Thư Sinh Họ Diệp

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.

Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.

Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước đèn sách, cấp cho đầy đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ gia quyến nữa.

Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sử, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ.

Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy văn của chàng để xem và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt.

Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột.

Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại thẹn là mình đã phụ người tri kỷ, thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như khúc gỗ.

Ông nghe tin, cho mời đến an ủi.

Chàng rơi lụy dầm dề.

Ông rất thương tình, hẹn đến khi nào mãn kỳ khảo tích về kinh thì đem chàng cùng đi.

Chàng rất cảm kích cáo từ ra về , từ đấy đóng cửa không đi đâu nữa.

Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc ấy ông lại có điều xúc phạm đến quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư cho chàng, đại lược nói rằng: "Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ chưa đi ngay, là chỉ vì muốn chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì buổi chiều là tôi khởi hành..."

Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt sùi, rồi nhắn sứ giả về nói là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin cứ đi trước.

Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.

Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp đến, ông mừng quá, ra đón mà hỏi han.

Chàng nói:

- Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp dấu giày chân ngựa.

Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi.

Chẳng mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền bên cạnh.

Cậu con tên là Tái Xương lúc bấy giờ mới mười sáu tuổi, chưa biết làm văn chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua hai ba lần thì không quên nữa. ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có thêm thế lực của ông, bèn được nhận vào nhà học của huyện.

Chàng bàn chép lại những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công tử học.

Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đậu á khôi.

Một hôm ông bảo chàng rằng:

- Túc hạ chỉ vứt ra một mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên đanh, nhưng còn quả chuông vàng kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào?

Chàng nói:

- Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho văn chương, khiến người thiên hạ biết rằng nửa đời luân lạc không phải vì kém tài đánh trận, như thế là thỏa nguyện rồi. Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết, đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?

Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát hạch năm, khuyên chàng nên về thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật giải Nam Cung được bổ chức Chủ sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần nhau.

Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ Cử nhân.

Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà Nam bàn nhân tiện nói với chàng rằng:

- Chuyến đi này không xa quê hương tiên sinh là mấy. Nay hãy nhẹ bước đường mây, tiên sinh cũng nên một phen về làng cho được khoái chí.

Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường.

Ðến địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về.

Ðến nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào sân.

Người vợ cầm nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy.

Chàng rẫu rĩ mà nói:

- Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bông như không quen biết nhau vậy?

Người vợ đứng xa mà bảo rằng:

- Chàng chết đã lâu, còn nói nên danh nên phận gì nữa?

Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm gở để quấy người sống.

Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bàn lững thững đi vào trong nhà, thấy linh cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất.

Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ đấy, như cái xác lột. Nàng mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học về, thấy một cỗ xe ngựa buộc ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi chạy về báo với mẹ.

Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi.

Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt rơi ướt cả ngực, lập tức lên xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc tang, chôn cất theo lệ hiếu liêm.

Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và gửi gắm cho quan học sứ, hơn một năm sau được vào nhà học phán

Bức Họa Trên Tường

Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức" Thiên nữ rắc hoa", ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.

Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường.

Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.

Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo.

Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào.

Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.

Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến.

Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng:

- Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư?

Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên.

Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo:

- Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui.

Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội.

Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.

Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo.

Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.

Sứ giả nói:

- Ðã đủ chưa?

Có tiếng đáp:

- Ðủ cả rồi.

Sứ giả lại nói:

- Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau.

Cả bọn đồng thanh đáp:

- Không có đâu!

Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp.

Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng:

- Mau trốn xuống gầm giường.

Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.

Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.

Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra.

Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc.

Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.

Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư.

Vị sư cười đáp:

- Ði nghe thuyết pháp rồi.

Mạnh Long Ðàm hỏi:

- Ở đâu?

Nhà Sư đáp:

- Không xa.

Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng:

- Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về?

Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng.

Nhà Sư lại gọi tiếp:

- Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.

Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.

Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.

Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.

Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa.

Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.

Nhà Sư cười đáp:

- Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!

Chu ỉu xìu mất cả khí thế.

Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về.

Hồ Gã Con

Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở.

Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến.

Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa:

- Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.

Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói:

- Khó gì việc ấy:

Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng:

- Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.

Ân cười đáp lại:

- Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng

Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai.

Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được.

Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau.

Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão.

Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.

Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên.

Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:

- Có người lạ trên này.

Người bên dưới hỏi:

- Ai vậy?

- Cô gái đáp rằng:

- Không biết.

Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói:

- Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.

Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày.

Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng.

Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng:

- Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.

Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói:

- Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng.

Ông già đáp:

- Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào

Ân cũng mừng, nhận lời.

Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã.

Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói:

- Ðây là tiện nội.

Ông vái chào lại.

Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa:

- Ðến rồi!

Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi.

Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào.

Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú.

Ông già bảo hãy chào quan khách trước.

Chàng trai đưa mắt nhìn ông.

Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc.

Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế.

Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra.

Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra.

Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra.

Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra.

Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức.

Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy.

Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ.

Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp.

Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu.

Ân nghĩ:

-Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.

Mọi người đều nói:

- Ông lớn say rồi!

Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu.

Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi.

Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy.

Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ.

Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được.

Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy.

Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường.

Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn.

Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào.

Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi.

Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực.

Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu.

Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra.

Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận.

Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống.

Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào.

Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp:

- Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc.

Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa.

Ân cười bảo:

- Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.

Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến.

Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có.

Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.

Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình.

Ðạo Sĩ Núi Lao

Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo.

Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.

Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.

Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.

Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thấy.

Ðạo Sĩ nói:

- Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi.

Vương hứa là: "Ðược"

Học trò Ðạo Sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về.

Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán.

Sáng tinh sương, Ðạo Sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi.

Vương kính cẩn vâng lời.

Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về.

Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu.

Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả.

Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách.

Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc.

Ðám học trò chạy quanh hầu hạ.

Một người khách nói:

- Ðêm này đẹp trời có thể vui chi, nên cho ai nấy cùng vui.

Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say.

Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được?

Mỗi người đều đi tìm chén, bát , tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ.

Giây lát, một vị khách nói:

- Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi?

Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường.

Rồi ca rằng:

Tiên tiên nào!

Về đây nao!

Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!

Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại thành chiếc đũa.

Ba người cùng cười lớn.

Lại một vị khách nói:

- Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng?

Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng.

Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết, như bóng hiện trong gương.

Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất.

Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi.

Ðạo Sĩ hỏi:

- Mọi người đã uống đủ cả chưa?

Các học trò cùng thưa:

- Ðủ cả.

- Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.

Chúng học trò đều "vâng" mà lui ra.

Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan.

Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào.

Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng:

- Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là h tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về.

Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế.

Ðạo Sĩ cười bảo:

- Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho anh về:

Vương nói:

- Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây.

Ðạo Sĩ hỏi:

- Muốn học thuật gì?

Vương đáp:

- Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.

Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô: "Vào đi!" Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào.

Ðạo sĩ lại nói:

- Cứ vào thử đi!

Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:

- Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần!

Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy trống không có vật gì cả.

Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi.

Vương mừng quá, vào lạy tạ.

Ðạo Sĩ bảo:

- Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.

Nói rồi cấp lộ phí cho mà về.

Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được mình.

Vợ không tin.

Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng.

Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn.

Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho.

Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.

Thụy Vân

Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu . Nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách.

Thụy Vân thưa rằng:

- Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua loa cẩu thả . Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.

Mẹ bảo được, bèn định giá mười lăm đồng vàng rồi hàng ngày ra tiếp khách.

Khách muốn gặp thì phải có lễ, lễ hậu mới được tiếp một ván cờ, một bức tranh, lễ bạc thì giữ lại uống chén trà mà thôi.

Thuỵ Vân lừng tiếng đã lâu, từ đó các bậc đại thương, giới quyền quí, ngày ngày nối gót nhau vào.

Giới Trấn Dư Hàng có người thư sinh họ Hạ, tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung. Chàng vốn ngưỡng mộ Thụy Vân, nhưng chưa dám nghĩ đến giấc mộng uyên ương, cũng gắng hết sức sắm được chút lễ mọn, chỉ mong một phen nhìn ngắm mặt hoa, mà vẫn thầm lo nàng tri đời đã nhiều sẽ không đoái hoài gì đến một kẻ sĩ bần rách như mình.

Ðến lúc gặp mặt, trò chuyện dăm câu, nàng đã tiếp đãi rất mực ân cần. Ngồi nói chuyện giờ lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình . Lại tặng chàng bài thơ :

Việc gì kẻ xin nước

Cầu lam phải nệm sương?

Có lòng tìm chày ngọc,

Ngay giữa chốn người thường

Ðược thơ, chàng mừng rỡ như cuồng, còn muốn nói gì nữa, bỗng con hầu vào báo khách đến, bèn vội vàng từ biệt. Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, tơ lòng vương vít.

Ðược một hai ngày, cầm lòng không đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại.

Thụy Vân đón tiếp niềm nở, dần dần ngồi dịch lại gần chàng, nét mặt rầu rầu mà rằng:

- Có thể lo toan được một đêm sum họp với nhau không?

Chàng rằng:

- Học trò túng kiết chỉ có cái tấm tình si là có thể đem tặng tri kỷ; sắm được cái lễ biếu nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết; được gần mặt hoa là mãn nguyện lắm rồi, còn như tựa gió kề hoa dám đâu mộng tưởng.

Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau mà không nói gì.

Chàng ngồi lâu không ra; mụ chủ giữ mấy lần gọi Thụy Vân, có thúc giục chàng về đi. Chàng bèn ra về, trong lòng buồn rười rượi. Muốn khánh kiệt gia sản để chuốc một lần vui, nhưng lại nghĩ, sum họp một đêm rồi phải ly biệt suốt đời, tình trạng ấy chịu làm sao nổi. Trù tính đến đấy thì nỗi lòng hăm hở đều tiêu mất hết.

Từ đó bặt không có tin tức vãng lai gì.

Thụy Vân kén khách mở khoá động đào mấy tháng mà chưa chọn được nơi nào xứng đáng. Mụ dầu khá bực tức, rắp toan ép uổng duyên nàng nhưng cũng chưa ra tay.

Một hôm, có chàng tú tài đem lễ biếu đến xin ra mắt, ngồi nói chuyện chốc lát liền nhổm dậy, lấy ngón tay ấn lên trán nàng mà nói: "Ðáng tiếc, đáng tiếc" rồi bỏ đi.

Thụy Vân tiễn khách ra, trở lại , thì mọi người đều thấy trên trán nàng có dấu tay in đen như mực, càng rửa càng thêm rõ.

Sau đó vài ngày vết mực dần dần lan rộng, hơn một năm sau thì lan khắp trán, đến cả mũi nữa. Ai thấy cũng cười mà từ đó, dấu vết xe ngựa ở ngoài cũng dần dần mất hẳn.

Mụ dầu lột hết trang sức, xếp nàng vào hàng ngũ con hầu. Thụy Vân vốn ẻo lả không đưng nổi công việc tôi đòi, ngày càng thêm tiều tuỵ.

Hạ nghe nói, đi qua ghé vào, thấy bù đầu ở dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy chàng thì quay mặt vào tường mà tránh.

Hạ đem lòng thương xót, bèn nói với mụ, muốn chuộc nàng về làm vợ.

Mụ bằng lòng.

Hạ bán ruộng và dốc hết hành trang vốn liếng mua nàng đem về. Ðến nhà, nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là người sánh vai với chàng, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này.

Hạ nói:

- Ở đời, cái đáng quí là tri kỷ. Lúc khanh đang thịnh, khanh còn biết đến tôi, lẽ nào vì khanh suy mà tôi lại quên khanh?

Rồi không chịu cưới ai nữa. Ai nghe nói việc này cũng cười cợt, nhưng với chàng thì mối tình càng thêm nồng thắm.

Ðược hơn một năm. Hạ ngẫu nhiên đến đất Tô, gặp chàng thư sinh họ Hoà, cùng trọ một chỗ.

Bỗng dưng Hoà hỏi rằng:

- Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân gần đây ra sao?

Hạ đáp:

- Ðã lấy chồng rồi.

Hoà lại hỏi:

- Lấy ai đấy?

Ðáp:

- Người đó cũng đại loại như tôi.

Hoà nói:

- Ðược như anh thì có thể nói là đúng người rồi đấy, không biết giá bao nhiêu?

Hạ nói:

- Mắc phải bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, chẳng thế, loại người chúng tôi sao có thể mua được người đẹp.

Hoà lại hỏi:

- Người đó quả thật có được như anh không?

Hạ thấy anh ta hỏi hơi lạ, nhân đó cũng căn vặn hỏi lại.

Hoà cười mà đáp rằng:

- Thực ra không giấu nhau nữa. Năm trước tôi từng được chiêm ngưỡng danh hoa một lần, rất lấy làm tiếc rằng tài mạo tuyệt vời mà lênh đênh không vừa đôi phải lứa, cho nên đã dùng một thuật mọn làm giảm bớt hào quang, và giữ gìn lấy vẻ ngọc, để dành lại đó chờ tấm gương soi thật mặt của kẻ yêu tài.

Hạ vội hỏi:

- Anh đã chấm được thì cũng có thể chữa được chứ?

Hoà cười mà rằng:

- Sao lại không được, nhưng mà cần vai chính thành tâm cầu xin thì mới được.

Hạ đứng dậy vái mà rằng:

- Người chồng của Thụy Vân tức là tôi đây!

Hoà mừng quá, nói:

- Trong thiên hạ, chỉ có người nhân tài mới thật đa tình, không vì chuyện xấu đẹp mà thay đổi ý nghĩ. Anh cho tôi theo anh về nhà, tôi sẽ tặng anh một người đẹp.

Bèn cùng nhau về. Ðến nơi, Hạ bảo dọn rượu, Hoà vội gạt đi mà rằng:

- Ðể tôi làm phép trước đã, thì người dọn cỗ mới vui lòng chứ!

Tức thì bảo bưng lên một thau nước, lấy ngón tay thư lên trên nước mà nói rằng:

- Rửa đi thì khỏi ngay! Nhưng phải đích thân ra tạ ơn người làm thuốc đấy!

Hạ cười, bưng thau đi vào, đứng đợi Thụy Vân tự rửa mặt trong thau, tay đưa đến đâu thì sạch đến đấy, diễm lệ chẳng khác gì năm xưa.

Vợ chồng cảm cái hậu đức của Hoà, cùng nhau ra ngoài tạ ơn, thì khách đã mất hút đâu rồi, tìm khắp nơi mà không được.

Có lẽ là tiên chăng?

Anh Ninh

Vương Tử Phục, người La Ðiếm, huyện Cử. Sớm mồ côi cha, thông tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học nhà phán. Mẹ hết đỗi cưng yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Ðã hỏi con gái họ Tiêu, chưa cưới thì nàng mất. Vì thế việc nhân duyên vẫn chưa thành.

Gặp tiết Thượng Nguyên, có người con nhà cậu là chàng Ngô đến rủ đi chơi. Vừa ra đến đầu xóm thì có đầy tớ nhà cậu sang gọi Ngô về. Chàng thấy con gái đi chơi lũ lượt như mây, hứng lên cũng một mình ngao du.

Có một cô gái dắt con hầu đi theo, tay cầm một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có thể vốc được. Chàng nhìn đăm đăm đến nỗi quên cả giữ ý tứ. Cô gái đi vượt lên mấy bước, quay sang nón cả giữ

- Người đâu mà mắt chòng chọc như giặc.

Rồi bỏ cành hoa xuống đất, cười nói mà đi. Chàng nhặt cành hoa, buồn thiu, hồn phách xiêu lạc đâu mất, lầm lũi quay về.

Ðến nhà đặt hoa dưới gối, gối đầu lên mà ngủ, không nói cũng không ăn. Mẹ đâm lo, đi cầu cúng thì bệnh càng nặng, da thịt gầy tóp. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang phát tán, nhưng chàng cứ hốt hoảng như người mê. Mẹ dỗ dành hỏi nguyên do, chàng lặng thinh không đáp.

Vừa lúc đó chàng Ngô đến, bà dặn nhỏ chàng hỏi dò riêng xem sao. Ngô vào trước giường; vừa nhìn thấy, chàng đã chảy nước mắt. Ngô ghé sát bên giường an ủi, lân la gặng hỏi. Chàng bèn thổ lộ thực tình, lại nhờ lo toan hộ. Ngô cười đáp:

- Anh cũng lại ngố rồi! Ước muốn đó thì khó gì mà chẳng toại! Ðể đấy tôi hỏi dùm cho. Cuốc bộ ở giữa đồng, thì hẳn không phải là con nhà thế gia. Nếu chưa có đám nào thì việc xong là cái chắc. Bằng không, cứ liều vứt nhiều tiền ra thì toan tính gì cũng phải thành. Chỉ cần anh thuyên giảm, xong việc là ở tôi.

Chàng nghe vậy bất giác nở nụ cười. Ngô trở ra bảo với bà mẹ rồi để dò tìm làng ở của cô gái; song thăm hỏi đã cùng khắp vẫn không dò ra tin tức. Mẹ lo lắm, chẳng biết tính thế nào. Nhưng từ sau khi Ngô về rồi thì sắc mặt con tự nhiên tươi tỉnh, ăn uống đã có phần khá hơn .

Mấy hôm sau, Ngô trở lại. Chàng hỏi đã lo giúp đến đâu. Ngô vờ vịt nói:

- Xong rồi! Cứ tưởng người nào, hoá ra là con gái bà cô tôi, tức là vào hàng em con nhà dì với anh đấy. Hiện vẫn còn đợi gả chồng. Dẫu họ hàng về đằng mẹ kết thông gia không tiện, nhưng cứ tình thực mà nói thì cũng chẳng có gì không xuôi.

Chàng mừng, rạng rỡ cả mặt mày, hỏi Ngô:

- Thế ở làng nào?

Ngô thác rằng:

- ở trong núi, về phía Tây Nam cách đây ngoài ba mươi dặm.

Chàng lại dặn dò nhờ cậy đến năm lần bảy lượt. Ngô cũng sốt sắng tự xin đảm nhận, rồi lui gót. Từ đấy chàng ăn uống ngày một khá hơn, sức khoẻ dần dần bình phục. Lật gối lên xem, hoa tuy khô nhưng vẫn chưa tàn héo hẳn. Mải mê cầm ngắm, tưởng như còn thấy được người.

Mãi sau lấy làm lạ sao Ngô không đến, bàn viết giấy mời, thì Ngô kiếm cớ chối từ không chịu đến. Chàng tức giận, buồn bã không vui. Mẹ lo bệnh con lại tái phát, vội bàn chuyện hôn nhân, nhưng mới trao đổi sơ qua, đã lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày ngóng đợi chàng Ngô. Cuối cùng tin tức về Ngô cũng bặt, chàng càng thêm ức. Rồi bỗng vụt nghĩ rằng ba mươi dặm cũng chằng lấy gì làm xa, hà tất phải ỷ lại vào người khác. Bàn giấu cành mai vào tay áo, tức mình cất bước ra đi, mà người nhà chẳng một ai hay.

Lủi thủi cuốc bộ một mình, không có ai để hỏi đường, chỉ nhắm mắt hướng núi Nam đi tới. Ðược chừng hơn ba mươi dặm, thấy núi mọc ngổn ngang, lô nhô chồng chất; xanh rợp tầng không, mát rợi da thịt; vắng vẻ tịch mịch không một bóng người, chỉ có đường chim bay. Xa xa trông xuống dưới khe núi trong chỗ cây cối um tùm chằng chịt hoa nở từng đám dày, thấp thoáng như có một xóm nhỏ. Xuống núi, vào trong xóm, thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh, mà xem chừng lại rất thanh nhã. Một ngôi nhà hướng Bắc, trước cửa buông đẳu tơ liễu, trong tường đào hạnh lại càng sum suê, chen lẫn với những khóm trúc vươn dài; chim rừng kêu lách chách ở trong. Chàng cho là nơi vườn cảnh của ai, không dám đường đột bước vào. Quay nhìn phía đối diện với cánh cổng, thấy có hòn đá lớn trơn nhẵn, sạch sẽ, bàn ngồi lên đó tạm nghỉ. Giây lát nghe phía trong tường có tiắng một người con gái dài giọng gọi: Tiểu Vinh , tiếng nghe êm ái, nhỏ nhẹ. Ðang chăm chú lắng nghe, thấy một cô gái từ phía Ðông rảo sang phía Tây, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên mái tóc; vừa ngẩng đầu lên trông thấy chàng liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào. Nhìn kỹ lại thì đúng là người mình đã gặp hôm trên đường đi chơi tiết Thượng Nguyên. Trong lòng mừng quýnh lên, chỉ nghĩ không lấy cớ gì mà vào được, muốn gọi bằng cô em con dì, lại e từ thuở nào đến giờ không hề đi lại, nhỡ ra có nhầm lẫn chăng

Trong cửa không có một ai để hỏi, đành quẩn quanh hết ngồi lại đứng từ sớm mãi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng, quên cả đói khát. Thỉnh thoảng thấy cô gái hé nửa mặt ra nhòm, tựa hồ lấy làm lạ sao mình vẫn không bỏ đi. Bỗng có một bà già chống gậy đi ra, hướng vào chàng mà hỏi:

- Chàng trai ở đâu, nghe như từ giờ thìn đã đến đây, ở mãi cho đến bây giờ. giả cần gì? Không đóy giờ.

Chàng vội đứng dậy vái chào, đáp rằng:

- Ðịnh tìm thăm người bà con.

Bà cụ nghễnh ngãng nghe không rõ. Chàng lại phải nói to lên. Bèn hỏi:

- Vậy chứ quý vị thân thích họ gì ?

Chàng không sao trả lời được. Bà cười bảo:

- Kỳ chưa! Ðến họ tên còn không biết thì biết bà con như thắ nào mà tìm thăm? Tôi xem bộ cậu cũng chỉ là tay nghiện sách mà thôi. Chi bằng hãy theo tôi vào đây, lót lòng lưng cơm hẩm; nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng được. Ðợi sáng mai vế hỏi lại cho biết họ gì, rồi đắn tìm thăm cũng chưa muộn.

Chàng đang lúc bụng đói muốn ăn, lại được vào đó lân la gần gụi người đẹp, thì mừng quá, bèn theo bà già đi vào. Thấy trong cổng, lối đi lát toàn đá trắng, hai bên đường, hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thẳm. Quanh co đi về phía Tây, lại mở ra một cửa ngăn nữa, phên đậu giàn hoa lan đầy giữa sân. Cung kính dẫn khách vào nhà, tường phấn sáng rỡ như lồng kính; ngoài song, những cành hoa hải đường thò vào cả trong nhà; đệm chiếu, ghế giường, không một thứ gì không bóng lộn, sạch sẽ.

Vừa ngồi xuống đã thấy có bóng người từ ngoài cửa sổ thấp thoáng nhòm trộm. Bà cụ gọi:

- Tiểu Vinh! Khá làm cơm mau!

Bên ngoài có tiắng dạ to của con hầu.

Ngồi đâu đấy rồi bàn bảy tỏ dòng dõi. Bà già hỏi:

- Ông ngoại của cậu chẳng biết có phải họ Ngô không?

Ðáp:

- Thưa phải.

Bà cụ kinh ngạc nói:

- Thắ thì cậu là cháu của ta. Mẹ cậu là em gái ta. Mấy năm nay vì gia cảnh bần hàn, lại không có chút con trai, nên việc thăm hỏi mới để đến thưa bẵng đi. Cháu đã khôn lớn thế này rồi mà vẫn không biết.

Chàng đáp:

- Lần này cháu đến đây là để hỏi thăm dì, mà trong khi vội vàng thành ra quên mất cả họ.

Bà cụ đáp:

- Già đây lấy về họ Trần, không sinh nở bận nào cả. Chỉ có một mụn con gái, cũng là con dì hai nó sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng. Kể cũng chẳng đến nỗi đần, chỉ hiềm ít được dạy dỗ, nên cứ cười cợt suốt, chẳng biết buồn lo gì cả. Chốc nữa sẽ bảo ra chào anh cho biết.

Chẳng mấy lúc, con hầu đã dọn cơm lên; có món gà tơ đang độ béo. Bà cụ ngồi tiếp chàng; cơm xong rồi con hầu lại đến dọn đi. Bà bảo:

- Gọi cô Ninh ra đây!

Con hầu vâng lời đi vào. Lúc lâu, nghe như ngoài cửa có tiắng cười, bà cụ lại gọi:

- Anh Ninh! Có người anh con dì mày ở đây đấy!

Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng. Con hầu đẩy cô gái vào, vẫn còn che miệng cười không nín được. Bà già chừng mắt bảo:

- Nhà đương có khách, mà cứ khúc kha khúc khích, là cung cách gì thế?

Cô gái nhịn cười đứng yên. Chàng vái chào. Bà cụ nói:

- Ðây là cậu Vương, anh con dì của mày. Người trong một nhà mà không biết nhau, thế mới đáng cười chứ!

Chàng hỏi:

- Em đây năm nay bao nhiêu tuổi?

Bà già chưa nghe kịp. Chàng bèn nhắc lại. Cô gái lại rũ ra cười, không ngẩng đầu lên nhìn ai được nữa. Bà cụ bảo chàng:

- Tôi vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà vẫn ngây dại như trẻ con.

Chàng đáp:

- Thua cháu một tuổi.

Bà nói:

- Cháu đã mười bảy rồi, thắ chẳng hóa ra là tuổi canh ngọ, cầm tinh con ngựa ư?

Chàng gật đầu thừa nhận. Lại hỏi:

- Thế vợ cháu là ai?

Ðáp rằng:

- Vẫn ở không ạ!

Bà bảo:

- Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa hứa gả về đâu, kể sánh với nhau thật xứng đôi, chỉ hiềm có chút họ hàng đằng mẹ.

Chàng không đáp, mắt cứ nhìn dán vào Anh Ninh, không còn rời đi đâu một chớp. Con hầu quay sang cô gái nói nhỏ rằng:

- Vẫn con mắt chòng chọc như giặc cấm không có thay đổi.

Nàng lại cười to, ngoảnh lại bảo con hầu:

- Ta đi xem bích đào nở chưa đi!

Rồi vụt đứng ngay dậy, láy tay áo che miệng, rón rén gót sen bước nhanh ra, khỏi cửa rồi tiếng cười mới phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi con hầu mang chăn chiếu để xắp đặt chỗ nghỉ cho chàng. Bà bảo:

- Cháu một lần đắn không phải dễ, hẵng ở chơi dăm ba hôm thư thả rồi sẽ tiễn mày về. Nếu hiềm vì vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con, cũng đủ làm nơi tiêu khiển; có cả sách nữa, cháu có thể đọc chơi.

Hôm sau, chàng ra phía sau nhà, quả có thửa vườn chừng nửa mẫu, cỏ mịn như rải thảm, hoa dương rắc lấm tấm đầy lối đi. Ba gian nhà cỏ, cây và hoa vây phủ bốn chung quanh. Ðang luôn trong hoa nhích từng bước, chợt nghe trên ngọn cây có tiếng khinh khích , ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên đó, thấy chàng đến cười rũ lên muốn ngã. Chàng vội kêu:

- Ðừng thế, ngã đấy!

Nàng vừa tụt xuống vừa cười, không sao nhịn được. Gần đến đất, tuột tay ngã, tiếng cười mới tắt. Chàng đỡ dậy, ngầm chạm vào cổ tay, lại rũ ra cười, phải dựa vào thân cây, không sao bước được nữa, một lúc lâu mới hết. Chờ cho ngớt cơn cười, chàng mới rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy, nói:

- Khô rồi, còn giữ làm gì?

Vương đáp:

- Ðây là hoa em bỏ lại hôm tiết Thượng Nguyên, nên mới giữ.

Anh Ninh hỏi:

- Giữ thế là có ý gì

Vương đáp:

- Ðể tỏ rằng yêu thương nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thượng Nguyên, được gặp, cứ tơ tưởng đến thành bệnh. Những tưởng phận mình đã hóa ra ma rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt. Xin hãy rủ lòng thương xót.

Cô gái đáp:

- Ðấy là việc quá nhỏ mọn. Chỗ họ thân nào có tiếc gì. Ðợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn, sẽ gọi lão bộc đến, bẻ hẳn một ôm lớn đội theo tiễn anh.

Chàng nói:

- Em ngây đấy ư?

- Thế nào là ngây?

Vương đáp:

- Anh chẳng phải yêu hoa mà yêu người cầm hoa cơ.

Nàng nói:

- Tình thân họ hàng, yêu nhau còn phải nói gì?

Chàng đáp:

- Anh nói yêu, chẳng phải là cái tình yêu họ hàng giây mơ rễ má, mà là tình yêu vợ chồng kia.

Cô gái nói:

- Có gì khác nhau sao?

Vương đáp:

- Ðêm thì cùng chung chăn gối.

Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi giây lâu, nói:

- Em không quen ngủ với người lạ

Nói chưa dứt lời, con hầu đã rón rén đi đến. Chàng hoảng sợ, vội lẩn đi. Lát sau, cùng họp mặt ở chỗ bà mẹ. Mẹ hỏi đi đâu, cô gái đáp rằng ở trong vườn trò chuyện.

Bà cụ hỏi:

- Cơm đã chín lâu, có gì dài lời mà con cà con kê mãi thế?

Nàng đáp:

- Anh cả muốn cùng con ngủ chung.

Nói chưa hết câu chàng đã cuống cả lên, vội đưa mắt lườm. Nàng mỉm cười ngừng ngay lại. May bà già không nghe rõ, còn phải lẵng nhẵng hỏi lại. Chàng vội đem chuyện khác lấp liếm đi. Nhân đó, khẽ rỉ tai trách riêng nàng. Cô gái hỏi:

- Thế chuyện ấy không nên nói à?

Chàng đáp:

- Ðó là chuyện phải giấu người khác.

Nàng bảo:

- Giấu người khác, chứ giấu mẹ già sao được. Vả lại, ngủ đâu là chuyện thường, việc gì phải kiêng không nói.

Chàng bực vì nỗi ngố, không cách gì làm cho hiểu ra được.

Ăn vừa xong thì gia nhân dắt hai con lừa đến tìm chàng. Số là, bà mẹ đợi lâu không thấy con về, sinh nghi, cho tìm kiếm hầu khắp mọi chỗ trong làng, cũng không thấy tăm hơi gì cả, bàn đến hỏi Ngô. Ngô nhớ ra lời mình nói trước đây, liền bảo đến xóm núi Tây Nam mà tìm. Ði lần qua hết mấy hôm mới đến được đây. Chàng tình cờ ra cửa thì gặp nhau, bèn trở vào thưa bà già, lại xin được dẫn cô gái về cùng. Bà cụ mừng nói:

- Ta vẫn có ấy từ lâu rồi, hiềm vì tấm thân già yếu không thể đi xa được. Nay được cháu dẫn em nó về, để nhận dì, thì tốt quá

Bàn gọi Anh Ninh., Ninh cười, bước ra. Bà nói:

- Có gì vui mà cười hoài không ngớt thế? Giá không cười thì cũng được là người toàn vẹn rồi đấy.

Bà nhân đấy lừ mắt giận dữ, rồi bảo:

- Anh cả muốn mày đi cùng, hãy vào sắm sửa hành trang đi!

Lại dọn cơm rượu thắt đãi người giai nhân, rồi mới tiễn ra cửa, nói:

- Nhà dì ruộng nương dư dật, đủ sức nuôi người ăn dưng. Ðến đấy hãy khoan về, cố học lấy chút thi lễ, để biết đường thờ phụng bố mẹ chồng rồi sẽ cậy bà dì kiếm cho mày một tấm chồng xứng đáng.

Hai người bàn khởi hành. Ðến vạt núi trũng, quay lại nhìn, còn lờ mờ thấy bà cụ tựa cửa trông về hướng Bắc.

Về tới nhà, mẹ nhìn thấy cô gái xinh đẹp, kinh ngạc hỏi là ai. Chàng đáp là con bà dì. Mẹ nói:

- Những điều anh Ngô nói với con dạo trước là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, sao lại có cháu con dì được?

Hỏi cô gái, nàng đáp:

- Tôi không phải là do mẹ đẻ ra. Bố vốn họ Tần, lúc mất, con còn nằm trong tã, nên không thể nhớ được gì.

Bà mẹ nói:

- Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao lại còn được?

Nhân hỏi kỹ những dấu vết trên mặt, nốt ruồi, cục bướu, nhất nhất đều phù hợp.

Lại ngờ ngợ mà nói:

- Thế thì phải đấy! Nhưng chết đã bao năm nay rồi, làm gì mà còn được đến giờ?

Giữa lúc đang ngẫm nghĩ nghi hoặc thì chàng Ngô đến, cô gái lánh vào nhà trong. Ngô hỏi biết duyên cớ, ngẩn ra một lúc hồi lâu rồi chợt hỏi:

- Cô gái này có phải tên là An Ninh không?

Chàng bảo phải. Ngô vội nói ngay là chuyện lạ lùng. Hỏi vì sao mà biết. Ngô đáp:

- Từ sau khi cô Tần mất, dượng ấy ở góa, bị hồ ám, mang bệnh mỏi mòn mà chết. Hồ sinh một gái tên là An Ninh, vẫn quấn tã giữa đường, gia nhân đều trông thấy cả. Dượng mất rồi, hồ thỉnh thoảng còn tới, sau xin bùa của thiền sư dán lên vách, hồ mới ôm con gái bỏ đi. Chẳng lẽ lại là đấy chăng?

Bên nào bên ấy cũng bàn qua tán lại những đìêu còn nghi ngờ. Chỉ nghe buồng trong vẳng ra những tiếng khúc khích, đều là tiếng cười của An Ninh. Bà mẹ bảo:

- Con bé này cũng ngớ ngẩn quá thể!

Ngô xin cho xem mặt. Mẹ vào nhà trong, nàng còn rũ ra cười không ngoái lại. Mẹ giục bảo ra, mới cố sức nín cười, lại phải ngoảnh mặt vào vách mất một lúc mới ra được. Vừa mới vái chào, đã xoay mình trở vào rất lẹ, rồi buông tiếng cười to. Ðàn bà con gái đầy nhà, ai cũng đều cười vui theo nàng.

Ngô xin đi dò xét sự lạ, tiện thể sẽ làm mối luôn. Tìm đến xóm nọ, nhà cửa đều chẳng thấy đâu, chỉ có hoa rừng rơi rụng mà thôi. Ngô nhớ lại nơi chôn bà cô, phảng phất đâu đây không xa lắm, nhưng phần mộ đẫ bị lấp mất, chẳng còn nhận ra được, đành thở than mà quay về.

Bà mẹ ngờ cô gái là ma. Vào buồng thuật lại những lời Ngô vừa nói, nàng không mảy may tỏ sợ hãi. Lại xót cho nàng không có nhà cửa gì, cũng không hề có buồn rầu, cứ rúc rích cười hoài mà thôi. Mọi người không mảy may tỏ

Mẹ bảo cùng ngủ với bọn con gái; sáng tinh mơ đã đến vấn an. Giữ việc nữ công, tinh xảo không ai bì. Chỉ phải cái tật hay cười, cấm cũng không nhịn được. Song nét cười rất tươi, dẫu cười đến phát rồ cũng không giảm vẻ yểu điệu, ai thấy cũng vui thích. Ðàn bà con gái láng giềng thường tranh nhau mời đón nàng.

Mẹ đã chọn ngày tốt để cho làm lễ hợp cẩn, mà vẫn cứ sợ là ma; bèn rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhòm xem, thì hình bóng không có gì khác lạ. Ðến ngày đã định, bảo nàng trang sức đẹp đẽ để làm lễ cô dâu. Cô gái cười quá, không thể cúi xuống, ngẩng lên được, đành phải thôi.

Chàng thấy vợ ngây dại, sợ nàng đem những chuyện kín trong phòng riêng tiết lộ ra ngoài, nhưng cô gái lại hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.

Mỗi khi mẹ có điều lo giận, nàng dâu đến, chỉ cười một tiếng là lập tức nguôi hết. Ðầy tớ, con hầu có lỗi nhỏ, sợ bị roi vọt liền cầu xin nàng đắn nói chuyện với mẹ; nhờ thế chúng đến chịu tội thường được tha. Mà nàng yêu hoa thành nghiện, vẫn tìm kiếm khắp nơi trong thân thích xóm làng, lại phải cầm trộm cả thoa vàng đi, để mua cho được giống hoa đẹp, mới có vài tháng mà thềm hè, bờ giậu, chuồng lợn hố tiêu, không chỗ nào không có hoa.

Sân sau có một giàn mộc hương, vốn ăn liền với nhà láng giềng phía Tây. Nàng vẫn thường vin cây trào lên, hái hoa cài đầu chơi. Mẹ thỉnh thoảng bắt gặp lại mắng, mà nàng rốt cuộc vẫn không chừa. Một hôm, con trai nhà phía Tây trông thấy, ngây ra nhìn, lòng dường điên đảo. Cô gái không tránh mặt mà lại cười. Con trai nhà phía Tây nghĩ rằng nàng đã thuận, bụng càng khao khát. Nàng chỉ tay vào chân tường, rồi cười mà trèo xuống. Con trai nhà phía Tây cho là nàng trỏ nơi hò hẹn, sướng quá đỗi. Ðến tối mò ra, thì nàng đã ở đấy thật. Sáng đêm hành dâm, thì chỗ kín như bị mũi dùi đâm, đau buốt đắn tận tim, kêu rú lên mà ngã vật ra. Nhìn kỹ lại thì chẳng phải là cô gái, chỉ là một cây khô nằm ở bên tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc rịn nước. Ông bố nhà láng giềng nghe tiếng con kêu, vội chạy ra hỏi xem, chỉ rên rỉ không nói. Vợ đến, mới chịu nói thực. Ðốt đuốc soi vào thấy trong hốc cây có một con bọ cạp lớn như con cua con. Ông bố bổ cây ra, bắt giết đi, rồi vực con về, nửa đêm thì rằng

Nhà láng giềng đâm đơn kiện chàng, cáo giác Anh Ninh là yêu quái. Quan huyện vốn ngưỡng mộ tài học của chàng, lại biết chàng là một học trò năng trau dồi đức hạnh, cho rằng nhà láng giềng kiện xằng, toan nọc ra đánh. Chàng xin cho, mới được phóng thích mà về. Bà mẹ bảo rằng:

- Cứ ngây dại như thế mãi, từ sớm đã biết vui quá hoá lo mà. May được quan huyện sáng suốt như thần nên mới không liên luỵ, chứ nếu gặp phải hạng quan hồ đồ hẳn đã bắt đàn bà con gái đến chất vấn ở công đường, thì con ta mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?

Cô gái liền nghiêm sắc mặt lại, kể từ nay không cười nữa. Mẹ bảo:

- Người ta ai mà không cười, nhưng cười cũng phải có lúc.

Thế mà từ đấy về sau nàng không cười nữa thật, dù cố trêu, vẫn không bao giờ cười, nhưng suốt ngày chưa hề lúc nào có vẻ mặt đăm chiêu.

Một đêm, nàng nhìn chàng ứa nước mắt. Chàng lấy làm lạ, thì nàng nghẹn ngào nói:

- Trước đây, vì gần gũi chưa lâu, nói ra sợ cho là quái gở mà đâm hoảng. Nay xét ra, mẹ và chàng đều quá yêu, không có bụng gì khác, đành xin thưa thực, may không hại gì chăng? Thiếp vốn do hồ sinh ra. Lúc mẹ thiếp sắp bỏ đi, đem thiếp gửi lại cho bà mẹ ma, nương nhờ nhau đã hơn mười năm mới có ngày nay. Thiếp lại không có anh em, chỉ trông cậy vào một mình chàng. Mẹ già nằm cô quạnh nơi góc núi, không ai thương xót mà hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. Nếu chàng không tiếc chút phí tổn, khiến cho người nằm dưới đất tiêu tan được khối hận đó, thì ngõ hầu những kẻ nuôi con gái vế sau không còn nỡ đem con dìm nước bỏ đi nữa.

Chàng nhận lời, nhưng lo phần mộ đã bị lẫn, giữa cỏ rậm. Cô gái nói rằng không lo. Bèn định ngày, vợ chồng xe quan tài đem đi. Giữa đám mây khói hoang vu, gai góc chằng chịt, cô gái chỉ đúng phần mộ,quả đào được thi thể bà già, da thịt vẫn còn. Nàng ôm lấy khóc thảm thiết. Rồi cùng đưa về, tìm mộ người chồng họ Tần mà hợp táng.

Ðêm hôm đó chàng nằm mơ thấy bà già trở về tạ ơn. Tỉnh dậy thuật lại với nàng. Nàng đáp:

- Hồi đêm thiếp có trông thấy, chỉ dặn đừng làm chàng kinh động mà thôi.

Chàng ân hận không giữ bà cụ lại chơi. Nàng đáp:

- Ðấy là ma, nơi có người sống nhiều, khí dương thịnh, ở lâu sao được?

Chàng hỏi đến Tiểu Vinh. Nàng đáp:

- Nó cũng là hồ, rất linh lợi, mẹ hồ thiếp giữ lại để trông nom thiếp, thường vẫn đút bánh cho thiếp ăn, nên nhớ ơn nó không bao giờ quên. Ðêm qua hỏi mẹ, thì nói đã gả chồng cho nói rồi.

Từ đó hàng năm, gặp ngày hàn thực vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần khấn vái quét dọn, không năm nào bỏ sót. Ðược hơn một năm, cô gái sinh được một con trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười, hệt như phong thái của mẹ

Tôn Tử Sở người Việt Tây là một danh sĩ, sinh ra có một ngón tay chẽ, lại có tính vẩn vơ, lẩn thẩn, ai nói dối điều gì cũng tin là thật, hoặc khi gặp đám tiệc mà có ca nhi kỹ nữ thì từ xa nhác thấy đã bỏ chay. Có người thấy vậy, dụ chàng đến nhà, cho kỹ nữ đến ôm ấp để bỡn chàng chơi thì mặt đỏ đến tận cổ, mồ hôi chảy xuống thành giọt. Họ nhân đó cười với nhau, rồi xa gần chuyền nhau vẽ vời cái trạng mạo ngây ngô của chàng để làm một trò cười, lại đặt cho chàng cái tên Tôn khờ.

Trong huyện có ông nọ là nhà buôn lớn, giàu lướt cả vương hầu, thông gia họ mạc đều là dòng dõi quý phái. Ông cụ có một con gái tên là A Bảo, là người tuyệt sắc. Ðến tuổi kén duyên, con cái các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ đến giạm, nhưng không ai vừa ông cả. Chàng Tôn bấy giờ vừa goá vợ, có người đùa nên cậy mối đến hỏi. Chàng không biết phận, quả nhiên nghe theo lời khuyên. Ông cụ vốn biết tiếng chàng nhưng chê nghèo. Khi mụ mối vừa ở chỗ ông đi ra thì gặp A Bảo, hỏi đi đâu, mụ nói thật. Cô gái nói bỡn rằng:

- Nếu chàng ta bỏ được ngón tay chẽ đi thì tôi về với ngay.

Mụ về kể lại với chàng. Chàng nói:

- Cái đó thì khó gì.

Mụ đi rồi, chàng lấy búa chặt ngón tay chẽ, đau thấu ruột, máu phụt ra chảy lênh láng, suýt chết, qua mấy ngày mới dậy được, sang nhà mụ mối chìa tay xem. Mụ thất kinh, chạy sang nói với cô gái. Nàng cũng lấy làm lạ, nhưng lại nói bỡn rằng còn phải bỏ cái ngây đi nữa. Mụ về nói lại, chàng cãi ầm lên, bảo nào tôi có ngây đâu! Nhưng cũng không có cớ gì gặp mặt để tự giãi bày. Dần dà bàn chuyện , nghĩ rằng cô nàng Bảo chưa chắc đã đẹp như tiên sao dám tự đánh giá mình quá cao như vậy? Từ đó lòng chàng nguội hết mộng tưởng trước.

Vừa gặp tiết Thanh Minh, lệ thường cứ đến ngày ấy phụ nữ đi chơi, những thiều niên khinh bạc cũng kết thành từng đội đi theo, tha hồ bình phẩm. Mấy người bạn làng văn đến rủ chàng, bắt đi cho được. Có người lại nói đùa rằng:

- Lại không muốn xem mặt người mình ưng hay sao?

Chàng cũng biết hắn nói bỡn mình, nhưng vì đã bị cô gái hợm hĩnh đùa cợt nhiều phen, nên cũng muốn nhìn mặt một lần xem sao, bèn vui vẻ nhập bọn đi tìm.

Thấy đằng xa có một cô gái đang nghỉ dưới gốc cây, những cậu trai mất nết vây quanh như bức tường. Cả bọn nói:

- Chắc là cô nàng Bảo đấy rồi.

Chàng rảo bước đến xem thì quả là Bảo. Nhìn kỹ, thì thấy vẻ xinh đẹp yểu điệu có một không hai. Một lát, người xem lại càng xúm đông. Cô gái vội đứng dậy bỏ đi. Mọi người đều nhộn nhạo bàn tán, kẻ khen cái đầu, người tán cái chân, nhao nhao cả lên như một lũ điên. Chỉ riêng chàng là đứng lặng lẽ. Ðến lúc cả bọn đã tản đi nơi khác, ngoái lại, vẫn trông thấy chàng vẫn đứng ngây ra ở chỗ cũ, gọi chẳng thưa, chẳng rằng. Họ bàn kéo nhau đi, nói:

- Hồn theo A Bảo rồi ư?

Cũng không đáp. Biết tính chàng vốn lẩn thẩn, nên họ cũng không thấy làm lạ, người thì đẩy, người thì kéo, dẫn về.

Ðến nhà thì lên ngay giường nằm, suốt ngày không dậy, li bì như người say rượu, gọi mấy cũng không tỉnh. Người nhà nghi là mất hồn, đi gọi hồn ở ngoài đồng, nhưng cũng vô hiệu. Lay người thật mạnh để hỏi thì ú ớ nói rằng: Tôi ở góc nhà cô Bảo.

Hỏi kỹ lại thì lại làm thinh không nói nữa. Người nhà hoang mang không biết ra sao.

Nguyên hôm ấy, khi chàng thấy cô gái đứng dậy, bỏ đi thì lòng không nỡ dứt, bỗng cảm thấy mình đã bén gót đi theo rồi; dần dần đi sát vào cạnh tà áo, đai lưng, cũng không ai la mắng gì cả. Cứ như thế, theo mãi cô ta về nhà, khi ngồi khi nằm đều tựa kề một bên, đêm lại thì cùng ân ái, rất lấy làm thích; nhưng thấy trong bụng đói quá, muốn trở về nhà mà quên mất cả đường. Còn nàng thì mỗi lần chiêm bao thấy mình giao hợp với một người nào đó,hỏi tên nói là Tôn Tử Sở, lòng lấy làm lạ, nhưng không thể nói với ai được.

Ở bên nhà, chàng đã nằm ba ngày, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Người nhà hoảng lên, cho lấy lời mềm mỏng đến nói với ông cụ xin tới nhà để chiêu hồn cho chàng. Ông cụ cười rằng:

- Bình nhật không từng vãng lai thăm hỏi gì cả, làm sao mất hồn ở nhà tôi được?

Người nhà năn nỉ van lơn mãi, ông mới chịu. Thầy pháp cầm áo cũ và đồ cúng bằng rơm sang nhà, cô gái bắt gặp, hỏi biết lý do, mặt thất sắc, không cho đi tìm chỗ khác mà dẫn thẳng vào phòng mình, để cho mặc y kêu gọi xong rồi ra. Thầy pháp vừa về đến cửa thì ở trên giường chàng đã rên lên một tiếng. Tỉnh rồi, phòng nàng có bao nhiêu tráp hương, hộp phấn, bao nhiêu đồ đạc, sắc gì, tên gì, kể ra vanh vách không sai. Nàng nghe tin lại càng kinh hãi và thầm cảm cái thâm tình của chàng. Chàng đã dậy khỏi giường được rồi thì khi đứng khi ngồi, trầm ngâm nghĩ ngợi chợt nhớ chợt quên. Thường thăm dò tin tức cô Bảo, chỉ mong tìm được cơ hội để gặp lại.

Ðến ngày tắm Phật nghe tin nàng sẽ dâng hương ở chùa Thủy Nguyên, chàng dậy thật sớm, đến đứng ở một bên đường chờ nàng đi qua. Trông ngóng đến hoa cả mắt, mãi khi mặt trời đứng ngọ, nàng mới đến, ngồi trong xe dòm ra thấy chàng, lấy bàn tay xinh nhỏ vén màn, mắt nhìn đăm đắm không chuyện. Chàng càng xao xuyến, đi theo xe luôn. Nàng bỗng sai thị nữ đến hỏi họ tên. Chàng ân cần kể lại. Hồn vía rung chuyển, xe đi đã xa rồi mới quay về. Ðến nhà thì ốm trở lại, mê man không ăn uống, trong giấc mơ thường gọi tên Bảo, những giận hồn mình sao không thiêng như trước nữa. Trong nhà nguyên có nuôi một con vẹt, bỗng lăn ra chết, đứa bé cầm chơi ở trên giường. Chàng nghĩ nếu thân được làm con vẹt thì có thể vỗ cánh bay đến phòng nàng. Còn đang chú tâm mơ tưởng thì mình đã là con vẹt nhẹ nhàng phơi phới bay vụt lên, thẳng sang nhà A Bảo. Cô gái thấy vẹt bay xuống mừng quá, chộp bắt, xích chân lại, lấy hạt vừng cho ăn. Vẹt kêu to lên rằng:

- Cô đừng xích! Tôi là Tôn Tử Sở đây mà!

Nàng kinh hoảng, mở dây buộc, vẹt cũng không bay. Nàng khấn rằng:

- Tình thâm đã khắc tận đáy lòng, nhưng nay người và chim khác loài, làm sao nhân duyên còn vuông tròn được!

Vẹt nói:

- Ðược gần vóc thơm là mãn nguyện lắm rồi!

Người khác cho mồi thì không ăn, nàng cho mới ăn. Nàng ngồi thì đâu trên về, nằm thì đứng mé giường. Như thế ba ngày, cô gái rất lấy làm thương, cho người sang nhà chàng thăm dò, thì biết chàng thiếp đi, nằm sóng sượt tắt thở đã ba ngày, chỉ còn một chút trên tim chưa lạnh.

Nàng lại khấn rằng:

- Nếu chàng trở lại làm người, thì xin thề chết cũng theo nhau.

Vẹt nói:

- Lừa tôi đấy!

Nàng bèn thề thốt. Vẹt nghiêng mắt, ra dáng nghĩ ngợi. Một lát, nàng bó chân, cởi giày để dưới gầm giường. Vẹt nhảy vụt xuống, ngậm giày bay đi, nàng kíp gọi lại thì đã bay xa rồi. Nàng cho mụ ở sang dò thăm thì thấy chàng đã tỉnh. Người nhà thấy con vẹt ngậm chiếc giày bay về, ngã xuống đất mà chết, đang cùng lấy làm lạ thì chàng vừa hồi sinh, hỏi ngay đến chiếc giày. Không ai hiểu ra sao cả. Vừa lúc ấy thì mụ ở bên nhà kia đến, vào thăm chàng, hỏi chiếc giày ở đâu. Chàng nói rằng:

- Ðó là vật làm tin của cô Bảo. Xin gửi lời về nhắn hộ, rằng tiểu sinh không dám quên lời vàng đá.

Mụ ở về bẩm, nàng lại càng lấy làm lạ, cố bảo thị tỳ tiết lộ sự tình cho mẹ biết. Mẹ xét thấy đích xác, bảo rằng:

- Anh chàng ấy tài danh cũng chả vừa, chỉ hiềm nghèo như Tương Như. Kén chọn mấy năm được rạ như thế, sợ các nhà quý hiển người ta cười cho.

Cô gái vin cớ chiếc giày, thề không lấy người khác.Ông bà cũng phải theo vậy, cho người kíp báo với chàng. Chàng mừng, bệnh khỏi ngay. Ông muốn cho chàng ở gửi rể, nàng thưa rằng:

- Con rạ không nên ở nhà cha vợ lâu, huống chàng lại nghèo, ở lâu càng bị coi rẻ. Con đã về tay người, thì ở nhà gianh, nhà lá cũng cam, ăn rau lê rau hoắc cũng không dám oán trách.

Chàng bàn làm lễ rước dâu; hai người gặp nhau như có cái vui cách thế. Từ đó, nhà chàng nhờ có của hồi môn của nàng cũng khá hơn trước, mua sắm thêm của cải. Chỉ phải cái chàng mê sách, không biết chăm lo việc sinh kế trong nhà. Nhưng nàng khéo chắt lót, những việc trong nhà không phải phiền đến chàng.

Ðược ba năm, nhà thêm giàu, bỗng chàng mắc bệnh tiêu khát mà chết. Nàng khóc lóc thảm thiết, nước mắt không lúc nào ráo, bỏ cả ăn ngủ, ai khuyên giải cũng chẳng được. Thừa lúc đêm khuya, bèn thắt cổ, may có con ở biết được, vội cứu sống lại, nhưng cũng không chịu ăn. Ðược ba ngày, mời họ hàng đến để liệm chàng, bỗng nghe trong quan tài có tiếng rên và tiếng thở nhẹ. Mở ra, chàng đã sống lại. Tự nói rằng:

- Khi ra mắt Diêm vương, ngài bảo: Người này bình sinh thành thực, chất phác, cho làm chức Bộ Tào . Bỗng có người đến thưa rằng: Vợ của Bộ Tào họ Tôn sắp tới . Ngài tra sổ ma rồi bảo: Người ấy chưa đáng chết . Lại tâu rằng: Không ăn đã ba ngày rồi Diêm vương ngoảnh lại nói rằng: Ta cảm vợ ngươi tiết nghĩa, cho ngươi sống lại , bàn sai lính thắng ngựa đưa tôi về.

Từ đó bình phục dần.

Gặp năm có kỳ thi Hương, trước khi vào trường bọn thiếu niên muốn bày trò trêu chàng, bèn cùng đặt ra bảy đầu đề rất hiểm hóc rồi kéo chàng ra chỗ vắng nói riêng rằng:

- Ðây là nhờ thế lực của đại gia mới có, xin bí mật trao tay nhau.

Chàng tin là thật, đêm ngày mài miệt, làm cả bảy bài. Chúng cười thầm.

Không ngờ năm ấy, viên chủ khảo nghĩ rằng ra đề quen thuộc thì thường có cái tệ sao chép văn cũ, bàn cố sức thay đổi cho thật mới lạ. Giấy đầu bài đưa xuống thì cả bảy bài chàng làm đều phù hợp. Nhờ đó, chàng đỗ thủ khoa. Năm sau đỗ tiến sĩ, được chọn vào viện Hàn lâm. Vua nghe thấy chuyện lạ, triệu vào hỏi, chàng khải tấu lên, vua hết lòng ngợi khen, liền cho gọi A Bảo vào bệ kiến, tặng thưởng rất nhiều

Hồng Ngọc

Ông cụ họ Phùng người Quảng Bình có một con trai tên chữ là Tương Như. Hai bố con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính ương ngạnh mà nhà vẫn thiếu thốn. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu lại cùng mất cả, việc cơm nước đều phải tự làm lấy.

Một đêm, Tương Như ngồi dưới bóng trăng, chợt thấy người con gái láng giềng từ bên kia tường nhòm sang. Chàng nhìn thấy đẹp, đến gần thấy hé cười, lấy tay vẫy, không đến, cũng không di, cố nài mãi mới trèo thang sang. Liền ăn nằm với nhau. Hỏi họ tên, cô gái nói:

- Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên là Hồng Ngọc.

Chàng rất yêu, xin cùng nàng tính chuyện lâu dài. Cô gái nhận lời. Từ đấy, đêm đêm thường đi lại, được độ nửa năm. Một đêm, ông Phùng thức dậy, nghe có tiếng con gái cười nói, nhòm vào gian nhà của con thì nhìn thấy cô gái. Giận lắm, gọi chàng ra mắng:

- Ðồ súc sinh, làm cái trò gì thế? Cửa nhà sa sút như thế, còn không biết chịu khó gìn giữ, lại còn học thói đàng điếm ư? Người ta biết ra thì phẩm hạnh của mày còn ra gì nữa! Dẫu người ta không biết thì tuổi thọ của mày cũng giảm.

Chàng quỳ xuống nhận lỗi, khóc xin hối cải. Ông cụ mắng cô gái:

- Con gái không biết giữ phép buồng khuê, đã nhuốc mình lại làm nhuốc cả người. Nếu việc vỡ lở ra, hẳn không chỉ một mình nhà này xấu hổ.

Mắng xong, bực tức trở về nhà ngủ. Cô gái chảy nước mắt nói:

- Lời bố quở trách thật là thẹn nhục! Duyên phận hai ta thôi thế là hết.

Chàng nói:

- Còn cha, con không được tự quyết định. Nếu nàng còn có tình, thời nên cố gắng ngậm tủi làm lành.

Cô gái muốn quyết tuyệt. Chàng nghe, sa nước mắt. Cô gái lại khuyên giải, nói:

- Thiếp với chàng không có lời của mối lái, không có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường chui gạch mà theo nhau, thì sao có thể cùng nhau đầu bạc được? Vùng này có một người tốt đôi với chàng, có thể hỏi làm vợ.

Chàng phàn nàn nhà nghèo, cô gái nói:

- Tối mai xin đợi, tôi sẽ mưu tính cho.

Ðêm hôm sau, cô gái quả nhiên đến, bỏ bốn mươi lạng bạc ra tặng chàng, nói rằng:

- Cách đây sáu mươi dặm, ở thôn Ngô có người con gái họ Vệ, tuổi đã mười tám, còn cao giá nên chưa ai lấy; chàng đưa nhiều tiền thì ắt phải xong việc.

Nói xong, từ biệt mà đi. Chàng tựa lúc thuận tiện, thưa với bố, muốn xin đi xem mặt, nhưng câu chuyện số tiền thì giấu đi, không dám nói cho bố biết. Ông Phùng tự lượng nhà nghèo, lấy cớ đó gạt đi. Chàng lại tìm lời ôn tồn nói với bố cứ thử đến xem cho biết thôi. Ông cụ gật đầu.

Chàng bàn thuê đầy tớ và người ngựa đi đến nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng. Chàng gọi ra ngoài nói chuyện riêng. Vệ biết chàng là con nhà dòng, lại thấy dáng vẻ đàng hoàng, trong bụng đã bằng lòng, nhưng còn ngại chàng kỳ kèo tiền nong chăng.

Chàng nghe ông cụ nói ngập ngừng, đã biết , bàn dốc tiền trong túi ra, bày trên bàn. Vệ mừng, nhờ người học trò bên láng giềng đứng giữa, viết tờ giấy đỏ mà giao ước với nhau. Chàng vào nhà chào lạy cụ, thấy nhà cũng chật hẹp, cô gái đứng nấp sau mẹ. Chàng đưa mắt nhìn, tuy ăn mặc xuềnh xoàng mà thần sắc tinh anh rực rỡ, bụng mừng thầm. Vệ mượn tạm nhà bên để tiếp đãi chàng rể và nói:

- Công tử không cần đón dâu, đợi may được ít quần áo sẽ đưa đến tận nơi

Chàng liền hẹn ngày rồi về, nói dối với bố rằng:

- Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền.

Ông cụ cũng mừng.

Ðến ngày hẹn, Vệ quả đưa cô gái đến. Cô gái siêng năng dè sẻn, lại thuần tục nết na, tình nghĩa vợ chồng thật là thắm thiết. Hơn hai năm sau, sinh được một con trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân ngày tết Thanh Minh, bố con đi thăm mộ, gặp kẻ thân hào trong huyện họ Tống. Tống nguyên làm quan Ngự Sử trong triều, phạm tội tham tang, phải cách chức về làng, những vẫn giương oai hà hiếp người. Hôm đó cũng đi thăm mộ về, thấy cô gái cho là đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ chàng. Nghĩ Phùng là học trò nghèo, đem nhiều của ra dụ dỗ, có thể làm cho đổi lòng. Liền sai người bắn tin cho chàng. Chàng nghe thấy, giận hiện ra mặt, rồi lại nghĩ thế không địch nổi với Tống, bàn nén giận làm vẻ tươi cười, về nói với bố. Ông Phùng giận lắm, chạy ra trước mặt người nhà họ Tống, trỏ trời vạch đất mắng nhiếc tàn tệ. Tên người nhà ôm đầu lủi đi mất. Họ Tống cũng tức giận, sai mấy đứa xông vào nhà chàng, đánh cả bố lẫn con, làm sôi sùng sục. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xoã tóc chạy ra kêu cứu. Chúng bèn cướp lấy, khiêng lên rồi ầm ầm kéo đi. Hai bố con bị đánh sụm, rên rĩ trên đất; đứa bé khóc oe oe trong nhà. Hàng xóm láng giềng cùng thương hại, xóc đỡ đặt lên giường. Qua ngày sau, chàng chống gậy mới đứng lên được, còn ông cụ thì tức giận không ăn rồi thổ huyết mà chết.

Chàng lăn khóc, ẵm con đi kiện Ðốc Phủ. Kiện hầu khắp mọi nơi, rút cục vẫn không thắng, sau lại nghe nói vợ không chịu khuất phục mà chết, lại càng đau xót. Khí oan đầy bụng, không lối nào giãi bày được. Thường nghĩ muốn đón đường đâm Tống chết, nhưng lo đầy tớ nó đông, con nhỏ, lại không gửi được. Ngày đêm buồn bã nghĩ ngợi, hai mắt không chớp nổi.

Chợt có một người đàn ông đến viếng nhà, râu quăn, hàm bạnh, xưa nay chưa từng quen. Chàng mời ngồi, toan hỏi họ tên quê quán, khách đã vội nói trước:

- Ông có cái thù người ta giết mất bố, cướp mất vợ mà không báo ư?

Chàng ngỡ là người của Tống sai đến dò hỏi, nên chỉ trả lời ậm ừ cho xong. Khách giận, mắt trợn tròn muốn rách khóe, liền bước ra nói:

- Tôi tưởng anh là người, nay mới biết anh là thằng hèn không đáng đếm xỉa.

Chàng xét thấy có cái gì là lạ, liền quỳ xuống, kéo áo khóc nói rằng:

- Thực ra vì sợ là người nhà họ Tống đến dò la, nay xin giãi bày hết tâm can. Cái điều nằm gai nắm mật của tôi, kể đã nhiều ngày rồi vậy; chỉ thương hòn máu trong bọc này, sợ rồi tuyệt tự mất. Ngài là bậc nghĩa sĩ, liệu có thể vì tôi mà làm chàng Chữ Cu được chăng?

Khách nói:

- Ðó là việc của đàn bà con gái, tôi không làm được. Cái việc ông muốn nhờ người, xin hãy tự làm lấy, còn cái việc ông muốn tự làm thì tôi xin làm thay cho.

Chàng nghe nói, đập đầu xuống đất. Khách chẳng thèm ngoái lại, bỏ đi ra. Chàng chạy theo hỏi họ tên, đáp rằng:

- Việc không xong, không oán; việc xong không nhận ơn.

Rồi đi liền.

Chàng sợ vạ đến mình, ẵm con đi trốn.

Ðến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường, giết ba cha con nhà Ngự Sử với một thị tì, một con dâu. Nhà họ Tống làm tờ trạng cáo quan, quan rất kinh hãi. Tống cố vu cho Tương Như. Vì thế quan cho lính đi bắt chàng. Chàng trốn không ai biết là đi đâu, vì thế càng cho là thật. Ðầy tớ nhà họ Tống cùng với nhà quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam Sơn, nghe có tiếng trẻ khóc, lần tìm ra được, liền trói mang về. Ðứa bé càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi. Chàng oan ức muốn chết. Khi gặp quan lệnh ở huyện, quan hỏi tại sao giết người? Chàng thưa:

- Thực là oan! Nhà họ Tống chết về đêm, tôi ra đi từ ban ngày; vả lại ẵm đứa nhỏ khóc oe oe như vậy thì leo tường giết người sao được?

Quan lệnh nói:

- Không giết người sao lại đào tẩu?

Chàng đuối lý, không biện bạch được nữa. Liền giam vào ngục. Chàng khóc nói rằng:

- Tôi chết cũng không tiếc nhưng đứa bé mồ côi kia có tội tình gì?

Quan lệnh nói:

- Mày giết con người ta đã nhiều, thì giết con mày còn oán gì nữa?

Chàng bị lốt áo mũ nho sinh lại bị cùm kẹp, đánh đập khổ sở nhưng cung không xưng nhận điều gì.

Quan lệnh đêm hôm ấy nằm ngủ bỗng nghe có vật gì cắm phập vào giường, kêu bần bật thành tiếng, sợ quá kêu lên. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một con dao ngắn lưỡi sắc nhọn sáng loáng, găm vào giường, sâu xuống gỗ đến hơn một tấc, chặt cứng không thể rút ra được. Quan lệnh trông thấy, sợ hết hồn vía, cho người cầm giáo đi lùng khắp nơi cũng không thấy tung tích gì cả. Bụng cũng nản, lại nghĩ: người nhà họ Tống đã chết rồi, không có gì phải kiềng họ nữa, bàn trình bẩm lên quan trên để giải oan cho chàng rồi tha về.

Chàng về đến nhà, trong hũ không còn một đấu gạo,một mình một bóng ngồi trông bốn bức tường mà thôi. May được nhà hàng xóm thương xót cho ăn uống, tạm bợ sống qua ngày. Nghĩ đến cái thù lớn đã trả được thì mừng đến tươi tỉnh lại; nhưng nghĩ đến cái hoạ thảm khốc, sut nữa chết cả một nhà thì nước mắt lại đầm đìa sa xuống; lại nghĩ nửa đời nghèo xác dòng dõi không ai nối, thì ở nơi vắng người bỗng khóc rống lên, khản cả tiếng không tự nén giữ được.

Như thế chừng nửa năm, việc bắt bớ cũng nhạt dần, bàn kêu xin với quan huyện được mang hài cốt họ Vệ về. Chôn cất xong, đau xót muốn chết. Một mình trằn trọc trên giường, nghĩ không còn cách gì để sống.

Bỗng có người gõ cửa, chàng chú lắng nghe, thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nói chuyện với trẻ con. Chàng vội dậy, dòm xem thì hình như một người con gái. Cánh cửa vừa mở, liền hỏi:

- Cái oan lớn đã được rửa, may không việc gì chứ?

Tiếng nói nghe quen lắm,mà trong lúc thảng thốt không thể nhớ được. Ðánh lửa soi thì ra Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa ở dưới đầu gối. Chàng chẳng kịp hỏi, ôm lấy cô gái mà khóc oà. Cô gái cũng thảm đạm lắm. Rồi đẩy đứa bé mà nói:

- Mày quên bố mày rồi ư?

Ðứa bé nắm lấy áo cô gái, mắt chòng chọc nhìn chàng. Chàng nhìn kỹ thì ra Phúc Nhi. Giật mình kinh hãi, khóc mà nói rằng:

- Sao con lại về đây được?

Cô gái nói:

- Nói thực với chàng, trước kia thiếp nói là con gái bên láng giềng là nói dối đấy, thiếp thực là hồ. Nhân đi đêm thấy tiếng trẻ khóc trong hang, liền bế về nuôi ở Tần. Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ.

Chàng gạt nước mắt lạy tạ. Ðứa bé ngồi trong lòng cô gái y như nương tựa vào mẹ đẻ, thật không nhận ra bố nữa. Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy. Hỏi thì đáp:

- Kẻ hèn mọn này muốn đi đây.

Chàng chưa mặc áo, quỳ ở đầu giường, khóc không ngẩng mặt lên được nữa. Cô gái cười nói rằng:

- Thiếp nói dối chàng đấy. Nay nhà đương gây dựng lại, không thức khuya dậy sớm sao được?

Rồi phát cỏ, quét dọn, làm như đàn ông vậy. Chàng lo nhà nghèo túng, không thể đủ ăn. Cô gái nói:

- Chỉ xin chàng cứ việc buông màn đọc sách không phải hỏi đến thiếu đủ, may không đến nỗi chết đói nào.

Rồi bỏ tiền sắm khung cửi dệt vải, lại thuê vài mươi mẫu ruộng, mướn người cày cấy, vác phạng đi phát tranh, kéo lá lợp nhà, hàng ngày như thế, coi là việc thường. Làng xóm nghe nói có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ. Chừng nửa năm sau, cảnh nhà thịnh vượng, như thể một nhà giàu lớn.

Một hôm chàng nói:

- Sau lúc tro tàn, nhờ mình tay trắng gây dựng lại, nhưng còn một việc chưa được thoả mãn, biết làm thế nào?

Hỏi là việc gì, chàng đáp:

- Kỳ thi sắp đến, mà khăn áo chưa lấy lại được?

Cô gái cười nói:

- Trước đây thiếp đã lấy bốn lạng vàng gửi lên quan quảng văn đã lấy lại được tên vào sổ. Ðợi chàng nhắc thì đã lỡ lâu rồi còn gì?

Chàng càng cho là thần. Khoa ấy, chàng đỗ thi Hương. Bấy giờ tuổi vừa ba mươi sáu, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái người vẫn mảnh dẻ tưởng như gió thổi là bay, mà làm lụng quá con nhà nông. Tuy mùa đông rét buốt vẫn chịu khó làm, mà bàn tay vẫn mềm mại như mỡ đông. Tự nói là ba mươi tám tuổi, người ta trông chỉ chừng đôi mươi.

Bành Hải Thu

Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ.

Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp:

- Tiểu sinh người Quảng Lăng, cùng họ với ngài, tên chữ là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng buồn khổ. Nghe tiếng ngài là bậc cao nhã, bàn đường đột yết kiến.

Nhìn xem, người ấy áo vải mà sạch sẽ chỉnh tề, nói cười phong lưu. Bành mừng lắm nói:

- Vậy ra là người đồng tông với tôi. Ðêm nay là cái đêm gì mà gặp được khách quý thế nàch

Liền sai rót rượu, khoản đãi như bạn thân từ trước. Xem , khách dường như cũng rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện, thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu, bàn đánh lảng câu chuyện, xin hát trước một khúc dân ca cho vui. Rồi ngửa mặt dặng hắng lần nữa, hát khúc Hào Sĩ Phù Phong, cùng nhau vui cước.

Khách nói:

- Tiểu sinh không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc dương xuân của ngài. Xin nhờ người hát thay được chăng?

Bành đáp:

- Xin vâng.

Khách hỏi:

- Ở thành Lai Châu này có danh kỹ nào không?

Bành trả lời:

- Không có.

Khách nín lặng hồi lâu rồi bảo tiểu đồng:

- Ta vừa gọi một người đến ở ngoài cửa, hãy ra dẫn vào đây!

Tiểu đồng đi ra, quả thấy một cô gái đang loanh quanh ngoài cửa. Nàng khoảng đôi tám, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. Cô gái mặc áo màu lá liễu, choàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn bên.

Khách an ủi:

- Lặn lội ngàn dặm tới đây, thật phiền nàng quá!

Cô gái mỉm cười vâng dạ. Bành lấy làm lạ, gạn hỏi, khách đáp:

- Quê quán khổ nỗi không có giai nhân, tiểu nhân vừa phải gọi cô này trên thuyền ở Tây Hồ đến đâ-

Ðoạn bảo nàng:

- Khúc Chàng Bạc Tình cô vừa hát ở trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa.

Cô gái hát rằng:

Chàng bạc tình,

Tắm ngựa ao xuân nọ,

Tiếng người xa,

Tiếng ngựa bỏ.

Trời sông cao,

Trăng núi nhỏ,

Ngoảnh đầu đi không về,

Trong sân trời rạng tỏ.

Chẳng oán xa nhau nhiều,

Sầu hội vui ít có,

Ngủ nơi nao?

Ðừng như bông theo gió.

Cho dù chẳng phong hầu,

Chớ về Lâm Cùng đó!

Khách lấy cây sáo ngọc dắt trong tất ra hoà theo tiếng hát, hết khúc thì sáo cũng dừng.

Bành sửng sốt khen mãi không thôi, rồi hỏi:

- Từ Tây Hồ đến đây đâu chỉ ngàn dặm? Thế mà trong phút chốc vời đến được, chẳng là tiên hay sao?

Khách đáp:

- Ðâu dám nói đến tiên, nhưng có thể coi muôn dặm gần như ngoài cửa. Ðêm nay trăng gió trên Tây Hồ đẹp hơn mọi khi nhiều, không lẽ không đến xem một chuyến? Ngài theo chơi được chăng?

Bành đang để tâm xem sự lạ liền nhận lời đáp:

- Rất hân hạnh.

Khách hỏi:

- Ngài đi thuyền hay cưỡi ngựa?

Bành nghĩ ngồi thuyền nhàn nhã hơn bàn nói:

- Xin cho đi thuyền.

Khách bảo:

- Nơi đây gọi thuyền hơi xa, trên sông Ngân hẳn có người chở đò.

Bàn giơ tay vẫy lên không, gọi:

- Thuyền ơi! thuyền xuống đây! Bọn tôi muốn đến Tây Hồ, không sẳn tiền thưởng đâu.

Lát sau, một chiếc thuyền hoa từ trên không lướt xuống, khói mây quấn quýt. Họ cùng lên thuyền. Thấy một người cầm bơi chèo ngắn, đoạn cuối gài kín lông chim dài, hình dáng như cái quạt lông, phẩy một cái là gió mất vi vu. Thuyền dần dần lên tít mây xanh, nhằm hướng Nam lướt tới, vùn vụt như têy

Khoảnh khắc thuyền đã hạ xuống nước. Chỉ nghe sáo đàn rộn rã, chiêng trống vang lừng. Ra khỏi khoang nhìn, trăng in khói sóng, thuyền chơi họp chợ, người lái buông chèo, mặc thuyền tự trôi. Nhìn kỹ, quả là Tây Hồ thật.

Khách lấy ra từ sau khoang món nhắm lạ và rượu ngon, vui vẻ đối ẩm. Lát sau, một chiếc thuyền lầu tới gần rồi đi sát ngay bên cạnh. Nhòm qua song cửa thấy trong thuyền có hai người đang cười rộ bên bàn cờ.

Khách đưa chén rượu mời cô gái, nói:

- Cạn chén, rồi đưa cô về.

Trong lúc cô gái nâng chén, Bành bịn rịn bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bàn lấy chân bấm khẽ. Nàng đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.

Cô gái nói:

- Nếu chàng có lòng thương, cứ hỏi tên Quyên Nương là ai cũng biết.

Khách lấy ngay khăn lụa của bành trao cho nàng, bảo:

- Tôi thay ông ấy đính ước lời hẹn ba năm sau.

Ðoạn khách đứng lên, đặt cô gái trên lòng bàn tay nói:

- Tiên chăng! tiên chăng!

Rồi kéo cửa sổ thuyền bên, bỏ cô gái sang. Mắt cửa chỉ bằng cái đĩa nàng ép mình trườn vào, không cảm thấy bị chật hẹp chút nào. Lát sau nghe thuyền bên có tiếng nói:

- Quyên Nương tỉnh rồi!

Tức thì thuyền ấy chèo đi ngay. Xa trông thuyền nọ đã ghé bến, người dưới thuyền kéo cả lên bờ, Bành bỗng mất hứng chơi, bèn nói với khách muốn lên bờ cùng xem qua đây đó. Vừa mới thương lượng, thuyền đã tự cập bờ, nhân đó bỏ thuyền lên bộ dạo quanh chừng hơn một dặm. Khách đến sau, dắt một con ngựa, bảo Bành giữ lấy. Rồi khách lại đi ngay, dặn rằng:

- Ðợi tôi mượn thêm hai con ngựa nữa.

Mãi không thấy khách đến, đường đã vắng người, ngìng trông trăng đã xế về Tây, trời đã sắp rạng. Khâu cũng không biết đi đường nào. Bành dắt con ngựa tới lui, không biết nên đi hay ở. Khi giong cương cho ngựa tới nơi đậu thuyền thì cả người lẫn thuyền đều chẳng thấy đâu. Bành nghĩ lưng túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời đã sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một túi nhỏ, thò tay xem, được ba bốn lạng bạc, bàn mua thức ăn rồi cứ đợi, bất giác gần trưa. Bành tính chi bằng hỏi thăm Quyên Nương dần dà sẽ hỏi được tin Khâu nhưng khi hỏi đến tên Quyên Nương thì chẳng một ai biết cả. Bành cụt hứng buồn tênh, hôm sau lên đường. Ngựa chạy tốt, may không liệt nhược, nửa tháng về tới nhà.

Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, tiểu đồng về báo:

- Ông chủ đã lên tiên rồi!

Cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng không về nữa. Bành về tới nhà, buộc ngựa bước vào, người nhà sửng sốt mừng rỡ, xúm lại hỏi han, bấy giờ Bành mới kể hết những sự lạ. Nhân nghĩ chỉ một mình về quê quán, e bên nhà Khâu nghe tin sẽ đến gạn hỏi, bàn răn người nhà chớ nói rộng ra. Trong lúc chuyện trò, Bành kể đến lai lịch con ngựa. Mọi người nghe nói của tiên cho bàn kéo cả ra chuồng xem. Tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy chàng Khâu bị buộc cạnh chuồng ngựa bằng giây cương cỏ. Ai nấy kinh hãi quá sức, gọi Bành đến xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt mày xám ngắt, hỏi không nói, duy hai mắt lúc nhắm lúc mở mà thôi. Bành thấy bất nhẫn quá,sai người cởi giây cương vực lên giường.

Khâu như người mất hồn, đổ nước cháo nóng cho, nuốt được chút ít, giữa đêm hơi tỉnh vội đòi ra nhà tiêu. Xốc nách nách đưa đi. Khâu xón ra được mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống tí chút, bấy giờ mới nói được, Bành đến bên giường hỏi han, Khâu kể:

- Sau khi rời thuyền, hắn dẫn tôi đi nói chuyện phiếm. Ðến chỗ vắng, hắn vỗ đùa vào gáy, tôi liền mê mẩn ngã lăn ra. Nằm phục giây lát, nhìn lại thấy mình đã hoá ngựa. Tâm trí vẫn tỉnh táo nhưng không nói được. Thật là chuyện vô cùng nhục nhã, không sao nói với vợ con được. Xin bác chớ tiết lộ.

Bành nhận lời, sai người hầu thắng ngựa đưa Khâu về.

Từ đấy Bành không sao quyên được Quyên Nương. Ba năm sau, vì có người anh rể làm chức quan Phán ở Dương Châu, Bành nhân đến thăm. Châu này có Lương công tử là chỗ thân quen với Bành, mở tiệc mời chàng đến uống rượu. Trong tiệc có mấy đào hát đều đến vái chào. Công tử hỏi đến Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm.

Công tử giận dữ nói:

- Con tiện tỳ cao ngạo thanh giá, hãy mang thừng trói đem đến đây!

Bành nghe đến tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai. Công tử đáp:

- Nó là con hát số một ở Quảng Lăng. Cậy có chút tiếng tăm mới dám kiêu căng vô lễ.

Bành ngờ tên họ ngẫu nhiên trùng nhau, nhưng lòng vẫn xúc động hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Lát sau, Quyên Nương đến, công tử hầm hầm kể tội.

Bành nhìn kỹ, quả là người đã gặp trong tiết trung thu, bèn thưa với công tử:

- Cô này là chỗ tôi quen biết cũ, mong ông tha thứ

Quyên Nương đưa mắt ngắm Bành, dường như cũng ngạc nhiên.

Công tử chưa vội hỏi kỹ đã sai người mời rượu. Bành hỏi:

- Khúc Chàng Bạc Tình nàng còn nhớ chăng?

Quyên Nương càng kinh hãi, chăm chú nhìn Bành rồi mới hát khúc xưa. Lắng nghe, đúng là tiếng hát đêm trung thu năm ấy.

Rượu tàn, công tử sai nàng chăn gối hầu khách. Bành nắm lấy tay nàng hỏi:

- Lời hẹn ba năm hôm nay mới thực hiện được chăng?

Quyên Nương đáp:

- Năm xưa theo người đi chơi thuyền Tây Hồ, em uống chưa được mấy chén đã như say. Trong lúc choáng váng bị một người nhấc đem đến một thôn nọ. Một tiểu đồng dẫn em vào nhà trên chiếu rượu có ba người, chàng là một trong số đó. Sau lại đi thuyền đến Tây Hồ , người ta mới đưa em về thuyền cũ qua mắt cửa sổ. Mỗi khi nhớ lại lúc cầm tay ân cần, cứ bảo là mộng ảo. Nhưng khăn lụa còn đây, em vẫn gói kỹ cất đi.

Bành kể nguyên do rồi cùng nhau than thở. Quyên Nương ngả mình vào lòng Bành, nức nở nói:

- Tiên đã làm mối, xin chàng đừng cho em là kẻ phong trần đáng vứt bỏ mà thôi không nghĩ đến người đang ở trong bể khổ này.

Bành đáp:

- Lời hẹn trên thuyền chưa ngày nào tôi lãng quên. Nếu nàng có đó, dù có phải dốc túi bán ngựa, tôi cũng khô š

Sáng hôm sau, thưa chuyện với công tử, lại vay mượn quan Biệt giá ngàn vàng, xoá sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ đến cơ ngơi nọ, nàng vẫn nhận ra nơi uống rượu năm nào

Bộ Da Vẽ

Thư sinh họ Vương, quê ở Thái Nguyên,một hôm đi sớm, gặp một người con gái ôm bọc quần áo, bôn ba một mình, chân bước ra dáng khó nhọc Vương vội đi vượt lên, nhìn kỹ thì ra một cô gái tuổi chừng đôi tám, nhan sắc tuyệt vời. Bụng yêu thích lắm, liền hỏi:

- Sao mới sớm hôm mà đã đi lẻ loi một mình thế?

Cô gái đáp:

- Là khách qua đường, hiểu sao được nỗi lo buồn của người khác. Hỏi nhau làm gì cho mệt?

Chàng hỏi lại:

- Nàng có nỗi buồn lo gì vậy? Nắu có thể gắng giúp được, tôi sẽ không từ.

Cô gái ủ dột đáp:

- Bố mẹ tham tiền, bán thiếp cho một nhà giàu sang. Người vợ cả rất hay ghen, sớm chiều đánh mắng nhục nhã, không thể chịu nổi nên phải trốn đi.

Hỏi:

- Ði đâu bây giờ?

Ðáp:

- Người đã đi trốn, lại có nơi nào định trước được?

Chàng nói:

- Tệ xá không xa, xin mời nàng quá bước lại đó.

Cô gái mừng lắm, theo chàng. Chàng mang hộ bọc quần áo, đưa nàng về cùng.

Cô gái thấy nhà không có người bèn hỏi:

- Tại sao chàng không có người nhà?

Chàng đáp:

- Ðây chỉ là thư trai thôi.

Cô gái nói:

- Nơi này tốt lắm. Chàng như có bụng thương mà cứu sống thiếp thì xin bí mật, chớ để lọt ra ngoài.

Chàng bằng lòng. Liền cùng nàng chung chạ. Dấu diếm trong buồng kín, qua mấy ngày cũng không ai hay.

Chàng nói hé với vợ. Vợ họ Trần, ngờ rằng đó là nàng hầu vợ bé của nhà đại gia nào, khuyên chồng để cho cô ta đi. Chàng không nghe. Tình cờ một hôm đi qua chợ, gặp một đạo sĩ, nhìn chàng kinh ngạc, hỏi có gặp ai lạ không.

Chàng đáp:

- Không.

Ðạo sĩ nói:

- Người anh đầy tà khí, sao lại nói là không?

Chàng lại cố chối. Ðạo sĩ liền bỏ đi và nói:

- Mê muội thay! Ðời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà còn chưa tỉnh!

Chàng thấy lời nói lạ nên cũng hơi ngờ người con gái, nhưng lại nghĩ cô gái đẹp sờ sờ ra đấy, sao đến nỗi là yêu quái được; cho đạo sĩ là kẻ mượn tiếng yểm tà để lấy miếng ăợc;

Một lát sau về đến nhà học. Cổng trong đóng chặt, không thể vào được, trong bụng đã ngờ có sự gì, liền trèo qua chỗ tường lở mà vào, thì cửa buồng cũng đóng. Chàng rón rén đến trước cửa số nhìn, thấy một con quỷ nanh ác, mặt xanh lét, răng chơm chởm như răng cưa, đang giãi một tấm da người lên trên giường, lấy bút màu vẽ lên trên. Vẽ xong, ném bút, nhấc tấm da như thể nâng tấm áo, khoát lên người, lập tức hoá ra một cô gái.

Trông thấy tình trạng đó, chàng sợ quá, bò rạp trên mặt đất mà lẻn ra. Vội đi tìm đạo sĩ thì đã không biết là đi đâu. Tìm kiếm khắp nơi, mới gặp ngoài đồng, liền quỳ xuống xin cứu mạng. Ðạo sĩ nói:

- Sẽ xin trừ giúp. Con quỷ đó cũng khốn khổ lắm mới tìm được người thay nó, ta cũng không nỡ hại tính mạng nó.

Liền lấy chiếc phất trần đưa cho chàng, dặn treo ỏ cửa buồng ngủ. Lúc sắp đi, hẹn gặp lại ở miễu Thanh Ðế.

Chàng trở về không dám tới nhà học, đành ngủ ở buồng vợ, treo phất trần lên. Vào khoảng canh một, nghe ngoài cửa có tiếng lách cách, tự mình không dám dậy nhòm, phải bảo vợ nhòm xem. Chỉ thấy cô gái đi đến, nhìn lên phất trần không dám bước nữa; đứng đó mà nghiến răng, một lúc lâu mới đi. Lát sau lại đến mắng rằng:

- Ðạo sĩ chỉ doạ ta nhưng đâu có được! Chẳng lẽ miếng ăn đã đến miệng lại nhả ra sao?

Liền lấy phất trần bẻ nát, rồi phá cửa buồng ngủ bước vào, nhảy lên giường của chàng, xé bụng chàng, moi lấy quả tim rồi đi.

Vợ chàng kêu thét lên. Con hầu vào soi đèn thì chàng đã chết, trên khoang bụng máu me bê bết. Trần thị rất sợ, chỉ khóc, không dám kêu. Hôm sau nàng cho em chồng là chàng Hai chạy đi nói với đạo sĩ. Ðạo sĩ tức giận nói:

- Ta đã thương tình, ngờ đâu con quái này lại dám to gan đến thế!

Lập tức theo người em chàng về thì cô gái đã biến mất.

Bàn ngẩng đầu, nhìn bốn phía nói:

- May nó trốn chưa xa.

Lại hỏi:

- Phía Nam là nhà ai?

Chàng Hai đáp:

- Ðó là nhà của tiểu sinh.

Ðạo sĩ nói:

- Hiện nó ở nhà anh.

Chàng Hai ngạc nhiên, cho rằng không có. Ðạo sĩ hỏi:

- Có người lạ nào mới đến không?

Chàng Hai đáp:

- Tôi đến miễu Thanh Ðế, quả thực không biết, để về nhà hỏi xem.

Ði một lát, trở về nói:

- Quả có thật, sáng nay có một mụ già đến, xin làm mướn cho nhà tôi, vợ tôi giữ lại, mụ vẫn còn đó.

Ðạo sĩ nói:

- Chính là nó đấy.

Liền cùng đi sang, cầm kiếm gỗ đứng ở giữa sân thét:

- Yêu nghiệt, đền ta phất trần đạy!.

Mụ già ở trong nhà hốt hoảng, tái mặt, ra cửa toan chạy. Ðạo sĩ đuổi theo đâm mụ, mụ ta ngã xuống, tấm da người tuột ra, hoá thành một con quỷ dữ, nằm kêu rống lên như lợn. Ðạo sĩ lấy kiếm gỗ chém, bêu đầu lên; thân nó biến thành đám khói dày đặc, xoáy tròn trên mặt đất, thành một đám dày. Ðạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút để vào giữa đám khói, kêu vù vù như mồm hút hơi, một lát khói hết, đạo sĩ nút hồ lô lại, bỏ vào đãy. Mọi người nhìn tấm da, lông mày, con mắt, chân tay không thiếu gì cả. Ðạo sĩ cuộn lại, tiếng kêu như cuộn trục tranh, cũng bỏ vào trong đãy, rồi từ biệt toan đi. Trần thị đón vái trước cửa, khóc xin làm phép hồi sinh cho chồng. Ðạo sĩ từ chối, không thể làm được. Trần thị càng thảm thiết, quỳ rạp trên đất không dậy. Ðạo sĩ nghĩ ngợi rồi nói:

- Phép thuật của ta còn nông cạn, thực không thể làm ngươi chết sống lại được. Ta trỏ giúp một người, may ra có thể làm điều đó. Ðến cầu xin tất là có kết quả.

Hỏi người nào? Ðáp:

- Trong chợ có một người điên, thường nằm trên đống phân, thử đến mà kêu xin với ông ta xem. Nhưng dù có buông tuồng làm nhục phu nhân, phu nhân cũng chớ có tức giận.

Chàng Hai cũng đã biết người điên đó, bèn từ biệt đạo sĩ, rồi cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày rồi dại ca hát trên đường, mũi dãi lòng thòng, bẩn thỉu quá không thể gần được. Trần thị lết đầu gối đến trước mặt. Người ăn mày cười, nói:

- Người đẹp yêu ta chăng?

Trần thị kể nguyên do, thì lại cười lớn, nói:

- Ai cũng là chồng được cả, làm sống lại làm gì?

Trần thị cố kêu van. Bàn nói:

- Kỳ thay, người chết mà lại nhờ ta làm sống lại được; ta là Diêm Vương hay sao?

Tức giận lấy gậy đánh Trần thị. Trần thị nhẫn nhục cố chịu đau. Người trong chợ dần dần đổ đến xem chật như bức tường. Người ăn mày khạc đờm ra đầy bàn tay, đưa tới trước Trần thị nói: Ăn đi! Trần thị đỏ bừng mặt, có vẻ ái ngại. Lại nghĩ đến lời đạo sĩ dặn liền cố liều nuốt.

Thấy bãi đờm trong cổ họng, cứng như túm lông, cố nuốt thì nghèn nghẹn mà trôi xuống, rồi dừng lại ở quãng ngực. Người hành khất cười lớn nói:

- Người đẹp quả yêu ta thay!

Liền đứng dậy đi, chẳng ngoảnh lại nữa. Bước theo sau, thấy vào trong miễu. Cố đuổi kịp để kêu nài nữa, thì không biết đã đi đâu mất. Tìm trước, tìm sau không thấy tăm hơi đâu cả, vừa thẹn vừa giận mà trở về. Ðã thương chồng chết thảm, lại hối vì nỗi nhục ăn bãi đờm, nàng ôm mặt ngồi khóc, chỉ muốn chết ngay. Ðương toan gạt máu liệm thây chồng, người nhà cứ đứng nhìn, không ai dám đến gần; Trần thị ôm lấy thây chồng, nhặt mớ ruột, vừa xếp lại vừa khóc. Khóc đắn lúc khản cả tiếng, bỗng buồn nôn, thấy cái vật kết trong ngực trôi tuột ra, chưa kịp quay đầu lại, nó đã rơi vào trong ngực người chết.

Kinh hãi nhìn kỹ thì ra đó là quả tim người, vẫn đang nhảy thon thót trong ngực, hơi nóng bốc lên như khói. Lấy làm lạ, vội đưa hai tay khép bụng chồng lại, hết sức giữ chặt lấy, hơi nới tay thì khí nóng từ khoang bụng lại toả ra; mới xé lụa vội buộc chặt lại. Sờ tay vào thây chồng, dần dần ấm lại, bàn lấy chăn đắp lên. Nửa đêm mở ra xem, thấy mũi có hơi thở. Ðến sáng thì sống lại hẳn. Chồng kể lại: Hoảng hốt như nằm mơ, chỉ thấy bụng còn đau lâm râm. Xem chỗ bị xé rách, thấy đóng vẩy to bằng đồng tiền, sau dần dần khỏi

gũ Thu Nguyệt

Vương Ðỉnh, quê ở Tần Bưu, tự là Tiên Hồ, người khảng khái, có sức khoẻ, giao du rộng. Năm mười tám tuổi, vợ vừa cưới đã chết. Chàng thường đi chơi xa, hàng năm không về. Anh là Nại, danh sĩ đất Giang Bắc, rất mực thương yêu em. Thường khuyên em không nên đi xa, muốn kén vợ cho. Chàng không nghe, thuê thuyền đến Trấn Giang thăm bạn. Bạn đi vắng, nhân thuê một gian gác nơi quán khách để trọ. Nước sông gợn sóng, núi Kim Sơn ở ngay trước mặt, bụng lấy làm thích lắm. Hôm sau người bạn đến, mời chàng dọn về nhà mình ở, chàng từ chối không đi.

Ở già nửa tháng, đêm nằm mộng thấy một cô gái tuổi chừng mười bốn mười lăm, thuỳ mị tình tứ, lên giường giao hợp với mình. Tỉnh dậy thì thấy mình di tinh. Chàng hơi lấy làm lạ nhưng cũng cho là ngẫu nhiên. Ðến đêm lại nằm mộng thấy như thế, luôn ba bốn đêm, bụng rất kinh dị, không dám tắt đèn. Thân tuy nằm im trên giường mà bụng vẫn nơm nớp đề phòng. Vừa chợp mắt, đã mộng thấy người con gái lạ đến. Ðang ôm ấp bỗng giật mình tỉnh dậy. Vội mở mắt nhìn thì thấy một cô gái như tiên vẫn đang trong vòng tay mình. Nàng thấy chàng đã tỉnh, hơi có ý thẹn, sợ. Chàng tuy biết không phải là người, nhưng bụng lại rất thích, nên không căn vặn gì, lại cùng nàng vần vũ cật lực.

Cô gái hình như không chịu nổi nói:

- Cuồng bạo như thế chả trách người ta không dám gặp thẳng ở ngoài giấc mộng.

Chàng bấy giờ mới hỏi kỹ.

Cô gái đáp:

- Thiếp họ Ngũ, tên Thu Nguỵệt. Thân phụ là danh nho, tinh thông dịch số, rất thương yêu thiếp, nhưng nói mệnh thiếp không thọ, nên không hứa gả cho ai cả. Sau đến năm mười lăm tuổi, quả nhiên chết yểu, liền đào huyệt ở phía Ðông gian gác này mà chôn bằng, không đắp nấm cũng không có mộ chí, duy chỉ đặt ở bên ngoài quan tài một phiến đá, đề rằng: Gái Thu Nguyệt, chết không mồ, 30 năm sau gả về Vương Ðỉnh. Ðến nay đã 30 năm, chàng đến vừa đúng. Trong bụng rất mừng, muốn tự hiến cho chàng, nhưng tấc lòng còn e thẹn, nên phải mượn chiêm bao đấy thôi!

Vương cũng rất mừng, lại đòi hành sự tiếp.

Nàng nói:

- Thiếp chỉ cần một ít dương khí để mong sống lại. Thực không ngại gì chuyện gió mưa ấy. Sau này duyên lành vô hạn, thì cứ gì phải đêm nay.

Bèn đứng dậy mà đi.

Ðêm sau lại đến. Ngồi đối nhau, cười đùa vui vẻ như bạn bình sinh. Tắt đèn lên giường không khác gì người sống. Có điều khi nàng đã dậy thì tinh rây dầm dề, thấm đẫm cả chăn đệm.

Một đêm, trăng sáng vằng vặc, cùng lững thững dạo bước trong sân. Ðỉnh hỏi cô gái:

- Cõi âm cũng có thành quách chứ?

Cô gái đáp:

- Cũng như ở cõi dương thôi. Thành phủ cõi âm không ở chốn này mà cách đây ba bốn dặm, nhưng lấy đêm làm ngày.

Vương hỏi:

- Người sống có thể trông thấy không?

Cô gái đáp:

- Có thể.

Chàng xin đi xem, nàng bằng lòng.

Nhân lúc đêm trăng cùng đi. Cô gái nhẹ nhàng lướt đi như gió. Vương cố sức đuổi theo. Chẳng mấy chốc đến một nơi kia, nàng bảo:

- Không xa nữa.

Vương cố giương mắt nhìn nhưng chẳng thấy gì cả. Cô gái lấy nước bọt bôi lên hai mí mắt chàng, mở ra thì thấy mắt sáng gấp bội lúc bình thường, trông ban đêm không khác gì ban ngày. Chợt thấy một bức tường thành ẩn hiện trong đám sương mù xa xa, người đi trên đường tấp nập như đi chợ.

Một lát, thấy hai tên lính trói ba bốn người giải đi qua, người đi cuối lạ thay sao giống hệt như anh mình vậy. Ðến gần, quả là anh thật, Vương kinh ngạc hỏi:

- Sao anh lại đến chốn này?

Người anh trông thấy chàng thì ứa nước mắt, nói:

- Anh cũng không biết việc gì mà bị bắt trói như tù.

Vương tức giận nói:

- Anh ta là người quân tử, biết giữ lễ nghĩa, sao đến phải xiềng trói như vậy?

Liền xin hai tên lính cởi trói cho. Lính không nghe, lại ngạo mạn, trừng mắt nhìn. Chàng phẫn uất, toan giằng nhau với chúng, người anh ngăn:

- Ðấy là lệnh quan, ta cũng phải giữ phép. Chỉ hiềm ta thiếu tiền chi dùng, bị họ vòi của đút, khổ lắm. Em về, nên lo toan cho.

Chàng nắm lấy cánh tay anh, khóc thất thanh. Lính tức giận kéo mạnh cái tròng cổ, người anh liền ngã sấp xuống. Chàng trông thấy, lửa giận đầy ức, không thể nén được, liền rút thanh đao đeo bên mình, phạt đứt đầu một tên. Tên kia kêu thét lên, chàng lại giết nốt.

Cô gái kinh sợ nói:

- Giết sai nha nhà quan, tội không thể tha được. Nếu chậm, hoạ sẽ đến. Xin lập tức tìm thuyền về Bắc. Về nhà, chớ hạ lá phướn xuống, phải đóng cửa không cho ai vào nhà. Quá bảy ngày sẽ không lo gì nữa.

Vương liền dắt anh đi, ngay đêm ấy thuê một chiếc thuyền nhỏ vội vã về Bắc. Về thấy khách khứa đến viếng ở cửa, mới biết là anh đã chết thật. Chàng liền đóng cổng khoá lại, rồi đi vào, anh đã mất hút; vào nhà thì người chết đã tỉnh lại, gọi: Ðói chết mất! Mang mì nước lại đây!

Lúc đó, anh chết đã hai ngày; người nhà thảy đều kinh hãi. Chàng liền kể lại duyên do. Bảy ngày sau, mở cửa, bỏ lá phướn đi, người ta mới biết ông anh sống lại.

Bè bạn thân thuộc xúm đến hỏi thăm, Vương chỉ trả lời chống chế.

Lại trạnh nghĩ đến Thu Nguyệt, tưởng nhớ thêm rầu. Bèn lại quay xuống Nam, đến gian gác cũ, đốt đèn lên ngồi đợi rất lâu, cô gái vẫn không lại. Chập chờn toan ngủ, thấy một người đàn bà bước vào nói:

- Cô Thu Nguyệt nhờ nói lại với anh là hôm nọ hai tên công sai bị giết, hung phạm chạy mất, chúng bắt cô ấy đi. Hiện đang ở trong ngục. Bọn ngục tốt đối đãi tàn ngược. Ngày ngày trông chờ anh, anh nên nghĩ cách cứu giúp.

Vương buồn rầu phẫn uất,liền theo người đàn bà đi. Ðến một toà thành, vào cửa Tây, người đàn bà chỉ vào một cái cổng nói:

- Cô em bị giam ở gian này.

Chàng bước vào, thấy nhà này buồng nọ cũng nhiều, tù phạm bị nhốt thậm đông mà chẳng thấy Thu Nguyệt đâu. Lại vào một cửa nhỏ, thì thấy trong căn phòng hẹp có đèn lửa. Chàng ghé lại gần cửa sổ để nhòm vào, thấy Thu Nguyệt ngồi trên giường, lấy ống tay áo che mặt mà khóc. Bên cạnh có hai tên ngục tốt đang sờ cằm vuốt chân nàng, để đùa ghẹo. Nàng khóc càng cuống quít. Một tên ngục tốt bá lấy cổ nàng nói:

- Ðã là kẻ có tội còn giữ trinh tiết ư?

Chàng tức giận không nói không rằng, rút dao xông vào, chém mỗi đứa một nhát như người ta phạt gai, rồi đoạt lấy cô gái mà chạy ra, may không ai biết.

Vừa đến quán trọ bỗng giật mình tỉnh giấc. Còn đương lạ vì giấc mộng dữ, đã thấy Thu Nguyệt nước mắt dàn dụa đứng ở đó. Chàng kinh hoảng trỗi dậy, kéo nàng ngồi xuống, kể lại giấc mộng. Cô gái nói:

- Thật đấy, không phải mộng đâu.

Chàng hốt hoảng hỏi:

- Thế thì làm thế nào?

Nàng thở dài đáp:

- Ðấy cũng là số đã định. Thiếp vốn đợi ngày nguyệt tận mới là kỳ hạn sống lại. Bây giờ đã gấp thế này thì đợi sao được nữa. Xin chàng mau mau đào chỗ chôn thiếp lên, đưa thiếp cùng về, mỗi ngày gọi tên thiếp nhiều lần. Qua ba ngày có thể sống lại. Nhưng vì chưa đủ ngày, xương mềm, chân yếu, không thể lo việc gạo nước trong nhà giúp chàng được.

Nói xong, gấp gáp toan đi. Bỗng quay lại nói:

- Thiếp suýt quên. Nếu âm ty sai đuổi theo thì làm thế nào? Khi còn sống, cha thiếp có truyền cho một đạo bùa, nói rằng ba mươi năm sau có thể hai vợ chồng cùng đeo!

Liền lấy bút vẽ hai đạo bùa và nói:

- Một đạo chàng đeo, còn một đạo xin dán vào lưng thiếp.

Chàng đưa nàng ra. Ðến chỗ nàng biến thì đánh dấu lấy. Ðào độ hơn một thước thấy quan tài, gỗ đã mục nát, bên cạnh có một tấm bia nhỏ, quả đúng như lời nàng nói. Mở quan tài ra xem, nhan sắc vẫn như sống. Ôm vào buồng, quần áo theo gió tan hết. Dán bùa xong lấy chăn bọc lại, cõng đến bên sông, gọi một chiếc thuyền đỗ bên bờ, nói thác rằng con gái ốm nặng, muốn đưa về nhà. May được gió Nam thổi manh, trời vừa sáng đã về đến cổng. Bế vào đặt nàng yên ổn rồi mới nói với anh chị. Cả nhà kinh ngạc nhìn nhau, cũng không dám nói thẳng là điều huyền hoặc.

Chàng mở chăn, gọi to Thu Nguyệt. Ban đêm thì ôm xác nàng mà ngủ. Thi thể nàng mỗi ngày mỗi ấm dần, ba ngày thì sống lại. Bảy ngày sau đã có thể đi lại được. Bèn thay quần áo ra chào chị dâu, phất phới chẳng khác nào thần tiên cả. Nhưng ngoài mười bước lại phải có người đỡ mới đi được, nếu không thì xiêu theo chiều gió, chỉ chực nghiêng ngả. Những người trông thấy đều cho rằng nàng có bệnh đó lại càng tăng thêm vẻ đẹp.

Nàng thường khuyên chàng:

- Tội nghiệt của chàng quá dày, phải tích đức, tụng kinh sám hối đi. Nếu không e rằng không sống lâu.

Chàng vốn không tin Phật, bây giờ cũng thành tâm quy y. Về sau không việc gì cả.

Cừu Ðại Nương

Cừu Trọng, người đất Tấn, không còn nhớ ở quận huyện nào Gặp cơn đặi loạn, bị giặc bắt đem đi .

Hai con Phúc và Lộc đang còn thơ ấu . Vợ lẽ họ Thiệu, nuôi đôi trẻ mồ côi, sản nghiệp để lại may ra cũng được ấm no, nhưng đói kém mấy năm liền, lại bị cường hào lấn áp, đến nỗi miếng ăn thức uống hàng ngày không còn duy trì được.

Người chú của Trọng và Thượng Liêm, nhìn thấy mối lợi trong việc cải giá của cháu dâu, thường khuyên nhủ Thiệu thị lấy chồng, nhưng nàng thề giữ chí, không chịu nao núng. Liêm ngầm mưu khoán cháu cho một nhà đâi tộc định lấy thế cưỡng ép bắt nàng đi .

Hai bên ước định đâu đấy cả rồi, mà người ngoài vẫn chưa ai biết.

Trong làng có tên Nguỵ là đứa rất giảo quyệt, đểu cáng, vốn có hiềm khích lâu ngày với nhà Trọng; gặp việc gì cũng nghĩ cách để ngầm hãm hại . Nhân thấy Thiệu thị ở goá, bèn phao ra tiếng nọ điều kia để bêu xấu .

Nhà đại tộc kia nghe được, cho Thiệu thị là người không có đức, bèn thôi .

Lâu ngày, mưu mô của Liêm và tiếng đồn bên ngoài cũng dần dần đến tai Thiệu thị . Nàng mang nỗi oan ức trong lòng, sớm chiều rơi luỵ, rồi đến tay chân tê bại, nằm liệt trên giường.

Phúc đã được mười sáu tuổi, nhân trong nhà không có người may vá, bèn hỏi gấp vợ cho con. Vợ Phúc là con gái ông tú tài Khương Dĩ Chiêm, cũng là người làm ăn khá giỏi giang, xắp đặt mọi việc có ngăn nắp, nhờ đó ăn tiêu cũng tạm đầy đủ, nên mới cho Lộc đi học.

Nguỵ thấy thế thì đem lòng ghen ghét, nhưng ngoài mặt lại làm ra vẻ thân thiện. Nhiều lần, Nguỵ mời Phúc đi uống rượu Phúc bằng vào đấy, xem Nguỵ như một người bạn tâm phúc. Nguỵ thừa dịp nói rằng:

- Mẫu thân cậu còn nằm trên giường bệnh, không trông nom được việc nhà; cậu em thì chưa biết làm gì, chỉ ngồi ăn không. Hai vợ chồng nhà cậu tốt thế, mà sao làm trâu ngựa cho người ta . Khi nào cậu em cưới vợ thì còn tốn tiền bạc rất nhiều . Tôi nghĩ hộ cậu một kế, chi bằng cậu nên sớm ở riêng ra, có thế thì nghèo về em mà giàu sẽ về anh.

Phúc về nhà, bàn với vợ, bị vợ mắng cho .

Nhưng ngày một ngày hai, Nguỵ nói ra nói vào, dần dần thấm thía, Phúc bị mê hoặc, bèn quyết đem việc ấy nói thẳng với mẹ .

Mẹ giận, mắng chửi thậm tệ . Phúc càng tức tối, cho rằng đã thế thì không cần gì nữa, thóc tiền cũng chẳng qua như của người khác, cho nên mặc kệ, không đoái hoài gì đến.

Nguỵ thừa cơ, rủ Phúc đi đánh bạc,thóc trong kho ngày càng vơi, vợ biết mà chưa giám nói . Mãi đến lúc hết thóc ăn, mẹ kinh hãi, hỏi vì sao, vợ mới nói thật. Mẹ giận lắm, nhưng cũng không biết làm sao, bèn cho ra ở riêng.

Ðược cái may, cô gái họ Khương là người hiền đức, mỗi ngày hai buổi, thổi cơm hộ mẹ, và qua lại hầu hạ chẳng khác gì trước.

Phúc đã ở riêng, không còn kiêng nể gì nữa, tha hồ đắm mình vào cuộc đỏ đen. Chỉ trong vài tháng đã bán sạch ruộng nương để trả nợ chơi bời, mà mẹ và vợ vẫn chưa biết. Khi đã hết kiệt vốn liếng. Phúc không còn nghĩ được kế gì hơn, bàn đem vợ gán cho người ta để vay tiền, nhưng khốn nỗi không ai chịu nhận.

Trong huyện có tên Triệu Diêm La, nguyên là một tên trộm cừ khôi sổng lưới pháp luật, ngang ngược vũ đoán nhất vùng. Nó vốn biết Phúc không dám nuốt lời, bàn khảng khái cho vay .

Phúc cầm tiền đi, được vài ngày đã hết nhẵn. Còn trù trừ rấp tâm bội ước, thì Triệu đã quắc mắt dòm ngang.

Phúc sợ hãi, phỉnh vợ đến nhà Triệu .

Nguỵ nghe được, mừng thầm, chạy sang ngay mách với ông tú họ Khương, nghĩ chuyến này thì họ Cừu tất phải đổ xiêu nghiêng ngửa .

Họ Khương giận lắm, phát đơn đi kiện.

Phúc hoảng quá liền bỏ trốn.

Nàng Khương đến nhà Triệu mới biết là bị chồng lừa bán, khóc nức nở, chỉ muốn chết ngay.

Lúc đầu Triệu còn dỗ ngon dỗ ngọt, nhưng nàng không nghe, Triệu ra oai nạt nộ thì nàng lại càng mắng chửi Triệu giận quá, lấy roi đánh đập, nàng cũng không phục, rút trâm tự đâm vào cổ .

Người nhà vội đến giật ra thì đã vào đến thực quản, máu phụt rồi .

Triệu vội vàng xé lụa quấn xung quanh cổ, chắc mẩm rằng cứ để thong thả rồi thế nào cũng khuất phục được.

Ngày hôm sau đã có trát đòi, Triệu vẫn dửng dưng, không lấy làm điều .

Ra huyện, quan khám thấy vết thương của Khương thị rất nặng, truyền nọc Triệu ra để đánh đòn. Lính lệ dòm nhau, không dám ra tay .

Quan vốn nghe tiếng Triệu ngang ngược đã lâu, thấy thế càng tin, bèn nổi giận, gọi người nhà ra đánh, đánh Triệu chết tươi .

Nhà họ Khương bàn khiêng con gái về .

Mãi đến khi họ Khương đi kiện, Thiệu thị mới biết con mình khốn nạn như thế nào, hét lên một tiếng, cơ hồ đứt hơi, rồi mê man ốm nặng.

Bấy giờ Lộc đã mười lăm tuổi, vò võ một mình không dựa vào đâu được.

Nguyên Trọng còn có một người con gái đời vợ trước nữa tên là Ðại Nương, gả chồng ở quận xa, tính khí cương cường, mỗi khi về thăm, cho quà cáp không vừa , thì ngỗ ngược với cha mẹ, nhiều khi giận dữ bỏ về, do đó Trọng giận và ghét; lại vì đường xa cho nên có khi vài năm mà không có một lần thăm hỏi .

Khi biết bà Thiệu bệnh nguy, tên Nguỵ bàn lập mưu gọi Ðại Nương về để gây cuộc tranh giành của cải trong nhà họ Cừu .

Vừa gặp một người lái buôn. ở cùng làng với Ðại Nương, Nguỵ thác cớ nhắn tin cho Ðại Nương, lại sách động Ðại Nương rằng có thể nhân cơ hội này thâu tóm hết nhà cửa được.

Ðược vài ngày quả nhiên Ðại Nương đến, đem theo một đứa con nhỏ . Vào cửa, thấy em nhỏ đang trông nom mẹ, cảnh tượng thật thảm đạm, nàng bất giác mủi lòng. Hỏi em Phúc ở đâu, Lộc kể hết đầu đuôi Ðại Nương nghe giận đến nghẹn cả cổ, nói rằng:

- Nhà không có người lớn, để cho người ta giày xéo đến thế! Ruộng nương nhà ta sao quân ăn cướp kia dám phỉnh gạt bán hết!

Nói xong bèn đi xuống bắp, nhen lửa nấu cháo bưng lên mời mẹ trước, rồi gọi em và con cùng ăn. Ăn xong nàng hằm hằm ra đi, đến huyện nộp đơn kiện bọn đánh bạc. Chúng sợ, góp tiền để đút lót Ðại Nương... Nàng nhận tiền nhưng vẫn kiện. Huyện cho bắt tên Giáp, tên ất v.v... đánh đòn quở trách, nhưng không xử việc điền sản.

Ðại Nương vẫn căm, đem con đi thẳng lên quận. Quận thú là người rất ghét cờ bạc. Ðại nương hết sức bày tỏ mọi nỗi cô khổ, cùng tình trạng bị bọn gian lừa đảo, lời lẽ thống thiết, làm cho quận thú động lòng, truyền cho huyện phải truy thu ruộng vườn mà cấp lại cho chủ cũ, và phải trừng phạt Cừu Phúc để làm gương cho những đứa hư hoang.

Sau khi trở về, viên quan huyện nhận được lệnh trên, ráo riết thi hành, nhờ đó điền sản thu về được hết.

Bấy giờ, Ðại Nương goá chồng đã lâu, bèn cho đứa con nhỏ trở về nhà, bảo phải theo anh học làm ăn, đừng trở ngại nữa . Ðại Nương thì ở lại nhà mẹ, nuôi mẹ dạy em xắp đặt trong ngoài có ngăn nắp cả .

Mẹ rất hài lòng, bệnh dần dần khỏi, việc nhà thảy đều giao cho Ðại Nương.

Bọn cường hào trong làng có lấn áp điều gì thì nàng vác dao đến tận cửa, cứng cỏi đấu lý, là cho chúng phải chịu khuất.

Ðược hơn một năm, ruộng vường ngày càng tăng, thỉnh thoảng lại mua thuốc, bánh, thức ngon vật lạ gửi cho cô gái họ Khương.

Lại thấy Lộc ngày càng trưởng thành, nàng bèn nhiều lần cậy mối lái tìm nơi cưới hỏi .

Nguỵ nói với mọi người rằng:

- Sản nghiệp nhà họ Cừu đều ở trong tay Ðại Nương cả, e rằng sau này không thu về được.

Mọi người đều tin y, vì vậy không ai muốn nói chuyện hôn hân với họ Cừu .

Có một công tử họ Phạm, tên là Tử Văn, nhà có một khu vườn nổi tiếng bậc nhất ở Tấn. Trong vườn, các loại hoa quý trồng hai bên đường chạy thẳng đến nội thất.

Người nào không biết, đi nhầm vào đấy, gặp lúc công tử đang yến tiệc, thì ông nổi giận, cho là kẻ trộm, bắt đi trói lại đánh đập, gần chết mới thôi .

Nhân gặp tiết thanh minh, Lộc từ trường học trở về, Nguỵ bèn rủ đi chơi, lân la đến khu vường của công tử. Người giữ vườn có quen biết với Ngụy, cho vào xem, ghé thăm các nơi đình tạ .

Bỗng đến một chỗ nước khe chảy xiết trên có cầu vẽ, một hàng lan can đỏ, dẫn đến một cái cổng sơn đen, trông vào thấy hoa rậm như nấm. Ðó là thư trai bên trong của công tử, Nguỵ phỉnh rằng:

- Cậu cứ vào trước, tôi phải đi giải một tý .

Lộc tin là thật, lững thững đi qua cầu vào cửa, đến một toà lâu viện thì nghe tiếng con gái nô cười . Vừa mới dừng bước, thấy một con sen đi ra, dòm thấy chàng bèn quay gót trở vào ngay .

Lộc bấy giờ mới thất kinh bỏ chạy . Giây lát sau, công tử bước ra, goi người nhà lấy dây thừng đuổi bắt. Lộc quẫn quá, nhảy luôn vào giữa khe nước. Công tử liền đổi giận ra cười bảo người hầu xuống dắt Lộc lên. Thấy dung nhan và y phục của Lộc đều có vẻ phong nhã, ông bảo đem áo và giày ra cho thay . Rồi lại dắt Lộc vào một cái đình, gạn hỏi tên họ, dịu dàng nét mặt, êm đềm lời nói, có vẻ hết sức thân mật, xuề xòa . Một lát, công tử đi nhanh vào nhà trong, rồi trở ra ngay, cười cầm tay Lộc dắt qua cầu, dần dần đến chỗ ban nãy Lộc không hiểu ra sao, dùng dằng không dám đi vào . Công tử cố kéo vào, thì thấy trong giậu hoa thấp thoáng có bóng mỹ nhân đang dòm ngó . Khi đã an toạ, thị tỳ dọn rượu rồi Lộc từ tạ, nói rằng:

- Cháu còn trẻ người non dạ không biết gì, đi nhầm vào chốn khuê môn, được ngài khoan hồng xá lỗi cho, như thế là ngoài mộng tưởng. Bây giờ chỉ mong được thả cho về sớm thì đội ơn vô cùng.

Công tử không chịu . Chốc lát, nem chả bày ra la liệt.

Lộc lại đứng dậy, từ tạ là đã quá no say rồi .

Công tử kéo ngồi xuống, cười nói rằng:

- Lão có mấy chữ nho tên đặt cho phách nhạc, Nếu cậu đối xử được thì xin để cậu đi ngay .

Lộc dạ dạ xin cho biết. Công tử nói:

- Phách đặt tên: Chẳng giống tí nào .

Lộc ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đối rằng:

- Bạc thành nén: biết làm sao được

Công tử cười to lên mà rằng:

- Thật là Thạch Sùng đấy!

Lộc không hiểu ông nói gì . Nguyên công tử có một cô con gái tên là Huệ Nương, xinh đẹp lại có học thức, đang kén chồng, đêm chiêm bao thấy có người bảo với mình sẽ lấy Thạch Sùng, hỏi ở đâu, thì nói rằng ngày mai sẽ rơi xuống nước. Sáng dậy, nàng nói chuyện lại với cha mẹ; mọi người đều lấy làm lạ . Việc Lộc đến vừa rồi rất hợp với giấc mộng, cho nên công tử mời chàng vào nhà trong để phu nhân và đàn bà con gái trong nhà xem mặt.

Công tử nghe câu đối của Lộc rất mừng, nói rằng:

- Tên Phách nhạc là do con gái bé của lão đặt ra, cứ nghĩ mãi mà không đối được; bây giờ mới được câu đối hay, cũng là duyên trời . Lão có thể để cháu làm người nâng khăn sửa túi cho cậu; cả chỗ tệ xá đây cũng còn nhiều viện, nhiều phòng, không dám phiền cậu rước dâu về bên nhà .

Lộc luống cuống, khiêm nhường từ tạ, viện lẽ rằng mẹ đang còn ốm, không ở gửi rể được.

Công tử bảo hãy cứ về nhà bàn tính đã, rồi sai người giữ ngựa thắng ngựa mang quần áo ướt và đưa Lộc về .

Về đến nhà, Lộc kể chuyện lại với mẹ, bà mẹ sợ hãi cho là chuyện bất thường; từ đó mới biết Nguỵ là kẻ hiểm độc. Nhưng vì dữ mà lại hoá lành, nên cũng mặc, không đem lòng thù oán, chỉ khuyên con nên cắt đứt với y mà thôi .

Qua vài ngày, công tử lại cho người đến ngỏ với bà mẹ; bà mẹ chung quy vẫn không dám nhận.

Ðại Nương bèn đứng ra nhận lời rồi mướn hai bà mối đi nạp thái .

Chả bao lâu, Lộc đến ở gửi rể nhà công tử, được hơn một năm thì vào học nhà phán, lừng lẫy tài danh.

Em vợ dần dần trưởng thành, không kiêng nể anh rể như trước, Lộc giận, đem vợ về ở nhà mình.

Mẹ cũng đã chống gậy đi lại được; nhà có Ðại Nương trông nom mấy năm liền, nhà cửa cũng được hoàn hảo . Nay cô dâu mới đã về, trong nhà đầy tớ con hầu tấp nập, rõ ràng có phong thái đại gia .

Tên Nguỵ bị xa lánh lại càng ghen ghét, giận không tìm ra chút tỳ vết nào để hãm hại .Y bàn lôi kéo bọn lính đào ngũ vu cáo Lộc gửi tiền cho chúng.

Thuở quốc sơ việc lập pháp rất nghiêm; theo lệnh trên, Lộc bị xử đi đày ra ngoài cửa ải .

Phạm công tử đút lót gửi gắm từ trên xuống dưới, mà kết quả chỉ được miễn việc đi đày cho Huệ Nương.

Ðiền sản đều bị sung công.

May sao Ðại Nương cầm tờ giấy chia gia tài, dấn thân ra trước cửa quan cãi lý, có bao nhiêu thửa ruộng mới mua đều ghi tên Phúc cả, do đó mẹ con mới được ở yên.

Lộc nghĩ mình đi không trở về bàn viết tờ ly hôn, gửi cho ông nhạc, rồi vò võ lên đường.

Ði được mấy ngày, đến phía Bắc kinh đô, vào ăn trong quán, thấy ngoài cửa có đứa ăn mày đứng thập thò, mặt mũi rất giống anh mình.

Ra gạn hỏi thì quả anh thật. Lộc kể lại chuyện mình, anh em đều buồn thảm.

Lộc mở áo lót, chia cho Phúc một ít tiền, bảo trở về nhà . Phúc rơi luỵ từ biệt. Khi đến cửa ải, Lộc sung làm lính hầu trong phủ một vị tướng quân. Vì Lộc là con nhà học trò, chân mềm tay yếu, nên được giữ việc biên chép, viết lách, cùng ăn ở với những phục dịch khác. Khi họ hỏi đến gia thế, thì Lộc kể hết đầu đuôi; trong bọn, có một người kinh ngạc nói rằng:

- Chính là con tôi đây!

Nguyên trước kia bọn cướp bắt Cừu Trọng đi chăn ngựa cho chúng, sau đó cả bọn bỏ trốn, rồi bán Trọng vào làm lính. Trọng bàn theo chủ ra đồn thú ngoài cửa ải .

Trọng thuật lại cho Lộc rõ đầu đuôi, cha con mới nhận ra nhau, bèn ôm lấy nhau mà khóc.

Mọi người đều thấy chạnh lòng.

Rồi Trọng lại phẫn uất kêu lên:

- Chả biết đứa nào bỏ chạy sang miền Ðông mà lại đổ thừa cho con ta!

Nhân đó kêu khóc với tướng quân. Tướng quân bèn giao cho Lộc viết một lá thư gửi đến vị thân vương trong triều, cho Trọng cầm về kinh đô .

Trọng đến kinh, rình khi xa giá thân vương đi ra liền đến dâng thư tỏ lòng bày oan khuất. Vị thân vương vì ông mà tâu xin lên vua, nên Lộc được minh oan; vua sắc chỉ cho quan địa phương chuộc lại ruộng đất giao về cho họ Cừu .

Khi Trọng quay về, hai cha con người nào cũng vui mừng. Rồi Lộc hỏi kỹ số nhân khẩu trong nhà, để tính tiền chuộc cho bố, mới biết từ khi vào làm lính hầu Trọng đã hai lần lấy vợ mà không sinh đẻ, bấy giờ lại đang ở góa .

Lộc bèn sắm sửa hành trang mà trở về quê quán.

Lại nói đến Phúc, sau khi từ giã em, về đến nhà, sụp lạy xin chịu tội .

Ðại Nương rước mẹ lên ngồi nhà trên, tự mình cầm hèo, hỏi Phúc rằng:

- Mày có tự nguyện chịu đòn, thì mới có thể tạm cho ở lại còn như không muốn, thì ruộng vườn của mày đã hết sạch, đây không phải là chỗ mày đến tọng cơm được nữa, mời tếch ngay!

Phúc khóc lóc, phục xuống đất, xin chịu đòn. Ðại Nương vứt cái hèo đi, nói rằng:

- Con người đã bán vợ, thì cũng chẳng trừng phạt làm gì nữa; nhưng án cũ chưa xoá, Nếu tái phạm thì báo ngay!

Nói xong, nàng cho người sang báo tin bên họ Khương. Cô gái họ Khương dằn giọng nói rằng:

- Tôi có là người gì của họ Cừu nữa đâu mà phải báo tin!

Ðại Nương nhiều lần nhắc lại câu nói ấy để bêu xấu Phúc; Phúc hổ thẹn không dám lên tiếng.

Nửa năm trôi qua Ðại Nương tuy cho Phúc đủ ăn đủ mặc, nhưng bắt làm việc nặng như đứa ở .

Phúc cũng làm lụng mà không oán trách gì, có giao cho tiền bạc, cũng không dám cẩu thả .

Ðại Nương xét thấy Phúc không có gì khác, bèn thưa với mẹ cho mời nàng Khương trở về .

Mẹ nghĩ rằng không có cách gì làm cho cô ấy nghĩ lại được nữa .

Ðại Nương nói:

- Không phải thế . Nếu người ta có lòng nào thờ hai chồng thì đã chả tự chuốc lấy đòn gông khổ sở . Chẳng qua ai mà lại không có cái giận như vậy!

Rồi nàng thân hành đem em trai sang chịu tội bên nhà vợ. Ông nhạc, bà nhạc trách mắng đủ điều .

Ðại Nương nạt Phúc, bảo phải quỳ xuống rồi mới xin mời vợ ra gặp. Mời đến ba bốn lần, nàng vẫn khăng khăng tránh mặt không chịu ra .

Ðại Nương vào nhà tìm, kéo ra, thì nàng chỉ vào mặt Phúc mà mắng nhiếc tàn tệ .

Phúc thẹn toát mồ hôi, không còn cách gì dung thứ được cho mình.

Bà cụ họ Khương mới kéo Phúc, bảo đứng dậy .

Ðại Nương xin cho biết ngày nào thì vợ Phúc sẽ trở về . Nàng nói:

- Từ trước đến nay chịu ơn của chị đã nhiều, nay chị dạy như thế, đâu dám trái lời, nhưng chỉ sợ không giữ được cho em khỏi bị bán lần nữa . Vả chăng ân nghĩa đã dứt hẳn rồi, còn mặt mũi nào mà ăn ở với cái đứa vô lại, lòng đen như mực ấy . Muốn xin với chị dọn riêng cho một cái nhà, cho em sang đấy để phụng dưỡng mẹ già, còn hơn cạo đầu đi tu, thế là đủ rồi!

Ðại Nương bày tỏ lòng hối hận của Phúc và ước hẹn ngày mai đến rước, rồi từ biệt.

Sáng hôm sau, nàng cho xe sang đón em dâu về . Bà mẹ ra tận cửa quỳ lạy, nàng Khương cũng sụp lạy mà khóc to lên .

Ðại Nương khuyên can, rồi dọn tiệc rượu để ăn mừng, cho Phúc ngồi bên cạnh bàn. Ðoạn nàng nâng cốc nói rằng:

- Sở dĩ tôi phải tranh giành khổ sở, không phải là cốt mưu lợi cho mình. Nay em đã biết hối cải, vợ hiền đã trở về, vậy tôi xin đem sổ sách giao lại . Tôi đến tay không, bây giờ lại trở về tay không.

Vợ chồng đều rời bàn tiệc đứng dậy nghiêm nét mặt, sụp lạy mà khóc. Ðại Nương bèn thôi .

Chưa được bao lâu thì cái lệnh rửa oan đã về đến nơi . Chỉ trong vòng vài ngày ruộng vườn lại trở về chủ cũ hết.

Tên Nguỵ kinh hãi, không hiểu ra sao, chỉ biết tự giận mình không còn kế gì để mà thi thố .

Chợt nhà láng giềng phía Tây phát hoả, Nguỵ lấy cớ chữa cháy chạy sang, rồi ngầm lấy mồi rơm đốt nhà Lộc; gió lại thổi mạnh, cháy lan gần hết, chỉ trừ hai ba căn nhà của Phúc. Cả nhà phải dời sang ở chung. ít lâu sau đấy thì Lộc về, gặp nhau mừng mừng tủi tủi .

Trước kia, Công tử họ Phạm nhận được tờ ly hôn, đem bàn với Huệ Nương, Huệ Nương khóc lóc, xé thư vứt xuống đất . Cha nàng cũng chiều lòng, không ép nữa . Khi Lộc về, biết nàng chưa cải giá mừng lắm, đến ngay nhà ông nhạc. Công tử biết nhà Lộc mới bị hoả hoạn, muốn giữ ở lại , Lộc không chịu, cáo từ ra về .

May Ðại Nương có vàng riêng, bỏ ra sửa chữa nhà cháy , Phúc vác cuốc thuổng đi đào đất đắp nền, tìm thấy một hố tiền chôn.

Ðến đêm, cùng với em ra đào hố lên: một cái bệ xây bằng đá dài vừa một trượng, toàn đựng tiền đồng. Nhờ đó khởi công làm nhà mới, dựng lên toà ngang dãy dọc, tráng lệ không kém đại gia .

Lộc cảm phục ơn nghĩa của tướng quân, để sẵn ngàn vàng để đi chuộc cha . Phúc xin đi . Nhà cho một đầy tớ trai lực lưỡng theo hầu .

Lộc bèn đón Huệ Nương trở về .

Chẳng mấy chốc, cha nàng và anh cùng về, một nhà vui vẻ tưng bừng. Ðại Nương từ khi về ở nhà mẹ, thì cấm con đến thăm, để tránh tiếng, nay cha đã về, liền quyết xin đi .

Anh em không nỡ để chị đi . Cha bèn chia gia sản làm ba, con trai hai phần, con gái một.

Ðại Nương tạ từ không chịu nhận. Phúc và Lộc ứa nước mắt mà bảo:

- Hai em không có chị thì làm gì được có ngày nay!

Ðại Nương mới bằng lòng, cho người đi gọi con, dọn nhà về ở chung. Có người hỏi Ðại Nương rằng:

- Chị em khác mẹ, sao mà gắn bó như vậy .

Ðại Nương nói:

- Biết có mẹ mà không biết có cha, chỉ có giống cầm thú mới thế thôi! Ðã là người, lẽ nào lại bắt chước giống vật!

Phúc và Lộc nghe nói đều chảy nước mắt. Rồi khoán thợ làm nhà cho Ðại Nương, cũng rộng lớn như nhà mình.

Tên Nguỵ nghĩ bụng rằng: trong hơn mười năm, mình tìm cách gây hoạ cho người mà hoá ra lại càng gây phúc cho người, lòng khôn xiết hổ thẹn và áy náy . Thấy họ Cừu giàu có, Nguỵ lại sinh lòng ngưỡng mộ, muốn làm thân, bèn lấy cớ Trọng mới về, sắm lễ vật sang mừng, Phúc muốn khước đi, nhưng Trọng không nỡ phật nên nhận lĩnh gà và rượu Gà có buộc dây vải ở chân, sổng ra chạy vào bếp, lửa bén vào dây vải, gà nhảy lên đống củi đậu, lũ tiểu đồng, con hầu nhìn thấy nhưng cũng không đi . Một chốc, củi bốc cháy căn nhà, mọi người hoảng sợ, may nhà đông người nhiều tay, dập tắt được, nhưng đồ đạc trong bếp đã cháy hết. Anh em đều bảo con người đó là không lành. Sau đó, gặp lễ thọ của cha, Nguỵ lại dắt một con dê đến biếu . Từ chối không được, phải buộc dê vào một gốc cây ngoài sân. Ðến đêm, một đứa tiểu đồng bị tên người nhà đánh đập, tức giận chạy đến gốc cây mở dây buộc dê thắt cổ mà chết.

Anh em than rằng:

- Nó làm phúc cho mình chẳng bằng nó gây hoạ cho mình!

Từ đấy, tuy Nguỵ vẫn ân cần, nhưng bên nhà Trọng cũng không dám nhận đến một cây kim sợi chỉ, chỉ hậu đáp cho y mà thôi .

Sau Ngụy về già, nghèo đến nỗi phải đi ăn mày .

Trọng lấy ân giả oán, thường đem vải vóc và thóc chu cấp cho

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fantasy