Thư Kiếm Ân Cừu Lục - bản cũ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 1

Phù Dung châm năng giáo Lý Mộng Ngọc

Bạch Long kiếm hạ sát Tiêu Văn Kỳ

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,

Xếp bút nghiên theo việc đao cung.

Thành liên mong tiến bệ rồng,

Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,

Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao...

Mấy câu thơ này mở đầu cuốn “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng-Trần- Côn, bản dịch của Đoàn-thị-Điểm làm nổi bật lên cái chí khí của khách nam nhi coi thường cái chết nơi chốn sa trường để trả nợ núi sông. Thanh gươm yên ngựa là phận sự của ‘đấng mày râu’ đáp lời sông núi...

Một cụ già đã 60, tinh thần quắc thước, khí vũ hiên ngang ngồi trên lưng ngựa cảm khái ngâm nga. Tiếng cụ vang dội lên sang sảng, không ai ngờ đó là thanh âm của một cụ già râu tóc bạc phơ giữa một buổi chiều tà bóng xế.

Mải nhìn xem bốn phía, cụ bỗng giựt mình sực nhớ ra bóng chiều đã phủ trên ngọn cỏ, tàn cây.

Con đường ra quan ải còn xa biền biệt. Ngoại trừ đại đội quân mã và gia nhân quyến thuộc của cụ ra, lâu lâu mới thấy có vài ba bầy quạ lạnh lùng kéo đàn bay về ổ cũ kêu lên những tiếng thê lương.

Lắng tai không còn nghe tiếng vó ngựa nhịp nhàng vang trên đường gồ ghề khúc khuỷu, cụ già vội vã giơ roi quất nhẹ vào hông con chiến mã. Con vật sãi bốn vó đều đặn như bay rút lẹ khoảng đường trước mặt để bắt theo cho kịp mé trước tách xa rời. Cụ già bận lo nghĩ việc nước rối beng đến nỗi quên nhớ rằng mình tuổi hạt đã cao, sức lực đã kém. Bóng chiều đã dần đưa con đường tranh đấu củ cụ đến lúc gối mỏi, chân chồn... Nên cụ rơi bị lại đàng sau một mình mà không hay biết.

Lúc ấy, bên Trung-Hoa thuộc nhà Thanh, vào đời vua Càn-Long thứ 23. Bên Việt-Nam nhằm triều Tây-Sơn Quang-Trung Nguyễn Huệ. Trời vào giữa tiết thu lạnh lẽo. Cụ già vừa kể trên chính là Lý-Khả-Tú vừa được phong chức An-Biên Tướng-Quân. Lý tướng-quân mang trong mình hai giòng máu, cha Trung-Hoa, mẹ Việt-Nam, nên khác hẳn với các danh-nhân thời ấy. Ông có hai tổ-quốc phải phụng thờ. Phong-tục của người Trung-Hoa chỉ xem trọng bên nội mà khinh bên ngoại. Nhưng Lý-Khả-Tú không nghĩ vậy. Ông cho rằng bổn phận làm người phải xem trọng cả hai bên nội, ngoại như nhau. Vả lại, Lý tướng-quân có ở Việt-Nam mấy năm nên ít nhiều cũng có ảnh hưởng Việt-Nam được vài phần. Ông thích văn-chương Việt-Nam nên những áng văn-chương tuyệt tác của Việt-Nam đều thuộc lòng. Nhờ công lao giữ vững được biên cương lại hòa hiếu được với vua Quang Trung ở Việt-Nam nên Lý-Khả-Tú được Thanh-Đế Càn-Long phong cho hầu-tước, đổi ra trấn nhiệm tỉnh Triết-Giang.

Lý-Khả-Tú không xa lạ gì với việc xông pha trận mạc. Sau lần đánh dẹp được bộ-lạc Hồi nổi dậy, ông ta vang danh, dội như cồn. Khi được lệnh đổi đi Triết-Giang, Lý-Khả-Tú cho gia quyến đi sau, có quân, có tướng đi ‘tiền hô hậu ủng’, còn ông ta thì chọn một toán quân khinh kỵ đi trưóc.

Công danh lừng lẫy. Tiền bạc đầy kho... Châu báu ngọc ngà tích trữ không biết bao nhiêu mà kể! Chỉ hiềm một nỗi là Lý-Khả-Tú hiếm hoi, không có con trai mà chỉ sinh được một mụn con gái duy nhất. Ông đặt cho nàng một cái tên rất đẹp là Lý-Mộng-Ngọc. Nàng sinh ở Cương-Tây. Lúc ấy, cha nàng chỉ mới làm Phó Tướng-Quân. Mẹ nàng nằm chiêm bao thấy nuốt vào bụng một viên ngọc, cho là điềm tốt nên mới lấy đó để đặt tên cho con gái.

Lý-Khả-Tú hết lòng thương yêu, nâng niu, quý con gái mình có thể nói là hơn tất cả các thứ trân châu bảo ngọc trên trần gian này.

Lý-Mộng-Ngọc năm ấy vừa được mười chín cái xuân xanh. Nàng xinh đẹp chẳng khác gì một Tố-Nữ trong tranh, duyên dáng như một đóa hoa Tường-Vi mới nở, có phong-độ ‘gần tiên khác tục’. Là con một võ tướng nhưng trông nàng chẳng chút nào gọi là võ-biền cả.

Thấy con gái càng lớn càng xinh đẹp. Lý-Khả-Tú lại càng cưng chiều, thậm chí chẳng bao giờ la rầy quở trách điều gì bao giờ, luôn luôn chiều theo ý muốn của nàng.

Nói về dung mạo, Lý-Mộng-Ngọc giống mẹ như khuôn đúc, nhưng nói về tính tình thì lại giống cha như rập in. Bất cứ lúc nào cha nàng ra giáo-trường cỡi ngựa bắn cung, thao luyện võ nghệ là luôn luôn có nàng theo sát một bên. Thấy con ưa thích cõ nghệ, đôi khi Lý-Khả-Tú cũng cao hứng chỉ dạy cho ít đường đao, mấy ngón thương gia-truyền, đồng thời còn bảo các tùy-tướng dưới trước ông ta chỉ dạy cho nàng bất cứ ngón nào nàng thích học hay muốn học.

Được chủ-soái ‘ban’ cho hân hạnh đó, các bộ-tướng và đám tùy-tùng dĩ nhiên ai lại chẳng không hết lòng? Ai nấy đều đem hết tuyệt-kỹ của mình ra tận tình chỉ bảo con gái chủ tướng mình. Nhờ vậy, đến năm 13 tuổi, Lý- Mộng-Ngọc đã tinh thông võ-nghệ. Một thân gái nàng địch nổi cả chục người trai tráng là chuyện thường, không có gì cho ai phải ngạc-nhiên cả.

Tại võ-trường, Lý-Khả-Tú đã chứng kiến không biết bao nhiêu lần con gái mình khi tỉ thí đánh rớt kiếm, đao, thương của các thuộc tướng. Mỗi lần thế, ông ta chỉ làm bộ rầy la các tướng kém cỏi, nhưng trong thâm tâm lại hết sức vui mừng là họ đã tận tâm tận lực chỉ dạy cho con gái mình đến nơi đến chốn để đến nỗi chính bản thân họ phải bại dưới tay một thiếu-nữ bé nhỏ, con của chủ tướng mình. Lý-Khả-Tú thường rất lấy làm đắc ý, nhưng lại nghĩ thầm rằng:

-“Có một đứa con gái tài giỏi như thế này thật là phúc đức ông bà để lại. Chỉ tiếc là nó không phải con trai!”

Bắt đầu năm Lý-Mộng-Ngọc được 14 tuổi, bỗng nhiên không ai còn thấy Lý-Mộng-Ngọc thức dậy sớm ra võ trường luyện tập như thường khi nữa. Lý-Khả-Tú cho là con gái đã lớn rồi nên chẳng còn muốn nàng trà trộn trong hàng tướng sĩ của mình nữa. Nhưng Lý Mộng Ngọc cũng không lấy thế làm buồn.

Trong mấy năm khổ luyện, Lý Mộng Ngọc đã có được công phu thượng thừa. Sư-phụ của nàng là Lục-Phỉ-Thanh, một bậc tiền-bối trong phái Võ-Đang, tài nghệ nhất nhì trong chốn võ-lâm. Sở dĩ Lý-Mộng-Ngọc được Lục- Phỉ-Thanh nhận làm đệ-tử và truyền cho những môn võ tuyệt-kỹ là do một sự tình cờ rất lạ lùng...

Năm Càn-Long thứ 18, Lý-Khả-Tú có rước được một vị đồ-nho với mục đích dạy con gái mình ít chữ nghĩa vì từ nhỏ cô nàng chỉ ham côn-quyền mà chẳng chút màng gì đến bút-nghiên. Vị đồ-nho này tài cao học rộng, tên là Lục-Phỉ-Thanh. Ngày thường, Lục-Phỉ-Thanh và Lý-Mộng-Ngọc ‘sư-đệ tương kính’, thầy trò rất tương đắc, quý mến thương yêu nhau lắm.

Một hôm vào mùa hè nóng bức oi ả, Lý-Mộng-Ngọc đang ngủ trưa bỗng giật mình tỉnh giấc liền qua thư phòng Lục-Phỉ-Thanh để nghe giảng, học ít kinh-điển. Nàng lắng tai nghe thì thấy bên trong rất im lìm, không có lấy một tiếng động nhỏ. Sợ thầy còn đang ngủ trưa nên Lý-Mộng-Ngọc không dám vào thẳng thư phòng, e có điều bất tiện. Nàng đến gần cửa sổ, lấy cây trâm bằng vàng trên đầu chọc thủng một lỗ nhìn vào. Chẳng ngờ sau khi nhìn rõ được bên trong, nàng vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vô cùng.

Lục-Phỉ-Thanh ngồi thiền trên ghế, miệng mỉm cười, tay đưa lên giữa thinh không khẽ búng một cái. Trên tấm bảng treo sát vào tường có tiếng ‘vo ve’ nho nhỏ từ đâu đưa lại. Lý-Mộng-Ngọc cứ theo tiếng kêu đó mà trố mắt chăm chỉ nhìn thật kỹ thì thấy trên tấm bảng đối diện với cái ghế của Lục lão sư đương ngồi có mấy chục con ruồi sắp hàng chỉnh tề. Nàng rất lấy làm lạ vì mấy chục con ruồi ấy một khi bay đậu vào tấm bảng ấy thì như bị dính liền vào đó, không động đậy gì được cả. Kỳ lạ hơn nữa là chúng như xếp hàng ngay ngắn giống như lúc nàng trông thấy quân sĩ bày trận thế hay duyệt binh tại võ trường. Mà hình như trên lưng mỗi con ruồi đều có găm một cọng kim châm nhỏ như sợi tóc vậy. Loại kim châm nhỏ bé này nếu đứng xa hơn một chút ắt không thể nào trông thấy được. Chỉ vì lúc ấy vào giờ Mùi giữa trưa, nhờ ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ rọi ngay vào tấm bảng ấy nên những kim châm mới lấp lóe phản chiếu lại, và nhờ vậy cho nên Lý-Mộng-Ngọc mới nhìn thấy được.

Bầy ruồi vẫn cất tiếng ‘o o’ trên bảng. Lại thấy Lục-Phỉ-Thanh búng tay thêm một cái, một con ruồi khác đang bay lập tức dính liền vào bảng, nhập bọn và chịu chung số phận như những con kia.

Tánh trẻ con của Lý-Mộng-Ngọc bừng dậy mãnh liệt. Nàng cho ‘trò chơi’ này thích thú cô cùng. Không còn nhẫn nại đứng rình lén bên song cửa sổ nữa, Lý-Mộng-Ngọc xô mạnh cánh cửa, bước vào trong nói lớn:

-Lục lão sư! Thầy hãy dạy cho con phép đó nhé!

Lục-Phỉ-Thanh ẩn tánh mai danh ở Hiệp-Tây mấy năm nay không muốn ai phát giác hành tung bí mật của mình. Chỉ vì bầy ruồi ác ôn quá đông tác quái trong thư phòng làm cho ông không sao nghỉ trưa được nên bất đắc dĩ phải dùng ngón “Phù Dung Kim Châm Tuyệt Kỹ” để trừ hết đám ruồi. Tưởng công việc ấy ‘thần không hay quỷ không biết’, cho rằng hôm sau ông sẽ được an nhàn trong giấc trưa mà không bị một con ruồi nào quấy rầy nữa. Ngờ đâu đứa nữ đệ-tử ranh mãnh của ông ta vô tình đến rình ngoài cửa thành thử bí mật bị lộ ra. Tuy vậy, Lục-Phỉ-Thanh vẫn giữ nét mặt tự nhiên, nói lảng sang chuyện khác.

-Con đã thức dậy rồi đó à? Bữa nay thầy sẽ giảng cho con nghe chuyện Tín-Lăng-Quân trong Sử-Ký Tư-mã-Thiên.

Lý-Mộng-Ngọc nũng nịu thưa:

-Không! Thầy dạy trò chơi đó cho con trước đi rồi hãy dạy sách vở sau. Con thích cái trò chơi ấy lắm.

Lục-Phỉ-Thanh giả ngơ ngẩn nói:

-Nào có trò chơi gì đâu!

Lý-Mộng-Ngọc mới nói:

-Cái phép bắt ruồi của thầy ấy mà.

Nàng vừa nói vừa xách một cái ghế đẩu đem lại đặt sát chỗ vách có tấm bảng rồi tung mình nhảy lên đứng trên đó xem xét hết sức tỉ mỉ. Sau đó, nàng lấy tay rút từng cọng kim châm trên lưng mỗi con ruồi đem xuống, dùng giấy trắng lau sạch sẽ hết mấy cọng kim châm đó kỹ-lưỡng rồi mới trả lại cho Lục-Phỉ-Thanh. Nàng làm thế cũng giống như trưng bằng cớ rõ rệt để sư-phụ không còn chối cãi được nữa, tất phải dạy cho nàng thôi.

Tuổi của Lý-Mộng-Ngọc thì chắc chắn chưa phải là lớn. Nhưng nàng cũng không phải là nhỏ. Dù học được võ-nghệ cao-siêu, văn-chương uyên-bác, nhưng vẫn giữ được tính trẻ con hồn nhiên. Hễ thấy có gì vui, hay hay thì trước sau phải muốn học cho kỳ được.

Trước sự ‘vòi vĩnh’ của Mộng-Ngọc, Lục-Phỉ-Thanh cảm thấy bằng lòng thì không được mà từ chối thì không xong nên chỉ còn im lặng làm thinh ra chiều đắn đo suy nghĩ. Lục-Phỉ-Thanh là người cơ mưu. Xưa nay dù gặp việc khó khăn thế nào cũng giải quyết được hết.

Suốt 15 năm trời, cuộc đời của ông ta trải qua không biết bao nhiêu là sóng to gió lớn nhưng ông đều vượt qua được hết. Thế mà hôm nay, đứng trước lời yêu cầu tầm thường của đứa học trò mến yêu ranh mãnh, ông ta lại đành chịu bó tay!

Trầm ngâm giây lát, Lục-Phỉ-Thanh bảo:

-Con muốn học phép ấy lắm sao? Tốt, sáng sớm ngày mai thầy sẽ dạy cho. Con cứ ra ngoài chơi để thầy nghỉ mệt một lát vì thầy thấy trong mình khó thở. Có điều là thầy phải dặn trước với con là không được đem chuyện thầy bắt ruồi ra nói với bất cứ một ai. Nếu có thêm một người nữa biết thì thầy không dạy đâu đó nghe!

Lý-Mộng-Ngọc vui mừng hớn hở nên hứa với Lục-Phỉ-Thanh ngay, không do dự.

Nguyên Lục-Phỉ-Thanh vốn là một tay đại-hiệp của phái Võ-Đang. Buổi tráng-niên, ông thường đi làm việc nghĩa-hiệp khắp mấy tỉnh tại vùng Giang-Nam và Giang-Bắc, tên tuổi lừng lẫy trong giới giang-hồ. Trước đây, Lục-Phỉ-Thanh là một nhân vật trung-kiên cự-phách của đảng Đồ-Long, một tổ-chức bí-mật chống đối lại triều-đình Mãn-Thanh. Vào thời vua Ung-Chính, thanh-thế của đảng Đồ-Long rất lớn mạnh, triều-đình tưởng là không thể nào diệt trừ nổi. Sau thời Ung-Chính đến thời Càn-Long. Nhờ thi-hành chính-sách đàn áp thẳng tay gọi là “Thiết Uyển Trấn Yểm”, đảng Đồ-Long dần dần tan rã.

Các nhân-vật lãnh-tụ đầu não của đảng thì lớp chết, lớp bị bắt, lớp chạy trốn lánh nạn tản mác đi khắp nơi. Lục-Phỉ-Thanh may mắn chạy thoát được cạm bẫy của vua Càn-Long bủa giăng chặt chẽ ra tận ngoài biên cương.

Quan binh Mãn-Thanh biết họ Lục là một thủ-lãnh nguy hiểm không thể bỏ lơ được nên phái người truy-nã Lục-Phỉ-Thanh gắt gao cùng nơi khắp chốn. Lục-Phỉ-Thanh là người hết sức cẩn thận lại nhiều cơ mưu, và thêm vào đó lại có võ công tuyệt đỉnh nên mới tránh được đại nạn. Tuy vậy, triều-đình Mãn-Thanh chẳng lúc nào không lưu tâm đến con người này. Lục-Phỉ-Thanh cho rằng người đi lánh nạn có ba chỗ tạm gọi là an thân hơn cả.

Chỗ an thân hơn hết là trốn trong triều. Chỗ an thân kế đến là trốn trong chợ. Và sau cùng, chỗ an thân thứ ba là trốn trong làng mạc, đồng quê. (#1)

Với ý định như vậy, Lục-Phỉ-Thanh lần hồi trở về nộ địa tìm đến dinh Lý-Khả-Tú là một vị quan có uy tín, có thế lực vào bậc nhất của triều đình đẻ giả làm một vị đồ-nho dạy thi-văn từ-phú cho ái-nữ của Lý tướng-quân là Lý-Mộng-Ngọc, lại ăn ở ngay trong công-phủ, tư dinh của một vị đại tướng-quân nên chẳng sợ ai nghi ngờ dọ dẫm chi cả.

Những người của triểu-đình phái đi truy tầm tróc nã Lục-Phỉ-Thanh luôn luôn chia nhau tìm kiếm ông ta trong những đám lục-lâm, trong các chùa chiền, trong các tiêu-cục, trong các võ-trường và luôn cả trong chốn võ-lâm.

Chẳng ai ngờ rằng con người lợi hại ấy lại là một cụ đồ-nho áo dài, khăn đen, móng tay lượt-thượt, đôi mắt leo heo, miệng ngâm vẽ nhịp, có vẻ yếu ớt như trói gà không chặt, đang sống một cuộc đời bình thản trong phủ của một vị tướng-quân được triều-đình sủng-ái!

Người khâm-phạm có một bản-lãnh võ-nghệ trác-tuyệt như thế chẳng cần trốn lánh đâu xa, hàng ngay ra vào ngay trước mặt quan quyền, và suốt mấy năm nay qua mặt hết được bọn tay sai đắc lực của vua Càn-Long.

Lục-Phỉ-Thanh còn hai người anh em đồng-môn là đại sư-huynh Mã-Chân và tam sư-đệ Trương-Siêu-Trọng. Lục-Phỉ-Thanh đứng hàng thứ hai.

Mã-Chân là chưởng-môn nhân phái Võ-Đang, thích cảnh thiên-nhiên mây ngàn hạc nội nên không mấy chú ý đến thế sự, luôn cả việc của môn phái.

Trương-Siêu-Trọng tuổi trẻ, đầy nghị-lực nên lúc thọ-giáo được sư-phụ tâng tiu, mến chuộng hơn cả hai sư-huynh. Bao nhiêu tuyệt-kỹ của phái Võ-Đang, sư-phụ đều đem truyền hết lại cho người đệ-tử thứ ba này.

Còn Lục-Phỉ-Thanh thì chẳng những học được tất cả những thế võ bí truyền của môn phái để trở thành một nhân vật siêu-quần, lại còn là một tay văn-chương xuất chúng, ngâm thơ Liễu-Như, vịnh phú Đào-Yêu, học-lực và kiến-thức uyên-bác vô cùng. Ngoài ra, con người của ông ta còn hết sức lịch-lãm về mọi mặt. Có lẽ đó là nhờ vào kinh-nghiệm xông xáo trên giang-hồ suốt mấy chục năm trời.

Trong thời-gian hành-hiệp, Lục-Phỉ-Thanh còn thâu thập được không biết bao nhiêu là tuyệt-kỹ võ-công của những môn phái khác: “Vô Cực Huyền Công Quyền”, “Phù Dung Châm Pháp” và “Nhu Vân Kiếm”. Ba môn này khét tiếng, được gọi là “Giang Hồ Tam Tuyệt Kỹ” (#2).

Còn nói bề ba cao-đồ của phái Võ-Đang thì chí hướng họ khác hẳn nhau. Mã-Chân chỉ thích tiêu dao mây nước, kết bạn hạt tùng. Lục-Phỉ-Thanh thích hành hiệp trượng nghĩa, đem tài sức giúp đời, giúp người cô thế chống lại bạo tàn. Còn Trương-Siêu-Trọng thì nặng nợ công-danh, ràng buộc phú-quý, đành đem ‘tấm thân bảy thước ngang tàng’ luồn cúi quyền uy, được phong quan tam-phẩm.

Năm trước, Lục-Phỉ-Thanh với Trương-Siêu-Trọng đã dùng gươm vạch đất tuyệt giao với nhau. Hai người ân nghĩa đều cắt đứt hết, chẳng ai nhìn ai nữa, trái lại còn xem nhau như thù địch, không đội trời chung...

Nhắc lại Lý-Mộng-Ngọc, hôm ấy được Lục lão sư hứa dạy cho ‘trò chơi’ ấy thì rất hân hoan, kín miệng không nói cho ai biết cả.

Sáng hôm sau, Lý-mộng-Ngọc thức dậy thật sớm đến thư phòng của sư-phụ. Đẩy cửa vào trong thì thấy vắng tênh, không có một ai, chỉ thấy trên bàn viết của thầy có dán một tờ giấy. Đó là một bức thư. Mộng-Ngọc cầm lên đọc:

Mộng Ngọc con,

Thầy vẫn biết con là một đứa học trò giỏi sử đao gươm, bút múa như phụng, nghe tiếng đàn hiểu được đường tơ. Tâm con thật ‘linh’, tánh con thật ‘mẫn’, thật là người hiếm có vậy. Thầy có được một đứa học trò như con tưởng không có gì vui mừng và hãnh-diện hơn. Chỉ tiếc là con có chí lớn mà thầy thì tài mọn nên suốt ba năm lãnh nhận trách-nhiệm dạy dỗ con, thầy rất lấy làm xấu hổ vì không đem đến được cho con những điều học nào hữu ích được cả.

Tình thầy trò chúng ta đến đây đã hết. Mong rằng sau này còn có cơ hội tái ngộ. Trước khi từ giã con, thầy lấy tình sư-đệ bấy lâu nay có mấy lời khuyên, và mong con ghi nhớ lấy. Theo sự nhận xét của thầy thì về mặt võ-nghệ con có thừa, nhưng còn về phần đoan-nghi thì con chưa đủ. Lời xưa có nói: “Sự thông-minh không đủ đem đến hạnh-phúc cho mình. Người được ‘thân an mạng toàn’ phải trau giồi đức hạnh. Thôi, thầy chỉ có bấy nhiêu hàng đó muốn nói.

Thầy,

Lục-Cao-Chỉ

Lục-Cao-Chỉ là tên giả mà Lục-Phỉ-Thanh dùng để ẩn tích mai danh. Đang lúc Lý-Mộng-Ngọc bùi ngùi đọc mấy hàng chữ của sư-phụ để lại, còn phân-vân chưa hiểu thế nào thì thình-lình nghe có tiếng cửa phòng mở một cái ‘rột’. Một người hớt ha hớt hãi chạy vào. Mà người ấy chẳng phải ai xa lạ khác hơn mà chính là Lục-Phỉ-Thanh, thầy đồ dạy học nàng.

Lý-Mộng-Ngọc nhìn thấy sư phụ mình mặt mày xanh lét, máu nhuộm đầy mình vừa chạy vào đã sụm chân ngã xỉu xuống đất.

Mộng-Ngọc vội vàng chạy đến dìu Lục-Phỉ-Thanh ngồi lên ghế.

-Thầy ơi thầy! Sao vậy thầy?

Lục-Phỉ-Thanh ngưng thần định trí một hồi lâu rồi mới thều thào:

-Con đừng làm kinh động. Đừng nói chi hết, cứ để yên cho thầy.

Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh nhắm nghiền đôi mắt lại, không nói thêm nửa lời. Lý-Mộng-Ngọc tuy là con nhà võ quen múa đao múa kiếm thế mà trước cảnh tượng này cũng không khỏi kinh hãi. Nành tuân theo lời thầy đóng kín cửa phòng, im lặng đứng bên Lục-Phỉ-Thanh mà không dám gọi. Được một lúc khá lâu, Lục-Phỉ-Thanh lên tiếng nói với Lý-Mộng-Ngọc:

-Mộng-Ngọc! Ta với con tình nghĩa sư-đồ trong ba năm thật là thâm-trọng. Hôm nay, thầy nghĩ duyên phần đã hết nên định từ biệt con để ra đi. Không ngờ sự cớ đưa đẩy làm thầy phải quay về đây lại. Thầy có một vấn-đề nguy-hiểm đến tánh mạng. Chẳng hay con có thể vì thầy mà dấu kín đừng cho ai biết việc này không?

Nói xong, Lục-Phỉ-Thanh mở to đôi mắt sáng quắc ra nhìn thẳng vào mặt Lý-Mộng-Ngọc như có ý dò hỏi. Lý-Mộng-Ngọc khảng khái đáp:

-Thưa thầy, có việc gì xin thầy cứ bảo. Con xin hứa chắc chắn là không trái ý thầy.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Con thưa với lệnh trên là thầy đang có bệnh, cho thầy được tĩnh dưỡng trong vòng nửa tháng.

Mộng-Ngọc bằng lòng ngay.

Ngưng một giây lát, Lục-Phỉ-Thanh giục nàng:

-Thôi, con đi đi!

Chờ Mộng-Ngọc đi rồi, Lục-Phỉ-Thanh mới thò tay vào lưng móc gói thuốc ra rịt lên vết thương nơi cánh tay trái mình rồi dùng vải trắng băng lại. Ông ta khạc một cái, nhổ ra một cục máu bầm.

Số là chiều hôm trước khi bị Lý-Mộng-Ngọc nhìn trộm ông ta dùng ‘Phù Dung Kim Châm’ bắt ruồi và yêu cầu được học phép ấy, Lục-Phỉ-Thanh thấy tung tích đã bại lộ nên cảm thấy không thể nấn ná ở địa-phương này được nữa. Vì vậy, ông ta bèn viết thư cáo biệt để lại cho Mộng-Ngọc trước khi đi. Lục-Phỉ-Thanh là người lịch duyệt nhiều, thấy trong dinh Lý-Khả-Tú đông người mà đứa nữ đệ-tử lại là một kẻ thông-minh tuyệt đỉnh. Mà xưa nay, những người thông-minh lại hay bị chính cái thông-minh đó làm hỏng nhiều việc. Do đó, trong thư ông mới dặn dò Mông-Ngọc nên rèn đức hạnh mà đừng ỷ y quá vào sự thông-minh. Lục-Phỉ-Thanh chẳng có gì quý báu ngoài mấy bộ quần áo và một thanh Bach-Long kiếm dấu bên hông cùng với một gói hành lý mang trên vai, chuẩn bị đến canh hai thì lẻn đi thẳng một nước. Dù sau đó ai có biết ông ta là ai đi nữa bóng chim tăm cá, mây nước mịt mù, biết đâu mà tìm cho ra.

Sắp đặt xong xuôi, ông ngồi bằng trên ghế mắt nhắm nghiền lại dưỡng thần. Xa xa, tiếng trống điểm canh khoan nhạt đưa lọt vào tai. Lục-Phỉ-Thanh biết thời khắc đã qua giờ Tỵ liền khêu sáng ngọn đền lên thì thình lình ngoài cửa sổ một giọng cười quái gở vang lên, theo gió bay vào.

Đề-phòng bất trắc, Lục-Phỉ-Thanh đưa tay quạt tắt ngọn đèn, mang khăn gói lên vai, rút Bạch-Long kiếm ra cầm sẵn.

Bên ngoài cửa sổ, một giọng nói rổn rảng phá tan bầu không khí yên lặng của đêm khuya:

-Lão già họ Lục ơi! Lão đừng tưởng trốn vào cửa tướng đóng tuồng gõ đầu trẻ mà không ai biết đâu nhé! Thôi, đừng hòng trốn tránh nữa! Nếu khôn hồn thì hãy đưa tay chịu trói để ta giải về kinh mà chịu tội với triều-đình!

Lục-Phỉ-Thanh biết đã gặp cường địch, chỉ còn cách tìm đường đối phó thôi chứ không mong gì được hắn bỏ qua. Kẻ đó dĩ-nhiên không phải kẻ võ-nghệ tầm thường, mà cũng không phải chỉ có một mình hắn thôi. Chắc chắn kẻ đó cùng mấy tên đồng đảng đang phục sẵn bên ngoài, lấy khỏi đợi mệt, lấy đông lấn ít. Nếu ở mãi trong phòng thì mười phần nguy cả mười. Nếu cứ xông bừa ra mà quyết chiến thì khó lòng thoát thân được. Phải đợi lúc xuất kỳ bất ý vọt ra ngoài cửa sổ đánh trí mạng một mất một còn thì may ra còn thủ thắng được.

Cố dè dặt hết sức không gây nên một tiếng động nho nhỏ nào, Lục-Phỉ-Thanh bất thình lình dùng thế ‘Bích Hổ Du Tường’ đánh vào song cửa sổ thật mạnh. Chỉ nghe ‘rắc rắ’ mấy tiếng, song cửa sổ bị gẫy tiện, Lục-Phỉ-Thanh vận khí tung mình ră khỏi cửa sổ, bay bổng lên nóc nhà như một con chim én.

Kẻ địch ẩn núp bên ngoài như đang chờ sẵn nên từ đâu phi thân lại tung một quyền đánh vào mặt Lục-Phỉ-Thanh, miệng quát lớn:

-Tài thật! Giỏi thật!

Lục-Phỉ-Thanh nghiêng mình tránh khỏi, nói lớn:

-Người anh em đừng vội! Để ta xuống cho mà đánh.

Lục-Phỉ-Thanh lại dùng khinh công nhắm hướng ngoài thành vụt bay như tên. Phía sau, ba cái bóng đen vùn vụt đuổi theo. Lục-Phỉ-Thanh chạy một hơi thật xa, có đến sáu, bảy dặm đường. Ba cái bóng đen đuổi theo thục mạng, miệng không ngớt kêu la:

-Lão già họ Lục sao hèn nhát đến thế? Một người có tên tuổi trên giang-hồ mà phải tháo thân chạy trối chết thế hả?

Lục-Phỉ-Thanh biết ba bóng đen đó toàn là những nhân-vật hữn danh trên giang-hồ nên chẳng dám khinh thường. Nhưng thật ra, ông ta cũng không đến độ phải khiếp sợ mà chạy dài. Ông ta biết dù chạy đến đâu, cường địch cũng không chịu bỏ qua. Trước sau cũng phải giải quyết một cách sống chết mà thôi. Chẳng qua là thấy giải quyết trong thành thật bất tiện vì nơi đây quan quân triều-đình rất đông, và chắc chắn ba người này cùng phe với họ. Cho nên Lục-Phỉ-Thanh mới cố dẫn dụ địch ra khỏi thành đến một chỗ hoang vắng để phân cao hạ thì tiện bề hơn nhiều.

Dẫn dụ đám người ấy đuổi theo có ba điều lợi cho Lục-Phỉ-Thanh. Thứ nhất là đến một điểm lạ thì địch-nhân khó lòng mà có được viện-binh đến kịp thời. Thứ hai, nếu đường đường chính chính đương đầu thì mới có thể rõ được võ-nghệ của họ đến trình-độ nào; nếu nhắm đánh thắng được thì quyết chiến, bằng không sẽ tìm cách trốn thoát. Thứ ba, nếu phe đối nghịch có bao nhiêu vây cánh ở chung quanh đây tất nhiên sẽ xuất đầu lộ diện ra tất cả thì càng tiện cho mình lo liệu mà tính kế.

Hơn nữa, ra một chỗ vằng vẻ rộng rãi thì không còn phải sợ bị đánh lén trong bóng tối cũng như không phải lo bị trúng ám-khí bất tử.

Tha hồ cho kẻ địch mắng chửi khích bác, ông ta tiếp tục dùng thuật phi-hành mà chạy thêm mười dặm nữa. Đến một đỉnh đồi, Lục-Phỉ-Thanh bèn dừng gót lại, nhìn trước xem sau, quan-sát tỉ mỉ.

Đám người phía sau cũng đã đuổi đến nơi. Lục-Phỉ-Thanh đã đứng đợi sẵn, chuẩn bị tinh-thần, biến từ thế ‘bị động’ sang thế ‘chủ động’. Bình tĩng và tự tin, ông ta tra thanh Bach-Long kiếm vào vỏ.

Ba bóng đen thấy Lụ-Phỉ-Thanh dừng lại, uy vũ hiên ngang thì sinh lòng ngờ vực chưa dám liều lĩnh xông lại gần. Họ chia nhau ra đứng ba phía, một trước, hai sau, theo hình chữ ‘Đinh’.

Dưói ánh trăng tỏa rạng, Lục-Phỉ-Thanh cố nhìn cho rõ xem những nguời đang đứng trước mặt mình là ai. Ngưòi đứng đầu là một hán-tử tuổi độ chừng trên dưới 50, thân hình vừa lùn vừa ốm; lông mày đen rậm như một đường mực gạch ngang qua; râu hoách lên như đuôi chim én dài không quá một tấc, nhưng dũng khí có vẻ rất là mạnh bạo. Hai người đứng sau thì một người cao ngỏng cao nghều như cây tre, còn người kia thì vừa mập lại vừa tròn. Người đứng phía trước bỗng phá lên cười một tràng rồi buông lên những lời có vẻ như chua chát.

-Lục anh-hùng! Từ dạo cách xa không có gì lạ chứ? Chẳng hay ngươi còn nhận ra kẻ hèn hạ từng bị bại dưới tay ngươi chăng? Ngươi chưa quên Tiêu-Văn-Kỳ đấy chứ?

Lục-Phỉ-Thanh nghe nói chợt nhớ lại. Thì ra hắn là nhân vật thứ ba trong nhóm ‘Quảng-Đông Lục Ma’.

Cách đây hơn mười năm, có một lần Lục-Phỉ-Thanh và Tiêu-Văn-Kỳ chỉ vì xích mích với nhau vài câu nói mà sinh ra ẩu-đả tại Trực-Lệ. Lục-Phỉ-Thanh vì không nỡ giết hắn nên chỉ đánh cảnh cáo một quyền rất nhẹ chứ nếu thẳng tay thì có đến mười cái mạng hắn cũng chẳng còn.

Tiêu-Văn-Kỳ không biết ơn thì chớ còn đem lòng thù oán, cho là bị Lục-Phỉ-Thanh làm nhục nên bao năm qua ‘nằm gai nếm mật’ để chờ có cơ-hội ‘trả thù’. Bao nhiêu năm không tìm được tung tích Lục-Phỉ-Thanh nên hắn vẫn ân hận mãi.

Lần này, Tiêu-Văn-Kỳ vâng lệnh quan phủ đi Thiên-Sơn Bắc-Lộ để thi-hành một mệnh-lệnh tối cần. Chẳng dè trong cuộc hành-trình, hắn nghe được rõ được tung tích bí mật của Lục-Phỉ-Thanh. Hắn bèn đến dinh tổng-đốc Hiệp-Cam (#3) xin ‘mượn’ hai cao-thủ để giúp hắn bắt kẻ ‘khâm-phạm triều-đình’. Ỷ thế quan tổng-đốc nên Tiêu-Văn-Kỳ không cần thông-tri với quan phủ sở tại nhờ đưa thư đến tư-dinh của Lý-Khả-Tú để bắt Lục-Phỉ-Thanh. Với hai trợ thủ cộng vào với tài-nghệ của hắn, Tiêu-Văn-Kỳ tin tưởng sẽ làm được một công hai chuyện: vừa lập công được với triều-đình và vừa trả được tư-thù.

Tiêu-Văn-Kỳ ngày đêm khổ công rèn luyện võ-nghệ đến mức mà hắn cho là ‘tuyệt đỉnh công-phu’. Nhất là hắn lại ỷ vào một môn vũ-khí gọi là Thiết Cầm Sát mà hắn luyện đến mức lô hỏa tuyệt thanh. Tiêu-Văn-Kỳ có thể sử dụng Thiết Cầm Sát như ý muốn, có thể phóng trúng địch-thủ rồi thu gọn lại trong vòng bàn tay dễ dàng...

Nghe mấy câu chua chát của Tiêu-Văn-Kỳ, Lục-Phỉ-Thanh vẫn điềm tĩnh, nghĩ thầm:

-Thì ra con quỷ Tiêu-Văn-Kỳ muốn trở lại báo ta!

Nhưng ông ta vẫn vòng tay, cúi đầu thi lễ đáp:

-Thì ra là Tiêu-Văn-Kỳ tam ca đây mà! Hơn mười năm không gặp nên thờ ơ chẳng nhận ngay ra được, dám mong tam ca thứ lỗi cho. Còn hai vị kia cao danh quý tánh là gì, mong tam ca giới-thiệu cho biết với.

Tiêu-Văn-Kỳ phá lên cười nghe rất tự đắc, chỉ người lùn mập bảo:

-Người này là nghĩa-đệ của tôi tên La-Tín mà người ta thường gọi là Thiết-Bối La-Hán. Chính là y đó!

Quay qua người cao lểnh khểnh, Tiêu-Văn-Kỳ lại nói:

-Còn vị này là hào kiệt nức danh hai tỉnh Hồ-Bắc và Hồ-Nam thường xưng là Ngọc-Phán-Quan Hạ-Nhân-Long đó. Ba anh em chúng tôi thân với nhau chẳng khác gì Lưu, Quan, Trương (#4) thuở trước.

Cả La-Tín và Hạ-Nhân-Long đều day sang phía Lục-Phỉ-Thanh vòng tay cúi đầu nói:

-Lâu nay vẫn thường hâm mộ đại danh của lão anh-hùng. Nay được gặp thật là hân hạnh!

Lục-Phỉ-Thanh cũng từ tốn đáp lễ lại mà nói:

-Kẻ già nua này lánh mình trong chỗ tối tăm vắng vẻ có ngờ đâu lại được ba vị hạ cố đến tìm. Thật là ngoài sự ước vọng của tôi. Chẳng hay hôm nay gặp nhau đây quý vị có lời nào dạy bảo?

Tiêu-Văn-Kỳ lạnh lùng đáp:

-Lục lão anh-hùng à! Mười lăm năm trước đây kẻ hèn mọn này may mắn được người ‘thưởng’ cho một đấm nên mang ‘ơn’, nhớ mãi không dám quên. Đáng ra, tự xét tài-nghệ của mình còn non nớt thì nên nuốt hận mà bỏ đi là hơn. Chỉ vì trời sinh ra Tiêu-Văn-Kỳ này lại sinh luông cho một cái đầu cường ngạnh và một bộ óc cố chấp nên một khi nếm phải cái mùi chua cay nào thì lại quyết phải trả cho xong chứ không thể xóa nhòa được. Ngày đó mạng tôi chưa tuyệt nên tôi mới có cơ-hội gặp lại Lục lão anh-hùng hôm nay. Âu cũng là trời muốn tôi đáp lại cái đấm của Lục lão anh-hùng khi còn tại thế-gian này để khỏi phải giải quyết khi gặp ‘ngài’ dưới âm-phủ! Từ hôm được biết tài-nghệ thua kém ngài quá nhiều để đến nỗi phải chịu một quyền ở Trực-Lệ thì tôi khổ công luyện tập mao quyền ngày đêm không dám lơ đãng nên có thể nói là đến mức tuyệt đỉnh công-phu, tam chiêu lưỡng thức rồi. Tự nghĩ có được cái bản lãnh ấy họa chăng mới liều lĩnh khi khắp ngũ nhạc tam sơn để tìm ngài. Chim trời cá nước tưởng không biết tìm nhau ở nơi ‘hải giác thiên nhai’ (#5) nào cho gặp đặng thỏa lòng mong đợi. May mắn sao đêm nay không hẹn mà lại gặp nên dám mong ngài dạy cho phen nữa. Đó là việc riêng của tôi đối với ngài.

Thưa Lục lão anh-hùng! Tên tuổi ngài vang rền trong thiên-hạ, mà lại là người khâm-phạm trọng yếu nhất của triều-đình. Bản án của ngài được chu tri khắp nước, bất luận người nào có hưởng lộc triều-đình, có trong thuỷ thổ quốc vương cũng đều có trách-nhiệm thi-hành bản án ấy. Đêm nay gặp ngài ở đây, ba anh em chúng tôi có bổ phận mời ngài đến dinh quan Tổng-Đốc Hiệp-Cam. Nếu ngài không đi, chúng tôi buộc lòng phải bắt sống hoặc giết chết chứ không thể để cho ngài thoát thân. Đó là việc công.

Những lời trên đây tôi thành thật thưa để Lục lão anh-hùng biết đặng tự liệu.

Lục-Phỉ-Thanh cũng đã biết trước là đêm nay chỉ còn cách dùng võ lực quyết sống chết để giải quyết chứ không còn đường nào hơn.

Tiêu-Văn-Kỳ tự phụ tài nghệ hắn giờ cao siêu đủ sức hạ được Lục-Phỉ-Thanh lại còn thêm hai cao thủ ủng hộ hắn nữa nên câu nói của hắn bề ngoài nghe có vẻ khiêm tốn lễ phép mà bên trong lại khiêu khích bắt buộc Lục-Phỉ-Thanh phải giao thủ với hắn chớ không cho tẩu thoát.

Suốt mười năm qua, Lục-Phỉ-Thanh chỉ dành thì giờ vào việc dưỡng khí luyện thần nên tâm đã tịnh, và bản tính háo thắng cũng không còn như lúc còn thanh-niên. Vì vậy, Lục-Phỉ-Thanh hướng về phía Tiêu-Văn-Kỳ vòng tay nói:

-Thưa Tiêu tam gia. Tôi với các-hạ không còn ở cái tuổi tranh đua hơn kém như hồi trẻ nữa. Ngày ấy, tôi quả có đắc tội với tam gia ở Trực-Lệ. Vậy hôm nay ở đây tôi xin quỳ gối nhận tội với các-hạ. Nếu được tam gia bỏ qua thì thật là hân hạnh cho già này lắm.

Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh vòng tay vái dài Tiêu-Văn-Kỳ một cái. Chẳng dè gã cao lểnh khểnh Ngọc-Phán-Quan Hạ-Nhân-Long thét lên một tiếng mắng xối xả vào mặt Lục-Phỉ-Thanh rằng:

-Đừng mong khỏi chết mà hòng toan hạ mình làm chuyện hèn hạ như thế! Thế mà cũng tự nhận là khách giang-hồ!

Lục-Phỉ-Thanh không ngờ củ-chỉ hòa giải của mình lại bị Hạ-Nhân-Long hiểu lầm, cho là ông sợ chết lạy lục xin xỏ. Lục-Phỉ-Thanh nhảy dội ra sau nghiêm nét mặt chỉ vào Hạ-Nhân-Long quát lớn:

-Ta là Lục-Phỉ-Thanh! Tên tuổi của ta trong giới giang-hồ chẳng mấy ai không biết! Suốt mấy mươi năm hành hiệp ta đã gặp không biết bao nhiêu là cao thủ có bản lãnh cao cường mà nào đã chịu thua ai, và chưa hề bị ai khinh khi nửa tiếng. Thế mà hôm nay ta không tưởng có kẻ dám chạm đến danh-dự của ta.

Day qua Tiêu-Văn-Kỳ, Lục-Phỉ-Thanh vẫn giữ thái độ ôn hòa nói:

-Tiêu tam gia! Vừa rồi các-hạ đem việc ‘tư’ của các-hạ và việc công của triều-đình ra nói rõ cho tôi nghe, dạy tôi lo liệu lấy. Tôi sẵn sàng theo ý ngài mà nói rõ ra đây. Chuyện mười mấy năm trước sở dĩ xảy ra như thế là do ở cái tuổi thanh-niên háo thắng mà ra. Giờ các-hạ nhắc lại tôi không khỏi cười thầm, hổ thẹn. Nhưng nếu các-hạ muốn nhắc lại chuyện con nít để trả cái mà các-hạ cho là ‘nhục’, là ‘thù’ thì tôi cũng sẵn sàng đáp lễ chứ chẳng dám khước từ. Còn cái việc mà ngài gọi là ‘công’ đó thì tôi đây Lục-Phỉ-Thanh chẳng thể vâng theo lời dạy của ngài được. Tôi làm thủ-lãnh một đảng phái chống lại triều-đình Mãn-Thanh là vì tôi không thể ngồi im nhìn thấy giang-san Trung-Quốc bị dày đạp dưới gót giày của kẻ xâm lăng, giống nòi Hán tộc bị làm tôi đòi lầm than trong bàn tay ác nghiệt của kẻ thống trị. Việc của chúng tôi làm, nhân dân Trung-Quốc đều cho là chính nghĩa. Chỉ trừ những tên chim mồi chó săn cho triều-đình Mã-Thanh mới gọi tôi là khâm-phạm, mới âm mưu tìm bắt tôi mà dâng nạp cho kẻ thù chung ấy thôi. Các-hạ và hai tên tháp tùng đó nếu giỏi thì cứ bắt sống hay giết chết tôi đi đặng đem nộp cho quan trên mà lãnh thưởng nhưng đừng mong tôi tự ý đến nạp mình hay đưa tay chịu trói!

Lời nói như búa bổ vài đầu của Lục-Phỉ-Thanh làm cho bọn Tiêu-Văn-Kỳ đang tự đắc cũng phải chột dạ. Cách đây không lâu, ba người bọn họ cứ tưởng Lục-Phỉ-Thanh kinh khiếp trước bản lãnh của ba người.

Tiêu-Văn-Kỳ chưa biết trả lời thế nào thì Lục-Phỉ-Thanh lạu nói tiếp:

-Có khó gì đâu mà phải do dự cho mất hết ngày giờ? Muốn giải quyết bằng vũ-lực thì cứ việc bắt đầu đi thôi. Một trong ba người ra đây đấu với tôi, hoặc cả ba hợp sức cùng xông ra một lượt cũng được vậy! Có lẽ người hăng hái nhất trong ba vị là Hạ-Nhân-Long. Tôi rất muốn được thấy rõ tài nghệ và đảm lược của Ngọc-Phán-Quan.

Gã lùn mập là La-Tín thấy vậy nói lớn:

-Đừng cậy tài làm phách! Bộ ngươi tưởng ai cũng sợ ngươi sao?

Rồi xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị, y từ phía sau lưng Tiêu-Văn-Kỳ nhảy bổ tới như một con cóc đánh một quyền chớp nhoáng nghe ‘vù’ một tiếng vào ngay giữa mặt Lục-Phỉ-Thanh.

Trước một đòn hung ác đánh bất ngờ, Lục-Phỉ-Thanh chẳng chút nao núng. Ông chờ cho nắm tay của La-Tín vừa đến ngay giữa mặt liền lách sơ qua làm cho hắn hụt đòn. Sau đó Lục-Phỉ-Thanh lẹ làng như điện xẹt tay trái đánh một cái trúng ngay mạch môn nha của ‘gã lùn mập’ khiến hắn phải lùi ra sau ba bước.

Lục-Phỉ-Thanh không thèm tiến lên, chỉ đứng yên một chỗ. La-Tín định thần lại được liền dùng Ngũ-Hành-Quyền là võ bí truyền của hắn ra để tấn công Lục-Phỉ-Thanh. Đường quyền của La-Tín thật mạnh như vũ bão chứ không phải tầm thường.

Trong khi đó, Tiêu-Văn-Kỳ và Hạ-Nhân-Long đứng lui ra một bên để nhìn xem cuộc tranh phong vô cùng quyết liệt của hai đại cao-thủ. Tiêu-Văn-Kỳ để ý và quan-sát tuyệt kỹ của Lục-Phỉ-Thanh rất tỉ mỉ để rút tỉa ưu-khuyết-điểm, rất có lợi cho hắn một khi cùng Lục-Phỉ-Thanh so tài. Năm xưa, Tiêu-Văn-Kỳ bị trúng phải ‘Vô Cực Huyền Công’ của Lục-Phỉ-Thanh chỉ bản lãnh của hắn chưa luyện đến mức tuyệt diệu công phu.

Giờ đây, bản lãnh của Tiêu-Văn-Kỳ đã khác hẳn. Nếu so với ngày trước thì thật là khác nhau quá xa. Thêm vào đó, ngón diệu thủ Thiết Cầm Sát của hắn cũng đã luyện đến mức tột đỉnh chứ không còn tập tễnh như thuở trước.

Tiêu-Văn-Kỳ tính toán rất sâu xa. Y định bụng dùng La-Tín và Hạ-Nhân Long để tiêu hao bớt công-lực của Lục-Phỉ-Thanh rồi sau cùng hắn sẽ dùng tuyệt kỹ công phu của môn Thiết Cầm Sát ra chấm dứt trận đấu bằng cái chết của kẻ thù hoặc làm cho kẻ thù bị trọng thương theo ý của hắn. Còn hạ-Nhân-Long thì nghĩ rằng Lục-Phỉ-Thanh là một tên khâm-phạm triều-đình. Nếu bắt sống được hay giết chết cắt lấy thủ cấp đem về nạp lên quan Tổng-Đốc Hiệp-Cam thì đường công danh sẽ mở ra cho hắn nhiều bước tiến đến đường tham vọng.

Trong khi Lục-Phỉ-Thanh và La-Tín giao phong với nhau vô cùng sôi nổi, thì Tiêu-Văn-Kỳ cùng Hạ-Nhân-Long vẫn tụ thế bàng quang đứng nhìn. Mỗi người ôm một hoài bão riêng tư trong lòng.

La-Tín dùng Ngũ-Hành-Quyền đánh toàn những thế công, quyền tung ra tới tấp. Một ngón vừa tung ra thì một ngón khác tiếp theo liền, không để một sơ hở nào cho địch thủ khai-thác. La-Tín đánh theo Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, với ngũ hành ‘tương sinh tương khắc’ đâu đó chặt chẽ vững vàng.

Ngũ-Hành-Quyền là một môn võ rất lợi hại của ngoại-gia công-phu, nếu đối-phương bị đánh trúng thì vô phương bảo toàn tánh mạng.

Nhưng mặc cho La-Tín muốn đánh cách nào thì đánh, Lục-Phỉ-Thanh vẫn giữ vững được thế thủ. Không quyền nào của La-Tín chạm được vào người ông ta. La-Tín hết sức nóng ruột bèn dùng đường quyền lợi hại nhất trong Ngũ-Hành-Quyền là ‘Tý Quyền’, thuộc mạn Kim, quyết hạ cho bằng được Lục-Phỉ-Thanh. Tý Quyền vừa buông ra, La-Tín lại bồi tiếp thêm một ngọn Tỏa Quyền. Tỏa Quyền thuộc mạng Thủy, còn gọi là Trường Quyền hay Xung-Thiên-Bào, tức là đánh lên đỉnh đầu địch thủ. Lục-Phỉ-Thanh vẫn bình tĩnh chống đỡ chứ chưa phản công. Trong nháy mắt, hai bên đã trao đổi hơn 10 hiệp.

La-Tín bỗng cố nhử dùng ngón Bàng Quyền làm hư chiêu đánh sang bên trái, nhưng chuẩn bị chiêu Hoành Quyền đánh bên mặt, nhưng bóng Lục-Phỉ-Thanh chợt như biến mất ở nơi đâu! La-Tín vừa xoay người lại thì vửa vặn một quyền trong tay Lục-Phỉ-Thanh đang đánh tới. La Tín toan bắt lấy cườm tay của Lục-Phỉ-Thanh vì hắn tin tưởng vào sức mạnh của hắn dư sức áp đảo được ‘sức già’ của đối phương. Nhưng Lục-Phỉ-Thanh chỉ hươi tay áo, khẽ phất một cái, nắm tay của La-Tín bị đẩy lùi ra sau.

Trong lúc gấp rút, La-Tín liền dùng cả hai tay chộp tới, nắm cứng lấy tay của Lục-Phỉ-Thanh lại. Lục-Phỉ-Thanh để yên cho La-Tín nắm rồi bất thình lình giựt về một cái khiến y một phen kinh hãi thiếu chút nữa là ‘chúi nhủi’. La Tín sợ quá, buông tay Lục-Phỉ-Thanh ra, nhưng bất ngờ tung ra một quyền từ tay trái đánh thẳng vào người ông ta. La-Tín tin chắc Lục-Phỉ-Thanh sẽ dùng tay mặt để gạt quyền, và sau đó gã sẽ dùng một chiêu ‘Cầm Nã-Thủ’ bóp cứng vai trái Lục-Phỉ-Thanh.

Mọi chuyện xảy ra đúng như sự tiên liệu của La-Tín. Khi Lục-Phỉ-Thanh đưa tay mặt lên gạt hư quyền, La-Tín hí hửng đưa tay chộp ngay lấy bả vai của Lục-Phỉ-Thanh. Chẳng ngờ khi vừa chộp trúng bả vai của Lục-Phỉ-Thanh thì chẳng hiểu sao, cả một khối thịt tròn của La-Tín như bị một sức mạnh phi-thường từ đâu dồn tới. Chỉ nghe ‘bùng’ một tiếng, La-Tín bị văng ra xa ngoài ba trượng, tá hỏa tam tinh nằm hôn mê dưới đất.

Thì ra Lục-Phỉ-Thanh đã luyện được tuyệt-kỹ nội-gia công-phu là ‘Chiêm Y Thập Bát Trật’. Một khi đã luyện được môn này đến mức tinh thông thì cả thân thể gần như được một kình-lực nội công trong người bảo vệ. Địch thủ nếu đụng đến người, hay cho dù là chỉ trạm phớt qua y phục thôi thì cũng sẽ lập tức bị đánh vằng trở lại. Nếu nhẹ thì phải té nhủi xuống bị thương, mà nặng ắt phải lăn xuống mà chết ngay.

Tuyệt-Kỹ này Lục-Phỉ-Thanh được một đại danh cao-thủ trong giới võ-lâm là Thiên-Trật-Trương truyền lại cho. Cái hay của ngón nghề này là mượn sức người để đánh người. Địch thủ nếu dùng sức ít thì chỉ bị thương nhẹ, nhưng nếu dùng sức nhiều thì sẽ bị thương nặng và có thể bị nguy hiểm đến tánh mạng nữa.

La-Tín vì dùng sức nhiều nên bị sức phản-kình dội lại cũng dữ. Cũng may y là một cao-thủ với nội công khá cao nên dù bị ngã nhưng không đến nỗi bị thương nặng. Tuy vậy y cũng tởn thần, và hoang mang không hiểu tại sao. Tiêu-Văn-Kỳ tức quá, lông mày dựng ngược lên, hét lớn:

-La hiền-đệ mau đứng dậy đi!

La-Tín lồm cồm ngồi dậy, vừa đau đớn, vừa xấu hổ. Hạ-Nhân-Long chẳng nói chẳng rằng, dùng thế ‘Song Long Thương Châu’ nhắm Lục-Phỉ-Thanh đánh tới. Nhưng y chợt cảm thấy quyền của y như đánh vào khoảng không, mà bóng Lục-Phỉ-Thanh không thấy đâu cả. Rồi Hạ-Nhân-Long thấy trên cánh tay hắn như bị ai đánh xuống một cái nhẹ và sau lưng có tiếng ai nói:

-Ngươi hãy chịu khó về mà luyện võ-công thêm mười năm nữa!

Hạ-Nhân-Long giật mình quay lại, nhưng vẫn không thấy Lục-Phỉ-Thanh đâu cả. Đang định trở mình thì bỗng nhiên ‘chát chát’ hai tiếng, y cảm thấy hai bên má đau nhức vô cùng, và trước mắt rõ ràng là một bầy đom đóm đang bay ngang qua. Tiếng Lục-Phỉ-Thanh nói như chọc vào ráy tai của t:

-Mày là thằng con nít vô lễ! Hôm nay ta dạy cho một bài học để ráng mà nhớ cho kỹ trong lòng.

Luận về tài-nghệ thì võ-công của Hạ-Nhân-Long còn cao hơn La-Tín một bậc. Nhưng chẳng qua là vì hắn giở thái-độ trịch-thượng, ăn nói ngạo nghễ cho nên Lục-Phỉ-Thanh chẳng chút nhân nhượng, cố tình hạ nhục hắn cho bõ ghét.

Thấy Hạ-Nhân-Long bị hạ nhục, Tiêu-Văn-Kỳ vừa kinh hãi vừa tức giận. Y phóng một cái như tên bắn đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh. Thân hắn chưa tới nơi thì hơi gió từ quyền của hắn đã đánh tới trước rồi.

Lục-Phỉ-Thanh thừa hiểu Tiêu-Văn-Kỳ là nhân vật đứng hàng thứ ba trong ‘Quảng-Đông Lục-Ma’, võ-nghệ cao cường, bản lãnh tuyệt vời không phải như La-Tín với Hạ-Nhân-Long nên không dám coi thường, vội dùng ngay thế ‘Vô Cực Huyền Công Quyền’ để ứng phó lại.

Hạ-Nhân-Long trông thấy hai cao-thủ giao đấu với nhau vô cùng ác liệt thì tự lượng sức mình, biết không thể giúp gì cho Tiêu-Văn-Kỳ được đành đứng ngoài xem, chờ có cơ hội tốt mới có thể ra tay được.

Tiêu-Văn-Kỳ bắt đầu đem Thiết Cầm Sát ra sử dụng. Hắn đánh ra rồi thâu vào lẹ như chớp nhoáng, chỉ mong trúng vào được người Lục-Phỉ-Thanh thì dù cho không chết cũng phải biến thành tàn phế.

Ngón Thiết-Cầm-Sát này Tiêu-Văn-Kỳ được chân truyền từ họ Hàn ở Lạc-Dương cho nên tất cả những chiêu thức bí hiểm đều thu thập được hết. Tiêu-Văn-Kỳ phóng ra một chiêu gọi là ‘Mao Huy Ngũ Huyền’ nhắm Lục-Phỉ-Thanh quét ‘vụt’ một cái. Đòn của hắn trông nhẹ hều như một luồn gió không có chút sức mạnh nào, nhưng chính vì đó mới thật là lợi hại, hư hư thật thật, cương ẩn trong nhu. Quyền này là ngón sở trường của hai phái võ ‘Thiết Sa Chưởng’ và ‘Ưng Trảo Công’ hợp lại chế biến ra.

Lục-Phỉ-Thanh thấy công phu của Tiêu-Văn-Kỳ quả đã đến mức cao thâm tuyệt đình thì cũng phải khen thầm, rồi buột miệng kêu lên:

-Hay lắm!

Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh dùng thế ‘Hổ Tung Bộ’, nhẹ nhàng tiến lên một bước đến sát bên cánh tay phải của Tiêu-Văn-Kỳ. Một quyền lợi hại từ tay mặt Lục-Phỉ-Thanh phóng ra, Tiêu-Văn-Kỳ vừa né mình tránh khỏi, vừa dùng Thiết Cầm Sát che chở cho phía trên mặt. Sau đó y dùng hai ngón tay điểm một thế ‘Đao Thương Tề Minh’ vào người Lục-Phỉ-Thanh.

Lục-Phỉ-Thanh rùn mình xuống, dùng ‘Ấn Chưởng Quyền’ đánh mạnh một cái trúng Tiêu-Văn-Kỳ làm rách toẹt vạt áo của hắn trước bụng.

Nhưng Lục-Phỉ-Thanh vốn lòng lành, thấy không nỡ hủy hoại mười mấy năm luyện tập công-phu của hắn, lại càng không nỡ hủy hoại cuộc đời hắn trong một trận đánh nên đòn ấy ông ta chỉ dùng có năm thành công lực mà thôi.

Lục-Phỉ-Thanh tưởng như thế cũng đủ cho Tiêu-Văn-Kỳ tự thẹn mà kéo đồng đảng đi khỏi để ông ta được thong thả tìm nơi yên ổn mai danh ẩn tích. Không ngờ lòng nhân từ của Lục-Phỉ-Thanh lại là cái họa sát thân!

Tiêu-Văn-Kỳ thừa hiểu đối phương tha mạng hắn, nhưng đã không mang ơn thì thôi, hắn còn thừa thế dùng thế đánh thẳng tới trong lúc Lục-Phỉ-Thanh thu quyền về, để hở các chỗ yếu trên thân. Lục-Phỉ-Thanh không ngờ hắn lấy oán trả ân, cả kinh vừa định né tránh thì thình lình, Tiêu-Văn-Kỳ tay kia dùng thế ‘Lưu Truyền Hạ Sơn’, chĩa năm ngón tay như năm lưỡi dao đâm mạnh vào mặt Lục-Phỉ-Thanh.

Vì không kịp đề phòng, Lục-Phỉ-Thanh bị độc thủ của Thiết-Cầm-Sát đánh trúng hai cái vào chỗ nhược. Tuy nhiên, Lục-Phỉ-Thanh là cao thủ bậc nhất của Võ-Đang phái nên dù thất thế nhưng tinh-thần không bấn loạn. Hai tay ông chắp lại, dùng để hộ vệ các huyệt đạo trên người, và tránh được ba chiêu kế tiếp của Tiêu-Văn-Kỳ.

Lục-Phỉ-Thanh thối lui ba bước, không nói một tiếng nào, điều thần vận khí ngầm điều trị. Ông ta biết là khi bị trọng thương thì nếu để hỉ nộ ái ố phát ra ắt nguy đến tánh mạng.

Tiêu-Văn-Kỳ được nước nên thừa thắng xông lên, không để cho Lục-Phỉ-Thanh có cơ-hội nghỉ ngơi dưỡng sức. Hắn giở hết những độc chiêu của Thiết Cầm Sát ra quyết giết cho bằng được đối phương.

Lục-Phỉ-Thanh nín thở, nhịn đau, rút Bạch-Long kiếm ra chém nhầu ba nhát. Tiêu-Văn-Kỳ kinh hãi, lách mình ra sau, miện la lớn:

-Anh em mau xông cả vào! Đừng để chậm trễ, không thì tôi chết mất!

Hạ-Nhân-Long lẳng lặng rút thanh Ngô-Câu kiếm phân ra trên dưới hai đường hươi lên vùn vụt, một nhát đâm ngay yết hầu, còn một nhát móc ngay sườn Lục-Phỉ-Thanh, khí thế mạnh bạo, mười phần hiểm ác.

Tuy gọi là kiếm nhưng kỳ thực Ngô-Câu kiếm là một cặp song-câu, vừa sử dụng được như kiếm, vừa sử dụng được như câu; đâm chém thì theo kiếm-pháp, còn móc, giật, nghéo, mổ thì theo câu-pháp, tiện lợi cả hai bề. Tóm lại, Ngô-Câu kiếm có thể sử dụng được như song kiếm, song câu, hay một kiếm một câu.

Song-câu không được liệt vào hàng 18 món binh-khí chánh-tông. Nhưng nó là một món vũ-khí giết người lọi hại, lại khó luyện nên người làm tướng ít dùng. Chỉ có những tay giang-hồ hành hiệp bản-lãnh cao-siêu mới có thể rèn luyện và sử dụng nó đúng mức mà thôi. Song-câu vừa công được, vừa thủ được. Nhưng người sử dụng nó nếu không luyện đến mức tinh-vi rất có thể bị nó phản lại làm nguy hiểm đến tánh mạng. Lúc luyện tập nếu sơ ý cũng có thể bị thương như không. Khi song câu tung ra thì phải lập tức thu lại ngay, vì nếu chậm tay bị đối thủ phản công lại thì có nước chết không kịp ngáp!

Lục-Phỉ-Thanh thấy Hạ-Nhân-Long hai tay sử dụng song-câu, mà mình lại đang bị trọng thương thì không dám khinh địch liền dùng ngay thế ‘Hạnh Hoa Xuân Vũ’ trong Nhu-Vân-Kiếm-Thuật, là một lối kiếm-pháp có thể vừa công vừa thủ.

Hạ-Nhân-Long vừa đỡ được chiêu ‘Hạnh Hoa Xuân Vũ’ thì Lục-Phỉ-Thanh lại đánh tiếp một đòn ‘Tam Hoàn Âm Nguyệt’ làm cho y rối loạn tâm-thầm. Cặp Ngô-Câu kiếm của hắn bị lép vế hẳn, không còn lợi hại như lúc đầu nữa. Từ thế công, Hạ-Nhân-Long bị dồn vào thế thủ.

La-Tín đứng ngoài biết Hạ-Nhân-Long không phải là đối thủ của Lục-Phỉ-Thanh bèn rút cây ‘Thất Thiết Cương Tiên’ to lớn nhảy vào trợ lực.

Lục-Phỉ-Thanh biết mình trong thế ‘mệt đấu khoẻ’ nên không muốn dùng sức đối chọi với La-Tín. Thay vì dùng Bạch-Long kiếm chọi thẳng với cây roi sắt to lớn, ông ta xoay lưỡi kiếm, nhắm mấy ngón tay của La-Tín mà chém. La-Tín la lên một tiếng “Ối!” rồi buông cây ‘Thất Thiết Cương Tiên’ xuống đất rồi nhảy ra khỏi vòng chiến.

Tiêu-Văn-Kỳ thừa cơ bất ý lanh lẹ đánh ra một đòn mạnh mẽ sau lưng nơi bả vai của Lục-Phỉ-Thanh.

Năm trước, Tiêu-Văn-Kỳ đến Lạc-Dương thụ-giáo với họ Hàn. Ngoài chưởng-pháp, họ Hàn còn dùng một thứ gang rất tinh khiết gọi là tinh-cương chế tại ra một món vũ khí gọi là Thiết Cầm Sát.

Hàn gia vốn nổi tiếng về môn ‘Thiết Cầm Sát’, truyền đến người con gái thứ năm là Hàn-Ngũ-Nương thì không còn ở chốn phồn hoa đô hội nữa mà lên chốn thâm-sơn để cố luyện cho tuyệt-kỹ mình ngày môt thêm tinh-vi.

Thứ vũ-khí này hai đầu thì nhọn, hai bên thì sắc; khi công thì chẳng khác gì cây ‘khai sơn đại phủ’ (#6), khi thủ thì giống như một cái khiên. (#7)

Trong ruột, Thiết Cầm Sát trống rỗng như như lòng một ống đồng chứa được 12 cây đinh nhọn y hệt như mũi tên gõi là ‘Cầm Sát đinh’. Một vũ-khí có đến ba cái lợi hại như vậy thì đủ hiểu nguy cơ thế nào cho người phải đối phó cùng nó.

Tiêu-Văn-Kỳ được họ Hàn truyền dạy cho cả chưởng-pháp lẫn Thiết Cầm Sát. Cây Thiết Cầm Sát của hắn là vật mà con gái nhà họ Hàn chỉ dùng để tập luyện nên y thường bị giới giang-hồ chê bai ố ngạo. Tiêu-Văn-Kỳ rất lấy làm khó chịu. Do đó, y mới dùng tinh-cương đập thành một cây thiết bài để cầm tay cho oai. So với Thiết Cầm Sát của họ Hàn thì có khác đôi chút, nhưng cách sử dụng thì không sai biệt tí nào.

Lục-Phỉ-Thanh nghe sau lưng có tiếng gió liền nhảy qua một bên. Thế là Thiết Bài của Tiêu-Văn-Kỳ đã đánh trật. Lục-Phỉ-Thanh kế đến xoay mình hớt cho Tiêu-Văn-Kỳ một nhát kiếm lẹ như sao xẹt.

Tiêu-Văn-Kỳ lấy Thiết-bài ra chống đỡ, nhưng bị Nhu-Vân-Kiếm của Lục-Phỉ-Thanh chém tơi bời như mưa tuôn, lá rụng. Theo định luật thường thì bất luận là sử dụng quyền hay vũ-khí, hễ một khi đánh ra một chiêu thì tay hoặc khí-giới phải thu về rồi mới có thể đánh tiếp chiêu thứ hai được. Nhưng Nhu-Vân-Kiếm là một môn tuyệt kỹ hiếm có. Một khi đã rèn luyện tinh thông thì sau khi xuất chiêu, mặc cho đối phương né tránh hay đón đỡ cách nào, vẫn có thể chém tiếp nhiều nhát kế tiếp nữa. Lối đánh đó thường làm hoa mắt đối phương. Nội lo mà chống đỡ cũng đã mệt rồi chứ đừng nói là phản công.

Hạ-Nhân-Long và La-Tín thấy Tiêu-Văn-Kỳ bị Lục-Phỉ-Thanh dùng Bạch-Long kiếm đàn áp liên miên, tay chân luống cuống hết cả, tình trạng hết sức khốn đốn. Hai người láy mắt bảo nhau rồi chia hai phía tả hữu xông vào trợ chiến, đánh rất hăng.

Một cây Thiết-bài, Một cây Thất Tiết Cương Tiên và một cặp Ngô-câu kiếm vây chặt Lục-Phỉ-Thanh vào giữa.

Lục-Phỉ-Thanh sau khi bất cẩn trúng phải độc thủ của Tiêu-Văn-Kỳ, giờ lại phải luôn tay chống đỡ với ba người nên sức lực có kém đi, và vết thương bắt đầu hành hạ thật khó chịu.

Lục-Phỉ-Thanh biết nội thương đã bắt đầu bộc phát. Nếu kéo dài cuộc đấu thì rất có thể đưa tánh mạng mình đến chỗ hiểm nghèo. Nhu-Vân-Kiếm tuy lợi hại nhưng thật khó một lúc mà hạ được cả ba tên cường địch. Còn như đánh vẹt một mạng để dùng thuật phi hành mà tẩu thoát thì không phải là thượng sách. Ông ta đang bị thương, chân khí suy giảm rất nhiều. Do đó thuật phi hành sẽ chậm đi nhiều. Nếu bị hai tên đuồi theo thì thật khó lòng mà thoát khỏi.

Thật sự lúc này ba người chỉ cần cầm cự ngang ngửa với Lục-Phỉ-Thanh mà thôi vì chúng biết trận đấu càng kéo dài thì phần thắng sẽ về chúng. Lục-Phỉ-Thanh vừa đánh cầm chừng, vừa than thầm:

-Không ngờ Lục-Phỉ-Thanh hôm nay phải chết dưới tay ba con chuột như thế nào, hỡi ôi!

Nhưng rồi ông ta lại nghĩ:

-Quân-tử phục thù, mười năm chưa muộn. Việc gì mà ta phải liều lĩnh với chúng chứ! Hãy tìm kế thoát thân rồi sau này sẽ tìm đám ‘Quảng-Đông Lục Ma’ thanh toán món nợ này sau có hơn không.

Nghĩ đoạn, lòng Lục-Phỉ-Thanh lắng dịu lại, không còn nghĩ đến chuyện đấu trí mạng nữa. Ông ta định thần lại để vết thương không vì xúc động mà phát ra. Thanh Bạch-Long kiếm bỗng từ thế công xoay sang thế thủ, dùng để hộ thân chứ không còn đâm chém loạn xạ nữa.

Thấy thế, bọn Tiêu-Văn-Kỳ mừng thầm vì tưởng lầm là Lục-Phỉ-Thanh đã kiệt sức, chỉ còn sức thủ mà không còn sức công nữa.

La-Tín la lớn:

-Hắn kiệt lực rồi! Tiêu tam ca, đừng cho hắn nghỉ tay. Cứ dồn hắn vào giữa mà đánh thì không giết được hắn cũng có thể bắt sống được.

Tiêu-Văn-Kỳ đáp:

-La hiền-đệ! Anh nhường cái đầu hắn cho em đó. Hãy chặt lấy đem về cho triều-đình mà lập công. Mạng hắn sắp tận rồi!

Ha-Nhân-Long cũng xen lời, nói:

-Kiếm-thuật hắn còn lợi hại lắm, chưa thể giết hắn ngay được. Chúng ta hợp nhau lại làm nhục hắn một phen cho hả giận đã. Kìa, hai tay hắn bủn rủn cả rồi!

Cả ba vui mừng reo hò rồi cùng tiếp tục hợp sức tấn công Lục-Phỉ-Thanh tới tấp, tưởng như cá đã vào rọ, chỉ cần tháo gỡ đem về nhà mà làm thịt thôi.

Lục-Phỉ-Thanh không chút giận dữ trước những lời của bọn Tiêu-Văn-Kỳ. Ông bình tĩnh sử dụng Bạch-Long kiếm, đem những đường gươm tuyệt diệu trong Nhu-Vân kiếm-thuật ra ứng phó. Lục-Phỉ-Thanh quát lên một tiếng, nhắm La-Tín chém liền hai nhát ngang phía cổ. La-Tín hoảng hốt lùi ra sau mấy bước, để hở ra một khoảng trống giữa vòng vây.

Lục-Phỉ-Thanh không bỏ lỡ cơ-hội, liền dùng ngay thế ‘Mãn Thiên Hoa Vũ’. Kiếm quang xẹt qua xẹt lại, tả hữu, trên dưới, trước sau, như bão táp mưa sa. Tiêu-Văn-Kỳ và Hạ-Nhân-Long cả kinh tránh né liên hồi. Lục-Phỉ-Thanh liền tung người một cái đã ra được khỏi vòng vây.

La-Tín thất thanh kêu lên:

-Không xong! Tên giặc già này toan chạy trốn. Đừng cho nó trốn thoát!

Dứt lời, y bèn rượt theo Lục-Phỉ-Thanh. Mé sau, Tiêu-Văn-Kỳ và Hạ-Nhân-Long cũng nhập bọn. Thấy dùng khinh công khó theo kịp nổi Lục-Phỉ-Thanh, Tiêu-Văn-Kỳ liền cầm Thiết-bài nhắm về phía Lục-Phỉ-Thanh bắn ra ba mũi ‘Cầm-sát đinh’.

Lục-Phỉ-Thanh vốn đã đề-phòng ám toán nên chỉ nghe tiếng gió là đã biết ngay. Ông ta dùng kiếm gạt được hai mũi đinh đồng thời tung mình lên để tránh mũi thứ ba. Tiêu-Văn-Kỳ lại phóng thêm ba mũi ‘Cầm-sát đinh’ ra ba phía, mục-đích không để cho Lục-Phỉ-Thanh dùng khinh công tẩu thoát được nữa.

Thấy cả ba mặt đếu có ám-khí phóng tới, Lục-Phỉ-Thanh liền đứng nguyên tại chỗ lấy tay bắt từng cái một.

Lục-Phỉ-Thanh biết ám-khí ‘Cầm-sát đinh’ này của Tiêu-Văn-Kỳ rất lợi hại, không thể để cho nó ghim vào thân thể được. Vì người trúng phải ‘Cầm-sát đinh’ rồi thì có rút được ra thì da thịt mình cũng bị dính vào đó mà theo ra. Nhưng nếu cứ để yên như vậy thì chỉ sau một thời gian ngắn ngủi là phải chết.

Những môn phái chính tông như Thiếu-Lâm và Võ-Đang không bao giờ dùng ám-khí để đánh với bất cứ ai, và gần như cấm hẳn môn-đồ không được học hay sử dụng nó. Vì bôn tẩu giang-hồ đã nhiều nên kiến-thức Lục-Phỉ-Thanh rất rộng, biết rõ từng loại ám-khí cũng như sự lợi hại của nó. Chính ông ta cũng biết sử dụng một số ám-khí, nhưng không bao giờ thèm dùng đến, vì cho rằng dùng ám-khí là do ở sự khiếp nhược đối phương, không dám tự tin vào võ công để quyết đấu. Vì vậy, dù lâm vào đường cùng, Lục-Phỉ-Thanh vẫn không nghi đến việc dùng ám-khí để trả đũa.

Đứng bắt ám-khí một hồi, Lục-Phỉ-Thanh thấy không có lợi nên bèn đợi lúc thuận tiện, dùng khinh công mà tẩu thoát.

Xuống được dưới chân đồi, Lục-Phỉ-Thanh mới hơi yên tâm vì biết bọn Tiêu-Văn-Kỳ không dễ gì theo kịp được mình. Nhưng rủi thay, chưa kịp nghỉ chân được bao lâu thì nội thương của ông ta lại tái phát.

Lục-Phỉ-Thanh cảm thấy hết sức đau đớn từ trong bụng mà ra, mắt thì hoa cả lên, mặt mày xay xẩm.

Bọn Tiêu-Văn-Kỳ lúc đó đã đuổi đến nơi. Thấy Lục-Phỉ-Thanh đứng không muốn vững thì biết ngay ông ta đang bị nội thương hoành hành. Cả ba cùng vui mừng hớn hở, lại vây chặt lấy Lục-Phỉ-Thanh mà tấn công ồ ạt, mạnh bạo hơn nữa.

Lục-Phỉ-Thanh gắng gượng, chống cự với ba người hơn mười hiệp nữa. Vì dùng sức quá nhiều ở cánh tay mặt nên bên hông mặt chợt đau nhói lên, Lục-Phỉ-Thanh liền chuyển kiếm sang tay trái nhắm Tiêu-Văn-Kỳ tấn công mãnh-liệt.

Tiêu-Văn-Kỳ bị kiếm-thuật lạ lùng của Lục-Phỉ-Thanh tấn công bất thình lình thì hoảng hốt thối lui ra sau mấy bước. Thừa cơ hội tốt đó, Lục-Phỉ-Thanh dùng tay mặt phóng ra một chiêu ‘Bạch Hồng Quán Nhật’ nhắm ngay Hạ-Nhân-Long chém bổ xuống.

Hạ-Nhân-Long vội vã tránh sang bên trái, lại bị ngọn kiếm của Lục-Phỉ-Thanh chém phớt qua một thế rất hiểm ác. Hạ-Nhân-Long lại né sang bên phải thì mặt chạm phải những tia hào quang của bảo kiếm làm chói mắt.

Ngọc-Phán-Quan cả sợ, không còn cách nào tránh đòn cho dịp được nữa. Tánh mạng y chẳng khác nào như sợi chỉ treo chuông, mười phần nguy hiểm cả mười. Nhưng y trí óc y cũng khá linh mẫn. Trong lúc cấp bách, y chợt nghĩ ra được một cách là nằm dài trên mặt đất loan song câu đón đỡ.

Lục-Phỉ-Thanh toan đánh bạt song-câu của Hạ-Nhân-Long thì nghe hơi gió phớt qua đàng sau gáy. Thì ra La-Tín dùng cây Cương-tiên sử dụng thế ‘Thái Sơn Yểm Đinh’ đánh sả xuống vai Lục-Phỉ-Thanh một cái hết sức mạnh mẽ. Lục-Phỉ-Thanh hai gót chân trụ vững, rùn mình nhảy vọt tới như một lằn tên, thuận tay điểm trúng vào ‘Huyết Môn Huyệt’ của La-Tín.

Cây Cương-tiên của La-Tín đã lỡ đà, tuy hắn biết là không thể nào đánh trúng được Lục-Phỉ-Thanh được nữa nhưng không cách nào thu về kịp. ‘Chát’ một tiếng, cây Cương-tiên đập đúng ngay tảng đá phía dưới đến tóe lửa. Rồi ‘ối’ một tiếng, cả thân thể La-Tín sau đó mềm nhũn ra, không còn cử động được nữa vì huyệt-đạo của hắn đã bị Lục-Phỉ-Thanh điểm trúng.

Tiêu-Văn-Kỳ dốc toàn lực, phóng ra thêm ba cây ‘Thiế-Cầm đinh’ bay vù tới sau lưng Lục-Phỉ-Thanh. Thấy không thể tránh né kịp, Lục-Phỉ-Thanh chụp ngay La-Tín làm bia đỡ. Một tiếng rú phát lên rùng rợn, cả ba cây ám-khí đã ghim sâu vào bụng La-Tín chết không kịp ngáp.

Thấy ám-khí của mình không hại được kẻ địch mà lại giết oan đồng bọn, Tiêu-Văn-Kỳ lửa giận phừng phừng, cầm cây Thiết-bài đánh đông chém tây, khí thế vô cùng hiểm ác.

Lúc ấy Hạ-Nhân-Long cũng vừa mới vùng dậy được. Lục-Phỉ-Thanh nghĩ rằng trừ khử được tên nào càng sớm càng hay nên tay trái hươi thanh Bạch-Long kiếm chém vụt một đường.

Hạ-Nhân-Long hoảng sợ, lùi lại một bước. Tiêu-Văn-Kỳ xông tới dùng Thiết-bài bổ vào Lục-Phỉ-Thanh, buộc ông ta phải quay mình tránh né. Nhờ vậy, Hạ-Nhân-Long mới thoát được nguy hiểm. Y bèn nhảy vào trợ chiến với Tiêu-Văn-Kỳ.

Mặc dù tránh được Thiết-bài của Tiêu-Văn-Kỳ, nhưng vết thương trong người Lục-Phỉ-Thanh lại bị động, càng lúc càng đau đớn nên tiềm-lực chiến đấu của ông ta vì thế mà giảm đi, không còn được hăng như trước nữa.

Tiêu-Văn-Kỳ thấy vậy mừng rỡ, nỗ lực đánh rấn lên, giở hết những đòn tuyệt-kỹ ra quyết hạ địch. Cây Thiết-bài trên dưới, tả hữu, liên tiếp tấn công Lục-Phỉ-Thanh không ngừng.

Đột nhiên, Tiêu-Văn-Kỳ từ đâu nhìn thấy thanh Bạch-Long kiếm của Lục-Phỉ-Thanh như một lằn sét trên cao chém xuống. Thấy Tiêu-Văn-Kỳ thất thế, Hạ-Nhân-Long bèn đưa cây Ngô-Câu kiếm ra đỡ cản lại. Chằng ngờ sau đó Lục-Phỉ-Thanh bất ngờ dùng trọng-thủ pháp-túc công-lực, một chân đá và một tay đánh rớt cả cặp Ngô-Câu kiếm của Ngọc-Phán-Quan xuống đất. Còn thanh Bạch-Long kiếm vì không bị ngăn trở nữa nên cứ thế mà nhắm ngay bụng Hạ-Nhân-Long đâm tới. Hết đường tránh né, Hạ-Nhân-Long bị đâm một nhát từ bụng xuyên qua lưng, ngã lăn ra chết trên vũng máu.

Hạ sát xong Hạ-Nhân-Long, Lục-Phỉ-Thanh quay mình lại đối phó luôn với Tiêu-Văn-Kỳ. Thiết-bài của Tiêu-Văn-Kỳ đánh ra chưa kịp thâu lại thì hắn nghe khắp người đau đớn nhức nhối không làm sao chịu nổi. Đôi mắt Tiêu-Văn-Kỳ hoa lên, trông thấy phía trước đen thui như mực, chẳng còn phân biệt được gì nữa...

Có thể nói là Lục-Phỉ-Thanh đã đến đường cùng nên đâm ra liều lĩnh và bất chấp hậu quả. Đang lúc đánh với Tiêu-Văn-Kỳ và Hạ-Nhân-Long thì bị vết thương hành hạ đau đớn khôn tả. Biết không thể kéo dài thêm được nữa, Lục-Phỉ-Thanh nghiến răng, vận nội công chịu đựng một Thiết-bài của Tiêu-Văn-Kỳ đánh vào bả vai mình để có thì giờ phóng kiếm giết Hạ-Nhân-Long trước. Kết liễu tánh mạng Hạ-Nhân-Long xong, Lục-Phỉ-Thanh liền dùng năm ngọn Phù-Dung châm nhắm thẳng Tiêu-Văn-Kỳ bắn ra một lượt. Vốn dĩ Tiêu-Văn-kỳ đứng cách Lục-Phỉ-Thanh không xa mà kỹ-thuật dụng châm của Lục-Phỉ-Thanh lại nhanh như chớp, đồng thời kim châm lại nhỏ như sợi tóc thì làm sao Tiêu-Văn-Kỳ tránh cho khỏi! Vừa hí hửng đánh trúng được Lục-Phỉ-Thanh một Thiết-bài chưa kịp thâu về thì đôi mắt Tiêu-Văn-Kỳ bị năm ngọn Phù-Dung châm ghim vào. Lục-Phỉ-Thanh giận Tiêu-Văn-Kỳ lòng dạ độc ác nên mới hạ độc-thủ đến mức đó, chứ xưa nay, ông chưa hề sử dụng ám-khí với bất cứ ai, dù là kẻ thù.

Tiêu-Văn-Kỳ sau khi trúng châm mù cả đôi mắt thì đau đớn, đứng trơ ra như một thây ma chết. Lục-Phỉ-Thanh sấn tới, hai tay dùng một thế ‘Câu Tiên Quyền’ kết liễu mạng sống của y để trừ hậu hoạn.

Sau bao năm ẩn-tích, Lục-Phỉ-Thanh chỉ trong một đêm vì phải hạ sát ba kẻ tử thù đã phải thi triển hết tất cả bình-sinh tuyệt kỹ, từ quyền cước nội công, phép điểm huyệt cho đến kiếm-pháp, thậm chí cả ám-khí nữa!

Vẫn biết là hạ sát Tiêu-Văn-Kỳ thì mối thâm thù với ‘Quảng-Đông Lục Ma’ sẽ càng ngày càng kết chặt thêm. Nhưng nếu không hạ độc thủ thì không cách nào được toàn tánh mạng đêm nay được. Đó là một sự bất đắc dĩ mà thôi!

Lục-Phỉ-Thanh thầm nghĩ, nếu để xác Tiêu-Văn-Kỳ lại sẽ có nhiều bất tiện nên phải cố làm sao tìm cách nào để phi tang...

Rừng khuya vắng vẻ. Gió thổi lành lạnh... Ánh trăng mờ trong vầng mây đen lố dạng rọi vào ba tử thi đẫm máu trên ngọn cỏ điểm sương. Tiếng chim kêu về đêm nghe càng buồn thảm. Lục-Phỉ-Thanh tuy là một người có bản lãnh cao siêu, khí khái can trường, nhưng không hiểu sao vẫn cảm thấy ghê rợn thế nào!

Lục-Phỉ-Thanh cởi chiếc áo trong người ra, lấy tay xoa nhẹ trên vết thương ở bả vai bên trái rồi đứng thẳn người lên, dùng phép hô-hấp hít thở không khí để bồi nguyên lực trở lại. Sau đó, ông ta mới lau sạch thanh Bạch-Long kiếm rồi tra lại vào vỏ. Vốn là người tinh tế, Lục-Phỉ-Thanh thu hồi năm ngọn Phù-Dung kim-châm trong đôi mắt của Tiêu-Văn-Kỳ cất kỹ rồi mới đào lỗ chôn ba tử thi kỹ-lưỡng xuống dưới chân gò hoang rồi sau đó mới khỏa bằng. (#8)

Làm xong từng ấy việc, Lục-Phỉ-Thanh nghe trong người mệt mỏi yếu đuối vô cùng. Khắp mình mẩy ông ta lại vấy đầy máu me tanh tưởi, hôi hám.

Lục-Phỉ-Thanh thầm nghĩ nếu cứ như vậy mà đi ngoài đường sá thì không cách nào khỏi bị tình nghi, và bắt buộc nhà chức trách sẽ phải theo dõi. Suy nghĩ thật chín chắn, Lục-Phỉ-Thanh thấy không còn cách nào hơn là trở về lại tư dinh của Lý-Khả-Tú để tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo thì mới có thể đi đâu thì đi.

Ý định của Lục-Phỉ-Thanh là vậy. Chẳng ngờ hôm ấy Lý-Mộng-Ngọc dậy sớm hơn thường ngày và đến thư phòng của Lục-Phỉ-Thanh nên thành thử mọi chuyện đều bại lộ, không còn theo như dự tính được nữa...

Sau khi Lý-Mộng-Ngọc vâng lời ra khỏi thư phòng, Lục-Phỉ-Thanh nằm trên giường nghe vết thương đau nhức không chịu nổi, nằm hôn mê đi lúc nào không biết...

Lục-Phỉ-Thanh đang mơ mơ màng màng thì thấy có bóng người đứng sát bên giường mình rồi tai nghe như có tiếng ai gọi nhỏ:

-Lão sư! Lão sư mau tỉnh lại!

Lục-Phỉ-Thanh cố gắng mở hai mi mắt nặng nề ra thì thấy người đó không phải ai xa lạ mà chính là đứa nữ đệ-tử yêu quý bấy lâu nay là Lý-Mộng-Ngọc...

Trong hai tháng trời kế tiếp được nghỉ dạy, chỉ nằm yên một chỗ mà dưỡng bệnh lại nhờ có nội công phi phàm nên Lục-Phi-Thanh lần hồi bình phục lại được rất nhiều. Thêm vào đó, nhờ có Lý-Mộng-Ngọc xin với cha tìm thầy giỏi đến săn sóc, mua đủ các loại thuốc tốt để điều-trị nên nội thương của Lục-Phỉ-Thanh không còn điều gì phải lo ngại nữa.

Suốt hai tháng trời, giờ khắc nào Lý-Mộng-Ngọc cũng đều có mặt ngay bên cạnh Lục-Phỉ-Thanh săn sóc tận tình, chăm lo hết dạ.

Người bình thường sẽ cho đó là cái tình thầy trò gắn bó nên Lý-Mộng-Ngọc ân cần lo cho trọn đạo, nhưng nào biết trong thâm tâm Lý-Mộng-Ngọc còn có những ý nghĩ khác hơn.

Từ hôm chính mắt được trông thấy ngón tuyệt-kỹ của Lục-Phỉ-Thanh dùng Phù-Dung châm bắn chết những con ruồi trên bảng, Lý-Mộng-Ngọc bắt đầu để ý. Qua ngày thứ hai, nàng lại càng thắc mắc thêm về hành tung kỳ bí của sư-phụ nàng hơn nữa. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng ‘thông-minh vốn sẵn tính trời’ nên Lý-Mộng-Ngọc có được kiến-thức để suy luận.

Nàng tin chắc Lục-Phỉ-Thanh không phải chỉ là một cụ đồ già ngâm thơ vịnh phú mà là một nhân vật có nhiều bản lãnh phi thường. Nghĩ như vậy cho nên Lý-Mộng-Ngọc mới hết lòng săn sóc cho Lục-Phỉ-Thanh trong những ngày bệnh hoạn với hy-vọng học được nơi ông ta bản-lãnh chân truyền sau này.

Sau khi lành vết thương, bình-phục lại sức khỏe, Lục-Phỉ-Thanh nhớ ơn và cảm kích thịnh tình của Lý-Mộng-Ngọc đã tận tình chăm sóc cho mình trong cơn hoạn nạn. Lý-Mộng-Ngọc cũng giữ kín những điều mắt thấy tai nghe về Lục-Phỉ-Thanh mà chẳng bao giờ rỉ hơi ra cho một ai để ý.

Một hôm, thấy Lục-Phỉ-Thanh hoàn toàn khỏe khoắn lại, Lý-Mộng-Ngọc gợi ý hỏi:

-Thưa thầy, chẳng hay bao giờ thầy bắt đầu dạy dỗ con lại? Thầy sẽ tiếp tục giảng về Sử-Ký cho con hay giảng về điều gì khác hơn?

Lục-Phỉ-Thanh trầm ngâm một lúc rồi đáp:

-Sáng sớm ngày mai thầy sẽ bắt đầu.

Sáng sớm hôm sau, khi bình-minh vừa ló dạng, Lục-Phỉ-Thanh đã gọi đứa thư-đồng (#9) dậy, sai ra phố mua mua giấy mực cần dùng. Đứa thư-đồng đi rồi, Lục-Phỉ-Thanh mới gọi Lý-Mộng-Ngọc đến gần mình mà nói rằng:

-Mộng-Ngọc! Con là một đứa trẻ rất thông-minh nên mới đoán được thầy là một nhân-vật thế nào. Tuy vậy, hành tung của thầy ra sao con cũng không làm sao hoàn toàn hiểu biết được đâu. Lần này thầy gắp đại nạn được con hết lòng chăm lo săn sóc, thật đến người thân thích thuộc cũng không làm sao hơn được. Thầy thật cảm động vô cùng. Lần đầu khi để thư lại, thầy quyết ra đi không còn trở lại đây nữa. Và khi quay về lần thứ hai, trong thâm tâm thầy cũng định sẽ lại ra đi tiếp. Thế nhưng bây giờ thì thầy không thể bỏ con mà đi được nữa. Như vậy con đủ hiểu lòng thầy đối với con, trìu mến con đến thế nào rồi. Cho dù thầy không nói, chắc con cũng tự tìm hiểu được. Thầy cũng chẳng giấu diếm con nữa. Hôm nay thầy đem ngón tuyệt kỹ về kim châm ra truyền lại cho con. Con có bằng lòng không?

Được nghe những lời chân thật tha thiết thốt ra từ đáy lòng của vị sư-phụ, Lý-Mộng-Ngọc vui mừng không biết tả sao cho xiết. Nàng quỳ xuống trước mặt Lục-Phỉ-Thanh lạy thầy ba lạy, làm lễ nhập môn.

Lục-Phỉ-Thanh nhìn đứa học-trò cưng nở một nụ cười sung sướng. Sau đó ông ta nghiêm sắc mặt nói với Mộng-Ngọc:

-Thầy biết rõ tính tình con cứng rắn lắm. Nếu đem võ công của môn phái thầy mà dạy cho con e có điều bất lợi. Do đó mà suốt bao lâu nay dạy con học đạo-lý văn-chương chẳng lúc nào thầy tỏ cho con biết là thầy có bản lãnh cả. Không tỏ cho con biết là không có ý định truyền võ-nghệ của môn phái thầy lại cho con. Đến giờ phút này, cảm lòng thành khẩn của con, lại nhận xét thêm về tư chất của con, thầy vẫn còn phân vân chưa quyết. Có vài lần thầy định gọi con đến để truyền dạy nhưng rồi lại thôi! Chỉ vì...

Nói đến đây, Lục-Phỉ-Thanh trầm ngâm suy nghĩ giây lâu mà không tiếp tục được lời nào. Lý-Mộng-Ngọc thấy vậy càng hồi hộp trong lòng nên đánh bạo thưa rằng:

-Thưa thầy. Con nhất định tuân theo lời thầy dạy bảo, quyết chẳng bao giờ làm sai.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Việc của lệnh trên làm thật thầy không tán thành tí nào cả! Một ngày nào, khi con khôn lớn, biết phân-biệt phải trái, chánh tà, thầy sẽ chỉ bảo sau. Hôm nay con đã đã lạy thầy làm lễ bái sư chịu làm đệ-tử thì trước nhất con phải nghiêm giữ những giới điều trong môn phái của thầy. Con có bằng lòng như vậy chăng?

Lý-Mộng-Ngọc thưa:

-Những lời của lão sư dạy bảo, con xin ghi lòng tạc dạ, không bao giờ dám làm tái ý, nghĩa là không dám vi bội lời thầy.

Lục-Phỉ-Thanh gật đầu, nói:

-Trước hết thầy cho con biết là nếu sau này con dùng võ công tuyệt đỉnh của thầy truyền dạy mà giúp Kiệt làm dữ (#10) thì tình thầy trò của chúng ta không còn nữa. Và khi đó, chính thầy sẽ phải đi lấy đầu của con đó.

Lời nói Lục-Phỉ-Thanh hết sức nghiêm-nghị, Lý-Mộng-Ngọc sợ sệt, chẳng dám hó hé, chỉ biết cúi đầu vâng dạ.

Sau đó, Lục-Phỉ-Thanh tỉ mỉ từng ly từng tí ân cần chỉ dạy cho Lý-Mộng-Ngọc cách điều thần luyện khí, dạy cách thức để làm sao luyện cho được cơ bản của 10 ngón tuyệt-kỹ là ‘Thập Hà Cẩm’, 37 thế trường quyền. Trưóc tiên dạy cách luyện sức, sau dạy cách luyện quyền để khi tuôn ra có sức mạnh như ngăn sông đóa núi (#11) được.

Kế tiếp, Lục-Phỉ-Thanh lại dạy ngón ‘Vô Cực Huyền Công’ khi xuất chiêu tựa như phun lửa. Ngoài ra, ông còn dạy Lý-Mộng-Ngọc các phương-pháp luyện mắt, luyện tai, phóng đạn buông tên bằn hai tay cùng những cơ-bản dùng ám-khí lợi hại.

Chỉ trong hai năm, một phần nhờ vào sự thông-minh của Lý-Mộng-Ngọc; một phần nhờ Lục-Phỉ-Thanh tận tình chỉ dạy có phương-pháp; sự tiến bộ thật là phi thường, nhanh chóng trông thấy rõ rệt, chẳng khác gì một con thiên-lý mã ngày đi ngàn dặm, học một biết thêm mười.

Lục-Phỉ-Thanh thấy Lý-Mộng-Ngọc đã thông-minh lại chăm chỉ luyện tập nên tiếp tục đem sở học bình-sinh của mình mà truyền dạy mà không tiếc.

Hai năm nữa trôi qua, Lục-Phỉ-Thanh mới đem ‘Nhu-Vân kiếm thuật’ và ‘Phù-Dung Kim Châm’ ra dạy cho Lý-Mộng-Ngọc.

Sau 5 năm khổ luyện, Lý-Mộng-Ngọc đã rành hết mọi thứ, từ Kim-châm cho đến Kiếm-thuật; Khinh-công, Quyền-cước..., môn nào cũng đến mức cao siêu huyền diệu, chỉ có một điều là chưa đạt được đến mức Lôi-hỏa của tuyệt-kỹ công-phu mà thôi.

Và cũng vì lẽ chỉ học trong nhà, chưa có dịp ra ngoài thi thố võ công nên ‘kinh-nghiệm chiến-trường’ Lý-Mộng-Ngọc chưa có được. Bản tính nàng lại cẩn-thận và kín đáo nên không để những điều dạy dỗ của Lục-Phỉ-Thanh lọt ra ngoài.

Cứ mỗi ngày vào giờ ấn-định, Lý-Mộng-Ngọc một mình ra vườn hoa sau tập luyện võ-nghệ. Từ nhỏ Lý-Mộng-Ngọc đã ham đánh quyền múa kiếm nên khi thấy nàng tập luyện, không một ai để ý hay nghi ngờ điều gì.

Và sau 5 năm trời đó, cha nàng là Lý-Khả-Tú được tiếp tục thăng quan đều đặn, và giờ đây được triều-đình gia phong chức ‘Đại-Tướng-Quân An-Biên-Hầu’, danh tiếng vang dội khắp gần xa.

Năm Càn-Long thứ 23, nhờ lập được nhiều chiến công hiển hách, Lý-Khả-Tú được bổ-nhiệm trấn-thủ tỉnh Triết-Giang. Ngày lâm hành, tự lãnh đám khinh-kỵ đi trước đến nhiệm-lý. Tất cả gia-quyến cùng gia-sản, Lý-Khả-Tú cho quân-sĩ đi hộ vệ ở đàng sau. Lý-Mộng-Ngọc vốn sinh trưởng tại vùng biên-ải. Đây là lần đầu tiên được dịp ra ngoài chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn cảnh núi xanh sông biếc, cả một giải giang-san cẩm tú của vùng Giang-Nam nên lòng rất lấy làm thích thú.

Còn Lục-Phỉ-Thanh vì lánh nạn nên phải xa lìa nội địa lâu ngày. Giờ đây có dịp trở lại chốn làng cũ quê xưa sau bao năm cách biệt nên lòng cảm thấy khoan khoái vô ngần. Nhưng nghĩ đến cảnh ‘sơn hà đổi chủ’ (#12), trong lòng Lục-Phỉ-Thanh cũng không khỏi bùi ngùi. Ngựa ông ta cỡi lọt lại đàng sau lúc nào mà cũng không hay.

Lục-Phỉ-Thanh cùng với bọn gia-đinh chở đồ tế nhuyễn của Lý-Khả-Tú trên mấy chục cỗ xe ngựa ì-ạch trên lộ trường.

Lý thái-thái, mẹ của Lý-Khả-Tú ngồi trong một chiếc kiệu có bốn người khiêng, còn Lý-Mộng-Ngọc thì lại cỡi ngựa sải bay dặm thỏ.

Đáng lý ra các cô khuê-nữ phải ngồi trong kiệu mới phải chứ lẽ nào lại đi cỡi ngựa rong cương? Chỉ vì Lý-Mộng-Ngọc từ nhỏ đã háo võ nên lúc nào nàng cũng dạn dĩ, hăng say hoạt động như các đấng mày râu. Lần này nàng lại mặc y-phục cải nam trang nên chỉ trừ người thân, không ai biết nàng là một ‘thiên kim tiểu-thư’, con của một vị tướng-quân quyền uy dang vọng.

Tính tình Lý-Mộng-Ngọc lại giống hệt như thanh-niên, từ cách đi đứng, nói cười tự-nhiên nên khi khoác vào y-phục của phái nam thì trông chẳng khác gì một ‘trang phong-lưu anh tuấn’.

Lý thái-thái ngồi trong kiệu nhìn thấy đứa cháu nội gái lầm lẫm uy-nghi khẽ nhếch một nụ cười đắc ý, để mặc cho y thị tự-do không cần câu thúc.

Lý-Khả-Tú chọn một vài tên lính tâm phúc giao cho một viên tham-tướng để hộ-vệ gia-quyến. Viên tham-tướng này tên là Tăng-Đồ-Nam, tuổi ngoài 40, môi son, mày nhỏ, râu ngắn, mặt vuông hình chữ điền, tinh-thần tráng vượng, thể cách hùng-vĩ, chuyên sử dụng một cây thương gọi là ‘Lục Hợp Thương’. Tăng-Đồ-Nam võ-nghệ cao cường, đa mưu túc trí, lại cẩn-thận tinh-tế nên Lý-Khả-Tú rất tín-dụng trong những công việc khó khăn nặng nhọc. Có thể nói, Tăng-Đồ-Nam luôn làm tròn bổn phận được giao phó, ít khi nào lầm lẫn hay thất bại.

Khi đoàn xe đến một hòn núi cao thì trời cũng đã sẫm tối. Bọn xa-phu biết độ chừng 10 dặm nữa thì đến sông Tháp-Bảo. Bên cạnh đó là một thị-trấn lớn ở ngoại biên. Đến đó, đoàn xe sẽ tạm nghỉ lại qua đêm.

Mọi người đang bàn tán thì Lục-Phỉ-Thanh bỗng nghe như phía trước có tiếng chân ngựa phi như bay. Để ý trông ra xa thì quả thấy có cát bụi tung mịt mù. Chỉ trong khoảnh khắc, hai con bạch mã, ‘tám vó’ dong duổi như tên bay tới.

Vừa liếc mắt lên thì hai con ngựa ấy như bay vụt qua trước mặt. Trên lưng ngựa, một kỵ-mạ nằm mọp xuống yên, ra roi quất nhẹ, rời xa dần đoàn xe của Lý-Khả-Tú.

Lục-Phỉ-Thanh nép vào bên đường, mắt thoáng nhận ra hai kỵ-mã là một người cao và một người lùn. Người cao mày dài, mũi to, sắc diện trắng nõn như thoa phấn. Còn người lùn thì khí vũ rất hiên-ngang. Cả hai người cỡi ngựa rất tài tình, có thể liệt được vào hạng ‘đệ nhất’!

Lục-Phỉ-Thanh từ đàng sau ra roi giục ngựa chồm tới phía trước để rược cho kịp Lý-Mộng-Ngọc và lớn tiếng gọi nàng:

-Mộng Ngọc! Con có nhìn rõ được hình dung hai kỵ-mã mới đi ngang qua không?

Lý-Mộng-Ngọc đáp:

-Thưa thầy, con trông không được rõ lắm. Phải chăng họ là người trong giới lục lâm?

Sự nhận xét của Lý-Mộng-Ngọc không đúng vì nàng chưa từng đi lại trên chốn giang-hồ. Cứ căn cứ vào cách cỡi ngựa của hai người cũng có thể biết được họ là khổ công luyện tập đến cỡ nào. Bọn cường đồ đạo tặc tất không làm như thế được.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Thầy không thể nói rõ họ là hạng người nào được, nhưng cứ xem vào biểu-nghi của họ thì chắc chắn đó là những giang-hồ cao-thủ, võ công đầy mình chứ không phải là phường lục lâm thảo khấu hướng mã tầm thường đâu!

Lý-Mộng-Ngọc ngạc-nhiên hỏi:

-Sao thầy biết được võ công của hai người ấy?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Chỉ cần xem thuật cỡi ngựa của họ là hiểu ngay võ công họ không phải tầm thường. Có khó gì đâu?

Đoàn xe của gia-quyến Lý-Khả-Tú gần đến sông Tháp-Bảo thình lình nghe tiếng vó ngựa dấy lên. Rồi lại thêm hai con tuấn mã nữa từ xa bay vụt tới lẹ như tên bắn. Lục-Phỉ-Thanh càng lúc càng lấy làm lạ, nói thầm:

-“Lạ quá! Họ đi đâu thế này? Thật kỳ lạ hết sức!”

Trời nắng gắt cả ngày, không một đám mây râm. Đoàn xa mã đi trên con đường hoang vu vắng vẻ, hai bên là rừng rậm, không một bóng nhà.

Nhìn ra trước mặt là sông Tháp-Bảo thấy có bóng người từ thị-trấn đi ra. Lục-Phỉ-Thanh lại nghĩ thầm:

-“Nếu không có việc gì gấp rút thì không ai đi đâu giờ này vì như thế tất nhiên phải về ban đêm.”

Đi thêm một quãng nữa thì tới ngả vào sông Tháp-Bảo. Người trong các quán, các tửu lâu đua nhau cho người ra đón khách rước vào.

Tham-tướng Tăng-Đồ-Nam lãnh trách-nhiệm lo lắng cho đoàn xa-kiệu của gia-quyến Lý-Khả-Tú, chọn một quán tọ rất rộng rãi khoảng khoát ghé vào.

Lục-Phỉ-Thanh và Lý-Mộng-Ngọc cũng vừa tới nơi, gò cương hạ mã. Quán trọ thật là bề thế, cửa vào thật là lớn, có treo một tấm bảng viết bốn đại tự: “An-Thông Khách-Sạn”.

Trong quán trọ có ba bốn tiểu-nhị vui vẻ chạy ra phụ giúp đem hành-lý của khách vào bên trong. Vì đoàn người là gia-quyến của quan quyền nên từ chủ quán sấp xuống, ai nấy đều sốt sắng lo tiếp đón thật chu đáo, còn hơn cả thượng-khách lúc bình thường.

Lục-Phỉ-Thanh chỉ có một thân một mình nên chiếm riêng một phòng nhỏ cho tiện. Đối diện là gian phòng lớn của Lý-Mộng-Ngọc cùng với bà nộ là Lý-thái-thái và mẹ là Lý phu-nhân. Lục-Phỉ-Thanh gọi cơm ăn qua loa thì trời đã nhá nhem tối. Người giúp việc trong lữ-quán bèn đốt đèn lên cho sáng.

Đi đường xa mệt mỏi, Lục-Phỉ-Thanh chỉ muốn nằm xuống đánh một giấc cho khỏe. Vừa định đi nghỉ dưỡng sức thì tai lại thấy tiếng vó ngựa ‘lộp cộp’ từ xa phi tới nghe rõ mồn một giữa đêm thanh vắng. Lục-Phỉ-Thanh thấy vậy tự nói thầm:

-“Giờ này mà có người phi ngựa đến hẳn là có việc gì khẩn cấp chứ không phải chơi!”

Ông nhớ lại lúc đi đường liên tiếp gặp bốn nhân-vật với kỵ-thuật (#13) tài tình giục ngựa phi nước đại, mà ông chắc rằng người nào người nấy đều có bản lãnh cao-siêu. Lúc đó ông đã lấy làm lạ. Giờ đây lại còn cảm thấy lạ hơn nữa. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, đến trước lữ-quán thì ngừng hẳn. Kế đến là tiếng mở cửa và tiếng của người giúp việc trong lữ-quán.

-Quý-vị đi đường xa thật nhọc nhằn. Chúng tôi đã chuẩn-bị sẵn sàng trà ngon, rượu thơm đâu ra đó. Xin mời quý-vị cứ việc ăn uống thật no say.

Một giọng nói ‘ồ ồ’ đáp lại:

-Ngươi lấy lúa cỏ cho ngựa ta ăn đầy đủ nhé. Ta ăn cơm xong lập-tức phải lên đường ngay!

Lục-Phỉ-Thanh trong bụng lo lắng nghĩ rằng:

-Vì lẽ gì mà cứ từng tốp hai người một nhắm hướng An-Tây mà đến. Chỉ nhìn lối cỡi ngựa của họ ta cũng biết toàn là những cao-thủ có bản-lãnh hơn người. Ta từng ở quan-ải nhiều năm thật nhưng chưa lần nào thấy việc lạ như hôm nay.

Lục-Phỉ-Thanh bèn nhẹ gót bước ra khỏi phòng, lần qua ba gian phòng khác thì thấy có một gian phòng phía sau lữ-quán. Đột nhiên, một giọng nói ‘ồ ồ’ vang lên, nghe cho kỹ thì đúng của người lúc nãy dặn người giúp việc của lữ-quán cho ngựa ăn cỏ lúa.

-Triệu tam ca! Thiếu-Đà-Chủ tuổi còn trẻ măng như vậy thì không biết trong đám anh em có chịu phục mà tuân theo mệnh lệnh của người không?

Lục-Phỉ-Thanh nghe qua câu này vội vã nín hơi, rón rén lại gần cửa sổ hé mắt nhìn vào bên trong. Xưa nay, ông vốn không có thói đi rình trộm, nghe chuyện của người khác, việc gì ông ta cũng đường đường chính chính minh bạch, rất ghét điều ám muội. Nhưng lần này gặp nhiều việc quái lạ làm cho ông ta phải hồ nghi. Hiện Lục-Phỉ-Thanh đang mang một cái án nặng nề. Kẻ thù thì luôn rình rập tứ phía chờ cơ hội bắt sống hoặc giết chết ông để lập công. Vì thế nên Lục-Phỉ-Thanh không thể nằm yên trong phòng mình được. Ông phải đi dọ thám đặng biết rõ tình hình để liệu mà đề phòng. Nép mình sau cánh cửa sổ, Lục-Phỉ-Thanh nghe có tiếng người đáp lại người có giọng ‘ồ ồ’ ban nãy.

-Không khuất phục rồi cũng phải khuất phục! Lão nhân gia đã đã di mệnh như thế thì bất kể Thiếu-Đà-Chủ là ai, có ra làm sao đi chăng nữa, anh em chúng ta cũng phải đem hết lòng dạ sắt son ra phò trợ, bảo-vệ người ấy.

Giọng nói người này rõ ràng và quả quyết, chứa đựng một ý chí can trường. Chỉ nghe qua giọng nói, Lục-Phỉ-Thanh biết đây là một người có nội công thâm tuyệt.

Biết hai người bên trong đang nói chuyện toàn là những nhân vật cừ khôi nên Lục-Phỉ-Thanh không dám xé giấy dán ngoài cửa sổ mà lẻn vào, chỉ kiên-nhẫn tiếp tục lắng tai nghe trộm. Giọng nói ‘ồ ồ’ khi nãy lại vang lên.

-Hãy khoan nói đến việc anh em có chịu khuất phục hay không. Chỉ nội việc Thiếu-Đà-Chủ có chịu xuất sơn đảm nhận trách-nhiệm hay không cũng đã khó khăn lắm rồi!

Tiếng người kia trả lời:

-Lần này toàn thể các vị chánh phó hương-chủ gồm Nội-Tam-Đường, Ngoại-Tam-Đường đều cỡi ngựa đến tiếp rước thì dầu muốn dầu không, Thiếu-Đà-Chủ khó mà từ chối được!

Lục-Phỉ-Thanh bỗng rùng mình, tim đập mạnh, vì giọng nói người này nghe rất quen thuộc với ông ta. Nếu ông ta không lầm thì người này là một người bạn cũ tên gọi Triệu-Bán-Sơn, trước kia cùng ở trong Đồ-Long-Bang với Lục-Phỉ-Thanh. Về niên-kỷ, Triệu-Bán-Sơn kém Lục-Phỉ-Thanh 10 tuổi, nhưng nếu so về võ-nghệ thì tài sức tương-đương, chưa biết ai hơn ai kém. Lục-Phỉ-Thanh là nhị cao-đồ của phái Võ-Đang, còn Triệu-Bán-Sơn là đệ nhất cao-đồ của phái Thái-Cực ở Ôn-Châu, sư-phụ họ Vương, là bậc tiền-bối trong giới võ-lâm cao thủ.

Lúc còn ở Đồ-Long-Bang, cả hai đã từng thi thố võ-nghệ với nhau và đều khâm phục công-phu tuyệt đỉnh của nhau.

Từ lúc xa nhau cho đến nay cũng đã gần 20 năm. Tính ra, Triệu-Bán-Sơn cũng đã gần 50 rồi. Sau khi Đồ-Long-Bang tan rã, kẻ ngược người xuôi, kẻ còn người mất, Lục-Phỉ-Thanh không hay tin-tức Triệu-Bán-Sơn ra làm sao. Bầt ngờ hôm nay gặp lại cố-nhân nơi quan-ải, và chỉ còn cách nhau có một cái cửa sổ mà thôi.

Gặp lại bạn cũ, Lục-Phỉ-Thanh vui mừng hớn hở, định bụng lên tiếng cho Triệu-Bán-Sơn biết đẻ họp mặt đàm tâm, phỉ tình hoài vọng.

Thình lình trong phòng của Triệu-Bán-Sơn đèn đuốc vụt tắt tối mò rồi một mũi phi-tiêu từ tay áo của Triệu-Bán-Sơn bay ra ngoài song cửa sổ lẹ không tưởng tượng được.

Mũi phi-tiêu ấy không nhắm vào Lục-Phỉ-Thanh. Một bóng người từ đâu lách mình sang một bên, thuận tay bắt gọn mũi phi-tiêu. Người này toan la lớn nhưng Lục-Phỉ-Thanh đã phóng đến bên cạnh lấy tay bịt miệng, khẽ rỉ vào tai rằng:

-Đừng con! Đừng lên tiếng! Có thầy đến đây, không sao!

Người bắt mũi phi-tiêu ấy không ai khác hơn, chính là Lý-Mộng-Ngọc. Lục-Phỉ-Thanh nắm tay người nữ đệ-tử, dùng thuật ‘Xà Hành Hổ Phục’ (#14), lẹ làng lách ra xa cánh cửa nơi vừa xảy ra tấn kịch vừa rồi.

Đưa Lý-Mộng-Ngọc về thẳng phòng riêng, Lục-Phỉ-Thanh dưới ánh sáng của ngọn đèn trông rõ Lý-Mộng-Ngọc mặ y-phục dạ hành (#15) của đàn ông. Lục-Phỉ-Thanh không biết Lý-Mộng-Ngọc đã sắm đồ này từ bao giờ mà đêm nay lại đem ra dùng. Lục-Phỉ-Thanh toan răn trách vài lời nhưng khi nhìn vào lớp y-phục dạ hành kia của đứa đồ đệ cưng thì không khỏi phì cười và nói:

-Mộng-Ngọc! Sao con dám đương đầu với người trong phòng kia? Con có biết người ấy là nhân vật thế nào không?

Bị thầy chất vấn, Lý-Mộng-Ngọc đành cúi đầu ngậm miệng mà không biết trả lời làm sao. Ngơ ngẩn một hồi, Mộng-Ngọc mới miễn cưỡng lên tiếng:

-Không hiểu vì sao mà người ấy lại vô cớ phóng lén phi-tiêu định hại con như thế?

Đến phòng riêng của người ta rình rập là điều đại kỵ trong giới giang-hồ. Lý-Mộng-Ngọc không biết tự trách mình điều này lại còn lên tiếng trách người. Lục-Phỉ-Thanh biết nàng chưa đủ kinh-nghiệm giang-hồ nên tìm lời khuyên bảo:

-Hai người ấy không phải là người tầm thường, hay là người trong giới lục-lâm đâu nhé! Cả hai đều là hào kiệt của một bang-hội nào đó. Trong hai người đó, thầy biết được một. Luận về võ công thì người này không thua kém thầy chút nào. Bọn họ có việc gấp rút nên đi cả ngày lẫn đem mà không nghỉ. Nói cho con biết, người ấy không có ý hại con đâu, mà chỉ cảnh cáo con đấy thôi. Giả sử ông ta mà có ác ý thì làm sao con còn có cơ hội đứng đây với thầy bây giờ? Nhớ lần sau đừng bao giờ rình rập hay xen vào chuyện của người ta nhé. Thôi, con đi nghỉ đi!

Lục-Phỉ-Thanh chợt nghe có tiếng mở cửa rồi tiếng vó ngựa chứng tỏ hai người quá gấp rút, đã lên đường đi mất rồi. Lục-Phỉ-Thanh thầm nghĩ nếu lúc ấy mà tìm cách nhìn lại bạn cũ e rằng không khỏi bị bạn đem lòng ngờ vực. Sau khi đắn đo hơn thiệt, Lục-Phỉ-Thanh quyết định không nen đuổi theo mà gọi lại làm gì.

Sáng hôm sau, đoàn kiệu xa lại tiếp tục lên đường. Ra khỏi Tháp-Bảo độ chừng 30 dặm, Lý-Mộng-Ngọc nói với Lục-Phỉ-Thanh:

-Thưa lão sư! Trước mặt chúng ta dường như lại có người đi tới nữa.

Quả nhiên lúc đó có một cặp ngựa hồng đi song song, phi như bay tới. Vì hôm qua xảy ra quá nhiều việc lạ nên Lục-Phỉ-Thanh và Lý-Mộng-Ngọc không hẹn mà rằng, người nào cũng chú ý đến những người cỡi ngựa phi qua. Cặp ngựa này giống nhau như đúc, con nào trông cũng cao lớn mạnh mẽ, phi phàm. Càng lẹ hơn nữa là hai người ngồi trên ngựa. Cả hai người cũng giống nhau hệt như khuôn đúc, như hai giọt nước. Cả hai ở vào khoảng 40 tuổi trở lại. Người nào cũng cao nhòng và ốm nhom. mặt vàng khè, mắt sâu hoẵm. Hiển nhiên là một cặp song sinh, là hai anh em sinh đôi.

Khi đi ngang qua đoàn xe kiệu, cả hai người đều quắc mắt nhìn Lý-Mộng-Ngọc với ánh mắt kỳ dị. Lý-Mộng-Ngọc không chút sợ hãi, nhìn thẳng đăm đăm vào mặt họ. Cả hai người cũng chẳng thèm đếm xỉa gì tới, thúc vào hông ngựa, phi về hướng Tây.

Lý-Mộng-Ngọc cười nói:

-Tạo vật thật trớ trêu, sinh ra hai con quỷ giống nhau y như đúc!

Nghe Lý-Mộng-Ngọc nói, Lục-Phỉ-Thanh sinh lòng ngờ vực nhìn theo bóng hai người trên ngựa, giống hệt như hai cần câu cắm trên lưng ngựa. Tự-nhiên Lục-Phỉ-Thanh nhớ ra điều gì nói với Lý-Mộng-Ngọc:

-Hai người ấy chắc chắn là Tây-Xuyên Song Hiệp chứ chẳng là ai khác hơn. Trong giới giang-hồ gọi là Hắc-Vô-Thường và Bạch-Vô-Thường vì đó là hai anh em song sinh họ Thường.

Lý-Mộng-Ngọc cả cười nói:

-Họ cũng tếu, biệt-danh cũng ngộ! Có lẽ người ta muốn đem hai anh em ấy mà so sánh với quỷ vô-thường chăng?

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Con không được thố tháp, nói càn nói bướng như vậy! Hai người ấy không phải hạng tầm thường đâu. Bản lãnh của họ rất cao-siêu. Họ với thầy từng quen biết nhau. Thầy thường nghe thiên-hạ nói rằng anh em họ Thường lúc nào cũng khắng khít như cặp bài trùng không khác gì Mạnh-Lương với Tiêu-Tăng. Hai anh em nhà ấy không người nào chịu cưới vợ, đi đến đâu cũng làm điều nghĩa-hiệp, trượng-nghĩa khinh tài có sức mạnh ‘muôn người khôn địch’, lại có võ-nghệ tuyệt luân, rất được người đời kính phục gọi là “Tây Xuyên Song Hiệp”. Để phân-biệt anh với em, một người lấy danh hiệu là Hắc-Vô-Thường, còn một người là Bạch-Vô-Thường.

Lý-Mộng-Ngọc hỏi:

-Hai anh em giống nhau như đúc sao lại gọi là Hắc với Bạch?

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Theo thầy được biết thì hai anh em họ Thường giống nhau gần như hoản toàn, chỉ có một điểm khác nhau duy nhất là người anh có một nốt ruồi đen trong tròng mắt, còn người em thì không. Do đó, tên người anh được đặt là Thường-Hích-Chi, còn người em là Thường-Bá-Chi. Cả hai là đệ-tử của Huệ-Lữ Đạo-Nhân thuộc phái Thanh Thành. Huệ-Lữ chết rồi thì trong giang-hồ không còn ai hơn được anh em họ Thường về môn Hắc-Sa-Chưởng. Anh em họ Thường được chân truyền ngón ấy và luyện đến mức tuyệt kỹ, và cả hai nổi danh là ‘Xuyên Giang Hiệp Đạo’ (#16). Tuy mang tiếng là trộm nhưng cả hai nổi tiếng là ‘giúp người hiền diệt kẻ ác’ thành thử mới được biệt-danh là ‘Tây Xuyên Song Hiệp’.

Lý-Mộng-Ngọc lại thắc mắc:

-Cả hai người ấy cùng ra quan ải lần này chắc là có công việc gì tối quan-trọng phải không thầy?

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Thầy chưa biết rõ được, nhưng chắc là phải như vậy rồi vì khi nào cả hai người ấy đi đến đâu thì nơi đó chắc chắn phải có chuyện ‘kinh thiên động địa’ thôi!

Lý-Mộng-Ngọc nói:

-Nếu anh em họ Thường mà tìm chúng ta quấy rối thì chắc cây Bạch-Long kiếm của thầy không thể nhường họ được!

Tuy Lý-Mộng-Ngọc nói ngoài miệng là Tây-Xuyên Song Hiệp sẽ được nếm mùi Bạch-Long kiếm của sư-phụ Lục-Phỉ-Thanh nàng, nhưng trong thâm tâm lại đắc ý, muốn nói rằng anh em họ Thường sẽ được thưởng-thức đường kiếm tuyệt-luân của nàng vậy.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Hai anh em ấy chẳng bao giờ tách giao đấu riêng rẽ cả, luôn luôn đoàn kết làm một khối, hợp sức cùng đánh. Dù là đánh với một người hay một chục người đi chăng nữa, họ vẫn chỉ làm như vậy.

Lý-Mộng-Người cười khan một hồi nói:

-Chắc sư-phụ của hai anh em họ Thường lúc truyền võ-nghệ cũng truyền bằng phương-pháp đặc-biệt là hai người phải đánh làm sao cho an rập bốn tay tung ra một lượt. Được xem họ đánh quyền chắc vui mắt lắm, tưởng tượn như giá gạo chày tư, hai người mà bốn chày, lên xuống nhịp nhàng rùm rụp!

Thầy trò đang nói chuyện vui vẻ thì phía trước vó ngựa lại vang lên nữa. Lần này cũng lại hai người ngồi trên lưng hai con tuấn mã, một ngưòi là đại-sĩ, còn một là người phàm trần.

Vĩ đạo-sĩ đeo một thanh kiếm dài ở sau lưng, da mặt xanh xao, trông như người bệnh lâu ngày, hơn nữa chỉ có một cánh tay mặt mà thôi. Cánh tay trái của đạo-sĩ có lẽ bị đứt nên chỉ trông thấy có tay áo phủ kín từ vai trở xuống, giắt kín vào sợi giây lưng dưới rốn để khỏi bị gió thổi phất phơ như tàu lá chuối.

Người thứ hai là một chàng có bướu trên cổ, giống hệt con lạc-đà. Người thì tướng mạo xấu xí không còn chỗ nào nói được nhưng y-phục thì đẹp đẽ hết chỗ chê, không thể nào tả được.

Thấy thế, tánh trẻ thơ của Lý-Mộng-Ngọc lại nổi dậy. Rồi không cần đắn đo suy nghĩ lợi hại, nàng cười rộ lên, còn nói lớn tiếng:

-Sư-phụ à! Thầy trông thử anh chàng có bướu kia mới thật buồn cười làm sao ấy!

Lục-Phỉ-Thanh đang định cản lại nhưng không còn kịp nữa, lời của Lý-Mộng-Ngọc đã thốt ra khỏi miệng rồi!

Người có bướu nghe được câu nói của Lý-Mộng-Ngọc thì mặt sa sầm lại, tức giận hầm hầm, hai mắt sáng quắc nhìn thẳng vào mặt Lý-Mộng-Ngọc. Ngựa của hắn vừa phi ngang qua, hắn liền đưa cánh tay dài định nắm đuôi con ngựa của Lý-Mộng-Ngọc giật một cái.

Hình như vị đạo-sĩ đã liệu biết trước được ý định của ngưòi có bướu khi sắc giận hiện ra trên nét mặt của y nên đã có chủ ý. Ông ta liền dùng roi ngựa gạt phăng đuôi ngựa của Lý-Mộng-Ngọc tránh khỏi bàn tay của người có bướu nói:

-Chương thập đệ! Anh khuyên em đừng sinh sự với ai làm gì! Cứ bỏ qua đi là hơn!

Trong khoảnh khắc bàn tay người có bướu nắm hụt đuôi ngựa của Lý-Mộng-Ngọc thì hai con tuấn mã chở họ cũng đã phi qua mặt Lý-Mộng-Ngọc như tên bay ra xa.

Khi Lục-Phỉ-Thanh và Lý-Mộng-Ngọc quay đầu ngó theo thì bóng hai người kia đã mờ dần trong cát bụi. Rồi chẳng hiểu vì sao hai con tuấn mã của họ quay đầu trở lại phi nước đại như điện xẹt, chớp giăng.

Người có bướu cỡi ngựa phi trước, Lục-Phỉ-Thanh ngó thấy thân pháp của y lanh lẹ vô cùng. Dùng ngón kỵ-thuật ‘Đảo Tải Kim Chung’, người có bướu nghiêng vai tung mình lên một cái theo thế ‘Tôn-Ngộ-Không Cân Đấu Vân’, y đã trân trân đứng vững trên mặt đất. Gót vừa chấm lộ, người có bướu gật đầu ba cái đã đến sát mình ngựa Lý-Mộng-Ngọc.

Lý-Mộng-Ngọc thúc ngựa chạy như bay, đồng thời rút thanh bảo kiếm ra sẵn sàng nghênh chiến. Nhưng người có bướu không tấn công Lý-Mộng-Ngọc mà chỉ thò tay trái ra chụp mạnh vào đuôi con ngựa Lý-Mộng-Ngọc mà thôi. Con vật đang sải bốn vó phi như giông thình lình bị nắm đuôi giật ngược lại thì hoảng sợ hí vang lên.

Người có bướu vẫn đứng nguyên chỗ cũ không hề nhúc nhích. Sức mạnh của hắn như thần, không hề bị sức lôi kéo của con ngựa Lý-Mộng-Ngọc làm cho xê dịch đi tí nào. Hắn đưa tay phải ra chặt nhẹ vào mông ngựa, cái đưôi của con vật bị tiện đứt chẳng khác nào như bị ai dùng dao sắc mà xén đi vậy.

Lý-Mộng-Ngọc bị người có bướu phá cho một vố tức muốn khóc òa lên được vì từ xưa đến nay nàng chưa bị ai khinh khi, làm nhục đến như vậy! Nàng vốn tự đắc, cho rằng võ-nghệ của mình chỉ trừ sư-phụ ra, trong thiên-hạ không ai sánh kịp.

Lý-Mộng-Ngọc ức quá mà không biết làm gì bèn la lớn lên:

-Thầy ơi! Con làm sao bây giờ!

Lụ-Phỉ-Thanh chứng kiến tất cả tấn kịch vừa xảy ra, mặt buồn dàu dàu, nghĩ mà giận Lý-Mộng-Ngọc cậy tài sinh sự để chuốc lấy nhục nhã vào thân. Ông định bụng sẽ mắng cho đứa học-trò cứng đầu của mình một phen đích đ‘áng nhưng khi nhìn thấy mắt Lý-Mộng-Ngọc ngấn lệ, nét hoa ủ dột u sầu mày liễu thì lòng lại thấy thương xót, không nỡ, và cũng không còn giận nàng nữa. Lục-Phỉ-Thanh nói vài lời an ủi, rồi chỉ dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào mà răn dạy.

Đang khi ấy, bỗng dưng từ phía trước vọng lại những tiếng reo hò ầm ĩ không ngừng, tương tự như những câu ‘truyền rao’.

-Bọn ta phái võ Duy Dương! Phái võ Duy Dương!

Âm-thanh vang lại mỗi lúc mỗi gần...

Hồi 2

Hồng Hoa Hội quyết tôn Thiếu Đà Chủ

Tiêu Thanh Đồng thề đoạt Khả Lan Kinh

Lý-Mộng-Ngọc nghe tiếng truyền rao ấy mười phần kỳ quái. Nàng không hiểu chuyện gì, hốt hoảng hỏi Lục-Phỉ-Thanh:

-Sư-phụ à! Đó là cái gì vậy? Con nghe lạ quá!

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Đó là tiếng truyền rao của những kẻ hướng đạo cho một tiêu-cục. Mỗi tiêu-cục đều có những kẻ đi trước truyền tin như vậy, nhằm mục-đích báo trước cho các đảng lục-lâm đừng đánh bậy mà lầm, đồng thời cũng là để rao cùng bạn đồng đạo rõ nếu cần thì ủng hộ. Tiêu-cục phụ-trách việc chuyên chở, bảo vệ hàng hóa, vàng bạc, hay tất cả những thứ gì quý giá mà người mướn giao-phó cho đến nơi đến chốn an toàn và ‘giao hàng tận tay’. Làm nghề bảo tiêu này thì phải có bảy phần cảm tình với giới lục-lâm và đồng đạo giang-hồ, còn ba phần còn lại phải có bản lãnh tuyệt vời cao siêu vì đôi khi không còn đường thương thuyết thì chỉ còn cách phải giải quyết bằng quyền cước hay đao kiếm mà thôi. Người thủ-lãnh của một tiêu-cục phải là một người có uy-danh lừng lẫy trên chốn giang hồ; phải có sự giao du rộng rãi, phải độ lượng khoan dung; phải nắm vững hết được tình hình trong các vùng lân cận, từng nẻo giao-thông, từng địa-hình địa-vật; và phải có nhiều người bản lãnh cao cường dưới trướng. Nếu không có đủ những điều kiện cốt yếu ấy mà, ở tiêu-cục càn bừa thì sẽ bị cướp hết hàng bảo tiêu, hại chết người và không chừng còn tự hại lấy bản thân mình nữa. Tiêu-cục mỗi lần lãnh hàng bảo-tiêu cho ai thì được hưởng hoa hồng lớn lắm. Có như vậy mới đủ chi cho các sở phí nặng nề. Mỗi lần nghe truyền ra như thế, các đảng lục-lâm cũng như các giang-hồ đồng đạo đều hiểu rõ tiêu-cục đó từ đâu đến, thủ-lãnh là ai rồi. Trường-hợp các đám lục-lâm có ý định cướp tiêu mà nghe những tiếng rao này thì họ sẽ cho cả đoàn bảo tiêu đi qua nếu quen với tiêu-đầu hoặc tự lượng sức mình không thể cướp nổi. Nếu thấy lạ, họ sẽ đuổi những tên truyền rao đó trở lại mà không cho qua. Sau đó người của tiêu-cục phải tìm cách dàn xếp. Nếu chủ-trương ôn hòa, nghĩa là được đám lục-lâm sợ-sệt hay thông cảm, hoặc giả phải chi cho họ một ít tiền tài gọi là ‘mãi lộ’ thì mọi chuyện sẽ êm đẹp, không có gì xảy ra. Nhưng nếu giải quyết bằng lời không xong thì tiêu-cục chỉ còn một đường cuối cùng là chiến đấu đến tận cùng để vượt đường đi qua mà thôi. Có nhiều trường-hợp tiêu-cục chiến thắng nhưng cũng có nhiều khi ‘tiêu mất người chết’.

Lý-Mộng-Ngọc thầm cảm tạ thầy đã dạy cho nàng ít nhiều kiến-thức để mở rộng thêm tầm mắt cho nàng. Nhưng tánh hiếu động của Mộng-Ngọc lại nổi dậy mặc dầu mới bị một vố khóc sưót mướt, mắt chưa ráo lệ. Nàng cười thầm trong bụng nghĩ:

-“Hay là mình thử cản đám người bảo tiêu này chơi cho vui. Chúng nào biết mình là ai đâu mà sợ.”

Tuy nghĩ vậy nhưng còn sợ thầy không cho, với lại chưa biết đám bảo tiêu đó bản lãnh, thế lực ra sao nên Lý-Mộng-Ngọc hòi dò Lục-Phỉ-Thanh:

-Sư phụ! Tiêu-cục này do ai lãnh-đạo vậy?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Đó là Trấn-Viễn tiêu-cục, trụ-sở chính nằm tại Bắc-Kinh. Ngoài ra cũng còn những chi nhánh khác ở các nơi như Phụng-Thiên, Tế-Nam, Khai-Phong, Thái-Nguyên... Tổng-tiêu-đầu, tức là người cầm đầu tất cả trụ-sở chính lẫn các chi nhánh tên là Vương-Duy-Dương mà giới giang-hồ đặt cho danh-hiệu là Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương. Đến nay, y đã gần 70 rồi nhưng vẫn còn oai-phong lẫm liệt. Các đảng lục-lâm hay các đồng đạo hễ nghe ra truyền ‘phái võ Duy Dương’ thì không ai dám gây sự hay làm trở ngại điều gì. Nhờ vậy mà Trấn-Viễn tiêu-cục phồn thịnh vô cùng. Đáng lẽ ra, đến tuổi này Vương-Duy-Dương nên cáo lão về núi sống vui cùng ‘nước trí non nhân’ chứ còn ham lợi lộc thêm chi nữa! Huốn hồ hơn 40 năm mở ra Trấn-Viễn tiêu-cục làm ăn, lão đão thâu của thiên-hạ không biết bao nhiêu mà kể! Không hiểu sao lão còn chưa cho là đủ?

Lý-Mộng-Ngọc hỏi:

-Sư phụ, thầy có quen với Vương tổng tiêu-đầu à?

Lục Phỉ-Thanh đáp:

-Thầy từng tỉ thí với Vương-Duy-Dương về cả võ công lẫn kiếm-thuật. Lão ta có môn tuyệt-kỹ là Bát-Quái-Chưởng và chuyên sử dụng một cây Bát Quái đao. Suốt bao năm trời tung-hoành ngang dọc suốt miền Giang-Bắc chưa tìm được địch thủ nào xứng tay. Do đó lão ta tự nhận và rất hãnh-diện với danh-hiệu ‘Uy Chấn Hà-Sóc’.

Lý-Mộng-Ngọc cao hứng hỏi thêm:

-Lòng con thật hâm mộ vị lão anh-hùng ấy. Sư-phụ có thể dắt con đến ra mắt ông ta được chăng?

Lục-Phỉ-Thanh lắc đầu nói:

-Khó lắm! Vương-Duy-Dương chẳng bao giờ chịu gặp ai nếu không có điều gì mà lão cho là ‘tối cần’, hay không có điều gì lợi cho lão ta. Đối với đám hậu bối trẻ tuổi, lão ta lại càng không muốn tiếp!

Càng nghe sư-phụ chỉ dạy từng ly từng tí, Lý-Mộng-Ngọc càng nhận thấy giang-hồ quả là phức tạp, mà bẳn thân mình chẳng khác nào người mù đi dò trong đêm tối. Nàng bỗng nảy sinh ra một mối nghi ngờ, tự nhủ thầm:

-Mình không đánh cướp của người ta, nhưng biết đâu người ta lại đánh cướp tài-sản của mình? Chi bằng cứ đề-phòng trước vẫn hay hơn.

Nghĩ đoạn, Lý-Mộng-Ngọc giơ roi quất vào con ngựa nàng cỡi một cái, con vật chồm tới phi nước đại chạy thẳng lên bắt kịp, đi ngang với đoàn xa kiệu. Lý-Mộng-Ngọc chạy đến kiệu của Lý phu-nhân hỏi thăm. Nhìn thấy ngựa của con gái đang cỡi, Lý phu-nhân không sao nín được cười.

Lý-Mộng-Ngọc ngạc-nhiên không hiểu vì sao mẹ lại cười. Nàng hỏi thì mẹ nàng hỏi rằng:

-Cái đuôi ngựa của con đâu rồi?

Lý-Mộng-Ngọc nghe hỏi sững sờ bèn quay đầu lại ngó, và chợt nhớ ra đuôi con ngựa của mình bị người có bướu xén mất trở thành ‘ngựa cụt đuôi’. Nhưng hình như suy được điều, Lý-Mộng-Ngọc không khỏi kinh ngạc tự nhủ thầm:

-Dùng bàn tay chặt gẫy cây thương hay cây mâu cũng chẳng có gì là lạ. Cái đuôi con ngựa mềm như thế mà hắn dùng tay ‘xén’ được thì cũng lạ!

Lý-Mộng-Ngọc lại kềm ngựa lại định chờ sư-phụ Lục-Phỉ-Thanh đến để hỏi cho chắc ăn, nhưng nghĩ lại thêm mắc cở với thầy nên lại ra roi quất ngựa chạy lên nhập vào toán dẫn đầu đoàn xa kiệu. Vừa trông thấy Tham-tướng Tăng-Đồ-Nam, nàng hỏi ngay:

-Tăng tham-tướng! Chẳng hiểu sao con ngựa của tôi lại rụng mất cái đuôi trông xấu xí quá!

Nhìn Lý-Mộng-Ngọc thở ra não nuột cùng với gương mặt buồn thỉu buồn thiu của nàng, Tăng-Đồ-Nam hiểu ngay ý của con gái chủ tướng mình muốn gì. Ông ta liền thưa:

-Con chiến-mã của tôi đây thuộc giống thần mã, vừa được chủ tướng cho để đỡ chân. Ác nghiệt thay, nó lại có tật sa tiền mà tôi chưa trị được! Nghe nói tiểu-thư có tài cỡi ngựa giỏi lắm, vậy tôi sẵn sàng tạm đổi ngựa cho tiểu-thư. Chẳng hay tiểu-thư nghĩ sao?

Lý-Mộng-Ngọc được Tăng-Đồ-Nam khen giỏi, lại sẵn sàng chịu đổi ngựa cho thì trong bụng mừng rỡ vô cùng. Nàng nói:

-Tham-tướng có lòng như vậy thì thật quý hóa thay. Con tuấn mã của tôi đây cũng thuộc loại ngựa quý hiếm có. Bất quá nó chỉ bị rụng mất cái đuôi nên hơi khó coi chút thôi!

Hai người đổi ngự cho nhau xong, Tăng-Đồ-Nam phi ngựa chạy trước. Lý-Mộng-Ngọc ở đàng sau nhìn tới không nhịn được, phải ôm bụng mà cười. Tăng-Đồ-Nam quay lại nói:

-Cỡi con ngựa không đuôi thấy chương chướng làm sao ấy! Thế nào tôi cũng phải tìm cách ráp cho nó một cái đuôi giả coi mới được.

Đang khi ấy, tiếng rao truyền của Trấn-Viễn tiêu-cục mỗi lúc mỗi gần. Không đầy mấy khắc, một đoàn trên 20 cỗ xe tứ mã cùng đi tới một lượt, không biết chuyên chở gì mà trông rất nặng nề. Xe nào xe nấy đều phủ vải dầu kín mít.

Lục-Phỉ-Thanh sợ trong đám này có người nhận ra mình nên xoay lưng day lại, kéo nón lá phủ xuống nửa mặt, khẽ liếc nhìn vào người tổng tiêu-sư đang cỡi ngựa đi ngang qua. Ông ta cố giữ nét bình thản như một người khách đi đường, không để ý đến ai cả, chợt nghe tiếng một tiêu-sư nói với đồng bọn rằng:

-Tôi nghe Hàn đại ca nói lại thì Tiêu-Văn-Kỳ tam ca không biết mất tích nơi nào mà tìm không thấy đâu cả.

Lục-Phỉ-Thanh giật mình kinh hãi, quay đầu lại nhìn thử hình dáng người tiêu-sư ấy. Hắn có một hàm râu bạc rậm rạp, đôi mắt sáng quắc như diều-hâu, tướng mạo cực kỳ hung ác. Lục-Phỉ-Thanh cố ghì ngựa lại một vài giây để cho hắn vượt qua. Nhìn phía sau lưng, ông ta thấy hắn có mang trên vai một chiếc hầu bao màu hồng, bên hông hắn đeo một thứ binh khí rất kỳ quặc của một môn phái ngoại-gia tên gọi Ngũ-Hành-Luân. Lục-Phỉ-Thanh nghĩ thầm trong bụng:

-“Hay là nhóm Quảng-Đông Lục Ma gia nhập vào Trấn-Viễn tiêu-cục làm tiêu-sư cả rồi cũng nên!”

Nhóm Quảng-Đông Lục Ma nổi tiếng là người nào cũng võ-nghệ trác tuyệt. Con ma thứ năm là Diêm-Khôi và con ma thứ sáu là Diêm-Thế-Chương cùng dùng một thứ binh-khí giống nhau là Ngũ-Hành-Luân. Bọn này vốn gốc từ thiếu-lâm tách ra.

Lục-Phỉ-Thanh thầm nghĩ chuyến này mới ra ngoài có mấy ngày mà đã gặp không biết bao nhiêu là cao-thủ võ-lâm rồi. Nếu họ là đều là người của triều-đình mật phái theo dõi mình thì thật là ‘lành ít dữ nhiều’.

Càng nghĩ, Lục-Phỉ-Thanh càng lo. Càng lo, ông ta càng cẩn thận đề-phòng và quan-sát tinh tế hơn. Nhưng suy đi tính lại, rốt cuộc vẫn thấy không ổn.

Lục-Phỉ-Thanh nghĩ thầm:

-“Nếu chỉ có một mình ta thì có phải lẩn tránh thì thật không khó lắm, nhưng ngặt vì theo bên còn có một đứa học trò liếng thoắng, hay sinh sự không đâu. E rằng đại họa trước sau khó mà tránh được!”

Nhưng rồi ông ta lại nghĩ:

-“Mà chắc không phải bọn ấy theo dõi gì ta đâu. Chúng hẳn có việc cấp bách nào khác. Như Triệu-Bán-Sơn là bạn chí thiết của ta mà cũng có mặt trong đám cao-thủ ấy thì lấy tình mà xét, chẳng lẽ lại giết hại ta sao?”

Lục-Phỉ-Thanh cho rằng giả điều suy-luận sau cùng là hữu lý nhất nên cũng thấy có đôi phần hơi yên tâm.

Lý-Mộng-Ngọc đang cỡi ngựa đi song song với Tăng-Đồ-Nam, thấy sư-phục đã đến gần liền cười nói ông:

-Sư-phụ à! Hôm nay sao chưa gặp ai cả? Chả bù với hôm qua, mở mắt ra là đụng đầu luôn một hơi năm cao-thủ phi ngựa tiến về hướng Tây. Ngựa của họ phi nhanh đến độ bay luôn cái đuôi ngựa của Tăng tham-tướng! Thầy xem có lạ không?

Lục-Phỉ-Thanh cười nói:

-Có như vậy con mới tỉnh ngộ được phần nào cũng như dằn bớt cái tính tự cao tự đại xuống. Dùng bàn tay mà chặt đứt đuôi ngựa như xén tóc thì bản lãnh người ấy đã đến mức siêu đẳng rồi. Nhưng bây giờ con nhắc lại năm người có bản lãnh hôm qua phi ngựa về hướng Tây thầy mới sực nhớ ra. Chỉ vì lộn hồn lộn vía mà thầy quên mất chuyện ‘thiên lý tiếp long đầu’ (#1)!

Lục-Phỉ-Thanh từng trải giang-hồ rất nhiều nên thông thường mọi chuyện chỉ cần trông phớt qua là hiểu ngay. Chỉ vì ông ta mải lo tính cho việc riêng của mình nên không còn đầu óc nào để suy nghĩ đến việc khác.

Lý-Mộng-Ngọc hỏi:

-Sư-phụ giải thích cho con nghe ‘thiên lý long đầu’ là gì vậy? Con hoàn toàn không hiểu!

Lục-Phỉ-Thanh từ từ cắt nghĩa:

-Đó là một nghi lễ long trọng nhất của các bang hội trong giang-hồ khi đón tiếp một nhân vật ‘tối quan-trọng’, thường là một lãnh-tụ, có thể là chưởng-môn nhân hay là bang-chủ, bảo-chủ gì đó. Bình thường, đi đón rước một nhân-vật được xem là quan-trọng trong môn phái hay bang hội thôi đã phải huy-động đến sáu người, theo thể-thức một người nối đuôi một người mà đi, trước sau cho đủ sáu người. Nhưng nếu đón rước một người ‘tối quan-trọng’ thì con số đó tăng lên gấp đôi, phải từng cặp một nối tiếp nhau thay vì từng người một, cho đến khi đủ sáu cặp thì thôi. Chúng ta đã thấy tất cả năm cặp đi ngang qua rồi, thế nào cũng phải còn một cặp nữa. Và người nào chắc hẳn là một lãnh-tụ của một môn phái hay một bang hội nào đó.

Lý-Mộng-Ngọc hỏi tiếp:

-Sư-phụ có thể đoán được họ thuộc về môn phái hay bang hội nào không?

Lục-Phỉ-Thanh lắc đầu nói:

-Thầy cũng chưa biết rõ được. Nhưng có điều con phải nghe lời thầy căn dặn là từ nay về sau nhất nhất không được chọc ghẹo bất cứ ai nữa mà rước họa vào thân như không đấy! Con đã nhìn thấy Tây Xuyên Song Hiệp và được chứng kiến bản-lãnh của ‘người có bướu’ thế nào rồi. Chứng tỏ đây là một môn phái hay là một bang hội lớn, rất có thế-lực và có nhiều cao-thủ võ-nghệ tuyệt luân chứ không phải là một hội phái tầm thường đâu.

Lý-Mộng-Ngọc cúi đầu không đáp, nhưng trong lòng không mấy gì vui. Lục-Phỉ-Thanh đang trông chờ một cặp nữa đi về hướng tây cho đủ sáu cặp theo nghi-tiết ‘thiên lý long đầu’ mà ông ta tiên đoán. Đột nhiên, tai Lục-Phỉ-Thanh nghe rõ ràng có tiếng vó ngựa đâu đâu nhưng mắt thì lại chẳng trông thấy gì. Ông ta nghĩ thầm:

-Đằng trước chẳng trông thấy gì cả. Hay là tiếng vó ngựa vang lại từ phía sau?

Lục-Phỉ-Thanh quay lại vẫn không thấy người hay ngựa ở đâu, nhưng lại có tiếng rổn rảng như là tiếng lục lạc từ cổ lạc-đà thì đúng hơn. Chỉ trong chốc lát, phía sau cát bụi tung lên mịt mù, và Lục-Phỉ-Thanh trông rõ ràng là một đoàn người, hình như là một đám khách thương rất đông từ vùng sa-mạc đi tới. Cả Lục-Phỉ-Thanh lẫn Lý-Mộng-Ngọc đều nới cương ngựa chậm lại từ từ chờ đợi, chẳng chút vội vã hay gấp rút.

Không bao lâu, đoàn khách thương đã đến gần. Đoài người gồm 14 con lạc đà và vài chục con ngựa. Người cỡi lạc-đà là người Duy (#2), một dân-tộc thiểu số ở phí Bắc sa-mạc Tây-Bá-Lợi-Á. Người Duy mũi cao, mắt nâu, cằm rộng, râu nhiều rậm-rạp, đầu vấn một giải khăn làm bằng vải trắng. Có lẽ họ từ xứ Hồi vào đây để buôn bán.

Hồi còn ở ngoài biên-cương, Lục-Phỉ-Thanh đã từng gặp khách thương người Duy nhiều lần rồi nên không lấy gì làm lạ và thấy chẳn có gì phải để ý. Nhưng bỗng nhiên trước mắt Lục-Phỉ-Thanh tỏa ra những tia sáng long lanh. Một thiếu-nữ mặc áo vàng ngồi trên lưng một con bạch mã lông trắng như tuyết phi như bay, xẹt qua ngang hông Lục-Phỉ-Thanh như một mũi phi- tiêu. Trông nàng như một dáng tiên-nga, phục sức hoa lệ, khí vũ hiên ngang. Trên đầu nàng đội một cái mão. Trên mão có một cặp lông trĩ màu sắc huy hoàng cắm cao lên. Trông nàng thật là xinh đẹp, vừa thùy-mị khả ái. Thật là một đóa kỳ hoa của vùng sa-mạc.

Lục-Phỉ-Thanh nhìn thiếu-nữ với cặp mắt đầy ngưỡng mộ, thầm khen rằng không biết tại sao trong thiên-hạ lại có được một người đẹp đến thế này.

Còn Lý-Mộng-Ngọc khi trông thấy dung nhan kiều diễm của thiếu-nữ người Duy ấy cũng phải bần thần trố mắt nhìn. Từ lúc sinh trưởng trong vùng biên ải phía Tây-Bắc cho đến lúc trưởng thành, nàng chưa từng được thấy qua một cô gái nào có vẻ đẹp mơ mộng, hồn nhiên với thân hình ‘quỳnh dao ngọc thụ’ và trang sức dũng điệu đến thế. Trông nàng ta vừa như một tiên-nữ lại vừa như một nữ-hiệp.

Lý-Mộng-Ngọc cũng vốn là một thiếu-nữ trâm anh khuê các, dung nhan kiều lệ tuyệt vời mà còn phải thán phục, mười phần ganh tị sắc đẹp thì đủ hiểu thiếu-nữ người Duy kia có sức quyến rũ đến thế nào!

Dưới lớp ‘cải nam-trang’ (#3) thì Lý-Mộng-Ngọc trở thành một thanh-niên khôi ngô tuấn tú cho dẫu Tống-Ngọc hay Phan-An tái sinh cũng không thể sánh bằng.

Thiếu-nữ người Duy đó trông chỉ vào khoảng độ 17-18 tuổi là cùng. Bên hông nàng đeo một con dao hơi cong cong trông thật là sắc bén, y-phục một màu vàng, dệt bằng lông thiên-nga, đầu đội cái mão thắt chỉ gấm vàng gọi là ‘kim-ty tú mạo’. Hai cái lông phỉ-thúy cắm trên mão khiến cho người ta tưởng tượng đến Phàn-Lê-Hoa trong ‘Tiết-Đinh-San Chinh Tây’. Nàng cỡi con bạch mã, yên cương làm toàn bằng bạc trắng chói ngời.

Lý-Mộng-Ngọc cứ nhìn mà tấm tắc khen thầm mãi, nghĩ rằng dù người đẹp trong tranh cũng còn kém xa thiếu-nữ người Duy này.

Thiếu-nữ người Duy thình lình bắt gặp đôi mắt một ‘chàng thanh-niên phong-lưu mỹ mạo’ cứ nhìn mình chàm chặp một cách sỗ sàng khiếm lễ thì vừa thẹn, vừa tức giận. Nàng thúc ngựa vượt qua khỏi Lý-Mộng-Ngọc liếc mắt nhìn sang vẫn còn thấy cặp mắt say sưa của ‘chàng thanh-niên’ người Hán cứ dán chặt mãi vào mình không rời. Không dằn được cơn giận, thiếu-nữ người Duy gọi lên một tiếng thật lớn:

-Gia gia! (#4)

Từ phía sau, một người đàn ông thân hình cao lớn, trông rất tráng-kiện, mắt sáng, râu rậm thúc ngựa phóng lên. Thiếu-nữ người Duy ra hiệu, người đàn ông ấy hiểu ý giục ngựa đến sát ngựa Lý-Mộng-Ngọc vỗ mạnh vào vai hỏi:

-Người bạn trẻ kia! Tại sao lại có thái-độ thiếu lịch-sự đối với một người con gái lạ như thế?

Lý-Mộng-Ngọc miệng như há hốc. Nhưng nàng quên rằng mình đang ăn mặc giả đàn ông giả nên đương nhiên cho rằng câu hỏi của người đàn ông nọ thật hết sức vô lý vì vẫn đinh ninh rằng mình với cô thiếu-nữ người Duy kia đồng là phận ‘quần thoa’ với nhau.

Thông thường thì chỉ cần một người con trai mà ngắm nhìn một người con gái chằm chặp như thế thì có thể gọi là ‘luân-lý bại hoại’ chứ chẳng cần phải có một mối quan-hệ nào. Với người Hán cũng vậy, mà với người Duy cũng thế.

Trong trường-hợp này, giả-sử như Lý-Mộng-Ngọc biết mình sơ xuất mà chịu xuống nước một tí xin lỗi, dùng lời khôn khéo mà giải bày thì chắc cũng không đến nỗi nào. Nhưng đàng này Lý-Mộng-Ngọc đã quen với quan-cách, chỉ biết quát nạt người khác chứ có bao giờ bị ai quát nạt hay hạch sách bao giờ. Thêm vào đó, nàng lại ỷ mình có một bản-lãnh cao-siêu về võ-nghệ nên không xem người đàn ông kia ra gì.

Lý-Mộng-Ngọc không thèm trả lời hay đếm xỉa tới, lại buôn tiếng cười mỉa mai, toan giục ngựa chạy thẳng. Người đàn ông giận đỏ cả mặt, râu tóc dụng ngược lên. Y đưa cánh tay gân guốc ra chụp một cái thật mạnh vào chùm lông đầu của con tuấn mã Lý-Mộng-Ngọc. Một chùm lông đầu của con ngựa sút hẳn ra, nằm gọn trong tay y. Sau đó, người đàn ông bèn trao chùm lông đó cho thiếu-nữ người Duy.

Con ngựa của Lý-Mộng-Ngọc sau khi bị bứt mất một chùm lông đầu thì đau quá nhảy dựng ngược lên, thiếu chút nữa là hất Lý-Mộng-Ngọc rơi xuống đất. Thiếu-nữ người Duy tung chùm lông đầu của ngựa Lý-Mộng-Ngọc lên không trung lấy roi ngựa quất vào một cái, cả chùm lông bay tán loạn, rụng tơi tả như những sợi tơ.

Lý-Mộng-Ngọc tức giận muốn điên tiết lên. Nàng rút ra một mũi Cương-tiêu nhắm hậu tâm thiếu-nữ người Duy phóng một cái nhanh như điện xẹt. Vì quá tức giận nên Lý-Mộng-Ngọc không cần đắn đo gì cả nên mới hạ độc thủ như vậy. Mũi Cương-Tiêu vừa ra khỏi tay, Lý-Mộng-Ngọc lập tức hối hận ngay vì biết tính mạng thiếu-nữ người Duy có thể bị nguy hại vì ám-khí của nàng. Nghĩ vậy, nàng bèn lalớn lên:

-Cô nương, mau tránh mũi Cương-tiêu!

Thiếu-nữ nguời Duy như chẳn cần phải nhờ tới lời cảnh-cáo của ‘chàng thanh-niên người Hán’ kia. Nàng bình tĩnh né sang bên mặt rồi thuận tay bắt lấy mũi Cương-tiêu của Lý-Mộng-Ngọc như lấy đồ chơi trong túi. Sau đó, thiếu-nữ người Duy nhắm bụng Lý-Mộng-Ngọc phóng trả lại, miệng gọi lớn:

-Ta trả ám khí lại cho đó! Cất đi!

Đôi bên cách nhau chỉ chừng một trượng mà cây Cương-tiêu qua lại chỉ trong chớp nhoáng, mắt phàm không thể trông được. Lý-Mộng-Ngọc cũng lách người tránh khỏi và đưa tay bắt lại câu Cương-tiêu của mình. Nàng kinh hãi, biết rằng bản-lãnh thiến nữ người Duy kia không thua gì mình.

Đoàn khách thương khi sa-mạc sau khi được xem màn phóng tiêu ngoạn-mục giữa thiếu-nữ người của bên mình cùng ‘chàng thanh-niên người Hán’ thì vỗ tay hoa hô nhiệt liệt như vừa xem xong một trò biểu-diễn chứ nào hay rằng cái trò ‘biểu diễn’ đó có thể giết chết người như không. Người đàn ông mà thiếu-nữ người Duy gọi là cha có vẻ buồn buồn, không được vui. Ông ta gọi thiếu-nữ nói mấy câu bằng tiếng lóng thổ-ngữ riêng của họ. Chỉ thấy nàng thiếu-nữ thưa rằng:

-Con xin vâng!

Nói xong, không cần nhìn Lý-Mộng-Ngọc, thiếu-nữ người Duy giơ roi quất nhẹ vào mông con bạch mã nàng cỡi một cái nhẹ. Bốn vó tung như bay lên khỏi mặt đất, chỉ trong giây lát cả người lẫn ngựa đều mất hút.

Đoàn lạc-đà và đoàng ngựa lục-tục do người đàn ông cao lớn kia điều khiển lại tiếp tục lên đường. Tất cả lần lượt vượt qua kiệu của Lý thái-thái rồi biến dần trong đám bụi mờ.

Lục-Phỉ-Thanh dừng ngụa xem tấn kịch xảy ra từ đầu chí cuối xong mới cười nói với Lý-Mộng-Ngọc rằng:

-Bây giờ chắc con hẳn đã tin lời thầy là ‘ngoài trời còn có trời, trên người còn có người’ (#5) rồi chứ? Trong một ngày mà một con ngựa của con bị xén mất đuôi, còn một con thì hói mất lông đầu. Đây là một bài học con phải ghi nhớ chớ đừng nên xao lãng. Thầy xem thiếu-nữ người Duy đó trạc tuổi với con nhưng tài-nghệ trội hơn con đó!

Lý-Mộng-Ngọc cãi:

-Con thấy thiếu-nữ người Duy đó tài-nghệ chưa có gì lấn được con. Con phóng Cương-tiêu ả bắt được, nhưng khi ả phóng trả thì con cũng bắt được dễ dàng mà thôi. Bất quá là chỉ ngang nhau thôi. Vả lại, hai bên cũng chưa chính-thức đụng độ bằng võ-công chân chánh.

Lục-Phỉ-Thanh chỉ cười:

-Ừ! Có lẽ... rồi con sẽ biết!

Đến chiều, đoàn xa kiệu cũng như đoàn quân hộ-vệ gia-quyến Lý-Khả-Tú đến Bồ-Long-Cát. Thị-trấn này có một khách-điếm rất lớn, với một tấm bảng đề là ‘Thông-Đạt Khách-Sạn’. Trước ngõ là một cây tiêu-kỳ của Trấn-Viễn tiêu-cục đang bay phất phới.

Vì đã được thông-báo trước là sẽ có hai nhóm khách rất đông và sang trọng sẽ tới Bồ-Long-Cát nên chủ-nhân khách-sạn Thông-Đạt đã sắp xết đầy đủ, đâu vào đó. Những phòng dành riêng cho đoàn Trấn-Viễn tiêu-cục hay những phòng nào chuẩn-bị đón rước gia-quyến cùng binh lính hộ-vệ của Lý-Khả-Tú đều được phân-biệt rõ ràng, có thứ tự đàng hoàng. Vì vậy, khi đến nơi, ai nấy đều được người của khách-sạn đưa ngay vào phòng nghỉ ngơi, tắm rửa, ăn uống mà không cần phải mất công chọn lựa.

Lục-Phỉ-Thanh tắm gội, thay đổi y-phục xong thì thấy trên bàn đã có sẵn một bình trà thơm ngon, hương tỏa ngào-ngạt và mấy cái chén nhỏ và một cái ly lớn do người hầu mang tới từ hồi nào. Lục-Phỉ-Thanh bèn rót ngay vào cái ly lớn, thay vì dùng chén nhỏ để thưởng-thức từ từ hương-vị thơm ngon của trà. Ông mang ly trà đến phòng khách tìm một góc im lặng ngồi một mình. Phòng này, chủ-nhân dành chung cho tất cả khách quý của Thông-Đạt khách-sạn tự-tiện đến nghỉ ngơi, nói chuyện khảo chứ không cho ai mướn riêng. Nhìn vào trong, Lục-Phỉ-Thanh thấy có mấy người đang ngồi tại hai cái bàn lớn đang ăn cơm.

Lục-Phỉ-Thanh chợt nhận ra có hai người, mà một tên mang cái khăn gói màu hồng gặp trên lộ trình. Hắn vẫn mang khăn gói trên lưng, nhưng khí giới thì đã lấy ra khỏi người để trên bàn, cạnh hắn. Cà hai nét mặt dương dương tự đắc, nói năng tự-do không giữ gìn như chẳng cần xem ai ra gì.

Lục-Phỉ-Thanh hớp một ngụm trà, ngước mặt lên để ý nhìn sắc trời. Tai ông nghe thấy tiếng một tiêu-sư cười nói huênh-hoang:

-Diêm ngũ gia, anh có dám chắc rằng bảo vật của anh sẽ đến nơi bình yên không? Nếu không gặp trở ngại mà đem được về kinh an-toàn thì nhất định Thiên-Tướng-Quân sẽ thưởng cho anh một số bạc lớn, đồng thời sẽ thăng lên chức quan to để bù lại công-lao khó nhọc. Tới chừng đó, anh sẽ sung sướng và được vinh-dự biết bao!

Lục-Phỉ-Thanh nói thầm trong bụn rằng:

-À, thì ra hắn là nhân-vật đứng thứ năm trong Quảng-Đông Lục Ma tên gọi Diêm-Thế-Khôi. Hèn chi!

Nghĩ vậy, ông ta liền chăm chú để ý nhìn kỹ xem thần sắc của hắn. Diêm-Thế-Khôi nói:

-Một là thưởng tiền, hai là thưởng chức chứ có lẽ nào Triệu tướng-quân lại rộng rãi đến thế được! Nhưng ý tôi thì không muốn cả hai thứ đó. Tôi muốn một điều khác kia...

Diêm-Thế-Khôi chưa nói dứt câu thì có tiếng ‘ồ ồ’ của một người nói ngắt lời:

-Lạ thật! Cả hai điều sung sướng thế mà anh đều không muốn thì hỏi còn muốn cái giống gì đây?

Lục-Phỉ-Thanh để ý nhìn xem người nào vừa thốt câu đó. Trông y chẳng khác nào một con quỷ đói, tướng mạo thật hung hãn.

Lục-Phỉ-Thanh bụng bảo thầm:

-Nếu hắn được tuyển làm tiêu-sư thì đương nhiên bản-lãnh không phải tầm thường.

Diêm-Thế-Khôi nghe câu ấy thì có vẻ không được vui, thở ra một hơi dài. Người tiêu-sư thứ nhất bất chợt lên tiếng:

-Đổng-Triệu-Hòa! Bộ anh tưởng chung quanh ta không có tai vách mạch rừng hay sao mà ăn nói tự-do, bừa bãi như thế?

Người tiêu-sư có hình dung như quỷ đói, tức Đổng-Triệu-Hòa tính tình hết sức nóng nảy và lỗ mãng. Nghe đồng-nghiệp trách như vậy thì không bằng lòng, cho rằng hắn ta coi thường tài lực mình và có ý bảo mình bất cẩn, lơ là với trách-nhiệm. Nghĩ vậy, hắn liền lớn tiếng như muốn gào lên:

-Tôi chẳng phải như những kẻ ‘miệng hùm gan sứa’ kia đâu! Việc gì tôi làm thì quyết làm cho đến nơi đến chốn, dù chết cũng chẳng cần! Tôi không hề biết sợ ai và cũng không bao giờ lùi bước trước những gian nan hiểm nghèo!

Nhưng khi Đổng-Triệu-Hòa vừa nói xong câu ấy thì Diêm-Thế-Khôi lại tưởng là hắn xỏ xiên coi thường mình nên mặt đỏ tía tai la hét inh ỏi:

-Anh bảo ai là ‘miệng hùm gan sứa’? Anh ám chỉ ai vậy? Anh có dám bảo đảm là trách-nhiệm của anh lãnh sẽ làm tròn được không?

-Tôi không ám chỉ ai cả. Tôi chỉ nói chung chung mà thôi. Tóm lại, những kẻ chỉ có nói mà không làm được thì toàn thị là những thứ anh hùng rơm. Còn công việc của tôi thì dĩ nhiên tôi phải hoàn thành.

Diêm-Thế-Khôi cười gằn:

-Được vậy thì tốt lắm! Nếu anh đạt được kết quả như lời anh nói thì tôi sẽ phục anh sát đất!

Lục-Phỉ-Thanh lắng tai nghe một hồi lâu nhưng vẫn không hiểu bọn chúng cãi nhau về chuyện gì. Đang định về lại phòng thì lại nghe tiếng Đổng-Triệu-Hòa nói:

-Diêm ngũ gia này! Anh muốn cưòi tôi cứ cười, muốn chê cứ chê. Có điều tôi nói thật cho anh nghe là nếu cái bao vải hồng kia mà được khoác lên vai này thì chớ ai hòng mà cướp được nó! Có lo thì tự lo cho các anh thì hơn. Đừng để cho thanh danh hơn 30 năm của Trấn-Viễn tiêu-cục cùng với uy-tín của Vương-Duy-Dương phải mai một đi!

Diêm-Thế-Khôi cả giận nói:

-‘Chú em’ Đổng-Triệu-Hòa chớ có nói xàm! Chờ đến lúc Diêm ngũ gia ta đem bộ kinh này đến nơi an toàn sẽ cho chú em thấy thế nào là bản-lãnh lợi hại. Diêm-Thế-Khôi là một nhân vật lừng danh trong Quảng-Đông Lục Ma, chưa từng khiếp sợ ai hay để ai uy hiếp. Công việc của Trấn-Viễn tiêu-cục có lẽ nào lại hư hại dưới tay ta? Cái bao trên lưng ta gắn liền với tánh mạng ta, chú biết chưa?

Lục-Phỉ-Thanh nghe nói những lời ‘mục hạ vô nhân’ (#6) như thế thì liếc mắt nhìn sơ qua cái bao trên lưng hắn, thì thấy chẳng có gì là lớn lắm. Cứ nhìn bề ngoài mà xét thì chắc hẳn là bên trong không có chứa vật gì to lớn nặng nề cả.

Đổng-Triệu-Hòa lại lên tiếng:

-Oai danh lừng lẫy cũng như bản-lãnh cao-siêu của Quảng-Đông Lục Ma, đúng như anh vừa nói, anh mà lại không biết? Chỉ hiềm một nỗi là nhân vật thứ ba không biết mất tích hay bị kẻ thù ám hại mà mãi đến nay vẫn không biết sống chết nơi nào, kẻ thù là ai tưởng đáng chua xót lắm thay. Nói ra anh đừng buồn, nhưng coi chừng giang-hồ sẽ đổi danh-hiệu của các anh lại là ‘Quảng-Đông Ngũ Ma’ đấy!

Diêm-Thế-Khôi vỗ bàn một cái ‘rầm’ làm cho chén dĩa nhảy tưng lên như khiêu vũ, lớn tiếng thét lên:

-Chú mày đừng chọc tức ta chứ! Làm gì bọn ta không biết kẻ thù ám hại Tiêu tam ca là ai?

-Là ai? Sao tôi nghe các anh đề cập đến tên họ một lần nào?

-Còn ai vào đây? Chính là HỒNG HOA HỘI! Nhất định chỉ có HỒNG HOA HỘI!

Lục-Phỉ-Thanh sững sờ, bụng bảo thầm:

-Quái lạ! Rõ ràng là mình giết chết Tiêu-Văn-Kỳ sao bọn chúng là quả quyết là Hồng Hoa Hội? Mà Hồng Hoa Hội là đảng phái nào? Sao trong từng ấy năm lưu lạc giang-hồ mà mình được nghe đến tên bao giờ?

Nghĩ vậy, Lục-Phỉ-Thanh nhẹ chân bước ra khỏi phòng khách ra ngoài đến đến một thân cây cổ thụ đang đơm bông, dùng thuật khinh công vọt một cái lên trên ngồi ngay chân ba mà không gây nên tiếng động nào cả. Cây cổ thụ này ở sát phòng các tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục nên Lục-Phỉ-Thanh vừa nhìn thấy, vừa lắng tai nghe được dễ dàng hơn.

Đổng-Triệu-Hòa tay bưng chung rượu tu vài ngụm rồi đặt xuống, khẽ vuốt chòm râu miệng tiếp tục nói khích:

-Thật là đáng buồn thay cho tình nghĩa bạn bè quá đi! Tôi đây không phải là cốt nhục của Tiêu tam gia mà nói đến đây lòng dạ như đốt như thiêu. Giá tôi mà thề nguyền sinh tử với Tiêu tam gia hẳn sau bữa cơm này sẽ xách gươm đi tìm Hồng Hoa Hội mà trả thù cho bằng được chứ không thể ngồi yên tại đây mà lo hết chuyện này đến chuyện kia.

Diêm-Thế-Khôi bị Đổng-Triệu-Hòa trêu chọc đủ điều, dùng lời nói xa nói gần để ‘móc họng’ thì lửa giận phừng phừng bốc lên, nhưng đành im lặng vì không biết cách nào mà trả lời.

Bỗng một tiêu-sư nói xen vào vừa để làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, vừa là để chữa bớt thẹn cho Diêm-Thế-Khôi:

-Vị Tổng-Đà-Chủ (#7) của Hồng Hoa Hội là Vu-Vạn-Đình chết hôm đầu tháng vừa rồi tại tại Vô-Tích. Việc này trong giới giang-hồ còn ai là chẳng hay biết? Vả lại vụ Tiêu tam gia bị ám hại không có bằng chứng cụ thể nào để buộc tội cho Hồng Hoa Hội được. Thử hỏi, muốn làm cho ra chuyện thì bắt đầu ở đâu, cách nào? Nếu chúng ta đến chất vấn, Hồng Hoa Hội phủ nhận, đòi đưa chứng cớ ra thì sao đây? Anh Đổng-Triệu-Hòa có biện-pháp nào hay nhờ giúp chúng tôi ý kiến thử?

Đổng-Triệu-Hòa bị người tiêu-sư ấy bẻ cho mấy câu cứng họng, không còn dám huênh hoang lên mặt thầy đời nữa.

Hằn đổi từ giọng chua cay sang giọng pha lửng mà rằng:

-Bọn Hồng Hoa Hội chỉ có tài ỷ mạnh hiếp yếu, tất có ngày các anh sẽ ra tay trừng trị chúng thẳng tay, hà tất phải làm gấp rút làm chi cho mệt trí. Chỉ có một việc cần gấp hiện tại là các anh phải đem được bộ kinh về dâng cho Triệu tướng quân. Năm bộ kinh đã vào tay tướng quân rồi thì các anh muốn bao nhiêu vàng bạc trâu dê gì lại không được? Và lúc bấy giờ, cứ mượng thế-lực của Triệu tướng-quân mà bắt buộc Hồng Hoa Hội làm điều gì mà chúng lại dám từ chối? Hoặc giả Diêm ngũ gia không muốn vậy thì xin Triệu tướng-quân tặng cho một cô gái Hồi tuyệt đẹp mà vui với tuổi già cũng sướng chán!

Trong khi Đổng-Triệu-Hòa đang cao giọng lớn tiếng pha trò với bọn tiêu-sư một cách hiu hiu tự đắc thì bất ngờ tai hắn nghe một tiếng ‘vèo’, rồi một vật gì như đất bùn bay tới! Đổng-Triệu-Hòa chưa kịp cúi xuống thì cục bùn bay lọt vào trám miệng hắn lại như ‘thầy chùa ngậm xôi’. Đổng-Triệu-Hòa miệng ấm ứ không nói được tiếng nào. Hai người tiêu-sư có mặt trong phòng ấy lập tức rút vũ khí, củng nhảy bổ một lượt ra ngoài sân.

Diêm-Thế-Khôi cũng vội vã đứng dậy nhảy luôn ra sân phóng lên lưng ngựa cột sẵn tại đó, tay cầm cây Ngũ-Hành-Luân chuẩn bị đối phó với những gì bất ngờ.

Em ruột Diêm-Thế-Khôi là Diêm-Thế-Chương nghe tiếng động cũng chạy đến nơi kịp thời, theo anh hộ-vệ. Cả hai anh em họ Diêm đều không lo gì hơn là gìn gìũ cái bao màu hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi nên chỉ đứng yên tại chỗ chứ không nghĩ đến chuyện truy tầm kẻ thích khách nào đó, sợ trúng phải kế ‘Điệu Hổ Ly Sơn’ (#8).

Đổng-Triệu-Hoa lúc đó đã nhổ được cục bùn từ trong miệng ra rồi bắt đầu chửi. Những tiếng nguyền rủa độc địa chẳng khác một trận mưa chửi mà không có ao hồ nào mà chứa đựng cho hết nổi! Hắn gọi cả ba họ tám đời ông tằng ông tổ kẻ nào chơi ác cho hắn ‘ăn’ vật ‘không mấy thơm tho’ đó.

Diêm-Thế-Khôi thấy bộ tịch Đổng-Triệu-Hòa thì vừa buồn cười, vừa thấy ‘đáng kiếp’, lại được cơ-hội trả đũa nên phá lên cười nói:

-Xưa nay chửi rủa có chết ai bao giờ đâu? Chỉ hao hơi tổn tiếng thì có! Nhưng cũng tại chú hay nói khoác nên kẻ kia mới trám bớt miệng chú lại đó!

Đổng-Triệu-Hòa phần giận kẻ ‘chơi ác’, phần thì giận Diêm-Thế-Khôi thừa dịp ‘trả thù’ lại mình lại càng chửi rủa bạo thêm nữa.

Bỗng có hai tiêu-sư từ ngoài cửa bước vào. Một người là Thái-Vĩnh-Minh sử dụng một cây nhuyễn tiên, còn một người là Tiền-Chính-Luân sử dụng một thanh đơn đao. Cả hai cùng thở hổn hển nói:

-Kẻ gian trốn mất rồi, không làm sao tìm được vết tích nào!

Tấn kịch vừa rồi dĩ-nhiên đều lọt cả vào mắt Lục-Phỉ-Thanh. Mà là một màn ‘kịch sống’ thật ngoạn mục từ đầu đến cuối. Lục-Phỉ-Thanh nhận thấy Đổng-Triệu-Hòa là một tên gian manh già mồm giỏi nịnh, chỉ thích nói dóc và nói bậy nên bị ăn cục bùn là đáng lắm. Ông ta đang cười thầm trong bụng lại thấy ở góc đường phía Đông có một bóng người đang ẩn núp. Người này mặc đồ dạ-hành. Trời lại tối đen như mực nên giả-sử không có cặp mắt dạ quang của người hiệp khách thì khó lòng mà nhận ra.

Lại có một bóng người từ trên nóc nhà nhảy xuống đất nhẹ nhàng còn hơn chiếc lá rụng. Cái bóng này cứ nhắm hướng Đông mà phi tới vùn vụt như tên bắn. Lục-Phỉ-Thanh không còn nghi ngờ gì nữa, biết đích xác chính người này đã thảy cục bùn vào mồm Đổng-Triệu-Hòa. Không rõ đây là nhân vật như thế nào, ông ta dùng khinh công theo bén gót để xem cho rõ mặt. Trên tay Lục-Phỉ-Thanh vẫn còn cầm ly trà, vì lúc mới đến khách-sạn chưa kịp uống trà thì đã phải vội vã chạy sang phòng khách dò xét động tịnh. Kế đó, hết chuyện này đến chuyện kia xảy ra nên ông chưa có dịp trở về phòng lần nào.

Suốt mấy mươi năm khổ luyện khinh công nên Lục-Phỉ-Thanh đã đạt đến mức ‘lô hỏa tuyệt thanh’ nên ít có người nào sánh kịp. Ấy thế mà chạy mãi, Lục-Phỉ-Thanh vẫn không thể bắt kịp được bóng người phía trước. Chỉ trong chốc lát, bóng người đó đã mất hút.

Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai bóng đen đã rời xa khách-sạn đến năm, sáu dặm đường. Lúc ấy, Lục-Phỉ-Thanh mới nhận được lờ mờ cái bóng đen phi thân trước mặt. Đó là một người nhỏ thó, lanh lẹ và ẻo lả tựa như là một thiếu-nữ hơn là một thanh-niên. Cứ nhìn mà xét thì lối khinh của hai bóng đen ấy đã đến mức cao-thâm tuyệt-diệu. Và cứ thế, hai bóng đen kẻ trước người sau, như hai lằn tên xẹt bay mãi không ngừng.

Khi vượt qua một triền núi thì phía trước hiện ra một cụm rừng già cây cối sum xuê, tối đen như mực chẳng còn phân-biệt được đâu là đâu nữa. Thoáng một cái, cái bóng đen mảnh khảnh đàng trước đã chạy sâu vào trong khu rừng rậm ấy.

Lục-Phỉ-Thanh vẫn không chịu bỏ cuộc, cứ một mạch theo đường rừng mà đuổi theo mặc dầu chẳng còn trông rõ được gì nữa hết. Vào trong bìa rừng được chừng một dặm thì cành khô lá rụng áng mất lối đi, không còn biết đi đường nào cho đúng hướng được nữa. Chân bước trên cành lá khô xào xạc, Lục-Phỉ-Thanh sợ rằng người phía trước nghe được âm-thanh thì biết có người đang truy-kích và sẽ sử dụng ám khí thì thật rất nguy hiểm.

Nghĩ vậy, Lục-Phỉ-Thanh tạm dừng gót mà cố tìm ra cách nào là thượng sách thì chỉ trong nháy mắt, không còn thấy tung tích của bóng đen trước mặt nữa.

Trong giang-hồ thường có câu khuyên răn đầy kinh-nghiệm là ‘gặp rừng chớ vào’ (#9). Vả lại, đêm thì tối, rừng thì rậm, dầu có được cặp mắt dạ quang, có tài dạ hành của một cao-thủ đi chăng nữa cũng khó mà tránh được kẻ thù khi chận ngạch thi hành ám toán.

Lục-Phỉ-Thanh là người tinh tế cẩn thận nên không dám đi sâu vào thêm nữa. Đang định thối lui trở về thì bỗng mây đen chợt tan đi, một vầng trăng sáng trong suốt từ trên không trung xuyên qua kẽ lá rọi xuống khắp rừng.

Ngước mặt nhìn ra phía trước, Lục-Phỉ-Thanh trông rõ là bóng một cô gái áo vàng lại từ trong cụm rừng vùn vụt trở ra.

Lục-Phỉ-Thanh chọn một lùm cây xanh rậm của một cây cổ thụ mà nhảy lên trốn để quan-sát. Cách này rất hay vì ông ta có thể nhìn thấy rõ cả bốn bề mà không sợ bị ai phát-giác được mình.

Cách cây cổ thụ đang trú không xa lắm, Lục-Phỉ-Thanh trông thấy rõ ràng dưới ánh sáng của ‘chị Hằng Nga’ có tới tám, chín cái màn làm bằng vải bố được căng ra. Thật là một chuyện hết sức lạ lùng khiến cho tánh hiếu kỳ của Lục-Phỉ-Thanh không thể nào làm ngơ được.

Lục-Phỉ-Thanh định tâm nhất định phải tới nơi dọ thám một phen từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài! Có hai người đi qua đi lại, hình như là giữ nhiệm-vụ canh gác. Chờ cho họ đi qua khỏi, Lục-Phỉ-Thanh dùng phép đề-khí phóng một cái rơi xuống nhẹ nhàng sau lưng một con lạc đà đang đứng nhai cỏ bên ngoài màn vải. Người đứng gác vẫn điềm nhiên làm phận sự như không có gì xảy ra.

Bởi vì Lục-Phỉ-Thanh võ-nghệ tuyệt đỉnh, đảm lược phi thường nên mới dám có hành động phiêu-lưu mạo hiểm thế này. Thấy ở lều này không nghe rõ được gì, Lục-Phỉ-Thanh phi thân vọt sang phía sau lưng tấm màn vải lớn ở ngay chính giữa. Xem xét đâu vào đó cẩn thận, Lục-Phỉ-Thanh nằm rạp mình dưới đất lắng tai nghe.

Bên trong lều có những tiếng thốt lên với giọng nói thật lẹ và ‘líu lo’, nghe như là của người Duy. Tuy rằng Lục-Phỉ-Thanh từng sống ở quan-ải lâu năm nhưng cũng không hiểu hết được ngôn ngữ của họ. Cố gắng lắng tai nghe thật kỹ, may ra chỉ hiểu được phân nửa câu chuyện họ bàn tán với nhau mà thôi.

Lục-Phỉ-Thanh khẽ giở một góc lều he hé lên vừa đủ cho cặp mắt nhìn vào được. Bên trong có hai ngọn đèn dầu đang cháy sáng. Ở trong lều, người này có thể nhìn rõ được mặt người kia không khó, nhưng nếu có kẻ ở bên ngoài vô tình đi ngang qua thì ắt bên trong không làm sao phát hiện ra được bởi bị tấm vải lều che khuất.

Lục-Phỉ-Thanh để ý thấy chung quanh hai ngọn đèn có rất nhiều người ngồi xếp bằng thứ tự dưới đất, già có, trẻ có. Những người này chẳng phải ai khác lạ, mà chính là những người Duy mà Lục-Phỉ-Thanh đã gặp qua lúc ban ngày trước khi đến sông Bảo-Tháp.

Bỗng một giọng nói thanh tao dịu dàng chậm rãi ngân lên làm cho bầu không khí yên lặng thêm vẻ trang nghiêm.

Lục-Phỉ-Thanh quay mặt ngó sang chỗ phát ra giọng nói ấy thì không khỏi kinh ngạc. Thì ra đó là ‘cô gái áo vàng’. Khi nàng vừa nói xong câu ấy liền ngừng lại một chút đưa mạnh cánh tay lên như thề cương quyết hoàn thành một sứ mạng nào đó. Kế đến, nàng đưa tay rút từ trong bao ra một ngọn đao cong cong trông thật là sắc bén, tỏa ra hào quang sáng chói, nhìn mà lạnh cả người.

Cô gái áo vàng đưa bàn tay mặt ra, dùng lưỡi dao cứa đứt một vạch nhỏ ở một đầu ngón tay cho máu tươi nhỏ ròng ròng xuống vào ngay chính giữa một bình rượu có hình dạng giống hệt như một cái vú ngựa cái đang cần sữa hứng sẵn ở đó từ bao năm.

Noi theo gương cô gái áo vàng, tất cả những người Duy có mặt trong lều đều rút dao đeo bên hông ra, rồi từng người một tự cứa vào ngón tay mình để nhỏ huyết vào bình rượu ấy.

Sau khi tất cả mọi người làm xong nghi lễ ‘thích huyết’, cô gái áo vàng liền lớn tiếng gọi:

-Gia gia!

Tức thì một người Duy cao lớn, với dáng điệu hùng mạnh bưng bình rượu ấy giơ lên cao, long trọng nói một tràng tiếng Duy.

Lục-Phỉ-Thanh không hiểu được ý nghĩa toàn câu, chỉ nghe rõ được mấy tiếng ‘Khả-Lan-Kinh’ và ‘cố hương yêu dấu’. Còn đang suy nghĩ cố tìm cách hiểu câu nói kia thì cô gái áo vàng lại tiếp lời cho người Duy cao lớn mà nàng gọi là ‘gia gia’, hay nói cho đúng hơn là lập lại nguyên-văn lời nói của ông ta. Giọng nói của nàng êm ái, nghe rất thanh tai nhưng không kém phần cảm khái lâm ly.

Cũng như lần trước, Lục-Phỉ-Thanh nghe ‘tiếng được tiếng mất’, nhưng chuyến này ông hiểu được đây là một lời thề, đại ý là: “Nếu chúng ta không đoạt lại được ‘Khả-Lan-Kinh (#10) của Thần Thánh lưư truyền cho dân tộc thì thà chết ở xứ người chứ không trở về quê hương yêu dấu nữa”.

Cô gái áo vàng vừa thề xong tức thì tất cả những người Duy kia cũng lần lượt lên tiếng lập lại lời tuyên-thệ đó. Ai nấy đều tỏ vẻ uất hận và cương quyết như sẵn sàng đem tánh mạng mình ra để hy-sinh cho sứ mạng sắp thi-hành của họ.

Dưới ánh đèn mờ, Lục-Phỉ-Thanh trông rõ được vẻ mặt của từng người một. Người nào người nấy đều khí khái can-trường, đầy nhiệt tâm nhiệt huyết trước trách-nhiệm thiêng liêng.

Sau phần tuyên-thệ, bình rượu hình mã nhũ (#11) được hòa với máu rót ra làm ba chung, truyền tay từng người mà cùng nhau uống cho đến cạn. Sau đó họ cùng nhau bàn luận xôn xao, tất cả mọi người đều đóng góp ý kiến. Buổi họp hết sức trang trọng, chẳng khác gì một hội-nghị thượng đỉnh của bộ ‘tổng tham mưu’.

Đến lúc này, Lục-Phỉ-Thanh có thể kết luận rằng đám người Duy kia lần này vượt sa-mạc vào quan-ải không ngoài mục-đích thi-hành một công tác trọng yếu chứ không phải chỉ là buôn bán tầm thường mà thôi.

Dân tộc họ có một bộ sách truyền quốc mà họ xem như vật vô giá thiêng liêng của Thần Thánh để lại. Đó là bộ Khả-Lan-Kinh (#12). Chẳng may, bộ sách ấy bị kẻ nào đó cướp đi mất nên họ thề nhất quyết phải theo đến nơi mà đoạt lại cho kỳ được, hoặc là chết. Lục-Phỉ-Thanh muốn biết rõ nhóm dân tộc người Duy ấy gốc gác thế nào nhưng vẫn chưa nghĩ ra được.

Nguyên đám ngưòi Duy này vốn là dân trong bộ-lạc du-mục thuộc Thiên-Sơn Bắc-Lộ, dân số vào khoảng trên dưới 20 vạn. Thủ-lãnh của họ là Tù-trưởng Mộc-Trác-Luân, rất được dân chúng thương mến và kính phục. Mộc-Trác-Luân võ-nghệ trác tuyệt mà nhân nghĩa cũng vang dội khắc gần xa.

Cô gái áo vàng là con gái lớn của Mộc-Trác-Luân tên gọi Tiêu-Thanh-Đồng (#13), vốn là đệ-tử yêu quý nhất của Thiên-Sơn Kỳ-Hiệp Trần-Chánh-Đức phu-nhân, nhũ danh là Quan-Minh-Mai. Tiêu-Thanh-Đồng nhờ vậy mà học được những võ công tuyệt-kỹ của phái Thiên-Sơn.

Hai vợ chồng Trần-Chánh-Đức và Quan-Minh-Mai dù là người của phái Thiên-Sơn nhưng thích cảnh an nhàn ẩn dật thành thử chỉ muốn sống riêng biệt, không qua lại với môn phái. Bất luận hành hiệp nơi đâu cũng chỉ có hai vợ chồng với nhau mà thôi. Giới giang-hồ thường gọi hai người là ‘Thiên-Sơn Song Ưng’. Hai người niên-kỷ bằng nhau, ngoài 60.

Vợ chồng Thiên-Sơn Son Ưng rất thương yêu nhau, nhưng có điểm lạ kỳ là hễ gần thì xô xát, mà xa lại nhung nhớ. Tuổi hai người đã già mà tâm tính vẫn còn như lúc trẻ, không thay đổi chút nào. Các bằng-hữu quen thuộc thường gọi đùa là ‘Hoan-Hỉ Oán-Gia’.

Tiêu-Thanh-Đồng thấy vợ chồng sư-phụ lúc nào cũng ‘cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt’ thì cố dùng đủ cách để hòa giải cho vui vẻ cả nhà nhưng kết quả vẫn không đi đến đâu nên lắm lúc nàng cũng đâm ra buồn lây.

Tiêu-Thanh-Đồng thích mặc áo vàng, đội nón tơ có giắt cặp lông phí-thủy nên giang-hồ đặ cho nàng mỹ hiệu là ‘Phiêu-Hiệu Nữ Lang’, còn giới võ-lâm thuộc Thiên-Sơn Nam Bắc phái thì gọi nàng với danh-hiệu là ‘Túu Vũ Hoàng Khổ’.

Người Duy thuộc bộ-lạc Thiên-Sơn này chuyên sống du-mục nay đây mai đó. Dưới thời nhà Thanh, thế-lực vua Càn-Long lan rộng ra tới bộ-lạc những người Hồi (#14). Hết vùng này tới vùng nọ bị sát nhập vào Thanh trào. Các dân tộc thiểu số như họ như cô thế, luôn luôn bị uy hiếp. Quan lại nhà Thanh đi lại liên miên, hạch sách đủ điều làm cho nhân dân khổ sở đến ta thán.

Mộc-Trác-Luân lúc đầu cũng muốn được yên thân nên đem vàng ngọc của cải ra đút lót cho quan lại nhà Thanh. Nhưng túi tham của bọn quan tham ô thì lại không đáy. Dù cho bao nhiêu của cải tích trữ bao lâu đem nộp cho chúng cũng vẫn không đủ. Lúc nào chúng cũng có cớ để hạch sách.

Sau cùng, của kho đã cạn, mà của dân thâu góp cũng kiệt quệ! Mộc-Trác-Luân phải cùng với dân chúng đi làm nghề buôn để sinh sống. Ngoại trừ con đường đó, người Duy chẳng còn cách gì khác hơn.

Để giữ yên được đất đai, nhiều lần Mộc-Trác-Luân đặc-phái sứ giả đem lễ vật đến Y-Lê cầu xin quan cai-trị nhà Mãn-Thanh hãy thương tình dân chúng người Duy nghèo khổ giảm cho các sưu cao thuế nặng. Nhưng có đời nào triều-đình lại chịu thế! Lời kêu xin của Mộc-Trác-Luân đã chẳng được hiệu quả gì mà còn khiến cho triều-đình Mãn-Thanh đâm ra nghi kỵ, sợ người Duy nổi dậy, kéo theo sự hưởng ứng của người Hồi.

Quan cai-trị là Triệu-Huệ-Trinh, biết dân-tộc người Duy có một bộ sách của tổ tông nhiều đời để lại là ‘Khả-Lan-Kinh’ Bộ kinh-thư này được thỉnh từ xứ Mạch-Gia (#15) là nơi phát sinh ra Hồi-Giáo nên dân-tộc người Duy thờ kính và vô cùng sùng bái.

Bộ Khả-Lan-Kinh được xem như là quốc bảo, chỉ có vị Tù-trưởng mới có quyền cất giữ, đã trải qua được mấy chục đời...

Biết được giá-trị của bộ kinh này đối với dân-tộc người Duy nên thừa lúc Mộc-Trác-Luân đem hết những kẻ thuộc-hạ thân tín theo ông ta đi xứ xa buôn bán, Triệu-Huệ-Trinh mới sai một cao-thủ lẻn sang bên ấy cướp lấy bộ Khả-Lan-Kinh đem về cho hắn. Triệu-Huệ-Trinh nghĩ rằng một khi nắm được bộ kinh này trong tay thì không còn phải sợ người Duy nổi lên phản kháng lại triều-đình nữa, tha hồ cho hắn mặc sức đòi hỏi bất cứ những gì, Mộc-Trác-Luân cũng phải riu ríu tuân theo.

Cái bao vải màu hồng mà Diêm-Thế-Khôi mang trên vai không khi nào dám rời cho dù là lúc ăn hay lúc nghỉ chỉ vì trong đó có ‘bảo vật’ mà Triệu-Huệ-Trinh đang cần là bộ Khả-Lan-Kinh.

Do đó mà Mộc-Trác-Luân với Tiêu-Thanh-Đồng và cả nhóm người Duy thề đem tánh mạng ra hy-sinh để đoạt lại cho bằng được bộ kinh ‘truyền quốc’ đó.

Bấy giờ, Lục-Phỉ-Thanh hiểu rõ là mưu đồ của đám người Duy kia chẳng díng dấp gì đến việc riêng của mình nên không muốn để ý hay nghe thêm chuyện riêng của họ nữa nên dùng thuật đề-khí mà đứng thẳng dậy một cách gọn ghẽ, nhẹ nhàng. Vừa lúc ấy, ông bỗng thấy tất cả mọi người trong lều đều rập xuống một cái, nằm im trên mặt đất cả thảy.

Lục-Phỉ-Thanh hoang mang trong lòng, liền dùng thuật khinh công chạy ra khỏi chỗ núp. Chẳng ngờ chỉ trong nháy mắt Tiêu-Thanh-Đồng đã phát-giác ra được là có người lén rình nghe rõ mọi chuyện nên ghé tai Mộc-Trác-Luân nói nhỏ:

-Gia gia! Bên ngoài có kẻ lạ mặt.

Dứt lời, nàng phi thân ra khỏi lều và thoáng thấy có một bóng người cứ theo đường rừng mà chạy thoăn thoắt như bay. Tiêu-Thanh-Đồng liền rút một ngọn Thiết-Liên-Tử nhắm theo cái bóng người ấy mà phóng đến ‘vèo’ một tiếng.

Lục-Phỉ-Thanh đang lúc chạy tháo thân chưa ra khỏi được rừng thì nghe sau lưng có tiếng gió thì biết ngay là có ám khí. Ông lách mình né sang một bên trong khi tay vẫn còn cầm ly trà. Mũi Thiết-Liên-Tử vừa phóng tới, Lục-Phỉ-Thanh lấy bàn tay gạt mộ cái làm mũi ám-khí rớt ngay xuống đất.

Nhưng tiếp theo đó, lại có thêm một mũi thứ hai phóng tới với tốc độ lẹ làng như tên bắn. Lục-Phỉ-Thanh dùng ly trà hứng một cái, mũi Thiết-Liên-Tử bắn xuyên qua ly, nhưng lạ thay không làm cho ly vỡ mà lại dính chặt vào đáy ly.

Lục-Phỉ-Thanh thầm khen ngợi bản lãnh Tiêu-Thanh-Đồng. Ông không quay đầu nhìn lại mà cứ tiếp tục dùng khinh công bay thẳng một hơi về khách-sạn.

Tại khách-sạn, mọi người đã an giấc từ lâu. Bốn bề vắng ngắt. Đêm dài như vô tận, chìm đắm trong bóng tối. Một gã giúp việc trong khách-sạn tay dụi mắt như vừa thức dậy miệng lè nhè hỏi:

-Thưa, lão gia chưa đi nghỉ? Chắc vì đêm nay nóng nực nên lão gia đi hóng mát phải không?

Lục-Phỉ-Thanh chỉ ậm ừ vài tiếng cho qua. Vào trong phòng ngủ, ông ta rút mũi Thiết-Liên-Tử ra khỏi đáy ly trà ra xem xét. Mũi ám-khí được làm bằng một loại gang rất tốt gọi là ‘Tinh-cao’. Trên mũi phi-tiêu có khắc một hình lông cánh của một loài chim. Ngắm ngía một hồi, Lục-Phỉ-Thanh bèn cấy mũi Thiết-Liên-Tử ấy vào trong người...

Sáng sớm hôm sau, đoàn bảo-tiêu đã chuẩn bị đâu đó xong xuôi, sửa soạn lên đường tiếp tục cuộc hành-trình. Mấy tên hướng-đạo (#16) ở hàng đầu lớn tiếng truyền rao:

-Bọn ta phái võ Duy-Dương...

Sau đó là cây tiêu-kỳ có hình bát quái của Trấn-Viễn tiêu-cục theo gió bay phất phới dẫn lộ cho một hàng tiêu-xa khởi hành.

Lục-Phỉ-Thanh thấy các cỗ tiêu-xa chở hàng hóa đi như bay, tương đối rất nhẹ nhàng, chứng tỏ là hàng hóa không chút nặng nề và hình như cũng không mấy gì được quan tâm đến cho lắm. Bình thường, nếu xe chở vàng bạc châu báu quý giá hay những hàng hóa nặng nề thì vết bánh xe sẽ in sâu xuống mặt đường và các tiêu-sư cũng như các cao-thủ hộ-vệ sẽ rong ngựa bịt kín hai bên xe. Đằng này, vết bánh xe không in sâu xuống đường, và có khi cả mấy cỗ xe liên tiếp bỏ ngõ, không có ai cỡi ngựa đi kè để bảo-vệ. Trái lại, các tiêu-sư đều tập trung cả lại vào việc bảo-vệ cho Diêm-Thế-Khôi. Chắc chắn một điều không thể lầm lẫn được là bảo vật phải nằm ngay chốn ấy, thậm chí ngay trên mình của Diêm-Thế-Khôi. Chẳng hạn như cái bao màu hồng khoác trên vai y... Đó mới chính là vật quan-trọng đáng giữ gìn.

Đoàn bảo tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục đi được khoảng nửa tiếng thì Tham-tướng Tăng-Đồ-Nam cũng điều động chỉ huy quân lính bảo-vệ đoàn xa kiệu của gia-quyến Lý-Khả-Tú lên đường...

Quãng đường này toàn là đá đỏ lởm chởm đồng thời lại gặp những khúc nghiêng của triền núi nên không thể nào đi mau được. Tuy vậy, Tăng-Đồ-Nam vẫn phải thúc giục quân lính ráng cố gắng làm sao lên được đỉnh núi để xuống kịp chân núi bên kia trước khi mặt trời lặn vì sẽ gặp được tại đó ba khách điếm và ba đường đi.

Đường đi trên núi hiểm hóc vô cùng. Càng lên cao, đường càng hẹp lại. Tăng-Đồ-Nam và Lý-Mộng-Ngọc phải theo sát kiệu của Lý thái-thái và Lý phu-nhân canh chừng, giữ gìn cẩn thận không dám lơ đễnh chút nào vì rủi nếu một tên kiệu-phu lỡ sẩy tay sẩy chân tất nhiên sẽ làm đổ nguyên cả kiệu xuống vực thẳm, thân thể xương thịt người trong kiệu sẽ nát bấy như tương.

Đến giờ Thân, đoàn xa kiệu đã tới đèo Ô-Kim. Trước mặt là đoàn tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục. đang xuống ngựa ngồi nghỉ chân. Tăng-Đồ-Nam thấy vậy cũng cho đoàn xa kiệu của mình tạm dừng bước, nghỉ mệt trong giây lát.

Đèo Ô-Kim nằm ngay chính giữa hai ngọn núi cao chót vót, như giáp với mây trên trời nếu trông từ xa lại. Giữa hai núi có một con đường ‘độc đạo’ chỉ có thể đi tới mãi mà không thể dừng chân lại nghỉ ngơi được vì đường đã dốc lại hẹp, chỉ vừa đủ cho một cỗ xe tứ mã qua lại mà thôi. Đã đến điểm này ắt phải đi thẳng một hơi lên trên đỉnh núi chứ không còn đường nào để lựa chọn cả!

Lục-Phỉ-Thanh chậm rãi đi rẽ phía đàng sau, ý không muốn cho người của Trấn-Viễn tiêu-cục trong thấy mặt ông.

Nghỉ ngơi được một lát, đoàn tiêu-xa của Trấn-Viễn tiêu-cục bắt đầu lên đường, và đoàn xa kiệu của gia-quyến Lý-Khả-Tú theo sau nối liền, cách không bao xa, chỉ vừa đủ khoảng cách theo đúng luật giang-hồ để đoàn tiêu-xa đi trước khỏi nghi kỵ là có ý này nọ. Xa xa trông hai đoàn giống hệt một con rồng đang vươn mình bò sát giữa một cái hố sâu thăm thẳm, vách đá dựng cao ngất.

Cả người lẫn ngựa đều mệt toát mồ hôi, vừa leo dốc vừa thở. Những người lãnh trách-nhiệm tải hàng hóa và đồ vật tương đối nặng lên tiếng reo hò luôn để cổ võ cho nhau hầu quên đi cái nặng nhọc trước mắt.

Lục-Phỉ-Thanh đi đàng sau chợt phát-hiện bên hữu của đĩnh đèo chót vót có một bóng người dường như núp theo bóng cây để tiện bề rình rập chi đó. Cùng lúc đó, ông lại nghe có tiếng lục lạc của bầy lạc đà ngân lên và từ trên triền núi xuất hiện một đám người Duy cỡi ngựa phi như bay xuống.

Cả đoàn tiêu-xa của Trấn-Viễn tiêu-cục hoảng sợ kêu la thất thanh, bảo nhau phải làm sao ngăn cản được đám kỵ-sĩ ấy, vì cái trớn đổ đèo thần tốc kia sẽ đẩy nguyên đoàn tiêu-xa xuống vực thẳm tan xương!

Đổng-Triệu-Hòa điếng hồn, la lên:

-Thôi chết rồi! Thật vô phương chặn đứng lại kịp!

Đám kỵ-sĩ người Duy với kỵ-thuật tài tình khéo léo lanh lẹ dị thường, cứ tiếp tục giục ngựa sải xuống với khí thế vô cùng dũng mãnh, chẳng khác chi sóng vỗ nước tràn.

Đoàn kỵ-sĩ, độ chừng chục người trở lại thình lình cất tiếng hát vang lên. Tiếng hát của họ lảnh hót ngân vào trong vách đá làm vang dội lại một thứ âm thanh nghe rất là kỳ quái, chẳng hiểu chi là chi!

Cũng lúc ấy, hai bên chót của đỉnh đèo xuất hiện những bóng người, có lẽ là đã mai-phục sẵn từ bao giờ đứng dậy như ma quỷ hiện hình cũng trổi giọng hát hòa nhịp với đám kỵ-sĩ. Cả đoàn tiêu-xa vừa lo sợ, vừa ngạc-nhiên đến sửng sốt.

Thình lình, trong đám người Duy kia phát ra một tiếng hồ tiêu. Có hai kỵ-sĩ người Duy bỗng giục ngựa phi như bay, tách hẳn đoàn xông thẳng về phía Diêm-Thế-Khôi. Hai người đột nhiên tấn công vào kỵ-sĩ đi phía sau bảo-vệ cho Diêm-Thế-Khôi là Diêm-Thế-Chương, và bốn con lạc-đà cùng tới một lượt vây chặt Diêm-Thế-Khôi vào giữa.

Hai anh em họ Diêm trong Quảng-Đông Lục Ma có nhiều kinh-nghiệm trong những cuộc đương đầu với các cao-thủ nên cho dù đứng trước tình trạng hiểm nghèo mà tinh-thần không bị rối loạn. Hai người biết là đang bị ở thế bất lợi, không thể dùng số đông mà đối phó được với đám người đông đảo từ trên dốc đánh xuống như thác nước đổ. Cả Diêm-Thế-Khôi lẫn Diêm-Thế-Chương đều rút binh-khí ra tự lực đối phó và tùy cơ ứng biến.

Bốn người Duy cỡi bốn con lạc-đà bỗng đưa cao cây côn sắt rồi cùng nhau đánh bổ xuống đỉnh đầu Diêm-Thế-Khôi một lượt. Cây côn sắt của họ vốn không phải là vũ-khí tầm thường. Mỗi cây phải nặng trên trăm cân, mà cả bốn người đều có sức mạnh ghê gớm cả. Đã ở trong thế kẹt mà chỗ đứng lại nhỏ hẹp nên không làm sao né tránh kịp chỉ còn cách nhắm mắt bưng tai mà chịu trận, chờ chết mà thôi. Toàn thân Diêm-Thế-Khôi luôn cả con ngựa hắn cỡi đều nát ra như cám, thịt xương, máu óc văng tung tóe, dính cả lên ngọn lá cành cây, đẫm tràn trên mặt lộ.

Một bóng vàng trong đám người Duy cỡi ngựa phóng ra. Người đó chính là Tiêu-Thanh-Đồng chứ chẳng phải ai khác hơn. Nàng bước tới phía trước lanh lẹn nhảy từ trên yên xuống cẩn thận rút kiếm cắt giây buộc nơi cái bao vải màu hồng ở trên lưng Diêm-Thế-Khôi thì nghe sau lưng có một luồng gió tạt đến, một lưỡi kiếm nhắm vào nàng đâm thẳng tới.

Tiêu-Thanh-Đồng chỉ chú-trọng vào chiếc bao hồng thôi nên không có ý muốn giao chiến, nên nàng khẽ lách mình tránh khỏi mũi kiếm hiểm ác đó. Tay nàng cầm kiếm cố cắt nốt những đường giây còn lại dính liền cái bao hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi.

Nhưng kẻ vừa đâm mũi kiếm kia quyết không để cho Tiêu-Thanh-Đồng có đủ thì giờ để cướp đi cái bao vải hồng mà bọn hắn đã liều mình bảo-vệ, dùng tánh mạng Diêm-Thế-Khôi để giữ gìn cho nên Tiêu-Thanh-Đồng vừa tránh kịp được mũi kiếm thứ nhất thì mũi kiếm thứ nhì lại nhắm thẳn vào hông nàng mà đâm tới. Mũi kiếm này so với mũi trước thì có phần hiểm ác hơn nhiều.

Biết chẳng thể né tránh kịp được mũi kiếm này, Tiêu-Thanh-Đồng buộc lòng phải đưa lưỡi kiếm của nàng ra đón đỡ. Hai lưỡi kiếm va chạm vào nhau một cái thật mạnh đến lóe lửa, tạo nên một âm thanh hết sức ghê rợn.

Biết địch thủ của nàng không phải tầm thường, Tiêu-Thanh-Đồng không dám chậm trễ, vội vã nhanh tay cắt bừa những mối giây cột bao vải hồng nhưng tai mắt luôn luôn đề phòng những biến cố chung quanh vì nếu sơ ý có thể mất mạng như chơi trong đường tơ kẽ tóc. Người kia lại chém ngay cườm tay nàng thêm một nhát kiếm nữa. Tiêu-Thanh-Đồng rút vội bàn tay trái của nàng lại tránh được lưỡi kiếm của đối phương dễ dàng mà còn lấy hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa của nàng xỉa vào đối phương cùng với mũi kiếm. Người kia chỉ khẽ lùi lại đã tránh được cả mũi kiếm và mũi xỉa bằng tay của nàng.

Tiêu-Thanh-Đồng uất hận vô cùng. Nàng ngước mắt nhìn lên xem thử là ai đã ba lần làm cho nàng mất cơ hội đoạt lại cái bao hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi. Nàng lại càng lồng lộn lên khi thấy rõ kẻ đó chính là ‘chàng thanh-niên tuấn tú’ đã từng giở thói vô lễ với nàng lúc gặp nhau trên đường lộ. Tiêu-Thanh-Đồng không hiểu oan-gia nào phá rối mà cứ khiến xui cho chàng thanh-niên kia đeo theo cản trở công việc sắp thành công của nàng.

Tiêu-Thanh-Đồng nộ khí xung thiên vung kiếm lên chém loạn xạ như bão táp mưa sa. ‘Chàng thanh-niên’ ấy cũng thi triển hết những thế kiếm bí hiểm tạo nên một trận ác đấu dữ dội như gió chạy cát bay.

Tiêu-Thanh-Đồng vừa đấu vừa căm phẫn. Nếu không phải vì ‘chàng thanh-niên’ này xen vào công việc của nàng với đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục thì công-tác của nàng đã hoàn thành, nhiệm vụ của nàng đã viên-mãn. Vì chàng thanh-niên ấy mà bao nhiêu công lao, bao nhiêu hy-sinh của mồ hôi nước mắt của dân nàng há đành trôi theo giòng nước hay sao?

‘Chàng thanh-niên’ ấy chẳng phải ai khác hơn là cô gái cải nam-trang Lý-Mộng-Ngọc. Nàng đang ở đoàn xa kiệu theo hầu bà nội và mẹ bỗng nhiên thấy thấy đội lạc-đà của người Duy bao vây đoàn xa tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục mà tấn công. Chẳng cần biết đắn đo lợi hại hay phân biệt điều phải trái ra sao lại tự-phụ vào tài năng nên Lý-Mộng-Ngọc xông lên ngăn cản Tiêu-Thanh-Đồng với mục-đích thử tài cao thấp. Chỉ vì nàng nghe sư-phụ Lục-Phỉ-Thanh khen Tiêu-Thanh-Đồng võ-nghệ giỏi hơn mình nên không phục, hễ gặp cơ-hội là tìm cách giao đấu để làm thỏa mãn tự ái của mình ngay.

Quả đúng như lời tiên đoán của Lục-Phỉ-Thanh, chính vì cái thông-minh của Lý-Mộng-Ngọc đã khiến cho nàng lầm lạc!

Những người ở bên triền núi chỉ trố mắt nhìn sang trận đấu thư hùng giữa Tiêu-Thanh-Đồng và Lý-Mộng-Ngọc. Tiêu-Thanh-Đồng đâm một hơi ba kiếm nhưng bị Lý-Mộng-Ngọc giải trừ được hết làm cho nàng đầu nóng tai ù, tức giận đến cực độ. Nàng dư hiểu là trong đám tiêu-sư theo bảo-vệ Diêm-Thế-Khôi kia có nhiều kẻ có bản-lãnh cao siêu không dễ cho nàng thắng nổi. Nếu ra tay ở chỗ lớn ắt mười phần nhắm thất bại cả mười. Do đó Tiêu-Thanh-Đồng mới chọn đồi Ô-Kim, là nơi hiểm yếu để thi hành kế hoạch, lấy lợi thế trên cao đánh xuống, rất hữu hiệu cho chiến thuật ‘xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị’. Chỉ một trận đánh có thể thành công được. Tới chừng đó, khi nhiệm-vụ hoàn tất cả đoàng ca khúc khải-hoàn trở về nơi tổ-quốc thân yêu thì còn gì vui vẻ hân hoan hơn nữa.

Tiêu-Thanh-Đồng lần này thi hành kế hoạch nắm chắc phần thắng trong tay. Dù cho đối phương có đông người, võ-nghệ có cao siêu đến bậc nào cũng không tài nào đối phó kịp. Mưu kế như Gia-Cát (#17), cơ trí như Châu-Du, Tiêu-Thanh-Đồng đã dùng kỵ binh lũng kích Diêm-Thế-Khôi mười phần nguy kịch, bắt buộc đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục phải lọt vào kế hành quân của nàng, chỉ đứng ngoài mà ngó chứ không dám vào trợ chiến. Tiêu-Thanh-Đồng quả nhiên đã chận đứng được đám tiêu-sư kia. Không ai dám liều mạng xông vào vì biết nếu làm thế thì chỉ uổng mạng như Diêm-Thế-Khôi hoặc nguy khốn như Diêm-Thế-Chương mà thôi.

Thành công đã thấy trước mắt. Nào ngờ Lý-Mộng-Ngọc can thiệp vào! Tiêu-Thanh-Đồng có ngờ đâu là nàng bị cái thế ‘trợ Kiệt’ là Lý-Mộng-Ngọc dù cố ý hay vô tình đã đứng vào phe Trấn-Viễn tiêu-cục!...

Tâm-hồn của Tiêu-Thanh-Đồng chỉ có được một nửa trong trận đánh, còn một nửa kia cứ canh cánh nghĩ mãi về chiếc bao màu hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi đã chết. Cho nên càng đánh, nàng lại càng thấy kiếm-pháp của Lý-Mộng-Ngọc kỳ-diệu thật khó lòng mà đánh thắng để lấy được cái bao hồng. Tiêu-Thanh-Đồng toát cả mồ hôi ướt đẫm như tắm.

Không thể ham đánh mãi, Tiêu-Thanh-Đồng đột nhiên phóng ra một thế kiếm gọi là ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ của phái Thiên-Sơn, đánh Lý-Mộng-Ngọc lùi dần ra sau. Thế kiếm này là tuyệt-kỹ của phái Thiên-Sơn, không bao giờ truyền cho ai ngoại trừ một vài đệ-tử thân tín như Tiêu-Thanh-Đồng.

Lý-Mộng-Ngọc thấy kiếm-pháp của Tiêu-Thanh-Đồng bỗng nhiên biến ảo vô cùng. Một đường kiếm biến thành ba, kiếm quan hết sức linh động. Có một điều là thế ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ này chỉ có công mà không có thủ. Bao nhiêu lợi hại đều tuôn ra hết, không dành lại cho mình một chiêu nào để phòng thân cả.

Thấy Tiêu-Thanh-Đồng dùng thế ‘Băng Hà Đảo Tả’ đâm tới vô cùng mạnh mẽ, Lý-Mộng-Ngọc bèn dùng chiêu ‘Nhất Trụ Hương’ với ý định đánh bạt lưỡi kiếm địch thủ qua một bên. Nhưng chẳng ngờ chỉ còn cách nhau hai thước chiêu kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng tức khắc lại biến thành thế ‘Thiên Lý Lưu Sa’ gạt lưỡi kiếm của Lý-Mộng-Ngọc sang một bên rồi cứ thế thẳng đường đâm tới.

Lý-Mộng-Ngọc kinh hãi vô cùng, vội vàng chuyển mũi kiếm trở về trước bụng để bảo-vệ. Nhưng thật là kỳ quái, rõ ràng địch thủ đâm mũi kiếm ngay bụng Lý-Mộng-Ngọc với tất cả sức mạnh nhưng chưa tới đích thì đã chuyển ra thế ‘Phong Quyện Trường Thảo’, từ trên sa xuống như điện xẹt chém mạnh vào cánh trỏ tay trái của Lý-Mộng-Ngọc làm cho nàng luýnh quýnh chỉ còn nước liều nhảy ra sau một bước. Vừa tránh được lưỡi kiếm lợi hại ấy trong đường tơ kẽ tóc, chưa kịp hoàn hồn thì Tiêu-Thanh-Đồng lại biến ra thế ‘Cử Hỏa Liệu Thiên’ quay ngược mũi kiếm từ dưới lên trên nhanh như gió, chém sả vào vai trái Lý-Mộng-Ngọc.

Lý-Mộng-Ngọc vừa tránh khỏi đươc thì Tiêu-Thanh-Đồng lại ra thế ‘Tuyết Trung Kỳ Liên’ chém tả chém hữu vùn vụt như tên lìa khỏi cung. Mặc dầu Tiêu-Thanh-Đồng không có ý làm tổn hại đến tánh mạng Lý-Mộng-Ngọc nhưng cũng ghép nàng vào tình trạng vô cùng khốn đốn.

Cả hai giao đấu với nhau một lúc đã khá lâu, không biết là bao nhiêu hiệp. Lý-Mộng-Ngọc mệt lả cả người, mồ hôi đổ như tắm. Đó là Tiêu-Thanh-Đồng chỉ dùng có một phần trong ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ bí truyền của phái Thiên-Sơn. Hễ Lý-Mộng-Ngọc đón đỡ được một thế kiếm thì Tiêu-Thanh-Đồng lại biến ngay ra chiêu khác. Nếu là người võ công tầm thường ở ngoài nhìn vào ắt sẽ tưởng là hai người giỡn chơi với nhau, nhưng sự thật đó là một trận đấu nguy hiểm vô cùng, tánh mạng lúc nào cũng như mành chỉ treo chuông.

Tiêu-Thanh-Đồng cú vây chặt Lý-Mộng-Ngọc trong vòng kiếm-pháp của mình mà không ngừng đâm chém. Mũi kiếm luôn luôn vung ra cách mình nàng chừng một thưóc rồi lại tấn công tới tấp khiến Lý-Mộng-Ngọc loạn cả mắt, ù cả tai, và tay chân thì bủn rủn, cứ lùi dần, lui mãi...

Kiếm-pháp của Tiêu-Thanh-Đồng vô cùng biến ảo khiến cho Lý-Mộng-Ngọc không tài nào đoán được. Nếu không nhờ Nhu-Vân-Kiếm của Lục-Phỉ-Thanh tận tình chỉ dạy cho để hộ thân trong lúc nguy kịch thì chưa biết tánh mạng nàng sẽ ra sao. Nhu-Vân-Kiếm của Lý-Mộng-Ngọc thật ra cũng luyện được đến nơi đến chốn. Nhưng nàng quên mất một yếu-tố quan-trọng là người sử dụng kiếm-thuật này phải tự tin, tâm phải vững để lấy ‘tĩnh’ mà chế ‘động’. Nếu nhớ kỹ được điều ấy thì cho dù địch thủ có biến ra bao nhiêu thế kiếm kỳ lạ hay tuyệt diệu đi chăng nữa cũng không không thao túng được đối phương.

Hiềm là Lý-Mộng-Ngọc mới bước chân vào giang-hồ, chưa thật sự cùng ai giao đấu nên thiếu hẳn ‘kinh-nghiệm chiến-trường’. Vì vậy khi thấy Tiêu-Thanh-Đồng sử dụng toàn những chiêu kiếm kỳ lạ thật lanh lẹ, so với kiếm-thuật của mình còn hơn bội phần thì tâm thần bỗng dưng hoang mang, mất hết tự chủ. Biết mình chưa phải là đối thủ của Tiêu-Thanh-Đồng, Lý-Mộng-Ngọc lừa thế thoát ra được vòng kiếm của đối phương rồi dùng khinh công đào tẩu.

Tiêu-Thanh-Đồng không thèm rượt theo, chỉ quay mình lại thì thấy một người đang cắt nốt mấy sợi giây buộc của cái bao màu hồng trên lưng Diêm-Thế-Khôi. Nhanh như cắt, hắn đã giựt lại được cái bao kia ra.

Tiêu-Thanh-Đồng bèn phóng một đường kiếm chặn lại, không cho tẩu thoát. Tên ấy bỗng kêu lớn lên:

-Ý thôi! Để lão Đổng này đi về chứ! Cản lại làm chi?

Hắn chính là Đổng-Triệu-Hòa. Hắn liệu sức, không dám chống cự với Tiêu-Thanh-Đồng nên lẹ chân nhảy vọt ra sau ba bước, lánh mình trốn nhủi trốn chui như một con chuột nhắt.

Tiêu-Thanh-Đồng không chịu bỏ, vừa rượt theo, vừa vung kiếm chém không ngừng. Bỗng nhiêu một ngọn Ngũ-Hành-Luân từ đâu đánh bổ tới ngay bụng Tiêu-Thanh-Đồng. Nàng không dám khinh thường nên phải xoay ngược kiếm đón lấy, gạt ngọn Ngũ-Hành-Luân sang một bên. Đổng-Triệu-Hòa nhờ thế mà thoát thân được.

Nguyên Mộc-Trác-Luân dùng kế hoạch rất chu đáo, trước mặt cũng như mé sau lưng đoàn bảo-tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục đều bố trí những thớt lạc-đà chặn lại hết. Kế hoạch rất hữu hiệu khiến cho cả tiêu đoàn trước sau không trông thấy được nhau, mà cũng vô phương cứu viện.

Mộc-Trác-Luân một mình một đao đấu với hai tiêu-sư là Thái-Vĩnh-Minh (#18) và Tiền-Chính-Luân luôn tay không nghỉ. Và nhờ có hai người cầm chân được Mộc-Trác-Luân, Diêm-Thế-Chương mới thừa dịp đó vượt qua được mà không bị cản trở và phóng Ngũ-Hành-Luân để yểm trợ cho Đổng-Triệu-Hòa.

Nguyên Diêm-Thế-Chương sau khi nhìn thấy Diêm-Thế-Khôi bị thảm tử thì lửa giận sôi lên. Y phóng ngựa liều lĩnh vượt qua bầy lạc-đà, một tay cầm Ngũ-Hành-Luân phang một cái thật mạnh vào cây côn sắt của người Duy lãnh nhiệm-vụ đứng canh xác của Diêm-Thế-Khôi. Nhát phang quá mạnh khiến cho cây côn sắt dội ngược lại ngay đầu người Duy vỡ sọ lăn từ trên lưng lạc-đà xuống đất chết tươi.

Thấy một người đồng bọn ngã gục, một người Duy khác tiến tới đương cự, cầm cây côn sắt nhắm đầu phang Diêm-Thế-Chương một cái. Diêm-Thế-Chương liền dùng cây Ngũ-Hành-Luân đánh bạt cây côn sắt qua một bên rồi dùng tay còn lại bắt lấy. Có lẽ là đôi khi lửa giận bốc phừng phừng và liều chết coi thường nguy-hiểm, sức lực con người cũng nhờ vậy mà gia tăng.

Nhờ Diêm-Thế-Chương liều mạng ôm cây côn sắt của người Duy giữ chặt nên Đổng-Triệu-Hòa có đủ thì giờ để gỡ cái bao hồng trên lưng tử-thi Diêm-Thế-Khôi ra mà tẩu thoát được.

Thấy Tiêu-Thanh-Đồng rượt theo Đổng-Triệu-Hòa, Diêm-Thế-Chương liền bỏ cây côn sắt đang giằng co với người Duy ra, thúc ngựa thật mau xông tới phóng cây Ngũ-Hành-Luân cản đường kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng lại mà cứu nguy cho họ Đổng.

Sau khi Đổng-Triệu-Hòa thoát thân được ôm theo cái bao màu hồng thì Tiêu-Thanh-Đồng và Diêm-Thế-Chương tiếp tục giao đấu. Trao qua đổi lại ít chiêu, cả hai bên đều ngầm khen ngợi tài nghệ tuyệt vời của nhau. Tiêu-Thanh-Đồng vừa đánh vừa nơm nớp lo sợ ‘anh chàng đẹp trai’ ban nãy trở lại giúp sức cho Diêm-Thế-Chương. Nàng vừa đánh vừa đề cao cảnh-giác.

Bỗng nhiên tiếng hồ tiêu từ hai bên triền núi lại vang lên. Tiêu-Thanh-Đồng biết đó là ám-hiệu cho biết phải rút lui. Nàng tin chắc là ‘quân tiếp viện’ của đoàn tiêu xa đã đến nơi rồi. Nàng đảo mắt nhìn qua tứ phía một lượt thì Đổng-Triệu-Hòa vai mang cái bao màu hồng, cỡi ngựa như bay vượt qua khỏi núi.

Tiêu-Thanh-Đồng lập tức dùng ngay ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ tấn công Diêm-Thế-Chương tới tấp. Những chiêu kiếm của nàng chẳng khác nào ‘tuyết rơi lá rụng’ khiến cho Diêm-Thế-Chương phải lùi lại đàng sau liên tục.

Tiêu-Thanh-Đồng bỗng bỏ Diêm-Thế-Chương, dùng khinh công bay lên hướng đỉnh núi như bay rượt theo Đổng-Triệu-Hòa. Tiếng hồ tiêu càng lúc càng thêm inh-ỏi. Mộc-Trác-Luân vội lớn tiếng gọi lại:

-Mau trở về thôi con! Đừng rượt nữa!

Tiêu-Thanh-Đồng xưa nay chưa bao giờ dám cãi lời thân phụ bất cứ điều gì, bất luận trong trường hợp nào. Nên khi vừa nghe ông gọi nàng liền vâng lời trở về ngay, không chút do dự. Sau đó, nàng đốc thúc đám người Duy đem tử thi của người bị đánh chết cùng với người bị thương cho lên lưng lạc-đà. Khi tất cả đều lên lưng ngựa hay lưng lạc-đà thì tiếng hồ tiêu lại trổi lên. Đoàn người Duy nhắm chân núi đi thẳng xuống. Mới đi được một đoạn, Tiêu-Thanh-Đồng gặp một đám Thanh-binh chừng vài chục mạng chặn đầu lại. Tăng-Đồ-Nam cầm thương múa, giục ngựa đến trước nạt lớn:

-Bọn thổ phỉ kia thật là to gan lớn mật? Có phải định tạo phản chăng?

Tiêu-Thanh-Đồng chẳng nói chẳng rằng, rút gươm ra đánh Tăng-Đồ-Nam một trận ‘tơi bời hoa lá’. Không đầy mấy hiệp, cây thương của Tăng-Đồ-Nam đã bị Tiêu-Thanh-Đồng đánh văng khỏi tay rớt xuống đất. Mộc-Trác-Luâm cũng dũng mãnh vung đao lên chém ngang chém dọc để mở đường. Cả đám người Duy bỗng hăng lên đánh thật dữ dội, và kết cuộc là đám binh lính của Tăng-Đồ-Nam phải vẹt đường ra.

Từ sau, Diêm-Thế-Chương và Thái-Vĩnh-Minh cũng đuổi tới nơi. Tiêu-Thanh-Đồng không nao núng, một mình múa kiếm như bay đánh cả hai người. Bỗng nhiên từ trong đám người Duy có một người cỡi ngựa phóng ra la lớn lên:

-Nhị muội, em hãy chạy đi! Để chúng nó cho anh!

Người đó chính là anh ruột Tiêu-Thanh-Đồng tên là Tiêu-Y, tay cầm một cây trường thương, một mình xông tới đánh với hai tiêu-sư. Tiêu-Thanh-Đồng cũng hợp sức với anh đánh kịch liệt. Nhưng cả hai anh em với mục-đích chỉ để cản đường cho đám người Duy chạy thoát thôi nên vừa cả hai vừa đánh vừa lui.

Lại thêm một hồi tiêu nữa trổi lên ở hai bên triền núi, cả Tiêu-Thanh-Đồng và Tiêu-Y cùng quay ngựa bỏ chạy.

Diêm-Thế-Chương rượt theo bén gót. Tiêu-Thanh-Đồng liền rút ra một ngọn Thiết-Liên-Tử nhắm đầu Diêm-Thế-Chương mà phóng. Diêm-Thế-Chương cả kinh dùng Ngũ-Hành-Luân mà đóng lất. ‘Keng’ một tiếng, cổ tay Diêm-Thế-Chương nhói lên một cái, đau nhức vô cùng. Cùng lúc ấy, ở hai bên triền núi từng cục đá lớn từ đâu lăn xuống như trời long đất lở. Thừa lúc hỗn độn, đám người Duy kéo nhau chạy đi thật lẹ, an toàn tẩu thoát...

Nhìn thấy tử thi anh ruột chết một cách thê thảm, tử thi thì dập nát, máu thịt tơi bời, Diêm-Thế-Chương bất-giác òa lên khóc. Tiền-Chính-Luân và Thái-Vĩnh-Minh dùng lời an ủi mãi, Diêm-Thế-Chương mới chịu lên ngựa nhưng nét mặt thật ảm đạm u sầu. Những người trong tiêu đoàn thâu lượm tất cả tử thi những người bất hạnh bỏ hết lên xe.

Chỉ có Đổng-Triệu-Hòa là có vẻ đắc ý, khoác lác nói:

-Nếu lão Đổng ta mà không lanh tay thì chắc chắn con bé kia đã đoạt mất cái bao quý này rồi. Lão Đổng đã nói trước là không chắc gì Diêm ngũ gia bảo-vệ được nó. Quả đúng như vậy, không có lão Đổng này thì cái chết của Diêm ngũ gia chỉ uổng phí mà thôi!

Cả đám tiêu-sư nghe Đổng-Triệu-Hòa ăn nói huênh hoang bừa bãi, đã không được một lời chia buồn với người đồng nghiệp vừa chết mất anh ruột lại tỏ ra đắc ý khoe công cướp lại được cái bao màu hồng kia đồng thời thốt lên toàn những lời vô tình bạc nghĩa nên ai nấy đều bất bình. Nhưng đang lúc có chuyện buồn không vui sau cơn nguy khốn nên không ai nghĩ đến chuyện cãi vã hay sinh sự với hắn, nên đành lặng thinh im tiếng...

Còn nhắc về Lục-Phỉ-Thanh thì ông ta được chứng kiến tất cả từ đầu đến cuối, nhưng chỉ làm kẻ bàng-quan mà ngó thôi chứ chẳng theo bên nào chống bên nào.

Lý-Mộng-Ngọc bị lép vế dưới ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ của Tiêu-Thanh-Đồng nhưng làm cản trở ‘cô gái áo vàng’ kia không cho cướp đi ‘Khả-Lan-Kinh’ cũng như làm cho kế hoạch của đám người Duy thất bại. Cho đó là một ‘kỳ công’ của mình, nàng ta vênh vênh váo váo, ra chiều rất tự đắc, đinh ninh rằng ai cũng phải tán tụng, mang ơn nàng.

Ngờ đâu Diêm-Thế-Chương đau khổ vì cái chết của anh ruột, đám tiêu-sư mắc bận việc lo thu nhặt những tử-thi và băng bó cho những người bị thương, còn Đổng-Triệu-Hòa thì chỉ nghĩ đến cái bao màu hồng trên lưng kia từ đây thuộc về hắn nên không ai để ý gì đến Lý-Mộng-Ngọc cả.

Cả đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục vờ đi, hoặc giả cố tình không biết, không ai nói với Lý-Mộng-Ngọc lời nào, xem như nàng chẳng giúp được gì cho họ cả. Lý-Mộng-Ngọc thấy vậy lòng buồn ruời rượi, tiếc công mình đã ‘vào sinh ra tử’.

Đổng-Triệu-Hòa nhìn thấy Tăng-Đồ-Nam, bỗng nhớ lại vị ‘võ-quan võ-nghệ cao-siêu’ ban nãy chỉ huy đám quan binh chặn đường đám người Duy lại mà phải tổn hại một số binh lính khá đông nên vội vã đến trước mặt vòng tay, lễ phép nói những câu ‘cảm nghĩa’.

Bản ý Đổng-Triệu-Hòa không phải là cám ơn Tăng-Đồ-Nam đã ra tay trợ lực bọn chúng, chẳng qua vì thấy họ Tăng là võ-quan, có thế lực nên chủ tâm muốn thân cận để được nhờ mai sau. Nhưng Đổng-Triệu-Hòa trước sau không được một tiếng nào với Lý-Mộng-Ngọc, ‘chàng thanh-niên tuấn tú’ đã liều thân ngăn cản ‘cô gái áo vàng’ để cho hắn có cơ hội lấy cái bao vải màu hồng còn treo lủng lẳng trên lưng tử-thi Diêm-Thế-Khôi.

Nếu không có Lý-Mộng-Ngọc thì cho đến mười cái mạng như Đổng-Triệu-Hòa cũng phải tiêu tùng dưới tay Tiêu-Thanh-Đồng từ lâu rồi chứ nói gì đến chuyện đoạt lại được ‘Khả-Lan-Kinh’!

Lẽ ra Lý-Mộng-Ngọc muốn ‘dạy’ cho đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục một bài học đích đáng nhưng lại nhớ đến lời khuyên bảo của sư-phụ là đừng ỷ tài sinh sự, nhất là đừng ‘nhanh nhẩu đoảng’ can thiệp vào chuyện kẻ khác không liên-quan gì đến mình nên mới đành nén giận làm thinh.

Tuy vậy, chỉ cần nhìn vào nét mặt là Lục-Phỉ-Thanh đã đoán được hết những nỗi bất bình trong thâm tâm của Lý-Mộng-Ngọc. Ông bèn gọi nàng đến gần bảo:

-Đồ đệ! Thầy đã từng nói cho con biết bao nhiêu lần rằng trong giới tiêu-sư kia ‘người thì ít, ma thì nhiều’; tốt hơn hết là đừng đẻ ý gì đén bọn chúng cả! Sao con lại muốn cãi lời thầy mà định sinh sự với họ làm gì vậy?

Rồi Lục-Phỉ-Thanh mắng dồn cho Lý-Mộng-Ngọc một chập, nhất là việc nàng giúp bọn tiêu-sư ngăn cản công việc của đám người Duy khiến cho họ phải thất bại...

Khi vượt qua đỉnh núi thì bóng ác đã lên non dài. Hoàng hôn bao phủ mặt đất một màu vàng nhạt, như báo trước rằng ngày sắp tàn. Đã đến lúc cho đoàn xa tiêu và đoàn xa kiệu phải tìm chỗ nghỉ ngơi. Một khách-sạn nằm chắn ngang đường đi vào thị-trấn. Khách-sạn này thuộc hạng trung-bình, không lớn mà cũng chẳng nhỏ.

Bọn kiệu-phu thưa với Tăng-Đồ-Nam rằng:

-Thưa quan Tham-tướng, ở ngay ngã ba vào các thị-trấn chỉ có khách-sạn An-Viễn này là lớn hơn hết.

Đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục cũng dừng lại ngay khách-sạn An-Thông mà vào chọn phòng. Nhưng khi đến cửa chính, không một người nào ra tiếp đón niềm nở như các khách-sạn khác.

Đổng-Triệu-Hòa lên tiếng ầm ĩ mắng to:

-Bộ tất cả người trong khách-sạn này lớn nhỏ gì đều chết toi hết rồi hay sao mà chẳng có một mặt mo nào ra mời mọc chúng ông vào? Hãy coi chừng ông moi ba đời tổ tông chúng bay ra mà chửi rồi rồi phá tan khách-điếm này cho mà biết mặt!

Lý-Mộng-Ngọc nghe Đổng-Triệu-Hòa ăn nói hồ đồ lỗ mãng thì thật tình chỉ muốn xáng cho hắn mấy cát bạt tai để sửa trị. Xưa nay chưa có ai dám đứng trước mặt nàng mà lên tiếng chửi rủa om sòm như vậy cả. Chỉ vì sợ Lục-Phỉ-Thanh mà Lý-Mộng-Ngọc đành bịm môi, nhưng trong bụng hầm hầm.

Một người trong đám gia-nhân của Lý-Khả-Tú định đến ngay cửa để gọi người ra thì bỗng nhiên nghe bên trong có tiếng vũ-khí va chạm vào nhau kịch liệc như đang xảy ra một trận ác chiến ghê gớm. Lý-Mộng-Ngọc day qua nói với Tăng-Đồ-Nam rằng:

-Chắc là có một trận giao phong ác liệt nữa ở đây rồi.

Miệng nói vừa dứt, Lý-Mộng-Ngọc cầm thương xông vào. Bên trong tuyệt nhiên không có một bóng người. Lý-Mộng-Ngọc chạy đến trước một căn phòng bỗng thấy một thiếu phụ đầu bù tóc rối đang chiến đấu kịch liệc với bốn người đàn ông trai tráng khỏe mạnh. Mặt thiếu-phụ đượm vẻ đau khổ buồn rầu, tay trái cầm đao dài, tay phải cầm đao ngắn. Ánh sáng của hai lưỡi đao tỏa ra chói lọi, chứng tỏ đó là hai thanh bảo đao. Mặc dầu phải đánh với bốn người đàn ông lực lưỡng, võ-nghệ cao cường đang vây nàng vào giữa, thiếu-phụ chẳng chút khiếp sợ, liều mình chống cự.

Lý-Mộng-Ngọc đứng ngoài xem hai bên đánh nhau được mấy hiệp thì nhận xét được rằng bốn người đàn ông kia tìm cách đánh dồn cho đối phương phải vào trở lại phòng. Trái lại, thiếu-phụ nhất định ngăn cản, quyết không cho bọn họ đến gần cửa phòng. Nàng giữ vững được vị trí, chỉ có tiến chứ không hề lùi bước.

Bốn người đàn ông này toàn là những cao-thủ giang-hồ cả. Một người sử dụng cây nhuyễn tiên (#19), một người sử dụng cây hoài trượng, người thứ ba cầm kiếm, và người thứ tư múa câu quỉ đầu đao.

Cùng lúc ấy, Lục-Phỉ-Thanh cùng đám người xa kiệu cũng đã kéo nhau đến trước cửa phòng nơi đang diễn ra trận ác chiến. Lục-Phỉ-Thanh nhìn thấy, trong bụng nghĩ thầm rằng:

_Lạ thật! Sao lần xuất ngoại (#20) này mình toàn gặp những tay cao-thủ cả?

Lục-Phỉ-Thanh đang ngơ ngác suy nghĩ thì thấy người đàn ông sử dụng cây hoài trượng giá thẳng lên, dùng hết sức bình sinh đánh xuống ngay đầu thiếu-phụ. Thấy tình thế căng thẳng, thiếu-phụ không dám đưa đao ra đỡ, chỉ né mình lách tránh.

Vừa tránh được cây hoài trượng thì ngọn nhuyễn tiên của người kia lại vụt đến ngay hông. Thiếu-phụ tay tái múa thanh đao dài nhanh như chớp, gạt phăng được ngọn nhuyễn tiên ra, đồng thời chém thẳng tới một đao ngay cườm tay địch thủ. Cây nhuyễn tiên bị cây đao dài đánh bạt ra một cái quá mạnh đến dội ngược hẳn lại. Nhưng chủ-nhân cây nhuyễn tiên bỗng nhiên chuyển lẹ nó sang ngay một thế khác định cuốn lấy cây đao. Thiếu-phụ nhanh tay rút kịp đao về làm cho cây nhuyễn tiên kia ‘cuốn gió’ thay vì cuốn lấy cây đao như dự định. Thế nhưng hiểm nguy vẫn chưa thoát khỏi được. Thanh quỉ đầu đao lúc đó từ đâu nhanh như cắt bổ xuống đầu hòa với mũi kiếm đâm thẳng vào hậu tâm thiếu-phụ, hai mặt trên dưới cùng hiệp công một lượt. Thiếu-phụ tay mặt cầm thanh đao ngắn gạt đường kiếm qua một bên rồi khẽ nghiêng đầu qua để né tránh thanh quỷ đầu đao. Mặc dầu thiếu-phục ngăn được nhát quỷ đầu đao kia không để chém trúng đầu mình nhưng phía vai trái thì không tài nào lách kịp, liền bị chém trúng một nhát.

Mặc dầu thọ thương, thiếu-phụ vẫn không chịu lùi bước, cứ ngang nhiên lăn sả vào vòng chiến. Hai cây đao vẫn nhanh nhẹn vô cùng, khi gạt tả, lúc chém hữu chống lại với bốn món binh-khí. Nhưng máu tươi ở bả vai thiếu-phụ vẫn tiếp tục tuôn ra. Nếu tình trạng này còn tiếp tục thì sẽ chẳng bao lâu thiếu-phục sẽ phải gục ngã vì sức sẽ một lúc một yếu dần đi. Người cầm nhuyễn tiên bỗng nhiên la lớn:

-Đừng có giết hắn, mà cố phải bắt sống!

Lục-Phỉ-Thanh thấy bốn người đàn ông vây đánh một thiếu-phụ thì trong lòng hết sức bất nhẫn. Lòng nghĩa-hiệp của ông bỗng dưng lại nổi dậy. Sở dĩ ông còn do dự chưa nhảy vào giúp sức thiếu-phụ là vì lại nghĩ đến cái họa của mình đang vướng phải, đang bị truy nã gắt gao, nếu để lộ tung tích có thể rước họa vào thân như không...

Lúc đó, người cầm hoài trượng liên tiếp dùng những đòn hiểm ác đánh ra bắt buộc thiếu-phụ phải tránh né không ngừng. Đôi khi tránh né không kịp, đao ngắn của nàng ta phải gạt trượng qua một bên. Đao ngắn vừa gạt xong trượng thì đao dài lại phải chống đỡ mũi trường kiếm đâm tới.

Lục-Phỉ-Thanh thầm khen ngợi bản lãnh tuyệt diệu của thiếu-phụ. Đứng trước cường địch đông đảo, người nào người nấy đều là những cao-thủ có hạng trên giang-hồ mà nàng vẫn không nao núng chút nào, dù phải ‘một đối bốn’. Đó là thiếu-phụ đã bị thương, sức lực có phần suy giảm đi ít nhiều...

Cây đao của thiếu-phụ vừa chạm mạnh vào trường kiếm của đối thủ thì ‘ánh lửa’ lóe lên một cái. Chỉ thấy mấy tiếng ‘loảng xoảng’, cây đao đã rơi gọn xuống dưới đất.

Không bỏ lỡ cơ-hội tốt, người sử kiếm quát lên một tiếng đâm tới một thế vô cùng hiểm ác. Thiếu-phụ thấy vậy nhảy vọt sang phía bên mặt, tránh khỏi được ngọn kiếm. Ngay lúc đó, người sử dụng thanh quỷ đầu đao lại bổ xuống đầu thiếu-phụ một cái, chân thì bước lên gần phía cửa phòng, toan xông vào. Nhưng thiếu-phụ hình như không còn quan tâm chi đến việc sống chết nữa. Nàng cúi xuống, vừa tránh được ngọn quỷ đầu đao, vừa nhặt cây đao dài của mình lên, múa cả hai cây đao chém nhầu, quyết ngăn lại không cho hắn bước vào trong phòng.

Tên sử dụng quỷ đầu đao tưởng ba người đồng bọn dư sức yểm trợ được cho hắn cản thiếu-phụ lại nên toan rắp tâm mở cửa phòng bước vào. Chưa kịp mở cửa, hắn chợt nghe ‘vèo vèo’ hai tiếng đàng sau lưng. Cả kinh, hắn vội lách mình né tránh, nhưng đã quá trễ! ‘Phập phập’ hai tiếng, trên ót, trên lưng hắn đã lãnh trọn hai mũi phi đao. Rất may cho hắn là nhờ thiếu-phụ bị thương nên tay có phần yếu sức, vì vậy cả hai mũi phi đao cắm không sâu lắm nên hắn vẫn còn giữ được tánh mạng. Tuy không đến nỗi tuyệt mệnh, nhưng hai vết thương cũng hành hắn đau đớn khôn tả. Hắn kêu la ơi ới, cầu cứu với đồng bọn:

-Mau lùi lại! Rút giùm tôi hai ngọn phi đao ra không thì tôi chết mất!

Thiếu-phụ tuy đả thương được một người nhưng chính bản thân nàng cũng trúng phải một cây hoài trượng khiến cho thân hình lảo đảo muốn ngã xuống. Thời may, ba tên còn lại thấy đồng bọn bị thương thì không hẹn mà cùng nhau lui về mấy bước. Một tên lo rút phi đao cứu nguy cho kẻ bị thương còn hai tên kia đứng thủ thế bảo-vệ.

Thấy cường địch tạm thời lui bước, thiếu-phụ lại liều mạng ra đứng trấn giữ cửa phòng. Lục-Phỉ-Thanh gọi Lý-Mộng-Ngọc lại ghé tai nói nhỏ:

-Thầy cho phép con tiếp tay với thiếu-phụ đánh bọn người kia mà giải vây cho nàng. Nhưng con phải nhớ là đừng làm thiệt mạng bất cứ người nào.

Từ lúc mới đến, Lý-Mộng-Ngọc đã có ý định nhảy vào vòng chiến giúp người cô thế chốn lại bạo tàn chỉ ngặt chưa có phép của sư-phụ nên đành đứng ngoài mà ngó, dù trong lòng cảm thấy hết sức bất bình, tay chân thì ngứa ngáy khó chịu. Nay được Lục-Phỉ-Thanh gọi đến giao phó cho trách nhiệm ‘bảo-vệ’, và giúp đỡ cho thiếu-phụ kia thì quả thật là trúng ý mình. Lý-Mộng-Ngọc cảm thấy vui mừng không xiết, không thể nào mà nói được.

Vụt một cái, Lý-Mộng-Ngọc đã nhảy đến đứng trước thiếu-phụ, nhìn bốn người kia khảng khái lớn tiếng rằng:

-Bốn người đàn ông lại đi bao vây để đánh một người đàn bà! Sao mà đốn mạt thế? Thử hỏi những người có bản lãnh có chút danh tiếng có ai làm như thế không? Tại-hạ giữa đường thấy sự bất bình không thể mắt ngơ tai điếc được, nhất định phải can thiệp vào bênh vực kẻ yếu chống lại đám đông ỷ thế hiếp cô!

Bốn gã kia thấy có người nhảy vào can thiệp lại mạt sát bọn hắn thậm tệ thì giận dữ vô cùng, nhìn Lý-Mộng-Ngọc như muốn ăn tươi nuốt sống. Bọn chúng đang định dàn trận đánh tiếp thì thấy trước cửa phòng của thiếu-phụ từ đâu xuất hiện một số người đông đúc trông rất là hiên ngang vũ dũng. Thêm vào đó là người của tiêu-cục, lại thêm cả quân lính của Tăng-Đồ-Nam đứng đầy, chật ních cả trong lẫn ngoài. Chúng biết là khó đương cự nổi nên rút còi ra thổi một hồi như báo hiệu rồi cùng nhau rút ra khỏi khách-sạn mà chạy trốn.

Lúc ấy thiếu-phụ trông người đã mệt lả, gương mặt xanh xao, mắt thì lừ đừ như chẳng còn chút sinh khí. Nàng dựa lưng vào cửa phòng thở hổn hển.

Lý-Mộng-Ngọc bèn chạy đến sát bên, kề miệng vào tai gọi:

-Tại sao bọn ấy lại bức hiếp tỷ tỷ đến thế?

Thiếu-phụ chỉ lắc đầu mà không đáp. Dường như nàng đã quá đuối hơi, không còn đủ sức để nói. Tăng-Đồ-Nam bỗng chạy đến gần Lý-Mộng-Ngọc nói:

-Thưa tiểu-thư. Thuộc-hạ được lệnh phu-nhân cho mời tiểu-thư về gấp!

Rồi Tăng-Đồ-Nam lại rỉ tai Lý-Mộng-Ngọc nói:

-Sở dĩ phu-nhân muốn gọi tiểu-thư về là vì phu-nhân nghe nói tiểu-thư sinh sự đánh nhau nên lo lắng vậy thôi chứ không có gì quan-trọng cả.

Thiếu-phụ thấy Tăng-Đồ-Nam mặc võ-phục của một vị tướng triều-đình thì bỗng nhiên biến sắc. Nàng chợt thu hết vũ-khí của mình lại rồi đi vào trong phòng đóng chặt cửa lại. Lý-Mộng-Ngọc không hiểu sao thiếu-phụ lại có thái-độ kỳ lạ như vậy, nhưng nàng cũng chẳng chút quan tâm, chỉ day qua Tăng-Đồ-Nam bảo:

-Được rồi! Tham-tướng cứ về trước! Tôi sẽ đến hầu phu-nhân sau.

Nói dứt lời, nàng chạy lại Lục-Phỉ-Thanh hỏi:

-Thầy à! Sao bọn họ lại quyết đấu ghê gớm thế? Thầy có hiểu vì lẽ gì không?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Thế đã thấm vào đâu! Giang-hồ đầy rẫy oán thù. Những màn ẩu đả, đâm chém giết hại lẫn nhau vẫn thường xảy ra như cơm bữa vậy! Còn về chuyện này thì thầy chưa thể nào đoán ra được. Nhưng theo thầy nghĩ thì bốn tên nam-nhân kia thế nào cũng sẽ trở lại. Cứ chờ xem sao.

Lý-Mộng-Ngọc còn đang định hỏi tiếp thì bỗng từ ngoài cửa có tiếng ‘mắng vốn’ om sòm, vừa chửi vừa la:

-Ông bà ông vải, mả cha nhà bây dám khinh khi ông à? Bây để phòng trống đặng thờ cúng mả nội ông tằng ông tổ vợ bây chắc? Chắc là bây cho là ông nội bây đây không có tiền trả chứ gì?

Chỉ nội cái giọng điệu ấy thôi, ai cũng có thể đoán được ngay đó là tên tiêu-sư Đổng-Triệu-Hòa chứ không ai khác hơn. Lại nghe tiếng một tên tửu-bảo ở khách-sạn nói như nài nỉ:

-Xin quan lớn đừng giận bọn tôi mà mắng chửi, tội nghiệp. Chúng tôi mở khách-sạn là mục-đích để đón rước quan khách, chiều khách, chứ có lẽ nào lại dám vô lễ với ngài? Thật không dám nói dối ngài, có mấy căn phòng đều có người mướn hết cả rồi!

Đổng-Triệu-Hòa lại hỏi:

-Căn phòng trên kia đã ai mướn đâu? Đưa ta lên đó xem thử!

Đổng-Triệu-Hòa vừa nói vừa chạy thẳng lên thì cùng lúc ấy, một thiếu-phụ mở rộng cánh cửa phòng bước vào bên trong. Hắn nghe rõ tiếng đàn bà nói vọng ra:

-Ca Ca! Em vừa kiếm được cho anh một ly trà nóng đây! Ráng dậy mà uống cho đỡ khát.

Đổng-Triệu-Hòa đã được nhìn phớt qua thiếu-phụ. Thấy dung nhan nàng kiều-diễm, hắn cứ đứng trân người ra mà ngó, mắt không hề chớp. Lửa dục trong lòng hắn bốc lên dữ dội, tâm hồn say sưa ngây ngất.

Căn cứ vào thổ-âm của thiếu-phụ, nàng chắc là người Giang-Nam bắt chước giọng nói của người Giang-Bắc. Tiếng nói của thiếu-phụ trong trẻo dịu dàng êm ái làm cho Đổng-Triệu-Hòa say mê chẳng khác nào bị hớp hồn. Hắn liền lên giọng ‘anh-hùng tự-phụ’, cố ý nói thật to để thấu đến tai thiếu-phụ rằng hắn là một nhân vật có tên tuổi trong giang-hồ:

-Đổng đại-gia ta từ thuở giờ một khi đến đâu, muốn ăn thì ăn, muốn ở thì ở, không ai dám trái ý phật lòng. Thế mà quân chó chết ở đây dám khinh thị đại-gia, cả gan dám nói là hết phòng! Thật là to gan lớn mật!

Miệng nói, mắt thì đăm đăm nhìn vào phòng. Sẵn dịp thiếu-phụ chưa gài cửa, hắn xô mạnh bước sấn vào. Thiếu-phụ bất ngờ nghe động liền quay lại. Nhìn thấy Đổng-Triệu-Hòa, nàng thét lên:

-Ối chao!

Vừa định xô hắn ra ngoài thì vết thương của thiếu-phụ bị động, khiến nàng đau đớn, xây xẩm cả mặt mày. Đó là vết thương nàng bị đánh trúng một cây hoài trượng khá nặng, cộng thêm vết thương bị chém nơi bả vai mất khá nhiều máu.

Đổng-Triệu-Hòa vào được bên trong, thấy trên giường có một thanh-niên đang nằm gối đầu. Trong phòng thiếu ánh sáng nên Đổng-Triệu-Hòa không nhìn được mặt mũi rõ ràng, chỉ thấy đầu và cánh tay người ấy quấn bít bùng vải trắng, khắp mình đều mang thương tích trầm trọng.

Nhìn thấy Đổng-Triệu-Hòa sấn đại vào phòng mình, người ấy lớn tiếng hỏi:

-Huynh đài là ai? Sao lại vào đây?

-Ta họ Đổng, làm tiêu-sư cho Trấn-Viễn tiêu-cục, nhân đi bảo tiêu ngang qua vùng này. Vì hết phòng nên định vào đây nghỉ đỡ. Còn thiếu-phụ kia là ai vậy? Có phải vợ huynh đó không? Nàng đẹp lắm đấy!

Người trên giường cả giận hét lên:

-Ngươi mau ra khỏi đây mau, nếu không thì chết!

Có lẽ vì bị thương quá nặng nên tiếng hét của người ấy không được lớn lắm, nhưng giọng nói rất trang nghiêm oai vệ khác thường.

Đổng-Triệu-Hòa đã được chứng kiến thiếu-phụ ấy đánh nhau trí mạng với bọn người kia thì biết rằng nàng là một người có võ nghệ hết sức cao siêu, mà nếu người này là chồng nàng thì chắc bản lãnh cũng ít nhất phải tương đương như vậy. Vì thế, hắn hiểu là không thể dùng uy vũ mà bức hiếp được. Nhưng khi nhìn thấy cả hai người đều mang thương tích, kẻ thì bất tỉnh, người thì nằm bất động trên giường nên lại đâm ra khinh thường, không sợ. Cho là cơ-hội tốt để chiếm đoạt mỹ-nhân, hắn bèn cười nhạt nói:

-Tốt hơn hết là anh nên để tôi ở chung phòng này thì may ra tánh mạng của vợ chồng anh mới mong được bảo toàn, không bị kẻ thù truy sát. Anh đứng có dại dột đến thế chứ! Sự hiện diện của tôi còn làm kẻ thù kính nể chứ như anh thì còn làm gì được đây?

Người đàn ông trên giường nghe Đổng-Triệu-Hòa nói bằng một giọng vô lễ khinh bạc thì không dằn được cơn thịnh nộ. Uất khí xung lên, mắt chàng trợn tròng, mặt đỏ bừng lên, toàn thân run rẩy.

Bất chợt, thiếu-phụ chạy đến bên giường ôm người đàn ông vào lòng, miệng an ủi rằng:

-Anh à! Thây kệ hắn! Đừng quan tâm tới những lời nói của những kẻ vô lại, vô lương tâm làm gì, cứ lo mà tĩnh dưỡng cho sớm bình-phục. Lúc này chưa phải lúc chúng ta gây thêm oán cừu. Cứ cố mà nhẫn nhịn vẫn hơn.

Đoạn day qua Đổng-Triệu-Hòa, nàng trợn mắt quát lên:

-Mau ra khỏi nơi đây! Tôi không muốn bị ai làm rộn cả. Mong ông hãy tự-trọng, giữ cái giá trị của con người một chút!

Đổng-Triệu-Hòa nham nhở cười đáp:

-Sao nàng lại đang tâm mà xua đuổi thôi thế? Bộ nàng không thích tôi ở đây giúp nàng à?

Người đàn ông trên giường bỗng vùng dậy, thét lên như sấm:

-A, cái tên này láo thật! Ngươi có dám đến gần đây cho ta rõ mặt mũi thế nào mà dám ăn nói hồ đồ xấc xược như thế không?

Đổng-Triệu-Hòa nghĩ là người đàn ông kia đang mang trọng thương khắp mình nên không tài nào làm gì nổi hắn nên ngang nhiên bước thẳng tới cười nói:

-Này đây! Muốn xem thì xem cho biết Đổng lão gia khôi ngô tuấn tú như thế nào!

Người đàn ông dịu giọng, ôn tồn nói:

-Xem chưa được rõ ràng lắm, hãy lại gần thêm tí nữa!

Đổng-Triệu-Hòa cười sằng sặc, tiến lên thêm một bước nữa thiếu chút nữa là đựng vào mình người thiếu-phụ làm nàng bẽn lẽn như hoảng hốt buông người đàn ông trên giuờng ra theo phản ứng tự nhiên. Đổng-Triệu-Hòa đắc ý bảo:

-Xem đi! Xem cho tường tận đi! Nếu được thì nhận ta làm đại ca, ta sẽ giúp đỡ cho. Tội nghiệp... thân xác như thế này thì chỉ làm khổ cho người đàn bà trẻ trung duyên dáng kia mà thôi! Lão Đổng thấy mà cảm khái cho thân phận...

Hắn nói chưa dứt câu thì người đàn ông trên giường ngồi phắt dậy, và nhanh như điện xẹt, tay trái điểm vào ‘Khí Dũ Huyệt’ một cái thật nhẹ nhàng rồi sẵn trớn vận nội công dùng thế ‘Viên Hầu Trịch Quả’ đấm mạnh vào lưng Đổng-Triệu-Hòa. Tự nhiên, Đổng-Triệu-Hòa thấy toàn thân tức khắc nhẹ như lông hồng, chẳng khác ‘đằng vân giá vũ’ (#21), bay văng ra khỏi cửa một cái vụt. ‘Bịch’ một tiếng, cả thân hình Đổng-Triệu-Hòa đã nằm xuống đất một đống ngoài cửa phòng.

Đổng-Triệu-Hòa bị điểm trúng huyệt đạo nên chỉ kêu ‘ứ ứ’ mà chẳng la thành tiếng được. Hắn nằm ngửa dẫy dụa trông giống như một con cá nằm trên cạn bị đánh dập đầu. May thay, có một tên xa-phu trong đoàn bảo tiêu của Trấn-Viễn tiêu-cục đi ngang qua trông thấy hắn liền nâng hắn dậy kêu réo om sòm:

-Đổng đại gia! Rán tỉnh dậy về lại phòng! Đừng nên sinh sự nữa! Các vị tiêu-sư cho biết là cả hai người ấy là cao-thủ của Hồng Hoa Hội đấy!

Đổng-Triệu-Hòa nghe nói bỗng khắp mình tuôn mồ hôi ướt đẫm. Gắng gượng lắm, hắn mới thốt lên được một câu:

-Ối... ối... chết mất rồi! Chân ta bị trật khớp xương không còn cử động được nữa!... Tôn lão tam, mi nói... mi nói... hai đứa... đó là... cao thủ... của... Hồng Hoa Hội thật sao?

Gã xa-phu họ Tôn nói:

-Trong khách-sạn đều xầm xì với nhau như vậy. Vừa rồi có bốn cao-thủ võ-lâm được phái đến để bắt sống cả hai giải về cho Hoàng-thượng nhưng không thành công mà chỉ gây nên một trận ác chiến. Lão gia không nghe chuyện đó hay sao?

Bấy giờ trong khách-sạn đã hay biết việc Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt nên tụ họp lại bàn tán xôn xao. Quang cảnh thật là hết sức huyên náo. Diêm-Thế-Chương đi ngang qua thấy vậy bèn hỏi:

-Chuyện gì thế? Chuyện gì thế?

Đổng-Triệu-Hòa lúc bấy giờ mới hoàn hồn, nhìn Diêm-Thế-Chương như cầu khẩn, giọng vô cùng thảm não:

-Diêm lục ca à! Làm ơn dìu hộ lão Đổng này về phòng trước đi rồi sẽ thuật lại đầu đuôi cho Diêm lục ca nghe. Lão Đổng đã thành phế nhân rồi, đi đứng một mình không vững nữa!

Diêm-Thế-Chương tuy nghe nói vậy nhưng vẫn chưa tin hoàn toàn. Hắn cho là Đổng-Triệu-Hòa ‘nằm vạ’ hoặc giả ‘có ít phít ra nhiều’. Nghĩ thì nghĩ vậy, song Diêm-Thế-Chương vẫn cúi xuống đỡ Đổng-Triệu-Hòa dậy rồi khẽ buông tay cho hắn đứng xuống đất đặng dắt đi. Chẳng ngờ vừa buông tay ra thì thân Đổng-Triệu-Hòa bỗng mềm nhũn như bún thiu, miệng nói lèo tèo mà tay chân như rụng rời ra cả nên khi Diêm-Thế-Chương vừa buông tay ra thì hắn quỵ ngay xuống đất chứ không thể nào đứng vững được.

Đổng-Triệu-Hòa đau đớn la lên:

-Ối trời ơi! Đau chết mất đi thôi! Tôi không thể nào đi đứng được, dường như xụi hết gân cốt rồi! Tôn lão tam đâu, làm ơn đỡ giùm tôi một chút!

Đổng-Triệu-Hòa chỉ còn biết kêu la chứ không còn cựa quậy nỏi. Diêm-Thế-Chương sau khi xem xét kỹ lưỡng thì biết rõ là Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt nên hỏi hắn:

-Bị kẻ nào đánh mà ra nông nỗi này?

Đổng-Triệu-Hòa nước mắt chan hòa, mặt ủ mày châu, hướng về phía phòng của thiếu-phụ và người đàn ông thương tích đầy mình mà đánh hắn.

-Diêm lục ca ơi! Trong phòng kia có một tay bản lãnh rất cao-siêu, bọn ta không ai có thể đương đầu với hắn được đâu.

Đổng-Triệu-Hòa trong lúc bị khốn đốn như vậy mà trong lòng vẫn thủ đoạn mánh lới, cố ý khiêu khích dụ cho Diêm-Thế-Chương nổi ‘anh hùng tính’ để đi gặp người đàn ông kia quyết đấu. Nếu Diêm-Thế-Chương hạ được người đàn ông kia thì coi như y cũng mượn được tay người khác trả thù hộ cho hắn. Còn rủi như Diêm-Thế-Chương bại, bị người kia đả thương thì hắn cũng có được một người ‘đồng thuyền’ để khỏi phải bị ‘đau khổ một mình’.

Thấy Diêm-Thế-Chương không mấy gì để ý đến lời hắn, Đổng-Triệu-Hòa bèn nghĩ ngay được một cách khác nói:

-Cái tên điểm huyệt đệ có một con vợ cũng ghê gớm lắm vì cả hai đứa đều là cao-thủ trong Hồng Hoa Hội. Chẳng trách sao Tiêu tam gia không bị chúng ám sát một cách bí mật. Bây giờ chúng lại còn công khai ra mặt khiêu chiến với Trấn-Viễn tiêu-cục nữa. Theo đệ nghĩ thì Hồng Hoa Hội là một đảng phái chống lại triều-đình. Chúng ta phải tìm cách mà diệt trừ chúng đi, vừa để trả thù riêng, vừa lập công với Hoàng-thượng. Huynh nghĩ thế nào?

Diêm-Thế-Chương ghe Đổng-Triệu-Hòa nói thấy cũng có đôi phần hợp lý. Nhưng khi nhớ lại trước đây hắn từng mắng xiên mắng xỏ anh em hắn cùng nhóm Quảng-Đông Lục Ma nên cũng tảng lờ chứ hoàn toàn chẳng buồn có ý kiến gì. Cúi đầu suy nghĩ một hồi, hắn lại tính thầm trong bụng rằng:

-“Người kia có tài điểm huyệt như thế tất võ công phải cao cường, vào bậc siêu đẳng vì từ xưa đến nay, những ai giỏi về khoa điểm huyệt đều là những tay võ-nghệ tuyệt luân cả.

Diêm-Thế-Chương tự lượng sức hắn, nhận thấy không thể nào thắng nổi người điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa kia. Hơn nữa, anh hắn là Diêm-Thế-Khôi đã chết rồi, mà Tiêu-Văn-Kỳ lại mất tích, thành ra uy lực của Quảng-Đông Lục Ma đã mất đi một phần ba. Chẳng những thế, đâu phải há chỉ có hai vợ chồng trên phòng kia thôi, Hồng Hoa Hội còn quy tụ đại đa số những cao-thủ bậc nhất trong các phái võ-lâm, cho đến ngay cả triều-đình kia còn chưa trừ nổi! Nếu vô cớ mà gây thêm oán cừu thì chỉ tạo thêm rắc rối nguy hiểm cho mình thôi chứ chẳng được lợi lộc gì. Còn như không biết tự lượng sức mình thì không khéo rồi đây lại vô tình mắc mưu Đổng-Triệu-Hòa, giúp hắn bảo vệ cái bao hồng đựng Khả-Lan-Kinh kia, để rồi chỉ một mình hắn được hưởng hết tất cả một khi cái bao màu hồng kia được trao tận tay đến Triệu tướng-quân. Cái gương của Diêm-Thế-Khôi, anh ruột hắn vẫn còn sừng sững ở đấy.

‘Cạn nghĩ cùng suy’, Diêm-Thế-Chương vẫn do dự, vẫn không biết phải tính làm sao. Khi đó, tiêu-sư Tiền-Chính-Luân đi ngang qua. Thấy Tôn lão tam, y dừng lại hỏi:

-Trong khách-sạn này có người của Hồng Hoa Hội thật sao?

Tôn lão tam đến gần, kề sát miệng vào tai Tiền-Chính-Luân nói nhỏ:

-Dạ, tôi biết rõ vì lúc bốn người đàn ông vây đánh một thiếu-phụ nọ mà không bắt sống được thì cùng lên ngựa chạy đi. Khi bốn người ấy ra khỏi khách-sạn thì họ có dặn một người lạ mặt đi qua đi lại ở ngã ba đường rằng: “Anh phải ráng mà coi chừng trước cửa khách-sạn này cho kỹ, đừng để con thiếu-phụ kia đưa thằng thanh-niên kia trốn ra được, vì hai vợ chồng đó là khâm-phạm của triều-đình, là hai tay cừ khôi trong Hồng Hoa Hội đó. Bọn tôi được hoàng-đế đặc phái đến bắt cả hai giải về kinh-đô. Nhưng bất ngờ bọn chúng có được nhiều kẻ đến tiếp viện nên thành ra chúng tôi đành thất bại. Giờ chúng tôi phải tức tốc đi báo tin cho quan binh địa phương cùng hợp sức để đối phó thì mới hoàn thành trách nhiệm được”. Chính tai tôi nghe rõ ràng câu chuyện của bốn người kia nói với đồng bọn nên chắc chắn không thể nào sai lầm được.

Tiền-Chính-Luân tuổi ngoài 50, làm tiêu-sư đã lâu, từng trải giang-hồ, võ-nghệ cao cường, lại biết nhìn xa hiểu rộng nên rất được Vương-Duy-Dương tin dùng. Nghe qua những lời của Tôn lão tam, Tiền-Chính-Luân khẽ đưa mắt nhìn Diêm-Thế-Chương láy một cái. Hội ý, Diêm-Thế-Chương liền mau mau đưa giúp Tôn lão tam đỡ Đổng-Triệu-Hòa dậy đưa hắn về phòng nghỉ ngơi. Sau đó Diêm-Thế-Chương ra gặp riêng Tiền-Chính-Luân hỏi:

-Chúng ta nên đối phó như thế nào đây?

Tiền-Chính-Luân đáp:

-Quả đúng là người trong Hồng Hoa Hội! Hiện thời tốt hơn hết là chúng ta khoan đụng đến chúng vội, chờ hỏi lại Đổng-Triệu-Hòa cho rõ ràng bản lãnh của hai người đó ra sao rồi sẽ tùy cơ ứng biến sau.

Rồi Tiền-Chính-Luân lại hỏi tiếp Tôn lãi tam rằng:

-Lão thấy hai vợ chồng người ấy giao đấu với bốn người đàn ông kia chứ?

Tôn lão tam thưa:

-Tôi mê mẩn mục kích, tưởng trong đời chưa bao giờ thấy được một trận ác chiến ghê gớm như vậy. Nhưng chỉ có một người thiếu-phụ giao đấu với bốn người kia thôi chứ không có một người đàn ông nào cả. Người thiếu-phụ kia vừa trẻ vừa đẹp, sử dụng hai cây đao một ngắn, một dài. Bốn người đàn ông kia võ-nghệ cao cường, sức mạnh kinh hồn cùng nhau hợp sức đánh, dùng bốn món binh-khí thật lợi hại thế mà không thắng nổi nàng đấy! Nàng đỡ trước ngăn sau, đón đông né tây, chém trên đâm dưới, thật chẳng khác gi một mãnh hổ tung hoành giữa đàn dê. Ngoài việc đấu với bốn người, hình như nàng còn cố giữ không cho ai vào được căn phòng đó nên có lẽ vì thế mà bị giới-hạn đi sự lợi hại phần nào, nếu không thì bốn người kia còn khốn đốn nhiều nữa!

Tiền-Chính-Luân nghe nói một hồi bỗng kinh ngạc kêu lên:

-Thôi! Bản lãnh sử đao như thế thì đích thị là Thần-đao Lạc-gia rồi!

Day qua Tôn lão tam, Tiền-Chính-Luân lại hỏi:

-Lão thấy thiếu-phụ ấy phóng phi đao phải không?

Tôn lão tam gật đầu lia lịa đáp:

-Đúng vậy! Nàng ta phóng hai phi đao khiến cho một người bị thương đến hai chỗ, một gần ngay ót, và một ngay trên lưng. Phóng xong, nàng thâu phi đao lại nhanh như chớp, chính tôi không tài nào thấy kịp!

Tiền-Chính-Luân nét mặt lộ vẻ lo lắng nhìn Diêm-Thế-Chương nói:

-Nhân vật thứ tư của Hồng Hoa Hội đang có mặt tại khách-sạn này rồi, không còn gì để nghi ngờ nữa!

Không nói thêm một lời nào, Tiền-Chính-Luân bèn theo Diêm-Thế-Chương đi thẳng về phòng Đổng-Triệu-Hòa để lo việc sắc thuốc, cứu chữa cho y. Tôn lão tam cũng nối gót theo sau...

Tất cả mọi việc xảy ra tại khách-sạn đều không qua khỏi được cặp mắt của Lục-Phỉ-Thanh. Ngay cả những việc đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục bàn luận với nhau đều lọt vào tai ông cả. Nhất là hai câu sau cùng của Tiền-Chính-Luân nói với Diêm-Thế-Chương là rõ ràng nhất, đáng chú ý hơn cả.

Sau khi người của Trấn-Viễn tiêu-cục đi rồi thì Lý-Mộng-Ngọc lại đến. Vừa gặp Lục-Phỉ-Thanh, nàng đã lên tiếng hỏi ngay:

-Thưa sư-phụ! Bao giờ thầy mới truyền cho con phép điểm huyệt đây? Ôi! Phép ấy thật là hay quá, tài tình quá! Đã không phải phí sức nhiều mà vẫn hạ được địch thủ dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chỉ một ngón tay cũng dư sức làm cho địch thủ biến từ con hổ thành ra con trùng.

Như đang bận suy nghĩ điều gì, Lục-Phỉ-Thanh không trả lời câu hỏi của Lý-Mộng-Ngọc. Ông ta tự bảo thầm trong lòng:

-“Nếu thiếu-phụ ấy quả thật là con cháu của Thần-đao Lạc-gia thì ta phải can thiệp chứ không thể làm ngơ được”.

Lý-Mộng-Ngọc lại hỏi:

-Thưa thầy, Thần-đao họ Lạc là ai vậy?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Tức là Thần-Đao Lạc-Nguyên-Thông, với thầy là chỗ thâm giao, khi xưa từng thề nguyền sống chết với nhau. Đã lâu rồi, thầy không được gặp lại, mới đây có nghe tin họ Lạc đã qua đời. Tình cờ hôm nay thầy trông thấy thiếu-phụ kia sử dụng đao-pháp giống hệt như của Lạc-Nguyên-Thông. Thiếu-phụ kia nếu không phải là con cháu thì cũng là đồ đệ của Lạc-Nguyên-Thông chứ không ai khác hơn vào đây được. Vả lại, từ xưa đến nay, chỉ có họ Lạc là xuất sắc về phép phóng phi đao mà thôi. Vì vậy, trong giới giang-hồ mới đặt biệt danh là ‘Thần-đao Lạc-gia’. Đã vậy, Lạc-Nguyên-Thông lại rất kén chọn môn đồ nên chưa hề nghe họ Lạc thâu nhận và truyền thụ phép phóng phì đao đó cho ai cả. Theo thầy nghĩ, thiếu-phụ có bản-lãnh phi thường kia chính là ái-nữ của Lạc-Nguyên-Thông.

Lục-Phi-Thanh ân hận về vấn-đề đại-sự của ông ta thất bại đến nỗi phải ẩn-tích mai danh ngót mười mấy năm trời nên bao nhiêu diễn biến trên giang-hồ trong thời-gian ấy không được hay biết gì cả. Mười mấy năm trôi lẹ như mây như gió, nay tái xuất giang-hồ nhìn thấy bao nhiêu điều mới lạ! Đang suy nghĩ, ông nhìn thấy hai tiêu-sư Tiền-Chính-Luân và Thái-Minh-Vĩnh, mỗi người một bên vai để cho Đổng-Triệu-Hòa vịn lên để dìu đi ngang qua mặt ông ta. Lục-Phỉ-Thanh vội vàng quay đi tức khắc để tránh, không cho hai người nhìn thấy mặt mình. Chợt đâu có tiếng của Tôn lão tam vang lên:

-Các vị tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục là Tiền-Chính-Luân, Thái-Minh-Vĩnh, và Đổng-Triệu-Hòa xin đến bái kiến Văn tứ đương-gia (#22) của Hồng Hoa Hội.

Liền khi ấy, cánh cửa phòng mở ra. Thiếu-phụ bước tới đứng sẵn mé trước nhìn bốn người của Trấn-Viễn tiêu-cục đang chậm rãi đi tới. Tôn lão tam đi đầu, hai tay cầm ba tờ giấy lễ phép hướng về thiếu-phụ kính cẩn trao, nhưng thiếu-phụ không nhận, và cũng không nói rõ lý do nào.

Ba tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục cùng với Tôn lão tam vẫn kiên nhẫn đứng chờ. Thiếu-phụ quay lưng, khép sơ cánh cửa lại, trở vào bên trong đến trước mặt người đàn ông nằm trên giường như thương lượng điều gì đó. Độ một lát sau, thiếu-phụ lại xô cửa bước ra nhìn bốn người nói:

-Xin mời các vị vào bên trong nói chuyện.

Bốn người bên Trấn-Viễn tiêu-cục liền theo gót nàng vào phòng. Thiếu-phụ đứng sát bên người đàn ông đang ở trên giường day mặt ra, không rời xa nửa bước. Người đàn ông vẫn nằm tỉnh bơ, cặp mắt sáng long lanh như gương nhìn đăm đăm vào bốn người mới vào không nháy.

Thấy cả bốn người đều mặc áo dài, không đeo binh khí, mặt không lộ vẻ gì là hung dữ, trái lại còn tỏ vẻ lễ-độ kính cẩn là đàng khác. Nhưng sắc mặt người đàn ông trên giường vẫn không thay đổi, ý chừng còn nghi ngờ đám người kia có thể định giở ngụy kế gì ra. Tiền-Chính-Luân với thái-độ cung kính, vòng tay mở lời trước:

-Người anh em trong tiêu-cục thật có mắt không tròng thành thử không nhận ra được Văn tứ gia nên mới thô lỗ xúc phạm đến oai hùm, tội thật đáng trừng trị tuyệt nhiên không dám thán oán chi cả. Chúng tôi không thể bỏ qua nên cùng nhau đến đây chịu lỗi, mong rằng tứ gia khoan hồng, lấy lượng bao dung mà châm chế cho.

Tiền-Chính-Luân nói xong liền hướng vào người đàn ông trên giuờng vái một cái thật dài. Thái-Vĩnh-Minh và Tôn lão tam cũng bắt chước vái theo, tỏ lòng thành thật và cung kính.

Người đàn ông trên giường vẫn không thay đổi sắc mặt, làm như không nghe thấy gì cả. Thiếu-phụ bèn kề vài tai người đàn ông ấy nói:

-Anh à! Có mấy vị tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục đến xin lỗi về câu chuyện sai quấy của một người ban nãy xúc-phạm đến anh.

Người đàn ông trên giường vẫn ngậm miệng làm thinh không nói. Tiền-Chính-Luân lại nói:

-Thưa Văn tứ nhưng nhưng (#23), mặc dầu chúng tôi chưa có dịp gặp mặt nhưng lâu nay chúng tôi rất ngưỡng mộ thanh danh của Tứ đương-gia. Vả lại, vị Tổng tiêu-đầu của chúng tôi là Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương với cùng với lão nhân gia của quý hội là vị Tổng đà-chủ tiền-nhiệm Vu lão anh-hùng cũng như lệnh tôn Lạc lão gia xưa nay giao tình rất hậu, có thể nói như người một nhà chứ chẳng phải xa lạ. Tiếc thay, người anh em chúng tôi lại không biết nên mới hành sự hồ đồ mà xúc-phạm như thế, thật là không nên không phải chút nào cả. Mong rằng Tứ đương-gia cùng nhưng nhưng nể tình Vương tổng tiêu-đầu chúng tôi và lòng thật tâm hối cải của người anh em mà tha thứ cho vậy.

Thiếu-phụ cũng lễ phép hướng về đám tiêu-sư đáp lại:

-Quý vị lượng thứ cho vì Tứ đương-gia của chúng tôi bị trọng thương mê man bất tỉnh nên không thể ngồi dậy mà tiếp quý vị được chứ chẳng phải vì căm hờn hay oán giận gì quý vị mà không đáp lễ. Xin để khi Tứ đương-gia của chúng tôi tỉnh lại tôi sẽ đem những lời vàng ngọc kia mà thuật lại. Đã hai ngày đêm Tứ đương-gia chúng tôi khi mê khi tỉnh như vậy đó. Mong quý vị cũng đừng chấp nhặt và phiền trách làm chi.

Thiếu-phụ dùng lời rất nhỏ nhẹ, êm ái hòa nhã mà đối đáp với người của Trấn-Viễn tiêu-cục vì nàng nhận thấy trong hoàn cảnh này thì ‘thêm bạn bớt thù’ vẫn hay hơn. Miệng nàng nói mà mặt thì hiện ra những nét lo âu buồn bã như hoa cúc ủ ê, như cành mai tàn tạ.

Tiền-Chính-Luân trông thấy người đàn ông nằm trên giường toàn thân đều băng bó vải trắng thì biết rằng những lời nói của thiếu-phụ là chân thật chứ không phải điêu ngoa giả trá. Nhân được dịp, hắn bèn nói luôn:

-Chẳng hay Văn tứ đương-gia bị thương ra sao mà trầm trọng thế? Chúng tôi sẵn có thuốc kim thương mang theo bên mình. Nếu nhưng nhưng cần dùng thì chúng tôi nguyện xin dâng lên.

Tiền-Chính-Luân muốn mua chuộc chút cảm tình cho mai sau nên mới chịu đề-nghị biếu thuốc kim thương chứ chẳng phải là tử tế gì. Hơn nữa hắn cũng muốn làm chút ‘ơn mọn’ để có dịp nhờ thiếu-phụ nói hộ, nhờ người đàn ông kia giải huyệt để cứu mạng Đổng-Triệu-Hòa cho khỏi nguy đến tánh mạng đó thôi. Nhưng không ngờ thiếu-phụ lại nói:

-Đa tạ hảo tâm của chư liệt vị, nhưng chúng tôi cũng có mang theo thuốc kim thương theo phòng khi cần đến rồi!

Tiền-Chính-Luân thất vọng. Nhưng hắn nhìn thấy thiếu-phụ có vẻ hiền nhân đức độ nên bèn đề cập ngay đến điều sở cầu của bọn chúng:

-Người anh em của chúng tôi vì xúc-phạm Tứ đương-gia nên bị điểm huyệt tê liệt gân cốt, bủn rủn tứ chi, dám mong nhưng nhưng cứu giúp làm phúc.

Thiếu-phụ ôn tồn nói:

-Tứ đương-gia của chúng tôi khi nóng giận không dằn được, nhưng không có ý làm tổn đến tánh mạng của Đổng tiêu-sư nên chỉ điểm vào huyệt nhẹ mà thôi. Do đó, chư vị cũng không có gì phải lo lắng đâu. Quý vị cứ an lòng về phòng tạm nghỉ, chờ cho Tứ đương-gia của chúng tôi tỉnh lại tôi sẽ yêu cầu người giải huyệt cho ắt hết ngay.

Tiền-Chính-Luân nghe thiếu-phụ hứa sẽ giải cứu cho Đổng-Triệu-Hòa thì mừng lắm, bèn cùng Thái-Vĩnh-Minh và Tôn lão tam đỡ Đổng-Triệu-Hòa cáo từ thiếu-phụ mà thối lui về phòng. Khi tất cả sắp sửa bước ra khỏi cửa, thiếu-phụ như sực nhớ ra điều gì bèn đón lại hỏi:

-À quên! Chẳng hay chư vị làm sao mà biết được tên họ của tôi?

Tiền-Chính-Luân đáp:

-Nhìn nhưng nhưng sử dụng cặp Uyên Ương Đao, lại được thưởng-thức tài phóng phi đao một lần hai cái nhanh như chớp thì đủ hiểu. Trên giang-hồ, trừ Thần-đao họ Lạc ra thì còn ai vào đó nữa?

-Còn Văn tứ đương-gia của chúng tôi thì sao quý vị lại biết được?

-Cái phép điểm huyệt của Văn tứ đương-gia vang dậy như sấm nổ bên tai, chỉ cần thấy qua là nhận được ngay, tưởng nhưng nhưng không nên lấy làm lạ! Nhìn cặp đao với lối phóng phi đao và phép điểm huyệt, chúng tôi tự nhiên phải biết đó là Uyên-Ương-Đao Lạc-Băng với Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai thôi!

Lạc-Băng (tức thiếu-phụ) mỉm miệng cười. Cái nụ cười ‘ngả quán xiêu đình’ làm cho Đổng-Triệu-Hòa như thây ma chờ chôn bỗng nhiên siêu hồn lạc phách ngã sụm trên vai Tiền-Chính-Luân...

Hồi 3

Trương Trọng Siêu vung thanh kiếm báu

Dư Ngư Đồng thổi ống sáo vàng

Lý-Mộng-Ngọc thấy Tiền-Chính-Luân đỡ Đổng-Triệu-Hòa ra khỏi phòng của Lạc-Băng đưa về phòng riêng thì nghĩ thầm:

-“Công-phu điểm huyệt thật là kỳ diệu! Cứ nhìn tên Tiêu-Sư kia hùng hổ thế nào mà khi bị điểm trúng huyệt rồi thì mặt mày méo xệch nhăn nhó không cách gì trị được đến nỗi phải khuất mình chịu nhục đi năn nỉ ỷ ôi xin cứu mạng! Thầy ta chắc chắn phải giỏi về môn điểm huyệt này lắm nên trông người vẫn ung dung mà không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên cả. Sao thầy ta lại không truyền cho ta phép điểm huyệt ấy nhỉ? Trước sau gì ta cũng phải xin thầy dạy cho ta mới được”.

Lý-Mộng-Ngọc quay trở về phòng mà trong lòng cứ lâng lâng mơ tưởng mãi đến công phu điểm huyệt. Dùng bữa xong, Lý-Mộng-Ngọc ba hoa chích chòe với bà nội và mẹ cho vui. Định đi tìm sư-phụ thì bị Lý thái-thái với Lý phu-nhân gọi lại rầy la:

-Tại sao con cứ thích đi sinh sự hoài vậy? Hết can thiệp vào việc người này lại xen vào việc kẻ khác! Từ nay bà cũng như mẹ không muốn con mặc y-phục cải nam-trang nữa, nhớ chưa! Con phải ở gần bà nội với mẹ chớ đừng cỡi ngựa đi buông lung nữa!

Lý-Mộng-Ngọc cười thưa:

-Thưa bà, thưa mẹ! Con nghe bà và mẹ thường than thở là không có con trai cho vui nên. Nay con cố biến thành con trai đây, sao bà và mẹ lại không muốn?

Lý phu-nhân chỉ có mỗi một mình nàng là con nên chiều chuộng nâng niu còn hơn cả châu ngọc, vì thế đôi khi mà nàng trở nên ương ngạnh. Vì vậy khi nghe nàng nói thế thì cả hai người chỉ cười mà thôi chứ không la rầy trách mắng nữa.

Chờ cho bà nội và mẹ lên giường đi nghỉ, Lý-Mộng-Ngọc cũng định cởi áo đi nằm thì bất chợt bên ngoài có tiếng động nhè nhẹ. Lý-Mộng-Ngọc day sang phía cửa sổ ngóng xem thì chấn song có tiếng kêu ‘lắc cắc’. Một bóng người đeo ngoài cửa sổ chõ miệng vào bên trong nói nhỏ rằng:

-Thằng bé ranh kia! Mau ra ngoài này! Ta có chút chuyện muốn hỏi ngươi đó.

Lý-Mộng-Ngọc ‘ừ’ một tiếng, tay cầm theo kiếm vội vàng mở cửa ra ngoài. Trong mà đêm u tối, Lý-Mộng-Ngọc trông thấy một cái bóng đen chờ sẵn tại đó. Vừa thấy nàng, bóng đen lập tức lên tiếng:

-Ta cũng khá khen cho ngươi dám ra đây gặp tao. Tưởng đâu ngươi co đầu rụt cổ trốn biệt trong phòng rồi chớ!

Dứt lời, cái bóng từ trong vách vụt ra. Lý-Mộng-Ngọc còn nhỏ tuổi nên rất háo thắng, chẳng khác gì hươu non không biết sợ cọp. Nàng không cần để ý rằng ở bên ngoài có những kẻ thù nguy hiểm đang mai phục hay không mà cứ thế phóng bừa ra. Lý-Mộng-Ngọc chưa kịp trả lời thì một lưỡi kiếm nhắm ngay mặt nàng đưa tới.

Lý-Mộng-Ngọc rút kiếm ra đỡ và hét lên:

-Ngươi là ai?

Cái bóng đen khẽ lui lại một bước, tay mặt chống kiếm, tay trái chỉ vào mặt Lý-Mộng-Ngọc, nói:

-Ta là Túy Vũ Huỳnh Khố Tiêu-Thanh-Đồng đây! Này, ta hỏi ngươi. Ta với ngươi không thù không oán, tại sao ngươi lại ra tay giúp bọn tiêu-sư kia làm trở ngại công việc của ta là nghĩa làm sao?

Lý-Mộng-Ngọc ngước mặt lên thì nhìn thấy rõ là cô gái áo vàng. Đôi mắt nàng trân trân nhìn Lý-Mộng-Ngọc với một vẻ đầy oán hận.

Bị chất vấn, Lý-Mộng-Ngọc chỉ ấm ứ, không sao trả lời cho xuôi được vì không có lý do chính đáng về việc làm trở ngại chuyện của Tiêu-Thanh-Đồng. Thế nhưng đã quen tính ngang tàng, suy nghĩ không được câu trả lời xác đáng, Lý-Mộng-Ngọc lại lên tiếng cãi bướng:

-Việc trong thiên-hạ thì phàm là người trong thiên-hạ ai cũng có thể can thiệp được. Ta vốn rất thích can thiệp vào chuyện thiên-hạ. Nếu ngươi không phục thì hãy giở kiếm-pháp ra mà cùng ta tỉ thí thêm chuyến nữa.

Dứt lời, Lý-Mộng-Ngọc vung kiếm lên chém tới. Tiêu-Thanh-Đồng tức giận ứa gan liền rút kiếm ra chống trả kịch liệt. Lý-Mộng-Ngọc vừa chống đỡ vừa lùi ra sau. Khi lui gần đến cửa phòng, Lý-Mộng-Ngọc bỗng nhiên gọi lớn lên:

-Thầy ơi! Thầy ơi! Mau cứu con với! Nó định giết con đây!

Tiêu-Thanh-Đồng bật cười lên một tiếng mà rằng:

-À, thì ra cậu bé này sợ chết thật mà! Không đâu, ta không thèm giết ngươi đâu mà sợ. Ta gọi ngươi ra đây để dạy ngươi một bài học cho ngươi khôn ra để từ nay không còn xen vào chuyện của ai khác nữa.

Lý-Mộng-Ngọc nghe nói vậy thì quay lưng toan bỏ chạy nhưng Tiêu Thanh-Đồng nhảy tới bám sát theo lưng, nhất quyết không cho nàng tẩu thoát. Lý-Mộng-Ngọc xoay lại, dùng một thế ‘Xuân Vân Hạ Triển’ nhắm Tiêu-Thanh-Đồng đâm tới. Tiêu-Thanh-Đồng chẳng chút sợ hãi, dùng ngay ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ chống đỡ lại và bắt đầu phản công tới tấp.

Lý-Mộng-Ngọc bị Tam Phân Kiếm Thuật của Tiêu-Thanh-Đồng đánh không kịp đỡ, rụng rời cả tay chân. Tiêu-Thanh-Đồng quát lên một tiếng rồi đâm thẳng một chiêu ngay bụng Lý-Mộng-Ngọc, thế kiếm thật dũng mãnh và lanh lẹn. Lý-Mộng-Ngọc cả kinh, thấy tránh né thì không còn kịp nữa, mà chống đỡ thì cũng không xong vì thanh kiếm của nàng đã lỡ đà lơ lửng trên không vì đã lỡ dồn hết sức vào nhằm chống đỡ một chiêu kiếm khác của Tiêu-Thanh-Đồng. Nhưng chẳng ngờ đó chỉ là một hư chiêu, mà Lý-Mộng-Ngọc đã mắc hởm.

Đang lúc nguy cấp, Lý-Mộng-Ngọc nghe đàng sau có tiếng người, rồi một bóng người xuất hiện rồi ‘xoảng’ một tiếng, thanh kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng đã bị đánh bạt sang một bên. Lý-Mộng-Ngọc cả mừng khi nhìn ra đó chính là Lục-Phỉ-Thanh, sư-phụ của nàng. Lý-Mộng-Ngọc đoán chắc sư-phụ đã nghe thấy tiếng nàng cầu cứu nên đến tiếp viện. Thừa lúc Tiêu-Thanh-Đồng khựng lại một cái, Lý-Mộng-Ngọc nhảy phóc một cái ra đứng gọn gàng đàng sau lưng Lục-Phỉ-Thanh.

Tiêu-Thanh-Đồng thấy Lý-Mộng-Ngọc đứng đàng sau lưng Lục-Phỉ-Thanh thì đoán chắc ông là sư-phụ của nàng. Nghĩ vậy, nàng liền múa kiếm xông tới giao đấu với Lục-Phỉ-Thanh. Qua vài hiệp, Tiêu-Thanh-Đồng thấy rõ kiếm pháp của Lục-Phỉ-Thanh chẳng khác với Lý-Mộng-Ngọc chút nào, hẳn là người cùng một môn phái. Tuy nhiên, kiếm thuật của Lục-Phỉ-Thanh thật vững vàng hơn Lý-Mộng-Ngọc rất nhiều. Mặc cho Tiêu-Thanh-Đồng xuất chiêu thần tốc bao nhiêu, Lục-Phỉ-Thanh vẫn ung dung từ tốn mà chống đỡ như chẳng chút phí sức. Đánh thêm vài hiệp nữa, Tiêu-Thanh-Đồng nhận thấy rõ là bao nhiêu thế của Tam Phân Kiếm Thuật của nàng đều bị Lục-Phỉ-Thanh chế ngự hết cả, và mình bắt đầu bị lép vế dần dần.

Lý-Mộng-Ngọc đứng sang một bên nhìn cả hai người so kiếm mà lòng say mê, xem hoài không chớp mắt. Nàng hết sức khôn lanh và quỷ quyệt, biết rằng đây là một cơ-hội tốt cho nàng mục kích được những cái linh diệu trong kiếm-thuật mà sư-phụ chưa truyền hết cho nàng, và Đồng thời cũng là một dịp may để cho nàng quan-sát kiếm pháp của Tiêu-Thanh-Đồng tường tận để rút tỉa những ưu và khuyết điểm có lợi cho nàng về sau. Thật là nhất cử lưỡng tiện!

Lý-Mộng-Ngọc thấy sư-phụ sử dụng ‘Nhu Vân Kiếm Thuật’ cũng chẳng khác gì nàng, chỉ khác là công-lực hỏa hầu của ông trên hẳn nàng một bậc. Chiêu thế tuy chậm rãi nhưng vững vàng, ngay từ đầu đã giữ được thế quân bình. Thêm vào đó, có thể nói là Lục-Phỉ-Thanh gần như có được niềm tự tin tuyệt đối, luôn luôn điềm tĩnh, không bao giờ hoang mang trước những đường kiếm biến hóa kỳ lạ của đối phương Một trong những bí quyết của ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ là dùng chiêu thức biến hóa để làm rối loạn tinh thần của đối phương rồi lựa sơ hở mà đánh vào. Nhưng Lục-Phỉ-Thanh không bao giờ bị rối loạn tinh thần. Vì thế, ‘Tam Phân Kiếm Thuật’ của Tiêu-Thanh-Đồng sử dụng không có công hiệu như khi đấu với Lý-Mộng-Ngọc.

Tiêu-Thanh-Đồng nhận thấy ngay kiếm-thuật của Lục-Phỉ-Thanh thật cao-siêu, thuộc vào hạng danh gia tiền bối, trên hẳn nàng. Nghĩ vậy, Tiêu-Thanh-Đồng liên tiếp sử dụng mấy ngón chân truyền là ‘Đại Mịch Cô Yên’ và ‘Bình Sa Lạc Nhạn’, hai tay vung lên hai ngọn ‘Thiết Liên Tử’ tấn công không ngừng với mục đích đưa đối phương trở về thế thủ để có cơ hội tẩu thoát.

Ngờ đâu Lục-Phỉ-Thanh sử dụng ‘Nhu Vân Kiếm Thuật’ thật khéo léo, dù đôi lúc phải đỡ gạt đôi chút nhưng sau đó thế công lại không ngừng đánh ra liên tục. Vì thế, Tiêu-Thanh-Đồng phải chống đỡ luôn tay, không có cơ hội để dừng tay nữa chứ đừng nói chi là thoát thân!

Tiêu-Thanh-Đồng vừa đánh vừa thầm kêu khổ. Nàng ở vào thế ‘tấn thối lưỡng nan’. Biết đánh lâu không thể được, mà muốn chạy cũng không xong! Nhưng nghĩ không lẽ lại đứng trơ ra mà chịu trận cho nên nàng phải miễn cưỡng đem hết sức lực bình sinh ra mà chống cự và phó thác, mặc cho số phận đưa đẩy.

Lý-Mộng-Ngọc đột nhiên tra gươm vào vỏ rồi bất ngờ nhảy vào ‘ăn có’, dùng một chiêu ‘Vô Cực Huyền Công Quyền’ kèm theo một cước. Nàng không có ý hại đối phương mà chỉ muốn trả cái thù hôm trước Mộc-Trác-Luân vặt trụi lông đầu ngựa nàng đưa cho Tiêu-Thanh-Đồng xén vụn ra trước gió.

Theo phong-tục của Hồi-Giáo thì việc con trai đùa cợt với con gái là không thể tha thứ được. Nhưng vì lần xuất ngoại này, Tiêu-Thanh-Đồng mang trong người một trọng trách nên đành nhẫn nhịn bỏ qua vì không muốn bị chú ý đến nhiều, có thể đưa đến chuyện bại lộ hành tung. Và đánh lý ra, một khuê-nữ ra đường phải che mặt bằng một miếng the mỏng, nhưng nếu làm vậy lại cành gợi cho người lạ thêm tính hiếu kỳ nên nàng cũng bỏ luôn để tự nhiên đi lại, dễ bề hành động.

Chuyện Lý-Mộng-Ngọc, ‘chàng trai trẻ’ đùa cợt khiếm nhã với mình, Tiêu-Thanh-Đồng đã cho thông qua vì nàng chỉ chú tâm đến việc quan-trọng hơn là tìm cách đoạt lại Khả-Lan-Kinh. Nhưng cái hận mà Lý-Mộng-Ngọc giúp bọn tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục làm hỏng đại-sự của dân-tộc Duy, nàng không thể tha thứ được. Do đó nàng quyết tìm đến nơi để cật vấn và cũng là để ‘dạy’ cho Lý-Mộng-Ngọc một bài học nhớ đời. Ngờ đâu, chuyến này Tiêu-Thanh-Đồng gặp phải sư-phụ của ‘oan gia’ là Lục-Phỉ-Thanh, một cao-thủ, võ-nghệ tuyệt luân vào hàng tiền bối khiến cho nàng đã không rửa hận được mà còn chuốc thêm lấy sự phiền toái, lâm vào tình trạng tiến không được mà lui cũng chẳng xong! Một mình Lục-Phỉ-Thanh nàng đã nhắm sức là không địch nổi, nay Lý-Mộng-Ngọc lại còn nhảy thêm vào vòng chiến thì phần bất lợi của nàng còn tăng thêm bội phần nữa!...

Thấy Lý-Mộng-Ngọc thừa cơ nhảy vào vòng chiến, Tiêu-Thanh-Đồng cả giận nên cho dù đang bị nguy khốn, nàng quyết liều mạng một phen với ‘tên thanh-niên người Hán vô sỉ’ này.

Nghĩ vậy, Tiêu-Thanh-Đồng dồn hết tâm trí để đối phó với Lý-Mộng-Ngọc mà không cần để ý đến Lục-Phỉ-Thanh làm gì nữa. Nhưng mũi kiếm của Lục-Phỉ-Thanh đã đưa ngay đến trước mặt nàng nên không thể làm ngơ được.

Tiêu-Thanh-Đồng né sang một bên tránh được mũi kiếm thì phía sau quyền của Lý-Mộng-Ngọc đã đánh tới, miệng nàng hét lớn:

-Xem quyền của ta đây!

Chiêu ‘Mãnh Kê Đoạt Mễ’ của Lý-Mộng-Ngọc nhanh như chớp đã đánh trúng vào vai trái của Tiêu-Thanh-Đồng. Dù biết trước là thế, Tiêu-Thanh-Đồng cũng không tài nào tránh né được.

Sau khi đánh trúng vào bả vai Tiêu-Thanh-Đồng, quyền của Lý-Mộng-Ngọc biến thành trảo, năm ngón tay như năm mấu sắt nhọn chụp vào vai nàng bấu mạnh. Tiêu-Thanh-Đồng vội vàng dùng một thế ‘Cầm nã Thủ’ trở ngược cánh tay trái lại định đánh bạt tay của Lý-Mộng-Ngọc ra.

Lý-Mộng-Ngọc thừa dịp tay phải của Tiêu-Thanh-Đồng mắc cầm kiếm bèn dùng nắm tay trái phóng ra một quyền đánh ngay vào dạ dưới của Tiêu-Thanh-Đồng. Thấy ngọn quyền quá hiểm ác, Tiêu-Thanh-Đồng cả kinh không biết đối phó làm sao, chỉ còn cách thối lui lại đàng sau, tránh được bao nhiêu thì tránh mà thôi. Cũng may là Lý-Mộng-Ngọc không dùng toàn lực và cũng không muốn hại Tiêu-Thanh-Đồng nên khi quyền vừa đánh trúng bụng Tiêu-Thanh-Đồng thì Lý-Mộng-Ngọc xòe bàn tay ra vuốt nhẹ một cái rồi rút tay về, miệng tủm tỉm cười.

Bình-sinh, Tiêu-Thanh-Đồng chưa bao giờ bị ai làm nhục đến thế này! Mặc dầu quyền của Lý-Mộng-Ngọc không làm nàng đau đớn gì, nhưng bàn tay của ‘chàng thanh-niên’ kia đã đụng đến thân thể nàng. Tệ hơn nữa, thái-độ của ‘thanh-niên’ kia dám xúc-phạm đến mình như thế thì không thể tha thứ cho hắn được. (#1)

Tiêu-Thanh-Đồng vừa thẹn lại vừa giận, bịm môi cắn răng ra chiều khổ sở đau đớn vô cùng. Nàng thét lớn một tiếng, chém ngay vào mặt Lý-Mộng-Ngọc một cái. Lý-Mộng-Ngọc sau khi chọc giận được địch thủ đang đắc ý bỗng giật mình kinh hãi vội vã lách mình tránh né. Đã quyết tâm giết chết kẻ thù, Tiêu-Thanh-Đồng nhắm bụng Lý-Mộng-Ngọc, dùng hết sức bình sinh đâm một kiếm thật mạnh.

Lục-Phỉ-Thanh biết đây là một chiêu trí mạng nên vội vàng đưa kiếm ra đỡ cho Lý-Mộng-Ngọc. Bị Lục-Phỉ-Thanh ngăn cản, Tiêu-Thanh-Đồng cũng chẳng buồn nghĩ đến chuyện đấu với ông, chỉ quyết liều mạng với Lý-Mộng-Ngọc mà đâm với chém liên tục. Lục-Phỉ-Thanh đã được chứng kiến kiếm pháp tinh xảo của Tiêu-Thanh-Đồng nên không dám coi thường lơ đãng vì sợ Lý-Mộng-Ngọc cậy tài khinh thường mà nguy đến tánh mạng.

Lục-Phỉ-Thanh khi giao đấu với Tiêu-Thanh-Đồng chẳng qua là để thử sức chơi thôi chứ không có ý làm thương tổn đến tánh mạng của nàng nên những đường kiếm của ông đều giữ gìn cẩn thận, không cho chạm đến người nàng. Đôi khi mới phóng ra có một nửa mà nhắm Tiêu-Thanh-Đồng không thể đỡ được, ông đã lẹ tay thu về ngay.

Nhưng Tiêu-Thanh-Đồng giờ đây đấu với Lý-Mộng-Ngọc lại khác. Cho là bị ‘chàng trai’ cố tình chọc tức và làm nhục mình, Tiêu-Thanh-Đồng không còn nhân nhượng nữa. Chiêu kiếm nào của nàng đưa ra cũng đều hiểm độc dũng mãnh, chỉ chực kết liễu mạng đối phương.

Thế nhưng Lý-Mộng-Ngọc không biết là nguy hiểm cứ tiếp tục dùng quyền đấu với Tiêu-Thanh-Đồng thôi chứ không chịu rút kiếm ra khiến cho Lục-Phỉ-Thanh nhiều phen phải điên đầu, lộn ruột.

Bị Tiêu-Thanh-Đồng đánh liên tiếp những chiêu hiểm ác, Lý-Mộng-Ngọc càng lúc càng kém thế mà lui dần. Nhưng nàng vẫn không chút rối loạn hay sợ hãi vì ỷ lại có Lục-Phỉ-Thanh bên cạnh, sẽ cứu nguy cho nàng khi cần. Lý-Mộng-Ngọc vẫn tiếp tục đùa bỡn tự nhiên. Nàng vừa lui bước vừa khiêu khích Tiêu-Thanh-Đồng:

-Đàng này không có khí giới! Đàng ấy có giỏi thì giết chết được đàng này mới là tài!

Tiêu-Thanh-Đồng dùng tuyệt kỹ trong kiếm thuật ‘Thân Tuấn Túc’ đâm thẳng vào Lý-Mộng-Ngọc. Nhưng khi kiếm vừa tới nơi thì đột nhiên chuyển thành thế ‘Hải Thị Mâu Lân’, là một thế bí truyền của phái Thiên-Sơn, đòn hư hư thật thật, kiếm quang lấp lánh chói lòa làm cho Lý-Mộng-Ngọc hôn mê tán loạn cơ hồ mất mạng vì chống đỡ, né tránh càng lúc càng yếu đi...

Lục-Phỉ-Thanh hoảng hốt vội nhảy vào tấn công Tiêu-Thanh-Đồng ráo riết để cứu nguy cho đồ đệ. Lý-Mộn-Ngọc vẫn ngổ ngáo, không biết là thầy vừa cứu nguy cho mình, miệng vẫn cười nói, tiếp tục châm chọc đối phương:

-Sao mà hăng thế hả cô em? Nếu muốn nhận đàng này làm chồng thì phải nương tay một chút chớ!

Tiêu-Thanh-Đồng đánh không nổi Lục-Phỉ-Thanh lại cứ bị Lý-Mộng-Ngọc chế nhạo mãi nên vừa xấu hổ, vừa hậm hực. Lại cứ đinh ninh là Lý-Mộng-Ngọc là một chàng trai nên Tiêu-Thanh-Đồng quá phẫn uất đưa ngược mũi kiếm lại toan tự kết liễu đi một kiếp hồng nhan ‘bạc mệnh’.

Thấy Tiêu-Thanh-Đồng quyết tâm tự sát, Lục-Phỉ-Thanh hồn vía lên mây, liền chống thanh trường kiếm xuống đất, tung mình một cái đến sát sau lưng nàng dùng thế ‘Phế Vân Kiểm Nguyệt’ xô nhẹ bả vai nàng một cái khiến cho Tiêu-Thanh-Đồng lùi lại sau đến năm sáu bước rồi nhảy đến trước mặt Tiêu-Thanh-Đồng nói lớn:

-Cô nương đừng làm như thế! Sao lại liều mình?

Tiêu-Thanh-Đồng vừa buồn vừa giận, không ngăn nổi hai giòng lệ. Vừa toan quay mình chạy đi thì Lục-Phỉ-Thanh chạy theo cản lại nói:

-Cô nương chớ chạy! Lão có chuyện muốn nói cho cô nương nghe đây.

Tiêu-Thanh-Đồng giận lắm, hét lên:

-Lão còn muốn làm nhục gì ta thêm nữa đây?

Lục-Phỉ-Thanh quay lại nói với Lý-Mộng-Ngọc rằng:

-Con còn chờ gì sao không chịu tạ lỗi với cô nương?

Lý-Mộng-Ngọc miện cười ‘hì hì’ bước tới cúi đầu xin lỗi. Cơn giận chưa nguôi, Tiêu-Thanh-Đồng nhắm ngay giữa mặt Lý-Mộng-Ngọc phóng một quyền. Lý-Mộng-Ngọc tránh khỏi, cười nói như trêu chọc:

-Xí hụt! Đánh trật rồi!

Nói xong, Lý-Mộng-Ngọc đưa tay lên đầu lấy cái mão xuống để lộ ra một một mớ tóc mây óng ả rồi lại phá lên cười, nói tiếp:

-Đó! Xem thử ta là trai hay gái?

Dưới ánh trăng vằng vặc, Tiêu-Thanh-Đồng thấy quả nhiên đó là hình dung của một dáng quần thoa môi son má phấn. Nàng bất giác ngơ ngẩn như nằm mộng, không biết phải giận hay là vui, cứ đứng trân trân ra mà chẳng nói được gì.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Y thị là một đệ-tử của lão đó. Tính tình của nó liếng thoắng nên làm những việc không phải với cô nương. Xin cô nương vui lòng mà lượng thứ cho nhé!

Nói xong, Lục-Phỉ-Thanh lại vái Tiêu-Thanh-Đồng một cái như để chịu lỗi với nàng thay cho đệ tử. Tiêu-Thanh-Đồng lật đật tránh sang một bên, không dám nhận lễ của Lục-Phỉ-Thanh. Hình như nàng vẫn chưa hết giận nên vẫn chưa hé môi nói ra một lời nào cả. Lục-Phỉ-Thanh bèn hỏi:

-Thiên-Sơn Song Ưng là gì của cô vậy?

Nghe Lục-Phỉ-Thanh hỏi câu này liền nhướng đôi mày ngài, mờ đôi mắt phụng lên nhìn mà không nhận được Lục-Phỉ-Thanh là ai. Nàng vẫn im lặng không trả lời. Lục-Phỉ-Thanh lại nói:

-Lão phu cùng Thiên-Sơn Song Ưng Vân Loan Trần-Chánh-Đức với Tuyết-Châu Quan-Minh-Mai có mối giao tình rất hậu. Như vậy, thiết tưởng lão phu với cô nương cũng không phải chỗ xa lạ gì! Sao còn ngại ngùng mà chẳng chịu nói cho lão phu nghe?

Lúc đó Tiêu-Thanh-Đồng mới chịu lên tiếng giọng đầy cay đắng:

-Tuyết Châu chính là sư-phụ của vãn bối. Câu chuyện đã thế này tất vãn bối phải thưa lại sư-phụ cùng sư công (#2) rằng tiền bối đã không có lòng đoái hoài mà lại còn bao phen khinh khi bức bách kẻ hậu bối. Chẳng những tiền bối xúi đệ-tử chặn đường dùng đao kiếm quyền cước hà hiếp vãn bối, phá hỏng chuyện của vãn bối mà chính bản thân tiền bối cũng một hai quyết tranh phong với vãn bối kia nữa!

Tiêu-Thanh-Đồng miệng nói mà mắt ngó Lục-Phỉ-Thanh và Lý-Mộng-Ngọc lườm lườm, tỏ ra uất khí vẫn còn cao vời vợi và lửa giận vẫn còn đang cháy phừng phựt. Tiêu-Thanh-Đồng sau đó không muốn kéo dài thêm câu chuyện mà nàng cho là vô ích chỉ mất thì giờ, nên quay mình bỏ chạy. Nàng vừa chạy được vài bước thì Lục-Phỉ-Thanh bỗn lớn tiếng gọi:

-Này cô nương! Cô muốn bày tỏ cho sư-phụ và sư công biết câu chuyện hôm nay nhưng chưa hỏi tên họ người đã khinh khi uy hiếp cô là ai! Sao không chịu hỏi cho kỹ đã?

Tiêu-Thanh-Đồng sực nhớ ra bèn dừng gót lại hỏi:

-Vậy tiền bối hãy nói tên họ rõ cho vãn bối biết đi.

Lục-Phỉ-Thanh ung ung vuốt râu đáp:

-Cô nương cùng với đứa học trò của lão đều thuộc hạng hậu bối trẻ tuổi nên mới dễ sinh ra chuyện lôi thôi chẳng đâu vào đâu! Đứa học trò của tôi tên là Lý-Mộng-Ngọc, nhưng dẫu có nói thì sư-phụ và sư công của cô nương cũng chẳng biết nó là ai. Tốt hơn hết là chỉ nên thưa lại sư-phụ với sư công của cô biết lão phu là Miên-Lý-Châm Lục...

Thình lình Lục-Phỉ-Thanh bỏ dở câu nói mà dừng lại. Sở dĩ ông không muốn nói ra vì xưa nay Lý-Mộng-Ngọc chưa hề biết rõ tên thật của ông nên ông có ý muốn dấy nhẹm luôn. Vì trót lỡ lời, Lục-Phỉ-Thanh bèn nói chữa rằng:

-Cô nương cứ bảo là Miên-Lý-Châm phái Võ-Đang có dạy đứa học trò giỏi hay sinh sự, thế là đủ!

Tiêu-Thanh-Đồng gằn giọng nói:

-Dạy một đứa học trò giỏi hay sinh sự? Hay lắm! Dạy đứa học trò vô cớ khinh khi bức bách những người khác. Chắc cả sư-phụ lẫn sư công vãn bối sẽ ‘thán phục’ tiền bối lắm. Chẳng riêng gì đồ đệ của tiền bối, mà chính tiền bối cũng giỏi lắm! Cả hai thầy trò hợp sức chế ngự một người...

Lục-Phỉ-Thanh nghiêm nét mặt lại nói:

-Cô nương đừng tưởng rằng lão không đủ sức đánh bại cô nương mà lầm nhé! Trong giới giang-hồ chưa có được mấy cao-thủ có bản-lãnh cầm cự được với lão phu được mấy mươi hiệp chứ đừng nói là cô nương. Sở dĩ lão phu kéo dài cuộc so kiếm với cô nương là do một lẽ khác. Lão phu vốn biết xưa nay Thiên-Sơn Song Ưng thích nhàn du không chịu trói buộc nên chưa hề thâu nhận một đệ-tử nào. Tình cờ lão phu trông thấy khi cô nương giao đấu với đứa tiểu đồ đệ của lão phu, kiếm pháp giống hệt với kiếm pháp của Thiên-Sơn Song Ưng. Nếu không phải là do Thiên-Sơn Song Ưng chân truyền thì tất nhiên trên thế gian này không có một ai sử dụng được kiếm pháp ấy. Do đó lão phu đâm ra nghi hoặc, muốn tự lão phu thí-nghiệm với cô nương để khẳng định điều đó. Có thể nói cuộc đấu đó là chỉ để xác định những thế kiếm của cô có phải do chính Thiên-Sơn Song Ưng truyền thụ hay do người khác trong môn phái thôi chứ không phải là để phân cao-hạ với cô nương. Đôi lúc, lão phu dùng vài thế kiếm lợi hại để buộc cô nương phải đem những đường kiếm bí truyền ra chống đỡ nên cuộc đấu, hay nói đúng hơn là chuyện thử xem võ công cô nương mới có thể kéo dài đến mấy mươi hiệp. Nếu chỉ để đoạt mệnh cô nương thì lão chỉ cần vài ba hiệp là xong rồi. Khi thấy cô nương dùng chiêu tuyệt kỹ ‘Hải Thị Mân Lâu’ ra, lão phu mới quả quyết cô nương là chân truyền của Thiên-Sơn Song Ưng, bởi vì chỉ có ‘Song Ưng’ mới có được tuyệt chiêu đó. Tiện thể lão phu xin hỏi cô nương thêm một chuyện riêng là gần đây sư-phụ và sư-công của cô nương đã thuận với nhau chưa hay vẫn còn gây gổ lục đục?

Lục-Phỉ-Thanh nói xong cười lên hăng hắc tỏ vẻ đắc ý lắm. Tiêu-Thanh-Đồng nghe ông ta giải thích tường tận diễn giải phân minh đâu ra đó, lại biết cả chuyện riêng của sư-phụ và sư-công nàng nữa nên không còn nghi ngờ gì Lục-Phỉ-Thanh là bậc tiền bối, là bằng-hữu cố cựu của sư-phụ và sư công nàng thật. Tuy nhiên, nàng vẫn chưa chịu phục mà tiếp tục gặn hỏi:

-Nếu tiền-bối là chỗ thâm-giao của sư-phụ và sư công của vãn bối thì tại sao lại xúi giục đồ đệ của cụ ra mặt đánh phá hại tôi, khi dễ và làm trở ngại công việc của tôi? Chuyện đánh phá, khi dễ, tôi còn bỏ qua được còn việc ngăn trở làm tôi không đoạ lại được bộ Khả-Lan-Kinh thì thật là bất nhân! Vãn bối thiết tưởng tiền-bối không phải là một người tốt. Dẫu tiền-bối có là bằng-hữu cố cựu của sư-phụ và sư-công, vãn bối cũng không phục con người lẫn hành-vi của tiền-bối.

Nói xong, Tiêu-Thanh-Đồng lại muốn bỏ đi. Nàng không dùng lễ của thân phận kẻ hậu sinh đối với bậc tiền-bối trưởng thượng mà ra mắt Lục-Phỉ-Thanh theo luật giang-hồ một khi hai bên nhận biết nhau mà còn dùng toàn những lời cay cú, xốc óc, chứng tỏ lòng hận thù của nàng đã lên đến cực điểm, khó mà vãn hồi lại được.

Lục-Phỉ-Thanh cười nói:

-Đã biết chuyện tỉ thí với chuyện ngộ nhận không đáng bận tâm. Đã hiểu chuyện thâu hồi Khả-Lan-Kinh mới là việc quan-trọng thì sao không bàn với ta? Cứ xét cho kỹ thì sự hơn thua vinh nhục của một cá nhân chẳng có nghĩa gì cả, bất quá chỉ để thỏa mãn cái tự ái và cái cuồng vọng nhất thời. Việc đó đem lại gì cho cá-nhân? Cùng lắm là chỉ một chút danh hão, ít lời tán tụng... Ngoài ra còn được gì nữa? Đó là chưa nói về mặt trái. Nhưng mặt nào cũng vậy, trước sau chỉ là chuyện cá-nhân quá nhỏ. Còn cái vinh nhục của cả một dân tộc mới là lớn lao to tát, không thể lãng quên giây phút nào được. Người có lòng với dân, với nước, thì chẳng lẽ chỉ vì chuyện riêng tư cá-nhân của mình mà quên đi quyền lợi chung cho một tập thể, một dân tộc?

Lục-Phỉ-Thanh nói như than, như trách, mà cũng như dạy dỗ và nhắc nhở Tiêu-Thanh-Đồng về trách-nhiệm đối với dân tộc nàng chứ tuyệt nhiên không đề cập gì đến thái-độ lạnh lùng hay những câu nói vô lễ của Tiêu-Thanh-Đồng với ông ta. Trước những lời lẽ khảng khái chính trực đó, Tiêu-Thanh-Đồng ngẫm nghĩ rất nhiều và cảm thấy quả là những lời vàng ngọc đáng cho nàng ‘ghi tâm khắc cốt’. Rồi bao nhiêu tức khí, hận thù chứa chất trong lòng tự nhiên biến đi hết cả. Không chút do dự, Tiêu-Thanh-Đồng vội vã quay mặt lại, hướng về Lục-Phỉ-Thanh cúi đầu kính cẩn thi lễ. Với một giọng khẩn thiết, nàng thưa:

-Đứa cháu gái ngu si mê muội này thật không biết phải trái nên đâm ra hư hỏng, nhờ có tiền-bối dạy bảo cho mới tỉnh ngộ được, khác nào vén áng mây mù trông thấy ánh sáng trong. Xin bá bá rộng lượng mà tha thứ cho tất cả những lỗi lầm của điệt-nữ (#3) mà chỉ dạy cho những điều quý báu. Nếu như bá bá giúp điệt-nữ đoạt lại được bộ Khả-Lan-Kinh trong tay bọn cẩu trệ (#4) thì ơn đức của người chẳng những chỉ có điệt-nữ ghi tạc vào lòng thôi mà cả dân tộc Duy cũng muôn đời tri ân.

Tiêu-Thanh-Đồng toan sụp xuống lạy, nhưng Lục-Phỉ-Thanh lật đật đưa tay đỡ dậy không cho. Lý-Mộng-Ngọc nãy giờ im lặng chợt lên tiếng nói:

-Tiểu muội thật hồ đồ hấp tấp làm hư hại công việc lớn lao của tỷ tỷ. Đến nay đã hiểu rõ và ăn năn vô cùng. Nghe tỷ tỷ nói chuyện với sư-phụ, tiểu muội thật hối hận hết sức. Đáng lý ra tiểu muội phải giúp tỷ tỷ mới đúng mà đàng này lại hại tỷ tỷ để đến nỗi đắc tội cả với tỷ tỷ lẫn dân tộc người Duy. Nhưng việc đã lỡ rồi. Tỷ tỷ có trách thì tiểu muội cũng đành chịu thôi. Họa này do tiểu muội gây ra thì hãy để cho tiểu muội gánh chịu. Tiểu muội quyết đi tìm bọn tiêu-sư ấy đòi cho bằng được cái bao hồng có bộ Khả-Lan-Kinh trả lại cho tỷ tỷ để đền bù lại tội lỗi trót gây ra. Thôi, tỷ tỷ ở lại tiếp chuyện với sư-phụ để muội đi cho kịp thời nhé!

Lục-Phỉ-Thanh sợ Lý-Mộng-Ngọc nóng nảy thất thố không làm nên việc bèn gọi lại dạy rằng:

-Khoan đã! Không thể vội vã được! Muốn đoạt lại Khả-Lan-Kinh chúng ta phải cùng nhau đi dọ thám cho biết đích xác rõ ràng!

Thế rồi ba người đứng bàn luận với nhau một hồi. Theo kế hoạch, Lục-Phỉ-Thanh ở ngoài chờ nghe động tĩnh để đặng đối phó, còng Lý-Mộng-Ngọc và Tiêu-Thanh-Đồng phải dùng khinh công vượt ngang qua mặt tường vào bên trong khách-sạn xem xét cho kỹ lưỡng, cần thiết nhất là phải biết rõ hành tung của bọn tiêu-sư Trấn-Viễn tiêu-cục.

Sau khi vượt qua khỏi tường, Lý-Mộng-Ngọc thấy Đổng-Triệu-Hòa đi ngang qua, trên vai vẫn mang cái bao màu hồng bèn gọi Tiêu-Thanh-Đồng để ra dấu. Xong xuôi đâu đó, Lý-Mộng-Ngọc lại phóng mình nhẹ nhàng như một tàu lá, chạy đến ngay gian phòng của bọn tiêu-sư mà không phát ra một tiếng động nhỏ nào. Nàng nép mình ở bên ngoài, mắt sáng quắc, lắng tai nghe động tĩnh bên trong chẳng khác nào một chú mèo đang rình chuột. Trong phòng, đèn đuốc vẫn sáng trưng như ban ngày. Lý-Mộng-Ngọc bèn kéo Tiêu-Thanh-Đồng vào sát bên mình. Không dám để lộ hình dạng, cả Lý-Mộng-Ngọc lẫn Tiêu-Thanh-Đồng đều nép mình sát vào chân tường. Hai người nghe bên trong có tiếng Đổng-Triệu-Hòa kêu oai oái, tiếng kêu rất kỳ dị lạ tai. Nhưng sau đó thì bốn bề im phăng phắc, cảnh trí bên ngoài vắng lặng như tờ.

Được một lúc bỗng nghe tiếng của một tiêu-sư nói:

-Trương đại-nhân, ngài quả là một cao-thủ trong chốn võ-lâm. Ngài đã ra tay cứu giúp giùm người anh em chúng tôi khỏi chết. Ân đức ấy, thật chúng tôi không bao giờ dám quên.

Lại có tiếng Đổng-Triệu-Hòa nói nho nhỏ như rên rỉ:

-Tôi phen này bị thương quá nặng! Nếu Trương đại-nhân không đến kịp chắc đã thành phế nhân mất rồi! Dầu sao tôi cũng là một nhân vật có tên tuổi trong võ-lâm lại bị một kẻ vô danh trong Hồng Hoa Hội làm nhục thật là xấu hổ biết chừng nào! Nói thật với Trương đại nhân, chẳng thà là tôi chết chứ không đời nào tôi lại hạ mình cầu khẩn để nhờ chúng cứu cho!

Một tiêu-sư khác lại nói:

-Nếu biết được Trương đại-nhân đến như thế này thì nhất định chẳng bao giờ chúng tôi thèm đến hắn mà khuất mình nhận lỗi. Bây giờ hối thật không kịp! Càng nghĩ càng giận cho mình. Cũng tại vì thương xót Đổng-Triệu-Hòa mà chúng tôi phải xuống nước, chịu nhục đến như thế!

Sau đó một tiếng người oang oang nói lên:

-Mấy người hãy đưa ta đến xem hai con chó ấy mặt mũi ra sao mà chúng dám hung hăng như vậy! Không cần phải nhờ ai giúp, chỉ một mình ta đây cũng đủ sức bắt sống hai đứa nó. Thật xấu hổ làm sao! Một nhóm bốn người, có võ công, cầm vũ-khí mà đánh không lại một con đàn bà!

Lại có giọng ảm đạm thê-lương của Đổng-Triệu-Hòa như muốn khóc:

-Có Trương đại-nhân ở đây thì sợ gì mà chẳng bắt được hai đứa đó? Chính vì không có mặt của Trương đại-nhân cho nên tôi mới khổ sở, ra nông nỗi này đây!

Lý-Mộng-Ngọc không nhẫn nại được nữa. Nàng đứng dậy bước lại sát cửa sổ đưa tay bẻ gãy một cây chấn song, ló mắt nhìn vào. Bàn tay Lý-Mộng-Ngọc tuy mềm mại nhưng khi vận nội công, sức mạnh không thua gì một bàn tay sắt cứng rắn. Nàng lại bẻ song cửa nhẹ nhàng không gây ra một tiếng động nhỏ. Mà cho dù có gây ra tiếng động đi nữa, miễn là đừng lớn quá, tiếng nói của đám tiêu-sư cũng sẽ át đi và chẳng ai nghe thấy gì.

Lý-Mộng-Ngọc trông thấy rõ năm, sáu tên tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục ngồi chung một bàn. Ngay ghế chính giữa là một người tuổi chừng 40, trông oai phong lẫm liệt, khí vũ hiên ngang. Lý-Mộng-Ngọc tin chắc người ấy là ‘Trương đại-nhân’ mà bọn tiêu-sư đã hết lời tâng bốc. Người ấy có cặp mắt sáng như hai luồng điện, hai gò thái-dương nổi cao lên trên gương mặt.

Lý-Mộng-Ngọc nghĩ thầm trong bụng rằng:

-Người này giải huyệt được mà cứu mạng cho Đổng-Triệu-Hòa ắt nội công phải tinh thâm và tuyệt diệu, trên giang-hồ ít người sánh kịp. Căn cứ vào những lời thán phục tâng bốc của đám tiêu-sư kia, võ-nghệ người kia phải thuộc vào bậc nhất trong võ-lâm hiện nay. Nơi quan-trường mà có được những người bản lãnh cao cường như thế thì thật là một mối lo sợ không nhỏ cho các cao-thủ võ-lâm.

Bỗng nhiên Lý-Mộng-Ngọc lại nghe rõ tiếng của Diêm-Thế-Chương nói:

-Này lão Đổng! Chú đã bị trọng thương như thế thì nên trao cái bao hồng lại cho tôi bảo-vệ coi bộ chắc chắn hơn. Chú mà cố giữ thì có rủi ro nào xảy ra có phải là uổng công lao của tất cả chúng ta mà cũng ân hận cho vong hồn của anh Diêm-Thế-Khôi tôi dưới cửu tuyền (#5) hay không? Chúng ta ai giữ cũng vậy thôi, hà tất phải giành nhau làm chi! Việc thì việc công. Chết thì thôi, mà sống thì hết mình cho công việc. Chú nghĩ sao?

Đổng-Triệu-Hòa không còn biết nói sao, mặt buồn rầu chậm rãi tháo dần những sợi dây trên vai để lấy cái bao màu hồng xuống mà trao cho Diêm-Thế-Chương theo lời hắn yêu cầu. Thật ra Đổng-Triệu-Hòa không muốn nghe theo tí nào. Từ khi hắn giành được cái bao ấy trên lưng tử-thi Diêm-Thế-Khôi xuống thì bao nhiêu mộng đẹp hằng ôm ấp trong lòng. Nhưng giờ đây, trước tình thế này, hắn đành lòng phải bóp bụng, nghĩ mà đau đớn, thất vọng biết bao nhiêu! Đổng-Triệu-Hòa không muốn trao cái bao ấy cho bất cứ ai chứ không riêng gì Diêm-Thế-Chương. Chẳng qua là vì hắn sợ ‘Trương đại-nhân’ bất bình mà không cứu cho thì tánh mạng hắn chỉ có nước đi theo Diêm-Thế-Khôi mà thôi... Và rồi cái bao cũng sẽ về tay kẻ khác.

Đổng-Triệu-Hòa tuy đã lấy cái bao hồng xuống khỏi vai mà lòng vẫn còn do dự. Diêm-Thế-Chương thấy vậy nói:

-Lão Đổng à! Chú cứ vững bụng đi, đừng nghi ngờ chi hết! Không phải tôi muốn tranh công với chú đâu. Đây là việc chung, đừng nên để thất bại!

Bất đắc dĩ, Đổng-Triệu-Hòa phải trao cái bao lại cho Diêm-Thế-Chương. Lấy bao xong, Diêm-Thế-Chương mới dở giọng nói:

-Này lão Đổng! Chú từng nói với anh tôi là anh ấy không đủ sức cáng đáng nổi việc này, nếu chẳng may thất bại sẽ làm mất cả danh tiếng mấy chục năm của Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương. Chú lại rủa anh tôi rằng sẽ không tròn trách-nhiệm và chết với cái bao màu hồng này. Chẳng ngờ cái miệng của chú ác thật! Anh tôi quả chết với cái bao màu hồng này! Khi chú giựt cái bao trên tử thi anh tôi xuống, nếu không có tôi can thiệp mà ngăn cản con nhỏ áo vàng kia thì chắc chú cũng theo anh tôi luôn rồi! Nhưng tôi không vì những lời nói bất nhân của chú mà bỏ việc công nên vẫn liều mạng đánh với con nha đầu kia để cho chú được tẩu thoát. Thế mà chú vẫn tự đắc cho rằng không có chú thì hoài công tất cả, lại tiếp tục phỉ báng cái chết của anh tôi bảo là không làm tròn trách-nhiệm. Chú vẫn tự hào rằng chỉ có chú mới đủ sức bảo-vệ thanh danh của Trấn-Viễn tiêu-cục. Đến nay chắc chú đã thấy rõ rồi chứ? Chú còn đủ tài đủ sức bảo-vệ được của công ấy hay không? Bây giờ trao lại cho tôi, chú sẽ được dịp xem ai có tài trí, có bản-lãnh bảo-vệ cái bao này đem đến nơi đến chốn một cách bình an vô sự.

Diêm-Thế-Chương vốn đã hầm Đổng-Triệu-Hòa từ lâu và bất mãn đủ điều, nay được dịp nói hết tất cả những điều ấm ức trong lòng ra thì cảm thấy hả giận vô cùng. Đổng-Triệu-Hòa nghe Diêm-Thế-Chương nói xốn xang như thế chỉ cúi đầu làm thinh, vừa giận vừa thẹn. Hắn bỗng cảm thấy hối hận đã trao cái bao. Diêm-Thế-Chương nhìn mặt Đổng-Triệu-Hòa bỗng thấy tội nghiệp nên lại an ủi:

-Lão Đổng! Nói thì nói vậy thôi chứ tôi không hề oán hận chú đâu. Công lao chú khó nhọc thế nào, khi đến trước mặt Triệu tướng-quân tôi sẵn sàng trình bày rõ ràng để cho chú được ban thưởng. Từ đây chúng ta nên hết lòng hổ trợ lẫn nhau để hoàn thành trách-nhiệm.

Lý-Mộng-Ngọc nghĩ thầm:

-Cái bao này bây giờ ở tay Diêm-Thế-Chương thì khó lòng mà đoạt được hơn là ở tay Đổng-Triệu-Hòa. So với Đổng-Triệu-Hòa, bản-lãng Diêm-Thế-Chương còn cao hơn một bậc. Đổng-Triệu-Hòa chỉ có tài nói khoác là giỏi nhất, nhưng trên thực tế bản lãnh đều thua sút các tiêu-sư kia hết.

Nhưng rồi nàng lại nghĩ:

-Cơ hội này rất thuận tiện mà không đoạt thì còn chờ dịp nào nữa?

Lý-Mộng-Ngọc ghé miệng vào tai Tiêu-Thanh-Đồng nói nhỏ mấy tiếng rồi lấy cái mão trên đầu xuống, xõa tóc dài phủ kín cả mặt mày, đoạn lấy một cục than bôi lên đầy mặt. Ngụy trang xong, nàng cúi xuống nhặt hai cục gạch vỡ, ngầm vận nội công nhắm ngay cửa sổ liệng một cái thật mạnh nghe đến ‘rầm’ một tiếng. Bốn, năm cái song cửa gẫy tung ra liền một lúc, vì chịu không nổi sức công phá của hai cục gạch, kế tiếp là tiến gạch lẫn tiếng song cửa gẫy rơi như thác đổ xuống nền nhà.

Bỗng nhiên đèn đuốc bên trong đều tắt cả. Chằng bao lâu sau, chừng năm sáu cái bóng lực lưỡng nhảy vọt ra như những bóng ma kỳ dị. Bốn bề tối đen như mực nên không còn phân biệt được ai là ai. Một người trong bọn đứng ra hét vang như sấm:

-Kẻ nào dám to gan dám vào hổ huyệt (#6) mà giỡn với hùm? Có giỏi thì cứ đường đường chính chính mà ra mặt chứ đừng lén lút như chuột ăn vụng cơm thiu!

Tiêu-Thanh-Đồng theo kế hoạch đã bàn nên hội ý, hiểu ngay, móc tiêu ra thổi vang lên một hồi inh ỏi. Sau đó nàng dùng thuật khinh công tung người một cái như một mũi tên bay thẳng, lẹ làng vô cùng.

Đột nhiên, đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục thấy có bóng người bỏ chạy liền reo hò và lập tức đuổi theo. Chờ cho cả bọn ra chạy hết ra khỏi phòng, Lý-Mộng-Ngọc như một con én, nhanh nhẹn tung mình qua cửa sổ vào bên trong...

Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt suốt nửa ngày, mặc dầu đã được người gọi là Trương đại-nhân giải cứu nhưng tứ chi vẫn còn bải hoải, gân cốt vẫn rã rời. Hắn cố vịn bàn đứng dậy, cặp mắt láo liên trông thấy ngoài cửa rơi vào một con ‘quỷ dạ xoa’ đen thủi đen thui, đầu bù tóc rối nhe hàm răng trắng toát, đôi mắt sáng quắc trông thật dễ sợ. Qua khiếp sợ, lại không biết trốn đi đâu, hai gối chụm vào nhau, đứng im bất động, miệng không mở ra được dù là để kêu cứu.

Lúc bên ngoài có biến, Diêm-Thế-Chương vội vã theo đám tiêu-sư cùng Trương-Đại-Nhân ra ngoài thành thử cái bao hồng để lại trên bàn kế bên Đổng-Triệu-Hòa. Nay tuy gặp lúc nguy cấp, nhưng hắn vẫn không quên ‘vật quý’ đã từng liều mạng giành lấy nên liền với tay định chụp lại. Nhưng tay ‘con quỷ dạ xoa’ kia còn lẹ hơn và mạnh hơn tay hắn nhiều, cuỗm lấy cái bao đem đi chẳng chút khó khăn rồi tung mình ra khỏi phòng.

Đổng-Triệu-Hòa nghe như đứt từng khúc ruột. Hắn giận Diêm-Thế-Chương đòi giành giữ lấy cái bao. Phải chi cái bao màu hồng kia vẫn còn nằm ở trên mình hắn thì cho dù có ‘bán thân bất toại’, hắn cũng có thể kéo dài thêm thì giờ để dùng kế hoãn binh và rất có thể cả đám tiêu-sư cùng với Trương đại-nhân trở về kịp thời đụng với ‘con quỷ dạ xoa’ thì còn có cơ-hội cướp lại bảo vật...

Trong lúc ấy, bọn tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục và Trương đại-nhân rượt theo cái bóng kia một hồi thấy mất dạng bèn bảo nhau quay trở về phòng. Trương đại-nhân sực nghĩ ra điều gì nên cả kinh nói với bọn tiêu-sư:

-Các vị tiêu-sư! Mau trở về mau, đừng rượt theo nữa! Chúng ta trúng kế ‘Điệu hổ ly sơn’ rồi! Thật tức chết đi được!

Đám tiêu-sư lúc bấy giờ mới tỉnh ngộ, ai nấy đều ‘ba chân bốn cẳng’ chạy như bay về lại phòng. Về tới nơi, mọi người nhìn thấy Đổng-Triệu-Hòa đang nằm ngất xỉu dưới chân bàn. Phải gọi mãi một chập, Đổng-Triệu-Hòa mới hoàn hồn. Sau đó hắn kể lại chuyện ‘con quỷ dạ xoa’ đến làm sao, đánh cướp cái bao màu hồng thế nào cho tất cả cùng nghe. Trương đại-nhân cảm tưởng như bị ai nhổ một bãi nước miếng vào mặt, giận dữ nói lớn:

-Thật là hết sức nhục nhã! Chúng ta hành hiệp giang-hồ đã hơn nửa đời người thế mà bị một kẻ vô danh lừa gạt thế này!

Nhắc về Lý-Mộng-Ngọc, sau khi đoạt đượ cái bao màu hồng trong đựng Khả-Lan-Kinh thì nhảy vội ra núp dưới chân tường ép mình như một con bích-hổ (#7) im lìm, nín thở. Nàng chờ Trương đại-nhân và đám tiêu-sư đi ra ngoài truy lùng một hồi liền trở vào lại phòng Đổng-Triệu-Hòa khẽ huýt gió một tiếng nhè nhẹ. Dưới một gốc cây đối diện vang lên một tiếng huýt gió lại, trả lời. Tất cả đó đều là ám-hiệu của Lý-Mộng-Ngọc và Tiêu-Thanh-Đồng. Liền khi đó Lý-Mộng-Ngọc thấy trong bóng tối dưới gốc cây có hai bóng xám đi đến chỗ nàng ẩn núp. Nàng mừng rỡ khi nhận ra hai người đó chính là Lục-Phỉ-Thanh và Tiêu-Thanh-Đồng. Lý-Mộng-Ngọc xem như mọi việc đã xong, đã thành công, hớn ha hớn hở vui cưới nói với Tiêu-Thanh-Đồng:

-Cái bao này cũng tại em mà làm hỏng hết công việc của chị đây. Thôi, xin chị đừng phiền trách em nữa nhé! Em...

Lý-Mộng-Ngọc chưa nói dứt câu thì Lục-Phỉ-Thanh la lớn lên:

-Hãy coi chừng phía sau lưng!

Lý-Mộng-Ngọc chưa kịp quay lưng lại thì một bàn tay cứng như sắt đã chụp lên vai nàng. Bản lãnh có thừa, Lý-Mộng-Ngọc dùng tay trái gạt ra một cái thật mạnh, nhưng bàn tay kia đã rút đi thật nhanh khiến cho nàng hụt tay cơ hồ muốn lảo đảo cả người, đồng thời chỉ thấy một cái bóng tung lên cao thật nhanh và đáp xuống đàng sau lưng nàng với một thủ pháp hết sức nhẹ nhàng.

Lý-Mộng-Ngọc hoảng hốt, biết địch thủ không phải là tay tầm thường. Khinh công người ấy thật là tuyệt diệu, và bản lãnh ắt hẳn là phải cao siêu vô cùng. Đáng sợ hơn nữa là người ấy đến sau lưng dùng tay chộp lên vai mình lúc nào mà hoàn toàn không hay biết. Trường hợp Lục-Phỉ-Thanh không tinh mắt báo trước thì chưa biết hậu quả sẽ đi đến đâu!

Lý-Mộng-Ngọc xoay mặt nhìn lại. Dưới ánh trăng trước mặt nàng là một người đàn ông trung-niên, tuổi trên dưới 40, mặt mũi khôi ngô, thân hình cao lớn đang đứng sát bên nàng. Lý-Mộng-Ngọc cả kinh, lùi ra sau vài bước, lẹ tay tung cái bao màu hồng về phí Tiêu-Thanh-Đồng, miệng la lớn:

-Cất mau!

Không ngờ cái bao màu hồng còn đang lơ lửng trên không chưa tới tay Tiêu-Thanh-Đồng thì người ấy tung người theo bắt lấy gọn gàng dễ như trở bàn tay trước sự ngơ ngác của cả Lý-Mộng-Ngọc lẫn Tiêu-Thanh-Đồng.

Lý-Mộng-Ngọc vừa sợ vừa giận vung tay ra đánh ngay một mọt quyền rất hiểm ác. Tiêu-Thanh-Đồng cũng nhảy vào trợ chiến, tấn công phía đàng sau.

Người ấy chẳng thèm né tránh, một tay nắm chặt cái bao màu hồng như chẳng chút phí sức, một tay dùng thế ‘Cao Tứ Bình’, một thế trường quyền hiểm hóc của phái Võ-Đang mà đánh trả lại. Nhắm không đỡ nổi ngọn quyền mạnh như vũ bão hiểm ác ấy, cả Lý-Mộng-Ngọc và Tiêu-Thanh-Đồng đều phải lùi ra sau mấy bước mới tránh khỏi được.

Lúc ấy, Lý-Mộng-Ngọc mới nhận diện được người này rõ ràng. Thì ra chính là người mà đám tiêu-sư Trấn-Viễn tiêu-cục gọi là Trương đại-nhân, đã giải nguy cho Đổng-Triệu-Hòa khỏi thành phế nhân vì đòn điểm huyệt ghê gớm của Văn-Thái-Lai.

Lý-Mộng-Ngọc cũng ngạc nhiên rằng đây là một ngón trường quyền của sư-phụ Lục-Phỉ-Thanh đã dạy cho nàng lúc mới thâu nhận làm đệ-tử. Nàng có biết đâu là trong phái Võ-Đang, đệ tử nào lúc mới nhập môn đều được dạy ngón ‘Cao Tứ Bình’ này. Chỉ có một điều Lý-Mộng-Ngọc nhìn thấy được rõ ràng là tuy cùng một chiêu thức, nhưng uy lực của Trương đại-nhân so với nàng có phần cao hơn rất nhiều. Giả sử y không mang cái túi và không bị Tiêu-Thanh-Đồng đánh lén thì thật khó mà tránh khỏi quyền của y.

Lý-Mộng-Ngọc kinh hãi quá đỗi, đảo mắt nhìn quanh thì không thấy Lục-Phỉ-Thanh đâu nữa. Nàng không hiểu sư-phụ biến đi ngả nào từ bao giờ!

Tiêu-Thanh-Đồng thấy rõ cái bao màu hồng đáng lẽ về tay nàng nhưng không ngờ bị người ấy đoạt lấy một cách quá dễ dàng thì biết là mình không phải địch thủ của y. Nàng đành chịu bó tay chứ không mong gì lấy lại được!

Nàng vội rút cây gươm trong mình ra thủ sẵn để phòng khi phải dùng đến.

Lý-Mộng-Ngọc chân trái nhảy tới, dùng một thế ‘Thất Tinh Quyền’ rồi biến ra thế ‘Đảo Kỵ-Long’, cũng là những chiêu tuyệt kỹ của phái Võ-Đang mà tấn công Trương-Đại-Nhân.

Nhìn chiêu thế của Lý-Mộng-Ngọc, Trương đại-nhân chợ la lên:

-Ái chà!

Và y cũng chẳng thèm né tránh, dùng luôn thế ‘Đảo Kỵ Long’ kia mà đánh trả lại. Cả hai tuy dùng quyền pháp như nhau nhưng công lực cách nhau một trời một vực. Hai quyền vừa đụng nhau, tay Lý-Mộng-Ngọc như chạm phải sắt đá rêm lên, đau nhức không chịu nổi.

Lý-Mộng-Ngọc nhảy sang một bên để cố giữ lấy thăng bằng, nhưng không dằn được, hai chân quỵ xuống đất.

Tiêu-Thanh-Đồng nhìn thấy Lý-Mộng-Ngọc ở trong tình trạng quá ư là nguy khốn thì không còn sợ địch thủ lợi hại nữa mà chỉ nghĩ đến sự an nguy của đồng bọn mà thôi. Nàng nhảy đến, một tay đỡ Lý-Mộng-Ngọc dậy, còn một tay vung kiếm nhắm Trương đại-nhân chém nhầu. Tiêu-Thanh-Đồng là người rất nghĩa-khí, thấy bạn gặp nạn không bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ chạy mà còn dám liều mạng quên mình nữa là đàng khác. Nàng sợ Trương đại-nhân thừ lúc Lý-Mộng-Ngọc ngã quỵ mà tấn công thì nguy nên chẳng còn đắn đo gì nữa, xông bừa vào để che chở cho người bị thất thế.

Nhưng Trương đại-nhân không tấn công Lý-Mộng-Ngọc nữa, mà cũng chẳng buồn giao đấu với Tiêu-Thanh-Đồng. Y vừa tránh được kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng xong bèn lớn tiếng gọi:

-Hai con bé kia! Hãy dừng tay lại đã!

Nhìn Lý-Mộng-Ngọc, Trương đại-nhân nghiêm mặt hỏi:

-Sư phụ ngươi họ Mã hay họ Lục?

Lý-Mộng-Ngọc lúc đó đã đứng vững lại được. Nghe Trương đại-nhân hỏi vậy thì nghĩ thầm trong bụng:

-“Rõ ràng sư-phụ ta họ Lục, nhưng để ta gạt hắn thử xem thế nào”.

Nghĩ vậy, nàng liền lớn tiếng ngạo nghễ đáp:

-Sư phụ tôi họ Mã. Tại sao ông biết rồi mà còn hỏi?

Trương đại-nhân phá lên cười một tràng nói:

-Ta đây là sư-thúc của ngươi đó! Ngươi còn chưa chịu cúi đầu mà ra mắt sư-thúc à?

Tiêu-Thanh-Đồng nghe Trương đại-nhân nhận là sư-thúc của Lý-Mộng-Ngọc thì cau mày lại, nghĩ rằng giờ đây họ sẽ cùng là một phe với nhau, và nàng còn mong gì được Lý-Mộng-Ngọc giúp lấy lại cái bao màu hồng nữa! Nàng tung mình một cái đã nhảy ra xa mấy trượng, và sau đó tiếp tục dùng khinh công chạy một hơi cho đến mất hút thì thôi. Trong lòng Tiêu-Thanh-Đồng vẫn còn ôm mối hận là chưa lấy lại được Khả-Lan Kinh...

Thấy Tiêu-Thanh-Đồng đang hết lòng vì mình lại bỏ đi đột ngột không một lời nói, Lý-Mộng-Ngọc cảm thấy buồn vô cùng. Nàng quyết phải rượt theo tìm nàng để bày tỏ tâm-sự khúc chiết của mình cho cô bạn sơ giao kia thấu hiểu. Lý-Mộng-Ngọc đem hết thuật phi hành ra thi thố nhưng bóng Tiêu-Thanh-Đồng đã đi xa, không một dấu hiệu nào để lại!

Thất vọng, Lý-Mộng-Ngọc đưa mắt nhìn xa ngắm trời mây đen tối. Bóng Hằng-Nga vằng vặc lẩn khuất như bị bao phủ bởi một tấm màn hắc ám vô biên. Không còn hy-vọng nào tìm gặp Tiêu-Thanh-Đồng nữa, nàng đành quay gót trở về. Đến lại chỗ lúc nãy, Lý-Mộng-Ngọc thấy vắng tanh. Trương đại-nhân cũng đã đi mất từ bao giờ. Những hạt mưa lấm tấm bắt đầu thấm vào y-phục dạ hành của nàng. Lý-Mộng Ngọc phi thân phóng qua tường vào lại bên trong. Khi về đến phòng thì bên ngoài trời đã mưa lớn. Những hạt rớt xuống đường tạo thành những giòng nước lan ra khắp mặt đường.

Trận mưa kéo dài đến sáng. Bình minh đã thức dậy trên nội cỏ ngàn mây mà mưa vẫn không ngớt hột. Lý-Mộng-Ngọc rửa mặt, chải đầu xong liền đến phòng bà nội và mẹ để vấn an. Lúc ấy Tăng-Đồ-Nam cũng đến bẩm báo, cho biết trời vẫn còn đang mưa to gió lớn chưa thể tiếp tục cuộc hành trình được nên đành nán lại khách-sạn cho đến khi tạnh mưa.

Dùng bữa sáng xong, Lý-Mộng-Ngọc sang phòng Lục-Phỉ-Thanh để hỏi thăm và bàn công việc với sư-phụ. Nàng đem tất cả câu chuyện trong đêm qua thuật lại cho Lục-Phỉ-Thanh nghe và bày tỏ thắc mắc, hỏi ông vì lý do gì Trương đại-nhân lại nhìn nhận nàng làm sư điệt. Dĩ-nhiên nàng không quên kể cho Lục-Phỉ-Thanh lúc Trương đại-nhân hỏi nàng là đệ-tử của họ Mã hay họ Lục thì nàng mạo nhận là họ Mã.

Lục-Phỉ-Thanh gục đầu vào hai bàn tay suy nghĩ, vẻ mặt buồn tênh khác hẳn ngày thường dường như đang mang một niềm tâm-sự nan giải nào đó. Với một giọng buồn rầu, Lục-Phỉ-Thanh nói với Lý-Mộng-Ngọc:

-Con không cho Trương đại-nhân biết con là đồ đệ của thầy là tốt lắm rồi. Chuyện này dài dòng lắm, chưa thể nói cho con bây giờ được. Nhưng thầy hứa là trong một dịp nào thuận tiện, thầy sẽ kể rõ tự sự từ đầu đến đuôi cho con nghe.

Thấy mặt sư-phụ vừa buồn lại vừa nghiêm, Lý-Mộng-Ngọc đành cúi đầu lặng thinh, không dám hỏi nữa...

Nguyên ‘Trương đại-nhân’ kia chính là Trương-Siêu-Trọng, chính là sư-đệ đồng-môn của Lục-Phỉ-Thanh. Họ Trương là một cao-thủ bậc nhất, khét tiếng trên võ lâm. Ngay cả trong giới lục lâm còn phải có một câu ví rằng:

Thà gặp Diêm-Vương hơn gặp Lão Vương,

Thà chịu hai thương hơn chịu một Trương.

‘Lão Vương’ đây ám chỉ Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương, đứng ra mở tiêu-cục làm Tổng tiêu-đầu. Còn ‘một Trương’ đây tức là Hào-Phủ Phán-Quan Trương-Siêu-Trọng, làm quan với triều-đình Mã-Thanh vì ham đai vàng mão bạc.

Cả hai người cùng lãnh nhận một trọng trách được giao phó là ra mặt đương đầu với đám hào kiệt bất phục tùng triều-đình Mãn-Thanh. Cả Vương-Duy-Dương lẫn Trương-Siêu-Trọng lòng độc như hổ lang mà võ công cũng cao siêu tột đỉnh. Ngay cả đám hắc đạo không biết kiêng trời nể đất, nhưng hễ nhắc đến tên hai người này thì ít nhiều cũng phải vài phần khiếp đảm.

Lúc tầm sư học đạo, Trương-Siêu-Trọng được sư-phụ cưng nhất trong đám môn đồ nên bao nhiêu tuyệt kỹ bí truyền đều được hưởng hết. Lục-Phỉ-Thanh và Trương-Siêu-Trọng tư tưởng trái ngược hẳn nhau nên hai người chẳng bao giờ hòa thuận được. Lục-Phỉ-Thanh thì trung thành với tổ-quốc, ưu ái dân tộc nên chống đối ra mặt với triều-đình Mãn-Thanh. Còn Trương-Siêu-Trọng thì chỉ nghĩ đến bả vinh hoa, vì phú quý mà phản bội xứ sở dân tộc, cam tâm làm ‘tẩu cẩu’ (#8) cho triều-đình chuyên đi lùng bắt những người có ý chí đấu tranh nêu cao chính nghĩa ‘Phản Thanh Phục Minh’.

Năm xưa, Lục-Phỉ-Thanh và Trương-Siêu-Trọng đã vạch đất tuyệt giao, chẳng ngờ lần này lại đụng nhau giữa đường ra biên ải. Vì không muốn để Trương-Siêu-Trọng nhận diện nên thừa lúc Lý-Mộng-Ngọc đang chống cự cùng y, ông lẻn về phòng nằm buồn rã rượi.

Nhân thấy một mình Trương-Siêu-Trọng đánh với Lý-Mộng-Ngọc và Tiêu-Thanh-Đồng như đùa giỡn, chỉ trong vài đường quyền thôi, Lục-Phỉ-Thanh đã thấy ngay võ-nghệ của Trương-Siêu-Trọng cao thâm đến độ không thể đo lường được. Mười năm cách biệt nhau, không ngờ Trương-Siêu-Trọng lại tài ba lão luyện đến như thế. Lụa-Phỉ-Thanh thầm nghĩ nếu một chọi một, chỉ cầu mà thủ huề được với y cũng đã là khó rồi chứ nói chi đến chuyện thắng! Lục-Phỉ-Thanh trong lòng vừa oán hận, vừa thương tiếc. Ông tiếc một nhân tài xuất chúng như Trương-Siêu-Trọng lại đi làm chó săn chim mồi cho ngoại-bang, cho những kẻ cướp nước hại dân. Phải chi Trương-Siêu-Trọng đứng về phe dân tộc thì lợi biết bao cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của nhà Thanh biết bao nhiêu! Nhưng khốn thay! Tài sức của Trương-Siêu-Trọng lại đem dùng vào việc dập tắt chính nghĩa nên thành ra một trở ngại rất lớn cho các phong trào đấu tranh giành độc lập...

Lục-Phỉ-Thanh nghĩ:

-Với ai thì không biết, nhưng với Trương-Siêu-Trọng từ nay ta phải hết sức giữ mình và đề phòng, không thể khinh thường được.

Theo lời Lý-Mộng-Ngọc lén nghe được về thuật lại cho biết thì lần này Trương-Siêu-Trọng không ngoài công-tác đặc biệt nào hơn là bắt khâm phạm trong Hồng Hoa Hội giải về cho vua Càn-Long. Và cứ theo kinh-nghiệm phán xét của Lục-Phỉ-Thanh thì hai vợ chồng Lạc-Băng cùng Văn-Thái-Lai có mạnh khỏe mà hợp sức đánh với Trương-Siêu-Trọng vị tất đã địch lại, huống hồ cả hai đều mang đầy thương tích trầm trọng khắp mình!

Mặc dầu chưa biết rõ Hồng Hoa Hội là tổ chứ gi, gồm có những nhân vật như thế nào trên giang hồ, nhưng chỉ cần căn cứ vào những điều mắt thấy tai nghe, tỉ dụ như Lạc-Băng một mình đánh với bốn người công sai và đích thân Trương-Siêu-Trọng được đặc phái gửi đến đây, Lục-Phỉ-Thanh cũng biết ngay được đây là một tổ chức ‘Phản Thanh Phục Minh’ và xác định được giá trị của hội trên con đường tranh đấu chống ngoại xâm. Hai nhân vật kia bị liệt vào hạng ‘yếu phạm’ thì đương nhiên phải có thàng tích nào vẻ vang cho Hán tộc, nhưng lại bất lợi cho triều-đình.

Vì vậy, Lục-Phỉ-Thanh lấy làm lo lắng và tự cảm thấy có trách-nhiệm phải ủng-hộ, tiếp tay với hai nhân vật của Hồng Hoa Hội đang sắp sửa phải đương đầu với bọn Trương-Siêu-Trọng...

Bấy giờ là tiết Mạnh-Thu (#9) nên trời khá lạnh lẽo. Trận mưa dầm đêm qua vẫn còn tiếp tục rơi tầm tã. Lý-Mộng-Ngọc tuổi nhỏ, tính nết như trẻ con háo động nên thấy ngoài trời mưa gió phải nằm yên trong phòng, bị giam hãm giữa bốn vách tường như vách lao tù thì buồn bực vô cùng.

Nằm một chỗ không yên, Lý-Mộng-Ngọc ra ngoài, đến phòng của Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng để xem xét tình hình ra sao. Từ lúc nàng được Lục-Phỉ-Thanh cho phép ám trợ Lạc-Băng và được thưởng thức tài phóng phi đao của con gái nhà họ Lạc, lại được thấy Văn-Thái-Lai trổ tài điểm huyệt dù thương tích đầy mình, nàng đâm ra có thiện cảm với cả hai người. Nàng chỉ muốn ra tay nghĩa hiệp giúp hai người chống lại sự áp bức của số đông. Nàng chẳng cần biết Hồng Hoa Hội là gì và cũng không cần đến chuyện mình phải đứng về phe phái nào cả.

Đến phòng của hai nhân vật Hồng Hoa Hội, Lý-Mộng-Ngọc thấy cửa phòng đóng chặt cứng. Lắng tai để ý nghe bên trong cũng chẳng thấy động tĩnh gì cả. Dường như là phòng vắng không người. Đảo mắt nhìn tứ phía thì thấy bên ngoài khách-sạn, xe ngựa của Trấn-Viễn tiêu-cục vẫn còn đầy đủ y nguyên, chứng tỏ họ vẫn còn đang trú mưa chứ chưa lhởi hành.

Trong một căn phòng rộng rãi nhìn qua cửa sổ, Lý-Mộng-Ngọc thấy có một số tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục đang ngồi gác chân lên ghế nói chuyện ồn ào. Cố ý nhìn thật kỹ, Lý-Mộng-Ngọc vẫn không thấy mặt Trương-Siêu-Trọng, tứ ‘Trương đại-nhân’, người tự xưng là sư-thúc của nàng.

Đang định về lại phòng mình thì bỗng nhiên nghe phía đàng trước khách-sạn có tiếng vó ngựa. Rồi một kỵ-sĩ xông mưa lướt gió phi tới như bay. Người ấy vừa đến trước cửa khách-sạn thì ghìm cương lại, từ trên ngựa nhảy xuống trông thật là nhẹ nhàng. Lý-Mộng-Ngọc để ý nhìn kỹ. Đó là một thư-sinh trẻ tuổi đang dắt ngựa vào sân. Một tên giúp việc trong khách-sạn chạy ra đón chàng mời vào và dắt ngựa cột ở ngoài mé hiên cho ăn lúa rồi hỏi chàng:

-Chẳng hay công-tử định nghỉ lại đây hay là dùng cơm xong thì đi?

Chàng thư-sinh cởi chiếc áo lạnh mặc ngoài rũ cho sạch nước mưa còn bám trên áo rồi đáp:

-Chưa quyết định được bề nào. Có thể ăn xong sẽ đi liền.

Tướng mạo chàng thư-sinh trông chẳng khác gì một ‘phong lưu tài tử’, rất là khôi ngô tuấn tú, cốt cách phi phàm, dung nhan thanh lịch. Mặt chàng sáng như trăng rằm, gương mặt hồng hào, môi đỏ thắm như thoa son. Thật Tống-Ngọc hay Phan-An đời xưa cũng không thể nào sánh bằng. Ở ngoài biên-ải này chưa từng thấy một thư-sinh nào tài tuấn như vậy!

Lý-Mộng-Ngọc nhìn chàng thư-sinh ấy thật lâu không chớp mắt, bụng nghĩ thầm:

-“Thật không ngờ trên đời lại có một chàng thư-sinh đẹp trai đến thế này”!

Chàng thư-sinh cũng liếc mắt nhìn Lý-Mộng-Ngọc, nở một nụ cười hết sức đa tình. Lý-Mộng-Ngọc hai má đỏ ửng vì mắc cở bèn chạy tuốt về phòng.

Ngồi một mình một bàn, chàng thư-sinh tự tay rót nước trà, thong thả thưởng thức hương vị, dáng điệu khoan thai cực kỳ nho nhã vô tư lự. Trông chàng ta có vẻ hiên ngang tự đắc.

Khi ấy, bên ngoài lại có tiếng vó ngựa dồn dập. Không bao lâu, một nhóm bốn người cùng một lúc tiến ồ ạt vào khách sạn.

Đứng trước cửa phòng, Lý-Mộng-Ngọc nhận ngay ra là bốn người vây đánh Lạc-Băng hôm nọ. Không chậm trễ, nàng chạy ngay sang phòng Lục-Phỉ-Thanh hỏi:

-Thưa sư-phụ, bốn người đàn ông vây đánh Lạc-Băng lần trước lại đến nữa rồi, đúng như lời ức đoán của thầy. Chẳng hay phải đối phó làm sao đây?

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Con không được tháo thứ (#10)! Trước tiên chúng ta phải dò xem tình hình ra sao đã! Có nắm được tình hình rồi mới dùng kế hoạch đối phó.

Hai thầy trò không ra ngoài, đứng nép mình bên trong cửa sổ vén màn lên xem động tĩnh bên ngoài. Người sử dụng trường kiếm, có lẽ là người đầu não chỉ huy ngoắc một người đang đi qua đi lại trước cổng hỏi mấy câu nào đó. Sau đó hắn khẽ gật đầu bảo người ấy trở ra rồi gọi tửu bảo đến nói:

-Dọn cơm rượu ra cho chúng ta ngay bây giờ.

Gã tửu bảo đi rồi, hắn liền nói với ba tên đồng bọn:

-Bọn thổ phỉ Hồng Hoa Hội chưa đi! Anh em ăn uống cho no nê rồi chúng ta bắt tay ngay vào việc, không được chậm trễ!

Tên ấy vừa dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh để ý thấy thần sắc chàng thư-sinh tuấn tú ngồi đang ngồi độc ẩm biến đổi ngay tức khắc. Chàng nhìn đăm đăm vào cả bọn bốn người nhưng chúng vô tình không để ý.

Lý-Mộng-Ngọc xoay qua hỏi nhỏ Lục-Phỉ-Thanh:

-Chúng ta có nên can thiệp vào chuyện này không thầy?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Con đừng tự ý loạn động. Nhất nhất phải tuân theo lời thầy chỉ dẫn.

Lục-Phỉ-Thanh vừa nói vừa chú ý từ cử chỉ, hành động của chàng thư-sinh tuấn tú. Uống trà xong thì cơm nước đã dọn lên, chàng ta vẫn ngồi ăn uống như thường. Nhưng chàng chỉ ăn qua loa vài miếng, uống lấy lệ vài chén nhỏ, dường như không còn thiết gì đến bữa cơm nữa. Chàng cầm trên tay cái roi ngựa có chòm chỉ tua ngũ sắc ở trước đầu rất đẹp, bước ra khỏi phòng khách đến ngồi chắn ngang lối đi vào phòng của Lạc-Băng cùng Văn-Thái-Lai. Đưa tay ra sau lưng mở cái gói nhỏ lấy ra một ống sáo, chàng từ từ đưa lên môi thổi lên những âm-điệu du dương thật là mùi mẫn.

Lý-Mộng-Ngọc rất thông hiểu âm luật nên khi nghe tiếng sáo, nàng gõ tay vào song cửa đánh nhịp và buột miệng khen:

-Bản ‘Thiên Tịnh Sa’ thật làm tê tái lòng người không kém gì tiếng tiêu của Trương-Lương làm nản lòng binh Sở ở Cai-Hạ.

Nghe tiếng nhịp và lời khen, chàng thư-sinh tự nhiên không tỏ vẻ gì khác lạ. Trái lại, Lý-Mộng-Ngọc mới thấy thật là kỳ dị khi khám phá ra cây sáo của chàng thư-sinh làm bằng vàng chứ không phải một ống sáo thường. Nàng thầm lo cho chàng nên nghĩ thầm trong lòng rằng:

-Đường đi ngoài biên-ải nào được yên ổn như ở chốn kinh kỳ! Chàng thư-sinh này đơn thân độc mã, sao lại dám đem ống tiêu bằng vàng ròng quý giá kia ra nghiễm nhiên ngồi thổi! Như thế có khác nào khích động lòng tham của bọn gian tham hung ác giết người đoạt của hay không? Chờ cơ hội thuận tiện ta phải cảnh tỉnh chàng ta vài câu để chàng biết rõ mà đề phòng trước mới được.

Bên ngoài, người đàn ông đi qua đi lại cũng để ý, thấy hành động của chàng thư-sinh như vậy thì cho là cuồng si ngông nghênh.

Dùng bữa xong, người sử dụng trường kiếm bèn phóng mình một cái vụt đứng thẳng trước ngay mặt bàn. Như một diễn giả, y lên giọng nói lớn:

-Anh chị em, cô bác, bà con hãy lắng tai nghe đây...

Lý-Mộng-Ngọc trông thấy hắn tướng người mạnh khỏe đầy nghị lực, vai lươn đùi ếch, mặt mày vênh váo hống hách như xem như dưới mắt hắn không còn ai cả. Giọng nói hắn rổn rảng khiến mọi người đều dồn cặp mắt lại về phía hắn. Chờ cho ai nấy đều im lặng chú ý xong, hắn nói tiếp:

-Chúng tôi đây là công-sai của Đế-đô đến hiệp cùng các vị công sai phủ Lan-Châu để bắt mấy tên khâm-phạm trong Hồng Hoa Hội hiện đang trốn tránh tại khách-sạn này. Trong khi chúng tôi thi hành phận sự, xin tất cả lương dân cứ yên tâm mà làm ăn chẳng phải sợ chuyện ‘thành cháy vạ lây’ chi cả. Dẫu khi chúng tôi phải dùng đến vũ-khí để diệt trừ bọn thổ phỉ ấy, bà con cô bác có thể đứng xa mà nhìn, miễn đừng đến gần để cho bọn khâm- phạm trà trộn vào đám đông mà tẩu thoát thì thôi. Tóm lại, chúng tôi bắt khâm-phạm, lại có bổn phận bảo-vệ lương dân. Còn bọn Hồng Hoa Hội thì có thể sát hại lương dân để gây hỗn loạn đặng dễ bề trống tránh. Đó là điều tất cả phải lưu tâm. Nhất là đừng ai vô tình hay cố ý ‘nối giáo cho giặc’ vì lẽ chúng tôi trong lúc lộn xộn không phân biệt được có thể làm thương tổn đến tánh mạng những người ấy. Quyền hành hiện ở trong tay chúng tôi nên cần phải nói trước cho mọi người biết trước mà đề phòng.

Hắn nói những lời thoạt nghe thì có vẻ nhún nhường nhưng thật ra là hết sức tự cao tự đại, giọng điệu lớn lối nên nhiều người nghe xong mà phát ghét, nhất là Lý-Mộng-Ngọc. Nàng lẩm bẩm trong miệng:

-Cả bốn đứa như trâu hợp sức lại với bốn món vũ-khí lợi hại mà đánh mãi không thắng được một người đàn bà đã có thương tích trầm trọng thế mà còn lên giọng cầu cao nói phét! Chắc hẳn lần này bọn chúng tìm được thêm nhiều công-sai ở Lan-Châu nên ỷ đông lớn lối. Để rồi ta giúp ‘bọn khâm-phạm’ kia đánh chúng bay một trận cho hết làm tàng, huênh hoang nữa!

Lục-Phỉ-Thanh nghe rõ nên vội khuyên:

-Thầy đã dặn con mọi việc phải tuân theo lời thầy, đừng nóng tính làm càn, sẽ có hại cho cả con lẫn thầy! Bọng công-sai ấy chẳng đáng kể gì, nhưng con nên biết còn nhiều cao-thủ đứng đàng sau lưng chúng nữa! Chúng ta nên tùy cơ ứng biến mà hành động. Ở đời không phải chỉ dùng sức không thôi, mà còn phải dùng trí nữa, con hiểu không?

Trong lúc Lục-Phỉ-Thanh nói chuyện với Lý-Mộng-Ngọc bên trong màn cửa sổ thì tên công-sai nói thêm vài lời chi nữa rồi nhảy xuống khỏi bàn. Hắn hăm hở cầm trường kiếm dẫn ba tên công-sai đồng hành từ Bắc-Kinh xuống cùng với một bọn công-sai phủ Lan-Châu. Cả đám đều lăm lăm vũ-khí trong tay đi thẳng tới phòng của Văn-Thái-Lai cùng Lạc-Băng trong Hồng Hoa Hội.

Một điều kỳ lạ mà ai nấy đều phải ngạc nhiên, kể cả Lý-Mộng-Ngọc là chàng thư-sinh trẻ đẹp trai kia vẫn ngồi im giữa đường thổi sáo như không để ý đến những gì xảy ra chung quanh. Những lời nói của tên công-sai khi nãy dường như chưa hề lọt vào tai chàng. Tiếng sáo của chàng vẫn du dương. Chàng vẫn thổi một mình say mê như chẳng cần có người thưởng thức. Đám công-sai hùng hổ đi thẳng tới. Chàng thư-sinh vẫn ngồi trơ trơ giữa đường chẳng tránh đường, mà cũng chẳng thèm để ý nhìn bọn chúng khi tỏ ý khinh thường những con ‘chó săn’ của triều-đình.

Tên công-sai cầm kiếm đi đầu thấy vậy tức lắm. Hắn lướt tới trước mặt chàng thư-sinh lớn giọng như muốn gây gổ:

-Này anh kia? Bộ anh muốn ngăn trở việc quốc-gia đại sự của chúng tôi đó phải không?

Hằn nhìn chàng thư-sinh thổi sáo, thấy dung mạo tươi tốt như cây huỳnh, cành giao, lại thấy chàng có vẻ ‘chân gối tay mềm’ thì đoán chừng là một vị tú tài, cử-nhân chi đây chứ không phải hạng dân giả tầm thường nên cũng có đôi phần nể nang. Thấy chàng thư-sinh vẫng ngồi im thổi sáo không một lời, tên công-sai lại tiếp tục hỏi:

-Trông anh cũng là một văn nhân trang nhã, sao lại không biết nể những vị công-sai của triều-đình mà cả gan làm ngăn trở công việc quốc-gia đại sự vậy

Lúc bấy giờ chàng thư-sinh mới ngưng tiếng sáo ngước mắt trông lên, nhìn tên công-sai ấy từ đầu đến chân rồi cười đáp:

-Vì mải say sưa với tiếng sáo nên nào có tưởng chi đến những việc tầm thường. Các anh mà cũng là công-sai của triều-đình à? Cũng gánh vác chuyện quốc-gia đại sự sao? Nhưng công việc ấy là việc gì vậy?

Tên công-sai nghe giọng nói khinh miệt của chàng thư-sinh thì lửa giận bốc lên phừng phừng. Song muốn cho chàng phải giật mình mà khiếp sợ, hắn nghiêm mặt bảo chàng:

-Tuân mệnh Thanh-Đế đi bắt khâm phạm! Anh nghe rõ chưa?

-Vậy à? Những người ấy có tội gì mà gọi là khâm-phạm mới được chứ?

-Đó là bọn thổ phỉ Hồng Hoa Hội mưu đồ làm phản! Anh muốn biết thêm nữa hay không?

-À, ra thế! Nhưng nghe đâu Hồng Hoa Hội là một tổ chức cách mạng lan khắp trong nhân dân với mục đích ‘phản Thanh phục Minh’ chứ nào phải thổ phỉ! Những thủ-lãnh của Hồng Hoa Hội đều là những nhà ái quốc có bản-lãnh nghiêng trời. Bọn công-sai như mấy người làm sao rớ được đến sợi lông chân của họ mà đòi bắt?

Tên công-sai cầm hoài trượng nghe chàng thư-sinh nói như vậy thì lửa giận cháy bùng lên. Hắn nhảy phóc một cái ra phía trước hét tướng lên:

-Ngươi là ai mà lại dám cả gan ca tụng Hồng Hoa Hội? Tội đó đáng ‘tru di tam tộc’! Để bắt xong hai tên khâm-phạm kia rồi sẽ hay. Bây giờ ngươi có chịu tránh đường hay là không thì nói một tiếng ta nghe thử! Thật là cái đồ ‘chưa thấy quan-tài chưa đổ lệ’!

Chàng thư-sinh sắc diện vẫn không thay đổi, chỉ cười đáp:

-Thật tình tôi thấy sao thì nói vậy! Không ngờ thế mà có thể bị ‘tru di tam tộc’ hả? Thôi, xin lỗi các ‘quan công-sai’ của triều đình nhé! Sẵn đây cũng không gấp chi. Tôi mời ‘các quan’ vào trong cùng uống với tôi vài chung rượu cho vui để kết giao bằng hữu. Chẳng hay ‘các quan’ nghĩ thế nào? Có nên chăng?

Giọng nói ‘biếm nhẽ’ khó chịu đó chẳng khác nào ‘rót dầu vào lửa’, càng làm gã công-sai tức giận thêm. Hắn chẳng nói chẳng rằng, vung cánh tay lên nắm chặt bàn tay lại đánh vào mặt chàng thư-sinh một quyền, miệng thì quát lên:

-Tên mạt kiếp! Cho ngươi biết tay ta!

Chàng thư-sinh vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Chờ cho quyền của tên công-sai đến gần mặt, chàng mới đưa tay lên khẽ ngăn lại, thản nhiên nói:

-Đừng! Đừng có làm ẩu chứ!

Tay chàng vừa đụng vào tay tên công-sai, trông hắn chợt như kinh hãi, vội vã rút tay về xuýt xoa. Nhanh như chớp, chàng đưa ống sáo vàng khẽ điểm vào ống quyển đối phương.

Gã công-sai cầm hoài trượng ấy đã lỡ trớn nên không kịp tránh né, bị ống sáo vàng điểm ngay huyệt đầu gối bên trái. Chẳng khác gì một con bún thiu, tên công-sai hai chân khuỵu xuống đất, hai gối như đang quỳ, hai tay chống ra trước giống hệt bộ điệu một người đang lom khom đang lạy.

Chàng thư-sinh lật đật lách mình nghiêng qua một bên, miệng nói lớn:

-Ấy, đừng! Sao quan lớn lạy tôi làm chi thế? Tôi không dám nhận đại lễ ấy đâu!

Sau đó chàng chắp hai tay lại vái dài tên công-sai ấy hai cái như là để ‘đáp lễ’. Lý-Mộng-Ngọc núp trong cửa sổ phòng nàng trông thấy cảnh tượng như vậy thì vừa kinh ngạc, vừa khoái trá không nín cười nổi liền nói với Lục-Phỉ-Thanh:

-Phép điểm huyệt của chàng thư-sinh kia thật là tài quá. Chàng ta bắt tên công-sai phải ‘quỳ lạy’ thật là vui quá! Cho đáng kiếp, hết làm phách!

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Chàng thư-sinh ấy võ-nghệ tuyệt luân. Ngay lúc ban đầu thầy đã để ý nghi ngờ rồi. Đây không phải chỉ là sự tình cờ muốn cho tên công-sai kia một bài học đâu mà đã có dụng tâm trừng trị bọn công-sai ấy từ trước nên mới cố ý ngồi thổi sáo cản đường.

Lý-Mộng-Ngọc ban đầu lo lắng cho chàng thư-sinh vô cùng. Nàng cho rằng chàng ta tướng tác yếu đuối, võ nghệ chắc chẳng có được mấy miếng để hộ thân nên sẽ bị bọn công-sai kia bức hiếp. Nhưng khi được nhìn cản chàng ta khinh nhờn bọn chúng và được chứng kiến chàng điểm huyệt một tên ngã quỵ xuống đất thì trong lòng hết sức khoan khoái, không bút mực nào diễn tả cho được. Và nàng cũng cảm thấy bớt lo lắng.

Đang tủm tỉm cười thầm, đột nhiên Lý-Mộng-Ngọc nghe giọng tên công-sai cầm nhuyễn tiên run run:

-Sư thúc ơi! Nguy rồi! Chắc hắn là thiếu đà-chủ của Hồng Hoa Hội họ Trần đây chứ không còng chạy vào đâu được nữa!

Tên công-sai sử đao cùng tên sử kiếm nghe nói vậy đều run lẩy bẩy, tái hẳn lại, tưởng chừng mặt cắt không còn lấy giọt máu. Không ai bảo ai, cả hai tên đều lùi lại phía sau mấy bước.

Lúc ấy, tên công-sai sử hoài trượng nằm dài ra đất, tứ chi rã rời không còn động đậy gì được cả. Thấy vậy, tên sử nhuyễn tiên liền đỡ hắn dậy, kéo ra phía đàng sau. Tên công-sai sử kiếm hướng về phía chàng thư-sinh hỏi:

-Tôn giá có phải là Thiếu-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội Trần-Gia-Cách (#11) đó không?

Chàng thư-sinh phá lên cười nói:

-Mấy người làm công-sai thì tai phải to, mắt phải sáng chứ tại sao lại ngơ ngẩn như vậy? Thiếu-Đà-Chủ họ Trần của Hồng Hoa Hội người ta thường tặng cho biệt-danh là Quang-Côn-Nhữ (#12) hay là Trại-Hiệp-Tiển (#13) là một nhân vật phi phàm chứ lẽ nào lại tầm thường như ta vậy. Chẳng qua là các ngươi xem mắt cá ra hạt châu vậy thôi! Ta đâu đi không đổi họ, về không đổi tên, là Dư-Ngư-Đồng. DƯ có nghĩa là ta đang nhớ ai. NGƯ là giống cá trong giòng nước chảy. Còn ĐỒNG là người quân-tử lấy cái bất đồng và cái dốt để giữ hòa khí. Ta đây là một nhân vật nhỏ nhoi và thấp hèn nhất trong Hồng Hoa Hội. Các ngươi nghe rõ chưa?

Dứt lời, Dư-ngư-Đồng cầm sáo lên thổi một bài rồi ngừng lại hỏi bọn công-sai:

-Lục trong ký-ức thử xem, các ngươi đã nhớ được biệt danh của ta chưa? Nhớ thì nói nghe thử, còn không thì ta nói cho nhớ.

Tên cầm trường kiếm bỗn nói lớn:

-À, thì ra huynh đệ đây là ‘Kim Địch Tú Tài’ hả?

Dư-Ngư-Đồng cười gật đầu đáp:

-Nhớ giỏi đấy, khá khen! Nhưng ta không dám nhận cái biệt danh ấy vì ta hiểu thiên-hạ quá thương mà gọi vậy thôi chứ tài đức ta chưa xứng. Nhưng ta trách các người một điều là thấy ta kém cỏi thế này lại bảo ta là Thiếu-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội thì quả làm giảm phúc của ta đi!

Nói xong, Dư-Ngư-Đồng day qua phía tên công-sai cầm trường kiếm đổi lại giọng nói ôn tồn lễ độ mà hỏi:

-Các hạ đây có phải là một nhân vật ở Bắc-Kinh tên tuổi như cồn, làm chức Bổ-đầu, đại danh là Ngô-Quốc-Đống nhị gia đó phải chăng?

Tên công-sai sử trường kiếm gật đầu đáp:

-Chính ta đây! Hôm nay gặp ngươi ta quyết không dung tánh mạng vì ngươi cũng là một nhân vật trong Hồng Hoa Hội!

Dứt lời hắn thình lình vung kiếm lên đâm ngay vào ngực Dư-Ngư-Đồng một nhát. Ngô-Quốc-Đống thật quả ‘danh bất hư truyền’ (#14), đường kiếm của hắn trông có vẻ yếu ớt, nhẹ nhàng, nhưng thực tế rất là hiểm hóc, có thể lấy mạng người như chơi.

Ngô-Quốc-Đống làm chức Bổ-đầu, rất có uy-danh ở Bắc-Kinh. Một tay hắn đã bắt được vô số trộm cướp, sát nhân khiến cho đám hắc-đạo phải hễ nghe đến tên hắn thôi là phải kiêng nể khiếp sợ. Hắn lập công trong việc trừ gian diệt ác cho triều-đình Mãn-Thanh kể cũng nhiều, nhưng đồng thời tạo công-danh sự-nghiệp trên xương máu dân lành cũng không ít. Bao nhiêu người vô tội đã chết oan, cũng như bao nhiêu gia-đình phải tan nát vì hắn! Hắn tự biết mình có nhiều kẻ thù và đã tính trước sẽ có ngày bị báo oán nên cách đây vài năm hắn xin được về hưu an dưỡng.

Nhưng một hôm, có tên đệ-tử của anh hắn là Phùng-Huy làm chức thị-vệ trong Đại-nội được vua Càn-Long đặc phái đi tróc nã những người có tham-gia trong Hồng Hoa Hội, đặc biệt chú trọng vào những nhân vật chủ yếu của hội.

Phùng-Huy biết sức hắn không thể nào đương đầu nổi với các cao-thủ Hồng Hoa Hội nên đến cầu cứu với Ngô-Quốc-Đống nhờ giúp một tay không thì hắn đành chịu chết chứ không dám lãnh nhận sứ mạng.

Ban đầu, Ngô-Quốc-Đống cương quyết nhất định không chịu, nhưng vì Phùng-Huy lạy lục năn nỉ hết lời, lại thêm bạn bè thuyết phục nên cực chẳng đã, đành phải dấn thân.

Phùng-Huy chính là tên công-sai sử dụng cây nhuyễn tiên. Tên sử dụng quỷ đầu đao là Trương-Thiên-Thọ, cò tên sử dụng hoài trượng là Hàn-Xuân-Lâm. Hai tên sau đều là thuộc khoái-bộ phủ Lan-Châu.

Tuy khoái-bộ Bắc-Kinh và khoái-bộ Lan-Châu cùng có trách-nhiệm lùng bắt những người Hồng Hoa Hội, nhưng vì danh-lợi nên chúng luôn đố kỵ, tranh giành với nhau. Bên nào cũng ‘ghìm’ nhau tuy ngoài mặt vẫn tỏ ra như là thân thiện, khắng khít với nhau lắm.

Trong trận đụng độ với Lạc-Băng vừa qua, Trương-Thiên-Thọ bị phóng hai phi đao thiếu điều mất mạng. May mắn cho hắn là nàng bị thương một vết khá nặng ở vai, vì vậy mà sức lực giảm đi rất nhiều, cho nên hai mũi phi đao phóng từ tay nàng cũng mất đi phần công-hiệu, không ghim vào người hắn sâu lắm nên mới còn bảo toàn được tánh mạng. Lần này, chưa ra trận Hàn-Xuân-Lâm lại bị Dư-Ngư-Đồng dùng ống sáo vàng điểm trúng huyệt đạo, thành thử chưa bắt được khâm-phạm mà đã hết một nửa lực lượng bị trọng thương rồi.

Thấy cả hai công-sai của khoái-bộ Lan-Châu đều bị địch nhân đả bại, Phùng-Huy lại đắc ý mừng thầm vì không còn phải sợ bị ‘tranh giành’ nữa. Chỉ có ‘phe hắn’ vẫn còn nguyên vẹn, chưa bị tổn thất gì mới có nhiều hơn để cơ-hội lập công với triều-đình mà thôi. Nhưng thấy địch nhân quá lợi hại như thế thì hắn lại đâm ra chột dạ, lo sợ không ít.

Thấy Ngô-Quốc-Đống đã ra tay, Phùng-Huy và Trương-Thiên-Thọ cũng tuốt khí-giới ra hợp lực, cùng vây chặt, công kích Dư-Ngư-Đồng một lượt. Dư-Ngư-Đồng không hề nao núng, một mình chống cự với cả ba tên như chẳng xem chúng ra gì cả. Với cử chỉ trang nhã, chàng nở một nụ cười trên môi, dùng cả ống sáo vàng lẫn cây roi ngựa đánh trên đỡ dưới, khi thì nhắm huyệt đạo của đối phương mà điểm, chẳng khác nào một mãnh hổ tung-hoành giữa đàn dê.

Nguyên cây roi ngựa của chàng là một ngọn thiết tiên trá hình. Nhìn sơ qua, ai nấy đều tưởng chỉ là một cây roi ngựa tầm thường nhưng trên thực tế đó là một cây roi sắt, một món vũ-khí cực kỳ lợi hại.

Ngọn thiết tiên và cây sáo vàng trên tay Dư-Ngư-Đồng nhiều lúc như pha cả kiếm pháp chân truyền trong đó, tấn công ba tên công-sai liên tiếp khiến chúng luýnh quýnh hết cả chân tay vì phải chống đỡ không ngừng. Mới giao-phong chưa được mấy hiệp, ba tên đã thấy mở bở hơi tai, cơ hồ không còn chịu đựng được nữa. Tên nào tên nấy chỉ lo cố gắng sao đừng để cho vũ-khí của Dư-Ngư-Đồng đừng chạm vào thân thể chúng thôi chứ không còn hơi sức nào tính đến chuyện phản công nữa.

Lục-Phỉ-Thanh và Lý-Mộng-Ngọc nhìn thấy bản-lãnh Dư-Ngư-Đồng cao siêu như thế đều tấm tắc, thầm khen ngợi. Nhìn lối đánh của Dư-Ngư-Đồng, Lý-Mộng-Ngọc bỗng reo lên:

-Kìa, sư-phụ thử nhìn xem! Rõ ràng là chàng thư-sinh họ Dư kia đang sử dụng ‘Nhu Vân Kiếm Thuật’ kia mà!

Lục-Phỉ-Thanh gật đầu khen phải, trong bụng nghĩ thầm:

-“Tuyệt kỹ ‘Nhu Vân Kiếm Thuật’ là bí truyền của phái Võ-Đang ta, nếu không là cao đồ của bản môn ắt không bao giờ được truyền thụ. Không hiểu vì sao thư-sinh này lại biết được mới kỳ? Hắn đương nhiên không phải là đồ đệ của ta rồi, vì ngoài Lý-Mộng-Ngọc ra, ta chưa hề thâu nhận ai cả. Là người của Hồng Hoa Hội thì y chỉ có đối đầu với Trương-Siêu-Trọng mà thôi chứ không thể nào là đệ-tử của tên sư-đệ hư hỏng này của ta được. Không lẽ... không lẽ... Phải rồi! Chắc chắn y phải là đệ-tử của Mã-Chân sư-huynh ta thôi chứ không chạy vào đâu được nữa”!

Thật ra, sự suy đoán của Lục-Phỉ-Thanh không sai chút nào cả. Chàng thư-sinh người của Hồng Hoa Hội tên Dư-Ngư-Đồng kia chính là đệ-tử đích truyền của Mã-Chân, chưởng môn nhân phái Võ-Đang, và cũng là đại sư-huynh của Lục-Phỉ-Thanh!

Dư-Ngư-Đồng vốn là giòng dõi thế-phiệt, tổ tông là một vọng-tộc nổi tiếng khắp vùng Giang-Nam. Năm 12 tuổi, Dư-Ngư-Đồng đã nổi tiếng là thần-đồng, đến năm 16 tuổi thì văn-chương thâm thuý, uyên bác, nổi tiếng gần xa. Năm ấy, Dư-Ngư-Đồng vác lều chõng đi thi. Đáng lý ra, tài năng của chàng dư sức đậu được Giải-Nguyên, nhưng chỉ vì một lỗi lầm phạm trường-quy nho nhỏ mà bị giáng xuống Tú Tài. Đó là nhờ chánh chủ khảo thương tiếc tài năng của chàng nên mới tìm cách vớt vác cho đôi chút chứ nếu không thì chẳng những bị đánh rớt mà còn gặp nhiều chuyện rắc rối nữa. Nhưng từ đó Dư-Ngư-Đồng trở nên chán nản, sinh ra bất đắc chí!

Và cũng trong năm ấy, thân phụ Dư-Ngư-Đồng vì tranh một khoảnh đất làm mả với một vị hầu-tước có con gái được phong làm Quý-Nhân (#15) mà gia-đình bị hại đến tan gia bại sản.

Lấy thế-lực quốc-thích (#16), vị hầu-tước vu khống, hãm hại thân phụ Dư-Ngư-Đồng đến độ bị tịch-thu hết gia-sản và giam vào thiên-lao. Quá uất hận, thân phụ của chàng bèn tự tử.

Trước tai họa của gia-đình, Dư-Ngư-Đồng chẳng còn tha thiết gì với công danh sự nghiệp nữa liền bỏ nhà ra đi quyết tâm chuyển văn sang võ, chờ cơ-hội trả thù nhà. Chàng may mắn gặp được Mã-Chân nên liền năn nỉ xin bái sư học nghệ. Thấy chàng thành tâm, lễ độ, lại thông-minh hiếm có nên vị Võ-Đang chưởng môn nhân kia rất thương mến, hết lòng truyền thụ võ công cho. Chẳng bao lâu, Dư-Ngư-Đồng luyện thành tuyệt-kỹ, có một bản-lãnh cao cường siêu việt.

Dư-Ngư-Đồng liền trở lại quê nhà, tìm kiếm kẻ thù, tức vị hầu-tước đã hãm hại cha chàng. Trong một đêm trăng thanh gió lặng, chàng bắt được vị hầu-tước dễ như trở bàn tay. Dư-Ngư-Đồng một tay nắm áo kẻ thù, một tay cầm thanh gươm sắc bén cứa liên tiếp từng đường lên mặt y. Hễ cứa xong một đường, chàng lại vạch rõ từng tội ác một cho y nghe. Nạn-nhân vừa phải nghe kể tội, vừa phải chịu thọ hình bằng phương pháp ‘lăng trì’ đau đớn khổ sở một hồi lâu mới ‘được tắt hơi rảnh nợ’...

Vụ án ấy làm sôi nổi khắp nước, vang dội lên tới kinh-thành nên Dư-Ngư-Đồng bị truy nã thật gắt gao. Chàng sau đó phiêu-lưu khắp chốn giang-hồ, từ sông rộng lên chốn thâm sơn, vừa là để lánh nạn, và cũng vừa làm việc nghĩa giúp cho bá tánh khắp nơi...

Sau đó, cũng trên bước giang-hồ, Dư-Ngư-Đồng tình cớ nghe được tiếng của Hồng Hoa Hội là nơi chiêu mộ và quy-tụ những người có bản-lãnh trác tuyệt và phải có lòng yêu nước thương dân để dựng lại thế lực, nâng cao tinh-thần ‘Phản Thanh Phục Minh’. Chàng mừng rỡ liền xin gia nhập ngay, và được chấp thuận thật dễ dàng.

Dư-Ngư-Đồng chẳng những ‘khôi ngô tuấn tú’ mà còn ‘văn võ song toàn’ lại biết đủ cả ‘Cầm, Kỳ, Thi, Họa’ nữa. Do đó mà thiên-hạ đặt cho chàng biệt danh là ‘Kim Địch Tú Tài’ (#17). Ngoài ra, chàng còn là người có chí lớn, có cơ trí linh xảo. Chàng cũng lanh lẹ và kín đáo, nên một khi bang-hội cần đi dò la tin-tức ở đâu, liên-lạc với người nào, hay cần thành-thích kẻ thù nào đó, thì Dư-Ngư-Đồng là người được đề cập đến tên trước nhất và sẽ là người nhận lãnh những trọng trách đó.

Lần này, Dư-Ngư-Đồng phụng mệnh Thiếu-Đà-Chủ (#18) của Hồng Hoa Hội là Trần-Gia-Cách đến Lạc-Dương để thi hành một công tác quan trọng. Đến nơi, Dư-Ngư-Đồng vẫn chưa hay tin Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai và Uyên-Ương-Đao Lạc-Băng gặp đại nạn, còn nằm dưỡng thương tại khách-sạn này. Nhờ lúc gặp đám công-sai nói chuyện huênh hoang với nhau, nhất là khi Ngô-Quốc-Đống nói đến những lời như ‘đi bắt khâm-phạm Hồng Hoa Hội’, chàng mới giật mình để ý. Thái-độ của Dư-Ngư-Đồng hết sức dè dặt, không để bộc lộ một điều gì ra ngoài nên cả khách-sạn không ai biết. Chỉ có Lục-Phỉ-Thanh vì để ý quan-sát chàng mãi nên mới trông ra được lúc chàng biến sắc.

Trong thời gian chớp nhoáng, Dư-Ngư-Đồng đã nghĩ được ngay cách đối phó. Chàng quyết định phải trừ khử đám công-sai này trước rồi sẽ nghĩ cách cứu Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng sau. Nghĩ vậy, Dư-Ngư-Đồng bèn giả ngồi thổi sáo để cản đường gây sự.

Đang ở trong phòng với Văn-Thái-Lai, nghe tiếng sáo thổi du dương, Lạc-Băng biết ngay Dư-Ngư-Đồng đã đến liền mở cửa bước ra.

Dư-Ngư-Đồng một mình chọi với ba tên công-sai, mặc dầu nắm chắc được cả mười phần thắng, nhưng nếu muốn giết hết chúng trong khoảnh khắc thì không phải là một chuyện dễ. Chàng đang mang một trọng trách trong người. Nếu trận đấu cứ kéo dài rồi phỏng như bên Ngô-Quốc-Đống có viện-binh tới thì thật là nguy cho cả Văn-Thái-Lai lẫn Lạc-Băng. Cho nên dù đánh rất hăng, nhưng trong lòng Dư-Ngư-Đồng không được yên ổn chút nào.

Vừa lúc ấy thì đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục và người trong khách-sạn đều kéo đến xem đông như hội.

Đổng-Triệu-Hòa xem được một lúc thì chợt nhìn thấy sau lưng Phùng-Huy có mang một cây cung nên nảy ra một sáng kiến, bèn nói lớn lên rằng:

-Đánh như thế bất lợi lắm! Hãy nghe tôi nói đây. Hai người đánh với hắn, còn một người dùng tên bắn thì dầu có bản lãnh ghê gớm đến đâu hắn cũng phải bỏ mạng mà thôi.

Nghe Đổng-Triệu-Hòa nói, Phùng-Huy như người đang ngủ mê mới tỉnh. Hắn vừa đánh cầm chừng, vừa lùi ra sau rồi nhảy đánh phóc một cái lên trên mặt bàn, rút cung tên ra, nhắm Dư-Ngư-Đồng bắn ‘vù vù’ mấy phát.

Cùng lúc đó, Dư-Ngư-Đồng bị Ngô-Quốc-Đống và Trương-Thiên-Thọ tấn công rất gắt nên phải chống đỡ luôn tay. Cái kế của Đổng-Triệu-Hòa bày cho bọn công-sai thật hữu hiệu khiến cho Dư-Ngư-Đồng đang thắng thế bỗng trở thành yếu thế.

Dư-Ngư-Đồng dù đánh với Ngô-Quốc-Đống và Trương-Thiên-Thọ nhưng vẫn đề phòng Phùng-Huy. Vì vậy ba mũi tên vừa bay tới, chàng liền dùng cây thiết tiên đánh mọt đường gạt cả ba mũi tên xuống dưới đất. Kế đến Dư-Ngư-Đồng lại dùng ống sáo vàng gạt thanh quỷ đầu đao của Trương-Thiên-Thọ sang một bên thì vạt áo bị một đường kiếm của Ngô-Quốc-Đống chém cho rách toạc ra khiến chàng phải khựng lại một cái, không kịp đề phòng được mũi tên khác do Phùng-Huy lén lút bắn tới.

Nghe hơi gió, Dư-Ngư-Đồng lách người qua một bên để tránh những chỗ nhược, nhưng mũi tên cắm ngay bả vai chàng làm đau nhức đến thấu xương, đến phải buông rơi cây thiết tiên xuống đất.

Thấy Dư-Ngư-Đồng bị thương, Ngô-Quốc-Đống cùng Trương-Thiên-Thọ được thế càng nỗ lực đánh hăng. Hai làn đao kiếm như mưa rơi tuyết đổ đưa qua đẩy lại dồn Dư-Ngư-Đồng vào giữa.

Còn một ống sáo vàng, Dư-Ngư-Đồng đành chịu lép vế đứng trong thế thủ, đón trên đỡ dưới, lại phải ngăn ngừa trước sau chứ không mong gì áp đảo được cường địch như lúc đầu vì còng phải đề phòng Phùng-Huy có thể lén buông tên bất cứ lúc nào. Đổng-Triệu-Hòa ‘giám-sát’ trận giao-phong, thấy Dư-Ngư-Đồng thất thế bèn đắc ý cổ võ nói lớn:

-Các người thấy chưa? Kế tôi bày cho có hay không? Hắn có giỏi bằng trời cũng phải chết bởi những mũi tên của người thứ ba đứng ỏ ngoài cứ nhắm những chỗ nhược mà bắn. Cứ như mấy người khi nãy chỉ biết hợp sức đánh thôi thì hắn đã lấy mạng hết cả đám như chơi rồi! Nhưng có bắn thì phải bắn cho trúng chỗ nhược kia! Cứ nghe lời lão Đổng ta là sẽ đưa được hắn về âm-phủ.

Mặc dầu đứng trước tình thế nguy nan, nhưng Dư-Ngư-Đồng không vì thế mà bấn loạn tinh-thần. Chàng vẫn bình tĩnh giao đấu quyết liệt, cố giữ lấy thế quân bình. Thừa lúc Ngô-Quốc-Đống vung kiếm lên toan chém xuống vai chàng, Dư-Ngư-Đồng một tay nhanh nhẹn đưa ống sáo vàng ra gạt một cái thật mạnh rồi tay kia đưa hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa ra như một cái chĩa sắt đâm mạnh dưới ngực hắn. Ngô-Quốc-Đống tránh không kịp, bị điểm trúng huyệt đạo, hét lên một tiếng, khạc ra một bụm máu tươi, choáng váng cả mặt mày.

Nếu là một tay bản-lãnh tầm thường thì nhẹ nhất là Ngô-Quốc-Đống cũng phải xỉu xuống chết giấc rồi. Nhưng vì là một cao-thủ từng nổi danh trên giang-hồ nên nội công cũng thuộc vào loại giỏi nên hắn định thần lại được ngay mà dùng phép hô hấp hít vào dưỡng khí ở bên ngoài, và nhất thời không bị nguy hiểm đến tánh mạng.

Ngô-Quốc-Đống kinh hãi nghĩ thầm:

-“Thằng bé này trông mảnh mai yếu ớt mà không ngờ ngón tay hắn lại cứng đến thế này! Bản-lãnh hắn thật là trác tuyệt, ít thấy trên giang-hồ”!

Nghĩ vậy, Ngô-Quốc-Đống lùi lại đàng sau mấy bước, tiếp tục vận khí hô hấp chứ không dám liều lĩnh xông vào nữa.

Dư-Ngư-Đồng sau khi điểm huyệt trúng Ngô-Quốc-Đống liền rút tay về nắm lại thành quyền nhắm vào bụng Trương-Thiên-Thọ đánh một cái. Trương-Thiên-Thọ vung đao chém trả lại. Dư-Ngư-Đồng vờ như lui lại mà dùng ống sáo khẽ gạt. Trương-Thiên-Thọ chuyển thế, dùng đao đâm thẳng tới. Dư-Ngư-Đồng liền dùng ngay một quyền bí hiểm đánh một quyền ngay tay Trương-Thiêb-Thọ khiến ngọn quỷ đầu đao dội ngược ra sau. Trương-Thiên-Thọ chưa kịp phản ứng thì nhanh như chớp, ống sáo vàng đã điểm vào bụng hắn một cái thật mạnh. Trương-Thiên-Thọ chỉ la lên được một tiếng “Ối trời!” rồi ngã quỵ xuống đất ôm bụng rên rỉ chẳng khác gì một người đàn bà đang rặn đẻ.

Ngô-Quốc-Đống nhịn đau, quơ kiếm ra bảo vệ Trương-Thiên-Thọ vì sợ Dư-Ngư-Đồng giết mất. Phùng-Huy cùng lúc, cũng buông một mũi tên bắn tới. Dư-Ngư-Đồng liền lách sang một bên, tránh được mũi tên, thì Ngô-Quốc-Đống lại vung kiếm đánh tới. Trương-Thiên-Thọ lúc đó cũng lồm cồm ngồi dậy được liền thừa lúc Dư-Ngư-Đồng bận tránh mũi tên của Phùng-Huy và chống đỡ kiếm của Ngô-Quốc-Đống, vận toàn lực dùng thế ‘Độc Tuý Hoa Sơn’ đâm vào lưng chàng một lưỡi đao đoạt mạng.

Thế đao đã độc, lại còn đâm lén sau lưng bất ngờ thì dẫu cho địch thủ có võ nghệ cao cường, vào hạng siêu đẳng đi chăng nữa cũng khó lòng mà tránh cho kịp. Thế nhưng lưỡi đao của Phùng-Huy chưa đâm tới lưng Dư-Ngư-Đồng thì hắn hét lên một tiếng “Ối trời!”, buông rơi thanh quỷ đầu đao té sấp xuống, úp mặt dưới đất ôm khuỷu tay lăn lộn, rống lên như heo bị chọc tiết.

Dư-Ngư-Đồng quay đầu nhìn lại thì thấy Uyên-Ương-Đao Lạc-Băng tay trái vịn vào ghế ở sau lưng chàng còn tay mặt thì cầm một thanh đao sáng chói. Thấy có người tiếp viện, mừng quá, tinh thần phấn khởi lên lạ thường. Chàng thầm nghĩ nếu Lạc-Băng đã đến nơi này thì chắc chắn chồng nàng là Văn-Thái-Lai thế nào cũng có mặt ở đây thôi.

Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai võ nghệ trác tuyệt, cộng thêm với Lạc-Băng và chàng nữa thì cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn. Cho dù có thêm chục tên công-sai khác đến nữa, ba người chỉ cần liên thủ với nhau cũng dư sức đối phó... Dư-Ngư-Đồng sở dĩ suy nghĩ như vậy là vì chưa biết Văn-Thái-Lai đang bị trọng thương, chỉ có nằm yên một chỗ, đi đứng còn chưa nổi, nói gì đến việc giao chiến với xung kích!

Dư-Ngư-Đồng nhìn Lạc-Băng kêu lớn:

-Tứ tẩu (#19)! Chị không cần phải nhọc sức với mấy tên chó chết này cho nhọc sức. Chị chỉ cần giữ hộ em cái thằng bắn tên lén là xong chuyện.

Lạc-Băng gật đầu mấy cái, mỉm cười vui vẻ đồng ý. Rồi một ngọn phi đao từ trong tay nàng lóe lên phóng ra như điện xẹt nhắm thẳng vào Phùng-Huy bay tới. Hắn chưa kịp tránh thì ngọn phi đao đã tiện đứt dây cung đang giương trên tay hắn và chém sớt qua bả vai hắn làm đứt một đường đến máu phải tuôn ra. Phùng-Huy khiếp đảm quá gọi lớn:

-Sư thúc! Trốn mau, không thì chết!

Quên cả đau đớn, Phùng-Huy ráng gọi Ngô-Quốc-Đống được mấy tiếng rồi co giò, chuẩn bị chạy trốn.

Ngô-Quốc-Đống liều mạng vung kiếm đánh ra mấy đòn để Dư-Ngư-Đồng lùi lại mấy bước liền chạy đến chỗ Hàn-Xuân-Lâm bị thương đang nằm im không dậy được mà vác hắn lên vai. Hắn chạy trước để cho Phùng-Huy chạy sau bảo-vệ. Thấy lũ công-sai bỏ chạy, Dư-Ngư-Đồng vẫn đứng im một chỗ chứ không thèm rượt theo. Chạy đưa ống sáo vàng lên miệng thổi ra vẻ an nhàn vô sự.

Lý-Mộng-Ngọc trông thấy thế bất giác sinh lòng cảm phục chàng thư-sinh đệp trai này sao mà lại trang nhã, thái đội điềm tĩnh lạ lùng đến thế! Sau trận giao chiến ‘cửu tử nhất sinh’ (#20) như thế mà chàng ta vẫn thổi sáo được thì quả là tài! Nàng phải cau mày mà nghĩ thầm:

-“Sao chàng ta chẳng lợi dụng cơ hội này mà rượt theo hạ sát hết chúng đi cho rồi? Chẳng lẽ lại đợi viện binh của chúng kéo đến? Tới lúc đó thì ăn năn làm sao kịp nữa”!

Nhưng nàng không ngờ lần này không phải Dư-Ngư-Đồng thổi những điệu nhạc du dương mà lại thổi một hơi lấy từ bụng đưa lên. Tiếng sáo đâu chưa nghe mà chỉ thấy một mũi phi tiêu nhọn hoắc từ trong lòng sáo bay ra nhanh như chớp nhắm lưng Phùng-Huy bay tới.

Tuy chạy nhưng Phùng-Huy cũng có đề phòng trước nên khi nghe hơi gió từ sau lưng bay tới, hắn khom lưng xuống tránh được. Mũi tên bay vụt tới ghim vào phía lưng bên trái Hàn-Xuân-Lâm đang được Ngô-Quốc-Đống ôm trên vai ráng sức cõng chạy hết tốc lực.

Bị tên ghim vào lưng đau quá, Hàn-Xuân-Lâm kêu rống lên dãy dụa nhưng Ngô-Quốc-Đống vẫn cố sức chạy chứ không dám buông ra hay quay đầu lại ngó. Đàng sau, Phùng-Huy cũng chạy theo ráng sức bảo vệ.

Dư-Ngư-Đồng cầm sáo trên tay, quay lại hỏi Lạc-Băng:

-Tứ tẩu! Tứ ca đâu rồi?

Lạc-Băng đáp:

-Thúc thúc cứ theo tôi vào trong này sẽ biết rõ.

Lạc-Băng bị thương cũng nặng, chưa bình-phục lại được nên đi không vững, phải chống gậy lê từng bước một cách khó khăn. Dư-Ngư-Đồng theo nàng đi vào phòng. Chàng cúi xuống nhặt mũi phi đao trả lại cho Lạc-Băng, hoang mang hỏi:

-Chị bị thương ra sao mà khổ sở như thế? Lòng em thật đau đớn vô cùng!..

*

**

Nói về Ngô-Quốc-Đống cõng Hàn-Xuân-Lâm thì cứ nhắm phía ngoài cổng khách-sạn mà chạy trối chết vì không biết phía sau Dư-Ngư-Đồng có rượt theo hay không. Nghe tiếng chân của Phùng-Huy thì hắn lại tưởng là Dư-Ngư-Đồng đang rượt theo nên càng cố gắng chạy cho lẹ, bất kể sống chết! Phùng-Huy cũng vậy, hễ đàng trước Ngô-Quốc-Đồng chạy càng mau thì đàng sau hắn chạy càng lẹ bấy nhiêu đặng theo kịp.

Khi vừa chạy được ra khỏi cổng khách-sạn thì bên ngoài cũng có một người chạy thẳng vào đâm sầm vào Ngô-Quốc-Đống. Bị người ấy tông một cái quá mạnh, Ngô-Quốc-Đống ngã lăn cù ra mà người ấy vẫ trơ trơ như trụ đá. Mấy chục năm trời rèn luyện võ công, hạ bàn của Ngô-Quốc-Đống vốn chai cứng lạ thường, tưởng không có sức mạnh nào lay chuyển hắn nổi.

Thế mà lần này bị người này đụng phải một cái làm hắn chúi nhủi đến nỗi không gượng được phải dội mấy bước, lảo đảo như một gã say rượu, ‘thảy’ Hàn-Xuân-Lâm từ trên vai hắn rơi xuống đất nghe đến ‘bịch’ một tiếng. Ngô-Quốc-Đống cũng bị mất thăng bằng té nhào theo đè lên lưng Hàn-Xuân-Lâm. Tội nghiệp Hàn-Xuân-Lâm bị thân hình to lớn của Ngô-Quốc-Đống đè lên nhấn mạnh mũi phi tiêu lút vào người như đinh đóng vào cây. Hàn-Xuân-Lâm chỉ kêu lên được một tiếng “Chết tôi rồi!” rồi lịm đi.

Ngô-Quốc-Đống lồm cồm ngồi dậy ngước mặt nhìn thử người đụng hắn là ai mà có sức mạnh đến thế. Khi nhận ra đó là Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân Trương-Siêu-Trọng, Ngô-Quốc-Đống như kẻ chết đuối vớt được mảnh phao trôi. Hắn sung sướng đến độ quên hết cả đau đớn liền mau mắn mở miệng:

-Ủa! Trương đại-nhân đây mà! Tôi thật là một đứa vô dụn, Trương đại-nhân ơi! Tôi vâng lệnh đem một số bổ-khoái từ Bắc-Kinh xuống hợp sức với số bổ-khoái ở Lan-Châu phủ đi bắt khâm-phạm. Đã chẳng bắt được tên nào mà trong đám bổ khoái của tôi, kẻ thì bị điểm huyệt thành phế-nhân, kẻ bị trúng phi đao, người thì trúng ám khí. Chính bản thân tôi đây còn bị điểm trúng huyệt nữa!

Trương-Siêu-Trọng nghe xong thì giận lắm, miệng ‘hừ’ một tiếng, tay tả nắm Hàn-Xuân-Lâm kéo dậy nhẹ nhàng, tay hữu rút mũi phi-tiêu ở lưng hắn ra kêu cái ‘phựt’ một tiếng. Mũi phi-tiêu kéo theo một miếng thịt ra khỏi lưng của Hàn-Xuân-Lâm, máu tuôn ra như suối. Trương-Siêu-Trọng lấy thuốc kim thương đem sẵn trong mình ra thoa cho hắn. Một lát sau, Hàn-Xuân-Lâm tỉnh lại. Trương-Siêu-Trọng sau đó lại giải huyệt luôn cho Ngô-Quốc-Đống và hỏi:

-Cái tên điểm huyệt đó còn ở đây hay đã trốn mất rồi?

Trương-Siêu-Trọng gầm lên một tiếng rồi nói:

-Bọn này thật là to gan lớn mật! Đã giết công-sai lại đánh bổ-khoái rồi vẫn an nhiên ở trong khách-sạn này mà chẳng cần trốn tránh đi đâu. Té ra đây là sào huyệt của chúng nó mà!

Trương-Siêu-Trọng miệng nói, chân thì bước nhanh, chạy lên phía phòng trọ của Văn-Thái-Lai trong Hồng Hoa Hội. Đi mấy bước thì đụng phải Trương-Thiên-Thọ. Trương-Siêu-Trọng dừng lại, cúi xuống xem xét thì thấy hắn đã chết từ bao giờ, nằm một đống không còn cách nào cứu được nữa! Trương-Siêu-Trọng hình như giận lắm nên nói với Ngô-Quốc-Đống bằng một giọng rất là gay gắt:

-Sao ông không cho người đem xác Trương-Thiên-Thọ về mà lại để như thế này hả?

Ngô-Quốc-Đống thẹn đỏ mặt, gắng gượng trả lời:

-Thưa Trương đại-nhân, chúng tôi bị đánh chạy trối chế, may mắn gặp đại nhân mới hoàn hồn, còn thì giờ đâu mà sai bảo ai nữa!

Trương-Siêu-Trọng thở dài, nói một cách khổ sở:

-Thế này thì hết chỗ nói rồi! Tôi thật không ngờ ông làm đến chức Bổ-đầu ở Kinh-đô, vâng lệnh Hoàng-Thượng đi bắt khâm-phạm mà lại để đến nước này!

Ngô-Quốc-Đống nghẹn ngào, cố trả lời cho qua:

-Bọn Hồng Hoa Hội đứa nào bản-lãnh cũng cao cường, trừ tôi ra, đám bổ-khoái không có đứa nào có thể gọi là đối-thủ của chúng được! Trương đại-nhân sét kỹ giùm cho!

Trương-Siêu-Trọng cười một cách mỉa mai khó chịu nói:

-Nhưng chính ông cũng bị điểm huyệt nữa kia! Mà ông với anh em bổ-khoái bị cả thảy mấy đứa vây đánh?

Ngô-Quốc-Đống đỏ mặt tía tai, ngậm tăm không đáp. Trương-Siêu-Trọng ngẫm nghĩ dù sao Ngô-Quốc-Đống cũng là Bổ-đầu ở Bắc-Kinh nên bỗng thấy hối hận khi tức giận trót nói những lời chạm đến tự-ái của hắn, nên lại vội vàng an ủi:

-Tôi cũng biết bọn Hồng Hoa Hội cương ngạnh lắm. Nhưng có tôi đến đây giúp ông, chắc không đến nỗi phải thất bại nữa đâu!

Ngô-Quốc-Đống thầm nghĩ tài sức cũng như thế lực mình cón kém xa Trương-Siêu-Trọng nên cũng nói cho qua:

-Nếu được Trương đại-nhân lãnh đạo cho thì còn gì hay hơn!

Trương-Trọng-Siêu lật tử thi Trương-Thiên-Thọ lên, rút ngọn phi đao lau sạch máu me rồi đút vào túi, sau đó sai người trong khách-sạn khiêng tử thi của Trương-Trọng-Siêu bỏ vào một cái phòng, chờ cho y bắt xong khâm-phạm rồi sẽ tính sau.

Phùng-Huy bước tới đưa tay chỉ nói:

-Thưa Trương đại-nhân, phòng của tên điểm huyệt đó ở phía trước này.

Nói xong, hắn cầm cây nhuyễn tiên đi trước mà dẫn đường. Chưa đến phòng ấy thì có một chàng thiếu-niên tay cầm một cái bao màu hồng, từ phòng bên trái đi ra. Thấy Trương-Siêu-Trọng, chàng ta chạy như tiến gần lại, lấy tay vẫy. Miệng chàng ta cười rất có duyên nói:

-Ồ! Cũng là cái ông giựt trộm cái bao này hôm nọ đây mà! Lần này thì đố ông giựt được đấy!

Chàng thiếu-niên tuy nói vậy mà chân thì chạy như bay ra khỏi khách-sạn. Trương-Siêu-Trọng nghĩ thầm trong bụng:

-“Té ra là cái thằng oắt con này! Lại còn đòi vuốt râu hùm nữa hả? Ngươi ăn trộm cái bao của người ta bị ta lấy lại trả cho Diêm-Thế-Chương. Ngờ đâu ngươi đi ăn trộm thêm một lần nữa, mà lại còn dám khiêu khích ta nữa! Đố ngươi làm sao giữ khỏi tay ta! Nhưng giờ đây ta có việc gấp hơn, thủng thẳng ta lấy lại cũng không muộn”.

Nghĩ vậy, Trương-Siêu-Trọng không buồn rượt theo chàng thiếu-niên ấy để giựt lại cái bao hồng, định quay gót đi vào phòng Văn-Thái-Lai theo sự dẫn dắt của Phùng-Huy. Chàng thiếu-niên thấy Trương-Trọng-Siêu không rượt theo mình thì bỗng đứng lại chứ không thèm chạy nữa, đứng sựn lại nói lớn như chế nhạo:

-Ông kia! Tôi biết tẩy của ông rồi nhé! Ông đâu có phải là một tay có bản-lãnh cao cường như thiên-hạ lầm tưởng xưa nay! Bất quá ông chỉ học được mấy thế võ mèo cào đem ra lòe tôi, gạt tôi phải gọi ông là sư-thúc. Mắc cở quá đi ông ơi!

Chàng thiếu-niên ấy không phải ai khác hơn mà chính là Lý-Mộng-Ngọc cải nam trang.

Trương-Siêu-Trọng là một tay cao-thủ trong phái Võ-Đang, tên tuổi vang lừng trên giang-hồ. Bất luận là giới bạch-đạo hay hắc-đạo (#21), hễ nghe đến tên Trương-Trọng-Siêu hay thấy được mặt là phải kiêng dè nể sợ. Mấy năm gần đây, Trương-Siêu-Trọng tung-hoành khắp vùng giang-hải truy nã những tay bản-lãnh cừ khôi chống đối triều-đình Mãn-Thanh. Thái-độ và lập-trường của Trương-Siêu-Trọng càng cương quyết hơn, và tên tuổi lại càng được nhắc nhở đến nhiều hơn nữa. Chưa có ai dám buông một lời khinh nhờn chọc tức y, dù là nhẹ đến đâu, chẳng ngờ hôm nay lại bị một ‘thằng ranh con’ đeo đuổi phá phách mãi, dù đã có ý muốn bỏ qua cho nó rồi.

Nghe Lý-Mộng-Ngọc nói mấy lời ‘xấc xược’, Trương-Siêu-Trọng nhịn không được nữa. Y dùng khinh công phóng như một lằn tên, chỉ trong nháy mắt đã đến sát bên Lý-Mộng-Ngọc khiến nàng phải sợ đến toát mồ hôi vì không ngờ Trương-Siêu-Trọng còn lẹ quá sức tưởng tượng của mình nữa.

Trương-Siêu-Trọng với cánh tay ra phía trước, định chộp bắt lấy Lý-Mộng-Ngọc như mèo bắt chuột vậy. Ý của Trương-Siêu-Trọng là phải dạy cho ‘thằng nhãi ranh’ này một bài học để cho nó phải biết kính trọng sư-thúc chứ đừng nghênh ngang vô lễ nữa mà có hại đến thân. Sau đó, y định tâm sẽ đưa trả đứa ‘sư-điệt’ ranh mãnh này lại cho sư-huynh Mã-Chân xử lý làm sao mặc tình. Trương-Siêu-Trọng vẫn đinh ninh rằng Lý-Mộng-Ngọc là đệ-tử của Mã-Chân chứ chưa hề hay biết nàng là đồ đệ của Lục-Phỉ-Thanh.

Nhưng Lý-Mộng-Ngọc sợ quá lại đâm ra bướng bỉnh. Bàn tay Trương-Siêu-Trọng vừa với tới thì nàng hất mạnh ra một cái rồi co giò bỏ chạy. Trương-Siêu-Trọng vì khinh thường, không nghĩ là Lý-Mộng-Ngọc dám kháng cự nên mới bị nàng gạt phăng bàn tay qua một bên.

Trương-Siêu-Trọng vừa giận vừa tức cười, gọi Lý-Mộng-Ngọc bảo:

-Ranh con, ngươi giỏi đấy! Ta đố ngươi chạy ngã nào cho khỏi!

Trương-Siêu-Trọng dùng khinh công rượt theo. Lý-Mộng-Ngọc lại tiếp tục chạy trối chết thật là nhanh. Nhờ vậy mà nàng không bị rơi vào tay Trương-Siêu-Trọng.

Trương-Siêu-Trọng lại định bụng tạm bỏ nàng mà trở về khách-sạn lo công việc đang bỏ dở của mình trước rồi sẽ xử trí với Lý-Mộng-Ngọc sau. Nhưng không ngờ Lý-Mộng-Ngọc lại tinh ranh quỷ quái đến độ không ngờ! Mặc dầu Trương-Siêu-Trọng muốn dứt nàng ra ra, nhưng nàng lại không chịu buông tha cho y, bắt buộc y phải đeo dính nàng như đỉa đói. Chờ mãi không thấy Trương-Siêu-Trọng rượt theo, Lý-Mộng-Ngọc lại dừng chân gọi ‘ơi ới’ tiếp tục trêu tức:

-Ông già ơi! Bộ mỏi gối trùn chân rồi hả? Sao mà tệ thế? Có mệt thì cứ việc nghỉ một chút đi rồi lại rượt chơi vài chập nữa nghe! Đừng co đầu rụt cổ mà thui thủi trốn về, nhục nhã lắm!

Trương-Siêu-Trọng nghe mà tức ứa gan, định bụng phen này nhất định phải bắt cho kỳ được ‘thằng nhãi ranh’ thì mới hả giận. Y phóng mình rượt thì Lý-Mộng-Ngọc lại chạy. Đuổi một hồi vẫn không bắt được, Trương-Trọng-Siêu lại muốn quay trở về. Nhưng cứ hễ vừa quay đầu đi lại bị Lý-Mộng-Ngọc dùng những lời xốc óc khiêu khích thì ‘hỏa-diệm-sơn’ trong người lại phựt lên. Đôi bên cứ giằng co như thế một lúc khá lâu làm mất bao nhiêu là thì giờ của Trương-Siêu-Trọng.

Lý-Mộng-Ngọc dẫn dụ cho Trương-Siêu-Trọng chạy ra khỏi khách-sạn có đến bảy dặm đường. Trời vẫn mưa dầm mưa dề, hạt mưa vẫn rơi đều, không ngớt một chút nào cả. Trương-Siêu-Trọng ướt hết cả y-phục lẫn mình mẩy, chẳng khác gì một con chuột lột, trông rất thểu não.

Lý-Mộng-Ngọc thì đắc chí cười chọc tức luôn miệng, còn Trương-Siêu-Trọng thì hết sức phẫn nộ, bụng bảo thầm:

-“Lần này mày mà vô phúc lọt vào tay tao thì có trời mà cứu được! Tao sẽ cho cho mày một trận đòn đích đáng nên thân”!

Trương-Siêu-Trọng dốc toàn lực, dùng phép khinh công tột đỉnh mà rượt tới cùng. Tuy nhiên, khinh công Lý-Mộng-Ngọc cũng đã luyện vào bậc đáng kể, lại thêm sức ‘thanh-niên’ (#22) vào nên dẻo dai vô cùng tuy chưa thể sánh được với Trương-Siêu-Trọng là bậc cao nhân tiền bối đã thành danh trên võ lâm từ nhiều năm. Nhưng nhất thời mà bảo rằng Trương-Siêu-Trọng bắt được Lý-Mộng-Ngọc thì không phải là một chuyện như lấy đồ trong túi.

Càng chạy, Lý-Mộng-Ngọc càng nghe hơi gió đàng sau lưng mỗi lúc một gần. Nàng hiểu ngay là khoảng cách giữa hai người càng lúc càng thâu ngắn lại. Lý-Mộng-Ngọc bổng trở nên hồi hộp vì biết cứ theo tình thế này thì không lâu, Trương-Trọng-Siêu sẽ đuổi kịp mình. Mà Lý-Mộng-Ngọc đời nào lại muốn rơi vào tay một người võ công trác tuyệt với lửa giận cao ngất trời đang trút về nàng như thế kia!

Trong lúc tình thế nguy ngập, Lý-Mộng-Ngọc chợt nảy sinh ra một diệu kế. Nàng không chạy theo đường trường nữa, mà rẽ lối chạy lên dốc núi như leo đèo. Trương-Siêu-Trọng há dễ bỏ qua, y cũng rẽ đường leo dốc theo bén gót đến cùng. Đến một khúc quẹo, Lý-Mộng-Ngọc lẹ làng núp vào đàng sau một phiến đá lớn. Trương-Siêu-Trọng không thấy bóng nàng đâu nữa bèn cất tiếng gọi:

-Thằng ranh con chạy ngã nào mà mới đây đã trốn chui trốn nhủi rồi? Có giỏi thì chường mặt ra cho ta rượt thử xem!

Mặc cho Trương-Siêu-Trọng kêu réo, Lý-Mộng-Ngọc vẫn im hơi im tiếng, không trả lời. Bỗng nhiên, Trương-Siêu-Trọng trông thấy cái đầu của Lý-Mộng-Ngọc từ bên triền núi nhô lên vì nàng tuy núp nhưng vẫn lén trông chừng đối phương đặng đề phòng bất trắc. Trương-Siêu-Trọng phá lên cười hăng hắc, đưa tay ngoắc Lý-Mộng-Ngọc bảo:

-Ranh con! Mày khôn hồn thì mau lại đây cúi rạp đầu lạy tao mà xin lỗi thì vị tình thầy mày tao còn có thể tha cho. Nếu còn tiếp tục chọc giận để tao phải rượt theo thì đừng trách rằng sao số xui nhé!

Bị Trương-Siêu-Trọng phát hiện ra chỗ ẩn núp, Lý-Mộng-Ngọc lại phải co giò mà chạy trối chết. Trương-Siêu-Trọng lại ra sức đuổi theo. Vì quyết tâm phải bắt cho được ‘thằng ranh con quỷ quyệt’ đã bao phen chọc giận mình, Trương-Siêu-Trọng vận dụng toàn lực thi triển khinh công nên chỉ trong chốc lát đã đến sau lưng Lý-Mộng-Ngọc. Y hăm hở với tay chụp nàng một cái như một mãnh hổ vồ con mồi.

Lý-Mộng-Ngọc la lên:

-Trời ơi!

Nàng cố sức vùng vẫy, dùng hai tay đẩy Trương-Trọng-Siêu ra và chạy thoát được. Có lẽ vì quá nóng nảy nên Trương-Trọng-Siêu ra tay hơi sớm một chút, từ khoảng cách xa đã vội chụp nên chỉ nắm được vạt áo của Lý-Mộng-Ngọc và làm rách toạc ra một mảnh khi nàng vùng tay mà thôi.

Thoát khỏi tay Trương-Siêu-Trọng, Lý-Mộng-Ngọc chỉ còn biết cong lưng mà chạy mãi. Rồi không còn biết phải chạy ngã nào cho thoát được, nàng chạy đến một bờ suối có giòng nước chảy ‘ro re’ quanh triền núi. Đàng sau Trương-Siêu-Trọng vẫn rượt theo và cũng đã gần bắt kịp. Lý-Mộng-Ngọc bèn nảy ra một kế khác. Nàng cầm cái bao màu hồng quăng ra giữa giòng suối và la lên thật lớn, cốt để cho Trương-Siêu-Trọng nghe:

-Tôi trả cái bao màu hồng này lại cho ông đó. Nhưng ông chịu khó bơi ra mà lấy đi. Còn ông thích rượt theo tôi thì mất cái bao ráng chịu đó, đừng đổ tại tôi nghe!

Trương-Siêu-Trọng đã đuổi đến nơi định nhảy tới bắt Lý-Mộng-Ngọc thì thấy nàng tung cái bao màu hồng xuống suối ra giữa giòng, và nghe rõ mồn một những lời nàng nói. Tuy rằng châm chọc nhưng nghĩ cho kỹ thì quả thật là không ngoa. Cái bao màu hồng kia đâu phải là vật tầm thường? Bên trong là bộ Khả-Lan-Kinh mà Triệu tướng-quân phải khó khăn cực nhọc lắm mới phái người đến nước Duy cướp được đem về cho triều-đình Mãn-Thanh dùng để chế ngự bộ-lạc ấy.

Nếu chẳng may lỡ làm mất bộ Khả-Lan-Kinh vì bất cứ một lý do gì, trách-nhiệm của Trương-Siêu-Trọng không phải nhỏ. Vẫn biết bổn phận chính của y là đi lùng bắt các khâm-phạm Hồng Hoa Hội, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, y cũng có trách-nhiệm gìn giữ, bảo vệ bộ Khả-Lan-Kinh nữa.

Trong khoảnh khắc đó, Trương-Siêu-Trọng đã suy tính tất cả điều lợi hại nên quyết định không rượt theo Lý-Mộng-Ngọc nữa mà phải cố gắng làm sao tìm cách vớt được cái túi màu hồng kia lên mới là điều quan-trọng.

Trời vẫn mưa. Cái túi màu hồng vẫn trôi lơ lửng giữa dòng suối. Sợ để ngâm lâu dưới nước làm ướt, hư hết bộ kinh sách kia, Trương-Siêu-Trọng cũng đành dầm mưa lội ra giữa dòng suối để cố mà vớt cái túi màu hồng, không nề hà tấm thâm ngâm dưới nước suối thật lạnh lẽo.

Đứng trên ghềnh đá nhìn Trương-Siêu-Trọng bơi khổ sở, Lý-Mộng-Ngọc nhảy tung tăng cười vang lên một chập rồi mới chịu quay gót chạy trở về.

Nước suối tuy không sâu lắm nhưng chảy siết. Trương-Siêu-Trọng phải khổ công lắm mới mới nắm được cái bao ấy mà từ từ kéo lên khỏi được mặt nước. Vị nước thấm vào nhiều, cái bao trở nên nặng lạ thường. Thế nhưng lo cho bộ Khả-Lan-Kinh bên trong, Trương-Trọng-Siêu phải dùng một tay nâng cái bao để quá đầu và dùng một tay còn lại mà cố bơi vào bờ.

Lên được bờ, Trương-Siêu-Trọng tìm một phiến đá bằng, cẩn thận mở cái bao màu hồng ra định trải bộ Khả-Lan-Kinh lên cho ráo nước nhưng lại sợ nước mưa đổ xuống làm ướt hết sách thì khổ, phần lại sợ ‘thằng bé ranh con’ núp đâu đây thình lình nhảy ra lén giựt mất. Nói về bản-lãnh thì Trương-Trọng-Siêu không sợ, nhưng kẹt ở chỗ có ‘bảo vật’ nên nếu giằng co thì y sẽ lâm vào tình thế ‘liệng chuột sợ bể đồ’ (#23). Mải nghĩ quẩn cho nên tâm thần Trương-Siêu-Trọng vẫn còn hoang mang bất định...

Nhìn tứ phía không thấy gì khả nghi, mà mưa cũng đã bắt đầu tạnh. Trương-Trọng-Siêu thấy cũng khá yên trí, một tay thủ bảo kiếm, tay kia từ từ mở chiếc bao màu hồng ra. Mới lật bìa ra xem, Trương-Siêu-Trọng đã văng tục chửi oang lên, giống hệt khẩu âm lỗ màng của Đổng-Triệu-Hòa mà xưa nay y chưa từng bao giờ phát ra. Có thể nói, vì quá giận, Trương-Siêu-Trọng mất hết cả thanh nhã.

Thì ra sau khi mở cái bao màu hồng ra, Khả-Lan-Kinh đâu chẳng thấy, chỉ thấy một cuốn sổ ghi tên họ của khách đến mướn phòng và một cuốn ghi tên họ những người thiếu tiền cơm, tiền rượu trong khách-sạn An-Viễn. Hai cuốn sổ này do viên bút toán (#24) của khách-sạn ghi rành rẽ, nếu mất đi thì có hại cho người ta vì thế nên Trương-Siêu-Trọng ban đầu muốn xé vụn ra cho hả giận nhưng nghĩ lại không đành lòng nên đành gói lại cẩn thận để đem về trả cho khách-sạn.

Chửi một hồi mỏi miệng, Trương-Siêu-Trọng lại thấy buồn cười. Y buồn cười vì mắc hởm một tên ranh con đến độ rượt nó gần hụt hơi, khổ công y chịu mưa dầm lạnh lẽo bơi xuống suối buốt cả thân mình để lấy lại cho tên bút toán hai cuốn sổ không can nhập gì đến công tác đặc biệt của một Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân cả. Y cũng cảm thấy thẹn vì trong suốt mấy chục năm tung-hoàng ngang dọc trên giang-hồ chưa từng bị ai khinh khi trêu ghẹo thế mà lần này bị một ‘thằng lõi’ đầu chưa ráo máu đùa cợt, xí gạt mình chẳng khác gì một đứa con nít. Nếu chuyện này mà lọt ra ngoài cho thiên-hạ biết được thì còn gì là uy danh của Hỏa Thủ Phán-Quan Trương-Siêu-Trọng!

Hết chửi lại buồn cười. Hết buồn cười lại thẹn. Và thẹn quá lại hóa giận. Hết giận đứa nhãi ranh lại giận đến bản thân. Giận bản thân chưa đủ, phải giận lây đến sư-huynh Mã-Chân của mình dạy một đứa học trò khỉ khọn theo báo hại mình...

Trương-Siêu-Trọng âm thầm trở về khách-sạn, lên trả lại hai cuốn sổ, đặt trên bàn của viên thư-ký rồi mở cửa vào phòng thay đổi y-phục ướt nhèm đang mặc trên người. Vừa đến trước cửa, Trương-Siêu-Trọng thấy tiêu-sư Diêm-Thế-Chương mang kè kè cái bao màu hồng. Y cảm thấy mắc cở, nhưng cố hỏi lấy lệ:

-Nãy giờ có ai động đến cái bao trên vai chú hay không?

Diêm-Thế-Chương là người thận trọng, nghe Trương-Siêu-Trọng thình lình hỏi như vậy thì nghĩ là chắ có điều gì quan-hệ nên hắn đảo mắt ra dấu, dắt Trương-Siêu-Trọng vào trong phòng rồi cởi cái bao trên vai xuống, mở ra xem thử bộ Khả-Lan-Kinh còn hay mất. Thấy vẫn còn nguyên, Diêm-Thế-Chương thở nhẹ nhõm nói với Trương-Siêu-Trọng:

-Nghe Trương đại-nhân hỏi, tôi kinh ngạc tưởng có biến cố gì rồi!

Trương-Siêu-Trọng nói:

-Luôn luôn phải đề phòng biến cố! Bất cứ một điều gì đáng nghi cũng phải tìm cho ra duyên cớ. Chung quanh chúng ta không thiếu những kẻ rình mò mà phận sự các chú là bảo-vệ Khả-Lan-Kinh. Còn Ngô-Quốc-Đống với các anh em tiêu-sư kia đi đâu mà sao chẳng thấy ai cả?

Diêm-Thế-Chương đáp:

-Anh em tiêu-sư trong Trấn-Viễn tiêu-cục chúng tôi đều có mặt trong phòng, còn Ngô bổ-đầu và các bổ-khoái đi đâu thì tôi hoàn toàn không biết.

Trương-Siêu-Trọng gọi một tên tửu-bảo ra hỏi thì tên này đáp rằng không biết, lại bảo rằng khách-sạn từ lúc đó im lặng như tờ, không có một biến cố nào hay trận chiến nào do bất cứ ai gây ra cả.

Trương-Siêu-Trọng tỏ vẻ bất bình, nói toàn những lời như trách móc:

-Nuôi quân ngàn ngày, chỉ dùng trong một thuở (#25)! Hoàng-Thượng chiếu cố, nuôi sống bọn họ bao nhiêu năm, cho sung sướng, ăn no mặc ấm, không thiếu một thứ gì! Thế mà đến khi có việc cần, họ lại chẳng làm nên trò trống gì để đáp lại ân sâu! Tôi từ xa đến đây chưa kịp nghỉ ngơi đã phải vì họ lo lắng kế sách đối phó với kẻ thù, vừa cứu họ xong lại phải rượt theo khâm phạm. Nhờ họ đi theo giúp chút việc họ lại chuốn đi lúc nào không hay, nghĩ có chán hay không cơ chứ! Diêm lão đệ! Sẵn có lão đệ ở đây xin ráng giúp tôi một phen lên trên phòng bắt mấy tên khâm-phạm đưa giùm xuống dưới này hộ tôi.

Trương-Siêu-Trọng miện nói, tay thì chỉ vào gian phòng của Văn-Thái-Lai cho Diêm-Thế-Chương.

Đã chứng kiến qua bản-lãnh của Văn-Thái-Lai, và đích thân phải đến năn nỉ xin cứu chữa cho đồng bọn, Diêm-Thế-Chương nghe nói mà tóc tai dựng ngược hẳn lên. Ngặt nỗi Trương-Siêu-Trọng đã lên tiếng nhờ thì khó mà từ chối cho được. Vì vậy, Diêm-Thế-Chương chỉ ngồi lì ra đó, không đáp lại, không có ý kiến gì cả, mà cũng không dám đi.

Diêm-Thế-Chương vốn đã khiếp sợ uy danh của Hồng Hoa Hội, biết là nơi quy tụ toàn những tay cao-thủ siêu đẳng trong các phái võ-lâm, có mặt ở khắp chốn trên giang-hồ.

Trương-Siêu-Trọng như đoán được ý của Diêm-Thế-Chương nên cười nói:

-Nếu Diêm lão đệ không thể đi được một mình thì đi chung với tôi cho có bạn.

Cực chẳng đã, Diêm-Thế-Chương đành phải đi theo Trương-Siêu-Trọng đến phòng Văn-Thái-Lai. Hắn để Trương-Siêu-Trọng đi trước, còn hắn mang cái bao màu hồng đi sau, luôn luôn giữ khoảng cách để nhỡ có nguy biến xảy ra thì chạy trước.

Trương-Siêu-Trọng là một cao-thủ thượng thặng, võ nghệ tuyệt luân, thật sự chẳng cần mang theo những tên như Ngô-Quốc-Đống là gì. Với tài nghệ của y thì chưa chắc gì ba người Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-ngư-Đồng đã địch nổi dù hợp sức lại. Huống hồ là cả ba đều bị thương cả. Văn-Thái-Lai thì bị thương quá nặng, kể như bỏ. Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng thì bị thương nhẹ hơn, nhưng hai người đều không phải đối thủ của y dù cho cả hai có khỏe mạnh hoàn toàn đi chăng nữa. Tóm lại, trong trường hợp này, Trương-Siêu-Trọng muốn bắt sống cả ba người thật cũng không phải là một chuyện khó khăn gì cho lắm.

Đến trước cửa phòng, Trương-Siêu-Trọng hét vang lên như sấm:

-Bọn thổ phỉ Hồng Hoa Hội kia! Mau ra nạp mình, đừng để ta ra tay phí sức!

Bên trong tuyệt nhiên im lặng, không có tiếng đáp lại dường như phòng trống rỗng không có ai cả. Trương-Siêu-Trọng lại lớn tiếng, tiếp tục hét:

-Quân chó chết! Bay tưởng trốn thoát được hay sao?

Trương-Siêu-Trọng lấy hết sức, đập mạnh vào cánh cửa một cái. Chỉ nghe ‘bùng’ một tiếng, cánh cửa mở toang ra, và suýt nữa thì Trương-Siêu-Trọng ngã úp mặt xuống đất. Nhưng Trương-Siêu-Trọng là một cao-thủ thượng thừa nên chỉ không đầy một chớp mắt, y đã lấy ngay lại được thăng bằng mà đứng vững vàng tự nhiên như một trụ đá. Thì ra cánh cửa bên trong hoàn toàn không khóa chốt, thật sự chỉ cần xô nhẹ là vào được bên trong dễ dàng như không.

Trương-Siêu-Trọng một mình cẩn thận đi thẳng vào trong phòng trong khi Diêm-Thế-Chương đứng yên ngoài cửa nhìn vào. Thật là trái với sự tiên liệu của tất cả mọi người, trong phòng trống rỗng, chẳng có một bóng người nào cả. Trương-Siêu-Trọng hết sức kinh ngạc, nhưng lại lớn tiếng gọi:

-Còn cái thằng ‘trời đánh thánh vật’ thổi sáo điểm huyệt lén công-sai của triều-đình trốn đi đâu rồi?

Vẫn không có tiếng đáp lại. Trương-Siêu-Trọng bèn đích thân đi lục soát khắp nơi. Bỗng Diêm-Thế-Chương nhảy một cái ra ngoài cửa phòng, mặt xanh như tàu lá, miệng thất thanh la lớn:

-Trương đại-nhân hãy đề phòng! Có người nằm trên giường đó!

Trương-Siêu-Trọng giật mình nhìn kỹ lại trên giường, thấy mùng buông xuống như có hình dáng một người nào đang đắp chăn, tựa đầu trên gối đang ngủ. Trương-Siêu-Trọng tiến lại gần, gọi mấy tiếng nhưng không nghe đáp lại bèn lấy mũi kiếm gạt mí mùng lên quả nhiên thấy hai người đang nằm đối mặt vào nhau ngủ.

Trương-Siêu-Trọng lại dùng mũi kiếm thọc nhẹ vào lưng người nắm mé ngoài xoay mặt vào trong. Không biết người ấy ngủ mê thế nào mà mũi kiếm của Trương-Siêu-Trọng đâm muốn phồng thịt lên mà vẫn không động đậy nhúc nhích gì cả.

Thấy lạ lùng, Trương-Siêu-Trọng tay mặt thủ kiếm, tay trái lật ngửa thân hình người ấy ra. Cúi xuống nhìn kỹ, thì ra đó chỉ là một tử thi. Không biết người ấy đã chết từ bao giờ mà tay chân lạnh tanh, mặt không còn lấy chút máu, hai con ngươi lọt ra ngoài tròng. Nhìn kỹ lại thì đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là Hàn-Xuân-Lâm, bộ khoái phủ Lan-Châu. Còn người nằm phía trong day mặt ra không ai khác hơn là Phùng-Huy, bổ khoái ở Bắc-Kinh, được đạc phái đi tróc nã khâm-phạm Hồng Hoa Hội. Hắn cũng đã chết từ lâu, người cứng đơ, không cựa quậy.

Trương-Siêu-Trọng khom mình xuống, lấy tay đặt lên mũi sờ để thử khám-nghiệm rồi sau đó lại đặt tay lên ngực hai tử thi xem tim còn đập hay không. Trương-Siêu-Trọng sau đó lắc đầu thất vọng. Thêm một điều lạ lùng nữa là khắp châu thân của hai tử thi không có một vết tích nào hay máu me ở đâu, chứng tỏ họ không bị giết chết bằng khí giới.

Khi lật sau lưng ra quan-sát thật kỹ, Trương-Siêu-Trọng mới thấy Phùng-Huy cũng như Hàn-Xuân-Lâm chỉ có mấy điểm nhỏ giống hệt dấu bấm bằng đầu ngón tay. Trương-Siêu-Trọng biết ngay là cả hai bị cao-thủ võ-lâm thuộc phái nội gia chùng chỉ lực giết chết.

Trương-Siêu-Trọng trong bụng thầm nghĩ đến Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai mà khâm phục vô cùng. Trương-Siêu-Trọng đã biết là Văn-Thái-Lai bị trọng thương khắp mình đến nỗi đi đứng không được phải nằm yên một chỗ mà còn vận dụng được nội lực ghê gớm như vậy thì quả không hổ danh với ba tiếng ‘Bôn Lôi Thủ’ của giang-hồ tặng cho.

Trước đó không lâu, Văn-Thái-Lai đã dùng thủ pháp này mà điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa. Nếu không nhờ Trương-Siêu-Trọng giải huyệt cho thì họ Đổng kia nếu không chết thì cũng trở thành phế-nhân rồi. Lần này Văn-Thái-Lai lại dùng chỉ lực đánh chết Phùng-Huy và Hàn-Xuân-Lâm. Một nhân vật có bản-lãnh như thế thì không thể nào khinh thường được. Vì vậy, Trương-Siêu-Trọng trở nên dè dặt hơn, không dám dửng dưng như lúc ban đầu nữa. Y bỗng sực nhớ ra điều gì bèn lẩm bẩm trong miệng:

-“Quên mất! Còn Ngô-Quốc-Đống! Không biết hắn biệt tích nơi nào? Còn vợ chồng Văn-Thái-Lai trốn đi đàng nào?”

Nghĩ vậy, Trương-Siêu-Trọng bèn gọi người trong khách-sạn đến hỏi, nhưng tuyệt nhiên, không ai hiểu tí gì cả!

Hồi 4

Nơi lữ quán, lập cao mưu hạ thủ

Chốn giang hồ, ôm trọng trách bôn ba

Nhắc lại Lục-phỉ-Thanh và Lý-mộng-Ngọc núp bên trong cửa sổ xem trận giao phong giữa Dư-Ngư-Đồng cùng với bọn Ngô-Quốc-Đống từ đầu cho đến lúc Đổng-Triệu-Hòa bày kế cho Phùng-Huy dùng tên bắn thì nhận thấy Dư-Ngư-Đồng mười phần nguy ngập. Lục-Phỉ-Thanh bèn dùng Phù-Dung kim châm phóng trúng cườm tay của Trương-Thiên-Thọ khiến cho hắn phải buông rơi thanh quỷ đầu đao đang định nhắm vào đầu Dư-Ngư-Đồng bổ xuống. Cùng lúc đó, phi đao của Lạc-Băng cũng bay tới kết liễu luôn tánh mạng của tên bổ khoái phủ Lan-Châu trong nháy mắt. Ngô-Quốc-Đống biết trước đánh nữa thì có mòi chết hết nên ra sức ráng cõng Hàn-Xuân-Lâm mà tẩu thoát.

Lục-Phỉ-Thanh trong lòng mừng thầm vì thấy Dư-Ngư-Đồng, đứa học trò của sư-huynh Mã-Chân, và Lạc-Băng, đứa con gái của bạn cố-tri Lạc-Nguyên-Thông, tất cả đều thoát được đại nạn.

Tưởng mọi việc êm, ai ngờ đâu Trương-Siêu-Trọng từ đâu xăm xăm từ ngoài ngõ đi vào. Lý-Mộng-Ngọc vừa trông thấy y liền lập tức gọi Lục-Phỉ-Thanh chỉ và nói:

-Thầy à! Chính người này tối hôm qua giựt lại cái bao màu hồng con định cướp lại trả cho Tiêu-Thanh-Đồng đó! Thầy có nhận được là ai không?

Lục-Phỉ-Thanh ‘á’ một tiếng vì kinh hãi, nhưng lại nghĩ ngay được một diệu kế liền rỉ tai Lý-Mộng-Ngọc một hồi rồi mới căn dặn:

-Con dùng cách này mà dụ hắn ra khỏi nơi đây, càng xa càng tốt! Lúc con trở về mà không thấy thầy thì sáng ra con cứ theo đoàn xa kiệu mà hộ tống gia-quyến lên đường chứ đừng lo gì cho thầy cả. Đương nhiên thầy sẽ ngầm theo sau mà đề phòng những biến cố. Mau lên!

Lý-Mộng-Ngọc định hỏi nữa thì Lục-Phỉ-Thanh thúc-giục:

-Hắn vào tới sân rồi, con mau lên đi, chậm trễ thì không kịp nữa đâu!

Lý-Mộng-Ngọc còn đang phân vân chưa biết dụ Trương-Siêu-Trọng bằng cách nào bỗng sực nhớ ra mình có một cái khăn màu hồng ở trong mình giống như cái túi màu hồng đựng Khả-Lan-Kinh nên vội vàng lấy ra. Đồng thời, nàng lại nhìn thấy hai cuốn sổ của khách-sạn An-Viễn nằm trên bàn của biên bút toán, Lý-Mộng-Ngọc liền quơ lấy gói vào trong chiếc khăn hồng của nàng gói lại mang lên vai chạy vụt ra khỏi cửa. Nhờ thông-minh, lanh lợi, lại có bản-lãnh vừa đủ, Lý-Mộng-Ngọc đã dẫn dụ được Trương-Siêu-Trọng đuổi theo nàng cho đến lúc y biết mình bị gạt bẽn lẽn trở về.

Sở dĩ Lục-Phỉ-Thanh sai Lý-Mộng-Ngọc làm công việc này là vì đã lâu ngày làm thầy bên cạnh nàng, nên biết rõ đứa nữ đệ-tử của mình thông-minh có thừa, sẽ nghĩ được nhiều ngụy kế, biết tùy cơ ứng biến khi gặp lúc lâm nguy. Như vậy, dù cho sư-đệ của ông ta là Trương-Siêu-Trọng võ-nghệ có cao cường đi chăng nữa cũng khó làm gì được Lý-Mộng-Ngọc. Hơn nữa, Trương-Siêu-Trọng lại biết Lý-Mộng-Ngọc là sư-điệt của mình dù lầm tưởng nàng là đệ-tử của đại sư-huynh Mã-Chân (#1), vì vậy, cho dù có bắt được Lý-Mộng-Ngọc, y chắc cũng vị tình đồng môn mà chỉ sửa trị qua loa thôi chứ không đến nội làm hại đến tánh mạng của nàng.

Thêm vào đó, cho dù không nể mặt sư-huynh đồng môn đi chăng nữa, nhưng một khi biết Lý-Mộng-Ngọc là ái-nữ của Lý-Khả-Tú tướng-quân, một tướng lãnh được vua Càn-Long sủng ái tin dùng thì chắc chắn Trương-Siêu-Trọng cũng không dám đụng đến một cọng lông chân của nàng. Căn cứ vào quan chức triều đình, Lý-Khả-Tú còn trên Trương-Siêu-Trọng đến hai bậc, lẽ tất nhiên y buộc lòng phải nể sợ chứ không dám gây thù oán.

Và Lục-Phỉ-Thanh còn biết rõ cả tính khí của Trương-Siêu-Trọng nữa. Dù gì thì bình sinh y cũng rất cao ngạo, chẳng bao giờ đụng chạm đến đàn bà con gái cả vì nghĩ rằng thắng được họ cũng không lấy gì làm vinh, nhưng rủi mà bại thì tên tuổi chỉ có nước mà chôn vùi mà thôi. Do đó, ông tính trước được nước hạ sách là Trương-Siêu-Trọng có thể sẽ bắt được Lý-Mộng-Ngọc, nhưng khi khám phá ra nàng là nữ thì sẽ cười xòa rồi bỏ qua để tránh cái tiếng là đi uy hiếp một con bé vào hàng con cháu mình.

Hiểu rõ được cả tâm-lý của Lý-Mộng-Ngọc và Trương-Siêu-Trọng, ông mới quyết định nhờ đứa nữ đệ-tử của mình thi hành mưu kế này mà không sợ nguy hiểm đến tánh mạng của nàng. Nhưng có một điều mà Lục-Phỉ-Thanh vẫn còn sơ sót là giả sử như Trương-Siêu-Trọng mà dùng ám khí thì còn gì là tánh mạng của Lý-Mộng-Ngọc!

May thay, Trương-Siêu-Trọng vẫn còn vị nể chút tình đồng môn nên, vẫn tự coi mình là sư thúc của Lý-Mộng-Ngọc nên giận thì có giận, nhưng hạ độc thủ thì không nỡ ra tay. Nhờ vậy mà Lý-Mộng-Ngọc mới không nguy hiểm đến tánh mạng. Và nhờ vậy mà mưu kế mới được thành công.

Thấy Trương-Siêu-Trọng rượt theo Lý-Mộng-Ngọc ra ngoài khách-sạn rồi, Lục-Phỉ-Thanh bèn tức tốc chạy đến phòng của Văn-Thái-Lai gõ cửa. Bên trong có tiếng phụ nữ hỏi:

-Ai đó?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Ta là cố tri giao của Lạc-Nguyên-Thông. Ta gọi Lạc-Nguyên-Thông là ngũ đệ vì ta là vai anh. Mau mở cửa vì ta có việc phải bàn gấp với mấy cháu.

Chờ mãi không nghe tiếng trả lời mà cũng không thấy cửa mở. Dường như bên trong hai người đang bàn tán gì với nhau.

Lục-Phỉ-Thanh lại thấy bọn Ngô-Quốc-Đống cứ đi qua đi lại đàng trước cửa mãi như canh phòng, gìn giữ không cho mấy người trong phòng ấy thoát ra để chờ Trương-Siêu-Trọng đến.

Bọn Ngô-Quốc-Đống thấy Lục-Phỉ-Thanh đứng chờ ở ngoài cửa phòng Văn-Thái-Lai thì tỏ vẻ nghi ngờ, e ngại. Thình lình cánh cửa phòng mở hé ra, Dư-Ngư-Đồng đứng áng ngăn lối vào. Chàng lễ phép cúi đầu chào Lục-Phỉ-Thanh chậm rãi nói:

-Tôi được hân hạnh chào mừng một vị tiền bối có lòng tìm đến chỉ bảo.

Lục-Phỉ-Thanh nói bằng giọng ôn tồn rất nhỏ, dường như sợ bọn Ngô-Quốc-Đống để ý nghe lọt vào tai:

-Ta là Miên-Lý-Châm Lục-Phỉ-Thanh, tức sư-thúc của cháu đây.

Dư-Ngư-Đồng nhìn Lục-Phỉ-Thanh từ đầu đến chân, nhưng cũng chưa tin lắm nên vẫn trù trừ không quyết. Chàng có nghe sư-phụ Mã-Chân nhắc đến một vị sư-thúc mà ông ta tỏ lòng quý mến và cảm phục vô cùng, nhưng từ trước đến nay chàng vẫn chưa được gặp lần nào. Đột nhiên nay người ấy lại tự đến tìm trong lúc chung quanh chàng đều có cạm bẫy của kẻ thù bao giăng thì không thể nhẹ dạ mà tin bậy được, đồng thời còn phải phòng thủ thật là chu đáo nữa. Vả lại, cả Lạc-Băng lẫn Văn-Thái-Lai đều bị trọng thương, nếu rủi ro kẻ thù vào được trong phòng thì thật là nguy hiểm đến tánh mạng cho cả ba người.

Lục-Phỉ-Thanh như đoán được ý nghĩ của Dư-Ngư-Đồng nên ông ta lại phải nói thật rõ và thật nhỏ cho Dư-Ngư-Đồng biết thêm rằng:

-Cháu đừng nghi ngờ sư-thúc mà chậm trễ hết cả việc lớn mà nguy hiểm đến tánh mạng cả ba người không chừng! Đã từng hành hiệp giang-hồ, không lẽ cháu lại không có cặp mắt tinh đời mà phân biệt được chân giả, bạn thù sao? Chẳng lẽ cả diện mạo lẫn thái độ của sư-thúc không đáng cho cháu tin à?

Dư-Ngư-Đồng sực tỉnh, toan dùng lễ sư-điệt để bái kiến thì Lục-Phỉ-Thanh lại ra dấu và nói khẽ:

-Cháu đừng có một hành động hay ngôn ngữ nào để cho bọn kia nhìn thấy mà sinh ra nghi ngờ rằng chúng ta thân mật với nhau cả. Cháu làm bộ đóng mạnh cánh cửa lại, đi thẳng vào trong phòng như không nhận biết sư-thúc là ai. Sư-thúc sẽ có diệu kế giúp cháu.

Dư-Ngư-Đồng tuân lời. Nhưng chàng lại bỗng nghi ngờ Lục-Phỉ-Thanh là đồng bọn với Ngô-Quốc-Đống nên đóng ầm cánh cửa lại thật mạnh toan đi vào trong phòng.

Lục-Phỉ-Thanh thình lình tay trái kéo dội Dư-Ngư-Đồng trở lại. Dư-Ngư-Đồng bị kéo một cái quá mạnh bất thình lình không vào trong phòng được. Lục-Phỉ-Thanh muốn đánh tan hết sự nghi ngờ của Dư-Ngư-Đồng nên mới dùng nóng ‘Lại Thác Y’ này.

Dư-Ngư-Đồng thấy Lục-Phỉ-Thanh vén áo lên thì tự nhiên không dám xông vào đồng thời nhận ra được ngón đòn ấy phải là người cùng môn phái, và tin chắc đây là sư-thúc Lục-Phỉ-Thanh rồi chứ không còn nghi ngờ vào đâu được nữa.

Bị dội lại mấy bước, Dư-Ngư-Đồng hết cả vía vì ngón ‘Lại Thác Y’ của Lục-Phỉ-Thanh có uy lực phi thường, ngoài sư phụ là Mã-Chân ra, chàng chưa thấy ai sử dụng ngón này ghê gớm đến thế, có thể nói là không kém gì sư-phụ chàng nếu không muốn nói là hơn.

Thấy Dư-Ngư-Đồng bị một quyền đến phải lảo đảo dội ngược vào trong phòng, Lạc-Băng toan múa cặp Uyên-Ương-Đao để trợ chiến thì Dư-Ngư-Đồng đưa tay ra hiệu, miệng nói cho nàng vừa đủ nghe:

-Đừng!...

Lục-Phỉ-Thanh hai tay cung lại như sắp tung ra một ngón quyền hiểm ác mà sự thậy là ra dấu bảo hai người chạy hoảng vào trong phòng không kịp đóng cửa lại. Lục-Phỉ-Thanh phóng quyền rượt theo vào, miệng thì gọi Ngô-Quốc-Đống thật to:

-Này, bọn hung phạm đều trống trong này cả! Anh em mau vào hợp sức với tôi mà bắt sống chúng nó hết, đừng để thoát mạng nào! Mau vào đây! Còn chờ gì nũa?

Ngô-Quốc-Đống nãy giờ chứng kiến Lục-Phỉ-Thanh giao đấu với Dư-Ngư-Đồng quyết liệt, võ nghệ siêu việt, không thua gì Trương-Siêu-Trọng nên vẫn đinh ninh rằng là người của Trương-Siêu-Trọng đến đây hợp sức với chúng vây bắt người của Hồng Hoa Hội. Lại thấy Dư-Ngư-Đồng và Lạc-Băng thua, chạy trối chết vào trong phòng quên cả đóng cửa lại bị người ấy rượt theo nên trong lòng hắn mừng vô hạn. Bỗng lại nghe Lục-Phỉ-Thanh gọi bọn hắn trợ lực với ông ta bắt cho hết khâm-phạm đang trốn trong phòng, bọn chúng lại càng mừng hơn nữa vì vừa có cơ hội lập công lại vừa trả được thù.

Ngô-Quốc-Đống tuốt bảo kiếm cầm tay, gọi Phùng-Huy và Hàn-Xuân-Lâm cùng đi theo, rồi cả ba tên ba chân bốn cẳng chạy vào phòng. Chờ cho ba ba vào hết đâu đó xong xuôi, Lục-Phỉ-Thanh bèn thuận tay đóng chặt cánh cửa vào. Thấy Dư-Ngư-Đồng, Lạc-Băng và Văn-Thái-Lai chễm chệ ngồi trên giường, Ngô-Quốc-Đống biết bị trúng kế, hồn phi phách tán, kêu lớn lên:

-Anh em! Mau lui ra hết!

Hàn-Xuân-Lâm và Phùng-Huy ở sau lưng Ngô-Quốc-Đống vừa xoay mình trở lại định tung cửa thoát thân ra ngoài thì mỗi người trúng phải một đường chỉ lực của Lục-Phỉ-Thanh ngay sau lưng. Cả hai không kịp kêu lên tiếng nào đã trút hơi thở cuối cùng mà ngã xuống, xương sườn bị gãy tiện, không có một giọt máu chảy ra. Ngô-Quốc-Đống kinh hãi đến tột độ vì hắn chưa từng bao giờ được thấy cao-thủ nào võ-công ghê gớm đến thế, giết người một cách hết sức tinh vi và mau lẹ khiến cho kẻ bị giết trở tay không kịp, không la được tiếng nào hay có một phản ứng gì, thậm chí có khi còn không hay là mình bị giết nữa!

Ngô-Quốc-Đống dù sao cũng là một cao-thủ võ-lâm, từng làm Bổ-đầu bao nhiêu năm ở Bắc-Kinh tiếng tăm lẫy lừng chứ không phải hạng tầm thường nên đứng trước tình thế như vậy hắn vẫn còn sáng suốt mà giữ được bình tĩnh chứ không đến nỗi hoang mang. Thấy cánh cửa bị Lục-Phỉ-Thanh đóng chặt và đứng thủ ở đấy ắt hiểu ngay mình không thể thoát ra bằng ngã ấy được nên chỉ còn cách liều mạng tìm một giải pháp nào khác còn hơn là đứng bó tay chịu trận thì chỉ có chết chắc.

Ngô-Quốc-Đống bỗng tung mình lên bàn đứng thủ các chỗ nhược trên thân rồi bất thình lình phóng mình như cây lao, đầu đập vào cửa sổ gần giường Văn-Thái-Lai đang nằm, có Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng đứng hai bên chăm nom và bảo vệ. Đầu của hắn cứng như đá nên chỉ nghe ‘rột rột’ mấy tiếng, mấy cây song cửa bằng gỗ bị gãy nát ra. Không chậm trễ một giây nào, Ngô-Quốc-Đống liền lao ra ngoài bằng lỗ hổng cửa sổ do hắn tạo ra.

Mọi việc thật xảy ra quá mau lẹ, ngoài sự tiên liệu của tất cả mọi người. Lục-Phỉ-Thanh đứng canh cửa nhìn thấy sự kiện xảy ra như thế không thể nhảy theo hắn được mà cũng không kịp phóng ám khí giết hắn nữa.

Chẳng ngờ Văn-Thái-Lai bỗng nhiên ngồi phắt dậy tung ra một quyền trúng ngay bả vai bên mặt của Ngô-Quốc-Đống. Chỉ nghe ‘rắc’, một tiếng, Ngô-Quốc-Đống nhăn nhó, biết là xương bả vai hắn đã bị quyền của Văn-Thái-Lai đánh gãy. Quyền của Bôn-Lôi-Thủ quả là kinh hồn. Đó là chàng còn đang mang trọng thương trên mình!

Mặc dầu bị thương, Ngô-Quốc-Đống không vì thế mà rối loạn tinh thần. Hắn cắn răng, dùng toàn lực vận đề khí lao mạnh ra ngoài cửa sổ, đầu chổng xuống đất. Lúc đầu gần chạm đất, Ngô-Quốc-Đống búng ngược hai chân ra phía trước như cái lò xo và đứng được vững vàng.

Lạc-Băng rút ngọn phi đao chạy ra cánh cửa nhìn ra ngoài nhắm Ngô-Quốc-Đống phóng một cái. Phi đao của nàng sớt một đường ngay vai trái của Ngô-Quốc-Đống làm máu tuôn xuống xối xả.

Thì ra lúc hắn búng mình, hai chân vừa chạm đất thì vội nép mình dọc theo bờ tường bên ngoài, nhờ vậy mà che được chỗ hiểm nên chỉ bị trúng phi đao vào vai bị thương thôi chứ không đến nỗi mất mạng. Đó cũng là nhờ kinh nghiệm bao nhiêu năm bôn ba ngược xuôi của hắn nên dù thoát được ra ngoài vẫn biết phải đề phòng ám khí. Ngô-Quốc-Đống quả không hổ danh là một bổ-đầu Bắc-Kinh một thời ngang dọc khắp chốn. Trong cái chết hắn vẫn tìm được đường sống nhờ khôn ngoan lanh lợi chứ không phải chỉ trông cậy suông vào bản-lãnh múa kiếm với đánh quyền.

Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng không nghi ngờ gì nữa, cả hai đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh làm lễ ra mắt của kẻ hậu sinh đối với bậc trưởng bối. Văn-Thái-Lai vì bị trọng thương nên không thể xuống hành lễ được, đành nằm im trên giường lễ phép thưa:

-Thưa lão tiền bối, vì không thể nào xuống tham kiến được, xin lão tiền bối xét giùm mà rộng lòng tha thứ cho.

Lục-Phỉ-Thanh xua tay, cười nói:

-Không sao! Không sao! Cứ nằm yên mà tĩnh dưỡng cho khỏe. Cho lão phu hỏi thăm một điều. Hai người với Lạc-Nguyên-Thông, bạn thân của lão có liên hệ bà con thân thuộc như thế nào?

Chưa ai kịp trả lời thì Lục-Phỉ-Thanh quay qua Lạc-Băng nói luôn:

-Nếu lão đoán không lầm thì cô nương đây là ái-nữ (#2) của Lạc lão đệ!

Lạc-Băng đáp:

-Thưa lão tiền bối, chính là thân-phụ của điệt-nữ. Còn Văn-Thái-Lai đây chính là trượng-phu (#3) của điệt nữ.

Lục-Phỉ-Thanh vui mừng quá đỗi. Giọng ông ta run run:

-Thật là may mắn biết bao nhiêu! Có lẽ lòng trời không nỡ phụ người lành cho nên giữa đường không hẹn mà lại xui khiến cho ta gặp lại người thân trong hoàn cảnh nguy ngập này.

Nói xong, ông ta không dấu được cảm xúc, lệ từ đâu bỗng rướm lên đôi mi rồi trào ra hai hàng rồi nghẹn ngào nói tiếp:

-Lão phu với Lạc-Nguyên-Thống là bạn chí thân. Không ngờ xa cách nhau mười mấy năm mà lão đệ đã ra người thiên cổ! Lòng lão thật bi thảm, khó nói sao cho hết lời! Thấy cháu đây chẳng khác nào thấy lại bạn già!

Lục-Phỉ-Thanh kéo vạt áo lên lau nước mắt. Lạc-Băng cũng cảm động đến rơi lệ. Ai nấy đều ngậm ngùi cảm khái. Trong một phút tất cả đều im lặng không ai nói với ai được lời nào.

Lát sau, Lục-Phỉ-Thanh ngước mắt lên nhìn Dư-Ngư-Đồng mà hỏi:

-Điệt-nhi là đồ đệ của Mã sư-huynh. Vậy không biết gần đây Mã sư-huynh mạnh giỏi thế nào?

Dư-Ngư-Đồng đáp:

-Xin thưa với sư-thúc, sư-phụ con vẫn bình an. Con vẫn thường được nghe sư-phụ nhắc đến sư-thúc hoài. Sư-phụ vẫn than thở là đã hơn mười năm nay không gặp được sư-thúc mà cũng không rõ tin tức ra sao nên lòng của sư-phụ không được yên ổn.

Lục-Phỉ-Thanh liền nói:

-Sư phụ của con là người rất mực trung-hậu, sư-thúc luôn luôn vẫn nghĩ thế. Nhưng chỉ vì quá trung hậu mà sư-phụ của con lại đâm ra quá tin người. Ông ta giàu tình cảm, rất rộng lượng luôn tha thứ nên không còn thấy được ai là kẻ điêu ngoa gian trá nữa, luôn luôn nghĩ rằng thiên-hạ đều như ông ấy cả. Con có biết con còn một vị sư-thúc nữa hiện nay đang liệt con vào hàng những kẻ đối đầu với mình không?

Dư-Ngư-Đồng nghe Lục-Phỉ-Thanh hỏi bỗng nhiên kinh sợ giật nẩy cả mình. Chàng hỏi lớn:

-Có phải là Trương-Siêu-Trọng sư-thúc đó không?

Lục-Phỉ-Thanh gật đầu luôn mấy lượt. Văn-Thái-Lai đang nằm trên giường bỗng nghe nhắc đến tên Trương-Siêu-Trọng thì bỗng cựa mình thốt lên một tiếng thật lớn:

-Á!

Lạc-Băng vội vàng chạy đến ôm sát Văn-Thái-lai vào ngực trấn tĩnh vì nhìn thấy những nét lo sợ hiện ra trên gương mặt nhăn nhó của chàng.

Dư-Ngư-Đồng thấy vậy cũng biến sắc, thầm nghĩ:

-“Ta từng nghe Trương-Siêu-Trọng là một trong những bậc tiền-bối có võ-công trác tuyệt siêu phàm trong giới quan lại của triều-đình hiện thời nhưng chưa biết bản lãnh ông ta cao thâm đến bậc nào. Giờ đây nghe Lục sư-thúc vừa nhắc đến tên Văn tứ ca đang nằm dưỡng thương mà bỗng kêu lên thất sắc thì đủ biết con người ấy quả là đáng sợ! Văn tứ ca cũng là một cao-thủ trong giới giang-hồ mà phải hốt hoảng như thế thì chẳng cần nói cũng dư biết Trương-Siêu-Trọng lợi hại đến bậc nào rồi!

Dư-Ngư-Đồng lại liếc mắt thấy Lạc-Băng âu yếm ôm Văn-Thái-Lai vào lòng, tình thâm ý thiết như như đôi chim uyên ương ríu rít trên cành, một phút không rời, chết sống không bỏ thì bụng lại nghĩ:

-Văn tứ ca thật là có phúc. Dù mình đầy thương tích mà được sự nâng niu săn sóc của vợ một bên như thế, thì sự đau đớn kia mười phần cũng nhẹ đi chín rồi. Ta thật vô duyên không có được một người như thế để cùng hưởng lạc thú ái tình trên đời. Con người sinh ra không có được tình yêu thì có khác nào thân cây thiếu đi nhựa sống!

Đang lúc suy nghĩ miên man, Dư-Ngư-Đồng bỗng nghe Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Ta xem sư-đệ của ta vì bả vinh-hoa mà cam tâm làm ‘chó săn’ cho quân xâm lược, dù có đem lời ngay, ý chánh đến đâu rót vào tai hắn cũng như không mà thôi! Con người khi đã tán tận lương tâm rồi thì hóa ra cầm thú! Ta lấy làm xấu hổ cho phái Võ-Đang có một cao-thủ đê hèn làm mất cả thanh danh của môn phái, lại xấu hổ có một người sư-đệ tồi tệ, là cái nhục chung cho cả Mã sư-huynh và ta. Trương-Siêu-Trọng lại là người có võ công tuyệt thế nên càng khó cho các phe đối lập đối phó. Trong giới lục lâm chưa chắc đã có mấy người đương cự nổi với hắn. Mã sư-huynh của ta đi vân du đây đó, lấy gió mát trăng trăng làm bạn, nai rừng cá suối làm vui, không còn thiết gì đến cuộc đời ô trọc. Còn ta thì tuổi cũng đã già, sức đã giảm, trên mười năm trau chuốt văn-chương bỏ phế võ-nghệ nên chưa chắc đã chiếm được ưu thế đối với hắn. Vả lại mình ta còn mang một cái án nặng, chưa phải lúc ra mặt công khai nên còn kiên nhẫn mai danh ẩn tích chờ cơ hội thuận tiện mới đường đường chính chính tham gia gánh vác việc lớn cho quốc gia. Nếu vì việc của mấy cháu mà ta xuất đầu lộ diện thì chẳng những nguy hiểm đến tánh mạng mà còn làm lỡ hết việc lớn sau này nên đành phải trốn tránh chứ không phải vì tiếc gì tấm thân này! Huống chi lần này Trương-Siêu-Trọng từ Bắc-Kinh đội mưa lướt gió xông pha từ biên cương ngàn dặm để thi hành công tác do vua Càn-Long ký thác cho thì đương nhiên hắn phải có những hậu viện mạnh mẽ đông đủ chứ không phải là chỉ có một mình đơn thân độc mã đâu. Các cháu phải hết sức đề phòng hắn mới được chứ đừng xem thường hắn như những đối thủ mà mấy cháu vừa rồi giao tay qua đấy nhé! Hơn nữa hiện tại Văn lão đệ hiện nay mình còn mang đầy thương tích. Tinh-thần dù còn mạnh nhưng sức lực giảm đi đến chín phần. Còn Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng, hai cháu cũng chưa bình-phục lại hoàn toàn, chưa thể đối phó với Trương-Trọng-Siêu nổi. Quân-tử phục thù, mười năm chưa muộn. Nhưng tạm thời, lão phu thành thật khuyên tất cả nên lánh mặt hắn đi, cố mà nhẫn nhịn một thời gian, sau này thiếu gì cơ hội tranh hùng với hắn. Còn lão phu đây chẳng phải sợ gì Trương-Siêu-Trọng mà không vì mấy cháu ra sức giúp đỡ trong lúc hiểm nghèo như hiện tại. Chẳng qua cái thân già này phải dành cho đại cuộc, cho những gì to tát hơn sau này. Lão đã từng thề độc là nếu không diệt trừ được bọn xâm lăng tàn bạo và không thanh toán được bọn ‘chó săn chim mồi’ cho triều-đình Mãn-Thanh thì quyết không thèm làm người đứng trên thế gian này nữa! Cả phường gian ác lão phu còn không sợ, há lại đi sợ một tên phản bội Trương-Trọng-Siêu hay sao? Đó là những lời tâm huyết của lão phu, mong Văn lão đệ và hai cháu xét và suy ngẫm cho kỹ xem có đúng hay không.

Lục-Phỉ-Thanh nói bằng một giọng quả quyết thật hùng hồn, tiếng nói như chuông ngân, gương mặt hiện lên đầy những nét cương nghị khiến cho cả ba người đều im lặng, lắng tai nghe, mà lòng sinh ra đầy cảm phục.

Lạc-Băng nói:

-Chúng cháu xin vâng theo lời chỉ giáo của Lục lão bá.

Nói dứt lời, nàng xoay qua nhìn Văn-Thái-Lai để ý xem sắc khí thế nào, tán thành hay phản đối thì thấy chàng gật đầu, tỏ vẻ đồng ý.

Lục-Phỉ-Thanh liền rút trong túi ra một phong thư đã viết sẵn trao cho Lạc-Băng. Nàng thấy ngoài phong bì đề rằng:

“Thiết-Đảm Trang Châu-Trọng-Anh lão huynh cẩn kính”

Lạc-Băng rất đỗi vui mừng hỏi Lục-Phỉ-Thanh:

-Thưa Lục lão bá, bác và Châu lão anh-hùng có giao tình thân thiết hả?

Lục-Phỉ-Thanh chưa kịp trả lời thì Văn-Thái-Lai đã hỏi:

-Em nói đến vị anh-hùng nào đó vậy?

Lạc-Băng đáp:

-Châu-Trọng-Anh!

Văn-Thái-Lai lại hỏi:

-Thiết-Đảm-Trang của Châu lão anh-hùng ở đâu vậy?

Lần này Lục-Phỉ-Thanh lại đỡ lời cho Lạc-Băng:

-Lão chưa có hân hạnh giáp mặt với Châu lão anh-hùng lần nào, nhưng có giao-thiệp với nhau bằng tinh-thần đã lâu rồi và rất kính nể nhau, mến mộ danh nhau xem nhau như bạn sinh tử! Lão biết rõ Châu lão anh-hùng là một người nghĩa-hiệp can đảm, gặp việc phải sẽ làm ngay mà không bao giờ sợ liên lụy đến cả tài-sản lẫn tánh mạng. Đây thật là một trang nam-tử gan sắt dạ đầy, trượng nghĩa khinh tài. Họ Châu dựng nghiệp đã mấy đời ở Thiết-Đảm-Trang, được dân chúng thương yêu kính mến như thân thích ruột thịt và được tứ hải anh-hùng mộ danh trọng đức. Thiết-Đảm-Trang chỉ cách đây có vài mươi dặm đường thôi. Ý lão muốn Văn lão đệ đến đó tạm nương náu môt thời gian để điều trị vết thương mà không phải lo bọn ‘chó trâu’ làm phiền như khi ở khách-sạn hay lữ-quán là những nơi kẻ qua người lại rất nhiều, sẽ gặp nhiều điều bất tiện. Một khi Văn lão đệ tạm an trú tại Thiết-Đảm-Trang rồi, lão sẽ sai một người tâm phúc về thông báo tin tức cho quý hội (#4) cho các anh em bang chúng hay, và lúc bấy giờ sẽ đưa Văn lão đệ về dưỡng bệnh cho đến lúc bình-phục mà không còn phải e ngại điều gì nữa cả. Việc của chúng ta là việc chung cho tất cả chứ không phải của riêng ai hết. Ai đóng góp được phần nào tức là gánh vác bớt đi một phần trách-nhiệm đó. Lời lão phu bày tỏ chẳng hay ý kiến của Văn lão đệ thế nào?

Lục-Phỉ-Thanh nhìn sắc diện của Văn-Thái-Lai, thấy chàng ta như trù trừ chưa quyết, ông ta bèn nói tiếp:

-Phải nhẫn nhịn việc nhỏ mới không hại đến việc lớn (#5). Văn lão đệ là người chu đáo, đừng nên câu nệ tiểu tiết!

Văn-Thái-Lai nói:

-Lời tiền-bối dạy thật chí lý, vãn bối dám nào chẳng tuân theo. Nhưng bởi trong lòng vãn bối có một điều không được an lòng nên chưa dám quyết định.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Có điểm nào thắc mắc Văn lão đệ cứ nói cho lão phu nghe thử?

-Vãn bối có một nỗi rất khó khăn xin thưa với tiền bối để suy nghĩ đắn đo cho kỹ đặng vãn bối không phải lầm lỡ mà hối tiếc không kịp sau này.

-Văn lão đệ thận trọng như vậy là phải lắm. Vậy điểm ấy như thế nào?

Văn-Thái-Lai nói:

-Thưa lão tiền bối! Hiện nay vãn bối đang mang một bản án rất nặng. Công việc của vãn bối sẽ gây ra cái nạn ‘máu sông xương núi’ chứ chẳng phải tầm thường. Vãn bối đây là khâm-phạm số một của triều-đình vì mang trong người một bí mật khiến cho Càn-Long ăn khôn ngon, ngủ không yên. Nếu vãn bối có chết đi thì ngai vàng của Càn-Long mới bền vững và cuộc đô-hộ của nhà Mãn-Thanh mới bền vững được. Chính Trương-Siêu-Trọng lần này ra biên ải cũng chỉ mang một sứ mạng duy nhất là bắt sống hoặc giết được vãn bối mang đầu về cho Càn-Long mà thôi. Những khâm-phạm khác hiện tại chỉ là việc phụ với triều-đình, bắt được ngay thì tốt, còn không thì để thủng thẳng cũng không sao. Vẵn bối lâu nay rất ngưỡng mộ đại danh của Châu lão anh-hùng vì ông ta là một nhân vật rất có uy-tín và thế lực, được xem như là lãnh tụ của các môn phái võ lâm khắp vùng Tây-Bắc này. Sự giao du với bằng hữu của Châu lão anh-hùng sâu rộng vô biên, chẳng khác gì Mạnh-Thường-Quân thời Chiến-Quốc, thiết tưởng đời nay chưa thấy được người thứ hai. Châu lão anh-hùng với vãn bối đây mặc dù không phải thân mật cố giao, nhưng chắc chắn khi trao lá thư của tiền bối giới thiệu thì Châu lão anh-hùng chắc chắn sẽ nể mặt lão tiền bối mà đón tiếp vãn bối và tiện-nội (#6) một cách nồng nàn chân thật. Lúc đó thì việc của vãn bối được giải quyết một cách ổn thỏa, nhưng sau này rủi mà bại lộ ra tai-họa sẽ đến với Châu lão anh-hùng không biết thế nào mà lường được. Cái tội chứa chấp khâm-phạm triều-đình không những làm cho Châu lão anh-hùng tan gia bại sản mà không chừng còn mang đến họa diệt tộc nữa là khác! Thiết-Đảm Trang lập lên đã mấy đời, nay vì nể mặt tiền bối mà chứa chấp vãn bối thì vạ lây đến cả cho vợ con, quyến thuộc chứ không riêng gì cho Châu lão anh-hùng không thôi. Đó là điều áy náy duy nhất của vãn bối đó thôi!

Lục-Phỉ-Thanh thầm khen ngợi chí khí của Văn-Thái-Lai. Chàng quả là một nam nhi đại trượng-phu quanh minh chính đại, thà chết chứ không muốn liên lụy đến người khác. Ông khuyên rằng:

-Văn lão đệ đừng nên nghĩ đến điều nhỏ nhen ấy mà đánh giá Châu lão anh-hùng quá thấp! Chúng ta đây có thể bỏ nhà bỏ cửa thậm chí cả bản thân nữa để hành hiệp giang-hồ ắt luôn luôn lấy nghĩa-khí làm đầu. Nếu không được như vậy thì không xứng đáng làm một đại trượng-phu đứng trong vũ-trụ này! Bọn ta đây, trong Ngũ-Thường xem cái đạo bằng-hữu là trên hết. Dẫu phải liều mình vì bạn cho trọn đạo, bọn ta vẫn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng mà vui vẻ làm. Lão phu biết rõ tính tình Châu lão anh-hùng lắm. Người ấy nghĩa khí như Quan-Vũ (#7), đâu phải những hạng tầm thường chỉ biết có sự nghiệp gia sản, sẵn sàng bán bạn cầu vinh để giữ lấy tính mạng cá nhân và thân tộc. Dẫu có phải diệt tộc vì hai chữ ‘nghĩa khí’, Châu lão anh-hùng vẫn khảng khái hiên ngang, quyết không ăn năn hối hận. Trái lại, sau này nếu biết chúng ta ở đây gặp nguy cấp mà không chịu tìm đến thì chắc chắc Châu lão anh-hùng sẽ trách cứ. Lúc đó chúng ta làm sao ăn nói đây? Lão phu cũng sẽ không còn mặt mũi nào để nhìn mặt lão anh-hùng nữa vì đã trót lấy bụng dạ hẹp hòi của mình mà đánh giá đức độ mênh mông của người.

Văn-Thái-Lai nói:

-Thưa lão tiền bối, vãn bối đây quyết đem tánh mạng mình ra để hy-sinh cho việc lớn nên đối với bọn ‘chó săn chim mồi’ kia thật chẳng xem vào đâu cả. Nếu bọn ấy mà trở lại đây thì vãn bối quyết một mất một còn với chúng chứ quyết không để cho chúng uy hiếp hay lăng nhục! Có một điều hơi khó nghĩ mà vãn bối chưa thể hy-sinh tánh mạng mình được, từ trước chưa nói với ai giờ xin nói thật với lão tiền bối là sứ mạng của vãn bối lãnh từ Bắc-Kinh về đây chưa trình bày lại cho Thiếu-Đà-Chủ được. Sứ mạng ấy có thể nói là tối hệ trọng chỉ có thể diện kiến Thiếu-Đà-Chủ mà trình bày chứ không thể nhờ bất cứ một ai chuyển đạt lại được. Chính vì điểm ấy mà Càn-Long phải huy động toàn lực các cao-thủ đuổi theo bắt vãn bối cho kỳ được mà giải về Bắc-Kinh, hoặc nếu cần thì giết chết vãn bối ngay đi cũng được, chứ nhất quyết không để cho vãn bối cơ hội về trình bày cho Thiếu-Đà-Chủ nghe! Do đó mà vãn bối liều mình tử chiến đến nỗ phải mang thương tích đầy mình. Và cũng do đó mà Càn-Long phải đặc phái tới một đại cao-thủ Trương-Siêu-Trọng để ngăn chặn vãn bối với bất cứ giá nào. Sứ mạng tối mật này không có giấy tờ hay bút tích chi cả nên triều-đình phải nhắm vào vãn bối. Lão tiền bối nghĩ xem? Thà là vãn bối liều chết giữ bí mật còn hơn để liên lụy đến nhiều người khác phải không?

Lục-Phỉ-Thanh khẽ gật đầu nói:

-Thật Văn lão đệ quá tin tưởng lão phu nên mới dám đem cái sứ mạng tối hệ trọng ấy mà nói ra phần nào. Lão phu thật hết sức cảm động. Vì vậy, lão phu cảm thấy có bổn phận phải bảo vệ tánh mạng an toàn cho Văn lão đệ mà tái hội với Thiếu-Đà-Chủ để có thể hoàn thành được sứ mạng kia. Văn lão đệ cứ nghe lão phu đi. Hãy đến Thiết-Đảm-Trang mà tạm thời nương náu rồi phái người về báo cho Thiếu-Đà-Chủ biết để huy-động lực lượng Hồng Hoa Hội đến hộ tống lão đệ về đến nơi bình an. Còn nếu như lão đệ cứ vì sĩ khí mà tỵ hiềm này nọ thì sự mạng khó mà tròn được, mà việc lớn thì hỏng hết! Văn lão đệ phải suy nghĩ kỹ càng, đừng để phụ lòng khát vọng, tin cậy của mọi người!

Văn-Thái-Lai gật đầu, nằm suy nghĩ một hồi khá lâu. Lục-Phỉ-Thanh lại nói:

-Lão muốn hỏi thăm một người mà chắc hẳn là Văn lão đệ biết. Đó là Triệu-Bán-Sơn một cao-thủ của Thái-Cực võ phái. Chẳng hay Văn lão đệ xưng hô với Triệu-Bán-Sơn như thế nào?

Văn-Thái-Lai đáp:

-Đó là tam ca của vãn bối, một trong số thủ-lãnh tối cao của hội, đứng thứ ba, được gọi là Tam đương-gia hoặc là Triệu tam đương.

Lục-Phỉ-Thanh mừng rỡ reo lên:

-Trời ơi! Lão phu thật tệ quá! Thật là đáng hổ thẹn biết chừng nào! Công việc lớn lao của Hồng Hoa Hội ra sức gánh vác mà từ bấy lâu nay lão phu có được biết một tí nào đâu! Mười mấy năm trời mang bản án nặng trong người, lão phu chỉ biết mai danh ẩn tích mà quên cả nghĩa-vụ đối với tổ-quốc và dân-tộc của mình đi! Có ngờ đâu biết bao nhiêu bạn cũ yêu nước thương nòi đang hợp cùng các thanh-niên nặng bầu nhiệt-huyết tiếp tục công cuộc chiến đấu giải phóng ách xâm lăng mà lão phu đang ơ thờ như người đi đường xa lạ vậy! Triệu-Bán-Sơn là bạn chí thân của lão phu trong Đồ-Long-Hội, thề sống chết có nhau, cùng nhau vào sanh ra tử không biết bao nhiêu lần, dẫu là anh em ruột thịt cũng không bằng được. Triệu-Bán-Sơn là nhân vật trọng yếu trong bang hội cùng chung với Văn lão đệ thì lão chắc chắn rằng việc làm của Hồng Hoa Hội phải là quang minh chính đại. Chỉ nhìn xuyên qua Triệu-Bán-Sơn, lão phu thật đã đánh giá không lầm về quý hội. Văn lão đệ bảo là khâm-phạm tối trọng của triều-đình thì chẳng hay phạm vào tội chi? Bất quá cũng chỉ là giết hại bọn quan quân âm mưu phản quốc là cùng! Vừa rồi lão phu cũng đã sát hại hai tên công-sai của Càn-Long là gì!

Văn-Thái-Lai nói:

-Nếu giết hại quan quân âm mưu phản quốc không thì cũng chẳng có chi đáng gọi là khâm-phạm trọng yếu. Câu chuyện của vãn bối rất dài dòng không thể kể thuật hết lại ở đây cho tiền bối nghe được. Hơn nữa việc này cần phải bí mật tuyệt đối ‘sống để dạ, chết mang theo’ nên không thể nào nói cho ai nghe được ngoài Thiếu-Đà-Chủ. Vãn bối chỉ có thể nói rằng bí mật này đã làm khổ tâm, mệt trí Càn-Long không ít. Càn-Long rất sợ Thiếu-Đà-Chủ biết rõ bí mật này, vì điều này có thể làm hại đến ngai vàng của y. Nếu bắt sống được vãn bối, y có thể dụ dỗ đến cùng, sẽ ban cho của cải vật chất, cũng như danh vọng tột đỉnh miễn sao vãn bối chịu mất tích đi mà đừng nói cho Thiếu-Đà-Chủ biết. Nếu không được thế, tất nhiên Càn-Long phải tìm cách giết vãn bối mà thôi chứ không còn đường chọn lựa. Chỉ nói sơ bấy nhiêu thôi chắc lão tiền bối cũng đã nhận định rõ được cái sứ mạng này có quan-hệ đến vận-mệnh của Hán-tộc đến thế nào rồi! Ngay cài đêm sau khi Tổng-Đà-Chủ quy tiên, Càn-Long đặc biệt sai tám tên thị-vệ võ nghệ cao cường bí mật theo dõi để bắt cho được hai vợ chồng vãn bối giải về. Vợ chồng vãn bối phải nhiều phen liều mạng chiến đấu. Nhưng rồi trong trận đại chiến với tám tên thị-vệ đó ở Tửu-Tuyền, vãn bối bị thương khắp mình, đổ máu rất nhiều nhưng quyết không để cho chúng bắt được. Trong trận huyết chiến ấy, Lạc-Băng, vợ của vãn bối đã sử dụng phi đao phóng chết được hai tên ‘chó săn’ khiến sáu tên còn lại phải ‘kinh tâm tán đởm’ lần lượt bị vợ chồng vãn bối đánh cho bị thương tất cả phải rút về xin viện binh vì biết không thể bắt được hai vợ chồng vãn bối. Lạc-Băng phải khó khăn cực khổn lắm mới đưa được vãn bối đến được khách-sạn này.

Sau đó, Càn-Long ban kiếm ấn cho Trương-Siêu-Trọng rượt theo để giết vợ chồng vãn bối nếu không bắt sống được. Nếu đừng bị trọng thương thì vãn bối cũng chẳng sợ gì Trương-Siêu-Trọng. Dù bản-lãnh cao siêu, chưa chắ gì hắn đã làm gì được vãn bối. Nhưng với tình-trạng hiện tại thì nếu giao chiến với hắn tức là đem mang tánh mạng mà dâng cho hắn rồi! Vãn bối đã liệu được cái chết trong tay. Tuy nhiên, nếu phải chết vì nghĩa thì có gì là đáng tiếc? Vì vậy mà vãn bối định liều mình chứ không muốn để liên lụy đến Châu lão anh-hùng. Lại còn thêm được điều lợi nữa là sau khi vãn bối chết, Càn-Long se tưởng là chuyện bí mật đã mãi mãi chôn vùi theo vãn bối nơi chín suối, ắt sẽ không còn lo đến chuyện tiêu diệt Hồng Hoa Hội gấp rút nữa. Khi ấy, hội sẽ dễ dàng mà âm thầm hoạt động hơn. Mà dẫu cho vãn bối có chết đi, Thiếu-Đà-Chủ trước sau cũng sẽ biết những điều bí mật kia, chỉ có chậm với mau thôi vì vãn bối tin chắc rằng Tổng-Đà-Chủ trước khi sang chơi thế-giới bên kia đã sắp đặt chu đáo đâu vào đó, sẽ đưa những bí mật tới đầy đủ cho Thiếu-Đà-Chủ không bằng cách này thì cách khác. Chắc lão tiền bối đã có dịp chứng kiến nghi-lễ ‘thiên lý tiếp long đầu’ mấy ngày trước đây rồi phải không?

Lục-Phỉ-Thanh sực nhớ ra chuyện gặp từng cặp hảo hán đi song song trên quãng đường ra biên ải hôm nào liền gật đầu mà đáp:

-Có, nhưng lão phu chỉ được chứng kiến có sáu cặp mà thôi. Chờ mãi mà không thấy một cặp nữa nên lấy làm lạ không hiểu tại sao!

Văn-Thái-Lai ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:

-Có lẽ nghi-lễ ấy còn tạm hoãn lại để chờ tin-tức từ Bắc-Kinh đưa về. Chờ mãi không thấy vợ chồng vãn bối nên tạm thời chưa tiến hành đó thôi. Một khi thực hiện xong nghi-lễ ‘thiên lý tiếp long đầu’ xong xuôi cố hiên sẽ phát động ngay đại cuộc ‘tổng tấn công’ vì hội đã công cử vị tân Tổng-Đà-Chủ thay cho vị tiền-nhiệm Vu Tổng đà-chủ.

Lục-Phỉ-Thanh lắng tai thật kỹ nghe Văn-Thái-Lai thuật lại tự sự mới thấu rõ được phần nào cái sứ mạng tối quan-trọng kia; quan-trọng đến nỗi Thanh-Đế Càn-Long phải ba lần bảy lượt phái toàn những tay võ-nghệ siêu quần bạt tụy theo từng bước chân chàng quyết tâm giết cho được để bảo toàn điều bí mật lớn lao ly kỳ đó. Văn-Thái-Lai đang phải gánh một trách-nhiệm hết sức nặng nề, và cho dù có hiểm trở nguy nan đến thế nào chàng cũng thà chịu chết một mình chứ không vì mình mà làm liên lụy đến người khác. Lục-Phỉ-Thanh càng nghĩ mà càng thấy kính phục Văn-Thái-Lai vô cùng. Thật đúng là đại trượng-phu khi làm việc lớn luôn luôn quên mình để nghĩ đến kẻ khác. Cái bản sắc anh-hùng đó đã bộc lộ trong ngôn ngữ, đã được chứng minh trong hành động của Văn-Thái-Lai. Lục-Phỉ-Thanh lại nghĩ rằng:

-Con người của Văn-Thái-Lai thật đáng kính, thật là một bậc quân-tử. Nhưng công việc của y lại đáng được lưu ý nhiều hơn. Công việc ấy có quan-hệ đến vận mạng của quốc gia chứ chẳng phải riêng cho một cá-nhân hay một đảng phái nào. Nếu để cho Văn-Thái-Lai làm tròn cái khí tiết trượng phu thì không những lở dở đại-sự của Hồng Hoa Hội mà còn ảnh hưởng đến đại cuộc của quốc gia nữa.

Cân nhắc điều lợi hại xong, Lục-Phỉ-Thanh thấy không thể cho Văn-Thái-Lai chết cho tròn tâm nguyện của chàng được. Bởi vì chính mạng sống của chàng mới thật sự là cần thiết. Biết Văn-Thái-lai là trang nghĩa-hiệp, Lục-Phỉ-Thanh nghĩ rằng mình cần phải nói khích may ra còn có chút hiệu lực chứ nói suông khó mà thành công được. Nghĩ vậy, ông ta liền nói:

-Văn lão đệ! Lão rất khâm phục tiết khí của em không vì mình mà để liên lụy đến người khác. Đó là hành động quang minh lỗi lạc của một tay hảo hán, thật đáng khen. Nhưng lão phu chỉ tiếc một diều...

Văn-Thái-Lai vội vàng hỏi:

-Lão tiền bối tiếc việc gì vậy?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Văn lão đệ không chịu đi lánh nạn. Lão đệ mình đầy thương tích thế này mà ba người đây không cách nào giải cứu lão đệ được! Giờ ngồi với nhau tại đây chờ cho bọn ‘chó săn chim mồi’ đến bắt thật là đau đớn! Lão phu nói như vậy chẳng phải là nâng cái uy-phong của bọn chúng lên mà tự dìm đi cái chí khí của mình. Nhưng lão phu chỉ vọn vẹn được có hai thầy trò mà bọn chúng, theo lão phu biết thì đông lắm. Dầu cho con cọp mạnh cũng cũng khó chống nổi với bầy cáo đông (#8) cho nên chưa giao phong mà lão đã đoán trước được sự thắng bại. Với ai thì chẳn nói chi, chứ với Trương-Siêu-Trọng thì lão dám quả quyết trong chúng ta đây, không ai xứn là đối thủ của hắn. Còn như bên lão đệ cũng chỉ có hai người, một là vợ lão đệ, hai là sư đệ đồng chí, mà cả hai cũng đang bị thương ít nhiều. Đem cái yếu chống cái mạnh, cái mệt chống cái khỏe, và cái ít chống cái đông, lẽ tất nhiên khó mà chiếm được ưu thế. Lão phu dư hiểu là trong tình bằng-hữu thường hay lấy nghĩa khí làm trọng. Nếu có phải chết đi chăng nữa há vì thế mà tiếc cái thân hay sao? Nhưng chỉ lo một điều là trong hai người nếu rủi một mạng có bề gì thì những người còn lại ắt phải thất điên bát đảo, lấy ai bảo vệ cho lão đệ tẩu thoát đây? Lão đệ cần phải sống vì trách-nhiệm của lão đệ có liên quan đến sực tồn vong của dân tộc! Chúng ta không thể để cho lão đệ hy-sinh được! Lão phu có chết đi cũng chẳng có gì hối tiếc cho cái thân già mục nát này. Nhưng lão tiếc cho đứa cháu gái của lão tuổi còn thanh xuân còn làm được nhiều việc hữu ích cho quốc gia dân tộc, chỉ vì người chồng quá chấp nê, muốn làm anh hùng hảo hán mà phải cùng hy-sinh. Việc lớn chưa thành mà bao nhiêu người hữu dụng đã phải chết đi! Đó, lão tiếc là tiếc thế đó!

Văn-Thái-Lai nghe Lục-Phỉ-Thanh nói đến đây thì mồ hôi xuất ra ướt đẫm, vẻ mặt trông rất bi thương, đau xót. Bị Lục-Phỉ-Thanh dùng những lời hợp tình hợp lý mà nói khích, người anh-hùng thứ tư trong Hồng Hoa Hội bỗng thấy mềm lòng, không còn giữ vững được cái ý chí cứng rắn như sắt đá được nữa. Chàng ta đã bắt đầu xiêu lòng, rồi bỗng dưng quá xúc động trở nên hôn mê bất tỉnh. Lạc-Băng đang đứng một bên, thấy thế thì lo sợ, gục đầu vào ngực chồng mà khóc nức nở.

Lục-Phỉ-Thanh cũng hết sức hoang mang. Ông hoảng hốt kêu gọi một hồi, Văn-Thái-Lai mới tỉn lại, ngơ ngác như vừa trải qua một giấc mộng. Thấy chồng hồi tỉnh, Lạc-Băng vui sướng quá đỗi, ôm lấy chàng, lấy khăn lau khô những giọt mồ hôi đầm đề trên trán.

Văn-Thái-Lai biệt danh là Bôn-Lôi-Thủ, khét tiếng trong giới giang hồ là một cao-thủ có bản-lãn cao siêu, võ công trác tuyệt. Mới 15 tuổi, Văn-Thái-Lai đã dấn bước trong phong trần, đi khắp bốn bể, nổi danh là hiệp khách. Hai tay quyền của chàng đã đánh chết không biết bao nhiêu là tham quan ô lại của triều-đình. Ý hợp tâm đầu, Văn-Thái-Lai chung sức vì dân trừ hại nên thường đi hành hiệp một cặp như đôi chim uyên ương. Cũng không ít cường hào ác bá đền tội ác dưới đôi tay vừa mềm vừa cứng của Lạc-Băng...

Nghe mấy lời chính trực của Lục-Phỉ-Thanh, lòng gan dạ của Văn-Thái-Lai như đã héo lại. Thế mới biết con người cho dù có cứng rắn đến đâu, cũng có lúc vẫn phải ‘anh hùng khí đoản, nhi nữ thường tình’. Nằm suy nghĩ một hồi lâu, Văn-Thái-Lai nghiêng đầu, quay qua nói với Lục-Phỉ-Thanh:

-Những lời phân giải của tiền bối thật là chí lý. Phải, vãn bối chỉ vì cái sĩ khí cá nhân hão mà tí nữa quên mất đại nghĩa! Giờ đã hiểu rõ các điều lợi hại, xin hoàn toàn nghe theo lời tiền bối chỉ dạy.

Lục-Phỉ-Thanh lại lấy bức thư viết cho Châu-Trọng-Anh đưa Văn-Thái-Lai xem. Trong thư đại-khái nói đến lòng ngưỡng mộ của ông ta đối với trang-chủ, kế đến nói rõ việc mấy người bạn thân của Hồng Hoa Hội đang gặp nạn nên ngỏ ý nhờ ông ta giúp đỡ. Trong thư tuyệt đối không đề cập đến tên họ Văn-Thái-Lai, tuyệt đối giữ bí mật cho chàng mặc dù Châu-Trọng-Anh là một người nghĩa khí đáng tin cậy.

Xem thư xong, Văn-Thái-Lai nói mấy lời cảm tạ , thở ra một hơi nói:

-Khi đến Thiết-Đảm-Trang, Hồng Hoa Hội lại có thêm một ân-nhân nữa.

Trong nội-quy của Hồng Hoa Hội có ghi rõ rằng: ‘ân phải đền, oán phải trả’. Do đó mà từ trước đến nay bất luận người nào có chút ân mọn với Hồng Hoa Hội thì bằng cách nào họ cũng phải đền đáp lại cho xứng đáng mới nghe. Ngược lại, kẻ nào làm việc gì tổn hại cho hội sẽ bị coi là kẻ thù, họ cũng quyết phải trả oán cho kỳ được mới chịu. Thù nhẹ thì trả nhẹ, thù nặng thì sẽ trả nặng chứ chẳng bao giờ bỏ qua.

Sở dĩ Trấn-Viễn tiêu-cục vừa nghe đến danh Hồng Hoa Hội là hồn phi phách tán cũng vì biết rõ điều nội quy ân oán phân minh ấy. Nếu lỡ mà chuốc lấy oán rồi thì đừng mong Hồng Hoa Hội bỏ qua.

Lục-Phỉ-Thanh lại hỏi Dư-Ngư-Đồng phải đi đâu để báo tin cho bang chúng Hồng Hoa Hội gửi người tiếp viện đến đón rước và hộ tống Văn-Thái-Lai về thì Dư-Ngư-Đồng đáp rằng:

-Hồng Hoa Hội có nhà trong ba gian, nhà ngoài ba gian gồm chánh phó hương-chủ là 12 vị. Hiện tại trừ Văn tứ đương-gia và Lạc thập nhất đương-gia đang mắc nạn ở đây, tất cả người còn lại đều tập trung ở Tây-An. Ai nấy đang chờ Thiếu-Đà-Chủ về bàn việc trọng-đại của hội nhưng Thiếu-Đà-Chủ nhất định không nghe, cứ vịn lẽ còn nhỏ tuổi không dám đảm đang trọng trách của hội, thành thử cứ thoái thác mãi nên công việ chưa xúc tiến được. Thiếu-Đà-Chủ cứ một hai bảo rằng chỉ có Vô-Trần đạo-trưởng nhị đương-gia là người có đủ tài đức và năng lực để gánh vác công việc của hội mà thôi. Mà Vô-Trần đạo-trưởng nhị đương-gia đời nào chịu nên cứ thác qua thác lại với nhau mãi. Vì vậy phải chờ Tứ đương-gia và thập-nhất đương-gia về đến nơi để chính-thức bầu lên một tân Tổng-Đà-Chù cho Hồng Hoa Hội. Ngờ đâu hai vị đương-gia lại gặp nạn ở đây cho nên ai nấy vẫn nóng lòng còn đợi mãi ở Tây-An. Để tiểu-điệt lên đường về thẳng đấy mà báo tin là tiện nhất.

Nói với Lục-Phỉ-Thanh xong, Dư-Ngư-Đồng lại xoay qua nói với Văn-Thái-Lai:

-Thiếu-Đà-Chủ sai đệ đến Lạc-Dương tìm vị chưởng môn nhà họ Hàn để giải bày một việc ngộ nhận cho rõ ràng. Bây giờ đệ phải kẹt ở đây rồi nên không có ai về Tây-An báo tin cho Thiếu-Đà-Chủ biết. Theo ý Văn tứ ca thì phải làm sao đây?

Địa vị trong Hồng Hoa Hội của Dư-Ngư-Đồng ở dưới Văn-Thái-Lai nên chiếu theo quy-tắc của hội thì khi gặp việc khó khăn nan giải thì người dưới phải hỏi ý kiến người trên chứ không được tự chuyên.

Văn-Thái-Lai nghe hỏi thì trầm ngâm suy nghĩ chứ không đáp. Lục-Phỉ-Thanh biết nỗi khổ của Văn-Thái-Lai nên vội đỡ lời hộ:

-Theo ngu-kiến của lão phu thì cả ba người nên gấp rút dùng ngựa mà đi thẳng đến Thiết-Đảm-Trang thì hơn. Sau khi mọi việc xong xuôi đâu đó thì hiền điệt lập tức khởi hành đi Lạc-Dương mà tiếp tục nhiệm vụ của Thiếu-Đà-Chủ giao phó. Còn như việc về An-Tây báo tin thì cứ để mặc đó cho lão phu. Hiện tại tình thế thật là hết sức nghiêm-trọng, không nên trì hoãn nữa. Chúng ta cần phải ra khỏi nơi đây sớm chừng nào hay chừng nấy!

Những trang anh-hùng mưu-lược đều có khí-phách cả, việc nào thấy đáng làm thì làm chứ chẳng cần phải cảm tạ khách sáo. Thấy ý kiến của Lục-Phỉ-Thanh thích hợp với hoàn cảnh nên Văn-Thái-Lai cho là phải, thuận theo ngay mà không cần phải nói đi nói lại nhiều lời. Liền sau đó, Văn-Thái-Lai rút cái túi nhỏ mang trước bụng ra, lấy một cành hoa đỏ bên trong trao cho Lục-Phỉ-Thanh dặn rằng:

-Khi lão tiền bối đến An-Tây thì lấy cành hoa này mà dát lên mão đội, tự động sẽ có người của hội đến đón lão tiền bối ngay mà không cần phải hỏi thăm ai cả!

Lạc-Băng liền đỡ Văn-Thái-Lai ngồi dậy. Dư-Ngư-Đồng ôm hai cái tử thi dưới đất đặt lên giường, để nằm đối diện nhau và lấy chăn đắp lên từ chân đến ngực rồi buông mùng xuống. Lục-Phỉ-Thanh mở rộng cánh cho mọi người ra hết rồi mới từ từ khép lại như cũ.

Lục-Phỉ-Thanh phóng lên ngựa vọt nhanh như gió. Không đầy một khắc sau, Dư-Ngư-Đồng tay cầm ống sáo vàng dẫn đường đi trước, Lạc-Băng một tay chống gậy, một tay dìu Văn-Thái-Lai đi sau. Đám người trong khách-sạn đều biết ba người này không phải là phường trộm cướp hung ác mà là người của đảng phái cách mạng ‘phản Thanh phục Minh’. Họ đều là những người có tài năng phi thường, võ nghệ tuyệt luân, đảm lược quán chúng, đã từng đụng độ với quan quân triều-đình trong nhiều trận ác chiến chứ không phải là những kẻ tầm thường làm hành động ám muội gì. Vì vậy, hầu hết mọi người đem lòng kính phục, thầm biểu lộ đồng tình tuy ngoài mặt không nói năng hay tỏ ra một cử chỉ nào cả, chỉ nhìn ba người trân trân thôi mà không ai hỏi điều gì hay lên tiếng ngăn cản. Dư-Ngư-Đồng thấy vậy liền gọi đám tửu-bảo, lấy một đỉnh bạc độ năm lượng quăng xuống đất nói:

-Đó là tiền phòng và tiền ăn của bọn ta mấy ngày nay. Đồ đạc gì trong phòng chúng ta cứ để y nguyên chứ đừng đụng tới, vì sau này chúng ta sẽ còn lui tới nữa. Nếu có ai sinh sự điều gì với các ngươi, chúng ta sẽ có cách làm cho kẻ ấy phải biết tay. Cứ an tâm sống mà làm ăn, chẳng có gì phảo lo sợ cả.

Đám tửu-bảo chỉ biết vâng dạ luôn miệng chứ nào dám rục rịch gì. Nhưng ít nhiều chúng cũng sinh hảo cảm với ba người vì thấy họ thanh toán tiền bạc sòng phẳng đâu ra đó chứ không hề có ý cướp giựt hay ăn quịt.

Dư-Ngư-Đồng dắt lại ba con ngựa, giao cho Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng mỗi người một con. Văn-Thái-Lai vì thương tích quá nặng nên không thể đạp lên ‘chân đằng’ được. Tay chàng ben vịn vào yên ngựa rồi phóng mình lên một cái nhẹ nhàng, ngồi trên lưng ngựa được vững vàng.

Dư-Ngư-Đồng buột miệng khen lấy khen để:

-Ối chà! Công-phu của Văn tứ ca thật là tuyệt diệu! Trông anh bay lên ngựa mà khoái cả cặp mắt!

Lạc-Băng mỉm cười sung sướng lên ngựa. Dư-Ngư-Đồng cũng phóng lên yên. Một đoàn ba con tuấn mã sau đó phi nước đại tiến về hướng đông. Chờ một lúc thật lâu cho đoàn người đi thật xa, đám tửu bảo mới làm bộ chạy theo làm bộ hò hét để che mắt nhà chức-trách để khỏi bị hạch hỏi sau này rằng để cho khâm-phạm chạy thoát mà không chịu tri hô lên...

Ba người kia đi khỏi thì một người lại trở về. Một chàng thanh-niên chạy thẳng từ ngoài lộ vào thẳng cửa ngõ. Đó là người đã theo quấy phá trêu chọc Trương-Siêu-Trọng chuyến vừa qua. Người ấy không ai khác hơn là Lý-Mộng-Ngọc.

Nàng vừa vào đến nơi thì giáp mặt ngay với một người từ trong cửa đi ra hình dung trông chẳng khác gì một quỷ sứ, chính là tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục Đổng-Triệu-Hòa. Lý-Mộng-Ngọc không thèm để ý đến hắn mà về thẳng lại phòng riêng mà thay đổi lại y-phục nữ-nhân. Từ một ‘trang thiếu-niên anh tuấn’, Lý-Mộng-Ngọc đã thoát xác mà trở về thành lại một ‘thiên kim tiểu thư’ đài các, mỹ miều. Nàng nghĩ thầm:

-“Mình nên tạm thời đổi lại lốt thiếu nữ đi theo kiệu bà nội với mẹ ít ngày để tránh mặt Trương-Siêu-Trọng. Sức mình chưa thể địch nổi với ông ta, chi bằng lánh mặt trước vẫn hơn”.

***

Nhắc lại ba người Dư-Ngư-Đồng, Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng sau khi rời khỏi khách-sạn, đi theo hướng Đông rồi rẽ sang hướng Đông-Nam, dọc đường vừa đi vừa hỏi thăm đường đến Thiết-Đảm-Trang. Thoáng một cái đã đi được hơn 15 dặm đường. Thấy thoát khỏi tai ương, Lạc-Băng lòng mừng phấn khởi. Nàng nghĩ rằng một khi đã đến Thiết-Đảm-Trang rồi thì tánh mạng của chồng kể như không phải lo nữa. Châu-Trọng-Anh ở Thiết-Đảm-Trang uy danh lừng lẫy, cho đến một đứa con nít miệng còn hôi sữa cũng còn biết nói chi là người có tên tuổi trên giang-hồ. Cả hai phái Bạch-đạo lẫn Hắc-đạo chẳng ai mà không kính nể ‘Châu lão anh-hùng’.

Vì trượng nghĩa khinh tài, vì tính tình khoáng đạt rất hiếu khách, Châu-Trọng-Anh tự nhiên sẽ đặc biệt ưu đãi Văn-Thái-Lai. Như thế, chàng có thể yên tâm tĩnh dưỡng chờ khi Hồng Hoa Hội được tin Lục-phỉ-Thanh báo tới sẽ phái nhiều cao-thủ tới đón rước. Tới chừng đó thì cho đừng nói gì một Trương-Siêu-Trọng cùng với bọn chó săn kia, mà cho dẫu huy động toàn bộ cao-thủ của triều-đình Mãn-Thanh đi chăng nữa cũng vị tất làm được gì.

Lạc-Băng đang đắc ý khi nghĩ đến những điều đó thì bỗng nghe có tiếng ngựa ‘lộc cộc’ phi trên đường, rồi một đoàn ngựa cũng ba con từ đầu kia chạy lại. Đoàn người này gồm hai hán-tử trông rất mạnh khỏe, dáng người thật là nho nhã và một cụ già đầu tóc bạc phơ, mắt sáng uy nghiêm, da dẻ hồng hào. Chỉ trông sơ qua cũng đoán được là một quắc thước anh hào. Lạc-Băng hồ nghi đó là người trong Thiết-Đảm-Trang. Khi hai bên vừa chạm mặt nhau, cụ già liếc mắt nhìn Văn-Thái-Lai một cái như ngạc nhiên và kinh hãi. Vì ngựa hai bên đều phi nước đại nên hai vừa chạm mặt nhau thì không còn trông thấy nhau được nữa. Cả người lẫn ngựa đều mờ trong cát bụi tung bay. Chỉ một thoáng vụt qua là đã cách xa ngay mấy trượng rồi. Dư-Ngư-Đồng thấy nghi nghi vội nói:

-Này tứ ca, hình như cụ già cỡi ngựa qua mặt chúng ta đó là Châu-Trọng-Anh lão tiền bối, chủ nhân Thiết-Đảm-Trang đó thì phải.

Lạc-Băng vội hỏi:

-Vì lẽ nào thúc thúc lại nghi đó là Châu lão anh-hùng?

Dư-Ngư-Đồng đáp:

-Chị không để ý trên tay ông ta cầm hai ngọn thiết-đảm sao?

Văn-Thái-Lai nói:

-Ta cũng nghi đó là Châu-Trọng-Anh đến tám, chín phần. Chỉ vì chúng ta chưa gặp qua mặt ông ta lần nào, vả lại ngựa phi mau quá không trông rõ mặt được nên chưa thể quả quyết được là có đúng hay không. Chắc ông ta phải có việc gì gất rút lắm nên không tiện dừng ngựa lại. Hơn nữa, giữa đường giữa sá cũng không nên hỏi tên họ người chưa từng quen thân với mình nên ta cứ để mặc ngựa ông ta qua. Cứ chờ tới Thiết-Đảm-Trang sẽ rõ.

Sau đó ba người lại tiếp tục giục ngựa mà đi cho thật lẹ. Chẳng bao lâu, ba người đã đến Thiết-Đảm-Trang.

Mé ngoài Thiết-Đảm-Trang có một con sông nhỏ uốn khúc ven theo bờ triểng. Hai bên bờ sông đều trông trồng cây dương liễu xanh tươi, mát mẻ như cảnh trang nhã thanh tịnh của bậc ẩn sĩ chân tu. Cửa ngõ xây bằng đá gạch rất kiên cố, có cầu treo bắc ngang qua sông, trông ra xa có cả vọng lâu nữa. Cách thiết kế và bố trí của Thiết-Đảm-Trang không khác gì một ‘tiểu hoàng-thành’ của một vị vương tước, không dễ gì cho bên ngoài lọt vào được.

Bọn gia-nhân tráng đinh của Thiết-Đảm-Trang thấy có khách đến liền ra lễ phép hỏi thăm rồi mời thẳng vào trong nhà, pha trà hầu nước. Một người quản-gia tự giới-thiệu Tống-Thiện-Bằng ra tiếp đãi ân cần rồi lại hỏi tên họ ba người khách mới đến. Văn-Thái-Lai không giấu diếm, đem sự việc của mình nói ra tất cả.

Tống-Thiện-Bằng nghe nói cả ba người đều là nhân vật có tên trong Hồng Hoa Hội thì tỏ vẻ sợ sệt nói:

-Quý-vị từ Guang-Nam băng rừng vượt núi đến vùng biên-khu phía Bắc này thật gian lao khổ nhọc để tìm trang-chủ chúng tôi. Nhưng tiếc thay trang-chủ chúng tôi lại vừa ra khỏi nhà. Chẳng hay quý vị có điều chi dạy bảo?

Tống-Thiện-Bằng vốn đã nghe danh Hồng Hoa Hội từ lâu. Mà hắn được biết là trang-chủ y cùng Hồng Hoa Hội chưa hề giao-thiệp qua. Lần này lại có đến ba nhân vật Hồng Hoa Hội bất thình lình tìm đến tìm trang-chủ hắn thật không hiểu có thiện ý hay ác ý. Do đó, câu hỏi của hắn tuy là tế nhị dò hỏi thử dụng ý của khách ra sao thôi, nhưn có phần do dự lãnh đạm chứ không vồn vã ân cần.

Nghe Tống-Thiện-Bằng nói, Văn-Thái-Lai biết chắc là Châu-Trọng-Anh vừa ra khỏi cửa không có ở nhà nên phong thư của Lục-Phỉ-Thanh gửi cho Châu-Trọng-Anh chàng cũng không đưa ra, chỉ để ý xem sắc thái của Tống-Thiện-Bằng mà tùy cơ đối đáp. Thấy Tống-Thiện-Bằng bề ngoài tuy lễ mạo cung kính nhưng bên trong đối với khách phương xa không được tự nhiên, Văn-Thái-Lai không được mấy đẹp lòng. Chàng là người khảng khái, dù gặp lúc nguy khốn cũng không vì thế mà muốn hạ mình nhờ cậy một ai nên trước tình thế như vậy, chàng liền chắp tay nói:

-Nếu Châu lão anh-hùng không có mặt ở nhà thì chúng tôi xin cáo lui thôi. Chẳng qua vì nghe đại danh của Châu lão anh-hùng vang dội khắp gần xa nên chúng tôi hâm mộ, mong được gặp một lần cho thỏa bình sinh khát vọng mà thôi. Nhờ huynh đài về thưa lại cùng lão anh-hùng như vậy cho.

Nói xong, Văn-Thái-lai tay vịn thành ghế, chạm rãi đứng dậy. Tống-Thiện-Bằng liền nói:

-Xin hãy khoan! Chúng tôi xin mời ba vị tạm dùng bữa cơm đạm bạc rồi hãy lên đường.

Hắn xoay qua nói nhỏ cùng tên tráng đinh vài câu, tên ấy gật đầu đi xuống nhà sau. Văn-Thái-Lai đã quyết ra đi nên một mực từ chối, nhưng Tống-Thiện-Bằng nhất định giữ lại:

-Mong quý-vị ráng nán lại thêm một chút nữa không thì trang-chủ tôi khi về sẽ trách mắng chúng tôi sao dám đối xử thiếu lễ độ với khách của người...

Tống-Thiện-Bằng chưa nói dứt câu thì tên tráng-đinh ban nãy đã bưng lên một cái mâm thau. Trong mâm có vài ba món châu báu, một phong bạc gói lại ước độ chừng 30 lượng. Tống-Thiện-Bằng tiếp cái mâm ấy đưa đến trước mặt Văn-Thái-Lai thưa rằng:

-Thưa Văn gia! Mấy món đạm bạc này thật không xứng với cái lễ kính khách của trang-chủ chúng tôi. Nhưng rủi vì ba vị đến viếng mà không có trang-chủ ở nhà nên chúng tôi tạm dùng chút vật mọn gọi là thành tâm, mong Văn gia nhận cho, đừng vì một lẽ gì mà từ chối. Chúng tôi lấy làm hân hạnh lắm.

Văn-Thái-Lai nghe qua lửa giận phừng phừng lên, nói thầm:

-“Bọn này tưởng ta trong lúc nguy cấp mới đến đây mong cứu giúp. Chúng đặt ta vào hạng vô sỉ trong giới giang-hồ chỉ quen thói cầu cạnh, nhờ vả vào kẻ khác. Nhưng chúng đâu có biết ta hành hiệp trượng nghĩa, chỉ để cho kẻ khác cầu cạnh chứ đời nào chịu cầu cạnh vào ai! Lần này sở dĩ ta đến Thiết-Đảm-Trang là vì công việc rắc rối không còn cách nào hơn, chứ muôn phần ta không muốn lấy một. Bây giờ gặp phải việc xảy ra thế này có ăn năn thì cũng đã muộn.

Lạc-Băng nhìn sắc mặt chồng biến đổi thì lo sợ vô cùng. Kể từ khi sống chung với nhau, nàng còn lạ gì tính khí của chàng? Một khi đã bất bình chuyện gì thì việc lớn bằng trời cũng xem nhỏ như kiến mà thôi. Lạc-Băng đưa tay vịn vào vai Văn-Thái-Lai an ủi chàng, ngầm ý bảo nén cơn giận xuống, đừng quá nóng nảy mà không khéo hỏng hết chuyện.

Văn-Thái-Lai tay cầm hăi gói nguyên-bửu lên nói với Tống-Thiện-Bằng:

-Anh em chúng tôi đến quý trang không có lễ mọn nào để làm lễ tương kiến, lại hân hạnh được Tống bằng hữu tặng cho những món đáng giá thế này thì thật là quý hóa thay!

Tống-Thiện-Bằng vội vã đáp lời:

-Lời Văn gia dạy, tiểu đệ thật không dám...

Sở dĩ Tống-Thiện-Bằng đem cả mâm châu báu và tiền bạc ra mà tặng Văn-Thái-Lai vì biết rõ uy danh Hồng Hoa Hội rất lớn nên không dám xem thường. Giờ nghe Văn-Thái-Lai nói thế, hắn tưởng là thật. Ngờ đâu Văn-Thái-Lai cười nhạt mấy tiếng, để gói nguyên bửu vào mâm thau trở lại như cũ mà bảo với Tống-Thiện-Bằng rằng:

-Đa tạ Tống bằng hữu có lòng tốt, nhưng chúng tôi xin để lại mấy món quà tặng lại cho quý trang chủ để dùng vào việc khác. Thôi! Chúng tôi xin cáo từ!

Tống-Thiện-Bằng liếc mắt nhìn xem hai gói nguyên bửu mà Văn-Thái-Lai vừa trả lại y nguyên trên mâm mà bất giác hoảng kinh. Tất cả những nén bạc gói trong đó đều bị bàn tay của Văn-Thái-Lai bóp cho dẹp như bóp một cái bánh bằng bột. Hắn lấy làm bối rối vô cùng, biết là mình có mắt không tròng đã xem lầm người nên mới xảy ra chuyện rắc rối này. Hắn nói thầm trong bụng:

-“Bản lãnh người này thật là cao siêu ghê gớm chứ không phải hạng võ công tầm thường. Giờ đây hắn ta giận đến như thế ắt sẽ tìm cách trả thù chứ chẳng phải chơi!”

Lòng nghi vậy, Tống-Thiện-Bằng lại xoay qua nói nhỏ gì với bọn tráng đinh mấy câu, bọn chúng vội vã chạy vào hậu-đường (#9) bẩm báo lại việc vừa xảy ra ở phòng khách cho người chị cả trong gia đình hay, còn tự hắn đích thân đưa tiễn khách ra tận cửa, cố dùng lời nhỏ nhẹ, hết sức năn nỉ về sự sơ sót vô ý thức của hắn.

Văn-Thái-Lai chẳng thèm quay lại, mà cũng chẳng buồn nói thêm một lời nào nữa. Lúc ấy, ba tên tráng đinh của Thiết-Đảm-Trang dắt ba con ngựa đến. Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng hướng về Tống-Thiện-Bằng đưa tay lên nói:

-Chào ‘sư-phụ’! (#10)

Sau đó hai người nhảy lên yên ngựa. Lạc-Băng lấy trong người ra một đỉnh vàng ròng chừng 20 lượng đưa cho tên tráng đinh đứng đàng trước nói:

-Tôi có chút đỉnh gọi là đền đáp công lao khó nhọc của ba vị huynh đệ. Hãy nhận lấy mà chia đồng đều cho nhau.

Nói xong, nàng lấy tay ngoắc hai tên kia chỉ cho thấy. Tống-Thiện-Bằng không ngờ việc xảy ra ngoài ý nghĩ của hắn. Số vàng ròng mấy chục lượng mà Lạc-Băng cho ba tên tráng đinh giữ ngựa cho ba người so với số bạc và châu báu của Tống-Thiện-Bằng gọi là thay mặt trang-chủ tiễn khách còn giá trị hơn gấp mấy lần.

Ba tên tráng đinh cả đời nghèo khổ, làm hùng hục như trâu, dù hết sức tiết kiệm dè xẻn còn chưa có được vài chục lượng bạc chứ nói chi vàng! Tự nhiên số hên, gặp được người hảo tâm cho quá nhiều như vậy, phải nói là gấp bao nhiêu lần tài sản hiện có của ba người cộng lại, bảo sao không vui mừng sung sướng cho được!

Tên tráng đinh cầm đỉnh vàng trong tay mà cảm thấy run run , miệm ngập ngừng mãi mà không nói ra được tiếng cám ơn. Hai tên kia cũng thế, chỉ biết nhìn Lạc-Băng với ánh mắt vừa ngạc nhiên, vừa cảm kích. Lạc-Băng nhoẻn miệng cười rồi phóng mình lên yên ngựa...

Lạc-Băng là con của Thần-Đao Lạc-Nguyên-Thông, nguyên là một ‘độc hành đại đạo’ (#11). Một mình một đao, ông ta thường đánh cướp thường đánh cướp của những cự phú cường hào.

Có lần trong một đêm, ông ta đánh cướp liên tiếp một lượt cả chục nhà cự phú quyền thế nhất trong thành Kim-Lăng. Tên tuổi Lạc-Nguyên-Thông từ đấy làm rúng động giang-hồ. Trước khi đánh cướp một nhà nào, Lạc-Nguyên-Thông đều điều tra thật kỹ lưỡng thân thế, đức độ người ấy ra sao. Nếu là người chuyên làm điều bất nghĩa, thì cho dù là người nào đi chăng nữa, Lạc-Nguyên-Thông sẽ cướp cho kỳ hết mới thôi, mặc cho kẻ đó có phòng bị cẩn thận đến thế nào.

Cứ một lần Lạc-Nguyên-Thông ra tay thì số vàng bạc châu báu cướp được rất nhiều, chứa đầy kho. Tuy mang danh là đại đạo, nhưng Lạc-Nguyên-Thông rất được lòng người vì tính tình ông ta rất hào phóng, hay lấy của cải phân phát, giúp cho người nghèo.

Lạc-Nguyên-Thông chỉ có được một mụn con gái là Lạc-Băng nên rất là cưng chiều. Lạc-Băng ra đời không bao lâu thì vợ mất, thành thử Lạc-Nguyên-Thông phải kiêm cả vai nghiêm-phụ lẫn từ mẫu.

Lạc-Băng tuy kính sợ nhưng rất quý mến cha. Ngay từ lúc bé, nàng đã được thân phụ rèn luyện trở thành một nữ anh hào, tính khí giống hệt như Lạc-Nguyên-Thông.

Trong nhà vàng bạc châu báu, ngọc ngà chất như núi, không thiếu một thứ gì cho nên Lạc-Băng không bao giờ bị thiếu thốn về vật chất. Từ cách tiêu xài cho đến lối ăn mặc, dẫu cho các thiên kim tiểu-thư của hoàng thân quốc thích, công hầu khanh tướng cũng chưa chắc gì sánh được với nàng. Cũng như cha, Lạc-Băng luôn đem vàng bạc, của cải ra giúp đỡ nghèo khổ, lại hay bênh vực những kẻ sức yếu, thế cô. Trong vùng, dân chúng ai ai cũng quý mến và cảm phục hai cha con Lạc-Nguyên-Thông, xem là ân nhân của họ.

Lúc nhỏ, Lạc-Băng hay cười. Một niềm vui nho nhỏ cũng có thể làm cho nàng cười cả nửa ngày không biết chán. Ai trông thấy Lạc-Băng cười cũng phải tươi vui, khoan khoái. Khi lớn lên, lấy Văn-Thái-Lai làm chồng, tính tình nàng vẫn không hề thay đổi.

Văn-Thái-Lai lớn hơn Lạc-Băng đến 10 tuổi. Tính Văn-Thái-Lai vội vàng, hay nóng nảy. Trong Hồng Hoa Hội, ngoại trừ vị cố Tổng-Đà-Chủ Vu-Vạn-Đình, bình sinh Văn-Thái-Lai chỉ phục có người vợ xinh đẹp mà chàng xem là ‘Ngọc-Nữ tái’ sinh hay ‘Hằng-Nga giáng thế’ là Lạc-Băng mà thôi.

Tống-Thiện-Bằng thấy Lạc-Băng lấy ra đến mấy chục lượng vàng ròng thưởng cho bọn tráng đinh của hắn thì cảm thấy quá thẹn thùng khi nghĩ đến mâm đồ của hắn đem ra dùng để tiễn khách.

Vừa lúc Văn-Thái-Lai định thúc ngựa lên đường thì nghe có tiếng vó ngựa dập dồn. Một người từ đâu phóng ngựa như bay đến trước đầu ngựa của Văn-Thái-Lai rồi vội vàng nhảy xuống lễ phép vòng tay hướng về Văn-Thái-Lai nói:

-Có phải ba vị định viếng tệ trang phải không? Xin mời vào trong nhà cho chúng tôi được hầu chuyện.

Văn-Thái-Lai nói:

-Chúng tôi đã được hân hạnh vào trong, vừa mới trở ra tức thì. Thôi, xin hẹn ngày khác sẽ đến bái kiến sau.

Người ấy lại nói:

-Chúng tôi được gặp ba vị giữa đường. Lão trang-chủ đoán chừng ba vị đến thăm tệ trang nên định quay ngựa trở lại nhưng bởi vì trang-chủ có việc gấp phải đi nên sai tiểu đệ một mình phi ngựa quay về để đón tiếp khách quý. Lão trang-chủ từ xưa đến nay rất thích giao du bằng hữu nên chỉ nhìn thoáng qua là đã sinh lòng ái mộ, hiểu ngay ba vị là những trang anh-hùng, những đại hào kiệt. Lão trang-chủ nói rằng sớm muộn gì nội chiều nay phải về để hội kiến với ba vị mới thỏa lòng. Do đó, người sai tiểu đệ giá nào cũng phải cầm ba vị lại cho kỳ được. Nơi đây không phải là chỗ đứng tiếp ba vị. Xin mời vào nhà trong kẻo lỡ lão trang-chủ có về bất tử thì thế nào cũng mắng tiểu đệ là bất kính với khách quý, thì tiểu đệ làm sao mà ăn nói với lão trang-chủ đây?

Văn-Thái-Lai nhận ra là một trong ba người mà lúc nãy gặp qua trên đường đi. Thấy chàng ta lễ phép, nói toàn những lời thành thật và ân cần thì nư giận cũng đã giảm đi quá phân nửa. Chàng ta tự giới-thiệu là Mạnh-Kiện-Hùng, đại đệ-tử của Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh. Sau đó, Mạnh-Kiện-Hùng mời cả ba người vào trong. Tống-Thiện-Bằng luýnh quýnh, mời khách ngồi vào dùng trà với Mạnh-Kiện-Hùng. Một tên tráng đinh kề tai nói nhỏ điều gì, chỉ thấy Mạnh-Kiện-Hùng đứng dậy chắp ay thưa rằng:

-Sư nương của tiểu đệ xin mời vị nữ hiệp vào nội đường nghỉ mệt.

Lạc-Băng bèn đứng dậy theo tên tráng đinh ấy vào trong. Đi đến nhà cầu thì có một đứa thị-nữ chạy ra rước nàng, lại nghe có tiếng đàn bà nói lớn rằng:

-Có khách quý đến chơi mà không ra tận nhà ngoài đón rước thì thật tệ quá!

Một phụ-nữ tuổi độ 40, trông vẫn còn xuân sắc đi đến cầm tay Lạc-Băng ra chiều thân mật nói:

-Vừa rồi được nghe mấy đứa trẻ cho biết có các vị anh-hùng trong Hồng Hoa Hội đến thăm. Nhưng chưa kịp ra đón tiếp thì lại nghe mấy vị từ giã mà đi rồi. Lòng tôi thật phân vân không hiểu vì sao các vị lại vội vàng quá vậy. May mắn thay được các vị quay gót ngọc trở lại. Ở địa phương này dân trí chưa được mở mang gì cho lắm nên kiến thức của người trong trang thật là kém cỏi, nếu chưa muốn nói là tệ hại. Xin nữ-hiệp rộng lượng mà tha thứ cho.

Quay qua mấy đứa tỳ-nữ, người đàn bà ấy nói:

-Vị nữ-hiệp đây ắt là sử kiếm lẹ làng vô cùng, tưởng sánh với tiểu thư chúng ta chưa biết ai hơn ai kém.

Lạc-Băng nghe cách xưng hô mà hết sức phân vân, không biết người đàn bà này là người thế nào trong gia trang nên hỏi:

-Tiểu muội mới tới đây lần đầu nên thật không biết phải xưng hô với tỷ tỷ như thế nào? Tiểu muội họ Lạc, tên Băng, còn trượng-phu họ Văn đang nói chuyện ở phòng khách.

Người đàn bà liề đáp:

-Vậy mà cứ tưởng nữ-hiệp đây là em của vị tướng công kia. Sao trông còn trẻ măng, lại đẹp như tranh vẽ thế? Tôi đoán lầm, xin nữ-hiệp tha thứ cho nhé!

Thấy người đàn bà chưa nói rõ thân phận của mình, một đứa tỳ-nữ bèn nói hớt:

-Đây là chị lớn trong gia đình của chúng tôi, và cũng là Thiết-Đảm-Trang nữ chủ nhân.

Bấy giờ Lạc-Băng mới biết người đàn bà này là vợ của Châu-Trọng-Anh. Mà nãy giờ nàng cứ tưởng là con gái của ông ta. May mà nàng ý nhị nên không vội nhanh nhẩu, chứ thiếu chút nữa mà xưng hô lầm thì thật là tai hại.

Lạc-Băng vui vẻ nói:

-Nay đã biết nhau rồi, xin cứ xem nhau như chị em, xin đừng dùng tiếng nữ hiệp, tiểu muội thẹn lắm.

Người đàn bà ấy cũng nói:

-Ai lớn tuổi hơn là chị. Thôi, tôi là chị, cô là em nghe. Dùng tiếng chị em nghe cho thân mật.

Nguyên người đàn bà này là vợ thứ nhì của Châu-Trọng-Anh. Đời vợ trước sinh được hai trai, nhưng cả hai đều lần lượt chết cả chỉ vì tính khí kiên cường trong giới giang hồ. Người vợ kế này của Châu-Trọng-Anh chỉ hạ sinh được có một gái đặt tên là Châu-Ý, năm nay được 18 cái xuân xanh. Châu-Ý tính tình cương ngạnh, không chịu bị bó buộc trong gia-đình nên thường ngày chỉ thích ra ngoài gây chuyện rắc rối. Vừa rồi, chính vì chuyện của Châu-Ý gây họa mà đích thân Châu-Trọng-Anh phải đi dàn xếp cho yên. Châu-Ý đánh người đến phải bị trọng thương. Dầu chịu hứa bồi thường nhưng gia đình của nạn nhân vẫn không bằng lòng. Châu-Trọng-Anh không phó thác được cho ai việc này nên đành phải xuống nước, hạ mình mà năn nỉ.

Người vợ kế của Châu-Trọng-Anh sau khi sinh được một gái thì tuyệt nhiên ngưng hẳn, không còn đem đến một tin vui nào khác cho sự mong mỏi của chồng nữa. Châu-Trọng-Anh tưởng vợ mình niên kỷ đã cao nên không còn sinh đẻ gì được nữa, nên cho đó là số phận do trời định chứ cũng chẳng có gì phiền trách hay miễn cưỡng lại được. Ngờ đâu đến năm 40 tuổi, giữa lúc mọi hy-vọng có tông đường nối dõi tiêu tán, không cầu trời khấn Phật chi cả, lại sinh được một cậu bé ngoan ngoãn dễ thương.

Vợ chồng già mà sinh con muộn nên khi nhớ lại câu ví của thiên-hạ là ‘con trai già sinh ngọc’ (#12), sự vui mừng sung sướng của Châu-Trọng-Anh càng gia tăng đến cực độ, cho rằng đời ông ta không còn sự việc nào vui hơn hay quan-trọng hơn được nữa.

Châu-Trọng-Anh cưng chiều cậu bé còn hơn tất cả những ngọc ngà quý báu trên trần gian. Ông ôm ấp trong lòng một cao vọng rằng sau này đứa con trai sẽ nối được chí cha, sẽ giữ vững được cơ nghiệp gia sản, sẽ làm rạng rỡ tông môn. Vì thế, Châu-Trọng-Anh quyết rèn luyện, uốn nắn con mình thành một trang nam-tử hữu dụng. Ông mướn thầy dạy cho đạo-nghĩa văn-chương, lại tự mình đem những kỹ thuật cao siêu về võ-học ra bí truyền lại cho. Vì vậy mà tuổi tuy còn nhỏ mà cậu bé đã có được một bản-lãnh gia truyền đáng kể...

Người kế thất (#13) của Châu-Trọng-Anh mời Lạc-Băng ra ngồi dùng trà xong bèn gọi liền cho một con tỳ-nữ là Ngọc-Lan gọi đứa con trai ra làm lễ tương kiến vị nữ-hiệp của Hồng Hoa Hội.

Từ buồng trong bước ra một cậu bé với khuôn mặt rất dễ coi; mắt sáng, môi son, trán rộng cằm vuông, chân tay dài, thân hình vạm vỡ trông lanh lẹ và mạnh mẽ, to lớn hơn các đứa trẻ cùng trang lứa rất nhiều.

Vừa trông thấy tướng mạo đứa nhỏ, Lạc-Băng đã nghĩ thầm:

-“Có được đứa con trai thế này chả trách Châu lão anh-hùng một mực nuông chiều! Chỉ cần nhìn qua cách đi đứng cũng dư biết nó đã học qua những ngón võ công trác tuyệt của lão anh-hùng truyền lại.”

Cậu bé vừa trông thấy Lạc-Băng liền lễ phép cúi đầu chào:

-Cháu xin chúc thím được vạn phúc.

Lạc-Băng với tới nắm tay đứa bé kéo vào lòng mình, thân mật hỏi:

-Cháu tên gì? Năm nay được bao nhiêu tuổi?

Đứa bé ngoan ngoãn thưa rằng:

-Dạ, cháu tên là Châu-Anh-Kiệt, năm nay được 10 tuổi.

Lạc-Băng lấy trong cái hộp đựng châu báu của nàng mấy hạt minh châu rất đẹp và quý giá vui vẻ đặt vào tay Châu-Anh-Kiệt nói:

-Từ ngàn dặm xa xôi ghé đây nên không chuẩn bị trước mà đem theo những gì xứng đáng để cho cháu, chỉ có mấy hạt minh châu này cho cháu dùng mà gắn lên mão đội chơi.

Người vợ kế của Châu-Trọng-Anh thấy mấy hạt minh châu vừa to, vừa tròn, màu sắc long lanh đệp đẽ, không một vết tích gì trầy trụa, đáng giá cả vạn lượng bạc trở lên thì lập tức dạy con cúi đầu lạy tạ ơn.

Giữa lúc đang vui vẻ trò chuyện thì một con tỳ-nữ hớt ha hớt hãi chạy từ ngoài vào nói với Lạc-Băng:

-Thưa nữ-hiệp, Văn gia bệnh nặng, mê man sảng sốt. Xin nữ-hiệp gất rút ra ngoài xem thử bệnh tình thế nào đặng sớm lo phương cách điều trị.

Người vợ kế của Châu-Trọng-Anh vội vàng sai người đi rước lang y trứ danh của gia đình đến ngay để xem xét bệnh tình cho Văn-Thái-Lai.

Lạc-Băng cũng lập tức theo con nữ-tỳ ra đàng trước đặng săn sóc cho Văn-Thái-Lai. Từ lúc chàng bị trọng thương, nàng không một khắc nào rời khỏi chồng. Chẳng qua vì lần này vợ của Châu-Trọng-Anh mời vào trong uống trà đàm đạo nên nàng mới phải tạm để Văn-Thái-Lai ở ngoài với Dư-Ngư-Đồng hầu chuyện với Mạnh-Kiện-Hùng vậy thôi. Nay nghe tin chồng mê sảng, Lạc-Băng hốt hoảng vô cùng.

Văn-Thái-Lai từ lúc bị thương trầm trọng được Lạc-Băng liều thân cứu mạng đem về tĩnh dưỡng ở khách-sạn An-Viễn. Tuy gọi là tĩnh dưỡng nhưng bọn công-sai triều-đình cứ theo dõi từng phút từng giây thành thử nhiều phen chàng đau có lúc nào yên tâm được! Văn-Thái-Lai tính lại nóng như lửa đốt nên rất dễ giận một khi gặp chuyện gì chạm đến danh-dự. Và cứ mỗi lần giận dữ là một lần động đến các vết thương, vì vậy lại càng khó mà bình phục lại được. Đôi khi, chàng không nhịn nổi đến phải dùng cả sức lực nữa. Như lần chàng vừa hét lớn vừa ra tay điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa vì hắn nói năng đụng chạm đến cả Lạc-Băng lẫn chàng. Rồi lại dùng quyền đánh gẫy xương bả vai của Ngô-Quốc-Đống. Mỗi lần sử dụng đến sức lực như vậy là một lần hao tổn nguyên khí không phải ít. Với người đang bị trọng thương thì chuyện hao tổn nguyên khí là một tai hại không phải nhỏ. Nghe theo lời Lục-Phỉ-Thanh bằng lòng tìm đến Thiết-Đảm-Trang, Văn-Thái-Lai phần thì mệt mỏi bởi đường xa, và vì phải cỡi ngựa một thời gian khá lâu nên ít nhiều các vết thương lại bị động, rồi giận Tống-Thiện-Bằng coi thường mình bèn vận nội công bóp dẹp túi bạc nên càng mất sức thêm. Đã vậy, trong lòng còn mang một trách nhiệm nặng nề, hận chưa về ngay được để thuật lại cho Thiếu-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội nghe. Văn-Thái-Lai không khi nào nằm yên mà trí óc không bận rộn. Cứ như thế mà các vết thương không những không lành, mà còn tăng thêm phần nguy hại là đàng khác!

Chàng là người trọng nghĩa khí, quý danh-dự, dám vì bằng-hữu mà xem thường tánh mạng của mình. Khi phải đương đầu với kẻ địch, dù là Trương-Siêu-Trọng hay với thiên binh vạn mã của triều-đình Mãn-Thanh, Văn-Thái-Lai cũng chẳng hề rúng động hay sợ hãi gì mà trốn tránh. Bản tính hào kiệt của chàng khiến cho giới giang-hồ kính phục, luôn cả kẻ đối đầu cũng phải nể vì, xem chàng như một ‘Quan-Vũ tái sinh’...

Khi được Mạnh-Kiện-Hùng thay mặt Châu-Trọng-Anh ân cần mời đón trở lại Thiết-Đảm-Trang, dầu nộ khí của Văn-Thái-Lai có hạ xuống nhưng uất hận vẫ chưa tan nên lúc nằm nhỉ mệt, những việc đã qua lại làm cho chàng phiền não. Các vết thương trong người lại vì thế mà bộc phát trở lại nên Văn-Thái-Lai bị hôn mê...

Lạc-Băng chạy đến nơi nhìn sắc diện chồng không còn chút huyết sắc nào. Mặt thì tái mét, trán thì rịn mồ hôi, còn chân tay thì lạnh ngắt như đồng. Bỗng nhiên, Lạc-Băng chợt cảm thấy như xây xẩm cả mặt mày. Lòng nàng vừa đau xót, vừa lo sợ mà chẳng biết làm gì hơn, mồm luôn tiếng gọi:

-Tứ ca! Tứ ca! (#14)

Mọi người xum lại, dùng đủ phương cách để cứu cấp. Một lát sau, Văn-Thái-Lai mới từ từ tỉnh lại được. Lạc-Băng thấy chồng đã thoát khỏi cơn nguy hiểm nên mới định thần lại được.

Mạnh-Kiện-Hùng sai tráng đinh ra ngoài thị-trấn thỉnh lương-y, đồng thời mua sẵn các vị thuốc tốt, đắt tiền để sau khi lương-y chẩn mạch thì có sẵn thuốc mà sắc liền cho Văn-Thái-Lai uống. Vợ của Châu-Trọng-Anh cũng sai người phải tức tốc lên đường tìm trang-chủ mà báo tin này đặng ông ta sau này khỏi trách mắng là thiếu thành kính với khách quý đang bệnh nặng trú ngụ tại sơn-trang. Thấy Mạnh-Kiện-Hùng và gia-đình Châu-Trọng-Anh quả thật tâm quý trọng Văn-Thái-Lai, ân cần lo lắng cho bệnh tình của chồng, Lạc-Băng rất cảm kích và thấy an tâm.

Mạnh-Kiện-Hùng không hổ danh là đại đệ-tử của Thiết-Đảm-Trang. Chàng đích thân đứng ra điều động mọi việc thay trang-chủ, hiện đang tạm thời vắng mặt. Tất cả mọi người trong Thiết-Đảm-Trang, từ trên xuống dưới đều răm rắp nghe theo lời chàng phán quyết mà thi hành.

Tống-Thiện-Bằng thấy cách đối xử quá trọng vọng của Mạnh-Kiện-Hùng với Văn-Thái-Lai như vậy thì hết sức ăn năn về chuyện thất lễ của hắn vừa qua. Chỉ nội điểm này, Tống-Thiện-Bằng cũng đoán được Văn-Thái-Lai là nhân vật như thế nào rồi chứ không phải những khách tầm thường khác đến thăm Thiết-Đảm-Trang. Để chuộc lại phần nào sự khiếm lễ đó, Tống-Thiện-Bằng cũng mau mắn, tận tình săn sóc cho Văn-Thái-Lai thật chu đáo như bất cứ một ai, cần sai bảo điều gì đã có hắn túc trực.

Lạc-Băng nhìn theo đám tráng đinh nhà Châu-Trọng-Anh cỡi ngựa phi ra ngã Thiện-Gia-Bảo, đang vừa muốn quay vào trong hỏi vợ Châu-Trọng-Anh xem bệnh tình Văn-Thái-Lai biến chuyển ra sao chợt trông thấy phía sau tàng cây dương liễu ngoài bờ sông trước ngõ trang trại có một bóng người thấp thoáng. Lạc-Băng sanh nghi, mắt hướng về cây dương liễu ấy quan sát thật kỹ càng thì quả nhiên thấy một bóng người từ gốc cây, thoắt một cái nhảy lên cây lẹ làng như một con vượn. Cành lá trên cây khẽ rung động tựa như vừa có một cơn gió mạnh thổi tạt qua.

Hành-động lạ lùng ấy làm cho Lạc-Băng trở nên bàng hoàng. Nàng đoán chừng bóng người ấy đã trông thấy nàng, sợ bại lộ tung tích nên mới tìm cách trốn tránh như thế kia. Nghĩ vậy, Lạc-Băng liền gọi Mạnh-Kiện-Hùng bảo riêng cho biết sự việc nàng vừa chứng kiến.

Mạnh-Kiện-Hùng giả tảng làm như không để ý, bảo Lạc-Băng cứ vào bên trong nói chuyện với vợ Châu-Trọng-Anh như thường mà chẳng phải lo ngại gì cả. Chàng khẽ cho biết là đã có chủ trương, phải cố hành động bình thường để cho bóng người trên cây khỏi nghi ngờ. Chàng cũng không quên trấn an Lạc-Băng là có đủ phương tiện và khả năng để bảo-vệ cho Văn-Thái-Lai dẫu cho có đụng phải cường địch.

Lạc-Băng tin tưởng vào lời nói đầy vẻ chân thật của người đại đệ-tử Thiết-Đảm-Trang. Thêm vào đó, sơn-trang lại được thiết kế thật là kiên cố, cộng thêm với sự tuần-phòng hết sức cẩn mật thì người ngoài có ý muốn đột nhập vào hay làm chuyện mờ ám thì không phải là một chuyện dễ.

Lạc-Băng vào trong rồi, Mạnh-Kiện-Hùng dùng mật hiệu gọi riêng một người tráng đinh tâm phúc để ý coi chừng từng hành động của bóng người núp trên nhành dương liễu kia, còn đích thân chàng leo lên vọng lầu mà quan sát. Từ một cái lỗ hổng bí mật trên vọng lầu, Mạnh-Kiện-Hùng mở rộng nhãn giới ra nhìn. Cái lỗ hổng đặc biệt này, nếu ở trên vọng lầu ghé mắt vào nhìn ra thì thì thấy bao quát đưọc hết chung quanh, nhưng ở bên ngoài thì tuyệt đối không biết và không tài nào phát hiện được. Quả nhiên, Mạnh-Kiện-Hùng trông thấy một đầu người ló ra trong đám cành lá dương liễu xanh um.

Cái bóng ấy núp mình rất kín, nhờ khéo ẩn thân vào mấy nhánh dương liễu che áng bên trong nhìn ra nên ở phía dưới khó mà phát hiện được. Nhưng nếu ở trên vọng lầu trông xuống và trông xuyên qua thì cái đầu không làm sao che dấu được. Để ý nhìn thật kỹ, Mạnh-Kiện-Hùng thấy bóng người lay động từng hồi dường như đang chú tâm dò xét tỉ mỉ từng ly từng tí tất cả những sự việc gì đang xảy ra bên trong Thiết-Đảm-Trang. Chàng nhận thấy người này có nhiều tà ý hơn là thiện ý, là một nhân vật hiểm ác chứ không phải bậc hiền nhân quân-tử.

Mạnh-Kiện-Hùng bèn xuống khỏi vọng lầu gọi Châu-Anh-Kiệt đến ghé tai nói nhỏ vài câu. Châu-Anh-Kiệt lộ vẻ khoan khoái, miệng nói, môi cười:

-Vậy thì thật thú vị cho cháu biết bao nhiêu!

Dụng ý Mạnh-Kiện-Hùng đem Châu-Anh-Kiệt làm chuyện này vì cậu ta được một lợi điểm là mới 10 tuổi, không ai lưu tâm đến cậu ta cả. Nhìn Châu-Anh-Kiệt đứng sau lưng Mạnh-Kiện-Hùng trông chẳng khác gì châm-chác núp bóng người khổng-lồ.

Mạnh-Kiện-Hùng dùng thuật khinh công bay vọt một cái tung lên như một con diều hâu trong một tư thế sắp sửa tấn công quắp một chú gà con. Chỉ trong nháy mắt chàng đã ra khỏi cửa ngõ, xẹt ngang đáp xuống trên nhánh cây dương liễu, giọng cười hăng hắc nói lớn:

-Này huynh đệ, làm gì mà ngồi núp trên đây vậy? Rình mò cái giống gì mà kiên nhẫn từ nãy giờ không chịu xuống? Thôi, làm ơn xuống giùm đi! Có chuyện gì thú vị thì xin làm ơn kể cho tất cả mọi người cùng nghe chơi!

Người ở trên cây nghe nói thì nhột nhạt quá không biết phải xử trí ra sao. Y đánh liều, từ trên cây dương liễu buông mình thả nhẹ xuống như một chiếc lá rụng. Chân vừa chạm đất, hắn đã dùng thuật khinh công chạy thoăn thoắt như một con mồi bị thợ săn đuổi. Nhưng hắn vừa chạy lại nghe ngay sau lưng có tiếng người đuổi sát nút, vừa rượt vừa kêu:

-Vị thúc thúc kia! Xin đứng lại đi chứ đừng chạy đâu cho mệt, vì có biết ‘cân đấu vân’ như Tề-Thiên Đại-Thánh và có chạy đến Nam-Thiên-Môn cũng không thoát khỏi tay tôi đâu!

Số là sau khi Mạnh-Kiện-Hùng phi thân lên cây lật tẩy kẻ rình trộm trên đó thì Châu-Anh-Kiệt theo kế hoạch đứng chờ sẵn ở phía dưới. Khi kẻ rình trộm vừa nhảy xuống đất tức thì cậu ta chạy theo ngay, rượt bén gót.

Mạnh-Kiện-Hùng sợ Châu-Anh-Kiệt còn trẻ con vì thấy cậu ta tinh nghịch toan nắm lấy đầu tóc của người kia và suýt nữa đã nắm được. Chàng lo sợ nhỡ người kia bất thình lình quay lại dùng ám khí phóng ra thì còn gì là mạng của Châu-Anh-Kiệt nữa.

Theo kế hoạch của Mạnh-Kiện-Hùng dự định là khi chàng nhảy lên trên cây dương liễu thì theo phản ứng tự nhiên, người kia phải nhảy xuống. Châu-Anh-Kiệt thì chực ngay gốc đàng sau gốc dương liễu, sẽ nhảy ra dùng một thế võ bí truyền của Châu-Trọng-Anh dạy khóa tay bắt sống lấy hắn, vừa bất ngờ, lại vừa được dịp cho cậu bé trổ tài làm rạng rỡ uy danh Thiết-Đảm-Trang. Nghĩ như vậy nên Mạnh-Kiện-Hùng mới dám làm chuyện mạo hiểm đó, vì đinh ninh sau khi Châu-Anh-Kiệt bất ngờ khóa được tay kẻ ấy thì mọi việc sau đó đã có chàng lo liệu hết. Thế nhưng mọi việc xảy ra lại khác hẳn, ngoài sự tiên liệu của Mạnh-Kiện-Hùng.

Người kia khi thấy Mạnh-Kiện-Hùng phi thân lên cây đột ngột thì hắn quả không biết có Châu-Anh-Kiệt đứng phục dưới gốc cây. Đáng lý phải nhảy xuống chỗ Châu-Anh-Kiệt đứng phục sắn, là chỗ an toàn hơn, thì trong lúc vội vàng liều lĩnh, hắn lại nhảy xuống phía bên kia gốc cây là nơi có một cái giếng đá khá sâu và những miếng đá nhọn như những mũi dao chổng lên. Từ trên cao cách mặt đất đến 15 thước, hoặc giả hắn rơi xuống giếng sâu hay nằm đè lên những miếng đá nhọn kia thì kết quả cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Nhưng quả thật là mạng hắn quá lớn nên rơi đúng vào khoảng đất trống rất nhỏ giữa những mẩu đá nhọn lởm chởm kia, chỉ vừa đủ cho hai bàn chân hắn đáp được an toàn. Vì thế, không những hắn thoát khỏi được tử thần trong đường tơ kẽ tóc mà còn thoát luôn cả việc bị bắt sống, thành ra mưu của Mạnh-Kiện-Hùng thất bại.

Còn Châu-Anh-Kiệt không được dịp trổ tài dùng võ bí truyền khóa tay bắt sống được người kia thì tức lắm, nhất định rượt theo đến cùng vì cậy trong mình có võ-nghệ.

Châu-Trọng-Anh bình nhật rất mực chiều chuộng đứa con trai nên cậu bé muốn học bất cứ thế võ nào ông ta cũng gắng công mà truyền hết cho. Mặc dầu bản lãnh Châu-Anh-Kiệt chưa đạt được đến mức siêu việt nhưng cũng không phải là tầm thường. Châu-Trọng-Anh lại dùng một thứ thuốc riêng đặc biệt tẩm vào tay chân Châu-Anh-Kiệt và luyện cho cậu ta thành ‘thạch thủ thiết túc’ (#15). Do đó mà chân tay của Châu-Anh-Kiệt còn cứng rắng hơn chân tay của người lớn. Một quyền hay một cước của cậu ta vào chỗ nhược có thể lấy mạng người như chơi.

Đồng thời, Châu-Trọng-Anh còn dạy cho con cả nội-gia lẫn ngoại-gia công phu, luôn cả khinh công lẫn thuật phi hành. Do đó, những tay bản-lãnh tầm thường trên giang-hồ đương nhiên không làm sao sánh nổi với Châu-Anh-Kiệt. Tuy nhiên, với số tuổi còn non, lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu ngộ trận nên chưa thể thắng được những kẻ giang-hồ lão luyện, cho dù có bản lãnh cao cường. Đã có không biết bao nhiêu trường hợp xảy ra, kẻ mang bản lãnh cao siêu còn phải chết vì bản lãnh của mình nếu địch thủ dùng ngụy kế ám toán. Châu-Anh-Kiệt dầu sao vẫn còn trẻ con, tránh sao được tính háo thắng, thích nô đùa. Châu-Trọng-Anh lẽ nào không biết trước được như vậy mà không để ý ngăn ngừa! Chẳng qua là vì ông ta tin tưởng có mình kềm chế ở nhà luôn một bên, lại dặn trước các đệ-tử đừng xúi Châu-Anh-Kiệt làm điều gì nguy hiểm nên chắc cũng không đến nỗi xảy ra điều gì đáng tiếc phải ân hận.

Châu-Trọng-Anh truyền dần các môn võ công tuyệt đỉnh của mình cho con không phải để ứng dụng bây giờ, mà là vì ôm ấp hoài bãi, hy-vọng rằng sau này Châu-Anh-Kiệt sẽ có được một bản lãnh phi thường để nối chí ông ta, và sẽ đem tài sức ra làm những việc hữu ích cho xã hội lẫn quốc gia.

Tính tình Châu-Anh-Kiệt cũng ngoan ngoãn thuần thục nên Châu-Trọng-Anh rất mừng, không sợ ngày sau trở thành phường gian manh làm mất thanh danh không những cho chính mình và gia đình mà còn làm nguy hại cho đồng bào tổ-quốc nữa! Chính vì những nhận xét ấy mà Châu-Trọng-Anh cưng con hơn hầu hết những người làm cha khác.

Đối với Mạnh-Kiện-Hùng cũng vậy. Chàng ta là cao đồ đắc ý nhất của Châu-Trọng-Anh. Ông rất tin cậy Mạnh-Kiện-Hùng và thương yêu chàng ta như con ruột. Tất cả những gì Châu-Trọng-Anh biết, ông đều dạy lại hết cho Mạnh-Kiện-Hùng, vì ông ta đã tính đến chuyện ngày nào rủi có bị chết bất ngờ thì đã có người thay thế ông ta mà chăm nom, giáo huấn cho Châu-Anh-Kiệt. Võ công tuyệt đỉnh của Thiết-Đảm-Trang sẽ không vì đó mà bị thất truyền. Ông vẫn thường gọi Mạnh-Kiện-Hùng ra nói riêng:

-Thầy xem con cũng như là con ruột của thầy vậy. Con phải xem Châu-Anh-Kiệt như em ruột của con. Hai đứa đều là con ruột yêu quý của thầy. Thầy chỉ ước ao sau này hai con sẽ làm nên những chuyện ‘kinh thiên vĩ địa’ mà người ta không tách rời hai đứa ra được. Và trên giang-hồ sẽ đồn mãi biệt danh ‘Thiết-Đảm-Trang Song Kiệt’.

Tất cả mọi công việc lớn nhỏ, Châu-Trọng-Anh đều giao cả cho Mạnh-Kiện-Hùng. Chàng làm việc đâu vào đó rất chu đáo nên Châu-Trọng-Anh càng tin tưởng...

Nhắc lại chuyện Châu-Anh-Kiệt rượt theo kẻ lạ rình rập, Mạnh-Kiện-Hùng rối hết cả ruột gan lên vì không biết làm cách nào ngăn được Châu-Anh-Kiệt. Mạnh-Kiện-Hùng liền lập tức phóng xuống, dùng khinh công toàn lực rượt theo Châu-Anh-Kiệt, bất kể chuyện gì. Hai người đang đuổi bắt nhau kịch liệt chợt nghe có tiếng gió vùn vụt ở đàng sau nên biết là Mạnh-Kiện-Hùng đang rượt theo. Thế nhưng cả hai đã sẵn đà nên cứ thế mà tiếp tục chạy mà không thể dừng lại được. Và rồi, trước sau có tất cả ba người, kẻ chạy, kẻ đuổi, người rượt...

Mạnh-Kiện-Hùng tài nghệ cũng như khinh công đều cao hơn nên dù chạy sau, nhưng chỉ trong chớp nhoáng đã gần bắt kịp Châu-Anh-Kiệt. Chàng sợ đến toát cả mồ hôi nhưng bụng mừng thầm là Châu-Anh-Kiệt vẫn bình an, chưa bị hạ độc thủ. Mạnh-Kiệng-Hùng gọi lên thật lớn:

-Kiệt đệ, dừng lại đi! Đừng rượt theo hắn làm chi nữa cho mệt, để đó cho anh!

Đang mải mê rượt kẻ địch, Châu-Anh-Kiệt không nghe rõ nên không ngừng, không đáp, mà cũng không quay đầu lại, cứ dốc toàn lực mà đuổi theo. Cậu bé chỉ thích một việc là trước sau phải nắm được cái ‘đuôi chuột’ (#16) níu lại nghịch chơi như giật đuôi ngựa. Nhưng vì Châu-Anh-Kiệt còn nhỏ quá nên với không tới thành ra cứ chộp hụt hoài.

Mạnh-Kiện-Hùng vừa lo vừa sợ hết hồn nhưng khó mà nín cười được. Chàng muốn lên tiếng nói rõ lý do không nên rượt, nhưng sợ làm như vậy lại hóa ra mách nước cho kẻ địch ám toán thành ra lại thôi. Chính chàng cũng thắc mắc không hiểu tại sao người kia lại không dùng đến cái lợi khí nguy hiểm của kẻ giang-hồ khi gặp lúc nguy cấp để thoát thân hay tự cứu mạng. Những phút lo sợ là những phút sống hồi hộp nhất của con người. Mạnh-Kiện-Hùng không biết phải chăng hắn vì quá gấp mà quên mất hay đang chờ cơ hội, hoặc sắp sửa hành động. Đang nghĩ ngợi, Mạnh-Kiện-Hùng bỗng tái mặt lại khi thấy người kia đang chạy thật lẹ bỗng giảm tốc lực chậm lại. Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong trí óc chàng là người kia cố ý chạy chậm lại để phóng ám khí.

Thình lình, Mạnh-Kiện-Hùng há hốc kinh ngạc vì thấy Châu-Anh-Kiệt bỗng chồm tới ôm được eo ếch người kia. Chàng mừng quá, định chạy tới giúp sức thì người kia đã vùng mạnh một cái đứt cả vạt áo rồi lại tiếp tục chạy nữa.

Lúc đó, Mạnh-Kiện-Hùng cũng đã lướt tới bắt kịp, chân vừa đuổi, bụng vừa nghĩ thầm:

-“Nếu mình có phải chết vì ám khí cũng không ân hận gì!”

Châu-Anh-Kiệt đã ôm được người kia nhưng lại bị sẩy mất nên càng rượt gấp hơn mà quyết bắt cho kỳ được. Mạnh-Kiện-Hùng vẫn lo ngại không ít, nghĩ thầm:

-“Nếu hắn dùng ‘mai hoa châm’ hay ‘phù dung châm’ thì cả hai đứa cùng lãnh đủ hết!

Chàng bèn lướt ra phía trước, vừa chạy vừa cản đường Châu-Anh-Kiệt để sẵn sàng chịu ám khí nếu người kia phóng ra. Thế nhưng Châu-Anh-Kiệt không chịu nhường mà cứ sấn tới, theo sát Mạnh-Kiện-Hùng, không bị chàng bỏ xa bao nhiêu. Mạnh-Kiện-Hùng nhận ra là khinh công của Châu-Anh-Kiệt chẳng kém chàng là bao nhiêu. Đã mấy lần chàng muốn bứt xa cậu ta mà không được. Bứt xa Châu-Anh-Kiệt có nghĩa là có dụng ý tốt muốn che chở chứ không phải là muốn tranh tài cùng cậu ta.

Và những gì Mạnh-Kiện-Hùng đoán đã trở thành sự thật. ‘Vèo vèo’ mấy tiếng, người kia bất thình lình xoay lại phóng ra mấy mũi phi tiêu. Vì đã sớm đề phòng từ trước, Mạnh-Kiên-Hùng đưa tay bắt được một mũi dễ dàng. Bắt xon mũi phi tiêu, chàng liếc sang nhìn Châu-Anh-Kiệt thì thấy cậu ta cũng đang tươi cười cầm một mũi phi tiêu trên tay. Mạnh-Kiện-Hùng thấy thế khen thầm:

-“Không ngờ Châu-Anh-Kiệt lại có được bản lãnh như một cao thủ giang-hồ đã từng bôn tẩu nhiều năm! Thật là giỏi!”

Châu-Anh-Kiệt định phóng mũi phi tiêu trả lại người kia nhưng Mạnh-Kiện-Hùng cản lại:

-Sư đệ! Không nên! Oán nên giải chứ không nên kết! Sư-phụ sẽ không tha cho chúng ta đâu!

Châu-Anh-Kiệt dừng tay, nhưng lại ‘vèo’ một tiếng nữa, Mạnh-Kiện-Hùng định đưa tay ra bắt thì ám khí đã nằm gọn trong bàn tay của Châu-Anh-Kiệt rồi. Mạnh-Kiện-Hùng lại thêm một phen ngạc nhiên, nghĩ thầm:

-“Chẳng lẽ mắt và tay chân của Châu-Anh-Kiệt còn lẹ hơn cả mình nữa hay sao?

Mạnh-Kiện-Hùng vì thế mà cũng bớt lo ngại cho tính mạng của Châu-Anh-Kiệt như lúc đầu. Chàng hiểu rõ là ít nhiều Châu-Anh-Kiệt cũng biết đường mà tự vệ. Chàng cương quyết tập trung tinh thần lại để bắt cho được tên dọ thám này. Nhưng chàng cũng không hề có ý định dùng ám khí để hại hắn vì nhớ lời Châu-Trọng-Anh thường dặn:

-“Kẻ anh hùng không bao giờ dùng ám khí hại đối phương nhất là khi không bị đe dọa đến tánh mạng.”

Kẻ dọ thám kia chạy đến một ngã ba đường thì bí lối tựa như lạc vào ‘Bát-Quái trận’ của Khổng-Minh. Y bất giác la lên một tiếng tuyệt vọng:

-Trời ơi! Đến đây sao không còn ngã nào chạy được nữa? Chẳng lẽ mạng ta tuyệt rồi hay sao?

Gặp đường cùng, tứ bề là rừng rậm, không còn cách nào chạy thì đành đứng lại ngước mặt lên trời nhìn than thở rồi kêu hết tổ lại gọi đến tông mà khấn vái. Mạnh-Kiện-Hùng cả cười. Chàng cũng dừng lại nhìn hắn nói:

-Em tôi đã bảo anh đừng chạy đi đâu cho mệt, tại anh không chịu nghe lời thành ra mới đến nước này! Thôi, hãy chịu bó tay cho xong chuyện!

Một cánh tay từ đâu với tới nắm gọn lấy gã dọ thám. Thì ra đó là Châu-Anh-Kiệt sử dụng một tuyệt chiêu của thân phụ dạy cho bắt sống được hắn. Khi truyền dạy thế võ này, Châu-Trọng-Anh dặn con rất rõ ràng là không được dùng nó để giết người. Vì vậy, Châu-Anh-Kiệt chỉ dùng chiêu thức này để khóa chặt hai tay địch thủ mà thôi chứ không làm tổn hại đến một cọng lông của y.

Đột nhiên gã dọ thám vặn mình lộn trái lại như một con mèo, hất hai chân trước đảo ngược ra đàng sau, thoát được khỏi đôi tay của Châu-Anh-Kiệt mà co giò chạy trống. Chuyện xảy ra thật bất ngờ. Không những Châu-Anh-Kiệt phải sửng sốt mà chính Mạnh-Kiện-Hùng cũng không dằn được la lên:

-Miêu-quyền của Hàn-gia thật là lợi hại!

Gã dọ thám chỉ còn một đường duy nhất là lui về ngã cũ mới mong thoát thân được vì phía trước đã bít kín hết cả rồi. Và nhờ hắn búng ngược hai chân ra đàng sau cho nên khi vừa chạm đất, hắn đã ở sẵn vị trí thuận lợi, cứ thế mà chạy chứ không phải xoay đầu lại.

Mạnh-Kiện-Hùng cả giận, vừa rượt theo vừa hét lớn:

-Giỏi lắm! Đố mi chạy thoát được đó!

Nghe sau lưng có tiếng người rượt theo, gã dọ thám thọc tay vào người lấy ra năm viên phi-đạn tròn có gai (#17) để sẵn trên tay chờ cơ hội ám toán. Nhưng hắn chưa kịp phóng thì ‘ạch’ một tiếng, đã bị Mạnh-Kiện-Hùng dùng thế song phi từ đàng sau tới tống cho hai cước vào ngay bàn tọa nằm chúi đầu xuống lộ.

Mạnh-Kiện-Hùng sau đó mới tới trước mặt y lay cho tỉnh dậy rồi mới ôn tồn nói rằng:

-Vì đại-huynh có những hành động ám muội cho nên chúng tôi mới đành phải đắc tôi mà trót mạo phạm. Đó là một việc bất đắc dĩ, ngoài dụng tâm của chúng tôi, mong huynh đài tha thứ cho. Chẳng hay đại ca có bị thương tích gì không xin nói cho biết để dùng thuốc mà chữa trị ngay.

Gã dọ thám mặt mày nhăn nhó như một con khỉ đột, vừa rên vừa nói:

-Cánh tay tôi đau nhức... như dần... có lẽ... là xương bả vai chăng? Ối cha! Đau chết đi được!

Mạnh-Kiện-Hùng bèn đỡ hắn dậy, một tay vịn vào nách gã cho khỏi bị ngã, một tay xoa bóp vào chỗ gã kêu đau. Gã dọ thám kêu rên thảm thiết, nước mắt chảy ròng ròng. Mạnh-Kiện-Hùng lại nói:

-Để tôi đưa lão huynh về Thiết-Đảm-Trang dùng thương cao dược, vừa uống vừa đắp may ra mới khỏi được. Dẫu cho xương gẫy hay gân đứt, thứ thuốc này của sư-phụ tôi có thể làm liền lại, chỉ trong vòng nửa tháng là lâu nhất.

Gã dọ thám không cách nào từ chối được đành phải gắng gượng theo Mạnh-Kiện-Hùng và Châu-Anh-Kiệt về Thiết-Đảm-Trang. Hắn bất giác e thẹn vì hành động của hắn, đã không bị để bụng mà còn được người ta dùng lòng tốt đáp lại. Luôn cả việc định ám toán của hắn cũng không ai buồn truy xét làm gì.

Mạnh-Kiện-Hùng nhờ Châu-Anh-Kiệt giúp chàng một tay dìu gã dọ thám từng bước một về đến Thiết-Đảm-Trang. Sau đó Mạnh-Kiện-Hùng đem hắn vào một căn phòng rộng rãi khang trang, trải giường êm cho hắn nằm nghỉ. Càng đ‘ược săn sóc bao nhiêu, hắn lại càng cảm thấy lương tâm cắn rứt bấy nhiêu...

Thấy gã dọ thám đã hoi khỏe lại, Mạnh-Kiện-Hùng mới hỏi:

-Chẳng hay huynh đài đi đâu mà lạc bước đến tệ trang, xin nói thật cho rõ chứ đừng giấu diếm làm gì! Nếu giải quyết được, chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để làm thỏa lòng lão huynh.

Gã dọ thám nói:

-Tôi đi lạc ở giữa ngã ba đường chưa biết phải rẽ ngã nào nên hỏi một chị đàn bà chăn dê ở đó. Tính tôi cấp tháo nên lời nói không được tế nhị cho lắm nên có lẽ vì thế mà chị ấy không ưa nên mới cố ý chỉ trật đường cho lạc vào quý sơn trang cho bõ ghét. Khi qua khỏi bờ tường tôi mới biết là đã lầm đường nên mới leo lên cây dương liễu để nhắm định phương hướng. Chẳng ngờ tôi bị hai vị trông thấy cho tôi là kẻ gian nên quyết bắt lại cho bằng được. Lúc nghe huynh đài gọi trên cây, tôi hoảng hốt nhảy bừa xuống định chạy trốn nhưng lại bị vị tiểu huynh đệ kia chực sẵn mà rượt theo. Trong lúc nguy cấp, tôi không kịp suy nghĩ nên lỡ dùng ám khí, thật là đắc tội! Mong huynh đài và tiểu bằng hữu tha thứ cho.

Mạnh-Kiện-Hùng cười nhạt nói:

-Như quả lời đại huynh nói thì thì thật chúng tôi đắc tội với lão huynh vô cùng. Thế này chắc không tránh khỏi bị trang-chủ trách mắng nặng nề rồi. Bây giờ xin lão huynh nằm yên để tôi cởi áo ngoài xem xét các vết thương để dễ bề điều trị.

Đến nước này, gã dọ thám kia chẳng còn cách nào hơn là vâng lời. Hắn biết một khi cởi áo ngoài ra thì rất có thể bị lột mặt nạ không chừng. Mạnh-Kiện-Hùng tuy nói là để xem xét các vết thương mà điều trị nhưng trên thực tế, chàng muốn khám phá ra những bí mật bên trong chiếc áo ngoài của hắn. Mạnh-Kiện-Hùng tuy còn nhỏ tuổi nhưng việc làm của chàng lúc nào cũng hết sức là tinh tế nên mới nghĩ ra mưu kế xem xét các vết thươn để tìm hiểu về ‘con người bí mật’ này.

Cởi xong lớp áo ngoài, Mạnh-Kiện-Hùng còn phải cởi thêm một lớp áo nữa. Chàng thấy có một mũi dao ngắn bén nhọn đút trong cái túi da giắt trong lưng quần. Mạnh-Kiện-Hùng xem kỹ lưỡi dao thì nhận thấy quả là một vũ khí lợi hại, có thể giết người trong chớp nhoáng. Chàng tự nhủ thầm:

-Kẻ này quyết không phải là một nhân vật tầm thường. Nếu chẳng phải là một võ-lâm cao thủ thì một kẻ thủ đoạn trong giới hắc đạo. Căn cứ vào lưỡi dao của hắn thì có lẽ hắn thuộc phe hắc đạo nhiều hơn vì chỉ có phường hắc đạo mới chuyên dùng ám khí và dấu vũ khí ám toán thật kỹ trong người mà thôi. Rõ ràng đây là những hành động ám muội.

Mạnh-Kiện-Hùng lại xem xét vết thương trên bả vai và đầu gối của hắn thì bất chợt giật mình kinh hãi. Các vết thương tuy lành nhưng dấu tích vẫn còn in rõ rệt là hắn có bị một cao thủ võ lâm nào đó điểm huyệt. Một kẻ như hắn bị điểm huyệt mà không bị tuyệt mạng, cũng không bị tê liệt tứ chi hay toàn thân bất toại thì trừ khi có nội công thâm hậu, ngoại công ghê gớm thì làm sao chịu nổi? Chàng thầm nghĩ:

-“Sẵn cơ hội này, lúc hắn chưa cử động lại được như thường mà không trừ phứt hắn đi để di họa về sau thì ăn năn sao kịp?”

Mạnh-Kiện-Hùng giả đò xem xét vết thương. Khi bàn tay chàng ta sờ đến huyệt ‘phong trì’ ở sau mép tay gã dọ thám thì dùng một ngón tay điểm nhẹ xuống nhắt thử xem hắn có đau không, vì nếu đau tức là hắn có bị thương ở chỗ ấy và hắn không nghi ngờ chàng ra tay điểm huyệt.

Lần mò xuống huyệt ‘trung phù’ ở xương gân, Mạnh-Kiện-Hùng lại dùng ngón tay trỏ điểm thêm một huyệt nữa. Lần này gã dọ thám đau nhói lên và hỏi:

-Ở đây cũng có vết thương nữa sao?

Mạnh-Kiện-Hùng đáp:

-Có, nhưng không nặng. Chỉ phớt sơ qua, hơi bầm một tí thôi.

Đến bàng quang của hắn ngay huyệt ‘vị trinh’, Mạnh-Kiện-Hùng lại điểm thêm một cái nữa. Gã dọ thám nhột quá giẫy lên cười nắc nẻ:

-Thôi! Thôi! Đừng tìm nữa! Vừa đau lại vừa nhột chịu không nổi! Chơi cái gì kỳ cục vậy? Bộ huynh đài định phá Đổng-Triệu-Hòa sao chớ?

Thì ra gã dọ thám đó không phải ai khác hơn là Đổng-Triệu-Hòa, tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục.

Là một tên hiếu sắc đa dâm, mới thấy Lạc-Băng đã dở thói nham nhở đến nỗi bị Văn-Thái-Lai điểm huyệt cho đến nỗi các tiêu sư đồng nghiệp phải đi hạ mình cầu xin cho hắn. Sau đó, nhờ Trương-Siêu-Trọng giải huyệt cho mới còn sống sót. Thế mà tính phách lối ngang tàng vẫn không chừa.

Ấy thế mà trong lúc dưỡng thương, hắn vẫn không quên được nhan sắc diễm lệ của Lạc-Băng, lúc nào cũng mơ tưởng đến nàng. Hắn còn bịa ra những chuyện hết sức khả ố như đi nói với các bạn tiêu sư là trong giấc mộng đã cùng với Lạc-Băng giao hoan thật là khoái lạc. Hắn thề rằng trước sau phải cướp cho bằng được nàng về làm vợ mới nghe. Cũng chỉ vì nuôi mãi ý định ấy mà không khi nào hắn chịu rời mắt khỏi phòng của nàng trong khách-sạn...

Hôm ấy nhìn thấy Dư-Ngư-Đồng và Lạc-Băng dìu Văn-Thái-Lai ra khỏi khách-sạn thì hắn tin rằng cả ba người dự định trốn đi. Do đó, hắn ngồi dậy ra khỏi phòng đưa mắt nhìn theo. Thấy ba người sau đó lên đường, hắn cũng lên ngựa đuổi theo. Vì hắn khôn khéo biết giữ đúng khoảng cách nên ba người kia không biết được có kẻ đang cố tâm theo sau để dọ thám.

Đổng-Triệu-Hòa được chứng kiến từ đầu đến cuối, kể từ lúc ba người vào Thiết-Đảm-Trang rồi sau đó trở ra. Lại thấy Mạnh-Kiện-Hùng phi ngựa đến rồi mấy người lại trở vào sơn trang thêm một lần thứ hai. Đổng-Triệu-Hòa mừng rỡ vì sực nghĩ ra một điều ‘nhất cử lưỡng tiện’. Hắn vừa theo dõi Lạc-Băng và cũng vừa biết được tung tích của đám Hồng Hoa Hội rõ ràng. Nếu đem việc này về báo cáo thì công lao của hắn rất là lớn.

Đổng-Triệu-Hòa mừng quá đến độ quên cả đói bụng nên không vội trở về lữ-quán, còn cố dọ thám thêm vài chi tiết khác nữa. Hắn định rằng để đến tối sẽ trở về trình báo tự sự cho Trương-Siêu-Trọng nghe để ông ta kéo rốc đám thị vệ cùng ngự lâm quân hợp cùng binh lính địa phương mà vây chặt Thiết-Đảm-Trang lại thì bọn Văn-Thái-Lai có cánh cũng không bay khỏi. Và sau đó, công của hắn sẽ được Trương-Siêu-Trọng thưởng cho cái thể xác đẹp đẽ thơm tho của giai nhân mỹ miều Lạc-Băng kia. Hắn nghĩ tới chừng lúc đó thì hắn sẽ dùng bạo lực mà chiếm đoạt thể xác kia dù chỉ được một đêm thôi cũng không sao. Một đêm hoan lạc bên Lạc-Băng đối với hắn chẳng khác gì một đêm của Tương-Vương với Vu-San Thần-Nữ.

Chẳng may cho hắn, bị Lạc-Băng phát giác nên phải nhảy lên cây dương liễu để trốn tránh và tin rằng không một ai phát giác được. Nhưng đúng là ‘thiên bất dung gian’, Đổng-Triệu-Hòa bị Mạnh-Kiện-Hùng và Châu-Anh-Kiệt rượt theo đến cùng để bắt cho được, để rồi sau cùng nếm phải hai cước của Mạnh-Kiện-Hùng vào bàn tọa...

Thấy Đổng-Triệu-Hòa nhột quá cười bò càng ra, Mạnh-Kiện-Hùng cũng cười mà nói rằng:

-Trông lão huynh thân thể ốm nhom ốm nhách sao lại có cái bụng phì như Đổng-Trác thế kia? Tiểu đệ lấy làm lạ nên nhấn xem thử cái gì đựng trong đó mà sình chương lên như củ trướng vậy?

Đổng-Triệu-Hòa nói:

-Huynh đài có ý bảo rằng lão Đổng ta ham ăn mà không mập đấy chứ gì! Không phải đâu! Lão Đổng không chứa đồ ăn ngon ở đó đâu, mà chỉ chứa toàn mưu mô và trí dũng thôi. Nhờ cái bụng này mà lão Đổng danh chấn giang-hồ đó!

Nghe giọng nói khoe khoang tự thị của Đổng-Triệu-Hòa như thế, tuy là lời nói đùa nhưng Mạnh-Kiên-Hùng cảm thấy đáng ghét vô cùng. Nhưng chàng cũng làm bộ kính phục nói:

-Đại huynh là một cao thủ trên giang-hồ. Nhưng nếu không nói cho đệ biết các vết thương trên châu thân thì rồi đệ cũng biết mà thôi.

Đổng-Triệu-Hòa khoái chí nói:

-Thế à! Huynh đài có cặp mắt tinh đời đến mức ấy sao? Vì đâu mà biết được vậy?

Mạnh-Kiên-Hùng cười nói:

-Nếu không phải là tay có bản lãnh siêu việt thì làm sao chịu nổi những vết thương nặng nề như thế kia? Nếu tiểu đệ không lầm thì lão huynh bị đối phương điểm huyệt.

Đang đau nằm trên giường, Đổng-Triệu-Hòa cũng ráng chỏi tay ngồi dậy nói:

-Đúng vậy! Lão Đổng này có coi mấy vết điểm huyệt ấy ra gì đâu! Cứ cho địch thủ tha hồ điểm, lão Đổng chỉ vận dụng nội ngoại công mà chịu là xong. Chờ cho đối phương điểm huyệt xong thì sẽ tự mình giải huyệt lấy. Tuy vậy cũng hơi bị mất sức và nếu bị động đến thì cũng hơi đau chút. Sở dĩ lão Đổng làm như vậy là muốn cho địch thủ khiếp vía chơi. Có được mấy cao thủ mà không sợ Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai điểm huyệt? Chỉ có lão Đổng này là dám coi thường mà thôi, nên Văn-Thái-Lai sau khi điểm huyệt xong thì đâm ra thất vọng.

Nhờ mấy câu khoe khoang này của Đổng-Triệu-Hòa mà Mạnh-Kiện-Hùng biết được hắn bị Văn-Thái-Lai điểm huyệt và một trong những lý do khiến hắn bỏ công đi dọ thám cũng là vì mối hận này thôi chứ không ngoài mục đích nào khác. Nhưng chàng lại thắc mắc rằng tại sao Văn-Thái-Lai đã điểm vào người Đổng-Triệu-Hòa như thế mà lại không kết liễu được tánh mạng hắn? Xưa nay khi nhắc đến tài điểm huyệt của Văn-Thái-Lai ai lại không tán đởm kinh tâm? Nhưng chàng lại tự nghĩ và cười thầm:

-“Hắn tự thị coi thường những huyệt đạo bị điểm nhưng hắn có biết đâu những huyệt đạo của hắn vừa bị ta điểm nhẹ toàn là những yếu huyệt có thể kết liễu tánh mạng hắn dễ dàng! Nếu quả như lời hắn nói thì sao vận nội ngoại công cho ta thấy mà sao lại bảo là ta ‘thọc léc’ cho hắn cười!”

Chỉ nội những lời phách lối của Đổng-Triệu-Hòa và những hành động ám muội của hắn cùng những ám khí tàng trữ trên người hắn, Mạnh-Kiện-Hùng đã đoán được ngay là kẻ lưu manh, bất chánh. Nhìn vào bản mặt quái gở như quỷ sứ của hắn, nhất là cặp mắt láo liên kia, chàng lại càng thêm ghét! Chàng tự nghĩ:

-Một kẻ hèn hạ khiếp nhược như tên này thì có giết chết hắn đi cũng chẳng có gì phải hối hận cả! Nhưng chứa hắn trong nhà thêm giờ phút nào thì càng bất lợi thêm phút ấy. Chi bằng tống cổ hắn ra khỏi nhà cho hắn đi đâu thì đi, chết bờ chết bụi đâu thì chết cho đáng số!

Mạnh-Kiện-Hùng ghét cay ghét đắng Đổng-Triệu-Hòa đến độ không thèm hỏi cả tên họ. Và mặc dầu hắn đã tự xưng tên nhưng chàng cũng chẳng thèm để ý. Hắn cố xưng tên để gợi chuyện cho chàng hỏi để có dịp khoe khoang, đem danh Trấn-Viễn tiêu-cục cùng với Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương ra để nói. Nhưng Mạnh-Kiện-Hùng vẫn thản nhiên như không, mà chẳng thèm biết gì thêm. Xưa nay, Đổng-Triệu-Hòa chỉ thích mượn danh Vương-Duy-Dương để xưng hùng, giống như con dê mượn lót cọp để đi dọa nát những con thú khác vậy. Tuy nhiên, thiên-hạ chỉ nể sợ Vương-Duy-Dương thôi chứ chẳng ai thèm để ý gì đến hắn cả!

Nằm nghỉ ở phòng hướng Đông mà mắt Đổng-Triệu-Hòa cứ liếc mãi sang các phòng ở phía Tây và phía Nam là cốt ý để tìm xem cho bằng được dung nhan của Lạc-Băng. Không nhìn thấy được bóng dáng của nàng, Đổng-Triệu-Hòa cứ luôn luôn lấp ló, liếc mắt khắp nơi khiến cho Mạnh-Kiện-Hùng càng tăng thêm nỗi nghi ngờ về hắn. Chàng nghĩ thầm:

-“Có lẽ nào mình lại dẫn một kẻ cướp vào để rình rập đồ đạc trong nhà?”

Nghĩ vậy, chàng không cần phải đắn đo nữa bèn nói sẵng vào ngay mặt Đổng-Triệu-Hòa:

-Này ông bạn! Có biết rõ nơi này là đâu chưa? Tôi chắc là chưa biết đó!

Đổng-Triệu-Hòa làm bộ ngơ ngác nói:

-Quả như lời huynh đài nói, lão Đổng vô tình không biết đây là đâu, không biết đây là cõi ma hay cõi Phật. Xin huynh đài chỉ giáo cho!

Câu nói xấc xược của Đổng-Triệu-Hòa khiến cho Mạnh-Kiện-Hùng không dằn nổi cơn giận. Chàng nắm tay Đổng-Triệu-Hòa dắt thẳng ra cửa phòng nói rằng:

-Cũng không cần phải nói cho ngươi biết đây là đâu làn gì! Chỉ cần mời người ra khỏi nơi này là được rồi! Đi đi!...

Sau khi tống cổ Đổng-Triệu-Hòa ra như tống cổ ôn hoàng dịch lộ ra ngoài, Mạnh-Kiện-Hùng cười gằn nói theo:

-Nhớ đừng có mon men trở lại đây mà rình rập kẻo mà chết mất đất đấy nhé! Đây là ta thương hại mà phóng sinh cho một lần đặng để đức lại cho con cháu. Nhưng báo trước cho biết là không còn lần thứ nhì nữa đâu đấy nhé!

Đổng-Triệu-Hòa chợt thấy thái độ của Mạnh-Kiện-Hùng bỗng nhiênlại khinh khi hắn ra mặt như thế thì nhịn nhục không được thét vang lên rằng:

-Đường đường là một trang nam tử như ta mà để cho một đứa trẻ ranh làm nhục đến thế này, tức chết đi được! Nếu không trả được thù này ta thề không làm người đứng trên thế gian nữa!

Mạnh-Kiện-Hùng đã ghét cay ghét đắng Đổng-Triệu-Hòa giờ lại nghe hắn nói thêm câu trả thù thì lửa giận lại phừng lên, nói thầm trong bụng rằng:

-“Tưởng ngươi không thèm trả thù thì ta còn để người sống thêm một thời gian ngắn nữa, chứ còn nếu người muốn trả thù thì ta cho xuống gấp âm ty để trả thù với Diêm-Vương dưới đó!”

Nghĩ vậy, thuận tay, Mạnh-Kiện-Hùng đấm mạnh vào vai Đổng-Triệu-Hòa một cái miệng nói lớn:

-Thôi đi đi! Đừng nhiều chuyện!

Đoạn chàng xô hắn một cái chúi nhủi rồi đi thẳng vào trong sơn trang, miệng cười khinh bỉ không thèm ngó lại.

Đổng-Triệu-Hòa bị một đấm như trời giáng ngay vai đau thấu cốt tủy, vụt miệng chửi đổng lên. Nhưng rồi lại sợ rủi Mạnh-Kiện-Hùng nổi giận quay trở lại thì chỉ có nước mà ốm đòn mà chuốc thêm lấy sự nhục nhã nên đành đi vội đến chỗ cột ngựa gắng gượng lên yên phi một hơi về An-Viễn Khách-Sạn. Về đến nơi, Đổng-Triệu-Hòa thấy Trương-Siêu-Trọng, Ngô-Quốc-Đống cùng đầy đủ cả mặt bọn tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục ngồi bàn tính công chuyện. Ngoài mấy người quen ra, Đổng-Triệu-Hòa còn thấy bảy, tám người lạ mặt nữa nhưng hắn không nhận được là ai. Câu chuyện mấy người này bàn không ngoài các đề tài như: Văn-Thái-Lai sau khi đánh chết Phùng-Huy và Hàn-Xuân-Lâm thì trốn đi đàng nào?... Lão già bí mật trợ giúp bọn Văn-Thái-Lai kia là ai?...

Đổng-Triệu-Hòa nghe được chuyện thì khoái chí mừng lắm. Hắn bèn đem những việc đi dọ thám được ở Thiết-Đảm-Trang ra sao thuật lại cho Trương-Siêu-Trọng cùng cả bọn nghe rõ. Đang cao hứng kể chuyện bỗng hắn cảm thấy xây xẩm mặt mày rồi ngã quỵ xuống.

Trương-Siêu-Trọng thấy vậy vội vàng nhanh tay đỡ lấy hắn. Y lấy làm lạ bèn cởi áo ngoài Đổng-Triệu-Hòa ra xem thật kỹ lưỡng. Vốn là một đại cao thủ trong võ lâm từng trải giang-hồ nên chỉ cần xem sơ qua là Trương-Siêu-Trọng đã biết ngay là Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt trong khi chính bản thân Đổng-Triệu-Hòa lại không hay biết một tí gì cả. Người điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa chuyến này tuy không lợi hại bằng Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai lần trước nhưng lại chọn vào những huyệt đạo chính yếu mà điểm chẳng khác nào một thầy địa lý chọn đất, nếu không kịp thời giải huyệt thì chỉ nội trong một tháng, tánh mạng Đổng-Triệu-Hòa chỉ có đường theo ông theo bà về chầu Diêm-tổ mà thôi!

Trương-Siêu-Trọng lập tức giải hết tất cả huyệt đạo cho Đổng-Triệu-Hòa rồi sai người đem vào phòng riêng cho hắn tĩnh dưỡng. Phải một lúc khá lâu, Đổng-Triệu-Hòa mới dần dần tỉnh lại được. Trương-Siêu-Trọng liền hỏi hắn từ đầu đến đuôi câu chuyện. Khi nghe thuật lại, Trương-Siêu-Trọng vừa mừng vừa tức giận. Mừng là vì biết được tung tích Văn-Thái-Lai; giận là vì Thiết-Đảm-Trang dám cả gan chứa chấp khâm-phạm triều-đình lại còn ra tay hạ độc thủ.

Trương-Siêu-Trọng quy tụ tất cả mọi người lại bảo rằng:

-Chúng ta hãy tức tốc lên đường đến Thiết-Đảm-Trang. Đổng lão đệ hãy đi trước làm hướng đạo.

Đổng-Triệu-Hòa tuy được giải huyệt nhưng vẫn còn lắm. Trương-Siêu-Trọng lấy trong mình ra một viên thuốc màu hồng hòa với nước trong cho hắn uống. Thật là một viên ‘thần đan’! Uống xong, Đổng-Triệu-Hòa thấy tinh thần gai tăng bội phần, sức lực như đã có lại đầy đủ như cũ.

Còn Ngô-Quốc-Đống sau khi bị Văn-Thái-Lai đánh gẫu xương bả vai, lại trúng phải một phi đao của Lạc-Băng, được Trương-Siêu-Trọng cứu chữa bằng cách dùng thuốc vừa bó vừa rắc lên các vết thương nên cũng đã bình phục rồi. Mặc dù thương tích vẫn còn hành chút đỉnh nhưng hắn cũng gắng gượng mà đi theo.

Chờ cho đông đủ mặt tất cả, Trương-Siêu-Trọng mới giới-thiệu mấy người lạ mặt cho Đổng-Triệu-Hòa biết. Nghe giới-thiệu, Đổng-Triệu-Hòa thất kinh vì đó toàn là những cao thủ võ lâm quy thuận triều-đình làm quan lớn cả. Một người làm chức Đại-nội Chưởng xuyên tẩu mã ngoại, tứ phẩm thị vệ tên Đoàn-Đại-Lâm; một người làn chức Thị-vệ Tổng giáo tập trong phủ Trịnh Thân-Vương tên Văn-Khánh-Nhuận; một người làm chức Tổng-binh, thuộc phủ Cửu-Môn đề đốc Thành-Khoáng; một người làm Chưởng-môn ở phủ Thần-Châu tỉnh Hồ-Nam tên Bá-Cao. Mấy người còn lại thì chức tước nhỏ hơn, nhưng cũng đều là Bổ-khoái ở Thiên-Tân và Bảo-Định.

Tất cả những người này đều thừa lệnh của vua Càn-Long theo giúp Trương-Trọng-Siêu để bắt cho được Văn-Thái-Lai.

Đổng-Triệu-Hòa đi trước dẫn đường. Một đoàn người theo sau sát khí đằng đằng oai-phong lẫm liệt, trông chẳng khác gì một cuộc hành quân, nhắm hướng Thiết-Đảm-Trang tiến thẳng tới...

Hồi 5a

Miếu Hắc Hổ, thần uy kinh mãnh thú

Thành An Tây tương kiến hội quần anh

 Đây nói về Lục-Phỉ-Thanh từ khi đưa bọn Văn-Thái-Lai ra khỏi An-Viễn Khách-Sạn thì một người một ngựa tung gió, đạp tuyết, xung sương mà nhắm hướng Tây đi thẳng tới. Khi qua khỏi ngọn núi Tu-Di thì trời vừa đúng ngọ. Núi Tu-Di có một cái hang lớn, lại dài và sâu thăm thẳm chẳng khác gì một cái hang thuồng luồng tối đen và lạnh buốt. Nơi đây là sào huyệt của độc xà và mãnh hổ. Phàm người đi qua núi đều phải đi ngang qua cửa hang này. Vì đó là con đường ‘độc đạo’ duy nhất.

Từ trước đến nay, đã không biết bao nhiêu người đem thân nạp mạng cho độc xà ác thú tại nơi đây mà quan quân vẫn không làm cách nào bảo đảm được an ninh cho khách lữ hành lui tới.

Theo những lời đồn đãi, có nhiều người bị cọp ăn thịt hóa thành ‘ma trành’ (#1) lộng hành, nhất là vào giờ mặt trời đứng bóng thì lại cành linh thiêng ghê gớm, ai cũng phải khiếp sợ. Vì vậy, ở ngay trước miệng cửa hang, một cây cổ thụ ‘táo lão’, thân cây có đến mấy người ôm, cành lá xum xuê, dân địa phương có lập một cái miếu thờ thần Hắc Hổ, tạc hình tượng một con cọp đen trông như sống để khách qua núi cúng vái, cầu cho được toàn sinh mạng. Trước sân miếu lại đáp hình những con ma trành đủ hạng lớn, bé, già, trẻ, nam, nữ, nhảu múa ca xang diễn lại cái cảnh dưới ánh trăng khuya, ma trành làm trò vui cho thần hổ tiêu khiển.

Chưa biết là miễu Thần Hổ có linh ứng hay không. Chỉ cần thấy cái cảnh ghê rợn của miễu và hình tượng quái gở của bầy ma trành, khách qua đường yếu bóng vía nhìn vào cũng đủ ngã xỉu chết giấc.

Theo dân địa phương và những nhóm hắc đạo giang hồ kể lại thì trong hang có vô số những mãnh hổ cùng với mãng xà. Nhưng chúa tể của chúng là một con hổ đen ba chân to như con bò mộng, đôi mắt sáng như đồng linh, miệng đỏ như chậu máu, có tiếng cà-um (#2) vang dội xa đến mấy dặm đường.

Con hắc hổ này sống đã lâu, vì ăn thịt người quá nhiều nên đã biến thành tinh. Nó hóa ra được hình người, nói được tiếng người, hành động như người, lại đủ cả mưu mô xảo quyệt gạt người đi đường mà nhai sống. Nó có linh tính đến nỗi nghe xa được, đoán trước được nên binh mã của triều-đình, tên đạn, bẫy lưới của của các tay thiện xạ vẫn không làm gì được nó.

Chỉ có một lần, cách đây không bao lâu, nó bị hiệp-sĩ Viên-Sĩ-Tiêu, bẻ gãy hết một chân nên chỉ còn lại ba. Nhưng từ đó, con hổ tinh này lại càng hung hăng lên gấp trăm lần. Hễ ai đi ngang qua miệng hang là nạp mạng cho nó chứ đừng mong mà cầu khẩn hay van xin như trước nữa. Mà nó thù nhất là những khách giang hồ mang võ công trác tuyệt. Hợp sức với con hắc hổ này là con đại mãng xà vương, chúa tể các loài rắn rết sống trong hang này. Nói chung, cái trở ngại cho khách lữ hành qua núi Tu-Di là hang Thần Hổ này. Đừng nói là khách thương tầm thường, dầu là những cao thủ võ-lâm khi phải đi ngang chốn này còn phải lo lắng e ngại.

Mỗi lần muốn qua miệng hang Thần Hổ, khách lữ hành phải hợp đoàn đến vài ba trăm người. Phụ-nữ, lão, ấu, thì đi giữa, còn những trai tráng mạnh khỏe có sức lực và võ nghệ đều thủ sẵn khí giới đi chung quanh, tiền phong lẫn hậu tập. Dầu vậy, cũng chưa bao giờ có đoàn nào dám đi qua núi vào lúc mặt trời đứng bóng vào hai giờ tý và ngọ, là những giờ tìm mồi ăn trưa của chúa sơn lâm thần hổ. Tuy nhiên, mỗi đoàn đi qua miệng hang thế nào cũng phải để lại cho vài ba mạng. Nó gầm lên một tiếng rồi từ trong miệng hang phóng ra. Rồi chẳng biết nó bắt người bằng cách nào, hồi nào, đến khi đoàn kiểm điểm lại người khi qua núi rồi mới hay là thiếu.

Đó là khách thương. Còn những khách giang hồ có võ công muốn đi qua miệng hang cũng phải đợi có được vài mươi người, phân công cho nhau tìm cách kháng cự chu đáo rồi mới dám khởi hành. Nhưng rốt cuộc cũng phải có một hai người làm mồi tế hắc hổ.

Đại-hiệp Viên-Sĩ-Tiêu nghe chuyện hắc hổ hoành hành, giết hại khách đi đường qua núi Tu-Di nên quyết vì dân trừ hại và trả thù cho một số võ lâm đồng đạo bị ăn thịt mới một mình đến ngay miệng hang Thần Hổ vào giờ mặt trời đứng bóng mà khiêu khích.

Hắc hổ thoát được tử thần nhưng bị bẻ gãy một chân bên trái. Chờ luôn ba ngày không thấy hắc hổ về lại hang, đại-hiệp Viên-Sĩ-Tiêu cũng không còn cách nào trừ tuyệt được nên đành chờ dịp khác.

Viên-Sĩ-Tiêu đi rồi, hắn hổ mới dám trở lại chỗ cũ. Từ đó nó trở nên hung hăng hơn trước, hễ thấy có bóng dáng người võ lâm là gầm thét lên dữ dội, quyết định ăn thịt cho bằng được. Do đó mà lâu nay núi Tu-Di vắng khách qua lại.

Quan địa phương ra châu tri cho dân chúng hay, mỗi tháng có hai lần qua núi, chia ra, đầu tháng thì bên này sang, giữa tháng thì bên kia sang. Ai có việc cần qua núi Tu-Di thì tới đúng kỳ hẹn đến dưới chân núi chờ sẵn. Sau đó, đoàn người sẽ đi vào giữa, trước sau, hai bên đều có quân lính đi hộ tống, giương dáo mác, cờ xí ngập trời. Đạo quân hộ tống này có đến cả 5000 binh-sĩ, do một viên Tổng-binh và một viên Tham-tướng chỉ huy, đám đi tiên-phong, đám đi đoạn hậu, chẳng khác gì một cuộc hành quân quan trọng...

Lần này có việc khẩn cấp, Lục-Phỉ-Thanh phải qua núi Tu-Di. Cái danh từ ‘hang Thần Hổ’ đã đồn đãi khắp giang hồ từ lâu nên cũng không xa lạ gì với Lục-Phỉ-Thanh. Kể về tài năng, Lục-Phỉ-Thanh vẫn tin tưởng ông ta thừa sức đối phó được với hắc hổ. Nhưng xưa nay, ông ta là người tinh tế, làm việc gì cũng muốn cho chắc chắn chứ không thích mạo hiểm cầu may. Vì vậy, ông ta vẫn có ý định chờ xem có cao thủ giang hồ nào qua lại sẽ rủ đi chung cho có bạn. Chờ một hồi khá lâu mà vẫn nhìn thấy bốn bề vắng ngắt, không một bóng người hay thú vật nào qua lại, Lục-Phỉ-Thanh mới nhận thấy quả con hắc hổ này quả đã gieo vào lòng người và muông thú niềm sợ hãi khủng khiếp. Chẳng những thế, luôn cả các loài dã thú cũng chẳng dám bén mảng. Núi Tu-Di đã trở thành giang san riêng của ‘Hắc hổ’. Hang Thần Hổ là triều đình của nó, độc xà, mãnh thú còn ở tại núi Tu-Di là thần dân bộ hạ của nó. Lục-Phỉ-Thanh nghĩ thầm:

-Ta là một cao thủ võ lâm. Cái uy danh của Miên-Lý-Châm Lục-Phỉ-Thanh đã từng nhiều phen vang rền trong thiên hạ. Đáng lý ra ta phải noi gương Viên-Sĩ-Tiêu tìm đến hang Thần-Hổ mà trừ đại họa cho nhân dân, lẽ nào lại e dè không dám qua một mình mà phải chờ có đồng bạn đi chung? Như vậy võ công cao siêu của ta rèn luyện để làm gì? Há chẳng phải vô dụng lắm sao?

Nghĩ vậy, Lục-Phỉ-Thanh trở nên can đảm lạ thường, ngồi trên lưng ngựa, cầm thương, lưng đeo cung tên, túi đựng sẵn kim châm, mang theo bảo kiếm trông oai phong lẫm liệt, không hổ thẹn là một đại cao thủ của phái Võ-Đang.

Đến miệng hang Thần Hổ vừa đúng giờ ngọ, Lục-Phỉ-Thanh nhìn vào miếu thờ Hắc hổ thấy cảnh tượng thật là ghê gớm; nào là tượng cọp đen giương nanh vuốt; nào là hình tượng ma trành tay chân nhảy múa... Ông nhìn cái cảnh tượng trong miếu kia mà hình dung được tình cảnh của non sông hiện tại. Thật là một cái họa do người Mãn-Thanh gieo rắc vào Hán-tộc. Hắc hổ kia chính là vua Càn-Long cùng triều đình Mãn-Thanh và lũ ma trành kia chính là những tên tẩu cẩu. Phải, những tên ‘ma trành’ tẩu cẩu chỉ cần làm vừa lòng ‘hắc hổ’ là vua Càn-Long, sẽ sẵn sàng giết hại vô số đồng bào và các nhà cách mạng ái quốc. Con ‘ma trành’ chúa tể hiện tại là Trương-Siêu-Trọng, sư đệ của Lục-Phỉ-Thanh, một cao đồ của phái Võ-Đang lại cam tâm đi uốn gối triều-đình Mãn-Thanh trong khi chính ông ta đã đóng góp bao nhiêu công sức cho các công cuộc ‘phản Thanh phục Minh’. Bao nhiêu đồng chí trong Đồ Long Hội của ông ta đã phải hy-sinh, người thì tuẫn tiết, kẻ bị truy nã... Chính bản thân Lục-Phỉ-Thanh đã phải trốn chui trốn nhủi hết 10 năm trời! Ông ta chẳng phải tham sống sợ chết, chỉ là muốn dành cái mạn sống để chờ cơ hội tốt mà tiếp tục tranh đấu vì dân vì nước để giành lại chủ quyền, tự do no ấm cho dân tộc.

Hiện tại, Lục-Phỉ-Thanh nhận thấy chỉ có Hồng Hoa Hội là đảng cách mạng duy nhất tiếp tục được công việc cứu quốc của Đồ Long Hội trước kia. Ông hoàn toàng không thân Hồng Hoa Hội nhưng cảm khái trước chí khí bất khuất của bọn Văn-Thái-Lai và cảm phục chính nghĩa của Hồng Hoa Hội, và lại có cảm tình với người bạn cũ là Triệu-Bán-Sơn. Vì vậy, nếu phải hy-sinh tánh mạng để đem tin đến Hồng Hoa Hội mà xin viện binh đến trợ giúp cho bọn Văn-Thái-Lai, Lục-Phỉ-Thanh cũng chẳng từ nan. Ông ta nghĩ:

-“Việc của Hồng Hoa Hội là việc chung của tất cả người dân trong nước.”

Một khi đã nhận lời làm hộ, nhất định Lục-Phỉ-Thanh không thể để thất bại được. Vì vậy việc đi An-Tây làm ông ta nóng ruột không ít. Một phút trì hoãn là một phút thì giờ quý báu phí phạm.

Lục-Phỉ-Thanh định bụng bỏ qua câu chuyện trừ Hắc hổ mà cấp tốc tiếp tục cuộc hành trình đi An-Tây. Ông ta vừa phóng ngựa qua khỏi hang Thần Hổ thì một mùi hôi tanh từ đâu bốt lên bay vào mũi và một luồng gió lạnh tạt đến đàng sau lưng. Lục-Phỉ-Thanh nghi chắc Hắc hổ núp đâu đây rình lúc ông ta không để ý sẽ nhảy ra ‘làm hỗn’. Loài hổ luôn dùng cái thế ‘tiên hạ thủ vi cường’, nhưng một khi đã ‘thành tinh’ thì hổ chỉ vồ người lén lút, không như hổ thường, trước khi vồ mồi thường hay gầm lên một tiếng để lấy trớn thị uy.

Con hắc hổn này đã thành tinh rồi nên rất khôn ngoan, thường hành động một cách im lìm khi con mồi không đề phòng đúng như binh pháp ‘xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị’ (#3).

Ngửi thấy mùi tanh và nghe thoảng hơi gió, Lục-Phỉ-Thanh quay người lại đánh một quyền như búa bổ vào thinh không. Những cao thủ cỡ Lục-Phỉ-Thanh khi tung ra một ngọn quyền hay một ngọn cước đều không phải như cao thủ bình thường đánh gió vì trong quyền hay cưóc đó luôn luôn có một kình lực nhắm vào một mục tiêu. Cho nên, nhiều lúc họ không cần phải chạm vào người đối thủ mà vẫn đánh trúng chỗ nhược như thường, tựa như một tay thiện xạ bắn trúng hồng tâm.

Lục-Phỉ-Thanh ngồi trên lưng ngựa ngó về đàng trước nhưng luôn luôn đề phòng sau lưng và hai bên. Ngọn quyền đánh trái ra sau lưng như va vào một vật gì mềm và xù xì lông lá. Bỗng nghe một tiếng ‘bịch’ như vật ấy rơi xuống đất nhưng hình như lại bật ngay mình trở dậy. Thì ra đó chính là con hắc hổ.

Lục-Phỉ-Thanh nhìn con vật mỉm cười. Nó đã thành tinh nên khôn ngoan ranh mãnh vô cùng. Nó có thể trông vào người mà biết được người đó có bản lãnh cao siêu hay không. Từ khi bị Viên-Sĩ-Tiêu bẻ lọi một giò, con hắc hổ căm thù những cao thủ trong giang hồ vô cùng. Bị qua một lần như thế, chính nó cũng tởn thần nên cũng học thêm được ít kinh nghiệm, hễ thấy các cao thủ võ lâm là luôn luôn cẩn thận đề phòng và hễ rình được cơ hội là sẽ vồ ngay. Nó vừa căm thù và cũng vừa sợ hãi những tay cao thủ, nó vẫn luôn đề phòng vì linh cản sẽ có ngày Viên-Sĩ-Tiêu trở lại quyết giết nó cho bằng được như lời thề của ông ta trên miệng hang Thần Hổ trước khi rời khỏi núi.

Nhờ có kinh nghiệm và biết đề phòng nên khi Lục-Phỉ-Thanh đến trước miếu Hắc hổ, nó không dám liều lĩnh xông ra làm càn. Trông bộ tịch, tướng tá, cách trang phục và trang bị của ông ta nó cũng biết là một cao thủ ghê gớm rồi. Từ khi bị Viên-Sĩ-Tiêu bẻ gãy chân, Hắc hổ không còn dám ngồi chực ở miệng hang mà cũng không dám nhìn chung quanh lối đó, chỉ leo lên chân ba của cây táo ở trước miếu liếc mắt xem chừng động tĩnh bốn phương mỗi khi nghe tiếng động. Nó có tài trèo cây rất giỏi. Tin đồn cọp không biết trèo cây thật là lầm to! (#4)

Khi Lục-Phỉ-Thanh đi ngang qua, hắc hổ vẫn lẳng lặng đứng yên trên cây, đợi cho ngựa ông ta vừa đi ngang qua đúng tầm thì phóng từ trên cây xuống, giương nanh vuốt định móc vào cổ họng ông ta. Chẳng ngờ Lục-Phỉ-Thanh lẹ quá, chỉ cần ngửi thấy mùi hôi tanh và nghe hơi gió sau lưng là đã biết ngay, do đó mới tung một quyền đánh trúng ngay yết hầu của hắc hổ. Tuy bị một quyền nhưng nó đã vùng lên được ngay dễ dàng đôi mắt nhìn thẳng vào Lục-Phỉ-Thanh để cướp tinh thần, miệng thì gầm lên một tiếng như muốn xé nát cả rừng. Sau đó, hai chân trước chống, hai chân sau phục ngồi xuống lừa thế, đợi thời. Cái thế ngồi này trong võ thuật gọi là Hổ Phục (#5), thế thủ cực kỳ lợi hại của giống hổ.

Giá mà Lục-Phỉ-Thanh dùng vũ khí hay ám khí mà tấn công nó trong lúc này thì sẽ cầm chắc cái thắng trong tay. Nếu hắc hổ không chết thì cũng sẽ bị trọng thương. Nhưng Lục-Phỉ-Thanh lại muốn xem tài lanh lẹn của nó đến thế nào do đó ông ta quyết định dùng quyền cước để đối phó với nó. Thấy ngồi trên lưng ngựa bất tiện, Lục-Phỉ-Thanh ngảy xuống đất trong khi con mãnh thú vẫn trong tư thế ‘hổ phục’. Lục-Phỉ-Thanh không chần chờ tấn công liền ngay, chân đá móc vào ngực con hắc hổ, tay đánh một quyền ngay tam tinh nó. Con hắc hổ kinh hoàng, nó nhảy lùi ra sau tránh được cả quyền lẫn cước của Lục-Phỉ-Thanh rồi gầm lớn chồm lên giương nanh vuốt định xé xác ông ta ra.

Lục-Phỉ-Thanh chỉ chờ có thế, tay trái ông ta tung ra một quyền móc ngược vài hàm con mãnh thú. Hắc hổ đau quá, bật ngửa ra sau. Nhưng không đầy một giây nó đã đứng ngay dậy được, quay người phóng nhanh vào bụi rậm trốn mất. Mọi việc xảy ra quá bất ngờ làm Lục-Phỉ-Thanh phải ngạc nhiên không ít. Ông vẫn đinh ninh rằng con hắc hổ sẽ vồ tới tấn công tiếp chứ không ngờ là nó sẽ bỏ chạy. Định rút châm phóng theo nhưng bóng Hắc hổ đã mất hút. Lục-Phỉ-Thanh lắc đầu, thầm tiếc bỏ lỡ cơ hội giết ác thú trừ hại cho nhân dân.

Nghĩ rằng có chờ hắc hổ trở lại cũng chẳng ích gì vì sau khi bị một vố như thế, chắc hẳn là nó tìm đường trốn biệt rồi còn đâu. Sợ việc đi An-Tây bị đình trệ thêm, Lục-Phỉ-Thanh vội vàng lên ngựa phóng một mạch qua hang Thần Hổ.

Khi đi qua khỏi núi Tu-Di được vài dặm, Lục-Phỉ-Thanh nhìn thấy dọc theo hai bên triền núi còn in lại dấu máu của cuộc ách chiến hôm trước giữa người Duy và đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục. Trận mưa làm máu loang ra nhuộm đỏ một khoảng dài. Lục-Phỉ-Thanh bất giác thấy ngậm ngùi, thở dài một tiếng. Ông ta lại nhận rõ được dấu chân con hắc hổ còn in rành rành trên mặt đất, chứng tỏ sau cuộc ác chiến nó đã đánh hơi được mùi tanh của máu đổ thịt rơi nên đã tới đây tìm mồi. Và bên cạnh dấu chân hắc hổ trên lớp máu hồng có rất nhiều dấu chân ngựa đi song song trông rất đều. Lục-Phỉ-Thanh thầm đếm kỹ có đến 20 cặp chân ngựa của 10 con tuấn mã hẳn hòi. Ông thầm nghĩ:

-“Chắc chắn đây là dấu vết của những đương-gia Hồng Hoa Hội đi từng cặp tham dự cuộc ‘thiên lý tiếp long đầu’ mà mình đã gặp qua giữa đường chỉ còn thiếu có Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng là đủ 12 cặp như ta đã ức đoán. Cứ theo vó ký (#6) này mà đi ắt ta không sợ bị lạc và sẽ sớm tới được An-Tây. Tiết kiệm được thêm giờ phút nào thì hay giờ phút đó.”

Đến một khúc vắng vẻ khác, Lục-Phỉ-Thanh lại thấy có những vùng đất nới thì trũng sâu xuống, chỗ thì tung tóe ra, nhiều cành cây nằm ngổn ngang, đá sỏi thì đầy dẫy, lại thêm cả những dấu chân của người, ngựa, lạc đà và cả hổ nữa. Điều đó chứng tỏ nơi đây vừa diễn ra một cuộc ác chiến mới, chỉ chưa biết rõ cuộc ác chiến kia xảy ra giữa người và người hay là giữa người và mãnh thú. Lục-Phỉ-Thanh nhĩ thầm:

-“Con đường độc đạo đi qua núi Tu-Di này giờ đây khác hẳn với con đường 10 năm về trước ta thường đi công tác qua lại! Không ngờ này nay lại trở thành ‘sân khấu’ của những cuộc xô xát liên miên. Quân Mãn-Thanh xâm lược thật đã gieo rắc loạn lạc đến khắp nơi, ngay cả đến chốn rừng xanh núi thẳm cũng không tránh khỏi những cảnh thê lương ảm đạm! Ngày nào quân cướp nước chưa bị diệt là ngày ấy non sông còn đượm màu tang tóc, chưa thể có hòa bình được. Ta chỉ mong sao công cuộc cách mạnh của Hồng Hoa Hội sớm phát động và thành công để cái tuổi già này được chứng kiến ngày quốc gia độc lập, nhân dân được tự do no ấm thì dẫu có phải nhắm mắt ngay cũng chẳng còn gì phải ân hận nữa!”

Nhờ ý nghĩ ấy thúc giục mà Lục-Phỉ-Thanh quên cả nhọc nhằn, quyết đi thật lẹ đến An-Tây để đem tin tức của Văn-Thái-Lai báo cho Hồng Hoa Hội biết. Chính nghĩa hình như đã gắn liền Lục-Phỉ-Thanh với tổ chức cách mạng mà ông chỉ mới nghe nói đến tên cách đây không bao lâu. Đối với những tấm lòng nhiệt thành yêu nước thì cần phải có ai kêu gọi mà vẫn tự mình tìm đến để chia sẻ, cùng nhau gánh vác trách nhiệm.

Từ khi nghe tên và biết được đường hướng của Hồng Hoa Hội, lòng Lục-Phỉ-Thanh như trẻ hẳn lại. Sức thanh niên bỗng trổi dậy trong thân thể già nua kia khiến ông ta hối tiếc đã ẩn dật trên 10 năm làm mất đi bao nhiêu thì giờ quý báu. Ông ta lại cảm thấy càng hổ thẹn với lương tâm khi nghĩ đến người bạn cũ trong Đồ-Long-Bang là Triệu-Bán-Sơn đã đem tấm thân bảy thước cùng với lòng ái quốc kia qua Hồng Hoa Hội để mong được đền đáp núi sông. Tấc lòng son của họ Triệu kia thật là đáng quý, và đáng bội phục.

Chỉ trong khoảnh khắc mà Lục-Phỉ-Thanh đã qua khỏi núi Tu-Di non 45 dặm đường. Đến một thị trấn nhỏ, ông tạm dừng lại cho ngựa dưỡng sức, ăn cỏ và uống nước vì từ lúc rời khác sạn An-Viễn, con tuấn mã của ông chạy không ngừng, có lẽ cũng có phần mỏi mệt.

Lục-Phỉ-Thanh cảm thấy phấn khởi tinh thần. Bao nhiêu sức lực của thời trai trẻ như lại vùng dậy, cho thấy rằng tuổi già của ông ta chưa phải là vô dụng. Dù chỉ còn một hơi thở, Lục-Phỉ-Thanh cũng quyết hy sinh cho tổ quốc thân yêu và dân tộc...

Nhìn con chiến mã, Lục-Phỉ-Thanh chợt lo âu. Con vật trung thành đã bao năm theo ông tung hoành ngang dọc khắp nơi đã không còn được phong độ như xưa nữa. Trông nó gầy, ốm yếu và chậm chạp đi rất nhiều. Thật khó mà có thể đòi hỏi nó rút ngắn lại lộ trình đi đến An-Tây như ý muốn được! Đưa được Lục-Phỉ-Thanh tới đây, con ngựa đã cố sức lắm rồi. Giờ đây trông nó thật hết sức thảm não, nếu muốn nó tiếp tục phải đi nhanh nữa thì có khác nào đem nó mà giết đi! Nhưng làm cách nào đổi được một con ‘vạn lý long câu’ (#7) để hoành thành công tác của Văn-Thái-Lai ủy nhiệm? Mặc dù Lục-Phỉ-Thanh không phải là người của Hồng Hoa Hội nhưng Văn-Thái-Lai dám đem công việc quan trọng bí mật của đảng gửi gắm cho ông. Lòng khảng khải biết người kia cũng đủ nói lên tấm lòng tri kỷ sơ giao, càng làm cho Lục-Phỉ-Thanh cảm phục thêm muôn phần...

Lục-Phỉ-Thanh ngồi trên yên ngựa rong cương từ từ mà không khỏi mang những ý nghĩ mông lung. Việc gất rút phải đi đến An-Tây kia như đốt cháy lá gan lão kiệt. Mặt trời đã ngả dần về Tây. Bức màn màu vàng nhạt của hoàng hôn âm thầm phủ lên cảnh vật đưa dần một ngày tươi sáng đi vào bóng đen hắc ám của một đêm dài...

Phần thì lo cho Văn-Thái-Lai, phần thì thương con ngựa đuối sức không còn phi nổi nước đại. Chỉ đi chậm rãi từng bước một mà mồ hôi của con vật tuôn ra ướt đẫm. Công việc thì cấp bách như cứu hỏa. Nếu cứ thế này thì bao giờ mới đến được An-Tây! Lục-Phỉ-Thanh hận mình không mọc được cánh để bay...

Đang lúc lo nghĩ hoang mang, Lục-Phỉ-Thanh chợt bắt gặp từ phía chợ đi lại một người Duy cao lớn, tay dắt hai con ngựa trông cực kỳ hùng vĩ mạnh khỏe, một con hồng-mã toàn sắc đỏ chói như ngựa Xích-Thố của Quan-Vân-Trường và một con bạch-mã lông trắng toát như con Thoại-Long-Câu của Tiết-Nhân-Quý. Người Duy kia chẳng rõ muốn tìm ai mà đôi mắt như láo liên đưa mãi nhìn quanh khắp chốn.

Đang lúc cần ngựa, Lục-Phỉ-Thanh đưa mắt nhìn hai con ngựa như một người tham của bị chóa mắt trước một kho tàng. Trông gương mặt người Duy, Lục-Phỉ-Thanh thấy quen quen như đã gặp ở đâu rồi. Tuy vậy, ông cũng không bận để ý suy nghĩ thêm làm gì. Ông ta chỉ thiết tha với hai con tuấn mã kia hơn bất cứ vật gì trên đời hiện tại. Hai con tuấn mã này, con nào con nấy trông cao lớn, mạnh mẽ phi thường. Quả thật là hai con thiên lý mã. Con ngựa hồng toàn sắc đỏ như lửa có bốn chân trắng như tuết trông chẳng khác gì bốn đóa bạch mai. Con bạch mã thì chỉ một màu trắng toát toàn thân, không có một sợi lông nào khác màu ở bất cứ chỗ nào.

Lục-Phỉ-Thanh nhìn hai con tuấn mã đắm đuối, chỉ ao ước làm sao chiếm được một con. Nhìn hai thân hình cao lớn của đôi ngựa đi giữa cảnh hoàng hôn chẳng khác nào một bức tranh ‘Song Mã’ giữa nền đỏ thật là tuyệt đẹp. Bốn mắt của đôi ngựa rực lên như hào quang, càng làm cho Lục-Phỉ-Thanh động tâm. Chẳng nói chẳng rằng, Lục-Phỉ-Thanh liền thúc ngựa đến chặn ngay trước đầu người Duy ấy lại rồi nắm tay y lại hỏi xem có chịu bán ngựa hay không. Thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, trông rất đạo mạo, có vẻ tiên phong đạo cốt hỏi mua ngựa một cách đột ngột, người Duy phải ngạc nhiên, ngơ ngác nhìn ông ta từ đầu đến chân. Có lẽ y cảm thấy rằng ông già này là một người đáng kính nên không tỏ ra một vẻ bất bình hay muốn sinh sự về thái độ mua ngựa sỗ sàng của Lục-Phỉ-Thanh mà chỉ lắc đầu lia lịa, không đáp.

Thấy người Duy không chịu bán ngựa, Lục-Phỉ-Thanh thất vọng vô cùng. Nhưng ông vẫn không chịu bỏ cuộc, đánh liều móc trong người ra một đỉnh bạc độ chừng 60 lượng trao tận tay hắn. Xưa nay, chưa có một ai chịu trả giá một con tuấn mã cao thế này nên Lục-Phỉ-Thanh tin chắc người Duy kia sẽ tham tiền mà nhường bớt lại cho ông ta một con. Chẳng ngờ người Duy kia vẫn lắc đầu như chưa đúng giá.

Quyết mua ngựa cho bằng được, Lục-Phỉ-Thanh chẳng chút đắn đo, lấy hết tiền bạc trong người ra rồi giũ túi cho người Duy thấy rồi cầm tất cả số bạc trao vào tay y. Số bạc này tổng cộng cũng hơn 60 lượng, vị chi trước sau là trên 120 lượng.

Nhưng người Duy đẩy tay Lục-Phỉ-Thanh lại, chẳng những lắc đầu mà còn lấy tay vẫy gạ đi, tỏ ý không chịu bán ngựa dù được trả với bất cứ giá nào đi chăng nữa.

Hoàn toàn thất vọng, Lục-Phỉ-Thanh không còn cách nào hơn là cất lại tiền bạc vào túi như cũ. Trong lúc vội vàng, ông ta đánh rơi một vật giữ làm ‘kỷ niệm’ lâu nay. Vật ấy vô tình đập vào mắt người Duy kia. Y cúi xuống lượm vật ấy lên rồi đưa lên tận mắt mà xem. Rồi người Duy bỗng giật mình kinh ngạc đến cực độ, hai tay cầm trao trả lại cho Lục-Phỉ-Thanh. Sau đó, y rón rén nhìn xem dung mạo ông ta thêm lần nữa cho thật kỹ càng với một cử chỉ thân thiện và kính nể.

Lục-Phỉ-Thanh lấy làm lạ không hiểu rõ lý do gì. Ông đưa tay đón lấy vật người Duy trao trả. Thì ra đó là mũi Thiết-Liên-Tử mà đàng sau có gắn một chiếc lông chim trĩ rất tinh vi trông thật đẹp.

Nguyên mũi Thiết-Liên-Tử này là do Tiêu-Thanh-Đồng dùng để ném Lục-Phỉ-Thanh đêm nọ lúc ông ta theo dõi cái bóng đen vào tận trong rừng và sau đó được nghe lén cuộc hội nghị của người Duy thích huyết ăn thề phải chiếm lại Khả-Lan-Kinh cho bằng được. Khi biết việc không có can hệ gì đến mình, Lục-Phỉ-Thanh toan bỏ đi thì lại bị Tiêu-Thanh-Đồng phát giác tưởng là gian nhân nên dùng Thiết-Liên-Tử mà phóng. Mũi thứ nhất, Lục-Phỉ-Thanh tránh khỏi được. Mũi thứ nhì quá cận không thể tránh nên ông bèn dùng ly trà đang cầm ra mà hứng lấy. Sau đó Lục-Phỉ-Thanh cất mũi Thiết-Liên-Tử này vào người làm kỷ niệm, lần này vô ý để rơi nó ra ngoài cho người Duy trông thấy chẳng qua cũng chỉ là một sự ngẫu nhiên không hơn không kém...

Người Duy sau khi trông thấy mũi Thiết-Liên-Tử rơi từ trong mình Lục-Phỉ-Thanh thì chẳng hiểu sao trong lòng như rất phân vân. Lục-Phỉ-Thanh thoáng hiểu nên lanh trí cầm mũi Thiết-Liên-Tử trên tay, rút bảo kiếm ra chặt đứt mũi nhọn để tỏ lòng ngay thẳng, ngụ ý bảo là bạn chứ không phải thù. Hình như người Duy ấy hiểu được ý nghĩa trong cử chỉ ấy của Lục-Phỉ-Thanh nên mặt mày hớn hở, gật đầu lia lịa, tin tưởng rằng ông ta là bằng hữu của vị công chúa xứ mình chứ không phải người xa lạ hay kẻ thù.

Người Duy không biết nói tiếng Hán, mà Lục-Phỉ-Thanh cũng chỉ biết nghe sơ sơ, bập bẹ được vài tiếng Duy hai người đàm thoại với nhau bằng dấu hiệu nhiều hơn. Người Duy dắt hai con ngựa đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh ra dấu bảo ông ta cứ tự ý chọn lấy một. Cả hai con ngựa đều cao lớn, đẹp đẽ và mạnh mẽ như nhau cả. Nếu bảo phải chọn một thì thật là khó tính. Tuy nhiên, suy đi tính lại, Lục-Phỉ-Thanh quyết định chọn con ngựa hồng với bốn vó trắng vì tiện hơn cho ông ta đi vào ban đêm hơn. Ngựa trắng đi trong đêm sẽ dễ bị nhận diện hơn và tiện cho kẻ địch hơn trong việc dùng ám khí. Nghĩ vậy, ông liền ra dấu chỉ ccon ngựa hồng.

Người Duy gật đầu tỏ ý ưng thuận. Lục-Phỉ-Thanh mừng rỡ khôn xiết. Ông lấy hết túi tiền trao cho người Duy như khi nãy ông ta đã định giá. Cũng giống như lần trước, người Duy lắc đầu lia lịa và vẫy tay gạt đi. Nhưng lần này thì ý khác hẳn. Cử chỉ lần này như nói với Lục-Phỉ-Thanh là y khảng khái biếu ngựa chứ nhất định không bán mà cũng chẳng chịu nhận tiền. Lục-Phỉ-Thanh đành phải cất bạc lại vào mình rồi ra dấu nhờ người ấy dắt giùm con ngựa của mình về mà nuôi dưỡng để dùng vì nó cũng là một con chiến mã hữu dụng, không ngoan, lại trung thành. Người Duy cúi đầu khẽ gật rồi hai tay dắt hai con ngựa đi về phía thị trấn.

Lụ-Phỉ-Thanh mừng có được thiên lý mã nên tin tưởng chỉ nội trong đêm là có thể đến được An-Tây. Ông nhảy lên lưng con tuấn mã, bụng nghĩ thầm:

-“Không ngờ thanh thế của cô bé áo vàng kia đối với người Duy lại ghê gớm đến như vậy! Mũi Thiết-Liên-Tử của nàng có giá trị tương đương với một lệnh kim bài của một đại nguyên-soái. Ban đầu người Duy kia nhất định không bán ngựa mặc dù được trả giá trên trăm lượng thế mà khi nhìn thấy mũi Thiết-Liên-Tử này thì lại một mực biếu không tuấn mã cho mình trong khi chưa biết rõ mình là ai cả, đồng thời trên trăm lượng bạc ròng cũng chẳng thèm lấy nữa!”

Vì chưa hiểu rõ lai lịch của Tiêu-Thanh-Đồng nên Lục-Phỉ-Thanh nào biết được nàng là một công-chúa, ái-nữ của tù-trưởng Mộc-Trác-Luân, thủ-lãnh của dân-tộc Duy.

Người Duy tặng ngựa kia lại chính lại thuộc bộ-lạc dưới quyền cai trị của Mộc-Trác-Luân nên đối với Tiêu-Thanh-Đồng tự nhiên là kính nể. Hầu như tất cả dân tộc Duy đều biết vụ Tiêu-Thanh-Đồng bố trí kế hoạch nhằm mục đích đoạt lại Khả-Lan-Kinh cho dân tộc họ nên ai nấy đều phấn khởi tinh thần, tìm đủ mọi cách yểm trợ, đóng góp, không bằng hình thức này thì bằng hình thức khác. Vì vậy, khi nhìn thấy ngọn Thiết-Liên-Tử có khắc dấu hiệu của công chúa họ, người Duy kia tin là Lục-Phỉ-Thanh là người của phe bên mình nên không chút nghi ngờ. Lại thấy Lục-Phỉ-Thanh nhắm hướng Tây mà đi thì lại càng tin là ông ta đi theo để hợp sức vói Tiêu-Thanh-Đồng mà đối phó với cường địch để thâu hồi Khả-Lan-Kinh do đó mà vui vẻ tặng tuấn mã không chút do dự...

Con ngựa hồng bốn vó hoa mai phi như bay, chẳng khác gì một mũi tên lửa xẹt đi. Lục-Phỉ-Thanh nhận thấy rằng dù cho con ngựa hồng của Lý-Khả-Tú tướng-quân được vua Càn-Long ban cho, có tiếng là một ‘thiên lý thoại long câu’ đời nay cũng không thể nào bì kịp. Lục-Phỉ-Thanh vui mừng hớn hở còn hơn được ngọc quý. Ông một mình một ngựa phóng như bay qua những con đường vắng trong hoàng hôn...

Con ngựa của Lục-Phỉ-Thanh đang cỡi nguyên là một giống ngựa quý, hiếm có của Mộc-Trác-Luân bao năm huấn luyện thành thục để dùng trong việc chinh chiến, chỉ riêng những người thân tín hay các võ tướng mới được dùng mà thôi. Trong 10 con ngựa quý nhất của bộ-lạc Mộc-Trác-Luân, con Hồng-Hoa tông mã này đứng hạng thứ 5, chỉ thua có ngựa của Mộc-Trác-Luân, của Tiêu-Thanh-Đồng, của Hương công-chúa, và của con trai lớn Mộc-Trác-Luân mà thôi. Cả 10 con ngựa quý nhất đều được đóng dấu ấn tín.

Chẳng mấy chốc, Lục-Phỉ-Thanh đã ra khỏi được thị trấn đếm mấy trăm dặm. Dưới bóng trăng vằng vặc, Lục-Phỉ-Thanh lòng khoan khoái nhìn gương mặt tròn, trong sáng của ‘chị Hằng-Nga’ đang lấp ló xuyên qua từng kẽ lá như soi thấu lòng người anh-hùng nặng tình ưu ái với non sông.

Trước mặt Lục-Phỉ-Thanh là vài dãy núi cao chập chờn. Sau lưng là một giòng suối bạc lững lờ. Tiếng nhạn đêm... Tiếng hạc kêu sương... Đèn thuyền (#8) hiu hắt... Phong cảnh như khơi động lòng hoài cảm của khách chinh y.

Lục-Phỉ-Thanh cho ngựa leo theo triền núi gồ ghề, bất giác nhớ lại chuyện cũ 10 năm dư... Những lúc xông pha gió bụi, dãi dầu phong sương đem tấm thân bảy thước mong đáp bồi ơn cây cỏ (#9)... Gặp vận không may, Đồ-Long-Bang tan rã, công cuộc cách mạng không thành. Một số bang chúng đền nợ nước; một số vẫn còn đang đeo đuổi chí tang-bồng; còn thân mình thì nay đây mai đó, những tưởng đã chôn vùi tuổi trời trong chốn yên tịnh.

Lần này ra biên ải gặp lại bạn cũ chí còn hăng say, đem chính nghĩa góp công sức vào Hồng Hoa Hội làm cho Lục-Phỉ-Thanh thẹn thùng mà thức tỉnh. Ông quyết phen này ra sức đua tài để phục hồi lại chí khí năm xưa. Vì vậy, ông lại càng nóng lòng mà đi An-Tây để được tận mắt nhìn thấy các nhân vật ưu tú trong Hồng Hoa Hội đồng thời có dịp nhận xét tổ chức cách mạng này ra sao...

Non xanh nước biếc, gió mát trăng thanh không thể cầm chân được Lục-Phỉ-Thanh lại nơi đây để thưởng thức cảnh vật hữu tình. Nhưng trong giây lát, lòng Lục-Phỉ-Thanh thấy cảm hứng lạ thường. Ông sực nhớ lại một bài thơ của Nhạc-Phi đời Tống bèn đem ra ngâm vang lên giữa cảnh hoang vu.

Niên lai trần thỏ mãn chinh y,

Đắc đắc nhàn khan thượng thúy vi.

Hảo cảnh, hảo sơn, khan bất tuyệt,

Mã đề thời sấn nhạn nam phi.

Hoàn cảnh Nhạc-Vũ-Mục (#10) thật giống với cảnh của Lục-Phỉ-Thanh ngày nay. Tuy mến cảnh nhưng lại không có thì giờ thưởng ngoạn vì tiếng nhạn phương Nam như thúc giục người yêu nước mau mau lên đường làm bổn phận thiêng liêng. Tiếng ngâm của Lục-Phỉ-Thanh ngân lên giữa đêm vắng. Tiếng dư âm như vọng lại, dường như lời của non sông đáp lại cùng ông...

Qua khỏi ngọn núi, một xóm nhà tranh của chốn thôn dã hiện ra ngay dưới chân núi với một vài ngọn đèn đêm lờ mờ. Lục-Phỉ-Thanh đến một vách lá quạnh hiu, dắt ngựa vào sân và lên tiếng gọi cửa. Một cụ già trạc ngoài lục tuần cầm đè bước ra. Thấy Lục-Phỉ-Thanh tướng mạo đường bệ, oai phong lẫm liệt, cụ già vui vẻ mời vào nhà...

Sau một tuần trà, Lục-Phỉ-Thanh thú thật là phải đi ngàn dặm xa xôi vì có việc cần nên tình cờ ghé ngang qua đây xin nghỉ chân vài tiếng vì người đói, ngựa mỏi, rồi sau đó lại tiếp tục lên đường. Hai người tiếp tục ngồi hàn huyên, mỗi lúc một thêm tương đắc. Lục-Phỉ-Thanh mới hay cụ già này trước kia, lúc còn trẻ cũng là một nhân vật giang hồ. Lúc Đồ-long-Hội khởi cuộc kháng Thanh, cụ có chiêu mộ một số thanh niên trong vùng đón đường quan quân đánh nhiều trận du kích làm cho bin triều phải khiếp sợ. Khi được biết Lục-Phỉ-Thanh là một trong các cựu lãnh tụ của Đồ-Long-Hội, cụ già mừng rỡ vô cùng, lấy chân tâm mà đối xử chứ không còn khách sáo nữa.

Cụ già trải chiếu, bảo Lục-Phỉ-Thanh nằm nghỉ lưng đỡ, gọi vợ con thức dậy làm một bữa cơm đạm bạc đãi đằng, còn đích thân cụ lo cỏ rơm cho ngựa. Sự tiếp đãi ân cần ấy làm cho Lục-Phỉ-Thanh hết sức cảm động. Ông nghĩ rằng trong chốn ‘thâm-sơn cùng-cốc’ (#11) mà còn có được những bậc anh-hùng vô danh ẩn tích thế này thì vận mạng của Hán-tộc chưa đến nỗi phải tuyệt vọng. Lục-Phỉ-Thanh không cần giấu diếm nữa, liền nói cho cụ già hay là ông đi An-Tây tìm Hồng Hoa Hội để thực hiện một công tác rất quan trọng, có thể được là cứu dân cứu nước.

Cụ già tự giới-thiệu tên họ là Trần-Đại-Dụng, biệt danh là Vô-Ngã, người thôn Kinh-Trang. Ông ta hứa với Lục-Phỉ-Thanh rằng lúc nào ‘khai quân cần vương’ (#12) thì chính ông ta sẽ đứng ra chiêu mộ nghĩa quân vùng này tiếp chiến. Không cần phải đắn đo suy nghĩ, Trần-Đại-Dụng tuyên bố sẽ tình nguyện làm một mật báo viên và nguyện đem thảo trang của mình làm trạm nghỉ chân và trụ sở liên lạc cho tất cả người của Hồng Hoa Hội có thể ghế đến bất cứ lúc nào.

Lục-Phỉ-Thanh không ngờ lại tìm thêm được một người đồng chí mới nữa. Đôi bên ý hợp tâm đầu chẳng khác gì đôi bạn thâm giao, quen nhau từ lâu lắm rồi.

Trần-Đại-Dụng lại tâm sự, kể chuyện cho biết rằng ông ta là môn đồ của Yên-Chi Hòa-Thượng thuộc phái Thanh-Thành nên tài năng kiếm-pháp của ông ta một dạo cũng từng được các phái võ-lâm biết đến và ca ngợi khá nhiều. Sau khi được tin Đồ-Long-Hội tan rã, Trần-Đại-Dụng một mình ẩn tích nơi đây, không còn muốn nhúng tay vào chuyện giang-hồ nữa mà chỉ đứng trung-lập, không thuận ai mà cũng chẳng nghịch ai. Nhưng hầu hết các giang hồ đồng đạo biết tài của ông ta đều tông trọng ông ta chứ chẳng dám đụng đến.

Ngay cả Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương kia còn phải nể nang Trần-Đại-Dụng. Cứ mỗi lần có tiêu-hàng tải qua vùng này, họ Vương đều cho một vài tiêu-sư đại diện Trấn-Viễn tiêu-cục đến báo tin trước, đồng thời kính biếu ông ta một ít vàng bạc khá hậu hĩnh. Đối với các tiêu-sư trong Trấn-Viễn tiêu-cục, Trần-Đại-Dụng quen mặt và biết tên gần hết. Người ông ta ghét nhất là Đổng-Triệu-Hòa, và hắn cũng gườm ông ta nhất. Có một lần hắn giở thái độ ngạo mạn, đến vùng này mà quen thói lỗ mãng và hách dịch xem thường nên Trần-Đại-Dụng đã sửa trị hắn một trận nên thân. Nếu không nhờ Diêm-Thế-Chương xuống nước hết lời năn nỉ chắc lưỡi kiếm ‘Can-Tương’ của ông ta đã cho hắn một nhát rụng đầu rồi...

Nghe nhắc đến tên ‘Can-Tương’, Lục-Phỉ-Thanh thích lắm liền yêu cầu Trần-Đại-Dụng cho xem thử vì xưa nay ông chỉ được nghe nhắc đến tên thôi mà chưa hân hạnh được thấy lần nào.

Trần-Đại-Dụng liền vào trong đem ra một cái bao da bọc gấm lấy Can-Tương kiếm cho Lục-Phỉ-Thanh xem. Lưỡi kiếm dài độ 6 tấc, mỏng như lá lúa. Kiến quang long lanh một màu hồng như ánh dương mới mọc. Kiếm khí lạnh như tuyết giá. Thật là một thanh kiếm báu hy hữu. Cao hứng, Lục-Phỉ-Thanh xin mượn kiếm múa thử một vài đường. Trước sân rộng dưới ánh trăng, Lục-Phỉ-Thanh múa kiếm vùn vụt. Kiếm quang rực sáng che lấp cả bóng người sử dụng. Trần-Đại-Dụng vừa xem vừa trầm trồ khen ngợi, trong lòng hết sức thán phục là kiếm-thuật phi thường...

Múa kiếm xong, Lục-Phỉ-Thanh xoay nguợc chuôi kiếm, cung kính trao trả lại. Nhưng Trần-Đại-Dụng lắc đầu cười, khảng khái đem ngay bảo kiếm Can-Tương tặng cho Lục-Phỉ-Thanh, với ngụ ý rằng kiếm báu dùng để tặng tráng-sĩ đặng giết giặc cứu nước. Lục-Phỉ-Thanh cả kinh, đời nào dám nhận lấy. Nhưng có nói cách nào mãi vẫn không xong. Trần-Đại-Dụng một hai bắt Lục-Phỉ-Thanh phải nhận lấy. Sau cùng, không còn cách nào từ chối được, Lục-Phỉ-Thanh đành nhận lấy với lời thề long trọng cùng chủ nhân là nếu không chu toàn trách nhiệm trừ gian diệt bạo cho nhân dân thì thà là chết với bảo kiếm chứ quyết không để nhục.

Đã được tặng tuấn mã, giờ lại được tặng thêm bảo kiếm, Lục-Phỉ-Thanh tron lòng khoa khoái đến cực độ. Ông ta tự nhủ:

-“Với chiến mã và bảo kiếm, từ nay ta có thể tái xuất giang hồ được rồi. Cho dù là Trương-Siêu-Trọng thì đã sao? Ta há sợ nó? Chỉ tiếc sư phụ quá cưng chiều nên truyền cho hắn bản lãnh phi phàm để hại nước, hại dân, làm nhục cả đến sư môn. Phải chi Trương-Siêu-Trọng chịu theo chính nghĩa, đứng về phía hàng ngũ cách mạng thì thật may cho phái Võ-Đang biết mấy! Lúc đó cả uy danh của môn phái lẫn sư phụ ai lại không cảm phục? Lịch-sử lẽ nào quên ghi tên?”

Lúc ấy, cả người lẫn ngựa đã no nê được nghỉ đủ. Lục-Phỉ-Thanh bèn ngỏ ý từ giã Trần-Đại-Dụng để lên đường đi An-Tây cho kịp. Lúc chia tay, hai đầu bạc tỏ ra quyến luyến nhau, cùng hẹn ngày tái ngộ. Trần-Đại-Dụng gói cho Lục-Phỉ-Thanh một ít lương khô, lại không quên kèm theo một bao thóc cho ngựa đồng thời tiễn khách quý ra xa ngoài ba dặm mới chịu quay đầu trở lại...

Lục-Phỉ-Thanh lại tiếp tục cuộc hành trình. Phải đi thêm hai ngày một đêm nữa, tính ra trước sau có trên 1000 dặm đường, Lục-Phỉ-Thanh mới đến được địa phận An-Tây. Đó là cũng nhờ vào một phần lớn ở sức lực con thiên lý mã.

Sau ba ngày ba đêm dầm sương dãi nắng, ăn qua loa, ngủ cầm chừng, khởi nguồn từ khách sạn An-Viễn, Lục-Phỉ-Thanh cảm thấy chân tay rã rời, mệt mỏi, tinh thần suy kém rất nhiều.

Lúc ấy mặt trời đã bắt đầu lặn. Vào đến cửa Đông thành An-Tây, Lục-Phỉ-Thanh chợt nhớ tới lời dặn của Văn-Thái-Lai nên lấy cái hoa mai đỏ gắn vào chót mão của mình.

Lục-Phỉ-Thanh liền xuống ngựa, cầm cương dắt đi chậm rãi vào thành. Chỉ vì ông ta sợ ngồi trên lưng ngựa đi giữa một thành phố giàu có, tấp nập dân cư, từ xe ngựa cho đến khách bộ hành. Đó là chưa kể sẽ có kẻ rong cương qua, người cỡi ngựa đi lại, rất có thể che lấp mất cái hoa mai đỏ trên mão mình nên người của Hồng Hoa Hội khó mà nhận ra được.

Với lớp áo pha màu bụi đường, ngựa ướt đẫm mồ hôi, Lục-Phỉ-Thanh khó tránh được những cặp mắt sửng sốt đổ dồn về mình. Biết là bất tiện cho mình, nhưng không còn cách nào hơn nên Lục-Phỉ-Thanh đành phải tiếp tục mà dắt ngựa đi tiếp, chỉ mong sao sớm gặp được người của Hồng Hoa Hội ra đón.

Đi ngang qua một con đường khá náo nhiệt, Lục-Phỉ-Thanh nhìn thấy đầu kia có hai chàng thanh niên cao lớn, mặt mũi sáng sủa đang hấp tấp băng qua đường hướng thẳng về phía ông ta mà đi tới đón đầu. Lục-Phỉ-Thanh cứ giả vờ như không hề để ý đến hai người ấy. Ông vẫn tiếp tục dắt ngựa đi nép theo mé đường.

Hai thanh niên kia đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh cúi đầu lễ phép chào rồi mời ông theo họ vào một tửu lầu uống rượu. Thái độ và cử chỉ ấy của hai thanh niên ấy không làm cho Lục-Phỉ-Thanh ngạc nhiên chút nào vì ông tin chắc rằng họ là người của Hồng Hoa Hội đã nhận được dấu hiệu hoa mai đỏ trên mão mình. Nếu không là vậy thì tại sao chưa hề quen biết gặp mặt nhau sao lại tự nhiên mời vào quán như gặp người quen như vậy?

Không chút do dự, Lục-Phỉ-Thanh nhận lời ngay. Một trong hai người thanh niên đưa tay tiếp lấy giây cương dắt hộ ngựa cho Lục-Phỉ-Thanh để ông ta thoải mái đi người không. Dọc đường có không biết bao nhiêu là tửu lầu đủ hạng, sang trọng bình dân, lớn nhỏ... Nhưng hai người không đưa Lục-Phỉ-Thanh vào bất cứ nơi nào. Họ đưa ông đi hết con đường đó, rồi đến cuối một con đường khác nữa thì mới tới một tửu lầu trên tấm bảng hiệu có bốn đại tự sắc xảo, màu đỏ thếp vàng: TẬP HIỀN TỬU LẦU.

Lục-Phỉ-Thanh nghĩ bụng:

-“Chắc đây là tửu lầu của Hồng Hoa Hội lập ra để đón rước người trong tổ chức của họ.”

Nhưng vì chưa nghe hai chàng thanh niên mở miệng ra nói một câu gì nên Lục-Phỉ-Thanh chỉ im lặng mà đi theo, không một lời gặn hỏi hay thắc mắc.

Thấy có khách vào, một tên tửu-bảo chạy ra đón tiếp, một tên khác dẫn ngựa ra sau mà không đợi cho hai chàng thanh niên kia phải sai bảo điều gì. Lục-Phỉ-Thanh thấy vậy lại nghĩ:

-“Họ có nội quy, kỷ luật hẳn hòi đâu ra đó như đã xếp đặt sẵn từ trước, cứ phận sự ai nấy làm.”

Hai chàng thanh niên mời Lục-Phỉ-Thanh lên thẳng tầng thứ nhất, ngồi vào bàn ở góc trái, có tấm vách mỏng ngăn ra.

Tập-Hiền Tửu-Lầu rộng rãi, và khoảng khoát, lại vô cùng sạch sẽ. Mặt trước tửu lầu day ra phía bờ sông nên gió chiều thoảng vào mát mẻ, thật dễ chịu. Tầng lầu này cũng có đầy đủ bàn ghế như tầng dưới, chỉ khác chỗ là tầng dưới khách ra vào đông nghẹt, còn tầng này thì gần như là trống trơn ngoại trừ hai bàn, mỗi bàn với bốn người khách ngồi vừa uống rượu vừa nói chuyện. Còn cái phòng có dựng bức bình phong mỏng mà họ mời Lục-Phỉ-Thanh vào thì hoàn toàn không có ai cả.

Mấy người khách đang ngồi uống rượu bỗng nghe có tiếng chân người đi lên thì đều ngước mắt, quay mặt lại nhìn. Nhưng khi thấy hai chàng thanh niên kia đưa Lục-Phỉ-Thanh vào phòng có vách mỏng ngăn thì họ lại tiếp tục uống, cười đùa tự nhiên mà không cần phải liếc ngó nữa. Lục-Phỉ-Thanh lại nghĩ trong bụng:

-“Chắc đây toàn là nguời của Hồng Hoa Hội, dầu thấy ta là người lạ mặt nhưng tin chắc là người trong hội nên chẳng cần phải e ngại mà để ý gì nữa.”

Lục-Phỉ-Thanh vừa ngồi xuống ghế thì tửu-bảo đã bưng vào một mâm rượu. Một chàng thanh niên mời Lục-Phỉ-Thanh uống rượu còn người kia vòng tay lại nói:

-Tiền bối! Tiểu-sinh cam thất lễ với người. Xin kiếu!

Nói xong, chàng ta đứng dậy cúi đầu lễ phép chào Lục-Phỉ-Thanh rồi lẹ chân bước mau ra ngoài. Chàng thanh niên còn lại ân cần mời Lục-Phỉ-Thanh uống mấy chén tẩy trần. Chàng ta chỉ mời Lục-Phỉ-Thanh dùng rượu với đồ nhắm, tuyệt đối không đề cập đến chuyện gì khác nên ông cũng chưa biết rõ được hư thực như thế nào, chỉ ngồi yên uống rượu và nhắm đồ với người này. Một tên tửu-bảo lại xô cửa bước vào. Chàng thanh niên lại nâng ly mời Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Lão tiền bối chắc chưa dùng cơm. Xin cạn thêm một vài chén trong khi chờ đợi tửu-bảo bưng đồ ăn lên. Xin lão tiền bối cứ tự nhiên vì chúng tôi bao giờ cũng thật tình đãi khách.

Lục-Phỉ-Thanh bèn tạ lại rằng:

-Vâng! Uống mấy chén rượu thế này cũng đủ rồi. Xin cho tôi được dùng chút cơm vì hiện tại đang đói bụng.

Không chậm trễ, chàng thanh niên quay qua tửu-bảo dặn:

-Mau dọn gấp một bữa ăn với đầy đủ các món thật tươm tất nhé!

Lục-Phỉ-Thanh thấy thế vội ngăn lại:

-Không cần phải thịnh-soạn chi cả! Chỉ cần một bữa cơm thật đạm bạc là quý lắm rồi!

-Chẳng đáng gì! Xin lão tiền bối đừng ngại.

Tên tửu-bảo vừa đi khỏi, chàng thanh niên lại mời Lục-Phỉ-Thanh uống tiếp một chung rượu mới:

-Rượu thuốc này đặc biệt lắm! Lão tiền bối uống vào dùng cơm sẽ rất ngon miệng, dễ tiêu hóa, và đi đường xa sẽ bớt mệt nhọc, giãn gân giãn cốt, bớt nhức mỏi.

Lục-Phỉ-Thanh tự hỏi:

-“Sao hắn không hỏi chuyện gì cả mà chỉ mời ăn uống không như thế? Đã tốn thì giờ lại càng khiến ta thêm nóng ruột!”

Một ý nghĩ đáng sợ khiến cho Lục-Phỉ-Thanh đâm ra hoài nghi. Ông lo ngại nghĩ thầm:

-“Hay bọn này không phải là người của Hồng Hoa Hội? Không khéo ta tin lầm mà mắc bẫy đây! Nếu chúng là bọn ‘tẩu cẩu’ của Càn-Long phái đi dọ thám Hồng Hoa Hội, đồng thời lại phát giác được lai lịch của ta mà dụ tới đây để gài bẫy thì nguy to! Chưa gặp được Thiếu-Đà-Chủ để báo tin của Văn-Thái-Lai mà lại bị bắt thì thật là rắc rối không ít! Thành tích và lai lịch của ta thì bọn triều đình mấy ai không rõ, nhất là Trương-Siêu-Trọng. Tốt hơn hết ta phải đề phòng ngay từ giờ phút này!”

Lục-Phỉ-Thanh đang phân vân chưa biết phải làm gì thì một ý nghĩ khác lại nảy ra trong đầu:

-Tổng hành dinh của Hồng Hoa Hội nằm ở An-Tây này thì có lẽ nào bọn Trương-Siêu-Trọng lại dám tự tung tự tác như thế? Mình bất tất phải lo xa như vậy!”

Nhìn nét mặt ưu tư và bơ phờ của Lục-Phỉ-Thanh, chàng thanh niên hình như cũng đoán được phần nào bèn nói như trấn an:

-Lão tiền bối đã đến được An-Tây này thì chẳng có gì phải e dè lo ngại cả! Xin lão tiền bối dùng cơm rượu cho no rồi nghỉ cho khỏe rồi chúng tôi sẽ xin hầu chuyện cùng tiền bối sau.

Lục-Phỉ-Thanh chưa kịp bày tỏ ý kiến của mình theo lời nói của chàng thanh niên kia thì cánh cửa phòng rượu lại được mở ra. Một chàng thanh niên khác từ bên ngoài chậm rãi bước vào hướn vào Lục-Phỉ-Thanh vái dài một cái rất trịnh trọng và lễ phép. Chàng thanh niên này mặc một chiếc áo dài màu lam, tuổi chỉ chừng khoảng 30 trở lại. Mặt chàng ta rất sáng sủa, dáng người trông rất thanh, nhất là đôi mắt tinh anh như có hào quang, trông đầy vẻ uy nghiêm khiến người nào trông vào cũng phải có ý kiêng nể ngay.

Chàng mời Lục-Phỉ-Thanh ngồi rồi cũng tự ý kéo ghế ngồi đối diện, nhưng hơi xê dịch qua mọt bên chút đỉnh để tỏ ý tôn trọng bậc trưởng bối. Sau đó chàng lễ phép thỉnh danh tánh của Lục-Phỉ-Thanh. Ông ta cũng khiêm tốn khai thật tên họ mình cùng với biệt hiệu Miên-Lý-Châm mà không cần phải giấu diếm làm gì. Chàng ta nghe xong tỏ vẻ kính nên đứng dậy nói:

-Thế ra đây là Lục lão tiền bối của phái Võ-Đang mà vãn bối không hay biết gì cả! Xin tha cho tội thất lễ.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Lão phu không dám. Xin huynh đài cứ tự nhiên an tọa để cho lão phu được tiếp chuyện.

Khi ấy chàng ta mới dám ngồi xuống ghế lại như cũ rồi tiếp tục nói:

-Tiểu đệ thường nghe Triệu tam ca luôn luôn nhắc nhở đến đại danh của lão tiền bối, lòng vốn ngưỡng mộ từ lâu. Ngày nay được hân hạnh bái kiến thì thật là vinh hạnh biết bao nhiêu.

Lục-Phỉ-Thanh khiêm tốn đáp lễ và hỏi:

-Xin huynh đài cho lão phu được thỉnh cao danh quý tánh.

Chàng thanh niên liền đáp:

-Vãn bối là Vệ-Xuân-Hoa.

Chàng thanh niên bồi rượu Lục-Phỉ-Thanh lúc nãy đứng dậy hướng về Lục-Phỉ-Thanh thưa:

-Xin lão anh hùng ngồi bàn chuyện với Vệ huynh. Cho phép vãn bối được cáo thoái!

Đoạn chàng ta cúi đầu chào Lục-Phỉ-Thanh và Vệ-Xuân-Hoa rồi bước ra ngoài đi thẳng xuống thang lầu.

Vệ-Xuân-Hoa nói với Lục-Phỉ-Thanh:

-Cả Thiếu-Đà-Chủ cùng các anh em Hồng Hoa Hội chúng tôi phần đông đều có mặt ở đây. Họ nghe tin tiền bối có mặt nơi này sẽ lần lượt kéo đến nghinh tiếp. Vãn bối được đặc phái tới trước để dâng tiệc rượu vì lo ngại bọn em út thô thiển sơ sót mà đắc tội với lão tiền bối. Còn lại mấy người kia sẽ đến sau.

Khi ấy, một bữa cơm thịnh soạn đủ sơn hào hải vị, chẳng thiếu món ngon vật lại nào được dọn lên. Vệ-Xuân-Hoa tự tay rót rượu Bồ-Đào và chung, trịnh trọng đứng dậy chắp tay kính cẩn mời Lục-Phỉ-Thanh. Chàng ta để Lục-Phỉ-Thanh ngồi vào ghế chánh vị, còn mình ngồi ở cái ghế sau xa tiếp.

Thấy người của Hồng Hoa Hội đối với mình quá trọng vọng, tiếp đãi thật ân cần, Lục-Phỉ-Thanh lấy làm cảm kích vô cùng, cố chối từ địa vị mà Vệ-Xuân-Hoa nhượng cho mình. Ông yêu cầu Vệ-Xuân-Hoa ngồi đối diện với mình nhưng chàng ta nhất định không nghe, thưa rằng:

-Lão tiền bối là một bậc anh hùng vang danh bốn bể mà Hồng Hoa Hội bấy lâu thường ao ước được một phen cung nghinh đón tiếp. Không ngờ sở vọng ấy hôm nay được toại nguyện. Thiếu-Đà-Chủ đã có lệnh sai bảo, vãn bối nào dám cãi lời! Tổng-Đà-Chủ lúc sanh tiền vẫn thường nói chuyện với Triệu tam ca rất nhiều về đại đức và tài nghệ cao siêu của tiền bối. Cho đến Viên-Sĩ-Tiêu đại hiệp cũng không lúc nào quên nhắc nhở đến uy danh của tiền bối nên bọn vãn bối đây tuy chưa được gặp mặt nhưng đã một lòng ngưỡng mộ. Vậy xin lão tiền bối cứ tự nhiên để cho vãn bối được bồi tiếp.

Lục-Phỉ-Thanh không còn cách nào từ chối được, đành phải nghe theo. Vệ-Xuân-Hoa bưng rượu Bồ-Đào thơm ngát lên mời Lục-Phỉ-Thanh rồi sau đó mới dám uống.

Vừa dùng cơm vừa uống rượu mà chuyện trò, Lục-Phỉ-Thanh thầm nghĩ rằng Hồng Hoa Hội có được những nhân vật như Văn-Thái-Lai, Dư-Ngư-Đồng, Vệ-Xuân-Hoa mà ông ta được biết qua thì thật là điều đáng mừng. Đây là những người thanh niên trai tráng khí khái, nhiệt huyết đầy mình, hăng say hoạt động, dám đem bản thân ra hy sinh cho dân tộc. Họ mới chỉ là một số ít ông ta tình cờ gặp qua thôi, lẽ tất nhiên số thanh niên tuấn tú ấy hẳn trong Hồng Hoa Hội còn rất nhiều. Hồng Hoa Hội thật xứng là một nơi quy tụ đầy những mầm non của đất nước. Đã vậy mà Hồng Hoa Hội lại còn có những lão anh hùng hiên ngang nghĩa khí như bạn cũ của ông ta là Triệu-Bán-Sơn cùng với bao nhiêu tay hào kiệt trượng-phu khác như Viên-Sĩ-Tiêu, Vô-Trần Đạo-Nhân... Đây toàn là những bậc tiền bối cầm đầu những môn phái trong võ lâm giỏi tài ba thao lược, giàu khinh nhgiệm đấu tranh, nguyện đem tấm thân hiến dâng cho đại nghĩa. Chỉ cần nhìn bấy nhiêu đó mà suy, thế lực của Hồng Hoa Hội chắc chắn mạnh hơn Đồ-Long-Hội khi xưa rất nhiều. Một tổ chức phản Thanh Phục Minh như Hồng Hoa Hội mà đứng ra lãnh đạo nhân dân thì tiền-đồ Hán-tộc hẳn đã đến hồi hưng vượng.

Lục-Phỉ-Thanh nghĩ tới đó bỗng chợt khoái chí uống vùi mấy chén với Vệ-Xuân-Hoa, quên hết cả những mệt nhọc đi đường, đội mưa đạp tuyết... Tinh thần ông ta như phục hồi lại hoàn toàn, cảm thấy hăng hái bội phần.

Vệ-Xuân-Hoa hỏi:

-Chẳng hay lão tiền bối quá bước đến đây là do sự tình cờ hay có mục đích chi dạy bảo cho Hồng Hoa Hội? Dám xin lão tiền bối cho biết.

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Lão phu vượt núi trèo non, đi ngàn dặm đường đến đây dĩ nhiên không phải là do sự tình cờ. Nhưng chung quy tất cả vẫn là do một sự tình cờ mà ra.

Vệ-Xuân-Hoa chưa hiểu rõ được ẩn ý của câu nói lạ lùng ấy. Chàng vẫn im lặng để tai lắng nghe.

Lục-Phỉ-Thanh nói tiếp:

-Không phải là một sự tình cờ vì mục đích nguyên thủy của lão phu không phải tìm đến An-Tây này mà chỉ vì có một công vụ cấp bách phải hộ tống một đoàn người ra biên ải. Nhưng do một sự tình cờ mà lão phu phải bỏ dở công vụ của mình để gấp rút đi An-Tây tìm Thiếu-Đà-Chủ và các vị đương-gai của Hồng Hoa Hội...

Vệ-Xuân-Hoa nghe Lục-Phỉ-Thanh nói đến đây lòng thấy xao xuyến lạ thường, vẻ mặt đầy kinh hoàng lo âu nhưng chưa dám hỏi rõ, chỉ để tâm mà nghe Lục-Phỉ-Thanh giải bày cho rành mạch.

Lục-Phỉ-Thanh lại nói tiếp:

-Lão phu phải tìm Thiếu-Đà-Chủ và các vị đương-gia của Hồng Hoa Hội đông đủ là vì một việc vô cùng nguy ngập không thể chần chừ hay trì hoãn thêm được nữa. Báo tin xong cho tất cả các vị, lão phu còn phải tiếp tục lo công vụ của mình nữa.

Vệ-Xuân-Hoa nghe có việc gấp đến thế chợt thấy nóng lòng như lửa đốt dầu sôi. Chàng ta không dám hối thúc Lục-Phỉ-Thanh ăn cho lẹ nhưng chính chàng lại ăn uống một cách vội vã chứ không từ tốn như lúc mới nhập tiệc nữa.

Lục-Phỉ-Thanh ăn uống thật no say kỹ càng cho no bụng để xong việc ông ta còn trở lại tiếp tục cuộc hành trình hẹn ước với Lý-Mộng-Ngọc. Cơm nước xong xuôi, không đợi Vệ-Xuân-Hoa nhắc, Lục-Phỉ-Thanh hối hả đề nghị trước:

-Ờ đây lão phu thấy có điều bất tiện khi Thiếu-Đà-Chủ và cácvị đương-gia đến. Nhất lại càng bất tiện cho lão phu phải trình bày mọi chuyện cho các vị nghe, vì dầu sao ta cũng phải đề phòng tai mắt của bọn ‘tẩu cẩu’ cho cẩn thận.

Vệ-Xuân-Hoa nói:

-Lúc ban đầu, theo tin mật báo đưa về có một cụ già đạo mạo cỡi ngựa hồng có dắt hoa hồng ở mão vào thành An-Tây, bọn vãn bối mới phái người tâm phúc đưa lão tiền bối vào đây tức tửu lầu riêng của Hồng Hoa Hội. Khi được biết tên họ của lão tiền bối thì Thiếu-Đà-Chủ mừng lắm sai vãn bối đến đây đón tiếp lão tiền bối trước rồi người sẽ đưa các anh em đến ra mắt sau. Không ngờ tiền bối đến đây không phải là một sự tình cờ mà vì một chuyện cấp bách có quan hệ đến Hồng Hoa Hội nên vãn bối đã báo tin về cho Thiếu-Đà-Chủ rằng đừng đưa các anh em đến đây nữa mà có thể bị lộ chuyện ra ngoài (#13). Mặc dù ở đây Hồng Hoa Hội làm chủ tình hình và nắm được lòng người chứ không phải như ở Bắc-Kinh. Nhưng dù sao vẫn phải đề phòng bọn ‘chó săn chim mồi’. Thà là lúc nào cũng phải có cảnh giác còn hơn là khinh địch! Vậy xin lão tiền bối đi theo vãn bối. Còn con tuấn mã với hành lý thì tiền bối khỏi lo, đã có người của Hồng Hoa Hội đảm đang, giữ gìn thật chu đáo.

Vệ-Xuân-Hoa sau đó ra ám hiệu cho mọi người trong tửu lầu rồi vội vàng bước xuống dưới. Lục-Phỉ-Thanh đi theo chàng bén gót.

Do những đường ngoằng nghoèo khúc khuỷu như ruột dê uốn theo các đường lớn trong châu thành, Vệ-Xuân-Hoa đưa Lục-Phỉ-Thanh đi mau như chạy. Đó là những con đường tắt của Hồng Hoa Hội từ ngoài phố về trụ sở mà chỉ có người trong Hồng Hoa Hội biết.

Dọc theo đường đi, Lục-Phỉ-Thanh thấy có rất nhiều trai tuấn tú, gái nhu mì dắt cánh hoa hồng trên chóp nón. Chính họ là những tai mắt của Hồng Hoa Hội nên có bất cứ một người lạ nào hay một việc gì xảy ra trong thành phố tức thì trụ sở chính của Hồng Hoa Hội sẽ biết ngay. Cách tổ chức xếp đặt của Hồng Hoa Hội thật là chu đáo và hết sức quy mô, Lục-Phỉ-Thanh thán phục vô cùng...

Lục-Phỉ-Thanh rất nóng lòng được tiếp xúc với Thiếu Đà-Chủ này của Hồng Hoa Hội xem là nhân vật thế nào mà mỗi lần đề cập đến ba tiếng ‘Thiếu-Đà-Chủ’, các nhân vật của Hồng Hoa Hội đều tỏ ra nghiêm trang kính cẩn tuyệt đối, bằng một thái độ rất là trịnh trọng. Ông nghĩ rằng nhân vật ấy chắc phải có bản lãnh siêu quần, tài năng thao lược xuất chúng và đức độ có thừa thì mới có thể khiến cho tất cả mọi người tôn sùng, đưa lên địa vị tối cao để đại diện cho chính nghĩa của công cuộc phản Thanh phục Minh. Nhưng mà người ấy là ai? Lục-Phỉ-Thanh tự hỏi câu này bao nhiêu lần mà vẫn không trả lời được.

Vệ-Xuân-Hoa đưa Lục-Phỉ-Thanh ra khỏi cửa chánh, phía Tây của thành An-Tây thì đã có hai thanh niên lực lưỡng dắt tới hai con ngựa, yên cương chuẩn bị sẵn sàng. Thấy chủ nhân, con ngựa của Lục-Phỉ-Thanh hí vang lên reo mừng. Ông vỗ nhẹ vào đầu nó. Con tuấn mã như rất sung sướng được chủ thương. Con ngựa của Vệ-Xuân-Hoa cũng là một tuấn mã, cao lớn không kém gì ngựa của Lục-Phỉ-Thanh, lông vàng mướt, mỗi chân có một hoa mai trắng.

Hai người sau đó cùng lên ngựa phi nước đại nhắm về hướng Tây-Nam do Vệ-Xuân-Hoa dẫn đường. Dọc đường, Vệ-Xuân-Hoa hỏi:

-Lão tiền bối chắc có gặp Văn tứ-ca và Văn tứ-tẩu của vãn bối phải không?

Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Quả đúng thế! Nhưng vì sao huynh đài lại biết được?

Vệ-Xuân-Hoa đáp:

-Nhìn đóa hoa hồng trên, mão của lão tiền bối có bốn cánh tức khắc biết được liền, vì đó là biểu hiệu của Văn tứ-ca.

Lục-Phỉ-Thanh lấy đóa hoa hồng xuống xem lại thì thấy quả nhiên có bốn cánh. Ông ta hiểu ngay là nếu muốn biết địa vị của người nào trong Hồng Hoa Hội thì chỉ cần đếm số cánh hoa của người ấy; cánh càng ít, vai vế càng cao; cánh càng nhiều, vai vế càng thấp.

Hai người đi được vài chục dặm đường thì đến trước một ngôi chùa nguy nga đồ sộ giữa một khu rừng rậm, rộng lớn mênh mông, với những cây cổ thụ cao ngất trời, bóng mát rợp đất. Cảnh chùa trông thật hùng vĩ, khó có nơi nào sánh được.

Cổng chùa là hai cây trụ thật lớn, có đến vài người ôm. Ngay cổng là một tấm hoành phi treo ở trên sơn son thếp vàng với bốn đại tự: ‘NGỌC HƯ ĐẠO VIỆN’. Nơi đây có hai người trai tráng to lớn vạm vỡ đứng gác. Vòng ngoài có một bức tường đá cao dày đến ba thước, chẳng khác nào lối thiết kế của một hoàng cung nho nhỏ. Lục-Phỉ-Thanh không ngờ ở một nơi biên khu, hoang vu cô tịch lại có được một đạo viện quy mô đến như thế.

Hai người lực lưỡng đứng gác ấy là hai đạo nhân. Vừa trông thấy Vệ-Xuân-Hoa, cả hai tỏ thái độ hết sức cung kính. Cả hai cùng chạy đến đỡ lấy giây cương của hai con ngựa.

Vệ-Xuân-Hoa mời Lục-Phỉ-Thanh đi thẳng vào nơi phương-trượng của chùa. Nơi đây tuy có phần tịch mịch nhưng rất rộng rãi và sạch sẽ. Một tiểu-đồng từ đâu bưng trà đến. Vệ-Xuân-Hoa lại mời Lục-Phỉ-Thanh giải khát.

Vệ-Xuân-Hoa nói nhỏ mấy tiếng vào tai tiểu-đồng, cậu ta gật đầu rồi đi ra đàng sau. Lục-Phỉ-Thanh đang nhâm nhi trà bỗng nghe ở nội đường có tiếng nói lớn vang ra:

-Lục đại-ca! Lâu quá rồi không được tin tức gì của nhau! Chắc anh nghi là tiểu đệ chết mất rồi phải không?

Câu nói vừa dứt thì một bóng người từ đâu đứng sừng sững trước mặt Lục-Phỉ-Thanh. Người ấy chẳng phải ai khác hơn là Triệu-Bán-Sơn, một anh em cũ trong Đồ-Long-Hội khi xưa, một người mà Lục-Phỉ-Thanh hằng mong ước được gặp lại.

Không cần phải nói cũng biết được nỗi vui mừng của hai người bạn thân cũ lâu năm mới gặp lại. Triệu-Bán-Sơn liên tiếp hỏi chuyện Lục-Phỉ-Thanh:

-Cách nhau từ độ ấy, anh lưu lạc ở phương trời nào? Vì sao hôm nay không hẹn mà đến nơi đây gặp lại nhau?

Lục-Phỉ-Thanh không trực tiếp trả lời Triệu-Bán-Sơn. Ông nói với một giọng đầy vội vã:

-Triệu hiền đệ! Chuyện riêng tư của chúng ta sau này sẽ còn nhiều cơ hội kể cho nhau nghe. Lão huynh có một việc công hết sức là cấp bách phải nói trước cho thật lẹ, vì chậm phút nào là nguy nan phút đó.

Triệu-Bán-Sơn nghe nói bất giác đâm ra lo lắng, liền hỏi lại ngay:

-Lục đại ca! Chuyện cấp bách ra sao mau nói cho đệ nghe gấp kẻo đệ nóng ruột quá rồi!

Lục-Phỉ-Thanh chỉ chờ có thế nên nói ngay:

-Hiện tại Văn tứ đương-gia đang gặp đại nạn!

Cả Triệu-Bán-Sơn lẫn Vệ-Xuân-Hoa nghe xong đều biến sắc, mồ hồi đổ xuống trán, tim đập thật mạnh, mắt đổ hào quang, chừng như chính hai người đang sống trong những giây phút kinh hoàng lo lắng. Vệ-Xuân-Hoa bỗng vụt một cái biến đi mất để một mình Triệu-Bán-Sơn ở lại. Sau đó, Triệu-Bán-Sơn liền hỏi Lục-Phỉ-Thanh cặn kễ từ đầu đến đuôi ra sao.

Lục-Phỉ-Thanh tỉ mỉ thuật lại những tai nạn của Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng ra sao, cho đến việc gặp gỡ Dư-Ngư-Đồng thế nào, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào. Hai người đang bàn chuyện thì nghe hình như có tiếng cãi vả qua lại giữa Vệ-Xuân-Hoa và một người nào đó.

Tiếng người kia nói lớn:

-Vệ cửu ca, anh coi đệ chẳng ra gì sao chứ? Anh khinh đệ không bảo vệ được Văn tứ ca về đây hay sao? Và anh khinh đệ không đủ bản lãnh để đương đầu với lũ người đốn mạt ấy sao? Đệ nói thật, nếu phen này mà không diệt được hết lũ đầu trâu mặt ngựa theo Càn-Long liếm gót để trả thù cho Văn tứ ca thì quyết không thèm làm người sống trên thế gian này nữa!

Lại nghe tiếng Vệ-Xuân-Hoa nói:

-Tính chú mày nóng như lửa, làm việc chẳng chịu đắn đo suy nghĩ, không thể giao phó công việc quan trọng lớn lao như thế được! Chuyện đi cứu Văn tứ ca không phải dễ dàng như chú mày nghĩ đâu! Bọn Trương-Siêu-Trọng lúc nào chẳng theo dõi rình rập chờ ra tay? Nếu đối phó với chúng dễ như vậy thì Văn tứ ca đâu cần đến chúng ta cứu viện làm gì! Anh em phải thương lượng với nhau trước rồi mới vạch định kế hoạch và quyết đoán sau. Còn việc đi cứu viện đón rước Văn tứ ca là quyền quyết định tối hậu của Thiếu-Đà-Chủ. Chú mày tháo thứ, tự chuyên, trách nhiệm không phải nhỏ, nếu có bề gì sơ sót thì tội lội cũng khó mà giảm khinh tha thứ được!

Người ấy vẫn không chịu nghe mà cứ tiếp tục cãi bướng. Nhưng lời y rất quả quyết, giọng hăng hái vô cùng, nhưng rõ ràng là một người nóng nảy, nghĩ sao là muốn làm vậy, chẳng cần phải đắn đo lợi hại.

Triệu-Bán-Sơn bè nắm tay Lục-Phỉ-Thanh đứng dậy đi ra ngoài, thẳng về phía hai người đang tranh cãi.

Đến nơi, Lục-Phỉ-Thanh thấy một người có cái bướu đàng sau lưng đang gân cổ cãi nhau với Vệ-Xuân-Hoa. Lục-Phỉ-Thanh nhận ra là người hôm nọ gặp trên đường đã sử dụng bàn tay như một lưỡi dao sắc xén đứt đuôi ngựa của Lý-Mộng-Ngọc.

Thấy Triệu-Bán-Sơn và Lục-Phỉ-Thanh ra đến nơi, Vệ-Xuân-Hoa đứng dậy vỗ mạnh vào vai người có bướu rồi lấy tay chỉ Lục-Phỉ-Thanh giới thiệu với y:

-Hiền đệ mau làm lễ chào mừng Lục lão tiền bối đi!

Người có bướu vừa đứng dậy hướng về phía Lục-Phỉ-Thanh bỗng nhiên nhìn ông ta trân trân một hồi, miệng chẳng mở ra nói một lời nào cả. Dường như khi nhìn thấy Lục-Phỉ-Thanh y lại nhớ đến một sự việc nào đó.

Thấy y đứng yên lặng không nói một lời, Lục-Phỉ-Thanh thầm nghĩ chắc rằng hắn cũng nhận ra được diện mạo của ông ta hôm ấy cùng đi chung đường với Lý-Mộng-Ngọc. Khi trông thấy hình dung của y, Lý-Mộng-Ngọc bật cười mà buông lời chế nhạo. Lục-Phỉ-Thanh chưa biết phải dùng lời gì giải thích cho người có bướu về thái độ bất kính của đứa đồ đệ mình hôm ấy để cho đẹp lòng y thì bỗng y lên tiếng:

-Công người hai ngày hai đêm mệt nhọc đội sương đạp tuyết, vượt núi trèo non đi hơn ngàn dặm để đem tin tức của Văn tứ ca cùng Văn tứ tẩu tới đây cho biết, tại hạ Chương-Tấn, thằng có bướu này xin cúi đầu đa tạ.

Dứt lời, y quỳ xuống hướng về phía Lục-Phỉ-Thanh lạy bốn lạy, hai lạy thế cho Văn-Thái-Lai và hai lạy thế cho Lạc-Băng để tạ ơn.

Lục-Phỉ-Thanh tức tốc chạy đến đỡ Chương-Tấn dậy, chẳng muốn cho làm thế nhưng không kịp. Lục-Phỉ-Thanh đành quỳ xuống lạy trả lại bốn lễ. Chương-Tấn cũng không sao tránh kịp thành thử hai bên cùng lạy nhau một lượt.

Lạy nhau xong, Chương-Tấn không nói gì thêm một lời nào với Lục-Phỉ-Thanh mà chỉ nhìn thẳng vào mặt Triệu-Bán-Sơn và Vệ-Xuân-Hoa nói:

-Triệu tam ca! Vệ cửu ca! Hai anh ở lại đây nhé! Còn đệ thì lòng nóng như lửa đốt, không thể nào chờ được nữa, phải đi ngay bây giờ đây!

Triệu-Bán-Sơn toan khuyên giải mấy câu đạng dằn bớt tính nóng nảy của Chương-Tấn xuống để chờ cuộc thảo luận chung và sự quyết định của Thiếu-Đà-Chủ, nhưng chưa kịp làm gì thì y đã chạy thẳng một mạch ra khỏi đạo-viện mà không hề quay đầu ngó lại. Vệ-Xuân-Hoa chạy theo gọi thế nào y cũng không nghe, chỉ trong khoảnh khắc đã biến mất.

Triệu-Bán-Sơn và Vệ-Xuân-Hoa thấy vô cùng bực tức về cái tính nỏng nảy cấp tháo của Chương-Tấn. Y tự tung tự tác như vậy ắt có hại cho công việc của Hồng Hoa Hội nói chung và cá nhân Văn-Thái-Lai cùng Lạc-Băng nói riêng. Hai người còn đang phân vân chưa biết làm cách nào thì thấy một người khác dìu Chương-Tấn giải vào trong.

Số là sau khi Chương-Tấn thoát ra khỏi đạo viện chạy đến Huyện-Hà-Môn thì đầu kia có một người đang phi thân tới đạo-viện như tên bay chặn đường y lại hỏi:

-Hiền đệ đi đâu mà gấp rút vậy? Hãy đi vào bên trong mà bày tỏ lý do cho anh nghe trước đã!

Chương-Tấn biết không thể thoát khỏi tay người này được đành phải theo vào bên trong. Y vừa đi vừa nói:

-Nghe tin Văn tứ ca cùng tứ tẩu bị nạn, đệ không thể ở đây chờ tin tức được nên nhất định phải đến đó xem bệnh tình của Văn tứ ca và tứ tẩu thế nào rồi hộ tống, rước cả hai về đây mà tĩnh dưỡng. Việc gấp rút như vậy sao huynh lại cản tiểu đệ làm trễ nãi cuộc hành trình là ý gì?

Người kia đang định tìm lời lẽ khuyên bảo nên vô tình nới lỏng tay ra. Thừa cơ, Chương-Tấn giật phăng cánh tay ra khỏi và lại vùng chạy thật lẹ. Lúc đó, Triệu-Bán-Sơn và Vệ-Xuân-Hoa cùng Lục-Phỉ-Thanh vì nghe có tiếng huyên náo bên ngoài nên ra xem thử ra sao. Thấy tình cảnh như vậy, Triệu-Bán-Sơn bèn nói với người kia rằng:

-Thất đệ! Em mau rượt theo bắt hắn lại rồi cố mà khuyên răn, đừng cho hắn nóng nảy làm liều. Nếu rủi không bắt được hắn lại thì phiền em đi theo mà hổ trợ cho hắn. Việc đã dĩ lỡ, có trách cứ hay trừng phạt cũng chẳng có ích lợi gì!

Người này, tức thất đương-gia của Hồng Hoa Hội liền vâng lời. Sẵn ngựa, chàng phóng lên lưng rượt theo.

Nguyên Chương-Tấn tính tình rất thẳng thắn, không biết dua nịnh bất cứ một ai, chỉ phảo mỗi cái tính quá nóng nảy. Việc nào y đã nhất quyết làm thì bất luận là ai ngăn cản thế nào cũng không nghe.

Tuy Chương-Tấn bị gù, tàn tật nhưng sức mạnh kinh hồn, không mấy ai hơn được. Bản lãnh y cũng thuộc vào hàng cao thủ trên giang hồ, là cao đồ của họ Tục, một đại gia cao thủ khét tiếng trong cả hai giới bạch đạo lẫn hắc đạo.

Chương-Tấn vì tật nguyền nên mang mặc cảm rất nhiều, rất thù ghét những ai nhìn cái bướu trên lưng hắn mà cười. Nếu người cười hắn mà chỉ là một kẻ bình thường thì hắn còn bỏ qua cho, nhưng nếu là một người có võ nghệ thì y sẽ đánh cho một trận, hành cho kẻ ấy phải cúi đầu lạy xin tha tội mới chịu thôi.

Trong Hồng Hoa Hội, Chương-Tấn trước kia chỉ phục mệnh có Tổng-Đà-Chủ. Giờ Tổng-Đà-Chủ đã qua đời, y chỉ còn phục mệnh có mỗi Thiếu-Đà-Chủ mà thôi. Nhưng người được hắn nghe lời nhiều hơn cả là Lạc-Băng. Bởi vì thương hại Chương-Tấn tật nguyền, nên các anh em trong Hồng Hoa Hội lúc nào cũng nhân nhượng y đôi ba phần, dù cho y có lầm lỗi điều gì cũng khoan dung tha thứ. Được vậy nên nhiều lúc y đâm ra lộng hành, là người vô kỷ luật nhất trong hội.

Còn Lạc-Băng thì cũng chỉ vì thương hại Chương-Tấn tật nguyền nên đối đãi với hắn rất tốt. Y muốn gì nàng cũng cố tìm cách làm cho toại nguyện. Quần áo hắn là do Lạc-Băng sắm sửa cho. Cơm rượu cũng một tay nàng lo cho đầy đủ chu đáo, chẳng bao giờ để cho thiếu thốn. Chương-Tấn tuy xấu xí tật nguyền, nhưng lúc nào cũng thích mặc y phục hoa hòe cho thật đẹp. Lạc-Băng cũng chiều chuộng, làm vừa lòng y. Lúc nào muốn y thèm uống rượu ngon, Lạc-Băng cũng không để hắn phải thèm thuồng, đều mua cho đầy đủ cả. Cũng chỉ vì những cảm tình đặc biệt ấy mà Chương-Tấn quý mến, đối xử với vợ chồng Lạc-Băng chẳng khác gì ruột thịt.

Vì vậy, lần này khi được tin Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng gặp nạn, Chương-Tấn thương xót vô cùng, lại càng oán ghét bọn ‘chó săn chim mồi’ chỉ muốn ăn gan uống máu những kẻ đã gây ra thương tích cho vợ chồng Văn-Thái-Lai. Vì quá quý mến cặp vợ chồng kia nên cho dù khi nhận ra Lục-Phỉ-Thanh là người đồng hành với Lý-Mộng-Ngọc, ‘thiếu niên’ cười chế nhạo mình, Chương-Tấn cam tâm cúi đầu lạy bốn lạy thay vì tìm cách chất vấn. Chỉ vì Lục-Phỉ-Thanh đem đến cho y tin tức của Văn-Thái-lai với Lạc-Băng.

Và rồi nóng nảy muốn biết rõ vợ chồng Văn-Thái-Lai bị thương trầm trọng ra sao, Chương-Tấn bất chấp lời khuyên của các sư huynh trong bang, gạt bỏ luôn cả kỷ luật của hội, định đơn thân độc mã một mình đi cứu. Vì hai người thân nhất của mình, Chương-Tấn không quan tâm gì đến nhọc nhằn, không sợ bất cứ điều gì nguy hiểm cho tánh mạng của y. Sợ hắn vì cạn nghĩ nên có thể làm bậy nên Triệu-Bán-Sơn nhờ người anh em thứ bảy trong hội đi theo kèm mà tùy cơ ứng biến.

Trong Hồng Hoa Hội Chưng-Tấn đứng hàng thứ 10. Người bắt hắn trở lại là Từ Thiện-Hoằng, đứng thứ 7. Từ-Thiện-Hoằng tuy hình dung thấp bé nhưng lại là người túc trí đa mưu nhất trong Hồng Hoa Hội nên được tất cả phong chức cho là quân sư, xem như là ‘Khổng-Minh’ của hội. Từ-Thiện-Hoằng không phải chỉ có tài thao lược không thôi, chàng còn tinh thông cả võ nghệ nữa. Trong 18 loại binh khí, Từ-Thiện-Hoằng thuần thục hết tất cả. Các môn bí truyền nội gia công phu lẫn ngoại gia chàng đều có tập qua và đã luyện thành sở đắc. Vì thế, cái ngoại hiệu Võ-Gia-Cát của Từ-Thiện-Hoằng không ai nghe thấy mà không phục.

Nghe qua lai lịch, tài năng và thành tích của Thất đương-gia và Thập đương-gia của Hồng Hoa Hội do Triệu-Bán-Sơn kể lại, Lục-Phỉ-Thanh thầm khen ngợi và tỏ vẻ khâm phục. Sau đó, từng người một, ông lần lượt được gặp các đương-gia khác do trung gian của Triệu-Bán-Sơn giới thiệu. Chỉ trong một vài câu chuyện ngắn ngủi, Lục-Phỉ-Thanh đã cảm nhận được ngay đây toàn là những anh-hùng hào kiệt mà ông ta đã được gặp qua trong lộ trình.

Thấy mọi người có mặt khá đông đủ, Triệu-Bán-Sơn mới đem chuyện Văn-Thái-Lai ra kể từ đầu đến cuối để thảo luận ý kiến. Người ngồi ở giao-ỷ (#14) thứ hai chỉ có một cánh tay là Nhị đương-gia Vô-Trần Đạo-Nhân lên tiếng trước nhất:

-Việc này chúng ta không thể tự chuyên hay tự quyết được. Phải hội ý với Thiếu-Đà-Chủ để xem người chủ-trương thế nào trước đã. Xin mời tất cả vào phòng họp rồi sẽ bàn sau.

Lục-Phỉ-Thanh theo chân mọi người do sự hướng dẫn của Vô-Trần-Đạo-Nhân đi thẳng ra phía sau hậu-viện. Đến một gian phòng hết sức rộng rãi khoan khoát, Lục-Phỉ-Thanh nhìn thấy một bàn cờ hết sức vuông vắn được khắc trên tường. Cách đó một trượng là hai người, một già một trẻ ngồi uống trà đàm đạo. Hình như cả hai đang đánh cờ với nhau. Trên bàn cờ đầy dẫy quân hai màu trắng đen. Mỗi quân cờ nằm trong một ô vuông nhỏ như tay ai đặt lên trên rất khéo. Chỉ có một điều lạ là bàn cờ được khắc lên tường nên thật khó hiểu không biết họ làm cách nào mà đặt được những quân cờ lên trên ‘bàn cờ dựng đứng’ đó.

Người già đột nhiên cầm một quân cờ màu đen búng một cái, quân cờ như một mũi phi tiêu bay vào nằm dính chặt vào giữa một ô vuông. Không đầy một khắc, người trẻ cầm một quân cờ trắng dùng thủ pháp in hệt như người già búng một cái. Lập tức, quân cờ trắng vút đi một cái, đụng vào đánh rớt quân cờ đen của người già vừa đặt lên, chiếm gọn lấy chỗ nằm ngay ô vuông ấy. Một tiểu đồng liền bước tới nhặt quân cờ đen vừa bị rớt bỏ vào một trong hai cái hộp trên một chiếc bàn nhỏ gần đó.

Lục-Phỉ-Thanh không khỏi kinh ngạc. Ông vốn là một người nhìn xa hiểu rộng, văn võ song toàn, rành cả Cầm, Kỳ, Thi, Họa từng trải gót giang-hồ mấy chục năm nhưng chưa bao giờ thấy được một lối đánh cờ lạ lùng như thế này. Quan sát kỹ bàn cờ, Lục-Phỉ-Thanh nhận thấy đôi bên đang tranh nhau một thế rất gay go và ngoạn mục là ‘Liên-Hoàn-Kiếp’. Đi cờ trắng là người trẻ, một thanh-niên mặt như quán ngọc, diện mạo trông vừa oai phong lẫm liệt lại vừa quý phái. Đi cờ đen là người già, một ông lão trông rất thật thà chất phác như một bác nông-phu.

Các đương-gia của Hồng Hoa Hội và Lục-Phỉ-Thanh chỉ đứng nhìn xem mà cũng bị lôi cuốn bởi những nước cờ bí hiểm của đôi bên. Ai nấy đều yên lặng chăm chú nhìn, không dám làm ồn, sợ ảnh hưởng đến sự tập trung tư tưởng của đôi bên.

Lục-Phỉ-Thanh cũng vốn là một tay cao cờ nên chỉ đứng quan sát một hồi là có thể đoán trước được nước đi của cả hai bên, và nhận thấy rằng người trẻ là tay cao cờ hơn. Nhưng Lục-Phỉ-Thanh lại trông được một điều nữa là mặc dù đang thắng thế, mỗi nước đi, chàng ‘công tử’ kia đều có ý nhân nhượng người già. Thế nhưng người già lại như có vẻ bực dọc. Mỗi nước đi của ông ta như một trận cuồng phong, mỗi lúc liệng cờ càng mạnh tạo ra hơi gió dữ dội, ấn sâu quân cờ vào bàn cờ trên vách. Lục-Phỉ-Thanh thấy thế kinh hãi vô cùng nghĩ thầm:

-“Người này là ‘thiên-hạ đệ nhất cao thủ’ chứ chẳng phải tầm thường! Xem cách ông ta liệng quân cờ như thế cũng đủ biết tài phóng ám khí lợi hại đến bực nào. Thật từ trước đến nay ta chưa từng thấy qua một người thứ hai nào có bản lãnh ghê gớm như vậy!”

Lục-Phỉ-Thanh vẫn mải mê chăm chú nhìn thế cờ. Nhưng chỉ trong giây lát, ông ta lại khám phá thêm được một điều bí ẩn trong cuộc thi cờ này. Chàng ‘công tử’ kia rõ ràng không phải chú trọng đến việc thắng thua trong ván cờ mà chỉ chú tâm để ý đến cách thức cầm quân cờ liệng vào vách của người già kia. Thoạt nhìn vào ai cũng tưởng là đây là một ván cờ bình thường, nhưng trên thực tế, đây là một lối truyền thụ võ công thượng thừa.

Người già bỗng liệng một quân cờ đen như vũ bão cắm sâu vào một vị trí làm cho tất cả những quân cờ trắng rơi tất cả xuống đất, chỉ còn lại toàn quân đen mà thôi. Không những thế, các quân cờ đen đều nhảy sang vị trí của những quân cờ trắng mà trước đây một vài khắc nếu ai ai nếu chỉ chú ý đến ván cờ đều tin chắc rằng người trẻ tuổi chắc chắn sẽ thắng. Bây giờ tình thế đổi mới làm tất cả mọi người kinh ngạc không ít. Người già phá lên cười đắc ý nói:

-Anh đã chịu thua chưa? Cờ anh còn thấp lắm!

Dứt lời, người già đứng dậy. Chàng công tử với vẻ mặt tự nhiên, mỉm cười vui vẻ nói:

-Bàn này con xin chịu thua. Chờ bàn khác con sẽ gỡ hòa sau.

Hai người cùng cười xòa lên một tiếng rồi sau đó mới để ý rằng có nhiều người trong phòng đứng im lặng như đang chờ đợi việc gì nơi họ. Người già sau đó chậm rãi bước ra khỏi phòng, chẳng chào hỏi hay nói với ai một điều gì. Ông ta vừa đi khỏi, Triệu-Bán-Sơn mới từ từ tiến lại thi lễ rồi chỉ vào Lục-Phỉ-Thanh, nói bằng một giọng hết sức cung kính với chàng công tử:

-Bẩm Thiếu-Đà-Chủ! Đây là người mà trước đây thuộc hạ đã có dịp thưa chuyện cùng Thiếu-Đà-Chủ tên gọi Lục-Phỉ-Thanh, tức Lục đại-ca của thuộc hạ đấy!

Quay sang phía Lục-Phỉ-Thanh, Triệu-Bán-Sơn nói:

-Đây là Thiếu-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội chúng tôi.

Chàng công tử, tức Thiếu-Đà-Chủ mỉm cười nhã nhặc lên tiếng:

-Tại hạ họ Trần tên Gia-Cách. Hôm nay được gặp Lục tiên-sinh tại đây thật là vạn hạnh. Xin tiên-sinh chỉ dạy cho những điều hữu ích.

Trước những lời lẽ khiêm nhường của Trần-Gia-Cách, Lục-Phỉ-Thanh bèn thi lễ mà đáp lại:

-Lão phu không dám. Ngưỡng mộ uy danh của Trần thiếu-đà-chủ từ lâu, nay được diện kiến tôn nhan thật thỏa bình sinh khát vọng.

Tuy ngoài mặt nói vậy mà trong lòng Lục-Phỉ-Thanh vừa kinh ngạc, vừa bán tín bán nghi. Con người mang danh-hiệu Thiếu-Đà-Chủ có tên Trần-Gia-Cách đang đứng trước mặt ông ta nếu căn cứ vào tuổi tác thì chỉ là một nhân vật vào hàng hậu bối, tuổi còn rất trẻ, có thể nói là trẻ hơn tất cả những nhân vật trong Hồng Hoa Hội mà ông ta được gặp qua. Tài nghệ võ công thì quả thật chưa biết thế nào mà lại được tất cả các anh hùng hào kiệt bậc nhất trên giang hồ của Hồng Hoa Hội một lòng kính trọng, hết sức nể nang, hoàn toàn không dám quyết định chuyện gì lớn lao nếu chưa hội thảo với chàng.

Triệu-Bán-Sơn liền đem chuyện Văn-Thái-Lai bị nạn đang nương náu tại Thiết-Đảm-Trang của Châu-Trọng-Anh lại cho Trần-Gia-Cách nghe đồng thời hỏi ý kiến vị Thiếu-Đà-Chủ xem chàng định xử trí ra sao.

Trần-Gia-Cách nhìn về phía Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Việc này xin đạo-trưởng quyết định giùm cho.

Ngay khi ấy, sau lưng Vô-Trần Đạo-Nhân có một người cao lớn mạnh dạn bước ra cất giọng nói oang oang lên rằng:

-Văn tứ ca bị trọng thương từ bao lâu nay rồi mà anh em chúng ta không hề biết đến. May mắn thay, được vị Lục hảo hán không quản nhọc nhằn vượt suối băng đèo đến đây để thông báo tin tức. Chẳng lẽ chúng ta ngồi yên đợi đến lúc tánh mạng của Văn tứ ca không còn nữa mới chịu ra tay hay sao? Trong khi Văn tứ ca mang thương tích trầm trọng mà lánh nạn thì kẻ thù chung của dân tộc cũng như của chúng ta luôn luôn theo dõi rình rập với mục đích tiêu diệt và phá tan hàng ngũ của Hồng Hoa Hội sớm ngày nào hay ngày ấy trong khi nội bộ của chúng ta thì hết sức lủng củng. Tại sao chúng ta không chịu nghĩ ngay kế hoạch mà đối phó cấp tốc mà cứ người này thoái thác nhường cho người kia, người kia đắn đo giao lại người nọ mãi? Giờ đây không phải là lúc chần chừ được nữa. Tôi xin hỏi: di-chúc của cố Tổng-Đà-Chủ ký thác lại cho ai? Tại sao không chịu tuân theo? Thiếu-Đà-Chủ, tại sao anh lại không nghe lời nghĩa-phụ của anh dặn dò? Chẳng lẽ anh cam tâm làm người con bất hiếu hay sao? Tại sao còn chưa chịu nghe lời cầu khẩn của tất cả anh em mà đứng ra lãnh đạo Hồng Hoa Hội? Thử hỏi tất cả bang chúng toàn quốc ngót trăm vạn có một ai dám nghi kỵ gì anh không? Đã được tất cả anh em khắp nơi từ lớn đến nhỏ đồng thanh công cử một cách danh chánh ngôn thuận sao anh lại phụ lòng mọi người mà trì hoãn mãi công việc là nghĩa gì? Sao còn chưa chịu vâng theo di chúc của cố Tổng-Đà-Chủ cũng như lời ủy-thác của nghĩa phụ mà nhậm chức? Không lẽ anh đành để cho việc lớn của chung bị trở ngại mãi hay sao?

Lục-Phỉ-Thanh nhìn lại, thấy người ấy dánh cao, thân hình to lớn vạm vỡ mắt sáng như sao, da ngâm ngâm, khí vũ hiên ngang, thần thái uy dũng. Đó là Bát đương-gia của Hồng Hoa Hội họ Dương, tên Thanh-Hiệp. Cùng lúc ấy, tất cả các đương-gia khác đồng chắp tay hướng thẳng về phía Trần-Gia-Cách đang ngồi đồng thanh lên tiếng:

-Hồng Hoa Hội chúng ta hiện nay như rắn không đầu, chẳng làm sao bò đi đâu được! Nếu phen này Thiếu-Đà-Chủ lại từ chối không chịu nhận lời thỉnh cầu của toàn thể mọi người trong hội mà nhận lãnh chức vụ Tổng-Đà-Chủ để gánh vác trọng trách thì ai nấy đều thất vọng tràn trề, cái hào khí đang hăng sẽ mất và đại sự sẽ tiêu tan, còn mong gì đạt được chí nguyện của Vu tổng-đà-chủ khó khăn một đời theo đuổi, nay ủy thác lại cho chúng ta! Văn tứ ca hiện nay gặp đại nạn chưa biết an nguy thế nào, tất cả anh em đang chờ lệnh sai khiến của Thiếu-Đà-Chủ để thi hành cho kịp thời mới mong cứu vãn được tình thế nguy ngập.

Vô-Trần Đạo-Nhân lại nói:

-Số thành viên của Hồng Hoa Hội chúng ta không dưới 10 vạn người. Đó là chưa kể đến cảm tình viên hưởng ứng nhận làm hậu thuẫn ở mọi tầng lớp tại toàn lãnh thổ của Đại Trung-Hoa. Nếu không được 100 vạn như Bát đương-gia nói thì ít ra cũng được 70-80 vạn. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng đảng của chúng ta là một tổ chức cách mạng rất có thế lực và ảnh hưởng khả dĩ huy động toàn dân chống ngoại câm giành độc lập, có khả năng công khai ra mặt đương đầu với triều đình Mãn-Thanh chứ không phải là một đám người ô hợp thiếu cương lĩnh và kỷ luật. Thử hỏi các vị đương-gia đã có ai dám trái hiệu lệnh của Thiếu-Đà-Chủ truyền ra chưa? Nếu có kẻ nào cương ngạnh ngoan cố như vậy thì chẳng khác nào một tên Hán gian nối dáo cho giặc, và Vô-Trần Đạ-Nhân này không thể coi kẻ ấy là bạn được nữa, mà trái lại sẽ thí hắn một nhát gươm cho xong chuyện.

Trần-Gia-Cách thấy mọi người ai nấy đều khẩu phục lẫn tâm phục, cương quyết đưa mình lên địa vị lãnh đạo bang hội thì vừa cảm động vừa ngần ngại, nhưng biết khó mà từ chối được. Chàng khẽ nhíu mày, trầm ngâm suy nghĩ, chẳng nói được một lời.

Thấy Trần-Gia-Cách như lưỡng lự, Thường-Thích-Chí, một trong hai vị Tây-Xuyên Song-Hiệp lạnh lùng thốt lên với giọng buồn bã:

-Thưa tất cả các anh em. Biết bao nhiêu lần rồi chúng ta đã đem đại nghĩa phân trần cho Thiếu-Đà-Chủ nghe, lại đem luôn cả di ngôn của Vu tổng-đà-chủ thiết tha nhắc lại với tất cả lòng thành của từng người một trong bang hội. Thế mà Thiếu-Đà-Chủ vẫn khăng khăng nhất quyết chẳng chịu nhận lời, vịn đủ cách, đủ lý do để khước từ trọng trách! Thậm chí lần này cũng không ngoại lệ! Đứng trước sự hưng suy của dân tộc; sự tồn vong của tổ quốc; sự tình cấp bách của bang hội cần người thủ lãnh để điều khiển guồng máy, cũng như quốc gia không thể một ngày không vua. Cho đến sự an nguy cá nhân của Văn tứ ca cũng không sao làm xiêu lòng được Thiếu-Đà-Chủ! Không lẽ nguyện vọng chung của tất cả đành tan theo mây khói sao đây? Và không lẽ Hồng Hoa Hội đến đây là tan rã hàng ngũ vì không có lãnh tụ tối cao điều khiển? Không lẽ chúng ta cứ hội họp mãi ở đây ngày này sang ngày khác để uổng phí đi bao nhiêu thì giờ mà không đi đến được kết quả nào? Hai anh em chúng tôi xin thưa trước một lời rằng sẽ tình nguyện đi cứu Văn tứ ca đem về đây an toàn, cho dù phải đổi bằng sinh mạng của chính mình. Nếu may mắn thành công đem Văn tứ ca về được và còn giữ được tánh mạng, anh em chúng tôi xin từ giã tất cả về lại Tây-Xuyên đi hành hiệp giang hồ như trước chứ sẽ không còn ở đây nữa!

Thường-Thích-Chí vừa dứt lời, Thường-Bá-Chí lập tức tiếp ý:

-Lời anh tôi nói rất hạp ý tôi. Chúng tôi dứt khoát quyết định như thế, quyết không thay đổi.

Không khí trong phòng thật hết sức là lạnh lẽo và căng thẳng. Trên gương mặt từng người không sao dấu được nét thê lương ảm đạm. Trần-Gia-Cách cảm thấy lần này thật hết sức nghiêm trọng, không giống như những lần họp trước. Nếu chàng cứ tiếp tục lặng thinh không nói một lời hay buông thêm một câu từ chối nữa là có thể đưa đến kết quả tai hại không sao mà lường được. Bang chúng sẽ bất mãn mà lần lượt, từng người một bỏ ra đi. Lúc đó, Hồng Hoa Hội không cần giải tán cũng tự động tan rã. Trách nhiệm to tát ấy, dù muốn dù không, Trần-Gia-Cách phải tự mình gánh chịu trước dân tộc và lịch sử. Vì vậy, chàng bèn từ từ đứng dậy hướng về phía bang chúng vái một cái, khoan thai dõng dạc nói:

-Thưa tất cả các anh em trong Hồng Hoa Hội! Lâu nay sở dĩ tôi từ chối không dám nhận lãnh, gánh vác trách nhiệm to lớn của mọi người giao phó cho chẳng qua là vì tôi tự xét thấy mình tuổi trẻ, kiến thức nông cạn chứ không phải lý do nào khác hơn. Trọng trách của Hồng Hoa Hội chúng ta có liên quan đến 5 tỷ (#15) đồng bào Hán-tộc chứ không phải là việc tầm thường. Do đó, tôi mới tự lượng sức mình, tự xét thấy mình vô tài vô đức nên mới đề nghị với anh em tìm một người khác xứng đáng hơn mà đảm nhận trách nhiệm để chấn hưng đại cuộc. Chắc anh em cũng nhận thức được lòng tha thiết với bang hội, với nhân dân của tôi như thế nào rồi. Nếu chẳng phải vì cái mỹ ý ấy thì tôi lặn lội xông pha nghìn dặm từ Giang-Nam ra chốn biên cương hẻo lánh này làm gì? Vả lại, nghĩa-phụ tôi có để lại di chúc, buộc tôi phải tuân theo. Phận làm con, dẫu bất hiếu đến đâu đi chăng nữa, nhưng lẽ nào lại chẳng vâng? Nhưng mỗi khi nghĩ đến trách nhiệm quá nặng nề kia thì tôi lại đắn đo lợi hại, cho nên mới trù trừ, do dự mãi mà chưa dám đi đến một quyết định nào cả. Vì vậy đã mấy phen rồi, anh em cứ thúc giục đại lễ ‘thiên lý tiếp long đầu’ để đưa tôi lên làm Tổng-Đà-Chủ mà tôi vẫn khăng khăng từ chối không chịu nghe. Chủ ý của tôi là chờ tin Văn tứ ca mang về đây những điều bí mật trọng đại trình lên trung-ương của hội rồi chúng ta sẽ tụ họp đầy đủ các bang chúng lại, mở đại hội mà nghị kế lâu dài. Nhưng nay thì tình thế lại đổi khác. Văn tứ ca đang gặp đại nạn. Chúng ta có bổn phận đi cứu gấp, không thể chậm trễ được nữa. Nếu tôi còn chần chừ không quyết định thì càng làm tăng lên sự nguy hiểm cho tánh mạng của Văn tứ ca, đồng thời lại phụ lòng tin cậy và ưu ái của tất cả mọi người. ‘Cung kính bất như tuân mệnh’, anh em dạy bảo thế nào, Trần-Gia-Cách này nguyện vâng theo chứ không dám cãi nữa.

Các đương-gia thấy Trần-Gia-Cách đã chịu nhận lời, bằng lòng làm Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội thì ai nấy lộ vẻ hân hoan đến cực điểm. Bầu không khí lạnh tanh bỗng nhiên trở nên sôi động khác thường. Tất cả rủ nhau cùng đứng dậy hướng về phía vị tân Tổng-Đà-Chủ mà bái kiến, hoan hô nhiệt liệt. Một tiệc trà long trọng sau đó được bày ngay ra, trước là để mừng bang hội vừa có thủ lãnh mới, sau là để thảo luận kế hoạch.

Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Vì thì giờ quá gấp rút nên không thể tổ chức đại quy mô cho các nghi lễ đại điển để giao trách nhiệm cho Tổng-Đà-Chủ được. Phải chờ mọi người tụ họp tại tổng hương đường ở Thái-Hồ rồi sẽ bày sau. Bây giờ xin Tổng-Đà-Chủ bái yết tổ sư và nhận hoa-lệnh (#16) cho danh chánh ngôn thuận đã.

Lục-Phỉ-Thanh biết rõ các bang hội đều có nghi thức điển lễ đặc biệt riêng, người ngoài không thể tham dự, huống hồ Hồng Hoa Hội là một tổ chức cách mạng lớn. Mặc dù đây là trường hợp đặc biệt, theo lời của Vô-Trần Đạo-Nhân là chỉ phải làm lễ bái yết tổ sư và nhận hoa-lệnh rồi mới làm đủ lễ nghi long trọng tại tổng hương đường ở Thái-Hồ sau khi có mặt đầy đủ các bang chúng, nhưng dù sao Lục-Phỉ-Thanh cũng là người ngoài nên tự ông ta nghĩ là không nên dự vào phần điển nghi trọng đại ấy là hơn. Nghĩ vậy, Lục-Phỉ-Thanh liền hướng về phía Trần-Gia-Cách nói đôi câu chúc mừng rồi lui ra khỏi phòng hội nghị.

Triệu-Bán-Sơn đưa Lục-Phỉ-Thanh về phòng riêng của mình tắm rửa nghỉ ngơi. Khi tiếng trống báo hiệu sang canh ba, Lục-Phỉ-Thanh mới thức dậy và hay rằng mình đã ngủ được một giấc khá lâu. Triệu-Bán-Sơn cũng vừa về tới sau khi tham dự lễ bái yết tổ sư và nhận hoa-lệnh của Tổng-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách. Triệu-Bán-Sơn nói với Lục-Phỉ-Thanh rằng:

-Tổng-Đà-Chủ đã đích thân xuất lĩnh anh em Hồng Hoa Hội đi Thiết-Đảm-Trang rồi. Biết rằng Lục đại ca mệt mỏi nhiều cần nghỉ để lấy lại sức nên dặn tiểu đệ ở lại tiếp đãi. Chờ đến sáng mình sẽ lên đường sau.

Lục-Phỉ-Thanh và Triệu-Bán-Sơn là đôi bạn thâm giao, tình như ruột thịt, đã hơn 10 năm trời người kẻ chân trời người góc biển không gặp nhau. Nay tình cờ gặp lại, lẽ dĩ nhiên tình bằng hữu kia cùng những nỗi nhớ nhung thương cảm trong bao năm qua nói sao cho xuể. Đôi bên cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa, kể hết cho nhau nghe những gì đã xảy ra cho họ trong suốt thời gian dài đó.

Đêm qua thật lẹ. Chẳng mấy chốc mà tiếng gà gáy sáng đã vang lên ồn ào, và vầng thái-dương đã bừng ló dáng. Chuyện chưa hết chuyện. Lòng chưa thỏa lòng. Nhưng cả Lục-Phỉ-Thanh và Triệu-Bán-Sơn đành phải tạm ngưng cuộc hàn huyên để cùng nhau lo việc lớn. Lục-Phỉ-Thanh hỏi Triệu-Bán-Sơn:

-Ngu huynh nhận thấy Tổng-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội như một thư-sinh mặt trắng môi son, tuổi chưa ngoài 20, hay nói đúng hơn trông chẳng khác gì một công tử tuấn tú phong lưu. Nhưng ngu huynh vẫn chẳng hiểu vì sao vị Tổng-Đà-Chủ trẻ tuổi này lại được toàn thể các đương gia, đều là những trang hào kiệt anh hùng đời nay, với bản lãnh và kinh nghiệm giang hồ đầy mình, trong đó có cả Vô-Trần Đạo-Nhân và hiền đệ, lại đem lòng ngưỡng mộ, mà kính phục đến như thế?

Triệu-Bán-Sơn đáp:

-Câu chuyện này dài dòng và khúc chiết lắm, không thể nào nói hết cho đại ca nghe được trong một sớm một chiều. Bây giờ đại ca hãy chuẩn bị đi rồi chúng ta đi dùng cơm trước khi lên đường đi Thiết-Đảm-Trang. Dọc đường, đệ sẽ nói rõ lý do cho đại ca hiểu.

Nghe nói vậy, Lục-Phỉ-Thanh không hỏi nữa. Nhưng càng lúc ông cảm thấy thân thế của vị Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội tên Trần-Gia-Cách kia thật quả là hết sức ly kỳ và bí ẩn...

Hồi 5b

Thiết Đảm Trang, rắp tâm lừa con trẻ

Vọng Nguyệt Đình, quyết chí bắt phạm nhân

Nhắc lại việc tiêu-sư Đổng-Triệu-Hòa, nhờ biết rõ hành tung của Văn-Thái-Lai và đường đi đến Thiết-Đảm-Trang nên được cử làm hướng đạo viên dẫn đường cho Trương-Siêu-Trọng cùng một số đông cao thủ triều đình với công tác phải bắt sống hay giết chết Văn-Thái-Lai cho kỳ được mới thôi.

Đổng-Triệu-Hòa lòng mừng hớn hở, tin rằng đã lập được một kỳ công vĩ đại, tất sẽ trả được thù riêng và sẽ được hưởng những giây phút khoái lạc bên mình ‘người yêu trong mộng’ là Lạc-Băng, người thiếu-phụ với nhan sắc kiều diễm mà hắn quyết chiếm đoạt cho bằng được với bất cứ giá nào.

Đổng-Triệu-Hòa đi trước dẫn đường. Trương-Siêu-Trọng đi sau dắt theo vài chục cao thủ với võ công trác tuyệt được vua Càn-Long tuyển chọn và tín nhiệm, sung vào Giám-Thị-Vệ và Ngự-lâm-Quân cùng gần cả chục tên bổ-đầu cùng bổ-khoái hữu danh khác. Không chút chậm trễ, Trương-Siêu-Trọng kéo binh mã theo ngã Thiết-Đảm-Trang đi thẳng...

Khi đến trước cửa ngõ vào Thiết-Đảm-Trang, Trương-Siêu-Trọng gọi một tên tráng đinh ra quát lớn, nói như ra lệnh:

-Tên kia! Mau vào trong gọi chủ nhân người ra đây mà đón rước các quan lớn của triều-đình, không được chậm trễ mà mang tội lớn.

Gã tráng đinh nhìn thấy đám người trước cửa ngõ người nào người nấy khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt thì biết ngay không phải là những người tầm thường. Nhất là sau khi nghe Trương-Siêu-Trọng bảo thế thì vội vàng ‘ba chân bốn cẳng’ chạy vào trong chứ không dám quay đầu lại mà hỏi một lời nào như lệnh trang chủ vẫn dặn rằng phải hỏi tên họ người đến Thiết-Đảm-Trang trước rồi mới vào bẩm báo sau.

Trương-Siêu-Trọng tuy là khâm-sai của vua Càn-Long, làm quan lớn của triều-đình Mãn-Thanh, võ nghệ siêu đẳng, uy danh lẫy lừng nhưng khi đến Thiết-Đảm-Trang cũng không dám khinh thường mà giở những hành vi lố lăng nên chỉ dừng ở ngoài mà gọi một tên tráng đinh ra mà truyền lệnh thôi. Nếu trường hợp là những nơi bình thường thì y đã bao vây, cho người xông thẳng vào bên trong lục soát rồi. Chẳng qua là vì thanh danh của Châu-Trọng-Anh quá lớn, được thiên-hạ gọi là Châu lão anh hùng, khắp nơi trên giang hồ, đâu đâu cũng kính phục. Do đó mà Trương-Siêu-Trọng cũng phải có vài phần nể nang, không dám ỷ vào thế khâm-sai triều-đình mà ngang tàng được. Huống hồ là việc này chưa biết chắc chắn ra sao, liệu Đổng-Triệu-Hòa báo tin có xác thực hay không? Bọn Văn-Thái-Lai còn ẩn trú trong sơn-trang hay là đã đi xa rồi? Nếu tìm không thấy khâm phạm trong đó thì không biết phải xử trí ra làm sao? Nghĩ đi nghĩ lại một hồi, Trương-Siêu-Trọng bỗng hối hận vì mấy câu nói hống hách vừa rồi với gã tráng đinh của Thiết-Đảm-Trang.

Châu-Trọng-Anh có chứa chấp khâm phạm hay không, Trương-Siêu-Trọng chưa dám chắc chắn. Mà cho dù có chứa chấp khâm-phạm đi chăng nữa, việc luận tội kia cũng không do Trương-Siêu-Trọng định đoạt mà phải chờ lệnh của vua Càn-Long. Vì vậy, cách tốt hơn hết, Trương-Siêu-Trọng thấy chỉ nên dùng lễ của một lãnh tụ Võ-Đang phái ra mắt một lãnh tụ của các võ phái miền Tây-Bắc mới đúng theo quy-tắc của ‘luật giang hồ’.

Nghĩ vậy, Trương-Siêu-Trọng liền thay đổi ngay thái độ. Y đến trước mặt một tráng đinh khác mang phận sự canh gác cửa ngõ dùng lời nhỏ nhẹ từ tốn nói:

-Xin nhờ đại ca vào trong nhà thưa giúp giùm một việc là có quan Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân cùng các vị khâm-sai ở đế đô nhân đi kinh lý sang vùng này có chút việc muốn thỉnh giáo cùng Châu lão anh hùng.

Trương-Siêu-Trọng nói xong liền đảo mắt liếc ra dấu cho bọn bổ đầu và bổ khoái. Bọn Ngô-Quốc-Đống hội ý khẽ gật đầu mấy cái nên khi tráng đinh này vừa quay gót đi vào trong thì hắn cũng dẫn tám tên bổ-khoái theo sát sau lưng. Ý Trương-Siêu-Trọng là đề phòng chuyện Văn-Thái-Lai cùng đồng bọn thoát ra cửa sau trốn kịp khi nghe có khâm sai đến. Trong trường hợp này, sẽ có Ngô-Quốc-Đống cùng tám tên bổ-khoái chặn lại ngay.

Mạnh-Kiện-Hùng đang ở trong phòng khách vừa nghe gã tráng đinh chạy vào thuật lại những điều mắt thấy tai nghe cùng những lời hống hách của Trương-Siêu-Trọng thì hiểu ngay những người này đến đây không ngoài mục đích try nã Văn-Thái-Lai.

Cẩn thận và tinh tế, Mạnh-Kiện-Hùng gọi Tống-Thiện-Bằng ra trước ngõ giả vờ tiếp đón niềm nở bọn Trương-Siêu-Trọng để tạm thời dùng kế hoãn binh, còn chàng thì tức tốc đích thân vào thẳng căn phòng rộng rãi và yên lặng nơi Văn-Thái-Lai đang nằm dưỡng bệnh. Mạnh-Kiện-Hùng kề tai Văn-Thái-Lai nói nhỏ rằng:

-Văn tứ gia! Hiện thời ngoài cửa Thiết-Đảm-Trang có một số ‘chó săn chim mồi’ của vua Càn-Long dưới sự chỉ huy của tên đại Hán gian Trương-Siêu-Trọng. Việc này gất rút lắm, không thể trình bày cặn kẽ cho Văn tứ gia được. Theo ý tiểu đệ thì không nên chống cự với bọn chúng làm gì cho bất lợi. Theo ý tiểu đệ thì tốt hơn hết, ba vị đương gia nên tạm lánh mặt để giữ cho mình được an toàn rồi sẽ tính sau.

Văn-Thái-Lai nghe nói khẽ gật đầu tán thành. Mạnh-Kiện-Hùng lập tức đưa ba người: Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng ra thẳng ngoài vườn hoa của Châu-Trọng-Anh. Tại đây có một căn phòng rất rộng rãi khang trang, mát mẻ mà Châu-Trọng-Anh thường dùng để ngắm hoa thưởng nguyệt, luyện tập võ công, và phú vịnh ngâm nga trong những lúc cao hứng nhàn rỗi...

Đó chỉ là bề ngoài để che mặt kẻ bàng quang. Bên trong là một cơ quan bí mật để Châu-Trọng-Anh bảo vệ cách nhà cách mạng bị truy nã đến nhờ ông ta khi cần thiết. Phía dưới nền nhà ấy là một cái hầm bí mật rộng rãi, sạch sẽ, đầy đủ tiện nghi, không thiếu gì các vật dụng.

Bốn người vừa đến nơi thì Dư-Ngư-Đồng hợp sức với Dư-Ngư-Đồng khiêng một cái bàn cẩm thạch lớn rất dày xê dịch ra khỏi nơi đó một chút, nhìn thấy phía dưới lộ ra một miếng sắt thật dày, được cột chặt bởi một sợi dây xích sắc dài dinh chặt vào. Mạnh-Kiện-Hùng và Dư-Ngư-Đồng cùng nắm sợi dây xích kéo, giở hổng miếng sắt lên. Thì ra đó là một miệng rộng rãi và kín đáo, mà miếng sắt chính là nắp dùng đậy lại. Mọi người liền theo miệng hang mà đi xuống hầm bí mật mà Mạnh-Kiện-Hùng gọi là địa huyệt.

Văn-Thái-Lai đứng nhìn Mạnh-Kiện-Hùng làm công việc này bất giác nổi giận hét to lên rằng:

-Ta Văn-Thái-Lai chẳng phải hạng người tham sống sợ chết đâu! Bình sinh, ta chưa bao giờ biết lui bước trước một nguy nan nào cả, cũng chưa bao giờ chịu hạ mình làm việc hèn hạ, lại càng không bao giờ biết khiếp sợ những đứa gian manh hung tàn, mặc kệ võ nghệ chúng có cao đến bậc nào cũng vậy. Nếu thấy việc phải sẽ làm ngay, gặp cường địch đương nhiên phải chống cự. Không lẽ giờ đây ta lại chịu khom lưng mà chui xuống cái lỗ này sao? Chui xuống để trốn cái chết mà bảo vệ tánh mạng mình à? Không, nhất định là không! Tuy hiện tại trong mình ta rất yếu, khí lực giảm suy, các vết thương chưa lành nhưng tinh thần ta vẫn sáng suốt, chí khí vẫn hiên ngang, còn đủ sức đánh với Trương-Siêu-Trọng cùng bè lũ ‘chó săn chim mồi’ của Càn-Long phái tới. Cứ để ta đánh với chúng một trận. Thà là ta chết còn hơn phải chui xuống cái lỗ này để cầu sống. Một khi ta chui xuống cái lỗ này rồi, tất cả anh-hùng trong thiên-hạ sẽ chê cười ta. Văn-Thái-Lai này làm việc minh minh bạch bạch, chẳng bao giờ núp trong bóng tối hoặc lợi dụng bóng tối mà hành động bao giờ!

Nghe lời nói khảng khái của Văn-Thái-Lai, Mạnh-Kiện-Hùng trong thâm tâm hết sức bội phục, lại càng không muốn cho vị Tứ đương-gia kia phải chết một cách oan uổng hay bị bắt bởi bọn ‘chó săn chim mồi’ của triều đình. Chàng cố lựa lời khéo mà khuyên Văn-Thái-Lai rằng:

-Tại hạ vẫn biết Văn tứ gia là bậc trượng-phu nghĩa khí trên đời này. Chính Châu sư-phụ dù chưa gặp mặt Văn tứ gia nhưng vẫn luôn khen ngợi và thán phục vì chính sư-phụ cũng là một đấng anh-hùng nghĩa khí như Văn tứ gia, coi cái chết nhẽ tựa lông hồng, xem việc thiện như ngọc ngà châu báu. Tuy nhiên đấng trượng phu ở đời cũng có khi co mà cũng có khi duỗi, không nên câu nệ những tiểu tiết làm hỏng việc lớn mà tổ quốc và dân tộc đang trông cậy vào mình. Như Văn tứ gia hiện thời đang mang thương tích nặng, không thể dùng sức mà đượng cự với bọn đầu trâu mặt ngựa cam tâm làm ưng khuyển cho kẻ thù thì việc bảo vệ cái thân hữu dụng của mình để gánh vác công việc lớn lao sau này cho dân cho nước thì đâu có phải là tham sống sợ chết! Xin Văn tứ gia tạm thời lánh nạn ở đây, tạm trú trong cái hầm bí mật này. Thử hỏi người anh-hùng nào khi thông suốt đại nghĩa lại có thể cười Văn tú gia được?

Văn-Thái-Lai nói:

-Tôi nhất định không chui xuống địa huyệt! Yêu cầu mạnh huynh mở cửa sau vườn hoa cho chúng tôi thoát ra khỏi nơi này!

Mạnh-Kiện-Hùng nói:

-Không thể được! Bọn ‘trâu chó’ của Càn-Long rất đông! Chắc chắn chúng đã chia nhau ra bao vây tứ phía và canh chừng nghiêm ngặt bên ngoài vườn hoa này rồi. Văn tứ gia có ra khỏi vườn hoa cũng không thoát hiểm được. Xin Văn tứ gia nhất thời nhịn nhục chờ đợi cơ hội khác mà diệt trừ bè lũ chúng chẳng hơn sao? ‘Quân tử phục thù, mười năm chưa muộn’. Cái kế vạn toàn hay nhất trong lúc này là tạm ẩn dưới hầm bí mật nơi đây.

Văn-Thái-Lai vẫn cương quyết nói:

-Không phải ý tôi muốn Mạnh huynh mở cửa sau vườn hoa cho chúng tôi thoát ra có nghĩa là chạy trốn bọn Trương-Siêu-Trọng đâu! Tôi biết chắc là chung quanh Thiết-Đảm-Trang hiện tại bọn ‘chó săn chim mồi’ đã bao vây chặt chẽ rồi, dẫu cho con kiến cũng không thể nào lọt ra được! Tôi muốn thoát ra là để tránh cho quý trang cái họa ‘chứa chấp khâm-phạm’ của triều-đình cho khỏi liên lụy đến Châu lão anh-hùng và toàn thể người vô tội tại Thiết-Đảm-Trang. Sau đó tôi sẽ công khai giao chiến với bọn trận, chết hay sống cũng chẳng có gì đáng kể. Hảo ý của Mạnh huynh tôi nguyện ghi nhớ mãi không bao giờ quên. Ngày sau nếu có duyên sẽ gặp lại. Thiết-Đảm-Trang mãi mãi là ân nhân và Mạnh huynh lúc nào cũng là hảo bằng hữu của tôi cũng như Hồng Hoa Hội. Thôi, chúng tôi xin cáo từ. Xin Mạnh huynh mau mở cửa ra đi!

Nói dứt lời, Văn-Thái-Lai đứng dậy toan bước ra thúc giục Mạnh-Kiện-Hùng mau mau mở cửa. Đang lúc đôi bên còn nói qua bàn lại thì bỗng nghe phía sau cánh cửa vườn hoa có tiếng đập phá ‘rầm rầm’ và tiếng gọi mở cửa vang lên inh ỏi. Ngoài ra, những tiếng động ồn ào ở phía trước càng lúc nghe càng rõ tựa như đang xảy ra một cuộc võ trang xung đột.

Một người cầm khí giới hùng hổ từ ngõ trước chạy thẳng ra phía vườn hoa bị người giữ cửa của Thiết-Đảm-Trang cương quyết cản ngăn lại. Hai bên cãi vả, xô đẩy nhau kịch liệt. Giữa lúc ấy thì một bọn ‘ tẩu cẩu’ theo chân Trương-Siêu-Trọng cũng vừa chạy đến.

Tống-Thiện-Bằng nhất định không để cho bọn Trương-Siêu-Trọng tự ý ra vườn hoa nên mặc dầu sức yếu vẫn liều mạng chận đứng cánh cửa lại không cho ai đi tới. Nếu lấy tài sức mà đọ thì có đến 10 người như Tống-Thiện-Bằng cũng không cản trở nổi bọn người của Trương-Siêu-Trọng, là những tay hảo thủ võ công siêu việt. Đó là chưa nói đến tài nghệ của viên Thống-Chế Ngự-lâm-Quân kia. Nhưng có lẽ nhờ vào uy danh của Châu-Trọng-Anh vang dậy khắp chốn gần xa nên bọn người kia tuy đông và mạnh nhưng vẫn chưa dám làm càn vì còn chờ xem thái độ dứt khoát của Trương-Siêu-Trọng ra sao đã.

Trương-Siêu-Trọng dù làm quan tam phẩm, thống lãnh đám ngự-lâm quân trong triều nhưng chưa hề dám coi thường uy danh của Thiết-Đảm trang chủ Châu-Trọng-Anh. Y luôn luôn cân nhắc điều lợi hại trước khi hành động. Vì không ngoan và thận trọng, Trương-Siêu-Trọng bắt buộc phải dùng chiến thuật ‘tiên lễ hậu binh’ để tránh những hậu quả đáng tiếc sau này nhiều được chừng nào hay chừng nấy.

Vào được bên trong Thiết-Đảm-Trang là xâm nhập vào gia cư của Châu-Trọng-Anh rồi. Vào đến đây cũng chẳng khác gì vào hổ huyệt và dù là vô tình hay cố ý thì cũng đã lâm vào thế cỡi cọp. Trương-Siêu-Trọng đã chạm đến danh dự cũng như sĩ diện của vị đệ nhất anh-hùng vùng Tây-Bắc và sẽ gây thêm nhiều sự công phẫn trong giới giang hồ.

Bản lãnh của Châu-Triệu-Anh, Trương-Siêu-Trọng chưa dám chắc đã thắng nổi. Ngoài ra, theo lời đồn đãi, biết đâu Thiết-Đảm-Trang còn có những cơ quan bí mật, khi vào thì dễ nhưng khi ra thì khó, dù trong tay có cả thiên binh vạn mã. Càng suy nghĩ, Trương-Siêu-Trọng càng trở nên thận trọng hơn, nhất là chính mắt y đã được nhìn thấy lối thiết kế dựng lên sơn trang, cách bố trí canh phòng cẩn mật thế nào ngay từ lúc mới đến.

Châu-Trọng-Anh hùng cứ nguyên một vùng Tây-Bắc rộng lớn mênh mông như một dải biên thùy. Tuy thần phục triều đình nhưng ông ta như làm chủ một cõi giang-san chẳng khác nào một lãnh chúa có khả năng huy động nhân lực, tài lực, vật lực dồi dào phản kháng chống lại nhà Mãn-Thanh. Muốn diệt trừ được Châu-Triệu-Anh thật không phải là một chuyện dễ.

Ngoài võ công trác tuyệt và thế lực dồi dào, Châu-Trọng-Anh còn là người túc trí đa mưu, với tài thao lược binh thư có thừa. Trương-Siêu-Trọng đã được nhìn thấy điều đó khi nhìn ra sự bố trí Thiết-Đảm-Trang kia như một Bát trận-đồ của Khổng-Minh đời Tam-Quốc. Rõ ràng Châu-Trọng-Anh muốn biến Thiết-Đảm-Trang của ông ta thành một cơ sở bền vững lâu dài...

Trương-Siêu-Trọng đắn đo suy nghĩ, sau cùng ôn tồn dịu giọng nói với Tống-Thiện-Bằng rằng:

-Chúng tôi vâng lệnh Hoàng-Đế đi công tác ngang qua đây, vì ngưỡng mộ đại danh Châu lão anh-hùng nên tiện đường vào bái kiến. Quý sơn-trang thật là một tòa dinh thự tráng lệ nguy nga chưa từng thấy tại bất cứ một nơi nào tại chốn biên ải này. Xin Tống bằng-hữu vui lòng dắt đi xem mọi nơi cho thỏa lòng hiếu kỳ ao ước bấy lâu nay.

Quả Trương-Siêu-Trọng hết sức khôn khéo. Y không đề cập gì đến chuyện đi điều tra bắt khâm-phạm mà lại nói rằng ý chỉ muốn thưởng thức qua các nơi mỹ lệ của Thiết-Đảm-Trang mà thôi.

Lúc bấy giờ Văn-Thái-Lai để ý nhìn xem, thấy Thiết-Đảm-Trang đã bị bao vây kín mít, trước sau đều có người của Trương-Siêu-Trọng canh giữ, không còn đường nào tẩu thoát được. Trước tình thế nguy ngập đó, Văn-Thái-Lai vẫn không thay đổi sắc mặt, dường như chẳng xem cường địch ra gì cả. Mạnh-Kiện-Hùng thấy sự việc quá khẩn cấp bèn năn nỉ Văn-Thái-Lai mau mau tạm lánh thân vào hầm bí mật.

Văn-Thái-Lai mặt mày đỏ tía tai, đôi mắt long lên sòng sọc như tức giận đến cực độ. Chàng không trả lời Mạnh-Kiện-Hùng mà rút đoản đao ra cầm sẵn trên tay như sẵn sàng chuẩn bị ứng chiến, lại xoay qua bảo Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng rằng:

-Hai em cứ bình tĩnh chứ không việc gì phải lo lắng hay khiếp sợ. Nếu chúng hành động chúng ta lập tức ra tay đối phó. Để tránh liên lụy đến người khác, hai em mau đưa ta ra cửa sau.

Cả hai người đều tỏ ý tán đồng ý kiến của Văn-Thái-Lai. Lạc-Băng đỡ vai trái của Văn-Thái-Lai dìu đi, còn Dư-Ngư-Đồng thì đi trước dẫn đường. Cả ba nhắm cửa sau vườn hoa đi thẳng. Bỗng nhiên Văn-Thái-Lai khẽ liếc nhìn gương mặt của Lạc-Băng, chợt thấy hai hàng nước mắt của người vợ yêu nhỏ xuống đầm đề. Nhìn những nét buồn chua xót hiện ra trên khuôn mặt trắng trẻo đầy đặn của Lạc-Băng làm cho gan ruột của Văn-Thái-Lai như muốn đứt ra từng khúc. Chàng xúc động quá, không nói năng được gì cả mà chỉ khẽ than thầm. Sau vài giây tư lự, Văn-Thái-Lai mới nghẹn ngào lên tiếng:

-Em lo sợ cho anh lắm phải không? Hay là chúng ta tạm lánh thân vào nơi địa huyệt nhé?

Lạc-Băng nghe chàng nói thế thì cũng hết sức cảm động. Nàng biết con người của Văn-Thái-Lai kia một đời tung hoành khắp nơi, sống oanh liệt chẳng xem cái chết ra gì cả. Thế mà giờ chàng đành lên tiếng cam tâm chịu nhịn nhục mà làm một việc trái ngược hẳn với ý chí can trường kia thì đủ hiểu chàng yêu thương, quý mến nàng đến bực nào rồi.

Mạnh-Kiện-Hùng nghe Văn-Thái-Lai vì muốn chiều lòng Lạc-Băng mà chịu trú thân lánh nạn vào trong địa huyệt thì trong lòng không xiết. Chàng vốn không muốn Văn-Thái-Lai phải liều mạng chết uổng nhưng lại không dám nói gì thêm nữa, nãy giờ chỉ biết riu ríu đi theo sau, chuẩn bị tiếp tay bất cứ lúc nào cho người anh-hùng mà chàng đã thầm cảm phục dù chỉ mới gặp lần đầu. Mạnh-Kiện-Hùng cũng là bậc trượng phu hiếm có trên đời. Chàng thầm quyết định rằng nếu cần sẽ sẵn sàng đem sinh mạng ra hy sinh để bảo vệ Văn-Thái-Lai đến cùng...

Không chậm trễ một giây nào, Mạnh-Kiện-Hùng dẫn cả ba người trở lại căn phòng tại vườn hoa rồi lần lượt đưa xuống hầm bí mật. Sau đó chàng hợp sức với ba gã tráng đinh mạnh khỏe lấp miệng hầm lại che kín như cũ.

Khi ấy, Châu-Anh-Kiệt không biết từ đâu chạy vội tới, cũng hăng hái giúp một tay. Mạnh-Kiện-Hùng thấy Châu-Anh-Kiệt tham gia vào việc này thì không khỏi lo lắng vì trẻ nít thường hay lẻo mồm lẻo mép dễ làm lộ bí mật. Nhưng chuyện đã lỡ, không còn cách nào ngăn ngừa kịp được nữa. Nó đã nhìn thấy và biết hết tất cả mọi việc.

Có một điều làm cho Mạnh-Kiện-Hùng cảm thấy an tâm đôi phần là chàng biết rằng Châu-Anh-Kiệt rất thông minh lanh lợi tuy rằng còn nhỏ tuổi. Nay gặp việc trọng đại có quan hệ đến gia đình nó không ít, chàng tin tưởng nó dư sức hiểu được mà không hó hé điều gì cả.

Sau khi đưa ba đương-gia của Hồng Hoa Hội xuống hầm bí mật, Mạnh-Kiện-Hùng bảo Châu-Anh-Kiệt cùng ba gã tráng đinh đi xa nơi khác, lại dặn dò thật kỹ là đừng bén mảng tới làm gì, mà ai hỏi gì cũng ‘không biết’. Sắp xếp đâu ra đó xong xuôi, chàng cũng bước ra khỏi nơi ấy thì vừa vặn gặp Ngô-Quốc-Đống dẫn mấy tên bổ-khoái ra canh giữ cửa sai vườn hoa. Mạnh-Kiện-Hùng mừng thầm trong bụng, mỉm cười nói một mình:

-Khi nãy thì ta lo cho Văn tứ gia không thoát khỏi được bẫy của đám ‘đầu trâu mặt ngựa’ chúng bây. Nhưng bây giờ thì cho chúng bây tha hồ mà tìm kiếm! Tìm kiếm có ra hay không cũng đố chúng bây ra khỏi được Thiết-Đảm-Trang này! Chờ đến khi Châu sư-phụ của ta về đến thì cứ liệu hồn mà chối!

Mạnh-Kiện-Hùng sau đó không thèm quan tâm tới bọn Ngô-Quốc-Đống nữa mà chỉ còn đề phòng bọn Trương-Siêu-Trọng mà thôi.

Trương-Siêu-Trọng dùng lời nói không ngoan lễ phép yêu cầu Tống-Thiện-Bằng đưa hắn đi xem những nơi mỹ lệ của Thiết-Đảm-Trang chứ không tỏ một thái độ hay một hành động sỗ sàng nào. Vì thế, Tống-Thiện-Bằng chẳng biết phải làm sao đành phải dẫn bọn chúng ra thăm hoa viên. Nhưng Tống-Thiện-Bằng cũng hết sức khôn khéo, cố kéo dài thì giờ cầm chân đám người Trương-Siêu-Trọng để dùng kế hoãn binh cho Mạnh-Kiện-Hùng có đủ thì giờ dấu Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng, Dư-Ngư-Đồng, ba người dưới hầm bí mật kín đáo. Cho dù Trương-Siêu-Trọng ra hoa-viên đi chăng nữa, y cũng không biết đàng nào mà mò.

Nhìn thấy bọn Trương-Siêu-Trọng một bầy đi theo Tống-Thiện-Bằng ra hoa-viên (#1), Mạnh-Kiện-Hùng làm bộ xăn xái bước ra đón tiếp. Nhìn thấy trong đám người có Đổng-Triệu-Hòa, Mạnh-Kiện-Hùng lạnh lùng nhìn hắn bằng cặp mắt khinh khi, nói bằng một giọng châm biếm:

-Chắc vị này cũng là một quan khâm-sai của triều-đình đấy phải không? Tôi không biết rõ nên thành ra đã thất kính!

Đổng-Triệu-Hòa sượng sùng đỏ cả mặt, thẹn thùng nói:

-Tôi chỉ là một tiêu-sư tầm thường của Trấn-Viễn tiêu-cục, làm sao dám mạo nhận là quan khâm-sai? Huynh đài lầm rồi đó.

Dứt lời, hắn lại quay qua Trương-Siêu-Trọng nói rằng:

-Thưa Trương đại-nhân! Chính mắt tôi được trông thấy rõ ràng khâm-phạm trốn ở trong này. Xin đại-nhân cứ việc hạ lệnh cho lục soát.

Tống-Thiện-Bằng nhìn Đổng-Triệu-Hòa cười gằn nói:

-Lời của tiêu-sư thật là sai lầm! Thiết-Đảm-Trang chúng tôi đây chỉ biết thủ thân an phận, luôn luôn tuân theo pháp luật. Châu lão trang chủ của chúng tôi lại là một nhân sĩ có danh vọng ở vùng này, lại vừa có cả nhà cửa lẫn sản nghiệp, lẽ nào lại chứa chấp khâm-phạm của triều-đình?

Dứt lời, Tống-Thiện-Bằng dùng ngón tay chỉ vào Đổng-Triệu-Hòa nói:

-Chẳng hiểu vì sao vị tiêu-sư này lại có ác ý vu oan giá họa cho chúng tôi, muốn cho chúng tôi bị ‘toàn gia tru lục’ hay sao đây? Mong rằng các quan khâm-sai đừng nên nghe những lời nói vô căn cứ ‘ngậm máu phun người’ đó làm gì!

Sở dĩ Tống-Thiện-Bằng dám dẫn bọn Trương-Siêu-Trọng vào vườn hoa này vì thấy vắng mặt mấy người Hồng Hoa Hội, lại thấy Mạnh-Kiện-Hùng ra vẻ thản nhiên nên đoán biết các đương-gia có lẽ đã trốn dưới địa huyệt an toàn rồi nên mới dám ‘lớn lối’ quả quyết như vậy.

Mạnh-Kiện-Hùng giả vờ như chẳng hay biết gì cả, lễ phép hỏi Trương-Siêu-Trọng:

-Chẳng hay công việc ấy thế nào mà chúng tôi chưa được rõ? Dám xin quan khâm-sai chỉ giáo cho.

Trương-Siêu-Trọng cười ‘hì hì’ đáp lại rằng:

-Hồng Hoa Hội là một đảng cách mạng ở Giang-Nam, nay lên vùng Tây-Bắn này hoạt động. Hành tung của chúng chẳng may bị Đổng đại huynh phát giác nên báo cho tôi hay. Chỉ có thế thôi!

Tuy nói vậy nhưng Trương-Siêu-Trọng và đồng bọn vốn là những tay lịch lãm, từng trải giang-hồ nên ai nấy đều biết chắc được Văn-Thái-Lai thế nào cũng có mặt tại đây chứ chưa thoát ra ngoài vườn hoa hay đi đâu cả, cho dù Tống-Thiện-Bằng nói lời đanh thép quả quyết rằng Văn-Thái-Lai không có mặt tại Thiết-Đảm-Trang này và Mạnh-Kiện-Hùng với sắc mặt tự nhiên như giá tuồng như không biết đầu đuôi câu chuyện ra sao cả (#2). Trương-Siêu-Trọng cũng tin rằng lời tố giác của Đổng-Triệu-Hòa là có căn cứ vững chắc chứ không phải vô cớ cáo gian cho Thiết-Đảm-Trang chứa chấp khâm-phạm triều-đình. Y vẫn giữ thái độ tự nhiên như ra vẻ rất thích ngắm cảnh đẹp nơi vườn hoa như những tao nhân mặc khách nhưng sự thật là để ý dò xét, cương quyết tìm cho ra được Văn-Thái-Lai chứ không vì một lý do nào mà bỏ dở việc truy nã khâm-phạm của mình. Hơn nữa, dù có muốn bỏ qua công việc đi chăng nữa cũng không xong. Cái thế ‘cỡi lưng cọp’ của Trương-Siêu-Trọng thật không đơn giản chút nào. Xuống thì bị cọp ăn thịt, nhưng cứ ở mãi trên lưng nó thì biết bao giờ mới thoát được! Chỉ còn mỗi một cách là mặc nó dẫn đến đâu thì đến.

Nếu tìm được Văn-Thái-Lai thì chẳng nói làm gì, nhưng nếu không tìm được mới là điều nan giải cho Trương-Siêu-Trọng. Cả hai mặt pháp lý cũng như giao tế, Trương-Siêu-Trọng sẽ phải gánh lấy một hậu quả khó mà lường được. Chắc chắn Châu-Trọng-Anh sẽ không bao giờ bỏ qua việc này. Trương-Siêu-Trọng sẽ phải mang tiếng là gây hấn, tìm cách vu khống cho một nhân vật uy tín, tên tuổi lừng lẫy trên giang hồ. Trương-Siêu-Trọng vừa mất uy tín với triều đình là làm không được việc lại vừa gây thù oán với họ Châu cùng với rất nhiều võ lâm đồng đạo của ông ta. Luật giang hồ là một điều luật rất thiêng liêng, dù không viết ra giấy, soạn thành sách hay bắt buộc ai phải theo nhưng phàm là người đi lại đây đó đều phải hiểu rõ mà liệu đường biết cư xử.

Trong lúc Trương-Siêu-Trọng còn đang nặn óc, đắn đo do dự đủ điều tấn thối lưỡng nan thì Đổng-Triệu-Hòa nghĩ bụng rằng:

-“Nếu phen này mà không bắt được Văn-Thái-Lai mà giải về triều-đình thì chẳng những bị Trương-Siêu-Trọng quở trách mà bao nhiêu công lao của mình kể cũng như dã tràng xe cát biển Đông mà thôi!”

Cặp mắt cú vọ của hắn chớp vài cái đã nghĩ ngay được một độc kế. Y hứng chí tự nhủ thầm:

-“Xưa nay tục ngữ có câu ‘đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ’. Tại sao ta không tìm con nít mà khai thác chứ?”

Đổng-Triệu-Hòa chợt nhớ ra là hắn bị một đứa con nít rượt theo dùng một thế võ tuyệt kỹ bắt hắn lại dễ dàng. Hắn chắc chắn đó là con của Châu-Trọng-Anh. Nếu làm cách nào dùng lời ngon ngọt dụ dỗ được nó ắt nó sẽ khai ra hết, không bằng cách này thì cách nọ. Kinh-nghiệm đã cho thấy, bí mật nào để cho con nít biết được rồi thì không sớm thì muộn cũng sẽ bị lộ ra. Đã có bao nhiêu vụ tan cửa nát nhà chỉ vì miệng lưỡi không kín đáo của con cháu trong nhà gây ra. Con nít dù có khôn ngoan lanh lợi đến thế nào rốt cuộc, cũng vẫn chỉ là con nít mà thôi, khó lòng mà qua được mánh khóe của người lớn. Nhất lại là một kẻ mưu mô xảo quyệt như Đổng-Triệu-Hòa! Tên tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục nghĩ mà đắc ý, tự cho mình là đa mưu túc trí ít ai sánh kịp. Hắn tự nhủ thầm:

-“Đứa trẻ ấy đã tham dự vào việc đuổi bắt mình ắt hẳn cũng biết rõ nhà nó có những người lạ mặt đến ở. Trong khi Trương-Siêu-Trọng đi theo Tống-Thiện-Bằng, rất có thể Mạnh-Kiện-Hùng dẫn đám người Hồng Hoa Hội ra hoa-viên giấu kín. Lúc đó làm gì có mặt đứa trẻ này? Vậy thì nó đi đâu nếu không phải cũng theo Mạnh-Kiện-Hùng ra hoa-viên? Mà đã ra hoa-viên tất nhiên nó phải biết chỗ bọn Văn-Thái-Lai ẩn núp. Cứ theo đường này mà suy hẳn sẽ ra ngay.”

Nghĩ xong được kế, Đổng-Triệu-Hòa mừng khấp khởi. Thấy Châu-Anh-Kiệt lãng vãng bên ngoài Mẫu-Đơn-Đình, Đổng-Triệu-Hòa bèn chạy đến nắm tay nó ra vẻ thân mật lắm. Nhưng Châu-Anh-Kiệt vừa trông thấy mặt Đổng-Triệu-Hòa là thấy không ưa ngay và nhận ra được hắn là một tên bất lương khả ố, có gương mặt khó thương và có hành động đáng ghét. Điều trước tiên hiện ra trong đầu Châu-Anh-Kiệt là con người Đổng-Triệu-Hòa không tốt vì tên này đã bị chính nó đuổi bắt tên, và bị Mạnh-Kiện-Hùng đuổi ra khỏi nhà. Nó lại thắc mắc không hiểu vì sao Đổng-Triệu-Hòa còn đến đây làm gì?

Tuy nhỏ tuổi nhưng Châu-Anh-Kiệt cũng đã có được một ít kiến thức biết xét đoán nên khi Đổng-Triệu-Hòa chạy đến nắm tay liền bị nó giựt một cái mạnh và sẵn trớn kèm theo một quyền. May cho Đổng-Triệu-Hòa đã đề phòng trước nên tinh ý lách qua một bên tránh khỏi được. Mục kích đường quyền lợi hại của Châu-Anh-Kiệt, ngay cả Trương-Siêu-Trọng cũng phải kinh khiếp vì không ngờ rành một đứa trẻ thơ nhỏ tuổi như vậy mà lại có được bản lãnh siêu việt đến thế kia!

Châu-Anh-Kiệt mắt lườm Đổng-Triệu-Hòa rồi thốt lên một câu khinh khi, đầy ác cảm rằng:

-Ê lão tặc! Bộ chưa tởn mặt hay sao mà còn đến đây sinh sự nữa? Coi chừng phen này không có mạng mà về đâu đấy nhé!

Đổng-Triệu-Hòa bẽn lẽn gượng cười đáp:

-Này tiểu huynh đệ! Lần này tôi tới nhà cậu không phải định sinh sự với cậu đâu mà là vì có ý tốt với gia đình cậu đó. Cậu đừng hiểu lầm mà oán ghét tôi!

Châu-Anh-Kiệt nghe Đổng-Triệu-Hòa nói, tỏ vẻ ngạc nhiên bèn hỏi:

-Lão tặc có ý tốt gì nói nghe thử? Nếu đúng thì ta sẵn sàng mời vào nhà dùng cơm nước hẳn hoi, khi về có tiền lộ phí đưa chân. Còn như nói không thông thì coi chừng ngọn cước này đá cho ngươi một đá thì chỉ có nước về âm phủ mà chầu ông bà đấy!

Đổng-Triệu-Hòa tươi hẳn nét mặt. Y dịu giọng hỏi:

-Tôi có ba người bạn rất thân đi đến nhà tiểu huynh đệ chơi. Hiện nay không biết họ ở đâu, mong cậu chỉ giùm. Đền đáp lại, cậu muốn gì tôi cũng tặng cho chứ không hề tiếc của. Đây, tôi tặn cậu trước vài nén bạc để cậu tùy ý mua đồ chơi, tạm gọi là lễ sơ kiến. Sau khi được gặp mặt ba người bạn của tôi rồi ắt sẽ còn nhiều món đồ chơi khác tặng cho cậu nữa.

Dứt lời, Đổng-Triệu-Hòa móc túi lấy ra hai nén bạc đưa cho Châu-Anh-Kiệt. Hắn nghĩ rằng con nít thấy tiền bạc thì tham, chắc chắn sẽ vui vẻ cầm lấy. Sau đó hắn tha hồ, muốn hỏi gì mà lại không được.

Chẳng ngờ Châu-Anh-Kiệt sau khi cầm hai nén bạc bỗng xuất kỳ bất ý liệng ngay vào mặt Đổng-Triệu-Hòa. Tên tiêu-sư vốn luôn luôn đề phòng trước nên cúi rạp đầu xuống tránh được, nhưng cũng một phen hú hồn vì nếu lỡ bị trúng phải ắt vỡ mặt như chơi chứ chẳng phải chuyện đùa.

Nư giận chưa nguôi, Châu-Anh-Kiệt quắc mắt nhìn Đổng-Triệu-Hòa nói:

-Lão tặc nghĩ ta là hạng người gì mà dám đem vật ngoại thân ấy để mua chuộc lương tâm của ta chứ? Phúc của lão tặc còn lớn nếu không thì cái bản mặt của ngươi đã nát ra với hai nén bạc kia rồi! Nhưng lão tặc ngươi coi chừng đó, lần sau ta sẽ cho một bài học đích đáng nếu còn thái độ khinh khi ta như thế nữa. Này, nói cho lão tặc biết! Cha ta là Châu-Trọng-Anh, chủ nhân của Thiết-Đảm-Trang này, vừa giàu có lại vừa không thiếu danh vọng, khắp nơi thiên-hạ đều biết? Cha ta xem nhân nghĩa như châu báu, thị (#3) tiền bạc như rơm rác, chỉ có lấy của giúp người chứ chưa bao giờ ngửa tay ra nhận lãnh của ai. Lão tặc ngươi đến đây định thị tiền với ta sao? Đồng tiền nhơ bẩn của ngươi, Châu-Anh-Kiệt này không thèm ngó tới chứ đừng nói là cầm vào tay! Đồ đê tiện!

Đổng-Triệu-Hòa định dùng đồng tiền mua chuộc lòng trẻ thơ, không dè lại bị trẻ thơ làm nhục cho một trận đến nỗi thẹn thùng đỏ hết cả mặt mày. Giá mà ăn tươi nuốt sống được Châu-Anh-Kiệt lúc này, chắc chắn Đổng-Triệu-Hòa sẽ không chờ đợi ai phải mời. Nhưng vì đã được biết qua bản lãnh của đứa trẻ này thế nào rồi cho nên Đổng-Triệu-Hòa hiểu rõ nếu lôi thôi thì chỉ mang nhục thêm mà thôi chứ chẳng ích lợi gì. Nghĩ vậy, hắn bèn nén cơn giận làm lành, vừa cười vừa nói:

-Có gì mà tiểu huynh đệ lại giận dữ vậy? Lão Đổng chỉ tỏ thiện ý làm quen chứ có phải ‘thị tiền’ với cậu đâu?

Châu-Anh-Kiệt lại nói:

-Cái bản mặt vô liêm sỉ của ngươi hỏi có ai thèm làm quen kia chứ?

Khi Mạnh-Kiện-Hùng thấy Đổng-Triệu-Hòa chạy ra Mẫu-Đơn-Đình định o bế gây cảm tình với Châu-Anh-Kiệt thì trong lòng chàng hết sức lo lắng và hồi hộp. Tuy biết rõ Châu-Anh-Kiệt là một đứa trẻ khác thường nhưng chắc chắn không làm sao quỷ quyệt mánh lới bằng Đổng-Triệu-Hòa được. Nếu chẳng may Châu-Anh-Kiệt hớ hênh một câu thôi cũng đủ gây rắc rối cho Văn-Thái-Lai ngay, đồng thời còn liên lụy đến tất cả người trong Thiết-Đảm-Trang nữa.

Đang lúc chưa biết nghĩ được cách nào ngăn lại thì lại được nghe những lời nói hùng hồn và thái độ cứng rắn của Châu-Anh-Kiệt nên Mạnh-Kiện-Hùng mới thấy vững dạ an lòng được. Nhưng chàng bắt đầu nơm nớp lo sợ vì biết chắc Đổng-Triệu-Hòa sẽ không ngừng khai thác Châu-Anh-Kiệt để đạt được mục đích của hắn.

Còn Trương-Siêu-Trọng và đồng bọn thì đều rất đỗi ngạc nhiên, không ngờ một cậu bé con như thế ấy mà tính khí lại can cường, thái độ ngang nhiên, võ công tuyệt vời đến độ một tiêu-sư từng trải giang hồ, đầy đủ mánh khóe mà vẫn không làm sao áp đảo được. Trương-Siêu-Trọng nghĩ thầm:

-Một đứa trẻ như Châu-Anh-Kiệt mà còn lợi hại đến thế huống hồ là Tống-Thiện-Bằng và Mạnh-Kiện-Hùng. Cứ theo đó mà suy thì cũng đủ hiểu Châu-Trọng-Anh còn ghê gớm đến thế nào! Tình hình như vậy coi bộ muốn tìm ra được Văn-Thái-Lai thật không phải là một chuyện dễ dàng!

Về phần Đổng-Triệu-Hòa, hắn không vì bị Châu-Anh-Kiệt làm nhục mà nản chí. Hắn thần nghĩ:

-“Thỉnh tướng không bằng khích tướng. Đúng, ta cứ thế mà làm!”

Nghĩ đoạn, Đổng-Triệu-Hòa bèn đổi chiến thuật nói:

-Này tiểu huynh đệ! Ba người khách nhà cậu đó là bạn thân của chúng tôi. Họ là những người có tên tuổi lừng lẫy trong giới giang hồ, chưa chắc gì Châu lão anh-hùng đã được hân hạnh biết mặt khi họ đến đây. Như vậy họ đâu phải là bằng hữu gì với Châu-Trọng-Anh, thân phụ của cậu? Có đứng vậy không?

Châu-Anh-Kiệt bèn phun một bãi nước miếng vào mặt Đổng-Triệu-Hòa. Lần này hắn tránh không kịp nên lãnh nguyên bãi nước bọt ấy vào giữa mặt, bèn kéo vạt áo lên chùi. Châu-Anh-Kiệt lại cười khinh bỉ nói:

-Bọn chúng bây là một lũ ‘tẩu cẩu’ hết cả thảy! Có ai là bằng hữu với các ngươi đâu! Thân phụ ta khắp một vùng Tây-Bắc này có thiếu chi là bạn bè thân thiết? Phàm những bậc anh-hùng hào kiệt trong thiên-hạ có dịp đi ngang qua đây đều ghé lại viếng thăm. Những người ấy quyết không phải là bằng hữu của các ngươi!

Mạnh-Kiện-Hùng nghe Châu-Anh-Kiệt nói hơi lố, sợ làm lộ bí mật ra định cản lại nhưng không kịp, lại nghe đứa con trai của sư-phụ chàng nói tiếp:

-Nhà ta chỉ tiếp những anh-hùng hào kiệt nên ngày nào cũng có khách quý đến rồi đi, đi rồi đến, chẳng biết con số là bao nhiêu mà đếm. Như vậy những người đến nhà ta hẳn không phải là bằng hữu của các ngươi rồi! Đừng lôi thôi nữa, vô ích!

Mạnh-Kiện-Hùng và Tống-Thiện-Bằng bấy giờ mới thở được một hơi khoan khoái nhẹ nhõm vì lời nói của Châu-Anh-Kiệt đã hùng hồn lại không ngoan kín đáo.

Đổng-Triệu-Hòa vẫn chưa chịu thua, lại tiếp tục tấn công bằng một câu nói khác nữa:

-Cậu có giấu kỹ ba người bạn thân thiết của chúng ta cũng không làm sao mà giấu được lâu dài được! Chúng ta sẽ cương quyết tìm kiếm cho ra. Khi ấy, trước mặt họ, cậu mới thấy đó là những người bạn thân của chúng ta chứ không quen biết gì về Châu lão anh-hùng cả. Nhưng tôi phải nói thật cho cậu biết điều này nữa là một khi chúng tôi tìm ra ba người ấy rồi thì tất nhiên cha mẹ cậu và luôn cả cậu nữa cũng bị tôi lột mặt nạ ra cho mà coi! Tại sao dám giữ ba người bạn thân của chúng tôi? Có phải là để âm mưu làm hại họ không?

Châu-Anh-Kiệt vừa nóng tính, vừa hăng máu không kém gì Châu-Trọng-Anh nên khi nghe Đổng-Triệu-Hòa nói chạm đến danh dự thân phụ mình bằng một giọng hách dịch thì đùng đùng nổi giận, liền trợn hai mắt hét lên rằng:

-Hỡi cái tên khốn kiếp! Ngươi dám đến đây làm phách hả? Ta bảo cho ngươi biết rằng thân phụ ta là Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh chưa hề biết sợ ai dưới vòm trời này cả!

Tiếp theo lời nói là cánh tay, Châu-Anh-Kiệt nhảy tới tung một quyền hết sức lợi hại ngay mặt Đổng-Triệu-Hòa. Trương-Siêu-Trọng đứng đó thấy Đổng-Triệu-Hòa luống cuống như khó bề chống đỡ nổi liền dùng bàn tay lên chặn đứng quyền của Châu-Anh-Kiệt lại, cứu nguy cho gã tiêu-sư. Châu-Anh-Kiệt cảm tưởng như tay mình chạm vào gang thép làm ê ẩm cả gân liền rút tay về liền. Trương-Siêu-Trọng cũng ngầm kinh hãi, không ngờ quyền của Châu-Anh-Kiệt lại có khí lực mạnh mẽ đến thế. Chính y cũng cảm thấy tay mình là đe, còn tay Châu-Anh-Kiệt là búa. Trương-Siêu-Trọng trong bụng bảo thầm:

-“Nó lợi hại như thế thảo nào Đổng-Triệu-Hòa thấy mặt nó là chạy mặt như gà gặp diều hâu. Lại bao phen bị nó làm nhục mà Đổng-Triệu-Hòa đành nhịn mà không dám tác sắc thị oai.”

Thấy Đổng-Triệu-Hòa vô kế khả thi (#4) trước Châu-Anh-Kiệt thì Trương-Siêu-Trọng lại nghĩ:

-“Hay là ta thử đóng vai trò như Đổng-Triệu-Hòa thử xem có khuất phục được thằng nhỏ này không?”

Nghĩ đoạn, Trương-Siêu-Trọng ra dấu bảo Đổng-Triệu-Hòa lui ra. Rút kinh nghiệm, Trương-Siêu-Trọng nhận thấy mình phải tỏ ra là một người đứng đắn đạo mạo để tạo ra ấn tượng tốt cho Châu-Anh-Kiệt trước mới mong được thằng bé kính nể và có chút hảo cảm, sau đó mới dùng mánh lới xảo quyệt sau chứ không thể lất kha lất khất như Đổng-Triệu-Hòa được.

Châu-Anh-Kiệt sau khi bị Trương-Siêu-Trọng dùng tay gạt quyền đỡ cho Đổng-Triệu-Hòa lập tức biết rõ đây là một nhân vật cừ khôi thuộc chứ không phải thứ tầm thường như Đổng-Triệu-Hòa nên cũng có ý kiêng nể và e dè. Nhìn kỹ gương mặt Trương-Siêu-Trọng, Châu-Anh-Kiệt thấy mi thanh mục tú, oai phong lẫm liệt, cử chỉ nghiêm trang. Cậu ta thầm nghĩ đây là một nhân vật siêu phàm, tài nghệ quán chúng, đồng đẳng với thân phụ mình nên bỏ hẳn thái độ khinh nhờn đối với Đổng-Triệu-Hòa khi nãy.

Trương-Siêu-Trọng ngoài bản lãnh siêu quần còn là người tinh tế, túc trí đa mưu, từng trải việc đời nên rất sành tâm lý nhân gian. Vì vậy chỉ cần nhìn thoáng qua là biết ngay Châu-Anh-Kiệt vừa kính nể, vừa có cảm tình với mình rồi. Và chính ngay bản thân Trương-Siêu-Trọng cũng không dám coi thường đứa bé này. Sau khi được nhìn thấy cách đối phó can cường, linh mẫn của Châu-Anh-Kiệt với Đổng-Triệu-Hòa, Trương-Siêu-Trọng biết nó là một đứa con nít biết trọng danh dự, không ham tiền bạc. Đối với một đứa trẻ như vậy mà chạm đến tự ái của nó ắt sẽ bị nó chống cự lại ngay. Muốn chinh phục nó, trước tiên phải chiều nó, làm cho nó vừa lòng trước đã. Suy nghĩ một hồi, Trương-Siêu-Trọng bèn thò tay vào trong túi lấy ra một vật hình chữ nhật làm bằng vàng, dài độ một tấc, bề ngang chừng năm phân. Mặt trước là một vật sáng ngời trong như thủy tinh, hình tròn. Mặt sau là hình tượng hai con rồng đang ghìm nhau được chạm trổ rất tinh vi. Đuôi và mình rồng ở mặt sau nhưng đầu rồng uốn khúc ra mặt trước nên trông giống hệt như là ‘lưỡng long tranh châu’ (#5). Đây là một bảo vật quý giá gọi là Thiên-Lý-Cảnh. (#6)

Cầm Thiên-Lý-Cảnh trong tay, Trương-Siêu-Trọng soi qua soi lại với vẻ thích thú, cốt ý để cho Châu-Anh-Kiệt trông thấy. Trương-Siêu-Trọng nghĩ rằng ‘món đồ chơi’ mới lạ này thế nào cũng gây được sự chú ý của Châu-Anh-Kiệt và có thể dùng vật này dụ cậu bé tiết lộ ra hết tung tích của bọn Văn-Thái-Lai.

Nguyên báu vật Thiên-Lý-Cảnh này không phải do Trương-Siêu-Trọng mua mà có được. Xuất xứ của nó là do từ một đại thương gia ở Âu-Châu đem biếu cho vị Tổng Thủ-Lãnh Ngự-Lâm Quân của Thanh-Đế Càn-Long là Thân-Vương Phúc-An-Khang làm lễ tương kiến, với mục đích nhờ vận động với triều đình Mãn-Thanh để vào được thị-trường Trung-Quốc mà kinh doanh buôn bán.

Công dụng của vật Thiên-Lý-Cảnh này thật không phải nhỏ vì nhờ nó mà Phúc-An-Khang tìm bắt được nhiều phạm nhân lẫn trốn ngoài vòng pháp luật. Hễ biết phạm nhâm trốn ở đâu chỉ việc rọi Thiên-Lý-Cảnh vào ngay chỗ đó là hình ảnh phạm nhân hiện rõ trên mặt ống kính. Thân-Vương Phúc-An-Khang là một nhân vật nhất, được vua Càn-Long tin dùng nên mới giao cho chức Tổng-Thủ-Lãnh Ngự-Lâm-Quân. Trương-Siêu-Trọng làm chức Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân là trực tiếp đặt dưới quyền chỉ huy điều khiển của Phúc-An-Khang.

Thấy Trương-Siêu-Trọng võ nghệ siêu đẳng lại tận tụy trung thành nên được Phúc-An-Khang xem là tay chân đắc lực; những việc bí mật đến thế cũng nói cho nghe; những của lạ quý báu đến thế nào cũng ban thưởng cho, hết lòng mua chuộc. Cũng vì vậy mà Trương-Siêu-Trọng hy sinh danh dự và sẵn sàng luôn cả tánh mạng để cam tâm làm ‘chó săn chim mồi’.

Trách nhiệm của Ngự-Lâm-Quân là bảo vệ ngai vàng cho vua, nhưng mục đích chính của Phúc-An-Khang là bắt sống cho được Văn-Thái-Lai đem về dâng nạp, nói riêng; tiêu diệt Hồng Hoa Hội, nói chung. Những công tác quan trọng này Phúc-An-Khang hoàn toàn phó thác cho Trương-Siêu-Trọng.

Lúc Trương-Siêu-Trọng khởi hành công tác đi lùng bắt Văn-Thái-Lai, Phúc-An-Khang làm tiệc thết đãi, tặng cho bảo vật Thiên-Lý-Cảnh này, đồng thời tiễn chân ra tận Tây-Môn. Phúc-An-Khang không quên dặn dò Trương-Siêu-Trọng rằng bằng mọi giá phải bắt cho kỳ được Văn-Thái-Lai càng sớm càng tồt vì đó là nhân vật trọng yếu của Hồng Hoa Hội mà Thanh-Đế cần gặp mặt và đừng để khâm-phạm chạy thoát vào An-Tây.

Trương-Siêu-Trọng tuân mệnh ra đi, trong lòng ôm ấp hoài bão là nếu hoàn thành được sứ mệnh ắt đường công danh sẽ đạt được mức tột đỉnh, có nhiều triển vọng sẽ lên được hàng ‘võ quan nhất phẩm’...

Trước cặp mắt háo hức và thèm thuồng của Châu-Anh-Kiệt, Trương-Siêu-Trọng cầm Thiên-Lý-Cảnh qua về phía các đỉnh núi xa xa, ghé mắt vào nhìn rồi xuýt xoa khen ngợi...

Bỗng nhiên, Trương-Siêu-Trọng ngừng lại, quay sang phía Châu-Anh-Kiệt nói:

-Đây là một báu vật hiếm có trong đời. Những vật ở đàng xa mà ta chỉ thấy được lờ mờ, nhưng khi dùng Thiên-Lý-Cảnh mà xem thì mọi vật như hiện ra ở trước mặt ta vậy. Cậu không tin thử nhìn xem cho biết rõ hư thực.

Dứt lời, Trương-Siêu-Trọng đưa Thiên-Lý-Cảnh cho Châu-Anh-Kiệt xem. Con nít thì ai không thích vật lạ với ham vui, nên Châu-Anh-Kiệt do dự nửa muốn cầm lấy nửa e dè. Thấy Châu-Anh-Kiệt trù trừ không quyết, Trương-Siêu-Trọng lại đưa ống kính lên mắt nhìn khắp nơi một lượt rồi reo lên:

-Ôi! Thật là xinh đẹp, lạ lùng biết bao nhiêu!

Dù sao thì Châu-Anh-Kiệt cũng vẫn là trẻ thơ. Cho dù có thông minh khác với những đứa trẻ cùng trang lứa nhưng bản chất cũng chỉ là một. Vì vậy khi nghe Trương-Siêu-Trọng reo mừng thích thú như vậy thì bản tính hiếu kỳ của trẻ thơ lại nổi dậy. Trương-Siêu-Trọng mừng thầm trong bụng, cầm Thiên-Lý-Cảnh trao vào tận tay Châu-Anh-Kiệt, vui vẻ nói:

-Cậu cứ thử cầm lấy mà xem đi. Tôi không nói gạt cậu đâu.

Châu-Anh-Kiệt đưa tay đón lấy rồi ghé mắt vào xem rồi bỗng vui mừng thích thú nhảy tưng tưng lên vì thấy ngay trước mắt có những ngọn đồi xanh, có hoa cỏ nhiều màu sắc, có giòng suối nước trong, lại có cả tiều phu vác búa vào rừng... Nói tóm lại. ‘món đồ chơi’ này chẳng khác gì một ‘đôi mắt thần’, có thể trông xa ‘nghìn dặm’.

Trương-Siêu-Trọng lại bảo:

-Người cậu còn hơi thấp nên chưa thâu thập hết đượ£c những điều kỳ diệu của thiên nhiên. Hãy leo lên mặt bàn mà đứng xem sẽ thấy được đầy đủ những cái đẹp, những cái lạ mà chân cậu chưa hề bước tới, mắt cậu chưa hề trông qua bao giờ.

Châu-Anh-Kiệt bị Trương-Siêu-Trọng ‘mê hoặc’, gãi đúng vào chỗ ngứa nên không còn đủ lý trí để phân biệt hư thực, phải trái ra sao nữa, chỉ còn nghĩ đến chuyện làm sao cho thỏa mãn tính ham vui của tuổi thơ mà thôi. Vì vậy, sau khi nghe Trương-Siêu-Trọng ‘mách nước’ liền nhảy phóc lên mặt bàn đá cẩm thạch đứng, đưa Thiên-Lý-Cảnh lên mắt nhìn ra phía ngoài tường của hoa-viên. Ôi, nào là khách bộ hành qua lại; nào là những bác nông phu đang cày bừa; nào là những bước chân liếng thoắng của những mục đồng; nào là những nụ cười tươi như hoa của các cô thôn nữ... Tất cả những ngoại vật như đang linh hoạt trước mặt kính làm cho Châu-Anh-Kiệt khoái chí không biết mấy!

Bỏ Thiên-Lý-Cảnh ra mà nhìn bằng cặp mắt thịt của mình, Châu-Anh-Kiệt chỉ còn thấy được lờ mờ chút đỉnh, chẳng có gì là vui, là thú cả. Cái quang cảnh thiên nhiên của hóa công tô điểm, theo ý Châu-Anh-Kiệt phải được rọi bằng Thiên-Lý-Cảnh này mới hấp dẫn được mỹ quan của con người. Nếu không như vậy thì bao nhiêu cảnh vật xinh đẹp đều trở thành xác xơ trơ trẽn cả mà thôi.

Mải mê cầm Thiên-Lý-Cảnh của Trương-Siêu-Trọng đưa, Châu-Anh-Kiệt cứ đứng mãi trên mặt bàn soi hết nơi này lại soi sang nơi khác, dường như không biết chán, không biết mỏi. Trương-Siêu-Trọng cũng không đòi lại mà cũng không hối thúc, cứ để mặc cho Châu-Anh-Kiệt vui chơi thỏa thích với chiếc Thiên-Lý-Cảnh kia.

Mạnh-Kiện-Hùng biết Châu-Anh-Kiệt đã trúng phải kế gian của Trương-Siêu-Trọng bày ra nhưng không cách nào ngăn ngừa thằng bé đừng nói chuyện với Trương-Siêu-Trọng được. Vắng mặt Châu-Trọng-Anh thật khó khăn cho chàng hết sức. Chàng không biết phải nên ứng phó ra làm sao trước tình huống này!

Mạnh-Kiện-Hùng càng lúc càng rối trí mà nhìn quanh không có ai có thể giúp được chàng trong cơn nguy biến này. Bọn Trương-Siêu-Trọng đã đông, lại toàn là những kẻ có võ công tuyệt đỉnh, túc trí đa mưu thì hỏi sao một mình chàng có thể gìn giữ được cho Thiết-Đảm-Trang khỏi bị liên lụy và đám người Hồng Hoa Hội khỏi bị phát giác! Nếu chúng tiếp tục kéo dài chuyến bao vây và lục soát một cách khôn ngoan và chu đáo như thế này thì sớm muộn gì mọi chuyện cũng bị đổ bể mà thôi. Nhất là hiện thời Châu-Anh-Kiệt, một con cừu non đang bị Trương-Siêu-Trọng, một con cáo già dụ dỗ. Mà cái bẫy của Trương-Siêu-Trọng giăng ra, Châu-Anh-Kiệt càng lúc càng lún sâu vào.

Trương-Siêu-Trọng không vội vã mà cũng không kém cỏi như Đổng-Triệu-Hòa. Y làm việc gì cũng từ tốn, kiên nhẫn. Không ít thì nhiều, Trương-Siêu-Trọng đã gây được lòng tín nhiệm của Châu-Anh-Kiệt, Mạnh-Kiện-Hùng nhìn thấy điều này rất rõ. Nếu là Đổng-Triệu-Hòa thì cho dù hắn có dụ dỗ cả ngày đi chăng nữa, Mạnh-Kiện-Hùng cũng chẳng lo Châu-Anh-Kiệt hé răng. Nhưng với chiến lược của Trương-Siêu-Trọng đang áp dụng, chàng lo ngại rằng sẽ đến lúc Châu-Anh-Kiệt để hở môi! Mà hễ hở môi là nguy cơ sẽ đến, không biết tai hại đến chừng nào. Nhưng Mạnh-Kiện-Hùng còn biết làm gì được? Ngoài chàng ra, hiện tại chỉ có Tống-Thiện-Bằng là người có bản lãnh khá nhất phe chàng mà thôi. Nhưng Tống-Thiện-Bằng chỉ là một kẻ thừa hành chứ không phải là người biết xoay xở dùng mưu cao kế lạ.

Châu-Anh-Kiệt sau khi dán mắt dán mũi vào Thiên-Lý-Cảnh một hồi lâu thì cũng tự cảm thấy đã đến lúc phải trao trả báu vật lại cho khổ chủ nên đành nhảy từ trên bàn cẩm thạch xuống đất đưa lại cho Trương-Siêu-Trọng tuy rằng trong bụng vẫn còn ‘tiếc rẻ’.

Trương-Siêu-Trọng mỉm cười đón lấy Thiên-Lý-Cảnh, nhìn Châu-Anh-Kiệt hỏi:

-Cậu muốn Thiên-Lý-Cảnh này thuộc về cậu không?

Châu-Anh-Kiệt liếc mắt nhìn Mạnh-Kiện-Hùng và Tống-Thiện-Bằng đang bàn chuyện to nhỏ với nhau nên liếc nhìn Trương-Siêu-Trọng khẽ gật đầu tỏ ý bằng lòng.

Nhìn cử chỉ đó của Châu-Anh-Kiệt, Trương-Siêu-Trọng biết cậu bé rất thích ‘món đồ chơi’ quý giá này nhưng còn sợ Mạnh-Kiện-Hùng và Tống-Thiện-Bằng nên không dám lên tiếng mà chỉ lén canh chừng hai người rồi mới khẽ gật đầu với y. Vì thế, Trương-Siêu-Trọng thừa lúc hai người còn đang bận chuyện to nhỏ liền bí mật nắm tay Châu-Anh-Kiệt đi ra nơi xa mà hỏi cậu bé rằng:

-Cậu chỉ cần nói cho tôi biết rằng ba người khách đến ở trong nhà cậu ẩn núp chỗ nào thì chiếc Thiên-Lý-Cảnh này thuộc về cậu. Tôi vui lòng tặng cậu ngay mà không cần cậu phải trả lời tôi thêm một câu thứ nhì.

Châu-Anh-Kiệt bèn rỉ tai nói với Trương-Siêu-Trọng rằng:

-Thật tình tôi không biết.

Trương-Siêu-Trọng rất tinh ý, biết câu trả lời của Châu-Anh-Kiệt là miễn cưỡng chứ trên thực tế chắc chắn nó biết. Chỉ vì nó sợ nếu khai ra cho Trương-Siêu-Trọng biết rủi có người trong Thiết-Đảm-Trang nghe được và mách lại với Châu-Trọng-Anh thì chắc chắn nó sẽ bị trừng phạt. Trương-Siêu-Trọng nghĩ thầm:

-“Nếu trấn an được nỗi lo sợ của thằng bé này thì lo gì mà nó chẳng nói?”

Nghĩ đoạn, Trương-Siêu-Trọng dỗ dành, dùng lời ngon ngọt dịu dàng nói với Châu-Anh-Kiệt:

-Cậu cứ nói nhỏ cho một mình tôi nghe mà thôi, không còn người thứ hai biết được nữa đâu mà e ngại. Tôi nghe vào tai rồi chỉ để trong lòng mà thôi, dù cho là thân phụ hay thân mẫu của cậu cũng không hay nữa chứ đừng nói là người nào khác trong gia đình cậu. Cứ tin tôi mà nói đi, đừng đắn đo suy nghĩ gì nữa! Mấy người kia sở dĩ không muốn cậu nói chỉ vì họ không muốn cậu được chiếc Thiên-Lý-Cảnh này đó thôi!

Châu-Anh-Kiệt vốn là trẻ thơ, tuy có được chút nghĩa khí do phụ thân rèn luyện nhưng bản chất vẫn chỉ là con nít, vẫn chỉ là một người tầm thường, khi thấy báu vật thì vẫn thèm muốn, chỉ mong sao có cho bằng được chứ nào đã biết đắn đo suy nghĩ đến những chuyện lớn động trời có thể nguy hại đến gia đình nó như không.

Châu-Anh-Kiệt cho rằng Văn-Thái-Lai cũng chỉ là một khách tầm thường như những người khách khác ghé thăm Thiết-Đảm-Trang mà thôi. Vì vậy, nó nghĩ rằng có nói cho Trương-Siêu-Trọng biết cũng chẳng hại gì. Có lẽ Văn-Thái-Lai cùng hai người kia có thù oán gì với Trương-Siêu-Trông mà thôi nên cùng lắm hai bên sẽ đi đến chỗ đâm chém hay ẩu đả là cùng. Khi đó, nó sẽ cùng Mạnh-Kiện-Hùng đứng ra can thiệp giảng hòa cho đôi bên thì mọi việc êm ngay. Nhưng nó nào có biết đâu là một lời khai của nó sẽ trở thành một tai họa ghê gớm sẽ giáng xuống Thiết-Đảm-Trang, có thể chuốc lấy họa diệt tộc vì dám chứa chấp khâm-phạm triều đình...

Mà cũng khó mà trách được Mạnh-Kiện-Hùng không cảnh giác cho Châu-Anh-Kiệt trước được. Chàng bất quá cũng chỉ là đệ tử của cha nó thôi. Trong khi chủ nhân vắng mặt, một mình Mạnh-Kiện-Hùng phải đứng ra gánh vác bao nhiêu việc, tránh sao khỏi những sơ xuất? Mà có lẽ cũng phải công nhận rằng Trương-Siêu-Trọng quá ư lợi hại mà thôi. Y tung ra một chiêu thật bất ngờ ngoài sự tiên liệu của tất cả mọi người. Vả lại, biết đâu Châu-Anh-Kiệt chẳng là một Trương-Siêu-Trọng nhỏ tuổi, vì lợi sẵn sàng quên hết tất cả! Tuy rằng thiên-hạ vẫn nói là không bao giờ chấp nhặt trẻ nhỏ, nhưng lắm lúc tính tình, bản chất con người thường hiện ngay ra trong lúc tuổi còn thơ ấu...

Tóm lại, mọi sự phúc họa, số phận của con người hầu như đều có sự an bài của hóa công sẵn cả rồi...

Biết Trương-Siêu-Trọng là kẻ mưu mô nên Mạnh-Kiện-Hùng lúc nào cũng đề phòng. Từ lúc thấy Châu-Anh-Kiệt say mê chiếc Thiên-Lý-Cảnh của y, đô mắt của Mạnh-Kiện-Hùng không lúc nào rời y cũng như Châu-Anh-Kiệt. Đang bàn chuyện với Tống-Thiện-Bằng, chàng liếc nhìn thấy Châu-Anh-Kiệt gật đầu với Trương-Siêu-Trọng thì sợ đến toát cả mồ hôi, linh tính như có điều gì nguy ngập sẽ xảy đến cho Văn-Thái-Lai cũng như Thiết-Đảm-Trang. Không biết làn gì khác hơn, Mạnh-Kiện-Hùng đành lớn tiếng gọi Châu-Anh-Kiệt:

-Sư đệ không nên nói chuyện ở đây! Mau mời khách vào trong nhà dùng trà chờ sư phụ về. Cứ ở đây mà chơi mãi nếu sư phụ về mà bắt gặp thì thế nào cũng bị quở phạt mà thôi! Sư phụ đã dặn gì, tiểu sư đệ còn nhớ hay không? Thôi, mau đi vào!

Châu-Anh-Kiệt đáp:

-Xin tuân theo lời của sư huynh.

Sau đó quay qua Trương-Siêu-Trọng, Châu-Anh-Kiệt khẽ nói:

-Ông hãy theo tôi vào trong vì Mạnh sư huynh của tôi gọi vào, không cho nói chuyện ở vườn hoa theo lời dặn của thân phụ tôi. Nếu người về mà không thấy tôi trong nhà thì tôi sẽ bị trách phạt nặng nề chứ chẳng chơi!

Biết Châu-Anh-Kiệt rất nể sợ sư huynh Mạnh-Kiện-Hùng nên Trương-Siêu-Trọng đành theo cậu bé vào bên trong. Nhưng khi vừa nắm tay Châu-Anh-Kiệt thì Trương-Siêu-Trọng vừa đưa Thiên-Lý-Cảnh ngay trước mặt nó đồng thời dùng đủ cách khôn khéo để dụ. Sau khi nghe những lời trấn an của Trương-Siêu-Trọng, và nhìn Thiên-Lý-Cảnh không ngừng quơ qua trước mặt mình, Châu-Anh-Kiệt trong bụng đã lấy làm khoan khoái, ghé tai Trương-Siêu-Trọng nói nhỏ:

-Tôi chỉ sợ nói cho ông nghe, gia gia tôi về biết được thì đánh tôi chết!

Trương-Siêu-Trọng thấy ‘cá đã cắn câu’ thì trong bụng sướng như mở cờ liền ‘đề nghị’:

-Ai học lại mà cậu sợ thân phụ cậu biết được mà đánh đòn chứ? Nhưng tôi có cách này đây, nếu cậu nghe tôi thì cho dù chuyện có đổ bể cũng không có ai trách được cậu. Bây giờ tôi bày cậu cách này. Cậu đừng nói gì với tôi cả. Tôi hỏi câu nào thì cậu cứ trả lời câu đó cho tôi nghe thôi. Như vậy có nghĩa là không phải tại cậu nói, mà tại tôi hỏi.

Nói xong, Trương-Siêu-Trọng cầm Thiên-Lý-Cảnh dúi vào tận tay Châu-Anh-Kiệt mà nói:

-Tôi tặng cậu báu vật này. Bây giờ là của cậu rồi, cậu có quyền tùy nghi sử dụng. Cậu chỉ cần trả lời tôi vài câu vắn tắt thôi.

Không dằn được lòng ham muốn, Châu-Anh-Kiệt đưa tay đón lấy Thiên-Lý-Cảnh. Trong lòng cậu ta lúc này dâng lên một niềm sung sướng tưởng không còn gì trên thế gian này có thể đổi lấy được. Dẫu ngay bây giờ có bị thân phụ quở phạt trách mắng, thậm chí có đánh đòn đau, Châu-Anh-Kiệt cũng cho là bõ công. Trương-Siêu-Trọng lại khôn khéo đánh thêm một đòn tâm lý cuối cùng.

-Cậu bất tất phải mở miệng ra nói một lời nào. Tôi hỏi câu nào, nếu đúng cậu cứ gật đầu, nếu sai thì cậu lắc đầu, thế là xong. Như thế thì rõ ràng là không có ai nghe được giọng cậu cả, Châu lão anh-hùng làm sao mà trách phạt cậu được?

Quả nhiên cái kế này của Trương-Siêu-Trọng thật là vô cùng độc đáo, như giải thoát được tất cả những nỗi lo âu sợ sệt của một đứa trẻ. Châu-Anh-Kiệt nghe xong lại càng vững bụng hơn nữa. Thấy mưu đã thành công, Trương-Siêu-Trọng bắt đầu hỏi:

-Có phải hắn núp bên trong lẩm lúa không?

Châu-Anh-Kiệt lắc đầu. Trương-Siêu-Trọng bèn hỏi tiếp:

-Ở ngoài hoa-viên chăng?

Châu-Anh-Kiệt nhìn trước nhìn sau rồi gật đầu một cái thật lẹ. Trương-Siêu-Trọng mỉm cười ra vẻ mãn nguyện. Thế là y không cần phải lặn lội tìm đâu cho xa ở nơi Thiết-Đảm-Trang mênh mông này nữa mà chỉ chăm chú để ý thu gọn vào trong phạm vi hoa-viên mà thôi.

Vừa đi, cặp mắt Trương-Siêu-Trọng vừa quan sát thật tỉ mỉ. Y thấy ở chính giữa hoa-viên có một cái hồ lớn, ngay giữa hồ là một hòn giả sơn khá lớn trông rất xinh, phong cảnh thanh kỳ như một Bồn-Lai nhược thủy. Quanh hòn giả sơn là nước biếc trong xanh với những đóa hoa sen thơm ngát và những con thiên nga bơi qua bơi lại, thung dung rửa cánh. Có mấy chiếc thuyền con được cột chặt, neo vào mấy cây thùy dương ven bờ. Từ bên ngoài đi vào hòn giả sơn có một con đường trải đá, hai bên là hoa cỏ tốt tươi. Trên hòn giả sơn có mấy gian nhà thật đẹp trông hết sức thanh tịnh, chẳng khác nào là nơi ẩn dật của những ẩn sĩ không còn chuyện gì phải vương vấn đến nhân gian nữa.

Trương-Siêu-Trọng để ý đến hòn giả sơn này thật là kỹ, đinh ninh rằng chắc chắc Văn-Thái-Lai được Mạnh-Kiện-Hùng đưa đến ẩn núp trong này nhưng chưa biết là nơi nào mà dò xét để khỏi bị lầm lạc. Trương-Siêu-Trọng định hỏi Châu-Anh-Kiệt thêm một câu nữa nhưng thấy Mạnh-Kiện-Hùng đang từ từ đi tới nên thấy bất tiện lại thôi.

Số là Mạnh-Kiện-Hùng nhìn thấy Trương-Siêu-Trọng nắm tay Châu-Anh-Kiệt vừa đi vừa hỏi. Lại thấy Châu-Anh-Kiệt tay cầm Thiên-Lý-Cảnh khi lắc đầu khi gật thì chàng thấy chuyện thật không ổn tí nào cả. Nếu cứ để tình trạng này tiếp tục xảy ra ắt thế nào con cáo già Trương-Siêu-Trọng cũng khai thác được hết mọi chuyện mà thôi. Nghĩ vậy chàng liền dặn lẹ Tống-Thiện-Bằng mấy câu rồi ba chân bốn cẳng đi theo Trương-Siêu-Trọng để kèm Châu-Anh-Kiệt, hy vọng may ra còn cứu vãn được tình thế...

Trương-Siêu-Trọng giả đóng tuồng đi quanh hai bên ven hồ ra vẻ là người ưa thích phong cảnh ‘thần tiên’ hữu tình nhưng kỳ thực trong thâm tâm là để dọ thám, cố tìm cho ra chỗ ẩn núp của Văn-Thái-Lai. Trương-Siêu-Trọng chợt nghĩ ra một âm mưu khéo léo nên giả vờ hỏi Châu-Anh-Kiệt:

-Hẳn nơi đây khách quý của chủ nhân cũng được mời vào xem chứ?

Châu-Anh-Kiệt không đáp nhưng chặc lưỡi rồi láy mắt nhìn vào gian nhà có tên là Vọng-Nguyệt-Đình cất ngay trên đỉnh hòn giả sơn. Trương-Siêu-Trọng hiểu ý nhưng muốn cho chắc chắn, y lại buông thêm một cây hỏi nữa:

-Chắc chắn nơi Vọng-Nguyệt-Đình có lưu lại nhiều kỷ niệm của khách quý đến chơi phải không?

Châu-Anh-Kiệt vẫn không trả lời, nhưng lại gật đầu thêm một cái nữa. Không còn điều gì nghi ngờ nữa, Trương-Siêu-Trọng liền buông tay Châu-Anh-Kiệt ra, bước vào con đường trải gạch dẫn vào hòn giả sơn nhắm thẳng Vọng-Nguyệt-Đình mà vào. Mạnh-Kiện-Hùng sợ toát cả mồ hồi, biết bí mật đã bại lộ. Chàng chỉ còn một hy vọng mong manh cuối cùng là Trương-Siêu-Trọng không khám phá được con đường dẫn xuống hầm bí mật nhờ cái bàn đá bằng cẩm thạch che kín bên trên.

Vào tới Vọng-Nguyệt-Đình, Trương-Siêu-Trọng không cần phải dè dặt thận trọng nữa, cứ tự nhiên mà hành động theo quyền hạn của một quan khâm-sai vâng mệnh thiên-tử đi bắt khâm-phạm. Lúc đầu vì chưa dám chắc Văn-Thái-Lai trốn ở đây nên Trương-Siêu-Trọng còn e dè, sợ có bề gì thì chỉ gây thù chuốc oán với Châu-Trọng-Anh. Nhưng giờ đây biết chắc chắc Văn-Thái-Lai có mặt nơi này, Trương-Siêu-Trọng tin tưởng thế nào cũng bắt được khâm-phạm. Khi đó, Châu-Trọng-Anh với tội chứa chấp khâm-phạm triều-đình chưa chắc đã giữ được thân mình và gia đình khỏi bị tru lục thì còn nói gì đến chuyện đi tìm Trương-Siêu-Trọng mà trả thù.

Nghĩ thế cho nên Trương-Siêu-Trọng mạnh dạn lục soát kỹ lưỡng. Y thấy Vọng-Nguyệt-Đình được cất lên bằng cây danh mộc rất đẹp và rất chắc, nền làm bằng cây sồi trên lát gạch hoa, bốn phía là những vòng lan can để cho khách nắm tay đứng dựa đặng nhìn ra hồ thưởng ngoạn, nhìn cảnh hoa nở hương bay gió lùa mát mẻ, chẳng khác nào một cảnh thần tiên nơi cõi trần tục. Ngoài những cây cột và bốn vòng lan can ra, Vọng-Nguyệt-Đình hoàn toàn trống rỗng, tuyệt nhiên không có một chỗ nào hay xó nào để cho ai có thể ẩn núp được.

Trương-Siêu-Trọng cau mày nghĩ thầm. Y cho rằng mình thật là vô lý đi tin lời vu vơ của một đứa trẻ. Nhưng rồi Trương-Trọng-Siêu lại nghĩ rằng rất có thể Châu-Anh-Kiệt là một đứa trẻ tinh ranh, cố tình gạt gẫm cho mình vào nơi đây để Văn-Thái-Lai có đủ thì giờ trốn ra khỏi Thiết-Đảm-Trang. Đã một lần Trương-Siêu-Trọng bị một ‘đứa nhỏ tinh ranh’ lừa bịp tại lữ quán rồi nên y không thể nào không nghĩ đến điều đó được. Nếu bị lừa thêm lần nữa thì thật là nhục nhã, có đem nước mấy sông mà rửa cũng không sạch được! Lần trước chỉ có một mình Trương-Siêu-Trọng biết thôi, chứ lần này thì không những bao nhiêu người của mình biết lại còn người của Thiết-Đảm-Trang sẽ cười thầm mà chế nhạo thì thật còn mặt mũi nào mà đi lại trên giang hồ nữa! Nhưng rồi Trương-Siêu-Trọng lại nghĩ:

-“Một đứa trẻ mới 10 tuổi đầu thì chưa thể có được thủ đoạn như thế được. Gã sư-điệt trời đánh của ta dù sao cũng sấp xỉ 20, nghĩa là cũng đã lớn, có đủ trí khôn để lừa gạt người chứ thằng bé này dù có là thần đồng chưa thể nào ranh mãnh được như thế!”

Nhìn trước nhìn sau, ngó qua ngó lại, Trương-Siêu-Trọng có thể kết luận rằng không cách gì khâm-phạm có thể trốn được nơi này mà qua mắt mình được ngoại trừ có phép thần hóa thành con kiến hay giống côn trùng nào khác thì chẳng kể.

Rồi Trương-Siêu-Trọng lại nẩy ra ý nghĩ là rất có thể khi Châu-Anh-Kiệt gật đầu với mình thì lúc đó bọn Văn-Thái-Lai có trốn ở đây thật, nhưng sau đó Mạnh-Kiện-Hùng rất có thể đem chúng sang các mộc-đình (#7) khác không chừng. Đã có lúc Trương-Siêu-Trọng định bỏ Vọng-Nguyệt-Đình sang tìm kiếm tại các mộc-đình nhưng lại nghĩ đến cái gật đầu của Châu-Anh-Kiệt nên vẫn cố nuôi một chút hy vọng nào đó.

Như một cánh én, Trương-Siêu-Trọng tung mình lên khoảng không đáp nhẹ nhàng đứng trên vòng lan can nhìn lên nóc Vọng-Nguyệt-Đình dò xét. Vẫn không có một bóng người hay một vật nào khả nghi cả. Trương-Siêu-Trọng lại nhảy xuống nhìn các cây liễu trên mặt hồ qua một lượt. Cũng chẳng có một dấu vết gì do người hay vật để lại cả!

Nhưng cứ lấy lý mà suy đoán thì Trương-Siêu-Trọng tin là bọn Văn-Thái-Lai dù hiện tại rất có thể trốn tại một nơi khác, nhưng chắc chắc đã từng có mặt tại đây. Mà đã đưa bọn Văn-Thái-Lai đến Vọng-Nguyệt-Đình này thì lẽ dĩ nhiên nơi này phải có một cái gì có thể bảo đảm cho sự an nguy tối thiểu cho người đến đây trú ẩn. Nghĩ đến đây, Trương-Siêu-Trọng quyết định ở lại tìm cho ra hư thực, chứ nhất quyết không đi nơi đâu hết.

Trương-Siêu-Trọng đang buồn rầu lo nghĩ bỗng thình lình đổi sắc mặt trở nên vui tươi như đã khám phá cho kỳ được ‘cái bí mật’ của Vọng-Nguyệt-Đình rồi. Trương-Siêu-Trọng chợt quay qua nhìn Mạnh-Kiện-Hùng cười gằn, nói bằng một giọng gay gắt khó chịu:

-Mạnh huynh! Tôi tuổi già sức yếu, võ nghệ cũng lụt đi nhiều nên chắc khí lực sánh với huynh đài phải kém xa! Với cái sức vóc của huynh đài mà lại được Châu lão anh-hùng truyền thụ bản lãnh thì ắt hẳn là tài nghệ của huynh đài phải cao siêu vượt bực hơn mọi người. Nếu mắt của tôi không trông lầm thì đôi tay của Mạnh huynh có thể giở nổi ngàn cân không khó khăn chi cho lắm. Chúng tôi từ kinh đô với công vụ đến thăm viếng Thiết-Đảm-Trang này nhưng vô duyên không được hân hạnh diện kiến Châu lão anh-hùng mà lòng hằng ngưỡng mộ tài cao đức trọng. Nhưng dù sao vẫn có được một chút an ủi là được thấy tận mắt dung mạo khôi vĩ và nghi biểu khác thường của huynh đài. Nếu lại được trông thấy thần công tuyệt kỹ của Mạnh huynh một lần cho thỏa chí thì chuyến đi này thật không uổng, và cũng không đến nỗi phải nhục mệnh vua khi về lại Bắc-Kinh. Chắc Mạnh huynh không nỡ từ chối lời thỉnh cầu tha thiết của tôi chứ?

Lời nói của Trương-Siêu-Trọng thoáng nghe qua thì có vẻ như khiêm nhường nhưng trên thực tế cái giọng ấy bao hàm một ý nghĩa mỉa mai khiêu khích đến tột độ khiến người nghe phải bực bội khó chịu. Mạnh-Kiện-Hùng cho rằng vì khổ công đem đến đây một lực lượng hết sức hùng hậu mà tìm mãi vẫn không thấy khâm-phạm nên Trương-Siêu-Trọng thẹn quá hóa giận định tìm cách gây sự với mình.

Trương-Siêu-Trọng sở dĩ oán ghét Mạnh-Kiện-Hùng là vì nếu không phải vì chàng cầm đầu mọi việc, Châu-Anh-Kiệt đã chỉ cho y chỗ núp của Văn-Thái-Lai rồi. Và một mình chàng mà cả đám người của triều đình, từ Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân cho đến các bổ-đầu và bổ-khoái đều phải bó tay thì thật là một sự sỉ nhục rất lớn cho các bậc tiền bối cũng như các quan lớn.

Nghe giọng hậm hực của Trương-Siêu-Trọng, Mạnh-Kiện-Hùng tỏ ý không phục, bất mãn ra mặt. Chàng vốn đã xem thường tư cách của Trương-Siêu-Trọng là một kẻ bán danh dự của mình làm ‘chó săn chim mồi’ cho những kẻ cướp nước, giờ đây lại còn vào Thiết-Đảm-Trang chực gieo họa cho Châu-Trọng-Anh, người mà Mạnh-Kiện-Hùng luông kính yêu như cha mẹ. Đã thế y lại còn quyết tâm truy nã với dụng ý bắt cho kỳ được Văn-Thái-Lai, một người đầy nghĩa khí của Hồng Hoa Hội mà Mạnh-Kiện-Hùng hết sức khâm phục, sẵn sàng đem cả sinh mạnh của chàng ra mà che chở cho. Dù bản chất khiêm nhượng, tính tình hòa nhã, nhưng nghe xong câu nói ấy của Trương-Siêu-Trọng, Mạnh-Kiện-Hùng không dấu được cơn thịnh nộ, khẽ ‘hừ’ một tiếng, bụng bảo thầm:

-“Mi tưởng là võ công mi siêu việt, trong võ lâm không ai địch nổi cho nên mới nói cái giọng khiêu khích đó với ta chứ gì! Nói thật, nếu có Châu sư-phụ của ta ở đây thì cho dù có mười cái mạnh như mi cũng đừng hòng mà ra khỏi nơi này. Mà cho dù phải ‘một chọi một’ với mi ta cũng nào có khiếp sợ mà mi hòng giở cái giọng hăm dọa hiếp đáp đó! Chẳng qua vì sư-phụ ta không có ở nhà. Sở dĩ ta chịu nhịn là vì thứ nhất, việc quan hệ đến vận mạng Thiết-Đảm-Trang ta không dám tự quyết. Thứ hai, hiện Văn tứ đương-gia đang trú ẩn ở đây nên không nỡ sinh sự ẩu đả, rủi mọi chuyện đổ bể làm liên lụy đến người anh-hùng nghĩa khí ấy. Thứ ba, vì ta không muốn cho người của Thiết-Đảm-Trang phải đổ máu dưới tay bạo tàn của những kẻ côn đồ chỉ chực gây chuyện hại người. Sẽ có lần khác ta quyết sống chết với mi một phen cho mà xem!

Sau khi đắn đo cân nhắc điều lợi hại, Mạnh-Kiện-Hùng đành nhịn nhục, cố làm ra vẻ tươi tỉnh, nói một cách tự nhiên với Trương-Siêu-Trọng:

-Trương đại-nhân là một nhân vật khét tiếng trên giang-hồ, là một trong ba vị thủ lãnh của phái Võ-Đang, đồng thời lại làm đến chức Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân, uy danh vang dội khắp bốn bể, ai là người không kính nể? Vãn bối đây tư chất hèn kém, bất quá chỉ mới tập tễnh qua vài ba miếng võ phòng thân thôi. Dẫu Trương đại-nhân không thương mà cố ép phải động thủ đi nữa, cũng lẽ nào dám ‘múa búa trước cửa Lỗ-Bang’ (#8) hay sao? Vả lại Trương đại-nhân đến chơi Thiết-Đảm-Trang này tuy không đúng lúc, sư-phụ không có ở nhà, nhưng cái lễ đãi khách vãn bối phải giữ gìn, quyết không để ‘đao quang kiếm ảnh’ làm mất thanh danh của Châu sư-phụ. Mong rằng đại nhân tạm gác trong trí những ý tưởng về binh đao quyền cước ấy đi. Nếu cần xin để lúc khác, khi có mặt sư-phụ ở nhà, Trương đại-nhân muốn sao thì vãn bối cũng sẵn sàng vâng lời. Nhưng lúc này thì thà chết chứ không dám làm trái đạo của người quân tử khi đãi khách tại gia.

Trương-Siêu-Trọng nghe Mạnh-Kiện-Hùng nói xong thì phá lên cười hăng hắc. Giọng cười của y nghe rất khó chịu khiến cho chàng ghét cay ghét đắng. Cười cho thỏa chí rồi, Trương-Siêu-Trọng mới lên tiếng:

-Mạnh huynh! Tuy chúng ta mới gặp lần đầu nhưng thật chẳng khác như đã quen biết lâu rồi. Cách đối xử của huynh đài với chúng tôi thật là chu đáo vô cùng. Có lẽ nào chúng tôi lại dùng đến cái thế ‘cường tân áp chủ’ (#9)? Huống chi Châu lão anh-hùng với tôi mặc dù chưa gặp mặt nhưng vẫn biết nhau qua danh tánh. Đại danh cao tánh của Châu lão anh-hùng làm sao Trương-Siêu-Trọng tôi dám sánh? Hỏi ai là người trên giang hồ chưa nghe qua danh hiệu ‘Hoả-Thủ Phán-Quan’? Như thế, cho dù không được gặp mặt Châu lão anh-hùng đi chăng nữa, tôi vẫn kính nể người nhà của lão anh-hùng. Có lẽ nào mà tôi lại muốn động thủ mà dùng đến quyền cước hay đao kiếm? Làm như vậy chỉ có tổn thương đến hòa khí đôi bên thôi chứ có ích lợi gì? Tôi đến đây theo tình nghĩa là thăm viếng Châu lão anh-hùng, còn trên nhiệm vụ là truy nã khâm-phạm vì có người mách rằng bọn Hồng Hoa Hội hiện đang ẩn núp tại Thiết-Đảm-Trang. Tôi không dám đụng đến thể diện của Châu lãi anh-hùng, nhưng cũng không dám thờ ơ với trách nhiệm. Điều ấy chắc Mạnh đại huynh thể lượng cho chứ?

Không để cho Trương-Siêu-Trọng tiếp tục ‘cà kê dê ngỗng’, Mạnh-Kiện-Hùng bèn cười nhạt cắt ngang:

-Vâng, tôi thừa hiểu như vậy. Khi mới đến, Trương đại-nhân đã lên tiếng trước là ‘có quan khâm-sai đến, mau bảo chủ nhân ra tận ngõ đón tiếp nếu không sợ bị tội lớn’. Chỉ tiếc rằng Châu sư-phụ của tôi vắng mặt, không thì cuộc đón tiếp phái đoàn ‘các quan lớn’ cũng sẽ rất long trọng, không kém gì ‘thiên lý tiếp long đầu’ của các bang hội trên giang hồ!

Mạnh-Kiện-Hùng dùng lời châm chọc nhẹ nhàng nhưng đầy ý nghĩa xiên xỏ, nói móc họng Trương-Siêu-Trọng một cách thật văn-hoa khiến cho y tức giận, thẹn đỏ cả mặt nhưng vẫn phải cố mà dằn uất khí xuống. Y bèn cố tìm cách bào chữa, ráng dịu giọng nói:

-Đó là vì các bổ-khoái không chờ lệnh tôi! Họ nghe nói Thiết-Đảm-Trang chứa chấp bọn khâm-phạm Hồng Hoa Hội nên nóng nảy muốn bắt cho được nên sơ xuất, thành ra lỡ thốt ra lời bất kính với Châu lão anh-hùng. Tôi xin nhận lỗi về việc thất thố này.

Mạnh-Kiện-Hùng sợ rằng nếu tìm không ra được Văn-Thái-Lai và mấy người của Hồng Hoa Hội, Trương-Siêu-Trọng sau này có thể làm khó dễ Châu-Trọng-Anh nên chàng muốn nói vài lời, thứ nhất để lưu nhân tình, và thứ hai, hy vọng để cảm hóa được bọn Trương-Siêu-Trọng phần nào:

-Quý vị là khâm-sai của triều-đình thì tất nhiên có quyền ‘làm mưa làm gió’. Bọn dân đen như chúng tôi chỉ là cỏ rác thì làm sao dám kháng cự lại? Vì vậy cho nên khi vào sơn-trang rồi, người của Trương đại-nhân vẫn được tự tiện bao vây lục soát bất chấp đếc người của sơn-trang. Nhưng có điều tôi lấy làm lạ thì quý vị, nếu tôi không lầm, đều là giòng dõi Hán-tộc, tôi con của nhà Minh cả. Tuy quý vị làm khâm-sai cả, nhưng điều đó cũng không có gì đáng nói. Tôi chỉ thắc mắc tại sao một đảng cách mạng có chính nghĩa ‘phản Thanh phục Minh’ như Hồng Hoa Hội, phàm là người Hán, mạc hạng cùng đinh đi chăng nữa khi nghe cái tên ấy thì vui vẻ hân hoan với niềm hy-vọng. Trái lại quý vị lại thù hằn, nóng lòng bắt cho bằng được để ăn tươi nuốt sống là sao?

Nghe Mạnh-Kiện-Hùng nói, ai nấy đều im lặng. Suy nghĩ vài giây, chàng lại nói tiếp:

-Cái quan-niệm của quý vị sao khác hẳn với quan-niệm chung của người Hán chúng ta? Thật tôi nghe tận tai thấy tận mắt, muốn tự tìm hiểu vẫn không làm sao hiểu nổi! Phải chăng những người trong Hồng Hoa Hội có cựu thù, túc oán chi với quý vị?

Trương-Siêu-Trọng và bọn Cẩm thị-vệ nghe Mạnh-Kiện-Hùng mắng như tát nưóc vào mặt thì ai nấy đều giận run lên. Có nhiều người định rút binh khí ra sinh sự nhưng Trương-Siêu-Trọng láy mắt ra dấu bảo họ cứ im lặng mà bình tĩnh.

Trương-Siêu-Trọng cười đáp:

-Mạnh huynh muốn hiểu rõ cái quan-niệm ấy tưởng cũng không khó gì. Rồi đây dù muốn dù không, khi về đến Thiết-Đảm-Trang, Châu lão anh-hùng cũng sẽ nói lại cho Mạnh huynh cũng như tất cả mọi người ở vùng này nghe. Việc gì phải đến rồi sẽ đến, Mạnh huynh vội vàng làm gì!

Mạnh-Kiện-Hùng biết đây là một lời cảnh cáo hăm dọa trước nhưng chàng nào có sợ, liền trả lời ngay:

-Tôi cũng biết là cứ hễ ‘phái đoàn khâm-sai’ đi đến đâu là bão tố theo đến đó. Tuy nhiên, đại trượng phu làm việc phải dù cho có bị họa tru lục đi nữa, há lại sợ sao? Cả một dân tộc đông đến 5 tỷ (#10) người còn phẫn uất trước cái họa xâm lăng thì ví phỏng một vùng, một xứ có hy sinh cho chính nghĩa đi nữa cũng xứng đáng chứ sá gì một Thiết-Đảm-Trang này! Tôi tin chắc Châu lão anh-hùng không phải hạng người qụy lụy bó tay trước bạo quyền hay cúi đầu khom lưng trước địa vị. Vì lẽ đó mà Châu lão anh-hùng luôn luôn giữ vững nghĩa khí quán thiên nên mới được giới giang-hồ kính phục.

Trương-Siêu-Trọng thật không ngờ Mạnh-Kiện-Hùng dám công khai nói những lời ‘phản nghịch’ với triều-đình Mãn-Thanh như vậy trước mặt các quan khâm-sai trong đó có cả mình. Viên Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân không muốn kéo dài câu chuyện cho Mạnh-Kiện-Hùng có cơ hội mạt sát thêm bèn nói:

-Mạnh huynh hãy nhớ những lời nói vừa rồi để đối chất với Châu lão anh-hùng nhé! Tôi sửa soạn từ giã Thiết-Đảm-Trang vì công vụ đã gần hoàn tất nên sở dĩ lúc nãy tôi có ý muốn nhìn thấy huynh đài biểu diễn sức mạnh hùng tráng của tuổi thanh niên để tôi có dịp chứng kiến xem đệ tử của Châu lão anh-hùng cao siêu đến bực nào. Không ngờ Mạnh huynh lại hiểu lầm câu nói của tôi, tưởng đâu tôi muốn hai bên động thủ bằng võ lực...

Mạnh-Kiện-Hùng không đợi Trương-Siêu-Trọng nói hết câu đã cắt ngang:

-Trương đại nhân bản lãnh siêu việt, lại là bực cao nhân tiền bối. Xin cho vãn bối được thưởng thức trước rồi vãn bối cũng xin thi thố chút đỉnh võ công thấp kém để Trương đại-nhân chỉ giáo thêm cho.

Trương-Siêu-Trọng vỗ tay, cả cười nói:

-Cũng được. Mạnh huynh xem thử lão phu còn đủ sức dở hổng một cái bàn bằng đá cẩm thạch không nhé!

Nghe mấy lời mỉa mai châm chọc của Trương-Siêu-Trọng, Mạnh-Kiện-Hùng biết ngay rằng cơ quan bí mật đã bị bại lộ, có muốn ngăn cản cũng chẳng còn cách nào. Chàng đứng yên mà chết lặng cả người. Trương-Siêu-Trọng lại nói tiếp:

-Mạnh huynh chờ tôi giở thử cái bàn cẩm thạch này lên rồi làm ơn giúp tôi giở một một khác nhé? Có lẽ là nặng lắm đấy! Nếu tôi giở không nổi thì mong Mạnh huynh ra tay trợ lực chớ đừng cười lão già bạc nhược này nhé!

Đoàn-Đại-Lân và Thành-Khoáng, hai trợ thủ đi theo Trương-Siêu-Trọng nghe y sắp sửa thi tài ‘nội công’ với Mạnh-Kiện-Hùng thì trong lòng lấy làm bất bình. Chúng thầm nghĩ:

-“Sao Trương đại-nhân lại hạ mình đi tỷ thí với một tên đồ đệ của Châu-Trọng-Anh? Như thế chẳng phải là khinh xuất lắm sao? Thằng con nít này nào có danh vọng gì trên giang hồ chứ? Rủi mà thua hắn thì còn gì uy danh của Hỏa-Thủ Phán-Quan với Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân! Sao Trương đại nhân lại không nghĩ đến điều này?

Hai người định lên tiếng ngăn cản vì không hiểu dụng ý của Trương-Siêu-Trọng nhưng không còn kịp nữa. Trương-Siêu-Trọng đã xắn tay áo lên, một tay xách hổng cái bàn cẩm thạch dời sang chỗ khác trông thật nhẹ nhàng chẳng chút phí sức.

Mạnh-Kiện-Hùng thấy nội công của Trương-Siêu-Trọng cao diệu như vậy không khỏi kinh tâm. Cái bàn cẩm thạch ấy nặng có đến dư 400 cân mà Trương-Siêu-Trọng chỉ cần dùng có một tay mà giở lên thì đủ hiểu sức mạnh và nội công y quả là khủng khiếp. Đám Đoàn-Đại-Lân phục quá reo lên:

-Trời ơi! Thần lực của Trương đại nhân thật là ‘thiên-hạ vô song’!

Trương-Siêu-Trọng chỉ cười mà không đáp. Chiếc bàn cẩm thạch vừa được dời đi thì một tấm bảng bằng sắt có sợi giây xích sắt to bằng bắp tay hiện ra dưới bao nhiêu cặp mắt chưng hửng, kinh ngạc của đám tùy tùng.

Mạnh-Kiện-Hùng tái mặt, biết đại họa đã đến Thiết-Đảm-Trang rồi, chẳng còn phương cách nào đối phó được vì mình sức yếu, thế cô.

Trương-Siêu-Trọng với vẻ dương dương tự đắc, quay qua vừa cười vừa nói với Mạnh-Kiện-Hùng:

-Mạnh huynh! Hẳn cái bàn cẩm thạch kia không nặng bằng tấm bảng sắt này. Cảm phiền Mạnh huynh giở thử hộ lão phu.

Mạnh-Kiện-Hùng gượng cười nói:

-Trương đại-nhân đã dư sức giở hổng được chiếc bàn cẩm thạch, lẽ nào không giở được tấm bảng sắt ấy?

Trương-Siêu-Trọng phá lên cười nói:

-Nội việc giở cái bàn ấy, lão phu đã phải vận dụng, tiêu hao quá nhiều nội công rồi, e rằng không còn đủ sức lực nữa đâu!

Mạnh-Kiện-Hùng nhún vai nói:

-Thì Trương đại-nhân cứ nhờ đám người hộ vệ kia có hơn không? Trông họ đều là những tay vũ dũng cả đấy!

Trương-Siêu-Trọng nét mặt đểu cáng, cười ngạo nghễ nói:

-Nói chi mấy người ấy? Lão phu muốn muốn được nhìn thấy thần công tuyệt kỹ của Mạnh huynh kia! Hơn nữa, nếu lão phu không lầm thì Mạnh huynh cũng đã từng giở lên giở xuống quen tay rồi, tưởng chuyện này có khó khăn gì chứ!

Mạnh-Kiện-Hùng trong lòng hết sức là rối rấm và đau khổ, nhưng vẫn phải miễn cưỡng nói:

-Đã đành là thế! Nhưng chủ ý tại-hạ muốn để cho Trương đại-nhân lập được kỳ công với triều-đình mà nhận lãnh những sự ban thưởng xứng đáng...

Hồi 5c

Thất thế anh hùng ninh thọ nhục

Đắc thời cao thủ đáo công thành

Nói về Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng ba người ẩn núp dưới hầm bí mật khá lâu mà vẫn không thấy Mạnh-Kiện-Hùng xuống đưa lên nên hết sức nóng ruột. Sở dĩ Văn-Thái-Lai chịu khuất thân trốn dưới hầm bí mật bởi vì quá yêu Lạc-Băng. Vì vậy chàng càng lúc càng cảm thấy khó chịu. Văn-Thái-Lai là một nhân vật có bản lãnh nên tai rất thính và mắt rất tinh. Tuy ở dưới hầm nhưng Văn-Thái-Lai vẫn biết được những động tịnh bên trên. Tuy nhiên chàng chỉ nghe được tiếng người rì rào chứ không nghe rõ được đầu đuôi câu chuyện ra sao.

Thình lình, Văn-Thái-Lai nghe một tiếng hét vang lên như sấm và tiếp theo đó là một tiếng động chẳng khác gì như địa chấn thiên bang làm rung chuyển cả cái hầm. Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng bị tiếng động làm cho giật mình, chỉ có Văn-Thái-Lai vẫn tự nhiên, tỉnh như không. Bỗng, cả cái hầm ráng rực lên như ban ngày. Văn-Thái-Lai đoán là có người đã dùng nội lực thần công cao siêu giở hẳn tấm bảng lên cho nên ánh sáng mặt trời mới chiếu xuống được như vậy. Sau đó là những tiếng động, tiếng người nói chuyện ồn ào. Văn-Thái-Lai nghe rõ có tiếng người hét vang lên:

-Đích thị là đây rồi! Những ai ở dưới hầm đừng hòng chống cự hay chạy trốn nữa. Khôn hồn thì hãy may lên cả đây! Muốn sống hãy mau mau đầu hàng. Hễ chống cự là chết ngay!

Trương-Siêu-Trọng và đồng bọn biết dưới hầm có Văn-Thái-Lai nên cũng không dám khinh xuất bước xuống, chỉ đứng trên mà la hét, kêu gọi. Trương-Siêu-Trọng là một nhân vật đã thành danh trên giang hồ nên so với Văn-Thái-Lai thì tuổi tác đương nhiên lớn hơn, kinh nghiệm dĩ nhiên nhiều hơn, và võ công cũng cao cường hơn. Nhưng đối với Văn-Thái-Lai, Trương-Siêu-Trọng đã từng nghe tiếng và chứng kiến phép điểm phép điểm huyệt của Bôn-Lôi-Thủ nên cũng có đôi phần kính nể chứ tuyệt nhiên không dám khinh thường.

Văn-Thái-Lai, tứ đương-gia của Hồng Hoa Hội, một trang anh-hùng nghĩa khí đã từng một mình dám mạo hiểm vào trong thâm cung ngang nhiên nói chuyện bí mật tay đôi với vua Càn-Long, là một vị Hoàng-Đế uy hùng bậc nhất của triều đình Mãn-Thanh, với vài ngàn dũng sĩ và mấy trăm vạn hùng bình dưới trướng thì đảm lược ấy không phải tầm thường.

Dưới hầm bí mật, Văn-Thái-Lai chẳng khác nào một mãnh hổ sa cơ bị nhốt trong chuồng. Nhưng cho dù mình mang đầy thương tích, Văn-Thái-Lai vẫn còn đủ sức hạ sát bất cứ người nào thờ ơ dám khinh thường lại gần.

Trương-Siêu-Trọng vẫn còn nhớ rõ Đổng-Triệu-Hòa bị điểm huyệt như thế nào và Ngô-Quốc-Đống bị đánh gãy xương bả vai ra sao. Vì vậy, Trương-Siêu-Trọng không dám xuống mà cũng không cho ai xuống đó cả. Lại sợ Văn-Thái-Lai dùng ám khí nên Trương-Siêu-Trọng không dám lai vãng trước miệng hầm, chỉ cố mà tìm lợi thế buộc cho Văn-Thái-Lai phải tự động đi lên thôi.

Văn-Thái-Lai đã nhận ra được tiếng của Trương-Siêu-Trọng nên biết việc ẩn núp của mình đã bị bại lộ. Chỉ có Trương-Siêu-Trọng mới dám cả gan vào Thiết-Đảm-Trang của Châu-Trọng-Anh, và chỉ có Trương-Siêu-Trọng mới có được thần công giở nổi tấm bảng sắt kia mà thôi.

Văn-Thái-Lai chẳng chút sợ sệt cho bản thân. Từ ngày dấn thân cho đại cuộc chàng đã xem thường cái chết và sẵn sàng nhận lấy nó bất cứ lúc nào. Sợ cùng chăng là cho Châu-Trọng-Anh và Thiết-Đảm-Trang phải vì mình mà tan gia bại sản, không khéo lại còn bị họa tru lục nữa. Kề vào tai Lạc-Băng, người vợ thân yêu, Văn-Thái-Lai nói:

-Bọn Trương-Siêu-Trọng thừa lúc Châu-Trọng-Anh vắng mặt ở Thiết-Đảm-Trang mà kéo người đến, ỷ vào số đông cậy vào võ lực uy hiếp Mạnh-Kiện-Hùng phải tiết lộ chổ ẩn núp của chúng ta. Đó chẳng qua là vì vận mạng chúng ta xui xẻo mà thôi, anh chẳng có gì để oán trách cả. Anh chỉ tiếc là di họa để vạ lây cho gia đình của một trang hào kiệt như Châu-Trọng-Anh kia. Nhưng…

Lạc-Băng chợt ngắt lời hỏi:

-Nhưng sao hở anh?

Văn-Thái-Lai buồn rầu đáp:

-Nhưng nếu chúng ta bị bọn trẻ Thiết-Đảm-Trang vì muốn được an toàn mà đem chúng ta bán rẻ thì anh nhờ cậy em một chuyện nhé. Em có bằng lòng không?

Lạc-Băng quá xúc động ôm Văn-Thái-Lai vào ngực thổn thức hỏi rằng:

-Mình ơi! Mình muốn dạy bảo em điều gì cứ nói ra, em xin tuân theo hết, dầu có phải hy sinh tánh mạng này. Nói đi mình…

Lần đầu tiên trong đời kể từ khi kết nghĩa vợ chồng, nhữn tiếng ‘mình’ êm ái tha thiết mới thốt ra từ trên miệng phát xuất tận đáy lòng của Lạc-Băng đối với Văn-Thái-Lai. Lâu nay nàng vẫn dùng những tiếng như ‘tứ ca’ hay ‘tứ đương-gia’ mà gọi chồng là vì họ ưu tiên, xem nặng chuyện quốc gia hơn nên tạm gác chuyện nhà.

Thấy vợ quá bi lụy như thế, Văn-Thái-Lai sợ làm nản chí trượng phu trong cơn nguy biến. Thu hết ý chí can cường lại, Văn-Thái-Lai nắm tay Lạc-Băng an ủi:

-Em Lạc-Băng yêu dấu! Đừng yếu đuối nữa! Phải mạnh dạn lên! Con người chúng ta phải là sắt đá trước ái tình khi chúng ta chưa có quyền hiến trọn quả tim cho yêu đương khi dân tộc còn đang bị dày xéo dưới gót quân xâm lược, khi bọn ‘chó săn chim mồi’ chưa bị diệt trừ hết. Con người chúng ta phải hiên ngang và mạnh mẽ trước sự hy sinh và dâng hiến. Phải đặt đại nghĩa lên trên hết. Em đừng quên đi những lời trăn trối của Vu tổng đà-chủ và của nhạc-phụ (#1). Không, anh không muốn em khóc! Anh muốn em bình tĩnh để anh gửi gắm một điều.

Không muốn để chồng buồn, Lạc-Băng dằn hết mọi chuyện, tươi tỉnh hỏi:

-Vâng, em nghe lời anh bảo. Vậy anh muốn phó thác cho em việc gì?

Lần này Văn-Thái-Lai không rỉ tai mà dõng dạc lớn tiếng cho Lạc-Băng nghe, dường như chàng có ý muốn nói cho cả Dư-Ngư-Đồng cùng nghe nữa. Văn-Thái-Lai nói:

-Em đừng lo ngại cho anh cả. Dù cho anh có bị bắt giải về kinh hay có bị giết đi em cũng vẫn phải tiếp tục hăng say chung sức với tất cả anh em trong Hồng Hoa Hội cùng nhau mưu đồ lo đại sự. Nhớ đừng bao giờ nản chí mà làm giảm đi nhuệ khí đấu tranh. Và nhớ cho kỹ đừng bao giờ gợi chuyện của anh ra để các anh em trong hội phải bận tâm đến phải hận lòng. Tóm lại, hãy quên hẳn anh đi mà dồn hết ý chí vào chuyện lớn cho quốc gia dân tộc. Em chịu hứa với anh chứ?

Lạc-Băng đáp ngay không do dự:

-Lời vàng ngọc của anh em không bao giờ dám sai.

Văn-Thái-Lai ôm Lạc-Băng vào lòng, đặt một nụ hôn nồng nàn lên gò má đang tràn đầy lệ nóng vì thương cảm, rồi nở một nụ cười mãn nguyện nói:

-Thế là anh yên lòng. Nhớ đừng lo lắng gì cho anh nhé. Anh bảo đảm với em là Càn-Long không dám làm hại anh đâu. Anh quả quyết là không lâu đâu, anh sẽ về lại bên em và các anh em Hồng Hoa Hội để tiếp tục hợp sức mà lo công việc. Cứ vững tin nơi anh đi.

Dư-Ngư-Đồng nãy giờ lén nhìn cặp uyên ương âu yếm với nhau, tâm sự vừa tình non nước lẫn tình riêng. Chàng bỗng tủi thầm mà tự nghĩ lấy duyên phận của chính mình…

Bên trên, Trương-Siêu-Trọng vẫn lớn tiếng kêu gọi Văn-Thái-Lai nạp mình. Y hứa sẽ không làm hại Văn-Thái-Lai mà chỉ giải chàng về kinh-đô theo mệnh vua mà thôi.

Văn-Thái-Lai nói với Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng rằng:

-Lúc này không thể liều chết mà đương đầu với Trương-Siêu-Trọng được vì thân anh chẳng khác nào cá chậu chim lồng. Phải chi lúc nãy anh đừng xuống hầm thì bây giờ có thể mặc sức ra tay cùng đám đông kia. Nếu có chết cũng là đại trượng phu.

Lạc-Băng nói:

-Lỗi cũng tại em!

Văn-Thái-Lai cười, tát yêu vào mặt vợ nói:

-Khờ quá! Chẳng tại ai cả! Đều do số mạng mà ra hết. Giờ đây bọn Trương-Siêu-Trọng giữ chặt miệng hầm, chúng ta có cánh cũng không bay khỏi. Cứ ẩn núp mãi chỉ càng thêm tù túng chứ ích lợi gì!

Nói xong, Văn-Thái-Lai không cần bàn với Lạc-Băng hay Dư-Ngư-Đồng mà tự quyết định lấy, chàng nói lớn, tiếng vọng lên trên rất rõ ràng:

-Ta là Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai, tứ đương-gia của Hồng Hoa Hội đây! Nếu có phải Hỏa-Thủ Phán-Quan Trương-Siêu-Trọng, Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân thì hãy nói với mọi người im lặng chớ ồn ào nghe ta nói.

Trương-Siêu-Trọng nghe xong liền bảo các bộ hạ dang ra xa để y nói chuyện với người dưới địa huyệt. Nghe trên miệng hầm im phăng phắc, Văn-Thái-Lai lại nói:

-Ta bị thương nặng ở gót chân không đi nổi. Phiền Trương tiên-sinh hãy cho người thòng dây xuống, có ghế ngồi cho ta lên.

Trương-Siêu-Trọng từ trên nói vọng xuống:

-Ta chính là Hỏa-Thủ Phán-Quan Trương-Siêu-Trọng đây. Văn tứ đương-gia hãy kiên nhẫn đợi một chút ta sẽ cho người thòng dây xuống có ghế ngồi kéo Tứ-ca lên.

Nói xong, Trương-Siêu-Trọng quay lại định gọi Mạnh-Kiện-Hùng bảo người trong Thiết-Đảm-Trang tìm một sợi dây thừng cho thật chắc cột một cái ghế mây vào đó rồi thòng xuống hầm cho Văn-Thái-Lai ngồi và kéo lên. Nhưng đảo mắt một hồi mới hay Mạnh-Kiện-Hùng thừa lúc ai nấy đều để ý đến Văn-Thái-Lai nên đã một mình lẩn tránh, rút đi từ bao giờ!

Cực chẳng đã, Trương-Siêu-Trọng đành phải nhờ một tráng đinh. Gã tráng đinh làm theo lời Trương-Siêu-Trọng chỉ dẫn, lấy một sợi dây thừng cột vào một cái ghế mây thật chặt rồi trao cho Trương-Siêu-Trọng.

Trương-Siêu-Trọng vừa thòng cái dây có cột ghế mây xuống, vừa lên tiếng báo trước cho Văn-Thái-Lai chuẩn bị. Khi ghế mây vừa chạm xuống đất, Trương-Siêu-Trọng sai mấy người giữ chặt một đầu giây, đợi Văn-Thái-Lai trả lời sẽ lập tức kéo lên.

Trương-Siêu-Trọng liền rung cái lục lạc báo hiệu. Văn-Thái-Lai liền ngồi vào cái ghế mây cho đám người của Trương-Siêu-Trọng kéo lên khỏi miệng hầm.

Chân vừa chạm đất, Văn-Thái-Lai vùng mình nhảy ra khỏi chiếc ghế như một lằn tên. Chàng lại vung tay gạt một cái khiến cho bao thừng cột vào ghế đều bung ra hết rồi cầm sợi dây thừng quơ qua quơ lại như một ngọn roi múa vùn vụt, kình lực mạnh mẽ vô cùng chẳng khác nào một mãnh hổ vừa thoát ra khỏi chuồng khiến không ai dám lại gần.

Người trong võ lâm thường nói ‘luyện trường bất luyện đoản, luyện ngạnh bất luyện nhuyễn’ (#2). Đồng thời lại có câu: ‘nhất đao, nhị thương, tam phủ, tứ kích, ngũ câu, lục tiên, thất mâu, bát kiếm’. Ý nói người luyện tập võ nghệ muốn sử dụng binh khí cho thật tinh thông thì phải theo thứ tự tám món binh khí nói trên mà luyện. Ví dụ năm đầu luyện về đao, năm thứ nhì luyện về thương… Như thế phải mất sáu năm mới luyện được ‘tiên’, tức là roi. Mà Văn-Thái-Lai đã luyện qua tất cả các món binh khí đó và món nào chàng cũng sành cả.

Trong chớp nhoáng, Văn-Thái-Lai biến sợi dây thừng thành một ‘nhuyễn tiên’ vô cùng lợi hại. Chàng cứ nhắm ngay đầu bọn người của Trương-Siêu-Trọng mà đánh. Hầu hết đều lo thủ thế mà tránh ra xa chứ không dám đỡ.

Trong đám người này, Văn-Thái-Lai sực nhớ có Đổng-Triệu-Hòa, người mà chàng ghét cay ghét đắng, khinh khi, xem hắn chẳng khác gì loài thú. Vì vậy, Văn-Thái-Lai vừa múa sợi dây thừng, vừa đảo mắt cố tìm xem Đổng-Triệu-Hòa trốn ở xó nào.

Đổng-Triệu-Hòa cũng hiểu biết điều đó nên hắn lấm lét thui thủi đứng trốn sau đám đông chứ không dám chường mặt ra để cho Văn-Thái-Lai trông thấy. Lúc ấy, sợi dây thừng trong tay Văn-Thái-Lai liên tiếp quất trúng mấy người, kẻ ngay mặt, người ngay lưng, té bò càng, nằm lăn ra đất. Một người khác tránh không kịp bị sợi dây thừng cuốn lấy cổ giựt một cái nằm sấp ra đất. Người ấy vừa ngã xuống thì bóng của Đổng-Triệu-Hòa hiện ra sừng sững, không còn tránh đi đâu được nữa. Nhìn thấy Đổng-Triệu-Hòa, Văn-Thái-Lai khẽ nhếch mép quát lên một tiếng, vụt cho hắn một dây thừng ngay hông ngã nhào xuống đất vừa ôm mình vừa kêu la rên rỉ.

Trương-Siêu-Trọng thấy Văn-Thái-Lai đánh đám lâu la của mình chẳng khác một mãnh hổ tung hoành giữa đàn dê thì không khỏi kinh hãi và thầm phục. Sợi dây thừng Văn-Thái-Lai tung đến đâu thì người của Trương-Siêu-Trọng lui tới đó nếu không bị gục ngã. Nếu để tình trạng này kéo dài thì khó lòng mà hạ nổi Văn-Thái-Lai.

Trương-Siêu-Trọng bèn gọi các cao thủ đi tháp tùng mình ra, truyền lệnh phải quyết đấu đặng bắt sống cho bằng được vị Tứ đương-gia của Hồng Hoa Hội kia chứ không được lui bước.

Một viên cầm-y thị-vệ là Đoàn-Đại-Lân và một võ lâm cao thủ là Ngân-Bá-Càn, kẻ dùng đao, người dùng song hoàn liều mình xông vào chống cự với Văn-Thái-Lai vô cùng mãnh liệt…

Trong khi đó, Dư-Ngư-Đồng cùng Lạc-Băng vẫn còn ở dưới hầm nhưng nghe tiếng binh khí va chạm vào nhau thì biết rõ ngay là Văn-Thái-Lai đang liều mình tử chiến. Cả hai người đều hết sức nôn nóng. Dư-Ngư-Đồng bàn với Lạc-Băng rằng:

-Văn tẩu tẩu (#3)! Chắc là Văn tứ ca đang kịch chiến với bọn Trương-Siêu-Trọng trên đó. Mãnh hổ nan địch quần hồ, dù cho Văn tứ ca có bản lãnh cao cường đến thế nào đi chăng nữa cũng không thể nào thắng được, huống hồ trong mình Văn tứ ca còn mang nhiều vết thương trầm trọng chưa lành hẳn. Cuộc giao đấu càng kéo dài bao nhiêu thì càng nguy hiểm tới tánh mạng cho Văn tứ ca bấy nhiêu! Không lẽ chúng ta ở dưới này để Văn tứ ca phải một mình mạo hiểm hay sao?

Lạc-Băng nói:

-Tôi cũng nghĩ như vậy. Càng nghe tiếng binh khí chạm nhau tôi càng cảm thấy nóng ruột.

Dư-Ngư-Đồng nói:

-Vậy thì chúng ta phải lên gấp mà trợ thủ cho Văn tứ ca thôi!

Lạc-Băng gật đầu tánh thành. Vụt một một cái, hai người đã nhảy lên khỏi miệng hầm. Lạc-Băng tuy vẫn còn đau vì vết thương chưa lành nhưng vì quá lo cho Văn-Thái-Lai nên nàng chẳng chút do dự liền theo Dư-Ngư-Đồng bén gót mà cùng phi thân lên một lượt. Hai người đáp xuống đất thật nhẹ nhàng. Dư-Ngư-Đống chẳng nói chẳng rằng, rút ống sáo vàng ra tả xông hữu đột đánh dữ dội. Tổng-binh Thành-Khoán, một cao thủ trên giang hồ lấy côn ra, dùng côn pháp của phái Thiếu-Lâm mà đối địch với những ngón tuyệt kỹ của phái Võ-Đang đang sử dụng bởi Dư-Ngư-Đồng.

Côn của Thành-Khoán thì dài, mà ống sáo vàng của Dư-Ngư-Đồng thì ngắn. Tưởng rằng phần bất lợi là ở phía Dư-Ngư-Đồng, nhưng sự thật lại khác hẳn. Dư-Ngư-Đồng với những chiêu thức kỳ diệu và nhanh nhẹn làm cho Thành-Khoán phải nhiều phen bối rối, tinh thần thất điên bát đảo mà càng lúc càng phải lui dần…

Trong khi đó, Lạc-Băng đứng thủ ở một bực thang dùng thanh trường đao đánh tới. Nàng vẫn còn bị thương nên không thể nhảy nhót tung hoành được. Ngọn đao của nàng vô cùng lợi hại, hễ múa tới đâu thì địch thủ dạt ra tới đó. Bỗng nhiên từ đâu một người diện mạo trông hết sức oai vệ từ đâu nhảy tới chặn đường nàng lại. Lạc-Băng bèn rút phi đao phóng ngay vào mình người ấy một cái. Nhưng người ấy chẳng thèm né tránh, chờ cho phi đao tới nơi liền giơ hai ngón tay ra mà kẹp lấy phi đao trông thật dễ dàng. Mọi người nhìn thấy phi đao chỉ cách mũi người ấy không đầy một tấc.

Thật là ‘nhân thượng hữu nhân’! Người phóng phi đao đã tài mà người bắt phi đao còn có vẻ tài tình hơn nữa! Thấy bản-lãnh của người ất ghê gớm như vậy, Lạc-Băng không khỏi kinh ngạc. Tài sử đao và phóng phi đao của nàng vốn được tiên-phụ Lạc-Nguyên-Thông truyền dạy hết sức tận tâm và tỉ mỉ. Trường đao của nàng đã làm cho giang hồ phải nể mặt và tài phóng phi đao của nàng đã từng kết liễu mạng sống của không biết bao nhiêu cao thủ trên giang hồ. Một khi phi đao đã rời khỏi tay nàng thì địch thủ cho dù không chết cũng phải bị thương. Người nào tài lắm thì cũng chỉ tìm cách mà né tránh chứ chưa có ai dám ngang nhiên bắt lấy phi đao như người này cả.

Dù thầm phục bản lãnh của đối phương, Lạc-Băng không vì thế mà khiếp nhược. Hai tay nàng múa hai đao, một dài một ngắn đến đứng sát bên cạnh Văn-Thái-Lai mà bảo vệ cho chồng.

Người đàn ông bắt phi đao kia bây giờ mới có dịp trông rõ dung nhan người phóng phi đao lúc nãy. Khi biết người này là một thiếu-phụ xinh đẹp mặt hoa da phấn, má đào còn trẻ tuổi thì chính ông ta cũng phải kinh ngạc, không ngờ trong đám quần thoa lại có được một nữ anh hào tài ba đến thế.

Nguyên người đàn ông bắt phi đao của Lạc-Băng chẳng phải ai xa lại mà chính là Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân Trương-Siêu-Trọng. Nhìn Lạc-Băng múa đao đàn áp đám bộ hạ mình, không hiểu sao Trương-Siêu-Trọng chỉ đứng bàng quang mà không hề can thiệp. Mặc dù bắt được phi đao của Lạc-Băng, Trương-Siêu-Trọng cũng thầm khen ngợi bản lãnh của nàng. Ông ta tự nghĩ ngoài mình ra, trong đám bộ hạ chưa chắc có được một người tránh nổi phi đao kia chứ đừng nói là tìm cách bắt lấy.

Bằng vào võ công, có thể nói Trương-Siêu-Trọng đứng vào hàng cự phách trên giang hồ. Xưa nay ông ta chưa hề biết qua mùi thất bại là gì. Trương-Siêu-Trọng vẫn tự phụ rằng trong thiên hạ chưa chắc đã có được một người có thể đương đầu nổi với ông ta kể cả hai sư huynh Mã-Chân và Lục-Phỉ-Thanh. Nhưng ngoài bản lãnh phi thường, tính tình Trương-Siêu-Trọng cũng có cái khác thường. Ông ta tính khí cao ngạo, rất coi thường phụ nữ nên chẳng bao giờ có ý tranh luận chứ đừng nói là tỉ thí bằng võ công. Bình thường, Trương-Siêu-Trọng chẳng thà chạy mặt lánh người còn hơn là để phải mang tiếng là hơn thua với phái yếu. Trương-Siêu-Trọng vẫn quan niệm rằng đánh thắng người đàn bà chẳng có gì là vinh dự, mà giết chết một người đàn bà thì càng nhục nhã hơn nữa. Vì vậy ông ta đã từng thề với lòng rằng: “Thà chết chứ ta chẳng bao giờ thèm giao đấu với đàn bà con gái”.

Vì vậy, mặc dầu chính mắt Trương-Siêu-Trọng đã chứng kiến bản lãnh siêu việt của Lạc-Băng, biết không phải là một người tầm thường, có thể nói là ghê gớm hơn hầu hết các ‘đấng mày râu’ đã từng so tài với mình, ông ta cũng không hề có ý muốn cùng nàng động thủ.

Vì đã quyết định giữa vững lập trường nên Trương-Siêu-Trọng chỉ đứng ngoài nhìn xem đám thủ hạ giao chiến với ba người Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng. Trương-Siêu-Trọng thầm nghĩ rằng bọn thủ hạ của mình cũng toàn là những cao thủ trên giang hồ, có thể bản lãnh cá nhân không bằng ba đường-gia của Hồng Hoa Hội, nhưng với số đông mà đánh lâu thì phần thắng đương nhiên sẽ phải về phe mình mà thôi. Đó là chưa nói đến chuyện ba người kia còn đang bị thương nên sức lực dù sao cũng giảm đi khá nhiều.

Nhưng trái với sự tiên liệu của Trương-Siêu-Trọng, ba đương gia của Hồng Hoa Hội càng đánh càng hăng. Sợi dây thừng trong tay Văn-Thái-Lai múa vùn vụt như cây nhuyễn tiên, cặp đao của Lạc-Băng múa vùn vụt như bay lấp lánh ánh hào quang và ống sáo vàng của Dư-Ngư-Đồng cũng tung hoành tứ phía, không một ai dám lại gần. Đám thủ hạ của Trương-Siêu-Trọng tuy đông là vẫn không làm gì được ba người. Có mấy tên bổ-khoái còn bị phi đao của Lạc-Băng và phi tiêu trong ống sáo vàng của Dư-Ngư-Đồng đả thương, loại ra khỏi chiến trận. Vòng vây mỗi lúc một lỏng dần, từ từ nới rộng ra.

Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng bảo vệ cho Văn-Thái-Lai chu đáo đến nỗi không một vũ khí nào của địch nhân đụng được vào chân lông của chàng. Tóm lại ba người liên thủ với nhau rất chặt chẽ, tạo thành một thế trận rất kín đáo và tài tình, chống cự với một số cường địch đông hơn không biết bao nhiêu lần mà không bị lép vế chút nào, trái lại còn chiếm được ưu thế là đàng khác.

Đứng ngoài quan sát, Trương-Siêu-Trọng đã nhìn thấy rõ được tất cả lợi hại. Ông ta biết bây giờ nếu tình trạng mà kéo dài thì phần bất lợi sẽ về phía mình chứ không phải là về phía ba người kia nữa. Mạnh-Kiện-Hùng chắc chắn là đi tìm Châu-Trọng-Anh để báo tin. Nếu cả hai về kịp, lại đem theo nhiều trợ thủ thì thế cờ sẽ hoàn toàn đảo ngược. Muốn ngăn ngừa sự việc đó xảy ra chỉ còn cách là phải dùng chiến thuật tốc chiến tốc thắng mà thôi.

Thấy Lạc-Băng bám xiết lấy Văn-Thái-Lai như hình với bóng, Trương-Siêu-Trọng biết muốn bắt được Văn-Thái-Lai phải hạ nàng trước mới được. Ngặt nỗi Trương-Siêu-Trọng xưa nay đã thề rằng không bao giờ động thủ với đàn bà con gái. Nhưng nếu giữ vững lập trường của mình thì không thể nào làm tròn được nhiệm vụ của triều-đình giao phó.

Suy nghĩ đắn đo một hồi, Trương-Siêu-Trọng đành nghiến rằng quyết định đi ngược lại với lời thề do chính ông ta lập ra dù biết rõ giang hồ có thể cười ông ta không ít khi chuyện này lộ ra ngoài. Dù sao Trương-Siêu-Trọng cũng còn chút khí khái nên không dùng vũ khí của mình mà chỉ cầm phi đao của Lạc-Băng phóng mình khi nãy dùng làm binh khí xông vào vòng chiến.

Thấy khí thế của Trương-Siêu-Trọng thật là dữ dội, Lạc-Băng sợ ông ta có ý hại chồng nên múa đao chặn lại đặng che chở cho Văn-Thái-Lai. Bọn ngự-lâm quân, cẩm thị-vệ và bổ-đầu, bổ-khoái thấy Trương-Siêu-Trọng nhảy vào trợ chiến thì tinh thần gia tăng lên bội phần, liền cố gắng ra sức đánh rấn lên.

Văn-Thái-Lai sử dụng sợi dây thừng thật tài tình, cho dù đám tùy tùng của Trương-Siêu-Trọng nhắm vào chàng đánh tới tấp nhưng vẫn không làm gì được chàng.

Lạc-Băng dù võ nghệ không thể nào sánh được với Trương-Siêu-Trọng nhưng những đường đao của nàng sử dụng rất uyển chuyển và lợi hại khiến Trương-Siêu-Trọng phải giật mình mà dẹp bỏ đi hết các ý nghĩ khinh thường nhi nữ từ xưa tới nay. Ông ta biết muốn thắng được nàng không phải chỉ vài ba chiêu mà xong!

Lạc-Băng thủ các huyệt đạo và những chỗ hiểm rất cẩn thận và kỹ càng, bình tĩnh ứng chiến, chẳng chút khiếp sợ. Thấy bản lãnh nàng còn cao hơn mình tưởng tượng nhiều nên Trương-Siêu-Trọng vừa đánh vừa dè dặt chứ không dám ơ thờ. Vừa đánh, Trương-Siêu-Trọng vừa tìm sơ hở để có dịp sẽ lập tức khai thác liền. Hai bên đấu với nhau được mấy chục hiệp. Lạc-Băng phần thì bị thương chưa khỏi phải gắng gượng lắm mới đứng vững được; phần thì vừa đánh vừa phải canh chừng, lo bảo vệ cho Văn-Thái-Lai; phần thì giao chiến một lúc khá lâu nên nguyên khí tiêu hao đi không ít; phần lại gặp phải một địch thủ quá lợi hại như Trương-Siêu-Trọng nên đao pháp của nàng càng lúc càng yếu dần, không còn được linh hoạt thần tốc như lúc ban đầu nữa.

Sau cùng, Trương-Siêu-Trọng đã tìm được yếu điểm của Lạc-Băng. Ông ta liền vứt ngọn phi đao xuống đất rồi lừa thế nhảy lại gần sát bên mình Lạc-Băng, dùng bả vai trái của mình huých vào vai phải của Lạc-Băng. Bị đánh bất ngờ, Lạc-Băng không gượng được, thân hình lảo đảo. Nhanh như chớp, Trương-Siêu-Trọng dùng đôi tay gạt mạnh vài hai tay của Lạc-Băng khiến nàng phải buông rơi cả hai thanh đao xuống đất. Thừa thắng xông lên, Trương-Siêu-Trọng bồi thêm một chưởng như vũ bão vào người Lạc-Băng khiến nàng không sao đứng vững được, ngã văng xuống hầm.

Sau khi Lạc-Băng bị Trương-Siêu-Trọng xô xuống hầm, Văn-Thái-Lai không còn người bảo vệ, một mình phải chống cự với hai cao thủ là Đoàn-Đại-Lâm và Ngân-Bá-Càn. Giá mà lúc bình thường Văn-Thái-Lai đã không coi hai người này ra gì. Có thể nói trừ Trương-Siêu-Trọng ra, tất cả các cao thủ triều đình hiện đang có mặt tại Thiết-Đảm-Trang chưa chắc đã làm gì được chàng. Cho dù chàng có bị thương chút đỉnh đi chăng nữa, nếu muốn thoát khỏi tay họ thì cũng chẳng phải là một điều khó mà không cần phải có ai tiếp sức cả…

Xưa nay, trên bước đường hành hiệp, Văn-Thái-Lai vẫn đơn thân độc mã. Một tay chàng đã sát hại không biết bao nhiêu là ‘chó săn chim mồi’ của triều-đình Mãn-Thanh. Cái danh-hiệu Bôn-Lôi-Thủ kia đã làm cho bao nhiêu cao thủ của cả hai phe Bạch-đạo lẫn hắc đạo khi nghe đến đều phải kiêng nể và húy kỵ .

Lúc sinh tiền, cố Tổng-Đà-Chủ Vu-Vạn-Đình vì mến mộ tài năng và trọng nghĩa khí của Văn-Thái-Lai nên ủy thác cho chàng một công tác hết sức quan trọng là cùng mình mạo hiểm vào tận thâm cung yết kiến vua Càn-Long rồi đem những bí mật quốc cơ, rồi về An-Tây trình báo lại với Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách hợp cùng với các đương-gia của Hồng Hoa Hội bàn thảo, phác họa chương trình hoạt động, xúc tiến kế hoạch khởi nghĩa tấn công nếu cần thiết…

Cũng vì công tác ấy mà Văn-Thái-Lai phải bao phen đương đầu với cường địch để rồi mang lấy thương tích đầy mình. Trong khi đó vua Càn-Long vẫn không chịu bỏ qua, nhất quyết phải huy động toàn bộ cao thủ triều đình bằng mọi giá phải bắt cho được Văn-Thái-Lai hoặc là giết phứt đi…

Từ khi mang trọng thương, Văn-Thái-Lai chưa lúc nào được nghỉ ngơi điều dưỡng đúng mức nên cả nội công lẫn nguyên khí chưa phục hồi lại được. Thêm vào đó, những chuyện phiền lại liên tục xảy ra làm cho chàng tức giận thêm nhiều phen. Cứ mỗi lần tức giận là các vết thương lại bị động, ảnh hưởng đến sức khỏe và việc điều dưỡng rất nhiều.

Dù vậy, với một sợi dây thừng trong tay, Văn-Thái-Lai đã làm cho bao nhiêu cao thủ triều đình phải điên đầu, ngay cả Trương-Siêu-Trọng còn phải thầm phục con người mang danh-hiệu Bôn-Lôi-Thủ kia.

Và từ lúc Trương-Siêu-Trọng ra tay, tình thế đôi bên lại hoàn toàn biến đổi. Lạc-Băng đã bị xô xuống hầm. Dư-Ngư-Đồng một mình phải luôn tay chiến đấu rất gay go với nhiều cao thủ không ngừng. Còn Văn-Thái-Lai sau một lúc kịch chiến khá lâu thì các vết thương lại bị động khiến cho chàng cảm thấy đau đớn vô cùng. Thần trí Văn-Thái-Lai như chợt hôn mê, sợi dây thừng trong tay chàng chậm dần đi, không còn nhanh nhẹn và chính xác như lúc ban đầu nữa. Thấy chiêu thế của Văn-Thái-Lai bắt đầu hỗn loạn, Trương-Siêu-Trọng biết chàng đã kiệt sức nên hối thúc đám thủ hạ tấn công ráo riết thêm nữa.

Dư-Ngư-Đồng tuy bị vây đánh rất ngặt nhưng cũng nhìn ra được điều đó. Chàng giở hết tuyệt kỹ bình sinh ra đối phó. Mỗi một chiêu Dư-Ngư-Đồng xuất ra là một đòn trí mạng. Hễ có cơ hội hạ được tên nào chóng vánh, chàng đều không bỏ lỡ cơ hội. Chàng chủ tâm muốn hạ thật càng nhiều địch thủ càng sớm càng tốt để dành thì giờ bảo vệ cho Văn-Thái-Lai đang bị cô thế và dần dà kiệt sức. Trương-Siêu-Trọng thấy thế nghĩ thầm:

-“Lâu nay ta tưởng Hồng Hoa Hội chỉ là một tổ chức phiến loạn tầm thường, bất quá là chỉ quy tụ được những tay có khả năng tiếp ta năm, bảy hiệp là cùng. Nhưng thật không ngờ chỉ mới đụng độ với ba người, mà ba người lại đang bị thương ở trong tình thế hiểm nghèo, mà đã ghê gớm như thế rồi! Nếu cả ba ở trong tình trạng hoàn hảo thì thật chưa chắc gì ta đã làm gì được họ! Sở dĩ phe ta chiếm được ưu thế là nhờ cậy vào số đông tuyển lựa toàn những cao thủ hạng nhất của triều đình, lại có được đủ điều kiện thuận lợi. Văn-Thái-Lai là tứ đương-gia của Hồng Hoa Hội thì chẳng nói làm gì. Ít nhiều danh hiệu và thành tích của hắn, ta đã nghe qua. Cho dù tài nghệ hắn không bằng ta nhưng quả là một cao thủ lợi hại, hiếm có trên giang hồ. Còn như nàng thiếu-phụ diễm lệ và chàng công tử trẻ tuổi kia ta chưa hề biết đến mà sao lại có được bản lãnh tuyệt vời đến như thế? Hai người này đương nhiên chỉ là những nhân vật tầm thường trong Hồng Hoa Hội thôi thế mà bao nhiêu thủ hạ của ta, đều là những người có máu mặt, có tên tuổi lừng lẫy trên giang hồ vậy mà hợp lực đánh mãi vẫn không thắng nổi. Trừ ta ra, có thể nói tất cả đám tùy tùng của ta không ai sánh nổi với ba người kia! Chả trách là bao nhiêu cao thủ trước đây mới lãnh chiếu chỉ đi truy lùng khâm-phạm, kẻ thì bị giết mất xác, người thì bị thương trí mạng, ôm cái nhục mà chạy dài cũng phải! Đây là một bài học nhắc nhở cho ta biết rằng chớ nên chủ quan như trước đây mà xem thường Hồng Hoa Hội, ắt có ngày mang họa vào thân!

Nhìn Dư-Ngư-Đồng xuất chiêu một hồi, Trương-Siêu-Trọng bỗng cau mày nghĩ thầm:

-Không ngờ chàng thanh-niên trẻ tuổi hào hoa phong nhã thế kia mà lại sử dụng ống sáo vàng một cách kỳ diệu với những chiêu thức biến ảo thần sầu đến như thế! Không biết hắn là ai, thuộc môn phái nào? Ta phải truy tầm cho rõ mới được.

Nghĩ đoạn, Trương-Siêu-Trọng liền để hết tâm trí quan sát Dư-Ngư-Đồng. Dưới ánh nắng, ống sáo vàng phản chiếu rực rỡ, khi thì giống một đoản kiếm, lúc lại như một ngọn thương, lại có khi được dùng như một phán quan bút để điểm huyệt nữa… Quan sát tỉ mỉ một hồi, Trương-Siêu-Trọng bỗng giật mình vì phát hiện được Dư-Ngư-Đồng đang sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật, một tuyệt kỹ của phái Võ-Đang.

Nhu-Vân Kiếm-Thuật nổi tiếng là ‘đệ nhất kiếm pháp’ trên giang hồ, không gì sánh nổi, kể cả Thanh-Thành Kiếm-Pháp. Nhu-Vân Kiếm-Thuật không những không truyền cho người ngoài, mà ngay cả chính trong môn phái Võ-Đang cũng chỉ truyền cho những cao đồ luyện được đến mức ‘lô hỏa tuyệt luân’ mà thôi. Sư-phụ của Trương-Siêu-Trọng năm xưa chỉ truyền lại cho chính ông ta cùng đại sư huynh Mã-Chân và nhị sư huynh Lục-Phỉ-Thanh chứ không truyền cho các đệ tử khác.

Hơn 20 năm đi lại trên giang hồ, Trương-Siêu-Trọng không truyền tuyệt kỹ này lại cho bất cứ một đệ tử nào, mà cũng chưa thấy ai sử dụng nó ngoài hai sư huynh trong phái Võ-Đang của mình. Chỉ mới cách đây mấy ngày, ông gặp một ‘gã thanh niên’ sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật, hỏi hắn thì hắn nhận là đồ đệ của sư huynh Mã-Chân của ông ta. Bảo hắn dùng lễ sư điệt mà ra mắt thì hắn đã chẳng chịu nghe còn quấy phá chọc ông ta nhiều phen đến điên cả đầu!

Giờ đây, Trương-Siêu-Trọng lại được chứng kiến thêm một người sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật. Căn cứ vào lối sử dụng của cả hai người, Trương-Siêu-Trọng biết chắc chắn rằng cả hai đều được chân truyền chứ không phải là học lóm. Và như thế có nghĩa là cả hai người nếu không phải là đệ tử của đại sư huynh Mã-Chân thì là đệ tử của nhị sư huynh Lục-Phỉ-Thanh mà thôi chứ không chạy vào đâu được! Mà hai người đã là đệ tử của một trong hai sư huynh mình thì đương nhiên là sư điệt phải gọi ông ta là sư thúc rồi, không còn gì để chối cãi nữa! Ấy vậy mà không hiểu sao cả hai người đều ra mặt chống đối với ông ta mãi! Ông là vai sư thúc, nhưng hai người kia đã không nể mặt thì chớ, lại còn căm thù và vô lễ với ông ta là nghĩa làm sao?

Nhìn Dư-Ngư-Đồng dùng ống sáo vàng sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật, Trương-Siêu-Trọng bỗng nhớ lại lời sư phụ năm xưa dặn riêng với ông ta cùng hai vị sư huynh rằng:

-Ba con không được đem Nhu-Vân Kiếm-Thuật mà truyền lại cho bất cứ một người nào nếu người ấy không phải là đệ tử chịu tuyên thệ trọn đời trung thành với phái Võ-Đang của chúng ta, bất luận đó là người chí thân hay là người mà các con chịu hàm ân nặng đi chăng nữa! Tuyệt kỹ này chỉ có thể truyền cho người nào có trìng độ cao, suốt đời tận tụy, vì môn phái có thể hy sinh tất cả tiền tài danh vọng, thậm chí đến cả mạng sống của mình nữa. Tình cảm không thể nào chi phối kỷ luật và tôn chỉ của môn phái được. Sư-phụ chờ đến hôm nay mới truyền lại cho ba con là vì các con đã qua cơn trui mài và thử thách kỹ, và ba con đã bằng lòng tuyên thệ sẽ trung thành và sẵn sàng hy sinh cho môn phái. Truyền xong môn Nhu-Vân Kiếm-Thuật này tức là thầy đã dạy tất cả học nghệ của thầy lại cho các con rồi mà không giữ lại bất cứ một chiêu nào cả.

Trương-Siêu-Trọng lẩm bẩm một mình:

-“Lời sư-phụ dặn vẫn còn rành rành trong trí của ta. Chẳng hiểu Mã đại sư huynh còn nhớ chăng? Ta tin chắc đại sư huynh nhớ rất kỹ và không khinh xuất bạ ai cũng dạy đâu. Nếu cả hai người trẻ ấy là học trò cưng của Mã đại sư huynh thì chắc chắc cả hai đã lập lời trọng thệ trung thành tuyệt đối với phái Võ-Đang ta rồi thì trước sau cũng phải nhìn nhận ta là sư thúc. Nhưng ta chỉ lo Lục nhị sư huynh mà thôi. Y đã đoạn tình đồng môn với ta, thì cũng rất có thể xem thường lời thầy dặn mà phản bội môn phái để đi theo đường hướng của mình. Trường hợp như thế thì…”

Trương-Siêu-Trọng đang nghĩ vơ vẩn thì chợt nhìn thấy Dư-Ngư-Đồng thi triển một chiêu trong Nhu-Vân Kiếm-Thuật đánh hạ một cao thủ của mình. Trương-Siêu-Trọng bất giác phải giật mình. Ngoài ông ta và hai sư huynh đồng môn ra, theo ông được biết thì không có một đệ tử Võ-Đang nào biết sử dụng tuyệt kỹ của môn phái đến bậc này. Mới từng ấy tuổi mà chàng thư sinh kia đã luyện được Nhu-Vân Kiếm-Thuật đến mứ ‘lô hỏa tuyệt hồng’! Nếu cứ theo đà này mà phát triển thì một ngày nào đó, tài nghệ chàng thư-sinh này sẽ vượt qua tất cả các trưởng bối Võ-Đang hiện tại.

Trương-Siêu-Trọng định lên tiếng hỏi xem Dư-Ngư-Đồng là đệ tử của vị sư huynh nào của mình thì lại thấy chàng phối hợp Nhu-Vân Kiếm-Thuật của Võ-Đang với Bạch-Vân Thương Cẩu của phái Không-Động thành một chiêu thế vô cùng bí hiểm mà chỉ có những cao thủ thượng thặng trên giang hồ mới có khả năng làm được mà thôi. Trương-Siêu-Trọng không dằn được, phải cất lên tiếng khen:

-Hảo chiêu!

Khen xong, Trương-Siêu-Trọng lại chăm chú quan sát từng cử động nhỏ một của Dư-Ngư-Đồng. Bản lãnh chàng trai trẻ tuổi giống thư sinh hơn là dũng sĩ kia thật là vượt ngoài sức tưởng tượng của viên Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân!

Dư-Ngư-Đồng lúc ấy đánh bạt dần đám người kia dang ra xa. Thành-Khoán bị chàng dùng ống sáo vàng điểm huyệt vào ngay hông; Đoàn-Đại-Lân bị điểm trúng ngay bắp chân; và Ngân-Bá-Càn bị điểm vào ngay cánh tay. Thủ pháp của Dư-Ngư-Đồng quá lẹ làng và thần tốc khiến ba cao thủ không biết đâu mà lường nổi, lần lượt bị hã từng người một. Những cao thủ khác vì quá sợ nên chỉ vừa chống đỡ vừa thối lui dần đến trước nỗi có vài người suýt ngã xuống hầm.

Trương-Siêu-Trọng thấy đã đến lúc chính mình phải ra tay nên tuốt thanh bảo kiếm ra xông tới đứng trước ba cao thủ vừa thọ thương dưới tay Dư-Ngư-Đồng. Trương-Siêu-Trọng định dùng Nhu-Vân Kiếm-Thuật đấu với Dư-Ngư-Đồng, nhưng mũi kiếm của ông ta vừa đâm tới, Dư-Ngư-Đồng đã nhảy vụt một cái xuống dưới hầm.

Chuyện xảy ra quá đột ngột làm cho tất cả mọi người phải chưng hửng, không hiểu thế nào đâu ra đâu cả! Nhưng điều làm mọi người kinh ngạc hơn cả là rõ ràng không phải Dư-Ngư-Đồng vì thất thế mà nhảy xuống dưới hầm trốn. Chàng đang thắng thế, áp đảo được các thủ hạ của Trương-Siêu-Trọng, lại đả thương liên tiếp ba cao thủ và làm cho những người khác phải điêu đứng. Nếu bảo rằng Dư-Ngư-Đồng vì giao chiến đã lâu nên có phần mệt mỏi phải nghỉ tay thì lại càng vô lý. Lạc-Băng đã bị ngã xuống dưới hầm, loại ra khỏi vòng chiến. Đây là lúc Văn-Thái-Lai cần Dư-Ngư-Đồng hơn bao giờ hết. Mà con người của Dư-Ngư-Đồng như tất cả đã biết qua là người trượng nghĩa chứ không phải phường ‘giá áo túi cơm’ tham sống sợ chết, gặp nguy hiểm thì một mình trốn chạy. Khi nãy, nhảy lên trợ lực Văn-Thái-Lai là do chàng tự ý, bây giờ nhảy xuống hầm cũng không phải do ai hay bị ai bắt buộc.

Số là Dư-Ngư-Đồng trong khi đang kịch chiến với đám cao thủ triều đình vẫn luôn luôn để ý đến Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng. Thấy hai người giữ được thế quân bình, chàng cũng hơi yên tâm mà tiếp tục giao phong. Nhưng khi nhìn thấy Trương-Siêu-Trọng nhảy vào thì chàng biết rõ cán cân đã chênh lệch hẳn. Chàng định lên tiếng báo cho Lạc-Băng biết mà đề phòng vì rất có thể Trương-Siêu-Trọng dùng đến Phù-Dung châm thì thật là hết sức nguy hiểm cho tánh mạng của nàng. Nhưng ba cao thủ Thành-Khoán, Đoàn-Đại-Lân và Ngân-Bá-Càn tấn công ráo riết làm Dư-Ngư-Đồng bắt buộc phải cố sức mà chống đỡ chứ không làm gì hơn được. Chàng vừa đánh mà trong lòng lại rối như tơ vò, hết sức lo lắng cho Lạc-Băng. Đến khi Lạc-Băng bị Trương-Siêu-Trọng đánh văng xuống hầm, Dư-Ngư-Đồng đau lòng đến và tức giận đến mức ‘nộ khí xung thiên’. Nhưng không ngờ trong cơn giận đó lại khiến cho chàng nảy sinh ra một luồng dũng khí lạ thường và có lẽ do bản năng sinh tồn thúc giục nên vô tình chàng tự nghĩ ra cách phối hợp Nhu-Vân Kiếm-Thuật của Võ-Đang và Bạch-Vân Thương-Cẩu của Không-Động. Nhờ lối đánh mới lạ đó mà Dư-Ngư-Đồng trong một lúc liên tiếp hạ được ba cao thủ thật nhanh chóng, đến luôn cả chàng cũng không ngờ tới. Hạ xong ba cao thủ, thay vì nhảy đến sát cánh với Văn-Thái-Lai thì Dư-Ngư-Đồng chẳng nói chẳng rằng nhảy ngay xuống hầm, có lẽ là để xem xét Lạc-Băng ra sao, có bị thương tích hay nguy hiểm đến tánh mạng hay không. Cũng trong lúc đó, Trương-Siêu-Trọng nhảy vào định quyết đấu với Dư-Ngư-Đồng một phen thì bóng chàng đã mất hút.

Trương-Siêu-Trọng cùng đồng bọn hết sức ngạc nhiên về hành động khác thường của Dư-Ngư-Đồng. Ít nhiều, ai ai cũng hiểu rằng theo luật của Hồng Hoa Hội thì người vai vế thấp khi gặp lúc sinh tử luôn luôn có nhiệm vụ phải bảo vệ cho người vai vế trên mình, cho dù phải hy sinh cả tánh mạng. Trong trường hợp này, cả Dư-Ngư-Đồng lẫn Lạc-Băng đều có trách nhiệm phải bảo vệ cho Văn-Thái-Lai đến cùng. Cho dù Lạc-Băng có bỏ mình dưới tay của Trương-Siêu-Trọng đi chăng nữa, Dư-Ngư-Đồng vẫn phải tiếp tục phải chiến đấu để bảo vệ cho Văn-Thái-Lai. Nếu nói rằng đây là bước đường cùng thì ai muốn giết Văn-Thái-Lai bắt buộc phải bước qua xác của Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng trước đã. Vì vậy, hành động của Dư-Ngư-Đồng như thế thật là trái ngược hẳn với kỷ-luật và đạo-nghĩa của Hồng Hoa Hội…

Chân của Dư-Ngư-Đồng vừa chạm xuống đật dưới đáy hầm thì Lạc-Băng cũng vừa tỉnh lại, đang lồm cồm gượng ngồi dậy dù các vết thương hành nàng dữ dội, đau rần hết cả người. Dư-Ngư-Đồng mừng quá chạy lại đỡ Lạc-Băng vào người chàng đỡ dậy, miệng không ngớt hỏi thăm:

-Tứ tẩu có sao không? Có bị thương gì không? Em lo sợ quá! Nay thấy chị còn bảo toàn được tánh mạng thật em không còn gì vui hơn!

Dư-Ngư-Đồng không ngăn được nỗi cảm xúc, nước mắt của chàng nhỏ xuống như mưa lên trên hai gò má của Lạc-Băng trong lúc nàng ngước mặt lên nhìn vào đôi mắt chứa chan bao ý nghĩ của chàng. Nàng có vẻ thương hại Kim-Địch Tú Tài hơn là cảm kích chàng nên vừa dịu dàng đồng thời lại vừa nghiêm nghị nói:

-Chị chẳng làm sao cả. Em đừng lo cho chị! Mau lên mà tiếp sức, cứu nguy cho Văn tứ ca!

Dư-Ngư-Đồng nói:

-Em đỡ chị lên trên cùng quyết một trận cuối với chúng. Một là cứu được Văn tứ ca, hai là cùng chết chung với nhau… một chỗ!

Nói về Văn-Thái-Lai, từ lúc thấy vợ mình bị đánh văng xuống hầm thì uất khí nổi lên tận trời, hận mình không thể cứu kịp, mà cũng không biết nàng có bị thương hay không, sống chết ra sao cả. Chàng lồng lộn lên như một con thú dữ, dồn hết sức vào sợi dây thừng gặp đâu quất đấy, quyết giết chết đối phương không nương tình. Nếu không phải vì Trương-Siêu-Trọng dùng kiếm đỡ gạt sợi dây thừng của Văn-Thái-Lai ắt phải có ít nhất vài người mất mạng dưới những chiêu thức mạnh như vũ bão chứa đầy hận thù trong đó…

Khi Dư-Ngư-Đồng vừa đỡ Lạc-Băng lên đến miệng hầm thì Thành-Khoán trông thấy liền nhảy bổ đến giơ côn lên cao nhắm đầu Lạc-Băng toan đập xuống một cái thật mạnh. Thấy thế, Văn-Thái-Lai hét lớn một tiếng vung sợi dây thừng, dùng hết sức bình sinh quất một cái vào đầu Thành-Khoán. May cho Thành-Khoán là Trương-Siêu-Trọng kịp thời nhìn thấy nên xông đến dùng kiếm gạt được sợi dây thừng của Văn-Thái-Lai, cứu mạng cho Thành-Khoán.

Văn-Thái-Lai vẫn không chịu buông tha liền tung mình lên một cái, chớp mắt đã đứng ngay sau lưng của Thành-Khoán. Lẹ làng như ‘điển quang hoá thạch’, Văn-Thái-Lai dùng ngón tay cứng như thép của chàng điểm mạnh vào hông của Thành-Khoán. Hành động của Văn-Thái-Lai thật là nhanh nhẹn, lại bất ngờ khiến cho Trương-Siêu-Trọng có muốn cứu cũng phải chậm đi một bước. Thành-Khoán sau khi bị điểm trúng thì toàn thân mềm nhũn ra ngã sụm xuống. Trong lúc ngã xuống, hắn đột nhiên dang hai tay ra ôm cứng lấy Văn-Thái-Lai tựa như người sắp chết đuốt vớ được cái phao.

Không để cho Thành-Khoán ôm mình, Văn-Thái-Lai ôm lấy toàn thân hắn giở hổng lên cao hét lớn lên một tiếng liệng hắn xuống hầm. Nhưng chẳng ngờ lúc đó chàng đã quá đuối sức nên thành ra chân đứng không vững. Vì vậy mà chưa buông được Thành-Khoán ra khỏi tay, Văn-Thái-Lai đã ngã bổ theo hắn, cả hai cùng rơi xuống địa huyệt.

Thành-Khoán bị Văn-Thái-Lai điểm trúng huyệt ‘yêu trinh’ nên hết đường cựa quậy, toàn thân như một khúc gỗ, bị Văn-Thái-Lai rơi đè lên mình. Lúc đó Văn-Thái-Lai đã hoàn toàn kiệt sức nên nằm im trên người Thành-Khoán mà không nhúc nhích gì được nữa…

Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng trong lúc sắp sửa ra khỏi miệng hầm thì vừa vặn gặp lúc Thành-Khoán nhảy tới bổ xuống một côn nên đành phải thụp xuống lại dưới hầm để tránh né. Cả hai đang phân vân chưa biết phải làm gì kế tiếp thì nghe một tiến ‘bịch’, như một vật gì to lớn từ trên ném xuống. Hai người lại tưởng là đám người Trương-Siêu-Trọng bắt đầu ném đá xuống với mục đích lấp hang chôn sống hai người nên hết sức hoang mang không biết phải dùng cách nào mà đối phó. Nhưng nhìn kỹ lại thì lại thấy hai khối thịt đang dính cứng vào nhau, mà người nằm trên là Văn-Thái-Lai.

Lạc-Băng mừng quýnh, vội vã chạy đến ôm Văn-Thái-Lai đỡ dậy. Nàng nhìn thấy mặt chàng không còn chút huyết sắc nào, mồ hôi thì tuôn ướt đẫm hết cả người, nhưng đôi mắt vẫn long lanh nhìn nàng đắm đuối đầy vẻ yêu thương và trên miệng nở một nụ cười miễn cưỡng.

Lạc-Băng khổ sở đến cực độ. Nàng cố gượng đỡ Văn-Thái-Lai đứng thẳng người lên. Chân nàng cũng còn đang bị thương, trong người thì đau nhức không thể nào tả nổi. Thật đúng là ‘người bệnh lo cho người hoạn’! Văn-Thái-Lai chợt ‘hự’ một tiếng, từ cổ chàng hộc ra một búng máu tươi. Lạc-Băng lấy tay bụm miệng chàng lại, nhưng vẫn không ngăn được máu nhiễu xuống làm đỏ sẫm cả áo từ cổ đến bụng. Dư-Ngư-Đồng thấy cuộc chiến chẳng thể nào còn tiếp diễn được nữa bèn hướng lên phía miệng hầm gọi lớn:

-Bớ Trương-Siêu-Trọng! Mau biểu nhượng chỗ cho chúng ta lên!

Trương-Siêu-Trọng đã được chính mắt trông thấy võ nghệ của Dư-Ngư-Đồng là ‘Võ-Đang chân truyền’, đã giao thủ với ‘nữ anh hào’ Lạc-Băng, lại thấy Văn-Thái-Lai dù bị thương nặng mà dũng cảm chiến đấu ác liệt với đám thủ hạ của mình nên có ý phục tài thương tiếc cả ba chứ không nỡ làm hại tánh mạng một người nào cả.

Thật ra Trương-Siêu-Trọng từ đầu đã không có ý định giết hại người nào rồi. Vì vậy ông ta chỉ nghĩ cách phá thế trận liên thủ của ba người bằng cách đánh Lạc-Băng ngã xuống dưới hầm. Còn Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng thì Trương-Siêu-Trọng để mặc cho hai người so tài với đám bộ hạ. Chỉ có lúc nguy cấp mới nhảy vào cứu người của bên mình thôi chứ hoàn toàn không ra tay đả thương Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng. Nếu Trương-Siêu-Trọng khôn nương tay e rằng cả ba đã không còn được toàn tánh mạng. Nhưng chính Trương-Siêu-Trọng cũng không ngờ rằng Văn-Thái-Lai lợi hại đến mức đã kiệt sức mà còn điểm huyệt được Thành-Khoán trước mặt mình mà đích thân ông ta không ra tay cứu kịp để ngăn cản.

Hiện tại, Thành-Khoán lại lọt vào trong tay đối phương thành thủ Trương-Siêu-Trọng nằm trong thế ‘giận quạ sợ hư mái nhà’ (#4) nên khi nghe Dư-Ngư-Đồng gọi vậy thì Trương-Siêu-Trọng lập tức tránh ra xa miệng để nhường đường cho mấy người Hồng Hoa Hội. Nhưng rút kinh nghiệm, lần này Trương-Siêu-Trọng cầm sẵn bảo kiếm đứng gần miệng hầm để phòng bất trắc có thể xảy ra như lần trước…

Người đầu tiên bước lên là Thành-Khoán, vừa đi vừa nhăn nhó, nhưng có lẽ đã được Văn-Thái-Lai giải huyệt cho nên có lẽ không còn nguy hiểm tới tánh mạng nữa. Theo sát Thành-Khoán là Lạc-Băng, một tay nắm vạt áo và một tay dí đao vào ngay hậu tậm của y. Kế đến là Dư-Ngư-Đồng, một tay đỡ Lạc-Băng phía trước còn một tay dìu Văn-Thái-Lai đang cố sức khệnh khạng lết đi từng bước ở phía sau.

Vừa ra khỏi miệng hầm, Lạc-Băng nhìn đám người đăm đăm, nói như ra lệnh:

-Các người nghe ta nói đây. Bất luận kẻ nào động đến một cọng lông chân của bọn ta, tên này lập tức về chầu Diêm-Vương ngay!

Lời nói của Lạc-Băng có mãnh lực dị thường, mang nặng sát khí khiến đám người Trương-Siêu-Trọng nghe mà phải rợn tóc gáy. Ai nấy đều im lặng mà nhìn chứ không dám rục rịch hay tỏ một hành động khiêu khích nào.

Trương-Siêu-Trọng thấy mũi đoản đao của Lạc-Băng dí sát vào hậu tâm như chỉ chực đâm chết hắn và đôi mắt của Văn-Thái-Lai thì cứ long lên sòng sọc nhìn tả hữu, trước sau nên cũng đâm ra dè dặt mà không dám vọng động.

Dưới sự chỉ huy của Trương-Siêu-Trọng, ba người đưa Thành-Khoán đi đến đâu, đám đông vẹt ra tới đó để nhường đường cho họ đi cho an toàn và thoải mái. Cứ như thế, chẳng bao lâu, Thành-Khoán theo sự chỉ định của Lạc-Băng đã dẫn họ ra khỏi hoa-viên của Thiết-Đảm-Trang mà không chút gì trở ngại.

Ra khỏi hoa-viên, Lạc-Băng nhìn thấy ba con tuấn mã với yên cương sẵn sàng đang cột chặt dưới gốc cây dương liễu. Nữ-hiệp Hồng Hoa Hội liền nảy ra một sáng kiến, trong lòng hết sức vui mừng vì không ngờ trong lúc đường cùng mạt lộ lại có được cơ hội thoát hiểm.

Ba con ngựa này sự thật không phải là của ba đương-gia Hồng Hoa Hội hay của Thiết-Đảm-Trang mà là của Ngô-Quốc-Đống và hai tên bổ khoái sau khi nhận lệnh Trương-Siêu-Trọng phong tỏa Thiết-Đàm-Trang nên cỡi ngựa thật lẹ ra phía sau hoa-viên, tạm cột vào gốc cây ở đó.

Trương-Siêu-Trọng tuy không ngăn được đám người Hồng Hoa Hội đi ra ngõ sau hoa viên nhưng vẫn đi theo bén gót để tùy cơ ứng biến. Trương-Siêu-Trọng là người tinh tế đoán biết được ngay dụng ý của Lạc-Băng khi thấy nét mặt u sầu của nàng bỗng tươi hẳn lên khi nhìn thấy ba con tuấn mã cột dưới gốc cây dương liễu. Hẳn Lạc-Băng nghĩ rằng chỉ cần ba người leo lên lưng ba con tuấn mã là có thể cao bay xa chạy được rồi.

Thấy khâm-phạm trước mặt như sắp sửa vuột mất, mắt của Trương-Siêu-Trọng bỗng trợn lên. Ông ta nghĩ thầm:

-Thành-Khoán sống hay chết thì có quan-hệ chi tới nhiệm-vụ Hoàng-Thượng giao phó cho ta? So với những bí mật mà Văn-Thái-Lai nắm giữ để về báo lại cho Thiếu-Đà-Chủ (#5) thì một tánh mạng của Thành-Khoán có nghĩa lý gì chứ? Ta phụng mệnh vua đem không biết bao nhiêu là cao thủ đi theo là để bắt sống Văn-Thái-Lai trước khi hắn trở về tổng hành-dinh Hồng Hoa Hội, chứ có phải để bảo vệ sinh mạng cho đám tùy tùng đâu? Đừng nói là một Thành-Khoán, nếu phải hy sinh thêm dăm bảy mạng nữa chắc Hoàng-Thượng cũng không trách ta đâu. Vả lại, cũng đã có quá nhiêu là cao thủ đã phải hy sinh vì công tác này rôi. Từ lúc ra khỏi thâm cung, Văn-Thái-Lai đã giết không biết bao nhiêu là cao thủ của triều đình rồi! Bản lãnh hắn cao cường như thế, nếu để hắn chạy thoát thì còn bao nhiêu cao thủ triều đình sẽ phải gục dưới tay hắn nữa? Tóm lại, nếu không dám mạo hiểm thì không thể nào bắt được hắn. Thế thì việc bắt sống Văn-Thái-Lai là đại sự, tất cả những cái khác chỉ là tiểu tiết mà thôi! Hơn nữa, nếu bắt được Văn-Thái-Lai ắt ta lập được công lớn. Nếu vua có trách rằng tại sao phải hy sinh nhiều cao thủ thì đã có Thân-Vương Phúc-An-Khang biện bạch cho ta, lo gì! Vả lại từ đây mà giải Văn-Thái-Lai về Bắc-Kinh thì ai dám chắc là không còn những khó khăn nguy hiểm khác? Nếu cứ giằng co tốn thì giờ mãi thì rốt cuộc chỉ tạo kế hoãn binh cho Văn-Thái-Lai để cho các đồng bọn của hắn trong Hồng Hoa Hội đến cứu hắn mà thôi.

Sau khi suy nghĩ chín chắn, đắn đo lợi hại, Trương-Siêu-Trọng không còn do dự nữa, quyết tâm thi hành theo kế hoạch của mình. Sau đó Trương-Siêu-Trọng lấy ra sợi dây thừng nhặt được từ tay Văn-Thái-Lai vứt bỏ lúc điểm huyệt Thành-Khoán.

Thừa lúc các đương-gia Hồng Hoa Hội đang lo tháo dây cương cột ngựa ở gốc cây nên lơ là không để ý vì tin chắc có Thành-Khoán làm con tin trong tay, Trương-Siêu-Trọng vận công, cầm sợi dây thừng tung ra như ‘hỏa long uốn khúc’. Chỉ nháy mắt một cái, toàn thân Văn-Thái-Lai đã bị sợi dây thừng ấy cuốn quanh mình trói lại chẳng khác bị một con trăn xiết chặt. Sau đó, Trương-Siêu-Trọng khẽ giật cái dây thừng một cái, lập tức Văn-Thái-Lai vuột khỏi tay Dư-Ngư-Đồng và bay lại phía ông ta tựa như voi bẻ mía trong bụi kéo ra trước khi đưa lên mồm. Các vết thương của Văn-Thái-Lai lại bị động, máu tươi lại tuôn ra đầm đề, đau đớn chịu không nổi kêu lên một tiếng thất thanh.

Mọi chuyện xảy ra chỉ trong chớp nhoáng, chỉ không đầy một tích tắc, Lạc-Băng vừa chứng kiến cảnh chồng bị Trương-Siêu-Trọng dùng thủ pháp thần sầu bắt dính, lại phải nhìn thấy chàng đau đớn thổ huyết nên tinh thần nàng bấn loạn. Điên tiết lên, Lạc-Băng liền đâm mạnh lưỡi đao một nhát vào hậu tâm Thành-Khoán khiến hắn chỉ kịp rống lên một tiếng thảm thiết rồi ngã xuốngchết tươi. Giết Thành-Khoán xong, Lạc-Băng quát lên một tiếng cầm đao nhảy xổ lại định liều mạng với Trương-Siêu-Trọng một phen. Chẳng ngờ vết thương ở gót chân nàng lại bị chấn động dữ dội khiến cho nàng đau quá không gượng được ngã quỵ xuống đất.

Thấy vợ định liều thân vì mình, lòng Văn-Thái-Lai xót xa vô cùng. Chàng hoảng hốt kêu lớn:

-Đừng lo cho anh! Mau chạy đi!

Lạc-Băng không nghe, chống tay xuống đất lồm cồm ngồi dậy. Nhưng vừa định đứng lên thì lại ngã xuống đất thêm một lần nữa. Thấy không xong, Lạc-Băng bèn nói lớn trả lời Văn-Thái-Lai:

-Không! Chẳng thà là em cùng chết với anh tại đây!

Văn-Thái-Lai bỗng trở nên giận dữ trợn ngược cả hai mắt lên, hét như sấm:

-Em định cãi lời anh à? Em đã hứa với anh như thế nào mà chưa chi đã vội quên rồi hả?

Văn-Thái-Lai lại hộc ra thêm một búng máu tươi rồi ngã lăn xuống đất khiến Lạc-Băng càng thêm đau lòng. Nàng vội vã nói:

-Thôi! Thôi! Em nghe lời anh đây! Em không thất hứa đâu!

Trương-Siêu-Trọng liền sai bọn Đoàn-Đại-Lân, Ngân-Bá-Càn cùng sáu, bảy tên bộ hạ khác lại đỡ Văn-Thái-Lai dậy, lại cẩn thận dặn dò, cấm không cho ai làm cho chàng đau mà phải hết lòng tận tâm bảo vệ chàng.

Trong lúc mọi người chỉ quan tâm để ý đến Văn-Thái-Lai thì Dư-Ngư-Đồng vọt một cái đến gần Lạc-Băng, đỡ nàng dậy rồi kề vai cõng nàng trên lưng chạy thẳng một mạch ra khỏi Thiết-Đảm-Trang.

Một tên bổ-đầu giữ trách nhiệm canh gác liền hươi cây thiết kích đánh xuống vai Dư-Ngư-Đồng chặn đầu chàng lại. Dư-Ngư-Đồng tránh né được ngọn kích dễ dàng, sau đó bồi cho hắn một cước mạnh như vũ bão. Ngọn cước của Dư-Ngư-Đồng vừa nhanh vừa mạnh lại vừa độc khiến tên bổ-đầu không sao tránh nổi, lãnh trọn cước ấy ngã bổ ngửa ra đàng sau, đầu đập xuống nền đá nằm bất tỉnh nhân sự. Một tên bổ-khoái khác vừa chạy đến thì sẵn đà, Dư-Ngư-Đồng dùng thế ‘Đoạt-Mệnh-Cước’ đá cho hắn một cái ngay văng ra xa bảy tám thước nằm yên bất động.

Hạ xong hai tên bộ hạ của Trương-Siêu-Trọng, Dư-Ngư-Đồng tiếp tục cõng Lạc-Băng nhắm đường chạy thẳng mà không biết là đi đâu. Lạc-Băng lúc ấy đã hoàn toàn bất tỉnh, tựa như một cái xác không hồn. Nàng bị dao động quá mạnh về cả hai mặt tâm thần lẫn thể xác. Vết thương chưa lành bị động mạnh là cái đau đớn cho thể xác. Thấy chồng bị bắt mà không làm gì được là cái đau đớn về tâm thần. Do đó mà Lạc-Băng đau đớn quá đến nỗi ngất đi, mặc cho ai làm gì thì làm, thân phận mình muốn về đâu thì về. Vì thế mà Dư-Ngư-Đồng cõng nàng chạy như bay mà nàng cũng chẳng còn biết gì nữa.

Rất may cho Dư-Ngư-Đồng là Trương-Siêu-Trọng vì thấy chàng cõng Lạc-Băng trên lưng nên ỷ y, nghĩ rằng chỉ cần hai tên thủ hạ là đủ đối phó với chàng rồi nên không cho thêm người đến tiếp viện. Vì vậy sau khi hạ xong hai tên, Dư-Ngư-Đồng không còn gặp ai cản đường mình nữa…

Chạy quanh một lúc, Dư-Ngư-Đồng không hiểu sao mà cánh cửa sau của hoa-viên trong Thiết-Đảm-Trang cứ hiện ra mãi trước mắt mình! Suy nghĩ một hồi, Dư-Ngư-Đồng mới khám phá ra là trong lúc vì quá luýnh quýnh, chàng không chạy ra vòng ngoài mà cứ chạy mãi vòng trong thành ra giống như người lọt vào ‘Bát-Quái-Trận’ của Khổng-Minh nên chạy hoài mà vẫn không tìm được đường ra. Lúc đó Dư-Ngư-Đồng đã quá sức mỏi mệt. Chàng thầm nghĩ nếu không thoát được ắt thế nào cũng bị Trương-Siêu-Trọng bắt cả Lạc-Băng lẫn thân mình mà giải về kinh một lượt chung với Văn-Thái-Lai. Dư-Ngư-Đồng nhận thấy mình cần phải có một mưu kế nào hữu hiệu hơn mà dùng để thoát thân. Chàng chợt nhớ đến ba con ngựa cột dưới gốc liễu. Giả sử nếu Trương-Siêu-Trọng chậm ra tay một chút thì có lẽ giờ này vợ chồng Văn-Thái-Lai và chàng được thoát hiểm rồi. Dư-Ngư-Đồng nghĩ thầm:

-“Giờ đây, tuy Văn tứ ca đã bị bắt nhưng tại sao mình lại không nghĩ đến cách đó mà đào tẩu?”

Nghĩ đoạn, Dư-Ngư-Đồng mừng rỡ, cõng Lạc-Băng đến chỗ cây dương liễu nơi có ba con tuấn mã cột ở đó. Đặt Lạc-Băng lên lưng một con ngựa, Dư-Ngư-Đồng liền tháo dây cương cột vào thân cây. Chợt đâu có tiếng người chạy đến ‘huỳnh huỵch’, Dư-Ngư-Đồng bèn lớn tiếng gọi Lạc-Băng:

-Tẩu tẩu, mau phóng phi đao!

Nghe Dư-Ngư-Đồng gọi, Lạc-Băng mới giật mình tỉnh dậy. Nàng liền rút ra ba mũi phi đao ‘châu mai’ nhắm vào người đang chạy tới mà phóng liền mấy cái vào mấy người đang chạy đến.

Từng tiếng một kêu lên thảm thiết. Mũi phi đao châu mai ghim ngay yết hầu một tên bổ khoái khiến hắn ngã ngửa. Một tên khác bị phi đao ghim ngay giữa trán trông giống như con thú một sừng. Ngân-Bá-Càn né kịp, không bị ghim vào chỗ hiểm nhưng cũng bị trúng ngay bả vai đau nhức vô cùng. Hai tên bổ khoái khác do Ngân-Bá-Càn chỉ huy được lệnh Trương-Siêu-Trọng đuổi theo bắt nốt hai đương-gia Hồng Hoa Hội còn lại nhưng cũng lại bị Lạc-Băng phóng nên phải tìm chỗ núp chứ không dám lại gần.

Dư-Ngư-Đồng để Lạc-Băng cỡi một con ngựa. Chàng cũng cỡi một con. Con còn lại chàng chàng cũng mở dây dắt theo. Khi đến trước cánh cửa sau vường hoa, Dư-Ngư-Đồng kéo thẳng đầu con ngựa không người cỡi ấy hướng ngay vào chính giữa cửa. Sẵn ống sáo vàng, chàng đưa lên miệng, nhắm vào giữa trán ngựa thổi một hơi dài. Hai mũi phi tiêu trong sáo bay ra cắm ngay vào giữa trán ngựa. Con vật đau quá nhảy chồm lên đá loạn xạ vào đám người của Trương-Siêu-Trọng đang từ trong vườn hoa kéo ra. Vì không đề phòng trước cho nên dù tài giỏi đến đâu cũng không làm sao tránh kịp. Người thì đông mà cánh cửa lại hẹp nên đám người không làm sao tránh né kịp, bị con ngựa như điên cuồng đá cho kẻ thì u đầu sứt trán, người thì ngã lăn bò càng ra, nằm chồng lên nhau một đống. Ai nấy ít nhiều đều bị thương nặng nhẹ. Lợi dụng thời cơ hỗn loạn ấy, Dư-Ngư-Đồng cùng Lạc-Băng phóng ngựa phi như tên bay mà thoát thân.

Ra khỏi Thiết-Đảm-Trang, Dư-Ngư-Đồng và Lạc-Băng cùng nhắm hướng An-Tây mà chạy không ngừng, thoáng một cái đã qua được sáu, bảy dặm đường.

Quay lại nhìn kỹ phía sau không thấy bóng ngựa nào truy kích (#6), hai người mới cảm thấy hơi yên tâm. Lạc-Băng bèn đề nghị với Dư-Ngư-Đồng cho ngựa chạy chậm lại vì nàng đã quá mệt mỏi và đuối sức rồi.

Dư-Ngư-Đồng chiều theo ý Lạc-Băng, nhưng chỉ cho ngựa chạy chậm lại thôi chứ không dám dừng ngựa lại mà nghỉ vì chàng nghĩ chưa chắc gì bọn người đã chịu buông tha mà không đuổi theo.

Đi thêm được chừng ba, bốn dặm đường nữa, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng chợt phát hiện ra có bốn kỵ-mã đang phi tới như giông, cát bụi đàng sau tung lên mịt mù…

Hồi 5d

Nuốt hận đương gia theo chí lớn

Đau lòng trang chủ giết con yêu

Nhìn bốn kỵ-mã đang phóng ngựa phi tới, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng nhận ra người đi trước là một vị tiền bối râu tóc bạc phơ như tuyết. Người đó không phải ai khác hơn là Thiết-Đảm Trang-Chủ Châu-Trọng-Anh.

Thấy hai người có vẻ vội vàng và sợ hãi, gương mặt đầy vẻ uất hận và đau buồn, Châu-Trọng-Anh lấy làm lạ hết sức. Ông ta gò cương ngựa lại hỏi:

-Hai vị đi đâu mà lại vội vàng thế? Hãy quay trở lại cho chúng tôi được hân hạnh tiếp đãi. Chúng tôi có mời được danh y về để lo bệnh tình cho Văn tứ đương-gia đây. Trong lúc tôi vắng mặt có điều gì sơ xuất dám xin quý vị lượng tình mà tha thứ cho.

Lạc-Băng nghe hỏi mà tức giận đến độ không dằn nổi, chẳng nói chẳng rằng, rút ngay một ngọn phi đao ra phóng thẳng vào mặt Châu-Trọng-Anh. Thấy Lạc-Băng vung tay phóng phi đao tới chực giết hại mình, Châu-Trọng-Anh thất kinh la lên một tiếng. Vì chẳng chút đề phòng nên Châu-Trọng-Anh biết không thể nào bắt nổi phi đao ấy mà chỉ còn cách ngả người xuống lưng ngựa mà tránh thôi.

Mũi phi đao phóng không trúng Châu-Trọng-Anh nhưng lại thẳng đường bay ra phía sau nhắm vào người đệ tử thứ nhì của Châu-Trọng-Anh là An-Kiện-Cường. Thấy vậy, nhanh như cắt, An-Kiện-Cường rút thanh đoản đao ra gạt mũi phi đao kia lệch sang một bên.

Ngọn phi đao của Lạc-Băng rơi xuống đất, văng vào một thân cây lờn bên vệ đường, lóe lên hào quang sáng ngời hòa với ánh nắng đỏ thắm của vầng thái dương đang chiếu.

Sau khi tránh được phi đao của Lạc-Băng, Châu-Trọng-Anh bật thẳng người ngồi lại ngay ngắn trên lưng ngựa như cũ. Đang định hỏi Lạc-Băng vì cớ nào lại dùng độc thủ định hại mình thì lại nghe nàng mắng:

-Lão đừng nói câu nhân nghĩa với ai nữa! Xưa nay thiên-hạ lầm tưởng lão là một bậc chính-nhân quân-tử nghĩa khí trung can chứ có ngờ đâu thật ra lão là cái đồ lòng lang dạ sói, bất nhân bất nghĩa. Chỉ vì chúng ta quá tin lời Lục-Phỉ-Thanh sư bá giới thiệu lão là anh hùng hào kiệt, trượng nghĩa khinh tài, khuyên chúng ta tới đó tạm nương náu mà lánh nạn. Đến nay chúng ta mới rõ được mặt thật của lão thì có hối hận cũng không còn kịp nữa! Thì ra lão dụ chúng ta đến sơn-trang của lão để dàn cảnh, thông đồng với quân cẩu trệ mà ám hại Văn tứ đương-gia. Tiếc thay mũi phi đao của ta không giết chết được lão, nhưng hận này ta thề trước sau cũng phải trả.

Lạc-Băng cứ mắng ít câu lại khóc một hồi, khi thì vừa khóc vừa mắng khiến cho Châu-Trọng-Anh há hốc, chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả mà cũng chẳng thể mở miệng nói thành lời được.

Mắng chửi, than khóc một hồi, Lạc-Băng bỗng thúc ngựa lướt tới cầm thanh đao lăn xả vào chém Châu-Trọng-Anh. Thấy khí thế Lạc-Băng vô cùng dũng mãnh, Châu-Trọng-Anh không dám khinh thường bèn dùng thủ pháp nhanh nhẹn mà né tránh những đường đao hiểm ác ấy. Nhưng chung quy ông vẫn không hiểu được lý do gì khiến cho Lạc-Băng oán hận ông đến như thế.

Châu-Trọng-Anh chỉ né tránh mà thật tình không muốn động thủ với Lạc-Băng một chút nào cả. Ông ta chẳng có chút hiềm khích nào với Lạc-Băng, Dư-Ngư-Đồng và Văn-Thái-Lai nói riêng, và Hồng Hoa Hội nói chung. Là người từng trải giang hồ, nhiều kinh nghiệm sống, ông ta biết việc này phải có một lý do gì gây ra sự ngộ nhận cho nên Lạc-Băng mới có thái độ như vậy. Ông hiểu ngay đó là do lòng phẫn uất của Lạc-Băng mà gây ra chứ không phải nàng vô cớ, chủ tâm muốn lăng nhục ông ta.

Châu-Trọng-Anh vốn nổi danh là anh hùng nghĩa khí, Xưa nay thiên-hạ chỉ có ca tụng ông ta chứ chưa bao giờ chê trách một lời nào. Ông ta cũng là một kẻ sĩ, thà chết chứ không để cho ai đụng chạm đến danh dự của mình. Và mặc dù nóng tính, Châu-Trọng-Anh không phải là hạng người hồ đồ, lúc nào cũng muốn tìm hiểu tường tận bất cứ chuyện gì trước khi hành động. Do đó, đối với những lời mắng chửi, ông ta cắn răng mà nhịn chứ không thèm nói lại hay quyết phải một mất một còn với Lạc-Băng. Nhưng ông quyết phải tìm ra nguyên nhân chuyện này cho rõ trắng đen hư thực.

Thấy Châu-Trọng-Anh nhịn không nói một lời nào mà cũng chỉ tránh né những đường đao của mình, Lạc-Băng lại càng tức giận, cho là mình nói trúng tim đen của chủ nhân Thiết-Đảm-Trang nên ông ta cảm thấy lương tâm cắn rứt đôi phần thành ra mới chịu im lặng chứ không hoàn thủ.

Châu-Trọng-Anh đoán rằng nhất dịnh trong lúc ông ta vắng mặt, Thiết-Đảm-Trang đã xảy ra tai biến gì. Ông ta cũng không tin là người Thiết-Đảm-Trang đã chỉ điểm quan quân đến bắt Văn-Thái-Lai như lời Lạc-Băng đã lên án. Cả sơn trang, từ trên xuống dưới, luôn cả nhi nữ cũng được Châu-Trọng-Anh rèn luyện rất kỹ càng để có được một tấm lòng chánh trực trung can. Không có lý nào mà chỉ mới vắng mặt ông ta trong một thời gian ngắn ngủi như vậy mà người trong sơn trang của mình lại biến đổi tính tình mau lẹ như vậy.

Châu-Trọng-Anh tin rằng Mạnh-Kiện-Hùng và Tống-Thiện-Bằng là những đệ tử biết trượng nghĩa, không bao giờ làm những chuyện nào để có thể tổn hại đến danh dự của ông ta và Thiết-Đảm-Trang. Còn Châu-Anh-Kiệt thì vô tư, có biết gì về chuyện Văn-Thái-Lai mà nói đến chuyện ám hại. Hơn nữa việc tố giác Văn-Thái-Lai cho quan quyền tức là gieo họa lây đến cho Thiết-Đảm-Trang của ông ta. Chắc chắn người nhà của ông ta không thể nào dại dột đến như thế được.

Châu-Trọng-Anh vừa tránh đao của Lạc-Băng mà trong lòng rối như tơ vò, đầu óc hết sức bấn loạn. Lạc-Băng vẫn không chịu buông tha, tay tiếp tục múa đao chém tới, miệng thì mắng chửi không ngừng; mắng chửi một hồi thì lại khóc.

An-Kiện-Cường, người đệ tử thứ nhì của Châu-Trọng-Anh thấy sư phục đã hết lòng nhường nhịn mà Lạc-Băng còn làm tới thì không dằn được, bất chấp Châu-Trọng-Anh có cho phép hay không, cầm đao xông vào đấu trí mạng với Lạc-Băng.

Châu-Trọng-Anh thầm nghĩ phải có điều gì uẩn khúc bên trong, mà hiện tại nếu không bên nào chịu nhường nhịn thì không biết kết quả sẽ còn tai hại đến thế nào. Đắn đo một hồi, Châu-Trọng-Anh quyết định chịu thiệt thòi mà nhường nhịn nên ông ta nhảy vào giữa trận ác đấu, lớn tiếng gọi An-Kiện-Cường:

-Đồ đệ, không được vô lễ! Hãy lui ra! Còn nữ hiệp, xin ngừng tay cho lão phu hỏi một lời rồi sau đó muốn gì lão phu cũng xin tuân mệnh.

Dư-Ngư-Đồng nãy giờ đứng ngoài nhìn thấy Châu-Trọng-Anh không có một ác ý nào hay tỏ ra một cử chỉ nào gây hấn với Lạc-Băng mà chỉ im lặng, mặc cho Lạc-Băng mắng chửi, lại chưa hề đánh trả lại một đòn nào. Chàng thấy vậy liền khuyên Lạc-Băng:

-Tẩu tẩu! Công việc của chúng ta rất là khẩn cấp, không nên động thủ làm chi nữa. Hãy đợi cứu xong Tứ ca rồi sẽ trở lại Thiết-Đảm-Trang mà chất vấn, tính với họ sau cũng chưa muộn.

Nghe Dư-Ngư-Đồng nhắc đến chuyện cứu Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng cảm thấy thật vô cùng hữu lý nên tạm gác chuyện trả thù Châu-Trọng-Anh sang một bên. Nàng nhìn Châu-Trọng-Anh với một vẻ khinh khi, nhổ một bãi nước miếng xuống đất rồi giục ngựa quay đi, phi thẳng một mạch.

Châu-Trọng-Anh sở dĩ tung hoành khắp thiên hạ, được mọi người sùng bái cũng chỉ vì ông ta luôn luôn lấy nhân nghĩa làm đầu mà đối đãi mọi người. Ông vẫn thường nói với mọi người rằng:

-Bình sinh, ta chỉ có hai điều đáng ghi nhớ, một phải tránh và một phải làm. Tránh là việc kết oán kết thù, và làm là việc giao du kết bạn.

Trong cả hai giới hắc bạch trên giang hồ, ai ai cũng khen Châu-Trọng-Anh là một người quân-tử hiếm có trên đời, luôn dùng ân nghĩa với thiên hạ. Có thể nói đây là lần thứ nhất trong đời Châu-Trọng-Anh bị chửi mắng, mà người chửi ông ta lại là một phụ nữ (#1)!...

Châu-Trọng-Anh liền quay sang tên tráng đinh hỏi chuyện. Tên tráng đinh quả quyết thuật lại rằng cả Châu phu nhân lẫn đại đệ tử Mạnh-Kiện-Hùng của ông ta tiếp đãi mấy người Hồng Hoa Hội rất là niềm nở mà chẳng có gì làm cho họ bất bình cả. Chính Châu phu nhân đã ra lệnh cho gã đi mời danh y về chữa trị cho Văn-Thái-Lai nên mới tình cờ gặp Châu-Trọng-Anh đi về cùng đường.

Châu-Trọng-Anh nghe xong càng lấy làm lạ, mặt buồn rầu, nóng lòng muốn biết rõ tự sự nên cố giục ngựa phi cho lẹ để mau mau về đến Thiết-Đảm-Trang. Chẳng bao lâu, bốn ngựa đã về tới sơn trang. Bọn tráng đinh thấy chủ nhân đã về tới nên cùng nhau ra đón rước.

Nhìn nét mặt ai cũng buồn bã lo sợ, Châu-Trọng-Anh biết ngay trong khi ông ta vắng mặt, trong nhà đã xảy ra tai biến. Vừa bước vào nhà, Châu-Trọng-Anh đã lớn tiếng gọi:

-Mạnh-Kiện-Hùng đâu, ra ngay ta bảo!

Một tên gia đinh thân tín vội thưa:

-Bẩm lão gia, lệnh cao đồ đã đưa phu nhân cùng thiếu gia ra sau núi lánh nạn rồi.

Châu-Trọng-Anh nghe xong chợt kinh hãi, biết có đại biến, ngả người ra ghế thở dài, không hỏi thêm được gì nữa.

Hai người lão bộc là Đinh-Thất và Trương-Bát đến ra mắt Châu-Trọng-Anh thuật lại tất cả từ đầu đến đuôi những gì đã xảy ra trong Thiết-Đảm-Trang từ lúc ông ta đi khỏi. Châu-Trọng-Anh hỏi cặn kẽ về tình hình Văn-Thái-Lai bị Trương-Siêu-Trọng bắt dẫn đi ra sao thì hai người lão bộc thưa rằng:

-Bẩm lão gia, bọn quan quyền sau khi bắt Văn tứ gia liền giải đi ngay nhưng chắc cũng chưa đi xa lắm đâu. Chúng tôi có đi theo dọ thám thì biết được Trương-Siêu-Trọng không đi đường lớn mà lại đi theo đường nhỏ ven rừng.

Châu-Trọng-Anh gật đầu, biết hai người nói thật vì nếu Trương-Siêu-Trọng đi đường lớn ắt dọc đường thế nào cũng đụng phải ông ta. Đinh-Thất lại nói:

-Lúc đàm quan quyền đi khỏi, tôi có cho người lên báo cho Mạnh gia hay, chắc cũng sắp về đến nơi rồi.

Châu-Trọng-Anh lại tiếp tục hỏi:

-Ba người, Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng được Mạnh-Kiện-Hùng giấu kín dưới địa huyệt. Chẳng hay người nào trong nhà đã nói cho Trương-Siêu-Trọng hay. Ta chắc chắn như vậy vì trừ khi có kẻ tiết lộ bí mật thì làm sao hắn biết được!

Bọn tráng đinh sau khi nghe câu hỏi này thì không ai dám hé môi ra cả mà chỉ lấm lét, tên nọ nhìn tên kia. Tên nào tên nấy mặt mày lấp ló như che dấu điều gì. Châu-Trọng-Anh thấy vậy liền hiểu ngay là có ẩn tình nên trợn mắt giận dữ thét lên như sấm. An-kiện-Cường thấy sư-phụ nóng giận quá đỗi thì cũng chẳng dám một lời khuyên can vì chàng biết rõ tính sư-phụ xưa nay nếu một khi đã nổi trận lôi đình thì những lời khuyên can chỉ là dầu chế thêm vào lửa mà thôi.

La hét một hồi, Châu-Trọng-Anh lại ngồi buồn rầu trầm tư, suy nghĩ. Lòng vẫn mang nặng uất khí chưa tan. Lúc đó bên ngoài có tiếng người giật chuông nhưng mọi người đều đứng im chờ lệnh của Châu-Trọng-Anh chứ không ai dám ra. Châu-Trọng-Anh thấy vậy hét lớn lên:

-Chúng bây còn đứng đây đợi gì nữa? Mau ra ngoài xem có phải Mạnh-Kiện-Hùng về không thì gọi y vào đây cho ta bảo!

Châu-Trọng-Anh vừa dứt lời thì Mạnh-Kiện-Hùng từ bên ngoài hớt ha hớt hãi chạy đến trước mặt Châu-Trọng-Anh bái kiến, vấn an:

-Bẩm, sư-phụ về lâu chưa?

Châu-Trọng-Anh chỉ khẽ gật đầu nhận lời vấn an của người đại đệ tử chứ không trả lời. Với giọng hằn học, ông ta nhìn Mạnh-Kiện-Hùng hỏi:

-Nói mau! Ai đã tiết lộ địa huyệt nơi Văn-Thái-Lai trú ẩn? Mi phải nói thật, không được giấu diếm nửa lời!

Có thể nói từ khi bái sư cho tới nay, chưa bao giờ Mạnh-Kiện-Hùng nhìn thấy gương mặt Châu-Trọng-Anh giận dữ như bây giờ. Chàng hết sức do dự, nửa muốn thú thật, nửa không muốn.

Nếu Mạnh-Kiện-Hùng nói thật thì chàng biết rõ thật nguy cho Châu-Anh-Kiệt. Nhưng từ trước đến nay Mạnh-Kiện-Hùng cũng chưa bao giờ dám nói dối sư-phụ một điều gì. Không nói thì không được, mà nói thật chàng dư biết là không xong, sẽ có chuyện lớn.

Nhìn thấy thái độ sợ sệt lo lắng, do dự của Mạnh-Kiện-Hùng, Châu-Trọng-Anh lại lớn tiếng hỏi:

-Đứa nào đã tiết lộ bí mật? Mi còn chưa chịu nói? Định giấu ta nữa sao!

Mạnh-Kiện-Hùng giọng run run, khẽ nói:

-Bẩm sư-phụ, chẳng có ai tiết lộ cả, bọn ‘chó săn chim mồi’ đó tự ‘đánh hơi’ mà tìm ra được đó thôi!

Châu-Trọng-Anh không tin, vỗ thật mạnh vào bàn, thét lên như sấm nổ vang ngay tai mọi người:

-Mi đừng nói láo! Cái địa huyệt của ta bí mật kín đáo như thế thì cho dù bọn Trương-Siêu-Trọng có lục soát tháng này qua năm nọ đi chăng nữa vị tất đã tìm ra, nữa là chỉ có vài tiếng đồng hồ! Mi bảo rằng bọn ưng khuyển triều đình kia tự ‘đánh hơi’ thì ‘đánh hơi’ làm sao, mau thuật lại tỉ mỉ đầu đuôi cho ta nghe!

Mạnh-Kiện-Hùng đứng trân người như khúc gỗ, cúi gầm mặt xuống mà không mở miệng ra nói được một lời nào.

Châu phu-nhân cũng dắt Châu-Anh-Kiệt về cùng lúc với Mạnh-Kiện-Hùng nên có mặt ở đấy, được chứng kiến mọi chuyện ngay từ đầu. Thấy trượng-phu (#2) quá giận dữ bèn dắt con lại gần, hy vọng rằng nhìn thấy hao người, tình nghĩa vợ chồng và tình phụ tử sẽ làm nguôi giận được ông ta.

Châu-Trọng-Anh thấy trên tay Châu-Anh-Kiệt cầm chiếc Thiên-Lý-Cảnh, lòng bỗng hoài nghi liền ngoắc con lại bảo:

-Kiệt nhi, con mau lại đây cho cha hỏi!

Châu-Anh-Kiệt run sợ đi đến trước mặt cha. Châu-Trọng-Anh nhìn rồi chỉ vào chiếc Thiên-Lý-Cảnh rồi hỏi:

-Cái này ở đâu mà con có được?

Châu-Anh-Kiệt nghe hỏi mà tái xanh lại, mặt cắt không còn giọt máu. Châu-Trọng-Anh cầm cái roi ngựa giơ lên cao nói lớn:

-Con còn chưa chịu nói? Có muốn cha đánh chết ngay bây giờ không?

Châu-Anh-Kiệt mếu máo, chỉ muốn òa lên khóc nhưng lại không dám, chỉ khẽ liếc mắt nhìn mẹ như van lơn cầu cứu. Châu phu-nhân thấy vậy liền chạy đến ôm con vào lòng, thiết tha cầu khẩn kêu xin:

-Ông à! Con nó còn nhỏ, có biết chi đâu! Lẽ nào vì giận dữ mà ông lại đánh chết nó hay sao? Chúng ta chỉ có mỗi một mình nó là con trai để nối dõi cho giòng họ Châu đó! Dù sao thì ông cũng nên nghĩ đến khí huyết...

Châu phu-nhân nói đến đây bỗng nhiên nghẹn ngào, hai hàng nước mắt trào ra như mưa, không nói thêm được lời nào nữa. Châu-Trọng-Anh như chẳng thèm để ý đến lời vợ, ông ta giá roi ngựa lên đầu Châu-Anh-Kiệt giận dữ nói lớn:

-Mày mà không nói thì tao đánh chết! Tao không cần gì đến giòng giống với khí huyết chi cả!

Châu phu-nhân chụp lấy cái roi ngựa năn nỉ:

-Ông mới vừa về đến nhà, chưa biết rõ nguồn cơn ra sao mà lại nhẫn tâm định giết con như vậy? Chắc ông nghĩ nó không phải là con ông nên ông mới muốn giết nó chứ gì?

Mạnh-Kiện-Hùng cùng đám đệ tử và tráng đinh nghe Châu phu-nhân xin tha cho con bằng những lời ‘cà kê dê ngỗng’ như vậy thì không khỏi cười thầm trong bụng. Nhưng khi nhìn nét mặt hầm hầm của Châu-Trọng-Anh thì chẳng một ai dám nhếch môi hó hé. Đám đệ-tử xin cáo lui ra sau vườn hoa tập võ, còn đám tráng đinh thì xin cho ai trở về làm việc nấy của sơn trang. Tất cả biết đây là chuyện riêng của gia đình Châu-Trọng-Anh nên không muốn dính vào. Mà có muốn dính vào cũng không dám.

Châu-Trọng-Anh dùng tay dãn vợ con ra hai nơi nói:

-Đừng hòng đem tình cảm mà chi phối được lòng ta!

Sau đó ông trợn mắt nhìn Châu-Anh-Kiệt nạt lớn:

-Ai cho mày vật này? Nói mau, không thì chết!

Châu phu-nhân biết cơn thịnh nộ của chồng đã bốc lên như hỏa-diệm-sơn, (#3) thật khó mà dập tắt nổi nên bèn ‘đổi chiến thuật’, dỗ ngọt con:

-Hài nhi, cha hỏi thì con mau trả lời đi. Người nào trong nhà đã cho con vật này con cứ thành thật mà nói rồi trả lại cho người ấy, và cúi đầu trước cha mà xin tha tội. Mẹ sẽ cho tiền con mua cái khác.

Châu-Anh-Kiệt thật thà nói:

-Không phải người nào trong nhà cho con vật ấy đâu mẹ ạ!

Châu phu-nhân khôn khéo cố mớm lời cho con:

-Thế thì ai cho người trong nhà rồi người trong nhà cho lại con thì con cứ nói thật cho cha nghe, chắc cha sẽ thương con thật thà nhỏ dại mà không bắt tội đâu. Nói đi con! Đừng dại mà làm thinh để cha giận!

Châu-Anh-Kiệt rụt rè, khẽ nói:

-Vị quan-nhân vào nhà mình cho con đó.

Châu-Trọng-Anh biết Thiên-Lý-Cảnh là vật lạ quý báu của Tây-phương chứ người Á-Châu không có. Vật này cho dù là quan đại thần cũng chưa chắc có được chứ đừng nói là phú hộ; còn thường dân thì miễn bàn. Lý do vì không có một cửa hàng nào bày bán thứ này cả, cho nên dù có tiền cũng không làm sao mua được. Vì vậy, vị quan-nhân nào đến Thiết-Đảm-Trang mà dám khảng khái tặng cho con ông ta vật bảo vật này ắt phải có một ẩn ý nào bên trong. Đem chuyện vị quan-nhân đến nhà, cộng thêm với thái độ rụt rè úp mở của Mạnh-Kiện-Hùng và bọn tráng đinh, Châu-Trọng-Anh đã đoán ra đầu đuôi câu chuyện cả mười phần. Ông chắc chắn là vị quan-nhân kia đã dùng chiếc Thiên-Lý-Cảnh này làm mồi dụ dỗ Châu-Anh-Kiệt để nó chỉ chỗ Văn-Thái-Lai cho quan quân bắt lấy.

Hiểu rõ được sự tình, mồ hôi Châu-Trọng-Anh tuôn ra nhễ nhại khắp cả người. Ông ta cảm thấy cả châu thân như muốn rét run lên. Đột nhiên, giọng của Châu-Trọng-Anh như lắng dịu xuống hẳn:

-Kiệt nhi! Mau đem cái vật ấy đến cho ta xem thử ra sao.

Thấy cha có vẻ như đã nguôi giận, Châu-Anh-Kiệt hơi yên tâm, bước tới cầm Thiên-Lý-Cảnh đưa cho Châu-Trọng-Anh. Sau khi đón lấy Thiên-Lý-Cảnh, Châu-Trọng-Anh không thèm nhìn qua mà cầm lấy nhắm vách tường đập vào một cái bể nát ra. Tiện tay, ông ta nắm cứng Châu-Anh-Kiệt lại quát:

-Đứng im cho cha hỏi chuyện!

Châu-Trọng-Anh kéo Châu-Anh-Kiệt lại gần hỏi:

-Phải mày chỉ chỗ mấy vị khách trốn dưới địa huyệt cho vị quan-nhân kia biết phải không? Ngoài mày ra thì còn ai vào đây nữa!

Đứng trước mặt cha, Châu-Anh-Kiệt chẳng dám nói dối nên gật đầu thú nhận. Châu-Trọng-Anh quay lại nói với Châu phu-nhân rằng:

-Bà mau thắp nhang trên bàn thờ ông bà và bàn thờ tổ sư cho tôi ngay bây giờ!

Châu phu-nhân chẳng hiểu ý tứ làm sao, nhưng nghe chồng bảo như vậy thì cứ tuân lời mà làm theo.

Châu-Trọng-Anh là đệ tử của môn phái Thiếu-Lâm chánh tông, được sáng lập ra bởi Đạt-Ma Tổ-Sư.

Đèn nhang đốt lên, mùi hương trầm thơm ngát. Ánh sáng rực rỡ làm cho bức tượng Đạt-Ma Tổ-Sư trên bàn thờ càng tăng thêm vẻ uy nghiêm. Châu-Trọng-Anh cầm ba nén hương đưa ngang trán, miệng khấn vái lâm râm rồi quỳ xuống bái lạy. Lễ bái thần vị của tổ-sư xong, Châu-Trọng-Anh bảo Châu-Anh-Kiệt bái lạy như mình.

Trước ánh nến chiếu rọi trên bàn thờ, Châu-Trọng-Anh nhìn thấy mặt con như trăng rằm, mắt sáng môi son, khôi ngô tuấn tú, trông rất dễ thương bỗng cảm thấy đau lòng như dao cắt. Ông ta nghiêm nghị hỏi:

-Anh-Kiệt! Lâu nay con có thiếu nợ gì ai không? Con có mượn người nào tiền bạc mà chưa trả không? Mau nói cho cha biết!

Châu-Anh-Kiệt nói:

-Thưa cha, con không thiếu nợ ai mà cũng chẳng mượn ai đồng nào.

Châu-Trọng-Anh lại hỏi:

-Thế con có giữ lại của ai vật gì mà chưa trả cho người ấy không?

Châu-Anh-Kiệt đáp:

-Con có giữ mấy quả Ô-Mai của chị Minh-Nhi, em gái của Mạnh-Kiện-Hùng đại ca gửi cho con giữ lúc ra chơi sau núi.

Vừa nói, Châu-Anh-Kiệt vừa móc trong túi áo ra mấy quả Ô-Mai trao cho Châu-Trọng-Anh xem. Cầm mấy quả Ô-Mai để lên bàn, Châu-Trọng-Anh nói:

-Để rồi cha sẽ đích thân trả cho Minh-Nhi, con đừng lo ngại chi cả, cứ an tâm đi.

Lần này Châu-Trọng-Anh nói với Châu-Anh-Kiệt bằng lời lẽ hết sức dịu dàng trìu mến, tình thâm ý thiết, ngữ khí ôn hòa dị thường mà chưa ai từng thấy ông ta đối xử với con như thế bao giờ. Ông ôm Châu-Anh-Kiệt vào lòng, đưa bàn tay gân guốc lên vò đầu xoa trán nâng niu nó chẳng khác nào một người cha vui với con thơ lần cuối trước khi từ biệt đi xa mà không hẹn ngày trở về. Trước cử chỉ thương yêu trìu mến của cha, Châu-Anh-Kiệt cảm thấy sung sướng vô cùng.

Châu-Trọng-Anh lại nói với Châu-Anh-Kiệt rằng:

-Con hãy hướng mặt vào mẹ mà bái tạ công ơn cưu mang và dưỡng dục đi.

Châu-Anh-Kiệt riu ríu vâng theo lời, tới trước mặt mẹ cúi đầu lạy tạ. Lúc bấy giờ Châu phu-nhân mới hiểu rõ là chồng có ý định sắp sửa giết con nên khóc rống, lên nức nở ôm chặt Châu-Anh-Kiệt vào lòng.

Châu-Anh-Kiệt cũng hiểu cái chết đang chờ nó trong giây phút một khi nó hành lễ lạy trả công ơn sinh dưỡng xong, và hai mẹ con nói lời vĩnh biệt, vì cha nó nhất định không tha cái tội tiết lộ cơ quan địa huyệt để Trương-Siêu-Trọng bắt Văn-Thái-Lai mang đi.

Cho dù Châu-Trọng-Anh nghĩa khí cao ngất, nhưng lòng ông ta vẫn chưa phải là sắt đá. Trước những giây phút cuối cùng của tấm thảm kịch sinh ly, Châu-Trọng-Anh cảm thấy như mình đăng đứt từng khúc ruột. Không còng bao lâu nữa, chính tay ông ta sẽ đoạn tình phụ tử.

Tuổi của Châu-Trọng-Anh đến lúc về chiều mới sinh được một mụn con trai. Ông ta thương con hơn tất cả ngọc ngà châu báu, cũng như tất cả sự nghiệp và luôn cả tánh mạng của chính mình. Thấy Châu-Anh-Kiệt thông minh tuyệt chúng, đỉnh ngộ hơn người ông vẫn mong rằng sau này ngoài việc nối dõi tông đường, đứa con trai này còn nối chí được ông ta, vì môn phái Thiếu-Lâm chánh tông mà lãnh đạo các môn phái võ lâm tại vùng Tây-Bắc. Vì vậy, Châu-Trọng-Anh bỏ hết công sức rèn luyện cho con, từ bản lãnh, tính tình, cho đến đức độ, mong rằng mai sau khi bước vào đời sẽ có được khả năng đối đầu với tất cả mọi nghịch cảnh, hành hiệp trượng nghĩa để trở thành một đấng nam nhi đại trượng phu đầu đội trời, chân đạp đất, không hổ là con cháu họ Châu, làm rạng danh môn phái.

Những tưởng đã đạt được hoài bão cùng với bao nhiêu kỳ vọng. Nào ngờ Châu-Anh-Kiệt chỉ vì tham một vật lạ của ngoại-bang, nghe lời dụ dỗ của một tên ‘tẩu cẩu’ cho nhà Mãn-Thanh mà đành tâm bán rẻ một bậc anh hùng nghĩa khí như Văn-Thái-Lai. Vẫn biết rằng đây có thể chỉ là sự bồng bột, trót dại dột thôi chứ không phải chủ tâm nhưng vì đại nghĩa của dân tộc, vì danh dự môn phái, và vì uy tín của một minh chủ võ lâm của một vùng, Châu-Trọng-Anh quyết định phải xử tử đứa con trai độc nhất của mình.

Châu-Trọng-Anh ngồi trên ghế như một thần tượng mặc cho vợ con khóc lóc, kể lể một hồi lâu mới đứng lên giật Châu-Anh-Kiệt trong tay Châu phu-nhân ra. Nhưng Châu phu-nhân ôm quá chặt khiến ông ta không làm sao giựt thằng bé ra được. Châu phu-nhân vừa khóc vừa kêu van:

-Thà là ông giết luôn cả hai mẹ con tôi một lượt để cho cả hai hồn cùng theo nhau xuống cửu tuyền chứ đừng làm cho mẹ con phải chia lìa như thế! Nếu con chết thì tôi cũng không sống được đâu!

Châu-Trọng-Anh ngậm ngùi nói không ra hơi. Chính bản thân ông ta nào có muốn giết chết hòn máu duy nhất của mình. Nhưng cố đè nén mọi xúc cảm, ông ta hét lớn:

-Mau buông nó ra! Ý tôi đã quyết định rồi, không được nói nữa! Không gì lay chuyển được đâu!

Châu phu-nhân vẫn liều mình ôm cứng lấy con, đem thân ra chịu trận, sẵn sàng để cho chồng muốn bằm xé ra sao tùy ý. Châu-Trọng-Anh thấy vậy ôn tồn nói:

-Mình à! Chẳng lẽ chỉ có mình mới biết thương con thôi, còn tôi là giống cây cỏ, gỗ đá hay sao mà không biết bảo vệ cho con? Hổ dữ kia còn chưa nỡ ăn thịt con thì có lý nào tôi đây lại thích giết con ư? Nhưng thằng nghịch tử bất hiếu này chỉ mới có chừng này tuổi đầu mà đã hiện rõ bản chất gian manh, vì lợi quên nghĩa, phản bội dân tộc, giống nói. Chỉ mới có một chiếc Thiên-Lý-Cảnh mà nó đã như thế rồi thì mai sau khi lớn lên vì những điều lợi lớn lao khác nó sẽ còn như thế nào nữa? Cái thứ con như thế này để cho nó sống phỏng có ích gì? Giết chết nó đi là trừ họa cho quốc gia dân tộc, cho xã hội, và để khỏi làm điếm nhục gia phong, khỏi tủi đến vong linh của tổ tông và danh dự của môn phái. Có gì để cho mình phải thương tiếc nữa chứ hả?

Rồi xuất kỳ bất ý, Châu-Trọng-Anh giựt một cái thật mạnh như con thú dữ vồ mồi làm Châu phu-nhân vuột tay ngã sấp xuống đất. Châu phu-nhân thét lên một tiếng làm ‘thảm địa sầu thiên’, với hai tay ôm cứng Châu-Anh-Kiệt, vừa khóc vừa hếr lời năn nỉ:

-Mình không tha mạng sống được cho con hay sao? Thôi, cứ kể như nó đã đứt nôi từ thuở mới lọt lòng mẹ mà đuổi cổ nó đi khỏi Thiết-Đảm-Trang này cấm không cho trở về nữa! Đó cũng kể như là đoạn tình với nó, xem như nó đã chết bờ chết bụi rồi!

Châu-Trọng-Anh lặng thinh không đáp, vận khí vào tay rồi giáng một chưởng xuống ngay đầu Châu-Anh-Kiệt. Chỉ nghe ‘bộp’ một tiếng, cặp đồng tử của Châu-Anh-Kiệt như muốn lọt ra ngoài, toàn thân của nó ngã xuống dưới chân Châu-Trọng-Anh không la lên được tiếng nào, chết không kịp ngáp.

Châu phu-nhân nhìn thấy con chết dưới tay chồng thì lồng lộn lên như một con cọp dữ nhào tới cấu xé thật hung hăng khiến Châu-Trọng-Anh phải lui ra sau mấy bước để mà tránh. Như kẻ cuồng tâm loạn trí, Châu phu-nhân chạy ra đàng sau rút một thanh đoản đao trong cái giá dùng để giát các món binh khí nhào tới nhắm ngay đầu Châu-Trọng-Anh bổ xuống một cái.

Lúc ấy, Châu-Trọng-Anh cũng đã tan nát cõi lòng trước thảm kịch gia đình. Từ lúc ra tay giết chết con, hồn ông ta như đã gục xuống theo cùng với xác của nó. Vì vậy, ông ta chẳng buồn tránh né lưỡi đao làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại buồn rầu nói:

-Thế cũng hay! Mình cứ giết tôi cho hả dạ, để tôi không còn phải đau khổ thêm nữa!

Xưa nay Châu-Trọng-Anh vốn nổi tiếng là cứng rắn và ‘chí công vô tư’, thường ngày vẫn dạy con cũng như đệ-tử rằng ‘anh hùng sa huyết bất sa lệ’ (#4). Đã biết bao nhiêu phen đứng trước nhiều hoàn cảnh thương tâm mà ông ta vẫn giữ được thái độ bình thản, tránh những trò ‘nhi nữ thường tình’của nhân gian. Thế mà giờ đây ông ta chán đến độ không còn muốn sống nữa mà phải buông lên một câu hết sức đau khổ đầy tuyệt vọng như thế!

Châu phu-nhân bỗng cảm thấy cổ mình như nấc lên từng hồi. Bà ta không sao hạ thủ được nữa, đành buông đao xuống đất, quỵ xuống ôm lấy chân Châu-Trọng-Anh mà khóc lên từng hồi...

Hồi 5e

Ái tình một sợi dây oan nghiệt

Nhân thế muôn đời khổ lụy thân

Nhắc lại Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng sau khi tạm gác chuyện hiềm khích với Châu-Trọng-Anh liền phi ngựa nhắm thẳng hướng An-Tây đi cho thật lẹ để báo tin cho các anh em Hồng Hoa Hội đặng bàn thảo kế hoạch đón đường Trương-Siêu-Trọng mà giải cứu Văn-Thái-Lai.

Sợ Trương-Siêu-Trọng mật báo cho các địa phương biết để đem người chặn đường ngăn cản, Lạc-Băng cùng Dư-Ngư-Đồng tránh hết những đường lớn, mà chỉ tìm những đường nhỏ hoang vu hẻo lánh ít người qua lại để đi cho kín đáo.

Không phải vì Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng khiếp nhược quan quân mà vì cả hai trong người còn mang trọng thương thành ra nguyên khí chưa hoàn toàn bình phục lại được, cần phải tránh tối đa những cuộc đụng độ bằng vũ lực. Nhưng điều tối quan trọng là làm sao phải về gấp tổng hành dinh của Hồng Hoa Hội để báo tin thì mới mong cứu kịp Văn-Thái-Lai. Do đó thì giờ rất là quý báu, không thể để phí một khắc nào được.

Đường xa bụi bậm, nhiều khi gặp rừng núi cheo leo phải đi chân bộ mà dắt ngựa, tay vạch cỏ gai, chân vấp đá sỏi. Tuy nhiên, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng vẫn không hề nản chí, vẫn như hai người chiến sĩ cảm tử xông pha giữa chốn sa trường. Vượt thêm 10 dặm đường rừng nữa thì trời đã tối đen như mực, ngửa bàn tay ra nhìn không thấy. Màn đêm che phủ dày đặc mà hai người vẫn chưa ra khỏi được rừng...

Nơi địa phận chốn biên cương thật là hoang vu tịch mịch. Bốn bề chỉ nghe tiếng chim chóc và muông thú chứ chẳng thấy bóng người qua lại hay dấu vết của dân cư ở đâu. Cả người lẫn ngựa đều đã mỏi mệt mà vẫn không tìm được một chỗ nào để nghỉ chân, dù là quán trọ hay một mái tranh nào để xin vào tá túc qua đêm.

Nhờ kinh nghiệm từng trải giang hồ, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng chịu hết được những tất cả những nhọc nhằn nguy khó. Gặp trường hợp như thế này, hai người vẫn cố gắng đi, cho dù là thật chậm, nhưng đi thêm được khúc nào hay khúc.

Đến một nơi vắng vẻ đụng phải một tảng đá lớn nằm chắn ngang lối đi, Lạc-Băng bảo Dư-Ngư-Đồng hãy tạm cùng nhau ngồi trên đó tạm nghỉ ngơi trong giây lát. Ánh sao vằng vặc soi xuống khắp vùng sơn lâm bát ngát mênh mông. Dư-Ngư-Đồng chợt phát hiện được một đồng cỏ xanh non như một tấm nhung xanh mát dịu.

Dư-Ngư-Đồng liền dắt hai con ngựa lại cho ăn. Lạc-Băng liền lấy đoản đao cắt một mớ cỏ đem lại trải trên mặt đất, nói với Dư-Ngư-Đồng:

-Buồn ngủ mà gặp chiếu manh là thế này đó Dư hiền đệ. Chúng ta tìm mãi không được quán trọ nhưng có ngờ đâu lại được thạch bàn để dựa lưng, có cỏ làm đệm, những tưởng còn êm ấm hơn chiếu nệm ở trong nhà. Chỉ hiềm thiếu nước và lương khô để đỡ dạ mà thôi. Trời đã quá tối, đi thêm nữa thật bất tiện. Chi bằng chúng ta hãy tạm nghỉ ở đây đêm nay rồi mai sáng sẽ hay. Ý Dư hiền đệ thế nào?

Dư-Ngư-Đồng đáp:

-Không còng cách nào hơn! Thế cũng tiện. Chỉ sợ tẩu tẩu trong mình chưa khỏe nằm giữa trời bị nhiễu sương gió mà thôi.

Lạc-Băng chỉ lo cho Văn-Thái-Lai, trong lòng không còn để ý đến điều chi khác nữa. Thân xác nàng tuy còn ở đây nhưng hồn lúc nào cũng hướng về người chồng kính yêu nhất đời của nàng. Lạc-Băng hận mình không mọc được đôi cánh để bay gấp về An-Tây mà trình báo với Thiếu-Đà-Chủ (#1) để cấp tốc huy động toàn lực Hồng Hoa Hội truy kích Trương-Siêu-Trọng hầu giải cứu Văn-Thái-Lai. Chỉ có cách giải thoát đuợc cho Văn-Thái-Lai thì tâm trí Lạc-Băng mới có thể trở lại bình thường mà lo việc khác được. Còn giờ đây, dẫu có sơn hào hải vị nàng cũng chẳng thấy ngon, và nệm gấm màn the cũng chẳng cho là ấm.

Từ lúc trốn vào địa huyệt của Thiết-Đảm-Trang cho đến nay đã gần hai ngày, trong bụng không có lấy được một hạt cơm hay một giọt nước; lại phải trải qua bao nhiêu trận chiến gian nguy, vượt qua bao nhiêu đoạn đường gai gốc, nhưng Lạc-Băng vẫn không hề thấy đói khát. Có thể nói tinh thần của nàng đã chiến thắng được tất cả những nhu cầu vật chất trong cơ thể đòi hỏi. Chẳng qua vì trời quá tối, ngựa quá mệt mỏi vì thiếu ăn, nên Lạc-Băng mới đành chịu dừng chân tạm nghỉ mà để cho cuộc hành trình tạm thời bị gián đoạn.

Thấy Dư-Ngư-Đồng lo lắng cho mình, Lạc-Băng lại nghĩ đến Văn-Thái-Lai. Chồng nàng chắc bây giờ đang khổ sở vô cùng, chẳng khác nào như chim trong lồng, như cá nằm trên thớt. Lạc-Băng nghe như trong lòng nàng đứt lìa từng khúc ruột. Chỉ vì trót hứa với chồng cho nên nàng mới phải bất đắc dĩ bỏ chàng trong cơn hoạn nạn như thế này. Cho dù có khổ bao nhiêu, nàng vẫn cảm thấy mình còn sung sướng hơn Văn-Thái-Lai quá nhiều. Nàng dù thế nào vẫn được tự do trong khi chàng hiện đang bị quản chế trong lao tù. Chẳng sớm thì muộn, Lạc-Băng nghĩ mình sẽ gặp lại các anh em trong Hồng Hoa Hội. Nhưng không biết rồi đây nàng còn được cơ hội trùng phùng với Văn-Thái-Lai nữa không?

Con người của Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng hiểu rất rõ. Mai đây khi gặp mặt Càn-Long, chàng rất có thể sẽ liều chết nếu nhà vua động chạm đến danh dự của Hồng Hoa Hội hay của cá nhân chàng. Văn-Thái-Lai vì đại nghĩa tất nhiên luôn luôn xem cái chết nhẹ tựa hồng mao. Mà một vị vua đầy quyền uy và thế lực như Càn-Long thì cho dẫu bao nhiêu cái mạng của Văn-Thái-Lai đi chăng nữa, liệu ông ta có coi ra gì?

Nghĩ đến cảnh khổ sở của Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng đã lấy làm lo lắng. Nghĩ đến khí phách con người của luôn xem thường mạng sống của chàng, nàng còn sợ hãi gấp bội!

Lạc-Băng không dằn lòng được, nước mắt từng hàng tuôn trào, đổ ra như suối. Thấy Lạc-Băng bi lụy như vậy, Dư-Ngư-Đồng xót xa vô cùng. Chàng cố gắng dùng những lời nhẹ nhàng mà khuyên giải. Nhưng mặc cho chàng có nói khéo đến đâu vẫn không làm giảm đi được nỗi sầu của Lạc-Băng. Nàng làm như chẳng nghe thấy gì cả, chỉ lấy hai tay ôm mặt khóc thút thít.

Dư-Ngư-Đồng gãi đầu bứt tóc. Mỗi tiếng khóc của Lạc-Băng như một mũi dao đâm vào tim chàng. Ngồi suy nghĩ một hồi, Dư-Ngư-Đồng chợt nảy ra một sáng kiến nên ghé sát lại gần bên Lạc-Băng nói:

-Cứ theo sự suy đoán của đệ thì hiện thời tuy Văn tứ ca còn vướng trong vòng hoạn nạn nhưng không đến đỗi nguy hại đến tánh mạng đâu. Và sớm muộn gì anh em Hồng Hoa Hội cũng sẽ giải thoát được cho Tứ ca trên đường giải về Bắc-Kinh. Tẩu tẩu hãy tạm gác nỗi ưu phiền để dưỡng sức đặng còn giúp cho anh em trong hội một tay thì mới mong sớm cứu được Văn tứ ca chứ còn cứ ngồi đó mà than khóc thì phỏng có ích lợi gì?

Đang tuyệt vọng mà được nghe những lời trấn an, giải bày hơn thiệt của Dư-Ngư-Đồng như thế thật chẳng khác nào người lâm trọng bệnh được uống một thang thuốc hồi dương (#2). Lạc-Băng vụt ngồi thẳng dậy hỏi:

-Sao Dư hiền đệ dám chắc là Tứ ca vẫn được an toàn tánh mạng? Liệu anh em Hồng Hoa Hội còn cứu kịp được anh ấy hay không mà phải cần đến chị giúp sức một tay?

Thấy diệu kế của mình có công hiệu, Dư-Ngư-Đồng lại nói:

-Văn tứ ca tuy mang tiếng là khâm-phạm thứ nhất của triều đình, nhưng Càn-Long một hai đặc phái cho Trương-Siêu-Trọng phải cố gắng mà bắt sống mà giải về Bắc-Kinh thì hay hơn là giết chết. Nội việc này cũng đủ thấy Càn-Long cần mạng sống của Văn tứ ca hơn là nhìn thấy xác chết. Cứ lấy đó mà luận thì cho dù Văn tứ ca có mắng chửi nhiều đến đâu, có chống đối kịch liệt thế nào thì Trương-Siêu-Trọng cũng không dám làm hại đến tánh mạng của anh ta. Hơn nữa, Văn tứ ca biết nhiều bí mật Càn-Long muốn được nghe rõ mà không muốn cho người thứ hai nghe thấy thì đủ hiểu tánh mạng của Văn tứ ca có giá trị cho ông ta lắm. Do đó, chẳng những không dám hại mạng Văn tứ ca mà trái lại Trương-Siêu-Trọng còn phải bảo vệ, không cho ai được đụng đến anh ấy nữa là đàng khác.

Lạc-Băng nghe nói gật đầu tán thành:

-Lời Dư hiền đệ bàn luận rất phải. Nếu Văn tứ ca có bị giết là chỉ sau khi về Bắc-Kinh hội kiến với Càn-Long mà thôi. Chị biết Văn tứ ca thà chết chứ không bao giờ chịu khai ra bí mật nào đâu. Nếu không cứu được Văn tứ ca trên đường về Bắc-Kinh thì kể như là hết! Chị có lo là lo điều này mà thôi.

Dư-Ngư-Đồng nói như quả quyết:

-Chị đừng lo! Em tin chắc Văn tứ ca sẽ được giải thoát trên đường bị giải về Bắc-Kinh. Du Trương-Siêu-Trọng có huy động thêm bao nhiêu lực lượng áp giải đi chăng nữa, đích thân hắn vẫn phải theo sát bên Văn tứ ca như hình với bóng thôi. Khi đó Hồng Hoa Hội chúng ta chỉ cần tập trung lực lượng vào nơi chính yếu là có thể cứu được Tứ ca dễ dàng.

Đôi mắt đẫm ướt ngấn lệ của Lạc-Băng chợt lóe lên một tia hy vọng. Nàng hỏi:

-Vì sao Dư hiền đệ lại dám chắc chắn như vậy? Hãy nói cho chị nghe với!

Dư-Ngư-Đồng điềm nhiên phân giải:

-Theo em nghĩ thì sau khi đưa chúng ta ra khỏi An-Viễn khách-sạn, Lục-Phỉ-Thanh sư bá cấp bách về thẳng An-Tây để báo tin cho Hồng Hoa Hội chúng ta vì biết rõ tình trạng nguy hiểm của Văn tứ ca không thể trì hoãn được, cho dù phải đội sương đạp tuyết cũng không từ nan đâu. Và chắc chắn giờ này từ Thiếu-Đà-Chủ trở xuống đều biết rõ việc này cả rồi. Chỉ cần một lời truyền của Thiếu-Đà-Chủ thôi là tất cả anh em Hồng Hoa Hội từ Vô-Trần Đạo-Nhân trở xuống ai mà không hưởng ứng nghe theo lệnh? Với một lực lượng hùng hậu của Hồng Hoa Hội, bao gồm các tay cao thủ hạng nhất trên giang hồ như thế, chẳng lẽ lại địch không nổi một Trương-Siêu-Trọng với đám tùy tùng của hắn hay sao? Chỉ cần anh em trong hội do Vô-Trần Đạo-Nhân hướng dẫn cũng quá đủ rồi, chưa chắc Thiếu-Đà-Chủ đã cần phải động đến một đầu ngón tay đâu!

Nghe lời giải thích hữu tình hữu lý của Dư-Ngư-Đồng, Lạc-Băng như người ngủ mê mới tỉnh, người chết hồi sinh. Nàng bỗng hăng hái đứng dậy chỉ tay về hướng Bắc nói lớn:

-Văn tứ ca! Sau cơn mưa trời lại sáng! Chúng ta sẽ gặp lại nhau!

Dư-Ngư-Đồng lại nói:

-Công việc giải cứu Văn tứ ca rất cấp bách và hết sức quan trọng. Rất có thể giờ phút này Thiếu-Đà-Chủ đã điều khiển anh em Hồng Hoa Hội liều mạng rượt theo Trương-Siêu-Trọng và không chừng đã cứu xong Văn tứ ca trên đường trở lại An-Tây rồi. Hoặc giả nếu chưa cứu được thì có cũng đang giao phong kịch liệt với địch nhân tại một nơi nào đó trên đường đi Bắc-Kinh. Các đương gia đều là những người nhiệt tình, ghét kẻ ác như kẻ thù cả. Khi biết được chúng gây khó khăn cho Văn tứ ca như thế không chừng sẽ giết sạch không chừa lại một tên đâu!

Lạc-Băng bỗng sa sầm nét mặt. Với vẻ lo lắng, nàng hỏi Dư-Ngư-Đồng:

-Nhưng chắc gì Thiếu-Đà-Chủ và anh em Hồng Hoa Hội đã biết được tin Văn tứ ca bị áp giải mà truy kích?

Dư-Ngư-Đồng cười nói:

-Điều ấy tẩu tẩu khỏi lo! Trong đoàn người đi cứu viện dĩ nhiên phải có Lục-Phỉ-Thanh sư bá. Khi đến Thiết-Đảm-Trang ắt sẽ biết qua tự sự thì cứ việc theo ngã Bắc-Kinh mà đuổi theo chứ còn đi đâu được nữa!

Lạc-Băng nghe xong lại tươi cười nói:

-Nếu không có Dư hiền đệ chỉ bảo lẽ hay cho, có lẽ chị vì quá tuyệt vọng mà đâm ra tự hủy hoại thân mình chỉ vì lo lắng cho Văn tứ ca!

Quả thật vậy, những lời của Dư-Ngư-Đồng đã khiến cho luồng dũng khí cũng như lòng hy vọng của Lạc-Băng vùng dậy trở lại. Nỗi lòng nàng như được hoàn toàn cởi mở, bao nhiêu đau đớn mệt mỏi gần như đã quên sạch. Nàng ngồi trên tấm nệm cỏ mà thấy mát rượi, dựa lưng vào phiến đá mà nghe êm ru. Lạc-Băng bỗng cảm thấy khoan khoái lạ thường, nàng thiếp đi lúc nào không hay...

Lạc-Băng mơ mơ màng màng... Nàng trông thấy hình như Văn-Thái-Lai đi lại sát bên mình mỉm cười âu yếm. Lạc-Băng chưa kịp ngồi dậy thì Văn-Thái-Lai đã nhẹ gót đi đến ẵm nàng dậy ôm vào lòng và đặt một tràng hôn nồng nàn lên đôi gò má ửng hồng như hai trái đào.

Lạc-Băng để mặc tình cho chồng thỏa mãn những đòi hỏi về sắc dục mà nàng bỗng cảm giác được bao nhiêu khác hiện trên vành môi của chồng. Lạc-Băng toàn thân nhẹ bổng chẳng khác như một đứa trẻ còn măng sữa trên đôi tay của Văn-Thái-Lai.

Những giây phút say sưa sau đó được tiếp nối liên miên. Rồi hình như không dằn nổi những đòi hỏi quá mãnh liệt của cõi lòng, Văn-Thái-Lai toan dùng sức lực để giải quyết sinh lý ngay trên nệm cỏ ấy mặc dù Lạc-Băng hết sức can ngăn. Thấy không cưỡng nổi lòng ham muốn càng lúc càng mãnh liệt hơn của chồng, Lạc-Băng giận lắm, vùng mình trở dậy nhìn Văn-Thái-Lai mà trách rằng:

-Em tưởng mình bị thương, bị bắt, bị khổ nhục đủ điều nên tạm thời dẹp bỏ được những thú vui ham muốn của nhục dục mà tĩnh dưỡng cho lành mạnh để rửa hận báo cừu, ngờ đâu mình không mình lại không chịu giữ gìn lo cho thân thể, vừa được thoát nạn gặp lại em đã nghĩ ngay đến chuyện đắm mê trong nguồn ân bể ái như thế này! Vậy ra thương tích trong mình đã lành hết rồi phải không? Công tác của cố Tổng-Đà-Chủ trước khi nhắm mắt ủy thác cho cũng hoàn tất cả rồi chứ?

Những lời phiền trách chính đáng của Lạc-Băng không làm cho Văn-Thái-Lai thức tỉnh. Chàng vẫn ghì chặt lấy thân thể yêu kiều mềm mại của Lạc-Băng vào ngực như cốt ý để cho nàng nghe những tiếng đập mạnh trong con tim của chàng. Chàng không trả lời những câu hỏi của Lạc-Băng mà lại nói toàn những chuyện mơ hồ nhạt nhẽo, chẳng có liên quan gì với nhau cả.

Lạc-Băng cố sức vùng vẫy nhưn Văn-Thái-Lai giữ chặt quá khiến nàng không làm sao thoát được cánh tay của chàng. Hơi nóng trong thân thể Văn-Thái-Lai truyền sang thân thể của Lạc-Băng. Nàng quyết không để mềm lòng theo sự đòi hỏi không đúng lúc của chồng nên lấy hết ý chí mạnh mẽ ra mà chống cự lại...

Đang lúc giằng co, đột nhiên Lạc-Băng giật mình tỉnh dậy. Nàng mở đôi mắt ra thật to vì còn ngỡ đây là một giấc chiêm bao, nhưng sự thật lại rõ ràng trắng trợn hiển hiện như ban ngày. Thân hình của nàng đang bị hai cánh tay đàn ông ôm chặt lấy. Nhưng người ôm nàng không phải là trượng phu Văn-Thái-Lai mà lại là... Dư-Ngư-Đồng!

Thật là một sự kiện hãi hùng chưa từng bao giờ xảy ra trong đời nàng! Một sự kiện hãi hùng mà luôn cả trong giấc mơ nàng cũng không bao giờ có thể ngờ tới! Không thể nào tha thứ được, mà cũng không thể nào kéo dài thêm tấn kịch gớm ghiếc này thêm một khoảnh khắc nào, Lạc-Băng tung mạnh một cái vụt đứng ngay dậy, nghiêm nghị như một pho tượng nữ thần. Dư-Ngư-Đồng vốn đã có chủ ý từ trước nên cố ý ôm giữ nàng thật chặt trong tay, chẳng ngờ Lạc-Băng vùng vẫy mạnh quá khiến cho chàng ngã ngửa ra sau chẳng khác nào bị địch thủ quật xuống đất.

Dư-Ngư-Đồng lồm cồm ngồi dậy. Chàng cũng thế, tưởng chừng như vừa tỉnh mộng. Chàng kêu gào như thét lên:

-Trời hõi trời! Vì quá yêu tôi trở thành một đứa bất nghĩa! Than ôi! Ma lực của ái tình! Ôi! Đau khổ biết bao nhiêu!

Lạc-Băng không ngờ Dư-Ngư-Đồng dám lừa mình, lợi dụng trong lúc đang ngủ say mà giở trò bỉ ổi nên vừa giận vừa thẹn. Nàng quát lên như tiếng gầm trong đêm vắng:

-Ngươi có im mồm hay không? Đã ngu dại muốn chết thì để ta đánh cho chết chứ đừng than van gì nữa!

Lạc-Băng tung ngay vào mặt Dư-Ngư-Đồng một quả thôi sơn nhanh như điện xẹ, mạnh như búa bổ. Dư-Ngư-Đồng vội vàng lách mình sang một bên tránh khỏi. Đang còn như ngây như dại thì Lạc-Băng lại bồi tiếp thêm một quyền vào bụng chàng. Dư-Ngư-Đồng thấy khí thế Lạc-Băng dũng mãnh như vậy thì biết nàng đang giận dữ vô cùng nên cảm thấy tội lỗi co giò bỏ chạy chứ không dám đánh lại.

Lạc-Băng sau đó rút cặp song đao bên mình ra rượt theo chém loạn xạ khiến cho Dư-Ngư-Đồng kinh hoảng, hết hồn hết vía. Thấy không thể thoát khỏi tay Lạc-Băng được, Dư-Ngư-Đồng đành quay lại rút ống sáo vàng ra chống đỡ. Biết đao pháp của Lạc-Băng rất lợi hại, nếu lơ đãng hay lỡ tay sểnh miếng là mất mạng như chơi nên Dư-Ngư-Đồng phải dùng những chiêu tuyệt kỹ trong Nhu-Vân Kiếm-Thuật ra mà đối phó. Chỉ trong vài hiệp, Dư-Ngư-Đồng đã đánh văng cặp song đao của Lạc-Băng xuống đất.

Lạc-Băng biết Dư-Ngư-Đồng bản lãnh siêu việt, nàng không thể cự nổi nên rút trong túi ra hai ngọn phi đao rồi nói lớn:

-Này, thằng khốn kiếp kia! Ráng mà giữ mình kẻo chết đấy nhé! Ta thật không ngờ người dám cả gan liều lĩnh như vậy! Thiếu chút nữa là ta đã bị ô uế rồi!

Dư-Ngư-Đồng quỳ xuống, nét mặt hết sức thểu não, nói như van xin:

-Em van lạy chị! Hãy để cho em nói một lời rồi chị có muốn giết chết em đi chăng nữa, em cũng cam tâm đứng yên cho chị hạ thủ. Có chết em cũng không ân hận...

Lạc-Băng giận dữ ngắt lời:

-Ai là chị của người? Ngươi là một tên khốn nạn! Ta thật không ngờ lòng dạ của ngươi lại chó má đến thế! Dư-Ngư-Đồng! Ngươi có nhớ điều cấm kỵ thứ nhất của nội quy Hồng Hoa Hội không? Nếu nhớ thì đọc lại cho ta nghe!

Dư-Ngư-Đồng cúi gầm mặt xuống, vừa sợ hãi vừa thẹn thùng. Chàng không dám ngẩng mặt lên nhìn Lạc-Băng, mà cũng không dám nói một lời nào.

Lâu nay đối với Dư-Ngư-Đồng, Lạc-Băng luôn thương mến như em ruột. Những cử chỉ đầy thân ái của Dư-Ngư-Đồng từ trước đến nay chiếm được cảm tình của Lạc-Băng rất nhiều. Nay thấy chàng khổ sở như vậy nàng cũng không đành xuống tay. Nhưng đứng trước một sự kiện như việc vừa xảy ra, Lạc-Băng cũng khó mà có thể tha thứ cho Dư-Ngư-Đồng được.

Lạc-Băng nói lớn như thét lên:

-Ngươi không nói à? Này Dư-Ngư-Đồng! Ta hỏi câu nào người phải trả lời ta câu ấy nghe chưa! Lão Tổ của Hồng Hoa Hội họ gì?

Dư-Ngư-Đồng riu ríu khẽ đáp lời:

-Lão Tổ Hồng Hoa Hội vốn họ Châu.

Lạc-Băng lại hỏi:

-Vì sao Lão Tổ lập ra Hồng Hoa Hội?

-Lão tổ lập ra Hồng Hoa Hội để cứu nạn cho dân tộc.

Lạc-Băng bèn hỏi tiếp:

-Toàn thể anh em trong Hồng Hoa Hội kính trọng Lão Tổ như thế nào?

-Kính trọng Lão Tổ như Tôn-Sư, không bao giờ được coi thường những điều luật của Lão Tổ ban ra.

-Còn anh em trong hội phải đối với nhau ra sao?

-Phải tuân theo ba điều, thứ nhất: phải tương kính lẫn nhau như Lưu, Quan, Trương kết nghĩa tại đào viên.

-Nghĩa là sao?

-Nghĩa là khôn thể đồng sanh nhưng thề đồng tử; hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly.

-Còn điều thứ hai?

-Tận trung báo quốc.

-Còn điều thứ ba?

-Phải noi theo gương của 108 vị anh-hùng Lương-Sơn-Bạc.

-Nghĩa là sao?

-Phải có những hành động trung dũng cương trực, 108 người cũng chỉ như một. Dù cho tánh ý khác nhau, võ nghệ khác nhau, họ tên khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, nhưng phải giống nhau một điều là: anh-hùng khí phách.

Những lời vấn đáp giữa Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng là quy-luật của Tổ-Sư Hồng Hoa Hội đặt ra. Tất cả người của bang hội phải răm rắp tuân theo, không được làm sai một ly nào. Ai nấy đều phải học thuộc lòng như kinh nhật tụng. Mỗi lần khai hội hay trước khi bàn thảo công việc, điều trước tiên phải thắp nhang quỳ lạy trước bàn thờ Tổ-Sư rồi sau đó vị Tổng-Đà-Chủ sẽ hỏi từng câu, và tất cả những người có mặt đều đáp rập lại câu trả lời cho ăn khớp.

Theo đúng quy tắc của Hồng Hoa Hội thì lúc ‘khai đường nhập hội’ (#3), khi ‘thệ sư xuất phát’ (#4), cũng như lúc chấp hành một hình phạt một cá nhân nào của hội, nhân vật với chức vị cao hơn sẽ làm một cuộc đại lễ và đứng ra hỏi những câu này để đương sự lần lượt trả lời. Cấp trên hỏi đến đâu thì người kia phải trả lời đến đó, không được nói ngoài phạm vi câu trả lời mà cũng không được nói quá vắn tắt. Và trong khi vấn đáp, đương sự không được cử động mà phải đứng nghiêm trang hay ngồi yên tĩnh tọa.

Theo thứ tự vai vế trong Hồng Hoa Hội thì địa vị của Lạc-Băng cao hơn Dư-Ngư-Đồng. Giá mà chuyện này ở chỗ thông thường thì Lạc-Băng sẽ phải làm một cuộc lễ long trọng và chấp hành hình phạt kẻ có tội là Dư-Ngư-Đồng. Nhưng đây là trường hợp đặc biệt, sự việc xảy ra giữa đêm trường nơi hoang vu hẻo lánh chỉ có mặt hai người, một người phạm luật của hội và một người chấp hành cương kỷ của hội. Theo tiên cáo của hội thì trong những trường hợp ngoại lệ, các nghi thức được phép giản dị hóa, tuy nhiên, nghi thức vấn đáp vẫn phải giữ đúng quy củ cho thật uy nghiêm. Do đó, Dư-Ngư-Đồng bắt buộc phải nghiêm chỉnh trước mặt Lạc-Băng. Hễ nàng hỏi câu nào thì chàng phải trả lời câu nấy.

Nghe hỏi, Dư-Ngư-Đồng bỗng lạnh toát cả người vì một khi người nào được cân nhắc vào hàng đương-gia, tức thuộc về cấp lãnh đạo của Hồng Hoa Hội mà phạm trọng tội thì bao giờ hình phạt cũng là tử hình chứ không thể nào nhẹ hơn. Huống hồ tội của Dư-Ngư-Đồng là một trong mấy điều tối kỵ của hội. Đó là tội cưỡng dâm một người vai vế ở trên mình. Ai phạm tôi này chẳng những bị tử hình mà danh tánh còn bị đem ra bêu xấu để cho tất cả mọi người từ trên xuống dưới trong hội thóa mạ nữa.

Chiếu theo điều lệ của hội, Dư-Ngư-Đồng không dám cãi mệnh mà phải trả lời những câu hỏi của Lạc-Băng mặc dù chàng ta thà chịu tội tử hình còn hơn phải đứng trước mặt nàng mà trả lời những câu hỏi khiến cho lòng phải hết sức e thẹn vì xấu xa. Giá mà lúc này có cắt được cái mặt bằm nát ra thì Dư-Ngư-Đồng cũng chẳng tiếc một chút nào. Chàng bỗng cảm thấy hối hận rằng lúc Lạc-Băng nổi giận cầm đao chém sao mình lại né tránh mà không chịu trận để chết phứt đi cho rảnh nợ còn hơn!

Lạc-Băng chấp hành kỷ luật của hội uy nghiêm như một thẩm phán quan chứ không phải nhu mì mềm mỏng như thường ngày nữa. Nàng quắc mắt hỏi Dư-Ngư-Đồng:

-Có bốn hạng người nào mà Hồng Hoa Hội cần phải cứu? Hãy mau kể ra!

Dư-Ngư-Đồng gục mặt trả lời:

-Thứ nhất: cứu những người trượng phu quân tử; thứ nhì: cứu người liêm chính trung cang; thứ ba: cứu những người hy sinh cho dân tộc; thứ tư: cứu những kẻ đeo đuổi mục đích phản Thanh phục Minh như hội của ta.

Lạc-Băng mặt lạnh như tiền, gằn giọng hỏi tiếp:

-Còn những hạng người đáng giết, hãy kể thử cho nghe?

Dư-Ngư-Đồng run rẩy hết tứ chi, dường như thấy tử thần đang chờ trước mắt để bắt một hồn ma tội lỗi giải về hỏa ngục dưới âm-ty. Chàng đau khổ trả lời:

-Thứ nhất: phải giết bọn ‘chim mồi chó săn’ cam tâm làm tay sai cho giặc Mãn, hãm hại đồng bào Hán-tộc. Thứ hai: phải giết bọn tham quan ô lại Mãn-Thanh đục khoét bóc lột lương dân tận xuơng tủy. Thứ ba: phải giết bọn ác bá thổ hào, ỷ quyền cậy thế, trông vào tài lực (#5) sát hại cưỡng bức, cướp đoạt sinh mạng, trinh tiết và tài sản của đồng bào đang quằn quại sống dưới xiềng xích, nanh vuốt của quân giặc xâm lăng tàn bạo. Thứ tư: phải giết những người vi phú bất nhân, gây dựng sự nghiệp trên xương máu, mồ hôi nước mắt của người nghèo khổ...

Lạc-Băng bỗng trợn đôi mắt lên hỏi Dư-Ngư-Đồng:

-Hồng Hoa Hội chỉ giết có bốn hạng người kể trên sao? Không còn hạng người nào đáng giết nữa à?

Dư-Ngư-Đồng mặt mũi xanh rờn, run rẩy, chết đứng cả người trước câu hỏi đanh thép và thái độ sắt đá của Lạc-Băng.

Thấy Dư-Ngư-Đồng gục mặt, im lặng như kẻ có xác không hồn, Lạc-Băng không chút động lòng mà trái lại còn cực kỳ căm phẫn. Như một ‘thiết diện vô tư’ đối với một phạm nhân khiếp nhược, Lạc-Băng nhướng đôi mày tầm hét to lên tiếp tục hỏi:

-Hồng Hoa Hội có bốn giới điều quan trọng hơn cả gọi là ‘tứ đại giới điều’. Hãy đọc lại cho rõ ràng ta nghe!

Dư-Ngư-Đồng khẽ đáp bằng một giọng run run, cố lướt qua cho thật lẹ:

-Kẻ đầu hàng Mãn-Thanh, tội đáng giết. Kẻ khinh thường cấp trên, tội đáng giết...

Nói tới đây, Dư-Ngư-Đồng bỗng nghẹn lời, cảm thấy như miệng chàng vừa tự đọc lên bản án cho chính mình. Chàng còn đang ngập ngừng chưa đọc hết được cả bốn điều thì Lạc-Băng hét lên giữa khoảng không làm rung chuyển cả cây cỏ chung quanh:

-Dư-Ngư-Đồng! Mi dám khinh ta là kẻ đang chấp hành hình phạt của Hồng Hoa Hội?

Dư-Ngư-Đồng riu ríu đáp:

-Kẻ phạm tội theo điều luật của hội thật không dám vô lễ với cấp bộ hội đảng chấp hành hình phạt.

Lạc-Băng nói:

-Phải đáp lại từng câu chậm rãi, thật rõ ràng của ‘tứ đại giới điều’ của Châu tổ-sư mà ta vừa hỏi mi.

Dư-Ngư-Đồng không dám cãi lời, vừa sợ vừa hổ thẹn mà đáp:

-Kẻ quy thuận triều đình Mãn-Thanh đáng tội chết; kẻ ‘khi tôn diệt trưởng’ (#6) đáng tội chết...

Thấy Dư-Ngư-Đồng ấp úng, Lạc-Băng bèn hối thúc:

-Đã xong đâu! Còng hai tội đáng chết nữa, mau kể luôn ra!

Dư-Ngư-Đồng miễn cưỡng đáp:

-Kẻ ‘mãi hữu cầu vinh’ (#7) tội đáng chết...

Dư-Ngư-Đồng trả lời đến đây lại ngập ngừng. Lạc-Băng trợn mắt lên, quyết hỏi đến cùng:

-Còn một trọng tội đáng chết thứ tư nữa, mi quên rồi à? Nếu mi quên thật thì cây bảo đao của ta sẽ nhắc cho mi nhớ!

Mũi đao của Lạc-Băng nhá lên trước mắt Dư-Ngư-Đồng. Chàng biết không còn van xin hay năn nỉ gì được nữa nên thầm nghĩ đáp phứt qua cho xong chuyện, sau đó mặc cho Lạc-Băng muốn chém giết, mổ xẻ ra sao tùy ý. Dư-Ngư-Đồng thu hết can đảm nói:

-Kẻ tham tài... háo sắc... tội đáng giết...

Lạc-Băng nghe xong liền quắc mắt lên nhìn Dư-Ngư-Đồng. Như một thẩm phán quan, nàng vừa kể tội, cũng như vừa ‘tuyên án’ tội phạm:

-Mi đã phạm vào tội thứ nhì và tội thứ tư. Hai tội này cũng quá đủ để kết án tử hình mi rồi, có chết cũng không oan! Mi đường đường là một đương-gia trong thành phần lãnh đạo của Hồng Hoa Hội mà một lúc phạm đến hai điều trong ‘tứ giới’ điều của Tổ-Sư thì đem đầu mi mà xử bá đao (#8) vẫn còn là nhẹ! Mi thật đã làm gương xấu cho cấp dưới cùng bao nhiêu những thành viên khác. Mi làm ô nhục đến uy danh của Hồng Hoa Hội, một tổ chức cách mạng phản Thanh phục Minh được nhân dân khắp nơi kính phục và giới võ lâm đồng đạo nể vì. Mi còn làm mất thanh danh của Tổ-Sư vì luật của người đặt ra từ trước đến nay chưa ai dám phạm tới. Mi không xứng đáng là hội viên của Hồng Hoa Hội, và cũng không xứng đáng là người của Hán-tộc. Mi thật là một đứa phản bội! Tư cách của mi không khác gì bọn ‘chim mồi chó săn’ hại dân hại nước. Ta thiết nghĩ, lưỡi đao của ta có chặt phứt cái đầu của mi đi mà khỏi cần phải hỏi câu nào cũng là đáng lắm rồi. Chỉ vì ta muốn cho mi trước khi chết được trông thấy rõ cái tội của mình kẻo khi chết còn cho là oan ức để không nhắm mắt được.

Dư-Ngư-Đồng không ngờ Lạc-Băng bình nhật thương chàng như em ruột, thế mà lúc này lại nghiêm khắc xem chàng là hạng người ghê tởm còn hơn là kẻ thù thì cảm thấy chua xót vô cùng. Trong giây phút, Dư-Ngư-Đồng cảm thấy đời mình chẳng còn chút gì hứng thú nữa. Chàng chỉ mong được chết dưới lưỡi đao của Lạc-Băng càng sớm càng tốt.

Từ lúc gia đình bị tan nát vì đại họa, Dư-Ngư-Đồng trưởng thành trong niềm bơ vơ cô độc cho đến khi gia nhập Hồng Hoa Hội. Tại đây, chàng được Lạc-Băng hết lòng thương yêu và quý mến, xem như em ruột. Dư-Ngư-Đồng rất cảm kích, thấy tâm hồn mình như được sưởi ấm lại. Chàng tìm được nơi Lạc-Băng một hình ảnh người chị đáng kính, và một người bạn đáng quý mến. Chàng xem Lạc-Băng là nguồn sống duy nhất của mình. Dần dà theo ngày tháng, hình ảnh Lạc-Băng càng lúc càng in sâu vào trong tâm trí Dư-Ngư-Đồng. Lòng chàng bỗng tự nhiên thay đổi hẳn. Chàng nhận thấy tình thương kia có vẻ chưa đủ, vẫn thiếu xót một cái gì. Phải một cái gì kín đáo và sâu sắc, vượt xa hơn tình thương và tình bằng hữu...

Vào một ngày đẹp trời, Dư-Ngư-Đồng chợt phát giác ra một điều mà xưa nay chàng không bao giờ dám nghĩ tới. Chàng đã thầm yêu Lạc-Băng. Mối tình câm lặng một chiều của một kẻ yêu vụng yêu trộm và yêu trong tội lỗi đã làm cho Dư-Ngư-Đồng nhiều phen phải điên đảo. Chồng Lạc-Băng là Văn-Thái-Lai, ở vào địa vị trên Dư-Ngư-Đồng, là anh em của chàng trong Hồng Hoa Hội, là một người rất nghĩa khí, cũng thương chàng hết sức không kém gì Lạc-Băng.

Dư-Ngư-Đồng từ trước vốn không có tà ý nào cả. Đã bao lần chàng phải dùng lý trí kềm kẹp con tim, không dám để tình yêu kia tiếp tục nảy nở. Nhưng con người vẫn chỉ là con người. Khi gặp cơ hội tốt thì dường như mất hết cả lý trí, cho dù thời gian ấy rất ngắn ngủi.

Chuyện gì lỡ cũng đã lỡ. Giờ có hối hận cũng không kịp nữa. Dư-Ngư-Đồng chỉ còn trách thầm cho định mệnh xui khiến cho ra nông nỗi này mà thôi. Chàng biết bản thân mình bình sinh không phải đốn mạt như vậy. Hành động vừa qua cũng chỉ vì do lòng yêu thương chất ngất lâu ngày không còn chỗ chứa thêm được ở trong lòng nên mới bất đắc dĩ phải trào ra. Nhưng Dư-Ngư-Đồng biết rõ mình đã lầm lỗi. Và chàng sẵn sàng chấp nhận tất cả những hậu quả không tốt xảy ra cho mình, cho dù cảm thấy xót xa...

Thấy Dư-Ngư-Đồng trầm tư mặc tưởng, Lạc-Băng không hiểu có đoán được tâm trạng của chàng hay không, chỉ thấy nàng nhìn chằm chặp và nói thẳng vào mặt Dư-Ngư-Đồng rằng:

-Tội trạng của mi rành rẽ quá! Ta có thể giết mi trước rồi báo cáo lại với Thiếu-Đà-Chủ cùng các sư huynh-đệ sau cũng được! Chẳng qua vì công lao của mi đối với Hồng Hoa Hội cũng nhiều, lại gặp lúc đang cần người tài để chung sức lo việc lớn, cứu vớt dân Hán ra khỏi ách thống trị của người Mãn, nên chưa nỡ hạ thủ đó thôi! Ta sẽ đưa mi về diện kiến Thiếu-Đà-Chủ để tùy ý người định đoạt, giết hay tha cho mi. Mi phải đi với ta! Nếu dọc đường mà có ý định bỏ trốn thì đừng trách cây đao này của ta!

Dùng biện pháp này đối với Dư-Ngư-Đồng, Lạc-Băng đã suy xét rất là kỹ lưỡng. Luận về tội, Dư-Ngư-Đồng quả đáng bị tử hình, nhưng xét về công, những gì chàng đã đóng góp cho Hồng Hoa Hội thật không phải nhỏ. ‘Tội riêng công chung’, vì vậy Lạc-Băng nhận thấy rằng không gì bằng để cho Thiếu-Đà-Chủ và các anh em trong hội quyết định số mạng của Dư-Ngư-Đồng. Nếu giết Dư-Ngư-Đồng, Hồng Hoa Hội sẽ mất đi một thành-viên đắc lực cho đại cuộc. Vả lại, Dư-Ngư-Đồng cũng chưa xâm phạm đến tiết hạnh của nàng, bất quá chỉ mới ôm ấp nàng vào lòng và hôn lên má thôi. Do đó, Lạc-Băng sau khi bình tĩnh lại nhận thấy rằng tội của Dư-Ngư-Đồng theo sự nhận xét của nàng dù sao cũng chưa đến độ phải kết án tử hình. Ngoài ra, theo quy định của Hồng Hoa Hội thì một khi người nào vướng phải tội lỗi nhất thời do sự u mê sai khiến chứ không phải chủ tâm thì có thể cho người ấy một cơ hội để hối cải để sau này còn ‘đái công chuộc tội’. Nếu như người ấy vẫn ngoan cố không chịu hối cải thì lúc đó sẽ chiếu theo điều lệ của nội quy mà trừng phạt thẳng tay. Nói chung, Lạc-Băng dù sao vẫn thương Dư-Ngư-Đồng, ít nhiều cũng thông cảm cho nỗi lòng của chàng nên chủ ý muốn để cho chàng một cơ hội mà hối cải.

Cứ theo quy luật đó mà làm thì tội phạm sau khi được xử xong, nếu cấp trên thấy cần phải giết thì cứ việc ‘tiền trảm hậu tấu’ (#9), còn trường hợp thấy có thể giảm khinh được thì cứ giải về trụ sở chính. Tại đây có chấp pháp của hội. Khi đó khi khai hương đường, tức là mở một phiên họp đem nội vụ điều tra lại. Trước khi xử lại, người chấp pháp của Hồng Hoa Hội lấy dao đâm vào nhượng của phạm nhân ba cái thật mạnh gọi là ‘tam đao lục độn’ cốt để cho chảy máu ra thôi chứ không để thành tật nguyền. Đó là hình thức để chứng tỏ rằng: tội của phạm nhân đã được xử rồi. Bấy giờ người chấp pháp mới hướng về phía Tổng-Đà-Chủ mà xin ân xá cho tội nhân.

Ân xá là đặc quyền của Tổng-Đà-Chủ trong Hồng-Hoa-Hội. Nếu Tổng-Đà-Chủ nhận thấy tội của phạm nhân quá nặng thì lập tức sẽ bác lời xin ân xá của người chấp pháp (#10). Khi đó, tội nhân lập tức được giao cho Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh (#11) thi hành bản án...

Hồng Hoa Hội là một tổ chức cách mạng đại quy mô nhằm mục đích lãnh đạo dân Trung-Hoa hoàn thành sứ mạng ‘phản Thanh phục Minh’. Hội được Châu Lão-Tổ bí mật công bố toàn quốc ngay từ lúc quân Thanh bắt đầu xâm nhập, do đó mà mang một tính chất chính trị vững chắc, khác hẳn với các bang hội khác.

Trước Hồng Hoa Hội cũng có Đồ Long Hội, nhưng nếu đem so sánh hai đường lối chủ trương thì Đồ Long Hội kém xa Hồng Hoa Hội.

Có thể nói Đồ Long Hội là một tổ chức cứu quốc thuần túy về quân sự mà phái Võ-Đang là nồng cốt. Vì vậy, các phái trong võ lâm chỉ có cảm tình chứ không hưởng ứng tích cực tham gia, còn về phía nhân dân thì cũng chỉ lôi cuốn được một phần tương đối nào đó làm hậu thuẫn mà thôi. Do đó mà Đồ Long Hội thiếu cả bề rộng lẫn chiều sâu, không phổ biến được mạnh mẽ trong quần chúng.

Trái lại, Hồng Hoa Hội không những chỉ là một phong trào cứu quốc chống xâm lăng mà còn là một đảng cách mạng đi tiên phong giải phóng dân tộc và cải tổ xã hội. Giải phóng dân tộc là cứu cánh, cải tổ xã hội là mục đích. Hội có chiến lược là phổ biến chủ trương toàn quốc, toàn thể võ lâm, nên không mang một màu sắc riêng biệt của một môn phái nào cả. Vì vậy mà Hồng Hoa Hội được mọi giới khắp nơi từ thành thị cho đến thôn dã đều nhất nhất ủng hộ, và số hội viên gia nhập gồm đủ các thành phần trong xã hội, từ các môn phái võ lâm cho đến các đảng phái lớn nhỏ trên giang hồ, gồm cả bạch đạo lẫn hắc đạo.

Khi đạt được mục tiêu ấy, Hồng Hoa Hội liền bành trướng ngay hai lãnh vực chính trị và quân sự. Nhưng hội nặng về chính trị nhiều hơn. Quân sự chỉ dùng để hỗ trợ cho chính trị mà thôi. Quân sự dùng để tiêu diệt kẻ thù và đám phản quốc, còn chính trị dùng để nhắc nhở, cảnh giác nhiệm vụ và quyền lợi của nhân dân để mọi từng lớp trong xã hội thấu hiểu được, ngõ hầu tham gia cách mạng.

Hồng Hoa Hội tổ chức chặt chẽ và rất có quy củ của một chánh đảng nên từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, nhỏ đến lớn đều có kỷ luật và trật tự.

Mọi kế hoạch của Hồng Hoa Hội đều được thảo luận trước giữa các đương gia dưới quyền chủ tọa của Tổng-Đà-Chủ, và tất cả đều nghe theo quyền quyết định tối hậu của vị lãnh đạo này.

Bất cứ việc nào cũng vậy, trước tiên phải được thông suốt qua đại cương rồi mới đi vào chi tiết. Khi kế hoạch chưa đầy đủ, còn thiếu điều kiện thì mọi người chỉ được thi hành công tác khi nào cần thiết, hay khi có sự chỉ định của cấp trên chứ không được tự tiện mà chủ động. Vì vậy, một khi hội quyết định làm một việc gì thì phần chiến thắng bao giờ cũng cao hơn phần thất bại.

Hồng Hoa Hội không khi nào lộng hiểm nên không bị đánh úp bất ngờ. Hồng Hoa Hội không do một môn phái nào chỉ huy nên hội luôn giữ được tính chất đa dạng.

Vu tổng đà-chủ khi sinh tiền là một nhân vật nổi tiếng vào bậc nhất trên giang hồ chỉ vì ông ta không tùy thuộc vào môn phái nào cả. Bất cứ môn phái lớn nhỏ nào trên giang hồ đều được ông ta xem là môn phái của chính mình. Trước kia vì có hai đảng phái là Đồ Long Hội và Hồng Hoa Hội nên các chưởng môn nhân trên võ lâm bị chi phối phần nào. Nhưng sau khi Đồ Long Hội tan rã, Hồng Hoa Hội bèn chiêu mộ những thành viên ưu tú tích cực của Đồ Long Hội về thống nhất lãnh đạo. Rút kinh nghiệm, Vu tổng đà-chủ thấy Đồ Long Hội sở dĩ bị tan rã là vì chỉ chú trọng đến lực lượng võ trang. Đem một lực lượng ô hợp của một đảng phái lén lút ra đương đầu với quân đội chính quy hùng hậu của một nước kiêu dũng về binh lực như Mãn-Châu thì Đồ Long Hội bị tiêu diệt là lẽ đương nhiên, không thể nào tránh khỏi.

Muốn bảo vệ và nuôi dưỡng thực lực cho lớn mạnh lên để giữ thế quân bình được với địch, Vu tổng đà-chủ chỉ dùng võ lực để đánh cho tiêu hao bớt lực lượng quan quân của triều đình mà thôi, ngoài ra hoàn toàn tránh né những đụng chạm lớn có tính cách đại quy mô. Nhờ chủ trương khéo léo ấy mà vua Càn-Long đã dùng đủ cách để tiêu diệt Hồng Hoa Hội mà vẫn thất bại, trái lại còn bị thiệt hại rất nhiều.

Hồng Hoa Hội bành trướng và trưởng thành đến nỗi bị triều đình Mãn-Thanh đặt thành mối âu thứ nhất. Ảnh hưởng của Hồng Hoa Hội nhiều lúc lấn át cả thế lực nhà Thanh; thậm chí tại nhiều tỉnh, điển hình là An-Tây, Hồng Hoa Hội công khai hoạt động và trực tiếp dồn triều đình Mãn-Thanh vào thế ‘bị động’. Biết rõ mà không làm gì được vì Hồng Hoa Hội khéo đoàn kết toàn dân tỉnh này thành một khối chặt chẽ chung quanh mình. Nhất cử nhất động của triều đình đều nằm trong tai mắt của nhân dân cả. Mà nhân dân tại đây với Hồng Hoa Hội chỉ là một. Có lần triều đình Mãn-Thanh đã gửi đại binh đến chinh phạt, nhưng đại quân chưa đến nơi đã bị Hồng Hoa Hội chặn trước. Cuộc giao phong chưa khai diễn thì đại quân triều đình phần bị tiêu diệt phần đầu hàng vì lọt vào ổ phục kích của thực lực Hồng Hoa Hội.

Vua Càn-Long lo rằng nếu không sớm tiêu diệt được Hồng Hoa Hội ắt sẽ có ngày quân đội Mãn-Thanh bị đánh bạt ra khỏi Vạn-Lý-Trường-Thành vì lực lượng Hồng Hoa Hội đã hùng hậu mà mỗi ngày sẽ còn mạnh thêm nữa...

Sau khi hội kiến với vua Càn-Long ở thâm cung, chẳng may Vu tổng đà-chủ bị bệnh mà chết. Hồng Hoa Hội sau đó đề cử Trần-Gia-Cách, một thanh niên khôi ngô tuấn tú, còn trẻ tuổi lên thay chức lãnh đạo toàn bang.

Cuộc hội kiến lịch sử giữa Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội Vu-Vạn-Đình với Càn-Long Hoàng-Đế Mãn-Thanh có rất nhiều điều bí mật. Ngoài hai người ấy, chỉ còn duy nhất một người thứ ba được biết là Văn-Thái-Lai.

Không rõ điều bí mật ấy quan trọng như thế nào, chỉ biết rằng điều ấy có quan đến vận mạng của Hán-tộc với 5 tỷ dân cùng với tiền-đồ của Trung-Quốc lẫn ngai vàng của vua Càn-Long. Chỉ biết trong cuộc hội kiến ấy, vua Càn-Long thuận theo các điều kiện của Vu tổng đà-chủ đưa ra. Và nhờ thế mà tránh khỏi đổ máu, Hán-tộc tránh khỏi ách nô-lệ, Mãn-Thanh không bị đánh lọt ra ngoài Vạn-Lý-Trường-Thành, và ngai vàng của vua Càn-Long vẫn còn. Ngược lại, nếu vua Càn-Long mà bội ước thì Hồng Hoa Hội sẽ phát động cuộc tổng tấn công của cách mạng, ngai vàng của vua Càn-Long sẽ bị lung lay và nhà Mãn-Thanh có thể sẽ không còn tồn tại được nữa.

Sau khi Vu tổng đà-chủ mất, vua Càn-Long trở nên do dự, vô quyết đoán cho nên nhất định phải bắt cho kỳ được Văn-Thái-Lai. Về phía Hồng Hoa Hội, các đương gia hết sức nóng ruột bèn bàn nhau đưa Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách lên thay thế theo di chúc của cố Tổng-Đà-Chủ Vu-Vạn-Đình.

Trần-Gia-Cách vì chưa hiểu được bí mật của cuộc hội kiến nên một mực từ chối nhậm chức chỉ vì Văn-Thái-Lai chưa mang tin về kịp. Rồi cuộc ‘thiên lý tiếp long đầu’ bị bỏ dở bởi Văn-Thái-Lai bị nạn dọc đường không về được. Trần-Gia-Cách sau đó chịu nhận chức Tổng-Đà-Chủ để chỉ huy, lãnh đạo Hồng Hoa Hội cho danh chánh ngôn thuận cũng không ngoài mục đích tổng huy động lực lượng đi cứu Văn-Thái-Lai. Giờ đây lại thêm vụ Dư-Ngư-Đồng, vì không dằn được lòng đã suýt nữa làm ô uế đến Lạc-Băng, vợ của Văn-Thái-Lai.

Tóm lại, tất cả những mối quan hệ lớn nhỏ, trọng đại, không hẹn mà gặp đều có liên quan đến một người duy nhất: Văn-Thái-Lai. Dù muốn dù không, vô tình hay ngẫu nhiên, Văn-Thái-Lai đã trở thành một nhân vật hết sức quan trọng cho tất cả mọi người và mọi chuyện...

Theo lối tổ chức của Hồng Hoa Hội thì những lãnh tụ cao cấp trong hội được công cử lên không vì đẳng cấp trong xã hội hay xuất xứ của nhân vật ấy mà chỉ căn cứ vào những yếu tố như sau:

1/Đạo đức, tác phong, giá trị tinh thần trước nhất.

2/Thành tâm thành ý, ái quốc ưu dân. Sẵn sàng hy sinh cho cách mạng, cho dân tộc và tổ quốc.

3/Năng lực phục vụ nhân dân.

4/Thành tích đóng góp cho cách mạng từ trước.

5/Hội tịch. (#12)

6/Bản lãnh Văn Võ, trí lược, mưu lược.

7/Kinh nghiệm, cách xử thế ở đời, với người.

Là Tổng-Đà-Chủ của hội, dĩ nhiên phải hội đủ tất cả bẩy điều kiện này. Nếu chẳng may Tổng-Đà-Chủ mất thì hội sẽ tìm người nào hội đủ bẩy điều kiện trên nhiều nhất để kế vị. Và nếu chiếu theo những điều kiện trên đây thì ba người có đủ tư cách nhất để kế vị Vu-Vạn-Đình là Vô-Trần Đạo-Nhân, Triệu-Bán-Sơn và Văn-Thái-Lai, chứ chưa phải là Trần-Gia-Cách.

Mặc dầu là Thiếu-Đà-Chủ, nhân vật số hai của Hồng Hoa Hội là, dưỡng tử của Vu-Vạn-Đình, Trần-Gia-Cách nhận thấy mình còn trẻ tuổi, mà hầu hết những điều thiết yếu trên cũng còn kém Vô-Trần Đạo-Nhân nên chàng thật lòng muốn nhường chức Tổng-Đà-Chủ lại cho ông ta, căn cứ vào kỷ cương của hội.

Nếu vì một lý do nào mà Vô-Trần Đạ-Nhân khước từ thì còn có Triệu-Bán-Sơn, một bậc anh-hùng cái thế đã từng lập không biết bao nhiêu công trạng cho Đồ Long Hội, lúc Hồng Hoa Hội còn đang phôi thai.

Và nếu Triệu-Bán-Sơn cũng lại từ chối nốt thì ngôi vị sẽ dành lại cho Văn-Thái-Lai, là người có công lớn nhất trong việc hộ tống Vu tổng đà-chủ đi hội kiến với vua Càn-Long.

Nhưng các đương-gia lại nhất định quyết theo di chúc của Vu-Vạn-Đình cho bằng được, tôn Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách lên làm Tổng-Đà-Chủ và Vô-Trần Đạo-Nhân sẽ lãnh nhận chức Thiếu-Đà-Chủ. (#13)

Một điều lạ lùng là đã đành Vu-Vạn-Đình nhận Trần-Gia-Cách làm con nuôi, nhưng lại còn cất nhắc chàng lên địa vị Thiếu-Đà-Chủ mà hoàn toàn không căn cứ vào bẩy điều kiện chính yếu kia. Và khi làm di chúc, ông ta còn dành luôn cả chức Tổng-Đà-Chủ cho chàng ta nữa. Điều này dưới mắt một người thường thì chẳng khác gì chế độ độc tài ‘cha truyền con nối’, và Vu-Vạn-Đình quả là bất công, không muốn chức lãnh đạo lọt vào tay ‘người ngoài’. Thế nhưng không một đương-gia nào tỏ ý bất mãn vì di chúc lạ lùng đi ngược lại với cương kỷ của hội kia, mà lại còn hết sức tán thành, một lòng hăm hở tuân theo di chúc bằng mọi giá...

Trở lại chuyện Dư-Ngư-Đồng. Hãy nói qua về Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh, người mà Hồng Hoa Hội dùng đến một khi tội phạm không được Tổng-Đà-Chủ ân xá.

Trong Hồng-Hoa-Hội, Thạch-Song-Anh ngồi ở giao ỷ thứ 12, nắm chức vụ Chưởng-Quản Hình-Đường. Nói đến biệt danh Quỷ-Kiến-Sầu thì ai nghe đến cũng phải rợn tóc gáy mà nổi da gà. Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh nổi tiếng là ‘thiết diện vô tư’ (#14), chỉ biết thi hành nhiệm vụ mà không bao giờ nghĩ đến tình nghĩa hay lòng nhân đạo của bất cứ một ai. Một khi người nào bị tuyên án tử hình mà giao cho Quỷ-Kiến-Sầu là kể như tánh mạng kẻ ấy đã ‘xong’!

Thạch-Song-Anh chưa hề nới tay với tử tội bao giờ. Dẫu kẻ ấy có trốn ở nơi góc bể ven trời, hay rừng xanh núi thẳm xa xôi ngàn dặm đi chăng nữa, Quỷ-Kiến-Sầu cũng sai người đi bắt về cho kỳ được để xử tội mới hả dạ. Chưa có một tử tội nào thoát khỏi tay Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh!

Tổng cộng số hội viên của Hồng Hoa Hội trên toàn quốc có đến ngót trăm vạn thế mà một tay Thạch-Song-Anh nắm quyền chỉ huy Hình-Đường mà chưa để cho một tử tội nào trốn thoát thì đủ hiểu tài lãnh đạo của chàng ta tài tình, thủ đoạn tinh tế đến mức nào!

Trong Hồng Hoa Hội, bất luận là người nào, cho dù địa vị cao trọng đến đâu, quyền hành to lớn thế nào, một khi nghe đến tên Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh cũng đều phải nể sợ, nhiều lúc khiếp vía.

Theo quy luật của hội thì từ Tổng-Đà-Chủ trở xuống, nếu đã phạm tội thì cứ chiếu theo luật mà xử cho đúng với tinh thần: ‘công lý bất vị thân’.

Chỉ trừ khi có liên quan đến hai vị Tổng-Đà-Chủ và Thiếu-Đà-Chủ cùng với vị lãnh đạo tối cao như các đương-gia, Hình-Đường có đủ thẩm quyền lên án bất cứ vụ án nào. Trong trường hợp xử một nhân vật cao cấp như một đương-gia, Tổng-Đà-Chủ và Thiếu-Đà-Chủ cùng các vị đương gia kia phải mở Đại-Hội Hương-Đường do toàn thể các đại biểu nội ngoại hợp thành Thẩm-Sát-Viện mới có được đại đa số để quyết định. Đại đa số tuyệt đối là hai phần ba tổng số đại biểu đồng ý. Khi Thẩm-Sát-Viện đã tuyên án thì cho dù Tổng-Đà-Chủ cũng không có quyền ân xá được nữa, vì chính bản thân Tổng-Đà-Chủ vẫn có thể phạm tội mà bị xử trong trường hợp này.

Nhưng trường hợp đặc biệt này chưa từng xảy ra bao giờ trong Hồng Hoa Hội. Chưa có một lãnh tụ cao cấp nào của hội bị đem ra xử bao giờ. Có thể nói, trường hợp của Dư-Ngư-Đồng phạm luật đây là lần đầu tiên xảy ra cho một nhân vật cao cấp với chức vị đương gia.

Đối với người trong nội bộ thì vậy, còn đối với người ngoài hội thì Hình-Đường có quyền tuyệt đối, cứ việc tự tiện mà thi hành rồi báo cáo sau. Do đó quyền hạn của Quỷ-Kiến-Sầu rất là rộng lớn. Nhưng điều quan trọng vẫn là dùng quyền hành cho đúng chỗ, xử sao cho công bằng minh chánh chứ không phải chỉ vì nắm quyền sinh sát trong tay mà tha hồ muốn xử sao thì xử. Muốn bình đẳng, phải vô tư. Muốn minh chánh thì không được vị tình thân. Có như thế mới giữ được quy luật của hội được uy nghiêm, không giết lầm người vô tội mà tha kẻ có tội.

Còn đối với các quan lại triều đình và các ‘chim mồi chó săn’ thì Hình-Đường cứ giết thẳng tay mà chẳng cần theo quy luật nào cả. Trách nhiệm của Chưởng-Quản Hình-Đường lúc đó chỉ là trách nhiệm của bất cứ một cá nhân có tinh thần ái quốc mà thôi. Vì vậy, không những chỉ có hội viên của Hồng Hoa Hội mới biết sợ Thạch-Song-Anh, mà cho đến cả giới hắc đạo lẫn quan quân triều đình còn phải húy kỵ tên chàng khi nghe nhắc đến.

Một nhân vật như Dư-Ngư-Đồng mà khi tưởng tượng đến Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh mà cũng phải xám ngắt cả mặt mày. Thật vậy, nếu chẳng may Dư-Ngư-Đồng không được Thiếu-Đà-Chủ ân xá mà giao cho Thạch-Song-Anh thì không những chết chắc mà còn mang nhục xuống đến tận cửu tuyền.

Vì vậy, khi nghe những lời sắt đá của Lạc-Băng, nước mắt Dư-Ngư-Đồng bỗng tuôn ra xối xả. Chàng nói với Lạc-Băng như van lơn:

-Tứ tẩu! Em van xin chị! Xin chị ban cho một ân huệ mà giết chết em ngay tại nơi đây đi! Được chết dưới tay chị, trước mặt chị em không có chút nào ân hận cả. Nếu chị hiểu được và xét cho lòng em thì chị sẽ thương hại em thay vì căm thù. Bản chất em không phải là hạng người lợi dụng ‘nước đục thả câu’ vì sự đòi hỏi nhất thời của nhục dục đâu! Với một thiếu nữ bình thường em còn không có những ý nghĩ gian dâm khốn nạn kia nữa huống hồ là với chị, một người mà lúc nào em cũng kính yêu. Chẳng lẽ em là cái thứ vô lương tâm, không có lý trí hay sao? Tội em thật đáng chết, xin chị cứ giết em đi! Nhưng em van lạy chị đừng giải em về ra mắt Thiếu-Đà-Chủ và các đương gia khác cho đời em thêm đau khổ! Em không muốn bị Quỷ-Kiến-Sầu xử em như một tên phản bội lưu manh đâu!

Những lời khẩn khoản van cầu của Dư-Ngư-Đồng chẳng những không làm động tâm được Lạc-Băng mà trái lại, như dầu đổ thêm vào lửa. Lời nói của Dư-Ngư-Đồng có điều gì úp mở mà Lạc-Băng chưa hiểu rõ được hết nên lại càng thêm giận dữ.

Lạc-Băng hét lớn:

-Mi mà còn biết nhục nữa à! Loài chó trâu đã dám làm chuyện đê hèn thì còn kể chi đến nhục! Chẳng qua mi nghĩ đến tên Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh mà kinh hồn tán đởm, muốn chết ngay tức khắc đạng tránh những giờ phút hãi hùng còn kéo dài đó chứ gì!

Dư-Ngư-Đồng bỗng đổi giọng nói lớn với Lạc-Băng:

-Tứ tẩu phân giải như vậy còn có một điểm chưa thấu đáo. Chị có nhớ chăng gần 10 năm nay bắt đầu từ khi tôi gia nhập vào Hồng Hoa Hội lại may mắn gặp chị. Trong khoản thời gian đó cho tới đây tôi đã đau khổ vì chị biết chừng nào không? Phải, tôi đau khổ âm thầm, đau khổ trong định mệnh! Tôi phải đem tất cả những đau khổ đó giải bày cho chị rõ rồi sẽ chịu chết thì tâm hồn tôi sẽ được thảnh thơi hơn là phải lặng thinh mà đau khổ hoài mà không có được dịp để tỏ bày cùng chị. Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy dung nhan chị là hôm có cuộc họp ở Tổng Hương Đình tại Thái-Hồ. Ngay lần ấy, trái tim tôi đã bắt đầu rung động về sắc đẹp huyền bí lạ lùng của chị.

Lạc-Băng giật mình. Đây là lần đầu tiên nàng nghe Dư-Ngư-Đồng dám thổ lộ hết tình cảm trong lòng nói với nàng như vậy. Lạc-Băng phải suy nghĩ một hồi rồi mới lên tiếng được:

-Lúc đó ta đã có chồng được ba năm rồi! Chồng ta là Văn tứ ca, lẽ nào mi lại chưa biết? Sao mi lại đem lòng súc sinh mà yêu một cô gái đã có chồng? Mà cả cô gái này lẫn chồng cô ta đều là đồng chí (#15) của mi. Cả hai người vai vế ở trên mi trong Hồng-hoa-Hội kia mà!

Dư-Ngư-Đồng nói:

-Em biết! Em biết rõ những lời chị vừa mới nói. Em biết chị có chồng; biết chồng chị là Văn tứ ca; biết anh chị đều là đồng chí thượng cấp của em. Em có đủ cả lương tri để nhận thức được tất cả những điều đó. Chúng ta đều tình thân ý thích hơn cả ruột thịt nữa. Em yêu chị như vật là bất chánh. Yêu như vậy là phạm vào quy luật của Hồng Hoa Hội. Yêu như vậy là phạm vào một trong bốn tội đáng chết của Tổ-Sư đặt ra. Phải, cho dù là một người trong hội mà gian dâm với người ngoài còn có tội huống chi là yêu thầm yêu vụng một đồng chí đã có chồng, lại ở trên vai vế của mình. Và yêu như vậy em còn phạm thêm một điều thứ hai là khinh lờn người trên. Em đã biết, và biết rất rõ tội trạng về cái yêu của mình!

Lạc-Băng nghe Dư-Ngư-Đồng nói một hơi như vậy thì lúc đó trong lòng cũng nguôi giận đi phần nào. Nàng hỏi:

-Mi đã biết hết sao còn để con tim rung động trước dung nhan của ta?

Dư-Ngư-Đồng thở dài nói:

-Em biết, và đã cố tránh để đừng phạm lỗi. Biết rằng không thể yêu chị mà cũng không mong gì được chị yêu lại thì còn yêu làm gì! Yêu như thế chỉ có khổ mà thôi! Yêu mà không được gẩn gủi nhau bằng cả tâm hồn lẫn xác thịt! Yêu mà không thể nào kết nghĩa vợ chồng được! Yêu là cái tội!

Lạc-Băng nói:

-Mi đã thông suốt được như vậy sao lại còn để phạm tội? Phải chăng là mi cố ý? Mi chỉ biết nói thôi! Không biết mà lầm lỗi thì tội còn nhẹ, chứ đã biết mà vẫn lầm lỗi thì tội còn nặng gấp bội! Không ngăn ngừa được mà để phạm tội còn có thể giảm khinh; ngăn ngừa được mà để phạm tội, tội phải tăng trọng! Bồng bột nhất thời phạm tội, tội đã nặng; ôm ấp lâu ngày để tìm cơ hội phạm tội, tội nặng vô cùng! Mi đã minh bạch hết chưa? Cái tội của mi rõ như ban ngày ban mặt ấy! Chưa nghe mi nói, ta giận mà không oán; giờ nghe mi nói, ta đã giận lại còn oán thêm! Mi thật là đứa hèn nhát, cố tâm gây nên tội ác, thiếu chút nữa làm hư hại cả danh tiết của ta lẫn uy danh chồng ta!

Dư-Ngư-Đồng lại nói:

-Chị để cho em nói hết! Vì quyết tâm chế ngự con tim, em luôn luôn cố tránh gặp mặt chị thường xuyên. Tuy là cùng ở Hồng Hoa Hội với nhau, cùng phải bàn bạc công việc chung; cùng phải tiếp sức vì đại sự... Như thế hỏi làm sao tránh mặt nhau được! Nhưng em chỉ gặp chị lúc nào phải bắt buộc, không tránh được mà thôi. Chắc chị cũng nhận thức được điều này chứ? Chị còn nhớ mấy lần Hồng Hoa Hội họp đại hội em đều vắng mặt cả chứ?

Lạc-Băng suy nghĩ một chút rồi gật đầu. Dư-Ngư-Đồng nói tiếp:

-Để cố tránh gặp mặt chị trong những dịp ấy nên mỗi lần trước khi họp hội nghị, em xin với Tổng-Đà-Chủ phái em đi công tác. Thấy mặt chị, con tim em lại rạo rực. Em sợ đôi mắt say sưa của chị, em sợ cả gương mặt hiền từ của chị. Em sợ phải sa ngã nên mới cố tránh. Trong hội, với tất cả các anh em lớn nhỏ, em đều thương. Nhưng có mấy ai hiểu được lòng em là chưa có tình thương nào chiếm trọn lòng em như tình thương của chị. Tình thương ấy là tình yêu thai nghén lớn dần lên mãi. Em càng cố đè nén bao nhiêu thì nó càng vùng dậy! Em chỉ cố tìm thật nhiều công tác để được ra ngoài mà thong thả với mây nước biển trời để mong quên được chị đi, nhưng hỡi ôi, có giây phút nào mà em không tưởng nhớ đến chị đâu! Dù có xa mặt nhưng không xa được lòng, không xa được nhớ thương!

Dư-Ngư-Đồng ít nhiều cảm thấy thoải mái khi nói xong những tâm sự mà bấy lâu nay chàng chôn chặt trong đáy lòng, trong trái tim rạn nứt mà chàng chẳng biết thổ lộ cùng ai. Chàng một tay vén ống tay áo dài lượt bượt lên, tay kia rút ra một con dao sắc bén tự đâm vào cánh tay mình một cái, làm máu ra lai láng.

Dư-Ngư-Đồng sau đó thở dài nói:

-Tôi bình sinh hành hiệp không bao giờ si lụy vì sắc dục để mang tiếng là đứa hèn. Thế mà ngày nay bị bao nhiêu lời nguyền rủa, bao nhiêu tiếng thóa mạ sỉ nhục chồng chất lên đầu chỉ vì hành động gian dâm với một người mà oan nghiệt đã cột vào trong định mệnh! Nhát dao này tuy không lấy mạng sống của tôi nhưng nó sẽ ghi lại cho tôi một kỷ niệm nhục nhã đau buồn của một con người có hành động xấu xa bỉ ổi hơn cả loài cầm thú. Tôi ghi lại đây để mang xuống tuyền đài mà còn mãi dấu tích sống ở trần gian.

Lạc-Băng thấy máu ở cánh tay Dư-Ngư-Đồng tuôn ra như suối, dưới ánh trăng thấm đỏ cả một khoản cỏ non thì bất giác động lòng trắc ẩn. Nàng không còn cứng rắn nữa. Trong lòng đã mềm yếu đi rất nhiều. Nàng biết Dư-Ngư-Đồng không phải vì say mê sắc dục mà phạm tội, bất quá chỉ là vì tình yêu bồng bột đối với nàng mà lý trí không kềm hãm được con tim mà thôi. Theo như lời Dư-Ngư-Đồng nói, kể ra tình cảnh chàng thật là ngang trái và đáng thương.

Dư-Ngư-Đồng liếc thấy Lạc-Băng đang nhìn máu tuôn chảy ở cánh tay mình mà không nói lời gì thì đoán biết nàng cũng đã xúc động vì mình một phần nào rồi nên đánh bạo bước tới gần Lạc-Băng nắm cứng lấy bàn tay của nàng trong tay chàng, nghẹn ngào mà không thốt được nên lời.

Lạc-Băng cũng hết sức cảm động nên không nỡ rút bàn tay mềm mại của nàng ra. Cho dù trái tim của nàng ít nhiều có rung động vì mối tình si của Dư-Ngư-Đồng, nhưng Lạc-Băng quyết không để cho mình sa ngã. Nàng nói:

-Dư-Ngư-Đồng! Mi nên lấy lại trí khôn, đừng để lương tâm biến thành cầm thú!

Dư-Ngư-Đồng khẽ nói:

-Tứ tẩu! Em thường tự nghĩ tại sao trời già lại độc ác không cho em gặp chị lúc chưa chồng để ngày nay xảy ra cái cảnh ngang trái như thế này! Đã không cho em gặp chị lúc đó để nên duyên sắt cầm thì chớ, lại xui em phải gặp chị lúc đã có chồng rồi bắt em phải như ngây như dại để vẽ ra cái cảnh khổ như bây giờ! Có phải là trời già cay độc đa đoan không? Lấy dung mạo và tuổi tác giữa em và Văn tứ ca ra mà so thì có phải em với chị xứng đôi vừa lứa hơn không?

Lạc-Băng tuy đối với Dư-Ngư-Đồng có chỗ thương tình vì chàng vì say mê nàng mà mất hết cả lý trí mà phạm tội nên khi nghe chàng giải bày tâm sự thì cũng động mối từ tâm. Nhưng khi nghe Dư-Ngư-Đồng tự đem thân chàng ra mà so sánh với Văn-Thái-Lai chồng mình thì nàng không dằn được nữa, lửa giận lại phừng phừng lên. Lạc-Băng liền giật mạnh tay nàng ra, trỏ vào mặt Dư-Ngư-Đồng nói:

-Dư-Ngư-Đồng! Đến giờ phút này mà mi cũng chưa chịu trở về với lẽ phải nữa hay sao? Mi dám đem mi mà so sánh với chồng của ta, tức Tứ ca của mi à? Mi có tài đức gì mà dám so với Văn tứ ca? Anh ta là một người đại nhân đại nghĩa, một trang hảo hán, một nhân vật được giới giang hồ luôn trọng vọng. Nếu mi còn mạo phạm tới Văn tứ ca nữa thì chớ trách ta vô tình đó nghe!

Lạc-Băng hầm hầm nét mặt. Nàng nhận thấy còn nán lại nơi cô tịch này giờ phút nào là có hại cho danh tiết của nàng thêm phút ấy. Lạc-Băng hét lên như sấm vang:

-Ta cấm mi không được nói những chuyện ấy vớt ta nữa đó nghe!

Rồi quên cả gót chân còn đau, Lạc-Băng chạy lại chỗ Dư-Ngư-Đồng cột hai con ngựa cho ăn cỏ ban nãy, mở dây cương nhảy gọn lên yên một con. Dư-Ngư-Đồng liền chạy theo nắm cương ngựa lại. Lạc-Băng thấy vậy lại hét lớn:

-Mau tránh đường cho ngựa ta phi!

Dư-Ngư-Đồng hỏi:

-Tứ tẩu! Chị phi ngựa về hướng nào?

Lạc-Băng nói như vẫn còn đang giận hờn:

-Ta đi hướng nào bất tất còn cần đến mi nữa? Mi là một đứa em chẳng ra gì!

Dư-Ngư-Đồng nói:

-Tứ tẩu! Chị hãy hỉ xả cho em! Những phút lầm lỗi em đã ăn năn, lẽ nào chị không thương xót?

Lạc-Băng nói:

-Văn tứ ca bị bọn ‘chó săn chim mồi’ bắt đem nạp cho kẻ đại thù của dân tộc. Ta quyết đi tìm bọn ấy trả thù!

Dư-Ngư-Đồng tha thiết nói:

-Tứ tẩu! Chị cho em đi chung với! Lẽ nào chị bỏ em giữa đường bơ vơ như kẻ lạc loài tứ cố vô thân?

Không trực tiếp trả lời Dư-Ngư-Đồng, Lạc-Băng nói:

-Cây bảo đao của ta đâu? Mi mau đem lại cho ta!

Dư-Ngư-Đồng chạy đi lấy cây Uyên-Ương-Đao đem đến trước ngựa, hai tay đưa lên khỏi đầu trao cho Lạc-Băng.

Lạc-Băng đón lấy cây bảo đao, thấy Dư-Ngư-Đồng quỳ dưới đất đợi nàng tha thứ cho tội lỗi trót dại dột gây nên thì động lòng nghĩ ngợi. Lạc-Băng là một thiếu phụ rất nhân từ, bấy lâu nay đối với Dư-Ngư-Đồng vẫn thương như em ruột. Nghe chàng nói hết tâm sự rồi lại thấy chàng quỳ với vẻ thành tâm thì đã nguôi bớt cơn giận.

Suy nghĩ mộ lúc, Lạc-Băng nói:

-Dư-Ngư-Đồng! Việc lầm lỗi của mi đã qua! Nếu mi thành thật hối cải thì ta cũng bỏ qua cho, kể như không có. Từ nay về sau mi đừng tái phạm nữa. Hãy hết lòng hết dạ mà hy sinh cho tổ quốc, tận tâm tận lực phục vụ cho dân tộc để làm một người tốt giúp ích cho đời thì chuyện của mi đêm nay ta sẽ chẳng nói cho một người thứ ba nào biết. Như vậy là ta thương mi lắm rồi! Mi không bị giao cho Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh, không bị đưa ra trước chấp pháp Hương-Đình. Đó là ta đã giữ được cho mi toàn danh toàn nghĩa. Nếu được như vậy, ta và Văn tứ ca sẽ coi mi như em ruột và sẽ chọn cho mi một thiếu nữ tài sắc lưỡng toàn để xây dựng hạnh phúc cho đời mi.

Dư-Ngư-Đồng nghe xong cảm động đến chảy nước mắt. Lạc-Băng liền xuống ngựa lấy thuốc kim thương có sẵn trong mình rịt lên vết thương bị chảy máu của Dư-Ngư-Đồng rồi cả hai cùng lên ngựa.

Lạc-Băng thấy Dư-Ngư-Đồng đã ăn năn hối ngộ nên trong lòng cũng thấy được cởi mở, không còn uất hận hay buồn rầu nữa. Nàng nở một nụ cười khoan khoái. Những tưởng đã không còn đường nào giải quyết ngoại trừ giết chết con người vô sỉ bất lương ấy hoặc giải về cho Hình-Đường định đoạt. Nhưng Lạc-Băng lại nghĩ kỹ. Nếu làm như vậy chưa chắc nàng đã tránh khỏi ô uế cả thanh danh. Liệu người ta có tin được lời nàng nói chăng, hay cũng sẽ nghi ngờ giữa đem khuya hai người đồng tâm đồng lòng tính chuyện mờ ám rồi sau đó nàng lại tìm cách gỡ xấu cho mình mà đổ hết tội lên đầu Dư-Ngư-Đồng. Rồi Văn-Thái-lai sẽ buồn mà nghi ngờ mãi mãi ở trong lòng. Cho dù Dư-Ngư-Đồng có bị xử tử đi chăng nữa, Lạc-Băng vị tất đã chuộc lại được thanh danh tiết hạnh?

Giờ đây mọi chuyện đãm êm xuôi. Lạc-Băng đã cứu lại tánh mạng Dư-Ngư-Đồng cùng với thanh danh của chàng. Mà nàng cũng cứu cả tiết hạnh cho chính mình nữa.

Lạc-Băng lại đem được một con người từ tội lỗi trở về với lẽ phải, giải thoát được lương tâm của chàng ra khỏi chốn u mê. Ngoài ra Lạc-Băng còn giữ được một người tài, cũng như tránh được một thiệt hại lớn cho Hồng Hoa Hội nữa. Nếu đem Dư-Ngư-Đồng ra Hình-Đường thì dẫu sao, uy danh của Hồng Hoa Hội sẽ bị tổn thương trước bang chúng cùng nhân dân, và biết đâu kẻ thù lại không nhân cơ hội ấy mà xuyên tạc?

Nói tóm lại, làm hại Dư-Ngư-Đồng vừa không có lợi cho đại cuộc, mà cá nhân Lạc-Băng cũng đi mất một người em nuôi đáng thương hại.

Trên đường đi, gió mát hai bên thoảng vào người. Lạc-Băng cảm thấy hết sức thoải mái trong lòng.

Về phía Dư-Ngư-Đồng, sau khi được Lạc-Băng tha thứ cho nên cũng bớt đi được bao nỗi buồn đau tủi nhục.

Ngựa của Lạc-Băng phi đàng trước, Dư-Ngư-Đồng ghìm ngựa theo sát phía sau. Tuy rằng lời ngay lẽ phải của Lạc-Băng đã làm cho Dư-Ngư-Đồng hối lỗi; tấm lòng vị tha của Lạc-Băng đã làm cho chàng cảm động, nhưng hình ảnh kiều diễm của nàng trên yên con tuấn mã vẫn làm cho trái tim của Dư-Ngư-Đồng cảm thấy nôn nao!

Tình yêu của Dư-Ngư-Đồng đối với Lạc-Băng đã chất chứa bao nhiêu lâu dĩ nhiên không dễ gì trong một phút giây có thể dứt liền đi được. Chàng cũng hiểu yêu như thế là trái lý, là vô nghi nhưng nào phải vì chàng có tà tâm! Nó là định mệnh khắt khe do oan trái từ kiếp nào cột chặt khiến chàng không bứt rời ra được!...

Hai con ngựa ra khỏi cánh đồng hoang vu cô tịch được chừng vài dặm, Lạc-Băng nhìn lên không gian thanh bạch thấy rõ được chuôi sao Bắc-Đẩu rạng rỡ nơi phương trời...

Vừng đông đã lố dạng. Điều này giúp cho hai người định được phương hướng mà về An-Tây, nơi đám anh-hùng hào kiệt của Hồng Hoa Hội thường tập họp để bàn tính đại sự quốc gia.

Lạc-Băng lưỡng lự không biết phải làm sao. Nàng nghĩ nên về lại An-Tây để chờ xem tin tức. Nếu Thiếu-Đà-Chủ đã huy động toàn lực Hồng Hoa Hội đi cứu Văn-Thái-Lai rồi thì cũng không biết phải chạy theo ngã nào để đón họ mà nhập bọn. Nàng chỉ hy vọng là khi về An-Tây thì Văn-Thái-Lai đã được giải thoát cho vợ chồng được xum họp để thỏa lòng mong ước. Còn nếu chưa giải thoát được, nàng quyết sẽ đi tìm đến cùng, nếu hợp sức được với anh em Hồng Hoa Hội thì tốt, nhưng rủi nếu phải một mình đi tìm nàng cũng chẳng từ nan, cho dù là phải đến chốn nào.

Điều Lạc-Băng lo nhất là Văn-Thái-Lai bị Trương-Siêu-Trọng giải về Bắc-Kinh mà nạp cho vua Càn-Long trước khi Hồng Hoa Hội theo được dấu. Trường hợp nếu xảy ra như vậy thì nàng không mong gì còn được tái hội cùng Văn-Thái-Lai...

Trong khi đó, Dư-Ngư-Đồng cố xua đuổi những tư tưởng mông lung về tình yêu đang ám ảnh chàng. Nhưng lạ thay, chàng càng muốn xua đuổi bao nhiêu thì tình yêu lại càng mê hoặc tâm trí chàng bấy nhiêu.

Dư-Ngư-Đồng tự bảo thầm:

-“Tại sao ta không quên được mối tình tuyệt vọng của ta với Lạc-Băng? Tại sao hình ảnh Lạc-Băng cứ hiện ra mãi trong trí ta? Ta không phải ngu si ám chướng, cũng không phải mê muội vô lương, thế tại sao ta vẫn không bỏ được những ý nghĩ tà dâm để gần với chánh đạo? Phải chăng hóa công muốn thử thách ý chí của ta? Có lẽ con người phải gặp nghịch cảnh thì mới gan lì thêm được, cũng giống như muốn biết rõ là vàng thật hay không thì phải thử bằng lửa. Ta đường đường là một đấng nam tử đầu đội trời, chân đạp đất, nhất định phải chế ngự được dục vọng ngoại thân, và phải thắng được những tư tưởng bất chánh bên trong nội tâm! Ta yêu Lạc-Băng nghĩa là ta phải quý trọng thanh danh của ta! Lý tưởng của ta lúc này là làm cách nào cứu dân tộc ra khỏi ách ngoại xâm. Hiện nay ta còn chưa làm tròn nhiệm vụ Hồng Hoa Hội giao phó. Bổn phận trước mắt hiện giờ là làm cách nào giúp Lạc-Băng cứu được Văn-Thái-Lai.”

Nghĩ vậy, trong lòng của Dư-Ngư-Đồng bỗng phấn chấn lên, không còn điều gì nghi ngại nữa...

Đứng trước ngã rẽ, lòng Lạc-Băng chợt đau như cắt. Một đường đi về Bắc-Kinh, còn đường kia đi về An-Tây. Nhìn đường xa hai phía thăm thẳm, Lạc-Băng lại nhớ đến Văn-Thái-Lai, không biết chàng hiện tại sống chết ra sao. Con đường trước mắt chia làm hai ngã cũng như sợi dây tình ái của nàng bị cắt đứt làm hai vậy. Nếu biết rõ ràng chắc chắn chồng đang ở đâu, nàng lập tức tìm đường tới ngay. Nếu cứu không được chàng thì chẳng thà chết chung với chàng. Tử biệt vẫn hơn sanh ly. Nếu không được cùng nhau chung sống trên cõi trần gian thì đành cùng đi với nhau về ‘chín suối’!

Lạc-Băng rong ngựa sang ngã đường đi Bắc-Kinh đứng tần ngần suy nghĩ. Từ lúc Văn-Thái-Lai bị bắt cho đến giờ đã quá một đêm. Một đêm phi ngựa thì chậm lắm cũng phải được mấy trăm dặm rồi. Nếu cố sức mà rượt cũng không sao kịp được, sao cho bằng về An-Tây mà suy tính kế khác.

Đắn đo một hồi, Lạc-Băng nhìn đường đi Bắc-Kinh thêm một lần cuối rồi quay đầu ngựa trở lại qua hướng đi về An-Tây. Mắt ‘ngó Đông’ mà ngựa lại ‘đi Tây’, Lạc-Băng buồn dàu dàu như cành hoa ủ dột, mà chẳng nói một lời nào với Dư-Ngư-Đồng đang đứng yên chờ quyết định của nàng.

Lạc-Băng ra roi giục ngựa. Dư-Ngư-Đồng cũng phi ngựa chạy theo sau. Nhưng đi được một lúc, Lạc-Băng bỗng không còn nghe được tiếng ngựa của Dư-Ngư-Đồng ở đàng sau nữa bèn thắng ngựa lại, nhìn ra phía sau thì không thấy bóng dáng của Dư-Ngư-Đồng đâu nữa. Lạc-Băng lấy làm lạ tự hỏi:

-“Quái lạ! Mới đây mà Dư-Ngư-Đồng đã biến đi đâu vậy không biết? Có lẽ tại hắn bị rớt lại phía sau cũng nên! Hay là ngựa của hắn gặp bị vấn đề gì chăng mà cả người lẫn ngựa đều không thấy bóng hình?”

Lạc-Băng dừng hẳn ngựa lại. Nàng chủ ý chờ cho Dư-Ngư-Đồng bắt kịp. Nhưng chờ một lúc khá lâu mà chàng ta vẫn tăm hơi, chẳng thấy đâu.

-“Chắc Dư-Ngư-Đồng cảm thấy xấu hổ với ta một khi về Đại-Hương-Đường gặp mặt anh em trong hội. Hay là hắn sợ ta đem tội lỗi của hắn mách với Văn tứ ca nên sợ hãi mà lánh trước? Nhưng không có lý nào! Ta đã hứa giữ kín việc này, lẽ nào lại làm hắn bẽ mặt trước đám đông? Với Văn tứ ca thì ta lại càng không nên hở môi vì biết rõ một khi nộ khí chàng dâng lên thì quyết chẳng dung tha cho kẻ can danh phạm nghĩa được! Lúc đó thì chuyện còn gì là vui sướng? Ta muốn Dư-Ngư-Đồng thành người tốt, có cơ hội sửa đổi lại thói hư tật xấu nên mới dung tha cho hắn một phen. Vậy mà thừa lúc ta đang đau khổ lo nghĩ mà bỏ ta, trốn lánh thì chẳng hóa ra hắn dại dội lắm hay sao?”

Nhung rồi Lạc-Băng lại nghĩ:

-“Có lẽ không phải vì xấu hổ với ta hay hay sợ ta tố giác tội lỗi của hắn với Văn tứ ca mà Dư-Ngư-Đồng trốn đâu! Cứ căn cứ vào những lời chân tình thổ lộ của hắn thì ta nhận xét quả nhiên hắn si mê đắm đuối về mối tình đối với ta thật. Đường xa cảnh vắng, nếu cứ đi song song với ta có lẽ hắn sợ không tự chủ được lòng mà lại gây thêm tội lỗi nữa nên có lẽ vì vậy mà có ý định muốn tránh trước. Phải, hắn có nói rằng mỗi lần trông thấy mặt ta thì lửa dục trong lòng bốc lên cực độ, lý trí không thể nào ngăn nổi. Vì thế cho nên cứ mội lần hội mở cuộc họp hội nghị thì hắn lại xin Tổng-Đà-Chủ ra ngoài đi công tác để tránh gặp mặt ta. Mà cho dù đi công tác ở ngoài, hắn cũng đã thú nhận là không làm sao gạt bỏ được hình ảnh của ta ra ngoài trí óc được. Ở giữa cuộc hội nghị có đông anh em trong hội mà Dư-Ngư-Đồng còn sợ không ngăn nổi ngọn lửa tình bộc phát lên huống chi là cảnh hoang liêu cô tịch dọc đường, không có ai ngoài ta và hắn. Nếu như vậy thì tình cảnh của hắn cũng thật hết sức đáng thương. Ta càng nên quên đi lỗi lầm nhất thời của hắn mà rộng lòng tha thứ.”

Chờ thêm một lúc khá lâu nữa mà vẫn không thấy Dư-Ngư-Đồng đâu, Lạc-Băng tin chắc chàng ta đã ghé sang đường khác để đi theo nàng thay vì đi chung...

Bình minh tươi đẹp phủ lên cảnh vật thiên nhiên. Lạc-Băng đang lúc mỏi mệt tâm thần, tứ chi rã rời bèn xuống ngựa, tìm một gốc cây lớn bên đường cột dây cương lại cho ngựa ăn cỏ. Còn nàng thì ngồi dựa lưng vào gốc cây tạm nghỉ ngơi trong giây lát, thiếp đi lúc nào không hay...

Lúc nhỏ, Lạc-Băng theo thân phụ Lạc-Nguyên-Thông đi khắp nơim tứ xứ. Khi lớn lên lấy chồng lại theo Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai đi hành hiệp giang hồ. Cả hai người đối với nàng đều có nghĩa nặng tình sâu. Cả hai đều có bản lãnh tuyệt diệu, lúc nào cũng chăm lo khổ luyện tuyệt kỹ.

Lạc-Băng được phụ thân chân truyền bản lãnh. Khi vào đời, nàng trau giồi thêm võ công nhờ những trận giao đấu gay go với địch thủ, đồng thời cũng học hỏi thêm được rất nhiều kinh nghiệm chiến trường. Khi nhỏ, nhờ thân phụ giàu có nên Lạc-Băng chẳng phải động đến đầu ngón tay làm điều gì cực nhọc. Nhưng đến khi lấy chồng, nàng lại cùng trượng phu đi hành hiệp nay đây mai đó, bao phen nằm gai nếm mật, phơi sương gội tuyết là chuyện thường. Nhưng có lẽ chưa bao giờ Lạc-Băng khổ sở như lần này. Thật là hết sức điêu đứng, trăm đắng ngàn cay. Khổ về thể xác không đã đành, lại còn khổ cả về tinh thần nữa!

Hơn 10 năm hành hiệp giang hồ, cái uy danh ‘Thần Đao Lạc-Băng’ cũng tụ tạo được cho nàng một chỗ đứng trên võ lâm. Sau khi gia nhập Hồng Hoa Hội, Lạc-Băng rất được tin dùng, nhờ vào cả tư cách đứng đắn lẫn võ công trác tuyệt của nàng. Lạc-Băng là nữ-nhân duy nhất được công cử vào hàng đương-gia, trong hàng lãnh đạo tối cao của Hồng Hoa Hội. Nàng đã từng vào sinh ra tử nhiều lần, đóng góp rất nhiều về việc tạo thế lực cho đảng phái cách mạnh này.

Những tên Hán-gian cùng những tên giặc xâm lăng hễ nghe đến tên Lạc-Băng là phải khiếp vía rụng rời. Lưỡi đao của nàng là thiết diện vô tư, chẳng bao giờ vị nể kẻ ác. Đối với dân lành, Lạc-Băng là một nữ hiệp nhân ái hiền từ, dầu phải lăn mình vào dầu sôi lửa bỏng để cứu dân khỏi ách xâm lăng, nàng cũng không sờn lòng.

Vào Hồng Hoa Hội, Lạc-Băng đeo đuổi mục đích thiêng liêng là ‘cứu dân hộ quốc’, ngoài ra chẳng còn một dụng ý nào khác. Có thể nói, Hồng Hoa Hội là lẽ sống của nàng. Lấy Văn-Thái-Lai làm chồng, Lạc-Băng tìm được người ý hợp tâm đầu để cùng nhau hoạt động đắc lực thêm cho công cuộc ‘phản Thanh phục Minh’ chứ không phải chỉ vì muốn xây dựng hạnh phúc cá nhân không thôi. Vì vậy mà Lạc-Băng không phân biệt tuổi tác mà chỉ nhắm vài tài đức của chồng nàng mà thôi.

Lạc-Băng đặt hạnh phúc gia đình trong hạnh phúc chung của tổ quốc, đặt tình yêu của mình trong tình dân tộc. Văn-Thái-Lai cũng đồng quan điểm với Lạc-Băng trong những vấn đề này. Vì vậy cả hai người tự hào rằng đây là một mối lương duyên do trời xếp đặt, là anh hùng sánh đôi cùng nữ hiệp.

Chẳng những yêu, Lạc-Băng còn kính phục Văn-Thái-Lai nữa. Vì vậy lúc Dư-ngư-Đồng đem mình ra so sánh với Văn-Thái-Lai không dằn được lửa giận.

Dư-Ngư-Đồng trẻ hơn Văn-Thái-Lai, dung mạo chẳng khác gì Tống-Ngọc hay Phan-Anh, dĩ nhiên Văn-Thái-Lai không thể nào bì kịp. Chàng lại còn hào hoa, văn võ song toàn, giỏi cả Cầm, Kỳ, Thi, Họa nữa. Phàm với những thiếu nữ tuổi đang thanh xuân thì nếu có sự lựa chọn giữa hai người Dư-Ngư-Đồng và Văn-Thái-Lai ắt không khi nào có người phải nghĩ ngợi hay tính toán gì. Luận về võ công thì tuy hiện tại Dư-Ngư-Đồng chưa bằng được Văn-Thái-Lai, nhưng theo thời gian thì chuyện ấy có thể thay đổi rất nhanh chóng. Dư-Ngư-Đồng được chân truyền bởi cả hai phái chính tông Võ-Đang và Không-Động. Huống gì một khi luyện được hai tuyệt kỹ Nhu-Vân Kiếm-Thuật và Bạch-Vân Thương-Cẩu, rất có thể Dư-Ngư-Đồng sẽ đứng ra lập được một môn phái riêng biệt mà trong thiên hạ chưa chắc có được mấy người là đối thủ.

Có thể nói, Văn-Thái-Lai kém Dư-Ngư-Đồng về tất cả mọi phương diện trên. Nhưng nói về đạo đức, nghĩa khí cũng như lòng quả cảm sẵn sàng hy sinh vì chính nghĩa thì đừng nói cho Dư-Ngư-Đồng, khắp trong thiên hạ phỏng có mấy người được như Bôn-Lôi-Thủ!

Một người phụ nữ đã có chồng dĩ nhiên trong lòng không được mơ tưởng đến chàng trai nào khác. Mà một người chồng như Văn-Thái-Lai cũng chưa hề để cho Lạc-Băng phải ân hận một điều gì. Vì vậy, khi Dư-Ngư-Đồng nói chạm đến Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng liền lên tiếng nạt ngay chứ nhất định không để chàng trai trẻ tuổi tài hoa kia mạo phạm đến tên tuổi, con người của chồng nàng...

Sau khi ngủ được một giấc, khi thức dậy, Lạc-Băng thấy mặt trời đã lên cao thêm một sào. Những tia nắng tươi vui nhảy nhót trên ngọn cỏ, lá cây. Cảnh vật im lìm giữa không gian mênh mông, trên cánh đồng cuối chân mây vô tận. Con ngựa của Lạc-Băng vẫn còn nhai cỏ dưới bóng mát của nhánh cây. Bơ vơ trong cảnh hoang vu, Lạc-Băng tưởng nàng chẳng khác nào khách thương lạc loài giữa vùng sa mạc. Bao nhiêu ý nghĩ buồn thảm bỗng xâm chiếm trọn vẹn tâm hồn người thiếu phụ yêu kiều.

Hồi nào còn có Dư-Ngư-Đồng là bạn đồng hành, giờ đây chỉ còn một mình một ngựa, Lạc-Băng bỗng đảo mắt hướng về phương Bắc một lúc cơ hồ vọng tưởng đến Văn-Thái-Lai, rồi sau đó lại rong cương mà nhắm hướng Tây tiếp tục cuộc hành trình phi dặm trường. Đến một rừng dương liễu, Lạc-Băng ngắm những cành tha thướt phủ dài xuống như ủ rũ. Nàng bất giác cảm khái mà khẽ ngâm lên:

Mạch thương dương, mạch thương dương,

Thiếp ý quên tâm thùy đoạn trường?

Dương liễu xanh, dương liễu xanh,

Hỏi rằng ý thiếp, lòng anh, ai buồn?

Ngâm chán lại nghĩ. Nghĩ chán lại buồn. Lạc-Băng tựa như một cái xác không hồn ngồi trên lưng ngựa. Đường về An-Tây còn xa diệu vợi. Trải qua nhiều sương tuyết mưa gió, đi thêm một ngày nữa vì thì bệnh tình của Lạc-Băng trở nên trầm trọng hơn. Những vết thương trên người lại bắt đầu hành. Đã thế Lạc-Băng còn hay suy nghĩ vẩn vơ nên sức khỏe càng lúc càng yếu kém. Lẽ ra một khi trong người còn yếu phải nên nghỉ ngơi nhiều mới có thể lại sức được. Thế nhưng Lạc-Băng nào có được nghỉ ngơi cho đúng mức! Thương tích của nàng bắt nguồn từ An-Viễn khách-sạn, đến nay dồn dập lại mà không có đủ thuốc men để chữa trị.

Thấy không kham nổi, Lạc-Băng bèn cột ngựa dưới gốc cây dương liễu rồi nằm xuống dưới đất nghỉ dưỡng sức, đợi khỏe lại chút đỉnh sẽ tiếp tục lên đường ngay. Nghỉ được một lúc, mặc dù chưa khỏe lại chút nào, nhưng vì không muốn trì hoãn thêm cuộc hành trình nữa, Lạc-Băng quyết định phải gượng đau mà đi tiếp. Ngờ đâu, khi vừa chống tay ngồi dậy thì đầu nàng quay cuồng, đau nhức vô cùng, chẳng khác bị ai cầm búa bổ vào đầu mình. Lạc-Băng xay xẩm hết cả mặt mày, ngã nằm liệt trên đống lá khô dưới đất.

Ánh nắng rọi xuống ngay đỉnh đầu Lạc-Băng. Nàng định xê dịch thân hình qua một bên vào bóng cây cho đỡ nắng nhưng có cố gắng cách mấy cũng vẫn không di chuyển được tấm thân một ly nào! Lạc-Băng không còn cách nào hơn là nằm yên một chỗ cho đến khi mặt trời sắp sửa lặn.

Vừa khát nước lại vừa đói bụng, người lại mệt lả không còn chút khí lực nào, Lạc-Băng đành than thầm:

-“Sức yếu thế này thì làm sao mà có thể ngồi trên yên ngựa mà nắm cương được! Chắc thân xác đành phải gửi lại nơi đây thôi! Kiếp này còn mong gì gặp lại được Văn tứ ca! Đành hẹn kiếp lai sinh thôi!”

Trước mắt Lạc-Băng như có một cánh hoa rơi xuống. Mắt nàng cũng hoa lên. Nàng như mê man mà thiếp đi như đi sâu vào cõi mộng...

Hồi 6a

Hận cũ còn mang nghe khó trả

Ân sâu trót chịu biết sao đền

Lạc-Băng nằm hôn mê dưới đất chẳng biết là bao lâu. Nàng bỗng nghe văng vẳng bên tai như có tiếng người gọi:

-Úy trời! Ngủ gì mà ngủ mê man dữ vậy? Gần tối rồi! Thức dậy đi chứ!

Lạc-Băng tưởng mình đang nằm mộng. Đôi mắt nặng nề cố nhướng mày mở ra xem cho rõ có rằng có người thật không, là chỉ là ảo ảnh. Mí mắt Lạc-Băng từ từ hé lên. Trước mặt nàng là một thiếu nữ xinh đẹp, mắt sáng như sao. Cô thiếu nữ này trông sắc diện nghiêm trang, lông mày rậm đen, gương mặt sáng sủa, tuổi chừng 16. Thấy Lạc-Băng đã tỉnh thì nàng thiếu nữ nở một nụ cười tươi tắn như hoa, quay lưng ra sau như nói với một con a hoàn đi theo hầu:

-Mi lấy bình sữa của ta đem đến mời chị này uống đỡ. Ta trông khí sắc thấy dường như đói bụng quá nên đâm ra mê man chứ không phải là ngủ đâu.

Đứa a hoàn vâng lời lấy bình sữa tươi rót ra một chén bạc thật lớn mời Lạc-Băng uống. Đang đói, lại khát, Lạc-Băng chẳng chút khách sáo bưng chén sữa tươi uống một hơi cạn. Uống xong chén sữa, Lạc-Băng như tỉnh hẳn lại. Nàng cảm thấy tinh thần phơi phới lạ thường, có cảm tưởng như chén sữa ấy là một chén thuốc hồi sinh cứu người sắp chết sống lại. Nếu như lúc này có lên ngay yên ngựa, nàng cũng đủ sức mà vượt qua được muôn dặm lộ trình.

Lạc-Băng gắng gượng ngồi dậy. Chung quanh chẳng phải là rừng mà là một nơi hoàn toàn xa lạ. Lạc-Băng thấy mình đang nằm trên một chiếc giường lót nệm, có gối, có chăn hẳn hòi giữa một căn phòng trang hoàng rất sang trọng, trang nhã. Nàng nghĩ bụng đây là nhà của một phú hộ giàu có, và thiếu nữ nọ là con của ông ta.

Lạc-Băng nhớ lại tình hình lúc hôn mê bất tỉnh. Nàng đoán rằng chắc thiếu nữ kia tình cờ đi qua trông thấy tình trạng nàng như vậy nên đem về đây cứu mạng. Nghĩ đến đây, Lạc-Băng vô cùng cảm kích vì nếu không được nàng thiếu nữ ra tay cứu nạn thì giờ này chắc nàng đã sang bên kia thế giới rồi.

Lạc-Băng chống hai tay lên thành giường mà ngồi hẳn dậy. Thiếu nữ vội vã bước tới vịn vào hai vai nàng giữ lại nói:

-Tỷ tỷ vẫn còn yếu lắm, cứ nằm nghỉ thêm một lát đi! Đừng vội dậy làm chi cho mất sức!

Với giọng biết ơn, Lạc-Băng nói:

-Đa tạ cô nương có lòng nhân đạo hảo tâm. Nhờ ơn cô cứu mạng đem về đây nên bây giờ tôi đã bình phục lại rồi. Xin cho được biết rõ danh tánh để ghi nhớ mãi trong lòng.

Thiếu nữ cười duyên dáng, từ tốn nói:

-Có gì đâu mà chị phải bận tâm đến ân với nghĩa! Tiểu muội họ Châu...

Bỗng nhiên thiếu nữ ngừng lại không nói tiếp tên mình. Nàng lấy tay đỡ Lạc-Băng nằm lại xuống giường rồi nói tiếp:

-Em trông chị còn mệt lắm. Thôi, hãy nằm xuống mà ngủ thêm một giấc nữa đi! Chừng nào chị hết mệt, tinh thần tỉnh táo lại thì mình nói chuyện sau cũng chưa muộn.

Không để cho Lạc-Băng tỏ thái độ, thiếu nữ họ Châu vừa dứt lời đã từ từ ra khỏi phòng. Nàng đi hết sức nhẹ nhàng như sợ làm kinh động đến Lạc-Băng khiến nàng không ngủ được.

Lạc-Băng lại nằm xuống giường. Quả như lời thiếu nữ họ Châu nói, nàng chưa hết mệt hẳn. Vì vậy nằm im chốc lát mà nàng đã ngủ vùi một giấc mê man. Ngủ lại một giấc ngon lành không biết là bao lâu, đến lúc thức dậy, Lạc-Băng bỗng chóa mắt lên vì những ngọn đèn sáng choang trong phòng nàng đang nằm. Lạc-Băng nghe văng vẳng phía ngoài cửa phòng có tiếng một thiếu nữ nói rõ ràng:

-Thật bọn chúng khinh lão gia ta quá! Chưa điều tra cho rõ căn nguyên, chúng đã kéo nhau tới đốt phá Thiết-Đảm-Trang (#1)! Lão gia ta, một vị anh hùng cái thế, chuyên lấy nhân nghĩa ra đối xử với đời, lấy lượng khoan dung kết nạp nhân sĩ. Các võ phái vùng Tây-Bắc này chưa có ai bất bình, mà đối với những cao thủ võ lâm cũng chưa ai mà không kính phục. Thế mà ngày nay bọn chúng mục hạ vô nhân, thóa mạ lão gia ta lắm điều lại đòi thiêu hủy cả một vùng Thiết-Đảm-Trang không chừa lại một chỗ cho gia đình ta dung thân! Lão gia ta còn nhẫn nhịn được chứ còn ta thì nhất định không nghe, quyết cùng bọn chúng một phen sống mái mới được! Ta vì thiên hạ hành hiệp để dẹp tan các nỗi bất bình mà chính nỗi bất bình của gia đình mình lại không làm gì được thì còn mặt mũi nào để nhìn ai nữa!

Giọng nói oanh vàng của thiếu nữ ấy trong trẻo như tiếng chuông vang, mà khẩu khí lại vô cùng khảng khái khiến cho Lạc-Băng tuy chưa thấy mặt nhưng đã đem lòng nể phục.

Lạc-Băng nằm trên giường nghe ba tiếng ‘Thiết-Đảm-Trang’ vừa thốt ra là đã để ý ngay rồi sau đó lại nghe rõ bao nhiêu chuyện đã xảy ra cho nơi ấy do chính miệng thiếu nữ kia kể lại thì trong lòng nàng không khỏi kinh ngạc. Nàng không hiểu bọn người nào đã tới đốt phá Thiết-Đảm-Trang để cho thiếu nữ này phải lồng gan lộn mặt lên đến như thế!

Phải chăng đám người ấy là anh em Hồng Hoa Hội của nàng? Cứ căn cứ vào lời thiếu nữ nói thì hẳn nàng chính là con gái của Châu-Trọng-Anh chứ không còn chạy vào đâu được nữa.

Đối với Thiết-Đảm-Trang, Lạc-Băng có một mối hận phải trả. Chỉ vì sự phản bội của người nhà Châu-Trọng-Anh nên Văn-Thái-Lai, chồng nàng mới bị Trương-Siêu-Trọng bắt được mà giải đi. Nhưng nghĩ đến cái ơn người con gái họ Châu đã cứu sống nàng đem về đây thuốc thanh săn sóc, và hiện tại nàng vẫn còn đang ‘ăn gửi nằm nhờ’ thì Lạc-Băng không khỏi cảm động. Tóm lại, chồng nàng bị bắt là bởi lỗi lầm của Thiết-Đảm-Trang, nhưng còn thân nàng được cứu sống thì không thể phủ nhận công ơn của Thiết-Đảm-Trang được!

Oán không dám trả là hạng thất phu. Nhưng ơn mà không đền cũng chẳng phải là bậc hiền nhân. Lạc-Băng nghĩ ngợi một hồi, thắc mắc không biết rồi đây nàng sẽ phải xử trí ra sao với Thiết-Đảm-Trang.

Nghe thiếu nữ họ Châu trách bọn người đến đốt phá sơn trang mà không chịu tìm hiểu rõ lý do phải trái, Lạc-Băng nhận thấy những lời lẽ kia cực kỳ chính trực của một người biết lẽ phải. Nàng thầm nghĩ không biết có phải trong Thiết-Đảm-Trang có gian tế hay không. Hoặc giả có điều gì hết sức bí ẩn trong việc này mà chưa ai tìm rõ được nguyên nhân...

Đang phân vân suy tính thì cánh cửa phòng mở toang ra, thiếu nữ họ Châu và đứa nữ tỳ xăm xăm đi vào. Thiếu nữ họ Châu đến trước giường của Lạc-Băng vén màn nhìn vào. Lạc-Băng muốn dò biết ý định của cô ta nên giả vờ nhắm hai mí mắt lại, ngáy đều đều.

Thiếu nữ họ Châu lại quay trở ra, đến trước cái giá giắt binh khí rút ra một cây đao. Lạc-Băng mở mắt nhìn, thấy cây Uyên-Ương Đao của mình vẫn còn để y nguyên trên mặt bàn nên trong lòng đã chuẩn bị đề phòng mọi bất trắc có thể xảy ra. Nàng thầm nghĩ nếu thiếu nữ họ Châu trở mặt dùng đao thình lình chém mình thì nàng sẽ chụp lấy cái gối trên giường mà đỡ rồi sẽ nhảy xuống giường chụp lẹ thanh Uyên-Ương Đao của mình mà chém vài nhát rồi sẽ chạy ra cửa mà tẩu thoát.

Nhưng trái với sự lo nghĩ của Lạc-Băng, thiếu nữ họ Châu chỉ nhìn vào thanh đao với đôi mắt giận dữ mà hoàn toàn không để ý gì đến nàng hay có hành động nào khả nghi. Nàng nghe giọng đứa thị tỳ nói:

-Tiểu thư à! Đừng nên gây thêm chuyện nữa mà làm gì! Lão gia chúng ta há không đủ tài sức và mưu trí để đương đầu với bọn Hồng Hoa Hội sao? Thế mà lão gia bỏ qua tất cả, tất nhiên vì người không muốn gây thù chuốc oán thêm nữa! Ý lão gia như vậy, chẳng lẽ tiểu thư lại muốn trái trái ngược hay sao? Lão gia đang buồn nhiều, bổn phận của tiểu thư là làm sao cho lão gia vui lên chứ đừng làm cho lão gia phải mệt trí thêm nữa! Nô tỳ tin là vụ này lão gia đã có chủ trương rồi, tiểu thư nên kiên nhẫn mà chờ xem, chớ có vọng động!

Thấy thiếu nữ họ Châu thở dài, đứng im không nói năng gì. Không biết thế nào, nàng ta tra bỏ lại thanh đao vào chiếc giá. Lạc-Băng thấy vậy nghĩ thầm:

-“Chắc thiếu nữ họ Châu này là ái-nữ của Châu-Trọng-Anh đây.”

Lạc-Băng quả nhiên đoán không sai. Thiếu nữ này là Châu-Ỷ, con gái của Châu-Trọng-Anh, trang-chủ Thiết-Đảm-Trang. Tuy là phận nữ nhi nhưng phong cách của Châu-Ý phong cách của nàng ta giống hết cha ở lòng hào hiệp và chí khí ngang tàng.

Bình sinh, Châu-Ỷ hay lo bao biện (#2) chuyện thiên hạ. Bất cứ việc nào thấy bất bình là nhất định nàng phải xen vào cho bằng được trước đã, rồi để mặc cho ‘hạ hồi phân giải’. Vì vậy, giới võ lâm giang-hồ vùng Tây-Bắc đặt cho Châu-Ỷ biệt danh là ‘Tiểu Quy Lục’. Hay can dự vào việc của kẻ khác nên thường gây ra chuyện phiền rắc rối cho cha là Châu-Trọng-Anh...

Hôm ấy, vì thấy việc bất bình, Châu-Ỷ đánh một kẻ uy quyền đến trọng thương mà bênh vực cho một kẻ yếu thế nên bị Châu-Trọng-Anh trách mắng không biết nên sợ hãi mà trốn ra ngoài. Nàng định chờ cha nguôi bớt cơn giận rồi sẽ về ‘lạy lục’ chịu tội sau.

Lúc Châu-Ỷ cùng đứa nữ tỳ trên đường trở về Thiết-Đảm-Trang thì tình cờ gặp Lạc-Băng nằm hôn mê bất tỉnh dưới đất, mắt thì nhắm nghiền lại, còn hơi thở thì thoi thóp. Châu-Ỷ đến gần bắt mạch xem thử bỗng kinh hãi, nhận thấy tánh mạng Lạc-Băng mười phần nguy ngập nên liền sai con nữ tỳ cõng nàng về nhà mà cấp cứu...

Nghe lời giải bày của đứa nữ tỳ, Châu-Ỷ như giác ngộ vì nhận thấy thật là vô cùng chí lý. Một phút nóng giận có thể làm hỏng chuyện của thân phụ nàng như không. Châu-Ý nói thầm trong bụng rằng:

-Thân phụ ta không phải là hạng người để cho ai uy hiếp được. Đời sống của thân phụ ta không phải chỉ riêng lo cho hạnh phúc gia đình. Mặc dầu không gia nhập Hồng Hoa Hội, cha ta lúc nào cũng có cảm tình với đảng phái cách mạng của những người yêu nước luôn vận động phong trào ‘phản Thanh phục Minh’. Tuy không trực tiếp chống đối triều đình Mãn-Thanh, người rất tỏ ra bất bình những kẻ ngoại bang đang dùng vũ lực dày xéo quê hương, bắt dân ta làm nô lệ. Thân phụ ta cũng rất chán ghét những vụ ‘huyết nhục tương tàn’ của người Hán chuyên đi hiếp đáp, sát hại lẫn nhau. Sự nghiệp của thân phụ ta không phải chỉ trong phạm vi gia đình Thiết-Đảm-Trang mà còn là sự nghiệp của một anh hùng ‘vị quốc vong gia’ (#3). Đành rằng Hồng Hoa Hội đốt phá Thiết Đảm Trang, nhục mạ một chí sĩ như phụ thân ta mà không chịu điều tra kỹ lưỡng hay biết phân biệt thế nào là đại nghĩa với tiểu tiết; thế nhưng thân phụ ta vẫn nhịn chúng vì người biết nếu gây sự với chúng thì chỉ có lợi cho quân xâm lược mà thôi, như vậy thì có khác nào ‘nối giáo cho giặc’! Thân phụ ta đã vì đại nghĩa mà không kết oán với Hồng Hoa Hội mà ta trái lại muốn cùng chúng gây hấn thì có khác nào phá hủy đi sự nghiệp lớn lao của thân phụ ta không? Lời con liễu hoàn nhắc nhở ta thật hay và đúng lúc!”

Suy nghĩ một hồi, Châu-Ỷ bỗng giật mình một cái, quay qua nói với đứa nữ tỳ:

-Hay lắm! Lời em thật là hữu tình hữu lý! Suýt nữa là ta nóng giận làm càn thì say này có hối mấy cũng không xong. Thêm vào đó, ta không làm vui lòng được thân phụ lại khiến cho người càng buồn thêm. Tai biến gần đây của gia đình làm thân phụ buồn rầu, gầy đi rất nhiều. Em nói đúng! Chuyện ấy ta nên để cho thân phụ quyết định mà chẳng nên nhúng tay vào làm gì!

Đứa liễu hoàn thấy lời khuyên can của mình được cô chủ của mình cho là phải mà nghe theo thì vui mừng hớn hở nói:

-Tiểu thư dằn được tính nóng để khỏi nhọc tâm đến lão gia thì thật là quý hóa. Lâu nay tính tiểu thư nóng như lửa đốt, nhưng không ngờ hôm nay lại dằn được.

Châu-Ỷ nhoẻm miệng cười đáp lại:

-Việc nào cần phải nóng thì cho dù ai bảo thế nào ta cũng không nghe. Nhưng việc nào không nên nóng mà lại nóng thì thật là kẻ bất trí, vô mưu. Hữu dũng mà vô mưu là ngu dại. Người trí dũng song toàn phải biết thời cơ.

Có lẽ Châu-Ỷ giống cha ở chỗ ấy. Nàng rất trọng nghĩa khí, rất khảng khái, biết cân nhắc khinh, trọng. Đành rằng là Châu-Ỷ có nóng tính. Nhưng không vì thế mà nàng thiếu xét đoán, coi thường lẽ phải.

Nói dứt lời, Châu-Ỷ bước ra khỏi phòng đi thẳng một mạch, không quay đầu nhìn lại. Đứa nữ tỳ cũng trở gót đi theo.

Lạc-Băng được chứng kiến những hành động của Châu-Ỷ, lại được nghe tận tai câu chuyện giữa nàng ta cùng với con liễu hoàn. Nàng nhận xét thấy con người của Châu-Ỷ thật là quang-minh chính đại. Nhưng câu chuyện nghe được giữa hai người làm cho Lạc-Băng không khỏi bồn chồn suy nghĩ.

Căn cứ theo câu chuyện vừa nghe được thì chính Hồng Hoa Hội của nàng là thủ phạm đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Nếu quả thật Châu-Trọng-Anh xử sự hòa nhã như thế thì ông ta quả là một người hiếm có trên đời. Chẳng nói đâu cho xa, những cử chỉ cùng lời nói của Lạc-Băng nhục mạ Châu-Trọng-Anh hôm nọ còn nặng hơn cả giết chết ông ta nữa!

Lạc-Băng cảm thấy có điều gì hết sức lạ lùng mà nàng chưa nghĩ ra được. Có lẽ nào mà Châu-Trọng-Anh lại khiếp nhược đến thế được? Dẫu sao thì ông ta cũng là ‘minh chủ võ lâm’ của cả vùng Tây-Bắc. Lý do nào lại khiến cho ông ta chịu nhẫn nhục đến như vậy?

Nếu quả thật là người của Thiết-Đảm-Trang phản bội cấu kết với triều đình mà chỉ chỗ ẩn nấp của Văn-Thái-Lai cho Trương-Siêu-Trọng thì Châu-Trọng-Anh phải chịu trách nhiệm mà nhận lấy hậu quả, cho dù có phải đích thân ông ta hành động hay chủ mưu hay không! Và đương nhiên Lạc-Băng sẽ không bao giờ hối hận về cử chỉ của nàng đối với Châu-Trọng-Anh cả. Luôn cả việc Hồng Hoa Hội của nàng đốt phá Thiết-Đảm-Trang cũng chẳng có điều gì đáng nói. Quy luật của Hồng Hoa Hộng xưa nay vẫn thế. Ân đền ân. Oán trả oán.

Tuy nhiên, điều mà Lạc-Băng sợ nhất là ngộ nhỡ không phải người của Thiết-Đảm-Trang chỉ điểm mà chính Trương-Siêu-Trọng tìm thấy được chỗ núp của Văn-Thái-Lai hôm ấy thì sao đây? Biết đâu người của Thiết-Đảm-Trang thật tình hết lòng bảo vệ nhưng vẫn phải chịu thua non một tay Trương-Siêu-Trọng? Như thế chẳng hóa ra thụ ân lớn đã không đền mà còn đi trả thù một cách tàn nhẫn! Và như thế thì uy tín Hồng Hoa Hội liệu còn có giá trị nữa hay không?

Điều lo ngại này chính Văn-Thái-Lai đã đề cập đến hôm đó lúc bị lộ tẩy. Có lẽ Văn-Thái-Lai cũng đoán được sẽ có ngày này. Phải chăng chàng đã biết trước anh em Hồng Hoa Hội sẽ không chịu điều tra kỹ lưỡng trước khi hành động?

Nhưng rồi Lạc-Băng lại không tin rằng Hồng Hoa Hội là thủ phạm việc đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Nàng tin Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách là người thông minh tột đỉnh, xét đoán việc như thần, quyết không thể sai lạc. Ngoài Thiếu-Đà-Chủ ra, cũng còn các đương-gia khác nữa. Họ đâu phải là những người tầm thường chỉ biết nghe mà không biết suy đoán! Huống chi Châu-Trọng-Anh là một nhân vật có danh vọng và uy tín cao như vậy. Trước khi ra tay ‘trừng phạt’ một nhân vật như thế ắt Hồng Hoa Hội phải nắm được bằng chứng xác thực hẳn hòi trong tay chứ không thể hành động hồ đồ thiếu suy nghĩ được.

Lại thêm một điều khiến cho Lạc-Băng vô cùng thắc mắc nữa là Lục-Phỉ-Thanh, một vị tiền bối có bản lãnh trác tuyệt, kinh nghiệm có thừa mà lại không hiểu rõ được con người Châu-Trọng-Anh mà lại giới thiệu cho Văn-Thái-Lai để bị lầm vào mưu gian? Nếu Lục-Phỉ-Thanh không biết rõ Châu-Trọng-Anh tất nhiên đã không giới thiệu cho Văn-Thái-Lai đến đó để nương náu làm gì, vì ông ta biết sự sống chết của Văn-Thái-Lai có quan hệ không nhỏ đến sự tồn vong của Hán-tộc. Có lẽ nào Lục-Phỉ-Thanh lại khờ khạo đến độ ‘đưa mồi vào miệng hồ lan’ (#4)? Và nếu Hồng Hoa Hội hành động thiếu suy nghĩ thì không lẽ Lục-Phỉ-Thanh không biết dùng lẽ phải để canh thiệp, can ngăn?

Lục-Phỉ-Thanh nhận lãnh trách nhiệm chịu thay thế Dư-Ngư-Đồng về gấp An-Tây báo cáo tình hình khẩn cấp để Hồng Hoa Hội tìm phương cách giải cứu Văn-Thái-Lai. Lẽ đương nhiên Lục-Phỉ-Thanh đã về đến nơi và sau đó đi chung với Hồng Hoa Hội, tức là ông ta luôn luôn ở bên cạnh Hồng Hoa Hội, và phải có mặt trong vụ này. Nếu chuyện là thế sao Lục-Phỉ-Thanh không một lời khuyên ngăn hay cản trở?

Nằm mãi trên giường nghĩ tới nghĩ lui mà Lạc-Băng vẫn không sao tìm ra được chân lý trong vụ đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Ngoài ra bao nhiêu câu hỏi đặt ra cũng không có cách nào mà giải đáp!

Đã qua hai ngày kể từ lúc Lạc-Băng được Châu-Ỷ cứu đem về Thiết-Đảm-Trang. Nàng được tận tình săn sóc bằng thuốc men, dùng toàn thức ăn của ngon vật lạ để bổ dưỡng, lại được ngủ ngon, cũng như nghỉ ngơi đúng mức.

Hôm nay, Lạc-Băng không còn cảm thấy đau nhức chút nào nữa. Các vết thương như đã lành cả rồi. Tinh thần thì khoan khoái nhẹ nhàng, nhiệt độ trong người đã trở lại mức bình thường. Lạc-Băng nghe mình như đã được hoàn toàn bình phục.

Vì quen luyện tập võ công nên thân thể Lạc-Băng quả khác với người thường. Một khi hết bệnh là thân thể lại trở nên mạnh khỏe lại như cũ. Nàng liền ngồi dậy thu thập y phục xếp lại cẩn thận rồi khăn gói mang lên vai. Đang đói bụng, lại thấy trên bàn có sẵn một cái đĩa lớn với những chiếc bánh gói rất thơm ngon, Lạc-Băng liền bóc mấy cái dùng đỡ dạ. Ăn no xong, Lạc-Băng lấy nốt những cái bánh còn lại bỏ trong bao đem đi đường dùng làm lương thực. Sau đó, nàng lấy cặp Uyên-Ương Đao trên bàn giắt vào mình nhẹ bước ra khỏi phòng mà đi.

Cứ nghĩ đến Châu-Ỷ là Lạc-Băng lại cảm kích cái ơn hồi sinh kia, đã cứu thoát nàng trong lúc nguy nan cực kỳ khốn đốn chẳng khác nào như một cơn ác mộng.

Mối thù đối với họ Châu tại Thiết-Đảm-Trang nếu sâu như bể thì ân nghĩa kia cũng chẳng khác gì non cao. Lạc-Băng không hiểu đó là một sự ngẫu nhiên hay là do định mệnh an bài?

Người của Thiết-Đảm-Trang dù vô tình hay cố ý phản bội, nếu phải trả bằng cái giá đó tưởng cũng đủ lắm rồi. Lòng căm thù của nàng đối với Châu-Trọng-Anh cũng đã hả giận. Nhưng cái ơn của người Thiết-Đảm-Trang cứu nàng mang về thuốc thang tận tình săn sóc để giờ này còn lại mạng sống đây, mai sau nàng phải đền lại cách nào cho xứng đáng đây?

Lúc tỉnh dậy lần đầu, Lạc-Băng chưa có gì nghi ngại. Nhưng khi nghe Châu-Ỷ nói cho biết nàng ta họ Châu, Lạc-Băng đã nghi ngờ nàng là người của Thiết-Đảm-Trang. Là người từng trải giang hồ nhiều năm nên cho nên việc gì Lạc-Băng cũng hết sức thận trọng. Khi nghi ngờ Châu-Ỷ là người của Thiết-Đảm-Trang, Lạc-Băng đã liệu bề cảnh giác mà đề phòng. Nàng cho rằng Châu-Ỷ đã biết rõ nàng là người của Hồng Hoa Hội nên ngại không dám nói tên cũng như lý lịch của mình ra. Đến lúc được nghe lời phiền trách Hồng Hoa Hội từ miệng Châu-Ỷ nói ra thì Lạc-Băng lại nghĩ nàng ta nói vậy cốt ý để cho mình nghe thấy. Ngay cả việc Châu-Ỷ rút đao ra, Lạc-Băng cũng nghĩ rằng nàng sẽ tấn công, giết chết mình để trả cái thù Hồng Hoa Hội đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Lúc đó trong đầu Lạc-Băng nghĩ rằng lúc cứu nàng về, Châu-Ỷ chưa biết nàng là ai, nhưng sau khi biết rõ nàng là ai thì lại có ý muốn hạ sát. Lại có thể là Châu-Trọng-Anh sai Châu-Ỷ giết Lạc-Băng không chừng để trả thù cái tội nhục mạ ông ta? Ôi! Không biết bao nhiêu là nghi vấn quanh quẩn trong đầu Lạc-Băng lúc đó...

Tất cả mọi nghi vấn được chấm dứt từ khi Lạc-Băng nghe được câu chuyện giữa Châu-Ỷ cùng đứa liễu hoàn. Khi ấy, trong đầu nàng chỉ còn lại vỏn vẹn một ý nghĩ duy nhất:

-“Nếu y thị cứ bỏ mặc ta nằm dưới đất hôm ấy thì còn gì nữa mà phải nghĩ ngợi với nghi kỵ!”

Có lẽ điều này là cứu cánh của Lạc-Băng lúc bấy giờ. Phải, nếu muốn giết nàng, Thiết-Đảm-Trang đã có quá nhiều cơ hội thuận tiện! Từ từ nàng nhìn thấy được nhiều điều, nhất là thái độ hòa nhã của cha con Châu-Trọng-Anh. Rất có thể họ biết rõ nàng là người của Hồng Hoa Hội nhưng không những không giết mà còn cứu mạng, đồng thời lại không trách Hồng Hoa Hội về hành động đốt phá Thiết-Đảm-Trang. Nếu là một môn phái võ lâm thông thường thì có đời nào Châu-Trọn-Anh chịu bỏ qua, cho dù thế lực của ông ta có thua kém đi chăng nữa. Đàng này, ông ta nhất định chịu nhục, không vì thù nhà mà làm ảnh hưởng đến đại cuộc. Chỉ vì ông ta thấy Hồng Hoa Hội là đảng phái cách mạng đang gieo được niềm hy-vọng lớn lao cho Hán-tộc, nên bỏ qua tất cả mọi hiềm khích cá nhân mà đặt nặng lòng ái quốc ưu dân lên trên hết. Nhưng nếu thế thì Châu-Trọng-Anh quả là người nghĩa khí, không thể nào là một kẻ phản bội bán rẻ lương bằng được!

Sự nhận xét ấy có thể rất đúng. Là vì khi giả ngủ mê, Lạc-Băng đã nghe được cả Châu-Ỷ và con liễu hoàn trách Hồng Hoa Hội hành động không chu đáo, thiếu suy nghĩ.

Căn cứ theo những thái độ và những hành động hào hiệp của Thiết-Đảm-Trang đối với Hồng Hoa Hội, cứ khách quan mà nói thì Lạc-Băng nhận thấy Châu-Trọng-Anh quả nghĩa khí và ít nhiều, sáng suốt hơn anh em Hồng Hoa Hội của nàng. Thù chung chưa trả được mà đã vội đi gây thêm tư thù làm sứt mẻ tinh thần đoàn kết trong giới võ lâm đồng đạo với nhau như thế thì chỉ có lợi cho kẻ thù mà có hại cho mình mà thôi!

Lạc-Băng thấy trong lòng không được yên, và cảm thấy lương tâm như bị cắn rứt. Cảm tình với Châu-Ỷ càng lúc càng nảy nở thêm nhiều. Và nàng cũng thấy tội nghiệp cho Châu-Trọng-Anh và tiếc cho Thiết-Đảm-Trang, một thành trì kiên cố, là chỗ nuôi dưỡng không biết bao nhiêu anh hùng khi gặp nguy khốn trên đường chống chọi với kẻ thù.

Giá mà lúc này Châu-Ỷ có vào đây quyết lấy mạng nàng chắc Lạc-Băng đành nhắm mắt chịu chết để đền ơn chứ không có bụng dạ nào chống trả lại. Tuy nhiên, Lạc-Băng thầm nghĩ rằng hãy tạm lánh nơi này vẫn hơn. Những gì đổ vỡ hãy tìm cách mà hàn gắn lại sau này. Dù kịp hay không cũng không thành vấn đề.

Tuy trong người đã bình phục, nhưng gót chân vẫn còn hơi đau cho nên Lạc-Băng cố mà đi từ từ ra ngoài để khỏi phải vấp ngã. Nàng dùng thuật phi hành đi lướt trên mặt đất thật nhẹ nhàng, cố không phát ra một tiếng động để cho ai nghe thấy.

Thấy đi ngã trước bất tiện, Lạc-Băng ven theo tường đá mà ra ngã sau phía hoa viên. Tại đây tương đối kín đáo, có thể ẩn núp được nếu có động tịnh gì. Lạc-Băng đi lần hướng cửa sau để ra đường lớn.

Hai bên cây cỏ xanh tươi, hoa quả thơm ngát trên con đường nhỏ hẹp phía hoa viên mà Lạc-Băng đang lê gót từ từ. Chợt đâu nghe như có tiếng người, Lạc-Băng dừng chân đứng lại, nép mình vào một thân cây cổ thụ. Dường như có hai người đang nói chuyện với nhau. Tiếng nói chuyện ly ty nghe nhỏ quá nên Lạc-Băng không hiểu được họ nói những gì. Chờ mãi muốn rụng rời cả đôi chân mà hình như hai người này vẫn chưa chịu đi nơi khác, Lạc-Băng chắc rằng đây là hai người gác cửa. Họ không chịu xê dịch tất nhiên sẽ chẳng còn đi đâu nữa. Lạc-Băng nhận thấy không thể đi được bằng cửa này nên bèn trở lại mà tìm hướng khác.

Qua khỏi hai gian nhà, Lạc-Băng đến một dãy hành lang rộng rãi có giàn dạ lý hương thơm ngát làm cho nàng cảm thấy sảng khoái, lên hẳn tinh thần.

Tạm dừng chân dọc theo hành lang nối liền với gian nhà chính với một gian nhà khách nguy nga tráng lệ, Lạc-Băng thấy ở gian nhà chính có đèn đuốc huy hoàng sáng chưng. Lạc-Băng không nhìn rõ được có ai trong đó mà chỉ nghe được tiếng người nói rất lớn, giọng hết sức uy nghiêm.

Tình tò mò hiếu kỳ nổi dậy, Lạc-Băng muốn xem thử bên trong có gì, mà giọng nói uy nghiêm kia của ai. Nàng bèn dùng thuật phi hành đến bên cửa sổ, nép mình vào sát vách tường liếc mắt khẽ nhìn vào bên trong.

Lạc-Băng nhìn thấy có tất cả ba người đang ngồi bên trong. Ngồi chính giữa là trang-chủ Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh. Ngồi bên trái là một người trông quen quen như đã gặp qua rồi nhưng chưa đưọc biết tên. Còn người ngồi bên tay mặt thì vừa nhìn Lạc-Băng đã lập tức nhận ngay ra được. Người ấy chẳng phải ai khác hơn là tên khốn kiếp, ‘con chó săn’ Đổng-Triệu-Hòa, kẻ đã dẫn đường cho Trương-Siêu-Trọng và đám quan quân cẩu trệ đến bắt Văn-Thái-Lai, chồng nàng.

Đầu giây mối nhợ mọi chuyện đều do tên Đổng-Triệu-Hòa này mà ra cả. Giả sử như không có hắn nhúng tay thì chắc chắn Trương-Siêu-Trọng chưa chắc đã tìm đưọc đường đến Thiết-Đảm-Trang nữa chứ đừng nói gì đến chuyện gì khác.

Lạc-Băng còn nhớ trước đây vì say mê sắc đẹp của nàng nên định giở thói sàm sỡ, bị Văn-Thái-lai điểm huyệt một lần suýt nữa mất mạng. Thế nhưng hắn vẫn không chịu chừa mà còn cố tâm đeo đuổi nàng mãi.

Vừa trông thấy mặt kẻ thù, Lạc-Băng lại nghĩ đến bao nhiêu nỗi khổ sở của Văn-Thái-Lai mà lửa giận bốc lên phừng phừng, không sao ngăn được.

Quên cả nguy hiểm, mà cũng chẳng nghĩ nghĩ đến điều lợi hại sống hay chết nữa, Lạc-Băng như con hổ rình được mồi ngon liền rón rén đi lại cửa trước tung mạnh một cái bước vào. Chẳng thèm nói một lời, Lạc-Băng rút ngọn phi đao, nhắm thẳng mặt Đổng-Triệu-Hòa mà phóng tới.

Đang ngồi chợt nghe hơi gió, Châu-Trọng-Anh chợt thấy một mũi phi đao nhắm vào Đổng-Triệu-Hòa bay thẳng tới. Nhanh như chớp, ông ta dùng cây Thiết-đảm phóng tới, gạt mũi phi đao của Lạc-Băng xuống đất.

Mặc dù kịp ra tay gạt được mũi phi đao, cây Thiết-đảm của Châu-Trọng-Anh cũng chỉ đánh gãy được cán đao, còn lưỡi của phi đao vẫn vuột thẳng tới cắm lút vào bả vai bên trái của Đổng-Triệu-Hòa chẳng khác như đóng đinh vào cột.

Nguyên-Châu-Trọng-Anh sau khi giết con là Châu-Anh-Kiệt, vợ ông ta vì quá đau xót mà đâm ra phẫn chí, khóc than ngày đêm mãi không nguôi. Rồi một hôm, bà ta giắt vào người một ít nén vàng làm lộ phí rồi âm thầm cất bước ra đi, không hề nói nửa lời với ai cả. Thế là Thiết-Đảm-Trang lại vắng thêm một người, đi không hẹn ngày về, đi như tìm về cõi chết.

Châu phu nhân khi ấy chưa đầy 40 tuổi vốn là con gái của một vị quyền sư khét tiếng, võ công của bà ta cũng thuộc vào hạng cao thủ. Từ khi xuất giá tòng phu thì gia đình suy xụp, cả cha lẫn mẹ đều lần lượt qua đời nên chẳng mấy khi bà ta có ý về thăm lại nơi làng xưa quê cũ. Nay vì quá đau lòng vì cái chết của đứa con trai, bà ta như điên dại bỏ ra đi, và chẳng một ai biết rõ được là bà đi đâu.

Con chết, vợ bỏ đi, Châu-Trọng-Anh đã khổ tâm lại còn chuốc thêm đau buồn! Gan sắt của người anh hùng cũng đến độ tan nát rã rời! Ông nằm liệt trong phòng suốt mấy ngày đêm bỏ ăn bỏ ngủ, than vắn thở dài, chẳng tìm được cách gì cho khuây khỏa được...

Đêm hôm ấy vào giờ Tuất, Châu-Trọng-Anh nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ về cái lẽ hưng vong bĩ cực ở đời thì bỗng một gã tráng đinh vào báo tin rằng có hai người khách lạ yêu cầu được gặp mặt.

Châu-Trọng-Anh bèn gọi Mạnh-Kiện-Hùng vào dặn chàng thay mặt ông ta mà tiếp khách, còn mình thì thoái thác là đang bệnh nên chẳng thể nào làm trọn lễ tân chủ được.

Mạnh-Kiện-Hùng vâng lời ra tiếp khách thì nhận ra một trong hai người là Đổng-Triệu-Hòa, một tên đầu não trong việc gieo họa cho Thiết-Đảm-Trang. Thấy mặt Đổng-Triệu-Hòa, Mạnh-Kiện-Hùng vừa giận, vừa sợ, lại vừa nghi ngờ, không biết hắn có dụng ý gì khi đến Thiết-Đảm-Trang lần này. Đổng-Triệu-Hòa chẳng khác nào một con quỷ dữ, đi đến đâu là gieo họa cho người ta đến đó.

Thấy mặt Mạnh-Kiện-Hùng, Đổng-Triệu-Hòa liền giới thiệu ngay người bạn đồng hành của hắn:

-Xin giới thiệu cùng Mạnh huynh, đây là võ lâm cao thủ, tài nghệ quán chúng tại Bắc-phương, hiện đang làm Tổng-Giáo-Tập tại phủ Trịnh-Vương, đại danh là Vạn-Khánh-Nhuận.

Mạnh-Kiệt-Hùng bất đắc dĩ phải miễn cưỡng mà hỏi thăm cho hợp lễ kính khách. Nhưng sau đó, cả Đổng-Triệu-Hòa lẫn Vạn-Khánh-Nhuận đều tỏ ý muốn được tiếp xúc trực tiếp với trang-chủ Châu-Trọng-Anh.

Mạnh-Kiện-Hùng cố lựa lời từ chối khéo cho qua chuyện:

-Mấy hôm nay trang chủ chúng tôi trong người không được khỏe nên chẳng thể ngồi lâu mà tiếp khách được, xin thành thật cáo lỗi với hai vị. Nếu hai vị có điều gì cần gấp xin cứ dạy bảo, tại hạ sẽ báo lại cùng trang chủ sau.

Đổng-Triệu-Hòa cười lên ha hả rồi lạnh lùng nói:

-Lần này chúng tôi đến Thiết-Đảm-Trang là có ý tốt, thích tiếp hay không là tùy Châu trang-chủ chứ thật tình chúng tôi chẳng dám ép. Nhưng có điều tôi mong Mạnh huynh thưa lại với trang-chủ là cái họa tan cửa nát nhà, chết người sắp sửa xảy ra rồi đó. Nếu Châu trang-chủ không sớm liệu e không còn kịp nữa.

Sau khi Văn-Thái-Lai bị bắt giải đi, Mạnh-Kiện-Hùng cảm thấy hết sức áy náy, hận sức mình không sao giải cứu được. Chàng vừa cảm khái, vừa thương tiếc con người nghĩa khí mà chàng xem là một anh hùng đáng noi gương. Chàng ngày đêm vẫn thường lo lắng cho tánh mạng của vị Tứ đương gia Hồng Hoa Hội kia. Nhưng đồng thời, Mạnh-Kiện-Hùng còn một mối lo lớn hơn nữa là chàng sợ Thiết-Đảm-Trang cũng bị liên lụy vào. Không phải chàng lo cho bản thân mình, mà lo ngại cho sự an nguy của toàn thể mọi người sơn-trang từ trang-chủ cho đến người tráng-đinh chức vị thấp kém nhất. Lúc nào trong lòng Mạnh-Kiện-Hùng cũng có linh cảm rằng đại họa không sớm thì muộn sẽ xảy đến bất tử cho Thiết-Đảm-Trang, nên chỉ cần một câu nói hơi chút lạ thường cũng đủ cho chàng lo sợ phập phồng rồi. Hôm nay tình cờ Đổng-Triệu-Hòa đến, Mạnh-Kiện-Hùng đã có vẻ nghi ngờ. Khi nghe xong giọng nói khó chịu của tên tiêu-sư gian ác ấy, chàng khẽ than thở trong lòng, cho là việc gì phải đến đã đến.

Không do dự mà cũng chẳng dám tự chuyên, Mạnh-Kiện-Hùng vào trong thư phòng báo cáo mọi tình hình cho Châu-Trọng-Anh rõ, để mặc cho Đổng-Triệu-Hòa cùng Vạn-Khánh-Nhuận ngồi đó mà chẳng thèm nói một câu nào.

Nghe Mạnh-Kiện-Hùng thuật lại rõ từ cử chỉ hách dịch đến giọng nói phách lối của Đổng-Triệu-Hòa, Châu-Trọng-Anh không dằn được, lửa giận bốc lên tận trời. Ông ta ngồi phắt dậy, với tay lấy cây Thiết-đảm bước ra khỏi phòng miệng nói như gầm thét:

-Quân khốn nạn! Chúng còn dám vác mặt đến đây hăm dọa ta nữa à? Hay chúng tưởng là diệt được Thiết-Đảm-Trang dễ dàng lắm? Ta phải hỏi cho ra lẽ rồi cho ba cái quân súc sinh ấy một bài học!

Bước chân vào phòng khách, Châu-Trọng-Anh chẳng cần đếm xỉa tới Đổng-Triệu-Hòa mà chỉ chào hỏi Vạn-Khánh-Nhuận sơ qua cho có lệ.

Vạn-Khánh-Nhuận đứng dậy rút trong túi ra một tờ giấy, trải ra ngay ngắn giữa mặt bàn, dùng hai tay giữ chặt hai đầu rồi nói với Châu-Trọng-Anh:

-Xin mời Châu lão anh-hùng thử đọc xem!

Châu-Trọng-Anh xích lại gần, nhìn vào tờ giấy mà đọc chứ chẳng buồn lấy tay đụng tới. Thì ra đó là bức thư của Lục-Phỉ-Thanh viết cho Châu-Trọng-Anh, ngụ ý gửi gắm Văn-Thái-Lai, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng. Mặc dù có đến Thiết-Đảm-Trang và được Mạnh-Kiện-Hùng dấu vào địa huyệt, Văn-Thái-Lai vẫn giữ bức thư trong người chứ không chịu đưa cho ai vì không gặp được Châu-Trọng-Anh để trao tận tay. Chắc hẳn là lúc bị bắt, Văn-Thái-Lai bị Trương-Siêu-Trọng và đồng bọn lục soát khắp người và bắt gặp phong thư này.

Sự thật là thế. Bọn Đoàn-Đại-Lâm sau khi bắt được lá thư đều kinh ngạc đến ngây người, nhận ra ngay chủ nhân viết bức thư này là một trong những khâm-phạm bị triều-đình truy nã gắt gao nhất cả hơn 10 năm trường nay. Không biết bao nhiêu người nhận chiếu chỉ của vua Càn-Long đã khổ công đi tìm từ chân trời này cho tới góc biển nọ mà vẫn không tìm được tung tích của Lục-Phỉ-Thanh ở đâu. Đa số tưởng rằng ông ta đã chết rồi. Nhưng tình cờ không kiếm mà ra, bức thư trên mình Văn-Thái-Lai là bằng chứng hẳn hoi cho thấy Lục-Phỉ-Thanh vẫn còn sống và hoạt động mạnh mẽ, liên kết cả với Hồng Hoa Hội lẫn Thiết-Đảm-Trang nữa. Do đó, đám quan triều đình bàn với nhau chỉ cần chất vấn, gây áp lực với Châu-Trọng-Anh là Lục-Phỉ-Thanh không còn chạy trốn đi đàng nào được nữa.

Bọn Đoàn-Đại-Lâm họp nhau lại bàn tính. Chúng nhận thấy rằng công lao tìm được Lục-Phỉ-Thanh đem so với công Trương-Siêu-Trọng bắt được Văn-Thái-Lai cũng không hơn kém là bao nhiêu.

Đoàn-Đại-Lâm bàn với cả bọn rằng:

-Bắt được Lục-Phỉ-Thanh mà nạp cho vua Càn-Long dĩ nhiên là công lao lớn lắm. Tuy nhiên muốn bắt được con người này thì không phải là chuyện dễ, cho dù Châu-Trọng-Anh có chỉ chỗ đi chăng nữa! Thiết-Đảm-Trang là nơi chuyên chứa chấp khâm-phạm triều-đình, và Châu-Trọng-Anh đã có liên-quan đến việc này từ lâu rồi. Nhưng mãi cho đến nay mới có được bằng chứng cụ thể trên giấy trắng mực đen như thế này để kết tội y. Mà muốn bắt được Châu-Trọng-Anh cũng không phải là đơn giản. Đến Thiết-Đảm-Trang của y nào khác chi đem thân vào hổ huyệt, không khéo lại bị cọp vồ thì bỏ mạng chứ chẳng phải đùa. Kế vạn toàn nhất là đem bức thư của Lục-Phỉ-Thanh đến hăm dọa Châu-Trọng-Anh, buộc y phải xuất ra một số kim-ngân thật lớn để mà chuộc lấy bức thư này. Nhưng chúng ta cũng nên dấu kín chuyện này, đừng để cho Trương-Siêu-Trọng biết rõ vì dù sao Lục-Phỉ-Thanh và Trương-Siêu-Trọng cũng vẫn là huynh-đệ đồng môn. Cả hai người đều lợi hại, không phải dễ đối phó. Ta không nên dại dột mà gây ra oán cừu trong việc này.

Bọn Đoàn-Đại-Lân suy nghĩ đắn đo một hồi thì bỏ ngay ý định bắt Lục-Phỉ-Thanh với Châu-Trọng-Anh. Tất cả đồng ý với nhau là cách đem bức thư này đến tống tiền trang chủ Thiết-Đảm-Trang là thượng sách, vừa có lợi mà không phải chuốc thêm oán thù.

Nhưng đường đường là những bậc quan triều-đình, có chức sắc và địa vị cao lại mà đi làm những chuyện hạ tiện như thế này thì thật không còn mặt mũi nào nhìn ai lỡ chẳng may chuyện đổ bể ra! Vì vậy, sau khi bàn tính kỹ càng, ai nấy đều nhận xét rằng chỉ nên giao việc này cho Đổng-Triệu-Hòa và Vạn-Khánh-Nhuận lo liệu, là hai tay ‘chai mặt’, không dính dáng gì đến quan quyền.

Sau khi đọc xong bức thư, Châu-Trọng-Anh hơi giật mình nhưng cố làm ra vẻ điềm tĩnh, lạnh lùng hỏi:

-Ông đem bức thư này đến đây cho ta đọc chẳng hay có chủ ý gì xin cho tại hạ được biết rõ.

Vạn-Khánh-Nhuận đáp:

-Chúng tôi lâu nay được nghe đại danh của Châu lão anh-hùng như sấm nổ bên tai, trong lòng ngưỡng mộ vô cùng. Những mong được dịp bái kiến chỉ hiềm không có cơ hội nên bất đắc dĩ mới phải chờ tới hôm nay. Nhưng trớ trêu thay, đến lúc đạt được bình sinh khát vọng thì lại gặp lúc Thiết-Đảm-Trang sắp sửa gặp đại họa thê thảm. Nếu chẳng may phong thư này lọt vào tay các quan lớn triều đình thì Châu lão anh-hùng làm sao tránh khỏi không bị liên lụy? Vì vậy khi tìm thấy phong thư này trong mình Văn-Thái-Lai, anh em chúng tôi là những người trọng nghĩa, có cảm tình với Thiết-Đảm-Trang nên nghĩ ngay đến chuyện giấu diếm mà không hề hé môi với quan lớn triều đình một lời nào, vì đây là một phong thư hết sức tai hại, có thể đêm đến họa diệt tộc như chơi! Xem xong, và đại khái biết được nội dung của bức thư, tất cả anh em đặc phái hai người chúng tôi đến đây để diện kiến trang chủ, thứ nhất để báo tin cho Thiết-Đảm-Trang sớm biết trước mà đề phòng, và kế đến là để mong được thỏa lòng ao ước bấy lâu nay để được kết giao với Châu lão anh-hùng trong tình bằng hữu. Nếu Châu lão anh-hùng không chê chúng tôi là những kẻ bỉ tiện mà bằng lòng hạ mình kết giao thì anh em chúng tôi nguyện đốt ngay phong thư này đi mà quyết chẳng lưu lại một chữ nào làm vết tích. Không những thế, chúng tôi còn hứa sẽ ém nhẹm luôn việc Châu lão anh-hùng chứa chấp bọn Văn-Thái-Lai trong Thiết-Đảm-Trang. Còn như chuyện chứa chấp Văn-Thái-Lai mà lòi ra thì e chuyện Lục-Phỉ-Thanh cũng khó mà giấu kín được. Dĩ nhiên Trương-Siêu-Trọng cũng chẳng muốn nhìn thấy điều này lộ ra vì dù sao Lục-Phỉ-Thanh cũng là anh em đồng môn của ông ta. Do đó, nếu chúng tôi giữ im lặng thì đương nhiên Trương-Siêu-Trọng sẽ không bao giờ truy xét đến việc này nữa.

Nghe Vạn-Khánh-Nhuận nói xong, Châu-Trọng-Anh cười nhạt, mỉa mai nói:

-Được kết giao bằng-hữu với quý vị, Châu-Trọng-Anh tôi lấy làm vinh hạnh lắm chứ! Nhưng kết bạn như thế nào xin hai vị giải bày tường tận để tôi còn định liệu.

Dĩ nhiên, mục đích chính của Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa đến Thiết-Đảm-Trang nào phải để kết tình bằng hữu với Châu-Trọng-Anh. Mà chúng cũng thừa biết, với tư cách của chúng, Châu-Trọng-Anh chưa cho mỗi mạng một trận là may lắm rồi, chứ làm sao mà có được chuyện ‘sinh tử chi giao’! Nghe câu hỏi mỉa mai đầy ẩn ý của Châu-Trọng-Anh, Vạn-Khánh-Nhuận biết chỉ còn cách đánh liều mà nói thẳng ý định ra để kết thúc câu chuyện cho thật sớm mà thôi chứ không nên day dưa thêm nữa. Nghĩ vậy y cố phải làm mặt dạn nói:

-Anh em chúng tôi vâng lệnh hoàng-thượng đi tróc nã khâm-phạm. Từ lúc rời khỏi Bắc-Kinh cho tới nay đã lâu ngày nên tiền lương đã cạn sạch, hết trơn rồi. Ai nấy đều phải nhịn rượu mà vẫn không đủ để chi tiêu, thậm chí không còn được chút lộ phí để trở về kinh-đô nữa! Trộm nghĩ Châu lão anh-hùng là người hào hiệp chắc không nỡ làm ngơ với võ lâm đồng đạo trước tình cảnh như thế này nên anh em bèn phái hai đứa chúng tôi đến đây mượn đỡ Châu lão anh-hùng một ít ngân lượng. Sau này chúng tôi sẽ hoàn lại đầy đủ, mà nghĩa cử của lão anh-hùng chúng tôi nguyện sẽ ghi nhớ mãi chứ chẳng dám quên.

Châu-Trọng-Anh nghe nói liền nhíu mày, đôi mắt trợn lên nhưng vẫn không một tiếng trả lời. Vạn-Khánh-Nhuận thấy vậy nói tiếp:

-Số ngân lượng anh em chúng tôi muốn mượn đỡ Châu lão anh-hùng cũng chẳng lớn lao gì cho lắm, bất quá cũng chỉ vào khoảng năm, sáu vạn lượng mà thôi. So với cái sản nghiệp lớn lao của Châu lão anh hùng thì bấy nhiêu đó tưởng có thấm tháp vào đâu? Mà dĩ nhiên một khi Châu lão anh-hùng nghĩ đến anh em chúng tôi thì anh em chúng tôi có bổn phận phải báo đáp lại cho xứng đáng mới yên lòng.

Nghe cái giọng tống tiền của Vạn-Khánh-Nhuận, lửa giận của Châu-Trọng-Anh như bốc lên phừng phừng. Ông ta dằn rõ từng tiếng vào mặt hắn:

-Sơn trang của tôi làm gì mà có sẵn được một món tiền quá lớn như vậy cho các người mượn! Mà cho dù có đi chăng nữa thì cũng chỉ để dành cho những người nghĩa khí hay để giúp đỡ những bậc anh-hùng quân tử lúc sa cơ lỡ vận hoặc khi ‘lỡ bước cùng đường’ chứ lẽ nào lại để cho đám sai nha, ‘tẩu cẩu’ mượn được!

Thấy Châu-Trọng-Anh chẳng những không chịu ‘bỏ tiền chuộc bức thư’ mà còn mắng xiên mắng xéo, Đổng-Triệu-Hòa cười gay gắt nói:

-Tôi biết Châu lão anh-hùng khinh anh em chúng tôi là đám tiểu nhân, không xứng đáng để kết giao. Một lời nói của bọn tiểu nhân chúng tôi chưa chắc đã hữu hiệu cho việc gây dựng sự nghiệp hay làm lợi cho ai, nhưng trong việc phá hoại làm tan đại nghiệp thì lại không đến nỗi vô dụng. Châu lão anh-hùng tiếc năm, sáu vạn lượng hơn một công trình nguy nga đồ sộ, vĩ đại thế này thật uổn lắm đó!...

Đổng-Triệu-Hòa chưa nói dứt câu thì cửa chính của sảnh đường vụt mở ra, một thiếu nữ bước vào nhìn hắn chằm chặp, miệng hét lớn:

-Có cô nương đến đây! Đứa nào tài thì cứ giỏi thử làm gì Thiết-Đảm-Trang cho biết!

Thiếu nữ ấy chẳng phải ai khác hơn là Châu-Ỷ, con gái lớn của Châu-Trọng-Anh. Chỉ thấy Trang-chủ Thiết-Đảm-Trang khẽ liếc mắt một cái, Châu-Ỷ đã chạy thẳng một nước ra ngoài. Tiếng Châu-Trọng-Anh nói với theo rằng:

-Này con! Nhớ dặn mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường trong này có hai tên tẩu cẩu, nhớ canh gác giữ gìn cho cẩn thận đừng để cho chúng tẩu thoát ra nghe chưa!

Châu-Ỷ nghe nói vui mừng hớn hở thưa:

-Gia gia khỏi lo! Có chúng con giữ ở bên ngoài thì đố ‘hai con chó săn’ đó trốn đi đâu được!

Dặn xong con gái, Châu-Trọng-Anh quay lại nhìn Vạn-Khánh-nhuận và Đổng-Triệu-Hòa với gương mặt đầy sát khí, tưởng chừng như muốn ăn tươi nuốt sống cả hai. Cả Vạn-Khánh-Nhuận với Đổng-Triệu-Hòa thấy vậy cũng hơi chột dạ, nhưng cũng phải cố gắng ra vẻ bình tĩnh. Vạn-Khánh-Nhuận nói:

-Châu lão anh-hùng đ‘ã không chịu giúp đõ thì anh em chúng tôi xin cáo lui!

Dứt lời y cầm lá thư xé ra từng mảnh vụn. Châu-Trọng-Anh đang thắc mắc không hiểu tại sao y lại hủy đi cái thư, là phương tiện để cho chúng làm tiền. Vạn-Khánh-Nhuận như đọc được ý nghĩ của Châu-Trọng-Anh, bèn phân giải:

-Phong thư này chẳng qua chỉ là bản sao mà thôi, còn nguyên bản (#5) thì Trương-Siêu-Trọng đại nhân vẫn cất giữ ở trong mình vì biết đem đến đây sẽ gặp nhiều bất tiện.

Vạn-Khánh-Nhuận hành động như vậy ngụ ý bảo cho Châu-Trọng-Anh biết bằng cớ vẫn nằm trong tay Trương-Siêu-Trọng; cho dẫu cho ông ta có giết chết hắn và Đổng-Triệu-Hòa cũng không sao đoạt lại được bức thư kia.

Đang lúc không khí căng thẳng chưa biết sự tình đi đến đâu thì cánh cửa mở toang ra và phi đao của Lạc-Băng nhắm Đổng-Triệu-Hòa phóng tới. Mặc dầu ghét Đổng-Triệu-Hòa thậm tệ, cho dù có bằm thây hắn ra cũng chưa hả giận, Châu-Trọng-Anh không muốn thấy hắn bị chết trong sơn trang của mình. Vì thế, không chút đắn đo mà cũng chẳng cần phải biết người phóng phi đao là ai, ông ta vội dùng cây Thiết-Đảm gạt phi đao kia xuống đất cứu Đổng-Triệu-Hòa thoát chết, nhưng không cứu được cho hắn khỏi mang thương tích...

Thấy Châu-Trọng-Anh bỗng nhiên thi triển bản lãnh mà cứu mạnh kẻ thù của mình, Lạc-Băng giận dữ vô cùng, quát lớn lên:

-Lão tặc khốn kiếp kia! Mi đã xúi người nhà hại chồng ta rồi bây giờ còn ngăn cản ta trả thù tên gian ác này nữa! Ta thề phải giết mi!

Lạc-Băng nhảy bổ lại, tuốt Uyên-Ương Đao xông tới chém nhầu vào Châu-Trọng-Anh. Cây Thiết-đảm khi nãy dùng để phóng cản phi đao cứu mạng cho Đổng-Triệu-Hòa nên vẫn còn nằm dưới đất chịp thâu hồi. Không có binh khí trong tay, Châu-Trọng-Anh liền chụp vội chiếc ghế đẩu dùng để đương cự cặp đao của Lạc-Băng. Ông ta vừa đỡ vừa nói:

-Việc đâu rồi còn đó. Xin cô nương hãy dừng tay lại, nói cho rõ đầu đuôi rồi muốn sao cũng được, cớ sao lại gặp đâu đánh đó mà không chịu phân biệt phải trái là nghĩa làm sao?

Lạc-Băng đang đau khổ vì chồng bị bắt, lại tìm ra Đổng-Triệu-Hòa là tên đầu xỏ thủ phạm mọi chuyện nên muốn giết hắn chết ngay cho hả giận. Chẳng may bị Châu-Trọng-Anh phóng cây Thiết-đảm cứu kẻ thù thoát chết thành ra bao nhiêu cơn giận nàng bỗng trút hết vào Châu-Trọng-Anh. Vì vậy, Lạc-Băng không cần suy nghĩ mà phân biệt phải trái, quyết tâm thi triển hết tuyệt kỹ của Lạc-Gia Đao Pháp mà tấn công Châu-Trọng-Anh tới tấp không ngừng.

Châu-Trọng-Anh cũng hiểu rõ và biết được tâm trạng của Lạc-Băng nên không vì thế mà giận để kết thêm thù oán hay để phải đi đến tình trạng quyết đấu ‘một mất một còn’. Ông ta có ý nhường nhịn nên từ đầu đến cuối chỉ đỡ đòn mà không hề đánh trả lại chiêu nào.

Vì thủ mãi không công nên chẳng mấy chốc, Châu-Trọng-Anh đã bị Lạc-Băng dồn vào sát vách tường. Hết đường lui, Châu-Trọng-Anh phải nhanh nhẹn chống đỡ luôn tay trước những đường đao vô cùng hiểm ác của Lạc-Băng. Thế nhưng ông ta vẫn không hề phản công lại, chỉ cố mà tiếp tục đỡ đòn.

Không biết có hiểu được sự nhường nhịn của trang-chủ Thiết-Đảm-Trang hay không, Lạc-Băng càng lúc càng tấn công kịch liệt như quyết tâm phải hạ Châu-Trọng-Anh cho bằng được mới thôi.

Thình lình Lạc-Băng nghe hơi gió như có tiếng binh khí đang tập kích mình ở đàng sau nên vội nằm phục xuống đất để tránh né. Chỉ thấy một mũi đao sau đó ghim vào tường như lưỡi phi đao của nàng lúc nãy ghim vào bả vai Đổng-Triệu-Hòa. Lạc-Băng nằm dưới đất chém quặt đao ra phí sau một vòng, buộc người nào đó đánh lén nàng phải lui lại một bước. Nhân cơ hội đó, Lạc-Băng búng mình đứng thẳng dậy thủ thế thì nhìn thấy rõ được người tập kích mình chẳng phải ai xa lạ mà chính là Châu-Ỷ, con gái của Châu-Trọng-Anh, và cũng là ân nhân cứu sống tánh mạng của nàng.

Châu-Ỷ trợn mắt nhìn Lạc-Băng với vẻ căm hờn mắng:

-Đồ cái thứ vô ân bội nghĩa háo sát! Ta đã cứu sống tánh mạng của mi đem về, nếu thật lòng muốn giết mi thì liệu giờ này mi còn đứng đây được để tác oai tác quái chăng? Đã không biết ơn thì chớ, còn giở thói đạo tặc đòi giết cả cha ta nữa! Phải chăng đó là lối trả ơn của Hồng Hoa Hội các người?

Giá là bất cứ người nào khác dám nhục mạ đến Hồng Hoa Hội như thế ắt Lạc-Băng không bao giờ để yên. Nhưng vì người đó là Châu-Ỷ, ân nhân của nàng nên Lạc-Băng cũng phải bớt lại đôi ba phần nộ khí, mặc dầu tức giận vô cùng. Nàng nhìn Châu-Ỷ lớn tiếng nói:

-Bọn Thiết-Đảm-Trang các ngươi toàn là thứ giả nhân giả nghĩa chứ có phải là anh hùng hảo hán chi đâu mà bảo rằng ta phải mang ơn với chịu nghĩa! Cha mi đã xúi người trong Thiết-Đảm-Trang này hại chồng ta, thù ấy ta không bao giờ bỏ qua đâu. Còn mi thì vị tình một lần cứu mạng, ta không muốn gây sự mà cũng chẳng muốn giết. Nếu biết điều thì mau đi đi!

Dứt lời, Lạc-Băng bất thình lình quay lại phía Châu-Trọng-Anh chém sả xuống một đao. Châu-Trọng-Anh lại đưa cái ghế đẩu lên đỡ. Lạc-Băng lại dùng ‘Liên Hoàn Đao’ chém liên tiếp ba nhát vô cùng lợi hại. Châu-Trọng-Anh né bên tả, tránh bên hữu, miệng gọi mãi không ngớt:

-Hãy dừng tay lại! Hãy dừng tay lại đã!

Thấy cha một mực nhẫn nhịn không đánh trả trong khi Lạc-Băng cứ làm tới đánh mãi, Châu-Ỷ cả giận cầm đao nhảy tới đứng trước mặt Châu-Trọng-Anh rồi xông tới tấn công Lạc-Băng như mưa, dùng toàn những chiêu liều mạng mà đánh.

Kể ra thì võ nghệ của Lạc-Băng còn cao hơn Châu-Ỷ một bậc, và kinh nghiệm giao đấu dĩ nhiên hơn xa cô con gái của Châu-Trọng-Anh. Nhưng vì các vết thương chưa lành hẳn, gót chân vẫn còn đau nên chiêu thức và nội lực của nàng vì thế mà bị giới hạn. Đã thế còn phải trải qua nhiều cơn bi thương sầu thảm nên trong người luôn bị phiền não, lo lắng vạn điều. Đó là một trong những ‘đại kỵ’ của con nhà võ. Thêm vào đó, Châu-Ỷ đang ở vào thời kỳ thể lực phát triển mạnh, lại mang ý định che chở bảo vệ cứu thân phụ nên chiến đấu bạt mạng không chút sợ hãi, mà cũng chẳng kể gì đến mạng sống của mình nữa. Càng đánh, Châu-Ỷ càng hăng, trong khi Lạc-Băng càng bị lép vế. Dần dần, Châu-Ỷ đã nắm được thế chủ động trong trận đấu.

Châu-Trọng-Anh đứng ngoài thầm kêu khổ vì hai người đã đi đến một trận sinh tử, mà kết quả sẽ hết sức thảm khốc. Ông chẳng muốn người nào phải gục xuống cả. Một đàng sẽ đem lại đau thương, còn một đàng đem lại phiền não, oán thù thêm chồng chất. Miệng ông ta không ngớt kêu lên như van hai người:

-Mau dừng tay lại! Đừng đánh nhau nữa!

Đang hồi hăng máu, cả Lạc-Băng lẫn Châu-Ỷ như chẳng còn để ý đến tiếng gọi của Châu-Trọng-Anh nữa mà vẫn tiếp tục tranh phong.

Mặc dù thấy Châu-Ỷ chiếm được thế thượng phong, Châu-Trọng-Anh không vì thế mà mừng, trái lại ông cảm thấy lo ngại cho Lạc-Băng. Chỉ vì ông ta không muốn cùng Hồng Hoa Hội đào sâu thêm hố sâu chia rẽ nên đời ông không muốn Châu-Ỷ làm thương tổn đến tánh mạnh của Lạc-Băng.

Châu-Trọng-Anh càng gân cổ kêu gọi ngừng tay thì hai người lại càng đánh nhau khốc liệt bấy nhiêu. Trong lúc ông ta chưa biết phải dùng biện pháp nào để ngăn ngừa thì thừa lúc lộn xộn ấy, Vạn-Khánh-Nhuận đã đỡ Đổng-Triệu-Hòa dậy được, rút phi đao ra, xé vạt áo băng đỡ lại cho. Máu ở vai Đổng-Triệu-Hòa tuôn ra như suối. Biết dù muốn thoát thân cũng không được vì Châu-Trọng-Anh đã ra lệnh cho Mạnh-Kiện-Hùng cùng An-Kiện-Cường bọc kín hết các ngõ chung quanh nên Vạn-Khánh-Nhuận đành đứng mà xem cuộc ác đấu giữa hai ‘nữ hiệp’ với nhau, chờ cơ hội tốt.

Lạc-Băng không chịu nghe lời Châu-Trọng-Anh đã đành, nhưng thấy cả con gái cũng không xem lời ông ta vào đâu mà cứ tiếp tục đánh như ngây như dại thì bỗng nổi giận lên, biết mình không thể nào đứng ngoài vòng mà gọi mãi được.

Nghĩ vậy, Châu-Trọng-Anh liền cầm cái ghế đẩu nhảy tới phang một cái thật vào giữa hai đường đao, tách cả Lạc-Băng lẫn Châu-Ỷ ra hai nơi. Cùng lúc ấy, một bóng đen từ vườn sau xông vào như mũi tên bắn thật lẹ. Nhìn ra thì đó là một người lùn và mập, hai tay cầm song phủ (#6), vận toàn lực nhắm đầu Châu-Ỷ bổ xuống.

Châu-Ỷ lanh mắt, biết không thể dùng đơn đao mà chống trả được liền lách mình sang một bên để tránh hai nhát búa giết người ấy. Tránh được hai nhát búa, Châu-Ỷ liền dùng thế ‘Thần Long Đẩu Giáp’ chém vào phía sau vai của người đó.

Người ấy chẳng thèm né tránh, tay trái xoay cán búa ra đỡ. Đao và búa chạm nhau tóe lửa, tạo thành một thứ âm thanh ghê rợn khiến người nghe phải đến đinh tai nhức óc. Châu-Ỷ bị kình lực quá mạnh loạng choạng ra sau mấy bước, cánh tay tê chồn lại, đánh rơi thanh đao đao xuống đất lúc nào không hay. Nàng hốt hoảng, nhưng với bản năng sinh tồn mạnh mẽ nên khẽ tháo lui ra sau hai bước và định tâm đứng vững lại như thường.

Dưới ánh sáng chưng của đèn đuốc trong nhà, Châu-Ỷ trông rõ người ấy hình dung rất cổ quái, lại bị tật, mang một cái bướu đàng sau lưng.

Người gù ấy không tấn công Châu-Ỷ nữa mà lại xoay mặt nhìn về phía Lạc-Băng ra vẻ quan tâm. Lạc-Băng chợt reo lên vì vui mừng:

-Ủa, Thập ca đấy à?

Chỉ nói được có bấy nhiêu tiếng, Lạc-Băng quá xúc động, nghẹn ngào, lệ tuôn đầm đề...

Hồi 6b

Thiết Đảm Trang vô phương biện bạch

Hồng Hoa Hội thị vũ dương uy

Thì ra người gù ấy chính là Chương-Tấn, vai vế đứng thứ 10 trong Hồng Hoa Hội. Chương-Tấn tạm thời thu đôi song phủ về mà hỏi:

-Tứ ca đâu? Sao Tứ Tẩu lại ở đây mà giao thủ với họ?

Lạc-Băng lấy tay chỉ vào Châu-Trọng-Anh, Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa, giọng uất ức nói:

-Tứ ca đã bị bọn này ám hại rồi! Thập ca giúp muội một tay báo thù nhé!

Chương-Tấn nghe Lạc-Băng nói Văn-Thái-Lai bị ám hại thì ngơ ngác chẳng hiểu gì cả. Nhưng vốn là người nghĩa khí, bình sinh lại rất thân với vợ chồng Văn-Thái-Lai nên khi nghe Lạc-Băng nói như vậy thì chẳng cần đán đo hơn thiệt gì nữa, giơ ngay cặp song phủ lên mà nhắm đầu Châu-Trọng-Anh bổ xuống.

Trong tay Châu-Trọng-Anh không có một tấc sắt nào nên trong lúc bị tấn công bất ngờ, ông ta bèn nhảy lên mặt bàn đứng hét lên:

-Đừng nên vô cớ mà động thủ! Phải hỏi cho ra lễ đã chứ!

Nhưng Chương-Tấn đã tin lời Lạc-Băng nói nên chẳng buồn nghe lời Châu-Trọng-Anh khuyên giải, cứ việc nhắm Châu-Trọng-Anh mà chém tới. Châu-Trọng-Anh khẽ nhún hai vai, tung lên một cái trông chẳng khác gì một con chim ưng, tránh được những nhát búa của Chương-Tấn một cách dễ dàng. Sau đó Châu-Trọng-Anh nghiêng mình nhảy xuống đất rất nhẹ nhàng, thân pháp trông thật đẹp mắt.

Lúc này, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường nghe động đã chạy vào bên trong đại sảnh. Thấy Châu-Trọng-Anh tay không đứng trước một người gù cầm đôi song phủ đằng đằng sát khí, An-Kiện-Cường liền đem cây đại đao đến cho sư phụ.

Châu-Ỷ thấy cả Lạc-Băng lẫn Chương-Tấn không chịu nghe theo lẽ phải, vô cớ quấy rối Thiết-Đảm-Trang, lại dùng toàn những chiêu ác độc chực giết thân phụ mình thì tức đến ‘nổ đom đóm’, lớn tiếng gọi hai người đệ tử của cha mình:

-Mạnh đại ca! An nhị ca! Cái quân khốn nạn đê tiện, tàn bạo vô nhân đạo kia thật là khinh thường Thiết-Đảm-Trang của chúng ta thái thậm. Thân phụ em đã bao phen nhường nhịn mà chúng không biết điều chút nào cả, cứ làm già. Chúng ta hãy cùng hợp sức lại dạy cho chúng một bài học đi, đừng nhiều lời với chúng làm gì!

Nghe Châu-Ỷ nói, cả Mạnh-Kiện-Hùng lẫn An-Kiện-Cường gật đầu khen phải liền hợp sức với Châu-Ỷ, vây chặt Chương-Tấn lại mà đánh ráo riết.

Thật ra, cả Mạnh-Kiện-Hùng lẫn An-Kiện-Cường không biết Chương-Tấn là ai, mà cũng chẳng có thù oán gì với y. Nhưng lúc hai người bước vào trong đã được chứng kiến ngay cái cảnh Chương-Tấn cầm song phủ liên tiếp tấn công sư phụ liền sinh ra ác cảm với y ngay, cho rằng ‘gã gù’ này nếu không phải phường đạo tặc thì cũng là kẻ gian không có ý tốt. Giờ lại nghe Châu-Ỷ nói như vậy thì hai người không còn nghi ngờ gì nữa, quyết tâm phải cho y một trận nên thân mới hả giận.

Nước cờ bỗng đổi ngược. Từ thế công, Chương-Tấn bị đổi sang thế thủ. Ba người Thiết-Đảm-Trang liên thủ rất chặt chẽ nên Chương-Tấn phải chống đỡ luôn tay không lúc nào được rảnh rang. Vừa đỡ, Chương-Tấn vừa réo lên gọi:

-Thất ca! Mau vào đây mà bảo vệ Tứ tẩu! Ca ca mà chậm vào thì đệ sẽ lôi mười đời tổ tiên ca ca mà chửi đó!

Thì ra Võ-Gia-Cát Từ-Thiện-Hoằng nghe lời Triệu-Bán-Sơn đi theo trợ lực với Chương-Tấn. Khi đến Thiết-Đảm-Trang thì trời đã khuya. Từ-Thiện-Hoằng chủ ý muốn xử sự theo đúng luật giang hồ, định dùng lễ bái kiến trang-chủ Châu-Trọng-Anh trước nhưng chưa kịp lấy danh thiếp ra thì Chương-Tấn đã nóng nảy vào trước. Biết tính tình lỗ mãng của Chương-Tấn sợ y gây họa nên Từ-Thiện-Hoằng chỉ còn cách chạy theo. Trong thời gian ngắn ngủi như thế mà Chương-Tấn đã giao thủ với bốn người của Thiết-Đảm-Trang!

Nghe Chương-Tấn gọi, Từ-Thiện-Hoằng liền chạy vội vào bên trong đại sảnh, đến bên cạnh Lạc-Băng đứng bảo vệ. Thấy Từ-Thiện-Hoằng xuất hiện, Lạc-Băng mừng rỡ vô cùng. Nàng biết vị Thất đương-gia này túc trí đa mưu túc, nếu có mặt chàng ở đây ắt phe nàng không bị thiệt thòi.

Lạc-Băng buông lời vấn an vị đương gia thứ 7 của Hồng Hoa Hội xong liền chỉ mặt Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa nói:

-Thất ca! Hai tên này đã hại Tứ ca đó, đừng buông tha cho chúng!

Đổng-Triệu-Hòa cùng Vạn-Khánh-Nhuận khi ấy đang đứng xem hai bên hơn thua với nhau. Hai người bụng mừng thầm, cho rằng đám Hồng Hoa Hội sẽ thua. Nhưng dù cho bên Thiết-Đảm-Trang có thắng đo chăng nữa cũng khó mà tránh được thiệt hại. Tới chừng đó, chúng sẽ thừa cơ bắt cả đám đem về nạp cho triều đình ắt lập được đại công. Vạn-Khánh-Nhuận thì luôn luôn để ý đến trận đấu, thỉnh thoảng rỉ tai Đổng-Triệu-Hòa bàn tán. Nhưng cặp mắt láo liên cứ nhìn Lạc-Băng thèm thuồng mãi thì còn làm sao nghe được lời bàn của đồng bọn nữa!

Đang suy nghĩ vẩn vơ, Đổng-Triệu-Hòa bỗng giật mình khi thấy Từ-Thiện-Hoằng đứng trước mặt, tay cầm thanh cương đao sắng quắc. Đổng-Triệu-Hòa miệng đang há hốc thì thanh cương đao của Từ-Thiện-Hoằng đã nhắm đầu hắn chém xuống. Vạn-Khánh-Nhuận vội vàng đưa đại đao ra đỡ cho Đổng-Triệu-Hòa, và hét lớn:

-Hai đứa ta là người của Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương, tổng tiêu đầu Trấn-Viễn tiêu-cục, có can hệ gì tới các người mà phải gây sự với chúng ta! Các người cũng biết danh tiếng của Trấn-Viễn tiêu cục rồi chứ? Đừng dại dột mà đụng đến để rước họa vào thân!

Thấy Từ-Thiện-Hoằng dáng người thanh nhã, giống văn nhân hơn là võ tướng nên Vạn-Khánh-Nhuận mới lôi uy danh Vương-Duy-Dương và Trấn-Viễn tiêu-cục ra để ‘khủng bố tinh thần’.

Lúc bấy giơ tại Trung-Quốc, ngoài triều đình Mãn-Thanh ra, có hai thế lực mạnh nhất là Hồng Hoa Hội và Trấn-Viễn tiêu-cục. Hồng Hoa Hội và triều đình Mãn-Thanh đối đầu nhau bằng võ lực rõ rệt, nhưng Trấn-Viễn tiêu-cục luôn đứng trung lập, không theo ai mà cũng chẳng nghịch ai.

Tư thế trung lập rất có lợi cho Vương-Duy-Dương vì chẳng bên nào muốn làm mích lòng với Trấn-Viễn tiêu cục cả. Vì vậy mà công việc bảo tiêu của tiêu cục này luôn được trôi chảy, đã không ai dám đụng đến mà đôi khi lại còn được triều-đình Mãn-Thanh bảo vệ cho là đàng khác.

Cái lòng tham danh lợi của Vương-Duy-Dương còn nặng nên cho dù trên thực tế đã nghiêng hẳn về phe triều đình để tìm thêm cơ hội tiến thân nhưng lại không dám gây thù kết oán với Hồng Hoa Hội cho nên vẫn cố làm ra vẻ là mình đây luôn luôn đứng trung-lập.

Còn Châu-Trọng-Anh thì trên danh nghĩa, tuy rằng đứng trung-lập nhưng cảm tình lại nghiêng hẳn về những phe cách mạng chống triều đình tương tự như Hồng Hoa Hội.

Nói về cương lĩnh chính trị, Vương-Duy-Dương và Châu-Trọng-Anh thật sự không ưa nhau, nếu chưa muốn nói là đối nghịch với nhau. Tuy nhiên, cả hai bên đều húy kỵ nhau, không muốn đụng chạm. Vương-Duy-Dương dặn tất cả các tiêu đầu và tiêu sư của mình cho dù chuyện lớn hay nhỏ cũng không được gây sự với Thiết-Đảm-Trang, đồng thời Châu-Trọng-Anh cũng dạy con cái và đệ tử không được can thiệp vào công việc của Trấn-Viễn tiêu cục.

Nhưng không ngờ trong chuyến bảo tiêu này, món hàng mà Trấn-Viễn tiêu-cục nhận hộ tống an toàn về kinh-đô là Khả-Lan-Kinh của người Duy. Và do tình thế đưa đẩy, bọn tiêu sư Trấn-Viễn tiêu-cục đã hợp tác với Trương-Siêu-Trọng và đám quan triều đình, lại thêm Đổng-Triệu-Hòa vì say mê sắc đẹp của Lạc-Băng mà cam tâm đứng ra làm điềm chỉ viên, làm hại Văn-Thái-Lai bị bắt giải về kinh. Lạc-Băng sau đó một lòng căm thù Thiết-Đảm-Trang vì cho là Thiết-Đảm-Trang đã ngầm cấu kết với triều đình trong khi chủ ý Châu-Trọng-Anh muốn liên kết với Hồng Hoa Hội để thực hiện chí lớn, không bằng hình thức này thì cũng hình thức nọ.

Dù vô tình hay cố ý, Trấn-Viễn tiêu-cục cũng đã gây ra oán thù với Hồng Hoa Hội, lại kéo thêm cả Thiết-Đảm-Trang vào. Nếu là người trung lập bình thường thì khi bị bức hiếp đến đường cùng, ắt Châu-Trọng-Anh sẽ ‘trót thì trét’, mà trở cờ theo phe triều đình vì không còn đường nào lựa chọn. Nếu chuyện này xảy ra thì Hồng Hoa Hội mất đi một đồng minh đắc lực mà có thêm một kẻ thù lợi hại.

Nhưng Châu-Trọng-Anh là người sâu sắc, ông ta dù bị hiểu lầm cũng không vì thế mà đâm ra thù ghét Hồng Hoa Hội. Ông vẫn chờ cơ hội để giải bày mọi chuyện cho phân minh, vì biết nếu Thiết-Đảm-Trang và Hồng Hoa Hội thù ghét nhau, chém giết nhau thì rốt cuộc chỉ làm lợi cho triều đình Mãn-Thanh mà thôi.

Mà trong tình thế hiện tại, Trấn-Viễn tiêu-cục cho dù vô tình hay cố ý đã trợ lực với phe triều đình. Nếu Hồng Hoa Hội lại có thêm một cường địch thì công cuộc đấu tranh giành độc lập cho Hán-tộc sẽ gặp thêm nhiều trở ngại và khó khăn.

Mọi chuyện từ đầu đến cuối chỉ do một ‘bàn tay lông lá’ của tên tiêu sư Đổng-Triệu-Hòa gây nên. Vạn-Khánh-Nhuận hiểu rõ thời cuộc nên muốn nhân cơ hội này để ly gián Thiết-Đảm-Trang với Hồng Hoa Hội bằng cách đem vụ Văn-Thái-Lai mà xuyên tạc thêm, đổ hết trách nhiệm lên đầu Châu-Trọng-Anh, để Hồng Hoa Hội không chút nghi ngờ đến Trấn-Viễn tiêu-cục...

Mặc dầu Vạn-Khánh-Nhuận lôi Vương-Duy-Dương và Trấn-Viễn tiêu-cục để hăm họa, nhưng Từ-Thiện-Hoằng chẳng chút sợ hãi cứ tiếp tục vung đao nhắm Đổng-Triệu-Hòa mà chém tới. Đổng-Triệu-Hòa thất kinh, không ngờ một người dáng văn nhân như Từ-Thiện-Hoằng lại có một bản lãnh phi thường và sức mạnh đến thế. Hết đường chạy, Đổng-Triệu-Hòa bèn gắng sức chống cự. Nhưng chỉ sau vài hiệp, đường đao của Từ-Thiện-Hoằng đã áp đảo Đổng-Triệu-Hòa rõ rệt. Đổng-Triệu-Hòa vừa đánh cầm chừng, vừa lui dần, lui mãi.

Muốn giải quyết trận đấu cho lẹ, Từ-Thiện-Hoằng vung tay trái lên theo thế ‘Bàn chẩu thích trát’, còn tay mặt thì ‘vớt trái’ Đổng-Triệu-Hòa nhanh như điện xẹt. Đổng-Triệu-Hòa nhảy sang bên trái, tránh thoát được nhưng Từ-Thiện-Hoằng lanh lẹn dùng chân gạt nhẹ một cái ngay gót chân Đổng-Triệu-Hòa khiến y ngã bò càng lăn ra đất. Từ-Thiện-Hoằng định giáng xuốn một đao kết liễu táng mạng Đổng-Triệu-Hòa thì nghe sau lưng có tiếng gió vụt tới. Chưa kịp quay đầu lại ngó thì thấy có bóng người liều mạng nhảy tới cắp Đổng-Triệu-Hòa bỏ trên vai cõng chạy như bay. Người đó chính là Vạn-Khánh-Nhuận.

Từ-Thiện-Hoằng liền cấp tốc rượt theo. Chỉ mấy bước, chàng đã bắt kịp Vạn-Khánh-Nhuận. Biết chạy không khỏi, Vạn-Khánh-Nhuận liền tạm bỏ Đổng-Triệu-Hòa xuống đất, rút cây Đối-tân Thiết điểm-cương xuyên, quay lại nghênh chiến. Vũ khí này, con nhà võ thường gọi tắt là cương-xuyên. Vạn-Khánh-Nhuận đã khổ luyện món binh khí này trên mấy chục năm.

Bản lãnh của Vạn-Khánh-Nhuận thật là vượt bực, trên Đổng-Triệu-Hòa rất xa. Khi mới được tuyển, ban sư về kinh, Vạn-Khánh-Nhuận đã một mình trổ tài hạ trên mấy mươi cao thủ lừng danh nên được vua Càn-Long mến tài bổ dụng y vào vương-phủ làm chứ Tổng-Giáo-Tập tức là đứng đầu đám võ sư huấn luyện cho đội cảm-tử ‘Thiết đảm quân’ của triều đình. Đội Thiết đảm quân (#1) là ưu binh của vua Càn-Long, còn được trọng dụng nhiều hơn cả đám Ngự-lâm quân và đám Cẩm-y thị-vệ nữa. Đội quân này chỉ dùng để lăn mình vào những chỗ tối hiểm để bảo vệ tánh mạng cho nhà vua.

Trong lần đi bắt Văn-Thái-Lai vừa rồi, Trịnh-Thân-Vương cho Vạn-Khánh-Nhuận đi theo giúp sức Trương-Siêu-Trọng để lập ít công trạng mà mượn cớ thăng cho y một chức tước thật lớn để các võ tướng khỏi ganh tị rằng y sở dĩ tiến thân là chỉ nhờ vào ‘bảng võ lao đắc thưởng’. (#2)

Vạn-Khánh-Nhuận cùng Từ-Thiện-Hoằng, một cương đao, một cương xuyên đánh qua đánh lại thật dữ dội, giao chiến đến mấy chục hiệp vẫn không phân thắng bại. Chiêu thức của Vạn-Kháng-Nhuận dũng mãnh, còn của Từ-Thiện-Hoằng lại mềm dẻo, hai lối đánh tương phản nhưng đều lợi hại như nhau.

Vạn-Khánh-Nhuận vừa đánh vừa nóng lòng như lửa đốt. Y biết trận đấu càng kéo dài bao nhiêu, phần bất lợi càng về phía hắn bấy nhiêu. Y muốn mau mau hạ Từ-Thiện-Hoằng cho sớm để mang Đổng-Triệu-Hòa tẩu thoát nhưng đánh mãi mà không áp đảo nổi Từ-Thiện-Hoằng nửa thế. Y quát lên một tiếng, dùng cây cương-xuyên nhắm ngay bụng Từ-Thiện-Hoằng đâm một cái thật mạnh. Từ-Thiện-Hoằng chẳng cần né tránh, khẽ đưa cương đao ra gạt mạnh mũi cương-xuyên qua một bên. Hai binh khí chạm nhau nẩy lửa, Vạn-Khánh-Nhuận bị sức chấn dội lại ê ẩm cả châu thân. Y vội vã thu nhanh ngọn cương-xuyên lại, dùng thế ‘Khổng tước khai binh’ nhắm ngay sọ của Từ-Thiện-Hoằng mà bổ xuống. Từ-Thiện-Hoằng khẽ lách sang một bên, sau đó đưa cương đao lên chém gạt ngọn cương-xuyên qua một bên. Nhanh như chớp, Vạn-Khánh-Nhuận liền chuyển sang thế ‘Bá-Vương quải giáp’ chém sả vào bả vai Từ-Thiện-Hoằng.

Lần này, Từ-Thiện-Hoằng không dùng cương đao để đỡ mà khẽ lách người sang một bên để né tránh. Mũi cương chỉ cách người chàng chừng vài phân, mười phần cực kỳ nguy hiểm. Tuy không khiếp nhược, Từ-Thiện-Hoằng cũng phải thầm phục bản lãnh của Vạn-Khánh-Nhuận. Trong giới giang hồ hiện tại, thật không có mấy người có được bản lãnh như y. Nếu kể về sức lực thì Vạn-Khánh-Nhuận hơn hẳn Từ-Thiện-Hoằng. Nhưng nếu kể về nhanh nhẹn và sử dụng chiêu thức tinh vi thì Từ-Thiện-Hoằng lại trội hơn Vạn-Khánh-Nhuận. Vì ít dùng sức hơn nên Từ-Thiện-Hoằng càng đánh lâu càng dẻo dai, trong khi Vạn-Khánh-Nhuận càng mệt mỏi.

Vạn-Khánh-Nhuận bỗng nhảy vọt ra ngoài trận đấu, đứng thủ thế, mà cũng lợi dụng cơ hội để nghỉ ngơi dưỡng sức. Từ-Thiện-Hoằng khẽ đảo mắt nhìn quanh rồi bất thình lình chém một cương đao vào ngay đầu Vạn-Khánh-Nhuận. Nhát đao quá lợi hại, Vạn-Khánh-Nhuận tránh không kịp liền đưa cương-xuyên lên đỡ. Không ngờ đó chỉ là một hư chiêu! Vạn-Khánh-Nhuận vừa đưa ngọn cương xuyên lên trên thì sợi thiết chiêu phía dưới tay Từ-Thiện-Hoằng đã tới giữa mặt y. Không còn cách nào chống đỡ cho kịp, Vạn-Khánh-Nhuận đành phải dùng thế ‘Thiết bảng kiều’ lộn ngược ra sau.

Vạn-Khánh-Nhuận tuy thoát nạn nhưng không khỏi hú hồn. Thiếu chút nữa là y bị nát mặt rồi! Mồ hôi tuôn ra như tắm, Vạn-Khánh-Nhuận không còn dám thị cường nữa, mà khiếp sợ đến bủn rủn cả tay chân. Y chỉ còn cố mà đỡ đòn, giữ cho không bị nguy hiểm tới tánh mạng thôi chứ không dám nghĩ đến chuyện tấn công nữa.

Ở đầu kia, Chương-Tấn một mình dấu với ba người rất hăng, mặc dù trong thế thủ nhưng vẫn giữ được thế quân bình. Mạnh-Kiện-Hùng thấy không thể hạ ngay được Chương-Tấn bèn gọi An-Kiện-Cường nói:

-Nhị đệ! Ngươi để ta với sư muội đối phó tên đạo tặc này được rồi. Ngươi tức tốc ra chỉ huy bọn gia nhân tráng đinh giữ kín cửa nẻo đừng cho đồng bọn của chúng kéo vào tiếp viện nghe!

Châu-Ỷ thấy vậy cũng nói thêm:

-Phải đấy! Nhị ca mau theo lời đại ca mà thi hành đi. Để ‘thằng gù’ đó cho em với đại ca là được rồi. Thật sự chỉ cần một mình em cũng đủ rồi, có gì mà sợ?

Bình sinh Chương-Tấn rất ghét những người nào đem tật nguyền của hắn ra mà đùa giỡn chứ đừng nói là chế nhạo hay chửi rủa. Vì vậy vừa nghe xong chữ ‘thằng gù’ thì mặt đỏ tía tai, nộ khí xung thiên, hét lên một tiếng như hổ gầm, cầm hai búa bổ xuống đầu Châu-Ỷ một lượt. Mạnh-Kiện-Hùng thấy vậy cùng hợp sức với Châu-Ỷ mà gạt hai đường búa ‘thiên lôi’ kia sang một bên rồi cả hai người cùng phản công lại kịch liệt. An-Kiện-Cường nhờ đó mà nhảy ra được khỏi trận, ra ngoài thực hiện công tác Mạnh-Kiện-Hùng vừa giao phó.

Châu-Trọng-Anh khi ấy đột nhiên lớn tiếng gọi:

-Xin quý vị hãy tạm thời đình thủ cho lão phu được một lời biện giải!

Ông ta vừa dứt lời thì Mạnh-Kiện-Hùng và Châu-Ỷ cùng nhau thu binh khí lại, lui ra sau mấy bước. Từ-Thiện-Hoằng cũng noi gương, lui lại một bước mà dừng tay rồi quay qua bảo Chương-Tấn:

-Chương Thập đệ hãy nghe lời ta mà tạm dừng tay lại đã. Cứ thử xem họ nói gì cái đã rồi đánh sau cũng chưa muộn mà!

Chương-Tấn như chẳng thèm để ý đến lời nói của chàng ta, cứ tiếp tục múa cặp song phủ mà giáng bừa xuống. Từ-Thiện-Hoàng định nhảy tới ngăn cản thì không ngờ Vạn-Khánh-Nhuận thừa cơ xuất kỳ bất ý đánh thẳng ngọn cương xuyên vào chỗ nhược sau lưng Từ-Thiện-Hoằng. Vì không phòng bị trước cho nên Thất đương-gia dù có muốn tránh cũng không còn kịp được nữa. Nhưng cũng may là cương xuyên của Vạn-Khánh-Nhuận chỉ trúng vai nên không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng. Dù vậy, Từ-Thiện-Hoằng cũng cảm thấy đau nhức khôn tả. Thất đương-gia cả giận nhảy ra sau mắng:

-Quân khốn nạn, giở trò đánh lén thật đê tiện! Thì ra Thiết-Đảm-Trang các ngươi kêu ta dừng tay lại là để thi hành quỷ kế ám hại ta. Được lắm! Thế thì càng tốt!

Sở dĩ Từ-Thiện-Hoằng thốt lên lời thóa mạ Thiết-Đảm-Trang như vậy vì lầm tưởng Vạn-Khánh-Nhuận là đệ tử của Châu-Trọng-Anh chứ có biết đâu y là người của Trấn-Viễn tiêu-cục. Từ-Thiện-Hoằng vốn là người điềm tĩnh, chỉ vì bị Vạn-Khánh-Nhuận đánh lén trong lúc Châu-Trọng-Anh kêu dừng tay nên cho là đây là ngụy kế của Thiết-Đảm-Trang. Từ-Thiện-Hoằng nhìn Vạn-Khánh-Nhuận với cặp mắt căm thù, cầm đao xông lại đánh chém y liên tục như quyết một mất một còn với kẻ ra tay đánh lén mình.

Trong lúc quá giận dữ, Từ-Thiện-Hoằng sử dụng đến ‘Ngũ hổ đoạn môn đao’ mà tấn công Vạn-Khánh-Nhuận tới tấp. Dù vậy, vết thương nơi vai cũng có ảnh hưởng nhiều cho nên uy lực của đao pháp Từ-Thiện-Hoằng bị giảm đi khá nhiều. Do đó mà Vạn-Khánh-Nhuận đón đỡ tuyệt chiêu của chàng không đến nỗi khó khăn lắm.

Đổng-Triệu-Hòa lúc đó cũng đã bớt đau nhiều, và đã đứng dậy được. Đôi mắt hắn dánh chặt vào Lạc-Băng không rời, với một vẻ thèm thuồng, khao khát lạ thường. Lạc-Băng thấy vậy cả giận, sẵn tay phóng cho hắn một ngọn phi đao. Đổng-Triệu-Hòa hốt hoảng nhảy lên bàn tránh khỏi, nhìn Lạc-Băng nham nhở nói:

-Nương tử ơi! Chồng của em đã bỏ xác rồi, còn nghĩ đến hắn nữa làm gì! Chi bằng tái giá mới Đổng lão gia đây cho rồi! Nương tử mà lấy Đổng-Triệu-Hòa này ắt muốn gì được nấy, khỏi phí đi tuổi thanh xuân còn đang phơi phới. Đừng mãi lạnh lùng mà khổ lòng kẻ si tình này lắm nghe cưng!

Vẫn biết chỉ là một câu nói chọc ghẹo, nhưng đang lúc Lạc-Băng lo cho Văn-Thái-Lai không biết mấy nên chỉ nghe như vậy là đủ cho nàng đau lòng rồi. Hình ảnh Văn-Thái-Lai bị Trương-Siêu-Trọng giết chết bỗng như hiện ra khắp nơi. Lạc-Băng kinh hãi la lên một tiếng, chân tay bủn rủn ngã lăn ra đất mà chết giấc.

Thấy Lạc-Băng té xỉu xuống đất, Đổng-Triệu-Hòa hết sức vui mừng, nghĩ rằng phen này sẽ được một phen gần gủi với thân hình ngự xạ của người yêu trong mộng nên vội vàng từ trên bàn nhảy xuống, chạy lại gần sát bên. Hắn toan cúi xuống ôm Lạc-Băng vào lòng rồi đặt một loạt hôn lên má thì Châu-Trọng-Anh cầm cây kim bội đại đao nhảy tới đứng trước mặt hắn.

Thấy Đổng-Triệu-Hòa toan dở thói hèn mọn đê tiện nên Châu-Trọng-Anh giận lắm, định tâm ngăn cản hắn lại không cho xâm phạm vào tiết hạnh của Lạc-Băng thôi, chứ chủ tâm cũng không muốn giết hắn làm gì. Chẳng ngờ dục tính của Đổng-Triệu-Hòa đã lên đến độ cuồng nhiệt nên không còn biết sợ là gì nữa, cho nên dù thấy đại đao của Châu-Trọng-Anh trước mắt y cũng chẳng xem vào đâu.

Châu-Trọng-Anh cả giận, toan chém xuống một đao để lấy mạng con người dâm tặc toan dở thói súc sinh ấy, bỗng nghe sau lưng có tiếng hét thật lớn:

-Lão tặc! Mi định giết Tứ tẩu của ta à? Ta quyết không dung mạng cho mi đâu!

Một bóng người từ đâu xông tới, tay cầm song câu nhảy tới tấn công Châu-Trọng-Anh, một ngọn nhắm vào yết hầu, còn một ngọn nhắm vào hạ bộ, là hai ‘tối nhược huyệt’ (#3) trên cơ thể con người. Châu-Trọng-Anh liền dùng kim đao đỡ trên, gạt dưới, đánh bạt song câu qua một bên.

Lùi lại sau một bước, Châu-Trọng-Anh có dịp quan sát người này kỹ lưỡng hơn. Đó là một hán-tử mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, mắt mũi khôi ngô, diện mạo tuấn tú, mới trông qua đã có cảm tình. Ông liền cất tiếng hỏi:

-Tráng sĩ là ai? Xin cho được rõ cao danh quý tánh.

Người này không trả lời Châu-Trọng-Anh mà chỉ quan tâm đến Lạc-Băng. Nhìn thấy mặt của Lạc-Băng trắng toát thì chợt kinh hãi liền đặt tay lên mũi nàng mà khám nghiệm thử. Nghe thấy còn hơi thở, chàng ta vội ẵm Lạc-Băng dậy, đặt nàng trên ghế ngồi dựa vào tường, đồng thời lại nhặt Uyên-Ương Đao mà dựng kế bên.

Châu-Trọng-Anh thấy phe Hồng Hoa Hội càng lúc đến tiếp viện càng đông, lại không thể dùng lời mà khuyên giải được thì trong bụng lấy làm lo lắng vô cùng, mà chưa biết phải xoay sở ra làm sao. Bỗng đâu nghe tiếng đao kiếm chạm vào nhau liên tục, rồi An-Kiện-Cường, nhị đệ tử của Châu-Trọng-Anh cầm cây đao gãy vừa đánh vừa lui dần vào bên trong. Rồi một người cao lớn vạm vỡ tay cầm cây roi đồng nặng đến sấp xỉ 50 cân, đánh An-Kiện-Cường không kịp thở. Người đệ tử thứ hai của Thiết-Đảm-Trang chỉ còn đủ sức đỡ, vừa đánh cầm chừng vừa lui. Chợt người cầm cây roi đồng tung ra một thế thật hiểm ác. An-Kiện-Cường vứt thanh đao gãy, quơ lấy một chiếc ghế đưa lên đỡ. Chiếc ghế vừa bị ngọn roi đồng đánh trúng liền vỡ nát ra từng mảnh vụn văng tứ tung. An-Kiện-Cường lúc đó hình như đã kiệt sức nên từ từ ngã quỵ xuống. Từ-Thiện-Hoằng vừa nhìn thấy người cầm roi đồng thì reo lên:

-Bát đệ, Cửu đệ! Hôm nay chúng ta phải giết cho kỳ hết bọn Thiết-Đảm-Trang mới trả được hết mối cừu hận. Mau giúp ngu huynh và Thập đệ.

Người cao lớn vạm vỡ dùng cây roi đống là Thiếp-Tháp Dương-Thanh-Hiệp, đứng vào hàng thứ 8 trong Hồng Hoa Hội, còn người hình dáng thanh nhã lúc nãy là Cẩm-Báo-Tử Vệ-Xuân-Hoa, đứng vào hàng thứ 9. Đây là cặp viện binh thứ hai của Hồng Hoa Hội, sau cặp thứ nhất là Chương-Tấn và Từ-Thiện-Hoằng...

Hai người tới Thiết-Đảm-Trang vào khoảng nửa đêm. Nhìn Thiết-Đảm-Trang đèn đuốc sáng chưng như ban ngày, hai người đã lấy làm lạ. Dưới ánh đèn là những tráng đinh mạnh khỏe, tay cầm vũ khí chẳng khác gì một đạo binh phòng vệ kỹ lưỡng, sẵn sàng ứng chiến với kẻ thù xâm nhập để bảo vệ sơn trang. Thấy vậy, Vệ-Xuân-Hoa bèn giục ngựa đến trước ngõ nói lớn:

-Chúng tôi đây, hai người Dương-Thanh-Hiệp và Vệ-Xuân-Hoa của Hồng Hoa Hội xin được bái kiến Châu lão anh-hùng, trang-chủ Thiết-Đảm-Trang. Mong các anh em vào thông báo hộ cho.

An-Kiện-Cường chỉ huy đám gia nhân tráng đinh của Thiết-Đảm-Trang canh phòng cẩn mật, nghe nói đến tên Hồng Hoa Hội thì trong bụng hết sức lo lắng. Chàng vốn được lệnh đại ca Mạnh-Kiện-Hùng phải giữ chặt cửa ngõ không cho viện binh Hồng Hoa Hội vào. Vì vậy, An-Kiện-Cường chẳng nói chẳng rằng, ra lệnh cho mấy mươi tráng đinh Thiết-Đảm-Trang dàn trận tấn công hai người Dương-Thanh-Hiệp cùng Vệ-Xuân-Hoa.

Nhưng hai người Bát đương-gia và Cửu đương-gia chẳng khác hai con hổ ở giữa đàn dê. Chỉ trong ít hiệp đã đánh tan thế trận của An-Kiện-Cường không mấy khó. Biết không thể ngăn cản nổi hai người, An-Kiện-Cường hô lớn gọi:

-Buông tên mau!

Thế là trên 40 tráng đinh trong đạo quân xạ thủ Thiết-Đảm-Trang được Châu-Trọng-Anh rèn luyện rất thuần thục nhằm mục đích bảo vệ sơn trang, theo lệnh của An-Kiện-Cường đồng buông tên một lượt.

Vệ-Xuân-Hoa và Dương-Thanh-Hiệp thấy vậy giận dữ vô cùng, nhưng chẳng chút nao núng sợ hãi. Hai người cùng rút binh khí ra gạt từng loạt tên xuống đất nằm như rạ. An-Kiện-Cường nhìn thủ pháp vừa cao siêu vừa dũng mãnh của hai người mà kinh ngạc vô cùng. Quả thật đây là lần đầu tiên có người sống sót được dưới trận tên của Thiết-Đảm-Trang, mà lại xem như một trò đùa.

Bọn tráng đinh bắn hết tên rồi mà vẫn không làm gì được hai người nên kinh hãi quá, vứt cả cung nỏ mà bỏ chạy tán loạn. An-Kiện-Cường thấy không xong bèn tuốt đao ra đứng chặn hai người lại, không cho bước vào trong. Nhiều tên tráng đinh giữ nhiệm vụ canh gác cũng nhất tề xông lên trợ lực An-Kiện-Cường.

Vệ-Xuân-Hoa chẳng nói chẳng rằng một mình xông ra cản bọn tráng đinh trong khi Dương-Thanh-Hiệp vung cây roi đồng tấn công vùn vụt, nhắm An-Kiện-Cường mà đánh tới.

An-Kiện-Cường không dám khinh xuất mà ngang nhiên đón đỡ. Chàng chạy quanh, nhảy qua, lộn lại, một mực tránh né những chiêu thức hết sức hiểm ác của Dương-Thanh-Hiệp, chỉ trừ khi nào không tránh được mới cố gượng sức mà đỡ thôi. Tuy không to lớn vạm vỡ và có được sức mạnh như Dương-Thanh-Hiệp, nhưng nhờ được Châu-Trọng-Anh chân truyền bản lãnh nên đao pháp của chàng rất tinh thông. Mặc dù ở trong thế thủ, nhưng An-Kiện-Cường vẫn lừa thế đợi chờ cơ hội để phản công.

Dụ được Dương-Thanh-Hiệp ra chỗ rộng rãi, An-Kiện-Cường lẹ tay chém một nhát lên đầu. Với kinh nghiệm chiến trường đầy mình, Dương-Thanh-Hiệp biết ngay đó chỉ là một hư chiêu. An-Kiện-Cường nhử cho chàng lo đỡ phía trên rồi sẽ bất thần chuyển đao chém xuống bụng.

Vì thế, Dương-Thanh-Hiệp bèn ‘tương kế tựu kế’ giả hốt hoảng đỡ trên. Quả nhiên, An-Kiện-Cường chuyển đao thật lẹ hăm hở chém vào phía dưới bụng Dương-Thanh-Hiệp. Chỉ đợi có thế, Dương-Thanh-Hiệp đưa cây roi đồng đập ‘chát’ một cái ngay đao thật mạnh khiến An-Kiện-Cường dội ra sau mấy bước.

Thấy kế hoạch thất bại, An-Kiện-Cường bỏ chạy để cho Dương-Thanh-Hiệp rượt theo. Lần này, An-Kiện-Cường thình lình dùng thế ‘Đà đao’ chém quặt lại. Dương-Thanh-Hiệp đã đề phòng trước nên tránh né kịp thời. An-Kiện-Cường sau đó bồi tiếp hai thế là ‘Sát thủ giản’ và ‘Hồi mã thương’ vô cùng độc đáo và nguy hiểm. Dương-Thanh-Hiệp liền biến ra một thế ‘Hoành tảo thiên quân’ đánh vẹt lưỡi đao của An-Kiện-Cường qua một bên.

Hai binh khí chạm nhau thật mạnh đến tóe lửa. An-Kiện-Cường cảm thấy hổ khẩu mình như muốn toạc ra, ê ẩm cả mình mẩy lẫn tứ chi, lảo đảo như muốn té. Cây đao trên tay chàng không giữ nổi, văng tuốt ra xa.

Chờ cho An-Kiện-Cường định thần lại đâu đó xong xuôi, Dương-Thanh-Hiệp mới nhún hai chân nhảy qua vách thành mà vào phía bên trong. Vệ-Xuân-Hoa sau đó cũng búng mình nhảy qua, theo gót Dương-Thanh-Hiệp.

An-Kiện-Cường thấy thế vội vàng rượt theo quyết ngăn cho được hai người. Dù biết người biết ta, An-Kiện-Cường thầm nghĩ không thể để cho hai người này vào giúp sức đồng bọn được, sẽ vô cùng nguy hại cho phe Thiết-Đảm-Trang của mình.

Thiết-Đảm-Trang hiện tại cùng lắm chỉ có được bốn cao thủ là Châu-Trọng-Anh, Châu-Ỷ, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường. Còn về phía Hồng Hoa Hội bên trong đã có Từ-Thiện-Hoằng, Chươn-Tấn và Lạc-Băng. Còn Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa dù có hợp lực với Hồng Hoa Hội hay không thì cũng là cường địch phải đối phó. Giờ Hồng Hoa Hội lại có thêm Dương-Thanh-Hiệp và Vệ-Xuân-Hoa đến tiếp viện, và An-Kiện-Cường biết chắc chắn thế nào cũng còn kéo thêm người đến nữa. Đó là chưa nói đến phe Trấn-Viễn tiêu cục với phe triều đình. Vì vậy, An-Kiện-Cường chẳng chút đắn đo, không còn coi mạng sống của mình là quan trọng nữa. Chàng liều chết ngăn cản hai người.

Sự thật chỉ cần một người là dư sức hạ được An-Kiện-Cường rồi, huống chi là hai! Dương-Thanh-Hiệp và Vệ-Xuân-Hoa vừa đánh vừa đẩy lui An-Kiện-Cường. Hai người vốn chẳng có ác ý với An-Kiện-Cường nên chỉ đánh vừa đủ cho người đệ tử thứ hai của Thiết-Đảm-Trang phải lùi lại để tiến dần vào bên trong thôi chứ thậm chí còn không muốn đả thương nữa chứ nói chi là hại mạng.

Có lẽ An-Kiện-Cường cũng hiểu điều đó. Nếu bình thường chắc chàng đã bỏ chạy, hoặc dừng tay lại để tạ ơn hai người dã nương lưu tình. Nhưng nghĩ việc này có liên quan đến sự an nguy và bao nhiêu sinh mạng của Thiết-Đảm-Trang nên chàng không còn nghĩ đến thân mình nữa. Vạn nhất có điều không may xảy ra, chàng tự cho rằng mình là người phải gục trước hết. Tóm lại, nếu còn một hơi thở, An-Kiện-Cường còn bảo vệ sơn trang đến cùng. Chống đỡ một hồi, đao của An-Kiện-Cường bị Dương-Thanh-Hiệp đánh gãy làm đôi, thế nhưng chàng vẫn cầm nửa thanh đao gãy mà chống cự...

Châu-Trọng-Anh kinh hãi, trong lòng nghĩ thầm:

-Quái lạ thật! Sao bọn Hồng Hoa Hội mỗi lúc một đông thêm, mà võ gnhệ tên nào tên nấy đều ghê gớm cả như vậy?

Lúc đó An-Kiện-Cường đã đứng dậy được, chụp một cái ghế khác toan nhảy lại liều mạng. Châu-Trọng-Anh thấy thế vội quát lớn:

-Đồ nhi! Mau dừng tay lại! Không được liều mạng làm càn!

Nghe sư phụ nói vậy thì An-Kiện-Cường lập tức dừng lại đứng yên chờ lệnh. Nhìn đứa đồ đệ của mình mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi, dáng người hết sức thểu não, Châu-Trọng-Anh thương xót chẳng cùng. Ông thầm nghĩ giá con trai mình mà có chút nghĩa khí như đứa học trò này thì cho dù chết ông cũng vui lòng để nhắm mắt. Hướng về đám người Hồng Hoa Hội, Châu-Trọng-Anh nói:

-Các vị anh-hùng Hồng Hoa Hội! Xin dừng tay lại cho lão phu được trình bày một đôi lời.

Dương-Thanh-Hiệp cùng Vệ-Xuân-Hoa thấy thế vội dừng tay lại. Nhưng Từ-Thiện-Hoằng chợt la lớn lên:

-Phải tiểu tâm (#4)! Coi chừng mắc kế xảo quyệt!

Từ-Thiện-Hoằng vừa dứt lời thì quả nhiên cây cương xuyên của Vạn-Khánh-Nhuận từ đâu quất tới, nhắm thẳng vào mặt Vệ-Xuân-Hoa. Vạn-Khánh-Nhuận sợ Hồng Hoa Hội và Thiết-Đảm-Trang liên kết với nhau thì hắn và Đổng-Triệu-Hòa sẽ nguy tai. Vì vậy, hắn quyết không để cho bên nào có cơ hội đàm phán với nhau. Thấy Hồng Hoa Hội đã nghi phe hắn và Thiết-Đảm-Trang đã cấu kết với nhau nên hắn càng muốn nhân cơ hội để tiếp tục kế ly gián.

Vệ-Xuân-Hoa tuy dừng tay nhưng mắt luôn luôn đề phòng chung quanh. Vì vậy, cương xuyên của Vạn-Khánh-Nhuận vừa đánh tới chàng chỉ đứng yên một chỗ mà chẳng thèm né tránh hay lui lại, dùng song câu của mình phóng ra, vừa đỡ vừa phản công. Vạn-Khánh-Nhuận không ngờ địch thủ ra tay thần tốc như vậy, cương xuyên của hắn vừa chạm vào song câu của Vệ-Xuân-Hoa đã thất cánh tay như tê chồn lại. Vừa kịp thâu cương xuyên về thì saong câu đã nhắm vào người hắn đánh tới. Vạn-Khánh-Nhuận phải nhảy lùi lại đàng sau mấy bước mới tránh được nguy hiểm.

Khi ấy Từ-Thiện-Hoằng đã cứu tỉnh được Lạc-Băng liền đưa tay chỉ vào mặt Châu-Trọng-Anh mà mắng rằng:

-Lâu nay trong giới giang hồ đều đồn rằng Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh là người đại nhân đại nghĩa, quý bằng hữu hơn châu báu, xem nghĩa khí hơn tánh mạng. Nhưng ngờ đâu nay gặp mặt thì mới biết mi chỉ là phường độc ác bất lương, tiển nhân hèn hạ. Mi không dám công khai giao đấu mà chỉ dùng ngụy kế để ám hại đối phương. Đâu có thứ anh-hùng nào đê tiện như vậy!

Châu-Trọng-Anh biết Từ-Thiện-Hoằng hiểu lầm, nhưng nghe những lời nhục mạ quá đáng ấy thì ông ta cực kỳ uất ức. Châu-Trọng-Anh đã hết sức kiên nhẫn, trước sau vẫ cố giữ lấy thái độ hòa nhã. Nhưng sức chịu đứng con người chỉ có giới hạn. Ông ta giận dữ nhìn Từ-Thiện-Hoằng nói hét lên:

-Bọn Hồng Hoa Hội các người thật là khinh người thái thậm! Bộ chúng bây tưởng Châu-Trọng-Anh này sợ chúng bây đó hả? Còn ngươi là cái thá gì mà dám buông những lời vô lễ mục hạ vô nhân đến thế? Thật ta chứ thấy ai hồ đồ, lỗ mãng như ngươi! Thế mà cũng lên được chức đương-gia trong hội à!

Nói xong, Châu-Trọng-Anh hét lên một tiếng như hổ gầm như không còn chịu đựng được nữa. Ông ta cởi áo ngoài đưa cho An-Kiện-Cường cầm lấy rồi nói như thách thức:

-Đồ nhi! Mau lui ra! Để ta thử sức với đám người vô lại, không biết lẽ phải, chỉ biết ỷ mạnh hiếp yếu này xem bản lãnh chúng đến đâu mà dám lớn lối tự vỗ ngực xưng tên là anh hùng hào kiệt, không coi ai ra gì cả, muốn nói sao thì nói!

Xoay qua mấy nguời Hồng Hoa Hội, ông ta nổi trận lôi đình, không còn dùng lời nói hòa nhã như khi nãu nữa:

-Còn đám Hồng Hoa Hội kia! Chúng bây muốn một đấu một hay là cùng nhau xông cả lại mà tiến lên một lượt đều được hết!

Nói xong Châu-Trọng-Anh cầm đại đao bước tới thủ thế, chuẩn bị ứng chiến. Mặc dù mới đến và đã đụng độ An-Kiện-Cường cùng với đám người Thiết-Đảm-Trang, Dương-Thanh-Hiệp vẫn thấy có điều gì bí ẩn bên trong vụ này mà chưa nghĩ ra được. Giờ lại được chứng kiến cử chỉ uất ức, thái độ giận dữ của Châu-Trọng-Anh, chàng lại càng nghi ngờ thêm nhiều nữa. Nghĩ vậy Dương-Thanh-Hiệp một mình tiến ra định nói vài lời. Nhưng Châu-Trọng-Anh tưởng chàng bước ra thi đấu nên ông ta lên tiếng trước:

-Tôn giá là ai? Xin cho lão phu được biết danh tánh.

Thấy Châu-Trọng-Anh râu tóc bạc phơ, tướng mạo hiên ngang, trông oai phong lẫm liệt, Dương-Thanh-Hiệp bỗng sinh lòng ngưỡng mộ, không dám khinh mạn. Chàng vòng tay lễ phép thưa:

-Thưa lão tiền bối! Kẻ hậu sinh đây là Thiết-Tháp Dương-Thanh-Hiệp...

Dương-Thanh-Hiệp chưa kịp nói thêm điều gì thì Lạc-Băng đã gọi lớn, ‘tru tréo’:

-Bát ca! Hơi sức đâu mà nói chuyện phải trái với hắn! Lão già này đã bày độc kế ám hại Văn tứ ca đó!

Câu nói Lạc-Băng vừa chấm dứt thì Vệ-Xuân-Hoa đang đánh với Vạn-Khánh-Nhuận liền bỏ dở trận đấu, múa song câu nhảy lại nhắm bụng Châu-Trọng-Anh đánh tới.

Châu-Trọng-Anh ung dung vận nội lực vào hai cánh tay, dùng đại đao quạt ngang vào song câu của Vệ-Xuân-Hoa một cái. Toàn thân Vệ-Xuân-Hoa bị rúng động, hai cánh tay như tê hẳn lại. Chỉ qua một chiêu thử sức, Vệ-Xuân-Hoa đã biết ngay đối thủ của chàng là một nhân vật phi phàm, võ công tuyệt đỉnh hơn mình rất xa. Tuy nhiên, vốn là người dũng cảm, chưa bao giờ biết khiếp sợ, không coi cái chết vào đâu cả, nên Vệ-Xuân-Hoa tiếp tục tiến lên, dùng song câu tấn công không ngừng.

Dương-Thanh-Hiệp thấy Vệ-Xuân-Hoa tấn công Châu-Trọng-Anh thì trong bụng than thầm. Chàng định tìm lời lẽ hỏi cho ra sự tình thì Lạc-Băng lại xen vào và Vệ-Xuân-Hoa chưa chịu tìm hiểu lý lẽ đã ra tay! Mới một chiêu đầu, chàng dư biết Vệ-Xuân-Hoa không phải là đối thủ của Châu-Trọng-Anh. Nhưng vì có phần nể trọng vị trang chủ Thiết-Đảm-Trang nên chàng lại không muốn hợp sức với Vệ-Xuân-Hoa để làm chuyện rắc rối thêm. Nhìn hai bên trao đổi vài hiệp, Dương-Thanh-Hiệp thấy ngay Châu-Trọng-Anh không có ý sát hại Vệ-Xuân-Hoa lại càng yên tâm. Nhìn Vạn-Khánh-Nhuận đứng nhìn trận chiến với vẻ đắc ý, Dương-Thanh-Hiệp không nhịn được bèn xoay qua tấn công hắn. Chàng vốn đã khinh thường Vạn-Khánh-Nhuận từ lúc hắn đánh lén định ám hại Vệ-Xuân-Hoa, giờ lại thấy hắn nhìn trận ác chiến ra chiều thỏa mãn thì bỗng hiểu thêm được vài phần nên quyết định nhảy vào đánh với hắn một phen.

Đầu kia, Chương-Tấn một mình đấu với Mạnh-Kiện-Hùng một lúc khá lâu mà vẫng chưa phân thắng bại. Lúc ấy An-Kiện-Cường đã lấy lại được sức lực sau một hồi lâu nghỉ mệt nên một tay lau mồ hôi, một tay rút cây đao khác trong giá ra rồi nhảy vào hợp sức với Mạnh-Kiện-Hùng và Châu-Ỷ cùng đánh Chương-Tấn.

Từ-Thiện-Hoằng đứng hồi lâu quan sát, biết Chương-Tấn chỉ đấu ngang tay được với hai người thì không cách nào thắng nổi ba người. Vệ-Xuân-Hoa thì không đủ tài đương cự với Châu-Trọng-Anh, mỗi lúc bị đẩy lui dần. Từ-Thiện-Hoằng nhận thấy bản lãnh trang-chủ Thiết-Đảm-Trang hết sức cao diệu, thủ pháp quá ư lợi hại, nếu thật sự muốn lấy mạng Vệ-Xuân-Hoa thì thật không phải là chuyện khó. Chỉ vì Châu-Trọng-Anh ‘hạ thủ lưu tình’ cho nên Vệ-Xuân-Hoa mới cầm cự được bấy nhiêu lâu. Thế nhưng Vệ-Xuân-Hoa vẫn vô tình, hoặc giả vờ không biết mà mặc sức đánh tới, không chịu lui bước.

Vừa đánh cầm chừng, Châu-Trọng-Anh nghĩ thầm:

-“Hắn tuổi trẻ hăng máu nên một khi lâm trận chỉ biết đánh mà không nhận thức được điềi lợi hại. Nếu ta cứ tiếp tục nhường tay cho hắn thì trận đấu biết bao giờ kết thúc được đây? Chi bằng giáo dục hắn một phen cho hắn mở rộng tầm mắt ra mà học hỏi thêm kinh nghiệm thì hơn.”

Nghĩ vậy, Châu-Trọng-Anh múa qua múa lại vài đường cho giãn gân cốt. Vệ-Xuân-Hoa hăm hở định phóng song câu vào yết hầu Châu-Trọng-Anh. Song câu chưa rời tay, Vệ-Xuân-Hoa đã thấy đại đao của Châu-Trọng-Anh chém thẳng vào hông mình. Quá kinh khiếp, Vệ-Xuân-Hoa vội vàng lui lại để tránh lưỡi đao thì Châu-Trọng-Anh liền dùng chuôi đại đao gạt mạnh song câu của chàng sang một bên. Vệ-Xuân-Hoa không gượng được, toàn thân lảo đảo ra sau cơ hồ ngã gục xuống.

Không những Vệ-Xuân-Hoa, mà cả Từ-Thiện-Hoằng đứng ở ngoài lược trận cũng phải thất kinh. Đao pháp của Châu-Trọng-Anh đã tinh diệu, nội lực lại càng thâm hậu hơn nữa!

Biết Vệ-Xuân-Hoa không thể nào đánh Châu-Trọng-Anh một mình được nên Từ-Thiện-Hoằng bèn múa đao nhảy vào trợ lực.

Tuy mang tiếng ‘hai đánh một’, nhưng kỳ thực Vệ-Xuân-Hoa và Từ-Thiện-Hoằng chẳng những không chiếm được thế thượng phong mà trái lại còn bị lép vế hoàn toàn.

Châu-Trọng-Anh sử đại đao thật ung dung, uyển chuyển, khi gạt khi đỡ, khi đâm khi chém tựa như chẳng chút phí sức. Biết rằng hai đối thủ quyết chiến chỉ đợi mình lỡ chiêu sểnh miếng là lập tức ra tay sát hại, thế nhưng Châu-Trọng-Anh vẫn giữ được phong độ kẻ cả, không ra tay đả thương người nào dù đã có rất nhiều cơ hội.

Đánh được vài chục hiệp, cả Vệ-Xuân-Hoa lẫn Từ-Thiện-Hoằng đều thấm mệt, mồ hôi tuôn ra ướt đẫm nhưng Châu-Trọng-Anh vẫn tỉnh như không. Một già đấu với hai trẻ, niên kỷ và sức lực cách biệt nhau quá nhiều, nhưng khí thế hai bên có vẻ như đảo ngược lại. Vệ-Xuân-Hoa và Từ-Thiện-Hoằng phải thầm phục bản lãnh cao siêu của trang chủ Thiết-Đảm-Trang. Giới giang hồ tôn gọi ông ta là anh hùng không phải là vô cớ.

Binh khí của Vệ-Xuân-Hoa và Từ-Thiện-Hoằng mội lần chạm vào cây đại đao của Châu-Trọng-Anh là tóe lửa ra, dội ngược trở lại, tê nhức cả tay chân, mình mảy. Mà lối đánh của Châu-Trọng-Anh với hai người trông giống như biểu diễn võ thuật nhiều hơn là sát phạt. Nhiều bàng quang đứng ngoài xem thấy ông ta như đùa giỡn với Vệ-Xuân-Hoa và Từ-Thiện-Hoằng hơn là ác đấu. Bỗng Từ-Thiện-Hoằng lớn tiếng gọi:

-Ngũ ca và Lục ca! Hai anh mau phóng hỏa đốt Thiết-Đảm-Trang trước đi rồi ‘hạ hồi phân giải’!

Sở dĩ Từ-Thiện-Hoằng nghĩ ra mưu kế này là để hư trương thanh thế co Châu-Trọng-Anh bấn loạn tinh thần khi nghĩ đến sự an toàn của sơn trang ắt không còn bụng dạ nào để chiến đấu thì may ra hai người còn có được cơ hội.

Hai người Từ-Thiện-Hoằng vừa giả vờ gọi là hai anh em song sinh Thường-Thích-Chí và Thường-Bá-Chí, đứng vào hàng thứ 5 và thứ 6 trong Hồng Hoa Hội. Hai người này không có mặt tại Đại-Hương-Đường khi Lục-Phỉ-Thanh đem tin Văn-Thái-Lai đến An-Tây.

Trước đó, lúc Vu tổng đà-chủ còn sinh tiền đi cùng với Văn-Thái-Lai vào thâm cung hội kiến với vua Càn-Long có đặc phái hai anh em họ Thường đến gấp Triệu-Gia-Đô để theo dõi hành tung bọn công-sai của Thanh-Đế.

Quả nhiên mưu kế của Từ-Thiện-Hoằng phần nào hữu hiệu. Chàng vừa lên tiếng thì Thiết-Đảm-Trang trở nên hỗn độn. Ai nấy đều lo sợ phập phồng, tạo nên một cảnh vô cùng huyên náo.

Thế nhưng Châu-Trọng-Anh vẫn không hề bị rối loạn tinh thần. Ông ta chỉ hơi giật mình, nhưng sau đó bình tĩnh lại được ngay. Nhưng dù muốn dù không, chiến thuật và chiến lược của Châu-Trọng-Anh cũng đã thay đổi. Ông ta muốn kết thúc trận đấu thật lẹ để chỉ huy người Thiết-Đảm-Trang đối phó với hỏa tai nếu có chứ lẽ nào để cho một công trình gây dựng mấy đời phút chốc trở thành tro bụi được.

Châu-Trọng-Anh khẽ nhíu mày, triển khai thần lực. Ông dùng một thế ‘Tam đương khai thái’ chém liên tiếp ba chiêu thật lợi hại khiến Vệ-Xuân-Hoa và Từ-Thiện-Hoằng phải thối lui lại ba bước. Thừa cơ hội, Châu-Trọng-Anh phi thân ra ngoài mục đích đi dò xét xem có tìm được hai người phóng hỏa đốt sơn trang như lời Từ-Thiện-Hoằng vừa nói hay không.

Chẳng ngờ Châu-Trọng-Anh vừa đi ra thì Vệ-Xuân-Hoa cũng nhảy theo bám sát ông ta như hình với bóng. Song câu của chàng sau đó được tung ra đánh ngay vai Châu-Trọng-Anh. Nghe hơi gió, Châu-Trọng-Anh biết mình bị tập kích liền xoay đao lại chém ngược ra sau. Chỉ nghe một tiếng ‘keng’ Song câu của Vệ-Xuân-Hoa đã bị dội ngược trở lại. Trong lúc Vệ-Xuân-Hoa còn đang loạng choạng thì tay trái Châu-Trọng-Anh đã tung ra một quyền mạnh mẽ vô cùng.

Vệ-Xuân-Hoa hết cả hồn vía, không ngờ bản lãnh Châu-Trọng-Anh còn ghê sợ hơn mình nghĩ nhiều. Chàng tung mình lên không như một trái phái thăng thiên tránh khỏi được rồi đáp nhẹ nhàng lại xuống đất. Châu-Trọng-Anh lại nhanh nhẹn co năm ngón tay lại như năm cái móc sắt, cấu ba ngón vào ngay bả vai Vệ-Xuân-Hoa.

Đây là thế đánh ‘Tam hợp’ trong bài quyền ‘Nhị lang đả hổ’ (#5) của phái thiếu-lâm. Đây là một tuyệt kỹ của phái Thiếu-Lâm, chỉ những cao thủ thượng thừa mới học được mà thôi.

Vệ-Xuân-Hoa biết Châu-Trọng-Pháp đao pháp nhưng chưa biết quyền thuật của ông ta lợi hại thế nào. Nay thấy ông ta cùng một lúc phối hợp được cả đao, quyền và trảo thì quả là một cao thủ hãn hữu trên đời.

Vệ-Xuân-Hoa không tài nào đỡ được, mà cũng không sao né tránh được nên vai phải bị Châu-Trọng-Anh chộp trúng. Vệ-Xuân-Hoa chỉ nghe nhói lên một cái rồi ngã gục xuống đất.

Nhưng may mắn thay cho Vệ-Xuân-Hoa, Châu-Trọng-Anh không có ý đả thương chàng nên ông ta sử dụng có hai thành công lực nếu không có lẽ chàng đã bị trọng thương rồi. Đó là Châu-Trọng-Anh còn chưa đánh vào chỗ nhược!

Vệ-Xuân-Hoa không những chẳng biết ơn nhân nhượng của Châu-Trọng-Anh mà còn tức lồng lộn đến sôi máu. Mặc dù bả vai đau nhức khôn tả, chàng vẫn không chịu lui mà tiếp tục nhảy tới liều mạng ‘ăn thua đủ’.

Thấy địch thủ ép mình mãi, Châu-Trọng-Anh lại múa quyền đánh thêm mấy chiêu nữa. Thấy quyền Châu-Trọng-Anh hình như đả gia tăng thêm mấy thành công lực, Vệ-Xuân-Hoa hồn phi phách tán, nhảy ra sau mấy bước để tránh né chứ không dám đón đỡ. Không muốn chàng gây khó khăn cho mình, ông ta lại đánh tiếp thêm mấy quyền đẩy lui chàng thêm mấy bước nữa rồi phi thân ra ngoài tìm kẻ phóng hỏa.

Không ngờ Châu-Trọng-Anh vừa quay đi thì Vệ-Xuân-Hoa đã đưa song câu phóng ra một chiêu ‘Thế phụng phí cao’ nhắm ông ta quất vùn vụt. Châu-Trọng-Anh cả giận lớn tiếng mắng:

-Này anh bạn trẻ kia! Tôi với anh không có mối thù ‘giết cha chém chú’ , lại cũng không hề có oán ‘cướp vợ đoạt con’, sao đi theo làm phiền ép bức tôi dữ vậy? Đã mấy phen tôi nhân nhượng bỏ qua cho rồi, sao anh không biết điều tự lượng sức mình?

Vệ-Xuân-Hoa thản nhiên nói:

-Mi đã hại Văn tứ ca thì ta quyết liều mạng với mi. Nếu ta kém tài chết dưới tay mi thì cũng đành thôi chứ chẳng có gì ân hận cả. Vệ-Xuân-Hoa này chỉ biết có điều nhân nghĩa mà thôi; sống vì nhân nghĩa, chết cho nhân nghĩa, chứ không phải hạng người ‘tham sinh húy tử’ (#6). Mi hiểu rõ rồi chứ? Cứ đánh thẳng tay đi, chứ đừng nhân nhượng gì hết!

Châu-Trọng-Anh thấy Vệ-Xuân-Hoa chỉ biết nóng máu mà liều mạng chứ không chịu tìm hiểu sự việc đen trắng thế nào đã toan dùng tuyệt kỹ dạy cho chàng một bài học nên thân nhưng nghĩ lại thương tình một người trẻ tuổi tài cao nên lại không nỡ. Ông ta liền gọi chàng mà bảo:

-Lão phu năm nay đã ngoài 60. Trong suốt cuộc đời hành hiệp cũng từng đụng độ không biết bao nhiêu là cao thủ nhưng chưa thấy ai liều mạng như mi! Lão phu vì thương tài nên không nỡ hạ thủ mà mì cứ mãi chấp nê là sao?

Vệ-Xuân-Hoa dửng dưng đáp:

-Ta chưa hề xin xỏ mi tha mạng! Cứ việc đánh hết tay đi, chứ đừng mong ta lui nửa bước. Muốn ta đừng theo mi nữa thì chỉ có một cách giết chết ta mà thôi!

Dứt lời, Vệ-Xuân-Hoa lại tiếp tục múa song câu tấn công tiếp. Từ-Thiện-Hoằng cũng nhảy vào nhắm ngay bụng Châu-Trọng-Anh chém một đao. Châu-Trọng-Anh không chút nao núng, múa đại đao, trên đỡ song câu của Vệ-Xuân-Hoa, dưới gạt đao của Từ-Thiện-Hoằng. Sau đó, ông ta vung đại đao chém Vệ-Xuân-Hoa một nhát, đồng thời lại đưa tay xỉa thêm một cái.

Bị tấn công hai chiêu một lượt, Vệ-Xuân-Hoa chưa biết phải làm sao chống đỡ thì Châu-Trọng-Anh đã biến ngón xỉa kia thành một chiêu ‘Trơ hạ chẩu’ của phái Thiếu-Lâm, đánh vào ngay hông Vệ-Xuân-Hoa một quyền khá nặng. Mặc dù Châu-Trọng-Anh vẫn không có ý hại người, nhưng lần này ông có gia tăng thêm đôi phần công lực nên sau khi trúng phải chiêu này, Vệ-Xuân-Hoa nghe đau đớn lên tận cốt tủy, không dằn được, rống lên một tiếng thảm thiết rồi ngã lăn xuống đất như một thân cây bị đốn, nằm im bất động, liệt hết cả tứ chi.

Vệ-Xuân-Hoa cố chống tay đứng dậy nhưng sức lực như đã mất hết nên ngã xuống lại. Chàng nhìn Châu-Trọng-Anh với ánh mắt căm thù nói:

-Ta dù thế nào cũng quyết một mất một còn với mi! Chỉ trừ khi ta chết...

Từ-Thiện-Hoằng thấy vậy ngắt lời:

-Cửu đệ! Em cứ lui ra! Để lão tặc cho ngu huynh!

Sau đó, Từ-Thiện-Hoằng lại hét lớn:

-Thập nhị đệ! Mau phóng hỏa đốt cửa sau! Đừng để cho một mạng nào của Thiết-Đảm-Trang thoát ra ngoài.

Lúc ấy Châu-Ỷ ruột rối như tơ vò. Phần hợp sức với Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường mà đánh mãi vẫn không thắng được Chương-Tấn nên càng thêm tức giận. Nàng liếc nhìn, chợt trông thấy Lạc-Băng thì máu trong người sôi lên sùng sục, nói thầm trong bụng:

-“Đầu đuôi cũng chỉ tại con quỷ cái khốn nạn này mà rra cả. Ta phải giết nó trước rồi đến đâu thì đến!”

Nghĩ vậy, Châu-Ỷ liền bỏ Chương-Tấn, nhảy bổ lại phía Lạc-Băng, như quyết phải ăn tươi nuốt sống cho được mới thấy hả trong lòng.

Lạc-Băng từ lúc từ khi nghe Đổng-Triệu-Hòa nói Văn-Thái-Lai bị sát hại rồi thì chẳng khác nào như người mất trí, ngồi yên lặng trên ghế, lúc như tỉnh, lúc như mê.

Những trận đấu như long trời lở đất đang xảy ra trong đại sảnh Thiết-Đảm-Trang Lạc-Băng cũng chẳng để ý đến, chỉ thương khóc Văn-Thái-Lai mà thôi. Cho đến khi Châu-Ỷ bỏ Chương-Tấn đến trước mặt nàng giơ lưỡi đao sáng quắc ra thì Lạc-Băng mới giật mình. Khi lưỡi đao của Châu-Ỷ chém xuống, Lạc-Băng chỉ mỉm cười, hai mắt ướt đẫm mà chẳng chút phản kháng. Châu-Ỷ nhìn thấy thần sắc Lạc-Băng thê thảm quá, lại động lòng trắc ẩn nên không nỡ hạ thủ. Châu-Ỷ sau đó lấy Uyên-Ương Đao của Lạc-Băng trao cho nàng rồi nói:

-Đây! Hãy cầm lấy mà đấu với ta, chứ ngồi đó mà ăn vạ hoài hay sao?

Lạc-Băng đỡ lấy Uyên-Ương Đao. Châu-Ỷ sau đó dùng đao của nàng nhắm ngay đầu Lạc-Băng chém nhẹ xuống. Nhưng lạ thay, Lạc-Băng vẫn không chịu đỡ mà chỉ nở một nụ cười thê lương. Châu-Ỷ thấy vậy thâu đao trở lại, buồn cười hỏi rằng:

-Đánh đi chứ! Còn chờ gì nữa?

Lạc-Băng đưa ngọn đoản đao bên tay trái lên đỡ, còn trường đao bên tay mặt thì chém lại cho có lệ, chẳng có chút nội lực nào. Châu-Ỷ không cần đỡ mà chỉ lấy tay chụp nhẹ lấy thanh đao của Lạc-Băng, thương hại nói:

-Ai lại đánh miễn cưỡng thế này? Đứng dậy mà đánh thật tình đi chứ!

Lạc-Băng cố gắng đứng dậy. Nhưng chưa nhấc được hai chân lên khỏi đất đã phải ngồi ‘phịch’ xuống trở lại vì gót chân đau.

Kẻ đứng người ngồi. Kẻ đánh không ra chiêu thật tình. Người đỡ thì cầm chừng. Xem ra chẳng ai muốn hại ai, trông giống như một vở tuồng sân khấu hơn là một trận so tài. Châu-Ỷ bèn gọi lớn:

-Đánh đi chứ! Sao mà chứ giả ngây giả dại hoài vậy?

Lạc-Băng vẫn ngồi yên không động đậy. Dường như nàng có ý muốn được chết dưới đao của Châu-Ỷ hơn là giao đấu. Châu-Ỷ lắc đầu, vừa buồn cười vừa giận. Chợt nàng nghe Từ-Thiện-Hoằng la lới:

-Mau phóng hỏa nhanh lên!

Châu-Ỷ liền bỏ Lạc-Băng chạy ra ngoài xem xét tình hình. Mới vừa ra đến cửa, Châu-Ỷ nghe có tiếng người nói lớn:

-Mi tưởng chạy trốn thoát khỏi được sao?

Châu-Ỷ thấy có hai người ngay cửa chặn lại cửa, lấp kín đường ra. Một người với khuôn mặt lạnh như tiền, đôi mắt như hai luồn điện ngó nàng chăm chăm. Đôi mắt hắn như có ma lực trông hết sức ghê rợn. Châu-Ỷ hết sức kinh hãi, không dám ngó thẳng vào mặt hắn. Nàng lẩm bẩm:

-Thứ người gì mà quái gở thế này? Có lẽ quỷ hiện hồn thì đúng hơn!

Người ấy gật đầu, lạnh lùng nói:

-Có lẽ ngươi nói đúng đấy! Ta là quỷ sống, ngoại hiệu là ‘Quỷ-Kiến-Sầu’!

Thì ra đó là Thạch-Song-Anh, biệt danh là Quỷ-Kiến-Sầu, đứng thứ 12 trong Hồng Hoa Hội, chấp chưởng Hình-đường. Trước kia, Thạc-Song-Anh là cao đồ của phái Bát-Quái, sau khi gia nhập Hồng Hoa Hội lại được Tam đương-gia Triệu-Bán-Sơn truyền thụ thêm cho bản lãnh.

Vì mến tài, Triệu-Bán-Sơn đem đao pháp huyền môn của phái Thái-Cực ra truyền dạy cho Thạch-Song-Anh. Hai người sau đó kết nghĩa làm anh em, nhưng Thạch-Song-Anh vẫn luôn luôn xem Triệu-Bán-Sơn như một người thầy. Lối đánh Thạch-Song-Anh học được của Triệu-Bán-Sơn là lấy tĩnh khắc động, dùng nhu thắng cương. Do đó, vừa gặp Châu-Ỷ ra chiêu, Thạc-Song-Anh đã áp dụng ngay nguyên lý này khiến nàng sợ hãi và hiểu rõ tài nghệ của Quỷ-Kiến-Sầu ngay tức khắc.

Nghe giọng nói tựa như hăm dọa cho mình sợ, Châu-Ỷ bỗng nỏi trận lôi đình thét lên:

-Bộ mi tưởng bản cô nương đây khiếp sợ mi đó hả? Chẳng qua là ta ghê tởm cái bộ mặt nửa người nửa quỷ đó thôi! Có bản lãnh gì thì cứ giở ra thử?

Dứt lời, Châu-Ỷ vung đao đến chém vào ngay mặt Quỷ-Kiến-Sầu một nhát. Quỷ-Kiến-Sầu, tức Thạch-Song-Anh liền dùng ngay một thế ‘Tả quái kim linh’, khẽ gạt chiêu của Châu-Ỷ một cách nhẹ nhàng rồi vỗ mạnh vào cán đao, nhìn Châu-Ỷ ngó đăm đăm.

Mới thử sức qua, Châu-Ỷ đã biết ngay người này có một nội lực ghê gớm vô cùng nên càng khiếp sợ bội phần, nghĩ thầm:

-“Chắc chắn ta đánh không lại hắn rồi! Chi bằng chạy trước thì hơn.”

Nghĩ vậy, Châu-Ỷ xông tới chém bừa mấy đao để mở đường thoát thân. Đàng kia, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường hợp sức đánh Chương-Tấn hoài mà vẫn không thắng nổi. Và cùng lúc đó, cương-xuyên của Vạn-Khánh-Nhuận bị Dương-Thanh-Hiệp đánh bật trở lại xuýt nữa trúng vào mặt y. Vạn-Khánh-Nhuận sợ hãi bỏ chạy chứ không dám đánh thêm nữa. Y len lỏi vào đống bàn ghế trong đại sảnh mà lẩn trốn. Đang định tìm kế thoát thân, Vạn-Khánh-Nhuận chợt nhớ tới Đổng-Triệu-Hòa nên còn do dự vì không biết tên này đã trốn đi ngõ nào từ bao giờ...

Còn nhóm Châu-Trọng-Anh với Từ-Thiện-Hoằng và Vệ-Xuân-Hoa thì sự thắng bại đã trông thấy quá rõ rệt. Vệ-Xuân-Hoa bị trang chủ Thiết-Đảm-Trang đánh cho bị thương, cho dù không đến nỗi nặng lắm nhưng cũng đủ cho chàng ta ‘rêm’ hết cả người. Bất quá Vệ-Xuân-Hoa chỉ còn liều mạng để trợ lực Từ-Thiện-Hoằng mà thôi, chứ chiêu thức đánh ra quá yếu ớt, chưa chắc đã dọa được một người võ nghệ tầm thường. Từ-Thiện-Hoằng biết rất rõ, cho dù chàng cùng Vệ-Xuân-Hoa hoàn toàn khỏe mạnh còn không phải là đối thủ của Châu-Trọng-Anh nữa, huống hồ cả hai đều bị thương cả. Vì vậy, Từ-Thiện-Hoằng bèn dùng ‘tâm lý chiến’, luôn miệng kêu gọi anh em Hồng Hoa Hội, hết tên người này đến tên người nọ mà không cần biết có mặt hay không. Mục đích của Thất đương-gia là để khủng bố tinh thần Châu-Trọng-Anh để ông ta giảm bớt nhuệ khí.

Nhưng Châu-Trọng-Anh dễ gì mắc mưu được. Ông ta trước sau vẫn điềm tĩnh, và vẫn để cho Từ-Thiện-Hoằng và Vệ-Xuân-Hoa thay phiên nhau xuất thủ chứ không thèm lợi dụng lúc hai người đang bị thương mà khai thác nhược điểm. Chiếm được ưu thế, Châu-Trọng-Anh định bụng sẽ cầm chân hai người, đánh đến khi nào cả hai không còn đánh được nữa thì ông ta sẽ dùng lời để phân giải.

Một bóng người không biết từ đâu phóng tới, lớn tiếng nói:

-Hay lắm! Ta nghe đại danh Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh đã lâu, nay có dịp thử sức tưởng không có gì hay bằng.

Y vừa dứt lời đã dùng cây thiết tương (#7) nhắm đầu Châu-Trọng-Anh giáng xuống một đòn hết sức mạnh bạo.

Châu-Trọng-Anh thấy y cầm cây thiết tương nặng nề như thế mà lại sử dụng rất uyển chuyển mau lẹ chẳng khác gì một cây thiền trượng thì trong lòng khen thầm, nhận thấy thần lực của người này quả là phi thường. Ông khẽ lách mình sang bên trái rồi dùng kim bội đại đao chém trả lại một nhát.

Đánh không trúng Châu-Trọng-Anh, cây thiết tương của người ấy xoay thành một vòng tròn. Nhưng vừa thấy đao của Châu-Trọng-Anh chém tới, y liền né qua một bên và cùng lúc thâu thiết tương lại một cách dễ dàng. Sau đó, y dùng một thế ‘Kim giao tiểu nguyệt’ trong ‘Phong-Ma Trượng-Pháp’ đánh tới, uy lực mạnh như chẻ núi.

Là cao thủ của phái Thiếu-Lâm chánh tông cho nên Châu-Trọng-Anh còn lạ gì thế ấy nên chỉ khẽ lướt mình là đã tránh được dễ dàng như trở bàn tay.

Liếc mắt thấy Vạn-Khánh-Nhuận đang lẩn vào chỗ bàn ghế tìm đường tẩu thoát,còn Dương-Thanh-Hiệp thì đang rượt theo hắn ở đàng sau. Châu-Trọng-Anh mỗi khi đỡ xong một thiết tương lại thối lui một bước về phía Vạn-Khánh-Nhuận. Người thường tưởng rằng ông đang chật vật với người cầm thiết tương kia chứ có biết đâu là ông đang thầm dự tính một việc.

Cứ tiếp tục lùi dần, Châu-Trọng-Anh đã đến gần sát bên Vạn-Khánh-Nhuận lúc nào mà hắn không hay. Rồi xuất kỳ bất ý, ông ta hươi đại đao chém sả xuống đầu Vạn-Khánh-Nhuận một nhát.

Số là Châu-Trọng-Anh biết Hồng Hoa Hội hiểu lầm, tưởng Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa cùng với Thiết-Đảm-Trang là cùng phe phái với nhau, thông đồng ám hại Văn-Thái-Lai. Đã hai lần, ông kêu gọi mọi người dừng tay, và cả hai lần Vạn-Khánh-Nhuận đều ra tay đánh lén người của Hồng Hoa Hội nên thành ra họ lại tin tưởng rằng Châu-Trọng-Anh bày ngụy kế để Vạn-Khánh-Nhuận thi hành thủ đoạn. Vì vậy, mấy người Hồng Hoa Hội căm thù Châu-Trọng-Anh, quyết tâm đánh đến cùng chứ không biết đó là âm mưu của Vạn-Khánh-Nhuận.

Châu-Trọng-Anh đã suy nghĩ rất kỹ. Nếu cứ để Vạn-Khánh-Nhuận tiếp tục ra ra tay phá hoại thì trận chiến với Hồng Hoa Hội sẽ còn kéo dài mãi mà không biết bao giờ mới kết thúc được.

Lần đến Thiết-Đảm-Trang này, Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệu-Hòa định hạch sách Châu-Trọng-Anh một số tiền lớn. Nhưng Châu-Trọng-Anh ghét hai người đến tận xương tủy nên ông một mực không chịu, như thách thức chúng cứ việc báo cáo với chính quyền địa phương là ông ‘tạo phản’.

Châu-Trọng-Anh không thần phục triều đình nhưng không bao giờ phản kháng ra mặt. Suốt mấy chục năm nay, ông đã tạo dựng được một sự nghiệp đồ sộ, nếu để mất đương nhiên là không thể không đau! Ngoài ra, ông cũng chẳng khác gì là ‘vua một cõi’, ngoài danh tiếng anh-hùng hào kiệt. Ngày nay, họa phút chốc đến mình do hai tên Vạn-Khánh-Nhuận và Đổng-Triệư-Hòa kia mang đến, bảo sao ông không hận cho được!

Nhưng có điều nào đau đớn hơn, có ai hiểu được cho ông là dù chưa bao giờ kết giao với Hồng Hoa Hội, ông đã khảng khái xử phạt, giết chết đứa con trai duy nhất chỉ vì nó tiết lộ bí mật của địa huyệt để cho Văn-Thái-Lai bị bắt. Đáng lý ra Hồng Hoa Hội ít nhất phải tìm hiểu lý do trước đã thay vì hễ động một tí là chỉ biết có thù hằn chửi rủa, nhục mạ người khác, đâm chém, đánh giết với đốt phá! Châu-Trọng-Anh vô cùng bất mãn, tức giận và uất ức không biết bao nhiêu mà kể, thế nhưng ông vẫn nhẫn nhịn, dùng thái độ hòa nhã quân tử mà đối lại với những hành động phi lý, cạn nghĩ và hung hăng ngang tàng của đám người Hồng Hoa Hội. Thế nhưng ông càng nhịn nhục, đám người Hồng Hoa Hội kia lại càng ‘làm già’!

Sau khi đắn đo mọi chuyện, Châu-Trọng-Anh quyết định phải hạ sát tên Vạn-Khánh-Nhuận này trước thì mới mong giải quyết được mọi chuyện; mới mong Hồng Hoa Hội chịu lắng tai mà nghe nói một đôi lời...

Nhìn thấy lưỡi đao Châu-Trọng-Anh chém tới, Vạn-Khánh-Nhuận hết hồn hết vía, nhảy ra sau mà né tránh. Lúc đó Dương-Thanh-Hiệp cũng đã đuổi đến nơi. Vạn-Khánh-Nhuận liền nhảy một cái đứng trên mặt bàn nhìn Châu-Trọng-Anh la lớn:

-Bọn ta hết lòng hết sức giúp mi mới bắt được Văn-Thái-Lai! Thế mà giờ đây mi lại đòi giết ta để một mình nuốt trọn số tiền thưởng một vạn lượng bạc của triều đình trọng thưởng chắc?

Vạn-Khánh-Nhuận lòng dạ hết sức là nham hiểm và độc địa. Hắn nghĩ rằng bịa chuyện ra nói như vậy là vĩnh viễn kết chặt mối thù giữa Hồng Hoa Hội và Thiết-Đảm-Trang mà không bao giờ giải được.

Quả nhiên, mấy người Hồng Hoa Hội sau khi nghe Vạn-Khánh-Nhuận nói thì không ai còn nghi ngờ gì nữa, tin chắc rằng Châu-Trọng-Anh định giết hắn để một mình độc hưởng số tiền thưởng của triều đình. Ai nấy đều giận đến xanh mặt, chỉ muốn bằm thây Châu-Trọng-Anh ra mới hả lòng tức tối.

Chương-Tấn hét lớn lên một tiếng, cầm song phủ xông tới đánh nhầu. Cực chẳng đã, Châu-Trọng-Anh lại phải tiếp tục đón đỡ giao tranh, nhưng trong lòng thầm kêu khổ liên miên.

Từ-Thiện-Hoằng là người thông minh nhất trong đám. Sau mấy lần giao tay với Châu-Trọng-Anh, chàng biết ông không lúc nào chịu đánh tận lực hay có ý sát hại anh em Hồng Hoa Hội cả. Nhận thấy có điều gì gian trá trong lời nói của Vạn-Khánh-Nhuận, Từ-Thiện-Hoằng bèn lớn tiếng gọi Chương-Tấn:

-Khoan đã thập đệ! Mau dừng tay lại!

Chương-Tấn vốn là người nóng tính, lại không có chút kiến thức nào cho nên dù nghe rõ Từ-Thiện-Hoằng lên tiếng gọi, y cũng không chịu dừng tay mà cứ lăn xả lại mà đánh.

Người cầm thiết tương cũng nhảy vào hợp lực. Đó là Tưởng-Tứ-Căn, đứng thứ 13 trong Hồng Hoa Hội. Đàng sau, Dương-Thanh-Hiệp cũng vác cây roi đồng vào trợ chiến với hai người kia, cùng tấn công Châu-Trọng-Anh một lượt.

Châu-Trọng-Anh dùng đại đao đánh gạt song phủ của Chương-Tấn cùng thiết tương của Tưởng-Tứ-Căn qua một bên rồi đảo ngược thanh đao lại đỡ roi đồng của Dương-Thanh-Hiệp. Thế là một trận ác chiến nữa lại xảy ra, với ba người Hồng Hoa Hội đánh một mình Châu-Trọng-Anh.

Tuy một chọi ba, nhưng Châu-Trọng-Anh chẳng khác nào một con hổ giữa ba con sói nên ông ta chẳng chút lép vế, trái lại còn đánh cho ba người kia mệt bở hơi tai, không phút nào nghỉ được. Vốn ba người này, Dương-Thanh-Hiệp, Chương-Tấn và Tưởng-Tứ-Căn nổi tiếng là ba ‘đại lực-sĩ’ của Hồng Hoa Hội, có sức mạnh như thần. Nhưng giờ đây trước mặt vị trang chủ Thiết-Đảm-Trang, cả ba chẳng khác nào như ba đứa con nít đòi hành hung một người lớn!

Châu-Trọng-Anh quát lên một tiếng, nhắm ChươngTấn chém một nhát. Chương-Tấn cả kinh dùng cả hai búa mà đón đỡ. Vừa chạm trúng đao của Châu-Trọng-Anh, Chương-Tấn đã thấy bủn rủn cả chân tay. Y không dằn được phải nhảy ra sau vài bước để định thần trở lại. Đẩy lui được Chương-Tấn, Châu-Trọng-Anh thừa thắng xông lên chém xả một đao ngang người Tưởng-Tứ-Căn. Thấy nhát chém quá mạnh, Tưởng-Tứ-Căn không dám khinh thường liền vận toàn lực vào thiết tương mà đỡ. Cũng như Chương-Tấn, vừa chạm đến đao của Châu-Trọng-Anh, Tưởng-Tứ-Căn cảm thấy đôi tay như muốn gãy lìa ra, loạng choạng lùi ra sau mấy bước. Nhưng lần này, Châu-Trọng-Anh sơ ý để đại đao tuột khỏi tay văng lên trời ghim vào thân cây đòn dông dính chặt vào đấy.

Thấy sư phụ bị mất vũ khí, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường giật mình. Hai người không còn nghĩ gì đến nguy hiểm nữa liền xông vào trợ thủ. Nhưng chưa nhảy được vào vòng chiến, cả hai người đã bị Vệ-Xuân-Hoa dùng song câu cản lại.

Dủ để văng mất đại đao, Châu-Trọng-Anh vẫn bình tĩnh như không, tinh thần chẳng chút bấn loạn. Như một con hải long vượt qua ba đợt sóng lớn, Châu-Trọng-Anh khẽ tung mình lên không, và chỉ trong nháy mắt đã đến sát bên người Dương-Thanh-Hiệp. Nhanh như chớp, tay trái Châu-Trọng-Anh giật phắt lấy cây roi đồng trong tay Dương-Thanh-Hiệp đồng thời tay phải tung ra một quyền vào ngay hông chàng ta.

Hết đường chống đỡ hay né tránh, Dương-Thanh-Hiệp lãnh trọn một quyền ngay bụng, la lên một tiếng ‘ối’ rồi ôm bụng nhăn nhó.

Dương-Thanh-Hiệp từ nhỏ đã luyện tập được công phu ‘Thiết bố sam’ nên thân hình của chàng chẳng khác gì ‘mình đồng da sắt’ khiến cho binh khí tầm thường không thể nào xâm phạm được. Do đó mà giới giang hồ mới tặng cho chàng biệt danh là ‘Thiết-Tháp’, nghĩa là toàn thân chàng chẳng khác gì một cái tháp bằng sắt.

Đao kiếm không làm gì được mình chàng, thế nhưng khi trúng phải một quyền của Châu-Trọng-Anh, Dương-Thanh-Hiệp nghe đau thốn vô cùng, thấy đầu óc như choáng váng tựa hồ muốn ngã lăn ra đất mà nằm chết giấc. Đó là ông ta chỉ mới nhẹ đòn nếu không thì có lẽ Bát đương-gia Hồng Hoa Hội đã tan xác rồi!

Trong khi Chương-Tấn và Tưởng-Tứ-Căn tiến lên tấn công Châu-Trọng-Anh, Dương-Thanh-Hiệp thừa cơ hội vội vàng khẽ há miệng ra, dùng thuật hô hấp hít mạnh vào mấy cái rồi vận nội công chữa trị. Chỉ trong giây lát, nguyên khí trong người đã được phục hồi.

Dương-Thanh-Hiệp liền nhảy tới, hai tay quyền múa tít lên nhắm vào người Châu-Trọng-Anh mà đánh để hợp lực với Chương-Tấn và Tưởng-Tứ-Căn.

Mạnh-Kiện-Hùng thấy sư phụ đã năm lần bảy lượt nương tình mà đám người Hồng Hoa Hội kia vẫn không biết điều quyết hại cho được sư phụ mình thì giận lắm nên không cần đợi lệnh của Châu-Trọng-Anh, liền đi lấy ba viên phi đạn rồi bất thình lình nhắm ba người Dương-Thanh-Hiệp, Chương-Tấn và Tưởng-Tứ-Căn mà ném tới.

Ba người đang mải giao đấu nên hoàn toàn không phòng bị nên khi khám phá ra thì đã quá muộn, không thể nào né tránh kịp thời nữa.

Nhưng Châu-Trọng-Anh khi thấy ba viên ám khí sắp sửa trúng ba người kia thì ông bỗng vung cái roi đồng khi nãy giựt được trong tay Dương-Thanh-Hiệp một cái, đánh rớt cả ba viên xuống đất.

Biết Mạnh-Kiện-Hùng vì mình mà ra tay, Châu-Trọng-Anh rất cảm kích người đại đệ tử trung thành của mình. Nhưng ông đã không nỡ đả thương mấy người kia thì lẽ nào lại để cho đệ tử của mình hại đến sinh mạng của họ!

Sợ Mạnh-Kiện-Hùng nóng nảy vì mình mà phóng thêm ám khí giết hại các người Hồng Hoa Hội, Châu-Trọng-Anh dùng cây roi đồng đánh tắt tất cả đèn đuốc trong phòng. Bốn phía trở nên tối như mực, ngửa bàn tay ra nhìn không thấy rõ. Châu-Trọng-Anh lúc bấy giờ mới tạm yên lòng.

Lúc đó, tất cả mọi người không ai bảo ai, cùng nhau ai nấy tự động lui lại phía sau mấy bước theo phản ứng tự nhiên.

Cuộc giao phong ác liệt tạm thời phải tạm ngưng. Ai nấy đều im phăng phắc, không dám rời khỏi vị trí đang đứng mà cũng chẳng dám thở mạnh, chỉ đứng yên một chỗ mà thủ thế chờ đợi.

Trong trường hợp này, dầu là người can đảm đến thế nào cũng không dám bước lên nửa bước. Trong bóng tối, nếu lỡ gây ra tiếng động để địch nhân biết rõ vị trí của mình mà dùng ám khí thanh toán thì cho dù tài năng siêu việt quán chúng đến đâu cũng phải uổng mạng thôi.

Cuộc ác chiến vừa rồi là ‘ẩu hợp đấu’ (#8) chứ không phải ‘đơn đả độc sát’ (#9). Nhưng trong bóng tối mà tiếp tục ham đánh nữa thì chẳng khác nào là ‘loạn đả’ (#10)! Khi ấy không chừng lại giết lầm người bên mình!

Vì vậy mà khi đèn đuốc tắt hết, đại sảnh Thiết-Đảm-Trang đang ồn ào náo nhiệt bỗng trở nên tĩnh mịch hoang vu. Bọn người Hồng Hoa Hội không hiểu rõ dụng ý Châu-Trọng-Anh thế nào cho nên ai nấy đều sẵn sàng trong thế thủ mà lòng không ngớt lo sợ phập phồng.

Đột nhiên, trong cảnh tối đen rùng rợn ấy lại vang lên tiếng chân của nhiều người đang chạy vùn vụt bên ngoài. Tiếng chân người càng lúc như càng đến gần. Bỗng đâu cánh cửa chính mở toang ra, một người tay cầm đuốc chạy thẳng vào.

Nhờ ánh đuốc sáng hẳn căn phòng lên, mọi người nhìn ra đó là một chàng thư sinh mặt mũi thật dễ coi, tay cầm một ống sáo bằng vàng đang phản chiếu lại dưới ánh lửa hồng.

Dừng lại trước cửa, người ấy đưa cao ngọn đuốc lên khỏi đầu. Mọi người ai nấy nhìn thấy rõ sau lưng chàng thư sinh còn có thêm ba người nữa. Một người ăn mặc theo lối đạo sĩ, lưng đeo một thanh kiếm, ống tay trái của đạo bàn (#11) phủ xuống khỏi bụng, chỉ thấy cánh tay mặt mà chẳng thấy đâu tay trái. Một người mặt như dồi phấn, môi tựa thoa son, rất là khôi ngô tuấn tú. Cách phục sức của chàng cũng hết sức sang trọng với chiếc áo gấm xanh, thắt dây đai ngọc, chẳng khác gì một công tử đại phú gia. Đi sau công tử là một tiểu đồng mới độ chừng 12 tuổi, vai mang khăn gói, hình như là đi theo hầu chàng ta...

Vừa thấy bốn người, cả bọn Hồng Hoa Hội bỗng nhao nhao lên. Kẻ gọi, người réo, loạn cả sảnh đường.

-Vô Trần đạo huynh!

-Dư hiền đệ!

Rồi đột nhiên cả bọn không ai bảo ai, lần lượt cùng nhau quỳ hết xuống, đồng thanh tung hô:

-Anh em bang chúng Hồng Hoa Hội xin tham kiến Tổng-Đà-Chủ!

Hồi 6c

Trần Gia Cách trổ tài giao đấu

Châu Trọng Anh giàu nghĩa khả tuân

Thì ra bốn người mới đến là: Kim-Địch Tú-Tài Dư-Ngư-Đồng, người cầm đuốc và ống sáo vàng; người mặc đạo bàn, chỉ có một tay, lưng đeo trường kiếm là nhị đương-gia Truy-Hồn Đoạt Mệnh Kiếm Vô-Trần Đạo-Nhân; và chàng công tử mặc áo gấm màu xanh thắt đai ngọc kia chính là Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội Trần-Gia-Cách. Còn cậu bé cầm khăn gói theo hầu là Tâm-Nghiện, tiểu đồng của Trần-Gia-Cách.

Sau khi thủ lễ xong với Tổng-Đà-Chủ, đám anh hào Hồng Hoa Hội tỏ ra cực kỳ hân hoan, chạy đến mừng vị Tổng-Đà-Chủ cùng Nhị đương-gia. Từ-Thiện-Hoằng quay lại dặn Dương-Thanh-Hiệp cùng Vệ-Xuân-Hoa rằng:

-Bát đệ và cửu đệ ráng trông chừng, nhớ đừng cho Châu-Trọng-Anh thoát ra khỏi nơi này!

Cả hai gật đầu tỏ ý vâng lời rồi chia nhau ra đứng hai phía như vây Châu-Trọng-Anh vào giữa. An-Kiện-Cương thấy vậy cả giận, cũng bước tới gần sư phụ để hộ vệ. Chàng hất hàm nghênh mặt nhìn Từ-Thiện-Hoằng, Dương-Thanh-Hiệp và Vệ-Xuân-Hoa tỏ ý thách thức ba người, ngụ ý bảo rằng chỉ cần một nói câu nói vô lễ thoát ra từ ‘cửa miệng’ một người, hay chỉ một hành động khinh mạn khiêu khích là có thể xảy ra chuyện lớn. An-Kiện-Cường sẽ lập tức xông đến liều mạng với cả ba, mặc chuyện có ra sao thì ra.

Châu-Trọng-Anh hiểu ý đồ đệ liền lấy tay ra dấu bảo đừng nên động thủ và dùng lời an ủi:

-Con cứ bình tĩnh, không việc gì phải nóng giận cả. Để rồi xem họ có dám làm gì sư phụ không!

Khi ấy, Dư-Ngư-Đồng cầm hai tấm danh thiếp đi thẳng tới trước mặt Châu-Trọng-Anh lễ phép đưa và cất tiếng dõng dạc:

-Hồng Hoa Hội Tổng-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách và Nhị đương-gia Vô-Trần Đạo-Nhân xin được bái kiến Thiết-Đảm-Tran Châu lão anh-hùng.

Mạnh-Kiện-Hùng từ phía sau lưng Châu-Trọng-Anh bước tới đưa hai tay nhận lãnh hai tấm danh thiếp rồi cung kính trao cho sư phụ.

Châu-Trọng-Anh đọc mấy hàng chữ viết trong hai tấm danh thiếp của Trần-Gia-Cách và Vô-Trần Đạo-Nhân, thấy lời lẽ vô cùng khiêm nhường, tự xưng là hậu bối (#1) mà gọi ông là tiền bối (#2) nên bất giác đem lòng kính trọng cả hai, thấy mình cần phải dùng lễ mà đáp lại. Ông ta bước tới hướng về phía cả hai, vòng tay nói rằng:

-Chư vị anh-hùng giáng lâm đến thăm tệ trang mà lão phu không được hân hạnh đón tiếp từ xa, thật hết sức áy náy. Mong quý khách miễn thứ cho. Tiện đây xin mời hai vị ngồi để lão phu được tiếp chuyện.

Lúc đó, nơi đại sảnh của Thiết-Đảm-Trang chẳng khác nào một bãi chiến trường nên ‘ghế bổ bàn nghiêng’, mọi vật đều ngổn ngang vô trật tự. Châu-Trọng-Anh thấy vậy gọi lớn:

-Bây đâu? Ra đây xếp lại chổ ngồi cho ngay ngắn đâu ra đó! Mau lên!

Tức thì Tống-Thiện-Bằng điều khiển mấy tên tráng đinh dọn dẹp đồ đạc trong phòng và đốt lại đèn đuốc cho sáng lên rồi phân ngôi chủ khách cùng an tọa.

Phía Đông là khách, ghế thứ nhất hàng đầu nhường cho Trần-Gia-Cách, rồi theo thứ tự của tất cả những người có mặt trong Hồng Hoa Hội là: Vô-Trần Đạo-Nhân, Từ-Thiện-Hoằng, Dương-Thanh-Hiệp, Vệ-Xuân-Hoa, Chương-Tấn, Lạc-Băng, Thạch-Song-Anh, Tưởng-Tứ-Căn, Dư-Ngư-Đồng. Còn tiểu-đồng Tâm-Nghiện thì đứng sau lưng hầu Trần-Gia-Cách.

Dư-Ngư-Đồng liếc mắt nhìn trộm Lạc-Băng , thấy gương mặt nàng hết sức tiều tụy thì trong lòng xót xa vô cùng. Chàng thắc mắc không biết nàng có kể những lỗi lầm của mình trót gây nên cho Thạch-Song-Anh nghe hay không nên trong dạ mãi bồi hồi không yên. Liếc mắt sang nhìn thử Thạch-Song-Anh, chàng thấy Quỷ-Kiến-Sầu lầm lầm lì lì, sắc mặt lạnh lùng như chẳng cần đếm xỉa đến ai cả.

Lần cuối cùng hội ngộ với Lạc-Băng, thật ra chẳng phải Dư-Ngư-Đồng cố tình bỏ nàng mà đi. Nguyên do là chàng sợ đi sóng đôi hay đi gần Lạc-Băng thì trong lòng khó tránh được những ý nghĩ mông lung khi trông thấy hình dáng của nàng. Biết đâu chàng lại chẳng gây thêm nhiều tội lỗi một khi tình yêu cuồng nhiệt trong người bốc phát dữ dội, vượt hẳn qua lý trí. Vì vậy Dư-Ngư-Đồng cố ý để cho Lạc-Băng dẫn trước một khúc khá xa rồi mới âm thầm đi theo sau để mà hộ tống. Nhưng trong lúc chàng rong cương từ từ thì Lạc-Băng lại nóng lòng đi cho lẹ thành ra giục ngựa phi quá mau mà không để ý đến Dư-Ngư-Đồng đàng sau. Đến lúc giục ngựa đuổi theo thì không còn biết đâu mà tìm Lạc-Băng nữa vì chàng vô tình đã để cho nàng dẫn quá xa, để giờ đây không còn biết nàng đi về ngã nào nữa. Ban đầu, Dư-Ngư-Đồng định tìm đường Lạc-Băng đi qua bằng cách dò theo dấu chân ngựa. Nhưng đường tắt cũng như đường lớn, lúc nào mà chẳng có nhiều người qua lại thành thử biết đâu là dấu chân ngựa của Lạc-Băng!

Dư-Ngư-Đồng sau đó tự trách mình mãi, đi vòng khắp ngõ suốt hai ngày trời để tìm Lạc-Băng mà vẫn không có kết quả! Chàng lúc nào cũng lo cho sự an nguy của Lạc-Băng cho dù vẫn ôm ấp mối tình tuyệt vọng kia rong đau khổ. Nhiều lúc quá lo sợ, chàng nghĩ đến những điều không may có thể xảy đến cho nàng. Lạc-Băng vẫn còn đang bị trọng thương, nếu lỡ đụng độ với cường địch dọc đường thì hậu quả sẽ thế nào? Hoặc giả những lúc nàng mệt mỏi, đói khát dọc đường mà không còn đủ sức dù chỉ là đi kiếm chút thức ăn hay một vài ngụm nước thì biết trông cậy vào ai? Mục-đích chính Dư-Ngư-Đồng đi tháp tùng Lạc-Băng là để bảo vệ nàng, giúp đỡ nàng trong những trường hợp bất khả kháng đó mà lại để lạc mất nàng thì hỏi làm sao chàng yên lòng cho được! Nếu ngộ nhỡ Lạc-Băng có mệnh hệ gì thì Dư-Ngư-Đồng sẽ phải ăn năn thế nào mới gọi là đủ?

Nghĩ mãi muốn điên cả đầu, Dư-Ngư-Đồng không biết phải làm gì! Đường về An-Tây còn quá xa. Nếu lạc chàng, chưa chắc Lạc-Băng đã dám đi một mình với tình trạng như thế. Mà nếu có về đến An-Tây, cũng chưa chắc gặp được Lạc-Băng. Lục-Phỉ-Thanh chắc đã báo xong tin cho Hồng Hoa Hội nên giờ này rất có thể anh em đang trên đường tới Thiết-Đảm-Trang để đón Văn-Thái-Lai mà hộ tống về An-Tây vì chưa biết Tứ đương-gia đã bị bắt.

Sau cùng, Dư-Ngư-Đồng quyết định về lại Thiết-Đảm-Trang để đón anh em Hồng Hoa Hội tại đó và có gì thì trợ lực họ luôn thể. Sau một ngày đường, Dư-Ngư-Đồng đã trở về lại Thiết-Đảm-Trang vào lúc xế chiều thì vừa vặn gặp Trần-Gia-Cách và Vô-Trần Đạo-Nhân mới đến.

Sau khi nghe Dư-Ngư-Đồng thuật lại rằng Thiết-Đảm-Trang phản bội chỉ điểm cho Trương-Siêu-Trọng bắt Văn-Thái-Lai, Vô-Trần Đạo-Nhân hết sức nóng lòng, bàn với Trần-Gia-Cách nên đi giải cứu Văn-Thái-Lai ngay tức khắc.

Nhưng Trần-Gia-Cách không đồng ý, lại bàn rằng:

-Vẫn biết rằng giải cứu Văn tứ ca là điều tối quan trọng, nhưng hiện tại có ba điều bất tiện. Thứ nhất, hầu hết các anh em Hồng Hoa Hội đang có mặt tại Thiết-Đảm-Trang. Thứ hai, tin tức Văn tứ ca vẫn còn mù mờ, chưa biết đâu là thực. Thứ ba, con đường về Bắc-Kinh còn xa lắm, đi không biết bao lâu mới tới được. Đàng nào thì Trương-Siêu-Trọng cũng không dám hại Văn tứ ca mà phải hộ tống an toàn về kinh mà nạp cho Càn-Long. Sao cho bằng chúng ta đến thẳng Thiết-Đảm-Trang điều tra mọi việc. Nếu biết chắc Văn tứ ca bị bắt giải về Bắc-Kinh, chúng ta sẽ phân công anh em trong hội đi cứu sau cũng chưa muộn. Nhưng điều đáng nghi ngờ hơn hết là Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh xưa nay được giới giang hồ kính nể, cảm phục là anh hùng nghĩa khí thì không lẽ lại có được hành động hèn hạ bán đứng kẻ tkẻ trung lương như thế kia? Điều này chắc hẳn có gì bí ẩn bên trong. Trước khi lên án hay kết tội một ai, chúng ta phải điều tra rõ rệt, có đầy đủ bằng cớ hẳn hòi chứ không thể hành động một cách khinh xuất bừa bãi được. Dục tốc bất đạt (#3) có phải không?

Vô-Trần Đạo-Nhân nghe Trần-Gia-Cách phân tích rất là tế nhị và sâu sắc trong lòng rất khâm phục, chịu theo lời ngay, chẳng chút do dự. Trần-Gia-Cách liền sai Dư-Ngư-Đồng dẫn đường đến Thiết-Đảm-Trang. Khi cả ba người đến Thiết-Đảm-Trang thì trời đã khuya, lại gặp đúng lúc Châu-Trọng-Anh vừa dập tắt hết đèn đuốc trong đại sảnh sau nhiều trận ác chiến.

Dư-Ngư-Đồng sau đó dẫn Tổng-Đà-Chủ và Nhị đương-gia từ ngõ đi vào như chỗ không người. Thấy bên trong tối như mực, Dư-Ngư-Đồng bèn giựt lấy cây đuốc của một tên tráng đinh mà đi vào...

Bên hàng ghế phía Tây, Châu-Trọng-Anh ngồi ở phía trên. Ngay đàng sau là Mạnh-Kiện-Hùng, An-Kiện-Cường và Châu-Ỷ.

Chỉ riêng Vạn-Khánh-Nhuận là ‘cô đơn lạc loài’, không ai mời ngồi. Y nhận thấy hai bên đang mở cuộc hội nghị nên có phần bất tiện cho y. Vạn-Khánh-Nhuận đang rón rén định chuồn đi thì Từ-Thiện-Hoằng lanh mắt trông thấy kịp. Như mũi tên bay, Từ-Thiện-Hoằng phóng ra chặn ngay cửa không cho Vạn-Khánh-Nhuận tẩu thoát. Nhìn thẳng vào mặt y, Từ-Thiện-Hoằng lạnh lùng lên tiếng:

-Khoan vội đi đâu! Xin mời ở lại đây nói hết đầu đuôi để cho mọi người được rõ ràng phân minh đã!

Vạn-Khánh-Nhuận sợ hãi, thầm kêu khổ. Y đành riu ríu trở vào ngồi dưới hàng phía chót ở phía Tây. Vạn-Khánh-Nhuận nhận thấy hai bên Thiết-Đảm-Trang và Hồng Hoa Hội quá đông người, mà ai nấy đều võ công cao siêu cả thì không dám liều mạng, đành để mặc cho định mệnh đưa đẩy đến đâu thì đến.

Châu-Trọng-Anh và Trần-Gia-Cách sau đó thay phiên nhau giới thiệu tên tuổi từng người trong Thiết-Đảm-Trang cùng Hồng Hoa Hội.

Điều mà Châu-Trọng-Anh kinh ngạc hơn cả là bao nhiêu cao thủ Hồng Hoa Hội đều là những nhân vật khét tiếng trong võ lâm tập hợp lại mà tất cả lại đồng lòng chịu để cho một người điều khiển. Dĩ nhiên người ấy phải là một nhân vật có bản lãnh phi phàm, tài đức vẹn toàn nên mới được bao nhiêu cao thủ kính phục, tôn là lãnh đạo.

Châu-Trọng-Anh lại nhìn vị Tổng-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội, tức Trần-Gia-Cách, nhân vật tối cao của tổ chức ‘phản Thanh phục Minh’ này. Trái với điều tưởng tượng của Châu-Trọng-Anh, đây không phải là một nhân vật lão thành dày dạn phong sương tên tuổi lẫy lừng khắp bốn bể, mà lại là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, trông giống như một công tử ở một nơi quyền quý cao sang nào đó. Phải, một ‘công tử’, thế mà các bậc anh hùng hào kiệt kia lại mười phần cung kính, mọi điều đều tuân theo răm rắp chứ chẳng dám ươn ngạnh. Càng nghĩ, Châu-Trọng-Anh càng lấy làm lạ, không dám tin vào mắt mình.

Trần-Gia-Cách như đoán được ý nghĩ và mọi hoài nghi của Châu-Trọng-Anh nên tự nhủ thầm:

-“Chắc trang chủ Thiết-Đảm-Trang cho rằng ta tuổi trẻ thì làm sao ngồi được ghế lãnh tụ của Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội nên có vẻ phân vân không ít. Ta phải tìm cách đánh tan mọi ý tưởng của ông ta mới được.”

Nghĩ vậy, Trần-Gia-Cách nhìn Châu-Trọng-Anh lễ phép nói:

-Người anh em thứ tư của chúng tôi là Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai chẳng may gặp phải nanh vuốt của bọn ‘tẩu cẩu’ của triều đình bao phen công kích, gây nhiều nỗi khó khăn. Bởi vì ‘mãnh hổ nan địch quần hồ’ cho nên Tứ đương-gia mang trọng thương đến quý sơn trang tị nạn. Được Châu lão tiền bối khinh tài trượng nghĩa, nghĩ tình đồng đạo võ lâm mà ra tay tương trợ nên Hồng Hoa Hội chúng tôi muôn phần cảm kích vội vã đến đây để cảm tạ.

Nói xong, Trần-Gia-Cách đứng lên hướng về phía Châu-Trọng-Anh vòng tay vái dài một cái hết sức cung kính.

Châu-Trọng-Anh cũng vội vàng đáp lễ, trong lòng hết sức khâm phục nhưng cũng lo lắng không ít. Ông ta nghĩ thầm:

-Vị Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội này không phải là phường công tử bột như ta nghĩ. Cứ theo phong cách và lời nói của chàng ta thì dẫu là bậc tiền bối cao thủ lão thành trên võ lâm cũng chưa chắc bằng được. Y dư biết Văn-Thái-Lai bị bắt tại sơn trang của ta giải về Bắc-Kinh rồi vậy mà không nóng này sỗ sàng như mấy người kia. Đây là y nén giận dùng lời nói khéo cột ta vào thế bí trước rồi có gì mới động thủ sau (#4). Nếu người của võ lâm nghe được điều này tất nhiên sẽ có cảm tình nhiều với y trong khi sẽ có ác cảm với ta. Lối xử sự của vị Tổng-Đà-Chủ trẻ tuổi này thật là hết sức không khéo và tế nhị, ta thật khó mà đối phó nổi với y.

Câu nói của Trần-Gia-Cách không những làm cho Châu-Trọng-Anh nể vì mà còn khiến cho toàn thể bang chúng Hồng Hoa Hội từ trên xuống dưới kính phục bội phần, nhất là Vô-Trần Đạo-Nhân. Nhị đương-gia mừng lòng nghĩ thầm:

-“Hoan hỉ thay cho Hồng Hoa Hội đã có được người xứng đáng thay thế cho Vu tổng đà-chủ từ này về sau! Lo gì sự việc cứu dân ra khỏi vòng nô lệ của Hồng Hoa Hội không được sáng chói như vầng thái-dương, như ánh minh-nguyệt!”

Chỉ có Chương-Tấn là người lỗ mãng, thiếu kiến-thức, không hiểu được dụng ý của câu nói ‘tiên lễ hậu binh’ của Trần-Gia-Cách nên nét mặt hầm hầm, mắt lườm Châu-Trọng-Anh nói:

-Lão tặc này đã hãm hại Văn tứ ca mà Tổng-Đà-Chủ còn khách sáo dùng lời tử tế với y làm gì!

Vệ-Xuân-Hoa ngồi bên cạnh thấy vậy nắm tay Chương-Tấn, nghiêm mặt bảo y ngồi im lặng. Trần-Gia-Cách chờ mãi mà vẫn không nghe Châu-Trọng-Anh trả lời thì vẫn giữ thái độ hòa nhã nói tiếp:

-Thưa Châu lão tiền bối. Anh em tại hạ được tin Văn tứ ca ngộ nạn đến đây nương nhờ Thiết-Đảm-Trang thì trong lòng nóng như lửa đốt nên phải cấp tốc mà đến ngay, bất kể ngày đêm. Trước là để bái tạ thâm ân của Châu lão tiền bối, và sau là để được gặp mặt Văn tứ ca. Trong lúc quá cấp bách nên không có món gì đem đến dâng lão anh hùng gọi là chút lễ vật tương kiến, mong lão anh hùng vị tình mà châm chế cho. Chúng tôi lại được biết Văn tứ ca nhờ Thiết-Đảm-Trang lo cho thuốc thang đầy đủ. Vậy xin Châu lão anh hùng cho biết hiện tại thương tích Văn tứ ca thế nào và dẫn anh em chúng tôi đi gặp mặt.

Trần-Gia-Cách nói xong bèn kéo ghế đứng dậy. Tất cả các đương gia Hồng Hoa Hội sau đó không ai bảo ai, cùng một lúc đứng dậy theo Tổng-Đà-Chủ.

Châu-Trọng-Anh xưa nay khét tiếng anh-hùng, khi cần phải cứng rắn để quyết định một việc gì, ông chưa hề bao giờ do dự, luôn cả việc bất đắc dĩ ra tay trừng phạt giết chết đứa con trai duy nhất của mình. Thế mà giờ đây đứng trước một câu hỏi khôn khéo của Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội, Châu-Trọng-Anh lại đứng yên như tượng đá mà không biết đường nào trả lời.

Thấy Châu-Trọng-Anh cũng đứng dậy đáp lễ mà vẫn im lìm, lại nói tiếp:

-Như tại hạ đã nói, chỉ vì quá gấp rút mau được gặp mặt Văn tứ ca thành thử quên mang lễ vật xứng đáng đến để tỏ lòng tri ân và tôn kính. Nhưng anh em Hồng Hoa Hội nãy giờ cũng đã bày tỏ lòng tri ân và thiện chí, tại sao Châu lão anh hùng lại cố chấp như vậy? Anh em chúng tôi khao khát được nhìn mặt Văn tứ ca. Nếu Tứ ca có lỡ mạo phạm điều gì với trang chủ thì tại hạ cũng xin thay mặt Hồng Hoa Hội để tạ lỗi cùng lão anh hùng. Hồng Hoa Hội ân oán rất phân minh, quyết không bao giờ thất ước (#5) Châu lão anh hùng đâu.

Đây là lần thứ ba Trần-Gia-Cách đề cập đến vấn đề này. Nhưng Châu-Trọng-Anh vẫn không làm sao tìm được câu giải đáp. Lạc-Băng thấy thế nóng giận vô cùng, không còn dằn được nữa, nghiến răng, trợn mắt nhìn thẳng vào mặt vị trang chủ anh hùng nói với Trần-Gia-Cách:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ! Văn tứ ca đã bị chúng bán đứng cho lũ ‘tẩu cẩu’ triều đình và đã bị hại chết rồi, còn đâu mà hỏi nữa! Xin Tổng-Đà-Chủ bắt lão tặc này đền mạng cho Văn tứ ca thì anh em Hồng Hoa Hội mới được hả dạ phần nào!

Lạc-Băng vừa dứt lời, Dương-Thanh-Hiệo, Vệ-Xuân-Hoa, Chương-Tấn và Thạch-Song-Anh đồng thét lên một lượt như sấm nổ, tuốt khí giới ra, hùng hổ tiến tới bao vây Châu-Trọng-Anh vào giữa; chỉ cần Tổng-Đà-Chủ hạ lệnh là sẽ sẵn sàng bằm Châu-Trọng-Anh ra làm trăm ngàn mảnh.

Mạnh-Kiện-Hùng, An-Kiện-Cường và Châu-Ỷ cũng đứng phắt dậy, tuốt binh khí lại đứng gần Châu-Trọng-Anh nhìn đám người Hồng Hoa Hội với vẻ căm hờn. Mạnh-Kiện-Hùng nói lớn:

-Việc Văn tứ gia đến Thiết-Đảm-Trang có thật, tôi nào có chối đâu! Vả lại sư phụ tôi lúc đó không có nhà. Chư vị muốn gì thì tính với tôi chớ sao lại hạch sách sư phụ tôi? Thiết-Đảm-Trang dù nhỏ bé, lại cô thế nhưng quyết không sợ các ‘anh hùng hảo hán’ cậy đông hiếp ít đâu!

Từ-Thiện-Hoằng cười nhạt nhìn Mạnh-Thiện-Hùng hỏi:

-Chúng tôi nào có dám hạch sách với lại hiếp đáp người? Sao Mạnh huynh lại dùng chữ nặng như vậy? Nếu quả như lời Mạnh huynh nói thì xin Mạnh huynh đưa chúng tôi đi gặp Văn tứ ca được chăng?

Mạnh-Kiện-Hùng lấy tay chỉ Lạc-Băng cùng Dư-Ngư-Đồng nói:

-Văn gia, Văn phu-nhân, và Dư gia đến tệ trang trong lúc sư phụ tôi đi vắng. Khi ấy Văn tứ gia bị nội thương bộc phát, chúng tôi liền tức tốc cho người đến Triệu lão gia rước danh y về điều trị cho Văn gia. Sự việc ấy phải chăng chính Văn phu nhân và Dư gia đã được ‘mắt thấy tai nghe’? Trong lúc lương y chưa tới kịp thì bọn sai-nha do Trương-Siêu-Trọng cầm đầu đột nhập vào sơn trang tìm bắt Văn tứ gia. Đích thân tôi đã huy động toàn lực sơn trang, một mặt ngăn cản chúng và một mặt bảo vệ Văn tứ gia. Tôi hận mình bất tài không bảo vệ được cho Văn gia để cho bọn tẩu cẩu kia bắt đi, nhưng tôi không lấy làm hổ thẹn vì tôi đã tận lực, làm hết sức mình! Tôi vốn kính phục Văn tứ gia là người nghĩa khí đời nay, đồng thời một mực tuân theo tôn chỉ của sư phụ là phải hết lòng bảo vệ cho các anh hùng khi gặp cơn nguy khó. Nếu tôi không làm được điều ấy thì chẳng những trên hổ thẹn với anh hùng thiên hạ, dưới làm nhục sư môn mà chính lương tâm còn bị cắn rứt nhiều nữa. Nếu Trần Tổng-Đà-Chủ phiền trách tôi sao bảo vệ sơ sót để Văn tứ gia bị bắt thì tôi xin chịu và sẵn sàng để cho Tổng-Đà-Chủ muốn giết thì giết, họ Mạnh này không có gì sợ sệt cả. Nếu không được như lời thì không phải là anh hùng hảo hán trên đời. Còn như chư vị cứ một mực khăng khăng vu khống cho sư phụ tôi là bán đứng bằng hữu võ lâm đồng đạo để lấy tiền thưởng như tên chó chết Vạn-Khánh-Nhuận kia ‘ngậm máu phun người’ thì tôi quyết không phục! Các vì đường đường là các bậc anh hùng hào kiệt mà không biết thế nào là lẽ phải, lại đi tin vào lời ly gián của kẻ gian thì thật là đáng buồn! Tôi xin nhắc lại, nếu chư vị muốn gì thì cứ tính với tôi chứ không được vô lễ với sư phụ của tôi!

Lạc-Băng chạy tới chỉ vào mặt Mạnh-Kiện-Hùng nói:

-Mi tự xưng là anh hùng hảo hán hả? Nếu vậy để ta hỏi. Mi bảo đảm với chúng ta là xuống địa huyệt chẳng một ai có thể tìm ra ngoài người của Thiết-Đảm-Trang. Vậy phải chăng chính người của Thiết-Đảm-Trang của mi đã chỉ chỗ bí mật ấy cho bọn tẩu cẩu kia bắt Văn tứ ca? Mi trả lời cho rõ đi mới là hải hán!

Mạnh-Kiện-Hùng nghe Lạc-Băng bắt bẻ câu này thì đành im lặng, không sao mở mồm ra được. Chính Châu-Anh-Kiệt vì tham chiếc ‘thiên lý cảnh’ nên đã tiết lộ bí mật địa huyệt với Trương-Siêu-Trọng. Theo lý mà nói thì đó cũng là trách nhiệm của Thiết-Đảm-Trang. Hành động đó có khác nào là bán đứng bằng hữu đâu? Nếu dùng lý lẽ mà bẻ tới cùng thì Hồng Hoa Hội có thể bắt lỗi rằng: cho đến một đứa bé của Thiết-Đảm-Trang còn vì lợi quên nghĩa thì người lớn sẽ còn thế nào? Dù gì Châu-Anh-Kiệt cũng là con của sư phụ mình. Mạnh-Kiện-Hùng không thể đem việc này ra nói để làm buồn lòng ân sư. Việc xấu bao giờ cũng phải ‘đậy lại’, đó là lẽ thường xưa nay.

Thấy Lạc-Băng bắt bẻ Mạnh-Kiện-Hùng đến phải ngậm miệng như hến, Châu-Ỷ nộ khí xung thiên bước ra chỉ vào mặt Lạc-Băng, đáo để nói như hét lên:

-Thế ra mi tưởng mi là nữ anh hào chắc? Đồ cái thứ nữ anh hào gì mà chồng bị bắt không chịu tìm hiểu rõ nguyên do lại đi đổ tội, bắt lỗi hết người này sang người khác! Nữ anh hào gì mà không dám cùng ta so tài cao thấp mà chỉ biết ngồi khóc với ăn vạ để cho người ta thương hại không nỡ ra tay! Biết thế ta cứ để mặc xác mi nằm trên đường cho ruồi tha quạ mổ cho xong chuyện thì còn đâu ở đây mà buông những lời hỗn xược vô lễ với gia gia ta và Mạnh đại ca! Đồ cái thứ vô ân bội nghĩa! Mi còn tệ hại hơn cả hạng gái lầu xanh nữa biết không!

Lạc-Băng nghe Châu-Ỷ sỉ vả mình thậm tệ thì uất ức vô cùng, không sao nói được thành lời, nước mắt trào ra như mưa mà ấp úng:

-Ngươi... ngươi...

Thấy vậy, Châu-Trọng-Anh vội nạt Châu-Ỷ:

-Này con, không được vô lễ!

Vô-Trần Đạo-Nhân ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

-Lúc sự việc xảy ra như vậy thì Châu lão anh hùng vắng mặt, chúng tôi tin như thế. Nhưng ‘oan có đầu, nợ có chủ’, tất nhiên khi Châu trang chủ về lại sơn trang rồi ắt người nhà phải thuật lại hết đầu đuôi tự sự cho nghe. Tôi chỉ xin Châu trang chủ nói rõ việc ấy như thế nào để cho chúng tôi được minh bạch mà không phải đặt thành nghi vấn nữa.

Vạn-Khánh-Nhuận lúc đó đang ẩn mình trong một xó bỗn ló đầu ra nói lớn:

-Chính thằng con trai lão Châu-Trọng-Anh đã chỉ chỗ cho Trương-Siêu-Trọng đại nhân. Các người cứ bắt lão đem nó ra giao nạo là xong, cần gì phải phí lời hỏi lão ta thêm làm gì!

Trần-Gia-Cách nhanh nhẹn tiến tới một bước hỏi:

-Châu lão tiền bối! Chẳng hay điều hắn vừa nói ra có thật hay không?

Châu-Trọng-Anh là người ngay thẳng. Vốn ra ông không muốn đem chuyện con trai mình ra nói là vì sợ Hồng Hoa Hội cho là ông ta hèn nhát sợ trách nhiệm đến độ phải đổ tội cho đứa con thơ nên mới do dự không chịu nói. Nhưng nay thấy chuyện đã đổ bể, bị tên Vạn-Khánh-Nhuận nói huỵch toẹt ra bèn gật đầu thú nhận chứ không cãi.

Đám người Hồng Hoa Hội lại hét lên dữ dội rồi vây chặt lấy Châu-Trọng-Anh mà đợi lệnh của Tổng-Đà-Chủ. Nhưng thay vì chất vấn thêm Châu-Trọng-Anh, Trần-Gia-Cách lại liếc mắt nhìn Vạn-Khánh-Nhuận cười nhạt mà hỏi:

-Vị này là ai mà sao lúc nãy không hân hạnh được nghe Châu lão tiền bối giới thiệu cao danh quý tánh?

Lạc-Băng chỉ vào mặt Vạn-Khánh-Nhuận nói:

-Nó là một tên ‘tẩu cẩu’ của triều đình Mãn-Thanh. Lúc Văn tứ ca đám lang sói bắt có mặt đứa vô lương này!

Trần-Gia-Cách chẳng nói chẳng rằng, vọt tới như một mũi tên xẹt ngang trước mặt Vạn-Khánh-Nhuận. Trên tay Vạn-Khánh-Nhuận vẫn còn đang cầm cây cương xuyên, thấy Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội xông lại tấn công mình thì toan dùng món vũ khí hộ thân để cản lại. Nhưng chưa kịp vung tay, Vạn-Khánh-Nhuận đã bị Trần-Gia-Cách đoạt mất cương xuyên ném xuốn đất. Rồi chỉ nghe một tiếng ‘rắc’, tay của Vạn-Khánh-Nhuận đã bị Trần-Gia-Cách bẻ quặp ra đàng sau lưng. Thủ pháp của vị Tổng-Đà-Chủ quá mau lẹ khiến cho tất cả mọi người không ai trông thấy kịp, mà cũng không biết chàng sử dụng chiêu thức nào quá tài tình và nhanh nhẹn đến độ không thể tưởng tượng được.

Trần-Gia-Cách bẻ quá mạnh khiến cho Vạn-Khánh-Nhuận cảm tưởng như cả cánh tay cùng bao nhiêu khớp xương trên mình hắn đều bị gãy lọi. Hắn đau quá, nước mắt tuôn ra và mồ hôi từng giọt trên trán chảy xuống. Hắn chỉ còn biết đứng im một chỗ mà không tài nào dẫy dụa được.

Vạn-Khánh-Nhuận cũng là một cao thủ có hạng trên võ lâm, thế mà chỉ trong một chiêu đã bị Trần-Gia-Cách chế ngự dễ dàng còn hơn trở bàn tay. Phía Thiết-Đảm-Trang, ai nấy trông thấy đều phải ngơ ngác mà kinh hãi, kể cả Châu-Trọng-Anh. Phía Hồng Hoa Hội thì lớn tiếng cổ võ, thầm phục tài nghệ siêu đẳng của Tổng-Đà-Chủ mình mặc dù cũng chẳng hiểu gì về tài nghệ của chàng cho lắm. Họ chỉ biết Trần-Gia-Cách là đệ tử chân truyền duy nhất của Thiên-Tử Quái Hiệp chứ chưa hề bao giờ đo lường được tài năng của Tổng-Đà-Chủ mình cao diệu đến đâu.

Trần-Gia-Cách đôi mắt như hai luồng hào quang, nhìn thẳng vào mặt Vạn-Khánh-Nhuận hỏi:

-Bọn mi bắt Văn tứ ca dẫn đi đâu?

Vạn-Khánh-Nhuận ngậm miệng không đáp, làm ra vẻ ngạo nghễ để tỏ khí phách anh hùng. Trần-Gia-Cách lấy một ngón tay điểm vào huyệt ‘trung phủ’ (#6) mà tra khảo:

-Mi chịu nói hay là không?

Vạn-Khánh-Nhuận cất tiếng oang oang đáp lại:

-Mi dùng độc thủ với ta như thế này không phải là hảo hán! Nếu mi có giỏi thì giết ta đi chứ đừng hỏi nhiều lời vô ích. Ta không nói đâu!

Vạn-Khánh-Nhuận cắn răng mà chịu chứ nhất định không chịu nói. Mồ hôi trên trán của hắn tuôn xuống đầm đề nhưng vẫn cứ gan lì. Trần-Gia-Cách lại điểm thêm vào huyệt ‘nhuyễn ma’ nữa. Vạn-Khánh-Nhuận đau quá, không sao chịu được nữa, kêu ầm lên:

-Thôi, thôi! Tôi nói! Tôi nói!

Trần-Gia-Cách mới điểm nhẹ vào huyệt ‘khí dũ’. Vạn-Khánh-Nhuận thở phì ra một cái mà nói ngay:

-Dẫn về Bắc-Kinh rồi!

Lạc-Băng nghe nói mừng rỡ, vội vã hỏi thêm:

-Văn... Văn tứ... Văn tứ ca... chưa chết chứ?

Vạn-Khánh-Nhuận cười khổ đáp:

-Lệnh truyền phải đem Văn-Thái-Lai mà nạp cho Hoàng-Thượng thì thử hỏi làm sao ai dám giết mà chết chứ?

Đôi mắt Lạc-Băng lóe lên nhiều tia hy vọng. Để cho chắc chắn, nàng lại hỏi tiếp:

-Mi nói thế có đúng hay không?

Vạn-Khánh-Nhuận nhăn mặt nói:

-Ta nói dối các người để làm gì?

Biết được tin Văn-Thái-Lai còn sống, Lạc-Băng vui mừng đến nỗi quá xúc động không dằn được, xay xẩm mặt mày té ngửa ra sau. Dư-Ngư-Đồng hoảng hốt nhanh tay đỡ lại kịp thời. Nhưng vừa đưa tay ra đỡ và định ôm nàng vào lòng, bỗng một ý nghĩ lại hiện ra trong đầu Dư-Ngư-Đồng khiến chàng sợ hãi quá bèn buông ngay cả hai tay ra. Toàn thân Lạc-Băng như một thân cây bị đốn ngã, rơi mạnh xuống đất.

Chương-Tấn cả kinh, vội nhảy tới đỡ Lạc-Băng ngồi dậy hỏi thăm:

-Tứ tẩu! Sao vậy? Có việc gì không?

Chương-Tấn đưa mắt lườm Dư-Ngư-Đồng như tỏ ý trách móc sao không chịu đỡ mà để Lạc-Băng ngã xuống như vậy. Y bất chợt đâm ra nghi ngờ hành vi của Dư-Ngư-Đồng.

Lúc đó, Trần-Gia-Cách vẫy tay gọi tiểu đồng Tâm-Nghiện lại chỉ Vạn-Khánh-Nhuận nói:

-Trói nó lại!

Tâm-Nghiện bèn mở gói lấy ra một sợi dây thừng trói chặt hai tay Vạn-Khánh-Nhuận lại. Tuy hắn đã được Trần-Gia-Cách giải huyệt nhưng gân cốt vẫn còn bị tê liệt nên không cử động gì được, đành đứng im cho cậu bé thư đồng của Tổng Đà Chủ Hồng Hoa Hội mặc sức trói lại.

Trần-Gia-Cách sau đó nghiêm nghị nói với tất cả bang chúng Hồng Hoa Hội rằng:

-Tất cả các anh em! Việc giải cứu Văn tứ ca là việc trọng yếu. Chúng ta hãy cùng nhau họp lại mà bàn thảo kế hoạch để thi hành gất rút cho kịp. Còn việc dang dở tại Thiết-Đảm-Trang chúng ta tạm thời gác lại rồi sẽ tính toán sau tưởng cũng chưa có gì muộn màng.

Nghe Tổng-Đà-Chủ nói, đám người Hồng Hoa Hội đều nhất nhất, một mực tuân theo. Bấy giờ Lạc-Băng đã tỉnh lại. Nàng vui mừng quá, khóc rấm rức mãi không thôi. Thấy mọi người đều tán thành ý kiến của mình, Trần-Gia-Cách hướng về phía Châu-Trọng-Anh vòng tay nói:

-Còn chút việc cần phải thưa lại để lão trang chủ được rõ. Ân trọng đức dày của Thiết-Đảm-Trang, Hồng Hoa Hội xin thề sẽ khắc cốt ghi tâm mà báo đáp xứng đáng chứ chẳng bao giờ dám quên. Xin hẹn gặp lại sau.

Châu-Trọng-Anh hiểu rõ đây là một lời hăm dọa. Ý Trần-Gia-Cách hẳn là khi cứu xong Văn-Thái-Lai, Hồng Hoa Hội sẽ trở lại Thiết-Đảm-Trang tìm kẻ thù báo oán. Ông ta cả giận nghĩ thầm:

-“Các người nhất định không chịu xét việc kỹ càng mà lúc nào chỉ đòi hơn thua. Chả lẽ ta lại sợ sao?”

Tuy nhiên, Châu-Trọng-Anh vẫn bình tĩnh đáp lễ lại Trần-Gia-Cách:

-Xin tuân mệnh.

Châu-Trọng-Anh vừa dứt lời thì Chương-Tấn hét lên:

-Ta nói thật với ngươi một lời là khi giải cứu Văn tứ ca rồi , đích thân ta sẽ trở lại đây chấp hết tất cả các người trong Thiết-Đảm-Trang các ngươi mà đánh một trận sinh tử mà chẳng cần ai giúp sức!

Dương-Thanh-Hiệp cũng nói thêm:

-Thật là đồ lang sói! Thế mà cũng tự xưng là anh hùng mà không biết thẹn!

Châu-Ỷ nghe hai người nói thì cả giận hét vang lên:

-Cái thằng gù khốn kiếp kia! Cắt cổ gà cần gì phải dùng đến dao mổ trâu? Chỉ một mình bản cô nương cũng đủ cắt bỏ cái bướu của mi rồi, cần gì nhọc sức đến ai ra tay nữa! Còn cái thằng đồ tể ma rợ kia! Mi mắng nhiếc ai đó?

Dương-Thanh-Hiệp cũng giận đỏ mặt đáp:

-Ta mắng kẻ nào không có nghĩa khí không biết dạy con để nó làm điều xấu xa đê tiện đó!

Vừa dứt lời Thiết-Tháp Dương-Thanh-Hiệp liền cung tay nhắm ngay bụng Châu-Trọng-Anh đánh ra một quyền. Lão trang chủ chỉ khẽ nhích người dang một bên đã tránh được đường quyền của Bát đương-gia một cách dễ dàng.

Châu-Ỷ bèn bước tới lớn tiếng mắng:

-Mi là cái giống người gì mà dám đến đây nhục mạ gia gia ta?

Dương-Thanh-Hiệp đáp:

-Ta là một người trọng nhân nghĩa, khác hẳn với lũ gian tà bất lương. Mi chỉ là một liễu đầu, có xứng đáng gì cho ta nói chuyện?

Trả lời xong, Dương-Thanh-Hiệp bước đi theo đám Hồng Hoa Hội ra ngoài. Nhưng ‘Tiểu Quý Lục’ vốn nóng tính như lửa, lời nói của Dương-Thanh-Hiệp chẳng khác gì chế thêm dầu vào. Khi nghe Dương-Thanh-Hệp khinh mình là ‘liễu đầu’, Châu-Ỷ đỏ mặt tía tai rượt theo gọi lớn:

-Mi khinh ta là nữ nhi thì có dám trở lại đây mà tỉ thí với con ‘liễu đầu’ này không hả tên mạt kiếp?

Dương-Thanh-Hiệp đáp:

-Không thèm! Mi có giỏi thì kêu anh cả mi ra đây đi! Ta chỉ muốn lấy mạng tên đó thôi!

Châu-Ỷ hỏi lại:

-Anh cả ta à?

Rồi nàng lấy làm kỳ quặc cho câu nói của Dương-Thanh-Hiệp, không hiểu hắn muốn ám chỉ người nào.

Vệ-Xuân-Hoa lại tiếp lời:

-Mi còn giả bộ ngơ ngẩn nữa à? Cái thứ ti tiện tham tiền bán đứng bằng hữu để kiếm ăn! Đã có thứ anh như thế thì trách gì có thứ em gái thế này! Đứa anh khốn nạn của mi trốn đâu rồi?

Châu-Ỷ vẫn ngạc nhiên không hiểu. Nàng nghĩ thầm:

-“Nào ta có anh nào đâu? Bọn này nói cái gì mà lạ thế?”

Mạnh-Kiện-Hùng thấy Châu-Ỷ ngơ ngác trước câu nói của Dương-Thanh-Hiệp và Vệ-Xuân-Hoa thì biết ngay đám người Hồng Hoa Hội đã hiểu lầm lời tố cáo của Vạn-Khánh-Nhuận. Chuyện bây giờ thật đâm ra hết sức khó xử. Nếu chàng đem chuyện Châu-Trọng-Anh đánh chết con trai ra mà nói thì chẳng hóa ra bên mình khiếp nhược, sợ đánh không lại nên mới cầu hòa. Nghĩ vậy, chàng liền bảo Châu-Ỷ rằng:

-Thôi đi sư muội. Để mặc cho họ đi!

Rồi chàng quay qua đám Hồng Hoa Hội nói:

-Hiện thời quý vị có chuyện cần gấp xin cứ đi đi. Hy vọng sau này mọi việc sẽ được phơi bày tất cả ra ánh sáng, chứ không thể nào biện minh ngay được bây giờ.

Chương-Tấn nói:

-Chúng ta chỉ muốn thấy mặt anh cả của cô bé này một tí thôi.

Châu-Ỷ càng lúc càng bực mình. Nàng sẵng giọng nói:

-Ê! Cái thằng gù! Bộ mi lãng trí cuồng tâm rồi hay sao mà nói chuyện không đâu ra đâu vậy? Bản cô nương đây làm gì có anh cả mà mi muốn ra mắt!

Chương-Tấn lại thêm một lần nữa bị Châu-Ỷ gọi là ‘thằng gù’. Y gầm lên một tiếng như hổ rống, liệng song phủ xuống đất đưa hai cánh tay gân guốc ra đánh thẳng vào mặt Châu-Ỷ hai quyền.

Châu-Ỷ đưa thanh đơn đao ra chém vào hai tay của Chương-Tấn. Thập đương-gia, khẽ rút tay lại, đổi thành thế ‘cầm nã thủ’ đưa ra đối địch. Một bên dùng quyền, một bên dùng đao, cùng nhau đấu một trận kịch liệt.

Vệ-Xuân-Hoa đứng ngoài thấy ‘ngứa ngáy’ liền hươi song câu xông tới thét lớn:

-Nhìn hai người đánh nhau mà mình chỉ đứng ngoài thị chiến (#7) thật là mất hết thì giờ. Mạnh huynh! Anh có bản lãnh gì hãy đem ra cùng tôi đánh thử một trận để xem tài nghệ của Thiết-Đảm-Trang như thế nào mà làm những chuyện đê hèn tồi tệ để chuốc lấy tiếng nhơ nhuốc trong giang hồ.

Trước lời nói khiêu khích và mạt sát của Vệ-Xuân-Hoa, Mạnh-Kiện-Hùng không chút nóng giận, vẫn giữ thái độ điềm tĩnh mà đáp:

-Vệ gia đã có ý muốn thử võ công của đứa đồ đệ ngu si đần độn, kém cỏi nhất của Thiết-Đảm-Trang thì xin mời cứ ra tay trước đi! Người của Thiết-Đảm-Trang dù chẳng ra gì nhưng bao giờ cũng giữ lễ độ, biết kính trên nhường dưới chứ không hồ đồ. Dù có phải động thủ đi chăng nữa cũng vẫn giữ được thái độ hòa nhã ‘tiên khách hậu chủ’.

Câu nói nhún nhường của Mạnh-Kiện-Hùng làm cho Vệ-Xuân-Hoa phải ngẫm nghĩ mà khó chịu không ít vì có ý ám chỉ hành động hung hăng háo chiến của nhiều người trong Hồng Hoa Hội. Vệ-Xuân-Hoa, không đáp, múa song câu nhắm Mạnh-Kiện-Hùng đánh tới. Mạnh-Kiện-Hùng cũng rút binh khí ra đối địch chống trả lại.

Đầu kia, An-Kiện-Cường cùng Tưởng-Tứ-Căn đều nét mặt hầm hầm gườm nhau như muốn gây thêm một trường ác đấu khác.

Dương-Thanh-Hiệp thấy vậy bèn gọi lớn lên rằng:

-Các huynh đệ Hồng Hoa Hội! Chúng ta phải tuyệt đối tuân theo lệnh của Tổng-Đà-Chủ mà đi cấp tốc giải cứu Văn tứ ca trước đã. Việc Thiết-Đảm-Trang dẽ thanh toán sau. Chúng ta lưu lại đây ẩu đả với bọn phản bội bán đứng bằng hữu thế này là mất hết thời giờ quý báu. Đó là kế ‘hoãn binh’ của Thiết-Đảm-Trang muốn cầm chân chúng ta lại để bè đảng của chúng có đủ thì giờ giải Văn tứ ca về Bắc-Kinh đó. Các anh em hãy nghe tôi phóng hỏa đốt Thiết-Đảm-Trang rồi cùng kéo nhau đi cứu Văn tứ ca thì hơn!

Vệ-Xuân-Hoa, Chương-Tấn cùng Tưởng-Tứ-Căn nghe nói cho là phải nên tất cả đều dừng tay lại hết. Châu-Trọng-Anh nghe nói cả giận, không dằn được, tóc tai đều dựng ngược lên. Ông ta nhìn Trần-Gia-Cách hậm hực nói:

-Thế mới biết tư cách của đám ‘hào kiệt’ Hồng Hoa Hội là thế nào! Hễ mở mồm ra là sỉ vả, chửi rủa người, hết đòi đánh nhau lại đòi đốt phá tài sản của lương dân mà không cần phải suy nghĩ chín chắn. Đã thế còn xem tánh mạng con người như cỏ rác, lúc nào cũng chỉ biết đến giết chóc, lấy số đông hiếp ít! Đó cũng là hành động của hào kiệt Hồng Hoa Hội nữa sao? Và phải chăng tất cả những điều trên đều nằm trong kế hoạch ‘phản Thanh phục Minh’ giải cứu Hán-tộc của Hồng Hoa Hội?

Châu-Trọng-Anh vừa dứt lời thì Châu-Ỷ, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường phá lên cười ra vẻ thích thú, trong khi đám người Hồng Hoa Hội thì người nào người nấy giận xanh mặt mà không biết tìm đường nào mà trả lời.

Sau đó, ai nấy đều tuốt vũ khí ra như sẵn sàng chuẩn bị cho một cuộc huyết chiến. Trần-Gia-Cách thấy vậy bèn thổi một tiếng hồ tiêu. Tất cả bang chúng đều cất vũ khí, xếp hàng đứng theo thứ tự vai về đàng sau Tổng-Đà-Chủ im phăng phắc. Thấy trật tự đã được vãn hồi, Trần-Gia-Cách mới nói với Châu-Trọng-Anh rằng:

-Châu lão anh hùng! Tiền bối cho rằng Hồng Hoa Hội chúng tôi chỉ ỷ đông hiếp ít để thủ thắng. Vậy bây giờ tại hạ xin tự nguyện đơn độc một mình được thỉnh giáo cao chiêu của tiền bối, là những võ công thượng thừa có một không hai trong thiên hạ, để trong lòng được thỏa bình sinh khát vọng bấy lâu nay. Mong tiền bối đừng từ chối.

Châu-Trọng-Anh gật đầu nói:

-Lão phu xin tuân mệnh! Ngưỡng mộ đại danh Tổng-Đà-Chủ giờ đây được gặp mặt thật là vạn hạnh. Anh hùng hào kiệt xuất thiếu niên! Thật là quý hóa thay! Dù có bại dưới tay Tổng-Đà-Chủ, lão phu cũng mãn nguyện được thưởng thức bản lãnh của một vị lãnh tụ tuổi trẻ, tài đức vẹn toàn đứng ra thống lãnh quần hùng chống lại triều đình Mãn-Thanh cứu dân tộc. Người có chí lớn, ôm ấp một hoài bão như thế thật là hiếm có, lão phu tự lấy làm hổ thẹn không thể nào sánh bằng. Chẳng hay Trần Tổng-đà-chủ muốn dùng quyền cước hay binh khí?

Những lời khiêm nhượng Châu-Trọng-Anh nói ra là do ở chân tâm ông ta chứ không phải là lối tán dương khách sáo. Châu-Trọng-Anh bản tính cương trực, chẳng bao giờ chịu nịnh bợ ton hót ai, mà cũng chẳng bao giờ biết khiếp nhược trước bất cứ mội đối tượng nào. Chẳng qua ông thấy tư cách, cử chỉ, ngôn ngữ của Trần-Gia-Cách có phong độ khác hẳn với những nhân vật khác trong Hồng Hoa Hội nên đem lòng kính phục, nhìn chàng với biệt nhãn (#8), không giống như những người kia.

Nghe Châu-Trọng-Anh nói, Thạch-Song-Anh lớn tiếng ra vẻ chế nhạo:

-Cây đại đao của ông còn dính chặt trên đòn giông, làm sao tỉ thí bằng binh khí cho được?

Mọi người nhìn lên quả nhiên thấy cây đại đao của Châu-Trọng-Anh còn ghim chặt trên đòng dông, liền cười ồ lên. Châu-Trọng-Anh nghe thấy nóng mặt nhưng chẳng nói một lời nào cả.

Bỗng từ đâu một bóng người hiện ra tung mình lên như một con chim én phóng lên trên cao cầm cán đại đao rút mạnh ra rồi nhẹ nhàng đáp xuống không phát ra một tiếng động nhẹ nào. Sau đó người ấy hai tay cầm đại đao đưa cao lên trước trán trao cho Châu-Trọng-Anh, giọng nhỏ nhẹ, lễ phép thưa:

-Thưa Châu lão gia, cháu giúp lấy hộ lão gia thanh kim đao xuống. Xin hoàn lại để lão gia sử dụng.

Mọi người trố mắt nhìn thử xem là ai thì chính là cậu bé thư đồng Tâm-Nghiện theo hầu Trần-Gia-Cách. Châu-Trọng-Anh kinh ngạc đến tột độ, không ngờ một đứa thư đồng mà lại luyện được khinh công tuyệt vời đến thế. Châu-Trọng-Anh không nhận đao, chỉ mỉm cười nói tiếng cám ơn. Tâm-Nghiện sau đứng thẳng người, một tay cầm đao chờ đợi.

Châu-Trọng-Anh liền nói với Trần-Gia-Cách:

-Trần Tổng-đà-chủ nếu sở trường về binh khí nào xin cứ tự nhiên sử dụng. Lão phu xin dùng hai tay để đối địch vài hiệp là được rồi.

Ý Châu-Trọng-Anh như muốn nói rằng không cần tiểu đồng Tâm-Nghiễn của Trần-Gia-Cách trả cho cây kim bội đại đao mới có vũ khí để thi tài, nếu cần, Trần-Gia-Cách có thể lấy cây đại đao đó mà dùng cũng được.

Trần-Gia-Cách nói:

-Tại hạ chẳng có môn nào gọi là sở trường cả. Dùng binh khí cũng được mà tay không cũng xong. Lão anh hùng quen sử dụng đại đao thì sao không dùng nó để mà thi triển uy vũ. Tóm lại, lão anh hùng dạy sao thì tại hạ xin tuân theo vậy thôi.

Mạnh-Kiện-Hùng bước tới đỡ cây kim bội đại đao trên tay Tâm-Nghiện. Cậu bé thư đồng liền lui về đứng sau lưng Trần-Gia-Cách y như cũ.

Mạnh-Kiện-Hùng liền đề nghị với sư phụ:

-Thưa sư phụ, Trần Tổng-đà-chủ dùng binh khí thì lão nhân gia cũng nên dùng binh khí cho tiện.

Tâm-Nghiện lấy trong túi vải một vật sáng long lanh cúi đầu trao cho Trần-Gia-Cách. Đây là một món binh khí rất bí mật của Trần-Gia-Cách mà chưa ai từng được nhìn qua hay biết qua.

Từ-Thiện-Hoằng bỗng cất tiếng xen lời:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ, Trang-chủ Thiết-Đảm-Trang có ý muốn tỉ thí bằng quyền cước thì sao Tổng-Đà-Chủ không dùng quyền cước mà đáp lễ có phải hay hơn không?

Nguyên Từ-Thiện-Hoằng có cặp mắt rất nhạy bén. Qua mấy trận ác đấu, chàng đã nhìn thấy rõ được phong độ trưởng thượng của Châu-Trọng-Anh nên bất giác sinh lòng ngưỡng mộ. Nếu ông ta không có ý nhường nhịn ắt tình thế đã khác xa rồi. Dù anh em Hồng Hoa Hội của chàng xem Châu-Trọng-Anh như kẻ thù không đội trời chung thế mà ông ta vẫn không giận hờn, không chịu nặng đòn đả thương người nào cả. Vì vậy, chàng mong hai bên quyết đấu lần này trong tinh thần võ thuật nhiều hơn là một trận chiến sinh tử.

Nghe Từ-Thiện-Hoằng nói, Trần-Gia-Cách mỉm cười gật đầu tán thành. Chàng kính cẩn vòng tay nói:

-Hay lắm! Nếu Châu lão anh hùng muốn dùng quyền cước thì tại hạ cũng xin dùng quyền cước để hầu tiếp. Thật là một vinh dự lớn lao được học hỏi nơi một đại cao thủ, tên tuổi từ lâu làm chấn động cả võ lâm. Xin Châu chỉ dạy thêm cho và nhớ ‘hạ thủ lưu tình’ cho kẻ hậu bối này.

Châu-Trọng-Anh gật đầu tỏ vẻ hài lòng đáp:

-Hay lắm! Hay lắm! Trần Tổng-đà-chủ bất tất phải khiêm nhượng!

Châu-Ỷ bước tới cởi áo choàng cho thân phụ, miệng khẽ nói:

-Gã Tổng-Đà-Chủ này có lối điểm huyệt lanh lẹ và độc đáo chưa từng thấy. Phụ thân phải cẩn thận, đừng khinh thường hắn nhé!

Dặn dò thân phụ xong, Châu-Ỷ lui ra sau, nhưng cặp mắt và đôi tai luôn luôn để ý, không rời đám người Hồng Hoa Hội. Nàng sợ rằng họ thế nào cũng ra tay đột kích thân phụ nếu Châu-Trọng-Anh chiếm được ưu thế trong trận đấu. An-Kiện-Cường sợ nàng nóng tính sinh sự nên đứng gần để kềm giữ. Mạnh-Kiện-Hùng thì để ý đến Châu-Trọng-Anh, ngấm ngầm cố sức bảo vệ.

Châu-Ỷ, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường hiểu rõ rằng trận đấu này có thể quyết định đến số phận của Thiết-Đảm-Trang nên hết sức cẩn thận đề phòng. Nếu chẳng may sơ ý, cả Thiết-Đảm-Trang cùng tánh mạng của bao nhiêu người đều trở thành tro bụi dưới tay của đám người Hồng Hoa Hội kia. Châu-Trọng-Anh dường như còn hiểu rõ hơn nữa nên ông ta đã nghĩ ra điều sau cùng, điều kém may mắn nhất có thể xảy ra. Ông quay lại nhìn Châu-Ỷ nói:

-Châu Ỷ, con! Nếu trận này cha có xảy tay mà bỏ mình, con đừng lưu luyến Thiết-Đảm-Trang làm gì nữa. Ân oán dù cho có giải xong được chuyến này với Hồng Hoa Hội cũng chưa hết đâu, sẽ còn Trấn-Viễn tiêu-cục, Vạn-Khánh-Nhuận và triều-đình Mãn-Thanh đến nữa. Những đại họa đó, Thiết-Đảm-Trang chúng ta không sao tránh khỏi được đâu! Âu cũng là do số trời, do định mệnh an bài cả. Con cũng đừng nên oán trách ai hay thù hằn ai hết. Bỏ Thiết-Đảm-Trang, con cấp tốc đem gia quyến về phủ Lang-Châu nương náu với thúc thúc của con. Nhất là không được gây thêm oán cừu nữa. Không nên trái lời cha dặn.

Châu-Ỷ lòng đau như dao cắt, nghẹn ngào không nói ra lời, chỉ gật đầu mà vâng lời phụ thân nàng dặn. Sau đó, Châu-Trọng-Anh lại gọi Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường lại dặn dò mọi việc nếu chẳng may ông ta phải chết. Hai người hết sức xúc động, hứa sẽ làm theo.

Lúc ấy, Tống-Thiện-Bằng đã chỉ huy đám tráng đinh dọn dẹp xong bàn ghế, đồ đạc chừa ra một khoảng trống lớn ở chính giữa đại sảnh để làm võ đài. Đèn đuốc bốn phía được thắp lên sáng chưng như ban ngày.

Châu-Trọng-Anh bước vào giữa khoảng trống vòng tay nói:

-Xin mời Trần Tổng-đà-chủ!

Trần-Gia-Cách không cởi áo choàng. Với dáng điệu khoan thai, chàng bước ra đứng đối diện với Châu-Trọng-Anh. Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội tay cầm quạt giấy vẽ hình ‘Nại hàn tam hữu’, quạt qua quạt lại mấy cái cho mát rồi thong thả nói:

-Nếu trận tỉ thí này tại hạ bị bại dưới tay Châu lão anh hùng thì nhất định sẽ mời hết các vị chưởng môn nhân tiền bối tại vùng Tây-Bắc để chứng kiến tại hạ cúi đầu tạ tội với Châu lão tiền bối và thề rằng từ nay và mãi mãi về sau không một bóng người Hồng Hoa Hội nào được bước chân đến vùng đất Cam-Túc này.

Châu-Trọng-Anh hỏi:

-Chẳng hay lời nói của Tổng-Đà-Chủ có tin tưởng được hay không?

Trần-Gia-Cách nhướng cặp lông mày như lá liễu nói:

-Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy (#9). Lời của vãn bối như dao chém đá, xin lão anh hùng cứ yên tâm!

Quay lại nhìn các đương gia, Trần-Gia-Cách nghiêm nghị nói lớn:

-Tất cả anh em Hồng Hoa Hội nghe ta nói đây! Nếu chẳng may ta bị bại trận này thì từ nay về sau không một người nào lớn nhỏ được đặt trên đến vùng đất Cam-Túc này nữa! Nghe rõ chưa?

Tất cả bang chúng Hồng Hoa Hội đều đồng thanh hô lớn:

-Xin tuân theo mệnh lệnh Tổng-Đà-Chủ!

Trần-Gia-Cách gật đầu thỏa mãn rồi sau đó nhìn Châu-Trọng-Anh hỏi:

-Tại hạ cũng xin hỏi lại rằng nếu trường hợp Châu tiền bối lỡ tay sểnh miếng nhường tại hạ một chiêu thì Châu lão anh hùng có ý kiến gì không?

Châu-Trọng-Anh ngước thẳng đầu ra trước, khẽ vuốt chòm râu bạc thản nhiên cười ha hả mấy tiếng rồi đáp:

-Lẽ nào lại không! Rủi lão phu có thua thì cả Thiết-Đảm-Trang lớn nhỏ mấy chục mạng xin giao hết cho Hồng Hoa Hội mặc tình mặc sức, tự ý xử tử hết tất cả.

Trần-Gia-Cách nói:

-Hồng Hoa Hội tuy là một tổ chức nhỏ bé nhưng ân oán rất phân minh, lẽ nào lại đi giết hại bao nhiêu người vô tội như thế? Kẻ hậu sinh chỉ xin đề nghị với tiền bối một điều kiện hết sức đơn giản mà thôi. Nếu vãn bối may mắn được tiền bối nương tay, chỉ xin lão tiền bối giao nạp ra người đã chỉ chỗ ẩn núp của Văn tứ ca cho bọn ‘ưng khuyển’ của Càn-Long bắt và dẫn đi, là lệnh lang đó thôi! Hồng Hoa Hội sẽ đem lệnh lang về An-Tây, một lòng đối xử tử tế, quyết không ngược đãi. Khi nào cứu được Văn tứ ca về đến nơi bình an vô sự thì sẽ phái người đem lệnh lang tới Thiết-Đảm-Trang trao trả cho tiền bối, và bảo đảm một sợi lông chân cũng không bị suy suyển. Chỉ trừ trường hợp Văn tứ ca bị tổn thương đến tính mạng, lúc bấy giờ lệnh lang sẽ phải đền mạnh lại cho Văn tứ ca. Vãn bối nghĩ cách giải quyết thế này là hết sức công bình, chẳng hay lão tiền bối có tán thành không?

Nghe Trần-Gia-Cách nói đến việc bắt con mình làm con tin và trường hợp phải đền mạng cho Văn-Thái-Lai, Châu-Trọng-Anh bỗng động mới thương tâm, xót tình phụ tử, mặt đỏ, lệ tràn, râu tóc dựng ngược hết cả lên. Ông ta lấy tay thủ thế nói:

-Bất tất phải nói nhiều lời làm gì! Cứ thử sức nhau trước đã, hơn thua rồi sẽ tính sau!

Trần-Gia-Cách bèn xếp quạt lại đút vào túi, cúi đầu vòng tay tỏ vẻ cung kính người tuổi tác nói:

-Xin mời lão tiền bối ra tay trước!

Mọi người thấy Trần-Gia-Cách có khí phách anh hùng, với phong độ nhàn nhã và tự nhượng; vẻ bình tĩnh thái nhiên, một mực giữ lễ với bậc cao nhân tiền bối; không có gì nóng nảy như sắp sửa xảy ra một trận quyết đấu với địch nhân thì ai nấy thầm ngợi khen, cảm phục trong lòng.

Châu-Trọng-Anh tay trái tung một quyền vào không khí, tay mặt cung ngay trước ngực. Đó là thế ‘thỉnh thủ’ (#10), là phép lịch-sự của con nhà võ trước khi giao đấu.

Biết đối phương tuổi trẻ muốn nhường cho mình ra tay trước cho nên ‘thỉnh thủ’ xong, Châu-Trọng-Anh không khách khí nữa, dùng một thế ‘Tả xuyên hoa thủ’ nắm tay mặt bảo vệ ngay bụng, tay trái đánh thốc một quyền nhanh như gió vào ngay giữa mặt Trần-Gia-Cách. Quyền chưa tới nơi mà kình lực đã nổi lên nghe vùn vụt khiến ai nấy đứng ngoài xem phải giật mình kinh hãi. Trần-Gia-Cách vẫn ung dung, thong thả dùng thế ‘Hàn nha bộ’, tay mặt đưa thẳng ra gạt ngọn quyền của Châu-Trọng-Anh sang một bên, tay trái đánh vòng một đường theo hình bán nguyệt, tréo vào hông đối phương theo thế ‘Đơn phụng triều dương’, một tuyệt chiêu của Thiếu-Lâm.

Châu-Trọng-Anh thầm kinh ngạc. Ông không ngờ Trần-Gia-Cách không những chỉ biết sử dụng tuyệt kỹ ấy của Thiếu-Lâm, mà còn sử dụng đến mức cao siêu đến như vậy. Ông ta tung mình lên không tránh né, buột miệng khen:

-Tuyệt diệu!

Không dám khinh thường, Châu-Trọng-Anh liên tiếp sử dụng hai thế ‘Huỳnh anh lạc giá’ và ‘Hoài trung bão nguyệt’ tấn công như vũ bão.

Trần-Gia-Cách vẫn điềm tĩnh, dùng quyền pháp của Thiếu-Lâm mà chống trả; tấn thối theo đúng quy tắc; đánh đỡ có phương pháp; khi công khi thủ... Có thể nói là võ nghệ của Thiếu-Lâm chàng ta mười phần thuần thục cả.

Hai bên đánh trên 50 hiệp mà vẫn không phân thắng bại, không ai lướt được ai một thế nào cả. Người đứng ngoài mà nhìn vào cuộc đấu sẽ tưởng rằng cả hai đều là người xuất thân cùng một phái.

Đánh thêm 50 hiệp nữa, sự tương đồng của hai bên càng bộc lộ thêm rõ rệt hơn nữa. Suốt 20 tu luyện trong Thiếu-Lâm, công phu của Châu-Trọng-Anh đã đạt được đến mức ‘Thần hóa cảnh giới’, có khả năng ‘tay đánh rúng động’ mà ‘chân đá gió vù’ mà môn phái Thiếu-Lâm gọi là tâm khoái, nhãn khoái, thủ khoái, thân khoái, bộ khoái, không thể nào diễn tả hay đo lường nổi.

Vì vậy, Châu-Trọng-Anh càng đánh càng lẹ; khi công, khi thủ, khi thôn (#11), khi thô (#12), luân chuyển không hề sai trật; lòng nghĩ sao, tay đánh y hệt như vậy, như một bản đàn uyên thâm huyền diệu. Thoáng một cái, Châu-Trọng-Anh đã thi triển được hết quá nửa 37 bài quyền đầu của Thiếu-Lâm.

Thế nhưng mặc cho Châu-Trọng-Anh mặc sức ra chiêu lanh lẹ, độc đáo đến thế nào, Trần-Gia-Cách cũng không bị lép vế một tí nào cả.

Đột nhiên Châu-Trọng-Anh hét lớn, toàn thân ông ta nghiêng qua một bên dùng một thế vô cùng dũng mãnh là ‘Biên nhận ty kích’ khiến Trần-Gia-Cách phải thất kinh lùi lại một một bước. Nhưng chiêu thế của Châu-Trọng-Anh xuất quá lẹ, lại bao gồm cả chiều sâu cho nên dù Trần-Gia-Cách kịp thời thoái bộ, chiêu thế của Châu-Trọng-Anh vẫn theo đà nhắm Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội đánh thẳng xuống. Đám hào kiệt đương-gia đứng ngoài thấy vậy ai nấy đều giật mình lo sợ.

Trước nguy thế, Trần-Gia-Cách tung mình lên không lộn ra sau tránh thoát được tuyệt chiêu của Châu-Trọng-Anh. Chân vừa chạm xuống đất, chàng nhún mình lướt tới phản công. Lần này Trần-Gia-Cách không dùng võ Thiếu-Lâm chánh tông nữa mà lại sử dụng ‘Ngũ hành liên hoàn quyền’ trong “Ngũ Thượng Quyền Thuật”; tay trái dùng thế ‘Ô long thể qua’ nhắm ngay bụng Châu-Trọng-Anh đánh vụt tới. Châu-Trọng-Anh quát lớn lên:

-Thế càng hay!

Đoạn ông ta tiếp tục dùng tuyệt kỹ của Thiếu-Lâm để chống đỡ. Trao đổi thêm chừng 10 hiệp nữa, Trần-Gia-Cách lại đổi sang thế ‘Bát quái du thân chưởng’, hễ chưởng đánh ra đâu thì người Trần-Gia-Cách cũng tiến theo đó, lanh lẹ không thể nào tưởng tượng được.

Dưới ánh đèn đuốc của đại sảnh mường tượng như có mấy chục cái bóng qua lại. Toàn thân Trần-Gia-Cách như bay nhảy khắp nơi trong đấu trường; mới thấy bên này đã biến qua bên kia; vừa thấy đàng sau đã hiện ra đàng trước... Hai vạt áo của chàng tựa như hai cánh bướm bay lượn giữa trời xuân. Trông chàng có vẻ như đang biểu diễn một vũ điệu mê ly hơn là thi triển võ công.

Châu-Trọng-Anh không chút bấn loạn. Trần-Gia-Cách đánh đến đâu ông ta chống đỡ đến đó. Võ công của Trần-Gia-Cách cho dù biến ảo kỳ diệu và hết sức độc đáo nhưng vẫn không làm sao áp đảo được Châu-Trọng-Anh.

Đánh thêm vài hiệp nữa, Trần-Gia-Cách lại đổi chiêu thức, dùng một thế ‘Như phong tại hải’ trong Thái-Cực-Quyền tấn công. Quyền đánh ra trông rất nhẹ nhàng nhưng trên thực tế rất là hiểm ác. Đó là sở trường của Thái-Cực-Quyền, ‘dụng nhu chế cương, dụng nhược thắng cường’.

Châu-Trọng-Anh không chút nao núng, hễ Trần-Gia-Cách tung ra quyền nào thì ông ta gạt quyền đó đồng thời lại đánh trả lại một quyền. Hai bên cứ thế mà quần nhau, chẳng ai chịu kém ai.

Cả hai bên Hồng Hoa Hội lẫn Thiết-Đảm-Trang đứng ngoài xem mà say mê đến độ quên cả chớp mắt. Võ công cả hai bên đều cao diệu, nhưng chiêu thức của Châu-Trọng-Anh thì mọi người còn hiểu được nhưng của Trần-Gia-Cách thì thật là khó hiểu, không biết chàng ta rèn luyện được võ công từ đâu mà tinh vi, kỳ diệu đến thế. Nhiều bộ pháp và chiêu thức Trần-Gia-Cách thi triển có thể nói rằng tất cả mọi người chỉ mới được thấy lần đầu. Mà kiêm thông được cả hai thủ pháp của Thiếu-Lâm và Thái-Cực thì có lẽ Trần-Gia-Cách là người duy nhất.

Châu-Trọng-Anh càng đánh càng hăng, sức lực chẳng kém gì thanh niên. Có thể nói trong đời chưa bao giờ tìm được một đối thủ lợi hại, xứng tay như Trần-Gia-Cách cho nên ông ta cảm thấy hứng thú vô cùng. Trần-Gia-Cách cũng ngầm kính phục vị chủ nhân Thiết-Đảm-Trang. Danh từ ‘Châu lão anh-hùng’ không phải chỉ là ngẫu nhiên mà ông ta có được.

Một già, một trẻ, quyền qua cước lại, chưởng phong đỏ rực lên khắp đấu trường. Ai cũng thấy rõ, chỉ cần một sơ hở nhỏ là sự thắng bại sẽ hiện ra ngay. Đánh thêm 30 hiệp nữa cũng vẫn ‘kẻ tám lạng, người nửa cân’.

Trần-Gia-Cách bỗng nhiên dùng một thế ‘Đảo bối hầu’, rồi dùng võ công Thiếu-Lâm pha với võ công Thái-Cực, lại kèm theo 36 thế ‘Dương quyền đại cầm nã’, luôn cả bốn thứ quyền pháp họ Nhạc ‘Phân trợ thế cốt thủ’ cũng được Trần-Gia-Cách đem ra sử dụng để cố mà tranh thắng.

Tuy chỉ sử dụng duy nhất có tuyệt kỹ của Thiếu-Lâm, Châu-Trọng-Anh vẫn giữ được thế quân bình mặc dù thủ nhiều hơn công theo phương pháp ‘Bất biến ứng vạn biến’, mục đích là giữ cho vững để chiếm lấy ưu thế và thắng lợi lúc tàn cuộc.

Châu-Trọng-Anh nhận xét thấy rằng tuy võ công của Trần-Gia-Cách hết sức tinh vi và cao diệu. Theo thời gian, trong võ lâm sẽ không còn người nào là đối thủ của chàng. Tuy nhiên hiện tại so với ông ta, Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội vẫn còn kém ba phần hỏa hầu. Mà rèn luyện được tuyệt kỹ Thiếu-Lâm đến trình độ như ông ta thì trên võ lâm hiện nay chưa chắc đã có được người thứ hai. Đồng thời kinh nghiệm chiến trường suốt mấy chục năm đi lại trên võ lâm như ông ta cũng chẳng có được mấy kẻ trong thiên hạ. Vì vậy, Châu-Trọng-Anh rất tự tin rằng ông có cơ hội chiến thắng nếu trận đấu kéo dài. Mà cho dù ông không thắng nổi Trần-Gia-Cách, ông vẫn có đủ sức để thủ hòa.

Thình lình, chân trái Châu-Trọng-Anh bước tới một bước, tay trái nắm lấy vạt áo của Trần-Gia-Cách theo thế ‘Thản đán thiết chưởng’ đồng thời nhắm ngay bàn quan của chàng mà đánh ra một quyền hết sức mạnh bạo, có sức nặng đến cả nghìn cân.

Bị đánh quá đột ngột, Trần-Gia-Cách vô phương đỡ gạt và cũng hết đường tránh né. Trong lúc cấp bách, Trần-Gia-Cách hét lên một tiếng thối lui được ra đàng sau đồng thời tung ra một quyền để hóa giải chiêu thức của Châu-Trọng-Anh, nhưng vạt áo của chàng bị xé toạc một đường dài.

Châu-Trọng-Anh cười hỏi:

-Hy sinh vạt áo à?

Trần-Gia-Cách mặt mũi đỏ bừng, giơ ngón tay điểm thẳng vào ‘Nhuyễn ma huyệt’ của Châu-Trọng-Anh. Ông ta vừa tránh khỏi thì Trần-Gia-Cách lại tiếp tục phóng luôn một lượt ba quyền trong chớp nhoáng mà đánh tới. Mọi người trố mắt nhìn vì quyền pháp của Trần-Gia-Cách thật lạ lùng, chưa một ai bao giờ nghĩ tới chứ đừng nói là biết qua. Trong khi ai nấy đều nặn óc suy nghĩ thì quyền của Trần-Gia-Cách bỗng nhiên biến thành chỉ, tìm những trọng huyệt trên người Châu-Trọng-Anh mà điểm.

Châu-Trọng-Anh khi đỡ, khi tránh, hai tay nhanh nhẹn, luôn bảo vệ các huyệt đạo trên mình. Điểm không trúng, Trần-Gia-Cách hai tay liên tiếp phóng chưởng ra. Ai nấy đều thấy rõ ràng là chàng sử dụng Bát-Quái-Chưởng, nhưng khi chưởng pháp được thâu hồi trở lại thì lại chẳng khác gì ‘Thái-Cực-Quyền’.

Mọi người đều hoa cả mắt lên, không biết đâu mà lường nổi, đâu là chưởng, đâu là quyền hay đâu là chỉ. Châu-Trọng-Anh phải luôn luôn chú ý vào đôi tay của Trần-Gia-Cách hết sức kỹ càng mà không dám lơ đễnh.

Nguyên lai võ công Trần-Gia-Cách vừa đem ra sử dụng là ‘Bách Hoa Thố Quyền’ của phái Thiên-Trì do Thiên-Trì Quái-Hiệp Viên-Sĩ-Tiêu sáng chế ra. Thuở nhỏ, ông ta hễ nghe đâu có võ nào hay, bất luận là của ai hay môn phái nào là đều tìm đến học cho bằng được với mọi cách. Càng lớn, võ nghệ của Viên-Sĩ-Tiêu càng siêu việt, ông đã rèn luyện được hầu như tất cả võ công của các môn phái chính tông đến mức thượng thừa, đồng thời lại có được một vốn kiến thức ‘khổng lồ’. Ông ta nhận thấy võ công của bất cứ một môn phái nào đều có một đặc điểm riêng biệt, và khi sử dụng đều có hữu hiệu như nhau cả, có khác chăng là chỉ hình thức. Vì vậy, ông rút tỉa tất cả những tinh hoa của võ thuật của các phái mà nghiên cứu ra ‘Bách Hoa Thố Quyền’, và tự mình lập riêng cho mình một môn phái. Có thể nói, khi ấy trên võ lâm không còn ai là đối thủ của Viên-Sĩ-Tiêu nữa. Tuy nhiên, ông cũng đã chán những chuyện ân oán trên giang hồ nên lui mình về ẩn cư trên đỉnh núi Thiên-Trì thuộc tỉnh Tân-Cương mà lập ra môn phái Thiên-Trì, định sẽ thâu môn đệ truyền thụ võ công.

Nhưng ‘Bách Hoa Thố Quyền’ không phải dễ học. Một người trước khi học được tuyệt kẽ này phải tinh thông hết các ngón võ công tuyệt kỹ của các môn phái chánh tông khác thì mới hiểu được chiêu thức và biến hóa của nó. Có thể nói, tất cả các chiêu thức của ‘Bách Hoa Thố Quyền’ là các chiêu thức của các phái võ khác gom lại. Nhưng sự biến hóa của nó thì không biết đâu mà lường được. Như Viên-Sĩ-Tiêu, nếu ông giao đấu với một cao thủ phái nào, ông sẽ dùng ngay chiêu thức của môn phái đó mà đối phó. Nhưng sau đó, ông sẽ tùy theo trường hợp mà cải biến chiêu thức, không nhất định phải bám lấy bất cứ một quy tắc nào để cho địch thủ có thể nhận ra, biết trước mà đề phòng.

Vì vậy, từ khi sáng lập ra môn phái, ông chỉ thâu nhận được duy nhất một người là Trần-Gia-Cách, là người thấu triệt được cái nguyên lý và triết lý của võ học, không bị gò bó vào một phương pháp cố định và bị hoàn toàn lệ thuộc vào lý thuyết của bất cứ một môn phái nào.

Khi đã tinh thông ‘Bách Hoa Thố Quyền’ còn phải rèn luyện thêm các môn như khinh công, điểm huyệt, cầm nã công, cũng như các ngoại gia hay nội gia công phu nữa.

Từ khi nghiên cứu ra ‘Bách Hoa Thố Quyền’, Viên-Sĩ-Tiêu chưa hề có cơ hội áp dụng với ai cả, và cũng chưa truyền dạy cho ai ngoài Trần-Gia-Cách. Vì vậy, lần tỉ thí với Châu-Trọng-Anh này, Trần-Gia-Cách nhân tiện đem ‘Bách Hoa Thố Quyền’ ra thi triển, vừa là để thí nghiệm, vừa là để trau giồi. Và cũng vì thế mà mọi người ai nấy đều ngạc nhiên khó hiểu, vì chỉ được trông thấy lần đầu.

Từ lúc Trần-Gia-Cách đem ‘Bách Hoa Thố Quyền’ ra sử dụng, Châu-Trọng-Anh phải chống đỡ hoa cả mắt và né tránh liên hồi, không mấy khi được dịp phản công. Châu-Trọng-Anh tưởng cố gắng thủ vững sẽ chiếm được ưu thế lúc tàn cuộc, nhưng Trần-Gia-Cách càng đánh, chiêu thức càng biến ảo khôn lường, mà chiêu số thì thật là vô hạn định.

Châu-Ỷ đứng ngoài xem mà lòng hồi hộp vô cùng. Nàng biết nếu cứ tiếp tục theo điệu này thì không sớm thì muộn, thân phụ nàng phải bại mất thôi!

Phe Hồng Hoa Hội trái lại, ai nấy đều vui sướng vì thấy Tổng-Đà-Chủ của họ đã chiếm được ưu thế, và cái thắng có thể nói đã nắm chắc được trong tay.

Vừa khi ấy, hai bóng người từ đâu chạy vào đại sảnh nói lớn:

-Xin dừng tay lại đã!

Mọi người ngạc nhiên đưa mắt nhìn hai người. Thì ra đó là Lục-Phỉ-Thanh và Triệu-Bán-Sơn. Đám người Hồng Hoa Hội đang định đem đầu đuôi mọi việc kể hết cho hai người thì bên ngoài có tiếng người kêu hớt ha hớt hãi:

-Mau mau xách nước thật nhiều! Lửa cháy! Lửa cháy! Cháy khắp cả tứ phía rồi!

Mọi người thất kinh liếc mắt nhìn ra bên ngoài thì xa xa, quả nhiên có ánh lửa hồng đang phừng lên dữ dội. Mạnh-Kiện-Hùng, An-Kiện-Cường và Tống-Thiện-Bằng cả kinh chạy vội ra ngoài để chỉ huy, điều động gia nhân tráng đinh đi cứu hỏa.

Lúc ấy, trận so tài giữa Châu-Trọng-Anh và Trần-Gia-Cách đã đến hồi quyết liệt. Đang bị Trần-Gia-Cách dùng ‘Bách Hoa Thố Quyền’ đánh mười phần nguy ngập lại nghe tin sơn trang đang bị hỏa hoạn cần cấp cứu, hình ảnh mấy chục người của Thiết-Đảm-Trang như sắp chết cháy hiện ra trong đầu ông ta. Dù bình tĩnh cách mấy, vị anh hùng Thiết-Đảm-Trang cũng không sao giữ được thái độ bình thản như trước. Ông bỗng khựng lại như người bị lạc thần. Chợt nghe gót chân trái nhói lên một cái, Châu-Trọng-Anh giật mình, không sao đứng vững được, liền lảo đảo và ngã xuống đất như một thân cây cổ thụ bị cuồng phong bứng tróc gốc. Châu-Ỷ vội vàng chạy tới ôm chặt lấy thân phụ, đỡ ông ta dậy dìu đứng cho vững, miệng không ngớt gọi:

-Gia gia!

Châu-Trọng-Anh vẫn im lặng không một lời. Châu-Ỷ một tay nắm chặt Châu-Trọng-Anh, một tay cầm ngang đao bảo vệ, sợ địch nhân thừa cơ ám hại phụ thân mình.

Trần-Gia-Cách sau khi điểm trúng ‘Phù hy huyệt’ khiến cho Châu-Trọng-Anh bị tê liệt gân chân thì vẫn thản nhiên đứng y nguyên một chỗ, mặt không lộ một nét gì cả. Chàng cũng không thừa cơ nguy của đối phương mà ra tay ám hại. Sau khi Châu-Ỷ dìu Châu-Trọng-Anh đứng vững lại rồi, Trần-Gia-Cách mới vòng tay, từ tốn nói:

-Xin đa tạ trang chủ đã nương tay cho!

Châu-Trọng-Anh cố che dấu nỗi đau khổ, gượng cười nói:

-Quả thật là ‘trùng dương sóng sau xô sóng trước’. Lão phu không phải là đối thủ của Tổng-Đà-Chủ, vậy cho lão phu được lên tiếng chịu thua. Giữ lời hứa, lão phu sẽ giao con trai lại cho Hồng Hoa Hội. Xin mời Tổng-Đà-Chủ cùng các vị đương gia!

Châu-Ỷ đưa Châu-Trọng-Anh ra khỏi đại sảnh, đám người Hồng Hoa Hội theo bước Trần-Gia-Cách, nối gót theo sau...

Hồi 7a

Lấy oán trả ân khi ngộ nhận

Đổi thù thành bạn lúc phân minh

Trần-Gia-Cách, Lục-Phỉ-Thanh và toàn thể đám hào kiệt của Hồng Hoa Hội đi sát sau lưng Châu-Trọng-Anh. Ông ta là người võ công trác tuyệt, bản lãnh phi phàm nên mặc dù thất thế bị Trần-Gia-Cách điểm trúng ‘Phù hy huyệt’ nhưng chỉ trong một vài phút sau là đã tự giải huyệt được, hô hấp trở lại bình thường tự nhiên.

Sở dĩ Trần-Gia-Cách phải tỉ thí với Châu-Trọng-Anh cũng chẳng qua vì tình thế, muốn buộc ông ta phải giao cho Hồng Hoa Hội người đã tiết lộ bí mật địa huyệt để cho Trương-Siêu-Trọng bắt mất Văn-Thái-Lai. Trong thâm tâm, Trần-Gia-Cách hết sức kính phục Châu-Trọng-Anh là bậc tiền bối cao nhân, không những chỉ có bản lãnh trác tuyệt thôi mà còn có phong độ của bậc trưởng thượng nữa. Vì vậy, cho dù phải ra tay đả bại Châu-Trọng-Anh, Trần-Gia-Cách cũng không có ác ý, chỉ lựa huyệt nhẹ mà điểm trúng để không làm hại đến tánh mạng của ông ta, thậm chí còn không muốn để ông ta phải mang trọng thương nữa.

Châu-Trọng-Anh đưa đám hào kiệt Hồng Hoa Hội qua hai gian nhà kế cận tòa nhà chính. Lúc ấy, ngọn lửa đã cháy bùng lên. Sức lửa nóng làm mọi người đến toát cả mồi hôi. Nhiều căn nhà trong Thiết-Đảm-Trang đã bị thiêu hủy.

Giữa đêm tối, mọi người chỉ trông thấy một ngọn lửa cao ngất trời. Thiết-Đảm-Trang phút chốc đã biến thành một biển lửa, khói tỏa mịt mù, tiếng nổ nghe lốp đốp như pháo.

Từ-Thiện-Hoằng thấy lửa cháy dữ dội quá bèn hô lớn lên rằng:

-Các anh em Hồng Hoa Hội! Chúng ta hãy tạm gác mọi chuyện lại đã! Cứu hỏa là điều cần kíp hơn!

Nghe Từ-Thiện-Hoằng kêu gọi đám Hồng Hoa Hội đi chữa lửa thì cơn giận lại phừng lên. Chính miệng Từ-Thiện-Hoằng đã bao nhiêu lần kêu gọi người trong hội của hắn đốt Thiết-Đảm-Trang. Nhìn cả một vùng Thiết-Đảm-Trang đang bị làm mồi cho lửa, Châu-Ỷ nghiến răng nhìn Từ-Thiện-Hoằng, cho rằng chính hắn là thủ phạm đã gây ra thảm cảnh này cho Thiết-Đảm-Trang. Chẳng những thế, nàng còn lườm cả đám người Hồng Hoa Hội như muốn ăn tươi nuốt sống hết cả đám cho hả giận. Chỉ vì bọn họ đông quá nên Châu-Ỷ nhắm đánh không được mà đành nhịn nhục. Nhưng dù sao nàng cũng không dằn được cơn thịnh nộ liền trợn mắt nhìn Từ-Thiện-Hoằng điểm vào mặt mắng xối xả:

-Thằng giặc đốt nhà kia! Chính mi là thủ phạm đã đốc thúc bọn cẩu trệ chúng bây đốt chứ còn ai vào đây nữa mà bây giờ lại bày trò giả nhân giả nghĩa kêu gọi chữa cháy! Khéo đóng tuồng quá hả? Ta dù có bằm xác cả đám bọn bây ra cũng chưa hả giận nữa! Nhưng thù này ta sẽ không bao giờ quên được đâu! Sẽ có ngày chúng bây phải đền tội!

Mắng Từ-Thiện-Hoằng mấy câu xong, Châu-Ỷ vẫn chưa dập tắt được lửa giận liền xuất kỳ bất ý đưa cao ngọn đao lên nhắm đầu Thất đương-gia mà bổ xuống một nhát. Từ-Thiện-Hoằng nhanh chân nhảy vọt ra đàng sau tránh khỏi được nhát đao.

Chém không trúng, Châu-Ỷ càng tức giận thêm, định xông tới quyết ‘ăn thua đủ’ với Từ-Thiện-Hoằng thì Triệu-Bán-Sơn bước tới ngăn cản. Châu-Ỷ vẫn không chịu bỏ qua quyết lấy mạng Từ-Thiện-Hoằng cho bằng được. Sau cùng, Triệu-Bán-Sơn phải giữ chặt lấy thanh đao của nàng không cho cựa quậy lúc đó nàng mới chịu thôi.

Châu-Trọng-Anh một mạch lướt qua lửa mà đi. Những gì xảy ra chung quanh dường như ông ta không còn nhìn thấy, nghe thấy, hay để ý tới nữa. Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội cũng chẳng ai nói với ai lời nào, cứ lẳng lặng mà đi thôi.

Ra phía sau cùng của gian nhà đến một linh-đường (#1), Châu-Trọng-Anh đưa mọi người vào bên trong. Ngay trước bàn thờ là một linh-vị (#2), hai bên có đốt hai cây đèn sáp (#3) màu đỏ. Những giọt hồng của hai cây đèn sáp nhỏ xuống tựa như những giọt huyết lệ bi ai. Sau linh vị là một bức màn đen phủ xuống. Bên trong bức màn là một chiếc quan tài nhỏ chưa đậy nắp, còn phủ lên một tấm vải đỏ. Cảnh tượng trông thật vô cùng thê lương.

Châu-Trọng-Anh đưa tay khoác bức màn đen cho tất cả được trông thấy chiếc quan tài rõ ràng. Ông lại ngoắc tay một cái, ngụ ý bảo mọi người đến gần chiếc quan tài hơn. Châu-Trọng-Anh sau đó một tay cầm cây nến rọi xuống, một tay gỡ tấm vải đỏ phủ mặt quan tài lên. Trước mắt mọi người hiện ra một tử thi của một đứa bé độ chừng 10 tuổi. Đứa bé đã chết nhưng gương mặt tươi tỉnh, trông rất khôi ngô, chỉ có hai mắt lồi ra và sọ lũng sâu xuống. Đứa bé được mặc cho một bộ đồ rất sạch sẽ và đẹp đẽ. Đó chính là tử thi của Châu-Anh-Kiệt, đứa con trai duy nhất của Châu-Trọng-Anh.

Nguyên Châu-Trọng-Anh sau khi hạ sát đứa con yêu xong, vì thấy Châu-Ỷ chưa về đến nhà nên chưa muốn liệm xác vội vì cốt ý muốn để cho đứa con gái của mình được trông thấy mặt đứa em một lần cuối trước khi hạ huyệt (#4). Chính tay Châu-Trọng-Anh mặc cho nó bộ quần áo mà bình nhật nó ưa thích nhất và đặt xác nó ngay ngắn vào trong quan tài mà quàng lại đó.

Châu-Trọng-Anh xúc động đến cực độ, hai mắt đỏ ngầu, lệ tràn ra như suối. Với giọng ngập ngừng xót xa, ông ta nhìn đám người Hồng Hoa Hội lớn tiếng nói:

-Chính thằng con thơ dại này của ta đã làm tiết lộ bí mặt để cho Văn tứ đương gia bị bắt. Ta không phủ nhận việc này. Các người đòi ta phải giao nó cho các người để các người chất vấn và mang đi thì bây giờ đã được toại nguyện rồi đó! Vậy các người hãy xem mặt nó cho thỏa mãn đi... rồi muốn hỏi gì thì hỏi... và sau đó muốn mang nó đi đâu thì mang!

Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội, từ Tổng-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách trở xuống, dưới ánh nến trông rõ ràng là một tử thi của một đứa bé. Cả đám chưa ai hiểu gì thì Châu-Ỷ như uất ức đến cùng cực hét vang lên:

-Em trai của ta mới có 10 tuổi! Nó khờ khạo có biết gì đâu nên vô tình mà tiết lộ chỗ ẩn núp của người anh em họ Văn các ngươi ra! Thân phụ ta về đến nhà hay được việc này thì quá đỗi giận dữ nên mới ra tay đánh chết em ta! Mẹ ta vì quá xót tình mẫu tử cho nên chưa kịp chôn cất em ta đã bỏ nhà mà đi, đến nay còn chưa biết lưu lạc phương nào! Gia đình ta chỉ trong một sớm một chiều mà tan nát, thảm não đến thế này! Thế mà các ngươi vẫn chưa vừa lòng, còn đòi giết luôn cả hai cha con ta, đốt hết Thiết-Đảm-Trang và giết luôn tất cả người ở Thiết-Đảm-Trang này nữa! Được lắm! Các ngươi cứ việc đốt đi! Đốt hết đi!... Giết đi!.. Giết hết đi!... Giết cho thỏa cái lòng hận thù khát máu của các ngươi! Thật bọn ‘tẩu cẩu’ với đám triều đình Mãn-Thanh có dã man hay tàn bạo thì cũng chỉ đến độ như Hồng Hoa Hội các ngươi là cùng...

Châu-Ỷ còn định kiếm thêm những lời nặng nề độc địa để chửi tiếp nhưng nói đến đây nàng bỗng nghẹn ngào vì quá uất hận, nước mắt tuôn ra như mưa, chỉ biết ôm mặt mà khóc nức nở.

Trước những lời hậm hực cũng như những tiếng chửi rủa của Châu-Ỷ, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội không những không tức giận chút nào mà còn cảm thấy mủi lòng nghẹn ngào, cho rằng nàng nói mình như thế thật vẫn còn quá nhẹ. Cả đám đứng nhìn nhau xấu hổ đỏ hết cả mặt mày. Đến bây giờ, họ mới nhận rõ được ‘anh hùng bản sắc’(#5). Châu-Trọng-Anh thật là người nghĩa khí có một không hai ở trên đời! Ai nấy bất giác vừa kính phục vừa nể sợ. Lúc trước thù hận Châu-Trọng-Anh bao nhiêu thì giờ đây lại ăn năn hối hận bấy nhiêu. Cả đám người Hồng Hoa Hội đều tự nghĩ trong lòng rằng nếu phải đem tánh mạng mình để tạ lỗi với Châu-Trọng-Anh thì chuyện ấy cũng vẫn còn là quá nhỏ, quá ít.

Châu-Trọng-Anh vẫn đứng im lìm tự nhiên như chẳng thèm quan tâm đến đám người ‘tự cường thị nhược’ ấy (#6).

Chương-Tấn là người nóng tính nhưng ngay thẳng nhất trong đám. Trước tình cảnh này, y bước tới quỳ hướng về Châu-Trọng-Anh cúi rạp đầu xuống đất lạy rồi dõng dạc lên tiếng:

-Thưa lão tiền bối! Hồng Hoa Hội chúng tôi quả đắc tội quá nặng với tiền bối! Thằng gù này xin cúi đầu chịu lỗi trước tiên. Tùy lượng lão tiền bối muốn xử trí ra sao cũng xin vâng chịu chứ chẳng dám nửa lời oán trách.

Dứt lời, Chương-Tấn lại quay sang Châu-Ỷ vái một cái rồi nói:

-Cô nương! Từ nay về sau cô có gọi tôi là ‘thằng gù này’ với ‘thằng bướu nọ’ hay có mắng xả vào mặt tôi bất cứ lúc nào đi chăng nữa tôi cũng chẳng dám giận cô nữa đâu.

Châu-Ỷ đang đau lòng nhìn tử thi em mình trong quan tài nghe Chương-Tấn nói mà cũng phải buồn cười nhưng không tài nào cười nổi.

Lúc ấy Trần-Gia-Cách nhìn các đương-gia láy mắt một cái. Mọi người đều hiểu ý chàng. Từ-Thiện-Hoằng, Dương-Thanh-Hiệp, Vệ-Xuân-Hoa, Lạc-Băng, Thạch-Song-Anh, Tưởng-Tứ-Căn và Dư-Ngư-Đồng đồng một lượt cùng nối đuôi theo vị Tổng-Đà-Chủ của mình đến trước mặt Châu-Trọng-Anh mà vòng tay cúi đầu tạ tội. Luôn cả hai người vai vế cao nhất trong hội sau Tổng-Đà-Chủ là Vô-Trần Đạo-Nhân với Triệu-Bán-Sơn dù không đắc tội với vị chủ nhân Thiết-Đảm-Trang kia, nhưng khi biết rõ mọi chuyện cũng theo chân mọi người đi ra mà vòng tay cúi đầu. Châu-Trọng-Anh thấy vậy cũng vội vàng đáp lễ. Trong lòng ông hiện đang phân vân nhiều nỗi. ‘Buồn’, vì nhìn tử thi của con trai ông ta; ‘giận’, vì thái độ vô lễ hung hăng của đám Hồng Hoa Hội đã xử tệ với mình trước đây; và ‘hận’, vì ngọn lửa ác nhân đang thiêu hủy sự nghiệp một đời gian lao khổ cực dựng nên...

Những kẻ đã thóa mạ làm nhục mình giờ đây đã biết lỗi, đã chịu hạ mình thành thực chịu lỗi. Châu-Trọng-Anh vốn là người đại lượng nên có lẽ nào lại không bỏ qua? Nhưng có muốn nói một đôi lời mà ông ta cũng chẳng biết phải nói gì!

Trần-Gia-Cách buồn bã, ôn tồn dùng lời an ủi, thưa rằng:

-Châu lão tiền bối đối xử với Hồng Hoa Hội chúng tôi như thế thật còn gì để cho ai thắc mắc được nữa! Thiết tưởng cổ kim chưa ai có được nghĩa khí như Châu lão anh hùng! Ân đức này, chúng tôi dù chết cũng xin ghi lòng tạc dạ chứ chẳng bao giờ dám quên. Nay có dùng lời thế nào đi chăng nữa cũng không làm sao diễn tả được hết những ý nghĩ trong lòng, những nỗi ân hận vô bờ bến của chúng tôi!

Xoay qua đám đương-gia thuộc hạ còn đang đứng túc trực trước mặt Châu-Trọng-Anh như những pho tượng, Trần-Gia-Cách ra lệnh:

-Cứu hỏa là việc quan trọng hơn cả! Tôi ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra tay liều chết với thần hỏa! Từ những bụi cây, viên ngói, viên gạch hay bất cứ những gì thuộc về Thiết-Đảm-Trang, nếu cứu được phải liều mình xông pha mà cứu cho kỳ được!

Ai nấy đều răm rắp tuân theo, tủa lực lượng ra tìm đủ mọi cách để chống chọi với ngọn lửa đỏ rực cả nền trời đang lan tràn khắp nơi.

Lửa cháy bừng, khói bay nghi ngút, gạch ngói đổ xuống ầm ầm, kèo cột gẫy nổ lốp đốp như địa ám thiên băng. Cả một dãy Thiết-Đảm-Trang chìm trong biển lửa mênh mông. Tiếng la hét của những người tráng đinh vang dội như muôn quân đang lăn sả vào bãi chiến trường.

Vùng Cam-Túc này có tiếng là ‘phong khố’ (#7) của Trung-Quốc. Có thể nói rằng một năm 365 ngày, không một ngày nào là vắng tiếng gió. Lửa đã lớn còn được gió phụ vào nên càng phựt lên cao hơn trong khi nước thì không làm sao xách lên cho kịp. Nói chung là nước của người không làm sao cự nổi với lửa và gió của trời! Trong phút chốc, cả một dãy Thiết-Đảm-Trang đã trở thành bình địa (#8)!

Khi ấy, các hào kiệt Hồng Hoa Hội nhìn thấy Châu-Trọng-Anh vẫn đứng im không nhúc nhích bên cạnh quan tài của Châu-Anh-Kiệt, nhìn con mà ruột thắt gan bào! Hình như ông ta không còn đếm xỉa gì tới sự nghiệp đang trong cơn điêu tàn cũng như ngọn lửa hồng đang phừng lên sắp sửa thiêu hủy luôn cả linh đường này. Có lẽ Châu-Trọng-Anh muốn cùng được thiêu chung với tử thi đứa con yêu quý nên không màng đến sống chết nữa làm chi.

Ngọn lửa bắt đầu xâm nhập vào bên trong linh đường. Ba người Vệ-Xuân-Hoa, Thạch-Song-Anh và Tưởng-Tứ-Căn liều mình chạy vào cấp cứu. Họ vì mắc bận chữa lửa cho nên không để ý tới Châu-Trọng-Anh.

Châu-Ỷ nãy giờ đứng sát bên thân phụ, thấy tình hình nguy ngập trước mắt lìền nói:

-Thân phụ à! Chúng ta ra mau kẻo chết cháy!

Châu-Trọng-Anh không ngó lên mà cũng chẳng buồn đáp lại, mắt vẫn trân trân nhìn vào tử thi bên trong quan tài. Ai nấy trông thấy đều tỏ vẻ bất nhẫn song có lẽ Châu-Trọng-Anh thà nhất định chịu chết chứ không để con phải một mình bị chết thêm một nghiệp. Chương-Tấn có lẽ hiểu được ý của Châu-Trọng-Anh nên níu tay Dương-Thanh-Hiệp chạy vào nói lớn:

-Bát ca! Anh mau vác quan tài đặt lên lưng đệ!

Dương-Thanh-Hiệp cúi xuống hai tay khiêng quan tài để lên vai Chương-Tấn, Thập đương-gia khẽ khom người vác lấy rồi bất kể nguy hiểm vượt qua lửa chạy ra. Các đương-gia khác cố gắng lo khuân hết những đồ vật trong linh đường, còn Châu-Ỷ thì đỡ Châu-Trọng-Anh dìu ra ngoài theo chân các hào kiệt Hồng Hoa Hội.

Trong nháy mắt, cả linh đường đã biến thành đống tro tàn. Khi mọi người an toàn chạy đến một khoảng đất trống thì ngọn lửa cũng đã đốt sạch một vùng Thiết-Đảm-Trang, vô phương cứu chữa. Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội cũng như người của Thiết-Đảm-Trang, trước tình thế như vậy chỉ còn lo cứu người thôi mà đành chịu thua, không thể nào cứu được đồ vật nữa. Ai nấy đều bao quanh Châu-Trọng-Anh, rất muốn dùng lời an ủi ông ta nhưng không ai biết phải nói điều gì hay nói ra làm sao cả!

Bỗng nhiên Tâm-Nghiện từ đâu chạy tới la lớn:

-Quên! Còn tên chó chết ‘ưng khuyển’ Vạn-Khánh-Nhuận chưa cứu ra!

Dứt lời, Tâm-Nghiện liền dùng thuật khinh công phi thân lên nhẹ nhàng. Ai nấy nghĩ rằng cậu ta liều mình nhảy vào lửa để cứu Vạn-Khánh-Nhuận ra nên cả kinh gọi giật ngược cậu lại:

-Đừng Tâm-Nghiện! Nguy hiểm lắm! Lửa cháy lớn quá rồi, không thể nào vào trong được nữa đâu!

Thạch-Song-Anh nói to lên:

-Cái giống sài lang ác độc đó có chết đi mấy kiếp cũng chưa đáng tội, cứu nó làm quái gì!

Lạc-Băng lắc đầu nói:

-Chỉ tiếc có thằng khốn nạn thuộc phe Trấn-Viễn tiêu-cục chưa bắt được để trị tội.

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Nó là ai vậy?

Lạc-Băng bèn đem chuyện Đổng-Triệu-Hòa kể lại từ đầu đến đuôi cho Trần-Gia-Cách và mọi người cùng nghe. Mạnh-Kiện-Hùng cũng kể lại việc Đổng-Triệu-Hòa dẫn Vạn-Khánh-Nhuận đem thư của Lục-Phỉ-Thanh giới thiệu Văn-Thái-Lai đến Thiết-Đảm-Trang hăm dọa đòi làm tiền Châu-Trọng-Anh thế nào cho Hồng Hoa Hội nghe thêm để hiểu rõ.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Phải rồi! Hắn đã đốt Thiết-Đảm-Trang một lần trước đây để gieo mối nghi ngờ cho Hồng Hoa Hội hầu gây thêm sự mâu thuẫn cho hai bên. Lần này ắt hẳn thủ phạm là hắn thôi chứ không thể là ai vào đây được nữa!

Trong lúc mọi người bàn luận, Từ-Thiện-Hoằng khẽ liếc mắt nhìn lén Châu-Ỷ thì cũng vừa vặn gặp nhãn tuyến của nàng đang hướng về chàng. Hai lằn nhãn tuyến hữu ý đụng nhau. Người nào cũng bẽn lẽn ngó lơ đi chỗ khác.

Trần-Gia-Cách lại bàn:

-Tên tiểu tử chó chết Đổng-Triệu-Hòa đó không thể để cho trốn thoát được. Anh em hãy rượt theo bắt cho kỳ được nó đem về đây trị tội.

Sau đó vị Tổng-Đà-Chủ liền phân công, ra lệnh cho Từ-Thiện-Hoằng, Dương-Thanh-Hiệp, Vệ-Xuân-Hoa và Chương-Tấn phải cố rượt theo đón đường bắt Đổng-Triệu-Hòa. Bốn người vâng lệnh, chia nhau ra bốn ngã chạy cấp tốc.

Sau đó, Lục-Phỉ-Thanh và Châu-Trọng-Anh cùng tất cả mọi người họp mặt nhau lại ngồi hàn huyên. Lục-Phỉ-Thanh và Châu-Trọng-Anh cùng đem lòng ngưỡng mộ đối với nhau ra nói. Hai người vốn đã kính phục nhau từ bao giờ nay được dịp gặp gỡ thật là thỏa lòng khát vọng ao ước của cả đôi bên. Càng nói chuyện, hai người càng ý hợp tâm đầu, càng xiết chặt thêm tình tri kỷ.

Trần-Gia-Cách cũng nói ít câu khiêm nhượng và một lần nữa tỏ lòng hâm mộ, kính phục của mình đối với ông ta:

-Châu lão tiền bối đã vì Hồng Hoa Hội mà cửa nát nhà tan, người chết, sự nghiệp tiêu điều, thê tử ly tán. Ơn lớn đức dày đó, Hồng Hoa Hội có muốn đền đáp lại suốt đời này qua đời khác cũng chưa chắc đã tròn. Anh em tại hạ quyết dù là chân trời góc bể cũng phải tìm cho bằng được Châu phu nhân về để gia đình được xum họp trở lại. Còn Thiết-Đảm-Trang bị hủy hoại thế nào, Hồng Hoa Hội sẽ phụ trách tu bổ lại hoàn toàn để bồi hoàn lại cho lão tiền bối chứ chẳng thể để công lao gây dựng một đời của lão tiền bối phút chốc trở thành tro bụi được. Còn tất cả các anh em gia nhân tráng đinh trong Thiết-Đảm-Trang có bị hư hao mất mát gì trong trận hỏa hoạn này thì Hồng Hoa Hội nguyện bồi thường lại đầy đủ hết. Họ khổ cực mới có được chút đỉnh để nuôi sống gia đình, có lý nào Hồng Hoa Hội lại để cho họ bị thiệt thòi vì sự sơ sót, lỗi lầm của hội?

Châu-Trọng-Anh nhìn thấy một vùng rộng lớn của Thiết-Đảm-Trang thì nghĩ lại bao nhiêu tâm huyết bỏ ra giờ chỉ còn là đống tro tàn thì làm sao không khỏi bồi hồi luyến tiếc! Nhưng khi nghe mấy lời của Trần-Gia-Cách vừa nói ra thì ông ta lại thở dài đáp lại:

-Đa tạ hảo tâm của Trần tổng đà-chủ. Nhưng thịnh ý của Tổng-Đà-Chủ chẳng hạp với chí nguyện của lão phu chút nào cả. Lão phu đương nhiên là tiếc công lao bao nhiêu năm gây dựng Thiết-Đảm-Trang thật đó, nhưng bất quá cũng chỉ là vật chật, là những vật ngoại thân mà thôi. Chỉ có bằng hữu mới là đáng quý, cho dù là tình máu mủ ruột thịt kia cũng chưa chắc đã hơn được. Lão phu chỉ yêu quý bằng hữu mà chẳng kể gì đến tài vật. Nếu Tổng-Đà-Chủ còn nói đến chuyện đền đáp với bồi thường nữa thì quả thật là lão phu không bằng lòng chút nào đó!

Quả thật vậy. Châu-Trọng-Anh xưa nay rất quý mến bằng hữu nên lời ông nói ra là thật sự phát xuất tự đáy lòng chứ không phải là ngoa hay giả dối khoe khoang với đãi bôi. Hành động giết chết đứa con yêu để tỏ lòng với Văn-Thái-Lai cùng Hồng Hoa Hội là một bằng chứng cụ thể hùng hồn nhất nói lên được điều đó mà không ai có thể chối cãi được.

Được chính mắt nhìn thấy các hào kiệt Hồng Hoa Hội xả thân, tận tình tận lực trong việc cứu hỏa vừa rồi, Châu-Trọng-Anh hết sức cảm kích. Bao nhiêu hiềm khích cũ, những gì họ hiểu lầm, thóa mạ hay làm nhục ông đã theo cơn hỏa hoạn kia hóa ra tro bụi cả rồi. Chỉ trong một lúc mà ông ta được kết giao với không biết bao nhiêu là anh hùng hào kiệt thì trong lòng cảm thấy vô cùng mãn nguyện mà chẳng còn thiết gì đến sự nghiệp, đến công lao gây dựng Thiết-Đảm-Trang kia nữa.

Mạnh-Kiện-Hùng và Tống-Thiện-Bằng kiểm điểm lại nhân số trong Thiết-Đảm-Trang, cho biết rằng chỉ có trên 30 tráng đinh bị thương tích sơ sài thôi mà chẳng một ai bị trọng thương hay thiệt mạng cả.

Tống-Thiện-Bằng cùng mọi người trong Thiết-Đảm-Trang sau đó tỉ mỉ đem tất cả những diễn biến trong sơn trang từ lúc Văn-Thái-Lai đến nương náu cho đến lúc Châu-Trọng-Anh cho đến lúc Châu-Trọng-Anh dùng kế dập tắt hết đèn đuốc ở sảnh đường để tạm thời chấm dứt cuộc giao phong ác liệt giữa Hồng Hoa Hội và Thiết-Đảm-Trang ra sao cho Trần-Gia-Cách nghe. Vị Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội cảm động vô cùng, lại càng kính nể và mến phục Châu-Trọng-Anh nhiều hơn nữa...

Về phần đám gia nhân tráng đinh Thiết-Đảm-Trang sau khi nghe tin Hồng Hoa Hội sẽ bồi thường lại tất cả những thiệt hại còn hứa ban thưởng cả công lao khó nhọc của họ đã tận tâm cứu hỏa thì ai nấy đều vui mừng, vô cùng cảm kích độ lượng của vị Tổng-Đà-Chủ rộng rãi kia...

Sau một cơn hỗn loạn, ai nấy đều cố gắng thu xếp mọi công việc. Người nào làm được gì thì làm, vì ai cũng nhận thấy đó là trách nhiệm chung. Đang bận rộn thì bỗng đâu Vệ-Xuân-Hoa và Chương-Tấn từ ngoài ngõ đi vào đến trình diện Trần-Gia-Cách. Cả hai cùng cho biết đã đi xa đến sáu, bảy dặm đường để truy kích Đổng-Triệu-Hòa mà vẫn không tìm được tung tích của tên tiêu-sư gian manh ấy. Hai người bất đắc dĩ phải trở về vì biết cũng sắp đến giờ phục mệnh Tổng-Đà-Chủ. Hai người vừa trình bày xong mọi chuyện thì Từ-Thiện-Hoằng và Dương-Thanh-Hiệp cũng vừa về đến nơi.

Cũng như hai người kia, hai người này không cách nào tìm được tung tích của hung thủ nên đành phải quay gót trở về.

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Không sao! Xin tất cả mọi người cứ yên trí. Đã biết tên tiểu tử này là tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu cục thì hắn có mọc cánh mà bay tới chân trời góc bể hay xuống âm ty địa ngục mà trốn cũng không thoát khỏi. Sớm muộn gì thì hắn cũng sẽ bị bắt và đền tội mà thôi!

Quay sang phía Châu-Trọng-Anh, Trần-Gia-Cách hỏi:

-Thưa Châu lão tiền bối, hiện nay Thiết-Đảm-Trang trong hình trạng tiêu điều, phải cần một thời gian khá lâu để dọn dẹp và tu bổ lại, thật không phải là một chỗ ở tiện. Chẳng hay Châu lão tiền bối định sắp xếp ra sao cho mọi người Thiết-Đảm-Trang tạm thời có chỗ an thân?

Châu-Trọng-Anh suy nghĩ một hồi rồi đáp:

-Tôi định chờ trời sáng sẽ bảo họ đến Xích-Kim-Vệ ở tạm rồi sẽ liệu.

Từ-Thiện-Hoằng bỗng mau mắn đề nghị:

-Tiểu điệt có điều này muốn đề nghị với lão tiền bối. Chẳng biết lão tiền bối có đồng ý hay không?

Châu-Trọng-Anh chưa kịp trả lời, Trần-Gia-Cách đã mỉm cười giới thiệu Từ-Thiện-Hoằng với ông:

-Thưa lão tiền bối! Người này là Từ-Thiện-Hoằng, vai vế đứng thứ 7 trong Hồng Hoa Hội, biệt hiệu là Võ-Gia-Cát, là người túc trí đa mưu, có thể nói là bộ óc của Hồng Hoa Hội đó!

Châu-Ỷ liếc nhìn Từ-Thiện-Hoằng, khẽ ‘hừ’ một tiếng rồi quay sang nói với Mạnh-Kiện-Hùng:

-Mạnh huynh! Anh xem hạng người như thế mà dám sánh với Gia-Cát-Lượng Khổng-Minh đời Tam-Quốc đấy! Liệu có tin được không?

Mạnh-Kiện-Hùng không đáp, mà cũng chẳng có ý kiến, chỉ mỉm cười. Châu-Trọng-Anh liền hỏi:

-Ý Từ thất đương-gia như thế nào, có thể nói cho lão phu biết được không?

Từ-Thiện-Hoằng bèn thưa:

-Tên Đổng-Triệu-Hòa là một đứa gian ngoa hiểm ác, chúng ta chẳng may không bắt được nó ắt thế nào nó cũng còn trở lại đây mà quấy rối, đống thời bọn tẩy cẩu kia cũng sẽ đi cáo quan. Lúc đó binh lính triều đình sẽ kéo tới bao vây lùng bắt các người của Thiết-Đảm-Trang ở các vùng phục cận nơi đây. Chi bằng mọi người thừa lúc này đi thẳng về An-Tây thì chắc chắn vững vàng hơn. Đây không phải là vì sợ quan binh triều đình mà chạy trốn, chẳng qua là chỉ tạm thời tránh ngọn gió dữ mà thôi. Chờ đến khi đâu đó đã được ổn định rồi thì mặc chúng muốn gì cũng được. Còn như tiền bối đến Xích-Kim-Vệ thì quá xa với căn cứ của Hồng Hoa Hội, việc tiếp cứu rất ư là bất tiện, thật không phải là thượng sách!

Nghe Từ-Thiện-Hoằng phân giải những điều lợi hại, Châu-Trọng-Anh hết lời khen ngợi, phục Từ-Thiện-Hoằng là người sâu sắc, có mưu cao, với tầm mắt nhìn rất xa. Châu-Trọng-Anh gật đầu nói:

-Đúng! Đúng lắm! Lão đệ thật không hổ danh với ngoại hiệu Võ-Gia-Cát! Ý kiến đi An-Tây thật hay, lại có nhiều điều thuận tiện cho lão phu là đàng khác nữa. Tại An-Tây lão phu có rất đông bằng hữu, nếu phải đến tạm nương tưởng cũng chẳng khó khăn gì.

Châ-Ỷ nghe phụ thân luôn miệng khen Từ-Thiện-Hoằng thì trong lòng nàng không được vui. Đối với Từ-Thiện-Hoằng, nàng vẫn còn giữ nhiều ác cảm. Tuy đám hào kiệt Hồng Hoa Hội cho rằng Đổng-Triệu-Hòa là kẻ phóng hỏa đốt cháy Thiết-Đảm-Trang và cho người chia nhau đi tìm hắn nhưng Châu-Ỷ vẫn không tin. Nàng cho đó là kế của Trần-Gia-Cách bày ra để xoa dịu lòng uất hận của người Thiết-Đảm-Trang để che dấu tội lội của Hồng Hoa Hội. Châu-Ỷ nghĩ rằng chính Từ-Thiện-Hoằng mới là thủ phạm đã dùng hỏa công thiêu hủy Thiết-Đảm-Trang nếu quả thật hắn xứng danh là Võ-Gia-Cát. Chẳng qua là trong những trận giao phong vừa qua, Từ-Thiện-Hoằng luôn miệng kêu gọi người Hồng Hoa Hội phóng hỏa đốt Thiết-Đảm-Trang. Vì vậy Châu-Ỷ ghét Thất đương-gia đến độ chẳng thèm nhìn mặt. Cùng lắm là chỉ liếc sơ qua mà thôi.

Trần-Gia-Cách sau đó nhờ Tống-Thiện-Bằng làm một danh sách của toàn thể gia nhân tráng đinh của Thiết-Đảm-Trang. Trước sau, tổng cộng là 162 người tất cả. Ngồi dưới ánh sáng của ngọn lửa hồng đang bùng lên một cái trước khi tắt, Trần-Gia-Cách viết trên một tờ giấy tự điều trao cho Tống-Thiện-Bằng nói:

-Lần thiệt hại này, các vị bị tổn thất quá nặng. Hồng Hoa Hội chúng tôi áy náy vô cùng. Vậy khi đến An-Tây, chư vị cứ lấy mà chi dụng, đừng ái ngại gì cả. Tống huynh hãy cầm lấy tờ giấy này mà làm bằng.

Tống-Thiện-Bằng cầm tờ tự điều của Trần-Gia-Cách trao cho mà cứ ngẩn cả người, không sao mở miệng ra được. Mạnh-Kiện-Hùng bước đến gần sát bên đưa mắt nhìn vào tờ giấy thấy có hàng chữ như sau:

“Cứ chiếu theo văn tự này mà xuất ra năm vạn lượng bạc”

Nét chữ như rồng bay phượng múa đẹp không thể nào tả được. Trên những đại tự ấy là một con dấu hình đóa hoa hồng. Mạnh-Kiện-Hùng nhìn mãi hàng chữ mà không biết chán. Có lẽ trong đời chàng chưa bao giờ được nhìn nét chữ của ai sắc xảo tinh vi như thế này.

Mạnh-Kiện-Hùng bèn bưóc lại tạ ân Trần-Gia-Cách rồi hỏi:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ, đại đức của ngài chúng tôi xin tuân mệnh. Nhưng ví phỏng không lãnh được số tiền này thì sao?

Trần-Gia-Cách đáp:

-Khi đến An-Tây, Mạnh huynh cứ cầm tờ giấy này đến chùa Ngọc-Hư Đạo Quang trình ra thì tức khắc có người cho lãnh tiền ngay vì đó là ngân phiếu của Hồng Hoa Hội. Riêng về phần Mạng huynh và An huynh, mỗi gia quyến được lãnh 5000 lượng, còn kỳ dư mỗi người khác được lãnh 500 lượng. Còn dư lại bao nhiêu, kể như các vị cứ dùng vào lộ phí đi đường từ đây tới An-Tây.

Mạnh-Kiện-Hùng toan từ chối không chịu lãnh 5000 lượng cho gia quyến của mình thì Trần-Gia-Cách đã nói chặn trước:

-Ý tôi đã định như vậy rồi. Nếu Mạnh huynh mà còn từ chối thì tôi không thể coi Mạnh huynh là bằng hữu được đâu đấy nhé! Tôi biết Mạnh huynh không đặt vấn đề tiền bạc làm trọng yếu nhưng lúc này nếu không có tiền cho gia quyền tạm chi độ nhật thì làm thế nào?

Mạnh-Kiện-Hùng vẫn không dám tự chuyên liền đến hỏi ý kiến của sư phụ để xem ông ta định đoạt như thế nào. Châu-Trọng-Anh xưa nay tính tình rất hào sảng, luôn lấy sự thành thực xử trí chứ không hay câu nệ khách sáo. Vì vậy nghe Mạnh-Kiện-Hùng thỉnh thị, ông bảo rằng:

-Trần Tổng-đà-chủ đã hết lòng như vậy, nếu ngươi còn từ chối thì chẳng hóa ra phụ lòng người lắm sao! Hãy cứ tuân theo là hơn.

Còn Trần-Gia-Cách sở dĩ không dám đả động gì đến việc tiền bạc với Châu-Trọng-Anh và Châu-Ỷ là do sự tế nhị và tôn trọng. Châu-Trọng-Anh thấy cách xử trí của Trần-Gia-Cách như vậy thì hết sức hài lòng. Ông ta bảo Trần-Gia-Cách:

-Nhìn thấy cách xử trí của Tổng-Đà-Chủ, lão phu hết sức khâm phục.

Châu-Trọng-Anh càng lúc càng thêm mến phục Trần-Gia-Cách nên lúc nào cũng ở sát một bên, không muốn rời xa, tự hào rằng đã tìm được một người bạn tri kỷ hiếm có trên đời. Ông ta sau đó lại gọi Tống-Thiện-Bằng lại dặn:

-Đến An-Tây, mi nhớ lại ngay dinh đường của Ngô đại quan nhân đem hết công việc của Thiết-Đảm-Trang chúng ta nói cho ông ấy nghe. Ông ta sẽ thay mặt ta mà biện lý hộ. Sau khi hoàn tất mọi việc nhớ tin cho ta hay.

Châu-Ỷ ngạc nhiên hỏi:

-Gia gia! Chúng ta không đi An-Tây sao?

Châu-Trọng-Anh đáp:

-Hiện nay chúng ta chưa thể đến đó được. Văn tứ gia hiện đang bị nạn chưa biết lành dữ thế nào. Việc cứu nguy cho Văn tứ gia là khẩn cấp. Chẳng lẽ chúng ta lại khoanh tay ngồi nhìn mà lo cho việc tư của chúng ta hay sao?

Nghe Châu-Trọng-Anh đề cập đến chuyện giải cứu Văn-Thái-Lai, ba người Châu-Ỷ, Mạnh-Kiện-Hùng và An-Kiện-Cường hết sức tán đồng. Nhất là Mạnh-Kiện-Hùng, chàng mừng rỡ vô cùng vì đối với Văn-Thái-Lai, chàng một lòng kính phục và quý mến tuy chỉ được biết nhau có mấy tiếng đồng hồ. Nghĩa khí và cùng võ công của Văn-Thái-Lai tỏ ra tại Thiết-Đảm-Trang cùng với sự chiến đấu dũng cảm của chàng ta tại hoa viên khiến cho Mạnh-Kiện-Hùng đã in vào trong đầu Mạnh-Kiện-Hùng một hình ảnh của một trang hào kiệt mà chàng muốn noi gương theo.

Trước đây, Mạnh-Kiện-Hùng chỉ phục có một mình sư phụ. Nhưng từ lúc được gặp Văn-Thái-Lai, chàng mới hiểu rằng ngoài Châu-Trọng-Anh ra, trên đời cũng còn rất nhiều hảo hán nữa.

Lúc Văn-Thái-Lai bị Trương-Siêu-Trọng bắt đi, Mạnh-Kiện-Hùng đã toan liều mạng để giải cứu. Nhưng thấy lực lượng của Trương-Siêu-Trọng quá mạnh, chàng biết sự hy sinh của mình chỉ là vô ích mà thôi chứ không được lợi gì. Nhìn Văn-Thái-Lai bị giải đi, Mạnh-Kiện-Hùng đau lòng vô cùng. Chàng định chờ sư phụ về sẽ xin ông ta cho chàng huy động toàn bộ lực lượng Thiết-Đảm-Trang cho rượt theo liều mạng cứu lại Văn-Thái-Lai. Nhưng sau đó Thiết-Đảm-Trang liên tiếp xảy ra việc này tới việc nọ thành thử Mạnh-Kiện-Hùng chưa bao giờ bày tỏ được ý kiến của mình.

Nay bỗng nhiên Châu-Trọng-Anh khi không lại khơi động đến việc này cho nên chí nguyện của Mạnh-Kiện-Hùng được đáp ứng làm chàng sung sướng đến tột độ.

Trần-Gia-Cách nói:

-Tại hạ có ý kiến như thế này, không biết có nên thưa cùng Châu lão tiền bối chăng?

Châu-Trọng-Anh đáp:

-Xin Tổng-Đà-Chủ vui lòng cho biết.

-Mỹ ý của Châu lão tiền bối làm cho Hồng Hoa Hội chúng tôi cảm kích vô ngần. Nhưng xin tiền bối hãy giúp chúng tôi trên phương diện chỉ dạy chiến thuật với chiến lược thôi. Còn vấn đề giải cứu Văn tứ ca bằng vũ lực, xin tiền bối đừng nhúng tay vào mà hãy để cho Hồng Hoa Hội tự đảm đương lấy.

Châu-Trọng-Anh khẽ vuốt chòm râu bạc suông đuột như những sợi cước nói rằng:

-Trần tổng-đà-chủ sợ liên lụy đến lão phu à? Nếu như Tổng-Đà-Chủ không cho lão đem tánh mạng già đi cứu bằng hữu tức là không muốn xem lão phu là bằng hữu của Hồng Hoa Hội rồi! Nếu Hồng Hoa Hội khi dễ lão phu đến thế thì lão phu sẽ...

Không đợi cho Châu-Trọng-Anh nói hết câu, Lục-Phỉ-Thanh lập tức chặn lại nói với Trần-Gia-Cách:

-Châu lão anh hùng nghĩa nặng bằng non, trong giới giang hồ ai chẳng bội phục? Châu lão anh hùng nếu sợ liên lụy ắt đã không tiếp Tứ đương-gia, Thật nhất đương gia và Thập tứ đương-gia rồi! Nếu như vậy thì làm gì có chuyện lục soát Thiết-Đảm-Trang; hạch sách tiền tài, để đưa đến việc thiêu hủy sơn trang? Châu lão anh hùng đã không sợ liên lụy từ trước ắt sẽ không sợ liên lụy về sau! Xin Tổng-Đà-Chủ đừng bận tâm mà phụ chân tình của Châu lão anh hùng.

Trần-Gia-Cách trầm ngâm một lúc rồi nói:

-Châu lão tiền bối nghĩa khí đến thế, anh em Hồng Hoa Hội chỉ biết cảm đại đức chứ biết nói sao cho cùng đây!

Lúc bấy giờ Lạc-Băng mới đến trước mặt Châu-Trọng-Anh quỳ hai gối xuống dưới chân mà rằng:

-Thưa lão tiền bối, điệt nữ vì nóng giận vô lý mà trót phạm đến hổ oai, nay tự xét thấy tội lỗi quá nhiều. Xin tiền bối thương xót cho điệt nữ chỉ vì quá nặng tình nghĩa vợ chồng nên đâm ra u mê ngu muội, mà rộng lượng tha thứ cho. Lỗi lầm lớn lao kia, lão tiền bối đã không chấp thì chớ, nay còn quyết ra tay giúp Hồng Hoa Hội để giải thoát cho Văn tứ ca. Điệt nữ xin thay mặt Văn tứ ca mà lạy tạ ân đức cao dày của Châu lão tiền bối.

Dứt lời, Lạc-Băng lạy hai lạy. Châu-Trọng-Anh ngăn không kịp nên đành đỡ dậy nói:

-Văn tứ phu nhân xin đừng bận tâm mà chi. Hãy cứ vui vẻ lên chứ đừng nên buồn rầu mà làm gì. Lão phu đã quyết một lời là không cứu được Văn tứ đương-gia quyết chẳng thèm làm người đứng trên thế gian này nữa.

Xoay qua Trần-Gia-Cách, Châu-Trọng-Anh nói:

-Việc này không nên trễ nãi. Xin Tổng-Đà-Chủ ban bố hiệu lệnh cho tất cả thi hành.

Trần-Gia-Cách nói:

-Trách nhiệm ấy vãn bối thật không dám đảm trách. Xin hai vị tiền bối cùng nhau phác họa kế hoạch ra sao rồi dạy lại cho anh em vãn bối thì hơn.

Lục-Phỉ-Thanh cười nói:

-Trần tổng-đà-chủ bất tất phải khiêm nhượng. Chúng tôi chỉ là khách, và cũng đang chuẩn bị nghe theo chỉ thị của Tổng-Đà-Chủ mà tiến hành đây.

Trần-Gia-Cách lại nói mấy lời khiêm nhường. Lục-Phỉ-Thanh và Châu-Trọng-Anh phải cố thuyết phục mãi, vị Tổng-Đà-Chủ mới chịu nhận lãnh trách nhiệm điều hành. Trần-Gia-Cách hướng về hai người cung kính nói:

-Hai vị tiền bối vì quá thương nên mới dạy như thế. Nếu như vãn bối có điều gì sơ sót xin hai vị dạy bảo thêm cho.

Xoay qua đám đương-gia thuộc hạ, Trần-Gia-Cách nói tiếp:

-Các anh em Hồng Hoa Hội! Chúng ta trước tiên phải vọng bái Tổ-Sư đã!

Sau đó Trần-Gia-Cách sai Tâm-Nghiện mở gói lấy chiếc áo dài bằng gấm Hàng-Châu màu hồng rồi dẫn đám hào kiệt trong bang hội đến một khoảng đất sạch sẽ và rộng rãi rồi theo thứ tự mà quỳ xuống làm lễ.

Trần-Gia-Cách quỳ hàng đầu ngay chính giữa. Hai bên là Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn. Rồi mọi người cứ theo thứ tự lớn nhỏ mà quỳ ở những hàng sau. Kế đến, mọi người đều nghiêm chỉnh hướng mặt về phương Nam lạy ba lạy.

Châu-Trọng-Anh và Lục-Phỉ-Thanh không phải là đương-gia hay thành viên của Hồng Hoa Hội nên không tham dự lễ ‘vọng bái Tổ-Sư’ này.

Lễ ‘vọng bái Tổ-Sư’ vừa chấm dứt, Trần-Gia-Cách lên tiếng ban truyền mệnh lệnh để mọi người chuẩn bị cuộc hành quân. Khi ấy ngọn lửa vẫn chưa tắt hẳn. Kèo cột vẫn còn cháy nên một khi có gió mạnh thổi tạt vào, ngọn hồng quang sáng tỏa khắp trời. Trừ tiếng tre nổ và tiếng gió reo, bốn bề đều im phăng phắc như chờ đợi lệnh của Trần-Gia-Cách sắp sửa ban hành. Quanh cảnh thật là oai nghiêm chẳng khác gì trước giờ phút lên đường của một vị đại nguyên-soái trước ba quân...

Trần-Gia-Cách hô lên một tiếng khảu hiệu rồi bắt dầu truyền lệnh:

-Đội thứ nhất đi trước dẫn đường là Kim-Địch Tú Tài Dư-Ngư-Đồng. Dọc đường sẽ gặp hai anh em Tây-Xuyên Song-Hiệp là Thường-Thích-Chí và Thường-Bá-Chí. Hai anh em họ Thường sẽ chịu trách nhiệm liên lạc thường xuyên với các đội để báo tin cho chính xác.

Đội thứ hai do Thiên-Thủ Như-Lai Triện-Bán-Sơn lãnh đạo, suất lĩnh Chương-Tấn và Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song Anh.

Đội thứ ba do Truy-Hồn Đoạt-Mệnh-Kiếm Vô-Trần Đạo-Nhân lãnh đạo, suất lĩnh Thiếp-Tháp Dương-Thanh-Hiệp và Đồng-Đầu Lý-Ngư Tưởng-Tứ-Căn.

Đội thứ tư do Hồng Hoa Hội Tổng-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách lãnh đạo, suất lĩnh Cửu-Mệnh Cẩm-Báo-Tử Vệ-Xuân-Hoa và thư đồng Tâm-Nghiễn.

Đội thứ năm do Miên-Lý-Châm Lục-Phỉ-Thanh lãnh đạo, suất lĩnh Thần-Đạn-Tử Mạnh-Kiện-Hùng và Độc-Giác-Hổ An-Kiện-Cường.

Đội thứ sáu do Thiết-Đảm-Trang Châu-Trọng-Anh lãnh đạo, suất lĩnh Tiểu-Quý-Lục Châu-Ỷ, Võ-Gia-Cát Từ-Thiện-Hoằng và Uyên-Ương-Đao Lạc-Băng.

Phát lệnh xong, Trần-Gia Cách gọi Dư-Ngư-Đồng đến nói:

-Dư thập tứ đệ! Em phải đi liền bây giờ thì mới kịp thời hợp nhất với Tâh-Xuyên Song-Hiệp được. Công việc của hai người đó rất quan trọng, em phải cố gắng căn dặn cố gắng mà thi hành gấp rút mới được. Phải biết rõ ràng tung tích của Văn tứ ca thì mới có thể có kế hoạch tấn công để giải cứu được.

Xoay qua những người khác, Trần-Gia-Cách nói:

-Các đội còn lại tạm nghỉ lại đây lấy sức để sáng mai lên đường. Khi đó các đội sẽ tách riêng ra mà đi thẳng tới Triệu-Gia Bảo. Khi nào qua khỏi Gia-Cốc-Quan ta mới hợp lại để bàn kế hoạch mới. Viên tướng giữ ải Gia-Cốc là Tôn-Bàng. Tên này là tướng giặc mạnh, có rất nhiều bọn ‘ưng khuyển’ làm nha trảo. Các vị nên thận trọng, đừng để lộ bí mật.

Mọi người ai nấy đều răm rắp nghe theo lệnh. Dư-Ngư-Đồng lên ngựa, chào hết mọi người rồi giục ngựa phi như bay. Không hiểu vì sao chàng bỗng quay đầu nhìn lại thì bắt gặp Lạc-Băng đang ngó theo chàng với vẻ trầm tư. Dư-Ngư-Đồng khẽ thở dài một tiếng. Chỉ trong chớp nhoáng, bóng chàng đã mờ dần và khuất hẳn sau những bụi cây...

Dư-Ngư-Đồng đi rồi, ai nấy đều tìm đỡ một nơi tạm nằm nghỉ chân theo lệnh của Trần-Gia-Cách mà chờ đến trời sáng. Trần-Gia-Cách đến tìm gặp riêng Từ-Thiện-Hoằng mà nói nhỏ:

-Thất ca à! Thật là tội nghiệp cho Châu lão anh hùng quá! Chính vì chúng ta mà ông ấy phải lâm vào cảnh cửa nát nhà tan, người thì chết! Vậy mà lão anh hùng còn nhất định theo chúng ta đi để giải cứu cho bằng được Văn tứ ca. Theo tôi nghĩ thì chúng ta nên tìm cách nào để bọn quan binh đừng nhận diện được Châu lão anh hùng thì hơn. Có như vậy thì sau này khi trùng tu lại Thiết-Đảm-Trang Châu lão anh hùng mới có thể sống yên được mà sống cảnh đoàn viên với gia đình. Còn Văn tứ tẩu còn mang nhiều thương tích, mong thất ca đừng để cho nàng phải giao chiến với địch nhé. Đó là lý do tôi xếp thất ca vào đội cha con Châu lão anh hùng và Văn tứ tẩu. Cố mà ngăn họ lại. Tốt hơn hết là làm cách nào để họ không phải ra tay là hay nhất!

Từ-Thiện-Hoằng nhất nhất tuân theo lời của Tổng-Đà-Chủ dặn, hứa sẽ thi hành y như vậy...

Hồi 7b

Đường xa thăm thẳm tìm hào kiệt

Rượu bánh thơm ngon ghẹo tiểu thư

Ngủ chưa được hai canh thì trời đã sáng. Triệu-Bán-Sơn suất lĩnh Chương-Tấn và Thạch-Song-Anh đi trước. Lạc-Băng nằm suốt đêm đến sáng mà không thể nào chớp mắt được. Đến lúc nghe tin đội của Triệu-Bán-Sơn khởi hành thì ra tiễn, gọi Chương-Tấn lại mà dặn:

-Thập ca! Đi đường nhớ dằn lòng, đừng gây sự lôi thôi nhé! Nhất là đừng có uống rượu để hư việc nghe!

Chương-Tấn dõng dạc đáp:

-Văn tứ tẩu chớ lo điều ấy! Chương-Tấn này xin thề rằng một khi chưa cứu được Văn tứ ca thì miệng sẽ không hớp lấy nửa giọt rượu. Nhưng khi cứu được Văn tứ ca rồi thì sẽ say một bữa quên cả trời đất.

Chương-Tấn là một con sâu rượu, chỉ lấy việc say sưa chè chén làm vui. Thiếu rượu, y như người sắp lìa cõi thế. Mỗi lần uống rượu là Chương-Tấn luôn luôn sinh sự, dễ để hỏng công việc. Khi say rượu, Chương-Tấn chẳng còn biết kiêng nể ai ngoại trừ Trần-Gia-Cách và Lạc-Băng. Vì biết rõ tật của Thập đương-gia cho nên Lạc-Băng đến phút chót cũng không quên dặn anh ta đừng uống rượu mà làm hỏng việc giải cứu Văn-Thái-Lai...

Đội của Triệu-Bán-Sơn vừa đi khỏi thì lần lượt các đội của Vô-Trần Đạo-Nhân, Trần-Gia-Cách, Lục-Phỉ-Thanh cũng nối bước đi theo. Và đội đi sau cùng là đội của Châu-Trọng-Anh với Châu-Ỷ, trong đó có Từ-Thiện-Hoằng và Lạc-Băng.

Đến Triệu-Gia-Bảo, bá tánh đua nhau ra đường đón hỏi thăm rất là nồng nhiệt, tỏ lòng thương mến và xót xa vì đã được biết qua biến cố đêm trước tại Thiết-Đảm-Trang. Nghe Châu-Trọng-Anh bày tỏ sự tình, bá tánh cảm động đến rưng rưng nước mắt.

Sau khi nói mấy lời tạ ơn cùng bá tánh thì Châu-Trọng-Anh cùng với Tống-Thiện-Bằng chia tay. Tống-Thiện-Bằng sau đó hộ tống gia tiêu và tráng đinh đi về hướng Tây, còn đội nhân mã của Châu-Trọng-Anh thì lại nhắm hướng Đông mà đi.

Trên đường đi, Châu-Trọng-Anh và Từ-Thiện-Hoằng bất đồng ý kiến với nhau. Châu-Trọng-Anh thì muốn gấp rút đi cứu Văn-Thái-Lai trong khi Từ-Thiện-Hoằng theo kế hoạch của Trần-Gia-Cách có ý muốn trì hoãn. Đôi bên phải tranh luận kịch liệt đến nỗi Lạc-Băng phải đứng ra hòa giải và ép buộc Từ-Thiện-Hoằng phải tuân theo lời của Châu-Trọng-Anh. Còn Châu-Ỷ thì vốn đã có sẵn ác cảm với Từ-Thiện-Hoằng cho nên còn muốn hơn thua với chàng nữa là đàng khác. Vì muốn giữ hòa khí, Từ-Thiện-Hoằng phải cố nhịn. Tuy nhiên, chàng có vẻ không được vui lắm nên ghì ngựa lại đi thật chậm, cố ý để rớt lại phía đàng sau.

Trong suốt cuộc hành trình ngày hôm ấy, Từ-Thiện-Hoằng lúc nào cũng dàu dàu không vui chẳng nói một câu nào. Tối đến, mọi người vào lữ quán nghỉ chân dùng bữa và trú ngụ qua đêm để sáng sớm tiếp tục lên đường.

Đoàn người ngựa cứ theo phương cách ấy, mà ‘ngày đi đêm nghỉ’. Phải mất đến ba ngày ba đêm tất cả mới qua được khỏi ‘Gia-Cốc-Quan’.

Châu-Trọng-Anh nhận thấy Châu-Ỷ luôn luôn có thái độ đối chọi với Từ-Thiện-Hoằng gây nên sự bất hòa nhưng có nói cách mấy nàng cũng chẳng thèm nghe cho nên ông ta lấy làm bực tức lắm. Lại thấy Từ-Thiện-Hoằng có vẻ buồn bã khó chịu, ông ta vì không muốn sứt mẻ hòa khí trong tình đồng đội nên mấy lần gọi cả hai người đến cố làm trung gian để giải hòa. Nhưng cũng chỉ được nhiều lắm là vài giờ đồng hồ. Sau đó Châu-Ỷ lại chứng nào tật nấy, tiếp tục gây gổ với Từ-Thiện-Hoằng. Ông có la rầy đến cỡ nào cũng không có kết quả.

Châu-Trọng-Anh thấy tánh khí con gái như vậy thì lại nhớ đến vợ mình. Bà ta cũng nóng nảy và cố chấp y như con gái mình, chẳng sai một ly. Một khi đã giận dữ là không khi nào chịu đè nén xuống, còn khi oán ghét rồi thì không ai có thể giải hòa nổi. Có lẽ tính tình con gái ông cũng vì ảnh hưởng của vợ ông ta mà ra. Nghĩ đến vợ mình, Châu-Trọng-Anh không khỏi buồn bã khi chẳng biết giờ này bà ta đang lưu lạc chốn nào, sống chết ra sao. Nhớ lại tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm đầu ấp tay gối, ông ta chỉ còn biết thở vắn thở dài mà xót xa...

Đến Túc-Châu, bốn người lại kiếm một lữ quán mà vào cơm nước với nghỉ ngơi. Từ-Thiện-Hoằng nói với Châu-Trọng-Anh và Lạc-Băng rằng:

-Mấy ngày nay Dư thập-tứ đệ đi dọ thám mà vẫn chưa có tin tức gì của Văn tứ ca hết cả! Chắc là y chưa gặp được Tây-Xuyên Song-Hiệp đây! Không hiểu hai người kia đi công tác ở phương nào?

Châu-Ỷ nãy giờ ngồi im lặng không thèm nói với Từ-Thiện-Hoằng một câu nào cả. Bây giờ nghe chàng nói vậy, nàng như vớ được cơ hội gây sự nên nhìn Từ-Thiện-Hoằng mà nói với giọng mỉa mai rằng:

-Họ Dư làm không xong trách nhiệm thì ‘chú em’ giỏi sao không đi làm thử đi mà lại ngồi ỳ một chỗ mà phiền trách với than thở làm gì?

Châu-Trọng-Anh lúc đó vừa nhắp xong một hớp rượu, thấy Châu-Ỷ như lại muốn kiếm chuyện với Từ-Thiện-Hoằng nữa. Sợ chàng buồn, ông ta bèn đổi đề tài, kiếm chuyện khác nói cho khỏa lấp:

-Lão phu có nghe rằng cố Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội, Vu lão anh hùng là một cao thủ trong Thiếu-Lâm (#1), rất gần với tông phái của lão phu. Lòng lão phu vẫn ao ước được thấy mặt Vu lão anh hùng để hai bên cùng ấn chứng (#2) cội rễ cho tường tận. Chỉ hiềm nỗi là một người ở Giang-Bắc, người kia lại ở Giang-Nam, xa xôi diệu vợi nên ước nguyện không thành! Nay Vu lão tiền bối đã cỡi mây lành về cõi Tây-Phương Cực-Lạc, còn biết làm sao gặp gỡ được! Theo sự suy đoán của lão phu thì Vu lão anh hùng nếu kể về vai vế thì thuộc vào bậc sư-thúc nhưng chẳng làm sao truy ra được nguồn gốc vì không có chút đầu giây mối nhợ nào!

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Đã từ lâu không ai biết được Vu cố tổng-đà-chủ thuộc môn phái nào hay học nghệ với ai. Mãi cho đến gần lúc lâm chung, lão nhân gia mới cho mọi người biết rằng hồi 6 tuổi có học nghệ trong Thiếu-Lâm tại Phúc-Kiến.

Một tay bưng chung rượu nhướng mày suy nghĩ, một tay vuốt chòm râu bạc phất phơ, Châu-Trọng-Anh lại hỏi:

-Từ lão đệ có biết tướng mạo Vu tổng-đà-chủ có những đặc điểm gì khác người không?

Từ-Thiện-Hoằng đáp:

-Vu tổng-đà-chủ ngoài 70 tuổi, nhưng trông còn tráng kiện hơn cả nhiều người đương ‘tuần 40’ (#3). Đôi mắt của lão nhân gia sáng ngời như hai viên ngọc, luôn trông thẳng ra đàng trước mà không mấy khi nhìn liếc qua hai bên; không quay lại đàng sau mà trông thấy rõ được tất cả những gì đàng sau lưng. Bởi vậy những kẻ nào muốn dùng ám khí để ám sát sau lưng đều bị lão nhân gia biết được hết. Còn một dấu vết đặc biệt nữa là ở cuối đôi lông mày của lão nhân gia có một nốt ruồi to bằng hột đậu đen. Ngay nốt ruồi ấy có mọc một sợi lông trắng như tơ, cứng như cước.

Chung rượu Châu-Trọng-Anh bưng trên tay bỗng nhiên rơi xuống bể tan tành. Đôi gò má ông ta u sầu rũ rượi, hai hàng nước mắt chảy dài xuống. Châu-Trọng-Anh khóc ấm ức than rằng:

-Sư thúc! Sư thúc ơi! Lòng con bấy lâu nay vẫn nghĩ là sư thúc! Tại sao sư thúc không nói thật tâm sự của sư thúc cho con nghe? Thật là khổ tâm con biết mấy!

Từ-Thiện-Hoằng nhìn Châu-Trọng-Anh sững sờ, chẳng hiểu sao người anh hùng Thiết-Đảm-Trang lại bỗng nhiên sụt sùi rơi lệ. Luôn cả Lạc-Băng và Châu-Ỷ cũng như ngây như dại, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra.

Châu-Trọng-Anh qua phút cảm xúc liền hỏi tiếp:

-Từ hiền đệ và Văn phu nhân! Trong Hồng Hoa Hội chẳng hay có ai biết rằng Vu không phải là họ thật của cố Tổng-Đà-Chủ không? Chẳng qua đó chỉ là họ mượn thôi! Còn họ thật có ai biết là gì không?

Từ-Thiện-Hoằng giật mình khi nghe Châu-Trọng-Anh biết quá rõ ràng về lai lịch của vị Tổng-Đà-Chủ tiền nhiệm. Chàng khẽ gật đầu nói:

-Có! Anh em trong Hồng Hoa Hội sau này mới biết được lão nhân gia vốn họ Trần.

Châu-Trọng-Anh gật đầu nói tiếp:

-Đúng vậy! Họ Trần! Nếu tên không đổi thì phải là Trần-Hữu-Nghị. Lão phu bây giờ biết chắc chắn đó là sư thúc của mình chứ không ai vào đây nữa. Mặc dầu trên danh nghĩa là sư-thúc sư-điệt, nhưng trên thực tế thì tình có khác chi sư-huynh sư-đệ. Trần-Hữu-Nghị và lão phu thân nhau còn hơn là ruột thịt nữa, tưởng trên thế gian này chưa có tình tri kỷ nào có thể sánh được. Dẫu cho Bảo-Thúc-Nha với Quản-Di-Ngô hay Lưu-Quan-Trương đời xưa cũng chỉ có thể đến thế là cùng. Sau này Trần-Hữu-Nghị vì phạm môn quy nên bị sư phụ của lão phu trục xuất ra khỏi Thiếu-lâm-Tự. Từ đó không ai còn được nghe gì về tin tức của ông ta nữa. Riêng về phần lão phu thì đã kiếm khắp cả hải giác thiên nhai mà ‘âm phong’ (#4) vẫn vắng bặt. Lão phu thầm nghĩ có lẽ vì buồn lòng nản chí nên Trần-Hữu-Nghị ẩn dật trong chốn rừng xanh nước biếc vui cảnh lâm tuyền, đêm tụng Huỳnh đình, ngày luyện linh dược, và đã đắc đạo chứ không còn xuất đầu lộ diện ở ngoài vòng danh cương lợi tỏa. Nào ngờ đâu con người với vẻ mặt trầm ngâm ấy lại có chí lớn, ôm ấp một hoài bão lớn lao, đem tài sức giúp đời, thay danh cải tánh mà làm nên sự nghiệp để lại tiếng thơm cho muôn đời về sau. Trước kia lão phu được nghe giang hồ bàn tán xôn xao về vị Tổng-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội vốn là một cao thủ trong phái Thiếu-Lâm. Lão phu có ý nghi ngờ nên có viết mấy phong thư nhờ người trao đến tận tay nhưng tuyệt nhiên không hề nhận được một chữ hồi âm. Sau đó, lão phu tin tưởng rằng Vu tổng-đà-chủ không phải là Trần-Hữu-Nghị sư thúc vì nếu đúng là người ấy thì có lẽ nào lại vô tình với lão phu như thế! Mặt không thấy mặt! Thư chẳng thấy thư! Ôi, cái tình tri giao mấy chục năm trời! Bây giờ biết rõ được thì ân hận làm sao! Kẻ còn người mất, càng nói ra càng đau lòng! Trần-Hữu-Nghị! Trần-Hữu-Nghị! Sao sư thúc lại đối với Châu-Trọng-Anh này tệ bạc đến thế! Châu-Trọng-Anh này đã làm gì cho sư thúc buồn phiền?

Càng nói, nước mắt Châu-Trọng-Anh càng nhỏ xuống đầm đề. Mọi người ai nấy đều ngồi trầm ngâm, trong lòng xúc động.

Châu-Trọng-Anh như cố đè nén cơn đau buồn đang dằn vặt ông ta dữ dội. Ông lấy tay vuốt ngực đè ngay tim mà nói:

-Nếu lão phu sớm biết được tin này chừng vài tháng thì cho dù cõi Giang-Nam có xa xôi hiểm trở muôn trùng đến thế nào đi nữa, lão cũng quyết tìm đến gặp mặt một phen cho thỏa lòng. Giờ đây cái ngày hội ngộ đó chỉ còn mong ở chốn tuyền đài. Trần-Hữu-Nghị! Hãy chờ ta nơi đó nhé!

Châu-Trọng-Anh sau đó uống luôn mấy chung rượu nữa, nhưng để phá thành sầu chứ không phải để thưởng cảnh hữu tình như lúc đầu nữa.

Thấy Châu-Trọng-Anh quá đỗi bi thương, Từ-Thiện-Hoằng bèn khuyên:

-Theo ý tiểu điệt nghĩ thì Vu tổng-đà-chủ chắc có điều bí mật gì, hay tâm sự gì khó nói đó thôi chứ không phải là bội bạc với Châu lão tiền bối đâu. Và có lẽ cũng vì vậy mà lão nhân gia đành im lặng mà không chịu nhận là người thân của lão tiền bối. Tiểu điệt biết rõ Vu tổng-đà-chủ xưa nay đối với bằng hữu rất nhiệt tình và chân thật. Lão nhân gia vẫn thường đem cái đạo ấy ra giảng cho các anh em Hồng Hoa Hội nghe. Như thế thì đối với một người bạn hiền như Châu lão tiền bối thì có lý nào lại thờ ơ lãnh đạm cho được? Tâm sự của Vu tổng đà chủ hẳn có điều khó nói ra nên đành mang bí mật đó xuống cõi tuyền đài. Có lẽ đó phải là một chuyện khác thường, trừ lão nhân gia ra, không ai hiểu nổi.

Châu-Ỷ nghe Từ-Thiện-Hoằng nói bèn bảo Lạc-Băng:

-Văn tẩu tẩu à! Theo em thấy thì trong Hồng Hoa Hội, trừ một vài người man trá ra, có lẽ phần đông đều là những người bạn có lòng tốt, ý tốt cả. Người mà thân phụ em thương nhớ đó hẳn phải có điều gì mật mới không muốn tiếp xúc với phụ thân em chứ chẳng phải là phục bạc đâu!

Từ-Thiện-Hoằng biết Châu-Ỷ ‘xâm xỉa’ mình, nhưng chàng giả vờ như chẳng nghe thấy và không thèm đếm xỉa tới.

Châu-Trọng-Anh lại hỏi:

-Khi Vu tổng-đà-chủ lâm chung có di ngôn gì chăng?

Từ-Thiện-Hoằng đáp:

-Chuyện của Vu tổng-đà-chủ rất dài và phức tạp. Nếu thuật lại thì lâu lắm, mà ở đây cũng bất tiện nữa. Để khi nào chúng ta đi chừng vài chục dặm tìm một chỗ hoang vắng không người tạm nghỉ chân, tiểu điệt sẽ thuật hết lại cho Châu lão tiền bối nghe. Chính tiểu điệt cũng còn nhận thấy có nhiều điều nghi hoặc mà không làm sao giải thích nổi. Thấy Châu lão tiền bối đối với Vu lão nhân gia quá đỗi thâm tình nên tiểu điệt cảm khái vô cùng. Hai người lại là đồng môn nên có lẽ Châu lão anh hùng hiểu rõ Vu tổng-đà-chủ hơn ai hết.

Châu-Trọng-Anh nói:

-Hay lắm! Hiền điệt hãy nói cho lão phu điều lão phu muốn biết rồi lão phu cũng sẽ nói cho hiền điệt tất cả những gì lão phu biết về Vu tổng-đà-chủ sau.

Châu-Trọng-Anh gọi tiểu nhị tính tiền. Từ-Thiện-Hoằng thấy vậy nói:

-Châu lão tiền bối hãy để tiểu điệt thanh toán được rồi.

Châu-Trọng-Anh gạt đi:

-Không! Lão phu mời tức là lão phu đãi. Lão phu là chủ, còn mấy người là khách kia mà!

Tính tiền xong, Châu-Trọng-Anh dẫn cả đám đi về quán trọ. Châu-Ỷ liếc Từ-Thiện-Hoằng, nói bằng giọng châm biếm khó chịu:

-Chỉ được cái tài lẻo mép chứ mưu trí gì mà tự xưng là Võ-Gia-Cát!

Châu-Trọng-Anh trợn mắt lên mắng rằng:

-Cái con nhỏ này! Ai cho mày hỗn láo như vậy?

Lạc-Băng cười, nói với Châu-Ỷ:

-Hiền muội! Em chưa biết đó thôi! Thất ca là người thông minh lanh lợi nhất trong Hồng Hoa Hội. Em không tin thì lâu ngày rồi sẽ biết. Em đừng chọc đến thất ca, anh ấy mà phá thì em chỉ có khóc thôi đó!

Châu-Ỷ hừ giọng mũi một cái rồi nói:

-Em cũng cả sợ y đâu! Y mà phá em thì em sẽ trả thù lại thôi. Bọn đàn ông mà làm gì em thì em cũng sẽ làm lại chúng y như thế!

Châu-Trọng-Anh toan mắng con gái thêm ít câu nhưng nghe dưới lầu có tiếng người đi lên, nên lại thôi.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Thôi! Chúng ta cứ về quán trọ trước sẽ hay.

Mọi người về đến khách sạn nghỉ ngơi qua đêm. Trời vừa mới tờ mờ sáng, bốn người đã thức dậy chuẩn bị thu xếp đồ vật lên đường. Thật là may mắn, bốn người vừa lên ngựa ra khỏi thành thì có lệnh đóng cửa thành. Đi suốt cả ngày được chừng 30 dặm thì trời đã bắt đầu tối. Thấy trước mặt có một đám cây cổ thụ, Châu-Trọng-Anh đề nghị:

-Đến dưới lùm cây đó nghỉ chân nhé?

Từ-Thiện-Hoằng đáp:

-Xin vâng!

Bốn người cột ngựa lại rồi cùng nhau ngồi quay quần dưới bóng mát trò chuyện. Tiếng gió vi vu nghe tựa như tiếng sáo khẽ vờn trên những ngọn cỏ lào xào. Từ-Thiện-Hoằng toan mở đầu câu chuyện bỗng tai nghe văng vẳng từ xa như có tiếng vó ngựa truy phong. Chẳng liền nằm mọp xuống cỏ lắng tai nghe thử. Nghe được một lúc, Từ-Thiện-Hoằng ngước mặt lên nói với mọi người:

-Có tất cả ba con ngựa đang phi cách đây chừng một dặm. Nhờ chiều gió thuận nên chắc là nghe không lầm đâu.

Châu-Trọng-Anh vẫy tay ra dấu, mọi người tháo dây cương, dắt ngựa lại sau một tảng đá tìm chỗ cột lại rồi tìm chỗ ẩn núp.

Chỉ một lúc sau, tiếng vó ngựa mỗi lúc nghe một rõ, và rồi quả đúng có ba kỵ mã đang nhắm hướng Đông mà phi tới. Dưới ánh trăng, mọi người thấy rõ cả ba người ngồi trên lưng ngựa, đầu vấn khăn trắng, mặc áo dài, cột dây lưng tơ theo lối ăn mặc của người Duy. Mỗi một người trên tay cầm một thanh đại đao.

Chờ cho ba người Duy đi khỏi, Châu-Trọng-Anh mới lên tiếng ra hiệu cho tất cả về lại chỗ cũ chuyện trò như lúc nãy. Trong suốt cuộc hành trình, ngoại trừ chiều hôm trước, không mấy khi mọi người được dịp ngồi lại với nhau lâu.

Châu-Trọng-Anh sau đó liền hỏi Lạc-Băng mọi chuyện từ đầu vì sao hai vợ chồng bị quan binh và đám cao thủ triều đình truy kích. Lạc-Băng liền chậm rãi từ từ kể lại...

Nguyên tháng trước, cố tổng-đà-chủ Vu-Vạn-Đình có công vụ khẩn cấp nên từ Thái-Hồ lên thẳng Bắc-Kinh, đem Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng đi cùng. Vu tổng-đà-chủ cẩn thận ngầm bố trí các lực lượng thủy lục đề phòng bất trắc nên đến Bắc-Kinh bình an vô sự.

Đến Bắc-Kinh, Vu-Vạn-Đình liền gọi vợ chồng Văn-Thái-Lai đến cho biết nguyên do chuyến Bắc-du này, và dặn hai người phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh...

Đêm hôm đó, Vu-Vạn-Đình cho biết sẽ vào tận hoàng-cung để diện kiến cùng Thanh-Đế Càn-Long để bàn về một vài bí mật rất quan trọng, có liên quan đến vận mạng của Hán-tộc và ngai vàng của Càn-Long. Vu-Vạn-Đình dặn hai người bí mật đi theo ngầm hộ tống ông tại cấm cung. Hai người theo kế hoạch, vượt nhiều thành trì kiên cố, qua mặt được hết các đám Cẩm-vệ quân cũng như Ngự-lâm quân.

Khi theo Vu-Vạn-Đình vào đến hoàng cung hội kiến với vua Càn-Long, hai vợ chồng Văn-Thái-Lai nhìn thấy thái độ của Thanh-Đế vẫn thản nhiên không có gì tỏ vẻ là hoảng hốt cả. Sau đó Vu-Vạn-Đình hỏi mấy câu nhưng Càn-Long vẫn im lìm không đáp. Thấy vậy, Văn-Thái-Lai mới mở lời khuyên Càn-Long nên nói rõ thánh ý (#5) để cho Vu-Vạn-Đình biết rõ thì mới có thể tìm được một giải pháp dung hòa. Nhưng Càn-Long vẫn chỉ ậm ừ mà không chịu lên tiếng.

Sau cùng, Vu-Vạn-Đình phải cấp tốc dùng âm tín gọi Vô-Trần Đạo-Nhân, Triệu-Bán-Sơn và Tây-Xuyên Song-Hiệp tức tốc đến Bắc-Kinh vào tận cấm cung dùng áp lực, buộc Càn-Long phải quyết định dứt khoát: một là đồng ý, hai là khước từ chứ không thể nào ‘đi nước đôi’ được. Từ-Thiện-Hoằng sau đó vạch ra những điều khoản chính yếu trong hiệp-ước ký kết giữa Càn-Long và Vu-Vạn-Đình. Nhờ vậy mà cuộc hội nghị đi đến kết quả...

Nghe kể tới đây, Châu-Trọng-Anh hỏi:

-Trong cuộc hội kiến lịch sử này, Văn tứ ca có chủ ý như thế nào? Văn phu nhân có biết rõ không?

Lạc-Băng đáp:

-Vu tổng-đà-chủ cho tất cả anh em Hồng Hoa Hội biết Càn-Long sau đó hẹn với lão nhân gia đến hội kiến thêm một lần nữa, mà chỉ có thể đem theo một người thân tín của mình mà thôi. Văn tứ ca sau đó, là người được Vu tổng-đà-chủ chọn đem theo vào tận chỗ hội nghị. Những người kia, theo kế hoạch của lão nhân gia phải tức tốc trở về An-Tây mà việc ai nấy làm theo nhiệm vụ được giao phó...

Sau đó, Vu-Vạn-Đình cùng với Văn-Thái-Lai lên đường vào cung hội kiến với Càn-Long. Lạc-Băng cũng đi theo nhưng chỉ ở bên ngoài yểm trợ ngầm thôi. Vu-Vạn-Đình lại dặn Văn-Thái-Lai rằng trong cuộc hội đàm sắp tới, chàng chỉ được lắng tai nghe thôi chứ không được nói một lời nào cả.

Lạc-Băng ở ngoài chờ đợi mà trong lòng hết sức nóng nảy. Nhưng độ hai tiếng đồng hồ sau, nàng đã cảm thấy khoan khoái nhẹ nhõm khi nhìn thấy Vu-Vạn-Đình cùng với Văn-Thái-Lai bình an vô sự trở ra.

Hôm sau, Vu-Vạn-Đình cùng với Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng rời Bắc-Kinh, thẳng đường về Giang-Nam. Trên lộ trình, Lạc-Băng hỏi Văn-Thái-Lai về nội dung cuộc hội nghị với Càn-Long ra sao thì chàng thì chàng cũng chỉ nói sơ qua đại ý là có liên quan đến vận mạng Hán-tộc và Thanh-triều thôi chứ không chịu đi vào chi tiết. Lạc-Băng quyết hỏi cho ra lẽ nhưng Văn-Thái-Lai một mực không chịu nói, chỉ bảo rằng ngoài Trần-Gia-Cách ra (khi ấy còn là Thiếu-Đà-Chủ), chàng không thể thổ lộ cho bất cứ một người nào biết được, kể cả Lạc-Băng, là người thân yêu nhất trên đời của chàng...

Nghe đến đây, Châu-Trọng-Anh cất tiếng khen ngợi:

-Vu tổng-đà-chủ thật là biết xét người, có mắt nhìn người. Mà Văn tứ ca cũng là người nghĩa khí hiếm có. Chẳng biết nếu sớm gặp được sư thúc, liệu người có nỡ giấu diếm lão phu hay không? Có ngờ đâu con người mang tên thật là Trần-Hữu-Nghị kia hành tung lại bí mật và chí khí hơn đời đến thế kia!

Lạc-Băng sau đó lại tiếp tục kể...

Đến Giang-Nam, Vu-Vạn-Đình chia tay với Văn-Thái-lai và Lạc-Băng tại đó. Ông ta ra lệnh cho hai người phải về gấp An-Tây, và Văn-Thái-Lai phải tìm gặp Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách để tường thuật lại hết mọi chuyện. Còn Vu-Vạn-Đình thì rẽ đường đi Hàng-Châu với ý định ghé sang Hải-Ninh-Châu có việc khẩn cấp...

Châu-Trọng-Anh nghe đến như hiểu được phần nào nên thở dài than:

-Lão phu biết rõ là cho dù cách biệt lâu năm nhưng mối thâm tình của sư thúc đối với lão phu không thay đổi chút nào!

Châu-Ỷ hỏi:

-Gia gia bảo mối thâm tình không thay đổi là sao?

Châu-Trọng-Anh nói:

-Làm sao mà con hiểu được!

Châu-Ỷ gân cổ, giọng ngang tàng nói:

-Chính vì con không hiểu nên mới hỏi gia gia!

Châu-Trọng-Anh không đáp. Châu-Ỷ lại liếc mắt ngạo nghễ nhìn Từ-Thiện-Hoằng cười nhạt. Lạc-Băng lại tiếp tục câu chuyện đang kể dở dang...

Từ khi vể Hải-Ninh, tính tình của Vu-Vạn-Đình không hiểu vì sao mà thay đổi hẳn. Trước kia ông ta vẫn thường vui vẻ nói cười cùng tất cả, nhưng tự nhiên giờ đây lại đâm ra trầm ngâm, biếng cười, biếng nói, lúc nào như cũng chìm đắm vào trong tư tưởng mà không ai hiểu được làm sao.

Được vài ngày, Vu-Vạn-Đình bỗng lâm trọng bệnh nằm liệt giường. Thế nhưng sau đó thuốc thang ông không chịu uống, cơm cháo chẳng chịu ăn, lương y cùng thuộc hạ túc trực đêm ngày hết lời khuyên bảo mà ông ta vẫn không chịu nghe.

Luôn cả các đương-gia đến vấn an, Vu-Vạn-Đình đều ra lệnh, bảo đừng ai lo cho ông ta mà phải tiếp tục công tác của mình; phải lấy quốc gia làm trọng chứ không được vì chuyện cá nhân riêng tư. Các đương-gia dù rất đau lòng nhưng biết Vu-Vạn-Đình nói đúng nên không ai dám cãi mệnh dù rất lo cho bệnh tình của ông.

Có người cho biết rằng Vu-Vạn-Đình sớm biết trước tình trạng sức khỏe của ông cách đây một năm nên dành hết thì giờ cố dàn xếp việc hội kiến với Càn-Long càng sớm càng tốt. Và có lẽ vì thấy thời gian cấp bách không kịp làm hết được tất cả những dự định cho nên Vu-Vạn-Đình buồn rầu mà sinh ra bệnh nặng.

Nhưng Văn-Thái-Lai lại cho Lạc-Băng biết thêm một lý do khác là ngoài việc trên, Vu-Vạn-Đình có một tâm sự rất là đau đớn là ông ta được tin người yêu quý nhất đời của mình đã sang một thế giới khác! Bình sinh, Vu-Vạn-Đình yêu quý người ấy hơn tất cả những gì quý giá trên đời. Nay được tin người ấy không còn nữa, Vu-Vạn-Đình cũng chẳng còn muốn sống làm gì nữa!..

Lạc-Băng kể đến đây thì ai nấy đều để ý thấy lệ rơi tầm tã từ tròng mắt của Từ-Thiện-Hoằng. Châu-Trọng-Anh cũng không nén được xúc động, mủi lòng mà sụt sùi. Lạc-Băng dùng tay lau mấy giọt nước mắt trên má rồi kể tiếp...

Giờ phút lâm chung, Vu-Vạn-Đình co gọi tất cả các đương gia đang có mặt tại Hồng Hoa Hội, tập trung hết chánh bộ hương chủ, nội ngoại tam đường để lại di ngôn, bảo tất cả phải tôn Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách lên thay thế chức vị của mình chứ không thể cử bất cứ một ai khác, và bắt mọi người phải hứa với ông ta như thế. Vu-Vạn-Đình không nói rõ lý do tại sao, chỉ bảo rằng đây là một sự việc quan trọng, là phương pháp duy nhất để chế ngự nhà Thanh sau này. Nếu mọi người không chịu nghe lời ông thì Hán-tộc sẽ vĩnh viễn làm nô lệ cho Thanh-triều...

Châu-Trọng-Anh cắt ngang câu chuyện, lên tiếng hỏi:

-Trần thiếu-đà-chủ xưng hô thế nào với Vu tổng-đà-chủ?

Lạc-Băng đáp:

-Trần thiếu-đà-chủ là dưỡng-tử của Vu tổng-đà-chủ. Mà theo tất cả được biết thì Trần thiếu-đà-chủ là con của Hải-Ninh Tướng-Quốc Trần đại-nhân. Trần công-tử thiên tư đĩnh ngộ, phong thái siêu phàm, 13 tuổi thi đỗ Giải-Nguyên, 15 tuổi đỗ Trạng-Nguyên. Đại đăng-khoa chưa được bao lâu thì Vu tổng-đà-chủ đem Trần công-tử đến Hồi-Bộ Bắc-Sơn giao cho Thiên-Trì Quái-Hiệp rèn luyện võ nghệ. Việc này không những chỉ người của Hồng Hoa Hội biết thôi mà khắp chốn giang hồ cũng đều biết rất rõ. Nhưng có điều lạ lùng là vị Trần công-tử kia, tức đương kim Tổng-Đà-Chủ, là con của một vị Tể-Tướng trong triều, quyền uy chức trọng, khoa bảng, vinh hoa phú quý tột bậc mà không hiểu sao lại xin làm dưỡng tử của một vị võ lâm cao thủ, một lãnh tụ của một bang hội chống lại triều đình thì thật là một điều không ai có thể nghĩ ra nổi!

Châu-Trọng-Anh nói:

-Có lẽ có một bí mật nào đó. Văn tứ gia lẽ nào lại không biết?

Lạc-Băng đáp:

-Điệt nữ dám quả quyết rằng cùng lắm Văn tứ ca cũng chỉ biết đại lược sơ qua thôi chứ không thể nào biết được rành rẽ. Vu tổng-đà-chủ còn một tâm sự định chờ gặp mặt Trần thiếu-đà-chủ sẽ nói, nhưng vì đường sá xa xôi, mặc dù Trần thiếu-đà-chủ đã cấp tốc lên đường nhưng vẫn không kịp. Biết không thể nào kịp gặp mặt dưỡng-tử trong giây phút cuối, Vu tổng-đà-chủ bèn ra chỉ thị cho chánh phó lục đường của Hồng Hoa Hội phải tuân theo di mệnh, cấp tốc dùng lễ ‘thiên lý tiếp long đầu’ đón Thiếu-Đà-Chủ lên Giang-Bắc để tiếp nhận chức Tổng-Đà-Chủ mà cùng tính việc quốc gia đại sự, chứ đừng vì việc ma chay của người mà làm trễ nãi. Còn việc tối mật thì như điệt nữ đã kể, Vu tổng-đà-chủ đã trối riêng với Văn tứ ca và dặn chỉ được nói riêng cho Trần thiếu-đà-chủ nghe mà thôi. Ngờ đâu Văn tứ ca dọc đường gặp nạn nên bí mật kia nay cũng chưa đến tai đương kim Tổng-Đà-Chủ được...

Nói đến đây, Lạc-Băng nghe cổ mình như nghẹn lại. Một lát sau nàng mới lên tiếng được:

-Nếu chẳng may Văn tứ ca có bề gì thì bí mật kia sẽ chẳng một ai biết được, và tương lai của Hán-tộc chúng ta sẽ ra làm sao đây!

Châu-Ỷ thấy vậy bèn khuyên:

-Văn tẩu tẩu chớ có bi lụy mà nói lên những điều bất tường như vậy. Văn tứ ca trước sau cũng được giải thoát mà thôi. Chúng tôi quyết liều chết để cứu cho được Văn tứ ca mới nghe!

Châu-Trọng-Anh lại hỏi tiếp:

-Chẳng hay Văn tứ gia bị thương ra làm sao?

Lạc-Băng lại tiếp tục kể...

Sau khi chia tay với Vu-Vạn-Đình, Văn-Thái-Lai cùng Lạc-Băng thẳng đường đi Túc-Châu theo lộ trình do ông ta phác họa. Chẳng ngờ khi hai người vừa vào đến khách điếm tạm nghỉ ngơi thì có mười mấy tên thị-vệ đại-nội, là những cao thủ võ lâm được triều đình tuyển dụng, đến chặn hai người lại trao ra tờ chiếu chỉ của Càn-Long bảo rằng chúng tuân theo thánh chỉ (#6) cần triệu thỉnh chàng về Bắc-Kinh có việc khẩn cấp. Văn-Thái-Lai nói với chúng rằng chàng đang phụng mệnh Vu tổng-đà-chủ, khi nào xong mới có thể tuân chỉ Càn-Long đến Bắc-Kinh được. Nhưng đám thị-vệ cậy vào võ công cao cường, lại đông người nên lên tiếng bắt buộc Văn-Thái-Lai phải tuân chỉ Càn-Long trước rồi mới được phụng mệnh Vu tổng-đà-chủ sau. Hai bên lời qua tiến lại rồi sinh ra ẩu đả.

Văn-Thái-Lai cùng Lạc-Băng hợp sức giết được bốn tên, đồng thời đả thương thêm bốn tên khác. Những tên còn lại biết địch không nổi hai người nên bỏ chạy. Tuy thắng trận ấy, nhưng trên mình Văn-Thái-Lai bị đến sáu bảy vết thương khá nặng.

Lạc-Băng không bị thương nên sau đó còn đủ sức bảo vệ Văn-Thái-Lai đi tiếp. Hai người biết không thể nào nấn ná thêm ở Túc-Châu được nữa mà phải làm cách nào vượt qua được phía bên kia Vạn-Lý Trường-Thành thì mới mong được an toàn.

Đến Triệu-Gia-Bảo, hai người tìm một lữ quán tạm trú để Văn-Thái-Lai có cơ hội điều dưỡng thương thế. Nhưng tung tích của hai người lại bị đám ‘ưng khuyển’ hay được mà kéo đến quyết bắt cho được hai người. Qua nhiều trận ác chiến, Lạc-Băng cũng bị thương nặng. Sau đó, hai người gặp Lục-Phỉ-Thanh và được ông ta giới thiệu đến Thiết-Đảm-Trang tạm nương náu...

Lạc-Băng vừa kể xong chuyện thì Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Văn tứ tẩu cứ yên tâm. Văn tứ ca dù ở trong hang hùm nhưng tánh mạng vẫn vững như bàn thạch. Căn cứ theo mọi dữ kiện mà nói thì Càn-Long muốn bắt sống Văn tứ ca. Vì thế, Trương-Siêu-Trọng và bọn ‘chó săn chim mồi’ dù bất cứ lý do gì cũng không dám hại đến Văn tứ ca đâu.

Châu-Trọng-Anh gật đầu nói:

-Lão phu rất đồng ý với Từ hiền điệt. Lời biện giải của hiền điệt quả thực không sao chút nào!

Bỗng nhiên Châu-Ỷ liếc mắt nhìn Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Nếu mi toan tính, lo liệu giỏi như vậy thì sao không đến Triệu-Gia-Bảo mà dẹp tan bọn ‘ưng khuyển’ của triều đình kia đi thì Văn tứ gia đâu đến nỗi phải đến Thiết-Đảm-Trang của ta lánh nạn đến nỗi bị Trương-Siêu-Trọng bắt rồi để di họa đến cho gia đình ta như thế!

Thấy Châu-Ỷ không chịu buông tha cho Từ-Thiện-Hoằng, Châu-Trọng-Anh phải lên tiếng quát nạt bảo nàng thôi, thế nhưng Châu-Ỷ vẫn một mực ngoan cố, không chịu nghe lời ông. Thấy tình trạng không ổn, Châu-Trọng-Anh phải cố tìm đề tài khác để nói cho bớt căng thẳng. Nghĩ ra được một điều vui vui, ông ta hỏi Lạc-Băng rằng:

-Chẳng hay hiền thê của Trần tổng-đà-chủ là ai thế? Là con nhà trâm anh thế phiệt hay là một nữ hiệp giang hồ?

Lạc-Băng đáp:

-Theo điệt nữ được biết thì Tổng-Đà-Chủ chưa có người nâng khăn sửa túi.

Trong khi Châu-Trọng-Anh trầm ngâm suy nghĩ thì Châu-Ỷ hóm hỉnh vui cười nói với Lạc-Băng:

-Vậy thì chắc em thế nào cũng có ngày được uống rượu mừng Tổng-Đà-Chủ rồi phải không chị?

Châu-Trọng-Anh nghe nói liền mắng con gái rằng:

-Cái con này chỉ biết nói khùng nói điên! Việc nước, việc nhà, Trần tổng-đà-chủ lo chưa có giờ phút nào yên thân được thì còn thì giờ đâu để nói đến chút hạnh phúc cá nhân mà đòi uống rượu với không uống rượu!

Lạc-Băng cười nói:

-Chờ khi cứu được Văn tứ ca rồi, điệt nữ sẽ làm mai cho Ỷ muội một người chồng xứng đáng. Hy vọng Châu lão anh hùng sẽ hài lòng...

Châu-Ỷ nghe nói mắc cở chặn lại không cho Lạc-Băng nói tiếp:

-Nếu ai còn nói đến việc làm mai làm mối cho tôi nữa thì tôi bỏ đi ngay, không thèm đi chung nữa đâu.

Mọi người ai nấy đều cười rộ lên. Sau một lúc, Từ-Thiện-Hoằng lại một mình phá lên cười một mình.

Châu-Ỷ giận lắm, hỏi rằng:

-Mày cười cái gì thế hả ‘chú em’? Coi chừng, đừng đụng đến ‘chị’ mà khổ đấy!

Từ-Thiện-Hoằng vẫn cười tiếp nói:

-Tôi cười gì thì mặc tôi! Mắc mớ gì mà cô em phải thắc mắc hả? Châu-Ỷ vốn tính tình ngay thẳng, trong bụng nghĩ sao thì nói vậy chứ chẳng chút giấu diếm:

-Chú mày cười gì tưởng ‘chị’ không đoán được sao? Hẳn chú mày nghĩ rằng chị Lạc-Băng định làm mai cho Tổng-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách đi cưới chị làm vợ chứ gì? Chú mày đừng nghĩ thế mà lầm! Đừng tưởng được thiên hạ gọi là ‘Võ-Gia-Cát’ mà làm tài lanh nhé! Trần-Gia-Cách là con Tể-Tướng, chị đây là hạng thường dân. Đã đành rằng phụng không thèm sánh với gà, nhưng gà cũng chẳng bao giờ so với phụng đâu nhé!

Châu-Trọng-Anh nghe nói cũng phải phì cười. Ông chỉ ‘mắng yêu’ con gái mình vài câu là lắm lời nhiều chuyện. Lạc-Băng gật đầu nói:

-Ỷ muội thật có khí phách hơn người, lại ngay thẳng nghĩ sao nói vậy. Người như Ỷ muội thật là đáng quý.

Châu-Trọng-Anh nói:

-Con nhỏ của lão phu chỉ ‘bạ ăn bạ nói’ mà chẳng sợ ai cười! Chắc Từ hiền-điệt cũng phải cười thầm cái tính khí ‘bô lô ba la’ đó chứ chẳng không!

Mọi người cười nói vui vẻ rất khuya, sau đó tìm chỗ đánh một giấc để sáng sớm hôm sau lại phải hối hả chuẩn bị lên đường. Đến khi chuẩn bị đi ngủ thì Châu-Ỷ nũng nịu nói:

-Gia gia! Con đói bụng quá à!

Châu-Trọng-Anh phì cười nói:

-Có đói thì cũng phải ráng nhịn thôi chứ có gì để ăn đâu? Mai ráng mà lo đi sớm, đến Song-Tĩnh sẽ nghỉ chân và luôn tiện tìm quán ăn cơm luôn thể.

Sau đó, ai nấy đều nằm xuống ngủ ngon lành. Chỉ có Châu-Ỷ vì ‘kiến bò bụng’ (#7) nên cứ nằm trằn trọc mãi không ngủ được.

Châu-Ỷ nằm bên cạnh Lạc-Băng, thấy nàng đã bắt đầu ngáy nhè nhẹ. Có lẽ là nàng đã ngủ rồi. Vừa lúc ấy thì Từ-Thiện-Hoằng lại từ từ ngồi dậy. Châu-Ỷ để ý thử xem chàng ta làm gì thì thấy chàng đến gần chỗ cột mấy con ngựa. Châu-Ỷ càng lấy làm lạ cố ngước đầu dậy nhìn thử nhưng đêm tối quá nên không nhìn được gì. Nàng lại thấy Từ-Thiện-Hoằng mở cái gói trên yên ngựa lấy ra một vật gì đem lại chỗ chàng nằm ban nãy.

Không nhịn được, Châu-Ỷ rón rén đi lại chỗ Từ-Thiện-Hoằng rình thử. Nàng chợt nghe rõ ràng như chàng đang nhai một cách ngon lành. Châu-Ỷ tin rằng Từ-Thiện-Hoằng lấy vật thực đem theo ra ăn. Nàng không hiểu chàng đang ăn cái gì mà miệng cứ nhai rào rào, mà mùi thơm lại bốc lên phưng phức. Bụng đang đói như cào, Châu-Ỷ nhìn thấy Từ-Thiện-Hoằng ăn mà thèm đến ‘nhỏ rãi’.

Vật thực mà Từ-Thiện-Hoằng đang ăn là một thứ bánh rất ngon, có tiếng nhất ở Túc-Châu mà chàng mua ở Hạnh-Hoa tửu lâu cùng với một rượu đem theo.

Từ-Thiện-Hoằng vừa ăn vừa nhai tóp tép, thỉnh thoảng lại buông tiếng khen ngon làm cho Châu-Ỷ càng thêm ‘nhức nhối’ cái dạ dày. Nàng khó chịu vô cùng. Nhìn chàng ăn ngon lành thì chịu không nổi, mà không lẽ lại chịu hạ mình đến xin!

Mùi thơm của bánh chưa hết thì lại đến mùi rượu ngon Túc-Châu đập vào mũi của Châu-Ỷ. Biết rằng có đứng đén qụy gối cũng chẳng được Từ-Thiện-Hoằng mời ăn uống gì nên nàng lại thui thủi một mình về chỗ mình nằm lại như cũ.

Ác làm sao, mùi bánh với mùi rượu cứ tiếp tục bay tới mũi Châu-Ỷ mãi. Liếc mắt nhìn sang, lại thấy Từ-Thiện-Hoằng cứ ăn xong một miếng bánh lại đưa bình rượu lên tu một cái ra vẻ ngon lành vô cùng. Giá mà không có ác cảm với Từ-Thiện-Hoằng có lẽ Châu-Ỷ cũng đánh liều sang xin một vài cái bánh và ít hớp rượu rồi. Nhưng với người mình ghét mà phải mở miệng ra cầu lụy thì thật là chuyện không thể nào làm được! Do đó mà Châu-Ỷ đành nuốt nước miếng mà chịu trận.

Thấy Từ-Thiện-Hoằng hết khen bánh ngon lại khen rượu thơm, Châu-Ỷ không còn chịu đựng nổi nữa nên ngồi vùng dậy lớn tiếng nói:

-Đã nửa đem canh ba rồi mà sao chú mày còn thức uống rượu mà không chịu để yên cho người ta ngủ? Bộ muốn phá đám hả?

Từ-Thiện-Hoằng cười nói:

-Sao mà ngộ vậy không biết? Người ta có bánh ngon thì cứ ăn, có rượu ngon thì cứ uống! Còn cô em muốn ngủ thì cứ ngủ chứ ai bảo thức làm gì? Ai cũng có quyền tự do của chính mình, muốn làm gì thì làm chứ có đụng chạm gì nhau đâu? Nhưng thôi, cũng được! Để chiều ý cô em, ta không uống nữa!

Từ-Thiện-Hoằng sau đó để bầu rượu xuống đất, nằm ngáy pho pho như đã ngủ ngon giấc từ bao giờ. Bầu rượu không đậy nắp tỏa lên bay vào mũi Châu-Ỷ như khiêu khích.

Thì ra lúc dùng bữa tại Hạnh-Hoa tửu lầu ở Túc-Châu ban chiều, Từ-Thiện-Hoằng để ý nhìn, thấy Châu-Ỷ cũng thuộc loại tửu lượng khá, hơn hẳn Lạc-Băng rất xa. Rượu ở Túc-Châu vốn thơm ngon có tiếng, hễ ai đã uống qua một lần là khó mà quên được. Vì vậy, Từ-Thiện-Hoằng mới nghĩ ra một kế để phá Châu-Ỷ một phen chơi. Chàng bí mật nói với tửu bảo gói riêng cho chàng một hũ rượu thượng hảo hạng và chừng hơn một chục bánh nhân thịt thật ngon lành rồi giấu vào một chiếc túi buộc bên yên ngựa. Chàng tin rằng tối nay thế nào Châu-Ỷ cũng đói bụng dọc đường và chàng sẽ có cơ hội thi hành ‘kế ranh’ của mình.

Quả nhiên không ngoài sự tiên liệu của Từ-Thiện-Hoằng, sau khi chuyện trò xong, sửa soạn đi ngủ thì Châu-Ỷ lên tiếng than đói bụng. Chờ cho Châu-Trọng-Anh và Lạc-Băng ngủ rồi, và lắng tai nghe Châu-Ỷ vẫn trằn trọc, Từ-Thiện-Hoằng mới lấy bánh ra ăn và rượu ra uống.

Châu-Ỷ sau đó chịu không được, rón rén ra nhìn trộm Từ-Thiện-Hoằng ăn bánh uống rượu. Nhất cử nhất động của Châu-Ỷ, Từ-Thiện-Hoằng đều trông thấy hết nhưng cứ giả vờ như không biết gì cả. Đến khi Châu-Ỷ chịu không nổi nữa lên tiếng gây gổ, chàng mới đặt bình rượu xuống mà nằm ngáy. Chàng cố ý để bình rượu mở nắp để trêu tức Châu-Ỷ cho nàng thèm.

Châu-Ỷ cố nhắm mắt ngủ, nhưng mùi rượu cứ bốc lên mãi nên không làm sao nằm yên được. Nàng ngồi dậy đến chỗ Châu-Trọng-Anh ngủ. Lúc ấy trời trong sao tỏ nên Châu-Ỷ trông thấy bên gối của ông ta có ‘hai sợi’ thiết-đảm sáng ngời hào quang. Một ý nghĩ nảy ra trong đầu, Châu-Ỷ rón rén lấy một sợi thiết đảm cầm tay đi đến chỗ Từ-Thiện-Hoằng đang nằm. Đưa sợi thiết-đảm lên cao, Châu-ỷ giáng xuống một cái thật mạnh ngay bầu rượu của Từ-Thiện-Hoằng một cái vỡ tan tành, rượu đổ ra thơm ngát cả một khoảng. Lúc đó, Châu-Trọng-Anh vẫn ngáy vang như sấm, còn Lạc-Băng thì khẽ trở mình nói mớ vài câu.

Châu-Ỷ chưa hết giận, miệng lẩm bẩm:

-“Có thế mới vừa bụng ta! Cho hết uống!”

Đập vỡ bình rưoơu xong, Châu-Ỷ liền kéo sợi thiết-đảm trở về. Nhưng nàng bỗng có cảm tưởng như ở đầu kia như có sức vô hình kéo trở lại. Để ý nhìn kỹ, Châu-Ỷ thấy Từ-Thiện-Hoằng đang nắm chặt lấy đâu kia của sợi dây thiết-đảm kéo lại. Châu-Ỷ gồng hết sức cố kéo thi với Từ-Thiện-Hoằng. Bỗng nhiên, chàng đứng dậy đưa tay giật một cái thật mạnh, Châu-Ỷ không giữ được thăng bằng, ngã chồm ra phía trước ôm chầm lấy Từ-Thiện-Hoằng. Châu-Ỷ thét lên một tiếng, nhảy qua một bên rồi dùng sức tiếp tục kéo nữa. Từ-Thiện-Hoằng không chịu nhường, chàng ghì mãi sợi dây cho đến khi Châu-Ỷ chịu buông rời ra thì thôi.

Châu-Ỷ nghĩ mà lo, lỡ chẳng may mọi người thức dậy mà trông thấy cảnh cô nam quả nữ giằng co như thế này thì thật là ê mặt nên chi bằng để đến sáng mai mách lại với thân phụ là hơn. Nghĩ vậy, Châu-Ỷ liền buông sợi thiết-đảm ra, trở lại chỗ mà nằm ngủ, trong lòng vô cùng hậm hực. Lạc-Băng lúc đó chợt trở mình cười lên mấy tiếng khúc khích nhưng mắt vẫn nhắm nghiền như có lẽ là đang mơ thấy điều gì vui thú trong giấc mộng. Du vậy, Châu-Ỷ cũng thẹn thùng đến đỏ cả mặt.

Sáng ra, lúc chưa tan sương, Châu-Ỷ đã thức dậy ngồi một mình chải tóc. Chờ đến ánh dương vừa lên, Châu-Trọng-Anh và Lạc-Băng mới thức dậy.

Phải một lát sau, Từ-Thiện-Hoằng mới thức dậy. Chàng làm bộ giật mình, đưa tay dụi mắt, miện nói như ngớ ngẩn:

-Ủa! Cái này mới lạ chứ! Tại sao vậy? Chuyện gì đã xảy ra trong đêm qua?

Châu-Ỷ suốt một đêm không ngủ được, vừa đói bụng, vừa thẹn thùng ê chề giờ lại thấy Từ-Thiện-Hoằng làm bộ làm tịch chọc ghẹo mình cắn răng mím môi, nghĩ cách đối phó làm sao cho đích đáng. Nhưng nàng chưa kịp mở lời đã nghe Từ-Thiện-Hoằng nói với Châu-Trọng-Anh:

-Châu bá phụ! Sợi dây thiết-đảm của bá phụ sao lại nằm ở chỗ này? Còn bầu rượu của tiểu điệt lại bể nát như cám vậy chứ? Không chừng đem qua có con khỉ nào trên cây ngửi thấy mùi rượu ngon ở Túc-Châu lén nhảy xuống uống thử chứ gì! Uống quá nên say, ‘con khỉ con’ đó nhìn thấy sợi thiết-đảm của bá phụ nên cầm lên múa thử nhưng vì không biết múa thành ra giáng xuống bầu rượu làm bể nát. Con khỉ con này thật là thông minh và liếng thoắng! Nó đập bể nát bầu rượu của tiểu điệt thế mà tiểu điệt ngủ say sưa đến độ chẳng hay biết gì cả. Con khỉ con chơi kỳ cục thật!

Châu-Trọng-Anh nghe Từ-Thiện-Hoằng nói không nhịn được, cười lên sặc sụa nói:

-Hiền điệt diễu có duyên lắm! Nói khôi hài như thế thì đố ai mà không cười cho được! Ở vùng này làm gì có khỉ mà lão đệ bảo là khỉ con quấy phá!

Lạc-Băng cũng cười nói:

-Ở đây chắc chắn là không có khỉ rồi! Mà cho dù có cũng không phải là khỉ xuống phá thất ca đâu, đừng nghi oan! Nếu tôi không lầm thì đêm qua tiên nữ xuống phá thất ca bằng cách đập bể bầu rượu cho bõ ghét vì ai bảo thất ca nửa đêm còn ăn bánh thịt với uống rượu ngon báo hại tiên nữ không ngủ được!

Cả hai người ngồi cười nói như bắp rang. Họ chỉ nói bóng nói gió chơi chứ chẳng ai có ý xỉa xói gì đến Châu-Ỷ cả. Mà Châu-Ỷ cũng chẳng có gì phải buồn. Nàng chỉ giận Từ-Thiện-Hoằng gọi nàng là ‘khỉ con’ nên định bụng sẽ trả thù.

Trước khi lên đường, Từ-Thiện-Hoằng lấy bánh nhân thịt mua ở Hạnh-Hoa tửu lâu đem ra mời mọi người ăn lót lòng. Riêng chỉ có Châu-Ỷ thà nhịn đói chứ nhất định không chịu ăn, cho dù Từ-Thiện-Hoằng hết sức ân cần mời mọc. Nàng nói thầm trong bụng:

-“Ăn làm gì cho hắn khinh! Nhịn đói một đêm còn được huống gì thêm mấy tiếng đồng hồ nữa!”

Khi đến Song-Tĩnh thì mặt trời chỉ mới lên cao được hơn nửa sào. Bốn người liền ghé vào một tiệm cơm nghỉ chân dùng bữa. Ăn uống no nê rồi, mọi người lại lên đường theo lộ trình Châu-Trọng-Anh phác họa từ chiều hôm trước.

Vừa ra khỏi Song-Tĩnh, thình lình Từ-Thiện-Hoằng và Lạc-Băng không hẹn mà cùng khom lưng xuống nhìn vào sát vách tường của một ngôi nhà cũ cỏ mọc rêu phong.

Châu-Ỷ đứng trước nên thấy rõ trên tường có gạch một hàng chữ và vẽ một lá bùa nét còn mới tựa như bút chưa ráo mực. Lá bùa và hàng chữ xen kẽ vào những nét vẽ và tuồng chữ trông y như của con nít nghịch ngợm vạch lên chơi. Nhưng chỉ có lá bùa và hàng chữ sắc xảo bên cạnh là dễ phân biệt nếu để ý cho kỹ.

Châu-Ỷ còn đang ngạc nhiên không hiểu gì thì Lạc-Băng bỗng vui mừng hớn hở reo lên như người bắt được của báu:

-Đây rồi! Hay quá! Tây-Xuyên Song-Hiệp đã tìm được tung tích của Văn tứ ca rồi! Họ để vội dấu hiệu lại cho chúng ta biết rồi lại tiếp tục truy tầm!

Hồi 7c

Quyết chí tìm chàng vì nghĩa trọng

Tình cờ trộm ngựa rõ mưu thâm

Thấy Lạc-Băng reo mừng cho biết đã có tin của Văn-Thái-Lai từ Tây-Xuyên Song-Hiệp, Châu-Ỷ vẫn không hiểu bèn hỏi:

-Chị làm sao quả quyết được có tin như vậy? Những chữ viết và hình vẽ trên vách tường này có nghĩa gì vậy?

Lạc-Băng liền giải thích:

-Những hàng chữ ngoằn nghoèo và lá bùa mà em nhìn thấy trên vách tường là ký hiệu của thành viên Hồng Hoa Hội dùng để đưa tin cho nhau. Cho dù là những người trong các môn phái võ lâm trên giang hồ hay trong các tổ chức nào đó, luôn cả quan binh thám tử của triều đình có biết chắc chắc đây là mật mã của một nhóm nào đi chăng nữa cũng vẫn không làm sao hiểu được. Nhưng nếu là người của Hồng Hoa Hội thì xem xong là hiểu ngay.

Giải thích cho Châu-Ỷ xong, Lạc-Băng lấy gót giày xóa hết những ký hiệu ghi trên vách cho thật sạch. Châu-Ỷ lại thêm một phen ngạc nhiên nữa. Nàng hỏi:

-Sao chị lại bôi ký hiệu đi? Phỏng như có người Hồng Hoa Hội khác chưa biết tin tức Văn tứ ca đến đây như chúng ta bây giờ thì làm sao biết được tin?

Lạc-Băng gật đầu khen ngợi và giải thích thêm:

-Em thật là cẩn thận và chu đáo, nó có lý lắm! Nhưng em quên một điều là chúng ta là đội chót đi qua đây. Những đội đi trước hẳn đã xem qua và biết hết cả rồi. Chỉ còn chúng ta đây là những người cuối cùng, mới được biết đó thôi.

Châu-Ỷ lại hỏi:

-Ký hiệu riêng này chỉ có người Hồng Hoa Hội biết được thôi thì chị có để nguyên hay xóa đi cũng có hại gì đâu? Sự cẩn thận của chị có thừa chăng?

Lạc-Băng cười đáp:

-Không thừa như em nghĩ đâu! Như chị đã nói, chúng ta là đội cuối cùng tới đây. Chị có để lại cũng chỉ bằng thừa vì đâu còn ai đến nữa. Và em cũng đừng nên coi thường thiên hạ như vậy. Kẻ địch dù không hiểu được dấu hiệu nói gì nhưng ít nhất chúng cũng nghi ngờ mà đề phòng được. Nhất là những kẻ đang đối địch với chúng ta. Nếu chúng thấy ký hiệu rồi sinh nghi mà thay đổi lộ trình thì công việc truy tầm tung tích của Văn tứ ca sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều!

Châu-Ỷ nghe nói liền vỗ tay ca ngợi:

-Thật em không ngờ Hồng Hoa Hội có nhiều nhân tài như vậy! Mọi việc đều có kế hoạch tuần tự đâu ra đó hẳn hòi. Kiến thức của chị thật hơn em quá xa!

Châu-Trọng-Anh lúc đó mới lên tiếng nói với con gái:

-Hồng Hoa Hội là một tổ chức cách mạng đại quy mô đối đầu với triều đình Mãn-Thanh thì đương nhiên phải có những người tài giỏi lãnh đạo thì mới mong giải thoát được ách nô lệ cho Hán-tộc mà giành độc lập cho tổ-quốc. Từ nay con phải kính nể và tôn trọng những nhân vật của Hồng Hoa Hội.

Châu-Ỷ đưa mắt lườm Từ-Thiện-Hoằng một cái rồi nói với Châu-Trọng-Anh:

-Trong đám ngọc trai vẫn có một vài mắt cá lọt vào. Đã đành là con kính nể những lãnh tụ trong Hồng Hoa Hội như Văn tứ ca với Lạc tỷ tỷ! Còn những kẻ vô tài vô đức chỉ biết thuận gió mà phóng hỏa, chỉ có tài nói khoác mà không làm được gì thì con nhất định không bao giờ chịu hạ mình trước những kẻ ấy!

Lạc-Băng biết Châu-Ỷ vẫn còn hậm hực với Từ-Thiện-Hoằng, và vẫn nghi ngờ chàng là thủ phạm phóng hỏa đốt cháy Thiết-Đảm-Trang nên cố gắng tìm lời để giảng hòa cho hai người ‘xích lại gần nhau hơn’.

Lạc-Băng nói với Châu-Ỷ như khuyên:

-Lời của em nói rất đúng, chị rất tán thành! Có ai lại đi tôn trọng một kẻ không có tài đức và tư cách bao giờ? Nhưng nhận xét cá nhân thường hay chủ quan lắm, không thể nào bằng nhận xét chung của một nhóm đâu. Không phải chị muốn nói tốt cho Hồng Hoa Hội của chị nhưng người nào đã được cân nhắc lên hàng đương gia trong hội thì đương nhiên, từ tài đức nhân phẩm phải được xem xét rất kỹ càng, nói chung là trên mọi phương diện. Em hãy nhận xét một cách khách quan thử xem! Có lý nào một tổ chức cách mạng lớn lao vì dân tộc lại để cho hạng người không ra gì nắm quyền cao chức trọng bao giờ? Theo ý chị, em không nên chủ quan mà có thành kiến với bất cứ người nào nếu chưa tìm hiểu tường tận.

Châu-Ỷ nhìn Lạc-Băng cười nói:

-Lời chị nói có lý. Nhưng sao cái người có thành kiến em ghét cay ghét đắng. Cho dù cố gắng tin là người có thiện chí hay tài đức, em cũng không làm sao kính nể cho được!

Lạc-Băng cả cười nói:

-Càng ghét bao nhiêu thì khi yêu lại càng yêu tha thiết bấy nhiêu. Càng không tin bao nhiêu thì đến lúc tin lại tin đáo để bấy nhiêu. Để rồi em xem!

Châu-Ỷ háy Từ-Thiện-Hoằng một cái rồi đáp lời Lạc-Băng:

-Khó lắm! Khó lắm! Cho dù Tô-Tần hay Trương-Nghi có sống lại làm thuyết khách em cũng không nghe đâu chị ạ!

Lạc-Băng nói:

-Em sẽ nghe một khi không còn thành kiến nữa!

Châu-Ỷ lại nói:

-Cái thành kiến đó tự kẻ ấy tạo ra cho hắn chứ nào phải em tự nhiên gán ghép cho hắn đâu! Em nhớ rất rõ từng hành động, ngôn ngữ và tư cách của người ấy trong lúc xảy ra cuộc giao tranh giữa Hồng Hoa Hội và Thiết-Đảm-Trang. Đến khi Thiết-Đảm-Trang bị ngọn lửa hồng thiêu hủy thì em uất hận và căm phẫn đến tột độ, không thể nào cứu vãn lại được nữa!

Lạc-Băng lại cười nói:

-Nếu vậy thì rồi chính người ấy sẽ tự phá vỡ thành kiến giùm em. Khi hết thành kiến rồi thì ‘ác ngẫu sẽ biến thành giai ngẫu’!

Châu-Trọng-Anh vỗ tay cả cười:

-Hiền điệt nữ được tin tức của Văn tứ ca rồi chắc hẳn là phơi phới trong lòng rồi nên nói chuyện nghe rất hay! Lão phu phục là cao kiến đó!

Từ-Thiện-Hoằng bỗng xoay đề tài, nói với mọi người:

-Đã nhận được ký hiệu của Tây-Xuyên Song-Hiệp, chúng ta nên gất rút mà khởi hành, đừng để chậm trễ. Có lẽ giờ đây Tây-Xuyên Song-Hiệp đã gặp và sát nhập với đội tiên phong của Dư-Ngư-Đồng rồi cũng nên. Và cũng rất có thể mấy đội kia cũng đang trên đường rượt theo Trương-Siêu-Trọng trên đường về Bắc-Kinh khi biết được tin tức Văn tứ ca. Khi bắt kịp Trương-Siêu-Trọng, việc giải cứu Văn tứ ca rất phức tạp, phải cần đến sự tiếp tay của tất cả mọi người.

Vì quá nóng lòng giải cứu Văn-Thái-Lai mà Từ-Thiện-Hoằng quên cả lời dặn của Trần-Gia-Cách là cố diên trì Châu-Trọng-Anh và Lạc-Băng lại, không nên để hai người tham dự vào trận giao phong với phe Trương-Siêu-Trọng.

Châu-Ỷ lại háy Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Giỏi dữ há? Còn bày đặt làm ‘thầy bàn’ nữa!

Sau đó bốn người liền bắt tay ngay vào việc, chuẩn bị đâu đó thật đầy đủ rồi lên ngựa phi như bay. Suốt ba ngày, đoàn người không bỏ phí thì giờ, cố gắng đi thật lẹ không ngừng, chỉ khi nào người ngựa quá mệt thì mới tạm dừng bước để lấy sức đi tiếp. Đến ngày thứ tư vào khoảng giờ Ngọ thì bốn người tìm thấy được ký hiệu của Dư-Ngư-Đồng tại bãi Thất-Lý-Đao. Dư-Ngư-Đồng cho biết đã gặp và nhập bọn với Tây-Xuyên Song-Hiệp và tin tưởng sẽ bắt kịp đám Trương-Siêu-Trọng trước khi giải Văn-Thái-Lai về Bắc-Kinh. Lạc-Băng mừng quá phi thật lẹ khiến ba người kia phải cố gắng lắm mới bắt kịp được. Thấy Lạc-Băng quá náo nức, Từ-Thiện-Hoằng thấy khó cách nào mà khuyên được nàng ngoại trừ phải nói thẳng cho nàng biết ý định và mệnh lệnh của Trần-Gia-Cách. Dĩ nhiên là Lạc-Băng phải tuân theo lệnh trên dù muốn dù không.

Đêm ấy, bốn người mướn khách sạn nghỉ chân. Lạc-Băng nằm thao thức mãi, không sao chớp mắt được. Hết nghĩ tới Văn-Thái-Lai, nàng lại nghĩ đến lệnh của Trần-Gia-Cách. Một bên là tình nghĩa vợ chồng, một bên là kỷ luật của bang hội. Nếu muốn xả thân vì chồng ắt phạm đến kỷ luật của hội. Điều ấy thật không tiện. Còn như tuân theo lệnh trên thì lại không được đích thân nhúng tay vào công việc giải cứu chồng. Điều này Lạc-Băng cũng không yên tâm chút nào...

Lạc-Băng bước xuống khỏi giường mở cửa sổ nhìn cảnh vật bên ngoài. Từng tiếng gió rì rào. Từng hạt mưa tí tách. Phải chăng là những giọt nước mắt của người thiếu phụ bao ngày mong đợi chồng?

Và rồi Lạc-Băng nhớ lại đêm tân hôn của nàng với Văn-Thái-Lai tại phủ Gia-Bình. Lúc ấy hai người nhận lệnh của Vu tổng-đà-chủ đi cứu một người quả phụ đang bị một tên thổ hào ám hại. Dù là đang tuần trăng mật, Lạc-Băng cũng như Văn-Thái-Lai, vẫn không quên nhiệm vụ. Đêm ấy cũng như đêm nay. Trời gió lộng, lại mưa tầm mưa tã. Nhưng hai người cảm thấy ấm áp vô cùng, cùng nhau lên đường thi hành công tác...

Cứu được người quả phụ, Văn-Thái-Lai đưa một lưỡi chém rụng đầu tên thổ hào. Sau đó, hai vợ chồng đưa nhau đến Nam-Hồ, lên Yên-Vũ-Lầu uống rượu ngắm cảnh, nhìn mưa rơi để ‘tự thưởng công’. Kỷ niệm ấy đã khắc sâu vào lòng Lạc-Băng, chưa bao giờ phai nhạt...

Suy nghĩ một lúc, Lạc-Băng tự nhủ thầm:

-“Không được! Chuyện gì cần làm, ta phải làm!”

Thừa lúc mọi người còn đang êm giấc, Lạc-Băng lấy cặp Uyên-Ương-Đao cùng với gói hành trang rồi dùng than viết lên bàn để lại ký hiệu cho Từ-Thiện-Hoằng. Nàng phi thân qua cửa sổ phóng nhẹ xuống nhẹ nhàng như một chiếc lá rụng.

Lạc-Băng rón rén đi đến nơi giữ ngựa, nhẹ tay tháo gỡ dây cương, khẽ dắt ngựa đi một quãng ra khỏi phạm vi lữ quán rồi mới phóng lên yên phi thật lẹ, không ngừng.

Trời vừa hừng sáng, Lạc-Băng đến một thị trấn. Con ngựa của nàng vì phải phi suốt đêm nên đã quá mệt, không còn đủ sức để chạy nữa. Tạm nghỉ chừng nửa giờ đồng hồ, Lạc-Băng lại giục ngựa chạy tiếp. Đi được 40 dặm nữa, con ngựa dường như không còn chịu đựng được nữa nên ngã qụy một chân xuống đất. Lạc-Băng thất kinh, biết rằng nếu còn ép con ngựa chạy nữa, thì cũng chẳng khác gì như giết chết nó. Lạc-Băng đành thả bộ dắt ngựa đi từ từ chứ không còn biết cách nào.

Thấy sau lưng có tiếng vó ngựa, Lạc-Băng giật mình định quay đầu lại ngó. Nhưng chưa kịp ngoái cổ lại thì kỵ mã ở sau đã đến nơi. Lạc-Băng vội tránh sang bên lề để nhường chỗ cho người ấy đi qua. Trước mắt nàng, một con ngựa dáng cực kỳ hùng vĩ, lông trắng như tuyết, bốn vó phi như bay, thoáng một cái đã mất hút cả người lẫn ngựa. Con ngựa phi lẹ đến nỗi Lạc-Băng không kịp trông rõ mặt người cỡi như thế nào. Lạc-Băng tấm tắc khen:

-Thật trong đời ta chưa bao giờ được thấy một con ngựa nào như thế kia!

Con Hồng-Hỏa Tuyết-Hoa-Câu (#1) vốn đã là một con ngựa hiếm có do thân phụ Lạc-Nguyên-Thông của nàng đã bỏ ra cả ngàn nén bạc mà mua lấy từ Tây-Tạng về do lời khuyên của Thần-Tăng Lục-Tống.

Thần-Tăng Lục-Tống là một người rất sành về ngựa, nói với Lạc-Nguyên-Thông rằng con Hồng-Hỏa Tuyết-Hoa-Câu này là một linh vật, có thể giúp cho chủ nhân thoát được nguy hiểm.

Quả đúng như lời Thần-Tăng dạy, khi về đi ngang qua Quan-Trung, Lạc-Nguyên-Thông bị một con tinh hổ đón đường, núp trong bụi rậm chờ sẵn. Khi còn cách chỗ bụi rậm độ nửa dặm, con ngựa hí vang lên liên hồi. Nhờ vậy Lạc-Nguyên-Thông có linh tính mà đề phòng trước, phóng cho con hổ tinh một phi đao. Nhưng con hổ tinh thật lợi hại, không những nó tránh thoát được còn ngậm luôn cả lưỡi phi đao mà chạy nữa. Vì vậy, Lạc-Nguyên-Thông dặn con gái phải hết sức cẩn thận một khi qua núi rừng, và để ý xem con Hồng-Hỏa Tuyết-Hoa-Câu mỗi khi gặp nguy hiểm vì nhờ nó có thể thoát nạn được.

Nghĩ đến lời dặn của phụ thân, Lạc-Băng liền kiếm một chỗ mát để nghỉ chân đồng thời thả ngựa cho ăn cỏ. Chờ cho ngựa ăn no nghỉ đủ, Lạc-Băng mới tiếp tục cuộc hành trình. Đi thêm 30 dặm nữa thì tới một thôn xóm nhỏ. Đến trưóc cổng thôn, Lạc-Băng trông thấy dưới gốc cây trái một mái tranh cột một con ngựa toàn thân một màu trắng toát. Lạc-Băng đang mải mê nhìn con bạch-mã thì bỗng nhiên nó chợt hí vang lên làm nàng giật mình. Con Hồng-Hỏa Tuyết-Hoa-Câu chừng như kinh hãi nên lùi lại mấy bước ra sau, nhảy chồm lên như muốn chạy trốn, suýt liệng Lạc-Băng xuống đất.

Nghe tiếng ngựa hí, từ bên trong chạy ra một người đàn ông cao lớn, độ chừng 30 tuổi, thân hình vạm vỡ đi tới vuốt ve con bạch-mã như để xoa dịu nó. Lạc-Băng nhìn con ngựa mà ngây cả người ra. Nàng nghĩ thầm:

-“Quả là một con thần mã! Nếu ta mà có được con ngựa này thì lo gì mà không rượt kịp Trương-Siêu-Trọng để cứu tứ ca!”

Nhưng rồi nàng lại buồn rầu nghĩ thầm:

-“Nhưng một con thần mã như thế này thì dẫu có ngàn vàng chắc gì đã mua nổi! Mà người nào biết giá trị của nó thì có lẽ nào lại bán cho kẻ khác bao giờ!”

Nhìn chủ nhân con ngựa, tự nhiên Lạc-Băng biết được ngay là một tay hảo hán chứ không phải hạng người thất phu. Cứ nhìn vào mặt và vóc dáng của y cũng đủ biết đây không phải là hạng người dễ dầu chịu khuất phục bởi vũ lực bao giờ.

Hồi nhỏ đi hành hiệp với phụ thân, Lạc-Băng cũng học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm. Thần-Đao Lạc-Nguyên-Thông vốn là một đại đạo khét tiếng nên truyền lại cho nàng rất nhiều bí quyết trong nghề. Những mánh lới trong nghề cướp giựt Lạc-Băng rất là sành sõi, chẳng thủ đoạn nào mà nàng không biết.

Lạc-Băng đứng suy nghĩ một chập rồi quyết định phải thi hành cho mau lẹ. Nàng móc trong túi ra một ít đồ dẫn hỏa. Lấy một viên đá lửa, Lạc-Băng cọ mạnh vào một viên đá để sẵn bùi nhùi. Lửa loáng lên, Lạc-Băng tay dắt ngựa đi thẳng lại phía sau con bạch mã đoạn rút ra hai mũi phi đao phóng đứt sợi dây cột con ngựa trên cây đại thọ. Sau đó, Lạc-Băng mới nở một nụ cười, dùng thế ‘Tiềm long phi thiên’ cầm gói hành trang phóng lên lưng con bạch mã. Bị người phóng lên lưng bất thần, con bạch-mã hí lên một tiếng rồi bốn vó phi như bay chẳng khác nào một mũi tên vừa thoát khỏi dây cung.

Thấy động, chủ nhân bạch-mã từ trong chạy vội ra thì đã muộn. Ngựa của y đã biến mất từ bao giờ, chỉ còn biết ngẩn người ra mà tiếc thôi! Thế vào chỗ con bạch-mã là con Hồng-Hỏa Tuyết-Hoa-Câu...

Con bạch-mã phi quá mau, băng rào, vượt bụi rậm bất kể gai gốc nên cành lá hai bên cào trúng người Lạc-Băng đau nhức vô cùng. Con vật vừa phi, vừa cắn, vừa hí vang làm náo động cả một thôn xóm yên tĩnh. Mọi người đổ xô ra xem vì không hiểu biến cố gì đã xảy ra.

Con bạch-mã biết Lạc-Băng không phải là chủ nó nên tỏ ý bất phục, dùng đủ mọi cách kháng cự, đối chọi với nàng. Khi thì đá tung hai chân sau lên, khi thì như cố ý khom người để hất kẻ đã bức bách cưỡng đoạt nó xuống đất. Thấy không hất được Lạc-Băng xuống, con bạch mã như điên lên, tăng tốc lực phi lẹ hơn. Chạy được một khúc thì nó lại nhảy chồm lên phía trước hí lên một hồi rồi quay đầu trở lại tiếp tục phi như bay về chỗ cũ. Cứ như thế mà giằng co mãi khiến Lạc-Băng không làm sao ra khỏi được thôn xóm. Và cũng vì vậy mà chủ nhân con ngựa rượt theo kịp, tới nơi lúc nào không hay.

Chủ nhân con ngựa chỉ khẽ nhún mình một cái nhẹ đã đến đứng trước đầu con bạch-mã. Nhìn thân pháp của hắn, Lạc-Băng cũng phải thầm kinh hãi. Nàng nhận thấy rằng thuật khinh công của hắn có thể sánh với hầu như bất cứ một cao thủ thượng thừa nào trên giang hồ hiện tại, so với nàng thì hơn xa lắm. Lạc-Băng không còn cách nào hơn là rút trong túi ra mấy đỉnh vàng ròng cúi đầu cung kính nói:

-Tôi có việc gấp rút nên cần một con tuấn mã để làm phương tiện cấp thời vì con tuấn mã của tôi đã quá đuối sức. Thấy ngựa của ông tôi mừng quá, nhưng lại sợ ông không cho mượn mà cũng chẳng cịu bán cho nên tôi mới đánh liều lén cướp đi, định chừng nào xong việc sẽ trở lại trả sau. Chẳng qua lâm vào tình thế phải ‘ngộ biến tòng quyền’ (#2) thôi chứ ý tôi nào có muốn làm chuyện như thế! Tôi thành thật xin lỗi ông. Tôi có để lại con tuấn mã của tôi lại làm tin để khi nào trở lại sẽ xin chuộc nó về, và tiện đây có ít vàng ròng mong ông cầm đỡ mà cho tôi mượn tạm bảo mã.

Chủ nhân bạch mã nghe Lạc-Băng nói thì cho rằng nàng phách lối tự cường, không xem hắn ra gì cả nên giận dữ nói:

-Mi nói như thế mà nghe được à? Từ trước tới nay có ai đi mua ngựa theo cái lối cướp cạn này không? Mi bảo có việc cần gấp thì sao không tìm người nào có ngựa bán để mà mua mà lại giở tà tâm trộm ngựa của ta? Ta có bán đâu mà mi lại xỉa vàng ra? Khôn hồn mau trả ngựa lại cho ta thì yên chuyện chứ đừng nói dài dòng thêm làm gì nữa!

Lạc-Băng vẫn ngồi trên lưng ngựa mà nói:

-Tôi biết việc của tôi làm là không phải với ông nên mới có lời xin lỗi ông vừa rồi. Tôi cũng biết là ông không bán ngựa. Nhưng chuyện của tôi quá gấp rút đi, không thể nào chậm trễ được! Lẽ nào ông không chịu thông cảm cho?

Nghe Lạc-Băng nói, chủ nhân bạch-mã lại càng giận dữ nói:

-Chắc mi trông cậy vào bản lãnh võ công nên mới dám dùng lời lẽ xốc óc đó mà nói chuyện với ta chứ gì? Nói thật cho mi biết, dẫu cho mi là ai, có bản lãnh tới đâu cũng đừng hòng đem được con ngựa này đi khỏi nơi đây!

Thấy gã một mực không chịu hiểu cho mình, Lạc-Băng hết sức chán nản nhưng vẫn cố phân trần:

-Con ngựa của tôi cũng là ngựa quý mà tôi cam tâm để lại làm tin cộng thêm với ít vàng để tạm gọi là thế chân. Thiết tưởng ông có gì lỗ lã đâu chứ? Mà xong việc, tôi sẽ đem ngựa ông đến đây trả lại chứ có phải lấy luôn đâu mà ông nhất định làm khó ép tôi đến cùng như vậy. Nếu trả ngựa lại cho ông thì tôi đi bằng gì đây? Không lẽ lại đi bộ à? Làm sao nổi!

Nghe nàng nói thì cũng thấy đôi phần có lý, thế nhưng chủ nhân bạch mã không sao nhịn được. Hắn buông lời chửi mắng, nhưng Lạc-Băng vẫn cứ tươi cười, mặc kệ cho hắn muốn nói gì thì nói. Thấy chửi hoài mà cũng không có kết quả, hắn giơ tay định nắm lấy đầu con bạch mã kéo lại để cùng với nàng một phen sống chết. Lạc-Băng chỉ chờ có thế, nàng dùng hai đầu gối thúc mạnh vào hai bên hông ngựa. Con vật đau quá hí chồm lên đưa chân trước đá loạn xạ mấy cái rồi phóng đi như điện xẹt. Lạc-Băng lại giơ roi quất liên tiếp vào con bạch mã khiến nó đau quá nên càng phi lẹ hơn nữa.

Con bạch-mã biết người cỡi nó không phải là hạng tầm thường, sẵn sàng dùng sức mạnh với nó nên đành ngoan ngoãn mà phục tùng làm theo ý chứ không dám giở chứng nữa.

Bạch mã vừa phi thì chủ nhân nó cũng lập tức dùng thuật phi hành đuổi theo. Lạc-Băng sợ hãi tiếp túc ra roi. Bạch mã dường như đã thuần thục nên biết ý chủ mới mà tăng thêm tốc độ. Bóng người kia càng lúc càng xa dần, cho đến khi mất hẳn Lạc-Băng mới yên lòng.

Ra khỏi thôn, Lạc-Băng thấy chung quanh là một bầu trời quang đãng nên biết là mình đã ra khỏi được chốn núi rừng. Con bạch-mã phi như bay, gió hai bên thổi tạt dữ dội. Đi suốt đêm, vượt bao nhiêu cánh đồng, ruộng nương mà bạch-mã vẫn không tỏ ra một chút nào mệt nhọc cả. Lạc-Băng mừng thầm vì biết đây là một con thần mã sức lực vô biên, ngày đi nghìn dặm không biết mỏi.

Trời chưa sáng, thấy đói bụng, Lạc-Băng liền cho ngựa chạy chậm lại ghé vào một thị trấn tìm một lữ quán kiếm chút lót lòng, luôn tiện nghỉ mệt.

Thị trấn này gọi là Sa-Tĩnh. Tính từ lúc rời chỗ cướp ngựa cho đến đây, Lạc-Băng đã đi trên 200 dặm đường. Nàng không ngờ con bạch mã phi mau đến như thế. Và với khoảng cách xa như vậy, nàng không sợ gì chủ nhân nó đuổi theo nữa.

Càng nhìn con ngựa, Lạc-Băng càng cảm thấy thích. Tự tay mở hàm thiết, nàng khẽ vuốt ve bờm nó tỏ vẻ mến thương. Bỗng nàng để ý bên hông ngựa có một cái bao bằng vải cột ghì vào yên. Lúc phóng lên ngựa, vì vội vàng quá nên Lạc-Băng không tháo ra trả cho chủ nhân. Nàng mở dây lấy cái bao xuống thì nghe như có tiếng kim loại loảng loảng bên trong. Lạc-Băng mở thử bao vải ra xem thì đó là một cây Thiết-cầm-sát.

Cầm vũ khí trên tay, Lạc-Băng nghĩ thầm:

-Cứ căn cứ vào món binh khí này mà suy ra thì con bạch-mã ta trộm đây là của họ Hàn ở Lạc-Dương. Chỉ có họ Hàn mới sử dụng Thiết-cầm-sát mà thôi. Nếu sớm biết trước là của họ Hàn thì ta đã chẳng đụng đến họ làm gì. Nay chuyện đã dĩ lỡ rồi, còn cứu vãn lại làm sao nữa! Sau này tất nhiên khó mà tránh được những rắc rối.

Lạc-Băng lại thò tay vào trong bao tiếp tục moi ra thì thấy có chừng mấy chục thỏi bạc cùng với một phong thư. Cầm phong thư lên xem thì thấy có hàng chữ:

Kính gửi Hàn-Văn-Xung đại gia. Người gửi: Vương-Hán

Tự nhiên linh tính báo cho Lạc-Băng rằng có chuyện gì hết sức bí mật dấu trong phong thư này nên không chút do dự, nàng liền bóc ra xem. Giấy viết thư là một loại giấy tin chỉ rất quý và hiếm có. Lạc-Băng lật ở trang cuối thì thấy hai chữ ‘Duy Dương’ ký rất rõ ràng. Tính hiếu kỳ của Lạc-Băng lại càng nổi lên dữ dội. Nàng bình tĩnh cầm thư lên xem.

Kính gửi Hàn-Văn-Xung đại gia,

Việc này rất gấp, không thể diên trì. Nhận được thư này, anh mau thu xếp mọi việc lập tức lên đường đến Trấn-Viễn tiêu-cục, không nên chậm trễ. Để cho cuộc hành trình được mau lẹ, tôi cho người đem thư này cấp tốc đến tận tay anh, đồng thời tặng anh một con thiên-lý-mã mua được ở Tân-Cương mà làm phương tiện.

Anh hãy về Trấn-Viễn tiêu-cục để họp mặt với anh em họ Diêm vì tôi đang giữ họ ở đây để bàn chuyện cùng anh cho chu đáo. Khi bàn xong, anh và anh em họ Diêm cố gắng bảo tiêu hộ một vật hết sức quan trọng về tận Bắc-Kinh. Nếu sơ sẩy thì nguy hại cho Trấn-Viễn tiêu-cục không ít! Ngoài ra cũng còn một sự kiện tối quan trọng khác nữa cũng phải nhờ anh hộ tống đến Giang-Nam nữa.

Gửi thư này cho anh, và ngày đêm trông chờ anh đến. Còn việc Tiêu-Văn-Kỳ do bọn Hồng Hoa Hội giết thì tôi khuyên tạm thời dẹp qua một bên để cho tôi điều tra lại kỹ lưỡng rồi sẽ đối phó sau cũng chẳng muộn. Anh không nên trả thù gấp một mình rất bất tiện.

Chào anh, và chúc anh mọi điều may mắn,

VƯƠNG-DUY-DƯƠNG

Đọc xong bức thư của Vương-Duy-Dương gửi cho Hàn-Văn-Xung, Lạc-Băng mới hiểu rõ là hai bên đã ngầm thông đồng liên kết với nhau. Có hai điều nàng thắc mắc là không biết Vương-Duy-Dương nhờ Hàn-Lâm-Xung và hai anh em họ Diêm bảo tiêu hộ vật gì về Bắc-Kinh, và sự kiện sẽ nhờ riêng Hàn-Văn-Xung hộ tống về Giang-Nam.

Còn việc Tiêu-Văn-Kỳ mà Vương-Duy-Dương nói rằng bị Hồng Hoa Hội giết và khuyên Hàn-Văn-Xung tạm bỏ qua thì Lạc-Băng nghĩ thầm:

-“Hồng Hoa Hội ân oán phân minh, chẳng bao giờ chịu làm điều mờ ám. Một khi đã giết ai, người đó luôn luôn có bản án do Thạch-Song-Anh giám sát. Làm gì có tên Tiêu-Văn-Kỳ trong đó? Vả lại Vu cố tổng-đà-chủ cũng đã sai Dư-Ngư-Đồng đến Lạc-Dương biện giải cho họ Hàn rồi mà! Sao Vương-Duy-Dương còn nhắc đến việc này, mà còn nhắc tên Hồng Hoa Hội ở trong đó nữa?”

Trở lại điểm thứ hai Vương-Duy-Dương nói trong thư sẽ nhờ Hàn-Văn-Xung hộ tống một vật về Giang-Nam. Mà tổng hành dinh của Hồng Hoa Hội nằm tại Giang-Nam. Nếu không có quan hệ đến Hồng Hoa Hội thì không một cao thủ nào dám xâm nhập địa phận. Càng nghĩ, Lạc-Băng càng thấy khó hiểu. Sau cùng, nàng đi đến kết luận rằng:

-“Ta nên gặp Tổng-Đà-Chủ gấp mà thông báo chuyện này là hơn. Hiện nay tất cả những nhân vật trọng yếu của Hồng Hoa Hội đều bận vào việc truy kích Trương-Siêu-Trọng giải cứu Văn tứ ca thành thử Giang-Nam bị bõ ngõ. Ngộ nhỡ chúng đến quấy phá lúc này thì thật là nguy!”

Nghĩ vậy, Lạc-Băng lại tiếp tục lên đường gấp rút mà không nghĩ đến chuyện ở lại lữ quán nghỉ ngơi nữa.

Trời vẫn mưa. Lạc-Băng như thương xót con ngựa vì mình mà dầm mưa dãi nắng nên vỗ nhẹ vào hông như an ủi:

-Thần mã! Ta biết mi là một con ngựa quý nhất trên đời. Nay mi đã về với ta thì có khác nào Xích-Thố về với Quan-Công. Mi đừng tưởng nhớ Hàn-Văn-Xung làm gì nữa mà hãy giúp ta trên đường nghĩa vụ thiêng liêng! Mi là bạn đồng hành của ta. Ta vơí mì sẽ ‘đồng lao cộng lạc’ (#3)!

Nghe những lời ngon ngọt dịu dàng của Lạc-Băng, con bạch-mã tinh khôn như thấu hiểu được ý người. Nó hí lên một tiếng như reo mừng và đồng ý và như hứng chí phi thật lẹ. Lạc-Băng cảm thấy tinh thần sảng khoái và trong lòng sung sướng hơn bao giờ hết...

Đi thêm một đoạn đường khá xa, Lạc-Băng chợt nhìn phía trước như đang có một đoàn xe ngựa. Nhìn cát bụi bay mù mịt, Lạc-Băng tự nghĩ:

-“Nếu bắt kịp đoàn xe ngựa này thì chẳng có gì là khó. Nhưng họ là ai? Không biết có phải người mình muốn gặp không? Nếu là cường địch thì càng thêm trở ngại thôi chứ ích lợi gì? Nhưng nếu là đoàn xe ngựa của Trương-Siêu-Trọng thì có phải là bỏ mất cơ hội tốt không?

Đang lúc Lạc-Băng còn phân vân thì khi ấy một người như sẵn núp đâu ở ven lộ phóng ra, đưa một tay ve vẩy. Con bạch-mã đang phi nước đại bỗng như tự động đứng khựng lại và dừng hẳn. Lạc-Băng vừa định hỏi xem người ấy là ai nhưng chưa kịp mở lới thì người ấy đã tiến lại gần thêm, hướng về phía nàng lễ phép thưa rằng:

-Kìa tứ tẩu! Tứ Tẩu! Ối chà! Làm sao mà chị có được con tuấn mã hùng vĩ và đẹp như thế này? Quả là con Thiên-Lý Thoại-Long-Câu có một không hai trên đời đó! Dẫu là bảo mã của Trần tổng-đà-Chủ cũng chưa chắc đã sánh được đâu! Chị mua con ngựa này của ai? Bao nhiêu vậy chị?

Lạc-Băng bỗng thở phào một cái nhẹ nhõm, phì cười đáp:

-Em đi lang thang ở đâu mà gặp chị chốn này? Sao không cho chị biết về tin tức Văn tứ ca mà lại khen ngựa của chị đẹp? Em làm chị giật mình muốn chết, tưởng cường địch xông ra đột kích!

-Đâu phải lỗi tại em! Tại con ngựa của chị khôn ngoan quá đó thôi. Em tới đâu có đột ngột dữ vậy?

Lạc-Băng vui vẻ rong cương tới gặp người ấy. Thì ra đó là Tâm-Nghiện, thư-đồng của Trần-Gia-Cách. Lạc-Băng liền hỏi:

-Em có biết thêm tin tức gì về Văn tứ ca không, hãy cho chị biết với kẻo chị nóng lòng lắm rồi!

-Theo lời Thường ngũ gia và Thường lục gia thì cả hai vị đó đã được gặp Văn tứ gia rồi. Và hiện thời có nhiều đương-gia khác đang bắt đầu tiếp xúc với Văn tú đương-gia. Ở đây nói chuyện bất tiện, chị với em mau tìm chỗ khác vắng vẻ yên lặng hơn.

Dứt lời Tâm-Nghiện liền giắt con bạch-mã của Lạc-Băng vào một khoảng rừng gần đó. Đến một cái ngói cũ bên ngoài đề ba chữ ‘Nhạc-Vương-Miếu’, Tâm Nghiện mới đỡ Lạc-Băng xuống ngựa vào bên trong. Cậu ta cột ngựa lại cho ăn cỏ xng xuôi rồi theo vào.

Lạc-Băng vò đầu Tâm-Nghiện tỏ vẻ trìu mến. Nàng hỏi:

-Em đưa chị đến đây để cho chị nghe những tin tức lạc quan về Văn tứ ca phải không? Chị nóng lòng nghe lắm. Em mau cho chị biết đi để chúng ta còn lên đường cho kịp.

Tâm-Nghiện cười, hỏi lại Lạc-Băng:

-Chị còn muốn đi đâu nữa đây?

Lạc-Băng ngạc nhiên nhìn Tâm-Nghiện hỏi:

-Em hỏi gì lạ vậy? Thì đi tìm Văn tứ ca chứ còn đi đâu nữa?

-Chị biết Văn tứ gia ở đâu mà dẫn em đi tìm?

-Lúc này không phải là lúc đùa! Em đừng đùa dai kẻo chị giận đó!

-Nào em có đùa dai với chị! Nhưng phải biết Văn tứ gia đi đàng nào rồi mới tìm được chứ!

-Vì vậy chị mới cần em cho biết tin tức. Chính em đã nói cho chị biết là Tây-Xuyên Song-Hiệp đã gặp Văn tứ ca và các đương gia đang tìm cách gặp Văn tứ ca rồi kia mà!

-Vâng, đúng vậy. Nhưng sao chị không hỏi các đương gia ấy mà lại hỏi em? Làm sao em biết rõ hơn các đương gia được!

-Tâm-Nghiện! Em điên rồi sao? Mấy vị đương-gia ở đâu mà nói cho chị nghe chứ!

Tâm-Nghiện cả cười. Cậu bé liếng thoắng đáp:

-Mà chị có muốn gặp đủ mặt các đương-gia không?

-Sao lại không? Bây giờ Tổng-Đà-Chủ và các vị đương-gia đang ở đâu? Xa gần? Nếu gần thì em dắt chị lại gặp tất cả để cùng bàn kế hoạch cứu Văn tứ ca. Mau lên đi em!

-Không cần phải đi xa! Chị cứ theo em ra phía sau miếu đây thì gặp.

Lạc-Băng ngơ ngác nhìn Tâm-Nghiện như nghi ngờ điều gì. Tâm-Nghiện hình như đoán được điều đó nên hỏi:

-Chị đang nghi ngờ là em nói không thật đó sao?

-Chị không nghi em nói gạt chị. Nhưng tại sao lại có chuyện khó hiểu đến thế?

-Tại chị đa nghi đó thôi! Rồi chị sẽ hiểu.

Tâm-Nghiện dắt Lạc-Băng ra sau Nhạc-Vưong-Miếu. Nơi đây ở giữa một khu rừng gần như hoang vu vì khá xa xóm làng, và vùng này lại có tiếng là nhiều độc xà và mãnh thú, và cũng là nơi tụ họp của các đảng phái lục lâm nên không mấy ai dám lui tới.

Nhạc-Vương-Miếu là một toà miếu cổ khá rộng lớn, có tiền đường, hậu tẩm và có nhiều phòng, lập nên từ thời nhà Tống để bốn mùa cúng kiếng. Qua mấy đợt hưng phế (#4), bụi thời gian đã đóng đầy lên miếu, tuy không ai trùng tu sửa sang lại nhưng nếp cũ vẫn còn y nguyên.

Tâm-Nghiện dắt Lạc-Băng ra đến hậu tẩm rồi ra đến đại điện. Nàng thấy có mặt đầy đủ các nhân vật Hồng Hoa Hội tại đó đang bàn thảo kế hoạch. Ngồi đầu là Tổng-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách, kế đến là Vô-Trần Đạo-Nhân, Triệu-Bán-Sơn, Tây-Xuyên Song-Hiệp cùng những đương gia khác...

Trông thấy Lạc-Băng, mọi người đứng lên chào đón vui vẻ. Lạc-Băng đến bên Trần-Gia-Cách vấn an sức khỏe rồi thú nhận việc mình vi phạm quân kỷ tự ý tách rời nhóm Châu-Trọng-Anh mà đơn thân độc mã đi một mình. Nàng nhất nhất kể lại từ đầu đến đuôi và xin vị Tổng-Đà-Chủ tha thứ.

Trần-Gia-Cách ngồi yên lẳng lặng nghe Lạc-Băng kể hết rồi mới nói:

-Tứ tẩu vì nóng lòng cứu tứ ca nên vì thế mà không thể trì hoãn mà đi cùng với đội. Tình nghĩa vợ chồng như thế thật là chí thiết, chiếu theo quy luật thì cũng có nguyên nhân, có lý do để tha thứ được. Nhưng cái tội cưỡng lệnh của tướng soái thì không phải là chuyện nhỏ, tôi không thể vì tình riêng mà quyết định được. Giờ tạm thời gác lại chuyện đó. Chờ khi giải cứu Văn tứ ca rồi sẽ họp đại hội mà đem ra xét xử. Lúc ấy, tứ tẩu cứ trình bày nguyên ủy, rồi sẽ tùy theo đa số của hội nghị mà luận tội hay giảm khinh.

Sau đó, Trần-Gia-Cách quay qua Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh truyền lệnh:

-Thập-nhị đương-gia hãy ghi việc này vào sổ Hình-Đường.

Thạch-Song-Anh lập tức vâng lời. Với thái độ lạnh lùng, Quỷ-Kiến-Sầu lật cuốn sổ bìa đỏ chữ vàng ghi chép nội vụ của Lạc-Băng vào, lại thêm ký chú bằng chữ đỏ rằng:

“Trần tổng-đà-chủ dạy ghi rõ việc này chờ khi giải thoát Văn-Thái-lai xong thì họp đại hội phủ Hương-Đường phân xử. Lạc-Băng phạm vào tội ‘vi lệnh nguyên-soái’ (#5) và bất tuân hiệu lệnh của Tổng-Đà-Chủ. Chiếu theo khoản 5 điều 7 trong hình luật, tội vi lệnh và bất tuân hiệu lệnh phải trục xuất ra khỏi ban điều hành và xử tử hình.”

Lạc-Băng nói thầm trong bụng:

-Miễn sao giải thoát được tứ ca, sau đó có xử ta tội chết, ta cũng vui lòng cam chịu.

Lạc-Băng hỏi Tây-Xuyên Song-Hiệp:

-Có phải ngũ ca và lục ca đã được giáp mặt với tứ ca rồi phải không?

Thường-Thích-Chí đáp:

-Vâng! Đêm hôm trước khi nhận được hiệu lệnh của Tổng-Đà-Chủ do Dư-Ngư-Đồng hỏa tốc truyền đạt đến thì hai anh em chúng tôi tức tốc bám sát bọn ‘ưng khuyển’ của Càn-Long áp giải Văn tứ ca qua khỏi địa phận Song-Tĩnh.

Lạc-Băng lại hỏi:

-Chẳng hay Văn tứ ca phải chịu những điều gian khổ như thế nào, xin hai anh làm ơn cho tôi biết được không?

Thường-Bá-Chí đáp:

-Văn tứ ca vẫn bình yên vì bọn Trương-Siêu-Trọng không dám làm thương tổn đến tánh mạng của anh ấy.

Lạc-Băng hỏi tiếp:

-Khi gặp tứ ca, hai anh có hành động gì không?

Thường-Thích-Chí đáp:

-Chúng tôi chỉ có hai anh em, còn bọn chúng thì đông vô kể. Đứa nào đứa nấy đều là cao thủ, đều lăm le vũ khí trong tay, chia nhau canh phòng cẩn mật. Nhưng nói vậy không có nghĩa là chúng tôi sợ chúng. Chẳng qua là chưa có lệnh của Tổng-Đà-Chủ cho nên chúng tôi không dám tự quyết. Hơng nữa, chúng tôi chỉ được lệnh dò xét tung tích của Văn tứ ca chứ không được lệnh đụng độ với bọn Trương-Siêu-Trọng hay giải cứu Văn tứ ca. Nhưng điều quan trọng hơn cả là chúng tôi sợ cơ mưu bại lộ, chúng sẽ đề phòng nghiêm ngặt hơn và thay đổi lộ trình cùng chiến thuật thì có thể làm hỏng hết kế hoạch của Tổng-Đà-Chủ. Chính nhờ chúng tôi không động thủ mà bọn chúng không để ý hay nghi ngờ có người của Hồng Hoa Hội theo sát chúng. Đêm hôm ấy chúng tôi mạo hiểm, dùng khinh công đến sát chỗ Văn tứ ca để dò xét tình hình. Chúng tôi nhìn vào tù xa thì trông thấy Văn tứ ca nằm ngủ trên nệm dưỡng thần trông rất thoải mái. Sợ để ý lâu có thể bị lộ nên sau đó chúng tôi trở về...

Đang lúc Tây-Xuyên Song-Hiệp kể chuyện Văn-Thái-Lai cho Lạc-Băng nghe thì Dư-Ngư-Đồng từ ngoài bước vào. Vừa trông thấy Lạc-Băng, Kim-Địch Tú-Tài tỏ vẻ sững sờ, bẽn lẽn. Sau một giây định thần, chàng reo lên:

-Ủa, tứ tẩu!...

Nhưng Dư-Ngư-Đồng biết ngay mình không phải. Thấy cử chỉ của mình như để lộ ra cho mọi người thấy nên chàng liền im lặng không dám hỏi thăm Lạc-Băng thêm nữa, mà hướng về Trần-Gia-Cách lễ phép, kính cẩn báo cáo tình hình theo công tách được giao phó. Dư-Ngư-Đồng nói:

-Tôi bí mật rượt theo đám người Duy kia thì thấy họ đến một khe nước trong veo có tàng cây cổ thụ giăng màn nghỉ chân. Những người Duy có bổn phận canh gác thì người nào người nấy tuốt gươm sáng ngời, đứng nghiêm nghị, mắt nhìn tứ phía. Vì trời còn quá sớm nên không tiện lại gần để xem động tĩnh cho tường tận nên trở về đây báo cáo cho Tổng-Đà-Chủ nghe trước. Chờ đêm đến tối trời tôi sẽ tới đó dọ thám thật kỹ lưỡng mà khỏi sợ bị phát giác. Sự tình hiện tại như thế này. Tùy Tổng-Đà-Chủ định liệu mà sai bảo.

Sau khi Dư-Ngư-Đồng báo cáo tình hình cho Trần-Gia-Cách nghe xong, mọi người ngồi im lặng, để mắt chú ý bên ngoài đường rừng. Lúc ấy có nhiều tiếng bánh xe lăn trên đường rầm rộ như có vẻ nặng nề lắm. Ngoài tiếng bánh xe lăn trên đường còn có tiếng ngựa phi đều đều trong đó. Ai nấy đều đoán thầm là một đội tiêu mã đang đi qua...

Hồi 8

Đà chủ đa mưu năng khiển tướng

Đương gia hội kế khả tranh công

Đoàn xe người ngựa ấy đi qua khỏi Nhạc-Vương-Miếu xa rồi, các đương gia Hồng Hoa Hội vẫn còn phân vân chờ ngóng tin tức thì Tâm-Nghiện từ lùm cây nhảy xuống đến trước mặt Trần-Gia-Cách thưa:

-Đoàn xa mã vừa đi ngang qua đây là một đại đội hành xa (#1) , gồm có nhiều chiếc xe lớn nhỏ chở đầy nhóc hàng hóa, chẳng hiểu là món gì. Đi theo hộ tống là những toán quân hùng dũng võ trang đầu đủ. Người chỉ huy là một viên quan chức của Mãn-triều cỡi một con chiến mã cao lớn chẳng kém gì chiến mã của Thập-nhất đương-gia. Ngoài viên tướng quân đó cũng còn thêm vài chục quan binh khác cũng cỡi ngựa mang gươm, trông như một cuộc hành quân quan trọng.

Báo cáo xong, Tâm-Nghiện lại trở ra. Trần-Gia-Cách liền mời mọi người ngồi lại chỗ cũ bàn thảo kế hoạch. Trần-Gia-Cách nói:

-Lần này xuất quân đông tiến chúng ta đem được đầy đủ lực lượng hùng hậu nhất. Vẫn biết rằng mục đích chính là giải cứu Văn tứ ca. Tuy nhiên chúng ta cũng đừng xem thường những chuyện lặt vặt bất thường khác có thể xảy ra. Để chuẩn bị cho những chuyện ‘bên lề’ đó, coi bộ chúng ta phải cần thêm người! Có hai điều chính yếu chúng ta cần biết là: thứ nhất, đám người Duy kia đi đâu, định làm gì? Thứ hai, đoàn ‘hành xa’ có quan binh triều đình hộ tống là của ai, đi đâu, với mục tiêu nào? Liệu hai đám này có tiếp tay cho cho kẻ thù của chúng ta hay không? Nếu ‘việc ai nấy lo’ thì không nói, nhưng nếu gây trở ngại cho kế hoạch giải cứu Văn tứ ca thì chúng ta phải làm cách nào mà diệt trừ trước. Ý kiến các huynh đệ ra sao?

Tất cả mọi người đồng thanh đáp:

-Chúng tôi xin tuân theo mệnh lệnh của Tổng-Đà-Chủ!

Vô-Trần Đạo-Nhân bàn thêm:

-Trương-Siêu-Trọng là cao thủ hãn hữu trên đời, đối phó với hắn thật không phải dễ. Nghe nói từ trước đến nay hắn chưa hề gặp qua đối thủ. Những ai quyết tranh phong với hắn nếu không chết thì cũng bị trọng thương, trở thành phế nhân. Ngoài ra lại còn bao nhiêu cao thủ khác được triều đình mua chuộc nữa. Con số ấy chúng ta khó mà biết đích xác được, vì chắc chắn chỉ càng ngày càng đông thêm mà thôi. Như Tổng-Đà-Chủ vừa nói, thế nào lại không có những lực lượng bất ngờ, công khai tiếp tay với triều đình hoặc trong bóng tối ngầm ngầm hổ trợ, tìm mọi cách làm cản trở công việc của chúng ta. Vì vậy, lực lượng chúng ta tuy đông đảo và hùng hậu, nhưng quả thật là chưa đủ.

Lạc-Băng nói:

-Nghe đạo-trưởng nói, tôi như được khai sáng ra rất nhiều. Thật công việc cứu Văn tứ ca không đơn giản như tôi nghĩ chút nào. Trước kia tôi cứ tưởng là chỉ cần gặp được đám Trương-Siêu-Trọng là có thể giải cứu được Văn tứ ca ngay. Và tôi cũng từng có ý định sẽ một mình liều mạng với Trương-Siêu-Trọng.

Trần-Gia-Cách nhìn Lạc-Băng nói:

-Chính tôi biết rõ điều đó nên sai Tâm-Nghiện cản đường, không để tứ tẩu đơn thân độc mã tự ý hành động trước khi kế hoạch được hoàn tất.

Tây-Xuyên Song-Hiệp lại nói:

-Thật vậy, ý định của tứ tẩu quả hết sức nguy hiểm. Trong chúng ta đây, chưa chắc có được mấy người đủ sức chống nổi với Trương-Siêu-Trọng. Nếu không cứu được Văn tứ ca mà hy sinh vô lối thì nào có ích lợi gì? Vừa thiệt hại nhân mạng, vừa làm mất nhuệ khí của Hồng Hoa Hội, lại vừa làm lợi cho triều đình Mãn-Thanh thôi!

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Chúng ta phải dùng mưu kế để dành thắng lợi chứ không thể ỷ lại vào sức mạnh hay tài nghệ cá nhân mà thành công được! Một lần nữa tôi xin nhắc lại là một khi chưa có lệnh của Tổng-Đà-Chủ thì không một ai được tự ý quyết định hay hành động bất cứ việc gì, cho dù lớn hay nhỏ!

Nghe Trần-Gia-Cách và các đương-gia thống trách Lạc-Băng, Dư-Ngư-Đồng sợ đến toát mồ hôi. Nhìn vào sắc mặt lạnh như tiền của Quỷ-Kiến-Sầu Thạch-Song-Anh, chàng lại càng thêm hồi hộp lo lắng. Nhìn nét mặt u sầu ảm đạm của Lạc-Băng, chàng cảm thấy đau lòng mà không dám nói một lời nào.

Vô-Trần Đạo-Nhân lại nói tiếp:

-Chúng ta đừng quên rằng sức mạnh của Trương-Siêu-Trọng không phải chỉ riêng ở đám Cẩm thị-vệ và Ngự-lâm quân cùng các cao thủ triều đình mang theo. Hắn còn được quyền huy động thêm lực lượng quan binh địa phương bất cứ lúc nào, tại bất cứ nơi nào khi cần đến. Vì vậy, cho dù các quan binh địa phương không có ác cảm, hay không muốn đụng độ với Hồng Hoa Hội chúng ta đi chăng nữa, nhưng một khi có lệnh của hắn, ắt không còn đường nào lựa chọn, bắt buộc phải trở mặt mà đối địch với chúng ta thôi.

Nghe nói đến đây, Lạc-Băng lộ vẻ thất vọng nói:

-Nếu không đụng được Trương-Siêu-Trọng thì còn mong gì cứu được tứ ca!

Trần-Gia-Cách bỗng đứng dậy nghiêm nghị, với vẻ mặt quả quyết nói:

-Dù cho Càn-Long có huy động binh lực toàn quốc mà hổ trợ cho Trương-Siêu-Trọng áp giải Văn tứ ca về Bắc-Kinh chăng nữa, chúng ta há lại sợ? Nếu khiếp sợ, chúng ta không xứng đáng với ba tiếng HỒNG HOA HỘI. Sức mạnh của chúng không phải chỉ ở võ công với lại số đông không thôi mà còn do ở tinh thần dũng cảm và lòng tự tin. Ngoài ra, xin mọi người đừng quên là chúng ta còn sức mạnh của nhân dân, bá tánh nữa! Một Trương-Siêu-Trọng với đám ‘ưng khuyển’, cộng thêm đám cao thủ triều đình và quan binh đây đó đã làm được gì?

Các đương-gia nghe lời nói cương quyết của Trần-Gia-Cách thì ai nấy đều hăng hái bội phần, tinh thần chiến đấu như quật khởi lên, nhất là Lạc-Băng.

Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Lời của Tổng-Đà-Chủ là một huân lệnh, tất cả chúng ta phải tuân theo. Không trừ được Trương-Siêu-Trọng thì không thể nào cứu được Văn tứ đương-gia. Thực lực của Hồng Hoa Hội chúng ta hiện tại mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Từng ấy người không lẽ lại chịu hèn với Trương-Siêu-Trọng mả không cứu nổi Văn tứ đương-gia hay sao? Đây cũng là cơ hội tốt cho chúng ta thử sức với cao thủ hạng nhất của Càn-Long.

Vô-Trần Đạo-Nhân vừa dứt lời, tiếng vỗ tay hoan hô tán đồng ý kiến vang lên không ngớt.

Thường-Thích-Chí nói:

-Hiện nay chúng ta đã rõ hành tung của Văn tứ ca thì việc giải cứu nên xúc tiến ngay. Cơ hội bất ngờ chính là lúc này. Chẳng hay Tổng-Đà-Chủ đã có kế hoạch chưa?

Trần-Gia-Cách nói:

-Tôi đã có sẵn kế hoạch nhưng chưa biết phải phân công thế nào. Các anh em có ý kiến gì không?

Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Tôi thấy cần phải thử sức với Trương-Siêu-Trọng trước để đánh giá bản lãnh của hắn cho chính xác rồi sau đó mới rút kinh nghiệm để hành động cho khỏi sai lầm. Xin Tổng-Đà-Chủ cho tôi ra trận trước.

Trần-Gia-Cách nói:

-Đường kiếm 72 bộ Truy-Hồn Đoạt-Mệnh của đạo-trưởng trước nay vẫn là thiên hạ vô song. Có ai nghe thấy mà lại chẳng phục?

Thường-Bá-Chí nói:

-Dù sao Trương-Siêu-Trọng cũng là đồng môn của Lục-Phỉ-Thanh lão huynh tuy rằng hai người đã cắt đứt mối thâm tình trên 10 năm nay rồi. Tuy nhiên, tôi nhận thấy Lục lão ca là người trọng nghĩa hiếm có trên đời, lại có đại ân đại nghĩa với Hồng Hoa Hội chúng ta. Tôi e rằng cuộc đụng độ giữa đạo trưởng và Trương-Siêu-Trọng sẽ đem lại nhiều điều bất tiện. Lưỡi kiếm của đạo trưởng dù có thể đả bại được Trương-Siêu-Trọng, nhưng chúng ta biết phải ăn nói ra làm sao với Lục lão ca đây?

Thường-Thích-Chí nói:

-Tôi thì lại nghĩ khác. Đừng nói là Lục lão ca đã tuyệt giao với Trương-Siêu-Trọng, mà cho dù Lục lão ca vẫn còn luyến tiếc tình đồng môn chúng ta vẫn phải diệt trừ Trương-Siêu-Trọng như thường. Đem chính nghĩa đặt lên trên tất cả mọi tiểu tiết. Quốc gia và dân tộc luôn luôn trọng hơn cá nhân. Tôi tin chắc rằng Lục lão ca cũng không phản đối điều này đâu.

Trần-Gia-Cách và các đương-gia đều vỗ tay tán thành, cho rằng nghị luận của Thường-Thích-Chí rất là quang minh chính đại. Trần-Gia-Cách liền hỏi:

-Theo ý ngũ ca thì chúng ta cần hành động làm sao?

Thường-Thích-Chí đáp:

-Có hai cách. Sớm thì ngay bây giờ, còn không thì chờ đến giờ Mẹo ngày mai mà đón đường mai phục.

Trần-Gia-Cách lại hỏi:

-Nhưng mà chúng ta nên dùng cách nào?

Thường-Thích-Chí đáp:

-Cả hai cách đều có thể dùng được cả. Cách thứ nhất thì không dùng số đông, mà chỉ cần dùng một vài người, mà mục tiêu là Trương-Siêu-Trọng. Chủ ý là làm sao hạ được Trương-Siêu-Trọng cho lẹ rồi nhanh tay giải thoát cho Văn tứ ca, hoặc bắt sống Trương-Siêu-Trọng, áp lực hắn bắt phải đem Văn tứ ca để trao đổi tánh mạng. Còn cách thứ hai là vạn toàn, nhưng phải dùng đến toàn lực. Chúng ta đón đường mai phục triệt bớt lực lượng của chúng trước, sau đó một nhóm lãnh nhiệm vụ hạ Trương-Siêu-Trọng, còn một nhóm phụ trách việc cứu Văn tứ ca. Hai cách đó, xin Tổng-Đà-Chủ tự ý mà chọn lấy một.

Trần-Gia-Cách suy nghĩ vài giây rồi nói:

-Với người thường thì mạo hiểm được. Nhưng với Trương-Siêu-Trọng thì nên dùng cách an toàn. Cho dù chúng ta có người có thể thắng được Trương-Siêu-Trọng, nhưng không thể trong vài hiệp mà làm nổi chuyện đó. Nếu Trương-Siêu-Trọng chỉ cần cố gắng kéo dài trận đấu thêm một chút ắt trợ thủ của hắn sẽ tới kịp thì còn mong gì giải cứu được Văn tứ ca nữa! Cách thứ hai an toàn hơn, ta vừa có đủ nhân lực, có nhiều thì giờ hơn. Nếu vạn bất đắc dĩ phải đụng độ lâu cũng không đến nỗi bị thiệt thòi. Như thế chúng ta có thể vừa hạ được Trương-Siêu-Trọng lại vừa cứu được Văn tứ ca.

Trần-Gia-Cách sau đó mời mọi người dùng trà giả khát rồi nói tiếp:

-Lần đụng độ này, ngoài việc đụng độ với ‘ưng khuyển’ triều đình, ta còn phải đụng với đám tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu cục nữa. Theo tình thế hiện nay thì coi bộ chúng đã cấu kết với nhau rồi. Nếu là như vậy thì trước sau chúng ta cũng phải tìm cách mà tiêu diệt cả hai. Nhưng chuyện này thật không dễ dàng chút nào cả. Vương-Duy-Dương là một nhân vật phi thường, không dễ gì đối phó nổi. Nghe đâu bản lãnh của hắn cũng chẳng kém gì Trương-Siêu-Trọng, lại rất có uy tín với các môn phái võ lâm. Nếu chúng ta xử sự không khéo thì không chừng lại gây thù oán với toàn thể võ lâm chứ chẳng phải chuyện đùa.

Thường-Bá-Chí liền hỏi:

-Tôi không hiểu bản lãnh của Vương-Duy-Dương ghê gớm đến đâu mà trong giang hồ hễ nghe nói đến là ai cũng phải khiếp sợ là sao? Không lẽ hắn thật sự lợi hại đến độ không có ai là đối thủ?

Trần-Gia-Cách cười, nhìn Triệu-Bán-Sơn nói:

-Việc này Triệu tam ca rành hơn đệ nhiều, xin giải thích giùm cho ngũ ca đi.

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Mặc dù chúng ta biết rất rõ ràng Vương-Duy-Dương là con dao hai lưỡi, là một con cáo già, nhưng thật khó mà làm gì hắn nổi. Hắn vừa khéo mua chuộc triều đình Mãn-Thanh lại vừa gieo được cảm tình khắp chốn võ lâm, và luôn cả quần chúng nữa. Vì thế, nếu chúng ta đụng độ với hắn thì quần chúng có lẽ chỉ đứng giữa mà chẳng biết phải theo bên nào. Các môn phái võ lâm cũng thế, tuy rằng một số lớn có cảm tình với chúng ta, nhưng số ủng hộ Vương-Duy-Dương cũng không phải là ít. Còn nói về triều đình Mãn-Thanh thì chúng ta phải nhượng Vương-Duy-Dương rồi! Ngũ đệ nghĩ xem, giữa chúng ta và Trấn-Viễn tiêu cục thì triều đình sẽ giúp bên nào? Nếu chúng ta kết làm vây cánh với Trấn-Viễn tiêu cục thì rất có lợi cho việc ‘kháng Thanh’, nhưng nếu Vương-Duy-Dương theo triều đình thì chúng ta gặp một kẻ thù đáng sợ vô cùng và nằm trong thế ‘lưỡng đầu thụ địch’ (#2). Vì vậy, nếu phải diệt trừ Trấn-Viễn tiêu cục thì chúng ta phải từ từ diệt các vây cánh của chúng trước, chứ không thể nào hạ được chúng trong một sớm một chiều được đâu! Còn về bản lãnh của Vương-Duy-Dương thế nào thì theo ngu huynh được biết, năm nay hắn đã trên 70 mà chưa từng gặp qua đối thủ. Họa hoằn lắm thì cũng mới chỉ có một lần. Đó là lần hắn đụng với Lục-Phỉ-Thanh lão ca đây!

Mọi người nghe Triệu-Bán-Sơn nói đến đây đều háo hức vô cùng. Thường-Bá-Chí nhao lên, hỏi:

-Thật vậy hả tam ca? Ai thắng? Ai bại?

Triệu-Bán-Sơn không trực tiếp trả lời câu hỏi, chỉ nói thêm:

-Cuộc so tài giữa Lục-Phỉ-Thanh lão huynh với Vương-Duy-Dương không phải vì hiềm khích, vì công nghĩa, hay vì quyền lợi và danh dự. Nguyên nhân chỉ vì một sự kiện rất là lý thú.

Mọi người, kể cả Trần-Gia-Cách và Vô-Trần Đạo-Nhân, nghe Triệu-Bán-Sơn sắp kể lại trận đấu năm xưa giữa Lục-Phỉ-Thanh và Vương-Duy-Dương thì ai nấy thích thú vô cùng, đều im lặng mà lắng tai nghe.

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Như chúng ta đã biết, những người võ công thượng thừa, khét tiếng trong võ lâm từ trước đến nay không có nhiều. Đó là Lục-Phỉ-Thanh, Trương-Siêu-Trọng, Vương-Duy-Dương, Châu-Trọng-Anh, Trần-Chánh-Đức và Thiết-cầm sát Hàn-gia huynh đệ ở Lạc-Dương. Những đại cao thủ này được coi là thiên hạ vô song vì lẽ chưa bao giờ nhường ai một chiêu nào. Tuy nhiên, tất cả cũng chưa phải là thiên hạ vô địch vì còn biết bao nhiêu là ‘rồng nằm hổ phục’, những người có bản lãnh siêu đẳng nhưng lại thích ẩn dật mà chứ chẳng bao giờ đi lại trên giang hồ. Trong số này, đáng kể nhất có thể nói là Viên-Sĩ-Tiêu. Lại còn một số nhân vật khác nữa, tuy chưa được nổi danh bằng các vị kể trên nhưng tài nghệ thật là anh hùng quán thế. Đó là tôi chưa kể đến các nhân vật Hồng Hoa Hội chúng ta vì các vị cũng đều là những anh hùng quán thế với bản lãnh siêu việt, đặc biệt là Trần tổng-đà-chủ và Vô-Trần Đạo-Trưởn nhị ca. Ngoài ra cũng còn Văn tứ đương-gia, Tây-Xuyên Song-Hiệp...

Trần-Gia-Cách bỗng nhiên cười rồi ngắt lời:

-Triệu tam ca còn kể sót một nhân vật thượng thừa nữa mà ai là người chẳng bội phục!

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Xin Tổng-Đà-Chủ cứ dạy bảo mà bổ khuyết cho.

Trần-Gia-Cách cười lớn nói:

-Thì là Triệu tam ca đó chứ còn ai! Tôi nói vậy có đúng không các anh em?

Tất cả mọi người cùng cười lên đáp:

-Đúng! Đúng! Tổng-Đà-Chủ nói quả không sai chút nào!

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Họ Triệu này làm sao dám sánh với tất cả các vị vừa kể ra!

Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Khi đã đem các nhân vật thượng thừa trong giới giang hồ ra mà bình luận thì phải hoàn toàn chí công vô tư. Theo tôi thì một nhân vật như Triệu-Bán-Sơn đây thiết tưởng trong thiên hạ chắc gì có người hơn được? Chỉ kể tên những người khác mà không chịu kể tên mình là còn thiếu thành thật đấy!

Triệu-Bán-Sơn khẽ cúi đầu nói:

-Tôi xin thành thật nhận lỗi vớ Tổng-Đà-Chủ cùng Vô-Trần nhị ca về khoản ấy. Nhưng ở đây tôi chỉ kể qua một số nhân vật làm điển hình thôi chứ không tài nào kể hết được. Ngoài ra cũng còn biết bao nhiêu tên nữa mà tôi một lúc không thể nào nhớ ra được.

Trần-Gia-Cách nói:

-Việc ấy cũng không quan trọng. Bây giờ yêu cầu tam ca hãy kể lại trận đấu giữa Miên-Lý-Châm Lục-Phỉ-Thanh tiền bối và Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương cho tất cả mọi người cùng nghe.

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Đúng ra tôi chỉ biết kết quả thôi chứ không biết rõ chi tiết vì Lục-Phỉ-Thanh lão huynh xưa nay vốn khiêm nhượng chẳng bao giờ thích khoe khoang nên khi nói đến trận ấy chỉ nói phớt qua thôi. Biết tính Lục lão ca như vậy thành thử tôi cũng chẳng bao giờ hỏi kỹ.

Đoạn Triệu-Bán-Sơn bắt đầu kể...

Từ xưa đến nay, Lục-Phỉ-Thanh và Vương-Duy-Dương không có xích mích vì công thù hay tư oán chi cả. Một hôm nghe các nhân vật đại cao thủ trong thiên hạ phần đông đều tán tụng võ công của Vương-Duy-Dương, cho đó là cao thủ thiên hạ vô song. Lúc ấy, Vương-Duy-Dương vừa mới thiết lập Trấn-Viễn tiêu cục, còn Lục-Phỉ-Thanh thì đi chu du khắp thiên hạ để chiêu nạp anh hùng hào kiệt để tổ chức Đồ-Long-Hội thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dưới danh nghĩa ‘Khánh Thanh Phục Minh’.

Lục-Phỉ-Thanh tự nghĩ rằng muốn tạo được uy tín cho chính mình để lãnh đạo một bang hội thì phải có bản lãnh trác tuyệt thì mới có thể đứng ra kêu gọi được người khác theo mình. Mà Lục-Phỉ-Thanh lúc đó cũng chưa được nhiều người biết đến nên không gì hay bằng đi thử sức với Vương-Duy-Dương, nếu thắng được sẽ có lợi cho việc đi chiêu mộ nhân tài vô cùng. Và Lục-Phỉ-Thanh cũng nghĩ rằng nếu thua thì chẳng thà đi tìm một nhân vật có tài đức và chí lớn để đầu quân mà theo đuổi chí lớn của mình là hơn.

Quyết định như vậy, Lục-Phỉ-Thanh đơn thân độc mã đến Bắc-Kinh vào thẳng trụ sở của Trấn-Viễn tiêu cục khiêu khích, gây sự với Vương-Duy-Dương để thách đấu.

Vương-Duy-Dương tức lộn ruột, đỏ mày đỏ mặt. Xưa nay Vương-Duy-Dương đi đến đâu chỉ có thiên hạ sợ uy mà né tránh mà bây giờ lại có kẻ dám tới tận nơi để gây sự với mình tại ngay đất nhà của mình thì thật là vào tận hang hùm mà vuốt râu hùm!

Chẳng nói chẳng rằng, Vương-Duy-Dương phóng ngay Bát-Quái-Quyền nhắm ngay những chỗ hiểm của Lục-Phỉ-Thanh đánh liên tục chẳng chút nương tay, định giết chết ngay kẻ dám cả gan khiêu khích mình.

Lục-Phỉ-Thanh biết Vương-Duy-Dương không nhân nhượng, vừa ra tay đã sử dụng ngay độc chiêu thì vội vàng dùng tuyệt kỹ của Võ-Đang để đối phó.

Nhìn thấy bản lãnh của Lục-Phỉ-Thanh, Vương-Duy-Dương biết ngay không phải tay vừa nên không dám liều lĩnh mà khinh địch. Cả hai biến vòng đai sâu rộng của Trấn-Viễn tiêu cục thành một đấu trường ác liệt. Người trong Trấn-Viễn tiêu cục kéo nhau đến xem còn đông hơn hội chợ. Hai bên đánh nhau đến mấy trăm hiệp mà vẫn không phân thắng bại, không ai đàn áp nổi ai.

Vương-Duy-Dương bỗng dừng tay lại nói:

-Này hảo hán vô danh! Tôi rất khâm phục quyền cước của anh. Thật là một cao thủ hiếm có. Nếu chúng ta cứ tiếp tục mà đánh nữa thì biết bao giờ mới phân thắng bại được đây? Bây giờ tôi đề nghị chúng ta thử so tài bằng binh khí. Bạn nghĩ sao?

Lục-Phỉ-Thanh cười, ôn tồn nói:

-Rất sẵn sàng. Nghe đồn ‘Bát-Quái Đao’ của Uy-Chấn Hà-Sóc lừng danh thiên hạ, nay được dịp hầu tiếp thật là hết sức hân hạnh.

Dứt lời Lục-Phỉ-Thanh cũng rút đao ra thủ thế. Vương-Duy-Dương chẳng chút khách sáo xông tới tấn công như vũ bão, Lục-Phỉ-Thanh cũng múa đao đỡ lại, và tìm những chỗ sơ hở để phản công. Cả hai cùng trổ hết tuyệt nghệ ra thi triển khiến cho những người ở ngoài đứng xem phải mê mẩn say sưa. Hai bên chém qua chém lại đến mấy trăm hiệp cũng không ai hơn được ai.

Lục-Phỉ-Thanh cười nói:

-Điệu này chắc chúng ta có đấu năm này qua năm nọ cũng chẳng có kết quả gì đâu!

Vương-Duy-Dương nói:

-Ngươi hãy về mà luyện thêm, đợi năm sau tới đây tỉ thí với ta nữa để phân tài cao hạ.

Lục-Phỉ-Thanh cười đáp:

-Ngươi có thắng được ta đâu mà sao phách lối thế! Chẳng qua ta nghe đồn Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương chưa bao giờ có đối thủ nên tìm đến mà xem thử lời đồn kia có thật hay không thôi chứ có thù oán gì mà phải hẹn ngày hẹn giờ để thanh toán! Bây giờ ta mới chịu tin Vương-Duy-Dương quả không hổ danh là Uy-Chấn Hà-Sóc chút nào!

Vương-Duy-Dương nghe Lục-Phỉ-Thanh nói như thế thì rất hài lòng bèn vòng tay lễ phép nói:

-Thì ra hảo hán vì muốn thử sức tiểu đệ mà đành nhọc công đến thế! Nếu muốn thử sức thôi thì tại sao không chịu nói trước mà lại dùng lời khiêu khích để mất đi hòa khí như vậy?

Lục-Phỉ-Thanh cười nói:

-Nếu tôi không dùng lối khích tướng thì lão huynh đâu có chịu giở hết những ngón tuyệt kỹ ra mà đánh. Như thế chẳng hóa ra cuộc tỉ thí này thành vô ích lắm sao!

Vương-Duy-Dương cũng cả cười, hướng về Lục-Phỉ-Thanh ân cần mời mọc:

-Tiểu đệ xin mới huynh đài vào trong uống vài chung gọi là chút rượu kính để tỏ lòng ngưỡng mộ và kỷ niệm buổi tương kiến này. Mong huynh đài đừng từ chối!

Nhưng Lục-Phỉ-Thanh không nhận lời, dùng lời nói khéo để từ chối rồi từ giã Vương-Duy-Dương.

Có thể nói, trận đấu ấy là khởi đầu cho bước thành lập ‘Đồ-Long-Hội’ của Lục-Phỉ-Thanh...

Trần-Gia-Cách nói:

-Như vậy thì võ công của Lục tiền bối quả là cao siêu huyền diệu. Hồng Hoa Hội được thêm một người đắc lực như thế giúp sức thì lo gì mà chẳng cứu được Văn tứ ca.

Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Cứ theo lời của Triệu tam ca thuật thì trong chúng ta, ngoại trừ Tổng-Đà-Chủ, chưa chắc có ai sánh nổi với Lục lão huynh.

Trần-Gia-Cách nói:

-Ngày nay Lục lão tiền bối vì nghĩa khí mà gia nhập Hồng Hoa Hội, tôi chắc ông ta sẽ không vì chút tình đồng môn mà chính ông ta đã tự tay cắt đứt mà phiền hà chúng ta đâu. Việc giải cứu Văn tứ ca xem ra không bị trở ngại gì đâu. Bây giờ chúng ta nên đi ngay vào kế hoạch để mà thực hành đi. Tất cả anh em nghĩ sao?

Vô-Trần Đạo-Nhân đáp:

-Tất cả đang chờ mệnh lệnh của Tổng-Đà-Chủ đây. Tôi có điều thắc mắc là không biết Trương-Siêu-Trọng dùng biện pháp nào để canh giữ Văn tứ ca?

Trần-Gia-Cách nói:

-Điều này phải nhờ đến ngũ ca và lục ca thôi. Hai anh đã theo sát bọn chúng ngay từ đầu ắt đã biết qua mọi chuyện.

Thường-Thích-Chí nói:

-Theo chúng tôi biết thì đem trước Văn tứ ca ngủ chung một phòng với bọn ‘ưng khuyển’, có quân lính canh phòng cẩn mật bên ngoài, và đích thân Trương-Siêu-Trọng mang kiếm đi tuần tra từng giờ từng phút trong, ngoài. Văn tứ ca bị chúng xiềng hết cả tay chân, không người nào được nói chuyện hay bén mảng đến gần, chỉ có bốn tên giáo đầu Ngự-Lâm quân canh gác tứ phía.

Vô-Trần Đạo-Nhân suy nghĩ một chút rồi hỏi:

-Theo như ngũ đệ nhận xét thì Trương-Siêu-Trọng là người thế nào?

Thường-Bá-Chí nói:

-Trương-Siêu-Trọng tuổi không quá 40, hình dáng kỳ vĩ khôi ngô, trông tựa như một trang hào kiệt, một anh hùng trượng phu danh tiếng; râu y ngắn và rậm, đôi mắt sáng quắc, tướng mạo của một nhân vật dũng cảm đa mưu.

Thường-Thích-Chí cũng nói:

-Đạo trưởng à! Hai anh em chúng tôi lấy cặp mắt khách quan mà nhận xét Trương-Siêu-Trọng để nếu có phải ra tay quyết đấu sẽ không bị lầm lạc. Dù vậy, chúng tôi không khiếp sợ hắn đâu. Nếu hai bên giao chiến, chúng tôi quyết không chịu nhượng bộ hắn một chiêu nào đâu! Nếu hắn nổi danh là Hỏa-Thủ Phán-Quan thì hai anh em chúng tôi cũng là Tây-Xuyên Song-Hiệp. Cho dù Trương-Siêu-Trọng có lợi hại đến đâu đi chăng nữa chúng ta cũng đừng khiếp nhược để làm mất đi uy phong của mình.

Vô-Trần Đạo-Nhân cười đáp:

-Hồng Hoa Hội chúng ta vì chính nghĩa diệt thù chung để giải phóng ách nô lệ cho dân tộc, cho đến quân đội mấy trăm vạn quân của triều đình Mãn-Thanh kia còn chưa sợ thì lẽ nào lại đi sợ một tên ‘ưng khuyển’ như Trương-Siêu-Trọng? Lão phu từ lúc cầm kiếm tung hoành trong thiên hạ vẫn hằng mong ước tìm được một đối thủ chịu đựng nổi mình một vài trăm hiệp nhưng tuyệt nhiên chưa lần nào được thỏa mãn nên vẫn khát khao mà ao ước. Bỏ lâu không dượt nên tay chậm kiếm lụt. Tuy nhiên, lão phu cũng quyết cho Trương-Siêu-Trọng thấy đường gươm của mình có lợi hại bằng bảo kiếm của hắn hay không!

Xoay qua Triệu-Bán-Sơn, Vô-Trần Đạo-Nhân nói tiếp:

-Tam đệ! Cái ngoại hiệu Thiên-Thủ Như-Lai của tam đệ có ai nghe mà không thán phục? Vậy tam đệ có quyết cùng Trương-Siêu-Trọng một trận thư hùng để cho rõ xem Hỏa-Thủ Phán-Quan hay Thiên-Thủ Như-Lai ai hơn ai kém không?

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Nếu Vô-Trần đạo huynh mà thử sức với Trương-Siêu-Trọng thì đệ tin phần thắng sẽ về đạo huynh đó. Cứ căn cứ theo lời của Lục-Phỉ-Thanh lão ca thì coi bộ hắn với đệ tài sức nghiêng ngửa, là ‘kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lương tài’, chưa biết được ai sẽ hơn ai. Tuy nhiên, đệ cũng muốn được một trận sống mái với tên ‘ưng khuyển’ này để hắn khỏi tự phụ, cho mình là ‘thiên hạ vô địch’ nữa! Khi dịp đã đến, có lẽ nào đệ lại bỏ qua?

Vô-Trần Đạo-Nhân vỗ tay cả cười, ông ta nói:

-Ngu huynh biết tam đệ khí phách hiên ngang, thủ đoạn anh hùng. Nhưng mong tam đệ hãy nhường cho ngu huynh đánh với Trương-Siêu-Trọng trước, chẳng hay tam đệ có đồng ý không?

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Việc gì thì đệ không dám cãi, luôn luôn theo lời dạy của lão huynh chứ việc này thì đệ yêu cầu lão huynh phải nhường cho đệ vì sau khi Đồ-Long-Hội tan rã, một số anh em bang hội bị giết và bị bắt hay đi mai danh ẩn tích cũng chỉ vì cái tên khốn kiếp này! Mối thù này sở dĩ chưa rửa được là vì chưa có cơ hội chư nào phải là đệ sợ hắn đâu!

Vô-Trần Đạo-Nhân nói:

-Tên Trương-Siêu-Trọng kia nào phải là kẻ thù riêng của Đồ-Long-Hội mà tam đệ giành phải trả? Hắn là kẻ thù chung của Hán-tộc thì tất cả ai có một chút Hán huyết đều có quyền giết nó cả!

Triệu-Bán-Sơn nói:

-Đành là vậy! Nhưng nếu lão huynh để cho đệ cơ hội vừa tả thù chung lẫn thù riêng thì có hợp tình hợp lý hơn không?

Vô-Trần Đạo-Nhân lại nói:

-Cho dù là Đồ-Long-Hội ngày trước hay Hồng Hoa Hội ngày nay thì cũng đều là hai tổ chức cách mạng cùng theo đuổi một mục đích như nhau cả. Đồ-Long-Hội tức là Hồng Hoa Hội, tại sao tam đệ lại phải phân biệt như vậy? Ngu huynh mà diệt được Trương-Siêu-Trọng thì chẳng phải là trả thù cho các anh em Đồ-Long-Hội luôn đó sao? Theo cấp bậc thứ tự trong Hồng Hoa Hội thì huynh ở trên đệ, do đó đệ phải nhường cho huynh mới là hợp tình hợp lý!

Trần-Gia-Cách thấy Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn cứ tranh nhau mãi trong việc quyết đấu với Trương-Siêu-Trọng thì vội xen vào can thiệp.

-Cứ theo thiển ý của tôi thì hai vị không nên tranh nhau làm gì. Chúng ta cùng nhau cáng đáng việc nước thì điều nào có lợi ích chung thì tự lực ra tay. Chúng ta nên cân nhắc điều lợi hại trước thay vì tranh giành nhau như vậy!

Mọi người nghe xong thì ai nấy đều tỏ vẻ tánh thành ý kiến của Tổng-Đà-Chủ. Không riêng gì Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn, lúc bấy giờ ai nấy đều lộ vẻ hăng hái lạ thường, chỉ muốn được cùng Trương-Siêu-Trọng đánh nhau một trận sống chết để giải cứu cho Văn-Thái-Lai và diệt trừ một tên Hán-gian phản quốc, tội ác cao bằng non...

Sau đó, mọi người cùng nhau lo cơm nước, cỏ lúa cho ngựa để chuẩn bị lên đường thi hành công tác một khi có lệnh của Tổng-Đà-Chủ ban hành.

Sau khi nhận được tin tức đầy đủ và mọi việc đã quyết định xong xuôi, Trần-Gia-Cách tụ họp mọi người lại nói:

-Theo như tôi đã nhận xét kỹ lưỡng thì đám người Duy và đội xa mã có quân lính triều đình hộ tống kia mặc dù đi chung đường với bọn Trương-Siêu-Trọng nhưng có lẽ hoàn toàn vì chuyện riêng chứ không có liên hệ hay cấu kết với nhau. Như vậy, chúng ta cứ chờ cho họ đi qua khỏi rồi hẵng tấn công đám Trương-Siêu-Trọng để giải cứu Văn tứ ca ắt không sợ họ nhúng tay vào.

Xoay sang Dư-Ngư-Đồng, Trần-Gia-Cách truyền lệnh:

-Thập-tứ đệ! Em bất tất phải đi theo dò xét đám người Duy đó nữa mà làm gì! Hãy cùng thập-tam ca hợp sức với nhau mà đuổi theo đám hành xa có quan binh hộ tống kia mà canh chừng thì hơn. Trách nhiệm của hai người là đừng cho đám người này can thiệp vào công việc của chúng ta. Trong khi chúng ta giao chiến với đám Trương-Siêu-Trọng mà họ có ý định trợ lực cho hắn thì em và thập-tam ca phải cô lập chúng lại ngay. Nhưng có điều là hai người phải nhớ kỹ là cố đừng làm thương tổn đến mạng người. Chuyện đổ máu nếu phải xảy ra thì cố giữ sao ít chừng nào tốt chừng đó.

Tưởng-Tứ-Căn cũng như Dư-Ngư-Đồng, đều hội ý và tuân lệnh Trần-Gia-Cách ra đi thi hành nhiệm vụ. Xoay qua Vệ-Xuân-Hoa và Thạch-Song-Anh, Trần-Gia-Cách lại ra lệnh:

-Cửu đương-gia và thập-nhị đương-gia nên tức khắc lên đường bây giờ. Trách nhiệm của hai người là chặn đầu đám Trương-Siêu-Trọng lại.

Thạch-Song-Anh toan đi ngay nhưng bị Vệ-Xuân-Hoa nắm áo lôi lại. Cửu đương-gia lại hỏi vị Tổng-Đà-Chủ rằng:

-Chúng tôi chận đầu bọn Trương-Siêu-Trọng bằng cách nào, mong Tổng-Đà-Chủ cho biết rõ ràng hơn.

Trần-Gia-Cách nói:

-Hai người phóng ngựa thật mau qua mặt chúng rồi chặn giữ ở hốc núi. Đó là con đường duy nhất bọn Trương-Siêu-Trọng phải đi qua nếu muốn về Bắc-Kinh chứ không còn cách nào khác hơn nữa. Ngoài ra những người ngựa dù là ở các phía Đông, Tây cũng phải chặn lại hết, không cho qua.

Vệ-Xuân-Hoa và Thạch-Song-Anh nhận lệnh đi rồi, Trần-Gia-Cách quay sang tiếp tục phân công:

-Vô-Trần Đạo trưởng cùng Tây-Xuyên Song-Hiệp, hai vị, lãnh trách nhiệm đối phó với quan-sai, đừng cho chúng tiếp tay cho Trương-Siêu-Trọng. Triệu tam ca và Dương bát ca thì lo phận sự đối phó với bọn tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu cục. Nếu cần cứ trừ hết chúng đi chứ đừng nhân nhượng. Đừng quên chúng đã tiếp tay với bọn ‘ưng khuyển’ để Văn tứ ca bị bắt và thọc gậy bánh xe gây nên những cuộc tương tàn tương sát và khiến Thiết-Đảm-Trang biến thành một đống tro tàn. Một khi Vương-Duy-Dương đã cho bọn tiêu sư tiếp tay với đám ‘ưng khuyển’ tức là đã công khai thù nghịch với chúng ta rồi, không còn phải nể mặt hắn làm gì nữa.

Triệu-Bán-Sơn và Dương-Thanh-Hiệp cũng vâng lời nhận lệnh. Nhìn Lạc-Băng và Tâm-Nghiện, Trần-Gia-Cách nói:

-Còn Văn tứ tẩu và Tâm-Nghiện thì thừa lúc bốn mặt giao tranh kịch liệt lập tức xông vào đoạt tù xa cứu Văn tứ ca, cứ tùy nghi mà hành động. Ai nấy cứ theo công việc của mình mà làm. Sau khi thu dọn chiến trường tôi sẽ có kế hoạch rút lui.

Nghe cách điều hành của Trần-Gia-Cách, ai nấy đều bội phục chẳng cùng, răm rắp vâng theo. Bỗng đâu Chương-Tấn hét lên một tiếng như long trời lở đất mặt đỏ bừng, nghiến răng đứng dậy nói lớn lên rằng:

-Tổng-Đà-Chủ! Còn ‘thằng gù’ đây nữa để làm chi? Chẳng lẽ nó bất tài đến độ không đáng cho Tổng-Đà-Chủ tin cậy mà giao phó công việc hay sao? Từ ngày gia nhập Hồng Hoa Hội, Chương-đà-tử (#3) này đã bao phen ‘đông xung tây đột’ rồi chứ nào có ‘tham sinh húy tử’ bao giờ? Sao Tổng-Đà-Chủ lại không dùng?

Trần-Gia-Cách nói:

-Nào tôi có quên thập ca đâu? Và nào tôi có phủ nhận công lao của huynh đã hy sinh nhiều cho Hồng Hoa Hội? Tiểu đệ đang cần một người lãnh nhận một công tác hết sức quan trọng và biết chỉ có thập ca mới đủ sức hoàn thành công tác này nhưng chưa biết thập ca có sẵn lòng đảm nhiệm hay không nên vẫn còn do dự chưa quyết.

Chương-Tấn khảng khái nói:

-Dù cho việc đó có khó khăn đến đâu đi chăng nữa, Chương-Tấn này há sợ mà không dám nhận lãnh? Tổng-Đà-Chủ cứ cho biết tôn ý!

Trần-Gia-Cách nói:

-Trước khi tôi giao phó công việc này, tôi cần biết thập ca có chịu hứa là không uống một giọt rượu nào cho đến khi mọi việc hoàn tất không?

Chương-Tấn nói:

-Đối với Chương-Tấn này thì rượu là tất cả. Không có rượu thì buồn lắm, sẽ không làm được việc gì đâu. Nhưng nếu là vậy thì xin Tổng-Đà-Chủ cho tôi uống trước một bữa thật say sưa rồi sau đó sẽ chừa hẳn cho đến khi hoàn thành công tác.

Trần-Gia-Cách nghiêm mặt nói:

-Đây không phải là lúc cho thập ca đùa giỡn! Nếu có chịu hứa chắc thì tôi mới ủy thác trách nhiệm, không thì đành nhờ người khác hoặc chính tay tôi tự đảm nhiệm lấy chứ chẳng dám giao cho thập ca đâu!

Chương-Tấn tha thiết, nói như van nài:

-Nói thì nói vậy thôi, chứ có đời nào Chương-Tấn lại tham rượu để hỏng công việc chung bao giờ. Tổng-Đà-Chủ cứ phân công! Nếu cần thì ‘đà-tử’ này xin làm ‘quân lệnh trạng’ để Tổng-Đà-Chủ yên tâm.

Trần-Gia-Cách gật đầu nói:

-Được! Vậy thì thập ca hãy lắng nghe cho kỹ công tác đây. Thập ca phải cố gắng làm cho xong ba việc này. Thứ nhất, phải án ngữ một ngã đường trọng yếu, nếu thấy bọn quan binh và công sai nhắm hướng Đông mà chạy thì phải lập tức chặn lại không cho đi, nếu tên nào nhất định bước qua thì cứ việc hạ sát. Thứ hai, khi nào gặp hai đội của hai tiền bối Lục-Phỉ-Thanh và Châu-Trọng-Anh thì lập tức gọi đến yêu cầu trợ chiến. Và thứ ba, khi cứu được Văn tứ ca rồi thì thập ca lập tức cùng tứ tẩu hộ tống Văn tứ ca nhắm hướng Tân-Cương mà đi thẳng. Khi nào tới địa giới Tân-Cương, thập ca theo phía núi Thiên-Trì đưa Văn tú ca lên động giao cho sư phụ tôi là Thiên-Trì Quái-Hiệp Viên-Sĩ-Tiêu chăm nom điều trị thương tích. Những biến cố có thể xảy ra dọc đường thập ca không cần phải lo vì tôi đã có chủ kiến, sẽ cắt đặt người của Hồng Hoa Hội bảo vệ đâu đó thật chu đáo. Sau khi qua khỏi hang Tinh-Tinh thì mọi người ai nấy mau trở về tổng hành dinh ở Giang-Nam để cùng nhau bàn thảo kế hoạch tổng phản công.

Trần-Gia-Cách dặn câu nào, Chương-Tấn để ý chăm chú lắng tai nghe thật tỉ mỉ, tỏ vẻ hết lòng tận tụy với trách nhiệm giao phó. Nhận lãnh công tác xong, nét mặt Chương-Tấn tươi vui hớn hở như rất mãn nguyện.

Sau khi phân công đâu đó xong xuôi, mọi người ra khỏi Nhạc-Vương-Miếu thượng mã lên đường...

Lạc-Băng là người hăng hái nhất trong việc giải cứu Văn-Thái-Lai, lại nhờ có con thiên lý mã nên thành thử đi quá lẹ làm tất cả mọi người đuổi theo không kịp. Lạc-Băng phải năm lần bảy lượt dừng lại đợi. Vì quá nóng lòng giải cứu trượng phu, nàng đâm ra mất cả khôn ngoan, cho rằng mọi người không chịu cố gắng tích cực tham gia nên cố ý đi chậm để trì hoãn. Nàng buông lời than, hết trách người này sang người nọ, nhưng ai nấy đều thông cảm cho nàng nên chỉ mỉm cười mà không nỡ trách cứ. Thế nhưng nàng cứ nói mãi, lập đi lập lại nhiều lần khiến ai nấy đều phải bực mình.

Tây-Xuyên Song-Hiệp và Thạch-Song-Anh nhịn không nổi phải lên tiếng:

-Nếu tứ tẩu cho rằng chúng tôi cố ý diên trì để chậm trễ công việc thì sẵn có thiên lý mã cứ việc đi trước mà giải cứu Văn tứ ca. Chúng tôi đến sau cũng được. Lúc đó nếu Văn tứ tẩu chưa cứu được Văn tứ ca thì chúng tôi sẽ giúp sức, còn như nếu cứu xong rồi thì chúng tôi sẽ thẳng đường trở lại Giang-Nam lo chuyện khác cũng tiện.

Dương-Thanh-Hiệp và Tưởng-Tứ-Căn bình nhật rất mến Văn-Thái-Lai cũng như Lạc-Băng nhưng cũng không chịu được phải nói:

-Đây là việc chung của Hồng Hoa Hội chứ nào có phải chỉ là việc riêng của tứ tẩu đâu mà bảo là chúng tôi không chịu cố gắng? Chúng tôi thì sẵn lòng đi liên tục không nghỉ, tuy nhiên sức ngựa cũng có giới hạn thôi, không thể ép chúng quá đáng như vậy được!

Tâm-Nghiện bỗng xen lời nói một câu:

-Văn tứ tẩu vì quá nóng lòng cứu Văn tứ gia nên trót lỡ lời xúc phạm, xin các vị đương-gia niệm tình tha thứ cho.

Nghe Tâm-Nghiện nói, ai nấy đều giật mình. Xưa nay Tâm-Nghiện ngoài việc đi theo hầu hạ Trần-Gia-Cách chưa bao giờ dám phát biểu bất cứ một điều gì, thế nhưng bây giờ nó lại thốt lên một câu hết sức khôn ngoan và chí lý và lại đúng lúc vô cùng.

Trần-Gia-Cách cười, nhìn Lạc-Băng nói:

-Văn tứ tẩu nghĩ sao về câu nói của Tâm-Nghiện? Phải chăng tứ tẩu vì quá nóng lòng nên mới vô tình ngộ nhận hiểu lầm các đương-gia hay là nhất định giữ vững lập trường cho tất cả là không chịu cố gắng?

Trần-Gia-Cách, Vô-Trần Đạo-Nhân cùng Triệu-Bán-Sơn vẫn lo các đương gia kia bất mãn thì công việc giải cứu Văn-Thái-Lai lại càng trở nên khó khăn thêm. Chưa đụng độ với kẻ thù mà nội bộ đã lủng củng thì thật là điều không hay tí nào cả.

Câu nói của Trần-Gia-Cách vừa chấm dứt thì Lạc-Băng ôm mặt khóc. Nàng bèn hướng về phía Tổng-Đà-Chủ cùng các đương gia nói bằng một giọng như ăn năn:

-Lỡ chân còn gượng lại được, nhưng lỡ miệng thì đành chịu! Lạc-Băng lỡ miệng nói càn, nay hiểu ra thì đã muộn, chỉ còn biết cúi đầu xin Tổng-Đà-Chủ cùng các vị đương-gia tha thứ cho. Công lao khó nhọc của Tổng-Đà-Chủ và các vị đương-gia đã bỏ ra há Lạc-Băng lại không biết? Chẳng qua vì quá nóng lòng mà dại dột. Nếu các vị thấy không thể tha thứ được thì xin cứ trị tội cho!

Lạc-Băng khom mình xuống toan lạy thì Trần-Gia-Cách bảo Tâm-Nghiện đỡ dậy và nghiêm nghị nói:

-Chúng ta cùng là anh em một nhà cả. Văn tứ tẩu đã giác ngộ được mọi chuyện thì cũng đủ rồi, hà tất phải lạy lục làm gì cho mất tình thân. Chỉ trừ là trọng tội, phạm vào đại kỵ của bang hội thì chẳng kể, việc gì cũng có thể ‘đóng cửa dạy nhau’ được. Tôi nói như vậy mọi người có thấy đúng không? Nếu có gì không phải, không đồng ý với nhau xin cứ nói thẳng ra chứ đừng để ấm ức ở trong lòng mà làm ảnh hưởng đến đại cuộc sau này.

Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn nói:

-Lời Tổng-Đà-Chủ vô cùng sáng suốt, chúng tôi rất khâm phục. Đã đồng tâm đồng chí thì mọi hiềm khích ngộ nhận nên bỏ qua tất cả để cùng chung sức mà lo việc lớn.

Tây-Xuyên Song-Hiệp nói:

-Là người một nhà, thương nhau không hết, cớ sao lại đi cố chấp làm gì. Chúng tôi chỉ mong sao Văn tứ tẩu hiểu được điều đó. Hơn nữa, đây là việc chung của Hồng Hoa Hội chứ không phải là chuyện riêng của tứ tẩu nên những câu nào có ảnh hưởng đến tình đoàn kết xin tứ tẩu đừng nói!

Dương-Thanh-Hiệp và Tưởng-Tứ-Căn cũng biểu lộ đôi lời bất mãn, chỉ có Thạch-Song-Anh là lầm lì không nói một lời gì. Nhưng rồi vì thương Lạc-Băng mọi người đều bỏ qua tất cả mặc dù nét mặt người nào cũng ít nhiều cũng còn chút buồn bực cho chuyện đã qua...

Đi thêm 10 dặm đường nữa đã quá giờ Tý, đến một khe lạch nhỏ có nước, Trần-Gia-Cách nói:

-Chúng ta đi cả ngày, người ngựa có lẽ đều mệt cả rồi. Chúng ta nên dừng lại nghỉ chân lót lòng đồng thời cho ngựa ăn cỏ và uống nước cái đã.

Dư-Ngư-Đồng đến sát gần bên Lạc-Băng. Hồi lâu chàng mới mở miệng khẽ gọi:

-Tứ tẩu!

-Sao?

Dư-Ngư-Đồng hơi chần chừ rồi nói với vẻ cương quyết:

-Em thề sẽ hy sinh cả tánh mạng để cứu Văn tứ ca ra khỏi tay bọn Trương-Siêu-Trọng. Xin chị vững lòng tin nơi em.

Lạc-Băng mỉm cười khẽ nói:

-Xin đa tạ tấm lòng quý hóa của Dư hiền đệ.

Dư-Ngư-Đồng không cầm nổi hai giòng nước mắt. Chàng quay mặt đi nơi khác rồi phóng lên lưng ngựa dùng đầu gối thúc vào hông con vật.

Trần-Gia-Cách nói:

-Văn tứ tẩu có thể tạm đổi ngựa cho Tâm-Nghiện để nó đi thám thính tình hình, dò xét tung tích của bọn Trương-Siêu-Trọng được không?

Nghe Trần-Gia-Cách nói, Tâm-Nghiện sung sướng vô cùng. Nó vốn rất thích con ngựa của Lạc-Băng, nay được dịp cỡi tưởng không còn gì vui hơn nữa. Nó tung tăng chạy đến bên Lạc-Băng nói:

-Văn tứ tẩu! Tổng-Đà-Chủ bảo chị cho em mượn ngựa chị đừng từ chối nhé! Được cỡi con ngựa của chị em tin tưởng thế nào cũng theo kịp bọn Trương-Siêu-Trọng.

Lạc-Băng cười đáp:

-Lời Tổng-Đà-Chủ dạy chị làm sao dám cãi? Huống hồ là em dùng vào việc đi dò xét tung tích kẻ thù!

Nhanh như cắt, Tâm-Nghiện đã nhảy lên lưng con thiên lý mã ngồi và chỉ thoáng một cái đã biến mất, cả người lẫn ngựa.

Lúc đó ai cũng đã dùng bữa, nghỉ mệt xong xuôi và cho ngựa ăn uống đầy đủ nên vội vã lên đường ngay. Lên đường chưa được bao lâu, mọi người nhìn thấy bóng Tâm-Nghiện trên lưng bạch mã đang phi trở lại như bay, không đầy mấy chốc đã đến trước mặt mọi người. Không bỏ phí môt giây nào, Tâm-Nghiện đến trước mặt Trần-Gia Cách thưa:

-Bọn Trương-Siêu-Trọng không còn cách xa chúng ta bao nhiêu dặm đâu. Nếu gấp rút mà rượt theo sẽ gặp ngay.

Nghe lời báo cáo của Tâm-Nghiện, ai nấy nét mặt đều tươi vui hẳn lên. Trần-Gia-Cách khuyến khích mọi người gi tăng tốc lực để đuổi theo. Tâm-Nghiện bèn đổi lại ngựa cho Lạc-Băng. Nàng hỏi Tâm-Nghiện:

-Em có thấy được chiếc tù xa áp giải Văn tứ ca không, hay là chỉ thấy đám Trương-Siêu-Trọng ở mé trước thôi?

Tâm-Nghiện gật đầu liên tục, đáp:

-Em thấy rõ ràng chiếc tù xa nên cho ngựa chạy lại gần sát một bên kể trông rõ mặt Văn tứ đương-gai. Nhưng bọn ‘ưng khuyển’ở trong xe tức tốc vũ động đao kiếm ra định sát hại em. Thêm vào bọn tiêu sư, tên nào tên nấy dữ dằn, mặt mày hung ác trông gớm ghiếc như chực ăn tươi nuốt sống em không bằng. Chúng mắng em là: “Đồ chó con đáng chết! Bộ mù cả hai mắt rồi hay sao mà dám cho ngựa chạy lại gần xe như vậy?”. Nghĩ rằng chua phải lúc ăn thua đủ với chúng nên đành nhịn nhục quay ngựa trở lại mà về báo tin.

Lạc-Băng cười nói:

-Đừng chấp bọn khốn kiếp ấy làm gì! Rồi có lúc chúng phải hạ mình chịu tội với em. Lúc đó tha hồ cho em trả thù bằng thích!

Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội trong lòng hân hoan, hăm hở phóng ngựa chạy như bay. Qua vài dặm đường thì thấy mé trước cát bụi tung lên mù mịt. Tin tưởng đó là đám Trương-Siêu-Trọng, Trần-Gia-Cách dặn kỹ lại công tác của từng người một lần chót rồi ra lệnh cho mọi người cố hết sức đuổi theo. Đi được một dặm thì thấy một đại đội quan binh gươm dáo chớm chủa đang bao quanh hộ tống một chiếc xe ở giữa. Tâm-Nghiện tay chỉ vào đám xa mã mà nói với Trần-Gia-Cách:

-Đây không phải là đám Trương-Siêu-Trọng. Phải đi thêm sáu, bảy dặm đường nữa thì mới gặp được chúng.

Trần-Gia-Cách nói:

-À! Thì ra đây là đại đội quan binh có bổn phận đài tải tài sản của một gia đình thân-vương, vọng-tộc nào mà Tây-Xuyên Song-Hiệp đa tường trình tại Nhạc-Vương-Miếu đây mà!

Tâm-Nghiện đáp:

-Chính vậy, thưa Tổng-Đà-Chủ! Chúng ta đi thêm sáu, bảy dặm nữa thì sẽ gặp bọn Trương-Siêu-Trọng phố hợp với đám tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu cục, vừa đông đúc lại vừa mạnh mẽ!

Trong khi mọi người vượt qua đoàn xa mã để rượt cho kịp Trương-Siêu-Trọng, Trần-Gia-Cách láy mắt cho Tưởng-Tứ-Căn và Dư-Ngư-Đồng. Hai người hiểu ý liền dừng ngựa lại canh giữ hai bên lề đường.

Tưởng-Tứ-Căn và Dư-Ngư-Đồng ngồi trên yên ngựa hai tay vòng lại lễ phép nói với mấy viên phó tướng đại đội quan binh rằng:

-Quý vị đi đường xa mệt nhọc, nhưng với cảnh sắc thanh kỳ thanh lịch ở vùng này chắc chắc cũng làm quý vị cảm thấy thích thú và khoan khoái ở cõi lòng nên xem chừng cũng nhẹ đi được phần nào. Tôi đề nghị chúng ta hãy cùng nhau tạm nghỉ ở đây trong giây lát để cùng nhau đàm đạo cho vui, chẳng hay ý của quý vị thế nào?

Một tên Thanh-binh đột nhiên nhảy ra trước hét lớn lên, nạt nộ rằng:

-Bọn người muốn gì đây? Ta nói cho mà biết, đây là quan quân hộ tống gia quyến của Lý tướng quân tại nhiệm đó nghe!

Dư-Ngư-Đồng cười rộ lên nói:

-Gia quyến thật sao? Thế này thì lạ lắm đấy! Sao không thấy các vị cô nương thái thái mà chỉ thấy một bọn quỷ mặt trắng mặt đen như những tên cướp cạn vậy?

Thình lình, một tên Thanh-binh trong đám nhảy xổ ra quất ngay mặt Dư-Ngư-Đồng một roi, miệng hét lớn lên rằng:

-Ối chao! Cái thằng tiểu tử này mới to gan lớn mật làm sao! Bộ mi điên rồi hay sao mà dám nói năng tầm bậy tầm bạ như thế hả?

Dư-Ngư-Đồng tránh khỏi đường roi của tên Thanh-binh, miệng cười hì hì nói:

-Thành ngữ có câu: ‘người quân tử dùng lời mà nói, không dùng tay mà quơ’. Thế mà bằng hữu lại dùng roi mà nói chuyện với tôi thì còn là quân tử được chăng?

Viên tham tướng chỉ huy đám quan binh thấy hai bên gây sự làm xáo trộn không đâu vào đâu cả, mà hình như ý người kia là kiếm chuyện để cản đường quan binh lại, chưa hiểu vì lý do gì. Ông ta vội vã thốc ngựa lướt đền hỏi:

-Chuyện gì mà các người cãi vả om sòm như vậy?

Dư-Ngư-Đồng vòng tay lễ phép tươi cười hỏi lại viên tham tướng:

-Chẳng hay quan lớn tên họ lài chi, quê quán ở đâu? Xin cho tại hạ được biết qua gọi là làm quen với nhau ở chốn bụi trần.

Viên tham tướng nhìn Tưởng-Tứ-Căn và Dư-Ngư-Đồng bụng sinh nghi, chưa biết rõ dụng ý của hai người muốn gì. Ông ta không trả lời câu hỏi của Dư-Ngư-Đồng mà chú ý từng hành động của hai người để liệu trước mà đề phòng những bất trắc có thể xảy ra.

Dư-Ngư-Đồng rút ống sáo vàng ra vừa cười vừa nói:

-Luật từ xưa đến nay, hễ có người biết âm điệu thì phải có người biết thưởng thức thì mới gọi là tri âm. Kẻ hàn sĩ này biết được chút âm điệu, muốn theo học theo gương Bá-Nha mà tìm Tử-Kỳ nhưng trời đất mênh mông biết tìm được ai đây? Hôm nay tình cờ duyên bèo mây gặp gỡ, dọc đường tương kiến quan lớn, cứ nhìn vào diện mạo biết không phải là người phàm phu tục tử. Vậy xin mới quan lớn hãy tạm nghỉ chân để nghe tại hạ cống hiến một khúc tiêu, trước là để giúp vui, sau là để quen biết. Mong rằng quan lớn đừng từ chối nhé.

Viên tham-tướng này chẳng phải ai xa lạ mà chính là Tăng-Đồ-Nam người có trách nhiệm hộ tống gia quyến của Lý-Khả-Tú tướng quân. Vừa nhìn thấy ống sáo vàng, bất giác ông ta kinh hoàng. Lần trước ở lữ quán, chính mắt Tăng-Đồ-Nam đã được nhìn thấy bản lãnh của người cầm ống sáo vàng này mà tung hoành giữa đám công sai. Hôm nay không hiểu vì đâu người này lại có mặt nơi đây chặn đoàn xa mã của mình lại. Thấy lực lượng bên mình đông mà bên kia chỉ có hai người, Tăng-Đồ-Nam cũng bớt lo ngại, nhưng vẫn muốn tránh các cuộc đụng độ bèn nói lớn:

-Giữa chúng ta với nhau việc của ai thì nấy lo, không có thù hằn gì, giống như nước sông không chạm nước giếng vậy. Tốt hơn hết ngươi nên nhường đường cho chúng ta đi để khỏi ai phiền đến ai!

Dư-Ngư-Đồng nói:

-Tại hạ nào dám làm cản trở công việc gì của quan lớn đâu? Chẳng qua hôm nay gặp được cao hiền nên định dâng mấy khúc sáo cùng ‘tri âm’. Nghe xong thì mặc tình quan lớn muốn đi đâu thì đi, tôi chẳng dám vô lễ. Đó là mỹ ý của tôi. Việc hộ tống gia quyến đâu có gất như đi hành quân đâu mà quan lớn phải vội vàng như thế? Quan lớn nghe xong 10 khúc sáo, tôi sẽ tiễn quan lớn vài dặm, và nếu có gì không phải sẽ xin bồi tội sau.

Dứt lời, Dư-Ngư-Đồng đưa sáo lên miệng thổi luôn một hơi, tiếng trầm tiếng bổng, nghe du dương sảng khoái vô cùng.

Trước hành động của Dư-Ngư-Đồng, Tăng-Đồ-Nam liền hươi cây thương trên tay, dùng thế ‘Ô-long xuất động’ trong đường ‘Đại thương hoa’ nhắm ngay bụng Dư-Ngư-Đồng đâm tới một nhát vô cùng nguy hiểm.

Dư-Ngư-Đồng vẫn điềm nhiên, miệng vẫn tiếp tục thổi sáo. Chờ mũi thương còn cách bụng chừng một phân liền đưa tay nắm chặt lại rồi dùng ống sáo đánh vào cây thương một cái. Ngọn thương trên tay Tăng-Đồ-Nam đã gãy thành hai khúc. Tăng-Đồ-Nam kinh hãi đến toát cả mồ hôi. Ông ta bèn giựt một thanh đao trên tay một tùy tướng nhắm Dư-Ngư-Đồng chém tới. Vẫn bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra, Dư-Ngư-Đồng đưa ống sáo vàng ra đỡ, trao đổi vài hiệp với Tăng-Đồ-Nam.

Không cố tình giết chết Tăng-Đồ-Nam nên Dư-Ngư-Đồng vừa đánh vừa giỡn. Chờ ông ta tới gần mình, Dư-Ngư-Đồng khẽ điểm nhẹ vào cánh tay khiến Tăng-Đồ-Nam bủn rủn cả chân tay mà đánh rơi cây đao xuống đất. Dư-Ngư-Đồng lại nói:

-Tôi đã nói chỉ thổi 10 khúc sáo cho quan lớn nghe thôi. Tại quan lớn sinh sự mà ra cả. Vậy xin mời quan lớn nghe rồi tôi tiễn ông lên đường với tất cả tấm lòng thành. Ý tôi đã quyết cống hiến cho quan lớn nghe thì chẳng bao giờ chịu bỏ dở đâu.

Tăng-Đồ-Nam giận dữ hét:

-Quân bây đâu! Mau ra bắt sống tên này cho ta! Đừng để cho nó tẩu thoát!

Nghe lệnh truyền của chủ tướng, đám Thanh-binh tuốt gươm dáo sáng ngời bao vây Dư-Ngư-Đồng lại, khí thế vô cùng mãnh liệt.

Tưởng-Tứ-Căn bỗng từ trên lưng ngựa phóng tới, tay múa ngọn thiết tương theo thế ‘Loạn thảo kinh xà’ quạt tứ phía. Tiếng binh khí gẫy loảng xoảng rơi như mưa xuống đất, nhiều mảnh văng vào đám quân sĩ khiến nhiều tên bị thương, máu chảy xuống lai láng.

Thấy Tưởng-Tứ-Căn quá lợi hại, một mình hủy hoại hết binh khí của một số binh sĩ đông đúc của mình còn làm cho nhiều tên bị thương, Tăng-Đồ-Nam không biết phải đối phó ra sao đành đứng im như thúc thủ.

Bỗng nhiên ở trong một chiếc xe lớn gần Tưởng-Tứ-Căn có một người vén rèm nhìn ra. Rồi từ trong rèm ấy là một lằn sáng làm cho mắt của Tưởng-Tứ-Căn như hoa lên. Hoảng vía, Tưởng-Tứ-Căn nhận ra đó là một thanh bảo kiếm đang nhắm bụng chàng đâm tới. Nhờ lanh mắt, Tưởng-Tứ-Căn tránh kịp mũi kiếm lợi hại ấy rồi đưa ngọn thiết tương dùng một thế ‘Đào bạt thùy dương’ gạt mũi kiếm ấy qua một bên. Hai binh khí chạm nhau như tóe lửa. Từ trong xe, một bóng người phóng ra lẹ như một mũi tên. Tưởng-Tứ-Căn liền dùng thiết tương tấn công, đập vào lưng đối phương. Nhưng người kia lanh lẹ vô cùng, chỉ khẽ tung lướt mình đã tránh được ngọn thiết tương một cách dễ dàng rồi dùng gươm chém vào gót chân Tưởng-Tứ-Căn hai nhát kiếm vô cùng lợi hại.

Tưởng-Tứ-Căn biết không thể nào né tránh kịp liền thu thiết tương về để chống đỡ với kiếm của đối phương. Hình như biết Tưởng-Tứ-Căn có sức mạnh nên đối phương thu lẹ kiếm về lùi ra sau hai bước đứng thủ thế.

Bây giờ Tưởng-Tứ-Căn mới có dịp định thần trông rõ mặt địch thủ của mình. Thì ra là một nữ lưu mặc áo đỏ, mặt mũi, hình dung xinh đẹp vô cùng.

Lúc bấy giờ, Dư-Ngư-Đồng vẫn ngồi yên vừa thổi sáo vừa để ý xem hai người tỉ đấu. Tăng-Đồ-Nam như bất lực, chẳng còn biết phải xử trí ra làm sao. Đám Thanh-binh không có lệnh của chủ tướng cũng đứng yên bất động.

Nhìn thấy Tưởng-Tứ-Căn vào thiếu-nữ áo đỏ đánh nhau một hồi lâu mà bất phân thắng bại, Dư-Ngư-Đồng say mê đến độ ngừng sáo lại không thổi nữa, mắt thì dán chặt vào hai người. Nhìn những chiêu thức của hồng-y nữ, Dư-Ngư-Đồng chợt kinh ngạc vô cùng vì trông thấy có vẻ quen quen.

Thiếu nữ áo đỏ sử kiếm rất nhẹ nhàng khoan thai dùng lối đánh ‘lấy Nhu trị Cương’, chống lại với cây thiết tương của Tưởng-Tứ-Căn rất hữu hiệu, đánh đến mấy trăm hiệp mà không hề bị lép vế nửa chiêu. Xem thêm mấy chiêu nữa, Dư-Ngư-Đồng không dằn được, buột miệng kêu lên:

-Nhu-Vân Kiếm-Thuật!

Không còn nhẫn nại được nữa, Dư-Ngư-Đồng nhảy ngay vào chính giữa tách hai người ra, miệng nói lớn:

-Cả hai xin dừng tay lại nghe tôi nói đã.

Cả Tưởng-Tứ-Căn lẫn thiếu-nữ áo đỏ đều lùi lại dang ra thủ thế. Tăng-Đồ-Nam tưởng Dư-Ngư-Đồng nhảy vào giúp sức người kia đánh thiếu nữa áo đỏ thì lại giựt một cây đao khác của một tên quân chuẩn bị nhảy vào trợ chiến cho thiếu nữ áo đỏ. Nhưng nàng thiếu nữ đưa tay ra dấu như bảo ông ta lui ra sau để nàng xử lý mọi chuyện.

Dư-Ngư-Đồng nhìn thiếu nữ áo đỏ hỏi:

-Xin cho hỏi quý tánh phương danh của cô nương. Đồng thời cũng xin cô nương cho biết rõ lệnh sư là ai vì tôi có điều muốn bày tỏ để đôi bên khỏi đi đến chuyện hiểu lầm đáng tiếc.

Thiếu-nữ áo đỏ miệng cười thật tười nhìn Dư-Ngư-Đồng như đóa hoa phù dung hàm tiếu đáp:

-Huynh muốn hỏi những điều chí lý nhưng tiếc thay lại là những điều tôi không muốn nói thì làm sao trả lời cho huynh được! Có lẽ là huynh thắc mắc không ít, nhưng sau này sẽ hiểu tại sao. Nhưng có lẽ đây là chuyện buồn cười vô cùng. Huynh không biết tôi là ai, nhưng tôi trái lại, biết huynh rất rõ ràng. Phải chăng huynh là Kim-Địch Tú-Tài Dư-Ngư-Đồng. NGƯ là cá, mà lại không sống trong nước. Nước trong, sóng gợn mà không cùng với sóng nước hòa mình thì sao gọi là cá? Còn ĐỒNG là hòa hợp với nhau, tương tự như câu ‘Quân tử hòa nhi bất đồng’ (#4). Huynh là một trong số các đương-gia của Hồng Hoa Hội, vai vế đứng thứ 14. Các vị đương-gia trong Hồng Hoa Hội quê quán khác nhau, tánh ý khác nhau, tên tuổi tài nghệ khác nhau, như thế là bất đồng nhưng lại hòa hợp với nhau được làm một khối để gây thanh thế thì cũng đáng gọi là người quân tử vậy. Cá không hòa mình trong sóng nước nhưng sống được là nhờ biết hòa hợo theo cách xử thế của người quân tử. Xin hỏi, tôi nói vậy có gì sai không hả Kim-Địch Tú-Tài?

Thiếu-Nữ áo đỏ hình như biết Dư-Ngư-Đồn vui tính, thường hay dùng những câu văn hoa khúc chiết mà nói chuyện nên dùng phương pháp ấy để ‘gãi đúng chỗ ngứa’ của chàng. Và điều đó chứng tỏ rằng không những nàng là một nữ hiệp với bản lãnh cao siêu mà còn là một nữ sĩ có tài cao đàm hùng biện nữa. Vì vậy Dư-Ngư-Đồng nghe thiếu nữ nói xong thì hình như thấm ý, vỗ tay cả cười, ra vẻ thích thú vô cùng.

Nhưng có một điều khiến cả Dư-Ngư-Đồng cùng Tưởng-Tứ-Căn đều ngạc nhiên là không hiểu vì sao thiếu nữ này lại biết rõ Dư-Ngư-Đồng như người đồng thuyền, đồng hội như vậy? Trước câu nói văn hoa dí dỏm, tỏ ý ngưỡng mộ Dư-Ngư-Đồng, mà qua hàm ý hình như còn cảm tình với Hồng Hoa Hội nữa. Cả Tưởng-Tứ-Căn lẫn Dư-Ngư-Đồng chỉ biết nhìn trân trân vào mặt của thiếu nữ áo đỏ mà không biết nói gì cả. Thấy hai người nhìn mình mãi, thiếu nữ áo đỏ bỗng mắc cở, đôi má hồng lên làm tăng thêm vẻ đẹp mỹ miều của nàng.

Tăng-Đồ-Nam thấy thiếu nữ áo đỏ kia chuyện trò với hai người mà ông cho là hai kẻ ‘đại đạo’ không có gì tỏ vẻ là hận thù thì lấy làm kinh ngạc không ít. Chính hai kẻ này đã gây phiền phức cho ông và đám lâu la của ông không ít, đã biết rõ ràng là người của Hồng Hoa Hội, kẻ thù của triều đình Mãn-Thanh mà nàng còn dùng đủ lời khen ngợi và khen là quân tử nữa mới là lạ.

Trong lúc cả ba người Dư-Ngư-Đồng, Tưởng-Tứ-Căn và Tăng-Đồ-Nam còn đang hoang mang trước thiếu nữ áo đỏ, không biết đâu là hư thực thì bỗng đám Thanh-binh chợt nhao lên. Từ đàng sau, một đoàn kỵ mã gồm bẩy người xông tới nhanh như gió.

Người kỵ mã đi đầu là một lão nhân quắc thước, sắc mặt vừa nghiêm nghị, vừa hiền từ, râu tóc bạc phơ, đôi mắt như hào quang sáng ngời.

Không hẹn mà cả Dư-Ngư-Đồng và thiếu nữ áo đỏ cùng đến trước ngựa người ấy đón tiếp. Thiếu-nữ áo đỏ hình như vui mừng hơn cả khi trông thấy người ấy. Nàng vồn vã kêu lên:

-Ô kìa sư phụ! Con xin mừng sư phụ được vạn sự bình an!

Còn Dư-Ngư-Đồng thì cũng vui mừng hớn hở reo lên:

-Sư thúc! Sư thúc!

Rồi cả hai người đều cung kính, cùng vòng tay, cúi đầu, chào đón người ấy. Thì ra người ấy không phải ai xa lạ mà chính là Lục-Phỉ-Thanh. Còn thiếu nữ áo đỏ kia chính là Lý-Mộng-Ngọc, người đồ đệ cưng của ông ta.

Lục-Phỉ-Thanh khẽ nắm vạt áo đỏ của Lý-Mộng-Ngọc kéo lại sát bên mình với vẻ trìu mến, thân thiết như tình cha con nói:

-Lý-Mộng-Ngọc, con! Con và sư huynh Dư-Ngư-Đồng cùng với thập-tam đương-gia Tưởng-Tứ-Căn làm sao gặp nhau ở đây? Cả ba đã ra mắt nhau chưa?

Nghe sư phụ hỏi, Lý-Mộng-Ngọc nũng nịu đáp:

-Thưa sư phụ! Sư huynh Dư-Ngư-Đồng của con ép buộc cả đoàn xa mã hộ tống gia đình con phải nghe anh ấy thổi sáo, còn gây sự lộn xộn với Tăng tham-tướng và quân sĩ nữa. Cả cái ông thập-tam đương-gia này cũng thế, đã ra tay đánh gẫy binh khí của binh lính, đả thương nhiêu người còn định hành hung ăn hiếp con đấy! Nếu không nhờ vào bản lãnh của sư phụ truyền cho ắt phải chết dưới cây thiết tương của ông ta rồi. Con xin sư phụ chỉ dạy cho Dư sư huynh một phen để cho anh ấy chừa cái tật áp chế quyền tự do của kẻ khác một cách vô lý, đồng thời cho cái ông thập-tam đương-gia hung hăng này một bài học để về sau bỏ cái thói ỷ có sức mạnh hiếp người, không tha cả phụ nữ!

Việc Lục-Phỉ-Thanh giết bọn công-sai tại khácn sạn An-Viện thế nào Tăng-Đồ-Nam đã được biết qua, giờ thấy ông đột ngột xuất hiện khiến cho ông ta cảm thấy hết sức phân vân.

Nhìn thấy sáu kỵ mã đi chung đứng đàng sau, Tăng-Đồ-Nam lại càng nghi ngờ nhiều hơn nữa. Ông ta thầm đoán rằng họ đều là những giang hồ cao thủ, không biết đi theo Lục-Phỉ-Thanh để làm gì.

Mà Tăng-Đồ-Nam đoán thật không sai chút nào. Sáu người đó chính là Châu-Trọng-Anh, Châu-Ỷ, Từ-Thiện-Hoằng, Mạnh-Kiện-Hùng cùng với An-Kiện-Cường và Chương-Tấn...

Nhắc lại đêm hôm đó vào giờ Tý khi Lạc-Băng tự ý một mình bỏ đi. Sáng ra Châu-Ỷ thức dậy thấy thiếu nàng thì trong lòng buồn rười rượi nói với Từ-Thiện-Hoằng rằng:

-Nghe nói Hồng Hoa Hội luôn lấy tín nghĩa làm đầu. Thế mà Lạc sư tỷ một mình ra đi mà không chịu cản lại, cũng không chịu đánh thức mọi người dậy đi cùng thì còn tín nghĩa với ai nữa!

Từ-Thiện-Hoằng sau khi đọc rõ ký hiệu Lạc-Băng để lại thì cố dùng lời không khéo để giải thích cho Châu-Trọng-Anh và Châu-Ỷ cùng nghe để xóa tan mọi dị nghị. Châu-Trọng-Anh trái lại, không trách mà còn như tán đồng hành động của Lạc-Băng. Ông ta nói với Từ-Thiện-Hoằng:

-Có như thế mới gọi là tình nghĩa vợ chồng! Lão phu rất am hiểu và rất thông cảm, hiền điệt bất tất phải giải thích.

Quay qua Châu-Ỷ, Châu-Trọng-Anh nói:

-Con cứ nhìn gương của Lạc tỷ tỷ mà bắt chước chứ đừng nên trách làm gì. Nếu vợ chồng không được như vậy thì chưa phải là thương yêu nhau, chưa gọi được là tình nghĩa. Con còn nhỏ chưa biết gì đâu! Sau này khi con lớn lên có chồng thì mới hiểu rõ được hành động kia. Ta lúc nào cũng mến thương những người có tình thâm nghĩa trọng cả.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Tiểu điệt biết rõ, ý nguyện của Văn tứ tẩu là làm sao được cùng Văn tứ ca sống chết bên nhau. Nhưng việc này của tứ tẩu quả là liều lĩnh, đã phạm vào tội vi phạm kỷ luật của bang hội và vi lệnh Tồng-Đà-Chủ, có thể đưa đến tử hình đó! Tiểu điệt lấy làm lo cho tứ tẩu vô cùng!

Châu-Trọng-Anh nghe nói gật đầu tán thành:

-Lời hiền điệt quả không sao chút nào. Chúng ta phải đi gấp cản Văn tứ phu nhân lại. Vả lại lão phu được lệnh của Tổng-Đà-Chủ chỉ huy, nay bốn người chỉ còn lại ba thì trách nhiệm đó không phải nhỏ. Nếu có điều gì xảy ra cho Văn tứ phu nhân thì chính lão phu phải gánh lấy tội chứ không thể đổ cho ai được. Chúng ta mau lên đường gấp thôi!

Ba người cố gắng đi thật nhan không nghỉ. Qua giờ Ngọ hôm ấy thì bắt gặp Lục-Phỉ-Thanh giữa đường. Hỏi thăm thử xem Lục-Phỉ-Thanh có thấy Lạc-Băng hay không thì Lục-Phỉ-Thanh đáp rằng ‘không’. Châu-Trọng-Anh bèn đem mọi chuyện kể hết cho Lục-Phỉ-Thanh nghe, rồi hai đội ráp chung thành một với sáu người cùng nhau đi tìm. Tìm mãi mà không thấy, mọi người đều thắc mắc nghĩ không ra nổi.

Không ai tin rằng Lạc-Băng có thể vượt được rừng núi, khe thác mà đi nhanh được như vậy. Nhưng cho dẫu tin thì cứ việc không tin, mà sự thật vẫn là sự thật! Sáu người chỉ còn biết đi tìm thôi chứ chẳng còn biết làm gì hơn!

Rất may cho họ là sau khi rời khỏi Nhạc-Vương-Miếu, Trần-Gia-Cách có để lại Chương-Tấn ở lại dọc đường để báo tin cho những đội chưa tới kịp. Vì vậy sau khi gặp Chương-Tấn hỏi thăm tin tức và biết được Lạc-Băng đang ở trong hàng ngũ của Trần-Gia-Cách, mọi người ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm như trút bỏ được hết mọi ưu tư phiền não trong người. Sáu người liền hợp với Chương-Tấn cố gắng đuổi kịp Trần-Gia-Cách để trợ lực góp sức trong công việc giải cứu Văn-Thái-Lai. Nhưng không ngờ chưa bắt kịp Trần-Gia-Cách thì lại xảy ra việc Dư-Ngư-Đồng cản trở quan binh hộ tống gia quyến Lý-Khả-Tú tướng quân dưới sự chỉ huy của tham-tướng Tăng-Đồ-Nam...

Sau khi nghe Lý-Mộng-Ngọc tố cáo hành động của mình với Lục-Phỉ-Thanh, Dư-Ngư-Đồng bỗng thất sắc. Chàng nghĩ thầm:

-“Nguyên do cũng tại Tưởng-Tứ-Căn mà ra cả! Tổng-Đà-Chủ sai hai đứa chặn đám quan binh này đẻ cô lập, không cho họ tiếp tay với đám Trương-Siêu-Trọng thôi chứa có ra lệnh sát hại hay đả thương họ bao giờ đâu! Vả lại nếu bị sư thúc quở trách trước mặt sư muội thì còn mặt mũi nào mà ngó ai nữa! Chẳng thẹn với nàng lắm sao!”

Nghe Lý-Mộng-Ngọc kể lại mọi việc xảy ra, Châu-Ỷ nhìn vào mặt Từ-Thiện-Hoằng một cách hằn học, trong bụng nghĩ thầm:

-“Thì ra trong Hồng Hoa Hội vẫn có cái hạng người ngang ngược vô cớ gây sự, chém giết đả thương người, chứ nào có phải thuần túy là một tổ chức chuộng điều nhân nghĩa để thu phục nhân tâm như thiên hạ lầm tưởng đâu!”

Thấy đứa đồ đệ nhí nhảnh nũng nịu tố cáo mọi chuyện, Lục-phỉ-Thanh vừa buồn cười, vừa cảm thấy thương mến. Ông ta cố làm mặt nghiêm nói:

-Việc này rất hệ trọng, con chưa thấu triệt đó thôi. Sự tình ở phía trước nguy hiểm vô cùng! Nếu cứ tiến tới thì tai họa sẽ xảy ra cho gia quyến của con không biết sao mà lường nổi! Con trách Dư sư-huynh là áp bức không cho xúc tiến lộ trình mà gây ra đổ máu cho một số quân sĩ hộ tống gia đình con, nhưng con có biết là nếu để cho Tăng tham-tướng huy động đoàn xa mã tiến tới phía trước thì cả đoàn xa mã sẽ bị tàn sát không còn một mạng người không? Đáng lý con phải cám ơn Dư sư-huynh của con chứ! Cớ sao lại phiền trách như vậy? Bây giờ điều gấp rút là con hợp với Tăng tham-tướng bảo vệ gia quyến tạm đình chân nghỉ lại đây đã. Chờ mọi chuyện đàng trước êm xuôi hẵng tiếp tục lộ trình. Con nhớ đừng nói với thái thái và mẫu thân đàng trước có biến để hai người được an tâm. Nhưng con và Tăng tham-tướng cũng phải đề phòng bọn lục lâm thảo khấu đừng cho cướp tài sản của gia đình nhé! Thầy có việc phải đi trước, luôn tiện sẽ dọ thám tình hình. Khi nào xong việc sẽ trở lại tiếp tục hộ tống gia quyến của con lên đường và sẽ tường thuật tất cả mọi chuyện lại cho con nghe. Giờ nói ra không tiện. Con nhớ nghe lời thầy dặn, đừng để sơ thất.

Dặn dò Lý-Mộng-Ngọc xong, Lục-Phỉ-Thanh lại ra dấu gọi tham-tướng Tăng-Đồ-Nam lại nói nhỏ dặn dò. Tăng-Đồ-Nam nãy giờ vốn hoài nghi, nay được Lục-Phỉ-Thanh giải thích mọi việc nên mặt mày tươi tỉnh, gật đầu liên tục.

Còn Lý-Mộng-Ngọc thì sau khi nghe chuyện đàng trước có biến thì tính hiếu kỳ lại nổi dậy. Vì không tiện cãi lời sư phụ nên nàng cứ gật đầu chịu ở lại với Tăng-Đồ-Nam cùng bảo vệ thái thái cùng mẫu thân. Có thể nói là càng nghe chuyện nguy hiểm, nàng cành khoái chí và hứng thú, trước sau gì cũng tìm đến xem cho bằng được. Và có lẽ hiểu rõ tính đồ đệ cho nên Lục-Phỉ-Thanh phải dặn dò Tăng-Đồ-Nam tiểu tâm mà cẩn thận cho chắc chắn...

Hồi 9a

Đất lở gầm trời tan đại địch

Kinh về cố chủ nặng ân tình

Theo sự hướng dẫn của thư đồng Tâm-Nghiện, Trần-Gia-Cách lãnh đạo quần hùng Hồng Hoa Hội đuổi theo bọn quan sai ráo riết. Đi chừng bốn năm dặm đã thấy một dãy người ngựa đi thành đường thẳng ở vùng bình nguyên hoang dã phía trước. Vô-Trần Đạo-Nhân đang đi đầu, bèn rút kiếm hô lớn:

-Anh em! Lên!

Chạy thêm ngoài một dặm nữa, bóng người phía trước càng ngày càng lớn. Con bạch-mã của Lạc-Băng đang cưỡi sải vó như bay, chỉ chớp mắt đã đuổi kịp quân địch. Nàng tuốt song đao ra cầm sẵn, định vượt lên trước rồi sẽ quay lại chặn đường.

Đột nhiên phía trước vang lên những tiếng ‘lộp cộp’, một đoàn mấy chục con lạc đà và ngựa từ phía đông xung phong về phía Tây. Chuyện này thật sự bất ngờ, Lạc- Băng bèn kéo dây cương dừng ngựa lại, xem thử đoàn lạc đà và ngựa này là của ai. Lúc này bọn quan sai cũng dừng hẳn lại, có người lớn tiếng quát hỏi, nhưng đội lạc đà phía trước mặt càng chạy càng nhanh, đại đao lấp loáng xông thẳng vào giữa đội ngũ quan sai, hai bên bắt đầu hỗn chiến.

Lạc-Băng kinh ngạc, không hiểu từ đâu xuất hiện nhóm viện binh này. Chẳng bao lâu nhóm người Trần-Gia-Cách từ phía sau cũng tới nơi, cùng đứng theo dõi trận chiến.

Rồi lại có một con bảo mã màu vàng từ phía trước xuất hiện, đi vòng qua tránh trận hỗn chiến, phi thẳng đến chỗ quần hùng Hồng Hoa Hội. Gần tới nơi thì mọi người nhận ra chính là Vệ-Xuân-Hoa. Chàng chạy tới trước mặt Trần-Gia-Cách, lớn tiếng nói:

-Tổng đà chủ! Đệ và Thạch-Song-Anh giữ ở cửa thung lũng, bị nhóm người Duy này xung phong qua mặt, không sao ngăn cản nổi. Đệ vội vã chạy về báo cáo, nào ngờ họ lại đánh nhau với bọn ưng khuyển kia.

Trần-Gia-Cách lên tiếng:

-Đạo trưởng nhị ca, Triệu tam ca, Thường ngũ ca và Thường lục ca! Bốn vị mau tiến lên đoạt lấy cỗ tù xa chở Tứ ca. Còn tất cả khoan hãy ra tay, xem rõ tình hình rồi tính sau.

Bốn người đồng thanh vâng dạ, ruổi ngựa xông lên phía trước. Hai tên bộ khoái lớn tiếng hỏi:

-Bằng hữu thuộc phe nào vậy?

Triệu-Bán-Sơn không đáp, phóng ngay hai mũi cương tiêu. Một trúng yết hầu, một trúng bụng dưới, hai tên bộ khoái lập tức nhào xuống ngựa.

Triệu-Bán-Sơn mang ngoại hiệu là Thiên-Thủ Như-Lai có ngàn tay, vì miệng ông lúc nào cũng cười, khuôn mặt hiền từ, tấm lòng nhân hậu, chiều chuộng người khác vô cùng, nhưng trên người ông lại toàn là ám khí đủ loại, phóng ra vừa nhanh vừa chính xác. Hai bàn tay ông chỉ trong khoảnh khắc là có thể phát xạ rất nhiều loại ám khí, người đứng kế bên cũng đừng hòng nhìn thấy rõ ràng. Phen này Hồng Hoa Hội đem toàn lực cứu người, không ngờ người lập được chiến công đầu tiên lại là Thiên-Thủ-Như-Lai Triệu-Bán-Sơn, xưa nay vốn khiêm tốn, tính nết ôn hòa. Bốn người phi ngựa đến gần cỗ xe lớn, thì phía trước có một người Duy đầu quấn vải trắng đưa thương đâm tới. Vô-Trần Đạo Nhân nghiêng người tránh né, không đánh trả mà chạy thẳng tới cỗ xe. Một tiêu sư múa đao chém thẳng đến, Vô-Trần Đạo-Nhân vung kiếm ra gạt. Lưỡi kiếm nhanh như điện chớp, thuận theo thế đao mà lướt tới đối phương, chặt đứt bốn ngón tay của hắn. Rồi ông lại ra chiêu Thuận Thủy Thôi Chu đâm vào ngực tên tiêu sư đó. Vô-Trần Đạo-Nhân nghe thấy sau gáy có tiếng gió rít lên, biết có địch nhưng không thèm quay đầu lại. Tay phải ông đảo kiếm chém ra sau, từ dưới hớt lên. Thanh kiếm chém trúng tên địch từ dưới nách phải qua tới vai trái, thế là tên bộ khoái muốn ám toán sau lưng đã bị chém thành hai khúc, máu tươi bắn ra tung tóe. Triệu-Bán-Sơn và Tây-Xuyên Song-Hiệp đứng sau nhìn thấy rõ ràng bèn cổ võ tưng bừng. Bọn người Trấn-Viễn tiêu cục nhìn thấy kiếm pháp của Vô-Trần Đạo-Nhân đều kinh hãi, hai người phe mình sử chưa hết một chiêu đã bị giết rồi. Chúng sợ đến muốn vãi cả trong quần, run giọng la lên:

-Nguy rồi! Mau chuồn thôi!

Tây-Xuyên Song-Hiệp chạy gần tới cỗ xe lớn, thì bên cạnh lại có bảy tám người Duy chạy ra, múa đại đao cản trở. Song Hiệp bèn thi triển phi trảo giao đấu với họ.

Một tên tiêu sư lùn tịt, trông như con ma đói vội kéo con lừa đang kéo cỗ xe lớn đó quay đầu lại, vung roi quất mạnh. Cỗ xe chạy nhanh, còn hắn thì phi ngựa chạy theo sau. Tên này không phải là ai khác hơn mà chính là Đổng-Triệu-Hòa.

Triệu-Bán-Sơn và Vô-Trần Đạo-Nhân đuổi theo. Triệu Bán Sơn lấy ra một cục phi hoàng thạch, ném trúng ngay gáy Đổng-Triệu-Hòa. Máu tươi tuôn ra, hắn rống lên như heo bị chọc tiết rồi rút trủy thủ trong ống giày ra, đâm vào mông con lừa kéo xe một nhát. Bị đâm đau quá, con lừa nhảy nhổm lên chồm tới trước chạy nhanh hơn.

Triệu-Bán-Sơn tung người nhảy lên lưng ngựa của Đổng-Triệu-Hòa, chưa hạ xuống thì tay phải đã nắm chặt cổ tay của hắn, thuận tay vung lên vẽ thành một vòng trong không trung, ném ra phía trước. Đổng-Triệu-Hòa té ngay lên cổ con lừa đang kéo cỗ xe lớn. Hắn thét lên một tiếng rồi ôm chặt lấy đầu lừa. Con lừa giật mình hoảng sợ, mắt lại bị che kín, bèn hí lên ầm ĩ nhảy loạn xạ và cuối cùng quay đầu trở lại.

Vô-Trần Đạo-Nhân và Triệu-Bán-Sơn đã tới nơi, nắm dây giữ con lừa lại. Triệu-Bán-Sơn túm lấy lưng Đổng-Triệu-Hòa ném xuống vệ đường. Vô-Trần Đão-Nhân hô lớn:

-Tam đệ! Tuyệt kỹ dùng người để làm ám khí chỉ có đệ là biết sử dụng mà thôi!

Hai người không buồn nhìn Đổng-Triệu-Hòa, chỉ lo cứu Văn- Thái-Lai nên không để ý đến hắn nữa. Đổng-Triệu-Hòa lăn mấy vòng dưới đất rồi lọt vào một bụi cỏ. Hắn hoảng sợ quá, lén bò vào một bãi cỏ mà núp.

Triệu-Bán-Sơn vạch màn xe ra nhìn vào. Trong xe tối đen không nhìn rõ mặt, ông chỉ thấy một người đang ngồi trong xe, trên người phủ chăn, nên mừng rỡ lên tiếng:

-Tứ đệ! Là đệ phải không? Chúng ta đến cứu đệ đây.

Người kia rên lên mấy tiếng. Vô-Trần Đạo Nhân bảo:

-Tam đệ đưa Tứ đệ về trước, để ta đi tìm họ Trương tính nợ đã.

Ông chưa nói xong đã tung ngựa chạy ra giữa đường chặn đám đông. Bọn tiêu sư và công sai đang chạy về hướng đông, đột nhiên thấy Vô-Trần Đạo-Nhân quay ngựa lại, thì thất kinh, la hét om sòm nhắm hướng Tây mà chạy.

Vô-Trần Đạo-Nhân quát lớn:

-Trương-Siêu-Trọng! Ngươi mau vác mặt ra đây cho ta!

La mấy tiếng không có ai trả lời, ông bèn xông vào giữa đám địch đông đảo. Bọn công sai và tiêu sư thấy ông chạy tới, hồn vía bay hết lên trời,

xô nhau chạy tán loạn.

Quần hùng Hồng Hoa Hội thấy Triệu-Bán-Sơn đem tù xa trở về đều rất vui mừng, nhanh chân chạy đến đón tiếp. Lạc-Băng thúc ngựa chạy tới trước tiên, dừng lại trước tù xa, phi thân xuống ngựa, vén màn xe ra, run rẩy gọi:

-Tứ ca!

Nhưng trong xe không có tiếng trả lời, Lạc-Băng kinh hãi nhảy vào trong xe mở tấm chăn ra. Lúc này quần hùng Hồng Hoa Hội đã chạy đến nơi, vẫn ngồi trên ngựa mà đứng xung quanh nhìn vào.

Tây-Xuyên Song-Hiệp thấy cứu người đã xong, bèn không ham đánh với đám người Duy với lai lịch bất minh kia nữa. Hai huynh đệ huýt gió một tiếng, thi triển phi trảo đánh dạt địch thủ ra ngoài, rồi quay đầu ngựa chạy về. Nhóm người Duy đó hình như chỉ lo việc cản trở không cho người khác đến gần nên khi nhìn thấy hai người rút lui bèn không đuổi theo nữa mà chạy trở lại nhập bọn với nhóm người đang hỗn chiến. Vô-Trần Đạo-Nhân vẫn tung hoành ngang dọc giữa đám đông. Một tên chạy hiệu chậm chân chạy không kịp, bị ông chém trúng vai té nhào dưới đất. Vô-Trần Đạo-Nhân không muốn hại mạng, bèn giật ngựa nhảy qua người hắn, lại lớn tiếng gọi:

-Bớ Hỏa-Thủ Phán-Quan đâu? Mau ra đây!

Đột nhiên có một con ngựa xông lên trước, trên ngựa có một người Duy thân hình cao lớn, mặt mày râu ria rậm rạp. Thấy Vô-Trần Đạo-Nhân, y bèn chặn lại quát hỏi:

-Đạo nhân này từ đâu đến đây mà la hét om sòm vậy?

Vô-Trần Đạo Nhân xuất chiêu đâm ngay vào mặt người Duy. Y liền đưa mã đao lên cản trở. Vô-Trần Đạo-Nhân lại tung ra hai kiếm liên hoàn, đâm cả bên trái lẫn bên phải nhanh như chớp. Cánh tay của người Duy kia chưa kịp hạ xuống kịp, thanh mã đao vẫn còn trên đỉnh đầu, mà kiếm khí đã ràn rạt rát da, bao trùm cả thân thể. Y bối rối hết đường chống đỡ, vội nghiêng người ngã xuống một bên lưng ngựa, chân phải móc lấy cái để chân, cả thân thể luồn xuống dưới bụng ngựa mới né được hai chiêu kiếm đó. Y hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh đầy người, may mắn có được kỵ thuật rất giỏi nên có thể vừa núp dưới bụng ngựa mà vừa giục ngựa chạy đi.

Vô-Trần Đạo-Nhân mỉm cười nói:

-Thoát được ba chiêu kiếm của ta, thì cũng xứng đáng được gọi là hảo hán rồi. Tha mạng cho ngươi!

Rồi ông ta lại xông vào giữ đám đông. Lúc Tây-Xuyên Song-Hiệp từ hướng đông trở về, phía tây cũng có tám con ngựa chạy tới, đó là nhóm người Châu-Trọng-Anh và Lục-Phỉ-Thanh. Hai nhóm từ hai phía còn chưa đến gần cỗ xe lớn, Lạc Băng đã lôi trong xe ra một người quăng xuống đất, quát hỏi:

-Văn đại gia ở đâu?

Nàng chưa hỏi dứt câu thì đôi dòng lệ đã tuôn. Mọi người đều thấy người này ốm yếu già nua, ăn mặc theo kiểu công sai, tay phải bó lại treo dưới cổ. Lạc Băng nhận ra hắn chính là Ngô-Quốc-Đống, bổ đầu của Bắc-Kinh. Lúc ở An-Viễn khách sạn đã bị Văn-Thái-Lai đánh gẫy bả vai bên cánh tay mặt. Nàng đá hắn một cước, định hỏi tiếp nhưng nói không ra lời.

Vệ-Xuân-Hoa vung song câu chỉ vào mắt phải của hắn, gằn giọng:

-Văn gia ở đâu? Ngươi mà không nói thì ta lập tức lấy con ngươi này trước!

Ngô-Quốc-Đống ra vẻ giận dữ đáp:

-Thằng khốn kiếp Trương-Siêu-Trọng kia đã áp tải Văn… Văn gia đi xa rồi. Tên nạn khốn đó bảo ta ngồi trong xe, ta còn tưởng rằng hắn có lòng tốt cho mình nghỉ dưỡng thương, nào ngờ đó là kế Kim Thiền Thoát Xác. Hắn thí cái mạng già này để một mình đi trước đến Bắc Kinh lãnh thưởng. Con mẹ nó, cái đồ lòng lang dạ sói như vậy chắc chắn không được chết toàn thây!

Sở dĩ hắn thóa mạ Trương-Siêu-Trọng nặng lời là mong được đám Hồng Hoa Hội thông cảm, tội nghiệp mà tha chết cho.

Trần-Gia-Cách bảo Tây-Xuyên Song-Hiệp:

-Ngũ ca, Lục ca! Vấn đề quan trọng nhất hiện tại là không biết tên gian tặc Trương-Siêu-Trọng đã đưa Tứ ca đến đâu. Dù sao thì từ Lương Châu về đến Trung-Nguyên, nhất định phải qua Ô-Sào-Lãnh. Hai vị hãy đi suốt đêm, cố gắng đuổi kịp, đến đó trước để chặn đường. Nếu không chặn nổi thì ít ra cũng điều tra được chúng đi hướng nào, để đại quân theo sau biết đường mà truy kích.

Tây-Xuyên Song-Hiệp gật đầu nhận lệnh rời khỏi đó ngay. Bây giờ mọi người đã dồn vào một chỗ, Trần-Gia-Cách hạ lệnh:

-Tất cả chia hai ngả bao vây, bắt hết bọn chó săn ưng trảo và bọn nhãi tiêu cục, không để thoát một tên nào!

Thế là Trần-Gia-Cách cùng Triệu-Bán-Sơn, Dương-Thanh-Hiệp, Vệ-Xuân Hoa, Tưởng-Tứ-Căn, Tâm Nghiện từ phía nam tiến lên, còn Châu-Trọng Anh, Lục-Phỉ-Thanh, Từ-Thiện-Hoằng, Lạc-Băng, Dư-Ngư-Đồng, Châu-Ỷ, Mạnh-Kiện-Hùng, An-Kiện-Cường từ phía Bắc dồn xuống, giống như hai gọng kìm sắt bao vây toàn bộ quan quân, bọn tiêu cục và đám người Duy ở giữa. Chúng kinh khiếp đến cực độ nhưng nhắm không cự nổi với đám hào kiệt Hồng Hoa Hội nên liều chết mở một đường máu để thoát thân.

Nguyên một đại đội người Duy đang đánh nhau kịch liệt với đám quan sai, sau khi bọn quan sai và tiêu sư mở đường tẩu thoát, cũng rút lui theo.

Chẳng ngờ bọn quan sai và tiêu sư bị Vô-Trần Đạo-Nhân đuổi theo mà chém giết làm đám người Duy kẹt cứng và lâm vào thế bí, tưởng lầm là Hồng Hoa Hội chặn đường đón giết cả hai bên nên đám người Duy bất đắc dĩ phải tự vệ, phải chiến đấu sát cánh với kẻ thù để tìm sinh lộ.

Trận thế mỗi lúc một thêm ác liệt. Vũ khí va chạm vào nhau liên hồi, đầu rơi máu chảy, người chết như rạ. Triệu-Bán-Sơn hai tay cùng vung ra một lượt. Ám khí chợt lóe lên, hai tên bổ-khoái và một tên tiêu sư từ trên lưng ngựa ngã lăn xuống đất trước sự kinh hoàng của những tên khác.

Kế hoạch của Hồng Hoa Hội đã vạch sẵn. Trần-Gia-Cách định cô lập đám người Duy lại vì chưa biết dụng ý và mưu đồ của họ chứ không có chủ định giết hại người nào cả. Vì vậy, Trần-Gia-Cách dặn đám hào kiệt Hồng Hoa Hội chỉ sát hại quan sai và đám tiêu sư, hoàn toàn tránh né không đụng, làm tổn hại đến bất cứ một người Duy nào. Vạn bất đắc dĩ trong trường hợp bị đánh vì hiểu lầm, đám Hồng Hoa Hội cũng chỉ nên chống đỡ mà tự vệ rồi bỏ chạy chứ không được hơn thua. Đám người Duy hình như lần lần cũng nhìn ra được điều đó nên họ cũng tránh không đụng người của Hồng Hoa Hội. Và đến khi khẳng định, nhận xét rõ rệt được tình hình, đám người Duy lại hợp lực với đám hào kiệt Hồng Hoa Hội để đánh đuổi, sát hại đám quan sai và tiêu sư.

Nhờ mưu lược sáng suốt của Trần-Gia-Cách mà biến được đại đội người Duy thành đồng minh.

Đám quan sai và tiêu sư lâm vào thế ‘lưỡng đầu thụ địch’, trong thì bị người Duy nội công (#1), bên ngoài thì bị đám hào kiệt của Hồng Hoa Hội ngoại kích (#2), đang trong tình trạng bị tiêu diệt hoàn toàn.

Triệu-Bán-Sơn như con hổ ở giữa bầy dê, xung tả đột hữu, ám khí vung tới đâu, địch nhân ngã tới đó. Đám người Duy reo mừng, vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Một người Duy cao lớn, râu ria xồm xoàm nhìn thấy Trần-Gia-Cách oai vệ ngồi trên ngựa lược trận có mấy người chung quanh bảo vệ thì tin chắc đó là nhân vật lãnh đạo của đám hào kiệt bèn lướt ngựa tới trước mặt gọi lớn:

-Chẳng rõ các vị anh hùng hảo hán từ đâu đến tiếp viện cho chúng tôi thế này? Thay mặt cho dân tộc Duy, tôi xin cúi đầu đa tạ các vị.

Dứt lời, người ấy gác đại đao lên vai, lễ phép chào đón Trần-Gia-Cách theo phong tục của họ. Trần-Gia-Cách cũng lịch sự đáp lễ rồi lên tiếng:

-Hỡi tất cả các anh em Duy-tộc và Hồng Hoa Hội! Chúng ta mau đồng tâm hiệp lực cùng nhau công kích giết cho sạch kẻ thù, đừng để cho một tên nào trốn thoát cả!

Chàng vừa dứt lời thì cả đám người Duy lẫn đám hào kiệt Hồng Hoa Hội đều hưởng ứng reo hò, tinh thần hăng hái lên bội phần, la ó vang trời.

Đa số những cao thủ trong đám quan sai và tiêu sư bị đám hào kiệt của Hồng Hoa Hội sát hại gần hết. Đám còn lại đa số chẳng khác nào như đám tàn quân, toàn là những tên tầm thường, nhìn tình thế như vậy thì chẳng còn chút tinh thần nào mà chiến đấu nên cả đám đều cùng nhau xuống ngựa, quỳ mọp dưới đất mà xin tha mạng. Bọn chúng hướng về đám hào kiệt Hồng Hoa Hội lạy lục:

-Xin các ngài tha tội cho đám tiểu nhân ngu xuẩn có mắt không tròng, không nhìn thấy thái sơn. Ơn đức này đám tiểu nhân xin đời đời khắc tốt ghi tâm chứ quyết không bao giờ dám quên.

Tiếng kêu xin ồn ào vang dội khắp chốn. Tâm-Nghiện nhìn thấy khoái chí nói với Lạc-Băng:

-Tứ tẩu à! Quả đúng như lời chị đã nói! Cái đám người đốn mạt này hôm nọ gọi em là ‘đồ chó con đánh chết’ thì hôm nay đang quỳ dưới chân em mà tự xưng là tiểu nhân, xin tha mạng.

-Thì chị đã nói mà! Thật đúng là quả báo!

Nhưng trong lòng Lạc-Băng vẫn rối như tơ vò vì chưa cứu được Văn-Thái-Lai, mà bóng dáng Trương-Siêu-Trọng cũng chẳng ai thấy đâu cả! Nàng vẫn đứng nhìn con đường về Bắc-Kinh mà ngây người ra không nói được một lời.

Từ trong bãi chiến trường đẫm máu, Vô-Trần Đạo-Nhân phóng ngựa ra lớn tiếng gọi:

-Này! Tổng-Đà-Chủ và các anh em hãy xem kìa! Không lẽ nãy giờ không ai để ý chi cả hay sao? Cô gái đẹp như tiên nga mà kiếm pháp linh diệu, thần kỳ không thể tưởng được!

Những giang thủ trên giang hồ xưa nay chưa mấy ai đỡ nổi mấy hiệp của Truy-Hồn Đoạt-Mệnh-Kiếm của Vô-Trần Đạo-Nhân chứ đừng nói là đấu được ngang tay. Mà xưa nay cũng ít ai nghe Vô-Trần Đạo-Nhân ca tụng kiếm thuật của một cao thủ nào hay một môn phái nào. Vì vậy khi nghe Nhị đương-gia lên tiếng ca ngợi kiếm pháp của một cô gái thì ai nấy đều không khỏi ngạc nhiên, tính hiếu kỳ nổi dậy. Muốn được chứng kiến cô gái có kiếm thuật cao siêu để cho Truy-Hồn Đoạt-Mệnh Kiếm phải chú ý, mọi người thúc ngựa đến gần xem.

Lúc ấy, người Duy cao lớn râu ri xồm xoàm nói lớn lên mấy câu bằng tiếng Duy, lập tức đám người Duy đứng vẹt ra, chừa một đường trống để nhường chỗ cho đám hào kiệt Hồng Hoa Hội vào xem cô gái với kiếm thuật tinh vi kia. Thế rồi đám người Duy cùng với đám hào kiệt Hồng Hoa Hội lại hòa đồng với nhau, đứng xen kẽ nhau mà kết lại một vòng tròn.

Vô-Trần Đạo-Nhân nói với Trần-Gia-Cách:

-Tổng-Đà-Chủ xem kìa! Cái tên sử dụng Ngũ-Hành luân thật là xuất sắc, chứng tỏ bản lãnh của hắn cũng không phải tầm thường đâu!

Trần-Gia-Cách đưa tay lên trán che bớt ánh nắng mặt trời để xem cho rõ. Chàng thấy một cô thiếu nữ cực kỳ diễm lệ mặc chiếc áo màu hoàng oanh (#3) đang cùng một người to lớn mạnh mẽ dị thường giao chiến kịch liệt. Thật là một cuộc ác đấu kinh khủng, không ai nhường ai. Chỉ cần lỡ tay mà mất mạng như không.

Người đàn ông to lớn kia đem tất cả tuyệt kỹ và sức lực ra như quyết hạ cho bằng được cô gái áo vàng. Nhưng nàng cũng cũng phải tay vừa. Mũi kiếm trên tay cô gái áo vàng lanh lẹ đỡ gạt Ngũ-Hành luân của đối phương đồng thời phản công lại bao nhiêu thế kiếm hiểm ác quyết giết chết đối phương.

Cứ xem lối giao phong của hai bên là đủ hiểu rõ thâm tâm của cả đôi bên. Chỉ có sống hoặc chết mà thôi. Giữa lúc ấy thì Lục-Phỉ-Thanh phi ngựa đến gần Trần-Gia-Cách. Ông ta nói nhỏ vào tai Trần-Gia-Cách dường như không muốn cho ai nghe thấy.

-Thiếu nữ áo vàng kia là Tiêu-Thanh-Đồng, đệ tử của Thiên-Sơn Song-Ưng. Còn kẻ sử dụng Ngũ-Hành luân kia là Diêm-Thế-Chương, một tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu-cục và cũng là một trong Quảng-Đông Lục Ma.

Trần-Gia-Cách nghe xong chợt biến sắc. Chàng đã được nghe sư phụ Viên-Sĩ-Tiêu nói qua cặp vợ chồng Trần-Chánh-Đức và Quan-Minh-Mai này với tuyệt kỹ Tam-Phân Kiếm-Thuật làm chấn động giang hồ nhiều phen. Không hiểu vì lý do gì, sư phụ của chàng có điều xích mích với vợ chồng Thiên-Sơn Song-Ưng. Tuy hai bên không đê đến chuyện giải quyết bằng vũ lực, nhưng hai bên đều có ý lánh xa, không nhìn mặt nhau.

Nhân tiện nghe Lục-Phỉ-Thanh nói cho biết cô gái aó vàng kia, tức Tiêu-Thanh-Đồng là đệ tử của Thiên-Sơn Song-Ưng nên để ý kỹ càng, cố tìm hiểu những nét tinh vi của Tam-Phân Kiếm-Thuật.

Kiếm quang của Tiêu-Thanh-Đồng lung linh chẳng khác những chuỗi ngọc vụt qua vụt lại. Tiếng gió không động mà tiếng kiếm lại reo, chuôi kiếm không quơ mà chuôi kiếm lại động. Kiếm pháp của nàng tấn công liên tục nhưng chỉ dùng có ba phần kiếm lực, và mỗi một lúc tấn công những ba đường. Chiêu thức cứ lướt tới hoài mà tuyệt nhiên không bao giờ thấy nàng rút kiếm lại. Thật là vô cùng biến ảo và hết sức lợi hại, nhưng cực kỳ khó hiểu.

Ngũ-Hành luân của Diêm-Thế-Chương cũng là một vũ khí lợi hại, có những cái lợi hại riêng của nó. Diêm-Thế-Chương đã luyện binh khí này đến thành tuyệt kỹ nên sử dụng rất tài tình, đủ sức chống đỡ với kiếm pháp của Tiêu-Thanh-Đồng. Tuy vậy, Diêm-Thế-Chương vẫn chỉ có thủ chứ không có công. Hắn biết nếu chuyển thành thế công thì Tam-Phân Kiếm-Thuật sẽ kết liễu mạng hắn ngay.

Trần-Gia-Cách đứng quan sát một hồi cũng nhìn thấy được chỗ sơ hở của Tam-Phân Kiếm-Thuật. Chàng nhận thấy rằng đã đành người có bản lãnh tuyệt vời mới dám luyện Tam-Phân Kiếm-Thuật. Nhưng nếu người sử dụng Tam-Phân Kiếm-Thuật mà gặp phải địch thủ có võ nghệ cao hơn mình thì chỉ rước lấy cái thất bại, vì chỉ có công mà không có thủ thì khó mà đỡ được những chiêu thức bất ngờ của một đại cao thủ chọn lựa đúng lúc để phản công.

Chính Thiên-Sơn Song-Ưng cũng biết điều này, nên mặc dù thương Tiêu-Thanh-Đồng như con đẻ mà hết lòng truyền thụ bản lãnh, hai người cũng dặn nàng rất kỹ là vạn bất đắc dĩ lắm mới đem nó ra sử dụng, đồng thời phải biết chắc chắn là địch thủ tài nghệ ngang hoặc dưới mình, không thì chỉ có hại mà thôi. Mà khi lỡ áp đã áp dụng thì phải thu về ngay lập tức thu hồi kiếm thuật khi thấy kiếm thuật đối phương áp đảo được mình...

Thấy Tiêu-Thanh-Đồng đánh một lúc khá lâu mà vẫn chưa hạ được Diêm-Thế-Chương, một số người Duy reo hò lên cổ võ nàng. Lúc đó Diêm-Thế-Chương dùng một thế ‘Chỉ thiên hạch địa’ đỡ vội kiếm của Tiêu-Thanh-Đồng rồi lui lại sau lớn tiếng gọi:

-Mau ngừng kiếm lại, nghe ta nói chuyện!

Tiêu-Thanh-Đồng nghe nói liền dừng tay lại nhưng vẫn thủ sắn bảo kiếm đề phòng ám khí. Những người Duy nhìn hắn chằm chặp, để ý từng cử chỉ một. Diêm-Thế-Chương với tay lấy cái bao màu vàng mà hắn luôn luôn đeo bên người luôn cả khi đi ngủ, giơ lên khỏi đầu nói:

-Nếu bọn mi ỷ đông hiếp yếu thì ta bằm nát cái bao vải này ra làm trăm mảnh.

Đám người Duy nghe nói vậy thì kinh hãi, không ai bảo ai, cùng nhau lùi lại mấy bước.

Tự biết mình đã lọt vào đường cùng, Diêm-Thế-Chương phải dùng đến hạ kế là hăm dọa hủy hoại chiếc bao màu vàng. Quả nhiên mưu kế của hắn hữu hiệu, đám người Duy khi nghe hắn nói vậy thì không ai dám lại gần, sợ hắn hủy chiếc bao màu vàng kia thật.

Diêm-Thế-Chương đắc ý nói:

-Bọn ngươi đông, ta chỉ có một mình một ngựa. Nếu các ngươi muốn giết ta thì thật cũng chẳng phải là chuyện khó khăn gì. Nhưng nói cho các ngươi biết, Diêm-Thế-Chương này là một tay hảo hán, chưa bao giờ biết sợ ai. Chỉ cần một người trong đám các ngươi một đấu một, thắng được ta thì ta sẽ hai tay dâng cái bao này cho các ngươi. Còn nếu như kẻ đó đánh thua ta mà các ngươi định dùng số đông áp bức ta thì chẳng thà là ta chịu nát thây với cái bao này chứ chẳng chịu để lọt vào tay các ngươi.

Châu-Ỷ nghe những lời nói của Diêm-Thế-Chương không khỏi cười thầm. Đúng là lời của một kẻ tiểu nhân mạt lộ không hơn không kém. Nàng nhịn không được, liền thúc ngựa đến rút binh khí ra hét lớn:

-Hay lắm! Nếu mi muốn thử sức thì ta đây sẵn sàng thử sức với mi!

Châu-Ỷ giơ ngọn đao lên định xông tới chém thì Châu-Trọng-Anh đã giữ chặt lấy cườm tay của nàng lại mà bảo:

-Con không được vô phép! Trước mắt con đây còn biết bao nhiêu các vị bá bá, thúc thúc anh hùng. Chưa ai quyết định thế nào, sao con dám tự động?

Tiêu-Thanh-Đồng đưa tay ra cản Châu-Ỷ lại, tươi cười nói với nàng:

-Đa tạ thịnh tình cùng hảo ý của tỷ tỷ! Nhưng xin tỷ tỷ vui lòng để công việc ấy cho tiểu muội tự liệu vì nó là đại sự của người Duy. Vì vậy chưa dám làm phiền đến tỷ tỷ.

Châu-Ỷ ngạc nhiên hỏi:

-Sao lại không thể giúp nhau được?

Tiêu-Thanh-Đồng nói:

-Xin cứ để cho tiểu muội ra tay trước, nếu thua thì sẽ nhờ tỷ tỷ giúp đỡ sau.

Châu-Ỷ nói:

-Không nên như vậy mà để lỡ công việc. Hắn lợi hại lắm! Chưa chắc bên tỷ tỷ đã có ai thắng nổi hắn đâu. Để tiểu muội giúp tỷ tỷ một tay thì mới hạ được hắn.

Châu-Trọng-Anh bèn cho Châu-Ỷ:

-Ơ hay cái con nhỏ này! Sao dám nói giọng tự thị phách lối như thế? Mi chẳng thấy là võ nghệ của cô ấy cao hơn mi hẳn sao?

Châu-Ỷ nói:

-Con nói thật với gia gia là võ nghệ tên tiêu sư ấy không thắng được con đâu! Chị này đánh với hắn bao nhiêu lâu đó mà chỉ cầm đồng thì dẫu có đánh thêm nữa cũng không thắng được đâu! Tại sao gia gia không để con giết phứt cái tên ngông cuồng đó đi? Nghe giọng của hắn con thật chịu không nổi!

Lục-Phỉ-Thanh liền tới nói với Châu-Trọng-Anh rằng:

-Cái bao màu vàng ở trên vai tên tiêu sư kia chắc có chứa đựng vật gì rất quan trọng đối với người Duy nên hắn mới liều mạng để giữ. Còn người Duy thì lại sẵn sàng liều mạng để lấy. Thei tôi nghĩ thì mình nên để cho cháu đoạt phứt lấy mà trả lại cho cô gái áo vàng kia thì hơn.

Châu-Ỷ nghe nói thích thú vỗ tay:

-Hay lắm! Hay lắm! Lục sư bá dạy như thế thật là hợp ý của điệt nữ!

Diêm-Thế-Chương giơ gặp Ngũ-Hành luân lớn tiếng nói:

-Nếu có vị nào muốn ‘nói chuyện’ với tôi thì bước tới, còn không thì tùy...

Tiêu-Thanh-Đồng ngắt lời:

-Không cần vị nào khác hơn. Ta sẵn sàng ‘tiếp chuyện’ với ngươi. Cây kiếm của ta lúc nào cũng sẵn sàng với cặp Ngũ-Hành luân của ngươi.

Diêm-Thế-Chương nói:

-Nếu thế thì cần gì phải dài dòng nữa.

Tiêu-Thanh-Đồng lại nói:

-Theo ý ta thì cách này tiện cho người vô cùng, không phải sợ bị số đông hiếp đáp. Ngươi để cái bao vải đựng Khả-Lan-Kinh kia xuống. Nếu ngươi thắng thì cứ tùy tiện mang nó đi. Còn như thua thì phải bỏ lại. Và dẫu ngươi có thua mà vẫn giữ được tánh mạng thì ta cũng để cho ngươi đi.

Dứt lời, Tiêu-Thanh-Đồng nhắm bả vai Diêm-Thế-Chương chém xuống một đường hết sức lợi hại. Diêm-Thế-Chương liền đưa Ngũ-Hành luân ra đỡ, và án theo Ngũ-Hành Bát-Quái mà tung ra những chiêu hết sức ác liệt. Theo phương cách này, Diêm-Thế-Chương biến hóa ra 64 đường tấn công rất nghiêm ngặt, quyết hạ cho bằng được Tiêu-Thanh-Đồng. Hai bên đánh nhau hơn 10 hiệp không phân thắng bại.

Nhìn hai người đấu, Trần-Gia-Cách bỗng vẫy tay gọi Dư-Ngư-Đồng lại bảo:

-Thập tứ đệ! Em hãy đi tìm thử tung tích của Văn tứ ca đi, xem anh ta thất lạc nơi đâu. Nếu được tin nhớ lập tứ trở lại báo cáo, ta sẽ điều khiển anh em tới rồi tùy cơ ứng biến mà hành động.

Dư-Ngư-Đồng nhận lệnh ra đi. Nhưng trước khi đi, chàng khẽ liếc sơ Lạc-Băng một cái. Thấy nàng có vẻ buồn rầu, Dư-Ngư-Đồng muốn đến an ủi nàng vài câu nhưng thấy bất tiện đành một mình bỏ đi trước.

Diêm-Thế-Chương mặc dầu đã thi triển tất cả tuyệt chiêu của Ngũ-Hành luân ra đánh nhưng vẫng không làm sao đàn áp được Tiêu-Thanh-Đồng mà trái lại còn bị dồn vào thế thụ động nữa.

Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội vừa xem vừa tấm tắc khen Tam-Phân Kiếm-Pháp của nàng. Vô-Trần Đạo-Nhân cùng Triệu-Bán-Sơn đều hết lòng khen ngợi. Trần-Gia-Cách cũng gật đầu thầm thán phục. Tiêu-Thanh-Đồng giao đấu một hồi thì hai má đỏ ửng lên, càng tăng thêm vẻ diễm lệ.

Đánh với Diêm-Thế-Chương thêm mấy chục hiệp, chiêu thế của Tiêu-Thanh-Đồng chợt biến đổi. Nàng dùng một thế ‘Hải thị mãn lâu’ đánh tới như mưa, trông hư hư thật thật, kiếm quang sáng loáng, kiếm khí lạnh toát cả người.

Diêm-Thế-Chương bỗng hét lên một tiếng đau đớn, cánh tay mặt của hắn đã bị một vết thương khá nặng, một chiếc Ngũ-Hàng luân văng luôn xuống đất. Mọi người ai nấy đến vỗ tay tán thưởng không biết mấy. Diêm-Thế-Chương nhảy ra ngoài vòng chiến chừng hai trượng nói lớn:

-Thôi! Ta chịu phục tài người rồi! Giữ lời hứa, ta giao lại túi vải này cho ngươi, bên trong có bộ Khả-Lan-Kinh của các người đó!

Tiêu-Thanh-Đồng vui mừng khôn xiết. Nàng bước tới mấy bước, tra kiếm vào vỏ, hai tay tiếp nhận cái bao màu vàng bên trong đựng Khả-Lan-Kinh, thánh vật của dân tộc nàng.

Nhưng bỗng Diêm-Thế-Chương nghiêm sắc mặt hét lên một tiếng:

-Khoan đã!

Rồi xuất kỳ bất ý, tay trái của Diêm-Thế-Chương vung ra, ba mũi phi tiêu nhắm hông Tiêu-Thanh-Đồng nhanh không kịp nhìn. Trong lúc không đề phòng vì tin Diêm-Thế-Chương nên không còn cách nào tráng kịp ba mùi ám khí của Diêm-Thế-Chương. Tiêu-Thanh-Đồng bèn lộn lại theo thế ‘Thiết-bảng kiều’, toàn thân lộn ngược ra đàng sau tránh khỏi. Tiêu-Thanh-Đồng vừa bật mình trở dậy thì Diêm-Thế-Chương lại nhắm đầu nàng mà phóng tiếp thêm ba mũi nữa. Khi vừa khám phá ra thì ba mũi phi tiêu thì đã quá muộn, không còn cách gì né tránh được cả. Tiêu-Thanh-Đồng hết sức kinh hãi trong khi đám người Duy tức giận tuốt binh khí ra, la lên thất thanh nhưng tất cả cũng chỉ đành bó tay.

Đang lúc nguy ngập đột nhiên ‘cạch... cạch... cạch’ ba tiếng, cả ba mũi phi tiêu đều rớt cả xuống đất. Thoát chết, Tiêu-Thanh-Đồng mồ hôi tuôn ra ướt đẫm cả người. Nghĩ lại bị Diêm-Thế-Chương lừa, nàng tức giận rút kiếm ra bổ một nhát ngay đầu hắn. Diêm-Thế-Chương chỉ còn cách dùng Ngũ-Hành luân vận toàn lực đưa lên đỡ để cho đầu mình không bị bửa đôi ra. Nhưng ngờ đâu đó chỉ là một hư chiêu. Trong khi Diêm-Thế-Chương tập trung hết sức lực vào đôi tay đỡ kiếm thì Tiêu-Thanh-Đồng rút thanh đoản kiếm đeo bên hông đâm vào bụng của hắn. Diêm-Thế-Chương thét lên một tiếng rồi ngã lăn xuống đất dãy dụa rồu tắt thở. Tiếng mọi người reo hò như vang dậy đất trời. Tiêu-Thanh-Đồng nhảy tới mở cái bao vải trên lưng của Diêm-Thế-Chương ra. Người Duy cao lớn, râu ria xồm xoàm chạy tới, hết lời khen thường, khích lệ:

-Con giỏi lắm! Con ta giỏi lắm!

Tiêu-Thanh-Đồng nâng cái bao vải trao cho ông ta, miệng cười đắc ý khẽ nói:

-Gia Gia!

Người Duy cao lớn, râu xồm xoàm kia chính là Mộc-Trác-Luân, thân phụ của Tiêu-Thanh-Đồng. Mộc-Trác-Luân vừa đỡ lấy cái bao vải xong, tất cả người Duy có mặt liền bao quanh bảo vệ ông ta cẩn thận.

Bỗng nhiên, Tiêu-Thanh-Đồng thấy một cậu bé tuổi không quá 15 giục ngựa lướt tới, nhảy xuống ngựa nhặt lên ba hột tròn tròn màu trắng rồi phóng lên yên ngựa đem về trao cho một chàng tướng mạo như một công tử hào hoa. Chàng công tử cầm ba hột ấy bỏ vào trong túi.

Tiêu-Thanh-Đồng nhìn chàng công tử, chàng cũng nhìn nàng, cầm quạt phe phẩy, khẽ cười mỉm chi. Tiêu-Thanh-Đồng đôi má chợt hồng lên, bụng nghĩ thầm:

-Thì ra chàng công tử này đã sử dụng ba hột kia để gạt ba mũi phi tiêu mà cứu nguy cho ta. Không biết ba hột kia là thứ gì mà lợi hại như thế? Hẳn là một loại ám khí đặc biệt mà ta chưa bao giờ được thấy qua.

Mộc-Trác-Luân hình như biết được đầu đuôi mọi chuyện nên ông ta đến trước mặt chàng công tử cúi đầu chào, nói bằng một giọng như biết ơn:

-Nhờ ơn công tử ra tay yểm trợ mà tiện nữ (#4) thoát mạng dưới tay kẻ thù. Xin công tử làm ơn cho chúng tôi được biết cao danh quý tánh.

Chàng công-tử cũng vội vàng nhảy xuống ngựa đáp lễ, mặt tươi cười, vui vẻ đáp:

-Tại hạ họ Trần, tên Gia-Cách, nguyên có một người anh em kết nghĩa ‘sinh tử chi giao’ bị bọn ‘ưng khuyển’ cùng với bọn tiêu sư đốn mạt này bắt đem đi xa nên rượt theo chúng để giải cứu. Chẳng ngờ bọn ấy dùng ngụy kế trốn thoát được nên công việc của tại hạ cùng các anh em vì thế mà thất bại. Còn quý vị hôm nay đã thâu hồi lại được thánh vật thật là may mắn biết bao. Xin thành thật chia vui cùng tiên sinh và toàn thể Duy-tộc.

Mộc-Trác-Luân liền gọi con trai là Tiêu-A-Y cùng với con gái Tiêu-Thanh-Đồng đến trước mặt Trần-Gia-Cách bái tạ.

Trần-Gia-Cách nhìn thấy Tiêu-A-Y tai to, mặt vuông hình chữ điền, râu lún phún, sắc diện trang nghiêm, thật là một đấng anh hào. Còn Tiêu-Thanh-Đồng thì hình dung thanh lịch, phong tú dịu dàng, tươi như hoa xuân, đẹp như nắng sớm. Lúc nãy, Trần-Gia-Cách chỉ chú ý đến kiếm thuật của nàng, nhưng bây giờ mới có cơ hội chiêm ngưỡng dung nhan. Thật là một tuyệt thế giai nhân hiếm có trên đời. Trần-Gia-Cách nhìn nàng mê man, như ngây như dại...

Tiêu-Thanh-Đồng trong dáng điệu thẹn thùng, giọng oanh vàng trong trẻo thốt lên những lời nghe thật êm tai:

-Nếu không nhờ công tử ra tay tương trợ thì tiểu muội đã bị kẻ thù ám hại mất rồi. Đại ân đức ấy xin ghi tạc vào lòng chứ chẳng bao giờ dám quên.

Trần-Gia-Cách mỉm cười nói:

-Nghe đồn Tam-Phân Kiếm-Thuật của Thiên-Sơn Song Ưng cao diệu tuyệt vời, hôm nay mới được hân hạnh thưởng thức, thật quả là ‘danh bất hư truyền’. Một chút tiểu xảo đâu bõ gì để cô nương phải nhọc lòng mà bận tâm làm gì.

Châu-Ỷ nghe hai người nói chuyện khách khí với nhau thì cũng nhảy vào xen lời:

-Kiếm thuật của tỷ tỷ thật là cao siêu hơn tiểu muội. Nhưng tiểu muội cũng có cái khác hơn tỷ tỷ mà dạy lại cho tỷ tỷ được.

Tiêu-Thanh-Đồng hỏi:

-Xin tỷ tỷ cứ chỉ dạy cho.

Châu-Ỷ ra vẻ sành sõi, hí hửng nói:

-Tỷ tỷ đừng bao giờ tin bọn đàn ông quỷ kế đa đoan. Chỉ vì tỷ tỷ quá thật thà nên suýt bị hắn ám hại đó! Cái kinh nghiệm sống tiểu muội muốn nói với tỷ tỷ là từ nay về sau đừng tin ai cả, nhất là bọn đàn ông. Những lời ngon ngọt của chúng không bao giờ chân thật cả. Tỷ tỷ phải luôn luôn tiểu tâm đề phòng mới được.

Tiêu-Thanh-Đồng đáp:

-Lời dạy bảo của tỷ tỷ, tiểu muội xin trân trọng ghi nhớ vào lòng. Thật vậy, nếu không nhờ Trần công-tử đại nhân đại nghĩa thì tiểu muội đã bỏ mạng dưới tay tên tiêu sư gian hoạt kia rồi.

Châu-Ỷ nói;

-Tỷ tỷ nói Trần công tử... công tử nào? À, thì ra là Trần-Gia-Cách, Tổng-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội!

Quay qua Trần-Gia-Cách, Châu-Ỷ tò mò hỏi:

-Mà Trần... Trần đại ca! Anh dùng thứ vũ khí lợi hại nào để đánh rơi mấy mũi phi tiêu của tên Diêm-Thế-Chương kia vậy? Lấy cho tiểu muội xem được không?

Trần-Gia-Cách mỉm cười thò tay vào túi lấy ra ba hột màu trắng đưa cho Châu-Ỷ xem. Thì ra đó là... ba quân cờ! Trước sự ngạc nhiên của Châu-Ỷ, Trần-Gia-Cách giải nghĩa:

-Dù đó chỉ là những quân cờ, nhưng đừng nghĩ nó vô dụng đấy nhé! Ăn thua ở mình có biết sử dụng nó hay không thôi. Gặp địch thủ càng lợi hại, tác dụng của nó càng mạnh.

Châu-Ỷ nói:

-Trần đại ca! Anh có thể biểu diễn lại thủ pháp khi nãy cho em coi được không? Lúc nãy anh ra tay lẹ quá, em nhìn không kịp.

Trần-Gia-Cách cả cười nói:

-Chỉ sợ làm trò cười cho cô mà thôi!

Châu-Ỷ nói:

-Làm sao tiểu muội lại dám cười anh chứ? Lúc nãy đi đường, phụ thân em khen võ nghệ anh là ‘tuyệt thế vô song’, trên đời này chưa chắc có người nào sánh được với anh. Sao không biểu diễn cho em xem một chút?

Tiêu-Thanh-Đồng nghe Châu-Ỷ nói chàng công-tử ân nhân đó là Tổng-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội thì tự nhiên trong lòng cảm thấy áy náy vô cùng. Lại nghe Châu-Ỷ hết lời ca tụng võ công của chàng thì càng thêm lạ lùng. Nàng liền xoay qua rỉ tai Mộc-Trác-Luân nói vài câu. Sau đó, hai cha con như thương lượng gì với nhau một lúc khá lâu. Chỉ thấy cứ thỉnh thoảng, Mộc-Trác-Luân lại gật đầu nói:

-Hay! Hay lắm!

Lúc ấy đám hào kiệt Hồng Hoa Hội dẫn đám tù binh đến, gồm những tên ưng khuyển và tiêu sư bị bắt hoặc đầu hàng trong trận chiến vừa qua. Những tên nào bị thương đều được rịt thuộc băng bó cho cẩn thận.

Mọi người nhận ra một tên tiêu sư là Tiền-Chính-Luân, bị Vô-Trần Đạo-Nhân chặt đứt mấy ngón tay trong trận chiến vừa qua. Gã tiêu sư chuyên đi chung với hắn là Thái-Vĩnh-Minh thì đã chết dưới ám khí của Triệu-Bán-Sơn ban nãy. Chỉ có tên Đổng-Triệu-Hòa là không ai thấy đâu cả.

Bọn tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu cục chuyến này mới thật là ê chề, thất bại nặng nề. Có bốn tên tiêu sư nổi tiếng thì chết mất hai, còn hai bị thương, một bị cụt mất bốn ngón tay còn một không biết trốn chui trốn nhủi nơi nào.

Về phía quan sai kể cả đám bổ khoái ở Bắc-Kinh, Thiên-Tân và Bảo-Định đặc phái theo giúp Trương-Siêu-Trọng chết hơn mười mạng và bị thương cũng gần chục mạng.

Mộc-Trác-Luân đến bên Trần-Gia-Cách nói:

-Nhờ các vị anh hùng tiếp viện mà đại sự của chúng tôi được thành công mỹ mãn. Vừa rồi nghe công tử nói có một vị bằng hữu bị bắt dẫn đi chưa giải cứu được. Để tỏ chút lòng biết ơn, tôi sao ước được để lại một ít người theo giúp các vị anh hùng, và tùy nghi công tử sai khiến. Bọn này tuy võ nghệ không được cao siêu nhưng rất dũng cảm và trung thành, có thể làm tay chân đắc lực cho công tử được. Chẳng hay công tử có bằng lòng chấp thuận hay không?

Trần-Gia-Cách rất đẹp lòng, mừng rỡ đáp:

-Tộc trưởng đối với Hồng Hoa Hội đặc biệt ưu đãi thế này thì còn gì bằng! Tại hạ cảm kích vô ngần.

Trần-Gia-Cách gọi đám hào kiệt Hồng Hoa Hội giới thiệu từng người với Mộc-Trác-Luân. Hai bên rất tương đắc vì đã có sẵn thiện cảm với nhau.

Mộc-Trác-Luân nói với Vô-Trần Đạo-Nhân rằng:

-Từ trước tới nay tôi chưa thấy kiếm pháp của ai kỳ diệu biến ảo như của đạo trưởng. Nếu đạo trưởng không nương tay ắt tính mạng tôi đã chẳng còn.

Nói xong Mộc-Trác-Luân vui vẻ cười lên một tràng sảng khoái rất thật tình. Vô-Trần Đạo-Nhân cười, khiêm tốn nói:

-Thật tôi trót mạo phạn hổ oai! Xin tha thứ cho và đừng chấp nhặt nhé!

Thấy đám hào kiệt Hồng Hoa Hội toàn là những nhân vật nghĩa khí, võ nghệ cao siêu, đám người Duy tỏ ra ngưỡng mộ và kính trọng vô cùng. Hai bên ngồi nói chuyện thân mật thành tâm kết giao với nhau.

Bỗng đâu từ hướng Tây có tiếng vó ngựa dồn dập, mọi người liền xoay mắt nhìn. Một kỵ sĩ đang phóng như bay tiến về phía họ. Đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh, kỵ sĩ ấy gò cương ngựa lại, tung người nhảy xuống. Mọi người nhìn thì thấy đó là một trang thiếu niên, mặt mũi rất ‘khôi ngô’, đẹp hiếm có trên đời. Chàng ta chạy đến bên Lục-Phỉ-Thanh gọi:

-Sư ph»¥!

Chàng thiếu niên ấy chính là Lý-Mộng-Ngọc chứ chẳng phải ai xa lạ. Như thường lệ, nàng cải nam trang để giữ kín hành tung. Nhìn thấy Tiêu-Thanh-Đồng, Lý-Mộng-Ngọc chạy đến ôm chặt vào lòng thân thiết trước mặt mọi người mà quên cả mình đang cải nam trang. Ai trông thấy cũng đều tưởng như là một đôi nhân tình lâu ngày xa vắng nhau.

Lý-Mộng-Ngọc hỏi Tiêu-Thanh-Đồng:

-Đêm hôm ấy em đi ngã nào mà kiếm chẳng gặp? Thật là ác quá, làm người ta lo sợ muốn chết, không biết sống chết ở góc bể chân trời nào? Vậy bộ Khả-Lan-Kinh đã thâu hồi được chưa?

Tiêu-Thanh-Đồng cũng vui vẻ, tươi cười nói:

-Thâu hồi được rồi! Ôi! Mừng vui chi xiết kể!

Đoạn Tiêu-Thanh-Đồng lấy tay chỉ vào cái bao trên vai Tiêu-A-Y cho Lý-Mộng-Ngọc thấy. Hai người miệng nói luyên thuyên thật vui vẻ. Ai nấy đều nghĩ thầm:

-“Hai người này trông thật là xứng đôi vừa lứa với nhau. Mà không biết ở đâu lại có được một nam tử đẹp trai, có duyên đến thế này!”

Trần-Gia-Cách cũng phải hoang mang tự nghĩ:

-“Chắc là hai người có thề non hẹn biển gì với nhau rồi chứ không phải đùa. Nếu không phải sao ở chốn đông người như thế mà lại âu yếm khắng khít với nhau như vậy?”

Lý-Mộng-Ngọc sau đó lại hỏi:

-Mà em có mở bao ra mà xem cho cẩm thận hay chưa? Trong bao quả có bộ Khả-Lan-Kinh hay không?

Tiêu-Thanh-Đồng đáp:

-Chưa! Dân tộc em trước tiên phải tắm gội sạch sẽ, trai lạt hẳn hòi, tế cáo đất trời, cảm tạ đại năng của đức Phật (#5) rồi mới dám mở xem. Khả-Lan-Kinh là thánh vật, không thể khinh xuất mà tùy tiện mở ra xem bất cứ lúc nào hay bất cứ ở đâu được. Vì vậy mà cho dù đã đoạt lại được mà vẫn không ai dám mở ra xem bên trong. Nhưng tại sao lại có câu hỏi ấy?

Lý-Mộng-Ngọc liền giải thích:

-Có chỗ đáng ngờ nên mới hỏi kỹ em. Tại sao không ‘ngộ biến tòng quyền’ mà mở ra xem cho chắc chắn cái đã có hơn không?

Nghe Lý-Mộng-Ngọc nói, Mộc-Trác-Luân như tỉnh ngộ, cho là lời nói hữu lý vô cùng, nhất lại nghĩ đến những con người gian manh tráo trở như đám tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu cục kia. Nếu chẳng may chúng đem cuốn thật về triều đình mà lãnh thưởng và tráo cuốn giả vào thì thật là công toi. Chi bằng cứ mở ra xem trước, có gì thì còn tính ngay mưu kế được chứ để chờ đem về xứ sở làm đúng nghi thức mà rủi không thấy Khả-Lan-Kinh đâu thì còn biết phải làm sao!

Không do dự nữa, Mộc-Trác-Luân liền mở cái bao ra. Ông ta hồi hộp từng giây từng khắc một. Bao nhiêu con mắt cũng chăm chú nhìn theo. Nhìn thấy những chữ vàng rực sáng phản chiếu dưới ánh mặt trời, ông ta khẽ nở một nụ cười. Bao nhiêu lo lắng đè nặng trong người ông ta như vơi hẳn đi. Nhưng chưa cười được bao lâu bỗng nhiên Mộc-Trác-Luân thét lên một tiếng rồi ngã ngửa ra bất tỉnh. Thì ra đó không phải là bản chính của Khả-Lan-Kinh. Không biết bọn tiêu sư làm cách nào thật tài tình nghĩ ra cách làm giả được bộ kinh sách để thoạt tiên nhìn vào thì tưởng chừng như là kinh sách thật, nhưng đến khi lật ra bên trong thì mới biết bị lừa, vì chỉ thấy toàn là giấy độn.

Đám người Duy kinh hãi lo cứu tỉnh Mộc-Trác-Luân. Một lát sau, ông ta mới lần hồi tỉnh lại. Đám người Duy cả giận, ai nấy buông lời mạt sát, chửi đám tiêu sư không biết mấy.

Tiêu-A-Y nắm đầu một gã tiêu sư kéo dậy tát cho mấy cái nẩy lửa lớn tiếng hỏi:

-Đồ chó chết! Mày mau khai thật! Bộ Khả-Lan-Kinh ở đâu?

Tên tiêu sư mếu máo, hai tay bụm mặt lại miệng ú ớ nói không ra lời. Mộc-Trác-Luân rút ngọn mã đao sáng loáng cầm tay, nghiến răng hét lên:

-Mày có nói không? Không nói tao cho một đao đứt làm hai khúc ngay bây giờ!

Tên tiêu sư vừa lạy vừa van nài:

-Xin ngài tha chết cho con vì chỉ có mấy người tiêu đầu mới biết rõ Khả-Lan-Kinh ở đâu thôi.

Hắn tuy nói bằng miệng nhưn tay lén chỉ vào Tiền-Chính-Luân cho mọi người thấy. Tiêu-A-Y nhảy tới nắm hai tai của Tiền-Chính-Luân giở bổng người hắn lên, rồi nắm cứng hai tay lại như sửa soạn đập lên đầu y mà hỏi:

-Người bằng hữu muốn sống với vợ con hay là chết theo ông theo bà?

Tiêu-Thanh-Đồng sợ Tiêu-A-Y nóng tính đánh chết Tiền-Chính-Luân thì lấy ai mà hỏi nữa nên, nên liền tới chụp lấy vạt áo của Tiêu-A-Y mà can ra. Tiêu-A-Y tuy nóng tính và thô bạo nhưng lại rất nể sợ và nghe lời em gái. Vì vậy khi Tiêu-Thanh-Đồng cản chàng ta lại thì lập tức chàng ta lui ngay ra để mặc em gái mình định liệu.

Tiêu-Thanh-Đồn hỏi Lý-Mộng-Ngọc:

-Làm sao biết được trong bao này không có bộ Khả-Lan-Kinh?

Lý-Mộng-Ngọc cười đáp:

-Nào có biết! Chẳng qua nghi ngờ nên bảo em thử mở ra xem thế thôi.

Mộc-Trác-Luân lại hét tiếp:

-Khả-Lan-Kinh đâu? Nói mau, không thì đừng trách ta dùng cực hình với mi đấy nhé!

Tiền-Chính-Luân đáp:

-Đã bị một tiêu sư khác đánh tráo đem đi rồi!

-Đi từ bao giờ?

-Không lâu lắm, chỉ mới đây thôi.

Mộc-Trác-Luân bán tín bán nghi sai người đi ngựa kiếm quanh vòng đai, nhưng chẳng thấy một bóng hình nào khả nghi qua lại. Mộc-Trác-Luân buồn rầu không thể nào nói được. Phần sợ kinh bị mất, phần sợ kinh đã bị hủy hoại.

Trong khi đó, Lý-Mộng-Ngọc kể lại mọi chuyện từ lúc sau khi chia tay với Lục-Phỉ-Thanh đồng thời hỏi sư phụ về tất cả mọi biến cố nơi đây. Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Thầy đã hứa, sau này thầy sẽ kể hết tất cả cho con nghe, chứ bây giờ thì chưa được. Nhưng con cần nhớ là những gì biết về họ hay biết về thầy tuyệt nhiên phải giữ kín bí mật, không thì tai họa xảy đến sẽ không biết đâu mà lường được. Bây giờ con nên về bảo vệ thái thái và mẫu thân đi là hơn.

Lý-Mộng-Ngọc đáp:

-Thầy cứ yên chí! Con sẽ không bao giờ để lộ bí mật nào ra cả. Có điều con muốn biết tất cả mọi người đây là ai, xin thầy giới thiệu họ cho con đi. Là tình sư đệ với nhau sao thầy lại dấu con mãi thế?

Suy nghĩ vài giây, Lục-Phỉ-Thanh đáp:

-Điều này thầy không thể nào chiều con được. Thôi, con về ngay đi.

Lục-Phỉ-Thanh tự nghĩ Lý-Mộng-Ngọc là con của một vị tướng quân được triều đình Mãn-Thanh trọng dụng thì không nên lôi nàng vào đi chung con đường Hồng Hoa Hội, là một tổ chức chống triều đình được. Đem Hồng Hoa Hội mà giới thiệu với Lý-Mộng-Ngọc sẻ đưa nàng vào một hoàn cảnh hết sức oái ăm và mâu thuẫn, quả là hết sức bất tiện.

Biết thầy rất cưng chiều mình nên Lý-Mộng-Ngọc chứng nào tật nấy, nũng nịu nháy mắt với Lục-Phỉ-Thanh rồi nói:

-Con biết thầy đâu có cưng con đâu, cho dù con lúc nào cũng ngoan ngoãn và kính mến thầy. Con biết mà! Thầy chỉ có thương sư điệt của thầy là Kim-Địch Tú-Tài Dư-Ngư-Đồng mà thôi. Thấy Kim-Địch Tú-Tài, thầy lúc nào cũng hân hoan, còn thấy mặt con lúc nào thầy cũng muốn xua đuổi, xa lánh.

Dứt lời, Ly-Mộng-Ngọc đến sát bên Tiêu-Thanh-Đồng kề tai nói nhỏ vào tai cô gái áo vàng điều gì đó. Chỉ thấy Tiêu-Thanh-Đồng cười ‘hì’ lên một tiếng rồi bốn vó ngựa của Lý-Mộng-Ngọc đã vọt đi thật lẹ như một mũi tên bắn đi.

Trần-Gia-Cách để ý quan sát tất cả những gì từ lúc Lý-Mộng-Ngọc đến, và trong lòng mãi thắc mắc về hành động thân mật giữa ‘chàng thiếu niên đẹp trai’ đó với Tiêu-Thanh-Đồng.

Đang bàng hoàng tâm tư như người bị mất của, thì Từ-Thiện-Hoằng đến trước mặt hỏi:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ, chúng ta hãy liệu mà bàn gấp kế hoạch để cứu tứ ca ngay đi thôi!

Lúc bấy giờ, Trần-Gia-Cách mới như người ngủ mê mới tỉnh, giật mình thức dậy mà nói:

-Phải đấy! Phải đấy! Việc cứu Văn tứ ca là trọng tâm của chúng ta mà!

Quay qua Tâm-Nghiện, Trần-Gia-Cách nói:

-Tâm-Nghiện, em mau mượn con bạch-mã của Thập-nhất đương-gia mà đi gọi gấp Thập đương-gia về đây cho ta, bảo là có việc cần gấp.

Tâm-Nghiện nhận lệnh đi rồi, Trần-Gai-Cách lại nói với Vệ-Xuân-Hoa:

-Cửu ca hãy đến Hiệp-cốc hợp sức với Thập-nhị đương-gia để dọ thám tin tức bọn ưng khuyển để tìm tung tích của Văn tứ ca rồi đến chiều trở lại đây báo cáo cho tôi biết.

Vệ-Xuân-Hoa nhận lệnh đi rồi, Trần-Gia-Cách lại nói với tất cả đám hào kiệt còn lại của Hồng Hoa Hội rằng:

-Đêm nay chúng ta tạm nghỉ tại đây. Chờ mấy người kia về báo cáo rõ tình hình rồi lại tiếp tục truy kích. Tất cả các anh em nghĩ sao?

Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội nghe bàn, ai nấy đều tán thành. Sau nửa ngày chiến đấu mệ mỏi, mọi người vừa đói lại vừa khát. Mộc-Trác-Luân sai đám người Duy dựng lều cho cả đám người Duy và đám hào kiệt Hồng Hoa Hội. Sau đó ông ta lại sai người đem ra rượu thịt ra chia đều cho tất cả mọi người cùng ăn chung, nhắm chung. Ăn uống no nê xong, mọi người ai nấy tìm chỗ để nghỉ ngơi.

Trần-Gia-Cách sau đó gọi Ngô-Quốc-Đống ra điều tra tỉ mỉ. Ngô-Quốc-Đống chửi Trương-Siêu-Trọng không tiếc lời rồi đem chuyện Văn-Thái-Lai kể lại rành rẽ...

Từ hôm bắt được Văn-Thái-Lai tại Thiết-Đảm-Trang thì ngày nào cũng để nằm trong một chiếc xe lớn, ngày đêm canh gác vô cùng nghiêm ngặt. Nhưng mới hôm qua được tin Hồng Hoa Hội đuổi theo định giải cứu Văn-Thái-Lai thì Trương-Siêu-Trọng thay đổi ngay ý định, không để chàng nằm trong đó nữa. Theo kế ‘Kim Thiền Thoát Xác’, Trương-Siêu-Trọng thay Ngô-Quốc-Đống vào chỗ Văn-Thái-Lai. Vì vậy khi các hào kiệt khi cướp được tù xa thì Văn-Thái-Lai đâu chẳng thấy mà lại thấy mặt Ngô-Quốc-Đống. Sau đó Trần-Gia-Cách lại đem bọn Tiền-Chính-Luân ra hỏi thì bọn này chỉ ú ớ mà chẳng biết đường nào mà trả lời, thành ra không có kết quả gì.

Bỗng Từ-Thiện-Hoằng ra khỏi màn, đến bên Trần-Gia-Cách nói thầm:

-Tổng-Đà-Chủ à! Cứ xem cặp mắt láo liên của tên Tiền-Chính-Luân này tôi thật hết sức nghi ngờ. Tôi chắc chắn nó có gì dấu kín mà không chịu nói thật đấy. Xin Tổng-Đà-Chủ cứ để cho tôi dùng cách thử hắn không chừng sẽ ra được manh mối.

Trầng-Gia-Cách gất đầu khen:

-Hay lắm!

Sau đó, Trần-Gia-Cách kề tai nói nhỏ với Từ-Thiện-Hoằng và cả hai bàn bạc với nhau một lúc khá lâu. Trời đã khuya mà chưa thấy Thạch-Song-Anh và Vệ-Xuân-Hoa đem tin tức về báo cáo. Ai nấy đều lo lắng phân vân.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Xem điệu này, tôi chắc cả hai đã dò được tin tức của Văn tứ ca rồi. Sở dĩ họ chưa về là vì muốn kiểm điểm lại cho chắc chắn đó thôi. Chẳng có gì cho Tổng-Đà-Chủ và anh em phải lo lắng cả.

Vừa vào lều nghỉ ngơi được một lát thì nghe bên ngoài có tiếng bọn tiêu sư và bọn quan sai bị trói lại. Trần-Gia-Cách giao trách nhiệm cho Tưởng-Tứ-Căn và Từ-Thiện-Hoằng thay phiên nhau canh giữ. Chúng không có lều nên phải ở ngoài trời, bị gió sương nhuộm ướt làm cho rét chịu không thấu nên rên rỉ, run lên cầm cập.

Lúc đó mặt trăng đã lên giữa đầu. Từ-Thiện-Hoằng bèn gọi Tưởng-Tứ-Căn bảo đi nghỉ để chàng thay thế canh gác đám tù binh. Chàng đi tuần một vòng, không thấy gì khả nghi liền ngồi xuống đám cỏ xanh nghỉ chân, sát ngay một bên Tiền-Chính-Luân. Từ-Thiệng-Hoằng vô ý dẫm lên chân Tiền-Chính-Luân, ngay vết thương của hắn. Đau quá, Tiền-Chính-Luân bật người dậy hét lớn lên. Đang lúc hoang mang, Tiền-Chính-Luân nghe bên tai tiếng Từ-Thiện-Hoằng ngáy khẽ. Mỗi lúc, tiếng ngáy lại đều hơn, chứng tỏ chàng đang đánh một giấc say sưa ngon lành.

Tiền-Chính-Luân mừng thầm trong bụng, khẻ từ từ mở dây trói hai tay, hai chân của hắn ra. Sau một lúc cố gắng, hắn đã thành công, mở hết được dây trói. Nằm yên không cựa quậy, Tiền-Chính-Luân giả bộ mê man, nhưng vẫn để ý nghe ngóng động tịnh nơi Từ-Thiện-Hoằng. Nghe hơi thở Từ-Thiện-Hoằn mỗi lúc mội mạnh, Tiền-Chính-Luân biết là chàng ta đang ngủ say lắm.

Xé áo bó lại nơi gót chân bị trọng thương, Tiền-Chính-Luân lén ngồi dậy, lê từng bước một ra khỏi chỗ nằm, không phát ra một tiếng động nhỏ nào. Ra khỏi chỗ Từ-Thiện-Hoằng ngồi gác, Tiền-Chính-Luân đến một gốc cây cổ thụ có cột sẵn một con ngựa với đầy đủ yên cương.

Tiền-Chính-Luân khẽ từ từ tháo dây cương, phóng lên yên ngựa ra roi. Con chiến mã phóng như bay ra đường lộ.

Đi được một khúc, Tiền-Chính-Luân gò cương ngựa lại nghe ngóng. Bốn bề vắng vẻ, im phăng phắc, không có một tiếng độn nào. Tiền-Chính-Luân khấp khởi mừng trong lòng, rằng cuộc mạo hiểm thoát thân của hắn chẳng ai hay biết một tí gì. Hắn giục ngựa chạy đến chỗ chiếc xe mà Trương-Siêu-Trọng cho Ngô-Quốc-Đống nằm thế chỗ Văn-Thái-Lai theo kế ‘Kim Thiền Thoát Xác’ chỉ còn là chiếc xe không vì ngựa đã được tháo ra rồi.

Đang khi ấy thì tại mấy chiếc lều, có một bóng người đi ra. Đó là Châu-Ỷ. Nguyên nàng ngủ chung một lều với Lạc-Băng và Tiêu-Thanh-Đồng. Cả hai người đều có tâm sự lo lắng cũng như phải chiến đấu cả ngày nên mệt quá, lăn ra mà ngủ. Chỉ có Châu-Ỷ là trằn trọc mãi không ngủ được.

Cho đến nửa đêm, Châu-Ỷ vừa chớp mắt thì nằm chiêm bao thấy mình bị rơi xuống một hố sâu vô cùng nguy hiểm. May thay, nàng được một chàng trai cứu nàng thoát nạn. Mà chàng trai ấy lại chẳng phải ai khác hơn là người mà nàng vẫng hàng ngày ghét cay ghét đắng: Từ-Thiện-Hoằng. Nhìn mình nằm trong vòng tay Từ-Thiện-Hoằng, Châu-Ỷ vừa mắc cỡ kinh hãi còn hơn cả lúc mới gặp đại nạn. Nàng kêu lên một tiếng thất thanh thì vừa vặn là lúc nàng tỉnh cơn mộng thức giấc.

Giấc mộng kỳ quái ấy đánh thức Châu-Ỷ dậy. Cùng lúc ấy, nàng nghe có tiếng ngựa bên ngoài nên khẽ vén mộ khoảng lều lên xem thử. Vừa nhìn thấy Tiền-Chính-Luân cỡi ngựa ra đường cái, Châu-Ỷ chụp vội lấy cây đao ra khỏi lều rượt theo. Lo ngại Tiền-Chính-Luân chạy thoát, Châu-Ỷ đã định tri hô lên. Nhưng chưa kịp mở miệng thì có một người rượt theo nắm nàng giữ lại ra dấu bảo đừng làm kinh động, nói thật khẽ:

-Châu cô nương, tôi đây mà! Cô không nhận ra được sao? Đừng nói lớn mà hư hết kế hoạch của tôi.

Khi nhận được người ấy là Từ-Thiện-Hoằng, Châu-Ỷ chém xả xuống một đao. Từ-Thiện-Hoằng nhanh nhẹn chụp cổ tay nàng lại và giựt lấy thanh đao. Thẹn quá hóa giận, Châu-Ỷ thoi ngay một quyền vào ngay bụng Từ-Thiện-Hoằng. Quyền đánh quá đột ngột khiến Từ-Thiện-Hoằng không sao tránh nổi liền la lên một tiếng, người lảo đảo suýt té.

Châu-Ỷ như thấy hối hận bèn chạy tới đỡ cho Từ-Thiện-Hoằng khỏi ngã xuống, miệng nói như hờn như lẫy:

-Ai bảo anh bóp cổ tay tôi mà làm gì? Anh không thấy có người định tẩu thoát đó sao?

Từ-Thiện-Hoằng khẽ đáp:

-Đã bảo đừng lớn tiếng! Đó là kế của tôi.

Đoạn cả hai cùng nằm phục dưới đất để ý xem Tiền-Chính-Luân hành động như thế nào.

Từ-Thiện-Hoằng và Châu-Ỷ thấy rõ Tiền-Chính-Luân như đang mò mẫm tìm kiếm và lấy ra một vật gì ở bên trong chiếc tù xa. Chỉ nghe ‘cắc cắc’ hai tiếng, hình như hai phách gỗ đã đưọc kéo lại như cũ. Dưới ánh trăng, hai người thấy được đó là hai miếng ván. Tiền-Chính-Luân cất vật ấy vào mình rồi toan phóng lên yên ngựa phi nước đại.

Từ-Thiện-Hoằng vỗ nhẹ lên vai nàng một cái nói:

-Còn đợi gì nữa? Mau cùng tôi bắt hắn lại!

Châu-Ỷ nghe nói liền búng mình một cái rươt theo. Thấy có người truy kích, Tiền-Chính-Luân thúc mạnh vào hông ngựa một cái, con tuấn mã đau quá phóng một cái đến mấy trượng. Châu-Ỷ vận đề khí phóng mình thêm một cái đã theo kịp. Thấy Châu-Ỷ đã đến sát ngay đàng sau, Tiền-Chính-Luân trên lưng ngựa phóng ngược trở lại một quyền.

Châu-Ỷ biết hắn quyền của hắn chỉ là một thế hư để cho nàng bị phân tâm mà thừa cơ hội ấy tẩu thoát. Thế nhưng theo phản ứng tự nhiên, nàng vẫn khựng lại một cái. Thời gian nháy mắt ấy cũng đủ cho Tiền-Chính-Luân ra roi thúc ngựa phóng đi xa. Tiền-Chính-Luân lộ vẻ đắc ý cất tiếng cười ngạo nghễ. Nhưng tiếng cười chưa dứt thì hắn đã bị nhào xuống ngựa.

Châu-Ỷ vừa mừng vừa sợ. Mừng vì kẻ gian đã bị bắt lại. Sợ là vì không hiểu lý do hắn bị nhào xuống ngựa là sao? Kẻ nào ra tay lẹ làng và kinh khủng như vậy? Theo nàng được biết thì Từ-Thiện-Hoằng có bản lãnh cao siêu thật nhưng không thể nào cao đến độ như vậy. Nàng nhảy đến giơ đao lên định bổ xuống kết liễu đời của tên tiêu sư gian ác man trá kia thì Từ-Thiện-Hoằng từ đâu phóng tới giữ chặt cán đao lại nói:

-Cô nương xin đừng giết hắn vội. Hãy lục xem hắn dấu cái gì ban nãy trong người hắn đã chứ!

Châu-Ỷ khen phải, liền lục trong người Tiền-Chính-Luân, móc ra được hai miếng ván khi nãy. Xem cho kỷ thì không phải là hai miếng ván mà là một miếng da dê gấp đôi lại, hay nói cho đúng hơn là hai tấm bìa của một cuốn sách. Châu-Ỷ mở cuốn sách ra. Dưới ánh trăng, cả Châu-Ỷ lẫn Từ-Thiện-Hoằng thấy chữ viết trong cuốn sách ấy li ti, trông hết sức cổ quái, không làm sao nhận diện được hay đọc được một chữa nào.

Châu-Ỷ nói với Từ-Thiện-Hoằng:

-Mấy người trong Hồng Hoa Hội của anh có đọc được thứ chữ kỳ lạ này không, chứ còn tôi thì tôi xin chịu là... dốt! Chữ gì mà quái gở, lạ lùng thế này!

Thuận tay, Châu-ỷ trao cuốn sách cho Từ-Thiện-Hoằng. Chàng cầm sácnh lật xem qua một lượt rồi mừng rỡ nói với Châu-Ỷ:

-Công lao khó nhọc của cô nương đêm nay thật không uổng! Đây chính là bộ Khả-Lan-Kinh của người Duy! Thôi, chúng ta mau trở về trình báo cho Tổng-Đà-Chủ biết.

Cả hai định giải Tiền-Chính-Luân trở về chỗ cũ thì Trần-Gia-Cách cũng đang ở đầu kia đi lại. Trông thấy Trần-Gia-Cách, Châu-Ỷ hỏi:

-Ủa này, Trần đại ca! Anh đang ngủ say mà sao biết được chuyện này mà đến đón chúng tôi như vậy?

Trầng-Gia-Cách chỉ mỉm cười mà không đáp. Từ-Thiện-Hoằng liền đưa bộ Khả-Lan-Kinh đóng lại giữa hai tấm da dê cho Trần-Gia-Cách xem. Trần-Gai-Cách xem xong liền nói:

-Đây là bộ Khả-Lan-Kinh gồm 9 cuốn đóng chung lại. Người Duy xem đây là thánh vật, kính trọng vô cùng, coi như quốc bảo. Công cô nương lấy lại được bộ Khả-Lan-Kinh này, bọn ta mười mấy người cũng không sao sánh bằng.

Châu-Ỷ nghe cả Từ-Thiện-Hoằng lẫn Trần-Gia-Cách khen ngợi mình thì sung sướng vô cùng, nhưng cũng e lệ nói một vài câu khiêm nhường.

Một lát sau, Châu-Ỷ lên tiếng hỏi thăm Từ-Thiện-Hoằng:

-Anh còn bị đau ở bụng không?

Từ-Thiện-Hoằng đáp:

-Châu cô nương có nắm tay mạnh quá, đánh trúng tôi một cái tưỏng bể bụng mà chết rồi! May cho tôi có luyện được chút nội công nên chẳng đến nỗi chết vì tức bụng!

Châu-Ỷ nói:

-Tại anh bóp cổ tay tôi trước chứ bộ! Bị bóp cổ tay cũng tê nhức chứ sung sướng gì đâu!

Quay qua nhìn Tiền-Chính-Luân, Châu-Ỷ nói:

-Mi mau ngồi dậy mà đi theo ta vào chỗ cũ. Bộ tính nằm vạ ở đây chắc?

Vừa nói, Châu-Ỷ vừa đá vào mông hắn và thích nhẹ mũi đao bàn ngay ‘bàn tọa’. Tiền-Chính-Luân vẫn nằm trơ trơ không đụng đậy.

Châu-Ỷ giận quá hét lên:

-Mi toan làm làm trò gì vậy? Ta nào có chém giết mi đâu? Chẳng lẽ mi đòi chết thật hả?

Châu-Ỷ lại tống cho hắn thêm một đạp nữa. Tiền-Chính-Luân vẫn nằm cứng đo như ngưòi chết.

Trần-Gia-Cách mỉm cười rồi đưa tay ra vỗ nhẹ vào bả vai Tiền-Chính-Luân nói:

-Thôi! Đứng dậy đi!

Tiền-Chính-Luân sau đó rên ‘hừ hự’ vài tiếng rồi ráng chống tay đứng dậy.

Châu-Ỷ chợt nhìn dưới đất thấy một vật tròng màu trắng như con cờ. Châu-Ỷ bèn nhặt lên trao cho Trần-Gia-Cách mà nói rằng:

-Em hiểu ra rồi! Thì ra Trần đại ca dùng con cờ này làm ám khí điểm huyệt Tiền-Chính-Luân hèn chi hồi nãy hắn đang cười bỗng nhiên ngã nhào xuống ngựa nằm bất động.

Trần-Gia-Cách nói:

-Chúng tôi còn thua cô nương một bậc. Đang ngủ say mà cô nương nghe được tiếng động, biết có biến nên ra ngoài rượt theo Tiền-Chính-Luân. Rồi cũng nhờ cô khám phá ra hắn mò mẫm tìm kiếm bộ Khả-Lan-Kinh cất giấu vào mình định tẩu thoát. Tôi bất quá chỉ giúp cô nương một tay để bắt hắn lại, có gì gọi là tài?

Châu-Ỷ nói:

-Nếu không có Trần đại ca ra tay thì hắn đã chạy thoát mất rồi, còn đâu!

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Đừng nên khiêm nhường! Tổng-Đà-Chủ nói phải đó! Công lao của cô nương nhiều hơn hết.

Châu-Ỷ cao hứng nói:

-Cả ba người đều có công như nhau.

Từ-Thiện-Hoằng nói:

-Nhưng công lao của cô nương lớn hơn hết!

Như sực nhớ ra điều gi, Châu-Ỷ nói:

-Mà anh đừng nói lại với thân phụ tôi là tôi đánh anh một quyền ngay bụng nghe?

Từ-Thiện-Hoằng cưòi nói:

-Có sao đâu? Nói chơi cho vui! Ăn nhằm gì?

Châu-Ỷ làm mặt giận hờn:

-Không! Nếu anh mà nói thì từ rày tôi loại hẳn anh ra!

Từ-Thiện-Hoằng chỉ cười không đáp. Ba người liền đem Khả-Lan-Kinh, đồng thời dẫn Tiền-Chính-Luân đi đến trước lều của Mộc-Trác-Luân. Mấy người thuộc hạ canh gác liền vào thông báo. Mộc-Trác-Luân mặc áo chỉnh tề ra tận bên ngoài đón tiếp, mời cả ba người vào trong. Trần-Gia-Cách đem việc đoạt lại được bộ Khả-Lan-Kinh ra thuật lại rồi trao trả Mộc-Trác-Luân. Mộc-Trác-Luân hết sức vui mừng, lật từng trang xem xét cẩn thận thì quả là bộ kinh thật. Ông ta reo lên, sung sướng không thể nào mà tả được. Đám người Duy nghe nói đã lấy lại được thánh vật của dân tộc nên kéo nhau vào xem. Ai nấy đều vui mừng hớn hở.

Mộc-Trác-Luân kính cẩn mở tờ đầu trong Khả-Lan-Kinh ra đọc. Tất cả người Duy có mặt đều quỳ mọp dưới đất khấu đầu lễ bái để cảm tạ thần A-Trấp của họ.

Cầu kinh xong, Mộc-Trác-Luân hướng về Trần-Gia-Cách nói:

-Thưa Trần tổng-đà-chủ, cái ân đức giúp chúng tôi lấy lại Khả-Lan-Kinh từ tay lũ gian ác sánh tựa trời cao đất dày, không biết bao giờ mới đền đáp được các vị. Chỉ ước mong một điều là từ nay, bất cứ lúc nào Hồng Hoa Hội cần đến chúng tôi, chỉ cần cho biết thì cho dẫu phải vượt thiên sơn vạn thủy hay đi trên lửa, đạp trên than hồng, người Duy chúng tôi cũng chẳng bao giờ từ nan.

Trần-Gia-Cách cũng lễ phép đáp lễ. Mộc-Trác-Luân lại nói:

-Thưa Trần tổng-đà-chủ, sáng mai chúng tôi phải điều động anh em phụng thỉnh Khả-Lan-Kinh về xứ. Riêng hai đứa con của tôi là Tiêu-A-Y và Tiêu-Thanh-Đồng thì tôi tình nguyện để chúng lại đây dưới sự chỉ huy và dạy bảo của Tổng-Đà-Chủ. Đến khi nào Hồng Hoa Hội cứu được Văn tứ gia thì chúng nó sẽ về sau. Nếu khi nào rảnh, xin Tổng-Đà-Chủ cùng các vị đương-gia hãy ghé qua tệ quốc chơi để cho chúng tôi được tiếp đón, thì đó là một vinh hạnh lớn lao cho Duy-tộc.

Trần-Gia-Cách trầm ngâm giây lát rồi nói:

-Việc thâu hồi Khả-Lan-Kinh là công lao của Châu cô nương. Chúng tôi lẽ đâu dám mạo nhận công lao của mình mà để quý vị phải bận tâm đến chuyện ân nghĩa. Đường về Duy-Quốc xa xôi hiểm trở, biết đâu sẽ còn gặp nhiều gian nan. Theo tôi nghĩ, cả lệnh lang và lệnh ái nên cùng theo về một lượt để bảo vệ thánh vật cho chu toàn. Hảo ý Mộc lão anh hùng muốn lưu lệnh lang cùng lệnh ái ở lại giúp Hồng Hoa Hội giải cứu Văn tứ ca tôi rất cảm kích nhưng rất sợ hai vị vất vả nhọc nhằn nên thành thử không dám nhận lời dạy bảo của các vị.

Trần-Gia-Cách nói ra câu này không ngờ làm cho cả ba cha con Mộc-Trác-Luân phật lòng. Chàng dùng lời khiêm nhượng theo lối xã giao bình thường, ngụ ý để Mộc-Trác-Luân nói thêm vài câu nữa sẽ nhận lời. Nhưng chàng chưa hiểu rõ rằng phong tục người Duy khác hẳn, hễ nghĩ sao thì nói vậy, và ai nói sao thì hiểu vậy.

Tiêu-Thanh-Đồng nét mặt hầm hầm gọi lớn:

-Gia gia!

Mộc-Trác-Luân như hiểu ý con gái, khẽ gật đầu nhè nhẹ rồi kéo nhau đi ngay lập tức trở về lều, không nói thêm nửa chữ.

Mọi người kéo nhau sang lều Mộc-Trác-Luân nói chuyện vui vẻ trước khi chia tay lên đường khi bình minh ló dạng. Vừa lúc ấy, Châu-Trọng-Anh đến, Từ-Thiện-Hoằng bèn lên tiếng:

-Lần này đoạt lại được Khả-Lan-Kinh, công lao của Châu cô nương rất lớn. Phải được ghi nhận là công đầu.

Châu-Trọng-Anh rất vui mừng hỏi thăm mọi chuyện. Từ-Thiện-Hoằng nhất nhất kể lại cho ông ta nghe. Rồi bất thình lình, Từ-Thiện-Hoằng hai tay ôm bụng khom xuống ra chiều đau đớn lắm miệng kêu lớn:

-Ối chao ôi! Sao mà nó đau thốn thế này!

Mọi người đều chú ý nhìn Từ-Thiện-Hoằng, không hiểu vì sao chàng lại bỗng dưng rên xiết.

Châu-Ỷ thất sắc, bụng nghĩ thầm:

-“Lão quỷ này cố ý làm tuồng để tố cáo mình đánh trúng một quyền vào bụng của hắn đây mà!”

Châu-Trọng-Anh thấy thế liền hỏi:

-Hiền điệt làm sao thế?

Từ-Thiện-Hoằng tinh quái khẽ liếc nhìn Châu-Ỷ cười đáp:

-Tiểu điệt không sao cả. Chỉ hơi bị tức bụng một chút thôi.

Nhìn thấy mặt con gái mình nhăn nhó phụng phịu, Châu-Trọng-Anh cũng cười, đoán ra được phần nào câu chuyện...

Rạng sáng hôm sau, Mộc-Trác-Luân dẫn đám thuộc hạ người Duy đến từ biệt đám hào kiệt Hồng Hoa Hội. Hai bên tình thâm, ý thiết, như quyến luyến nhau không nỡ rời tay, chuyện trò mãi cho đến giờ Ngọ, Mộc-Trác-Luân mới lên ngựa khởi hành. Đám hào kiệt Hồng Hoa Hội theo chân đưa tiễn một đoạn đường khá dài. Trước khi chia tay, hai bên cùng nói với nhau những lời thân thiết hẹn ngày tái ngộ. Sau đó, Mộc-Trác-Luân dẫn đoàn người Duy nhắm hướng Tây mà đi.

Châu-Ỷ nắm tay Tiêu-Thanh-Đồng lại nói với Trần-Gia-Cách:

-Chị này vừa đẹp, vừa vui tính, võ nghệ cũng cao cường. Người ta muốn để chị lại giúp các anh trong việc giải cứu Văn tứ ca, sao anh lại nỡ từ chối?

Trần-Gia-Cách chỉ biết thở dài, đứng trân trân mà không nói được lời nào.

Tiêu-Thanh-Đồng quay sang phía Châu-Ỷ nói:

-Châu tỷ tỷ à! Trần công tử không bằng lòng cho em mạo hiểm cũng là do hảo ý chứ chẳng phải lẽ gì khác hơn đâu. Hơn nữa em xa nhà cũng đã khá lâu, chắc mẹ em mong mỏi nhiều lắm. Chị đừng ép em ở lại mà làm gì. Sau này nếu có duyên chúng ta sẽ gặp lại mà thôi.

Dứt lời, nàng đưa tay lên vẫy chào mọi người lần cuối rồi thúc ngựa phi nước đại. Châu-Ỷ nhìn Trần-Gia-Cách nói:

-Đại ca không cầm chân chị ấy lại giúp sức chúng ta nên chị ấy buồn lắm. Anh không nhìn thấy nước mắt hai hàng của chị ấy sắp trào ra hay không? Thật là đi không nỡ, mà ở cũng không xong. Là phụ nữ em hiểu rõ lắm. Chị ấy trong lòng quyến luyến anh vô cùng. Người ta có lòng với anh mà anh lại hững hờ thật là không nên không phải chút nào. Em thấy mà bất mãn hộ cho chị ấy đó!

Trần-Gia-Cách nhìn theo bóng Tiêu-Thanh-Đồng mà cảm thấy ngậm ngùi, trầm ngâm không nói gì cả. Tiêu-Thanh-Đồng đi được một đoạn đường bỗng nhiên quay ngựa trở lại, bắt gặp Trần-Gia-Cách vẫn đứng yên bất động như có nhiều tâm sự mà không sao nói được. Nhìn thấy Tiêu-Thanh-Đồng lấy tay gọi mình, Trần-Gia-Cách như mê như loạn, không sao tự chủ được liền chạy vội đến bên nàng. Tiêu-Thanh-Đồng nhảy xuống ngựa. Hai người nhìn nhau ngây ngất một hồi lâu mà chẳng ai thốt được nên lời.

Tiêu-Thanh-Đồng định thần trở lại rồi nói với Trần-Gia-Cách rằng:

-Tánh mạng của em là do công tử cứu lại cho. Thánh vật của dân tộc em cũng nhờ công tử thâu hồi cho. Bất kể công tử đối với em tệ bạc ra sao, em cũng không bao giờ phụ lòng công tử đâu.

Dứt lời, Tiêu-Thanh-Đồng rút đoản kiếm đeo bên hông trao cho Trần-Gia-Cách nói:

-Đoản kiếm này là do thân phụ em tặng cho làm vật hộ thân. Theo lời thân phụ thì bên trong có một sự kiện vô cùng bí mật mà suốt mấy trăm năm nay chưa ai khám phá được. Ngày nay lâm biệt, hậu hội hữu kỳ, không có gì tặng nhau, em chỉ xin công tử nhận lấy thanh kiếm này làm kỷ niệm mà đừng từ chối. Công tử là người thông minh mẫn tiệp, ắt sẽ có ngày tìm được bí mật ẩn tàng trong đó.

Trần-Gia-Cách trịnh trọng đưa hai tay nhận lấy kiếm nói:

-Thanh kiếm này là một báu vật, đáng lý ra tôi không thể nhận lãnh. Nhưng nếu làm thế chẳng hóa ra phụ lòng cô nương lắm sao. ‘Cung kính bất như tuân mệnh’, tôi xin lãnh nhận và đa tạ hảo tâm của cô nương.

Nhìn mặt Trần-Gia-Cách, Tiêu-Thanh-Đồng ít nhiều cũng biết được chàng là người tình thâm nghĩa trọng và đoán được tâm sự của chàng một phần nào. Nàng cúi mặt thẹn thùng, xúc động nói:

-Em biết vì lẽ gì mà anh không bằng lòng để em ở lại giúp. Có lẽ vì hôm trước anh nhìn thấy em với ‘chàng thanh niên’ kia như có tình ý với nhau. Chàng thanh niên đó là đồ đệ thân yêu nhất của Lục-Phỉ-Thanh tiền bối chứ chẳng phải ai xa lạ đâu. Nếu anh muốn biết chàng thanh niên ấy là người thế nào xin cứ hỏi thẳng Lục lão tiền bối sẽ rõ. Em chỉ là một cô gái quê mùa, không đủ lời lẽ để nói ra tất cả cho anh hiểu được. Thôi! Thời giờ gấp rút, em phải lên đường đây! Xin từ biệt anh nhé!

Dứt lời, Tiêu-Thanh-Đồng thúc mạnh vào hông con ngựa một cái. Con tuấn mã bốn vó phi như bay. Chỉ trong chốc lát, cả người lẫn ngựa đã biến mất trong cát bụi mù mịt.

Trần-Gia-Cách cầm thanh kiếm trên tay mà lòng ngơ ngẩn. Bóng Tiêu-Thanh-Đồng đã khuất, nhưng chàng vẫn đứng lặng im nhìn theo đám mụi mù. Phải một hồi lâu, Trần-Gia-Cách như mới trở về lại được với thực tại. Chàng lên ngựa quay đầu trở lại, rong cương đi từ từ chậm rãi. Mỗi bước chân ngựa như một nhịp tim đang đập mạnh trong lòng vị Tổng-Đà-Chủ tuổi trẻ tài cao tên Trần-Gia-Cách kia...

Hồi 9b

Huyết hận nhìn quanh đầy huyết hận

Oan gia ngoảnh lại vẫn oan gia

Trong lòng Trần-Gia-Cách hết sức hoang mang. Chàng thầm nghĩ nhất định phải tìm Lục-Phỉ-Thanh để hỏi cho kỳ được về người đệ tử của ông ta thế nào. Rồi chàng lại tự thắc mắc rằng tại sao phải hỏi, và hỏi để làm gì! Trong người chàng dâng lên một luồng cảm giác lâng lâng, không biết là dễ chịu hay khó chịu mà Trần-Gia-Cách từ trước đến nay chưa bao giờ trải qua.

Đang suy nghĩ vẩn vơ một mình thì một bóng bạch-mã từ đâu phi như bay đến. Gần tới nơi, Trần-Gia-Cách mới nhận ra là Tâm-Nghiện, theo lời chàng mượn ngựa Lạc-Băng đi công tác mới về. Thấy Trần-Gia-Cách, Tâm-Nghiện xuống ngựa nói lớn:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ, con vâng lệnh người đi gọi Thập đương-gia về. Thập đương-gia đang ở phía sau, chút nữa sẽ tới kịp, lại còn thêm một người ở xa đến nữa.

Trần-Gia-Cách hỏi:

-Là ai vậy?

Tâm-Nghiện thưa:

-Con cũng không được rõ. Chỉ biết khi con đến Nhạc-Vương-Miếu thì trông thấy hắn cùng với Thập đương-gia đang cãi nhau dữ dội. Thấy con đến, hắn tự nhiên mắng con là ‘thằng trộm ngựa’ rồi xông tới gây chuyện ẩu đả. Thập đương-gia thấy vậy liền bênh vực con, sau đó cùng hợp lực đánh hắn một trận. Võ công hắn thật hết sức cao cường. Hai người đánh với hắn ngoài trăm hiệp mà vẫn không hạ nổi. Con bèn nghĩ ra một kế, giả vờ ngã xuống đất bốc một nắm cát rồi thừa lúc hắn không để ý bèn ném vào mắt. Sau đó con với Thập đương-gia lên ngựa bỏ chạy, chẳng ngờ hắn không chịu bỏ mà quyết rượt đến cùng. Vì con bạch mã con cỡi phi lẹ mà con tới trước được. Nhưng Thập đương-gia cũng đang trên đường sắp tới. Còn hắn thì rồi thế nào cũng đến, có lẽ sau Thập đương-gia không bao lâu đâu.

Trần-Gia-Cách cả cười nói:

-Em thật là một tiểu quỷ! Được rồi! Cứ để hắn tới rồi sẽ hay.

Ngay lúc đó, Chương-Tấn cũng đã phi ngựa tới nơi. Thập đương-gia liền xuống ngựa đến ra mắt Tổng-Đà-Chủ rồi tới ngựa, thảy xuống đất một người tay chân bị trói. Gương mặt của hắn trông rất ngạo mạn, tỏ ra không chút khiếp sợ. Chỉ vào người ấy, Chương-Tấn nói:

-Người này vô cớ gây sự với đệ. Hắn nhất định đòi bắt đệ trói lại đem tới cho Tổng-Đà-Chủ phát lạc.

Trần-Gia-Lạc nói:

-Các hạ đây có phải là họ Hàn ở Lạc-Dương không?

Người ấy lắc đầu không đáp. Trần-Gia-Cách lại nói:

-Tâm-Nghiện, em mau cở trói cho vị huynh đài này đi!

Tâm-Nghiện nghe lời đến cởi trói, nhưng tay vẫn lăm le cây đao, sợ người ấy trở mặt làm bậy. Trần-Gia-Cách bèn hướng về người ấy nói:

-Hai người anh em của tôi quả thật đã đắc tội với các hạ. Xin các hạ niệm tình mà tha thứ cho. Sẵn đây, mời các hạ vào bên trong trà đàm. (#1)

Bốn người vào cả trong lều. Trần-Gia-Cách trải chiếu ra mời người ấy cùng ngồi. Lúc ấy, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội cũng kéo đến đông đủ. Tất cả mọi người đều xếp hàng ngồi sau lưng Trần-Gia-Cách.

Người ấy trông thấy Lạc-Băng trong đám hào kiệt bỗng nổi trận lôi đình, đứng dậy chỉ vào mặt nàng mắng:

-Thì ra mi là con quỷ cái đã cướp đoạt ngựa của ta! Bây giờ ta mới rõ! Chúng bây đây là toàn một phường trộm cướp!

Lạc-Băng đáp:

-Phải chăng ông là Hàn-Văn-Xung đại gia? Tôi đoạt con ngựa của ông, nhưng cũng để lại cho ông một con ngựa, đồng thời lại trả thêm cho ông một nén vàng ròng. Vàng ông đã cầm tức là ngựa đã bán đi. Sao còn giở giọng hậm hực hiếp đáp người?

Trần-Gia-Cách nghe hai đàng cãi cọ với nhau bèn hỏi lại đầu đuôi câu chuyện. Lạc-Băng cười, đem chuyện kể lại từ đầu đến đuôi. Mọi người nghe xong không nhịn được, phá lên cười. Trần-Gia-Cách nói:

-Việc đạ dĩ lỡ. Thôi, thì Văn tứ tẩu hãy đem ngựa mà trả lại cho Hàn gia.

Lạc-Băng không chịu, cãi lại:

-Vậy thì vàng của tôi đâu? Con ‘Hồng Hỏa Tuyết-Liên-Hoa’ của tôi thì sao?

Trần-Gia-Cách nói:

-Ngặt là vậy đó! Nếu Hàn gia muốn lấy lại ngựa thì cũng nên trả vàng và ngựa trao đổi lại thì hai bên mới sòng phẳng. Hàn gia đã lấy ngựa, và cũng lấy vàng thì coi như là một cuộc buôn bán trao đổi rồi, còn phân xử làm sao!

Tâm-Nghiện, em hãy đem thuốc kim thương ra mà rịt cho Hàn gia kẻo vết thương ở chân làm độc thì nguy lắm.

Hàn-Văn-Xung nghe Trần-Gia-Lạc phân xử như vậy thì tức tối vô cùng, toan chửi đổng lên. Chẳng ngờ Lạc-Băng lại nhanh hơn hắn, lên tiếng trước:

-Chẳng nên đâu, Tổng-Đà-Chủ! Hắn là người của Trấn-Viễn tiêu cục đó.

Trần-Gia-Cách ngạc nhiên hỏi lại:

-Thật vậy sao?

Lạc-Băng chẳng nói chẳng rằng, móc trong người ra một phong thư trao cho Trần-Gia-Cách nói.

-Xin Tổng-Đà-Chủ cứ đọc lá thư này sẽ rõ!

Trần-Gia-Cách liền mở thư ra đọc. Thì ra đó là phong thư của Vương-Duy-Dương gửi cho Hàn-Văn-Xung. Trần-Gia-Cách mới liếc qua một cái đã vội xếp thư lại đưa trả cho Hàn-Văn-Xung nói:

-Đây là thư riêng của Hàn đại gia, tôi không dám đọc.

Hàn-Văn-Xung trong bụng nghĩ thầm:

-“Cho dù hắn không đọc nhưng đồng đảng của hắn đã đọc hết rồi. Nội dung bức thư còn làm sao giấu được nữa!”

Hàn-Văn-Xung nói:

-Phải! Chính tôi là người của Trấn-Viễn tiêu cục đây! Chẳng hay người của Trấn-Viễn tiêu cục đã xúc phạm gì đến các vị, xin cho biết! Tôi, Hàn-Văn-Xung, quang minh chính đại, không làm chuyện mờ ám. Tuy là bức thư riêng, nhưng các hạ cứ việc đọc, chẳng sao cả.

Đoạn Hàn-Văn-Xung trao lá thư ra trước mặt Trần-Gia-Cách. Sự thật thì khi liếc qua lá thư trước khi trao trả cho Hàn-Văn-Xung, Trần-Gia-Cách đã biết hết đại ý rồi. Chàng là người thông minh tuyệt thế, văn võ song toàn, đã từng thi đỗ Trạng-Nguyên nên chỉ một cái nhìn sơ mà thuộc ngay nhiều chữ là chuyện thường chứ chẳng có gì là mới lạ cả.

Trần-Gia-Cách dõng dạc lên tiếng:

-Cái uy danh lừng lẫy của Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương từ lâu tôi đã nghe như sấm nổ bên tai. Nhưng tôi vẫn không hiểu vì sao ‘không có nước mà khuấy nên hồ’ (#2) để gây nên nhiều việc đáng tiếc! Các hạ là người họ Hàn ở Lạc-Dương thì xin mạo muội hỏi, đối với Hàn ngũ nương xưng hô ra sao? Vai vế như thế nào?

Hàn-Văn-Xung nghe hỏi bỗng kinh ngạc liền đáp:

-Đó là thím dâu của tôi. Xin hỏi các hạ vì đâu mà lại biết thím dâu của tôi? Chẳng hay các hạ danh tánh là gì?

Trần-Gia-Cách mỉm cười nói:

-Chỉ vì tôi hâm mộ thanh danh của Hàn ngũ nương đó thôi chứ thật ra không quen biết. Tôi họ Trần, tên gọi Gia-Cách.

Hàn-Văn-Xung vừa nghe xong liền đứng dậy, đổi ngay thái độ, miệng ấp úng, ‘lắp ba lắp bắp’:

-Thưa... ngài đây... ngài đây... là Thiếu-Đà-Chủ của Hồng Hoa Hội?...

Thường-Thích-Chí thấy dáng điệu của y thật tức cười liền cướp lời nói:

-Là TỔNG-ĐÀ-CHỦ! Nghe rõ chưa? Ông nói chuyện cả buổi mà còn chưa nhận ra hay sao!

Hàn-Văn-Xung lại ngồi xuống. Nhưng hành động của y trở nên cực kỳ khép nép chứ không dám ngạo mạn như trước nữa.

Trần-Gia-Cách nói:

-Trong giang hồ có đồn rằng cái chết của người đồng môn Tiêu-Văn-Kỳ của ông có liên quan đến Hồng Hoa Hội chúng tôi, nhưng việc ấy chúng tôi hoàn toàn không biết chút nào cả. Tôi đã cho người đến Lạc-Dương để minh bạch chuyện này. Tiếc rằng người này chưa đến nơi được thì gặp chuyện gấp rút đành phải tạm gác lại đó thôi. Hôm nay tình cờ gặp ở đây, xin ông nói lại cho chúng tôi biết vì đâu có lời phao truyền thất thiệt như vậy!

Vẫn giọng ấp úng, Hàn-Văn-Xung hỏi:

-Thưa... có phải ngài đây là... quý công tử của Trần-Cát lão ở Hải-Ninh dó không?

Trần-Gia-Cách cười đáp:

-Thế là các hạ đã hiểu biết tường tận thân thế của tôi rồi. Thiết tưởng tôi cũng không còn phải giấu diếm làn gì.

Hàn-Văn-Xung nói:

-Bắt đầu từ lúc công tử lìa nhà, tướng phủ có treo một giải thưởng rất lớn cho ai tìm được công tử đem về. Có người bảo đã dọ được tin công tử trong Hồng Hoa Hội, lại có người bảo công tử đã sang xứ Hồi. Sư huynh Tiêu-Văn-Kỳ chúng tôi vâng mệng tướng phủ đến Hồi bộ để đưa tin nhà cho biết. Nhưng thình lình sư huynh tôi thất tung (#2), chẳng biết rõ sống chết ra sao nơi đâu. Đã 5 năm trôi qua, gần đây có người vào sơn cốc tìm thấy vật dụng của sư huynh là tấm thiết thuẫn cùng với một khúc Thiết-câm sát thì không còn gì để nghi ngờ nữa, chứng tỏ Tiêu-Văn-Kỳ sư huynh đã bị ám hại. Tuy nhiên, không một ai được trông thấy tận mắt, lại không có bằng chứng gì để đối chất nên không thể khẳng định được ai là thủ phạm nên mới nghi là ngoài Hồng Hoa Hội ra...

Hàn-Văn-Xung chưa nói dứt câu thì Chương-Tấn đã lên cơn thịnh nộ nạt lớn, ngắt lời:

-Thế ra cứ mỗi khi không có chứng cớ hay chưa khẳng định được ai là thủ phạm thì chỉ có HỒNG HOA HỘI mà thôi có phải không? Nói thật cho ngươi biết, nếu chúng ta đã giết ai thì khỏi cần phải thắc mắc, chúng ta đã thừa nhận trước rồi. Không những thế, chúng ta luôn luôn để lại một bản án bên cạnh người chúng ta giết kèm theo tất cả mọi bằng chứng cụ thể. Một lần cuối, ta nói rõ cho ngươi biết là chúng ta không có giết Tiêu-Văn-Kỳ, và cũng không biết ai giết hắn! Chắc là Tiêu-Văn-Kỳ sư huynh của ngươi đi gây sự, kết thù kết oán với người ta nên mới bị giết đó thôi. Mà sư huynh của ngươi cũng thuộc hạng người ‘vì tiền bán mạng’ thì có chết cũng là vừa rồi chứ còn kêu ca gì nữa! Oan ức ở chỗ nào? Đừng có nhiều chuyện!

Hàn-Văn-Xung nghe giọng Chương-Tấn gay gắt như vậy thì đâm ra bán tín bán nghi (#3). Vô-Trần Đạo-Nhân cũng giận dữ rút kiếm ra thét lên:

-Người Hồng Hoa Hội chúng ta nói ‘một là một’, không bao giờ hai lời. Chúng ta đã bảo không giết tức là không giết. Nãy giờ ta nhìn thái độ khinh thị của mi, cho là chúng ta nói láo cũng đủ lắm rồi. Cái tội khinh thường đó không thể nào dung tha được. Hôm nay ta quyết cho mi một kiếm bay đầu rồi để cho bọn mi cứ việc muốn báo thù gì thì báo!

Trong lúc ồn ào, Lục-Phỉ-Thanh bỗng đâu lên tiếng:

-Không cần phải nói chi cho dài dòng cả. Việc này hoàn toàn không dính líu gì đến Hồng Hoa Hội cả. Chính tôi là thủ phạm đã hạ sát Tiêu-Văn-Kỳ.

Từ phía sau, Lục-Phỉ-Thanh dõng dạc bước lên. Ông liền đem chuyện cũ kể lại từ đầu về ân oán giữa ông và Tiêu-Văn-Kỳ ra sao, cho đến lúc hắn và đồng bọn tìm ông thanh toán ép ông phải ra tay giết chúng thế nào, không giấu diếm một chi tiết nào. Mọi người nghe xong đều không ngớt lời chửi rủa Tiêu-Văn-Kỳ, cho rằng cái chết của hắn là đáng lắm. Chỉ riêng có Hàn-Văn-Xung là ngồi xụ mặt nhưng chẳng dám nói nửa lời.

Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Nay Hàn gia đã rõ mọi chuyện. Nếu muốn trả thù xin cứ tự nhiên mà tính với tôi, chứ đừng có trách bậy Hồng Hoa Hội làm gì. Hàn gia muốn trả thù bằng cách nào cũng được. Hoặc đao kiếm, hoặc quyền cước, thậm chí hẹn ngày giờ mà đem thêm người cũng được. Về phần tôi thì trước sau cũng chỉ có một mình đứng ra để giải quyết ân oán này mà thôi.

Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh nhìn Lạc-Băng nói:

-Văn tứ phu nhân! Vũ khí của ông ta đâu, cứ đưa ra để ông ta rửa hận cho Tiêu-Văn-Kỳ sư huynh của ông ta đi. Lạc-Băng liền đi lấy cây Thiết-cầm sát đưa cho Lục-Phỉ-Thanh. Cầm sợi Thiết-cầm sát, Lục-Phỉ-Thanh đưa ra trước mặt Hàn-Văn-Xung nói:

-Năm trước sáng chế ra món Thiết-cầm sát này cho người môn phái sử dụng, thanh danh của Hàn ngũ nương đã vang dậy trong chốn giang hồ. Thật đúng là nữ trung hào kiệt. Tiếc thay!...

Than thở xong, Lục-Phỉ-Thanh tập trung nội lực vào đôi tay vuốt một cái. lạ lùng thay, cây Thiết-cầm sát tự nhiên trở thành một cây Thiết-bảng. Ông ta lại nói tiếp:

-Là người Hán, đã chẳng liều mình báo ân tổ quốc mà lại cam mình uốn gối làm tôi mọi sống chết cho giặc thì còn gì nhục hơn? Võ nghệ tinh thông không dùng để hành hiệp trượng nghĩa thì có ích lợi gì cho võ lâm, cho quần chúng và xã hội!

Tay cầm sợi Thiết-cầm sát đã thành ra cây Thiết-bảng, Lục-Phỉ-Thanh vừa nói lại vừa dùng mội công nắn thành một cây Thiết-đồng, rồi lại biến ra cây Thiết-côn. Tóm lại, Lục-Phỉ-Thanh cầm sợi Thiết-cầm sát của Hàn-Văn-Xung tự ý uốn nắn như một món đồ chơi. Tay thì làm, miệng lại tiếp tục nói:

-Ở vào một tình thế bất đắc dĩ, chẳng thà là mai danh ẩn tích sống tại cùng cốc thâm sơn còn hơn tham vinh hoa phú quý, quên nợ nước thù nhà mà nối dáo cho giặc. Lục-Phỉ-Thanh này bình sinh hận nhất là bọn ‘chim mồi chó săn’ và bọn tiêu dư ỷ mình có chút võ công hà hiếp lương dân, nịnh bợ quan quyền! Lục-Phỉ-Thanh này thà chết chứ nhất định không đi chung một con đường với chúng. Nếu gặp chúng thì chỉ có hai đường lựa chọn. Một là chúng chết, hai là ta chết!

Giọng nói cương quyết của Lục-Phỉ-Thanh vừa chấm dứt thì Thiết-côn trong tay Lục-Phỉ-Thanh lại biến thành một cây Thiết-hoàn. Hàn-Văn-Xung nghe những lời hùng biện đầy chính khí của Lục-Phỉ-Thanh bất giác đâm ra khiếp sợ, hãi hùng. Bình nhật, hắn vẫn tự phụ võ công của mình trác tuyệt, xem thiên hạ không có ai dưới mắt (#4). Thế mà vừa mới đến hắn đã bại dưới tay Chương-Tấn, một kẻ chưa từng có tên tuổi trên chốn giang hồ. Đã thế còn bị bắt trói lại thật nhục nhã, phải nhờ đến Trần-Gia-Cách tha mạng.

Thấy Lục-Phỉ-Thanh xem vũ khí của hắn như trò chơi, Hàn-Văn-Xung tự lượng sức mình ngay. Không cách gì hắn có thể đấu nổi với một người đã biết rõ tường tận, và thành thạo tất cả những bí mật và biến ảo về món binh khí của hắn và xem ra còn biết nhiều hơn hắn là đàng khác.

Tưởng-Tứ-Căn thấy Lục-Phỉ-Thanh biểu diễn như một ảo thuật gia thì thích chí vô cùng. Chàng đứng dậy bước tới hỏi ông ta cho mượn món binh khí đó rồi cũng theo phương pháp của Lục-Phỉ-Thanh mà biến món binh khí kia sang đủ mọi hình thù. Sau khi biến món binh khí thành một cây thiết côn, Tưởng-Tứ-Căn hóm hỉnh đưa một đầu cho Dương-Thanh-Hiệp, miệng tủm tỉm cười.

Dương-Thanh-Hiệp hội ý, nói:

-Có phải Thập-tam đệ muốn thử sức với ta đó không?

Tưởng-Tứ-Căn cười, gật đầu liên tục. Thế là mỗi người một đầu thi nhau kéo. Không ai kéo nổi ai. Hai người vẫn đứng im bất động. Nhưng mọi người để ý kỹ, thấy cây Thiết-côn mỗ lúc một dài ra, và hai người thì lùi dần lại với một khoảng cách rất đồng đều.

Nhìn hai người làm trò, Trần-Gia-Cách không khỏi cười thầm. Sợ mất hòa khí, chàng lên tiếng nói với hai người rằng:

-Hai người sức mạnh ngang nhau, chẳng ai kém ai. Thôi, chịu khó nghe lời tôi mà coi trận thử sức này là hòa đi. Đưa sợi Thiết-Cầm này cho tôi để tôi trả nó về tình trạng nguyên thủy của nó cho người ta.

Châu-Ỷ và Lạc-Băng nghe Trần-Gia-Cách nói như vậy thì cười rộ lên, cùng nhau đứng dậy hiếu kỳ xem thử. Trong khi đó, Dương-Thanh-Hiệp và Tưởng-Tứ-Căn cũng đã dừng tay, cầm Thiết-cầm sát trao cho Trần-Gia-Cách.

Trần-Gia-Cách cười nói:

-Thưa các vị! Tôi đề nghị thế này. Vô-Trần Đạo-Nhân, Châu lão anh hùng và Thường ngũ ca đứng một phía, còn Triệu tam ca, Thường lục ca và tôi đứng phía kia. Sáu người chúng ta cùng nhau luyện lại một chút công phu xem chơi.

Mấy người nghe Trần-Gia-Cách nói vậy thì không khỏi tức cười, cùng nhau hưởng ứng chạy ra xem Trần-Gia-Cách định làm thế nào. Trần-Gia-Cách chia ra mỗi bên ba người, người đứng đầu cầm cán Thiết-côn, người thứ hai ôm người đứng đầu, và người thứ ba ôm người thứ hai. Sau đó, Trần-Gia-Cách cười nói:

-Hồi nãy hai người kia kéo Thiết-côn cho dài ra, bây giờ thì chúng ta đôn ngắn lại. Mọi người sẵn sàng chưa? Nghe tôi đếm... Một... Hai... Ba!

Hai bên đều ra sức đẩy tới. Quả nhiên không đầy mấy khắc, cây thiết côn đã trở nên ngắn lại và được trả về hình dạng nguyên thủy của nó.

Mọi người ai nấy đều vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Hàn-Văn-Xung thấy đám hào kiệt thay phiên nhau xem món binh khí của hắn như đồ chơi thì vừa khin sợ, vừa buồn bã. Hắn tự nhủ thầm:

-“Thế mới biết ‘thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu nhân’. Từ trước tới nay ta vẫn tự phụ cho võ công của mình là thiên hạ vô song, nhưng đối với bọn chúng thật quả là chưa đi đến đâu. May mắn mà chúng không ra tay, chứ nếu bọn chúng muốn giết ta thì thật là như trở bàn tay. Thôi! Ta cũng nguyện từ nay không thèm tranh đoạt danh lợi làm gì nữa mà quay về sống với nghề cày sâu cuổc bẩm cùng dân làng coi bộ còn sướng hơn.

Lúc đó Trần-Gia-Cách nói với mấy người rằng:

-Vui quá nhỉ? Có lẽ đủ rồi. Nếu chúng ta còn cố đôn thêm nữa thì e rằng nó phải ngắn hơn tình trạng nguyên thủy mà thôi.

Quay qua Hàn-Văn-Xung, Trần-Gia-Cách nói:

-Bọn ta vui thì vui thật, nhưng đùa giỡn với binh khí của Hàn huynh như vậy có lẽ làm Hàn huynh buồn lòng không ít. Chỉ tại quá cao hứng mà ra. Thôi, xin hãy bỏ qua mà tha thứ cho bọn ta nhé!

Lúc bấy giờ, mồ hôi Hàn-Văn-Xung ra như tắm, không dám hé môi nói một lời nào. Trần-Gia-Cách bỗng nghiêm mặt nhìn Hàn-Văn-Xung nói:

-Tiện đây muốn có một đôi lời khuyên giải. Không biết Hàn huynh có chịu nghe không?

Hàn-Văn-Xung nói bằng một giọng hết sức yếu ớt:

-Xin công tử cứ nói.

Trần-Gia-Cách nói:

-Từ xưa cổ nhân vẫn nói ‘oán nên giải chứ không nên kết’. Cái chết của lệnh sư huynh do anh ta tự chuốc lấy cho mình thôi, không thể nào trách Lục lão tiền bối được. Mong rằng Hàn huynh hãy nể mặt chúng tôi mà cùng với Lục lão tiền bối giảng hòa là hơn. Hàn huynh nghĩ sao?

Hàn-Văn-Xung vẫn ngồi im mà vẫn không biết phải trả lời làm sao. Trần-Gia-Cách lại nói tiếp:

-Tôi sẽ nhắn lời với gia huynh (#5) một số bạc lớn, vừa là để thưởng công vất vả cho Hàn huynh, vừa là để thường mạnh cho Tiêu tam gia để gia đình Tiêu tam gia tùy ý chi dụng. Như vậy tưởng cũng là ổn thỏa lắm rồi. Hàn huynh nghĩ sao xin co biết?

Hàn-Văn-Xung vẫn ngồi trầm ngâm không đáp. Trần-Gia-Cách trợn mắt, như lộ vẻ bực dọc, nói lớn tiếng:

-Nếu Hàn huynh vẫn cố chấp thì đây, tôi trả lại Thiết-càm sát để muốn tự tiện giải quyết thế nào thì giải quyết, bất tất phải nói lôi thôi làm chi cho thêm tốn thì giờ!

Vừa dứt câu, Trần-Gia-Cách thuận tay phóng mạnh cây Thiết-côn xuống đất. Cây Thiết-côn bị Trần-Gia-Cách phóng quá mạnh đến lút sâu xuống dưới lòng đất không còn trông thấy vết tích đâu nữa, chỉ còn một lỗ sâu hoắm mà thôi.

Hàn-Văn-Xung kinh hãi quá độ, gật đầu lia lịa, đáp:

-Thôi... Thôi! Thì tôi xin nghe theo lời dạy bảo của Trần công tử vậy.

Trần-Gia-Cách cả cười nói:

-Biết thức thời vụ mới là kẻ anh hùng. Chứ còn cứ giữ mãi thành kiến của mình thì nhiều lúc sẽ bỏ qua nhiều cơ hội tốt đó! Tôi rất vui lòng với quyết định sáng suốt của Hàn huynh.

Sau đó Trần-Gia-Cách gọi Tâm-Nghiện đem nghiên mực vào cho mình rồi tự tay viết một bức thư trao cho Hàn-Văn-Xung.

Hàn-Văn-Xung nhận thư xong nói:

-Vương tổng tiêu-đầu sở dĩ kêu gọi anh em đến Trấn-Viễn tiêu cục là để tải chi phiếu về Bắc-Kinh. Đến Bắc-Kinh sẽ phải bảo tiêu một số đồ của Hoàng-Thượng của vua ban, toàn là trân-châu bảo-ngọc, về Giang-Nam cho quý phủ của công tử. Mong rằng công tử ra một mệnh lệnh truyền đi ắt không kẻ nào dám đụng đến.

Trần-Gia-Cách nghe xong liền nói:

-Hàn huynh lãnh trách nhiệm hộ tống phẩm vật về tệ phủ, vậy thì chẳng hay Hàn huynh có biết đó là những món gì hay không?

Hàn-Văn-Xung đáp:

-Vương tổng tiêu đầu không nói rõ cho tôi biết. Nhưng điều tôi được biết chắc chắn là Hoàng-Thượng rất ân sủng đối với quý phủ. Cứ 10 ngày hay nửa tháng lại cho đài tải đầy dẫy trân-châu bảo ngọc một lần. Lần này số châu báu quá nhiều phải đưa về Giang-Nam để quý phủ sung vào kho mới tiện. Vì hàng hóa chuyến này quá nhiều, có thể nói là ‘vô gía’ (#6) nên Thừa-Tướng phủ Bắc-Kinh mới giao trách nhiệm này cho Trấn-Viễn tiêu cục để không sợ rủi ro bị cướp dọc đường.

Trần-Gia-Cách sau đó gọi:

-Tâm-Nghiện! Em mau mời mấy vị tiêu sư của Trấn-Viễn tiêu cục kia ra cho ta!

Tâm-Nghiện vâng lời, dẫn Tiền-Chính-Luân cùng mấy người tiêu sư thuộc Trấn-Viễn tiêu cục ra. Hàn-Văn-Xung trông thấy y thì cả hai cùng há hốc nhìn nhau, không nói được một lời nào.

Trần-Gia-Cách nói:

-Hôm nay vì nể mặt Hàn gia nên sẵn lòng trả mấy người này lại cho Trấn-Viễn tiêu cục. Hàn gia cứ lãnh họ về luôn tiện. Lần này thì tha cho, nhưng lần sau còn tái phạm thì đừng trách chúng tôi sao vô tình đấy nhé!

Hàn-Văn-Xung thấy Trần-Gia-Cách biết dùng cả cương lẫn nhu không những chỉ trong võ thuật mà còn trong cách xử thế giao thiệp nữa thì không khỏi bội phục. Thế nhưng y vẫn không biết dùng lời lẽ nào để mà đối đáp cho được. Y cũng chẳng dám nhìn thẳng vào mặt Lục-Phỉ-Thanh mà nói đến chuyện oán thù nữa. Trần-Gia-Cách nói:

-Bây giờ anh em chúng tôi có việc phải đi trước. Quý vị cứ ở đây nghỉ chân, sáng ra khởi hành cũng tiện. Thôi! Xin cáo từ!

Sau đó, đám hào kiệt Hồng Hoa Hội lên ngựa rầm rộ kéo đi. Qua một đoạn đường, Lục-Phỉ-Thanh nói:

-Thưa Tổng-Đà-Chủ! Tôi nhận thấy để bọn tiêu sư ở đó có điều bất tiện! Thế nào chốc nữa đây, tiểu đồ (#6) cũng đi ngang qua gặp bọn ấy. Chúng đang hàm hận báo cừu nên thế nào cũng cùng tiểu đồ gây chuyện chứ chẳn không. Theo tôi thì ai nấy đi trước đi, để tôi ở lại sau chờ đón tiểu đồ để xem cớ sự thế nào.

Trần-Gia-Cách nói:

-Hay lắm! Lục tiền bối cứ tùy tiện mà hành động. Nếu tiện, xin Lục tiền bối cho lệnh cao đồ giúp một tay luôn thì quý hóa biết mấy.

Lục-Phỉ-Thanh cười:

-Tiểu đồ vẫn còn bồng bột lắm! Chắc không thể giúp gì được cho chúng ta đâu!

Dứt lời, Lục-Phỉ-Thanh quay ngựa trở lại lối cũ phóng đi như bay. Vì có quá nhiều người cho nên Trần-Gia-Cách không tiện hỏi đến chuyện có liên quan đến người đồ đệ của Lục-Phỉ-Thanh theo lời dặn lúc lâm biệt với Tiêu-Thanh-Đồng.

Vì lẽ ấy mà trong lòng Trần-Gia-Cách cảm thấy buồn rười rượi...

Hồi 9c

Liều mạng vì người mong chuộc lỗi

Mặc thân vàng đá cũng vui lòng

Nhắc lại Dư-Ngư-Đồng sau khi vâng lệnh Trần-Gia-Cách đi tìm tin tức của Văn-Thái-Lai. Sau khi qua sông, Dư-Ngư-Đồng lên bờ tìm cách hỏi thăm nhưng nhưng chẳng được kết quả gì. Một hôm, Dư-Ngư-Đồng đến Lượng-Châu. Đây là một thương cảng đông đúc, giàu có. Lượng-Châu là một quận lớn của phủ Cam-Tân. Chàng vào một quán cơm ở ven con đường phía Nam quận lỵ. Thấy bên dưới quá đông, Dư-Ngư-Đồng lên trên lầu bảo tửu bảo dọn một mâm cơm rượu.

Ngồi một mình lại nghĩ đến Lạc-Băng, Dư-Ngư-Đồng khó cầm được giọt lệ. Chàng vẫn biết đây là một mối tình tuyệt vọng nhưng hễ càng muốn quên đi lại càng nhớ.

Nhìn lên vách, thấy có nhiều bài thơ vịnh cảnh Lượng-Châu có ký tên và đề rõ cả ngày giờ của du khách đến đây ăn nhìn cảnh vật mà động lòng. Thi tứ Dư-Ngư-Đồng bỗng trào ra. Chàng lấy bút đề một bài thơ lên vách như sau:

Kim địch tung hoành nhất khứ lai,

Thu phong sầu tự bất năng bài.

Nhân ngôn hậu chuyển trường sinh đoản,

Ngã dĩ ưu quân chuyển thập hoài.

Ngư Đồng

Rượu vào, nhưng sầu nan giải. Dư-Ngư-Đồng cố ngâm nga để khuây lắng mà lòng vẫn mãi không sao vơi được.

Dư-Ngư-Đồng nhìn xuống dưới lầu chợt thấy có hai người đi lên. Người đi trước hình như chàng đã có gặp ở đâu mà nhớ chưa ra. Chàng ngồi nặn óc một hồi mới chợt nghĩ ra là tên quan sai đã đụng độ với chàng ở Thiết-Đảm-Trang. Hình như hắn không nhận ra chàng nên cứ tự do với nói chuyện với đồng bọn mà không sợ ai nghe thấy. Lên đến nơi, hai tên nhìn tứ phía rồi chọn một cái bàn gần Dư-Ngư-Đồng mà ngồi.

Dư-Ngư-Đồng giả gục mặt lên bàn như say rượu, ngủ mê, miệng ngáy ‘khò khò’. Tửu bảo lại lay chàng mấy lần mà không thấy cựa quậy gì cũng đành chịu thua, bỏ đi phục vụ bàn khác.

Tên quan sai cùng đồng bọn của hắn nói toàn những chuyện bậy bạ tầm phào, chẳng có gì quan trọng. Một lát sau, Dư-Ngư-Đồng nghe một tên trog bọn nói:

-Này Đoàn đại ca! Anh lần này đã lặp được đại công. Chẳng hiểu rồi đây hoàng thượng sẽ thưởng cho anh những gì xứng đáng.

Người họ Đoàn ấy đáp:

-Thưởng gì đi chăng nữa tôi cũng không ham. Tôi chỉ muốn thái thái đưa người ấy đến Hàng-Châu trước đã. Nói thật với chú em, 8 viên thị vệ rời khỏi Bắc-Kinh chỉ còn có một mình tôi sống sót mà về được với vợ con mà thôi. Còn 7 người kia thì thật kém may mắn. Không phải tôi ca ngợi địch mà làm giảm uy phong của mình, nhưng còn sống sót trận đánh ấy mà trở về thì thật là phúc 30 đời để lại. Thế nhưng bao nhiêu công lao bọn Ngự-lâm quân đều cướp hết. Bọn Ngự-tiền thị-vệ chúng tôi thì chẳng ai thèm đếm xỉa tới. Này Châu đệ! Lạ một điều là chẳng hiểu vì lẽ nào có lệnh truyền không giải kẻ ấy về Bắc-Kinh như mọi người tưởng mà lại bí mật đưa về Hàng-Châu? Kể cũng lạ! Nhưng tôi lại thích vậy, vì biết đâu về Hàng-Châu thái thái sẽ xét công lao của mình nhiều hơn là về Bắc-Kinh chỉ có một Hoàng-Đế tự quyền ban thưởng!

Người họ Châu đáp, giọng hắn nhỏ hơn người họ Đoàn một chút:

-Chị tôi vốn là người trong phủ của Lưu đại học sĩ nên biết rõ vụ này. Tôi nghe lóm được chị tôi nói với anh tôi rằng lần này Hoàng-Thượng định đi Giang-Nam một chuyến. Sở dĩ phải giải kẻ ấy đến Hàng-Châu là cốt ý để Hoàng-Thượng đích thân thẩm vấn.

Người họ Đoàn ‘hừ’ một tiếng, nốc một hớp rượu, giọng lè nhè:

-Bọn chú 6 người từ Bắc-Kinh đến đây lâu rồi, sao gọi là mới vâng thánh chỉ?

Người họ Châu đáp:

-Vì đây là điều tối mật. Chắc anh cũng thừa biết, Giang-Nam là tổng hành dinh của Hồng Hoa Hội. Thế lực của chúng mạnh lắm. Quan quân triều đình vị tất đã làm gì được! Do đó mà thánh chỉ truyền đi một cách âm thầm, để che hết tai mắt của Hồng Hoa Hội. Nếu bảo có khâm sai từ Bắc-Kinh xuống thì lộ tẩy hết còn gì! Chẳng qua là vui miệng mà nói chơi đây thôi chứ vẫn sợ tai vách mạch rừng lắm. Nên tiểu tâm mà đề phòng kẻo nguy hiểm đến tánh mạng.

Người họ Đoàn bỗng kề tai nói nhỏ với người họ Châu, nhưng cũng đủ lọt vào tai Dư-Ngư-Đồng vì hắn cũng có vẻ ngà ngà cho nên dù là nói nhỏ nhưng ‘nhỏ’ trong lúc say cũng đủ ‘lớn’ như lúc tỉnh.

-Quên! Nãy giờ chúng ta quên mất cái thằng nằm gục đầu lên bàn đấy chứ!

Rồi một chuỗi cười vang lên:

-Khéo lo xa! Hắn ngủ như chết! Không nghe tiếng ngáy của hắn sao? Với lại gã tửu bảo cũng mấy lượt đánh thức gã rồi mà có hiệu quả nào đâu!

Dư-Ngư-Đồng cười thầm trong bụng, nhưng vẫn làm bộ ngáy đều. Hình như tiếng người họ Châu tiếp tục nói:

-Theo tôi thì đã có Trương đại nhân. Chúng ta chẳng có gì phải lo cả!

Dư-Ngư-Đồng lắng nghe từ đầu đến cuối câu chuyện lấy làm kinh ngạc vô cùng. Chàng tự nghĩ nếu quả như lời hai tên kia nói thì Trương-Siêu-Trọng quả đã đi một nước cờ hết sức cao siêu. Cả kế hoạch của Hồng Hoa Hội là truy kích bọn Trương-Siêu-Trọng trên đường đi Bắc-Kinh chứ có ngờ đâu chúng lại ầm thầm đưa Văn-Thái-Lai về Giang-Nam, là ngay đất nhà của Hồng Hoa Hội! Cả một bang hội lớn như thế, đầy rẫy nhân tài mà lại bị thua mưu một ‘Hỏa-Thủ Phán-Quan’!

Dư-Ngư-Đồng cảm thấy trách nhiệm của mình lúc này nặng hơn bao giờ hết. Nếu chàng không báo tin kịp thời, đại sự sẽ hỏng hết, không còn gì! Nhưng chàng lại thầm nghĩ có phải tin tức kia xác thực hay không, hoặc giả chỉ là mưu đồ của phía địch giả mượn rượu để đánh lạc hướng người nghe như chàng đây? Đang lúc chàng còn đang phân vân rối trí thì lại nghe gã thị vệ họ Châu nói:

-Này Đoàn huynh! Chẳng hiểu cái tên đó phạm tội gì quan trọng mà chính Hoàng-Thượng phải thân giá xuống tận Giang-Nam mà thẩm vấn? Chúng đệ làm Ngự-tiền thị-vệ lâu rồi mà chưa thấy tên khâm phạm nào đặc biệt được Hoàng-Thượng lưu ý như tên này.

Người họ Đoàn nói:

-Việc quân quốc trọng đại như thế thì chúng tôi làm sao mà thấu hiểu nổi? Mình cũng như thiên lôi sai đánh đâu thì đánh đó, nào có ai thèm nói rõ lý do hay nguyên do gì cho biết! Đã vậy mà làm không xong thì nhẹ lắm thì vào khám, còn nặng thì rơi đầu! Từ ngày có lệnh bắt tên khâm phạm đó đã có không biết bao nhiêu người chết... Toàn là những cao thủ võ lâm... Mà đã hết đâu! Sẽ còn bao nhiêu cái chết khác nữa... Biết đâu sẽ đến lượt bọn mình!...

Người họ Châu nói:

-Việc đó thuộc về tương lai, còn xa vời quá! Hiện tại Đoàn đại ca mới lập được kỳ công, tiểu đệ xin mừng đại ca ba chén lớn!

Sau đó hai người tiếp tục ca ngợi nhau bằng những chung này qua chung khác... Uống đến sau mèm, gã họ Đoàn nói với gã họ Châu:

-Thôi, mình giải tán chứ! Cứ ngồi mãi đây mà nói chuyện hay sao?

Nói xong hai người bước xuống thang lầu. Trước khi đi, hắn không quên quay lại liếc nhìn Dư-Ngư-Đồng một lần cuối. Hắn mỉm cười khẽ mắng một câu:

-Cái bọn chỉ biết đọc sách Thánh hiền mà làm được quái gì! Mới uống vài ly đã say cúp bình thiếc!

Dư-Ngư-Đồng chờ cho chúng đi khỏi mới ngẩng đầu dậy móc ra hai lượng bạc đặt trên bàn rồi vội vã xuống lầu nhìn theo. Xa xa, chàng thấy hai người ngã lui ngã tới trên lề đường. Chàng để ý thấy chúng vào trong cửa thành Lượng-Châu. Chàng chờ mãi cả nửa ngày mà vẫn không thấy bóng chúng trở ra. Đoán chắc rằng chúng thuộc người của phủ này, Dư-Ngư-Đồng không đợi nữa liền trở lại khách điếm. Chàng thay vội đồ dạ hành, nhẹ nhàng phóng ra ngoài cửa sổ.

Đến trước cửa phủ Lượng-Châu, Dư-Ngư-Đồng thấy có ánh sáng lập lòe bên cánh cửa sổ ở hướng đông. Chàng dùng thuật phi hành đến gần, nép mình ở phía bên ngoài cửa sổ lắng nghe. Nghe có tiếng người bên trong, Dư-Ngư-Đồng dùng một ngón tay soi một lỗ nhỏ để nhìn vào. Chàng hết sức kinh ngạc khi nhìn thấy bên trong người ngồi đầy như nệm cối.

Người ngồi chính giữa là Trương-Siêu-Trọng. Hai bên hắn toàn là đám thị vệ công sai. Một người ngồi quay lưng ra phía cửa sổ lên tiếng thật lớn như chửi mắng:

-Quân bây là đồ chó chết...

Dư-Ngư-Đồng giật nẩy mình. Giọng nói này nghe thật là quen. Chính là giọng nói của Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai chứ không chạy vào đâu được hết! Chàng nằm rạp xuống đất, chỉ cố gắng lắng tai nghe. Tiếng Văn-Thái-Lai như chuông đồng tiếp tục chửi mắng:

-Này lũ tẩu cẩu vô tài! Văn lão gia chẳng may lọt vào tay chúng bây thi chúng bây cứ mặc sức muốn làm gì thì làm! Rồi đây sẽ có người báo thù xứng đáng cho ta! Cái thứ ‘lòng trâu dạ chó’ chúng bây đừng mong dụ dỗ hay uy hiếp được ta...

Tiếng một người trong trẻo ngư chuông ngân lọt vào tai Dư-Ngư-Đồng:

-Hay lắm! Mi cứ việc mắng chửi cho sướng miệng đi! Ta vốn biết Bôn-Lôi-Thủ Văn-Thái-Lai lợi hại, đảm lược can trường lâu rồi ki mà! Song ta vẫn muốn biết rõ sự lợi hại của mi đến mức nào. Này! Hãy thử chịu một quyền của ta xem sao.

Dư-Ngư-Đồng nghe xong thì hết sức hồi hộp, lòng nghĩ thầm:

-Tứ ca thật là người nghĩa khí, ‘thà chết chứ không chịu nhục. (#1)! Con người như vậy chả trách được tứ tẩu yêu mến! Lẽ nào ta lại đứng đây mà nhìn tứ ca chịu nhục!

Ghé mắt nhìn vào lỗ hổng, Dư-Ngư-Đồng nhìn thấy một ngưòi cao lớn, độ chừng 30 tuổi, mặc vải xanh đang giơ cao quyền lên. Văn-Thái-Lai bị trói cả tay lẫn chân không sao cử động được, nét mặt giận dữ hiện ra mặt.

Dư-Ngư-Đồng bậm môi, nghiến răng, ra vẻ uất hận đến cực độ. Quyền người ấy vừa hạ xuống, Dư-Ngư-Đồng liền đặt ống sáo vàng vào ngay lỗ thổi một cái. Người kia thét lên một tiếng đau đớn, xé tan bầu không khí im lặng.

Người ấy không ai khác hơn là Ngân-Bá-Cân, một tay quyền khét tiếng ở Thanh-Châu. Bị Dư-Ngư-Đồng bắn ngay một phi tiêu vào mắt, hắn chịu không thấu, ngã nhào xuống đất, kêu la thảm thiết. Trong phòng bỗng trở nên hỗn loạn khác thường. Sau đó Dư-Ngư-Đồng lại thổi tiếp một phi tiêu nữa vào ngay chân mày bên hữu của một tên thị vệ khác.

Dư-Ngư-Đồng tự dưng trong người dâng lên một luồng dũng khí, chàng bước tới cửa chính xô mạnh tiến thẳng vào, miệng hét vang như sấm:

-Bọn chim mồi chó săn kia! Chúng bây khôn hồn thì tên nào ngồi đâu thì ở yên chỗ đó! Người của Hồng Hoa Hội đã tới cứu bạn đây rồi!

Tiếp theo đó, Dư-Ngư-Đồng lại thổi một mũi phi tiêu khác vào ngay huyệt ‘nhuyễn ma’ của tên quan sai lãnh nhiệm vụ ngồi canh gác, giữ Văn-Thái-Lai. Đến trước mặt Văn-Thái-Lai, Dư-Ngư-Đồng rút một lưỡi trủy thủ cắt đứt hết dây trói cho Văn-Thái-Lai. Sau khi được Dư-Ngư-Đồng cắt hết dây trói, Văn-Thái-Lai chẳng khác gì một con hổ sổng chuồn, tinh thần trở nên dũng mãnh lạ thường.

Một tên thị vệ cầm binh khí vừa xông đến bị Văn-Thái-Lai tặng ngay cho một quyền ngay bả vai. Hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi ngã lăn xuống. Những tên khác thấy bản lãnh của Văn-Thái-Lai lợi hại quá thì không dám liều mạng xông vào, chỉ lui dần ra mà trố mắt nhìn.

Dư-Ngư-Đồng nói với Văn-Thái-Lai rằng:

-Tứ ca! Mau chạy ra khỏi nơi đây!

Văn-Thái-Lai khẽ hỏi:

-Có đông đủ các vị đương-gia đến chưa?

Dư-Ngư-Đồng đáp:

-Chỉ có một mình em thôi.

Văn-Thái Lai khẽ gật đầu một cái. Vết thương ở chân lâu ngày không được băng bó kỹ lưỡng mà lại bị trói lâu ngày thành ra chàng đi đứng loạng quạng không được vững. Dư-Ngư-Đồng phải nghiêng mình kề vai cho Văn-Thái-Lai dựa để chàng dìu ra cửa chính.

Sợ khâm phạm triều đình trốn khỏi nên cả bọn thị vệ đành liều một lượt nhảy như nước tràn. Dư-Ngư-Đồng bèn dùng ống sáo vàng để chống cự.

Cả hai vừa ra đến cửa thì thấy Trương-Siêu-Trọng tại đó như đã đứng đợi sẵn từ bao giờ. Trương-Siêu-Trọng tiến tới một bước thét lên:

-Hãy dừng lại ngay!

Dứt lời, bảo kiếm của y nhắm ngay bụng Văn-Thái-Lai đâm một mũi thật lẹ. Văn-Thái-Lai hai chân đi không vững nên né tránh không kịp, nhưng bắt buộc phải tự vệ. Văn-Thái-Lai dùng hai ngón tay như mũi xiên chỉa tới đâm thẳng vào hai mắt của Trương-Siêu-Trọng.

Trương-Siêu-Trọng kinh hãi, biết đây là đòn liều lĩnh hy sinh của Văn-Thái-Lai. Nếu tiếp tục sẽ đâm chết Văn-Thái-Lai nhưng đồng thời cũng bị đối phương xỉa cho mù hai mắt nên vội vàng thu kiếm về, buột miệng khen:

-Hay lắm! Hay lắm!

Tuy nhiên cả tay lẫn chân đều chỉ dùng được một nên sau một chiêu trao đổi với một đại cao thủ như Trương-Siêu-Trọng như thế, Văn-Thái-Lai gần như không còn đứng vững nổi nữa. Trương-Siêu-Trọng thừa cơ dùng kiếm chém vào vai Văn-Thái-Lai một nhát. Văn-Thái-Lai khẽ nghiêng mình tránh nhưng tránh không khỏi, bị một vết thương nhẹ trên vai. Toàn thân chàng không gượng nổi, ngã hẵn xuống đất.

Dư-Ngư-Đồng vừa đánh vừa nghĩ:

-Ta là một kẻ đau khổ nhất trên đời, sống cũng như chết! Thôi, thì hôm nay chi bằng cố gắng mà cứu được tứ ca về cho đoàn tụ với tứ tẩu thì cho dù có chết cũng không ân hận. Họ sẽ hiểu được lòng ta. Dư-Ngư-Đồng này không phải kẻ bất nghĩa.

Lòng đã quyết, Dư-Ngư-Đồng không chút đắn đo, nhắm Trương-Siêu-Trọng dùng ống sáo vàng đánh ra một chiêu trí mạng. Trương-Siêu-Trọng nhìn thấy chiêu thức của Dư-Ngư-Đồng hết sức bí hiểm thì không dám khinh thường, lùi lại một bước, lách mình sang một bên né tránh. Nhờ vậy, Văn-Thái-Lai có đủ thì giờ mà đứng bật dậy. Chàng thét lên một tiếng như hổ gầm khiến cho đám thị vệ sợ hãi, lui lại đàng sau. Tên nào tên nấy vẫn cầm binh khí thủ trong tay, nhưng chẳng ai dám tiến tới. Dư-Ngư-Đồng thấy vậy kêu lớn:

-Tứ ca! Mau thoát ra cho lẹ!

Văn-Thái-Lai thấy cửa trước trống không người canh giữ bèn lách một cái như một cái bóng phớt qua. Dư-Ngư-Đồng múa ống sáo vàng, sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật pha với tuyệt kỹ của phái Không-Động nhất định cản Trương-Siêu-Trọng lại, không cho đuổi theo Văn-Thái-Lai.

Trương-Siêu-Trọng hết sức nóng nảy trong lòng, chỉ sợ Văn-Thái-Lai tẩu thoát. Nhưng ngặt nỗi Dư-Ngư-Đồng đánh dữ quá, chiêu nào chiêu nấy đều hiểm ác. Chàng đánh như chẳng cần còn mạng để rời khỏi nơi này, cũng chẳng cần biết mình đánh với ai và bao nhiêu người nữa.

Trương-Siêu-Trọng cả giận, trổ uy thần xông tới chém trúng Dư-Ngư-Đồng hai nhát. Thế nhưng chàng vẫn nhịn đau, thản nhiên như không mà tiếp tục đấu trí mạng, tấn công Trương-Siêu-Trọng liên tục không ngừng tay.

Trương-Siêu-Trọng giận quá hét vang lên:

-Bộ mi không sợ chết sao? Ai dạy cho mi cái lối đánh liều mạng như thế?

Dư-Ngư-Đồng cười nhạt đáp:

-Phải, ta liều mạng đó! Ông có bản lãnh thì cứ việc giết chết ta đi chứ việc gì phải nổi khùng mà lải nhải cho dài dòng.

Đánh với Trương-Siêu-Trọng được thêm vài hiệp, Dư-Ngư-Đồng lại trúng thêm một nhát kiếm nữa ngay bả vai. Bọn thị vệ thấy chàng bị thương liền thừa cơ hội xông lên quyết hạ cho bằng được để còn đuổi theo Văn-Thái-Lai. Dư-Ngư-Đồng quay ống sáo vàng điểm một cái vào ngay huyệt ‘nhụ hạ’ của một tên khiến hắn ngã lăn ra chết không kịp ngáp. Thuận tay, chàng phang luôn một chiêu vào giữa đỉnh đầu một tên khác khiến hắn chịu chung số phận với tên đồng bọn vừa rồi.

Trương-Siêu-Trọng thừa lúc chàng bận đấu với đám thị vệ lại xông đến chém trúng ngay vai Dư-Ngư-Đồng thêm một nhát nữa. Lúc ấy, máu tuôn như ướt đẫm hết cả áo Dư-Ngư-Đồng. Chàng hét lên một tiếng xông tới, gặp tên nào đánh tên đó, gặp ít đánh ít, gặp nhiều đánh nhiều, như một mãnh hổ bị thương đang liều mạng với đàn sói.

Đột nhiên, Dư-Ngư-Đồng như bị ai quất trúng một ngọn roi khiến chàng không sao gượng được, ngã sấp xuống đất. Thế nhưng Dư-Ngư-Đồng vẫn cố đứng dậy tiếp tục múa ống sáo vàng. Nhưng chưa múa được mấy cái thì chàng bỗng cười rộ lên một tràng rồi gục xuống bất tỉnh, nằm buông xuôi.

Vừa khi ấy có tiếng người từ ngoài cửa hét lớn:

-Ngừng tay!

Cả Trương-Siêu-Trọng cùng bọn thị vệ nhìn thấy Văn-Thái-Lai thần sắc oai nghiêm từ ngoài cửa bước vào. Văn-Thái-Lai như chẳng thèm đếm xỉa tới ai, chỉ chạy lại ôm lấy Dư-Ngư-Đồng. Nhìn khắp thân thể Kim-Địch Tú-Tài nhuộm máu hồng, Văn-Thái-Lai bất giác sa lệ nhỏ xuống. Để tay lên ngực Thập-tứ đương-gia thấy còn hơi thở, Văn-Thái-Lai mừng rỡ đỡ chàng dậy miệng gọi lớn:

-Mau đem thuốc cầm máu lại đây cho ta.

Lời của Văn-Thái-Lai chẳng khác gì một mệnh lệnh. Bọn thị vệ vội đi lấy thuốc kim thương mang đến. Chàng chính tay lấy thuốc rịt lên tất cả những vết thương trên người của Dư-Ngư-Đồng rồi ra dấu bảo đám thị vệ đõ Thập-tứ đương gia dậy. Sau đó chàng đưa hai tay ra bảo bọn thị vệ:

-Trói đi!

Bọn thị vệ nhìn thần sắc của Văn-Thái-Lai cũng đủ sợ rồi nên không một tên nào dám lại gần, chỉ nhìn Trương-Siêu-Trọng mà đợi ý kiến.

Trương-Siêu-Trọng chưa kịp mở miệng thì Văn-Thái-Lai đã quát lớn:

-Bây sợ à? Nếu ta muốn chạy thoát thì đã thoát lâu rồi! Bây giữ được ta à?

Lúc đó, mấy tên thị vệ mới dám đến trói hai tay chàng lại rồi dẫn về nhà lao của phủ.

Sáng hôm sau, Trương-Siêu-Trọng thức dậy thật sớm đích thân đến xem xét thương tích của Dư-Ngư-Đồng. Nhờ được tận tình săn sóc, thuốc men đầy đủ nên Dư-Ngư-Đồng đã tỉnh lại. Trương-Siêu-Trọng xem xét các vết thương cẩn thận rồi cất tiếng hỏi:

-Sư phụ của mi họ Mã hay họ Lục?

Dư-Ngư-Đồng đáp:

-Ân sư của ta ngoại hiệu là Thiên Lý Độc Hành, họ Mã, tên Chân.

Trương-Siêu-Trọng gật đầu nói:

-Phải! Ta đây chính là sư thúc của mi, tên là Trương-Siêu-Trọng.

Dư-Ngư-Đồng khẽ gật đầu mấy cái. Trương-Siêu-Trọng lại hỏi:

-Mi có phải là người của Hồng Hoa Hội không?

Dư-Ngư-Đồng lại gật đầu. Trương-Siêu-Trọng lắc đầu, than:

-Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc! Một người tuổi trẻ tài cao, có tương lai rực rỡ như mi lại đi lầm đường lạc lối! Còn Văn-Thái-Lai là gì trong Hồng Hoa Hội? Y có ân nghĩa gì với mi mà lại liều mạng để cứu như thế?

Dư-Ngư-Đồng nhắm mắt lại, không trả lời. Một lát sau chàng mới mở mắt ra nói:

-Ta quyết đổi tánh mạng mình để cứu được người ấy. Dẫu có chết cũng vui, chẳng có gì ân hận.

Trương-Siêu-Trọng nói:

-Chỉ uổng mạng mi thôi! Văn-Thái-Lai đã ở trong tay ta rồi. Mi không cứu thoát được đâu.

Dư-Ngư-Đồng cả kinh hỏi lại:

-Ta đã cứu thoát được tứ ca rồi! Có lý nào lại bị ông bắt lại?

Trương-Siêu-Trọng nói:

-Ta chưa cần phải ra tay bắt lại thì hắn đã chạy vào tự nạp mình.

Trương-Siêu-Trọng cố khai thác, hỏi nhiều câu về Hồng Hoa Hội, nhưng Dư-Ngư-Đồng như giả điếc chẳng thèm nghe. Chàng dùng miệng thay sáo (#2), thổi những bài ca du dường mà thường ngày ưa thích nhất, tỉnh bơ như không biết đau đớn gì cả. Trương-Siêu-Trọng mỉm cười, gật đầu khen:

-Thật là một trang thiếu niên dũng cảm, không biết sợ là gì!

Trương-Siêu-Trọng bỏ ra ngoài đi thẳng, gọi đám thị vệ vào bàn riêng. Rút kinh nghiệm, Trương-Siêu-Trọng gia tăng sự canh phòng. Y ra lệnh cho đám thị vệ canh phòng trước sau thật nghiêm ngặt, lại cắt đạt thêm một đội xạ thủ cung nỏ để phòng bị thích khách đột nhập như Dư-Ngư-Đồng đêm hôm trước. Về phần Văn-Thái-Lai, Trương-Siêu-Trọng đích thân dẫn ra khỏi nhà lao, tự tay đích thân canh giữ.

Sáng hôm sau có người báo tin, cho biết sông Hoàng-Hà dậy sóng, nước cuốn như thác đổ, thật khó mà qua lại bằng ghe đò. Nhưng Trương-Siêu-Trọng khôn nghe, vẫn ra lệnh phải tức tốc lên đường. Đám thuộc hạ đành răm rắp tuân theo.

Trương-Siêu-Trọng từ biệt các quan Tri-Phủ Lương-Châu cùng với Tri-Huyện sở tại. Kế đến, y sai nhốt Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng, mỗi người vào trong một chiếc tù xa để áp giải đi. Khi sắp sửa khởi hành thì thấy Ngô-Quốc-Đống, Tiền-Chính-Luân, Hàn-Văn-Xung, trước sau mười mấy người từ cửa phủ đi thẳng vào. Mặt mũi người nào người nấy trông hết sức tiều tụy và thảm não.

Trương-Siêu-Trọng ngạc nhiên hỏi tại sao thì tất cả đem chuyện kể lại. Trương-Siêu-Trọng hỏi:

-Diêm lục-gia võ nghệ cao cường mà sao lại phải chết trong tay một đứa nha đầu mới thật lạ lùng!

Ngô-Quốc-Đống lạnh lùng nói:

-‘Cao nhân tất hữu cao nhân trị’ (#3)! Diêm-Thế-Chương bản lãnh cao cường nhưng nha đầu người Duy kia võ nghệ còn giỏi hơn! Đó là chưa kể đến bản lãnh của đám người Hồng Hoa Hội và đám người Duy kia. Chưa chắc gì Trương-Đại-Nhân đã sánh được với chúng nó, chứ đừng nói là chúng tôi!

Nghe Ngô-Quốc-Đống tán dương đám hào kiệt Hồng Hoa Hội, lại nói rằng mình chưa chắc đã địch nổi với họ, Trương-Siêu-Trọng như bị chạm tự ái rất nặng, giọng gay gắt nói lớn:

-Để rồi ông coi! Ta sẽ cho đám Hồng Hoa Hội kia biết bản lãnh của Hỏa-Thủ Phán-Quan này như thế nào. Ông cứ chống mắt lên mà xem thử rằng ai không địch nổi ai, hay ai không sánh được với ai!

Rồi đưa thẳng nắm đấm giơ lên cao, Trương-Siêu-Trọng hét lớn:

-Ta thề phải báo cho được thù này!

Ngô-Quốc-Đống nhìn thấy bộ điệu phách lối củ Trương-Siêu-Trọng thì ghét cay ghét đắng. Nhớ lại tình cảnh mình bị họ Trương đưa ra làm ‘vật tế thần’ theo kế ‘kim thiền thoát xác’, Ngô-Quốc-Đống lại càng hận thêm. Y nói thầm trong bụng:

-Phải! Ta sẵn sàng chống mắt lên để xem thử coi mi giỏi hay là tụi Hồng Hoa Hội kia giỏi hơn!

Hỏa Thủ Phán Quan khoe dũng lược

Tây Xuyên Song Hiệp trổ kỳ tài

Dù giận dữ, cho là Ngô-Quốc-Đống vì quá sợ bọn Hồng Hoa Hội mà coi thường bản lãnh của mình, Trương-Siêu-Trọng cũng không dám quá tự đại mà trở nên bất cẩn nên sau đó liền mời ngay viên Tổng-binh (#1) phủ Lượng-Châu đến thương lượng.

Theo kế hoạch, viên Tổng-binh phủ Lượng-Châu này sẽ điều động 800 tinh binh phối hợp với lực lượng của Trương-Siêu-Trọng để áp giải khâm phạm. Viên Tổng-binh biết là việc quan trọng nên chẳng dám một mình đảm đương nên gọi Phó tổng-binh Tào-Năng và Tham-trưởng (#2) Bình-Vượng giao phó trách nhiệm, dặn hai người chia quân ra làm ba đạo thành tiền, hậu, và trung. Ba đạo quân này sẽ hộ tống Trương-Siêu-Trọng đem khâm phạm đến Tường-Lan rồi sau đó nhường trách nhiệm lại cho quan binh địa phương tại nơi này.

Đoàn người lên đường rời khỏi Lượng-Châu. Trên lộ-trình, bọn binh lính gain dâm hà hiếp phụ nữ, cướp của, bắt gà trộm chó, làm đủ điều tàn ác, gây khổ sở cho dân chúng không biết mấy. Tiếng khóc lóc than van, oán trách như vang dậy cả một trời.

Đi được hai ngày, đoàn người đến Song-Tử. Qua khỏi thị trấn ấy chừng vài chục dặm, vào khoảng giờ Thìn, thấy có hai thanh niên đang ngồi cởi trần, như phơi nắng dưới gốc cây. Tại đó có hai con tuấn mã được cột chặt.

Hai tên Thanh-binh trông thấy liền láy mắt cho nhau một cái rồi chạy tới quát nạt:

-Ê! Hai tên kia ăn cắp ngựa của ai đó? Mau nộp lại cho bọn ta thì mới mong được toàn tánh mạng!

Một trong hai thanh niên với gương mặt tuấn tú cười đáp:

-Chúng tôi là kẻ lương dân làm ăn khó nhọc, dám nào trộm cắp của ai đâu?

Một gã Thanh-binh lên mặt hỏi:

-Bọn ta đi đường xa cần ngựa. Cho mượn đỡ được không?

Tên binh kia lại nói:

-Thì cứ lấy mà cỡi chứ chẳng lẽ còn phải hỏi mượn chúng nữa à!

Chàng thanh niên vui vẻ nói:

-Được! Nếu hai vị cần ngựa thì chúng tôi sẽ sẵn sàng giao ngay chứ có gì đâu mà phải bận tâm!

Gã Thanh-binh cười, ra vẻ khoái chí:

-Có như vậy mới gọi là lương dân biết điều chứ!

Hai thanh niên cùng đứng dậy ra gốc cây mở dây cột ngựa ra nói:

-Hai vị phải cẩn thận nhé!

Hai gã Thanh-binh nạt nộ:

-Để kệ chúng ta. Phận sự các ngươi đến đây là hết rồi. Mau cút đi!

Hai tên Thanh-binh toan giựt lấy cương thì bỗng nhiên hai thanh niên nhào tới đấm đá hai gã túi bụi rồi nắm hai tai chúng liệng sấp xuống mặt đường như thảy hai con chó.

Đạo Thanh-binh chiêng trống nổi lên liên thinh nghe đinh tai nhức óc. Hai thanh niên sau đó nhảy lên lưng ngựa sấn lại hai chiếc tù xa.

Những gã xa phu hầu hết là những tên lính già yếu đuối, vì vậy hai chàng thanh niên xông vào dễ dàng chẳng chút kháng cự.

Một thanh niên khoát màn che lên, tay cầm đao cắt đứt gọi lớn:

-Tứ ca có trong xe này không?

Trong xe vang lên tiếng người đáp lại:

-Ủa kìa! Thập-nhị đệ!

Thanh niên ấy, tức Thập-nhị đương-gia Thạch-Song-Anh vội vã nói:

-Tứ ca! Chúng em đến cứu anh đây! Anh cứ yên tâm! Sắp có đủ mặt các anh em khác cùng đến sau.

Trong lúc đó Phó tổng-binh Tào-Năng và Ngân-Bá-Càn bị thanh niên kia dùng song câu đánh cho một trận mờ người, chỉ biết phải ráng cố sức mà đỡ thôi.

Nhưng sao đó, đám Thanh-binh kéo đến như nước vỡ bờ. Hai thanh niên nhận thấy lâm vào tình thế ‘bất địch chúng’ (#3) liền phóng ngựa như bay tẩu thoát. Ngân-Bá-Càn và Tào-Năng ra sức rượt theo không ngừng.

Đêm ấy, bọn Trương-Siêu-Trọng tạm trú tại phố Thanh-Thủy. Hôm sau, vừa sáng sớm đã nghe tiếng quân sĩ kêu la thất thanh làm náo loạn cả lên. Tào-Năng và Bình-Vượng ra ngoài thì thấy rõ vài chục tên Thanh-binh bị mổ bụng, moi hết cả ruột gan ra ngoài trên vũng máu mà đầu vẫn ở trên gối như đang nằm ngủ vậy. Cả hai đều thất kinh, không biết ai đã gây ra màn giết chóc thảm khốc như vậy. Đám Thanh-binh thì tụ năm tụ ba, chụm đầu bàn tán thì thầm, cho là ‘quỷ thần hiển lộng’ chứ không người nào có thể vào tận nơi giết bao nhiêu người bằng cách này mà không gây ra tiếng động nào...

Đi thêm một ngày nữa thì đến Khoán-Thạch. Đây là một thị trấn lớn. Mướn năm khách sạn mà vẫn không đủ chỗ chứa đoàn quân đông đúc thành thử quan binh phải chiếm thêm nhiều nhà của dân chúng trong vùng để có chỗ cho quân lính tạm trú qua đêm.

Trời vừa nhá nhem tối, thình lình năm trại đều bỗng dưng phát hỏa, tiếng kêu la vang dậy tứ phía.

Sợ Hồng Hoa Hội áp dụng chiến thuật ‘Diệu hổ ly sơn’, Trương-Siêu-Trọng ra lệnh cho đám thị vệ không được hoảng hốt mà chỉ tập trung lực lượng mà canh giữ Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng cho thật kỹ mà thôi.

Lửa mỗi lúc càng lan rộng ra. Ngọn lửa bốc lên thật cao, khói bay tỏa ra khắp một vùng.

Tào-Năng chạy đến gặp Trương-Siêu-Trọng la hoảng:

-Có bọn thổ phỉ tấn công! Xin ngài hợp sức với chúng tôi chống cự!

Trương-Siêu-Trọng đáp:

-Bọn tôi dù sống chết cũng vẫn phải ở sát khâm phạm mà canh giữ thôi. Xin Tào tướng quân chịu khó chỉ huy binh sĩ mà chống với bọn thổ phỉ thì hơn.

Tào-Năng vâng lệnh đi ra. Bên ngoài tiếng kêu la thảm thiết hòa với tiếng chân dồn dập của những quân lính tìm đường chạy trốn. Lửa vẫn cháy bùng, tiếng nổ lốp bốp làm ngói đổ gạch tan tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt.

Trương-Siêu-Trọng sai Đoàn-Đại-Lân và Châu-Tổ-Âm lên trên nóc để xem thử động tịnh bốn phía ra sao. Y cương quyết không bước ra khỏi cửa một bước ngoại trừ cường địch tấn công và tận nơi.

Giữa những tiếng la hét bên ngoài chợt đâu vang lên tiếng ngựa, dường như mỗi lúc mỗi gần lại. Đoàn-Đại-Lân và Châu-Tổ-Âm cho biết rằng đoàn kỵ mã nhắm về hướng Đông mà chạy. Tào-Năng bỗng từ nơi khói lửa chạy ra đến gặp Trương-Siêu-Trọng nói:

-Bọn thổ phỉ bị tôi đánh lui cả rồi!

Trương-Siêu-Trọng hỏi:

-Trận này bên ta bị tổn thất nhiều ít?

Tào-Năng cứng họng, đứng im không sao trả lời được. Mãi một lúc sau hắn mới ú ớ:

-Thưa ngài, bên ta chẳng có một người nào bị thương cả.

Trương-Siêu-Trọng cười ruồi, nói một cách mỉa mai:

-Vậy sao!

Thấy mặt Trương-Siêu-Trọng cười bí hiểm mà chẳng hỏi thêm lời nào, Tào-Năng nói:

-Bọn thổ phỉ này rất là hùng hổ. Tên nào cũng có võ công trác tuyệt cả. Chỉ có một điều quái lạ là chúng không cướp của giết người mà cứ tìm bọn ta mà chém giết không nương tay. Lúc rút lui, chúng còn móc ra 500 lượng bạc đưa cho chủ khách sạn bảo là bồi thường thiệt hại.

Trương-Siêu-Trọng nói:

-Bọn ấy mà Tào tướng quân gọi là thổ phỉ sao? Thôi! Ông hãy cho tất cả mọi người đi nghỉ đi đẻ mai còn lên đường sớm.

Tào-Năng vâng lệnh lui ra. Hắn tìm đến người chủ lữ quán là lão Mân, buộc tội là cấu kết với thổ phỉ để giết hại quan binh để làm tiền. Lão Mân sợ hãi, lạy lục van xin thế nào cũng không được, phải đút lót cho hắn ta 500 lượng bạc mới được êm chuyện.

Sáng hôm sau, phải đến gần giờ Ngọ đám quan binh gần như mới hoàn hồn, tập trung lại được. Trông cả đám chẳng khác gì một nhóm tàn quân sau một trận giao tranh. Trương-Siêu-Trọng không dám chậm trễ, liền ra lệnh khởi hành. Đi được hai tiếng thì đường đi mỗi lúc mỗi hẹp lại, địa thế hiểm trở kỳ khu (#4). Hai bên đường như hai vách đá cao đứng sừng sững giữa sườn non. Trương-Siêu-Trọng lại khiến Tham-tướng Bình-Vượng cỡi ngựa đi tiên phong hướng đạo.

Bình-Vượng nhìn đường đi chẳng khác nào như một con mãng xà nằm ngang giữa núi thì lo sợ nếu có mai phục thì thật là nguy cho cả đám. Dù vậy, hắn cũng không dám cãi lệnh phải dấn thân đi trước mở đường.

Đi được một đoạn, nhìn thấy đầu kia như có người đang phi ngựa chạy như bay tới, Bình-Vượng bèn một mình vượt lên trên đón đầu kỵ mã lại hỏi:

-Ai đó mà đi đâu có vẻ gấp gáp vậy?

Người kỵ-mã vẻ mặt như hốt hoảng nói:

-Trời ơi! Các ngài không xem địa thế vùng này ra sao mà dám đi ngang qua đây? Tôi vừa trông thấy một đám ác quỷ đón đường nên vội vã đi lui trở lại. Nếu các ngài muốn sống thì nên quay trở lại mà tìm ngõ sinh lộ mà đi. Có thể đi về hướng Đông thì may ra thoát khỏi. Nếu không chịu nghe lời tôi mà cứ đi tới e rằng sẽ chết hết không còn một người đó!

Ai nấy nhìn xem thì thấy người ấy mặc áo vải thô sơ, buộc sợi dây lưng gai kịch cợm, sắc mặt vàng khè, hai vai thì co rụt, trông hình thù như kẻ đói rét bơ vơ. Hắn vừa dứt lời thì vội quất ngựa chạy thẳng đi như bay. Quân sĩ hai bên phải vẹt ra để cho người ấy qua khỏi rồi mới tiếp tục cuộc hành trình theo lệnh tấn binh của Bình-Vượng.

Đi được mới nửa dặm đường thình lình nghe phía sau có tiếng kêu “Chết rồi!”, rồi một tên Thanh-binh ngã chúi đầu xuống ngựa chết không kịp trăn trối, chẳng hiểu vì đâu. Lạ hơn nữa là tìm khắp châu thân tên lính chẳng thấy một vết tích khả nghi nào.

Quan binh hết hồn hết vía, lại thêm một phen hoang mang đến cực độ, xúm lại bàn tán xôn xao. Sau khi sai hai tên lính mai táng người chết xong, đoàn người ngựa lại tiếp tục lên đường.

Đi được một quãng, đoàn người lại thấy có một kỵ mã từ xa cỡ ngựa phi như bay đến. Tham-tướng Bình-Vượng lại phóng ngựa ra đón đường thì nhận ra là người lúc ban nãy. Sau đó y lại lập lại lời cảnh cáo mọi người y như lúc ban nãy nói với tất cả. Dứt lời y lại giục ngựa phi như bay chẳng gì hồi nãy, và quân sĩ lại vẹt ra hai bên cho y chạy.

Chợt Bình-Vượng nghĩ ra một điều gì vô lý không thể tưởng được. Rõ ràng người ấy đã phi xuống chân núi rồi! Mà rõ ràng đây là con đường duy nhất để đi mà thôi! Chẳng lẽ người ấy xuống phi ngựa xuống chân núi rồi phi lên lại, vượt qua và bỏ xa tất cả, không ai trông thấy được, rồi lại quay ngựa phi ngược trở lại như lúc ban đầu? Nếu đem những chuyện cổ tích hoang đường mà kể lại thì chắc cũng chỉ đến thế này là cùng!

Châu-Tổ-Âm chờ cho người ấy đến gần mình thì giơ đao chặn lại nói:

-Bằng hữu đi đâu mà vội thế? Mau đứng lại cho ta hỏi đã!

Người ấy như chẳng nghe thấy, chỉ đưa tay vỗ nhẹ lên vai Châu-Tổ-Âm. Cây đơn đao sau đó không hiểu sao rớt xuống đất. Hắn cũng chẳng thèm quay lại, cứ thẳng đường mà phi như bay xuống chân núi. Và rồi lại y như lúc nãy, một tên quân ngã lăn xuống chết mà không hiểu lý do gì, mà trên người cũng không có một vết tích gì.

Đám Thanh-binh mặt ngơ ngơ ngáo ngáo, lại bàn tán xầm xì. Nét kinh khiếp hiện rõ ra trên mặt chúng.

Trương-Siêu-Trọng nghe báo cáo lấy làm lạ vô cùng. Ông ta giao cho đám thị vệ canh giữ Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng, còn ông ta thì đích thân tới tận nơi xem xét.

Lúc ấy, Châu-Tổ-Âm bỗng kinh hãi la lên:

-Trương đại nhân! Không hiểu kẻ ấy là người hay quỷ mà sao có hành động quái gở đến thế này!

Dứt lời, hắn vạch bả vai ra cho Trương-Siêu-Trọng xem mà mặt mày trắng bạch, tưởng chừng như không còn lấy được giọt máu.

Trương-Siêu-Trọng thấy vai Châu-Tổ-Âm nổ lên một cục bầm đen như qả ô mai, hình dáng trông như một cục bướu nhỏ. Y cau mày, thò tay vào túi lấy ra một gói thuốc bột đưa cho Châu-Tổ-Âm bảo nuốt hết vào miệng. Sau đó Hỏa-Thủ Phán-Quan lại sai cởi áo tên Thanh-binh mới chết ra xem. Quả nhiên, trên lưng hắn cũng có một vết bầm đen như quả ô mai đàng sau lưng.

Đám binh sĩ rùng mình thét lên:

-Quỷ cắn! Quỷ cắn!

Tham-tướng Bình-Vượng chọn hai tên lính lo trách nhiệm mai táng tên quân vừa mới chết nhưng không một người nào dám nhận lời hết cả. Rốt cuộc, đích thân Trương-Siêu-Trọng phải đứng ra tự tay chôn cất hắn rồi mới tiếp tục cuộc hành trình.

Đoàn-Đại-Lân nói:

-Trương đại nhân này? Tôi không hiểu cái người đó vì sao đã xuống chân núi rồi mà còn trở lại phía trước được như vậy?

Trong lòng Trương-Siêu-Trọng đang nảy ra bao nhiêu mối nghi hoặc. Bất chợt nghe hỏi vậy thì cũng đành phải miễn cưỡng mà trả lời:

-Châu-Tổ-Âm và hai tên lính kia trúng phải Hắc-Sa-Chưởng. Sở dĩ Châu-Tổ-Âm sống sót là vì tôi kịp thời phát hiện nên cứu được. Còn hai tên lính kia sở dĩ phải chết vì tôi không biết kịp để mà cứu!

Đoàn-Đại-Lân hỏi tiếp:

-Hắc-Sa-Chưởng là gì mà nguy hiểm quá vậy?

Trương-Siêu-Trọng thở dài đáp:

-Trên giang hồ rất ít người biết được môn công phu hiểm ác này. Chính tôi đây cũng chỉ được nghe thoáng qua chứ không được biết rõ lắm. Vì vậy mà chính lúc đầu tôi cũng chưa nhận ra được.

Đoàn-Đạo-Lân lại hỏi:

-Thưa Trương đại nhân! Hắc-Sa-Chưởng thuộc môn phái nào vậy?

Trương-Siêu-Trọng đáp:

-Lúc sinh tiền, tôi có được sư phụ nói cho nghe Hắc-Sa-Chưởn vốn thuộc của môn phái Thanh Thành ở Tứ-Xuyên do Huệ-Lữ Đạo-Nhân sáng chế ra, và chỉ có một mình ông ta biết được mà thôi.

Rồi như sực nhớ ra điều gì, Trương-Siêu-Trọng lùi ra sau mấy bước la lớn:

-Ừ phải rồi! Phải rồi! Tôi nhớ ra rồi! Sư huynh đồng môn Mã-Chân của tôi có một lần cho tôi biết rằng Huệ-Lữ Đạo-Nhân có dạy được hai người đệ tử rất đắc ý là Hắc-Vô-Thường và Bạch-Vô-Thường. Họ là hai anh em song sinh, giống nhau như hai giọt nước, cùng xấu xí như quỷ hiện hình vậy. Hễ ai trông thấy họ mà nhát gan thì chỉ có hồn phi phách tán mà thôi. Hai người đó được giang hồ đặt cho ngoại hiệu là Tây-Xuyên Song-Hiệp.

Bọn thị vệ đã từng nghe đại danh của Tây-Xuyên Song-Hiệp từ lâu, không ngờ hôm nay tình cờ đụng phải thì trong lòng hết sức lo lắng. Nhưng chúng vẫn phải làm thinh tỉnh bơ vì sợ bị cho là nhát gan.

Đêm ấy, Trương-Siêu-Trọng đành nghỉ ngơi tại Hắc-Tông-Bảo. Tào-Năng cắt đặt một số quân lính canh phòng ngoài trấn để dọ thám tin tức. Sáng ra, đến lúc chuẩn bị lên đường mà Tào-Năng vẫn chưa thấy một tên nào về để báo tin cả.

Sau Tào-Năng mới tra xét ra được là đêm trước đám lính được phái đi dọ thám không có tên nào dám ra khỏi trấn cả. Bọn chúng ngủ lại trong trấn mà sáng dậy thấy ở trên đầu mình có một tờ giấy tiên nên sợ hãi quá. Nhiều tên yếu bóng vía nên khi nhận được lệnh đi dọ thám đã tự ý đào ngũ.

Theo lộ trình hoạch định hôm ấy thì đoàn người sẽ phải vượt qua Ô-Tiêu-Lãnh, là nơi khét tiếng là vùng hiểm trở trên con đường Cam-Lượng xưa nay. Tào-Năng bèn cho binh sĩ ăn trước thật no để lấy sức mà cố vượt qua Ô-Tiêu-Lãnh cho lẹ. Tào-Năng hứa với quân sĩ rằng khi vượt qua được Ô-Tiêu-Lãnh thì sẽ được nghỉ ngơi thong thả.

Đi được nửa ngày, càng lên cao, khí hậu càng lạnh chẳng khác nào như đi lên núi tuyết. Đường càng đi mỗi lúc càng thêm hiểm trở. Trời tháng 9 ở đồng bằng nắng gắt nóng vô cùng, mà ở đây bông tuyết lại bay trắng xóa. Quan binh đều run rẩy, bước không muốn vững. Mặc cho Tào-Năng mặc sức mà đốc thúc, quân sĩ vẫn không thể đi mau hơn được; phần vì lạnh, phần vì sợ khiến ai nấy mất hết cả tinh thần...

Một bên thì núi cao ngút ngàn như đụng tới mây xanh. Một bên thì vực sâu thăm thẳm như tìm hoài mà chẳng thấy đáy. Bọn quân sĩ phải nắm tay nhau mà đi từ từ, cẩn thận nhìn xuống đôi chân. Đường đã hẹp, tuyết lại trơn. Nếu chẳng may trượt chân mà rơi xuống vực thì thân xác phải nát ra như cám mà thôi.

Đột nhiên phía trước như có tiếng gió kêu vi vu. Đám Thanh-binh đột nhiên la hoảng lên vì sợ hãi làm cho đại quân trở nên náo động. Tào-Năng phải lên tiếng vừa cổ võ vừa hăm dọa, chúng mới cố gắng mà tiến thêm được một đoạn nữa.

Những tiếng vi vu giờ đây trở thành những tiếng than vắn thở dài hết sức thê lương ảm đạm như những tiếng khóc của oan hồn khiến cho ai nghe thấy cũng phải rùng mình rởn óc. Lúc đó lời nói của người kỵ mã hôm trước chợt như vang lại trong trí của mọi người. Rồi có tiếng từ đâu vọng lại nghe rất ghê rợn nhưng rõ mồn một bên tai mọi người:

-Đi tới thì gặp Diêm-Vương... Trở lui thì được sống sót! Đi tới thì gặp Diêm-Vương... Trở lui thì được sống sót!..

Nghe xong những lời đó, ai cũng muốn đi lùi trở lại chứ chẳng muốn tiến thêm một bước. Tham-tướng Bìng-Vượng phải nhờ mấy tên thị vệ đi trước làm gương. Một tên thị vệ đi chưa được mấy bước thì một lằn tên từ đâu bay đến cắm ngay vào bụng hắn. Tên thị vệ thét lên một tiếng thảm thiết rồi rơi ngay xuống vựa sâu.

Bình-Vượng sai đánh trống ầm ĩ để thúc giục tinh thần mọi người hăng hái lên. Rồi không hiển tên từ phía nào bắn tới mà chỉ thấy ba, bốn tên thị vệ nữa lần lượt đua nhau ngã xuống vựa thẳm. Đám Thanh-binh không làm sao dám đi tiếp nữa. Tất cả còn đang trù trừ chưa biết phải làm gì thì bên triền núi có một người đi lại. Khi gần đến nơi, người ấy hét to lên rằng:

-Đi qua thì gặp Diêm-Vương! Trở lại thì còn ngã sống!

Bọn quân sĩ nhận ra đó là ‘quỷ Vô-Thường’ gặp hôm qua. Bọn chúng kinh hãi quá hét lên một tiếng rùng rợn rồi cắm đầu cắm cổ đi lùi trở lại. Tào-Năng cố gắng tìm mọi cách cản lại nhưng vô hiệu. Tham-tướng Bình-Vượng vội vàng rút kiếm đâm chết một tên quân để thị oai làm gương. Quả nhiên, đám Thanh-binh đứng lại hết, không dám đi lui nữa. Tuy vậy, sau khi kiểm điểm lại thấy thiếu mất cả chục tên, không rõ biến đi đâu.

Trương-Siêu-Trọng nói với Đoàn-Đại-Lân rằng:

-Thôi, bây giờ quý vị hợp sức lại với nhau mà giữ hai chiếc tù xa để tôi đến nói chuyện với hai anh em họ Thường rất có tên tuổi trong giang hồ kia xem thử ra sao.

Dứt lời, Trương-Siêu-Trọng vượt lên phía trước lớn tiến gọi:

-Dám hỏi phía trước có phải là Tây-Xuyên Song-Hiệp đó không? Tôi, Trương-Siêu-Trọng xin được ra mắt.

Người ấu cười nhạt đáp lại rằng:

-Hay lắm! Ai ngờ hôm nay hai quỷ Vô-Thường lại gặp Phán-Quan!

Tiếng nói vừa dứt thì người ấy đưa tay mặt ra, rồi một luồng gió thổi mạnh dị thường từ tay phóng ra nhắm thẳng Trương-Siêu-Trọng mà bay tới.

Chiêu thế đánh ra quá bất ngờ khiến Trương-Siêu-Trọng không làm sao tránh kịp đành phải dồn nội lực vào hai tay dùng thần công mà hóa giải, gát chưởng phong người ấy sang một bên. Sau đó Trương-Siêu-Trọng tung ra hai chưởng phản công lại.

Người ấy hét lên một tiếng rồi cũng tung ra hai chưởng đón lại. Bốn chưởng đụng nhau tạo nên một âm thanh vô cùng chói tai. Cả hai cùng bị chưởng phong dội lại mấy bước.

Trương-Siêu-Trọng lẹ làng dùng một thế ‘Hoành vân đoạn phong’ quẹt sà trên mặt đất. Người kia rút chân không kịp bèn nhắm ‘Thái dương huyệt’ của Trương-Siêu-Trọng đánh tới một chưởng. Trương-Siêu-Trọng vội vã thu chân về rồi tiến tới hai bước. Người kia cũng nghiêng mình ra trước. Thế là cả hai người cùng nhau tỉ thí trên ghềnh đá cheo leo. Người nào cũng múa cưởng đánh nghe vùn vụt. Người nào cũng cố thủ chỗ đứng cho thật vững và lừa thế đẩy đối phương lăn xuống vực sâu.

Hai bên so chưởng pháp một hồi lâu vẫn không phân thắng bại. Cả hai đều có vẻ nể sợ bản lãnh của nhau nên người nào cũng muốn giữ vững thế thủ hơn là ham tấn công.

Tham-tướng Bình-Vượng đứng ngoài thấy Trương-Siêu-Trọng đánh mãi mà không thắng được người kia bèn lén rút cung tên bắn trộm người ấy một phát để trợ lực cho Hỏa-Thủ Phán-Quan. Người kia một tay đón chưởng của Trương-Siêu-Trọng, nhưng tay kia đã giơ ra bắt lấy mũi tên của Bình-Vượng một cách dễ dàng. Bắt xong mũi tên, người ấy nhắm Bình-Vượng ném trả lại. Bình-Vượng cả kinh vội vàng cúi xuống né tránh thì một tiếng thét vang lên đàng sau. Một tên quân bị mũi tên ấy cắm ngay yết hầu, rơi xuống vực sâu mất xác.

Trương-Siêu-Trọng bất giác lên tiếng trầm trồ khen ngợi:

-Thật là tài! Tây-Xuyên Song-Hiệp quả nhiên ‘danh bất hư truyền’, khiến cho người đời phải khiếp phục!

Nhìn thấy rõ bản lãnh của đối phương, Trương-Siêu-Trọng lại càng dè dặt hơn, không dám khinh xuất ra chiêu bừa bãi. Chỉ khi nào chắc chắn lắm mới dám tung ra vài thế đánh cầm chừng. Thình lình ở phía có tiếng thét lên:

-Coi đây!

Tiếp theo đó là một luồng chưởng phong lướt qua, nhắm vào người Trương-Siêu-Trọng đánh tới. Trương-Siêu-Trọng lách mình tránh được, quay mặt lại nhìn thì thấy một người khác tướng mạo chẳng khác gì người kia. Cả hai không nói một lời, cùng nhau hợp lực tấn công Trương-Siêu-Trọng như vũ bão.

Trương-Siêu-Trọng bị cả trước mặt lẫn sau lưng cùng tấn công một lượt thì chỉ còn biết né tránh và đỡ gạt thôi chứ không còn dám nghĩ đến chuyện tấn công nữa, dù là một thế.

Bọn thị vệ thấy tình thế có vẻ bất lợi cho Trương-Siêu-Trọng nên có ý muốn nhảy vào tiếp sức nhưng chưa dám, vì chỉ cần nhìn vị trí phải đứng cũng đủ lạnh da gà rồi! Điều duy nhất chúng cảm thấy giúp được cho Trương-Siêu-Trọng là đứng vỗ tay reo hò để ủng hộ tinh thần.

Tây-Xuyên Song-Hiệp và Trương-Siêu-Trọng đánh qua đánh lại một hồi lâu mà vẫn không bên nào chiếm được thượng phong. Ban đầu Trương-Siêu-Trọng có vẻ yếu thế vì không hiểu được bản lãnh của Song-Hiệp. Nhưng lần hồi, càng đánh càng quen dần với võ công của hai người đã lấy lại được thế quân bình nên thỉnh thoảng cũng bắt đầu đánh trả đòn lại được.

Thường-Thích-Chí bỗng vung tay quét một chưởng vào ngay hông Trương-Siêu-Trọng, chiêu thế cực kỳ dũng mãnh. Trương-Siêu-Trọng cả kinh dùng chưởng đỡ lại. Hai chưởng đụng nhau vang lên một tiếng như long trời lở đất. Cả hai người đều bị kình phong dội ngược ra sau, đều phải dùng thế ‘Thiên cân trụy’ lấy thăng bằng bật người trở dậy. Trương-Siêu-Trọng bật mình dậy trước, đợi cho Thường-Thích-Chí vừa đứng vững lại, liền tống ra một chưởng tấn công ngay ngực. Thường-Thích-Chí cả kinh vội vung chưởng lên đỡ lại. Nhưng không ngờ uy lực chưởng phong của Trương-Siêu-Trọng quá mạnh, vẫn xuyên qua chuyển phong của Thường-Hích-Chí mà đánh trúng. Tuy không bị thương nhưng Thường-Hích-Chí không gượng được, toàn thân rời khỏi chỗ đứng văng xuống vực sâu.

Trong lúc Trương-Siêu-Trọng cùng đám thị vệ đang đắc ý vì đã loại được một địch thủ thì bỗng đâu thấy Thường-Thích-Chí dùng một thế ‘Cân đẩu vân’ lộn mình giữa không trung rồi phóng lên lại như một con diều.

Không chút chậm trễ, Thường-Bá-Chí đưa tay ra chụp lấy tay Thường-Thích-Chí rồi thuận đà ném lên trên phía triền núi hơn 10 trượng trước sự kinh ngạc của Trương-Siêu-Trọng cùng đám thị vệ. Thấy Thường-Hích-Chí an toàn vô sự, Thường-Bá-Chí mới nhìn Trương-Siêu-Trọng nói:

-Bản lãnh của Hỏa-Thủ Phán-Quan thật hết sức cao thâm. Anh em chúng tôi xin bội phục! Bội phục!

Khen xong, Thường-Bá-Chí phóng tới chỗ Thường-Thích-Chí rồi hai người nắm tay nhau tung người lên, dùng thuật phi hành bay đi. Không đầy mấy chốc, bóng cả hai đã mất hút.

Đám quan binh bấy giờ mới dám chạy vụt tới. Tên nào tên nấy hết lòng ca tụng võ nghệ của Trương-Siêu-Trọng. Nhiều tên như tiếc rẻ không thừa cơ hội đó mà rượt theo giết chết hai anh em ‘quỷ Vô-Thường’ đó. Trương-Siêu-Trọng vẫn làm thinh không nói một lời nào. Y lại chỗ phiến đá ngồi xuống như vận công.

Đoàn-Đại-Lân thấy vậy đến hỏi:

-Thế ra Trương đại nhân bị thương hả? Có làm sao không?

Trương-Siêu-Trọng vẫn ngồi trầm ngâm không đáp. Ông ngước mặt lên nhìn trời, hả lớn miệng ra dùng phương pháp hô hấp mà thở rồi hít thanh khí vào trong người. Phải một lúc khá lâu Trương-Siêu-Trọng ngừng lại, sắc mặt tươi tỉnh hơn lúc nãy trả lời:

-Chẳng sao hết.

Nói xong, Trương-Siêu-Trọng vén tay áo lên cho mọi người nhìn. Năm vết bầm tím sưng lên như năm quả ô mai , và rõ ràng còn in rõ năm dấu tay. Không những Trương-Siêu-Trọng kinh sợ mà người nào xem cũng phải rợn tóc gáy.

Sau đó, Tào-Năng lại cố đốc thúc đoàn quân tiến hành. Thấy nguy hiểm đã qua rồi nên đoàn quân hăng hái đi tiếp mà không phải sợ sệt gì nữa. Nhờ vậy mà vượt qua khỏi được Ô-Tiêu-Lãnh. Nhưng đêm hôm ấy có đến gần 50 tên quân lại bỏ trốn, đào ngũ.

Trương-Siêu-Trọng bàn với đám thị vệ rằng:

-Nếu cứ theo lộ trình này mà đi ắt đến tỉnh Cao-Lang. Nhưng với địa thế hiểm trở thế này mà lại bị kẻ thù phục kích thì thật khó mà trở tay kịp. Chi bằng chúng ta cứ theo tiểu lộ mà điến Hồng-Thành rồi qua sông Hoàng-Hà để đánh lạc hướng bọn Hồng Hoa Hội, đồng thời không phải lo lắng đến những màn phục kích bất ngờ.

Đám thị vệ ai nấy đều tán thành. Chỉ có Tào-Năng là có vẻ không được vui. Hắn chỉ muốn hộ tống đám người Trương-Siêu-Trọng đến Cao-Lang để bàn giao cho quan binh địa phương nơi ấy là kể như xong phận sự. Tuy không bằng lòng nhưng Tào-Năng cũng đành phải tuân theo chứ không dám cãi lệnh.

Trương-Siêu-Trọng hình như hiểu được tâm trạng của Tào-Năng nên an ủi:

-Để tôi viết mấy hàng nói rõ mọi tổn thất là không phải lỗi ở Tào tướng quân để quan trên khỏi phải thắc mắc mà khiển trách.

Tào-Năng nghe Trương-Siêu-Trọng nói như vậy thì mừng rỡ vô cùng, vui vẻ mà tiếp tục cuộc hành trình.

Khi tất cả đến bờ sông Hoàng-Hà thì xa xa đã nghe tiếng sóng ầm ầm như muôn quân reo hò. Đi được hơn nửa ngày thì tới bến đò Hồng-Thành. Trời đã về chiều. Sóng cuồn cuộc như thác đổ chảy về hướng Đông. Cả một giòng sông Hoàng-Hà chẳng khác gì thiên binh vạn mã biểu dương uy thế.

Trương-Siêu-Trọng đứng nhìn sông mà lo lắng, nghĩ thầm:

-“Đêm nay cần phải qua sông mà sóng như thế này thì làm sao mà đi được!”

Tự nhiên trông ra xa có hai điểm đen như đang tiến tới mỗ lúc mỗi gần thêm. Khi gần đến nơi, Trương-Siêu-Trọng mới nhận ra là hai chiếc tàu lớn trống rỗng không người. Có lẽ là của ngư dân định ra khơi nhưng vì sóng quá lớn đánh không được cá nên phải quay trở về.

Tham-tướng Bình-Vượng mừng quá gọi hai người lái đò nói:

-Này hai anh! Nếu cố gắng làm sao mà đưa được chúng ta sang bờ bên kia thì ta sẽ trọng thưởng cho nhiều vàng bạc để xứng đáng với công của hai người.

Một người cập thuyền vào bờ, leo xuống đến trước mặt Bình-Vượng nói:

-Đại nhân cứ xuống đây cho mau.

Nói dứt lời, người lái đò dắt tay Bình-Vượng đi.

Bình-Vượng ngạc nhiên hỏi:

-Mà anh là ai mới được?

Người ấy cười, nói bằng tiếng Quảng-Đông:

-Đại nhân còn hỏi làm gì? Nếu muốn tôi đưa qua sông thì tôi đưa ngay. Miễn sang đến bờ bên kia đừng quên trọng thưởng cho tôi là được rồi.

Bình-Vượng nghe vậy thì không hỏi nữa. Hắn bàn Trương-Siêu-Trọng và bọn thị vệ nên đem hai chiếc tù xa xuống thuyền mà đi trước. Trương-Siêu-Trọng là người cẩn thận, đến gặp mặt người lái đò để xem mặt kỹ lưỡng. Đôi tay người ấy thật to lớn, bắp thịt rắn chắc, chứng tỏ là một người có sức mạnh vô cùng. Nhìn cái mái chèo trên tay người ấy cũng đủ thấy nặng nề thế mà y lại cầm chẳng chút phí sức. Trời khá tối nên Trương-Siêu-Trọng không trông rõ lắm, nhưng tin tưởng rằng chiếc mái chèo kia làm bằng sắt chứ không phải bằng gỗ. Người lái đò kia vì không đến gần nên Trương-Siêu-Trọng không làm sao trông rõ mặt được.

Tự nhiên, Trương-Siêu-Trọng sinh ra nghi ngờ, nói với Bình-Vượng rằng:

-Bình tham-tướng à! Theo tôi thì ông nên dẫn đám quân lính sang trước đi, và chờ chúng tôi ở bên đó.

Bình-Vượng nghe lời liền xuống thuyền và sắp xếp cho mỗi thuyền chừng 30 tên lính đi qua trước.

Hai người lái đò dường như rất thông thạo nghề nên chẳng mấy chốc đã đưa Bình-Vượng qua được bờ bên kia, rồi lại trở về đón khách. Lần này đến phiên Tào-Năng lãnh binh xuống thuyền qua sông. Thuyền vừa rời khỏi bến chưa được bao lâu thì đột nhiên một tiếng tiêu trổi lên và sau đó bao nhiêu tiếng tiêu khác từ đâu cùng trổi lên một lượt...

Trương-Siêu-Trọng bối rối tâm thần, ra lệnh cho quan binh tản mát ra và đích thân y đứng canh phòng, gìn giữ hai tù xa. Đám xạ thủ lãnh trách nhiệm yểm trợ hai chiếc tù xa đều lắp tên, giương cung sẵn sàng để chuẩn bị đối phó.

Lúc ấy, trăng cũng vừa lên. Nhìn ra ba phía Đông, Tây, Bắc có mười mấy kỵ mã đang phóng ngựa như bay. Trương-Siêu-Trọng phi ngựa ra trước đón những kỵ mã kia lại hỏi:

-Đám người kia! Đến đây có việc gì mà đi đông đúc như thế?

Phía bên kia, cách kỵ mã dàn trận thành hình chữ nhất từ từ tiến đến. Rồi một người trong đám phi ngựa ra đến gần, đối diện với Trương-Siêu-Trọng. Người này không mang theo binh khí nào cả, chỉ phe phẩy một chiếc quạt lông Bạch-Ngà, dáng điệu rất khoan thai.

Nhìn thẳng vào mặt Trương-Siêu-Trọng, người ấy lên tiếng:

-Người trước mặt ta có phải là Hỏa-Thủ Phán-Quan Trương-Siêu-Trọng đó không?

Trương-Siêu-Trọng gật đầu đáp:

-Phải, chính tôi. Còn các hạ là ai?

Người ấy cười nói:

-Tứ ca của chúng tôi mong ơn các hạ cực khổ đưa đến đây rồi nên không dám để các hạ mệt nhọc nữa.

Trương-Siêu-Trọng “à” một tiếng rồi nói:

-Thế ra các người đây là Hồng Hoa Hội!

Người ấy lại cười nói tiếp:

-Trên giang hồ người ta vẫn đồn rằng Hỏa-Thủ Phán-Quan không những võ-nghệ siêu quần cái thế thôi, mà còn liệu việc như thần nữa! Bây giờ mới thấy quả lời đồn kia không sai chút nào cả. Phải! Anh em chúng tôi chính là Hồng Hoa Hội.

Người ấy vừa dứt lời thì khẽ thổi một tiếng tiêu. Trương-Siêu-Trọng bỗng giật mình, lại nghe dưới thuyền có tiếng tiêu nổi lên như đáp ứng lại.

Tào-Năng ngồi trên chiếc thuyền chưa rời khỏi bờ thấy cường địch tới uy hiếp thì bỗng trở nên luýnh quýnh. Đang phân vân chưa biết phải làm gì thì lại nghe người lái đò thổi lên một hồi tiêu thật dài.

Tào-Năng sợ toát mồ hôi, mặt không còn chút huyết sắc. Người lái đò dựng mái chèo trên mũi thuyền rồi quay lại nói lớn:

-Các người có muốn cùng ta tắm nước sông Hoàng-Hà một chuyến không?

Tào-Năng nghe giọng nói người lái đò nặng giọng Quảng-Đông bèn lơ mắt ngơ ngác nhìn hắn trừng trừng. Cùng lúc ấy, Tào-Năng lại nghe người lái đò ở thuyền bên kia cất lên tiếng ‘ồ ề’, vừa hát vừa gõ nhịp:

Thái-Hồ tự thưở bé thơ,

Lẫy lừng mặt nước, bến bờ dọc ngang.

Giết người chẳng chút sờn gan,

Trừ quân ác bá tham quan răn đời.

Bữa nay trời cũng chiều người,

Đưa quân lính đến, thế thời càng hay!

Nước Hoàng-Hà... mộ chôn thây...

Cái quân gian tặc từ nay xong đời!

Này hỡi! Lũ bây ơi!

Nghe nội dung lời ca, Tào-Năng cả sợ, tinh thần hết sức rối loạn. Chưa kịp có phản ứng gì thì người lái đò bên kia cất tiếng gọi lớn:

-Thập-tam đệ! Mau lên! Còn chờ gì nữa?

Người lái đò bên này đáp lại:

-Phải rồi! Xem đây!

Tào-Năng cầm thương nhảy tới định đâm một nhát thì người lái đò đã nhảy xuống nước biến mất. Thuyền đang êm xuôi đột nhiên chao động dữ dội vì không có người điều khiển.

Rồi cả chiếc thuyền kia cũng bắt đầu chao động chẳng khác gì chiếc này. Cả hai chiếc thuyền đều bị dòng nước cuốn theo các đợt sóng dữ. Tào-Năng như hồn phi phách tán. Đám Thanh-binh trên cả hai chiếc thuyền đều hoảng hốt, kêu cứu vang trời đất. Rồi chỉ trong chớp nhoáng, cả hai chiếc thuyền đều lật úp lại, hất toàn bộ nhân mạng xuống sông Hoàng-Hà.

Tào-Năng cũng như đám Thanh-binh đều không rành thuật bơi lội nên chẳng bao lâu đã bị nước cuốn trôi đi hết. Chỉ có hai người lái đò là vẫn an nhiên như không, chỉ trong phút chốc đã bơi được vào bờ dễ dàng.

Bọn xạ thủ được lệnh bắn liền nả ra một loạt tên nhắm vào hai người ấy. Nhưng tên bắn ra chỉ là uổng phí vì cả hai người đều ở ngoài tầm tên cả, thành ra chưa tới nơi mà đã đồng loạt rơi cả xuống dưới đất. Kế đến, hai người như không biết sợ, thẳng đường tiến đến đám xạ thủ. Trương-Siêu-Trọng có lẽ vì quá thẹn nên liền ra lệnh ngừng bắn, mà cẩn thận trông chừng và chuẩn bị đợi lệnh. Dù sao thì Trương-Siêu-Trọng cũng cảm thấy mình may mắn vì nếu nghe lời Bình-Vượng mà xuống thuyền thì có lẽ giờ này đã về chầu thủy thần rồi. Nhưng có lẽ là Trương-Siêu-Trọng chưa ‘tới số’ nên định mệnh mới xui khiến cho Tào-Năng chết thế cho Hỏa-Thủ Phán-Quan.

Định thần lại, Trương-Siêu-Trọng lớn tiếng hét lên:

-Bọn ngươi dọc đường giết bao nhiêu quan binh, tội nặng bằng non, khó mà thoát khỏi! Nói cho các ngươi biết, đã gặp Trương-Siêu-Trọng này thì đừng ỷ vào thế mạnh của Hồng Hoa Hội mà chết uổng mạng. Và cũng đừng mong ta sẽ lùi một bước trước các ngươi!

Người cầm quạt Nga-mao (#5) cả cười nói:

-Sợ hay không, cái đó tự lòng! Có ai bắt buộc Hỏa-Thủ Phán-Quan phải nói ra đâu?

Trương-Siêu-Trọng hỏi:

-Còn ngươi là ai? Làm gì trong Hồng Hoa Hội?

Nghe Trương-Siêu-Trọng hỏi, người ấy phá lên cười đáp:

-Ngươi khỏi cần phải hỏi tên họ ta làm gì! Chỉ cần xem món vũ khí này cũng đủ biết được tôi là ai rồi!

Dứt lời người ấy phóng xuống ngựa, quay lại nói với một thiếu niên đứng đàng sau:

-Tâm-Nghiện! Mau đem vũ khí ra đây cho ta!

Thiếu niên kia, tức thư đồng Tâm-Nghiện, liền mở bao lấy ra một tấm thuẫn bài trao cho người cầm quạt Nga-mao phe phẩy, tức Trần-Gia-Cách, Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro