Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hội nhập KTQT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM  

TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ  

Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Việt Nam đặt ra mục tiêu về cơ  

bản trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Đây là giai đoạn có ý nghĩa hết  

sức quan trọng, giai đoạn tăng tốc công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH), trong đó  

khu vực công nghiệp giữ một vai trò quan trọng. Bài viết đề cập đến một số giải pháp chủ  

yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của khu vực công nghiệp trong bối cảnh nước ta đã trở  

thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trên cơ sở đánh giá thực trạng  

về khu vực công nghiệp thời gian qua.

1. Thực trạng kinh tế công nghiệp nước ta thời gian qua

Nhìn một cách tổng quát, trong những năm đổi mới vừa qua, đi đôi với tăng trưởng  

và ổn định, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Xu hướng của quá  

trình này là công nghiệp tăng nhanh và nền kinh tế được hiện đại hóa. Nếu năm 1997, tốc độ  

tăng trưởng kinh tế (GDP) cả nước là 8,15% thì năm 2007 ước đạt 8,44%, trong đó, ứng với  

thời gian trên, khu vực nông - lâm - thủy sản là 4,3% và 3,0%, khu vực công nghiệp - xây  

dựng là 12,6% và 10,4%; khu vực dịch vụ là 7,14% và 8,5%.  

Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được thực hiện gắn liền với sự phát  

triển các ngành theo hướng da dạng hóa, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và  

mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu. Từng  

bước phát triển các ngành khai thác các nguồn lực của nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư  

nước ngoài để sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và một số hàng công nghiệp nặng  

cần thiết. Các sản phẩm công nghiệp quan trọng đều tăng khá như điện, thép, phân bón, dầu  

thô, xi măng, than... Sự phát triển này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế:  

tỷ trọng GDP tính theo giá thực tế trong khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 23,2% năm  

1996 lên 41,0% năm 2005, 41,6% năm 2006 và năm 2007 ước đạt 41,7% (năm 2007 khu  

vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm xuống mức khoảng 20,9% và khu vực dịch vụ tăng  

lên khoảng 37,6%). Tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong GDP tăng dần thực sự trở  

thành động lực cho phát triển kinh tế quốc dân (năm 2007 chỉ tính riêng khu vực công  

nghiệp chiếm khoảng 34,6%). Đây là năm thứ ba liên tiếp ngành công nghiệp đạt tốc độ  

tăng trưởng cao 

Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp bình quân khoảng 10%/năm trong giai đoạn  

1997-2007. Về giá trị sản xuất công nghiệp (tính theo giá so sánh năm 1994) năm 2007 ước  

tăng 17,1% so với năm 2006, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,3%; khu vực ngoài  

nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Cơ cấu nội bộ ngành  

công nghiệp cũng chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến từ  

83,9% năm 2006 lên khoảng 84,4% năm 2007. Đối với nhóm ngành chế biến nông, lâm,  

thủy, hải sản, nhất là chế biến thực phẩm và đồ uống đóng góp quan trọng vào cơ cấu chế  

biến với tỷ trọng là 21,0% năm 2006 và khoảng 21,3% năm 2007.  

Lợi thế so sánh trong các ngành chế biến, chế tạo sử dụng nhiều lao động đã được  

khai thác với ưu thế của ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu so với các sản phẩm xuất  

khẩu thô. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những thay đổi cơ bản, theo hướng vừa không  

ngừng nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường thế  

giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp không chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh  

tế như điện, than, phân bón, sắt thép... mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng  

cao (76,3%) như: mặt hàng nhựa, dệt may, điện tử và linh kiện máy tính, thủ công mỹ  

nghệ... Tăng trưởng xuất khẩu của khu vực này chủ yếu do một số ngành công nghiệp nhẹ;  

chẳng hạn, năm 2007, ngành dệt may đã chuyển từ sản xuất theo kiểu gia công xuất khẩu  

(có tỷ lệ lãi khoảng từ 3-6%) sang sản xuất theo phương thức mua đứt, bán đoạn (có tỷ lệ lãi  

khoảng từ 5-8%); kim ngạch xuất khẩu đạt 7,8 tỷ USD tăng khoảng 30% so với năm 2006.  

Các sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may và giày dép lần đầu tiên đạt trên 10 tỷ USD, dẫn  

đầu trong các ngành hàng tham gia xuất khẩu. Đặc biệt, các sản phẩm cơ khí xuất khẩu cũng  

là lần đầu tiên được bổ sung vào danh sách 10 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên  

một tỷ USD (năm 2007 sản phẩm cơ khí tăng trưởng trên 120% so với năm 2006, đem lại  

kim ngạch xuất khẩu trên 2,2 tỷ USD). Đứng đầu danh sách nhóm mặt hàng có kim ngạch  

xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD phải kể đến là dầu thô (trên 8,4 tỷ USD); tiếp theo là dệt may  

(7,7 tỷ USD); giày dép (3,9 tỷ USD)...  

Chuyển dịch của khu vực công nghiệp theo hướng hình thành, phát triển một số  

ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế, một số lọai sản  

phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như: lắp ráp ôtô, xe máy, đồ điện tử,  

đường, xi măng... đã cung cấp cho thị trường nội địa, vốn cần thiết cho đời sống kinh tế -  

xã hội của đất nước, nhiều mặt hàng có chất lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước.  

Mặt khác, khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) trong nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ  

cao. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, tập trung vào nhóm ngành chế biến  

thực phẩm và dầu khí, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu của nước ta và có vị trí  

chủ yếu trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Khu vực này đã góp phần nâng cao trình  

độ công nghệ, xây dựng mô hình tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác tiềm  

năng và huy động các nguồn lực tốt hơn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây được  

coi là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo  

hướng CNH, HĐH... 

Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu trong khu vực công nghiệp trong thời  

gian qua là do:  

Một là, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện hệ thống luật  

pháp và chính sách thương mại, thông qua mối quan hệ giữa các chính sách thuế và các  

chính sách khác như trợ cấp, đầu tư... và trên thực tế đã cải thiện rõ môi trường kinh doanh,  

tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh;  

Hai là, nhiều doanh  

nghiệp đã và đang tận dụng mọi cơ hội để vươn lên trong môi trường cạnh tranh, giành lấy  

và mở rộng thị phần trên thị trường.  

Ba là, ở giai đoạn trước mắt đã định hướng đúng việc  

tập trung vào nhóm các sản phẩm có lợi thế so sánh trong xuất khẩu và khả năng cạnh tranh  

cao, có nguồn gốc từ nông nghiệp và công nghiệp tiêu dùng, thực phẩm như hàng may mặc,  

giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, dầu thô, than đá...  

Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của khu vực công nghiệp còn yếu ngay cả với các  

nước trong khu vực. Trong khi tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khá cao thì  

tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm còn thấp (năm 2007 con số này là khoảng 17,1% so với  

khoảng 10,2%). Tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm chưa cao. Hầu hết các mặt hàng công  

nghiệp xuất khẩu ở nước ta dưới dạng nguyên liệu hoặc dưới dạng gia công (giày dép, dệt  

may), lắp ráp (điện tử, máy vi tính), tỷ lệ sản phẩm chế tạo rất thấp, giá trị mới tạo ra trong  

sản phẩm chiếm tỷ trọng nhỏ. Công nghiệp chế biến phụ thuộc vào nguyên, vật liệu phụ  

nhập khẩu với chi phí cao dẫn đến giá bán cao (năm 2007 các doanh nghiệp trong ngành dệt  

may phải nhập khẩu khoảng trên 70% nguyên phụ liệu từ nước ngoài; các ngành hàng khác  

như giày, dép, sản phẩm nhựa... cũng ở tình trạng tương tự). Điều này cho thấy nước ta  

đang thiếu trầm trọng ngành công nghiệp chế biến mà đây là một trong những nội dung  

quan trọng của tiến trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp công  

nghiệp có quy mô nhỏ, chưa chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, chủng loại  

sản phẩm chưa phong phú, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực quản lý, trình độ khoa  

học công nghệ... yếu kém.  

Những tồn tại trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có thể nhấn mạnh  

đến một số nguyên nhân chủ yếu sau: một là, cho đến nay qúa trình cải cách thể chế còn  

chậm, nhất là chính sách thuế còn một số bất cập, không ổn định và thiếu tính hệ thống. Bên  

cạnh những ngành được hưởng lợi, với tư cách là thành viên của WTO, thì những ngành bị  

ảnh hưởng tiêu cực là những ngành bị cắt giảm thuế quan nhiều nhất, như mía đường, ô tô,  

giấy...; hoặc một số ngành phải chịu sự cạnh tranh gay gắt nhất từ phía hàng nhập khẩu,  

như thép, giấy, hóa chất, phân bón..., nhất là mặt hàng dệt may; hai là, cơ cấu sản xuất công  

nghiệp dịch chuyển chậm, công nghiệp phụ trợ kém phát triển dẫn đến tình trạng các ngành  

sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào thị trường thế giới; ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao  

ở nước ta còn thiếu; trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu đã trở thành rào cản lớn nhất đối  

với khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong khu vực công nghiệp.

2. Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển khu vực công nghiệp ở nước ta

Nước ta đang từng bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, cơ hội  

và thách thức đan xen lẫn nhau, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hoá, hiện  

đại hoá đất nước. Sau một năm Việt Nam ra nhập WTO, có thể nhận thấy những tác động  

mạnh mẽ tới nền kinh tế, nhất là trong một số lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, nông  

nghiệp, thương mại, tài chính, ngân hàng... mặc dù sự tác động đến các ngành là không như  

nhau. Nghĩa là có ngành hưởng lợi và có ngành chịu tác động tiêu cực. Mặt khác, thực hiện  

các cam kết khi ra nhập WTO, ngoài việc phải giảm đáng kể mức thuế áp dụng, còn phải dỡ  

bỏ các hàng rào phi thuế như: hạn ngạch, giấy phép, thủ tục hải quan... Điều này sẽ làm giảm  

đáng kể mức độ bảo hộ và tăng áp lực cạnh tranh đối với ngành công nghiệp trong nước.  

Từ những phân tích đánh giá trên đây, cũng như xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của quá  

trình CNH, HĐH đất nước trong giai đọan tới, đặc biệt trên cơ sở "Quy hoạch tổng thể phát  

triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến  

năm 2020" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg, cần  

tiến hành triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, trước hết là các giải pháp về cơ chế,  

chính sách và nguồn nhân lực chất lượng cao. Ở đây chỉ xin đề cập đến một số giải pháp sau:  

                   Thứ nhất, tập trung xây dựng chiến lược quy hoạch, hoàn chỉnh và ban hành đồng  

bộ hệ thống luật pháp, chính sách thương mại. Cần nhấn mạnh rằng vấn đề mấu chốt trong  

thương mại quốc tế của mỗi quốc gia trong khuôn khổ của WTO chính là năng lực cạnh  

tranh của hệ thống chính sách thương mại, của doanh nghiệp và của hàng hoá. Do vậy, cần  

tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các văn bản pháp luật, các chính sách liên quan đến thương  

mại, tài chính, khoa học công nghệ và chính sách đào tạo nguồn nhân lực... một cách đồng  

bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế để các thành phần kinh tế có thể tham gia vào phát triển  

khu vực công nghiệp. Kiện toàn và tăng cường công tác quản lý nhà nước tạo điều kiện cho  

phát triển công nghiệp theo hướng, vừa hoàn thiện và tăng cường chính sách quản lý nhằm  

tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển, vừa tăng cường biện pháp kiểm tra, kiểm soát để  

đảm bảo phát triển đúng hướng. Sớm hình thành một mạng lưới công nghiệp trong cả nước  

trên cơ sở đa dạng hóa về quy mô và chế độ sở hữu. Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các  

khu, cụm điểm công nghiệp trên phạm vi cả nước, hình thành các vùng công nghiệp trọng  

điểm. Ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác, theo kinh nghiệm của các quốc  

gia phát triển, để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên  

phạm vi cả nước - đây được coi là một trong những khâu đột phá trong phát triển và  

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.  

                   Thứ hai, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản phẩm công nghiệp một cách  

hợp lý trên cơ sở huy động tối đa sức mạnh của các thành phần kinh tế. Trong bối cảnh hội  

nhập kinh tế hiện nay, việc phát huy lợi thế của các ngành sử dụng nhiều lao động ở nước  

ta là hết sức cần thiết, với đặc điểm kinh tế - kỹ thuật đặc thù, các ngành công nghiệp sử  

dụng nhiều lao động luôn duy trì được chỉ số ICOR tương đối lâu dài. Mặt khác, công nghệ  

vận hành không quá phức tạp, sử dụng được lao động không đòi hỏi trình độ lành nghề cao  

và có thể đi ngay vào sản xuất trong thời gian ngắn dưới hình thức chuyển giao công nghệ,  

gia công xuất khẩu. Theo đó, cần thay đổi định hướng cơ cấu đầu tư công nghiệp, đối với  

khu vực doanh nghiệp nhà nước đầu tư để phát triển các ngành xuất khẩu thay vì đầu tư cho  

thay thế nhập khẩu. Đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cần ưu tiên lựa chọn các dự 

án có triển vọng công nghệ và thị trường quốc tế. Chuyển hướng đầu tư tập trung cho các  

ngành sử dụng nhiều lao động và những ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật cao.  

Xác định có trọng tâm và đầu tư đúng mức vào những ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp  

tục đẩy mạnh sản xuất theo các nhóm ngành: nhóm ngành có lợi thế cạnh tranh, nhóm  

ngành nền tảng và nhóm ngành tiềm năng. Trước mắt, dựa trên cơ sở lợi thế so sánh động,  

cần xác định ưu tiên và xây dựng kế hoạch ngắn, trung và dài hạn đối với các ngành công  

nghiệp trọng điểm. Chẳng hạn, các ngành công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên  

thiên nhiên có chọn lọc phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường giúp cho quá  

trình tích lũy vốn nhanh hơn, tạo ra cơ sở ổn định lâu dài cho việc cung cấp những nguyên  

liệu cơ bản của toàn bộ sự phát triển công nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế  

- xã hội, bao gồm các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, dầu khô, khí đốt, than,  

luyện thép, vật liệu xây dựng... Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn, kỹ thuật, công  

nghệ như các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp... có ý nghĩa  

chiến lược xét về trung và dài hạn. Hiện đại hóa một số ngành cơ khí có đủ khả năng cung  

cấp công cụ và thiết bị cho một số ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến.  

Chú trọng đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cần thiết cho một số ngành dựa  

vào công nghệ - kỹ thuật cao của nền kinh tế công nghiệp hiện đại như: công nghệ thông  

tin, viễn thông, điện tử, tự động hóa và xây dựng cơ sở tiền đề cho việc chuyển một bước  

sang nền kinh tế dựa trên tri thức. Tập trung phát triển công nghiệp sản xuất phần mềm tin  

học thành một ngành kinh tế mũi nhọn.  

                       Thứ ba, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ  

trọng giá trị tăng thêm trong sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cần nhận thức rằng mục  

tiêu đặt ra cho công nghiệp nước ta là phải thay đổi căn bản tỷ lệ của 3 nhóm sản phẩm  

công nghiệp phục vụ xuất khẩu, gồm: một, chế tạo, hai, gia công- chế biến và ba, nguyên  

liệu... Thay đổi tỷ lệ này là thay đổi đáng kể đến cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu và  

có tác động rất lớn đến cơ cấu các ngành sản xuất công nghiệp trong nước, cũng như cơ  

cấu nội bộ mỗi phân ngành công nghiệp. Theo đó, trước mắt tập trung nguồn lực vào phát  

triển nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và có thị trường, gồm các ngành điện, than,  

dầu khí, hàng may mặc, giày dép, chế biến khoáng sản... và các ngành có thể nâng cao  

nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian ngắn, có khả năng chiếm lĩnh được thị  

trường về hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây là những ngành chủ yếu dựa trên nguồn lao động  

rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn có, nhưng cũng cần lưu ý là những lợi thế này cũng đang  

có xu hướng giảm nhanh.  

                Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu và tạo ra những đột phá mới trong xuất khẩu hàng  

công nghiệp chế biến, chế tạo hàng có hàm lượng khoa học công nghệ, tạo thêm các sản  

phẩm xuất khẩu chủ lực, giá trị gia tăng xuất khẩu cao. Chuyển xu hướng gia tăng mạnh  

xuất khẩu sản phẩm "thô" trong thời gian qua sang xu hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm  

công nghiệp chế biến trong kim ngạch xuất khẩu, phục vụ xuất khẩu trên cơ sở định hướng  

công nghiệp kỹ thuật cao. Hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và  

các mặt hàng chưa qua chế biến, thông qua việc thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao  

chất lượng tăng giá trị hàng hóa là biện pháp vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính lâu dài.  

                Thứ tư, tăng cường phát triển công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh nội địa hoá các sản  

phẩm đáp ứng yêu cầu về phụ tùng, thiết bị tại chỗ cho doanh nghiệp. Bài học kinh nghiệm  

của các nước công nghiệp phát triển cho thấy công nghiệp hỗ trợ giữ vai trò quan trọng  

trong phát triển công nghiệp. Phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc các ngành trọng điểm của  

nền kinh tế không chỉ giúp các doanh nghiệp chủ động trong sản xuất, giảm giá thành sản  

phẩm; mà còn giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đẩy mạnh hợp tác, góp  

phần thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm. Vì vậy, cần xem xét giải quyết  

những khó khăn vướng mắc trong xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ở  

nước ta hiện nay. Đồng thời, để nâng cao khả năng cung ứng nguyên, phụ liệu một cách  

kịp thời và hiệu quả hơn, cần xây dựng ngay một số cơ sở đầu mối (có thể đặt tập trung tại  

các khu công nghiệp...) đóng vai trò trung tâm tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên, phụ  

liệu trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm  

nhựa cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước. Từng bước xây dựng và  

tiến tới chuyên nghiệp hóa các dịch vụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp như thiết kế tạo mẫu,  

họat động quản trị sản xuất, marketing... để cung ứng đầu vào và phát triển đầu ra.

Những công việc cần làm là: đẩy mạnh thông tin tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế; sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế thương mại phù hợp với nhu cầu hợp tác quốc tế và nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam; xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế; đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hội nhập, kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại trong hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường an ninh phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; tiến hành đàm phán trong quá trình tiến tới gia nhập WTO; củng cố và tăng cường năng lực Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế ngang tầm nhiệm vụ.

                      Chính phủ yêu cầu Ủy ban phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các đơn vị liên quan 

sớm hoàn thành đề án quốc gia nghiên cứu sức cạnh tranh của một số hàng hóa và dịch vụ 

của Việt Nam. Các bộ ngành, địa phương được giao nghiên cứu kỹ các nội dung hội nhập 

kinh tế quốc tế, hướng dẫn giúp doanh nghiệp xây dựng kế hoạch hoạt động sản xuất kinh 

doanh và xử lý các vấn đề liên quan đến việc thực hiện các cam kết quốc tế.

Chính phủ đặc biệt lưu ý Bộ Tư pháp phối hợp các đơn vị liên quan rà soát lại hệ thống văn 

bản quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách hiện hành để sửa đổi và ban hành mới các văn 

bản còn thiếu hoặc không phù hợp với xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới.

                 Đánh giá tình hình kinh tế - xã hội tháng 1/2002, Chính phủ nhận thấy việc giao kế hoạch năm

 nay triển khai sớm hơn mọi năm đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ ngành, địa phương,

 thực hiện công việc ngay từ đầu năm. Kinh doanh và sản xuất trong tháng chuyển biến thuận 

lợi, hàng công - nông nghiệp phục vụ Tết Nhâm Ngọ tăng nhanh, thu ngân sách đạt khá, vốn 

đầu tư nước ngoài có tăng. Tuy nhiên, Chính phủ nhận định nhiều lĩnh vực vẫn còn gặp khó 

khăn, nhất là tình hình xuất khẩu và thu hút đầu tư. Thủ tướng Phan Văn Khải yêu cầu các 

bộ ngành, địa phương tìm mọi giải pháp thúc đẩy, cải thiện hai lĩnh vực này.

                Bài viết này vẫn còn một số thiếu sót rất mong các bạn sau khi tìm hiểu xong có thể bổ 

sung cho nó càng đầy đủ thêm.

                                                                       Bài viết này được sưu tầm và chỉnh sửa bởi HUUDUC21

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro