằng vẫn còn mê man, cả mình nóng như lửa đốt, mắt nhắm nghiền.

Gọi Tào-Ty-Bằng vào xem mạch, nói với hắn:

-Người này là anh... anh ruột của ta. Nhờ thầy chuẩn mạch và hốt thuốc cho.

Nghe Châu-Ỷ bảo mình xem mạch và hốt thuốc, Tào-Ty-Bằng mới hoàn hồn, liền tới bắt mạch xem cho Từ-Thiện-Hoằng ngay. Chuẩn mạch xong, Tào-Ty-Bằng khẽ gật đầu mấy cái.

Mở miếng vải băng ở vai Từ-Thiện-Hoằng ra xem xét tỉ mỉ, Tào-Ty-Bằng lắc đầu nói:

-Hiện tại khí huyết bất thông... lưu hỏa nhập...

Châu-Ỷ nóng nảy nạ lớn:

-Ai bảo thầy nói căn bệnh? Tôi chỉ bảo thầy cho thuốc điều trị mà thôi. Thầy không trị cho lành bệnh thì đừng mong tôi tha mạng!

Tào-Ty-Bằng nói:

-Muốn trị bệnh thì phải về thị trấn hốt thuốc chứ ở đây có tài như thần cũng phải bó tay!

Từ-Thiện-Hoằng lúc đó cũng vừa tỉnh lại, nghe Tào-Ty-Bằng nói có lý nên khẽ gật đầu một cái.

Châu-Ỷ mừng quá, chạy lại gần đưa tay sờ trán Từ-Thiện-Hoằng vuốt nhẹ mấy sợi tóc buông xõa xuống mép tai rồi nói với Tào-Ty-Bằng:

-Đừng giả bộ! Tôi không phải là đứa con nít lên ba mà thầy hòng xí gạt! Cứ ra toa đi! Tôi sẵn sàng đi hốt thuốc ngay. Thả thầy về có khác nào thả hổ về rừng!

Tào-Ty-Bằng nghe nói không còn cách nào cưỡng mệnh, đành nói:

-Vậy càng tốt! Cô nương đưa giấy bút đây để tôi ra toa.

Ở nơi chốn này thì tìm đâu được cho ra giấy mực! Châu-Ỷ đang phân vân thì Từ-Thiện-Hoằng đã nghĩ ngay ra được một biện pháp nói:

-Này... em... Không có mực thì dùng tạm tro than. Không có giấy thì viết tạm lên miếng cây hay cái lá nào đó cũng được vậy!

Châu-Ỷ nghe lời đốt một khúc củi cháy thành than còn bà lão đi kiếm một miếng vỏ cây đem đến. Tào-Ty-Bằng không còn lý do nào để thoái thác nữa bèn viết xuống mấy tên thuốc để đưa cho Châu-Ỷ. Sợ rằng thừa lúc mình đi vắng và Từ-Thiệng-Hoằng mê sảng Tào-Ty-Bằng sẽ tìm cách thoát thân, Châu-Ỷ lấy một sợi dây trói y lại để gần giường Từ-Thiện-Hoằng.

Chưa yên tâm, Châu-Ỷ gọi bà lão đến nói:

-Nếu người này thừa cơ cháu đi vắng mà tìm cách tẩu thoát thì lão bà làm ơn gọi anh cháu dậy chặt đứt cái đầu của hắn đi.

Sau đó, Châu-Ỷ thẳng đường đến Văn-Quang trấn. Phải kêu cửa mấy tiệm mới hốt đủ được các vị thuốc trong toa. Trời lúc cũng đã gần sáng. Thấy mấy toán lính đi lục soát khắp nơi thì nàng tin rằng chúng đang điều tra vụ án tên ‘Đường mắc mưa’ kia nên vội vàng cố mà tẩu thoát trước khi mặt trời lên...

Nhìn thấy mặt mũi Châu-Ỷ lọ lem, tóc tai thì bù xù, bụi cỏ dính đầy quần áo, Từ-Thiện-Hoằng bất giác sinh lòng cảm kích. Châu-Ỷ vốn là con nhà giàu, một thiên kim tiểu thư, nay vì mình mà ra nông nỗi vậy!

Từ-Thiện-Hoằng ngồi dậy uống thuốc, bỗng sực nhớ ra điều gì liền đưa chén thuốc bảo Tào-Ty-Bằng:

-Thầy làm ơn uống hộ tôi hai hớp trước!

Châu-Ỷ hiểu ý liền đưa mắt ra dấu cho Tào-Ty-Bằng uống thử trước. Cực chẳng đã, Tào-Ty-Bằng phải uống trước hai hớp.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Chờ một lúc xem y có bị phản ứng gì không rồi lúc đó anh uống cũng chưa muộn.

Châu-Ỷ nói:

-Em hiểu ra rồi! Nếu y chết thì có nghĩa đó là thuốc độc.

Bây giờ hai người nói ‘anh anh em em’ có vẻ tự nhiên mà không còn thấy ngượng ngập gì nữa mà xem ra còn có chiều thân mật nữa là đàng khác.

Châu-Ỷ để ý quan sát sắc diện Tào-Ty-Bằng xem có phản ứng gì hay không. Tào-Ty-Bằng gượng cười nói:

-‘Lương y như từ mẫu’ (#5), phải có lương tâm chứ lẽ nào lại đi hại người!

Châu-Ỷ nghe nói cả giận hét lớn:

-Đừng có ‘đạo đức giả’! Mi với tên ‘Đường mắc mưa’ phải gió kia bàn chuyện toan hãm hại người anh em của ta, ta đã nghe hết cả rồi! Các ngươi rắp tâm định giết người để đoạt ống sáo vàng chứ gì? Người có ống sáo vàng ấy là gì với chúng ta mi có biết không?

Từ-Thiện-Hoằng nghe vội hỏi đầu đuôi. Châu-Ỷ thuật lại cặn kẽ câu chuyện nàng nghe được tại kỹ viện Bạch-Mai-Khôi. Sau đó, nàng gọi bào lão lại nói cho biết đã đâm chết tên ‘Đường mắc mưa’ kia để trả thù cho con trai bà ta. Bà lão nghe nói cảm động, nước mắt tuôn ra như mưa.

Từ-Thiện-Hoằng lại hỏi thăm về người con gái giả trai đi chung với Kim-Địch Tú-Tài đó là ai.

Châu-Ỷ rút đao chĩa vào yết hầu Tào-Ty-Bằng hỏi:

-Mi mau khai tất cả sự thật, không thì chết!

Tào-Ty-Bằng run lẩy bẩy nói:

-Hai hôm, Đường lục gia lại nhà tìm tôi cho hay có hai người đến nhà ông ta xin tá túc. Một người thì bị thương, còn một người thì mặt mày xinh đẹp. Ban đầu ông ta định từ chối nhưng sau thấy chàng trai ấy có những nét khác thường, giống như là phụ nữ hơn thì lại động lòng, dục tâm phát động nên ưng chịu. Khi thấy hai người không chịu ngủ chung một phòng thì ông ta lại càng nghi ngờ nhiều hơn nữa. Sau đó ông ta nhờ tôi đến nhà bắt mạch cho người bị thương và quan sát hộ kỹ lưỡng người mà ông ta nghi là gái giả trai. Sau khi bắt mạch cho chàng trai bị thương, tôi có dịp để ý đến người ông ta nghi ngờ là gái giả trai thì tôi quả quyết rằng ông ta đã đoán đúng.

Châu-Ỷ hỏi:

-Tên ‘Đường mắc mưa’ kia đến nhờ mi bào chế thuốc có đúng không?

Tào-Ty-Bằng nghe hỏi sợ toát cả mồ hồi, chắp tay vái dài Châu-Ỷ, van xin:

-Tội tôi đáng chết! Xin cô nương dung tha tánh mạng.

Từ-Thiện-Hoằng hỏi:

-Chàng trai ấy hình dáng ra sao?

-Mặt mũi rất là khôi ngô, vóc dáng nho nhã, tuổi chừng 22 hay 23 gì đó, có mang theo một cây sáo bằng vàng. Chính vì lẽ đó mà Đường lục gia động lòng tham muốn chiếm đoạt nên mới nhờ tôi bào chế thuốc. Chàng trai này bị đến bảy, tám nhát kiếm nên thương tích trầm trọng lắm.

Từ-Thiện-Hoằng lại hỏi:

-Những vết thương ấy có nguy hại đến tánh mạng hay không?

-Thương tích tuy nặng nhưng chỉ là ngoại thương nên khéo trị thì hết ngay.

Từ-Thiện-Hoằng thấy Tào-Ty-Bằng nói chuyện tự nhiên thì biết thuốc không có độc liền bưng chén lên uống cạn.

Tào-Ty-Bằng tuy lòng dạ thâm hiểm nhưng thật xứng đáng với hai chữ ‘danh y’. Từ-Thiện-Hoằng chỉ uống có hai chén đã thấy bệnh tình thuyên giảm đi hơn một nửa. Châu-Ỷ thấy thế vui mừng hớn hở ra mặt.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Chàng trai có ống sáo vàng kia nhất định là Thập-tứ đương-gia Dư-Ngư-Đồng chứ không còn ai khác nữa. Đêm nay thừa lúc tối trời mình đi dò xét thử... em... đồng ý không?

Châu-Ỷ ngạc nhiên hỏi:

-Chàng là Thập-tứ đương-gia sao?

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Em không biết chàng ta à? Đã được thấy qua một lần rồi mà! Là cái chàng cầm đuốc đi vào với Tổng-Đà-Chủ và Vô-Trần Đạo-Nhân giữa lúc tối lửa tắt đèn không ai nhìn thấy được gì đó!

Châu-Ỷ nói:

-Ừ! Em... nhớ ra rồi! Chàng ta có một cây sáo bằng vàng, nhưng không biết tên là Dư-Ngư-Đồng. Nếu sớm biết thì đã đem chàng ta về đây cùng dưỡng bệnh chung với anh thì tiện biết mấy!

Từ-Thiện-Hoằng lại nói:

-Còn người ăn mặc giả trai kia không chừng có thể là Văn tứ tẩu của... anh... không chừng. Nhưng cũng lạ! Từ xưa đến nay Văn tứ tẩu nào có giả trai bao giờ!

Hôm sau, thấy Từ-Thiện-Hoằng đã gần như bình phục lại được, Châu-Ỷ bèn thả cho Tào-Ty-Bằng đi đồng thời từ giã bà lão. Sẵn có 400 lượng bạc lấy của ‘Đường mắc mưa’ tại kỹ viện Bạch-Mai-Khôi’, Châu-Ỷ trích ra một nửa tặng cho bà lão làm vốn để sinh sống, còn một nửa đem theo làm lộ phí dọc đường.

Đến một khách sạn, hai người vào mướn phòng. Ban đầu định mướn hai phòng nhưng sợ những cặp mắt tò mò chú ý, hai người đổi nay ý định mướn một phòng thôi. Mà hai người cũng chẳng còn đường lựa chọn vì khách sạn cũng chỉ còn lại đúng được một phòng trống.

Vừa vào đến phòng, đột nhiên Từ-Thiện-Hoằng đóng chặt cửa lại. Châu-Ỷ ngạc nhiên chưa kịp hỏi thì Từ-Thiện-Hoằng ghé tai nàng nói nhỏ:

-Cô nương không thấy có người của Trấn-Viễn tiêu cục ở đây sao?

Châu-Ỷ kinh ngạc hỏi:

-Trấn-Viễn tiêu cục à? Phải chăng là bọn người đã đốt cháy Thiết-Đảm-Trang và giúp bọn ‘ưng khuyển’ bắt Văn tứ ca?

-Thì ngoài chúng ra còn ai nữa?

Lúc ấy tiểu nhị đem vào một mâm cơm rượu. Từ-Thiện-Hoằng thừa dịp ấy hỏi:

-Phải chăng đó là các vị của Trấn-Viễn tiêu cục đến đây mướn phòng?

Tiểu nhị đáp:

-Mấy vị ấy lần nào ra ải Đồng-Quan cũng ghé qua khách sạn chúng tôi mướn phòng cả.

Chờ cho tiểu nhị ra khỏi phòng, Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Trong đám đó, tên Đổng-Triệu-Hòa là gian ác hơn hết. Đêm nay tôi nhất định phải giết hắn để trả thù cho tất cả!

Nhớ tới cái chết của em trai và cảnh Thiết-Đảm-Trang bị tàn phá, Châu-Ỷ liền rút đao phóng cửa xông ra. Từ-Thiện-Hoằng thấy thế vội níu áo nàng, nắm tay cản lại nói:

-Sao cô nương nóng nảy quá vậy? Làm việc gì cũng phải suy tín đắn đo lợi hại chứ! Chúng nó đông, chúng ta chỉ có hai người. Vạn bất đắc dĩ có điều gì có phải hỏng hết việc lớn không? Chờ đến nửa đêm ta hãy ra tay thì tiện hơn.

Châu-Ỷ vùng một cái nói:

-Anh lấy cái miệng mà nói có được không? Việc gì mà phải... níu... áo người ta vậy? Lại còn... nắm tay nữa! Lần sau không được như vậy nữa à nghe!

Từ-Thiện-Hoằng cười nói:

-Tại cô nương bao giờ cũng gấp rút, chỉ vụt một cái là biến đi mất rồi! Nếu không làm vậy thì làm sao mà giữ lại kịp được? Trách người ta thì cũng phải nghĩ lại mình chứ. Còn nhớ không? Cô nhỏ hơn tôi mà cũng đã từng gọi tôi là ‘chú mày’ đó! Rủi người ta nghe được có phải kỳ lắm không?

Châu-Ỷ nghe nói bỗng nguýt chàng một cái nói:

-Thế chẳng lẽ đòi tôi phải gọi là ‘anh’ sao?

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Thì lâu nay cô chẳng gọi ‘anh’ đó là gì?

Châu-Ỷ thẹn thùng, đỏ hết cả mặt mày. Từ-Thiện-Hoằng thấy nàng xinh đẹp, duyên dáng vô cùng.

Nhìn mâm cơm, Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Thôi, tôi đói bụng rồi. Mình ngồi xuống ăn cơm đi, kẻo đồ ăn nguội cả rồi.

Đoạn hai người ngồi xuống cùng nhau làm cạn mâm cơm rượu rồi ngồi nghỉ ngơi đến canh hai. Châu-Ỷ không còn nhẫn nại được nữa bèn nói:

-Chúng ta đi thôi! Nếu anh không chịu đi thì tôi cũng đi một mình đó!

Từ-Thiện-Hoằng mỉm cười khẽ gật đầu mở cửa sổ, phóng nhẹ ra ngoài. Chờ cho Châu-Ỷ ra tới, Từ-THiện-Hoằng nói nhỏ:

-Bọn chúng đông người, cô nương không nên nóng mà động thủ vội. Theo ý tôi thì chúng ta hãy dẫn dụ từng tên ra mà thanh toán dễ hơn.

Sau đó, hai người liền phi thân lên nóc nhà. Thấy căn phòng nơi hướng Đông có ánh đèn, Từ-Thiện-Hoằng cầm tay Châu-Ỷ phóng xuống đất nhẹ nhàng mà không gây ra một tiếng động nào. Châu-Ỷ dựa sát vào tường đến bên cửa sổ lén nhìn vào bên trong, còn Từ-Thiện-Hoằng thủ sẵn binh khí để bảo vệ.

Thình lình, Châu-Ỷ bỗng nhón gót một cái, đu mình lên cửa sổ, Từ-Thiện-Hoằng cả sợ bước tới kề vai cho Châu-Ỷ đứng, nhưng nàng lại trượt chân mà ngã xuống người Từ-Thiệng-Hoằng.

Từ-Thiện-Hoằng hốt hoảng hỏi nhỏ:

-Cái gì vậy?

Châu-Ỷ khẽ đáp:

-Mau! Mau ra tay lâp tức! Bọn chúng trói mẹ tôi! Mẹ tôi ở trong phòng này!...

Từ-Thiện-Hoằn nhăn mặt nói:

-Không được! Cô nương mà làm ẩu coi chừng nguy hiểm đến tánh mạnh của mẹ...

Chưa nói xong câu, Từ-Thiện-Hoằng đã lấy tay kéo Châu-Ỷ, dùng khinh công bay trở về phòng trọ.

Châu-Ỷ nóng ruột, thúc giục:

-Tính sao đây, nói đi! Mẹ tôi bị chúng trói ghì tay rong phòng. Tôi phải giải cứu mẹ tôi và tàn sát hết chúng nó!

Từ-Thiện-Hoằng trấn an:

-Tôi bảo đảm sẽ giải cứu được mẹ cô, nhất định không để cho chúng hại đâu!

Châu-Ỷ dựng ngược lông mày lên hỏi:

-Mà bao giờ mới cứu đây? Tôi muốn cứu ngay bây giờ kia!

Từ-Thiện-Hoằng bình tĩnh hỏi:

-Cô có thấy rõ ràng là chúng có cả thảy bao nhiêu người trong phòng không?

-Tôi không đếm kỹ, nhưng chắc là vào khoảng năm, sáu đứa.

Từ-Thiện-Hoằng ra chiều nghĩ ngợi. Châu-Ỷ nói:

-Nếu anh không đi cũng không sao. Tôi sẽ một mình đi cứu mẹ tôi!

-Tại sao cô nghĩ tôi lại không đi? Phải tính kế đã chứ! Nhỡ làm không nên việc còn có hại cho mẹ... mẹ cô chứ ích gì!

-Mà anh sợ cái gì?

-Nào tôi có sợ gì đâu? Tôi nghĩ đến biện pháp nào vừa cứu được mẹ cô, vừa giết hết được chúng nó trong một lúc.

-Cứu mẹ tôi trước đã! Còn chúng nó để giết sau cũng không muộn. Lần này không giết được thì cũng còn lần khác, hiểu chưa?

Đang lúc phân vân, thình lình nghe ngoài cửa có tiếng người rảo bước, Từ-Thiện-Hoằng liền ra dấu bảo Châu-Ỷ im lặng.

Hai người để ý có người vừa đi miệng vừa lải nhải:

-Canh ba nửa đêm không sớm giấu xác chết coi chừng phiên mình ăn dao! Lạy trời, lạy Phật cho cả lũ bảo tiêu này đi đường gặp ăn cướp làm thịt hết chúng nó không chừa lại một tên nào!

Từ-Thiện-Hoằng đoán rằng đây là tên tiểu nhị của khách sạn vì bị bọn tiêu sư Trấn-Viễn tiêu cục bức hiếp bắt làm những việc như giết người chôn thây nên hậm hực vừa đi vừa rủa cả đám.

Bỗng nhiên Từ-Thiện-Hoằng nảy ra một kế trong đầu. Chàng gọi Châu-Ỷ hỏi:

-Hai gói thuốc của Tào-Ty-Bằng bào chế cho tên ‘Đường mắc mưa’, cô có mang theo bên mình không?

Châu-Ỷ lấy hai gói thuốc đưa cho Từ-Thiện-Hoằng, ngạc nhiên hỏi:

-Anh lấy hai gói thuốc đó để làm gì?

Từ-Thiện-Hoằng không đáp, nhảy ra ngoài cửa sổ đi thẳng một mạch. Châu-Ỷ cũng nhảy ra đi theo. Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Cô núp xuống đây!

Châu-Ỷ lấy làm lạ, nhưng cũng làm theo lời. Nàng vừa định hỏi thì bỗn thấy có ánh đèn từ xa đi lại. Tên tiểu nhị tay xách cái đèn và hai bình rượu đi tới. Từ-Thiện-Hoằng liền lượm một viên đá liệng tắt ngọn đèn.

Tên tiểu nhị giật mình, quay lại đi xuống nhà sau mà đốt đèn lên lại. Thừa lúc đó, Từ-Thiện-Hoằng lấy hai gói thuốc bỏ vào hai bình rượu rồi quay lại nói nhỏ với Châu-Ỷ:

-Bây giờ chúng ta đến phòng nơi giam giữ mẹ cô.

Hai người trở lại căn phòng lúc ban nãy. Từ-Thiện-Hoằng đu mình lên cửa sổ lén nhìn vào bên trong, thấy một thiếu phụ bị trói cả hai tay hai chân ngồi bệt xuống đất. Trên ghế, trước mặt thiếu phụ có mấy người đang ngồi nói chuyện ra chiều cao hứng lắm. Từ-Thiện-Hoằng nhận ra là Hàn-Văn-Xung, Tiền-Chính-Luân và Đổng-Triệu-Hòa cùng ba tiêu sư lạ mặt khác trong Trấn-Viễn tiêu cục.

Đổng-Triệu-Hòa nói:

-Thiên hạ đồn Thiết-Đảm-Trang là tường đồng vách sắt. Nào hay chỉ cần tay một lão Đổng này cũng đủ tiêu tan hết.

Nghe xong câu này, Châu-Ỷ mới hoàn toàn không còn một chút nghi ngờ nào đối với Từ-Thiện-Hoằng về việc Thiết-Đảm-Trang bị thiêu hủy.

Bỗng có tiếng Hàn-Văn-Xung nói:

-Lão Đổng đừng có ‘bô bô’ cái miệng! Tôi đã có lần giáp mặt với Châu-Trọng-Anh và Hồng Hoa Hội nên biết rõ thực lực của chúng hơn ai hết. Một khi chúng ra tay, bọn ta chưa chắc đã có ai chống cự nổi. Phải dè dặt một chút, coi chừng tai vách mạch rừng.

Đổng-Triệu-Hòa vẫn hống hách lên tiếng:

-Bọn mình có phúc tinh chiếu mệnh mà sợ gì? Vợ Châu-Trọng-Anh đang nằm trong tay chúng ta đây! Y dám sinh sự với mình hay sao?

Đổng-Triệu-Hòa vừa dứt lời thì tiểu nhị cũng vừa đem vào hai bình rượi đạt lên mâm đồ nhắm của chúng. Bọn tiêu sư mặc sức ăn uống vui vẻ. Chỉ riêng có Hàn-Văn-Xung mặt mày trầm ngâm như có điều lo nghĩ.

‘Rượu vào lời ra’ (#6), Đổng-Triệu-Hòa cao hứng nói:

-Hàn đại ca! Hơi đâu mà lo với nghĩ!... Người hảo hán không bao giờ dùng sức đông hiếp yếu... Mà giả sử Hồng Hoa Hội có đến đây đi chăng nữa thì ‘một chọi một’ mình cũng đủa sức chơi kia mà!

Một tiêu sư vui miệng hỏi:

-Ai đánh với ai thì không biết... còn lão Đổng... chọn người nào?...

Đổng-Triệu-Hòa cười đáp:

-Lão Đổng thì xí phần con gái Châu-Trọng-Anh...

Đổng-Triệu-Hòa nói chưa dứt lời thì bất thình lình, cả đám tiêu sư đã bật ngửa ra sau ngã nhào xuống đất. Đổng-Triệu-Hòa ngơ ngác không hiểu gì cả. Hắn chưa biết phải làm gì thì nhìn thấy Từ-Thiện-Hoằng tay cầm đao đứng giữa phòng từ bao giờ. Châu-Ỷ cũng nhảy theo vào mở trói cho mẫu thân của nàng. Châu phu nhân đột nhiên thấy con gái xuất hiện cứu mình thì sửng sốt không nói được một lời.

Từ-Thiện-Hoằng nghiến răng thọc mũi đao vào yết hầu Đổng-Triệu-Hòa. Hắn rống lên một tiếng, máu tươi bắn ra có vòi ngã lăn xuống đất, mang theo cả một cuộc đời đầy tội lỗi gian ác của hắn.

Châu-Ỷ định giết hết đám tiêu sư Trấn-Viễn tiêu cục thì Từ-Thiện-Hoằng can nàng lại. Châu-Ỷ gật đầu, tra đao vào vỏ.

Châu phu nhân nhìn con gái tỏ vẻ ngạc nhiên. Bà ta dư biết tính con gái mình xưa nay muốn làm gì thì làm. Ngoài thân phụ ra, nàng chẳng bao giờ nghe ai khuyên can bao giờ. Vậy mà Từ-Thiện-Hoằng chỉ nói có một câu nhỏ nhẹ mà nàng lại ngoan ngoãn chịu nghe ngay. Châu phu nhân sợ con gái mình đã sa vào cạm bẫy ái tình nên bồi hồi suy nghĩ.

Từ-Thiện-Hoằng lục soát bọn tiêu-sư lấy được mấy phong thư cất vào túi rồi nói với Châu-Ỷ:

-Chúng ta mau trở về phòng thâu góp đồ đạc rồi mau mau rời khỏi nơi đây!

Thấy con gái mình đi chung một đường, lại ở chung một phòng với Từ-Thiện-Hoằng, Châu phu nhân thắc mắc chẳng cùng. Bà hỏi:

-Gia gia đâu? Vị này là ai? Sao con lại không đi chung với gia gia? Bộ hai người lại gây gổ với nhau rồi hả?

Châu-Ỷ cười nói:

-Sao mẹ nóng nảy quá vậy? Để thủng thẳng rồi sẽ biết hết mà!

Thấy hai mẹ con có vẻ như sắp sửa cãi nhau, Từ-Thiện-Hoằng vội dùng lời khéo, khuyên can cả đôi bên.

Châu-Ỷ nhìn Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Đầu đuôi cũng tại ‘chú mày’ mà ra cả! Đã thế lại còn xen vào nói tới nói lui cho thêm rắc rối nhiều chuyện nữa!

Từ-Thiện-Hoằng chợt hiểu, liền tách ngựa đi trước. Châu phu nhân cùng Châu-Ỷ lặng thinh đi theo sau.

Đêm hôm ấy, ba người xin vào tá túc tại một nhà nông dân. Hai mẹ con ngủ chung một phòng. Châu-Ỷ liền đem chuyện kể lại từ đầu đến cuối cho Châu phu nhân nghe. Châu phu nhân cũng kể lại mọi chuyện xảy ra cho bà bấy lâu nay...

Sau cái chết của Châu-Anh-Kiệt, Châu phu nhân quá đau lòng, giận chồng bỏ đi. Bà định tìm đến nhà một người bà con họ Hứa tại Quỳnh-Lan nhưng rủi thay chủ nhà lại có việc bỏ đi xa chưa về kịp. Mặc dù được vợ chủ nhân ân cần tiếp đãi, Châu phu nhân chỉ ở ít ngày rồi để lại một bức thư từ giã, một mình lại lên đường đi một mình.

Hôm ấy đi đến ải Đồng-Quan, Châu phu nhân tìm một khách sạn vào nghỉ chânm tình cờ nhìn thấy đàng trước khách sạn có một tiêu kỳ đề bốn chữ ‘Trấn-Viễn Tiêu-Cục’. Châu phu nhân bỗng nhớ lại có nghe Mạnh-Kiện-Hùng kể lại là mọi việc đều do một tên tiêu sư Đổng-Triệu-Hòa gây ra cả.

Châu phu nhân liền xách đao, thừa lúc đem khuya đột nhập vào phòng bọn tiêu sư quyết giết kẻ ác để rửa hận. Chẳng ngờ bọn tiêu sư đã sớm đề cao cảnh giác nên đã phục kích sẵn sàng. Bà ta vừa vào tới nơi đã bị chúng bao vây tứ phía. Mặc dù võ nghệ Châu phu nhân cũng thuộc vào hạng cao siêu, nhưng vì bọn tiêu sư đông quá, lại có Hàn-Văn-Xung giúp sức nên cuối cùng không địch nổi chúng và bị bắt sống...

Châu-Ỷ sau đó nói với mẫu thân rằng việc cứu bà, giết kẻ thù đều là mưu của Từ-Thiện-Hoằng cả.

Sáng hôm sau, Châu phu nhân bỗng nhiên thay đổi tâm tính, đi sát bên Từ-Thiện-Hoằng chuyện trò vui vẻ, hỏi thăm thân thế của chàng.

Từ-Thiện-Hoằng thưa:

-Hồi cháu được 12 tuổi thì cả gia đình đều bị quân Thanh giết hết chỉ có một mình cháu chạy thoát được. Nguyên là viên tri phủ ỷ thế là người hoàng-tộc Mãn-Thanh nên một hôm trông thấy chị cháu liền dùng uy quyền bắt buộc phải lấy hắn làm chồng. Chị cháu đã hứa hôn nên mẹ cháu nhất định không gả. Tên tri phủ ấy liền ra lệnh bắt cha mẹ cháu cùng mấy anh em cháu giam vào ngục. Vị hôn phu của chị cháu uất ức nên đích thân đi hành tích tên tri phủ ấy. Trong phủ có tên bộ khoái võ nghệ cao cường thành ra anh rể tương lai của cháu bị bắt quản tang với con dao dấu trong mình ngay phòng ngủ của tên tri phủ. Chị cháu được tin này nhảy xuống sông tự tử. Thế là tên tri phủ ghép cả gia đình cháu vào tội làm thổ phỉ, mưu sát quan triều đình, đem ra pháp trường xử trảm tất cả. Cháu hay tin dữ liền lập tức bỏ nhà đào nạn.

Châu-Ỷ nghe Từ-Thiện-Hoằng kể chuyện thì cả giận nói lớn:

-‘Chú mày’ sau đó có báo thù cho gia đình không?

Châu phu nhân nghe nói bèn quay lại mắng con gái:

-Sao con lỗ mãng quá vậy? Từ nay mẹ cấm con không được dùng tiếng ‘chú mày’ nữa mà phải kêu Từ-Thiện-Hoằng sư điệt bằng ‘anh’. Tiếng ‘anh’ kia nghe đẹp đẽ, nho nhã hơn không?

Châu-Ỷ lẩm bẩm:

-Kêu hắn là anh thì hắn lại lên chân!

Từ-Thiện-Hoằng sau đó buồn rầu nói:

-Đến khi tôi không lớn học được võ nghệ, trở lại quê nhà đến tận dinh tim tên tri phủ ấy báo thù thì được tin hắn đã bỏ đi nơi khác rồi! Sau đó tôi bỏ đi tìm hắn khắp nơi mà vẫng không tìm được tin tức nào!

Châu-Ỷ nói:

-Thằng tri phủ đó tên họ là gì? Nếu gặp nó tôi quyết chẳng dung mạng!

-Tôi chỉ biết nó họ Phương, còn tên thì hỏi không ra. Bên gò má nó có một cái bớt đen. Gặp là tôi nhận ra liền.

Châu phu nhân lại hỏi Từ-Thiện-Hoằng kết bạn với những những ai, hành hiệp giang hồ được mấy năm và có ý trung nhân nào chưa...

Châu-Ỷ cười nói:

-Y là thằng quỷ báo đời nên ai cô nào thèm thương đâu mà mẹ hỏi!

Châu phu nhân lại mắng:

-Con gái chỉ ‘bạ ăn bạ nói’!

Châu-Ỷ vẫn cười nói:

-Có phải mẹ hỏi tỉ mỉ như vậy để làm mai cho y phải không? Con gái nhà ai vậy? À, con biết rồi! Có phải là em họ con, thuộc nhà họ Hứa đó có phải không?

Châu phu nhân không đáp. Tối đến mướn khách sạn ngủ tạm, Châu phu nhân nói với con gái rằng:

-Con là khuê nữ mà lại cùng di với trai, cùng ở chung phòng với trai như thế thì thử hỏi còn ai mà thèm lấy con nữa!

Châu-Ỷ đáp:

-Con ở vậy suốt đời, không cần lấy chồng.

-Con nói oang oang như thế mà không sợ người ta nghe được hay sao?

-Sợ cái gì? Con không nói điều gì trái với lương tâm. Ai muốn nghe thì nghe chứ có sao đâu?

Đến sáng, khi hai mẹ con thức dậy thì thì tiểu nhị cầm một phong thư vào nói:

-Ông ở phòng kế nhờ tôi trao lại thư này cho bà và cô nương.

Châu-Ỷ vội hỏi:

-Còn người ấy ở đâu?

Tiểu nhị đáp:

-Ông ấy nói có việc gấp phải đi.

Châu-Ỷ trách:

-Sao nhà ngươi không vào gọi ta?

Tiểu nhị đáp:

-Ông ấy nói không được làm mất giấc ngủ của bà và cô nương. Những gì cần đều có viết rõ trong thư.

Châu-Ỷ liền xé thư ra đọc:

Kính gửi Châu phu nhân và Châu cô nương,

Từ-Thiện-Hoằng tôi chẳng may bị thương tích trầm trọng may nhờ có cô nương vì nghĩa cứu mạng cho nên mới được sống sót. Ơn ấy, tôi ghi tạc vào lòng. Hiện nay phu nhân và cô nương đã được sum họp, đường đi đến Khai-Phong cũng không còn xa mấy, tôi xin đi trước. Mong phu nhân và cô nương đừng nghĩ ngợi điều gì cả.

Việc Châu cô nương cứu mạng, tôi thề sẽ không bao giờ nói lại với ai, xin phu nhân và cô nương cứ yên lòng.

TỪ-THIỆN-HOẰNG kính bút

Châu-Ỷ ngơ ngẩn một hồi, liệng thư xuống giường, nằm vật mình ôm gối ngủ lại. Châu phu nhân đánh thức dậy ăn cơm, nàng vẫn không độn đậy. Châu phu nhân nói:

-Ở đây đâu có phải là Thiết-Đảm-Trang mà con hành hạ mẹ quán vậy! Ăn cơm đi rồi còn lên đườn! Ngủ hoài sao?

Châu phu nhân không nghe thấy tiếng trả lời bèn hỏi lại:

-Có chịu nghe lời hay không thì bảo?

Châu-Ỷ nói:

-Y đối với con tử tế mà con đối với y tệ quá! Nghĩ lại con buồn không muốn đi đâu hết!

Châu phu nhân nói:

-Con đổ thừa tại mẹ phải không?

-Đêm rồi mẹ nói nào là người ngoài không tin, nào là không ai tử tế thèm hỏi... nào là... đủ thứ... Vì vậy y nghe được mới để thư lại mà đi trước đó! Trong thư y thề một câu không nói với ai việc con cứu y thì đủ thấy đó là tại mẹ mà ra cả!

Châu phu nhân biết con gái mình với Từ-Thiện-Hoằng đã thương yêu nhau nên dịu giọng nói:

-Mẹ chỉ còn có một mình con. Chờ đến Khai-Phong mẹ sẽ nói chuyện với cha tác hợp cho hai đứa.

Châu-Ỷ trợn mắt cãi lại:

-Ai bảo mẹ gả con cho y? Lần đó con thấy y sắp chết nên tội nghiệp ra tay cứu thôi chứ có phải yêu thương gì hắn đâu! Mẹ đừng hiểu lầm.

Hồi 12

Truyền võ vừa lòng chiêu rể quý

Giúp người gặp nạn cướp quân gian

Nhắc lại Từ-Thiện-Hoằng đêm hôm ấy nghỉ tại khách sạn chợt nghĩ đến mấy phong thư lấy được từ đám tiêu sư Trấn-Viễn tiêu cục liền mở từng bức ra đọc. Hầu hết chỉ là những thư từ cá nhân, không có liên quan gì đến Hồng Hoa Hội cả. Chỉ riêng có bức thư cuối cùng do Vương-Duy-Dương gửi cho Hàn-Văn-Xung đốc thúc họ Hàn gấp rút về gấp kinh-đô để hộ tống một số châu báu đi Giang-Nam, và có đề cập đến đại quân chinh Tây của Triệu-Huệ.

Từ-Thiện-Hoằng đoán rằng chắc vì trách nhiệm nặng nề nguy hiểm mà lại không đủ cao thủ nên Vương-Duy-Dương phải nhờ cậy đến Hàn-Văn-Xung. Thình lình nghe phòng bên có tiếng Châu phu nhân và Châu-Ỷ cãi nhau, mà mình là đề tài chính. Chàng thầm nghĩ nếu vì mình mà để cho Châu-Ỷ phải mang tiếng không tốt thì thật không đành chút nào nên viết vội bức thư nhờ tiểu nhị trao lại cho hai người rồi một mình lặng lẽ ra đi trong đêm khuya.

Chiều hôm sau, Từ-Thiện-Hoằng đến biên giới tỉnh Hà-Nam. Nhận được ký hiệu quen thuộc để lại trên một vách tường, chàng lập tức thẳng đường tới Khai-Phong. Kế đến, chàng tìm đến tư gia của đại hiệp Mai-Lương-Minh ở Biện-Lương thì quả nhiên gặp đủ tất cả các nhân vật Hồng Hoa Hội tại đây. Thấy chàng bình an vô sự, ai nấy đều vui mừng không biết mấy.

Lúc ấy, thương tích của Vệ-Xuân-Hoa, Chương-Tấn, Tâm-Nghiện cũng đã lành. Thạch-Song-Anh vâng lệnh Trần-Gia-Cách đem tin sang xứ Hồi cho Mộc-Trác-Luân chưa về. Hai anh em Tây-Xuyên Song-Hiệp đi công tác, dò thăm tin tức Văn-Thái-Lai, còn Tưởng-Tứ-Căn đi quan sát tình hình nạn lụt do sông Hoàng-Hà gây nên.

Từ-Thiện-Hoằng giấu nhẹm việc mẹ con Châu-Ỷ, chỉ cho mọi người biết tin tức về Dư-Ngư-Đồng đang bị trọng thương và đi chung với một thiếu nữ cải nam trang. Lúc đầu chàng tưởng đó là Lạc-Băng, nhưng bây giờ gặp Lạc-Băng ở đây thì trong lòng thắc mắc vô cùng, không hiểu người kia là ai.

Sáng hôm sau, Châu-Ỷ cũng đến nơi. Châu-Trọng-Anh và mọi người hết sức vui mừng.

Châu-Ỷ khẽ láy mắt Từ-Thiện-Hoằng rồi ghé tai chàng nói nhỏ:

-Anh sang đây! Tôi có việc cần thương lượng với anh một chút.

Từ-Thiện-Hoằng ‘ngoan ngoãn’ đi theo nàng không chút do dự, không một tiếng thắc mắc.

Cả Châu-Trọng-Anh lẫn đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đều ngạc nhiên. Không ai có thể tưởng tượng được cảnh nhìn thấy hai người thân mật với nhau như vậy.

Ra ngoài hiên, Châu-Ỷ nói với Từ-Thiện-Hoằng:

-Mẹ tôi cương quyết không chịu đến gặp mặt cha tôi. Anh có cách nào nối được hai người lại với nhau không?

Từ-Thiện-Hoằng cười lớn nói:

-Mẹ em không chịu đến thì mời cha em đi đến đón về, có gì là khó đâu!

Châu-Ỷ nói:

-Nói như anh thật dễ dàng quá! Bà mà không chịu đến gặp ông thì có năn nỉ đến nghìn lần ông cũng không chịu đi đón bà về đâu mà hòng!

Từ-Thiện-Hoằng trầm ngâm giây lát rồi reo lên:

-Có cách rồi!

Chàng rỉ tai Châu-Ỷ nói nhỏ một hồi. Châu-Ỷ hỏi:

-Biết có được không?

Từ-Thiện-Hoằng nói bằng giọng quả quyết:

-Nhất định được mà! Em mau đi trước đi!

Châu-Ỷ đi ra khỏi nhà, Từ-Thiện-Hoằng vào lại bên trong. Nói chuyện với mấy người Hồng Hoa Hội một lúc, chàng từ tốn nói với Châu-Trọng-Anh:

-Thưa Châu lão bá, ở gần chùa Thiết-Tháp, rượu đã thơm ngon mà phong cảnh lại hữu tình. Chúng ta đến đó uống rượu mà thưởng thức thì thật là hứng thú.

Thấy Từ-Thiện-Hoằng ‘gãi đúng chỗ ngứa’ của mình, Châu-Trọng-Anh mỉm cười hài lòng, nhận lời ngay:

-Vậy tôi xin mời tất cả cùng đến đó chén một bữa cho thật say.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Thưa lão bá, đi đông không tiện. Nơi này nằm trong châu thành nên bọn ‘tẩu cẩu’, tai mắt của triều đình rất đông. Rủi chúng ‘đánh hơi’ được thì hỏng hết việc lớn của chúng ta. Xin lão bá mời riêng Tổng-Đà-Chủ đi cho vui thôi.

Châu-Trọng-Anh khen phải, bèn mời Trần-Gia-Cách cùng đi chung. Từ-Thiện-Hoằng chọn một cái bàn bên ngoài, rồi ba người chia nhau ngồi theo vị trí chữ ‘phẩm’ (#1).

Cả ba ngồi thưởng thức phong cảnh, chẳng mấy chốc đã uống hết mấy bình rượu ngon. Bấy giờ, Từ-Thiện-Hoằng mới bắt đầu gợi chuyện:

-Châu lão bá, nhân dịp cha con bác đoàn tụ lại với nhau, cháu xin mừng bác một chung.

Châu-Trọng-Anh uống cạn rồi bỗng cảm thấy lòng như bùi ngùi, khẽ thở dài một tiếng.

Từ-Thiện-Hoằng nói tiếp:

-Lão bá không được vui, hẳn luyến tiếc công trình gây dựng Thiết-Đả-Trang, nay không còn!

-Đó chỉ là vật ngoại thân! Lão phu không bao giờ bận tâm đến!

-Chắc lão bá thương nhớ đến... Châu tiểu đệ?

Châu-Trọng-Anh không nói, chỉ thở dài não nuột. Trần-Gia-Cách thấy không ổn liền đảo mắt ra hiệu, ý bảo Từ-Thiện-Hoằng đừng khơi lại vết thương lòng của Châu-Trọng-Anh.

Nhưng Từ-Thiện-Hoằng giả vờ như không trông thấy, nói tiếp:

-Lúc ấy Châu tiểu đệ ngây thơ bị kẻ gian dụ dỗ vô tình chỉ chỗ núp của Văn tứ ca cho chúng bắt. Lão bá nóng giận, và vì muốn giữ trọn chữ tín trong đạo nghĩa giang hồ nên phải đau lòng mà hạ thủ. Anh em Hồng Hoa Hội hết sức áy náy về chuyện này...

Trần-Gia-Cách thấy vậy vội nạt Từ-Thiện-Hoằng:

-Thất ca! Anh uống nhiều quá rồi đó! Đừng nói nữa!

Từ-Thiện-Hoằng vẫn không nghe, lại hỏi:

-Chẳng hiểu vì sao mà Châu phu nhân lại bỏ nhà ra đi? Lão bá có thể cho tiểu điệt biết rõ nguyên do được không?

Châu-Trọng-Anh buồn rầu, ngậm ngùi đáp:

-Bà ta vì ngăn cản lão phu giết đức con ngỗ nghịch mà không thay đổi được ý kiến của lão phu nên giận mà bỏ đi! Thương hại cho bà... một mình một thân... không rõ phiêu bạt giang hồ chốn nào! Tôi nguyện sau khi cứu được Văn tứ ca, bằng mọi cách sẽ đi tìm bà ta trở về. Nhưng bây giờ thì chưa được...

Châu-Trọng-Anh vừa nói dứt lời thì cánh cửa sổ mở ra, Châu-Ỷ dắt Châu phu nhân vui vẻ bước vào. Châu phu nhân nhìn Châu-Trọng-Anh nói:

-Những gì ông nói tôi đã nghe hết rồi. Nào ông có cần phải trèo non vượt biển gì đâu? Tôi vẫn ở gần bên ông đấy, sao không chịu đi tìm?

Châu-Trọng-Anh trông thấy cả vợ lẫn con thì chớp mắt không dám tin là thật. Ông ta vừa vui mừng vừa kinh ngạc, không sao thốt được nên lời.

Châu-Ỷ đem mẹ mình giới thiệu với Trần-Gia-Cách:

-Trần đại ca! Đây là thân mẫu của tiểu muội!

Quay sang mẹ, nàng nói:

-Mẹ à! Vị này là Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội đấy!

Trần-Gia-Cách lịch thiệp, mời hai mẹ con ngồi chung. Châu-Ỷ nói với Châu-Trọng-Anh:

-Gia gia! Thật là ý trời xếp đặt cho cha mẹ gặp lại nhau. Con nghe ở đây mát mẻ bèn mời mẹ đi ăn cá lý ngư. Ban đầu mẹ nhất định không đi, con phải năn nỉ mãi mẹ mới chịu đi. Hai mẹ con ngồi sát bên cửa sổ gần bàn rượu, chỉ nghe cha nói một câu là hết giận liền.

Sự thật đó là diệu kế của Từ-Thiện-Hoằng bày cho Châu-Ỷ mà sắp xếp cho hai vợ chồng Châu-Trọng-Anh gần lại với nhau.

Thấy cha mẹ đã làm lành lại với nhau, Châu-Ỷ mừng rỡ vô cùng đem việc giết Đổng-Triệu-Hòa làm sao kể lại cho mọi người nghe. Từ-Thiện-Hoằng sợ nàng vui miệng nói đến việc của mình nên láy mắt ra hiệu cho nàng đừng nói.

Nhưng Châu-Ỷ không hiểu ý, lại lấy tay chỉ vào chàng nói:

-Việc giải cứu mẫu thân và giết kẻ thù đều do ‘chú bé’ này sắp đặt cả đấy.

Châu-Trọng-Anh nói:

-Lời xưa vẫn nói ‘anh hùng hào kiệt xuất thiếu niên’, quả thật là đúng lắm. Ngày nay cháu cứu vợ bác, giết gian tặc trả thù cho Thiết-Đảm-Trang, bác vô cùng cảm kích!

Từ-Thiện-Hoằng khiêm tốn nói:

-Dạ không! Đó là công lao của Châu cô nương chứ cháu có công trạng hay tài cán gì đâu mà để bác phải quá lời khen tặng như thế!

Trần-Gia-Cách mỉm cười hỏi:

-Thì ra hai người gặp nhau trên bước đường hoạn nạn à?

Châu-Ỷ mắc cở đỏ mặt, cúi gầm mặt xuống, suýt nữa thì đánh rơi cả đôi đũa. Từ-Thiện-Hoằng cũng lặng im không nói được lời nào. Trần-Gia-Cách biết hai người đều có một tâm sự kín đáo nên không nỡ hỏi tới nơi.

Tan tiệc, tất cả mọi người về lại nhà Mai-Lương-Minh. Trần-Gia-Cách gọi riêng Từ-Thiện-Hoằng đến vừa cười vừa hỏi:

-Thất ca! Anh đừng giấu tôi nhé! Anh với cô ấy có nhiều cử chỉ úp mở!

Từ-Thiện-Hoằng thành thật trình bày:

-Xin Tổng-Đà-Chủ đừng nghi oan mà tội nghiệp cho cô ta. Đối với tôi, cô ấy là ân nhân. Chẳng qua sợ dư luận đàm tiếu mà phải giấu đó thôi.

Đoạn Từ-Thiện-Hoằng đem chuyện Châu-Ỷ cứu mình ra sao thuật lại cho Trần-Gia-Cách nghe.

Trần-Gia-Cách nói:

-Chính tôi nhận thấy Châu cô nương là một người có nhiều phẩm hạnh nên rất muốn làm mai cho thất ca.

Từ-Thiện-Hoằng nghe nói vội đưa tay ngăn lại:

-Xin đừng! Tổng-Đà-Chủ có lòng thương thì tôi thật hết sức cảm kích nhưng không dám tuân mệnh đâu. Tôi không xứng đáng!

Trần-Gia-Cách nói:

-Thất ca chớ nên quá khiêm nhượng như vậy. Anh ‘văn võ toàn tài’, Châu lão anh hùng lúc nào cũng quý mến...

Từ-Thiện-Hoằng ngắt lời:

-Nhưng chỉ sợ cô ấy không ưa tôi!

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Đó là chuyện cũ. Từ hôm cô ta cứu anh thì chuyện đã khác xa rồi. Tôi thấy ngay từ lúc cô ta mới bước vào.

Đang lúc Trần-Gia-Cách tìm lời khuyên Từ-Thiện-Hoằn thì đứa gia nhân của Mai-Lương-Minh xô cửa bước vào nói:

-Thưa Trần gia, Châu lão anh hùng mời ngài sang phòng bên có chút việc.

Trần-Gia-Cách đứng dậy nhìn Từ-Thiện-Hoằng cười rồi bước ra khỏi phòng qua gặp Châu-Trọng-Anh. Thấy mặt Trần-Gia-Cách, Châu phu nhân vội chào hỏi sơ qua rồi tìm cớ lui ra nhà sau.

Châu-Trọng-Anh mở đầu câu chuyện:

-Lão có một việc tự mình khó nói, định nhờ Tổng-Đà-Chủ giúp giùm cho.

Trần-Gia-Cách lễ phép nói:

-Châu lão bá, xin đừng ngại. Việc nào vãn bối làm được tất nhiên sẽ hết lòng.

Châu-Trọng-Anh khẽ chần chừ rồi từ tốn nói:

-Con gái tôi năm nay 19 tuổi rồi, mà tính nết vẫn còn con nít lắm. Vì vậy chủ ý tôi là muốn tìm được một người cho nó bầu bạn. Nay...

Dừng lại một giây, khẽ thở ra, Châu-Trọng-Anh nói tiếp:

-Từ thất đương-gia văn võ song toàn, lại có đức độ và nhân phẩm. Ý tôi muốn tác hợp cho hai người nên duyên giai ngẫu. Hiềm vì...

Trần-Gia-Cách nghe nói cả mừng đỡ lời:

-Tưởng là việc gì! Nếu là chuyện này thì vãn bối sẵn sàng xin nhận ngay. Châu lão bá là ‘Thái-Sơn Bắc-Đẩu’ của võ lâm. Nếu Từ thất ca mà được hân hạnh làm ‘nữ tế’ (#2) thì thật là phúc cho cả Hồng Hoa Hội chứ không riêng gì thất ca. Vãn bối xin đi bắt tay vào việc ngay.

Trần-Gia-Cách trở về nói rõ ý định của Châu-Trọng-Anh. Từ-Thiện-Hoằng không ngờ hạnh phúc lại đến với mình đột ngột như thế nên hớn hở ra mặt, nói với Trần-Gia-Cách:

-Thôi, mọi việc xin nhờ Tổng-Đà-Chủ giúp cho.

Ngẫm nghĩ một hồi, Trần-Gia-Cách đề nghị với Từ-Thiện-Hoằng:

-Tôi có một điều tâm huyết muốn thảo luận với Từ thất ca trước.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Xin Tổng-Đà-Chủ cứ nói rõ tôn ý.

Trần-Gia-Cách nghiêm trang nói:

-Châu lão anh hùng vốn chỉ có một đứa cho trai duy nhất để nối dõi tông đường nhưng chẳng may lại phải chết thảm thiết vì chuyện Hồng Hoa Hội chúng ta. Hương lửa Châu gia đã tuyệt. Đó là nỗi khổ tâm nhất của Châu lão anh hùng, và cũng là tội nặng nhất của Hồng Hoa Hội chúng ta. Thế mà cha con Châu lão anh hùng không thù hận mà lại còn liên kết, sống chết với chúng ta, tình nghĩa càng ngày càng thêm mật thiết. Nay xem chừng Châu phu nhân cũng sẽ sát cánh với chúng ta nữa. Chẳng hiểu ý thất ca thế nào?

Từ-Thiện-Hoằng chẳng chút do dự nói ngay:

-Có phải ý Tổng-Đà-Chủ muốn sau này tôi cho con trai trưởng lấy họ Châu để giữ hương lửa cho Châu lão anh hùng hay không?

Trần-Gia-Cách mừng rỡ, gật đầu nói:

-Thất ca có lòng như thế thật là quý hóa. Như thế cũng tạm gọi là đền đáp lại được phần nào ân nghĩa của Châu lão anh hùng. Mà thất ca cũng chẳng có gì phải lo. Con thứ sẽ lấy họ Từ mà giữ hương lửa cho thất ca thôi!

Liền sao đó, Trần-Gia-Cách dẫn Từ-Thiện-Hoằng sang ra mắt vợ chồng Châu-Trọng-Anh nói rõ ý định. Cả hai người đều vui vẻ, thích chí vô cùng. Châu-Trọng-Anh cao hứng nói:

-Hiện nay cha không có món gì quý báu để cho hai con làm của hồi môn. Cha chỉ có mông Thiết-Đảm này truyền lại cho con mà thôi. Đó là tuyệt kỹ của Châu-gia, một đời tung hoành trong thiên hạ, chưa hề nhượng bộ bất cứ một cao thủ nào!

Từ-Thiện-Hoằng vốn sẵn đã ngưỡng mộ võ công của Châu-Trọng-Anh, muốn học mà không được, nay nghe Châu-Trọng-Anh đích thân truyền lại cho mình thì cảm kích vô cùng, bèn quỳ xuống làm lễ bái sư theo quy luật của võ lâm.

Châu phu nhân cũng nói:

-Cha con có môn Thiết-Đảm, mẹ cũng có phép sử dụng song tiên. Để mẹ sẽ truyền luôn cho con. Tưởng đó cũng không phải là vô ích.

Tư-Thiện-Hoằng lại định quỳ xuống bái sư thì Châu-Trọng-Anh cản lại bảo:

-Đã là con cái trong nhà, hà tất phải theo quy luật của võ lâm làm gì!

Tin Từ-Thiện-Hoằng sẽ thành hôn với Châu-Ỷ truyền ra rất lẹ. Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đua nhau đến chúc mừng...

Sau đó, Trần-Gia-Cách mở một cuộc họp nhỏ, bàn sơ qua những kế hoạch cho những ngày sắp tới.

Trần-Gia-Cách nói:

-Chúng ta đóng ở đây đã mấy ngày, không có tin gì của Văn tứ ca cả, mà Tây-Xuyên Song-Hiệp cũng chưa về. Vậy anh em có kế hoạch gì không?

Chương-Tấn nói:

-Coi bộ Trương-Siêu-Trọng đã giải tứ ca về Bắc-Kinh rồi! Do đó mà Tây-Xuyên Song-Hiệp không tìm được tin tức gì cả. Có lẽ chúng ta phải lên Bắc-Kinh một chuyến thôi chứ không thể nào ở đây mà đợi mãi được.

Người bàn thế này, người bàn thế nọ, không ai đồng ý với ai cả. Vì vậy, Trần-Gia-Cách không có một quyết định nào rõ rệt...

Khi ấy, Thạch-Song-Anh mới hoàn thành công tác trở về. Thập-nhị đương-gia tìm Trần-Gia-Cách báo tin và trao một phong thư nói:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ, Mộc lão anh hùng có thư hồi âm cho Tổng-Đà-Chủ đây.

Trần-Gia-Cách mở thư Mộc-Trác-Luân ra xem. Lời lẽ trong thư hết sức bi tráng khiến Trần-Gia-Cách xúc động vô cùng.

Nhìn Thạch-Song-Anh, Trần-Gia-Cách hỏi thăm:

-Gia đình Mộc-Trác-Luân đối đãi với Thập-nhị ca có chu đáo không?

Thạch-Song-Anh gật đầu nói:

-Cả gia đình ông ta quả thật là anh hùng, lại vô cùng hiếu khách. Họ hết sức niềm nở đối với tôi. Ông cho vợ, hai người con gái và một người con trai ra chào đón và tiếp đãi rất ân cần. Cô con gái lớn có lần nói chuyện với Tổng-Đà-Chủ vừa thấy tôi đã ra hỏi thăm ngay sức khỏe của Tổng-Đà-Chủ.

Trần-Gia-Cách lại hỏi:

-Cô ấy có nhắn tôi lời gì không?

Thạch-Song-Anh suy nghĩ giây lâu như cố nhớ lại rồi mới đáp:

-Có... mà không! Ý chừng cô ấy muốn gửi thăm Tổng-Đà-Chủ lắm nhưng nghĩ sao lại thôi.

Trần-Gia-Cách lặng thinh, rút thanh đoản kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng tặng ra xem xét, cố tìm những gì bí mật ẩn bên trong. Kiếm vừa rút khỏi vỏ liền tỏa ra ánh sáng chói lòa, kiếm khí toát ra lạnh cả người...

Vừa lúc đó, Tưởng-Tứ-Căn trở về báo tin, tường thuật lại những tai ách của dân chúng qua cơn lụt do sông Hoàng-Hà gây nên, cũng như các hành vi của bọn tham quan ô lại. Chàng cho biết sông Hoàng-Hà mới vừa lặng lại dậy sóng trở lại. Chuyến này còn có vẻ khủng khiếp hơn nữa, chưa biết được thiệt hại nhân mạng và tài sản nhiều đến thế nào.

Bọn quan lại cai trị ‘giá áo túi cơm’ trước tình cảnh đau khổ ấy, chẳng những không tìm biện pháp nào để cứu giúp dân chúng lầm than, còn bắt họ phải phải cùng nhau mang đất đắp đê, bó gai cản nước, làm toàn những chuyện vô ích. Một mặt, chúng viết biểu tâu về triều đình phóng đại thêm những thiệt hại để thừa cơ hội đục khoét thêm ngân quỹ của công. Không những thế, lợi dụng lúc triều đình xuất ra lúa vựa, tiền kho ra cứu giúp nạn nhân, chúng cùng nhau vơ vét chia nhau cho thỏa thích. Rốt cuộc, chẳng có một thứ gì đến tay người dân.

Mọi người ai nấy ngậm ngùi, thương xót dân chúng hết bị trời đày lại bị người hành.

Trần-Gia-Cách nói:

-Cứu người như cứu hỏa! Hồng Hoa Hội chúng ta hãy đến tận nơi để xem giúp đỡ gì được cho dân chúng thì giúp.

Nghe Trần-Gia-Cách nói vậy, ai nấy đều đồng ý, hết sức tán thành. Rồi không ai bảo ai, tất cả cùng kéo nhau lên đường cứu nạn dưới sự lãnh đạo của vị Tổng-Đà-Chủ của họ...

Suốt đêm ấy, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đi không nghỉ. Trời vừa hừng sáng, mọi người đã đến cửa sông. Sóng vẫn vỗ ào ào, bao nhiêu nhà cửa, súc vật đều bị cuốn trôi hết. Đi đến đâu cũng nghe tiếng khóc van, cầu cứu.

Mọi người đi quan sát khắp nơi trước khi đến trại Đỗ-Lương. Họ dự định sẽ đến Thiên-Thảo vào giờ Mùi. Đây là một thị trấn lớn nằm trên bờ sông Hoàng-Hà nên tất cả nạn nhân đều quy tụ về đó.

Lạc-Băng đem bán hết số vàng ròng mang theo mua lương thực sẵn sàng để phân phát cho dân. Chỉ trong chốc lát, nạn nhân kéo đến đông như kiến cỏ.

Trần-Gia-Cách nói:

-Bổn phận chúng ta là làm cách mạng lật đổ triều đình Mãn-Thanh, thiết lập một xã hội mới có trật tự với công bình bác ái. Nhưng đứng trước cảnh tượng đau khổ của dân chúng, chúng ta không thể nào làm ngơ được. Trách nhiệm cấp thời của Hồng Hoa Hội là là phải trực tiếp cứu dân bị nạn. Các anh em có ý kiến gì không?

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Lúc đi đường, tôi có nghĩ ra một biện pháp là cướp của tham quan, đoạt của nhà giàu bất lương mà giúp dân.

Trầng-Gia-Cách đồng ý nói:

-Kế ấy vô hại. Lâu nay phủ Lan-Phong có tiếng là giàu có hơn hết. Viên tri phủ này lại có tiếng là tham lam và tàn ác. Cái bọn a-dua theo hắn làm giàu bằng cách bất nhân hẳn không ít. Lấy của kẻ ác mà dùng vào việc thiện cứu mạng người cũng là điều hay. Chúng ta cứ tùy nghi mà hành động, đừng để đổ máu và nhớ tránh đừng cướp của những nhà giàu lương thiện.

Lúc ấy, một kỵ mã mặc y phục võ quan phi ngựa ngược chiều với đám hào kiệt Hồng Hoa Hội, ra vẻ gấp rút lắm. Y cho ngựa phóng nước, không cần để ý gì đến khách bộ hành. Một người đàn bà bế con trong khi cố gắng tránh né, trượt chân ngã xuống đất. Vệ-Xuân-Hoa chờ hắn phi đến gần liền lấy tay đẩy hắn một cái ngã nhào xuống ngựa.

Kỵ mã mặc võ phục lồm cồm ngồi dậy giận dữ mắng:

-Chúng bây quả là bọn ăn cướp lưu manh. Bản chức đang có việc gấp rút nên tạm gác chuyện này. Xong việc sẽ biết tay ta.

Trần-Gia-Cách nói:

-Thập ca! Anh lục thử trong túi hắn xem có gì không.

Chương-Tấn bước tới rút trong túi hắn một tờ công văn, thấy bên ngoài đề như sau: ‘600 dặm cấp tốc trình báo Chinh Tây Đại Nguyên-Soái’. Mở công văn ra đọc, thấy có những hàng chữ ‘vận lương quan tổng binh Tôn-Khắc-Dụng’. Đại ý trong thư, Tôn-Khắc-Dụng cho Triệu-Huệ biết là lương thực tiếp tế cho quân đội ‘Chinh Tây’ đã đủ số, đang trên đường chuyển đến phủ Lan-Phong. Chỉ vì sông Hoàng-Hà bị nước lụt thành ra phương tiện di chuyển bị thiếu hụt, phải chậm trễ mất vài hôm.

Trần-Gia-Cách xem xong trao cho Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Tờ công văn hết sức quan trọng, chỉ tiếc không thấy đề cập đến chuyện Văn tứ ca.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ! Tờ công văn này quý giá vô cùng, trước giúp được Mộc-Trác-Luân chống quân xâm lăng, sau cứu tế được dân bị nạn lụt sông Hoàng-Hà.

Bước đến trước mặt tên kỵ mã trong y phục võ quan cầm tờ công văn xé nát, Từ-Thiện-Hoằng cười nói:

-Để thất lạc công văn là tử tội, bị chém đầu. Nhưng ta chỉ cho mi một đường sống là nên đi chỗ khác mà làm ăn.

Tên võ quan thật là dở khóc dở cười, liền cởi bỏ bộ y phục võ quan, trà trộn vào trong đám nạn nhân tẩu thoát.

Trần-Gia-Cách đã hiểu được ý của Từ-Thiện-Hoằng nên gật đầu nói:

-Hay lắm! Thế nhưng lương thực là việc tối trọng của quân đội viễn chinh, chắc chắn là được hộ tống và canh phòng rất nghiêm trọng. Chúng ta ít người biết phải đối phó như thế nào? Thất ca có chủ kiến nào chưa?

Từ-Thiện-Hoằng ghé tai Trần-Gia-Cách nói vài câu. Trần-Gia-Cách mỉm cười gật đầu.

Sau đó, Trần-Gia-Cách liền tập họp tất cả mọi người lại phân công. Châu-Trọng-Anh và Châu phu nhân, Châu-Ỷ và Từ-Thiện-Hoằng đột nhập vào cửa Tây thành Lan-Phong. Vô-Trần Đạo-Nhân chỉ huy Dương-Thanh-Hiệp, Chương-Tấn và Tưởng-Tứ-Căn ở phương Bắc. Triệu-Bán-Sơn chỉ huy Vệ-Xuân-Hoa, Lạc-Băng và Thạch-Song-Anh tại cửa Nam. Còn đích thân Trần-Gia-Cách chỉ huy Mạnh-Kiện-Hùng, An-Kiện-Cường và Tâm-Nghiện vào cửa Đông.

Tất cả mọi người hóa trang làm nạn nhân chia nhau ra các ngả, hẹn đúng giờ Ngọ hôm sau sẽ ra tay hành động.

Hôm sau vào giờ Ngọ, có đến hàng trăm vạn nạn nhân ùa đến thành Lan-Phong như nước vỡ bờ, gây ra một tình trạng vô cùng hỗn loạn không sao kềm chế được.

Quan Tri-phủ Lan-Phong là Vương-Bá-Đạo thấy tình thế như vậy thì sai mấy tên bộ-khoái ra bắt ít nạn nhân vào tra hỏi thì người nào cũng bảo rằng họ được tin hôm nay phủ Lan-Phong phát lương cứu trợ nên đua nhau đến lãnh.

Vương-Bá-Đạo liền truyền lệnh đóng chặt bốn cửa thành lại rồi lén ra ngoài vào thẳng chùa Thạch-Phật là nơi quan Tổng-binh Tôn-Khắc-Dụng đồn trú mà báo tin.

Nắm được cơ hội tốt để ‘kiếm chác’, Tôn-Khắc-Dụng nói:

-Tiểu tướng tuân lệnh Triệu nguyên-soái giữ gìn quân lương, đúng ngày giờ phải chuyển nạp đủ số sang biên giới xứ Hồi. Nếu chẳng may để sơ thất thì cả họ hàng bị tru lục. Không phải tiểu tướng không muốn giúp, ngặt vì việc quân trọng đại, xin Vương đại nhân lượng thứ cho.

Vương-Bá-Đạo nghe nói thất vọng trở về. Phùng-Sơn-Thương, một quan lại làm việc tại bộ Hình, nổi tiếng là đa mưu lắm kế bàn rằng:

-Có phải đại quan cần binh lính đến giúp phải không? Mọi chuyện đều không qua tiền. Quan lớn cứ thử xem.

Vương-Bá-Đạo nghe lời trở về dinh lấy 5000 lượng bạc nhờ Phùng-Sơn-Thương đem đến đưa cho Tôn-Khắc-Dụng, gọi là ‘ủy lạo quân sĩ’. Quả nhiên, sau đó Tôn-Khắc-Dụng cho 500 quân thiện chiến, võ trang đầy đủ đến phủ Lan-Phong giúp canh giữ bốn cửa.

Trời vừa nhá nhem tối, bỗng có tin báo lửa bốc cháy dữ dội. Vương-Bá-Đạo đang ăn cơm phải bỏ đũa xuống đi đốc thúc các bộ khoái và quân lính đi cứu hỏa.

Một tên quân hớt ha hớt hãi chạy đến báo tin:

-Không biết ai mở cửa thành phía Tây để cho dân chúng tràn vào như thác đổ, không cách nào ngăn lại được!

Trong khi ấy, 500 quân của Tôn-Khắc-Dụng gửi đến cũng đua nhau chạy tán loạn. Đàng sau đám quân là một đạo-nhân tay cầm trường kiếm cùng với một người to lớn vung cây roi sắt, một người gù cầm hai cái búa và một người mặt lạnh lùng dữ như hộ pháp cầm thương đang rượt theo đánh giết đám quân kia chết như rạ.

Không dám chậm trễ, Vương-Bá-Đạo chạy ngay vào chùa Thạch-Phật. Ngoài chùa, từng lớp dân chúng nạn lụt vây chặt lấy chung quanh.

Tôn-Khắc-Dụng đứng trên thành gọi xuống:

-Hỡi tất cả! Đừng nghe lời đồn nhảm nhí! Ai nấy đều phải lập tức lui khỏi nơi này! Nếu cưỡng lời, bản chức sẽ ra lệnh cho xạ thủ bắn tên!

Nhưng đám dân chúng nhất định không lui, tiếp tục kéo đến càng lúc càng đông. Tôn-Khắc-Dụng liền ra lệnh buông tên.

Tên từ trên thành bay xuống như mưa. Nhưng trước mặt dân chúng có một hàng rào người cầm võ khí gạt hết tên xuống dễ dàng như không.

Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đã có mặt đông đủ trong đám dân chúng. Sở dĩ họ không muốn hành động sớm là vì muốn để cho dân chúng được chứng kiến hành vi của bọn quan binh, hầu tạo ra niềm công phẫn trong quần chúng.

Bỗng nhiên Tây-Xuyên Song-Hiệp từ đâu phóng tới, nhảy lên tường. Lạc-Băng thấy thế cũng vác song đao nhảy lên, đứng sát bên hai người, hỏi:

-Hai anh có gặp Văn tứ ca không?

Trông thấy Lạc-Băng, Tây-Xuyên Song-Hiệp cũng ngạc nhiên hỏi:

-Tứ tẩu cũng có mặt nơi đây nữa sao? Chúng tôi đã gặp tứ ca rồi.

Tưởng-Tứ-Căn và Mạnh-Kiện-Hùng ở phía dưới tìm cách mở cửa chùa ra. Không đầy bao lâu, cánh cửa được mở toang ra. Tưởng-Tứ-Căn vẫy tay nói với dân chúng:

-Bà con mau kéo và đây để lãnh phần.

Hàng muôn ngàn người đổ xô vào bên trong. Đám quan binh ban đầu định xông tới chém giết nhưng nhìn thấy người dân quá đông đảo bỗng trùn tay, không dám nữa. Trong khi đó, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội tiếp tục giết chết đám tướng sĩ của Tôn-Khắc-Dụng để yểm trợ cho dân chúng.

Tôn-Khắc-Dụng phải đích thân cầm đạo đao cầm đầu một toán quân cảm tử để chống cự. Chợt nghe tiếng gió đàng sau lưng và đại đao mình hình như bị một sợi giây nào cuốn chặt lấy, và sau lưng có tiếng người nói lớn như ra lệnh:

-Mi lập tức ra lệnh cho tướng sĩ buông hết vũ khí xuống và mau rút khỏi chùa nếu muốn toàn tánh mạng.

Tôn-Khắc-Dụng chưa biết phải làm gì một lưỡi đao kề ngay vào gáy y, khẽ nhấn xuống một cái. Tông-Khắc-Dụng kinh hãi vội vàng lập tức truyền lệnh. Quân sĩ nhìn thấy chủ tướng bị một người trẻ tuổi mặc áo trắng uy hiếp thì tất cả đều vứt bỏ hết binh khí rồi kéo nhau chạy ra khỏi chùa Thạch-Phật.

Người uy hiếp Tôn-Khắc-Dụng chẳng phải ai xa lạ mà chính là Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội Trần-Gia-Cách. Chàng kề đao giải Tôn-Khắc-Dụng vào trong đại điện thì vừa vặn Thạch-Song-Anh cũng giải quan tri phủ Vương-Bá-Đạo đến nơi chờ lệnh.

Trần-Gia-Cách lạnh lùng nhìn Vương-Bá-Đạo hỏi:

-Nghe nói từ khi mi đến nhậm chức tại phủ này đã gây nên bao nhiêu việc thâm độc bất nhân phải không?

Vương-Bá-Đạo mặt xanh như tàu lá chuốt nói:

-Xin ‘đại vương’ tha mạng.

Trần-Gia-Cách cả cười nói:

-Mi tưởng ta là đạo tặc nên mới gọi là ‘đại vương’ phải không?

-Tội tôi thật đáng chết! Xin công tử cho biết đại danh quý tánh.

Trần-Gia-Cách không đáp, tiếp tục hỏi:

-Mi có phải là một danh sĩ khoa bảng được bổ làm quan phải không?

-Không dám! Không dám!

Trần-Gia-Cách nói:

-Mi thi Hương đỗ Cử-nhân, thi Hội đỗ Tiến-sĩ, hẳn là tinh thông kinh sử, văn hay chữ tốt. Vậy ta ra một vế đối, mi phải đối lại cho sát nghĩa. Nếu nghe được, ta tha tánh mạng, còn bằng không thì đừng trách ta!

Dân chúng nghe Hồng Hoa Hội cho biết chút nữa sẽ được phát lương nên tất cả đều yên tâm. Nghe được quan tri phủ bị bắt, lại nghe Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội thi thố tài văn chương với hắn nên ai nấy đều hiếu kỳ kéo nhau đến xem đông như kiến. Hàng bao nhiêu ngàn cặp mắt đổ dồn nhìn vào mặt Vương-Bá-Đạo, bốn phía đều im lặng, tưởng chừng như một con ruồi bay qua cũng nghe thấy tiếng.

Trần-Gia-Cách nói:

-Ngươi nghe cho kỹ! Vế đối của ta là: ‘Sông có đục có trong, quan có trong có đục. Sông trong dễ hay quan trong dễ?’

Vương-Bá-Đạo toát cả mồ hôi. Suy nghĩ một hồi lâu vẫn không tài nào tìm ra chữ nghĩa để mà đối lại. Y đành ‘chịu thua’ mà lên tiếng:

-Công tử! Vế đối của người khó quá, tôi không làm sao đối nổi!

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Được! Không đối được cũng không sao. Nghe ta hỏi! ‘Nước sông Hoàng-Hà dễ trong sạch hay quan lại dễ trong sạch’?

Vương-Bá-Đạo ‘phúc khởi tâm linh’ đáp ngay:

-Nếu ‘Quan lại trong, thiên hạ đều trong thì nước sông Hoàng-Hà cũng trong’.

Trần-Gia-Cách cười lớn nói:

-Hay lắm! Như vậy thì mi còn đợi gì mà không triệu tập hết thảy quan lại trong phủ bảo họ xuất lương gạo trong kho ra phát cho dân chúng bị thiên tai? Còn quan Tổng-binh nữa, xin giúp quan Tri-phủ một tay nhé!

Không còn cách nào khác hơn, hai người phải họp tất cả các viên chức thuộc hạ lại, xuất kho đem lương gạo phát cho dân.

Trần-Gia-Cách đứng ra nói với dân chúng:

-Tất cả nhớ kỹ điều này! Ngày sau nếu có vị quan lớn nào tới điều tra việc phát lương hôm nay thì nhớ khai rằng: ‘quan Tri-phủ hợp với quan Tổng-binh tự tay phân phát cho từng người’!

Trần-Gia-Cách canh giữ Vương-Bá-Đạo và Tôn-Khắc-Dụng chờ đến quả nửa đêm, khi các kho lương đã phát hết mới gọi Từ-Thiện-Hoằng đến dặn:

-Thất ca cho tất cả hay rằng đừng đem vũ khí về cất giấu kẻo sau này nếu quan binh triều đình xét thấy sẽ phao vu là dân chúng bạo động.

Từ-Thiện-Hoằng vâng lời, bảo tất cả dân chúng đem hết binh khí của quan binh liệng hết xuống sông rồi cùng nhau giải tán.

Làm xong việc nghĩa, đám hào kiệt vui mừng sung sướng, cùng nhau lên đường rời khỏi phủ Lan-Phong. Trần-Gia-Cách hỏi anh em Tây-Xuyên Song-Hiệp:

-Tin tức của Văn tứ ca đến đâu rồi?

Thường-Thích-Chí nói:

-Chúng tôi nhận được ký hiệu của Thập-tứ đệ cho biết là Văn tứ ca bị giải về Hàng-Châu.

Trần-Gia-Cách nghe nói giật mình hỏi:

-Sao lại giải về Hàng-Châu?

Thường-Thích-Chí đáp:

-Điều ấy thật quả là bất ngờ!

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Hàng-Châu là địa bàn (#3) của chúng ta. Như vậy, việc giải cứu Văn tứ ca sẽ dễ dàng hơn cho chúng ta. Còn nếu muốn chắc chắn cả hai bề thì nên cử một người sang tận Bắc-Kinh để dò xét hư thực.

Trần-Gia-Cách nói với Thạch-Song-Anh rằng:

-Việc này chắc phải phiền đến Thập-nhị ca chịu khó giùm phen nữa.

Thạch-Song-Anh tuân lệnh lên ngựa nhắm hướng Bắc đi thẳng. Trần-Gia-Cách hỏi thăm về thương tích của Dư-Ngư-Đồng thì Tây-Xuyên Song-Hiệp cho lắc đầu không biết. Họ kể lại rằng khi tìm thấy ám hiệu của Dư-Ngư-Đồng để lại thì lập tức quay về báo tin, tình cờ đi qua phủ Lan-Phong, thấy cảnh bất bình ra tay giúp dân chúng thì tình cờ gặp được tất cả mọi người ở đây.

Thấy mọi chuyện đã tạm yên, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội ai nấy cảm thấy khoan khoái, hân hoan trong lòng. Tin tức đã đến được Mộc-Trác-Luân của xứ Hồi; cứu dân chúng bị thiên tai làm cản trở cuộc tiến binh của Triệu-Huệ; tin tức Văn-Thái-Lai cũng đã biết được...

Châu-Ỷ tươi cười nói:

-Đại quân Tây chinh của Triệu-Huệ không có lương tiếp tế, đó là một thắng lợi cho Tiêu-Thanh-Đồng tỷ tỷ!

Vô-Trần Đạo-Nhân cười nói:

-Cô bé ấy kiếm pháp thật tài tình. Mong y thị chuẩn bị đánh một trận cho tan tành quân xâm lăng rồi lo chuyện hạnh phúc của mình để chúng ta đến đó uống rượu chúc mừng một phen.

Tất cả mọi người nghe nói đều cười rộ lên. Chỉ riêng một mình Trần-Gia-Cách là buồn buồn như đang nghĩ ngợi điều gì.

Nghỉ ngơi, chuẩn bị đâu đó xong xuôi, Trần-Gia-Cách ra lệnh cho tất cả lên đường...

Hồi 13

Tiếng đàn thánh thót nghe văng vẳng

Tình nghĩa sơ giao đượm chứa chan

Đi chưa đến một ngày, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đã đến Từ-Châu. Đà-chủ phân đà Hồng Hoa Hội tại đây là Trịnh-Đễ. Bang chúng vùng Tây-Bắc này do Bát đương-gia Dương-Thanh-Hiệp thống lĩnh. Thấy Tổng-Đà-Chủ cùng các vị đương-gia đến đột ngột, ai nấy biết ngay có việc quan trọng nên mới đưa đến việc triệu tập bất thường này.

Dương-Thanh-Hiệp ra lệnh cho Trịnh-Đễ cùng tất cả bang chúng phải tuyệt đối không được để lộ bí mật ra ngoài, đồng thời cũng miễn cho họ dùng lễ long trọng bái kiến Tổng-Đà-Chủ theo nghi thức của hội.

Tất cả nghỉ một đêm tại Từ-Châu do sự sắp xếp của Trịnh-Đễ rồi lại tiếp tục cuộc hành trình về phương Nam. Dọc đường có rất nhiều phân đà lớn nhỏ của Hồng Hoa Hội do các đầu mục trông coi, nhưng Trần-Gia-Cách không muốn ghé lại bất cứ nơi nào vì muốn giữ kín hành động.

Đi thêm vài ngày nữa, tất cả đã đến Hàng-Châu, đến tạm trú tại nhà Tổng đầu-mục Hàng-Châu là Mã-Thượng-Quân.

Mã-Thượng-Quân là một đại thương-gia buôn bán tơ lụa, gấm vóc danh tiếng nhất tại Hàng-Châu, có đến ba bốn xưởng dệt lớn, thế lực rất mạnh. Ông ta tuổi chừng 50, tướng mạo phong nhã, thường mặc chiếc áo gấm đắt tiền. Nhìn vào, ai cũng tưởng ông ta chỉ là một ‘đại phú ông’ nhưng không ngờ cũng là một khách giang hồ hào hiệp. Bình sinh, Mã-Thượng-Quân rất ham chuộng võ nghệ. Ông ta chơi thân với Vệ-Xuân-Hoa, và gia nhập Hồng Hoa Hội.

Chiều hôm ấy, Mã-Thượng-Quân theo đường tắt mà đón tiếp các hào kiệt Hồng Hoa Hội, đem đến một căn nhà bí mật xây trong hóc núi. Cả thành Hàng-Châu không một ai hay chuyện này.

Trần-Gia-Cách sau đó liền đem chuyện giải cứu Văn-Thái-Lai bàn. Mã-Thượng-Quân nói:

-Việc này tôi đã có kế hoạch. Để tôi cho người đi dọ thám tại các nha-môn phủ, huyện Tiền-Đường, kể cả doanh trại của tướn biên-phòng.

Sau đó, Mã-Thượng-Quân sai con trai là Mã-Đại-Đình sắp xếp mọi việc cắt đặt người đi dọ thám tình hình. Nhưng sáng hôm sau Mã-Đại-Đình trở về báo tin là không tìm thấy được một tung tích nào của Văn-Thái-Lai cả.

Trần-Gia-Cách nói:

-Có lẽ tôi phải đích thân đi một phen mới được. Nhưng xin Mã huynh cứ tiếp tục công việc dò xét thử xem có gì thay đổi hay không.

Quay qua đám hào kiệt Hồng Hoa Hội, Trần-Gia-Cách phân công:

-Đêm nay, xin Vô-Trần Đạo-Trưởng, bát ca, cửu ca đến dò xét các nơi như dinh Tổng-đốc, Tuần-phủ, Bổ-chánh và Án-sát. Điều cần nhớ là ‘đừng giậm cỏ làm rắn sợ’ (#1). Phải luôn luôn bình tĩnh và kiên nhẫn.

Mã-Thiện-Quân sau đó cung cấp cho mọi người bản đồ của các dinh thự trong tỉnh Hàng-Châu, có vẽ rõ ràng cả đường đi ngõ hẻm. Mã-Thiện-Quân cũng không quên giải thích tỉ mỉ từng lu từng tí cho tất cả.

Vào khoảng giờ Dậu, mọi người thay đồ dạ hành, mang theo các dụng cụ cần thiết lên đường thi hành kế hoạch.

Dinh Tuần-phủ đêm ấy được canh phòng hết sức cảnh mật. Ngay cửa vào dinh đã có đến 2000 quân với sự chỉ huy của các võ quan mang chức Tam-phẩm trở lên. Thấy không cách gì vào nổi bên trong, Vô-Trần Đạo-Nhân đành dẫn Dương-Thanh-Hiệp và Vệ-Xuân-Hoa về tìm Mã-Thượng-Quân thông báo và hỏi ý kiến.

Mã-Thượng-Quân nói:

-Tôi không ngạc nhiên chút nào cả. Hàng-Châu đã thi hành lệnh giới nghiêm từ mấy hôm nay. Triều đình đã cho người đến kiểm tra dân số. Những người từ phương khác đến đây, kể cả các thương gia đều bị tra khảo kỹ lưỡng. Tất cả dân chúng Hàng-Châu, nếu ai bị khả nghi đều bị bắt hỏi cung. Số người bị quan quân giam giữ đã lên đến 500-600! Cứ xem tình hình canh phòng nghiêm ngặt như thế cũng đủ biết chuyện này có liên quan đến Văn tứ đương-gia.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Cũng có thể là một vị Khâm-sai đại thần ở kinh đô về tuần kiểm Hàng-Châu hay một vị hoàng-thân quốc thích nào ghé thăm ngoạn cảnh Tây-Hồ nên bọn quan lại địa phương bày trò để nịnh bợ mong được tiến thân.

Mã-Thiện-Quân nói:

-Nếu là như vậy thì thế nào cũng có thông cáo cho dân chúng biết chứ không đời nào lại giấu nhẹm đi như vậy. Bọn quan lại vùng Triết-Giang này nếu gặp được cơ hội tốt như thế ắt không khi nào im hơi lặng tiếng đâu. Chỉ trừ khi có lệnh bắt chúng phải ngậm miệng thì chẳng kể. Ngoài giả thuyết Văn tứ ca ra, họa hoằn chỉ có các nhân vật như Hoàng-Hậu, Thái-Tử...

Bàn luận mãi mà vẫn không đi đến được kết luận nào. Vắng mặt Trần-Gia-Cách, họ cũng không có quyền quyết định chuyện gì nên hai người bèn rủ nhau đi nghỉ.

Ngày kế, Châu-Ỷ xin thân phụ đưa nàng đi Tây-Hồ xem phong cảnh vùng Giang-Nam. Châu-Trọng-Anh bằng lòng ngay vì chính ông ta cũng đang có ý định phải đi thăm qua một chuyến cho biết. Châu-Ỷ láy mắt với Từ-Thiện-Hoằng, ngụ ý bảo chàng cùng di chung với mình.

Từ-Thiện-Hoằng chưa được Trần-Gia-Cách phân công nên do dự, không dám vì chuyện tư mà bỏ chuyện công.

Châu-Trọng-Anh cũng đoán được ý của con gái nên nói với Từ-Thiện-Hoằng:

-Cha mẹ chưa đến Hàn-Giang bao giờ, đây mới là lần đầu. Con nên đi Tây-Hồ luôn thể mà dẫn đường để khỏi lạc.

Từ-Thiện-Hoằng nghe Châu-Trọng-Anh nói vậy thì không ngại ngùng gì nữa. Chàng dư biết trong Hồng Hoa Hội, từ Tổng-Đà-Chủ trở xuống, ai nấy đều kính trọng ‘nhạc phụ tương lai’ của chàng nên chỉ một lời nói của ông ta là mọi chuyện đều xong hết. Vì vậy, chàng không còn sợ phải chịu trách nhiệm về chuyện này nữa.

Châu-Ỷ được thể nói:

-Kìa, gia gia thấy chưa? Gia gia chỉ nói một tiếng là anh ấy nghe ngay, còng con có nói đến khô nước bọt cũng chẳng thấm vào đâu!

Từ-Thiện-Hoằng cũng phải nói qua cho các anh em trong hội biết. Mọi người biết chàng mồ côi từ nhỏ, không có tình thương. Nay tìm được nơi nương tựa, ai nấy đều mừng cho chàng và thông cảm...

Trần-Gia-Cách sau một đêm đi tìm tung tích Văn-Thái-Lai cũng không có kết quả gì nên đành trở về lại tư thất của Mã-Thiện-Quân. Sau khi trao đổi tin tức rỗng không với Vô-Trần Đạo-Nhân, Trần-Gia-Cách nhận thấy việc giải cứu Văn-Thái-Lai rất phức tạp, cần phải nhẫn nại chứ không thể gấp rút được.

Trần-Gia-Cách quyết định sẽ đi Tây-Hồ chơi, may ra sẽ tìm thêm được manh mối vì chàng biết Tây-Hồ là nơi tụ tập của giới giang hồ, trao đổi nhiều tin tức cũng như giữ các mối liên lạc. Nghĩ vậy, Trần-Gia-Cách gọi Tâm-Nghiện bảo cùng đi chung với mình.

Đi dạo một lượt qua Tây-Đế và Bạch-Đế, Trần-Gia-Cách một mình đến ngồi trên chiếc cầu ván bắc ngang, mắt đăm đăm nhìn về dãy Nam-Sơn. Thấy rừng trúc xanh um, núi vần vũ khói lam..., Trần-Gia-Cách như mê mệt, ngắm mãi không biết chán.

Trần-Gia-Cách sai Tâm-Nghiện đi mướn một cỗ xe ngựa đưa hai thầy trò lên sườn non viếng chùa Linh-Ấn. Đỉnh núi cao chót vót trên 500 trượng, đứng sừng sững như vách tường. Những vách đá màu trắng bằng phẳng, nhẵn nhụi trông vô cùng đẹp mắt. Hoa cỏ mọc trên đá, bóng cây, chồi lá tạo nên nhiều màu sắc huy hoàng. Nhô ra sông, một ghềnh đá cheo leo chỉ dính phớt vào sườn núi, tựa hồ như chỉ cần xô nhẹ một cái là rớt ra ngay.

Nhìn một cù lao ngoài khơi với màu xanh mờ mờ có vẻ tao nhã, Trần-Gia-Cách nói với Tâm-Nghiện:

-Em này, lên đó xem chơi.

Không có đường lên đó, hai người phải thi triển khinh công tuyệt diệu, như hai cánh nhạn bay lên. Nhìn chùa Tam-Thiên với nhiều vẻ đẹp lạ lùng, Trần-Gia-Cách nắm tay Tâm-Nghiện phóng lên trên. Vừa lúc đó, từ trên có hai người mặc áo dài lam, mặt mũi khôn ngô, thân hình vạm vỡ đang dùng khinh công bay xuống, thân pháp cực kỳ cao diệu. Khi chạm mặt với hai thầy trò Trần-Gia-Cách, sắc mặt cả hai liền thay đổi với vẻ kinh hãi và nghi ngờ.

Trần-Gia-Cách giả vờ như chẳng nhìn thấy mặt hai người áo xám kia, vẫn nắm tay Tâm-Nghiện mà phi thân vùn vụt.

Tâm-Nghiện khẽ nói nhỏ, vừa đủ cho Trần-Gia-Cách nghe:

-Thiếu gia à! Con xem hai người ấy coi bộ có bản lãnh trác tuyệt vô cùng. Chắc họ là cao thủ của một môn phái nào đưa nhau đi thao dượt chứ không phải là vừa giao đấu xong rồi ra về.

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Nhãn lực của em khá lắm đấy! Cứ xem khinh công của họ, ta cũng có thể đoán được đây không phải là những tay vừa.

Trần-Gia-Cách vừa nói dứt lời thì phía trên lại có hai người ăn mặc y như hai người ban nãy bay xuống với tốc độ khủng khiếp. Mặc dầu dùng khinh công bay thật lẹ, Trần-Gia-Cách cũng nghe được hai người như đang nói chuyện với nhau. Căn cứ theo những lời chàng nghe được trong cuộc đối thoại thì hình như họ là đôi bạn tri âm về cờ, nói đến toàn chuyện đi nước cờ cao thấp.

Đến khi Trần-Gia-Cách và Tâm-Nghiện lên trên đỉnh núi, hai người đếm được vào khoảng có đến 30-40 người mặc áo lam, với khinh công tuyệt diệu như vậy. Mà hầu hết người nào cũng vậy, khi nhìn thấy Trần-Gia-Cách và Tâm-Nghiện đều có một sắc diện, cử chỉ nghi ngờ như nhau, lộ vẻ kinh dị.

Trần-Gia-Cách điềm đạm suy nghĩ:

-“Hoặc giả họ là người của một bang hội giang hồ, không thì cũng là những cao thủ võ lâm thuộc về một tông phái nào đến đây hội họp chứ chẳng phải ai khác hơn.”

Nhưng lạ lùng một điều, nếu là những người thuộc môn phái nào trong giang hồ hay võ lâm ắt phải biết Hàng-Châu là địa bàn của Hồng Hoa Hội. Nếu họ định dùng cảnh trí Tây-Hồ làm nơi tụ họp thì tại sao lại không thông báo cho Hồng Hoa Hội biết trước? Đã thế, nhìn thấy mặt Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội mà họ còn tỏ ra ngạc nhiên và kinh hãi nữa!

Trần-Gia-Cách toan lên bái kiến tượng Quan-Âm trên tòa Thiên-Trước bỗng nghe có tiếng đàn văng vẳng rót vào tai. Tiếng đàn phát xuất từ bên triền núi vang dư âm lại nghe rất ngân nga đồng vọng.

Trần-Gia-Cách không những đã ‘văn võ song toàn’ mà còn thông thạo tất cả về ‘Cầm, Kỳ, Thi, Họa’ nữa nên vừa nghe qua đã nhận ngay ra là khúc ‘Phổ An Chú’. Trong tiếng gào ấy có réo rắt tiếng chuông ngân. Trần-Gia-Cách khen thầm:

-“Người chơi đàn kia quả thật là ‘hào hoa phong nhã’ đúng mức!”

Tính hiếu kỳ nổ dậy, thấy không thể bỏ qua, Trần-Gia-Cách hướng theo phía có tiếng đàn ấy bước dần tới.

Trên một phiến đá bằng phẳng là nột người chừng 40 tuổi đang ngồi ôm đàn, rung lên những đường tơ réo rắt. Hai người mặc áo lam chia ra đứng hai bên như hầu hạ. Sau lưng người ấy là một người ốm tong ốm teo, có dáng điệu của một người trưởng giả đang khoanh tay đứng sau lưng người ôm đàn.

Nhìn qua diện mạo người trung niên đang đánh đàn, Trần-Gia-Cách bất giác kinh hãi vô cùng. Một kỷ niệm xa xưa như chợt sống dậy trong trí óc chàng. Hình như chàng đã một lần nào đó gặp qua người này ở một nơi nào đó.

Người đánh đàn mặt mày tươi tỉnh, dung mạo thanh tao, khí sắc hào hoa, thái độ cao nhã, càng nhìn càng thấy quen thuộc. Trần-Gia-Cách cố moi lại ký ức nhưng vẫn không làm sao nhớ được là đã gặp người này bao giờ, tại đâu. Lòng chàng chợt như bấn loạn, hoang mang, có cảm giác như đang trảo qua một giấc mộng... Người đánh đàn ấy có lẽ không phải ai xa lạ mà chính là một người chí thân, chí cận của mình... Nhưng trong ký ức man mác thì mình lại cách biệt với người ấy thật xa...

Bấy giờ, người trưởng giả với hai người cao lớn mặc áo lam cũng đã phát giác ra được sự hiện diện của Trần-Gia-Cách tuy rằng chàng đứng nép mình vào sau một thân cây cổ thụ. Ba người liền nhảy ra đưa tay lên như ra dấu hiệu gì. Tiếng đàn sau đó bỗng ngưng lại.

Người đánh đàn đứng thẳng người lên trông về phía Trần-Gia-Cách đứng vừa cười, vừa cất tiếng như chuông đồng nói:

-Vị tri âm nào mới đến, xin mạn phép mời ra đây đàm đạo.

Trần-Gia-Cách bước tới vòng tay lễ phép nói:

-Được nghe tiếng đàn thanh nhã của nhân huynh khiến lòng trần như tiêu tan tất cả, phiền muộn cũng không còn. Thật là vô cùng hân hạnh!

Bước thêm một bước nữa đến gần, Trần-Gia-Cách lại thi lễ thêm một lần nữa rồi mới ngồi xuống.

Người đánh đàn nhìn rõ mặt Trần-Gia-Cách bất giác cũng lộ vẻ kinh ngạc, tâm thần như bất định, lộ vẻ ngơ ngẩn.

Trần-Gia-Cách nói:

-Ngu đệ từ dưới chân núi lên trên đỉnh núi này. Những du khách gặp gỡ dọc đường hễ trông thấy diện mạo của ngu đệ thì đều tỏ ra kinh dị. Đến đây gặp huynh đài cũng có sắc diện ấy. Không biết phải chăng là vì mặt mũi ngu đệ rất khó coi? Dám xin huynh đài dạy bảo cho.

Người ấy đáp:

-Huynh đài có chỗ chưa hiểu rõ. Đệ có một người thân tướng mạo giống hệt huynh đài như hai giọt nước. Tất cả những du khách mà huynh đài gặp trên đường lên chốn này đều là bạn bè của đệ cả. Do đó mà họ nhìn thấy huynh đài mà không khỏi kinh ngạc.

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Thì ra là vậy! Vừa trông thấy tướng mạo của nhân huynh đây, tiểu đệ mường tượng như đã từng quen biết nhau thân mật lắm nhưng không làm sao nhớ ra được. Huynh đài có thể cho biết là chúng ta đã từng gặp nhau ở nơi đâu không?

Người ấy cười, vui vẻ nói:

-Như thế thật là chúng ta đã có duyên với nhau từ trước. Xin cho biết quý tánh phương danh?

Tên tuổi Trần-Gia-Cách vang dậy khắp chốn giang hồ. Vì vậy, để che dấu thân thế, Trần-Gia-Cách nói:

-Tiểu đệ họ Lục, tên Gia-Thành. Còn tôn tánh đại danh của nhân huynh cũng xin cho tiểu đệ được rõ?

Người ấy trầm ngâm giây lát rồi mới đáp:

-Tiểu đệ họ Đông Phương, tên Nhĩ, quê ở Trực-Lệ. Nghe giọn của nhân huynh, xem chừng là người ở địa phương này?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Vâng, tiểu đệ sinh tại xứ Hàng-Châu này.

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Từng ngưỡng mộ phong cảnh của Giang-Nam có tiếng là ‘độc nhất vô nhị’ trong thiên hạ, đệ cảm thấy không thể nào bỏ qua được nên phải đến đây để thưởng ngoạn. Non nước Hàng-Châu quả là ‘danh bất hư truyền’. Nơi đây cũng là ‘địa linh nhân kiệt’ nữa. Những nhân vật tiểu đệ được gặp qua đều là những người thoát tục phi phàm cả.

Trần-Gia-Cách nghe Đông-Phương-Nhĩ nói năng thanh lịch. Hai người mặc áo lam và người có dáng trưởng giả kia đứng hầu có vẻ cung kính, thủ lễ từng ly từng tí một. Trong lúc Đông-Phương-Nhĩ nói chuyện, cả ba người vòng tay cúi đầu yên lặng lắng nghe. Trần-Gia-Cách nghĩ mãi mà vẫn không tài nào đoán được Đông-Phương-Nhĩ thuộc thành phần nào trong xã hội.

Trần-Gia-Cách cố khơi chuyện để dò thử:

-Huynh đài đã yêu mến cảnh Giang-Nam như vậy sao không lập nghiệp ở đây luôn để tiểu đệ được cơ hội tới lui học hỏi?

Đông-Phương-Nhĩ cười đáp:

-Nửa ngày qua thưởng thức thắng cảnh Tây-Hồ tưởng cũng là quá đáng. Chúng đệ là những phàm phu tục tử làm sao mà có được phúc để hưởng được cái phúc thanh nhàn trong sạch này mà mong? Huynh đài đã là tri âm hẳn cầm-nghệ (#2) cũng thuộc hạng siêu đảng. Xin cho được thưởng thức vài khúc nhạc.

Đông-Phương-Nhĩ vừa dứt lời liền cầm đàn trao cho Trần-Gia-Cách đón lấy. Trần-Gia-Cách cầm đàn dạo thử mấy cái, nhận thấy âm thanh thật là réo rắt tuyệt vời. Chàng lại cầm đàn lên xem xét tỉ mỉ, thấy trên đầu có những đường chỉ nhỏ bằng vàng dệt thành hai chữ triện ‘Phụng lai’. (#3)

Trong lòng Trần-Gia-Cách hết sức kinh ngạc, chàng nghĩ thầm:

-“Cây đàn này thật là một bảo vật vô giá trên đời! Không hiểu người này vì sao mà có được?”

Nghĩ vậy, chàng liền nói với Đông-Phương-Nhĩ:

-Huynh đài thật là bậc ‘cành vàng lá ngọc’. Tiểu đệ đâu dám đem tài hèn mọn mà làm bẩn tai người nghe!

Tuy vậy, Trần-Gia-Cách vẫn ôm đàn lên giây, gảy khúc ‘Bình sa lạc nhạn’ (#4). Đông-Phương-Nhĩ lắng tai nghe thật kỹ.

Tiếng đàn vừa dứt, Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Huynh đài vừa mới ở ngoài biên ải về đây.

Trần-Gia-Cách đáp:

-Quả thật tiểu đệ vừa ở ngoài biên giới xứ Hồi về đây. Sao huynh đài biết được?

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Tiếng đàn của huynh đài có âm điệu hùng tráng khoáng đạt của binh giả. Bao nhiêu phong quang ở vùng đại mạc đều thâu cả vào trong mấy đường tơ. Khúc ‘Bình sa lạc nhạn’ này tiểu đệ đã được nghe qua không dưới vài trăm lần. Nhưng thật chưa có ngón đàn nào sánh nổi với huynh đài.

Trần-Gia-Cách nghe nói hân hoan vô cùng. Chàng cảm tưởng như mình đã gặp được người tri âm vậy.

Đông-Phương-Nhĩ lại nói:

-Tiểu đệ có một điều chưa sáng tỏ muốn hỏi huynh đài, ngặt vì chúng ta chỉ mới gặp nhau nên chưa dám mạo muội.

Trần-Gia-Cách nói:

-Huynh đài có việc chi muốn biết xin cứ hỏi tự nhiên, đừng khách sáo.

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Trong tiếng đàn của huynh đài như có tiếng binh khí khua chạm mà tâm trạng của huynh như chứa chất thiên binh vạn mã. Nếu không phải là bậc võ tướng nắm binh quyền hay bậc nguyên-soái chỉ huy tướng sĩ thì không đời nào có được cái khí phách hiên ngang ấy. Nhưng tướng mạo của huynh đài thì thanh nhã như một vị công tử con nhà vương tướng, hay là một trạng nguyên khoa bảng nhiều hơn. Đó là điều tiểu đệ thắc mắc.

Trần-Gia-Cách nói:

-Tiểu đệ là một thư sinh lỡ bước giang hồ, văn không thông, võ không thạo. Những điều huynh đài khen tặng thật làm cho đệ phải hổ thẹn vô cùng.

Đông-Phương Nhĩ cho rằng Trần-Gia-Cách khiêm tốn, lại hỏi tiếp:

-Huynh đài hẳn là con nhà thế gia chứ không phải hạng tầm thường. Dám hỏi huynh đài làm quan đến tước gì, hiện đang được bổ nhiệm nơi đâu? Đã lập nên công danh gì chưa?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Gia nghiêm (#5) bất hạnh qua đời. Tiểu đệ chỉ là hạng tầm thường, không có duyên phận với nẻo công danh.

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Cứ nghe khẩu khí của huynh đài cũng đủ hiểu là người tài cao học rộng. Chắc nền học chánh không người nào có mắt nên khoa trường của huynh đài mới lận đận đấy thôi.

Trần-Gia-Cách nói:

-Không phải thế đâu. Tiểu đệ không chuộng lợi danh.

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Quan Tuần-phủ Triết-Giang đâu là chỗ thâm giao với tiểu đệ. Ngày mai huynh đài thử đến đó một lần không chừng có điều lợi ích cũng nên.

Trần-Gia-Cách nói:

-Hảo ý huynh đài chiếu cố, tiểu đệ xin cảm tạ. Tiếc thay, tiểu đệ không có ý định làm quan.

Đông-Phương-Nhĩ nói như tìm cách thuyết phục:

-Chẳng lẽ huynh đài nỡ để cho tài năng mai một, uổng phí đi đời người hay sao?

Trần-Gia-Cách nói như quả quyết:

-Làm quan để bóc lội sát hại dân lành thì chẳng thà cùng với dân chịu cảnh lầm than.

Vừa nghe qua câu nói, Đông-Phương-Nhĩ chợt biến sắc. Ba người hầu thấy Đông-Phương-Nhĩ xám mặt vội tiến lên một bước.

Đông-Phương-Nhĩ khẽ lắc nhẹ bả vai một cái, rồi bỗng nhiên cười nói:

-Huynh đài thật là bậc cao thượng, bọn phàm phu tục tử chúng tôi không sao sánh kịp.

Cả hai người tiếp tục cuộc đối thoại, khi đồng ý, khi đối chọi nhưng càng nói chuyện lại càng thêm vẻ thân mật.

Đông-Phương-Nhĩ lại hỏi:

-Huynh đài ở biên giới xứ Hồi về đây chắc trên đường đã nghe thấy nhiều việc lắm?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Cảnh trí Hàng-Châu muôn vạn dặm, nhãn giới không làm sao thâu thập hết thẳng tịch kỳ quan. Nhưng riêng có cảnh thiên tai trên sông Hoàng-Hà thì tiểu đệ được chính mắt trông thấy. Nghe những tiếng kêu la rên xiết của nạn nhân vô cùng thê thảm, tiểu đệ đau đớn xót xa vô vàn nên không còn lòng dạ nào mà lưu luyến những cảnh đẹp nên phải tạm dừng bước phiêu du mà vội vã trở về.

Đông-Phương-Nhĩ hỏi:

-Nghe nói nạn nhân thiên tai sông Hoàng-Hà đã nổi loạn cướp đoạt tất cả quân lương của đội Chinh Tây tại phủ Lan-Phong. Hẳn huynh đài cũng có nghe?

Trần-Gia-Cách giật mình nghĩ thầm:

-“Người này làm sao mà biết được nguồn tin ấy mau lẹ như vậy? Sau khi cướp đoạt kho lương, bọn ta về ngay lại Giang-Nam, suốt cuộc hành trình không hề nghe ai bàn tán. Thế mà người này lại biết tường tận không sai một mảy may.”

Trần-Gia-Cách gật đầu nói:

-Việc ấy quả nhiên có thật. Nạn nhân không cơm không áo, con mất cha, vợ lìa chồng. Tất cả của cải, mùa màng đều tan nát theo giòng nước cuốn. Trước cảnh điêu linh đó, kẻ làm cha mẹ dân lại chẳng chút xót thương, mạnh ai nấy lo, còn lợi dụng cơ hội để vơ vét cho đầy túi tham mặc dân chết sống. Nguyên nhân chính vì thế mà ra.

Đông-Phương-Nhĩ khẽ rùng mình một cái, bâng quơ nói chuyện như bao đồng:

-Việc không phải đơn giản như thế đâu. Chính Hồng Hoa Hội tạo ra những khó khăn cho triều đình đấy!

Trần-Gia-Cách giả tảng hỏi:

-Hồng Hoa Hội là cái chi vậy?

Đông-Phương-Nhĩ đáp:

-Đó là một bang hội quy tụ toàn những kẻ bội nghịch tạo phản. Huynh đài chưa nghe đến sao?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Tiểu đệ phung phí thì giờ, dành cả vào ‘Cầm, Kỳ, Thi, Họa’ thì còn thiết chi đến việc đời nữa đâu mà hiểu biết! Một bang hội to lớn lừng danh như vậy mà mãi đến hôm nay mới được nghe, nghĩ càng thêm thẹn.

Khẽ nhún vai một cái, Trần-Gia-Cách lại nói:

-Triều đình được tin trên hẳn có biện pháp nặng nề với Hồng Hoa Hội chứ chẳng đùa!

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Tưởng cũng chẳng cần thiết lắm! Sá chi một nhóm người đó mà bận tâm.

Trần-Gia-Cách vẫn giữ nét mặt tự nhiên hỏi:

-Huynh đài căn cứ vào đâu mà kết luận như vậy?

Đông-Phương-Nhĩ đáp:

-Hiện nay minh-quân trị vì, triều chính trên dưới đều sáng suốt. Những người tài trí đều được bổ dụng vào chỗ xứng đáng. Triều đình chỉ cần đề cử một vài người tài giỏi lo việc là Hồng Hoa Hội bị tiêu diệt như trở bàn tay.

Trần-Gia-Cách nói:

-Xin đừng chê cười. Tiểu đệ không rõ triều chính nhưng nghe huynh đài nói chuyện thấy có vẻ hoang đường. Theo thiển kiến của tiểu đệ thì quan lại trong triều chỉ là bọn ‘giá áo túi cơm’, chắc đâu đã gánh vác được những trách nhiệm nặng nề như huynh đài vừa nói.

Trần-Gia-Cách vừa dứt lời thì cả Đông-Phương-Nhĩ và ba người kia lại một lần nữa biến sắc. Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Huynh đài vẫn chưa thoát ra khỏi tầm kiến thức nho-sinh. Thôi, hãy khoan nói đến những lương tài của triều đình làm gì cho xa xôi. Chỉ mấy vị bằng hữu bên tiểu đệ đây cũng không phải hạng tầm thường. Tiếc vì huynh đài là văn nhân nếu không họ sẽ thi triển một vài tuyệt kỹ cho huynh đài trông thấy.

Trần-Gia-Cách hớn hở đáp:

-Tuy tiểu đệ sức trói gà không chặt nhưng bình sinh rất khâm phục những trang anh hùng. Xin huynh đài cho họ biểu diễn cho tiểu đệ xem vài đường tuyệt kỹ, may ra có thể mở rộng được tầm mắt của tiểu đệ cũng nên.

Đông-Phương-Nhĩ quay qua hai người mặc áo lam nói:

-Bọn ngươi thử diễn vài trò chơi cho vui cho vị Lục gia này tiêu khiển.

Trần-Gia-Cách mỉm cười, nghĩ thầm:

-“Chờ họ biểu diễn vài ngón là ta có thể đoán được thuộc về môn phái nào.”

Nghĩ đoạn, chàng vòng tay nói:

-Xin mời!

Một đại hán áo lam bước ra nói:

-Trên cây có con chim thướt đang cất tiếng gáy. Để tôi bắt nó xuống, khỏi làm bậi tai người nghe nhé!

Dứt lời, y khẽ vung tay áo lên một cái, một mũi phi tiêu bay tới chỗ con chim thướt đang đậu.

Ai nấy ngửa mặt lên nhìn, thấy rõ ràng phi tiêu vừa sắp sửa bắn trúng con chim thì không biết từ đâu bay lại một viên bùn nhắm vào mũi tên xẹt ngang làm mũi tên bắn trật đích. Con chim thướt giật mình, vỗ cánh bay đi mất.

Người trưởng-giả đứng sau lưng Đông-Phương-Nhĩ rất tinh mắt, thấy trên tay Tâm-Nghiện đang vò viên một vật gì thì hiểu ngay chính thằng nhỏ này đã ‘chơi trò rắn mắt’ nên cất tiếng gọi:

-À, cậu bé này có công phu ghê gớm đến như thế kia! Xin mời tới gần đây... Tới gần đây!

Dứt lời, năm ngón tay của lão ta như năm vuốt nhọn của chim ưng nắm lấy cánh tay của Tâm-Nghiện kéo lại.

Trần-Gia-Cách nhìn thấy thế bỗng nhiên thầm kinh hãi vì nhận ra người này đang sử dụng đại lực Ưng-Trảo-Công của phái Cao-Dương. Tay của y trông có vẻ không lấy gì làm lanh lẹ nhưng uy lực chẳng khác gì bão táp.

Trần-Gia-Cách nghĩ thầm:

-“Người này thuộc cao thủ bậc nhất trên võ lâm chứ chẳng kém gì ai, không hiểu sao lại cam tâm làm thuộc hạ cho Đông-Phương-Nhĩ?”

Trần-Gia-Cách cầm quạt trên tay phe phẩy một cái, quạt xòe ra giữa khoảng cách Tâm-Nghiện và cao thủ kia.

Sợ làm rách cây quạt của người khách mà chủ nhân Đông-Phương-Nhĩ xem như bằng hữu nãy giờ, cao thủ kia sợ phạm vào tội bất kính nên vội vã rút tay về. Lão ta nhìn thấy điệu bộ Trần-Gia-Cách vẫn thản nhiên, không lộ vẻ gì là thi triển võ nghệ hay có ý thử sức với mình mới thấy yên tâm.

Đông-Phương-Nhĩ hết lời khen ngợi, cất tiếng hỏi:

-Tiểu huynh đệ này tuổi trẻ mà võ nghệ thật là cao cường. Huynh đài gặp gỡ ở đâu thế?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Không! Nó có biết võ nghệ chi đâu! Chẳng qua lúc bé hay đi rong chơi, tập bắn chim sẻ bằng đạn bùn nên quen tay, hễ nhắm bắn là trúng đó thôi.

Đông-Phương-Nhĩ nghe nói vậy thì không đề cập đến chuyện đó nữa. Nhìn cây quạt trong tay Trần-Gia-Cách, Đông-Phương-Nhĩ hỏi:

-Chiếc quạt trong tay huynh đài có bút tự của ai viết tặng vậy? Có thể co đệ xem thử được không?

Trần-Gia-Cách vui vẻ trao ngay cây quạt sang. Đông-Phương-Nhĩ xem qua hàng chữ, nhận ra bút tích của Nạp-Lan Tĩnh-Đức, một danh nho của triều trước, chép trên quạt khúc ‘Kim Lũ’ do chính người ấy sáng tác.

Nhìn nét bút nho nhã, đọc lời văn thấy sâu sắc, Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Nạp-Lan Tĩnh-Đức là công tử của một vị Tướng-Quốc nên mới đủ sức làm được bài từ như vậy. Nghe lời thơ thì biết rõ tác giả tán tụng phong cảnh của vùng Giang-Nam lại đượcm màu sắc trong cung Hoàng-Đình. Cái quạt và bài từ này thật là hai viên ngọc bích. Tuy nhiên, nếu không phải là một bậc cao sĩ ắt không biết được giá trị của nó. Chẳng hiểu vì đâu mà huynh đài có được chiếc quạt này?

Trần-Gia-Cách nói:

-Tiểu đệ đã mua lại trong một kho tàng sách vở với giá một vạn lượng vàng.

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Dầu với giá 10 vạn lượng vàng ròng cũng vẫn còn là quá rẻ. Có điều tiểu đệ không khỏi lấy làm lạ là bảo vật này chỉ có thể thuộc về các gia đình thế gia Tướng-Quốc truyền làm gia bảo, lẽ nào huynh đài lại tìm thấy được trng một kho tàng sách vở ngoài đời. Thế chẳng hóa ra là một kỳ duyên chưa bao giờ có ở thế gian.

Đông-Phương-Nhĩ vừa dứt lời bỗng phá lên cười ha hả. Trần-Gia-Cách biết Đông-Phương-Nhĩ không tin lời mình, nhưng chàng cũng không cãi, chỉ mỉm cười.

Đông-Phương-Nhĩ lại nói:

-Nạp-lan công tử văn võ toàn tài nên tự phụ là bậc anh ngạn trong nhân gian. Ta có thể thấy được trong câu: ‘Kìa xem mày ngài nhăn nhíu. Từ xưa đến nay ai cũng ngại ngùng. Thân xác tạm bợ, đáng chi mà hỏi. Tình đời âu cũng một trò cười’... Xem ra tự phụ vào tài năng, khinh mạn tuổi thiếu niên không sống lâu, nội bấy nhiêu đó cũng đủ chứng minh cho thấy rồi!

Nói xong, cặp mắt Đông-Phương-Nhĩ như dán chặt vào mặt Trần-Gia-Cách, ý ngầm bảo rằng người trẻ tuổi nếu quá tự thị vào tài năng của mình cũng chưa chắc đã có được gì độc đáo hơn người.

Trần-Gia-Cách hiểu ý, cười đáp:

-Người có chí lớn phải phủi tay áo, xem công danh phú quý chẳng ra gì, cười mà bước ra ngoài vòng cương tỏa. Người như thế, ngoài Nạp-Lan công tử, xưa nay phỏng được có bao nhiêu người? Thà rằng thưởng thức danh họa, say mỹ tửu, chuyện thiên hạ gác bỏ ngoài tai, mặc cho bọn người ‘giá áo túi cơm’ khua môi múa mỏ. Đó chính là ý nghĩa kín đáo sâu sắc trong bài phú của Nạp-Lan mà ít người thấu hiểu được.

Đông-Phương-Nhĩ thấy Trần-Gia-Cách sĩ khí đến dộ như ngông cuồng thì thầm lắc đầu, nhưng không muốn ngừng câu chuyện. Hình như có một điều nào thiêng liêng đã trói buộc cả hao người.

Đông-Phương-Nhĩ thầm nghĩ:

-Để ta cố gắng đi sâu vào nội tâm của y cho biết vì đâu mà y lại khinh thường những người phục tùng triều đại Mãn-Thanh đến như thế!

Đông-Phương-Nhĩ cầm chiếc quạt lật qua lật lại xem kỹ một hồi lâu bỗng nảy ra một ý nghĩ, bèn lên tiếng:

-Tiểu đệ ưa thích chiếc quạt này vô cùng! Huynh đài có thể tặng cho làm kỷ niệm buổi tương kiến sơ giao này được chăng?

Trần-Gia-Cách khảng khái đáp:

-Huynh đài ưa thích, tiểu đệ xin thành tâm kính biếu.

Đông-Phương-Nhĩ chỉ vào mặt trống của cây quạt nói:

-Ước gì có được một bài thơ của huynh đài đề vào đây để sau này đệ nhớ mãi đến huynh mỗi khi cầm chiếc quạt này lên! Chẳng hay huynh đài cư ngụ tại đâu xin cho biết để sáng mai đệ cho người đến lấy quạt sau cũng được.

Trần-Gia-Cách nói:

-Nếu huynh đào không chê là văn vụng về, chữ xấu thì sẵn có bút mực mang theo, đệ xin đề ngay.

Dứt lời, Trần-Gia-Cách sai Tâm-Nghiện mở hầu bao lấy bút mực ra. Chàng không cần phải nghĩ ngợi, viết ngay một bài thơ lên quạt.

Xe gấm đề huề chở kiếm thơ,

Đường Tây muôn dặm một trời mơ.

Núi mây bọt biển vui đưa đón,

Hoa quế Giang-Nam vẫn đợi chờ.

Nhìn nét chữ như rồng bay phượng múa, Đông-Phương-Nhĩ tấm tắc khen ngợi chẳng cùng. Cầm quạt lên xem, Đông-Phương-Nhĩ buông lời cảm tạ, nói:

-Tiểu đệ có một vật để tặng huynh đài.

Hai tay trịnh trọng nâng cây đàn đưa đến trước mặt Trần-Gia-Cách, Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Bảo kiếm phải được tặng cho tráng sĩ. Cây đàn này từ nay là vật sở hữu của huynh đài.

Trần-Gia-Cách biết rõ cây đàn này là báu vật có một không hai trên đời, thế mà chỉ gặp mình mới lần đầu mà Đông-Phương-Nhĩ dám khảng khái tặng ngay cho mình không tiếc. Chàng là người tính tình phóng khoáng, dầu cho lòng nghi hoặc nhưng vẫn không thèm để ý, chỉ vòng tay mà bái tạ rồi bảo tâm-Nghiện bỏ vào bao cất đi.

Đông-Phương-Nhĩ hỏi:

-Huynh đào từ biên giới Hồi về Giang-Nam chắc không ngoài mục đích thưởng thức mùa hoa quế nở trên mặt Tây-Hồ?

-Tiểu đệ có người bạn gặp nạn nên cố giúp một tay.

Đông-Phương-Nhĩ lại hỏi tiếp:

-Xem sắc mặt huynh đài có vẻ không vừa ý, hẳn việc của quý hữu huynh đài chưa giải quyết xong?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Vâng! Quả đúng như vậy!

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Tiểu đệ giao du bạn bè khá đông, không chừng việc của quý hữu huynh đài có thể nhờ cậy vào họ giúp được chăng?

Trần-Gia-Cách nói:

-Đa tạ hảo ý của huynh đài! Việc của người bạn chỉ cần vài ngày là giải quyết xong nên không dám làm phiền đến huynh đài phải nhọc công nhờ cậy đến bạn bè của huynh.

Cả hai chuyện trò với nhau cả nửa ngày không biết chán, mà cũng chẳng ai biết rõ về ai.

Đông-Phương-Nhĩ nói:

-Ngày sau, nếu huynh đài có hứng muốn gặp tiểu đệ thì cứ cầm cây đàn kia xuống Bắc-Kinh, tự nhiên tiểu đệ sẽ đón tiếp. Bây giờ hai người chúng ta cùng nhau xuống núi thôi.

Trần-Gia-Cách nói:

-Phải! Chúng ta cùng nhau đi chung đường cho vui.

Đông-Phương-Nhĩ thân mật nắm tay Trần-Gia-Cách đi song song xuốn núi. Đến chùa Linh-Ấn, thình lình gặp vài người từ đàng xa đi lại.

Người đi trước mặt sáng như ngọc, ăn mặc hết sức sang trọng, tướng mạo giống Trần-Gia-Cách như khuôn đúc, tuổi tác cũng ngang nhau. Nếu kể về nét quyền quý cao sang, oai phong lẫm liệt thì người ấy có phần hơn, nhưng nếu kể về nét anh hùng hào hiệp thì lại kém Trần-Gia-Cách rất xa. Cả hai chạm mặt nhau, không ai bảo ai đều kinh ngạc ngơ ngẩn nhìn nhau.

Đông-Phương-Nhĩ cười nói:

-Lục huynh! Đệ nói có sai đâu! Anh xem người này có phải là giống anh như hai giọt nước không? Nó là cháu của tiểu đệ đấy. Khang nhi, con mau đến bái kiến Lục thế bá đi!

Người ấy nghe nói liền bước tới thi lễ. Trần-Gia-Cách thấy thế cũng vội vàng đáp lễ. Đột nhiên có tiếng phụ nữ kêu lên thất thanh như hoảng hốt.

Trần-Gia-Cách quay đầu lại nhìn thì thấy Châu-Ỷ miệng há hốc đi với Châu-Trọng-Anh và Châu phu nhân, với Từ-Thiện-Hoằng đi tháp tùng, đang từ bên trong chùa Linh-Ấn bước ra. Có lẽ vì Châu-Ỷ trông thấy đến ‘hai Trần-Gia-Cách’ nên không dằn được kêu lên.

Trần-Gia-Cách giả vờ như không để ý, quay mặt đi nơi khác. Nhưng Từ-Thiện-Hoằng đã đoán được dụng tâm của Trần-Gia-Cách nên rỉ tai Châu-Ỷ nói nhỏ:

-Cứ im lặng mà đi bình thường, đừng tỏ một cử chỉ nào khác thường.

Đông-Phương-Nhĩ xiết chặt tay Trần-Gia-Cách, ra vẻ quyến luyến nói:

-Lục huynh! Chúng ta mới gặp mà chẳng khác gì bạn cố tri. Hy vọng này sau còn được dịp tái hội. Giờ xin tạm biệt nơi đây.

Hai bên chào nhau, sau đó có đến mấy chục đại hán mặc áo lam rải rác khắp nơi cùng đi theo, như hộ tống Đông-Phương-Nhĩ...

Trần-Gia-Cách láy mắt, Từ-Thiện-Hoằng hiểu ý, quay sang nói nhỏ với Châu-Trọng-Anh:

-Nhạc-phụ! Tổng-Đà-Chủ có việc sai con. Xin nhạc-phụ, nhạc-mẫu dẫn em Châu-Ỷ đi Tây-Hồ chơi thêm một lát rồi chúng ta gặp lại nhau tại nhà Mã-Thượng-Quân.

Châu-Ỷ có vẻ không vui, nhưng Từ-Thiện-Hoằng khéo léo tìm cách đi theo những người áo lam về thành...

Hổ huyệt long đàm quan thánh diện

Trường giang nguyệt hạ thỉnh tri âm

Mặt trời chưa chen vào dãy núi Nam-Sơn, Từ-Thiện-Hoằng đã trở về nhà Mã-Thiện-Quân báo cáo với Trần-Gia-Cách:

-Người ấy đi thưởng ngoạn Tây-Hồ, mãi đến chiều mới về dinh Trần-Vũ Hàng-Châu.

Trần-Gia-Cách đem chuyện gặp gỡ Đông-Phương-Nhĩ lúc sáng ra bàn luận tỉ mỉ với Từ-Thiện-Hoằng. Hai người đồng ý với nhau rằng Đông-Phương-Nhĩ không phải là tên họ thật, nhưng chắc chắn phải là một vị quan lớn triều đình, địa vị và thế lực không phải nhỏ. Nếu không phải là quan Khâm-sai triều đình thì cũng rất có thể là hoàng-thân quốc-thích rất gần với Thanh-đế.

Nhưng diện mạo người ấy thì lại không giống người Mãn-Thanh chút nào nên giả thuyết ‘hoàng-thân quốc-thích’ coi bộ như không được vững lắm. lại thêm một điều khó hiểu nữa là cao thủ với ngón Ưng-Trảo-Công của phái Cao-Dương kia cam tâm làm kẻ hầu cận cho người mang tên Đông-Phương-Nhĩ kia. Một quan Khâm-sai khó mà tìm được một cao thủ cỡ đó làm thuộc hạ cho mình.

Trần-Gia-Cách nói:

-Tôi có linh cảm rằng việc người này đến Hàng-Châu có liên quan đến Văn tứ ca. Đêm nay chúng ta thử đến dinh Trần-Vũ dọ thám thử xem.

Từ-Thiện-Hoằng đề nghị:

-Dinh Trần-Vũ được canh phòng hết sức cẩn mật vào nghiêm ngặt từ trong ra đến ngoài. Nếu Tổng-Đà-Chủ định đi đến dò xét thì nên mang theo một vị ca ca võ nghệ tuyệt luân để trợ lự mới xong.

Trần-Gia-Cách gật đầu nói:

-Nếu mời được Triệu tam ca đi chung thì hay hơn cả. Triệu tam ca là người sinh trưởng tại vùng Chiết-Giang này, đương nhiên sẽ nắm vững được tình thế và địa hình tại Hàng-Châu này.

Đúng canh hai, Trần-Gia-Cách cùng Triệu-Bán-Sơn thay đồ dạ hành, mang theo vài món cần thiết rồi cả hai dùng thuật phi hành ra khỏi nhà Mã-Thiện-Quân.

Nhìn thân pháp của Triệu-Bán-Sơn, Trần-Gia-Cách nói:

-Khinh công của tam ca quả đã đạt đến mức ‘Đăng phong đạo cực’ (#1). Ta phải nhờ tam ca truyền thụ cho tuyệt kỹ này mới thỏa bình sinh khát vọng.

Triệu-Bán-Sơn cười nói:

-Không dám! Khinh công của Tổng-Đà-Chủ mới thật là có một không hai trong thiên hạ. Triệu-Bán-Sơn này làm sao dám sánh!

Hai người cùng cười lớn lên. Vừa đi vừa nói chuyện nên tới gần dinh Tuần-Vũ lúc nào mà vẫn không hay. Hai người nhảy lên nóc một chòi canh chờ xem xét tình hình.

Trần-Gia-Cách rỉ tai Triệu-Bán-Sơn nói nhỏ:

-Căn phòng trước mặt có ánh đèn.

Triệu-Bán-Sơn thu phục mình phục sát trên mái ngói của một chòi canh. Từ trên nhìn xuống, có bóng hai người qua lại đi tuần phòng. Chờ cho hai bóng người quay đi, Triệu-Bán-Sơn phất tay áo một cái, một ngọn thiết-liên tử bay tới cắm vào thân cây cổ thụ gần đó.

Nghe tiếng động, hai bóng người phi thân lên cao để xem xét. Trần-Gia-Cách cùng Triệu-Bán-Sơn lợi dụng cơ hội định lách mình qua ngõ cửa, lén vào trong dinh. Rồi như hai cánh chim, hai người tung mình lên trên nóc nằm rạp người xuống kiên nhẫn chờ đợi xem động tĩnh.

Chờ một lúc khác lâu mà vẫn không nghe động tịnh gì, Trần-Gia-Cách khẽ nhô người lên nhìn xuống dưới. Chàng bỗng kinh hãi đến tột độ ra dấu bảo Triệu-Bán-Sơn thử nhìn xem.

Bên dưới, đèn đuốc sáng chưng tưởng chừng như một con kiến bò qua cũng trông thấy được. Có gần 1000 binh sĩ và xạ thủ, một số cầm sẵn binh khí nơi tay, một số giương cung sẵn sàng như chuẩn bị lâm trận bất cứ lúc nào. Chừng mấy chục võ quan, dũng tướng chạy qua chạy lại liên hồi, mắt đăm đăm trông lên các nóc đinh.

Càng lạ lùng hơn nữa là với số binh sĩ đông đảo như vậy mà bốn bề lại im phăng phắc, không có một tiếng động nào. Biết không thể nào đột nhập được, Trần-Gia-Cách liền ra dấu cho Triệu-Bán-Sơn, ý bảo rút lui.

Hai người khẽ buông nhẹ mình xuống vách tường gần đó, khẽ nép mình mắt nhìn tứ phía. Thấy có bóng bốn, năm người từ xa đi lại, hai người nhảy ra xa thêm mấy trượng, núp sau một hòn non bộ.

Trần-Gia-Cách nói:

-Chúng ta không nên ‘động cỏ để rắn sợ’! Tốt hơn hết là trở về lại nhà Mã-Thiện-Quân để bàn tính kế hoạch nào cho chu đáo và quy mô hơn mới được.

Hai người định phi thân lên lại nóc nhà để để dùng thương lộ (#2) để tẩu thoát thì cánh cửa dinh Tuần-Vũ bỗng nhiên mở toang ra.

Một võ quan hàng ‘Nhị-phẩm’ đi ra, theo sau là bốn người võ trang bằng kiếm. Cả 5 người nhắm về phía bến đò chạy thật nhanh rồi sau đó lại trở về. Xem chừng đây là một lối thực tập theo binh pháp cho việc canh phòng được hữu hiệu hơn.

Chờ cho nhóm người thứ nhì thay thế nhóm thứ nhất trở về, Triệu-Bán-Sơn định theo chúng ra ngoài cửa dinh nhưng Trần-Gia-Cách nắm chéo áo trở lại nói:

-Phải hạ thủ mới xong.

Triệu-Bán-Sơn hội ý, tung ra một lượt ba mũi phi tiêu. Ba tên quân đi sau lập tức ngã lăn xuống đất. Trần-Gia-Cách ném hai con cờ hạ luôn tên võ tướng cùng tên quân còn lại đi trước. Cả hai kéo năm người vào bóng tối, lột hai bộ quân phục mặc vào rồi dồn chúng thành một đống vào một góc thành gần mương nước.

Sau đó, hai người chuyền theo nóc các dinh thự vào lại chỗ ban nãy rồi nhảy xuống. Theo ánh sáng bên trong, Trần-Gia-Cách và Triệu-Bán-Sơn tiến vào nội viện. Bên trong có vào khoảng mấy ngàn binh sĩ nhưng tuyệt nhiên không ai để ý đến hai người. Bỗng đâu có một võ quan từ đâu đi đến, sợ lộ tẩy, Trần-Gia-Cách liền kéo Triệu-Bán-Sơn vào phía có dựng một tấm bình phong. Hai người vừa trốn vào thì lại có thêm một võ quan nữa ra khỏi nội viện. Chờ cho viên võ quan ra ngoài, Trần-Gia-Cách phóng mình một cái treo hai chân lên xà nhà, buông thòng mình xuống mà ngắm bên trong. Triệu-Bán-Sơn ở sau lưng bảo vệ, phòng có kẻ tập kích bất ngờ.

Bên trong là một căn phòng rộng lớn chia làm ba gian. Ở gian phòng ở giữa có năm, sáu người mặc quan phục đại thần của Mãn-Thanh. Một người ngồi xoay lưng về phía Trần-Gia-Cách đang nhìn vào, vì vậy chàng không nhìn được tướng mạo của người ấy như thế nào. Mấy người mặc quan phục đại thần kia tỏ vẻ hết sức cung kính với người ấy. Mỗi cử chỉ của họ đều tỏ ra dè dặt mà không dám nhìn thẳng, chỉ cúi đầu mà vòng tay.

Vừa lúc ấy, một vị quan từ bên ngoài bước vào, hướng về người xoay lưng về mặt Trần-Gia-Cách quỳ xuống lạy một hơi 9 lạy.

Trần-Gia-Cách giật mình nghĩ thầm:

-“Theo thể thức này thì rõ ràng người kia phải là Hoàng-Đế đương trào! Nếu vậy thì ra Càn-Long đến Hàng-Châu kinh lý à?”

Trần-Gia-Cách trong lòng còn đang nghi hoặc thì chợt nghe vị quan kia nói:

-Kẻ nô tài (#3) làm Án-sát hai tỉnh Chiết-Giang là Doãn-Chương-Cai xin tham kiến đấng vạn tuế!

Trần-Gia-Cách nghe rõ mồn một từng tiếng. Chàng nghĩ thầm:

-“Thôi! Đích thị là Hoàng-Đế rồi! Hèn gì mấy ngày hôm nay Hàng-Châu mới áp dụng thiết-quân luật, giới nghiêm gắt gao đến thế kia!”

Chàng đang suy nghĩ bỗng thấy người ngồi xoay mặt mà chàng tin là Hoàng-Đế ‘hừ’ một tiếng phán rằng:

-Nhà ngươi thật là to gan!

Doãn-Chương-Cai tự lột mão trên đầu, cúi mọp xuống. Vị Hoàng-Đế trầm ngâm giây lát rồi hỏi:

-Trẫm sai đại quân đi chinh phạt, sao nhà người lại dám phản đối?

Tiếng ‘trẫm’ một lần nữa là bằng chứng cụ thể cho thân phận của người ngồi xoay mặt. Doãn-Chương-Cai vẫn cúi đầu tâu:

-Kẻ nô tài không dám!

-Trẫm truyền hai tỉnh Chiết-Giang phải vận dụng 10 vạn hộc lương ra cho đại quân Chinh Tây, sao ngươi dám can ngăn?

-Kẻ nô tài quả không dám vi chiếu (#4). Nhưng sự thật là năm nay tỉnh Chiết-Giang thâu không đủ số quân lương, dân chúng đói khổn vô cùng. Chỉ trong một thời giang ngắn như vậy làm sao có thể bắt bá tánh đóng góp đủ số 10 vạn hộc lương.

-Dân chúng đói khổ à? Ngươi thật là vị quan yêu dân như con!

-Tội nô tài thật đáng chết!

-Vậy cứ như theo ý ngươi thì phi làm sao? Quân lương của đại quân viễn chinh không đủ. Việc cứu binh như cứu hỏa. Chẳng lẽ để quân lính chết đói hết ở xứ Hồi sao?

-Kẻ nô tài không dám nói!

-Có điều gì mà ngươi lại bảo không dám nói? Cứ nói thử xem!

-Đức Vạn-tuế là vị Hoàng-Đế anh minh trị vì trăm họ. Dân chúng xứ Hồi vẫn còn ngu muội, có đáng chi cho Đức Vạn-Tuế phải sử dụng đến đại quân đi vấn tội. Như thế chỉ làm khổ sở cho binh lính thiên triều mà thôi. Muốn thu phục xứ Hồi chỉ cần một vị đại thần giàu ân đức đến đó giao hảo, tự nhiên dân xứ Hồi sẽ cảm đại đức mà về với triều đình.

Trần-Gia-Cách nghe một tiếng ‘hừ’, và sau đó tiếng tiếng Doãn-Chương-Cai tâu tiếp:

-Người xưa vẫn nói: ‘Binh lính là hung khí, chỉ vạn bất đắc dĩ mới dùng tới’. Nếu bệ hạ bãi việc đem quân đi chinh phạt xứ Hồi thì khắp thiên hạ đều cảm ân sâu đức trọng.

-Nếu quả nhân cứ việc đem binh đi chinh phạt xứ Hồi là tiếng oán thán vang trời dậy đất phải không?

Doãn-Chương-Cai nghe nói quỳ xuống dập đầu lạy liên tiếp. Vị Hoàng-Đế cười, đứng dậy đi đến chỗ Doãn-Chương-Cai nói:

-Nhà ngươi thật cứng đầu cứng cổ cho nên mới dám cùng trẫm đương đầu từng câu, đối đáp từng tiếng một.

Vị Hoàng-Đế vừa qua lưng lại, Trần-Gia-Cách bỗng thất kinh. Đó chính là người tiếp chuyện với chàng cả nửa ngày bên chùa Linh-Ấn, người tự xưng mình là Đông-Phương-Nhĩ. Chàng có ngờ đâu Đông-Phương-Nhĩ chính là đương-trào Hoàng-Đế Càn-Long!

Đang ngỡ ngàng, Trần-Gia-Cách lại nghe tiếng Càn-Long phán:

-Thôi! Nhà ngươi hãy lui về nhà mà nghỉ cho khỏe!

Lại thấy Doãn-Chương-Cai lạy tạ mấy lần trước khi lui ra. Vua Càn-Long hướng về phía một lão già láy mắt một cái như ra dấu.

Lão già ấy nãy giờ vẫn thủ thế ở sau lưng Doãn-Chương-Cai bỗng bước ra đến sát viên Án-Sát Chiết-Giang. Doãn-Chương-Cai lớn tiếng nói:

-‘Trung ngôn nghịch nhĩ’ (#5), từ xưa đến nay vẫn vậy! Vì thương dân chúng đói khổ, Doãn-Chương-Cai này sẵn sàng nói lên sự thật, miễn không thấy hổ thẹn với lương tâm là được rồi. Dẫu chết há sợ sao?

Nói xong, Doãn-Chương-Cai hướng mặt vào bên trong lạy 9 lạy. Ngay sau đó, lão già tống vào lưng Doãn-Chương-Cai một chưởng ngã lăn quay ra chết liền tại chỗ rồi sai quân sĩ đem xác ra ngoài. Sau đó y trở vào phục mệnh Càn-Long.

Vua Càn-Long nói:

-Các ngươi mau lui hết ra ngoài, 10 vạn hộc lương tức tốc phải chuẩn bị xong cho đủ số rồi vận chuyển bất kể ngày đêm đến biên giới xứ Hồi. Không được chậm trễ!

Các vị quan đại thần nghe truyền như thế đều lui ra bên ngoài hết. Vua Càn-Long sau đó gọi:

-Khang nhi đâu? Ra bảo!

Một viên nội thị vén bức rèm lên. Một người từ bên trong đưa một thanh niên đến. Trần-Gia-Cách nhận ra là người có diện mạo giống hệt như mình, gặp hôm qua tại Tây-Hồ.

Thanh niên ấy đứng sát bên mình Càn-Long, thần thái tỏ vẻ hết sức thân mật trong tất cả triều thần văn võ đều khép nép sợ sệt.

Vua Càn-Long lại nói:

-Cho gọi Lý-Khả-Tú!

Một viên võ quan bước vào cúi đầu, quỳ xuống tâu:

-Kẻ nô tài là Hàng-Châu Lý-Khả-Tú, xin vập đầu tham kiến thánh thượng.

Vua Càn-Long lại hỏi:

-Tên thổ phỉ Hồng Hoa Hội họ Văn kia thế nào?

-Thương tích y quá trầm trọng, nô tài phải rước lương y điều trị và chờ khi thần trí của y hoàn toàn bình phục mới thẩm vấn được.

-Cần phải để ý lưu tâm cho thật kỹ mới được!

-Kẻ nô tài không dám sơ sót.

Vua Càn-Long lại phán truyền:

-Thôi được, ngươi lui ra.

Trần-Gia-Cách lúc đó cũng nói với Triệu-Bán-Sơn:

-Bây giờ mình cũng về.

Cả hai nhẹ nhàng buông tay nhảy xuống. Chân chưa chạm đất, thình lình bên trong có tiếng la:

-Có thích khách!

Một bóng người từ bên trong vọt ra như một mũi tên. Trần-Gia-Cách với Triệu-Bán-Sơn không dám chậm trễ, trổ hết tài khinh công mà phóng đi thật lẹ. Bỗng nhiên đèn đuốc sáng lên, một người già gầy ốm dẫn theo 7-8 tên đại hán mặc áo lam tay lăm le binh khí đi tuần phòng, kiểm tra tứ phía.

Trần-Gia-Cách xoay lưng lại kịp, cốt ý tránh cặp mắt cú vọ của hắn. Chàng xăm xăm đi ra phía cửa ngoài thì thình lình lão già kia lớn tiếng gọi lại:

-Ngươi là ai?

Vừa dứt lời, hắn đưa tay ra chụp thẳng vào bả vai Triệu-Bán-Sơn toan giữ lại. Triệu-Bán-Sơn vung hai chưởng đã hóa giải được chiêu thế của hắn dễ dàng rồi phóng mình ra cửa.

Lão già ấy liền nhanh chân rượt theo, đưa thẳng tay nhắm bối tâm của Triệu-Bán-Sơn đánh xuống một chưởng. Nghe tiếng gió sau lưng, Triệu-Bán-Sơn biết có người đánh lén liền né qua một bên tránh thoát. Chưa kịp trả đòn thì Trần-Gia-Cách lúc ấy vừa cởi xong bộ đồ lính, dùng cái áo nhắm ngay đỉnh đầu lão già chụp xuống. lão già vội vàng đưa tay chụp lấy cái áo. Hai bên ra sức giằng co làm cái áo rách toạc làm hai mảnh.

Trần-Gia-Cách cầm nửa cái áo, vận công đánh một cái vào ngay giữa mặt lão già. Nửa cái áo kia trúng ngay mặt lão già tét ra làm năm, sáu mảnh. Tuy không đến nỗi bị thương nhưng cũng đủ làm cho hắn đau nhức vô cùng. lão già tức lồng lộn lên, không ngớt buông tiếng chửi thề. Trong khi đó, Triệu-Bán-Sơn đã ra khỏi được bên ngoài.

Thấy Trần-Gia-Cách cười mình như ‘chọc quê’, lão già cả giận dùng Ưng-Trảo-Công nhắm Trần-Gia-Cách chụp nhầu. Triệu-Bán-Sơn đứng bên ngoài thấy vậy liền chụp lấy một tên lính nhắm lão già liệng một cái ngay bụng hắn. Lão già cả kinh, vội đưa tay khẽ chụp lấy tên lính đặt xuống đất. Thấy thích khách đã thoát ra ngoài, đồng thời lại có mấy chục tên lính chạy ra, lão già nạt lớn:

-Ra đây làm gì? Hãy trở vào bảo vệ hoàng-thượng. Chỉ cần năm, sáu tên theo ta là đủ.

Thấy trên nóc nhà có hai bóng người đang phi thân, lão già cũng tung mình nhảy lên, dùng khinh công đuổi theo. Nhờ quen thuộc địa hình hơn nên chẳng mấy chốc mà lão già đã bắt kịp được hai người. Hai bóng người thấy vậy bèn nhảy xuống lộ. Lập tức lão già cũng nhảy theo. Lúc đó Trần-Gia-Cách và Triệu-Bán-Sơn đã đứng lại.

Trần-Gia-Cách cất tiếng cười vang lên nói:

-Ta là bạn của chủ nhân nhà ngươi. Quả thật là ngươi to gan nên mới dám thất lễ với ta.

Lúc bấy giờ, lão già mới trông rõ được mặt Trần-Gia-Cách. Hắn giật mình kinh hãi, vòng tay nói:

-Các hạ hãy theo tôi vào ra mắt thánh thượng chờ định đoạt.

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Thật ngươi dám đối đầu với ta sao?

Lão già ra vẻ nghĩ ngợi. Bỗng đâu từ bên mình Trần-Gia-Cách, Tâm-Nghiện ló đầu ra nói:

-Hôm qua ngươi định chụp tay ta, nhờ nể mặt chủ nhân nhà ngươi, công tử ta mới không sửa trị. Ta cũng vì nể mặt công tử và khách quý của người nên mới bỏ qua. Bộ nhà ngươi tưởng ta sợ hay sao?

Lão già hét lên một tiếng, nhanh như cắt nhảy tới, vung năm ngón tay như năm cái móc sắt chụp lên bả vai Tâm-Nghiện. Không ngờ địch thủ ra tay quá lẹ làng, Tâm-Nghiện không né tránh kịp, cảm thấy vai mình như tê rần lại. Trần-Gia-Cách và Triệu-Bán-Sơn cả kinh, cùng nhảy tới tấn công lão già một lượt để giải cứu Tâm-Nghiện. lão già thấy thế vộ buông Tâm-Nghiện ra, dùng song chưởng đón lại chiêu thế của hai người. ‘Bùng bùng’ hai tiếng, lão già bị sức chưởng quá mạnh làm choáng váng cả mặt mày, lùi ra sau mấy bước.

Tâm-nghiện phóng tới định xông vào tấn công lão già, chợt nghe một hồi tiêu thổi, vội vàng cắm đầu cắm cổ mà chạy.

Ngay lúc ấy, có năm viên thị vệ từ đâu xông tới cản trở. Trần-Gia-Cách và Triệu-Bán-Sơn vội vã nhắm hướng Tây thoát đi. Bỗng nhiên phía trước có tiếng tiêu thổi và tiếng lão già kia thét:

-Rượt theo!

Thế là đàng trước 3 người chạy, phía sau 6 người đuổi, phi thân vùn vụt lại phía Tây-Hồ. Tại Tây-Hồ có nơi đóng quân của triều đình gọi là đồn Kỳ-Hạ. Vì vậy lão già vững tâm rượt theo, cho rằng nơi đó là lãnh thổ của người bên mình, địch nhân khó lòng mà thoát khỏi.

Đột nhiên lão già thấy ba người trong bọn Trần-Gia-Cách nhảy xuống một chiếc thuyền đã đậu sẵn tại đó từ bao giờ. Ba người vừa nhảy lên thì lập tức người lái đò tách thuyền rời khỏi bến. Thấy ngay bến đò còn một du thuyền khác, lão già cùng 5 người thị vệ bèn nhảy xuống.

Lão già thấy ở trước mũi thuyền có một cô gái đang ngồi. Nàng vấn khăn xanh, mặc áo tố, thân hình uyển chuyển dịu dàng.

Chỉ tay về phía trước, lão già nói:

-Mau chống thuyền ra khơi rượt cho kịp chiếc thuyền trước, ta sẽ trọng thưởng cho.

Cô lái đò mỉm cười đáp:

-Đi đâu thế? Nửa đêm canh ba rồi! Khuya thế này còn đi du hồ nữa sao? Tôi sắp về nhà nghỉ rồi, xin mời quý khách lên bờ!

Một tên thị vệ nóng nảy, rút dao ra cắt đứt sợi dây neo. Một tên khác cầm mái chèo chống thuyền tách bến độ vài trượng thì thuyền bỗng dưng quay trở lại.

Cô lái đò vẫn bình tĩnh cười nói:

-Tôi chưa thấy du khách nào nóng nảy như mấy ông. Cứ căn cứ vào thái độ này thì mấy ông không phải hạng người nho nhã.

Lão già không thèm đếm xỉa đến lời nói mỉa mai của cô lái đò, chỉ hối thúc hai tên thị vệ cấp tốc chiếc thuyền phía trước đang bơi thật chậm. Cô lái đò còn một mái chèo, thấy thuyền trước nhắm hướng Tô-Đề thì cũng dùng mái chèo bơi theo.

Hai chiếc thuyền mỗi lúc mỗi gần lại với nhau. Chiếc sau dường như đã bắt kịp chiếc trước. Đang khi ấy, trong đám sen tàu, dưới bóng cây thùy dương, một dãy 5 chiếc thuyền nhỏ từ từ bung ra ngoài khơi.

Ngay chính giữa đoàn du thuyền là một chiếc du đĩnh thật lớn, bên ngoài lan can sơn màu đỏ hồng rực rỡ, lại thêm những rèm châu phủ xuống rung rinh, tráng lệ. Trước mũi du đĩnh, một người đang ngồi thổi tiêu.

Từ bên chiếc thuyền nan nhỏ, Trần-Gia-Cách nhún chân búng nhẹ một cái là đã đứng gọn gàng trên mũi chiếc du đĩnh. Tâm-Nghiện sau đó cũng dùng khinh công tung mình lên và đáp xuống mũi du đĩnh, đứng sau Trần-Gia-Cách. Vừa hạ mình xuống thuyền, Tâm-Nghiện mở bao lấy chiếc áo choàng màu trắng như tuyết khoác lên mình vị Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội.

Trần-Gia-Cách đứng trước mũi du đĩnh, tay phe phẩy chiếc quạt làm bằng lông cánh con Bạch-Nga Thanh-Hải. Trần-Gia-Cách đứng trước mũi thuyền, nhìn bóng nguyệt như đang tận hưởng cái thú nhìn trăng ngắm cảnh trên sông tại Tây-Hồ.

Chỉ trong nháy mắt, chiếc thuyền của lão già đã bắt kịp 6 chiếc du đĩnh. Lão già bảo cô lái đò ngừng chèo, hướng về phía Trần-Gia-Cách nói:

-Bằng hữu kia! Bạn muốn đi đâu cứ tùy tiện, mỗ (#6) không ngăn cản! Chỉ yêu cầu để lại đứa bé ngang ngạnh kia cho ta sửa trị!

Tâm-Nghiện từ bên trong khoang thuyền ngang nhiên vén màn bước ra đi đến trước mũi thuyền nói:

-Tôi là Tâm-Nghiện, thư đồng của công tử nhà tôi. Bác là người hầu của bạn công tử tôi. Vậy tôi với bác cùng phận nô bộc như nhau, sao không chịu kết tình thân với nhau mà thông cảm cho nhau? Bác tên họ là gì, xin cho biết để tiện bề xưng hô.

Những lời Tâm-Nghiện nói rất nhẹ nhàng, nhưng nghe cho kỹ thì thấm tháp vô cùng, ngụ ý mỉa mai lãi già chỉ là hạng nô bộc không hơn không kém.

Lão già giận đến râu tóc dựng ngược lên hét lên như sấm:

-Đồ tiểu quỷ! Trước mặt ta mà mi dám nói những lời như vậy à?

Lúc ấy Triệu-Bán-Sơn cũng vừa phi thân lên du đĩnh đứng nơi mũi thuyền cạnh Trần-Gia-Cách và Trâm-Nghiện. Ông ta nhìn lão già nói:

-Tại hạ là Triệu-Bán-Sơn ở Ôn-Châu. Phải chăng các hạ là người của phái Cao-Dương?

Lão già nghe hỏi có vẻ kinh ngạc ‘Ủa!’ một tiếng rồi hỏi lại:

-Thế ra các hạ là nhân vật mà trên võ lâm thường gọi là ‘Thiên-Thủ Như-Lai’ Triệu tam đương có phải không?

Triệu-Bán-Sơn khiêm tốn đáp:

-Đó là tại đồng đạo võ lâm thương mà gọi vậy thôi chứ tại hạ rất lấy làm xấu hổ, thật tình không dám nhận cái biệt hiệu ấy! Xin hỏi đại danh cao tánh của cách hạ?

Lão già có vẻ tự phụ, nhưng cố làm ra vẻ khiêm tốn đáp:

-Tại hạ họ Bạch, tên Chấn, không có chữ lót.

Tiếng hắn vừa dứt, cả Trần-Gia-Cách cũng như Triệu-Bán-Sơn đều giật mình, sửng sốt. Triệu-Bán-Sơn hướng về Bạch-Chấn thi lễ nói:

-Thì ra là Kim-Trảo Thiết-Câu Bạch đại huynh với đại lực Ưng-Trảo-Công đã nổi tiếng hơn 30 năm về trước. Tôi nghe đại danh lão huynh như sấm nổ bên tai từ lâu rồi. Trên giang hồ đột nhiên vắng bóng lão huynh, không biết tung tích nơi đâu, không ngờ lần này lại tình cờ gặp được nơi đây. Chẳng hiểu nguyên nhân nào mà Bạch lão huynh cứ đuổi theo chúng tôi mà làm khó dễ hoài vậy?

Bạch-Chấn không trả lời câu hỏi của Triệu-Bán-Sơn, chỉ nói:

-Từ lâu ngưỡng mộ đại danh của Tam đương-gia Hồng Hoa Hội. Hôm nay được bái kiến thật là hân hạnh. Còn vị kia là ai?

Triệu-Bán-Sơn chưa kịp trả lời, Bạch-Chấn như sực nhớ ra điều gì cỉ khẽ gật đầu hai cái rồi ông tồn, kính cẩn nói:

-À... Phải... Phải rồi! Vị này là Thiếu-Đà-Chủ của quý hội, là Trần công tử!

Triệu-Bán-Sơn cũng không đáp lại hay chỉnh lại câu nói của Bạch-Chấn, chỉ khẽ hỏi:

-Bạch lão huynh xem thấy thế nào?

Trần-Gia-Cách phe phẩy chiếc quạt lông cất tiếng trong trẻo như chuông ngân, nói lơ đãng một mình:

-Đêm khuya thanh tịnh, gió mát trăng thanh như thế này thật là hiếm có. Mời Bạch lão tiền bối sang bên này cùng nhau uống vài chung rượu cho ấm bụng. Chẳng hay tiền bối nghĩ sao?

Bạch-Chấn nói:

-Người trong đêm tăm tối làm kinh động dinh môn, gây kinh sợ cho quan quyền, nói làm sao cho hết! hãy theo tôi về giáp mặt chủ nhân tôi. Nếu tôi về tay không thì bất tiện lắm. Vì chủ nhân tôi đối với người rất tốt nên tôi không dám thẳng tay gây sự, đối địch với người.

Trần-Gia-Cách với nét mặt thản nhiên, tươi cười nói:

-Tôi xem chủ nhân tiền bối không phải là người tầm thường. Tiền bối cứ về thưa lại là Tây-Hồ, quế đang trổ hoa, bóng nguyệt soi gương mặt nước. Nếu chủ nhân tiền bối có nhã hứng thì mời đến thưởng thức cái thú thần tiên này. Tôi vẫn ở đây đợi chủ nhân của tiền bối. Như vậy, tiền bối khỏi phải lo.

Bạch-Chấn nghe nói không biết phải làm sao, tự nghĩ:

-“Chính mắt mình trông thấy hoàng-thượng đối với hắn còn tốt hơn cả hoàng-thân quốc-thích nữa. Mà chưa có người nào dám nói với hoàng-thượng một lời bóng gió nào, chứ đừng nói là những lời người này đã dám cả gan thốt ra. Thế mà hoàng-thượng lặng thinh thì đủ biết ngài chiều hắn đến thế nào. Nếu ta đụng chạm đến y, ắt hoàng-thượng thế nào cũng bắt tội ta thôi. Mà đang đêm y dám tới dọ thám, làm kinh động thánh thượng, nếu ta không bắt được y đem về thì cũng nguy hiểm cho tính mạng của ta!”

Đang lúc phân vân, Bạch-Chấn lại nghĩ:

-“Chi bằng ta bắt Triệu-Bán-Sơn đem về phục mệnh cũng tạm đỡ trách nhiệm phần nào. Sau sẽ hay...”

Dùng thế ‘Yến tử phi vân’, Bạch-Chấn xét lên một cái như chiếc pháo thăng thiên bổ xuống ngay chỗ Triệu-Bán-Sơn đang đứng. Thân hình y chưa đáp xuống thuyền mà hai bàn tay đã chĩa ra như 10 nanh vuốt của một con chim ưng chụp ngay trước mặt và ngực Triệu-Bán-Sơn.

Triệu-Bán-Sơn không ngờ Bạch-Chấn dám mạo hiểm đến mức ấy, nhưng vẫn giả vờ như vô tình chẳng hay biết gì cả. Chờ cho hai tay địch thủ chụp xuống, Triệu-Bán-Sơn dùng thế ‘Vân Thủ’ hất mạnh một cái đánh bạt 10 ngón tay của Bạch-Chấn ra.

Bạch-Chấn biết là gặp đối thủ nên vận toàn lực, dở hết tuyệt kỹ ra đánh, quyết bắt sống cho bằng được đối phương. Triệu-Bán-Sơn bình tĩnh chống đỡ. Hai bên trao qua đổi lại chiêu thức với nhau một hồi mà vẫn không phân thắng bại.

Dùng thế ‘Dã mã phân tòng’ trong Thái-Cực-Quyền vừa gạt thế ‘Ưng-Trảo-Công’ lợi hại của Bạch-Chấn, vừa phản kích lại ngay bên hông. Bạch-Chấn vừa né đầu sang một bên, định chụp lấy khuỷu tay của Triệu-Bán-Sơn giữ lại. Triệu-Bán-Sơn khẽ xoay ngược cánh tay tung ra một chưởng vào ngay giữa mặt Bạch-Chấn. Hết đường né tránh, Bạch-Chấn vận toàn lực, dùng chưởng mà đón lại.

Hai chưởng chạm vào nhau tạo nên một âm thanh kinh hồn. Cả hai người cùng té ngửa ra đàng sau. Tưởng-Tứ-Căn nhào tới định đỡ Triệu-Bán-Sơn dậy nhưng chưa đến nơi thì Thiên-Thủ Như-Lai đã đứng dậy vững vàng.

Về phía Bạch-Chấn thì khi vừa ngã xuống thì thuyền khẽ chao một cái hất y văng xuống nước. Hoảng hồn, Bạch-Chấn dùng đề khí, hai chân vừa chạm xuống nước liền bắn vọt trở lên, nhảy về lại thuyền mình.

Tiếng Trần-Gia-Cách như chuông đồng vang lên:

-Tài nghệ của ngươi kể cũng rất khá, không hổ danh là một cao thủ võ lâm. Nhưng ngươi không cần phải biểu diễn thêm nữa mà hãy về thưa với chủ nhân ngươi rằng ta đang chờ ở đây xem hoa quế nở, thưởng nguyệt Tây-Hồ.

Bạch-Chấn vừa thẹn vừa lo. Nhìn tứ phía thấy các du thuyền bao quanh chiếc du đĩnh của Trần-Gia-Cách, hiển nhiên là đồng bọn của chàng ta ở đây rấtn nhiều. Chỉ cần một Triệu-Bán-Sơn cũng đủ chống nổi với y rồi, huống hồ là có sự hiện diện của bao nhiêu cao thủ nữa.

Bạch-Chấn nhủ thầm:

-“Thừa dịp này ta quay về điều động thêm lực lượng để bắt bọn này thì chắc hơn.”

Quay lại cô lái đò, Bạch-Chấn nói:

-Trèo trở về, mau!

Cô lái đò mỉm cười duyên dáng nói:

-Trăng trong nước biếc thế này, sao chẳng chịu ở lại thưỏng thức ho quế mà lại hối thúc trở về?

Bạch-Chấn nạt:

-Đừng nói lôi thôi! Bộ mi không thấy bọn ta có công việc gấp rút đó sao?

Vẫn nụ cười nở trên vành môi thắm, cô lái đò nói:

-Thật là một chuyện lạ lùng xưa nay chưa từng thấy! Đến Tây-Hồ để lo việc công, còn dinh thự lại bỏ trống cho là việc tư! Ăn nói kiểu đó khách du hồ sẽ cười cho đến chết mà thôi! Nhưng thôi! Công với tư gì không cần biết. Lần đưa ra chưa tính tiền, làm ơn trả giùm cái đã! Có trả đủ em mới đưa trở lại vào bờ, còn không trả thì... cảm phiền bơi vào trong!

Bọn Bạch-Chấn nghe nói thật là dở khóc dở cười. Từ dinh Tuần-Vũ cố mà rượt theo địch nhân, nào có tên nào bọc theo tiền bạc!

Một tên thị vệ nổi nóng gắt lên:

-Bọn ta đi thuyền dĩ nhiên sẽ trả tiền công! Bao nhiêu cũng được chứ không cần mặc cả. Mi mau chèo vào bờ, bọn tra sẽ trả cho, mau lên!

Cô lái đò ngừng chèo, hai tay chắp kín lồng ngực, đứng thủ thế, cười dòn như bắp rang nói:

-Dầu cho lão Hoàng-Đế đi chăng nữa, đã bước chân xuống thuyền là phải trả tiền sòng phẳng. Lệ ở đây không cho đi thuyền chịu, ‘tiền chao cháo múc’. Đừng lên giọng kẻ cả mà bắt nạt ai!

Bạch-Chấn thấy cô lái đò muốn làm khó dễ bọn hắn để hạ nhục cho bõ ghét thì bối rối, toan lên tiếng. Một tên thị vệ quan thói lỗ mãng, quen thói ăn hiếp người nghèo và kẻ yếu liền đưa tay nắm lấy chân cô lái đò cười nham nhở nói:

-Thôi mà em! Công lao khó nhọc của em thì anh rờ bắp chân mà đền lại thì cũng đủ rồi!

Bỗng mạn thuyền chợt nghiêng qua một bên, tên thị vệ vội chống tay xuống dưới để giữa thăng bằng. Bạch-Chấn bỗng nhiên la lên:

-Lão Phạm, coi chừng!

Bạch-Chấn vừa dứt lời, cô lái đò đã tung một cước đá tên thị vệ ngã lăn xuống hồ. Bạch-Chấn xông tới nhắm cô lái đò phóng ra một chưởng. Cô lái đò đưa mái chèo lên đỡ. Không ngờ chưởng của Bạch-Chấn quá mạnh khiến cho mái chèo gãy làm hai khúc. Cô lái đò thất kinh, phóng xuống hồ. Chiếc thuyền không người điều khiển bỗng dưng chao động dữ dội và quay tròn một vòng. Bạch-Chấn cũng như đám thị vệ đều là người phương Bắc (#6) nên không quen bơi lội, vì vậy cho nên cả đám người nào người nấy kinh hãi không ít.

Bạch-Chấn đang hoang mang bỗn nghe tiếng Trần-Gia-Cách nói lớn:

-Bọn người đốn mạ này là nô bộc của bằng hữu ta. Hãy tạm dung mạng chúng một phen để chúng về mời chủ nhân chúng đến đây uống rượu cho vui!

Tưởng-Tứ-Căn lớn tiếng đáp:

-Xin tuân mạng!

Dứt lời, Thập-tam đương-gia nhảy xuống hồ vớt tên thị vệ ‘lão Phạm’ bị cô lái đò đá rơi xuống ban nãy, hai tay bế xốc đưa lên trên đầu liệng lên. Bạch-Chấn đưa hai tay bắt lấy.

Bạch-Chấn thấy Tưởng-Tứ-Căn từ dưới nước mà nâng được một người to lớn như ‘lão Phạm’ mà ném được lên trên thì không khỏi kinh hãi, trong bụng khen thầm:

-“Quả nhiên là hảo thần lực!”

Lúc bấy giờ, cô lái đò cùng Tưởng-Tứ-Căn dùng khinh công nhún mình nhảy qua chiếc du đĩnh như hai con hải âu bay lượn trên mặt hồ.

Bạch-Chấn cùng đám thị vệ đành phải chịu khó ra sức chèo mà gắng chèo. Mãi một hồi lâu, cả đám mới vào được trong bờ rồi cắm đầu cắm cổ chạy về lại dinh Trần-Vũ.

Bạch-Chấn vào yết kiến vua Càn-Long thuật lại mọi chuyện. Vua Càn-Long suy nghĩ một hồi rồi phán:

-Người ấy đã có nhã hứng như vậy quả là hợp ý trẫm. Ngươi tới trước báo cho y rằng trẫm sẽ đến ngay.

Bạch-Chấn tâu:

-Bọn chúng toàn là dân liều mạng. Nô tài thiết nghĩ bệ hạ không nên khinh thường tấm thân vạn-thặng (#7) mà tới đó làm gì.

Vua Càn-Long gạt đi mà truyền rằng:

-Ngươi không cần phải phân trần lợi hại với trẫm! Mau thi hành gấp!

Bạch-Chấn cúi đầu lui ra, lên ngựa phi nhanh đến bờ hồ. Thấy Tưởng-Tứ-Căn vẫn đứng trước mũi thuyền, Bạch-Chấn lên tiếng gọi và nói:

-Huynh đài hãy vào thưa với chủ nhân của anh rằng chủ nhân tôi sắp đến đây thưởng thức trăng Tây-Hồ.

Nói xong, Bạch-Chấn lập tức quay ngựa lại, trở về phục mệnh. Dọc đường y gặp vô số binh lính Thần-Sách Dinh đang nhắm hướng Tây-Hồ đi thẳng tới. Luôn cả đạo quân Kỳ-Dinh, là đạo cảm tử quân trấn giữ Hàng-Châu cũng xuất hiện đi chung với đạo quân đông đúc kia. Đích thân y cũng về tập trung hai đội Ngự-tiền thị-vệ và Ngự-lâm quân đi theo hộ giá.

Vua Càn-Long trông vẻ rất cao hứng như đã hoàn thành được một kế hoạch quy mô nào đó. Nhà vua sau đó lại cho mời Hàng-Châu nguyên-soái là Đại-Tướng-Quân Lý-Khả-Tú đến bàn việc.

Vua Càn-Long hỏi:

-Chuẩn bị đầy đủ chưa?

Lý-Khả-Tú đáp:

-Muôn tâu, tất cả đã sẵn sàng!

Vua Càn-Long vui mừng, gật đầu phán:

-Chúng ta khởi hành ngay. ‘Binh quý thần tốc’ (#8), phải tuyệt đối giữa bí mật. Đánh kẻ địch trong lúc bất ngờ sẽ nắm chắc phần thắng mà lại đỡ hao tổn xương máu của binh sĩ.

Truyền lệnh cho Lý-Khả-Tú xong, vua Càn-Long thay đổi y phục như ‘Đông-Phương-Nhĩ’ hôm gặp Trần-Gia-Cách. Bọn thị vệ cũng mặc áo lam như hôm nọ.

Vua Càn-Long cỡi ngựa đi chậm rãi về phía Tây-Hồ. Bọn thị vệ theo hầu sát một bên, trong mình giấu đầy đủ binh khí và ám khí.

Vừa ra khỏi dinh Tuần-Vũ Hàng-Châu, một võ quan hi ngựa đến đến trước mặt Lý-Khả-Tú thưa:

-Thưa Nguyên-soái, không làm sao gọi du thuyền vào bờ được. Tất cả đều neo giữa hồ, không có chiếc nào trên bến cả. Tôi đã cho quân gọi hết hơi mà chẳng một thuyền nào chịu vào cả.

Lý-Khả-Tú nghe nói cả giận mắng lớn:

-Quân khốn kiếp! Bộ chúng muốn làm phản cả rồi hay sao? Mau tiếp tục gọi!

Viên võ quan không dám cãi lời, vâng dạ luôn miệng, lập tức lui ra. Chẳng bao lâu sau thì vua Càn-Long cùng đám thị vệ cũng đến nơi.

Vua Càn-Long phán:

-Dầu cho chúng có biết trẫm là ai hay không, các ngươi cũng phải giả đóng vai thường dân, không được để lộ cho chúng biết trẫm là thiên tử và các ngươi là văn võ bá quan. Kẻ nào vi lệnh, cứ chiếu theo luật mà thi hành.

Bốn mặt Tây-Hồ giờ đây đâu đâu cũng có đầy quân lính bao phục chặt chẽ. Các đội quân thiện chiến của Nguyên-soái Lý-Khả-Tú cũng như các đội Kỳ-Dinh và Thủy-Sư đều phòng bị cẩn thận vòng ngoài. Chỉ hiềm một nỗi là quanh hồ không có lấy được bất cứ một chiếc thuyền nào.

Lý-Khả-Tú đang nghĩ ngợi, chưa biết phải làm gì, bỗng có 5 chiếc thuyền lướt tới thật lẹ vào bờ. Đứng trước mũi thuyền đi đầu là một người mặt sáng như ngọc, khí vũ hiên ngang, mình khoác chiếc áo the Hàng-Châu dài, tay cầm chiếc quạt giấy.

Chờ cho thuyền gần vào cập bến, người ấy tươi cười cất tiếng lên nói lớn:

-Kẻ tiểu nhân vâng lệnh Lục công tử đến đây rước Đông-Phương tiên sinh ra hồ thưởng nguyệt đối ẩm.

Nói xong, người ấy vừa nói xong liền hướng về vua Càn-Long vái một cái rồi tung mình phóng lên bờ.

Vua Càn-Long cũng vái lại một cái, vui vẻ hỏi:

-Tại hạ chính là Đông-Phương-Nhĩ. Xin hỏi cao danh quý tánh của huynh đài?

Người ấy đáp:

-Kẻ tiểu nhân họ Vệ, tên gọi Xuân-Hoa.

Vua Càn-Long bước xuống thuyền. Theo sau là Nguyên-soái Lý-Khả-Tú, Bạch-Chấn cùng với 30-40 tên cẩm y thị vệ. Chúng chia nhau ngồi rải rác chung quanh thuyền, ngầm bí mật hộ giá (#9). Một số khác chia nhau xuống 4 chiếc còn lại.

Đoàn thuyền 5 chiếc lướt sóng như bay ra giữa lòng hồ. Đoàn thuyền đến gần du đĩnh thì tiếng tiêu, tiếng sáo ngân nga trầm bổng, muôn ngàn điệu nhạc êm ái dịu dàng.

Từ trên du đĩnh, một giọng nói vang lên:

-Chẳng hay Đông-Phương tiên sinh đã đến chưa? Sao mà chậm thế!

Vệ-Xuân-Hoa đáp:

-Đã đến rồi đây!

Cả giòng sông bỗng nhiên như sáng rực lên. Chung quanh chiếc du đĩnh (#10) là cả một ‘đại đội’ du thuyền.

Bạch-Chấn nhìn thấy không khỏi thầm kinh hãi. Rõ ràng là phía địch cũng đã cảnh giác mà đề phòng đâu ra đó cả rồi.

Từ trên du đĩnh, Trần-Gia-Cách bước ra nói:

-Không ngờ được Đông-Phương tiên sinh có nhã hứng đến thăm. Xin mời sang bên này.

Hai chiếc thuyền cập sát vào nhau. Vua Càn-Long, Nguyên-soái Lý-Khả-Tú, Bạch-Chấn và một số thị vệ trá hình cùng nhau bước qua chiếc du đĩnh của Trần-Gia-Cách.

Trần-Gia-Cách bước ra, nét mặt tươi cười chào đón mọi người. Đàng sau chàng là thư đồng Tâm-Nghiện đứng hầu. Tâm-Nghiện đi trước, dẫn mọi người vào trong khoang thuyền.

Bên trong khoang thuyền là một thư phòng với những bức tranh thêu, những bức khẩm xà xừ được trạm trổ hết sức tinh vi được trang hoàng khắp nơi. Ngay chính giữa là một chiếc bàn lớn có bày sẵn những bình rượu, những chung trà, đầy rẫy hoa quả và đồ nhắm, không thiếu một thứ gì.

Trần-Gia-Cách nhìn vua Càn-Long nói:

-Nhân huynh không chê tiểu đệ hủ lậu mà chịu hạ cố đến chơi, thật là vạn hạnh!

Vua Càn-Long nói:

-Huynh đài đã có ý tốt mời mọc, lẽ nào không đến?

Hai người nắm tay nhau thân mật, cùng cất tiếng cười vang lên. Bạch-Chấn và Lý-khả-Tú đứng sau vua Càn-Long để ý từng cử chỉ nhỏ của Trần-Gia-Cách, mắt không lúc nào rời. Trần-Gia-Cách nhìn Bạch-Chấn khẽ mỉm cười nhưng chẳng nói một lời nào cả.

Hồi 14

Trời rằng quyết chẳng dung tha đất

Đất cũng thề không vị nể trời

Nhìn sang bên trái Lý-Khả-Tú, Trần-Gia-Cách để ý nhìn thấy một chàng thanh niên trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc bất giác kinh hãi giật mình, nghĩ thầm:

-“Người này chính là đệ tử của Lục lão tiền bối kia mà! Sao y lại theo bọn quan triều đình đến nơi này làm gì? Thật sực y là ai? Có mục đích gì? Thật là khó đoán!”

‘Chàng trai’ ấy, tức Lý-Mộng-Ngọc như đoán được ý nghĩ của Trần-Gia-Cách, nhìn chàng nhoẻn miệng cười, khẽ láy mắt một cái như ngụ ý bảo không phải là lúc để giải đáp mọi thắc mắc, cứ xem mọi chuyện như bình thường.

Tâm-Nghiện bước ra nghiêng mình rót rượu. Sợ Càn-Long nghi ngại, Trần-Gia-Cách liền bưng chung rượu lên uống cạn, gắp đồ bỏ vào miệng ăn ngon lành. Vua Càn-Long thấy thế an tâm, cùng với Trần-Gia-Cách ăn uống, nói chuyện vui vẻ thân mật tự nhiên.

Rượu Quỳnh-Tương rót vào chén ngọc men hương thơm ngát làm sảng khoái tâm hồn. Trái cây trên bàn toàn là những của ngon vật lạ khó tìm tại Hàng-Châu, nhất là trái Lệ-Chi (#1) hiếm có, phải đưa từ vùng Lĩnh-Nam mới có.

Vua Càn-Long cùng Trần-Gia-Cách vừa uống rượu, vừa ăn trái cây, vừa xem hoa quế nở, vừa thưởng thức trăng Tây-Hồ.

Sau vài tuần rượu, tiếng tiêu véo von từ một du thuyền đậu gần đó ngân lên khúc ‘Nghinh Hạ Tân’ (#2). Vua Càn-Long đắc ý trầm trồ khen ngợi:

-Huynh đài thật là bậc cao nhân. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà tổ chức được cuộc vui hết sức thú vị, đầy nhã hứng. Nếu tiểu đệ không lầm thì đây là một nhạc khúc vừa mới được đặt xong. Âm điệu hết sức du dương, thật là một tuyệt tác!

Trần-Gia-Cách lại nói:

-Có rượu, có âm nhạc, ắt không thể thiếu được lời ca. Tiểu đệ quen được nàng Ngọc-Như-Ý là một nữ danh ca có giọng ngọt ngào, trong trẻo nhất tại vùng Tiền-Đường. Thêm vào đó, nàng ta còn là một hoa khôi, nhan sắc nổi tiếng khắp chốn Hàng-Châu. Tiểu đệ có ý mời nàng đến giúp vui huynh đài, chẳng hay tôn ý thế nào?

Vua Càn-Long cất tiếng cười ha hả, có vẻ như rất đẹp lòng:

-Như vậy thì còn gì hơn nữa! Đêm trăng cùng tri-âm đối ẩm thưởng nguyệt, xem quế nở, còn được mỹ nhân buông tiếng ngọc giúp vui! Ôi! Dẫu cho cảnh Bồng-Lai cũng chỉ đến thế này là cùng!

Xoay qua Lý-Khả-Tú, Càn-Long hỏi:

-Ngươi có biết Ngọc-Như-Ý là người như thế nào chăng?

Lý-Khả-Tú tâu:

-Nàng là một danh kỹ nổi tiếng khắp đất Hàng-Châu này. Tuy nhiên tánh khí của nàng rất kiêu ngạo. Nếu không phải người vừa ý nàng có bỏ ra vàng ròng muôn lượng cũng chẳng được giáp mặt nàng chứ đừng nói là nghe được tiếng ca của nàng. Vì vậy, khách giàu sang không phải ai cũng mời được nàng.

Vua Càn-Long lại cười hỏi:

-Vậy ngươi có mời được nàng lần nào chưa?

Lý-Khả-Tú đỏ mặt, giọng ấp úng nói không nên lời:

-Kẻ tiểu... tiểu nhân thật... không dám...

Vua Càn-Long cả cười lên tiếng:

-Nếu chưa có duyên may mắn được gặp gỡ thì đêm nay cho nhà ngươi được cơ hội mở rộng thêm nhãn-giới (#3) !

Đang khi mọi người nói chuyện vui vẻ thì từ thuyền bên kia, Vệ-Xuân-Hoa đỡ Ngọc-Như-Ý bước qua.

Vua Càn-Long ngước mặt nhìn lên xem thì thấy Ngọc-Như-Ý da mặt hồng hào, như một quả đào dưới ánh bình minh. Thật là một tuyệt sắc giai nhân mà chính vua Càn-Long, làm chủ ‘tam cung lục viện’ cũng chưa thấy được một người nào đẹp như thế.

Vừa đặt chân vào thuyền, Ngọc-Như-Ý cúi đầu e lệ chúc Trần-Gia-Cách hai tiếng ‘vạn phúc’ thật duyên dáng êm đềm. Dưới ngọn đèn lưu ly tỏa ánh sáng huy hoàng, vẻ đẹp của nàng phản chiếu như một tiên nữ trong tranh thần thoại đời Tấn.

Với giọng oanh vàng thánh thót, Ngọc-Như-Ý nói:

-Lục công tử đêm nay sao cao hứng thế?

Trần-Gia-Cách chỉ về phía Càn-Long nói:

-Vì có vị Đông-Phương tiên sinh ở đây.

Ngọc-Như-Ý khẽ cúi đầu chào vua Càn-Long một cái rồi bước đến ngồi sát bên Trần-Gia-Cách ra vẻ nũng nịu.

Trần-Gia-Cách nói:

-Nghe Vệ ca giới thiệu nàng có tài ca hát nên ao ước được em cho nghe một vài bản. Chẳng hay nàng có đồng ý không, hay lại chê tai phàm tục không thể nào thấu được lời ca?

Ngọc-Như-Ý cười nói:

-Chỉ sợ Lục công tử chê em ca dở không muốn nghe thôi, chứ nếu công tử đã muốn thì em xin tình nguyện ca suốt ba ngày ba đêm để hầu công tử.

Một thiếu nữ mặt tươi như hoa theo hầu Ngọc-Như-Ý đưa cây Tỳ-Bà. Ngọc-Như-Ý cầm lấy, nắn mấy phím tơ cất giọng thâm trầm ca bài ‘Tiêu Nhi’.

Ngoài song tựa ngọc vắng êm,

Bên sàn quỳ gối dâng lên lời vàng.

Trách ai lòng chẳng nặng mang,

Mảnh tình ấp ủ mơ màng bấy nay.

Chén rượu men say...

Trần-Gia-Cách vỗ tay khen hay. Vua Càn-Long nghe âm thanh của Ngọc-Như-Ý dịu dàng, giọng trầm bổng, lời ca êm ái như khúc nhạc mơ hồ ở cõi thiên thai, rào rạt mê ly, bất giác tâm hồn như ngây như dại.

Ngọc-Như-Ý nhoẻn miệng cười tình duyên dáng. Hai má lúm đồng tiền khiến gương mặt nàng tăng thêm vẻ đẹp duyên dáng, quay về phía Trần-Gia-Cách ca thêm một bài nữa.

Vua Càn-Long càng nghe, càng thêm thẫn thờ cả người, buột miệng khen:

-Nàng ca thật tuyệt vời. Cứ tiếp tục ca nữa đi cho người nghe lạc vào cõi tiên mà quên mình đang sống ở trần tục.

Vua Càn-Long quả là một ông vua ‘si tình’, quên cả mình đang ở địa vị Hoàng-Đế, đứng dậy ‘đóng vai kép’ ôm đàn cho Ngọc-Như-Ý.

Ngọc-Như-Ý tính tình trang nghiêm vì lý do nghề nghiệp, lại có thân thế phiêu bồng, ít khi cười được thành tiếng, thế mà trông thấy cử chỉ và hành động của vua Càn-Long cũng phải bật cười.

Trần-Gia-Cách cả cười. Còn Lý-Khả-Tú, Bạch-Chấn và các thị vệ đứng hầu sau vua Càn-Long đều gượng mím môi mà chẳng dám cười thành tiếng. Còn về phần Lý-Mộng-Ngọc đứng sau Lý-Khả-Tú thì không ai nhìn rõ được sắc mặt của nàng lúc ấy như thế nào trong lớp cải nam trang.

Càn-Long sinh trưởng trong hoàng cung. Trong số bao nhiêu phi tần mỹ nữ cũng không thiếu gì người có giọng hát hay nhưng chưa có người nào quyến rũ làm cho vị Thanh-Đế kia rung động như ả danh kỹ đất Giang-Nam này. Mỗi cái liếc nhìn, mỗi lời ca như một mũi nhọn đâm nhẹ vào tim con người có uy thế quyền hành nhiều nhất trong thiên hạ kia. Có lúc, nhà vua tưởng mình như lạc hồn vào trong mộng, quên cả chung quanh mình là những kẻ đang làm cách mạng, với ý định lật đổ triều đại của mình.

Ngọc-Như-Ý luân phiên rót rượu mời Trần-Gia-Cách và vua Càn-Long. Dâng đến chung thứ tư, vua Càn-Long lấy một viên ngọc bích thưởng cho nàng bảo:

-Nàng hãy ca thêm bài nữa.

Ngọc-Như-Ý nhìn sang phía Vệ-Xuân-Hoa. Âm điệu thê lương của cây đàn Tỳ-Bà nấc lên nghẹn ngào như oán như than.

Vua Càn-Long cười hỏi:

-Người yêu của nàng đi xa rồi phải không?

Với vẻ mặt buồn rầu như cố giấu đi một nỗi đau buồn thấm thía hờn giận miên man, Ngọc-Như-Ý đáp:

-Bị động viên đi đánh xứ Hồi. Người chinh phu mòn mỏi mong chờ, bên trời chiếc nhạn...

Nói tới đó, hai hàng nước mắt Ngọc-Như-Ý dâng trào, nghẹn ngào không nói thêm được một câu nào.

Vua Càn-Long cười miễn cưỡng nói:

-Kẻ trượng phu một đời kiếm cung yên ngựa, lập công ngoài chiến trường tạo nên sự nghiệp ngàn thu. Người chinh phu đáng lẽ phải vui mừng và hãnh diện, cớ sao lại buồn thảm?

Ngọc-Như-Ý nói:

-Có chăng là những ông đại Nguyên-soái với đại Tướng-quân mới lập nên đại nghiệp thiên thu. Càng đánh giết được nhiều, càng thêm được quyền cao chức trọng, phú quý giàu sang. Còn trăm họ thì bị lùa ra sa trường để xông tên đỡ đao. Họa chăng là họ để lại cho gia đình một cái tang đau đớn. Vợ thì trở thành một góa phụ cô quạnh. Những đứa con thì trở thành những đứa trẻ mồ côi không cha.

Nghe Ngọc-Như-Ý nói, vua Càn-Long như chết lặng cả người, không biết phải đối đáp lại làm sao. Lý-Khả-Tú đứng sau vua Càn-Long thấy vậy liền nạt lớn:

-Nàng không hiểu thế nào là lẽ khinh trọng! Có câm nín đi được không?

Ngọc-Như-Ý đứng dậy chắp tay vái một cái nói:

-Tiểu nữ thuộc giới chân yếu tay mềm, nghĩ sao nói vậy, không ngờ đắc tội với lãi gia. Xin lão gia tha thứ cho.

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Chồng nàng tên họ là chi? Bị bắt đi xứ Hồi đánh giặc bao giờ?

Ngọc-Như-Ý như vẫn chưa nguôi được cơn sầu thảm như đang dày xéo tâm can. Nàng cúi đầu thưa:

-Không dám dối công tử. Chàng với em thương yêu nhau thắm thiết. Chàng tên là Tiêu-Thọ, vốn là con của bạn dì ruột em. Ngay từ lúc còn thơ dại, chúng em đã chơi thân với nhau, không lúc nào rời xa. Lớn lên, cha mẹ em hứa gả em cho chàng. Hy vọng tầm thường của em là sau khi cưới gả xong, sẽ tần tiện góp nhặt ít tiền cho chàng làm vốn đi buôn vài chuyến để lập nghiệp. Nhưng thình lình một đêm, quan quân kéo tới bao vây túp lều của cha mẹ chàng, bắt chàng xung vào đại quân Chinh Tây đánh xứ Hồi. Một người yếu đuối như chàng làm sao chịu nổi đường đi xa xôi vạn dặm, mưa rơi bão tuyết lại không đủ thực phẩm cấp dưỡng. Nay đã nửa năm mà bóng chàng vẫn biền biệt, tin tức im bặt...

Trần-Gia-Cách nghe Ngọc-Như-Ý kể nỗi niềm đau khổ của kẻ chinh phu bằng giọng nói thê lương thống thiết bất giác xúc động, xoay qua nói với Càn-Long:

-Người Hồi ở mãi tận muôn dặm ven trời, không phạm lỗi gì, cớ sao triều đình đem quân đi chinh phạt? Rốt cuộc chỉ gây thêm nhọc nhằn cho quân sĩ, lại gây cảnh xáo trộn trong nhân dân, thiết tưởng không phải là phúc của trăm họ!

Vua Càn-Long khẽ ‘hừ’ một tiếng rồi lặng thinh. Lúc này, mặt hồ ngào ngạt mùi hương quế nở. Ánh trăng soi làm rực rỡ cả một vùng, trông tựa như một cảnh thần tiên dưới thế.

Trần-Gia-Cách nhìn vua Càn-Long nói:

-Tiểu đệ có một người bằng hữu rất giỏi về sáo, tiếc thay lại vắng mặt đêm nay.

Trần-Gia-Cách vừa dứt lời, Lý-Mộng-Ngọc khẽ nhắp môi một cái ý chừng muốn nói gì nhưng lại thôi.

Vua Càn-Long hỏi:

-Huynh đài từ biên giới Hồi về Giang-Nam nói là để lo công việc cho bạn bè, có phải là người bằng hữu ấy không?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Người bằng hữu thổi sáo cùng với anh em kết nghĩa của tiểu đệ đều cố công ra sức nhọc nhằn để cứu một bằng hữu khác. Đáng tiếc là chưa thành công được!

Vua Càn-Long hỏi:

-Chẳng hay người bằng hữu ấy đã phạm vào tội gì?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Người bằng hữu của tiểu đệ chẳng hề đả động gì đến quan quân, chẳng hiểu lý do nào mà cứ bị bao vây theo dõi mãi và sau cùng bị xung kích đến phải mang trọng thương.

Vua Càn-Long lại hỏi:

-Người bằng hữu của huynh đài tên họ là gì?

Trần-Gia-Cách ngang nhiên đáp:

-Anh ấy họ Văn, tên Thái-Lai, mà giới giang hồ gọi là Bôn-Lôi-Thủ.

Câu nói của Trần-Gia-Cách vừa thốt ra khiến cả vua Càn-Long lẫn Lý-Khả-Tú đều nghe chát chúa hai tai. Họ đã đoán biết được Trần-Gia-Cách chính là nhân vật đầu não của Hồng Hoa Hội, nhưng không ngờ chàng dám ngang nhiên nói thẳng điều quan trọng tối mật như vậy trước mặt họ.

Bạch-Chấn láy mắt cho bọn thị vệ thầm ra dấu là chuẩn bị sẵn sàng hễ có lệnh là hành động ngay tức khắc. Đám thuộc hạ của Càn-Long kiểm điểm lại ám khí cho đầy đủ vì chúng liên tưởng đến ngay một trận ác đấu vô cùng khốc liệt sắp sửa xảy ra.

Trần-Gia-Cách vẫn vui cười, nói chuyện này sang chuyện khác như chẳng thèm quan tâm đến. Chàng tươi cười hỏi Càn-Long:

-Những người tùy tùng của nhân huynh ai nấy đều có võ công trác tuyệt cả. Chẳng hay nhân huynh tìm ở xứ nào mà được những cao thủ ấy vậy?

Vua Càn-Long nở một nụ cười tự hào đắc chí, trỏ vào Bạch-Chấn nói:

-Theo lời hắn nói lại thì nhân huynh võ nghệ tinh diệu vô cùng. Tiếc thay hôm qua tại chùa Linh-Ấn, tiểu đệ quả có mắt không tròng, tưởng huynh chỉ là một thư sinh yếu đuối chứ nào ngờ là một trang anh kiệt trong giới giang hồ. Dám mong huynh đài cho xem một vài ngón tuyệt kỹ để mở rộng thêm tầm mắt của tiểu đệ.

Trần-Gia-Cách đáp:

-Ba cái tiểu xảo của đệ có đáng chi mà để cho huynh đài phải bận tâm đến. Vị cao thủ cầm phán quan bút đang đứng sau lưng huynh đài thật là nhân vật đáng kể về môn điểm huyệt. Huynh đài hãy bảo vị ấy cho xem vài đường tuyệt kỹ mới thật là thú vị.

Dứt lời, Trần-Gia-Cách đưa tay chỉ vào một tên thị vệ đang đứng gần Bạch-Chấn, họ Phạm, tên gọi Trung-Tử, chuyên sử dụng phán quan bút. Hắn hồi nãy vì ỷ võ nghệ cao cường nên định trêu ghẹo Lạc-Băng trong lớp cô lái đò, vì khinh thường nên bị hất xuống nước, nếu không nhờ Tưởng-Tứ-Căn vớt lên ắt đã chìm sâu dưới đáy hồ.

Phạm-Trung-Tử dấu kín cặp phán quan bút trong người nhưng không ngờ Trần-Gia-Cách biết được thì không khỏi thất kinh nghĩ thầm:

-“Quái, ta dấu cặp phán quan bút kỹ lưỡng đến như vậy sao y lại biết được?”

Dầu vậy, thấy mình có cơ hội được trổ tài trước mặt vua Càn-Long thì rất là hứng thú. Không chút do dự, hắn bước ra nói:

-Nếu công tử có hứng xin cho tại hạ được học hỏi vài chiêu.

Trước cử chỉ phách lối đáng ghét của Phạm-Trung-Tử, Trần-Gia-Cách vẫn không thèm đếm xỉa tới. Chàng chỉ vào Ngọc-Như-Ý nói:

-Cô nàng với tình cảnh đáng thương như vậy sao huynh đài không tìm cách giúp đỡ làm việc nghĩa?

Vua Càn-Long vốn đã say mê sắc đẹp nhu mì của Ngọc-Như-Ý nên đã có ý nhờ Lý-Khả-Tú ngầm bí mật đưa nàng vào cung. Mải suy nghĩ về việc ấy cho đến khi Trần-Gia-Cách lên tiếng hỏi đột ngột, vua Càn-Long mới giật mình, ấp úng:

-Người anh con bạn dì của nàng vì nước vì vua đem thân xông pha ngoài chiến trận thật là một việc đáng khuyến khích biết bao.

Lúc bấy giờ, Phạm-Trung-Tử cầm cặp phán quan bút đứng trước mũi thuyền trong tình thế tấn thối lưỡng nan. Bạch-Chấn thấy vậy nạt:

-Lão Phạm! Mau về lại chỗ đi!

Phạm-Trung-Tử đỏ mặt lui về đứng sau lưng Càn-Long, trong lòng hết sức thẹn thùng.

Bỗng đâu, Trần-Gia-Cách lại lên tiếng hỏi Càn-Long:

-Vua Đường-Thái-Tông là người có hùng lược, chắc là huynh đài ngưỡng mộ lắm?

Bình thường, Càn-Long chỉ phục có hai người trong lịch sử là Hán-Vũ-Đế và Đường-Thái-Tông. Nghe Trần-Gia-Cách hỏi đúng ý mình, vua Càn-Long nói:

-Đường-Thái-Tông là một vị anh-quân, văn võ song toàn, kẻ địch gọi là ‘vua nhà trời’, thật cỏ kim khó có ai sánh kịp.

Trần-Gia-Cách nói:

-Trước đây tiểu đệ có đọc bộ sách ‘Trinh Quang Chính Yếu’ của Đường-Thái-Tông, thấy nhiều câu rất hợp với đạo lý.

Vua Càn-Long hỏi:

-Đó là những câu nào? Xin huynh đài dạy bảo cho!

Trần-Gia-Cách nói:

-Vua Đường-Thái-Tông viết câu này: ‘Thuyền có thể ví với vua. Nước có thể ví với dân. Nước có thể cho được thuyền, mà cũng có thể đắm được thuyền’. Ngoài ra cũng còn có thêm câu này: ‘Bậc Thiên-Tử có đạo thì người ta còn suy tôn, còn vô đạo thì người ta bỏ đi’. Nghiệm lại kỹ, thấy thật đáng sợ thay!

Vua Càn-Long nghe nói gục mặt. Trần-Gia-Cách lại nói tiếp:

-Đem câu nói của Đường-Thái-Tông đó áp dụng ngay vào việc trước mắt bây giờ vẫn thấy đúng. Giả dụ như chúng ta đây đang ngồi trên chiếc thuyền này. Nếu xuôi giòng nước thì được ngồi yên ổn, trái lại nếu đi ngược giòng nước ắt sẽ bị dao động dữ dội. Nếu như gió nổi lên khơi động giòng nước trở thành sóng lớn thì thuyền chúng ta tất phải bị đắm mà thôi!

Vua Càn-Long tính tình ươn ngạnh, trong đời chỉ biết nể sợ ông nội là vua Khang-Hy và phụ-hoàng là Ung-Chính, còn bất cứ ai trái ý mình là bất bình nay. Vì vậy, trước những lời nói của Trần-Gia-Cách, vua Càn-Long hết sức giận dữ nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh, thầm nghĩ rằng lực lượng của mình đã vây kín Tây-Hồ, bọn Trần-Gia-Cách như con hổ nằm trong cũi sắt, có tài giỏi đến đâu cũng không làm sao thoát được.

Vua Càn-Long cười gằn nói:

-Thầy Tuân-Tử nói rằng: ‘Trời đất sinh ra bậc Thiên-Tử. Thiên-Tử thay trời đất trị vì muôn loài. Bậc Thiên-Tử là cha mẹ của muôn dân’! Hoàng-Đế vâng mệnh trời ra ân rải ra khắp trăm họ. Theo lời cao luận của nhân huynh chẳng lẽ lại không đúng với lời nói của Thánh hiền hay sao?

Trần-Gia-Cách nâng chung rượu lên nhắp cạn, nói:

-Hồi mới lập quốc, Hoàng-Đế Lê-Châu có mấy câu lời lẽ hết sức thâm thúy cao diệu là: ‘Kẻ chưa làm Hoàng-Đế thì đem đầu óc ra đầu độc thiên hạ làm cho gia đình nam nữ chia lìa nhau để tạo riêng cho mình một sự nghiệp. Khi đã chiếm được ngai vàng thì lại bóc lột xương tủy của thiên hạ, chia lìa gia đình nam nữ để thỏa mãn dục tính của cá nhân’. Đương nhiên, kẻ làm Hoàng-Đế luôn luôn xem tất cả thiên hạ là của riêng mình, cho rằng: ‘Đó là hoa lợi của sản nghiệp của mình mà truyền lại cho con cháu muôn đời’. Ha... ha...! Mấy câu này đánh đúng vào tâm lý của kẻ làm Hoàng-Đế, thật là hay vô cùng!

Vua Càn-Long lúc bấy giờ hơi giận đã bốc lên tận trời không còn nhẫn nhịn được nữa bèn cầm chung rượu ném đi, công nhiên ra hiệu lệnh...

Chung rượu chưa chạm xuống nền thuyền nhanh như cắt, Tâm-Nghiện từ đâu la mình tới đưa tay ra chộp lấy, quỳ xuống dâng lên trước mặt Càn-Long nói:

-Thưa Đông-Phương lão gia, chung rượu không việc gì, chỉ bị đổ mất một chút rượu thôi!

Vua Càn-Long ‘hừ’ một tiếng, mặt lạnh như tiền. Lý-Khả-Tú đưa tay đón lấy chung rượu nhìn theo ánh mắt của Càn-Long như chờ đợi hiệu lệnh.

Nhưng Càn-Long bỗng phá lên cười nói:

-Lục nhân huynh! Cậu bé quản gia này tay chân quả là lanh lẹn!

Quay sang Phạm-Trung-Tử, vua Càn-Long nháy mắt một cái nói:

-Ngươi thử biểu diễn vài chiêu với cậu bé này xem. Cậu ta không phải là tay thường đâu đấy, chớ có xem thường!

Phạm-Trung-Tử rút cặp phán quan bút ra, nhắm huyệt đạo tả hữu của Tâm-Nghiện mà điểm tới. Tâm-Nghiện liền phóng mình một cái lên trước mũi thuyền.

Phạm-Trung-Tử phóng tới múa cặp phán quan bút vùn vụt quanh người cậu bé thư đồng. Tâm-Nghiện lại phóng mình lên trên cột buồm nói vọng xuống:

-Ta với ngươi chơi trò ‘cút bắt’ (#4) nhé! Ngươi bắt được ta thì ngươi trốn ta đi bắt. Còn ta bắt được ngươi thì ta đi trốn, ngươi đi bắt. Thử xem ai giỏi hơn nhé!

Điểm hoài mà không trúng được đối phương lại còn bị trêu chọc, Phạm-Trung-Tử bỗng đổ quạu, phi thân lên nhắm Tâm-nghiện điểm tới. Phạm-Trung-Tử vừa lên đến nơi thì Tâm-Nghiện lại bay xuống dưới, và hễ y xuống dưới tấn công thì Tâm-Nghiện lại bay trên trên cột buồm, rồi cứ như thế mà diễn đi diễn lại, y hệt như trò chơi ‘cút bắt’

Phạm-Trung-Tử liền nghĩ ra một kế. Hắn giả vờ tung người bay lên trên cột buồm thì quả nhiên Tâm-Nghiện lập tức tung mình phi thân xuống. Nhưng Tâm-Nghiện mới xuống được nửa chừng thì bỗng thấy Phạm-Trung-Tử đổi hướng bay thẳng tới đưa phán quan bút điểm vào hậu tâm của cậu ta.

Đòn của Phạm-Trung-Tử quá bất ngờ khiến Tâm-Nghiện đang từ cao lỡ trớn bay xuống dưới không tài nào trở người được.

Phán quan bút của Phạm-Trung-Tử sắp điểm trúng Tâm-Nghiện thì chợt sau lưng y có tiếng gió của một vật nào đó hết sức mạnh mẽ. Thấy vậy, Phạm-Trung-Tử liền bỏ Tâm-Nghiện dùng phán quan bút quay lại đón lấy binh khí của người tập kích mình.

Vừa chạm phải binh khí đó, phán quan bút của Phạm-Trung-Tử dội lại đàng sau. Cả cánh tay hắn như tê rần lại. Hắn nhìn lên mũi thuyền thì thấy một người cầm cây thiết tương đứng bên cạnh Tâm-Nghiện. Đó chính là Tưởng-Tứ-Căn. Nguyên Tưởng-Tứ-Căn đứng trước mũi du thuyền cập sát bên du đĩnh của Trần-Gia-Cách, thấy Phạm-Trung-Tử ra tay quá độc ác với một cậu bé thì không dằn được nhảy qua tập kích hắn để cứu nguy cho Tâm-Nghiện.

Phạm-Trung-Tử nhìn Tưởng-Tứ-Căn thì cơn giận nổi lên, xông tới dùng cặp phán quan bút điểm loạn xạ. Tưởng-Tứ-Căn khẽ lách mình qua một cái rồi thuận tay dùng cây thiết tương đẩy nhẹ vào lưng hắn một cái. Phạm-Trung-Tử thất kinh la lên:

-Không xong!

Vừa la xong, cả thân hình hắn rơi thẳng xuống sông khiến nước hồ bắn lên tung tóe. Không biết bơi lội, Phạm-Trung-Tử từ từ chìm sâu xuống dưới. Tâm-Nghiện thấy thế vỗ tay, thích chí cười lớn:

-Nhảy xuống hồ tìm Hà-Bá với Long-Vương thì hỏi ai mà tìm được? Thôi, ta chịu thua đó! Coi như ngươi thắng trò chơi cút bắt này rồi!

Vua Càn-Long liền ra lệnh cho hai tên thị vệ nhảy xuống nước vớt Phạm-Trung-Tử lên. Hai tên thị vệ chưa tới nơi thì Tưởng-Tứ-Căn đã dùng cây thiết tương móc được hắn từ dưới nước lên. Sau đó, chàng dùng hai tay nắm lấy xương bả vai của hắn kéo xốc lên, đưa tay nắm ngang lưng vác lên cao khỏi đầu nhắm ngay mặt vua Càn-Long ném tới, miệng hét lớn:

-Đỡ này!

Sư thúc của Phạm-Trung-Tử là Phương-Long-Tuấn cũng làm chức thị vệ vội vàng nhảy ra phía trước đưa hai tay ra chụp, và cũng để đỡ đòn hộ cho vua Càn-Long.

Phạm-Trung-Tử bị uống nước trước mặt Hoàng-Đế thì xấu hổ vô cùng, không biết phải cất mặt đi chỗ nào. Thấy sư điệt của mình mấy phen bị nhục, Phương-Long-Tuấn cả giận. Mặt hắn như xám đen lại nói:

-Nghe nói vị Tiểu huynh đệ này có tài sử dụng ám khí, tại hạ xin được thỉnh giáo vài hiệp xem sao!

Phương-Long-Tuấn có ngoại hiệu là ‘Độc Thiềm Thứ’ đã từng tung hoành lâu năm trên chốn giang hồ. Ám khí của hắn vừa mau lại vừa độc, một khi đối phương đã trúng phải thì khó có đường sống sót.

Trần-Gia-Cách nói với Càn-Long:

-Vị Phương đại hiệp này là một danh gia về ám khí, chúng tôi rất muốn được thưởng thức tài nghệ. Huynh đài có thể cho y biểu diễn một mình để tránh khỏi gây thương tích cho thư đồng của tại hạ hay không?

Nghe Trần-Gia-Cách nói có lý, vua Càn-Long gật đầu ưng thuận nói:

-Phải! Chỉ hiềm tại đây nhỏ hẹp, không có đủ chỗ...

Tâm-Nghiện tung mình nhảy sang chỗ Dương-Thanh-Hiệp bên du thuyền nhỏ nói nhỏ mấy câu. Dương-Thanh-Hiệp gật đầu, nhìn sang du thuyền của Chương-Tấn vẫy tay gọi.

Chương-Tấn lập tức nhảy đến. Chỉ vào chiếc du thuyền bên cạnh, Dương-Thanh-Hiệp nói:

-Mình dở hổng cột buồm của chiếc du thuyền này nhé?

Hai người sau đó, mỗi người một tay giở bổng chiếc du thuyền lên. Vua Càn-Long cùng đám thị vệ trợn tròn há hốc, ai nấy đều buột miệng khen:

-Hảo thần lực!

Ngay sau đó Trần-Gia-Cách bưng chung rượu lên nốc cạn khẽ vung tay một cái. Chung rượu như có ai đem đặt ngay ngắn tại chỗ bên cạnh Dương-Thanh-Hiệp và Chương-Tấn, hoàn toàn không bị sứt mẻ một chút nào cả.

Không những vua Càn-Long mà tất cả đám thị vệ nhìn thấy đều thất kinh. Thủ pháp của Trần-Gia-Cách quả thật chúng chỉ mới được thấy lần đầu.

Trần-Gia-Cách tươi cười nói với vua Càn-Long:

-Cái chung rượu này có thể tạm dùng để cho Phương đại hiệp thi triển ám khí.

Phương-Long-Tuấn lặng thinh không nói, vung tay một cái phóng ra một lượt năm, sáu, quả ‘tậc lê’ làm chung rượu bể tan tành.

Tâm-Nghiện cất tiếng khen:

-Quả nhiên là lợi hại!

Nhìn thấy Tâm-Nghiện, Phương-Long-Tuấn chợt nảy ra trong đầu một ý nghĩ ác độc. Sẵn còn 5 quả ‘tậc lê’ trong tay, y nhắm vào Tâm-Nghiện tung ra một lượt, tấn công cậu bé thư đồng trên dưới, tả hữu, ngay bụng.

Mọi người trông thấy đều kinh hãi thét lên một tiếng. Tâm-Nghiện cả kinh rạp người xuống tránh được hai quả tậc lê. Lạc-Băng rút ra hai ngọn phi đao phóng rớt được thêm hai quả nữa. Nhưng quả thứ năm đã ghim ngay vào bả vai của Tâm-Nghiện, làm cậu bé thư đồng cảm thấy đau nhức vô cùng, cố gượng mình đứng dậy.

Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội nhìn thấy hành động bỉ ổi hèn hạ của Phương-Long-Tuấn, thừa lúc biểu diễn ám khí mà ra tay ám toán một đứa bé thì ai nấy cả giận, bơi thuyền đến bao vây chiếc du đĩnh lại. Đám thị vệ của Càn-Long thấy vậy liền cởi áo ngoài, rút binh khí ra sẵn sàng. Lý-Khả-Tú định đưa còi lên miệng thổi để truyền lệnh cho các đội quân tác chiến.

Trần-Gia-Cách hướng về đám hào kiệt Hồng Hoa Hội nói lớn:

-Các anh em bằng hữu! Đông-Phương tiên sinh là thượng khách của tôi, không ai được vô lễ! Hãy lập tức lui thuyền ra xa!

Nghe lệnh của Tổng-Đà-Chủ truyền ra, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội răm rắp tuân lời, cho thuyền bơi lui lại mấy trượng.

Lạc-Băng sau đó xem xét vết thương của Tâm-Nghiện. Từ-Thiện-Hoằng cũng nhảy sang hỏi thăm.

Tâm-Nghiện cắn răng rút quả tậc lê ra. Lạc-Băng vội xé vải băng bó, nhưng Tâm-Nghiện giơ tay ngăn lại nói:

-Không cần!... Ám khí có độc...

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Em ráng chịu đựng một chút, để ta đi lấy thuốc trị độc về trị cho.

Quay qua Lạc-Băng, Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Tứ tẩu làm ơn mời tam ca sang đây gấp hộ.

Lạc-Băng gật đầu, phóng mình qua từng chiếc thuyền một mà đi. Lúc đó một chiếc thuyền từ đâu lướt tới nơi thật nhanh, người đứng trên mũi là Mã-Thiện-Quân, tổng đầu mục của Hồng Hoa Hội tại Hàng-Châu.

Với vẻ khẩn cấp, Mã-Thiện-Quân ghé tai Từ-Thiện-Hoằng nói nhỏ:

-Quân Mãn-Thanh đã vây chặt Tây-Hồ rồi, e bất lợi cho chúng ta!

Từ-Thiện-Hoằng hỏi:

-Lực lượng chúng đông cỡ nào?

Mã-Thiện-Quân đáp:

-Không dưới một vạn quân tinh nhuệ, đó là chưa kể đám Ngự-lâm quân và Thần-sánh dinh.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Mã đại ca mau triệu tập tất cả anh em hội viên trong, ngoài thành Hàng-Châu chực sẵn tại Tây-Hồ đợi lệnh nhé! Nhớ bảo họ giắt một cánh hoa hồng trên tóc để dễ nhận diện.

Mã-Thiện-Quân gật đầu. Từ-Thiện-Hoằng lại hỏi:

-Mã đại ca nhắm có thể triệu tập gấp rút được chừng bao nhiêu người?

Mã-Thiện-Quân đáp:

-Trong thành, kể cả đám công nhân tại xưởng dệt của tôi, con số không dưới 3000. Nếu triệu tập luôn lực lượng ngoài thành thì được thêm 2000. Những người này đều được huấn luyện đúng mức, có sẵn binh khí cùng khả năng tác chiến.

Từ-Thiện-Hoằng lộ vẻ vui mừng nói:

-Tốt lắm! Chúng ta với con số đó cũng đủ chọi với chúng rồi.

Sau đó Từ-Thiện-Hoằng lại ghé tai Mã-Thiện-Quân nói nhỏ ít câu. Mã-Thiện-Quân gật đầu cấp tốc lên đường. Từ-Thiện-Hoằng cũng quay trở lại chiếc thuyền lúc nãy.

Lúc ấy Triệu-Bán-Sơn đã đến nơi. Tam đương-gia xem xét vết thương của Tâm-Nghiện một hồi thì nhăn mặt lắc đầu. Ông cầm quả tậc lê lên xem sơ qua rồi đút vào túi, lấy ra một viên thuốc nhét vào miệng Tâm-Nghiện.

Không để cho Tâm-Nghiện nghe thấy, Triêụ-Bán-Sơn nói thật nhỏ cho Từ-Thiện-Hoằng vừa đủ nghe:

-Thất đệ! Không có cách nào cứu được!

Từ-Thiện-Hoằng cả kinh hỏi:

-Thế thì sao?

Triệu-Bán-Sơn lại nói:

-Thứ ám khí này có bôi một chất kịch độc lạ lùng. Trừ khi chủ nhân của nó cho thuốc, không có thứ thuốc nào có thể giải được chất độc này.

Từ-Thiện-Hoằng hỏi:

-Liệu Tâm-Nghiện còn có thể chịu đựng được bao lâu nữa?

Triệu-Bán-Sơn không cầm được nước mắt, xúc động đáp:

-Nhiều lắm chỉ độ ba khắc!

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Tam ca! Sao không bắt Phương-Long-Tuấn buộc, hắn phải trao thuốc giải!

Câu nói của Từ-Thiện-Hoằng như đánh thức trực-giác của Triệu-Bán-Sơn. Không chút do dự, Thiên-Thủ Như-Lai rút trong bọc ra một chiếc bao tay bằng da nai đeo vào tay trái tung người lên một cái, vượt qua từng chiếc thuyền một. Sau cùng, Triệu-Bán-Sơn đã đến nơi đứng trước Trần-Gia-Cách và vua Càn-Long.

Hướng về phía Trần-Gia-Cách, Triệu-Bán-Sơn nói:

-Lục công tử! Tôi muốn được thỉnh giáo vị ‘đại hiệp’ danh gia sử dụng ám khí lúc nãy!

Trần-Gia-Cách đang tức giận về hành động của Phương-Long-Tuấn nhưng phải cố gắng bình tĩnh trước mặt vua Càn-Long. Nay thấy Triệu-Bán-Sơn nói vậy thì rất hợp ý mình liền quay sang phía Càn-Long nói:

-Vị bằng hữu này của tiểu đệ cũng biết chút đỉnh về ám khí. Vậy chúng ta hãy để y cùng thi thố chút bản lãnh cùng với vị Phương đại hiệp kia để giúp vui mọi người. Huynh đài nghĩ sao?

Vua Càn-Long không chút do dự, quay sang nói với Phương-Long-Tuấn:

-Ngươi hãy đem chút bản lãnh ra mà thi thố với vị bằng hữu của Lục công tử cho vui!

Bạch-Chấn rỉ tai Phương-Long-Tuấn dặn:

-Y là Thiên-Thủ Như-Lai Triệu-Bán-Sơn đó! Hiền đệ phải cẩn thận.

Phương-Long-Tuấn cũng đã được nghe qua tên tuổi của Thiên-Thủ Như-Lai. Tuy nhiên, y vẫn tự phụ rằng xưa nay chưa bao giờ gặp đối thủ về bộ môn ám khí nên chẳng chút sờn lòng. Thêm vào đó, lại một lần nữa được thi thố tài năng trước mặt Hoàng-Đế nên lại càng tự tin.

Phương-Long-Tuấn với dáng điệu ngạo mạn nói với Triệu-Bán-Sơn:

-Tại hạ là Phương-Long-Tuấn, mong được Thiên-Thủ Như-Lai chỉ giáo cho vài đường tuyệt kỹ.

Triệu-Bán-Sơn ‘hừ’ một tiếng, khinh khi nói:

-Thì ra là mi! Thế mà ta vẫn tưởng xưa nay trên giang hồ, một kẻ có thanh danh không bao giờ dùng thủ đoạn đê hèn để ám toán một đứa con nít. Thật ‘nghe danh không bằng thấy mặt’!

Phương-Long-Tuấn cười nhạt đáp:

-Khỏi cần phải nói dài dòng. Ta chỉ có hai tay để chống cự với 1000 cánh tay của Thiên-Thủ Như-Lai mà thôi!

Nhảy qua thuyền nhỏ kế bên, Triệu-Bán-Sơn nói lớn:

-Có giỏi thì qua đây!

Phương-Long-Tuấn cười lớn đáp:

-Dĩ nhiên!

Phương-Long-Tuấn tung mình phóng qua chiếc thuyền bên cạnh. Trong lúc hắn vẫn còn lơ lửng trên không, Triệu-Bán-Sơn liền vung tay một cái, phóng ra ba mũi ‘Kim tiền tiêu’, ba ‘Trục tiễn’. Khẽ cúi đầu xuống một cái, Triệu-Bán-Sơn phóng luôn thêm một ngọn ‘Bối nỏ’.

Phương-Long-Tuấn cả kinh, hắn không ngờ trong một lúc, Triệu-Bán-Sơn lại có thể tung ra một lúc đến 7 ám khí.

Không còn đường nào né tránh, Phương-Long-Tuấn cúi rạp đầu xuống chui đầu vào khoang thuyền. Những ngọn ám khí của Triệu-Bán-Sơn cắm sâu vào chỗ Phương-Long-Tuấn đang đứng. Nếu hắn không kịp cúi xuống chui vào khoang thuyền ắt tánh mạng chẳng còn!

Phương-Long-Tuấn sợ điếng cả người. Chưa hoàn hồn được bỗng nghe có tiếng Triệu-Bán-Sơn la lớn nhục mạ:

-Đúng là một con rùa rụt cổ! Vậy mà cũng vỗ ngực xưng là cao thủ ám khí! Thôi, hãy mau chui ra đi rửa mặt rồi về lại chỗ cũ!

Phương-Long-Tuấn vừa lồm cồm đứng dậy thì Triệu-Bán-Sơn lại phóng tiếp một ngọn ‘Bồ đề tử’ ngay ngựa trái của hắn. Phương-Long-Tuấn lách mình tránh khỏi rồi thuận tay ném trả lại một ám khí.

Triệu-Bán-Sơn vừa nghiêng mình tránh khỏi thì Phương-Long-Tuấn lại vung hai tay phóng tiếp 6 quả tậc lê theo phương pháp ‘Liên hoàn kích’, chia làm hai phía tiến thẳng tới.

Triệu-Bán-Sơn cười nhạt nói:

-Thế càng hay!

Dứt lời, Triệu-Bán-Sơn, lấy ra một ít ‘Phi hoàn thạch’ và một mũi ‘Thiết liên tử’, gạt 5 quả tậc lê và đưa hai ngón tay kẹp lấy quả tậc lê thứ 6 và đút vào túi. Kế đến, ông ta dùng ba mũi ‘Kim tiền tiêu’ nhắm vào ba huyệt ‘Thần-kinh, Thiên-trì, Huyết-hải’ của Phương-Long-Tuấn mà phóng tới.

Phương-Long-Tuấn vội vàng nhảy sang chiếc thuyền bên cạnh để tránh thoát. Hai chân của hắn chưa kịp chạm xuống dưới thì Triệu-Bán-Sơn đã phóng thêm một mũi ‘Dương thủ tiễn’. Phương-Long-Tuấn hụp đầu xuống né tránh thì ám khí kia bỗng chui tọt vào tay áo của Triệu-Bán-Sơn và một mũi ‘Hồi long bích’ xẹt tới. Trong lúc Phương-Long-Tuấn còn đang hoang mang, Triệu-Bán-Sơn lại bồi thêm ba ngọn ‘Bồ đề tử’ nhắm vào hai huyệt ‘dương bạch’ và ‘hồn môn’.

Mọi người sau đó thấy Phương-Long-Tuấn ngã xuống như sung rụng, toàn thân mềm nhũn ra như một con tôm bị luộc. Đám thủ hạ của Càn-Long trông thấy thế không khỏi thất kinh, lạc cả hồn vía. Chữ-Viên, một thị vệ khác thấy vậy liền tuốt kiếm nhảy vào trợ lực cho đồng bọn.

Nguyên ba người Bạch-Chấn, Chữ-Viên và Phương-Long-Tuấn rất nổi danh, được gọi là ‘Bắc-Kinh Tam Anh’, nay thấy một người trong bọn bị cường địch hạ nhục như vậy thì không khỏi tức giận. Chữ-Viên không đắn đo lập tức xông ra, nhưng Bạch-Chấn không dám khinh xuất, phải bám sát lấy vua Càn-Long để mà bảo vệ.

Chữ-Viên vốn là một hòa thượng xuất gia với pháp danh là Trí-Viên. Sau vì phạm luật nhà chùa mà bị tước hết độ-điệp, phải hoàn tục, mới lấy tên là Chữ-Viên. Hắn luyện được ‘Đạt-Ma-Kiếm’ rất lợi hại, đã đánh bại rất nhiều cao thủ võ lâm, gây nên không biết bao nhiêu là thù oán. Sau đó, hắn theo đầu Mãn-Thanh, được Càn-Long tín-nhiệm, dùng làm Ngự-tiền thị vệ...

Chữ-Viên vừa đáp xuống thuyền bên cạnh thì một người từ đâu cũng vừa phóng tới đứng trước mặt hắn. Nhanh như chớp, Chữ-Viên sử dụng một thế ‘Đại bình hoa’ chém ngay và người ấy. Kiếm chưa chém xuống, Chữ-Viên bỗng thấy mũi kiếm của người kia như đang chĩa thẳng tới đâm vào cổ tay hắn.

Chữ-Viên cả kinh, rút tay về theo một thế ‘Nghịch hoa’ khẽ gạt mũi kiếm kia rồi nhắm chân người kia đâm một cái. Người kia chẳng thèm né tránh, thuận đà đưa chân lên đá một cái trúng vào ngay cổ tay Chữ-Viên một cái khiến cho hắn cả kinh, suýt nữa thì buông rời kiếm khỏi tay. Người kia dùng bản kiếm vỗ nhẹ vào bả vai hắn một cái rồi đứng trước mũi thuyền cười ha hả.

Chữ-Viên lùi lại đàng sau mấy bước tức giận quát hỏi:

-Ngươi là ai?

Người kia cười đáp:

-Là một người bắt trước ngươi để múa kiếm đó thôi! Mà ngươi quả thật không biết ta là ai hả?

Mọi người đều nhận ra đó là Vô-Trần Đạo-Nhân, giang hồ đệ nhất kiếm khách!

Chữ-Viên liền xoay kiếm tung ra chiêu ‘Kim-Cang phục hổ’ rồi kế đến lại sử tiếp chiêu ‘Cửu phẩm liên đài’. Vô-Trần Đạo-Nhân đỡ gạt một cách dễ dàng như chẳng chút phí sức miệng nói:

-Kiếm pháp của ngươi sử dụng rất đúng. Nhưng nhớ đánh tiếp chiêu ‘Kim-Luân độ kiếp’ nhé!

Tiếng nói của Vô-Trần Đạo-Nhân vừa dứt thì quả nhiên Chữ-Viên tung ra chiêu ‘Kim-Luân độ kiếp’.

Chữ-Viên hết sức kinh ngạc tự nhủ:

-Làm sao y có thể biết trước được chiêu thế của ta như vậy?

Đang thắc mắc thì Vô-Trần đâm luôn hai nhát cả bên tả lẫn hữu, miệng tươi cười nói:

-Ngươi mau sử dụng hai thế ‘Phù khâu áp trục’ và ‘Hồng khuôn yểm mị’ mới mong chống đỡ nổi!

Vô-Trần Đạo-Nhân vừa dứt lời thì Chữ-Viên cũng vừa dùng hai thế kiếm như ông đã nói để mà chống lại.

Chữ-Viên càng lúc càng hoang mang kinh sợ. Hắn có cảm tưởng như địch thủ đang bỡn cợt với hắn mà thôi, chứ nếu muốn ra tay lấy mạng hắn thì quả thật là chuyện dễ như lấy đồ trong túi.

Vô-Trần Đạo-Nhân lại la lớn:

-Ta sẽ dượt cho mi thế ‘Tiên nhân chi lộ’. Nhớ phải dùng thế ‘Hồi đầu thị ngạn’ mà đỡ không thì mất mạng đấy nhé!

Bị Vô-Trần đùa giỡn như một đứa con nít, Chữ-Viên bỗng tự ái định dùng chiêu thế khác mà đối địch nhưng khổ thay, kiếm chiêu của Vô-Trần bắt buộc hắn phải sử dụng những chiêu của ông ta nói trước...

Lúc bấy giờ, Triệu-Bán-Sơn đã nắm gọn Phương-Long-Tuấn trong tay. Ông ta nhấn mạnh vào ‘Thái-dương huyệt’ của hắn một cái. Hắn co người lại, mồ hôi nhỏ ra từng giọt như vì sĩ khí nên không dám lên tiếng kêu la, sợ mất mặt. Từ-Thiện-Hoằng cả giận chĩa mũi kiếm vào thiên linh cái của hắn, nhưng hắn vẫn cắn răng mà chịu, chứ nhất định không giao thuốc giải.

Trong khi đó, Vô-Trần Đạo-Nhân dùng thế ‘Tiên-Nhân chỉ bộ’, bắt buộc Chữ-Viên phải dùng thế ‘Hồi đầu thị ngạn’ để chống đỡ là có ý ngầm bảo cho hắn hãy lui về đừng đấu nữa, coi trận đấu như hòa. Ông ta là người tu hành, và biết Chữ-Viên một lần nào đó trong quá khứ cũng đã xuất gia đầu Phật nên muốn dùng Phật pháp mà khuyên hắn.

Vô-Trần Đạo-Nhân nhanh tay tra kiếm lại vào vỏ trong khi Chữ-Viên ngẩn người ra không biết nên xử trí ra sao.

Vô-Trần Đạo-Nhân bỗn lại lên tiếng:

-Ta dùng thế ‘Đương đầu bồng cát’, ngươi mau sử dụng thế ‘Hoàng giang phi độ’ mới tránh được nguy hiểm.

Lưỡi kiếm của Vô-Trần sau đó đã rút ra khỏi vỏ nhắm bả vai Chữ-Viên chém xuống. Chữ-Viên uốn mình, đưa lưỡi kiếm lên gạt đúng theo thế ‘Hoàng gia phi độ’ trong Đạt-Ma Kiếm-Pháp.

Vua Càn-Long mặc dù không biết võ nghệ, nhưng nãy giờ nhìn thấy hai người so kiếm cũng hiểu rõ được mọi chuyện. Nhà vua có cảm tưởng như đây là một màn dượt võ của sư phụ truyền dạy đệ tử chứ không phải là một cuộc tỉ thí.

Vua Càn-Long kinh hãi nghĩ thầm:

-“Chữ-Viên là một kiếm thủ bậc nhất trên võ lâm mà so với người ngày thật chẳng bằng một đứa con nít!”

Đó chẳng qua là vì vua Càn-Long chưa bao giờ nghe danh của Vô-Trần Đạo-Nhân! Vì vậy xưa nay nhà vua vẫn tin tưởng rằng Chữ-Viên là tay kiếm có một không hai trên đời. Nhưng sự thật hiển nhiên đang phơi bày ra trước mặt, có muốn chối bỏ cũng không xong.

Nghĩ vậy, vua Càn-Long hết sức bực bội, gọi Bạch-Chấn nói:

-Còn đấu làm gì cho thêm xấu hổ! Mau kêu hắn dừng tay mà lui về!

Bạch-Chấn tuân lệnh nhảy tới mũi thuyền nói:

-Chữ huynh! Chủ nhân gọi anh về!

Lời ấy khác nào là cứu cánh cho Chữ-Viên. Hắn bị Vô-Trần Đạo-Nhân đùa giỡn thì ấm ức vô cùng. Biết đấu thì không xong, mà lui thì sợ mất mặt. Bây giờ Bạch-Chấn lên tiếng bảo có lệnh rút thì thật là cơ hội tốt vô cùng.

Chữ-Viên đang định lui ra khỏi vòng chiến trở về bỗng có tiếng Vô-Trần Đạo-Nhân quát lớn:

-Lúc nãy ta mở đường cho ngươi chạy thì ngươi lại quyết sống mái với ta. Bây giờ ta đã thay đổi ý định rồi thì lại đòi rút hả? Đâu có phải là muốn đấu là đấu, muốn lui là lui đâu!

Dứt lời, Vô-Trần Đạo-Nhân vung kiếm lên. Muôn đạo kiếm quang như vây phủ lấy Chữ-Viên. Hắn hoa cả mắt lên, nhưng không dám liều mạng thoát thân.

Thấy Chữ-Viên hết đường tẩu thoát, Bạch-Chấn tunh mình lên nhảy vào giữa hai người, duỗi thẳng năm ngón tay định chụp lấy cổ tay của Vô-Trần Đạo-Nhân.

Vô-Trần Đạo-Nhân thấy vậy liền xoay mũi kiếm nhắm Bạch-Chấn đâm một mũi. Bạch-Chấn dùng hai ngón tay cứng như théo lấy lưỡi kiếm của Vô-Trần Đạo-Nhân, tay kia chộp lấy bả vai của Vô-Trần Đạo-Nhân. Vô-Trần Đạo-Nhân lùi lại một bước tránh khỏi thì Bạch-Chấn lại tung ra một chưởng đánh mạnh vào người Nhị đương-gia.

Vô-Trần Đạo-Nhân vừa tránh khỏi được chưởng phong thì Bạch-Nhân đã nhanh nhẹn nhảy đến dùng Ưng-Trảo-Công chộp được cổ tay của Vô-Trần Đạo-Nhân.

Thấy Bạch-Chấn lợi hại như thế, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đứng ngoài lược trận không khỏi kinh hãi. Vừa lúc đó, mọi người thấy Vô-Trần Đạo-Nhân giơ chân trái lên đá một cước vào ngay hạ bàn của Bạch-Chấn.

Đang định cướp đoạt thanh kiếm trên tay địch thủ, Bạch-Chấn không ngờ đối phương ra chiêu thần tốc như vậy liền dùng tung chân phải lên chặn lại. Nào ngờ, ngọn cước kia chỉ là hư chiêu. Bạch-Chấn vừa giơ chân lên bỗng nhiên Vô-Trần Đạo-Nhân khẽ tung mình lên dùng chân phải bồi thêm một cước.

Bạch-Chấn vội buông cổ tay địch thủ ra, lùi lại sau mấy bước. Vừa lúc ấy, gót chân trái của Vô-Trần Đạo-Trân lại tung lên quạt ra sau một vòng quất ngay vào bắp chân của Bạch-Chấn. Chỉ nghe Bạch-Chấn ‘ối’ một tiếng rồi cả thân hình hắn ngã xuống hồ...

Trong khi đó, Chữ-Viên thừa lúc Bạch-Chấn giao phong với Vô-Trần Đạo-Nhân mà thoát thân, nên đã trở về đứng sau lưng Càn-Long.

Bỗng nhiên, Ngọc-Như-Ý phá lên cười sặc sụa khiến co Chữ-Viên ngơ ngác chẳng hiểu gì cả. Y ngước mặt lên nhìn thì thấy vua Càn-Long cau mày, nhăn mặt, tỏ vẻ bực bội vô cùng. Trần-Gia-Cách thì tủm tỉm, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội người nào cũng để hở hai hàm răng, còn đám người bên hắn thì trợn tròn há hốc.

Một ngọn gió lướt nhẹ qua. Chữ-Viên cảm thấy thân thể mình lành lạnh, khẽ cúi đầu nhìn xuống. Lúc đó Chữ-Viên mới giật mình, khám phá ra là áo quần của hắn rách tơi tả như bươm, lòi cả thịt ra ngoài.

Ngọc-Như-Ý lúc ấy rút ra một cái gương, khẽ đưa gần về phía Chữ-Viên. Nhìn thấy hình dung mình trong tấm gương, Chữ-Viên thật dở khóc dở cười, thẹn thùng cơ hồ muốn độn thổ! Đầu tóc của hắn thì như bị ai cạo đi hết một nửa. Râu thì một bên có, một bên không. Tất cả lông mày thì đều nhẵn nhụi, tạo cho hắn một hình thù quái dị, người chẳng ra người, mà ngợm cũng chẳng ra ngợm.

Lúc bấy giờ hắn mới hiểu rằng trong khi giao đấu, Vô-Trần Đạo-Nhân không nỡ giết hắn nhưng lại cố tình chém rách nát hết quần áo của y cũng như gọt hết chân mày, râu tóc cạo mỗi bên một nửa.

Chữ-Viên vừa căm hận, vừa xấu hổ. Y thầm nghĩ giá mà lúc nãy Vô-Trần Đạo-Nhân thí cho hắn một lưỡi gươm cho lìa đời có lẽ còn dễ chịu hơn phải đương đầu với hoàn cảnh như thế này.

Chưa biết phải dấu mặt đi chỗ nào thì một cơn gió lại thổi đến làm quần hắn tụt xuống, vì dây lưng đã bị kiếm của Vô-Trần cắt đứt từ hồi nào. Chữ-Viên hoảng hốt đưa hai tay chụp vội lấy quần. Nhưng chụp lại được lưng quần thì thanh bảo kiếm trên tay lại rớt thẳng xuống hồ.

Một tay giữ quần, một tay đưa ra cố chụp lại thanh kiếm, Chữ-Viên mất luôn thăng bằng lao thẳng xuống mặt nước. May mắn cho hắn là lúc đó Bạch-Chấn vừa mới từ dưới hồ lên lại thuyền, thân hình ướt như chuột lột, trông thấy đưa tay níu lại. Cả hai loi ngoi, trông hết sức thểu não. Tiếng cười vang lên như vỡ cả con thuyền.

Thấy đám bộ hạ cao thủ mình bị đám hào kiệt Hồng Hoa Hội hạ nhục, dùng làm trò đùa tiêu khiển, vua Càn-Long vừa thẹn lại vừa sợ; thầm nghĩ rằng nếu còn tiếp tục kéo dài cuộc tỉ thí thì không biết sẽ còn phải gánh thêm bao nhiêu thảm bại ê chề nữa!

Nhưng vua Càn-Long quả là một người có chí lớn, hành sự bao giờ cũng sâu sắc, biết cân nhắc điều lợi hại. Khi nhìn thấy rõ được chân tài của đám hào kiệt Hồng Hoa Hội, nhà vua không những quên hết cả giận hờn mà còn đem lòng mến phục, trong bụng thật tình muốn chiêu mộ hơn là tìm cách hạ sát tất cả để trả thù.

Nghĩ vậy, vua Càn-Long ôn tồn nói với Trần-Gia-Cách:

-Các bằng hữu của huynh đài đây toàn là những bậc kỳ tài trong thiên hạ. Sao huynh đài không vì triều đình đem sức phò tá để tạo cho mình một sự nghiệp hiển hách, lưu danh muôn thuở, làm rạng rỡ tổ tông mà lại đành tâm để cho bao nhiêu nhân tài hữu dụng như vậy để chôn vùi trong chốn lục lâm thảo khấu, làm uổng phí đi cả một đời? Thật là đáng tiếc vô cùng!

Trần-Gia-Cách mỉm cười đáp:

-Huynh đào chưa hiểu rõ nên mới dạy như thế. Cũng như tiểu đệ, đám anh em bằng hữu này cũng không thích bị trói buộc bời công danh mà chỉ ưa thích một cuộc sống nay đây mai đó, vui với trời rộng sông dài. Tuy nhiên, lòng huynh đã đoái tưởng, đệ cũng xin thử bàn lại với các anh em xem sao.

Vua Càn-Long nói:

-Nếu thế cuộc vui đêm nay cũng tạm kể như là thỏa mãn. Đêm cũng đã gần tàn, đệ xin được cáo từ tại đây.

Dứt lời vua Càn-Long nhìn sang thuyền bên cạnh. Trần-Gia-Cách hiểu ý, gọi lớn:

-Triệu tam ca! Anh mau thả Phương-Long-Tuấn, tùy tùng của Đông-Phương tiên sinh về đi!

Lạc-Băng đứng trước mũi thuyền nói lớn:

-Không thể như vậy được! Trừ khi hắn chịu đưa thuốc giải ra để cứu Tâm-Nghiện.

Dứt lời, Lạc-Băng bơi thuyền đến sát du đĩnh của Trần-Gia-Cách. Vua Càn-Long rỉ tai Lý-Khả-Tú nói mấy câu rồi lên tiếng gọi Phương-Long-Tuấn:

-Ngươi mau đưa thuốc giải ra để cứu người!

Phương-Long-Tuấn đáp:

-Kẻ tiểu nhân cam chịu tội chết vì thuốc giải độc để lại kinh, không có đem theo trong mình.

Vua Càn-Long khẽ nhíu mày, chẳn nói chẳng rằng. Trần-Gia-Cácnh vẫn điềm tĩnh nói:

-Triệu tam ca! Cứ thả ra đi!

Triệu-Bán-Sơn còn đang do dự thì Từ-Thiện-Hoằng cười nói:

-Tam ca! Anh mau đưa hai quả tậc lê anh lấy được cho đệ.

Mặc dù chưa biết rõ ý định của Từ-Thiện-Hoằng, Triệu-Bán-Sơn cũng chẳng cần thắc mắc, lấy ngay hai quả tậc lê đưa cho chàng.

Cầm hai quả tậc lê, Từ-Thiện-Hoằng vén áo Phương-Long-Tuấn lên mỗi tay ấn ba mũi vài hai bên ngựa hắn. Phương-Long-Tuấn thét lên:

-Chết tôi! Chết tôi!

Thi hành xong thủ đoạn, Từ-Thiện-Hoằng trao trả hai quả tậc lê lại cho Triệu-Bán-Sơn. Sau đó, chàng hướng sang du đĩnh của Trần-Gia-Cách nói:

-Xin Lục công tử làm ơn cho xin vài chung rượu để anh em chúng ta cùng uống kết tình giao hữu với Phương đại hiệp để ông ta theo Đông-Phương tiên sinh về cho kịp.

Trần-Gia-Cách cười đáp:

-Hay lắm!

Lúc đó Ngọc-Như-Ý đã rót đầy ba chung rượu. Trần-Gia-Cách gọi Triệu-Bán-Sơn:

-Triệu tam ca! Rượu đây!

Dứt lời, Trần-Gia-Cách lần lượt cầm ba chung rượu ném sang. Triệu-Bán-Sơn đưa tay bắt lấy đủ ba chung mà không đổ ra ngoài một giọt nào.

Từ-Thiện-Hoằng bưng một chung rượu đến trước mặt Phương-Long-Tuấn, mặt tươi cười nói:

-Xin mời Phương gia hãy uống cạn chung rượu này vói chúng tôi.

Lúc ấy, 6 vết thương trong người Phương-Long-Tuấn bị Từ-Thiện-Hoằng thích vào hành y đau nhức vô cùng. Vừa ngửi thấy mùi rượu, mắt mày y tái xanh, không dám nhìn.

Từ-Thiện-Hoằng cười nhạt nói:

-Uống đi chứ! Khách sáo làm gì? Chẳng lẽ Phương đại hiệp khinh rượu của chúng tôi dở hay sao?

Ngón tay cái và ngón tay trỏ Từ-Thiện-Hoằng bóp chặt mũi của Phương-Long-Tuấn, còn ngón giữa và ngón út nhấn mạnh hai bên quai hàm, buộc hắn phải há miệng ra. Sau đó, Từ-Thiện-Hoằng cầm hai chung rượu đổ vào miệng hắn.

Bọn thị vệ nhìn sang, thấy Phương-Long-Tuấn bị Từ-Thiện-Hoằng hành hạ thì tức giận vô cùng, muốn nhảy sang giết chết ngay Từ-Thiện-Hoằng. Nhưng khi nhìn thấy Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn đứng bên cạnh bảo vệ thì tên nào cũng thấy rờn rợn, không dám hó hé gì cả.

Rượu vừa qua khỏi cổ, các thớ thịt bị độc tậc lê đâm phải tím bầm lại, Phương-Long-Tấn như mê, như thiếp đi. Từ-Thiện-Hoằng đưa tay điểm huyệt. Phương-Long-Tuấn từ từ mở mắt ra nhìn, miệng thốt lên lời năn nỉ yếu ớt:

-Mau giải huyệt cho tôi... Tôi sẽ đưa thuốc giải độc ra ngay!...

Triệu-Bán-Sơn cười gằn một tiếng, đưa ngón tay giải huyệt bế trú cho Phương-Long-Tuấn. Hắn móc túi lấy ra ba gói thuốc nhỏ nói:

-Uống bao màu đỏ... Bao màu đen xứt lên vết thương... Bao màu trắng dùng để rịt trước khi băng bó...

Hắn vừa dứt lời thì đã gục xuống hôn mê trở lại. Triệu-Bán-Sơn bảo Lạc-Băng làm theo lời dặn, lấy bao thuốc màu đỏ trộn với bao màu đen hòa với rượu cho Tâm-Nghiện uống rồi dùng bao màu đen rịt lên vết thương trên bả vai của Tâm-Nghiện. Không đầy bao lâu, máu bầm từ vết thương rỉ ra. Tâm-Nghiện khẽ trở mình, khẽ rên vài tiếng.

Thấy Tâm-Nghiện đã tỉnh lại, Triệu-Bán-Sơn lấy bao thuốc màu trắng rịt lên vết thương rồi băng bó lại cẩn thận. Tâm-Nghiện nhìn Triệu-Bán-Sơn, Từ-Thiện-Hoằng và Lạc-Băng như thầm cám ơn cứu mạng.

Triệu-Bán-Sơn cười nói:

-Giờ đây, em mới được xem là còn sống.

Từ-Thiện-Hoằng oán ghét Phương-Long-Tuấn là kẻ lòng dạ ác độc nên không muốn cứu, nhưng Triệu-Bán-Sơn lòng dạ nhân từ, thấy hắn đau đớn khổ sở thì động mối thương tâm, bảo Từ-Thiện-Hoằng dùng thuốc cứu chữa cho hắn.

Vô-Trần Đạo-Nhân cười nói:

-Tam đệ thật là có lòng dạ của bồ tát, lúc nào cũng thương người! Nhưng cứu cái hạng người này thì có khác gì cứu hổ lang để cho nó tiếp tục hại người! Nhưng thôi, không sao! Để ta cho hắn từ đây không bao giờ còn dùng ám khí để hại người được nữa.

Dứt lời, Vô-Trần Đạo-Nhân rút kiếm ra cắt đứt hai gân tay của Phương-Long-Tuấn. Từ-Thiện-Hoằng dùng thuốc cứu hắn tỉnh lại rồi giao đem sang du đĩnh giao cho Càn-Long và đám thị vệ.

Trần-Gia-Cách nói với vua Càn-Long:

-Mấy vị bằng hữu của tiểu đệ phần đông đều thô lỗ, không theo đúng lễ giáo. Mong huynh đài tha thứ cho chứ đừng chấp nhặt làm gì!

Vua Càn-Long phá lên cười nói:

-Hôm nay được chính mắt trông thấy võ công tuyệt diệu của các vị anh hùng hảo hán, thật là điều sung sướng nhất trên đời. Chừng nào có dịp, xin huynh đài nhớ ghé đến Bắc-Kinh cho đệ có dịp mở tiệc thết đãi, và nhớ đem tất cả các vị anh hùng ở đây cho vui. Giờ xin tạm biệt...

Trần-Gia-Cách nhìn đám hào kiệt Hồng Hoa Hội nói:

-Thuyền bè đã sẵn sàng để đưa Đông-Phương tiên sinh vào bờ chưa?

-Đâu đó đã chuẩn bị sẵn sàng!

Tàu từ từ nhổ neo tiến vào bờ. Khi tàu sắp sửa vừa cập vào bờ thì đột nhiên có một chiếc khoái đĩnh lướt như bay tới cản lại. Đứng trước mũi thuyền là một người trông như một trưởng giả dưới ánh trăng lờ mờ, tay cầm một lá cờ có hoa hồng màu đỏ như ra lệnh cho tài công chuẩn bị theo chiếc khoái đĩnh ra lại giữa hồ.

Lý-Khả-Tú liền đưa tù và lên thổi ba tiếng. Từ trong bóng tối, mấy trăm Ngự-lâm quân nhảy ra trước thuyền, chia ra làm hai nhóm hộ vệ. Một tên dắt ngựa quỳ xuống dâng sợi dây cương. Vua Càn-Long cầm lấy, bước lên yên đi giữa hai hàng Ngự-lâm quân. Trần-Gia-Cách và đám hào kiệt Hồng Hoa Hội cũng theo lên.

Vua Càn-Long ra khẽ dấu, Lý-Khả-Tú nhìn Trần-Gia-Cách quát lớn:

-Bọn ngươi trông thấy Hoàng-Thượng còn chưa chịu quỳ xuống là lễ bái kiến nữa à!

Lý-Khả-Tú vừa dứt lời thì hơn 1000 quân Thần-sánh dinh ùa đến bao vây Trần-Gia-Cách và đám hào kiệt Hồng Hoa Hội vào giữa.

Từ-Thiện-Hoằng vung cánh tay lên, hai cha con Mã-Thiện-Quân và Mã-Đại-Đình liền phóng lên hai trái lưu tinh hỏa pháo nổ lên hai tiếng ‘ầm! ầm!’.

Tiếng la ó khắp nơi vang lên như long trời lở đất làm chấn động cả một vùng. Dưới bóng, cây, trên nóc nhà, bên gầm cầu, trong hóc đá... nơi nào cũng có bóng người hiện ra. Những người ấy, ai ai cũng giắt trên đầu một đóa hoa hồng, tay cầm sẵn binh khí.

Trần-Gia-Cách vẫn bình tĩnh hơn bao giờ hết, trên miệng luôn luôn nở một nụ cười nhìn chung quanh. Từ-Thiện-Hoằng lớn tiếng gọi:

-Hỡi tất cả các anh em Hồng Hoa Hội trong tỉnh Hàng-Châu! Tổng-Đà-Chủ của chúng ta có mặt ở đây. Tất cả mau ra bái kiến!

Từng đoàn người kéo đến đông như kiến cỏ, cầm cờ và binh khí trông oai nghi hùng dũng vô cùng. Tất cả cùng nhau hô lớn:

-Tổng-Đà-Chủ muôn năm!

Đám Ngự-lâm quân và đội Thần-sách lắp tên vào cung sẵn sàng, binh khí tuốt khỏi vỏ, chờ lệnh tấn công. Lý-Khả-Tú lại thổi thêm một hồi tù-và. Tiếng vó ngựa vang rền dồn dập, đội quân Kỳ-Dinh trấn thủ Hàng-Châu ồ ạt kéo tới tập họp ở một góc phía Tây-Hồ.

Lý-Khả-Tú ngồi trên lưng ngựa chỉ huy một số thanh tướng, ra lệnh phân công cho các tướng, mỗi người lãnh trách nhiệm trông coi một hướng.

Vua Càn-Long ngơ ngác kinh hoàng, không ngờ số người phục sẵn ủng hộ Trần-Gia-Cách và Hồng Hoa Hội lại đông đến như vậy!

Trần-Gia-Cách sắc mặt vẫn không đổi khác, tiếp lấy dây cương do một tên Ngự-lâm quân trao cho, tung mình ngồi chễm chệ trên lưng ngựa, sánh bước đi song song với vua Càn-Long. Trần-Gia-Cách lấy một đóa hoa hồng thật lớn, lấp lánh hào quang gắn trên ngực. Đây là một đóa hoa hồng thật đặc biệt, kết toàn bằng kim tuyến và nhung tuyến. Chung quanh đóa hoa hồng có bốn chiếc lá xanh bằng ngọc bích. Nhụy hoa chính giữa là một viên dạ Minh-Châu. Dưới ánh đuốc lửa, đóa hoa hồng rực rỡ màu sắc, đẹp vô cùng. Đó là đóa hoa hồng đặc biệt, tượng trưng cho uy quyền và chức tước, chỉ dành riêng cho Tổng-Đà-Chủ mà thôi.

Một lá cờ của Hồng Hoa Hội theo gió bay lên giữa không trung. Ở chính giữa lá cờ có một hình đóa hoa hồng giống hệt như đóa hoa hồng đang gắn trước ngực Trần-Gia-Cách.

Hàng hàng lớp lớp người nghiêng mình làm lễ tham kiến vị Tổng-Đà-Chủ của họ. Tiếng tung hô vang dậy một trời.

Trong đội Kỳ-Dinh đang nghiêm trang bỗng thình lình xáo trộn. Từ trong đội ngũ, một số binh lính kéo ra, theo gương bang chúng Hồng Hoa Hội hô lớn:

-Tổng-Đà-Chủ muôn năm!

Luôn cả một số tướng lãnh cao cấp trong đội Kỳ-Dinh cũng đến trước đầu ngựa của Trần-Gia-Cách vòng tay khom lưng theo nghi thức của bang chúng Hồng Hoa Hội.

Sau đội Kỳ-Dinh lại đến hội Thần-sách. Từ tướng đến quân, bao nhiêu người tự động bỏ hàng ngũ để ra bái kiến Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội.

Cứ hết nhóm này đến nhóm khác, thay phiên nhau ra làm bổn phận bang chúng. Cấp chỉ huy không cách nào ngăn chặn nổi, chỉ biết đứng im lặng mà cúi đầu.

Trần-Gia-Cách cũng khiêm nhượng, giơ tay lên cao vẫy như đáp lễ lại tất cả mọi người ủng hộ mình.

Riêng các hội viên Hồng Hoa Hội trong đám dân chúng thì sau khi bái kiến Trần-Gia-Cách xong liền trở lại hàng ngũ chỉnh tề của mình theo trận thế Long-Môn của Từ-Thiện-Hoằng bày ra.

Vua Càn-Long chột dạ, nhận thức được ngay bên này mạnh, bên nào yếu. Chính nhà vua được chứng kiến tận mắt hơn phân nửa quan binh ra bái kiến Trần-Gia-Cách nên hết sức kinh hãi, nghĩ thầm:

-“Thế này thì quả thật là đáng sợ! Kẻ thù đã gài người của chúng vào ngay trong hàng ngũ của mình từ lâu mà nào có ai hay biết! Kế hoạch xếp đặt đã hư hỏng cả rồi, thật không thể nào thi hành được đêm nay rồi! Chi bằng ‘dĩ hòa vi quý là hơn’!”

Nghĩ như vậy, vua Càn-Long gọi Lý-Khả-Tú đến nói:

-Mau hạ lệnh bảo tất cả rút lui có trật tự.

Lý-Khả-Tú tuân lệnh, phóng lên ngựa thổi một hồi tù và. Nghe lệnh ban ra, hơn một vạn quân tản mác, cùng rút đi theo sự điều khiển của chủ tướng.

Từ-Thiện-Hoằng cũng phất cờ truyền lệnh:

-Tất cả các anh em Hồng Hoa Hội! Đêm nay chúng ta cùng nhau chịu cực. Sẽ gặp lại nhau vào nhiều dịp khác! Thay mặt Tổng-Đà-Chủ, tôi xin cám ơn tất cả anh em bang hội tại Hàng-Châu!

Tất cả bang chúng Hồng Hoa Hội đều đồng thanh hô lớn:

-Vạn tuế Tổng-Đà-Chủ! Anh em thành Hàng-Châu chúng tôi xin kính chúc Tổng-Đà-Chủ cùng các vị đương-gia được nhiều sức khỏe để tiếp tục lèo lái Hồng Hoa Hội trên đường cứu quốc. Đêm nay tạm biệt, nhưng sẽ còn nhiều dịp gặp gỡ sau!

Vua Càn-Long cũng vẻ mặt tươi cười, nhìn Trần-Gia-Cách nói:

-Thôi! Xin tạm biệt nơi đây! Ngày sau sẽ còn nhiều dịp gặp gỡ!

Dứt lời, vua Càn-Long rong ngựa về phía dinh Tuần-Vũ Hàng-Châu. Trần-Gia-Cách cười lên một tràng sảng khoái, quay trở lại thuyền, bày tiệc ‘ăn mừng chiến thắng’.

Mọi người ăn uống vui vẻ, tâm tình cởi mở, vô cùng sảng khoái. Từ-Thiện-Hoằng nói với Mã-Thiện-Quân:

-Mã đại ca! Đêm nay Càn-Long bị một vố đau quá! Nhưng chắc chắn y không chịu bỏ qua đâu! Theo tôi nghĩ thì anh nên thận trọng trong những ngày tới, bảo tất cả anh em trong tỉnh Hàng-Châu phải hết sức cẩn thận, nhất là những người nằm vùng trong hàng ngũ của Lý-Khả-Tú cần phải được bảo vệ kỹ lưỡng không thì bị chúng ám toán hết. Trước khi để Lý-Khả-Tú có cơ hội ra tay, Mã đại ca nên rút tất cả anh em về Thái-Hồ là nơi có căn cứ vững vàng đủ sức bảo vệ thực lực.

Mã-Thiện-Quân hết lời khen ngợi, cho rằng kế hoạch của Từ-Thiện-Hoằng quả là thượng sách. Mọi người ngồi uống thêm vài chung rượu nữa mới chịu chia tay từ giã nhau để đi sắp xếp mọi việc.

Trần-Gia-Cách uống cạn một chung rượu, khẽ gõ nhịp lên cây đàn thở dài. Trong lòng chàng bỗng cảm thấy buồn vời vợi...

Nhìn lên vòm trời thấy bóng nguyệt xế mành, những tàu lá phất phơ rọi xuống mặt hồ như bóng mơ huyền ảo, Trần-Gia-Cách chợt giật mình khinh hãi hỏi Từ-Thiện-Hoằng:

-Đêm nay là ngày mấy rồi? Mải say mê cuộc vui mà quên hết cả ngày tháng!

Từ-Thiện-Hoằng đáp:

-Đêm nay là 17. Tổng-Đà-Chủ quên rằng đêm trước chúng ta vừa mới thưởng thức Trung-Thu vui vẻ rồi sao?

Trần-Gia-Cách ngồi lặng thinh suy nghĩ rồi nói với mọi người rằng:

-Châu lão anh hùng cùng tất cả anh em! Đêm nay chúng ta lập được một chiến công rất oanh liệt. Chẳng những không bị mất mặt với Càn-Long mà còn dò được tin tức của Văn tứ ca. Mặc dù chưa cứu được tứ ca, nhưng chúng ta biết tứ ca vẫn bình yên là cũng yên tâm được phần nào rồi. Trời cũng đã gần sáng, xin các vị hãy về lại chỗ cũ mà tìm chỗ nghỉ ngơi dưỡng sức cho những công việc sắp tới. Ngày mai tôi có chút chuyện riêng cần giải quyết nên tạm thời phải vắng mặt. Hẹn đến chiều chúng ta sẽ gặp lại để bàn chuyện cứu Văn tứ ca.

Từ-Thiện-Hoằng hỏi:

-Chẳng hay Tổng-Đà-Chủ có cần anh em đi theo giúp đỡ gì không?

Trần-Gia-Cách nói:

-Không cần đâu! Tôi cần tìm một nơi vắng vẻ để luyện công. Chỉ cần vài khắc đồng hồ là xong. Cám ơn anh em đã có lòng lo lắng cho, nhưng thật chẳng có gì là quan trọng cả!

Thuyền vừa ghé vào bờ, Dương-Thanh-Hiệp, Vệ-Xuân-Hoa, Chương-Tấn cùng Tưởng-Tứ-Căn hơi rượu xuềnh xoàng, cười nói bất chấp sự thể ra sao. Trần-Gia-Cách nhìn tất cả mọi người đi thật xa mới chịu nhảy xuống một chiếc thuyền nhỏ, một mình bơi thuyền lướt trên mặt hồ trong như gương.

Thuyền ra giữa hồ, Trần-Gia-Cách buông mái chèo xuống, ngước mặt lên nhìn trăng mà hồn ngơ ngẩn, và hai hàng lệ bỗng trào xuống...

Nguyên ngày 18 tháng 8 là ngày Từ-thị, mẹ ruột của Trần-Gia-Cách chào đời, năm nào cũng lấy ngày này làm ngày ăn mừng sinh nhật.

Trần-Gia-Cách xa mẹ đã hơn 10 năm, lần này trở về Giang-Nam thì bà ta đã ra người thiên cổ.

Nhớ tới gương mặt hiền từ của thân mẫu những lúc vui cười, Trần-Gia-Cách như đứt từng khúc ruột. Lại nghĩ đến giờ phút lâm chung không được gặp mặt mẹ, Trần-Gia-Cách lại càng thêm đau khổ. Nỗi sầu hận ấy biết làm sao mà nói hết cho được!

Mới ngày nào còn xum họp, nay Âm-Dương thình lình chia lìa đôi ngã, muốn đi tìm mẹ để gặp mặt một lần cũng không được. Nghĩ đến đây, Trần-Gia-Cách không sao dằn lòng được, lớn tiếng khóc rống lên. Tiếng khóc bi thảm như vang lại bên tai giữa mặt hồ im lặng như tờ...

Trong lúc tiếng khóc nức nở của Trần-Gia-Cách vang lên thì bỗng nhiên có tiếng cười nhẹ nhàng theo cơn gió thoảng từ đâu dư âm lại. Trần-Gia-Cách giật mình, ngừng ngay tiếng khóc quay lại nhìn, thấy một chiếc thuyền nhỏ đang lướt tới.

Trên thuyền là một người mặc áo dài màu tro bạc màu, hai tay vòng lại hướng sang phía Trần-Gia-Cách nói:

-Tại hạ họ Lý. Không hiểu vì sao đêm khuya vắng vẻ, Trần công tử lại có hứng một mình thưởng nguyệt?

Dưới ánh trăng, Trần-Gia-Cách nhận ngay ra là đồ đệ của Lục-Phỉ-Thanh. Chàng lậo tức lau vội hai hàng lệ, vòng tay lại đáp lễ.

-Chẳng hay Lý đại ca tìm tiểu đệ có điều chi dạy bảo?

Lý-Mộng-Ngọc trong lớp cải nam trang nhảy qua thuyền Trần-Gia-Cách nhìn chàng cười nói:

-Trần đại ca muốn biết tin tức của người bạn với ngoại hiệu Kim-Địch Tú-Tài kia chứ?

Trần-Gia-Cách giật mình kinh hãi nói:

-Mời Lý đại ca tạm ngồi xuống đây rồi chúng ta nói chuyện cho rõ ràng hơn.

Lý-Mộng-Ngọc nở một nụ cười tình tứ, ngồi xuống gần mạn thuyền, khẽ lấy tay nghịch nước như một đứa trẻ, dường như e lệ... Bóng trăng rọi xuống mặt hồ, bị giao động dữ dội như vỡ thành trăm ngàn mảnh.

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Lý đại ca đã gặp người bạn họ Dư của tiểu đệ ở đâu? Hiện giờ y thế nào?

Lý-Mộng-Ngọc cười đáp:

-Điều ấy tôi biết rất rõ, chỉ là không nói được đó thôi!

Trần-Gia-Cách sững sờ, buồn cười nghĩ thầm:

-“Thằng nhỏ này thật là nghịch ngợm là lì lợm. Giọng nói thì nũng nịu y như con gái chưa chồng thẹn thùng trước một chàng trai chưa vợ vậy.”

Hôm nọ Lý-Mộng-Ngọc trông thấy Tiêu-Thanh-Đồng tỏ tình âu yếm với Trần-Gia-Cách, giờ đây nhớ lại tự nhiên thấy như cơn ghen tức trào lên. Chính nàng cũng không hiểu tại sao mình lại có cảm giác lạ lùng như vậy...

Nghịch nước một hồi, Lý-Mộng-Ngọc đưa tay lên vẩy mấy cái rồi nhìn thẳng vào mặt Trần-Gia-Cách. Thấy cặp mắt chàng đỏ hoe, lệ vẫn chưa ráo, Lý-Mộng-Ngọc lấy làm lạ nói:

-Ủa! Anh khóc đấy à? Lúc nãy tôi có nghe tiếng khóc nhưng không ngờ người khóc lại chính là anh!

Trần-Gia-Cách nghe nói liền quay mặt đi nơi khác. Động lòng thương xót, Lý-Mộng-Ngọc xuống giọng, dịu dàng nói:

-Chắc anh đang nhớ đến hai người bạn thân tình là Văn tứ ca và Thập-tứ ca lắm. Thôi, để tôi nói rõ cho anh nghe cho yên tâm. Cả hai đều bình an cả, không có chi phải lo sợ hết.

Trần-Gia-Cách nghe nói như vậy thì có vẻ khó chịu, tự nói thầm:

-“Điều đó ta đã biết rồi, đâu cần nhà ngươi phải báo cáo!”

Trần-Gia-Cách định hỏi cặn kẽ đầu đuôi nhưng lại cho rằng ‘thằng nhỏ’ này chỉ thích nghịch ngợm cợt nhả, cố ý trêu tức mình nên lại thôi. Chàng ngồi buồn bã, mắt nhìn về một chân trời vô định.

Lý-Mộng-Ngọc hỏi:

-Còn sư phụ tôi thế nào? Người cũng đã về Hàng-Châu rồi chứ?

Trần-Gia-Cách nghe hỏi ngạc nhiên, hỏ lại:

-Ủa? Lục lão tiền bối không đi cùng đường với Lý huynh sao?

Lý-Mộng-Ngọc đáp:

-Lẽ dĩ nhiên là không rồi! Chiều hôm kịch chiến ở sông Hoàng-Hà, tôi nào có thấy Lục sư phụ ở đâu!

Trần-Gia-Cách nói:

-Lục lão tiền bối võ nghệ trác tuyệt, không ai hại nổi đâu. Lý huynh không việc gì phải lo cả!

Lý-Mộng-Ngọc hỏi:

-Lực lượng Hồng Hoa Hội các anh thật là rộng lớn, sao không cho người đi tìm Lục sư phụ của tôi?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Lời Lý huynh không sai, sáng mai tôi sẽ lập tức cho người đi tìm Lục lão tiền bối ngay.

Trầm ngâm giây lâu, Lý-Mộng-Ngọc nói:

-Theo lời Dư huynh nói lại với tôi thì võ nghệ của Trần đại ca cao siêu tột đỉnh nhưng tôi không mấy gì tin. Anh nói sư phụ tôi võ nghệ trác tuyệt, vậy so với anh thì ai hơn, ai kém?

Trần-Gia-Cách thấy Lý-Mộng-Ngọc nghĩ sao nói vậy, đụng đâu nói đó thì không khỏi bật cười, nói:

-Lục lão tiền bối là bậc cao thủ hiếm có trong võ lâm, tôi chỉ đáng liệt vào hàng đệ tử. Giả sử tôi chính thức xin làm môn sinh cũng chưa chắc được Lục lão tiền bối thâu nhận vì đồ đệ của Lục lão tiền bối phải là hạng thông minh, vô cùng lanh lợi.

Lý-Mộng-Ngọc cười nói:

-Thôi đi! Đừng tâng bốc kẻ khác! Chính tôi đã trông thấy mấy chung rượu bay đi bay lại trên thuyền thì cũng đủ biết nội công tuyệt kỹ rồi. Chẳng qua thấy người trong Hồng Hoa Hội cho đến cả những bậc tiền bối ai nấy đều tôn kính cho nên tôi mới có chỗ không phục đó thôi!

Thấy Lý-Mộng-Ngọc tính khí như trẻ con, giọng nói nhõng nhẽo như phái nữ, Trần-Gia-Cách cười nói:

-Trời sắp sáng rồi. Tôi có việc phải đi. Thôi! Để lần khác gặp lại hãy nói chuyện nhiều hơn nhé!

Trần-Gia-Cách đang định chèo thuyền vào bờ thì Lý-Mộng-Ngọc tỏ vẻ không vui nói:

-Dầu được tất cả mọi người kính phục nhưng đối với tôi cũng đừng nên quá kiêu ngạo như vậy!

Trần-Gia-Cách bực mình, nhưng hiểu vào địa vị của mình không thể lộ vẻ tức giận được nên lặng tinh chèo thuyền vào lại. Lý-Mộng-Ngọc cười nói:

-Anh không phải là người nghĩa khí! Người nghĩa khí đâu có tìm nơi vắng vẻ mà khóc tỉ tê?

Trần-Gia-Cách vẫn lặng thinh, kể mặc kệ cho Lý-Mộng-Ngọc tha hồ nói khích. Lý-Mộng-Ngọc nói tiếp:

-Tôi muốn nói một chuyện cần! Tại sao anh không chịu nghe?

Trần-Gia-Cách chưa biết phải trả lời như thế nào thì lại nghe Lý-Mộng-Ngọc nói:

-Thật là kỳ! Người ta đem cho một nguồn tin quan trọng thì trên nguyên tắc phải cầu khẩn thì họa may người ta mới nói cho nghe! Đàng này cứ im thin thít, thậm chí còn không chịu hỏi lấy một câu! Thôi, khỏi cần nói nhiều làm gì nữa. Có muốn cứu Văn tứ ca hay không thì nói phứt ra đi, để người ta còn về!

Trần-Gia-Cách cau mày nói:

-Ai có bản lãnh hơn tôi mà đảm đương nổi công việc ấy chứ?

Lý-Mộng-Ngọc nói:

-Đừng tưởng lầm! Việc kẻ khác làm được mà mình phải bó tay thì nên năn nỉ lắm chứ! Còn muốn thử bản lãnh thì xin mời!

Nói dứt lời, Lý-Mộng-Ngọc rút thanh bảo kiếm đeo sau lưng ra. Trần-Gia-Cách trong lòng hết sức hoang mang không biết thế nào. Biết Lý-Mộng-Ngọc là đệ tử của Lục-Phỉ-Thanh cho nên chàng đành nhịn. Nhưng nhớ lại người này đứng sau lưng Càn-Long hộ vệ thì hẳn là thù chứ không thể là bạn.

Nhưng rồi Trần-Gia-Cách lại nghĩ:

-“Tuy cùng trong hàng thị vệ, nhưng hắn ta hiền lành chứ không gian ác như bọn kia. Đã thế, hắn ta còn có một nụ cười bí mật như ngầm bảo ta đừng làm lộ tung tích của hắn với Càn-Long. Biết đâu hắn có tâm sự gì khó nói? Biết đâu hắn thật tình muốn ám trợ Hồng Hoa Hội chứ không phải là người đứng trong hàng ngũ kẻ thù? Hơn nữa, Lục lão tiền bối là người thận trọng, ắt không bao giờ thâu nhận kẻ gian ác làm đồ đệ đâu!”

Với bao nhiêu ý nghĩ quay quẩn trong đầu, Trần-Gia-Cách bèn lên tiếng hỏi:

-Kẻ nào đứng đàng sau lưng Hoàng-Đế là trá hàng (#5) hay cam tâm bán mình cho triều đình để đổi lấy quan chức?

Lý-Mộng-Ngọc đáp:

-Cả hai đều không đúng!

Trần-Gia-Cách lại hỏi:

-Hay là có người thân trong đám ‘tẩu cẩu’ Mãn-Thanh?

Lý-Mộng-Ngọc nghe Trần-Gia-Cách liệt thân phụ mình vào hạng ‘tẩu cẩu’ thì lửa giận bốc lên phừng phừng chĩa mũi kiếm vào ngay mặt Trần-Gia-Cách mắng:

-Ngươi chỉ là một đứa con nít mà hễ mở miệng ra là đã làm thương tổn danh dự người khác!

Dứt lời, Lý-Mộng-Ngọc nhắm Trần-Gia-Cách đâm thẳng vào ngực. Thấy Lý-Mộng-Ngọc tự nhiên động thủ, Trần-Gia-Cách biết chắc chắn rằng nàng có thân nhân làm quan với nhà Thanh chứ không còn hoài nghi gì nữa.

Trần-Gia-Cách không thèm né tránh, chỉ khẽ hít vào một hơi tức thì người của chàng như tép lại. Thấy gươm mình tựa như đâm vào một khối bông goòng, Lý-Mộng-Ngọc hết sức kinh hãi liền thâu kiếm về ngay tức khắc.

Lý-Mộng-Ngọc tung mình phóng lên ngọn thổ sơn ‘Tam-Đầm Ấn-Nguyệt’ lướt qua mặt hồ, đáp xuống nơi ghềnh đá cheo leo. Trần-Gia-Cách cũng tung mình nhảy theo. Trong lúc thân còn lơ lửng trên không, Trần-Gia-Cách thuận tay bẻ một nhánh liễu trước khi đáp mình xuống ghềnh đá.

‘Tam-Đầm Ấn-Nguyệt’ là ba hòn đá lớn chồng thành ba tòa nối liền nhau giữa Tây-Hồ, từ xa trông lại như ba hòn non bộ nổi lềnh bềnh giữa mặt hồ. Theo phong tục hàng năm, dân chúng thường đem giấy ngũ sắc dán vào các miệng hang đá mỗi dịp Trung-Thu. Lúc bấy giờ đã đã qua Trung-Thu nhưng giấy ngũ sắc vẫn còn. Bóng trăng xuyên qua hang đá rọi xuống hồ tạo nên cảnh vật với nhiều màu sắc lạ lùng trông rất đẹp mắt...

Lý-Mộng-Ngọc thấy Trần-Gia-Cách dùng cành liễu làm vũ khí đấu với mình thì kinh hãi vô cùng, biết bản lãnh chàng ta thuộc cao thủ thượng thặng. Nhắm vai trái Trần-Gia-Cách, Lý-Mộng-Ngọc liền dùng một thế ‘Phụng điểm đầu’ trong ‘Nhu-Vân Kiếm-Thuật’ chém sả tới, dùng cánh tay còn lại che trước ngực để bảo vệ các huyệt đạo...

Trần-Gia-Cách tránh khỏi lưỡi kiếm, dùng cành liễu đánh vào hậu tâm của Lý-Mộng-Ngọc theo thế ‘Ngọc đối vi yêu’.

Lý-Mộng-Ngọc vung kiếm lên đỡ lại. Nhưng cành liễu trong tay Trần-Gia-Cách sau đó tấn công liên tiếp không ngừng. Nhắm cụ không nổi, Lý-Mộng-Ngọc nhảy sang tảng đá bên kia để thoát thân, tay vung lên ba mũi ‘Phù dung châm’ nhắm Trần-Gia-Cách phóng tới.

Trần-Gia-Cách chỉ khẽ vung cành liễu một cái đã gạt được ba mũi ‘Phù dung châm’ xuống dưới dễ dàng.

Nhẹ như chiếc lá, Lý-Mộng-Ngọc chen vào trong mái hiên ‘Tiểu doanh châu’ nhìn Trần-Gia-Cách nói:

-Giờ đây tạm chia tay. Hẹn ngày gặp sau!

Trần-Gia-Cách gọi lớn:

-Huynh đài đã tặng ta ba ngọn ‘Phù dung’, vậy ta cũng xin tặng lại một món quà. hãy đón lấy!

Tiếng nói vừa dứt, Trần-Gia-Cách phóng mình theo Lý-Mộng-Ngọc quất nhẹ cành liễu vào hai gò má của nàng. Lý-Mộng-Ngọc thất kinh đưa lưỡi kiếm ra dùng thế ‘Bình hoa’ định chặt đứt cành dương liễu. Nhưng không ngờ kiếm vừa chạm vào cành dương liễu thì Lý-Mộng-Ngọc nghe cả cổ tay lẫn bàn tay như tê buốt hẳn lại, thanh kiếm tuột ra khỏi tay mà rớt xuống. Nàng chưa kịp định thần lại thì bàn tay của Trần-Gia-Cách lại vung tới điểm vào ngực mình.

Vừa sợ, vừa xấu hổ, Lý-Mộng-Ngọc vung tay lên gạt tay Trần-Gia-Cách qua một bên, không cho chạm vào thân thể mình. Không chút chậm trễ, Lý-Mộng-Ngọc phóng qua một bên nhìn Trần-Gia-Cách lớn tiếng mắng:

-Đường đường là một Tổng-Đà-Chủ mà lại có thủ đoạn đê hèn đến thế à? Thật là...

Nghe Lý-Mộng-Ngọc mắng, Trần-Gia-Cách ngơ ngác chẳng hiểu gì cả. Chàng liền cất tiếng hỏi:

-Ủa! Ta làm gì mà bảo là thủ đoạn đê hèn?

Lý-Mộng-Ngọc chợt nhớ ra mình đang cải nam trang nên Trần-Gia-Cách thật tình không biết chứ chẳng phải là chàng ta cố ý. Nàng giận dữ mà mắng chàng như thế thật cũng không phải. Hơn nữa, nếu mình còn cố chấp thì rất có thể bị hớ mà để lộ thân phận. Nghĩ vậy, Lý-Mộng-Ngọc tung mình vào trong ‘Tiểu doanh châu’.

Trần-Gia-Cách cúi xuống nhặt lấy thanh kiếm của Lý-Mộng-Ngọc rồi phóng mình đến trao cho nàng, thái độ cực kỳ hòa nhã, ôn nhu. Lý-Mộng-Ngọc đón lấy thanh kiếm tra vào vỏ rồi quay đầu chạy thẳng một mạch.

Trần-Gia-Cách xuống lại thuyền thì trời đã sáng. Chàng neo thuyền vào gần một gốc thùy dương rồi lên bờ nhắm hướng Đông đi thẳng tới...

Hồi 15a

Trở về tướng phủ nơi sinh trưởng

Gặp lại tri âm chốn miếu đường

Viên thủ-bị giữ cửa Đông thành Hàng-Châu thấy trời chưa sáng hẳn nên chưa mở cửa. Nhưng khi trông thấy Trần-Gia-Cách thì hai tay hắn chắp lại, cúi đầu hết sức cung kính rồi đích thân hé mở cánh cửa cho Trần-Gia-Cách đi qua. Trần-Gia-Cách khẽ gật đầu nhè nhẹ.

Viên thủ-bị ghé tai Trần-Gia-Cách hỏi nhỏ:

-Chẳng hay Tổng-Đà-Chủ có cần một con tuấn mã hay không?

Trần-Gia-Cách gật đầu đáp:

-Thế càng tốt!

Viên thủ-bị sốt sắng chạy lẹ, không bao lâu đã trở lại với một con ngựa Mông-Cổ cao lớn, lông đỏ chói. Phía sau, hai viên quan Mãn-Thanh bước tới cúi đầu kính cẩn thi lễ với Trần-Gia-Cách.

Trần-Gia-Cách sau đó bảo cả ba người:

-Cám ơn anh em! Nhưng làm ơn giữ bí mật hộ và xin đừng đón tiếp như thế này nữa, nguy hiểm lắm. Thôi, bảo trọng!

Ra khỏi thành Hàng-Châu, Trần-Gia-Cách đi thêm chừng chục dặm nữa đến cửa Tây tỉnh Hải-Ninh.

Xa nhà thấm thoát đã hơn 10 năm, nay về lại quê cũ thấy cảnh vật vẫn còn nguyên như xưa với bao nhiêu kỷ niệm gợi lại trong ký ức, Trần-Gia-Cách xúc động vô cùng. Nhưng sợ gặp người quen nhận ra mình, Trần-Gia-Cách không dám lưu luyến cảnh vật mà nhìn lâu, lại tiếp tục phi ngựa về hướng Bắc. Đi được sáu, bảy dặm, Trần-Gia-Cách vào nhà một nông dân xin cho mình được tạm nghỉ. Vợ chồng nông dân thấy khách lạ có dung mạo như một vị công tử lại nói thông thạo thổ âm Hải-Ninh nên mừng rỡ, đón tiếp rất nồng hậu. Trần-Gia-Cách nhân tiện hỏi thăm tình hình địa phương.

Người nông dân nói:

-Suốt ba năm nay, Hoàng-Thượng miễn thuế cho ba huyện tỉnh Hải-Ninh nên đời sống ở đây sung túc, thảnh thơi hơn những nơi khác nhiều. Theo lời các bô lão và hương-chức thì hình như Hoàng-Thượng làm vậy để đáp lại ân sâu nghĩa nặng của Trần-Cát lão tiên sinh thuở sinh tiền.

Trần-Gia-Cách nghĩ thầm:

-“Thân phụ ta tuy rằng từng làm Tướng-Quốc nhưng đã qua đời lâu rồi, tại sao Hoàng-Đế Mãn-Thanh lại còn sủng ái đến mức đó?”

Dùng bữa xong, Trần-Gia-Cách lấy ra 10 lượng bạc đưa cho vợ chồng nông dân, nhưng họ một mực từ chối không chịu nhận. Chàng vẫn cứ để bạc lại rồi lên ngựa đi tiếp.

Đến cửa Nam của thành, Trần-Gia-Cách kiếm chỗ ngồi luyện công, sau đó nhắm hướng Tây-Bắc, là dinh thự của mình mà đi. Vừa đến nơi, Trần-Gia-Cách bất giác trở nên bồi hồi, ngơ ngác.

Phủ-trạch Tướng-Quốc của thân phụ Trần-Gia-Cách vốn đã nguy nga đồ sộ, nay sát bên cạnh lại có thêm một dinh thự khác, mới mẻ và còn rộng lớn hơn dinh thự cũ nhiều. Trước dinh thự có một khu đất rộng, trên cổng có ba chữ ‘An Nhuận Viên’ sơn son thếp vàng do chính vua Càn-Long ngự đề.

Trần-Gia-Cách sững sờ. Chàng phóng mình thẳng về dinh thự cũ, qua khỏi lớp cửa ngoài nhìn vào bên trong dinh thự. Tất các những di vật của cha mẹ chàng vẫn còn y nguyên, không thiếu một thứ gì. Chỉ có một điều là bên trong hoàn toàn vắng vẻ không có một bóng người nào.

Trần-Gia-Cách đang mải ngóng nhìn ngọn đèn sáp màu đỏ trên bàn chợt nghe có tiếng tiếng người bèn vội vàng nép mình vào một góc. Vừa trông thấy bóng người phía sau lưng, suýt nữa Trần-Gia-Cách đã bật lên thành tiếng. Thì ra đó là Thoại-Anh, người liễu hoàn mà mẹ chàng đã nuôi từ nhỏ để sớm khuya hầu hạ gia đình, đến nay mái tóc bà ta đã bắt đầu điểm sương.

Thoại-Anh lặng lẽ vào trong phòng một mình, trải một miếng vải trên giường, từ từ đem mấy vật thường dùng trong nhà để gói lại, bỗng đăm chiêu ngó bên góc giường, với tay lấy một món đồ chơi của con nít, hình thù một cái mão cầm lên. Chiếc mão màu đỏ, với những đóa hoa thắt bằng chỉ tơ điều rất đẹp. Trên mão có gắn một viên ngọc dạ quang lớn bằng trứng quốc (#1), chung quanh là 8 viên ngọc uyên ương lấp lánh như hào quang...

Trần-Gia-Cách nhận ra ngay là cái mão Thoại-Anh thường đội cho chàng mỗi lúc ra biển chơi. Quá xúc động, Trần-Gia-Cách không đằn được nữa, tung mình nhảy vào trong ôm chặt lấy Thoại-Anh.

Thoại-Anh giật mình hoảng sợ, toan la lên thì Trần-Gia-Anh đã lấy lay bụm miệng lại nói nhỏ:

-Dì Thoại-Anh! Cháu đây mà!

Thoại-Anh nhìn Trần-Gia-Cách ngỡ ngàng. Xa nhà từ lúc 15 tuổi đến nay đã 10 năm, từ tướng mạo thần sắc, cho đến ngôn ngữ của Trần-Gia-Cách đều khác hẳn nên Thoại-Anh khó nhận ra được.

Trần-Gia-Cách nói:

-Dì Thoại-Anh! Cháu là ‘Tam Quan Nha’ đây mà! Dì không nhận ra sao?

Thoại-Anh ngạc nhiên hỏi:

-Ủa! Thiếu gia... đã về đây sao...?

Trần-Gia-Cách mỉm cười, khẽ gật đầu. Thoại-Anh chăm chú nhìn thật lâu rồi thình lình ôm chặt Trần-Gia-Cách vào lòng khóc òa lên.

Trần-Gia-Cách nói:

-Dì nín đi, đừng khóc nữa! Cháu về đây không cho ai biết ngoài dì ra.

Thoại-Anh nói:

-Thiếu gia đừng lo. Ai nầy đều ở bên dinh thự mới, chỉ có một mình tôi bên này mà thôi.

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Dinh thự mới cất lên từ hồi nào vậy?

Thoại-Anh đáp:

-Mới khánh thành hồi tháng 6 năm nay. Tôi không biết để làm gì cũng như phí tổn bao nhiêu.

Trần-Gia-Cách biết Thoại-Anh chẳng bao giờ để ý đến những chuyện ấy nên chàng bèn hỏi sang chuyện khác:

-Lúc mẹ cháu qua đời, đau ốm thế nào? Ma chay làm sao?

Thoại-Anh rút khăn tay lau hai hàng lệ, nghẹn ngào đáp:

-Chủ mẫu hôm đó tự nhiên mặt buồn rầu rầu, bất luận ai hỏi gì cũng không nói. Sau đó ba ngày liên tiếp không ăn uống gì cả, rồi ngã bệnh. Hơn 10 hôm sau thì lại nhất định không chịu uống thuốc men gì cả rồi sau đó qua đời. Trong lúc hấp hối chủ mẫu vẫn còn nhớ đến thiếu gia, cứ lập đi lập lại mãi câu ‘Con ta đã về chưa? Ta muốn được nhìn thấy mặt nó một lần cuối cùng’.

Trần-Gia-Cách nghẹn ngào nói:

-Tôi thật là đứa con đại bất hiếu! Giờ phút lâm chung của mẹ mà không về để cho mẹ trông mặt một lần cuối!

Sau một lúc dằn bớt cơn xúc động, Trần-Gia-Cách hỏi tiếp:

-Mẹ cháu có trăn trối điều gì không dì?

Thoại-Anh đáp:

-Chủ mẫu có viết một lá thư, niêm phong đâu đó, nhưng không hiểu vì sao lại đổi ý. Chỉ thấy chủ mẫu nói một mình rằng: ‘Thà đừng cho nó biết chuyện này thì hay hơn!’. Sau đó chủ mẫu bảo tôi cầm cây đèn sáp lại giường rồi tự tay đốt cháy.

Trần-Gia-Cách nghe kể lại mọi chuyện, nước mắt tuôn ra như suối hỏi:

-Bức thư đốt cháy còn sót lại được khúc nào không dì?

Thoại-Anh gật đầu đáp:

-Có! Tay lão mẫu quá run nên thành ra đốt không cháy hết được bức thư. Tôi còn giữ đây.

Trần-Gia-Cách nói:

-Dì mau đưa cho cháu xem!

Thoại-Anh mở rương, lấy ra một cái hộp nhỏ bên trong đựng một gói giấy. Trong hộp là một lá thư bị nám đen, xếp làm 8.

Thoại-Anh vừa trao cho Trần-Gia-Cách vừa nói:

-Chủ mẫu thức suốt canh thâu để viết thư này. Viết xong còn đọc đi đọc lại nhiều lần rồi cuối cùng không hiểu sao lại đốt! Tôi cố giữ lại để mong đưa cho cậu đọc, hiểu được gì thì hiểu.

Trần-Gia-Cách thấy đó là nử tờ giấy hoa tiên lớn bản. Trên giấy li ti những hàng chữ nhỏ, nét trông có vẻ yếu nhưng rất đẹp, đúng là bút tự của mẹ chàng. Trần-Gia-Cách không làm sao ráp lại để đọc được, dầu chỉ một câu. Cố gắng lắm, chàng mới tìm được năm ba chữ ráp lại thành được những câu như sau:

...nửa đời đau khổ...

... đành nhận làm con...

... bị bắt ép gả cho nhà họ Trần...

...chính ra là họ Trần...

... đạo làm vợ dạy rằng...

Trong lúc bối rối, Trần-Gia-Cách không thể nào nghiên cứu tiếp tục được, đành xếp lá thư lại bỏ vào hộp cất trong người đợi khi khác có thì giờ và đầu óc được thong thả linh mẫn hơn sẽ đem ra nghiên cứu tiếp để cố tìm ra bí mật này.

Trần-Gia-Cách lại hỏi:

-Mộ của mẹ cháu ở đâu, dì có biết không?

Thoại-Anh đáp:

-Ở miếu Hải-Thần, mới xây xong năm nay, rất là rộng lớn, ở sát mấy thềm đá mà lúc nhỏ thiếu gia thường đòi bế ra chơi hoài đó!

-Cám ơn dì! Cháu đi đàng này một chút!

Dứt lời, Trần-Gia-Cách đã phóng mình ra cửa sổ biến mất. Những con đường quen thuộc từ từ hiện ra trước mặt nên Trần-Gia-Cách tìm đến nơi chẳng mấy khó khăn.

Thình lình, Trần-Gia-Cách nghe có tiếng chân người đi đi lại lại bên hai hông miếu. Nghe tiếng chân, Trần-Gia-Cách biết được ngay đó là những cao thủ võ lâm. Chàng lui lại mấy bước, trông thấy rõ ràng có hai người mặc đồ dạ hành đang ẩn núp. Ngay trước cửa miếu có bốn người thay phiên nhau đi lại, canh gác nghiêm ngặt. Vừa định vào đến nơi để dò xét mọi việc thì lại thấy có thêm bốn người từ bên trong bước ra.

Chờ cho bốn người đi qua khỏi, nín hơi tung mình lên một cái đứng trên cánh cửa Hải-Thần miếu. Nép mình vào tường, Trần-Gia-Cách khẽ cúi đầu xuống nhìn bên dưới lại thấy có thêm bốn người nữa đi qua đi lại.

Không thể nhẫn nại được nữa, Trần-Gia-Cách buông mình xuống phía dưới theo mặt tường, lẻn vào bên trong tới thẳng đại điện.

Phía Đông đại điện là là một tòa miếu mới xây thờ Câu-Tiễn Việt-Vương. Phía Tây đại-điện là miếu thờ Ngũ-Tử-Tư. Trên bàn thờ chánh điện, mùi hương khói vẫn còn ngào ngạt, những cây đèn sáp lớn vẫn còn đang thắp sáng. Có một cái bệ sơn son thếp vàng, bên trong là một bức tượng trông rất linh động của một người ngồi chễm chệ. Trần-Gia-Cách nhìn kỹ thì lấy làm kinh ngạc vô cùng, vì đó là bức tượng của Trần Tướng-quốc, thân phụ của chàng.

Trần-Gia-Cách còn đang kinh ngạc thì lại nghe có nhiều tiếng bước chân đang đi thật nhanh mà thật nhẹ ở bên ngoài. Chàng bèn núp mình vào sau một bộ trống đồng.

Trong chớp mắt, có bốn người mặc y phục dạ hành, trên tay cầm vũ khí, đang chia nhau bốn ngã lục soát miếu. Tìm không thấy gì, bốn người sau đó lại trở ra.

Thấy bên trái có một cánh cửa hé mở, Trần-Gia-Cách nhanh nhẹn lách mình vào bên trong. Thì ra đó là một cái hành lang, nền lát bằng gạch màu trắng, chạy dài thăm thẳm. Chàng cứ theo hướng đó mà đi. Cảnh vật trông hết sức uy nghiêm, nguy nga tráng lệ chẳng khác gì cung điện của vua.

Qua khỏi thêm một tòa miếu nữa, Trần-Gia-Cách thấy một tấm bảng khắc rõ ràng ba chữ ‘Thiên Hậu Cung’. Cửa điện không đóng, Trần-Gia-Cách hiếu kỳ đi vào bên trong xem thử.

Lần này, Trần-Gia-Cách lại thêm một phen kinh ngạc. Một tượng đặt ngay trên bàn thờ tại đây với gương mặt sáng tỏ, đôi mắt hiền từ, rõ ràng là Từ-thị, mẹ của chàng.

Trần-Gia-Cách nhìn ngắm một hồi rồi quay gót trở ra, đi tìm mộ phần của mẫu thân chàng. Vừa ra khỏi đền, chàng lại thấy một dãy hành lang khác mà chung quanh là những tấm màn bằng gấm màu vàng.

Tự nhiên, Trần-Gia-Cách có một cảm giác rờn rợn như đang sợ sệt một điều gì. Chàng rút đoản kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng trao tặng cầm tay, bụng nghĩ thầm:

-“Không biết đây có phải là ‘Long đàm Hổ huyệt’ không?”

Đi thêm được một đoạn, Trần-Gia-Cách nghe phía trước có tiếng áo quần sột soạt như có người nào đang đi đến. Chàng nép mình vào tường, khẽ rón rén đi thêm vài mươi bước. Dưới ánh đèn đuốc sáng chưng, Trần-Gia-Cách trông rõ hai nấm mộ nằm song song bên nhau. Có một người đang quỳ trước mộ, quay lưng về phía Trần-Gia-Cách. Trước mộ có một tấm bia lớn ghi những hàng chữ:

Vạn đại Thanh Tướng Trần đại học sĩ chi mộ

Tấm bia bên mộ phía bên kia ghi:

Trần đại học sĩ phu nhân nhũ danh Từ-thị sắc phong hàm Nhất Phẩm Đại Thanh phu nhân chi mộ

Đọc xong hai tấm bia, lòng Trần-Gia-Cách như se sắt lại. Thì ra đây chính là song phần của cha mẹ chàng. Nếu nơi này không bị canh phòng nghiêm ngặt ắt chàng đã ra trước mộ mà gào khóc rồi.

Nhưng chàng lại thắc mắc một điều là không biết ai bày ra những việc này. Phải chăng là có ý ngăn chặn, không cho chàng tự tiện được đến thăm mà kính bái? Nghĩ vậy, Trần-Gia-Cách như sôi máu lên, nhất định bước tới viếng thăm mộ phần của song thân thử xem đám người kia sẽ xử trí ra sao.

Chàng vừa tiến tới một bước thì người đang quỳ trước mộ bỗng đứng lên rồi lại xuống gối lạy, khom lưng mãi mà không thấy ngoi đầu lên lại. Trần-Gia-Cách nghe được rõ ràng tiếng người ấy đang khóc lóc thảm thiết, nghe rất bi ai sầu não.

Thấy vậy, Trần-Gia-Cách bước tới sau lưng người ấy vỗ nhẹ nói:

-Xin mời đứng lên. Không lẽ mọp mãi hay sao?

Người kia chưa kịp có phản ứng gì thì Trần-Gia-Cách đã quỳ xuống trước mộ khóc thê thảm. Người kia giật mình lớn tiếng quát:

-Ai?

Trần-Gia-Cách thản nhiên đáp:

-Tôi đến lạy mộ phần.

Tiếng nói chàng nghẹn ngào, nước mắt đổ xuống như mưa. Bỗng nhiên người kia la lên một tiếng như kinh hãi. Trần-Gia-Cách giật mình đứng dậy, rồi chàng cũng hoảng hốt lùi ra sau ba bước.

Người kia chính là vị Hoàng-Đế tại trào hiệu là Càn-Long, tên thật là Hoàng-Lịch!

Với vẻ mặt ngơ ngác, vua Càn-Long hỏi:

-Ngươi... ngươi... đang đêm.. sao đến chốn này?...

Trần-Gia-Cách đáp:

-Ngày hôm nay là sinh nhật của mẹ tôi. Đạo làm con đến thăm viếng mộ phần của cha mẹ có gì là sai đâu? Còn người? Vì sao người lại có mặt nơi này?

Vua Càn-Long không trả lời câu hỏi của Trần-Gia-Cách mà hỏi lại:

-Ngươi... ngươi là con trai của quan Tướng-Quốc?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Trên giang hồ không một ai là không rõ điều ấy. Tôi tin tưởng là chính người cũng biết được điều đó kia mà!

Vua Càn-Long đáp:

-Thật ta chưa được nghe ai nói đến!

Mấy năm gần đây vua Càn-Long đặc biệt sủng ái gia đình họ Trần. Mặc dầu các quan triều đình biết rõ con của Trần Tướng-quốc là thủ lãnh của Hồng Hoa Hội nhưng không một ai dám hé môi. Vua Càn-Long thương ghét vô chừng, nếu lỡ trái ý thì họa diệt tộc khó mà tránh khỏi. Do đó mà vua Càn-Long không biết được Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội Trần-Gia-Cách là con của Trần-Thế-Quan Tướng-quốc...

Trần-Gia-Cách nghĩ thầm:

-“Một vị Hoàng-Đế nếu đi tế mộ hay đi hoàn nguyện thần thánh thì cứ đàng hoàng minh bạch chứ cớ sao lại lén lút mà đi vào đêm khuya như vậy? Hơn nữa, một vị Hoàng-Đế lại đi tế mộ của một quan đại thần thì chuyện ấy thật là điều không ai hiểu nổi! Vua tế mộ đại thần đã là chuyện lạ, đàng này còn quỳ trước mộ mà khóc lóc thảm thiết nữa là sao?”

Trong khi Trần-Gia-Cách trong lòng thắc mắc chẳng cùng thì vua Càn-Long lại có vẻ điềm tĩnh lạ lùng. Nhà vua nhìn Trần-Gia-Cách một hồi lâu rồi nói:

-Hai người chúng ta hãy ngồi xuống đây nói chuyện.

Vua Càn-Long nắm chặt tay Trần-Gia-Cách xiết chặt trong lòng bàn tay mình nói:

-Hẳn ngươi thấy ta ban đêm đến tế mộ nên ngạc nhiên lắm. Nhưng không có gì để cho ngươi phải thắc mắc cả! Ta mang nhiều ân nặng của thân phụ ngươi vô cùng. Sở dĩ ta lên ngồi được trên ngai vàng cũng là nhờ công lao của ông ta đấy! Việc ấy, suốt đời ta cũng chẳng bao giờ quên. Vì thế, đêm nay ta đạc biệt đến đây bái tạ.

Trong lúc Trần-Gia-Cách còn đang ‘bán tín bán nghi’ thì vua Càn-Long lại nói tiếp:

-Việc này thổ lộ ra ngoài thật hết sức bất tiện. Ngươi có thể hứa với ta là không được rỉ hơi ra ngoài với bất cứ người nào hay không?

Được chứng kiến nhiều hành động của vua Càn-Long đặc biệt đối xử với song thân mình nên trong lòng sẵn mối cảm tình, Trần-Gia-Cách khảng khái đáp:

-Người cứ an tâm. Trước phần mộ của song thân ta đây, ta xin vong linh người khuất mặt chứng giám; việc đêm nay ta sẽ chẳng bao giờ đề cập đến bất cứ lúc nào với bất cứ một ai.

Vua Càn-Long biết Trần-Gia-Cách là người rất trọng chữ ‘tín’. Lại thấy chàng thề trước vong linh của song thân chàng nên rất tin tưởng rằng chàng sẽ không bao giờ sai lời. Mặt rồng hiện rõ những nét tươi tỉnh, hân hoan.

Hai người ngồi trên thềm đá trước mộ phần thật lâu mà không ai nói được với ai một câu nào. Bỗng nhiên, tiếng sấm sét từ đâu vang lên ầm ỹ. Trần-Gia-Cách để ý lắng tai nghe rồi nói:

-Sóng dâng! Sóng sắp dâng lên! Chúng ta đến bờ đá ngoài biển xem sóng dâng nhé? Đã 10 năm qua tôi chưa được nhìn thấy hiện tượng này!

Vua Càn-Long nghe nói liền hưởng ứng ngay:

-Hay lắm! Hay lắm!

Dứt lời, nhà vua nắm tay Trần-Gia-Cách thẳng theo hành lang có lợp gấm vàng mà đi. Bọn thị vệ ở bên ngoài thấy vua Càn-Long trở ra lập tức đi theo hầu. Thấy bên cạnh vua có thêm một người, cả đám đều kinh ngạc. Tên nào tên nấy nhìn nhau mà chẳng dám hó hé một lời.

Trong đám thị vệ có cả Bạch-Chấn và Chữ-Viên. Khi chúng nhận ra người đi bên cạnh vua là Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội thì hết sức kinh hãi.

Quay qua Trần-Gia-Cách, vua Càn-Long thân mật nói:

-Ngươi cỡi ngựa nhé!

Không đợi lệnh vua truyền xuống, bọn thị vệ dắt đến hai con tuấn mã. Hai người cùng lên ngựa đi song song với nhau phi thẳng ra cửa Đông.

Tiếng sóng mỗi lúc càng thêm dồn dập. Sóng từ xa vỗ cuồn cuộn vỗ mạnh vào bờ không ngừng. Mặt bể một màu nước bạc, không chút xao động. Dưới ghềnh đá cheo leo, mặt nước đãn dâng lên cao đến 7-8 trượng.

Trần-Gia-Cách nói:

-Hôm nay là sinh nhật của thân mẫu tôi, vì vậy mà tên người mới được đặt là Chào Sinh.

Tiếng nói của Trần-Gia-Cách như làm xúc động đến tâm tình của vua Càn-Long. Chàng cảm thấy tay nhà vua như run lên từng hồi.

Đôi mắt ra vẻ đăm chiêu, vua Càn-Long nói:

-Ta đối với ngươi thật mười phần cảm mến. Ngày mai ta trở lại Hàng-Châu có việc cần. Nội trong ba ngày ta sẽ quay về Bắc-Kinh. Ngươi có thể theo ta cùng đi chăng? Ta ao ước có ngươi mãi mãi gần bên, không bao giờ xa rời. Thấy ngươi cũng như thấy thân phụ ngươi vậy!

Trần-Gia-Cách không ngờ vua Càn-Long nói với mình một câu thân mật và thành thật đến như thế. Chàng có đôi phần cảm kích nhưng thật sự không biết phải trả lời như thế nào.

Vua Càn-Long lại nói:

-Ngươi giỏi cả văn lẫn võ, ắt sẽ nối chí được thân phụ ngươi một cách dễ dàng. Nếu ngươi không phụ lòng ta thì ta lập tức sẽ phong ngươi làm Tướng-Quốc. Như thế chẳng hơn là trải bước giang hồ mãi sao?

Làm chức Tướng-Quốc chỉ dưới có một người mà ở trên muôn vạn người khác. Khi đưa ra đề nghị này, vua Càn-long tin tưởng thế nào Trần-Gia-Cách cũng sung sướng lãnh nhận mà lạy tạ ân mình.

Nhưng không ngờ Trần-Gia-Cách lại nói:

-Hảo ý của nhà vua, tôi xin mười phần cảm tạ. Nhưng nếu tôi ham mùi phú quý thì đã không từ bỏ cửa Tể-Tướng mà ra đi từ 15 tuổi và lưu lạc giang hồ 10 năm trời.

Vua Càn-Long nói:

-Đó là điều ta muốn hỏi ngươi ! Tại sao lại không muốn ở địa vị một công tử mà lại đem thân dày dạn gió sương? Phải chăng ngươi có điều gì bất đồng ý kiến với cha anh?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Tôi chẳng bao giờ trái ý với tiên phụ cũng như gia huynh. Chẳng qua đó là tôi vâng lệnh mẫu thân dạy bảo. Chính điều này tiên phụ và gia huynh cũng chưa hề hay biết chi cả. Thuở phụ thân sinh tiền lúc nào cũng cho người đi tìm tôi cho bằng được để đem về. Gia huynh ngày nay cũng thế.

Vua Càn-Long hỏi:

-Thật là lạ lùng! Tiên mẫu của ngươi khiến ngươi bỏ nhà ra đi để làm những việc gì?

Trần-Gia-Cách cố giữ bình tĩnh. Phải một lát sau chàng mới trả lời được:

-Đó là một việc hết sức thương tâm của tiên mẫu tôi. Tuy nhiên, chính tôi cũng chưa hiểu rõ được niềm tâm sự u ẩn ấy!

Lúc ấy sóng từ xa dâng cao tựa một bức thành (#2) lướt tới xô mạnh vào bờ. Vua Càn-Long nhìn thấy chợt kinh hãi, để rơi mất cây quạt xuống biển. Đó là cây quạt hôm Trần-Gia-Cách tặng cho mình tại chùa Linh-Ấn.

Vua Càn-Long hoảng hốt kêu lên:

-Chết rồi!

Bạch-Chấn từ sau nhảy tới kịp thời chụp được cây quạt trên không trước khi rớt xuống biển. Chụp xong cây quạt, Bạch-Chấn nhanh tay đút vào tay áo để tránh cho quạt khỏi bị sóng đánh tới làm ướt. ‘Cứu’ được cây quạt, nhưng Bạch-Chấn không làm sao tránh được ngọn sóng thần quái ác kia đang sắp sửa cuốn y ra khơi. Bạch-Chấn đề khí tung mình lên, định dùng khinh công để tránh thoát nhưng không kịp nữa, ngọn sóng thần đã ập tới. Bọn thị vệ thét lên hãi hùng, nhưng tất cả chỉ đành bó tay mà không làm được gì cả.

Trần-Gia-Cách thấy tình thế nguy ngập liền lấy chiếc áo choàng của mình, gấp lại làm hai khẽ phất tay một cái. Bạch-Chấn nhìn thấy chiếc áo choàng tung ra thì mừng rỡ, lẹ tay nắm lấy giữ chặt. Trần-Gia-Cách kéo mạnh một cái, Bạch-Chấn nương theo đà tung mình lên, phi thân trở về thoát nạn.

Lúc ấy, vua Càn-Long và đám thị vệ thấy sóng dâng lên quá dữ dội đã lùi lại đàng sau mấy trượng. Sau khi cứu được Bạch-Chấn, Trần-Gia-Cách cũng lùi lại đàng sau một khúc để tránh sóng.

Bạch-Chấn vung tay áo lên một cái, cây quạt từ trong tay áo bắn ra. Chữ-Viên nhanh tay chụp lấy rồi hai tay dâng lên trả lại cho vua Càn-Long.

Vua Càn-Long đỡ lấy quạt. Chờ Bạch-Chấn đến gần, vua Càn-Long phán:

-Ngươi thật là trung thành dám hy sinh không tiếc mạng. Khi về kinh trẫm sẽ ban thưởng thật nhiều đồng thời tặng cho một chiếc cẩm bào để đền bù lại công lao khó nhọc.

Xoay sang Trần-Gia-Cách, vua Càn-Long nói:

-Người xưa vẫn nói: ‘Nửa đêm sóng vỗ, muôn quân reo hò’. Nhìn hiện tượng vừa rồi quả là một kỳ quan thiên nhiên, thật là thú vị.

Trần-Gia-Cách gật đầu nói:

-Đúng vậy! Không có sức mạnh nào mạnh bằng sức mạnh tự nhiên cả! Cứ nhìn vào ngọn sóng thần vừa rồi ta có thể suy ra là cho dẫu bao nhiêu dũng tướng hùng binh, bao nhiêu vũ khí cung nỏ đi chăng nữa, nhưng làm cách nào mà ngăn chặn nổi ngọn sóng thiên nhiên kia!

Nghe giọng nói của Trần-Gia-Cách, vua Càn-Long biết không thể nào chiêu dụ về với triều đình được. Nhà vua trầm ngâm giây lát mới lên tiếng:

-Mỗi người trong chúng ta đều có chí lớn, cho dù khác nhau. Vì vậy, ta không miễn cưỡng ép buộc ngươi đâu. Bất quá chỉ muốn khuyên một lời thôi.

Trần-Gia-Cách nói:

-Xin cứ cho nghe!

Vua Càn-Long nói:

-Hồng Hoa Hội các ngươi càng ngày càng đi sâu vào con đường phản nghịch. Những việc cũ ta bỏ qua hết, không nói đến nữa. Nhưng từ nay về sau đừng làm những việc chống trời, lỗi đạo ấy nữa.

Trần-Gia-Cách nói:

-Hồng Hoa Hội lúc nào cũng vì dân vì nước. Sao lại gọi là ‘chống trời’ với ‘lỗi đạo’?

Với nét mặt trầm ngâm, vua Càn-Long suy nghĩ một lúc khá lâu mới nói:

-Lần này gặp gỡ quả đã thắt chặt tình thân cá nhân giữa ta và ngươi. Ta hứa với ngươi một điều là ngày sau khi tiêu diệt được Hồng Hoa Hội, ta sẽ tha mạng cho ngươi để trọn nghĩa.

Trần-Gia-Cách cũng nói:

-Và tôi cũng xin hứa rằng nếu nhà vua chẳng may lọt vào tay Hồng Hoa Hội chúng tôi thì bọn tôi quyết chẳng hại đến sinh mạng người.

Vua Càn-Long cả cười nói:

-Có khí phách lắm! Trước mặt một Hoàng-Đế mà ngươi không chịu nhượng bộ một lời nào cả, thật đáng khen! Ta chưa thấy ai to gan lớn mật như ngươi. Được lắm! ‘Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy’. Ta với ngươi cùng nhau thề nguyền, ngày sau không ai hại ai.

Sau đó vua Càn-Long cùng với Trần-Gia-Cách vỗ tay nhau ba lần để trời đất chứng cho lời thề của đôi bên...

Sóng gió đã lặng, biển êm trở lại. Vua Càn-Long lại rủ Trần-Gia-Cách đến gần bờ để xem cảnh. Vua Càn-Long hỏi:

-Ta thấy ngươi buồn nhiều, hình như trong lòng có điều gì bất mãn. Ngoài việc tưởng nhớ đến công ơn sinh thành và tình bạn thâm giao, ngươi còn tâm sự gì nan giải nữa khay không? Cứ nói cho ta biết, nếu ta làm được ắt không bao giờ để ngươi thất vọng đâu.

Suy nghĩ một hồi, Trần-Gia-Cách nói:

-Nhà vua thật là tri kỷ của tôi! Phải, tôi có một điều muốn cầu khẩn nhưng e rằng người sẽ không bao giờ chấp thuận đâu!

Vua Càn-Long nói:

-Ngươi cứ nói ra thử xem!

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Nhà vua có thể phóng thích người anh em kết nghĩa của tôi là Văn-Thái-Lai được không? Chẳng hay y đã phạm tội gì mà phải chịu bao nhiêu cảnh gian truân như thế?

Vua Càn-Long thở dài nói:

-Người ấy thì ta không thể nào tha được. Vì nể mặt ngươi, ta chỉ có thể hứa là sẽ không làm hại đến tánh mạng của y mà thôi.

Trần-Gia-Cách nói giọng như quả quyết:

-Nhà vua cũng biết, trước sau gì Hồng Hoa Hội cũng phải tìm cách giải cứu người này cho bằng được. Chẳng qua là tôi chỉ muốn tránh việc đụng độ bằng đao kiếm để mất hòa khí đó thôi. Nhưng xem ra chuyện đổ máu thật khó mà ngăn được!

Vua Càn-Long biết lời nói của Trần-Gia-Cách là thật tình chứ không phải hăm dọa. Trước tình thế như vậy, vua Càn-Long cảm thấy như không còn đường nào lựa chọn đành nói:

-Việc gì phải đến, rồi sẽ đến. Ý ngươi đã quyết, lòng ta chẳng sờn. Sáng mai ta về Hàng-Châu. Ba ngày sau sẽ về Bắc-Kinh. Nếu các ngươi muốn cứu người đó thì có ba ngày trở lại để thực hiện. Nhưng sau ba ngày các ngươi không cứu được thì đó là ý trời, chỉ đến mà nhận xác mà thôi. Ta có thể nói rõ cho ngươi biết là vào ngày thứ ba, trước khi về lại Bắc-Kinh ta sẽ giết hắn cho xong chuyện.

Trần-Gia-Cách cười gằn nói:

-Tôi cũng báo trước là nếu Văn tứ ca chết thì nhà vua khó lòng mà ăn ngon ngủ kỹ được nữa, dù chỉ một ngày!

Vua Càn-Long vẫn lạnh lùng nói:

-Nếu không giết hắn thì ta cũng chỉ đến thế mà thôi!

Tạm gác lại chuyện Văn-Thái-Lai, vua Càn-Long hỏi Trần-Gia-Cách:

-Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Vừa đúng 25 tuổi!

Vua Càn-Long than:

-Ta lớn hơn ngươi 20 tuổi. Năm ta lên ngôi thì ngươi chỉ mới chào đời. Ngươi còn thanh niên, nhưng ta đã quá nửa đời người rồi. Ôi! Công danh sự nghiệp dầu có lẫy lừng đến đâu thì rồi cũng chỉ một nắm cỏ khâu xanh rì!

Hai người đi qua lại vài bước, vua Càn-Long lại hỏi:

-Ngươi đã lập gia thất chưa?

Trần-Gia-Cách chưa kịp trả lời, vua Càn-Long đã lấy ra một viên bội ngọc nhét vào tay chàng nói:

-Viên ngọc này là một bảo vật quý giá có một không hai. Ta tặng cho phu nhân của ngươi đấy.

Trần-Gia-Cách lắc đầu từ chối:

-Tôi chưa lập gia thất.

Vua Càn-Long cười nói:

-Tại nhãn giới của ngươi lớn quá đó thôi! Ngươi cứ giữ lấy để sau này tặng cho ý trung nhân.

Trần-Gia-Cách liếc nhìn viên ngọc. Quả là một viên trân châu vô giá. Trên ngọc có trạm bốn câu bằng tơ vàng như sau:

Tình sâu không bến

Quá cương thành nhược

Khiêm như quân tử

Ôn như bảo ngọc

Vua Càn-Long cười nói:

-Ta biết ngươi có chí khí hơn người, tron lòng ôm hoài bão rất lớn nên không dám tặng ngọc này cho ngươi mà chỉ nhờ ngươi tặng lại cho ý trung nhân sau này thôi. Bốn câu trên đó tuy không được hay lắm nhưn sự thật hết sức chí lý.

Trần-Gia-Cách đọc nhẩm mấy câu ghi trên ngọc rồi lại tưởng tượng đến trời đất mênh mông cùng với những nỗi bất bình trong thiên hạ nên bất giác ngậm ngùi.

Càn-Long nói:

-Tuổi trẻ chung tình, yêu đương đậm đà, nhưng không mấy khi được thỏa ước nguyện ba sinh. Trái lại, bọn phàm phu tục tử thì vợ chồng lại luôn luôn được tóc bạc trăm năm. Cho nên tình không nên quá sâu đậm, mà cứng quá thì dễ gẫy. Lời thánh hiền thật không sai chút nào cả.

Trước khi đi, vua Càn-Long đưa cánh tay mặt lên vẫy như tiễn biệt, nói:

-Bảo trọng!

Bạch-Chấn cũng bước tới cúi đầu thi lễ:

-Ân sâu cứu mạng kia thật là mười phần cảm kích. Chỉ sợ không có được cơ hội để đền đáp lại!

Trần-Gia-Cách đáp lễ nói:

-Bạch lão tiền bối, xin đừng khách khí! Đồng đạo võ lâm khi gặp nguy khốn ra tay tương trợ nhau là chuyện thường, có gì mà phải bận tâm!

Bạch-Chấn lại thi lễ thêm một lượt rồi mới quay ngựa lên đường. Trần-Gia-Cách trong lòng buồn man mác. Chàng lên ngựa rong cương, ý định trở lại phủ Tướng-Quốc để giải quyết cho xong vài chuyện dở dang...

Về lại Tướng-phủ nhà mình, Trần-Gia-Cách vào phòng thân mẫu khi xưa tìm Thoại-Anh nói:

-Anh tôi chắc giờ này đang chầu Hoàng-Thượng tại An-Nhuận-Viên. Đợi chừng nào anh ấy trở về tôi sẽ có chút việc cần thương lượng. Dì có nguyện vọng gì xin cứ cho biết để tôi nói lại anh tôi, quyết làm vừa lòng dì.

Thoại-Anh đáp:

-Nguyện vọng của tôi là được thấy Nhị thiếu-gia luôn luôn mạnh giỏi và yên bề gia thất, chứ ngoài ra chẳng còn mong muốn điều gì nữa.

Trần-Gia-Cách cả cười nói:

-Chỉ sợ tôi không đáp ứng được nguyện vọng của dì! À, còn hai nàng Vũ-Thi và Tĩnh-Họa đâu sao không thấy? Dì thử gọi cả hai người đến đây cho tôi gặp được không?

Nghe Trần-Gia-Cách hỏi đến hai người liễu hoàn thường hầu hạ chàng thuở nhỏ, nét mặt Thoại-Anh chợt buồn rầu đáp:

-Vũ-Thi đã qua đời từ năm ngoái, chỉ còn Tĩnh-Họa mà thôi. Để tôi đo gọi nó đến hầu Nhị thiếu-gia.

Chẳng bao lâu sau, Thoại-Anh trở về, theo sau là một thiếu nữ xinh đẹp trông hết sức đoan trang. Trần-Gia-Cách nhận thấy dung nhan nàng ta có đổi khác nhưng vẫn còn lại những nét xưa thuở còn thơ ấu.

Trần-Gia-Cách buông tiếng gọi:

-Tĩnh-Họa!

Tĩnh-Họa, người thiếu nữ theo Thoại-Anh đến, nhìn thấy Trần-Gia-Cách thì nét mặt đỏ ửng lên gọi lớn:

-Nhị thiếu-gia!

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Tại sao Vũ-Thi chết? Vì lẽ gì?

Tĩnh-Họa nghe hỏi như chua xót, ấp úng:

-Nàng... trầm mình...

Trần-Gia-Cách kinh hãi hỏi:

-Sao lại trầm mình quyên sinh?

Nhìn quanh tứ phía, Tĩnh-Họa run giọng khẽ nói:

-Đại thiếu-gia định ép nàng làm thứ thất, nàng không chịu...

Trần-Gia-Cách ‘à’ một tiếng rồi ngơ ngẩn. Tĩnh-Họa bỗng khóc òa lên nói:

-Sự thật Vũ-Thi yêu thầm Trần-Tấn-Trung trong phủ đã lâu. Hai người từng thề non hẹn biển định đưa nhau đến xin thái thái tác hợp cho. Ngờ đâu Đại thiếu-gia đã để ý đến Vũ-Thi từ lâu mà không nói ra. Một hôm Đại thiếu-gia uống rượu say tông cửa vào phòng nàng... vào! Chỉ biết sáng ra Vũ-Thi đến gặp tôi khóc lóc cho biết không muốn thấy mặt Tấn-Trung nữa. Tôi khuyên giải hết lời mà nàng vẫn không chịu nghe, đi trầm mình xuống biển quyên sinh. Tấn-Trung bơi ra ôm thây Vũ-Thi vào kể lể khóc than một hồi rồi cũng tự vận chết theo nàng!

Trần-Gia-Cách hai mắt nổ lửa hét lên:

-Không ngờ anh ta lại là hạng người như thế! Ta vẫn mong chờ để gặp lại nhau cho thỏa tình thủ túc, nhưng bây giờ thì thôi, không cần nữa! Chẳng hay mộ của Vũ-Thi chôn ở đâu, mau đưa tôi đến đó thăm viếng.

Tĩnh-Họa nói:

-Ở cửa Tây. Đợi sáng mai tôi sẽ đưa Nhị thiếu-gia đến đó.

Trần-Gia-Cách nói:

-Không! Đi ngay bây giờ!

Tĩnh-Họa ngại ngùng nói:

-Cửa ngõ đóng chặt hết cả rồi, đi thế nào được!

Trần-Gia-Cách mỉm cười đưa tay nắm ngang lưng của Tĩnh-Họa. Nàng đang mắc cở đỏ bừng đôi má thì thấy thân mình nhẹ bổng như cỡi gió tung mây bay vọt ra cửa sổ, lướt nhẹ trên mái ngói bay nhanh không kịp thấy.

Đến cửa Tây, Trần-Gia-Cách mới nhẹ nhàng buông Tĩnh-Họa xuống. Tĩnh-Họa kinh ngạc nhìn Trần-Gia-Cách hỏi:

-Nhị thiếu-gia! Bộ người đã thành tiên rồi hay sao?

Trần-Gia-Cách cười hỏi:

-Nàng có sợ không?

Tĩnh-Họa mỉm cười không đáp, đưa Trần-Gia-Cách đến trước mộ của Vũ-Thi. Sực nhớ đến lúc nhỏ ba người cùng đùa chơi nô đùa với nhau, đến nay chỉ còn lại hai, Trần-Gia-Cách xúc động vô cùng, bước ra vái ba vái trước một Vũ-Thi. Tĩnh-Họa nhìn thấy hết sức cảm động, trong lòng nhiều nỗi thương tâm nói:

-Giá mà có Nhị thiếu-gia ở nhà thì chắc Đại thiếu-gia không đến nỗi tác tệ như vậy!

Trần-Gia-Cách nghe nói lặng lẽ gật đầu. Tĩnh-Họa lại nói tiếp:

-Khi Tấn-Trung tự vẫ chết theo Vũ-Thi, người mẹ đến năn nỉ lạy lục xin mai táng gần nhau thì Đại thiếu gia nổi trận lôi đình mắng bà ta một trận, rồi ra lệnh không cho hai người phải chôn xa nhau.

Trần-Gia-Cách nói:

-Sáng mai tôi cho người xây hai ngôi mộ ấy sát bên nhau.

Tĩnh-Họa nói:

-Chỉ sợ Đại thiếu-gia không cho!

Trần-Gia-Cách nói:

-Có cho hay không cũng mặc! Ta vẫn phái người đến xây hai mộ gần nhau, đưa hài cốt Tấn-Trung về cửa Tây cho hồn của hai người được luôn gần gủi với nhau. Còn nàng, ngày mai ta sẽ đưa trả về gia đình.

Tĩnh-Họa cảm động nói:

-Nhị thiếu-gia! Người thật là giàu lòng nhân ái!

Lúc ấy bóng trăng đã không còn. Trần-Gia-Cách móc trong người ra một số vàng bạc khá nhiều, bỏ vào trong túi vải cột lại cẩn thận, dúi vào tay Tĩnh-Họa nói:

-Nàng cầm lấy mà làm vốn để lo cho sinh kế sau này. Có lẽ chúng ta không nên đợi đến ngày mai mà nên đi ngay bây giờ. Tôi không muốn có ngày bi kịch Vũ-Thi kia lại tái diễn trong Tướng-phủ! Hãy đi ngay bây giờ! Tôi còn nhiều việc, phải trở lại Hàng-Châu ngay.

Theo phương pháp cũ, Trần-Gia-Cách lại nắm ngang lưng Tĩnh-Họa phi thân một hồi. Chẳng rõ là bao lâu sau, Trần-Gia-Cách đã đặt nhẹ Tĩnh-Họa xuống ngay nhà cha mẹ của nàng rồi tỏ ý từ giã ra đi. Tĩnh-Họa không nói được lời nào cả, chỉ biết nhìn theo mà rưng rưng nước mắt.

Trần-Gia-Cách quay lại, bùi ngùi nói:

-Nàng cứ vững tâm mà an cư lạc nghiệp từ đây. Mọi việc đã có tôi lo liệu hết tất cả. Thôi, mau vào nhà đi! Tôi đi đây!

Dứt lời, Trần-Gia-Cách dùng khinh công tuyệt kỹ bay đi, nhắm thẳng hướng Hàng-Châu bay về...

Hồi 15b

Vây chặt thành cao theo diệu kế

Vào trong hầm kín đụng cừu nhân

Về đến Hàng-Châu, Trần-Gia-Cách thấy mọi người tập họp đông đủ bao quanh Thạch-Song-Anh thăm hỏi tại tư thất của Mã-Thiện-Quân.

Thấy Tổng-Đà-Chủ đã trở về, Thạch-Song-Anh đứng dậy chào mừng nói:

-Tôi vào kinh đô dò được tin tức Thanh-đế du hành Giang-Nam nên tức tốc đi suốt ngày đem về báo tin, nhưng không ngờ Hồng Hoa Hội đã cùng y một phen đụng độ thử thách.

Trần-Gia-Cách nói:

-Thập-nhị ca lại một phen vất vả, đáng lý nên nghỉ ngơi mà dưỡng sức thì hơn.

Thạch-Song-Anh lú đó quay đầu nhìn Lạc-Băng nói:

-Tứ tẩu! Con ngựa của chị thật là thần mã! Chuyến này đệ lại dượt cho nó thêm thuần thục.

Lạc-Băng đáp:

-Cám ơn thập-nhị đệ rất nhiều!

Như sực nhớ ra điều gì, Thạch-Song-Anh nói:

-Quên nữa! Trên đường tôi có gặp chủ nói là Hàn-Văn-Xung.

Lạc-Băng hỏi:

-Vậy hả? Hắn có ý định cướp lại ngựa không?

Thạch-Song-Anh đáp:

-Hắn không trông thấy tôi. Lúc tôi vào khách sạn tạm nghỉ nghe hắn ngồi nói chuyện với mấy tên tiêu đầu của Trấn-Viễn tiêu cục. Tôi nghe hắn chửi mắng Hồng Hoa Hội chúng ta không biết mấy. Tôi nghe thoang thoáng thì hình như hắn căm hận có một người anh em của chúng ta dùng thuốc mê làm gục cả đám và giết chết tên Đổng-Triệu-Hòa.

Từ-Thiện-Hoằng và Châu-Ỷ nghe nói nhìn nhau tủm tỉm cười. Thấy Thạch-Song-Anh ngạc nhiên, Châu-Ỷ nói:

-Đêm hôm ấy nhờ chúng tôi mở lượng từ bi nên hắn mới sống sót được mà còn dám lên tiếng mắng chửi ai nữa!

Từ-Thiện-Hoằng hỏi:

-Thập-nhị đệ có biết tụi Trấn-Viễn tiêu cục đi đâu, làm chuyện gì không?

Thạch-Song-Anh đáp:

-Nghe đâu chúng từ Bắc-Kinh hộ tống châu báu gì đó của Thanh-đế gửi tặng cho phủ Tướng-quốc ở Hải-Ninh.

Nói đến đây, Thạch-Song-Anh xoay qua Trần-Gia-Cách nói:

-Tôi có thông tri cho hai Tổng đầu-mục ở Hải-Ninh và Tề-Nam hổ trợ ngầm cho chúng.

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Đa tạ Thập-nhị đương-gia. Không ngờ lần này chúng ta với Trấn-Viễn tiêu cục lại bất ngờ liên kết để cùng lo chung một công việc.

Thạch-Song-Anh nói:

-Làm thì làm vậy, chứ thôi thấy thật sự cũng không cần thiết lắm vì lần này tôi được nhìn thấy tận mắt Vương-Duy-Dương đích thân đứng ra chỉ huy. Như vậy thì còn đám nào dám phá phách!

Mọi người nghe nói Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương ra mặt cầm đầu cuộc bảo tiêu thì ai nấy không hẹn mà cùng nhau kinh ngạc cả một lượt.

Châu-Trọng-Anh nói:

-Đã trên 10 năm nay Vương-Duy-Dương không còn phải đi lo công việc bảo tiêu mà chỉ cần sai khiến đám lâu mà thôi. Lần này đích thân y đứng ra lo việc này thì thật là ngoài sự tiên liệu của mọi người. Chuyện này không phải là tầm thường đâu!

Thạch-Song-Anh nói:

-Thật tôi cũng lấy làm lạ cho nên mới cố tìm hiểu mới hay ngoài món bảo vật của Thanh-đế gửi tặng phủ Trần Tướng-quốc còn có cặp ngọc bình nữa.

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Ngọc bình là gì?

Thạch-Song-Anh đáp:

-Đó là một vật quý vô giá của xứ Hồi. Lần này Triệu-Huệ đem đại quân sang chinh phạt xứ Hồi bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng, Mộc-Trác-Luân lão anh hùng phải đem món ấy ra làm cống phẩm để cầu hòa.

Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội nghe tin Hồi-bộ thắng trận thì ai nấy hết sức vui mừng.

Thạch-Song-Anh lại nói tiếp:

-Nghe đâu đại quân của Triệu-Huệ vì cạn lương thực và quân lương tiếp tế bị cướp sạch nên bắt buộc phải lui binh. Đã thế, trên đường về còn bị phục kích tổn thất lên đến trên 5000 người.

Châu-Ỷ nghe nói nhoẻn miệng cười nói với Từ-Thiện-Hoằng:

-Nếu chị Tiêu-Thanh-Đồng biết rõ mưu kế của Hồng Hoa Hội cúng ta chắc sẽ cám ơn anh nhiều lắm.

Từ-Thiện-Hoằng nghe nói ghé miệng Châu-Ỷ thì thào:

-Chính em mới là người nghĩ ra kế cướp lương tiếp tế của Triệu-Huệ, anh chỉ là người thi hành mà thôi.

Thạch-Song-Anh lại kể tiếp:

-Nhưng không may cho người Duy là chưa rút khỏi biên giới Hồi Thì Triệu-Huệ lại nhận được lương thực tiếp tế gửi đến nên lập tức quay binh trở lại để phản công. Biết binh lực mình không sao cự nổi với đại quân đông đảo như vậy, Mộc-Trác-Luân đành phải đem dâng cặp ngọc bình để cầu hòa. Bởi vua Càn-Long không có mặt ở Bắc-Kinh thành ra không ai dám đụng đến cặp ngọc bình, phải nhờ người hộ tống đến tận Giang-Nam. Do đó, ta có thể kết luận rằng Vương-Duy-Dương lần này tái xuất giang hồ không ngoài việc liên quan đến báu vật này của xứ Hồi.

Trần-Gia-Cách nói:

-Đừng nói là một cặp ngọc bình! Dẫu cho có nạp hết của báu của xứ Hồi, Càn-Long cũng không chấp thuận đâu. Mà cho dù có chấp thuận thì cũng chỉ được một thời gian ngắn rồi lại tiếp tục đem quân chinh phạt vì lý do khác mà thôi!

Thạch-Song-Anh nói:

-Theo lời đám tiêu sư thì nếu việc cầu hòa được chấp thuận thì cặp ngọc bình sẽ được cất vào kho tàng của triều đình. Trái lại, nếu không được chấp thuận thì sẽ đem trả lại cho xứ Hồi. Do đó mà Vương-Duy-Dương phải đích thân ra tay đem đến cho Càn-Long xem mà quyết định chứ không dám phó thác cho ai cả, kể cả Hàn-Văn-Xung.

Mã-Thiện-Quân nói:

-Tên giặc Vương-Duy-Dương này ỷ tài ỷ sức, vào tận xứ Triết-Giang này mà không gửi cảnh thiếp đến báo cho chúng ta. Há lão lại không biết có Tổng-Đà-Chủ của chúng ta nơi đây sao? Có lẽ nào hắn lại dám cả gan tự đại ngông cuồng đến thế!

Chương-Tấn cả giận nói:

-Trấn-Viễn tiêu cục dám giở thói ‘mục hạ vô nhân’ như thế thì chúng ta hãy ra tay đoạt lấy cặp ngọc bình đó thử xem làm gì nhau cho biết!

Lạc-Băng xen lời can:

-Điều ấy không nên đâu! Xứ Hồi đang tìm cách cầu hòa, nếu chúng ta làm thế sợ hỏng việc của Mộc-Trác-Luân lão anh hùng.

Trần-Gia-Cách láy mắt ra dấu cho Từ-Thiện-Hoằng. Cả hai vào thư phòng bàn chuyện riêng. Trần-Gia-Cách nói:

-Đêm qua tôi có giáp mặt với Càn-Long. Y nói nội trong ba ngày sẽ trở về Bắc-Kinh và trước một ngày hồi-giá sẽ giết chết Văn tứ ca.

Từ-Thiện-Hoằng kinh hoàng nói:

-Tình thế đã đến lúc nguy ngập, chúng ta phải hành động ngay thôi!

Trần-Gia-Cách nói:

-Văn tứ ca bị giam trong khám đặc biệt trong nội thành của tướng-quân Lý-Khả-Tú. Thất ca hãy thử nghĩ xem có kế hoạch nào không?

Từ-Thiện-Hoằng hỏi:

-Chứ không phải ở Hàng-Châu?

Trần-Gia-Cách liền đem tất cả chuyện gặp gỡ Càn-Long ra sao thuật lại tỉ mỉ cho Từ-Thiện-Hoằng nghe. Chỉ có việc vua Càn-Long tế mộ cha mẹ chàng là giữ kín theo đúng với lời hứa với.

Từ-Thiện-Hoằng suy nghĩ một hồi nói:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ! Chúng ta mạnh hơn, có thể tấn công được!

Trần-Gia-Cách gật đầu. Hai người ngồi tiếp tục bàn về chiến lược và đồng ý với nhau trên mọi quan điểm. Sau đó hai người ra lại tụ họp tất cả mọi người lại mà phân công.

Trần-Gia-Cách bắt đầu truyền lệnh:

-Trước tiên, thập-tam đương-gia Tưởng-Tứ-Căn hãy chỉ huy 500 anh em chuẩn bị thuyền bè đầy đủ, chờ đợi tin tức mà đi thẳng về Thái-Hồ.

Bang chúng nghe khẩu lệnh của Trần-Gia-Cách đều hăng hái, lên tinh thần. Gọi Mã-Đại-Đình ra ngoài, Trần-Gia-Cách nhờ cho người đặc phái đến Hải-Ninh bốc mộ Trần-Tấn-Trung về chôn gần Vũ-Thi và lo giúp đỡ mọi việc cho Tĩnh-Họa, đồng thời sắp đặt chỗ cho Tâm-Nghiện dưỡng bệnh.

Từ-Thiện-Hoằng bàn:

-Anh em bang chúng ở Hàng-Châu tạo nên sự nghiệp ở đây tốn không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, kể cả một số đang nằm vùng trong binh chủng Mãn-Thanh. Nếu huy động toàn lực chẳng hóa ra vì cứu mạng một mình Văn tứ ca mà làm cho bao nhiêu anh em bang chúng phải hy sinh tất cả sự nghiệp và sinh mạng hay sao?

Trần-Gia-Cách nói:

-Thất ca có cao kiến gì xin cứ bày tỏ.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Vẫn biết chúng ta lần này dùng sức mạnh để đương đầu với cường địch, nhưng nếu giữ được trong vòng bí mật thì vẫn hay hơn. Thứ nhất, đừng nên để cho hơn một vạn quân ở Hàng-Châu tham gia vào trận chiến. Thứ hai, tiết kiệm sức lực xương máu anh em bang hội càng nhiều càng tốt. Thứ ba đừng để lộ những anh em có dinh gia cơ nghiệp và gia đình tại đây, vì những người này đóng vai trò làm hậu thuẫn cho bao nhiêu người.

Vô-Trần Đạo-Nhân khen:

-Thất đệ nói rất đúng. Chúng ta cứ thế mà thi hành.

Từ-Thiện-Hoằng liền phân công:

-Văn tứ tẩu, chị đến trước cửa Đông dinh Hàng-Châu Tướng-quân chuẩn bị xạ thủ với tên lửa và đại pháo, chờ đúng giờ Tỵ sẽ phóng hỏa. Xong việc, chị lập tức sang ngay cửa Tây để hợp sức đánh thẳng vào dinh thự của Tướng-quân Lý-Khả-Tú.

Quay sang Mã-Thiện-Quân, Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Mã đại ca lập tức cho tản cư dân chúng sống gần vùng chúng ta định phóng hỏa để ngăn ngừa tai nạn rủi ro. Cứu được Văn tứ ca xong, chúng ta sẽ điều tra thiệt hại mà bồi thường sau. Còn việc cần gấp là đại ca lập tức triệu tập tất cả anh em có chân trong đạo quân Thủy-Long khoảng 500 người, và dặn 400 anh em trong đội quân Kỳ-Dinh chuẩn bị sẵn mà làm nội ứng vào đầu giờ Thìn.

Mã-Thiện-Quân tuân lệnh. Từ-Thiện-Hoằng lại sai Dương-Thanh-Hiệp chỉ huy chừng 300 người dùng xe đầy tay chở rơm cỏ, 150 người cầm liềm, lưỡi hái, mác, rựa, giả làm nông dân. Vệ-Xuân-Hoa thì chỉ huy đội Thủy-Long ở các phường cứu hỏa, còn Châu-Ỷ thì cầm đầu 200 nam, phụ, lão ấu, là hội viên của Hồng Hoa Hội tuyển từ các xưởng dệt của Mã-Thiện-Quân tại Hàng-Châu, dặn mỗi người trên tay phải cầm một cái gáo nhưng bên trong lại đựng dầu.

Rồi Từ-Thiện-Hoằng lại ra lệnh cho Chương-Tấn lãnh 200 người giả làm thợ nề, mỗi người đẩy một cỗ xe chở đầy thạch khối.

Xoay qua Mã-Thiện-Quân, Từ-Thiện-Hoằng dặn:

-Mã đại ca, phần anh thay đổi quân phục, giả làm quan thủ-bị, dẫn 500 anh em trong đạo Kỳ-Dinh đi tuần tra nghiêm ngặt không cho ai đến gần, cũng như không cho người trong dinh Lý-Khả-Tú ra ngoài đi cầu viện.

Quay sang phía Châu-Trọng-Anh, Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Xin nhạc-phụ cùng với hai anh Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường đợi sẵn ở cửa Nam mà tấn công vào. Triệu tam ca cùng Thường ngũ, lục ca hai vị tấn công từ phía Bắc vào. Tổng-Đà-Chủ, Vô-Trần Đạo-Nhân và tôi sẽ đánh từ cửa Tây vào. Ba đội này phải đánh chớp nhoáng, tốc chiến tốc thắng, đội vào vào được dinh thự Lý-Khả-Tú trước sẽ đoạt công đầu.

Phân công đâu đó xong xuôi, Từ-Thiện-Hoằn mới từ từ giải thích kế hoạch tỉ mỉ cho tất cả cùng biết rõ để khai thông. Ai nấy đều khâm phục Từ-Thiện-Hoằng là đa mưu túc kế, thần cơ diệu toán.

Thế lực Hồng Hoa Hội ở Hàng-Châu rất hùng hậu nên cuộc huy động võ trang không gặp khó khăn trở ngại một chút nào cả. Chỉ trong vài khắc đồng hồ là đâu đó đã chuẩn bị chu đáo, đâu ra đó. Dùng cơm tối xong, mọi người nai nịt chỉnh tề lên đường, chia nhau chực sẵn ở từng vị trí, kiên nhẫn chờ đợi nghe tiếng đại pháo của đoàn quân của Lạc-Băng vào giờ Tỵ

Trần-Gia-Cách nói với Từ-Thiện-Hoằng:

-Thất ca thật đã tận dụng Tôn-tử binh pháp. Từ lửa đến nước đều có đủ cả, lại còn thêm cả dầu nữa! Không biết Lý-Khả-Tú chống đỡ bằng cách nào?

Hai người đang chuyện trò bỗng nghe tiếng pháo nổ vang trời. Sau đó là dân cư chung quanh đua nhau chạy trốn. Tình thế trở nên xáo trộn và hỗn loạn vô cùng.

Trong dinh thự của Lý-Khả-Tú, có mấy trăm tên quân cầm sẵn từng thùng nước nhưn lạ lùng thay vẫn đứng im không động đậy gì cả.

Lạc-Băng nghĩ thầm:

-“Lý-Khả-Tú là một đại tướng văn võ song toàn, cơ mưu đầy đủ. Chắc là hắn sợ trúng kế ‘điệu hổ ly sơn’ nên để mặc kệ cho bên ngoài thế nào vẫn một mực thủ kín bên trong. Như thế gì việc giải cứu Văn tứ ca không dễ dàng chút nào cả!”

Bỗng nhiên, Lạc-Băng nhìn phía lửa đang cháy thấy một đám nông dân như hoảng hốt vô cùng. Họ thay phiên nhau đầy những xe rơm tới gần. Mấy viên võ quan trong phủ thấy vậy lớn tiếng mắng:

-Khốn nạn! Lửa cháy như thế kia mà chúng bây còn đẩy xe rơm lại gần nữa à? Có mau đẩy đi chỗ khác hay không? Nguy hiểm tới nới rồi!

Đám nông dân tỏ ra luýnh quýnh, đám võ quan giận quá dùng roi quất túi bụi vào đám nông dân khiến họ sợ hãi bỏ mặc những xe rơm đó mà chạy đi hết. Giữa lúc nguy cấp, tiếng phèn la đánh lên chát chúa, mấy chục chiếc xe thủy long lướt tới nhẹ nhàng.

Lúc bấy giờ, lửa cháy đã lan tới các doanh trại chung quanh phủ đại tướng quân hết sức mãnh liệt. Gặp các xe rơm, lửa bắt vào ngay lập tức cháy bùng lên dữ dội. Kế đến Châu-Ỷ lại cầm đầu đám dân giả làm nạn nhân hỏa hoạn kéo tới, múc dầu đổ thêm vào ngọn lửa đang cháy dữ dội.

Lý-Khả-Tú đứng trong nhìn thấy đám dân chúng có những hành động lạ lùng liền gọi Tham-tướng Tăng-Đồ-Nam ra ngoài thanh tra.

Tăng-Đồ-Nam đến trước đám người của Châu-Ỷ hỏi:

-Các ngươi làm gì ở đây?

Châu-Ỷ cười đáp:

-Cứu hỏa!

Tăng-Đồ-Nam hét lớn:

-Có mau dẹp hết những trò ngu xuẩn dại dột kia đi hay không? Bị cháy nhà rồi đâm ra mất trí hết cả rồi sao?

Đang lúc Tăng-Đồ-Nam còn đang cãi vả với đám người Châu-Ỷ thì Mã-Thiện-Quân kéo binh lính tuần phòng đến bao vây dinh thự tướng quân giải tán hết đám người chung quanh.

Tăng-Đồ-Nam lớn tiếng gọi:

-Vị tướng quân nào nào chỉ huy đội quân xin bắt hết đám người này nhốt lại dùm!

Tăng-Đồ-Nam vừa nói dứt lời, Châu-Ỷ đã tạt vào người ông ta một gáo dầu. Tăng-Đồ-Nam kinh hãi chạy ngược trở lại, tránh xa ngọn lửa. Lý-Khả-Tú đứng trên thành trông thấy thế thì giận lắm, ra lệnh cho xạ thủ dùng cung nỏ bắn sả xuống đám dân chúng ngoài thành.

Đã được huấn luyện từ trước, đám người chạy tới núp đàng sau những chiếc xe nên chẳng một ai bị thương vong.

Thấy dầu của đạo quân ‘nạn nhân’ do Châu-Ỷ lãnh đạo đã cạn dầu, Vệ-Xuân-Hoa liền đốc thúc đạo quân Thủy-Long nhắm bờ thành mà đổ dầu sôi không ngừng. Đám quân-sĩ thấy thế thì hoảng hồn, đua nhau chạy trốn, bất chấp quân kỷ.

Lý-Khả-Tú tin chắc đây không phải là hỏa hoạn mà do chính Hồng Hoa Hội đã hoạch định chương trình tấn công với mục đích giải cứu Văn-Thái-Lai. Vì vậy, Lý-Khả-Tú một mặt đặc phái một số quân ra ngoài đi cầu viện, một mặt chỉ huy quân lính trong thành cố thủ.

Nhưng Lý-Khả-Tú có ngờ đâu đã trúng kế Từ-Thiện-Hoằng. Mấy lần gửi quân đi cầu viện đều bị Mã-Thiện-Quân bắt hết.

Theo kế hoạch của Từ-Thiện-Hoằng thì hỉ đốt rơm để hư trương thanh thế chứ không có ý định đốt dinh thự của Lý-Khả-Tú, vì nếu làm như thế mà không cứu kịp Văn-Thái-Lai ắt chàng phải bị chết cháy mà thôi.

Chương-Tấn chỉ huy đội quân ‘thạch khối’ tới sát bờ thành. Mọi người chồng những bao đá sỏi lên nhau dựa vào vách thành để làm thang.

Đạo quân Thủy-Long của Vệ-Xuân-Hoa sau đó đổi dầu thành nước lạnh tướo lên mặt thành từ từ dập tắt các ngọn lửa.

Lúc đó, đám quân sĩ canh gác trên thành vì bị trận ‘mưa dầu’ đã trốn hết cả nên Trần-Gia-Cách mới ra lệnh cho mọi người vượt tường mà tấn công vào. Cả bốn mặt đều dùng những bao ‘thạch khối’ đựng đá sỏi bên trong chồng lên nhau để làm thang mà tiến vào trong thành.

Chẳng bao lâu, ba đội quân Hồng Hoa Hội tại ba cửa Tây, Nam, Bắc đã vào cả được trong thành. Gặp bất cứ tên quân nào chạy, mọi người đều bắt lại để hỏi thăm chỗ dấu Văn-Thái-Lai.

Từ-Thiện-Hoằng lớn tiếng kêu gọi mọi người hợp sức tiêu diệt hết đám Thanh-binh trong thành. Lý-Khả-Tú đích thân đứng ra điều khiển, đốc thúc quân lính chống lại.

Hai bên đang giao tranh kịch liệt thì bỗng nhiên có một người cất cao giọng như nói một tràng tiếng lóng giang hồ rồi tự nhiên đám hào kiệt Hồng Hoa Hội tản mác ra.

Lý-Khả-Tú sợ trúng gian kế nên lập tức truyền lệnh:

-Ai ở đâu giữ yên vị trí nấy, không được bắn tên hay đuổi theo.

Ngay sau đó, đội Thủy-Long kéo tới nhắm vào hàng ngũ của Lý-Khả-Tú phun nước xuống như mưa. Đám quân sĩ chịu không nổi tranh nhau mà chạy trốn bất kể hiệu lệnh.

Từ-Thiện-Hoằng ra lệnh cho đội Thủy-Long ngừng tay rồi hướng về đám tàn quân của Lý-Khả-Tú nói:

-Bọn ngươi muốn sống thì mau buông hết vũ khí xuống.

Cả đám nghe nói đều răm rắp tuân theo. Lý-Khả-Tú bấn loạn tinh thần. Bỗng đâu từ bên ngoài một thanh niên phi thân tới như bay nắm tay ông ta dắt đi nói:

-Thân phụ mau theo con thoát khỏi nơi này.

Lý-Khả-Tú nhận ra thanh niên ấy là Lý-Mộng-Ngọc, con gái mình cải nam trang thì an lòng vững dạ. Nhưng ông ta ngạc nhiên không hiểu tại sao con gái mình hôm nay có sức mạnh như thần, dắt mình bay đi vùn vụt.

Chương-Tấn từ đâu cầm song phủ hùng hổ xông ra nạt lớn:

-Đứng lại! Không được chạy!

Lý-Mộng-Ngọc phóng một kiếm đâm ngay mặt Chương-Tấn làm chàng ta thất kinh vội vàng đưa sống búa lên đỡ. Nhưng thì ra đó chỉ là một hư chiêu. Chương-Tấn vừa nhấc búa lên thì Lý-Mộng-Ngọc đã thâu ngay kiếm về và tiếp tục dắt Lý-Khả-Tú chạy tiếp.

Chương-Tấn định rượt theo thì Triệu-Bán-Sơn cản lại nói:

-Thập đệ! Đừng rượt theo! Việc cứu Văn tứ ca quan trọng hơn!

Chương-Tấn nghe gọi bèn đứng lại ngay, không rượt theo nữa. Nguyên Triệu-Bán-Sơn đã nhận ra được Lý-Mộng-Ngọc là đồ đệ của Lục-Phỉ-Thanh nên không cản lại, thầm nghĩ:

-“Không biết hắn và Lý-Khả-Tú có mối quan hệ như thế nào mà lại liều mạng giải cứu trong lúc nguy hiểm như thế này. Tốt hơn hết là nể mặt Lục lão ca để cho hắn làm tròn bổn phận là hơn.”

Lúc ấy toàn thể binh lính trong dinh thự đã buông hết vũ khí xuống đầu hàng. Dương-Thanh-Hiệp dồn tất cả vào một góc. Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội thi nhau đi tìm Văn-Thái-Lai mà vẫn không thấy được một tung tích nào cả. Lạc-Băng nóng lòng, hết tra khảo hàng binh lại tra khảo đến hàng tướng. Nhưng không một ai biết được tên Văn-Thái-Lai khi nàng hỏi đến.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Có hỏi hay giết hết đám người này cũng vô ích thôi! Chi bằng rượt theo Lý-Khả-Tú bắt lại mà hỏi thì may ra còn tìm được manh mối!

Thấy Từ-Thiện-Hoằng nói có lý, định ra ngoài chia nhau đi bắt Lý-Khả-Tú thì một người bịt mặt từ đâu xông ra chặn lại. Lạc-Băng giơ đao lên chém người bịt mặt một nhát thì hắn vung kiếm lên gạt đao của nàng qua một bên rồi nhìn Lạc-Băng nói:

-Muốn gặp chồng hãy theo tôi!

Lạc-Băng như ngây cả người hỏi:

-Người nói gì vậy?

Tuy hỏi vậy nhưng Lạc-Băng lập tức chạy theo người ấy. Châu-Ỷ cùng Chương-Tấn sợ Lạc-Băng mắc phải quỷ kế của địch nhân nên cùng đi theo hổ trợ. Người bịt mặt có khinh công tuyệt diệu, nên phi như gió. Qua một khúc quanh co, hắn lại nhắm hoa viên chạy thẳng một mạch.

Lạc-Băng vừa chạy vừa ngạc nhiên hỏi:

-Ngươi là ai?

Người bịt mặt không trả lời. Hình như thông thạo hết cả đường lối trong dinh Lý-Khả-Tú, hắn lách qua lách lại thật tài tình và may lẹ vô cùng. Hắn dẫn mọi người qua khỏi những cửa động kỳ lạ trong hoa viên rộng thênh thang được ngụy trang trong những cụm hoa thật khéo léo. Lạc-Băng để ý dưới đất có nhiều tử thi nằm la liệt chưa ráo máu. Đó là những kẻ bị Vô-Trần Đạo-Nhân giết khi nãy lúc mọi người chạy đi tìm nơi giam giữ Văn-Thái-Lai mà không gặp.

Người bịt mặt đảo quanh một hồi thì đến một cái gò cao, phía trên trồng toàn mẫu đơn trắng. Đi vòng một hồi, người bịt mặt liền vỗ tay bốn cái. Lạc-Băng không hiểu gì cả, vừa định hỏi thì lại thấy người bịt mặt nắm tay Lý-Khả-Tú mà chạy vào, đàng sau có hai anh em Tây-Xuyên Song-Hiệp đuổi theo.

Thình lình, người bịt mặt phóng qua bồn hoa dùng một thế ‘Hồi phong phất liễu’ tấn công hai anh em Tây-Xuyên Song-Hiệp. Anh em họ Thường lùi ra sau hai bước né tránh. Thừa cơ hội ấy, người bịt mặt nắm tay Lý-Khả-Tú phi thân lên đầu tường.

Thường-Bá-Chí đưa năm ngón tay chụp tới, trong khi Thường-Thích-Chí phóng ra một chưởng dồn người bị mặt vào thế bí cực kỳ nguy ngập. Hắn thoát được một tay một người thì lại bị người kia chụp trúng ngay bả vai. Lạc-Băng thấy thế la lên:

-Ngũ ca! Lục Ca! Đừng đánh hắn!

Tây-Xuyên Song-Hiệp nghe nói liền dừng tay lại ngơ ngác. Người bịt mặt lúc đó lại nhảy qua bồn hoa bên kia, và cứ thế nhảy qua nhảy lại mấy lần, hành động kỳ quái, thật là khó hiểu.

Chương-Tấn khó chịu, không thể nhịn được nữa gọi lớn:

-Tứ ca! Anh ở đâu? Có anh em đến cứ anh đây!

Dứt lời, Chương-Tấn vung búa lên, nhắm gò hoa đập loạn lên. Thường-Thích-Chí để ý chợt thấy phía dưới bồn hoa có một dấu hiệu rất là kỳ quái. Phóng mình lại gần xem thì khám phá ra một sợi dây xích sắt chôn dưới chậu hoa nọ.

Nắm sợi dây xích vận nội công kéo thử, thì nghe có tiếng động di chuyển. Dời mấy chậu hoa bên cạnh sang mộ bên thì bỗn đâu lòi ra một nắp hầm bằng đá xanh rất lớn. Mọi người thấy thế liền reo lên. Châu-Ỷ rồi ra ngoài kêu đám hào kiệt Hồng Hoa Hội vào giúp sức. Trong lúc đó, người bịt mặt biến đi lúc nào mà không ai để ý đến.

Mọi người cố sức mỗi người một đầu khiêng nắp hầm lên. Nhưng mặc cho mọi người tha hồ phí sức, nắp hầm vẫn không di chuyển một ly nào. Từ-Thiện-Hoằng liền ra dấu bảo mọi người dừng tay để cho chàng quan sát.

Dưới ánh trăng lờ mờ, trên mặt đá xanh như hiện ra những nét của một ‘Bát Quái Thái Cực Đồ’. Từ-Thiện-Hoằng liền bước vào giữa ngay trung tâm của Bát Quái Thái Cực Đồ. Chàng án theo phương pháp, đạp thử vào các phương vị Bát Quái thì thấy dưới bàn chân như đang chuyển động nhè nhẹ. Chàng tung mình ra khỏi nắp hầm thì ngay sau đó phiến xanh xụp xuống, thành một miệng hang.

Lạc-Băng mừng quá định nhảy xuống thì Thường-Bá-Chí kinh hãi nắm hai tay kéo lại nói:

-Khoan đã!

Từ dưới miệng hầm, ba mũi phi tiêu bắn lên vun vút lên khiến Lạc-Băng hết hồn hết vía. Lúc đó, mọi người nhìn kỹ thì thấy có những bậc thang bằng đá dẫn xuống một đường hầm.

Trần-Gia-Cách nói:

-Ngũ ca và lục ca! Hai anh giữ miệng hầm, để chúng tôi xuống dưới coi thử.

Dứt lời, Trần-Gia-Cách từ từ cẩn thận từng bước đi xuống dưới hầm. Vô-Trần Đạo-Nhân, Triệu-Bán-Sơn, Châu-Trọng-Anh, Chương-Tấn, Lạc-Băng, Mạnh-Kiện-Hùng và Châu-Ỷ cùng đi theo. Dương-Thanh-Hiệp ở lại giữ cửa hầm phía trong để khi có tin tức gì từ trên hầm đưa xuống sẽ lập tức chạy vào thông báo cho mọi người.

Đi hết con đường trước mặt thì bất chợt gặp một cánh cửa sắt chạn ngang trước mặt. Từ-Thiện-Hoằng thấy vậy liền lấy đá lửa ra đánh vào bùi nhùi. Ánh sáng lóe lên rọi vào cửa sắt, một bản đồ Thái Cực lại hiện ra trước mặt mọi người.

Vận dụng nội công vào hai cánh tay, Từ-Thiện-Hoằng áng theo phương vị trong hình Thái Cực đánh luôn hai chưởng và kêu lớn:

-Tất cả dang ra hai bên cho thật xa!

Đám hào kiệt chia nhau ra hai nhóm, nép sát vào tường vì sợ có ám khí phóng ra. Nhưng trái với sự tiên liệu của mọi người, lần này cánh cửa từ từ mở ra mà không thấy ám khí đâu cả. Lạc-Băng vì quá nóng nảy nên khi cánh cửa vừa hé đủ cho một người chui lót đã nép mình chui ngay vào bên trong.

Từ-Thiện-Hoằng hốt hoản la lên:

-Tứ tẩu! Khoan đã!

Tiếng chàng vừa dứt thì Lạc-Băng đã sang đến bên kia rồi. Chương-Tấn và Châu-Ỷ liền sau đó cũng chui qua.

Bỗng nhiên, Vệ-Xuân-Hoa từ bên ngoài chạy vào gọi lớn:

-Tổng-Đà-Chủ! Có người cứu Lý-Khả-Tú thoát khỏi nơi đây rồi! Chúng ta mau ra tay cho lẹ kẻo viện binh kéo đến thì nguy!

Trần-Gia-Cách liền ra lệnh:

-Cửu ca mau ra tiếp sức với Mã đại ca chuẩn bị đội xạ thủ cản viện binh cho bằng được mới mong cứu được Văn tứ ca.

Vệ-Xuân-Hoa tuân lệnh lui ra. Trần-Gia-Cách lại tiếp tục dẫn mọi người chui qua cửa sắt vào bên trong. Trước mặt mọi người là một con đường dài hun hút như vô tận. Vì quyết tâm cứu Văn-Thái-Lai cho bằng được nên mọi người không sợ nguy hiểm, cùng nhau đi tới. Đi hết con đường đến chỗ tận cùng, mọi người thấy có một khúc rẽ. Ngay khúc rẽ ấy có một cánh cửa nhỏ hiện ra trước mắt mọi người. Chương-Tấn liền dùng búa đập một cái, cánh cửa mở ra. Sau cửa là một gian phòng nhỏ. Trong phòng có thắp mấy cây nến. Giữa phòng có một cái ghế, và ngồi trên ghế là một người cầm kiếm.

Người cầm kiếm không ai khác hơn là Hỏa-Thủ Phán-Quan Trương-Siêu-Trọng. Đàng sau Trương-Siêu-Trọng có một cái giường, và trên giường có một người đang nằm. Người ấy chính là Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai.

Văn-Thái-Lai nghe tiếng chân, quay đầu lại trông thấy Lạc-Băng thì tưởng mình đang nằm mơ. Tay chân chàng bị xiềng xích nên không cử động được, chỉ khẽ kêu lên một tiếng. Lạc-Băng rút ra ba mũi phi đao nhắm Trương-Siêu-Trọng phóng rồi chạy thẳng đến chiếc giường.

Trương-Siêu-Trọng một tay bắt ba mũi phi đao của Lạc-Băng, còn tay kia bấm nhẹ vào một nút ở trên ghế y đang ngồi, lập tức từ trên một cái lưới sắt chụp xuống dưới chụp kín quanh giường Văn-Thái-Lai.

Trần-Gia-Cách hét lớn:

-Tất cả anh em xông vào thanh toán tên gian tặc này trước!

Dứt lời, ngọn trủy thủ trên tay chàng nhắm ngực Trương-Siêu-Trọng đâm thẳng một nhát. Biết thời gian gấp rút nên mọi người không cần để ý gì đến luật giang hồ nữa, nên Vô-Trần Đạo-Nhân, Triệu-Bán-Sơn và Châu-Trọng-Anh cùng rút binh khí ra một lượt vây chặt lấy Trương-Siêu-Trọng vào giữa.

Trương-Siêu-Trọng bình tĩnh, đỡ gạt bốn phía. Được vài hiệp, Trần-Gia-Cách cất thanh trủy thủ vào bọc, dùng Cầm-Nã thủ đánh vào hông Trương-Siêu-Trọng. Hỏa-Thủ Phán-Quan vội vàng nín hơi vào một cái, bụng thóp lại khiến cho tay Trần-Gia-Cách trật sang một bên.

Vừa tránh được cái chộp hiểm nghèo, Trương-Siêu-Trọng lại bị hai nhát kiếm của Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn chém tới cả hai bên tả hữu. Cùng lúc đó, thanh Kim bội đại đao của Châu-Trọng-Anh cũng nhắm giữa đĩnh đầu của Trương-Siêu-Trọng mà chém xuống.

Trương-Siêu-Trọng thấy tình thế cực kỳ nguy hiểm liền rút thanh Ngân-Bích-Kiếm ra đỡ hai chiêu kiếm của Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn rồi sẵn trớn vung lên gạt đại đao của Châu-Trọng-Anh.

Mọi người đều biết rõ sự lợi hại của thanh Ngân-Bích Kiếm nên không dám cho binh khí của mình chạm vào nó liền lập tức thâu hồi chiêu thức. Trương-Siêu-Trọng vừa dùng Ngân-Bích-Kiếm đẩy lui được ba người thì lại bị Trần-Gia-Cách tấn công.

Trương-Siêu-Trọng biết trận đấu không thể nào kéo dài được. Nếu không nhờ thanh Ngân-Bích kiếm kia bảo vệ thì cho dù là một người y còn chưa chắc đã cự nổi, huống hồ là bốn người cùng hợp lực quyết hạ y.

Dồn được Trương-Siêu-Trọng vào góc tường, Vô-Trần Đạo-Nhân dùng một thế ‘Trung bình thiên’ đâm thẳng vào bụng Hỏa-Thủ Phán-Quan.

Bỗng nhiên, vách tường tự nhiên lõm vào một cái như mở ra, và Trương-Siêu-Trọng như lọt hẳn vào đấy. Ai nấy nhìn nhau ngơ ngác như không hiểu chuyện gì xảy ra cả.

Lúc ấy Chương-Tấn và Lạc-Băng cùng Châu-Ỷ đang cố gắng đập cái lưới sắt ra để cứu Văn-Thái-Lai nhưng hoàn toàn chỉ phí công, vô ích. Chợt có tiếng động vang xuống rồi một bức tường sắt từ trên như tuột xuống giam kín Văn-Thái-Lai vào trong. Trần-Gia-Cách kịp thời nên nhảy tới, hai tay xách Lạc-Băng cùng Châu-Ỷ bay ra đàng sau.

Dương-Thanh-Hiệp đứng đàng sau cùng lúc đó bỗng nhiên la lớn:

-Không xong! Mau ra kẻo chết!

Mọi người bên trong lúc đó đang nghĩ cách cứu Văn-Thái-Lai thành thử không để ý. Chỉ có Triệu-Bán-Sơn và Châu-Trọng-Anh nghe được bèn chạy lẹ ra ngoài xem xét tình hình...

Triệu-Bán-Sơn và Châu-Trọng-Anh sau đó chạy vào trong la lớn:

-Tất cả ra mau! Nguy hiểm lắm!

Ai nấy đều hoảng hốt theo chân Triệu-Bán-Sơn ra ngoài. Chỉ có Lạc-Băng vẫn đứng im tại chỗ như mất hồn. Châu-Trọng-Anh không chút chậm trễ, nhảy tới xách ngang hông Lạc-Băng rồi phi thân ra ngoài.

Ra đến nắp hầm, mọi người nhìn thấy Dương-Thanh-Hiệp đang một mình vận nội công đỡ cánh cửa hầm bằng đá. Chương-Tấn vội vàng nhảy tới ghé lưng vào đỡ phụ với Dương-Thanh-Hiệp một tay. Dương-Thanh-Hiệp liền rút cây thiết trúc cương tiên chặn dưới tấm đá xanh. Mọi người sau đó lần lượt phóng ra ngoài.

Chờ cho mọi người ra hết an toàn, Chương-Tấn mới rút lưng ra khỏi cánh cửa hầm. Chỉ nghe ‘rắc’ một tiếng, cây cương tiên của Dương-Thanh-Hiệp đã gẫy ra làm đôi và cánh cửa đá rơi xuống đạy kín cửa hầm lại.

Mọi người vừa trải qua cơn kinh hoàng thì lại nghe Tây-Xuyên Song-Hiệp từ đâu chạy đến la lớn:

-Không xong rồi, Tổng-Đà-Chủ! Đám Ngự-lâm quân đã đến tiếp viện rất đông!

Trần-Gia-Cách nói:

-Tất cả anh em mau rút lui!

Khi đến hoa viên, mọi người thấy một thiếu phụ tuyệt đẹp, y phục rất hoa mỹ nhưng thần sắc hết sức xanh xao, vẻ mặt ngơ ngác. Trần-Gia-Cách hét lớn:

-Bắt lấy!

Châu-Ỷ nhảy tới đưa tay chộp lấy tay thiếu nữ. Nàng ta hoàn toàn không chút kháng cự để yên cho Châu-Ỷ bắt lấy. Ra khỏi cửa dinh, mọi người trông thấy một cản hết sức hỗn loạn đang diễ ra trước mắt. Đám Thanh-binh cùng một số bang chúng Hồng Hoa Hội đang nhao nhao lên như sắp sửa giao tranh.

Thấy vậy, Trần-Gia-Cách giơ cao tín vật của Hồng Hoa Hội lên ra lệnh:

-Tất cả lập tức rút lui, gặp nhau tại cửa Bắc!

Ra khỏi thành, Trần-Gia-Cách nói:

-Chúng ta lui ra xa 10 dặm phía Bắc, cơm nước xong sẽ tính!

Mọi người vừa đi vừa bàn tán. Có một điều ai nấy đều thắc mắc không hiểu là người bịt mặt kia. Nhờ hắn tận tình chỉ điểm mà mọi người mới tìm được chỗ của Văn-Thái-Lai bị giam cầm. Nhưng đồng thời hắn cũng cứu Lý-Khả-Tú vượt thoát được hiểm nghèo! Cả hai việc, hắn đều làm hết mình, như liều mạng hy sinh. Phải chăng hắn là người của Hồng Hoa Hội? Hay là người của triều đình? Điều nào cũng chí lý. Mà điều nào cũng vô lý. Chuyện càng lúc càng phức tạp không hiểu nổi!...

Đang lúc ấy thì từ xa có tiếng rao truyền:

-Ngã (#1) Võ-Duy-Dương!.. Ngã Võ-Duy-Dương!...

Nghe tiếng rao truyền, Triệu-Bán-Sơn cười nói:

-Đám Trấn-Viễn tiêu cục lại đến rồi!

Từ-Thiện-Hoằng gọi Trần-Gia-Cách ra bàn riêng:

-Chúng ta không nên nói cho tứ tẩu biết chuyện Càn-Long đòi giết Văn tứ ca trong ba ngày. Tổng-Đà-Chủ nghĩ có đúng không?

Trần-Gia-Cách gật đầu. Từ-Thiện-Hoằng lại nói:

-Đêm nay chúng ta làm náo nhiệt thế này thì có khác nào thúc giục Càn-Long hạ sát Văn tứ ca cho mau!

Trần-Gia-Cách cau mày nói:

-Hẳn là thế! Bây giờ phải làm sao đây?

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Theo tôi thì tìm cách đoạt được cặp ngọc bình là hay nhất!

Trần-Gia-Cách chưa kịp hỏi thì Từ-Thiện-Hoằng đã nói tiếp:

-Nếu Càn-Long chịu cho xứ Hồi giảng hòa tất nhiên sẽ giữ lấy cặp ngọc bình đó. Mà không cho hòa thì cũng phải cho người đem trả lại cặp ngọc bình đó để khỏi mang tiếng là thất tín với thiên hạ.

Trần-Gia-Cách như chợt hiểu ra hỏi:

-Ý của thất ca là dùng cặp ngọc bình này làm kế hoãn binh?

Từ-Thiện-Hoằng đáp:

-Đúng như vậy, Tổng-Đà-Chủ! Đành rằng cặp ngọc bình này không thể chuộc được Văn tứ ca về, nhưng có thể cho chúng ta thêm ít thời gian để mà tính kế khác. Mặt khác có thể giúp được cho Mộc-Trác-Luân lão anh hùng có thêm thì giờ để chỉnh đốn lại binh lực để chống lại với đại quân của Triệu-Huệ trong trường hợp Càn-Long không chịu cho hòa.

Trần-Gia-Cách khen ngợi chẳng cùng, cười nói:

-Đây cũng là dịp may để thử xem Uy-Chấn Hà-Sóc lợi hại đến đâu!

Bàn tính xong, Trần-Gia-Cách sai Vệ-Xuân-Hoa đi thám thính tình hình của Trấn-Viễn tiêu cục...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro