Ba Vì

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 60 km về phía tây Bắc, Ba Vì là vùng đất địa linh, nhân kiệt, một vùng đất tối cổ, có truyền thống văn hoá lâu đời, độc đáo, đặc trưng bởi 3 dân tộc Kinh - Mường - Dao với những phong tục, tập quán, nét văn hoá riêng biệt. Nhắc tới Ba Vì có lẽ ấn tượng đầu tiên của du khách sẽ là về một nền văn hoá dân gian vật thể và phi vật thể độc đáo. Huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh, bản anh hùng ca hùng tráng nhất về sức mạnh Việt Nam trong thời kỳ dựng nước. Đó là truyền thuyết về vị thần được ngưỡng kính trong tâm thức ngàn đời người dân đất Việt - Đệ Nhất Phúc Thần Tản Viên, hay còn gọi là Nam Thiên Thần Tổ, vị Thần đứng đầu trong Tứ Bất Tử.

Núi Ba Vì còn gọi núi Tản Viên (thuộc huyện Ba Vì xứ Đoài xưa, nay là ngoại thành Hà Nội) là một trong những ngọn núi tổ của nước ta và là ngọn núi của tâm linh, nơi ngự trị muôn đời của Đức Thánh Tản Viên – Sơn Tinh, vị thần tối linh trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Truyền thuyết kể rằng núi Ba Vì do Sơn Tinh dùng sách ước nâng núi lên cao, ngăn nước lũ chiến thắng giặc Thủy Tinh.

Vùng núi Ba Vì với nhiều tên đất tên làng, tên vạt đồi, khe suối, đồng nội, đầm hồ, bờ bãi, đình đền, miếu mạo… còn in đậm trong sự tích và chuyện kể dân gian của xứ Đoài gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh.

Những giai thoại dân gian về cuộc giao chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh, chứng tỏ tổ tiên ta đã bắt đầu cuộc trị thủy mở mang bờ cõi từ hạ lưu sông Đà, sông Tích để tạo ra một vùng núi Ba Vì trù phú như ngày nay.

Ca dao có câu: “Nhất cao là núi Ba Vì / Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”. Thực tế, núi Ba Vì chỉ cao 1.296m còn núi Tam Đảo lại cao đến 1.581m, nhưng có lẽ Ba Vì là nơi ngự của Đức Thánh Tản Viên, nên được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất (?). Núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh, còn thân rồng chạy suốt tới phương Nam (dãy Trường Sơn).

Thời Bắc thuộc, để nước Nam không thể “phát vương”, vua đời Đường đã cử Cao Biền, vị tướng kiêm phù thủy dùng pháp thuật đào trăm giếng quanh chân núi Ba Vì để trấn yểm, triệt long mạch nước ta. Nhưng giếng nào cũng vậy, cứ đào gần xong thì lại bị sập. Và cuối cùng Cao Biền đành phải bỏ cuộc ở đây.

Cùng với xứ Đoài xưa, vùng chân núi cổ Ba Vì là cả một kho tàng thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, giai thoại phong phú và đa dạng, Nơi đây, chốn địa linh đã sinh nhiều nhân kiệt. Nơi có các danh tướng, danh nhân, quan chức nổi tiếng qua các thời.đại, nơi đất “hai vua” Ngô Quyền và Phùng Hưng, nơi của “núi Tản-sông Đà” sinh ra nhà thơ, nhà báo nổi tiếng Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu…

Tài nguyên thiên nhiên núi Ba Vì rất phong phú, đa dang. Khí hậu núi Ba Vì trong lành mát mẻ. Từ năm 1932, thực dân Pháp đã chọn núi Ba Vì là nơi nghỉ mát lý tưởng ở đồng bằng Bắc Bộ, giống như Sa Pa ở Tây Bắc, như Đà Lạt ở Tây Nguyên.

 

Với bề dày lịch sử, Ba Vì là nơi có nhiều di tích lịch sử - văn hoá có giá trị đặc biệt như: Cụm di tích: Đền Thượng - Đền Trung - Đền Hạ thờ Tam vị Tản Viên Sơn Thánh; Đình Tây Đằng, Đình Chu Quyến là 2 di tích được xếp hạng đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, Đình Thụy Phiêu được các nhà khoa học đánh giá là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam có niên đại tuyệt đối 1531- thời Nhà Mạc; Đền thờ Bác Hồ, Khu di tích lịch sử K9 ( nơi lưu giữ những kỷ vật liên quan đến Bác Hồ khi Người ở đây) cùng hàng trăm di tích lịch sử - văn hoá có giá trị khác.

Ba Vì được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cả bức tranh sơn thuỷ hữu tình, với hệ sinh thái phong phú, thảm thực vật đa dạng, được coi là "lá phổi xanh" phía Tây thủ đô Hà Nội. Nơi đây có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như: Núi, đồi, rừng, Thác, suối, Sông, Hồ cùng với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Ao Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Hồ Tiên Sa (gắn liền với truyền thuyết "Sơn Tinh - Thuỷ Tinh"), Thiên Sơn - Suối  Ngà, Khu du lịch Tản Đà, Thác Đa, Hồ Suối Hai, Hồ Cẩm Quỳ, Rừng nguyên sinh Bằng Tạ - Đầm Long, Đồi cò Ngọc Nhị... Nơi có nhiều trang trại đồng quê, nhiều sản phẩm nông nghiệp phong phú.

Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là vị thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.

Thánh Tản Viên được coi là vị thánh được nhắc tới đầu tiên. Có lẽ đây là vị thánh liên quan tới truyền thuyết về việc bảo tồn, giữ gìn đất nước trong cuộc đấu tranh đối chọi với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm của dân tộc.

Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, kể rằng: Vua Hùng thứ 18 sinh được 20 người con trai và 6 nàng con gái lần lượt qua đời, chỉ còn lại Tiên Dung công chúa và Ngọc Hoa công chúa. Tiên Dung đã lấy Chử Đồng Tử còn Ngọc Hoa chưa lấy ai. Ngọc Hoa xinh đẹp da ngà mặt ngọc, xinh đẹp tuyệt vời, được vua cha rất yêu quí. Vua Hùng lập lầu kén rể. Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe tin, cùng tìm đến thi tài. Sơn Tinh, Thủy Tinh đều có tài nghệ hơn người, hình dung tuấn tú.

Trước lầu cao có vua Hùng và Ngọc Hoa ngự. Thủy Tinh thi trước, ra oai gọi gió, hô mưa, chợt thấy mưa rơi sầm sập, sấm nổ vang ầm ĩ, trời đất tối tăm, bốn bề nước réo, cây nghiêng núi ngả, muôn loài đều khiếp sợ, người và muông thú vội tìm chỗ trú ẩn cho kín, ai nấy nín hơi ngậm miệng không dám ló ra. Đến lượt Sơn Tinh, chàng giơ cao chiếc gậy thần, lập tức sét câm, mưa trốn, trời trong mây sáng, cây cỏ lại xanh tươi, chim hót hoa cười, rõ ra cảnh tượng mùa xuân hòa vui ấm áp.

Vua Hùng thấy cả hai chàng trai đều có tài lạ, không biết gả Ngọc Hoa cho ai, trong dạ phân vân, mới thách đồ dẫn cưới phải có “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” và hẹn rằng ngày mai ai đem đồ lễ tới trước thì sẽ được đón công chúa về làm vợ. Cả hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh vái tạ nhà vua, vội vã ra về lo sửa soạn đồ sính lễ.

Sơn Tinh, nhờ có cuốn sách ước vua Thủy Tề tặng, nên tuy ở ngay tại thành Phong Châu, nhưng chỉ việc mở sách ước ra là có đủ các vật quí, lạ của núi rừng sông bể, đủ cả “voi 9 ngà, gà 9 cựa, ngựa 9 hồng mao” như vua Hùng đã thách. Trời chưa sáng, Sơn Tinh sợ trùng trình Thủy Tinh kéo đến, mới giả tiếng gà gáy. Tức thì, gà khắp vùng gáy theo inh ỏi. Cửa thành mở rộng.

Sơn Tinh vào chầu vua Hùng, tiến dâng lễ vật và được vua Hùng cho đón Ngọc Hoa về nhà trai. Đám rước dâu vừa tới làng Trẹo (nay là thôn Triệu Phú, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, gần Đền Hùng) thì gặp Thủy Tinh đang đốc thúc quân gia khiêng các lễ vật tới. Thấy Sơn Tinh đã đón Ngọc Hoa, Thủy Tinh nổi giận đùng đùng, vứt tung lễ vật rơi vãi khắp nơi, rồi thét quân xông tới cướp Ngọc Hoa. Hai bên giao chiến một trận dữ dội.

Lúc đó trời đất bỗng tối sầm, chỉ thấy ánh chớp sáng lòe, tiếng sét đánh inh tai, tiếng hò reo vang dội  một vùng rộng lớn. Trong đám loạn quân, Ngọc Hoa bị lạc, không thấy Sơn Tinh đâu, mới cất tiếng hú gọi chồng (hiện nay, thôn Triệu Phú có tục cầu tiếng hú, để nhắc lại tiếng hú của Ngọc Hoa gọi chồng thủa nào). Trong lúc đang ra sức chống đỡ  Thủy Tinh, nghe tiếng hú của vợ, Sơn Tinh vội đi tìm Ngọc Hoa. Tới chiều tối mới mở được đường máu, đưa Ngọc Hoa về núi Tản.

Không cam tâm để mất Ngọc Hoa, Thủy Tinh liền nổi sóng dữ thét quân đuổi theo. Sơn Tinh đưa vợ lên tít ngọn núi Tản. Bấy giờ sóng vỗ nghiêng trời, nước dâng ngập đất, các loài thủy tộc múa may nhảy nhót theo nước dâng tiến lên. Nước vỗ đồng bãi tràn rừng quật núi, sông nước réo lên ầm ầm, mưa đổ như trút, chớp lòe sấm động đất như nghiêng, trời như đổ, bốn bế nước đục mênh mông. Sơn Tinh ra sức chống cự, cùng với nhân dân và các bộ hạ đắp đất, lao gỗ để chặn nước. Nước dâng tới đâu, Sơn Tinh lại hóa phép dâng đất lên cao hơn.

Thủy Tinh thấy đánh mãi không được, nổi giận mở một con đường nước xoáy thẳng vào chân núi Tản (dấu tích còn lại đến ngày nay là ngòi Lạt ở địa phận huyện Thanh Sơn, chảy giữa hai xã Tu Vũ huyện Thanh Thủy, Lương Nha huyện Thanh Sơn, hướng chảy thẳng vào núi Chẹ trước núi Tản, cách núi bởi con sông Đà). Sơn Tinh vội gánh đá đổ thành một hòn núi lớn phía trước núi Tản chặn đứng mũi nước xoáy của Thủy Tinh (dấu tích hiện còn là hòn Núi Chẹ là một dãy núi đá vôi đứng bên bờ sông, ngay trước núi Tản, như một bức bình phong che cho núi Tản).

Nước ở thượng nguồn lại sầm sập lao về. Sơn Tinh thả lưới sắt, giăng chông đá ngang sông để đánh bắt quân Thủy Tinh (dấu tích nay là bãi Đá Chông, một bãi đá dựng lởm chởm dăng ngang dòng sông Đà, thẳng tới xã Đoan Hạ, huyện Thanh Thủy). Hai em của Sơn Tinh là Nguyễn Hiển và Nguyễn Sùng là Tả hữu lâm thần hai bên bờ sông Đà hô ném các loại cây đắng có chất độc như cây mền dẻ, cây thàn mát xuống nước. Quân Thủy Tinh bị trúng độc, xác nổi đặc mặt sông, Thủy Tinh thua to, vội vã rút quân về. Từ đấy, cứ hàng năm, vào tháng sáu, tháng bẩy âm lịch, nước lại dâng to ở các sông gây lụt lũ. Nhân dân nói đó là Thủy Tinh nhớ mối thù cũ, dâng nước đánh Sơn Tinh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dẫn