Thuyet duong 1-5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 1 Nghe trẻ hát, Tùy Văn Đế truất Đông Cung Nhận Đô Đầu, Tần Thúc Bảo tìm ngựa quý

Truyện nhà Chu.

Khi đó nhà Chu nước mạnh, dân giàu, Bắc Tề Tây Ngụy khởi nghịch ngoài bờ cõi. Chu chủ sai đại tướng Dương Chung làm Nguyên soái con là Dương Lâm làm Tổng quân, cử sáu mươi vạn binh chinh phạt Bắc Tề, Tây Ngụy.

Dương Lâm mặt như nhồi phấn, người cao chín thước, quen dùng đôi long bổng nặng ba trăm cân, sức mạnh như sư tử.

Đại binh nhà Chu đánh dẹp Bắc Tề có trong vòng nửa tháng đã toàn thắng chiếm giữ hết các thành trì. Dương Chung cho yết bảng an dân rồi kéo quân về phục mạng Chu chúa. Chu chúa cả mừng phong cho Dương Chung làm Tùy Công, cai quản nước Tùy để thống nhất giang sơn từ đó, lại phong Quang Lâm làm Đại nguyên soái chỉ huy cả mười vạn quân binh bộ.

Dương Chung có một con trai là Dương Kiên, mắt sáng như sao bàn tay có ba chữ Nghiễm Thanh vương. Vợ chồng Dương Chung mừng rằng con trai là bậc phi thường. Dương Chung chết. Người con đó là Dương Kiên lên nối tước, là Tùy Công. Chu chủ thấy Dương Kiên tướng mạo khác thường, có ý nghi. Dương Kiên biết vậy, đem ngay con gái gả cho Thái tử để xóa lòng nghi kỵ của Chu chủ.

Ít lâu sau, Chu chủ băng hà Thái tử thì nhu nhược. Dương Kiên mượn sức chú là Dương Lâm truất bỏ Thái tử đoạt lấy giang sơn nhà Chu, lên ngôi Hoàng đế, cải hiệu là Đại Tùy.

Dương Kiên tự xưng là Tùy Văn Đế, dựng con trưởng là Dương Dũng làm Thái tử, con thứ làm Tấn Vương, lại phong Quang Lâm làm Cao Sơn vương phong Cô thị làm Hoàng hậu. Tùy Văn Đế hết sức sửa sang việc triều chính, văn thần có Kỳ Đức Lân, Cao Đĩnh, Tô Úy. Võ ban có Dương Tố, Lý Quốc Thiên, Hạ Nhược Bật, Hàn Cầm Hổ, vua tôi cùng mưu tính sự thâu đoạt Nam Trần.

Đây hãy kể. Trần hậu Chúa thông minh tuyệt bậc. Chỉ vì đa tửu sắc, ngày đêm say đắm hai mỹ nhân là Trương Lệ Hoa và Khổng Quý Lân. Lại thêm hai kẻ quyền gian là Khổng Mạnh, Giang Thông luôn luôn xiểm nịnh lôi kéo Trần Hậu Chúa vào vòng đọa lạc dâm ô, tiếng xấu đồn đại đi các nước.

Nhân cơ hội đó, Tùy Đế cùng Dương Tố thương nghị, cử đại binh đánh Trần. Con thứ là Dương Quảng tức Tấn Vương dầu không quen việc chiến trận nhưng cũng cứ muốn lĩnh binh mã đánh Trần là vì thấy Thái tử Dương Dũng nhu nhược nên Quảng có ý đoạt ngôi của anh.

Quảng tâu :

- Chúa Trần hoang dâm vô đạo, không đáng giữ giang sơn, con xin đi chinh phạt.

Vừa lúc ấy có tin báo :

- La Nghệ đã đem binh đến đánh Ký Châu.

Nghe tin Tùy Đế sai Dương Lân đem binh đi cứu giữ Ký Châu.

Đoạn, lại Sai Tấn Vương làm Đô nguyên soái Dương Tố làm Phó nguyên soái, Trương Đĩnh Cao Mã làm trương sử tư mã. Cầm Hổ, Nhược Bật làm tiên phong đem hai mươi vạn binh đi đánh Trần.

Tần Vương phục mệnh, thống lĩnh tướng sĩ đi như thác.

Quan trấn ải nước Tần thấy dại binh Tùy kéo đến vội dâng sớ về triều cáo cấp. Nhưng Giang Thông, Khổng Mạnh lại dìm giấu sớ đi, vì vậy binh Tùy thừa thế kéo đến Quảng Nam, qua luôn Thái Thạch.

Tướng giữ Thái Thạch là Từ Tư Kiện thấy quân mã Tùy uy dũng quá, kinh sợ, bỏ thành mà chạy.

Khi đó Trần Hậu Chúa đang ôm gái đẹp trong tay, không biết giặc dã như sóng bể tràn ngập cả nội địa rồi. Ba ngày sau nghe tin khẩn cấp, vội giụi mắt ra triều sai hai tướng là Tiêu Mã Kha và Nhân Trung kéo quân ra chống giữ.

Hai bên dàn trận thế. Tướng Trần là Tiêu Mã Kha thúc ngụa múa đao ra đánh. Tướng Tùy là Hạ Nhược Bật đánh chừng năm mươi hiệp rồi thét to một tiếng đâm Tiêu Mã Kha nhào xuống ngựa chết ngay.

Quân Trần mất tướng chạy xô nhau mà chết. Nhân Trung biết một mình không đương nổi quân Tùy cũng bỏ chạy về xin chịu tội.

Trần Hậu Chủ không quở trách nói :

- Đất nước ta vượng khí đế vương, binh Tùy dẫu dũng mãnh cũng không làm gì ta nổi!

Rồi lại cho Nhân Trung vàng bạc để lấy lòng rồi sai Trung ra đánh nữa. Trung lo lắng lắm, bất đắc dĩ phải mở cửa thành ra quân. Gặp ngay tướng Tùy là Hàn Cầm kéo đến. Trung sợ sệt, xuống ngựa, ném giáo đầu hàng. Trung muốn lập công, hướng dẫn binh Tùy vào lấy thành.

Dân chúng thấy giặc vào nhớn nhác, kêu khóc vang trời đất. Vậy mà ngao ngán thay, Trần Hậu Chúa ngồi ôm gái đẹp mà chờ tin thắng trận! Cho tới lúc quân reo ngựa hí vang ầm lên, hôn quân mới cuống cuồng, lật bật quẳng mũ, ôm đầu chạy trốn.

Quan Bốc sạ là Trương Hiền chạy vào nói :

- Xin Chúa Công cứ đội mũ, mặc giáp ngồi yên ở trên ngai.

Trần Chủ hoảng hốt nói :

- Giặc đông như ong vỡ tổ, sao bảo ta ngồi cho chúng giết?

Nói rồi hai tay dắt hai mỹ nhân, chạy đến bên giếng Cảnh Dương.

Thốt nhiên tiếng quân reo lửa cháy rực tròi. Trần Chủ bay hồn hoảng vía dắt người yêu nhảy xuống giếng sâu. May mà tiết đông nước chỉ ngang đầu gối nên chưa đến nỗi xuống suối vàng!

Binh Tùy tìm kiếm hôn quân, không thấy, bắt cung nhân ra hỏi.

Chúng chỉ ra giếng Cảnh Dương. Quân Tùy kéo ồ ra bờ giếng nhìn xuống chỉ thấy sâu như địa ngục, chúng gọi không thấy ai thưa bèn hô nhau lấy đá ném xuống.

Khi đó, Trần mới kêu lạy, và xin dòng thừng xuống cho lên. Chúng cho thừng xuống kéo hôn quân và hai mỹ nữ lên.

Trần Chúa lên tới mặt đất, sụp xuống lạy tướng sĩ nhà Tùy.

Hàn Nhược Bật phì cười sai giam Trần Chúa vào một nơi canh giữ rất cẩn mật. Tấn vương tới sau, mừng lắm, truyền chiêu an bách tính.

Sau đó Tấn vương sai Cao Đức Hoàng đi bắt hai mỹ nhân đem vào nội cung dùng.

Cao Đĩnh nói :

- Tấn vương làm Nguyên soái đề binh đi đánh kẻ dâm ô sao bây giờ cũng lại dùng nữ sắc, e rằng lòng dân không phục, lòng quân không kính.

Đoạn có ý không muốn cho con đi bắt.

Lý Uyên nói :

Lệ Hoa, Quý Tần là loài quỷ nữ làm mê đắm vua Trần. Nước mất, ngai đổ, thành tan vì hai đứa ấy, ta nên giết ngay đi.

Cao Đĩnh khen phải. Con là Cao Đức Hoàng nói :

- Tấn vương đang cầm binh mã, ta chống cự sẽ bất lợi cho ta chăng?

Lý Uyên đã quyết, bèn truyền quân sĩ giải hai người con gái đến, chém ngay.

Tấn vương cự Cao Đức Hoàng :

- Sao cha con ngươi để cho Lý Uyên giết mỹ nhân?

Rồi từ đó mang hiềm thù đối với Lý Uyên.

Đây cần nói qua về Lý Uyên. Khởi dầu, Uyên dấy binh tại Thái Nguyên, tự xưng là Đường Châu. Khi ra trận, bắn bảy mươi hai phát tên chết bảy mươi hai tướng, tiếng tăm vang dậy cả bốn phương.

Sau khi mất mỹ nhân Tấn vương giận Uyên lắm...

Uyên truyền chém Khổng Mạnh cho yên lòng dân đoạn kéo binh về triều.

Thấy Tấn vương toàn thắng ca khúc khải hoàn. Tùy đế cả mừng, phong cho Tấn vương làm Thái úy, phong Dương Tố làm Việt Quốc công, con là Dương Cẩm làm khai phong. Hà Nhược Bật làm Tống công, Cao Đĩnh làm Tề công, Lý Uyên làm Đường công.

Uy quyền của Tấn vương từ đó mỗi ngày một lớn. Dưới trướng, mưu sĩ kéo nhau đến rất nhiều. Trong số đó, Tấn vương trọng dụng nhất một người là Vũ Văn Thuật, tự là Tiêu Trần Bình. Tấn vương đã nhắc Thuật lên làm thứ sử, cạnh Thuật lại có Trương Hành để ngày đêm bàn mưu tính kế. Sau này con Thuật là Hóa Cập, sẽ cướp ngôi nhà Tùy, xưng là Hứa vương.

Tấn vương coi mấy kẻ đó là tâm phúc để cùng mưu đoạt lấy Đông Cung, Thuật bàn :

- Nếu Chúa công muốn mưu việc ấy, tất phải theo ba kế hoạch ngay mới xong.

Vương vội hỏi :

- Kế thế nào, túc hạ nói ta nghe.

Thuật ung dung nói :

- Điếu thứ nhất: Hoàng hậu không yêu gì Đông Cung. Chúa công nên đùng kế khổ nhục, khi làm cho hoàng hậu động lòng thương xót đến Đông Cung, khi chọc tức cho hoàng hậu giết Đông Cung.

Điều thứ hai: nên cần một đại thần thân tín nói cho thuận tai hoàng thượng, thỉnh thoảng lại gièm pha thêm vào, trong ngoài cùng đánh ập lại, muôn phần phải thắng.

Điếu thứ ba: tự nhiên truất bỏ Đông Cung là việc lớn. Có tội mà bỏ mới khỏi nghịch lòng dân, Chúa công sẽ mua chuộc một kẻ thân cận của Đông Cung, xui nó đem chuyện phao ra ngoài mà chỉ ra chứng cớ đương nhiên, khiến Đông Cung không cãi được. Làm được ba điều ấy, lo gì kế không thành? Nhưng Chúa công chớ tiếc bạc vàng mới xong.

Tấn vương khen kế hay, hứa sẽ cho Thuật cùng hưởng phú quý.

Vương dùng ngay vàng bạc trong triều mua lũ tham quan, trong điện mua lũ hoạn quan cung nữ. Duy có Đường công, tỏ ra không phục, nói :

- Thờ chúa trị dân phải nhìn vào việc công chớ không nhận sự tư tình.

Rồi chối từ không lấy lễ vật của Tấn vương.

Lại có quan đại lý tư khanh, tên gọi là Dương Ước chơi thân với Vũ Văn Thuật, Thuật đến thăm Uớc dâng lễ vật của Tấn vương. Ước ngắm nhìn lễ vật hỏi :

- Lễ vật của ai, đại huynh dạy thật cho. Tiểu đệ chưa từng thấy báu vật thế này bao giờ.

Thuật nói :

- Đó là của Tấn vương đưa tặng đại huynh, để phiền nhờ một việc mong đại huynh nhận cho.

Ước nói :

- Xin cho biết chuyện, rồi bái lĩnh sau.

Thuật nói :

- Đại huynh có biết mình đang ngồi trên lửa cháy không?

Ước giật mình. Thuật nghiêm mặt nói :

- Đại huynh phải biết rằng Đông Cung không bằng lòng lệnh huynh đã lâu. Mai kia Tấn vương lên ngôi Hoàng đế, liệu đại huynh có yên không? Hiện giờ Đông Cung ăn chơi phóng túng, hoàng thượng có lòng muốn truất bỏ. Nay nhờ đại huynh gièm hoàng thượng một câu, khi Đông Cung bị bỏ, Tấn vương được dựng lên, ơn ấy Tấn vương sẽ ghi lòng tạc dạ, anh em ta sẽ được giàu sang chẳng diễm phúc lắm sao!

Ước nói :

- Đại huynh nói phải. Nhưng xin cho một ngày để tôi bàn soạn với anh tôi.

Từ cáo biệt ra về, hôm sau nữa Dương Ước đến thăm anh là Dương Tố, làm ra phiền não, Tố kinh ngạc hỏi tại sao? Ước nói :

- Mấy bữa nay, tên hầu Đông Cung là Tô Hiến bảo rằng: Thái tử có ý giận huynh trưởng lắm. Thái tử có nói ra miệng sẽ tìm cách giết anh.

Tôi lo cho phận anh mà mấy đêm nay bỏ ăn, mất ngủ!

Tố cười nhạt nói :

- Ta có làm gì cho Đông Cung mếch lòng đâu. Ta không sợ, kẻ xấu miệng gièm pha đó thôi!

Uớc nói :

- Đó là Sự thật. Anh ngồi nhà không nghe thiên hạ đã bàn ran thành. Một mai, Thái tử lên ngôi, tôi lo anh không có chỗ mà đội mũ.

Tố nói :

- Ý em muốn ta từ bỏ đi lánh nạn, hay là hùa theo hắn?

Ước cười :

- Bỏ chức mà đi là hèn. Theo đứa trẻ con ấy là bất trí. Chi bằng nhổ ngay cái gai ấy đi cho khỏi chướng. Anh nghĩ thế nào?

Tố vỗ tay cười mà rằng :

- Em nghĩ ra kế ấy, may cho ta lắm.

Rồi lại nghiêm mặt nói :

- Việc ấy phải làm ngay, nếu chậm trễ Thái tử lên ngôi vua, vạ sẽ đến như lửa cháy cả bốn bể, chạy đi dâu cho thoát?

Tố gật đầu khen phải.

Từ đó, ngày ngày Dương Tố cố ý theo sát bên Tùy đế, sự tốt của Tấn vương, sự xấu của Đông Cung thái tử. Tùy đế tin yêu Dương Tố, không ngờ một câu nào. Hoàng hậu cho Tấn vương là hiếu lễ, đem lòng ghét Đông Cung. Vì vậy Đông Cung như ngồi trên gai lửa.

Thuật lại dò biết Thái tử có một tên hầu cận rất thân tín, tên gọi là Cơ Thích, cùng Đoàn Đạt chơi thân với nhau. Thuật bèn dùng vàng nhờ Đoàn Đạt mua chuộc lòng Cơ Thích để rình tội lỗi của Đông Cung. Do đấy mà Thái tử phút chốc trở nên cái bia chịu đạn tên bắn mãi vào không còn cách nào che đỡ nữa.

Nhắc lại chuyện Cô Sơn vương là Dương Lâm đem năm vạn quân thẳng tới Ký Châu đánh La Nghệ. La Nghệ, hiệu Liêm An là con Doãn Cương Bắc Tề. Doãn Cương phong cho Nghệ trấn giữ Yên Sơn. La Doãn Cương mất sớm, La Nghệ hãy còn ít tuổi nối chức Yên công. Vợ Nghệ là Dậu thị, con gái quan thân quân tên gọi Tần Húc. Vợ chồng lấy nhau đã hai mươi năm mà chưa con.

Vợ chồng La nghệ được tin Tần Húc bị Dương Lâm vây khốn mà tử trận thì ngày đêm than khóc! Sau đó lại nghe tin Dương Kiên cướp ngôi giết chúa Trần. La Nghệ liền cất đại binh trả oán.

Mười vạn quân của Nghệ nến vào Hà Bắc và Ký Châu. Tùy Đế sai Dương Lâm cử năm vạn quân mã chống đánh.

Đại tướng tiên phong của Dương Lâm là Từ Thái Bảo Trương Khai và Thái Thất Bảo Kỷ Tăng, được tin báo quân La Nghệ chặn đường Trương Khai xông ra, thấy La Nghệ mặt tía, râu dài, mắt sáng, biết là La Nghệ, bèn múa sà mâu đánh. Nghệ múa thương đối địch, chừng mười hiệp Nghệ rút chiếc hoa giản đánh trúng lưng Trương Khai. Khai hộc máu tươi nằm rạp trên yên mà chết.

Kỷ Tăng thúc ngựa cản đánh La Nghệ để Trương Khai chạy. La nghệ chờ Tăng sát tới bèn gò chặt cương thét to một tiếng tức thì ngựa quỳ hai gối trước. Tăng không biết là mắc kế liền giơ búa chém, Nghệ xốc mũi thương lên xuyên qua cổ họng Tăng. Xác Tăng nhào xuống đất máu tuôn lênh láng. Đó là ngón độc thủ của dòng danh tướng họ La, tên gọi là "Hồi mã triết độc thương".

La Nghệ đắc thắng quay đuổi giết quân Tùy. Vừa khi đó quân mã Dương Lâm tới, thấy Trương Khai trọng thương, Kỷ Tăng tử trận, Lâm nổi giận, hạ trại dưới chân núi Cửu Long.

Sớm hôm sau Lâm sai dựng cờ súy, vác đại đao ra trận.

La Nghệ thấy Dương Lâm đường đường một trang dũng tướng, bèn nói :

- Dương Lâm kia, mày diệt Bắc Tề, cướp ngôi nhà Chu lòng ác như lang sói ta quyết trừ mày mới hả căm hờn!

Lâm đáp :

- Nhà Chu đã mạt, nhà Trần đã suy, nay bằng trời tựa Đại Tùy, nên chỉ một trận quét Bắc Tề, thâu đoạt cả nhà Trần, trời không cho, sao được thế?! Ngày nay cho dẫu tướng quân tài dũng cũng khó bề bại Tùy mà lấy lại Tề, Trần. Chi bằng cắp giáo theo Đại Tùy, lão phu sẽ tâu với Tùy đế để tướng quân trấn thủ Yên sơn nối đời hưởng quyền vị và phú quý, tướng quân nghĩ thế nào?

La Nghệ suy nghĩ rồi đáp :

- Muốn nghệ này cắp giáo theo Tùy, phải theo ba điều ước của ta.

Lâm nói :

- Xin cho biết.

Nghệ rằng :

- Ta dẫu hàng Tùy, nhưng quân mã của ta vẫn do ta sai khiến và Yên Sơn kia phải do ta giữ mãi mãi. Đó là điều thứ nhất.

Ta dẫu hàng Tùy, nhưng không phải vào chầu, đó là điều thứ hai.

Ta dẫu hàng Tùy nhưng quyền sinh sát trong ba quân đều do ta quyết định. Đó là điều thứ ba.

Lâm cười nói :

- Ba diều ấy rất dễ theo. Tướng quân cứ tin ở Lâm này!

Rồi đó truyền lui binh mười dặm. Thấy Lâm thành thực, Nghệ cũng lui quân, hôm sau hẹn cùng nhau gặp gỡ.

La Nghệ cùng Dương Lâm sóng ngựa vào thành Yên Sơn. Đoạn Lâm dâng sớ về Tràng An xin cho La Nghệ trấn thủ Yên Sơn.

Ba ngày sau, thánh chỉ ban cho La Nghệ trấn thủ Yên Sơn đúng như sớ tấu của Dương Lâm, La nghệ sai đặt tiệc thết sứ thần là Kiến Đức và Dương Lâm. Sau đó Nghệ cùng Lâm cáo biệt. Dương Lâm và Kiến Đức kéo quân về triều. Nửa đường, nghe có giặc bể ở Đăng Châu làm loạn lên bờ cướp phá dân cư.

Lâm nổi giận bảo Kiến Đức về triều trước dể mình đem quân đánh Đăng Châu. Nhưng Lâm chưa tới giặc bể đã kinh sợ mà chạy hết. Lâm lại đi thẳng về triều phục mệnh.

Lại nói Tấn vương thấy mọi người đều nhận lễ của mình để cùng mưu hại Đông Cung, mà duy có Lý Uyên không chịu nhận thì có ý thù, tự hẹn, lên ngôi đế thế nào cũng giết Uyên.

Tùy Đế thấy nhiều người nói xấu Đông Cung đã năm phần tin, sau lại nghe Hoàng hậu cũng ghét Đông Cung nốt, Tùy Đế lại thêm mười phần tin hẳn rằng Đông Cung là du đãng chơi bời.

Một hôm, hỏi con nữ tỳ của Đông Cung tên là Cơ Thích. Nó đã được ăn vàng bạc của Tấn vương, bèn nói :

- Bấy nay Thái tử hay đi hỏi thầy tướng số. Thầy tướng số bảo Thánh thượng còn sống lâu lắm, Thái tử xem chừng nóng muốn lên ngôi nên đã giấu sẵn dưới trướng nhiều quân mã ngày đêm luyện tập và tụ họp cùng mưu sĩ mong thoán nghịch.

Tùy Đế giật mình, sai triệu Thái tử vào. Rồi truất Thái tử làm thường dân đuổi ra ngoài thành, lập Tấn vương làm Đông Cung. Võ Văn Thuật làm hộ vệ Đông Cung. Rồi lại nghe Dương Tố gièm pha mà chém hai kẻ hiền là Đường Linh Thần và Trịnh Văn Thắng.

Triều thần không dám hé răng. Duy có đại phu là Viên Mâu bước ra tâu :

- Thánh tượng bỗng dưng mà dứt tình máu mủ, bỏ trưởng lập thứ e không thuận vòi lòng trời. Lấy cớ gì mà buộc Thái tử sinh lòng thoán nghịch, đó chỉ là Dương Tố, Cơ Thích gièm pha. Nay chém nhũng kẻ ăn nói dông dài ấy cho lòng dân khỏi bất bình, thánh tượng xét cho.

Dương Hiếu Chính cũng nói :

- Việc dựng Thái tử là việc lớn, việc bỏ Thái tử cũng không dễ như trò trẻ con chơi, xin bệ hạ thương lấy máu mủ của mình, kẻo thiên hạ chê cười lắm.

Tùy Đế cả giận, truyền tống giam Viên Mân, Hiếu Chính.

Lý Uyên ở triều về nhà buồn lắm. Nửa đêm đốt nến viết biểu xin tha cho Thái tử.

Tuỳ đế xem biểu hơi động lòng thương bèn cấp cho Thái tử lương lộc và gọi cho về ở nơi nội uyển. Tấn vương biết vậy càng căm tức Lý Uyên, triệu ngay Văn Thuật, Trương Hành vào bàn kế giết Uyên cho kỳ được.

Trương Hành nói :

- Giết Uyên thì dễ!

Tấn vương vội hỏi :

- Làm cách nào giết được?

Hành nói :

- Hoàng thượng có tính đa nghi. Năm xưa nằm chiêm bao thấy nước lụt ngập kinh thành hoàng thượng lo sợ lắm, sau biết con gái Thành Công là Ly Hồn, tên hiệu Hồng Nhi, hoàng thượng ngờ tên nàng hợp vào giấc mơ hồng thủy bắt thắt cổ chết. Nay ta gièm hoàng thượng chữ Hồng kìa cùng với chư Uyên này cùng thuộc về nạn nước. Hoàng thượng tất giết Uyên.

Tấn vương khen kế hay. Trương Hành bèn đi đặt bài hát, dạy trẻ hát vang cả trong thành, ngoài chợ. Chúng hát rằng :

Nhật nguyệt chiêu long chu Hoài hoàng thuỷ nghịch lưu Tảo Tân dương hoa lạc Thiên tử quý vô đầu.

Có nghĩa là mặt trời mặt trăng thiếu rõi vào thuyền ngự, nước sông Hoài Hoàng chảy ngược dòng, hoa dương rụng tơi bời chỉ sự bỏ vua nhà Tùy đi (vua nhà Tùy họ Dương). Thiên tử quý vô đầu tức là muốn nói Thiên tử khác sẽ là nói họ Lý (chữ Quý không đầy là chữ Lý).

Bài hát truyền đi khắp chợ khắp thành, vài hôm bay vào trong cung cấm Tấn vương vờ làm ra sợ hãi vào đọc bài hát đó cho Tùy Đế và hoàng hậu nghe. Lại vờ xin ngăn cấm đi kẻo dân tình xôn xao bàn tán.

Tùy Đế sinh lo sợ, nhưng trong lòng chỉ nghi bọn Lý Hồn chứ không ngờ đến Lý Uyên. Rồi không cần ai can gián, hạ chỉ bắt ngay cả năm mươi hai người nhà Lý Hồn đem ra chợ chém.

Sau đó bọn Trương Hành lại xiểm vua cho chém hết người nào họ Lý cho tuyệt hoạ. Thừa tướng Cao Tần liền tâu.

- Nếu vây thì vận mệnh nhà Tùy cũng khó vững. Nay tự nhiên kẻ gian nịnh mọc lên như nấm, mà chúa thượng thì sinh mê hoặc, đa sát, thần lo sợ cho giang sơn này sắp ngả nghiêng. Nếu chúa thượng ghét người người họ Lý thì không cho họ làm quan nữa, để sống cho về là hơn.

Dương Tố, kẻ có bạn thân ở trong triều là Bồ Sơn công Lý Mật. Bởi vậy Tố bênh Mật mà tán tụng ý kiến đó, vua Tuỳ cũng nghe theo. Ngay đêm hôm ấy Lý Mật bỏ quan trốn đi.

Họ Lý làm quan đều bị đuổi về. Lý Uyên cũng dâng sớ xin về Thái Nguyên. Tấn vương chưa hả giận nói với Trương Hành.

- Mưu nhà ngươi giỏi lắm. Nhưng chưa trừ hẳn Lý Uyên ta còn chưa nguôi lòng.

Văn Thuật xin dâng kế: Điện hạ sai con tôi là Hóa Cập đem quân tâm phúc ra ngoài thành hai mươi dặm phục sẵn ở chân núi Lâm Đồng giả làm quân cường đạo giết cha con hắn đi là xong.

Vương cười khen diệu kế, tự rót rượu thưởng cho Thuật.

Thuật nói :

- Nếu cho việc kết quả mau, điện hạ cũng thân chinh đi với con hạ thần dể cùng động thủ thì càng hay hơn nữa.

Tấn vương ưng thuận.

Khi đi Lý Uyên đã sai gia nhân thu xếp hành lý, rồi cùng em họ là Lý Đạo Tôn, con lớn là Lý Kiến Thành, đem năm mươi gia tướng cùng phu nhân và tiểu thư khởi hành về Thái Nguyên.

Phu nhân đã có mang, nhưng gặp cơn nguy cấp cũng nhắm mắt đi theo chồng lánh nạn.

Đây thuật chuyện một tay hảo hán đất Sơn Đông huyện Lịch Thành, đó là Tần Thúc Bảo. Bảo người cao, sức mạnh như hùm beo mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quanh năm thích kết nạp với hào kiệt bốn phương, người ta gọi là Tần Tiểu Mạnh Thường, ngày ngày Bảo luyện văn tập võ chỉ mong làm đại sự. Bảo quen dùng chiếc đồng giản nặng ba trăm cân.

Vợ Bảo là Trương thị, người rất hiền. Thúc Bảo có người bạn rất thân, cũng là tay hào kiệt, tức là quan Bộ khoái đô đầu ở phủ Tế Nam tên là Phàn Hổ, hiệu Kiến Uy sức mạnh mang nổi năm trăm cân. Hai người đã cùng uống máu kết nghĩa, coi nhau như một thịt.

Lại thêm người nưa cũng là tay hảo hán, võ nghệ phi thường, tính tình cương trực, tướng mạo đường đường, đó là Vương Dũng, tên chữ là Bá Dương.

Ngoài hai người ấy ra, về sau này Tần Thúc Bảo lại mới thân với hai tay nghĩa sĩ nữa đó là Giả Nhuận Phủ và Liễu Châu Thần, hai người không những võ nghệ cao cường lại có tính như Thúc Bảo, thích kết nạp với người tài trong thiên hạ. Chúng kính phục Thúc Bảo vô cùng.

Lúc đó, mất mùa giặc nổi như ong. Một hôm Thúc Bảo đang múa võ trong vườn, Phàn Hổ đến nói rằng :

- Hiện nay trong nước không yên, quan thứ sử có treo bảng cần dũng sĩ cho làm Bộ khoái đi tuần coi cả phủ. Tôi đã tán tụng nhiều về tài vũ dũng của đại ca. Quan phủ hâm mộ lắm nhờ tiểu đệ đến triệu đại ca vào nhận chức, đại ca nghĩ thế nào?

Thúc Bảo cười nhạt nói :

- Ta tự xét cũng không đến nỗi yếu hèn. Họ Tần này dòng dõi tướng môn, ta chỉ mong một ngày phất cờ soái, chém đầu giặc, phá thành san núi, tỏ cái trí dũng của trượng phu. Lẽ nào lại an phận làm thằng bộ khoái, đêm đêm cắp gậy đi tuần cho hắn ngủ yên, bắt được giặc hắn nhận công, bắt được đạo tặc hắn tự do phóng xá để lấy vàng bỏ túi, mình rỏ mồ hôi mà làm cho hắn giàu sang, được công với quan thầy thành ra hữu công vô lao, làm thằng tiểu tốt! Chỉ có thằng tầm thường hạ tiện mới làm như thế, ta làm sao được!

Phàn Hổ đứng dậy ra về.

Hôm sau quan phủ lại hỏi việc mời Thúc Bảo ra sao.

Hổ đã trót khoe tài Thúc Bảo với quan, đành phải đi lần nữa. Tới nơi Thúc Bảo đi vắng chỉ có Ninh phu nhân. Hổ vào làm lễ, kể việc Thúc Bảo từ chối không chịu đi làm việc quan cho phu nhân nghe. Phu nhân nói :

- Con ta ương gàn lắm, để rồi ta bảo nó.

Vừa lúc ấy, Thúc Bảo về, nói lớn từ ngoài cửa :

- Mẹ chớ nghe lòi Phàn Hổ. Con dẫu chết cũng không làm việc ấy.

Bà mẹ nói :

- Muốn làm lớn phải làm nhỏ đã, xưa kia ông nội con xuất thân là một tên lính giữ cửa thành sau rồi làm đại nguyên nhung. Con phải nghe lòi Phàn đại ca, cần lấy đường xuất thân đã, con không được cố chấp mà làm buồn lòng mẹ đó!

Thúc Bảo vốn hiếu thuận đành chịu vâng lời.

Hôm sau Thúc Bảo cùng Phàn Hổ vào phủ chào quan Thứ sử Tế Nam.

Thứ sử hỏi :

- Tráng sĩ là Tần Quỳnh đó chăng Bảo nói :

- Chính thị là tôi đó!

Thứ sử nói :

- Đã từ lâu ta nghe nói đến Tần Quỳnh là một tay hào kiệt, vẫn có lòng yêu, nay xin mời giữ chức đô đầu vì nhân dân mà cản giặc giữ sự an toàn cho người hèn yếu, đó là cái việc của nam nhi.

Thúc Bảo vái lui ra. Phàn Hổ rủ Thúc Bảo đi kiếm chiếc ngựa tốt.

Bèn cùng nhau đến nhà Nhuận Phủ.

Nhuận Phủ hớn hở vái Bảo mà rằng :

- Nghe tin mừng em chưa có lễ vật, đại huynh thứ lỗi cho.

Bảo cười :

- Cái chức mọn ấy, sao đã vội mừng. Chẳng qua ta vâng lời mẹ dạy đó thôi. Nay cần chiếc ngựa tốt, bán cho ta.

Nhuận Phủ chỉ bãi cỏ bên thang có chừng bốn trăm con ngựa mới buôn về nói :

- Tùy hai đại huynh chọn lọc cho thích ý. Ngựa Giang Đông, chẳng con nào bỏ đâu.

Phàn Hổ và Thúc Bảo bước tới ngắm từng con. Qua hết bốn trăm rồi mà Bảo cứ lắc đầu. Bỗng có tiếng gầm to như sư tử rống rừng xanh. Bảo trừng mắt nhìn kỹ, thấy đó là chiếc ngựa sắc vàng, đứng cao tám thước lông dài xoắn như mây nhưng mà gầy trơ xương. Bảo hỏi :

- Có cho nó ăn tử tế không mà gầy thế?

Nhuận Phủ nói :

- Nguyên có gã lái buôn ở Quán Tây mới đến dùng nó để tải đồ hàng. Gã không dùng nữa đệ bỏ ra ba mươi lạng mua, vỗ cho ăn mãi mà không thấy béo.

Thúc Bảo bước đến gần. Lạ thay con ngựa đó bỗng ngẩng đầu, mở to mắt nhìn Bảo trân trân, rồi mắt đỏ hoe như gặp chủ cũ. Bảo xem chân, xét khoáy, biết ngựa hay, bảo Nhuận Phủ rằng :

- Để tôi mua con ngựa gầy này.

Hổ bật cười to :

- Kén ngựa đi đánh giặc, sao lại dùng ngựa ốm?

Bảo mỉm cười không nói. Nhuận Phủ nói :

- Tần đại ca thích tất phải là tuấn mã, đệ xin kính biếu, ta chớ nên bàn tán!

Đoạn sai gia nhân dọn rượu ngoài vườn hoa, dưới gốc cây hòe đại.

Ba người cùng say. Đến lúc mặt trời lặn, Thúc Bảo trả tiền ngựa, Nhuận Phủ giãy nảy không chịu nhận, nói :

- Vật mọn đáng giá là bao. Đệ chỉ cầu huynh một ngày kia khi chiếc ngựa này như thiên thần dưới cờ Đại súy, ngồi trên ghế võ ban tột bậc giữa triều đình, thế là cái thằng lái ngựa này được thỏa tấm lòng rồi!

Bảo cười to :

- Ta cũng mong được thế, cho thỏa chí bình sinh.

Rồi, dắt ngựa lên đường. Về nuôi vỗ chừng nửa tháng, con ngựa ấy đã béo tốt, cao lớn, lông vàng óng như mật ong và lông soáy như mây nổi.

Ai cũng khen Bảo là dòng nhà tướng, sành ngựa lắm.

Từ ngày làm đô đầu, hễ hôm nào Thúc Bảo cầm đồng giản, nhảy lên yên đi tuần tiễu là đạo tặc, giặc giã không dám thò đầu ra. Sau chúng rủ nhau đi hết. Nhiều tráng sĩ muốn kết thân với Bảo. Suốt Sơn Đông rộng lớn, tiếng tăm Tiểu Mạnh Thường Thúc Bảo vang lừng.

Một hôm thứ sử xét xong hai vụ án sát nhân, cần giải phạm nhân phát vãng ở phủ Lạc Châu và phủ Bình Dương, nhưng sợ dọc đường tù trốn mất nên sai Thúc Bảo và Phàn Hổ làm việc ấy.

Phàn Hổ đưa tội nhân đi Bình Dương. Thúc Bảo đi Lạc Châu. Bảo lạy biệt mẹ, đeo hành lý lên vai, giải tội nhân ra đi. Khi đó vào độ thu tàn sang đông. Mây u ám, gió lạnh buốt, lá rừng lác đác trên đường thiên lý. Bảo và Hổ cùng đi một đường, chưa đến chỗ chia tay.

Một bữa kia đến một trái núi cheo leo tên gọi Lâm Đồng Sơn Trên núi có ngôi đền thờ Ngũ tướng quốc. Thúc Bảo ngậm ngùi nói với Phàn Hổ rằng :

- Ngũ Tử Tư xưa khi ở Lâm Đồng này, còn làm người dân áo vải sức mang nổi đỉnh ngàn cân. Sau làm tướng, áp chế cả chư hầu. Nay tiện qua dây ta muốn lên núi thắp hương lễ người xưa. Hiền đệ hãy đưa tội nhân ra ngoài ải Lâm Đồng chờ ta.

Phàn Hổ vâng lời giục tội nhân ra ngoài ải.

Hồi 2 Núi Lâm Đồng, Tần Quỳnh cứu giá Trang Nhị Hiền, Hùng Tín nổi danh

Thúc Bảo theo bực đá thấp cao, dắt ngựa lên đỉnh núi, vào đền, thấy tường xiêu, mái sụp hương khói vắng tanh. Cảm động, Thúc Bảo đặt gói hành lý một bên, sụp lạy.

Rồi đứng lên nhìn qua bức rèm cũ nát: Pho tượng Ngũ Tử Tư lẫm liêt như đang sống, một đao một ngựa phá thành Ngô. Tự nhiên, Bảo thấy cơn gió lạnh ùa vào rồi mệt mỏi lạ thường, bèn ngồi xuống tựa vào bệ tường ngủ lúc nào không biết.

Đây thuật tiếp chuyện Lý Uyên từ hôm ra đi nay đã năm ngày giờ đã tới Lâm Đồng sơn, thấy vợ con mỏi mệt, Uyên bảo mọi người dừng lại nghỉ ven chân núi.

Vừa toan giở lương khô ra ăn, bỗng nghe tiếng hò reo ở phía trước, ở sau lưng. Rồi một bọn cường đạo bôi nhọ mặt, kẻ cầm đao kẻ cầm mác xông ra. Lý Uyên vớ thanh đại đao bảo Lý Đạo Tôn và con là Kiến Thành đứng bảo vệ gia quyến rồi quát lớn :

- Chúng bây không biết họ Lý ở Lũng Tây à? Sao dám ngăn cản đương đi.

Quát xong, giặc ở khe núi lại kéo thêm ra vây kín cả hai đầu. Uyên cả giận múa đao cùng với bọn gia tướng chém giết quân giặc cỏ. Chúng bị tử thương nằm ngổn ngang nhưng không chịu chạy.

Trong khe núi Tấn vương và cha con Võ Văn Thuật thấy Uyên khỏe như hùm, khiến quân sĩ của mình kinh sợ chẳng dám đến gần.

Tấn vương nghĩ rằng đã cưỡi hổ không thể xuống bèn lấy tấm lụa xanh trùm lên đầu lại cắt râu đi, bôi bùn vào mặt cầm đao xông ra đáng Lý Uyên.

Thấy vậy cha con Văn Thuật cũng bôi nho mặt, từ phía sau ập tới, vây gia quyến Lý Uyên vô cùng nguy cấp.

Giữa khi đó, Tần Thúc Bảo đang ngồi trong miếu ngủ, chợt mơ màng thấy hiện ra một con rồng vàng đang giãy giụa, lượn đi lượn lại như có sự gì nguy biến. Và ở phương đông, mây đỏ như máu, có một loài hình thù hung dữ gớm ghê gầm gừ cố nuốt xé rồng vàng. Rồng chống cự, sau lâu dần đuối sức.

Đang lúc ấy có tiếng người gọi văng vẳng bên tai Thúc Bảo :

- Không đi cứu giá, còn đợi gì nữa đó, Tần Quỳnh?

Bảo ngẩng lên thấy ông nội lờ mờ trong sương khói. Đoạn một con kỳ lân phục ở bên mình, đuôi ve vẩy. Thúc Bảo nhảy lên lưng kỳ lân cầm đồng giản đánh quái vật kia.

Quái vật lăn ra chết, vây đỏ biến ra vàng lóng lánh. Rồng vàng lượn múa trước mặt Thúc Bảo rồi biến vào trong mây. Thúc Bảo giật mình tỉnh dậy, té ra giấc mộng.

Ngoài cửa đền, ngựa long câu rít lên ba tiếng vang rừng chuyển núi.

Thúc Bảo kinh lạ đứng lên ra vỗ vào đầu ngựa nói :

- Có việc gì mà ngươi gầm hí đó?

Long câu lại nhảy chồm lên, Bảo nói :

- Nếu có triệu chứng khác thường, ngươi gõ móng ba cái cho ta biết.

Long câu co chân gõ liền ba cái, rồi lại chồm lên, Thúc Bảo nhảy phăng lên yên nói?

- Nếu vậy ngươi cứ đem ta đi xem nào!

Tức thì tuấn mã lao xuống núi như bay. Thúc Bảo bám chặt vào bờm ngựa, hai vế kẹp chặt lấy bụng long câu, nghe tiếng gió vù vù bên tai như ban nãy cưỡi kỳ lân đành ác thú, cứu rồng vàng trong mộng.

Xuống hết núi, thấy bụi cát bay mù, quân reo vang động. Thúc Bảo dừng ngựa thấy hai ba tướng kẻ thì trùm lụa xanh kín mặt kẻ thì bôi mặt mũi nhọ nhem, rõ là bọn Đại vương với lâu la, đang vây đánh một người mắt sáng, râu ba chòm, tướng mạo đường đường, bên cạnh lại có một vị phu nhân một tiểu thư và mấy đứa trẻ con và hành lý.

Bảo nổi bất bình thét vang như sấm sét :

- Quân cường tặc không được hại người lương thiện, có ta đây!

Bọn Tấn vương, Văn Thuật đang vây khốn Lý Uyên, nghe tiếng quát vang giật nảy mình nhìn lên, thấy có một người thì chúng không lo sợ nữa, Thúc Bảo phi ngựa xuống múa đồng giản đánh chết một lúc sáu bảy tên lâu la. Vòng vây rẽ ra, thiếu niên dũng tướng múa đồng giản lóe hào quang đánh chết luồn hơn mười tên nữa. Tấn vương kinh sợ toan lùi chạy. Thúc Bảo phóng đồng giản đánh tới suýt trúng đầu. Tấn vương số còn được sống nên con ngựa chồm lên, mũi đồng giản chỉ đánh trúng vai, khiến Tấn vương kêu một tiếng mặt tái không còn hột máu phi ngựa chạy. Võ Văn Thuật cũng chạy theo gìn giữ Tấn vương. Lũ quân ôm đầu xô nhau lủi vào rừng núi.

Thúc Bảo cúi xuống nhấc bổng một tên lên yên ngựa gõ thanh giản vào đầu quát :

- Chúng mày là giặc xứ nào, dám ra đây ăn cướp?

Tên ấy run sợ nới :

- Đông Cung thái tử mới được dựng lên vốn có hiềm thù cũ với Đường công Lý Uyên cho nên giả làm quân lạc thảo chặn đường giết chết Lý Uyên đi. Ngươi vừa mới bị đánh trúng vai chính là Đông Cung thái tử tức Tấn vương trước đó!

Thúc Bảo toát mồ hôi ném tên ấy xuống đất cho chạy trốn. Bảo nghĩ :

- Đông Cung thái tử hiềm ghét Đường công Lý Uyên, có can chi đến ta mà ta đã đánh Đông Cung bị trọng thương. Ta phải trốn đi kẻo tai vạ lớn.

Đoạn phi ngựa chạy như bay. Lý Uyên cũng phóng ngựa đuổi theo để tạ ơn cứu nạn. Thúc Bảo cứ phi ngựa như bay, Uyên cố theo nói to lên rằng :

- Tráng sĩ hãy đứng lại cho tôi được vái chào.

Bảo không ngoảnh lại. Uyên càng gọi lớn. Chừng hơn mười dặm, Bảo thấy Uyên cố công theo kỳ được, bèn ngoảnh lại nói :

- Tôi là Tần Quỳnh đây, xin để tôi đi có việc cần, đừng đuổi nữa.

Rồi lại thúc ngụa đi như gió qua bao nhiêu rừng núi.

Uyên thấy ngựa mệt mỏi, đành quay lại, bên tai còn văng vẳng cái tên Tần Quỳnh.

Đang đi, lại thấy một kỵ sĩ phi ngựa tới. Uyên kinh ngạc tưởng là giặc kia quay lại, bèn giương cung bắn. Người trên ngựa ngã nhào xuống đất. Lại thấy một toán quân kéo đến bụi bay mù, nhìn gần té ra bọn gia tướng của mình.

Uyên nói với Đạo Tôn :

- Nhờ có tráng sĩ đó giải nguy, cả nhà ta mới vẹn toàn. Ơn đó ta phải ghi lòng khắc cốt.

Chợt có kẻ nông phu ở trong thôn trang ra khóc nói :

- Gia chủ tôi có tội gì mà ông bắn chết thế kia?

Lý Uyên nói :

- Nào ta có bắn chết ai đâu?

Bọn nông phu chỉ tay vào bãi cỏ :

- Mũi tên ông vừa trúng vào cổ họng gia chủ tôi vừa đi mua hàng cưỡi ngựa đến đây. Sao ông còn cãi!?

Uyên sực nhớ là khi nãy mình vừa bắn một mũi tên, vì nghi kẻ cưỡi ngựa là giặc, bèn nói :

- Ta ngộ quân cường đạo nên trót lỡ tay nay xin đưa trăm lạng bạc mà chôn cất. Chẳng hay gia chủ các ngươi tên họ là chi?

Chúng nói :

- Chủ nhân chúng tôi là Đơn Thông ở Lạc Châu đi Tràng An buôn hàng hóa trở về bị ông bắn chết. Chúng tôi không cần lấy tiền bạc, mà chỉ cần đi báo cho người chủ thứ hai nữa là ông Đơn Hùng Tín, ông ấy sẽ dùng vũ lực mà nói chuyện với các ông.

Rồi chúng quay đi mua quan tài mà khâm liệm cho kẻ chết. Lý Uyên lấy làm ăn năn lắm. Quay lại xe thấy vợ kêu đau bụng, tìm nhà trọ để ở thì chung quanh chẳng thấy nhà ai, nhưng có một ngôi chùa ở bên đường.

Đến xin ngủ trọ, hòa thượng là Ngũ Không sai tiểu tăng ra mời đón vào, phương trượng đoạn sai bưng cơm chay khoản đãi.

Khi mọi người đã an nghỉ, Lý Uyên ngồi khêu bấc đèn đọc binh thư.

Bỗng thấy gió lộng ngoài sân trăng thơm ngào ngạt, lưng không tiếng nhạc héo hon theo khúc nghê thường tiên nữ, Uyên kinh ngạc, toan đứng dậy ra xem thì có tên hầu ra bẩm :

- Phu nhân ở trong ni phòng vừa sinh thế tử.

Uyên mừng rỡ, trong lúc ấy tiếng nhạc nghê thường đã xa xa lặng ở trên không.

Trời sáng, Uyên xá các sư mà rằng :

- Tiện thê sinh nở làm uế tạp cửa từ bi thật là có tội, xin được phép lưu lại vài ngày cho tiện thê cứng cáp rồi xỉn đi. Được vậy chúng tôi mang ơn lắm.

Ngũ Không vui lòng ưng thuận.

Một buổi chiều, Lý Uyên buồn bã dạo quanh chùa thấy ngoài bình phong ở ngoài cổng có đôi câu đối. Uyên gật gù khẽ đọc :

"Bảo tháp lăng vân nhất nhật giang sơn vô biên thanh tĩnh.

Kim chung đại nguyệt thập phương giới hà đẳng du nhân".

Dưới ký tên Phần Dương Sài Thiệu.

Uyên khen thơ hay chữ tốt, hỏi Ngu Không :

- Sài Thiệu là người thế nào?

Ngũ Không nói :

- Người ấy quê quán ở huyện Phần Dương, trọ học chùa này, hiện đang đọc sách dưới thư phòng.

Uyên có ý muốn gặp kẻ sĩ ấy, bèn bảo nhà sư đưa đi. Qua mấy hàng tùng bách, Ngũ Không dẫn Uyên đến gõ cửa một căn nhà lợp cỏ rừng.

Nhà sư bảo kẻ sĩ :

- Đường công Lý Uyên muốn vào thăm ông.

- Không ngờ tôn giá đến để ra nghênh đón, xin tha tội cho kẻ hàn sĩ này.

Uyên vội vàng nâng Thiệu dậy, cùng ngồi trò chuyện. Uyên ngắm nhìn Thiệu lông mày chữ bát, mắt phượng xếch cong tiếng nói sang sảng thì mừng lắm. Uyên hỏi biết Thiệu chưa vợ con, bèn nói :

- Tôi có đứa con gái, tuổi vừa hai chín, chưa kết duyên với ai, ý muốn dâng hiền sĩ, chẳng biết hiền sĩ có nhận cho không?

Thiệu sụp lạy mà rằng :

- Điện hạ đã không chê kẻ áo vải này, lại gả tiểu thư cho, tôi đâu dám từ chối.

Uyên rất hài lòng cáo biệt về chùa nói chuyện cho phu nhân nghe.

Rồi đó, nhờ hòa thượng Ngu Không làm chủ chứng kiến ngay cuộc hôn nhân ấy. Ngày đi nhanh chóng nửa tháng sau phu nhân đã lành mạnh, Lý Uyên sửa soạn lên đường.

Sài Thiệu theo nhạc gia cùng đi Thái nguyên.

Kể lại Tần Thúc Bảo sợ Lý Uyên đuổi theo cứ ra roi cho ngựa chạy.

Chừng mười dặm ngoảnh lại không thấy ai theo sau lưng, xuống ngựa ngồi ven rừng nghỉ một lát, rồi lại lên yên trở về quan ải thuật cho Phàn Hổ nghe chuyện nằm mơ cứu rồng đánh thú đến chuyện cứu Đường công đuổi Tấn vương.

Hôm sau, chia tay ở tửu điếm, mỗi người đeo hành lý dẫn tội nhân đi một ngả.

Thúc Bảo đi mấy ngày mới tới Lạc Châu, vào huyện trình công văn, giao tội nhân cho viên tiết cấp ngục. Tiết cấp nói :

- Hiện nay Sài đại nhân bận đi Thái Nguyên mừng Đường công Lý Uyên, phải chờ ngài về đã.

Thúc Bảo không biết làm sao, đành ra nhà trọ đợi. Chủ trọ là Vương tiểu nhị mới dọn quán, dấn vốn ít, mà Thúc Bảo ăn khỏe, bốn năm bữa một ngày lại còn bắt cung thóc cho con ngựa quý, thành ra có ít ngày Tiểu nhị đã hết vốn. Tiểu nhị rụt rè mãi mới dám nói :

- Thưa ông, nhà cháu ít vốn, sợ không đủ rượu thịt ông xơi hàng bữa, xin cho vài mươi lạng để mua dần thịt béo rượu ngon quý khách dùng.

Bảo cười nói :

- Có thế mà không bảo ta, tưởng chi chứ vài chục lạng bạc đáng bao nhiêu! Đoạn vào phòng mở hành lý, nhưng sực nhớ ra rằng lúc chia hành lý với Phàn Hổ, Bảo đã quên gói bạc của quan phủ đưa cho để ăn đường!

Sau tìm mãi, thấy mười lạng bạc cửa lão mẫu đưa cho để mua lụa Lạc Châu may áo, bèn đưa cho Tiểu nhị nói :

- Ta còn mười lạng, ngươi hãy giữ tạm ta sẽ có cách đưa thêm.

Ba ngày sau, Sái thứ sử trở về. Nha dịch kéo nhau ra đón tiếp. Thúc Bảo cũng chạy ra xin chữ phê vào hồi văn cho.

Thứ sử ngồi ngủ gật trên kiệu mặc kệ mọi người. Phu kiệu nói :

- Ai có việc cứ vào trong phủ.

Rồi chúng khiêng kiệu đi vun vút. Bảo giận lắm, nghĩ :

- Ta hết tiền ăn trọ nay phải chờ mấy ngày nữa hắn mới ra công đường thì chết đói.

Nghĩ rồi chạy theo níu kiệu để kêu. Bảo mạnh quá làm chiếc kiêu nghiêng đi, suýt nữa khiến Sài thứ sử đang ngủ gật ngã nhào xuống đất.

Thứ sử cúi nhìn Bảo, quát lính trói đánh. Thúc Bảo biết lỗi chịu để đánh hai mươi roi. Sáng sau lại vào nha phủ lĩnh hồi văn.

Khi đó, Thúc Bảo xưng là đô đầu của Lưu tri phủ, Sài thứ sử với Lưu tri phủ là bạn thân nên đổi giận làm vui nói mấy câu an ủi Thúc Bảo, phê ngay hồi văn lại thưởng cho năm lạng bạc.

Thúc Bảo lạy tạ, nhận hồi văn, về quán trọ. Chủ quán là Vương Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo có tiền liền đòi nợ, Bảo ném ra cả năm lạng bạc, Tiểu nhị không nghe nói :

- Ông ở nhà tôi cả người cả ngựa ăn như sấm sét, năm lạng không đủ tiền cỏ cho ngựa, nói chi rượu thịt. Xin cho năm lạng nữa.

Bảo nói :

- Ta có nhiều tiền gửi ở hành lý bạn ta là Phàn Hổ, hiện giải tù đi Lạc Châu. Mai kia bạn ta rẽ qua đây để cùng ta về Tế Nam ta sẽ trả gấp đôi.

Tiểu nhị nghĩ thầm :

- Nếu để hắn chịu, lừa đêm khuya hắn cưỡi ngựa đi mất thì ta dại lắm, chỉ bằng ta phải dùng mẹo này mới được.

Bèn nói :

- Ông cứ ở đây đợi bạn ông. Bức hồi văn của ông có dấu quan thứ sử ông bỏ túi e khi nằm ngồi nát mất, xin cứ đưa để tôi bỏ hòm cho sạch sẽ.

Thúc Bảo ngay thật đưa ngay hồi văn cho hắn. Nắm được rồi tiểu nhị không còn lo Thúc Bảo vỗ nợ mà chạy nữa.

Thế rồi ngày lại qua ngày, chờ mươi hôm chả thấy Phàn Hổ đến, mà nợ cơm, rượu, cỏ thì ngày nào tên tiểu nhị cũng nằng nặc đòi. Thúc Bảo khất, hắn cho ăn cơm nguội, rau sống, mặc thây cả ngựa khiến tuấn mã kêu hí suốt ngày đêm.

Bảo có ý buồn chán, ra đường đi tản bộ để ngóng Phàn Hổ tới. Đến tối mới về quán thấy một bọn sáu bảy kẻ đang ngồi giữa phòng mình uống rượu.

Bảo trừng mắt nhìn. Tiểu nhị nhăn nhở nói :

- Hàng nhà tôi bấy nay ế ẩm, nay có bọn khách thuê thấy buồng ông rộng rãi nên muốn tạm thuê mấy bữa, ông có một mình nên tôi đã đem đồ hành lý xuống gian phòng nhỏ bên cạnh bếp, ông thứ lỗi cho nhà cháu kiếm ăn.

Thúc Bảo căm giận lắm, nhưng cũng đành chiu nhịn, xuống phòng dưới thấy vách lủng, phên thưa, gió lạnh thổi vào hun hút. Bảo buồn bực, thở dài, nhịn đói trèo lên chõng ngủ, chưa nhắm mắt, thấy một tên nhòm ngó. Bảo tức quát :

- Đứa nào dọ thám thế. Ta gửi yên ngựa và hồi văn tay ngươi, còn nghi ngờ chi nữa, quân khốn nạn!

Người nhòm ngó ấy là Liễu thị vợ Vương chủ quán. Liễu thị ghé đầu bên cửa sổ, khẽ nói rằng :

- Chồng thiếp là kẻ ngu phu nói năng vô lê, xin ông tha tội chết cho. Thiếp tôi dành dụm được ba trăm quan xin cúi dâng để chi dùng, nay nhân có cơm rau, xin ông ăn cho khỏi mệt.

Nói rối đưa cơm và tiền qua lỗ vách, rồi nhẹ nhàng quay đi. Thúc Bảo rơm rớm nước mắt nhìn liễn cơm nguội nghĩ thầm :

- Bát cơm Siếu mẫu của Hàn Tín đất Hoài âm đây, mai sau ta có nên danh phận quyết về đây tìm ân nhân trả nghĩa.

Đoạn ăn hết liễn cơm, nằm xuống ngủ. Sáng dậy sớm lại ra đường chờ Phàn Hổ.

Nhưng càng mong càng thấy mất, Thúc Bảo sực nhớ là :

- Ta còn có đôi kim giản, chi bằng bán tạm đi lấy tiền trả hắn mà về quê nhà. Một mai có tiền ta lại đên chuộc, cũng chẳng can gì!

Rồi về xách đồng giản đi đến các phố đông quanh chợ, rao bán chẳng ai mua. Có người mách đến một lão già chuyên nghề cầm cố, cho vay lãi cầm tạm. Đến nơi lão nhìn qua đôi kim giản, cười nhạt nói :

- Thứ binh khí này ai dùng tới, chỉ có thể làm đồng nát.

Thúc Bảo biết hắn gièm để cầm rẻ, nhưng đang bí lối đành nói :

- Thì bán làm đồng nát vậy. Lão trả bao nhiêu?

Lão đáp :

- Năm lạng bạc.

Bảo thấy năm lạng cũng không đủ trả, bèn xách kim giản quay về quán. Tên Tiểu nhị thấy Thúc Bảo không bán được binh khí liền giở mặt hầm hầm, một lúc rồi mới nói :

- Ông xem còn cái gì quý hơn thì bán đi trả cho tôi.

Tiểu nhi chỏ xuống chuồng ngựa nói :

- Cái của nợ kìa không bán cũng gầy ốm mà chết thôi, ông bán quách đi.

Thúc Bảo nói :

- Biết ai dùng mà bán?

Tiểu nhị nói :

- Đất Lạc Châu này người ta quen chơi ngựa, ông cứ cưỡi ra chợ tức khắc có người mua, mà có ra phải từ đầu trống canh năm mới được vì mặt trời mọc, chợ đã tan rồi.

Đêm ấy, Bảo lại thấy Liễu thị lén chồng đem cơm và rau xuống dâng mời.

Sáng hôm sau Bảo vào chuồng dắt ngựa ra. Long câu biết ý, nhìn chủ ứa nước mắt, hí mấy tiếng nhỏ như khóc biệt ly. Thúc Bảo cũng không ngăn nồi nước mắt khỏi tuôn rơi. Đoạn nhẩy lên yên đi lững thững ra phía chợ ở tây môn.

Phiên chợ lừa ngựa đang đông, khách mua toàn phường công tử vương tôn thấy chiếc ngựa gầy, cười khanh khách :

- Ngựa ốm kia chắc ngày đi ba dặm. Có lẽ hơn Xích Thố của Quan Vân Trường đấy. Ta mà được nhà vua cho làm Đại nguyên soái thì quyết mua ngựa ấy đi phá thành, chúng cười ồ lên. Thúc Bảo cay đắng vuốt đầu ngựa, lại ngắm đến mình hơn một tháng nay áo quần bẩn thỉu chỉ vì thiếu nợ mà hóa ra lam lũ đế thế. Chờ chẳng có ai thèm ngó đén, cho tới lúc chợ tan còn lại trơ mình với ngựa gầy trên bãi vắng, Bảo đành dắt ngựa về.

Đến cổng thành một bọn đông gánh cành cây mới đẵn ở rừng về phơi làm củi bán. Ngựa của Thúc Bảo đang đói khát thấy lá tươi trên gánh củi của ông lão thì ngoạm ăn ngấu nghiến, ông lão gánh củi ngã lăn ra kêu ầm ĩ. Thúc Bảo vội ôm ông lão tiều phu dậy lạy mà xin lỗi.

Lão phủi áo quần, nhìn ngắm long câu rồi reo lên :

- Ngựa đâu mà quý đến thế này? Thật lão xem ngựa đã vạn con chưa từng thấy con nào lại đẹp vó, tốt xoáy mạnh ức, thon bụng như con này đó!

Thúc Bảo thở dài :

- Thế mà tôi phải bán đi, nhưng chẳng ai thèm mua cho! Cụ xem có ai sành ngựa bán giúp, xin hậu tạ.

Lão tiều mừng rỡ nói :

- Ngoài phố tây môn cách ngót hai mươi dặm, có một thôn trang tên gọi Nhị Hiền trang, chủ nhân là họ Đơn tên Hùng Tín, đứng vào hàng thứ hai nên người ta vẫn gọi là Đơn nhị lang, ông ta hay mua ngựa tốt để làm quà cho các tay hào kiệt bạn bè.

Thúc Bao nghe nói sực nhớ ra :

- Bấy lâu nay ta thoáng nghe nói đến tên nghĩa sĩ Đơn Hùng Tín ở miền này, âu là ta đến xem sao.

Bèn theo lão tiều dắt Long câu tìm đến Đơn gia trang.

Tới nơi thấy một trang viên lớn, đường đá, cây cổ thụ phủ um tùm.

Đơn Hùng Tín, nguyên là con rồng xanh trên thiên đình xuống làm ngươi, sau này sẽ dọc ngang trời đất, là anh hùng thứ mười tám ở nhà Tùy đó.

Hùng Tín mặt xanh xám như chàm tóc đỏ tựa Chu sa, tính nóng như lửa cháy, răng hai bên mép dài như nanh hổ, mở miệng nói như sấm sét sức địch muôn ngàn kẻ, hai cánh tay sắt quen dùng ngọn giáo ba trạc tên gọi Kim trâm tảo dương.

Tín mở rộng bốn cổng trang đón các tay anh hùng hảo hán, chứa cả tội nhân vượt ngục, dung cả đạo tặc cướp của giết người. Bọn này mỗi khi lấy được bạc vàng về phải trình nộp Tín một nửa, vì thế mà Tín giàu túc tích, bạc vàng châu báu không kể xiết.

Hôm ấy Tần Thúc Bảo dắt ngựa cùng lão tiều phu đến, bảo trang khách vào báo tin. Tín nghe nói có người đến bán tuấn mã bèn khoác áo bào bước ra cổng đón khách và xem ngựa.

Thúc Bảo thấy Hùng Tín dữ tợn như thiên thần, áo bào bằng vóc tía, đai lưng dát ngọc sáng ngời, giầy thêu kim tuyến và nạm vàng lóng lánh, nhìn đến thân mình áo bạc quần nhầu, giầy rách, có ý tủi thẹn mà lùi sau một gốc cây.

Hùng Tín thấy ngựa quý biết ngay. Tín giơ bàn tay hùm beo vỗ mạnh vào lưng Long câu. Sức Tín mạnh như thế mà tuấn mã cứ đứng yên không nhúc nhích.

Tín vẫy Bảo đến gần nói :

- Túc hạ bán ngựa đó chăng Xin cho biết giá.

Bảo nghiêng mình đáp :

- Trong lúc cùng đường, đành bán ngựa. Xin cho năm mươi lạng.

Tín nói :

- Ngựa này, năm mươi lạng không đắt. Song hiềm nỗi gầy ốm quá phải mất nhiều cỏ, thóc, công phu mới nuôi béo được. Túc hạ đã có công dắt đến, tồi xin trả ba mươi lạng.

Nói rồi, quay ngoắt mình vào trang viện. Thúc Bảo bước theo nói :

- Tôi đã cùng đường, ông dạy thế nào cũng xin vâng.

Tín quay lại mời Thúc Bảo vào gia trang. Gia nhân dắt ngựa vào theo. Hai người đứng bên hồ bán nguyệt. Tín vừa xem lại ngựa vừa hỏi :

- Túc hạ người ở đâu mà lạc lõng tới dây bán ngựa?

Bảo đáp :

- Chúng tôi người ở Tế Nam.

Nghe nói người ở Tế Nam, Tin sai lấy ghế mời ngồi rồi lại hỏi :

- Tôi thường nghe ở Tế Nam có một vi anh hùng dòng dõi công thần danh tướng, tên gọi Tần Thúc Bảo, túc hạ quen chăng?

Bảo buột miệng nói :

- Thưa ngài chính tôi đây!

Nhưng biết rằng trót hớ, bèn im. Hùng Tín vội đứng lên bước xuống thềm nói :

- Nếu vậy thì túc hạ tha tội cho Tín này.

Nhưng Thúc Bảo vội chống chế rằng :

- Thưa ngài chính tôi đây là bạn đồng sự với Tần Thúc Bảo.

Tín ngẩn ra, rồi nói :

- Nếu vây thì túc hạ họ gì?

Bảo đáp :

Tôi họ Trương Tín nói :

- Tôi muốn nhờ túc hạ khi về Tế Nam đưa giúp một phong thư cho Tần Thúc Bảo, có được chăng?

Bảo nói :

- Tôn ông có lòng tin mà giao thư, tôi xin bái nhận mà đưa đến nơi đến chốn. Tín cả mừng vào thư phòng viết thư rồi đem ra những sáu mươi lạng bạc, ba tấm lụa, vái Bảo mà rằng :

- Đây là tiền ngựa, lụa này xin biếu túc hạ. Còn thư này xin đưa tận tay Tần đô đầu và xin nói thêm rằng: Đơn Hùng Tín đất Lạc Châu có lòng ngưỡng mộ đại danh Tần đại huynh lắm lắm. Chỉ vì đường xá xa xôi nên chưa có dịp bái kiến đó thôi.

Đoạn, sai dọn rượu. Song Thúc Bảo sợ lộ tên tuổi nên vội cáo biệt ra về. Tín cố lưu giữ không được, theo tiễn đến cổng trang. Bảo đi một quãng, thấy ông lão tiều phu đứng đợi. Bảo đưa biếu cụ già năm lạng bạc, rồi lại rảo bước. Đói bụng, vào một khách điếm, gọi rượu và thức nhắm.

Mới nhắp vài ba chén, nhìn ra thấy hai ngươi mặc áo gấm bước vào, có tiểu đồng theo sau. Nhận ra một kẻ là Vương Bá Dương, Bảo vội lánh quay mặt vào phía trong.

Nhưng người mới vào kia đã nhận ra Thúc Bảo. Bảo biết ý, ăn uống qua loa, rồi trả tiền, bước thẳng ra, đi ngay về nhà trọ, Vương Tiểu Nhị thấy Thúc Bảo bán được ngựa thì xoa tay cười nói, nịnh nọt đủ điều. Bảo ném cho hai mươi lạng, đòi lại hồi văn cùng hành lý, rồi ngay đêm ấy ra đi cấp tốc về Sơn Đông.

Hai người mà Thúc Bảo vừa gặp kia là Vương Bá Dương và Tạ Ứng Đăng, hai người uống rượu xong, tức khắc đến Nhị Hiền trang. Trang khách báo tin, Hùng Tín ra đón bạn, Bá Dương thấy Tín đang sai gia nhân tắm rửa cho con ngựa quý, bèn hỏi :

- Đại huynh mua ngựa này của ai thế!

Hùng Tín đáp :

- Vừa mua được của một anh chàng quê ở Tế Nam.

Bá Dương hỏi :

- Hình dung hắn thể nào?

Tín nói :

- Mắt to, người lớn, có vẻ một tay khí phách giang hồ. Hắn xưng là họ Trương, ở Tế Nam, có quen Tần Thúc Bảo.

Bá Dương vỗ vai Tín rằng :

- Đại huynh chỉ nghĩ tới sự mua ngựa tốt, mà bỏ mất một quý nhân. Đó là một người có đại tài, thiên hạ khó mà theo kịp Tín nói :

- Tôi cho là một người túng thiếu mà bán ngựa, có lưu ý lắm đâu!

Bá Dương cười sằng sặc :

- Tiếc thay, hổ vào nhà, rồng nằm trên mái nhà mà không biết.

Chính người ấy là Tiểu Mạnh Thường Tần Thúc Bảo đó.

Hùng Tín vỗ đùi, tiếc ngẩn ra :

Nếu vậy thì Tín tôi có mắt như mù, thật đắc tội với một tay hào kiệt. Tần Thúc Bảo thấy tôi mặc cả ngựa quý lại tiếp đãi sơ bạc quá tất khinh thằng Đơn ở đất Lạc Châu này mất. Xin cùng đi tìm mà tạ vậy.

Đại huynh nghĩ sao?

Bá Dung nói :

- Đuổi theo may còn kịp. Tôi đã hỏi dò, Thúc Bảo ít lâu nay trọ ở quán Vương Tiểu Nhị ngoài cổng phủ.

Tín nóng nảy, thét mã phu dắt ngựa ra đi ngay. Nhưng Bá Dương can ngăn :

- Bây giờ trời tối, cổng thành đóng mất rồi. Sáng mai đi sớm cũng không muộn đâu!

Tín nghe theo, sai dọn rượu. Uống rồi đi nghỉ. Mờ sáng hôm sau, ba người phi ngựa như bay đến cửa hàng Vương Tiểu Nhị. Gò cương lại, Hùng Tín nói như sấm sét :

- Bớ chủ quán, Tần đại gia ở Sơn Đông có còn ở đây không?

Tiểu nhị vái rạp xuống mà thưa :

- Bẩm đại quan nhân, ông khách ấy bán ngựa xong, về cuốn khăn gói đi ngay từ tối hôm qua rồi!

Hùng Tín tiếc ngẩn ngơ, đập vào đùi nói :

- Thế thì ta tự hại ta mất rồi. Người trước mắt không biết, để đi mới mở mắt ra mà đuổi.

Dứt lời, thấy gia nhân hốt hoảng cưỡi ngựa đến trình :

- Dám bẩm quan nhân, đại quan nhân nhà ta bị Đường công bắn chết ở cửa rừng Lâm Đồng sơn, hiện linh cữu đã đưa về trang thất.

Tín nghe nói thét lên một tiềng, ứa nước mắt ra, quay Lại nói với Bá Dương :

- Tôi có việc tang, tiếc không theo tìm Tần hảo hán được nữa! Nếu đại huynh gặp xin nói hộ rằng thằng Tín không mắt này cúi đầu xin chịu tội.

Rồi đó, cùng gia nhân phi ngựa về trang viện.

Hồi 3 Dãi tuyết đêm, Phàn Hổ tìm bạn quý Tạ tri âm, Hùng Tín trả long câu

Đây kể tiếp theo: Tần Thúc Bảo sợ Đơn Hùng Tín theo, nên chạy suốt đêm, qua bao nhiêu rừng núi. Bấy giờ tuyết xuống mù trờ, gió lạnh buốt xương, Thúc Bảo ôm bụng rỗng, tập tễnh chân đau mà đi mãi trong đêm tối, cứ theo đườg cái lớn mà lần. Tới canh ba chân đau thịt nhức, đầu váng mát hoa không đi được nữa. Thấy bên rừng có cái miếu tên gọi Đông Nhạc miếu, bèn bước vào. Vừa toan ngồi xuống, bỗng thấy mắt nổi hào quang đầu nặng, hôn mê, ngã lăn xuống đất. Đôi kim giản nặng ba trăm cân vác trên vai gieo xuống thềm làm vỡ mấy viên gạch lát, kêu vang cả miếu.

Nghe động, giật mình, đạo nhân ở hậu thất chạy ra thấy một người nằm, cô nâng lên, nhưng tuổi già sức yếu không sao nâng được. Đạo nhân vào gọi chủ sãi. Người ấy họ Ngụy tên Trưng, trước làm tri châu ở Cát An, mới cắt tóc đi tu theo thầy là Từ Hồng Khánh, tức là đạo nhân kia. Thấy thầy gọi, Nguy Trưng vội chay ra, thấy Thúc Bảo nằm thẳng cẳng, mắt nhắm nghiền, liền xem mạch rồi nói :

- Người này chỉ bị đói khát, lại đi nhiều trong tuyết lạnh, bị cảm đấy thôi.

Rồi ẵm vào nội thất đặt lên giường, đắp chăn, sắc thuốc lá cho uống, lại đổ cháo vào miệng, Thúc Bảo dần dần tỉnh dậy. Ngụy Trưng hỏi họ tên. Thúc Bảo kể sự tình. Ngụy Tnmg nói :

- Ông bị ốm, hãy cứ ở dây tĩnh dưỡng dăm hôm, uống thuốc cho lành mạnh hãy về phục lệnh quan cũng kịp.

Sau đó ngày ngày ngụy Trưng sắc thuốc, nấu cháo trông nom Thúc Bảo rất chu đáo.

Một hôm trong miếu có lập đàn tụng lệnh, nguyên do, Đơn Hùng Tín từ biệt Bá Dương về trang ôm lấy xác anh mà khóc hồi lâu rồi cho đem mai táng. Lại sai gia nhân đến Đông Nhạc miếu bảo thầy trò Ngụy Trưng lập đàn cúng cho anh ruột không may đã bị Đường công thấy biến bắn nhầm.

Lúc đó Đơn Hùng Tín mặc đồ tang, cưỡi ngựa đến am làm lễ. Vào thấy gia đinh và các tiểu cãi cọ nhau. Tín quát gia nhân, chúng nói :

- Các sư ở đây không được thành kính, chúng tôi bảo họ quét dọn cho sạch sẽ để đại quan nhân đến, chúng không nghe cứ để một anh ốm nằm ở hậu đường.

Hùng Tín gọi Ngụy Trưng ra hỏi. Nguy Trưng nói :

- Người ấy không phải ngươi thường, cách đây mấy hôm, qua đây bị cảm, chúng tôi phải tận tâm coi sóc đó là lương tâm của kẻ tu hành.

Tín hỏi :

- Tên họ người ấy là chi?

Ngụy đáp :

- Đó là một nghĩa sĩ đất Sơn Đông, tên gọi Tần Quỳnh, tức là Tần Thúc Bảo.

Hùng Tín mừng cuống quít vội chạy vào hậu thất vén màn coi :

chính thức gã bán ngựa bữa vừa rồi. Tín quỳ xuống bên giường nắm tay Thúc Bảo nói :

- Rõ ràng là Tần đại huynh. Sao lại nỡ giấu Đơn Hùng Tín này như thế.

Thúc Bảo cố ngồi lên vái lạy :

- Tần Quỳnh hèn nhát này có tài đức gì mà được tôn ông yêu mến, thực lấy làm thẹn lắm!

Tín rờ tay vào mặt Thúc Bảo, thấy nóng gay thì ứa nước mắt nói :

- Bữa nọ trời cho gặp tôn nhan, mà ngu đệ không có mắt, để đại huynh đi. Sau nhờ Bá Dương nói mới biết. Đại huynh thứ tội cho. Có lẽ chỉ vì lánh mặt ngu đệ mà đại huynh dầm tuyết đội gió ra đi mới nên trọng bệnh này. Tín tôi tội lại càng to lắm.

Thúc Bảo ngậm ngùi nói :

- Tiểu đệ giữa đường thiếu tiền ăn trọ, bị chủ quán thúc đòi lại giữ cả quần áo không cho thay. Đến bán ngựa, tự xét quần áo lam lũ mà tránh đại huynh, thật không có lòng nào khác.

Hùng Tín đau lòng nắm tay Thúc Bảo mà an ủi, đoạn sai gia nhân lấy kiệu, Tín cõng Bảo đặt lên, rồi Tín bảo Ngụy Trưng cứ cúng lễ, cưỡi ngựa đi kèm kiệu Thúc Bảo về Nhị Hiền trang.

Tín lấy quần áo mới đưa Thúc Bảo thay, lại gọi danh y vẫn ở liền trong trang bốc thuốc cho Thúc Bảo uống, chừng mấy ngày Thúc Bảo mạnh như thường.

Từ dó, Hùng Tín trân trọng tiếp đãi Thúc Bảo đêm ngày. Hùng Tín đem chuyện thân huynh bị Đường công Lý Uyên bắn chết than thở với Thúc Bảo, giờ lâu Bảo tìm lời khuyên giải.

Lại nói: Phàn Hổ đến Thạch Châu đệ công văn và giao tù xong, nhận hồi văn ngày đêm về Tế Nam vì cứ yên trí rằng Thúc Bảo đã về trước mình rồi. Tới Tế Nam mới biết là Thúc Bảo chưa về phủ.

Tần mẫu ngày đêm tựa cửa chờ con, thấy Hổ mà không thấy con trai thì lo sợ bỏ ăn bỏ ngủ bèn gọi Hổ đến khóc noi :

- Con ta xưa nay hiếu để có đi dông dài bao giờ đâu, chắc nó bị bệnh bay bị nạn ở dọc đường, chẳng hay hiền điệt có vì lão mà đi tìm đón nó không?

Phàn Hổ xin đi. Tần mẫu đưa tiền lộ phí. Hổ không nhận nói :

- Anh cháu còn gởi cháu nhiều tiền. Xin bá mẫu cứ an lòng. Rồi cầm thư của Tần mẫu bỏ vào tay nải, vào phủ xin phép nghỉ. Hôm sau khởi hành đi Lạc Châu. Hôm ấy Hổ đi chừng mười dặm thì tuyết xuống rất nhiêu. Hổ cứ đội tuyết đi. Ngày rảo bước chịu tuyết sương dầu dãi, đêm vào quán nghỉ, Hổ tận tình tìm bạn. Một hôm, tuyết đọng ngập đường không nhấc được chân lên nữa, Hổ thấy cái am bên rừng ngẩng đọc ba chữ Đông Nhạc miếu, bèn vào nghỉ chân.

Ngụy Trưng vừa đi hái thuốc về dắt lừa vào chuồng cỏ, bước ra thấy khách lạ, hỏi rằng :

- Khách bộ hành từ đâu tới?

Phàn Hổ xá mà đáp :

- Tôi là Phàn Hổ ở Sơn Đông, đi đến Lại Châu tìm bạn. Đường nhiều tuyết không sao đi được, xin vào quý am nghỉ một đêm nay.

Nguy Trưng sai dâng trà rồi hỏi :

- Ông bạn túc hạ tên họ chi?

Hổ đáp :

- Đó là nghĩa huynh tôi, làm đô đầu ở Tế Nam, tên gọi Tần Thúc Bảo.

Ngụy Trung cuờí nói :

- Thế thì Tần Quỳnh ở ngay trước mắt. Nhị điền trang cách đây hơn mười dặm, trong đó có vị quan nhân là Đơn Hùng Tín đang lưu đãi Tần Thúc Bảo vì ông ta bị ốm.

Nghe nói xiết bao mừng, Phàn Hổ bèn đứng dây xin đi ngay. Ngụy Trưng cố giữ lại nói rằng :

- Tuyết đang xuống nhiều, đi đêm sao được, túc hạ hãy nghỉ hết đêm nay, mai đi sớm.

Phàn Hổ tuy đang đói mệt, cứ xin đi vì nóng lòng gặp bạn. Phàn Hổ ra đi, cứ theo đương lớn thẳng mò mẫm cho tới sáng, nón và áo quần sũng tuyết, Tới nơi, có người chỉ Nhị Hiền trang ngay trước mặt. Hổ nhờ trang khách vào báo :

- Có bạn Tần Quỳnh là Phàn Hổ đem gia thư đến.

Trang khách vào nói, Thúc Bảo giật mình kinh hãi, chạy ra, thấy Hổ từ đầu đến chân trắng suốt, dáng điệu mệt mỏi thì ôm ngay lấy nói :

- Hiền đệ tới tìm ta có việc gì nguy cấp hẳn thôi?

Hổ nói :

- Em ở Lạc Châu, tin rằng anh xong việc ở đấy sẽ về thẳng Tế Nam phục lênh, ai ngờ em tới Tế Nam vẫn chẳng thấy anh. Lão mẫu lo sợ đêm ngày, viết thư saí em đi tìm kiếm.

Bảo đáp :

- Anh vì chờ thái sử đi Thái Nguyên chào mừng Đường công Lý Uyên lâu quá nên nợ chủ hàng cơm phải bán ngựa lấy tiền về, bị ốm giữa đường, được nhà sư cứu, sau lại gặp Đơn Hùng Tín đại quan nhân đây mời về phục thuốc, nay đã hơi lành mạnh, sắp sửa ra về thì nghe tin em đến.

Nói rồi dắt tay Phàn Hổ vào trang viện. Hổ móc túi lấy thư ra.

Thúc Bảo xem thư mẹ, ứa nước mắt muốn về ngay.

Hùng Tín can ngăn :

- Đại huynh hãy còn đang yếu, cứ liều ra đi, phong sương ốm lại giữa đường thì uổng mạng, như thế vì hiếu mà thành ra bất hiếu. Chi bằng đại huynh hãy ờ đây ít bữa nữa. Nhờ Phàn đại huynh về trước xin phép quan tri phủ, xin phép lão mẫu, thế là vẹn cả công tư, toàn cả nghĩa mẹ con, cả tình bạn hữu.

Hùng Tín nói mãi, Thúc Bảo đành ưng thuận. Hùng Tín mừng lắm, sai đặt tiệc lớn, ba người chén tạc chén thù.

Đêm ấy, Thúc Bảo ngồi đốt nến viết thư gửi mẹ. Và sáng hôm sau, Hùng Tín truyền lấy năm mươi lạng bạc, năm tấm vóc nhiễu đại hồng gửi Tần lão mẫu, lại tặng riêng Phàn Hổ mười lạng bạc và hai súc lụa hoa hạng tốt. Thúc Bảo và Phàn Hổ cùng ân cần cảm tạ. Phàn Hổ đội nón chiến, nai nịt gọn ghẽ, từ biệt Hùng Tín và Thúc Bảo về Tế Nam báo tin cho Tần mẫu.

Thúc Bảo ở Nhị Hiển trang đã qua mùa xuân. Trong thời gian đó, Đơn Hùng Tín muốn đãi hết lòng tri ngộ với Tần Quỳnh, đã một mặt ngầm sai thợ lấy da cáo trắng và vàng bạc làm thành bộ yên trong lót gấm dày, lại sai lấy năm trăm lạng bạc đánh thành thoi nhỏ bỏ vào túi vóc, một mặt sai mười mã phu ngày đêm nuôi vỗ Long câu cho ăn toàn thóc, đậu trắng và cỏ tốt cho chóng béo.

Hết tháng giêng, Thúc Bảo nói xin bái biệt.

Đơn Hùng Tín gọi mã phu dắt long câu ra. Tần Quỳnh giật mình, ngắm con ngựa gầy ốm của mình nay lớn béo khác hẳn, trên lưng mang bộ yên đẹp rực rỡ, nhạc vàng chói lọi bên yên đeo túi bạc thoi nặng trĩu và đôi kim giản gia truyền. Thúc Bảo cảm động, vái Hùng Tín nói :

- Tiểu đệ tự xét mình vô hạnh, bất tài không hiểu sao lại được đại ca yêu mà tặng ngựa cho yên đẹp thế này?

Hùng Tín cười khanh khách nói vang như sấm :

- Tín này trời cho không nghèo, chỉ cầu mong được cái phúc gặp anh hùng hào kiệt bốn phương để dâng ngựa, biếu áo và mài kiếm hầu, ấy là thỏa cái chí bình sinh. Của mọn này có đáng là bao mà đại huynh phải băn khoăn.

Đoạn sai lấy thêm một gói bạc lẻ đưa Thức Bảo làm lộ phí. Bảo chối không được, đành phải nhận, đoạn sụp hai lạy mà lên yên. Hùng Tín cũng sai gọi lấy ngựa, tiễn Thúc Bảo ba mười dặm, đến một khách điếm kia, mượn làm trướng đình, uống với nhau cạn vò rượu quý rồi mới chịu chia tay.

Bảo về thẳng Tế Nam, Tín quay về trang viện.

Hồi 4 Đày Yên Sơn, Thúc Bảo đánh lôi đài Trong súy phủ, Tần phu nhân nhận cháu

Tần Thúc Bảo ngồi trên long câu phi như gió, cho tới khi mặt trời ngả non chiều, Thúc Bảo gò cương trước một thôn trang tên gọi Giác Lâm, bên đương có một tửu điếm sau rặng liễu. Bảo xuống ngựa. Tên tửu bảo mắt xếch ngược chạy ra dắt ngựa vào chuồng cho ăn cỏ, đoạn ra xách hành lý của quý khách vào gian phòng sang đẹp nhất.

Tửu bảo pha trà, dọn ruọu xong, ra nói thầm với chủ quán là Ngô Quảng rằng :

- Chủ nhân có thấy ông khách có con ngựa đẹp, bộ yên cương và bàn đạp đều bằng vàng bạc, dát trên da cáo trắng không? Đêm nọ ở vùng có đám cướp to lắm, chắc tên này là quân cường đạo chi đây!...

Ngô Quảng động lòng tham nói :

- Nếu vậy để ta dò xét xem sao, ngươi nên giữ kín.

Rồi Ngô Quảng ra cửa phòng nấp trong bóng tối nhòm vào thấy Thúc Bảo ăn cơm xong, ngồi khêu to đèn, mở gói hành lý, lấy một túi bạc rốc ra. Thúc Bảo kinh ngạc ngắm những thoi bạc mới đánh rất xinh, sáng lóe dưới đèn sáng rực. Thúc Bảo tự nghĩ thầm :

- "Quái lạ sao Hùng Tín tặng ta vàng bạc lại không cho ta biết, bỏ từ lúc nào vào gói hành lý này đây?"

Đoạn, cứ ngồi ngẩn ra suy tính mãi. Ngô Quảng bấm tên tửu bảo mắt xếch lui ra, đi gọi năm mươi kẻ tuần tráng đến, nói thì thầm với nhau, rồi chúng lấy dây thừng lớn chăng khắp cửa, và gươm giáo mai phục kín hai bên. Sau đó Ngô Quảng vì tham của muốn vào trước chiếm gói bạc, vác đao đẩy cửa xông vào.

Thấy động, Thúc Bảo nhanh mắt, biết là chủ quán có ý gian, bèn vùng đứng dậy quát to :

- Ngươi vào làm gì đó?

Ngô Quảng thảy Thúc Bảo hùng dũng quá, chưa kịp giơ đao hạ thủ đã bị Thúc Bảo phóng chân dá một cái vào giữa bụng, Quảng ngăn lộn vế phía sau, đầu rơi ngay vào miếng đá kê cột gỗ, bị vỡ làm hai mảnh chết tức ngay. Nghe có tiếng xì xào bên ngoài, Thúc Bảo xách đôi kim giản nhảy ra, chẳng ngờ bị chúng giật mạnh dây trong bóng tối, Thúc Bảo ngã nhào xuống đất. Chúng tiện dây, năm mươi kẻ xúm vào đè đầu giữ cẳng trói ngay chàng lại, reo vang cả quán.

Trói xong, vào phòng thấy Ngô Quảng chỉ còn là cái tử thi. Vợ con Ngô Quảng kêu gào chán rồi viết lá đơn. Sớm hôm sau, chúng dẫn ngựa, hành lý, và Thúc Bảo vào trình tri phủ.

Tri phủ kìa là Sài Kiến Đức nghe báo bắt được quân đạo tặc, ra ngay công đường. Thấy Tần Thúc Bảo, tri phủ giật mình nói :

- Rõ ràng ngươi là đô đầu vừa ở Tế Nam giải tù đến đây sao lại đi ăn cướp giết người như vậy?

Thúc Bảo rập đầu kêu sự tình bị ốm chưa về được, phải ở nhà người bạn, chứ không hề làm việc gian phi đó. Sài tri phủ không tin thét mắng ầm ầm :

- Nhà ngươi đã có hồi văn không phịu về phục lệnh quan trên, còn lưu đãng ở vùng này, thế là có ý gian giảo đó. Bạn ngươi là ai, nói mau!

Thúc Bảo sợ liên lụy đến Đơn Hùng Tín, nói tránh đi :

- Người bạn tôi buôn bán ở Giang Đông, nay đã đi rồi.

Tri phủ càng dập án :

- Người nói quanh co, quả là đạo tặc. Trông người béo tốt thế kia, quyết không phải ốm. Nay lại có bạc vàng, ngựa đẹp yên quý đó, thiết tưởng một vị Nguyên soái triều đình cũng không sắm được, huống chi khi người đến trình công văn còn mạc áo cũ, cớ sao ngày nay lại đổi khác như vây được? Còn như việc đánh chết Ngô Quảng, người có chối không?

Thúc Bảo biết cãi vô ích đành cúi đầu im lặng. Sài tri phủ bắt Thúc Bảo ký tờ cung, rồi sai giam vào ngục chờ ngày phê án trạng.

Tham quân sảnh tên gọi Mạng Hồng hỏi khẩu cung. Thúc Bảo nhất định không chịu nhân là giặc cướp. Tham quân tức giận sai tra tấn đến nỗi máu chảy thịt dây, rồi truyền tống ngục.

Việc đô đầu đi ăn cướp, phá quán, giết người ở rừng Giác Lâm bị đồn đại ầm lên, đến tai Đơn Hùng Tín. Tín kinh hãi vào thành nghe ngóng, quả nhiên tin ấy không sai. Tín bèn sai bưng một mâm rượu vào nhà ngục, nói với lính canh cho đem cơm vào. Lính canh không còn ai lạ Tín, vâng lời mở cửa, lại tạm tháo gông cho Thúc Bảo một chốc lát.Tín bước vào thấy Thúc Bảo đầu bù, mặt sưng, áo rách, ứa nước mắt mà kêu lên :

- Tần đại huynh chỉ vì tôi mà hai lần hoạn nạn. Tín này dẫu chết đi cũng không chuộc được tội lỗi với đại huynh.

Thúc Bảo cũng sa giọt lệ :

- Phen này tôi khó mà sống được. Chỉ cầu xin đại huynh có một điều, là tôi còn một mẹ già không ai phụng dưỡng. Xin đại huynh viết vài chữ cho gia mẫu biết, và xin đại huynh giúp đỡ cho. Dẫu xuống suối vàng, cũng không quên được ơn đại huynh.

Tín nhận lơi và tìm lời an ủi. Hai người cùng ăn cơm. Ăn xong, Tín lấy năm lạng bạc cho tên lính canh. Rồi nói với Thúc Bảo :

- Để tôi vào phủ nói với thứ sử giảm nhẹ tội đi, đại huynh cứ an tâm tĩnh dưỡng.

Đoạn vào ngay phủ đường, nói lót với Sài tri phủ và Mạnh Hồng hai người nhận lời giúp, hứa giảm tội cho Thúc Bảo. Hai hôm sau, Mạnh Hồng làm án: Thúc Bảo không phải là cường dạo, chỉ là ngộ sát đấy thôi.

Việc tư lên tỉnh. Phán quan tỉnh Sơn Tây xem án chuẩn phê, đem phát vãng Thúc Bảo đi Ký Châu thuộc tỉnh Hà Bắc, sung vào làm lính dưới trướng soái phủ. Hai người công sai được lệnh dẫn Thúc Bảo đi cũng là hai kẻ hảo hán, một tên là Kim Giáp, một tên là Đổng Hoàn, vẫn đi lại với Đơn Hùng Tín rất thân.

Được tin, Hùng Tín đón sẵn ở ngoại thành mời hai công sai và Thúc Bảo vào tửu điếm. Tín nói :

- Tần đại huynh bị đày ra Yên Sơn, không có gì đáng lo ngại nữa, ở đấy tôi có quen một người tên là Trương Công Cẩn làm quan kỳ bài ở soái phủ, lại quen cả hai anh em Uất Trì Nam và Uất Trì Bắc hiện làm chức quan trung quân soái phủ. Khi đại huynh đến nơi tìm vào Thuận Nghĩa thôn đưa phong thư này của tôi cho Trương Công Cẩn rồi hãy vào đệ công văn.

Thúc Bảo xiết bao cảm động :

- Đại huynh đã vì tôi mà tốn bạc vàng, mất ngày giờ săn sóc, ơn ấy thề phải báo.

Tín nói :

- Nghĩa bạn bè hoạn nạn phải có nhau. Chỉ vì tôi mà đại huynh bị liên lụy, tôi dù có móc gan lấy óc cũng chưa đủ chuộc tội này. Còn như thân mẫu ở Tế Nam, tiểu đệ xin chu cấp.

Bảo hai ba lần vái tạ. Tín láy năm mươi lạng bạc đưa Thúc Bảo, lại lấy hai mươi lạng biếu Đổng Hoàn, Kim Giáp, hai người bị ép bất đắc dĩ phải cầm.

Ba ngươi đi suốt ngày, tối mới vào hàng quán nghỉ. Một hôm gần tới Yên Sơn, trời sụp tối, vào khách điếm, Thúc Bảo hỏi chủ quán rằng :

- Thôn Thuận Nghĩa ở phía nào?

Chủ quán đáp :

- Cách đây năm dặm ở phía Đông.

Bảo lại hói :

- Ông có biết ai là Trương Công Cẩn không?

Nhà hàng đáp :

- Ông ta làm quan kỳ bài, ai mà chẳng biết. Gần đây, Nguyên soái lại kén một người Trung lãnh quân, tên gọi Sử Đại Nại, Nguyên soái muốn biết Trung lãnh quân có giỏi vũ nghệ không, nên đã sức lập một cái lôi đài trước miếu thổ địa thôn Thuận Nghĩa, hẹn trăm ngày không ai đánh nổi Sử Đại Nại sẽ được lãnh chức. Nếu có người đánh bại hắn, hắn xin nhường xách hành lý đi ngay. Hiện nay đã chín ngày rồi, còn có ngày mai nữa là Sử Đại Nại được lãnh chức anh hùng vô địch.

Ông Trương Công Cẩn và Bạch Hiển Đạo ngày nào cũng coi sóc lôi đài, các ông muốn tìm, cứ đến dưới lôi đài mà vẫy gọi.

Thúc Bảo mừng lắm. Sáng hôm sau, ba người ăn cơm cơm, trả tiền trọ, tới thẳng lôi đài. Lôi đài cao chót vót, cờ lọng cắm chung quanh rất uy nghi. Dưới dài, người xem kể có vạn đầu, ồn ào như sóng bể. Một lát có ba người phóng ngựa đến, lính quát người rẽ ra. Sử Đại Nại mặt dữ, vóc to, nhảy vót lên lôi đài, cởi chiếc áo bào đỏ trong mặc bộ áo quần xanh gọn ghẽ, Trương Công Cẩn và Bạch Hiển Đạo ngồi ở trong miếu nhìn ra; uống rượu cùng các thứ quả phẩm, phía sau có lính hầu.

Tần Thúc Bảo và hai công sai lại gần vào xem cho rõ. Sử Đại Nại múa mấy bài côn quyền rồi nói :

- Ta vâng lời Nguyên soái lên đài thách anh hùng, thiên hạ có can đảm thì lên đây tỉ thí. Hôm nay hết hạn trăm ngày, nào còn ai dám cùng ta thi sức?

Hỏi luôn ba lần, khán giả im phàng phắc. Đổng Hoàn ngứa mắt nói :

- Kẻ vũ phu kia coi thường thiên hạ quá. Tôi xỉn lên đánh nó!

Kim Giáp và Thúc Bảo chưa nói sao, Đổng Hoàn đã nhảy lên quát lớn :

- Có ta lên móc mắt mày đây!

Nói rồi múa quyền xông vào, dùng miếng cao thân mã thế đánh luôn. Sử Đại Nại né mình tránh dễ dàng rồi phóng chân đá vào người Đổng Hoàn. Hoàn toan hắt chân, nhưng Đại Nại khỏe, vững như cột dá.

Đổng Hoàn bị hắt ngã từ trên đài xuống đất.

Thấy bạn bi đánh, người xem vỗ tay chế nhạo, Kim Giáp nổi giận hầm hầm, phi mình nhảy lên, chẳng nói năng chi, múa quyền đánh Sử Đại Nại. Họ Sử nghiêng mình đánh dứ một cái rồi xoay mình chạy sang góc đông. Kim Giáp đuổi theo, Đại Nại quay mình lại dùng thế "thoát bào đả thử" tay luồn qua đùi Kim Giáp tung lên.

Giáp bị ngã ngược đầu xuống ván. Nại thét :

- Xuống đì!

Liền đá một cái, cả cái mình nặng nề của Giáp rơi tõm xuống bãi cỏ chân đài. Mọi người cười vạng như sấm.

Đánh xong hai người, Sử Đại Nại đứng khuỳnh tay, trừng mắt nhìn thiên hạ, coi bộ vô cùng kiêu hãnh.

Thúc Bảo lửa giận ngùn ngụt cháy, nhảy lên đứng trước mặt Sử Đại Nại, nhẹ như con én: Nại giật nảy mình, chưa kịp lùi giữ thế đã bị Thúc Bảo dùng sa quyền xoắn lấy Nại mà đánh tới tấp như dông bão. Sử Đại Nại hoảng kinh, hoa mắt, rối tay, muốn nhảy né xa nhưng không sao thoát được, phải dùng hết sức bình sinh đón đỡ. Mấy lần Đại Nại suýt ngã, cứ lùi mãi vào góc lôi đài. Người xem la hò như sấm động bốn phương. Sử Đại Nại cứ lùi mãi quanh mà đón đỡ, không trả được miếng đòn nào, mồ hôi vã như tắm, tuột cả áo rơi cả chiếc lụa hồng bịt tóc, và ở mí mắt Đại Nại đã có máu chảy ròng ròng.

Trương Công Cẩn nói nhỏ với Bách Hiển Đạo :

- Sử Đại Nại thua đến nơi rồi. hảo hán kia có lẽ là môn phái Sơn Đông. Lối đánh ấy phải là võ thuật gia truyền danh tướng. Sử Đại Nại còn kém lắm, địch làm sao được.

Hai người càng xem Thúc Bảo tiến lui, dùng đòn rất hiểm, mặt vẫn hồng hào không biến chuyển, tiến thoái vẫn lẹ làng như én liệng, đại bàng bay, không có chi là mệt nhọc. Trái lại, Sử Đại Nại đã hồng hộc thở, chân tay luống cuống, máu ở mắt càng chảy dữ, và ở má đã tím bầm. Công Cẩn hỏi một người xem :

- Vị hảo hán kia là ai thế?

Một người đáp :

- Hảo hán đó cùng đì với hai ngươi kia.

Trương Công Cẩn gạt người xem tiến đến phía Đổng Hoàn, Kim Giáp, xá mà hỏi :

- Xin hai ông cho biết vị hảo hán trên đài kia đại danh chi đó?

Kim Giáp đang vui mùng vì Thúc Bảo đang trả nhục cho mình,bèn nói :

- Đó là dũng sĩ Tần Thúc Bảo, tiếng tăm đã vang dộng đất Sơn Đông.

Công Cẩn mừng rỡ ngửa mật lên đài nói lớn :

- Tần hảo hán hãy dừng tay tha cho Sử Đại Nại được thở đã, có Trương Công Cẩn này muốn thưa câu chuyện.

Khi đó, Thúc Bảo đã dồn Đại Nại vào góc, đang sắp dùng độc thủ moi mắt Nại thì nghe có tiếng người gọi đích danh mình, lại xưng rõ cái tên mình đang muốn tìm kiếm, bèn trao mình nhảy xuống khỏi đài.

Đổng Hoàn vội đưa Thúc Bảo đến người lạ mặt. Bảo vái chào :

Tiểu đệ đang định đến yết kiến tôn nhan, ngờ đâu lại gặp nhau đây.

Công Cẩn mừng vô kể, dắt tay Thúc Bảo và mời cả Đổng Hoàn, Kim Giáp lên trên miếu, sai dọn tiệc. Yên vị rồi, Thúc Bảo lấy thư của Đơn Hùng Tín đưa Công Cẩn xem.

Đọc xong, Cẩn vui vẻ nói :

- Đại ca cứ an tâm, mọi sự an lành xin cứ tin ở Cẩn này hết cả.

Mỗi người uống vài chén. Công Cẩn sai lính dắt ba con ngựa để bọn Thúc Bảo cưỡi cùng mình về thôn trang truyền bày đại tiệe.

Tiệc tan, Công Cẩn lại mời bọn Thúc Bảo cưỡi ngựa đến trung quân phủ.

Tới nơi, Công Cẩn giới thiệu Thúc Bảo với Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc, Hàn Thực Chung và Lý Công Đán. Mọi ngươi vội thi lễ nói :

- Đại danh của Tần huynh bấy nay vẫn từ Sơn Đông vang dội đến cái miền Yên Sơn hẻo lánh này, nay được gặp, thật là đại hạnh.

- Hảo hán lại tới đây có việc chỉ?

Công Cẩn móc túi lấy tâm thư của Đơn Hùng Tín đưa bốn người xem, Anh em Uất Trì đọc xong thư đều cúi đầu xuống nghĩ một lát rồi khẽ nói :

- Đơn Hùng Tín viết thư phó thác Tần đại huynh cho bọn ta, có biết đâu rằng Nguyên soái đây ra kỷ luật quá nghiêm, hễ tội nhân nào đến cũng bị một trăm soái uy côn, trăm tội nhân chết chín chục người.

Nay đối với Tần hảo hán, ta biết xử cách nào cho ổn.

Lý Công Đán cũng cúi đầu nghĩ rồi chợt nói.

- Tiểu đệ có kế này. Nguyên quan Nguyên soái sợ nhất tội nhân có bệnh lao, Hễ ai mắc bệnh đó, được miễn roi lại còn được đưa đi chữa.

Tần đại huynh da hơi vàng, ta nói dối là có bệnh lao, thế là thoát được.

Bọn Công Cẩn gật đầu khen phải. Đoạn Uất Trì Nam sai đặt tiệc, cùng nhau say sưa nói chuyện giang hồ, bàn về võ nghệ, rất là tương đắc, tới khuya mới ngủ.

Sáng hôm sau, cùng đến cửa tổng dinh, ba hồi trống điểm, ba phát súng nổ vang. Trương Công Cẩn vào đứng ở ban kỳ bài. Bách Hiển Đạo về tả lĩnh quân, Uất Trì Nam, Uất Trì Bắc vào trung quân quan, Hàn Thực Chung, Lý Công Đán theo vào ban hữu thống chế, tề tựu theo thứ bậc lên công đường chào Nguyên soái.

Sau, đến phó tướng, nha tướng, lần lượt kéo vào bái kiến. Sử Đại Nai chưa lĩnh chức, còn đứng chực ở bên ngoài.

Đổng Hoàn, Kim Giáp giải Thúc Bảo cũng chờ được gọi vào đệ công văn. La nguyên soái đội khăn đỏ, trong mặc giáp sắt ngoài khoác áo bào chẽn hoa vàng ngồi giữa hai hàng binh sĩ, gươm trần, giáo dựng, rất uy nghiêm. La nguyên soái hỏi về việc lập lôi đài.

Trương Công Cẩn bước ra nói :

- Hẹn kỳ đã đủ trăm ngày. Không ai dịch nổi Sử Đại Nại, tiểu tướng xin về trình Nguyên soái.

La nguyên soái đòi Sử Đại Nạt vào. Nại sụp lạy dưới thềm.

Nguyên soái cho Nại thụ chức hữu lãnh quân.

Đại Nại tạ ơn về ban đứng. Những công sai các nơi vào trình công văn.

Kim Giáp Đổng Hoàn được vào trước. Nguyên soái xem xong, gọi Tần Quỳnh vào. Kim Giáp rập đầu nói :

- Tần Quỳnh người ốm yếu bị ho lao từ trước khi ở Lạc Châu, nay đi đường xa bệnh càng nặng lắm, luôn luôn hộc máu tươi ra. Xin đại quan phát lạc.

La nguyên soái vốn sợ người ho lao nhưng tính cẩn thận bảo cứ dẩn Tần Quỳnh vào. Tần Quỳnh mới bước tới cửa La nguyên soái thấy vàng vọt xanh xao bèn xua tay bảo dẫn ra, và truyền cho thầy thuốc chữa.

Sau đó La nguyên soái đứng lên. Ba phát súng nổ vang. Viên môn đóng chặt. Bọn Công Cẩn mừng cho Tần Thúc Bảo, lại rủ nhau về nhà Uất Trì Nam uống rượu mừng.

Đây nói chuyên La nguyên soái vào tư thất. Công tử là La Thành ra đón. La Thành vốn là sao Bạch Hổ xuống trần. Thành mắt sáng mặt trắng, môi son, năm ấy mới mười bốn tuổi văn hay, võ giỏi, đi đứng ung dung như người lớn. Sau này la Thành sẽ là anh hùng thư bảy đời nhà Tùy. La Thành nắm áo La nguyên soái nói :

- Mẫu thân con tự nhiên mặt ủ mày chau, lệ sa không dứt, hiện đang ngồi trên lầu ấy.

La nguyên soái vội lên lầu vấn an phu nhân. Tần phu nhân nói :

- Chẳng giấu gì phu tướng. Thiếp tôi nghĩ tình máu mủ mà đêm ngày nhớ tiếc. Tần huynh tôi đã vì chúa bỏ mình chiến địa. Nay còn vợ góa, con côi, không biết lưu lạc về đâu? Đêm qua, thấy Tiên huynh tôi hiện về báo mộng rằng Tần điệt nhi mắc nạn phải đày đến đây, hiện ở dưới trướng phu quân. Vậy một lời trân trọng, xin phu quân xét cho một chút máu mủ của thiếp tôi mà rộng ơn che chở cho điệt nhi được no lành, thiếp mang ơn lắm.

Nói rồi lại khóc. La nguyên soái bùi ngùi, hỏi :

- Phu nhân có biết lệnh điệt tên gọi là chi không?

Tần phu nhân nói :

- Thiếp nhớ thuở xưa, tiên huynh thiếp đặt tên nó là Thái Bình Lang.

La Công im tăng, rồi nhợt nhớ ra, nói :

- Sáng nay có một tên tù ở Sơn Đông, huyện Lạc Châu phải đày đến đây. Tên hắn là Tần Quỳnh tuổi còn đang độ trẻ.

Tần phu nhân giật mình, rú lên :

- Ôi chao, nếu vậy thì diệt nhi đã chết vì trăm soái uy côn rồi còn gì nữa!

La nguyên soái nói :

- Hắn bị ho lao, nên không bi đòn, hiện đã cho chữa thuốc.

Phu nhân mừng cuống quít bước xuống giọng :

- Thế thì nhà họ Tần thiếp còn có phúc. Chỉ còn sót lại giọt máu ấy mà thôi.

Nói rồi lại òa lên khóc, nói rằng :

- xin phu quân cho thiếp gặp điệt nhi. Nếu quả đúng thì thật tiên huynh thiếp anh linh lắm.

La nguyên soái nói :

- Muốn cho cẩn thận thì bây giờ tôi cho gọi hắn vào hậu đường, tra hỏi lại, phu nhân đứng nấp sau rèm mà nhìn mặt xem có đúng không.

Tần phu nhân vội nghe lời ra ngồi sau sau rèm đợi.

Tức thì La nguyên soái sai Tần ngạn Tân cầm lệnh tiễn đòi Tần Quỳnh vào hậu đườg ngay. Quan kỳ bài Tần Ngạn Tân phi ngựa tới nhà Uất Trì Nam, khi đó, Tần Thúc Bảo đang cùng bọn Uất Trì uống rượu, thấy kỳ bài đến đòi Thúc Bảo, đều sợ hãi.

Tần Ngạn Tân nói :

- Quan Nguyên soái phúc thẩm ở hậu đường, không có gì ngại hết.

Tần túc hạ cứ vững tâm đi.

Lát sau tới súy phủ, Ngạn Tân giao Thúc Bảo cho La Xuân dẫn vào.

Thúc Bảo ngẩng nhìn thấy La nguyên soái ngồi trên ghế trải da hổ, hai bên có gia tướng tuốt gươm hầu. Nguyên soái truyền cho Tần Quỳnh bước tới gần trước ghế. Thúc Bảo quỳ ở dưới thềm. La nguyên soái nói :

- Tần Quỳnh kìa, cha ông ngươi làm gì, ở đâu. Sao lại bị đày ra đây?

Thúc Bảo như có thần linh báo, nghi thầm: "Tự nhiên Nguyên soái hỏi tông tích mình chắc định làm ơn gì cho ta đây, Bèn đáp.

- Chúng tôi quê ở Tế Nam, ông tôi là Tần Húc, cha tôi là Tần Di làm Phục Lỗ tướng quân trước xe loan Tề chúa. Chẳng may đã chết ở chiến trường. Sau đấy, mẹ tôi góa bụa tôi thì bơ vơ mới lên năm tuổi.

Mẹ con dắt díu nhau sang đất Sơn Đông, Lớn lên quan tri phủ cho tôi làm Bộ đạo đô đầu, sai tôi giải mấy tên tội nhân sang Lạc Châu. Khi trở về, vào một tửu điếm chủ quán là Ngô Quảng đang đêm cầm đao vào những toan giết tôi để đoạt thâu hành lý. Tôi chống cự đá hắn một cái để giữ thân. Không ngờ hắn bị ngã vỡ đầu mà chết. Vì thế phải đày đến đất này.

La nguyên soái lại hỏi :

- Mẫu thân ngươi tên họ là chi? Thuở nhỏ ngươi có tên gì khác nữa không?

Thúc Bảo đáp :

- Thân mẫu tôi là Ninh thị. Thuở nhỏ, cha tôi đặt cho tôi là Thái Bình Lang.

La nguyên soái lại hỏi :

- Ngươi có bà cô nào không?

Thúc Bảo đáp :

- Tôi nhớ có một bà cô khi xưa lấy ông quan võ họ La. Cho đến ngày nay đã hai mươi năm rồi, tôi không được biết cô tôi ở nơi nào.

Từ nãy, Tần phu nhân đã nghe được rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, vội vén rèm bước ra, khóc òa lên :

- Tần điệt ơi, chính cô của cháu đây!

Nói rồi cầm tay Thúc Bảo. La nguyên soái cười khanh khách :

- Nghìn dặm một nhà, việc đời thật do Hóa Công xếp đặt run rủi hết.

Thúc Bảo ngơ ngác, không hiểu ra sao rụt tay lại mà sụp xuống đất :

- Dám bẩm phu nhản, tôi là một kẻ tù phạm, biết bao nhiêu tội lỗi.

Chỉ muốn được quan Nguyên soái tha chết cho là may.

La nguyên soái đứng lên, cúi nhấc Thúc Bảo dậy ôn tồn nói :

- Lão phu La Nghệ này là ông quan võ lấy cô ruột cháu đó. Cháu cứ an tâm mà lạy cô cháu đi.

Thúc Bảo vội sụp lạy Tần phu nhân và La nguyên soái. Sau dó, La Thành chạy vào vái lạy Tần Thúc Bảo. Cả nhà mừng rỡ, như tỉnh giấc chiêm bao. Tần phu nhân sai đun nước cho Tần Thúc Bảo tắm gội lại sai lấy quần áo mới cho thay, đoạn truyền bày tiệc rượu mừng.

Lúc sau, bọn Trương Công Cẩn nghe biết việc ấy, đều vui vẻ rủ nhau đem lễ vật đến mừng Thúc Bảo.

Từ đấy, Thúc Bảo ở liền trong soái phủ. La nguyên soái và Tần phu nhân nhận thấy Thúc Bảo mặt mũi phương phi, rõ dòng tướng phiệt, đều mừng rỡ. Một hôm, nhân nói về võ nghệ và binh khí, La nguyên soái nói :

- Hiền điệt ơi, thân phụ hiền điệt bỏ mình báo chúa, danh còn lưu lại, nhưng chẳng hay đôi Kim giản họ Tần nay lưu lạc phương nào, đã vào tay ai không rõ. Lão phu thường nghĩ đến lấy làm tức lắm.

Thúc Bảo nói :

- Khi thân phụ cháu mất đi, cháu lớn lên nhờ lão bộc La Hán truyền dạy giản pháp để ghi lại môn võ họ Tần, ngày nay cháu còn nhớ hết.

La nguyên soái vội hỏi :

- Vậy kim giản cháu để đâu?

Thúc Bảo bèn thuật lại chuyện tri phủ Lạc Châu kết tội tù đạo tặc, đã thu kim giản, ngựa quý, yên đẹp sung vào công khố.

La nguyên soái nói :

- Cháu cứ khai mất những gì, ta sẽ sai người cấp tốc đến Lạc Châu đòi lại.

Thúc Bảo nói :

- Vây thì may quá. Hiện có hai công sai đẫn cháu chưa về, mai xin giao thư cho họ về trình lại tri phủ thì tiện lắm.

Nói rồi, chờ tan tiệc Thúc Bảo về phòng viết thư tạ ơn Đơn Hùng Tín, nói nhờ Tín báo cho Tần mẫu biết mình đã gặp Nguyên soái La Nghệ xứ Yên Sơn.

Sáng hôm sau, La nguyên soái thân viết thư đóng kiềm ấn Nguyên soái, sai Đổng Hoàn, Kim Giáp mang về trình Lạc Châu tri phủ.

Thúc Bảo cầm thư lên ngụa đến thẳng nhà Uất Trì Nam để giao thư cho Kim Giáp, Đổng Hoàn. Vừa lúc đó hai người đang sửa soạn hành lý ra về, thấy Thúc Bảo đến thì mừng rỡ nắm lấy tay mà chúc tụng. Thúc Bảo nhờ đưa thư, lại kèm thêm hai mươi lạng bạc tặng làm lộ phí.

Hai người vái lạy, lên đường. Thúc Bảo tiễn ba dặm, rồi quay vào cùng bọn Trương Công Cẩn uống rượu chuyện trò vui vẻ hồi lâu, Bảo mới lên ngựa về La soái phủ. Mấy hôm sau nhân nói về võ nghê, Thúc Bảo ứng dối như nước chảy La nguyên soái, khi về trướng nghỉ, vui mừng nói với phu nhân :

- Tôi xem Tần điệt, tướng mạo khác thường, võ nghệ, bỉnh pháp tỉnh thông. Tôi muốn cất nhắc cho Tần điệt một chức quan, nhưng hiềm nỗi Tần điệt chưa có công lao, lại đang là một phạm nhân, nhất đán cho quan chức, tất chúng sẽ chê ta tây vị, ý ta cho Tần điệt cùng chúng thi tài võ nghệ, rồi sẽ cho làm quan dưới trướng ta, như vậy lòng người mới phục.

Tần phu nhân khen phải và cảm tạ. Ngay hôm đó, La nguyên soái nói cho Thúc Bảo biết. Bảo mừng lắm nói :

- Tiếc rằng đổi giản lại không có ở đây.

La Thành nói :

- Biểu huynh dùng giản của em cũng được.

Nói rồi lấy giản dưa Thúc Bảo. Bảo cầm xem vừa ý lắm.

Sớm sau, đầu canh năm, La nguyên soái sức truyền tướng sĩ sửa soạn giáo trường luyện võ. Ba tiếng súng nổ vang, cổng soái phủ mở toang. La nguyên soái mặc giáp cầm thương lên ngựa, theo sau có nha tướng đi hầu.

Tới giáo trường, La nguyên soái lên tướng đài ngồi, ba hồi chiêng trống khua vang. Nguyên soái hạ lệnh ba quân tập trận. Cờ xanh phất, đoàn ky mã bày thành trận thế, sau là bộ binh theo chiến thuật mà dàn, tiến lui đúng phép, người ngựa chuyển hết thế trận này sang thế trận khác, biến hiện thần diệu. Ba phát súng sau, quân nào lại về đội ấy.

Sau đến cuộc thi tài cung tên. Đích đặt ở phía Nam, các tướng hễ ai băn trúng thì trống nổi ran, ngươi nào bắn sai thì mi phăng phắc.

Chúng bắn hết lượt rồi, Nguyên soái truyền gọi tội nhân ở Sơn Đông ra. Thúc Bảo nghe loa gọi, dạ to một tiếng dưới tới thềm cúi đầu chờ tướng lệnh.

La nguyên soái nghiêm mặt nói :

- Ta muốn kén chọn một Đô lãnh quân, bất luận là quân lính hay tù phạm, ái có tài cung tên, đao kiếm thì cho xung chức. Người có tài cán thì cho thi thố trước ba quân!

Bảo nói :

- Chúng tôi quen dùng kim giản, xin cho biểu diễn.

La nguyên soái truyền mã phu dắt ra một chiếc ngựa cao to. Thúc Bảo nhảy lên yên, không cầm cương, lấy chân thúc ngựa cho phi ra giữa giáo trường. Đó là ngựa riêng của La Nghệ, có ý dành cho Thúc Bảo từ trước. Tuấn mã cất bốn vó phi như gió trên mặt cỏ xanh. Ngựa chạy một vòng. Bảo lấy đùi ghìm ngựa, rút đôi giản múa. Giản pháp dòng họ Tần cũng giống như giản pháp họ La, thật là thần diệu. Một lát người ta chỉ nghe tiếng gió vù vù, và chỉ thấy một vòng hào quang sáng lóe, không thấy người đâu nữa, Bảo vừa múa vừa thúc ngựa phi, thành ra cái vòng hào quang đó bay lơ lửng trên yên ngựa, đẹp như một chiếc cầu vồng sa xuống đất. La Nghệ tấm tắc khen, buột miệng nói to :

- Thật là cha hùm, con hổ. Dòng danh tướng muôn thuở còn ghì mãi.

Thúc Bảo biểu diễn đủ 3sáu bài giản, dừng ngựa trước tướng đài, nhảy xuống lạy Nguyên soái chờ tướng lệnh.

La Nghệ hỏi to :

- Có ai chê giản pháp của Tần Quỳnh không?

Bọn Uất Trì Nam Trương Công Cẩn bước ra.

- Chúng tôi xin bái phục!

Vừa dứt lời, có người bước ra nói lớn :

- Sao lại bái phục cái tài mọn đó?

Thúc Bảo ngửng trông, người ấy mình cao lớn, mắt tròn mặt xám đen, râu tua tủa như thép, mặc giáp dẫm, giày da báo. Đó là Ngữ Khôi, là cháu họ tể tướng Ngữ Kiến Chương triều Tùy khi đó. Tùy văn đế phong cho Ngữ lôi làm tiên phong đã lập nhiều chiến công tốt đẹp.

La nguyên soái có ý không bàng lòng cau mày nói :

- Tài đến thế, mà ngươi dám chê bai. Ngươi định làm rối quân pháp ta chăng?

Khôi né mình lạy mà đáp :

- Tần Quỳnh là một tên tù tội, chỉ đang quét nhà lao, hầu phân ngựa, sao lại dám sánh ngang hàng đại tướng danh thần của triều đình đã dày công huyết hãn. Còn cái tài giản ấy chưa thể gọi là tài, vì nhận kỹ còn sai nhiều lắm.

Rồi quay hỏi Thúc Bảo rằng :

- Ngươi có tài cung tên thì thi thố ra, để làm trò cười nữa cho thiên ha.

La Nghệ giận lắm nhưng cố nén kẻo quân sĩ biết là thiên vi, bèn nói :

- Ừ Tần Quỳnh có giỏi cung tên không đó? Thúc Bảo nói :

- Cung tên cung là cái nghề chơi từ thuở nhỏ của chúng tôi, xin cho phép bắn chim ngang trời.

Khôi cười khanh khách :

- Bắn vịt dưới nước chưa chắc trúng, nói gì đến việc bắn chim bay!

Ngươi nói khoác không sợ chết ư?

Bảo cười nhạt đáp :

- Ngươi chớ nên ghen ghét. Có lẽ từ xưa ngươi chỉ là con ếch ngồi đáy giếng chưa mở mắt xem phép giản họ Tần này, cũng chưa được thấy tài bách bộ xuyên dương của ta đây.

Khôi đỏ mặt nói :

- Nếu ngươi bắn được chim bay, ta xin quỳ dâng ấn tiên phong ngay lập tức. Nhưng ngươi không bắn dược thì sao?

Bảo nói :

- Ta cho ngươi cái đầu của ta!

La nguyên soái nói :

- Đã vậy thì hai người làm giấy cam đoan đi đã.

Hai người cùng ký kết. Rồi đó, Thúc Bảo cầm cung tên ngửa mặt lên trời. May sao thấy đổi chim nhạn từ phương tây đến, đôi nhạn chồng cánh lên nhau mà bay rỡn trên mây cao.

Thúc Bảo giương cung. Cánh dâu uốn như vành trăng thượng tuần, Bảo nói to :

- Tôi bắn xuyên qua cổ đôi hồng nhạn trên cao kia đó! Trông này!

Mũi tên vút lên trời xa thẳm. Đôi hồng nhạn sa ngay xuống giữa giáo trường.

Quán sĩ và bọn Uất Trì, Công Cẩn, La Thành reo vang như sấm động, mưa rào. Một tên quân được phép chạy ra nhặt đôi nhạn lên dâng La nguyên soái. La Nghệ nhìn kỹ mũi tên xuyên ngang cổ đôi chìm, kinh ngạc mà thầm nghĩ :

- "Quái, tài giản thì họ Tần vốn giỏi đã đành. Còn nghề thương và cung nỏ, trong thiên hạ tưởng chỉ có họ La, vậy mà Tần điệt cũng có tài thần tiễn như thế này!".

Nghĩ rồi khen không ngớt. Đoạn bảo Ngữ lôi :

- Tài giản, tài cung tên đã thế, ngươi có còn gièm chê nữa chăng?

Giấy tờ cam đoan đã ký kết, kẻ anh hùng hảo hán nên tự trọng, người khá dâng ấn tiên phong cho Tần Quỳnh, kẻo ta quân lệnh mà trị đó.

Ngữ Khôi cười :

- Ấn tiên phong của triều đình ban cho tôi, sao lại nhường cho một tên tù chăn nwja, quét rác kia, không có lý nào lại thế!

La Nghệ giận lắm quát :

- Tên này nói năng vô lễ, để cho thất phu sống làm gì nưa.

Rồi truyền võ sĩ đem ra chém. Lôi kêu lớn :

- Nguyên soái giết tôi là bất công, hãy để tôi thi võ cùng tên tù tội, tôi giết nó rồi chết cũng vui lòng!

La nghệ nén giân dữ, cho võ sĩ lui ra, rồi bảo Tần Thúc Bảo :

- Bản soái cho ngươi cùng Ngữ Khôi đấu võ. Đoạn sai lấy giáp, mã đưa Thúc Bảo. Mặc giáp lên yên, Thúc Bảo phi ngựa ra giữa giáo trường, đường đường là một thiếu niên dũng tướng. Bảo quát to :

- Ngữ Khôi ra đây chịu chết mau!

Khôi thúc ngựa múa đao chém Bảo. Đôi giản đón đỡ làm bật đao Khôi lại. Lúc đó Khôi coi bốn bể không ai lọt mắt, thấy Thúc Bảo khỏe lạ lùng lại đỡ luôn ba bốn miếng giản rất hiểm ác. Khôi bắt đầu toát mồ hôi. Cứ thế trong ba mươi hiệp, đao giản lóa lửa vây xoắn lấy nhau, ngựa hí, nhạc reo, trống quanh tướng đài vang rộn. Dần dần, đôi giản của Bảo chỉ còn là đạo ánh sáng và tiếng gió vù vù uốn lượn quanh Khôi. Khôi không còn hồn vía, hai tay rời rã, mắt hoa, đầu nhức, chỉ còn cố nghiến răng đón đỡ, rồi thừa một miếng đòn Thúc Bảo vờ đánh hở, Khôi né mình phi ngựa chạy. Nhưng ngựa chưa kịp cất vó, Khôi đã bị đôi giản kia chập lại đánh nát óc ra mà chết. Xác Khôi rơi xuống, con ngựa lồng chạy mãi.

La nghệ thầm khen tài cháu nhưng thấy Ngữ Khôi chết thảm quá thì có ý tiếc ngồi ngẩn mặt ra. Bọn Uất Trì Nam, Trương Công Cẩn đứng thì thầm :

- Tiếng đồn Sơn Đông Tần Thúc Bảo quả không ngoa. Tần huynh sẽ là dũng tướng của triều đình đó!

La Thành thấy anh thắng trận thì nhảy tót ra nắm cương ngựa Thúc Bảo mà cười khanh khách :

- Biểu huynh giỏi lắm, để mai đấu võ chơi với La Thành này một bữa nhé!

Các tướng xúm lại xem, thấy Ngữ Khôi chết hẳn rồi. La nguyên soái truyền khiêng thi thể Khôi ra khâm liệm an táng, đang khi ấy, một người bước ra kêu to lên :

- Sao Nguyên soái dung túng một tên tù để nó giết người như thế?

La Nghệ ngoảnh ra. Đó là Ngữ Lạng, em Ngữ Khôi. La Nghệ nổi giận quát.

- Lại tên thất phu này nữa. Ngươi không trông thấy anh ngươi coi người như cỏ, đã ký kết với Tần Quỳnh, rồi lại nuốt lời thách đấu võ.

Gươm đao không biết nể ai, kẻ làm tướng chỉ có thắng bại, và sống chết, ngươi còn oán gì ta nữa?

Đoạn sai kéo Ngữ Lạng ra ngoài. Ngữ Lạng bước ra ôm lấy xác anh khóc rống lên ba tiếng, rồi lủi thủi đi ra ngoài thành đứng bên một gốc cây ngẫm nghĩ :

- Thù này ta phải trả. Chi bằng ta sang ngay nước Sa Đà xúi giục La Khả Hầu cất đại binh phá nát Yên Sơn, bắt La nghệ, Tần Quỳnh băm nhỏ ra mới hả.

Nghĩ rồi thẳng sang nước Sa Đà.

Lại nói, La Nghệ truyền quân si kéo về soái phủ. Bọn Uất Trì Nam đến nắm tay Thúc Bảo mà khen ngợi. Sau đấy, La nguyên soái lên ngựa đi trước, Thúc Bảo từ biệt bọn Uất Trì, cùng La Thành cưỡi ngựa theo sau La nguyên soái.

Tần phu nhân ra đón, thấy La tướng quân có dáng băn khoăn, kinh ngạc hỏi căn do. La tướng công thuật việc Tần Thúc Bảo đánh chết Ngữ Lôi cho phu nhân nghe. Tần phu nhân cả sợ. Chợt một nha tướng bước vào báo tin Ngữ Lạng căm giận ra khỏi thành không biết trốn đi đâu.

La Nghệ băn khoăn lắm, đoán thế nào Ngữ Lạng cũng lập mưu làm phản, bèn cho quân đì do thám về báo Ngữ Lạng sang nước Sa Đà xui L Khả Hầu cất quân đánh Yên Sơn.

La nguyên soái làm biểu cho người về kinh sư dâng hà vua.

Thúc Bảo một hôm nhớ mẹ già quê nhà tựa cửa bỗng nước mắt ứa ra. Bảo nói với Tần phu nhân và La tướng công xin về Tế Nam thăm lão mẫu. Vợ chồng La Nghệ lưu giữ không được đành đặt tiệc tiễn hành, và ân cần viết thư tiến cử Thúc Bảo với quan trấn thủ Sơn Đông là Đường Bích. Vừa lúc đó có người Lạc Châu do Sài tri phủ sai đem Kim Giản và ngựa quí, yên đẹp đến trả lại Tần Thúc Bảo.

Bảo mùng rỡ nhận ngựa và Kim Giản, sửa soạn hành lý khởi hành.

La Thành tiễn năm dặm mới quay về soái phủ. Thúc Bảo đến nhà Uất Trì Nam và Trương Công Cẩn lạy biệt, lại cùng nhau uống rượu, rồi lên đường thẳg tới Lạc Châu.

Vương tởêu nhị hồi trước đã giữ hành lý và bắt Thúc Bảo bán ngựa trả nợ mình, xa trông thấy Thúc Bảo cưỡi Long câu mặc cẩm bào, thì sợ hãi chạy vào bảo vợ :

- Cái ông khách thiếu tiền trọ ngày nọ bây giờ sang trọng lắm, tất nhớ thù xưa mà hỏi tội ta.

Nói rồi lên sửa soạn chạy trốn. Vợ là Liễu thị bước ra sụp lạy đón vó ngựa mà rằng :

- Ngày nọ phu quân tôi vì ngu dốt, thô lỗ mà cam tội với Đại Gia, xin ngươi mở lượng hải hồ tha cho thì chúng tôi xin ngậm vành kết cỏ đền ơn!

Thúc Bảo nói :

- Mời hiền ân nhân đứng dậy. Cái ơn cho cơm nguội không khác chi cái ơn Siêu mẫu, Bảo này dầu có làm nên nghiệp lớn cũng xin khắc để bên lòng. Nay tạm có mười nén vàng, gọi là tạ nghĩa hiền nhân, Nói rồi lấy vàng đưa Liễu thị, Nàng sụp lạy mà tạ ơn.

Thúc Bảo lại lên yên phóng đến Nhị Hiền trang. Gần tới nơi, trời đổ tối. Bóng trăng rải buồn tênh trên rừng núi quạnh hiu. Người ngựa cùng mệt mỏi, phải qua ba đợt núi, bốn quãng rừng mới tới trang viên bọ Đan.

Hùng Tín nghe gia nhân nói thấy Thúc Bảo về Lạc châu, nên vui mừng ra rừng đón đợi. Khi đó nghe nhạc ngựa reo vang. Tín hỏi :

- Ngựa Tần đại huynh đó chăng?

Nhận được tiếng Hùng Tín, Bảo mừng rỡ lên :

- Chính tiểu đệ đến tạ ơn trời bể của ân nhân đây.

Tín so cương kìm ngang ngựa Bảo mà cười :

- Sao lại nói đến điều tạ ân tạ nghĩa cho mất cái khí phách của trượng phu. Nay được thấy mặt đại huynh là thỏa lòng Tín này rồi.

Bóng trăng sáng soi ngàn dặm để cố nhân đến vơi bạn xưa, thật là vui sướng biết bao nhiêu.

Đôi ngựa sóng đầu luồn qua cành cây rừng, dẫm lên cỏ rậm, theo bóng trăng mà vừa đi vừa hàn huyên tâm sự ngày xa cách. Tới trang, tiệc rượu đã sàn bày, trăm nến sáng với đèn đồng rực rỡ. Bảo ngạc nhiên :

- Tiệc bày sẵn đãi khách nào đây?

Tín cười :

- Tiểu đệ biết đại huynh qua thăm, nên lòng thành bày tiệc sẵn.

Bảo cảm động vô cùng. Tiệc vui nửa chừng, Tín đặt chén nghiêm mặt nói :

- Tiệc xong đại huynh nên về Tế Nam ngay. Là vì từ ngày đại huynh đi, tiểu đê nhận được hai lá thư do lão mẫu viết Tiểu đệ có trả lời. Gần đây, lại có một phong thư nhưng là chữ của lệnh tẩu viết nói rằng lão mẫu bất an, cầm không được bút. Đại huynh nên ngày đêm rong ruổi cho mẹ già khỏi chờ mong.

Nghe nói, Thúc Bảo để rời chén rượu xuống đùi, nước mắt ứa ra :

- Nếu vậy xin cho tiểu đệ đi ngay bây giờ, không còn lòng nào ngồi nữa. Khi thân mẫu bình phục rồi tiểu đệ sẽ lại đến đây cùng nhau trò chuyện cho thỏa tình khao khát bấy lâu nay.

Tín không lưu giữ. Bảo lên ngụa, phi dưới trăng khuya, như mây bay gió cuốn, không nghỉ một lúc nào.

Mãi tới chiều hôm sau, tới tỉnh Tế Nam, Bảo về tới sân, thả ngựa ra vườn, gõ cửa lo lắng gọi :

- Hiền thê ơi, bệnh trạng thân mẫu ra sao?

Trương thị thảy chồng về, mừng khôn xiết, tay đỡ gói hành lý, miệng khẽ nói :

- Mẫu thán vừa uống thuốc chợp đi đó, phu quân đi khẽ chứ.

Bảo cởi bỏ giày, bước chân không đến quỳ dưới đầu giường khóc mà nhìn da mặt mẹ già xanh xao, thân thể gầy mòn như cành củi. Chợt Tần mẫu mở mắt ra, khò khè nói :

- Con dâu của mẹ có đấy không Trương thị nói :

- Thưa mẹ, con đây.

Tần mẫu thờ mệt nhọc nói :

- Mẹ vừa chợp mắt thấy Tần nhi, mẹ tưởng chồng con đã từ địa ngục hiện về đón mẹ.

Thúc Bảo ôm lấy mẹ, khóc nấc lên :

- Mẹ ơi, thằng Thái Bình Lang bất hiếu đã về đây!

Tần mẫu chỉ vì thương nhớ con mà thành bệnh, nay rõ ràng sờ thấy mặt con bệnh tiêu tan hết, khóc ngồi lên.

Thúc Bảo dập dầu lạy mẹ. Tần mẫu nói :

- Con ơi, mẹ nhờ vợ con biết đạo làm dâu thờ mẹ, dâng cơm cháo thuốc thang cho mẹ sống đến ngày nay. Con đừng lạy mẹ, chính phải lạy vợ con mới phải!

Thúc Bảo vâng lời quay lạy Trương thị. Trương thị vội sụp xuống lạy trả chồng. Tần mẫu nói rằng :

- Từ ngày con ra đi, lao lung những thế nào nói cho mẹ và vợ con được biết.

Bảo bèn kể sự mắc án ở Lạc Châu, phải đày đi Yên Sơn rồi gặp cô gia cô mẫu. Tần mẫu tủi tủi, mừng mừng hỏi :

- Thế cô gia con hiện dang làm gì, đã có mấy con trai?

Bảo nói :

- Cô gia con làm Nguyên soái ở Yên Sơn, cô mẫu con đã sinh được một trai tên gọi là La Thành mới mười bốn tuổi.

Tần mẫu mừng rỡ quá, lại chảy nước mắt ra. Bảo lại kể ơn Đơn Hùng Tín, biết lấy gì báo đáp. Nguy Trưng nghe tin chạy ngay đến ôm lấy Thúc Bảo mà tỏ nỗi vui mừng. Rồi các bạn cùng rủ nhau kéo đến đầy nhà. Trương thị làm tiệc khoản đãi hết mọi người, tiếng cưới nói suốt ngày, khiến Tần mẫu bệnh trăm phần khỏi cả.

Hôm sau, Thúc Bảo đeo kim giản, mặc võ trang, đem thơ tiến cử của La Nghệ đến soái phủ Đường Bích để trình.

Nguyên Đường Bích quán Giang Đô, sau khi bình được nước Trần, triều dình phong cho làm Hàng huyện công, dinh phủ to như tòa Tam Tư ở kinh đô, lại kiêm chức trấn thủ Sơn Đông kèm cả chức Tiết độ sứ.

Hôm ấy, Thúc Bảo vào quỳ dâng thơ La nghệ.

Đường Bích xem thơ, truyền vời Thúc Bảo vào. Bảo vào quỳ trước thềm đợi lệnh. Đường Bích ngắm nhìn Thúc Bảo lưng đeo kim giản, tướng mạo đường đường, có ý yêu mến ngay. Đường Bích nói :

- Ta vâng lời La nguyên soái hãy tạm cho ngươi giữ chức kỳ bài quan, mai sau có công trạng sẽ thăng thưởng.

Bảo lạy tạ, ngay lúc dó, Thúc Bảo được ban quần áo đoạn lui ra, về dinh, đã thấy hai mươi tên quân theo sau vào yết kiến.

Thúc Bảo từ hôm nhận chức kỳ bài, được Đường Bích trọng dụng như thượng khách, luôn luôn mời vào hậu dinh cùng uống rượu chuyện trò. Thấy vậy quân lính càng kính sợ Bảo lắm.

Thấm thoắt, Thúc Bảo làm việc đã hơn bốn tháng. Một hôm, Đương Bích vời Bảo vào, tự rói rượu mời rồi nói :

- Đến rằm tháng giêng năm sau, Việt Quốc Công Quảng đại gia ở kinh sư ăn mừng thượng thọ, ta cần đưa lễ vật vào mừng. Trong thiên hạ giặt cướp như ong, ta muốn cậy ngươi đi giúp. Nhà ngươi có sức mạnh khác thường, vì ta mà đi cho việc ấy thì hay lắm.

Thúc Bảo xin tuân lệnh. Đường Bích cả mừng sai khiêng đôi hòm lớn ra, trong đựng rất nhiều báu vật như dạ minh châu, đai ngoé nạm rồng vàng, kim cương, bảo gấm, một tờ chúc thọ.

Đường Bích giao mã bài lịnh tiễn cho Thúc Bảo, lại sai hai tên quân mạnh khỏe biết võ nghệ theo hầu Thúc Bảo ở dọc đường.

Bảo về lạy mẹ, rồi sửa soạn hành lý. Tần mẫu rơi nước mắt vì thấy con lại ra đi muôn dặm xa xôi. Bảo an ủi mẹ già :

- Lần này con ra đi chỉ một hai tháng sẽ về, mẹ cứ an lòng.

Rồi ân cần dặn vợ hầu hạ mẹ khi khuya sớm. Sau đó lên ngựa cùng hai tên quân hầu ra đi.

Ra khỏi địa phương Sơn Đông Hà Nam, Thúc Bảo cho ngựa đi chậm lại, ngửa mặt nhìn ngọn núi Thiếu Hoa ở huyện Hoài Âm, đường núi quanh co, cây cao cỏ sắc um tùm. Bảo ngờ có quân lạc thảo, thúc ngựa lên đi trướcc, tay cầm giản sẵn. Thốt nhiên có tiếng lâu la và tiếng nhạc reo vang. Một chiếc ngụa đen rẽ lau đè cỏ phi ra, trên yên một đại hán mặc áo đen phanh ngục, đầu đội nón chiến lợp bằng lông quạ, mặt đen, râu cứng, mắt lồi, thét vang đòi mãi lộ.

Thúc Bảo cười nhạt, múa kim giản đánh. Giản bay như gió cuốn, tướng sơn lâm chỉ kíp đón đỡ được mươi hiệp rồi yếu thế chỉ toan phóng ngựa chạy lên núi trốn.

Tướn g đó là Tề Quốc Viễn. Lâu la thấy chủ tướng sắp thua, liền lên núi, thở hồng hộc nói với hai ngươi dang ngồi uống rượu.

- Tề đầu lĩnh gặp một gã trẻ tuổi có long câu rất đẹp, đánh giản giỏi vô cùng. Tề đầu lĩnh không sao địch nổi, chúng tôi phải về cầu cứu nhị vị Đại vương.

Hai người đó, một là Vương Bá Dương, sau khi từ biệt Thúc Bảo qua núi này gặp Tề Quốc Viễn đòi mãi lộ bèn đánh ba hiệp Viễn đã thua sụp lạy mời Bá Dương lên sơn trại làm đầu lĩnh, và một người nữa là Lý Như Khuê cũng là tay hảo hán có tài sang kiếm.

Bá Dương và Như Khuê nghe nói bèn cầm binh khí lên ngựa xuống núi, đến nửa chừng Bá Dương trông rõ một hảo hán cầm kim giản, nhận ra người cũ gọi to lên :

- Tần đại huynh ơi! Có tiểu đệ đây.

Tần Thúc Bảo nghe tiếng quen gọi đích tên mình, rẽ ngựa sang một bên, ngẩng nhìn lên thấy Bá Dương, mừng khôn xiết. Bá Dương giới thiêu Tần Thúc Bảo với Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê.

Khuê, Viễn vội vàng xuống ngựa vòng tay xá: Núi thái sơn trước mắt mà không biết, chúng tôi có mắt như mù, xin Tần nghĩa sĩ Sơn đông rộng thứ cho. Bấy nay thường nghe đại danh như sấm, nay gặp tôn nhan, thật vạn hạnh.

Sau đó ba người mời Thúc Bảo lên sơn trại. Qua Uyển Tử thành cùng vào Tụ Nghĩa sảnh, truyền lâu la soạn tiệc.

Vương Bá Dương nói :

- Ngày hôm đó Đơn nhị ca cùng tiểu đệ đến quán Vương tiểu nhị tìm thì đại ca đã đi rồi. Khi đó Đơn nhị ca có việc đang bối rối, phải quay về, còn tiểu đệ đuổi theo nhưng không thấy. Tiểu đệ cùng Tạ Ứng Đăng mỗi người đi mỗi ngả. Sau gặp hai hảo hán đây, tiểu đệ đành tạm lên sơn trại này ẩn náu chờ cơ hội sẽ xuất đầu lộ diện.

Thúc Bảo cũng đem đầu đuôi trước sau kể cho ba người nghe.

Bá Dương nói :

- Tiểu đê ngồi mãi đây đã thấy buồn nay đại ca đến kinh sư, cho tiểu đệ cùng đến xem phong cảnh đất đế đô cho khuây khỏa.

Thúc Bảo vui mừng :

- Thế thì hay lắm. Vậy xin sửa soạn hành lý để khởi hành.

Tề Quốc Viền. Lý Như Khuê, cũng đồng thanh nói :

- Nếu Vương đại ca đi thì cho hai chúng tôi cùng nối gót.

Thúc Bảo không trả lời, thầm nghĩ: Vương Bá Dương là một tay hào kiệt, bạn của Đơn Hùng Tín ân nhân ta, văn võ đều đều tinh thông. Còn như hai người này mới biết mặt chứ không biết lòng ra sao, họ ở chỗ lục lâm đã quen thói bạo tàn, đến Tràng An quan quân nhiều, tai mắt lắm, nhỡ xảy ra sự gì thì nguy khốn cho mình.

Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê thấy Thúc Bảo im lặng thì cười nói :

- Hẳn là Tần nghĩa sĩ ngại nỗi anh em chúng tôi là kẻ lục lâm cường đạo nên có ý sợ chúng tôi làm điều thô lỗ. Nhưng tuy là kẻ thất phu, chúng tôi được đi hầu hai đại huynh cũng phải giữ tròn lễ nghĩa, dám đâu để liên lụy cho đại huynh.

Nghe chúng nói tận tình, Thúc Bảo không còn nỡ từ chối nữa, đáp rằng :

- Nếu hai hiền đệ lấy lễ nghĩa làm trọng, cho khỏi có sự phiền nhiễu cho nhau thì xin cùng đi cả cho vui.

Hai người mừng lắm, bèn kén năm lâu la mặt mũi khôi ngô, tráng kiện cho đi theo. Còn ba trăm kẻ khác phải ở trên sơn trại cấm tuyệt không cho đi xuống núi cướp bóc.

Canh hai đêm ấy, sáng trăng suông, cả bọn cùng xuống núi, thẳng tới đất Thiểm Tây.

Ngày thứ tư, cách kinh sư sáu mươi dặm, thấy một ngôi chùa mới.

Thúc Bảo nghĩ thầm :

- Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê, ta không nên dắt chúng ngay vào kinh đô, tất chúng sẽ rượu chè sinh vạ lớn âu là nhân có ngôi chùa mới kia ta vào xin một tăng phòng cho chúng ở, chờ tối hôm nào có cơ hội hãy bảo chúng vào kinh đô, như vậy không còn lo nguy hiểm nữa.

Nghĩ xong nói rằng :

- Hai hiền đệ ơi, tôi có một ý này muốn nói ra, chỉ e hai hiền đê không ưng nên chưa dám nói.

Tề Quốc viễn và Lý Như Khuê vội đáp :

- Chúng tôi theo hầu hai đại huynh, có lẽ đâu dám trái lời dạy bảo.

- Ở chốn kính sư ngày hội, thiên hạ bốn phương kéo về đông đúc, các khách điếm chật chội, ăn uống không được như ý thích. Chi bằng nhân có ngôi chùa kia mới dựng xem ra cao ráo cây cối âm u, ta vào trọ tại đấy, tha hồ cưỡi ngựa, bắn cung, rồi hôm nào có hội ta cùng vào dạo chơi, hưởng thú ca lâu tửu điếm, như vậy vừa tiện vừa thích ý hơn, hai hiền đệ nghĩ thế nào?

Quốc Viễn, Như Khuê vui vẻ nói :

- Được thế thì hay lắm, chúng tôi đã đến đây nhất nhất xin theo đai huynh xếp đặt.

Sau đó cả bọn vào chùa. Thật là một ngồi chùa mới dựng, rất là tráng lệ, nguy nga. Bốn bề cây cao bóng mát, bãi cỏ vươn hoa rộng mông mênh. Trước cửa có tượng La hán, trong chùa tượng Phật vàng sơn chói lọi.

Nguyên do, từ khí Đường công Lý Uyên ở chân núi Lâm Đồng được Tần Thúc Bảo đánh bọn Tấn vương phá vòng vây cứu mình thoát nạn, thì phóng ngựa đuổi theo để hỏi tên họ mong báo đáp, nhưng Thúc Bảo sợ tai vạ phi ngựa chạy.

Thấy Lý Uyên cố đuổi theo hỏi tên tuổi mãi, bất đắc dĩ phải xưng là Tần Quỳnh, nhưng khi xưng tên, Bảo giơ tay lên! Thành ra Lý Uyên chỉ nghe được chữ "Quỳnh" và thấy Bảo khi nói có xua tay thì đoán là chữ "Ngũ", nên từ đấy Lý Uyên cứ yên trí là Tần Ngũ.

Về đến đây, Lý Uyên đêm ngày nhớ công ơn ấy, nên lập ngồi chùa mới này, gian bên hữu có bức hoành phi khắc chữ ân công "Quỳnh Ngũ sinh vị" trên án cao có dựng pho tượng rất lớn giống hệt Tần Thúc Bảo, hai bên có kẻ hầu dắt con long câu, và cầm đôi kim giản.

Hôm ấy, nhà sư dâng mời cả bọn cơm chay xong, thấy trời còn sớm bèn dắt nhau đi xem phong cảnh. Trước hết lên đại điện, Tần Thúc Bảo và Vương Bá Dương ngẩng đầu nhìn đọc mấy chữ bài vị kia lại nhìn pho tượng giống Thúc Bảo in như đúc, Bá Dương kinh ngạc ghé tai Thúc Bảo hỏi khẽ :

- "Đại ca có nhận thấy pho tượng kia giống đại ca không?". Mà sao trên bài vị lại đề Tần Ngũ? Thật là khó hiểu.

Tần Thúc Bảo tuy cũng nhận ra pho tương đó giống mình đang nghi ngờ kinh hãi thì thấy một hòa thượng già lên thắp đèn nhang. Vị sư xong việc hương đăng, đánh chuông rồi ngồi tụng niệm dưới pho tượng đó.

Chờ nhà sư đọc xong kinh, Bá Dương bèn hỏi :

- Dám thưa sư phụ, pho tương kia có lẽ là tượng người đang sống.

Chẳng hay sự tích thế nào xin sư phụ pho chúng tôi dược biết.

Hòa thượng bèn mời mọi người lên để phương trượng kể đầu đuôi việc Đường công Lý Uyên nhớ ơn Tần Ngũ cứu toàn gia quyến ở chân núi Lâm Đồng sơn thế nào, nên nay lập chùa tạc tượng thờ để tỏ lòng nhớ ơn Tần ân nhân đó. Nghe hòa thượng kể xong, mấy người bước ra vườn dạo chơi. Bây giờ cuối hạ sang thu, gió hiu hiu mát hoa nở trăm hương sắc. Nhân lúc Tề Quốc Viễn và Lý Như Khuê mải xem tượng ở gian bên, Bá Dương nghĩ đến câu chuyện thờ Phật sống, mà ông Phật ấy đang đi sát cạnh mình Dương bật cười vang lên, cầm tay Bảo nói :

- Sự đời nghĩ thật loanh quanh, người đang sống đây mà lại có kẻ ngày ngày hương hoa cúng lễ. Thế ông Tần Ngũ của tôi có phù hộ cho người ta việc gì không? Mấy hôm nay ăn cơm chay chán lắm. ông Phật Tần Ngũ có khôn thiêng thì báo mộng cho nhà sư đãi ông một bữa rượu thịt cho chúng tôi nhờ với!

Thúc Bảo nghe cũng cười vang đáp :

- Quả thật, đúng như lời nhà sư nói, khi đánh cả đôi giản vào vai Tấn vương, tôi chắc thế nào cũng gãy xương, tôi vội phi ngựa chạy hơn mươi dặm, Đường công còn đuổi theo hỏi bọ tên. Tôi giơ tay xua Đường công trở lại mà xưng tên. Thành ra không hiểu thế nào mà lại đặt tên mình là Tần Ngũ, còn như cái việc rượu thịt thì xin khất tối mai, tiểu đệ vào dâng nộp lễ vật Dương Việt công xong, ta sẽ cùng vui thú vài đêm rồi tiểu đệ phải về Tế Nam phục lệnh, kẻo mẹ già mong đợi.

Câu chuyện nói đùa bất ngờ có người nấp sau khóm hoa mẫu đơn từ đã nãy nghe rõ, và đã nhận kỹ tướng mạo Tần Thúc Bảo giống như hệt pho tượng lớn kia, thêm đôi giản đeo bên lưng, lại càng không còn ghi ngờ gì nữa.

Người ấy là Sài Thiệu con rể Đường công Lý Uyên được lệnh Đường công ra trông nom cho thợ làm nốt trăm gian táng phòng nữa, Sài Thiệu chạy ra sụp lạy mà rằng :

- Dám thưa bồ tát nghĩa sĩ, chính ngài đã cứu toàn gia nhạc phụ tôi, ơn ấy đã lập chùa dựng tượng kỷ niệm đời đời, ngày đêm cúng lễ, nay trời lại run rủi cho gặp bồ tát ân nhân, thật là đại phúc.

Nói rồi Sài Thiệu mời cả bốn người vào phương trướng uống rượu, cùng tự giới thiệu họ tên.

Sau dó, Sài Thiệu cho người thân tín phi ngựa ngày đêm về Thái Nguyên báo tin vơi Đường công Lý Uyên.

Trong khí ấy Thiệu cùng bọn Tần Thúc Bảo ngày ngày tiệc vui, Thiệu một lòng cung kính đối với Tần Thúc Bảo.

Sắp đến ngày chúc thọ Dương Việt quốc công, Thúc Bảo nói tạm biệt Sài Thiệu vào kinh sư dâng lễ. Sài Thiệu cũng xin theo. Tất cả năm người lên ngựa nhằm Tràng An thẳng tiến.

Hai ngày sau tới nơi, bọn Thúc Bảo vào trọ tại khách điếm họ Đào.

Ngủ một đêm, sáng sau Bảo gọi chủ hàng nói :

- Nhà người biết đường đưa ta đến cửa Mạnh Đức và phủ Dương Việt công, ta đưa lễ mừng xong sẽ tạ công!

Chủ quán sai Đào Dung, Đào Hoa là gia nhân đi dẫn đạo.

Hồi 5 Xem hoa đăng, Quốc Viễn đốt Tràng An Mê mỹ nữ, Dương Quảng trừ Văn Đế

Dương Việt Công thấy các quan tứ xứ cho người đem lễ vật đến nhiều quá, nên giữa canh hai, sai mở cửa thành, hạ lệnh cho quan Tuần thị kiểm soát mới đệ vào trong phủ Việt công.

Quan Tuần thị là Võ Văn Thành Đô, sức khỏe như sư tử một ngọn lưu kim sang địch được muôn người, thiên hạ xếp đặt Võ Văn Thành Đô là anh hùng thứ hai trong triều Tùy đế. Đó là con trai lớn của Võ Văn Thuật đang ngồi ghế đại thần trong triều.

Hồi canh năm, bá quan văn võ vào yết kiến Dương Việt công, chúc mừng thượng thọ. Việt công đội mũ thất bảo, ngồi trên ghế cao bọc gấm, tỳ thiếp đứng hầu sau lưng đẹp như tiên nga giáng thế.

Bên Dương Việt công có một người họ Lý tên Tĩnh, hiệu là Dược Sư, vốn là đồ đệ đức Lâm Thiều Nhiên, có tài hô phong đảo vũ, cưỡi mây đạp gió, đoán biết hết việc trước sau.

Các quan được Dương Việt Công đãi yến, ca nhạc múa hát vang lừng. Ba trăm mỹ nhân ra chuốc rượu, cuộc vui kéo dài tới sáng. Việt công đã cắt môn hạ mỗi người nhận lễ vật của các quan từng quận một.

Lý Tịnh nhận lễ vật miền Sơn Đông.

Tần Thúc Bảo đem lễ vật đệ trình. Lý Tịnh thấy Thúc Bảo tướng mạo anh hùng, biết là một sao Thiên Bồng hạ giới, Lý Tịnh cung kính kéo ghế mời Thúc Bảo ngồi.

Xem thủ bản biết là Tần Quỳnh, bèn sai đặt tiệc khoản đãi. Giữa tiệc Lý Tịnh buông chén hỏi :

- Ông đi với mấy người nữa tới đây?

Thúc Bảo nói trái đi :

- Chúng tôi thừa lệnh quan trên, chỉ có hai hầu gánh lễ vật mà thôi.

Lý Tịnh mỉm cười :

- Tôi ngồi đây nhưng mắt nhìn ngàn dặm, biết rằng ông đi với bốn người bạn nữa. Quân hầu cả thảy mười hai tên.

Thúc Bảo giật mình đứng dậy vái Lý Tịnh mà rằng :

- Quả như tiên sinh nói, chúng tôi xin bái phục. Nhưng mong tiên sinh giữ kín cho.

Lý Tịnh nói :

- Việc đó không can hệ. Có điều can hệ hơn là ông sắp mắc tai vạ lớn. Đêm nay ông chớ cùng bạn đi xem hội. Sớm mai nên về Sơn Đông là hơn hết.

Thúc Bảo nói :

- Nhưng chưa được giấy chứng nhận của Dương đại nhân thì chúng tôi không dám về phục mệnh Lý Tịnh nói :

- Điều đó do tôi quyết định.

Bèn viết giấy, thay Dương Việt công, trả lời Đương Bích là Tần Thúc Bảo đã nộp trình đủ lễ vật rồi. Thúc Bảo nhận giấy sụp lạy lui ra.

Tiễn theo ra tận cửa, Lý Tịnh lại ân cần dặn chớ đi xem hội.

Thúc Bảo đi được dăm bước, Lý Tịnh lại gọi quay trở lại nói rằng :

- Hảo hán ra đi tôi vẫn không được yên tâm, vì dầu sao hảo hán cũng khó tránh được tai vạ lớn. Nay vì chút duyên nợ với nhau nên vì ông mà tôi bảo vệ cho qua vận hạn. Đây, ông giữ cái túi này, chờ khi nguy cấp lấy túi mở ra tung lên trời mà niệm chú: "Lý, anh mau giải cứu" bấy giờ sẽ tai qua nạn khỏi.

Thúc Bảo nhận túi, lại sụp lạy rồi rảo bước đi. Ra đến tửu quán, cho Đào Dung năm lạng bạc, đoạn ngồi ăn cơm uống rượu, Bảo nghĩ thầm :

- Khi lên sơn trại, vì việc muộn xem hoa đăng Tràng An mà bọn Tề Quốc Viễn theo đi. Nay tới đây bảo họ mà lén lút về, sao gọi là trượng phu, hảo hán. Thà gặp tai nạn rồi sau sẽ liệu, chứ không nên lừa dối bạn mà mang điều thất tín. Cái danh trong sạch của ta sẽ vì thế mà bị chúng coi thường mất!

Ăn xong, trả tiền chủ quán, Thúc Bảo lên ngựa về chùa, thấy bọn Vương Bá Dương đã sửa soạn áo quần sắp vào thành. Thấy Bảo về, chúng reo mừng nói :

- Có thế chứ, một lời của Tần nghĩa sĩ nói ra, khác gì dao chém đá.

Nay đại ca về đón chúng mình đi xem hội đấy, ta cùng đi kẻo muộn.

Mọi người kéo Thúc Bảo ra, sắp lên ngựa thì Bá Dương nói :

- Chúng ta đi xem hội sẽ la cà, ca lâu tửu quán cho thỏa thích, nay vướng ngựa thì phiền nhiễu lắm, vậy xem trẩy bộ, các ông nghĩ nên chăng?

Mọi người bằng lòng. Duy có Thúc Bảo Chợt nhớ tới lời Lý Tịnh thì thế nào mình cũng bị vạ to, nên Bảo nghĩ: "Việc tiên đoán của Lý Tịnh ta nên tin một nửa, ngờ một nửa. Nếu quả đúng thì khi đó đi chân chay sao thoát? Âu là đi ngựa để phòng lúc tháo thân".

Vì vậy Bảo nói nên đi ngựa. Bá Dương thì đi chân. Hai ngươi không ai nhường ai cả. Lý Như Khuê nói :

- Theo ý ngu đệ thì ta cứ cưỡi ngựa tới cổng thành, sẽ giao hành lý và ngựa cho hàng quán, như thế thì không bận bịu gì mà lại đỡ mỏi chân.

Mọi người đồng lòng theo cách ấy. Năm ngựa phi như gió. Một lát tới cổng thành, tìm một khách điếm rộng nhất mà uống rượu và gửi ngựa. Thúc Bảo phòng bất trắc, đưa thư trả lời của Lý Tịnh cho hai tên theo hầu giữ hộ, và dặn nhỏ :

- Ngựa của ta cứ để yên cương rồi chờ sẩm tối đem đến sát cổng thành mà chờ ta. Phải nên ghi nhớ đó.

Rượu xong, Bảo cùng bọn Bá Dương giắt đoản đao vào mình phòng thân, đem hai kẻ thân tín theo hầu, kéo cả vào thành xem hội.

Tới nơi thấy cửa nhà tráng lệ đèn treo lá kết ngựa xe tấp nập, người chen chúc ngược xuôi như nước, chỗ này tửu quán nam nữ thanh tú nô đùa, chỗ nọ ca lâu tài tử giai nhân đàn hát.

Bọn Thúc Bảo cười nói vui vẻ lắm, qua cổng đại dinh Tư Mã là Võ Văn Thuật, thấy lâu đài nguy nga, ngoài sân có cỏ rộng thêng thang dựng một nhà chòi lớn trên đề chữ "Thái hài lâu" bất cứ sang nghèo đều được mời lên để đánh cầu.

Lầu đó được dựng lên do ý của công tử con út của Võ Văn Thuật là Võ Văn Hóa Cập. Hóa Cập xưa nay cậy thế cha chơi bời lêu lổng, quanh hắn có một lũ a dua nịnh hót.

Hóa Cập ngồi trên đài cao, sau lưng có bọn đầu trâu mặt ngựa. Hóa Cập ra lệnh rằng hễ ai đá được quả cầu ngũ sắc qua cầu đài thì được thưởng bạc năm thoi lụa năm tấm, hễ ai đá cầu qua biển Thái hài môn thì được thưởng ngân bài và vải lụa, kẻ nào đá không trúng thì bị đày tớ của bọn đầu trâu đứng sau Hóa Cập kia múc nước bẩn hắt vào mặt cho công chúng cười vang chế giễu.

Thấy lạ, năm hảo hán bước vào coi. Trong số năm người, duy có Tề Quốc Viền tự thuở nhỏ đã làm nghề lạc thảo lục lâm nên không biết trò chơi ấy, còn như Lý Như Khuê vốn xưa là tay hào phú phong lưu, Thúc Bảo vốn người từng trải chốn kinh thành. Bá Dương vốn là một võ quan Sà Phò mã thì có mùi chơi gì là chưa nếm. Bốn người không cho lối đá cầu là lạ duy có Quốc Viễn cứ đứng tròn mắt ngẩn ra xem.

Viễn níu áo giục Sài Thiêu vào chơi thử. Sài Thiệu vốn xưa nay thích đá cầu. Tên lính hầu đứng gần đấy bung quả cầu ngũ sắc ra nói với Sài Thiệu :

- Xin Phò mã đá cầu tiêu khiển.

Sài Thiệu hỏi :

- Bên cạnh công tử kia có hai mỹ nữ, chẳng hay ả đó có biết chơi cầu hay không?

Tên lính đáp :

- Công tủ tôi mua hai nàng đó ở xóm nhà hát, mới mang về. Một nàng là Thái Bài Phi, một nàng là Kim Phượng Vũ cả hai cùng giỏi đàn ca, mà nghề đá cầu lại càng giỏi lắm.

Sài Thiệu cao hứng nói :

- Ta muốn cùng hai nàng đó dạo chơi một ván cầu ngươi vào hỏi dò xem.

Tên lính đáp :

- Điều đó chẳng khó chị, miễn tướng công cho tôi một món tiền uống rượu.

Sài Thiệu quen thói phong lưu móc túi cho ngay năm lạng. Tên lính híp cả mắt, chạy ngay lên lầu nói to :

- Có một người coi bộ rất hào hoa muốn xin phép công tử cho hai mỹ nhân xuống dạo cầu mua vui.

Võ Văn Hóa Cập vui vẻ bảo hai mỹ nhân xuống thi tài. Hai nàng gót sen yểu diệu tiến đến theo sau là hai hầu gái bưng quả cầu ngũ sắc.

Chào hỏi nhau xong, hai người đứng hai bên, thị nữ tung cầu lên cho hai bên vào cuộc. Hóa Cập cùng thủ hạ đứng tựa lan can nguyệt đài xem đá cầu. Sài Thiệu nhân lúc cao hứng đem hết nghề chơi tài tử ra thi thố đá luôn ba lần quả cầu vượt biển "Thái hài môn".

Công tử Hóa Cập sai ném bạc và lụa xuống như mưa. Mấy tên hầu của bọn Thúc Bảo ra công nhặt. Quốc Viễn vốn quê mùa thích quá gào múa ầm lên :

- Phò mã hay quá, mỹ nữ thua rồi!

Bên kia, người đẹp không sao đá được trúng đích, đến nỗi mắt mờ, tóc sổ, má hồng thấm ướt mồ hôi, hài thêu lầm bụi, hơi thở rộn ràng cùng thẹn nhìn nhau giữa tiếng cười la ó của người xem.

Hai mỹ nhân thẹn quá xin thôi. Thúc Bảo toan lấy hai chục lạng bạc và lụa gấm kia tặng lại mỹ nhân, nhưng hai nàng thẹn quá vén xiêm mà chạy lên lầu.

Bọn Thúc Bảo vào tửu lầu sang trọng nhất, tìm một cái bàn to giáp cửa sổ trông xuống dưới đường, rồi gọi lấy rượu ngon. Rượu đã ngon, thực phẩm tốt, lại quanh lầu réo rắt tiếng đàn ca và bóng xiêm, hương phấn mỹ nhân trước mắt, khiến cùng say sưa. Mãi tới khi trăg mọc, lại cùng nhau la đà cầm tay dắt nhau ra phố xem hoa đăng.

Đèn sáng như một trời sao đảo ngược, ánh sáng bốc lên như bể lửa, người đi trong ánh sáng đông hàng muôn vạn, toàn là gài lịch, trai thanh.

Ở cửa dinh quan Tư Mã, nhiều đèn và hoa lá nhất, người xem lóa mắt nhức đầu. Một con kỳ lân to như một con voi kết bằng lụa năm màu và dát kim cương vàng bạc, dưới móng kỳ lân căng tấm lụa thêu mấy chữ "Vạn phúc lai trào". Trên lầu ánh đèn soi rực rỡ câu đối vàng son :

"Châu lộ chinh tướng hiển thánh giáng phàm bang hữu đạo.

Tùy trao hiển thị nhân Quân trị thế thọ vô cương".

Tạm dịch nôm là :

"Đời Chu hiển thánh ra đời nước có đạo.

Triều Tùy vua nhân thọ khôn cùng"

Hai bên kỳ lân khổng lồ đó có hai người kết bằng bông nhuộm đủ màu cưỡi hai mãnh thú cũng bằng bông. Lại có câu đối rằng :

"Tử Đồng đế quân thừa bạch xà, hạ phàm thế,

Ngọc Thanh lão tử khóa thanh ngưu, tây xuất Dương quan"

Tạm dịch nôm là :

"Đế quân tử đồng cưỡi rắn trắng xuống trần gian,

Lão tử Ngọc Thanh cưỡi trâu xanh ra Dương quan".

Bọn hảo hán lại dắt tay nhau ra cửa đông nam, qua phủ Dương Việt công, thấy cổng đại dinh đèn sáng cờ bay, lính gác các nhà trước phủ đều đặt bài vị Thiên tử, đốt trầm, tỏ ý vua tôi cùng vui. Trong phủ thỉnh thoảng lại bắn súng, ngoài nhà thường dân thì cứ súng nổ người ta lại bảo nhau đốt pháo theo. Người đi đường vỗ tay nhau mà hò hét và ca hát.

Ở cổng lớn bên trong, đèn, đuốc sáng tựa ban ngày. Có hình nhân cỡi điểu thú, và có câu đối chữ như rồng như phượng.

Tây phương Vương mẫu tọa thanh loan Giao Trì phó yến, Nam cực Thọ tinh kỵ bạch hạc hái ốc thiêm chù"

Tạm dịch nôm là :

Vương mẫu Tây phương cưỡi loan xanh Giao Trì phó yến.

Thọ tinh Nam cực cưỡi hạc trắng phù hộ nhân gian".

Bọn Thúc Bảo lại dắt nhau đi. Quốc Viễn quanh năm ở sơn lâm làm giặc giết người lấy của, nay mới thấy đế đô nhộn nhịp hào hoa, thì vui thích ăn nhiều uống khỏe, say túy lúy. Cả bọn vui chân vào thành vua.

Ở đây thật là một thế giới hoa đăng, phần lịch sự gấp ngàn lần đại phủ Dương Việt công. Bao nhiêu trái gái sắc tài rủ nhau cả vào đây để hẹn hò tình tứ. Ngươi ta vào đây để ghẹo nguyệt trêu hoa, mà người ta vào đây cũng là để chịu một tai vạ lớn. Trong số đó có mụ Vương lão bà cùng con gái là Uyển Nhi đẹp như Hằng nga xuống trần tả không sao xiết. Mẹ con Uyển Nhi đi đến đâu là các công tử bám theo đến đấy như ruồi bâu nhặng đuổi. Lúc đi qua cổng thành, các cậu thừa lúc đông người thi nhau kéo xiêm, níu áo sờ tóc ôm lưng. Mẹ con Uyển Nhi kêu sợ không còn hồn vía.

Có kẻ đầu trâu thấy có mồi ngon chạy ngay về mách Võ Văn Hóa Cập. Cập ba chân bốn cẳng tới nơi, trông thấy Uyển Nhi thì cứ như là chết đứng, mắt hoa, tay nhũn, chân mềm chỉ toan ngã xuống. Một lát định thần, công tử Hóa Cập chạy tới ôm lấy nàng ẵm lên tay như người ta bẻ một cành dương liễu. Công tử vừa ôm ẵm vừa hôn hít giữa đám đông người, không còn biết giữ danh diện là chi nữa.

Vương lão bà sợ quá hóa tức, tức dĩ dâm liều, và cũng không biết đó là con chó sói Võ Văn Hóa Cập, bèn nổi giận một tay gỡ con ra, một tay bấu cào, tát đánh nát cả mặt công tử Cập.

Cập kêu vang như cơn chó bị thương :

- A con mụ này dám đánh ta! Chúng bay đâu trói đem cả mẹ con nó về ngay phủ. Mẹ con Uyển Nhi gào khóc, cầu mọi người cứu giúp.

Nhưng thiên hạ còn ai lạ con chó sói, đành rẽ ra xa nhòm lũ đầu trâu trói mẹ con người đàn bà vô tội. Chốc lát, tới phủ, chúng nhốt người mẹ vào một phòng gần cửa, còn Uyển Nhì thì nhốt vào phòng riêng của công tử.

Cập đuổi liễu hoàn ra, rồi ẵm uyển Nhi lên giường. Nàng vốn còn nguyệt sáng gương trong, hoa phong kín nhụy, chưa hề gần đàn ông, nay thấy Cập công tử sỗ sàng thì run cầm cập, vừa che đỡ vừa gào khóc gọi mẫu thân. Nhưng sức liễu hình hoa, chịu làm sao được bàn tay cường bạo loài lang sói nên chỉ chớp mắt xiêm rách y tơi, cành thiên hương ấy tan tành trong cơn gió bão.

Thỏa mây mưa rồi, Cập công tử lại sửa soạn mũ áo, giao Uyển Nhi cho liễu hoàn canh giữ, ra phố tìm gái khác.

Khi hắn đi qua gian phòng ngoài cửa, Vương lão bà thò đầu ra kêu khóc đòi con gái.

Hắn quát to :

- Con gái mụ ta đá hưởng tiết trinh rồi, còn đòi làm chi nữa. Muốn sống thì câm miệng.

Mụ Vương càng gào khóc nói :

- Tôi đã trót hẹn gả nó cho người ta, xin công tử buông tha nó ra.

Nếu không tôi đành đập đầu chết ở bức tường này.

Hóa Cập vốn nhát, bèn quát đầu trâu mặt ngựa kéo mụ ra đường.

Đoan cùng môn hạ đi tìm gái.

Mụ Vương bị đẩy ngã giúi xuống, cứ nằm mà kêu khóc gọi con, nghe thật ảo não, thương tâm.

Vừa hay, bọn Tần Thúc Bảo dắt tay nhau đi tới. Thấy người đàn bà già nua gào khóc, Vương Bá Dương hỏi mấy kẻ đứng xem. Chúng bèn thuật rõ việc công tử Hóa Cập xưa nay vẫn cậy thế cha bắt đàn bà con gái mà hãm hiếp rất nhiều. Lại kể cái cảnh mẹ con Uyển Nhi vừa bị hắn uy hiếp đánh mẹ đuổi ra, bắt con vào làm điều ô trọc.

Thúc Bảo quên bẵng lời Lý Tịnh, bất bình dẫm chân mà hỏi lớn :

- Vậy thằng chó chết bây giờ ở chỗ nào?

Chúng kinh hãi nói :

- Ông chớ trêu vào con quỷ ấy mà toi mạng đó!

Thúc Bảo nói lảng đi :

- Chúng tôi đâu dám sinh sư. Chỉ vì chúng tôi nơi xa đến, muốn biết người ấy ghê gớm đến thế nào để lánh mặt cho khỏi sinh tai vạ đó thôi.

Chúng nói :

- Đã vậy thì chúng tôi nói cũng chẳng hề chi. Số là công tư Võ Văn Hóa Cập, nuôi nhiều môn hạ lắm. Mỗi khi ra đường, công tử cưỡi ngựa đi giữa, dọn đường là năm mươi thủ hạ cầm côn, đi trước ngựa là năm mươi võ sĩ, gươm trần giáo dựng, đi sau ngựa là mấy tay vỡ nghệ cao cường lắm. Trong thành này công tử biết ai có võ, sai gọi đến, hễ kẻ ấy quả có võ nghệ tinh thông thì được trọng thưởng, võ nghệ kém thì bị thủ hạ cầm côn lại đập vỡ óc chết tươi ngay. Giết người xong ném xác vào vào một cái hầm trong đó chứa hàng ngàn đầu lâu oan uổng. Các ông ở xa có gặp thì mau tránh kẻo nguy hiểm đó.

Thúc Bảo mỉm cười, cám ơn rồi cùng nhau hăm hở vén gọn áo quần, tay thủ binh khí, đi tìm công tử Cập.

Tìm tới cửa tây, thấy tiếng hò hét oai nghiêm, bọn Thúc Bảo rẽ đám đông tiến vào thấy Hóa Cấp cưỡi ngựa lớn mặc áo bào, mặt mũi choắt cheo, môi thâm, mắt xếch, lưng gù, tay vượn, đi trước theo sau chắc đến trăm tên giáo dựng gươm trần, đứa vào cũng vênh váo, đầu sưng, mặt sẹo, nói cười khả ố.

Bọn Thúc Bảo chỉ chờ cơ hạ thủ. Bỗng tên quân chạy đến báo :

- Bẩm công tử, có bọn xả hỏa xi diễn võ để xin công tử cho ít tiền uống rượu.

Hóa Cập gật đầu nói :

- Hỏi xem chúng nó múa tích gì.

Tên quân bẩm :

- Chúng xin múa tích "Lã Bố ở Hổ Lão quan"

Hóa Cập cười vang :

- Thế thì được lắm, Tài kích của Lã Bố đâu phải tầm thường mà chúng dám bắt chước, hễ vụng về ta sai đánh chết.

Tên quân vừa đi khỏi. Thúc Bảo không sao nén được lòng giận ghét tiến lên trước ngựa Hóa Cập mà rằng :

- Lũ xả hỏa chúng tôi vốn có lòng tôn kính công tử, chờ đợi đã lâu, xin cho diễn trước.

Cập hài lòng nói :

- Ta cho phép, giỏi thì ta thưởng, kém thì ta sai đánh chết. Các ngươi diễn tích gì?

Thúc Bảo nói :

- Xin hiến tích Ngũ mã phá Tào.

Đoạn, năm hảo hán xông vào. Thúc Bảo sử dụng kim giản, Bá Dương múa đôi bảo kiếm, Quốc Viễn múa kim chùy, Lý Như Khuê múa đồng tiên, Sài Tử Lượng múa song kiếm.

Giản, kiếm, chuỳ va chạm nhau kêu xoang xoảng, ánh thép ngời như sao rụng, trăng rơi. Vòng trong bọn công tử Hóa Cập tấm tắc khen, vòng ngoài dân chúng xúm đông hò hét.

Quốc Viễn vừa múa vừa thầm nghĩ :

- Chi bằng ta nhân cơ hộ này phóng hỏa lầu hoa kia, thiên hạ đi chữa cháy, ta sẽ giết hắn, khi đó dễ đường tẩu thoát.

Bèn rình lúc nhiều người xô vào xem, Quốc Viễn thu chùy nhảy lên mái lầu phóng hỏa. Giây phút lửa ngất trời, hàng vạn con người la hò ầm ĩ, xô nhau chạy.

Thúc Bảo biết trong bọn mình gây hỏa, sự thế không lui được, liền phóng kim giản phi người lên như con én đánh rụng đầu Võ Văn Hóa Cập, cái mình rẫy trên lưng ngựa, máu phun ngược lên trời. Lũ võ sĩ, giáo sư, thét vang lên, rồi kẻ thương, người kiếm xúm vào đành bốn ngươi. Quốc Viễn đốt xong, cũng phi thân nhảy xuống, chân chưa tới đất, đôi chùy đã đánh vỡ luôn hai cái sọ. Bá Dương, Thúc Bảo tả xung hữu đột, ngót trăm kẻ đầu trâu đứa chết, đứa chạy tơi bời như chuột nhắt.

Quốc Viễn say máu, đánh giết cả nhân dân, xác chất cao, máu chảy lụt, thật là thảm thiết.

Năm ngươi mở đường ra phía cửa Minh Đức.

Quan Tuần thi kinh doanh là Võ Văn Thành Đô nghe báo giật mình, thét vang như hổ đói, nhảy lên ngụa ô truy, cầm lưu kim đang, xông ra đuổi bắt bọn Bá Dương.

Thấy một chàng to như La hán, oai phong lẫm liệt mạnh hơn hùm xám, mắt sáng, râu thép, mặt nửa đen nửa xanh, múa tít vũ khí lao ngựa tới, Thúc Bảo biết không phải tay vừa, vội giơ kim giản đánh. Võ Văn Thành Đô đón đánh. Đôi kim giản của Thúc Bảo lóe lửa kêu choang một tiếng, cánh tay Thúc Bảo bật hẳn lại dại tê, rời rã, đau nhức, Bảo chỉ còn kịp kêu một tiếng "Ôi chao!" rồi quay đầu chạy. Bọn Bá Dương, Sài Thiệu, Quốc Viễn, Như Khuê, bị Võ Văn Thành Đô đánh suýt bị thương. Bá Dương chay trước, theo sau Thúc Bảo.

Chợt nhớ tới cái túi của Lý Tịnh, mở ra thấy năm hạt đậu đỏ, tung lên trời nói "Lý Tịnh mau cứu chúng tôi".

Bỗng văng vẳng trên không có tiếng gọi :

- Bọn Thúc Bảo mau chạy về phía đông. Có ta che mắt Võ Văn Thành Đô cho mà trốn.

Bảo nghe lời nhắm phía đông mà chạy. Võ Văn Thành Đô đang đuổi, tự nhiên thấy trước mắt như có mây phủ sương che, mồ hôi toát đẫm áo, phóng thêm quãng nữa, nhìn sau trước chỉ thấy một bãi tha ma, bên tường thành bèn thúc ngựa quay trở lại.

Trong khi đó, bọn Thúc Bảo đã chạy về phía cửa Mạnh Đức rồi. Tới nơi, thấy lũ thủ hạ đã giữ năm con ngựa yên cương sẵn, năm hảo hán nhảy phắt lên, quay lại dặn :

- Các ngươi cứ lững thững về sơn trại sau, chúng ta đi trước. Cấm không được tiết lộ tung tích đó.

Đoạn năm người phi như gió. Đến chùa Bảo Đức, Thúc Bảo nói với Sài Thiệu nên bỏ chùa rồi về ngay Thái Nguyên, rồi bái biệt Sài Thiệu, bốn người phi thẳng về sơn trại Thiếu Hoa Sơn. Tới nơi, Thúc Bảo gò ngựa nói :

- Nhớ đúng ngày hai mươi ba tháng chín sang năm, là ngày thọ đản bảy mươi của mẹ già tôi, xin mời chư huynh đến Tế Nam uống rượu mừng cho.

Bọn Vương Bá Dương vái lạy mà nhận lời. Thúc Bảo không lên sơn trại, phòng ngựa đi thẳng về Tế Nam.

Thành Tràng An ngập xương đầy máu, cửa nhà lầy lụa cháy không biết bao nhiêu mà kể. Võ Văn Thành Đô đuổi năm người không thấy, hầm hầm quay về dinh. Vỡ Văn Thuật thấy con bị đánh chết thì ngất đi hồi lâu mới tỉnh, hỏi đầu đuôi tại sao lại có người hạ sát. Chúng thủ hạ kể việc công tử hãm hiếp ả Uyển Nhi. Võ Văn Thành Đô nổi giận, sai dẫn Uyển Nhi ra, vớ cái côn ném vỡ đôi đầu, thương thay gái hồng nhan nào có làm gì nên tội mà chết thảm như vậy đó! Lại sai bắt cả nhà Vương bà giết hết.

Sau đó hỏi hình dạng tên đầu thủ. Chúng tả rằng người ấy mình cao, tướng mao đường đường, mặt vuông, mắt sáng cầm dôi kim giản.

Võ Văn Thuật sai vẽ phỏng hình kẻ phá kinh đô, truyền dán các nơi, truy nã Tần Thúc Bảo ráo riết.

Đây thuật chuyện Thái tử Dương Quảng tức Tấn vương đã đoạt ngôi Đông Cung của anh là Dương Dũng, lại đã bức Đường công Lý Uyên đi nốt, chỉ còn ngại có bà Độc Cô chánh cung, sau bà Độc Cô tạ thế, Dương Quảng không còn sợ ai nữa, sinh hoang dâm vô độ bỏ vàng bạc kết giao với lũ gian thần làm vây cánh.

Bấy giờ, Tùy Văn Đế cũng đang say mê hai mỹ nhân, một là Trần phu nhân, một là Sái phu nhân. Văn Đế ngày một yếu già, vì tửu sắc quá độ mà thụ bệnh.

Trước kia Văn Đế có sai Dương Tố dựng cung nhân thọ, cung đã dựng xong, Văn Đế vào đó nằm dưỡng bệnh. Bệnh một môi ngày thêm nặng. Thượng thư bộc sạ Dương Tố, Lễ bộ Thượng thư Liêu Thuật, Hoàng môn nhị lang là Nguyên Nham, thay nhau chầu chực trong cung sớm tối.

Thái tử Dương Quảng chầu chực trong đền Thái Bảo.

Còn bên long sàng thì luôn luôn có Trần và Sái phu nhân. Cách hai ngày, Thái tử lại xin vào thăm bệnh, Thái tử thấy Sái phu nhân đã đẹp lại thấy Trần phu nhân lại dòng dõi vương giả, (nàng là con gái vua Cao Tôn nước Trần) từ thuở bé quen màn the trướng gấm, nên nhan sắc thực sánh ngang với Đắc Kỷ, Tây Thi.

Thái tử tuổi trẻ lòng xuân, mỗi lần vào, thấy hai người không những không lảng tránh lại còn liếc mắt đong đưa, bỗng đem lòng say đắm.

Có một buồi chiều, Thái tử vào thăm bệnh Văn Đế. Khi đi ngang qua hành lang vắng vẻ, thấy lẫn trong hoa viên một bóng xiêm trắng bay theo gió. Thái tử rảo bước đuổi theo. Người đàn bà ấy biết có người đuổi theo bèn ung dung bước chậm, rồi rẻ vào một góc vườn vắng, ngồi bên hồ bán nguyệt.

Thái tử đến, đứng im nhìn say sưa bóng Trần phu nhân in xuống nước lẫn vớt bóng hoa. Như thế một hồi lâu, hai bên cùng ngắm nhau, cười với nhau dưới gương nước hồ trong. Rồi không cầm được lòng xuân, Thái tử cúi xuống, đặt tay lên vai nàng. Trần phu nhân vờ nghiêm mặt nói :

- Thái tử sao dám đường đột vào cấm viên này. Thế là vô phép đó.

Thái tử quỳ xuống nói :

- Tôi biết tội đã nhiều, nhưng chỉ mong được chết dưới bàn tay ngà ngọc của mỹ nhân.

Trần phu nhân dịu giọng nói :

- Tôi đã trót gửi thân cho thánh thương. Vây nên giữ lễ quân thần phụ tử, sao lại thế?

Thái tử biết rằng Trần phu nhân bấy lâu nay đối với mình đã ý gửi tình đưa, đó là lời nói giả vờ bèn ôm chầm lấy mà rằng :

- Tôi sao lại không biết thế, cho nên muốn chết dưới bàn tay ngà ngọc của mỹ nhân. Phu nhân ơi, có đành lòng để cho kẻ bạc hạnh này phải chết không? Nếu không thì hãy cùng nhau thỏa tình khao khát.

Nói rồi càng ghì chặt. Thốt nhiên có tiếng giày xào xạc, và có tiếng nói trên hành lang :

- Thánh thương vời phu nhân, xin đến ngay cho.

Hai người hoảng hốt bỏ nhau ra, nhìn lên thấy một kẻ cung nữ đang mỉm cười quay gót sen thoăn thoắt. Trần phu nhân vội về ngự phòng, nét mặt còn ngơ ngác, tóc còn xõa rối.

Văn Đế có lòng ngờ tra hỏi. Bị tra hỏi mãi, Trần phu nhân không dám chối sợ khiên Văn Đế phẫn uất mà bệnh nặng, đành thở dài nói :

- Thái tử vô lễ lắm!

Văn Đế đập mạnh tay xuống long sàng :

- Ta đã biết mà! Thằng súc sinh vờ vào thăm ta, chính là vì việc này, thế nào nó cũng đầu độc ta mất thôi!

Tức thì truyền gọi Liễu Thuật và Nguyên Nham vào chầu. Khi đó, Thái tử sợ hãi chờ Trần phu nhân đi một lát, cũng men theo chân tường hành lang mà đến cửa cung, nấp một chỗ nghe.

Nghe trộm thấy Văn Đế nổi giận, sai vời Nguyên Nham, Liễu Thuật chư không vời Dương Tố, biết có cơ nguy, vội lén ra tìm bọn Trương Hành, kể rõ việc Trần phu nhân, và hỏi kế.

Trương Hành nói :

- Có kế này, phải làm ngay mới kịp.

Rồi ghe tai Thái tử nói thầm. Đang lục đó Dương Tố hoảng hốt chạy vào nói :

- Nguy cấp đến nơi rồi. Không hiểu ai xúi giục mà tự nhên thánh thương vời Liễu Thuật, Nguyên Nham viết chiếu chỉ triệu Thái tử Dương Dũng về. Liễu và Nguyên đã làm xong chiếu chỉ, sắp cho đưa về Tế Ninh. Mai kia Dương Dũng đến, tất Thái tử bị truất mà bọn chúng tôi cũng bị bỏ có khi còn nguy cho tính mạng nữa chứ không chơi!

Thái tử nói :

- Ông không lo, đã có kế của Trương Hành rồi.

Ngay lúc đó, Hành làm giả thánh chỉ sai Võ Văn Thành Đô đem quân đến tòa soạn chiếu bắt Liễu Thuận, Nguyên Nham lấy cớ là Liễu, Nguyên làm việc chậm trái ý Thánh thượng, bắt giam vào ngục Đại lý tự.

Sau lại truyền cho quân lính gác cửa cung khó nhọc, được tạm ra ngoài nghỉ ngơi. Trương Hành tự đem quân của mình vào giữ, cấm không cho ai ra vào hết. Đoạn nhổ cỏ nhổ cả gốc, làm chiếu giả cho đòi vời Thái tử cũ là Dương Dũng về cung để tìm cách giết đi.

Lúc đó, Văn Đế đã gần mê man, gọi :

- Liễu Thuật, Nguyên Nham đã thảo xong chiếu chỉ chưa?

Trần phu nhân đáp rằng chưa. Chợt có nội thì tâu rằng :

- Quan Trương Hành xin vào hầu hạ thuốc thang.

Không cần chờ lệnh, Trương Hành cứ tự tiện dẫn hơn hai mươi tên thân tín vào cung, cho những nội thị cũ ra ngoài.

Bọn nội thị đã từ lâu hầu hạ đêm hôm, thấy được có người thay cho nghỉ thì vui mừng ra hết.

Trương Hành vào thấy Văn Đế nằm lim dim, chẳng cần giữ lễ vua tôi chi cả, bảo Sái và Trần phu nhân rằng :

- Xin hai phu nhân tạm ra ngoài kia cho tôi được tâu xin Thánh thượng.

Hai nàng thấy Trương Hành dữ tợn, không dám trái ý, rón rén lui ra, nhưng sai cung nhân đứng núp nhìn qua khe cửa nghe ngóng. Chỉ một lát, Trương Hành hốt hoảng chạy ra nói :

- Thánh thượng băng hà rồi. Xin hãy cứ giữ kín cho, đừng bảo Thái tử biết vội, mà các bà cung tần, cũng đừng khóc lóc vội.

Trần, Sái phu nhân đều nghi Trương Hành giết chúa, nhưng sợ mà không dám nói ra. Trương Hành lên xe về dinh, cười bảo Thái tử đang ngồi đợi rằng :

- Tôi xin kính mừng Thái tử. Thái tử mừng lắm, sai ngay em Dương Tố là đề đốc Dương Uớc, giữ chắc mười cửa thành cho nghiêm mật.

Quách Diễn được phong ngay làm hữu linh vệ đại vệ tướng quân, giữ việc hộ vệ loan giá. Võ Văn Thành Đô thăng chức Vô địch đại tướng quân, chỉ huy hết cả các đề đốc từ kinh sư sang các tỉnh. Trương hành giữ kín việc Văn Đế băng hà. Trong dân gian chưa ai biết!

Ba ngày hôm sau, Dương Thông, đai tướng quân ở Tế Ninh, phò Thái tử cũ là Dương Dũng vào kinh đô, trước hết hãy đóng dinh ở ngoài thành, Thái tử Dương Quảng bàn mưu với Trương Hành làm chiếu chỉ giả vời cả gia quyến, vợ chồng cha con Thái tử Dương Dũng vào cung, nha tướng không được ai theo cả.

Thái tử Dương Dũng không ngờ bị mắc mưu. Vào tới nơi Thái tử Dương Quảng uy hiếp bắt cha con Dương Dũng thắt cổ chết, còn vợ là Tiêu Phi có nhan sắc, Quảng bắt làm vợ.

Sau đó, Thái tử Quảng cùng Dương Tố lại bàn nhau thảo chiếu cho thiên hạ biết việc Văn Đế mất, để cho làm lễ phát tang.

Quảng gọi văn thần Ngữ Kiến Chương vào bảo làm chiếu. Chương vốn nổi tiếng là cương trực không bao giờ giao du với lũ gian thần, hôm ấy nghe tin Hoàng thượng băng hà, Đông Cung bị gọi về triều cũng chết nốt, bèn khóc rống lên.

Có nội giám đến vời, Ngữ Kiến Chương vào mặc tang phục, thắp hương cáo tổ tiên, sụp lay mẹ già, từ biệt phu nhân rồi đi bộ vào triều, Thái tử Quảng đưa giấy bút nói :

- Ông viết chiếu đi, ta sẽ phong cho tước lớn.

Kiến Chương cầm bút, hạ bút viết rằng :

"Hoàng thượng băng hà không minh bạch. Thái tử Dương Dũng bị bách mà thắt cổ, việc này trời đất sẽ tru diệt kẻ bất hiếu và bất nghĩa".

Viết xong ném bút vào mặt Quảng.

Quảng nồi giận thét to :

- Thằng thất phu vô lễ ta phải lấy đầu mày.

Kiến Chương quát lại :

- Mày đầu độc cha, thắt cổ anh, hiếp chị dâu, giết cháu nhỏ, tội mày chật ngang trời đất. Tao chết đi sẽ làm quỷ bóp cổ mày.

Quảng thét tả hữu lôi Kiến Chương ra chém.

Sau đó, Dương Tố tự làm chiếu giả nói rằng Tùy Văn Đế để ngôi cho Thái tử Dương Quảng, ban cho triều thần thiên hạ biết. Ngay tối ấy, Quảng lại động tình nghĩ đến Trần phu nhân, vào nội cung cùng người đàn bà thỏa tình trăng gió. Cuộc ái ân kéo dài sang tháng tám, bên cái xác Văn Đế còn quàn nơi chính điện.

Đến ngày làm lễ an táng, Dương Tố phò Thái tử Quảng mặc đồ tang phục, cử ai trước linh cữu Tùy Văn Để. Đoạn mặc các phục: mũ bình thiên, áo long bào, lên ngai vàng. Triều thần phục lạy, tung hô vạn tuế.

Hết thảy đều được tước lớn, lộc cao.

Tùy Dạng Đế mới lên ngôi được một hôm đã sai Võ Văn Thành Đô đem quân vây nhà Ngữ Kiến Trương, giết hết trẻ già, tịch thu gia sản.

Gia quyến Kiến Trương không sót một mạng nào, duy có tên chăn ngựa tên là Ngữ Bảo, mau chân chui qua giậu, ngày đêm về Nam Dương báo cho Ngữ Vân Thiệu biết tin dữ dội này.

Che đậy muu gian, Dạng Đế lại vờ nhân đức truy phong cho Thái tử Dũng làm Phong Lang vương, lập miếu thờ, thấy thế thiên hạ càng bàn tán.

Võ Văn Thuật và Dương Tố sợ rằng Ngư Vân Thiệu ở Nam Dương là con Ngũ Kiến Trương (vốn có sức mạnh địch muôn người) biết tin cha bị giết sẽ đem quân về kinh đô hỏi tội. Bèn đem việc ấy tâu với Tùy Dạng Đế.

Dạng Đế có ý sợ, sai Hàn Cầm Hổ là Trấn nam đại liên soát. Mã Thúc Mưu làm tiên phong. Vô địch tướng quân Võ Văn Thành Đô đi tập hậu, sáu mươi vạn hùng binh khởi hành ngay hôm đó.

Đây nói Ngữ Vân Thiệu, con kiến Trương, mặt như ngọc tia mắt sáng như sao, tiếng nói sang sảng, sức cử đỉnh ngang Hạng Vũ, vào chỗ muôn quân như chỗ không người, trong tay có muời vạn hùng binh giữ Nam Dương. người ta xếp Ngữ Văn Thiệu vào bậc anh hùng thứ năm thời ấy. Vợ là Đậu Thị, mới sinh được một con trai, còn bé lắm.

Một hôm, Vân Thiệu cùng mười nha tướng đến Thái hoành sơn săn bắn, quân lính căng lưới, thả chó, sục tìm hươu nai.

Trên núi có một Đại vương, họ Hùng tên Khoát Hải. Hải là một hảo hán lưng to vai ôm, đầu hổ, mặt beo, tiếng nổi như sấm hai cánh tay mang nổi nghìn cân. Đã từ lâu Khoát Hải xưng vương trên núi, cùng ba nghìn lâu la chuyên giết người lấy của, hành khách sợ hãi Thái Hoành sơn mà phải tìm đường đi tắt.

Khoát Hải một buổi sáng xuống núi, thấy hai con hổ lớn xông tới, bèn túm lấy cổ đôi hổ ấn xuống rồi hai chân đá hai cái, đôi hổ vỡ óc ra mà chết.

Khi đó Ngữ Vân Thiệu đang săn ở ngọn núi trên này trông thấy một hảo hán hai tay bóp chết hổ, liền sai gia tướng đến mời lên nói chuyện. Khoát Hải hỏi :

- Chủ mày là ai?

Gia tướng đáp :

- Là Nam Dương Ngữ Hầu Vân Thiệu.

Nghe tên Khoát Hải thầm nghĩ :

- Đây là một tay anh hùng danh tiếng, nhân dịp này, ta yết kiến xem sao.

Một lát tới nơi, Khoát Hải thấy Vân Thiệu tướng oai phong thì vái mà xưng tên tuổi.

Vân Thiệu nói :

- Bản soái thấy hảo hán hai chân đá hai hổ có lòng kính yêu, nay muốn mời hảo hán về làm tôi triều đình, đứng trong hàng đại tướng, hảo hán có ưng không?

Khoát Hải không có ý ở mãi chốn lục lâm, mừng lắm, nói :

- Được vậy chúng tôi không dám quên ơn Nguyên soái.

Vân Thiệu lại cùng Khoát Hải kết làm anh em. Thiệu hơn tuổi làm anh. Thiệu nói :

- Hiền đệ hãy lên núi đợi ít ngày, ta sẽ đưa biểu về triều đình chiêu an đã.

Khoát Hải vái lạy rồi xuống hai tay xách hai xác hổ lớn lên sơn trại.

Vân Thiệu về tới hậu dinh, Đậu phu nhân hỏi :

- Phu tướng đi săn có được gì không?

Vân Thiệu cười đáp :

- Ta săn được một tay hào kiệt, có người ấy bên cạnh, còn lo gì nữa.

Đoạn đem chuyện Khoát Hải đánh hổ, rồi chuyện cùng nhau kết nghĩa, kể cho phu nhân nghe. Đậu phu nhân rất vui mừng.

Nhắc lại tên mã phu Ngữ Bảo trốn được, đang ngày đêm thẳng tới Nam Dương thì dọc đường lại nghe tin Dạng Đế sai Hàn Cầm Hổ làm Đại nguyên soái đem quân đánh Vân Thiệu, hắn lại càng ra sức, bỏ cả ăn uống để mau chóng tới Nam Dương. Vào đén Nam môn, Ngữ Bảo cầm dùi trống đánh liên chi hồ điệp như trống cướp. Đánh xong, mệt quá ngã lăn ra bất tỉnh.

Quân canh bắt đem vào trong dinh. Đến khi tỉnh dậy, mở mắt ra nhòm thấy Vân Thiệu, Ngữ Bảo òa lên khóc rồi sụp lạy :

- Nguyên soái bình tĩnh ngồi đây, có ngờ đâu cả gia quyến họ Ngữ nhà ta đã bị bọn gian thần Dương Tố âm muu giết chúa thượng rồi giết luôn cả dòng dõi họ Ngữ rồi.

Vân Thiệu cả kinh vội hỏi đầu đuôi. Ngữ Bảo thuật rõ việc Thái tử Dương Quảng lập mưu giết Văn Đế, sau lại ép Ngữ tướng công làm chiếu giả, Ngữ tướng công không nghe nên bị chúng giết nốt, lại đem cả nhà họ Ngữ ra tru diệt.

Vân Thiệu thét to một tiếng, ngã gục xuống đất. Đậu phu nhân và các tướng xúm lại cứu chữa. Vân Thiêu khóc rống lên. Phu nhân cũng nước mắt chứa chan, hồi lâu mới tìm lời an ủi chồng, Vân Thiệu nghiến răng nói :

- Dòng dõi họ Ngữ này từ tổ phụ đến ta một lòng gánh giang sơn thờ chúa, không quản gì da ngựa bọc thây, nay hôn quân vô đạo giết phụ thân, lại chém sạch cả nhà, ta nguôi làm sao được!

Ngữ Bảo nói :

- Hiện nay, triều đình đã sai Hàn Cầm Hổ đem đại binh sắp đến vây Nam Dương bắt Nguyên soái, xin lão gia định liệu.

Vân Thiệu lại giận uất thét to lên :

- Nếu vậy thì chúng bách ta quá lắm. Ta thề cùng chúng không đội trời chung.

Bèn sai đánh trống, triệu tập ba quân. Ngữ Vân Thiệu mặc tang phục, kéo cờ trắng, bước ra giáo trường nói to rằng :

"Lão Thái sư ta ở triều làm quan Bộc sạ đã có công đánh đông dẹp bắc, bình định Trung Nguyên. Ngày nay Thái tử Dương Quảng giết cha, giết em để đoạt ngôi, lại giết thân phụ ta và tru diệt toàn gia họ Ngữ, như vậy chưa hả, lại cử đại binh đến dây hòng bắt ta mà giết nốt. Ta tự nghĩ triều đình đã bất công ghét bỏ, ta muốn bỏ Nam Dương trốn đi nơi khác, chư tướng quân nghĩ có nên chăng?"

Hỏi dứt lời, một dũng tướng tên gọi Tư Mã Siêu, mắt xanh râu đỏ, cầm đại đao bước ra nói :

- Nguyên soái sao lại trốn. Dương Quảng giết cha cướp ngôi lại hãm hại Thái sư, chúa đã vô đạo kẻ bề tồi có quyền thí bỏ để rửa cái thù huyết mạch. Nay Nguyên soái bỏ đi, tức là nhu nhược mà hương hồn lão Thái sư tất ngậm ngùi nơi chín suối. Xin cho chúng tướng ba quân hết thảy mặc đồ tang, quyết chiến.

Vân Thiệu nói :

- Tướng quân có lòng khảng khái, ta rất cám ơn, song còn các tướng nghĩ thế nào?

Hỏi chưa dút lời, thống chế Tiêu Phương, mặt trắng râu dài, quen sử ngọn trường thương, sức địch muôn người, bước ra nói to :

- Nuôi quân tướng mười năm mới có một ngày dùng tới. Ngày nay lũ mạt tướng chúng tôi xin cùng Nguyên soái trả thù huyết hận.

Các tướng khác cũng quả quyết xin ra đánh.

Ngữ Vân Thiệu hài lòng nói :

- Đã vậy, sớm mai ra giáo trường luyên tập lại binh mã.

Hôm sau, một mặt dự bị binh lương cho người ngựa, một mặt lại sai Tiêu Phong cầm lệnh tiễn đi các nơi đốc thúc nộp lương thảo, chở vào thành ngày đêm không ngớt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#panelka