THUẬT XUẤT VÍA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THUẬT XUẤT VÍA

THEO PHƯƠNG PHÁP

KHOA HỌC HUYỀN BÍ TÂY PHƯƠNG

Do ÁNH SÁNG ÚC CHÂU – T2

Biên dịch

22 – 02 – 2005

MỤC LỤC

1.- Những cỏi giới của Tâm Linh .

2.- Sự Quán Tưởng.

3.- Bài tập phát triển khả năng Quán Tưởng và Định lực .

4.- Sự phát sinh và tích trử năng lượng Sinh Lực Khí .

5.- Sự Chuyển Di Thần Thức .

6.- Năm phương thức Xuất Vía .

7.- Kỷ thuật Chuyển Di Ý thức . Thể Trí.

8.- Kỷ thuật xuất Đẩu Tinh thể . Thể Ánh Sáng.

9.- Kỷ thuật phối hợp Thể Trí và Thể Ánh Sáng trong việc xuất Vía .

10.- Những trở ngại thường gặp trong việc xuất Vía .

11.- Sợi Chỉ Bạc – Sợi Kim Quang Tuyến .

12.- Kỷ thuật liên lạc với Nguyên Thần .

13.- Những hiện tượng lưu ý trong kỷ thuật liên lạc với Nguyên Thần .

14.- Những hiện tượng lưu ý trong khi xuất Vía .

15.- Những trở ngại của hệ thống tín ngưởng và sự nhận thức trước của ý thức

trong việc xuất Vía .

16.- Những thắc mắc và giải đáp trong việc xuất Vía .

17.- Những cảm nhận trên những cỏi cao hơn .

18.- Những ứng dụng Thuật Xuất Vía trong thời đại hiện nay và tương lai .

19.- Xử dụng thuật xuất vía trong việc làm giảm sự đau đớn vì bệnh tật của thể xác .

20.- Xử dụng thuật xuất vía trong việc giải quyết những vấn đề nan giải của cuộc sống .

21.- Kỷ thuật luyện Tha Tâm Thông sơ cấp .

22.- Xử dụng thuật xuất vía trong công việc sáng tạo và tạo hình .

23.- Thuật xuất vía và ý thức bất tử của con người trong việc loại bỏ trạng thái sợ chết .

24.- Xử dụng thuật xuất vía trong việc tích tụ năng lực và bồi bổ sinh khí lực cho cơ thể .

25.- Xử dụng thuật xuất vía trong việc làm giảm những căng thẳng tinh thần trong cuộc sống .

26.- Thuật xuất vía và sự an lạc tâm thân .

27.- Kỷ thuật xuất vía du ngoạn mặt trời và mặt trăng .

28.- Kết Luận .

Từ ngữ liên quan đến Thuật Xuất Vía .

THỂ VÍA – ASTRAL BODY : Là một thể được kết hợp bởi những hạt năng lượng có mức độ rung động nhanh , tương ứng với những rung động của những hạt năng lượng trên cỏi vía . Thể vía còn được gọi là Thể Ánh Sáng – Body of Light , Thể Tình Cảm – The Emotional Body , Thể Dục Vọng - The Desire Body , Thể Siêu Linh – The Psychic Body .....

SỢI KIM QUANG TUYẾN – ASTRAL CORD – Còn gọi là Sợi Chỉ Bạc - THE SILVER CORD , bởi vì sợi dây nầy có màu xám bạc ; Sợi Kim Quang Tuyến nầy giống như cuốn rún năng lượng Sinh Khí Lực , dùng để nối liền thể vía với cơ thể xác thịt của con người , theo tư tưởng của Huyền Bí Học , là thể xác cần Sinh Lực khí – Prana để sinh tồn và Sinh lực khí nầy được tạo trên những cỏi cao siêu hình của những thể siêu hình của con người ; sau đó Sinh lực khí nầy được truyền trực tiếp xuống thể xác thông qua sợi Kim Quang Tuyến nầy , nếu sợi dây nầy đứt , thì thể xác sẽ chết , vì thiếu sinh lực khí .

CỎI VÍA – ASTRAL PLAN : Là một cỏi của Tâm Thức đạt đến , mà những rung động của hạt phân tử ở cỏi giới nầy nhanh hơn cỏi vật chất và chậm hơn cỏi Trí và cỏi cao hơn .Cỏi nầy cũng có thể dùng sự tưởng tượng , tình cảm ,ký ức , cảnh tượng , hình ảnh , biểu tượng , và quyền năng tâm linh thuộc về cỏi nầy . Cỏi vía còn được xem là một cỏi chiếm phạm vi 90% tiềm thức –Subconscious mind - của con người .

XUẤT VÍA – ASTRAL PROJECTION : Là khả năng có thể tạo một hình ảnh giống mình là Thể Ánh Sáng - Thể Vía - Astral Body hay tạo ra bất cứ hình dạng nào mà mình thích và có thể rời khỏi cơ thể của mình , đi đến bất cứ nơi nào mà mình thích , sau đó có thể thu thập tin tức và truyền đạt về cơ thể vật chất qua sợi dây liên lạc Kim Quang Tuyến .

THIÊN NHỈ THÔNG – CLAIRAUDIENCE : Là người có khả năng nghe được những âm thanh và những tiếng nói từ một nơi khác , mà không cần dùng đến lổ tai vật chất xác thịt của con người .

THIÊN NHẢN THÔNG – CLAIRVOYANCE : Là người có khả năng nhìn thấy được những cảnh vật cùng những vật thể khác , nằm ngoài phạm vi tiếp nhận của những giác quan thông tường của người thường .

ĐỊNH TÂM – CONCENTRATION : Là một khả năng thông qua sự tập luyện Quán Tưởng , mà ta có thể giữ vững được trong trí ; bất cứ những việc gì ; đặc biệt là những cảnh tượng hay những hình ảnh sống động như thật ( còn gọi là Khí Hình và Khí Quang ), trong một thời gian nào mà ta muốn .

HÌNH TƯ TƯỞNG – THOUGHT FORM : Là thông qua Thiền Định và Quán tưởng , ta có khả năng tạo ra bất cứ lúc nào , những cảnh vật và hình ảnh sống động như thật trong cỏi Trung giới – cỏi Vía và những cỏi cao hơn , được kết cấu từ Khí hình, Khí Quang và Khí Thanh âm , những hình tư tưởng nhân tạo nầy được các nhà Huyền Thuật xử dụng như những Âm Binh nhân tạo , và sai khiến những âm binh nầy thi hành công việc tùy theo mục đích của họ .

TÂM THỨC – CONSCIOUSNESS : Là khả năng của một người , nhờ thông qua thể xác vật chất hoặc không nhờ thông qua thể xác vật chất của mình , cũng có thể thức gíác và theo dỏi được những hiện tượng, sinh hoạt của tư tưởng , đồ án , cảm xúc , cảnh tượng ..... ở những cỏi có những mức độ tầng số rung động khác nhau từ thấp đến cao.

XUẤT VÍA 50% - FIFTY – FIFTY PROJECTION : Là chỉ xuất một phần tâm thức ra ngoài cơ thể vật chất của mình , đi đến nơi mình muốn và thức giác được những sự việc xảy ra ở nơi đó ; đồng thời lại thức giác được những sự việc xảy ra chung quanh cơ thể xác thịt của mình , tức là có khả năng nhận thức được các cảnh vật và sự việc xảy ra tại hai nơi , cũng như người ta vặn nút các băng tầng khác nhau của máy truyền hình TV vậy .

CÁC CỎI GIỚI TÂM LINH – CÁC TẦNG TRỜI – HIERARCHY : Những cỏi giới siêu hình khác nhau , mà các thể xác , thể vía , thể phách , thể trí , thể bồ đề , thể kim thân , tiên thể , thức thần , nguyên thần , sinh hoạt thích ứng với từng loại cấu trúc tầng số rung động nguyên tử của nó .

QUÁN TƯỞNG – IMAGINATION : Là khả năng có thể tưởng tượng và tạo ra bất cứ lúc nào và tùy ý , những khí hình hay những cảm xúc của mình ở các cỏi giới siêu linh hay ở các tầng trời khác nhau , tùy theo trình độ đắc đạ́o cao thấp của mình .

TRỰC GIÁC – INTUITION : Là khả năng nhận biết được một kiến thức , một sự việc , hay một cảnh vật , một cách tức thì , mà không cần thông qua sự lý giải và lý luận , phân tích của cái trí .

THỂ TRÍ – MENTAL PLAN : Là một trạng thái tâm thức , được hiểu nôm na là Ý Thức , được con người trên quả địa cầu này xử dụng trong thời đại hiện nay , ở cỏi giới vật chất , và ở cỏi trí , nó bao gồm chữ viết , ngôn ngữ , óc phân tích , phê bình , lý luận ... Đây là trạng thái tâm thức có thể thức giác được sự trôi qua của thời gian .

CỎI TRÍ – MENTAL PLAN : Là một nơi trong cỏi siêu hình , có tầng số rung động nhanh hơn cỏi vía và thấp hơn cỏi linh hồn , nguyên thần , bản lai diện mục .

XUẤT THỨC THẦN – MENTAL PROJECTION : Là khả năng có thể xuất ý thức , hay còn gọi là thức thần ra khỏi thể xác .

TINH THẦN – MIND : Được xem như là căn bản của tất cả những thức gíác và hiện hữu của con người ở các cảnh giới thích ứng khác nhau .

THẦN BÍ – OCCULT – Xuất phát từ chữ Latin “ Occultas “ có nghĩa là ẩn tàng , huyền bí . Là nằm trên và vượt khỏi phạm vi giới hạn của những kiến thức thông thường của thế nhân , nằm ngoài những qui luật thông thường của tự nhiên giới .

SINH LỰC KHÍ – PRANA : Là năng lực hay Sinh lực căn bản , đả tạo ra và duy trì tất cả sự sống nằm trong vũ trụ vật lý . được thể hiện qua sự chuyển động, sức hút của trái đất , từ trường , ý niệm lực , sự hành động của thể xác , khí hình , khí quang.....

ĐIỀU KHÍ – PRANAYAMA : Là một phương pháp kiểm soát, phân phát và tích tụ sinh lực khí , được thể hiện qua qua một quá trình hít thở : hít vào – puraka , ngưng thở hoặc thở sâu hơn nửa – kumbhaka , thở ra – rechaka ; hoặc có thể phối hợp tập chung với chú niệm , trì chú – mantra hay trung tâm lực - chakra , thuộc hệ thống Yoga Ấn độ hay Mật Tông Tây Tạng , Kabalah Tây Phương ... ; Khác với sự điều khí , điều tức của Đạo Gia Trung Hoa , thông qua Tiểu Châu Thiên và Đại Châu Thiên ; nhưng cả hai phương pháp đều đem lại một kết quả và một hiệu ứng tương tự, tùy theo mục đ́ich mà người xử dụng mong muốn đạt được.

NGŨ HÀNH – TATTWAS : Là năm nguyên tố hay năm thành phần liên quan đến vũ trụ vật lý ; Đó là Tinh Thần – Tiên Thiên Khí - Không Đại - AKASHA , Lửa – Hỏa Đại - TEJAS , Nước – Thủy Đại - APAS , Không khí – Khí Đại - VAYU , Đất – Địa Đại - PRITHIVI . Năm hành nầy có biểu tượng màu sắc hình kỷ hà như sau : Hình bầu dục màu đen như quả trứng, tượng trưng cho Tinh Thần – Không Đại ; Hình tam giác đều màu đỏ , tượng trưng cho Lửa – Hỏa Đại ; Hình mặt trăng lưởi liềm màu bạc , tượng trưng cho Nước – Thủy Đại ; Hình tròn màu xanh dương , hay màu xanh da trời , tượng trưng cho Không Khí – Khí Đại ; Hình vuông màu vàng , tượng trưng cho Đất – Địa Đại . Ngũ hành vừa kể , được xử dụng trong Thuật Xuất Vía , để luyện tập và hoàn thiện khả năng quán tưởng , thiền định , nâng cao trình độ định lực và khả năng thông tin, truyền đạt những xung động của tâm linh và là nhu cầu căn bản , cần trải qua trong quá trình , tiến đến việc phát triển những tiềm năng tâm linh , còn ẩn tàng trong cơ thể con người .

THẦN GIAO CÁCH CẢM – TELEPATHY : Còn được gọi là Ngoại Cảm . Là khả năng biết được và thông tin hai chiều , hay một chiều , về những tình cảm , ý nghỉ của người khác , thông qua việc xuất Thần – Mental projection , hay xuất Vía – Astral projection.

CHUYỂN DI THẦN THỨC – TRANSFERENCE OF CONSCIOUSNESS : Là khả năng có thể chuyển di Thần Thức của mình , nhập vào một cơ thể , của một người khác hay một vật , một sinh vật nào đó , ở một nơi cách xa với thể xác của mình ; rồi từ vị trí đó , ta có thể cảm nhận và kinh nghiệm , được tất cả những diển biến và cảnh vật xảy ra chung quanh , một cách trung thực , mặc dù thể xác thật của ta không có mặt ở nơi đó.

1.- NHỮNG CỎI GIỚI CỦA TÂM LINH :

Khoa học đã chứng minh cho chúng ta biết rằng , những giác quan của con người chỉ có thể cảm nhận được một phần nào, của tất cả những năng lượng đang tồn tại trong vũ trụ . Thí dụ như , tai của con người không có thể nghe được tiếng còi tu huýt đặc biệt dùng để huấn luyện loài chó , hoặc tiếng kêu ré lên của loài dơi . Mắt của con người không thể thấy được hồng ngoại tuyến ( infra-red ), hoặc tia tử ngoại ( ultra violet light ).....

Kiến thức của khoa học chỉ căn cứ và được xây dựng xuyên qua những cảm nhận và thấy được của ngũ quan con người , và chỉ những vật nào có trọng lượng , khối lượng , thuộc về vật chất , có độ dài sóng thấy được , dù bằng ngũ quan hay nối dài qua dụng cụ khoa học ; thì được khoa học công nhận là thực có và đáng được các nhà khoa học qui ước cho là đáng nghiên cứu .

Vì lý do nầy , khoa học chỉ quan tâm đến những phần thấy được của thân thể vật chất ; mặc dù sự cấu tạo nên con người không chỉ là những phần bề ngoài thấy được của vật chất ; Do đó, khoa học không chỉ bỏ qua, những gì vượt khỏi phạm vi vật chất của thể xác , mà khoa học còn nổ lực phê bình , lên án , cản trở , bác bỏ , và tránh né những ai tìm tòi , đi sâu vào và khám phá thế giới siêu vật lý của con người .

A.- CÁI NHÌN CỦA HUYỀN BÍ HỌC VỀ CON NGƯỜI :

Huyền bí học đã từng cho ta biết , chúng ta tồn tại qua bốn cỏi tâm linh , và năng lượng ở mổi cỏi nầy được hình thành bởi vô số những cỏi nhỏ hơn . Sự khác nhau và chiều đo ở mổi cỏi tâm linh nầy , được phân biệt qua tốc độ tầng số rung động nhanh hay chậm của những hạt nguyên tử ở những cỏi nầy . Giống như màu sắc và những note của âm nhạc , sự khác biệt của chúng cũng do độ dài sóng và sự rung động của mổi màu và mổi note nhạc khác nhau . Do đó , cỏi nào được cấu tạo bởi những năng lượng có tần số rung động cao , thì thanh nhẹ và siêu linh hơn , còn những cỏi nào được cấu tạo bởi những năng lượng có tần số rung động chậm thì thô kệt và vật chất hơn . Nên cỏi giới vật chất mà con người đang cư ngụ , là cỏi giới có tần số rung động chậm nhất trong bốn cỏi tâm linh .

Bốn cỏi tâm linh :

- Cỏi giới của nguyên thần ( Soul plane ) :

Là một cỏi có tầng số rung động nhanh nhất và là nguồn năng lượng cho ba cỏi kia , là tinh hoa của con người , đại diện cho tất cả ý thức vũ trụ . Cỏi nầy được cổ đức diển đạt như : ĐÓ LÀ NHỮNG GÌ HIỆN HỮU , NHƯNG CHƯA HIỆN HỮU ( That which exists, yet exists not ). Cỏi nầy nằm trên lảnh vực của thời gian ( cỏi trí – Mental plane ), Không gian - hình dạng (cỏi vía – Astral plane )và vật chất ( cỏi vật chất – Physical plane ) ; Cỏi giới của Nguyên Thần không thể hiểu được , qua sự lý giải và cảm thức của những cỏi có tầng số rung động chậm chạp , thô kệch và đậm đặc hơn, như thể xác , thể vía , thể phách , thể trí , mà nó chỉ có thể được kinh nghiệm một cách mơ hồ mà thôi .

- Cỏi Trí ( Mental plane ) :

Cỏi nầy chiếm 1/10 lý tính của tư duy , xuyên qua đó , nó xử dụng khả năng thông minh và lý luận của con người để tiến hành phân tích sự hiện tồn của thực tại . Thông tin của cỏi nầy thường xử dụng như ngôn ngữ , chữ viết , văn từ , phân tích , phán quyết , lý luận .... Cỏi trí có tầng số rung động nhanh hơn cỏi vía và cỏi vật chất , nhưng lại chậm hơn cỏi nguyên thần ( Soul Plane ) vì nó bị chi phối bởi định luật của thời gian ( The law of time ); cỏi trí không giống như cỏi nguyên thần , là cỏi hợp nhất của sự tồn tại , còn cỏi trí thì phân chia sự tồn tại qua ý thức tuần tự của dòng thời gian trôi chảy một chiều ( Quá khứ - hiện tại - tương lai ) , tuy nhiên bất kể sự giới hạn của thời gian , tiến trình của tư duy được tiến hành với một tốc độ nhanh kinh khủng , để chứng minh điều nầy , ta thử làm thí nghiệm sau đây :

Với một thái độ độc lập của một người quan sát viên đối với trạng thái sinh hoạt tư duy ; Ta ngồi im lặng , mắt nhắm lại , đừng can dự hay xử dụng một lực nào của thể trí , để xen vào dòng trôi chảy của tư tưởng đang trôi qua trong tâm của mình , cũng như đừng dính mắt hay chạy theo những tư tưởng nào đang xảy ra . Hảy giữ mình ở một trạng thái thức giác và cởi mở , độc lập ; trong thời gian khoảng 5 phút , ta sẻ thấy những dòng tư tưởng khác nhau được sanh ra , hiện ra , rất nhanh trong tâm ta và cũng như biến mất đi , trôi qua , rất nhanh trong tâm ta . Đó là sự biểu hiện tầng số rung động nhanh ở cỏi trí. Khi làm thí nghiệm nầy , ta có thể thấy được vài cảnh hay hình ảnh hiện ra trong tâm , nhưnh hầu hết những phần còn lại đều là những dòng tư tưởng khác nhau liên tục trôi qua mà thôi .

- Cỏi Vía ( Astral plane ) , còn gọi là cỏi ánh sáng , Thể tinh tú :

Là cỏi tri giác chiếm 9/10 tiềm thức ( mạt na thức – subconscious mind ) của con người , cỏi nầy có sự liên hệ đến tình cảm , tưởng tượng , hình dung , quán tưởng ,năng lực siêu linh ... Nói chung tất cả những hình ảnh , đồ hình , ánh sáng màu sắc , cảnh vật siêu hình ..đều là những thành phần của cỏi nầy . Cỏi nầy có tầng số rung động chậm hơn cỏi trí và cỏi nguyên thần ,vì chịu ảnh hưởng của luật không gian - hình thể ( The law of Form ) chi phối , những cảm nhận ở cỏi nầy được bao bọc bởi những biểu tượng của hình ảnh , mà con người cần phải có chìa khóa để giải mả số thông tin , được ẩn tàng qua những hình ảnh nầy , mà những biểu tượng hình ảnh nầy đôi khi được xem như là VÔ TỰ CHÂN KINH , mà những bậc đắc đạo có thể dùng thần nhản mà đọc hiểu và thấy được vậy . Cỏi nầy giúp cho những dục vọng của tình cảm , ý đồ và định lực được thành tựu , cho đến có thể biến thành hiện thực trong cỏi vật chất nửa .

- Cỏi Vật chất ( Physical plane ) :

Đây là vũ trụ của thế giới vật chất , được tạo thành , do sự làm việc chung của ý thức và tiềm thức , vũ trụ nầy thể hiện ra , nhờ vào những tư tưởng của cỏi trí và những hình ảnh của cỏi vía cung cấp . Bốn tinh linh , tứ đại , ở cỏi vật chất là Lửa ( Hỏa Đại – Salamanders thuộc Thần Seraph ) ; Nước ( Thủy Đại – Undines thuộc Thần Tharsis ) ; Gió ( Phong Đại – Sylphs thuộc Thần Cherub ) ; Đất ( Địa Đại - Gnomes thuộc Thần Ariel ) ; Đã hợp thành một khối vật liệu phàm trần , để chuyển hóa và bao bọc lấy những tư tưởng của cỏi trí và những hình ảnh của cỏi vía trong giới siêu hình , để biến chuyển hình thành vật chất và hiển hiện ra ngoài ở thế giới vật chất trần gian .

Tất cả những tạo vật ở cỏi giới vật chất , và tất cả những thụ nhận của ngũ quan ( Thấy , nếm , đụng chạm - cảm xúc , nghe , ngưởi ), đều bị sự kiểm soát, ảnh hưởng và chịu sự chi phối của định luật thời gian và định luật không gian , hình thể ; Nói một cách khác , những hiện thực của thế giới vật chất , chỉ có thể nhận biết được qua hình thể của chúng trong thời gian liên tục mà thôi . Thí dụ : Một hột giống soài , không thể nào đột nhiên biến thành cây soài ngay được , mà nó cần trải qua nhiều năm ( Luật của thời gian ) để hình thành ( Luật hình thể trong không gian ) một cây soài . Như vậy có một sự thống nhất và đồng điệu giửa thời gian và hình thể trong không gian ; Thời gian được nhận thấy , được nhận biết xuyên qua sự thay đổi hình dáng khác nhau của vật thể trong không gian , và những sự thay đổi hình dáng khác nhau của vật thể trong không gian , được nhận thấy xuyên qua thời gian .

TINH LINH TỨ ĐẠI – CÁC CỎI

VÀ

NHỮNG LUẬT CỦA THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN - HÌNH THỂ

Thể xác của con người là một biểu hiện hùng hồn cho sự tác động của những luật thời gian , không gian và tứ đại .

Thể xác đã trải qua năm tháng và trưởng thành , xuyên qua những cơ thể khác nhau của từng lứa tuổi tương ứng : thai nhi , trẻ sơ sinh , trẻ em , thiếu niên , thanh niên , trung niên , lảo niên .....Trong quá trình trưởng thành nầy, còn có sự tác động và duy trì của tứ đại như : Lửa : liên quan đến nhiệt độ và sức ấm của cơ thể . Nước : liên quan đến các chất lỏng trong cơ thể như máu , các chất nước bài tiết của các cơ quan nội ngoại cơ thể . Không khí, gió : liên quan đến những hơi gas trong cơ thể như carbon dioxide – thán khí , oxygen – dưởng khí .....Đất : liên quan sự cấu trúc vật chất của cơ thể như xương , nội tạng , bắp thịt và da .....

Để thấy được sự làm việc của các cỏi nầy , ta lấy một thí dụ : Một người bị ngứa lổ mủi, đầu tiên người đó suy nghỉ cần phải ngoái lổ mủi để giải tỏa sự ngứa ngáy trong lổ mủi , việc nầy được xảy ra trên cỏi trí ; tức khắc sau đó là hình ảnh một cái tay đưa lên để ngoái lổ mủi , việc nầy xảy ra ở cỏi vía ; cuối cùng là cánh tay phải đưa lên để ngoái lổ mủi , việc nầy xảy ra trong cỏi vật chất .

Ta đã thấy rằng , những tồn tại và hiện hữu của những cỏi nầy đều quan trọng và cần thiết ngang nhau ;Nếu , ta thích ở mải một cỏi nầy , hơn cỏi kia , thì ta sẽ bị mất thăng bằng và sẽ bị đưa đến sự nguy hại .

Thí dụ : Nếu người nào quá quá cường độ sinh hoạt ở mải cỏi nguyên thần , thì năng lượng tăng cường trong cỏi nầy được tăng cao , người đó sẽ quá thiên về tâm linh , thì sự tồn tại của thể xác ở cỏi vật chất sẻ gặp trở ngại , và người đó sẽ trốn tránh những sinh hoạt và bổn phận của mình trần thế và cảm thấy mình không thích hợp với sinh hoạt ở cỏi vật chất nửa . Như vậy , nếu quá phát triển tâm linh , thì linh hồn sẽ từ bỏ thể xác sẽ ốm yếu ,bệnh tật ...và ngược lại .

Nếu quá cường độ sinh hoạt ở cỏi trí , thì người đó sẽ quá mưu mô , cơ trí , và có thể bị đưa đến mất óc sáng tạo , mất lý tưởng và nhân ái trong cuộc sống .

Nếu quá cường độ sinh hoạt ở cỏi vía , thì tình cảm sẽ bị yếu đuối , ủy mị và sẽ đưa đến sự rối loạn về tình cảm cùng tinh thần .

Nếu quá cường độ sinh hoạt ở cỏi vật chất , thì sẽ bị đưa đến việc phủ nhận , sự hiện tồn của các cỏi sinh hoạt tâm linh .Trạng thái mất thăng bằng nầy , hiện nay , được đa số con người trong xả hội đang theo , để cầu mong tìm được những niềm vui và tiện ích của thế giới ở cỏi vật chất nầy . Kết quả của những niềm vui nầy , đã được công nhận là tạm thời và thoáng qua mà thôi .

2.- SỰ QUÁN TƯỞNG :

Trong thế giới tây phương , thường xử dụng khả năng tinh thần để phân tích , lý luận rất nhiều trong cuộc sống , nhiều hơn việc xử dụng đầu óc trong việc tưởng tượng , tạo hình và nghệ thuật . Đầu óc lý luận và phân tích chỉ xử dụng được 1/10 năng lực của thể trí , và nó thiếu sự sáng tạo ; còn đầu óc tưởng tượng , có thể xử dụng được 9/10 năng lượng của tâm trí , nó còn khả năng khai mở được những tiềm năng tâm linh còn ẩn tàng trong cơ thể của con người , và những quyền năng tâm linh chỉ được khai mở xuyên qua việc xử dụng khả năng tưởng tượng , quán tưởng và thiền định trên cỏi vía mà thôi .

Khi nào con người gặp khó khăn , trở ngại , bế tắc trong cuộc sống hay công việc , vì sự quen dùng khả năng phân tích và lý luận của lý trí , thì đột nhiên một tia sáng , một sáng kiến , trực giác , sáng tạo , được lóe lên từ cỏi vía , đã cung cấp và giúp cho lý trí có được một phương pháp , một lối thoát tốt đẹp , để giải quyết cho những vấn đề nan giải . Việc nầy thường xảy ra cho mọi người.

Quán tưởng , khả năng tưởng tượng, tạo hình và định lực , là một chìa khóa cần thiết cho việc học thuật xuất vía . Rất khó mà giải thích những việc nầy , khi ta muốn định nghĩa một vật gì , mà ta lại không biết hình thù của vật đó ra sao và nó từ đâu đến .

Tốc độ rung động của những vật trên cỏi vía , có một tầng số rung động rất cao , và sự quán tưởng , tưởng tượng và tạo hình trên cỏi nầy , đòi hỏi một tầng số rung động thanh cao , và vượt khỏi khả năng cảm nhận của xác thịt hồng trần ; do đó nó trở nên vô hình , đối với những ai quen sống , với nếp sống hiện thực của trần gian .

Tuy nhiên , quán tưởng , khả năng tưởng tượng , tạo hình và định lực , là một năng lực trọng yếu cơ bản của con người ; những tài năng , năng khiếu và sức mạnh đều được xuất phát từ đó. Với sự chú ý kiểm soát và chuyên tâm phát triển khả năng quán tưởng , tưởng tượng , tạo hình và định lực ; con người có thể mở được cánh cửa của tiềm thức ( cỏi vía ) và khai phóng được tất cả những tiềm năng sáng tạo còn tiềm ẩn của con người .

Để tiện cho việc học cách xuất vía , ta tạm định nghỉa cụm từ ” quán tưởng , khả năng tưởng tượng , tạo hình và định lực “ như sau :

Là một khả năng có thể biểu đạt và nhận thấy được tức thời , một cách rỏ ràng những hình ảnh và cảnh vật , mà những hình ảnh và cảnh vật nầy , không được nhận thấy bởi ngũ quan bình thường của con người .

Hảy làm một thí nghiệm để minh chứng cho định nghĩa trên :

Đầu tiên , ta để một tay ta đặt lên mặt bàn , lòng bàn tay úp xuống mặt bàn , xong ta nhắm mắt lại , và ta nghỉ trong tâm ta “ tay của dở cao khỏi mặt bàn “ và ta chú ý đến kết quả đó .

Kế đến , ta liên tục di chuyển tay ta lên xuống liên tục trên mặt bàn , và mắt vẩn còn nhắm lại , và ta chú ý đến những gì xảy ra trong tâm ta .

Trong trường hợp đầu , bàn tay của ta không di chuyển và dở lên khỏi mặt bàn , mặc dù mệnh lệnh dở tay lên đã được nghỉ ra từ 1/10 tâm trí của ta ; như vậy dòng tư tưởng dở tay lên đã trôi qua trong tâm trí như những tư tưởng bình thường khác , và tay ta vẫn nằm yên ở đó , vì đó là sự suy nghỉ của cái trí , không ảnh hưởng gì đến cơ thể vật chất .

Trong trường hợp thứ nhì , khi tay ta di chuyển lên xuống liên tục trên mặt bàn , và mắt vẩn nhắm lại , thì ta sẽ thấy một hình ảnh bàn tay đưa lên xuống liên tục , đã được tạo lập ra ngay tức thì , xuất hiện trên cỏi vía của ta , chiếm 9/10 khả năng tinh thần của ta .

Do đó , mổi cử động của cơ thể ta , dù đơn giản hay phức tạp , đều kèm theo một ảnh tượng, được tạo ra từ cỏi vía thích hợp với cử động đó ; nên chỉ nghỉ đến một cử động trong trí ta thì không đủ , vì khi nghỉ đến , là chỉ tạo lập trên cỏi trí một dòng tư tưởng chạy theo một đường thẳng , vì nó bị ảnh hưởng của thời gian , như một chiếc xe hơi chạy vụt ngang qua đường rồi biến mất . Còn những ảnh tượng xuất hiện trên cỏi vía , lúc đầu những ảnh tượng nầy di chuyển rất nhanh , hầu như chúng không thể nhận thấy được ; Nhưng với sự chuyên tâm thực tập và liên tục hồi quang phản chiếu , nội quán ( tức nhắm mắt lại và tập tưởng tượng ) thì mổi ngày , nhờ thực tập mà định lực và khả năng quán tưởng được nâng cao , thì những cảnh tượng và những hình ảnh được tạo lập hay xuất hiện lên trên cỏi vía , sẻ được hiện ra trong một thời gian lâu mau tùy ý và hiện ra cách rỏ ràng và sáng tỏ .

Tóm lại , quán tưởng , khả năng tưởng tượng , tạo hình và định lực là một quyền năng , một sức mạnh .

Một trở ngại lúc đầu cho mọi người , thường cho rằng , việc xuất vía , là một việc không có thật , vì nó chỉ là một tưởng tượng , như một giấc mơ mà thôi ; nói một cách khác , họ khai trừ , không tin tưởng , và cho những kinh nghiệm và hình ảnh thấy được trên cỏi vía là ảo tưởng và ảo giác mà thôi .

Xuyên qua những thí nghiệm và thực hành liên tục về thuật xuất vía , nhờ củng cố , tăng cường và nâng cao khả năng quán tưởng , khả năng tưởng tượng , tạo hình và định lực trên cỏi vía , khi thành công ; Ta sẽ thấy tầm quan trọng của nó trong cuộc sống hằng ngày của ta và nó sẽ giúp ích cho ta rất nhiều trong mọi lảnh vực .

TẤT CẢ NHỮNG VẬT DO CON NGƯỜI TẠO RA ,

ĐỀU ĐƯỢC TẠO DỰNG TRƯỚC TIÊN TRÊN CỎI VÍA ( TIỀM THỨC )

3.- Bài tập phát triển khả năng Quán Tưởng và Định Lực .

Trong phần 2 đã nói về việc quan trọng và cần thiết của sự quán tưởng để khai mở khả năng sáng tạo và tiềm năng của con người . Trong chương nầy chúng ta sẽ nói về những kỷ thuật để phát triển và cải thiện khả năng quán tưởng và cách định tâm.

Sự tưởng tượng một hình ảnh trong tâm , không đủ định lực để thực hành việc xuất vía ; mà chúng ta cần phải có một khả năng, để duy trì hình ảnh trong tâm , trong một khoảng thời gian nào đó .

Để biết định lực của mình yếu hay mạnh , thử làm một thí nghiệm như sau : Hảy nắm mắt lại , tưởng tượng trong tâm , hình một tam giác đều , màu đỏ , với độ lớn nhỏ tùy ý ; khi đã tưởng tượng ra hình tam giác đỏ nầy rồi , ta thử ráng giử hình ảnh nầy trong tâm được càng lâu , càng tốt , khoảng 10 phút .

Sau 10 phút tưởng tượng , ta sẽ thấy rằng , rất khó khăn , mà giử được hình ảnh nầy trong tâm , nếu không phát triển khả năng chuyên tâm ,chú ý và định tâm vào hình ảnh nầy . Trong lúc , ta làm thí nghiệm trên , ta đã thấy hình tam giác nầy , luôn thay đổi màu sắc , kích thước và vị trí khác nhau trong tâm ta ; và có khi hình tam giác nầy lại biến mất đi khi ta lơ đểnh . Việc trên đã cho ta thấy rằng việc phát triển định lực trong lúc tưởng tượng là quan trọng đến chừng nào .

Để phát triển và nâng cao định lực của ta , ta có 5 biểu tượng sau đây , để hổ trợ cho ta trong việc tập luyện :

a.- Hình tam giác đều màu đỏ .

b.- Hình tròn màu xanh dương.

c.- Hình bầu dục quả trứng màu đen.

d.- Hình vuông màu vàng .

e.- Hình trăng lưởi liềm màu trắng hay màu bạc .

Sự tổ hợp của 5 hình nầy trong huyền bí học được biết dưới tên là biểu tượng TATTWA . Thật ra, đây là cửa vào quyền năng để ảnh hưởng đến năm tinh linh ngũ hành KHÔNG – HỎA – THỦY – PHONG – ĐỊA .

Sự liên hệ của ngũ hành như sau :

a’.- KHÔNG ( NĂNG LƯỢNG ) : Được biểu tượng bằng hình quả trứng màu đen , được gọi là TIÊN THIÊN KHÍ – AKASA TATTWA . Không đại nầy tương ứng với hào quang , nhân điện bao phủ chung quanh con người .

b’.- HỎA ( SỨC NÓNG – ÁNH SÁNG ) : ) Được biểu tượng bằng hình tam giác đều màu đỏ , được gọi là TEJAS TATTWA . Tương ứng với sức nóng của cơ thể .

c’.- THỦY ( CHẤT LỎNG – SỰ LẠNH LẼO – ẨM THẤP ) : Được biểu tượng bằng hình mặt trăng lưởi liềm màu trắng hay màu bạc , được gọi là APAS TATTWA . Tương ứng với máu trong cơ thể .

d’.- PHONG ( HƠI GAS ) : Được biểu tượng bằng hình tròn màu xanh dương , được gọi là VAYU TATTWA . Tương ứng với những luồng khí , hơi gas trong cơ thể .

e’.- ĐỊA ( VẬT CHẤT – CHẤT RẮN CHẮC ) : Được biểu tượng bằng hình vuông màu vàng , được gọi là PRITHIVI TATTWA . Tương ứng với cơ thể vật chất của con người .

Mổi TATTWA là một công cụ huyền học , khi được xử dụng một cách tương tứng , sẽ cho ta kiểm soát được sức mạnh của những tinh linh nầy . Vì cơ thể của ta được cấu tạo bởi những tinh linh nầy , do đó, sự thông hiểu về những tinh linh nầy sẽ cho ta hiểu nhiều hơn nửa về con người của chúng ta .

Nhưng ở đây , ta không xử dụng những năng lực của chúng , mà chúng ta chỉ xử dụng những hình kỷ hà và màu sắc của chúng mà thôi , vì chúng là những nhân tố cần thiết để làm kích thích , khai phóng 9/10 năng lực của tâm nảo và giúp cho ta phát triển khả năng quán tưởng và định lực của chúng ta.

CÁCH THỰC TẬP

QUÁN TƯỞNG VÀ ĐỊNH TRÍ .

Tìm một nơi yên lặng , chọn lấy một trong năm hình biểu tượng TATTWA được làm bằng giấy cứng màu dán trên nền trắng , để dựng trên bàn, trước ngang tầm mắt của mình ; xong mở mắt nhìn hình một hồi , và nhắm mắt lại , xong cố lập lại và nhớ hình đó trong tâm ( màn hình tâm linh – tâm nhản ) trong thời gian độ 10 phút . Ta có thể thay đổi những TATTWA khác nhau để thực tập , hầu cho tâm ta đừng thói quen đối với một hình ; Do sự thực hành nầy , tâm của ta có thể tưởng tượng , tạo lập và định tâm được ở bất cứ TATTWA nào mà ta muốn .

Trong thời gian đầu , ta sẽ thấy mơ hồ hoặc mê hoặc , hoặc ta thấy sẽ dể dàng định tâm được lâu với một TATTWA nào đó , còn các TATTWA khác thì khó nhớ lại hơn ; nhưng sau một thời gian chuyên tâm luyện tập , ta lại thấy những lần tập sau , không dể dàng tưởng tượng và định tâm như lúc tập đầu , khiến cho ta có cảm giác định lực bị yếu đi ; nhưng thực ra , định lực quán tưởng đã có tiến bộ rồi đấy , vì những lần thực tập đầu tiên , tâm ta chưa có khả năng nhận biết , thức giác được rỏ ràng những lơ là , lơ đểnh của tâm trí , nếu có thì chỉ nhận biết được một hai lần mà thôi . nhưng càng về sau định lực của ta đã tiến bộ , ta sẽ nhận thức được toàn diện những tâm lơ đểnh quấy nhiểu nầy nhiều hơn , và sẽ biết rỏ ràng cái tâm của mình đã lơ là xao động bao nhiêu lần ; như vậy khả năng quán tưởng , định lực và mức độ thức giác của mình trên cỏi vía đã tăng cao .

Sau một thời gian dài thực tập , một vài hiện tượng khác sẽ xảy ra như : Ta sẽ thấy có nhiều hình ảnh quang học khác nhau xuất hiện , như khi ta tưởng tượng ( visualizing ) hình tam giác đỏ với cặp mắt mở ra , ta sẽ thấy hình nầy sẽ xuất hiện ngay trước mắt ta , cách trán của ta khoảng cách từ 8 đến 30 cm ( 3 – 12 inches ) , hoặc sẽ xuất hiện bên trong đầu ta cách trán trở vô khoảng gần 1 cm ( vẩn với cặp mắt mở ra ) , còn nếu ta nhắm mắt lại và vẩn tưởng tượng lại hình tam giác đỏ nầy , ta sẽ thấy nó sẽ xuất hiện gần như nằm ở giửa đầu bên trong của chúng ta .

Sự giải thích hiện tượng xuất hiện khác biệt giữa vị trí khác nhau của hình nầy rất phức tạp , ta hảy tạm gọi đây là “ sự phản xạ quang học “. Khi mắt ta nhắm lại , thì là thuộc tầng số chấn động Alpha từ 8 – 13 lần trong một giây . khi ta mở mắt ra thì tầng số chấn động nầy biến mất . Việc nầy đã chứng minh cho chúng ta thấy , khi chúng ta mắm mắt lại , thì có những sự thay đổi khác lạ xảy ra trong tâm thức , tức là khi ta nhắm mắt lại , thì năng lực của mắt ( prana ) thay vì được phóng ra ngoài , thì được chuyển hướng vào trong và chạy khắp nẻo trong cơ thể và đặc biệt là ở nảo bộ và đầu của ta , vì thế mà hình ảnh hiện ra sẽ thay đổi , do ta nhắm hoặc mở mắt trong lúc tập quán tưởng các hình TATTWA .

Chúng ta chỉ tập những bài tập nầy khi nào tinh thần ta sung mản và khoẽ mạnh , đừng tập lúc ta mệt mỏi hay buồn ngũ . Cố gắng tập luyện mổi ngày ít nhất là một lần , mổi lần khoảng 10 phút .

4.- Sự phát sinh

và

tích trử năng lượng Sinh Lực Khí .

Theo bản chất , thì ý thức ( consciousness ) là một loại năng lượng có mang theo tín hiệu mả số , mà ta có thể nhận thấy được qua các biểu đồ của các máy đo sinh vật hồi ứng ( Bio-feedback – EEG – EKG ) .

Có một định luật quan trọng cần ghi nhớ là : Sự gia tăng cảm thức ( awareness ) và ý thức ( consciousness ) thì cũng cần phải gia tăng thêm năng lượngvà ngược lại ; Sự gia tăng năng lượng thì cũng cần phải cần gia tăng cảm thức và ý thức.

Như ta biết , sự xử dụng trạng thái ý thức trong lúc xuất vía , thì ở một tầng số rung động cao hơn trạng thái ý thức trong lúc sinh hoạt bình thường . Có bốn trạng thái và bốn tầng số rung động của ý thức , đo được từ máy sinh vật hồi ứng ( bio-feedback ) như sau : Trạng thái trong lúc thức ( Beta level ) có làn sống nảo từ 14 – 27 lần /giây, – Trạng thái trong lúc xuất vía – nhập định ( Alpha level ) có làn sống nảo từ 8 – 14 lần /giây – Trạng thái trong lúc ngũ ( Theta level ) có làn sống nảo từ 4 - 8 lần /giây – Trạng thái trong lúc ngũ mê ( Delta level ) có làn sống nảo từ 0 – 4 lần / giây .

Vì lý do nêu trên , ta cần phải tập luyện , phương cách điều khiển hơi thở sau đây , để gia tăng năng lượng dùng trong lúc xuất vía .

Đầu tiên , hảy ngồi trong một tư thế , mà ta cảm thấy thoải mái và thích hợp cho ta nhất , trong khoãng nữa tiếng đồng hồ , điều quan trọng là ta phải ngồi làm sao , mà xương sống và lưng được thẳng đứng , nếu ai có tập qua ( Yoga - Du già ) và Thiền định , thì có thể ngồi thế hoa sen , bán già hay kiết già ; nếu không , thì có thể ngồi thoải mái trên ghế và giữ lưng cho thẳng , không nên tập thở trong lúc nằm .

Sau khi đã chọn được thế ngồi thích hợp , hảy nhắm mắt lại , hảy hít vào bằng mủi , một cách chậm chậm và nhẹ nhàng với một hơi thở , được cân bằng , chia đều theo số đếm từ 1 – 4 trong đầu , sau đó hảy giữ lại hơi thở đó và đếm từ 1 – 6 , tiếp theo thở ra bằng mủi và đếm từ 1 – 4 ; sau đó nín thở ngưng và đếm từ 1 – 6 , trước khi tiếp tục lập lại , thở lại chu kỳ thở hít vừa qua . Tức là H4 - G6 - T4 - N6 - H4 ......

Chu

kỳ thở hít

được tóm tắt như sau :

- Hít vào đếm 4 nhịp.

- Giữ hơi thở đếm 6 nhịp .

- Thở ra đếm 4 nhịp .

- Ngưng thở đếm 6 nhịp

- Lập lại chu kỳ Hít thở trên .

Đây là chu kỳ và nhịp thở , còn gọi là cách hít thở năng lượng ( Pranayama ) , trung bình tập trong vòng nữa tiếng đồng hồ .

Cách đếm hơi thở , nhanh hay chậm là tùy theo cơ thể và tùy theo khả năng của bạn , điều quan trọng là phải thở hít một cách thoải mái và điều hòa theo nhịp đếm , không gắp rút và không được căng thẳng .

Khi ta đã quen với một nhịp hít thở nào rồi , thì ta hảy giữ lấy nhịp hít thở ấy với ta ; đừng nên đếm và thở hít , lúc chậm , lúc nhanh với những nhịp và độ đếm khác nhau ; điều quan trọng là hảy thở hít cho điều hòa và trôi chảy , thoải mái .

Trong lúc thở hít với bài tập như trên , ta sẽ cảm thấy và có những hiện tượng như sau xảy ra :

- Ra mồ hôi ở hai tay .

- Có cảm giác tê tê và giựt giựt ở huyệt lao cung ở khoãng giữa lòng bàn tay .

- Có cảm giác kỳ lạ , nhột nhột , giựt giựt , co bóp nhẹ hay có một lớp sáp mỏng dính ở dưới bụng , giống như cảm giác có được trong lúc căng thẳng thần kinh , cuồng nhiệt hoặc lo sầu ; hoặc cảm giác có một làn sóng rung động tê rần , tỏa lan khắp thân thể .

- Cảm thấy cơ thể tự nhiên nhẹ nhỏm lên và mất thể trọng .

- Cảm thấy nóng .

- Cảm thấy như bị kim châm .

- Cảm thấy cơ thể thoải mái , sảng khoái và tràn đầy sinh lực .

Tất cả những cảm nhận trên , là năng lượng của vũ trụ đã được hút nạp vào cơ thể , do cách thở hít theo nhịp chu kỳ điều hòa , cuả bài tập trên mang lại ; một khi năng lượng nầy đã được nạp vào trong cơ thể , nó sẽ chạy khắp trong cơ thể như máu lưu thông trong mình vậy .

Ngoài những cảm nhận được , trong lúc tập thở hít như trên , ta còn có được những ích lợi như sau :

- Có một sức khõe tốt hơn : Cơ thể sẽ được hít vào một lượng lớn dưởng khí oxygen và lưu thông khắp cơ thể , mang nhiều năng lượng cho các cơ quan trong thân thể , được cải thiện và trẻ trung hóa , nên chúng hoạt động tốt hơn .

- Nhiều năng lượng cho cơ thể hơn : Với kỷ thuật tích tụ năng lượng qua các chu kỳ ngưng thở sau khi hít thở , cơ thể sẽ được nạp vào và giữ năng lượng lại nhiều hơn theo lối thở bình thường ; nên cơ thể sẽ hoạt động dẻo dai và trẻ trung hơn .

- Gia tăng mức độ thức giác cao hơn : Nhờ sự gia tăng năng lượng trong cơ thể , sẽ tạo ra cho ta có được một mức độ nhạy cảm và thức giác cao hơn lúc bình thường .

- Gia tăng khả năng học hỏi : Nhờ phương pháp hít thở nầy , hệ thống thần kinh và tinh thần được an lạc và khõe khoắn , tươi mát , nên đầu óc có khả năng tiếp nhận thông tin nhiều hơn và học hỏi nhiều hơn .

Thử chứng minh cho điều nầy , ta thử làm một thí nghiệm như sau : Lấy một cuốn tạp chí , hảy đọc thử một trang nào đó , xong xem ta đọc trang đó trong khoãng thời gian là bao lâu và ta sau khi đọc , ta đã biết gì và nhớ được gì trong trang đó ; sau đó, ta hảy tập hít thở theo nhịp thở đã học trong vòng 15 phút , sau đó , hảy lật một trang khác trong quyển tạp chí vừa rồi và đọc , sau đó , ta sẽ thấy có sự tiến bộ khác nhau thấy rỏ .

Sau một thời gian tập luyện , ta sẽ thấy khả năng và tốc độ đọc sách của ta tăng lên và khả năng nhớ lại những nội dung trong sách cũng tăng lên . Đó là nhờ sự thở hít theo nhịp điều hòa trong thời gian nữa tiếng đồng hồ .

- Tình cảm được lắng đọng an lạc trở lại : Nhờ sự tập thở nầy mà tình cảm , tinh thần và thể xác của ta được an lạc , lắng dịu lại và nhờ sự tập thở nầy , mà ta có thể kiểm soát được tình cảm ; nên nhớ rằng , năng lực tâm linh , tình cảm và hình tư tưởng đều cần thiết cung ứng cho sinh hoạt ở cỏi vía ; nếu tình cảm mất thăng bằng , thì nó sẽ ảnh hưởng nhiều đến việc xuất vía và sẽ mang lại loại tình cảm tiêu cực trên cỏi vía .

Một thí dụ cho việc nầy : có một người con trai , tính tình hay nghi kỵ và ghen tương đối với một người bạn gái ; Anh ta nghi là bạn gái của anh ta đang đi đêm với một người đàn ông khác , nên anh ta quyết định xuất vía để theo dỏi người bạn gái nầy , Bởi vì anh ta ghen tương tin tưởng như vậy , nên sự tin tưởng ghen tương và hình ảnh đi đêm nầy của bạn gái của anh ta đã ảnh hưởng đến cỏi vía , trong lúc anh ta thực hành xuất vía để theo dỏi bạn gái cuả anh ta trong đêm đó . Và trong lúc xuất vía anh ta thấy được việc đó trên cỏi vía qua ảnh hưởng tình cảm ghen tuông của anh ; nhưng thật tế , thì cô bạn gái của anh ta có thể , không có làm việc đó với người đàn ông khác trên cỏi vật chất với sự đụng chạm thật sự của thể xác hai người , hoặc cô bạn gái của anh ta có thể làm việc đó với người đàn ông khác , trong tư tưởng hay đang nghỉ đến việc chung đụng với người đàn ông khác trên cỏi vía mà thôi .

Do đó, ta thấy trạng thái tình cảm có được trước khi xuất vía sẽ ảnh hưởng đến việc xuất vía . Nên ta cần kiểm soát tình cảm , mới có được sự xuất vía thành công .

Có một định luật quan trọng là : Để kiểm soát và làm thay đổi một trạng thái tình cảm nào , thì ta chỉ cần làm thay đổi nhịp thở hít theo một chu kỳ công thức thở hít , thích ứng với nó mà thôi .

Nếu khi nào ta cảm thấy tức giận , căng thẳng thần kinh hoặc lo lắng , thì ta hảy thở hít với nhịp 4/6 , thì trạng thái tình cảm đó , không được cung cấp năng lượng cho nó nữa , thì nó sẻ chết và biến mất mà thôi , thay vào đó ta sẽ cãm thấy an lạc và thoải mái , vì với hơi thở , nhịp thở chậm 4/6 đã tạo ra trạng thái tình cảm an lạc nầy .

Những điều cần lưu ý

trong lúc tập thở năng lượng 4/6 :

- Dùng bài tật hít thở nầy mổi ngày khoãng nữa tiếng ,nên giữ lưng thẳng đứng trong lúc tập .

- Hảy dùng cách hít thở nầy để nạp năng lượng khi ta cảm thấy cơ thể mệt mỏi , khi cơ thể thiếu cạn năng lượng .

- Mổi ngày nên tập vào buổi sáng , khi mới thức dậy , như vậy cơ thể ta sẽ nạp đầy đủ năng lượng , cung cấp năng lượng dồi dào cho ta trong ngày ấy .

- Đừng tập trước khi đi ngũ , vì năng lượng quá dư thừa trong đêm , sẽ làm cho ta nằm lăn lộn và khó ngũ .

- Có một trường hợp ngoại lệ , có một loại người , khi tật bài tập nầy sẽ cảm thấy cơ thể mỏi mệt , thì loại người nầy cần tập bài tập nầy trước khi đi ngũ , sẻ giúp họ dể ngũ hơn vì quá mệt , như vậy , sau khi sáng thức dậy , người nầy sẽ cảm thấy khõe khoắn và tràn đầy sinh lực hơn .

- Hảy tập bài tập hít thở nhịp 4/6 khi nào ta cảm thấy tình cảm ta bị nóng giận,ghen ghét , hay lo sợ .....để chuyển hóa tình cảm và đạt được thân tâm an lạc .

- Hảy tập bài tậphít thở 4/6 nầy , từ 15 đến 30 phút , trước khi thực tập thiền định hay định trí , quán tưởng hay trước khi làm việc bằng trí óc , nó sẻ giúp cho ta làm các việc trên được dể dàng và thành công hơn .

- Bài tập hít thở nầy không có tạo một nguy hại nào cho sức khõe , hảy tập càng nhiều càng tốt , tùy theo óc sáng tạo , bạn có thể tìm được , sự lợi ích của việc tập hít thở theo phương pháp nầy , trong các lảnh vực sinh hoạt khác.

5.- Sự Chuyển Di Thần Thức .

Bài tập sau đây sẽ giúp cho các bạn phát triển khả năng , làm cho thần thức xuất ra khỏi thể xác ; đây là một dạng của CHUYỂN DI Ý THỨC ( THỂ TRÍ – xem ở chương 7 ).

Trong bài tập nầy , THẦN THỨC sẻ được nhập vào một vật thể bất động nằm ngoài thân thể.

a .- Đầu tiên lấy một cái ly , để trên cái bàn , ở một góc phòng .

b.- Sau đó đi đến một góc phòng đối diện, cũng cùng một phòng với cái ly , bạn ngồi xuống , mặt đối diện với cái ly được đặt ở phòng kia .

c.- Bạn hảy ngồi với một tư thế thoải mái , mắt nhắm lại , rồi hảy tưởng tượng , thân thể bạn từ từ biến thành hình dạng của cái ly đó , và cuối cùng bạn trở thành cái ly đó.

d.- Sau khi bạn đả trở thành một cái ly giống hệt cái ly đặt ở góc phòng , tiếp theo bạn hảy cố gắng cảm nhận là bạn đang ở đúng vị trí của cái ly đang ở góc phòng nầy , vì hiện thời bạn là một cái ly , đang được nằm trên bàn và hảy quên đi tất cả những gì thuộc về cơ thể và cá nhân của mình .

Bây giờ , bạn hảy nhìn mọi vật chung quanh phòng , ở vị trí và góc độ của cái ly , vì hiện thời cơ thể của bạn là cái ly . Thí dụ : từ vị trí của cái ly ở cuối phòng , bạn hảy nhìn cơ thể của bạn đang ngồi mắt đang nhắm lại ở góc phòng đối diện , lúc đầu có thể hình dáng cơ thể cuả bạn không được rỏ ràng , lúc ẩn lúc hiện , hoặc lờ mờ thấp thoáng , nhưng với thời gian thì hình ảnh sẽ được thấy rỏ ràng , lúc đầu có thể bạn nhìn mọi vật chung quanh không được rỏ ràng , điều nầy sẽ được giải thích ở phần liên hệ sự cảm nhận của thể vía và thể trí . Ở bước đầu thực tập nầy bạn sẽ để ý ghi nhận tất cả những hiện tượng gì đang xảy ra và bạn đả cảm nhận được những gì .

Khi bạn chuyển di thần thức đi nhập vào một vật gì , thì bạn phải nhìn mọi vật chung quanh với vị trí cuả vật đó , cố gắng cảm nhận sự tương quan và liên hệ cuả vật đó với tất cả những vật khác .

Tức là khi bạn là cái ly , thì bạn thử cảm nhận mặt bàn như thế nào , nếu trên bàn có những vật thể khác , bạn cần cảm nhận sự hiện diện cuả những vật đó ở gần cái ly .

Thí dụ : Trên bàn có một cây đèn cầy đang cháy , gần cái ly , thì bạn cảm thấy sức nóng của cây đèn cầy nầy như thế nào , và khi nhìn xuống bàn , bạn cảm thấy độ cao của cái bàn như thế nào .

Các bạn hảy dùng những vật thể khác nhau để tập chuyển di thần thức vào các vật thể bất động . Bài tập chuyển di thần thức vào các vật thể trên , cần thực tập hằng ngày , mổi ngày tối thiểu khoảng từ 5 đến 10 phút . Các bạn cần luyện tập bài tập trên một cách thường xuyên , cho đến khi nào các bạn có thể xuất thần một cách tùy ý và dể dàng nhập thần thức vào bất cứ vật thể nào mà các bạn muốn .

Những trở ngại và sự khó khăn khi tập bài tập nầy có thể xảy ra , và sẽ được đề cập đến trong chương sau.

Sau đây là một vài ấn chứng của vài hành giả khi bắt đầu tập bài tập nầy , được nêu ra để các bạn tham khảo và vấn đề được sáng tỏ hơn :

Trường hợp 1 :

Người thực tập , xuất thần thức nhập vào một bóng đèn tròn , nằm trên trần nhà ở một góc phòng đối diện . Trong khi đó anh ta đang ngồi trên một cái ghế ở một góc phòng đối diện ,cùng phòng với bóng đèn . Ngăn cách bởi một cái cầu thang ở giửa .

Theo lời anh ta kể lại rằng :

Đầu tiên anh ta cảm thấy rất khó khăn , mà nhập vào vị trí của cái bóng đèn , anh chỉ có thể ở vị trí của cái bóng đèn trong một giây phút thoáng qua , là anh ta đả phát giác ra , anh ta đả trở về với cơ thể xác thịt của mình rồi ; anh có một cảm nhận rằng , có một sự giằng co , dội ngược , tới lui , của thần thức giữa cơ thể xác thịt và cái bóng đèn .

Một khi anh ta đã nhập thần thức được vào trong bóng đèn rồi , anh cảm thấy bức tường rất gần với bóng đèn , ( thực ra có một bức tường gần cái bóng đèn ) . Đầu tiên , anh cố gắng dùng đầu óc phân tích và trí nhớ , để nhớ lại cảnh vật trong phòng , mà anh đã thường biết trước , thì thần thức của anh liền nhập trở lại thể xác ngay tức tốc .

Tức là , khi anh thấy , thì anh thấy cảnh vật ngay tức thì , còn nếu anh xử dụng đến sự suy nghỉ của ý thức để thấy , thì thần thức của anh sẽ bay trở về cơ thể xác thịt , ngay lập tức .

Khi anh ở vị trí của bóng đèn , anh nhìn xuống , anh thấy cơ thể xác thịt của anh bên dưới , nhưng anh không thể thấy rỏ ràng , màu sắc y phục của anh đang mặc và kiểu tóc của anh đang có .

Khi anh thử dùng trí óc và trí nhớ của anh để nhớ lại cảnh vật trong phòng , thì thần thức của anh liền bay về cơ thể ngay lập tức, việc nầy đã xảy ra , ba đến bốn lần , còn những cảnh vật mà anh thấy được , nó được cảm nhận một cách tự nhiên , không qua cơ chế sinh hoạt , sinh lý bình thường của ý thức thường ngày , trong cuộc sống .

Có một điều xảy ra , bất ngờ và lý thú là , anh ta thấy từ vị trí bóng đèn , ở phía dưới có hai cái hộp , mộ t cái thì đựng một loại dây gì đó và một hộp đựng giấy vụn . Mà trước đó anh ta không để ý , là có hai vật nầy trong phòng .

Khi anh ta , trả thần thức về cho cơ thể , thì anh ta liền đi đến vị trí hai cái hộp , mà anh thấy khi nảy , khi anh ở vị trí của bóng đèn , thì nay anh thấy , cái hộp đựng dây khi nảy , thực ra , không phải là cái hộp đựng dây , mà là một cái máy phóng đại âm thanh Hi Fi cho cây đàn điện của anh , còn cái hộp kia thì đúng là một cái hộp đựng giấy vụn .

Một điều nữa là , khi anh ở vị trí của bóng đèn thì anh thấy , hai vật ở dưới , nằm lệch qua một bên , chớ không phải nằm ngay ở dưới bóng đèn ; khi anh leo lên vị trí của bóng đèn với cơ thể xác thịt cùng ý thức của anh để kiểm chứng lại , thì anh mới thấy là đúng như thế . Như vậy là trong bài tập vừa qua anh đã thực sự là cái bóng đèn rồi .

Trường hợp 2 :

Người thực tập , xuất thần nhập vào một cuốn sách đang nằm dưới sàn nhà .

Anh ta kể rằng :

Khi anh ta trở thành cuốn sách trên sàn nhà , điều đầu tiên, là anh ta cảm thấy là có sự thay đổi trong chiều cao , và anh thấy cơ thể xác thịt của anh đang ngồi trên ghế , ở trên đầu của anh ; và anh nhìn mọi vật chung quanh với một góc độ và chiều cao khác với góc độ khi anh nhìn với chiều cao , khi anh còn ở trong cơ thể xác thịt . Anh cảm thấy , anh đang nằm trên một tấm thảm và các sợi chỉ mịn màng của tấm thảm ; từ vị trí cuốn sách , anh nhìn lên trần nhà , anh thấy có những vết sơn củ loang lổ và vài đường nứt cong queo trên trần nhà . Sau khi chấm dứt buổi thực tập , anh ta kiểm soát lại và đi đến nằm sát xuống mặt đất ở vị trí của cuốn sách , mà anh ta nhập vào khi nảy , thì anh ta thấy , góc độ nhìn từ cuốn sách , mà nhìn cảnh vật hiện giờ , giống hệt như cảnh vật , như lúc anh ta đã nhập vào cuốn sách khi nảy , kể cả những vết sơn củ loang lổ và vài đường nứt cong queo trên trần nhà , cũng có thật và giống y hệt những gì nhìn thấy trong lúc anh đang thực tập .

Các bạn cần lưu ý , cái thấy mà các bạn nhìn thấy được , trong lúc xuất thần thức , nhập vào vị trí , góc độ của các vật thể , là cái thấy của tâm nhản ( mind’s eye ) , chứ không phải là cái thấy của con mắt xác thịt trong lúc thức đâu nhé.

6.- Năm phương thức Xuất Vía .

Như đã có đề cập từ trước , là có bốn cảnh giới của ý t̀hức , mổi cảnh giới khác biệt với nhau do tầng số rung động khác của những hạt nguyên tử tạo nên , trong cảnh giới đó.

Ý thức của ta muốn khám phá ra những cảnh giới nầy , thì ta phải điều chỉnh tầng số rung động ý thức của ta cho phù hợp với tầng số rung động của cảnh giới mà ta muốn đến .

Trên cảnh giới của cảnh hồng trần hay cảnh giới vật chất và cảnh giới thể vía hay cỏi trung giới ( nơi đây chịu sự chi phối của luật hình tướng , The law of form ) thì cơ thể là kết quả của sự điều hợp nầy và là phương tiện cho ý thức dùng để di chuyển trong các cỏi nầy .

Trên cảnh giới vật chất ( physical plane ) , cơ thể xác thịt của ta bị biến dạng qua thời gian , và sự già nua xuất hiện .

Trên cỏi trung giới ( astral plane ), thể vía của ta thường có hình dạng ánh sáng hình bầu dục của trứng gà . Tuy nhiên , cỏi trung giới chịu sự chi phối của đồ hình tưởng tượng ( images )chứ không chịu sự chi phộ́i của thời gian , nên thể vía của ta , có thể tức khắc biến thành bất cứ hình dạng nào , tùy theo sự mong muốn của ta .

Trên cỏi trí ( mental plane ), là nơi chịu sự chi phối của thời gian , thể trí không có hình dạng , mà nó chỉ đơn giản là một sự ý thức về thời gian mà thôi.

Trên cỏi nguyên thần ( soul plane ), nơi đây không chịu sự chi phối của hình tướng và thời gian , nên nguyên thần không có hình tướng , và sự ý thức về thời gian , như các thể ở các cỏi vừa đề cập đến . Do đó , muốn hiện hữu và kinh nghiệm được cỏi nầy , thì ta cần phải có một ý thức siêu việt , tương đương với trạng thái ý thức vô lậu , toàn giác của đại định bên Phật Giáo và trong thế giới huyền bên Công Giáo vậy .

Sự phối hợp thể trí và thể vía , là một cách xuất vía thứ năm bên cạnh bốn cách xuất vía được nêu sau :

Sự xuất thần trong cỏi vật chất ( Physical projection ):

Đây là một sự xuất thần gần gủi nhất , mà thần thức của ta đi vào cơ thể vật chất , rồi từ đó mà kinh nghiệm và cảm xúc được cỏi giới vật chất , để rồi có một sự hiểu biết rỏ ràng về cỏi nầy . Thông thường , vì cỏi vật chất chịu sự chi phối của luật hình tướng , không gian và thời gian , nên lúc khởi đầu , thần thức đã bị bao bọc bởi những định luật nầy và đã trở nên thô kệch , nặng nề và giới hạn ; Do đó, con người đã lầm tưởng rằng , cơ thể vật chất nầy chính là mình , mà không biết rằng đây chỉ là một cái vỏ bọc , và là một phương tiện tạm thời , để cho thần hồn dùng để liên lạc với cỏi vật chất , trong một khoảng thời gian cần thiết mà thôi ; sự hiểu lầm nầy tương tự như một nhà triệu phú lầm tưởng rằng , tiền bạc chính là bản thân của họ vậy . Do sự chấp nhận những kinh nghiệm, giới hạn và cảm xúc , dính liền với cơ thể vật chất ( điển hình là những người theo chủ nghĩa vật chất và khoa học qui ước của các nhà khoa học gia ) mà thần thức của họ , chỉ chú ý và tập trung vào những gì xảy ra ở cỏi vật chất mà thôi ; Vì thế , vô tình , đã tạo một bức tường ngăn cách họ , tiếp xúc toàn giác với các cỏi cao hơn , như cỏi vía , trí , nguyên thần v..v...

Sự xuất thần trong cỏi vía ( Astral projection ) :

Sự xuất thần trong cỏi vía , là khả năng có thể điều chỉnh tầng số rung động của thần thức mình , cho phù hợp với tầng số rung động trên cỏi vía . Để làm việc nầy , ta lấy thần thức cùng sự chú ý của ta , ra ngoài cơ thể vật chất , rồi sau đó đặt nó vào cơ thể của cái vía ( astral body ). Cơ thể của cái vía ( astral body ) có hình dạng tổng quát như một cái trứng màu trắng hay bạc hoặc trắng bạc ; tuy nhiên , nhờ thông qua khả năng tưởng tượng và quán tưởng , ta có thể thay đổi hình dáng của nó theo ý ta muốn ( việc nầy không thể làm được ở cỏi vật chất vì nó chịu sự chi phối của luật thời gian ).

Theo thuyền thuyết , các thầy phù thủy có khả năng biến họ thành những loài động vật như : mèo, chim chóc và chó sói ; nhưng thật ra , đó là họ có khả năng xuất thần trong thể vía , để du hành mà thôi ; các thầy phù thủy muốn làm việc nầy , đầu tiên , họ phải dùng khả năng tưởng tượng , tạo ra một cơ thể bằng tinh tú thể ( vì chiếu sáng nên gọi là tinh tú thể ) tức thể vía , giống như hình dạng gì , mà họ muốn biến ra , thí dụ như muốn biến ra con mèo ; rồi sau đó , họ chuyển di thần thức của họ vào hình dạng của thể vía mà họ vừa tạo ra , như vậy là họ đã biến thành con mèo và dùng phương tiện nầy mà hành sự theo ý muốn . Nếu kinh nghiệm ở thể vía được rỏ ràng , thì kinh nghiệm của thầy phù thủy trong hình dạng của con mèo được sinh động và rỏ ràng hơn ( ở đây ta thấy sự quan trọng của những bài tập quán tưởng các hình ngũ hành TATTWA trong các bài tập trước là quan trọng đến dường nào ) .

Thể vía được tạo thành , do sự phối hợp của một loại năng lượng , có tầng số rung động nhanh hơn vật chất , nên có độ đậm đặc nhẹ hơn cơ thể vật chất , nó vượt khỏi những luật chi phối của cỏi giới vật chất , và thể vía không bị gặp phải những trở ngại mà cơ thể vật chất gặp phải , thí dụ : thể vía không có trọng lượng , nên nó không bị sức hút của địa cầu chi phối ( gravity ). thể vía có thể bay lơ lửng và nhào lộn trên không một cách thoải mái , vì không bị hạn chế như mật độ ( density )của vật chất , nên thể vía có thể đi xuyên qua tường và cao ốc một cách dể dàng ; vì thể vía không có sự cấu tạo nội tạng như cơ thể vật chất , nên thể vía không cần ăn uống,y phục , nhà ở và cho đến không cần không khí để thở , vì thể vía chỉ cần sinh lực khí prana ( là một năng lực cơ bản nằm đằng sau của tất cả sự sống ) để tồn tại mà thôi .

Sự xuất thần qua thể trí ( Mental projection ) :

Là khả năng điều chỉnh thần thức rung động đồng bộ với tầng số ở cỏi trí , vì không bị luật hình tướng chi phối ( the law of form ) , ý thức tự nó đả là cơ thể của thể trí rồi ( mental body ) . Sự xuất thần trong cỏi trí , giống như sự xuất thần nhập vào các đồ vật bất động mà ta đã tập trong bài tập trước ; chỉ có sự khác nhau , là bây giờ ta xuất thần thức của ta vào một vị trí trong không gian hoặc một vị trí nào trong thời gian mà thôi , chứ không phải xuất thần vào một món đồ , vật chất nữa . Như vậy, sự xuất thần qua thể trí ( Mental projection ) là một sự du hành của ý thức đi xuyên qua thời gian và không gian mà thôi .

Sự xuất thần vào một cơ thể phối hợp của thể vía và thể trí ( Combined Astral/Mental Projection ) :

Là một sự đặt ý thức ( tức thể trí mental body ) vào một hình dạng năng lượng ( tức thể vía - astral body ) , loại xuất thần nầy buột chặc thể trí và thể vía lại với nhau , để tạo ra một sự ý thức ( mental body ) được đặt trong một thể vía ( astral body ) , do đó ta có được một sự cảm xúc kinh nghiệm trên cỏi vía một cách trực tiếp , chứ không phải cảm xúc kinh nghiệm gián tiếp , giống như khi xuất thần đơn giản trong cỏi vía thuần túy ( astral projection ) , vì khi xuất thần theo cách nầy ( xuất vía - astral projection ), thì đầu tiên , thể vía của ta ( astral body ) thu nhận sự cảm nhận trong cỏi vía , rồi sau đó truyền sự cảm nhận nầy về cái trí , tức ý thức của ta ( mental consciousness ) còn đang nằm trong cơ thể vật chất của ta , chứ không phải hiểu biết , kinh nghiệm lập tức và trực tiếp , như kiểu xuất thần hổn hợp loại thứ năm nầy ( Combined astral/mental projection ).

Sự xuất thần trên cỏi nguyên thần ( Soul Level ) : Khi ta thực sự nhập một với nguyên thần ở trên cỏi nguyên thần , thì khoãng cách , thời gian và hình tượng không còn nữa ; ý niệm và tư tưởng không còn tồn tại trên cỏi nầy và ta cùng vạn vật chỉ là một , ta có thể biết và nhận thấy , nhưng không cần hành động , vì ở trình độ nầy , mọi vật đều đã được hình thành bởi một kế hoạch toàn hảo của vũ trụ .

7.- Kỷ thuật Chuyển Di Ý thức . Thể Trí.

Phương pháp tập kỷ thuật nầy như sau :

A .- Ngồi ở một tư thế thải mái .

B.- Bây giờ chuyển ý thức và sự chú ý của mình ra khỏi cơ thể và di chuyển sang một phòng bên cạnh , nhiều tư tưởng và ý niệm hiện giờ sẻ nảy sinh khi ta đã ở vị trí bên kia phòng và những suy tư và ý nghỉ cũng phải từ vị trí nầy mà phát sinh ; ta cần phải có cảm giác thực sự là mình đang ở vị trí thứ hai nầy và đang ở phòng abên cạnh , nếu có cảm giác được như thế thì ta thực sự là đã thực hiện được kỷ thuật chuyển di nầy rồi .

C.- Sau khi đã hoàn tất xong kỷ thuật nầy rồi , ta hảy mang ý thức và sự chú ý của mình trở về cơ thể vật chất của ta ở vị trí củ .

Khi ta đã cảm thấy tất cả những ý thức và cảm giác có lại được , khi cảm nhận được từ sự phản hồi cảm giác của cơ thể vật chất ; thì ta đã biết rằng ta đã trở về cơ thể ở một ý thức sinh hoạt bình thường như lúc trước.

Kỷ thuật xuất thần 50%

Trong kỷ thuật xuất thần nầy , ta vẩn ý thức được cơ thể vật chất và cảnh vật chung quanh của ta ; tức nghĩa là ta chỉ xuất 50 % ý thức của ta ra ngoài cơ thể , để đi đến nơi mà ta muốn đến và trông thấy cảnh vật cùng sinh hoạt ở đấy , còn 50 % ý thức còn lại vẩn còn ở lại cơ thể vật chất của ta ,và ta vẩn có thể biết được những gì đang xảy ra chung quanh cơ thể vật chất của ta .

Trong bài tập trước , khi ta xuất thần đi sang phòng bên kia , ta cần phải có ngay cảm giác là hiện giờ ta đang ở đó , nói cách khác là ta có thể thực sự thấy được bức tường và những đồ vật chung quanh ở phòng nầy .

Khi ta đã quen thuộc và xuất thần một cách dể dàng rồi , thì ta có thể xuất thần đi xa hơn, như đi ra khỏi địa phương ta ở hoặc đi ra ngoại quốc . Với những cuộc thực tập thường xuyên sẽ mang lại cho ta nhiều kinh nghiệm và kiến thức quí báu trong vũ trụ nầy .

HAI KINH NGHIỆM THỰC TẬP CỦA HAI NGƯỜI ĐÃ VÀ ĐANG LUYỆN KỶ THUẬT XUẤT THẦN :

Kinh nghiệm của một nam hành giả 1 :

Tôi ngồi xuống trên sàn gạch trong phòng của tôi , để thực hiện kỷ thuật xuất thần , bắt đầu từ bài tập hít thở năng lượng theo nhịp 4/6 như nêu ở trên , để an định tư tưởng và thư giản cơ thể .

Sau khi làm bài tập hít thở năng lượng trong 15 phút , tôi bắt đầu thực tập xuất thần của tôi sang một phòng bên cạnh , Tôi thực sự cảm thấy và ý thức tôi đang ở phòng bên cạnh . Nhưng tôi cảm thấy khó khăn khi muốn giử ý thức của tôi ở đó , tôi cảm thấy , mình như bị kéo lại trở về cơ thể của tôi , tôi đã cố gắng với ý chí mạnh mẻ để ở ngoài cơ thể và tôi đã thành công với một cách là chú ý đến một vật thể hiện đang có trong phòng và tôi tức khắc tiếp xúc ngay với vật thể nầy , vật thể đó là một cái máy khuếch đại âm thanh ( guitar amplifier ) đang đặt trong phòng mà tôi đang xuất thần thức tại đó , khi tôi nghỉ đến nó thì tôi thấy tôi đã ở bên cạnh cái máy nầy , tôi cảm thấy sự nham nhám của mặt vải bọc trước mặt máy , khi tôi rờ vào đấy , cũng cùng lúc đó , tôi cảm thấy và nhận thức được đang có một người khác cũng đang ở trong một góc phòng cùng phòng với tôi , có thể là một người nào đó cũng đang xuất thần vào cùng phòng với tôi ; tôi liền dùng sự suy nghỉ để nghỉ rằng , không thể nào có một người nào khác đang ở trong phòng , vì hiện giờ chỉ có một mình tôi đang ở trong phòng mà thôi , khi tôi vừa suy nghỉ xong, thì tôi đã thấy tôi đã bị kéo trở về cơ thể vật chất của tôi . Đó là kết thúc buổi tập xuất thần của tôi .

NHẬN XÉT :

Trong bài tập xuất thần của hành giả nầy , hành giả đả thành công ; một trở ngại xảy ra trong buổi tập là thần thức của hành giả bị kéo tới và kéo lui giửa cơ thể vật chất của hành giả và nơi mà hành giả muốn đi đến , một vấn đề khác là sự hiện diện của một người khác hay một bóng ma khác , hiện tượng nầy sẽ được nói đến ở chương thứ 16 . Hành giả nói trong lúc thực tập xuất thần hành giả cảm thấy đôi khi hành giả ở hai nơi một lúc , hoặc lúc thì ở trong cơ thể vật chất và nghe những tiếng động chung quanh và có lúc thì lại thấy mình đang ở trong phòng đối diện .

Kinh nghiệm xuất thần của một nữ hành giả 2 :

Bài tập nầy của một nữ hành giả xuất thần để đi thăm một người bạn gái đang ở một thành phố khác .

Tôi đã xuất thần để đi thăm một người bạn mà tôi đã không gặp khoảng ba tuần lể ; tôi rất quen với chung cư mà bạn tôi đang ở ,và tôi tức khắc thấy tôi đã ở đấy ngay .

Đầu tiên tôi đang ở trước cửa phòng của bạn tôi , tôi định đi qua cửa đang đóng , thì tôi thấy tôi đi qua không được , tôi liền xây lưng lại để thử đi ngược thử , để đi xuyên qua cửa đang đóng , và kết quả là tôi đã đi vào trong phòng được dể dàng , sau đó tôi đi tìm bạn tôi , thì tôi thấy bạn gái của tôi đang ở trong nhà bếp , cô ta đang uống cà phê và xem truyền hình TV , tôi còn thấy phía trước cô ta có một cái máy đánh chữ và hình như cô ta vừa đánh máy xong. Tôi liền dơ tay chạm vào vai bạn tôi , để báo rằng tôi đã đến thăm , nhưng cô ta không có một phản ứng gì cả ; tôi ở đấy một lúc rồi tôi quay trở về cơ thể nơi tôi ở .

Sau khi tôi trở về , tôi liền gọi điện thoại cho bạn gái của tôi , để hỏi những việc mà tôi đã thấy . Bạn tôi nói lúc đó bạn tôi có uống cà phê và xem truyền hình và không có máy đánh chữ trước mắt và cô ta không có đánh máy ,tuy nhiên cô ta nói , trong lúc đó , cô ta có nghỉ đến việc đánh một lá thư cho một người bạn đang ở tại Chicago , do đó tư tưởng và sứ suy nghỉ về việc đánh máy đang chiếm tư tưởng của cô ta trong lúc đó ; cô ta không có một cảm giác gì khi tôi dơ tay chạm vào vai cô ta , nhưng vào lúc đó một suy tư lóe lên và nhớ đến tôi trong tâm nảo của cô ta và cô ta có suy nghỉ về tôi trong một thời gian ngắn ngủi .

NHẬN XÉT :

Khi hỏi người nữ hành giả nầy cảm thấy thế nào trong lúc xuất thần , thì cô ta nói , cô ta thấy một phần thần thức của cô ta đang ở tại phòng của bạn gái của cô ta , đang ở thành phố khác và cùng lúc đó cô ta cũng ý thức và cảm giác được , cơ thể vật chất của cô ta và khung cảnh chung quanh nơi cô đang ở , và cô ta có thể cử động bất cứ bộ phận nào trên cơ thể vật chất của cô ta và cô ta có ý thức đồng thời ở tất cả hai nơi cùng một lúc .

Một số câu hỏi được đặt ra trong hai bài kinh nghiệm thực tập của hai hành giả nầy là :

1.- Tại sao người hành giả nữ trong khi xuất thần , có trông thấy một bàn đánh máy chữ đang ở trước mặt cô bạn của hành giả , mà thực ra bàn máy nầy không có ở đó .

2.- Tại sau nữ hành giả gặp khó khăn khi đi xuyên qua cánh cửa đang đóng ở nhà người bại gái của hành giả tại thành phố khác .

3.-Tại sau hành giả cần phải xây lưng lại mới đi xuyên được qua cửa mà vào phòng của người bạn mình .

Tất cả câu hỏi sẽ được giải đáp ở chương 16 .

8.- Kỷ thuật xuất Đẩu Tinh thể .

ASTRAL PROJECTION

Thể Ánh Sáng ̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣̣( Tinh Quang – Thể Vía – ASTRAL BODY )

Bài thực tập :

a.- Ngồi xuống với một tư thế thoải mái .

b.- Bắt đầu từ bài tập hít thở năng lượng theo nhịp 4/6 như nêu ở trên , để an định tư tưởng và thư giản cơ thể .

c.- Hảy tưởng tượng cơ thể của bạn được bao bọc trong một hào quang trắng hình quả trứng . Bạn củng có thể tưởng thể tưởng tượng vòng hào quang nầy giống như hình thể của bạn, tức giống như vòng ngoài cơ thể , cách cơ thể của bạn khoảng hai gang tay và màu sắc tùy theo màu nào mà bạn thích nhất .

d.- Để xuất Thể Ánh Sáng ra khỏi cơ thể vật chất , bạn chỉ cần tưởng tượng thể ánh sáng có cùng hình dạng giống như thể xác của bạn ; thể ánh sáng nầy từ từ ngồi hoặc đứng dậy rời khỏi cơ thể của bạn để đi , bay hoặc nổi bồng bềnh trong không gian và di chuyển sang bên phòng bên cạnh ; Bạn nên nhớ rằng thể ánh sáng được điều khiển bằng sự tưởng tượng , nhờ sự tưởng tượng tạo hình ( visualizing ) mà thể ánh sáng thật sự , có thể đi sang phòng bên cạnh .

e.- Hảy cảm nhận những đồ vật trong phòng mà bạn vừa đến : Vì thể ánh sáng có tầng số rung động nhanh hơn cỏi vật chất , do đó bạn khó có thể di chuyển hoặc có ý định dời hoặc di chuyển những đồ vật trong phòng ;Nếu bạn cố gắng đụng chạm hoặc định di chuyển những đồ vật trong phòng , thì bạn sẽ thấy rằng tay của bạn sẽ đi xuyên qua đồ vật một cách vô hình , mà vật ấy vẩn không nhúc nhích , tuy nhiên bạn có thể biết và cảm nhận tính chất nhám , bóng hoặc cứng mềm của vật đó . Lúc đầu , hầu hết những cảm nhận nầy bạn có thể nhận lầm , cho đó là sự hiểu biết những đặc tính của đồ vật là do sự hồi ức của trí nhớ ; Do đó , đừng để cho sự suy luận và đầu óc phân tích của cái trí xen vào những cảm nhận của thể ánh sáng ( thể vía ) .

f.- Một khi bạn đã có thể xuất thể ánh sáng đi đến bất cứ vị trí nào trong phòng một cách dể dàng rồi , thì đã đến lúc , bạn có thể xuất thể nầy đi xa hơn nửa ra ngoài khỏi phòng hay nhà của bạn .

Bạn có thể làm những cuộc thí nghiệm để kiểm chứng , bằng cách xuất thể ánh sáng đi đến nhà của một người bạn nào đó mà bạn biết , để thấy hôm đó người bạn nầy mặc đồ gì , màu gì , người bạn nầy đang làm gì v..v... Rồi sáng hôm sau , bạn thử gọi điện thoại đến cho người bạn nầy để hỏi lại , người nầy đã làm gì trong đêm qua , để bạn có thể kiểm chứng lại với những việc mà bạn đã thấy với thể ánh sáng của bạn . Nhờ thông qua những bài tập nầy , sự thực tập nhiều sẽ mang đến cho bạn những tiến triển khả quan cho khả năng cảm nhận của thể ánh sáng được tăng trưởng .

g.- Khi bạn ( đang là thể ánh sáng ) và bạn muốn trở về với cơ thể vật chất của bạn , thì bạn chỉ cần tưởng tượng về cơ thể vật chất của bạn , thì cơ thể ánh sáng của bạn , tức thời sẽ trở về nhập một với cơ thể vật chất ngay . Bây giờ bạn chỉ tưởng tượng thể ánh sáng của bạn đả trở về và nhập một với cơ thể vật chất , khi trả thể ánh sáng về cho thể xác , bạn cần làm một cách từ từ và êm ái , đừng làm một cách vội vả . Điều quan trọng là , bạn phải thức giác và biết rằng bạn kiểm soát sự trở về nầy của thể ánh sáng một cách an toàn , như vậy là bạn đả đóng lại nhản quan vả khả năng cảm nhận của thể ánh sáng trong cỏi vía ( astral plane ) , sau khi thần thức đã trở về thể xác và tiếp tục sinh hoạt bình thường trong cỏi vật chất . Giống như bạn vừa đóng cửa phòng lại , để đi qua phòng khác vậy . Việc nầy sẽ giúp cho bạn , ngăn chận những cảm nhận của cỏi trung giới của thể vía , lọt vào tâm trí của bộ óc vật chất và không làm xáo trộn tâm trí , khi bạn đã trở về sinh hoạt bình thường trong cỏi vật chất ( ground you on the physical plane ) .

KINH NGHIỆM ẤN CHỨNG CỦA CÁC HÀNH GIẢ KHI THỰC HÀNH THUẬT XUẤT THỂ ÁNH SÁNG :

Kinh nghiệm của hành giả 1 :Hành giả nầy có khả năng xuất thần thức( thể trí ) và thể ánh sáng , qua kinh nghiệm của hành giả nầy , ta có thể thấy được sự khác biệt giửa hai cách xuất thần nầy .

Tôi ngồi xuống và làm thư giản bằng cách hít thở theo nhịp bình thường đã tập như trên ; sau đó , tôi tưởng tượng một quả trứng màu bạc bao bọc lấy cơ thể của tôi , tôi tưởng tượng thể ánh sáng màu bạc nầy rời khỏi cơ thể của tôi , từ từ rời khỏi cơ thể của tôi và bay bồng bềnh ở giửa phòng . Sau đó , tôi đi sang phòng bên cạnh và đưa tay chạm vào bức tường trong phòng nầy ; tôi đã có sự thức giác rằng , có sự cảm nhận khác nhau của hai cách xuất thần thức ( mental projection ) và xuất thể ánh sáng – Thể Vía ( astral projection ) ; trong sự cảm nhận của thể ánh sáng , thì khi tôi đưa tay chạm vào bức tường , những cảm giác của bức tường được chuyển gián tiếp về cho cơ thể vật chất và từ đó tôi có được sự cảm xúc giác nầy , còn trong cách xuất thần thức ( mental projection ) thì tôi trực tiếp có ngay được sự cảm xúc nầy , bởi lẻ thần thức của tôi đang ở nơi mà tôi đang xuất thần thức . Tôi thử dùng thần thức của tôi để nhìn thể ánh sáng của tôi đang ở trong phòng kia , thì tôi không nhìn được rỏ ràng , nhưng tôi có thể cảm giác được vị trí mà thể ánh sáng của tôi đang ở ; những cảnh vật chung quanh phòng , mà tôi nhìn thấy được từ trong thể ánh sáng nầy , thì tôi thấy được đầy đủ và rỏ ràng hơn là , khi tôi nhìn cảnh vật trong phòng , bằng phương pháp xuất thần thức . Tôi đưa thể ánh sáng của tôi đi đến tủ sách , để đọc sách , nhưng tôi không thể đọc được chữ và câu văn trong quyển sách , thay vào đó tôi có thể cảm nhận được nội dung của trang nầy nói gì , vì tôi chưa thực sự đọc qua quyển sách nầy , nên tôi không thể kiểm nhận được việc nầy có đ́úng không . Một việc khác xảy ra trong lúc đó là , tôi thấy có một ánh sáng màu đỏ đang toả sáng lên trong phòng , tôi tò mò nhìn ánh sáng đó một lúc , rồi tôi đưa thể ánh sáng của tôi trở về thể xác , bằng cách tưởng tượng thể ánh sáng màu bạc của tôi trở về̉ và từ từ nhập một lại với thể xác .

Có vài thắc mắt được nêu ra trong cuộc xuất thề̉ ánh sáng của hành giả nầy là :

1.- Tại sao sự cảm nhận của thể ánh sáng đối với cảnh vật chung quanh rỏ ràng hơn là sự cảm nhận của thần thức trong khi xuất thần ( mental projection ) ?

2.- Tại sao hành giả lại thấy một ánh sáng màu đỏ trong phòng trong khi xuất thể ánh sáng , mà thật ra trong lúc đó không có một ánh sáng nào trong phòng cả ?

3.- Tại sao thể ánh sáng không thể đọc những chữ và những câu trong quyển sách ?

Tất cả những thắc mắc nầy sẽ được giải đáp ở chương thứ 16 .

KINH NGHIỆM CỦA HÀNH GIẢ 2 :

Sau khi làm thư giản cơ thể theo cách hít thở năng lượng theo nhịp đã tập như trên ; tôi liền thực hành việc cho thể ánh sáng của tôi xuất ra khỏi thể xác . Tôi phóng thể ánh sáng của tôi ra kh̉i nhà và treo lơ lửng trên không của nhà tôi cao khoảng 185 m ; trên cao nhìn xuống , tôi có thể thấy những nhà hàng xóm ; sau đó tôi tôi lại phóng thể ánh sáng của tôi đi xa hơn nửa , rời khỏi thượng tầng khí quyển ; tôi có thể thấy được một vài phần của trái đất lấp lánh dưới ánh sáng của mặt trời , trong lúc nầy tôi thấy được lục địa Bắc Mỹ đang lấp lánh dưới ánh mặt trời .

Tôi có cảm nhận được một đám mây màu xám bao bọc lấy trái đất ; tôi tự hỏi đám mây nầy là gì thế ? Gần như một câu trả lời đã đến tức khắc với ý thức tôi , đến từ phía sau đầu của tôi : “ Đám mây đó là những tích tụ năng lượng âm tính ( negative mental energy ) được phóng ra trong nhiều năm bởi thể trí của con người và xả hội ; Những năng lượng xấu nầy sẽ tạo nên sự phá hoại hư hại và hủy diệt trong thiên nhiên , đồng thời nó gây nên sợ điên loạn và bệnh hoạn cho con người , cũng như nó bắt đầu xuất hiện và thâm nhập vào thế giới vật chất .Tôi còn có một cảm nhận khác , là hình như tôi đang quan sát và theo dỏi thể ánh sáng của tôi ở một nơi nào đó trong không gian , cách thể ánh sáng của tôi khoảng 6 m .

Sau đó , tôi quyết định trở về thể xác của tôi , bằng cách tưởng đến thể xác của tôi , thì ngay tức khắc , tôi đã về gần thể xác của tôi , sau đó , tôi mới cho thể ánh sáng của tôi từ từ nhập lại làm một với thể xác của tôi .

Hành giả nầy cho biết , mặc dù đã xuất thể ánh sáng ra ngoài thể xác , nhưng ý thức của hành giả vẩn còn ý thức được những hoàn cảnh xảy ra chung quanh thể xác , mặc dù thể ánh sáng đang đi đến một nơi khác ; hành giả nầy còn cho biết thêm , trong khi xuất thể ánh sáng đi ra ngoài , thì thể xác của anh ta cảm thấy tê rần và tràn đầy năng lượng đồng thời anh cảm thấy phía sau đầu hơi bị ép nhẹ , căng căng như bị ép vào . Ngoài ra , anh ta có một cảm giác lạ , hình như có một cái gì đó nhập vào thể xác của anh ta .

Trong lúc hành giả nầy xuất vía , tức xuất thể ánh sáng ra ngoài , thì hai mắt của hành giả nầy nhắm lại , và mắt luôn rung rộng liên hồi , đồng thời di chuyển từ trái sang phải và ngược lại .

Những thắc mắc được đặt ra trong cuộc thực tập của hành giả 2 là :

1.- Tại sao có câu trả lời đến với hành giả , khi hành giả đặt ra câu hỏi ? Có phải câu trả lời nầy là do tự tâm trí của hành giả trả lời hay không ? Hay là do một thực thể siêu linh nào đả dùng tha tâm thông ( Telepathy ) để trả lời cho hành giả ?

2.- Tại sao trong lúc xuất vía , hành giả lại bị căng thẳng , tưng tức ở phía sau đầu của mình ?

3.- Tại sao trong lúc xuất vía trong không gian , hành giả lại có thể quán sát những hoạt động của thể vía ở một vị trí gần thể vía ở trong không gian ?

4.- Tại sao trong lúc xuất vía ( thể ánh sáng ), thể xác của hành giả lại cảm thấy tê rần và tràn đầy sinh lực ?

5.- Tại sao trong lúc xuất vía , cặp mắt thịt của hành giả lại rung động liếc qua lại liên tục ?

6.- Tại sao trong lúc xuất vía , hành giả lại cảm thấy như có cái gì rời khỏi thể xác và lại nhập vào trở lại thể xác của hành giả , mà cảm giác nầy lúc trước hành giả không cảm thấy được ?

7.- Đám mây xám mà hành giả đã thấy là gì ? Đám mây xám nầy có thực hay không ? Nếu nó có thật , tại sao không nghe những nhà khoa học không nói đến ?

Tất cả những thắc mắc nầy sẽ được trả lời ở chương 16.

9.- Kỷ thuật phối hợp Thể Trí và Thể Ánh Sáng trong việc xuất Vía .

Các bạn đã học cách phóng xuất thể ánh sáng và thể trí một cách riêng biệt .

Nay các bạn sẽ học cách phóng xuất một lượt thể trí và thể ánh sáng thành một chỉnh thể hợp nhất .

Kỷ thuật nầy được thực hiện như sau :

a.- Ngồi xuống với một tư thế thoải mái .

b.- Bắt đầu từ bài tập hít thở năng lượng theo nhịp 4/6 như nêu ở trên , để an định tư tưởng và thư giản cơ thể .

c.- Bạn hảy phóng xuất thể ánh sáng của bạn với một hình dạng nào mà bạn thích với ánh sáng màu trắng , sang bên kia phòng .

d.- Kế đến bạn , phóng xuất thể trí của bạn ra khỏi cơ thể và đi nhập vào thể ánh sáng đang ở bên kia phòng , và hai thể nầy nhập lại thành một chỉnh thể .

Đây là kỷ thuật phối hợp Thể Trí và Thể Ánh Sáng trong việc xuất Vía .

e.- Sau khi bạn đang ở trong trạng thái phối hợp nầy rồi , thì bạn hảy di chuyển quanh phòng và hảy cảm nhận những vật chung quanh phòng . Sau đó bạn hảy cảm nhận và nhìn những vật chung quanh với những vị thế khác nhau như : Thả nổi lên trên trần nhà và nhìn xuống và cảm nhận các vật chung quanh với vị thế nầy ; sau đó , bạn hảy hạ xuống và nằm dưới nền nhà và nhìn lên cùng cảm nhận những vật chung quanh với vị thế nầy .

f.- Sau đó bạn hảy trở về cơ thể vật chất của bạn , bằng cách : đầu tiên , thể trí trở về trước và nhập một với cơ thể trước , xong rồi bạn hảy dùng tưởng tượng thể ánh sáng trở về , và được cơ thể vật chất , hút toàn diện thể ánh sáng nầy , vào trong cơ thể vật chất của mình .

Đầu tiên thì tập mang mổi thể , tuần tự trở về nhập lại làm một với cơ thể vật chất , khi khi đã quen và thuần thục rồi thì bạn có thể mang hai thể nầy , cùng về nhập vào cơ thể một lượt.

10.- Những trở ngại thường gặp trong việc xuất Vía .

Sau đây là những khó khăn , trở ngại mà bạn thường gặp phải trong lúc xuất vía ; có thể bạn chỉ gặp một hai trở ngại ở đây , giống như trở ngại của bạn và một số trở ngại khác không có nêu ra ở đây ; Tuy nhiên , mặc dù , bạn có gặp trở ngại gì trong lúc xuất vía đi nữa , thì thường xuyên qua thực hành thuật xuất vía , tất cả những trở ngại đó , bạn đều sẽ vượt qua dể dàng .

Khó khăn trở ngại 1 :Trở ngại đầu tiên là , trong lúc bạn xuất vía với mọi hình thức , trong lúc du hành , bạn không thể quay tròn trở lại 360 độ ; Có thể , bạn nhận thấy , trong lúc du hành một chiều , bạn chỉ có thể quay đầu trở lại , khoảng 270 độ mà thôi , mà không thể xoay thành một vòng tròn , điều trở ngại nầy , là do cơ thể vi tế của bạn bị hạn chế bởi sợi dây bạc KIM QUANG TUYẾN , điều nầy sẽ được nói rỏ hơn trong những khó khăn trở ngại tiếp theo .

Khó khăn trở ngại 2:Trở ngại thứ hai là , trong lúc xuất vía gần nơi cơ thể vật chất , bạn rất khó mà trụ thần thức vào đó , tức là chuyển ý và giử ý thức của bạn định vào cái vía ...Thí dụ , như lúc bạn xuất vía vào trong một vật thể đồ vật nào trong cùng một phòng với cơ thể vật chất của bạn , thì bạn sẽ nhận thấy , sẽ có sự dằn co giữa cơ thể vật chất và đồ vật mà bạn muốn chuyển di thần thức vào trong đó , trong sự dằn co nầy , bạn sẽ thấy cơ thể vật chất của bạn , hình như lúc nào cũng như một khối nam châm , luôn luôn hút chặc và thâu tóm lấy thần thức của bạn , trở về với cơ thể vật chất . Như thế, bạn đã thấy , rất khó mà có thể giử được , thần thức , ý thức của bạn để nằm ở ngoài cơ thể vật chất của bạn .

Để có thể , giữ được , thần thức , ý thức của bạn , nằm ở ngoài cơ thể vật chất trong lúc xuất vía , chống lại sức hút như nam châm của cơ thể , thì bạn cần thực tập và phát triển nhiều hơn nữa định lực của ý chí cùng sức mạnh của sự chú ý tập trung – Utilization of intense concentration and directed will – xuyên qua những bài tập nêu trên .

Ngoài ra , còn một cách để chống lại sức hút nam châm của cơ thể là bạn hảy gia tăng khoảng cách xuất vía đi xa hơn nơi cơ thể đang ở , vì khoảng cách gia tăng xa , thì sức hút nam châm của cơ thể sẽ giảm xuống thấp .

Trong lúc xuất vía như vậy , bạn có thể có một mối lo sợ và lòng hồ nghi nẩy sinh ra , như là thần thức của bạn có thể đi luôn mà không trở về thể xác nữa , gọi nôm na là mất hồn hay là siêu hồn lạc vía ; Nhưng bạn nên biết rằng , xuất thần thức ra ngoài thể xác , còn khó hơn nhiều là trả thần thức trở về với thể xác ; vì sự dằn co giữa thể xác và giữ thần thức ngoài thể xác trong cái vía qua trung gian nối liền hai thể nầy với sợi dây bạc KIM QUANG TUYẾN – THE SILVER CORD , vì luôn có sự nối liền của sợi dây bạc nầy ; do đó , thần thức của bạn rất khó mà bị bay đi mất trong không gian nhiều chiều vô tận hay bị bỏ rơi nằm ngoài thể xác được .

Một sự thật là , khi thể xác của bạn hành xử giống như một khối nam châm và bạn cần phải dùng đến một định lực và một ý chí mạnh mẻ để xuất vía và giữ những thể vi tế cùng thần thức của bạn ra ngoài thể xác của bạn , thì một khi bạn lơ là hay lúc bạn không còn tập trung định lực và sự chú ý trong lúc xuất vía nữa , thì ngay tức khắc , trong tất cả mọi trường hợp , ý thức và thần thức của bạn sẽ trở về thể xác của bạn ngay lập tức .

Khó khăn trở ngại 3 : Điều trở ngại thứ ba là , mặc dù các thể vi tế của bạn được cấu tạo với sự rung động năng lượng ở tần số cao , bạn có thể đi xuyên qua bất cứ những chướng ngại vật chất nào , như cửa bị đóng lại , hay tường thành ngăn chận ; nhưng một đôi khi , bạn thấy là bạn không thể đi xuyên qua được cánh cửa bị đóng hay không thể đi xuyên qua một bức tường nào đó ; thì bạn nên biết rằng những nơi nầy đã bị những người khác dùng quyền năng để tạo một loại năng lượng nào đó , để ngăn cản không cho người khác xuất vía để đi vào , nói nôm na theo từ ngữ bình dân , thì những nơi nầy đã bị ếm hay đã bị trấn yểm rồi ...

Một cách hóa giải thông thường nhất , là bạn chỉ cần xoay người lại và đi ngược vào , thì bạn có thể đi vượt qua những chướng ngại đó , lúc đi trở ra bạn cũng phải xoay ngược lại để đi trở ra , hành động xoay trở người của thể vía lại , là để làm thay đổi cực âm dương của thể vía – The act of turning the astral or the mental body’s around change the astral or the mental body’s energy polarity , so there is no longer any resistance .

Khó khăn trở ngại 4 : Điều trở ngại thứ tư là , trong khi bạn xuất vía hay xuất hồn , có khi bạn không còn nhìn thấy thể xác của bạn nữa , bạn đừng nên lo sợ , vì bạn đang ở trong thể vía, thì những năng lực cảm nhận và sự phản chiếu ánh sáng lên mọi vật đều thay đổi , tùy theo cảnh giới của nó , và lúc đó bạn nhìn sự vật với các giác quang vi tế – Psychic sense - của các thể mà bạn đang trụ vào đó ; do đó, sự không nhìn thấy và sự biến mất thể xác của bạn , hiện nay đối với cái nhìn của bạn trong thể vía chỉ là một ảo giác mà thôi , thật sự thể xác của bạn vẩn còn nằm đó , ở trong cảnh giới vật chất mà bạn thường sinh sống thường ngày .

Khó khăn trở ngại 5 : Điều trở ngại thứ năm là , trong lúc thực hành xuất vía , đôi khi bạn nhìn thấy thể vía của bạn khác với cái nhìn từ thể xác của bạn , điều nầy xảy ra là vì bạn nhìn thể vía – astral body - của bạn bằng giác quan và vị trí của thể trí – mental body – Điều nầy không quan trọng , điều quan trọng là ở dưới mọi hình thức nào , bạn có thể thâu thập và thâu nhận được nhiều tin tức thông tin về cho bạn là được .

Qua nhiều lần thực hành thuần thục , bạn có thể xuất vía đơn thuần hay xuất vía hổn hợp tùy ý thích , xuyên qua thực hành liên tục , bạn có thể xử dụng nhuần nhuyển những kỷ thuật xuất vía đa dạng , cho nhu cầu cá nhân của bạn , và bạn sẽ tìm ra cùng lý giải những hiện tượng dị thường , mà trong lúc sinh hoạt trong thể xác bình thường , bạn không thể nào lý giải được .

11.- Sợi Chỉ Bạc – Sợi Kim Quang Tuyến .

Sợi chỉ bạc nầy , nó giống như cuốn rún của thai nhi , nó nối liền thể vía và thể trí với thể xác lại với nhau , sợi chỉ bạc nầy rất khó trông thấy ; Có người tuyên bố rằng , trong lúc xuất vía , họ không bao giờ trông thấy sợi chỉ bạc nầy , nên họ không tin sự tồn tại của nó , có những người khác trong đó có tôi , trong nhiều lần xuất vía , thỉnh thoảng chúng tôi trông thấy sợi dây nầy . Tuy nhiên có trông thấy hay không , thì việc nầy không quan trọng ; việc quan trọng là sợi chỉ bạc nầy , có ảnh hưởng và tác động đến quá trình sanh tử của chúng ta .

Trong tất cả những tôn giáo cổ xưa , đều xem cơ thể của con người là ĐỀN THỜ TRÚ NGỤ CỦA CHÂN THẦN ( THE TEMPLE OF THE SOUL ) nói một cách khác , cơ thể của con người là một nơi chứa đựng các thể khác nhau của thần thức ( The inner bodies of consciousness ).

Cơ thể vật chất của con người , được cấu tạo do những hạt nguyên tử năng lượng , có mức độ rung động chậm và nó cần có sự tiếp tế của những loại năng lượng cao hơn , để có thể duy trì sự sống và thăng bằng tốc độ rung động của nó ; nó cần năng lượng của sinh lực khí prana và những loại năng lượng cao hơn nầy , được thể vía cùng thể trí điều động và cung cấp . Nếu không có năng lượng tuôn chảy xuống từ các cỏi bên trong , thì cơ thể vật chất không thể nào tồn tại được . Sự sống là năng lượng và sự chết là sự thiếu vắng của năng lượng . LIFE IS ENERGY AND DEATH IS THE ABSENCE OF IT .

Sinh lực khí prana được chuyền qua cơ thể vật chất qua sợi chỉ bạc , nếu sợi chỉ nầy bị đứt , thì cơ thể vật chất sẻ bị chết ; đương nhiên sự chết ở đây chỉ nói đến sự chết của cơ thể vật chất , giống như người ta bỏ đi một chiếc áo đã củ và những thể cao hơn bên trong của con người vẩn luôn bảo toàn được toàn bộ năng lượng của nó và luôn trường tồn .

Thần thức của chúng ta là một loại năng lượng , và theo luật bảo tồn năng lượng - Conservation of Energy Theory : NĂNG LƯỢNG THÌ KHÔNG PHẢI ĐƯỢC TẠO RA , CŨNG NHƯ KHÔNG PHẢI BỊ TIÊU DIỆT , MÀ NĂNG LƯỢNG CHỈ LÀ MỘT SỰ CHUYỂN HÓA MÀ THÔI – ENERGY IS NEITHER CREATED NOR DESTROYED , BUT IS TRANSMUTED . Như vậy , thần thức của chúng ta không bao giờ chết , mà thần thức chỉ thay hình đổi dạng mà thôi . Đó là luật luân hồi – tái sinh .

Khi sợi chỉ bạc bị đứt , thì năng lượng prana không còn cung cấp cho cơ thể vật chất nửa , thì nó sẻ tan ra , như thế nó sẽ phóng thích các thể năng lượng thần thức bên trong ra ngoài ....

Những lo sợ vô cớ của một số người trong khi xuất vía :

Một số người cho rằng sợi chỉ bạc nầy rất dể bị đứt vì nó rất mỏng manh và yếu ớt . Nhưng theo kinh nghiệm xuất vía của bản thân và của nhiều người , thì sợi chỉ bạc năng lượng nầy rất chắc và rất mạnh ; một số khác cho rằng trong lúc xuất vía , nếu bất ngờ bị ảnh hưởng chấn động của một tiếng động hay tiếng nổ lớn , thì sợi chỉ bạc sẽ bị đứt và con người sẽ bị chết dưới hình thức bị đau tim - heart attack, hay những hình thức tương tự như khủng hoảng tinh thần ....Thật ra , theo kinh nghiệm của nhiều người , trong lúc xuất vía , thì khi gặp trường hợp nầy , thần thức của ta sẽ nhập về thể xác ngay tức khắc , trường hợp cảm giác nầy củng giống như lúc ta chợt tỉnh dậy , trong cơn nằm mơ ác mộng , thì ta rung sợ và chợt tỉnh tức khắc . Nếu trường hợp , ác mộng nầy xảy ra , thì bạn cố nhớ lại những gì đã xảy ra và kinh nghiệm lại trước giây phút tỉnh giấc đó , hình như có một cái gì va chạm và đụng vào , củng như nhảy trở lại , đi vào thể xác vật chất của bạn ; nếu bạn nhận thức được cảm giác nầy , thì đó là thể vía hay thể trí của bạn đả tự động bay trở về nhập một với thể xác , không qua sự kiểm soát thần thức của bạn .Vì sự sợ hải , mà thể vía và thể trí đả bị kéo về thể xác một cách đột ngột vậy .

12.- Kỷ thuật liên lạc với Nguyên Thần .

Đây là kỷ thuật giúp hành giả liên lạc vớiNguyên Thần ( Higher Self ) , còn được các nền văn minh và xả hội khác gọi là Thần Hộ Mạng ( The Holy Guardian Angel ) .

MỤC ĐÍCH LIÊN LẠC VỚI NGUYÊN THẦN :

Liên lạc với Nguyên Thần có nhiều mục đích : Mục đích quan trọng nhất là khi hành giả đi đến cảnh giới của Nguyên Thần và nhập một với Nguyên Thần , rồi từ cảnh giới đó , hành giả có thể cảm nhận và trông thấy mình nằm ngoài cuộc sống của bản thân như một chỉnh thể thiêng liêng độc lập ; và từ đó hành giả có thể bất ngờ thấy được lý do tại sao khuôn mẩu sinh hoạt , cuộc sống của mình tại thế gian lại xảy ra như vậy ?

Thí dụ : như một người bị bệnh suy nhược cơ thể hay tàn tật , nếu nhìn ở một góc độ phàm nhân thì là một điều đáng buồn , nhưng nếu nhìn từ góc độ của nguyên thần , thì đây là một cơ hội may mắn , để người đó có cơ hội , nhờ tiếp xúc với thế gian , với tình huống khó khăn đó , sẻ giúp cho anh ta phát triển một khả năng tinh thần mới và một tánh hạnh tốt ...

Có những khó khăn trong cuộc sống tại phàm trần không thể giải quyết được , thì những khó khăn nầy với cái nhìn ở cảnh giới và góc độ của Nguyên Thần , thì những khó khăn nầy sẽ giải quyết được một cách dể dàng .

Thí dụ , như hành giả có một vấn đề khó xử , hành giả đơn giản chỉ cần phóng xuất thần thức của mình lên trên cao , sâu tận trong không gian , ngay tức khắc hành giả sẻ cảm thấy trái đất rất là nhỏ bé , nếu đem so sánh với vũ trụ mênh mông , tương tợ như thế sự khó khăn hay các vấn đề khó xử của hành giả cũng nhỏ nhoi như thế , nếu đem so sánh với mục đích tiến hóa thiêng liêng của linh hồn ; thêm vào đó, hành giả liên lạc với nguyên thần của mình để tìm sự chỉ dẩn và phương hướng để giải đáp vấn đề ...

Phương pháp liên lạc với nguyên thần :

- Hành giả điều chỉnh hơi thở của mình theo nhịp thở , của những bài tập trước , khoảng 10 phút ; Sự lập lại liên tục của quá trình thở theo nhịp , có tác dụng làm an định tư tưởng cho hành giả , ngoài ra nhờ cách thở nầy, nó làm tăng thêm năng lượng cho thần thức , tức tăng năng lượng , là nâng cao tầng số rung động của thần thức lên một cấp độ cao hơn.

- Hành giả tưởng tượng ( Visualize ) thần thức của mình trở thành một quả cầu sáng trắng , khoảng 16 cm ; đây là thức hồn thể vía của hành giả ( Astral consciousness ) ; sau đó , cho quả cầu nầy bay lên cách khỏi đầu của hành giả khoảng 30 cm ; ngay tức khắc hành giả sẽ có cảm giác như đang bay bổng .

- Hành giả ( hiện là quả cầu sáng trắng ) đang bay bổng lên không gian , bay xuyên qua trần nhà , bay xuyên qua nóc nhà và bay lên không , bay cao cách mặt đất chừng vài trăm mét ; hành giả hảy tạm ngừng lại và thử nhìn xuống , hảy cảm nhận cảnh vật làng xóm của mình như thế nào ; hảy xoay chung quanh và nhìn khắp mọi hướng , xem cảnh vật ở mổi hướng khác nhau thế nào .

Thí dụ : Ở hướng đông hành giả trông thấy cây cần trục

xây nhà , ở hướng tây hành giả trông thấy cây ang ten to

lớn của đài phát thanh ....

- Hành giả tiếp tục bay lên cao , ra khỏi thượng tầng khí quyển , hành giả có thể tạm ngừng lại nhìn quanh trái đất , sau đó hành giả tiếp tục bay lên cao , đi sâu vào không gian ; sau khi hành giả đả đi sâu vào không gian , hành giả hảy chọn một điểm trong không gian , và hành giả hảy trụ tại đó ; bây giờ , hành giả hảy nhìn chung quanh mình , hành giả có thể chỉ nhìn thấy chung quanh mình tối đen , hoặc hành giả có thể nhìn thấy nhiều sao trời lấp lánh quanh mình , hoặc nhìn thấy nhiều màu sắc khác nhau và nhiều ánh sáng chói lọi ; cho đến , có khi hành giả có thể trong thấy những tinh linh hay những vong linh quanh mình ( Beings and Entities ) . Hành giả hảy đừng bận tâm và đừng ngạc nhiên chú ý làm gì những việc nầy , hảy bỏ mặc chúng nó . Hiện giờ , hành giả là một linh thể ở giữa vũ trụ .

- Trong lúc nầy , hành giả có thể tiêu cực , suy nghĩ hoặc nói to lên rằng : hành giả mong muốn gặp được Nguyên Thần của mình , mong nguyên thần hảy hiện ra cho hành giả trông thấy ; Ngay trong lúc nầy , có thể đột nhiên hành giả thấy được một hình ảnh hiện ra trong trí của mình , một thiên thần hay một đấng thiêng liêng có hình dạng của con người , hay hành giả có thể thấy được nhiều hình dạng hình học , kỷ hà , màu sắc hay năng lượng , hoặc đôi khi hành giả thấy hình dạng một con thú hiện ra trong trí của mình ( Nếu nguyên thần của hành giả muốn hiện ra dưới hình dạng đặc biệt , không câu nệ hình dáng bề ngoài ).

Trong nhiều trường hợp , hành giả nhận được một câu trả lời , đột xuất lóe lên từ trực giác , cho một nan đề nào đó trong cuộc sống . Và có thể , hành giả không cảm nhận hoặc không trông thấy gì cả , nhưng hành giả nên biết rằng , như vậy không có nghĩa là hành giả không liên lạc được với nguyên thần của mình , mà thay vào đó , hành giả đã hòa nhập làm một với nguyên thần rồi vậy .

- Hay là tích cực , hành giả hảy yêu cầy nguyên thần của mình hảy hiện ra với hình thể của một quả cầu lớn màu vàng bằng hình kích thước của mặt trời ( Tức hành giả hảy tưởng tượng ra hình cầu vàng nầy và yêu cầu nguyên thần của mình hảy hiện ra với hình thể nầy ) , hành giả làm như vậy , là hành giả đã chọn một hình thể theo ý của mình ưa thích , để nguyên thần có thể mang hình thể đấy để hiện ra ; giống như mình đổ nước vào ly , nước không có một hình thể nào nhất định , mà nước sẽ mang hình dạng của vật chứa nó mà thôi .

- Khi hành giả đả tưởng tượng và chọn hình dạng nầy rồi , hành giả hảy phóng mình vào một hình dạng nầy , và cảm thấy mình đang được nằm trong đó và trở thành một với năng lượng nầy ; ngay từ lúc nầy hành giả đã nhập làm một với nguyên thần ; Ngay trong vị thế nầy , hành giả có thể đặt những câu hỏi liên quan đến cuộc sống và ở đây hành giả sẽ có câu trả lời hay những giải pháp cho những nan đề của cuộc sống .Hành giả có thể hỏi nguyên thần để hướng dẩn , hoặc chỉ dẩn cho hướng đi và mục đích đúng trong cỏi phàm trần của mình .

- Hành giả có thể ở lại với Thiên Thần ( Angel ) của mình bao lâu tùy ý thích ; cho đến bao giờ hành giả muốn trở về trái đất , thì hành giả chỉ cần tách mình ra khỏi quả cầu vàng và trở về với quả cầu trắng sáng 16 cm lúc trước của mình , sau đó hành giả trở về trái đất , trở về quốc gia cư trú của mình , trở về làng xóm của mình, trở về nơi nhà của mình , cuối cùng trở về nhập làm một với thể xác của mình , với một ý thức sáng suốt và tỉnh táo và khõe mạnh .

- Như vậy là hành giả , vừa hoàn tất xong kỷ thuật thức giác trên cỏi nguyên thần rồi vậy ( Soul level awareness ) .

14.- Những hiện tượng lưu ý trong khi xuất Vía .

( Liên lạc với nguyên thần )

Lưu Ý 1 :

Điều đầu tiên , khi hành giả quán tưởng ( Visualizing ) là thần thức của hành giả đang ở cảnh giới của cỏi vía và hành giả đang thức giác , ở sự hiểu biết thuần khiết ở cỏi vía của hành giả .

Trong những kỷ thuật dùng để liên lạc với nguyên thần , hành giả đã thực sự du hành trong sự kết hợp giữa cái vía và cái trí , bởi vì lúc đó hành giả đả đặt cái trí của mình vào trong một quả cầu màu trắng , mà quả cầu trắng là do chất liệu tinh hoa của cái vía tạo thành .

Lưu ý 2 :

Lý do , tại sao hành giả phải ngừng lại nhiều lần tại những chổ khác nhau , khi đang bay lên khỏi trần nhà và lên cao vào không gian ; vì khi bay lên cao , hành giả phải ngừng lại nhiều lần tại những chổ khác nhau , để giúp cho hành giả làm quen với sự thay đổi năng lượng khác nhau của mổi vị trí khi du hành . Vì tất cả những cấu trúc đều có một hình dáng ( a form ) và tất cả những hình dáng , đều có một tinh thần thiêng liêng bên trong vô hạn ; Do đó , khi hành giả càng bay lên cao và hành giả càng hít thở năng lượng prana càng nhiều , thì tinh thần bên trong của hành giả sẽ nâng cao toàn bộ năng lượng của toàn thân của hành giả , và hành giả sẽ cởi bỏ lại các lớp áo của các thể có năng lượng rung động chậm chạp của bản ngả , thể xác, thể phách ở lại các cỏi của nó .....để hành giả có thể lên đến cỏi nguyên thần . Vì những thể thấp của bản ngả , cá nhân ...là một cấu trúc , mà hành giả đã dùng để làm phương tiện , mà liên lạc với cỏi vật chất ở trái đất , và liên lạc ở các cỏi khác nhau ở cỏi vía ...

Lưu ý 3 :

Khi hành giả mong muốn gặp được Nguyên Thần của mình xuất hiện , tức là hành giả đã bắt một chiếc cầu liên lạc với nguyên thần của mình rồi vậy , cũng như khi hành giả nghỉ đến một người hay một cảnh vật nào đó , tức là hành giả đả bắt được một chiếc cầu tâm linh ( psychic inner plane link ) liên lạc với người đó rồi vậy . Ngay cả , hành giả có thể liên lạc với một người nào đó , mà hành giả chỉ có biết tên của người đó mà thôi , bởi vì tên của người đó đã ( linked ) dính liền với các thể bản ngả và tâm linh của người đó vậy .

Lưu ý 4 :

Khi hành giả nhận được một hình ảnh nào của nguyên thần hiện ra cho hành giả thấy , thì tức là nguyên thần đã hiện ra trong cảnh giới của thể vía để cho hành giả trông thấy . Cũng như , khi hành giả nhận được một chữ hay một câu nói hay một tư tưởng nào của nguyên thần , tức là nguyên thần đã được biểu hiện , thông ngôn ra trong cảnh giới của thể trí để cho hành giả hiểu biết vậy .

Lưu ý 5 :

Thần hộ mạng ( Guardian Angel ) hay nguyên thần , chính là bản thân của hành giả ; có khi nó xuất hiện như là một thể thiêng liêng độc lập với bản ngả của hành giả ; Ảo giác nầy xuất hiện , lý do là ở những cỏi dưới , những cỏi giới thấp hơn cảnh giới nguyên thần , con người thường có cảm tưởng , hình như mình biệt lập với tất cả mọi vật chung quanh . Khi ở cỏi hạ trí , con người nghỉ mình ở dưới dạng “ Tôi đang ở đây hoặc hắn ở đó , đó là quyển sách , đó là cái bát “ , con người chỉ nghỉ đến những cái khác nhau .

Tương phản lại , tất cả mọi vật đều được kết hợp lại và được hợp nhất ở cỏi nguyên thần . Do đó , ở cỏi nguyên thần , hành giả được hợp nhất với nguyên thần và hành giả trở thành nguyên thần . Còn nếu như hành giả không lên được cỏi nguyên thần và nhập một với nguyên thần , thì nguyên thần sẽ hiện ra cho hành giả thấy biết ở những cỏi của thể vía hay thể trí vậy .

Lưu ý 6 :

Hành giả có thể cảm thấy , hồ hởi , phấn khởi hoặc thường tịnh an lạc , sau khi trở về từ cảnh giới của nguyên thần .

Lưu ý 7 :

Trực giác là một phương tiện mà nguyên thần , linh hồn hay thần hộ mạng dùng để liên lạc với hành giả , con người cầu nguyện thượng đế hay một đấng thiêng liêng nào đó , khi gặp những nan đề trong cuộc sống , thì đột nhiên một ý tưởng hay một câu trả lời hay một giải pháp nào đó lóe lên trong tâm nảo của họ , thì họ nghỉ rằng thượng đế đã liên lạc với họ ; Nhưng thực ra , thượng đế đó chính là nguyên thần của họ vậy.

Trong thời thượng cổ , thượng đế được hiểu như là đại vũ trụ , thì nguyên thần của con người cũng là một đại vũ trụ , thượng đế biết tất cả mọi việc , thì nguyên thần của con người cũng hiểu tất cả mọi việc . Khi con người có được một câu trả lời từ thượng đế , thì tức là con người đã được câu trả lời từ nguyên thần ( God-self ) của mình vậy .

Lưu ý 8 :

Tiếp tục thực tập kỷ thuật liên lạc với nguyên thần sẽ mang hành giả đến lảnh vực nguyên thần và cho đến một lúc nào đó , hành giả sẽ là tất cả NHƯ NHƯ . Ở lảnh vực cá nhân và bản ngả thấp thỏi , trí năng lý luận , tất cả đều thăng hoa , không một từ nào có thể diển tả được cảnh giới của nguyên thần , vì nó vượt khỏi mọi quan niệm và lý luận thấp thỏi .

Một khi hành giả đả đạt đến cảnh giới nguyên thần , thì hành giả sẽ có được một sự hiểu biết sâu xa về bản ngả của mình , mà trước đó hành giả không thể nào biết được .

14.- Những hiện tượng lưu ý trong khi xuất Vía .

Một câu hỏi thường được đặt ra trong khi xuất vía hay xuất thần trí là : Làm sao hành giả biết được là hành giả thực sự xuất thần trí của hành giả ra ngoài thân thể .

Câu trả lời thứ nhất nằm trong những khó khăn mà hành giả gặp phải trong lúc xuất thần trí ra ngoài đã được đề cập ở các chương trước .

Câu trả lời thứ hai là những cảm nhận của cơ thể vật chất có được trong lúc xuất vía .

Khi hành giả thực hành xuất vía trong khoảng thời gian dài hơn 5 phút, cơ thể hành giả có được một sự cảm nhận như bị kéo ra hay bị căng ở vài nơi , phía sau đầu của hành giả ; những vùng khác có được những cảm giác tương tự như ở vùng trán , hai bên thái dương và giữa hai chân mày huyệt ấn đường ; có khi có cảm giác bị đẩy hay kéo tại tùng thái dương - solar plexus – giữa ngực , cảm giác căng thẳng nầy giống như một sự rung động hay là tê rần trong cơ thể và cơ thể có được cảm giá thoải mái và tràn đầy năng lực ; Cảm giác căng kéo nầy do sự co thắt của sợi dây Kim Quang Tuyến - The Astral Cord nối liền thể vía và cơ thể vật chất . Khi hành giả thực hành xuất vía trong một thời gian dài , thì cơ thể vật chất sẽ thu hút được nhiều năng lượng cuả vũ trụ , và được truyền về qua sợi dây Kim quang Tuyến , hay sợi dây bạc nầy .

Hành giả nên nhớ rằng , việc xuất vía là một trạng thái của một sự rung động của ý thức ở cảnh giới cao và thần thức càng ở cảnh giới cao thì cành cần nhiều năng lượng , và càng nhiều năng lượng được cung cấp thì thần trí sẽ giữ được trạng thái xuất thần lâu hơn .

Hầu hết những hành giả , mới lần đầu làm quen với thuật xuất vía , đều không có sự tin tưởng rằng mình thực sự xuất vía ; Vì việc xuất vía đòi hỏi một sự quán tưởng và tưởng tượng để phóng xuất thể vía ra khỏi cơ thể , nên thông thường mọi người đều nói : Làm sao mà tôi biết được là tôi đã thật sự đã xuất vía hay đó chỉ là một sự tưởng tượng ảo trong đầu mà thôi ?

Và câu trả lời , thật sự đó là một sự tưởng tượng của hành giả , như đã nhiều lần đề cập ở các chương trước ; Sự tưởng tượng không phải là ảo giác hay là ảo tưởng , mà sự tưởng tượng là một năng lượng thực sự – real force - tất cả mọi việc đều thông qua năng lực và năng lượng của sự suy nghỉ và tưởng tượng .

Sự tưởng tượng là một thuộc tính của cỏi vía , mổi lần ta tưởng tượng hoặc tạo ra một hình ảnh trong trí nảo, là ta đã xử dụng thể vía của ta rồi đó .

Nhiều người khi muốn suy nghỉ , muốn đi đến một nơi nào , như muốn đi thăm một người bạn , thì hình ảnh của người bạn đó liền hiện ra trong tâm trí của họ , thấy được người bạn nầy đang làm việc nhà . thì người nầy liền gọi điện thoại đến thăm hỏi người bạn nầy , thì thấy người bạn nầy đang làm việc , mà họ vừa thấy được trước khi gọi điện thoại . Nhưng những sự việc như vậy xảy ra thông thường không được lần nào cũng trúng 100% ;

Câu trả lời của việc nầy là , sự thấy của thể vía lúc nào cũng đúng , và sự đúng và chính xác của thể vía , là sự thấy đúng của thể vía , thấy được sự việc xảy ra trên cỏi vía mà thôi .

Ta nên nhớ rằng , theo luật của đẳng cấp – The Law of Hierarchy – Mổi cỏi giới đều có một sự tồn tại thực sự của nó , và mổi cỏi giới đều có những thể tương ứng hoạt động trong cỏi của nó ; như thể xác sinh hoạt trong cỏi vật chất , thể vía sinh hoạt trong cỏi vía , thể trí sinh hoạt trong cỏi trí ........Điều nầy không phải là ta không thể dùng những thể có sự rung động cao hơn , để đi khám phá tìm hiểu cảnh giới của những cỏi thấp hơn , nhưng kết quả sẽ chính xác hơn , khi ta dùng thể vía để khám phá những hiểu biết của cỏi vía .

Thí dụ như ta xuất vía đi đến nhà một người bạn , thấy người bạn nầy đang đọc sách hay tập thể thao , nhưng sau khi kiểm chứng lại với người bạn nầy thì thấy những dử kiện thấy được ở cỏi vía là sai , thì ta nên biết rằng khi ta xuất vía thì ta chỉ thấy được thể vía của người bạn nầy đang làm việc gì đó ở cỏi vía của họ mà thôi , chớ không phải người bạn nầy đang làm việc đó ở cỏi vật chất với cơ thể vật chất của họ .

Để cho sự việc rỏ ràng hơn về vấn đề nầy , một việc xuất vía cụ thể là : khi tôi đang đánh máy cho một quyển sách mới , tôi đã đánh như vậy trong khoảng thời gian hơn 5 tiếng đồng hồ ; lưng của tôi cảm thấy hơi đau , tôi quyết định đi nghỉ ngơi , tôi đi sang một phòng khác và bắt đầu xem một chương trình của truyền hình , khi chương trình nầy chấm dứt , trong đầu của tôi có một sự xung đột của hai tư tưởng , một là muốn đi trở lại bàn đánh máy để đánh phần còn tiếp của quyển sách ; hai là tôi muốn đi nghĩ ngơi cho khõe . Trong lúc đó , có một người bạn mới thực tập thuật xuất vía , gọi điện thoại đến , để hỏi tôi về kết quả việc vừa xuất vía của anh ta có chính xác hay không , anh ta nói rằng anh vừa có một hình ảnh cảm nhận được trong lúc xuất vía là tôi đang ngồi đánh máy , có đúng không ; nhưng thực tế là lúc đó thể xác của tôi đang ngồi ở một phòng khác và đang xem tv ; thực tế là trong lúc đó có một sự lưởng lự giữa hai tư tưởng trong đầu về việc muốn đi nghĩ ngơi hay muốn trở lại đánh máy ; như vậy , thực sự người bạn nầy đã trông thấy thể vía của tôi đang hoạt động hơn là trông thấy thể xác của tôi đang làm gì , vì tư tưởng và ý muốn quay trở lại để đánh máy có khuynh hướng và năng lực mạnh hơn là ý muốn đi nghĩ ngơi , nên thể vía của tôi đã tách rời khỏi thể xác của tôi , và lúc đó người bạn nầy đã trông thấy tôi đang ngồi đánh máy trong cỏi vía , như vậy là sự trông thấy của anh ta thấy tôi đang ngồi đánh máy là đúng chính xác .

Do đó , nếu ta tạo ra một tư tưởng hay một hình ảnh nào đó trong óc , nói cách khác là ta suy nghỉ về một sự việc gì đó , trong một thời gian dài và cứ giữ mải sự suy tư hay hình ảnh đó , lâu trong đầu óc của ta , thì nó sẽ đi xuyên qua cỏi vía để trở thành hiện thực trong cỏi vật chất ; và trong một trường hợp khác , người ngoài có thể thu nhận và cảm biết được những hình ảnh hay những suy tư suy tư chính xác thuộc thể vía của ta đang hoạt động , mặc dù những sự việc đó chưa hình thành ra cỏi vật chất và chưa được thể hiện ra cỏi vật chất , vì lúc đó , thực sự chính xác là thể vía của ta đang hoạt động và sinh hoạt trên cỏi vía vậy .

Có nhiều người hoàn toàn không ý thức được những dòng tâm thức nào đang trôi chảy qua tâm nảo của họ , do đó họ không đồng ý với những thông tin mà nhà ngoại cảm nói với họ , thí dụ như một người đang xem quảng cáo du lịch của một hảng hàng không trên tv , và sự việc nầy tạo ra một dòng tư tưởng thoáng qua rất nhanh trong tâm nảo của họ , là họ đang nằm thoải mái nghỉ mát thư thả tại một bải biển nào đó ở Hạ Uy Di , nhưng họ không nghỉ rằng họ có sự suy nghỉ đó , vì nó chỉ là những tư tưởng suy tư biến hiện nhanh chóng trong tâm nảo của họ mà thôi , và trong lúc đó , một nhà ngoại cảm bắt được tín hiệu và hình ảnh là người đó đang đi du lịch và đang nghỉ ngơi thoải mái tại một nơi nào đó ; Như vậy , sự thấy được của nhà ngoại cảm đối với những hoạt động của người kia là đúng hay sai ? Nhà ngoại cảm có thể sai , khi nào yếu tố hiện thực sinh hoạt của cỏi vật chất được đề cập đến , nhưng nhà ngoại cảm sẽ đúng , khi hiện thực sinh hoạt của những thể tương ứng với những cỏi khác được đề cập đến .

Một điều lý thú là , nếu một người giữ mải một tư tưởng nào đó trong tâm trí trong một thời gian dài , thì nó sẽ trở thành hiện thực trong cuộc sống , vì những tư tưởng bạn suy nghỉ hôm nay nó sẽ là hiện thực của bạn trong tương lai , như vậy nếu bạn thay đổi những suy nghĩ của bạn theo đường lối mới thì nó sẽ làm thay đổi bạn trong tương lai ; không có một khuôn mẩu , một mẩu mực hay một số mạng nào , trong cuộc sống định sẳn cho bạn cả , mà bạn là người duy nhất , có toàn quyền quyết định lấy số mạng của bạn , đồng thời bạn cũng có thể làm thay đổi số mạng của mình , bằng cách thay đổi đường lối suy tư và nâng cao trình độ ý thức của mình ; cổ nhân thường nói : Vạn Pháp Duy Tâm Tạo - Tướng Tại Tâm Sinh , Tâm diệt thì tướng diệt – Sự giác ngộ được , chân như vạn hữu như lai , thì sẽ không còn sự khổ đau nữa - Sanh mệnh tại ngã , bất tại thiên ..... Định lực của thiền quán cao và thức giác của trí tuệ cao sẻ giúp ta ung dung tự tại khắp các cỏi ta bà và tam thiên đại thiên thế giới ......

Do đó , sự tiên liệu dự đoán của ngày hôm nay sẽ đúng cho ngày hôm nay , và nó sẽ đúng cho tương lai khi nào ta vẩn còn giữ được sự suy nghĩ và ý muốn đó .

Một câu hỏi được đặt ra là , khi ta xuất vía thì làm sao ta biết được là ta đang ở thể xác hay là đang ở thể vía , câu trả lời là nhờ trực giác – intuition – mà ta biết được điều nầy .

Lúc nào , ta có được một sự cảm nhận đầu tiên đến với ta , là một sự cảm nhận chính xác nhất , sự cảm nhận thứ nhì đến với ta , thì sự cảm nhận nầy thường không chính xác , vì sự cảm nhận nầy thường đã bị đầu óc phân tích phức tạp phàm trần chi phối và bẻ sai lệch , nên không còn chính xác nữa . Thí dụ , khi ta đi thăm đi thăm một người bạn , và ở thể vía của ta đầu tiên có thấy được người nầy đang ngồi trong phòng xem tv , nhưng đột nhiên , một cảm nhận khác là người nầy hiện không có ở nhà , như vậy cảm nhận nào là đúng ? Nhiều người cho là cảm nhận đầu tiên là đúng , còn cảm nhận thứ nhì là đã bị bẻ cong qua sự tham dự của óc suy luận phân tích của trí nảo phàm trần .

Để kiểm nhận việc nầy , ta cần liên lạc với người bạn nầy để tìm ra người nầy đang ở đâu và đang làm gì , cũng như trong lúc đó , người nầy đang suy nghỉ về việc gì , nhiều khi họ không nhớ được chính xác , những gì họ vừa suy nghỉ trên cỏi vía .

Do đó, hành giả nên có một quyển nhật ký , còn gọi là The book of shadow , trong đó ghi lại tất cả những kinh nghiệm cùng những khó khăn thường gặp phải trong khi xuất vía , việc nầy sẽ giúp cho hành giả , có được nhiều kinh nghiệm quí giá , trong việc xuất vía cùng sự tiến bộ của mình , và nó sẻ trở thành một quyển sách tham khảo bí mật của hành giả .

Như vậy , khi hành giả trong lúc thực hành xuất vía , hành giả sẽ gặp những trường hợp khó khăn tương tự , đã từng xảy ra trong quá khứ , hành giả có thể tham khảo lại quyển nhật ký tu tập nầy , để so sánh cùng loại khó khăn đó đã xảy ra trong quá khứ , cùng cách giải quyết những khó khăn nầy trong lúc đó như thế nào , hành giả có thể xét lại cách giải quyết và sẽ có kinh nghiệm hay cách giải quyết mới hay hơn , và theo cách nầy , hành giả đã trở thành vị thầy cho chính mình vậy .

15.- Những trở ngại của hệ thống tín ngưởng và sự nhận thức trước của ý thức trong việc xuất Vía .

Những sự dự tưởng , hồi tưởng cùng những quan niệm , tư tưởng cố hữu , thói quen suy nghĩ theo một đường lối nào có trước nào đó và hệ thống tín ngưởng cố hữu của cá nhân , là những khó khăn lớn nhất , thường gặp phải trong việc xuất vía ; Trước khi hành giả , thật sự bắt đầu thực hành kỷ thuật xuất vía , mà hành giả đã có trước được những suy tư cùng những điều hiểu biết trước , về một địa điểm hay một việc gì đó trong đầu , thì việc xuất vía , thường không đem lại kết quả mong muốn , vì đã bị những ảnh hưởng , khuấy động nầy gây ra .

Thí dụ : Có một lần , tôi có nghe một chương trình phát thanh từ radio , nói về khả năng ngoại cảm của con người , do một nhà ngoại cảm đảm trách , mà chương trình nầy tôi đã có tham dự nhiều lần trước đó .

Lúc đầu , nhà ngoại cảm nói rằng trung tâm ngoại cảm của ông ta có khoảng trên sáu trăm hội viên ; trong lúc đó , vì tôi nghe chương trình radio nầy một cách không chú tâm , hời hợt , phong phanh và không có chú ý , nên tôi vô tâm tưởng rằng , cộng đồng hội viên của ông ta , tất cả cùng ông ta đã dời về Pennsylvania .

Chương trình ngoại cảm vẩn tiếp tục , đến một lúc sau có đề cập đến thuật xuất vía , nhà ngoại cảm bắt đầu nói vể những thực nghiệm và những khả năng có thể đạt được qua thuật xuất vía ; Nhà ngoại cảm nầy đề cập đến tôi với người điều khiển chương trình và nói rằng , có vài lần tôi đã cùng ông ta thực hiện những chương trình xuất vía và tôi có khả năng xuất vía .

Sau đó , người điều khiển chương trình radio , gọi điện thoại đến tôi để làm thực nghiệm và chứng nghiệm về khả năng xuất vía của con người , họ kêu tôi hảy xuất vía đến địa chỉ cơ sở , cộng đồng ngoại cảm của nhà ngoại cảm ở Pennsylvania và hảy thu nhặt những ấn tượng và những thông tin về cộng đồng nầy , đài radio sẽ gọi lại tôi để kiểm chứng trong nữa tiếng đồng hồ sau đó . Lúc đó tôi cảm thấy hơi yếu tinh thần , lo ra và nghỉ rằng : Hiện giờ có hơn khoảng hai triệu thính giả đang theo dỏi chương trình , nếu tôi nói sai thì , hậu quả sẽ tai hại như thế nào ?

Nhưng cuối cùng tôi cũng lấy lại sự bình tỉnh , và tôi thực hiện việc xuất vía đến Pennsylvania để thu lượn tin tức . Tôi xuất vía đến địa chỉ cộng đồng của nhà ngoại cảm ở Pennsylvania , tôi thấy một ngôi nhà nhỏ ; lúc đó bổng nhiên , lý trí suy đoán của tôi lại nhảy vào góp ý : chắc không phải ngôi nhà nhỏ nầy , vì cộng đồng của nhà ngoại cảm có đến trên sáu trăm hội viên , thì làm sao mà chứa trọn trong một ngôi nhà nhỏ như thế nầy được , mà phải là một nơi nào đó rộng rải hơn , mới có thể chứa nổi sự sinh hoạt của hơn sáu trăm hội viên , lúc đó hình ảnh một nông trại rộng lớn có cả gia cầm , trừu bò nuôi quanh đó , chợi lóe lên trong tâm nảo của tôi . Mặc dù tiềm thức và trực giác của tôi cảm thấy sai , nhưng theo suy luận của trí nảo , hạ trí thì đó là một câu trả lời đúng nhất trong lúc đó .

Nữa tiếng đồng hồ sau , người điều khiển chương trình radio , gọi đến tôi để hỏi sau khi xuất vía , tôi đã có được những thông tin gì về cộng đồng của nhà ngoại cảm ở Pennsylvania , thì tôi trả lời rằng : cộng đồng của nhà ngoại cảm nầy ở Pennsylvania , nằm trên một nông trại to lớn và chung quanh có nuôi thú vật .... , người điều khiển chương trình radio trả lời rằng tôi đã nói sai .

Sau khi tắt điện thoại , tôi vẩn theo dỏi chương trình của nhà ngoại cảm , ông lại xoay trở lại , nói về sinh hoạt cộng đồng hội viên của ông ta , nghe đến một lúc sau , tôi mới nhận thấy rằng , trước khi xuất vía , tôi đã nghe sai , vì nhà ngoại cảm trước đó có nói rằng , ở ngoại quốc cộng đồng hội viên của ông ta có trên sáu trăm người , sau khi về nước đến Pennsylvania , cộng đồng hội viên của ông ta chỉ mới có khoảng 5 đến 6 người mà thôi , nhưng ông nầy không đề cập đến cơ sở sinh hoạt của cộng đồng mới thành lập nầy . Nhưng trước đó , vì không chú ý nghe , nên tôi đã hiểu lầm và nghe lầm là toàn thể hội viên cộng đồng ở nước ngoài trên 600 hội viên , cũng đồng thời dọn về một lượt sinh hoạt tại Pennsylvania với ông ta .

Như vậy trong khi xuất vía , cảm nhận đầu tiên của tôi về ngôi nhà nhỏ của nhà ngoại cảm nầy ở Pennsylvania , là một cảm nhận ngoại cảm có được , chính xác nhất . Thí dụ nêu trên , đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng hạ trí dể dàng làm lung lay và làm sai lệch những cảm nhận chính xác có được khi xuất vía của ta ; những sự hiểu lầm cùng sự dự tưởng hay hồi tưởng có thể làm sai những cảm nhận ngoại cảm của ta trong lúc xuất vía .

Trí nảo, tinh thần của con người là vô hạn , nhưng vì những sai biệt và mâu thuẩn của hệ thống tín ngưởng của xả hội con người tạo ra , làm cho tinh thần và trí nảo của ta bị hạn chế và bị trói buột trong đó .

Trí nảo , ý thức của chúng ta tự hạn chế nó, tùy theo những gì ta cho là đúng , là chân lý đối với ta . Thú dụ : Nếu anh là một nhà khoa học gia , anh chỉ tin tưởng những gì thấy được và tồn tại ở thế giới vật chất là thật , thì như vậy ý thức của anh ta sẽ loại bỏ và không tin những gì không phải là vật chất . Thật ra , rất khó mà tạo sự liên hệ khoa học với huyền bí học hay siêu tự nhiên .

Mổi khoa học đều có những qui luật căn bản của nó , nếu cải biến qui luật của khoa học đi một tí , thì ta sẽ có được những hiện tượng ngoại cảm tâm linh xuất hiện . Đó là một lý do duy nhất tại sao nhà khoa học không thể nào hiểu được những hiện tượng tâm linh ngoại cảm - Psychic Phenomena , bởi vì họ tự hạn chế họ vào một hệ thống tin tưởng khoa học qui ước , và những hiện tượng ngoại cảm tâm linh thì không thể đo lường hay sờ mó được , bởi vì nó phi vật chất , không có thật ở cỏi giới vật chất và nằm ngoài qui ước của vật lý vật chất .

Tất cả những khám phá lớn của nhân loại , được tìm ra bởi những con người , những cá nhân , đã dám bác bỏ những hệ thống tư tưởng và tín ngưởng của xả hội đương thời mà họ đang sống . Thí dụ : Những tác giả của những sách khoa học giả tưởng trong thập niên 1800 đã từng viết rằng , con người đã đặt chân lên mặt trăng , thì những nhà khoa học đương thời , đều cười rộ lên và khinh khi , bởi vì những nhà khoa học thời đó đã tự hạn chế họ bởi những tiến bộ khoa học của thời đó .

Tôi đã thấy rằng , những nhà khoa học là những người đầu tiên nhất , trong việc bác bỏ những khả năng có được của vài hiện tượng tâm linh ngoại cảm , bởi vì họ đã quá quen thuộc với những hạn chế khoa học của họ , trong thời đó và họ tự cho phép họ tin vào , những sự hiểu biết rằng , họ đã hiểu biết hết , tất cả những thông tin của vũ trụ , nên họ có thể có quyền cho phép vật nầy có thể tồn tại và vật kia không thể tồn tại và có được . Đương nhiên , đây là những luận điệu hoang đường và tức cười , bởi vì những nhà khoa học nầy không hiểu biết được hết , những hiểu biết về những trường lực vi diệu của thiên nhiên và con người và điều thứ hai là họ vĩnh viển sẽ không hiểu được chúng , vì chúng không được nói đến trong khoa học qui ước và vì sự hạn chế của khoa học .

Tất cả mọi người đều bị tự hạn chế mình trong một hệ thống tư tưởng nào đó, tùy cách nầy hay cách khác . Nếu anh tin tưởng rằng anh không thể làm được một việc gì đó , thì như vậy anh không thể nào làm được việc đó ; Nếu anh tin tưởng rằng anh có thể làm được việc đó , thì sau đó chắc chắn rằng không sớm thì muộn , anh cũng làm được việc đó .

Thí dụ : Tôi biết được một người bạn mắc bệnh bứu không nguy hiểm Benign tumor ; nhưng khi anh ta đi đến bác sỉ , thì bác sỉ bơm cho anh ta một lô sợ hải vào tâm nảo của người bệnh , nào là cần phải giải phẩu ngay lập tức , mặc dù bứu nầy mới bắt đầu có , nếu chậm trể , bứu nầy sẽ trở nên ung thư ; sau đó bác sỉ kê ra một lô những việc nguy hại của ung thư , gián tiếp bác sỉ đã tạo ra một hình ảnh ấn tượng rỏ ràng và sâu sắc nguy hại của ung thư lên tâm khảm của người bệnh bứu , bạn tôi đương nhiên ý thức bác bỏ những điều nầy và hoàn toàn đồng ý và chấp nhận một cách khác ở bình diện tiềm thức - subconscious .

Và theo luật huyền bí , thì sức mạnh từ đó mà ra , tức là cái bứu đó dần dần theo thời gian mà trở thành bứu ác tính ung thư . Từ đó , ta nên biết rằng , việc gì sẽ xảy ra cho ta , khi ta chấp nhận lấy hệ thống tin tưởng của người khác làm sự tin tưởng của ta , dù ý thức hay vô ý thức ta cũng đã bị cấy vào qua tiềm thức cũng rồi vậy . Việc nầy , giống như luật cơ bản của trù ếm và thôi miên vậy .

Sự dự kiến , hồi tưởng hay suy nghỉ trước , là thành phần của hệ thống tin tưởng và tín ngưởng - Belief System .Nếu anh tin tưởng rằng anh không thể xuất vía , thì anh sẽ không bao giờ xuất vía thành công , vì anh đã tự hạn chế anh vào hệ thống tin tưởng của anh . Do đó , khi anh xuất vía thì anh cần phải xóa bỏ tất cả những sự dự kiến , hồi tưởng hay suy nghỉ trước của tư tưởng , nếu không thì những cảm nhận chính xác trong khi xuất vía sẽ bị trở ngại , khuấy nhiểu và sai lệch .

Một thí dụ khác về sự khuấy nhiểu của sự dự kiến , hồi tưởng hay suy nghỉ trước của tư tưởng trong khi xuất vía : Vào một buổi tối chủ nhật , tôi có hướng dẩn cho một hội viên xuất vía trở về nhà của anh ta đang ở , mà nhà nầy anh ta ở chia phòng với người khác ; khi anh ta xuất vía trở về nhà , tôi kêu anh đi ra phòng khách , và tôi hỏi anh ta thấy gì , anh ta nói rằng anh ta thấy tủ bàn ghế trong phòng , sau đó anh ta trông thấy cô Mary đang ở trong phòng khách và có lẽ cô ta đang xem TV . Tôi có thể biết rằng hội viên của tôi đã dùng sự hồi tưởng và thói quen của tư tưởng để thấy Mary , chứ không thật sự thấy cô Mary bằng thể vía của anh ta . Sau đó tôi tìm ra rằng cô Mary thường có thói quen , hay ở nhà xem TV trong mổi tối chủ nhật .Nhưng thật ra , tối hôm đó cô Mary đã rời nhà đi tham dự tiệc Party của một người bạn khác . Do đó , hội viên của tôi trong lúc xuất vía , đã dùng trí thông minh và suy luận nhiều hơn là dùng khả năng cảm nhận , ngoại cảm của thể vía , nên đã có một cảm nhận sai xảy ra như thế .

Như thế , hội viên của tôi đã dùng sự hồi tưởng và thói quen của tư tưởng để thấy Mary và sự hồi tưởng nầy đã trở thành hệ thống tin tưởng trong đầu óc của anh ta ; do đó , nó đã tạo ra một sự thấy sai lầm khi anh ta xuất vía trở về nhà .

Để cho việc xuất vía thấy được chính xác , điều quan trọng là ta phải loại bỏ thói quen dự kiến , hồi tưởng hay suy nghỉ trước của tư tưởng , một cách để tránh việc nầy là đừng tin những gì người khác đã nói , như là một sự thật tuyệt đối phải tin , nghe theo .

Thí dụ : Nếu một người nào đó , đã từng diển tả phong cảnh của một nơi nào đó , mà anh chưa từng đi qua ; như vậy , lần sau , khi anh có xuất vía đi đến địa điểm đó , thì những điều anh thấy , sẽ đa số giống như những gì người bạn của anh đả diển tả cho anh nghe trong lúc trước , mặc dù , hiện nay cảnh vật ở nơi đó đã thay đổi đi rất nhiều ; Vì anh ta đã bị bạn anh cấy vào tư tưởng những dữ kiện của địa chỉ đó , nên anh không tin theo bản năng ngoại cảm của anh . Trường hợp nầy giống như trường hợp của tôi gặp phải trong đoạn trước với chương trình ngoại cảm radio .Nên những cảm nhận trong lúc xuất vía đã bị bẻ cong đi , không còn chính xác nữa .

Nhờ vào việc loại bỏ hệ thống tư tưởng , tin tưởng vào người khác, hành giả vì không chấp nhận nó là một thành phần , trong hệ thống tư tưởng của mình ; như vậy , trong một thời gian sau , hành giả sẽ thấy thái độ cùng khả năng mình trong việc xuất vía dần dần có tiến bộ , chính xác hơn và thay đổi rỏ rệt .

Hảy thực tập tự nghe , tin theo và trắc định bản năng ngoại cảm của mình , đừng để người khác chen vào hay làm việc đó thay cho bạn .

Do việc thực hành thuật xuất vía thường xuyên , hành giả đã bắt đầu thay đổi hệ thống tư tưởng , tín ngưởng của mình . Việc nầy sẽ làm gia tăng hiệu năng cùng óc sáng tạo trong tất cả , mọi công việc mà hành giả muốn thực hiện .

16.- Những thắc mắc và giải đáp trong việc xuất Vía .

Tất cả những thắc mắc trong việc xuất Vía , có đề cập trong những trang trước , sẽ được giải đáp ở đây , cùng với những thắc mắc trong những buổi huấn luyện của tôi trong các khóa khác , cũng được đề cập và giải đáp ở chương nầy :

Câu hỏi 1/23 : Tại sao hành giả có ấn tượng , dội ngược , tới và lui giữa cơ thể vật chất và tại địa điểm khi thể trí và thể vía của hành giả muốn đến ?

Giải đáp : Lý do việc dội ngược tới lui nầy , đó là sự cố gắng của thể vía trong lúc muốn tách rời khỏi thể xác ; Thể xác lúc nầy giống như thỏi nam châm và lúc nào cũng luôn luôn thu hút lấy thể trí và thể vía trở về nhập vào với thể xác .

Nếu thể vi diệu là thể vía và thể trí càng gần với thể xác , thì sức hút của thể xác càng mạnh . Do đó , hành giả cần phải gia tăng định lực , gia tăng sức mạnh tâm lực , ý chí và định lực quán tưởng cao , rỏ ràng ; có được như thế thì hành giả mới có thể vượt khỏi hấp lực , thoát khỏi sức hút của thể xác .

Thí dụ trong chương nói về xuất thể trí ra khỏi cơ thể , hành giả xuất thể trí ra khỏi thể xác , nhưng ở cùng một phòng với thể xác , do khoảng cách quá gần của hai thể , nên hấp lực của thể xác rất mạnh , làm cho hành giả rất khó khăn trong việc xuất thể trí của mình ra khỏi thể xác .

Sự giằng co qua lại của hai thể là do : một là hấp lực của thể xác , hai là do ý muốn xuất thể trí của hành giả ra khỏi thể xác ; hai lực nầy xảy ra đồng thời và tiếp nối nhau , nên đã tạo ra sự dội ngược tới lui của thể trí hay thể vía với thể xác .

Hấp lực - magnetic pull - kéo các thể vi diệu về hợp nhất với thể xác là một luồng năng lượng của ái lực tham sống của hành giả , vì linh hồn đã có nhiều lần bị ép phải rời khỏi thể xác qua những kỳ tử vong của những kiếp trước ; đây là những kinh nghiệm thương vong của một linh hồn .

Một điều quan trọng cuối cùng của một linh hồn bất tử là khi thể hiện trong một thể xác , thì với một thể xác , linh hồn có được một cá thể , có được những sự cảm nhận và cảm xúc của thể xác qua sự ăn uống , tình cảm , tình dục và có được một nhân cách biệt lập với những thể xác khác . Nếu linh hồn sống trong thế giới vật chất mà không có được một cơ thể vật chất , thì tất cả những thuộc tính kia của thể xác cũng không thể có được .

Do đó , vì sẽ bị mất mát tất cả những nhu cầu ham muốn sẽ có được , khi linh hồn bị mất đi thể xác trong khi xuất vía . Vì khi hành giả xuất vía , linh hồn sẽ kinh nghiệm lại , những lần trước linh hồn đã bị ép buột , cưởng bức phải rời khỏi thể xác , vì bệnh tật , tai nạn , thương tích hay tử vong . Vì điểm vô minh không hiểu biết nầy , linh hồn vô tình đã đồng hóa việc xuất vía là đồng nghĩa với sự chết , tức là phải rời bỏ thể xác nầy mà ra đi . Do đó , để khỏi bị chết một lần nữa và nhu cầu ham sống trong thế giới vật chất , nên nhu cầu nầy đã tạo ra một luồng năng lực mạnh mẽ để dính liền với thể xác qua sợi chỉ bạc Kim Quang Tuyến , và nó cố gắng làm ngưng lại và tạo sự khó khăn cho hành giả thực hành việc xuất vía .

Câu hỏi 2/23 : Làm thế nào hành giả có thể vượt qua khỏi hấp lực kéo về của thể xác ?

Giải đáp : Hành giả cần gia tăng khoảng cách của những thể vi diệu càng xa với thể xác thì hấp lực sẻ yếu đi .

Câu hỏi 3/23 : Có người nói rằng , khi hành giả xuất vía ra khỏi thể xác , thì nó sẽ bị khóa lại , không thể nào vào trở lại thể xác nữa , điều nầy có đúng không ?

Giải đáp : Không , điều nầy không thể xảy ra , vì hành giả có xuất vía đi xa đến đâu đi nữa , thì hấp lực kéo về của thể xác lúc nào cũng tồn tại . Một khi ý chí cương quyết xuất vía của hành giả không còn nữa và hành giả buông xả ý niệm xuất vía , thì ngay tức khắc, hấp lực nầy sẽ hút kéo ngay , các thể vi diệu nầy về nhập một lại với thể xác và điều thông thường , thực sự là những thể vi diệu muốn độc lập ra ở ngoài thể xác , còn khó hơn là được ở trong thể xác , tức là ở trong thể xác dể hơn là muốn xuất ra ngoài .

Có nhiều vị lảnh đạo tinh thần hay một số nhà ngoại cảm , thường rêu rao với mọi người rằng đừng ham muốn việc xuất vía hay xuất hồn , vì nó rất nguy hiểm có thể đưa đến cái chết , nên mọi người cần tránh xa . Điều hiển nhiên là những người nầy không hiểu những gì họ nói ; vì hàng đêm mọi người đều xuất vía ra khỏi cơ thể trong lúc ngũ , linh hồn của mọi người đều rời khỏi thể xác , nhưng đến sáng hôm sau , mọi người đều tìm lại được thể xác của mình và nhập trở lại đúng với thể xác của mình , chứ linh hồn của họ không bị khóa lại ở ngoài thể xác của họ , và mổi sáng hôm sau , thể xác của họ vẩn là thuộc về họ , chứ không hề bị một hồn ma bóng quế , hay bị một loài quỷ sứ nào vào chiếm lấy được thể xác của họ ; vì luật huyền bí cũng có qui luật của nó.

Thêm vào đó , khi một người quá đam mê làm việc , mê mệt chuyên chú đọc tiểu thuyết hay xem một cuốn phim hay , thì đó cũng là một hình thức của việc xuất vía rồi vậy . Thí dụ như một người ngồi đan sọt , đầu óc suy nghỉ về việc cứu nước , mà bị lính tuần dùng mác đâm vào đùi , máu ra lênh láng mà vẩn không biết vậy ....

Quan niệm cho rằng , cho việc xuất vía là nguy hiểm , thường xuất phát từ những người chưa từng có kinh nghiệm xuất vía hay chỉ có xuất vía vài lần qua sự ngẩu nhiên hay khả năng xuất vía còn non nớt , hay đa số chỉ đọc nhiều loại tài liệu hay sách vở nói về việc xuất vía của những tác giả chưa từng thực hành việc xuất vía hay những tác giả viết những sách về thuật xuất vía qua những cơn đột hứng của thuốc phiện hay cần xa ma tuý , ngoài ra còn việc , họ vô tình đã đọc những loại sách của những thế lực thế quyền và thần quyền , viết ra để dẩn dắt mọi người đi xa lảnh vực khám phá những quyền năng còn tiềm ẩn trong cơ thể con người , để mọi người luôn nằm trong vòng khống chế và ngu dân của họ ; mà thuật xuất vía là một trong những quyền năng đó , hiện được mọi người tại các nước tân tiến trên thế giới nghiên cứu và phát triển với tên gọi mới là ĐIỀU KHIỂN Ý THỨC TỪ XA hay là THUẬT VIỂN THỊ – REMOTE VIEWING .

Câu hỏi 4/23 : Tại sao hành giả cảm nhận và thấy được có một người khác cũng đang có mặt trong phòngcùng với mình , nhưng thật ra không có ai ở trong phòng cả ?

Giải đáp : Hành giả nên nhớ rằng trong lúc đó , ở trong phòng không có ai đang hiện diện ở trong phòng với cơ thể vật chất xác thịt của họ cả . Đương nhiên những sự hiện diện của những thực thể khác ở dưới dạng thể vía hay thể trí cũng là những dạng thể hiện thực sự cũa những người khác ở những thể vi diệu nầy , ở trong phòng trong lúc nầy . Những thể vi diệu nầy khác với cỏi vật chất và thế giới vật chất vì những tầng số rung động khác biệt của nó , được kiểm soát bởi những luật khác nhau tùy theo cỏi riêng biệt của nó ; Do đó , nếu hành giả có thể xuất được những thể vi diệu tiềm ẩn của con người ra cơ thể vật chất để du hành đi đây đó , thì người khác cũng có thể làm được như thế . Thực thể mà hành giả thấy được trong phòng , có thể là thể vía hay một thể vi diệu hay một vong linh nào khác đang du hành vậy . Hoặc có thể là một người nào khác đang có một sự suy nghỉ liên quan đến hành giả ; thông thường khi ta suy nghỉ đến một người nào đó một cách tha thiết , thì ta đã vô tình xuất vía đi đến với người đó , mà chính ta cũng không ngờ được là ta đã xuất vía rồi vậy .

Câu hỏi 5/23 : Xin nói về những thể trong cỏi trung giới ?

Giải đáp : Theo cơ bản những vật gì tồn tại trong cỏi vía , dù bán phần hay toàn phần , đều là những thực thể ở trung giới , ở dưới dạng thể vía , dù của người đã chết , vong linh , người sống hay hình tư tưtưởng còn được người sống tiếp năng lực hay những hình tư tưởng có đủ sức tồn tại không cần sự tiếp năng lực của người sống và không chịu sự kiểm soát của người chủ đả tạo ra nó , hay người chủ của hình tư tư tưởng nầy đã chết . Liên quan đến câu hỏi 4 , hành giả thấy được một người khác cũng cùng ở trong phòng cũng là một việc có thật , nhưng sự cảm nhận nầy ở mức độ rung động khác của tâm thức , tức thực thể của người hiện diện trong phòng nầy cũng đang ở thể vía vậy .

Câu hỏi 6/23 : Tại sao hành giã thấy được một bàn đánh máy đang đặt ở trước mặt bạn gái của cô ta , mà thực ra không có thật trong cỏi vật chất ?

Giải đáp : Trong trường hợp nầy , cô bạn gái của cô ta đang suy nghỉ về việc định đánh máy cho một việc gì đó , trong lúc hành giả đang xuất vía hướng về người bạn gái nầy ; ta nên nhớ rằng cỏi vía là một cỏi , mà khi ta suy nghỉ hay tưởng tượng một việc gì hay một hình ảnh gì thì nó sẽ

xuất hiện trở thành thực tại ngay tức thời trong cỏi vía , do đó , khi anh suy nghỉ định đánh máy một bức thư cho một người bạn thì hình ảnh của chiếc bàn đánh máy cũng đồng thời được tạo lập trên cỏi vía rồi vậy . Nên khi hành giả xuất vía đến thăm cô bạn , thì sự cảm nhận là đang ở cỏi vía mà thôi , nên những gì hành giả thấy được là thấy được phần hình ảnh được tạo ra trong thể vía của cô bạn gái của cô ta vậy .

Thông thường những loại xuất vía như vậy , thường gọi là Cảm Ứng Tâm Linh - Telepathy , bởi vì hành giả thấy được bàn đánh máy không phải bàn đánh máy thật đang ở dưới dạng vật chất mà bàn đánh máy nầy đang ở dưới dạng thể vía do hình tư tưởng của cô bạn đang suy nghỉ đến việc đánh máy đã tạo ra .

Câu hỏi 7/23 : Tại sao lúc xuất vía hành giả không thể mở cửa hay không thể đi vào cửa trước được ?

Giải đáp : Trong lúc hành giả du hành trong thể vía hay trong thể trí , hành giả sẽ có đôi lúc cảm thấy rất khó khăn khi muốn đi vào một vài nơi nào đó ; hành giả có cảm giác như là mình bị đẩy lùi ra hay bị kéo xa ra khi muốn đến gần hay muốn đi vào nơi đó ; đôi khi việc nầy xảy ra bởi vì hành giả du hành từ một mật độ đậm đặc nầy của năng lượng tại địa điểm nầy sang một địa điểm có mật độ năng lượng khác vậy . Sự khác biệt mật độ đậm đặc của năng lượng có thể được tạo ra bởi pháp thuật của pháp sư hay những nhà ngoại cảm có tay ấn cao ; họ có thể tạo ra một hàng rào năng lượng ngoại cảm mạnh mẻ bao bọc chung quanh địa điểm muốn bảo vệ , để tránh khỏi sự độn nhập của kẻ lạ dưới những hình thức khác nhau . Thí dụ , như toà nhà trắng Bạch Cung ở Mỹ từng bị xâm nhập bởi gián điệp ngoại cảm của nước ngoài đi vào ; và gián điệp ngoại cảm cũng đang dùng thuật cảm ứng tâm linh – Telepathy để thu thập những bí mật quốc phòng ngay từ trong tâm nảo hay ý thức của những vị nguyên thủ quốc gia hay thư ký quốc phòng hoặc những nhân viên cao cấp trong chính phủ ; Và chỉ có một cách duy nhất là những viên chức cao cấp nầy chỉ có thể bảo vệ bằng cách dùng bức tường tâm linh – Mental Plane barrier - bao bọc lấy chung quanh những người nầy để bảo vệ họ . Do đó , những gíán điệp ngoại cảm non tay nghề , khó lòng mà vượt qua khỏi bức tường bảo vệ tâm linh nầy , giống như bức tường lửa trong mạng lưới của máy vi tính internet vậy . Đương nhiên , gíán điệp ngoại cảm có thể dùng thuật xuất thể trí để đi qua bức tường nầy một cách dể dàng , trong khi dùng thể vía không thể đi xuyên qua được . Có nhiều phương pháp để bảo vệ một vùng nào , một nơi nào , một người nào qua việc xuất vía ; việc nầy sẽ đề cập ở các chương sau .

Câu hỏi 8/23 : Tại sao hành giả phải xoay lưng ngược lại mới có thể đi được vào trong phòng trong khu cơ xá – The apartment ?

Giải đáp : Bằng việc xoay lưng lại , trường từ lực của thể vía sẽ được thay đổi và thể vía sẽ không bị đẩy lùi ra , như vậy thể ánh sáng nầy sẻ có thể đi vào nơi mà lúc trước nó vào không được .

Câu hỏi 9/23 : Tại sao khi hành giả du hành trong thể vía sẽ thu nhận được hình ảnh rỏ ràng và những tin tức chính xác hơn là du hành trong thể trí ?

Giải đáp : Đối với những hành giả sơ cơ , thì thể vía là một thể gần gủi với thể xác , nên sự cảm nhận sẻ dể dàng hơn , còn thể trí thì đả cách xa thể xác đến hai lớp .

Tuy nhiên , do kinh nghiệm và sự thực tập lâu ngày , thì trình độ xuất vía của hành giả sẻ được nâng cao , lúc đó hành giả có thể dùng bất cứ thể nào cũng đồng thời thu được kết quả khả quan cả .

Câu hỏi 10/23 : Tại sao hành giả thấy được ánh sáng đỏ chói lọi trong lúc xuất vía , trong khi thật tế không có ánh sáng như vậy trong cỏi vật chất tại địa điểm đó ?

Giải đáp : Những sự vật xuất hiện trên cỏi vía hay trên cỏi trí thực ra không thấy được trong cỏi vật chất , bởi vì mức độ rung động giới hạn của ngũ quan vật chất ở cỏi phàm . Do đó , ánh sáng đỏ không nhìn thấy được bởi ngũ quan vật chất ở cỏi phàm , không có nghĩa là ánh sáng nầy không tồn tại trên cỏi vía , và hành giả nhìn thấy ánh sáng đỏ nầy bằng thể vía của mình vậy .

Câu hỏi 11/23 : Như vậy ánh sáng đỏ nầy là gì vậy ?

Giải đáp : Nó có thể là nhiều vật khác nhau : nó có thể là một dạng sống có trí tuệ cao đến từ một nơi nào đó trong vũ trụ ; nó có thể là hiện tượng hoặc là sự quấy nhiểu của một dạng năng lượng thể vía nào đó . Nó có thể giống như cơn xoáy hay cuồng phong , thiên tai xảy ra trên cỏi vật chất vậy ....

Câu hỏi 12/23 : Tại sao thể vía không thể đọc được sách trong phòng ?

Giải đáp : Khi hành giả du hành trong thể vía hay trong thể trí , sự thu nhận tin tức từ hai thể nầy khác với sự thu nhận tin tức dùng trong cỏi vật chất . Trong cỏi vật chất , ta có ngũ quan ; thí dụ như ở cỏi vật chất ta dùng nhản quan để đọc sách , do đó , tất cả những lảnh vực thông tin trên quả địa cầu nầy con người đều dùng ngũ quan để cảm nhận . Nhưng những thể vi diệu của ta không thu nhận thông tin bằng cách nầy ; thông thường những thông tin nầy đến với ta một cách trực tiếp như ngoại cảm tâm linh – Telepathy , có khi nó đến với ta xuyên qua hình ảnh hay ấn tượng tâm linh – Clairvoyance hoặc có khi nó đến với ta một cách đột xuất qua tia sáng lóe lên của trực giác – Intuition .

Một lý do khác , là ở cỏi vật chất , con người được học và huấn luyện theo cách từ bỏ không dùng những năng lực và dùng những giác quan vi diệu hơn của ngoại cảm – Psychic senses . Đương nhiên là ta vẩn có thể đọc sách bằng thể vía nhưng với một cách khác biệt hơn .

Hảy làm một thực nghiệm nầy : Ta hảy cầm một quyển sách trong tay ta , một quyển sách mà ta chưa từng đọc qua ; xong ta hảy đi vào cỏi vía với phần vía của quyển sách cũng đi theo ta – bằng cách tưởng tượng quyển sách nầy cũng đang nằm trong tay ta trong thể vía ; xong ta bắt đầu đọc sách bằng thể vía , thay vì ta sẽ đọc từng trang , thì ta sẽ tìm thấy những hình ảnh tự nhiên hiện ra đến với ý thức của ta , dường như là những gì được diển tả ghi lại bằng chữ và từ ngữ trong sách , nay được biến hiện như một dòng di động hình ảnh lưu chảy trong tâm thức của ta vậy . Sau khi ta đã nhận được những ấn tượng về những hình ảnh nầy rồi trong thể vía , nay ta hảy trả tâm thức trở về với thể xác trong cỏi vật chất và dùng nhản quan của thể xác để đọc lại quyển sách vật chất đang cầm trong tay , xem trong đó có ghi lại những hình ảnh hay những dòng chữ nào diển tả lại những ấn tượng đã đọc thấy trong thể vía của lúc trước hay không ? Ta có thể có được những thông tin chính xác trong thể vía tương đồng với những thông tin thu nhận được qua nhản thức của ý thức bình thường trong phàm nhân ; hoặc những thông tin đó hoàn toàn sai và trái ngược với nhau . Tuy nhiên , xuyên qua thực hành thường xuyên , hành giả có thể khắc phục được điều nầy và thông tin sẽ càng ngày càng chính xác hơn .

Câu hỏi 13/23 : Câu trả lời đến với hành giả là đến từ bên trong nguyên thần hay là đến từ một người nào đó thông qua thuật cảm ứng tâm linh – Telepathy ?

Giải đáp : Câu trả lời thật ra đến từ nguyên thần của hành giả . Nguyên thần là một trong những tầng tâm thức cao nhất của con người , có được sự thông tin trực tiếp với vũ trụ . Rất ít người có thể đạt đến mức độ tâm thức nầy , ta có thể qui trách nhiệm và đổ lổi cho nền giáo dục vật chất hiện đại , đã không giảng dạy và huấn luyện con người để phát triển những khả năng sáng tạo , khả năng ngoại cảm và khơi hoạt những tiềm năng còn tiềm ẩn trong cơ thể con người . Mà nó chỉ dạy con người học những điều , mà kết quả cuối cùng, là làm tiêu diệt đi bản năng ngoại cảm của con người mà bản năng thiên nhiên nầy , như một món quà mà thiên nhiên đả trao tặng .

Trong những cấp độ khác nhau , khi hành giả có thể khai thông đi vào được lảnh vực nầy của nguyên thần , hành giả sẽ tìm được tất cả những giải đáp cho tất cả những vấn nạn khó khăn mà hành giả gặp phải . Như vậy những gì xảy ra cho hành giả là tự do ý thức của hành giả mang đến cho hành giả .

Liên quan đến ánh sáng đỏ trông thấy được ở những chương trước , có thể là một thực thể tâm linh nào đó ; nhưng trong hầu hết mọi trường hợp , ánh sáng đỏ nầy thực ra là ý thức của hành giả , nhưng vì hành giả liên lạc với nó ở một cấp độ rung động khác hơn , hay dùng thể vía hay thể trí để liên lạc với cỏi nguyên thần .

Khi hành giả dùng những thể vi diệu khác nhau mà đứng ở một cỏi nầy để liên lạc với cỏi khác của mình , thì nó sẽ làm cho những thể khác của mình trở nên biệt lập và độc lập ở ngoài mình , chứ không nằm trong cỏi của mình đang du hành .

Giống như hành giả trông thấy ánh sáng đỏ trong lúc xuất vía , có thể là nguyên thần của mình , được hiện ra dưới hình thức của ánh sáng vậy .

Câu hỏi 14 /23 : Tại sao câu trả lời hình như đến từ phía sau đầu của hành giả ?

Giải đáp : Vị trí phía sau nơi xương sống tiếp giáp với xương đầu , là một vị trí mật thiết liên quan với Cảm ứng tâm linh – Telepathy .

Việc thông tin với những thực thể vi diệu ở những cỏi khác với hành giả đều thông qua con đường cảm ứng tâm linh . Khi dùng sự suy nghỉ thông thường để lý luận và phân tích , thì những sinh hoạt nầy đến từ phần trước của đầu ; còn những cảm nhận giải đáp tâm linh , thường đến từ sau phía đầu của ta .

Trong thuật cảm ứng tâm linh , thì câu hỏi được gởi ra từ phía trước đầu và câu trả lời được cảm nhận từ phía sau đầu .

Câu hỏi 15 /23 : Hành giả làm thế nào để quan sát thể vía của mình từ một vị trí khác trong không gian ?

Giải đáp : Đây là việc thường xảy ra , là hành giả đã dùng thể trí của mình để nhìn thể vía , thay vì hai thể nầy nhập làm một lại với nhau , thì nó lại đứng riêng biệt ; không có gì sai trái trong cách du hành nầy . nếu hành giả muốn nhập chúng lại làm một , hành giả chỉ cần tập trung chú ý và tưởng tượng hai thể nầy nhập lại làm một , là chúng sẽ nhập thành một thể mà thôi .

Câu hỏi 16/23 : Tại sao , hành giả cảm thấy tê rần và đầy năng lực và sinh lực trong khi xuất vía hay sau khi xuất vía ?

Giải đáp : Xuất vía là một hình thức hoạt động cao cấp của ý thức , do đó nó cần cung cấp và duy trì một lượng năng lượng lớn . Năng lượng đã được rút từ nguồn năng lượng của vũ trụ và được chuyển về thể xác , xuyên qua sợi dây bạc Kim Quang Tuyến , mà sợi dây nầy đã nối liền các thể vi diệu của thể xác với cơ thể vật chất của hành giả . năng lượng nầy được hành giả cảm nhận tê rần tại một nơi nào đó của cơ thể hay là cảm nhận một sự rung động toàn thân .

Câu hỏi 17/23 : Tại sao , hai mắt của hành giả luôn mấp máy liên tục khi hành giả xuất vía ?

Giải đáp : Sự chuyển động nhanh của hai mắt còn được biết dưới tên chuyên môn là REMs – Rapid eye movements , thường được quan sát và ghi nhận rất nhiều trong những thí nghiệm về những giấc mộng của con người . Nằm mộng là một hình thức khác của việc xuất vía , nhưng người ta không biết gì về mộng dưới nhản quan của tâm lý học hiện đại . Người ta thấy REMs thường xuyên xảy ra , khi người nào đó xuất vía .

Câu hỏi 18/23 : Tại sao hành giả cảm thấy hình như có một cái gì đó đi ra hoặc đi vào cơ thể của hành giả khi xuất vía , mà trước đó hành giả không có những cảm nhận nầy ?

Giải đáp : Nhờ sự tập luyện liên tục và quen thuộc với việc xuất vía , hành giả có thể cảm nhận được việc xuất ra và nhập vào thể xác của những thể vi diệu dùng du hành trong khi xuất vía , ban đầu hành giả không lưu ý đến , nhưng dần dần quen đi , hành giả sẽ cảm nhận được việc nầy một cách nhanh chóng .

Câu hỏi 19/23 : Đám mây xám mà hành giả thấy được trong khi xuất vía là gì ? Nó có thật hay không , nếu nó có thật , tại sao không nghe các nhà khoa học nhắc đến hay tuyên bố ra ?

Giải đáp : Đây là một hiện tượng trên cỏi vía , nó là một hiện thực , nhưng không phải thực so với cảm quan vật chất hay dụng cụ khoa học của con người .

Hành giã có thể thử xuất vía ra khỏi địa cầu , có thể hành giả sẽ thấy đám mây xám nầy , sau đó hành giả đặt câu hỏi đám mây nầy là gì , có thể những thể vi diệu cao hơn của hành giả có thể trả lời được .

Câu hỏi 20/23 : Xuất vía hay xuất thể trí để làm gì ? tại sao phải dùng đến nó ?

Giải đáp : Câu trả lời cơ bản là dùng cho tất cả mọi việc . Sự tưởng tượng và hình dung – Imagination - là một trong những bản chất cơ bản của việc xuất vía và cỏi vía ; theo Huyền bí học thì cỏi vía là một cỏi cơ bản – Foundation ; nói một cách khác thì xuất vía là một căn bản cần có cho tất cả những sở đắc và phát triển về quyền năng và khả năng ngaọi cảm của con người .

Câu hỏi 21/23 : Trong phần đầu của bài , có nói đến xuất vía 50/50 , xin giải thích việc nầy ?

Giải đáp : Hình thức xuất vía 50/50 là một hình thức 50 % ý thức được xuất theo thể vía hay thể trí , còn lại 50 % ý thức vẩn còn tồn tại trong cơ thể vật chất . Do đó , trong loại xuất vía nầy hành giả có được hai cảm nhận từ hai cỏi , cỏi vía và cỏi vật chất , khi hành giả chú ý đến cỏi nào thì hành giả sẽ cảm nhận được cỏi ấy .

Câu hỏi 22/23 : Hành giả có cần phải đi vào mê sảng – Trance hay dùng thuốc tạo ảo giác – Take Drugs – trong khi xuất vía hay không ?

Giải đáp : Không , ý nghĩa đàng sau của việc xuất vía là tăng gia kiến thức cá nhân , nâng cao ý thức và mở rộng khả năng ngoại cảm của con người .

Đối với những người dùng những cách trên để xuất vía , thường họ có thể thấy được rất nhiều việc trong khi xuất vía , nhưng khi , trở về cơ thể vật chất , họ không còn nhớ được hay học được những gì họ đã thấy trên cỏi vía . thì việc xuất vía như vấy trở thành vô ích .

Sự mê sảng , lên đồng và say thuốc ảo giác , đã cướp mất đi khả năng lý luận và phân tích của ý thức và làm cho người dùng bị bệnh tâm thần .

Thí dụ: một người dùng thuốc ảo giác đi lên các cỏi khác của tinh thần , khi trở về thể xác , họ nói rằng đã gặp Thượng Đế , và tất cả những việc họ làm đều có sự đồng ý của Thượng Đế .

Với hình thức xuất vía 50/50 là một hình thức xuất vía an toàn nhất cho người sơ cơ , vì hành giả không bao giờ bị mất sự liên lạc với thể xác của họ cả .

Câu hỏi 23/23 : Làm thế nào để liên lạc được với những người khác trên các cỏi vi diệu đó ?

Giải đáp : Điều quan trọng là cần thực tập thuần thục tất cả những kỷ thuật và những nguyên tắc căn bản được giảng dạy ở đề tài nầy , trước khi đi những bước xa và cao hơn .

17.- Những cảm nhận trên những cỏi cao hơn .

Con người cảm nhận được thế giới vật chất xuyên qua ngũ quan vật chất của mình ; Tuy nhiên ngũ quan vật chất của con người chỉ thu nhận được những rung động và năng lượng hay những ba động của những trường lực ở một mức độ giới hạn , còn những gì nằm trên hoặc dưới mức độ giới hạn nầy thì con người không thể nào nhận thức được với ngũ quan vật chất giới hạn nầy và những ba động và năng lượng của vũ trụ thì rộng lớn và vô hạn .

Do đó , con người muốn cảm nhận được toàn bộ những ba động của những trường lực vũ trụ , con người phải nhờ vào những thể vi diệu và những cảm quan bên trong nầy mới có thể làm được việc đó .

Những cảm quan vi diệu nầy thường gọi là nhận thấy bằng ngoại cảm , giác quan thứ sáu , cảm ứng tâm linh ..... Đó là những cảm quan hay là quyền năng tâm linh mà hành giả có thể xử dụng được trong khi du hành trên những cỏi tâm thức cao hơn xuyên qua thuật xuất vía hay xuất thể trí của mình .

Những quyền năng tâm linh thường được nhắc đến là :

- Thiên nhỉ thông – Clairaudience .

- Thiên nhản thông – Thấu thị - Clairvoyance – Remote viewing .

- Trực giác – Intuition.

Thiên nhỉ thông tức là khả năng có thể nghe và cảm nhận âm thanh, tiếng nói và âm nhạc , mà không cần xử dụng đến nhỉ quan của cơ thể vật chất .

Thí dụ cụ thể là hành giả có thể nghe được được rỏ ràng một cuộc đàm thoại của hai người khác đang cách xa hành giả đến hai dặm đường .

Thiên nhản thông là khả năng mà hành giả có thể thấy hoặc cảm nhận được ấn tượng của sự vật một cách rỏ ràng , mà mắt thường của hành giả không thể nào trông thấy được .

Thí dụ cụ thể là hành giả có thể thấy được những sự kiện sẻ xảy ra trong tương lai một cách chính xác , trước khi sự kiện nầy sẻ xảy ra hoặc là hành giả có khả năng thấy được một vật được đựng trong một chiếc hộp kín , mà món vật nầy trước đó hành giả chưa thấy hay đả nhìn qua trước khi để vào hộp.

Trực giác được định nghĩa là quyền năng hay là năng lực có thể nhận biết một cách trực tiếp , ngay tức khắc một sự việc , mà không cần suy nghỉ hay sự khấy nhiểu của hạ trí ; là khả năng có được một câu trả lời hay một cảm nhận trực tiếp đến với ý thức mà không cần dùng ngũ quan vật chất thông thường của con người .

Trong khoa học huyền bí và ngoại cảm học cho biết rằng ngoài ngũ quan vật chất ,con người còn có ngũ quan ngoại cảm vi diệu để tiếp xúc với những cảnh giới tâm linh hay những ba động của những trường lực cao hơn , muốn có ngũ quan ngoại cảm nầy , con người cần phải luyện tập để làm phát triển nó , xuyên qua thuật xuất vía , các khả năng nầy dần dần được kiện toàn và sẻ được hoàn chỉnh với những bài tập chuyên khoa của từng cảm quan .

Vì sự đồng hóa theo thói quen của ngũ quan vật chất , nhiều khi con người có nhận được sự nghe hay thấy ở những cỏi cao hơn ,nhưng thường bị lơ là hay cho là không có thật ,nên không phát triển được những khả năng nầy .

Nên biết rằng ngũ quan ngoại cảm vi diệu nầy cũng là một thành phần của tâm thần và ý thức của con người và là một thành phần cao nhất và duy nhất để hoà hợp con người với những trường lực bao la của vũ trụ và dùng để liên lạc với vạn hữu .

18.- Những ứng dụng của Thuật Xuất Vía

trong thời đại hiện nay và tương lai .

Nếu chúng ta đọc bất cứ tài liệu cơ bản nào về những hiện tượng siêu nhiên , ngoại cảm tâm linh ( Psychic phenomena ) Chúng ta sẽ nhận thấy rằng trong lảnh vực huyền bí học , hầu hết những kỷ thuật xuất vía , đều được chính phủ của những nước khác nhau triệt để xử dụng. Đây là một việc thông thường , không có gì gọi là mới mẽ cả ; vì trong thế chiến thứ II , đã từng có xảy ra những trận đại chiến về ngoại cảm huyền bí học giữa các cường quốc .

Ở Đức , Hitler đã từng xử dụng nhiều nhà huyền bí học ( Psychic ) Chiêm tinh gia ( Astrologers ) để giúp cho quân đội phát xít Đức ( Third Reich ) . Tại Anh quốc , Churchill đã xử dụng nhà chiêm tinh của mình cùng nhiều nhà phù thủy vào thời đó tại Anh quốc , để hổ trợ cho ông ta đánh bại Đức quốc xả ; cũng như Ông Roosevelt cũng có xử dụng những nhà huyền bí tâm linh cho ông ta . Tất cả những sự việc nầy , sau khi hết chiến tranh đã bị quên lãng hay là nó đã được cố ý dấu bí mật .

Có một việc lý thú là , chính phủ của các nước đã xử dụng gián điệp tâm linh và đả từng xử dụng thuật xuất vía , dùng cái vía của mình để đi sang nước địch để thu thập tin tức và tài liệu mà trong khi đó thể xác thật của người gián điệp vẩn còn ngồi trong phòng tại quốc gia của họ một cách an toàn .

Từ khi biết được trên căn bản , thể vía không thể thấy được qua cặp mắt phàm nhân , nên không ai có thể biết được rằng , có bao nhiêu gián điệp tâm linh đang có mặt trong phòng của họ ; Những căn cứ an toàn nhất cùng những thiết bịđiện tử cùng điện nảo của những nơi nầy đều bị các gián điệp tâm linh ra vào dể dàng .

Chúng ta có thể tham khảo thêm các tài liệu sau đây để hiểu rỏ hơn :

* Chiến Tranh Siêu Hình ( Psychic Wars ) của Elmar R.Gruber ; Nhà xuất bản Blandford .1999.

Giới thiệu nội dung sách : Đã hơn 25 năm qua , những cơ quan tình báo của hai bên trong cuộc chiến tranh lạnh , đã hổ trợ cung cấp tài chính cho công cuộc nghiên cứu về Siêu tâm lý học ( Parapsychology ) . Hai cơ quan tình báo CIA và KGB đã bỏ ra nhiều tiền tài và thời gian để nghiên cứu , tìm tòi những phương cách và vũ khí siêu tâm lý nào để có thể đem ra xử dụng trong cuộc chiến . Đây là một công trình nghiên cứu hấp dẩn và có giá trị , những chương trình nghiên cứu và những cuộc thực nghiệm được mô tả và ghi lại một cách chi tiết , đồng thời những khám phá bí mật nầy đã hình thành một căn bản nhạy cảm cho những khám phá và phát triển trong tương lai về các lảnh vực nầy .

Thu thập tài liệu từ những nguồn nghiên cứu siêu tâm lý và ngoại cảm tâm linh trên thế giới ; Bác sỉ Gruber giải thích về những phương pháp mà những nhà siêu tâm lý ( Psychologists ) đã mang những công trình nghiên cứu của họ lên hàng đầu trong chương trình nghiên cứu khoa học , đó là những công trình nghiên cứu bằng những phương pháp rất nghiêm khắc về những hiện tượng ngoại cảm tâm linh như : Thiên nhản thông ( Remote Viewing ), Cảm ứng tâm linh ( Telepathy ) , Thiên Lý Nhản ( Clairvoyance ) , Tiên tri ( Precognition ) . Khoa Siêu tâm lý học không còn bị xem như là một mảnh vụn nhỏ của khoa học hiện đại và Bác sỉ Gruber chứng minh cho mọi người thấy được đây là một khoa học cao cấp và sẽ được quan tâm hàng đầu trong tương lai .Trong sách nầy sẽ đề cập đến :

- Câu chuyện về những cuộc chiến về ngoại cảm tâm linh , huyền bí của những gián điệp tâm linh ( Psi Spies ) của Mỹ và Nga trong những cuộc chiến tranh lạnh đã qua .

- Những hồ sơ thật ( The real X-Files ) về những nghiên cứu tâm linh .

- Những nghiên cứu về Cảm ứng tâm linh ( Telepathy ) và Thiên Lý Nhản ( Clairvoyance ) trong quân sự và gián điệp .

- Thiên nhản thông ( Remote Viewing ) là một trong những chương trình nghiên cứu bí mật của quốc gia .

- Tiết lộ những sức mạnh vũ khí tâm linhcủa những cường quốc Trung Cộng – Mỹ và Nga Sô .

- Sự tương quan hiện đại nhất giữa khoa học và siêu tâm lý học .

* Chiến Trường Siêu Hình tại Anh Quốc ( The Magical Battle of Britain ) của Dion Fortune ; Nhà xuất bản Golden Gate 1993 .

Giới thiệu nội dung sách : Ngay sau khi quân đội Đức quốc xả xâm chiếm Ba lan và Anh quốc liền tuyên chiến với Đức quốc xả ; Bà Dion Fortune là thủ lảnh hàng đầu của Anh về lảnh vực huyền bí học và là hội trưởng của Hội Ánh Sáng Tâm Linh ( The Society Of The Inner Light ) liền phát động một chiến lược tâm linh và những hoạt động siêu linh để chống lại sự xâm lấn của quân Đức quốc xả vào lảnh thổ của Anh .

Hơn 50 năm sau , những văn kiện , giấy tờ tài liệu về những chỉ thị và những hoạt động tâm linh trong cuộc chiến vừa qua đã được công khai hóa trong hệ thống huấn luyện huyền bí học của bà Dion Fortune .

Đây là một hình ảnh sống động có ý nghĩa của một nhà tu luyện về Huyền bí học trong công cuộc bảo vệ sự tồn vong của Tổ quốc , khi đất nước bị lâm nguy .

· The Black Sun ; của Petter Moon ; Nhà xuất bản Sky book 1997 .

Giới thiệu nội dung sách : Khám phá bí mật lớn nhất của Đức quốc xả . MẶT TRỜI ĐEN là một cuộc mạohiểm tâm linh khám phá hàng loạt những thông tin và tin tức mới nhất : Từ chương trình dĩa bay của Đức cho đến sứ mạng đặc biệt của cục phản gián SS của Đức trong lảnh thổ Tây Tạng . Những sự liên hệ bí mật về tâm linh và huyền thuật của hệ thống Ai Cập và Tây Tạng ( Bon ) cùng Tử Thư đã được Đức quốc xả hấp thu xử dụng như thế nào trong thế chiến thứ II .

Khi các bạn đọc đến đây thì những việc trên đã trở thành sự thật từ lâu và đã từng xảy ra quá khứ cũng như sẽ xảy ra trong hiện tại và trong tương lai ; và không chỉ những quốc gia ngoại quốc đang xữ dụng những kỷ thật tâm linh nầy , và ngay cả đến chúng ta cũng đang xử dụng những gián điệp tâm linh nầy ( Astral Spies ) ; Tuy nhiên Thuật xuất vía có nhiều mục đích và nhiệm vụ cao cả hơn là chỉ dùng đi nhìn trộm việc của người khác .

Do việc học thuật xuất vía , con người bắt đầu biết được bản thể của mình , là con người không phải chỉ là cơ thể vật chất nầy , và cơ thể nầy chỉ sống trung bình là 60 nâm rồi chết đi , mà con người đã học và biết rằng họ là một loại năng lượng , và theo luật bảo toàn năng lượng , con người là thường hằng ; xuyên qua thuật xuất vía , họ có thể gợi lại và thấy được tiền kiếp , từ đó con người cảm nhận một cách rỏ ràng rằng họ là một chỉnh thể vô hạn .

Do việc xử dụng thuật xuất vía , một người có thể nhận được câu trả lời giải đáp cho những nan đề trong cuộc sống , từ những thể vi diệu hơn của họ .

Thông qua thuật xuất vía , ý thức con người được nhạy cảm , được kiện toàn hơn , định lực tăng cao .

Kiến thức và việc xử dụng thuật xuất vía có thể thúc đẩy y học và khoa tâm thần học được nâng cao ( Như trường hợp của Ông Edgar Cayce ) . Y khoa thay vì chỉ trị cho cơ thể vật chất sinh vật thể của con người , mà y khoa phải xem và trị cho con người như một chỉnh thể toàn vẹn ( a complete entity ) . Như là khoa học đã tìm ra được vòng hào quang ( aura ) là trường sinh học của con người cũng như các vật sống , từ đó có thể dùng để chẩn đoán và trị liệu , để ngăn chận và trị liệu , trước khi bệnh đi lan ra đến thể xác .Nên y học đông phương có nói phòng bệnh hơn trị bệnh , là có lý luận và phương cách trị liệu của nó .

Khoa Tâm Linh trị liệu ( Psychic Healing ) có thể xử dụng những thể vi diệu bên trong cùng những năng lượng của nó để trị bệnh . Do việc hiểu biết những thể bên trong của con người , nhiều bệnh nguy hiểm đến tánh mạng đã được trị lành . Việc ảnh hưởng toàn diện và trị liệu cuối cùng là xem con bệnh là một chỉnh thể toàn diện , gồm xác thân cùng các thể vi diệu của nó để trị liệu . Đây là việc mà y học Tây phương đang bắt đầu chú ý đến .

Cũng như Tâm thần trị liệu cần phải quan tâm đến các mặt khác về tinh thần và tâm thần của con người , chứ không chỉ đơn thuần dùng thuốc men để trị liệu .

Các nhà khoa học ở mọi lảnh vực , cũng được lợi ích xuyên qua thuật xuất vía . Như nhà Thiên văn , thay vì nhờ vào những dụng cụ quang học cùng ăng ten dĩa ( radio astronomy ) , thì trước tiên họ có thể dùng phóng xuất thần thức của mình vào vũ trụ để quan sát , và họ còn có thể du hành xuyên qua những dải ngân hà khác mà những dụng cụ vật chất của họ không thể nhìn đến được . Nhà vật lý học có thể phóng xuất thần thức của mình vào một vật để tìm hiểu những cấu trúc phân tử và nguyên tử của vật đó .

Trong lảnh vực thương mải và quảng cáo , có thể dùng thuật xuất vía để tiên liệu thị trường cho tương lai và định hướng đi cho thương mải , nhờ trực giác mà có những sáng kiến về sản phẩm mới , đồng thời nhờ đó mà có được những dự kiến chính xác hơn cả máy điện toán , người ta thấy được những kế hoạch của mình trước khi hành động .

Những nhà trị liệu lâm sàng ( Therapists ) có thể trị liệu cho thể xác ( physical ) , thể trí ( mental ) , thể tình cảm ( emotion ) của bệnh nhân bằng cách kêu bệnh nhân dùng thuật xuất vía để đi ra ngoài cơ thể của mình và từ đó phóng xuất năng lượng của thể vía theo một khuôn mẩu đặc biệt về cho thể xác , để giúp thể xác nhanh lành bệnh .

Thật ra , khả năng ứng dụng của thuật xuất vía là vô hạn .

19.- Xử dụng thuật xuất vía trong việc làm giảm sự đau đớn vì bệnh tật của thể xác .

Đến đây , các bạn đã biết cách làm thế nào để xuất vía và cách đem thần thức ra ngoài ở một vị trí khác , độc lập với cơ thể vật chất ; thêm vào đó các bạn cũng đã biết được cách thâu nhận thông tin và những cảm nhận từ những vị trí cách biệt ; từ bản chất , thì đây là một thành tựu và là một khả năng mạnh mẽ mà các bạn đã có được ; tuy nhiên , còn nhiều điều hay ho hơn nữa mà thuật xuất vía đã mang lại cho các bạn . Do bởi kiểm soát và tinh thông thuật xuất vía , các bạn cũng có thể từ đó , xuyên qua thuật xuất vía mà các bạn có thể kiểm soát và làm cho cuộc sống cá nhân của các bạn ngày càng tốt hơn .

Bây giờ các bạn sẽ học cách dùng thuật xuất vía để xử lý và khống chế sự đau đớn của thể xác do bệnh tật gây ra .

Đầu tiên , hảy ôn lại những quan niệm của những chương trước ; Cơ thể xác thịt vật chất là một cơ thể tạm bợ , nó không có thật ; nhưng vì thế giới vật chất là thế giới của vật lý , mà thế giới nầy được thâu nhận bởi ngũ quan và được chứng là thực có thật , do sự thâu nhận thô kệch của ngũ quan nầy . Nên cơ thể xác thịt vật lý nầy ( physical body ) đả bị nhìn nhận một cách sai lầm là một cơ thể có thật hơn là cơ thể của cái vía ( astral body ).

Nhà khoa học có thể chứng minh điều nầy bằng cách dùng một cây thước , khẻ mạnh vào tay bạn và nó gây ra một sự đau đớn cho bạn , khiến bạn phải rút tay lại và sự đau đớn đó được ghi nhận trên nét mặt nhăn nhó của bạn ; điều nầy có lẻ đủ chứng minh là cơ thể xác thịt là có thật ; thêm vào đó nhà khoa học giải thích rằng sự đau đớn được tạo nên , là do một quá trình phối hợp và phản ứng của nhiều hệ thống cơ sinh hóa và vật lý và cuối cùng chấm dứt ở bộ nảo qua sự ghi nhận sự đau đớn nầy . Như vậy , các nhà khoa học đã chứng minh , nhờ con người có bộ nảo vật chất mà con người đã ghi nhận được sự đau đớn nầy và một lần nữa đã chứng nhận rằng cơ thể vật chất là người thầy ( Master ) và bộ nảo là ông chủ ( Boss ) .

Nhưng sự việc sẽ ra sao , và bộ nảo đang đâu , khi cơ thể con người trong lúc ngũ mê ; cơ thể bị đánh thuốc mê ; bị thôi miên hay trong những cơn đại định thâm sâu ; khi người ta dùng nhiều hình thức khác nhau , gây đau đớn và đánh đập , thậm chí dùng lửa để đốt hay đổ nước đá lạnh xuống thân người trong những trường hợp nầy ; thì không một ai kêu đau đớn hay có phản ứng để lộ vẻ đau đớn gì cả ; như vậy trong những trường hợp nầy không có một sự đau đớn nào được ghi nhận cả . Thí dụ khác , các nhà khoa học sẽ giải thích làm sao , khi những nhà khổ hạnh du già ( Fakir ) dùng dùi sắt to lớn , đâm xuyên qua quai hàm hoặc đâm xuyên qua lưởi mà không có gì là đau đớn và không có chảy máu ?

Như vậy ở đây , chúng ta có thể ghi nhận rằng trong những trường hợp nầy , những dữ kiện và những thông tin về sự đau đớn đã không đi xuyên qua nảo , nói một cách khác những thông tin đau đớn nầy không được bộ nảo ghi nhận , nên không có một giải thích gì về sự hành hạ và đánh đập đối với cơ thể cả ; mặc dù trên mặt thực tế vật lý , những sự việc nầy có xảy ra .Như vậy , lúc đó bộ nảo đang ở đâu và đang làm gì , trong khi cơ thể của mình bị hành hạ như thế ( dù vô tình hay cố ý ) . Thí dụ , cho dù bộ nảo vật lý vật chất , cơ sinh hóa của con người có ghi nhận được những dữ kiện và những thông tin đau đớn nầy đưa lại đi nữa , thì tại sao , bộ nảo không có một phản ứng nào , để khiến cho cơ thể có thể biểu lộ sự đau đớn , khi cơ thể bị xâm hại như thế ?

Thật ra, sự lý giải những đau đớn , cùng những liên hệ đến mức độ của sự đau đớn là do thể vía quản lý hay là xảy ra ở những tầng lớp ý thức của thể vía . Hơn nữa , vì thể vía là một thể của ý thức được biểu hiện và suy nghỉ bằng hình ảnh cùng tưởng tượng ; nên tất cả những sự đau đớn của cơ thể đều có sự tương hợp và liên quan mật thiết đến hình ảnh cùng sự tưởng tượng hay hồi tưởng đó .

Thí dụ , khi ta nhớ lại một kỷ niệm đau đớn , thì sự nhớ lại nầy sẽ làm tái thể nghiệm lại sự đau đớn đó ; và sự nhớ lại nầy , là hình thức của một hình ảnh đau đớn trong quá khứ , đã được tạo ra bằng năng lượng của thể trí và tấm hình nầy đã được thâu nhận và ghi đậm vào băng từ của thể vía ; nhưng sự liên hợp với những hình ảnh đau đớn nầy là những cảm giác đau đớn .

Vì thế , tất cả những sự đau đớn của con người đều có đi kèm theo những hình ảnh liên hệ , cùng những sự cảm nhận đau đớn ; Do đó , ta có thể kiểm soát và khống chế được sự đau đớn , xuyên qua sự kiểm soát và khống chế hình ảnh . Vì các bạn đã biết được thuật xuất vía , nên các bạn có thể đi ngay vào tiềm thức hay vô thức , rồi từ trong đó mà tìm được những hình ảnh nào mà mình muốn .

Từ đó , ta có một công thức là : Muốn làm thay đổi một sự đau đớn nào đó của ta , thì ta chỉ cần làm thay đổi hình ảnh hay ngẩu tượng nào đó , có liên hệ đến sự đau đớn đó ; khi ta làm thay đổi hình ảnh theo một hình thức nào đó , thì nó sẽ quyết định những hình thức cảm giác đau đớn nào xảy ra theo lối đó ; còn nếu ta thay đổi hình ảnh theo chiều hướng đồng tính chất với sự đau đớn , thì ta thật sự làm gia tăng sự đau đớn đó ; khi ta làm thay đổi hình ảnh theo một chiều hướng khác và đối lập lại với sự đau đớn đó , thì sự đau đớn sẽ giảm xuống và khi ta làm thay đổi hình ảnh của sự đau đớn theo một hình thức mới mẻ hơn , thì sự đau đớn đó sẽ hoàn toàn biến mất .

Có một điều ta cần nhớ rằng , xuyên qua thuật xuất vía , ta có thể kiểm soát và khống chế ngũ quan vật chất của cơ thể như : xúc giác , vị giác , thính giác , khứu giác và thị giác ; trong chương nầy chúng ta chỉ học cách dùng thị giác là hình ảnh , nhờ xuyên qua thể vía , mà ta có thể kiểm soát và khống chế sự đau đớn của cơ thể vật chất .

DÙNG THUẬT XUẤT VÍA ĐỂ KIỂM SOÁT VÀ KHỐNG CHẾ SỰ ĐAU ĐỚN :

1.- XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ NƠI BỊ ĐAU :

Chổ bị đau trong cơ thể của bạn nằm ở vị trí nào ? Nếu bạn bị nhức đầu hay đau đầu , thì nơi bị nhức là nằm ở trong giữa đầu , ở đằng sau đầu hay ở đằng trước trán hay bị đau ở một bên đầu ?

2.- CHÚ Ý ĐẾN SỰ ĐAU NHỨC :

Bằng cách để ý và theo dỏi và cảm nhận sự đau đớn , bạn sẽ làm quen với sự đau đớn nầy . Có phải sự đau nhức nầy bị đau như bị điện giựt tăn tăn , bị đau đến tê cả đầu , hay có lúc đau có lúc không v ..v...?

3.- THAY ĐỔI SỰ ĐAU NHỨC THÀNH MỘT ẢNH TƯỢNG :

Liên hệ sự đau nhức nầy với một ảnh tượng . Thí dụ : Bạn bị nhức đầu , như nơi đầu bị giựt giựt đau theo nhịp , thì bạn có thể tưởng tượng một ảnh tượng của một quả núi lửa đang phun lửa hay tưởng tượng ảnh tượng một cái búa máy đập xi măng của người thợ làm đường đang khoan xuống mặt xi măng . Sau khi bạn đả tưởng tượng ra một hình ảnh thích ứng , thì bạn liền cho sự đau nhức của bạn liên hệ với ảnh tượng nầy ; khi bạn làm gia tăng và chú ý nhiều đến sự liên hệ của đau nhức với ảnh tượng mà bạn đã tạo ra , thì sự đau nhức của bạn có khuynh hướng đồng hóa và nhập làm một với ảnh tượng đó .

4.- TIẾP THEO LÀ BẠN BƯỚC THỐI LÙI VỀ SAU CƠ THỂ CỦA BẠN HAI THƯỚC ;

Dùng kỷ thuật xuất vía ra ngoài cơ thể ; bạn sẽ cắt đứt ngay tức khắc sự liên hệ với cơ thể vật chất ; cũng như bạn đã cách rời bạn với sự đau nhức của cơ thể ; như vật bạn đã cảm thấy sự đau nhức đã giảm bớt .

5.- TIẾP THEO LÀ BẠN SẼ DỜI SỰ ĐAU NHỨC RA NGOÀI CƠ THỂ VẬT CHẤT :

Bằng cách , bạn tưởng tượng tấm ảnh mà bạn đã tạo ra khi nảy và sự đau nhức đã đồng hóa với tấm ảnh nầy , bây giờ bạn đem nó ra ngoài cơ thể vật chất của bạn .

Tiếp theo sau đó , bạn hảy tưởng tượng ảnh tượng nầy , hoàn toàn hóa ra thành một tấm ảnh toàn màu đen sậm .

Tiếp theo , bạn tưởng tượng tấm ảnh đen nầy từ từ biến thành một tấm ảnh nhỏ cở kích thước của một con tem dán thư , hay nhỏ hơn nữa cũng được .

Sau đó , bạn di chuyển và dời tấm ảnh nầy ra xa cơ thể của bạn vài cây số ; sau khi chắc là tấm ảnh nầy đã thật cách xa cơ thể của bạn ; thì cuối cùng là bạn hảy tưởng tượng tấm ảnh nầy bị nổ tung ra không còn tồn tại nữa .

Nên nhớ là kỷ thật kiểm soát và khống chế sự đau đớn có hiệu quả hay không là do khả năng thuật xuất vía của bạn có cao hay không ; điều cơ bản là định lực và trình độ quán tưởng đã dạy ở những chương đầu các bạn đả tập thuần thục hay chưa ? Nếu trình độ quán tưởng và định lực chưa vững thì bạn sẽ bị cái đau nhức của cơ thể sẽ kéo cái vía của bạn nhập về với cơ thể ngay lập tức và bạn sẽ bị cái đau hành hạ các bạn ngay .

Sau đây là một bài tập nhỏ để kiểm soát định lực cùng trình độ quán tưởng của bạn đã đạt đến mức nào trên thể vía của bạn :

Bắt đầu hảy nhờ một người bạn khác hay tự bạn lấy bàn tay mặt mà nhéo vào da thịt của cánh tay trái hay vào da thịt của bắp đùi nào của bạn cũng được , bạn hảy chú ý và cảm nhận những gì đã xảy ra cho cơ thể của bạn ; bắt đầu thì bạn hảy nhéo nhè nhẹ rồi dần dần tăng thêm cường độ mạnh ; các bạn sẽ cảm nhận thấy lúc đầu thì không đau , sau đó khi nhéo hơi mạnh một chút , thì các bạn sẽ cảm thấy đau hơn một chút , sau khi cường độ nhéo gia tăng theo sức mạnh đâm dập đau vào da thịt , thì đến một lúc nào đó , các bạn không thể chịu đựng nổi sự đau đớn nầy , do sự nhéo mạnh tạo ra ; vì các bạn đả có một cảm giác và một ảnh tượng đang trông thấy trước mắt là đang bị nhéo đau .

Bây giờ các bạn cũng lập lại những động tác nhéo y hệt như vừa rồi ; khi bắt đầu , thì các bạn hảy tưởng tượng một ảnh tượng sung sướng nhứt nào đó, của cơ thể mà các bạn đã từng được hưởng thụ qua hay là nhập làm một với một ảnh tượng cao thượng nào đó của tôn giáo, mà các bạn đang theo ( Tức nghĩa là các bạn đã xuất vía , và các bạn đang ở trên thể vía đấy ) Điều quan trọng là , bây giờ cảm giác đau đớn của da thịt khi bị hành hạ đã được chuyển đổi thành cảm giác và ảnh tượng của sự sung sướng của cơ thể và tinh thần . Khi sự nhéo bắt đầu nhéo nhẹ , thì các bạn hảy tưởng tượng là cơ thể đang hưởng được sự sung sướng khoá cảm nhẹ , khi sự nhéo dần dần tăng cường độ , thì các bạn sẽ tưởng tượng là sự sung sướng về cơ thể và tinh thần của mình được tăng thêm khoái cảm theo nhịp của sự nhéo mạnh tăng lên ; lúc nầy bạn có thể kiểm nhận sự khác biệt giữa hai trạng thái khác nhau ở cỏi vía , lúc trước là sự đau đớn của cơ thể , lúc sau là sự sung sướng khoái cảm của cơ thể . Khi cường độ nhéo mạnh tăng lên quá nhiều , thì đến một lúc nào đó , thì các bạn không thể tưởng tượng là các bạn đang sung sướng trong sự khoái cảm của thể xác được nữa ; và ngay tức thời các bạn sẽ bị sự nhéo quá đau nầy, mang bạn đang từ sự sung sướng và khoái cảm đang hưởng thụ trên thể vía , mà thần thức của bạn phải nhập trở về thành một với thể xác để lảnh nhận sự đau nhức của thể xác đang chịu do sự nhéo quá mạnh và quá đau nầy mang lại .

Qua bài tập trên , các bạn có thể xác định mức độ định lực và quán tưởng của các bạn ở mức độ nào . Nếu định lực và quán tưởng của các bạn ở mức độ thấp , thì lúc bắt đầu bị nhéo chừng vài giây , là các thể vía của các bạn sẽ bị kéo về nhập một với thể xác ngay , vì các bạn chịu đau không nổi bởi định lực và sự quán tưởng của các bạn ở mức độ thấp .Nếu định lực và quán tưởng của các bạn ở mức độ trung bình , thì mức chịu đựng sự đau đớn sẽ lâu hơn , vì thực ra trên thể vía bạn là bạn đang hưởng thụ sự sung sướng của thể xác mà , mặc dù trên thực tế trong cỏi vật chất là cơ thể của các bạn đang bị hành hạ ; đến một mức độ nào đó , thì thể vía của các bạn sẽ bị kéo về nhập một với thể xác , vì định lực và trình độ quán tưởng của các bạn ở mức độ trung bình .

Còn định lực và trình độ quán tưởng của các bạn ở mức độ cao , thì mặc dù trong cỏi vía cơ thể của các bạn có bị nhéo cho đến ra máu , bị xé đứt thịt da , bị người ta có nổi lửa thiêu đốt đi nữa , thì cũng không gây ảnh hưởng gì đến thể vía cùng thần thức của các bạn cả ; và các bạn có thể thấy được rỏ ràng cơ thể của các bạn đang bị người đời xâm hại như thế nào , mà không một may may ảnh hưởng đến các bạn , là bởi vì định lực và trình độ quán tưởng của các bạn ở mức độ cao . Nhưng có một điều là nếu không vì một mục đích cao thượng và cứu nhân độ thế nào đó , thì sau khi qua cuộc thử thách , khi các bạn trở về thể xác từ cỏi vía , thì ôi thôi , xác thân đã bị hư hại , tay chân đã bị đức lìa , không thể đem tay chân bằng plastic hay bằng cây mà thay thế vào được ; như vậy các bạn sẽ bị thiếu một công cụ hoàn hảo để giao tiếp với cỏi vật chất , nếu các bạn còn nặng nợ với cỏi trần hay còn nhiều việc cần hoàn tất . Còn nếu , định lực và trình độ quán tưởng của các bạn ở mức độ quá cao , vì một mục đích cao thượng hay một nhiệm vụ nào đó cần phải thi hành , thì những sự xâm hại cơ thể của các bạn ở cỏi trần không thể làm cho các bạn đau đớn và không thể nào ảnh hưởng đến các bạn được ; vì trước khi thực hiện công việc cao thượng nầy , thì các bạn đã sẳng sàng hy sinh thể xác ở cỏi trần , để tạo một tương lao sáng lạng cho những người còn lại . Và nếu các bạn muốn trở lại cỏi trần để giúp nhân loại nữa , thì các bạn phải biết cách tái sinh trở lại như các vị Cao Tăng Tây Tạng vậy .

Một vài điển hình minh chứng cho bài tập nhỏ nêu trên đã từng xảy ra trong xả hội của chúng ta :

- Những binh sĩ bị tra tấn nhục hình nhưng không bao giờ than van đau đớn cả , vì thần thức , thể vía và hình tư tưởng của họ đã được huấn luyện và nhập một với một lý tưởng cao thượng nào đó .

- Những vị Cao Tăng hay Thánh Nhân của các tôn giáo tự thiêu vì một mục đích cao thượng nào đó hay dùng lửa đại định tam muội để vảng sanh cực lạc , khi ngày giờ đã đến .

- Các tín đồ của một vài tôn giáo , trong cuộc Thánh lể nào đó , đã dùng roi da tự đánh vào lưng cho đến ra máu mà không cảm thấy đau đớn nào cả .

20.- Xử dụng thuật xuất vía trong việc giải quyết những vấn đề nan giải của cuộc sống .

Trong xã hội thương mải ngày nay , việc giải quyết những vấn đề nan giải là một việc rất khó khăn . Với kỷ thuật cao cấp của máy điện nảo vi tính PC , cùng số lượng lớn thông tin và thống kê , cũng đủ làm cho đầu óc chúng ta bị quay cuồng . Và điều khó khăn nhất là , mặc dù với số lượng thông tin và thống kê có nhiều thế nào đi nữa , thì con người cũng là ở cuối cùng , để xử lý và giải quyết những công việc khó khăn nầy ; từ đấy làm xuất hiện một số sai lầm do con người gây ra trong khi xử lý và giải quyết những số lượng thông tin khổng lồ đó .

Nhưng chúng ta có thể dùng kỷ thuật xuất vía để giải quyết những vấn đề nan giải nầy .

PHÂN TÍCH VÀ MỔ XẺ VẤN ĐỀ NAN GIẢI :

Sự thật thì những vấn đề nan giải làm chúng ta lo âu , tâm trí của chúng ta luôn bận rộn và nó cũng làm cho chúng ta mệt mỏi rả rời cùng tiêu hao nhiều năng lực . Do đó , chúng ta cần biết những yếu tố nào đã tạo thành những vấn đề nan giải nầy , rồi từ đó ta mới có thể giải quyết nó một cách dể dàng .

VẤN ĐỀ NAN GIẢI KHÔNG CÓ GÌ KHÁC HƠN , LÀ MỘT TỔNG THỂ CỦA THÔNG TIN , MÀ TỔNG THỂ NẦY ĐÃ BỊ MẤT ĐI , MỘT MẢNH NHỎ THÔNG TIN NÀO ĐÓ CỦA NÓ .

Thí dụ : Một bộ chơi ráp hình răng cưa ( A jigsaw puzzle ) với năm hoặc mười mảnh của nó bị thất lạc ; những mảnh hình bị mất nầy được xem là bí mật ; toàn bộ đồ chơi ráp hình cùng những mảnh hình bị mất nầy , đã tạo thành một tình trạng huyền bí khó hiểu , khó giải quyết .

Nói một cách khác , thì vấn đề nan giải là một sự huyền bí khó hiểu ; và câu trả lời cho sự huyền bí nầy là một câu giải đáp bí mật .

Cách dùng thuật xuất vía trong việc giải quyết những vấn đề nan giải :

1.- Hảy xuất Thần ra khỏi thể xác và đứng lui về phía sau khoảng hai mét .

2.- Bây giờ bạn hảy suy nghỉ vấn đề nan giải của bạn đang có ; thí dụ hảy lấy một vấn đề nan giải trong thương mải . Khi bạn đang ở ngoài cơ thể của bạn , bạn có thể nghĩ rằng . làm thế nào để có một dụng cụ thích hợp để hoàn tất công việc , nhưng bạn không có tiền để mua dụng cụ đó . Nói một cách khác là biệt lập nó và định vị nó tại một nơi .

3.- Bạn vẩn còn đứng ngoài cơ thể khoảng hai thước , và tìm xem mảnh thông tin bí mật nào của vấn đề huyền bí đả bị thất lạc mất ; Bạn có thể tự hỏi : Tôi phải cần có thông tin hay hành động nào để có thể giải quyết vấn đề .

4.- Khi bạn đã quyết định và có được một thông tin hay một hành động nào rồi , thì bạn hỏi Thần thức của bạn : Tôi làm thế nào để tìm thông tin hay cần phải thực hiện tiến hành hành động này như thế nào ?

Tại trong lúc nầy , bạn cần chú ý , Thần thức của bạn đang nằm trong thể vía , rất sáng suốt và sẽ có câu trả lời cho bạn .

Câu trả lời có thể là một quyển sách , hay cần liên hệ với một người nào đó ...... tạm nêu ra vài thí dụ .

Ngay tại đây có thể bạn sẽ khám phá ra nhiều điều lý thú ; Bây giờ có thể bạn đã có được một thông tin hay một hành động nào đó , để giải quyết vấn đề .

5.- Bây giờ bạn cần phải quyết định làm thế nào dùng mảnh thông tin đả mất nầy mà bạn đả tìm được để giải quyết vấn đề .

Vấn đề lý thú là , câu trả lời cho vấn đề nan giải đả được giải quyết xuyên qua trạng thái xuất vía . Khi vấn đề nan giải đã được giải quyết trong tâm nảo tinh thần của bạn , thì nó không còn tồn tại trong cuộc sống của bạn nữa .

Do sự thay đổi trong Thần thức của bạn , thì vấn đề nan giải cũng thay đổi theo .

6.- Bây giờ bạn có thể đưa Thần thức của bạn , trở về cơ thể vật chất và trở lại ý thức sinh hoạt bình thường trong cuộc sống hằng ngày .

Như vậy là bạn vừa học xong kỷ thuật sơ cấp , dùng thể vía để giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống .

21.- Kỷ thuật luyện Tha Tâm Thông sơ cấp .

Được hiểu kỷ thuật nầy với nghĩa tiếng anh là Telepathy/Body Linking Throught Astral Projection ; có nghĩa là nhập vào người khác , nhờ đó mà biết được sự suy nghỉ cùng cảm nhận của họ ; mục đích cuối cùng của kỷ thuật nầy là tạo một sự hiểu biết cảm thông và thông tin với người khác .

Kỷ thuật nầy gồm có các bước như sau :

1.- Bắt đầu , hành giả hảy xuất vía ra khỏi thể xác về phía sau của mình khoảng hơn hai thước ; từ vị trí của thể vía , hành giả nhìn về thể xác của mình đang đứng ở phía trước .

2.- Kế đến hành giả hảy suy nghỉ đến người mà hành giả muốn bắt sự liên lạc ; sau đó hành giả xuất vía đi đến vị trí mà nơi người đó đang có mặt . hành giả đứng phía sau của người nầy khoảng hơn hai thước .

3.- Bây giờ hành giả sẻ di chuyển đến khoảng không gian và vị trí mà cơ thể của người đó đang đứng , nói nôm na là đi vào cơ thể vật chất của người đó .

Hành giả cố gắng cảm nhận cơ thể của người đó sinh hoạt vận chuyển như thế nào ; trong cơ thể của người nầy , có những đau đớn hay nhức nhối gì không ? Hơi thở của người đó như thế nào ? người nầy thở dể dàng hay nặng nề ? Hành giả cố gắng làm quen với tâm sinh lý của người nầy , và hành giả hảy điều chỉnh nhịp thở của mình cho giống , cùng nhịp thở của người kia , điều đó là một sự tương thông xảy ra giữa hai thể vía và hành giả thật sự sẽ cảm nhận được những cảm giác giống như người kia vậy .

4.- Bây giờ , hành giả hảy tưởng tượng , cái trí tinh thần của người đó là một quả cầu tròn có ánh sáng trắng , sau đó hành giả cũng tưởng tượng cái trí tinh thần của mình cũng là một quả cầu có ánh sáng trắng tương tự ; sau đó hành giả nhập mình lại với người kia thành một , tức hai quả cầu nhập lại thành một quả cầu .

5.- Bây giờ hành giả đang ở trạng thái tha tâm thông , vì hành giả đã bắt được sự liên lạc trực tiếp với người kia rồi . Ngay trong lúc nầy , hành giả giữ tâm an định và vô niệm , thì hành giả sẽ khám phá ra , có những dòng tư tưởng đang chạy qua tâm của mình , hành giả biết rằng những dòng suy tư và tư tưởng nầy là của người kia ; vì định lực của hành giả đã vững và hành giả đang điều chỉnh tâm thức của mình vào tầng số rung động tâm tư của người đó , và hành giả biết rằng những dòng tư tưởng đang đi vào tâm của hành giả là của người kia .

6.- Vào lúc nầy , hành giả có thể hỏi bất cứ câu hỏi nào mà hành giả muốn , sự hỏi nầy chỉ cần hành giả suy nghĩ những câu hỏi hướng về người kia ; sau khi hành giả đặt câu hỏi xong , thì câu trả lời của người kia sẽ xuất hiện ngay trong tâm của hành giả như những dòng tư tưởng hay hình ảnh , biểu tượng nào đó . Như vậy , lúc nầy tâm của hành giả đã có tầng số rung động cao tầng cùng nhịp và cùng băng tầng của tâm người kia vậy .

7.- Sau khi hành giả đã có được đầy đủ , những câu trả lời mà hành giả muốn biết ; thì đến lúc hành giả cắt đứt sự tương thông với người nầy bằng cách tuần tự làm ngược lại quá trình thiết lập sự tương thông đến người nầy trong lúc đầu tiên ; tức là hành giả tách rời tâm thức của mình ra khỏi tâm thức của người kia , hành giả tưởng tượng quả cầu trắng của mình rời ra khỏi quả cầu trắng của người kia ; xong hành giả xuất vía cho cái viá của mình trở về thể xác của mình , và nhập lại làm một và cuối cùng hành giả trả thần thức của mình về cơ thể vật chất , với đầy đủ ý thức và sự sáng suốt như lúc bình thường cộng thêm những kiến thức thông tin đã có được mang về từ cỏi vía .

Đó là kỷ thuật sơ đẳng trong bước đầu thực tập về tha tâm thông vậy .

22.- Xử dụng thuật xuất vía trong công việc sáng tạo và tạo hình .

Do hệ thống máy vi tính , số liệu , dử liệu tràn ngập đã tạo nên sự bùng nổ thông tintrong thế giới thương mải ngày nay , làm cho ta khó lòng mà có được một quyết định thỏa mản cho công việc ; vì máy vi tính đã cung cấp cho ta quá nhiều tham khảo và báo cáo tràn ngập về nhiều phương diện , nào báo cáo nầy cho là đúng , báo cáo kia cho là phải , báo cáo nọ cho là hay v..v...<O:p

Với tình trạng nầy , là người quyết định và xử lỵ́ công việc ta phải làm sao đi thẳng vào trung tâm công việc và giải quyết vấn đề một cách hoàn hảo . Bằng cách dùng một khuôn mẩu được dựng lên từ thuật xuất vía , nó sẽ giúp cho ta có thể tìm được một lời giải đáp cho sự quyết định , để giải quyết những vấn đề khó khăn khó khăn của công việc .<O:p

Khuôn mẩu là một thí dụ hay là một mô hình . Trong khi xuất vía , ta có thể tạo ra một mô hình công việc thật sự bằng thể vía ; khi mô hình đã được tạo ra trên thể vía , ta có thể phóng đại và diển đạt mô hình nầy phát triển hướng về tương lai và từ đó ta có thể thêm vào những ý kiến hay hành động nào cho thích hợp với mô hình , sau đó ta sẽ có được nhiều lối thoát cho công việc hay nhiều kết quả tốt , từ trong mô hình đã được cập nhật hóa nầy ; Mổi hành động sẽ có ít nhất là một kết quả . Do sự theo dỏi những kết quả nầy , ta sẽ biết được phải hành động như thế nào cho có được một kết quả hoàn hảo cho công việc mà ta đang làm .<O:p

Sau đây là những bước thực hành để tạo mô hình trên thể vía : <O:p

<O:p

1.- Bắt đầu xuất thể vía của bạn ra phía sau thân xác của bạn khoảng hai thước rưởi .

2.- Từ trong thể vía bạn dùng tưởng tượng tạo ra một mô hình hay hoàn cảnh công việc mà bạn muốn giải quyết . Có thể bạn là giám đốc của một công ty hay bạn là chủ nhân của một dịch vụ nào đó ; và bạn đang phân vân không biết phải hành động như thế nào cho công việc làm ăn của bạn trong tương lai . Để thêm vào mô hình đó , bạn hảy tưởng tượng một vài hành động cụ thể nào đó và đặt nó vào mô hình công việc , đương nhiên từ đầu , những hành động nầy , bạn không biết chắc là nó có đem lại kết quả tốt hay không .<O:p

<O:p</O:p

3.- Bây giờ bạn hảy tưởng tượng , chọn một hành động thích hợp cho công việc của bạn ; bạn sẽ tìm thấy rằng bạn có khả năng thật sự thấy được bằng thể vía của mình , việc gì sẽ xảy ra khi bạn chọn lấy hành động nầy cho công việc của bạn Những ấn tượng tự nhiên như là một hình ảnh , một đoạn phim điện ảnh hay một dự cảm sẽ hiện ra trong cảm quan trực giác của bạn .<O:p

<O:p

4.- Sau đó , bạn hảy chọn một hành động khác mà đặt vào mô hình công việc của bạn , rồi theo đó bạn sẽ thấy công việc của bạn sẽ tiến triển như thế nào theo hành động đã được chọn nầy , chúng ảnh hưởng thế nào đến mô hình công việc của bạn .<O:p

<O:p

5.- Bây giờ , bạn hảy đem kết quả hai hành động , sau khi đã lồng vào mô hình ra so sánh ; bạn sẽ chọn lấy kết quả của hành động nào tốt nhất cho công việc của bạn .

<O:p

6.- Cuối cùng , bạn đưa thể vía của bạn , trả về cho thể xác và bạn trở về ý thức sinh hoạt thường này mà bạn đanh sống . <O:p

<O:p

Kỷ thuật mô hình xuất vía nầy , có thể dùng cho bất cứ một tình huống nào của công việc , mà nó đòi hỏi một sự quyết định đúng đắn nhất và có được một kết quả tốt nhất cho công việc mà bạn đang gặp phải . <O:p

Tuy nhiên có một điều quan trọng là , bạn cần khách quan , đừng để cho những thành kiến chủ quan của bạn xen vào .<O:p

Để tránh việc nầy xảy ra , trước khi xuất vía để tạo mô hình cho công việc , thì bạn nên tập thở theo nhịp trước ( xem lại các phần đầu về cách thở theo nhịp ) , để tâm được an định , như vậy những thành kiến của cá nhân sẽ ít can thiệp vào kết quả của mô hình công việc nầy . <O:p

<O:p

23.- Thuật xuất vía và ý thức bất tử của con người trong việc loại bỏ trạng thái sợ chết .

<O:pCó thể dùng thuật xuất vía để khắc phục tâm lý sợ chết . Cái chết là chặng đường cuối cùng , mà thần thức của con người rời khỏi thể xác , khi sợi chỉ bạc kim quang tuyến đã đứt đi. Trước khi chết , nhờ xuyên qua dùng thuật xuất vía , mà ta có thể thám hiểm , khám phá cùng thâu thập những kinh nghiệm của cái chết .<O:p</O:p

Phương hướng để khắc phục tâm lý sợ chết , là ta cần biết thể xác đối với ta cũng giống như một chiếc xe hơi , là một vật phụ thuộc của ta ; mà ta là người chủ nhân của chiếc xe , chứ chiếc xe không phải là ta và ta không tự đồng hóa mình với chiếc xe nầy . Ta có một thể xác , nhờ đó mà người khác có thể nhận diện và biết ta , nhưng ta hoàn toàn không phải là thể xác đó , vì nó đối với ta cũng như là một dụng cụ , để giúp ta tiếp xúc với cỏi vật chất nầy mà thôi .<O:p</O:p

Trước tiên , xuyên qua thuật xuất vía , mà ta có thể tìm thấy ra được nhiều điểm cảm nhận của ý thức , và nhờ xuyên qua đó mà thể xác của ta , sẽ cảm thấy xa lạ đối với ta , vì ta là thần thức . Tức là có khách quan và chủ thể . Đây là bước đầu của sự cảm nhận ra được rằng , ta không phải là thể xác , nhưng ta có một thể xác .<O:p</O:p

Nhờ sự suy ngẩm hai câu hỏi sau đây , ta có thể biết được ta không phải lả thể xác nầy :<O:p</O:p

1.- Vật gì hay những vật gì mà ý thức của ta không thể có được cùng một vị trí như ta đang là ta ? hay nói một cách khác là ta có thể cảm nhận , hay thấy biết được những vật gì không phải là ta , nhưng ta không thể thấy được ta , mà ta chỉ có thể tự cảm nhận được ta là ta mà thôi ?

Việc cần làm bây giờ là , ta đặt câu hỏi nầy nhiều lần và tìm câu trả lời cho những câu hỏi nầy ; đương nhiên là ta sẽ cảm thấy ngạc nhiên , nếu có câu trả lời nào của ta là đúng , cứ hỏi và tìm câu trả lời như thế , đến phút cuối ta sẽ tự cảm nhận được ta là ai ?<O:p</O:p

Khi ta không tìm được câu trả lời thứ nhất thì ta đi đến câu hỏi thứ hai .<O:p</O:p

2.- Bây giờ ta đang ở đâu ?<O:p</O:p

Câu hỏi nầy sẽ giúp cho hành giả , biết được mình hiện giờ đang ở vị trí không gian nào ? Một khi hành giả đã cảm nhận và biết được mình đang ở đâu , thì hành giả có thể tự hỏi lại mình câu hỏi thứ nhất ở trên .<O:p</O:p

Sau khi thiền quán với hai câu công án trên , cuối cùng hành giả sẽ đi đến nhận thức sau đây :<O:p</O:p

Có hai sự thật căn bản mà hành giả tự nhận biết là : Đầu tiên , hành giả sẽ ở tại một vị trí không gian nào đó , ở ngoài hành giả , mà việc nầy hoàn toàn do hành giả tự quyết định hay tự mình muốn như vậy . Căn bản thứ hai là hành giả tự cảm nhận biết rằng vật chiếm cùng một vị trí và cùng một không gian nầy với hành giả , là cơ thể vật chất nầy . Nhưng nếu cơ thể vật chất nầy có cùng một vị trí không gian cùng với hành giả , thì hành giả không phải là cơ thể vật chất nầy , mà hành giả chỉ có được những ý thức cảm nhận xảy ra đối với thể xác nầy mà thôi , khi hành giả muốn chiếm cùng vị trí với thể xác , nói cách khác là thần thức hành giả dùng lục căn của thể xác nầy , để nhận thức biết được thế giới vật chất chung quanh xuyên qua ý thức , mà tiếp xúc với cỏi vật chất , và ý căn cũng chỉ là một dụng cụ vi tế , siêu hình , làm một nhịp cầu trung gian cho thần thức hành giả được sinh hoạt trong cỏi vật chất nầy .<O:p</O:p

Để hiểu rỏ vấn đề và làm sáng tỏ vấn đề hơn , chúng ta hảy làm một cuộc giải phẩu tâm linh sau đây :<O:p</O:p

Con người có bảy thể : Thể xác gồm tứ đại : Đất - nước - gió lửa ; Thể phách gồm có nội nhiệt và hào quang ; Thể vía gồm có cảm dục thể và hào quang thể ; Thể trí gồm có hạ trí và thượng trí ; Thể bồ đề – Thể kim thân .<O:p</O:p

Ở đây chúng ta mổ xẻ nhiều về cái trí :<O:p</O:p

Cái trí của chúng ta rất vi diệu , nó được ví như Tề Thiên Đại Thánh trong truyện Tây Du Ký , có 72 phép thần thông , biến hóa vô cùng , chỉ chịu thua bởi chiếc vòng Kim cô kẹp chặt lấy đầu của hành giả , qua biểu tượng học là ví dụ cho phép thiền định , làm an định tâm trí .<O:p</O:p

Cái trí của chúng ta có thể mở rộng ra hay thu hẹp lại như là chiếc kính hội tụ ánh sáng mặt trời . Khi nó trụ tại nơi nào thì nó truyền sự cảm nhận từ nơi đó về cho thần hồn biết .<O:p</O:p

Khi nó trụ vào thể xác thì nó sẽ trở thành thần thức tuyến và được ngũ căn báo cáo những cảm nhận của thể xác để dẩn truyền về cho Thần Hồn biết ; khi nó trụ vào cảm dục thể của cái vía thì nó sẽ báo cáo lục dục thất tình thuộc về cảm tình con người về cho thần hồn biết ; khi nó trụ vào tinh tú thể , thì nó sẽ là sợi kim quang tuyến , sinh mệnh tuyến hay là cái cầu nối Antahkarana nối liền thể xác – thể vía và Thần Hồn trong khi xuất vía .<O:p</O:p

Và nó sẽ trở thành siêu thức là superconscious mind , hay là trực giác mang những thông tin hay mật mả từ không gian nhiều chiều xuống cho thần thức biết , không cần đi xuyên qua tiềm thức nên không bị tiềm thức gạn lọc , filter hoặc bẻ cong đi những nguồn thông tin thuần chất nầy . <O:p</O:p

<O:p</O:p

Bài thực tập cho câu hỏi 1 :<O:p</O:p

Sau khi điều hòa hơi thở và an định tâm trí , hành giả chú ý đến xúc giác qua da của mình , hành giả sẽ cảm thấy nhiệt độ nóng lạnh chung quanh ; sau đó , hành giả chú ý đến nhịp đập của tim mà biết được tim mình đập nhanh hay chậm , kế đến các cơ quan khác trong thân thể ...xuyên qua sự thực hành nầy mà cơ thể sẽ cảm thấy nó là một vật thể khác với thần hồn , và nó tương thông với thần hồn nhờ sự thức giác của cái trí hay gọi nôm na là ý căn .<O:p</O:p<O:p</O:p

Bài tập cho câu hỏi 2 :<O:p</O:p

Sau khi điều hòa hơi thở và an định tâm trí , hành giả dùng thuật xuất vía còn gọi là quán tưởng ở nhiều cấp độ khác nhau , để xem mình có phải là thể xác nầy không , mình có phải là những cảm tình của lục dục thất tình nầy không ; mình có phải là những sự suy tư hay hình dạng trong tư tưởng nầy không , mình có phải là những hình tư tưởng nầy không . Khi hành giả đi từ thô đến thanh , và hành giả còn nhìn thấy biết một vật nào đó , thì vật đó là khách thể , còn hành giả là chủ thể ...Hành giả cứ dùng tư tưởng suy tư như thế để thiền quán , cho đến khi nào hành giả không nhìn ra được một vật nào khác nữa , thì đến lúc đó hành giả đã tự biết Thần Hồn hành giả rồi đó , vì đến lúc đó không còn đối tượng để quan sát , chỉ còn có chủ thể một mình mà thôi , như mặt nước được yên lặng ở cảnh giới cao , lúc đó hành giả có thể thâu nhận những thông tin ở những cỏi cao hơn một cách dể dàng , nếu hành giả muốn .Tuy nhiên hành giả cần phải biết cách để giải mả những thông tin cao cấp nầy nữa ; và nó lại cần một phương pháp tập luyện tâm linh song hành khác nữa vậy .<O:p</O:p

<O:p></O:p>

Bài tập thứ 3 :

<O:p</O:pBài tập A :<O:p</O:p

Nên nhớ , đây là một bài tập để nhận chân ra chủ thể thần hồn , đừng để những phạm trù tư tưởng hay định kiến của quan niệm đạo đức , phong tục của xả hội hay giáo điều của tôn giáo xen vào . Nếu không thích hợp , hành giả có thể dùng bài tập B .<O:p</O:p

Bài tập nầy hành giả cần có định lực vững , để định buột cái trí vào một ý niệm và một hình tư tưởng đã được chọn sẳn như sau :<O:p</O:p

Hành già hảy đến ngồi trên băng một công viên hay trong một siêu thị , nơi có đông người qua lại hay nô đùa , hay tại nơi làm việc ; Hành giả hảy dùng thể tinh tú hay thể ánh sáng hay là thể vía của mình , để tưởng tượng mình là một linh thể đến từ một hành tinh khác , và hành giả trụ vào thể xác nầy , thông qua hai mắt là hai cái cửa sổ , để hành giả có thể nhìn xuyên qua đó để nhìn ra ngoài ; hành giả sẻ thấy những sinh vật đang ở ngoài bộ máy mà hành giả đang trụ nầy , những sinh vật nầy đang lô nhô , láo nháo như là những con vượn , hay là những con khỉ đang lăng xăn đi tới lui . mà từ hành tinh của hành giả đã biết được những sinh vật nầy được gọi là con khỉ người vậy . hành giả cứ dùng định lực như thế mà quan sát những hoạt động của những con khỉ người nầy như thế nào , hành giả sẽ thấy sự nhộn nhịp tức cười nầy đang xảy ra trước mặt của mình xuyên qua hai cái cửa sổ được mở ra từ hai con mắt của bộ máy gọi là con người nầy , những cái nhăn mặt , cười nói , cử chỉ v..vv...của những con khỉ nầy .Sau khi quan sát đã rồi , hành giả hảy tưởng tượng mình xuất ra khỏi cơ thể nầy trở về nơi vô cực mà mình đã đi . Lúc nầy , hành giả sẽ cảm thấy mọi vật trở về hư không , không có một niệm hay một suy nghĩ nào cả , giống như vào đại định , mọi vật đều biến mất . Sau một hồi , thần hồn hành giả lay động thần thức của hành giả trở về với cơ thể vật chất của mình , với những kiến thức cùng những suy tư qui ước của xả hội con người của mình với những sợi dây liên lạc trong xả hội thường ngày ; lúc đó hành giả sẽ cảm thấy quen thuộc và an định với những sinh hoạt quen thuộc sẳn có , trước khi tập bài tập vừa qua .

Bài tập trên cho ta có thể cảm nhận biết các thể phụ thuộc không phải là ta , mà ta là một thể độc lập , ta có thể trụ vào một nơi nào mà ta muốn , nếu ta biết nơi đó và khả năng của ta cho phép .<O:p</O:p<O:p</O:pBài tập B :<O:p</O:p

Hành giả có thể thay đổi , để tưởng tượng mình là hình ảnh của một vị Thánh , Thần hay Tiên , tùy thuộc vào niềm tin tôn giáo của mình đang theo , và đang đi trụ vào thể xác nầy , mà quan sát sinh hoạt của phàm nhân nơi trần thế , thì bài tập nầy cũng có tác dụng như trên . <O:p</O:p

Xuyên qua những bài tập và những kiến thức trên , hành giả đã kinh nghiệm và quán thông được , những quan niệm căn bản cùng những khách thể phụ thuộc của thần hồn , thì tâm lý sợ chết sẽ biến mất ; vì hành giả biết rằng thể xác không phải là hành giả , và hành giả biết rằng thần hồn hành giả vẩn sống , vẩn tồn tại , mặc dù thể xác đã mất đi .<O:p</O:p

<O:p</O:p

24.- Xử dụng thuật xuất vía trong việc tích tụ năng lực và bồi bổ sinh khí lực cho cơ thể .

Ta có thể xử dụng thuật xuất vía để tạo sinh mạng lực và tích tụ năng lực cho thần thức và cơ thể ; sự luyện tập lập lại nhiều lần bài tập sau đây sẻ giúp cho ta có nhiều kinh nghiệm và ấn chứng với những luồng sinh lực mới đến cho cơ thể và thần thức .

<O:p</O:p

<O:p</O:p

1.- Đầu tiên bạn hảy xuất vía ra phía sau cơ thể khoảng hai mét .<O:p</O:p

<O:p</O:p

2.- Tiếp đến bạn hảy di chuyển đến một vị trí hoặc bất cứ phương hướng nào mà bạn thích , cách xa cơ thể bạn khoảng 10 mét ; khi bạn làm xong việc nầy thì tự nhiên sẽ có một luồng năng lực có sự rung động cao được xuất phát từ thần thức của bạn qua cái vía và luồng năng nầy sẽ được tuôn chảy dẩn truyền về cho cơ thể vật chất của bạn .<O:p</O:p

<O:p</O:p

3.- Tiếp đến bạn hảy tưởng tượng có một luồng năng lực tuôn chảy chói sáng với ánh sáng trắng , được truyền từ thần thức của bạn trong cái vía và luồng năng lực nầy được chuyển về cơ thể của bạn , bạn hảy tưởng tượng luồng năng lực sáng chói nầy tuôn chảy đi vào cơ thể vật chất của bạn ; bắt đầu đi vào từ trên đỉnh đầu , sau đó lần lần tuôn chảy xuống từng phần của cơ thể , cho mải xuống tận đến chân .<O:p</O:p

<O:p</O:p

4.- Tuần hoàn năng lượng cho thể xác : Khi luồng năng lượng nầy tuôn chảy đến chân của bạn thì nó lại vòng ra ngoài xuyên ra chân , đánh thành vòng cầu trước mặt của bạn , và lập lại đi vào thể xác của bạn qua đỉnh đầu , từ đó từ từ lần lượt tuôn chảy xuyên suốt qua cơ thể của bạn từ đầu đến chân , sau khi cung cấp đầy đủ năng lượng cho từng phần của cơ thể . Sự lập lại chu trình nầy sẽ tạo cho năng lượng được luân lưu tràn đầy trong thể xác của bạn . <O:p</O:p

<O:p</O:p

5.- Bạn hảy để năng lượng chói sáng nầy chu lưu tuần hoàn trong cơ thể của bạn khoảng 20 vòng . Tốc độ luân lưu của dòng năng lượng nầy trong cơ thể có thể mau hay chậm tùy theo ý thích của bạn ; trong lúc nầy bạn có thể cảm thấy năng lượng và sinh khí lực của cơ thể được tăng lên dồi dào .<O:p</O:p

<O:p</O:p

6.- Bạn hảy tưởng tượng luồng năng lượng chói sáng nầy tuôn chảy mang sinh khí lực khõe mạnh đến cho từng tế bào và từng cơ quan của thể xác và khiến cho các tế bào và những cơ quan nội tạng nầy đều được cung cấp năng lượng dồi dào và khõe mạnh , đồng thời bạn cảm thấy , sau khi luồng năng lượng nầy đến các tế bào và các cơ quan của thể xác nầy được chói sáng thêm lên và được tái tạo lại , được trẻ trung lại và càng trở nên sinh động khõe mạnh hơn .<O:p</O:p

<O:p</O:p

7.- Sau cùng , sau khi bạn cảm thấy thể xác đã tràn đầy sinh lực , thì bạn hảy đi trở về với thể xác và trở về cuộc sống sinh hoạt bình thường . Sau khi , trở về bình thường bạn sẽ cảm thấy con người của bạn được khõe khoắn , vui vẽ , trẻ trung và yêu đời hơn .<O:p</O:p

<O:p</O:p

26.- Thuật xuất vía và sự an lạc tâm thân :

Xả hội ngày nay không mang lại cho chúng ta nhiều an lạc thân tâm ; nhất là giới thuyền thông và báo chí , là giới mong muốn và mang lại cho mọi người nhiều tin giựt gân và hấp dẩn , nên giới nầy đả dùng thuật tẩy nảo và thôi miên cao cấp để tạo ra nhiều tin tức có tác hại lên thân tâm của con người và tuyên truyền cho những việc nầy , làm cho mọi người bị đưa vào mê hồn trận , đến đổi không nhận ra được những việc gì là cần và quan trọng cho họ nữa .<O:p

Việc gì liên quan đến bạn , khi bạn được giới nầy thông tin cho bạn biết về tin tức mới nhất của một vụ giết người hoặc một tai nạn xe cộ thê thảm khoảng ba mươi chiếc xe đụng nối tiếp vào nhau ? Có phải những tin tức nầy giúp cho việc làm của bạn được tốt hơn , nó sẻ giúp cho bạn có nhiều sáng kiến trong việc làm hay giúp tăng khả năng chuyên môn của bạn cao lên ? Nhưng đặc biệt là dân chúng tại Tây Phương , đã bị giới truyền thông và truyền hình thôi miên ; và họ cảm thấy cần phải mở ra xem mổi ngày , vì nếu không quan trọng và hấp dẩn thì những tin tức nầy sẽ không xuất hiện trên TV hay trên báo chí ; thêm vào đó , giới truyền thông được khống chế bởi một nhóm người hèn nhát ẩn núp bên trong ; đây là những người sẽ lấy bất cứ chủ đề nào và đánh bóng chúng lên ; bất luận là một phong trào tâm linh mới xuất hiện hay một quảng cáo hấp dẩn của giới thương mải đang hướng về người tiêu thụ ; giới truyền thông không bao giờ bộc lộ những tiêu cực hay cái hại của những sinh hoạt nầy , mà giới nầy lại hèn nhát và hùng hồn minh chứng rằng , đây thật sự là những chủ đề mà mọi người đang mong đợi và cần đến nó . Nói một cách khác , giới truyền không muốn mọi người được an lạc và thanh tịnh ; không những thế , cả chính phủ và quân đội của quốc gia nầy cũng làm như thế ; Và cuối cùng , là họ dể dàng kiểm soát mọi người , vì trong lòng của mọi người dân đều không được an lạc và thanh tịnh , bởi vì những lo âu và sợ sệt đã được cấy vào tiềm thức của họ một cách gián tiếp qua kỷ thuật tẩy nảo và thôi miên cao cấp hàng ngày của giới truyên thông và chính phủ Tây Phương . <O:p</O:p

Tuy nhiên , nhờ xử dụng thuật xuất vía , mà hàng ngày , trên căn bản bạn có thể tạo cho cuộc sống của mình có những giây phút thật an lạc và thanh tịnh hơn ; thêm vào đó , bạn có thể khám phá ra rằng , kỷ thuật nầy đã mang lại cho bạn nhiều cảm nhận thoải mái và điều chỉnh hướng đi đúng trong ngày của mình ; nói một cách khác , sự ưu tiên hành động xây dựng một tương lai tốt đẹp cho bạn đả được tái lập vững chắc và quan trọng hơn hết . <O:p</O:p

NHỮNG BƯỚC ĐI ĐẾN SỰ AN LẠC VÀ THANH TỊNH TÂM THÂN :<O:p</O:p

1.- Bạn hảy xuất vía ra đằng sau , khỏi cơ thể của bạn khoảng gần ba thước .<O:p</O:p

2.- Sau đó , bạn bay thẳng ra khỏi nóc nhà của bạn và dần dần bạn bay lên cao rời khỏi trái đất , bay lên cao vượt khỏi tầng khí quyển của trái đất , bạn bay lơ lửng gần mặt trăng và sau đó bạn bay lên cao hơn nữa .<O:p</O:p

3.- Bạn tiếp tục hảy bay cao lên mải như thế và đi sâu vào không gian khoảng 5 hoặc 10 phút , cho đến bạn đi lên thật sâu vào trong lòng không gian tịch mịch ; đến đây bạn hay dừng lại và bạn hảy giữ mình ở vị trí nầy , khoảng 5 đến 30 phút ; lúc nầy bạn sẽ cảm nhận thấy một sự sảng khoái ,thoải mái , an lạc và thanh tịnh đang tràn ngập trong bạn ; hảy đón nhận và tận hưởng lấy nó trong khoảng thời gian từ 5 đến 30 phút nầy .<O:p</O:p

4.- Sau khi chấm dứt nguồn thanh tịnh và an lạc nầy , bạn chỉ cần trả thần thức trở về cho cơ thể vật chất của bạn và bạn trở về với ý thức sinh hoạt thường ngày của bạn là được ; Bạn sẽ khám phá ra rằng , sự an lạc và thanh tịnh đã được tái lập trở lại trong lòng của bạn vậy .<O:p</O:p

27.- Kỷ thuật xuất vía du ngoạn mặt trời và mặt trăng .

<O:p</O:p

Ta chỉ chọn mặt trăng và mặt trời để làm mục tiêu xuất vía , vì trên cơ bản , đa số con người chưa có nhiều tiên kiến và thông tin chính xác về hai hành tinh nầy ( mặt trăng xoay quanh mặt trời và mặt trời di chuyển trong dảy ngân hà ) và nếu có , thì nó có thể làm trở ngại và làm sai lệch cho việc nhận thức hai hành tinh nầy trong khi xuất vía .<O:p</O:p

Việc thứ nhì , do việc du hành đến MT và MT , sự trở ngại về không gian và khoảng cách không tồn tại và bị giới hạn trong khi xuất vía ; Ta có thể đi đến bất cứ nơi nào ta muốn , mà không bị giới hạn về khoảng cách ; ta chỉ cần ý thức đến nơi muốn đến là ta đã đến nơi đó rồi .<O:p</O:p

Trong khi xuất thần ra khỏi thể xác , ta sẽ nhận thấy rằng , nếu ta muốn đi đến mặt trăng , thì ta sẽ đến đó ngay lập tức ; Thần thức của ta biết mặt trăng ở đâu , mà ta không cần bận tâm đến những kỹ thuật cơ giới của khoa học qui ước như : vị trí của mặt trăng trong không gian ở nơi nào , ta phải du hành theo hướng nào và sức hút của trái đất ra sao ..v...v....<O:p</O:p

<O:p</O:p

KHOÃNG CÁCH KHÔNG GIAN TRONG XUẤT VÍA .<O:p</O:p

<O:p</O:p

Trong chương trình xuất vía nầy , bạn có cơ hội so sánh kết quả xuất vía của bạn với trên ba mươi hội viên của nhóm nghiên cứu xuất vía đến mặt trăng của chúng tôi .<O:p</O:p

Trong nghiên cứu của tôi đả cho thấy rằng , nếu một nhóm riêng biệt được chỉ định xuất vía đến một địa điểm chỉ định , thì kết quả sẽ cho thấy rằng , mọi người trong nhóm đều có cảm nhận thông tin về nơi đó giống nhau đến 90 % về những thông tin giống nhau .<O:p</O:p

Trong vài trường hợp , người xuất vía gặp bối rối và gặp trở ngại về những thông tin mà họ thấy được trong lúc xuất vía , hoàn toàn trái ngược lại với những kiến thức mà sự giáo dục qui ước đã cài đặt trong đầu của họ ; Thí dụ như , một người xuất vía đi vào lòng của trái đất , ở đây anh ta thấy giữa trái đất là một lổ hỏng trống không . việc nầy đã làm kinh ngạc và bối rối cho anh ta rất nhiều , vì anh ta đã được thầy dạy khoa học đã bảo rẳ̀ng trung tâm của trái đất là một khối nham thạch nóng chảy . Do đó , hệ thống tin tưởng căn bản của anh ta đã làm xáo trộn đi nhận thức thực sự thấy được của thể vía , trong khi anh ta xuất vía .<O:p</O:p

Sự xung đột nhận thức nầy thực sự xảy ra , tuy nhiên việc nầy sẽ được giải quyết , khi đã có nhiều người xuất vía đi đến địa điểm nầy , khi trở về đều có những thông tin và nhận thấy giống nhau . Lúc đó anh ta sẽ nhận thấy mọi người khi xuất vía đi vào trung tâm của trái đất đều thấy giống hệt như những điều anh ta thấy .<O:p</O:p

Điều phân tích ở trên , cho ta thấy rằng những người xuất vía có thể bị những kiến thức qui ước có sẳn trong đầu làm thay đổi và thêm bớt đi những thông tin thật sự nhận thấy xuyên qua thể vía . Nên ở đây , điều quan trọng là ta không nên sửa đổi hay cắt xén những thông tin đã nhận thấy được trong khi xuất vía .<O:p</O:p

Trong lúc bạn xuất vía du hành đến những hành tinh xa xôi trong dảy ngân hà , bạn cần phải nhận lấy , thu thập tất cả những thông tin mà bạn gặp phải hay trông thấy trong lúc du hành xuất vía , mặt kệ những thông tin hay những điều nhận thấy là xa lạ , vô lý hay đáng kinh sợ , bạn cứ điềm nhiên mà trông sao thì thấy vậy , đừng có thêm bớt , cứ ghi nhận lấy nó . Bạn cứ ghi nhận nó trước đi , để sau khi bạn trở về với thể xác , thì lúc đó bạn có thể tha hồ mà phê bình , phân tích những dử kiện thông tin mà bạn có được trong lúc xuất vía . Hảy ghi nhớ , đừng phê bình , phân tích những dử kiện thông tin mà bạn thấy được trong khi xuất vía , vì làm như vậy sẽ làm sai lệch đi việc ghi nhận những thônt tin thấy được nầy trong thể vía . <O:p</O:p

Ta cần phải biết rằng , lịch sử của trái đất chỉ mới tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi là 3000 năm mà thôi , nhưng sự thật về lịch sử cổ đại của trái đất đã được ghi nhận bởi nhiều nhà khảo cổ học , qua việc so sánh lại những mảnh vụn được tìm thấy . Do đó , thời nay , qua việc con người được huấn luyện và được dạy cách suy nghỉ một cách máy móc , làm cho những nhà khoa học và nghiên cứu gia đã bỏ quên và tiêu diệt đi khả năng trực gíác của họ .<O:p</O:p

Và một điều đáng buồn khác là , thời gian và năng lực bạn đã bỏ ra trong nhà trường đã trở thành vô dụng ; vì hầu hết những điều bạn được dạy ở nhà trườg , hầu hết hiện nay không còn giá trị và đúng nữa . Thật sự , sự nhận thức về thế giới và vũ trụ của khoa học luôn luôn thay đổi theo thời gian ; và vấn đề chỉ là thời gian , đến lúc đó , khoa học sẽ biết và chấp nhận được những gì mà những nhà du hành tâm linh đã biết trước được từ lâu rồi .<O:p</O:p

Thuật xuất vía là một tiến trình của sự thay đổi , là một tiến trình trên con đường tiến hóa của con người . Người thường nhân đa số rất sợ sự thay đổi , dù là sự tiến bộ đi nữa ; họ luôn mong muốn trông thấy thế giới và mọi vật chung quanh đều như xưa và mong muốn được giữ mải nó liên tục như thế ; kết quả đưa đến là vô tình họ đả trở thành những người máy robots , và đã được cài đặt một nhu liệu cứng ngắt vào họ , để có những phản xạ máy móc hạn chế , với lối sống có thể tiên liệu được , như đả được thảo chương sẳn trong chương trình nhu liệu được cài đặt vào họ ; cũng như sự cứng ngắt trong lề lối tư tưởng và tín ngưởng của họ nữa .<O:p</O:p

Khi các bạn đọc đến đây , có lẽ thuật xuất vía nầy đã được các bạn thử nghiệm và có thể nó đe dọa đến đến sự suy nghỉ hiện thời của các bạn . Nhưng thật sự nó đã mang đến cho bạn một lòng can đảm , để mở rộng sự tỉnh thức và thức giác của bạn vượt lên trên sự suy nghỉ cố hữu của ngày trước , khi tiếp xúc với thuật xuất vía .<O:p</O:p

Nếu bạn có đầy đủ can đảm để tiến bộ và tiến hóa cao hơn , thì các bạn hảy tiến tới và thực hiện những cuộc thử nghiệm sau đây và luôn đặt lòng tin vững mạnh vào khả năng siêu nhân tiềm ẩn của các bạn .<O:p</O:p

<O:p</O:p

Những chuẩn bị cơ bản :<O:p</O:p

<O:p</O:p

Để chuẩn bị cho cuộc du hành tâm linh vào trong không gian , để đến mặt trăng và mặt trời , bạn cần học thuộc những câu hỏi sau đây , để khi bạn đến đó bạn sẽ nhớ sẽ làm gì , để sau đó khi bạ trở về thể xác , thì bạn có thể so sánh lại kết quả thu nhận của bạn với kết qua của nhóm du hành của tôi trong lúc trước .<O:p</O:p

<O:p</O:p

Đây là một việc quan trọng , bạn nên nhớ là đừng sữa đổi những cảm nhận những điều trông thấy của bạn trong lúc du hành trên MT và MT ; vì những điều bạn thấy bằng mắt thịt là cái thấy của thức thần tức là ý thức của cái trí của bạn , còn cái thấy của cái vía là cái thấy của nguyên thần là cái thấy của linh hồn ; do đó , dù cho những việc bạn thấy là lạ lùng hay quái lạ đi nữa , thì bạn cứ tự nhiên tiếp tục công việc của bạn , mà đừng dùng cái trí mà suy nghỉ hay phân tích gì hết , khi nào bạn trở về với thể xác thì bạn sẽ làm việc đó sau .<O:p</O:p

Bạn hảy cố gắng xóa bỏ tất cả những tiên kiến và lối suytrước khi bắt đầu cuộc thực nghiệm .Thí dụ : Khi bạn du hành tâm linh đến mặt trăng mà bạn không nhìn thấy những nhà thám hiểm của NASA , thì bạn cứ tiếp tục cuộc du hành của bạn . Bạn đừng xem bản kết quả của nhóm du hành tâm linh của nhóm được ghi ở sau sách , mà bạn cần phải thực nghiệm du hành hết những câu hỏi yêu cầu bạn phải trả lời và phải làm ; và đợi đến khi nào bạn trở về với thể xác thì lúc đó bạn mới so sánh lại những điều nghe thấy với kết quả của nhóm sau . Có như vậy , bạn mới có thể chứng minh khả năng chính xác và kiến thức có được về thuật xuất vía của bạn khi du hành ở hai hành tinh nầy .<O:p</O:p

Những câu hỏi cần đặt ra và việc bạn cần phải làm trong cuộc du hành tâm linh , khi lên mặt trời và mặt trăng là bạn , cần đọc trước và ghi nhớ những nhiững điều bạn phải làm trong diển trình của cuộc du hành tâm linh nầy , sau đó ghi nhớ xong , thì bạn tuần tự thực hành đúng như tiến trình đã được ghi nhớ .<O:p</O:p

<O:p</O:p

TIẾN HÀNH THỰC NGHIỆM DU HÀNH TÂM LINH <O:p</O:p

<O:p</O:p

Để đảm bảo cho những thông tin thu nhận trong lúc xuất vía được chính xác , đề nghị các bạn tập những bài tập nầy trước , vì những bài tập nầy sẻ giúp cho bạn được gia tăng năng lượng và giúp cho bạn điều tâm được dể dàng :<O:p</O:p

1.- Ngồi trong một tư thế thoải mái ở một nơi không có tiếng ồn và không bị quấy nhiểu . <O:p</O:p

2.- Thực tập thở theo nhịp 4,6,4,6 trong vòng vài phút , cho đến khi bạn cảm thấy đã nạp năng lượng đầy đủ và cơ thể đã an tịnh và thật buông xả .<O:p</O:p

3.- Đừng quá bận tâm và lo ngại đến việc thất bại ; bạn chỉ cần ý thức đến việc thực hành và với một ý muốn thành công .<O:p</O:p

4.- Bạn hảy xuất vía ra khỏi cơ thể đến một nơi khác . Thí dụ , nếu bạn đang ở phòng ngũ , bạn hảy xuất vía đi đến phòng khác và biết mình là đang ở phòng khác , bạn hảy nhìn và cảm nhận những đồ đạc chung quanh của phòng nầy .<O:p</O:p

Sau đó , bạn hảy du hành đi ra trước nhà hay khu cao ốc của bạn đang ở ; bạn hảy nhìn chung quanh ; xong từ đây bạn hày xuất vía du hành đến một thành phố khác .<O:p</O:p

Việc làm nầy là để làm cho bạn được lỏng và nhẹ ra , khỏi sức kéo của thể xác trước khi chuẩn bị để du hành vào trong không gian .<O:p</O:p

5.- Tiếp đến bạn hảy bay lên cao và rời khỏi trái đất , khi bay lên cao bạn hảy nhìn lại trái đất với vị trí cao độ trong không gian , lúc nầy bạn chỉ cần nhìn phớt qua mà không cần nhìn rỏ từng chi tiết ; sau đó bạn du hành đến mặt trăng , khi gần đến mặt trăng bạn hảy nhìn mặt trăng ở tại một vị trí không gian gần mặt trăng . Cuối cùng bạn đáp xuống mặt trăng ở phía có chiếu sáng bởi ánh sáng của mặt trời và tiếp đến , bạn hảy chạm tay xuống mặt đất của mặt trăng , bạn hảy nhìn chung quanh mình và xác định nơi bạn đang đứng so với những phần còn lại của mặt trăng và tự hỏi mình những câu hỏi sau đây : <O:p</O:p

a .- Những cấu trúc ở mặt đất ở phần được chiếu sáng của mặt trăng như thế nào ?<O:p</O:p

b.- Những mặt lồi lỏm của nó như thế nào ?<O:p</O:p

c.- Nó có màu gì ?<O:p</O:p

Sau đó , bạn hảy du hành đến phần tối của mặt trăng không được mặt trời chiếu đến . kế đến bạn hảy nhìn chung quanh và xác định vị trí của bạn với cảnh vật chung quanh , và tự hỏi như sau :<O:p</O:p

a.- Mặt đất của phần tối của mặt trăng như thế nào ?<O:p</O:p

b.- Có sự khác biệt của chúng như thế nào đối với phần sáng của mặt trăng khi nảy ? nếu có khác thì đó là gì ?<O:p</O:p

Bởi vì bạn đang ở trạng thái thể vía nên vật chất không có gì cản trở bạn , nên bạn bắt đầu phóng thần thức đi xuyên vào bên trong mặt trăng và cố gắng xem thấy được gì nằm bên trong mặt trăng nầy .<O:p</O:p

Sau khi bạn đã thâu thập được những thông tin và đã trả lời những câu hỏi đặt ra , thì bạn hảy trở về trái đất và cuối cùng trở về cơ thể vật chất của bạn . Lúc nầy bạn có thể so sánh những thông tin mà bạn có được trong lúc du hành trên mặt trăng với kết quả của những người khác trong nhóm nghiên cứu du hành lúc trước của tôi ở cuối trang .<O:p</O:p

<O:p</O:p

KẾT QUẢ THÔNG TIN ĐÃ THÂU THẬP ĐƯỢC CỦA NHÓM DU HÀNH TÂM LINH NGHIÊN CỨU VỀ MẶT TRĂNG :<O:p</O:p

<O:p</O:p

Mặt sáng của mặt trăng :<O:p</O:p

1.- Mặt đất được cấu tạo bởi nhiều bột cát nhỏ mịn .<O:p</O:p

2.- Bề mặt lồi lỏm khoảng 2''– 6'' , có những chổ lổ lỏm vào sâu đến 4 thước Anh (feet ).<O:p</O:p

3.- Nơi đây không có đá , mà chỉ có nhiều hòn sỏi nhỏ .<O:p</O:p

4.- Mặt đất có màu nâu xám , tuy nhiên có phảng phất của nhiều màu như vàng , cam và bạc . nhiều lúc nhìn trên bề mặt thì nó chỉ chiếu sáng một màu trắng sáng do ánh sáng của mặt trời chiếu đến .<O:p</O:p

Mặt tối của mặt trăng :<O:p</O:p

1.- Phía tối của mặt trăng thì hiển lộ ra vẻ ̉ối hơn và lạnh hơn phía sáng.<O:p</O:p

2.- Một vài nơi bên phía tối trên mặt đất có vẻ như láng bóng như mặt nước đá đông đặc hoặc bóng láng như mặt cao su trắng trong suốt .<O:p</O:p

3.- Một vài nơi khác trên mặt đất có đóng một lớp mỏng hư bụi than bám vào .<O:p</O:p

4.- Những bui thang nầy đóng thành nhiều lớp tạo thành nhiều khối có nhiều lổ nhỏ tạo nên mặt tối của mặt trăng trở nên cứng và dòn .<O:p</O:p

5.- Nhiều người còn cho biết rằng họ có ấn tượng hình như có nước hoặc chất lỏng nào đó hiện diện ở cả hai phía sáng và tối của mặt trăng .<O:p</O:p

Bên trong mặt trăng :<O:p</O:p

Căn cứ theo ghi nhận của nhóm nghiên cứu du hành tâm linh thì bên trong mặt trăng có 3 đặt tính như sau : <O:p</O:p

a.- Bên trong có những hang động và nhiều đường hầm , được nhiều dạng sinh vật thông minh tạo ra .<O:p</O:p

b.- Những đường hầm nầy hình như dẩn đến trong tâm mặt trăng và ở giữa mặt trăng là một khối rổng lớn .<O:p</O:p

c. Bên trong mặt trăng là một căn cứ không gian , trong đó có các thiết bị những kỷ thuật cao cấp và nhiều đĩa bay khác nhau ......<O:p</O:p

<O:p</O:p

XUẤT VÍA LÊN MẶT TRỜI :<O:p</O:p

<O:p</O:p

Bạn hảy bắt đầu xuất vía đến một điểm trong không gian gần kế bên mặt trời , sau đó bạn mới du hành đến mặt trời và đáp xuống mặt trời .<O:p</O:p

Bề mặt của mặt trời nóng hay lạnh ? Nếu bạn khó trả lời câu nầy thì bạn hay bay ra và bay vào mặt trời nhiều lần ; sau đó bạn kiểm soát lại sự cảm nhận về mặt trời có thay đổi hay không .<O:p</O:p

Bạn hay bay ra khỏi mặt trời và treo mình lủng lẳng ở đó một chốc lại bay vào bay ra , và bạn đã thấy gì trên mặt đất của mặt trời ?<O:p</O:p

Kế đến bạn hảy bay xuyên suốt qua mặt trời và bay qua phần bên kia của mặt trời .<O:p</O:p

Sau khi bạn bay ra khỏi bên kia của mặt trời , bạn hay xoay ngược lại và nhìn vào điểm mà bạn vừa bay ra ; xem nó giống như cái gì , và bạn hảy xác định vị trí hiện thời của bạn ; có phải nó giống như vị trí mà lúc nảy khi bạn đang ở bên kia .<O:p</O:p

Kế đến bạn hảy bay trở lại nơi mới đi ra và bay vào mặt trời theo đường củ và ra trở lại vị trí ban đầu ở bên đây của mặt trời .<O:p</O:p

Bây giờ , bạn hảy bay đường vòng chung quanh mặt trời để bay sang bên kia đối diện của mặt trời , bạn đả trông thấy những gì ?<O:p</O:p

Sau khi hoàn tất xong cuộc du hành tâm linh nầy , bạn hảy trở về trái đất và trở về thể xác của mình và so sánh những gì thấy được với kết quả của nhóm nghiên cứu đả báo cáo lúc trước ghi ở cuối sách .<O:p</O:p

<O:p</O:p

KẾT QUẢ THÔNG TIN ĐÃ THÂU THẬP ĐƯỢC CỦA NHÓM DU HÀNH TÂM LINH NGHIÊN CỨU VỀ MẶT TRĂNG :<O:p</O:p

<O:p</O:p

Mặt trời :<O:p</O:p

Trên bề mặt của mặ̉t trời : <O:p</O:p

1.- Đây là một điều lý thú , là nhiều người du hành tâm linh khi lên đến mặt trời thì đều ghi nhận nơi đây mát mẽ , chứ không nóng như mọi người tưởng . Việc nầy trái với sự khám phá của nền khoa học qui ước .<O:p</O:p

2.- Ngoài ra , các nhà du hành tâm linh còn khám phá ra , trên mặt trời có nhiều một trạm phát điện ( Power stations ); và có nhiều kiều dân của nhiều thực thể không gian ( Extraterrestrial entities ) đang sinh sống và làm việc tại đây tại đây .<O:p</O:p

Bên trong mặt trời :<O:p</O:p

1.- Người ta thấy được bên trong mặt trời , còn có một mặt trời khác nằm bên trong mặt trời nầy .<O:p</O:p

2.- Đầu tiên người ta trông thấy rất nhiều ánh sáng có nhiều màu ; sau khi bạn đi xuyên qua mặt trời thì nó trở nên tối sầm lại và trở nên màu đen .<O:p</O:p

Đi xuyên qua mặt trời :<O:p</O:p

Đi xuyên thẳng qua mặt trời , ta thấy một vũ trụ khác hiện ra ; điều nầy cho thấy rằng mặt trời là cửa ngỏ để đi qua một vũ trụ khác ; Thông qua một vài loại trường lực hút , hấp dẩn lực to lớn nào đó , nó kéo lấy năng lực từ những vũ trụ khác xuyên qua cửa ngỏ trong mặt trời nầy , điều đó đã làm ra ánh sáng và năng lượng trong hệ thống mặt trời của ta . <O:p</O:p

Bề mặt bên kia của mặt trời :<O:p</O:p

Bên kia mặt trời là một hành tinh khác , nó giống như trái đất , nó cách xa mặt trời khoảng 93 triệu dặm Anh và tỏa ra một màu siêu tím ; có thể hành tinh nầy ở một chiều đo khác với chiều đo của vật chất . <O:p</O:p

<O:p</O:p

KẾT LUẬN <O:p</O:p

<O:p</O:p

Đến đây là chấm dứt kỷ thuật xuất vía cơ bản . Thuật xuất vía có nhiều phương pháp và nhiều kỷ thuật khác nhau , nhưng tựu trung là làm xuất những tầng lớp vi diệu khác nhau của con người , để có thể du hành tâm linh và thực hiện những điều mong muốn , mà không thể làm được khi ta dùng cơ thể vật chất để thực hiện điều nầy ; vì những gì là vật chất thì bị luật vật chất và sức hút của trái đất chi phối . Do đó , ngày xưa đã có ghi chép lại những vị đắc đạo , đằng vân hoán vũ , đi ngao ngu sơn thủy , tung hoành ngang nhiên khắp tam thiên đại thiên thế giới một cách ung dung tự tại ; đó là các vị nầy dùng thuật xuất vía và xuất hồn vậy ; vì những gì là tâm linh và tinh thần , thì không bị ảnh hưởng của những luật vật chất nầy ; còn việc bay lên trời để mọi người trông thấy , lại là việc khác của việc dùng tâm lực , để hóan đổi cực âm dương của cơ thể , cho đồng cực với mặt đất , thì sẻ đẩy nhau , mà họ bay bổng được .<O:p</O:p

Thuật xuất vía đề cặp trong sách nầy là chỉ là thuật xuất Âm Thần ( Lunar Body ) mà thôi , tức không ai trông thấy mình , mà chỉ có những người đả khai mở thần nhản mới thấy được , còn việc xuất ( Dương Thần ( Solar Body ) , thì ta có được một cơ thể làm bằng năng lượng , và ta có thể dùng tâm lực để điều chỉnh tầng số rung động của nó chậm lại , nằm trong biên độ tầm rung động , mà ngũ quan vật chất của người thường có thể cảm nhận và thấy được ; thì mọi người thấy ta là thật , nhưng họ không biết đây là cơ thể thứ hai của ta mà thôi , cơ thể nầy không bị vũ khí vật chất nào có thể hảm hại được và ta có thể xuất hiện bất cứ ở đâu trên mặt đất mà ta muốn , hơn nữa ta có thể xuất hiện hai nơi cùng một lúc , tức một nơi với cơ thể vật chất thật và một nơi với cơ thể năng lượng là Dương Thần vậy . Muốn có cơ thể nầy thì phải tập luyện thời gian dài với phương pháp luyện Thiên Đơn hay Thiên Tiên của Đạo Gia hoặc phương pháp Yoga cao cấp của Ấn Độ hay Mật Tông Tây Tạng và Ngoại cảm Psychic , Occults , Mystic của Tây Phương .<O:p</O:p

Khoa học Tâm Linh có nhiều điều hấp dẩn và lý thú , với một cơ thể khoẽ mạnh , cộng thêm ý chí hăng hái , vững bền và lòng nhẩn nại cùng sự cẩn trọng , thì AI ĐI SẺ ĐẾN , AI GỎ CỮA , CỬA SẺ MỞ , ÔNG TU ÔNG ĐẮC , BÀ TU BÀ ĐẮC ; với một TRÍ HUỆ mở rộng và cấp tiến , suy nghỉ và hành động đúng theo cơ xây dựng và biến chuyển theo chiều tốt của vũ trụ , thì việc khai mở và đạt đến những quyền năng và thần thông nầy sẽ đến với các bạn trong một thời gian có thể thấy được vậy 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro