Thục Sơn kiếm hiệp truyện [Hoàn Châu Lâu Chủ]

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi thứ nhất

Nguyệt dạ trạo cô chu

Vu Hạp đề viên đăng sạn đạo

Thiên nhai phùng tri

Dĩ di gia kết bạn ẩn danh sơn

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: damma

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Canh khuya khua mạn thuyền con

Vu Hạp vượn hót, đường mòn ta đi

Góc trời gặp kẻ kỷ tri

Danh sơn ở ẩn, thị phi xa rời

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Chuyện kể rằng núi Nga My ở tỉnh Tứ Xuyên là một thắng địa nổi tiếng khắp đất Thục. Người xưa nói vùng Tây Thục sơn thuỷ kỳ tú, mà Nga My là một trong những nơi đẹp nhất, câu này thực không phải giả. Ở Tây Thục, thần quyền thắng thế, trên núi có đến vài trăm chùa chiền miếu mạo, thiện nam tín nữ không ngại đường xa ngàn dặm hàng năm vẫn lên núi dâng hương. Hơn nữa, non xanh nước biếc, trùng trùng điệp điệp, cảnh quan vô cùng hùng vĩ và nguy nga tráng lệ nên người chỉ đến để du sơn ngắm cảnh cũng không phải là ít. 

Phong cảnh phía sau núi lại càng thâm u kỳ bí. Chỗ đó vốn là núi sâu chằm lớn có rất nhiều rắn rết, rừng sâu u cốc đều là nơi hổ báo sài lang náu thân. Người đến du ngoạn sau núi thường là chỉ có đi mà không có về, làm người ta suy càn đoán bậy. Có thuyết nói rằng họ bị hổ, lang, yêu ma ăn thịt. Lại có thuyết nói rằng họ được Tiên Phật siêu độ. Mỗi người một ý, mơ mơ hồ hồ không biết đâu là hư đâu là thực. Nói cho cùng thì con người là tấm thân huyết nhục, người ý chí yếu mềm chiếm đến tám, chín phần mười nên do có vết xe đổ từ trước, số người ngắm cảnh hậu sơn ngày càng ít đi so với trước. Ngược lại, việc này lại có lợi cho những cao nhân kỳ sỹ tĩnh dưỡng ẩn cư sau núi, giảm bớt sự quấy nhiễu trần tục, được phúc lành độc hưởng thắng cảnh linh sơn này. Đó là những chuyện sắp kể dưới đây.

Tứ Xuyên sau khi trải qua loạn Trương Hiến Trung cuối thời Minh thì trong mười nhà có đến chín là bỏ hoang, làm cả một khu vực rộng lớn vài trăm dặm không hề có khói bếp bốc lên trong cảnh chiều tà, biến cả tỉnh Tứ Xuyên vốn được mệnh danh là chốn thiên đường ở hạ giới thành hoang vu lạnh lẽo, giống như chốn của quỷ. Sau khi người Mãn Thanh nhập quan, quan lại ở vùng biên cương dâng tấu trình xin cho dân các tỉnh tiếp giáp với Xuyên như Lưỡng Hồ, Giang Tây, Thiểm Tây di chuyển đến Tứ Xuyên. Thêm vào đó cũng là nhờ Tứ Xuyên đất rộng tài nguyên phong phú, mọi thứ nhu yếu phẩm đều có đủ, cho nên nhân dân di chuyển đến đây đa phần đều được an vui no đủ, không còn nhớ nhung nhiều về quê cũ nữa. Người người đều cảm thấy như về nhà mình nên dần dần khôi phục lại cảnh khói bếp yên vui trù mật.

Bấy giờ là năm thứ hai sau khi Khang Hy lên ngôi. Có một con thuyền nhỏ từ Vu Hạp ngược dòng tiến lên. Ngoài phu chèo thuyền, trong thuyền chỉ có hai người là cha và con gái cùng một gánh hành lý xác xơ. Ngoài ra còn có một tay nải rất nặng nề, chừng như trong đó là vật làm bằng sắt thép. Lão già đó tuổi mới năm mươi mà râu tóc đã bạc phơ, lúc nào cũng ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt người ta, ánh mắt loang loáng quan sát tứ phía, mặt đầy nếp nhăn, chỉ nhìn cũng biết đó là một lão nhân đã trải qua quá khứ nhiều gian khổ. Nữ tử tuổi chừng mười hai, mười ba, mỹ lệ phi thường, đang e lệ tựa vào một bên lão già, thấp giọng cung kính chỉ trỏ cảnh sương núi, hỏi han liên tục, dáng vẻ ngây thơ quấn quít. Lúc này, sương khói bốn bề nổi lên, cảnh sắc mông lung huyền ảo, vầng trăng sáng xuất hiện trên đỉnh núi xa xa chiếu ánh sáng vàng rực khắp nơi, làm người ta ngắm hoài không chán. 

Lão già bỗng nhiên cao giọng nói: “Trở về cố quốc nhìn lại vầng trăng sáng! Giang sơn đẹp đẽ này, bao giờ mới lại trở về với ta đây!” Lời lão vô cùng thê thiết, nước mắt ròng ròng trên bộ mặt già nua. 

Nữ tử nói: “Cha lại đa cảm rồi. Việc thiên hạ đều có tiền định, dù có bi thương cũng chỉ vô ích mà thôi. Xin cha bảo trọng thân thể.” 

Lão già đang định nói thì thuyền phu đến gần lên tiếng: “Ông lão, trời không còn sớm nữa, trước mặt là mỏm Ô Nha lừng danh, gần đó có thôn trấn. Chúng ta cập bờ nghỉ ngơi, lên bờ tìm mua cơm rượu thôi.” 

Lão già đồng ý: “Được! Ngươi cứ đi đi. Hôm nay ta hơi mệt, không lên bờ đâu.” 

Nhà thuyền đang định nói gì thì đã đến nơi, liền lên bờ đi mất.

Lúc này trăng sáng như ban ngày, hai cha con họ lấy rượu thịt mang theo ra bày ở đầu thuyền cùng ngồi đối ẩm. Đang khi nhàn nhã, bỗng thấy từ trong khu rừng xa xa một Bạch y nhân* đi tới. Dưới ánh trăng sáng, nhìn rất rõ ràng, người đó lướt tới rất mau, vừa chạy vừa ca lớn, giọng ca trong trẻo và vang xa, có thể làm tan vàng vỡ đá, dần dần đến gần con thuyền nhỏ. 

Lão già nhất thời hứng khởi, gọi với lên: “Đêm thanh trăng sáng, phong cảnh tuyệt vời không nên uổng phí. Ta ở thuyền này có rượu và đồ nhắm. Vị lão huynh kia sao không xuống đây cùng uống một chung?”

Bạch y nhân đang hát đến lúc cao hứng, bỗng nhiên nghe thấy có người gọi mình, trong lòng thầm nghĩ: “Đây là chỗ nhiều người Xuyên, Tương ở, thật không dễ gặp người phương Bắc như vậy. Giọng nói của lão kia hoàn toàn là khẩu âm của người ở kinh thành, chắc là đồng hương với mình. Lão gọi ta, nói không chừng cũng nên quấy nhiễu lão vài chén.”

Vừa nghĩ, hắn vừa đi, bất giác đã bước lên thuyền. Hai người đối diện, vừa nhìn nhau, bỗng nhiên lao vào ôm nhau khóc lóc. Lão già nghẹn ngào: “Mới hôm nào chia tay ở kinh thành, ai ngờ lại trùng phùng ở đây! Người cũ còn đây mà sơn hà đã mất, khiến người ta đau lòng lắm thay!”

Bạch y nhân đỡ lời: “Ở chiến dịch Dương Châu, nghe nói đại ca đã mất rồi. Ai ngờ gặp lại ở nơi đất khách quê người này. Từ lúc đó, đệ lưu lạc khắp chân trời góc bể, thêm được một người tri kỷ thì cũng coi như không còn cô độc nữa. Vị cô nương này chắc là con gái huynh?”

Lão già đáp: “Ta gặp lại hiền đệ, vui mừng quá đỗi nên quên cả việc bảo tiểu nữ Anh Quỳnh bái kiến.”

Lão lại thuận miệng nói: “Anh Quỳnh lại đây chào hỏi Chu thúc thúc đi.”

Nữ tử nghe phụ thân gọi bèn đến cúi đầu chào. 

Bạch y nhân cũng khẽ gật đầu đáp lễ rồi nói với lão già: “Đệ thấy cháu nó vẻ mặt xinh đẹp thông minh, không hổ là con nhà võ. Tuyệt nghệ của đại ca nhất định là có truyền nhân rồi.”

Lão già nói: “Hiền đệ có chỗ không biết. Ngu huynh vì biết võ nghệ nên mới bị tan cửa nát nhà như vậy. Hơn nữa, khi nó vừa ra đời thì mẹ nó vì theo ta mà chết trong đám loạn quân. Mười năm nay ta chạy trốn khắp nơi, chẳng có chỗ nào yên thân cả. Nó cũng nhõng nhẽo đòi ta dạy võ nghệ cho nó. Ta thì lại cho rằng làm người bình thường thì hạnh phúc hơn, hơn nữa hai mắt hài tử này nộ khí quá nặng, nếu học võ nghệ thì tương lai sẽ phát sinh lắm chuyện. Võ nghệ của ta cũng chỉ thường thường bậc trung, dị nhân trong thiên hạ rất nhiều, nếu sở học không tinh thì ngược lại sẽ sinh hoạ sát thân. Ngu huynh chỉ có một mụn con gái này, thực không thể yên tâm được, vì thế chưa từng truyền thụ cho nó chút gì. Chỉ nguyện trong tương lai kiếm cho nó một tấm chồng là người đọc sách, đưa ta về Tây thiên là mãn nguyện rồi.”

Bạch y nhân nói: “Tuy nói như vậy, nhưng đệ thấy tướng mạo của cháu nó quyết sẽ không chịu chết già đâu. Tương lai sẽ biết thôi.”

Nữ tử nghe thấy Bạch y nhân nói thế, không nhịn được hai mắt sáng bừng lên, vui mừng ra mặt. Rồi nàng quay ra nhìn cha già, không kiềm chế được lộ ra vẻ u oán.

Bạch y nhân lại hỏi: “Lần này đại ca nhập Xuyên là có mục đích gì?”

Lão già đáp: “Nước mất nhà tan. Số phận đã như thế thì ta còn có mục đích gì nữa. Chỉ là đi thật xa để tránh hoạ mà thôi.”

Bạch y nhân nghe thế mừng lắm nói: “Đệ đến Tứ Xuyên ba năm trước. Gần đây, ở hậu sơn núi Nga My tìm được một thạch động mười phần u tĩnh, phong cảnh xinh đẹp. Hôm qua đệ mới từ trong núi đi ra. Hơn nữa, đệ đang dạy dỗ mấy đứa nhỏ, lần này về thu thập chuẩn bị để đến thạch động ở hậu sơn Nga My ẩn cư, may là gặp được đại ca. Nơi đó mười phần u tĩnh, không dấu chân người, rất nhiều mãnh thú. Nếu đại ca không ngại cháu nó sợ hãi thì ba người chúng ta đồng thời đến đó ẩn cư, chờ đợi thời cơ. Tôn ý đại ca thế nào?”

Lão già nghe nói có một chỗ tốt như thế, vô cùng cao hứng liền đáp: “Thế thì tốt quá. Nhưng không biết chỗ đó cách núi này bao xa?”

Bạch y nhân đáp: “Nếu đi đường tắt thì không tới tám, chín mươi dặm. Đại ca sao không cho nhà thuyền quay về, đến nhà đệ ở vài ngày rồi cùng đệ đi tới đó?”

Lão già đáp: “Vậy thì hiền đệ cứ về trước. Đêm nay ngu huynh sẽ ngủ lại trên thuyền, ngày mai cho nhà thuyền về rồi đến nhà đệ là xong. Nhưng không biết hiền đệ giờ ở chỗ nào? Hai ta đều là người đang trốn tránh, chắc là đệ đã thay đổi họ tên?” 

Bạch y nhân đáp: “Đệ tuy đổi tên nhưng không đổi họ. Ngày mai huynh cứ đến thôn trước mặt tìm đệ. Chỉ cần hỏi thầy đồ dạy trẻ Chu Thuần thì ai cũng biết. Trời không còn sớm nữa, ngày mai đệ còn có một cuộc hẹn nên không đến đón huynh được. May là không xa đây mấy, đệ sẽ ở nhà chờ đại giá.”

Nói xong liền chia tay hai người.

Nữ tử thấy Bạch y nhân đi rồi liền hỏi: “Vị Chu thúc phụ đó chắc là người tề danh với cha trong Tề Lỗ Tam Anh** là Chu Lang Chu thúc phụ phải không?”

Lão già đáp: “Ai nói không phải là hắn? Nhớ ngày trước, Lý Trữ ta cùng hai vị thúc phụ của con là Dương Đạt và Chu Lang uy danh hiển hách ở một dải Tề, Lỗ, Yên, Dự***. Từ khi nhà Minh mất, Dương thúc phụ ngươi vì lòng vẫn hướng về cố quốc nên bị cừu nhân hãm hại. Giờ chỉ còn ta và Chu thúc phụ ngươi hai người mà thôi, không biết liệu có thể gánh vác trách nhiệm thủ lĩnh được không. Lần này đến Nga My sơn thật mừng là có bạn hiền, làm ta giảm bớt rất nhiều tâm sự. Chúng ta nên nghỉ ngơi cho sớm để ngày mai lên bờ.” Nói đến đó, đã thấy hai thuyền phu uống rượu say mèm trở về. 

Lý Trữ liền nói với thuyền phu: “Ta chợt nhớ ra ở đây có một người bà con. Ta tính ở đây vài tháng nên ngày mai sẽ lên bờ. Các ngươi đã vất vả đường dài, tiền công cứ theo sổ sách trả cho ngươi, ngoài ra còn thưởng cho hai người bốn lượng bạc uống rượu chơi. Các ngươi nghỉ ngơi cho sớm đi.”

Thuyền phu nghe thấy thế vội vàng đáp tạ rồi đi ngủ.

Sáng hôm sau, cha con Anh Quỳnh dậy sớm, tự mang hành lý, từ biệt nhà thuyền rồi đi đến thôn phía trước.

Đi được chừng nửa dặm, thấy bên đường có một tiểu đồng tuổi chừng mười một, mười hai, mặt mũi sáng láng như ngọc, trên đầu búi thành hai bím tóc. Lúc này mới là tháng bảy, tháng tám, tiết trời nóng nực, tiểu đồng chỉ vận một chiếc khố ngắn màu xanh. 

Thấy hai người đến gần, tiểu đồng liền tiến lại đón, hỏi: “Hai vị này phải chăng đến tìm lão sư Chu Thuần của cháu?”

Lý Trữ đáp: “Chúng ta đúng là đến tìm Chu tiên sinh đây. Làm sao cháu biết?”

Tiểu đồng nghe thế vội vàng cúi đầu bái lạy, miệng đáp: “Sư bá có chỗ không biết. Tối qua lão sư trở về cao hứng đến không ngủ được, nói ở mỏm Ô Nha bất ngờ gặp được sư bá và sư tỷ. Sáng nay lão sư dậy rất sớm vì hôm qua có hẹn với người ta nên không thể đến đón hai vị, sai cháu đến nghênh tiếp, lại lệnh cho cháu dẫn đường cho sư bá. Phía trước là trường học của lão sư người. Lão sư đi phó ước rồi, không lâu sẽ về, mời sư bá ngồi chờ một lát, dùng cơm sáng luôn.”

Lý Trữ thấy tiểu đồng này dáng vẻ phi phàm, miệng lưỡi linh hoạt nên vô cùng quý mến. Vừa đi vừa nói chuyện, bất giác đã tới nhà Chu Thuần. Tuy chỉ là một toà nhà bằng trúc đơn giản, nhưng rất thanh tịnh sạch sẽ. Tiểu đồng mang đến ba cái bát nhỏ, bày ra một bàn thịt khô, đậu hũ tươi, một hồ rượu rồi mời cha con họ ngồi xuống. Tự mình cũng ngồi xuống một bên bồi tiếp, gã nói “Sư bá, mời dùng bữa sáng.”

Lý Trữ đang định hỏi thì gã lại ra sau bếp mang vào ba bát mỳ và một đĩa dưa muối. Lý Trữ thấy gã tuổi còn nhỏ, nhưng lại chiêu đãi vô cùng ân cần càng thêm vui vẻ. Lão vừa dùng cơm rượu, vừa hỏi: “Tiểu thế huynh ngươi tên là gì? Từ khi nào ngươi theo sư phụ đọc sách?”

Tiểu đồng đáp: “Cháu tên Triệu Yến Nhi. Cha cháu vốn là Hàn lâm Học sỹ triều Minh, đã chết trong tay Lý Sấm. Mẹ và cậu cháu chạy đến đây, không ngờ cậu cũng mất. Nhà cháu rất nghèo khổ, không còn cách nào khác cháu phải chăn trâu cho mọi người, mẹ cháu lại giúp việc cho các nhà cũng đủ sống qua ngày. Ba năm trước, Chu tiên sinh đến đây, vì thương cháu là con nhà quan nên kêu cháu bái ông làm sư phụ, thường thường chu cấp cho mẹ con cháu, mỗi ngày lại dạy cháu đọc sách và tập võ. Chu lão sư không có người giúp việc, chỉ có một con gái tên là Khinh Vân. Năm ngoái bỗng có một vị đạo cô+ đến ngoài thôn, cũng muốn thu cháu làm đồ đệ. Nhưng vì có lão mẫu ở nhà nên cháu không dám đi xa. Đạo cô đó trông thấy sư muội liền đến gặp lão sư cháu nói chuyện rất lâu rồi đem sư muội cháu đi, nói rằng đến cái gì Hoàng Sơn học đạo. Cháu vạn phần không muốn thế, đã mấy lần giục lão sư đi tìm sư muội về, lão sư đều nói thời gian vẫn còn sớm. Cháu định tự đi thì lão sư lại không nói cho cháu biết đường đi Hoàng Sơn. Cháu nghĩ đợi lớn thêm một chút nữa thì cháu nhất định sẽ đi tìm sư muội về. Sư muội của cháu ngoại hình cũng giống như vị sư tỷ này, nhưng không có hai cái nốt ruồi đỏ như sư tỷ.”

Lý Trữ nghe gã nói một hồi, lão chỉ cười nhẹ, lại hỏi gã đang học võ nghệ gì.

Yến Nhi đáp: “Cháu thiên tư không tốt, chỉ học được một pho Lục Hợp kiếm và ném, đỡ phi tiêu. Nghe lão sư nói, bản lãnh sư bá rất cao, những ngày sau xin sư bá dạy cháu nhé!”

Nói đến đây thì Chu Thuần về. Yến Nhi vội đứng lên cúi đầu đứng hầu một bên. Anh Quỳnh bái kiến thế thúc. Lý Trữ nói: “Chúc mừng hiền đệ, đệ thu được một đồ đệ rất tốt.”

Chu Thuần đáp: “Đứa nhỏ này trời sinh thông minh, các khả năng thiên phú cũng không thiếu, chỉ là thích nói nhiều, gặp ai cũng luyên thuyên không ngớt. Một lúc vừa rồi chắc lý lịch nó đệ không cần phải nói nữa rồi.”

Lý Trữ đỡ lời: “Nó đã nói thân thế của nó cho huynh biết. Nhưng hiền đệ cũng sắp năm mươi rồi, tại sao ngươi lại dễ dàng đem ái nữ giao cho người ta dạy dỗ như vậy là đạo lý gì?”

Chu Thuần đáp: “Đệ nói Yến Nhi lắm mồm không đúng sao? Việc nó đi là cái duyên của nó. Năm ngoái Yến Nhi dẫn một đạo cô đến gặp đệ. Nói chuyện một hồi mới biết đó là Xan Hà đại sư ở Hoàng Sơn, là một kiếm tiên lừng danh. Bà ta nhìn trúng cháu gái Khinh Vân của huynh, nói nó có tiên cốt trời sinh, thương lượng với đệ, muốn đem Khinh Vân đi, thu nó làm đại đệ tử. Bà ta vốn muốn dẫn cả Yến Nhi đi, nhưng vì nó có mẹ già ở nhà cần người phục thị nên chỉ đành dẫn Khinh Vân đi trước. Cơ hội tốt như thế, cầu còn chưa được, huynh bảo làm sao đệ không đồng ý?”

Lý Trữ nghe nói không ngừng gật đầu. Anh Quỳnh vì cha không dạy cho võ nghệ nên trong lòng luôn không vui vẻ. Nghe Chu Thuần nói chuyện, nàng không nhịn được mắt sáng rực, trong lòng thầm tính toán. Chu Thuần cũng cảm giác được, bèn nói với nàng: “Cháu gái của ta trong lòng chắc cũng mừng lắm? Nếu nói về thiên tư của thế muội ngươi thì không phải ta nói ngoa, cũng bất phàm. Nhưng nếu luận cốt cách phẩm mạo thì không được bằng một nửa của cháu. Xan Hà đại sư nếu nhìn thấy cháu tất sẽ vui mừng kêu lớn. Cháu không cần vội, sớm muộn gì thì tự sẽ có kỳ duyên đến với cháu, khi đó thì cha cháu cũng không quản được.”

Lý Trữ nói: “Hiền đệ làm cháu gái của đệ cười rồi. Không tán dóc nữa, bao giờ thì chúng ta đi Nga My sơn? Yến Nhi có đi không?”

Chu Thuần đáp: “Đệ còn nhiều việc phải thu xếp ở đây, nhiều thì phải mất mười ngày, chúng ta mới có thể lên đường được. Yến Nhi có mẹ già ở nhà nên chỉ còn cách tạm thời ngừng ý muốn học hỏi của nó.”

Yến Nhi nghe thấy sư phụ không dẫn gã đi cùng, mắt đỏ lên muốn khóc. Chu Thuần nói: “Ngươi không cần phải thế. Bất kể là anh hùng Tiên, Phật cũng không được bất trung bất hiếu. Lần này ta đi không phải là vĩnh biệt, hơn nữa từ đây đến đó chỉ vài chục dặm. Mỗi tháng ta sẽ về một lần dạy ngươi học văn học võ. Chỉ là không thể sớm tối bên nhau mà thôi.”

Yến Nhi nghe xong, tự nghĩ không có cách gì chỉ trào nước mắt. 

Lý Trữ hỏi: “Học trò trong trường của đệ chẳng lẽ chỉ có một mình Yến Nhi?”

Chu Thuần đáp: “Sau trở về từ Nga My sơn, đệ đã có ý vào núi ở. Nhân vì lý do này mà đối nhân xử thế rất hòa hoãn, trên đường về đệ cứu được một hàn sỹ tên là Mã Tương. Người này tài đức vẹn toàn, đệ đã tìm được chỗ ở cho y tại Văn Xương các, giao tất cả học sinh cho y dạy. Ai ngờ tối qua lại gặp lại huynh.”

Lý Trữ nói: “Thì ra là thế. Không lạ sao ngoài Yến Nhi không thấy học trò nào khác.”

Chu Thuần đỡ lời: “Yến Nhi vốn cũng phải giới thiệu đến đó, nhưng đệ trong nhà không có người giúp việc nên chỉ còn cách làm nhọc đệ tử.”

Trong lúc nói chuyện chơi thì mặt trời đã ngả về tây. Yến Nhi lại chuẩn bị đầy đủ giường chiếu cho hai cha con rồi mới về nhà.

Chỉ có Anh Quỳnh vì ban ngày nghe nhiều chuyện khiến nàng trằn trọc mãi không ngủ được. Đêm đã sang canh ba, nàng nghe thấy tiếng Chu Thuần và Yến Nhi nói chuyện ở phòng bên cách một bức vách. Một lúc sau, lại nghe thấy thầy trò họ mở cửa phòng ra giữa viện. Anh Quỳnh nhẹ nhàng bò dậy, nhìn qua khe cửa sổ ra ngoài thấy hai thầy trò tay cầm trường kiếm đang luyện võ công ở giữa sân. Kiếm của Yến Nhi tuy hơi ngắn nhưng cũng dài đến ba thước. Lúc hai người mới múa kiếm thì còn nhìn thấy bóng người. Sau đó thì tốc độ tăng dần, càng múa càng nhanh, chỉ còn thấy hai đạo hàn quang, từng tràng kiếm hoa như tuyết lộn đi lộn lại trong sân viện. Bỗng nghe thấy Chu Thuần nói: “Yến Nhi, con phải nhìn cho cẩn thận.”

Nói chưa dứt lời, chỉ thấy dưới ánh trăng bóng người tách ra, một đám bóng trắng mờ mờ kéo theo một đạo hàn quang nhanh như chảo chớp phi vọt ra ngoài đình viện đánh vào một cành hoa quế. Lại nghe một tiếng thét “sát”, một cành quế to phía nam rơi xuống. Cành cây bị chấn động mạnh, hoa quế bay lả tả như mưa. Định thần nhìn lại thì hai thầy trò họ đã đứng yên ở vị trí cũ. Bỗng một trận gió lạnh thổi qua, con ngựa sắt trên hiên nhà kêu lên đinh đang vài tiếng, làm Anh Quỳnh nhìn đến ngây người.

Lại thấy Chu Thuần nói với Yến Nhi: “Chiêu cuối cùng vừa rồi tên là Xuyên vân nã nguyệt, là chiêu lợi hại nhất của Lục Hợp kiếm. Sau này nếu gặp phải cao thủ thì có thể dùng nó để cầu thắng trong bại. Ta vì thấy con có hiếu, lại thấy con rất thông minh hơn người nên mới truyền thụ tuyệt kỹ bình sinh đó cho con. Hai ngày nữa, ta sẽ cùng với sư bá của con vào núi, con phải sớm tối đến chỗ không người chuyên cần luyện tập. Vi sư phải đi ngủ thôi, tối mai ta lại dạy tiếp cho con.”

Nói xong, Chu Thuần liền về phòng nghỉ ngơi. Yến Nhi đợi Chu Thuần đi rồi mới tự về ngủ.

Cứ thế được hai ngày, Anh Quỳnh tối tối lại mò dậy ngó trộm hai thầy trò họ tập luyện. Nàng cũng năm lần bảy lượt đòi phụ thân dạy cho học kiếm pháp. Lý Trữ bị nàng lằng nhằng không chịu nổi, lại được Chu Thuần khuyên giải, trong lòng lão đã dao động, bèn nói với nàng: “Kiếm là tổ của người học võ, cực khó luyện. Thứ nhất là phải luyện tập thường xuyên không ngừng nghỉ, thứ hai là phải luyện khí ngưng thần, tâm tĩnh như mặt nước. Đạt được hai điều đó rồi thì còn cần phải có danh nhân truyền thụ. Ngươi từ nhỏ được yêu chiều quen rồi, sức khoẻ chưa từng được rèn luyện thật là khó mà dạy được. Nếu ngươi vẫn kiên trì muốn học thì đợi đến khi vào trong núi, mỗi ngày vào lúc sáng sớm trước hết là học công phu dưỡng khí và nội công công pháp. Hai, ba năm sau mới có thể truyền kiếm pháp cho ngươi. Tính khí ngươi nóng nảy như thế, sau này khéo lại làm phiền đến ta.”

Anh Quỳnh nghe xong, thấy Yến Nhi còn ít tuổi hơn nàng mà đã học được rất khá rồi. Lời phụ thân nàng dường như là cố ý gây khó khăn, làm trong lòng nàng có chút không phục. Nàng đang định nói thì Chu Thuần lên tiếng: “Cha cháu nói rất là có lý. Muốn học kiếm pháp thượng thừa thì không thể không luyện khí quy nhất như lời ông ấy. Cháu mấy hôm nay nhìn trộm ta truyền kiếm pháp cho Yến Nhi, tưởng là rất dễ dàng, nhưng đấy là cháu chưa biết những nổi khổ sở của Yến Nhi khi học kiếm đó. Ta vì thấy cháu khi nhìn trộm tỏ ra rất thành tâm nên mới nói giúp cho cháu, khuyên cha cháu vài câu thì mới được ông ấy đáp ứng đó. Kiếm pháp của phụ thân cháu giỏi hơn ta nhiều, lời ông ấy nói không có một chút nào là giả cả. Cháu gái yêu không nên hiểu lầm.”

Lý Trữ tiếp lời: “Quỳnh Anh ngươi không nên tự phụ rằng ngươi thông minh. Việc học kiếm quả thực không hề dễ dàng, nếu không ngưng thần dưỡng khí được thì không thể học nổi. Khi thành công rồi thì trong vòng mười trượng dù là hạt cát rơi xuống đất đều có thể nghe được rõ ràng. Ví như ngươi mỗi lần xem trộm, tại sao thế thúc lại biết? Nguyên nhân chính là như thế. Việc rõ ràng như thế mà còn không biết thì còn nói đến kiếm pháp quái gì nữa? May xem trộm là ngươi, chứ nếu là người khác muốn hành thích ở sau song cửa thì khi đang múa kiếm sẽ bị người ta ám toán sao?”

Anh Quỳnh nghe xong lời cha nói, tuy đã phục rồi, nhưng vẫn không muốn thôi. Nàng lại ngấm ngầm đi hỏi Yến Nhi, quả nhiên được biết gã trước khi học kiếm đã phải trải qua bao nhiêu đau khổ khó khăn, sau đó lại phải khổ công luyện tập rất nhiều. Đến lúc đó thì nàng mới tâm phục khẩu phục. 

Thời gian thấm thoát thoi đưa, bất giác đã đến ngày lên đường. Một đám đông học trò cùng gia đình và cả thày giáo mới là Độc Phu tử Mã Tương cũng đều đến chia tay. Yến Nhi còn đi tiễn hơn hai mươi dặm, dùng dằng không muốn chia tay. Đến khi ba người giục quá thì gã mới gạt lệ trở về.

Chú thích

* Người mặc áo trắng.

** Tề Lỗ: Chỉ vùng Sơn Đông vì nước Tề và Lỗ thời Xuân Thu đều nằm ở tỉnh này. Tề Lỗ Tam Anh: Ba người anh hùng ở Sơn Đông.

*** Quanh vùng Sơn Đông, Hà Nam và Hà Bắc.

+ Nguyên văn là “Lão đạo cô” tức là đạo cô theo đạo Lão. Thông thường chúng ta gọi là đạo cô.

Hết hồi thứ nhất

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ hai

Vũ trường kiếm, sư đồ sính thân thủ   

Thượng Nga My, yên vũ tỏa không dạng 

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: damma

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Múa trường kiếm, thày trò khoe thân thủ

Lên Nga My, sương khói tỏa mênh mang

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói Lý Trữ cùng Chu Thuần từ biệt mọi người trong thôn, đi vào trong núi. 

Trong ba người, trừ Anh Quỳnh muốn sớm đến thạch động trong núi để học kiếm pháp, hai người kia đều vô câu vô thúc, vừa đi vừa du sơn ngắm cảnh, đi đường rất chậm. Đến khi mặt trời xuống núi mới đến chân núi Nga My. Thấy khắp nơi khách điếm san sát, khách lên núi rất nhiều, vô cùng náo nhiệt. Ba người tìm một khách điếm, chuẩn bị đầy đủ mọi vật cần dùng để sớm ngày hôm sau lên núi hòng có thể trụ được lâu. Một đêm đó không có chuyện gì đặc biệt.

Ngày hôm sau, ba người thương lượng ổn thoả. Lý Trữ đảm nhiệm mua sắm những vật dụng thường dùng trong nhà như dầu, muối, tương, dấm, gạo, miến, rượu, thịt… Chu Thuần đảm nhiệm việc mua sắm giấy bút, mực và những vật dụng cho nhà bếp như nồi niêu xoong chảo thùng… Lão còn mua một sợi dây thừng rất dài. Anh Quỳnh liền hỏi: “Cái đó dùng làm gì?”

Chu Thuần đáp: “Nhiều tác dụng lắm, sau này khắc biết.”

Tuy hành lý mà ba người mang được có giới hạn nhưng đồ đạc lủng củng mua thêm cũng không ít. Do đó một lát phải đi mướn cước phu* tốt, cùng nhau gánh lên núi. Khách hành hương đang leo núi nhìn thấy họ, lộ vẻ vô cùng kỳ quái. Ba người chẳng màng để ý, chỉ một mực trèo lên. Mới đầu, tuy phải vượt qua mấy chỗ khe núi chật hẹp khó khăn, nhưng vẫn chưa khó đi lắm. Sau đó, càng đi thì đường núi càng nguy hiểm, cảnh trí càng kỳ lạ, mây trắng cuồn cuộn dưới chân, lúc này đối diện cũng không nhìn rõ mặt. Anh Quỳnh hò reo thích thú, nhưng Chu Thuần nói: “Lúc lên núi thì không thấy có mưa, nhưng bây giờ nhiều mây mù thế này, ở dưới chân núi chắc chắn là đang mưa to. Chúng ta đang đi trong mây mù cần phải cẩn thận. Chỉ cần trượt chân một cái thì sẽ tan xương nát thịt đó.” 

Lại đi thêm được nửa dặm nữa thì đến Xả Thân nham. Quay đầu nhìn xuống chân núi chỉ thấy một đám mù mịt bềnh bồng, chẳng thấy người và chùa miếu đâu nữa. Tất cả đều đã chìm trong mây mù. Trên đầu là mặt trời chói loà, phản chiếu vào những đám mây phía trước thành những luồng ánh sáng kỳ diệu đẹp mắt. Anh Quỳnh nhìn đến xuất thần, thấy cước phu nói: “Khách quan, giờ đã đến Xả Thân nham rồi, phía trước là Quỷ Kiến Sầu, không còn đường đi, chúng tôi không thể tiến lên được nữa. Mây mù như thế này thì ở lưng chừng núi khẳng định là có mưa lớn. Nếu hôm nay không thể xuống núi, ngày mai sẽ làm lỡ một ngày làm ăn của chúng tôi, xin khách quan xem xét cho.”

Chu Thuần đáp: “Chúng ta vốn chỉ thuê chú đến chỗ này thôi, chú cứ ở đây đợi chúng ta một lát, chúng ta lên đỉnh núi sẽ thả dây thừng xuống kéo hành lý lên rồi sẽ trả thêm chút tiền uống rượu cho chú được không?”

Nói xong, lão búng mình vọt lên một cây bách cổ thụ ngàn năm, rồi lại từ tàng cây bách đó vọt lên đỉnh núi. Lão lấy dây thừng ra thả xuống kéo tất cả hành lý lên trên, rồi lại thả dây xuống kéo Anh Quỳnh lên. Khi đến lưng chừng, Anh Quỳnh đưa mắt nhìn quanh thấy chỗ này vô cùng hiểm trở, ngọn cô phong cao vút lên như ngọn bút, bên dưới là đầm sâu vạn trượng. Nàng tuy lớn gan, nhưng cũng hoa mắt hết hồn. Sau khi Anh Quỳnh lên rồi, Lý Trữ lấy ra hai lượng bạc thưởng cho cước phu uống rượu rồi tung mình vọt lên trên. Ba người thương lượng cách vận chuyển hành lý. Chu Thuần nói: “Đệ đã đến chỗ này nhiều lần, vô cùng quen thuộc. Đệ sẽ dẫn cha con huynh đến thạch động trước, rồi đệ trở lại mang hành lý đến sau.”

Lý Trữ vì không biết đường nên không khách khí. Mọi người đứng dậy mang theo những vật dụng nhẹ nhàng thuận tiện. Đi qua vài sườn núi, được chừng hơn ba dặm mới đến cửa động. Thấy trên vách động phía trước có bốn chữ lớn “Sấu Thạch Tê Vân”**. Ba người vào trong động nhìn ngó, chỉ thấy trong động có bốn gian thạch thất, ba gian dùng làm phòng ngủ, một gian có ánh sáng chiếu vào rất tốt để làm phòng đọc sách và nghỉ ngơi chung. Sau đó, Chu Thuần đi vận chuyển đồ vật về, phải mất ba lần đi lại mới xong. Thu dọn ổn thoả thì ánh tịch dương đã tắt sau núi. Ba người đã mệt mỏi cả ngày, liền dùng đá bít cửa động lại rồi đi ngủ. 

Sáng sớm hôm sau, Lý Trữ nói qua về trình tự tập luyện cho Anh Quỳnh biết. Trước hết là dạy nàng luyện khí ngưng thần rồi đến các loại nội công. Anh Quỳnh vốn thiên tư thông minh mẫn tiệp dị thường, chẳng bao lâu đã luyện hết các môn công phu nhu nhuyễn. Chỉ vì nàng bản tính vốn nóng nảy nên ngày nào cũng gây phiền hà đòi Chu Thuần dạy kiếm pháp cho nàng. Chu Thuần thấy nàng tiến bộ thần tốc, nhận thấy có thể truyền thụ. Duy có Lý Trữ là nhất quyết không chịu, chỉ nói chưa đến lúc. 

Một hôm, Chu Thuần nói giúp cho Anh Quỳnh về chuyện đó thì Lý Trữ nói: “Hiền đệ chỉ biết một mà không biết hai. Chẳng lẽ là ta không biết giờ nó đã có thể bắt đầu học kiếm pháp được rồi sao? Nhưng đệ nên biết càng là người thiên tư cao thì càng cần phải có căn cơ thâm hậu. Với thiên tư của Quỳnh nhi, ta tuyệt không đủ tài để làm lão sư cho nó. Vì thế giờ ta chuyên tâm một lòng củng cố căn cơ cho nó. Một khi kỳ duyên đến, gặp được danh sư thì có thể làm được việc lớn. Nếu giờ mà khinh suất dạy nó quá sớm, mang sở học bình sinh truyền thụ cho nó thì cũng không thể nhất thời học hết được. Lại thêm tính khí nó mạnh mẽ sẽ không dễ dàng phục người khác. Trong thiên hạ này, anh hùng mạnh hơn ta rất nhiều, một khi gặp phải cường địch thì làm sao không thất bại được? Ý của ta là nó không học thì thôi, nhưng một khi đã học thì phải tinh thâm, tuy không thể siêu phàm nhập thánh như những vị Kiếm Tiên thời cổ, nhưng cũng phải đạt mức vô địch trên trần thế này mới được. Hồi trước ta không muốn dạy nó chính là vì nó thông minh mà tính khí lại vội vàng, bản lĩnh của ta chỉ có hạn nên mới lần lữa không dạy.”

Chu Thuần nghe xong, không muốn khuyên lão thêm nữa. Chỉ có Anh Quỳnh tính nóng như lửa, làm sao nhịn được. 

Chỗ này tuy phong cảnh rất đẹp, nhưng mỹ trung bất túc***, quá xa cách với nguồn nước. May là cách thạch động khoảng hơn một dặm có một thác nước, bên dưới thác là một dòng suối nhỏ, nước trong thấy đáy, vừa ngọt vừa mát. Cứ cách một ngày, hai người Lý, Chu thay phiên nhau đến suối lấy nước. Lý, Chu hai người sợ sợ nghỉ ngơi nhàn rỗi hỏng hết gân cốt nên sáng nào cũng dậy sớm luyện tập các loại quyền cước kiếm pháp trước cửa động. Vì hai người không chịu dạy cho Anh Quỳnh nên nàng dụng tâm ngồi bên xem kỹ, đến khi không có mặt hai người thì tự mình luyện tập. 

Trên núi Nga My có rất nhiều khỉ, một hôm Anh Quỳnh nhìn đàn khỉ chạy nhảy trên sườn núi, lanh lẹ như bay, bất chợt làm nàng nảy ra ý định luyện tập khinh công. Mỗi sáng nàng dậy rất sớm, mang theo hai sợi dây thừng, đầu dây buộc vào một cội cây to, nàng tự luyện tập chạy nhảy trên dây. Nàng lại đòi Lý, Chu hai người dạy nàng các thuật khinh thân. Nàng vốn có thần lực trời sinh, lại được hai lão sư chỉ điểm nên không những luyện được thân thể nhẹ nhàng nhanh nhẹn như chim yến, mà sức lực cũng mạnh mẽ dị thường.

Cách một tháng, Chu Thuần lại về thăm Yến Nhi một lần, nhân tiện dậy gã võ nghệ. Hôm đó là ngày Chu Thuần phải về thăm gã, vừa mới đi đến bên Xả Thân nham bỗng thấy Triệu Yến Nhi chạy như bay tới, trong tay cầm một phong thư tín. 

Chu Thuần mở ra xem, thì ra là của thầy đồ Mã Tương gửi. Trong thư viết: “Ba ngày trước có một hoà thượng đến, hình dáng hung ác dị thường, trên mình có đeo một cái mõ sắt lớn nặng tới ba bốn trăm cân, vào thôn hoá duyên. Hắn nói là tăng nhân của Ngũ Đài sơn, tên là Diệu Thông, đi chu du thiên hạ để tìm một bằng hữu họ Chu. Người trong thôn tuy thấy hắn hung ác vô cùng, nhưng vì hắn chỉ đến hoá duyên, tuyệt không có hành vi gì khác lạ nên mặc kệ hắn. Vì trong thôn không có ai họ Chu nên hôm qua hắn vốn định bỏ đi thì bỗng nhiên gặp một người mau miệng trong thôn nói đến Chu tiên sinh, hắn liền hỏi tên và tướng mạo tiên sinh. Hắn nghe xong còn nói ‘Nhất định là hắn. thật không ngờ Vân Trung Phi Hạc+ Chu lão tam lại có ngày còn có thể gặp lại.’ Khi hắn nói, sắc mặt vô cùng khó coi. Khi hắn đang hỏi Chu tiên sinh giờ ở đâu thì ta và Yến Nhi đi tới. Người mau miệng kia lại nói nếu muốn hỏi nơi hạ lạc của tiên sinh thì phải hỏi bọn ta. Tăng nhân đó liền đến hỏi ta. Ta thấy hắn đến với ý không tốt liền nói với hắn Chu tiên sinh đến Thành Đô rồi, tuyệt không nói cho hắn biết ông ngụ ở Nga My. Hôm nay không thấy hắn trong thôn nữa, chắc đã đến Thành Đô tìm ông rồi. Ta thấy hoà thượng đó nhất định có ý đồ không tốt nên mới dùng thư thông báo cho ông, để sớm chuẩn bị.”

Chu Thuần đọc xong thư, giật mình kinh hãi, nói với Yến Nhi: “Con theo ta lên núi rồi nói tiếp.” Vừa nói, lão vừa mau chóng dắt Yến Nhi nhảy vọt lên vách núi dựng đứng, tiến vào trong động. Sau khi Yến Nhi bái kiến cha con Lý Trữ xong, liền nói với Chu Thuần: “Con thấy Mã lão sư nói hoà thượng đó có lòng bất thiện nên tối tối con đều đến khách sạn mà lão hoà thượng đó ở để trinh sát xem hắn là dạng người nào. Con đến lúc canh ba, nằm trên mái nhà chỗ phòng của hắn, dùng thế ‘Trân châu liêm quyển câu’ nhìn vào trong phòng, chỉ thấy hoà thượng đó đang ngồi xếp bằng. Ngồi một lúc, lão đứng dậy, lấy từ trong mõ sắt ra hai ngón tay, ngây người ra nhìn một lúc rồi lại thò tay phải của lão ra so đi so lại với hai ngón tay kia. Thì ra tay phải của hắn chỉ còn lại ba ngón, ngón vô danh và ngón thứ ba dường như bị binh khí chặt đứt. Lúc đó, hắn lại lấy ra một chiếc túi nhỏ, rồi lôi ra một bức tượng nhỏ bằng đất sét, dung mạo bức tượng giống như của lão sư, cũng là bạch y bội kiếm, chỉ khác là sau lưng còn có hai cái gì đó giống như là hai cánh chim vậy. Chỉ thấy lão hoà thượng đó khi nhìn tượng lão sư thì nghiến răng kèn kẹt, có vẻ rất thù hận, lại không ngừng tát vào bức tượng và chửi mắng. Con không nhịn được trong lòng vô cùng tức giận, đang định tiến vào phòng chất vấn hắn xem hắn có oán thù gì với lão sư mà lại chửi mắng sau lưng người ta như thế? Nếu hắn không muốn nói lý lẽ thì con sẽ đánh đến cùng với hắn. Ai ngờ khi con đang định vào phòng thì dường như có người nào đó túm lưng con, con cứng đờ ra không làm gì được, bỗng thấy người đang lơ lửng trong không trung. Một lúc sau mới rơi xuống đất, nhìn quanh thì ra đang ở trong miếu Tam Quan gần đó, làm con kinh hãi quá. Con vốn giấu mẫu thân mà đi, con sợ lão nhân gia tỉnh dậy đi tìm con, nên định trở về xem thử. Về nhà thì thấy mẫu thân con không hề tỉnh giấc, chỉ thấy trên bàn có một tờ giấy chữ viết đẹp vô cùng. 

Trong tờ giấy viết: “Yến Nhi quả to gan, giấu mẹ đi làm chuyện nguy hiểm. Sáng sớm mai cấp tốc lên Nga My đem tin đến cho lão sư không được trì hoãn.” 

Con xem xong tờ giấy đó, suy nghĩ cẩn thận: “Con có lão mẫu ở nhà, không thích hợp để làm liều. Theo như khẩu khí người lưu lại tờ giấy đó thì nhất định là bản lĩnh hoà thượng rất cao cường, con tuyệt không phải là đối thủ của hắn. Người bỗng nhiên nhấc bổng con lên trên mái phòng khách đó có lẽ chính là người viết thư.” Nghĩ hết cả đêm, sáng hôm sau con liền nói cho mẫu thân biết. Mẫu thân kêu con cấp tốc thông tin cho lão sư. Hôm đó chính là ngày thi, con còn sợ Mã lão sư không cho con đi. Ai ngờ con vừa vào phòng học, chưa kịp mở mồm thì Mã lão sư đã kéo con ra chỗ vắng người, lệnh cho con truyền tin cho lão sư, lại còn cấp cho con ba lượng bạc làm lộ phí. Vừa mới đi được mười mấy dặm thì thấy hai người đang cãi nhau ầm ỹ. Con định thần nhìn kỹ, thì ra một người là hoà thượng kia, một người là một đạo nhân, làm con không nhịn được sợ hãi vô cùng. May là cách một quãng xa, bọn họ không chú ý đến con nên con bỏ đường lớn, đi theo đường núi đến đây. Không biết lão sư có biết lai lịch của tên hoà thượng đó không?”

Mới hay

Mai danh ẩn tích tưởng yên ổn

Thù xưa nợ cũ nào chịu buông

Muốn biết Chu Thuần trả lời thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Cước phu: Cửu vạn, phu khuân vác.

** Sấu thạch tê vân nghĩa đen là đá mòn mây đậu.

*** Trong cái đẹp kiểu gì cũng có nhược điểm. Hay “không có gì là hoàn hảo”.

+ Hạc bay trên mây. Đây là tên hiệu, thường chỉ người khinh công giỏi.

Hết hồi thứ hai

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ ba

Vân Trung Hạc thâm sơn thoại tiền nhân 

Đa Tí Hùng tiệt giang phùng hiệp sĩ

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: damma

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Nơi núi cao, Vân Trung Hạc kể chuyện xưa

Giữa sông lớn, Đa Tí Hùng* gặp hiệp sĩ 

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói, Chu Thuần nghe Yến Nhi kể xong, vô cùng kinh hãi nói: “Nguy hiểm quá! Nguy hiểm quá! Yến Nhi, gan con thật không nhỏ. Ta thường nói với con là trên giang hồ, những người tuyệt đối khó trêu nhất là hoà thượng, đạo nhân, khất cái và nữ nhân đi lại một mình. Khi gặp những người đó đi một mình thì cần phải cẩn thận lắm đó. May là có người chỉ điểm cho con, ngăn không cho con làm liều, nếu không thì cái mạng nhỏ của con đã xuống Uổng Tử thành rồi.”

Lý Trữ thuận miệng hỏi: “Những lời lẽ trong thư ta cũng không hiểu. Đệ kết oán cừu với hoà thượng đó lúc nào? Sao còn chưa nói ra nghe thử?”

Chu Thuần đáp: “Huynh đoán xem hoà thượng đó là ai? Hắn chính là người mười năm trước danh tiếng lẫy lừng Giang Nam, Đa Tí Hùng Mao Thái đó!”

Lý Trữ nghe thế, không nhịn được giật nẩy mình kinh hãi: “Nếu là hắn thì quả thực không hay rồi.” 

Chu Thuần nói tiếp: “Ngày đó, đệ nhất thời cẩu thả, không trảm thảo trừ căn nên mới lưu lại mối hậu hoạ này. Tiếc là vừa mới tìm được chỗ an thân thì lại phải chạy trốn, thực là chán quá!”

Lý Trữ chưa kịp nói gì thì Anh Quỳnh và Yến Nhi hai tiểu hải tử nghé non chưa biết sợ cọp lộ vẻ không phục. Yến Nhi không dám nói gì, còn Anh Quỳnh tức giận đến mặt mũi đỏ bừng thốt: “Thế thúc đã tự làm giảm uy phong của mình, tăng nhuệ khí của người quá rồi. Hắn chỉ có một mình, còn chúng ta giờ có tới bốn người ở đây. Chỉ sợ hắn không đến chứ việc gì phải chạy trốn?”

Chu Thuần đáp: “Cháu gái ngoan làm sao biết được. Sự việc từ nhiều năm trước, cha cháu tuy biết việc này, nhưng chưa chắc đã hiểu rõ. Để ta kể lại chuyện năm đó cho các cháu là những hài tử nhỏ tuổi được tăng thêm phần lịch duyệt. Mười năm trước, ta và phụ thân cháu, Dương thúc phụ của cháu quả thực rất có thịnh danh ở năm tỉnh phía Bắc**. Kiếm pháp của cha cháu cao nhất, lại có thể sử dụng các loại ám khí, có thể phóng bắt dễ dàng, người giang hồ tặng cho ngoại hiệu là Thông Tí Thần Viên***. Dương thúc phụ của cháu sử một cây trường đao và một món Liên Tử phiêu+, người ta tặng cho ngoại hiệu là Thần Đao Dương Đạt. Lúc đó, ba chúng ta tình thân như cốt nhục, ở chung một chỗ luyện tập võ nghệ. Vi thúc vì thấy phụ thân cháu luyện tập khinh công, ta mới dụng tâm sử dụng lụa trắng làm ra hai cái cánh như cánh chim buộc vào hai tay. Dù là núi cao hàng trăm trượng, nhưng ta có thể dùng hai cánh lụa đó mượn sức gió mà bay lượn không hề trở ngại. Ta vì muốn làm anh hùng hiệp nghĩa, hành sự luôn quang minh chính đại, khi dạ hành cũng đều mặc quần áo trắng, vì thế người ta mới gọi ta bằng ngoại hiệu là Vân Trung Phi Hạc. Lại gọi ba chúng ta là Tề Lỗ Tam Anh. Ba anh em chúng ta chuyên hành hiệp trượng nghĩa. Năm đó, Trương, Lý++ tạo phản, ta có một hảo bằng hữu là một thương nhân muốn từ Thiểm Tây về Dương Châu. Vì đường xá không được yên bình nên mời ta hộ tống, đương nhiên là ta không thể từ chối. Ai ngờ trên đường đi lại nghe nói ở phương Nam xuất hiện một tên độc cước đại đạo tên là Đa Tí Hùng Mao Thái. Trong giới lục lâm có quy củ là nếu trên đường gặp món làm ăn, hoặc được nhận tiền rồi thì chỉ cần người chủ không chống cự, hoặc không có cừu oán thì tuyệt sẽ không giết người, gian dâm phụ nữ lại càng là đại kỵ. Ai ngờ tên Mao Thái đó tâm ngoan thủ lạt, bất kể đi đến đâu cũng giết sạch đến chó gà cũng không tha, nếu gặp nữ tử xinh đẹp thì tiền gian hậu sát. Ta nghe thấy chuyện đó vô cùng tức giận. Ai ngờ, khi đến phía bắc Nam Kinh, đang nghỉ ngơi ở khách điếm thì bỗng nhiên có một tấm danh thiếp gửi đến, trên đó không đề tên, chỉ vẽ một người hình dạng như gấu, có tới tám cánh tay. Ta biết là Mao Thái đã tới, không thể không gặp hắn, liền chuẩn bị binh khí tuỳ thân đầy đủ mời hắn tới, ta biết sẽ có nhiều phiền phức. Tới khi gặp mặt, thấy hắn quả nhiên thập phần hung ác, nhưng hắn không mang theo binh khí. Hắn đem lý do đến đây nói ra, thì ra là vì mộ danh ta nên muốn kết thành huynh đệ. Ta dù bất tài, nhưng làm sao có thể kết bái với loại dâm tặc đó? Ta bèn dùng lời lẽ uyển chuyển để cự tuyệt. Hắn cũng không kiên trì thuyết phục, chỉ nói vài câu khách khí mà người lục lâm thường nói rồi cáo từ. Ta lưu tâm nhìn cước bộ hắn, quả nhiên rất có công phu, nhưng vì tửu sắc quá độ nên có chút tinh thần yếu kém. Ta đưa hắn ra đến cửa, bỗng một cơn gió mạnh nổi lên làm một cánh cửa khách điếm bật tung ra. Hắn chừng như không hề để ý, đóng cửa lại. Ý tứ của hắn rõ ràng là muốn khoe khoang trước mặt ta. Ta cũng không muốn lằng nhằng với hắn, liền giả vờ không biết. Hắn còn cho rằng ta không biết, cố ý quay đầu lại nói với chủ quán: ‘Cửa quán của các ngươi không chắc chắn, đề phòng giặc cướp vào đó.’Vừa nói, tay hắn vừa lắc lắc cánh cửa. Chỉ thấy chỗ cánh cửa mà tay hắn cầm vào vụn gỗ lả tả rơi xuống, hiện ra dấu năm đầu ngón tay. Ta thấy hắn khoe khoang như vậy, thực không nhịn được. Khi tiễn hắn ra bên ngoài, bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn lên mái nhà phía đối diện có hai hòn ngói bị gió thổi xộc xệch sắp rơi khỏi rìa mái. Ta liền nói với hắn: ‘Hai viên ngói kia sắp bị gió thổi rơi xuống rồi, nếu như có người đi qua bên dưới chẳng phải sẽ bị thương sao?’ Khi nói, ta dùng một hơi Hỗn Nguyên khí, phùng mồm thổi phù về phía hai viên ngói, làm hai viên ngói vỡ tan rơi xuống. Hắn mới tâm phục khẩu phục, nói với ta rằng: ‘Tề Lỗ Tam Anh quả nhiên danh bất hư truyền. Ngày sau gặp lại, mong ngài không quên những lời nghĩa khí đã nói hôm nay.’ Ta lúc đó tuyệt không lưu ý.”

Lão lại nói tiếp: “Sau khi hắn đi, chúng ta thuê thuyền đi Dương Châu, mang hành lý và gia quyến lên thuyền. Thuyền của chúng ta là một thuyền lớn, có cả một quan viên đi nhậm chức. Đến canh ba, bỗng nhiên nghe thấy tiếng nữ tử khóc lóc thảm thiết. Vì lúc đó không được yên ổn nên kể cả khi ngủ ta cũng mang binh khí tuỳ thân. Ta lập tức rời khỏi khoang thuyền kiểm tra tỷ mỷ, thì ra tiếng khóc vang ra từ thuyền bên cạnh. Ta biết có việc phát sinh, nhất thời vì nghĩa khí bị kích động nên nhảy vọt qua, chỉ thấy trên thuyền có một người nằm lăn ra. Ta nhìn vào trong thuyền thì thấy Mao Thái tay cầm một thanh cương đao sáng loáng, trong khoang thuyền có một nữ tử xinh đẹp bị trói quặt tay ra sau, áo trên đã bị xé rách, sợ quá ngất đi rồi. Khi đó, hắn đang chuẩn bị xé quần áo của nàng ta, ta tức giận quá liền lấy ra một chiếc Kim phiêu phóng ra. Hắn vốn cũng có công phu, khi mũi phiêu bay đến sau gáy thì hắn lách người dùng tay bắt lấy, thổi tắt đèn rồi phóng mũi phiêu lại, người cũng nhảy vọt ra theo, đối địch với ta. Ta thi triển võ nghệ bình sinh cũng chỉ ngang tay với hắn. Ta vì sợ trên thuyền của mình không có ai bảo vệ, lại sợ hắn có dư đảng sẽ phát sinh sự cố nên sau khi đánh vài chục chiêu, ta liền dùng tuyệt chiêu Xuyên vân nã nguyệt đâm ra một kiếm. Hắn nhất thời không kịp phòng bị, bị chặt đứt hai ngón tay, đúng ra phải giết chết tên dâm tặc đó để trừ hậu hoạn mới là đạo lý. Hắn cũng biết không địch lại ta, lập tức ném đao đi nói: ‘Bằng hữu đã quên lời nói hôm nay rồi sao? Hôm nay ta đánh không lại ngươi, muốn giết thì cứ giết đi.’ Không hiểu sao ta nhất thời mềm lòng, tiếc cho một thân võ nghệ của hắn, lại nể mặt sư phụ hắn là Hoả Nhãn Kim Sư Đặng Minh, ban ngày hắn lại chào hỏi ta, nên ta không giết hắn mà bảo hắn lập trọng thệ từ nay sửa đổi rồi tha cho hắn đi. Hắn chưa giết một ai, chỉ điểm huyệt mọi người. Ta giải cứu cho mọi người rồi trở về thuyền của mình. Từ đó, hắn cắt tóc đi tu, bái Ngũ Đài Sơn Kim Thân La Hán Pháp Nguyên làm sư phụ, luyện thành môn phi kiếm, thân kiếm hợp nhất, có thể lấy đầu người khác ngoài mười dặm. Hắn lại nói rõ ràng là muốn báo thù cũ. Ta tự biết không dịch lại hắn, đành mang con gái Khinh Vân tránh đến Tứ Xuyên. Bọn ta võ nghệ tuy cũng được, nhưng làm sao đối địch với kiếm tiên được?”

Trong lúc nói chuyện, bỗng nghe trên không trung có tiếng hạc kêu thánh thót vang lừng, mọi người nghe đến xuất thần, ngây người ra. Chu Thuần nghe thấy liền vội chạy ra ngoài, một lúc sau mới trở lại. Yến Nhi hỏi: “Vừa rồi có tiếng hạc kêu, tại sao lão sư lại vội vàng chạy ra ngoài thế?”

Chu Thuần đáp: “Ngươi nên biết thạch động này là sơn động cao nhất của Nga My, mây mù thường bao phủ ở lưng chừng núi, những chim chóc bình thường quyết không lên đây được. Ta thấy tiếng hạc kêu bên trên đầu chúng ta, cảm thấy kỳ quái nên mới chạy ra xem. Ai ngờ tuyệt không thấy tung tích gì, quả thực kỳ quái.”

Anh Quỳnh liền hỏi: “Cứ như Chu thế thúc nói, chẳng lẽ Mao Thái lợi hại như thế thì ngoài việc chạy trốn không còn biện pháp nào khác sao?”

Chu Thuần đáp: “Hắn tuy kiếm thuật cao cường, nhưng tâm thuật bất chính, không thể luyện được tới mức đăng phong tạo cực. Những người mạnh như hắn trong số kiếm tiên rất nhiều, còn nếu nói đến sư phụ của con gái Khinh Vân ta là Hoàng Sơn Xan Hà đại sư thì hắn không phải là đối thủ. Chỉ vì Hoàng Sơn cách xa đây quá, nhất thời không thể đi tìm họ được.” 

Lý Trữ nói: “Hiền đệ trốn tránh hắn cũng không phải là biện pháp hay, mà phải nghĩ ra chủ ý gì đó mới được.”

Chu Thuần đáp: “Ai nói đệ chưa từng nghĩ? Ý đệ muốn thương lượng với mẫu thân Yến Nhi, nhờ Mã Tương trông coi sớm tối, giữ Yến Nhi bên mình. Không chờ hắn đến ước hẹn đệ mà đệ sẽ đi tìm hắn, cùng hắn ước hẹn ngày đọ kiếm, dùng kế quyền nghi hoãn binh. Sau đó tìm Hoàng Sơn Xan Hà đại sư đối địch với hắn. Tuy có chút mất mặt, nhưng không còn cách nào.”

Lý Trữ nghe xong, cũng tán thành ý kiến của lão, rồi cùng Chu Thuần ra trước cửa động. Chu Thuần nói: “Lần này đi không phải động võ, người nhiều ngược lại lại dễ hiểu nhầm. Lệnh ái mỗi ngày luyện công đang trong cảnh giới tiến bộ mau chóng, không thể lơ là. Nếu để nó ở trên núi một mình sẽ rất bất tiện. Đại ca không đi là hơn.”

Mọi người thương lượng ổn thoả, Chu Thuần liền từ biệt cha con Lý Trữ, cùng Yến Nhi xuống núi. 

Lúc này đã cuối thu, đầu đông, gió thổi lồng lộng, lá thu rụng lả tả. Hai thầy trò vừa đi vừa nói chuyện, đi được nửa ngày đã đến chân núi Nga My. Bỗng nhiên thấy dưới chân núi có một đạo nhân chỉ mặc một chiếc áo mỏng, vô cùng lam lũ, bên cạnh có một chiếc hồ lô lớn đỏ rực để chỏng chơ. Đạo nhân đó uống rượu say mềm, đang ngủ như chết. Yến Nhi nói: “Lão sư, người xem đạo nhân đó, bần cùng đến thế mà còn tham uống rượu. Thật đúng là một tên tửu quỷ!”

Chu Thuần gắt: “Tiểu hài tử ngươi thì biết gì! Đất đai thần châu tốt đẹp của chúng ta đã rơi vào tay người Hồ nên rất nhiều người có chí khí, không chịu khuất thân đều mai một trong phong trần như thế đó. Ông ta phong trần, lạc lõng như thế, biết đâu chừng là người như chúng ta. Tiết trời lạnh lẽo thế này, ông ta lại say rượu nằm trên đất, khó tránh phong hàn. Chúng ta đã đi nửa ngày rồi, bụng cũng đã đói. Để ta gọi ông ta dậy cùng ăn chút cơm rồi tặng ông ta chút ngân lượng, kết chút duyên hương hoả.”

Nói xong, liền đi nhanh đến bên cạnh đạo nhân, nhẹ nhàng gọi hai tiếng: “Đạo gia, mau tỉnh dậy.” 

Lại lay lay người lão hai lần. Nhưng đạo nhân đó vẫn ngáy như sấm, gọi mãi không tỉnh. Chu Thuần tuy thấy đạo nhân đó mặt mũi tiều tuỵ phong trần, tay đầy đất cát bẩn thỉu, nhưng hai bàn tay người đó lại trắng trẻo tinh oanh như ngọc, biết lão không phải là người bình thường. Nhưng vì phải gấp cùng Yến Nhi về nhà, lại thấy lay gọi mãi mà lão không tỉnh liền lấy từ trong bao hành lý ra một chiếc áo bào còn tốt đắp lên mình cho lão. Trước khi đi còn lay người lão vài lần nhưng lão vẫn không tỉnh. Hai thầy trò chỉ còn cách vào quán cơm gần đó ăn chút cơm rồi lại vội vã lên đường.

Đến chỗ vắng người, hai thầy trò liền thi triển Lục địa phi hành chạy về mỏm Ô Nha, sau hai canh giờ đã không còn cách thôn nhà là mấy. Chu Thuần biết mẫu thân Yến Nhi rất hiền lành, nếu cứ thế này mà về thì tất bà ta sẽ đặc biệt khoản đãi. Lão không muốn làm phiền bà ta, định ăn uống xong rồi mới về, liền cùng Yến Nhi vào một gian phạn điếm dùng cơm tối. Quán cơm đó tên là Tri Vị lâu, mới mở chưa lâu, nấu nướng rất có phương pháp nên khách khứa đến ăn uống rất đông. Hai thầy trò nóng lòng muốn về sớm nên không để ý đến thực khách xung quanh, để mặc tửu bảo dẫn vào chỗ ngồi. Bỗng nhiên Yến Nhi nhìn thấy gì đó rất quen mắt, giật mình kinh hãi vội kéo Chu Thuần đến xem. 

Thế mới biết

Khinh thân bay nhảy tưởng đã giỏi

Cưỡi gió đạp mây càng tài hơn

Muốn biết tiếp theo thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Đa Tí Hùng: Gấu nhiều tay.

** Chỉ Bắc Bình, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam và Thiểm Tây.

*** Vượn thần tay vô cùng linh hoạt.

+ Phiêu nghĩa là phi tiêu. Liên tử phiêu là một loại vũ khí có thể phóng ra như ám khí nhưng lại có dây xích gắn vào. Phi xong có thể lấy lại phi tiếp.

++ Trương Hiến Trung và Lý Tự Thành.

Hết hồi thứ ba 

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ tư

Kiến thủ thần long Túy đạo nhân huy kim túng ẩm

Li sào cô sồ Triệu Yến Nhi biệt mẫu tòng sư

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: damma

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Gặp gỡ Thần long, Tuý đạo nhân vung tiền thống ẩm

Chim non rời ổ, Triệu Yến Nhi rời mẹ tòng sư

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói, sư đồ hai người Chu Thuần vào Tri Vị lâu dùng cơm, bỗng nhiên nhìn thấy một thứ để trên quầy chưởng quỹ như đập vào mắt. Nhìn kỹ lại thì ra là chiếc hồ lô đỏ của đạo nhân say rượu họ đã gặp dưới chân núi Nga My. Hai người nhìn quanh không thấy bóng dáng lão đạo nhân đó đâu cả. Hai người cho rằng vật giống nhau trên thiên hạ rất nhiều, chắc cũng là một việc ngẫu nhiên, liền ngồi xuống bàn gọi cơm rượu, ăn uống thoả thích. 

Một lúc sau, Chu Thuần càng nghĩ càng thấy kỳ quái, liền gọi tửu bảo lại hỏi: “Chiếc hồ lô đỏ để trên quầy chưởng quỹ kia dùng để đựng rượu mang theo rất tiện, các ngươi có bán không?”

Tửu bảo đáp: “Chiếc hồ lô mà hai vị khách quan hỏi tới tuyệt không phải là của nhà hàng chúng tôi. Năm ngày trước, một vị đạo gia nghèo khổ, ăn mặc vô cùng lam lũ, sau lưng đeo chiếc hồ lô này tới quán. Lão tuy bề ngoài bần cùng, nhưng tửu lượng cực cao, mỗi ngày đến quán của chúng tôi đều uống liền một lúc mười cân, không say không thôi, đã say liền ngủ, tỉnh dậy lại uống tiếp. Lúc đầu, chúng tôi thấy ông ta có vẻ nghèo khổ, còn nghi ngờ ông ta ăn quỵt uống chịu, ăn uống xong sẽ bán cái đó đi để trả tiền. Sau khi ông ta ăn uống xong, không hề trả thiếu một xu, khi đi còn lấy đầy một hồ lô đó rượu mang theo. Mỗi ngày ít nhất cũng có thể bán cho ông ta năm, sáu mươi cân rượu, ông ta trở thành một trong những vị khách quan trọng của quán chúng tôi. Ông ta uống xong chỉ ngủ, ngoại trừ việc gọi thêm rượu thì không bao giờ nói lung tung, quả là một vị tiên tửu. Vì thế, chúng tôi rất kính trọng ông ta. Sớm hôm nay, sau khi uống rượu ở quán của chúng tôi, theo lệ thường ông ta lại mang theo một hồ lô rượu đi. Sau khi đi hai, ba canh giờ thì quay lại, trên tay cầm một chiếc áo bào bình thường của tục gia. Ông ta lại uống gần một canh giờ nữa. Lần này khi đi, ông ta nói vì chưa trả tiền nên để chiếc hồ lô đó lại làm tin, lại nói không đến hai canh giờ nữa sẽ có người đến thanh toán thay cho ông ta. Bọn ta vì thấy năm, sáu hôm nay ông ta đã mua của chúng ta tới hai, ba trăm cân rượu. Bình thường, mỗi tháng quán của chúng tôi cũng chỉ bán không hơn số đó là mấy nên tình nguyện tin tưởng, không dám nhận cái gì của ông ta làm tin nhưng ông ta cứ cố chấp không nghe. Ông ta nói bình sinh chưa từng nhận không của người ta cái gì, ông ta chỉ nhất thời quên mang theo tiền, sẽ có người khác trả tiền thay cho ông ta. Cái hồ lô đó coi như là vật làm tin. Bọn ta không nài ép được, chỉ còn cách tạm thời giữ nó. Khách quan tuy thích cái hồ lô đó, nhưng quán chúng tôi không thể bán nó thay ông ta, lại cũng không biết mua cái đó ở đâu cho ông được.”

Chu Thuần vừa nghe vừa lộ vẻ trầm tư. Lão nói với tửu bảo: “Vị đạo gia đó thiếu của các ngươi tất cả bao nhiêu tiền cứ tính hết vào phần của ta được không?”

Tửu bảo nghi ngờ Chu Thuần vì thích cái hồ lô đó nên mới nói thế để lấy hồ lô, bèn đáp: “Vị đạo gia đó là khách quen của quán chúng tôi, ông ta sẽ không nợ tiền đâu. Khách quan không cần phí tâm nữa.”

Yến Nhi đang định nói gì đó thì Chu Thuần vội đưa mắt ra hiệu không để gã nói. Lão hiểu dụng ý của tửu bảo, liềp tiếp: “Ngươi không cần đa nghi. Vị đạo gia đó nguyên là bằng hữu của ta, ta đã đáp ứng sẽ trả tiền rượu cho ông ta. Chiếc hồ lô đó vẫn giao cho các ngươi bảo quản, không phải chính ông ta thì đừng có giao cho người khác.”

Tửu bảo nghe xong lời Chu Thuần mới biết đã hiểu nhầm ý lão. Hắn vốn cho rằng đạo gia nghèo khổ đó không thể trả được số tiền đó, nhưng vì ông ta mua rất nhiều của quán mình nên dù không muốn cũng phải bán chịu cho ông ta. Hắn lại sợ người khác mang hồ lô đi rồi, đạo nhân trở lại điêu ngoa xảo trá thì không thể đối phó được. Giờ thấy Chu Thuần khẳng khái như thế, tự nhiên là rất thoải mái. Hắn liền tính hết tiền vào phần của sư đồ bọn họ, tổng cộng là hai lượng một đồng cân năm phân bạc.

Chu Thuần thanh toán hết tiền rượu, lại thưởng cho tửu bảo rồi cùng Yến Nhi về nhà gã. Yến Nhi đang định hỏi lai lịch đạo nhân đó thì Chu Thuần bảo gã đừng có nói nhiều, chỉ giục đi mau. Không bao lâu sau đã đến cửa nhà Yến Nhi. Mẹ của Yến Nhi là Triệu lão thái thái đang đứng ngoài cửa trông ngóng. Yến Nhi gặp lại mẫu thân liền rời Chu Thuần ào vào lòng mẫu thân. Chu Thuần thấy thế không ngớt gật đầu. Triệu lão thái vừa ôm Yến Nhi vừa mời Chu Thuần vào nhà. Nhà họ tuy chỉ là ba gian nhà đất nhưng rất ngăn nắp sạch sẽ. Trước cửa nhà là một chiếc khung cửi, trên đó có một tấm vải đang dệt dở dang, bên cạnh để một chiếc áo bào bằng vải bông nhăn nhúm. Bên cạnh còn có một bao nhỏ gì đó, giống như là bao đựng tiền. 

Yến Nhi liền hỏi: “Lão sư người xem, đây chẳng phải là chiếc áo bào vải bông mà người đã tặng cho đạo gia nghèo khó đó sao. Tại sao nó lại ở trong nhà con được?”

Triệu mẫu liền nói: “Vừa nãy có một vị đạo gia đến, nói Chu tiên sinh và Yến Nhi còn đang la cà trên đường, vì mang theo nhiều tiền nên phiền phức bất tiện, mới nhờ ông ta mang về đưa cho ta trước. Lão thân biết rõ Chu tiên sinh võ công siêu quần, Yến Nhi cũng không yếu ớt, làm gì có chuyện ngại phiền phức bất tiện như thế? Nên ta không nhận. Đạo gia đó liền đem áo bào của Chu tiên sinh ra làm chứng. Chiếc áo bào này là do tự tay lão thân làm ra, đường kim mũi chỉ vẫn còn có thể nhận ra được. Tuy ta miễn cưỡng nhận lấy, nhưng vẫn còn hoài nghi. Nghe đạo gia đó nói một lát nữa tiên sinh sẽ đến nên ta mới ra trước cửa nhìn ngóng. Quả nhiên không lâu sau thì tiên sinh đã về tới.”

Chu Thuần nghe xong lời Triệu mẫu liền mở bao tiền ra xem, thấy có tới hơn ba trăm lượng. Trong bao còn có một tờ giấy đỏ viết tám chữ như rồng bay phượng múa “Tuý đạo nhân tặng tiết phụ hiếu tử”*.

Chu Thuần liền hỏi Yến Nhi: “Thế nào? Ta đã nói trong thiên hạ này rất nhiều dị nhân. Ngươi tưởng cước trình của chúng ta đã mau lẹ lắm rồi, nhưng vị đạo gia đó trong một thời gian ngắn đã đi hơn hai trăm dặm đường chỉ như trò đùa của con trẻ. Võ công của vị đạo gia đó cao hơn chúng ta không chỉ mười lần mà thôi đâu. May là dưới chân núi Nga My chúng ta chưa từng khinh nhờn ông ta.”

Triệu mẫu vội hỏi nguồn cơn, Chu Thuần liền đem chuyện dưới chân núi Nga My gặp đạo nhân đó, rồi ở tửu điếm trả tiền rượu cho ông ta kể ra. Lão cũng nói ý muốn đem theo Yến Nhi đi cùng, khuyên Triệu mẫu cứ thu dùng số tiền đó, dứt khoát không có vấn đề gì. 

Triệu mẫu nói: “Hàn gia tuy chỉ có một giọt máu duy nhất là Yến Nhi, nhưng nếu không gặp được tiên sinh thì mẹ con ta đã chết đói rồi. Hơn nữa, nó tuy có chút thông minh, nhưng nếu không gặp danh sư thì cũng uổng phí. Tiên sinh văn võ toàn tài, chịu mang nó đi theo tăng phần lịch duyệt thật không gì tốt bằng.”

Chu Thuần cảm ơn Triệu mẫu.

Đến chiều, Chu Thuần lại đi gặp Mã Tương, dặn dò kỹ càng. Hôm sau, lão mới lên đường đến Thành Đô. Đầu tiên, lão đặc biệt ghé qua tửu điếm đó tìm Tuý đạo nhân, định kết giao với vị phong trần kỳ sỹ đó. Ai ngờ chẳng thấy đạo nhân lẫn chiếc hồ lô đó đâu.

Lão tìm tên tửu bảo hôm trước đến hỏi, tửu bảo đáp: “Hôm qua, đạo nhân đó quay lại. Dường như có chuyện gì đó vội vã nên lấy chiếc hồ lô rồi đi luôn. Chúng tôi nói với ông ta việc khách quan đã trả tiền rượu cho ông ta rồi, ông ta nói đã sớm biết chuyện đó, lại còn dặn tôi nói với khách quan rằng đến Thành Đô gặp lại. Nói xong liền bỏ đi. Tại hạ chạy ra định hỏi thêm thì đã không thấy tung tích ông ta đâu nữa.”

Chu Thuần thầm biết Tuý đạo nhân đã đi rồi, không thể tìm ông ta được, có chút không vui. Nhưng không còn cách nào khác, bèn cùng với Yến Nhi lên đường tới Thành Đô.

Đi được mấy ngày, bỗng hai thầy trò đến một địa phương tên là Tam Xóa khẩu**. Nếu đi về phía tây nam thì sẽ là đường lớn đến Thành Đô. Phía chính tây có một con đường mòn nhỏ cũng thông tới Thành Đô, ngắn hơn đường lớn tới gần hai trăm dặm, chỉ là phải vượt qua rất nhiều núi non, không tiện đi lại. Chu Thuần vì nghe nói trong vùng rừng núi đó có rất nhiều kỳ cảnh, một là phải đến Thành Đô, hai là muốn du sơn ngoạn cảnh, liền cùng Yến Nhi đi theo đường nhỏ. 

Đi được nửa ngày đã vào tới đường dẫn lên một ngọn núi. Ngọn núi này tên là Vân Linh sơn, cổ thụ chọc trời, quái thạch cao chót vót, rất nhiều cảnh lạ. Hai thầy trò đi một lúc, cảm thấy khát nước bèn đi tìm một con suối. Vừa may bên đường có một dòng suối nhỏ, nước suối thanh khiết, cá lội tung tăng. Lão bèn cùng Yến Nhi dừng lại bên bờ, lấy ra chiếc bát gỗ múc một bát nước suối lên uống. Lúc này mặt trời đã lặn sau núi, hai thầy trò sợ không có chỗ nghỉ chân liền vội vàng nhanh chân bước, tiến mau về phía trước.

Đang đi, bỗng nghe thấy tiếng hạc kêu thánh thót. Chu Thuần nói: “Ngày hôm trước, ở Nga My sơn đã nghe thấy liền hai tiếng hạc kêu, hôm nay là lần thứ ba rồi.”

Nói xong, lão ngửa mặt nhìn trời, chỉ thấy trời không một gợn mây, không hề thấy tung tích hạc đâu. Yến Nhi bỗng kêu lớn: “Lão sư. Ở kia kìa.”

Chu Thuần vội nhìn theo, thấy bên đường có một khối đá rất to, trên có một con tiên hạc cực lớn đang đứng, mào đỏ tươi, toàn thân nó trắng toát không hề có một chiếc lông tạp, con ngươi vàng rực, mỏ như thép nguội, móng vuốt như làm bằng đồng thau, cao đến tám, chín thước đang đứng rỉa lông rỉa cánh. 

Chu Thuần nói: “Tiên hạc to thế này thật không mấy khi được thấy.”

Đang nói, bỗng thấy bên cạnh khối đá trườn ra một con thanh xà dài bảy tám thước. Con hạc nhìn thấy thanh xà vội dùng mỏ mổ. Ngờ đâu thanh xà trườn rất nhanh, khi mỏ hạc mổ tới nơi thì đã chui tọt vào trong thạch động không thấy đâu nữa. Mỏ sắt mổ xuống, làm đá núi vỡ vụn, tia lửa bắn tung toé. Con hạc bỗng nhiên tức giận, mỏ mổ chân đạp làm cả một khối đá rộng tới sáu, bảy thước vỡ vụn. Con rắn thấy không ẩn nấp được nữa, bèn chạy ra ngoài. Vừa mới thò đầu ra liền bị con hạc mổ trúng, giữ chặt lại. Con rắn cuộn mình, thân hình dài bảy tám xích quấn chặt lấy chân con hạc không buông. Con hạc không hề hoảng sợ, mổ mạnh một phát làm đầu rắn đứt đoạn, rồi lại dùng mỏ dài nhẹ nhàng mổ liên tục vào thân rắn ở giữa hai chân làm thân rắn đứt thành bảy tám chục mảnh. Nó lại mổ mấy phát nữa, đã nuốt hết con rắn vào trong bụng. Khẽ xù lông rũ cánh, kêu lên thánh thót một tiếng rồi vọt lên không trung. Chớp mắt đã biến mất vào trong mây.

Lúc này trời đã mờ tối, sương khói kéo lên mù mịt. Chu Thuần vội giục Yến Nhi lên đường. Đi được ba dặm đường, trời đã tối mịt. May là bên đường có một nhà dân, liền đến gõ cửa xin tá túc. Gõ cửa hồi lâu mới thấy bên trong có người hỏi vọng ra: “Các vị từ đâu đến?”

Chu Thuần nói rõ nguồn cơn. Người kia nói tiếp: “Ta hiện giờ sắp chết đến nơi rồi, chỗ này vạn phần nguy hiểm. Khách quan nếu muốn tá túc thì đi về phía tây nam khoảng năm dặm sẽ có một toà mao am***, trụ trì là Bạch Vân đại sư, các vị có thể xin bà ta tá túc một đêm. Nếu bà ta đồng ý thì có thể tránh được nguy hiểm.”

Nói xong thì im luôn, không thấy tăm hơi gì nữa. Chu Thuần sinh lòng hiếu kỳ liền bảo Yến Nhi đợi bên ngoài, nói: “Nếu ta chưa ra thì con không được đi đâu.”Nói rồi tung mình vượt qua tường mà vào. 

Lúc này trăng đã nhô lên, dưới ánh trăng cảnh sắc trong viện rõ như tranh vẽ. Chu Thuần cẩn thận nhìn kỹ một lượt, chỉ thấy trên giường trong viện có một người nằm. Người đó thấy Chu Thuần vào liền hỏi: “Tại sao ngươi lại không nghe lời ta? Ngươi mau tránh xa ra đừng có lại gần ta nếu không sẽ rất bất lợi cho ngươi đó.”

Chu Thuần đáp: “Tứ hải giai huynh đệ. Ngươi có nỗi khổ gì, chỗ này có gì nguy hiểm, tại sao ngươi không nói ra xem, ta sẽ giúp ngươi một tay. Tại sao ngươi không ngồi dậy?”

Người kia đáp: “Ngươi còn không mau đi! Ta đã bị trúng yêu độc, lại gần ta ba thước là sẽ bị truyền nhiễm độc ngay. Ta trốn tránh ở đây đã ba ngày rồi, bụng rất đói. Nếu ngươi có lương khô, hãy cho ta một ít. Con yêu tinh đó sớm muộn gì cũng sẽ tìm đến, ta thì không cần phải nói, đến ngươi cũng khó mà giữ mạng được. Nếu ngươi có thể đi mau đến chỗ Bạch Vân đại sư thì may ra có thể giúp ta được việc. Việc của ta, ngươi chỉ cần nói với ông ta tình hình ở đây là xong.”

Nói đến đây, người đó mệt mỏi quá không chịu nổi lại thiêp thiếp ngủ đi. Chỉ thấy trên tay người đó nổi lên những vết đỏ rực vô cùng rõ ràng. 

Chu Thuần thầm nghĩ chỗ này không phải là đất lành, liền ném một ít lương khô cho người kia rồi lập tức tung mình nhảy ra ngoài. Khi lão gọi Yến Nhi, bỗng phát giác không thấy gã đâu. 

Thật là

Rừng thiêng nước độc nhiều yêu quái

Thâm sơn cùng cốc lắm tà ma.

Muốn biết về sau thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Túy đạo nhân tặng mẹ hiền con thảo.

** Tam Xoá khẩu có nghĩa là chỗ giao của ba con đường.

*** Am lợp bằng cỏ tranh.

Hết hồi thứ tư

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ năm

Hạc vũ không sơn hiệp khách kinh xà quái

Vân mê Thục lĩnh hiếu tử bái tiên sư

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: damma

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Núi cao hạc múa, hiệp khách gặp quái xà

Thục lĩnh mây vờn, hiếu tử bái sư phụ

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói, Chu Thuần nghe người kia nói xong liền chạy ra ngoài nhìn quanh, bỗng không thấy Yến Nhi đâu nữa. Lão kinh hãi vô cùng. Lúc đầu, lão còn nghĩ gã ra chỗ nào gần đó nghỉ ngơi chờ đợi, ai ngờ kêu gọi ầm ĩ bốn phía mà vẫn không thấy bóng dáng gã, lão lo đến mức toàn thân toát mồ hôi hột. Lão lại không dám rời khỏi chỗ này vì sợ nếu Yến Nhi đi đâu đó rồi trở lại không tìm thấy lão. Đang lúc bồn chồn không chịu nổi, lão bỗng nghe thấy trong nhà có tiếng người vo ve vọng ra hỏi: “Ngươi vẫn chưa đi sao?”

Chu Thuần đáp: “Khi nãy ta một mình vào gặp ngươi. Bên ngoài ta còn có một người đồng bọn, giờ không biết gã đi đâu mất rồi. Y phục, hành trang gã đều mang theo. Có lẽ nào chính là yêu quái mà ngươi nói đã đến ăn thịt nó chăng?”

Người kia đáp: “Con yêu quái đó thuộc âm, nếu chưa đến canh ba thì nó chưa xuất hiện. Đồng bọn của ngươi mất tích lúc nãy tuyệt không phải là do con yêu đó làm hại đâu. Ngươi mau đến chỗ Bạch Vân đại sư, cầu xin đại sư bói cho một quẻ thì sẽ biết nơi hạ lạc của gã. Ngươi không nên tự đi tìm, trời không còn sớm nữa, mau đi đi.”

Chu Thuần không còn cách nào khác, đành theo như lời người kia đi về phía trước. Mới đi được chừng năm dặm, bỗng thấy sau lưng gió nổi ào ào, mùi tanh xộc vào mũi. Chu Thuần biết là bất diệu, vội ra sức chạy như bay về phía trước. Khi lão chạy gần tới một toà am thì tiếng gió đằng sau ngừng bặt. Chu Thuần quay đầu lại nhìn, chỉ thấy trong một đám mây đen cuồn cuộn thấp thoáng có hai ngọn đèn đỏ đang chạy tới.

Dưới ánh trăng sáng, lão nhìn rất rõ ràng, không ngăn được toàn thân toát mồ hôi lạnh. Lão quay lại nhìn toà mao am, thấy không lớn lắm, trước cửa có hai cây liễu tha thướt, dưới ánh trăng bóng liễu rủ âm trầm, vô cùng u tĩnh. Trong am, tiếng niệm Phật liên thanh bất tuyệt, biết người chủ am này đang niệm khoá kinh khuya. Lão nhẹ nhàng gõ cửa hai tiếng, liền có tiếng một tiểu nữ hài trả lời: “Đây là am ni cô, khách quan nếu muốn tá túc qua đêm thì nên đi về phía trước.”

Chu Thuần đáp: “Tại hạ trên đường gặp nạn nên mới chạy đến đây nương nhờ Bạch Vân đại sư.”

Nói chưa dứt lời, cửa đã mở ra, xuất hiện một nữ ni nhỏ tuổi, niên kỷ khoảng mười ba, mười bốn, dung mạo vô cùng xinh đẹp. Thấy Chu Thuần, tiểu nữ ni nói: “Đại sư đang tụng khoá kinh khuya, mời ông đến Phật đường đợi một lát.”

Chu Thuần liền theo sau nàng ta tiến vào trong Phật đường ngồi xuống. Tiểu nữ ni lại mang ra một bát trà và mấy chiếc bánh chay mời Chu Thuần dùng rồi đi vào trong, một lúc lâu không thấy trở lại.

Chu Thuần đang chờ đợi đến phát phiền não, bỗng thấy trước mặt thanh quang loé lên, nhanh như chớp phóng vọt vào hậu viện. Lòng hiếu kỳ bừng lên, Chu Thuần nhẹ nhàng mò mẫm tiến vào hậu viện. Sắp tới chỗ cửa sổ, bỗng lão nghe thấy tiếng hai người đang nói chuyện, chừng như là một nam một nữ. Lão tập trung lắng nghe, thấy người nữ hỏi: “Đêm khuya thế này rồi, nhị sư huynh còn đến có việc gì chỉ giáo?”

Người nam đáp: “Ta vừa đi qua Vân Linh sơn, thấy yêu khí xung thiên, đang định điều tra xem rốt cuộc là gì thì bỗng thấy dưới mái tranh của ngôi nhà bên đường có một tiểu đồng đang đứng. Ta thấy yêu khí chỉ cách tiểu đồng đó khoảng chừng mười trượng, lại thấy tiểu đồng đó căn cơ thâm hậu, không nhẫn tâm nhìn thấy nó bị độc thủ, bèn ôm nó lên, trước tiên là chạy thoát khỏi hiểm địa, sau đó xuất kiếm đuổi yêu vật đi. Sau đó, ta hỏi lai lịch của nó mới biết thì ra là đồ đệ của Chu Thuần trong Tề Lỗ Tam Anh. Ta thấy đứa nhỏ đó trời sinh có tiên cốt, là một hiệp khách trong trần thế, không thể bỏ rơi nó, bèn thu nó làm đồ đệ, kêu Bạch nhi mang nó về chỗ ta ở trong núi. Khi đi, nó nói sợ sư phụ, lão mẫu không yên tâm, ta đáp ứng nó sẽ truyền tin, đi tìm người họ Chu đó. Ai ngờ trong lúc vô ý, ta cũng cứu được môn đồ của thất sư đệ, tên là Thi Lâm. Hắn cũng bị trúng yêu độc, đang nằm dài chờ chết. Ta cứu hắn rồi đưa hắn về núi mới biết người họ Chu đó đã đến đây tìm ngươi rồi. Khi ta vừa mới vào thấy có có một người ngồi trong Phật đường, chắc là người đó.”

Người nữ đáp: “Vừa rồi, Tử Quyên đến báo có một người họ Chu chạy đến chỗ này. Ta đang định ra gặp hắn thì sư huynh đến nên vẫn chưa gặp.”

Người nam lại nói: “Con yêu quái vừa rồi xem ra mười phần lợi hại. Huyền Anh kiếm của ta mà chỉ bức nó bỏ chạy, không hề làm nó bị thương chút nào. Ta vì chưa biết căn nguyên nguồn cội nên chưa dám làm gì thêm. Ngươi ở đây, tại sao lại dung cho nó làm ác như thế?”

Người nữ đáp: “Ta vì con yêu đó thật đã phí hết tâm lực, khó nhọc lắm mới tìm được vật có thể chế phục được nó, nhưng còn phải nhịn vì thiếu người trợ giúp. Sư huynh giá lâm thật là tốt quá.”

Nói xong, người nữ liền hướng ra cửa sổ hỏi: “Chu tráng sỹ từ xa đến đây, tại sao không vào nói chuyện, chỉ dựa tường mà nghe thế?”

Chu Thuần đang nghe đến xuất thần, bị người trong phòng hỏi thế, bất chợt mặt mũi đỏ bừng, đành phải đi vào phòng. Lão thấy trên bồ đoàn có một nữ ni đang ngồi, tuổi chừng bốn, năm mươi. Vị trí thủ tịch có một đạo nhân đang ngồi, râu rồng đầy mặt, hai mắt tinh quang sáng rực. Biết không phải là nhân vật tầm thường, lão bất chợt cúi đầu bái lạy.

Tăng, đạo hai người vội đỡ lão dậy, miệng nói “không dám”.

Chu Thuần ngồi xuống một bên, nữ ni liền hỏi: “Những lời chúng ta nói vừa rồi chắc ông cũng nghe thấy. Đây là sư huynh của ta, tên là Nhiêm Tiên* Lý Nguyên Hoá. Ta tên là Nguyên Nguyên, người ta thường gọi là Bạch Vân đại sư. Cao đồ của ông được Nhiêm sư huynh thu làm môn hạ, không biết tráng sỹ có thể thuận cho không?”

Chu Thuần đáp: “Nó tuổi còn rất nhỏ, có thể được hưởng uy danh của các vị tiền bối kiếm tiên thực là tam sinh hữu hạnh**. Chính vì nó thiên tư thông minh, đệ tử lại tài học thấp kém nên chỉ sợ làm cản trở tiền đồ của nó. Hôm nay được gặp tiên duyên, làm sao lại không tình nguyện. Chỉ là lúc nãy, đệ tử có gặp một người bị trúng yêu độc, sắp mất mạng đến nơi, mong hai vị đại tiên thương xót mà giải cứu cho.”

Nhiêm đạo nhân đáp: “Người đó tên Thi Lâm, là sư điệt của ta. Lúc nãy ta vừa đi qua đã cứu nó về núi rồi.”

Chu Thuần luôn miệng bái tạ. Bạch Vân đại sư nói: “Sư huynh đến rất đúng lúc, việc không nên chậm trễ, khi trời hửng sáng hãy theo ta đi chém yêu quái.”

Nhiêm đạo nhân hỏi: “Yêu quái đó là vật ở đâu mà lợi hại thế?”

Bạch Vân đại sư đáp: “Núi này xưa vốn không gọi là Vân Linh sơn. Vì trong núi có một con xà yêu, mỗi sáng sớm hoặc đêm khuya nó đều thở ra sương độc kết thành một áng mây mù, khi ánh tịch dương chiếu tới lại trở thành kỳ cảnh của núi này. Người ta thấy núi này có áng mây rực rỡ kỳ lạ đó vô cùng đẹp mắt hơn trăm năm nay nên mới gọi là Vân Linh sơn. Con yêu đó hồi trước chỉ ở trên đỉnh núi nhả mây phun sương, tuyệt chưa từng hại người. Ai ngờ ba năm gần đây tình hình đại biến. Từ giờ Thìn đến giờ Dậu thì nó tu luyện trong động, người qua đường vào lúc đó sẽ không gặp chuyện gì. Nếu không thì trong mười người, thoát được độc thủ của nó chẳng đến một hai. Trong ba năm nay, ta và nó đánh đi đánh lại cũng chưa từng đả thương được nó chút nào. Nó cũng biết ta lợi hại nên khi đến gần am của ta là tự chạy về. Lúc nãy, ta nghe thấy tiếng gió biết là con yêu đó đang tới. Sau đó lại không thấy động tĩnh gì nữa, rồi nghe thấy tráng sỹ gõ cửa.”

Lúc này Chu Thuần mới biết nguyên nhân tại sao con yêu đó lúc nãy không đuổi theo mình nữa. Bạch Vân đại sư lại tiếp: “Vật nào cũng có khắc tinh. Ta biết con yêu này rất sợ ngô công***. Lâu nay nghe nói chỗ Hoàng Sơn Xan Hà đại sư có dị vật đó nên kêu Tử Quyên đến đó mượn dùng. Lúc đầu đại sư không đồng ý, nói con Ngô công đó là bảo vật trấn động của bà ta. Sau đó, tự thân ta đến, tối hôm qua đã mượn được rồi. Vừa lúc tráng sỹ cùng sư huynh đến đây, ta nghĩ ngày mà con yêu đó bị tru diệt không còn xa nữa.”

Than ôi...

Yêu ma quỷ quái gây phiền nhiễu

Thần tiên hiệp sĩ quyết lập công.

Muốn biết xà yêu có bị tru diệt hay không, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Vị tiên râu tốt.

** Nhà Phật có nói đến kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Tam sinh là chỉ ba kiếp đó. Nghĩa câu thành ngữ này là ba kiếp đều may mắn hay vô cùng may mắn.

*** Ngô công nghĩa là con rết.

Hết hồi thứ năm

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ sáu

Danh sơn tá linh vật tiên hiệp dạ thoại

Cổ động trảm yêu xà phụ nữ trọng phùng

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: gatre

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Danh sơn mượn linh vật, tiên hiệp nói chuyện đêm

Cổ động chém xà yêu, cha con được đoàn tụ

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Bạch Vân đại sư nói xong, từ trên vách đá lấy ra một cái hộp dài do tinh thiết đúc thành, mười phần chắc chắn, rồi lại lấy ra vài chục viên đan dược trong hồ lô. Sau đó đại sư mở nắp hộp ra, chỉ thấy bên trong chứa một con ngô công dài hai thước bốn tấc, toàn thân vảy hồng chớp sáng loang loáng, hai con ngươi to cỡ tách trà, mắt xạ ra lục quang. Bạch Vân đại sư mang chỗ đan dược đó đặt vào trong hộp, con ngô công đột nhiên nhúc nhích cử động, đại sư vội đóng nắp hộp lại. Nhiêm đạo nhân nói: “Linh vật như thế, kì độc tất lợi hại hơn yêu xà. Chẳng biết Xan Hà đại sư lúc trước làm sao thu được?”

Bạch Vân đại sư đáp: “Xan Hà đại sư khi còn là khuê nữ rất tinh nghịch. Một hôm, bắt được một con ngô công chỉ dài đôi ba tấc, đại sư liền mang nó cất vào trong một cái hộp, mỗi ngày lấy chút cơm cho nó ăn. Thời gian trôi đi, dần dần nó trưởng thành. Đến lúc đại sư xuất giá, con ngô công đó đã dài khoảng năm, sáu thước, đại sư nhất định muốn mang theo làm của hồi môn. Lão thái gia* của đại sư sợ làm người ta nghe thấy thì kinh hãi nên kiên quyết không chịu. Không còn cách nào khác, đại sư mới kêu người đem con ngô công đó mang vào thả trong núi. Sau khi trượng phu của đại sư mất đi, đại sư được Thần ni Ưu Đàm đại sư thu làm môn hạ, luyện thành kiếm tiên, lại đến trong núi đó thu lấy con ngô công làm bảo vật trấn sơn. Hơn trăm năm qua, được Xan Hà đại sư dùng phù chú thôi luyện, ăn đều là tiên đan linh dược nên chẳng những thần hóa vô cùng mà nó còn có thể lớn nhỏ tùy ý, hơn nữa rất có linh tính, không tùy tiện đả thương người. Xan Hà rất yêu thích nó. Lần này do ta thỉnh cầu mãi, tốn nhiều nước bọt, đại sư mới bằng lòng cho mượn tạm. Sư huynh chớ có coi thường nó.”

Ba người nói nói kể kể, hỏi tới vài công phu Chu Thuần tinh thông, bất giác phương đông đã sáng. Bạch Vân đại sư nói: “Đã đến lúc rồi.”

Rồi nói với Chu Thuần: “Chuyến này vô cùng hung hiểm. Tráng sĩ nếu muốn đi, chỉ có thể tránh ở trên vách đá quan sát, ngàn vạn lần không được vọng động.”

Dứt lời cùng hai người đồng thời đứng dậy, hướng về phía trong sơn cốc đi tới.

Lúc này, vầng thái dương đỏ rực đã ló dạng ở chân trời, con đường hiện ra vô cùng rõ ràng. Đi đến một nơi sơn thế phi thường hiểm ác, không có một gốc cây ngọn cỏ, Bạch Vân đại sư nói với Nhiêm đạo nhân: “Nơi đây cách sào huyệt của yêu xà không xa, đợi ta tới trước dụ nó đến. Chờ đến lúc ta đấu cùng nó, phiền sư huynh lấy Huyền Anh kiếm chặn đường về của nó.”

Nói xong, liền một mình tiến lên phía trước. Nhiêm đạo nhân và Chu Thuần đồng thời tung mình lên đỉnh núi, chỉ thấy trong sơn cốc có một động lớn, sâu đen kịt không thấy đáy. Bạch Vân đại sư đi tới cách động không xa, huýt huýt ù ù vài tiếng, đột nhiên cuồng phong nổi lên, Bạch Vân đại sư quay người chạy về đường cũ.

Nói thì chậm nhưng rất nhanh, một trận hắc phong trong động thổi ra rồi một con rắn lớn xông tới, vẩy vàng mắt hồng, dài ước chừng mười trượng, thân như cái lu, phóng đi như bay. Bị nó đuổi tới hơn nửa dặm, Bạch Vân đột nhiên quay người quát to một tiếng: “Đến đây nào!”

Rồi từ trong tay đại sư phi ra một đạo tử quang**. Con rắn đó thấy đạo ánh sáng từ trong miệng liền phun ra ngọn lửa dài hàng trượng, chống lại đạo ánh sáng này. Đấu được một lúc, con rắn đó tự biết không địch lại, xoay người quay đầu chạy đi. Nhiêm đạo nhân liền cầm Huyền Anh kiếm trên tay phóng ra, một đạo thanh quang bay về phía đầu rắn. Con rắn thấy không có đường lui, liền cuộn thân thành một đống, phun ra lửa đỏ và sương độc, đánh lại hai đạo kiếm quang đó. Mặc dù tiên kiếm lợi hại, cũng không thể làm nó bị thương mảy may. Bạch Vân đại sư và Nhiêm đạo nhân chiếm một đỉnh núi, chỉ huy kiếm quang, cùng con rắn này đối địch. Đánh nhau hồi lâu, bất phân thắng bại, Bạch Vân không còn cách nào đành gọi Nhiêm đạo nhân, mọi người thu lại kiếm quang. Con rắn thấy kiếm quang đột nhiên thối lui, cho là địch nhân đã bại, đang định phóng tới Bạch Vân đại sư. Đột nhiên từ trong tay Bạch Vân đại sư bay ra một vật, toàn thân hồng quang chói mắt, chiếu hồng rực cả sơn cốc.

Nguyên lai Bạch Vân đại sư thấy dùng kiếm vẫn không thể thủ thắng, đã lấy ngô công trong hộp thả ra. Con ngô công vừa ra khỏi hộp, gặp gió liền dài ra đến hơn trượng. Con rắn đó thấy ngô công bay tới, biết đã gặp kình địch, nào dám chậm chạp, liều mạng phun lửa phun sương, đánh với ngô công. Đấu được một lúc, con ngô công há miệng cắn vào điểm thất thốn*** của con rắn, con rắn liền cắn lại vào đuôi của ngô công, cả hai đều không chịu buông nhau. Con rắn bị ngô công cắn đến không chịu nổi, không ngừng dùng đuôi quét qua quét lại trên núi đá, đập tan thành đá vụn bắn ra như mưa đá, văng tứ tán, đúng là một cảnh quan hiếm thấy.

Lúc này, ba người đã tới cùng một chỗ. Nhiêm đạo nhân có ý muốn lấy Huyền Anh kiếm phóng ra, giúp ngô công một tay. Bạch Vân đại sư sợ làm bị thương ngô công, liền vội ngăn lại. Đang lúc nói chuyện, đột nhiên một âm thanh chấn thiên động địa vang tới, rắn và ngô công đều bất động. Nguyên lai con rắn bị cắn, chịu đau không nổi, đuôi liền quét ngang tới một tảng đá lồi ra ở trên cao đến hàng trượng ở cốc khẩu khiến tảng đá rơi xuống đầu nó, đánh cho óc phọt ra, con ngô công cũng kiệt lực mà chết.

Bạch Vân đại sư cùng Nhiêm đạo nhân vội phi xuống núi, dùng kiếm chém thân rắn thành hơn mười đoạn. Thấy ngô công đã chết, Bạch Vân đại sư liền nói: “Lúc đầu, ta không chịu tùy tiện thả nó ra, chỉ sợ lưỡng bại câu thương. Lần này làm sao trả lời Xan Hà đại sư đây?”

Nhiêm đạo nhân đáp: “Con yêu này tung hoành một phương, giết hại sinh linh, lần này nhờ vào ngô công của Xan Hà đại sư trừ được hại lớn, công đức không nhỏ, có lẽ đại sư cũng không trách chúng ta đâu.”

Đang lúc nói chuyện, đột nhiên từ trên đỉnh núi phóng xuống một hắc y nữ lang, hông đeo một hồ lô, đi đến trước mặt hai người hành lễ nói: “Đệ tử Chu Khinh Vân, phụng lệnh Xan Hà đại sư đến đây. Xin Bạch Vân đại sư không phải phiền muộn, cái chết của ngô công chính là số trời đã định. Gia sư sai đệ tử gửi lời hỏi thăm đại sư, mang thi cốt của nó về.”

Nói xong, đi đến bên cạnh xác ngô công, lấy ra một viên đan dược, đặt vào trong miệng nó, con ngô công liền co lại thành khoảng bảy tám tấc, nàng liền bỏ vào trong hồ lô mang theo bên người. Lại quay qua Bạch Vân đại sư nói: “Gia sư có nói gia phụ Chu Thuần ở đây, đệ tử có thể gặp mặt.”

Lúc này Bạch Vân đại sư mới biết nàng là con gái của Chu Thuần, vô cùng mừng rỡ thay cho nàng, liền gọi Chu Thuần đi xuống. Cha con trùng phùng, tất nhiên vui mừng khôn xiết. Chu Thuần vốn muốn cầu Xan Hà đại sư giúp đỡ, khi gặp Bạch Vân đại sư, vì việc tróc yêu mà chưa kịp mở miệng, lần này thấy nữ nhi tới, chính hợp với ý muốn của lão. Lão liền nói với Khinh Vân chuyện Đa Tí Hùng Mao Thái tầm cừu, cả việc mình đến Thành Đô, lại bảo Khinh Vân mời Xan Hà đại sư xuống núi.

Khinh Vân nói: “Việc nhỏ như thế, hà tất làm phiền sư phụ, nữ nhi lần này cũng vì việc đó mà tới. Nữ nhi từ khi theo sư phụ lên núi, đã luyện thành tiên kiếm. Con vì việc phụ thân học kiếm bất thành, nhiều lần xin đại sư truyền thụ, đại sư nói phụ thân cùng lão nhân gia người vô duyên. Đại sư bình sinh chưa thu nhận nam đệ tử, người nói phụ thân khi cơ duyên tới, tự nhiên sẽ gặp được danh sư. Người lại nói phụ thân lần này cứ tới Thành Đô, phía trước tự có người tới hướng dẫn. Nữ nhi sau khi về núi phục mệnh, cũng phải tới Thành Đô giúp phụ thân giết tên Mao Thái đó.”

Chu Thuần nghe xong, bất giác như trút bỏ được gánh nặng trong lòng. Khinh Vân từ biệt ba người, trở về núi phục mệnh, không nói tới nữa.

Chu Thuần nghĩ thầm Bạch Vân đại sư cùng Nhiêm đạo nhân đều là kiếm tiên thành danh, liền có ý đầu sư. Bạch Vân đại sư nói: “Ngươi tuy tuổi quá bốn chục nhưng căn cơ tâm địa đều tốt, sớm muộn gì cũng là người trong bọn với ta, làm gì phải nôn nóng nhất thời? Hiện tại kiếm khách phái rất nhiều, thường xuyên dẫn tới tranh đấu. Ngoài Côn Luân, Nga Mi, thì hiện tại Hoàng Sơn phái và Ngũ Đài phái mới lập, giống như nước với lửa, đều bởi tà chính không thể cùng tồn tại. Lần này Mao Thái tầm cừu, bất quá là mở đầu, chuyện này từ nay về sau còn nhiều.”

Dứt lời, đại sư liền nhặt nhiều cành lá khô, đem thân rắn đi hỏa táng. Nhiêm đạo nhân nói phụng mệnh sư phụ Tĩnh Hư lão tổ, phải mau mang về một người có nhiều tiên căn, để tránh bị người của Ngũ Đài phái thu nạp mất. Dứt lời ông ta há miệng thét dài một tiếng, chỉ thấy trong đám mây bay xuống một con tiên hạc lớn, Nhiêm đạo nhân cưỡi lên, nói "tái kiến" rồi phá mây bay lên. Chu Thuần mới biết tiên hạc ngày ấy trong núi đánh nhau với rắn, nhất định là vật cưỡi của Nhiêm đạo nhân. Lão tuy đã nghe nữ nhi Khinh Vân nói, còn cảm thấy không yên tâm, liền thuận tiện hỏi Bạch Vân đại sư tương trợ.

Bạch Vân đại sư nói: “Ngươi cứ đi trước, chuyến đi này quyết không có gì trở ngại. Đến lúc gặp khó khăn, ta tự sẽ tới cứu ngươi, lúc này thì chưa cần.”

Chu Thuần trong lòng bán tín bán nghi, không làm sao được, phải một mình từ biệt ra đi.

Đi được vài ngày, đã đến được Thành Đô. Ai ai nghe tới Mao Thái cũng đều nói là chưa từng thấy qua một hòa thượng như vậy. Chu Thuần đành phải ở lại đó chờ Khinh Vân đến. Đợi được ba tháng, cũng không thấy đến, trong lòng lão cảm thấy vô cùng khó hiểu. Lúc này đã là hạ tuần tháng giêng, trong ngoài khắp chốn Thành Đô, những am miếu, di tích cổ nườm nượp người viếng thăm. Có một hôm, ngồi trong điếm phòng oi bức, vô cùng nhàm chán, Chu Thuần liền lững thững đi ra ngoài cửa nam du ngoạn Vũ Hầu từ.

Đúng là

Đợi đợi chờ chờ thật khó chịu

Nôn nôn nóng nóng đành vi vu

Chú thích

* Cha của đại sư.

** Luồng ánh sánh tím.

*** Thất thốn: Đây là điểm chí hiểm của con rắn, cách đầu bảy thốn (tấc). Người bắt rắn chỉ cần chộp lấy chỗ này là con rắn không thể cắn vào tay được.

Hết hồi thứ sáu

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ bảy

Cầm dâm tặc đại náo Thi gia hạng 

Phùng hiệp lộ trí địch bát chỉ tăng

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: gatre

Biên dịch: herobk13

Biên tập: Duyên

www.tangthuvien.com

Bắt dâm tặc, đại náo Thi gia hạng 

Nơi đường hẹp, trí địch Bát Chỉ tăng

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Vũ Hầu từ này chính là di tích cổ nổi danh ở đất Thục, trên vách danh nhân đề vịnh rất nhiều. Chu Thuần xem một lúc, lững thững đi đến Vọng Giang lâu, gọi một bình rượu, chút đồ nhắm, một mình ngồi ăn. Chợt nghe có tiếng bước chân vang lên thang gác rồi một người đi lên, thì ra là một công tử vận võ phục, mặt đẹp như ngọc, vô cùng tuấn mỹ, chỉ là thần tình có vẻ bất chính. Đầu hắn đội mũ tráng sĩ gấm lam thêu hoa, bên tóc mai rung rinh một đóa hoa trang sức kết bằng cỏ thông thảo. Một mình hắn gọi chút rượu và thức ăn, cũng chẳng thèm động đũa, hai mắt cứ nhìn chăm chăm xuống dưới lầu. 

Chu Thuần quan sát hắn cả nửa ngày, cảm thấy kỳ quái, cũng cúi đầu nhìn xuống. Nguyên lai ở bờ sông đậu một chiếc thuyền lớn, trên thuyền có rất nhiều nữ nhân, trong đó có một nữ tử rất xinh đẹp, đang rời thuyền lên kiệu. Gã võ sinh công tử đó thấy vậy, vội vàng bỏ lại một thỏi bạc để trả tiền rượu rồi vội vàng bước xuống lầu. Chu Thuần quan sát người này chắc chắn không lương thiện, liền cũng trả tiền rượu rồi đi ra theo dõi. 

Đột nhiên lão nhìn thấy một đạo nhân phía trước, trên lưng đeo một hồng hồ lô lớn, chậm rãi đi ở phía trước. Nhìn kỹ thì ra là Túy đạo nhân ngày ấy gặp ở núi Nga My. Muốn đuổi theo tên dâm tặc đó, thì lại bỏ mất dịp may, nào có dễ dàng gặp được kỳ nhân. Muốn bỏ qua không đuổi nữa, lại có phần quá ích kỷ, đánh mất đi thiên chức hiệp nghĩa. Đang lúc do dự, đôi chân nhanh như bay của kiệu phu nổi danh Thành Đô đã chạy không biết về hướng nào. Gã võ sinh công tử đó cũng không thấy bóng dáng. Không còn cách nào khác, Chu Thuần đành phải âm thầm đi theo lão đạo nhân này. Đạo nhân này như không biết Chu Thuần đi theo lão, chậm rãi đi ở phía trước. Chu Thuần trong lòng mừng thầm, tưởng rằng lần này sẽ không dễ dàng để lỡ cơ hội, chỉ chăm chú đi theo sau đạo nhân. 

Đạo nhân đó chỉ hướng về khu đồng hoang đi tới, bất luận Chu Thuần đuổi theo thế nào, khoảng cách luôn không đến một hai chục trượng nhưng không sao đuổi kịp. Sau Chu Thuần nóng nảy liền hô lên: “Đạo gia phía trước, xin dừng bước, đệ tử có chuyện muốn thưa.”

Ai ngờ đạo nhân đó nghe Chu Thuần nói như vậy lại càng đi càng nhanh, với công phu khinh thân của Chu Thuần, cũng không có cách gì đuổi kịp được, trong nháy mắt đã không còn thấy bóng dáng nữa. Chu Thuần biết người ta không chịu gặp lão, không biết làm sao đành cúi đầu ủ rũ quay lại điếm phòng.

Đến canh một, lão đang định lên giường đi ngủ, đột nhiên một trận gió nhẹ thổi qua, trên cái bàn trống không đã có thêm một mảnh giấy. Chu Thuần vội vàng tung người lao ra ngoài, chỉ thấy sao sáng trên trời, bốn phía đều yên ắng. Trong hẻm sâu xa xa, văng vẳng tiếng chó sủa liên hồi. Lúc trở về phòng nhìn mảnh giấy, chỉ thấy trên đó viết ba chữ to “Thi gia hạng”*, nét bút khoáng đạt, thần thái bay bổng. Nhìn mấy chữ này cực kỳ quen thuộc, như đã gặp qua ở nơi nào, tiếc rằng nhất thời lão nhớ không ra. Nghĩ thầm: “Thi gia hạng này đều là các gia đình quyền quý, cùng ta có quan hệ gì?” Trong lòng vô cùng khó hiểu. 

Sau lại nghĩ: “Chẳng lẽ nơi đó xảy ra chuyện gì, người đưa thư một mình khó chống đỡ nên hẹn ta đến tương trợ hay sao? Mặc kệ là có hay không, cứ đến nơi đó rồi tính sau.” Vì vậy lão mang binh khí tùy thân theo, đóng cửa, rồi từ trong cửa sổ tung người ra đi, dọc đường nhảy lên mái nhà mà chạy. 

Đang chạy, lão đột nhiên thấy một bóng đen, dường như cũng phi băng băng về phía trước, lúc vừa chạy tới Thi gia hạng, bỗng dưng không thấy đâu. Chu Thuần nghĩ thầm: “Đường xá của Thi gia hạng rất dài, bảo ta nên tới nhà nào trước đây? Mặc kệ vậy.” 

Đến nhà đầu tiên, lão thấy yên tĩnh lặng lẽ không tiếng động. Lại đi tới nhà thứ ba, lão thấy chẳng có gì ngoài một cái sân lớn. Trên lầu còn có đèn sáng, Chu Thuần vội tung người lao đến, vừa nhìn vào trong cửa sổ không khỏi nổi giận đùng đùng. Nguyên lai trong phòng có một tuyệt sắc nữ tử, bị cởi bỏ y phục trói trên sập gụ, đã hôn mê bất tỉnh. Liếc thấy gã võ sinh công tử đó đang cởi áo, muốn cưỡng gian nữ tử này, Chu Thuần không nhịn được quát: “Hay cho tên dâm tặc, dám cưỡng gian nữ tử nhà lành, còn không ra đây chịu chết cho ta.” 

Tên tặc đó nghe xong liền nói: “Kẻ phương nào lớn mật, dám phá hỏng mỹ sự của ông nội ngươi?” 

Dứt lời, hắn một hơi thổi tắt đèn, mở cửa phòng rồi cầm một cái ghế ném ra bên ngoài. Chu Thuần đưa kiếm gạt qua một bên, đang đợi hắn ra để giết, đột nhiên nghe tiếng gió sau ót, biết là có người ám toán, lão không thèm quay đầu lại, tung người nhảy xéo về phía trước. Tên tặc nhân này tiếp tục bổ một đao tới, Chu Thuần vội vàng đón đỡ.

Nguyên lai tên tặc này vô cùng giảo hoạt, hắn trước tiên ném ghế ra ngoài, bản thân lại từ cửa sổ phóng ra, muốn ám toán Chu Thuần. Nếu không phải Chu Thuần đã từng kinh qua nhiều đại địch, thì đã trúng phải độc thủ rồi. 

Chu Thuần cùng dâm tặc đánh được hơn mười hiệp, thấy được thân pháp và đao pháp của tên giặc này vô cùng quen thuộc, liền quát: “Dâm tặc, ngươi là môn hạ của ai? Tên gọi là gì? Mau xưng danh rồi nhận lấy cái chết, dưới kiếm Vân Trung Phi Hạc ta không giết quỷ vô danh?” 

Tên tặc đó nghe thấy lời này, không khỏi điên cuồng cười lớn: “Ngươi chính là Chu lão tam à? Sư phụ ta cho rằng ngươi sẽ không đến Thành Đô, ai mà tưởng nổi ngươi lại tới chịu chết. Ông nội nhà ngươi, ta chính là môn đồ của Bát Chỉ Thiền Diệu Thông, tên tục gia là Đa Tý Hùng Mao Thái, tên gọi Thần Hành Vô Ảnh Trương Lượng.” 

Chu Thuần vừa nghe đến thân thế kẻ đối đầu, không khỏi kinh tâm, lại sợ Mao Thái tới tương trợ thì sẽ không phải là địch thủ, liền sử xuất ra tuyệt nghệ bình sinh, cả người trên dưới múa ra một trận kiếm hoa, vây chặt lấy tên tặc này. Gã Trương Lượng đó mặc dù võ nghệ cao cường, rốt cuộc vẫn không phải là địch thủ của Chu Thuần. 

Vốn chủ nhân nhà này họ Vương cũng là một người biết võ, bị tiếng đánh nhau kinh động, lúc đầu nhìn thấy hai người đang động thủ, đoán rằng trong đó tất có một người tốt, nhưng không phân rõ ai tốt ai xấu, chỉ nắm chắc cửa phòng mình, không dám tiến lên tương trợ. Cho đến khi nghe thấy tên tặc đó báo danh tính liền phân rõ được tà chính, vì vậy mới dẫn bọn gia nhân tới tương trợ. 

Tên tặc đó thấy không còn đường, tranh thủ tung người nhảy lên, vọt lên tường. Chu Thuần nói: “Chạy đi đâu!” Rồi kiếm thân hợp nhất phóng lên, chỉ một nhát đã chặt đứt hai chân của tên dâm tặc, làm hắn ngã nhào xuống, đau đớn tưởng chết đi. Mọi người vội vàng trói lại, mời Chu Thuần vào trong ngồi, bái tạ ơn cứu giúp. 

Chu Thuần nói: “Tên tặc này mặc dù bị bắt, các ngươi ngàn vạn lần không nên làm ầm lên. Sư phụ của hắn tên gọi Mao Thái, đã luyện thành tiên kiếm, nếu bị y biết, tính mạng toàn gia các ngươi khó mà giữ được.” 

Chủ nhân nhà này tên gọi Vương Thừa Tu, nghe thấy Chu Thuần nói như vậy không khỏi kinh hãi, liền muốn Chu Thuần tương trợ. Chu Thuần nói: “Ta cũng không phải đối thủ của kẻ đó, chỉ cần trước mắt y không biết, đợi mấy ngày nữa thì sẽ có người thu phục được y tới, cho nên các ngươi tạm thời không nên làm ầm lên. Sáng mai ngươi mang người này giấu trong túi da, trước tiên lặng lẽ đến quan phủ báo án, kêu họ bí mật giam lại, đợi bắt được Mao Thái mới xử lý. Giữ ta lại đây, không có ích mà còn có họa, càng không tốt.” Vương Thừa Tu biết không giữ nổi, đành phải theo lời lão phân phó hành sự. Không đề cập tới nữa.

Chu Thuần vẫn y theo đường cũ, lặng lẽ trở lại điếm phòng. Lão đêm nay tuy làm được một việc nghĩa cử, ai ngờ trong lúc vô ý, lại cùng Mao Thái kết thêm một tầng cừu oán. Biết rõ Túy đạo nhân đeo hồ lô là một trợ thủ lớn, không kiên nhẫn nổi lại lỡ mất dịp may, lòng lão như sóng triều, một đêm ngủ không an giấc.

Đến ngày thứ hai, ăn xong cơm trưa tại trong điếm, lão liền đến tham quan các nơi trong thành và tìm kiếm hỏi thăm chỗ ở của Túy đạo nhân. Lão tìm liên tiếp mấy ngày đều không thấy được tung tích. Một hôm lững thững đi bộ ra khỏi thành đến một rừng cây, lão bỗng thấy trong bóng cây thấp thoáng một bức tường quét vôi trắng, biết là một tòa miếu thờ. Chu Thuần lúc này thấy có chút khát nước, liền đi về phía cửa miếu. Lão muốn đi vào vãn cảnh đồng thời xin chén nước uống. 

Vừa mới đến gần cửa miếu, lão chợt nghe thấy trên đường lớn có tiếng chuông loan vang lên, trong đám bụi bốc mù mịt có hơn mười cỗ nhân mã đồng loạt phi tới cửa miếu. Chu Thuần vốn là người cẩn thận liền tránh qua một bên. Chỉ thấy đám người trên ngựa, ước có mười ba mười bốn người, một người ăn mặc kiểu đạo gia, còn lại đều ăn mặc kiểu tục gia, hình dáng cực kỳ hung ác. Mỗi người đều vác theo một cái bọc, giống như đều có giấu binh khí. 

Lúc đầu cửa miếu đóng chặt, đám người này tới trước cửa miếu, dẫn đầu là một tên đại hán dong dỏng cao. Chỉ thấy hắn vung ngọn roi lên bình tĩnh đánh liền ba cái vào cửa miếu, không lâu sau cửa miếu mở ra. Hơn mười người dắt ngựa không nói chuyện, chen nhau đi vào. Sau khi đám người này tiến vào, cửa thiền liền đóng lại như cũ, mọi vật chìm trong yên lặng.

Chu Thuần trong lòng biết đám người này nhất định là bọn không lương thiện, bất quá tòa miếu này cách thành không xa, tựa hồ không nên chứa chấp phỉ nhân. Lão muốn nhìn xem cho rõ ràng liền đi đến cửa miếu đó. 

Chỉ thấy tòa miếu này xây cất cực kỳ vĩ đại trang nghiêm, trên bức biển ở cửa miếu, ghi sáu chữ vàng lớn “Sắc kiến Từ Vân thiền tự**”. Chu Thuần nghĩ thầm: “Từ lâu đã nghe Từ Vân tự chính là ngôi chùa có danh tiếng ở Thành Đô, phương trượng trong miếu là Trí Thông hòa thượng, giới luật rất nghiêm, chúng tăng đồ thanh quy cực tốt, làm sao lại qua lại cùng đám phỉ nhân này? Còn nói là hương khách lỡ đường, tình hình như có chút không đúng.” 

Lão đang muốn giả trang tiến vào miếu tham quan để xem cho rõ ràng, đột nhiên bịch một tiếng, một khối bùn đất rơi xuống mặt Chu Thuần khiến lão không khỏi kinh hãi. Lão vội vàng đưa mắt nhìn xem bốn phía, không có tiếng người, cả một tiếng chim cũng không có, không hiểu cục bùn đất đó từ đâu bay đến. Trong lòng mặc dù cảm thấy vô cùng kinh dị nhưng chung quy lòng hiếu kỳ quá lớn, lại ỷ vào mình tài cao mật lớn, vẫn muốn tiến đến gõ cửa. Lão vừa giơ tay lên, đột nhiên sau ót có gió. Chu Thuần lúc này không sơ ý như vừa rồi, vội vàng cúi thấp đầu, bịch một tiếng, rơi trên mặt đất vẫn là một cục bùn đất. Lão vội hướng về phía ném của cục đất nhìn lên, chỉ thấy ở cách hai mươi trượng có một bóng nhân ảnh, nháy mắt đã biến vào trong rừng rồi không thấy nữa. Trong lòng không khỏi tức giận, lão liền bỏ ý nghĩ đi vào miếu, phóng người đuổi theo về phía rừng, dự định tìm người đó, hỏi hắn vô duyên vô cớ vì sao một lần hai lần đùa giỡn với mình? Đến khi vào rừng rồi, tìm kiếm mọi nơi, song chẳng có chút tung tích gì. Đang không muốn tìm nữa thì lại một cục đất bay tới. Chu Thuần lúc này sớm đã lưu tâm đến mười hai phần, một mặt lão né tránh cục đất đó, một mặt nhìn kỹ về phía trước. Chỉ thấy phía trước có một người cực kỳ gầy ốm, đang chạy như bay ra ngoài rừng. Chu Thuần khí tức lên tới mặt, cất bước đuổi theo liền. 

Người nọ thân pháp thật nhanh, chân không vấy bụi, dù cho Chu Thuần cước trình ngày có thể đi ngàn dặm cũng không đuổi kịp. Cứ như vậy một chạy một đuổi, chẳng bao lâu đã được hơn mười dặm đường. Chu Thuần vừa đuổi theo vừa nghĩ: “Ta cùng người này vốn không quen biết, cớ gì lại đùa bỡn với ta như thế? Nếu là cừu gia, lúc ta ở trước miếu đã trúng phải ám toán của y rồi. Huống hồ chiếu theo cước trình thân pháp của y thì thấy võ nghệ quyết không dưới ta, y dẫn ta đến chỗ hoang vắng không người này là có duyên cớ gì?” Đang muốn hỏi, lão chợt hiểu ra liền dừng lại hô: “Vị tôn huynh phía trước, xin dừng bước để cho Chu Thuần ta nói một lời.” 

Dù cho kêu đến rách cổ, người nọ vẫn không để ý tới. Đột nhiên thấy y đứng lại trước một gốc cây, Chu Thuần trong lòng mừng rỡ liền tiến đến phía trước. Vừa mới đến cách không xa, người nọ bỗng lại cất bước chạy đi như sao băng chớp giật, chỉ chớp mắt đã không biết đi về hướng nào. Chu Thuần đến gần tới trước cây đó, chợt thấy dưới đất có một cái túi. Nhặt lên mở ra xem, nguyên lai là hai viên đan dược, mặt trên còn có một hàng chữ nhỏ, viết tám chữ “Giữ dùng lúc sau, bách độc bất xâm”. 

Chu Thuần cũng không biết là có dụng ý gì, thuận tay bỏ vào trong ngực. Đến lúc này càng biết được miếu nọ không phải là đất lành, người nọ là có lòng dẫn lão thoát khỏi nguy hiểm. Bản thân cũng tự biết sức một người không làm được việc, tạm thời chỉ mặc kệ, phờ phạc quay về đường cũ.

Vừa mới đi được chưa đến năm dặm đường, lão bỗng thấy trên một cây đại thụ bên đường treo một cái chuông lớn. Nghĩ thầm: “Vừa rồi lúc đi qua thì không hề thấy cái chuông này. Cái chuông này ít nhất cũng sáu bảy trăm cân, người nào có thể tung người đem chiếc chuông này treo lên? Không có sức lực ba bốn ngàn cân, thì làm sao có thể làm được?” 

Lại thấy cách cái chuông nọ không xa có một khu nhà ở, liền đi tới để hỏi cho minh bạch. Ai ngờ mới đến cửa nhà đó liền lờ mờ nghe thấy có tiếng khóc kêu cứu mạng. Chu Thuần trời sinh hiệp can nghĩa đảm, không do dự vòng ra sau nhà rồi tung người lên, vừa nhìn đã sợ tới mức kinh tâm vỡ mật.

Thật là

Suy đồi miếu mạo tàng đạo tặc

Tha hóa chùa chiền ẩn hung tăng.

Chú thích

* Ngõ nhà họ Thi gia.

** Sắc kiến nghĩa là xây theo chiếu chỉ của vua.

Hết hồi thứ bảy

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ tám

Lâm trung bỉ kiếm Vân Trung Hạc tuyệt xử phùng sanh 

Tự nội đàm tâm Tiểu Hỏa Thần tây hành cầu cứu

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: apple

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Rừng sâu đọ kiếm, Vân Trung Hạc tuyệt xứ phùng sinh

Cửa thiền tâm sự, Tiểu Hỏa Thần tây hành cầu cứu

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói Chu Thuần nghe thấy trong sân nhà đó có tiếng khóc thảm kêu cứu mạng, vội vàng tung người lên mái nhà, đưa mắt nhìn vào trong. Chỉ thấy bên trong có một hòa thượng, tay cầm giới đao đang uy hiếp một nữ tử: “Hôm nay được lọt vào mắt xanh của ta chính là phước to phận lớn của ngươi. Ngươi chỉ cần nhanh chân theo ta đến Từ Vân tự thì sẽ hưởng bất tận vinh hoa phú quý. Nếu như ngươi không chịu đi theo, ta sẽ phải hạ độc thủ.”

Nữ tử đó nói: “Ngươi hãy mau mau chạy đi, trượng phu ta Ngụy Thanh không phải là dễ chọc đâu.” Dứt lời, lại kêu hai tiếng cứu mạng. 

Hòa thượng này đang chuẩn bị động thủ thì Chu Thuần không nhẫn nại được, thuận miệng nói: “Hung tăng chớ vô lễ, có ta đến đây!” Dứt lời người đến kiếm cũng đến, một đạo hàn quang đâm thẳng tới ngực hòa thượng. Hòa thượng nọ thấy lão tiến tới thật nhanh cũng không tránh khỏi kinh hãi, y liền bước tới trước, buông giới đao trên tay xuống, rút ra thiền trượng trên người, vội vàng chống trả.

Đánh được vài hiệp, đột nhiên y cất tiếng cười quái dị rồi nói: “Ta tưởng ai, hóa ra là ngươi! Ta đã tìm ngươi mấy tháng, không ngờ lại gặp ở đây, âu đó cũng là may mắn của ta.” Dứt lời, thiền trượng như ánh chớp bay tới. 

Chu Thuần nghe thấy lời của hòa thượng này có ý lạ, nhìn kỹ lại, hóa ra là Đa Tý Hùng Mao Thái mà mình luôn đề phòng nửa năm nay, không ngờ hôm nay vô tình gặp lại ở đây. Lão cũng biết tài nghệ của y đại tiến, bản thân mình không phải là đối thủ.

Lão cầm chặt kiếm trong tay, sử ra thế Trường Xà Xuất Động, đâm tới yết hầu của Mao Thái. Hòa thượng thấy thế kiếm uy mãnh, luống cuống lách người qua một bên. Chu Thuần thừa dịp nhảy ra ngoài vòng nói: “Chậm đã, chậm đã, có chuyện nói xong rồi đánh tiếp.” 

Mao Thái hỏi: “Ta và ngươi là cừu nhân gặp mặt, ngươi còn có lời gì muốn nói?” 

Chu Thuần đáp: “Không phải nói như vậy. Nhớ lại lúc trước ngươi bại trong tay ta, ta lấy tính mạng ngươi dễ như trở bàn tay. Chỉ vì ta tiếc cho ngươi một thân võ nghệ, mới thả cho ngươi đi. Ai ngờ ngươi lấy oán báo ân, lại đến tầm cừu. Ngươi nên biết nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên. Ngươi cho rằng mười năm nay học thành kiếm pháp là có thể sính cường sao? Ngươi nên biết ta đây đã bái Hoàng Sơn Xan Hà đại sư cùng Túy đạo nhân làm sư phụ, dù ngươi uổng phí tâm lực cũng không phải là đối thủ của ta. Sẵn chưa muộn ngươi nên buông nữ tử này ra, ta đây sẽ để ngươi chạy đi. Bằng không, hôm nay ngươi sẽ khó mà tránh được công đạo.” Lời này của Chu Thuần vốn là trong lúc nguy cấp nhanh trí biến không thành có.

Ai ngờ Mao Thái nghe thấy lại tin là thật, không khỏi kinh ngạc. Y thầm nghĩ: “Chu Thuần nếu như bái Xan Hà đại sư làm thầy, kiếm thuật của ta nhất định không phải là đối thủ của lão. Nhưng mình mười năm tâm huyết cực khổ, hôm nay không báo thù này thì cũng rất không cam lòng.”

Y liền nói với Chu Thuần: “Lần trước ta bại trong tay ngươi, lúc đó binh khí ngươi dùng là một thanh đao. Hôm nay thiền trượng này của ta luyện tập đã được mười năm, chúng ta bất tất phải dùng kiếm pháp để thủ thắng, mà dựa vào binh khí sẵn có trong tay. Nếu như ta lại thất bại thì sẽ xuống tóc lên núi, không trở về với nhân thế nữa. Ý người thế nào?” 

Chu Thuần nghe thế, chính hợp với ý mình nên can đảm thêm vài phần, lão nói: “Vô luận so tài kiểu nào, ta đều sẽ phụng bồi.” 

Nói dứt lời, hai người lại khai chiến ở ngay đó. Chỉ thấy hàn quanh lạnh lẽo làm không khí mờ mịt, hai người bất phân thắng phụ. Chu Thuần sát khí nổi lên, liền nói: “Chỗ này quá nhỏ, không tiện dụng võ, ngươi dám cùng ta ra ngoài kia đánh không?” 

Mao Thái đáp: “Ta chính là đang muốn ra ngoài lấy cái mạng chó của ngươi đây.”

Lúc này, nữ tử không biết đã trốn đi phương nào. Hai người một trước một sau, từ trong sân tung người ra một khoảng đất trống ở bên ngoài rồi bắt đầu động thủ trở lại. Cừu nhân chạm trán, nộ hỏa trào dâng nên họ thi triển hết võ nghệ bình sinh, đánh nhau một trận khó phân thắng bại. Chu Thuần thấy Mao Thái càng đánh càng hăng, quả nhiên không phải năm đó mình nhìn lầm. Lại sợ y phóng ra phi kiếm, bản thân không phải là địch thủ nên trong lúc vội vã lão đem bảo kiếm trong tay ra đánh thật rát. Đúng lúc đó Mao Thái sử thế Thái Sơn Áp Đỉnh, một trượng đánh tới ngay đỉnh đầu.

Chu Thuần liền lách người sang một bên. Mao Thái nào dám chậm trễ, vội xoay ngược một đầu thiền trượng, hướng eo Chu Thuần quét ngang một đường. Chu Thuần thấy thế công uy mãnh, không dám dùng kiếm cản lại, nhún chân tung người nhảy lên cao hơn bảy, tám thước. Mao Thái thấy vậy mừng rỡ, thừa cơ Chu Thuần người còn đang lơ lửng chưa hạ xuống đất, huy thiền trượng quét vào chân Chu Thuần. Chu Thuần đã sớm đoán y ắt sẽ dùng chiêu này, càng không dám chậm trễ, trong lúc thiền trượng của Mao Thái chưa tới, đưa chân phải đè lên chân trái, mượn thế dụng lực, không những không hạ xuống, ngược lại còn lên cao thêm vài thước.

Đây là công phu Yến Tử Phi Vân Tung, Tinh Đình Điểm Thủy* trong phép khinh thân, là tuyệt kỹ bình sinh của Chu Thuần. Mao Thái một trượng đánh hụt, vì dùng lực quá nhiều nên người không khỏi chồm tới trước, loạng chà loạng choạng. Chu Thuần đột nhiên dùng một thế Tiên Hạc Bàn Vân, kiếm thân hợp nhất chém xuống đầu Mao Thái. Mao Thái la to một tiếng “nguy rồi”, vội vã vận kình xuống chân, búng người bắn chéo về phía trước, tuy là nhanh chóng tránh được nhưng cũng bị mũi kiếm của Chu Thuần vạch một đường dài bốn, năm tấc chảy máu trên tay trái, khiến y càng thêm phẫn nộ. Chu Thuần không để cho Mao Thái đứng vững, người và kiếm lại phi tới. Mao Thái tựa như dã thú nổi điên, xoay người lại liều mạng với Chu Thuần.

Bấy giờ đã gần tới hoàng hôn, Chu Thuần đánh đã lâu, biết là không dễ thủ thắng, đột nhiên tung người lên cao, múa kiếm thành một đạo hoa kiếm dài gần một trượng. Mao Thái lại sợ lão dùng tuyệt kỹ gì đó nên ngưng thần nhìn kỹ. Chu Thuần thừa cơ bạt cước bỏ chạy. Mao Thái thấy cừu nhân đào tẩu, sao chịu bỏ qua như vậy, vội vàng đuổi sát theo sau. Chu Thuần một mặt bỏ chạy, một mặt lặng lẽ đem Liên Châu nỏ ra, cầm trong tay.

Mao Thái thấy Chu Thuần cước bộ chậm lại, đang chuẩn bị tung người tới trước thì đột nhiên Chu Thuần xoay đầu lại, giương tay lên, quát lớn: “Xem nè!” Chỉ thấy một đạo hàn quang bắn tới mặt Mao Thái. Mao Thái biết là ám khí, vội cúi đầu xuống tránh. Ai ngờ nỏ thép Liên Châu của Chu Thuần một phát lại là mười hai mũi, không phải lúc nguy hiểm thì lão cũng không chịu lấy ra dùng. Một khi đã sử dụng, cho dù người võ nghệ cao bao nhiêu cũng khó mà tránh khỏi.

Mao Thái nào biết lợi hại, vừa mới tránh được đợt tên đầu tiên, hai ba đợt khác đã liên tiếp như châu chấu bay tới. Mao Thái cũng giỏi, nhảy nhót liên tục. Đến đợt thứ bảy, vạn lần không ngờ Chu Thuần lại đột nhiên đem năm mũi tên đồng thời bắn ra. Một mũi nhắm yết hầu, hai mũi nhắm bụng, còn hai mũi nhắm hai tay, phát nỏ này có tên gọi là Ngũ Đóa Mai Hoa Xuyên Vân. Mặc dù Mao Thái giỏi tránh né, cũng trúng phải hai mũi tên, một mũi trúng tay trái còn không nghiêm trọng nhưng một mũi đã vừa vặn bắn tới mặt.

Vốn là Mao Thái thấy nguy cấp không sao tránh được mới nghĩ tới dùng miệng đón đỡ. Ai ngờ do tay trái bị trúng tên từ trước, lại muốn tránh mũi tên vào mặt nên nhất thời tâm hoảng ý loạn, lo cho đầu này lại không lo được đầu kia, luống ca luống cuống liền bị bắn gãy hai cái răng cửa. Lập tức máu chảy ròng ròng, đau chịu không nổi, không cách nào khác y đành chịu đau quay người bỏ chạy. Lẽ ra Chu Thuần nên hài lòng và thực sự không cần phải đuổi theo. Nhưng vì lão thấy Mao Thái thụ thương, trong lòng cao hứng nên xoay người đuổi tới.

Mao Thái nọ vì nghe Chu Thuần nói lão đã bái Xan Hà đại sư làm thầy, bởi vậy không dám dùng phi kiếm đấu với lão. Sau khi hai người đánh nhau hồi lâu, bất phân thắng bại, vừa gấp gáp lại vừa hận nên y cũng quên dùng kiếm. Cho đến khi Mao Thái thụ thương, Chu Thuần đuổi theo sau, không khỏi khiến y tỉnh ngộ, thầm nghĩ: “Chu Thuần đã bái Xan Hà đại sư làm thầy, kiếm thuật của lão tự nhiên lợi hại hơn ta, ta vì sợ lão bởi vậy không dám phóng kiếm. Kiếm thuật của lão hơn ta, sao cũng không dám dùng tới? Hay là bên trong có gì trí trá? Ta không thể trúng quỷ kế của lão được, chi bằng thử một phen xem sao.” 

Đang nghĩ tới đó, y quay đầu nhìn lại thấy Chu Thuần truy đuổi cũng không xa. Y liền quay người lại, lấy ra Xích Âm kiếm của Kim Thân La Hán Pháp Nguyên ban tặng. Y cầm kiếm trong tay, một đạo hoàng quang phóng ra hướng về phía Chu Thuần bay tới. 

Chu Thuần đang lúc truy đuổi, đột nhiên thấy Mao Thái xoay người lại, có vẻ như y muốn phóng kiếm. Lão đang hối hận bản thân đã không cẩn thận đuổi người vào đường cùng thì Mao Thái đã phóng ra kiếm quang.

Chu Thuần biết lợi hại, quay người chạy như bay về phía trước. Mao Thái nhìn thấy, biết những lời trước đây Chu Thuần nói bái Xan Hà làm thầy toàn là giả dối, cứ nghĩ đến việc mình bị lừa một cách dễ dàng như vậy, y càng thêm phẫn nộ, huy động kiếm quang đuổi theo sau. Chu Thuần cũng đã chạy vào trong một khu rừng rậm, kiếm quang đánh tới, cành cây lần lượt rụng như mưa. Lúc này Chu Thuần và kiếm quang cách nhau không tới một, hai trượng, hết sức nguy hiểm. Lão biết khó lòng đào thoát, đành nhắm mắt chờ chết.

Mao Thái thấy Chu Thuần lâm vào tuyệt địa, hết sức đắc ý, không kìm được cười ha hả. Lúc này kiếm quang đã tới trên đỉnh đầu Chu Thuần, nếu hạ xuống một cái thì có thể khiến đầu rời khỏi cổ. Vào lúc hiểm nghèo đó, đột nhiên có một tiếng cười dài, từ trên một thân cây bay xuống một đạo thanh quang nhanh như điện chớp, vừa vặn nghênh đón đạo hoàng quang. Vào lúc trời đất tối tăm này, hai đạo kiếm quang một xanh một vàng như thần long vờn lượn, bay múa trên không, trông rất đẹp mắt.

Mao Thái đã tưởng Chu Thuần sẽ chết dưới kiếm của mình, đột nhiên trên không lại có một kẻ đối đầu bướng bỉnh xuất hiện, không khỏi khiến y vừa nóng nảy vừa tức giận. Chu Thuần đang nhắm mắt chờ chết, đột nhiên hồi lầu vẫn không thấy động tĩnh gì. Lão nhìn lên trên thấy hoàng quang đã rời khỏi đỉnh đầu, đang giằng co với một đạo thanh quang. Lão biết chắc chắn là có cao nhân đến cứu. Chỉ là trong đêm tối, lão nhìn không ra người phóng kiếm cứu mình ở nơi nào.

May mắn là mục lực của lão rất tốt, liền ngưng thần dán mắt nhìn về phía kiếm phóng ra quan sát cẩn thận, chỉ thấy một đạo nhân đang ngồi trên cành một cây đại thụ không xa mình bao nhiêu. Lão liền nhẹ nhàng đi ra sau, tính đợi giết xong Mao Thái rồi sẽ khấu tạ người ta. Khi đến gần nhìn lại, lão không khỏi mừng rỡ. Vốn người nọ thân mang một hồ lô màu đỏ nên lão lờ mờ nhận ra được chính là Túy đạo nhân mà mấy tháng nay mình thần hồn điên đảo muốn gặp.

Đang định tiến tới hỏi chuyện, Túy đạo nhân đột nhiên xua tay nên Chu Thuần chẳng nói được gì. Lúc này trên không trung hoàng quang càng bị dồn ép càng nhỏ, thanh quang lại càng thêm rực rỡ, kỳ dị, khiến cho tên Đa Tý Hùng Mao Thái ù tai tức ngực, run rẩy sợ hãi. Chính vào thời khắc sôi sục đó, Chu Thuần thừa lúc Mao Thái xuất thần không phòng bị, lấy từ trong túi ra ám khí Một Vũ Phi Hoàng Thạch, nhắm ngực của Mao Thái ném tới, trúng ngay giữa khiến Mao Thái ngã lăn xuống.

Trong một lúc phân thần, hoàng quang lại càng nhỏ đi. Mắt thấy nguy hiểm vạn phần, đột nhiên từ không trung phía tây nam có ba, năm đạo hồng quang bay lại, phía xa xa có tiếng phá không. Túy đạo nhân đột nhiên nhảy xuống khỏi cây, nhẹ nhàng nói với Chu Thuần: “Mau đi theo ta!” Không để Chu Thuần kịp trả lời, một tay ông ta đã xuyên qua dưới tay Chu Thuần, thu lại kiếm quang, nhấc Chu Thuần lên, phi thân hướng về đường lớn dẫn về thành mà đi.

Mao Thái nọ đang trong lúc mồ hôi đầm đìa vì giao phong, thấy thanh quang rút lui như cởi được gánh nặng, lập tức thu hồi kiếm của mình lại. Nhìn lại Chu Thuần thì không biết lão đã đi hướng nào. Y thủy chung vẫn không biết địch thủ đối đầu là ai, đang buồn rầu thì đột nhiên thấy trước mắt một đạo hồng quang xẹt tới, một người xuất hiện trước mặt. Y đang nghi là cừu nhân, chuẩn bị động thủ thì người nọ chợt nói: “Hiền đệ chớ vô lễ!” 

Mao Thái định thần nhìn lại, thì ra là người bạn thân của mình Phi Thiên Dạ Xoa Tần Lãng. Y không khỏi mừng rỡ, bước lên phía trước thi lễ.

Tần Lãng liền hỏi Mao Thái vì sao lại ở đây một mình. Mao Thái liền đem chuyện hạ sơn tìm Chu Thuần báo cừu, cư trú ở Từ Vân tự, hôm nay xảo ngộ gặp Chu Thuần, bị trúng tên, sau đó bản thân phóng ra Xích Âm kiếm mới thủ thắng được, đột nhiên trong bóng tối có người phóng ra tiên kiếm cứu Chu Thuần, người phóng kiếm và Chu Thuần trong khoảnh khắc đã không biết đi hướng nào, nói hết một lần. 

Tần Lãng nói: “Lúc ta đến nhìn thấy trong rừng cây có hả kiếm quang vàng xanh đấu nhau, nên biết trong đó có người của bản môn gặp kẻ địch, vội hạ xuống tương trợ, ai ngờ chúng đã bỏ trốn rồi. Chắc là bọn chúng đã nhìn ra ta, biết ngàn vạn lần không phải địch thủ, bởi vậy mới bỏ trốn. Nhưng ta đến chậm một bước để chúng chạy thoát.” 

Tần Lãng vốn là môn nhân đắc ý của Hoa Sơn Liệt Hỏa tổ sư, ỷ mình kiếm pháp cao cường, không có chuyện ác gì không làm. Kiếm hắn luyện tên gọi là Hồng Chu kiếm, lợi hại vô cùng. Lúc đầu hắn cũng từng bái Pháp Nguyên làm sư phụ, Liệt Hỏa tổ sư lại là chỗ Pháp Nguyên tiến cử, cùng Mao Thái cũng có thể coi là đồng môn sư huynh đệ, hai người rất đỗi thân thiết.

Mao Thái thấy hắn vừa tới liền thu thanh quang lại, cũng cho rằng địch nhân vì sợ Tần Lãng, liền hướng Tần Lãng tạ ơn cứu mạng. Tần Lãng nói: “Trước mắt, ta đang vì phụng mệnh tổ sư gia đến Điền Tây** hái thuốc, nếu không thì đám kiếm khách này e rằng sẽ bị ta giết không còn một mống. Chúng vừa thấy bóng ta đã chạy chứng tỏ cũng biết sợ rồi.”

Chính vào lúc hắn đang tự thổi da trâu, đột nhiên nghe gần đó có người nói: “Tần Lãng ngươi sao không biết thẹn! Người ta bất quá nể mặt sư phụ ngươi, lại thêm cũng khinh thường không thèm giao đấu với đám hậu sinh tiểu bối, ngươi lại không biết thẹn, còn tự lấy làm đắc ý!” 

Tần Lãng tính như liệt hỏa, làm sao chịu được người này chế giễu như vậy, không khỏi giận dữ mắng: “Là tiểu bối phương nào mà dám động thổ trên đầu thái tuế vậy? Lại còn không chịu lăn ra chịu chết cho ta!” Nói chưa dứt câu, bốp một tiếng, Tần Lãng bị tát vào miệng, ngay bên má trái, đau đến mức sao nổi đầy đầu.

Hắn đang muốn quay người nghênh địch nhưng nhìn khắp xung quanh mà không thấy bóng dáng người nọ. Nhìn thấy mặt Mao Thái, vừa thẹn vừa giận, liền mắng: “Thằng hỗn đản, ở trong tối ám toán người khác, không phải là anh hùng. Có bản lĩnh thì hãy ra đây, cùng ta so cao thấp?”

Người nọ bỗng ở ngay cạnh đáp: “Ai ở trong tối ám toán người khác? Ta ở ngay trước mặt ngươi nè. Ngươi ở trong núi học đạo hơn mười năm, chẳng lẽ ngươi lại chưa thấy qua ta?”

Tần Lãng nghe xong, càng thêm phẫn hận, định một mặt cùng người nọ đối đáp, nghe ra được nơi người đó đứng thì sẽ dùng phi kiếm giết y.

Vì vậy hắn làm bộ không tức giận nói: “Mục lực của ta vốn không tốt, ngươi đương nhiên là bản lĩnh cao cường, sao không hiện thân để cùng ta so tài cao thấp?” 

Người nọ đáp: “Ngươi muốn gặp ta thực không phải lúc. Khi đến lúc, chỉ sợ ngươi không muốn gặp cũng không được.” 

Tần Lãnh lúc này đã cho rằng người nọ cách hắn không hơn mười bước, không đợi y nói hết, xuất kỳ bất ý, đưa tay ra, liền có năm đạo kiếm quang màu đỏ bay tới hướng người nọ.

Khi hắn xuất chiêu, kiếm quang này bắn khắp nơi trên dưới trong khuôn viên mười trượng xung quanh, khiến rừng cây đỏ bừng cả lên. Ánh sáng nơi nơi, cành lá đều tung bay, hồi lâu không thấy người kia phản ứng phát ra tiếng gì. 

Mao Thái nói: “Tên này thật đáng khinh bỉ, chắc y chết rồi, sư huynh hãy về miếu chung với ta đi.” Nói chưa dứt câu, hốt nhiên lại á lên một tiếng, Mao Thái cũng đã bị tát một cái vào mặt. Mao Thái phẫn hận vạn phần, cũng đem kiếm quang phóng ra, bắn về phía phát ra tiếng nói.

Chỉ nghe người nọ cười khà khà rồi nói: “Ta còn cho là Ngũ Đài phái các ngươi kiếm pháp cao cường, hóa ra cũng chỉ như vậy thôi. Các ngươi không cần phí sức, có bao nhiêu kiếm phóng hết ra để ta xem thế nào.” 

Tần Lãng, Mao Thái hai người vừa tức khí vừa giận. Chúng biết rõ người nọ bản lĩnh cao cường, bản thân phi kiếm cũng không làm được gì, nhưng lại không muốn thu hồi lại, đành phải vận động kiếm quang bắn loạn xạ.

Người nọ càng không chịu nhẹ tay, tiến tới cạnh hai gã, nếu không phải đánh một cái thì nhéo một cái hay bóp một cái, lại thêm hạ thủ hết sức nặng tay, đánh cho hai gã đau đớn vô cùng. Sau đó lại là Mao Thái biết khó chống lại, buồn bã nói với Tần Lãng: “Bọn ta minh đao minh thương dễ đỡ, cái này không biết là người hay quái vật, bọn ta hà tất phải giơ mặt chịu đòn?” 

Tần Lãng hết cách, cũng buộc phải mượn cớ hạ đài, lại sợ bị ám toán khác nên kêu Mao Thái cẩn thận đề phòng. Bọn chúng vận động kiếm quang hộ thể, bỏ chạy khỏi rừng cây.

Hai gã rất mừng vì người nọ không đuổi theo. Bọn chúng chạy đến Từ Vân tự thì đã thở không ra hơi. Sau khi vào miếu, do Mao Thái dẫn gặp Trí Thông, Trí Thông liền hỏi hai người bọn chúng vì sao thê thảm như thế. Mao Thái kể lại sự tình. Trí Thông nghe xong, trầm ngâm hồi lâu không nói gì. Mao Thái liền hỏi y là duyên cớ gì. Trí Thông nói: “Ở trong rừng, người lúc đầu đấu kiếm với ngươi, chắc là kiếm khách của phái Nga Mi tình cờ đi qua, gặp chuyện bất bình nên trợ giúp Chu Thuần một tay. Sau đó thấy Tần đạo hữu đến, hoặc là sợ nhìn ra rồi kết cừu, lại sợ không phải là địch thủ nên mang Chu Thuần đào tẩu. Chuyện này không nghiêm trọng. Quái nhân đến sau nghe tiếng lại không thấy hình mới là khó giải quyết. Nếu quả là lão quái vật đó đến để nhúng tay vào, đừng nói là bọn ta, chỉ sợ lão tiền bối Kim Thân La Hán Pháp Nguyên của bọn ta, lệnh sư Hoa Sơn Liệt Hỏa tổ sư của Tần đạo hữu, cũng đều cảm thấy khó giải quyết.”

Tần, Mao hai người hỏi: “Bọn ta phóng kiếm, không thấy y nghênh đón, y bất quá cũng chỉ có chút thân pháp ẩn trốn thôi, sao lại lợi hại đến như vậy?” 

Trí Thông đáp: “Hai vị không biết thôi. Năm mươi năm trước, trên giang hồ đột nhiên có một lão quái xuất hiện, chuyên nhúng mũi vào việc người khác. Vô luận kiếm khách hai lộ nam bắc, những người có tài về kiếm trong các phái, trừ phi giao hảo với y, nếu không rất ít người chưa bại trong tay y. Người này không những thân kiếm hợp nhất, lại thêm luyện được thân hình có thể tùy ý ẩn hiện, cũng không phải như phép ẩn thân bình thường là chỉ có thể che được mắt của người trần mắt thịt. Lúc đầu người ta không biết danh tính của y, vì y hành tung phiêu hốt, kiếm pháp cao cường, mới đặt ra một ngoại hiệu cho y là Truy Vân Tẩu***. Sau đó mới dò ra danh tính của y, kêu là Bạch Cốc Dật. Lúc đó người trên giang hồ, thật sự là nghe tên sợ vỡ mật, nhìn thấy phải kinh hồn.”

Y lại tiếp: “Năm mươi năm trước, bởi vì vợ lão Băng Tuyết Hồng mất đi tại Khai Nguyên tự nên trên giang hồ không còn thấy tung tích y nữa, đều nói y đã chết rồi. Năm ngoái Liệt Hỏa tổ sư từ Điền Tây trở về Hoa Sơn, đi qua nơi đây, nói là trông thấy y bán thuốc ở Thành Đô, kêu ta cẩn thận. Tổ sư lại nói lúc trước bản thân từng bại trong tay y, một ngày còn có y thì tổ sư quyết không xuống núi, không tham gia bất kỳ cuộc đấu tranh nào. Mới đầu nghe nói y đã tạo hóa, ai ngờ lại còn tại thế nên tổ sư chỉ còn cách theo lời ngày trước, về núi bế quan tĩnh tu, không xuất hiện nữa. Bởi vậy ta ra nghiêm lệnh cho môn hạ đệ tử, vô cớ không được rời miếu sinh sự. Về sau cũng không thấy có động tĩnh gì. Mấy ngày trước đây, môn đồ Trương Lượng của Mao hiền đệ nửa đêm rời miếu, nói là tới một gia đình phú hộ trong thành mượn ít tiền, một đi không trở lại. Sau đó ta phái người tới nha môn cùng với nhà phú hộ đó nghe ngóng nhưng không được chút thông tin gì. Nhất định đã gặp phải độc thủ của lão tặc đó, người khác quyết không làm sạch sẽ như vậy.”

Trương Lượng là ái đồ mới thu được của Mao Thái nên y vừa nghe được hung tin như vậy, không khỏi vừa giận vừa tức, nhất định phải vào trong thành do thám tin tức. Trí Thông vội vàng khuyên can, nói y không nên lỗ mãng, rồi nói với Tần Lãng: “Ở trong miếu luôn mấy ngày nay xảy ra chuyện, tình hình hết sức bất ổn. Tần đạo hữu không nên ở lâu nơi này, ngày mai nên lên đường tới Điền Tây. Bần đạo làm phiền đạo hữu đi đường vòng đến Đả Tiến Lô, thỉnh phương trượng Phấn Diện Phật của miếu Ôn Thần, hẹn cùng với Phi Thiên Dạ Xoa Mã Giác, mau đến Thành Đô giúp ta một tay. Tần đạo hữu nghĩ sao?”

Tần Lãng đáp: “Tại hạ lần này phụng mệnh sư phụ đến Điền Tây, vốn cũng muốn đến Đả Tiến Lô bái phỏng Hiểu Nguyệt thiền sư. Đại sư nhờ tại hạ đi trước, đúng là nhất cử lưỡng tiện. Tại hạ sáng mai sẽ lên đường cho tiện.”

Trí Thông cảm tạ Tần Lãng rồi gọi người đi kêu môn hạ đệ tử tứ Kim Cương, cùng với những người đến từ Tứ Xuyên lúc sáng là Đại Đạo Phi Thiên Ngô Công, Đa Bảo chân nhân Kim Quang Đỉnh, Độc Giác Mãng Mã Hùng, Phân Thủy Tê Ngưu Lục Hổ, Náo Hải Ngân Long Bạch Tự, cùng với toàn thể anh hùng đến đại điện có chuyện thương lượng. Sau khi truyền lời nhắn, đến trước tiên là tứ Kim Cương của miếu gồm Đại Lực Kim Cương Thiết Chưởng Tăng Tuệ Minh, Vô Địch Kim Cương Tái Đạt Ma Tuệ Năng, Đa Tý Kim Cương Tiểu Na Tra Tuệ Hành, Đa Mục Kim Cương Tiểu Hỏa Thần Tuệ Tính, ngay sau đó bọn Kim Quang Đỉnh cũng tiến đến thi lễ ngồi xuống.

Trí Thông nói: “Ta mời mọi người tới đây không vì việc gì khác, chỉ vì lúc trước tổ sư của ta là Đại Ất Hỗn Nguyên tổ sư cùng kiếm tiên của phái Nga My kết mối thâm cừu. Trên Ngọc Nữ phong ở Nga My sơn đấu kiếm, tổ sư bị lãnh tụ của phái Nga My là kiếm tiên Càn Khôn Chính Khí Diệu Nhất chân nhân Tề Thấu Minh chặt mất một tay. Tổ sư gia chỉ biết phẫn hận, sau đó tại Mao Sơn tu luyện mười năm, luyện thành Ngũ Độc tiên kiếm, ước hẹn Nga Mi phái so kiếm lần thứ hai tại đỉnh Hoàng Sơn. Nga Mi phái nghĩ sẽ thất bại nên mới tìm đến Đông Hải tam tiên là Huyền Chân Tử, Khổ hạnh đầu đà, và lão quái Truy Vân Tẩu Bạch Cốc Dật đó. Bọn họ ba người vô cớ đến can thiệp, hòa giải không xong mới dẫn đến động thủ. Tổ sư gia của bọn ta bị Khổ hạnh đầu đà thu mất Ngũ Độc kiếm, lại trúng một Vô Hình kiếm của Huyền Chân Tử, bảy ngày sau đó qua đời.”

Y thở dài rồi lại tiếp: “Giờ phút lâm chung, tổ sư kêu tới trước mặt một số môn nhân đắc ý, trong đó có cả sư phụ của ta Thoát Thoát đại sư, truyền lại phép luyện kiếm, kêu bọn ta sau khi tu thành kiếm pháp, tìm người của Nga My phái báo cừu rửa hận. Sư phụ ta sau đó tẩu hỏa nhập ma rồi tọa hóa. Ta đến Thành Đô, cực khổ xây dựng nên ngôi Từ Vân tự này, qua mười mấy năm mới có được hưng thịnh như ngày hôm nay. Chỉ vì ta chưa từng làm ăn ở đây, ra vô đều trong đêm tối mới lấy được lòng tin của quan dân thương gia địa phương. Ai ngờ vào một đêm nửa tháng trước, môn nhân của Mao hiền đệ Trương Lượng nhìn trúng nữ tử một nhà trong thành, mới đến hái hoa mượn tiền nhưng một đi không trở lại. Ta phái người đi nghe ngóng khắp nơi nhưng không thấy tăm hơi, cho là hắn đã gặp phải độc thủ của người khác. Ta đang vì chuyện này lo lắng, ai ngờ vài ngày trước lại xuất hiện một kỳ sự.”

Mao Thái nghe thấy vội hỏi đã xảy ra kỳ sự gì? 

Trí Thông đáp: “Hiền đệ ngươi biết đó, đây cũng là ta một lòng từ bi, mới lưu lại hậu hoạn này. Mấy hôm trước ta đang ở tại Hoan Hỉ thiền điện, cùng với chúng đệ tử ở đó truy hoan thủ lạc, hốt nhiên nghe thấy tiếng cửa ngầm. Mới đầu lại cho rằng ngươi trở về, ai ngờ là mười bảy cử tử+ của Quý Châu tiến kinh ứng thi, đi vòng đến Thành Đô du ngoạn. Nhân vì nghe bổn miếu là một tu viện lớn nên mới tùy tiện tiến vào. Tri khách tăng phía trước nhất thời sơ ý để bọn họ đi lầm vào vân phòng++, tình cờ đụng vào cơ quan trong mật thất nên mới tiến vào đường ngầm.”

Y nhấp giọng nói tiếp: “Ta thấy sự tình đã bị bọn họ khám phá, không nói được gì đành mời bọn họ về Tây phương cực lạc. Ta liền đem mười bảy người bọn họ cột lại, thẩm vấn rõ ràng rồi do ta đích thân động thủ tống tiễn. Giết đến cử tử cuối cùng, niên kỷ gã chỉ mười bảy, mười tám, tướng mạo rất ưa nhìn, quỳ dưới đất khóc lóc cầu xin, không khỏi làm mềm lòng ta. Ta không nhẫn tâm đích thân hạ thủ liền đem gã tống vào trong lao ngục, cho gã một sợi dây, một thanh cương đao, một bao độc dược, kêu gã ở trong động tự chọn cái chết. Gã lại cực khổ cầu xin ăn hai bữa cơm để chết cũng được làm con quỷ no. Ta muốn thành toàn cho gã, lại cho gã ba mươi cái bánh bao, tính là gã có thể sống được ba ngày. Đến ngày thứ tư mới đến coi, nếu gã vẫn chưa tự sát mới động thủ. Ta vì người này mà sinh ra mềm yếu, ỷ lao ngục tường cao, ta cũng không để chuyện này trong lòng. Ai ngờ ngày thứ hai rồi ngày thứ ba, mưa lớn liên tục đổ xuống, đến ngày thứ tư phái người lại xem, cái thằng cử tử nhóc con đó đã đào tẩu rồi. Ta nghĩ gã thư sinh yếu đuối, xung quanh nơi này đều là người của bọn ta, không sợ gã trốn thoát. Lúc đó ta kêu người đi canh gác các chỗ ra vào, một mặt tăng cường lùng sục nhưng đều không có tung tích. Người này khám phá bí mật trong miếu, ta lại đem đồng bọn của gã mười sáu người giết sạch, sau khi gã trốn được, sao không báo quan lại tróc nã bọn ta? Luôn mấy ngày đóng chặt cửa miếu, chuẩn bị khi quan binh tới sẽ nghênh chiến một trận, sau đó trốn tới chỗ lệnh sư của thất hiền đệ ẩn náu. Cứ nghĩ bảy, tám ngày quan nha sẽ đến nhưng mãi không có tin tức gì, ta mới phái người đến nha môn nghe ngóng, cũng không thấy động tĩnh. Không biết là duyên cớ gì?” 

Đa Mục Kim Cương Tiểu Hỏa Thần Tuệ Tính nói: “Sư phụ, con nghĩ cử tử này còn vắt mũi chưa sạch nên kinh sợ, chắc là sau khi chạy thoát đã té xuống núi chết rồi, hoặc là ở nơi khác nhiễm bệnh mà chết, việc này bất tất phải lo lắng quá.” 

Trí Thông nói: “Tuy là nói vậy nhưng bọn ta không thể không chuẩn bị. Huống hồ Truy Vân Tẩu đã xuất hiện ở Thành Đô, sớm muộn gì y cũng lại đến kiếm chuyện. Hôm nay ta kêu anh hùng các vị tới đây, là muốn mọi người từ giờ trở đi chia nhau ra thay ta đi các nơi mời người đến giúp. Người ở miếu không có chuyện chớ có ra ngoài. Đợi người mời giúp tới rồi mới tính sau.” 

Mọi người nghe xong, đều không có chủ kiến nên chẳng nói gì. Duy một mình Mao Thái mong muốn báo cừu, khăng khăng muốn kiếm Chu Thuần sống chết. Trí Thông khuyên y không được, buộc phải chịu theo y. Suốt đêm không nói chuyện gì.

Đến ngày thứ hai, Tần Lãng từ biệt mọi người, lên đường đến Điền Tây. Sau khi Tần Lãng đi, mọi người cũng theo lời của Trí Thông, chia ra đi mời người. Chuyện này không nhắc đến nữa. 

Mao Thái ăn vội bữa sáng xong cũng không thông tri cho cho Trí Thông, một mình rời khỏi Từ Vân tự, vào trong thành kiếm Chu Thuần báo cừu. 

Thật là

Thù hận chồng chất khó hóa giải

Oán cừu thăm thẳm nào dễ buông.

Muốn biết Mao Thái đi kiếm Chu Thuần thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Chim én bay trên mây, chuồn chuồn khẽ chạm nước.

** Cách gọi khác cuả tỉnh Vân Nam.

*** Ông già đuổi theo mây.

+ Thí sinh đi thi thời phong kiến.

++ Phòng nghỉ của sư sãi trong chùa.

Hết hồi thứ tám

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ chín

Cổ miếu phùng hung chúng hiếu liêm thiện đường tao độc thủ 

Thạch lao đào mệnh Chu công tử dạ vũ việt đông tường

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: gatre

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Cổ miếu gặp hung tăng, các hiếu liêm thiền đường trúng độc thủ

Thạch lao tìm đường chạy, Chu công tử đêm mưa vượt tường cao

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Ở huyện Quý Dương thuộc Quý Châu, có một gia đình nông dân họ Chu truyền thống văn chương, mấy đời đơn truyền. Đơn truyền cho đến một đời có chín người con, thiên tính đều hiếu thảo ngoan ngoãn. Khi chưa ra riêng, công danh nhỏ nhất cũng là tú tài, còn lại đều là cử nhân, tiến sĩ. Hơn nữa huynh đệ cực kỳ thân mật, trong nhà hòa thuận vui vẻ, hết sức đầm ấm. Chỉ là mỹ trung bất túc, huynh đệ chín người thì có tám người không có con nối dõi. Chỉ có người thứ bảy tên gọi Tử Kính, đến khi y ba mươi sáu tuổi mới sinh được một người con trai, lấy tên là Vân Tòng, từ nhỏ đã thông minh nhân hậu hơn người. Một đứa con kế thừa cả chín chi trong tộc, các nhà khác lại cũng đều khá giả nên ở trong nhà gã đương nhiên được yêu quý nâng niu như trân châu vậy. Trời sinh gã có tính thích đọc sách, mười lăm tuổi nhập học, đến mười tám tuổi thì thi đậu cử nhân, thứ bậc rất cao. Sau khi gã thi đậu vẫn không tự thỏa mãn, lập tức muốn sớm lên kinh dụng công, chờ đợi kỳ thi tới. Phụ thân thúc bá của gã vì đường xá xa xôi nên rất không yên tâm nhưng thấy Vân Tòng hăng hái công danh nên cũng không tiện ngăn cản ý vươn lên của gã. Họ buộc lòng phải chọn một lão gia nhân đắc lực tên Vương Phúc và thư đồng Tiểu Tam Nhi cùng Vân Tòng tiến kinh. Chọn được ngày lành, Vân Tòng từ biệt thúc bá phụ mẫu và thân hữu đưa tiễn, cùng Vương Phúc và Tiểu Tam Nhi lên đường.

Đi được mấy ngày, giữa đường lại gặp được vài đồng niên, đều giống như Vân Tòng tiến kinh sớm để đợi khoa trường. Dọc đường có bạn nên gã không còn tịch mịch nữa. Về sau người tới tụ tập càng đông, tổng cộng có mười bảy người tiến kinh ứng khảo. Nhóm thiếu niên mới nổi này phần lớn đều vui mừng. 

Vân Tòng liền đề nghị: “Chúng ta nếu cứ thẳng đường tới kinh thì sẽ có tới mấy tháng nhàn rỗi. Cổ nhân nói ‘đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường’, kinh nghiệm và học vấn được coi trọng như nhau. Chúng ta sao không nhân cơ hội nhàn rỗi này, gặp được danh sơn thắng tích thì đi du lãm một phen, cũng không uổng một hồi ngàn dặm bôn ba?”

Trong đó có một vị cử tử, tên là Tống Thời nói: “Ta rất tán đồng lời này của niên huynh*. Từ lâu đã nghe đất Thục có nhiều danh thắng, chúng ta há không đến Thành Đô du ngoạn vài ngày?” 

Tất cả mọi người tuổi trẻ thích vui chơi nên đều không có dị nghị. Thương lượng ổn thỏa xong, họ liền gọi bọn người tùy tùng mang theo hành lí lên đường rồi tụ họp ở Trùng Khánh. Bọn họ một đám mười sáu người, ngoại trừ Vân Tòng mang theo một thư đồng ra, những người còn lại chỉ đem theo một bọc nhỏ đồ dùng tùy thân, theo đường vòng tới Thành Đô du ngoạn. Vương Phúc sợ bọn họ ít khi đi xa, dễ bị người khác lừa gạt nên nhiều lần khuyên giải. Tống Thời nói: “Ta bôn tẩu mười năm bên ngoài, đường lối gì trên giang hồ ta đều hiểu rõ, lão quản gia người cứ việc yên tâm.”

Vương Phúc thấy ngăn trở không nổi, lại biết đến Thành Đô là đường lớn, cực kỳ an toàn nên chỉ biết nghe theo. Lại kêu Tiểu Tam Nhi đến bên cạnh, dặn đi dặn lại sớm chiều phải hầu hạ tiểu chủ nhân cho tốt, không được sinh sự. Tiểu Tam Nhi tuổi tuy nhỏ nhưng rất nhanh nhạy, nhất nhất gật đầu đáp ứng. Rồi sau đó bọn họ chia tay khởi hành. Bọn họ mười sáu người đi thẳng một mạch, hoan hoan hỉ hỉ. Sau khi đến Thành Đô, tìm được một tòa khách điếm lớn ở trọ, mỗi ngày họ đều đi đến nơi có danh thắng, dạo chơi thoải mái. 

Có một ngày, Vân Tòng cùng với mọi người ra ngoài du ngoạn một hồi, liền đề nghị tới Vọng Giang lâu uống chút rượu. Bọn họ vài ngày trước đã tới đó hai lần, bởi vì bọn họ ngoại trừ ba bốn người là hàn sĩ, còn lại toàn là con nhà phú quý nên đều không quá để ý đến tiền bạc. Tửu bảo thấy khách quý đến, tất nhiên là xun xoe gấp bội. Vân Tòng đề nghị không vào phòng riêng, bốn người hay ba người ngồi một bàn, tựa vào lan can uống rượu để có thể nhìn về Trường Giang phía xa xa. Mọi người đều không có dị nghị, liền kêu tửu bảo mang ghế lại kê ở lan can. 

Ai ngờ cạnh lan can lầu một này chỉ có bốn cái bàn, trong đó trên một bàn đã có một đạo nhân gục xuống ngủ, Tống Thời liền kêu tửu bảo gọi người đó dậy. Tửu bảo thấy đạo nhân đó rách rưới vô cùng, sáng sớm đến uống rượu, uống đến chiều vẫn chưa đi, sớm đã rất không vui. Lúc trước không có khách thì không để ý lắm, hôm nay thấy có nhiều thần tài này muốn chỗ đó, đương nhiên càng cảm có cớ để đuổi lão đi. Hắn liền mời bọn họ ngồi xuống ba cái bàn kia trước rồi chạy đến gọi đạo nhân nọ hai tiếng nhưng không thấy đáp lại. Sau đó lại lay đạo nhân này hai lần, đạo nhân nọ không những không tỉnh lại mà ngược lại còn ngáy to hơn. Ở trong lữ hành đoàn nhỏ này, Tống Thời là một người cực kỳ nóng nảy, thấy tình hình như vậy, y không khỏi nổi nóng, đang muốn lên tiếng. Đột nhiên đạo nhân đó ngáp một cái rồi nói: “Mang một hồ lô rượu nữa lại đây.”

Lúc lão ngóc đầu lên, mọi người mới nhìn thấy lão ôm theo một hồ lô đỏ đựng rượu ngủ. Tửu bảo thấy đạo nhân này muốn rượu liền hỏi: “Đạo gia, ngài lại uống nữa sao? Ngài đến lúc sáng sớm, đã uống từng ấy rượu, uống nữa không tốt cho cơ thể. Theo tại hạ thấy, ngài nên trở về miếu đi.” 

Đạo nhân đó nói: “Thối lắm. Ngươi mở tửu điếm, chẳng lẽ lại không cho ta uống sao? Lại còn lải nhải gây chuyện, mau lấy rượu vào hồ lô của ta.” 

Tửu bảo một mặt đáp ứng “vâng vâng”, một mặt lộ ra vẻ mặt tươi cười, nói với đạo nhân: “Đạo gia, tiểu nhân định cầu xin đạo gia một chút việc.” 

Đạo nhân hỏi: “Ta là một đạo sĩ nghèo, ngươi có việc gì cầu ta?” 

Tửu bảo đáp: “Bốn chiếc bàn này của chúng tôi, ngày hôm qua đã để hơn mười vị tướng công bên kia đặt trước rồi, nói là tầm này hôm nay sẽ tới. Ngài lúc sớm đi lên uống rượu, tiểu nhân nghĩ nhất định ngài uống xong rồi đi, cho nên mới để cho ngài ngồi. Hiện giờ mọi người đặt chỗ đã tới, xin ngài nhường một chút, sang bên kia ngồi uống nhé.” 

Sau khi nghe xong, đạo nhân giận dữ nói: “Người ta uống rượu trả tiền, ta uống rượu cũng trả tiền, dựa vào cái gì mà bọn ngươi đòi đổi? Ngươi nếu như giữ cho người ta thì lúc ta lên phải nói trước cho ta. Ngươi rõ ràng khi dễ người xuất gia ta, hôm nay đạo gia nhất định uống tại chỗ này.”

Tống Thời đợi đã lâu, không còn kiên nhẫn nổi. Lại thấy đạo nhân đó bề ngoài nghèo khó, nói chuyện ngang ngược, không khỏi giận dữ, y liền đi tới nói với đạo nhân: “Chỗ này nguyên là được đặt cho chúng tôi, nếu như lão không nhường lại, đừng trách lão gia vô lễ!” 

Đạo nhân nói: “Ta ngược lại không thấy vậy, bằng cái gì mà ta phải nhường cho ngươi? Có bản lĩnh gì ngươi cứ sử ra xem nào.”

Tống Thời nghe vậy, liền tiến lên tát vào miệng đạo nhân đó. Vân Tòng thấy y tranh cãi, đang định tiến lên khuyên giải nhưng không kịp, chỉ nghe “ối” một tiếng, Tống Thời đã ôm tay đau đến mức kêu gào thảm thiết. Nguyên lai cái tát này đánh lên mặt đạo nhân giống như đánh lên sắt đá, đau đến thấu tâm can. Gã cử tử này làm sao chịu được, liền nói: “Phản rồi! Phản rồi! Kéo lão ra ngoài, đánh cho một trận rồi đưa lên quan trị tội.”

Mọi người đang định đồng loạt tiến lên, Vân Tòng vội tiến lên ngăn lại, nói: “Chư vị niên huynh hãy chậm đã, để ta nói một câu.” 

Bởi trong đám chỉ có Vân Tòng mang theo nhiều tiền, lại chịu chi tiêu, vô hình trung làm gã trở thành lãnh tụ của bọn họ. Lời này của gã nói ra, mọi người đành phải tạm thời dừng tay xem gã phân phó thế nào. Lúc Vân Tòng đi tới, đạo nhân đó đã đứng lên, quan sát gã kỹ càng. Vân Tòng thấy hai mắt đạo nhân đó thần quang sáng ngời, biết không phải là hạng tầm thường. Gã thường nghe Vương Phúc nói trên giang hồ dị nhân rất nhiều, không thể tùy ý đắc tội, liền hướng về đạo nhân đó nói: “Vị đạo gia này không cần tức giận, mười sáu người chúng tôi đều là bạn hữu cùng tuổi, hôm nay tới đây uống rượu, bởi vì muốn mọi người ngồi cùng một chỗ nói chuyện cho nên mới kêu tửu bảo tới kinh động đạo gia. Nhường hay không nhường đều không quan trọng, mong rằng không bị ngài trách mắng.” 

Đạo nhân đó nói: “Ai trách ngươi? Ngươi thấy đó, y đánh ta, ta còn chưa từng hoàn thủ mà.” 

Lúc này tay phải của Tống Thời đau đớn không chịu nổi, trong chốc lát đã sưng đỏ lên, y nói: “Tên tặc đạo sĩ này nhất định có yêu pháp, không đưa lên quan xử nặng thì không được. “ 

Vân Tòng liền vội đưa mắt ra hiệu y không nên nói nữa. Một mặt gã nói với đạo nhân: “Bằng hữu tại hạ đã xúc phạm đạo gia, không biết đạo gia dùng tiên pháp gì? Y lần này đau đớn không chịu được, mong đạo gia từ bi chữa trị cho y.” 

Đạo nhân nói: “Bản thân y không tốt, muốn đánh người nhưng lại không biết đánh nên mới bị thống khổ này. Ta còn chưa từng động đậy thì có tiên pháp gì đây?”

Lúc này chủ nhân tửu lâu đã biết chuyện, rất sợ sự tình ầm ĩ nên cũng ở một bên khuyên giải, nhưng đạo nhân vẫn khăng khăng không nhận lỗi. Sau nhờ Vân Tòng khổ sở van xin, đạo nhân mới nói: “Ta vốn không muốn tức giận với kẻ muốn chết. Bởi vì y không giỏi đánh người, dùng sai lực nên bị bong gân. Nếu không nể mặt ngươi thì ta cứ để kệ y đau đớn. Ngươi đi gọi y tới để ta trị cho.”

Tống Thời lúc này vẫn còn ở đằng kia mắng chửi đạo tặc bù lu bù loa. Vân Tòng tiến lại, đỡ y đi tới nhưng Tống Thời vẫn mắng chửi luôn miệng. Vân Tòng sợ đạo nhân tức giận không chữa cho nên khuyên giải y nhưng Tống Thời lại không nghe nên mười phần khó xử. Ai ngờ đạo nhân đó nghe được những lời chửi mắng của Tống Thời, lại điềm nhiên như không, ngược lại còn nói với Vân Tòng: “Ngươi không cần khó xử, ta không muốn tức giận với người chết.” 

Nói xong, lão cầm lấy tay của Tống Thời, chỉ thấy đạo nhân nắm lấy tay của Tống Thời, nhẹ nhàng lắc một cái rồi nói: “Tốt rồi. Lần tới không được tùy ý ra tay đánh người nhé.” Nói xong, lão liếc nhìn Vân Tòng, lại nhè nhẹ thở dài. 

Tống Thời ngoại trừ trên tay còn có chút đỏ nhưng đã không còn sưng đau nữa. Vân Tòng sợ y còn muốn chửi người ta liền kéo y đi. Rồi gã lại vội tới cảm ơn đạo nhân, kêu tửu bảo hỏi đạo nhân còn uống hay không, tiền rượu sẽ tính cho mình. Đạo nhân nói: “Rượu của ta đã uống đủ, chỉ cần năm cân rượu mạnh nữa để dùng cho bữa tối.” Vân Tòng vội kêu tửu bảo đưa tới, đổ vào trong hồ lô của đạo nhân. Đạo nhân đó cũng không cảm ơn, cầm lấy hồ lô rượu, đeo lên lưng rồi bước đi không hề quay đầu lại.

Mọi người ồn ào cả lên, có người nói đạo nhân là yêu quái, có người nói là kẻ lừa gạt để uống rượu, vừa thấy có người sẽ tính tiền cho liền không chiếm chỗ ngồi nữa. Duy chỉ một mình Vân Tòng đưa đạo nhân xuống lầu, đột nhiên nhớ là đã quên không hỏi tính danh của đạo nhân đó liền mặc kệ mọi người nghị luận sôi nổi, một mình ra cửa sổ nhìn xuống xem đạo nhân đi về nơi nào. Chỉ thấy đạo nhân đó ra khỏi tửu lâu, dưới lầu người đi đường nườm nượp, duy chỉ có nơi đạo nhân đó đi qua, vô luận người đông như thế nào đều cách thân lão một hai thước, giống như có cái gì ngăn trở ở giữa vậy, trong lòng gã thập phần kinh dị. Nhân vừa rồi chưa hỏi được tính danh, không khỏi mở miệng hô lên: “Đạo gia mời quay lại.” 

Đạo nhân đó vốn đang chậm rãi đi trên đường, nghe được lời này, chỉ ngẩng đầu nhìn lên lầu. Vân Tòng nghĩ lão sẽ trở lại, ai ngờ đạo nhân đó còn đi nhanh hơn. Lúc này mọi người đã tranh cãi ầm ĩ một hồi, vì thấy Vân Tòng đứng ngơ ngẩn bên cửa sổ, liền tới gọi gã vào uống rượu. Vân Tòng quay đầu nói lịch sự đôi câu, lúc quay lại nhìn xuống đã không thấy hình bóng của đạo nhân đó nữa. Gã đành cùng mọi người ăn uống cười nói một hồi. Vì Tống Thời hôm nay đụng phải chuyện không vui nên không muốn lưu luyến đa sự, ăn uống xong liền đề nghị trở về phòng trọ. Mọi người biết tâm ý của y, Vân Tòng trả tiền xong, cả hội xuống lầu trở về điếm phòng. 

Ngày thứ hai ăn xong điểm tâm, Tống Thời lại đề nghị đi du ngoạn Từ Vân tự ở ngoài thành. Từ Vân tự này chính là ngôi chùa có tiếng ở Thành Đô, điện thờ uốn cong, hành lang gấp khúc, cỏ hoa tươi tốt, cực kỳ thanh nhã tĩnh lặng. Miếu sở hữu rất nhiều đất đai, hòa thượng thường không ra ngoài. Hòa thượng trong miếu đều tuân thủ thanh quy, quán thông thiền học nên càng nổi danh ở đất Thục, mọi người sớm đã nghe danh từ lâu. Bởi vì miếu cách thành hai ba mươi dặm, cạnh đó lại là một thôn xóm nên Vân Tòng liền đề nghị: “Danh thắng Thành Đô chúng ta du lãm đã khắp cả, hiện giờ chỉ còn chỗ này. Chúng ta hôm nay sao không đi tới đó thuê một điếm phòng trú lại một ngày, thăm xong miếu, sáng sớm sẽ khởi hành đi đến Trùng Khánh?” 

Tống Thời vì hôm qua đã bị khổ, không còn mặt mũi nữa, sớm muốn rời khỏi Thành Đô nên tán thành đầu tiên. Mọi người vốn không có chính kiến nên đồng ý, sau đó chuẩn bị xe ngựa, mang theo tiểu đồng Tiểu Tam Nhi lên đường.

Đến giờ Ngọ, họ đã đi được ba mươi dặm đường, quả nhiên có một thôn tập, cũng có điếm phòng. Sau khi nghe ngóng về Từ Vân tự, họ được biết là cách đây không xa. Nguyên lai nhà ở nơi này có quá nửa thuộc về miếu. Mọi người ăn uống qua loa một chút, chỉ để lại Tiểu Tam Nhi trong điếm coi nhà, toàn bộ đều đi đến Từ Vân tự. Đi chừng nửa dặm, chỉ thấy một mảng rừng rậm rạp, cây cối xanh tốt, lấp ló một góc tường đỏ. Một trận gió thổi qua đem đến tiếng tụng kinh nhè nhẹ, quả nhiên là đất lành để thanh tu. Mọi người đi đến cửa miếu rồi cùng nhau đi vào, tri khách tăng đón tiếp bưng lên chút trà xanh, chào hỏi một lượt rồi dẫn mọi người đến du lãm phật điện trong thiền phòng. Vị tri khách tăng này tên gọi Liễu Nhất, nói năng cực kỳ văn nhã, chiêu đãi ân cần, rất hợp với tính tình bọn Vân Tòng. Du ngoạn hồi lâu, tri khách tăng lại dẫn họ tới dừng chân nghỉ ngơi ở trong một gian thiền phòng. Gian thiền phòng này được bố trí rất trang nhã, trên tường treo các bức tự họa của danh nhân, trên bàn văn phòng phẩm cực kỳ ngăn nắp. Trên thiền sàng kê ở mặt tây có đặt hai chiếc bồ đoàn bằng vải gai, nghe nói là để dùng ngồi thiền buổi tối. 

Mọi người muốn mời phương trượng ra để nói chuyện. Liễu Nhất nói: “Gia sư Trí Thông ở hậu viện thanh tu, tạ tuyệt trần duyên, không tùy tiện ra ngoài. Chư vị đàn việt ngày khác nếu có duyên sẽ gặp được.” 

Mọi người nghe xong, tất cả đều trầm trồ thán phục. Tống Thời nhìn thấy một cuộn tranh treo ở một chỗ cực kỳ không thích hợp, đang muốn hỏi Liễu Nhất vì sao treo tại chỗ đó. Đột nhiên có một tiểu sa di tiến lại nói: “Phương trượng mời tri khách tăng tới nói chuyện.” 

Liễu Nhất liền nói với mọi người: “Tiểu miếu điện phòng rối rắm, rất dễ đi lạc, chư vị hãy đợi ta trở lại phụng bồi du ngoạn, ta đi rồi sẽ trở lại.” Nói xong, vội vàng đi ra.

Tống Thời liền nói với Vân Tòng: “Ta xem bố trí trong miếu này cùng với phong cách nói chuyện của tri khách tăng rất cao minh phong nhã. Gian thiền phòng này bố trí hợp lý như thế, khắp tường đều là tự họa của danh nhân, nhưng riêng trên chỗ tường kia lại treo một bức tranh như vậy, há chẳng phải là hoa lài cắm bãi phân trâu sao?”

Nguyên lai gian thiền phòng này rất rộng, mặt đông là cửa sổ, mặt nam là cửa chính. Trên tường phía tây treo bức hoành phi “Yên Vũ đồ” của Mễ Tương Dương, trên tường phía bắc treo bức trung đường** “Bạch Thạch Thanh Tùng” của Phương Hiếu Nhụ, bên cạnh có một câu đối từ thời Tống là: “Thanh uyên kỷ thế khai lan nhược, bạch hạc thì lai phóng tử tôn.”*** Lạc khoản đề một danh sĩ của đất Thục tên Trương Dị. Duy chỉ có ở giữa thiền sàng treo một bức trung đường cô cô đơn đơn, họa tiết chính là bát tiên quá hải nhưng thế bút thô tục, khắp bức vẽ không có chút sáng tạo. Mọi người lúc trước chỉ lo nói chuyện nên chưa từng chú ý. Nghe xong câu nói của Tống Thời, tất cả đều quay đầu lại nghị luận.

Vân Tòng đang ngồi trên giường, quay đầu nhìn thấy phía dưới bức trung đường đó vắt ngang một chiếc dùi khánh, liền tiện tay cầm lấy chơi. Bản thân gã lại không lưu tâm, gõ một cái vào phía dưới bức trung đường. Đại khái là bên trên chiếc đinh cũ kỹ để treo móc lay khẽ, bị chiếc dùi khánh đó làm chấn động, mặt sau lõm vào một khối, ước chừng bằng chiều cao một người, rộng một thước ba tấc, bên trên treo một cái khánh nhỏ. Mọi người đều không rõ cái khánh đó vì sao được giấu trong này. 

Tống Thời đang đứng trước giường, cầm lấy dùi khánh mà Vân Tòng đã lấy chơi, nhất thời cao hứng, tùy tiện gõ vào khánh đó một cái, chỉ nghe keng một tiếng trong trẻo. Vì thế gã lại gõ liên tiếp thêm hai cái nữa. Vân Tòng đột nhiên thấy có một tiểu hòa thượng thò đầu vào nên nói: “Tống niên huynh không nên nghịch ngợm nữa, làm loạn động người khác, tri khách tăng biết được thì xấu hổ lắm.”

Lời chưa dứt thì đã nghe thấy ba tiếng chuông vang lên, tiếp theo là một loạt tiếng cót két cọt kẹt. Đồng thời trên tường xuất hiện một cánh cửa nhỏ, trước cửa có một nữ tử ăn mặc kiều diễm đứng đó, thấy mọi người liền “a” một tiếng rồi vội lùi lại. 

Tống Thời nói: “Nguyên lai nơi này có cửa ngầm, lại giấu nữ tử, phương trượng này nhất định không phải người tốt. Chúng ta cớ sao không đến chửi con lừa trọc đó một trận, vặn hết răng của y?” 

Vân Tòng nói: “Niên huynh chậm đã. Tiểu đệ lúc ở nhà khi khởi hành, lão gia nhân Vương Phúc từng nói qua với tiểu đệ, khi đi tham quan bất kỳ am quán tự viện nào, nếu không có người trong miếu chỉ dẫn, ngàn vạn lần không được tùy ý đi lại. Bởi vì có rất nhiều người xuất gia, bề ngoài như vượt ngoài tam giới, không thuộc ngũ hành, thanh tịnh tịch diệt, không nhiễm bụi trần nhưng ngầm gian đạo tà dâm, không có việc xấu nào không làm. Bình thường không khám phá được hành động kín kẽ của chúng, nếu như trong lúc vô ý khám phá được, thì sẽ làm sát cơ của chúng nổi lên. Miếu này đã là đất lành thanh tu, vì sao trong phòng lại có thiết lập cơ quan, cất giấu phụ nữ? Bọn ta tốt nhất không được loạn động, nếu như bọn chúng xấu hổ quá thành tức giận, bọn ta đều là văn nhân, nếu như gặp rắc rối thì không phải chuyện đùa.”

Mọi người nghe được những lời này liền nghị luận loạn xạ. Trong nhóm có một cử tử họ Sử đột nhiên nói: “Vân Tòng huynh, huynh chỉ một mực nói chuyện, huynh nhìn xem cửa phòng vì sao không thấy nữa?” 

Mọi người liền vội quay đầu nhìn, quả nhiên chỗ cánh cửa vừa đi vào, đã chẳng thấy đâu nữa, chỉ còn lại một mặt tường đen kịt. Bức tự họa treo trên tường cũng đã vô ảnh vô tung. Mọi người không khỏi kinh dị vạn phần, không khỏi bước lên đẩy thử. Chỉ thấy bức tường này cực kỳ kiên cố, giống như chuồn chuồn lay cột đá, không chút động đậy. Lúc này ngoại trừ cái cửa nhỏ trên giường, quả thực là không có cửa nào có thể ra. Tất cả mọi người vừa kinh vừa sợ. 

Bỗng Vân Tòng nói: “Bọn ta đúng là ngốc quá. Hiện tại không có cửa để ra, trước mặt lại là cửa sổ, cớ sao không nhảy qua cửa sổ mà ra?” 

Câu này làm thức tỉnh mọi người, tất cả đều chạy đến trước cửa sổ, dùng tay đẩy một hồi nhưng không khỏi vô cùng thất vọng. Nguyên lai cửa sổ đó tuy có bốn cánh nhưng đã bị cài then ở phía ngoài. Điều đó còn chưa quan trọng bằng bốn cánh cửa sổ này đều làm bằng kim loại. Ngoài ra còn khắc hoa văn chữ 卐, dày như ngón tay trỏ, bên ngoài sơn màu đỏ cho nên nhìn không ra. Mọi người quýnh quáng vừa đẩy vừa đập một hồi đến đau buốt cả tay, bên ngoài tịnh không có người đáp lại. Đám thiếu niên mới ra đời này giờ mới biết rằng đã rơi vào hiểm địa, tình cảnh không ổn. Có kẻ trách Tống Thời không nên gõ cái khánh đó, có kẻ lại nói bọn hòa thượng không có quy củ. Còn có hai người lớn gan nói: “Tất cả bọn ta đều là cử nhân, nhân số lại nhiều, thiết nghĩ y cũng không thể làm gì được chúng ta, đợi đến khi tri khách tăng trở lại, tất sẽ cứu chúng ta ra.” 

Nghị luận ầm ĩ, khắp phòng ồn ào, không khí chuyển sang nhiệt náo. Vân Tòng bị đám người này tranh cãi đến nhức cả đầu, gã nói: “Bọn ta đã đến nông nỗi này, hôm nay lành dữ họa phúc hoàn toàn không rõ, oán trách tranh cãi đều vô ích, không bằng bình tĩnh xem xét. Một mặt mọi người nghĩ ra chủ ý để thoát ra nơi này thì tốt hơn.” 

Một câu nói xong, trong phòng lại biến thành lặng ngắt như tờ, mỗi người nhăn trán nhíu mày, vắt óc suy nghĩ mà chẳng có kế sách nào. Duy chỉ có Tống Thời nhìn lên cái cửa nhỏ trên tường một cách xuất thần, y đột nhiên nói: “Chư vị niên huynh, ta nghĩ là phúc không phải họa, là họa thì tránh cũng không khỏi. Hôm nay đã không có đường ra, lại không có ai để ý chúng ta, cứ giằng co như thế mãi thì bao giờ mới thoát được? Theo ý của ta, không bằng chúng ta theo cái cửa nhỏ đó đi vào gặp phương trượng, dứt khoát cùng y nói chuyện, nói rằng chúng ta vô tình phát hiện cơ quan, xin y thả bọn ta ra. Cũng may chúng ta còn chưa làm hư cái gì của y, lại là người qua đường, mặc dù khám phá ra bí mật nhưng quyết không nói ra ngoài. Ta nghĩ chúng ta ở đây rất nhiều người có công danh, chẳng lẽ y lại có gan lớn đến mức đem bọn ta ra đồng loạt xử tử? Bọn ta chỉ cần thoát khỏi được ngôi miếu này, các chuyện từ nay về sau không phải đều nằm trong tay chúng ta sao?”

Mọi người nghe được lời này, lập tức lại huyên náo một trận, thương lượng tính toán đều nhận thấy trừ cách này ra cũng không có cách nào hay cả. Vì vậy do Tống Thời dẫn đầu, mọi người theo sau đồng loạt tiến vào. Cái cửa nhỏ trên mặt giường chỉ cho phép tiến vào một người, mọi người liền theo Tống Thời nối đuôi nhau mà vào, sau cùng là Vân Tòng. Nhóm người sập bẫy này sau khi tiến vào cửa, lại xuống hơn mười bậc thang, tới một hành lang rất dài và tối mịt, dường như đi trong ngách tường. Cách mỗi dăm ba chục bước lại có một đèn dầu lờ mờ chiếu sáng đường đi. Đi được chừng hơn trăm bước, phía trước lại có hơn mười bậc thang, phía trên hơi thấy ánh sáng. Mọi người đi lên bậc thang thấy một tòa giả sơn. Xuyên qua hòn giả sơn này đi ra ngoài liền trở nên sáng sủa, hai bên đầy kỳ hoa dị thảo, bố trí vô cùng đẹp đẽ và thanh nhã. Mọi người do từ nơi tối tăm ra ngoài sáng, không khỏi có chút hoa mắt. Mặc dù hoa cỏ rất nhiều nhưng đang lúc cát hung chưa rõ, tất cả đều không có lòng để thưởng thức.

Mọi người đang bước về phía trước, đột nhiên nghe một tiếng cười ha ha quái dị: “Chúng đàn việt nhã hứng không nhỏ!” 

Mọi người kinh sợ nhảy dựng lên, nhìn về trước thì ra là một tòa đại điện. Trên bậc thềm đá, một đại hòa thượng khoanh chân ngồi, diện mạo hung ác, thân hình cao lớn, trên thân không mặc áo, hai chân để trần, bên cạnh có một đống nạo bạt dùng làm phép. Có hai nữ tử đứng bên cạnh, trên người mặc áo khoác đỏ thẫm, tuổi chừng hai mươi, mặt đầy phấn. 

Tống Thời vội trấn định tâm thần, tiến lên trước nói: “Vãn sinh xin kính chào sư phụ.” 

Hung tăng đó cũng chẳng để ý đáp lại y, nhắm mắt không nói. Tống Thời đành nói tiếp: “Bọn tại hạ đều là văn nhân du ngoạn qua đường, được tri khách sư phụ của quý miếu dẫn bọn tại hạ đi thăm cảnh các điện, không ngờ chạm phải cơ quan nên lạc mất cửa, mong sư phụ ban phước, phái người dẫn bọn tại hạ đi ra. Bọn vãn sinh đi ra, quyết không nói một lời nào với người ngoài về quý miếu. Không rõ ý của sư phụ ra sao?”

Hung tăng đó cùng hai nữ tử đều chắp tay nhắm mắt, không nói lời nào. Tống Thời đợi một lúc, lại nói lần nữa, hung tăng vẫn không để ý tới như trước. Cử tử họ Sử không kiên nhẫn được liền nói: “Hòa thượng chớ có như thế. Ngươi là người xuất gia, vì sao trong miếu lại ngầm thiết kế cơ quan che giấu phụ nữ? Bọn ta đều là những kẻ mới đỗ đạt lên kinh dự thi, hôm nay chỉ cần ngươi thả bọn ta đi, bọn ta quyết không nói với người khác chuyện vừa rồi. Nếu không, khi bọn ta ra nhất định phải bẩm quan trị tội phạm pháp của bọn ngươi.” 

Cứ nghĩ hung tăng đó nghe những lời này sẽ nhất định sợ hãi rồi thả bọn họ đi, ai ngờ y nói: “Đám học trò khốn khổ các người, thiên đường có lối không đi, lại tự đâm đầu vào địa ngục. Đợi ta tới thành toàn bọn ngươi.” 

Mọi người nghe xong lời này mới biết là không ổn. Bởi thấy hung tăng đó chỉ có một người, hai kẻ kia lại là hạng nữ lưu, nên mọi người đưa mắt ra hiệu nhau, chuẩn bị cùng tiến lên trước cướp đường mà chạy. Hung tăng đó thấy tình trạng như vậy, trên mặt hiện ra một nụ cười gằn, cầm lấy nạo bạt bên cạnh, chỉ gõ một cái, mọi người đột nhiên hai tay đã bị người khác giữ chặt. Mọi người nhìn lại, không biết từ nơi nào hơn mười tên hung tăng xông ra, có kẻ bắt người, có kẻ cầm đao sắc, chỉ trong chốc lát đã đem mười bảy người bọn họ trói lăn quay dưới đất. Lại có mười mấy hung tăng lấy mười mấy cái cọc gỗ đem bọn họ trói vào cọc, cách đại điện ước chừng hơn mười bước. Đại hung tăng đó lại lấy nạo bạt gõ hai cái, chúng hung tăng tất cả đều lui đi. 

Lúc này mọi người đều đã hồn phi phách tán lăn ra hôn mê. Duy chỉ có Vân Tòng gan lớn, biết rõ sự việc đã đến mức này thì chỉ còn cách thúc thủ đợi chết. Đột nhiên gã nhớ đến phụ mẫu bá thúc trong nhà đều đã nhiều tuổi, bản thân kiêm hương khói cho cả chín chi trong họ, quan hệ vô cùng trọng đại. Gã hối hận vì thú vui của tuổi trẻ mà gặp phải đại họa này, đem kỳ vọng ngày thường của người thân cùng hoài bão bình sinh đổ xuống sông xuống biển. Gã rút ra kinh nghiệm xương máu, trong lòng không khỏi đau buồn khóc lớn.

Hung tăng đó thấy Vân Tòng khóc như thế, không khỏi ha hả cười lớn, nói với hai nữ tử bên cạnh: “Các nàng thấy đám khốn cùng bọn chúng chưa, đúng là bọn không đáng giá gì. Bình thường với thân phận tú tài, ở trong nhà tác oai tác quái. Nhưng khi gặp khốn bị bắt liền lộ ra dạng vô tích sự như thế, giống như đứa bé không được bú vậy. Hai nàng sao không đi xuống ca múa một hồi, để dỗ dành bọn chúng?” 

Nữ tử đứng bên cạnh nghe xong lời ấy nói: “Xin tuân pháp chỉ.” 

Áo choàng đỏ thẫm vừa cởi xuống, lộ ra thân hình trắng như ngọc rồi nhảy vào trong sân và bắt đầu múa. Eo mềm đùi trắng, da thịt nõn nà. Chân nhấc lên có thể lờ mờ nhìn thấy những nét kín đáo của nữ giới. Nguyên lai hai nữ tử này ngoại trừ khoác một cái áo choàng, còn lại không mảnh vải che thân, hiện tại dưới rốn vũ nữ có vải thưa cỡ một thước quấn quanh nhưng vẫn còn hở hang rất nhiều. Lúc này hung tăng lại lấy nạo bạt đánh liền vài cái, dưới hai hành lang chạy ra một đội hung tăng cầm nhạc khí cũng đến tham gia nhiệt náo, đúng là chân lông lá nhảy cùng chân ngọc, đầu trọc uốn lượn quanh tóc mây. Nhất thời tiếng ca múa du dương đánh thức linh hồn của hơn mười người.

Mọi người tỉnh lại, nhìn thấy cảnh tượng tuyệt vời, hoài nghi là mình đang ở trong mộng. Họ đang muốn cất bước về trước để nhìn cho rõ ràng nhưng lại bị dây thừng trói chặt, không thể hành động nên mới nhớ lại việc vừa bị trói, không khỏi lạnh ngắt trong lòng. Mặc dù ca hay múa đẹp, mỹ nữ trước mặt nhưng không có lòng để thưởng thức. Cực khổ họ kêu trời kêu đất đất, đau đớn gọi phụ mẫu, âu đó cũng là chuyện thường tình của con người. Tại lúc sinh tử quan đầu, bọn họ đều là thiếu niên mới trưởng thành, nghĩ đến mình và gia tộc đều có rất nhiều trần duyên không thể từ bỏ, lại bị tiếng khóc thảm thiết của Vân Tòng làm dấy lên cảm xúc thân thế. Tất cả đều cảm thấy đau buồn khôn nguôi. Lúc đầu bất quá họ chỉ xúc cảnh thương hoài, nức nở nhè nhẹ. Về sau càng nghĩ càng thương tâm, từng người bắt đầu cao giọng khóc lớn lên. Thật là mắt rơi lệ nhìn mắt rơi lệ, người đau khổ gặp kẻ khổ đau, tiếng khóc vang trời, thiền đường cơ hồ đã biến thành hiếu đường. Cả các nữ tử ca múa kia thấy tình trạng đáng thương như vậy, mặc dù sợ hãi hung tăng nhưng cũng đều có chút đau xót rơm rớm nước mắt, bộ pháp rối loạn.

Hung tăng đó đang ở trên cao hứng, nào muốn mọi người như vậy làm mất vui, tiếng nạo bạt vang lên, các nữ tử cùng đám hung đồ chơi nhạc đó bỗng chốc đều trở về nguyên vị, trả lại cảnh tượng yên tĩnh vốn có. Mọi người đột nhiên nổi lên ý niệm cầu sinh, từng kẻ khổ khổ sở sở van xin tha mạng. Hung tăng vẫn không để ý tới, lấy một nạo bạt ở cạnh người, đứng dậy, giơ tay lên, một vòng tròn vàng phóng tới cọc gỗ thứ nhất. Trói trên cọc gỗ này chính là Tống Thời, gã nhìn thấy một thứ gì vàng rực loang loáng bay tới trước mặt, vì bị trói chặt trên cọc không thể tránh được, biết rằng đại sự không hay. “Á” một tiếng vang lên, đầu gã đã bay xuống đất. Một mặt của chiếc nạo bạt đó găm vào trong gỗ, rung động thành tiếng.

Mọi người thấy hung tăng đột nhiên đứng dậy, rồi thấy từ trong tay y bay ra một cái gì màu vàng, còn nghi ngờ là hòa thượng có trò gì đặc biệt cho bọn họ xem giống như vừa rồi. Đến khi thấy Tống Thời đầu rơi xuống đất, mới biết được hòa thượng dùng thủ đoạn này là muốn lấy mạng của bọn họ. Tất cả đều sợ đến mức ba hồn bảy vía bay đi mất. Có người còn cầu khẩn, mong đợi một phép màu, có người đã sợ tới mức ngất đi. 

Nói thì chậm nhưng rất nhanh, hung tăng đó đem mọi người làm mục tiêu thử nạo bạt. Thấy y trên đại điện động tác mau lẹ, đại hiển thân thủ. Đột nhiên xoay người, từ sau lưng lấy nạo bạt phóng ra, thình lình như lưu tinh cản nguyệt+, từng bạt nối tiếp nhau. Bạt bay ra không hề trật, mọi người đều chết không toàn thây. Chẳng lâu sau, mười sáu mặt phi bạt đã cắm trên cọc gỗ, mười sáu đầu người cũng lăn dưới mặt sân. Chỉ có một mình Vân Tòng, vì thân người quá nhỏ, phi bạt của hung tăng muốn trêu đùa trước nên may mắn tạm thời kéo dài hơi tàn. 

Hung tăng thấy bạt đã dùng hết, còn có một người chưa chết, đang định tiến lên động thủ. Hai nữ tử kia mặc dù đã theo hung tăng đó mấy năm, trải qua rất nhiều quái sự nhưng thảm trạng như hôm nay là lần đầu tiên. Nữ nhân tâm địa thường mềm yếu, lại thấy Vân Tòng tuổi còn nhỏ, mặt như thiếu nữ, không khỏi động lòng thương hại, liền nói với hung tăng: “Đại sư phụ nể mặt chúng tôi, hãy tha cho tiểu hài tử này đi.” 

Hung tăng nói: “Các nàng nên biết, bắt hổ dễ thả hổ khó. Nó cùng tới với hơn mười người, tất cả đều chết trong tay ta, chỉ còn lại mình nó, không thể tha được.” Hai nữ tử vẫn cầu khẩn mãi không thôi.

Vân Tòng tự thấy tất phải chết, vốn yên lặng không nói. Đột nhiên thấy có người thay chàng cầu xin hộ, lại dấy lên hy vọng, liền khóc lóc van xin: “Nhà tôi ở Quý Dương, trong chín chi chỉ sinh được một mình tôi. Lần này lỡ vào thiền đường không phải do tôi, mong đại sư phụ từ bi tha cho một mạng. Nếu như sợ tôi tiết lộ cơ mật, xin người cắt đầu lưỡi của tôi, chặt đứt ngón tay, tôi trở về viết không được chữ, nói không ra lời, cũng không thể làm hỏng chuyện của đại sư. Tôi chỉ mong trở về quê nhà, kế tục hương khói của chín chi nhà tôi là đủ rồi. Mong đại sư cùng hai vị tỷ tỷ khai ân cho.” Gã nói năng lộn xộn như vậy, cầu xin một hồi. 

Hung tăng cũng vì giết người giết đến mức mềm tay, lại không nỡ từ chối hai nữ tử mình sủng ái, liền nói: “Bổn sư niệm tình ngươi khổ sở cầu khẩn, lại bởi nể mặt hai cục cưng của ta, hôm nay để cho ngươi sống thêm ba ngày.” Rồi kêu nữ tử đi gọi tri khách tăng, lấy ba loại pháp điển tới. Nữ tử vâng lệnh, liền đi ra. 

Chỉ trong chốc lát, tri khách tăng cầm tới một cái khay đỏ, trên đó có ba thứ: một cái bao nhỏ bằng giấy đỏ, một cái dây thừng, xếp thành một đôi, làm thành một cái nút như ý và một thanh cương đao. Vân Tòng không biết có tác dụng gì, chỉ biết sau ba ngày vẫn không khỏi phải chết nên khổ sở van cầu như trước. 

Hung tăng đó không để ý đến chàng, nói với Liễu Nhất: “Ngươi đem đứa trẻ này giam trong thạch lao, đem ba loại pháp điển giao cho gã, lại cấp cho gã mười cái màn thầu để gã sống thêm được ba ngày. Gã nếu muốn toàn thây thì tự mình động thủ. Buổi sáng ngày thứ tư, ngươi vào trong lao, nếu gã còn chưa chết thì hãy dùng thanh cương đao này cắt lấy đầu gã về thưa lại.” Liễu Nhất đáp ứng một tiếng rồi đi tới trước cọc gỗ, cởi trói cho Vân Tòng.

Vân Tòng bị trói cả nửa ngày, toàn thân đau nhức tê dại. Sau khi trải qua một phen kinh hãi vô cùng, tinh thần mệt mỏi đến cùng cực, vừa mới mở trói đã choáng váng ngã xuống đất. Liễu Nhất nói: “Các ngươi là con nhà phú quý, ở trong nhà hưởng phúc thì tốt biết bao nhiêu, sao lại khổ sở ra ngoài tự tìm chết, ta bây giờ vâng mệnh sư phụ mang ngươi giam tại thạch lao, vốn phải trói ngươi lại, nhưng niệm tình ngươi là một đứa nhỏ, có trốn cũng không thoát, bổn sư từ bi với ngươi không trói ngươi nữa. Ngươi mau theo bổn sư đi nào.” 

Vân Tòng lúc này cả người uể oải, nửa bước cũng khó nhấc, lại không dám không đi. Cực kỳ bất đắc dĩ, gã đứng dậy, miễn cưỡng theo Liễu Nhất vòng qua đại điện, đi qua hai cái sân nhỏ, nhìn thấy lại có một đại điện, bên cạnh có một tòa thạch bích, cao chừng ba trượng. Chỉ thấy Liễu Nhất hướng về một tảng đá phía trước thạch bích đẩy một cái, thạch bích đó từ từ di động, hiện ra một huyệt động. Vân Tòng biết rằng chỗ này là nơi mình phải chết, không khỏi ôm lấy Liễu Nhất quỳ xuống, khổ sở cầu khẩn, nói ra tình trạng gia đình của mình, vừa khóc vừa kể, cầu xin Liễu Nhất cứu giúp. 

Liễu Nhất thấy gã đáng thương, cũng động lòng thương tiếc, nói: “Lúc ngươi mới tiến vào miếu, ta cùng ngươi nói chuyện rất hợp ý, ta há không yêu mến ngươi, muốn cứu mạng ngươi sao. Chỉ là sự tình hôm nay đã quá ồn ào, ta cũng không làm chủ được. Hơn nữa miếu quy của sư phụ rất nghiêm, không kể đến tình cảm, ta thật sự lực bất tòng tâm. Bất quá hai người chúng ta hữu duyên, trừ việc thả ngươi, việc khác ta sẽ cố làm được, hoặc là có thể giúp đỡ chuyện của ngươi. Ngươi mau nói rồi đi vào trong lao.” 

Vân Tòng biết rằng y nói thật, sinh cơ đã tuyệt, liền xin y trong ba ngày này, đừng cắt đứt việc ăn uống, để mình làm một tử quỷ no nê. Liễu Nhất đáp ứng, đưa ba loại pháp điển giao cho Vân Tòng rồi nói với chàng: “Trong cái bao nhỏ này là độc dược, ngươi nếu muốn chết nhanh chóng thì đây là một thứ cực kỳ tốt. Ta trở về kêu người mang đồ ăn uống ba ngày tới cho ngươi.” Nói xong, liền đẩy Vân Tòng vào trong thạch động rồi quay người rời đi.

Vân Tòng nhìn qua thạch động thấy khắp chốn âm u. Lúc này bên ngoài thạch bích đã đóng kín lại, bên trong càng không thấy một chút ánh sáng. Gã sinh ra trong nhà phú quý, nào phải chịu những loại khổ sở thế này. Lúc này rút kinh nghiệm đã qua, thảm trạng bọn đồng niên lúc chết như hiện ra trước mắt. Gã lại nhớ tính mạng mình chỉ có thể sống tạm ba ngày, phụ mẫu bá thúc già cả, hương khói chín chi toàn dựa vào một mình gã tiếp tục, mắt thấy thân bị thảm tử không minh bạch càng đau lòng đứt ruột. Lúc này đã có người mang đồ ăn uống của ba ngày cho gã tới, một hồ lô nước lớn cùng một khay bánh màn thầu, sờ mó trong bóng tối, ước chừng còn có vài cái bát thức ăn, đó nguyên là nhờ có hảo ý của Liễu Nhất. 

Vân Tòng cũng không có lòng dạ nào để ăn, chỉ khóc rống không ngừng. Mặc gã khóc đến khàn cả giọng, tại nơi này kêu trời trời không đáp, gọi đất đất không thưa, cũng không có người tiến đến để nghe. Vân Tòng từ sau khi dùng điểm tâm lúc vào miếu, lúc này đã là giờ Dậu. Trải qua rất nhiều khốn khổ liên miên không dứt, khóc đã nửa ngày, khóc đến mệt mỏi cùng cực, gã nặng nề thiếp đi. Đến khi tỉnh lại, gã ngủ ở dưới thạch bích lạnh lẽo, vừa lạnh vừa đói vừa thương tâm. Tiện tay lấy bánh màn thầu, gã mới ăn được hai miếng, lại nghĩ đến phụ mẫu bá thúc trong nhà cùng với nguy hiểm trước mắt, không khỏi bật lên khóc lớn, đúng là Vu Hạp vượn khóc, không có gì thê thảm hơn.

Cứ như vậy khóc mệt rồi ngủ, ngủ dậy lại khóc, có khi cũng dùng chút đồ ăn. Trong động tối đen, không phân biệt ngày đêm, cũng không biết đã trải qua mấy ngày. Kỳ thật thần kinh Vân Tòng bị khủng hoảng. Lúc này chỉ mới là buổi tối ngày đầu tiên, nhưng phàm một người ở trong bóng tối thì có khả năng luyện tập mục lực nhất. Vân Tòng vì đã ngủ trong động một ngày đêm nên có thể nhìn được một chút. Đang lúc khóc lóc, đột nhiên gã nhìn thấy bên cạnh có một cái gì phát quang liền tiện tay cầm lấy, nguyên lai là thanh cương đao trong ba loại pháp điển của hung tăng, khiến gã suýt chút nữa bị đứt tay. Không khỏi lại nghĩ đến mạng chỉ còn một sớm một chiều, càng khiến gã đau lòng rơi lệ. 

Đang lúc bi khổ, đột nhiên một cơn gió nhẹ thổi qua, có vài hạt nước nhỏ rơi trên mặt. Vân Tòng vào lúc mê muội buồn rầu này, bị cơn gió mát mưa phùn thổi tới, thần trí lập tức tỉnh táo rất nhiều. Thạch động này không thấy mặt trời, làm sao có hạt mưa thổi đến nơi đây? Trong lòng gã bỗng hoài nghi. Đột nhiên một đạo ánh sáng lóe lên chiếu rõ thạch động, tiếp đến là một loạt tiếng ầm ầm. Gã vội ngẩng đầu lên, nhìn thấy trên đỉnh thạch động có một cái động tròn lớn khoảng một thước. Khi mới vào động, vì là lúc đầu óc uể oải, trong động tối đen dị thường, cho nên chưa từng lưu ý đến. Hôm nay bên ngoài trời mưa chớp sáng mới phát hiện ra, không khỏi nổi lên ý niệm đào sinh. 

Lúc đứng lên, lục tìm khắp nơi, gã mới biết thạch động này bốn mặt do gạch đá xây thành, tuyệt không có đường ra. Trên đỉnh tuy có một cái động nhỏ nhưng lại quá cao so với mặt đất, muôn vàn khó khăn để đi lên. Bên cạnh chỉ có một cái dây thừng, một thanh cương đao, tuyệt không có khí giới nào khác có thể sử dụng được. Biết rằng nguy hiểm gần kề, không thể đợi được, gã liền vội trấn định tinh thần, suy nghĩ kỹ càng một con đường chạy trốn. Sau khi quyết định sẽ đào tẩu qua cái động trên đỉnh, gã liền mang dây thừng buộc vào giữa thanh cương đao, muốn quăng lên trên, móc vào cửa động để leo lên. Ai ngờ phí mất cả nửa ngày tâm huyết vẫn không thể như ý nguyện. Nguyên lai cái động đó cách đất đến hơn ba trượng, dây thừng chỉ dài có hai trượng, đừng nói ném còn không lên, dù cho móc vào được, bản thân cũng không thể nhảy lên tới dây thừng. Một con đường sống lại trở thành bọt nước.

Vô cùng thất vọng, gã lại khóc rống một trận. Rốt cuộc gã không cam tâm chịu chết, nghĩ cả nửa ngày, đã nghĩ ra một cách ngớ ngẩn. Gã chạy đến dưới vách tường, dùng đao nạy gạch, vừa may có hai hòn gạch có chút lay động. Gã phí nhiều sức lực mới cạy được hai hòn gạch đó xuống, trong lòng vui mừng. Cứ nghĩ có thể mở được cái động này để ra ngoài, liền vội dùng đao đào, đột nhiên gã nghe có tiếng leng keng, lúc dùng tay sờ thì không khỏi kêu khổ. Nguyên lai ở giữa tường gạch có một bản sắt. Gã biết là không có hiệu quả, lo lắng vạn phần. 

Trong bụng hơi đói, lúc trở lại chỗ cũ lấy đồ ăn, gã bị vướng vào dây thừng dưới chân, lập tức linh cơ chớp động, phát hiện một tia sinh lộ. Dù gã là một thư sinh yếu đuối nhưng đến lúc sinh tử quan đầu cũng bất chấp cay đắng lao khổ. Gã cầm lấy cương đao, vẫn lại đến vách tường, theo chỗ gạch đã phá, dùng đao đào khoét tiếp. Lúc này bên ngoài mưa gió sấm chớp càng lúc càng lớn, giống như là ông trời thương xót, có lòng giúp gã thành công. Cuối cùng sức lực gã có hạn, tường gạch đó lại được xây cực kỳ kiên cố nên phí hết cả hơi sức, gã mới chỉ khoét được bốn năm chục viên gạch dày bốn năm tấc, rộng hơn thước ra. Một đôi tay non nớt, rớm máu vì bị đao sắc cắt vào vài chỗ. Gã cảm giác ướt rượt, còn tưởng vì dùng sức quá độ nên ra mồ hôi, về sau từ từ cảm giác được có chút đau đớn, mới biết được là do bị thương ra máu. Gã từ khi ra đời tới nay rất được gia đình yêu quý, có khi nào trải qua khổ sở như vậy? Lúc đầu chưa phát hiện nên gã còn chưa dừng lại, sau khi phát hiện ra, dần dần cảm giác thấy đau đớn không chịu nổi, hai chân đứng vừa mỏi vừa tê, thật sự không chịu đựng được, không khỏi ngồi phịch xuống trên đống gạch rồi khóc lớn. Khóc được một lúc, hai mắt mờ dần khép lại buồn ngủ.

Lúc đang muốn hạ đầu xuống ngủ, bên tai như có người cảnh giác gã: “Ngươi hiện tại muốn chết hay muốn sống, hoàn toàn phụ thuộc bản thân nỗ lực hay không nỗ lực. Hương khói của phụ mẫu ngươi còn tiếp tục, huyết hải oan cừu của đám hảo hữu, trách nhiệm hoàn toàn ở trên mình ngươi đó.” 

Giữa lúc gã vừa chuyển ý niệm đột nhiên tỉnh ngộ, biết bây giờ vô cùng cấp bách, không giống với việc làm nũng trước mặt phụ mẫu trong nhà, đợi người thân tới an ủi. Nơi này chẳng những khóc lóc cũng không có người để ý tới, hơn nữa thời gian qua một chút là mất đi một chút, trong nháy mắt là đầu một nơi thân một nẻo. Lại nhớ đến thảm trạng cái chết của bọn đồng niên, gã không khỏi kinh tâm vỡ mật. Lập tức lấy đủ dũng khí, gã đứng dậy, cố nhịn đau đớn, vẫn cứ dùng hết sức chọc vào các viên gạch trên tường, một lúc sau liền có kinh nghiệm, so với lúc bắt đầu thì đã dễ dàng hơn. Mỗi lần khoét được ba bốn viên, để vào giữa thạch động, xếp thành một cái bảo tháp, từng tầng chồng chất lên nhau. Cứ chạy tới lui như vậy, tay chân không ngừng làm việc, cũng không biết đã trải qua bao lâu, gã đã xếp được một đống gạch cao bảy tám thước. 

Gã ước tính đêm nay là đêm thứ ba, thời gian không thể trì hoãn nữa, tính toán đứng trên đống gạch này, dây thừng có thể với tới cái động tròn trên đầu, liền dừng việc khoét gạch lại rồi uống hai ngụm nước, ăn vài miếng màn thầu. Lưỡi đao nhọn đó đã bị gã làm quằn, gã cầm một đầu dây thừng buộc vào giữa đao, ổn định cước bộ, theo bậc thềm vốn được xếp thành, từ từ đi lên trên. Đến đỉnh tầng cao nhất chỉ có diện tích không đến hai thước vuông, vừa đủ đặt chân. Bởi vì ở trong bóng tối, xếp không được vững chắc lắm nên đống gạch liêu xiêu muốn đổ, làm gã sợ suýt nhảy dựng lên. Biết rằng chỉ một chút không cẩn thận để tháp đổ xuống, bản thân quyết không còn sức để xếp trở lại, gã đành phải trước tiên ổn định cước bộ, đứng ở trên đỉnh, cầm sẵn dây thừng khua lên, yên lặng đợi lúc có tia chớp, nhắm chuẩn cái động trên đầu, ném lên móc vào, rồi mới có thể leo ra. 

Đáng thương là gã ngưng thần suy tính, yên lặng đợi cơ hội, vài lúc có tia chớp nhưng gã đều bỏ lỡ cơ hội. Lưỡi đao buộc trên dây thừng bị gã quay tròn, lực càng lúc càng lớn. Tay thì tê mỏi, lại không dám dừng tay, sợ bị đao chém trở lại làm mình bị thương. Vừa muốn nhìn tia chớp trên đầu, vừa muốn nhìn đao đang quay trên tay, lại sợ đống gạch bị đổ, thật sự là chú ý bên trên, lại không chú ý được bên dưới, trong lòng gã lo lắng vạn phần. Đột nhiên một cơn choáng váng mắt hoa, keng một tiếng, cả đao mang theo dây thừng rời tay bay đi. Gã bị điều này làm kinh hãi, thân người đứng không vững, từ trên đống gạch ngã xuống dưới. Lần mò ở bốn phía bên dưới, thừng đao đều không thấy đâu. Tâm huyết nửa đêm lại trở thành bọt nước, càng không còn sức để có thể tiếp tục phấn đấu, trừ việc ngồi chờ chết, gã không còn có chủ ý nào khác. Vị cậu ấm công tử này càng nghĩ càng thương tâm, không khỏi lại khóc lớn lên.

Đang trong lúc không biết làm thế nào, đột nhiên ở cái động tròn trên đỉnh một tia chớp thoáng qua, gã liền nhìn thấy một sợi dây thừng dài đung đưa trên đó. Gã liền vội ngừng khóc nhìn kỹ, tia chớp lóe lên hai rồi ba lần liên tiếp không ngừng. Ánh chớp lướt qua, rõ ràng là một sợi dây thừng treo ở đó, đung đưa theo gió, cực kỳ rõ ràng. 

Nguyên lai khi gã mới cầm dây thừng khua lên, lúc rời khỏi tay đã bay về hướng trên đỉnh, vừa vặn móc vào cửa động. Gã đã tưởng rằng nó bay ra ngoài động, ai ngờ lại vô tình thành toàn cho cho gã. Vì ở trong đường cùng đột nhiên gặp được sinh cơ, đúng là cực kỳ cao hứng, lập tức tinh thần gã lên gấp trăm lần, quên cả mệt nhọc. Gã phấn chấn trở lại, bò đến trước chân đống gạch, lấy tay đẩy đẩy. Càng mừng hơn là đống gạch này vẫn còn dày còn lớn, lúc gã ngã xuống, chỉ có rớt theo bốn năm viên ở trên đỉnh, còn lại thì không có gì đáng ngại. 

Trải qua một phen kinh hoảng, gã càng tăng thêm phần cẩn thận. Gã dùng tay chân dò dẫm một lượt xung quanh, lại thử thăm dò bên trên rồi đem chỗ gạch rớt xuống sắp xếp lại. Gã chầm chậm bò lên trên đỉnh rồi đứng dậy. Lúc gã dùng sức khua tay trên đầu, vừa may một tia chớp lóe lên, ước tính sợi dây cách đỉnh đầu không quá một thước. Gã bình tĩnh ngưng thần, đợi ánh sáng từ tia chớp thứ hai, trong sát na đó gã liền nhảy lên nắm vào đầu dây thừng. Đột nhiên tiếng rào rào nổi lên, thân người lại rơi xuống đống gạch, làm gã sợ đến muốn nhảy dựng lên, còn cho là đao không móc chắc nên rớt trở xuống. Đáng mừng là chỉ rơi xuống một hai thước rồi bất động. Gã dùng sức thử kéo một cái, biết rằng đã móc tại miệng động, cực kỳ chắc chắn. Lúc này vừa đủ điều kiện, không cần đợi tia chớp nữa, chạy trốn quan trọng hơn, gã quên cả vết thương trên tay do đao cứa và những đau đớn khác, hai tay bám vào dây thừng leo lên. Gã tuy không có võ công nhưng tuổi còn nhỏ thân mình nhẹ nhàng, không tốn nhiều công phu đã với tới cửa động. Gã dùng khuỷu tay trái tỳ vào cửa động, dùng lực nâng người lên, đã tới được bên trên. Gã mệt mỏi đến không còn chút hơi sức, không thể động đậy nổi. 

Phía trên chớp giật mưa trút càng lúc càng lớn, làm cả người gã trên dưới ướt đầm. Nghỉ ngơi một lúc, lại được mưa mát tạt vào, đầu óc gã mới có chút tỉnh táo. Gã nhớ bây giờ mặc dù đã ra khỏi động nhưng vẫn ở trong long đàm hổ huyệt, thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, nếu không tiếp tục nỗ lực thì không thể trốn thoát. Đỉnh động này cách mặt đất rất cao, ngã xuống thì sẽ tan xương nát thịt. Gã đành phải theo ánh sáng sau tia chớp, chạy đến nơi khác rồi tính sau.

Mặt đông của cái đỉnh động này là chính là đường đi hôm trước, mặt tây tựa vào đại điện, mặt nam là sân trong miếu. Duy chỉ có mặt bắc giáp tường, chắc là cách vách với nhà dân, vì vậy gã quyết định đào tẩu về phía bắc. 

Lúc này mưa rơi càng lúc càng nặng hạt, xung quanh tử khí nặng nề, một chút ánh sáng cũng không có. Nước mưa trên các cành cây chảy xuống như thác. Vân Tòng đôi phen đứng không vững bị trượt vài lần, thiếu chút nữa té ngã. Hơn nữa đỉnh động ở giữa chỗ gò cao, xung quanh đều nghiêng xuống, càng phải tăng thêm phần cẩn thận, phải đợi chớp lóe lên mới có thể đi về phía trước từng bước một. Gã đến được chỗ giáp tường phía bắc một cách khó khăn, không khỏi kêu một tiếng khổ.

Nguyên lai cái động này cách tường có đến ba bốn thước, gã vốn không có võ nghệ, lại ở trong đêm tối mưa gió, làm sao dám nhảy lên tường đó? Cho dù mạo hiểm nhảy lên trên tường cũng chẳng biết vách tường đó cao cách mặt đất bao nhiêu, hụt chân một cái, không phải là thịt nát xương tan sao?

Đang lúc vô kế khả thi, đột nhiên một trận gió lớn thổi qua, trên mặt như có cái gì phất phơ. Gã vội lấy tay chụp, cái đó có sức bật rất lớn, suýt chút nữa đẩy gã xuống, làm gã rất sợ hãi. Cảm giác được trên tay có thứ gì đó, gã trấn định tinh thần, mượn ánh chớp để nhìn xem, nguyên lai là vài chiếc lá vàng. Nghĩ là cây đại thụ bên kia tường bị gió thổi cành lá bay đến bên này, bị bản thân chụp được vài cái lá cây xuống. Gã đang suy nghĩ thì lại có một trận sấm sét, mang theo một tia chớp lớn. Vân Tòng nhìn kỹ về phía trước, quả nhiên bên kia tường có một cây đại hoàng, lay động trong cơn mưa gió. Có một cành ngang, nằm bên cạnh tường, đầu ngọn đã gãy, chắc là mới bị gió thổi qua, bị bản thân vin trúng. 

Gã đang muốn nhìn cho rõ thì ánh chớp đã tắt, tối đen trở lại, gã nghĩ: “Nếu như có một trận gió như vừa rồi, chộp lấy cành cây bị thổi tới, thì có thể bám vào cành cây, bò qua tường được.” 

Lúc này chớp giật lập lòe, tiếng sấm đì đùng, nhìn thấy cây này bị gió thổi xiêu vẹo, có vài lần cành cây đã bị thổi tới cách tay không xa. Nhưng gã vì nhát gan, không dám mạo hiểm nắm lấy, đến khi cơ hội trôi qua lại cực kỳ hối hận. Sau cùng lấy hết dũng khí, cắn chặt răng đứng dậy, gã làm ra tư thế nhào về trước, chuẩn bị đối mặt với một cuộc đào sinh từ cõi chết. 

Vừa may gió và chớp đồng thời tới cực kỳ tấu xảo, tưởng như đem cành cây thổi vào trong tay gã. Vân Tòng vì vậy tung người về phía trước, hai tay bám chặt vào cành cây. Đột nhiên một trận gió xoáy lớn nổi lên, cành cây đó mang theo Vân Tòng rời khỏi đỉnh động, thân thể bay qua ngoài tường, lúc này gã đã đem sinh tử đặt ra bên ngoài suy nghĩ, chỉ nhắm chặt hai mắt, hai tay nắm chặt cành cây không buông. Trong phút chốc, gã đã cảm thấy bàn chân bị cái gì rất nặng đập trúng rồi bên người có một tiếng nổ lớn, đinh tai nhức óc. Gã đồng thời chịu hai thứ chấn động, không khỏi “ái” một tiếng, sơ ý một chút, tay buông ra rơi xuống mặt đất, hôn mê bất tỉnh nhân sự.

Đợi đến khi tỉnh lại, gã thấy mình đang nằm trên một cái giường gỗ, đứng bên cạnh là một lão già và một thiếu nữ, giống như là cha con. Chỉ nghe nữ tử đó nói: “Cha à, gã đã tỉnh rồi.” Nói xong rồi đưa một chén nước ấm cho Vân Tòng uống. 

Vân Tòng vừa mới nhớ lại chuyện vừa chạy nạn, biết bản thân từ trên cây rơi xuống đất, nhất định là được hai người này cứu. Lúc ấy gã nhận lấy chén nước, uống một hơi, liền muốn đứng lên tạ ơn. Lão nhân đó vội hỏi: “Ngươi làm sao đến tận đây? Vì sao từ trên tường miếu rơi xuống?” 

Vân Tòng còn muốn đứng dậy khấu tạ nhưng cảm thấy trong chân đau nhức ê ẩm, nghĩ là vừa rồi lúc ở trên cành cây đã đụng vào tường bị thương. Hơn nữa vất vả một đêm nên gã thật sự mệt lả. Gã cũng không hề khách khí, người vẫn nằm đó, vắn tắt kể lại chuyện bản thân chạy nạn.

Ôi!

Ở nhà chiều chuộng bao sung sướng

Giang hồ hiểm ác lắm tai ương

Muốn biết rồi Vân Tòng sẽ như thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Chỉ người đỗ cùng kỳ thi thời phong kiến.

** Bức họa lớn treo giữa nhà.

*** Vế trước vốn là một câu của Vương An Thạch đời Tống. Vế sau lấy trong cặp “Thanh ngưu cửu dĩ từ viên ách, bạch hạc thời lai phỏng tử tôn”. Hiện tại chúng tôi vẫn chưa biết xuất xứ, có bạn nào biết xin chỉ giùm. Xin cảm ơn! 

+ Nghĩa đen là sao băng đuổi mặt trăng, ý nói rất nhanh. Thành ngữ này có xuất xứ từ truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân.

Hết hồi thứ chín

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười

Chửng cô cùng thục nữ thùy thanh 

Đính lương duyến Túy tiên tác phạt

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: herobk13

Biên dịch: BH Mod

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Cứu kẻ nguy, thục nữ rủ lòng thương

Định lương duyên, Túy tiên làm mai mối

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Hai cha con đó nghe xong thực sự kinh ngạc. Vân Tòng lại hỏi hai cha con nọ làm thế nào mà cứu được mình. Lão già kia nói: “Lão hán tên là Trương Lão Tứ, mọi người thấy con người ta thật thà mới đặt cho ta một ngoại hiệu là Trương Lão Thật. Vợ ta đã mất từ lâu, chỉ còn con gái Ngọc Trân cùng ta sống qua ngày. Bọn ta trồng rau trong vườn của miếu này đã được hơn mười năm rồi nhưng cũng không ngờ được những hòa thượng này lại hung ác như vậy. Cứ như thế mà suy xét, dù hôm nay công tử thoát chết, ngày mai khi tạnh mưa, hòa thượng trong miếu sẽ đến thạch động tra xét tung tích, nhất định sẽ phát hiện ra công tử chạy vào nhà lão hán. Lão hán thủa thiếu thời tuy có được học vài đường quyền bổng, song chỉ e là ít khó mà chống được nhiều, cha con ta chắc chắn không phải là địch thủ của đám hòa thượng. Việc liên lụy đến cha con lão hán không quan trọng, nhưng phải nghĩ đến tính mạng của công tử. Tối nay, khi ta đã say ngủ trên giường thì con gái ta Ngọc Trân mới đánh thức ta dậy, nói là có một thiếu niên rơi từ trên tường xuống.”

Lão lại tiếp: “Lúc đầu ta nghĩ là bằng hữu trên giang hồ đến miếu mượn tạm chút tiền, thụ thương liền chạy vào vườn của ta. Ta định bụng cứu ngươi dậy, hỏi lai lịch rõ ràng xong sẽ để ngươi đi. Ai ngờ ngươi không những là một vị công tử, lại còn là tân khoa cử nhân. Sự tình hôm nay đã nhanh chóng được làm rõ, vô cùng nguy hiểm, ngươi cần phải nhanh chóng có chủ ý mới được.” 

Vân Tòng nghe vậy vừa kinh vừa sợ, bất chấp tay chân đau đớn, vội vàng xoay người quỳ xuống, khổ khổ sở sở cầu khẩn lão cứu tính mạng. Trương Lão Tứ đáp: “Mời công tử mau mau đứng dậy. Đợi ta và tiểu nữ thương lượng rồi sẽ có tính toán.”

Nói rồi liền gọi Ngọc Trân ra. Hai cha con ở bên ngoài thảo luận hồi lâu mới tiến vào nói với Vân Tòng: “Hiện giờ, khó mà giải quyết việc này lưỡng toàn kỳ mỹ được. Ta nếu vì sự an toàn của con gái mình mà tính toán, tốt nhất là băng bó vết thương cho ngươi rồi đưa vào trong miếu. Thứ nhất tránh được trách nhiệm phiền hà, hai là không dây dưa với đám hòa thượng. Nhưng chuyện như vậy quyết không phải là thứ Trương Lão Tứ ta có thể làm được. Hiện tại có hai cách, ngươi hãy chọn lấy một. Một là bây giờ ta mở cửa thả ngươi đi, ta cũng không đi báo cáo. Trong chu vi mười dặm, các nhà khác đều thuộc về miếu này và có khá nhiều địa phương là nơi an bài tai mắt của họ. Ngươi đào thoát được hay không, hoàn toàn trông cậy vào vận khí của ngươi mà thôi. Hai là cha con ta và ngươi cùng nhau đào tẩu, tuy không nắm chắc nhưng an toàn hơn nhiều. Lão hán khó mà rời khỏi quê hương, vốn không muốn làm thế này, chỉ là tuổi đã quá ngũ tuần, lại có một mụn con gái nên không đành lòng trái ý của nó. Nhưng hôm nay ta bất chấp tính mạng cứu ngươi, sau khi ngươi chạy thoát được, cha con ta không biết đến đâu để an thân. Đó là một vấn đề mà ngươi tất phải có câu trả lời rõ ràng.”

Vân Tòng thấy lão hán này tinh thần ngời ngời, hai mắt sáng láng, biết là quyết không phải loại nông dân bình thường, ông ta nói nhất định có lý. Hơn nữa thấy mình đang gặp hoạn nạn, không ngờ lại khẳng khái từ bỏ mọi thứ, mạo hiểm cứu trợ, khiến gã không khỏi vô cùng cảm kích. Gã liền đáp: “Lão trượng nghĩa hiệp như vậy, vãn sinh dù chết cũng khó mà báo đáp được. Vãn sinh thừa kế của gia tộc, sản nghiệp dồi dào, nói thế nào đi nữa thì cũng không mua được mạng sống. Chỉ là lão trượng an cư đã nhiều năm, nếu bây giờ vì vãn sinh bỏ nhà ra đi, khiến vãn sinh không khỏi cảm thấy áy náy.” 

Nói đến đây, nữ tử đã đi ra. Trương Lão Tứ nói: “Ngươi đã biết sự việc nguy cấp, ta cũng không thể cùng ngươi nhiều lời được. Cũng may là ta không sợ ngươi vong ân phụ nghĩa, ngươi là người đọc sách, dù sao cũng biết đạo lý nam nữ thụ thụ bất thân.”

Vân Tòng nói: “Những lời này của lão trượng sai rồi! Vãn sinh đọc sách từ nhỏ, biết rõ đạo nghĩa. Cho dù đồng hành cùng lệnh ái trong đêm tối, không có lão trượng đi cùng, vãn sinh sao dám có hành vi không đoan chính với lệnh ái? Vãn sinh há có thể sinh lòng cầm thú sao?”

Trương Lão Tứ nghe xong, nhíu mày nói: “Ngươi thực là một con mọt sách. Ta hỏi ngươi một đằng, ngươi chỉ biết nói chạy trốn, vậy ngươi nói xem chạy trốn kiểu nào?”

Vân Tòng nghe xong thấy mờ mịt khó hiểu. Trương Lão Tứ nói: “Ngươi sinh trưởng trong gia đình giàu sang phú quý, được nuông chiều từ nhỏ, bất chợt gặp nguy hiểm khổ sở vài hôm, lại trong cảnh mưa to gió lớn thập tử nhất sinh, thoát chết nhưng chân tay đều thụ thương. Bây giờ mưa còn chưa tạnh, chẳng phải nói đến chạy xa theo đường nào, e rằng chỉ một hay nửa dặm ngươi cũng chẳng thể lê bước nổi.”

Vân Tòng nghe xong những lời đó mới nghĩ đến tình hình bị thương hiện tại, đứng dậy thử đi vài bước, quả nhiên đau không chịu nổi, ức chế quá nước mắt chảy ròng ròng, vô kế khả thi. Trương Lão Tứ nói: “Ngươi không cần phải nóng nảy. Nếu không thể nghĩ biện pháp cho ngươi, cha con lão hán hà tất phải liều thân đi cùng?”

Dứt lời thì Ngọc Trân từ ngoài tiến vào, trên tay bê hai cái bọc, lại cầm thêm một khăn vải gai, nhìn hai người nói: “Trời đã không còn sớm, tất cả những vật dụng đều được gấp gọn trong đây. Cha và Chu công tử hãy buộc chặt trên lưng, nữ nhi đi chuẩn bị đồ ăn, ăn xong lập tức sẽ ra đi để tránh sinh biến.” Nói rồi lại ra phòng ngoài.

Trương Lão Tứ mở vải gai ra, xé thành hai đoạn rồi buộc vào lưng Vân Tòng thành một hình chữ thập, lại cột nửa còn lại ở giữa hông. Lúc này, Ngọc Trân bưng vào một cái khay có bày chút đồ nguội rượu lạnh cùng với cơm tiến lại, dùng nước ấm tráng ba bát ăn cơm. Ba người cùng nhau vội vàng ăn cho qua bữa. Ngọc Trân lại quay ra phòng ngoài một lúc rồi quay lại thúc hai người khởi hành.

Trương Lão Tứ cõng Vân Tòng trên lưng còn cái bọc thì quấn ở trước ngực, cũng buộc thành một hình chữ thập, lại dùng vải cột chặt đùi Vân Tòng từ đằng sau lại. Ngọc Trân nhanh chóng cởi bỏ áo dài, mặc vào một áo ngắn màu tro, trước ngực có thắt một cái “anh hùng khấu”*, trên lưng dắt binh khí của cha con nàng, hai gói bao phục được chia đều sang hai bên. Trương Lão Tứ lại thổi tắt đèn trong ngoài rồi ba người lặng lẽ mở cửa sau, vòng qua tường thẳng tiến tới quan đạo.

Lúc này mưa tuy nhỏ nhưng vẫn chưa tạnh hắn, đường sá lầy lội tận mắt cá chân, khó đi lại vô cùng, đã thế lại không có đèn đường. Cha con họ bước cao bước thấp đến gần bình mình mới đi được năm, sáu dặm đường. Dưới ánh sáng mờ mịt của trời sao buổi gần sáng, xa xa thấy dưới một cây đại thụ bên đường có một gian mao xá, quanh đó khói bếp giăng giăng. Ngọc Trân đột nhiên nói: “Cha ơi, cha xem nhà phía trước có phải là xưởng đậu hũ của Khâu lão thúc không? Hay là chúng ta dừng chân nghỉ một lát, đổi gánh sang vai kia nhỉ?”

Trương Lão Tứ đáp: “Nếu con không nhắc, cha cũng chẳng nghĩ đến. Lúc này chúng ta tuy chưa thoát khỏi nguy hiểm, nhưng tạm lánh trong nhà Khâu lão thúc thì cũng không sao.“ Nói rồi tiến thẳng đến gian mao xá đó.

Đang ở trước cửa gọi, Trương Lão Tứ nhanh mắt đột nhiên nhìn thấy trong nhà có một đạo nhân, y phục vô cùng rách rưới, lưng đeo một cái hồng hồ lô, nồng nặc mùi rượu, từ trong phòng đang tiến ra. Trương Lão Tứ vội kéo Ngọc Trân không một tiếng động lánh ra sau cây cạnh đường, đạo nhân đó đi thẳng qua người bọn họ như là chưa hề nhìn thấy cha con họ vậy.

Chủ nhân trong gian mao xá này tên là Khâu Lâm, vô cùng thân thiết với Trương Lão Tứ. Lão đang tiễn đạo nhân đột nhiên nhìn thấy cha con Trương Lão Tứ từ sau cây cổ thụ bước ra liền vội vàng tiến đến chào hỏi. Trương Lão Tứ hỏi: “Trong nhà ngươi còn ai không? Bọn ta đang muốn nghỉ ngơi chút, quấy nhiễu ngươi một bát nước đậu hũ.”

Khâu Lâm đáp: “Bên trong nhà ta chỉ có một tiểu hài tử từ phương xa tới, không có quan hệ, chúng ta hãy đi vào rồi nói chuyện.”

Nói rồi liền mời cha con họ vào. Trương Lão Tứ đặt Vân Tòng xuống, giới thiệu với Khâu Lâm, rồi cởi quần áo ướt xuống hong khô. Khâu Lâm vội hỏi: “Đây là ai? Vì sao ba người các ngươi nhếch nhác thế này?”

Trương Lão Tứ vì Khâu Lâm là lão bằng hữu liền đem tình hình nói ra một lượt. Khâu Lâm liền hỏi Vân Tòng xem có chủ ý gì. Vân Tòng đáp: “Tại hạ hiện giờ dù trốn được, nhưng mười sáu kẻ bằng tuổi đi cùng đều đã thảm tử. Tại hạ định đến Thành Đô báo án, bắt hung tăng báo thù, trừ hại cho dân lành ở địa phương.”

Khâu Lâm nói: “Chu công tử, ta không phải làm nhụt chí của ngươi nhưng lai lịch và thế lực của đám hung tăng ấy ta đều biết. Từ lâu hành vi của bọn chúng đã khiến cả người và trời đều căm phẫn nhưng khí số của chúng dường như chưa tận. Đầu sỏ của bọn chúng cùng quan viên văn võ đều có quan hệ rất tốt, ở nơi này y lại mua được thanh danh tuyệt hảo. Bố trí trong miếu đó của y không thua gì một toà thành nho nhỏ. Giết người xong, y nhất định đã sớm tẩy sạch vết tích. Thậm chí dù cáo trạng của ngươi được phê chuẩn, nhiều nhất cũng chỉ đơn giản là quan phủ giả đò phái người đi điều tra, nhưng lại bí mật thông tin cho y. Y nhất định một mặt chuẩn bị, một mặt lại sai người đi giết ngươi diệt khẩu. Y đã giàu, tinh thông võ nghệ, giỏi kiếm thuật, lại đông người. Quan phủ dù thực sự muốn truy nã, quyết cũng không phải địch thủ, huống hồ lại thông đồng với bọn chúng. Tốt nhất là ngươi không cần uổng phí tính mạng, kín kín đáo đáo chạy về kinh sư, lập nên công danh thành tựu. Bọn chúng ác quán mãn doanh**, một ngày sẽ bị diệt vong thôi.”

Vân Tòng đang định đáp lại, đột nhiên có một trận gió nhẹ thổi qua, trước mặt bỗng xuất hiện một người, ha ha cười lớn rồi nói: “Không ngờ gặp lại ngươi.”

Hai cha con Trương Lão Tứ vô cùng kinh hãi, định tiến lên động thủ thì Khâu Lâm vội nói: “Không cần kinh sợ, đều là người trong nhà với nhau cả.”

Lúc này, Vân Tòng đã biết người đến là ai liền quỳ xuống dập đầu bái lạy. Nguyên lai người này là đạo sĩ mà cha con Trương Lão Tứ vừa gặp, Vân Tòng lúc đó nhân vì ở trên lưng của Trương Lão Tứ nên không nhìn thấy được.

Khâu Lâm vội giới thiệu bọn họ: “Vị này là sư thúc của ta, chính là lão tiền bối Túy đạo nhân của Nga My kiếm hiệp.”

Cha con họ Trương đã nghe đại danh Túy đạo nhân từ lâu nên tiến lên thi lễ. Khâu Lâm lại hỏi Vân Tòng làm sao mà biết ông ta. Túy đạo nhân liền đem chuyện Vọng Giang lâu ra kể lại rồi nói: “Vừa rồi ta thấy các ngươi có vẻ bối rối nên có chút hoài nghi. Sau đó thấy các ngươi tiến vào nhà Khâu Lâm hiền điệt, ta liền quay lại xem ngươi nói gì, ai ngờ phí mất một phen lặn lội của ta.”

Vân Tòng liền nói: “Từ ngày ấy ở Vọng Giang lâu được tiên sư chỉ rõ huyền cơ, đệ tử ngu muội không thể lĩnh ngộ, lại gặp họa sát thân. Vừa rồi nghe Khâu Lâm tiên sinh nói tiên sư là lão tiền bối kiếm hiệp càng tăng thêm lòng ngưỡng mộ của đệ tử. Đệ tử hôm nay thập tử nhất sinh, đã nhìn thông suốt mọi việc, tình nguyện theo tiên sư đến thâm sơn tu đạo, không còn lưu luyến công danh nơi trần thế nữa.” Nói rồi, gã lại quỳ xuống. 

Túy đạo nhân cười ha ha nói: “Đứng dậy đứng dậy. Ngươi tưởng theo ta làm đồ đệ dễ dàng như vây sao. Tư chất của ngươi khá tốt, muốn ta thu làm đồ đệ không khó, chỉ cần đồng ý với ta ba điều kiện, ta mới có thể đáp ứng được. Điều thứ nhất, con người phải đặt chữ hiếu lên trên hết, gia tộc nhà ngươi chỉ có ngươi là con độc nhất, nếu bây giờ ngươi xuất gia thì sẽ đoạn tuyệt hương khói, phụ mẫu thúc bá lấy ai phụng dưỡng? Ngươi lập tức phải về nhà cưới vợ, đợi sau khi có người kế tục mới có thể theo ta lên núi. Điều thứ hai, chúng ta đều là dân lưu vong của tiên triều. Hôm nay mặc dù quốc vận đã hết nhưng quyết không thể để cho môn hạ đệ tử bổn phái phục vụ dị tộc. Điều thứ ba, chúng ta đã được coi là kiếm hiệp, mắt thấy dị tộc áp bức nhân dân, bọn gian ác hoành hành, phải xuất đầu trừ họa cho dân lành. Còn về giới luật của chúng ta, đợi ngươi làm đệ tử xong rồi sẽ nhất nhất nói cho ngươi biết. Chỉ là ba điều kiện này, ngươi theo được hay không theo được?”

Vân Tòng là người có tuệ căn, tuyệt đỉnh thông minh, gặp được kỳ duyên hi hữu thế gian khó gặp thế này, sao có thể dễ dàng bỏ qua? Gã lại quỳ xuống, nhất nhất đáp ứng, thi hành lễ bái sư. Ngọc Trân đứng ở bên cạnh ngây người nhìn, đột nhiên linh cơ nhất động, thấy Vân Tòng quỳ lạy cũng quỳ xuống xin Túy đạo nhân thu nạp. Túy đạo nhân nói: “Cô nương mau mau đứng dậy. Chúng ta không thu nạp nữ đệ tử, tương lai ngươi có sư phụ khác còn mạnh hơn ta. Hai người các ngươi tương lai đều có thể làm vẻ vang cho bổn phái, không việc gì phải vội vàng.”

Ngọc Trân vẫn nằng nặc cầu khẩn nhưng Túy đạo nhân không đổi ý, đành phải đứng dậy.

Túy đạo nhân lại nói với Vân Tòng: “Ta còn có chuyện quên chưa nói với ngươi. Ngày ấy tại Vọng Giang lâu, ta thấy bọn ngươi mười bảy người mặt đầy tử khí, trừ một mình ngươi có cứu tinh, còn lại đều không thể vãn hồi. Trời cao có đức hiếu sinh, sao có thể thấy chết mà không cứu được? Nhưng khi ta đang truy tìm tung tích các ngươi, không ngờ gặp một vị lão tiền bối trong môn phái của ta, ông ta sai ta đi làm một chuyện quan trọng nên chậm trễ mất ba ngày. Khi ta xong việc trở lại, biết được nơi các ngươi hạ lạc, không ngờ tối qua đi đến đây, mưa to gió lớn, nhìn thấy trong rừng có treo một tiểu hài nhi. Ta gỡ nó xuống, đem đến nhà Khâu Lâm, cứu chữa đến tận bình mình nó mới tỉnh lại. Hỏi nguyên do, thì ra là thư đồng Tiểu Tam Nhi của ngươi. Nó vì các ngươi đi khỏi đã ba ngày mà biệt vô âm tín, bọn trong khách điếm đó lại không nói miếu ở đâu. Tối hôm qua, có một hòa thượng đến khách điếm, cùng với điếm gia nói chuyện rất lâu, sau khi hòa thượng rời khỏi, điếm gia liền đuổi cổ nó đi. Nó phải ra đi tìm ngươi, đến khu rừng thì gặp phải mưa rào, càng nghĩ càng thương tâm, nhân vì không gặp được ngươi thì không cách nào trở về nhà, chỉ còn cách tự tử mà thôi. Ta nghe nó nói xong, biết là tính mạng ngươi đang nguy cấp, có lẽ đã gặp phải độc thủ. Chính khi đang định đến trước miếu tìm kiếm thì gặp các ngươi chạy ra. Chỉ tiếc là ta đã muộn ba ngày, không thể cứu được mười sáu nhân mạng, âu cũng là số trời đã định. Hiện tại khí số hung tăng chưa hết, việc báo thù chắc phải đợi một ngày khác. Bây giờ Tiểu Tam Nhi đang ở trong phòng nghỉ ngơi. Nơi đây đã có ta, hung tăng không đến là may cho bọn chúng. Ngươi hãy tránh ở bên trong mà nghỉ ngơi một ngày, ngày mai ta sẽ đưa ngươi lên đường. Trên đường sẽ truyền cho ngươi phương pháp luyện nội công, chờ sau khi ngươi nhập môn, ta sẽ tùy lúc đến chỉ điểm thêm cho.”

Lúc này Tiểu Tam Nhi ở trong phòng, nghe có tiếng nói chuyện bên ngoài rất quen thuộc liền lén nhìn ra, thấy tiểu chủ nhân, không nhịn được lao ra ôm nhau khóc lóc.

Túy đạo nhân rắc đan dược lên miệng vết thương của Vân Tòng rồi nói: “Trời đã không còn sớm, người đi trên đường đã nhiều, tai mắt của miếu rất đông, các ngươi nên vào trong phòng nghỉ ngơi, để ta và Khâu Lâm đối phó bọn chúng.”

Bọn Vân Tòng đi vào, từng người tựa vào giường chợp mắt. Chỉ có một mình Ngọc Trân trong lòng tràn ngập tâm sự, lại vì nhận sư phụ không thành, cảm thấy chán nản, ủ rũ không vui.

Đến chiều, trong miếu mới phát hiện Vân Tòng chạy trốn. Bởi vì mưa lớn nên dấu tích về phương hướng chạy trốn của Vân Tòng đã chẳng còn mảy may. Đương nhiên là chúng tìm khắp các lối, cũng từng hai lần đến nhà Khâu Lâm nghe ngóng, cật vấn đã từng nhìn thấy một thiếu niên chạy qua không nhưng đều bị Khâu Lâm khéo léo phủ nhận. Qua ít ngày, mới phát hiện Trương Lão Tứ bỏ nhà ra đi, biết rằng Vân Tòng được cha con họ cứu thoát, lúc đó cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác.

Bọn họ nghỉ ngơi tại nhà của Khâu Lâm một hôm, qua chuyện trò, Vân Tòng mới biết Khâu Lâm cũng là một trong Nga My đại hiệp, có ngoại hiệu là Thần Nhãn Khâu Lâm, phụng mệnh đến đây, giả bán đậu tương để thám thính động tĩnh trong miếu. Trương Lão Tứ trước đây cũng là anh hùng thủy lộ ở Tứ Xuyên, ngoại hiệu là Phân Thủy Yến Tử, tên thật là Trương Quỳnh. Sau này không thể tránh được phải từ bỏ lục lâm, rửa tay gác kiếm rồi mới đi trồng rau làm vườn.

Hiện giờ khi tâm tình đã ổn định lại, Vân Tòng nghĩ đến tiền nhân hậu quả mới cảm nhận ân nghĩa của cha con họ Trương một cách sâu sắc. Đặc biệt là Trương Ngọc Trân có vẻ như rất chú ý đến mình, việc cha con họ bỏ nhà cứu trợ hoàn toàn xuất phát từ chủ ý của nàng. Hồng nhan tri kỷ, ân nghĩa cứu mạng như thế, càng khiến người ta phải cảm động.

Nghĩ đến đây, gã không khỏi ngước hai mắt lên nhìn Ngọc Trân. Chỉ thấy nàng được trời phú cho mặt xinh mắt đẹp, vóc người yểu điệu thướt tha, trong nét mỹ lệ lại có khí chất anh hào khiến người khác vừa yêu vừa kính sợ. Chẳng hiểu sao mày ngài của nàng luôn luôn nhăn nhó chẳng bao giờ mở ra tự nhiên, tựa như vô cùng u oán. Có lúc cha con họ giống như tranh luận gì đó khiến Vân Tòng không sao hiểu nổi.

Bọn họ nghỉ ngơi một đêm. Ngày thứ hai, mưa tạnh gió ngừng, trời còn chưa sáng, Khâu Lâm và Túy đạo nhân đã đến giục họ lên đường. Khi ra khỏi cửa, bên ngoài đã chuẩn bị bốn thớt ngựa tốt cho hai cha con họ Trương và chủ bộc của Vân Tòng. Vân Tòng nghi ngờ Túy đạo nhân không chịu cùng đi, hoặc là ngựa không có đủ, định mình và Tiểu Tam Nhi cưỡi chung một con nên trước hết mời Túy đạo nhân lên ngựa.

Túy đạo nhân nói: “Ngươi tưởng rằng không đủ ngựa à? Ta không cần ngựa. Bọn ta nhanh chân lên đi.”

Vân Tòng không dám phản đối liền cùng cha con họ Trương từ biệt Khâu Lâm, lên ngựa hướng phía quê nhà đi tới. Dây cương vung lên, trong nháy mắt đã chẳng thấy Túy đạo nhân đi về hướng nào. Đang hối hận vì đã không hỏi địa điểm định tương hội, e rằng sẽ lạc nhau, ai ngờ đi đến chiều tối, xuống ngựa nghỉ ngơi thì Túy đạo nhân đã ở trong điếm phòng chờ sẵn, đang cầm hồ lô tu ừng ực.

Năm người bọn họ nghỉ tại khách điếm, dùng xong cơm rượu, Túy đạo nhân liền đem khẩu quyết nội công nhập môn cùng với cách dùng thân nhãn đại khái nói qua một lượt. Vân Tòng thiên tư thông minh nên đều tâm lĩnh thần hội tất cả. Cha con họ Trương vốn đã có chút công phu, tự nhiên càng lĩnh hội được hết. Chính khi đang bàn bạc đến mức cao hứng, Túy đạo nhân đột nhiên nghiêm nghị nói với Vân Tòng: “Ta còn một điều quan trọng chưa nói với ngươi, ngươi nghe xong phải hết sức chú ý.”

Vân Tòng vội vàng kính cẩn thỉnh giáo. Túy đạo nhân nói: “Ta bình sinh ghét nhất người vô ơn bạc nghĩa. Trương lão tiên sinh cùng với con gái ông ta đã liều mạng bỏ nhà bỏ cửa để cứu ngươi, lần này sau khi về đến quê nhà, ngươi định báo đáp người ta thế nào đây? Nói thử cho ta nghe xem nào.”

Trương Lão Tứ đang muốn nói thì Túy đạo nhân liền vội đưa mắt cản lại. Vân Tòng nói: “Đệ tử đọc sách thánh hiền, sao dám vong ân phụ nghĩa? Của cải nhà đệ tử dư dật, lần này Trương lão tiên sinh tới nhà mình sẽ khoản đãi như khách quý. Mặt khác sẽ thưa với phụ mẫu chia cho Trương lão tiên sinh một phần đất đai nhà cửa. Không hiểu ý sư phụ như thế nào?”

Túy đạo nhân đáp: “Cái này ngươi sai rồi. Trương lão tiên sinh trước đây đã lăn lộn trên chốn giang hồ, nhìn thấy kim ngân tài bảo không biết bao nhiêu lần, ý ngươi là người ta cho rằng nhà ngươi có tiền nên mới cứu ngươi sao? Ngươi làm như thế, không những không thể báo ân mà người ta cũng quyết không nhận. Ngươi phải nghĩ cách khác thôi.”

Vân Tòng đáp: “Đệ tử ngu muội, chỉ là biết ơn sâu sắc, không biết báo đáp thế nào, mong sư phụ chỉ bảo.”

Túy đạo nhân nói: “Đại trượng phu nhận đại đức thì phải báo đáp. Theo ta Trương lão tiên sinh chỉ có một cô con gái cưng là Ngọc Trân cô nương, lúc trước đã mạo hiểm cứu ngươi cũng chỉ đơn giản là vì lòng trắc ẩn. Ta thấy ngươi và Trương cô nương tuổi tác và tính tình hợp nhau, hay là ta đứng ra làm mối cầu Trương lão tiên sinh gả Ngọc Trân cô nương cho ngươi. Bổn phận của con rể là phải phụng dưỡng cha mẹ vợ của mình, khiến cho ông ấy được hưởng phúc tuổi già, không những báo được đại đức, mà cũng là nhất cử lưỡng tiện. Ngươi thấy có được không?”

Những lời này cũng chính là tâm nguyện của cha con nhà họ Trương cho nên họ thầm vô cùng cảm kích. Vân Tòng cũng biết những lời này của sư phụ là có lý, Ngọc Trân không những hiền thục xinh xắn, hơn nữa nghe nói nàng còn có một thân võ nghệ kinh người, nếu có thể kết thành uyên ương thì sớm chiều đều có thể thỉnh giáo.

Huống hồ nàng lại là tri kỷ ân nhân cứu mạng, mặc dù chưa bẩm với phụ mẫu, nhưng với thân phận nối dõi gia tộc của mình, bình thường lại được cưng chiều, thêm vào đó người ta có ơn cứu mạng nên nhất định sẽ được chấp thuận. Gã suy nghĩ một hồi, trong lòng cảm thấy vô cùng mãn nguyện nhưng còn ngượng ngập, bối rối không sao mở miệng được. 

Ngọc Trân lúc đầu cầu xin cha nàng cứu Vân Tòng cũng là vì thương tiếc tài mạo của gã. Khi trốn chạy, ở cùng nhau hai hôm lại càng thấy Vân Tòng ngay thẳng cẩn thận, có thể phó thác cả cuộc đời. Vài lần đánh tín hiệu cho cha già, nhưng Trương Lão Tứ bản tính cố chấp, mặc dù biết Vân Tòng dòng dõi danh giá nhưng vì gã là con nhà quyền quý, không môn đăng hậu đối, vạn nhất gã lấy cớ phải xin ý kiến phụ mẫu, khéo léo từ chối thì xấu hổ chẳng biết chui vào đâu. Như thế mọi thứ tính toán đến cùng thành ra lại xôi hỏng bỏng không mất.

Ngọc Trân đã không thể công khai yêu cầu cha già, lại xấu hổ không dám nói ra nên trong lòng đang rất sầu muộn. Đột nhiên thấy Túy đạo nhân khi không tác hợp cho hai nhà, bề ngoài dù thẹn thùng, cúi đầu không nói nhưng trong lòng khoan khoái không sao tả xiết. Vốn nghĩ Vân Tòng sẽ vui vẻ đáp ứng, không ngờ đợi một lát vẫn chưa thấy gì, cho rằng Vân Tòng hiềm chuyện không môn đăng hậu đối nên không chịu đồng ý.

Thầm hận kẻ vong ân bội nghĩa, trong lòng tràn ngập u oán, không khỏi ngẩng đầu lên, liếc mắt nhìn Vân Tòng. Nhưng lúc này Vân Tòng cũng đang ngẩng đầu nhìn nàng, hai người nhìn nhau, tựa như có một loại điện lực hấp dẫn. Đồng thời hai người như cùng thẹn thùng, vội vàng quay đầu đi, mặt đều ngượng đỏ cả lên. Túy đạo nhân nhìn thấy tình hình như thế, biết là cả hai đều ưng nhau, liền nói với Trương Lão Tứ: “Bây giờ thế này, chắc hẳn lão tiên sinh không cho rằng ta đã quá mạo muội. Hiện tại, về mặt tiểu đồ đã không thành vấn đề, chỉ đợi lão tiên sinh một lời đưa ra quyết định cuối cùng thôi.”

Trương Lão Tứ lúc đầu vốn muốn mở miệng nói nhưng bị Túy đạo nhân cản lại nên chỉ lặng yên lắng nghe. Hiện giờ thấy Túy đạo nhân hỏi mình liền đáp: “Vãn bối mười năm trước rửa tay gác kiếm xong, vì yêu thích sơn thủy Thành Đô nên mới mắc phải nghiệt duyên mà dính líu với lũ hung tăng trong Từ Vân tự đó. Vãn bối thích nơi này u tĩnh nên đến làm vườn trồng rau thuê trong miếu của chúng để mai danh ẩn tích. Lúc đầu bình an vô sự, vãn bối cũng không ngờ chúng lại vô pháp vô thiên như thế. Mùa xuân năm nay, một gã hòa thượng có tên tục là Mao Thái đến đây, chẳng biết thế nào nói vãn bối là gian tế của phái Nga My, nói Trí Thông đuổi vãn bối đi. Trí Thông nhân vì đã ở cùng vãn bối mười năm, vãn bối thường không ra khỏi cửa, cũng chẳng có ai đến thăm nên mãi không chịu đuổi vãn bối, lại nói với tri khách tăng quan tâm đến vãn bối. Cho dù vãn bối khi đó cảm ơn bọn họ nhưng cũng đã nghĩ đến chuyện bỏ đi rồi.”

Lão lại tiếp: “Đến khi Chu công tử chạy vào vườn của vãn bối lánh nạn, mới đầu chỉ coi gã là công tử được cưng chiều của nhà quyền quý, cứu là cứu chứ không thể vì gã mà buông bỏ tất cả. Không ngờ con gái vãn bối Ngọc Trân cứng đầu không chịu, nói với vãn bối là cứu người thì phải cứu cho trót, do đó mới có kế hoạch rời nhà cùng bỏ đi. Hai ngày nay vãn bối đã thấy rõ nhân phẩm và học vấn của Chu công tử, thêm vào đó lại là môn đồ của kiếm hiệp tiền bối, vãn bối chỉ lo là cao quá với không tới, chứ làm sao dám không đồng ý? Bất quá gã là con nhà giàu sang, phải chăng là thực lòng muốn đính ước với người nghèo hèn như nhà vãn bối? Nếu không thẳng thắn nói rõ việc này thì mai sau cả hai bên sẽ đều không thoải mái. Mong rằng tiên trưởng hiểu cho.”

Túy đạo nhân nghe xong ha ha cười lớn, rồi hỏi Vân Tòng: “Ở đây không có người ngoài, đường đường một thân nam tử, đừng có xử sự như trẻ con. Nếu như là tâm nguyện của ngươi thì tiến lên lạy nhạc phụ, không cần phải nhút nhút nhát nhát như thế.”

Vân Tòng không còn cách nào khác tiến lên quỳ xuống cử hành đại lễ, hô lên một tiếng nhạc phụ. Gã lại quay sang cảm tạ ân đức của sư phụ. Túy đạo nhân nói: “Hiện tại sự việc đã được định đoạt khiến ta vơi đi rất nhiều lo lắng. Ngươi và cô nương danh phận đã định, trên đường tạm thời có thể xưng huynh gọi muội, không phải tị hiềm. Về đến quê nhà, ngươi bẩm với phụ mẫu để sớm chọn ngày thành hôn. Ở đây ta có một quyển ‘Kiếm pháp nhập môn’ đề cập đến cách thức luyện nội ngoại công. Sau khi ngươi thành hôn xong, có thể cũng với thê tử sớm chiều luyện tập. Hai năm sau, ta sẽ tìm đến nhà của ngươi, sẽ lại tự thân bí mật tương truyền.”

Dứt lời lấy trong người ra một quyển sách cũ kỹ giao cho Vân Tòng. Vân Tòng liền vội càng quỳ xuống tiếp nhận. Túy đạo nhân lại lấy ra một thanh kiếm bên hông, dài chừng ba thước sáu tấc, bao kiếm tuy cũ, loang lổ dấu tích thời gian nhưng chạm trổ vô cùng tinh xảo đẹp đẽ.

Túy đạo nhân nói: “Kiếm này tên là Sương Tầm, chính là danh kiếm thời Chiến Quốc, thổi lông qua lưỡi cũng đứt, chém sắt như bùn, tiện dụng trong mọi hoàn cảnh, lúc không dùng có thể giắt ở hông. Năm đó khi ta thân kiếm chưa hợp nhất dùng làm lợi khí phòng thân. Hôm nay trao cho ngươi để làm sính lễ. Phu thê các ngươi phải bảo quản cho tốt, không được phụ lòng mong mỏi của ta.”

Vân Tòng nghe xong vô cùng mừng rỡ, vội vàng cử hành trọng lễ. Gã tiến tới hô một tiếng nhạc phụ rồi dâng kiếm lên.

Trương Lão Tứ vốn là người biết của biết vật, nhẹ nhàng đón nhận kiếm, mới kéo thử khỏi vỏ hai thước đã thấy long lanh chói mắt, hàn khí bức nhân, không khỏi tán dương tuyệt hảo. Lão lại cùng Ngọc Trân tiến lên phía trước cảm tạ ân đức Túy đạo nhân đã thành toàn rồi cởi một chuỗi bích ngọc trên người Ngọc Trân xuống làm vật lại mặt. Túy đạo nhân nói với Vân Tòng: “Bây giờ ta phải đến Thành Đô có việc, không thể phân thân. Hiện tại chuyện của các ngươi đều đã ổn thỏa, từ nay phải chuyên tâm luyện tập kiếm pháp. Ta đi đây.”

Dứt lời loáng lên một cái, đã chẳng thấy Túy đạo nhân đâu. Ba người liền vội vàng đuổi theo, chỉ thấy trên không có một điểm trắng, đang bay đi dưới ánh mặt trời, khiến bọn họ đều tấm tắc thán phục. Vân Tòng lại bàn bạc với Trương Lão Tứ một hồi rồi ba người tách ra nghỉ ngơi. Đến ngày thứ hai, Vân Tòng cùng hai cha con cao cao hứng hứng nhằm hướng quê nhà Vân Tòng đi tới. Chuyện không đề cập đến nữa.

Trí Thông sau khi Vân Tòng đào tẩu được ba hôm thì bỗng nghe người báo cha con Trương Lão Thật đột nhiên bỏ nhà ra đi, chẳng biết về hướng nào.

Y liền đến vườn rau tra xét mới biết Vân Tòng vượt tường trốn tới đó và được cha con Trương Lão Thật cứu giúp. Bởi vì lúc trước không nghe lời khuyên của Mao Thái, không đuổi cha con nhà họ Trương đi, giữ lại mầm họa nên hiện giờ y vô cùng hối hận. Y lại sợ Mao Thái cười mình không hiểu biết rồi phải tìm lời để lấp liếm cho qua chuyện. Một mặt y gia tăng phòng bị, một mặt ngầm bán đi tài sản của miếu, chuẩn bị rời bỏ sào huyệt.

Ôi!

Lương duyên phu phụ vừa đi khỏi

Ác độc hung tăng cũng động thân.

Muốn biết về sau thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Anh hùng khấu: thắt nút ở trước ngực như người choàng áo bào thường hay làm.

** Ác quán mãn doanh: Chỉ vô cùng ác độc, sau này sẽ chịu quả báo. Cụm thành ngữ này về sau cũng được Kim Dung đặt thành tên hiệu cho Đệ nhất ác nhân Đoàn Diên Khánh trong Thiên Long Bát Bộ.

Hết hồi thứ mười

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười một

Tiềm tâm tị họa tiểu trụ Bích Quân am

Nhất niệm chân thành tình cảm Truy Vân Tẩu

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: herobk13

Biên dịch: BH Mod

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Nhất trí lánh nạn, trú tạm Bích Quân am

Một dạ thành tâm, động lòng Truy Vân Tẩu

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói Chu Thuần và Mao Thái giao thủ, đang lúc nguy cấp thì may có Túy đạo nhân đến tương trợ. Khi kiếm quang của Mao Thái và Túy đạo nhân chưa phân thắng bại thì đột nhiên giữa trời có âm thanh phá không truyền tới, tiếp đó năm đạo hồng quang bay lại. Túy đạo nhân liền vội vàng quắp lấy Chu Thuần, thu lại kiếm quang, hối hả bay về phía thành. Chu Thuần nhắm tịt hai mắt, chỉ nghe tiếng gió vùn vụt bên tai, một lát sau đã đáp xuống một nơi hẻo lánh bên ngoài Vũ Hầu từ ở ngoại thành.

Chu Thuần vội vàng quỳ xuống tạ ơn Túy đạo nhân cứu mạng. Túy đạo nhân cũng chẳng nói gì, dẫn Chu Thuần đến trước một tòa mao am, đẩy cửa đi vào. Chu Thuần nhìn vào thấy vân phòng được bố trí vô cùng ngăn nắp. Trong phòng có hai đạo đồng chừng mười hai, mười ba tuổi, thấy hai người đi vào liền vội vàng mang trà ra mời. Túy đạo nhân biết Chu Thuần vẫn chưa ăn tối liền bảo chúng chuẩn bị rượu và đồ ăn. Sau khi hai gã đạo đồng lui ra, Chu Thuần lại quỳ xuống, luôn miệng cầu khẩn Túy đạo nhân thu nhận làm môn hạ đệ tử.

Túy đạo nhân đáp: “Luận về tâm thuật và căn cơ của ngươi, không phải là không thể có được thành tựu. Chỉ là ngươi đã ngoài bốn mươi, lại không còn đồng thân*, học kiếm vô cùng khó khăn, nếu nhận ta làm sự phụ chỉ sợ phải chịu nhiều khổ cực.” Nói rồi khăng khăng không chịu nhận. 

Nhưng Chu Thuần vẫn nằng nặc cầu khẩn tiếp, Túy đạo nhân mới nói: “Ta không phải là không thu ngươi làm đồ đệ, người thu nhận ngươi là một vị trong Tung Sơn nhị lão, cũng là một trong Đông Hải tam tiên, tài năng hơn ta cả trăm lần. Lão nhân gia ấy có Bổ Tủy Ích Nguyên Thần đan, dù ngươi đã không còn đồng thân cũng chẳng có gì đáng ngại. Ngươi nghĩ nếu ngươi không phải người của bổn giáo, hà tất ta phải luôn theo ngươi từ Nga My đến đây?”

Chu Thuần biết đó là sự thật nên cũng không dám cưỡng cầu. Nhưng lại không biết Tung Sơn nhị lão là ai, nên vài lần dò hỏi Túy đạo nhân. Ông ta chỉ đáp khi kỳ duyên đến thì tự nhiên sẽ biết, lúc này nói sớm vô ích, đừng có hỏi nhiều. Một lát, đạo đồng đem cơm rượu đến, Chu Thuần ăn xong, do đã mệt mỏi cả ngày nên theo đạo đồng đi vào phòng bên cạnh nghỉ ngơi.

Ngày hôm sau Chu Thuần tỉnh dậy vào lúc sáng sớm, đến vân phòng tham kiến nhưng Túy đạo nhân đã bỏ đi đâu mất. Hai gã đạo đồng tên là Tùng Nhi và Hạc Nhi. Chu Thuần liền hỏi Tùng Nhi: “Sư phụ đi đâu rồi? Đêm qua vội vàng không hỏi tính danh thực sự của lão nhân gia. Hai vị tiểu sư huynh đi theo sư phụ nhiều năm, chắc là biết chứ?”

Tùng Nhi đáp: “Sư phụ ta thường không ở trong miếu. Vài ba tháng không trở về lấy được một hai lần. Sáng sớm hôm nay người bỏ đi cũng chẳng nói gì cả. Còn về tính danh của lão nhân gia thì chúng tôi cũng không biết. Người ngoài thấy lão nhân gia người thích uống rượu nên đều gọi là Túy đạo nhân. Khi có ai đến tìm người cũng chỉ nói là muốn gặp Túy đạo nhân, chắc đó chính là tính danh của sư phụ. Nơi đây tên gọi Bích Quân am, chính là chốn tu hành của đại đệ tử Tố Nhân của Thần Ni Ưu Đàm đại sư. Sư phụ thích chỗ này thanh tịnh nên thường mượn chỗ nghỉ tạm. Chúng tôi chỉ mới đến đây hơn nửa năm, cũng không thường xuyên gặp người qua lại. Ngài đang trọ ở Thành Đô, tại sao không đem hành lý đến đây cư ngụ? Ta nghe sư phụ nói võ nghệ ngài rất khá, như thế ngài cũng có thể thường xuyên dạy chúng ta. Ngài đồng ý không?”

Chu Thuần thấy gã ăn nói lanh lợi, cư trú ở đây đương nhiên là thanh tịnh hơn khách điếm. Vì Túy đạo nhân đã dẫn lão tới đây, chắc hẳn ông ấy cũng muốn lão ở lại, do đó lão liền vội vàng gật đầu đáp ứng. Sau đó liền nhanh chóng quay lại khách điếm trong thành, thanh toán tất cả rồi vào am cư trú. Và để tránh họa, bình thường lão cũng chẳng ra khỏi cửa. Túy đạo nhân đi nhiều ngày mà vẫn chưa quay lại, mỗi ngày lão cùng Tùng, Hạc nhị đồng đàm đàm luận luận nên cũng không cảm thấy quá tịch mịch.

Lão là người có lịch duyệt, mỗi khi nói chuyện về võ nghệ đều kiếm cách nói lảng sang việc khác, không dám ăn nói lung tung. Có một hôm ngủ dậy rất sớm, đột nhiên lão nghe thấy trong sân có tiếng nhảy nhót cực khẽ. Chọc cửa sổ nhìn ra, lão chỉ thấy Tùng, Hạc nhị đồng mỗi người đều thành thục cầm một thanh trúc kiếm đang đấu với nhau trong vườn. Ban đầu không thấy gì kỳ lạ, động tác cũng vô cùng chậm chạp, có vẻ như thân pháp bình thường, nhưng nhìn kỹ thì thấy rất trầm ổn.

Về sau, Chu Thuần vô tình ho khan một tiếng khiến cho Tùng, Hạc nhị đồng đều biết Chu Thuần đang trong phòng nhìn lén. Lúc này hai gã mới trổ hết bản lĩnh, càng đánh càng nhanh, động tác mau lẹ, nhảy nhót như bay, cho dù Chu Thuần là cao thủ Lục Hợp kiếm cũng không thể có thân pháp như vậy. Đang xuất thần quan sát, đột nhiên Tùng Nhi phát hiện thấy một sơ hở liền sử ra chiêu Tiên Hạc Triển Sí. Hạc Nhi cũng chẳng vừa, tả thủ bắt kiếm quyết, hữu thủ sử chiêu Trường Xà Nhập Động, hô lên: “Xem chiêu!” Trông như sắp đâm thẳng vào ngực Tùng Nhi vậy.

Chu Thuần thấy rõ, nghĩ rằng Tùng Nhi khó mà chống lại được chiêu này nên rất lo lắng cho gã. Nói thì chậm nhưng rất nhanh, chỉ thấy Tùng Nhi cũng không thu kiếm lại để đón đỡ, chân khẽ điểm xuống, thuận thế bay lên không trung, biến thành chiêu Yến Tử Xuyên Vân. Gã lại kêu lên chi chi rồi sử ra chiêu Thần Ưng Tróc Thỏ, bay xéo xuống, một kiếm chỉ thẳng vào lưng của Hạc Nhi. Hạc Nhi nghe thấy tiếng gió ập đến sau đầu, biết rằng bất diệu liền vội tiến lên trước nằm phục xuống rồi mượn đà xoay người, lưng áp xuống đất, mặt hướng lên trời, sau đó loạng choạng sử ra chiêu Túy Bát Tiên Kiếm.

Hạc Nhi vừa tránh được một kiếm của Tùng Nhi, đang mười phần vất vả như thế đột nhiên quay mặt nhìn lên, hét lớn: “Giỏi!” Lưng đang dán xuống đất, gã dùng thế Lý Ngư Đả Đỉnh bật dậy bay xéo lên cao bảy tám thước. Tả cước dưới hữu cước trên, gã sử chiêu Yến Tử Tam Sao Thủy Phi Vân Túng, búng chân vài cái đã đứng trên cành quế ở trước sân. Gã xoay người ngồi ở trên cây hổn hển: “Sư huynh thật không biết ngượng, đánh không được lại dùng đến ám khí sao?”

Tùng Nhi cười nói: “Người nào sử ám khí cơ? Khi ta vừa mới nhảy lên không trung, có một bầy chim sẻ bay qua bị ta tiện tay hạ gục một con nên kiếm cũng vô ý xuất ra. Ai cố tình dùng ám khí đánh ngươi làm gì?”

Chu Thuần trong phòng nhìn ra quả nhiên thấy một con chim sẻ chết, giữa cổ găm trúc kiếm của Tùng Nhi, không khỏi âm thầm kinh dị. Trong lòng lão thầm nghĩ: “Hai gã mới ít tuổi mà đã có bản lĩnh như vậy, may mà mình thận trọng, chưa từng huênh hoang khoác lác.”

Lúc này Hạc Nhi cũng từ trên cây hạ xuống, nhìn đi nhìn lại Chu Thuần, kêu lão cũng ra đấu kiếm một trận. Chu Thuần đã vô cùng bội phục hai gã nên nào dám động thủ.

Về sau bị bức quá không còn cách nào khác mới lấy tuyệt kỹ Ngũ Đóa Mai Hoa Xuyên Vân nỏ ra cầm trên tay để thử một phen. Hai đạo đồng Tùng, Hạc nhân vì không được Túy đạo nhân dạy cho ám khí nên thấy tuyệt kỹ của Chu Thuần liền bảo lão giấu sư phụ dạy cho hai gã. Chu Thuần đành phải đáp ứng, ngày ngày tận tâm dạy dỗ. Nhưng lão cũng theo nhị đồng học được nhiều bí quyết về kiếm, không đợi bái sư cứ bắt đầu luyện tập trước. Cứ thế qua hơn mười ngày, Chu Thuần đột nhiên nhớ tới con gái Khinh Vân từng nói không lâu sẽ đến Thành Đô tương hội. Khi lão rời khỏi khách điếm lại không nhắn câu gì, chỉ sợ con gái đến tìm không gặp.

Túy đạo nhân còn nói không lâu mình sẽ gặp danh sư, nếu cứ mãi trốn trong am, chỉ nghĩ đến việc lánh nạn thì bao giờ mới gặp được lương cơ? Rồi lão giải thích với Tùng, Hạc nhị đồng, dự định mỗi ngày sẽ ra ngoài tầm sư kết bạn. Nếu ba ngày liền không quay lại tức là đã phát sinh sự cố, mong hai gã nghĩ cách báo cho Túy đạo nhân biết, cầu ông ta xuất lực. Nhị đồng nhất nhất đáp ứng.

Lão ăn cơm trưa xong, từ biệt nhị đồng, một mình lững thững rời khỏi Bích Quân am, cũng không tiến vào thành lại đến các am quan tự viện nổi tiếng như Thanh Dương cung, Vũ Hầu từ… ở ngoại thành để lưu tâm tìm kiếm cao nhân. Có khi cũng đến Vọng Giang lâu nghỉ chân, thuận tiện dùng chút cơm rượu. Như vậy lại mất vài ngày cũng chẳng gặp được ai. Một hôm, lão vào trong thành đến điếm khách mình đã từng trọ hỏi xem sau khi mình rời khỏi, có ai đến tìm không.

Điếm tiểu nhị đáp: “Một hai ngày trước, có một lão nhân to lớn tầm năm mươi tuổi cùng một lão hòa thượng mặt mũi hồng hào, lông mày trắng như cước hỏi về ông. Bọn ta thấy ngày ấy ông đi vội vội vàng vàng, cho là ông quay lại quê nhà nên chỉ đáp là ông bỏ đi đã lâu, chẳng biết đi đâu. Ta thấy khách nhân ấy có vẻ vô cùng thất vọng. Khi đi có lưu lại lời nhắn nói nếu người khách họ Chu quay lại thì nói có bạn cũ ở Nga My hiện đã theo Bạch My hòa thượng lên Vân Vụ sơn xuất gia, bảo ông không phải quay lại nơi cũ làm gì. Hỏi danh tính ông ta, ông ta cũng cũng chẳng nói, thế có phải bằng hữu của ông không?”

Chu Thuần lại hỏi về vóc dáng và đặc điểm của người đó liền biết là Lý Trữ, chỉ là đoán không ra vì cái gì mà xuất gia. Anh Quỳnh con gái ông ta vì sao lại không theo bên cạnh. Ông ta bảo mình không cần đến Nga My, chắc hẳn tên Mao Thái đang lùng sục ở đó. Trong lòng lão dùng dằng không biết làm sao, tính mấy ngày sau sẽ đến Nga My xem rốt cuộc có chuyện gì.

Lão nói vài câu qua quýt xã giao với điếm gia rồi cáo từ bỏ đi. Trên đường, lão đột nhiên thấy trước mắt có một đám người đang huyên náo ầm ĩ. Lão đến gần xem thử, chỉ thấy trước cửa tiệm ở cạnh đường có một lão già gầy gò xơ xác ngồi đó, hai mắt nhắm nghiền, chẳng nói gì cả. Những người bên cạnh người thì chế giễu, người thì nói chuyện phiếm.

Rốt cuộc, Chu Thuần hỏi chuyện một người mới biết lão già đó từ sáng sớm đã đến quán ăn này gọi rượu và đồ ăn và ngồi ỳ ra đó mãi. Vừa rồi mới nhân điếm gia không để ý liền trốn ra. Điếm gia đã sớm nghi ngờ ông ta định ăn uống rồi không trả tiền, bỗng phát hiện ông ta đào tẩu, làm sao có thể dễ dàng bỏ qua được. Điếm gia đuổi theo đến cửa thì bắt được, đang muốn kéo lão già quay lại, không ngờ tay chân thế nào lại xé toạc một nửa áo ngoài của lão ra.

Lão già đó nổi cáu, không những không thừa nhận là đào tẩu mà còn đòi điếm gia bồi thường áo dài. Đã thế còn nói là lão ta ra ngoài để xem nhiệt náo, sợ điếm gia lo lắng lão đi hẳn cho nên đã để lại bao phục trong quán. Điếm gia đi vào xem xét, quả nhiên có một bao phục cũ kỹ rách rưới, mới đầu còn tưởng là bao đựng rác. Ai ngờ khi mọi người mở ra xem mới thấy ngoài vài lạng bạc vụn còn có một chuỗi trân châu, đủ một trăm lẻ tám viên cỡ như hạt đậu nành. 

Như thế lẽ phải thuộc hết về lão già, ông ta còn nói điếm gia không nên coi thường người khác. Lão nói: “Bao phục của ta quý trọng như vậy để trong điếm của ngươi, ngươi có thể nào nghi cho ta là tên ăn quỵt uống quỵt được? Y phục này của ta còn quý hơn trân châu. Hôm nay bị các ngươi xé rách, nếu không bồi thường, ta cũng chẳng báo quan làm gì, chỉ treo ngược ngươi ở đây thôi.” Mọi người khuyên giải mãi cũng không được, bất kể ai tiến lại gần là lão già liều mạng với người đó liền, điếm gia không bồi thường y phục không xong.

Chu Thuần nghe xong, cảm thấy vô cùng kỳ lạ liền tiến lại gần xem thử. Quả nhiên thấy lão già này mười phần rách rưới, mặt mũi nhớp nháp bẩn thỉu, hai chiếc giày rách bươm lộ cả gót chân ra ngoài, vừa đen vừa gầy, cạnh người quả nhiên có một bao phục nhỏ. Điếm gia đứng ở bên cạnh, không ngừng van vỉ đến mức mặt đỏ bừng cả lên. Lão già chỉ nhắm mắt, chẳng nói chẳng rằng. Chu Thuần càng nhìn càng thấy kỳ lạ. Trông điếm gia có phần đáng thương, Chu Thuần thấy không đành lòng, định bụng lên tiếng khuyên bảo vài câu.

Lão già đó đột nhiên mở mắt nhìn Chu Thuần nói: “Ngươi đến rồi, ta tính ngươi đã đến rồi mà.”

Chu Thuần hỏi: “Lão nhân gia người vì sao giận dữ bọn họ như vậy?”

Lão già đáp: “Đơn giản vì bọn chúng khi dễ làm khó ta. Nếu ngươi là hảo đồ đệ của ta, mau mau thay ta hủy tiệm của hắn, cho một mồi lửa là xong. Nghe rõ chưa?”

Chu Thuần nghe lão già nói chẳng đâu vào đâu, không hiểu ra sao cả. Những người bên cạnh thấy lão ta nói chuyện thân mật như vậy với Chu Thuần, lại thấy người mới đến tướng mạo đường đường bèn nghĩ: “Lão quái hoành hành như vậy, thì ra là vì có đồ đệ như thế này.”

Điếm gia nghe vậy, vô cùng lo lắng, đang định phân bua với Chu Thuần thì lão già đã đứng dậy, cầm bao phục theo người rồi nói: “Ngươi đến rất tốt, việc hôm nay giao cho ngươi đó. Nhưng ta già cả thế này không thể bị đổ là tên ăn quỵt được, phải phóng hỏa thiêu rụi tiệm này nhưng trước hết ngươi hãy tính tiền rượu và đồ ăn đi đã. Ta đi đây.” Dứt lời nghênh ngang bỏ đi.

Khẩu âm lão già kia vốn có điểm như ở nơi khác đến, lại như đột nhiên ở đâu vang lại, nói vô cùng nhanh nên khi đó Chu Thuần bị ông ta làm cho mụ mị không hiểu gì. Đến khi ông ta bỏ đi rồi, điếm gia sợ Chu Thuần thực sự muốn đốt quán của mình nên lại van vỉ không ngớt. Khi Chu Thuần tỉnh ngộ thì lão già đã đi mất, đầu tiên lão phủ nhận không phải là đồ đệ của lão già, việc đốt nhà chỉ là một trò đùa mà thôi. Về tiền ăn uống của lão già, Chu Thuần lại chỉ lo không có đủ để trả hộ.

Cũng may Chu Thuần thực sự biết tự kiềm chế liền để lại một đĩnh hai lạng bạc rồi rẽ dòng người, hướng về phía lão già bỏ đi cất bước đuổi theo. Lão đuổi được vài ngõ cũng chưa thấy đâu liền tiện thể lượn vài vòng trên phố. Khi đi qua cửa Vọng Giang lâu, lão cảm thấy hơi đói liền tính tiến vào ăn uống một chút. Lão đã là khách quen nên vừa mới lên lầu tiểu nhị Lưu Đại đã đón đường nói: “Chu khách nhân, ngài đã đến rồi, xin mời ngài ngồi.”

Chu Thuần theo chỉ dẫn của Lưu Đại ngồi xuống quan sát, chỉ thấy trên bàn đã bày sẵn thức ăn và rượu cùng với hai bộ chén đũa. Nửa số đồ ăn trên bàn đã được động đũa, nửa còn lại vẫn y nguyên. Lão tưởng Lưu Đại dẫn đến chỗ ngồi không đúng liền hỏi hắn: “Người khác chưa ăn xong ở đây, tìm chỗ khác thôi.”

Lưu Đại đáp: “Đây là chỗ dành cho ngài đó mà.”

Chu Thuần vội hỏi: “Ai lưu lại chỗ này cho ta?”

Lưu Đại đáp: “Là sư phụ của ngài.”

Chu Thuần nhớ tới việc mới xảy ra, không khỏi tức khí dâng lên não liền hỏi: “Ai là sư phụ của ta?”

Lưu Đại đáp: “Sư phụ của ngài chính là ông lão rách rưới đó. Trước hết ngài chớ nóng giận, nếu không chúng tôi cũng không dám quản chuyện này. Nguyên lai vừa rồi tại hạ nghe người ta nói, ở phố đằng sau có một lão già muốn ăn quỵt quán cơm ở đó. Nhân tiện quán của chúng tôi ở đây vừa mở cửa, tại hạ liền lén đến đó xem nhiệt náo thì gặp ngài ở đó đang tính tiền rượu thịt cho sư phụ ngài. Đến khi tại hạ trở về, vị sư phụ đó của ngài đã đến đây gọi rất nhiều rượu và thức ăn. Ông ta nói ăn điểm tâm chưa đủ, muốn chờ ngài đến để cùng ăn. Ông ta dùng một nửa, ăn uống vô cùng nhanh và nhiều, còn một nửa để lại phần cho ngài. Ông ta nói: ‘Không thể để cho ái đồ ăn thừa.’ Lại nói cái ông ta muốn ăn cũng là những thứ hợp khẩu vị của ngài. Cho nên tại hạ mới càng thêm tin tưởng ông ta là sư phụ từ nhiều năm trước của ngài. Khi ông ta ăn xong ngài còn chưa tới, ông ta nói ông ta lại có việc nên không thể đợi ngài, phải đi trước một bước. Ông ta dặn rằng bảo ngài tới Từ Vân tự tìm ông ta, gặp được thì thôi. Chúng tôi nhân vì mới có chuyện tiệm ăn kia giữ ông ta khiến thiếu chút nữa bị đốt mất quán, tại hạ lại đích thân chứng kiến ngài đối với ông ta cung kính nên để ông ta đi. Chuyện đại khái như vậy, không hiểu có gì sai không?”

Chu Thuần nghe xong vừa tức vừa buồn cười nhưng lại không có cách nào giải thích cho hắn. Không còn cách nào khác, lão đành phải bảo Lưu Đại đem rượu và thức ăn đi hâm nóng lại, tùy tiện ăn một chút, uống vài ly rượu, càng uống càng giận. Lão thầm nghĩ: “Mình bước chân vào giang hồ đã vài chục năm, hôm nay khi không lại để người khác lừa ăn gạt uống, còn nói là sư phụ mình nữa!”

Vào lúc này, đột nhiên phía cầu thang có tiếng huyên náo, sàn lầu rung lên bần bật, một đại hán cao to đi lên, mặt tía râu vàng, đầu báo mắt hổ, toàn thân ăn vận đồ xanh. Tửu bảo đang đợi hắn lên để sắp chỗ ngồi thì người đó đã nhìn thấy Chu Thuần liền đi thẳng tới, lớn tiếng nói với lão: “Ngươi có phải là Hạc nhi Chu lão tam không?”

Chu Thuần thấy người đó hừng hực khí thế tiến đến, lại không biết ý đồ của hắn nên không khỏi kinh hãi liền buông chén rượu rồi cất mình bay về phía bậu cửa sổ.

Lão nói: “Chính là Chu mỗ đây. Ta và ngươi bình sinh chưa hề gặp mặt, tìm ta có chuyện gì?”

Người đó nghe vậy cười ha ha nói: “Chả trách lão già bảo ngươi sẽ chạy, quả nhiên là vậy. Ta đây không tìm ngươi để đánh đấm, ngươi mau mau xuống đi, ta có chuyện muốn nói.”

Chu Thuần nhìn kỹ người nọ, dù trông thô lỗ nhưng mặt lại toát lên chính khí. Biết rằng hắn không có ác ý, lão liền phi thân xuống, lại ngồi vào ghế. Người nọ liền hỏi Chu Thuần có thể dùng cơm rượu được không.

Chu Thuần vốn đã ăn gần hết, nghĩ rằng người này muốn uống rượu liền nói: “Ta đã ăn uống no say rồi, các hạ nếu như muốn dùng có thể gọi tửu bảo mang thêm ít đồ ăn đến.”

Nói chưa dứa lời, đang định nhân tiện hỏi tính danh người kia thì hắn đột nhiên đứng dậy, lấy ở bên hông ra một đĩnh bạc đặt trên bàn coi như trả tiền rượu.

Chu Thuần đang khéo léo từ chối thì người đó đã chậm rãi tiếp cận, nhân lúc Chu Thuần không lưu tâm đã chộp lấy tay lão rồi vác lão lên vai, sau đó nhảy xuống lầu, thân pháp nhanh vô cùng. Dày dặn kinh nghiệm như Chu Thuần cũng vô pháp thi triển thủ đoạn, bị người đó chế ngự được mạch môn hai tay, không thể cử động, đành mặc cho người đó vác đi.

Người ở trên lầu đầu tiên thấy đại hán đi lên rồi Chu Thuần lao ra cửa sổ đã sớm kinh hãi. Bây giờ lại thấy Chu Thuần bị vác đi liền thảo luận ầm ĩ, đều đoán Chu Thuần là loại đào tường khoét vách, đại hán đó là quan nhân đi làm nhiệm vụ, hiện giờ đem Chu Thuần đi chắc là để lãnh thưởng. Vào lúc hỗn loạn này, cách chỗ Chu Thuần ngồi không xa, có một văn sinh tú sĩ cười lạnh hai tiếng rồi nhanh chóng tính tiền, xuống lầu bỏ đi. Chuyện không đề cập đến nữa.

Lại nói Chu Thuần bị đại hán vác trên lưng, vừa hận vừa nhục, tự nghĩ lăn lộn trên giang hồ đã vài chục năm, chưa bao giờ thất bại. Vậy mà hôm nay vô duyên vô cớ lão bị một kẻ không biết thần thánh phương nào chớp nhoáng chế ngự, vác trên vai chạy loạn đại nhai nên trong lòng cực kỳ khó chịu. Nhưng thân thể đã bị người ta chế trụ huyệt đạo không thể cử động, chỉ có thể xem hắn đem mình đến đâu. Chỉ cần xuống đất khôi phục được tự do, lão sẽ có thể giao thủ với hắn.

Lão đang miên man suy nghĩ thì đại hán đó chạy nhanh như bay đã ra khỏi thành. Chu Thuần đưa mắt nhìn đúng là đường lớn tới Từ Vân tự, thầm nghĩ không ổn. Lúc này đã đến rừng cây trước miếu, đại hán nọ liền đặt lão xuống, cũng chẳng nói gì chỉ nhìn Chu Thuần cười cười. Chu Thuần vô cùng bực bội nhưng bị người đó nắm chặt mạch môn một hồi lâu, toàn thân đờ đẫn, một lát sau mới tập tễnh được vài bước nhưng vẫn tập trung nhìn đại hán kia thấy hắn không hề có chút ác ý nào.

Lão đang định hỏi hắn vì cớ gì mà đùa dai như vậy thì chỉ thấy trước mắt sáng bừng, một đạo bạch quang lóe lên rồi một văn sinh tú sĩ trạc mười tám mười chín tuổi đứng sững trước mặt, toàn thân một màu lụa trắng tinh. Khi lão nhìn lại đại hán nọ thì thấy hắn há miệng trợn mắt đứng ở đó, mồ hôi chảy tong tỏng, biết là đã bị thiếu niên kia điểm huyệt. Lão đang muốn hỏi thiếu niên đó thì bỗng nghe thấy gã nói: “Con lừa ngu xuẩn nhà ngươi, lên lầu cũng tinh tinh tướng tướng, bước trên cầu thang làm lầu rung rinh, rơi cả bụi vào cốc rượu của lão gia. Không ngờ ngươi còn dám thi triển thủ pháp phân cân thác cốt bắt người đến đây, thật không biết xấu hổ. Bây giờ ngươi có bổn sự gì thì cứ giở ra hết đi, nếu không đừng trách ta đem ngươi ra sỉ nhục.”

Đại hán nghe gã thiếu niên nói thế, hai mắt nhìn Chu Thuần có ý cầu xin sự trợ giúp. Chu Thuần thấy trên mặt hắn mồ hôi to như hạt đậu ròng ròng chảy xuống, biết rằng thủ pháp điểm huyệt của gã thiếu niên là một loại độc môn công phu, nếu để quá lâu tất sẽ thụ nội thương. Thêm vào đó đại hán này tướng mạo đường đường, công phu cũng rất có căn cơ, dù có đùa dai với mình nhưng bên trong tất có nguyên nhân. Nhìn thấy hắn thống khổ như vậy, lão thật có phần không đành lòng, lão bèn nói với gã thiếu kia: “Người này tuy thô lỗ nhưng ta vẫn chưa biết hắn tốt xấu thế nào, vị anh hùng hà tất phải so đo với hắn?” 

Lão khuyên giải một hồi, thấy gã thiếu niên vẫn đứng đó không nói gì, tưởng gã coi thường mình nên lão thấy rất khó chịu.

Lão đang định lên tiếng khuyên giải tiếp, ai ngờ thấy trước mặt gã thiếu niên cũng trợn mắt há miệng, đứng sững ra đó, chẳng biết từ khi nào đã bị người ta ngầm điểm huyệt. Lại nhìn vào ánh mắt của gã, lão thấy thậm chí còn không chuyển động được như đại hán kia, biết rằng mình không thể giải cứu nổi. Nội ngoại công của Chu Thuần đều ở mức thượng thừa, lúc trước bị đại hán ám toán nguyên là vô ý không phòng bị, còn không đối với lão chuyện điểm huyệt giải huyệt thông thường cũng chẳng mất mấy hơi sức.

Lão liền đi tới bên cạnh đại hán, nhìn vào vùng dưới nách của hắn, dùng lực vỗ một chưởng. Đại hán đó hồi phục lại ý thức, nhìn Chu Thuần kêu lên ngạc nhiên. Quay đầu lại thấy gã thiếu niên đứng đó, hắn không kiềm chế được, nổi giận đùng đùng, lao nhanh tới, định bụng cho gã một cước. Chu Thuần muốn ngăn nhưng đã không kịp. Đại hán đó ngoại công cực tốt, một cước chí ít cũng có vài trăm cân lực đạo, nếu trúng e rằng xương chẳng gãy thì gân cũng lìa. Thiếu niên đó bị người khác điểm huyệt không thể di chuyển nên chắc chắn không thể tránh khỏi.

Vào lúc nguy hiểm cận kề này, chỉ thấy nhoáng lên một cái, bên cạnh gã thiếu niên bỗng xuất hiện một lão già nhẹ nhàng ung dung đón cước của đại hán. Đại hán thấy lão già liền reo lên: “Lão kêu ta đem người họ Chu lại nhưng lão lại chạy đi đâu đấy? Ta thiếu chút nữa đã chịu nhục một trận trong tay tên nhãi chó chết này rồi. Ngươi mau tránh ra để ta đá hắn một cái.”

Lão già đáp: “Ngươi thật không biết xấu hổ, ngươi đụng được vào gã chắc? Nếu không phải ta thấy gã quá ngông cuồng, chế trụ gã lại thì ngươi đã sớm xiểng niểng rồi.”

Lúc này Chu Thuần nhìn rõ người đó, chính là lão già mà mình mới trả tiền hộ, giả mạo xưng là sư phụ, ăn quỵt uống quỵt. Vừa thấy lão động thủ cước như vậy, biết không phải hạng bình thường liền vội vàng quỳ xuống, kính cẩn nói: “Sư phụ giá lâm, đệ tử Chu Thuần bái kiến.”

Lão già nói: “Bây giờ ngươi không nói ta ăn quỵt uống quỵt nữa chứ? Trước tiên ngươi chớ vội vàng như vậy, để ta đem gã kia lại đây dạy dỗ đã.”

Dứt lời, chỉ nhẹ nhàng vỗ vào bả vai thiếu niên đó một cái thì gã đã tỉnh lại.

Thiếu niên đó vô cùng xấu hổ, cân nhắc một lát rồi đột nhiên há miệng, một đạo bạch quanh bay ra. Chu Thuần đang lo lắng cho lão già thì chỉ thấy lão cười ha hả: “Tiểu xảo nhỏ mọn cũng đòi sính cường sao.” Nói rồi thong thả huơ tay lên đã cầm được đạo bạch quang. Đạo bạch quang như thể có linh tính, trong tay lão già uốn éo không ngừng, tựa như muốn thoát ra bỏ chạy vậy.

Thiếu niên kia thấy lão già thu gọn kiếm quang, vừa nhìn lão vừa thở dài một hơi rồi xoay người bỏ đi. Ai ngờ chạy chưa được vài bước, lão già đã lù lù trước mặt cản đường, chạy hướng nào cũng thấy lão ta trước mặt. Trong lòng vô cùng lo sợ, gã bèn nói: “Lão đã điểm huyệt ta, lại thu kiếm quang của ta, thế đã là quá đủ, hà tất phải cố truy cản ta làm gì?”

Lão già đó đáp: “Ta và người lần đầu gặp mặt mà ngươi đã hạ độc thủ như thế, chẳng lẽ đây là nô tài Lý Nguyên Hóa đó dạy ngươi sao?”

Thiếu niên nghe xong lời này, kinh sợ nhảy dựng lên, biết rằng lão già tất có lai lịch lớn liền vội vàng đổi giọng cầu khẩu: “Đệ tử vì bị lão nhân gia người ngầm điểm huyệt rồi bị làm nhục trước mặt người khác, nhất thời nóng giận hồ đồ nên mới phóng ra kiếm quang, định cắt chút tóc của lão nhân gia người để gỡ gạc chút thể diện, ai ngờ đã mạo phạm đến lão tiền bối. Thanh quy của gia sư cực nghiêm, khi truyền kiếm đã nói vạn bất đắc dĩ mới được sử dụng, không được bừa bãi. Từ lúc hạ sơn đến giờ, hôm nay vãn bối mới dùng lần đầu. Những điều này không dám lừa dối lão tiền bối, người có thể kiểm chứng được.”

Lão già đem kiếm quang trong tay nhìn thử rồi nói: “Quả nhiên ngươi không nói dối. Niệm tình ngươi vi phạm lần đầu ta tha thứ cho ngươi, chỉ phạt ngươi đi thay ta làm chút việc. Bởi vì ta xuất thế lần thứ hai, những người ngày trước chết thì đã chết rồi, ẩn thì đã ẩn rồi, ta không muốn tìm những lão già ấy nữa, còn lũ trẻ tuổi sôi nổi các ngươi cứ sảng khoái hành động.”

Dứt lời lão đem kiếm quang trả cho gã thiếu niên. Gã thiếu niên liền vội vàng nhanh nhảu đáp ứng: “Lão tiền bối nếu có sai khiển, chỉ cần không trái với quy củ của gia sư thì dù dầu sôi lửa bỏng, nguy hiểm đến mấy vãn bối cũng chẳng từ.”

Lão già liền đến cạnh nói nhỏ với gã thiếu niên vài câu, gã đều nhất nhất đáp ứng.

Lúc này Chu Thuần đã biết đại hán đó tên gọi Lục Địa Kim Long Ngụy Thanh, là trượng phu của người phụ nữ mà vài ngày trước lão mới cứu trong tay Mao Thái. Chỉ vì ngày ấy Ngụy Thanh quay lại, thê tử của hắn đem chuyện Chu Thuần đến cứu nói lại một lượt, Ngụy Thanh liền nộ khí xung thiên, nhất định phải tìm Mao Thái và Chu Thuần để báo cừu tạ ân. Tìm kiếm đã nhiều ngày nhưng hắn cũng chưa từng gặp được. Trong lúc vô ý gặp lão già kia, lúc đầu lão cũng trêu chọc hắn, về sau mới nói cho hắn biết là Chu Thuần đang uống rượu ở Vọng Giang lâu.

Lão nói: “Nếu ngươi đi gặp y với hảo ý, y tất chẳng thèm để ý đến ngươi.” Vì vậy mới truyền cho Ngụy Thanh thủ pháp phân cân thác cốt, dặn hắn mang Chu Thuần vào trong rừng. Ngụy Thanh vốn ngu ngốc nên cứ theo lão già nói mà làm. Trong khi nghe lão già nói chuyện với gã thiếu niên, rốt cuộc Chu Thuần liền hỏi và Ngụy Thanh đem mọi chuyện nói cho lão hay. Chu Thuần biết hắn thuần phác nên cũng không tiện trách mọc. Lúc này lão già và gã thiếu niên đã quay lại.

Gã thiếu niên và Chu Thuần liền hỏi danh tính của lão già. Lão già nói với gã thiếu niên: “Nếu ngươi về núi hãy nói cho sư phụ ngươi biết có Bạch lão đầu ở Tung Sơn Thiếu Thất hỏi thăm, ông ta sẽ biết.”

Gã thiếu niên nghe xong câu này, vội vội vàng vàng quỳ xuống nói: “Lão nhân gia người nhất định là Thần Hành Vô Ảnh Truy Vân Tẩu mà năm mươi năm trước giang hồ xưng tụng, là một trong Đông Hải tam tiên, lại là một kiếm hiệp trong Tung Sơn nhị lão đúng không ạ? Đệ tử có mắt mà không thấy Thái Sơn, xin được thứ tội.”

Lão già đó liền mỉm cười. Lúc này Chu Thuần mới biết lão ta chính là một trong nhị lão mà Túy đạo nhân đã nói liền vội quỳ thụp xuống xin thu nhận. Lão già nói: “Ngươi cầu sư phụ ở nhiều nơi nhưng người ta đều xem thường không thèm thu nhận. Lão già ta tính tình đặc biệt, người ta bảo không tốt thì ta lại nói hay, người ta nghĩ không cần thì ta lại muốn có. Nhưng đặc biệt đã dẫn dụ ngươi hai lần mà ngươi không chịu lại, cho nên ta không thu nhận ngươi nữa.”

Chu Thuần vội nói: “Sư phụ, lão nhân gia người đùa giỡn với thế gian, đệ tử người trần mắt thị làm sao mà hiểu được? Mong lão nhân gia người thương cho đệ tử một phen khổ tâm.”

Dứt lời dập đầu không ngừng. Lão già cười sằng sặc nói: “Không đùa ngươi nữa, ngươi xem bộ dạng của ngươi có đáng thương không kìa. Nhưng làm đồ đệ của ta thì phải chấp nhận một điều kiện, ngươi có theo được không?”

Chu Thuần đáp: “Đệ tử ngu dốt được lão nhân gia người thu làm môn hạ, ân trọng như sơn, không dám không tuân mệnh.”

Lão già nói: “Tính ta vốn thích uống rượu nhưng lại chẳng có tiền, tuổi đã già rồi không thể như Túy đạo nhân đi ăn cắp rượu uống được. Từ sáng đến tối ba bữa rượu, ngươi có thể trả cho ta được không?”

Đứng ở bên cạnh, Chu Thuần biết lão già thích nói giỡn liền cung cung kính kính đáp ứng.

Lão lại hỏi thiếu niên nọ tên họ gì mới biết gã là đệ tử đắc ý của Nhiêm Tiên Lý Nguyên Hóa, tên là Tôn Nam. Vì thế lão liền hỏi tung tích Triệu Yến Nhi, biết được hiện tại gã đang chăm chỉ luyện tập, ba năm nữa có thể gặp lại, trong lòng vô cùng vui mừng thay cho Triệu mẫu. Tôn Nam thích vận đồ trắng, dù xuất thế chưa đầy hai năm đã được giang hồ đặt cho ngoại hiệu nho nhã là Bạch Hiệp.

Mọi người đang nói chuyện đột nhiên trong rừng có tiếng cười ha hả: “Lão tiền bối nói ai đi ăn cắp rượu thế?”

Mọi người đưa mắt nhìn vào trong rừng, thấy một đạo nhân đeo hồ lô rượu màu hồng, phía sau có một nữ tử đi theo. Trừ Ngụy Thanh, mọi người đều nhận ra đó là kiếm tiên Túy đạo nhân liền tiến lên chào hỏi. Chỉ có Chu Thuần nhìn nữ tử vận đồ đen kia, không nhịn được nhảy dựng lên, đang định mở miệng hỏi thì nữ tử đó đã đến trước mặt lão quỳ xuống.

Nhìn kỹ lại, quả nhiên chính là ái nữ Khinh Vân. Lão hỏi vì sao bây giờ mới đến? Khinh Vân trả lời vì ở trong núi luyện một món pháp bảo. 

“Trên đường gặp được Túy sư bá mới biết là cha và Bạch tổ sư ở đây cho nên cùng nhau đến gặp.”

Chu Thuần liền dẫn con gái bái kiến tổ sư và mọi người. Trong lòng lão thầm nghĩ: “Hôm nay sư phụ và Túy đạo nhân cùng tụ hội ở đây, quyết không phải không có nguyên nhân gì.”

Lão đang định hỏi chuyện thì chỉ nghe thấy Túy đạo nhân nói với Truy Vân Tẩu: “Chúng ra có những vị anh hùng kiếm khách này đủ để cùng con lừa ngốc đó cùng tranh cao thấp. Nghe nói Trí Thông bảo Tần Lãng qua Điền Tây hái thuốc xong thì vòng lại Đả Tiến Lô, cầu phương trượng Phấn Diện Phật Du Đức của Ôn Thần miếu và Phi Thiên Dạ Xoa Mã Giác đến giúp y một tay. Mã Giác thì chẳng lo, chỉ là Phấn Diện Phật Du Đức đã luyện được Ngũ Độc Truy Hồn Hồng Vân Sa mười phần lợi hại. Ta cùng lão tiền bối dù không sợ bọn chúng nhưng làm thế nào các tiểu huynh đệ chống lại được. Cho nên chúng ra phải hạ thủ nhanh chóng, phá xong sào huyệt thì cứu binh mới đến, như thế cũng chẳng thế làm gì. Lão tiền bối nghĩ thế nào?”

Quả là

Người trần mắt thịt hay tranh đấu

Đạo sỹ tiên nhân cũng chẳng hơn

Chú thích

* Ý nói Chu Thuần không còn thân đồng nam nữa, điều này là rõ ràng vì lão đã có con.

Hết hồi thứ mười một

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười hai

Bạch nhật tuyên dâm Đa Tý Hùng cách hộ thính xuân thanh 

Hắc dạ sừ gian nhất hiệp nữ thiện quan tiêm cự đạo

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: herobk13

Biên dịch: BH Mod

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Ban ngày hành dâm, Đa Tý Hùng ngoài cửa nghe tỷ tê

Đêm tối trừ gian, hiệp nữ khách cửa thiền giết hung tặc.

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Truy Vân Tẩu cũng không trả lời, bấm tay tính toán nói: “Không được không được, như thế sẽ có vài người chịu báo ứng trong tương lai. Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, cố nhẫn nại mấy ngày đợi cứu binh của chúng đến thì bọn ta sẽ làm một mẻ bắt sạch, không để chúng lại có cơ hội làm hại nhân gian. Nếu bây giờ phá miếu, bọn chúng đương nhiên sẽ tổn thất nhưng chúng ta cũng thiếu người. Huống hồ bọn tứ Kim Cương, Mao Thái cùng lũ môn hạ yêu đồ trong miếu dù là bàng môn tả đạo nhưng cũng mười phần lợi hại. Ngụy Thanh, Chu Thuần không biết kiếm thuật, Tôn Nam, Khinh Vân tuy biết nhưng cũng không thể ngang tay với bọn Mao Thái. Ngày trước trên đường ta có gặp sư phụ của Tôn Nam là lão Lý râu ria, vì y có tài chạy nhảy nên ta nhờ y thay ta đi mời vài vị bằng hữu. Ta định vào ngày mồng một tháng giêng năm tới tất cả sẽ gặp nhau ở Bích Quân am của ngươi, lúc đó lại cùng nhau tìm ra kế hoạch phá miếu, trừ tuyệt hậu hoạn.”

Túy đạo nhân nói: “Những lời của tiền bối rất chí lý. Chỉ là mới đây trên đường gặp Khinh Vân, nó ba lần cầu ta tương trợ, lên kế hoạch tối này đến Từ Vân tự nghe ngóng động tĩnh. Lão tiền bối có thể tiên tri, xin hỏi bọn ta nên đi hay không đi?” 

Truy Vân Tẩu đáp: “Ngày trước Khổ Hạnh đầu đà có nói với ta, ta mạnh mồm nói tất cả nhờ vào Nhị Vân. Vân kia thì đang khổ tu, Vân này lại tinh tiến như thế thật là đáng mừng. Cứ đi đi, chỉ là ngươi không nên lộ diện mà ở trong bóng tối ám trợ nó. Có được chút thắng lợi thì hãy quay về ngay. Vì yêu tăng Trí Thông vị tất đã biết chúng ta sang năm hành động trên diện rộng, chúng ta nên tránh để y nhìn ra mưu kế cúa chúng ta rồi đi tìm những dư đảng của tên sư phụ quá cố của y, ngày sau sẽ tốn nhiều sức lực.”

Nói rồi liền dẫn Chu Thuần, Ngụy Thanh, Tôn Nam chia tay Túy đạo nhân. Sau bao khó khăn cha con Chu Thuần mới gặp lại liền nói với nhau vài câu trước khi chia tay, không khỏi bùi ngùi buồn bã. Truy Vân Tẩu nói: “Ngươi cứ cha con ủy mỵ sướt mướt như thế, đâu phải bản sắc của kiếm hiệp? Nó đi lần này tất thu hoạch thắng lợi, sau này hai cho con gặp lại tha hồ nói chuyện, hà tất bây giờ phải nấn ná?”

Chu Thuần lại dặn dò Khinh Vân không được lơ đễnh, tất cả phải nghe theo lời của Túy đạo nhân. Khinh Vân nhất nhất đáp ứng rồi chia tay. Chuyện không đề cập đến nữa.

Lại nói hung tăng Trí Thông ở Từ Vân tự, từ khi Phấn Điệp Nhi Trương Lượng đi hái hoa mất tích, Chu Vân Tòng đào tẩu khỏi địa lao, cha con họ Trương bỏ nhà ra đi, chỉ trong một hai tháng mà đã phát sinh ra bao nhiêu chuyện, trong lòng cảm thấy bực dọc không vui. Chỉ là Mao Thái vì muốn báo thù nên năm lần bảy lượt nói muốn rời miếu đi tìm Chu Thuần nhưng đều bị Trí Thông ngăn cản. Mao Thái biết Trí Thông không muốn dính vào rắc rối nên vô hình trung không hiểu mình.

Một buổi tối, có hai người ở trong mật thất cùng nhau hoan hỷ, ma quỷ dẫn lối thế nào, vì một nữ tử được Trí Thông sủng ái mà hai tên dâm tăng sinh ra hiểu lầm sâu sắc. 

Nguyên lai Trí Thông dù là dâm hung cực ác nhưng vì nhìn thấy vết xe đổ của sư phụ y, lại tự mình kiến tạo nên một tòa Từ Vân tự vô cùng gian khổ, cho nên bình thường quyết không tác quái tại bổn địa. Mỗi năm chỉ có vài lần phái môn hạ của y là tứ Kim Cương đi trước đến các tỉnh lân cận làm ăn vài thứ rồi tiện tay dắt dê cướp đoạt lấy vài nữ tử xinh đẹp đem về vui vẻ.

Y còn có tính được mới nới cũ rõ ràng. Những nữ tử bị bắt này nếu bản tính kiên trinh thì sẽ không thoát khỏi cái chết. Những nữ tử khiếp sợ sự hung hãn của y, để y thường xuyên dâm loạn cũng chỉ phục vụ được tối đa một năm. Về sau họ đều bị ruồng bỏ, sung vào đội vũ nữ, trở thành môn hạ phục vụ, bị y tùy ý sử dụng. 

Ba năm trước, ngẫu nhiên miếu của y bắt được một nữ phi tặc tên là Dương Hoa, Trí Thông vì hận thị dám động thổ trên đầu thái tuế nên lúc đầu y bảo tăng đồ trong miếu đóng cửa cùng nhau hoan lạc tập thể, sỉ nhục cho một trận rồi sau đó thủ tiêu thị.

Vì nữ tử đó dung mạo bình thường nên y vốn không có ý xâm phạm. Ai ngờ khi lột quần áo của thị ra mới thấy thân thể trắng trẻo như ngọc, nhỏ nhắn mơn mởn, da dẻ mịn màng, kêu khóc thảm thương kích động, kiều mỵ dị thường. Trí Thông không khỏi động lòng dâm, lấy tư cách phương trượng tranh việc hưởng thú hoan hỉ đầu tiên. Ai ngờ nữ nhân đó không chỉ trắng trẻo thơm tho mà còn vô cùng dâm đãng, nghệ thuật câu dẫn chốn buồng the tuyệt vời không sao tả xiết. Trí Thông dù đã có quá nhiều gái qua tay nhưng chưa từng được nếm trải hương vị kỳ lạ kiểu này.

Sau một lần chung đụng đã khiến y chết mê chết mệt, coi thị như báu vật, không cho môn đồ nào động vào. Đám môn hạ của y toàn là dâm tăng, mắt thấy miếng thịt dê sắp đến tận miệng mà sư phụ đột nhiên thất hứa, dù trong lòng cực kỳ khó chịu ngứa ngáy nhưng chẳng dám nói ra. Cũng may trong miếu mỹ nhân rất nhiều, ngày rộng tháng dài rồi chúng cũng không để tâm chuyện đó nữa. Ngày đầu tiên Mao Thái đến miếu, Trí Thông vì nóng lòng trả thù Nga My kiếm hiệp nên muốn lôi kéo Mao Thái và sư phụ của y về phía mình để tăng cường thế lực.

Nhưng Dương Hoa được ân sủng sinh kiêu, không biết vì cớ gì mà bất hòa với Trí Thông khiến y bực lên liền đem Dương Hoa cho Mao Thái, những muốn đem gái ra dụ người. Mao Thái có được Dương Hoa như vớ được dị bảo, tất nhiên cảm động rơi cả nước mắt. Trí Thông mất đi Dương Hoa, khi hoan hỷ với người khác thực sự thấy vô cùng tẻ nhạt. Nhưng y lại không thể thay đổi quyết định nên chỉ đợi khi Mao Thái không ở trong miếu thì lén lén lút lút ăn vụng, vô cùng bất tiện.

Dương Hoa đó lại cố ý tìm cách dẫn dụ khiến y dở khóc dở cười, ngày càng ấm ách khó chịu. Lúc đó lại vừa cướp được hai mỹ nữ ở tỉnh bên cạnh, y liền gợi ý Mao Thái, tính sẽ đem đổi lấy Dương Hoa về. Mao Thái tất nhiên vạn lần không chịu nhưng đang ở chỗ người khác nên cũng cảm thấy lúng túng nếu nói không đáp ứng. Từ đó hai tên dâm tăng chia nhau dùng chung. Cuộc tình tay ba rất dễ dẫn đến sóng gió. Cả hai đều đầy một bụng tức khí nhưng vì thể diện nên đều nhẫn nhịn, bực dọc không biết làm sao.

Tối hôm đó đáng ra là lượt của Mao Thái và Dương Hoa. Vì trước khi cứu binh đến Trí Thông không để Mao Thái ra ngoài tìm Chu Thuần báo thù nên y cười thầm Trí Thông nhát gan nhu nhược. Ngày hôm đó, y cũng không nói với Trí Thông, lén lút rời miếu vào thành nghe ngóng tin tức về Chu Thuần. Ai ngờ cừu nhân chưa gặp thì vô tình lại nghe được người ta nói sớm nay huyện nha môn xử quyết dâm tặc hái hoa, vì sợ tặc nhân cướp pháp trường cho nên đổi thành chấp pháp tại cửa đại đường. Hiện giờ thi thể của phạm nhân đã bị địa phương treo ở ngoài thành.

Mao Thái nhân vì ái đồ thất tung, đang nghi nghi hoặc hoặc, nghe thấy như vậy trong lòng liền nghĩ là Trương Lượng nên đi đến hỏi han. Thì ra phạm nhân không có khổ chủ nhận về, đến chính Ngọ địa phương liền quẳng thi thể ra ngoài thành, định sau bữa ăn sẽ đem đi chôn cất, chỉ dùng một mảnh chiếu cỏ phủ lên trên. Mao Thái đi đến nơi đó, thừa dịp người ta không để ý, vạch chiếu ra nhìn, không phải ái đồ Trương Lượng của y thì còn là ai? Đầu một nơi thân một nẻo, hai chân bị người ta cắt cụt đến đầu gối, trông vô cùng thê thảm.

Một tờ cáo thị phạm nhân vẫn ở cạnh tử thi, trên đó có ghi “Hái hoa sát nhân đại đạo tên Trương Lượng phạm tội chém đầu”. Mao Thái nhìn tờ cáo thị đó mà gần như muốn xỉu. Y biết nha dịch trong huyện tuyệt không phải địch thủ của Trương Lượng, tất có người khác đối địch với hắn. Y và Trương Lượng vốn vì đồng tính luyến ái* với nhau mà kết làm sư đồ, càng nghĩ lại càng thấy thương tâm. Y quyết tâm quay lại miếu thương lượng với Trí Thông, tìm cách nghe ngóng xem cừu nhân là ai. Lúc này quan chức địa phương ăn trưa xong quay lại, thấy một hòa thượng cao to đang vén chiếu lên nhìn thi thể, bộ dạng trông khả nghi liền tiến lên hỏi chuyện.

Mao Thái liền nói mình là hòa thượng Từ Vân tự, vì người xuất gia lấy từ bi làm gốc nên không đành lòng nhìn tình cảnh thảm khốc thế này. Dứt lời, y lấy ra trên người hơn hai mươi lượng bạc, đưa cho quan chức địa phương hai mươi lạng nhờ họ mua một quan tài để đem thi thể đi mai táng, phần cho lại cho họ uống rượu. 

Nguyên Từ Vân tự ở Thành Đô rất nổi tiếng, quan phủ đều rất tôn kính. Hơn nữa, bọn ở địa phương đã quen nhận tiền nên lập tức bọn họ liền nhận lấy ngân lượng, rối rít cảm ơn rồi đi xử lý hậu sự cho phạm nhân. Mao Thái đợi lũ quan chức địa phương mua quan tài đem đến rồi tự thân giúp họ đem Trương Lượng nhập quan, đưa ra nghĩa địa mai tang, vô cùng đau khổ khóc lóc một hồi. Quan chức địa phương thấy kỳ dị nhưng vì đã nhận tiền của y nên cũng không để tâm.

Họ coi trọng Từ Vân tự đó nên càng đặc biệt ân cần. Mao Thái cảm thấy rất buồn bã, lại đưa cho họ năm lượng bạc uống rượu rồi mới bỏ đi. Khi y mai táng Trương Lượng thì tại Vọng Giang lâu Chu Thuần đang bị Ngụy Thanh vác vào trong rừng. Nếu không phải Chu Thuần bị Ngụy Thanh đùa giỡn thì khi Mao Thái quay lại miếu, chẳng phải hai người sẽ chạm trán sao? Thật chẳng biết thế nào được.

Lại nói Mao Thái thấy ái đồ đã chết, vừa buồn vừa hận, vội vội vàng vàng rời thành về miếu. Đi đến bìa rừng, đột nhiên y thấy trong rừng sương giăng dày đặc một đám vài chục trượng, dưới ánh tịch dương đang tắt dần trông vô cùng bắt mắt. Y vừa đi vừa nhìn, đang thấy thú vị thì bỗng nhớ tới hiện tại đang là trời thu quang đãng, mặt trời còn chưa khuất núi, sao trong rừng lại có sương mù dày đặc như vậy? Hơn nữa ngoài khuôn viên vài chục trượng ấy vẫn tràn ngập ánh ráng chiều trong sáng.

Việc này có điểm kỳ lạ, hay là trong rừng có bảo vật gì muốn xuất thế cho nên mới bốc lên khí chất huyền ảo như vậy? Vừa nghĩ đến đó thì y đã tới cửa miếu. Y vội vàng đi vào tìm Trí Thông nhưng tìm khắp các thiền phòng, mật thất vẫn vô ảnh vô tung. Lúc đó tri khách tăng đi đến, y liền hỏi Trí Thông ở đâu. Liễu Nhất đáp: “Ta vừa mới thấy sư phụ đi về phía hậu điện, có thể là đi tìm ngươi chăng?” Mao Thái cũng chẳng ngại liền đi đến hậu điện.

Cạnh hậu điện đó có hai gian thiền phòng chính là phòng ngủ của Mao Thái. Y vừa mới đi tới cửa sổ phòng mình thì loáng thoáng nghe thấy tiếng thở gấp gáp của cuộc mây mưa. Mao Thái nhẹ nhàng chọc thủng cửa sổ nhìn vào thì cơ hồ tức giận đến tận phế phủ. Nguyên lai người y yêu thích duy nhất, vợ chung của y và Trí Thông, Dương Hoa đang lõa lồ nằm thõng thượt trên thiền sàng của y, Trí Thông đứng ở trước giường đang cuồng nhiệt phi nhanh, thở hổn hển tăng tốc, một mặt vẫn dịu dàng thầm thì những lời yêu đương.

Mao Thái vốn định lao vào trong hỏi Trí Thông vì sao lại không giữ lời, hôm nay là lượt của y mà lại đến chỗ y xâm phạm? Sau y lại nghĩ lúc trước Trí Thông cùng mình quyết định chung nhau thủ lạc nhưng Dương Hoa nguyên là người của Trí Thông, thỉnh thoảng được ăn ké một lần cũng đã là tốt rồi. Mình đã là người đi ăn nhờ ở đợ, rất nhiều việc phải trông cậy vào y, không đáng vì một chuyện nhỏ nhặt mà nổi giận, do đó nộ khí cũng dần dần nguội bớt.

Thật ra sau lưng Trí Thông, Dương Hoa luôn nói thị thích y thế nào. Việc cùng với Trí Thông dâm lạc là do nàng khiếp sợ hung uy, không còn cách nào khác mà thôi. Hôm nay, hiếm hoi lắm y được thấy hai người bọn họ diễn cảnh dâm loạn, thích thú nghe lén được họ nói, phải chăng có thế khảo nghiệm được tấm chân tình của Duơng Hoa. Rồi y trầm tĩnh lại để quan sát nghe ngóng. Ai ngờ không nghe còn hay, vừa nghe thì khí tức đã dâng lên não, tựa hồ quay cuồng đầu óc như trước. Nguyên là Dương Hoa trời sinh dâm dãng, lại mồm mép trơn tuột, chỉ tìm cách cho đối phương được vui vẻ nên lời nào cũng có thể nói được.

Mao Thái chỉ muốn nghe để nhận ra bộ mặt thật, đúng lúc Trí Thông đã xong việc, dừng lại hỏi Dương Hoa: “Cục cưng nhỏ bé của ta ơi, nàng nói thật đi, rốt cuộc ta so với tên kia như thế nào?”

Mao Thái ở bên ngoài nghe được câu này, càng tập trung tinh thần để nghe xem Dương Hoa đáp làm sao. Trong lòng y nghĩ: “Nàng đã cùng ta ân ái như vậy, cho dù không thể nói thẳng với Trí Thông là ta tuyệt thế nào nhưng cũng quyết không thể nói ta quá tệ được.”

Ai ngờ Dương Hoa nghe Trí Thông nói xong, mắt biếc sáng lên, miệng nhỏ xinh như hoa anh đào khẽ bĩu, vô cùng dâm dật đáp: “Hòa thượng đáng yêu của ta ơi, chàng không đề cập đến y thì tốt, nhắc đến y quả thực khiến tiểu nô gia ta chỉ hận không thể cắn chàng vài cái cho đỡ tức. Lúc trước tưởng được chàng quan tâm, hưởng thụ ân ái thế nào, ai ngờ chẳng hiểu chàng làm sao lại tình nguyện làm con rùa rụt đầu, đem người yêu dấu đi cho bằng hữu. Sau đó chàng lại không chịu được, muốn lấy lại tiểu nô gia. Y đã nếm mật ngọt đương nhiên là không chịu nên mới nói mỗi người một ngày. Rõ ràng là người của chàng mà lại hóa thành ‘phản khách vi chủ’. Chàng nguyện làm con rùa rụt đầu cũng là đáng kiếp. Chỉ thương tiểu nô gia, mỗi lần đến ngủ với cái tên cường đạo mất ngón tay kia, chỉ hận trời không lập tức sáng. Chàng nghĩ mà xem, hai chân lông lá to như cái thùng với thân thể nặng như trâu nước ấy mà đè lên người thì nô gia chịu làm sao nổi.”

Thị lại tiếp: “Cũng không biết y chọc giận ở đâu mà bị người ta cắt mất hai ngón tay khiến ai nhìn cũng thấy buồn nôn. Thế mà y dám lừa thiếp, nói là khi còn nhỏ bị mụn nhọt mà cụt mất. Những lời này chỉ có thể lừa người khác chứ nô gia cũng biết chút võ nghệ thô thiển, sao mà không biết là bị binh khí chặt đứt? Thiếp chỉ nghe lời chàng, muốn lợi dụng y để tương lai y bán mạng cho chàng thôi. Theo thiếp thấy, y cũng chỉ có cái mồm chứ vị tất đã có bổn sự gì. Thiếp mong vào một buổi tối, vài địch thủ có năng lực đến đánh một trận với y, để xem y có bản lĩnh thực sự hay không. Nếu như là loại tầm thường thì đuổi y đi trước khi quá muộn, để chàng đỡ phải làm con rùa rụt đầu và thiếp cũng đỡ bực mình.”

Ả chỉ lo tâng bốc Trí Thông, càng nói càng cao hứng, ngàn vạn lần không tưởng được Mao Thái nghe được rõ ràng. Trí Thông cũng nhất thời không để tâm, nghĩ rằng Mao Thái đi ra ngoài tìm Chu Thuần cũng giống như những lần trước, đi liền dăm bữa nửa tháng. Hai người thủ thỉ đến mức cao hứng, thoải mái thóa mạ nguyền rủa Mao Thái như chó. Tính tình Mao Thái như liệt hỏa, không thể nén được nữa, nổi giận đùng đùng, chẳng kiêng dè gì nữa, cũng không để tâm đến lợi hại, hét lớn: “Dâm phụ chó chết, thóa mạ ta giỏi đấy!”

Vừa nói vừa lao vào, tay vung lên một đạo hoàng quang bay thẳng đến đầu Dương Hoa. Dương Hoa không thể ngờ y xuất hiện lại ra tay, thị la lớn: “Ối, không hay! Sư phụ cứu mạng!”

Trí Thông không ngờ có chuyện, trong lúc vội vàng chân tay cũng cuống cuồng cả lên, trước tiên nâng Dương Hoa lên, kẹp vào nách, tránh phải né trái. Mao Thái đã hạ quyết tâm giết chết Dương Hoa nên vận động Xích Âm kiếm dai dẳng đuổi theo. May là thiền phòng này rất lớn nên cũng có chỗ cho Trí Thông trần truồng đi chân không, ôm thân thể cũng không mảnh vải che thân của Dương Hoa chạy loạn cả lên. Cũng vì công phu khinh thân của Trí Thông thuần thục, nhảy nhót nhanh nhẹn như chim bay, bằng không khó có thể bảo toàn tính mạng cho Dương Hoa, mà bản thân y cũng không thể tránh được trọng thương.

Nhưng né tránh như vậy cũng không phải là phương pháp, trên tay còn ôm một người, lại vừa quan hệ với nhau xong, khí lực uể oải, đã ba bốn lần suýt gặp nguy hiểm. Đang lúc hoảng hốt, đột nhiên ngoài cửa có người hét lên: “Sư phụ sao không dùng kiếm?” Chưa dứt lời một đạo bạch quang đã bay lại, ngăn cản kiếm quang của Mao Thái.

Trí Thông vì thấy Mao Thái lao vào đột ngột, nghe được hai người nói xấu sau lưng nên thực sự trong lòng có chút hổ thẹn. Lại thấy Dương Hoa nguy cấp vạn phần nên Trí Thông chỉ nghĩ đến việc né tránh giữ mạng, trong lúc hồ đồ quên không sử dụng kiếm. Được người kia đề tỉnh, y không dám chậm trễ vỗ ra sau đầu, ba đạo quang hoa lao thẳng vào luồng hoàng quang của Mao Thái. Dương Hoa nhân cơ hội này, giật lấy một bộ y phục khoác lên người, lao ra khỏi nách của Trí Thông, chạy đến nấp sau bức tường.

Mao Thái bỗng thấy đối thủ lao đến, vô cùng kinh hãi, khi nhìn kỹ thì thấy người đến chính là tri khách tăng Liễu Nhất. Nguyên lai có khách nhân tới vì việc khẩn yếu nên Liễu Nhất đi bẩm báo Trí Thông, ai ngờ đi đến cửa phòng đã nghe thấy tiếng la hét của Dương Hoa. Liễu Nhất vốn không tán thành việc sư phụ của y giở đủ trò dâm ô, nghĩ rằng Dương Hoa chọc giận Trí Thông như mọi lần, y mong có thể giết Dương Hoa cho sư phụ của mình mới thỏa lòng.

Y tính đợi bọn họ cãi lộn xong mới vào bẩm báo. Định bụng quay lại bồi tiếp người khách kia, đang muốn trở về tiền điện thì bỗng nghe thấy trong phòng có tiếng nhảy nhót khiến y không khỏi quay ðầu vào nhìn, vừa đúng lúc Mao Thái phóng ra kiếm quang, sư phụ cùng Dương Hoa trần truồng thảm hại, chắc chắn là song phương đang ghen tuông đánh nhau. Y thầm nghĩ vì sao sư phụ không phóng kiếm nghênh địch, thật là kỳ dị.

Sau đó thấy Mao Thái sát ý đầy mặt, tình thế nguy hiểm, tình cảm thầy trò trỗi dậy liền phóng kiếm nghênh địch. Mao Thái thấy Liễu Nhất phóng kiếm lao đến, nhằm thẳng vào tim mình, trong lòng nghĩ đã không làm thì thôi còn không phải làm cho trót, dứt khoát đại náo một phen. Ai ngờ kiếm của Trí Thông cũng phóng ra. Trí Thông là đệ tử đích truyền của thủy tổ phái Ngũ Đài, Thái Ất Hỗn Nguyên tổ sư, lĩnh hội được hết bàng môn chân truyền, làm sao Mao Thái có thể là địch thủ của y.

Chưa bằng thời gian uống hết một chén trà, ba đạo quang hoa xanh, đỏ và đen đã vây chặt kiếm quang của Mao Thái lại, khiến cho y mồ hôi ròng ròng đầy người. Y biết rằng sẽ mất mạng trong khoảnh khắc, không khỏi than một tiếng: “Mạng ta hết rồi!” May là Liễu Nhất thấy sư phụ ra tay, không muốn sư đồ lấy hai đánh một nên thu kiếm lại, đứng bên cạnh lược trận, Mao Thái mới có thể chống cự được.

Đang trong lúc vô cùng nguy hiểm, bỗng bên ngoài có tiếng cười lớn, một người nói: “Có khách phương xa đặc biết đến bái phỏng, các người đã không chiêu đãi lại lén lút ở đây so kiếm thì còn đạo lý gì nữa đây? Để ta và hai người các ngươi giải sầu nhé.”

Dứt lời, một đạo kim quang từ bên ngoài bay vào. Một vòng tròn kim quang sáng rực rộng hơn một trượng bay vào giữa kiếm quang của Trí Thông và Mao Thái, dừng ở không trung không chuyển động.

Trí Thông và Mao Thái chấn động, ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy người đến thân cao hơn tám thước, đầu to mắt tròn, mặt trắng như giấy, không có lấy một tia huyết sắc, lộ đầy hung quang. Trên người mặc một bộ liệt hỏa cà sa, hai tai rất to bắt mắt, đeo hai cái vòng vàng, đầu trọc chân trần, đeo một đôi giày gai, hình dạng vô cùng hung ác. Trí Thông trông thấy trong lòng vô cùng mừng rỡ, vội kêu lên: “Sư huynh, làn gió thơm nào thổi huynh đến đây vậy?” 

Mao Thái trông đợi người đến giải vây, nhìn thấy người này quen quen, nhất thời lại không nhớ ra nên chưa chào hỏi. Đang không biết làm gì thì người đó nói: “Hai vị hiền đệ, thu pháp bảo tùy thân của các ngươi lại đi, cùng là người nhà với nhau sao phải làm tổn thương hòa khí? Thật ra là vì cái gì vậy? Nói đi, ta sẽ phán xử cho các ngươi.”

Hai tên dâm tăng làm sao có thể nói ra nguyên nhân nên đều cúi đầu không nói, thu lại kiếm quang.

Ngươi đó huơ tay cũng thu pháp bảo về. Mao Thái ấp a ấp úng hỏi: “Tiểu đệ hỏi khí không phải, vị sư huynh này với tiểu đệ đã gặp nhau ở đâu, nhất thời tiểu đệ không thể nhớ ra?”

Người đó nghe xong, cười ha hả đáp: “Hiền đệ, đệ quên lúc trước cùng Du Đức là môn hạ của Kim Thân La Hán rồi sao?” Mao Thái nghe xong giật mình tỉnh ngộ.

Nguyên Phấn Diện Phật Du Đức vốn là sư huynh của Mao Thái, cùng là môn hạ của Kim Thân La Hán. Chỉ vì năm đó Độc Long tôn giả ở Điền Tây đến động của Kim Thân La Hán, thấy Du Đức tướng mạo hùng kỳ nên vô cùng yêu thích. Lại vì tất cả môn nhân của mình trong trận đấu kiếm tại Nga My đều chết trong tay Càn Khôn Diệu Nhất chân nhân Tề Thấu Minh, không có truyền nhân bèn xin Kim Thân La Hán thu y làm môn hạ, do đó y có chút ngày đồng môn với Mao Thái.

Du Đức kéo hai tên dâm tăng đến tiền điện, hàn huyên một hồi rồi tổ chức dạ yến. Du Đức giảng hòa cho hai người, lại hỏi nguyên nhân của việc đánh nhau. Trí Thông biết đây là chuyện mất thể diện nên không nói gì. Còn Mao Thái trực tính, lại bực bội ghen tuông chuyện Trí Thông và Dương Hoa nên đem chi tiết sự việc ra nói một lượt.

Phấn Diện Phật Du Đức nghe xong, cười ha ha nói: “Hai người các ngươi náo loạn mãi hóa ra là vì chuyện vặt chẳng đáng gì như thế, thật đáng hổ thẹn cho cái gọi là hòa khí giữa huynh đệ trong nhà. Thôi nào, hãy nể mặt ta, hai người giảng hòa nhé!”

Trí Thông và Mao Thái đều thẹn đỏ cả mặt, cả hai đều biết mình sai nên cũng nhân cơ hội này xin lỗi nhau, mọi việc đều xí xóa.

Ba người đàm đàm tiếu tiếu, sau bữa tối, Trí Thông mới đem chi tiết các sự tình phát sinh trong hai tháng gần đây ở Từ Vân tự ra nói cho Du Đức và nhờ y giúp một tay. Du Đức nghe Trí Thông nói xong chỉ trầm ngâm không nói. Mao Thái bỗng lên tiếng: “Ta có hai việc quan trọng cần phải nói. Vừa mới đánh nhau xong, lại có Du sư huynh từ phương xa tới, trong lòng cao hứng nên quên mất không nói.”

Du Đức và Trí Thông vội hỏi chuyện gì, làm sao mà quan trọng như vậy. Mao Thái đáp: “Hôm nay ta vào thành, nguyên là muốn tìm cừu nhân để báo thù. Ai ngờ cừu nhân còn chưa gặp thì đã nghe thấy tin tức về đồ nhi thất tung Trương Lượng, hắn bị người ta bắt, chặt mất hai chân giải lên quan rồi bị xử tử hình rồi.”

Trí Thông thốt: “Cái này thật kỳ! Sư điệt Trương Lượng thất tung, ta đã sớm sợ hắn gặp phải độc thủ nên không ngừng sai người lên nha môn nghe ngóng nhưng làm sao lại không thu được tin tức gì? Mao hiều đệ không biết có nghe nhầm không?”

Mao Thái vội la lên: “Nhầm cái gì? Ta vì nghe người ta nói huyện nha môn xử quyết hái hoa đại đạo nên mới vội vàng đến pháp trường nhưng chẳng những người đã chết mà hai chân giống như bị người ta chặc đứt từ trước, ta đã thấy tận mắt rõ ràng, không hề giả dối. Ta liền vội quay lại, muốn cùng ngươi thương lượng làm thế nào để tìm được cừu gia, ai ngờ vào cửa đã đánh nhau vì con tiện nhân ấy, thiếu chút nữa đã tổn thương đến nghĩa khí huynh đệ trong nhà.”

Du Đức nói: “Hiền đệ không phải lo lắng. Ta nghĩ chuyện này quyết không phải là chuyện riêng của một mình đệ. Nhất định là phái Nga My có người ở Thành Đô, cố tình gây hấn với chúng ta. Chuyện báo thù ngàn vạn lần không được khinh cử vọng động, phải thương lượng kỹ càng cùng mọi người. Đệ nói hai chuyện quan trọng, thế chuyện kia là chuyện gì?”

Mao Thái đáp: “Khi đệ quay lại miếu thì trời mới chiều tàn, mặt trời còn chưa lặn. Ở trong rừng trước miếu, bỗng có một đám sương trắng, ước chừng rộng khoảng vài chục trượng, giống như ai mới đun nấu gì đó, che cả một đám rừng không sao nhìn rõ được. Nhưng bên cạnh khu rừng vẫn sáng sủa rõ ràng. Đệ nghĩ nhất định có bảo vật gì xuất thế, không biết có phải không?”

Du Đức vô cùng chăm chú nghe Mao Thái nói. Đợi y nói xong, Du Đức vội hỏi: “Sau khi người thấy sương trắng, có tiến gần lại xem không?”

Mao Thái đáp: “Chưa từng. Bởi vì đệ vội quay lại miếu, vả lại muốn khai quật bảo vật đệ cũng cần tìm một vài người trợ giúp, cho nên chưa đến gần xem xét.”

Du Đức nói: “May mắn! May mắn!”

Dứt lời trông y có vẻ lo lắng.

Trí Thông hỏi: “Sư huynh, đệ thấy Mao hiền đệ nói sương trắng trong rừng, chẳng lẽ là bảo vật xuất hiện thật sao?”

Du Đức đáp: “Bảo vật cái gì, thực ra là kẻ thù của chúng ra đến đó. Khi ngươi nhìn thấy đám sương trắng từ đất tuôn ra là một nguời nào đó dùng pháp thuật bức xuất ra đó. Từ sau khi lão tặc Bà Lăng Tuyết Hồng chết đi, chỉ có lão quái Bạch Cốc Dật là biết cái kiểu ngụy trang đó. Pháp thuật kiểu đó gọi là Linh Vụ chướng, tiên nhân chân chính ở thâm sơn tu đạo thường dùng để che cửa động, dễ bề thanh tu khiến ác ma không thể quấy nhiễu. Lão quái đó đã hai ba chục năm không xuất thế, trên giang hồ từ lâu không thấy tung tích, ta thường nghe sư phụ Độc Long tôn giả nói về cung cách của lão nhưng chưa từng gặp qua. Vừa rồi Mao hiền đệ nói y xuất thế, ta còn bán tín bán nghi. Bây giờ lão đã hiện thân ở trong rừng trước miếu, thiết nghĩ nhất định sẽ có hành động nào đó gây bất lợi cho chúng ta. Nếu đúng là lão, mấy người chúng ra tuyệt không phải đối thủ, cần phải sớm chuẩn bị.”

Trí Thông tuy chưa từng cùng Truy Vân Tẩu giao thủ nhưng thường nghe sư phụ nói đến sự lợi hại của lão, lại nghe những lời vừa rồi của Du Đức nên vô cùng kinh sợ. Chỉ có Mao Thái, khi y làm cường đạo trên giang hồ những năm trước thì Truy Vân Tẩu đã đi ở ẩn nên không biết lão nông sâu lợi hại thế nào, vẫn hùng hùng hổ hổ nói: “Sư huynh chớ có đề cao chí khí người khác như vậy mà giảm uy phong của chúng ta. Ta nghĩ người ta sống bất quá được trăm năm, lão quái kia đã không xuất thế hơn hai mươi năm, chắc đã chết ở thâm sơn cùng cốc rồi. Hiện tại cái phát hiện được, biết đâu lại là một người khác? Sương trắng trong rừng cho dù có là người ta lộng giả thành chân cũng chỉ là một loại ngụy trang, đâu có gì đặc biệt, làm sao phải sợ như thế?”

Du Đức nghe xong, cười lạnh nói: “Ngươi nào biết lợi hại. Ngày hôm nay may mắn là ngươi một lòng về miếu, chưa từng đi đến đám sương mù. Bằng không có khi đã dính độc thủ chưa biết chừng. Trong các cao thủ của phái Nga My, lão quái đó là người kỳ lạ nhất. Lần này chỉ mong không phải lão thì tốt, nếu là lão thì ngay cả sư phụ ta là Độc Long tôn giả e cũng không có cách nào chế ngự được.” 

Y tiếp lời: “Bọn họ thường dăm ba chục năm sẽ ra ngoài tìm một ít người có tư chất tốt, đặc biệt là các thanh niên thuần hậu làm môn đồ để tránh việc thất truyền sau khi chết. Năm trước, sư phụ ta Độc Long tôn giả nói bọn họ lại dần dần đến một dải Xuyên, Thiểm, Vân, Quý** hoạt động. Chẳng biết may hay là không may, Ngũ Đài phái và Điền Tây phái cũng vào năm thu nhận đồ đệ nên không thể tránh được tranh giành nhau rồi sinh ra rất nhiều thị phi. Nghe nói Hoàng Sơn Xan Hà đại sư đã thu được một nữ đệ tử tên là Chu Khinh Vân, con gái của lão Chu Thuần trong Tề Lỗ Tam Anh, tuổi còn rất trẻ nhưng đã vô cùng mỹ lệ, theo sư phụ mới mấy năm đã luyện được một thân bản lĩnh kinh người. Những người khác như Khổ Hạnh đầu đà, Tề Thấu Minh, Nhiêm Tiên Lý Nguyên Hóa đều thu được môn hạ đắc ý. Sớm muộn gì nhất định cũng có nhiều chuyện phát sinh, đệ nên chú ý nghe ngóng.”

Mao Thái nghe xong vội nói: “Sư huynh nói Chu Khinh Vân ấy là con gái cừu nhân Chu Thuần của đệ à? Làm sao mà huynh biết được vậy?”

Du Đức đáp: “Ở mặt sau của đỉnh Hoàng Sơn Ngũ Lão có một vách đá dựng đứng, lởm chởm như đao kiếm, hiểm trở dị thường, gọi là Ngũ Vân bộ***, bên trên có một vị nữ kiếm tiên tiền bối của Ngũ Đài phái tĩnh tu. Vị này ngang hàng với sư phụ của ba chúng ta, cũng từng tham gia trận so kiếm năm mươi năm trước ở Nga My. Bà ta vì thấy lão tổ sư bị trúng vô hình kiếm, biết rằng không thể địch lại nên chưa giao thủ đã nhanh chân bỏ chạy. Bề ngoài thì bà ta bảo là muốn thoát khỏi vòng xoáy của cuộc giao tranh nên một mình đến thâm sơn tu luyện nhưng kỳ thật là nằm gai nếm mật, nỗ lực tiềm tu để báo cừu cho tổ sư. Bởi vì chưa từng giao thủ cùng người của phái Nga My, chưa lộ mặt nên Xan Hà đại sư mới có thể dung cho bà cư trú ở Hoàng Sơn. Hai ba chục năm gần đây cũng đã thu được vài nam nữ đồ đệ đắc lực.” 

Y nhấp giọng rồi tiếp: “Xan Hà đại sư cũng dần hoài nghi bà nên lấy lý do đến đàm đạo để thăm dò khẩu khí của lão nhân gia. Nhưng bà biết giữ mồm giữ miệng, hàng ngày với vài môn hạ đệ tử yêu quý cũng không lộ ra nửa điểm thâm cừu với phái Nga My. Xan Hà đại sư dù nghi kỵ nhưng cũng không có cách nào để điều tra được bà. Chỉ là bà ở đỉnh Thiên Đô lại ăn được Tiên Chi, phản lão hoàn đồng, người tám chín chục tuổi trông như mỹ nữ hai ba chục tuổi. Xan Hà đại sư đã từng đưa Chu Khinh Vân đến động của bà ta. Bà cùng sư phụ ta Độc Long tôn giả giao tình rất hậu, cách vài ba năm nhất định lại đến Điền Tây một lần. Khi ta đến chỗ sư phụ thì gặp bà ở đó, bà ta nói đến chuyện Chu Khinh Vân, lại hối hận tìm kiếm đồ đệ nhiều năm như vậy, không biết bao nhiêu lần qua lại một dải Tứ Xuyên Điền Tây mà chưa bao giờ gặp được nhân tài như vậy, đã vậy còn để cừu nhân thu được. Do đó ta mới biết được tường tận như vậy.”

Trí Thông ngắt lời hỏi: “Huynh có phải nói đến Vạn Diệu tiên cô Hứa Phi Nương ở Ngũ Vân bộ Hoàng Sơn không?”

Du Đức đáp: “Không phải bà ta thì còn ai vào đây nữa?”

Mao Thái nghe thấy mỹ nhân đúng là món khoái khẩu của y nên vỗ tay cười lớn: “Không ngờ Chu lão tam lại có con gái xinh đẹp như vậy, sau này nếu gặp thị, chúng ta sẽ bắt lấy mà hưởng thụ khoái lạc, như thế không phải là một hảo sự sao?”

Nói chưa dứt lời bỗng trước mặt thổi đến một cơn gió nhẹ, một đạo thanh quang nhanh như chớp lao đến trước ngực Mao Thái. Mao Thái hoảng sợ hét lên: “Không hay rồi!” Rồi y vội vàng tung người nhảy sang bên cạnh.

May mà y tránh nhanh nên mũi kiếm chỉ cắt đứt nửa cánh tay trái của y xuống. Còn Trí Thông thân kinh bách chiến, vội vỗ ra sau đầu, phóng ra ba đạo quang hoa chống lại kẻ địch. Pháp bảo của Du Đức đều là bảo vật luyện thành, cho dù chậm hơn nhưng lúc này cũng phóng ra Quyển Nhi+ bao vây kiếm quang của người đến đánh lại. Mao Thái cũng nhịn đau phóng kiếm ra nghênh địch. Nhưng người đến vô cùng giảo hoạt, vòng Đại Ất của Du Đức mới vừa phóng tới thì kiếm quang bỗng lao ra cửa sổ, chẳng biết bay đi hướng nào.

Bọn Du Đức ba người vội vàng lao ra nhìn, chỉ thấy một bầu trời đầy sao, cây cối ngoài vườn lay động theo gió, chẳng thấy tung tích người phóng kiếm đâu, tức tối ba người hét lên như sấm. Du Đức không thể nhịn được, phi người lên không quan sát, chỉ thấy trên trời hướng nam có một đạo thanh quanh đang bay về phía trước. Du Đức vội hét: “Thích khách to gan, chạy đi đâu!” 

Lúc này Trí Thông bảo Mao Thái mau băng bó vết thương rồi cũng tung người lên cùng với Du Đức truy đuổi, nhưng mới đến khu rừng thì thanh quang biến đâu mất, không thấy tung tích.

Trí Thông đang muốn tiến vào rừng tìm kiếm, Du Đức liền vội cản lại, y nói: “Hiền đệ ngàn vạn lần không được khinh suất, trời tối rừng sâu, đệ biết thích khách trốn ở nơi đâu? Tiến vào không phải là rất dễ trúng phải ám toán của hắn sao? Ta thấy tối nay ‘lai giả bất thiện, thiện giả bất lai’, không bằng hãy về miếu trước rồi suy tính kế hoạch.”

Trí Thông chỉ biết phẫn nộ đứng ở ngoài rừng, đưa kiếm quang tiến vào trong, lùng sục bốn phương tám hướng một lượt. Đến lúc y thu hồi kiếm quang thì không thấy một chút máu, biết rằng chưa hề đả thương được thích khách mảy may. Được Du Đức hết lòng khuyên can, y biết vô kế khả thi, đành cúi đầu ủ rũ quay về.

Vừa mới tới gần miếu, bọn y bỗng nghe thấy tiếng hô giết chóc nên biết là có chuyện dị thường xảy ra. Bọn y vội phi thân lên tường quan sát, chỉ thấy một nữ tử toàn thân vận đồ xanh đanh đấu kiếm với hai người Mao Thái và Liễu Nhất, bọn họ đang khổ sở chống đỡ. Nữ tử đó dáng vẻ kiều diễm, còn ít tuổi mà đã mười phần xinh đẹp. Nàng phóng kiếm như rồng bay phượng múa, biến hóa khôn lường. Lại thấy Mao Thái và Liễu Nhất bị kiếm quang nữ tử đó bức bách đến mức mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng.

Trong sát na đó, trong không trung bỗng có tiếng vang lên, kiếm quang của Liễu Nhất bị kiếm của nữ tử đó cuốn lấy, kêu lên một tiếng gãy thành hai đoạn, kiếm quang vụt tắt rơi xuống đất như một khối thiên thạch, biến thành một khối sắt lạnh lẽo vô tri. Mao Thái mất một cánh tay vốn đã đau đớn, thêm vào đó kiếm của nữ tử đó vô cùng thần diệu nên y chỉ còn cách nhịn đau chịu trận. Lúc này Du Đức, Trí Thông đã quay lại, thấy Mao Thái vạn phần nguy hiểm nên không thể chậm trễ.

Trí Thông vỗ ra sau đầu phóng ra bao đạo quang hoa. Tay trái Du Đức trước tiên phóng ra Quyển Nhi, tay phải lấy ra Ngũ Độc Truy Hồn Hồng Vân sa luyện thành, chuẩn bị ném tới. Đột nhiên nghe có tiếng vang lên trên không trung “lưu tâm ám khí”, Quyển Nhi của Du Đức còn chưa lại gần người thì nữ tử đã tung thân lên không nói: “Đáng ghét!” Rồi thân kiếm hợp nhất, hóa thành một đạo thanh quang, phá không bay đi. 

Du Đức, Trí Thông thấy kẻ địch hai lần đến rồi đào tẩu trong lòng nổi giận điên cuồng, cũng tung người lên không, huy động kiếm quang truy đuổi về phía trước.

Bỗng giữa không trung lại có một đạo bạch quang bay đến nghênh đón. Du Đức giận dữ, ném hồng sa trong tay ra, một đám sương vàng mây hồng túa ra kèm theo tiếng sấm sét, lập tức khiến cho trời đất tối mịt, quỷ khóc thần sầu. Ước chừng ăn xong một bữa cơm, Du Đức nghĩ địch nhân nhất định đã trọng thương, hôn mê rơi xuống đất. Lập tức y thu hồi hồng sa, xuống đất quan sát, nhưng miệng liên tục kêu lên hai tiếng “kỳ quái”.

Trí Thông vội hỏi nguyên nhân làm sao. Du Đức đáp: “Tử Mẫu Âm Hồn Đoạt Mệnh hồng sa này là bảo vật trấn sơn của sư phụ ta Độc Long tôn giả, bất kể kiếm tiên hiệp khách lợi hại thế nào, chỉ cần trúng phải một ít, nặng thì chết mà nhẹ thì cũng hôn mê. Hôm nay phóng ra, rõ ràng là sương vàng mây hồng đã chế trụ kiếm quang của địch nhân, vì sao lại không thấy tung tích? Như thế làm sao ta không phiền muộn được.”

Đang nói chuyên bỗng Trí Thông nói: “Huynh thấy bên kia tỏa hào quang không, chúng ta đến đó xem sao.”

Du Đức tiến tới nhìn thử, quả nhiên thấy cách người mười trượng có một vật phát quang, vội nhặt lên quan sát, thì ra là một thanh tiểu kiếm dài một thước ba tấc. Y nghĩ là bảo kiếm của địch nhân trúng phải hồng sa, mất hết linh nghiệm nên rơi xuống. Kiếm đó dù bị tổn hại nhưng vẫn trong suốt như cũ, chỗ tay cầm không ngừng máy động như muốn thoát khỏi tay bay đi, lại trông có vẻ như mất đi linh khí, mang bộ dạng hữu tâm vô lực.

Du Đức liền khen kiếm tốt rồi nói với Trí Thông: “Đệ chớ xem thường nó, hãy xem nó thông linh không này, dù trúng phải sa độc mà vẫn muốn đào thoát như cũ. Nếu như không có trăm năm khổ tu, quyết không thể được như vậy. Chỉ cần nhìn thanh kiếm này cũng biết địch nhân lợi hại thế nào. Chắc là hắn cũng biết hồng sa của ta lợi hại, không thể thoát thân, vạn bất đắc dĩ mới bỏ tâm huyết luyện thành nhiều năm của hắn ở lại làm quỷ thế mạng. Tuy nhiên tên này mất bảo kiếm, sẽ khó bay đi trốn khỏi. Ta nghĩ hắn đào tẩu chưa xa, sư đệ mau cùng ta truy tìm thôi.”

Nói xong, đang định cùng Trí Thông đi lên phía trước tra xét thì bỗng bên tai có tiếng kim đao xé gió, y biết có người ám toán liền vội tránh đầu sang một bên. Ai ngờ công thế quá nhanh nên má trái đã bị đánh trúng, không biết là loại ám khí gì mà đánh cho Du Đức rụng hai cái răng cửa, máu từ miệng chảy ra không ngừng. Ngay sau đó một đạo hắc ảnh nhanh như tên bắn bay đến cạnh y.

Du Đức đang lúc kinh hoảng đau đớn không kịp chú ý, thân pháp người kia lại vô cùng nhanh, nên chỉ nháy mắt chiến lợi phẩm trong tay Du Đức đã bị người kia đưa tay đoạt mất. Khi người kia đoạt được bảo kiếm thì tả thủ khua kiếm, nhân tiện tung ra cú uyên ương liên hoàn cước nhằm thẳng vào ngực Du Đức đang ngơ ngơ ngác ngác. Rồi người đó lại thuận thế biến chiêu, cước đến trước ngực Du Đức liền mượn lực hóa thành Yến Tử Phi Vân Tung, chênh chếch bay lên cao vài trường, phát ra thanh quang, thân kiếm hợp nhất, phá không bay đi.

Thân thủ người đó nhanh không gì bằng, dù cho Du Đức, Trí Thông đã gặp rất nhiều đại địch cũng luống cuống chân tay không biết làm sao. Trí Thông thấy địch nhân nhanh chóng bỏ đi nộ khí dâng lên ngút trời. Khi y tung người truy đuổi, chỉ thấy đạo thanh quang đã phá không chui vào lùm mấy, không biết đi hướng nào, vô kế khả thi, vừa sợ vừa tức. Khi quay lại xem Du Đức thì y đã lăn quay ra đất, Trí Thông đi tới nâng dậy thì đúng lúc Liễu Nhất mặt như đưa đám ra ngoài xem động tĩnh, liền giúp Trí Thông đưa Du Đức vào trong phòng.

Cởi bỏ y phục Du Đức ra xem thì thấy trước ngực có vết xanh tím in rõ ràng hai vết chân thon dài. Bọn chúng đoán rằng người đến là một nữ tử, dùng đôi giày có đế bằng sắt nhọn như kiếm, cho nên Du Đức mới thụ thương nặng như thế này. Nếu nội công của Du Đức không phải ở mức thượng thừa, cước đó nhất định đã xuyên thủng ngực, bỏ mạng tại đương trường. Du Đức dính trọng thương liền hai chỗ, đau đớn không sao chịu nổi, đột nhiên kêu lên một tiếng kỳ quái, thổ ra hai búng máu rồi lại lăn ra bất tỉnh.

Trí Thông thất vậy lại càng lo lắng, vội chuẩn bị thuốc trị thương cấp cứu, nhét vào họng Du Đức nhưng vẫn không thấy tác dụng. Trí Thông chửi rủa tên thích khách một trận nhưng cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì. Hiện tại hai người Mao Thái và Du Đức người nằm góc này, kẻ chỏng gọng góc kia, thương thế không tiến triển, rên la ầm ĩ. Chuyện không đề cập đến nữa.

Nói đi nói lại, vậy thì hai ngưới thích khách ấy rốt cuộc là ai? Nguyên lai Túy đạo nhân và Chu Khinh Vân từ biệt Truy Vân Tẩu, ở trong rừng lấy ra lương khô và rượu, ăn uống no nê. Đến tối, hai người đến Từ Vân tự, đúng lúc gặp Du Đức, Trí Thông và Mao Thái ba người đang ở đó cao giọng nghị luận. Chu Khinh Vân muốn xuống thử sức một trận nhưng nhiều lần bị Túy đạo nhân ngăn lại.

Rồi lão nói cho nàng Du Đức lợi hại như thế nào, nếu như hạ xuống, phải làm thế này thế này, y kế thi hành. Ba người bọn chúng đều thân mang tuyệt nghệ, chỉ có thể âm thầm nhân lúc chúng không phòng bị thì bọn họ mới có thể làm chúng bị thương. Nếu như chân chính đối mặt công kích thì quyết không phải địch thủ. Thương lượng ổn thỏa, nhưng Mao Thái lại nói chuyện nhố nhăng, chọc tức Khinh Vân nên nàng mới phóng ra phi kiếm, định sẽ lấy thủ cấp Mao Thái nhưng lại để y tránh được, chỉ chặt đứt được nửa cánh tay.

Về sau Du Đức phóng vòng ra, Khinh Vân vì nghe Túy đạo nhân dặn dò, biết là lợi hại, thêm vào đó lại có ba đạo quang hoa của Trí Thông, nếu nghênh địch thì sẽ rất vất vả, biết là không phải đối thủ liền biết khó mà lui, theo đúng kế hoạch định sẵn bỏ trốn vào trong rừng. Nửa đường có Túy đạo nhân tương trợ. Khi Trí Thông và Du Đức ở ngoài rừng nói chuyện thì Khinh Vân vì quá hận Mao Thái nên không nghe Túy đạo nhân ngăn trở, phi thân theo đường vòng quay lại miếu, tính là nhân lúc Mao Thái không có ai trợ giúp sẽ lấy thủ cấp của y báo thù.

Ai ngờ Mao Thái như chim sợ tên nên sớm đề phòng, kiếm quang Khinh Vân vừa đến đã giao thủ luôn, Mao Thái cơ hồ không trụ nổi. Tri khách tăng Liễu Nhất ở hậu điện vì nghe sư phụ đuổi theo thích khách liền ra đằng trước xem xét, đúng lúc thấy Mao Thái và nữ tử toàn thân vận màu xanh động thủ nên tiến lên tương trợ. Chu Khinh Vân nhận được chân truyền của Xan Hà đại sư, nàng vốn có tiên căn, lại có mấy năm khổ công tu luyện nên nào có sợ gì hai người.

Nàng vận động thần quang, vừa mới giao thủ đã chém gãy kiếm Liễu Nhất. Mao Thái càng cô thế, vừa vặn lúc đó Du Đức và Trí Thông quay lại. Khinh Vân thấy nguy liền phi thân bỏ chạy. Lúc đó nếu hơi chậm một bước thì sẽ dính phải độc thủ hồng sa. Túy đạo nhân thấy Khinh Vân không nghe phân phó, mạo hiểm tiến đánh, sợ có thất lợi gì thì không biết nói sao với Xan Hà đại sư nên đã sớm âm thầm phòng bị.

Lão cũng biết rõ hồng sa lợi hại nên không dám tiến lên. Để cứu Khinh Vân, lão bỏ ra tâm huyết trăm năm luyện thành, vội vàng phóng xuất ra kiếm quang, ngăn chặn kẻ địch, cho nên Khinh Vân mới có thể thoát chết. Quả nhiên hồng sa lợi hại, kiếm quang gặp phải hồng sa liền rơi vào bụi rậm. Túy đạo nhân dù đau lòng nhưng vì hồng sa lợi hại nên không dám tiến đến.

Khinh Vân thấy Túy đạo nhân vì cứu mình mà mất đi bảo kiếm, vừa thẹn vừa lo, lại vô cùng tức giận. Nàng còn ít tuổi nông nổi, lại ỷ mình tài cao mật lớn nên muốn thừa cơ đoạt lại. Túy đạo nhân can ngăn không được đang vô cùng lo lắng thì bỗng bên tai có tiếng người nói: “Ta đã bảo Túy lão đạo nhà ngươi mà, mấy thứ rác rưởi này không dễ trêu đâu.”

Túy đạo nhân nghe thấy biết là Truy Vân Tẩu nên không khỏi mừng rỡ nói: “Đều là lão bảo ta bảo hộ tiểu hài tử nhưng nó quật cường không nghe lời, lão phải bồi thường kiếm cho ta thôi. Hôm nay khi hài tử lên đường, lão lại không đến trợ giúp, ở đây mà có vấn đề gì thì làm sao mà ăn nói với Xan Hà đại sư?”

Truy Vân Tẩu đáp: “Hài tử đó rất giống ta khi mới học đạo ngày trước, một ngày nào đó nhất định làm vẻ vang cho phái Nga My. Nó dù phải trải qua ba lần ma nạn nhưng hiện tại quyết không có vấn đề gì. Kiếm của ngươi nên để cho nó thì tốt hơn là ngươi giữ. Mà khi lấy được kiếm của ngươi trở lại, chỉ cần ta đem về núi, dùng Bách Thảo Cửu Chuyển tiên đan tẩy sạch rồi sẽ trả lại cho ngươi nguyên vật. Ngươi mất một đôi kiếm đều la do lão đầu tử ta, may mà ngươi cũng không quở trách.”

Túy đạo nhân không biết nói sao, mười phần vui vẻ.

Đang nói chuyện thì Khinh Vân đã đoạt kiếm quay lại. Nàng kể về tình huống đoạt kiếm, lại nói trước khi bỏ đi còn tặng cho Du Đức uyên ương liên hoàn cước, vẻ mặt vô cùng đắc ý. Đang nói thì Truy Vân Tẩu hiện nguyên hình, Khinh Vân bèn vội vàng bước lên bái kiến. 

Túy đạo nhân nói: “Hài tử nhà ngươi cũng quá độc ác. Ngươi vặn răng hổ, lấy lại bảo kiếm cho ta còn chưa đủ lại tâm ngoan ý độc, trước khi bỏ đi còn hạ độc thủ như vậy. Nếu Du Đức vì cước đó của ngươi mất mạng, chẳng phải lại kết hạ thâm cừu với Điền Tây phái hay sao? Trên giang hồ dị nhân rất nhiều, chúng ta chỉ khi không còn lựa chọn thì mới đắc tội với người khác. Ngươi còn nhỏ tuổi, đang ngày ngày tiến bộ, thiết nghĩ khi ngươi thành danh bớt đi một kẻ thù thì sẽ bóet đi chút cản trở. Lần sau không được lỗ mãng như thế.”

Nói đến đây Truy Vân Tẩu vội ngắt lời: “Túy đạo nhân ngươi bớt lời đi được không, chúng ra càng sợ sệt thì sẽ càng có nhiều chuyện. Ngươi quên trận đấu kiếm trên Nga My rồi sao? Lúc đầu chúng ta nhượng bộ ra sao, cái lũ nghiệp chướng bọn chúng lại cương quyết lấn tới, rốt cuộc không tránh được một trường can qua. Lúc này với khi đó không phải là giống nhau sao? Nó thiếu niên trí dũng, ngươi thân là bậc tiền bối, đáng lẽ phải biểu dương mới đúng. 

Lão tiếp lời: “Ngươi nói Độc Long lợi hại, phải biết bây giờ mọi người thu nhận đồ đệ, thêm vào đó có kẻ muốn báo thù phái Nga My bọn ta. Bọn chúng đã kết thành một mối, chúng ta nếu muốn thành công thì phải tiêu diệt cho sạch, trừ được tên nào hay tên đó. Yêu nghiệt ở Điền Tây đó đã tác quái đa đoan, giờ cũng là lúc khí vận của hắn đã hết. Nếu gặp môn hạ của hắn, sao có thể dung tha. Ngươi không biết chứ giờ chính là lúc hai phái chính tà đấu tranh tồn vong đó.”

Túy đạo nhân nói: “Ta đâu có phải không biết. Bất quá Xan Hà đại sư ngày đó dặn đi dặn lại, bà ta nói đuôi mày Khinh Vân có ba đường màu đỏ, sát kiếp quá nặng nên ta không thể không luôn luôn cảnh giới mà thôi.”

Đang nói chuyện thì bỗng giữa không trung ở hướng chính tây có vài đạo hồng tuyến bay lại, Truy Vân Tẩu nói: “Mau nào!” Rồi cũng hai người bọn họ bay lên không trung.

Thật là 

Chính tà lưỡng đạo hay tranh đấu

Thiện ác hai đằng khó ở chung.

Muốn biết diễn biến tiếp theo thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Ở đây tác giả viết như vậy có lẽ cả Mao Thái và Trương Lượng đều ở dạng lưỡng tính, thích cả nam lẫn nữ (bi-sexual).

** Chỉ Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Vân Nam và Quý Châu.

*** Bộ nghĩa là lối đi.

+ Một loại vòng, pháp bảo của Du Đức.

Hết hồi thứ mười hai

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười ba

Chu Khinh Vân học đạo Tịch Tà thôn 

Kim La Hán bàn binh Ngũ Vân bộ

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: herobk13

Biên dịch: BH Mod

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Chu Khinh Vân học đạo Tịch Tà thôn

Kim La Hán cầu cứu Ngũ Vân bộ

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói Truy Vân Tẩu đang cùng Túy đạo nhân và Chu Khinh Vân ở trong rừng ngoài Từ Vân tự đàm luận chuyện thụ thương của Du Đức, đột nhiên thấy có vài đạo hồng tuyến từ phía tây bay lại liền kéo Túy đạo nhân và Chu Khinh Vân, la lên: “Chạy mau!”

Ba người cùng ngự kiếm quang bay lại Bích Quân am. Lúc này đã đến canh năm, tiết đông đêm dài trời vẫn chưa sáng. Ba người cũng không kinh động Chu Thuần, tiến vào kinh phòng ngồi xuống.

Túy đạo nhân gọi Tùng, Hạc nhị đồng chuẩn bị trà và đồ điểm tâm. Khinh Vân hỏi: “Vừa rồi ở phía tây có vài đạo hồng tuyến, vì sao chúng ta trông thấy lại bỏ chạy?”

Truy Vân Tẩu đáp: “Từ Vân tự từ khi xảy ra chuyện Chu Vân Tòng được sư thúc Túy đạo nhân của ngươi cứu thoát, Trương Lượng bị giết, Trí Thông đã biết được người trong phái Nga My chúng ra muốn gây khó dễ cho y. Tháng trước y đã sai môn hạ là tứ Kim Cương cùng Đa Bảo chân nhân Kim Quang Đỉnh thay y đi cầu cứu một đám đại đạo ở Tứ Xuyên, đem theo thiếp mời của y đến các nơi núi cao rừng sâu, mời những kiếm khách tài năng tề tựu ở Từ Vân tự, mở hội để định ra kế sách ứng phó. Tối nay vài đạo hồng tuyến đó chính là Kim Thân La Hán Pháp Nguyên sư phụ của Mao Thái. Vì tạm thời ta không tiện lộ diện nên bảo các ngươi cùng quay lại.”

Khinh Vân hỏi: “Theo như tổ sư gia nói, bọn chúng đã đi bốn phương tám hướng để kiếm người trợ giúp, vài người chúng ta có đối phó được không?”

Truy Vân Tẩu đáp: “Nào có tiện nghi như vậy? Ta sớm biết tình thế này nên đã bảo sư thúc Lý râu ria của ngươi đi mời người rồi. Hôm nay sự tình bất quá mới là bắt đầu, Trí Thông đó cũng không biết thực hư bên ta thế nào. Bất quá y đã nghi ngờ ta lại xuất thế, nhìn thấy vết xe đổ của sư phụ quá cố là Đại Ất Hỗn Nguyên tổ sư, cho nên mới tập trung đồng môn đồng đảng của bọn chúng lại, cẩn thận nghiên cứu phương pháp đối địch. Còn như chân chính đối đầu với chúng ta, hiện nay chưa có một tên nào lộ diện, một số vẫn còn giả bộ mình là người tốt.”

Nói chuyện một hồi, Chu Thuần ngủ dậy, Khinh Vân đi đến gặp mặt hỏi thăm. Chu Thuần lại ra tham bái Truy Vân Tẩu và Túy đạo nhân. Khinh Vân liền đi vào trong phòng đả tọa luyện nội công một hồi, khi xong mặt trời đã lên cao ba trương, nàng cũng không định đi ngủ nữa. Túy đạo nhân đeo hồ lô muốn đi ra ngoài. Truy Vân Tẩu vội vàng kêu lão quay lại, lấy trong ngực ra một thứ gì đó đưa cho lão. Túy đạo nhân vội vàng cảm ơn, tiếp lấy cất ở trong ngực rồi đi mất.

Truy Vân Tẩu nói với Khinh Vân: “Hiện tại địch nhân chưa đến đông đủ, cũng không biết thực hư chỗ chúng ta ẩn thân. Bây giờ ta muốn dẫn cha ngươi đến Hành sơn Châu Liêm động để đại đồ đệ của ta là Nhạc Thụ truyền kiếm pháp cho, hơn nữa cũng để tẩy rửa bảo kiếm cho Túy sư thúc của ngươi. Về Ngụy Thanh, ta đã bảo hắn đến nhờ vả một người rồi. Nữ tử như ngươi, một mình ở lại đây rất không tiện nhưng có rất nhiều nơi cần ngươi nên không thể bảo ngươi về núi. Đây thực là một chuyện khó.”

Khinh Vân nói: “Sư tổ lão nhân gia người không cần lo lắng. Sư phụ đệ tử khi sai đệ tử xuống núi, cũng nói là việc phá Từ Vân tự vẫn còn sớm, đệ tử đến Thành Đô sẽ không có chỗ nghỉ ngơi. Trước khi đi người giao cho đệ tử một phong thư, nói khi đến Thành Đô, gặp Túy đạo nhân và phụ thân xong, nếu không có chỗ cư ngụ thì đem bức thư đó đến thôn Tịch Tà ở phía bắc Thành Đô để nhờ vả Ngọc Thanh sư thái, như thế có thể tìm được chỗ an thân. Tổ sư và cha đi xong, đệ tử sẽ đến nương nhờ bà ta được không?”

Truy Vân Tẩu nghe xong, vui vẻ nói: “Không thể ngờ được Ma Già* tiên tử Ngọc Thanh đại sư lại cư trú ở Thành Đô, đó thực sự là một trợ thủ tốt cho chúng ra. Từ sau khi bà ta được Thần Ni Ưu Đàm đại sư điểm hóa đã tẩy sạch trần duyên, nhất tâm quy thiền. Khi ta vân du ở Đông hải, bà ta đến đó hái thuốc nên đã gặp nhau một lần, từng giúp đỡ bà ta chút ít. Đã không gặp hơn năm mươi năm, hiện giờ chắc bản lĩnh của bà ta đã trở nên cao cường rồi. Ngươi đi lần này cần phải tỏ ra đặc biệt cung kính với bà ta, sớm chiều thỉnh giáo sẽ vô cùng có ích.”

Khinh Vân nghe xong vui mừng, đang muốn hỏi lai lịch của Ma Già tiên tử Ngọc Thanh đại sư, chưa kịp mở miệng thì trước mắt sáng ngời, kim quang đầy phòng, bỗng giọng một nữ tử cất lên: “Bạch lão tiền bối nếu muốn nói xấu sau lưng người khác thì ta không đồng ý đâu.”

Chu Thuần, Chu Khinh Vân định thần quan sát, thấy trong phòng có thêm một nữ ni trẻ trung, đầu đội mũ Đạt-ma, chân đi vân hài, vận một bộ tăng y lụa màu vàng, tay cầm phất trần, thần thái trang nghiêm, vô cùng mỹ lệ, đang hành lễ với Truy Vân Tẩu.

Truy Vân Tẩu cười nói: “Lão quái ta đang nói xấu Tuý đạo nhân, đại sư cứ phóng tâm đi. Bất quá một ngày nào đó khi cùng với lũ nghiệp chướng phái Ngũ Đài đối địch, đại sư tất phải giúp bọn ta một tay đó.”

Nữ ni trẻ trung xinh đẹp đó nói: “Được lão tiền bối phân phó làm sao mà không tuân mệnh được? Hai vị đây, một người ta đã biết là khách quý mới đến thôn ta, còn vị này là ai?”

Truy Vân Tẩu cười đáp: “Chỉ lo nói chuyện, không giới thiệu mọi người với nhau rồi.”

Dứt lời liền bảo Chu Thuần, Khinh Vân tham kiến rồi lão lại nói với hai người: “Đây chính là người mà chúng ta mới nói đến Ngọc Thanh đại sư đó.”

Chu Thuần, Khinh Vân mười phần kinh dị, thầm nghĩ: “Truy Vân Tẩu và bà ta không gặp đã hơn năm mươi năm, người này e rằng cũng đã một trăm tuổi, không hiểu sao dung nhan lại như thiếu nữ thế?”

Truy Vân Tẩu nói tiếp: “Năm nay bà ta ước chừng cũng đã một trăm ba chục tuổi.”

Ngọc Thanh đại sư nói: “Lão tiền bối lại giỡn rồi.”

Truy Vân Tẩu nói: “Đây là đệ tử mới thu nhận của ta Chu Thuần, nửa đời mới nhập môn, kiếm pháp chưa từng học. Ngươi bảo hắn có thể nên cơm cháo gì không?”

Ngọc Thanh đại sư đáp: “Lão tiền bối có thể thay đổi càn khôn, điểm sắt ra vàng, huống hồ Chu đạo hữu căn cơ rất dày.”

Truy Vân Tẩu hỏi: “Làm sao ngươi biết chúng ta ở đây?”

Ngọc Thanh đại sư đáp: “Chốn này nguyên là hạ viện của đại sư huynh Tố Nhân, năm nay huynh ấy đến Vân Nam hái thuốc rồi quay lại chỗ gia sư, trên đường nhân tiện ghé qua thăm vãn bối, nói chuyện ở đây có Túy đạo nhân cư ngụ. Vãn bối lâu ngày không gặp nên muốn đến viếng thăm.”

Nói đến đây liền chỉ vào Khinh Vân nói: “Hôm qua hảo hữu của sư phụ nó Xan Hà đại sư là Ngoan Thạch đại sư ở Lạc Nhạn sơn Sầu Ưng động nhắn rằng nó cầm thư của sư phụ đi nhờ cậy vãn bối. Tính toán thời gian thì đã đến rồi nhưng vẫn chưa thấy nó đâu. Vãn bối biết hiện nay quần ma lại muốn xuất thế, chỉ e có gì sơ sẩy, cho nên vãn bối mới đi nghe ngóng, không ngờ lại may mắn gặp được lão tiền bối tại đây, thật là một chuyện đáng mừng. Nhân tiện vãn bối cũng có một chuyện quan trọng, đang muốn tìm nhân vật trọng yếu của phái Nga My để nói rõ. Bởi vì vãn bối đang luyện một món pháp bảo, không thể dứt ra để đi chỗ khác được, ai ngờ lại may mắn gặp được lão tiền bối.”

Truy Vân Tẩu vội hỏi nguyên do. Ngọc Thanh đại sư hỏi: “Lão tiền bối có biết sư muội của Thái Ất Hỗn Nguyên tổ sư là Vạn Diệu tiên cô Hứa Phi Nương không?”

Khinh Vân chen vào hỏi: “Có phải sư bá hỏi đạo cô trung niên tiềm tu ở Ngũ Vân bộ trên Hoàng sơn không?”

Ngọc Thanh đại sư đáp: “Chính là người đó. Từ trận đấu kiếm lần hai ở Nga My, sư huynh của bà ta thảm tử, bà ta liền ẩn tích ở Hoàng sơn, tuyệt không đề cập tới chuyện báo thù. Lúc ấy, mọi người đều nói bà ta nhận ân sâu nặng của sư huynh, học được hoàn toàn bản lĩnh của sư huynh. Mắt thấy sư huynh trúng độc thủ của phái Nga My, bà ta giống như người không liên quan, chẳng hề quan tâm, không hề có chút tình nghĩa đồng môn, do đó ta cũng nghĩ là bà ta quá vô tình. Cho đến năm ngoái, ta mới phát hiện người này ôm chí hướng báo thù, hơn nữa bà ta khổ tu năm mươi năm, pháp bảo dù không nhiều bằng nhưng bản lĩnh lại hơn hẳn sư huynh bà ta. Không trừ người này, quả thực phái Nga My như nuôi ong tay áo.”

Ngọc Thanh đại sư nhấp giọng nói tiếp: “Làm thế nào mà ta biết được? Tám mươi năm trước ta và Độc Long tôn giả vốn có tình đồng môn, từ khi được gia sư điểm hóa, ta mới cải tà quy chính. Ta vì không muốn quên gốc, những việc khác có thể xuất lực vì bản môn, duy chỉ có việc giao thủ với người Điền Tây phái, ta sẽ tuyệt đối trung lập. Bởi vậy vài chục năm nay, ta chưa từng trở mặt với phái Điền Tây. Độc Long tôn giả vì thấy gần đây đạo pháp của ta có chút tiến bộ nên năm lần bảy lượt kêu ta quay lại phái Điền Tây nhưng đều bị ta khéo léo tạ tuyệt, cũng nói là ta sẽ trung lập. Mười năm trước, lão dẫn Hứa Phi Nương đó đến thăm ta. Ban đầu ta thấy bà ta rất không vừa mắt, không chịu nổi cái kiểu mười phần ân cần của bà ta. Nhưng sau ta thấy bà ta dù quên gốc, nhưng thực ra cải tà quy chính, thành tâm hướng đạo, lại cũng là một tay cao cờ nên lui tới thường xuyên.”

Bà ta lại tiếp: “Ai ngờ không thể trông mặt mà bắt hình dong. Mùa đông năm ngoái bà ta lại đến thăm ta, trước tiên tâng bốc ta một hồi, về sau dần dần thổ lộ tâm sự. Thì ra bà ta và Hỗn Nguyên tổ sư không phải là sư huynh sư muội mà là phu thê. Năm mươi năm trở lại đây bà ta nằm gai nếm mật, không hề quên chuyện báo thù, từng bước vạch ra kế hoạch, chờ thời hành động. Bà ta nài nỉ ta giúp đỡ, tình nguyện để ta làm tổ sư phái bọn họ. Ta nghe xong những lời ấy, vốn định nổi giận nhưng lại nghĩ có thể châm chước cho bà ta nên ngược lại cảm thấy thông cảm. Mặc dù lịch sự tạ tuyệt bà ta nhưng vẫn hết lòng an ủi. Ai ngờ không hiểu vì sao bà ta chẳng hiểu ý tốt lại cho rằng ta coi thường. Có một lần không ngờ bà ta thay Độc Long tôn giả đến làm thuyết khách, khuyên ta cưới lão, ba người hợp lực đưa Điền Tây phái trở nên huy hoàng. Ta nghe xong tức giận đầy mình, lúc ấy liền một đao cắt đứt với bà ta.”

Ngọc Thanh đại sư thở dài rồi lại nói: “Lúc bà ta gần bỏ đi lại giở giọng đe nẹt ta, nói rằng bà ta có năm chục năm khổ tâm tu luyện, gần kề ngay bên như Xan Hà đại sư đều không biết dụng tâm, hiện tại điều cơ mật đã bị ta biết, hy vọng ta và bà ấy đừng nhúng tay vào chuyện của nhau. Nếu ta tiết lộ chuyện cơ mật của bà ta thì bà ta sẽ quyết phân sinh tử với ta. Bà ta lại nói là tuyệt không phải sợ Xan Hà đại sư biết chuyện cơ mật, mà là bởi bà ta có một thanh Thiên Ma Tru Tiên kiếm chưa luyện thành, không muốn lúc này phải rời khỏi Hoàng sơn, vân vân và vân vân. Ta cũng không đáp ứng nên bà ta ôm hận bỏ đi. Ta cảm thấy kỳ quái nhất là Xan Hà đại sư có khả năng tiên tri, tại sao lại để một mãnh hổ an nhiên cư trú ở quanh mình như vậy, nếu không sớm tiễu trừ, để bà ta đủ lông đủ cánh thì chẳng phải sẽ gây nhiều phiền toái cho phái Nga My sao? Chẳng lẽ Xan Hà đại sư đã bị bà ta che mắt?”

Truy Vân Tẩu đáp: “Chắc hẳn Xan Hà đại sư đã có diệu toán, bằng không cũng không để bà ta yên yên ổn ổn suốt hơn năm mươi năm tại Hoàng sơn đâu. Hiện tại bộ mặt giả tạo của bà ta đã bị vạch trần thì số phận bà ta cũng sớm được định đoạt thôi. Ngươi ngày sau có gặp lệnh sư, lệnh sư huynh hãy chuyển lời chào của lão già ta, một ngày nào đó không thể tránh được sẽ quấy quả bọn họ. Chúng ta hôm nay chia tay ở đây thôi.”

Dứt lời, Ma Già tiên tử liền cáo biệt Truy Vân Tẩu, dẫn theo Khinh Vân quay lại Tịch Tà thôn. Truy Vân Tẩu cũng dẫn theo Chu Thuần về núi luyện kiếm. Chuyện không đề cập đến nữa.

Lại nói Trí Thông từ khi Du Đức và Mao Thái thụ thương, thuốc thang vô hiệu nên tự biết “một cây làm chẳng nên non”. Đặt biệt là Du Đức càng hôn mê bất tỉnh, rên rỉ không thôi. Đang lúc vô kế khả thi bỗng thấy Liễu Nhất vào bẩm báo: “Ngoài tiền điện đột nhiên có một vị thiền sư hạ xuống, nói là đến từ Ngũ Đài sơn, muốn gặp sư phụ và Mao sư thúc.”

Trí Thông vội vội vàng vàng đi ra xem thì thấy Kim Thân La Hán Pháp Nguyên, trong lòng vô cùng mừng rỡ liền tiến ra phía trước tham bái.

Pháp Nguyên ấy là một người béo lùn như trái banh, tướng mạo hung ác, trên thân mặc một bộ liệt hỏa cà sa, tay cầm thiền trượng sắt. Trông thấy Trí Thông liền hỏi lúc này Mao Thái đang ở đâu? Trí Thông đem chuyện Mao Thái tìm Chu Thuần báo thù, ở trong rừng gặp cao thủ như thế nào, rồi bị người ta trêu chọc, về sau Phấn Diện Phật Du Đức đến miếu, một tối có hai người thích khách, có vẻ như là một nam một nữ, Mao Thái và Du Đức bị ám toán ra làm sao, hiện tại đang ở hậu điện dưỡng thương, hôn mê bất tỉnh, nhất nhất kể ra một lượt.

Pháp Nguyên nghe xong nổi giận đùng đùng, bảo Trí Thông dẫn lão vào xem. Pháp Nguyên thấy Mao Thái đã mất cánh tay trái, đang hôn mê nên than thở không thôi. Lão vội bảo Trí Thông mang đến một ly nước không rễ, lấy ở trong người ra hai viên đan dược, đổ cho hai người bọn họ. Lão lại lấy hai viên đan dược hòa với nước, bôi vào các vết thương.

Lúc này Mao Thái đã tỉnh tại, trông thấy Pháp Nguyên liền xuống giường làm lễ.

Pháp Nguyên nói: “Thương thế của ngươi chưa lành, bất tất phải câu nệ làm lễ.” 

Mao Thái đau đớn không nhịn nổi nên cũng cung kính không bằng tuân mệnh, nước mắt chứa chan, đem chuyện xảy ra nói một lượt, cầu xin Pháp Nguyên báo thù cho mình.

Pháp Nguyên nói: “Chuyện này không chỉ quan hệ với một mình người. Việc báo thù không cần thiết phải nhắc.”

Dứt lời lại hỏi Trí Thông: “Cánh tay đứt lìa của Mao Thái hiện ở đâu?”

Trí Thông đáp: “Hiện ở trên bàn thờ tại Phật đường, bởi vì sợ Mao hiền đệ thương tâm nên chưa từng dẫn y đến.”

Pháp Nguyên nói: “Cánh tay đó chưa bị mất, thật là may mắn, mau đi lấy về đây để bảo tồn cho tốt.”

Mao Thái đang buồn vì trở thành phế nhân, nghe thấy Pháp Nguyên nói vậy, tinh thần chấn động, liền hỏi: “Sư phụ pháp thuật thông thần, chẳng lẽ người nói là cánh tay đứt của đệ tử có thể nối lại được?”

Pháp Nguyên đáp: “Ta nào có thần thông quảng đại như thế? Bất quá Hãm Không lão tổ ở Vô Định đảo trên Bắc hải có luyện được Vạn Niên Tục Đoạn Tiếp Cốt Sinh Cơ Linh Ngọc cao, nếu chúng ta có thì sẽ nối lại được như xưa. May là hiện nay trời lạnh, nếu không thịt xương thối rữa thì cho dù có linh dược cũng không thể sử dụng. Chỉ tiếc không có Cố Bản đan của phái Nga My để có thể giữ lại huyết dịch, bảo dưỡng xương thịt. Sau này lấy được linh đan sẽ nối lại tay đứt, bất quá trông không chướng mắt nhưng không thể vận dụng được như lúc đầu.”

Trí Thông nói: “Đã có linh dược như thế, sư thúc mau mau viết thư để đệ tử đem đi cầu về, chữa trị Mao hiền đệ càng sớm càng tốt.”

Pháp Nguyên nói: “Nào có dễ dàng như vậy? Hãm Không lão tổ đó đâu phải tầm thường, Vô Định đảo của ông ta vô cùng xa xôi cách trở, chim chóc cũng khó lòng bay đến. Hơn nữa vị lão tổ này cũng đã tạ tuyệt trần duyên, không gặp gỡ người ngoài, cho nên dù ta tự thân đến cầu khẩn, cũng đừng hòng đặt chân lên đảo.”

Trí Thông nói: “Nói như vậy thì hết hy vọng rồi.”

Pháp Nguyên nói: “Thực ra cũng không đến nỗi như thế. Bình sinh Hãm Không lão tổ chỉ thu được hai đệ tử, một là Linh Uy Tẩu, hiện đang ở Linh sơn Băng nguyên trên Bắc hải, tính tình rất chính trực, cũng học theo lối tĩnh tu của sư phụ, không để ý đến ngoại sự. Người còn lại là Trường Tý Thần Ma Trịnh Nguyên Quy ở Không Động sơn, người này kiếm thuật cao cường thành một đường riêng, chỉ là tâm ngoan thủ lạt khiến cho lão tổ không vui. Mười năm trước không hiểu vì chuyện gì mà sư đồ họ bất hòa, lão tổ đột nhiên muốn dùng phi kiếm chém y nhưng bị sư huynh của y là Linh Uy Tẩu biết được, lặng lẽ báo tin cho y, bảo y đào tẩu, một mặt lại nài nỉ cầu xin Hãm Không lão tổ. Vì việc này, lão tổ trách y không nên để lộ tin tức, rồi phạt Linh Uy Tẩu tĩnh tâm quỳ xuống diện bích ba năm. Trịnh Nguyên Quy thấy không trụ được nên không còn cách nào khác phải bỏ đi đến Bách Man sơn Xích Thân động chỗ Ngũ Độc Thiên Vương Liệt Bá Đa ở Vân Nam để tìm chỗ nương thân. Về sau phụng mệnh Ngũ Độc Thiên Vương đến một dải Vân, Quý, Thiểm, Xuyên thu nhận đồ đệ nên mới tạm trú tại Không Động sơn. Người này với ta tâm đầu ý hợp. Nghe nói khi y đào tẩu, từng lấy đi không ít linh dược của Hãm Không lão tổ. Việc này phải là ta đích thân đi thì mới có thể thành công.”

Trí Thông nói: “Hiện giờ người phái Nga My ở Thành Đô rất nhiều, sớm tối tất đến sinh sự. Đệ tử dù từng phái môn hạ đi mời cao thủ tương trợ nhưng chưa có vị nào đến. Bọn họ hai người lại đang thụ thương, sư thúc đi xong không hiểu đệ tử làm thế nào để chống đỡ đây?”

Pháp Nguyên nghe xong, cười ha ha nói: “Thật uổng cho ngươi tu đạo không ít năm mà điểm ấy cũng nhìn không thông, làm sao mà khôi phục sự nghiệp tổ sư của ngươi được? Ngươi nghĩ phái Nga My có nhiều cao thủ là sẽ khinh cử vọng động chắc? Lần này rõ ràng là muốn mượn cơ hội các phái thu nhận đồ đệ, tìm cách gây hấn, khuấy động can qua, theo như trận đấu kiếm ở Nga My lần trước, bọn chúng muốn tiêu diệt các phái khác để có thể độc tôn. Một Từ Vân tự nhỏ nhoi làm sao họ có thể đặt trong lòng? Nếu như Truy Vân Tẩu đã xuất thế, bằng vào sức mạnh của một mình lão, việc tiêu diệt một tòa Từ Vân tự, chẳng phải dễ như trở bàn tay sao? Mấy cuộc hành thích đã nói rõ ràng là trò của bọn đệ tử mới thu nhận nhằm gây sự chú ý, cho nên mới đến gây hấn trước như vậy để xem chúng ta bố trí thế nào rồi bọn chúng mới tiến hành hạ thủ. Chúng ta càng có nhiều người thì chúng cũng càng muốn đến sinh sự. Nếu như trong tình huống bình thường, chỉ cần chúng ra không ra ngoài sinh sự thì bọn chúng cũng quyết không đến đâu.”

Dứt lời, Du Đức dùng đan dược xong, dược lực phát động, dù không thể lập tức hồi phục nhưng đau đớn cũng tan biến. Y tỉnh lại thấy Pháp Nguyên, biết rằng lão giải cứu liền miễn cưỡng xuống giường khấu tạ. Pháp Nguyên nói: “Từ khi ngươi ly khai vi sư đến làm môn hạ của Độc Long tôn giả, ta đã biết công phu của ngươi tinh tiến. Lần này cũng là ngươi ỷ tài cao mật lớn nên mới bị người khác ám toán. Từ nay về sau lâm địch phải để tâm lưu ý. Ta sẽ lưu lại cho hai người các ngươi vài viên đan dược để phục dụng, sau ba ngày có thể thuyên giảm. Việc này không thể chậm trễ, ta phải đi Không Động sơn đây.” Nói rồi hóa thành vài đạo hồng tuyến bay mất.

Đến ngày thứ hai, Trí Thông đang cùng Mao Thái, Du Đức nói chuyện phiếm thì đầu tiên là Đại Lực Kim Cương Thiết Chưởng Tăng Tuệ Minh quay lại bẩm báo: “Khải bẩm sư phụ, đệ tử theo lệnh sư phụ đi đến Liễu Hành sơn Tỏa Vân động cầu Nhạc Cầm Tân sư thúc. Đầu tiên đồng tử giữ cửa cầm thư của sư phụ đi vào trong, trở lại báo rằng Nhạc sư thúc không ở trong động, đã đến Vũ Di sơn Phi Lôi động tìm Long Phi sư thúc đánh cờ. Đệ tử liền đi đến Vũ Di sơn gặp đệ tử của Long sư thúc là Tiểu Tinh Hầu Liễu Tông Tiềm, y nói Long sư thúc đi Đông hải thăm bạn, Nhạc sư thúc chưa tới. Bản thân y muốn đi xem náo nhiệt, hơn nữa lại đáp ứng giúp đệ tử tìm vài vị đồng môn đạo hữu cùng tới. Đệ tử chỉ e sư phụ đợi lâu nên trở về xin chỉ dụ.”

Trí Thông nghe xong không khỏi thở dài nói: “Hiện giờ nhân tình xuống cấp, Nhạc sư thúc ngươi đơn giản là sợ phái Nga My người đông thế mạnh, rõ ràng cố tình không gặp ngươi. Xem như ngươi đã phí công một chuyến, vào trong nghỉ ngơi rồi hãy đi.” Tuệ Minh liền lui ra.

Ba bốn ngày sau, bọn Vô Địch Kim Cương Tái Đạt Ma Tuệ Năng, Đa Tý Kim Cương Tiểu Na Tra Tuệ Hành và Đa Mục Kim Cương Tiểu Hỏa Thần Tuệ Tính đều trước sau quay lại miếu, những người được mời cũng có người đến nhưng cũng có người xin lỗi không đến, cũng có kẻ thẳng thừng từ chối. Những người được mời mà tới là Thiết Chưởng tiên Chúc Ngạc ở Lao sơn, Phích Lịch Thủ Uất Trì Nguyên ở Động Đình sơn Thái Hồ tỉnh Giang Tô, Thảo Thượng Phi Lâm Thành Tổ ở Thương Châu, Phi Phát Toan Nghê Địch Ngân Nhi ở Đại Trúc Tử sơn Vân Nam cùng đệ tử của Hoa Sơn Liệt Hỏa tổ sư là Tần Lãng.

Ngoại trừ Liệt Hỏa tổ sư là một phái riêng, cũng là môn phái có thù ghi tâm khắc cốt với phái Nga My, những người còn lại đều là bọn sư huynh sư đệ với Trí Thông, Mao Thái. Các vị sư thúc, sư bá trưởng bối đều chưa đến. Điền Tây Độc Long tôn giả lấy lý do có chuyện, sau khi xong việc đi hay không đi vẫn chưa rõ. Đại đệ tử Du Đức của ông ta đã đến trước rồi. Phi Thiên Dạ Xoa Mã Giác đi đâu đó vẫn chưa quay về. Tính toán thấy người tuy không ít, chỉ là không có loại kiếm tiên cao thủ nên Trí Thông có phần thất vọng. Rốt cuộc y tự an ủi có còn hơn không, đành phải chấp nhận những gì có được chứ sao.

Hai ngày nữa trôi qua, Phi Thiên Ngô Công Đa Bảo chân nhân Kim Quang Đỉnh dẫn đệ tử của ông ta là Độc Giác Mãng Mã Hùng, Phân Thủy Tê Ngưu Lục Hổ và Náo Hải Ngân Long Bạch Tấn Đằng nghênh nghênh ngang ngang đi vào miếu, gặp mọi người chào hỏi xong xuôi rồi nói: “Từ khi rời Từ Vân tự, ta vốn đến Thanh Thành sơn mời hảo hữu Kỷ Đăng, nhờ y ước hẹn với tổ sư của y là Ải Tẩu Chu Mai đến trợ giúp chúng ta một tay. Vừa mới tới huyện Quán**, trước cửa miếu Nhị Lang trông thấy một nữ tử tuyệt sắc tầm mười bốn mười lăm tuổi đang mua thuốc của một đạo cô trung niên. Ta tính ước hẹn với Kỷ Đăng xong, khi quay lại sẽ tiện tay dắt dê bắt nữ tử đó về để cùng hưởng thụ với đại sư. Ai ngờ khi ta đến Bạch Vân quán ở Thanh Thành sơn Kim Tiên nhai, Kỷ Đăng đã đi vân du bên ngoài, chỉ có một gã đạo đồng ở quán trông nhà. Gã nói sư phụ của gã không lâu nữa quay lại nên ta liền ở lại miếu đợi, nhưng nhiều ngày qua mà y vẫn không trở về.”

Y nói tiếp: “Ta sợ nơi đây xảy ra chuyên, lại cũng nghĩ tới nữ tử kia nên quay về. Cũng may ngày đó đã hỏi nơi cư ngụ của nữ tử đó nên tìm chỗ ở tạm gần nhà thị. Đến đêm, ta dẫn bọn Mã Hùng tiến đến nhà thị. Lúc đầu tưởng rằng một nữ tử yếu đuối nên sẽ dễ dàng tóm gọn. Không ngờ nhà thị còn có một lão cha và cả nữ tử đó đều võ nghệ cao cường, cực kỳ khó trêu. Về sau ta thấy bọn Mã Hùng không chống cự nổi, có lẽ thất thủ nên ta phóng ra phi kiếm, giết chết lão cha của nữ tử đó. Nhân vì muốn bắt sống thị nên ta và Mã Hùng phí mất rất nhiều công phu, Mã Hùng lại trúng một tụ tiễn của nữ tử đó, khi bắt được thị thì tay cũng bị thị cắn thụ thương, khó khăn lắm mới chế ngự được thị. Nữ tử ấy lúc đó tức quá liền lăn ra chết giấc. Ta dùng một tấm vải trùm quấn thị thật chặt rồi kêu Mã Hùng vác lấy, ngay trong đêm bỏ đi. Ai ngờ ra khỏi thành chưa đầy mười dặm, bỗng nhiên gặp đạo cô trung niên ngày đó gặp ở miếu Nhị Lang cản đường, muốn ta giao người lại.”

Y ngao ngán nói tiếp: “Ta vì nóng vội bỏ đi để sớm hoàn thành hảo sự liền phóng ra phi kiếm, ai ngờ làm thế cơ hồ như giơ đầu ra chịu họa. Đạo cô đó thấy phi kiếm của ta nhè nhẹ cười lạnh, huơ tay lên xuất ra một đạo kim quang. Phi kiếm của ta vừa tiếp xúc với kim quang của đạo cô thì đã lui lại rơi xuống. Mắt thấy kiếm quang của đạo cô đã vây bọn ta lại, chỉ biết nhắm mắt chờ chết. Đợi một hồi không thấy động tĩnh gì, mở mắt ra nhìn thì đạo cô bán thuốc và nữ tử bắt được đã không cánh mà bay, không biết đi hướng nào.”

Y thở phào tiếp tục kể lể: “May mắn là bọn ta không có lấy một người bị thương. Lúc ấy nghĩ rằng đạo cô không muốn khai sát giới, cho nên đã tha cho tính mạng bọn ta. Sau một đêm cay đắng, bọn ta trắng tay, mỹ nhân đến tận miệng lại bị người ta cướp đi, trong lòng sinh ra chán nản. Nhưng cũng chẳng còn cách nào khác, bọn ta đành vẫn nhằm hướng Thành Đô đi tới. Đi được nửa đường, đột nhiên gặp Mã Giác Mã đạo trưởng. Khi ta đề cập đến đạo cô đó, ông ta mới lặng lẽ nói cho ta biết rằng bà ta chính là nhân vật lợi hại nhất trong phái ta ngày nay, đó là Vạn Diệu tiên cô Hứa Phi Nương ở Ngũ Vân bộ trên Hoàng sơn. Bà ta tu luyện ở Hoàng sơn chỉ vì muốn quan sát động tĩnh của phái Nga My, chắc hẳn nữ tử chúng ta cướp được lọt vào mắt xanh của bà ta, cho nên mới ra ân cứu lấy để thu làm đồ đệ. Chúng ta đi giết người cướp gái, chính là tạo cơ hội tốt cho bà ta, không lâu nữa bà ta cũng sẽ xuất thế. Hứa tiên cô hiện tại bề ngoài chưa lộ ra chân diện mục, vẫn giả vờ hòa nhập với người phái Nga My. Mã đạo trưởng lại bảo ta phải giữ kín bí mật. Phái ta có dị nhân như thế, không phải là may mắn hay sao?”

Bọn Du Đức, Trí Thông nghe xong cũng mừng rỡ vô cùng.

Vài ngày trôi qua, Pháp Nguyên từ Không Động sơn quay trở lại, dù lấy được linh dược về nhưng việc xảy ra đã quá lâu, hiệu nghiệm không còn nhiều. Phải đem đoạn tay đứt lìa của Mao Thái chắp vào, băng bó thêm linh dược rồi nhờ Đại Lực Kim Cương Thiết Chưởng Tăng Tuệ Minh hộ tống Mao Thái quay lại Ngũ Đài sơn dưỡng thương.

Đợi Mao Thái, Tuệ Minh đi khỏi, Pháp Nguyên tụ tập mọi người tại đại điện, lão nói: “Lần này tranh đấu không phải tầm thường. Khi lâm địch, quan trọng nhất là phải trấn định tâm thần, không được hoảng loạn, không nên xem thường bọn chúng. Ta thấy hiện tại vẫn còn sớm, những người trợ giúp chúng ra vẫn chưa đến, để ta tự thân đi mời vài vị đến tương trợ. Sau khi ta đi, trong miếu bất kể là ai, không có chuyện gì thì không được ra khỏi cửa.

Đến tối phải chia ban luân phiên phòng thủ. Nếu gặp địch nhân thực sự lợi hại đến đây, có thể để Du Đức ra mặt, ước định ngày tháng để quyết phân thắng phụ. Ngàn vạn lần không được lỗ mãng nghênh địch để tránh thiệt thòi như lần trước, thận trọng thận trọng.”

Nói rồi từ biệt mọi người, đi đến các nơi núi cao rừng sâu tìm cao thủ đến tương trợ.

Ôi!

Tà đạo quyết đấu mời bang thủ

Chính giáo mưu mô đợi cao nhân.

Muốn biết tình hình như thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Theo kiến thức Phật học thô thiển của tôi thì Ma Già là một từ có nguồn gốc Phật giáo, phiên âm sang âm Trung Hoa, có thể từ gốc là maya. Bạn nào hiểu rõ vấn đề này mong chỉ cho chúng tôi biết. Xin cảm ơn!

** Trong Tây Du Ký có đề cập đến miếu Nhị Lang ở Quán giang (sông Quán), có lẽ chính là địa phương này.

Hết hồi thứ mười ba

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười bốn

Cửu Hoa sơn Bạch hiệp ngộ hung tăng 

Tỏa vân động Hồng Dược phùng tiên lữ

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: herobk13

Biên dịch: BH Mod

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Cửu Hoa sơn, Bạch hiệp đụng hung tăng

Tỏa Vân động, Hồng Dược gặp tiên nữ

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lại nói Pháp Nguyên rời khỏi Từ Vân tự đi cầu cao nhân kiếm hiệp ở những nơi núi cao rừng sâu, chuẩn bị cho cuộc chiến thư hùng với phái Nga My vào mùa xuân năm tới. Sau khi rời khỏi miếu, trên đường tính toán, lão quyết định trước tiên đến Quy Nguyên tự trên Cửu Hoa sơn Kim đính* mời Sư Tử Thiên Vương Long Hóa và Tử Diện Già Lam Lôi Âm. Kiếm quang bay vù vù, chưa đầy hai ngày đã đến trước Cửu Hoa sơn, lão liền thu lại kiếm quang hạ xuống, đi lên Kim đính.

Cửu Hoa sơn rất gần Hoàng sơn. Kim đính là nơi cao nhất ở Cửu Hoa sơn, trên đó có Địa Tạng Bồ Tát Nhục Thân tháp, sơn thế hùng kỳ, là nơi đẹp nhất của toàn bộ dãy núi. Đang giữa mùa đông giá rét, lòng Pháp Nguyên lại nặng trĩu nên cũng không có tâm tình thưởng ngoạn cảnh vật. Đang đi bỗng lão nghe thấy trong rừng như có tiếng phụ nữ và trẻ con cười nói rúc rích với nhau, trong lòng rất kinh ngạc. Lão thầm nghĩ: “Trời rét như vậy, gió núi lạnh thấu xương, làm sao lại có phụ nữ và hài nhi du ngoạn ở đây nhỉ?”

Lão liền vào trong rừng lưu tâm quan sát. Chỉ thấy dưới ánh tịch dương có một khoảng trống rộng rãi sáng sủa mở ra nhưng lại không một bóng người. Trong lúc lão đang kinh ngạc bỗng có tiếng một tiểu hài nhi cất lên: “Tỷ tỷ, Tôn sư huynh đã đến rồi đó. Tỷ xem này, còn có một tặc hòa thượng đang lấm la lấm lét nhìn ngang nhìn dọc. Tỷ đi bảo Tôn sư huynh đến đây để lão tặc hòa thượng đó khỏi nhòm ngó mà sinh phiền toái.”

Pháp Nguyên nghe xong những lời ấy, vội vàng đến trước rừng quan sát nhưng vẫn chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy ai. Lão biết rằng người nói chuyện không phải yêu ma quỷ quái mà là cao thủ, cố tình dùng lời nói để chòng ghẹo mình. Lão đang định lên tiếng hỏi thử thì bỗng thấy ở ngọn núi đối diện có một thiếu niên cỡ mười bảy mười tám tuổi, toàn thân vận đồ trắng, đang bay qua các đỉnh núi đến khu rừng trước mặt.

Lại nghe trong rừng có tiếng tiểu hài nhi: “Tỷ tỷ, tỷ mau ra tiếp Tôn sư huynh, tặc hòa thượng kia tất có ý đồ không tốt.”

Rồi có tiếng người đáp: “Hài tử nhà ngươi, làm sao phải sợ như vậy? Lão hòa thượng đó có gan to bằng trời cũng nào dám đến Cửu Hoa sơn bứt đi một nhành cây ngọn cỏ? Nếu lão thức thời thì nên chạy càng sớm càng tốt, sau này khỏi phải hối tiếc. Bọn ta há sợ lão sao?”

Pháp Nguyên nghe bọn họ nói chuyện, càng nghe càng thấy giống như họ chửi mình nên không khỏi tức giận. Nôn nóng không biết bọn họ trốn ở đâu nhưng không thể hạ thủ nên lão đành đè cơn giận xuống, quan sát động tĩnh. Lúc này gã bạch y thiếu niên cũng đã bay vào trong rừng. Pháp Nguyên thấy gã thiếu niên dừng lại, biết nhất định gã ở cùng chỗ với mấy người nói chuyện, muốn nhân lúc bất ngờ ngầm xuất ra độc thủ.

Lão cố ý làm ra vẻ đi lên núi, đột nhiên quay ngoắt lại, vỗ ra sau đầu, vài chục đạo hồng tuyến xuất ra nhanh như chớp bay vào trong rừng. Lão thầm nghĩ địch nhân chỉ cần bị kiếm quang của lão vây bọc thì đừng hòng sống sót. Chủ ý quá ư thâm độc! Lão một mặt chỉ huy kiếm quang, một mặt tập trung quan sát, chỉ thấy gã bạch y thiếu niên trông có vẻ như không có chuyện gì xảy ra, trong sát na ấy đột nhiên chẳng thấy bóng dáng gã đâu nữa.

Pháp Nguyên nghĩ thầm: “Gã thiếu nên này thực ra cũng cơ cảnh, bất quá một khoảng chu vi vài chục trượng trong khu rừng này đã bị kiếm quang của ta phong tỏa, cho dù công phu khinh thân của ngươi có cao cũng khó lòng thoát chết.”

Đang ngẫm nghĩ, bỗng nhiên lão thấy kiếm quang dừng lại không tiến, giống như có cái gì đó ngăn cản. Pháp Nguyên tức giận, chỉ vào kiếm quang hô lên một tiếng: “Mau!” 

Kiếm quang được gia tăng thêm chút khí lực, dưới ánh tịch dương của buổi chiều muộn, chiếu sáng rực cả khu rừng, không ngừng nhảy múa trong không trung.

Sau đó kiếm quang lại trùng trùng vây bọc lấy cánh rừng. Nơi kiếm quang đi qua, cành khô rào rào rơi xuống như mưa. Vài lần cả những cây đại thụ ôm không xuể cũng bị cắt đứt lìa rơi xuống đất. Tuy nhiên ở giữa chỗ cánh rừng mở ra ấy, kiếm quang chỉ cần đến gần là bị đánh bật lại, không thể nào tiến vào được. Người trong rừng vẫn nói cười như cũ, vô cùng nhiệt náo. Dù Pháp Nguyên nghĩ đã vây khốn địch nhân nhưng cũng vô kế khả thi.

Lằng nhằng một hồi, bỗng trong rừng có tiếng nữ tử nói: “Sư đệ, đều là ngươi chuốc lấy phiền hà, hiện tại mẫu thân lại không ở nhà, ta không hiểu ngươi làm thế nào?”

Rồi một giọng nói nam nhân trả lời: “Sư tỷ, tỷ nể mặt đệ ra đối địch nhé. Lão hung tăng đó không hỏi rõ trắng đen gì đã hạ độc thủ, thật rất đáng giận! Nếu sự tỷ không kéo đệ thì chắc đã bị lão ám toán rồi. Chẳng lẽ tỷ để người ta khi dễ chúng ta thế sao?”

Nữ tử đó còn chưa trả lời thì tiểu hài nhi đã nói: “Sư huynh không cần phải cầu tỷ ấy, tỷ tỷ của ta từ xưa đến nay càng cầu khẩn thì tỷ ấy lại càng dửng dưng. Muốn không ra thì tất cả đều không ra, vui vẻ mà xem lão tặc hòa thượng đó diễn trò. Nếu không phải đệ sợ mẫu thân đánh thì đệ đã ra đùa nghịch với lão một lát rồi.”

Nữ tử đó chỉ cười lạnh hai tiếng, không nói năng gì.

Mấy người đó nói chuyện rất rõ ràng dễ nghe. Pháp Nguyên nghe thấy cung cách nói chuyện của bọn họ giống như chẳng coi lão vào đâu, mang nhiều ý coi thường nên biết là đám trẻ ranh này không phải dễ trêu. Kỳ quái nhất là mười năm gần đây, lão chưa từng nghe thấy phái Nga My sản sinh ra nhân vật xuất sắc nào. Mấy tên này lại trẻ như vậy mà đã có bản lĩnh kinh nhân. Bọn con nít còn như thế, người lớn thế nào thì không cần nói cũng có thể biết.

Sau cái chết của Thái Ất Hỗn Nguyên tổ sư, hai phái Ngũ Đài và Nga My dù mất đi những nhân vật chủ chốt nhưng lão cũng biết các nhân vật trong phái. Lão tự tin ngoại trừ lãnh tụ phái Nga Mỹ kiếm tiên Càn Khôn Chính Khí Diệu Nhất chân nhân Tề Thấu Minh, Đông hải tam tiên cùng Tung sơn nhị lão, những người khác không phải đối thủ của mình. Hiện giờ bị địch nhân cười nhạo vào mặt, không những không cách nào tiếp cận, mà đến cái bóng cũng nhìn không ra, phí mất khí lực một hồi mà ngược lại bọn chúng vẫn cười cười nói nói.

Lão biết nếu chúng chân chính hiện thân thì vị tất lão đã chiếm được tiện nghi. Lão định bỏ chạy nhưng như thế thật là đầu voi đuôi chuột. Lão đã ra sức khua khoắng mãi mà hình bóng địch nhân thế nào cũng không thấy, chẳng lẽ không phải chuyện tiếu lâm sao? Lão không khỏi vừa thẹn vừa tức, liền nghĩ ra kế khích tướng, đi vào trong rừng cao giọng nói: “Đám trẻ con miệng còn hôi sữa các ngươi, có bản sự gì thì cứ ra trổ tài đi, La Hán gia ta có đức hiếu sinh, quyết không hại tính mạng các ngươi đâu. Nếu như các ngươi vẫn muốn chơi trò trốn tìm thì ta sẽ phải dùng lôi hỏa thiêu cháy các ngươi đó.”

Nói chưa dứt đã nghe thấy tiểu hài nhi trong rừng lên tiếng: “Tỷ tỷ, tỷ xem lão tặc hòa thượng đó nổi nóng, đòi đánh nhau rồi kìa. Tỷ không ra đánh cho lão cút đi sao? Đệ đã đói bụng, muốn về nhà ăn cơm rồi.”

Nữ tử đó nói: “Ngươi chuốc lấy họa, ta đâu có quản được.”

Tiểu hài tử đáp: “Không xấu hổ à, tỷ nghĩ rằng đệ muốn tỷ quản sao, tỷ xem đệ đi dạy cho lão một bài học đây.”

Pháp Nguyên nghe xong, thầm nghĩ quả nhiên địch nhân bị kích động ra mặt nên lão phấn chấn tinh thần, vận động kiếm quang, một mặt tập trung xem kẻ đi ra là nhân vật như thế nào. Quan sát một hồi vẫn không thấy động tĩnh gì, đang bực bội bỗng lão nghe thấy tiếng nữ tử hỏi: “Tặc hòa thượng, ngươi lén la lén lút ở đây làm gì?”

Sau đó trước mặt lão sáng bừng lên, hiện ra một nam một nữ, nam chính là bạch y thiếu niên đó. Nữ là một nữ tử xinh đẹp tuyệt trần, tuổi chừng mười tám mười chín, toàn thân mặc đồ tím, eo dắt một thanh bảo kiếm. Pháp Nguyên thấy địch nhân đột nhiên xuất hiện, giật mình nhảy dựng lên. Kiếm quang vẫn còn đang chém giết tưng bừng trong rừng nên trước hết lão vội thu hồi lại. Nữ tử đó khẽ mở môi son nói: “Ngươi không cần phải vội, từ từ thôi, ta sẽ không lấy cái mạng chó của ngươi đâu.”

Cung cách trấn tĩnh an nhàn, coi chuyện như không kiểu đó khiến cho Kim Thân La Hán Pháp Nguyên chẳng biết phải ứng phó ra sao cho tốt. Nữ tử đó lại hỏi: “Hung tăng nhà ngươi thật đáng giận! Ngươi đi đường ngươi, chúng ta nói chuyện chúng ta, tại sao lại vô duyên vô cớ hạ độc thủ đả thương người khác, chẳng có đạo lý gì hết thế?” 

Pháp Nguyên biết nữ tử này thuộc loại khó trêu, liền xuống nước đáp: “Đạo hữu không rõ rồi. Tại hạ vì đến núi này thăm bạn, thấy các đạo hữu ở trong rừng nói chuyện, chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy một bóng người, e rằng trong núi có yêu quái xuất hiện nên mới phóng ra kiếm quang thám thính động tĩnh, cũng không có ý đả thương người. Hiện giờ đã hiểu rõ, tại hạ còn có việc phải đi giải quyết, sau này gặp lại, tại hạ đi đây.”

Nói xong, không đợi nữ tử đáp lại, đang định đào tẩu thì bỗng một viên kim hoàn mang theo tiếng gió như sấm sét bay lại. Pháp Nguyên biết rằng không hay, định chống đỡ thì đã không kịp, vội nghiêng đầu sang một bên, kim hoàn trúng vào vai trái. Nếu đạo hạnh Pháp Nguyên không cao thâm thì đã bị mất mạng với đòn đó, hoặc chí ít cũng đứt gân gãy xương.

Pháp Nguyên bị trúng kim hoàn, vô cùng đau đớn, biết rằng muốn chạy người ta cũng không cho, chỉ đành nhịn đau, lớn tiếng thóa mạ: “Lũ oắt con miệng còn hôi sữa các ngươi, La Hán gia có đức hiếu sinh, vốn không muốn so đo với các ngươi, vậy mà các ngươi lại dám ám toán đả thương người khác. Hôm nay không lấy mạng chó của các ngươi thì các ngươi cũng không biết sự lợi hại của La Hán gia!”

Vừa hét lão vừa phóng ra kiếm quang, bay thẳng đến cặp nam nữ.

Chỉ thấy nữ tử đó thong thả tránh sang một bên, bảo kiếm bên người như rồng vàng lao ra, kim quang chói lòa đấu với kiếm của Pháp Nguyên trên không trung. Gã bạch y thiếu niên đang định phi kiếm tương trợ thì nữ tử nói: “Tôn sư đệ không được động thủ, để ta thu thập lão tặc hòa thượng này cũng đủ rồi.”

Bạch y thiếu niên không tiến lên, chỉ ở bên cạnh quan sát.

Trên không trung, kiếm của hai người này đánh giết bất phân thắng phụ, chưa định cao thấp. Pháp Nguyên thầm ngạc nhiên: “Nữ tử này còn nhỏ tuổi mà kiếm thuật đã ở mức thượng thừa. Bạch y nam tử kia chắc càng lợi hại.”

Lão đang toan tính trong lòng bỗng có vài đạo kim quang ầm ầm xé gió phá không lao đến. Lần này Pháp Nguyên đã có phòng bị nên đều tránh được. Kim hoàn đó vốn khi đã phóng ra thì phải thu hồi mới có thể tái sử dụng.

Pháp Nguyên một mặt nghênh địch, một mặt đưa mắt nhìn lộ tuyến của kim hoàn, chỉ thấy cách lão không xa ở trên một mỏm đá có một tiểu hài tử, tuổi chỉ tầm mười một mười hai, mặt trắng như ngọc, đầu để tóc trái đào. Trên người gã mặc một chiếc áo ngắn màu phấn hồng, phanh ngực, đeo một vòng cổ vàng, mặc khố ngắn, chân đi một đôi giày cỏ. Răng trắng môi hồng, mày thanh mắt sáng, cả người gã như một thỏi bạch ngọc vậy.

Pháp Nguyên bị trúng kim hoàn của gã, vô cùng tức giận. Lão thầm nghĩ: “Thằng ranh con ngỗ ngược này thì có tài cán gì?”

Rồi lão thầm tính hạ độc thủ để báo thù việc bị trúng kim hoàn ấy. Lão chỉ vào kiếm quang, phân ra một đạo hồng tuyến lao thẳng đến tiểu hài nhi đó. Một đòn bất ngờ khiến nữ tử cũng giật mình kinh hãi, biết rằng không kịp phân thân để cứu nên vội la lên: “Thiền đệ lưu tâm!”

Bạch y thiếu niên cũng vội phóng ra kiếm quang lao về phía trước. Ai ngờ hài tử nhỏ tuổi thấy hồng tuyến bay lại cũng không hề chậm trễ, lấy ra mười hai viên kim hoàn, nhằm hồng tuyến ném ra như liên châu, một mặt quay người chạy xuống dưới. Hồng tuyến bị kim hoàn chặn đánh nên chậm lại. Nhưng kim hoàn chạm phải hồng tuyến đều bị rơi xuống đất.

Hồng tuyến đang tiến lên thì viên kim hoàn thứ hai đã đến. Như thế sau mười hai lần đụng kim hoàn, gã tiểu hài nhi đã chui tọt vào bên trong một sơn động, không thấy tăm hơi. Lúc này bạch y thiếu niên vừa đuổi tới, nữ tử đó một mặt nghênh địch, một mặt lùi lại phía sau. Kiếm của bạch y thiếu niên đối chọi với một nhánh hồng tuyến, cảm thấy vô cùng mất sức, xem như có vẻ không địch nổi.

Đúng lúc đó nữ tử lao đến, nhìn thấy tình huống hiện tại, nàng vội la lên: “Sư đệ mau tiến vào trong động đi!”

Một mặt nàng hướng đến kiếm quang hít một hơi dài, hô to: “Mau!”

Kiếm quang đó hóa thành một luồng cầu vồng, vây đạo hồng tuyến trên không trung lại. Bạch y thiếu niên nhân cơ hội này chui tọt vào động. Pháp Nguyên được thể không nhường nhịn gì nữa, lại thấy tiểu hài nhi và bạch y thiếu niên đã chạy nên càng phấn chấn tinh thần, hận không thể lập tức giết chết nữ tử đó. Nhưng hai người đánh nhau mãi vẫn không phân cao thấp như cũ.

Lúc này mặt trời đã khuất núi, bầu trời quang đãng không chút mây mù, vầng trăng sáng như gương hiện ra, treo lơ lửng trên ngọn cây, soi rọi trận chiến giữa một mỹ nữ áo tím và một hung tăng béo lùn. Pháp Nguyên đang nghĩ sẽ dùng diệu pháp khác để lấy tính mạng nữ tử thì bỗng một chuỗi âm thanh phá không vang lên, lão biết có kiếm khách đi đến. Cả hai người đều nghi ngờ là trợ thủ của địch nhân.

Về phía Pháp Nguyên thì nghĩ rằng đã đến núi này, nhất định là trợ thủ của địch nhân, còn nữ tử kia lại nghe thấy người đang đến không ở trong bản phái. Đang lúc song phương cùng nghi hoặc bất định, một đạo cô hạ xuống mỏm đá, mang theo một cô gái. Nữ tử đó và Pháp Nguyên trông thấy đạo cô đều vui mừng khôn xiết. Nguyên lai người đến chính là Vạn Diệu tiên cô Hứa Phi Nương ở Hoàng sơn Ngũ Vân bộ. Lúc này Pháp Nguyên và nữ tử đang đánh nhau, giật mình nên hai bên đều không kịp nói năng gì nhưng đều nghĩ rằng người đến là bạn chứ không phải thù.

Nguyên là Pháp Nguyên và Hứa Phi Nương có tình đồng môn nhưng mẫu thân của nữ tử lại là bạn thân mà Hứa Phi Nương, thường hay lai vãng tới, cho nên cả hai bên đều có hiểu lầm. Pháp Nguyên vốn tưởng Hứa Phi Nương nhất định lao vào tương trợ cho mình, ai ngờ lại không như trông đợi. Chỉ thấy Hứa Phi Nương đó không những không giúp mình mà còn tỏ vẻ không nhận ra, lớn tiếng nói: “Tăng nhân phương nào lớn mật dám đến náo loạn Cửu Hoa sơn vậy? Ngươi phải biết Tỏa Vân động này là biệt phủ của Càn Khôn Chính Khí Diệu Nhất chân nhân Tề Thấu Minh, nếu thức thời thì xéo mau, Hứa Phi Nương ta đây sẽ tha cho ngươi lần đầu, nếu không ngươi khó lòng thoát khỏi công đạo!”

Pháp Nguyên nghe thấy những lời như vậy, không khỏi giận dữ, thầm rủa: “Tiện tỳ vô sỉ, thấy người trong bản phái vờ như không biết, đã thế còn trợ uy cho ngoại nhân sao?”

Đang định châm chọc một câu, bỗng nhiên lão hiểu ra vấn đề thầm nghĩ: “Khi ta đến từng nghe Phi Thiên Dạ Xoa Mã Giác nói bà ta giả như hữu hảo với phái Nga My nhưng ngầm quang phục bản môn, thề báo thù trận đấu kiếm trên Nga My thuở trước. Hiện tại ở trước mặt địch nhân nên bà ta không tiện ra mặt, do đó mới ngầm bảo ta mau chạy. Nơi này là biệt phủ của Tề Thấu Minh, ta khó tránh khỏi công đạo. Nữ tử đó chắc là con gái của Tề Thấu Minh, cho nên mới lợi hại như thế. May là lão Tề chưa về, nếu không tình thế của ta không phải xấu mà là cực xấu rồi.”

Vì vậy lão càng nghĩ càng sợ hãi, nên một mặt nghênh địch, một mặt nói: “Ta cũng không muốn dấy động can qua, chỉ là hai bên nhất thời hiểm lầm mà thôi. Đạo hữu đã xuất hiện giải vây, nể mặt đạo hữu, ta cũng đi đây.”

Nữ tử đó không chịu buông tha, Phi Nương vội vàng ngăn lại nói: “Vân cô nể mặt ta tha cho lão đi.”

Nữ tử đó cảm tạ Phi Nương giải vây cho. Đang nói chuyện thì tiểu hài nhi đi ra thu nhặt mười hai viên kim hoàn, chỉ thấy chúng đã bị phi kiếm của Pháp Nguyên chém vỡ, biến thành hai mươi bốn mảnh nửa viên. Sau đó gã đi tới bên tỷ tỷ đòi nàng ta bồi thường. 

Gã hỏi: “Tỷ vì sao lại để tặc hòa thượng đó trốn thoát? Tỷ phải trả lại kim hoàn cho đệ! Đó là của Xan Hà đại sư cho đệ, chơi chưa đầy một năm đã bị lão tặc hòa thượng đó phá mất.”

Nữ tử nói: “Thật không biết xấu hổ, dám làm dám chịu, sao lại kêu với tỷ tỷ. Đệ lén phóng ra ám khí, có được chút tiện nghi đã là tốt rồi, lại còn được đằng chân lân đằng đầu, chỉ lo thi triển hết bản sự, khiến cho người ta tức giận dùng phi kiếm truy đuổi. Nếu không có những viên kim hoàn đó, chỉ sợ mạng nhỏ cũng không giữ được ấy chứ. Lão hòa thượng đó rất lợi hại, tiên cô không đến giải vây thì thật chẳng biết là trận đấu có kết quả thế nào nữa. Vừa rồi Tôn sư đệ vì cứu đệ mà thiếu chút nữa để hòa thượng đó cướp mất bảo kiếm với bao năm tâm huyết của mình. Đệ lại còn dám tìm ta lằng nhằng sao?”

Tiểu hài đó bị tỷ tỷ của gã chỉ trích cho một trận, mặt mũi đỏ bừng lên, cũng không chào hỏi khách đến, vỗ vào hai má mình làm bộ trách móc: “Kim hoàn của đệ có đáng gì, chỉ cần bảo kiếm của Tôn sư huynh không sao là được. Tỷ lại hiểu nỗi đau của đệ sao?” Gã vừa nói vừa đi vào trong động.

Nữ tử nghe thấy tiểu hài nói vậy, không khỏi đỏ cả mặt, quay sang nói với Phi Nương: “Hài tử này trời phú thông minh, căn cơ thâm hậu. Thêm vào đó gia phụ mẫu với kiếp trước của gã có quan hệ sâu sắc, khi gã mới ba tuổi đã hết lòng hết sức đem gã lên núi. Bởi vì nhân duyên kiếp trước nên mười phần sủng ái, do đó gã thường hay làm nũng như vậy, tiên cô đừng cười.”

Phi Nương không khỏi thở dài nói: “Ta thấy quý phái không những người tài rất nhiều mà đám hậu bối có triển vọng các ngươi ai cũng là trò giỏi hơn thầy? Ta vì muốn có một đồ đệ tốt để truyền y bát nên đã nghĩ cách tìm kiếm, ai ngờ hơn mười năm nay, chưa từng tìm được một ai có căn cơ tốt như tỷ đệ các ngươi.”

Nói rồi chỉ vào nữ tử đi cùng: “Ví dụ như nó, căn cơ và thiên bẩm không phải không tốt nhưng so với tỷ đệ các ngươi thì còn kém xa.”

Dứt lời, bà ta đưa nữ tử đi cùng ra giới thiệu chào hỏi. 

Nữ tử nói: “Ta thực đáng chết, chỉ lo lằng nhằng với tiểu đệ mà quên hỏi quý tính vị tiên cô này, cũng không mời tiên cô vào hàn xá ngồi, thật sơ ý quá.”

Phi Nương nói: “Vân cô không cần nói vậy. Nó tên Liêm Hồng Dược, chính là đệ tử ta mới thu được. Ta thấy nó tư chất rất tốt nên hai lần độ nó. Mẫu thân của nó mất sớm. Phụ thân của nó vốn là Tiểu Bá Vương Thiết Tiên Liêm Thủ Kính nổi tiếng khắp Tam Tương** ngày trước. Khi xưa đi bảo tiêu cùng người ta kết hạ thâm cừu nên tránh họa ở đất Thục. Khi ta đến độ nó, phụ thân nó vì chỉ có một mụn con nên không chịu. Hồng Dược lại có lòng, nói là phụ thân đã thất thập, tính toán sau khi cha già khuất núi, sẽ đến Hoàng sơn quy đầu theo ta. Ta và nó bàn bạc hẹn hò ngày sau gặp lại. Một buổi tối, đột nhiên nghe thấy người ta nói nhà nó bốc cháy, ta liền vội đi cứu thì thấy cha nó đã đầu một nơi thân một nẻo, còn nó thì không thấy tăm hơi.”

Bà ta thở dài nói tiếp: “Ta liền vội xuất ra kiếm quang bay đi đuổi theo. Ra khỏi thành mới mười dặm, ta thấy một đám cường nhân, ta liền tiến đến truy hỏi, sau lại động thủ. Bọn chúng cũng biết kiếm thuật nên tiếc là cả bọn đều đào tẩu, cũng không lưu lại danh tính, chỉ để lại một cái bọc. Mở ra thì thấy Hồng Dược đã ngất bên trong. Ta đã cứu nó tỉnh lại, quay về nhà, tìm hài cốt của cha nó trong đống lửa đi an táng. Nó nài nỉ muốn bái ta làm sư phụ ngay để ngày sau nó tìm đám cường nhân đó, báo mối thâm cừu giết phụ thân.”

Nữ tử nghe xong quay sang nhìn Liêm Hồng Dược, thấy nàng ta đã đầm đìa nước mắt, không nén được đau khổ, cảm thấy vô cùng đáng thương. Từ ngàn xưa con người vốn hay đồng cảm với nỗi khổ của nhau, nữ tử đó thấy Liêm Hồng Dược mặt mày sáng sủa xinh đẹp, trông có vài phần giống mình nên cảm thấy thương tâm cho thân thế của nàng ta. Nàng mời Phi Nương và Hồng Dược đi vào trong động nói chuyện. Phi Nương chần chừ không muốn, chỉ thấy mặt Hồng Dược lộ ra vẻ mười phần muốn vào động mà không dám mở miệng.

Phi Nương không khỏi nghĩ mình mang quá nhiều tư tâm, có chút hổ thẹn, liền nói: “Ta vốn định về núi nhưng thấy Hồng Dược rất muốn vào trong động bái phỏng, đã có thịnh ý của Vân cô, chúng ta sẽ đi vào quấy quả vài chén trà xanh.”

Hồng Dược nghe vậy trong lòng tràn ngập vui sướng. Nữ tử được gọi là Vân cô thấy Hồng Dược vô tư chất phác, không có chút giả dối cũng rất vui mừng. Liền nhường Phi Nương đi trước rồi mình thì cầm tay Hồng Dược tiến vào trong động.

Hồng Dược lần đầu tiên đến một tòa bảo sơn nên thấy chỗ nào cũng thần diệu. Ban đầu nàng nghĩ rằng bên trong chỉ là một thạch động nên nhất định sẽ tối mịt mùng, cũng chỉ có chút đèn đóm là cùng. Ai ngờ tiến vào động quan sát mới thấy, bên trong dù hơi nhỏ, không có đèn đóm nhưng bốn vách đều sáng rõ như ban ngày, bố trí trang nhã, ấm áp như tiết xuân. Chỉ là không thấy tiểu hài tử mới rồi đâu, trong lòng nàng cảm thấy vô cùng kỳ dị.

Ba người ngồi xuống, nói chuyện một hồi. Phi Nương nguyên là chiều lòng ái đồ nên cố miễn cưỡng nói chuyện vui vẻ với địch nhân. Hồng Dược đó lại mười phần kính ái Vân cô, hai bên càng nói càng tâm đầu ý hợp, khi chuẩn bị ra về còn quyến luyến không rời. Vân cô nói: “Nơi muội đến rất gần động ta, nhàn rỗi có thể thường xuyên đến đàm đạo, tỷ còn có thể giới thiệu muội với gia mẫu.”

Hồng Dược buồn bã nói: “Tiểu muội ngu tối được tiên tỷ yêu mến, muội hết lòng cảm kích. Chỉ là đại cừu của muội còn chưa báo nên phải theo ân sư hết lòng khổ công tu luyện. Ngày trước dù có theo tiên phụ học chút võ nghệ nhưng nghe nói Hoàng sơn Ngũ Vân bộ núi non hiểm yếu, cách đây cũng một trăm vài chục dặm, cả đi và về e cũng phải ba trăm dặm. Tiểu muội tư chất ngu dốt, làm sao có thể du hành tự tại như tiên tỷ được!”

Vân cô nghe lời nàng ta nói mười phần đáng thương liền an ủi: “Nếu muội không thể đến, chỉ cần tiên cô không trách ta phá hỏng việc tu luyện của muội, ta cũng có thể thường xuyên đến thăm muội mà.”

Phi Nương nói: “Nếu Vân cô giá lâm hoang sơn, nó sẽ được chỉ giáo thêm nhiều điều, chính là phúc phận lớn nhất của nó. Sư đồ bọn ta cầu còn chẳng được, làm sao có thể không đồng ý?”

Dứt lời bà ta nói với Hồng Dược: “Chúng ta đi thôi.”

Rồi lại cắp lấy Hồng Dược như cũ, tạm biệt Vân cô xong, chân không dừng bước, phá không bay đi.

Ôi!

Oán cừu đè nén thật khó chịu

Thù hận không tuôn nào dễ nguôi.

Muốn biết tình hình tiếp diễn thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Đính nghĩa là đỉnh núi.

** Tương Giang bắt nguồn từ Quảng Tây chảy theo hướng Đông bắc vào tỉnh Hồ Nam. Lúc đầu hợp với Ly Thủy gọi là Ly Tương, sau hợp với Tiêu Thủy thành Tiêu Tương, rồi chảy lên phía bắc huyện Hành Dương hợp với Chưng Thủy gọi là Chưng Tương, cho nên gọi là Tam Tương. Sau chảy đến Trường Sa vào Ðộng Ðình hồ.

Hết hồi thứ mười bốn

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười lăm

Tề Thấu Minh phóng đạo nhập danh sơn

Tuân Lan Nhân thâm khuê thất ái nữ

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: herobk13

Biên dịch: BH Mod

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Tề Thấu Minh tìm đạo lên danh sơn

Tuân Lan Nhân đợi chồng mất ái nữ

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Vân cô ấy bản lĩnh như vậy, rốt cuộc nàng ta là ai? Lần ngược lại gốc, muốn biết Vân cô thì trước tiên hãy nói chuyện phụ mẫu của nàng.

Nguyên phụ thân của Vân cô là Càn Khôn Chính Khí Diệu Nhất chân nhân Tề Thấu Minh, một trong những lãnh tụ kiếm tiên của phái Nga My. Họ Tề vốn là một vọng tộc ở huyện Trường Thọ, phủ Trọng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên. Ở huyện Trường Thọ có một cái giếng Trường Thọ, nước giếng vô cùng ngọt ngào tinh khiết. Dân trong huyện thuần hậu, phần lớn là hưởng trường thọ. Vì vậy họ nghĩ là nhờ cái giếng này, nói rằng tên huyện cũng từ đó mà sinh ra. Nhưng nguồn cơn của sự việc thế nào thì không thể tra cứu được.

Họ Tề vốn là một đại gia ở địa phương, văn nhân võ sĩ như lá mùa thu. Giữa đời Minh là lúc cực thịnh của gia tộc. Thấu Minh trong gia tộc thuộc chi nhỏ nhất, đời đời đơn truyền. Khi đã già phụ mẫu mới sinh được ông ta, khi còn nhỏ lại có dị bẩm, cho nên càng được song thân nâng niu yêu thương.

Thấu Minh không những trời sinh thông minh, học nhiều hiểu rộng, mà còn có tý lực khỏe hơn người, trí dũng gồm đủ, từ nhỏ đã thích theo lối du hiệp của Chu Gia, Quách Giải*. Mỗi khi gặp kỳ nhân dị sỹ, ông đều không tiếc gì, cởi mở tâm tình để kết giao. Ở một dải Xuyên Tương (Tứ Xuyên Hồ Nam), ông nổi danh là Tiểu Mạnh Thường, gần như già trẻ lớn bé đều biết tiếng. Khi ông mười chín tuổi, song thân đều lần lượt tạ thế.

Thấu Minh có một biểu muội, tên là Tuân Lan Nhân, mười phần xinh đẹp, hiền thục hơn người. Nhân vì hai nhà gần gũi, thanh mai trúc mã, nên từ nhỏ đã rất thân nhau, dần dần nảy sinh yêu đương. Nhà Lan Nhân lúc ấy cũng có ý kén rể, muốn tác hợp nên ước định hôn nhân, chỉ là chưa cưới xin mà thôi.

Sau khi song thân Thấu Minh qua đời, vì thói lông bông lãng phí của ông mà gia đạo dần dần suy tàn. Rồi khi thân mẫu của Lan Nhân tạ thế, phụ thân nàng ta cưới vợ hai, vì thấy Tề gia bần cùng nên muốn rút lại lời ước định. Không chỉ Thấu Minh không đồng ý mà Lan Nhân cũng đã thề nguyền, dù chết cũng không thay đổi ý định.

Mặc dù chưa phá vỡ ước định nhưng Thấu Minh cùng Lan Nhân đều chịu rất nhiều sức ép. Cho đến khi Thấu Minh ba mươi hai tuổi, công thành danh toại, bỏ ra không ít sức lực mới có thể thực hiện được ước nguyện năm xưa. Lúc đó Lan Nhân cũng đã hai mươi sáu tuổi. Phu thê bọn họ trải qua hoạn nạn, một lòng yêu thương nhau, không cần phải nói đến những lạc thú buồng the thông thường như tô mày mỹ nhân cũng có thể hiểu nồng thắm mặn mà thế nào.

Bọn họ kết hôn ba năm, sinh được một trai một gái. Trai tên là Thừa Cơ. Khi sinh cô con gái, nhân vì trên nóc nhà có đám mây hồng bao phủ, ba ngày chưa tan nên mới đặt tên là Linh Vân. Hai huynh muội đều sáng sủa đẹp đẽ, thiên tư linh mẫn. Thấu Minh ngày ngày được bầu bạn với ái thê, lại có hai con đẹp đẽ lanh lợi nên ông ta coi nhẹ công danh bổng lộc. 

Lúc trước nhân vì nhà gái quý tộc không chịu hạ mình lấy dân đen cho nên mới phải truy đuổi công danh sự nghiệp. Hiện giờ ông ta đã đề huề vợ hiền con ngoan, vui thú gia đình, không màng đến chuyện gì khác, quên đi danh lợi phù hoa, sung sướng ở nhà hưởng thụ những năm tháng ngọt ngào. Ông ta lại có tính thích du sơn ngoạn thủy. Lan Nhân có tài văn chương, vốn ngang tài với Thấu Minh, lúc rảnh rỗi lại cùng Thấu Minh học chút ít võ công. Cho nên hai người bọn họ cùng đi du ngoạn, không hề phân ly, ở đâu cũng có nhau.

Có một ngày, hai vợ chồng ăn điểm tâm, mỗt người bế một tiểu hài nhi, cười đùa vui vẻ. Đang lúc cao hứng, Lan Nhân bỗng thở dài nhẹ một hơi, trông bộ dạng thập phần không vui. Hai vợ chồng hết mực yêu thương nhau, trong chốn khuê phòng thường tràn ngập hạnh phúc, chưa từng có điểm nào không vừa ý. Hôm nay đột nhiên thấy phu nhân không vui, Thấu Minh liền vội hỏi nguyên do.

Lan Nhân nói: “Hai chúng ta lúc trước dù đã chịu đủ khổ cực nhưng hôm nay hạnh phúc sung sướng biết bao. Tuy nhiên nước dưới sông khi đầy khi cạn, trăng trên trời khi tỏ khi mờ. Con người ta sống được trăm năm, ngày tháng ngắn ngủi, ngoảnh đi ngoảnh lại đã già yếu rồi chết, như thế không phải là chia lìa đôi ngả sao? Dù nói lòng như sắt đá, lên trời nguyện hóa thành chim liền cánh, xuống đất mong được làm cây liền cành, để kiếp sau có thể lại chung đôi, nhưng rốt cuộc những cái đó quá ư xa vời, sao có thể tin được? Hiện tại hai ta dù khoái hoạt nhưng thời gian vô tình, chẳng mấy chốc đã qua đời khiến người ở lại phải nhớ nhung khắc khoải, trong lòng khó chịu biết bao!”

Thấu Minh nghe xong những lời này, tâm tư xúc động, lúc ấy mặc dù an ủi phu nhân vài câu nhưng hôm đó ăn uống thấy nhạt thếch, cả ngày buồn bực không vui. Phu nhân hỏi han vài lần, ông ta cũng không chịu nói ra nguyên nhân, chỉ hàm hồ nói vài câu cho qua chuyện. 

Như thế rồi nửa năm trôi qua, nháy mắt đã đến mùa xuân. Lan Nhi lại hoài thai hai tháng. Thấu Minh bỗng nói với Lan Nhân: “Ta tính lên núi Nga My thăm vị lão hữu ẩn cư Giản Băng Như. Nàng đang mang bầu, leo núi e sẽ bị động thai, để ta đi một mình nhé.”

Hai người bọn họ từ khi kết hôn đến giờ chưa từng xa nhau, mặc dù không nỡ chia lìa nhưng vì Lan Nhân đang có mang, không thể leo núi, lại sợ Thấu Minh ở nhà buồn phiền sinh bệnh nên đành để ông ta một mình ra đi. Khi chia tay, vài lần Thấu Minh muốn nói với phu nhân điều gì đó lại thôi. Đến khi Lan Nhân hỏi, ông ta lại nói là không có chuyện gì, chỉ vì sợ nàng một mình ở nhà cô đơn không có ai chuyện trò.

Cũng may Lan Nhân tính tình hào sảng, lại biết trượng phu của mình tình thâm nghĩa trọng, cùng lắm là muốn nói vài câu lưu luyến chia ly nên cũng không lưu tâm. Ai ngờ sau khi Thấu Minh đi, chớp mắt đã nửa năm, đến ngày Lan Nhân lâm bồn sinh được một nữ hài, vẫn chưa thấy Thấu Minh trở về. Càng nghĩ càng lo lắng, vừa mới có thể rời giường, cũng không đợi nữ hài đầy tháng, nàng liền thuê một nhũ mẫu, đem nhà cửa con cái giao cho một người bà con thân thiết họ Trương chăm nom hộ rồi vội đi Nga My tìm trượng phu.

Giản Băng Như đó là một hiệp khách thành danh, sống trong một động ở hậu sơn Nga My, Lan Nhân cũng đã nghe trượng phu nói qua. Đến khi tìm được Băng Như, nàng hỏi Thấu Minh đã đến đây chưa?

Băng Như đáp: “Vào tháng ba tháng tư Thấu Minh đến đây, ở được hai tháng, ngoại trừ buổi tối trở về nghỉ ngơi, ngày ngày đều đi khắp núi du ngoạn. Về sau thường mười ngày vẫn chưa quay lại, hỏi y nghỉ đêm ở đâu nhưng y chỉ trả lời hàm hồ cho qua chuyện. Một hôm trước lúc chia tay với ta, y nói đã gặp một lão tiền bối trong núi, muốn đi cùng ông ta vài ngày. Nếu đại tẩu tìm đến thì bảo đại tẩu cứ về, dạy dỗ nuôi dưỡng con cái cho tốt, y có việc quan trọng phải ở lại đây, không lâu sẽ quay về. Lại có một phong thư nhờ ta chuyển hộ, nhờ ta đưa đại tẩu quay về. Nhân vì chỗ y đang ở là nơi người thường không đến được, do đó đừng tìm kiếm vô ích.”

Y nhấp giọng nói tiếp: “Sau khi ta đưa y ra khỏi động, thấy bên ngoài có một đạo trưởng tiên phong đạo cốt, tựa như đứng ở đó đợi y, thấy Thấu Minh đi ra ông ta liền nói: ‘Sư đệ nhi nữ tình trường như vậy, sư phụ nói sau này đệ khó tránh khỏi ma kiếp đổ xuống đầu.’ Ta lại nghe thấy Thấu Minh đáp: ‘Sư huynh đừng cười, động cơ tầm sư học đạo của đệ cũng là vì nhi nữ tình trường đó.’ Ta nghe xong cảm thấy vô cùng kinh ngạc, âm thầm đi sau bọn họ. Mới vòng vo một lúc, lão đạo trưởng đã phát hiện ra, chỉ thấy lão phất tay áo, đột nhiên ở vách núi hiện ra một mảng mây khói. Khi mây tan khói tỏa, ta đã chẳng thấy hai người bọn họ đâu nữa. Ta ở núi này tìm kiếm dị nhân đã nhiều năm nhưng chưa từng gặp. Thấu Minh chắc đã gặp tiên duyên, đi đến thâm sơn tu luyện, ta ái mộ vô cùng. Nga My chính là trên đất Thục, ta đi tìm khắp nơi cũng không thấy chút bóng dáng.”

Lan Nhân nghe thấy những lời của Băng Như, cảm thấy vừa thương tâm, lại vừa lo lắng. Dù nàng là nữ tử nhưng cũng có chí khí trượng phu, chưa từng phải rơi lệ trước mắt người khác. Hiện tại, nàng đành nén nhịn đau thương nhận lấy lá thư, mở ra xem.

Chỉ thấy trong thư viết: 

Gửi Ái thê Lan muội,

Vợ chồng hòa hợp, ân ái nhiều năm

Đêm thu đàm đạo, chợt ngộ nhân sinh, trăm năm thoáng chốc, nên lòng muốn lánh đời.

Vì nàng thân đang hoài thai, sợ đau ly biệt, không nỡ lời thật bảo nhau.

Nga My tìm đạo, may mắn gặp tiên, vì có tiền nhân, hết lòng dậy dỗ. Nay đã theo thầy về núi, tham thấu đạo huyền. 

Tuy chỉ Hạ thừa, may thoát sinh tử.

Đến phút đoàn viên, ước khoảng ba năm.

Mong nàng khéo nuôi con trẻ, theo thời dưỡng thân.

Một mai mây trắng bay về, là lúc mang nàng vào Đạo.

Từ đó nghiền ngẫm đạo tịch, chồng vợ song tu. 

Trời đất lâu dài, trường sinh biết lối.

Chẳng cần nuối tiếc lời hẹn kiếp sau.

Thân cường vóc khỏe, nàng chớ bận lòng. 

Thấu Minh bái thủ (cúi chào)**.

Lan Nhân đọc xong mới biết Thấu Minh vì một câu nói bâng quơ của mình mà nghĩ đến đời người ngắn ngủi, thời gian trôi mau, do đó nghĩ đến việc tầm sư học đạo rồi quay lại độ mình. Cũng may ước hẹn ba năm không quá xa vời, nên đành cố gắng đè nén nỗi u sầu để Băng Như hộ tống về nhà, yên tâm thu vén nhà cửa, dạy dỗ con cái.

Thời gian như bóng câu qua cửa, bấy giờ Thừa Cơ đã bảy tuổi, trời sinh thông minh, vô cùng khỏe mạnh, nhìn qua như đứa trẻ mười một mười hai tuổi vậy. Lan Nhân cũng không mời sư phụ cho nó, chỉ đem hết sở học tận tụy truyền cho con. Linh Vân và nữ hài mới sinh một đứa năm tuổi, một đứa ba tuổi. Linh Vân thấy mẫu thân dạy ca ca của mình, nàng cũng kỳ kèo đòi học, quả thực dạy như nhau, lĩnh hội như nhau, nhưng so với ca ca, nàng còn có phần thông minh hơn.

Lan Nhân có được ba đứa con lung linh như ngọc, khả ái, thông minh tuyệt đỉnh như vậy, mỗi ngày dạy văn luyện võ, cũng không cảm thấy quá ư tịch mịch. Nhưng những tiểu hài tử ấy dần dần trưởng thành, thường hay hỏi mẫu thân của chúng: “Phụ thân đã đi đâu ạ?”

Lan Nhân nghe vậy trong lòng vô cùng khó chịu, đành nói dối bọn nhỏ: “Phụ thân các con đi thăm bằng hữu rồi sẽ về thôi.”

Tuy nói như vậy nhưng một mặt cũng âm thầm tính toán, ước hẹn ba năm đã qua từ lâu, dù biết Thấu Minh sẽ không thất tín nhưng lại sợ trong núi không quen thủy thổ, sinh ra chuyện gì chăng, trong lòng vô cùng lo lắng. Nhưng có một chuyện khiến Lan Nhân lo lắng khôn nguôi. Nguyên lai nữ hài mới sinh, vì muốn đợi Thấu Minh trở về đặt tên nên mới chỉ đặt tạm cho một nhũ danh là Hà Nhi.

Vì khi Lan Nhân lên Nga My tìm chồng, thuê người nhũ mẫu có sữa không tốt, đúng lúc đó đứa trẻ sơ sinh của người bà con Trương đại nương lại qua đời nên do bà ta cho bú mớm. Trương đại nương đó nhân phẩm cực tốt, vô cùng yêu thương Hà Nhi, gần như hoàn toàn do bà ta nuôi nấng trưởng thành. Hà Nhi cũng rất yêu quý Trương đại nương, cho nên bà ta thường ẵm nó ra ngoài bờ ruộng chơi đùa. Hai gia đình vốn ở gần nhau nên việc tới lui rất thuận tiện.

Có một hôm, Trương đại nương ăn cơm xong liền ẵm Hà Nhi ra ngoài bờ ruộng xem nông dân làm việc. Bỗng nhiên từ xa có một nữ ni đi lại, trông thấy Hà Nhi vô cùng đáng yêu liền sờ vào bàn tay nhỏ bé của nó. Trương đại nương e Hà Nhi sợ hãi, đang định lên tiếng, ai ngờ Hà Nhi thấy ni cô hết mực thân thiết liền vươn tay nhỏ xinh, tỏ vẻ muốn được ni cô bế. Ni cô nói: “Hảo hài tử, không ngờ ngươi không quên lời hẹn ước xưa. Được rồi, để ta bế ngươi đi tìm chủ nhân của ngươi nhé.”

Rồi bà ta bế Hà Nhi bỏ đi. Trương đại nương tưởng là kẻ bắt cóc nên vừa lo sợ vừa la lên rồi đuổi theo. Lúc này nông dân đều nghỉ ăn trưa, ở cách rất xa nên cũng không có ai tiến đến ngăn trở. Trương đại nương thấy nữ ni đó đi về phía nhà họ Tề, trong lòng mới bớt phần lo lắng, biết là Lan Nhân võ công cao cường, quyết không có chuyện giả xảy ra. Chân bà ta lại ngắn, chỉ đành cố chạy nhanh đuổi theo.

Đến khi về nhà, chỉ thấy Lan Nhân đã ôm Hà Nhi trong lòng, lúc bấy giờ bà ta mới yên tâm. Đang định hỏi nữ ni kia vì sao lại lỗ mãng như vậy thì thấy nữ ni nói: “Con bé này nếu ở trong tay phu nhân e rằng tai ương quá nặng. Huống hồ hiền phu phụ ngày nào đó vào núi sẽ lại thêm một phần gánh nặng. Không bằng nhân duyên lành để bần tăng đưa nó lên núi. Mặc dù tạm thời cách biệt nhưng một ngày khác có thể gặp lại, chẳng phải là lưỡng toàn kỳ mỹ sao?”

Lại thấy Lan Nhân nói: “Khi sinh ra nó, phụ thân đã viễn du nên nó chưa từng gặp qua. Đại sư muốn thu nhận nó làm sư đồ chính là cầu còn chẳng được. Nhưng liệu có thể đợi phụ thân nó quay lại, gặp nhau một lần, lúc đó để phụ thân nó tác chủ, thiếp thân cũng không có ý kiến gì.”

Nữ ni đó nói: “Phụ thân nó chắc chắn sẽ quay lại trong vòng bảy ngày, đợi để gặp ông ta nguyên là không có vấn đề gì. Chỉ là bần ni đang có chuyện quan trọng, sao có thể vì thế mà chờ đợi lâu được? Phu nhân thông minh sao vẫn u mê, nên sớm nghĩ lại. Ở đây có một viên đan dược, ta tặng phu nhân, sau khi dùng xong sẽ hiểu rõ nguồn cơn.”

Dứt lời bà ta lấy ra một viên đan dược trên người đưa cho Lan Nhân. Lan Nhân tiếp lấy, thấy mùi hương nức mũi nên kinh sợ không dám dùng. Hà Nhi đã ra khỏi tay mẫu thân, tiến đến bên cạnh nữ ni. Nữ ni liền hỏi: “Mẫu thân ngươi không để ngươi theo ta, ngươi có sẵn lòng theo ta không?”

Hà Nhi lúc này đã có thể bập bẹ nói, liền đáp: “Đại sư, cháu nguyện đi, cũng may không lâu sẽ trở về.”

Thần thái vô cùng cung kính, nói chuyện như người lớn vậy. Nữ ni nghe thế liền bế Hà Nhi lên, cười to: “Đã là tự nguyện, đừng trách bần ni ép buộc vụ này nhé.”

Lan Nhân thấy không hay, tiến lên một bước, đang định đọat lại Hà Nhi thì nữ ni mở ra tay áo, kim quang tràn ngập, lại quay sang nhìn Hà Nhi thì đã cùng với nữ ni ấy chẳng biết biến đi đâu. Điều này khiến cho Trương đại nương vừa sợ hãi lại vừa thương tâm, không khỏi khóc rống lên. Cũng là Lan Nhân bình tĩnh liền khuyên nhủ Trương đại nương: “Người không chết của cũng không mất, không việc gì phải khóc. Khi Thấu Minh ở nhà thường nói giang hồ có nhiều dị nhân. Ta thấy nữ ni đó nhất định không phải người thường, bằng không làm sao Hà Nhi lại đối đáp với bà ta như thế?”

Trương đại nương lại hỏi tình hình vừa rồi nữ ni đến nhà thế nào. Lan Nhân đáp: “Đại nương mới đi xong, Thừa nhi và Vân nhi được cữu mẫu của chúng đưa đi chơi. Ta vì bọn họ giả dối nên cũng thấy thờ ơ, đang định lấy một quyển sách để xem. Bỗng nhiên Hà Nhi vui vẻ bon bon chạy vào cung kính dập đầu ba cái với ta nói: ‘Ma ma, sư phụ con đến rồi, muốn dẫn con hồi sơn.’ Nói rồi nó đi ra ngoài. Ta đuổi theo giữ lấy nó, thấy ở ngoài sảnh có một ni cô đứng đó tự bao giờ, bà ta xưng là Thần Ni Ưu Đàm ở Bách Hoa sơn Triều Âm động, nói Hà Nhi kiếp trước là đồ đệ của bà ta, vì phạm giới phải đầu thai chuyển kiếp, cho nên mới đến để độ nó hồi sơn. Chuyện sau đó thì đại nương thấy rồi đó.”

Trương đại nương cũng đem chuyện mới rồi ở bờ ruộng kể ra một lượt.

Hai người buồn bã một lúc nhưng cũng không thể nghĩ ra cách gì. Trương đại nương bỗng nói: “Cũng đều tại phu thê ngươi, sinh ra ba hảo hài tử như vậy, chẳng trách người khác ghen tỵ nhòm ngó.”

Lan Nhân nghe bà ta nói vậy không khỏi nhớ tới hai đứa kia còn ở bên nhà ngoại, vô cùng lo lắng, chỉ e có điều gì xảy ra, đột nhiên thấy Thừa Cơ và Linh Vân nắm tay nhau khóc lóc tiến lại.

Lan Nhân vì mới bị mất một đứa nên càng thương xót, vội vàng ôm lấy hai con. Nàng hỏi bọn chúng: “Vì sao mà khóc? Vì sao cữu mẫu không bảo người đưa các con về?”

Thừa Cơ chỉ khóc không nói gì. Linh Vân đáp: “Con và ca ca đến nhà đại cữu mẫu, bọn con và biểu ca, biểu tỷ của đại cữu mẫu cùng chơi đùa. Biểu ca khi dễ con nên bị ca ca đánh cho hai cái. Cữu mẫu đi đến nói: ‘Chúng mày mới nhỏ thế này mà đã hung hãn như vậy, giống phụ thân chúng mày quá, thật là cha nào con ấy. Phụ thân chúng mày nếu không hung ác thì đã không bỏ mạng ở Nga My sơn. Mẫu thân chúng mày còn nói y tu tiên, thực là xấu hổ.’ Biểu ca cũng thóa mạ ca ca là tặc chủng không cha. Ca ca nổi giận kéo con bỏ về.” 

Dứt lời lại hỏi Trương đại nương: “Muội muội đâu?”

Lan Nhân nghe vậy lại thấy thương tâm một hồi, nhưng đành cố tỏ ra bộ mặt vui vẻ, lừa lũ trẻ: “Muội muội được cha phái người về đưa đi rồi.”

Hai đứa trẻ nghe xong đều nín khóc, cười toe: “Thì ra cha chưa chết. Vì sao không quay lại, chỉ đưa muội muội đi mà không đón bọn con?”

Trương đại nương đáp: “Cha các cháu sẽ quay lại trong vòng bảy ngày.”

Hai anh em nghe vậy đều vô cùng mừng rỡ. Từ đó ngày ngày quấy rầy Trương đại nương, đòi cùng bọn chúng ra cửa chờ đợi.

Trương đại nương vì chuyện đã xảy ra, nào dám dẫn chúng ra ngoài. Sau cùng vẫn là Lan Nhân sáng suốt, biết được người như Ưu Đàm nếu muốn đến bắt người thì có giữ khư khư trong nhà cũng vô dụng. Không chịu được cảnh hai đứa nhỏ nằng nặc cần khẩn, nên đành chiều chúng, dặn dò Trương đại nương phải chú ý cần thận.

Đến ngày thứ sáu, hai huynh muội đọc sách xong, vẫn y thói quen cũ theo Trương đại nương ra cửa ngóng. Tình cảm phụ tử vốn là thiên tính của con người. Bọn chúng còn nhỏ tuổi, vì nghe thấy phụ thân sẽ sớm quay lại nên mỗi ngày đều ra cửa mở căng đôi mắt bé nhỏ ngóng trông về phía trước thôn. Lan Nhân vì nghe Thần Ni nói vậy không nghĩ là giả, gần đến thời hạn nên cũng đứng ngồi không yên.

Tính nàng vốn thích thanh bình yên tĩnh, Thấu Minh không ở nhà nên cũng không thường ra ngoài, nhưng hiện giờ cũng theo bọn nhỏ đứng ở cửa cùng đợi. Bọn nhỏ thấy mẫu thân không ngờ cũng đi ra, càng tin là phụ thân sắp về, đứng ở cửa ngóng một lúc lại hỏi một câu, vì sao phụ thân vẫn chưa về? Đợi chờ hồi lâu, thấy mặt trời đã sắp xế bóng, mọi người đều dần dần thất vọng. Lan Nhân trong lòng càng chán nản, thầm nghĩ chỉ còn có ngày mai, nếu trượng phu không quay lại thì hoàn toàn hết hy vọng.

Lại thấy hai đứa nhỏ một lòng ngóng cha nên nàng càng thêm thương tâm. Vài lần muốn bảo các con đi vào nhưng không nói nên lời, giống như có cái gì đó mách bảo trong lòng, nói rằng trượng phu nhất định hôm nay sẽ trở lại. Cùng đợi một hồi, mặt trời khuất dần về phía tây, bốn bề đã chạng vạng tối. Dưới ánh tà dương, nông phu vác cày vác cuốc, hát vang những bài sơn ca cùng nhau ra về. Trượng phu của Trương đại nương từ trong thành trở về, lớn tiếng gọi bà đi.

Không gian nhất thời trở nên tĩnh lặng, ngoại trừ ba mẹ con ngóng chồng ngóng cha, chỉ có chim chóc nháo nhác về tổ. Lan Nhân biết rằng hôm nay đã hết hy vọng, nhìn hai con lũn cũn đứng cạnh, cặp mắt chúng đã lộ ra vẻ chán nản, bộ dạng như muốn khóc mà cố nhịn, nàng không khỏi thở dài thườn thượt: “Phụ thân vô tâm của các con hôm nay không về rồi. Ta đã bảo lão Vương nấu hai miếng thịt, giết hai con gà, chắc hẳn mọi thứ đã xong xuôi, chúng ta vào nhà ăn đi thôi.”

Nói chưa dứt lời, bên tai chợt nghe thấy một chuỗi âm thanh phá không vang lên. Hai huynh muội vội vàng nói: “Ma ma, mau nhìn con chim bồ câu kìa.”

Đang nói thì trước mắt sáng ngời, xuất hiện một nam tử khiến Lan Nhân giật mình nhảy dựng lên. Vội kéo hai đứa nhỏ, đang định chạy vào cửa thì có giọng nam tử hỏi: “Lan muội vì sao lại tránh ta?”

Giọng nói rất quen thuộc, Thừa Cơ linh mẫn đã sớm nhận ra chính là phụ thân của nó quay về.

Linh Vân dù còn bé nhưng trong đầu cũng có hình bóng của phụ thân. Huynh muội hai đứa song song lao ra. Lan Nhân cũng nhận thấy quả nhiên chồng mình trở về, không khỏi thấy cảm động một hồi, trăm ngàn lời không sao lên tiếng, chỉ ngây ngốc đứng bên cạnh. Lúc này đêm tôi mênh mang, chỉ còn lại tiếng Thấu Minh: “Chúng ta vào nhà rồi hãy nói chuyện.”

Bế hai đứa con, phu thê bọn họ cùng tiến vào phòng. Lão Vương ở trong bếp đã nấu nướng xong xuôi, đang muốn mời chủ mẫu ăn cơm thì thấy chủ nhân quay về, vui mừng khôn xiết. Lúc này cơm nước đã được bày biện xong xuôi, Lan Nhân biết Thấu Minh học đạo liền hỏi có ăn chay hay không. Thấu Minh đáp: “Ta đã có thể nhịn ăn. Mọi người ăn xong rồi hãy nghe ta nói chuyện nhé.”

Lan Nhân lại mời mọc một hồi, Thấu Minh kiên quyết không dùng đồ nấu nướng, chỉ đành để mặc y.

Ba mẫu tử bọn họ nào có tâm tình ăn uống, tùy tiện ăn chút ít rồi hỏi tình cảnh lúc vào núi. Thấu Minh đáp: “Lần này ta tầm sư học đạo đều là do một câu của nàng khuấy động. Ta nghĩ đời người trăm năm tựa như giấc mộng. Sau nhiều lần cân nhắc, ta quyết đi tìm thầy học đạo, đợi khi thành công sẽ trở lại độ nàng theo, cùng nhau truy cầu trường sinh bất lão, tránh được kiếp luân hồi. Vì nàng mang thai, sợ nàng thương tâm vì ta ra đi nên ta đành nói dối là đi thăm bạn hữu. Bởi vì cảnh sắc Nga My thanh tú, ta nghĩ tất có chân nhân ẩn tàng. Ta ở trong động của Băng Như, mỗi ngày đi khắp toàn núi, đến tất cả những chỗ mà người thường không đặt chân. Cứ như thế hai tháng trời mới gặp Trường My tổ sư, chấp nhận thu ta làm đồ đệ và cho phép ta tương lai độ nàng cùng theo học đạo. Trong chuyện này có một đoạn tiên duyên khác cho nên mới dễ dàng như vậy. Chỉ là ta và nàng đều không còn đồng thân nên hiện tại chỉ có thể học Hạ thừa kiếm pháp. Tương lai còn phải chịu một lần binh giải***, lần thứ hai luân hồi mới có thể tham thấu Thượng thừa.”

Ông lại tiếp: “Ta ở trong động khổ luyện ba năm, vốn định xin phép xuống núi, đang không biết nói thế nào thì hôm qua Ưu Đàm đại sư dẫn một nữ hài đến động. Bà ta nói rằng nó là cốt nhục của ta, bảo ta phụ tử ra nhận nhau, rồi lại nói tình lý với chân nhân, cho phép ta hạ sơn độ nàng. Bà ta nói là đã tặng nàng một viên Dịch Cốt tiên đan, không biết nàng đã dùng chưa?”

Lan Nhân nghe xong càng thấy vui mừng, liền đem chuyện xảy ra kể một lượt và nói chưa dùng đan dược. Thấu Minh nói: “Sau này nàng cùng lên núi rồi uống.”

Mới hay

Bâng quơ thê tử nhắc nhân sinh

Quyết chí trượng phu đi học đạo

Muốn biết tình hình nhà Thấu Minh lên núi thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Chu Gia là người Lỗ sống cùng thời với Hán Cao tổ. Người nước Lỗ đều học theo đạo Nho, riêng Chu Gia học theo lối du hiệp mà nổi danh. Quách Giải là người đất Chỉ tự là Ông Bá, là cháu ngoại của Hứa Phụ người có tài xem tướng. Cha Giải bị giết thời Hiếu Văn đế vì du hiệp. Giải người thấp bé, tinh ranh, hung hãn, không uống rượu. Lúc nhỏ tính nham hiểm, tàn nhẫn, những kẻ không làm Giải vừa lòng bị Giải giết rất nhiều. Giải liều thân báo thù cho bạn, chứa những người trốn tránh, phạm pháp, còn việc cướp bóc là việc thường làm, cũng như việc đúc tiền đào mả người thì không kể hết. Ông ta gặp may, lúc nguy khốn cấp bách thường nhờ dịp đại xá mà được thoát. Đến khi Giải lớn thì thay đổi tính nết, biết tự kiềm chế, biết lấy đức để báo oán, cho người thì nhiều mà trông mong người thì ít. Giải lại càng thích làm việc nghĩa hiệp hơn trước. Sau khi đã cứu tính mạng người ta, Giải không khoe công, tuy cái lòng nham hiểm tàn ác ngày xưa đôi khi vẫn lộ ra như cũ nếu gặp kẻ trợn mắt với mình.

** Đây là một mẫu biền văn thông thường trong Trung văn, khi dịch cần phải bám sát nguyên thể, bản trên là tại hạ nhờ bác luulang dịch hộ, chân thành cảm ơn bác. Nguyên gốc như sau:

Lan muội ái thê trang thứ: 

Cầm sắt tĩnh hảo, vu kim hữu niên. Khách thu dạ thoại, hốt ngộ nhân sanh, bách niên dịch thệ, toại hữu xuất trần chi tưởng. Trị quân hữu nhâm tại thân, khủng thương biệt ly, vị nhẫn phẩu thành tương cáo. Nga My phỏng đạo, ngẫu ngộ tiên sư, vị hữu tiền nhân, khẳng gia viên bạt, hiện dĩ tương tùy nhập sơn, tĩnh tham huyền bí. Tuy thị hạ thừa, hạnh thoát quỷ thú. Trùng viên chi kỳ, đại ước tam tái. Vọng quân thiện phủ nhân nữ, thuận thì tự trân. Dị nhật bạch vân quy lai, tiện đương dữ quân đồng đạo. Tòng thử Lưu Phàn hợp tịch, Cát Bảo song tu, thiên trường địa lão, trú cảnh hữu phương, bất tất tiện tha sanh chi ước hĩ. Ngoan khu kiện thích, vô dĩ vi niệm. 

Thấu Minh bái thủ.

Tại hạ tạm dịch phóng ra dạng giống kiểu thư của tiếng Việt cho dễ hiểu

Gửi ái thê Lan muội yêu dấu,

Hai ta nên duyên cầm sắt đã nhiều năm. Đêm thu ở xứ người ngồi viết cho nàng, đột nhiên ta ngộ ra triết lý nhân sinh, trăm năm thấm thoát rồi tất cả cũng thành tro bụi. Nàng đang bụng mang dạ chửa, e rằng sẽ u sầu vì ly biệt, không đành lòng nên ta viết vài chữ để nàng rõ. Ta lên Nga My tầm sư học đạo, may mà gặp được tiên sư, nói rằng vì có tiền duyên kiếp trước nên đồng ý thu nhận. Ta đã theo người vào núi để tĩnh tâm tham thấu đạo huyền. Tuy là Hạ thừa, nhưng hy vọng thoát khỏi bàn tay của Diêm vương. Khoảng ba năm nữa sẽ lại đoàn tụ, mong nàng chăm sóc nuôi dưỡng con cái và tự bảo trọng. Một ngày nào đó đắc đạo quay lại, ta sẽ dẫn nàng theo cùng. Từ đó trở đi đôi ta sẽ như “Lưu Phàn hợp tịch, Cát Bảo song tu”, mãi mãi bên nhau, niềm mơ ước trường sinh đã có thể thỏa nguyện, chẳng lo thề nguyền kiếp sau. Ta vẫn khỏe mạnh, nàng không cần phải lo nghĩ.

Thấu Minh dừng bút tại đây.

Giải thích trong đoạn này:

1.Hạ thừa chỉ cấp bậc tu luyện. Vì hai vợ chồng Thấu Minh, Lan Nhân không còn đồng thân nên không học được Thượng thừa, phải tu Hạ thừa trước.

2.“Lưu Phàn hợp tịch, Cát Bảo song tu”: Lưu Phàn là Lưu Cương và Phàn phu nhân, Cát Bảo chỉ Cát Hồng và Bảo Cô. Đây là những cặp nam nữ luyện tập phòng trung chi thuật mong được tiên đạo.

*** Nghi lễ của Ma giáo, trước khi giáo chủ qua đời phải để bộ hạ cắt đầu xuống thì mới có thể thoát thể phi thăng, gọi là binh giải. Ở đây ý là cần phải qua tai kiếp để thoát thai.

Hết hồi thứ mười lăm

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười sáu

Tán gia tài hợp tịch chú trường sanh 

Thừa y bát nhất môn quy chính quả

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: gatre

Biên dịch: luulang

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Tán gia tài, chồng vợ luyện trường sinh

Thừa y bát, một nhà quy chính quả

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Lan Nhân biết vợ chồng đều không thể đợi lâu ở nhà liền hỏi gia sự sắp xếp thế nào. Thấu Minh nói: “Cần thiết gì vật ngoại thân? Vật gì còn dùng được thì đưa tặng vợ chồng Trương biểu huynh. Còn lại phân ra cấp cho nam nữ hạ nhân trong nhà. Con gái ta sinh ra đã có tiên cốt, có thể mang theo cùng đi. Thừa nhi đã bái Trương biểu huynh làm nghĩa phụ; tương lai sẽ kế thừa hương hỏa nhà họ Tề ta. Thừa nhi tài hoa xuất chúng, nhất định chấn hưng thanh danh nhà ta.”

Thừa Cơ nghe cha mẹ nói đi học tu tiên, không cho nó đi theo liền lớn tiếng khóc lớn. Ngay cả Lan Nhân cùng Linh Vân cũng lưu luyến không rời, ba bốn lượt thay nó cầu khẩn.

Thấu Minh nói: “Thần tiên cũng giảng tình lý, chỉ là ta không thể làm chủ được, năn nỉ chỉ uổng công thôi.” 

Lại bảo Thừa Cơ tới trước mặt, ba bốn lượt lựa lời khuyên bảo nó, đem đạo lý “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”* giảng giải một phen. Thừa Cơ không dám cãi lại, trong lòng hết sức buồn bã.

Lan Nhân thương xót con yêu, mang con tới chỗ vắng vẻ không người, đem lời khuyên giải: “Con chỉ cần chăm chỉ đọc sách cho nên người. Ta là một phàm nhân, phụ thân con đắc đạo thành tiên thì sẽ độ hóa cho ta. Chẳng lẽ sau khi ta tu thành lại không độ cho con sao? Con đúng là một đứa trẻ ngốc.” 

Thừa Cơ biết mẫu thân nói là giữ lời mới yên tâm bớt buồn. Bèn nhẹ nhàng nói với muội muội: “Nếu như mẫu thân quên độ cho ta, muội phải nhắc mẹ một tiếng, thực lòng cầu xin thay ta đó.”

Thấu Minh ở nhà ba ngày, liền mời vợ chồng họ Trương qua. Chồng của Trương đại nương là Minh Đức, cũng là một người làm quan liêm khiết về hưu, sống đời nhàn nhã. Thấu Minh ba bốn lượt đem việc chia tài sản và đem con gửi gắm khẩn thiết yêu cầu. Trương Minh Đức khuyên giải cả nửa ngày không có hiệu quả đành phải chiều lòng. 

Thấu Minh triệu tập cả nhà, nói rằng mình phải cùng thân quyến đi ra ngoài làm quan, nguyện mang sản nghiệp tặng Trương gia dùng để nuôi dạy Thừa Cơ. Ngoài ra cũng xuất ra một lượng kim tiền, phân phát cho mọi người.

Vì sợ làm kinh động tai mắt mọi người, nên ông cố ý sắp xếp vừa đủ hai kiện hành lý và một cái rương rồi từ biệt lên đường. Sau đó, Thấu Minh mua hai thớt ngựa, đem hành lý rương hòm chất lên, dẫn theo vợ và con gái khởi hành. Đợi cho rời nhà đã xa, ông liền bảo Lan Nhân xuống ngựa và sau khi lấy các đồ đạc cần thiết từ trong hành lý ra, ông đánh hai con ngựa mỗi con một roi để tùy ý cho chúng chạy đi. Sau đó, ông bọc chắc lấy Linh Vân trong chiếc áo khoác để cõng trên lưng, một tay ôm chặt Lan Nhân. Rồi quát một tiếng: “Lên!” Liền vượt núi bay đi.

Khi đến Nga My, Thấu Minh dẫn vợ con tới gặp Trường My chân nhân và các đồng môn huynh đệ. Vợ chồng hai người ở trong động dụng công hơn mười năm. Về sau Trường My chân nhân dời đến Bồng Lai, vợ chồng Thấu Minh cùng các đạo hữu sáng lập ra phái Nga My, một lòng hành hiệp trượng nghĩa, lại thu được hai đệ tử đắc ý. 

Một năm nọ vợ chồng mượn việc binh giải trở lại trần phàm. Sư huynh Huyền Chân tử phụng sư mệnh đi độ hóa lần thứ hai, vợ chồng hai người nhờ đồng thân trùng nhập tiên sơn mới tham ngộ được đạo pháp Thượng thừa, trở thành kiếm tiên lãnh tụ của Nga My.

Lan Nhân vì yêu thích cảnh đẹp Cửu Hoa sơn bèn xây dựng động phủ, cùng Linh Vân cư ngụ, rảnh rỗi thì đến thăm nữ nhi. Một hôm ngẫu nhiên gặp mặt Hứa Phi Nương, Phi Nương cật lực lôi kéo, nhiều lần muốn bái Lan Nhân làm sư phụ đều bị Lan Nhân khiêm nhượng chối từ. Phi Nương thường đến trong động đánh cờ, do đó biết được Linh Vân, gọi nàng là Vân cô.

Thừa Cơ từ khi cha mẹ tu tiên, cố gắng vươn lên, văn võ công danh đều đã thành tựu. Thành tâm hiếu đễ, lấy vợ sinh con. Mỗi ngày trông ngóng mẫu thân độ hóa, nhưng vẫn bặt vô âm tín. Y tới Nga My tìm người thân, ba lần đều không gặp. Sau Huyền Chân tử thấy y đáng thương, chỉ dẫn y lấy được một nhánh nhục chi uống vào sẽ hưởng trường thọ.

Lại do dược lực của linh dược, chân linh sáng suốt, y đầu thai vào Lý gia ở phía đông Tứ Xuyên, nhũ danh Kim Thiền. Y do nhớ Lan Nhân, mỗi ngày đều tưởng nhớ cha mẹ kiếp trước. Lan Nhân hai lần thành đạo, không quên lời hứa trước, liền độ Kim Thiền tới Cửu Hoa sống cùng với Linh Vân, đó chính là tiểu hài tử kia.

Bạch y thiếu niên là Bạch Hiệp Tôn Nam. Gã phụng mệnh Truy Vân Tẩu đến trước mời vợ chồng Lan Nhân, nhân tiện còn làm một việc quan trọng. Tôn Nam trước tiên đến Nga My thì Tề Thấu Minh đã rời khỏi động phủ vân du nơi khác. Tôn Nam liền đuổi theo tới Cửu Hoa, gặp được Lan Nhân, mới biết được lần này các phái thu đồ đệ nên có rất nhiều ngoại phái bàng môn muốn đối phó phái Nga My. Hai phái Ngũ Đài, Hoa Sơn đều muốn mượn cơ hội này âm mưu báo phục cừu hận ngày trước. Ngoài mặt tuy chưa phát động nhưng đã âm thầm tích cực chuẩn bị.

Một khi đấu tranh phát khởi bên nào cũng có cường binh. Quả thực là một đại kiếp chưa từng xảy ra của các phái kiếm tiên. 

Lan Nhân lại nói với Tôn Nam: “Mùa xuân năm sau việc phá hủy Từ Vân tự chính là ngòi dẫn hỏa. Việc phá chùa vốn không khó, ta đương nhiên sẽ hỗ trợ. Thấu Minh hiện tại cũng đang trù bị việc này nên đã đến vùng Vân Nam, Quý Châu ở Nam cương. Hiện tại thời gian còn nhiều, ngươi có thể tạm ở lại trong động, giúp ta một việc nhỏ. Đợi đến khi xong việc, ngươi ra đi cũng vừa.”

Tôn Nam từ khi phụng sư mệnh hạ sơn, ước nguyện được gập gỡ vài vị dị nhân. Gã trong thời gian ngắn, gặp được cả Truy Vân Tẩu, Túy đạo nhân cùng với Lan Nhân, đều là các kiếm tiên tiền bối hữu danh. Hơn nữa còn được các vị coi trọng nên trong lòng cực kỳ cao hứng. Hôm nay thấy Lan Nhân quý mến nhờ giúp việc, trong lòng gã hết sức vui mừng.

Gã vẫn còn nhỏ tuổi, tính trẻ con chưa dứt, liền hỏi Lan Nhân: “Không biết sư bá có việc gì quan trọng sai khiến đệ tử, xin cứ nói ra để tiện chuẩn bị.” 

Lan Nhân nói: “Hiện tại còn chưa đến lúc nói ra, ta phải ra ngoài một hai hôm, đến chỗ bằng hữu mượn một vài vật cần thiết. Khi về rồi hãy nói tiếp.” 

Dứt lời, Linh Vân cùng Kim Thiền từ nơi Xan Hà đại sư ở Hoàng Sơn trở về, Lan Nhân liền kêu hai người chào hỏi Tôn Nam.

Đến ngày thứ ba, Lan Nhân mới khởi trình hạ sơn. Lúc lên đường nàng nói với Linh Vân: “Sau khi ta đi, con mang Tôn sư đệ an trí trong phòng Thiền nhi. Tôn sư đệ nhập môn chưa lâu, công phu còn nông cạn, con có thể tùy lúc mang Kiếm Thuật thiên trong Nguyên Nguyên kinh mà phụ thân viết ra, đem giảng cho gã để không uổng công chuyến đi đến đây của gã. Thiền nhi rất nghịch ngợm, vô sự quyết không rời núi. Bây giờ các phái đều có cừu hận với Nga My, nếu có người bộ dạng khả nghi đến đây, các con nếu bất ngờ không kịp vào động, có thể vào trong Điên Đảo Bát Trận Đồ tạm lánh thì không e ngại gì.” Dứt lời đi ngay.

Nguyên lai Càn Khôn Chính Khí Diệu Nhất chân nhân từ lần thứ hai nhập đạo, khổ tu hơn trăm năm, đã có thể tham thấu được lẽ huyền vi của thiên địa. Ông ta vì bọn Linh Vân còn nhỏ tuổi, Cửu Hoa bên cạnh đều là bàng môn dị phái, sợ rằng phát sinh sự cố. Đặc biệt ở phía bên phải cửa động này dựa vào sơn thế âm dương bố trí Điên Đảo Bát Trận Đồ, bên ngoài họa thêm phù triện. Vô luận bàng môn tả đạo lợi hại tới đâu, cũng đừng hòng tiến vào trận một bước. Một khi ẩn thân trong trận, địch nhân không thể thấy tình hình bên trong trận. Dù kiếm quang lợi hại thế nào chẳng thể bay vào trong trận một tấc.

Hôm đó Linh Vân đang giảng kinh cho Tôn Nam, Kim Thiền ở ngoài động nhàn rỗi chạy nhảy. Đột nhiên thấy giữa không trung bay tới vài đạo hồng tuyến, tiếp theo trước vách núi hạ xuống một lão hòa thượng béo lùn. Kim Thiền biết ngay là yêu nhân, liền vội vào động báo cho Linh Vân. Linh Vân cũng thấy kinh ngạc vì sau khi Tề Thấu Minh dùng Cửu Hoa làm biệt phủ, tả đạo bàng môn đều không dám tùy tiện vào núi một bước. Hôm nay biết rằng người đến thì không có ý tốt liền quyết định ra ngoài xem xét động tĩnh.

Bởi vì không biết kẻ tới mạnh yếu ra sao, Linh Nhi liền cùng Kim Thiền đến ẩn thân trong Khảm phương Tốn vị của bát trận đồ quan sát. Nàng phân Tôn Nam trụ tại cung Càn để cùng phối hợp tác chiến. Về sau lúc Kim Thiền dùng lời lẽ chọc giận Pháp Nguyên, Tôn Nam muốn tới bên cạnh Linh Vân nhưng lại không biết cách rời khỏi phương vị. Khi đã rời trận muốn vào trở trận còn khó hơn lên trời. Gã lúc đầu đứng ở cung Càn, nhìn phía xa xa thấy chị em Linh Vân hai người lúc nói lúc cười, cực kỳ thú vị, cho nên gã muốn đi tới chỗ hai chị em đang đứng. 

Vừa khi rời khỏi cung Càn, gã chợt nhìn về phía đối diện, chỉ là một rừng cây xanh tươi ngay ngắn. Lại nghe được tiếng hai chị em đang nói chuyện nhưng không thấy hình bóng cả hai. Nhìn thấy hòa thượng hung ác trợn mắt nhìn vào trong rừng, rõ là cường địch trước mắt gã mới biết là không ổn, định lui về chỗ cũ. Lúc đầu vào trận là nhờ Linh Vân chỉ dẫn, bây giờ mất đi kim chỉ nam, quả thực không lối mà vào. Tôn Nam đành phải án theo phương hướng vừa thấy đi thử vào trong rừng. Gã vừa mới đi vào cung Khảm, Pháp Nguyên đã hạ độc thủ. Nếu không nhờ Linh Vân nhanh tay kéo gã từ ngoài vào trong trận, thì suýt nữa đã mất đi tính mạng.

Kim Thiền chẳng biết thế nào. Thường ngày rất hận Hứa Phi Nương nên chẳng thèm để ý tới bà ta. Đợi bà ta đi rồi mới cùng Tôn Nam xuất hiện. 

Linh Vân nói: “Hài tử nhà ngươi, càng ngày càng nghịch ngợm. Hứa Phi Nương đó tuy là người xấu, ngày nay chưa lộ mặt, nhưng mẫu thân tiếp bà ta còn có vài phần khách khí. Vì sao ngươi hôm nay thấy bà ta thì chào hỏi cũng chẳng thèm, không phải để người ta cười nhà ta rất không có quy củ sao? Huống hồ ngươi bất quá chỉ mới mất vài cái Kim hoàn nho nhỏ, có gì đáng kể đâu? Trước mặt người ngoài, ngươi nói năng cái gì?”

Nói đến đây nàng liếc mắt nhìn Tôn Nam, bất giác mặt ửng hồng. Lại nói tiếp: “Ta biết kiếp trước ngươi nguyên là ca ca của ta, kiếp này làm đệ đệ của ta cho nên không phục sự quản lý của ta. Từ giờ ta sẽ chuyển đến chỗ phụ thân, để ngươi một mình tại đây nhé ?” 

Dứt lời, cũng không đợi Kim Thiền lên tiếng nàng biến thành một đạo bạch quang vọt lên không bay mất. Tôn Nam thấy hai chị em đang cãi nhau, bụng muốn đợi lúc khuyên giải, thì giai nhân đã vô ảnh vô tung. Gã không khỏi trách móc Kim Thiền đôi câu.

Kim Thiền mặc dù trong lòng có chút hoảng sợ nhưng ngoài mặt vẫn làm ra vẻ trấn tĩnh nói: “Tôn sư huynh không cần lo lắng, tỷ tỷ của đệ thực ra rất yêu thương đệ, nhưng bọn ta một ngày phải tranh cãi vài lần. Kiếm pháp của tỷ tỷ cao cường, người ta muốn theo cũng theo không kịp, vội vã cũng là vô ích, chi bằng đợi mẫu thân trở lại hãy hay. Hiềm vì bản lĩnh của huynh không cao, bản lĩnh của đệ còn không bằng huynh. Ban đầu đệ định rằng sau khi mẫu thân ra đi, chúng ta có thể đến các nơi du ngoạn. Nào ngờ, hôm nay tỷ tỷ bản lĩnh cao cường đã bỏ đi mất, chúng ta chỉ nên du ngoạn ở gần thôi, không đi xa là được.”

Tôn Nam nghe xong, cười nói: “Ngươi là kẻ lớn mật như vậy, sao cũng nói là không dám đi xa, chẳng lẽ ngươi trước đây đã từng nếm mùi đau khổ rồi ư ?”

Kim Thiền nghe vậy, vỗ tay cười lớn nói: “Ai nói không phải? Có một hôm, mẫu thân không ở trong động. Đệ bởi vì nghe nói ở Túy Tiên nhai sau núi rất đẹp, muốn tỷ tỷ đi cùng đệ, nào ngờ gặp phải quỷ đạo cô kia tìm đến tỷ tỷ đánh cờ, tỷ tỷ không chịu đi nữa. Đệ liền mang theo Kim hoàn cùng bảo kiếm lén lút chuồn đi. Khi đó đang ở tiết cuối thu đầu đông, lá đỏ và cây hồng khắp núi, vừa đỏ vừa sáng như lửa, ánh vào vạt nắng rực rỡ núi chiều, cực kỳ đẹp mắt. Đệ đang lúc chơi đùa thích thú, đột nhiên nhìn thấy trong động chạy ra một con ngựa con, thân dài hơn một thước, chở trên lưng một người nhỏ bé chỉ bảy tám tấc từ từ bay nhảy trong rừng phong. Đệ cực kỳ thích thú, liền muốn bắt ngựa về nhà chơi. Cước trình của đệ cũng được coi là nhanh, nhưng đuổi đến cả vài vòng, cũng không sao đuổi kịp.” 

Gã nhấp giọng hào hứng nói tiếp: “Sau đó đuổi theo nó tới một cái động nhỏ dưới vách núi thì không thấy đâu nữa. Cái động đó rất nhỏ, đệ cúi luồn cũng không vào được làm đệ rất sốt ruột, liền lấy bảo kiếm khoét vào vách núi, định mở rộng cái động đó tiến vào bắt ngựa. Đệ lúc đó mang một thanh kiếm, nguyên là thanh kiếm mẫu thân năm đó lúc nhập đạo đã luyện một thành lợi khí để phòng thân. Đừng nói là đá, đến thép bị chém phải cũng khó tránh khỏi đứt làm hai đoạn. Ai ngờ khoét mãi vẫn không thể tiến được chút gì. Về sau đệ mới phát hiện trên mặt tảng đá có vài chữ loằng ngoằng giống như con giun. Đệ nghĩ đây chính là nguyên nhân mà khoét không suy suyển. Nhất thời bực bội, đệ lấy Kim hoàn do Xan Hà đại sư tặng ra, đánh vào tảng đá đó. Một đòn này, thiếu chút nữa gây ra cái họa sát thân. Kim hoàn vừa đánh ra ba vòng, khối đá to tướng đó liền đổ sụp xuống.”

Mới hay

Cẩn thận tiên nhân trấn phù triện

Hiếu kỳ trẻ nít động chân tay

Chú thích

* Trong ba điều bất hiếu, không có con trai nối dõi là điều bất hiếu lớn nhất.

Hết hồi thứ mười sáu

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười bảy

Gian tầm u hác xảo ngộ nhục chi

Độc phách hoa nham kinh phùng cự mãng

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: bi_an

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

Dạo chơi thâm sơn, Kim Thiền tấu xảo gặp Nhục Chi

Quyết phá nham thạch, trẻ nít tò mò đụng xà quái.

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Kim Thiền tiếp tục nói: “Sau đó một trận gió cát thổi qua, mùi tanh hôi xộc vào mũi. Từ trong khe núi đá xuất hiện đầu của một nữ nhân, tóc vàng buông thõa, chỉ là không nhìn thấy phần thân của thị. Lúc đó đệ cảm thấy rất kỳ quái nhưng trong lòng không hề sợ hãi gì. Phần thân của thị dường như bị kẹt bên trong khe núi, không thể chuyển động được. Thị không ngừng gật đầu với đệ, có lẽ ý bảo đệ đập vỡ tảng đá để thị có thể thoát thân ra được. Đệ đang muốn đáp ứng khẩn cầu của thị thì thị thấy đệ ở đó trầm tư không có biểu tình gì, dường như không nhẫn nại đợi được nữa nên trên mặt từ từ xuất hiện vẻ giận dữ. Hai mắt lấp la lấp lánh một loại ánh sáng màu lam đậm, lại hướng về phía đệ kêu lên hai tiếng oa oa, vừa chói tai vừa dữ tợn, vô cùng đáng sợ. Đồng thời trong không khí phảng phất một mùi hôi tanh khiến người ta buồn nôn. Đệ cũng dần dần phát giác ra sự khác thường của thị. Đột nhiên đệ nghĩ nơi này là chốn thâm sơn cùng cốc không bóng người, làm sao lại ẩn thân trong hang núi này, không lẽ là yêu quái sao? Sau đó đệ càng nghĩ càng sợ, vốn là muốn dùng Kim Hoàn đánh chết thị nhưng lại lo vạn nhất thị là người, bị yêu pháp vây khốn ở đây, như thế chẳng phải vô tình đả thương nhân mạng ư? Nhất thời đệ dùng dằng không biết làm sao.”

Kim Thiền nhấp giọng nói tiếp: “Đang lúc do dự, cái thứ đó đột nhiên giận dữ, dùng hết sức lao người lên phía trước, lao ra được độ năm sáu thước thì mở to miệng, như muốn cắn đệ một cái. May thay đệ đứng cách chỗ của thị rất xa, ngoài ra hình như có cái gì đó đang trói chân thị, lao ra được độ vài thước là không thể tiến lên thêm được nữa, cho nên đệ còn chưa bị dính độc thủ. Lúc này đệ mới nhìn ra nó là đầu người thân rắn, một nửa thân thể đã lao ra phẳng dẹt, tuyệt không tròn như loài rắn bình thường. Toàn thân đều là vảy màu lam, ánh mặt trời chiếu xuống, phản chiếu chói lóa mắt. Do đệ đã nhìn ra nó là xà yêu nên sao có thể dễ dàng buông tha, liền đem Kim Hoàn phóng ra, chuẩn bị đánh chết nó để trừ hậu hoạn. Ai ngờ Kim Hoàn vừa rời tay thì có một trận âm thanh long trời lở đất, làm cho đệ bất tỉnh ngã lăn ra. Đến khi tỉnh lại, đệ đã trở lại đây, mẫu thân ôm đệ trong lòng khóc lóc. Nghĩ lại chuyện đó, giống như nằm mộng, đệ vội hỏi mẫu thân chuyện là thế nào. Mẫu thân chỉ bảo đệ tĩnh dưỡng, không được nói chuyện, đệ mới nhận ra toàn thân đau nhức. Qua vài ngày đệ mới khỏi hẳn. Sau đó đệ lại hỏi tỷ tỷ, tỷ tỷ mới nói cho đệ hay tình hình ngày hôm đó.”

Gã lại tiếp tục câu chuyện: “Nguyên lai con yêu quái mình rắn đầu người dưới Túy Tiên nhai đó tên gọi là Mỹ Nhân mãng, độc ác vô song. Chắc hẳn lúc trước gây họa cho nhân gian nên nó mới bị tiên nhân có pháp lực phong tỏa dưới Túy Tiên nhai, dùng hai đạo phù triện* giam cầm. Ngày đó một người, một ngựa nhỏ bé bị đệ truy đuổi ấy gọi là Nhục Chi. Nếu người bình thường ăn nó, có thể thoát thai hoán cốt, sống đến vài trăm năm. Nếu người đã có tu hành căn bản mà ăn thì lại phí đi chút công lực của vài trăm năm khổ công tu luyện. Nơi nương thân của loại linh vật kỳ lạ này đều có mãnh thú độc trùng ở đó, để phòng ngừa sự xâm nhập của nhân loại. Lúc đó đệ không biết, cứ khăng khăng muốn bắt về chơi nên mới dùng Kim Hoàn đánh phá núi đá. Không ngờ trong lúc vô ý phá đi mất đạo phù triện đầu tiên, cơ hồ đã thả yêu xà ra, gây nên đại họa. May thay lúc trước người giam cầm con rắn đó sớm đã phòng đến trường hợp này nên còn dùng pháp thuật cầm cố nửa thân dưới của nó, do đó chỉ có thể lao ra được một nửa cơ thể. Sau đó đệ muốn dùng Kim Hoàn đánh lần nữa thì đạo phù triện thứ hai đã phát sinh công hiệu, đem một khối núi đá trước mặt lăn xuống, giam cầm lại nó y như trước. Đồng thời đệ cũng trúng độc của con rắn, chịu cơn chấn động cực lớn, bất tỉnh lăn ra đất.”

Gã thở phào rồi kể tiếp: “May mắn mẫu thân đã cứu đệ trở về. Theo tính toán của mẫu thân, thì con rắn bị giam cầm trong động đã hơn vài trăm năm. Nó ở trong động khổ tu, hành công đã lâu lắm rồi. Nhục Chi kia nguyên là hai con trống mái, con trống tuổi khá lớn đã biến thành người; con cái chỉ có thể biến thành ngựa. Nó cũng biết người nào đến dưới núi, sẽ trúng độc rắn rồi bị bất tỉnh, cho nên đã chọn sẵn một tiểu động trước núi, để có gì ẩn thân ở đấy. Ngày đó Nhục Chi cái ra ngoài du ngoạn, bị đệ truy đuổi hoảng sợ không kén chọn gì, chạy đến gần bên xà yêu kia. Xà yêu đối với hai Nhục Chi sớm đã thèm muốn, chỉ tội là chưa có cơ hội, nay vật ngon đưa tới miệng, sao có thể dễ dàng bỏ qua? Đáng thương, Nhục Chi nhất thời trốn không kịp. Cuối cùng con trống chạy nhanh thoát khỏi độc thủ. Con cái chậm hơn, đã bị yêu xà nuốt mất. Nó ăn được linh dược, trở nên lợi hại hơn. Phù triện vốn là hai đạo thì đã bị đệ phá mất một, dần dần cầm hãm không được nó nữa, bị nó mỗi ngày liều mạng giãy giụa, đã thoát được nửa thân trên ra ngoài động. Ước chừng không lâu nữa sẽ ra được, gây họa cho nhân gian.”

Tôn Nam nghe xong kinh hãi nói: “Xà yêu đó đã lợi hại thế, không lẽ sư bá thần thông giỏi như vậy, mắt thấy nó muốn thoát ra gây họa cho hậu thế, ngay gần bổn sơn, lại không tìm cách tiêu diệt nó, vì người đời mà trừ hại sao?”

Kim Thiền cười đáp: “Ai nói chúng ta dễ dàng bỏ qua cho nó? Đệ đã vì trường đại họa này, nhiều lần đến thỉnh mẫu thân đi diệt trừ nó. Mẫu thân thường nói, bên trong chuyện này vốn có một đoạn nhân quả, phải đợi một người đến tương trợ thì mới thành.”

Tôn Nam nói:”Nói như vậy, người giúp đỡ đó nhất định rất tài giỏi.” 

Kim Thiền đáp: ”Điều đó lại chưa chắc. Theo như mẫu thân nói, người đó hiện giờ tài năng không quá cao, nhưng khi y đến thì cũng là lúc đại số của yêu xà đã tận. Hơn nữa ngày tháng năm sinh của người này là vào năm Ngọ, tháng năm, ngày Đoan Ngọ, giờ Ngọ; chính là kẻ thù được sinh ra để khắc chế yêu xà kia. Do đó đợi y đến tương trợ, sẽ dễ dàng hơn phần nào.”

Tôn Nam nghe xong, giật mình hiểu ra, nói: ”Chẳng trách sư bá muốn lưu ta lại đây giúp đỡ, ta chính là người sinh năm Ngọ, tháng năm, ngày Đoan Ngọ, giờ Ngọ đây.” 

Kim Thiền nghe vậy, vui mừng nói: ”Vậy đệ có thể yên tâm được rồi. Không giấu huynh, đệ vì chuyện này đã lo lắng vô cùng. Vì tỷ tỷ bản sự lớn, đệ đã vài lần cầu tỷ ấy giấu mẫu thân giúp đệ đi tróc yêu trừ hại, nhưng tỷ luôn sợ mẫu thân biết được sẽ trách tỷ. Ngày hôm qua sau khi mẫu thân đi, đệ lại nhờ nhưng tỷ vẫn không chịu.

Đệ không định tìm huynh hỗ trợ, vì vừa rồi đệ thấy huynh đánh với tặc hòa thượng đó, kiếm quang của huynh tịnh không đặc biệt cho lắm. Tỷ tỷ thì hết lần này đến lần khác ngang ngạnh trốn tránh, càng không có biện pháp gì hơn. Không ngờ huynh chính là người có thể giúp đỡ mà mẫu thân đệ đã nói đến. Hôm nay đã muộn rồi, ngày mai chính Ngọ, đệ sẽ cùng huynh đi trừ yêu, thế nào?” 

Tôn Nam biết Kim Thiền tính tình hăng hái bốc đồng, gan lớn cùng mình. Năng lực của mình có hạn, tuy mẫu thân của nó đã nói rằng nhiệm vụ trừ yêu là ứng với mình, nhưng vạn nhất đấu không lại con yêu đó, gây ra thêm lỗi lầm gì thì trọng trách ngàn cân này làm sao gánh vác được? Nhưng nếu không đáp ứng thì lại sợ Kim Thiền cười gã nhát gan. Quả là nan giải! 

Gã đành trả lời qua loa: ”Ta mặc dù tài năng có hạn, vẫn hết sức muốn giúp đệ đi trừ yêu. Nhưng sư bá thì ra ngoài chưa về, sư tỷ lại không ở trong động, ta liều đi với đệ, sư bá quay về sẽ trách tội ta, nên làm thế nào đây? Hay là nghĩ cách trước tiên tìm sư tỷ về, ba người cùng đi, không phải sẽ vô cùng hoàn mỹ sao?”

Kim Thiền nghe vậy không vui, đáp: ”Huynh mang tiếng là kiếm hiệp, hành sự lại không hề sảng khoái chút nào, cứ luôn do dự không quyết. Huynh biết không, lần đầu đệ đến Túy Tiên nhai, lúc đó mẫu thân nói nó sắp xuất thế, đến giờ đã qua hai tháng rồi, nói không chừng trong hai ngày này sẽ xuất thế. Chúng ta nếu không quyết định nhanh, mầm mống tội ác lớn lên, tương lai một khi xảy ra, sẽ không thể thu thập được nữa. Cổ nhân nói rất đúng ’Trừ ác phải tận gốc’, rồi lại ‘tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tao ương’**. Ngày trước đệ ở Hoàng Sơn, gặp Chu Mai tỷ tỷ, đàm luận chuyện này, tỷ đã rất khẳng khái đáp ứng giúp đệ. Cũng là vì sợ sư phụ quở trách, nên tỷ ấy mới âm thầm trộm lấy pháp bảo của Xan Hà đại sư đem cho đệ mượn. Vừa nãy động thủ với tặc hòa thượng, đệ vì lo sợ giống như Kim Hoàn, sẽ bị tặc hòa thượng làm hỏng thì sau này không biết xin lỗi Chu Mai tỷ tỷ ra sao, cho nên đã không đem ra dùng. Hiện giờ nghe huynh nói ra ngày tháng năm sinh, đệ vui mừng vô cùng, thật chỉ mong huynh có cùng tâm ý với đệ, trừ hại an lương, tránh để hậu hoạn. Ai ngờ huynh và tỷ tỷ đệ giống nhau, xem thường một đứa trẻ như đệ, không chịu giúp đỡ. Huynh phải biết rằng người đệ tuy nhỏ, nhưng tâm không nhỏ. Các người không giúp đệ, không lẽ đệ không thể đi một mình sao? Ngày mai đệ sẽ mạo hiểm cái mạng nhỏ này, cùng với yêu xà đánh tới kẻ sống người chết. Huynh nhát gan sợ chuyện cũng không quan trọng, đệ đi một mình.”

Nó mở cái miệng nhỏ nói oang oang, giống như pháo liên châu, thao thao bất tuyệt. 

Nói xong, mặt nó dài ra, đầy vẻ giận dữ. Tôn Nam nghe xong, biết rằng đứa trẻ này nói được làm được. Bản thân cũng là người háo thắng, thấy Kim Thiền nói mình nhát gan nên càng xấu hổ hơn. Huống hồ đang ở nhà người ta làm khách, nó lại là một đứa trẻ nhỏ, nếu để nó đi náo loạn, càng thấy khó xử hơn. Cũng may sư phụ có nói mình cuộc đời này không có hung hiểm, chắc sẽ không có vấn đề gì, hay là đáp ứng đi cùng nó, rồi tùy cơ ứng biến, thấy khó thì lui cũng không muộn.

Lập tức gã nhìn Kim Thiền nói: ”Sư đệ không cần phải tức giận, ta đặc biệt muốn thử xem đệ có can đảm hay không, tịnh không phải là không muốn đi cùng đệ. Ta vốn nghĩ là đợi tỷ tỷ đệ về rồi cùng đi, thực lực sẽ tăng thêm vài phần. Huống hồ kiếm thuật của nàng lại tinh thâm, ta vạn phần bội phục. Nếu có nàng cùng đi, sẽ không có sai lầm gì, như thế thỏa đáng hơn nhiều. Do đệ cứ nhất định muốn đi nên chúng ta ngày mai lên đường.”

Kim Thiền nghe xong, liền đổi giận thành vui, nói: ”Đệ đã nói Tôn sư huynh là người tốt mà! Đệ còn có vài điều tâm phúc muốn nói với huynh. Huynh thấy con người của tỷ tỷ đệ thế nào?”

Tôn Nam đang định trả lời, đột nhiên ánh mắt sáng lên, Linh Vân đã đứng ở trước mặt, quát: ”Đồ tiểu quỷ nhà ngươi, lại muốn bôi nhọ ta cái gì đây?” 

Kim Thiền thấy tỷ tỷ trở về, lòng tràn đầy vui vẻ nên cũng không nói thâm ý sau nữa.

Nguyên lai Linh Vân thường nghe phụ mẫu nói mình sẽ phải chịu trần kiếp, nên trong lòng thường không mấy vui vẻ. Từ ngày Tôn Nam đến, lại nhìn mẫu thân đối với gã đặc biệt quý mến, trong ngôn ngữ của mẫu thân thấy rất khả nghi, nàng mới nghi ngờ lời dự đoán ngày nào về việc chịu tai kiếp sợ là sắp ứng nghiệm. Vì lần hành công hơn trăm năm này, nàng tu luyện không tiến bộ, liền cẩn thận mọi việc, cố gắng hết sức tránh nói chuyện cùng Tôn Nam.

Về phía Tôn Nam, gã tịnh không hề có ý khác, chỉ vì kính trọng bản lĩnh của Linh Vân, do đó mới thường xuyên thành tâm học hỏi. Lúc mẫu thân của Linh Vân đi, bà đã bảo Tôn Nam theo Linh Vân học bí quyết kiếm pháp trong “Kiếm thuật thiên”. Linh Vân đối với mẫu thân rất hiếu thuận, luôn luôn vâng lời, tuy trong lòng không nguyện ý, nhưng ngoài mặt đành phải tỏ ra bằng lòng. Một kẻ thì thực muốn học hỏi, một người thì sớm đã có thành kiến.

Linh Vân là người hòa nhã, lại biết Tôn Nam chính trực quang minh, thấy gã hăng hái học hỏi, sao có thể dùng tiếng nói vẻ mặt từ chối người ngoài ngàn dặm được, dù cũng biết mình đã hiểu lầm ý của mẫu thân. Bản thân nàng vốn luôn tự nhiên thoải mái, thêm nữa đạo hạnh cao thâm, lòng như gương sáng, không nhiễm bụi trần. Nhưng không biết tại sao, vừa thấy Tôn Nam, lại nổi lên một cảm giác đặc biệt kỳ diệu khó hiểu, không phải là yêu, cũng không phải là hận, không thể nói được tại sao lại vậy. Muốn không để ý tới người ta, nhưng người ta quang minh lại cực kỳ thành khẩn, không hề có lỗi lầm gì. Để ý thì lại vô duyên vô cớ cảm thấy bất an trong lòng.

Thực ra cũng không có duyên cớ gì nhưng bản thân nàng luôn cảm thấy bối rối, có khi chính mình cũng không thể lý giải được. Mới rồi Kim Thiền trước mặt Phi Nương, dùng lời lẽ chế giễu, nguyên là đứa trẻ không giữ mồm, nói năng tùy tiện nên nàng tuyệt không để bụng. Nhưng chẳng biết vì sao, nàng vừa nghe xong, quả thực thẹn muốn chui xuống đất. Đột nhiên nàng nghĩ: ”Sao ta không mượn lý do này, lánh tới Hoàng Sơn, rồi mỗi ngày âm thầm quan sát động tĩnh của Kim Thiền, để tránh phát sinh chuyện gì rắc rối.”

Do đó mới cố ý đấu khẩu với Kim Thiền rồi bay tới Hoàng Sơn.

Vừa mới lên giữa không trung thì gặp Xan Hà đại sư hỏi nàng vì sao bỏ đi. Linh Vân đỏ mặt nói không được nguyên nhân. Xan Hà đại sư cẩn thận nghe từng lời đồng thời quan sát sắc mặt, tức thì hiểu được thâm ý. Bà nói: ”Hảo hài tử, tâm tư của con ta cũng biết, thật đáng thương, quả thực giống với tình hình khi ta mới nhập đạo.” 

Linh Vân biết không thể che giấu, bèn quỳ xuống xin nghĩ cách hộ. Xan Hà đại sư bảo: ”Bổn sơn vốn có Nhục Chi, có thể bổ ích cho việc luyện công của con. Chỉ cần con có thể không nhiễm bụi trần, ma quỷ bên ngoài có đến, thì vẫn như bình thường, không đến nỗi phải chịu kiếp, tại sao con lại sợ gã?”

Linh Vân lại hỏi làm sao mới lấy được Nhục Chi. Xan Hà đại sư đáp: ”Cái này phải xem con có tiên duyên hay không. Ngày mai chính là ngày yêu xà bị hàng phục, có lấy được Nhục Chi không, còn phải xem ba người bọn con may mắn ra sao, bất quá lúc này không nói trước được gì. Đáng cười nhất chính là con luôn muốn lánh khỏi trần duyên, còn con bé Chu Mai lại lúc nào cũng trầm mê trong lưới tình. Hôm trước thừa lúc ta không chú ý, nó trộm lấy hai bảo vật trấn động của ta, cho đệ của con mượn, con nói có phải dại khờ lắm không!”

Linh Vân nghe thấy vậy, vội xin lỗi thay cho Kim Thiền và nói giùm Chu Mai. Xan Hà đại sư nói: ”Không có gì đâu, sao có thể trách hai tiểu hài tử bọn chúng? Bất quá Kim Thiền không biết cách dùng, ngày mai ta sẽ kêu Chu Mai đến giúp các con thành công mới được.” 

Linh Vân liền cảm ơn rối rít, không tiện đi tiếp tới Hoàng sơn nữa, từ biệt đại sư quay trở về động, trốn trong bóng tối, định làm Kim Thiền lo lắng thêm một đêm, một mặt lại có thể nghe lén nó và Tôn Nam nói những chuyện gì. Lúc nghe thấy Kim Thiền nói khích Tôn Nam, Tôn Nam không ngờ đã trúng kế, nàng không khỏi cười thầm. Sau đó lại nghe thấy Kim Thiền nói đến mình, sợ nó nói linh tinh, nàng mới phải hiện thân ra ngăn cản.

Kim Thiền thấy tỷ tỷ trở về, trong lòng tuy cao hứng, nhưng trên mặt lại không lộ vẻ gì cả, còn hỏi: ”Tỷ không phải đã đi rồi sao, trở về để làm gì? Không lẽ ngày mai cũng muốn cùng đi để xem đệ và Tôn sư huynh đại hiển thần thông, bắt yêu trừ hại ư?” 

Linh Vân cười cười đáp: ”Không biết xấu hổ. Dụ dỗ Chu Mai tỷ tỷ của ngươi, đi trộm bảo vật trấn sơn của sư bá, làm hại người ta phải vì ngươi mà chịu bao nhiêu khổ sở. Hiện giờ sư bá đang rất tức giận, nói muốn đem nó trục xuất sư môn kìa. Ngươi còn điềm tĩnh nhỉ?”

Kim Thiền sau khi nghe xong, vừa thẹn vừa lo, sợ quá không kịp nghĩ gì, chạy lại kéo lấy tay áo của Linh Vân nói: ”Hảo tỷ tỷ, thật vậy sao? Mai tỷ trộm bảo vật trấn sơn của đại sư cho đệ mượn đi trừ yêu nguyên là một phen nghĩa khí, không ngờ đã vì đệ mà hại tỷ ấy đến thế này, bảo người ta không lo sao được. Hảo tỷ tỷ, tỷ hãy nể mặt huynh đệ, cầu xin đại sư một lần, nghĩ cách gì đó cứu lấy Mai tỷ đi.”

Linh Vân thấy khuôn mặt nhỏ nhắn của Kim Thiền đỏ bừng, dáng vẻ lo lắng, không khỏi cười thầm trong lòng. Rồi nàng càng quát nó hơn: ”Ngươi thường ngày lợi hại lắm mà, không bao giờ nghe lời, hôm nay lại cũng có chuyện phải cầu ta. Không phải chuyện của ta, ta quản làm gì. Đại sư quý ngươi như vậy, ngươi không thể tự mình đi cầu được sao?”

Kim Thiền đáp: ”Hảo tỷ tỷ, tỷ không cần phải làm khó đệ nữa, đệ chịu đã đủ rồi. Chỉ cần lần này tỷ tỷ giúp đệ, từ giờ trở đi, vô luận tỷ tỷ nói gì thì đệ không dám không phục tùng mệnh lệnh nữa. Hảo tỷ tỷ, tỷ hãy tha thứ cho đệ một lần đi.” 

Vừa nói, hai mắt đã đỏ ửng lên, cơ hồ sắp khóc đến nơi.

Linh Vân biết Kim Thiền tính cao ngạo, thấy cảnh tượng này của nó, cũng không dám đùa dai thêm. Liền nói: ”Hảo đệ đệ, không cần phải lo lắng. Nếu ngươi lại không nghe lời thì tỷ tỷ có thể hạ thấp thân phận mà đôi co với ngươi sao? Huống chi Mai tỷ tỷ của ngươi lại là một người tốt. Ta nói thẳng với ngươi, lúc nãy ngươi không nghe lời, ta vốn đã muốn tránh ngươi, đến Nga My tạm trú. Nhưng đến giữa không trung thì gặp đại sư ngự khí gạt mây mà tới.

Nói đến chuyện trừ yêu này, về chuyện trách phạt Mai tỷ tỷ ngươi lấy trộm, đại sư vẫn giả tảng lờ đi. Nhờ ta nhiều lần cầu xin, đại sư chẳng những không trách phạt Chu Mai, còn kêu nó ngày mai đến giúp ngươi thành công. Lại khuyên ta không nên đôi co với đứa trẻ con như ngươi, ta mới quay trở lại. Ngươi nghe vậy vui rồi chứ?

Kim Thiền quả nhiên vui mừng đến không ngậm miệng lại được, đáp: ”Tỷ thực là tỷ tỷ tốt của đệ! Nói như vậy, ngày mai cả tỷ với Mai tỷ đều giúp ta bắt yêu, vậy là chắc chắn thành công rồi. Chúng ta tu đạo còn chưa thành, nay vì nhân gian mà trừ đi cái hại lớn như vậy, bảo sao không khiến người vui thích cho được!”

Linh Vân nói: ”Ngươi không cần phải kích động. Nghe mẫu thân nói, yêu xà đó thập phần lợi hại, không thể coi thường. Nếu là yêu xà bình thường, đại sư làm gì phải phái Chu Mai đến giúp, ngươi không nên ỷ người đông và có pháp bảo. Đến lúc giao chiến, không thể chiếu cố đến nhau, ăn phải quả đắng thì cũng không kêu ca ai được đâu.”

Kim Thiền đáp: ”Tỷ tỷ nói đúng lắm. Vừa rồi đệ không phải đã nói qua rồi sao, dù thế nào chúng ta đều nghe theo sắp xếp của tỷ, tỷ bảo sao thì như vậy, thế nào?”

Linh Vân đáp: ”Chỉ cần ngươi nghe lời, chuyện sẽ dễ dàng thôi. Hiện giờ ngươi lấy trộm pháp bảo nhưng không biết sử dụng, chỉ có thể đợi Chu Mai đến mới bàn luận tiếp được. Ngươi sao không lấy ra cho chúng ta xem xem?”

Kim Thiền nghe vậy, vội vào trong động lấy ra bảo vật trấn động của Xan Hà đại sư. Những pháp bảo này, nguyên là dùng một cẩm nang lớn một thước để bọc lấy. Đợi Kim Thiền lấy ra bọn họ thấy bên trong có một hạt ngọc lớn đường kính độ ba tấc, sắc vàng phát ra bốn phía, sáng chói lóa mắt. Ngoài ra toàn là những cây tiểu đao ba mũi hai lưỡi, cả thảy có một trăm linh tám cây, dài chỉ năm, sáu tấc, khí lạnh dày đặc, hàn quang bức nhân. Chỉ là không biết cách dùng.

Linh Vân nhìn Kim Thiền nói: ”Ngươi xem ngươi hoang đường chưa, dụ dỗ con gái nhà lành làm kẻ trộm, nhưng đến cả cách dùng đồ trộm được cũng không biết. Lúc ngươi lấy không hỏi dùng thế nào sao?” 

Kim Thiền xấu hổ đáp: ”Hôm trước đệ đến Hoàng sơn, đại sư không ở nhà. Đệ cùng Mai tỷ chơi ở ngoài động một hồi, sau đó bàn đến chuyện của yêu xà, đệ nói đệ không có người trợ giúp, lại không có pháp bảo, hiểu là mình tâm có thừa mà lực không đủ. Nhưng vạn nhất yêu xà chạy được, làm hại nhân gian, còn không phải là tội của đệ ư? Lúc đệ nói, thở dài liên tục. Tỷ ấy liền dùng lời lẽ để an ủi đệ, tỷ nói rất muốn giúp đỡ đệ, chỉ là giáo quy của đại sư cực nghiêm, vô cớ thì không được phép rời khỏi động phủ. Tỷ ấy lại nhát gan, không dám đến nói với đại sư. Về sau thấy đệ thần sắc chán nản, tỷ nói đại sư có mười hai loại bảo vật trấn động, đại sư thường ngày vẫn hay không mang theo khi xuất môn, để cho tỷ ấy bảo quản, có thể lén cho đệ mượn dùng. Sau khi chuyện thành thì lặng lẽ trả lại. Vạn nhất bại lộ thì bảo đệ mời mẫu thân, tỷ tỷ đến xin đại sư. Đệ tự nhiên là lòng tràn đầy vui mừng, tỷ ấy liền chọn lấy hai loại cho đệ. Lại nói với đệ, đao này tên gọi là Tru Tà đao, cả thảy có một trăm linh tám cây, có thể phóng ra thu lại. Ngọc này thì gọi là Thiên Hoàng Thánh Khí châu. Tỷ ấy chưa kịp nói ra cách dùng thế nào thì đại sư trở về. Đệ vội cất hai bảo vật vào trong người rồi đến tham kiến. Lúc rời đi, đại sư cười nhẹ với đệ, tựa như đã biết chuyện lén lút của bọn đệ. Đệ sợ Mai tỷ chịu liên lụy, liền muốn tự thú với đại sư, nhưng có chút cảm giác tội lỗi, nên không có dũng khí. Đệ lại vọng tưởng đại sư có lẽ chưa biết, trông đợi vào may mắn, mong mượn những bảo vật này để giúp đệ thành công. Đến khi trở về, mỗi ngày đều cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhiều lần đã muốn bí mật đến trả lại, nhưng luôn không có cơ hội.”

Linh Vân nghe xong, đang định đáp lại, chợt nghe thấy ngoài động truyền đến một âm thanh vô cùng thê lương, biết rằng có chuyện khác thường. Nàng vội vàng tung mình rời động, nhìn ngó khắp nơi, chỉ thấy trăng sao vằng vặc kết thành dải Ngân hà trên trời. Thanh âm vừa nãy mang theo một điệu sáo rất kỳ quái, từ bên kia Túy Tiên nhai theo gió truyền lại.

Ôi!

Nữ nhân mềm lòng trộm báu vật

Hài tử hăng hái diệt yêu tinh.

Muốn biết bọn họ diệt yêu xà thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.

Chú thích

* Phù triện thông thường trông như phù hiệu, đồ hình, là thứ bí văn như bùa mà thần ghi lại, thường là trên mặt giấy vàng hoặc lụa. Phù triện là chữ của thần, truyền đạt ý chỉ của họ, có thể dùng để gọi thần xua quỷ, trấn ma hàng yêu, trị bệnh trừ tai.

** Ra tay trước thì thắng, xuống tay sau gặp họa.

Hết hồi thứ 

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười tám

Đêm thâu kinh sợ nghe tiếng ác 

Tiên nhai hợp lực giết yêu xà.

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: hoangphuongaust

Biên dịch: herobk13

Biên tập: BH Mod

www.tangthuvien.com

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Linh Vân nhảy vút lên chỗ cao, nương theo ánh sáng trăng sao lần đến bên Túy Tiên nhai quan sát, chỉ thấy những đám mây ảm đạm rải rác khắp nơi, sương mù sặc sỡ giăng giăng. Thỉnh thoảng hồng quang tựa như một thứ khói và lửa từ một chỗ tỏa ra. Coi lại sao trời biết là cuối giờ Tý đầu giờ Sửu, Linh Vân biết sự tình trọng đại, vội vàng phi thân quay lại động, thấy hai người Kim Thiền và Tôn Nam cũng vừa lúc ấy đi ra. Linh Vân vội kêu hai người trở lại. 

Vào trong động nàng liền đem chuyện vừa mới tận mắt thấy thuật qua một lượt . Kim Thiền tức thì nhảy dựng lên nói: "Yêu xà đã chạy rồi sao? Đó là tại lúc đầu không chịu nghe lời đệ nói, để rồi nuôi nhọt thành họa bệnh. Việc không nên chậm trễ, chúng ta cấp tốc đi thôi."

Linh Vân cũng thấy hoảng hốt, đang định thương lượng cách thức tiến hành như thế nào, đột nhiên từ ngoài động bay vào một người. 

Kim Thiền kinh sợ giật nảy người, không kìm được la lên: "Tỷ tỷ mau phóng kiếm, yêu xà đến kìa!" 

Tôn Nam nghe thế cũng vội vàng tay vừa nắm kiếm phóng ra thì Linh Vân đạo lực cao thâm, đã sớm trông thấy người đến là ai liền quát nhanh: "Tôn sư đệ không được vô lễ, kẻ đến là người bên mình."

Người đến thấy kiếm quang tới mãnh liệt liền huơ tay lên, một đạo thanh quang chặn kiếm của Tôn Nam đánh tới. Đợi đến khi Linh Vân nói xong, song phương mới biết là hiểu lầm, mọi người đều thu kiếm về. Tôn Nam biết mình lỗ mãng, xấu hổ đỏ rực cả mặt. Kim Thiền đi đến phía trước nghênh đón, nắm tay người đó kéo vào, hướng về Tôn Nam giới thiệu: "Đây là Chu Mai tỷ tỷ của ta. Còn đây là sư huynh của ta Bạch Hiệp Tôn Nam."

Mọi người làm lễ gặp nhau xong, Linh Vân quở trách Kim Thiền: "Hài tử nhà ngươi cứ hay làm nhộn lên. Động phủ của chúng ta, lẽ nào yêu quái lại dám chạy vào? Chưa thấy rõ ràng đã kêu loạn lên rồi, nếu không phải Chu sư muội kiếm pháp cao cường, nhanh tay lẹ mắt, chắc không tránh khỏi bị thương? Tôn sư đệ cũng hơi nóng tính quá." 

Chu Mai vội biện bạch thay Kim Thiền: "Điều này cũng chẳng trách được Thiền đệ, vốn là muội đến một cách lỗ mãng, vả lại muội chưa từng đến vào buổi tối, sư tỷ không cần phải trách nó đâu."

Linh Vân thấy nàng đứng về phía Kim Thiền, lại nhớ đến tình hình mà Kim Thiền mới vừa báo cáo, trong lòng cười thầm mà không tiện nói lại, liền hỏi ý định đến đây của Chu Mai. Chu Mai đáp: "Vừa rồi muội đang luyện công, đột nhiên sư phụ đi vào nói với muội rằng yêu xà ở Túy Tiên nhai giờ Ngọ ngày mai sẽ xuất động. Bây giờ nó ở đó triệu tập độc xà đại mãng trong trăm dặm, tất nhiên có sự việc quái dị xuất hiện, e rằng bọn sư tỷ lỗ mãng động thủ, lại thành cơ hội cho nó đào tẩu. Cho nên người sai muội đến để cùng sắp đặt kế hoạch." 

Đám Linh Vân nghe xong rất mừng, vội mời Chu Mai ngồi xuống chuyện trò cho rõ ràng.

Sau khi bốn người ngồi yên vị liền thương lượng kế bắt yêu, hỏi rõ ràng cách dùng pháp bảo. Chu Mai nói: "Muội tuổi còn nhỏ nên nghe theo sự điều khiển của sư tỷ. Lúc gia sư sai muội đến đã từng chỉ cho biện pháp, đợi muội nói xong thì xin sư tỷ tham khảo lại." 

Linh Vân đáp: "Sư muội nói ra việc đó đi. Đã có mệnh lệnh của đại sư, đương nhiên chúng ta cứ chiếu theo kế mà hành động. Xin sư muội phân phó." 

Chu Mai ngó Kim Thiền cười hi hi: "Ngươi mượn pháp bảo của gia sư đó nhé?"

Kim Thiền vội vàng lấy ra chuyển cho Chu Mai, rồi nói: "Mai tỷ, đệ còn quên chưa hỏi thăm tỷ. Hôm đó tỷ gấp rút giúp đệ, đệ thật tình cảm tạ bất tận. Lúc sau lại ngại rằng đại sư biết được sẽ quở trách tỷ nên rất lấy làm hối hận, cứ nghĩ muốn đem trả nhưng không có cơ hội. Vừa nghe tỷ tỷ nói đại sư đã biết chuyện này, người có từng trách phạt tỷ không?" 

Chu Mai đáp: "May là người chỉ nói ta mấy câu thôi, đa tạ đệ quan tâm."

Linh Vân thấy hai người họ nói chuyện thân mật như những đứa trẻ, không kìm được đưa mắt ngó Tôn Nam cười. Chu Mai hãy còn chưa phát giác, Kim Thiền đã hiểu rõ, e tỷ tỷ của nó cười chê, vội vàng nói: "Đại sư không trách mắng tỷ, vậy thật là quá tốt. Đệ định hôm khác sẽ đến nhận tội thay Mai tỷ. Bây giờ xin tỷ nói cách sử dụng pháp bảo đó đi." 

Chu Mai đáp: "Việc ngày hôm nay, chúng ta nên đề cử sư tỷ làm thủ lĩnh, còn ta coi như là quân sư, do ta thay đại sư xuất kế được không?"

Kim Thiền kêu: "Hay quá đi, xin tỷ mau nói ra, không cần phải e ngại gì." 

Chu Mai phì cười: "Đệ vẫn là người tính tình nóng nảy. Bây giờ bất quá mới cuối giờ Sửu đầu giờ Dần, còn cách giờ Ngọ xa lắm, đệ vội cái gì? Hãy từ từ nghe ta nói đã." 

Rồi nàng lấy viên Thiên Hoàng châu ra giao qua cho Linh Vân nói: "Viên châu này được luyện thành từ thiên niên hùng hoàng, chuyên để khắc chế xà yêu. Lúc phóng ra sẽ có vạn đạo hoàng quang bao trùm chu vi mấy dặm. 

Lần này yêu xà dẫn dụ rất nhiều đồng loại, chuẩn bị sau khi đi ra sẽ tiến đến quý động, trong đó có rất nhiều loại độc mãng lợi hại. Xin sư tỷ lấy viên châu này mang bên mình, tìm một chỗ đứng tốt ở trên đỉnh cao. Đợi khi yêu xà phá động lao ra, những độc xà còn lại tụ tập một chỗ tấn công bọn muội thì cùng phóng ra hạt châu này và kiếm quang của sư tỷ, tự nhiên sẽ có diệu dụng."

Nói xong nàng lại lấy ra ba nhánh dược thảo, dài ước chừng ba bốn tấc, có một thân với chín bông, mình hồng nhuận tươi tốt và trong suốt, kỳ hương nức mũi. Nàng đưa một nhánh qua cho Kim Thiền.

Chu Mai nói: "Cái này được gọi là Chu thảo, còn có tên là Hồng Tịch Tà, ngậm ở trong miệng thì bách độc không thể xâm nhập. Yêu xà đó vào giờ Ngọ mỗi ngày dùng tiếng kêu ù ù kỳ dị của nó để triệu tập đồng loại. Chúng ta phải lấy một trăm lẻ tám ngọn tiên đao này đem cắm cứ ba bước một cái ở bên ngoài cửa động yêu xà. Trước giờ Ngọ cần phải hoàn tất việc cắm đao. Chỗ cắm đao ở rất gần xà động nên cần ngậm Chu thảo để phòng độc xâm nhập . Đây là chuyện rất nguy hiểm lại cực khổ, đệ có dám cùng ta đi làm không?"

Kim Thiền nghe xong trong lòng rất lấy làm mừng, vội vã đáp: "Đệ đi, đệ đi! Đã muốn cắm đao xong trước khi nó xuất động, vậy sao bây giờ chúng ta không đi sớm một chút?" 

Chu Mai đáp: "Đệ chỉ toàn là nóng nảy như thế, ta còn chưa nói xong nè." 

Rồi nói với Linh Vân: "Trong bọn tỷ có người nào sinh vào năm Ngọ, tháng năm, ngày Đoan Ngọ, giờ Ngọ không?"

Linh Vân trả lời: "Đó chính là Tôn sư đệ đây." 

Tôn Nam trông thấy vẻ mỹ lệ trưởng thành của Chu Mai, lại có bản lĩnh cỡ đó, còn đầy vẻ anh hùng hào hiệp nên hâm mộ phi thường.

Rồi nghĩ tới mình cứ tự cho là đã có nhiều khổ công, ai dè sau khi hạ sơn mới biết mình sai lầm. Không cần nói đến các bậc lão tiền bối, chỉ nói đến các sư huynh đệ người nào cũng vượt trội, nên trong lòng gã cảm thấy rất xấu hổ. Gã lại thấy Chu Mai cùng với Kim Thiền đối đáp, dáng điệu hồn nhiên ngây thơ, hứng thú phi thường, nên dấy lên trong lòng cảm tưởng đặc biệt, không thể nào nói rõ được. Đang lúc suy nghĩ đến xuất thần, đột nhiên nghe Chu Mai hỏi gã, liền đứng dậy đáp: "Tiểu đệ đúng là sinh vào lúc đó, chẳng biết có gì sai khiến?"

Chu Mai đáp: "Con rắn đó tu luyện mấy ngàn năm, lợi hại phi thường. Từ sau khi nó ăn Nhục Chi xong, toàn thân đầy vảy giáp như một thứ thép ròng đã tôi luyện. Thứ tiên kiếm tầm thường quyết không có có khả năng làm thương tổn được nó mảy may. Chỗ trí mạng của nó chỉ có hai nơi: Một chỗ là ở cái thất thốn của rắn; một chỗ là ở chỗ có đường chỉ chạy màu trắng phân ranh giới ngay giữa bụng. Nhưng nó đã có công phu thoát cốt mượn thân, cho dù có khả năng làm nó bị thương ở hai chỗ trí mạng cũng bất quá chỉ làm giảm hơn nửa uy thế. Sau cùng lại phải trông chờ vào viên châu và kiếm ấy của sư tỷ mới có thể xong được trọn vẹn công việc."

Vừa nói nàng vừa trao cho Tôn Nam một nhánh Chu thảo, rồi đưa tay lấy ra từ bên mình một đoản mâu kim quang sáng rực. Nàng đem tất cả đều giao hết cho Tôn Nam rồi nói tiếp: "Tôn sư đệ, đợi lát nữa khi ta đến đó, đệ ngậm Chu thảo này, tay cầm Như Ý Thần Mâu chạy đến phía trên xà động ở Túy Tiên nhai, không được rời mắt xem xét tình hình xà động ở bên dưới. Xà yêu ấy giảo hoạt phi thường. Trước khi nó xuất động, có thể sẽ sai khiến con rắn khác đi ra khỏi động trước chưa biết chừng. Không nên mất bình tĩnh rồi sử dụng mâu này không thích đáng sẽ gây ra chuyện sai lầm. Khi nó đi ra sẽ nhanh như gió, vì thế cần đặc biệt chú ý. Ngay tại trên đầu yêu xà có một đám lông dài rất dễ nhận ra. Khi đó đệ ngắm kỹ chỗ thất thốn của nó rồi hô to Như Ý Thần Mâu, đồng thời phóng nó ra."

Mới hay

Yêu xà ngàn năm sắp xuất động

Lũ trẻ học đạo quyết ra công

Muốn biết lũ trẻ chinh phục yêu xà thế nào mời xem hồi sau sẽ rõ.

Hết hồi thứ 18

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Hồi thứ mười chín

Thấy người tốt bụng, Nhục Chi xin cứu mạng

Khuyên uống linh dược, hiệp nữ lộ đa tình

Nguyên tác: Hoàn Châu Lâu Chủ

Người dịch: Biên Hoang hiệp khách

www.tangthuvien.com

~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*~*

Chu Mai lấy Như Ý Thần Mâu ở bên mình ra, giao cho Phi Hiệp Tôn Nam, đoạn nói: “Yêu xà đó hành tẩu nhanh như gió, sư đệ đứng ở trên núi, nhìn xuống cửa động phải đặc biệt chú ý. Đợi khi nó đi ra, nhìn cho rõ điểm thất thốn của yêu xà, dùng lực phóng ra, miệng hô Như Ý Thần Mâu, tự nhiên sẽ có diệu dụng, vô cùng hiệu quả.”

Tôn Nam nhận lấy hai món bảo bối, vâng vâng dạ dạ. Chu Mai đứng dậy nói với Linh Vân, Tôn Nam: “Hiện giờ còn sớm, hai ngươi có thể nghỉ ngơi dưỡng thần một chút. Muội và Kim Thiền đệ đệ sẽ đi trước, chôn đao và bố trí tất cả.”

Linh Vân tuy thân thể đã là bán tiên nhưng vẫn biết nam nữ thụ thụ bất thân, không muốn cùng Tôn Nam ở trong động, liền nói: “Tất cả chúng ta cùng đi đi.”

Chu Mai nói: “Cũng được.”

Linh Vân bỗng nghĩ tới một chuyện, vội hỏi Chu Mai: “Đầu yêu xà đã ở ngoài động, bọn ta ở trước động của nó bố trí, không biết có bị nó phát hiện ra không?”

Chu Mai đáp: “Nghe đại sư nói, giờ Tý tối qua, yêu xà đó đã phá đứt xích trói trên thân nó, giờ đang ở trong động dưỡng thần, yên lặng đợi đến giờ Ngọ hôm nay mới ra ngoài. Chưa đến giờ Ngọ thì nó sẽ không thò đầu ra đâu.”

Nàng lại nói với Kim Thiền: “Đệ là chúa lắm lời. Khi đến đó, chúng ta phải lặng lẽ hạ thủ, đệ không được lớn tiếng đó. Nếu kinh động đến yêu xà khiến nó lao ra trước thời hạn thì không thể lường được hậu quả đâu.”

Kim Thiền liền vội vàng gật đầu đáp ứng, lại hối thúc mọi người đi nhanh lên.

Lúc này đã hết giờ Dần sang giờ Mão, bọn Linh Vân bốn người cùng nhau rời khỏi động, đến Bát trận đồ ở bên ngoài, đóng cửa động xong mới xuất ra kiếm quang, bay đến Tuý Tiên nhai. Không lâu sau họ đã đến ven núi rồi chia nhau đi làm việc. Linh Vân và Tôn Nam trước tiên tìm chỗ đứng hợp lý cho mình, còn Chu Mai đem một nửa số Tru Tà đao phân phát cho Kim Thiền.

Xà động này vốn ở phía tây, Chu Mai đem Tru Tà đao chôn dưới đất ở chỗ xuôi theo cửa động về hướng đông, mũi đao hướng lên trên, ngang bằng với mặt đất. Nàng lại bảo Kim Thiền tính toán số bước chân cho chuẩn, ước lượng đường kính rồi theo pháp tắc mà chôn đao từ đông chí tây. Hai người cắm đao đến giữa thì tụ lại, ước chừng sau khoảng thời gian ăn một bữa cơm thì đều xong việc. Khi Chu Mai và Kim Thiền cắm đến trung tâm thì vừa vặn không thiếu một bước. Tay hai người đều lấm lem đất bùn, Kim Thiền muốn cùng Chu Mai đi xuống khe suối rửa tay. Chu Mai gật đầu đồng ý.

Lúc này mặt trời đỏ như hòn lửa đã dần nhô cao, chiếu xuống khu rừng tàn úa trong ngày đông trước Tuý Tiên nhai, yên lặng bao trùm lên mọi vật. Quạ xám trong tổ cũng rét run không kêu lấy một tiếng, cảnh vật thanh tĩnh và cô quạnh đến cùng cực. Nếu có thêm vài Kim Đồng và Ngọc Nữ mặt hoa da phấn thì thực có thể coi như tiên cảnh không chút bụi trần. Cây bút vụng về của ký giả, nào có mô tả được bao nhiêu.

Chu Mai và Kim Thiền song song đến bên suối, đang rửa tay trong dòng nước lạnh ngắt thì bỗng nghe thấy “quạ quạ” hai tiếng.

Chu Mai vội kéo Kim Thiền đến lánh ở phía sau một khối đá, nhìn ra ngoài thì thấy nguyên là ở phía đối diện bên kia khe suối có một con quạ xám đang rời một cành khô mục bay về hướng đông. Kim Thiền nói: “Mai tỷ, chỉ là một con quạ mà tỷ cũng giãy nẩy lên.”

Chu Mai vội bảo Kim Thiền câm miệng rồi lại nhảy lên cao, nhìn quanh bốn phía nhưng nàng chỉ thấy hàn sơn cô tịch, vô cùng yên tĩnh, xung quanh không hề có một dấu hiệu gì. Khi đó nàng mới yên tâm nhảy xuống đất.

Kim Thiền hỏi nàng vì sao mà mặt mũi hốt hoảng như vậy? Chu Mai đáp: “Đệ đệ ngươi nào có biết, đệ nghĩ con quạ đó vào những ngày đông tháng giá, khi không có dị sự phát sinh mà vô cớ kêu rồi bay đi sao? Chúng ta và nó cách nhau rất xa, làm sao kinh động nó được? Ta thấy hôm nay giết con yêu xà không thành vấn đế, chỉ có về Nhục Chi đó chúng ta phải cẩn thận, không được để địch nhân đục nước béo cò, dễ dàng lấy được. Nếu là người bên ta lấy được thì do có tiên duyên, linh vật trời sinh bất tất phải nhất định là ta lấy được. Nếu bị tà ma ngoại đạo lấy mất, chẳng phải giúp chúng thêm tàn ác, làm hại thế nhân sao? Ta thấy đệ đệ nhập môn chưa lâu, công phu còn thấp, ta cho đệ mượn Hồng Nghê kiếm mà gia sư ban cho ta để đệ trảm xà, đợi ta đi xem xét Nhục Chi thay đệ, khi lấy được nó trong tay ta sẽ đưa cho đệ. Đệ cũng không phải khách khí với bọn tỷ tỷ, ăn Nhục Chi luôn. May là bọn họ công phu cao thâm nên cũng không quan tâm đến chuyện này đâu.”

Kim Thiền nghe xong cười nói: “Đầu tiên đệ vốn tính là tróc nã xong quay lại sẽ hỏi đùa ai muốn ăn nó? Nhưng nó lại trông giống một người bé nhỏ, có chút giống như là ăn thịt đồng loại vậy, ai mà nhẫn tâm ăn được? Tốt hơn hết là Mai tỷ ăn thôi.”

Chu Mai nói: “Đệ đệ ngốc, đệ nào có biết, tiên duyên loại đó trăm đời khó gặp, làm thế nào có thể để vuột khỏi tay được? Huống hồ vật đó cũng là một loại thảo mộc, do thiên địa linh khí sinh ra, huyễn hoá thành người nhưng thực sự không phải là người. Ăn nó có thể thoát thai hoán cốt, bằng với công phu ngàn năm tu luyện, đệ hà tất phải nghĩ đến lòng nhân như đàn bà thế?”

Kim Thiền lắc đầu đáp: “Công phu phải tự mình tu mới là hay, đệ không muốn được cái vinh dự ăn thảo mộc ấy. Huống hồ Nhục Chi đó tu luyện ngàn năm mới biến thành người, trải qua bao nhiêu khó khăn mới tu thành như hiện nay, lại phải làm vật cho người ta ăn à. Nó bình thường không hại người, chúng ta phải giúp nó mới đúng, sao lại còn muốn ăn nó? Chẳng lẽ người tu tiên đắc đạo, chỉ cần nghĩ đến lợi ích của mình mà không nói chuyện tình lý sao?”

Chu Mai nghe Kim Thiền cưỡng từ đoạt lý, bất giác giận dữ dâng lên đầy mặt, yêu kiều nói: “Đệ thật là chẳng biết tốt xấu gì cả! Cái gì ta cũng vì đệ mà đệ lại lên mặt dạy đời, ta không thèm nói với đệ nữa.”

Nói xong nàng quay người bỏ đi. Kim Thiền thấy nàng nổi giận không khỏi luống cuống chân tay, vội vàng cười giảng hoà: “Mai tỷ không cần phải tức giận, tỷ đã vất vả nửa ngày rồi, được vật tốt như vậy, làm sao đệ dám hưởng thụ? Không bằng đợi lấy được nó xong, chúng ta sẽ bẩm báo với đại sư và mẫu thân, xem hai vị lão nhân gia phát lạc như thế nào?”

Chu Mai nói: “Đệ thật dẻo mỏ. Dù sao còn chưa lấy được nó, đến lúc có được, không lo đệ không ăn.”

Hai người đang bàn luận sôi nổi thì bỗng Linh Vân bay đến nói: “Hai người các ngươi ở đây nói gì vậy? Ngươi xem đã đến lúc nào rồi, hiện tại từ trong nhai đã truyền ra tiếng kêu.”

Chu Mai và Kim Thiền lắng tai nghe, quả nhiên từ trong động dưới Tuý Tiên nhai truyền ra một tiếng kêu thê lương giống như tối qua. Bọn họ liền vội vàng cùng nhau chạy đến trước nhai. Chu Mai vừa chạy vừa đưa Hồng Nghê kiếm cho Kim Thiền và nói: “Việc bắt quái có ba vị là đủ rồi, ta đi đợi Nhục Chi đây.”

Nói rồi nàng bay về phía sau Tuý Tiên nhai. Linh Vân xét thấy Kim Thiền còn ít tuổi nên không dám bảo gã mạo hiểm liền dỗ dành: “Ta và đệ đứng cùng một chỗ nhé.”

Kim Thiền nói: “Điều này có thể tuân mệnh nhưng phải để yêu xà đó lại cho đệ chém.”

Linh Vân gật đầu ưng thuận, Kim Thiền hết sức vui mừng đi theo Linh Vân tìm phương vị. Ổn định xong xuôi, Linh Vân lại sợ Tôn Nam có chuyện gì nên định tiến đến dặn dò một lát. Nàng liền bảo Kim Thiền không được rời khỏi phương vị, nàng đi rồi sẽ nhanh chóng quay lại. Kim Thiền cũng gật đầu đáp ứng.

Lúc này yêu xà kêu lên hai tiếng rồi không thấy động tĩnh gì. Ánh mặt trời tràn ngập khắp mặt đất, sương đọng trên cây khô cỏ úa đang bốc hơi nghi ngút, tạo thành một khối sương khói mờ mờ ảo ảo, vô cùng đẹp mắt. Kim Thiền đứng một hồi cảm thấy nhàm chán liền đưa tay chạm vào những giọt sương lóng lánh ấy. Đột nhiên gã thấy từ dưới đất chui lên một thứ trần như nhộng, trắng phau phau như tuyết. Căng mắt nhìn kỹ gã thấy đó chính là Nhục Chi, thứ gã muốn mà cầu chẳng được. Gã đang định tiến lên chộp lấy thì Nhục Chi đó đã quỳ trước mặt, khấu đầu liên tục.

Kim Thiền thấy vậy cảm thấy không đành lòng liền nói với nó: “Tiểu bảo bối, ngươi không phải chạy, hãy đến bên ta, ta sẽ không ăn ngươi đâu.”

Nhục Chi đó tựa như cũng hiểu nhân tính, nghe xong không bỏ chạy, đi một bước lạy một bước, tiến đến trước mặt Kim Thiền. Kim Thiền nhẹ nhàng dùng tay nâng nó lên nhìn cho kỹ. Từ đầu chí cuối Nhục Chi đó không khác người, toàn thân trắng phau như ngọc, chỉ là trắng đến mức trong suốt, không có một tia huyết sắc, tóc chỉ có hơn mười sợi, cũng một màu trắng, nhưng lại không có lông mày, mặt mũi vô cùng tuấn mỹ. Kim Thiền thấy vậy, yêu thích không muốn đặt xuống.

Nhục Chi đó cũng giống như thấu hiểu nhân tính, dù gã ôm trong lòng, tuỳ ý vuốt ve nhưng nó không hề tránh né. Kim Thiền càng nhìn càng thích liền hỏi nó: “Khi trước ngươi thấy ta liền bỏ chạy khiến cho mã nhi của ngươi bị độc xà ăn mất. Hôm nay ngươi thấy ta, không những không chạy mà còn thân cận như thế này, chắc rằng ngươi biết ta sẽ không hại ngươi phải không?”

Nhục Chi hai mắt rưng rưng, không ngừng gật đầu. Kim Thiền lại nói: “Ngươi cứ yên tâm, ta không những không ăn ngươi mà còn muốn bảo vệ ngươi, ngươi có muốn cùng ta về động không?”

Nhục Chi đó lại nhìn gã gật đầu, trong miệng phát ra tiếng lí nhí như tỏ ý cảm kích đồng tình.

Kim Thiền đang đắc ý bỗng Linh Vân đi tới. Nhục Chi thấy Linh Vân liền không ngừng tránh né, vài lần muốn thoát khỏi tay chạy đi. Kim Thiền biết nó sợ hãi, một mặt ôm nó thật chặt, một mặt dỗ dành: “Người đến là tỷ tỷ ta đó nên sẽ không hại ngươi đâu, ngươi không phải sợ.” 

Chưa dứt lời, Linh Vân đã đến bên cạnh, Nhục Chi kêu lên một tiếng dữ dội, sợ quá lăn ra chết. Kim Thiền quở trách Linh Vân: “Tỷ tỷ xem, tỷ làm tiểu bảo bối của đệ sợ quá mà chết rồi.”

Linh Vân đã sớm thấy Nhục Chi trên tay Kim Thiền liền nói: “Không hề chi, ta có thể cứu nó sống lại. Nếu nó không chết, chúng ta sẽ về động cùng chơi đùa. Còn nếu nó đã chết, chúng ta cứ thoải mái ăn nó thôi.” 

Kim Thiền đang định nói lại thì Nhục Chi đó đã tỉnh lại, gật đầu với Linh Vân khiến hai tỷ đệ đều cười ầm lên. Kim Thiền nói: “Tiểu bảo bối này lại còn biết giả chết nữa.”

Linh Vân nói: “Đệ không biết à, vật này thấu hiểu nhân tính. Vừa rồi nếu đệ nghĩ nó đã chết, đặt nó xuống đất thì nó sẽ nhập thổ không còn tung tích. Làm thế nào mà đệ bắt được nó vậy? Có thể nói tiên duyên của đệ không nhỏ.”

Kim Thiền liền đem chuyện tranh luận với Chu Mai cùng với tình huống lúc đầu Nhục Chi đi đến, nhất nhất kể lại. Linh Vân nói: “Theo như đệ nói, chúng ta thực sự không đành lòng làm nó thương tổn.”

Kim Thiền cao hứng đến nhảy dựng lên nói: “Ai nói không phải đâu, nó theo chúng ta tu đạo thì tốt biết bao.”

Khi nói gã một thoáng sơ sảy, Nhục Chi đã quăng mình xuống đất. Linh Vân vội hét: “Không hay rồi!” Khi đang muốn thò tay chộp Nhục Chi thì nó lại không hề chạy, chỉ lấy tay nhỏ bé chỉ chỉ về phía tây, miệng không ngừng hô hoán. Kim Thiền đang định ôm nó, nhìn sang hướng tây thì thấy từ trong xà động dưới Tuý Tiên nhai phun ra một đám sương khói đậm đặc, bên trong có một tia lửa giống như pháo hoa bắn ra. Sau đó nhanh chóng nghe thấy trong động lại phát ra một tiếng kêu, hai tỷ đệ nhìn sắc trời thì đã đến đầu giờ Ngọ nên biết yêu xà muốn đi ra. Họ đều tập trung tinh thần, chuẩn bị động thủ.

Tôn Nam đứng trên xà động đó, tay cầm Như Ý Thần Mâu, mũi mâu chĩa xuống dưới, mắt chăm chăm nhìn, nếu đầu rắn lộ ra thì gã sẽ lập tức xuống tay. Gã đang sốt ruột thì bỗng nhiên trong động toả ra một đám khói lửa; dù gã có ngậm tiên thảo, không sợ chất độc xâm nhập nhưng cũng ngửi thấy một luồng khí tanh tưởi, vô cùng khó chịu.

Lúc này, ánh mặt trời đã dần dần lên đến đỉnh đầu, tiếng kêu thê lương từ trong động phát ra càng lúc càng rõ. Tôn Nam ngẩng đầu nhìn khe ở sườn núi đối diện, thấy có vài chục dải lụa trắng phất phơ, cùng lên xuống đều tăm tắp. Khi gã lại gần nhìn thì hóa ra là hàng chục con mãng xà lớn vảy trắng, dài chừng hơn mười trường. Tôn Nam rất sợ đám đại mãng xà này nhìn thấy mình nên vội nhảy lên trên sườn núi.

Đang lúc kinh hoàng thì những đại mãng xà này đã vượt qua khe núi, giảm tốc độ, chầm chậm bò lổm ngổm. Khi còn cách xa động hơn trăm bước thì chúng dừng lại, cuộn thân lại thành một đống, đầu ngỏng lên cao, hướng về phía sơn động kêu lên hai tiếng, tựa như trình diện với yêu xà bên trong vậy. Không lâu sau, tiếng yêu xà trong động kêu càng thống thiết thì mãng xà đến càng nhiều, đủ các loại kỳ hình quái trạng, lớn nhỏ khác nhau.

Sau cùng, có hai con quái xà một to một nhỏ, một trên một dưới, nhanh nhẹn như gió, nháy mắt đã bò đến trước sườn núi, chia nhau chiếm cứ hai bên. Con to thì hai đầu một thân, từ cổ chẽ ra hai hướng, dài đến ba bốn trượng, toàn thân giống như ngọn lửa hồng rực. Hai con trên đầu đều có sừng, trông tựa như san hô, ánh mặt trời chiếu vào, toả sáng lấp lánh.

Con nhỏ chỉ dài năm sáu thước, một đầu hai thân, đuôi tựa xuống đất, đầu ngỏng cao đi như người, toàn thân đốm như báo gấm, miệng khè ra lửa. Từ lúc hai con rắn này đến, những con khác đều ngẩng đầu tru lên. Kỳ quái nhất là từ lúc đám đại mãng xà này qua khe núi liền phân tách, chừa ra ở giữa một lối đi chừng bốn năm thước, giống như để dành cho yêu xà trong động đi ra vậy.

Tôn Nam đang nhìn đến xuất thần, đột nhiên nghe thấy trong động truyền ra một tiếng tru dài. Ầm một tiếng, một khối đá che động bay vọt ra ba bốn trượng. Tôn Nam giật mình, gã chỉ chăm chăm nhìn rắn, tựa như đã quên đi đại sự. Gã vội vàng chấn chỉnh thần mâu, nhìn xuống dưới, chỉ thấy đám mù đó càng lúc càng đậm đặc, khói lửa cũng mù mịt thêm, cửa động quả thực nhìn mờ ảo không rõ.

Đang lúc sợ vạn nhất yêu xà đó đào tẩu vì thấy không rõ chỗ định xuống tay thì bỗng nghe thấy từ trong động một chuỗi âm thanh rầm rĩ truyền ra, chấn động cả sơn cốc.

Gã biết rằng yêu xà sẽ nhanh chóng lao ra liền tập trung ngưng thần nín thở, chăm chú nhìn xuống dưới. Đang lúc mọi thứ căng như dây đàn thì bỗng ở cửa động toả ra một đám khói lửa lớn, lờ mờ thấy một cái đầu người bù xù như cỏ dại, Tôn Nam vừa mới giơ mâu định đâm thì cái đầu đó lại rụt vào. May mà gã vẫn chưa xuống tay, chi đâm một cái vào khoảng không. Đến lúc này Tôn Nam càng không dám lơ là, chuyên tâm nhất trí, chờ đợi cơ hội. Bỗng nhiên ngoài động đám rắn đồng loạt ngẩng đầu kêu lên thảm thiết, khiến người ta ghê sợ sởn cả gai ốc. Trong chốc lát, sắc trời ảm đạm, khói mù giăng giăng.

Thoáng chốc, khói lửa lại phun ra từ cửa động, chiếu sáng rõ mồn một. Một thứ đầu người thân rắn, tóc dài chấm vai, nhanh như gió cuốn lao thẳng ra từ cửa động. Tôn Nam từ nhỏ đã quen phóng thương bách phát bách trúng, vào lúc không phóng không được này, gã nắm chắc thần mâu, nhắm chính xác vào chỗ chí mạng của yêu xà, miệng kêu lên một tiếng “Như Ý” rồi phóng ra. Một tiếng kêu thảm vang lên, thần mâu đó toả kim quang chính khí ngời ngời, xuyên qua điểm chết thất thốn của yêu xà, găm phập xuống đất, cán mâu rung rinh lộ ra trên mặt đất.

Đám độc xà đại mãng đó thấy yêu xà bị găm trên mặt đất liền ngẩng đầu nhìn Tôn Nam, tất cả nghiến răng nghiến lợi, lao thẳng lên trên sườn núi. Tôn Nam thấy rắn đông thế mạnh nên không dám khinh suất, gã bèn phóng ra kiếm quang, phá không bay lên, đến cạnh Linh Vân rồi lại xem động tĩnh. Nói thì lâu nhưng mọi thứ rất nhanh, khi yêu xà đó trúng thần mâu thì thân mới ra khỏi động vài thước, phần còn lại vẫn ở trong động. Nó vốn vì đại nạn đã qua, lại có đồng loại đến chầu nên thực sự vô cùng cao hứng. 

Ai ngờ mới ra khỏi cửa động đã trúng phải ám toán của địch nhân, đau đớn giận dữ, không ngừng lắc đầu vẫy đuôi, chỉ quẫy vài lần, cái đuôi dài đã làm sạt một bên sơn động, các khối đá vỡ tung bay tứ phía. Nếu như Tôn Nam chẳng sớm chạy, nói không chừng đã thụ thương rồi. Lúc này, miệng yêu xà thổ ra khói lửa, thân co lại rồi duỗi ra, đầu mạnh mẽ vọt lên, kêu một tiếng, thần mâu bắn ra xa hơn mười trượng. Sau đó, máu từ cổ phun ra ồng ộc như suối, bắn thành vòi vọt lên cao hơn trượng.

Yêu xà đã thụ thương đó vọt lên phía trước, nhanh nhẹn như gió, được khoảng một trăm trượng thì không đi được nữa. Nguyên là khi nó trúng thương lao lên phía trước thì dưới đất đã chôn một trăm lẻ tám lưỡi Tru Tà thần đao, tất cả đều ló lên mặt đất, vừa vặn hướng về chỗ chí mạng của yêu xà, đó là một đường vảy trắng ở chính giữa, toàn bộ yêu xà liền bị xẻ đôi, đổ sụp ra đất. Dù cho nó thần thông quảng đại nhưng hai lần thụ trọng thương nên không chịu nổi đau đớn mà chết.

Điểm cuối cùng nó tới chính là chỗ Linh Vân đứng đợi ở dưới sườn núi. Kim Thiền vui sướng, liền muốn đến chém đầu yêu xà. Linh Vân vội kêu nó không được vội vàng hấp tấp. Kim Thiền mới vừa dừng lại, quả nhiên yêu xà đó giãy giụa một hồi, lại phát ra hai tiếng kêu thảm thiết. Tất cả đám quái xà đại mãng còn lại cũng lao đến, cầm đầu là hai con rắn lớn, đi đến ngậm da yêu xà không nhả ra.

Chỉ thấy yêu xà đó dùng sức thật mạnh, liền lột da, dù là đầu người thân rắn nhưng thân thể trắng như tuyết, không có vảy màu tạp. Yêu xà kêu lên hai tiếng, rồi đứng một chỗ, ngẩng đầu nhìn bốn phía giống như tìm kiếm địch nhân. Nhưng ba người trên sườn núi ngây thơ chưa lui, chỉ lo ngắm nhìn yêu xà, quên sạch hiểm nguy cận kề.

Đang lúc xuất thân, đột nhiên Chu Mai hớt hơ hớt hảy chạy như bay đến nói: “Sư tỷ còn không phóng châu, đợi lúc nào nữa?”

Nói nàng ngã lăn quay ra đất. Kim Thiền vội vàng đỡ nàng dậy. Linh Vân được Chu Mai đề tỉnh mới đem Thiên Hoàng châu phóng ra. Yêu xà đã thấy chỗ bốn người đứng, kêu dài một tiếng, miệng khè ra một quả cầu lửa đỏ rực đánh tới phía bốn người. Khói lửa bốn phương mịt mùng.

Đám rắn cũng chen nhau tiến lên. Đúng lúc đó Thiên Hoàng châu trong tay Linh Vân ném ra, trực diện đánh tới. Từ xưa tà đã không thể thắng chính, Thiên Hoàng châu đó vừa ra khỏi tay, liền có vạn đạo kim quang, mây vàng khắp chốn, mùi hùng hoàng tràn ngập núi. Khi viên châu đó chạm vào hoả cầu, chỉ nghe bịch một tiếng, phá tan hoả cầu, biến thành hơn mười luồng nước dãi rắn rớt xuống đất, khói mù cũng tiêu tan hết. Một đám quái xà độc mãng đang lao ra ở lưng sườn núi, bị hào quang màu vàng của Thiên Hoàng châu trói lại, liên tục phải ngửi mùi hùng hoàng, tất cả đều mềm xương nhũn gân, tê liệt trên mặt đất.

Độc xà đó thấy tình thế không hay nên đang muốn bỏ chạy, lúc đó Chu Mại trong lòng Kim Thiền đã thấy rõ liền miễn cưỡng đẩy Kim Thiền ra nói: “Thân rắn có bảo vật có thể cứu ta, mau đi chém rắn lấy về đây.”

Kim Thiền vội kêu lên: “Tôn sư huynh thay đệ đỡ Mai tỷ với, để đệ đi chém rắn.”

Chu Mai nhìn Tôn Nam nói: “Ta không cần người đỡ, để ta nằm nghỉ ngơi trên mặt đá là xong.”

Khi nàng nói, giống như khí lực không đủ nên chưa nói xong đã ngã quay ra mặt đá.

Kim Thiền đang lo lắng trăm bề nên không rảnh để hỏi Chu Mai vì sao như vậy. Nhân vì nghe thấy thân rắn có bảo vật có thể cứu được nàng nên càng không dám chậm trễ, tung người lên, phóng ra Hồng Nghê kiếm lao xuống. Đám quái xà đại mãng dưới sườn núi bị mây vàng giam giữ, chen chúc trong một đám. Linh Vân đợi một hồi cũng không rõ phía dưới đâu là yêu xà. 

Tấu xảo là trước khi Chu Mai và Tôn Nam đến, Kim Thiền nhân vì thích Nhục Chi nên hôn vào má nó, Nhục Chi đó lại dùng lưỡi liếm hai mắt của Kim Thiền. Lúc đó Kim Thiền chỉ thấy lành lạnh, ngưa ngứa, vô cùng thoải mái nhưng không chú ý lắm. Sau khi Tôn Nam đi tới, Nhục Chi liền nhân lúc lộn xộn mà lao xuống đất, chẳng biết đi đâu. Khi Kim Thiền đang muốn đi thì Linh Vân kéo nó nói: “Bên dưới mây vàng bao phủ, không nhìn thấy gì đâu, đệ muốn chém rắn thì cứ phóng kiếm ra là được, đi xuống làm chi?”

Kim Thiền vội giậm chân nói: “Tỷ tỷ mau dừng tay để đệ có thể nhìn được. Mai tỷ trúng phải ám toán, trên thân rắn có bảo vật có thể cứu được tỷ ấy. Tỷ xem yêu xà đó đã chạy rất xa rồi.”

Linh Vân còn đang bán tín bán nghi thì Kim Thiền đã vùng mạnh, thoát khỏi tay của nàng phóng như bay về phía đông nam. Tôn Nam chẳng có chuyện gì làm, trong lòng bèn nghĩ sao không phóng kiếm để giết vài còn rắn, đương nhiên là rất hay. Gã liền phóng ra kiếm quang, điều khiển nó xuống dưới núi chém loạn cả lên. Linh Vân thấy Tôn Nam phóng kiếm, cũng lắc người, phóng kiếm ra. Hai luồng kiếm quang lên xuống giữa mây vàng mịt mùng, giống như thần long bay lượn, vô cùng đẹp mắt.

Chém giết được nửa canh giờ thì đột nhiên thấy mẫu thân của nàng, phu nhân của Càn Khôn Chính Khí Diệu Nhất chân nhân dắt ái đệ Kim Thiền đi đến. Trong tay Kim Thiền là bảo kiếm xuyên qua đầu rắn giống hình người to như chum nước, gã chạy lại nói: “Rắn chết sạch rồi, huynh tỷ không thu kiếm lại thôi?”

Mọi người liền vội vàng tiến lên trước làm lễ, rồi thu lại kiếm. Diệu Nhất phu nhân đưa tay thu lại Thiên Hoàng châu.

Nhìn xuống dưới núi chỉ thấy đỏ đỏ xanh xanh đầy đất, khắp nơi là máu rắn, đầu rắn, thân rắn đủ loại dài ngắn lớn nhỏ khác nhau. Diệu Nhất phu nhân lấy ra một chiếc hồ lô rồi đổ nước xuống dưới, nói rằng không đến vài canh giờ sẽ hoá đám thân rắn thành nước sạch chảy đi. Kim Thiền vội chạy đến bên Chu Mai xem xét thì nàng đã ngất. Gã không nhịn được đau thương khóc rống lên, rồi vội vàng kêu mẫu thân cứu Mai tỷ. Diệu Nhất phu nhân thấy cảnh tượng như vậy, không khỏi gật đầu thở dài: “Tình ma gây oan nghiệt đến nông nỗi này sao!”

Hết hồi thứ 19

~*~*~*~*~*~*~*~*~

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro