thuyet trinh khung hoang taoi chinh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tranh biếm họa về khủng hoảng tài chính MỸ

Bức tranh 1 : "Chẳng kiếm chác được gì"

Vận hạn đến với 3 đại gia xe hơi khiến cướp biển Somali cũng chẳng thèm ngó tới tàu chở hàng của họ

Bức 2 : " I can't wait"

Tổng thống sắp mãn nhiệm Bush và Tổng thống đắc cử Obama đều mong chóng đến ngày ông Obama nhậm chức 20/1/2009. Nhưng tâm trạng của họ có lẽ khác nhau, nhất là với nền kinh tế được giới chuyên gia nhận định là đã suy thoái.

B: Nguyên nhân khủng hoảng tài chính Mỹ

Sự khủng hoảng của nền kinh tế lớn nhất thế giới này có nhiều nguyên nhân nhung nguyên nhân lớn nhất bắt nguồn từ hệ thống tài chính lỏng lẻo.

Có 2 cách nhìn về nguyên nhân khủng hoảng

Sự mất cân bằng toàn cầu đã gây ra khủng hoảng kinh tế, hay sự buông lỏng quản lý mới là "tội đồ"?

- Có quan điểm cho rằng, sự mất cân đối toàn cầu - có thể được hiểu là những khoản thặng dư thương mại khổng lồ của một số quốc gia như Trung Quốc, và thâm hụt thương mại cũng vĩ đại không kém của một số nước khác như Mỹ - là nguyên nhân sâu xa gây ra khủng hoảng tài chính.

Những người có quan điểm cho rằng mất cân đối toàn cầu (global imbalances) gây ra cuộc khủng hoảng nhìn nhận, một lượng tiền dư thừa từ những quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao, như Trung Quốc và các nước xuất khẩu dầu lửa, đã chảy vào nước Mỹ. Những dòng tiền này khiến lãi suất tại Mỹ được duy trì ở mức thấp và tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực cho vay tín dụng, tiếp đó là sự tăng vọt của giá các loại tài sản như nhà đất và chứng khoán. Rốt cục, khi những bong bóng này vỡ, khủng hoảng tài chính nổ ra theo.

- Tuy nhiên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) không nhất trí với quan điểm này. Trong một tài liệu công bố ngày 6/3, IMF lập luận, "thủ phạm" chính gây ra khủng hoảng không gì khác chính là tình trạng buông lỏng quản lý hệ thống tài chính, cùng với việc không tuân thủ kỷ luật thị trường. Kinh tế gia trưởng Olivier Blanchard của IMF cho rằng, sự mất cân đối toàn cầu chỉ "gián tiếp" tiếp tay cho khủng hoảng.

+ IMF cho rằng, hệ thống tài chính phi ngân hàng (shadow banking system) - một mạng lưới có độ ràng buộc lẫn nhau cực cao, gồm các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu cơ, các tổ chức cho vay địa ốc... - lại không nằm dưới sự giám sát của các quy chế chặt chẽ (chẳng hạn các quy định về mức độ đủ vốn) thường được áp dụng cho các ngân hàng thương mại.

+ Công cụ tài chính truyền thống các nhà tài chính đã sinh ra các công cụ tài chính mới được gọi là công cụ tài chính phái sinh.

Một cách khách quan các công cụ này đã tạo ra tính năng động cho thị trường,giúp cho nguồn tài chính được luân chuyển 1 cách có hiệu quả vùa mang lại lợi ích cho người tiết kiệm vừa mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Nhưng việc sử dụng công cụ này 1 cách thái quá và lơ là việc giám sát các hoạt động này đã tích lũy rủi ro cho hệ thống tài chính.

+ Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm- chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như việc giữ được giá nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá. Đáng tiếc là nhiều yếu tố xấu trong hệ thống tài chính Mỹ như kiểu cho vay thế chấp dễ dãi lại đem đi xuất khẩu ra thế giới

Việc cứu Fannie Mae và Fredie Mac là cuộc cứu nạn thuộc loại lớn nhất của nhà nước Mỹ sau thế chiến thứ hai. Hai công ty tư nhân Fannie Mae và Fredie Mac, chủ yếu cho vay và bảo hiểm vay nhà đất, mà hiện nay số nợ của họ đã lên tới trên 5.000 tỷ đô la, lớn hơn một phần ba GDP của Mỹ, và bằng nửa tổng số nợ địa ốc của cả nước.

Ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới Lehman Brothers Holdings đã tuyên bố phá sản. tiếp theo là tập đoàn tài chính lớn thứ 3 nước Mỹ là Marrill Lunch bị bán cho tập đoàn Bank of America và công ty bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ AIG cầu cứu sự chọ giúp đã làm cho hệ thống tài chính của Mỹ trơ nên chao đảo.

Sự suy sụp của thị trường bất động sản

Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ. Các ngân hàng của nước này đã cho phép những khách hàng có độ rủi ro tín dụng cao được phép vay tiền. Những khoản vay này, cùng với trái phiếu và tài sản thế chấp khác trở thành các Chứng chỉ nợ (CDO) - một loại hàng hóa được ưa chuộng trên thị trường tài chính toàn cầu.

Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp

Tuy nhiên, việc nhà đất trượt dốc trong khi lãi suất ngân hàng tăng khiến nhiều khách hàng mất khả năng trả nợ ,thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp , CDO cũng vì thế mà kém sức hút đối với nhà đầu tư. Các ngân hàng miễn cưỡng phải cho nhau vay tiền trong khi không biết đối tác đang sở hữu bao nhiêu nợ xấu.

Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng nhanh chóng vượt khỏi biên giới nước Mỹ. Các ngân hàng đầu tư tại Australia cũng nhanh chóng ghi nhận lỗ. Họ ngừng bán ra trái phiếu trong khi hồi hộp chờ đợi diễn biến thị trường.

Cục Dự trữ liên bang Mỹ và Ngân hàng trung ương châu Âu nhanh chóng nhảy vào cuộc bằng cách nới lỏng chính sách cho vay đối với các ngân hàng. Tỷ lệ lãi suất cũng được cắt giảm trong nỗ lực cứu vãn thị trường tín dụng.

(do Chính phủ Mỹ từ chối bảo lãnh, Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư hàng đầu trên thế giới với 158 năm lịch sử và trên 26000 nhân viên, tuyên bố phá sản

Trợ giúp tập đoàn AIG khoảng 150 tỷ USD)

Tranh biếm họa : Hệ quả mỗi khi người ta đưa ra một gói bảo lãnh (bailout) cho doanh nghiệp đang bên bờ phá sản...

Tuy nhiên những biện pháp ngắn hạn nêu trên không thể giúp các ngân hàng giải bài toán thanh khoản. Nguồn tiền cho vay không có sẵn khiến các công ty, cá nhân và ngay chính các ngân hàng lâm vào tình trạng khốn đốn. Người ta nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của suy thoái như thất nghiệp, vỡ nợ hay giá tiêu dùng tăng vọt.

Tại Anh, ngân hàng Northern Rock nhanh chóng bị quốc hữu hóa. Sự sụp đổ của ngân hàng Bear Stearns làm tổn thương nghiêm trọng niềm tin của thị trường và đặt dấu chấm hết cho các ngân hàng chỉ hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.

Trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp lâu dài, Chính phủ Mỹ đồng ý thông qua gói cứu trợ trị giá 700 tỷ USD giúp mua lại nợ xấu của Phố Wall. Kế hoạch này thực chất là việc Chính phủ nước này vay tiền từ thị trường tài chính thế giới. Họ hy vọng có thể trả được những khoản vay này một khi thị trường nhà đất ổn định trở lại.

Hàng loạt các biện pháp đã được sử dụng nhung cuộc khủng hoảng chua đến hồi kết thúc.

 Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ có thể tác động tới Việt Nam qua hai kênh.

Kênh trực tiếp và rõ ràng nhất là thương mại.

-- Giá nông sản và nguyên liệu giảm, với giá dầu chỉ còn bằng một nửa mức đỉnh điểm vào đầu năm 2008.

-- Lương thực và khoáng sản cũng rớt giá. Giá nông sản và nguyên liệu thấp hơn có nghĩa là thu nhập của nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu sẽ thấp hơn.

Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng hay thậm chí là khối lượng tuyệt đối của xuất khẩu công

nghiệp chế biến và chế tạo cũng có nhiều khả năng bị tác động xấu do suy thoái ở các

nước giàu.

 Do thương mại có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, việc

xuất khẩu tăng trưởng chậm lại hay thậm chí có thể suy giảm sẽ có nhiều khả năng gây

tác động lan tỏa, từ đó làm giảm tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Giá nông sản và

nguyên liệu còn có thể làm giảm thu ngân sách, mặc dù áp lực lạm phát sẽ đỡ hơn.

Kênh tác động thứ hai là dòng vốn;.

- Với tỷ lệ lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn và dòng vốn không chắc chắn, nhiều nhà đầu tư sẽ xem Việt Nam là rủi ro. ( Điều đó có nghĩa là : một lượng lớn vốn FDI đăng ký sẽ không bao giờ được thực hiện. Và một số khoản kiều hối, mà thực chất là dòng vốn đầu tư, sẽ thu hẹp)

- . Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng giảm do các nhà đầu tư sẽ chuyển sở thích sang các khoản đầu tư "an toàn" ở các thị trường phát triển thay vì đầu tư ở các thị trường mới nổi như Việt Nam.

Trong bảng số liệu trên: số vốn FDI đăng kí năm 2009 giảm mạnh so với năm 2008, chỉ bằng 1/3 so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu (kể cả dầu thô) cũng suy giảm đáng kể chỉ còn 86.6% so với cùng kỳ năm 2008 do giá dầu thế giới giảm mạnh, tác động không tích cực tới tình hình xuất khẩu dầu nói riêng và xuất khẩu của Việt Nam nói chung.

Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ cũng gây ra tác động đến thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam về tâm lý, về nguồn vốn tham gia thị trường...

"Kết thúc năm2008, chỉ số VN Index và HASTC-Index cùng giảm gần 70% so với đầu năm, một mức sụt giảm chưa từng có trong lịch sử hơn 8năm hoạt động, thuộc nhóm chỉ số giảm mạnh nhất trong thế giới."

Những bài học và đối sách cần có cho Việt Nam

1. Ở cấp độ quản lý

Mặc dù cuộc khủng hoảng chưa kết thúc và cần thời gian để kiểm định, nhưng có thể rút ra 3 bài học lớn từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ hiện nay:

Thứ nhất, xác định rõ nguồn gốc của khủng hoảng, cụ thể là từ Mỹ với việc nới lỏng kiểm soát hệ thống tài chính, dẫn đến cho vay dưới chuẩn, làm mất khả năng thanh khoản và dẫn đến đổ vỡ.

Thứ hai là việc chính phủ các nước đều tập trung (trực tiếp hoặc gián tiếp) cứu hệ thống tài chính không bị đổ vỡ và thông qua các định chế tài chính để cứu vãn nền kinh tế không bị khủng hoảng nặng nề thêm, tiến tới phục hồi và tăng trưởng.

Thứ nữa là tập trung tạo ra công ăn việc làm và bảo đảm an sinh xã hội.

Cụ thể:

Thứ nhất: Không có ngoại lệ và miễn dịch phá sản cho bất kỳ đại gia nào trong cuộc chơi trên sân kinh tế thị trường. Nói cách khác, một doanh nghiệp dù lớn đến đâu, thâm niên dài bao nhiêu và trước đó có thành công như thế nào, cũng có thể sụp đổ nếu vi phạm luật chơi, mà cụ thể ở cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ hiện nay là vi phạm chuẩn cho vay bất động sản có sự dung túng của chính phủ...

Thứ hai: Vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng là hết sức quan trọng và không thể coi nhẹ trong bất luận trường hợp nào và vào thời điểm nào... ngoài ra, cần luôn tỉnh táo với các tác động lan tỏa, dây chuyền của các sự biến kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần dập ngòi khủng hoảng từ khi nó còn nhen nhúm, thay vì khi nó đã thành đám cháy mạnh và lan rộng, thì chi phí là khó đo lường, nhất là với một nước còn nghèo và các thiết chế thị trường còn chưa phát triển, hoàn thiện nhu Viet Nam.

Thứ ba :nhà nước có vai trò không thể thiếu được và ngày càng to lớn trong cuộc chiến với các chấn động kinh tế chu kỳ hoặc bột phát, nhất là khủng hoảng tài chính - ngân hàng, dù nó xảy ra không trực tiếp từ sai lầm của chính phủ hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước... Tuy nhiên, sự can thiệp này phải tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích, nhất là không đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng. Sử dụng các công cụ nợ, biến nợ xấu thành chứng khoán có thể mua - bán trên thị trường nợ là một trong các lựa chọn cần thiết và hiệu quả trong trường hợp này và cho mục tiêu đó.

Ở cấp độ doanh nghiệp

Một là, cần rà roát lại các dự án và hoạt động đầu tư - kinh doanh của đơn vị, tự phân loại tính chất, cách thức và mức độ ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng này, từ đó chủ động có phương án xử lý cụ thể hiệu quả cho đơn vị và đối tác cụ thể trong giả định tình huống xấu nhất có thể xảy ra.

Hai là, thực hiện đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh và thị trường, cũng như các đối tác có liên quan.

Ba là, thường xuyên theo dõi thị trường, cập nhật thông tin, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng dự báo và năng lực xử lý kịp thời các tình huống phát sinh từ bên ngoài. Có thể lập các đội đặc nhiệm, với các kịch bản "tác chiến" linh hoạt và tối ưu cho các tình huống khẩn cấp.

Bốn là, tiếp tục cải thiện năng lực và sự lành mạnh tài chính, chất lượng bộ máy và quản trị kinh doanh, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, có tầm nhìn dài hạn trong liên doanh, liên kết, hợp tác và cạnh tranh kinh tế cả trong quá trình phát triển bên trong, cũng như trong cuộc chiến với các động thái thị trường và chấn động kinh tế bên ngoài...

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện tại, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo phải chú trọng và tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp dân doanh. Điều này là hoàn toàn đúng và rất cần thiết, vì hầu hết (khoảng 95%) doanh nghiệp dân doanh nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đang thuộc diện vừa và nhỏ. Họ đã, đang và sẽ còn gặp nhiều khó khăn do lạm phát, nhất là tình hình tăng nhanh các chi phí sản xuất kinh doanh, gắn với tăng chi phí vay vốn, nguyên vật liệu, lương nhân công, thuê mặt bằng kinh doanh và các chi phí không chính thức khác. Ngoài ra, họ còn gặp các khó khăn về thông tin, xúc tiến thương mại và vô vàn khó khăn có tên và không thể gọi tên... Thực hiện tốt chỉ đạo của Thủ tướng chính là đáp ứng sự chờ đợi của doanh nghiệp, nguyện vọng của người dân và thể hiện tích cực, cụ thể vai trò của nhà nước trong phòng chống và đối phó với lạm phát trong nước, và với khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới.

 Các giải pháp đã được chính phủ và ngân hàng nhà nước đưa ra: Biện pháp chung để ngăn chặn khủng hoảng nặng nề thêm là việc Chính phủ sử dụng các biện pháp hỗ trợ kinh tế.

1 - KÍCH CẦU1

-- Tổng gói kích cầu của Chính phủ tới 8 tỉ USD chiếm gần 10% GDP, đó là gói kích cầu khá lớn, lớn nhất trong số các nước sử dụng gói kích cầu (nếu tính trên GDP) so với tiềm lực kinh tế Việt Nam.

-- Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo tập trung thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp đang triển khai, đồng thời bổ sung một số nhóm giải pháp như: kích cầu tiêu dùng khu vực nông thôn, cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư xây dựng cơ bản...

 Gói kích cầu này đã từng bước tỏ rõ hiệu quả khi trong năm 2009, Việt Nam là 1 trong 12 nước trên thế giới đạt mức tăng trưởng dương. Kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu thô) vững vàng, đạt 98% so với cùng kỳ năm 2008.

Tuy nhiên cũng còn nhiều thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong thời gian tới:

- Lạm phát : vẫn tiềm ẩn nếu không kiểm soát tốt.

- Xuất khẩu : khó khăn, 7 tháng giảm tới 13,4%; nhập khẩu có chiều hướng gia tăng, do đó nhập siêu cũng có chiều hướng tăng (riêng 7 tháng nhập siêu 3,4 tỷ USD) làm cho cán cân tổng thể bị ảnh hưởng và gây áp lực lên tỷ giá.

- Đầu tư nước ngoài : vẫn khó khăn.

- Thâm hụt ngân sách: tăng...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lan