Ti phu ban giay ( TONY HSIEH up by Vu Van Hoa)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tác giả: TONY HSIEH

Mục lục: 

 Kỳ 1: Trang trại giun đất

Kỳ 2: Lớn lên

Kỳ 3: Trường đại học

Kỳ 4: Khởi nghiệp

Kỳ 5: Phát triển nhanh chóng

Kỳ 6: Những cuộc phiêu lưu mới 

Kỳ 7: Bài Poker

Kỳ 8: Hời hợt

Kỳ 9: Sự kết nối

Tỷ phú bán giày - Kỳ  1: Trang trại giun đất

TTO - Tỷ phú bán  giày (tác giả Tony Hsieh, NXB ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Công ty Alphabooks phát  hành) là câu chuyện của Tony Hsieh - người đã đưa công ty bán lẻ giày dép trực  tuyến Zappos.com thành một công ty trị giá 1 tỉ USD và cũng là người nổi tiếng  với quan điểm "văn hóa công ty chính là thương hiệu" - chia sẻ về con  đường lập thân của chính bản thân mình.

Với cuốn sách này Tony Hsieh đã chia sẻ hành trình 27 năm với  nhiều thành công cũng như thất bại của mình. Đặc biệt là những chia sẻ của ông  về những quan niệm về kinh doanh, về văn hóa công ty, về nghệ thuật dùng  người...

Tủ sách Tuổi Trẻ Online

 trích giới thiệu một số phần trong cuốn sách vào lúc 20g mỗi đêm.

Trang trại giun đất

Đầu tiên người ta không thèm để ý đến bạn, sau đó người ta chế  nhạo bạn, tiếp đến người ta tấn công bạn, rồi cuối cùng thì bạn thắng

Tôi tin rằng Gandhi không hề biết tôi là ai khi tôi mới chín tuổi.  Và chắc chắn tôi cũng chẳng biết ông ta là ai. Nhưng nếu Gandhi biết về những  ảo tưởng và ước mơ thời thơ ấu của tôi về việc kiếm thật nhiều, thật nhiều tiền  bằng cách nuôi và bán giun đất với số lượng lớn ra thị trường, thì có lẽ ông ta  cũng sẽ đưa ra những câu răn tương tự thế này để khích lệ tôi trở thành người  bán giun đất hàng đầu thế giới.

Nhưng đáng buồn là Gandhi lại chẳng ghé qua nhà tôi để trao cho  tôi lời khuyên và sự thông thái của ông. Thay vào đó, trong ngày sinh nhật lần  thứ chín của tôi, tôi nói với bố mẹ rằng tôi muốn họ lái xe đưa tôi tới ngôi  nhà của chúng tôi ở bắc Sonoma, tới nơi có nhà cung cấp giun đất nổi tiếng nhất  cả nước lúc bấy giờ. Nhà cung cấp ấy chẳng hề biết rằng tôi đang ấp ủ giấc mơ  trở thành đối thủ lớn nhất của họ. 

Bố mẹ tôi đã trả 33,45 đô-la cho một chiếc hộp đựng bùn chứa  khoảng 100 con giun đất. Tôi nhớ đã đọc một cuốn sách nói rằng khi cắt đôi con  giun thì hai phần đó sẽ tiếp tục sinh trưởng thành hai con giun. Điều đó nghe  có vẻ thú vị, nhưng như thế có nghĩa là tôi sẽ phải làm rất nhiều việc. Vì vậy,  thay vào đó, tôi vạch ra một kế hoạch tốt hơn: Tôi tự tạo ra “một hộp giun”  trong vườn nhà mình, chiếc hộp về cơ bản giống như chiếc hộp cát, có lưới thép  mỏng dưới đáy. Thay vì đổ cát, tôi đổ đầy bùn và cho hơn một trăm con giun đất  vào đó, để chúng được thoải mái trườn bò và sinh sôi nảy nở.

Hàng ngày, tôi lấy một chút lòng đỏ trứng rồi vùi xuống hộp giun đất.  Tôi cho rằng điều đó sẽ giúp cho những con giun đất sinh sôi nhanh hơn, vì tôi  thấy nhiều vận động viên chuyên nghiệp thường ăn trứng gà sống trong bữa sáng.  Bố mẹ tôi không tin việc bán giun đất có thể giúp tôi trở nên giàu có như tôi  mơ ước, nhưng họ vẫn để tôi nuôi giun đất bằng lòng đỏ trứng. Tôi cho rằng lý  do duy nhất cho việc đó là vì họ không muốn các con ăn lòng đỏ trứng chứa nhiều  cholesterol. Nếu những con giun đất kia ăn lòng đỏ trứng thì có nghĩa là anh em  tôi sẽ chỉ ăn lòng trắng trứng có lượng cholesterol thấp. Mẹ tôi luôn trông  chừng để chúng tôi không ăn những thứ có thể làm tăng lượng cholesterol. Tôi  nghĩ bà đã đọc được bài báo nói về cholesterol và đã khiến bà lo sốt vó lên.

Sau ba mươi ngày nuôi giun đất bằng lòng đỏ trứng gà, tôi quyết  định kiểm tra kết quả công việc của mình. Tôi bới lớp bùn lên để xem có con  giun con nào ra đời không. Nhưng chẳng có con giun con nào cả. Tệ hơn, tôi cũng  chẳng tìm thấy bất cứ con giun to nào. Tôi mất một giờ đào bới cẩn thận tất cả  các lớp bùn trong hộp. Những con giun đất đã biến mất. Có thể chúng đã bò ra  ngoài qua các mắt lưới ở dưới đáy hộp. Cũng có thể chúng bị chim ăn mất khi  chúng sà xuống ăn lòng đỏ trứng gà.

Công cuộc làm giàu từ giun đất của tôi đã thất bại hoàn toàn. Tôi  nói với bố mẹ rằng nuôi giun chẳng có gì thú vị, nhưng sự thật là tôi rất buồn  vì đã thất bại. Nếu Thomas Edison còn sống, hẳn ông sẽ dừng lại trước cửa nhà  tôi và động viên tôi bằng quan điểm của ông về thất bại:

Con đường dẫn tới thành công của tôi cũng đã trải qua nhiều thất  bại

Có vẻ như ông còn đang bận rộn với những phát minh, sáng chế của  mình, vì thế, cũng giống như Gandhi, ông đã không ghé nhà tôi. hay cũng có khi  họ đang bận rộn chơi với nhau chăng

>> Kỳ tới: Lớn lên:

 Bố mẹ tôi, đặc biệt là mẹ tôi, vẫn luôn hy vọng tôi sẽ học  trường Y hoặc sẽ lấy bằng tiến sĩ. Họ tin rằng giáo dục chính thống là điều  quan trọng nhất, nhưng với tôi, hai mươi năm đầu đời được vạch sẵn dường như  quá kiểm soát và ngột ngạt.

« Last Edit: October 06, 2011, 09:13:21 AM by cauhaihue »

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #1 on: October 10, 2011, 03:11:59 PM »

Tỷ phú bán giày - Kỳ  2: Lớn lên

TTO - Bố mẹ tôi đã di  cư từ Đài Loan sang Mỹ để học cao học tại Đại học Illinois, nơi họ gặp nhau và  kết hôn. Mặc dù tôi sinh ra tại Illinois, nhưng những ký ức duy nhất đọng lại  trong tâm trí tôi về quãng thời gian sống ở đó là trò nhảy cầu cao ba mét sáu  và trò bắt đom đóm.

Kỳ 1:  Trang trại giun đất

Những ký ức thuở nhỏ thường rất mờ nhạt nhưng tôi chắc rằng hai ký  ức đó không liên quan đến nhau, vì tôi không cho rằng hồi hai tuổi tôi có thể  bắt được một chú đom đóm khi đang lơ lửng giữa không trung.

Khi tôi lên năm, bố tôi xin được việc ở California, vì thế, gia  đình tôi chuyển tới quận Marin County, nơi có cây cầu Cổng Vàng bắc qua, phía  bắc San Francisco. Chúng tôi sống ở thung lũng Lucas. Nhà tôi cách trang trại  Skywalker Ranch hai mươi phút đi xe, nơi George Lucas từng sinh sống và làm  việc

Bố mẹ tôi là những người Mỹ gốc Á điển hình. Bố tôi là kỹ sư hoá  cho công ty Chevron, còn mẹ tôi là người làm công tác xã hội. Họ đặt kỳ vọng  rất lớn vào thành tích học tập của tôi cũng như hai cậu em trai. Andy kém tôi  hai tuổi, và bốn năm sau khi chúng tôi chuyển tới California, cậu em út David  của tôi ra đời.

Không có nhiều gia đình người châu Á sinh sống tại Marin County,  nhưng bằng cách nào đó bố mẹ tôi vẫn kết thân được với mười gia đình ở đây và  các ông bố bà mẹ cùng các con vẫn thường tụ tập, cùng ăn tối và giải trí. Những  đứa trẻ thì xem ti vi, còn các ông bố bà mẹ thì tụ tập trong phòng khách và trò  chuyện rôm rả về thành tích của con mình. Đó là một nét văn hoá của người châu  Á: thành tích của con cái được các bậc phụ huynh sử dụng như một thước đo thành  công và địa vị của mình. Chúng tôi giống như những con bài trong tay các bậc cha  mẹ vậy.

Theo các bậc cha mẹ người châu Á, thành tích được chia thành ba  loại khác nhau

Loại một là các thành tích học tập: có học hàm học vị cao, được  tặng thưởng hay được xã hội công nhận, đạt được điểm SAT cao hay có tên trong  đội tuyển toán của trường. Điều quan trọng nhất của tất cả những loại thành  tích này là con em họ sẽ ghi danh vào trường đại học nào. Harvard là trường đại  học mang lại quyền “khoe con” tối thượng

Loại hai là các thành tích trong sự nghiệp: trở thành bác sĩ hay  đạt được học vị Tiến sĩ được xem là thành tích cao nhất, vì trong cả hai trường  hợp đó thì có nghĩa là bạn sẽ trở thành “Tiến sĩ Hsieh” hay “Bác sĩ Hsieh" 

Loại ba là sự tinh thông âm nhạc: đa số trẻ em châu Á bị buộc phải  học piano, violon hoặc cả hai. Và mỗi khi các gia đình tụ tập, những đứa trẻ  phải chơi nhạc cho các ông bố bà mẹ nghe sau bữa tối. Hoạt động này bề ngoài có  vẻ như là giúp mọi người thư giãn, nhưng thực chất, đó chính là cách để các bậc  phụ huynh so sánh con mình với con người khác..

Bố mẹ tôi, cũng giống như những ông bố bà mẹ châu Á khác, rất  nghiêm khắc trong việc nuôi dạy tôi để chiến thắng trong cả ba loại thành tích  trên. Tôi chỉ được xem tivi một tiếng mỗi tuần. Đạt điểm A trong tất cả các môn  học là điều hiển nhiên và muốn tôi phải luyện các bài thi SAT suốt những năm  học trung học và phổ thông. SAT là bài thi chuẩn phải làm vào năm cuối phổ  thông, điều kiện để vào đại học. Nhưng bố mẹ muốn tôi sớm chuẩn bị cho kỳ thi  đó khi tôi mới chỉ học lớp sáu.

Ở trường trung học, tôi chơi bốn loại nhạc cụ: piano, violon, kèn  và trống. Trong suốt những năm học này, tôi phải tập luyện mỗi loại nhạc cụ ba  mươi phút từ thứ hai đến thứ sáu và một tiếng vào thứ bảy và chủ nhật. Suốt mùa  hè, tôi đã phải tập luyện một tiếng mỗi ngày cho mỗi loại nhạc cụ, đến nỗi tôi tin  rằng đó chính là hình phạt tàn ác nhất cho những đứa trẻ muốn được hưởng thụ  phần “nghỉ” trong “nghỉ hè”.

Nhưng tôi đã tìm ra một cách để vẫn có thể tận hưởng những ngày  nghỉ cuối tuần và kỳ nghỉ hè. Tôi thức dậy rất sớm, từ 6 giờ sáng, trong khi bố  mẹ vẫn còn đang say giấc. Tôi đi xuống nhà, nơi đặt chiếc đàn piano. Rồi thay  vì chơi piano thật sự, tôi bật băng ghi âm bài nhạc tôi đã chơi từ trước. Đến 7  giờ, tôi trở lên phòng mình, khoá cửa lại và bật băng ghi âm một tiếng tôi tập  violon. Không phải chơi đàn nên tôi có thời gian rảnh để đọc tạp chí Boy’s Life  (Cuộc đời của những cậu bé).

Và chắc bạn có thể hình dung, thầy giáo dạy piano và violon của  tôi không thể hiểu tại sao tôi chẳng hề tiến bộ chút nào. Có lẽ họ cho rằng tôi  là một học sinh chậm tiến. Còn với tôi, tôi không hiểu việc học cách chơi những  loại nhạc cụ này sẽ mang lại lợi ích gì.

Hy vọng mẹ tôi không nổi điên lên khi đọc được những dòng này. Có  lẽ tôi nên trả lại cho bà khoản tiền bà đã đầu tư cho việc học piano và violon  của tôi).

Bố mẹ tôi, đặc biệt là mẹ tôi, vẫn luôn hy vọng tôi sẽ học trường  Y hoặc sẽ lấy bằng tiến sĩ. Họ tin rằng giáo dục chính thống là điều quan trọng  nhất, nhưng với tôi, hai mươi năm đầu đời được vạch sẵn dường như quá kiểm soát  và ngột ngạt.

Còn tôi lại chỉ quan tâm tới việc kinh doanh và nghĩ ra nhiều cách  để kiếm tiền. Khi tôi lớn lên, bố mẹ luôn bảo tôi không phải lo nghĩ gì về  tiền, chỉ cần tập trung vào học hành. Họ hứa sẽ chi trả toàn bộ học phí cho đến  khi tôi trở thành bác sĩ hoặc tiến sĩ. Họ cũng hứa sẽ mua bất cứ loại quần áo  nào tôi muốn. Thật may mắn cho họ là tôi chẳng hứng thú gì với thời trang nên  chẳng bao giờ tôi xin tiền mua quần áo cả.

Tôi luôn mơ mộng tới việc kiếm tiền, vì với tôi tiền sẽ mang lại  sự tự do để làm bất cứ gì mình muốn trong quãng đời còn lại. Có công ty riêng  cũng đồng nghĩa là tôi được thoải mái sáng tạo và sống theo cách tôi muốn.

Tôi đã tổ chức nhiều đợt bán hàng “xôn” trong nhà xe suốt thời  tiểu học. Khi tôi đã bán hết những thứ đồ bỏ đi của bố mẹ, tôi hỏi bạn bè xem  liệu họ có thứ đồ gì muốn bán không. Chúng tôi tập hợp những thứ đó lại và pha  nước chanh bán kèm. Ý tưởng của chúng tôi là, ngay cả khi mọi người không mua  gì, thì ít nhất chúng tôi cũng vẫn bán được nước chanh cho họ. Chúng tôi đã  kiếm được tiền từ việc bán nước chanh chứ không phải từ những món hàng lặt vặt  kia.

Ở trường trung học, tôi lại tìm cách khác để kiếm tiền. Tôi tìm  được công việc giao báo, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng công việc này chính  là cách các tờ báo địa phương lách luật lao động trẻ em. Sau khi tính toán, tôi  thấy mình chỉ kiếm được có 2 đô-la mỗi giờ.

Tôi bỏ việc giao báo và quyết định tự làm bản tin. Mỗi bản tin sẽ  dày hai mươi trang, gồm những câu chuyện tôi viết, những trò giải đố ô chữ và  truyện cười. Tôi in bản tin trên nền giấy vàng cam sáng, đặt tên là The Gobbler  (Gà trống tây) và bán với giá 5 đô-la. Tôi đã bán được bốn bản cho bạn bè ở  trường. Tôi nhận ra mình cần phải có nhiều bạn bè hơn, những người có đủ tiền  để mua các bản tin, hoặc tôi cần tìm ra doanh thu từ nhiều nguồn khác nữa. Vì  thế, khi đi cắt tóc, tôi đưa cho chú thợ cắt tóc một tờ The Gobbler và hỏi liệu  chú có muốn mua cả trang quảng cáo của kỳ tới với giá 20 đô-la hay không.

« Last Edit: October 10, 2011, 03:14:42 PM by cauhaihue »

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #2 on: October 10, 2011, 03:15:00 PM »

Khi chú ấy đồng ý mua, tôi biết mình có thể làm điều gì đó hơn  thế. Tất cả những gì tôi cần làm là phải bán được thêm bốn trang quảng cáo  nữađể có 100 đô-la, số tiền tôi chưa từng nhìn thấy trong đời. Đầy tự tin sau  vụlàm ăn đầu tiên, tôi tới các cửa hiệu ngay cạnh hiệu cắt tóc và hỏi liệu họ  có muốn đăng quảng cáo trên tờ bản tin sắp tới của tôi hay không  tờ tạp chí sẽ làm cả nước choáng váng

Nhưng họ đều từ chối theo cách lịch sự nhất có thể. Vài tuần sau,  tôi cho ra lò bản tin The Gobbler số thứ hai. Lần này, tôi chỉ bán được hai  bản.

Tôi quyết định dừng vụ kinh doanh này lại.

Công việc thì quá nhiều mà bạn bè tôi thì hết sạch tiền để mua rồi.

Cậu em Andy và tôi đã từng chờ đợi mỗi kỳ tạp chí Boy’s Life hàng  tháng và đọc nó không sót một từ. Mục yêu thích của tôi nằm ở gần cuối cuốn tạp  chí − mục rao vặt giúp đặt mua những sản phẩm thú vị tôi chưa từng thấy, nhưng  tôi biết mình muốn có chúng vào một ngày nào đó. Có đủ thứ đồ ảo thuật và những  vật dụng mới (ban đầu, tôi đã nghĩ khái niệm “mới” là “thực sự rất mới, rất  ngầu”), có cả một bộ dụng cụ để biến một chiếc máy hút bụi thành một chiếc  tàuđệm khí nhỏ.

Nhưng điều khiến tôi thích thú nhất là trang quảng cáo lớn ở cuối  cuốn tạp chí, trưng bày tất cả các phần thưởng bạn có thể nhận được bằng việc  bán thiệp. Nghe có vẻ rất đơn giản: chỉ đi dạo quanh nhà hàng xóm, bán thiệp  Noel (loại thiệp mà ai cũng cần, kể cả tôi), giành thật nhiều điểm và đổi điểm  lấy cái ván trượt hay một thứ đồ chơi nào đó tôi chưa từng có và giờ rất muốn  có.

ì thế, tôi quyết định đặt mua một số thiệp và một cuốn catalog.  Lúc này vẫn là kỳ nghỉ hè nên tôi có rất nhiều thời gian để gõ cửa từng nhà và  chào hàng. Điểm dừng chân đầu tiên là nhà hàng xóm ngay cạnh nhà tôi.

Tôi đưa cho bà chủ nhà cuốn catalog có tất cả các mẫu thiệp Noel.  Bà ấy trả lời tôi rằng bây giờ mới là tháng tám, còn lâu bà mới cần đến thiệp  Noel. Tôi nghĩ bà ấy đúng. Tôi thật ngu ngốc khi đi bán thiệp Noel vào tháng  tám, thế nên đó cũng chính là điểm dừng chân cuối cùng của tôi.

Tôi trở về nhà, cố gắng nghĩ ra một ý tưởng kinh doanh nào đó ít  yếu tố mùa vụ hơn.

Ở trường tiểu học, tôi có một người bạn thân tên là Gustav. Chúng  tôi thường làm mọi việc cùng nhau, tụ tập ở nhà và diễn kịch cho các bậc  phụhuynh xe, dạy cho nhau những ngôn ngữ bí mật và mật mã, và đến nhà nhau ngủ  lại mỗi tuần.

Mỗi lần tôi đến nhà Gustav chơi, cậu ta lại cho tôi mượn một cuốn  sách có tên Free Stuff for Kids (Đồ miễn phí cho trẻ). Đó là cuốn sách tuyệt  nhất từ trước đến giờ. Trong đó có hàng trăm vật dụng miễn phí hoặc có giá dưới  1 đô-la mà trẻ em có thể đặt hàng, bao gồm bản đồ miễn phí, giấy dán tường giá  50 xu hoặc những sản phẩm dùng thử. Để có được một sản phẩm, bạn phải viết một  bức thư bỏ trong phong bì và gửi đến một địa chỉ (theo tôi được biết, đó là  phong bì có dán địa chỉ riêng), ngay cả đối với những sản phẩm có giá dưới  1đô-la, bạn cũng phải làm như vậy. Gustav và tôi đã xem hết lượt cuốn sách  vàđặt hàng tất cả các vật dụng mà chúng tôi thấy hấp dẫn.

Sau mười phút đứng chào bán thiệp Noel, tôi trở về nhà, đọc lại  những mục phân loại trong cuốn tạp chí Boy’s Life và nhìn thấy một bộ dụng  cụlàm khuy áo có giá 50 đô-la. Bộ dụng cụ đó sẽ giúp bạn biến bất cứ một tấm  hình hoặc một mẩu giấy nào nào thành một chiếc khuy áo sơ mi. Giá để làm một  chiếc khuy là 25 xu.

Tôi bước tới giá sách, lục ra tất cả những cuốn sách đã mượn của  Gustav từ những năm trước nhưng chưa trả lại cậu ấy, rồi tôi tìm xem trong  những cuốn sách đó có viết về công ty nào từng bán khuy áo làm từ ảnh chưa.  Chẳng có công ty nào cả.

Với tâm trạng vô cùng hứng khởi, tôi đánh máy một bức thư gửi tới  nhà xuất bản của cuốn sách, vờ rằng tôi là một doanh nghiệp sản xuất khuy áo và  muốn xuất hiện trong lần xuất bản năm tới của cuốn sách. Để việc giả vờ này  giống thật hơn, tôi đã thêm vài ký hiệu “Dept.FSFK” vào địa chỉ thư của mình.  FSFK là mật mã của tôi, cho cụm từ “Free Stuff For Kids” (Vật dụng miễn phí cho  trẻ em). Điều kiện của tôi là bọn trẻ phải gửi một bức hình, một phong bì ghi  sẵn địa chỉ nhà và 1 đô-la. Tôi sẽ làm một chiếc khuy áo từ tấm hình và gửi lại  cho chúng bằng chiếc phong bì đã ghi sẵn địa chỉ. Tôi lãi 75 xu cho mỗi đơn đặt  hàng.

Hai tháng sau, tôi nhận được hồi âm của nhà xuất bản. Họ nói  rằngđề nghị của tôi đã được chọn để xuất hiện trong cuốn sách kỳ tới. Tôi nói  với bố mẹ rằng tôi đã đặt mua bộ dụng cụ làm khuy áo với giá 50 đô-la, cộng  thêm 50đô-la nữa cho các phụ tùng và tôi sẽ trả lại tiền cho bố mẹ sau một trăm  đơnđặt hàng đầu tiên.

Tôi không cho rằng bố mẹ tôi tin vào lời hứa đó. Trước đây họ cũng  từng nghe tôi nói sẽ kiếm được nhiều tiền như thế nào nếu bán được bản tin The  Gobbler hay sau khi bán được hàng trăm tấm thiệp Noel. Nhưng vì tôi vẫn đạt học  sinh giỏi nên tôi nghĩ họ sẽ cho phép tôi đặt mua bộ dụng cụ và phụ tùng làm  khuy áo kia, xem như là phần thưởng cho nỗ lực của tôi.

Hai tháng sau, tôi nhận được một cuốn sách Free Stuff For Kids  phiên bản mới. Cảm xúc trào dâng khi thấy địa chỉ nhà mình được in trong cuốn  sách. Tôi đưa cuốn sách cho bố mẹ và chờ đợi những đơn hàng đầu tiên trong lo  lắng.

Người đưa thư luôn đi trên một con đường quen thuộc. Nhà tôi nằm  gần chân đồi và ông ấy luôn bắt đầu hành trình của mình từ chân đồi nhưng ởphía  bên kia đường, đi lên phía trên, rẽ xung quanh và lại xuống chân đồi. Vì thế,  mỗi lần nghe thấy tiếng xe của người đưa thư ở phía bên kia đường, tôi biết  rằng hai mươi phút sau người đưa thư sẽ đi đến nhà tôi, tôi đứng chờ sẵn ởbên  ngoài để nhận thư. Thông thường, thư sẽ đến vào khoảng 1 giờ 36 phút chiều.

Hai tuần sau khi cuốn sách xuất bản, tôi nhận được đơn đặt hàngđầu  tiên. Tôi hồi hộp mở phong bì ra, bên trong là bức ảnh của một bé gái mười hai  tuổi mặc một chiếc váy sọc vuông màu đỏ đang ôm một chú cún xinh xắn. Quan  trọng hơn cả là bên trong còn có tờ 1 đô-la. Tôi đã có vụ làm ăn đầu tiên! Tôi  biến bức hình thành một chiếc khuy áo rồi gửi lại cho cô bé bằng chiếc phong  bìđã ghi sẵn địa chỉ nhà cô bé. Tối hôm đó, tôi háo hức kể cho bố mẹ nghe về  đơn hàng này. Tôi nghĩ họ đã khá ngạc nhiên thậm chí khi tôi chỉ nhận được 1  đơnđặt hàng này. Tôi đưa cho họ tờ 1 đô-la và ghi vào nhật ký rằng khoản nợ đã  giảm xuống chỉ còn 99 đô-la.

Ngày tiếp theo, tôi nhận được hai đơn hàng. Qua một đêm mà doanh  số đã nhân đôi. Suốt hơn một tháng sau, có nhiều ngày tôi nhận được tới hơn  mười đơn hàng. Cuối tháng đầu tiên, tôi đã kiếm được hơn 200 đô-la. Tôi đã  trảhết nợ và kiếm được khá nhiều tiền ở độ tuổi của mình. Tuy nhiên, tôi phải  mất một tiếng mỗi ngày để làm những chiếc khuy áo. Vào những ngày có nhiều bài  tập về nhà, tôi không có thời gian để làm khuy áo nên có khi tôi đã để đơn hàng  dồnđống tới cuối tuần. Suốt những ngày cuối tuần, tôi phải dành đến bốn năm  tiếng làm khuy áo. Kiếm được nhiều tiền thật là tuyệt, nhưng phải ngồi lì trong  nhà thì chẳng thú vị chút nào. Vì thế, tôi quyết định đã đến lúc cần đầu tư mua  một chiếc máy làm khuy bán tự động có giá 300 đô-la để nâng cao hiệu quả và  năng suất làm việc.

Công việc kinh doanh khuy áo của tôi đã mang lại khoản thu nhập  ổnđịnh 200 đô-la hàng tháng trong suốt những năm tôi học trung học. Bài học lớn  nhất mà tôi học được là bạn có thể tạo ra một doanh nghiệp thành công qua hình  thức đặt hàng qua thư, mà không cần gặp mặt trực tiếp.

Đôi lúc khi quá bận, tôi vẫn nhờ tới sự trợ giúp của các cậu em.  Tốt nghiệp cấp hai, tôi bắt đầu cảm thấy chán ngán công việc làm khuy áo mỗi  ngày, vì thế tôi quyết định nhường công việc kinh doanh cho cậu em Andy. Lúcđó,  tôi nghĩ rằng tôi sẽ bắt đầu một công việc kinh doanh qua thư đặt hàng khác mà  tôi đam mê hơn.

Vào thời điểm đó, tôi không thể tưởng tượng được rằng việc làm  khuy áo sau này lại trở thành công việc kinh doanh của gia đình tôi. Vài năm  sau, Andy truyền nghề cho cậu em út của chúng tôi, David. Vài năm sau, chúng  tôi ngừng đăng quảng cáo trên cuốn sách Free Stuff For Kids và kết thúc công  việc kinh doanh. Bố tôi được thăng chức và ông phải chuyển đến Hồng Kông, vì  thế ông đã đưa mẹ tôi và cậu em David đi theo. Chẳng còn anh chị em ruột nào  đểDavid truyền nghề nữa.

Giờ nghĩ lại, lẽ ra chúng tôi nên có một kế hoạch truyền nghề tốt  hơn. 

**************************************

>> Kỳ tới: Trường Đại Học: Ngoài những hoạt động ở trường  học, mối quan tâm lớn nhất của tôi thời trung học vẫn là làm thế nào để kiếm  được tiền...

« Last Edit: October 10, 2011, 03:18:49 PM by cauhaihue »

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #3 on: October 17, 2011, 04:00:19 PM »

Tỷ phú bán giày - Kỳ  3: Trường đại học

TTO - Tôi đã nộp đơn  vào các trường đại học Brown, UC Berkeley, Stanford, MIT, Princeton, Cornell,  Yale và Harvard. Tôi được nhận vào tất cả các trường này. Sự lựa chọn đầu tiên  của tôi là Brown vì trường này có chuyên ngành quảng cáo, một ngành có vẻ liên  quan nhiều tới kinh doanh hơn bất kỳ ngành học nào ở các trường khác.

Kỳ 1:  Trang trại giun đất

Kỳ 2:  Lớn lên

Tuy nhiên, bố mẹ tôi lại muốn tôi học trường Harvard vì trường đó  nổi tiếng nhất, đặc biệt với cộng đồng người châu Á. Vì thế, tôi quyết định  theo học trường này.

Thứ đầu tiên tôi mua khi tới Harvard là tivi. Tôi không còn bị bố  mẹ hạn chế thời gian xem phim một giờ mỗi tuần như trước nữa, vì thế, tôi đã  xem tivi bốn tiếng mỗi ngày trong sự tự do mới. Tôi phát hiện ra rằng trong khi  tôi dành thời gian xem tivi thì những sinh viên khác trong ký túc xá lại đang  bận rộn với những trò đùa như tháo hết giấy vệ sinh trong nhà vệ sinh nữ hay đổ  đầy nước trà nóng vào bồn tắm của giám thị (vị giám thị này tất nhiên là chẳng  thấy vui vẻ gì).

Tôi sắp xếp lịch để chỉ phải lên lớp từ 9 giờ sáng đến 1 giờ chiều  vào thứ hai, tư, sáu, còn thì hoàn toàn rảnh rỗi vào thứ ba và thứ năm. Sự sắp  xếp này có vẻ là một ý tưởng tuyệt vời về mặt lý thuyết nhưng phải trở thành  một con cú đêm, và tôi quyết định sẽ theo một lịch biểu kỳ lạ kéo dài 48 tiếng.  Theo lịch đó, tôi sẽ thức 32 tiếng liên tục và rồi ngủ liền 16 tiếng sau đó.

Vào những ngày phải lên lớp, tiếng chuông báo thức lúc 8 giờ sáng  là thứ âm thanh khó chịu nhất trên thế giới này. Tôi sẽ đập mạnh vào cái nút  báo chuông và tự nhủ rằng mình sẽ trốn tiết học đầu tiên, rồi sẽ mượn vở những  sinh viên khác để chép lại bài. Một tiếng sau đó, tôi lại thuyết phục mình rằng  lập luận ban đầu cũng đúng với những tiết học sau, vì thế, tôi sẽ trốn luôn buổi  học ngày hôm đó. Lúc đó, tôi định sẽ đến học tiết thứ ba, nhưng tôi lại lý luận  rằng mình đã trốn hai tiết học kia rồi, bỏ thêm một vài tiết nữa có sao đâu.  Cuối cùng, mỗi khi định đi học, tôi lại tìm được một lý do nào đó để trốn. Lợi  ích từ việc đi học dường như không được tôi đánh giá cao.

Vì thế, về cơ bản, tôi đã không đi học trong suốt năm thứ nhất. Vì  tôi chẳng bao giờ nhấc nổi mình dậy đúng giờ, tôi quá lười để dậy tắm rửa và đi  học trước giờ ăn trưa. Tôi đã ăn rất nhiều đồ ăn đủ cho cả ngày và ngấu nghiến  tất cả các tập phim Days of our lives (Những tháng ngày trong cuộc đời chúng  ta).

Tôi đã dành phần lớn thời gian năm thứ nhất để tham gia các hoạt  động với những người bạn sống cùng ký túc, gọi là khu Canaday A. Chúng tôi cùng  nhau xem phim, chơi game và tán chuyện. Có sẵn cảm hứng từ những ngày làm bản  tin Gobbler, tôi đã lập ra bản tin Canaday A. Chúng tôi có một nhóm nòng cốt  gồm mười lăm người, đoàn kết và gắn bó. Hầu hết chúng tôi đều không kết bạn  ngoài nhóm và cố gắng gắn kết với nhau trong suốt bốn năm đại học.

Giống như hồi học phổ thông, tôi cố gắng kiếm nhiều tiền nhất có  thể khi học đại học ít mà vẫn đạt được điểm số cao. Tôi tham gia một số lớp học  như Ngôn ngữ ký hiệu kiểu Mỹ, Ngôn ngữ học và tiếng Quan thoại (tôi vẫn nói  chuyện với bố mẹ bằng thứ tiếng này). Để hoàn thành các môn điều kiện cốt yếu,  tôi đã ghi danh vào một lớp học về Kinh Thánh. Tin tốt lành là môn học này  không có bài tập về nhà và cũng chẳng chấm điểm, nên tôi đã chẳng bao giờ đến  lớp. Tin xấu là việc xếp loại của tôi sẽ dựa vào bài thi cuối kỳ, nhưng tôi lại  chẳng chuẩn bị gì cho nó, vì chẳng bao giờ tôi mở bất cứ cuốn sách bắt buộc  phải đọc nào trong suốt khoá học. Tôi nghĩ rằng kỹ năng tôi được mài giũa nhiều  nhất trong trường chính là kỹ năng trì hoãn.

Hai tuần trước khi làm bài thi cuối kỳ, giáo sư phát một danh sách  gồm hàng trăm chủ đề có thể sẽ là bài kiểm tra. Chúng tôi được thông báo rằng,  năm trong số những chủ đề này sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên cho bài kiểm tra và  chúng tôi phải viết một vài đoạn văn về những chủ đề đó.

Trong vòng hai tuần, tôi không có cách nào đọc hết tất cả các cuốn  sách được yêu cầu đọc trong cả một học kỳ, và tôi cũng chẳng sợ bị trượt môn  học.

Nhưng có câu: cái khó ló cái khôn. Ở Harvard, chúng tôi có thể sử  dụng máy tính để đăng nhập vào những nhóm tin điện tử (electronic newsgroups),  tương tự như hệ thống bảng tin điện tử (BBS) mà tôi từng kết nối thời trung  học. Tôi gửi một tin nhắn tới các nhóm tin điện tử và mời tất cả các sinh viên  Harvard cũng học lớp Kinh Thánh kia tham gia vào một cuộc nghiên cứu quy mô lớn  chưa từng thấy, vì điều này sẽ rất thiết thực.

Đối với những người quan tâm, tôi sẽ giao cho mỗi người nghiên cứu  kỹ lưỡng ba trong số hàng trăm chủ đề có thể sẽ được lựa chọn. Sau đó, mỗi  người sẽ gửi qua email cho tôi những đoạn văn họ viết về ba chủ đề có thể là đề  bài trong kỳ thi cuối kỳ. Tôi tổng hợp bài viết của họ, phô-tô, đóng lại thành  tập rồi bán với giá 20 đô-la mỗi tập. Bạn chỉ có thể mua một tập nếu bạn đã  đóng góp vào đó ba chủ đề.

Khi tin nhắn được gửi đi, có rất nhiều người quan tâm, vì thế tôi  nhận được rất nhiều câu trả lời cho mỗi chủ đề từ những sinh viên khác nhau.  Chẳng cần phải đọc bất cứ cuốn sách nào hay tự viết, tôi vẫn có được những bài  nghiên cứu đầy đủ nhất từ trước đến nay, và mọi người cũng nhận thấy nó thật  hữu ích. The Crimson, tờ báo của trường chúng tôi, đã viết một bài về kinh  nghiệm của nhóm nghiên cứu thực tiễn này, còn tôi thì đã hoàn thành rất tốt bài  thi cuối kỳ.

Tôi đã khám phá ra sức mạnh của nguồn lực đám đông (crowdsourcing  (*)).

Tôi còn làm nhiều việc khác nhau trong năm thứ nhất đại học.

Tôi tham gia vào cộng đồng làm phim, kiếm tiền bằng cách trình  chiếu các bộ phim tại các giảng đường đại học rồi bán vé cho sinh viên. Tôi đến  thăm trang trại của một người bạn, ban ngày thì học cách vắt sữa, đến tối thì  bị ngã và phải khâu vết thương trên cằm khi cố học trượt băng. Tôi không chắc  việc vắt sữa bò hay mấy mũi khâu trong phòng cấp cứu, cái nào đáng sợ hơn.

Tôi giành được vé xem buổi hòa nhạc đầu tiên trên đài phát thanh  địa phương và xem buổi biểu diễn của U2 trong tua Zoo TV của họ. Tôi làm nhiều  việc khác nhau trong trường, bao gồm việc phụ bếp cho các đám cưới hoặc phục vụ  ở quầy rượu, sau khi đã hoàn thành bốn tiếng học tại Harvard Bartending School  và lấy được chứng chỉ Mixology. Tôi cũng tham gia nhiều công việc lập trình máy  tính khác nhau, bao gồm những việc làm cho Hội sinh viên trường Harvard, làm  việc tại công ty Spinnaker Software và tham gia khóa thực tập mùa hè tại  Microsoft.

Một trong những công ty tôi đã làm là BBN, nơi đã phát triển công  nghệ mà sau này trở thành xương sống của mạng Internet. BBN đã ký hợp đồng với  các cơ quan chính phủ, vì thế tôi phải trải qua một cuộc kiểm tra nhân thân để  có được bậc Bí mật, thấp hơn Tối mật một bậc. Dường như mức độ bảo mật của chính  phủ quá cao đến nỗi phải phân loại tên của chúng như thế này.

Phần lớn công việc của tôi tại BBN là vào trong một căn phòng lớn  và tách biệt với bên ngoài với mức độ bảo mật rất cao, thể hiện ở huy hiệu điện  tử và những mã số bí mật để đi qua những cánh cửa khác nhau. Tôi không được  phép mang bất cứ thứ gì ra ngoài căn phòng này, đặc biệt là những thiết bị điện  tử hay bất cứ dữ liệu truyền thông điện tử nào khác.

Một mùa hè, tôi quyết định băng qua con sông nối liền Cambridge và  Boston để khám phá thành phố này. Tôi lang thang qua những địa điểm du lịch của  Boston, đến thăm Guardian Angels (Thiên thần hộ mệnh), tổ chức có nhiệm vụ ngăn  ngừa và chống lại tội ác. Tôi quyết định trở thành thành viên của tổ chức này  trong vài tháng với công việc tuần tra hệ thống tàu điện ngầm và các ngõ hẻm  của Boston.

Tên của tôi trong tổ chức là “Bí mật”. Ban đầu, tôi nghĩ rằng đó  là vì tôi từng nhắc tới công việc bí mật của tôi tại các tổ chức chính phủ,  nhưng sau đó tôi biết được rằng một trong những thành viên kỳ cựu của tổ chức  muốn đặt tên cho tôi là “Bí mật Trung Hoa cổ đại”.

Suốt những năm học đại cương và chuyên ngành ở đại học, tôi nhận  thấy mình đã liên tục bỏ lỡ công việc kinh doanh, vì thế tôi đảm nhiệm việc  quản lý Quincy House Grille, một khu ăn uống, nằm dưới tầng trệt của ký túc xá  Quincy House. Toà nhà này có khoảng ba trăm sinh viên sinh sống và Quincy House  Grille là nơi sinh viên tụ tập chơi bóng và ăn đêm.

Một trong những người bạn cùng phòng với tôi, Sanjay, phụ trách  quán cùng tôi. Chúng tôi chịu trách nhiệm lên thực đơn và định giá, đặt hàng từ  các nhà cung cấp, thuê nhân viên và thường xuyên tự chuẩn bị đồ ăn.

Vào thời gian đó, thành phố ra chỉ thị cấm mở những quán ăn nhanh  gần các trường đại học, vì thế tôi phải đi tàu điện ngầm đến trạm gần nhất có  cửa hàng McDonald’s. Tôi nói chuyện với người quản lý ở đó và ông ta bán cho  tôi một trăm chiếc bánh hamburger và bánh ngọt McDonald’s. Tôi dùng xe tải chở  chúng về khu ký túc. Đó là hành trình thường xuyên của tôi trong vài tháng sau  đó. Vì chẳng có cửa hàng nào gần khu ký túc này bán bánh hamburger của  McDonald’s nên tôi có thể bán với giá 3 đô-la một chiếc trong khi chỉ mất 1  đô-la chi phí.

Nhưng rồi tôi cũng thấy mệt nhoài với những chuyến đi hàng ngày  tới cửa hàng McDonald’s, vì thế tôi quyết định tìm xem liệu có cách nào chuyển  sang kinh doanh bánh pizza không. Tôi biết rằng kinh doanh bánh pizza sẽ thu  được lãi rất lớn. Chỉ mất chưa đầy 2 đô-la để làm một chiếc bánh pizza cỡ lớn  nhưng lại có thể bán với giá 10 đô-la (thậm chí còn cao hơn nữa). Và thậm chí,  bán từng miếng bánh pizza cũng có thể kiếm được nhiều tiền. Sau khi hỏi han một  số người, tôi biết được rằng phải mất 2.000 đô-la để đầu tư mua lò nướng. Cho  rằng vụ này đáng để mạo hiểm, tôi hít thật sâu và viết một tấm séc trị giá  2.000 đô-la.

Tôi muốn tạo ra những điều đặc biệt cho quán, nơi mà mọi người  muốn đến chơi nên đã thức trắng nhiều đêm để ghi lại các các chương trình MTV  vào băng video, tạm dừng ghi bất cứ lúc nào xuất hiện quảng cáo, vì đây là thời  kỳ trước khi truyền hình phát triển mạnh. Những băng video này hoá ra lại là  một thành công lớn, kết hợp với việc chào bán bánh pizza, doanh số bán hàng của  chúng tôi đã tăng gấp ba lần so với cùng kỳ năm trước. Phi vụ đầu tư 2.000  đô-la được hoàn vốn trong vòng vài tháng.

Chính nhờ việc kinh doanh pizza mà tôi đã gặp Alfred, người sau  này cùng gia nhập Zappos với tư cách là giám đốc tài chính (CFO) và giám đốc  điều hành (COO) của công ty. Thực ra, Alfred là khách hàng số 1 của chúng tôi.  Đêm nào cũng vậy, anh luôn đặt mua một chiếc pizza bò rắc tiêu cỡ lớn.

Ở trường đại học, chúng tôi đặt cho anh ta hai biệt danh là “Thùng  nước lèo” và “Quái vật”. Sở dĩ có biết danh này là vì lần nào nhóm chúng tôi đi  ăn ở nhà hàng (thường thì có mười người đi ăn đêm tại khu bán đồ ăn Trung Quốc,  gọi là khu Kông), anh ta cũng ăn hết sạch sành sanh thức ăn thừa trong đĩa của  cả mọi người nữa. Tôi thầm cảm ơn việc mình không phải ở chung phòng để khỏi  phải dùng chung nhà tắm với con người này.

Vì vậy với tôi, chẳng có gì là lạ khi tối nào anh ta cũng đặt mua  một chiếc pizza bò rắc tiêu cỡ lớn. Nhưng thỉnh thoảng anh ta lại trở lại sau  vài tiếng và đặt mua thêm một chiếc pizza bò rắc tiêu cỡ lớn nữa. Lúc đó, tôi  chỉ nhủ thầm: “Ồ, anh chàng này có thể ăn được hết mà.” 

Vài năm sau tôi phát hiện ra rằng Alfred mua bánh pizza rồi bán  từng miếng cho những người bạn cùng phòng. Đó là lý do tại sao chúng tôi lại  quyết định thuê anh làm giám đốc tài chính và giám đốc điều hành của Zappos.

Vài năm trước, chúng tôi làm phép tính và biết được rằng, mặc dù  tôi kiếm được nhiều tiền từ kinh doanh bánh pizza hơn Alfred, nhưng anh ta lại  kiếm được nhiều hơn tôi gấp mười lần trong mỗi giờ đồng hồ nhờ bán từng miếng  bánh pizza. (Anh ta cũng chịu ít rủi ro hơn tôi. Tên trộm nào đó đã cuỗm mất  chiếc máy nướng bánh trị giá 2.000 đô-la của tôi. Đến cuối năm, tính ra thì tôi  chỉ kiếm được 2 đô-la mỗi giờ).

Lúc đó, tôi không biết rằng mối quan hệ liên quan tới bánh pizza  của chúng tôi lại là tiền đề cho những cơ hội kinh doanh hàng triệu đô sau này.

Vào năm cuối của thời sinh viên, Sanjay đã giới thiệu cho tôi một  thứ gọi là tổ hợp World Wide Web (mạng lưới toàn cầu). Tôi nghĩ đó là một thứ  rất thú vị để khám phá vào thời điểm đó, nhưng đã không chú tâm nhiều vào nó.

Lúc đó, mục tiêu hầu hết sinh viên năm cuối, trong đó có cả tôi,  là cố gắng kiếm được việc làm trước khi tốt nghiệp. Rất nhiều công ty từ khắp  nơi trên đất nước và từ các ngành khác nhau ào ào đến Harvard để tuyển dụng nên  chúng tôi chẳng phải đi xa để phỏng vấn tìm việc.

Rất nhiều bạn cùng phòng tôi đã nộp đơn vào ngân hàng hay những  công việc tư vấn quản trị, những công việc được xem là “ngon”. Với tôi, những  việc này thật nhàm chán và tôi đã nghe đâu đó rằng thời gian làm việc của những  vị trí này kéo dài tới mười sáu tiếng một ngày.

Vì vậy, Sanjay và tôi quyết định nộp đơn vào các công ty công  nghệ. Mục tiêu của tôi là tìm được một công việc lương cao. Tôi không quan tâm  đến chức danh cụ thể của công việc đó là gì, công ty nào tôi sẽ làm việc, nền  văn hoá của công ty đó như thế nào hay tôi sẽ sống ở đâu.

Tôi chỉ quan tâm đến việc đó là một công việc lương cao và không  phải làm nhiều.

TONY HSIEH

(*) Crowdsourcing: là từ ghép của từ “crowd” và “outsourcing”,  là một mô hình kinh doanh mà người khởi xướng đặt niềm tin vào quần chúng,  những người có khả năng tìm ra những giải pháp cho các vấn đề một cách sáng tạo  nhất. Theo truyền thống, một công việc sẽ được giao cho 1 người hay 1 tổ chức  để thực hiện. Crowdsourcing là hình thức giao công việc đó cho một cộng đồng  hoặc một nhóm người, thông qua một “lời kêu gọi” để tất cả có thể cùng đóng góp  thực hiện công việc đó.

« Last Edit: October 17, 2011, 04:05:44 PM by cauhaihue »

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #4 on: October 19, 2011, 01:30:06 PM »

Tỷ  phú bán giày - Kỳ 4: Khởi nghiệp

 [/t]     

TTO - Thực ra, cuộc  phiêu lưu đang chờ đợi chúng tôi đã bắt đầu từ lâu. Chúng tôi thường ngồi vòng  tròn trong căn hộ để thiết kế các trang web và ra ngoài tìm kiếm thêm khách  hàng một tuần một lần.

Đến cuối tuần đầu tiên, tôi nhận ra một điều là cả hai chúng tôi  đều không thực sự đam mê công việc thiết kế trang web. Chúng tôi thích ý tưởng  được làm chủ và tự điều hành doanh nghiệp của riêng mình, nhưng thực tế cho  thấy chẳng có gì thú vị cả.

Bố mẹ tôi không hiểu vì sao tôi lại bỏ việc ở Oracle mà chẳng có  kế hoạch cụ thể nào cho những việc cần làm tiếp theo. Khi tôi nói với bố rằng  Sanjay và tôi định thành lập một doanh nghiệp thiết kế trang web, ông nói với  tôi rằng chẳng có cơ sở nào để doanh nghiệp của chúng tôi sẽ trở nên lớn mạnh  theo đúng nghĩa. Vào lúc đó, chỉ sau một tuần, cả Sanjay và tôi đều bắt đầu tự  hỏi liệu quyết định rời Oracle có đúng hay không. 

Những tuần tiếp sau thật sự căng thẳng và có phần chán nản. Chúng  tôi bắt đầu dành phần lớn thời gian chỉ để sục sạo các trang web nhằm chống lại  sự nhàm chán và tiêu khiển. Hồi đầu, nhìn Sanjay ngủ đến trưa trặt ra vẫn chưa  dậy cũng khá thú vị. Nhưng chúng tôi đang bắt đầu phát điên lên.

May thay, cả hai chúng tôi đều có tiền tiết kiệm từ những công  việc thời sinh viên nên không phải lo đến việc trả tiền thuê nhà từ giờ đến tận  cuối năm. Chúng tôi không biết mình muốn làm gì nhưng chúng tôi đã biết được  điều mình không muốn làm. Chúng tôi không muốn làm việc cho Oracle nữa. Chúng  tôi không muốn làm bất cứ công việc thiết kế trang web nào nữa. Chúng tôi không  muốn thực hiện bất kỳ cuộc gọi bán hàng nào nữa. Và chúng tôi cũng không muốn  trí óc mình nhàn rỗi.

Vì thế, chúng tôi dành nhiều ngày đêm cố gắng tìm ra ý tưởng kinh  doanh trên Internet vĩ đại tiếp theo, nhưng chúng tôi thực sự không tìm được  bất kỳ ý tưởng hay ho nào. Một ngày cuối tuần, trong tâm trạng buồn chán, chúng  tôi quyết định tiến hành lập trình để thử nghiệm ý tưởng mà chúng tôi gọi là  Internet Link Exchange, nghĩa là Trao đổi liên kết trên Internet (ILE) mà sau  này chúng tôi đổi tên thành LinkExchange.

Ý tưởng đằng sau LinkExchange được hình thành khá đơn giản. Nếu  bạn đang có một trang web, thì bạn có thể đăng ký dịch vụ của chúng tôi miễn  phí. Khi đăng ký, trang web của bạn sẽ được chèn một đoạn mã đặc biệt để cho  các đoạn quảng cáo tự động hiển thị trên đó.

Mỗi khi có người truy cập vào trang web của bạn và thấy một trong  những mục quảng cáo, bạn sẽ được nửa điểm. Như vậy, nếu có một nghìn người truy  cập vào trang web của bạn mỗi ngày thì bạn sẽ thu được 500 điểm mỗi ngày. Với  500 điểm này, trang web của bạn sẽ được quảng cáo 500 lần miễn phí trên mạng  lưới LinkExchange, do đó, đây là một cách tuyệt vời vì bạn không phải tốn tiền  cho quảng cáo mà vẫn thu được lợi nhuận. Năm trăm lần quảng cáo khác nên để  chúng tôi giữ. Ý tưởng là chúng tôi sẽ phát triển mạng lưới LinkExchange một  thời gian cho đến khi có đủ sự nổi tiếng để bán cho những tập đoàn lớn.

Sanjay và tôi đã hoàn thành tất cả các chương trình thử nghiệm  trong vòng hơn một tuần và chúng tôi sẽ gửi email tới năm mươi trang web yêu  thích của chúng tôi - những trang web mà chúng tôi tìm thấy khi lướt web, hỏi  xem họ có sẵn lòng thử nghiệm dịch vụ mới của chúng tôi hay không.

Thật bất ngờ, một nửa số trang web chúng tôi gửi email tới đã đồng  ý giúp đỡ chúng tôi thử nghiệm dịch vụ trong vòng hai mươi tư tiếng. Khi có  người truy cập vào các trang web và nhìn thấy banner quảng cáo, tin tức về  LinkExchange bắt đầu lan truyền. Chỉ trong một tuần, chúng tôi nhận ra rằng dự  án đó ban đầu chỉ nhằm giúp chúng tôi chống lại sự buồn chán nhưng giờ có vẻ sẽ  có tiềm năng trở thành cái gì đó rất lớn. Chúng tôi quyết định tập trung toàn  bộ sức mạnh, biến LinkExchange thành một doanh nghiệp thành công.

Năm tháng tiếp theo trôi đi rất nhanh. Ngày càng có nhiều trang  web đăng ký sử dụng dịch vụ của chúng tôi. Chúng tôi không còn phải lo lắng về  việc kiếm tiền nữa. Chúng tôi chỉ tập trung vào việc phát triển mạng lưới  LinkExchange. Chúng tôi háo hức với việc tạo ra thứ gì đó lớn mạnh nhanh chóng  và nhiều người thực sự thích sử dụng nó. 

Sanjay và tôi làm việc thâu đêm suốt sáng, chia ra một nửa thời  gian lập trình máy tính và nửa còn lại trả lời email khách hàng. Chúng tôi cố  gắng trả lời tất cả các email được gửi đến càng nhanh càng tốt. Thường thì  chúng tôi có thể trả lời email chỉ trong vòng mười phút và mọi người rất ngạc  nhiên khi nhận được hồi âm của chúng tôi.

Có thời điểm chúng tôi không thể trả lời kịp tất cả các email gửi  đến, nên một người bạn đến chơi đã quyết định sẽ giúp trả lời những bức thư đó  và cuối cùng ở lại luôn với chúng tôi. Đó là khoảng thời gian tuyệt vời, thú vị  và kỳ diệu đối với tất cả chúng tôi. Chúng tôi biết chúng tôi đang làm điều gì  đó lớn lao, tuy rằng không thực sự biết nó sẽ trở thành cái gì nữa. Ngày tháng  trở nên lẫn lộn với nhau, chúng tôi thật sự không biết hôm nay là thứ mấy trong  tuần.

Một ngày tháng 8 năm 1996, chúng tôi nhận được một cú điện thoại  từ một người tự xưng là Lenny. Anh ta gọi từ New York và nói rằng muốn mua  quảng cáo trên hệ thống của chúng tôi và còn xem xét khả năng mua lại công ty  của chúng tôi. Sanjay và tôi đã đồng ý ăn tối với anh ta vào tuần sau tại San  Francisco.

Chúng tôi gặp nhau ở Tony Roma - chuỗi nhà hàng chuyên về các món  ăn từ thịt thỏ. Lenny giới thiệu về mình giống như một “Bigfoot” vậy - được thể  hiện rõ ở cả tên công ty cũng như biệt danh của anh ta. Anh ta gọi đồ uống  Kahlua, vì vậy tôi cũng gọi đồ uống cùng loại. Tuy nhiên, Sajay lại tránh xa  thứ đồ uống đó. Sajay và Kahlua chưa bao giờ có mối quan hệ tốt với nhau kể từ  cái đêm mà các bạn cùng phòng thời đại học mãi mãi gọi là “Kahlua đêm”, khi mà  anh đã nốc rất nhiều Kahlua (sau đó thì nôn ọe trong phòng vệ sinh mà chúng tôi  dùng chung với các bạn cùng phòng).

Lenny nói với chúng tôi rằng anh muốn đưa cho chúng tôi một đề  nghị: một triệu đô-la tiền mặt và cổ phiếu để chúng tôi bán LinkExchange cho  Bigfoot. Như một phần của giao dịch, Lenny muốn chúng tôi chuyển đến New York  để làm việc cho Bigfoot. Sanjay và tôi nhìn nhau, cả hai đều choáng váng.  LinkExchange chỉ mới được thành lập có năm tháng mà giờ đây chúng tôi lại có cơ  hội bán nó với giá một triệu đô-la. Đây có thể là một cơ hội đổi đời cho chúng  tôi. Chúng tôi nói với Lenny rằng chúng tôi muốn có vài ngày để suy nghĩ về đề  nghị đó, nhưng từ duy nhất mà tôi có thể nghĩ trong đầu là “Ồ!”.

Sanjay và tôi đã dành 24 tiếng để nói về những gì chúng tôi nên  làm. Chúng tôi thực sự tin rằng LinkExchange có tiềm năng phát triển hơn nữa,  nhưng cũng khó có thể từ chối một số tiền lớn như vậy. Vì thế, chúng tôi quyết  định nói với Lenny rằng chúng tôi sẽ bán công ty với giá hai triệu đô-la tiền  mặt. Như thế, Sanjay và tôi, mỗi người sẽ kiếm được một triệu đô-la chỉ sau năm  tháng làm việc. Tôi đã đọc được ở đâu đó rằng bạn sẽ ở vị thế thương thuyết tốt  nhất nếu bạn không quan tâm kết quả là gì và bạn không thua. Với mức giá hai  triệu đô-la, dù sao tôi cũng sẽ cảm thấy vui hơn bất kể vụ giao dịch có thành  công hay không.

Khi chúng tôi nói ra điều đó, Lenny không nghĩ rằng chúng tôi đáng  giá hai triệu đô-la (và tôi cũng không nghĩ rằng anh ta thực sự có đủ hai triệu  đô-la), vì thế chúng tôi thống nhất sẽ đi theo hai con đường khác nhau nhưng  vẫn giữ liên lạc với nhau.

“LinkExchange là một cơ hội tuyệt vời trong cuộc đời các anh”,  Lenny nói. “Tôi từng kiếm được rất nhiều tiền, nhưng cũng mất rất nhiều khi tôi  quyết định đánh cược với trang trại hiện tại của tôi thay vì lấy tiền. Tôi mong  rằng các anh sẽ may mắn.”

Sanjay và tôi có động lực hơn bao giờ hết khi chắc chắn rằng  LinkExchange sẽ thành công. Chúng tôi phải chứng minh được rằng Lenny đã sai.

Khi ngày càng có nhiều người đăng ký dịch vụ của chúng tôi, Sanjay  và tôi nhận ra rằng chúng tôi cần nhiều sự giúp đỡ hơn cả về dịch vụ khách hàng  và về lập trình máy tính. Ngoài việc thuyết phục bạn bè – những người đã ghé  thăm chúng tôi, không quay về nhà nữa mà ở lại giúp chúng tôi trả lời email,  chúng tôi còn bắt đầu tìm kiếm nhiều lập trình viên máy tính khác.

Tôi nhớ hồi đại học, tôi từng tham gia vào cuộc thi lập trình máy  tính quốc tế. Mỗi trường đại học được phép cử một đội gồm những lập trình viên  giỏi nhất để thi đấu với các trường đại học khác. Đội của tôi đã giành giải  nhất trong cuộc thi đó. Tôi quyết định sẽ gặp Hadi – một trong những sinh viên  trong đội tuyển của tôi để xem cậu ấy có muốn gia nhập LinkExchange không.

Thời còn đi học, tôi biết được rằng Hadi thích ảo thuật, vì thế  chúng tôi từng bàn nhau về ý tưởng sẽ tổ chức chương trình biểu diễn ảo thuật  trên giảng đường để có thêm thu nhập. Chúng tôi ảo tưởng rằng chúng tôi sẽ trở  thành bộ đôi David Copperfield mới, nhưng rốt cuộc, chúng tôi chẳng làm được  trò trống gì vì cũng quá bận rộn rồi.

Khi tôi liên lạc lại với Hadi, tôi đã hỏi cậu ta có muốn gia nhập  LinkExchange không, và tôi cung cấp tất cả những thông tin về việc chúng tôi đã  lớn mạnh nhanh như thế nào, lời đề nghị mua lại với mức giá một triệu đô-la mà  chúng tôi đã từ chối và hệ thống này thú vị ra sao. Cậu ấy trả lời rằng đó thật  sự là một công việc thú vị nhưng cậu ấy quá bận rộn với công việc ở Seattle,  làm cho hãng Microsoft, là nhóm trưởng của nhóm phụ trách trình duyệt web  Internet Explorer để cạnh tranh với các trình duyệt của Netscape, vì thế không  thể gia nhập nhóm chúng tôi được.

Tuy nhiên, cậu ấy nói với tôi rằng cậu ấy có người em sinh đôi, và  cũng làm công việc như thế. Cậu ấy nói rằng, họ giống hệt nhau và hồi ở trường  đại học, họ thường thay nhau đi phỏng vấn và vờ là người kia nếu một trong hai người  quá bận rộn. Tôi tự hỏi không biết liệu có khi nào người này đi hẹn hò hộ người  kia hay không.

“Như vậy... về cơ bản, cậu muốn bọn tớ thuê cậu em của cậu à?”,  tôi hỏi.

“Ừ.” 

“Chuyện hai người thay nhau đi phỏng vấn là sự thật à?”

“Đúng vậy.”

“OK, nghe được đây. Thế cậu em đó tên là gì?”

“Ali”.

Sau khi gặp Ali tại căn hộ của chúng tôi, Sanjay và tôi quyết định  nhận cậu ta là thành viên thứ ba của LinkExchange, và chúng tôi đã mở một văn  phòng thực sự tại San Francisco. Mỗi người trong chúng tôi đều bắt đầu mời bạn  bè gia nhập LinkExchange, từng người một và họ đều đồng ý.

Tính đến tháng 12 năm đó, LinkExchange đã có tới 25 nhân viên và  hầu hết đều là bạn bè của chúng tôi. Đó cũng chính là lúc Jerry Yang - người  đồng sáng lập Yahoo!, đánh tiếng muốn gặp chúng tôi. Yahoo! vừa có đợt IPO rất  thành công trị giá hơn một tỷ đô-la hồi đầu năm. Jerry là người tiên phong  trong ngành công nghiệp Internet điên rồ nhất thời bấy giờ, vì thế, tất cả  chúng tôi đều háo hức gặp một người nổi danh về Internet. Chúng tôi hy vọng có  thể ký kết được vài hợp đồng quảng cáo với Yahoo! để thúc đẩy cho sự tăng  trưởng của chúng tôi.

Nhưng thực ra, Jerry chẳng hề quan tâm tới việc ký kết hợp đồng  quảng cáo với chúng tôi, mà anh ta muốn mua lại chúng tôi - một cú sốc đối với  chúng tôi. Chúng tôi phải đợi cho đến khi kỳ nghỉ lễ kết thúc vì tất cả các  thành viên trong ban điều hành đều đang đi nghỉ. Vì thế, chúng tôi thống nhất  sẽ bàn bạc lại vào tháng giêng năm sau.

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #5 on: October 19, 2011, 01:30:41 PM »

Sau kỳ nghỉ năm mới, anh ta đến gặp chúng tôi trong căn hộ cũ của  chúng tôi và nói với Sanjay, Ali và tôi về số tiền họ sẵn sàng trả cho việc mua  lại LinkExchange. 

“Hai mươi triệu đô-la”.

Tôi đã phải rất cố gắng để giữ bình tĩnh. Ý nghĩ đầu tiên vụt lên  trong đầu tôi là “Ôi trời ơi!”. Ý nghĩ thứ hai thoáng qua trong đầu tôi chính  là “Tôi mừng huýnh lên vì đã không bán công ty cho Lenny năm tháng trước.”

Chúng tôi nói với Jerry rằng chúng tôi sẽ suy nghĩ về lời đề nghị  đó và sẽ trả lời anh ta sau vài ngày. Tình huống này giống hệt lần trước, chỉ  khác là số tiền mua lớn hơn nhiều. Rất nhiều là đằng khác.

Những ngày sau đó đầy ắp lo lắng. Chúng tôi đã kể cho những thành  viên còn lại của công ty về những gì đã xảy ra, và rằng Sanjay, Ali và tôi sẽ  là những người đưa ra quyết định cuối cùng. Nếu chúng tôi nhận 20 triệu đô-la,  thì từ giờ đến cuối đời, tôi sẽ chẳng cần phải làm gì nữa cả.

Theo kinh nghiệm, tôi đã lên danh sách tất cả những việc tôi sẽ  làm khi có nhiều tiền:

• Tôi sẽ mua một ngôi nhà ở San Francisco để có một nơi sinh sống  và có thể gọi là nhà của mình thay vì phải đi thuê nhà và sống chung với người  bạn cùng phòng.

• Tôi sẽ mua một chiếc tivi màn hình lớn và sẽ xây dựng một nhà  hát.

• Tôi muốn có nhiều những kỳ nghỉ nhỏ (những kỳ nghỉ cuối tuần kéo  dài) bất cứ khi nào và đến những nơi như Las Vegas, New York, Miami và Los  Angeles.

• Tôi sẽ mua một chiếc máy tính mới.

• Tôi sẽ lại lập ra một công ty khác vì tôi thực sự hào hứng với ý  tưởng xây dựng và phát triển một thứ gì đó.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy danh sách này quá ngắn, và điền thêm  những việc khác thực sự khá khó khăn với tôi. Với số tiền tiết kiệm được từ  những công việc trước, tôi đã có thể mua tivi, máy tính và hưởng những kỳ nghỉ  ngắn. Chỉ là tôi chưa bao giờ tự mình làm những việc đó mà thôi.

Tôi cũng đã gây dựng được một công ty mà tôi rất yêu thích. Giờ đây  sẽ thật là ngu ngốc khi tôi lại bán đi công ty mà tôi vô cùng yêu thích, để rồi  bắt đầu gây dựng lại một công ty khác. Trừ mỗi việc tôi sẽ có một ngôi nhà cho  riêng mình thay vì đi thuê, tôi nhận ra rằng tôi đã có đủ điều kiện để mua tất  cả những gì tôi muốn.

Những câu nói của Lenny cứ vang vọng trong đầu tôi: “LinkExchange  là một cơ hội tuyệt vời trong cuộc đời các anh”. Tôi biết tận sâu trong trái  tim mình rằng, ngay cả khi chúng tôi thất bại thì theo đuổi cơ hội đó vẫn là  một việc làm đúng đắn. Nó còn quan trọng hơn việc được sở hữu một ngôi nhà của  riêng mình khi mới ở cái tuổi 23. Việc trở thành chủ nhân của một ngôi nhà là  việc có thể để lại sau.

Tôi đã tâm sự với Sanjay và Ali về những suy nghĩ của tôi và họ  đều đưa ra cùng một quyết định. Chúng tôi vẫn còn trẻ. Chúng tôi vẫn có thể mạo  hiểm.

Hôm sau, chúng tôi tổ chức một cuộc họp toàn công ty để thông báo  về quyết định của chúng tôi.

“Các bạn biết đấy, chúng tôi đã nhận được một lời đề nghị mua lại  công ty từ Yahoo!, và mấy ngày hôm nay chúng tôi đã suy đi nghĩ lại xem có nên  chấp thuận hay không.” Tôi cất lời. Hẳn bạn đang hình dung ra sự căng thẳng bao  trùm cả căn phòng. “Và chúng tôi đã quyết định từ chối lời đề nghị của họ.”

Nhìn quanh phòng, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy giường như có  một niềm tin tưởng nào đó đang hiện hữu trên khuôn mặt của các nhân viên.  “Chúng ta đang ở trong một thời khắc rất trọng đại”, tôi tiếp tục. “Ngành công  nghiệp Internet đang bùng nổ. Các công ty như Netscape, eBay, Amazon và Yahoo!  đang làm thay đổi lịch sử nhân loại. Trước đó, chưa từng có nhiều công ty thành  công trong thời gian ngắn như vậy. Chúng ta có cơ hội trở thành một trong những  công ty như thế.”

Tôi không biết vì sao, nhưng vì một lý do nào đó mà tôi bắt đầu  thấy cảm xúc dâng trào. Giọng tôi trở nên run run. Tôi cố gắng nói những lời  cuối cùng và nhanh chóng kết thúc cuộc họp, nếu không tôi sẽ khóc mất:

“Sẽ chẳng bao giờ có một năm 1997 nào khác nữa.”

Đó là thời điểm chúng tôi chống lại cả thế giới, và chúng tôi chắc  chắn rằng mình sẽ chiến thắng.

Những tháng sau đó diễn ra khá mơ hồ. Theo một cách nào đó, chúng  tôi cảm thấy dường như có ai đó luôn dõi theo để đảm bảo chúng tôi không phạm  phải bất cứ sai lầm nào. Michael Moritz đến từ Sequoia Capital - hãng có vốn  liên doanh do Yahoo! tài trợ, trở thành thành viên hội đồng quản trị và đầu tư  ba triệu đô-la để mua 20% cổ phiếu trong công ty. Ngày càng có nhiều trang web  đăng ký sử dụng dịch vụ và chúng tôi bắt đầu ký kết những hợp đồng quảng cáo  lớn đem lại doanh thu cho công ty. Chúng tôi tuyển dụng rất nhiều nhân viên  thông minh và đam mê nghề nghiệp (rất nhiều người trong số họ là bạn bè của  nhân viên trong công ty). Chúng tôi làm việc cùng nhau rất vui vẻ. Chúng tôi  đang ở trên đỉnh cao của thế giới.

Tôi không biết từ khi nào đã có một truyền thống vui tại  LinkExchange. Mỗi tháng một lần, tôi gửi email đến toàn thể nhân viên trong  công ty để thông báo cho họ biết rằng chúng tôi sẽ có một cuộc họp quan trọng  và rằng một số nhà đầu tư và các thành viên hội đồng quản trị sẽ tham dự, tất  cả mọi người đều được yêu cầu mặc vest và thắt cà vạt vào ngày hôm đó. 

Nhưng tất cả các nhân viên, trừ những người mới vào làm, đều biết  rằng đó không hẳn là buổi họp công việc thực sự, và rằng họ không cần phải mặc  vest hay thắt cà vạt. Lý do thực sự của cuộc họp đó là chúng tôi có thể giới  thiệu và làm quen với tất cả những nhân viên mới – những người vừa mới gia nhập  LinkExchange trong tháng qua.

Vì vậy, cứ mỗi tháng một lần, tất cả các nhân viên mới đều xuất  hiện ở văn phòng trong trang phục com-lê và thắt cà vạt. Và rồi họ nhận ra rằng  họ chính là mục tiêu trong trò đùa của cả công ty. Trong cuộc họp buổi chiều,  tất cả các nhân viên mới đều được gọi đứng lên giữa phòng để làm một số việc  gây cười.

Sau vụ đầu tư của Sequoia, chúng tôi đề nghị Michael Moriz tham dự  cuộc họp đầu tiên và mời ông đứng ra giữa phòng cùng với sáu nhân viên mới được  tuyển vào công ty tháng trước.

Sau khi từng người tự giới thiệu về mình xong, chúng tôi giới  thiệu về Moritz một cách trang trọng, rồi chúng tôi hô hào mọi người cùng nắm  tay nhau và nhảy theo điệu nhạc cho một trò chơi.

Nếu bạn từng biết bất cứ điều gì về Moritz trên các phương tiện  truyền thông, thì bạn sẽ biết rằng ông vốn là một nhà báo người Anh, sau đó trở  thành nhà đầu tư mạo hiểm, rất thông minh, đúng mực và sống nội tâm. Vì thế,  mọi người đều rất háo hức khi chứng kiến cảnh ông ấy sẵn sàng đứng giữa phòng  cùng với các nhân viên mới khác. Một số người còn mang cả đài ra và bật to để  tất cả mọi người cùng vỗ tay cổ vũ. Rồi nhạc bắt đầu nổi lên. Đó là bài  Macarena. 

Tôi không thể nghĩ ra từ nào để diễn tả cảnh tượng Moritz bị ép  phải nhảy điệu Macarena như thế nào. Có thể xem đây là một trong những cảnh  tượng kỳ lạ nhất từ trước đến nay. Tất cả mọi người trong phòng này đều vỗ tay  tán dương và cười nói, và khi kết thúc bản nhạc tôi đã cười chảy cả nước mắt.

Tôi nhìn khắp phòng, thấy niềm hạnh phúc hiện hữu trên khuôn mặt  của tất cả mọi người và tự nhủ, “Không thể tin đây là sự thật”. Đó không hẳn là  vì cảnh tượng Moritz nhảy điệu Macarena, cũng không phải vì tất cả mọi người  trong phòng đều đang nói cười vui vẻ. Mà bởi tất cả những gì đã xảy ra trong  năm qua. Nó dường như không có thật vậy.

Nói theo ngôn ngữ trong phim Người đàn bà đẹp, tôi đang sống trong  thế giới cổ tích.

TONY HSIEH

 Kỳ 1:  Trang trại giun đất

Kỳ 2:  Lớn lên

Kỳ 3:  Trường đại học

*******************************

>> Kỳ tới: Phát triển nhanh chóng

Văn phòng của chúng tôi trở nên chật chội,  vì thế chúng tôi thuê thêm văn phòng khác ở các tầng khác nữa. Thậm chí chúng  tôi còn mở văn phòng đại diện ở New York và Chicago

chủ và tự điều hành doanh nghiệp của riêng mình, nhưng thực tế cho  thấy chẳng có gì thú vị cả.

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #6 on: October 20, 2011, 10:35:52 AM »

Tỷ phú bán giày - Kỳ  5: Phát triển nhanh chóng

[/t]     

TTO - Ngay sau khi  chúng tôi nhận được khoản đầu tư từ Sequoia, tôi tới gặp Alfred, anh chàng vẫn  mua pizza của tôi hồi đại học, để xem liệu anh ta có muốn làm việc toàn thời  gian cùng chúng tôi không. 

Nhưng có vẻ anh ta đang rất bận rộn với việc lấy bằng Tiến sĩ về  thống kê ở Stanford. Với tôi, điều đó dường như là thứ nhàm chán thứ hai trên  thế giới (thứ nhàm chán nhất đối với tôi chính là việc nhìn sơn khô vào buổi  tối, trời tối đến nỗi khó mà biết được sơn có màu gì).

Hơn hai năm trước, tôi đã cố gắng nghĩ ra mô hình kinh doanh nào  đó mà chúng tôi có thể làm việc cùng nhau. Một trong những ý tưởng hồi đó của  tôi là mở cửa hàng bán bánh sandwich Subway cùng với Alfred ở một nơi nào đó  trong khuôn viên trường Stanford. Thời bấy giờ, Subway là một trong những  thương hiệu nhượng quyền phát triển nhanh nhất ở Mỹ, một phần là do phí nhượng  quyền và các chi phí ban đầu thấp. Alfred thực sự thích làm việc đó cùng tôi  nhưng lại phát hiện ra rằng vào thời gian đó, Stanford không cho phép các hoạt  động thương mại diễn ra trong khuôn viên trường đại học.

Khi Sanjay và tôi bắt đầu gây dựng LinkExchange, tôi đã hỏi Alfred  xem liệu cậu ấy có muốn tham gia không. Cậu ấy cho rằng nó quá mạo hiểm vào  thời điểm đó và sợ rằng bố mẹ cậu ấy sẽ phát điên lên khi biết cậu không chuyên  tâm lấy bằng, vì thế chúng tôi thống nhất giữ liên lạc với nhau và để cậu làm  việc với tư cách là chuyên gia tư vấn cho chúng tôi.

Tuy nhiên, lần này, Alfred lại có vẻ quan tâm hơn. Tôi nghĩ có thể  vì cậu ấy biết được rằng chúng tôi đã có ba triệu đô-la đầu tư của Sequoia  trong tài khoản và câu ấy đã nhận ra rằng tấm bằng tiến sĩ chẳng phải thứ mình  thực sự cần. Cậu ấy bắt đầu làm việc toàn thời gian tại LinkExchange từ năm  1997 với tư cách là Phó chủ tịch Tài chính.

Mười bảy tháng tiếp theo, tất cả chúng tôi đều ngủ rất ít. Chúng  tôi phát triển không ngừng và tuyển dụng nhiều nhân viên nhanh nhất có thể.  Chúng tôi đã tận dụng hết mạng lưới bạn bè của nhân viên, vì vậy, chúng tôi bắt  đầu tuyển dụng tất cả những ai sẵn sàng làm việc cho chúng tôi.

Văn phòng của chúng tôi trở nên chật chội, vì thế chúng tôi thuê  thêm văn phòng khác ở các tầng khác nữa. Thậm chí chúng tôi còn mở văn phòng  đại diện ở New York và Chicago. Cảm giác thật lạ khi đi dạo xung quanh văn  phòng và gặp những người hoàn toàn xa lạ. Có vẻ như chúng tôi đã tuyển được rất  nhiều nhân viên mới mỗi tuần. Tôi không chỉ không nhớ hết tên và công việc mà  mọi người đang làm, mà thậm chí tôi còn không nhớ nổi khuôn mặt họ. Đi lên rồi  lại đi xuống cầu thang trong toà nhà, tôi không biết chắc liệu những người tôi  gặp là làm việc cho LinkExchange hay cho những công ty khác cũng thuê trong toà  nhà này.

Vào thời điểm đó, tôi không thấy có vấn đề gì bất ổn cả. Nếu có,  thì việc không nhận ra được mọi người do sự lớn mạnh vượt bậc chỉ khiến mọi thứ  có vẻ thú vị hơn và giống như một chất kích thích đối với chúng tôi. Nhưng giờ  nghĩ lại, đó chính là dấu hiệu cảnh báo rõ ràng cho những gì sắp xảy ra.

Vấn đề nằm ở chỗ chúng tôi không biết rằng cần phải chú trọng  nhiều hơn đến văn hoá công ty. Trong suốt năm đầu tiên, chúng tôi đã thuê bạn  bè và người thân của chúng tôi – những người muốn xây dựng nên một điều gì đó  thú vị và vui vẻ. Dù không thực sự ý thức về điều đó, nhưng chúng tôi đã cùng  nhau tạo nên một nền văn hoá công ty mà tất cả chúng tôi đều mong muốn trở  thành một phần của nó.

Sau này, khi chúng tôi tăng trưởng vượt quá con số hai mươi lăm  thành viên, chúng tôi đã phạm sai lầm khi tuyển dụng những người muốn gia nhập  công ty vì những lý do khác. May mắn là những người được nhận vào làm việc cho  chúng tôi đều rất thông minh và có năng động. Tuy nhiên, nhiều người trong số  họ vào đây vì mục đích kiếm thật nhiều tiền hoặc tạo dựng sự nghiệp hay có được  lý lịch công việc tốt. Họ muốn dành vài năm làm việc chăm chỉ cho LinkExchange  rồi sau đó sẽ nộp hồ sơ vào một công ty khác. Hoặc, nếu mọi thứ diễn ra suôn  sẻ, họ sẽ kiếm được nhiều tiền và nghỉ hưu. Chúng tôi tiếp tục phát triển và  thuê thêm ngày càng nhiều nhân viên, và tính đến năm 1998, chúng tôi đã có hơn  một trăm nhân viên.

Một ngày nọ, tôi tỉnh dậy sau khi đã nhấn nút chuông báo thức tới  sáu lần. Tôi định tắt tiếp lần thứ bảy thì chợt nhớ ra điều gì đó. Lần cuối  cùng tôi tắt chuông báo thức là hồi còn làm việc tại Oracle. Lần này, tôi cũng  đang kinh hãi với việc dậy đi làm ở LinkExchange.

Đây thực sự là một hiện thực rất khó chịu đối với tôi. Tôi là một  trong những người sáng lập ra LinkExchange, nhưng giờ tôi lại không còn hứng  thú muốn đến công ty nữa. Tôi ít khi rơi vào tình trạng này. Mới một năm rưỡi  trước thôi, tôi còn phát biểu trước các nhân viên của mình rằng: “Sẽ không bao  giờ có một năm 1997 nào khác nữa”. Làm sao mọi thứ lại có thể thay đổi nhanh  chóng như vậy chứ? Chuyện gì đã xảy ra? Làm sao từ một môi trường “mọi người vì  một người, một người vì mọi người” lại trở thành một nơi toàn chuyện chính trị,  địa vị và những lời đồn thổi?

Nhớ lại năm qua, tôi không thể nghĩ ra được điều gì đã khiến cho  mọi thứ không còn thú vị như trước. Tôi không thể xác định được đích xác nhân  viên nào đã hủy hoại nền văn hoá công ty. 

Nền văn hoá này dường như đã chết bởi hàng nghìn vết cắt hay bởi  trò tra tấn bằng nước của Trung Quốc . Từng giọt từng giọt, từng ngày một, mỗi  giọt nước hay một quyết định tuyển dụng sai lầm sẽ chẳng gây hại gì nhiều, và  vấn đề chẳng có gì to tát. Nhưng những giọt nước tích tụ lại sẽ trở thành một  sự tra tấn dã man. 

Tôi không biết mình nên làm gì bây giờ. Tôi cố gắng không nghĩ đến  những điều đó vì trước mắt còn có một vấn đề cấp thiết khác cần phải giải  quyết: nền kinh tế đang suy thoái (vấn đề tiền tệ của Nga và sự sụp đổ của quỹ  chống rủi ro Long Term Capital mà tôi không sao hiểu nổi), và công ty không có  đủ tiền mặt để tiếp tục hoạt động nếu doanh thu đột nhiên giảm xuống. Chúng tôi  bắt đầu chuẩn bị cho đợt IPO để tăng vốn, nhưng khủng hoảng tài chính Nga đã  xoá sổ khả năng đó. Chúng tôi cần tạo ra quỹ dự phòng như quỹ bảo hiểm để phòng  trường hợp kinh tế tiếp tục diễn biến xấu đi. Nếu không, chúng tôi có thể sẽ bị  phá sản trước khi hết năm.

Hai năm trước, chúng tôi đã xây dựng được mối quan hệ khá tốt đẹp  với những người của Yahoo!, Netscape và Microsoft. Công ty nào cũng quan tâm  đến tất cả những gì chúng tôi đang làm và tính toán những cơ hội hợp tác chiến  lược với chúng tôi. (Tôi chưa bao giờ thật sự hiểu được “mối quan hệ hợp tác  chiến lược” là gì và nó khác với mối quan hệ đối tác thường xuyên ở chỗ nào,  nhưng tất cả mọi người đều nói cụm từ đó nghe có vẻ thông thái hơn vì vậy chúng  tôi rất thích sử dụng cụm từ đó.)

Thật kinh ngạc, cả ba công ty đó đều nói rằng họ rất quan tâm đến  việc đầu tư vào quỹ dự phòng của chúng tôi. Thậm chí Netscape và Microsoft đều  nói rằng họ còn quan tâm đến việc mua công ty. 

Chúng tôi nói với họ rằng mức giá bán thấp nhất cũng phải là 250  triệu đô-la. Tôi không biết vì sao chúng tôi lại nghĩ ra con số đó nhưng nó có  vẻ hợp lý với tôi, và tôi đoán rằng đó là một dấu hiệu tốt khi cả Netscape và  Microsoft đều nói họ muốn tiếp tục đàm phán.

Họ sa vào một cuộc chiến bỏ thầu.

Cuối cùng, Microsoft đưa ra con số lớn nhất – 265 triệu đô-la –  nhưng có vài điều kiện đi kèm. Họ muốn Sanjay, Ali và tôi phải ở lại với  LinkExchange ít nhất là mười hai tháng nữa. Nếu tôi ở lại mãi mãi, tôi sẽ nhận  được 40 triệu đô-la. Nếu không, tôi sẽ phải chia tay với 20% của số tiền đó. 

Dù không còn thấy hứng thú với LinkExchange nữa nhưng tôi nghĩ mình  vẫn có thể ở lại thêm một năm với mức giá đề nghị kia. Tôi chỉ phải làm nốt  những công việc còn lại để không bị sa thải thôi.

Ở lại nhưng không thực sự phải làm gì là tình huống giống với  nhiều trường hợp ở Thung lũng Silicon trong các kịch bản mua lại. Thực tế, thậm  chí có một cụm từ mà giới doanh nhân thường dùng để miêu tả tình huống này là:  “Cầm quyền thời bình”.

Việc ký kết hợp đồng diễn ra sau vài tuần chúng tôi thương lượng  với Microsoft. So với những vụ mua lại Microsoft đã thực hiện trước đây, vụ mua  lại LinkExchange này được thực hiện trong thời gian ngắn kỷ lục, mặc dù có vài  tấn kịch ở hậu trường.

Qua đó, tôi rút ra được bài học về hành vi và tính cách con người.  Tiền là thứ dễ làm bộc lộ bản chất con người. Tôi nhận thấy lòng tham của vài người  gia nhập công ty ngay trước khi có cuộc thương lượng với Microsoft. Họ chỉ chăm  chăm thương thuyết có lợi cho bản thân mà chẳng màng đến rủi ro và tổn thất của  những người khác trong công ty. Nhiều tấn kịch đã diễn ra khi có những người  bắt đầu chiến đấu với nhau để kiếm thật nhiều tiền cho bản thân.

Về phía tôi, tôi quyết định bước ra khỏi tấn kịch này. Tôi cho  rằng bán công ty là một việc làm đúng đắn bởi tôi chắc chắn không bao giờ còn  muốn làm việc cùng những người này nữa. Tôi chỉ phải ở đây thêm mười hai tháng  nữa thôi.

Một ngày đầu tháng 11 năm 1998, Sanjay và tôi đi ăn trưa cùng nhau  tại một nhà hàng xa văn phòng LinkExchange. Vụ thu mua công ty đã được thông  báo trên báo chí vài tuần trước đó nhưng thỏa thuận vẫn chưa chính thức hoàn  tất. Khi chúng tôi ăn xong, Alfred gọi vào di động của tôi và nói rằng văn  phòng đã chính thức bị đóng cửa. Thỏa thuận đã hoàn tất. 

Tôi nhìn sang Sanjay và báo tin cho cậu ấy. “Ồ, tớ đoán là thỏa  thuận đã hoàn tất rồi”, tôi nói. Cả hai chúng tôi đều nghĩ như vậy. Chúng tôi  không vui mừng, và cũng chẳng hề thấy thoải mái. Chúng tôi biết người ngoài có  thể nghĩ chúng tôi đang nhảy dựng lên vì sung sướng chứ không phải đang có một  tâm trạng ngậm ngùi pha lẫn thư thái kỳ lạ thế này. Niềm đam mê với  LinkExchange đã biến mất từ lâu. Giờ đây, chúng tôi sẽ phải làm việc mà không  có chút đam mê và động lực nào trong mười hai tháng nữa. 

“Tớ nghĩ chúng ta nên quay lại văn phòng lần nữa”, tôi nói.

“Được thôi.”

Và chúng tôi đã làm như vậy, trong lặng lẽ.

TONY HSIEH

 Kỳ 1:  Trang trại giun đất

Kỳ 2:  Lớn lên

Kỳ 3:  Trường đại học

Kỳ 4:  Khởi nghiệp

***********************************

>> Kỳ tới: Những cuộc phiêu lưu mới. Chúng  tôi quyết định gây dựng 27 triệu đô-la từ các cựu nhân viên LinkExchange và từ  các cuộc gặp gỡ với nhiều công ty khác. Chúng tôi quyết định biến

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #7 on: October 21, 2011, 04:08:25 PM »

Tỷ  phú bán giày - Kỳ 6: Những cuộc phiêu lưu mới

[/t]     

TTO - “Làm gì bây  giờ?”. Nhiều người trong chúng tôi rời LinkExchange cùng thời gian đó và cũng  đang cố tìm lời giải cho cùng một câu hỏi. Chúng tôi vừa mới kiếm được rất  nhiều tiền từ vụ bán lại công ty cho Microsoft, và chúng tôi có nhiệm vụ phải  duy trì thành quả lao động của chúng tôi.

Nhưng chúng tôi đều không tìm ra được bất cứ câu trả lời hay ho  nào.

Tôi nhớ lại những mơ ước thời thơ ấu. Tôi muốn làm việc cho CIA  giống như điệp viên James Bond, trở thành nhà sáng chế rô-bốt, tìm được một địa  điểm gần rạp chiếu phim để sống và có cả nhà hàng Taco Bell ngay dưới chân cầu  thang.

Bây giờ, tôi không còn muốn trở thành điệp viên hay nhà sáng chế  rô-bốt nữa, nhưng việc được sống gần rạp chiếu phim vẫn rất hấp dẫn tôi. Thật  may mắn vì tôi có thể thực hiện được ước mơ này khi một ngày nọ, tôi lái xe dạo  phố và nhìn thấy AMC đang mở một khu chiếu phim lớn ngay tại trung tâm thành  phố San Francisco, số 1000 Van Ness. Có mười bốn rạp chiếu phim khác nhau, và  ngay tại đây, năm mươi ba căn hộ mới sắp được rao bán. Khi tôi được tin rằng có  một nhà hàng Taco Bell hai tầng đang chuẩn bị bán thì tôi biết rằng nơi đây sẽ  là căn nhà tương lai của mình.

Tôi được biết các nhà thầu bất động sản đã dựa trên cấu trúc thành  phố và xây gộp hai tòa nhà lại với nhau để tạo ra không gian này. Ngoài các căn  hộ và rạp chiếu phim còn có phòng tập thể dục, một khu vực được thiết kế để làm  nhà hàng trong tương lai và một số không gian thương mại chưa cho thuê khác.

Tôi nói với những người bạn cũ và cựu nhân viên LinkExchange về  không gian này. Tôi nhớ lại những năm tháng đại học, khi chúng tôi là một nhóm  nòng cốt luôn làm mọi việc cùng nhau. Chúng tôi có thể tạo ra một ký túc xá  giống như trong trường đại học cho riêng mình và xây dựng một cộng đồng riêng  của chúng tôi. Đây là cơ hội để chúng tôi xây dựng thế giới cho riêng mình.  Thật là tuyệt!

Từng người chúng tôi bắt đầu chuyển tới những căn hộ mới. Alfred  sống tại căn hộ trên tôi hai tầng. Khi tất cả đã chuyển đến đây, chúng tôi sở  hữu 20% căn hộ trong tòa nhà này và kiểm soát 40% số ghế hội đồng quản trị của  khu nhà. Nó giống như việc chúng tôi được nắm giữ độc quyền khu vực này. Và  chẳng gì có thể so sánh với sự tự nhiên và tiện lợi của việc có thể mặc đồ ngủ  và đi dạo xung quanh, tới phòng bạn bè hay tới rạp chiếu phim. 

Trong quá trình chuyển tới nhà mới, Alfred và tôi đã quyết định  khởi dựng một quỹ đầu tư. Một người bạn của tôi có nuôi một con ếch trong  trường đại học và cô ấy thách chúng tôi đặt tên cho quỹ đầu tư này là Những chú  ếch phiêu lưu.

Tất nhiên là chúng tôi đã làm như vậy.

Chúng tôi quyết định gây dựng 27 triệu đô-la từ các cựu nhân viên  LinkExchange và từ các cuộc gặp gỡ với nhiều công ty khác. Chúng tôi quyết định  biến một phòng ngủ thành văn phòng và lắp đặt một số máy vi tính và điện thoại  ở đó.

Một ngày nọ, tôi nhận được tin nhắn thoại của một người tên là  Nick Swinmurn, nói rằng anh ta vừa mới lập ra một trang web có tên  shoesite.com. Ý tưởng của anh ta là xây dựng một cửa hàng bán giày trực tuyến  lớn nhất trên giới giống như Amazon vậy.

Với tôi, nó dường như là một trong những ý tưởng về Internet ngớ  ngẩn nhất. Những công ty bán thức ăn cho thú cảnh và nội thất trực tuyến đang  phải chi rất nhiều tiền cho kiểu kinh doanh này. Tôi nghĩ rằng người ta sẽ  chẳng bao giờ muốn mua giày trực tuyến khi không được đi thử.

Tôi cúp máy và vừa định xóa luôn lời nhắn đó thì Nick đưa ra một  vài con số thống kê: Ngành công nghiệp giày dép đạt doanh thu 40 tỷ đô-la tại  Mỹ và 5% trong số đó được thực hiện thông qua những đơn đặt hàng bằng email.  Đây cũng là phân khúc phát triển nhanh nhất trong ngành công nghiệp.

Tôi làm một vài phép tính nhẩm và nhận ra rằng 5% kia tương đương  với khoảng 2 tỷ đô-la. Vấn đề không phải là người ta có muốn mua giày mà không  cần thử hay không, mà vấn đề là khách hàng thực sự đã mua những đôi giày này,  và nó có vẻ khá hợp lý để giả định rằng một ngày nào đó việc kinh doanh giày  trên mạng sẽ phát triển mạnh ngang với việc bán hàng qua catalog. Alfred và tôi  quyết định sẽ gặp Nick.

Chúng tôi gặp Nick tại khu nhà của chúng tôi. Anh ăn mặc rất bình  thường, quần soóc áo phông, trông như vừa mới từ một trường đại học nào đó tới,  ghé qua tán gẫu với chúng tôi trong giờ ăn trưa vậy.

Chúng tôi không giả vờ có một văn phòng thực sự và Nick cũng không  giả vờ rằng anh có gì khác ngoài ý tưởng, nhưng rõ ràng là anh rất hào hứng với  cơ hội này. Nick nói với chúng tôi rằng anh đã tốt nghiệp đại học vài năm  trước.

Nick tóm tắt ý tưởng trong hai câu: “Ngành công nghiệp giày dép đã  mang lại cho nước Mỹ 40 tỷ đô-la, trong đó doanh số bán hàng của các cửa hàng  bán giày qua mạng chiếm 2 tỷ đô-la. Thương mại điện tử có xu hướng tiếp tục phát  triển và người ta sẽ có xu hướng chọn mua những đôi giày, dép nhìn thấy trên  mạng.”

“Cậu có kinh nghiệp gì trong ngành công nghiệp giày dép này  không?”, Alfred hỏi.

“Không, nhưng tôi đã đến một số buổi trình diễn giày dép tại Las  Vegas vài tháng trước và một số người cho rằng đây là một ý tưởng thú vị.” 

“Có lẽ cậu nên tìm ai đó có kinh nghiệm về giày dép”, tôi khuyên.

“Đúng vậy. Ý kiến đó rất hay”, Nick đáp lời tôi.

Chúng tôi quyết định sẽ giữ liên lạc với nhau và đồng ý đặt một  lịch hẹn khác khi Nick tìm được ai đó có kinh nghiệm về ngành công nghiệp giày  dép đồng ý gia nhập công ty. Tôi cũng đề xuất Nick nên chọn tên khác. Cái tên  “Shoessite” nghe hơi chung chung và sẽ hạn chế công việc kinh doanh khi muốn mở  rộng sang kinh doanh những sản phẩm cùng loại khác.

Tôi có được ý tưởng    như thế nào

Tâm sự của Nick

“Mua một đôi giày phải    thật dễ dàng”, tôi nhớ lại ý nghĩ này. Đi hết cửa hàng này đến cửa hàng khác,    hết trung tâm mua sắm này đến trung tâm mua sắm khác mà tôi vẫn không thể tìm    mua được đôi giày nào cả. Mà tôi đâu có sống ở một thị trấn nhỏ của nước Mỹ.    Nếu tôi không thể tìm ra được đôi giày nào đáng để mua ở vùng Vịnh thì tôi    cũng hình dung được cảnh nhiều người ở những nơi khác cũng gặp phải rắc rối    này như thế nào. 

Vào thời gian đó, đã    có một vài cửa hàng bán lẻ nhỏ trên mạng nhưng điều đó cũng chẳng khiến cho    việc chọn mua giày dép trở nên dễ dàng hơn. Vì thế tôi nghĩ, tại sao không    tạo ra một địa chỉ duy nhất trên mạng, nơi mọi người có thể truy cập và tìm    được chính xác đôi giày họ muốn với đúng kích cỡ và thậm chí nó sẽ xuất hiện    trên bậc cửa nhà họ chỉ sau vài ngày? Đó là một ý tưởng đơn giản, nhưng tại    sao không có ai thực hiện nhỉ?

Thật là thú vị khi tôi    tìm ra được lý do: chẳng dễ dàng chút nào. Ngành công nghiệp giày dép được    phân thành nhiều mảng và không đòi hỏi công nghệ phức tạp. Nhưng nếu tôi có    thể tìm được cách tạo ra một mạng lưới kết nối giữa những cửa hàng bán giày    dép riêng lẻ, thì đó sẽ là một giải pháp hữu hiệu.

Tôi đăng ký tên miền    Shoesite.com. Khi trang web này đã sẵn sàng hoạt động, tôi chỉ cần một yếu tố    khác - những đôi giày, dép.

Tôi tới những cửa hàng    bán giày địa phương, chụp ảnh các mặt hàng của họ và đưa lên trang web. Mỗi    khi có ai đó đặt mua đôi giày nào trên mạng, tôi sẽ mua lại nó từ cửa hàng và    chuyển tới cho khách hàng.

Là một người tin vào    công nghệ, tôi không thể tìm ra một cách nào khác ngoài cách này.

Nhưng nó đã thành    công. Mọi người bắt đầu mua giày ở đây. Tôi không biết nhiều về ngành công    nghiệp giày dép nhưng tôi biết mình phải làm một điều gì đó. Mặc dù tôi chưa    bao giờ mua một đôi giày bằng cách đặt hàng qua email, nhưng các số liệu    thống kê cho thấy có hàng nghìn người làm như vậy. Tôi không nghĩ thêm nữa.    Đây thực sự là một ý tưởng hay và tôi bắt đầu tin tưởng vào nó. Bằng cách này    hay cách khác, tôi phải thực hiện thành công ý tưởng này.

 [/t][/t]         

Vài tuần sau, Nick liên lạc với chúng tôi và hẹn đi ăn trưa. Anh  tìm được một người tên là Fred, người từng làm việc cho một cửa hàng bán giày  nam ở Nordstrom và rất muốn gia nhập công ty, nhưng chỉ khi công ty có nguồn  vốn lớn hơn nhiều số vốn nhỏ do Nick gây dựng. Nick cũng hỏi ý kiến tôi về cái  tên “Zapos” cho công ty, xuất phát từ tiếng Tây Ban Nha zapatos có nghĩa là  giày dép. Tôi nói với anh ta nên thêm chữ cái p vào để mọi người không đọc sai  thành ZAY-pos.

Và cái tên Zappos ra đời từ đó.

Vài ngày sau, Alfred và tôi gặp Nick và Fred tại Mel, một nhà hàng  mang phong cách của những năm 1950, cách xa khu vực chúng tôi sinh sống. Khi  chúng tôi thảo luận về tiềm năng phát triển của Zappos, tôi đã cố gắng hết sức  để việc Fred rất giống Nicolas Cage (*) không làm mình sao nhãng cuộc thảo luận  công việc. Fred 33 tuổi, cao và trông giống Nicolas Cage như hai anh em sinh  đôi vậy.

Tôi gọi món gà tây và súp gà để chấm với bánh sandwich. Fred gọi  bánh mỳ kẹp thịt gà. Và đúng mười năm sau, Fred và tôi lại quay trở lại đây và  gọi những món ăn này để kỷ niệm mười năm ngày hợp tác cùng nhau. 

Nick kể về những gì trang web đã làm được trong vài tuần qua. Họ  đã có được những đơn hàng trị giá 2.000 đô-la mỗi tuần và con số này đang tăng  lên. Họ không kiếm tiền, bởi chỉ khi nào có đơn hàng, Nick mới đến các cửa hàng  giày địa phương mua lại rồi chuyển cho khách hàng. Nick muốn xây dựng trang web  này chỉ để chứng minh rằng thực tế là mọi người sẵn sàng mua giày qua mạng.

Có hàng nghìn thương hiệu giày nổi tiếng trong ngành công nghiệp  giày dép. Ý tưởng kinh doanh thực sự ở đây là phải thiết lập được quan hệ đối  tác với hàng trăm thương hiệu và các thương hiệu đó sẽ thường xuyên cung cấp  cho Zappos danh mục giới thiệu tất cả những sản phẩm của họ. Zappos sẽ nhận đơn  đặt hàng từ khách hàng trên mạng, rồi chuyển tới nhà sản xuất của những thương  hiệu kia, để họ trực tiếp chuyển sản phẩm tới khách hàng của Zappos.

Hình thức bán hàng này được gọi là “Drop ship”. Hình thức bán hàng  này đã được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác, nhưng vẫn chưa được áp  dụng trong ngành công nghiệp giày dép. Nick và Fred cá rằng họ có thể thuyết  phục các thương hiệu ở các hội chợ triển lãm giày áp dụng hình thức này, và rồi  Zappos sẽ không phải mua hàng lưu kho và không cần phải lo lắng đến việc quản  lý các kho hàng nữa.

Fred nói với chúng tôi rằng anh đã làm việc cho Nordstrom được tám  năm, vừa mới mua được một căn nhà và có con đầu lòng. Anh biết việc gia nhập  Zappos sẽ có rủi ro lớn nhưng anh đã sẵn sàng nếu như quỹ Những chú ếch phiêu  lưu có thể cấp vốn ban đầu cho công ty.

Alfred và tôi nhìn nhau. Nick và Fred đúng là những người chúng  tôi đang tìm kiếm để đầu tư vào. Chúng tôi không biết liệu ý tưởng bán giày  trên mạng có thành công hay không, nhưng rõ ràng là họ rất đam mê và đã sẵn  sàng tham gia vào một canh bạc lớn.

Chúng tôi quyết định đầu tư đủ tiền để Zappos có thể tuyển thêm  nhiều nhân viên và trang trải mọi chi phí từ giờ đến hết năm. Ý tưởng của chúng  tôi là nếu phát triển nhanh đến cuối năm, thì Zappos có thể vay được nhiều tiền  từ một nguồn quỹ như Sequoia. Chúng tôi tự tin rằng, sau khi Sequoia có được  hơn 50 triệu đô-la từ nguồn vốn 3 triệu đô-la đầu tư cho LinkExchange, họ sẽ  sẵn sàng đặt cược vào công ty có tôi và Alfred tham gia.

Sau một tuần chúng tôi rót vốn đầu tư, Fred xin nghỉ ở Nordstrom.  Anh chính thức gia nhập Zappos. Ngày hôm sau, anh cùng Nick tham dự ngay một  buổi trình diễn giày ở Las Vegas.

Tham dự buổi trình    diễn giày đầu tiên của tôi khi là nhân viên của Zappos

Tâm sự của Fred

Tôi bay đến Las    Vegas để tham dự buổi trình diễn giày do Hiệp hội Giày Thế giới (WSA) tổ chức    ngay ngày hôm sau, với tư cách là nhân viên Zappos. Tôi không chắc lắm về    những điều chúng tôi đang nghĩ, và chúng tôi tham gia mà không có bất cứ bài    thuyết trình bằng Power Point hay bất cứ chiến dịch marketing nào cả. Chúng    tôi chỉ có một vài tờ giấy và một ý tưởng.

Chúng tôi đã trao    đổi với 80 thương hiệu giày khác nhau trong suốt bốn ngày. Chỉ có ba hãng    đồng ý hợp tác với chúng tôi. Đó không phải là một con số ấn tượng nhưng cũng    chẳng có gì đáng kinh ngạc. Chúng tôi là những người đầu tiên đưa ra khái    niệm mới của cho việc các thương hiệu sẽ trực tiếp chuyển sản phẩm từ kho    hàng của họ tới tay người tiêu dùng.

Nói chuyện với các    thương hiệu giày này đem lại cho chúng tôi rất nhiều hiểu biết vì họ đặt ra    những câu hỏi rất xác đáng như: “Anh chuyển hàng bằng cách nào? Ai là người    chuyển hàng? Anh có kế hoạch xử lý những sản phẩm bị trả lại như thế nào?”

Ít nhất, chúng tôi    cũng biết được rất nhiều điều chúng tôi chưa biết. Chúng tôi trở lại phòng ở    khách sạn ăn trưa và tự hỏi mình cần phải làm gì. Vì thế chúng tôi bắt đầu    các cuộc gọi lạnh.

Chúng tôi gửi thư,    tin nhắn tới DHL, UPS và FedEx . Khi vài cái móng tay đã bị gặm và rất nhiều    ý tưởng bị ném đi, cuối cùng chúng tôi cũng nhận được một phản hồi. Đó là    phản hồi của UPS và cũng chính là điều duy nhất chúng tôi cần. Ngay từ đầu,    họ đã tin tưởng chúng tôi, và đến bây giờ, họ vẫn là đối tác lớn của chúng    tôi. 

Nhìn lại, hầu như    chúng tôi đã phát triển theo cách này. Chúng tôi cứ tung ra các ý tưởng rồi    chờ xem liệu có ai quan tâm và biến chúng thành hiện thực hay không.

 [/t][/t]         

Vài tháng đầu sau khi đầu tư vào Zappos, Alfred và tôi không tham  gia nhiều vào công ty. Chúng tôi còn bận gặp gỡ các công ty đang tìm kiếm các  khoản đầu tư ban đầu. Trong suốt những năm tiếp theo, chúng tôi tiến hành hai  mươi bảy vụ đầu tư khác nhau và sẽ kiểm tra các công ty, bao gồm cả Zappos  khoảng hai tuần một lần, để xem những công ty này phát triển như thế nào.

Giờ với tôi, mọi thứ đã thay đổi. Chúng tôi không tham gia quá sâu  vào hoạt động hàng ngày của những công ty chúng tôi đã đầu tư vào. Khi vụ đầu  tư được thực hiện xong, chúng tôi sẽ đưa ra lời khuyên cho bất cứ ai cần, nhưng  phần lớn các công ty này còn đang bận rộn với quản lý công việc kinh doanh của  họ.

Tôi đã chán ngấy việc đầu tư kinh doanh, vì thế tôi bắt đầu tìm  kiếm điều gì đó để khỏa lấp thời gian rảnh. Tôi muốn tìm kiếm cái gì đó vừa thú  vị lại vừa thách thức.

Đó chính là thời điểm tôi khám phá ra trò poker.

TONY HSIEH

 Kỳ 1:  Trang trại giun đất

Kỳ 2:  Lớn lên

Kỳ 3:  Trường đại học

Kỳ 4:  Khởi nghiệp

Kỳ 5:  Phát triển nhanh chóng

***************************************************

>> Kỳ tới: Bài Poker -

 Một đêm mất ngủ, tôi tình cờ truy cập vào một trang web của  cộng đồng những người chơi poker thường xuyên. Tôi đã bị thu hút bởi số lượng  lớn những phân tích và thông tin về cách chơi sẵn có, và đã thức trắng đêm đọc  tất cả các bài báo khác nhau về cách tính toán để chơi trò này

một phòng ngủ thành văn phòng và lắp đặt một số máy vi tính và  điện thoại ở đó.

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #8 on: October 25, 2011, 09:45:29 AM »

Tỷ phú bán giày - Kỳ  7: Bài Poker

[/t]     

TTO - Hồi đại học tôi  đã từng chơi trò này, nhưng giống như nhiều người khác, tôi luôn xem nó như trò  cờ bạc giải trí và chẳng bao giờ thực sự quan tâm đến việc nghiên cứu nó. Vào  cái năm 1999 đó, poker vẫn chưa phải là một trò chơi thời thượng. Rất nhiều người  chưa từng nghe đến Giải poker thế giới và mạng lưới truyền hình như ESPN cũng  không hề phát sóng giải đấu poker. 

Một đêm mất ngủ, tôi tình cờ truy cập vào một trang web của cộng  đồng những người chơi poker thường xuyên. Tôi đã bị thu hút bởi số lượng lớn  những phân tích và thông tin về cách chơi sẵn có, và đã thức trắng đêm đọc tất  cả các bài báo khác nhau về cách tính toán để chơi trò này.

Giống như nhiều người, tôi luôn nghĩ rằng chơi poker cần đến may  mắn, có thể là lừa bịp và biết đọc vị người khác. Tôi đã học được cách chơi  hold’em (*) (hình thức phổ biến của trò này tại các sòng bạc thời bấy giờ). Với  mỗi vòng chia bài và vòng đặt cược, thực sự là có một cách tính toán chính xác  để đặt vào “pot odds” (tỷ lệ giữa những ván cược, số lượng chip đặt vào pot, và  nhiều cơ hội giành chiến thắng).

Ngoại trừ trò poker, hầu hết các trò chơi trong một sòng bạc điển  hình đều được sắp xếp để triệt người chơi, và về lâu dài, nhà cái luôn thắng.  Tôi bị hấp dẫn bởi trong trò poker, bạn sẽ thi đấu với những đấu thủ khác chứ  không phải nhà cái. Thay vào đó, sòng bạc chỉ thu phí dịch vụ mỗi ván chơi  (thường là thu từ người chiến thắng của mỗi ván).

Tại sòng bạc, mỗi bàn chơi thường có mười người. Miễn là ít nhất  một người không chơi theo cách tối ưu có tính toán (và thường thì có rất nhiều  người chơi như vậy), thì những người chơi khôn ngoan sẽ giành được chiến thắng  cuối cùng. 

Thực ra việc học cách tính toán cơ bản để chơi hold’em Poker không  khó khăn lắm. Tôi đã mua và nghiền ngẫm một cuốn sách có tên Hold’em Poker và  bắt đầu đi đến các sòng bạc ở California vài lần để luyện tập những gì tôi đã  học được từ cuốn sách. (Mặc dù California không cho phép đánh bạc, nhưng các  sòng bạc này được phép vì poker không phải là trò chơi đánh với nhà cái). Trong  vòng vài tuần, tôi đã nắm vững những phép toán đằng sau cách chơi hold’em.

Hiểu được quy luật tính toán ẩn sau trò này và chơi cùng những  người không hiểu được quy luật ấy giống như việc biết được xác suất đồng xu sẽ  có mặt ngửa là 1/3 và mặt sấp là 2/3, và tôi sẽ luôn cược cho mặt sấp. Có thể  tôi sẽ thua trong lần cược nào đó, nhưng nếu tôi đặt cược vào mặt sấp cả nghìn  lần thì 99,99% tôi sẽ giành chiến thắng. 

Ngược lại, khi chơi các trò với nhà cái như Rulet hay blackjack,  bạn luôn phải đặt cược trước: dù bạn có thể thắng trong lần tung đồng xu nào  đó, nhưng nếu bạn đặt cược cho mặt nào đó cả nghìn lần thì 99,99% là bạn sẽ  thua. 

Một trong những điều thú vị nhất khi chơi poker là học được nguyên  tắc không được nhầm lẫn giữa quyết định đúng đắn với kết quả từng ván, nhưng đó  lại là điều mà nhiều tay chơi poker vấp phải. Khi họ thắng ván bài, họ cho rằng  họ đã cược đúng, còn khi thua thì họ thường cho rằng họ đã đánh cược sai. Mặc  dù xác suất mặt ngửa chỉ là 1/3, nhưng nếu bạn nhìn thấy mặt ngửa một lần (kết  quả từng ván), bạn sẽ thay đổi hành vi và đánh cược vào mặt ngửa mà lẽ ra sự  tính toán chính xác phải là đánh cược vào mặt sấp bất kể lần búng đồng xu trước  có kết quả ra sao (quyết định đúng đắn).

Trong vài tháng đầu, tôi thấy trò poker này vừa thú vị vừa có  nhiều thách thức vì tôi luôn không ngừng học hỏi, thông qua cả việc đọc sách  lẫn đúc kết kinh nghiệm chơi thực tế. Tôi bắt đầu nhận thấy những điểm tương  đồng của một chiến lược chơi poker tốt và một chiến lược kinh doanh tốt, đặc  biệt khi tách biệt giữa suy nghĩ ngắn hạn (chẳng hạn như tập trung vào việc  liệu tôi sẽ thắng hay thua trong mỗi ván bài) và suy nghĩ dài hạn (chẳng hạn  như việc đảm bảo chắc chắn rằng tôi đã có một chiến lược quyết định đúng đắn).

Tôi nhận ra nhiều điểm tương đồng giữa trò poker và công việc kinh  doanh, và bắt đầu lập ra một danh sách những bài học đúc kết từ việc chơi poker  mà có thể áp dụng trong kinh doanh:

Đánh giá cơ hội thị trường

:

• Lựa chọn bàn chơi là quyết định quan trọng nhất bạn có thể thực  hiện.

  • Có thể thay đổi bàn chơi nếu bạn nhận ra khó có thể chiến thắng đối thủ.

  • Nếu có quá nhiều đối thủ (một số không lý trí hoặc không có kinh nghiệm), thì  ngay cả khi bạn là người giỏi nhất, bạn cũng khó có cơ hội giành chiến thắng  hơn.

Marketing và xây dựng thương hiệu:

• Hãy hành động nhẹ nhàng khi mình đang sung sức, hành động sung  sức khi mình đang yếu ớt. Biết nhận ra thời điểm để giả vờ.

  • “Thương hiệu” của bạn rất quan trọng.

  • Hãy định hình suy nghĩ của mọi người về bạn.

Các vấn đề tài chính: 

• Luôn chuẩn bị cho những tình huống xấu nhất có thể xảy ra.

  • Người luôn giành chiến thắng trong hầu hết các ván bài không phải là người có  thể kiếm được nhiều tiền về lâu dài.

  • Người chưa bao giờ thua ván nào không phải là người có thể kiếm được nhiều  tiền về lâu dài.

  • Hãy làm vì những giá trị tích cực được kỳ vọng chứ không phải vì điều đó ít  rủi ro nhất.

  • Hãy đảm bảo nguồn quỹ của bạn đủ lớn cho cuộc chơi đó và những rủi ro bạn  đang thách thức.

  • Chỉ chơi những trò bạn có đủ khả năng tài chính để trả nợ khi thua.

  • Hãy nhớ đó là một cuộc chơi lâu dài. Bạn sẽ chiến thắng hay thất bại trong  các ván chơi nhưng chuyện gì sẽ xảy ra về sau mới là điều quan trọng.

Chiến lược:

• Đừng chơi trò mà bạn không hiểu, hay thậm chí chưa từng nhìn  thấy nhiều người kiếm được nhiều tiền từ nó.

  • Hãy tính toán trò chơi khi tiền cược chưa cao.

  • Đừng lừa đảo. Những kẻ lừa lọc chẳng bao giờ chiến thắng lâu dài.

  • Hãy kiên định với những nguyên tắc của bạn. 

  • Bạn cần điều chỉnh lối chơi khi động lực của cuộc chơi thay đổi. Hãy linh  hoạt hơn.

  • Hãy kiên nhẫn và suy nghĩ kỹ.

  • Người chơi có khả năng chịu đựng và tập trung cao độ sẽ giành chiến thắng.

  • Hãy trở nên khác biệt. Hãy làm ngược lại với người chơi còn lại.

  • Hy vọng không phải là một kế hoạch hay.

  • Đừng để mình mất sức. Tốt nhất nên hít một hơi dài, đi dạo hoặc dừng cuộc  chơi để đi ngủ. 

Tiếp tục học hỏi:

• Hãy tự nâng cao hiểu biết cho bản thân. Hãy đọc sách và học hỏi  từ người khác, những người đã trải nghiệm điều đó trước bạn.

  • Hãy học bằng cách thực hành. Lý thuyết rất hay, nhưng chẳng gì có thể thay  thế được kinh nghiệm thực tiễn.

  • Học từ những người tài năng xung quanh bạn.

  • Việc bạn thắng một ván bài không có nghĩa bạn là người chơi giỏi và bạn không  cần phải học hỏi nữa. Có thể bạn thắng là nhờ may mắn.

  • Đừng ngại ngần xin tư vấn.

Văn hoá:

• Bạn đang thích trò chơi đó. Để trở thành người chơi giỏi, bạn  cần phải sống với nó và ngủ cũng mơ về nó.

  • Đừng kiêu căng tự phụ. Đừng khoe khoang. Luôn có nhiều người tài giỏi hơn  bạn.|

  • Hãy thân thiện và kết bạn thật nhiều. Thế giới này rất nhỏ bé.

  • Hãy chia sẻ những gì bạn học được cho người khác.

  • Hãy tìm kiếm cơ hội ngoài trò chơi bạn đang chơi. Bạn chẳng bao giờ biết được  mình sẽ gặp ai, kể cả những người bạn mới hay những đối tác kinh doanh mới sẽ  xuất hiện trong cuộc đời bạn.

  • Hãy tận hưởng sự vui vẻ. Trò chơi chỉ vui hơn khi bạn cố gắng làm điều gì đó  cao hơn mục tiêu kiếm tiền.

Ngoài việc phải nhớ tập trung vào những gì tốt nhất mang tính vững  bền, tôi nghĩ bài học kinh doanh lớn nhất tôi học được từ trò poker nằm ở quyết  định quan trọng nhất bạn có thể đưa ra trong khi chơi. Mặc dù nghe có vẻ như  rất hiển nhiên, nhưng tôi đã phải mất tới sáu tháng để nhận ra được điều này  đấy.

Thông qua việc đọc các cuốn sách về trò poker và việc thực hành  trò chơi, tôi dành nhiều thời gian học về chiến lược tốt nhất để chơi khi tôi  thực sự ngồi vào một bàn tròn. Khoảnh khắc “xuất thần!” của tôi đến khi tôi  biết được rằng trò chơi đã bắt đầu thậm chí trước cả khi tôi ngồi xuống ghế.

Trong phòng chơi poker tại một sòng bạc, thường có nhiều bàn để  lựa chọn. Mỗi bàn có kiểu cá cược, người chơi và động lực khác nhau mà sẽ thay  đổi khi người chơi đến và đi, và khi người chơi háo hức, thất vọng hay mệt mỏi.

Tôi hiểu ra rằng quyết định quan trọng nhất tôi có thể đưa ra  chính là chọn cái bàn tôi sẽ ngồi chơi. Việc này bao gồm cả việc biết thay đổi  bàn chơi khi nào. Tôi đã đọc từ một cuốn sách rằng người chơi có kinh nghiệm có  thể kiếm được số tiền nhiều gấp mười lần khi ngồi chơi với chín người chơi bình  thường khác - những người đang mệt mỏi và có rất nhiều đồng xu, so với việc  ngồi chơi với chín người chơi thực sự giỏi - những người đang tập trung cao độ  và không có nhiều đồng xu trước mặt.

Trong kinh doanh, một trong những quyết định quan trọng nhất mà  doanh nhân hoặc giám đốc điều hành phải đưa ra chính là ngành nghề kinh doanh  nào mình nên tham gia. Việc điều hành của bạn diễn ra hoàn hảo, thuận lợi như  thế nào chẳng có ý nghĩa gì nếu ngành kinh doanh bạn chọn là sai lầm hoặc ngành  đó có thị trường quá nhỏ.

Hãy tưởng tượng nếu bạn là một trong bảy nhà sản xuất găng tay  thành công nhất. Bạn đưa ra sự lựa chọn tốt nhất, dịch vụ tốt nhất và giá cả  tốt nhất cho sản phẩm găng tay của mình – nhưng nếu thị trường không đủ lớn để  tiêu thụ sản phẩm, thì bạn cũng chẳng bao giờ phát triển hơn được.

Hoặc, nếu bạn quyết định bắt đầu sự nghiệp kinh doanh cạnh tranh  trực tiếp với những đối thủ đầy kinh nghiệm như Wal-Mart bằng cách chơi cùng  trò chơi với họ (như bán cùng sản phẩm ở mức giá thấp hơn), thì bạn sẽ có nguy  cơ phá sản.

Trong phòng chơi poker, tôi chỉ có thể lựa chọn bàn tôi muốn ngồi  chơi. Nhưng trong kinh doanh, tôi nhận ra rằng tôi không cần phải ngồi xuống  một chiếc bàn có sẵn. Tôi có thể tự xác định hoặc tự tạo ra lĩnh vực mình đã  làm hoặc đã có tiềm lực mạnh hơn. (Hoặc, giống như trong phòng chơi poker, tôi  luôn có thể chọn thay đổi bàn chơi).

Tôi nhận ra rằng bất kể tầm nhìn cho ngành nghề kinh doanh của  mình là gì, sẽ luôn có một tầm nhìn lớn hơn để có thể biến thành chiếc bàn to  hơn. Khi hãng hàng không Southwest Airlines bắt đầu khởi nghiệp, họ không hề  thấy thị trường mục tiêu của mình bị giới hạn bởi những khách du lịch hiện có,  điều mà tất cả các hãng hàng không khác đều mắc phải. Thay vào đó, họ tưởng  tượng dịch vụ của họ là thứ gì đó có tiềm năng phục vụ được tất cả khách du  lịch đi xe buýt Greyhound hay tàu hoả, và họ đã thiết kế ngành kinh doanh của  họ như vậy. Họ cung cấp những chuyến bay ngắn giá rẻ thay vì phát triển theo mô  hình “hub-and-spoke” (**) mà các hãng hàng không khác đang áp dụng. Họ hỗ trợ  khách hàng thay đổi các chuyến bay đơn giản và dễ dàng hơn mà không phải trả  bất cứ khoản phí phạt nào. Và họ thực hiện những chuyến bay càng nhanh càng  tốt. Họ thành công vì họ đã quyết định chơi ở một chiếc bàn hoàn toàn khác với  những chiếc bàn mà các hãng hàng không khác đang chơi.

Sau vài tháng, tôi đã học hỏi được rất nhiều về trò poker, nhưng  cuối cùng tôi cũng chán ngấy việc chơi ở các sòng bạc tại California. Một phần  do tôi đã bắt đầu để ý thấy rằng ở đây tôi gặp rất nhiều người chơi quen, những  người dường như chơi ở đây cả ngày mà chẳng làm gì khác hoặc đang cố gắng thắng  bạc để gom đủ tiền thuê nhà cho cả tháng chăng. Sau vài tháng học và luyện tập  cách chơi, trò hold’em ngày càng dễ tính toán hơn và ít thách thức hơn.

Vì thế, tôi quyết định bay đến Las Vegas vào cuối tuần và nhận  thấy chơi poker ở đây thú vị hơn nhiều. Tôi gặp gỡ rất nhiều người thú vị xuất  thân từ những tầng lớp khác nhau. Đa số bọn họ đều không sống ở Las Vegas và  nhiều người đang điều hành những doanh nghiệp thành công. Poker chỉ là một sở  thích thú vị mà thỉnh thoảng họ đến chơi thôi.

Tôi không còn chơi poker ở những sòng bạc tại California nữa. Dù  sau này tôi vẫn chơi poker, nhưng trò chơi này không còn hấp dẫn tôi nữa. Tôi  đã tránh xa cái thế giới của những tay chơi nhà nghề, nhưng tôi đã học được  nhiều điều từ trò chơi. Với tôi, mục tiêu của tất cả các lần chơi poker trong  tương lai sẽ không phải là cố gắng kiếm thật nhiều tiền hay trau dồi kỹ năng và  kinh nghiệm chơi nữa. Mục tiêu và mục đích chơi poker của tôi là để được ra  ngoài cùng bạn bè, gặp gỡ những người thú vị và tạo dựng quan hệ.

Tôi nhận ra rằng bất kể trong khi chơi poker, trong kinh doanh hay  trong cuộc sống, thật dễ dàng để bắt kịp và đam mê với những gì bạn đang làm,  và điều đó khiến tôi nhanh chóng quên mất rằng tôi luôn có thể thay đổi bàn  chơi. Về mặt tâm lý học, rất khó vượt qua sự trì trệ. Nếu không chủ tâm và nỗ  lực, tính trì trệ luôn giành chiến thắng.

Tôi bắt đầu buộc mình phải suy nghĩ lại về việc tôi đang cố gắng  đạt được điều gì trong cuộc sống. Tôi tự hỏi bản thân tôi đang cố gắng hoàn  thành cái gì, tôi muốn làm gì và liệu tôi có đang ngồi ở một chiếc bàn khác hẳn  những chiếc bàn khác không. Từ kinh nghiệm chơi poker của mình, tôi biết là sẽ  chẳng bao giờ quá muộn để thay đổi bàn chơi.

Tôi nhận ra rằng dù tôi đã học được những điều cơ bản của trò  poker, những tôi thực sự chẳng làm được trò trống gì khi phung phí quá nhiều  thời gian ở các sòng bạc. Tôi cần phải làm điều gì đó có ý nghĩa hơn. Sau kỳ  nghỉ hè, hầu như chỉ dành để chơi poker, tôi quyết định đã đến lúc tôi phải làm  một điều gì đó mới mẻ.

Đã đến lúc tôi cần phải thay đổi bàn chơi.

TONY HSIEH

****************** 

(*) Hold'em: gồm có 4 vòng chia bài: PreFlop, Flop, Turn và  River. Sau mỗi vòng chia bài là một vòng đặt cược (betting round). Bạn sẽ chiến  thắng khi tất cả mọi người khác đều Fold (bỏ bài) hoặc khi bạn là người có 5 lá  bài cao nhất theo thứ tự bài của Poker.

  (**) Hub-and-spoke: tạm dịch là mô hình “trục bánh xe và nan hoa”. Mô hình này  được áp dụng trong ngành vận chuyển, nhất là hàng không.

 Kỳ 1:  Trang trại giun đất

Kỳ 2:  Lớn lên

Kỳ 3:  Trường đại học

Kỳ 4:  Khởi nghiệp

Kỳ 5:  Phát triển nhanh chóng

Kỳ 6:  Những cuộc phiêu lưu mới 

******************

>> Kỳ tới: Hời hợt: Đó là những bài học  đắt giá, và tôi học được rằng đầu tư vào những ngành bạn không hiểu, cho những  công ty bạn không thể kiểm soát hay gây ảnh hưởng hoặc cho

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #9 on: October 27, 2011, 09:18:55 AM »

Tỷ  phú bán giày - Kỳ 8: Hời hợt

[/t]     

TTO - Khi tôi vẫn còn  đang cố gắng xác định mình muốn làm gì tiếp theo, thì tôi đã quyết định làm mọi  thứ một cách hời hợt. Tôi đã hời hợt trong “đầu tư” và kinh doanh chứng khoán,  đầu tư tiền vào chứng khoán của các công ty mà tôi chẳng biết tí gì và kết cục  là bị mất rất nhiều tiền. 

Tôi quyết định đầu tư vào một bộ phim có tên Christmas in the  Clouds (Tạm dịch: Giáng sinh trong những đám mây) và đóng một vai nhỏ. Tôi cũng  đã mất rất nhiều tiền cho bộ phim đó.

Đó là những bài học đắt giá, và tôi học được rằng đầu tư vào những  ngành bạn không hiểu, cho những công ty bạn không thể kiểm soát hay gây ảnh  hưởng hoặc cho những người bạn không biết và không tin tưởng là những ý tưởng  ngu xuẩn.

Lúc nào cũng vậy, tôi luôn tự hỏi tại sao mình lại đầu tư vào  những lĩnh vực đó. Mục tiêu của tôi là gì? Để kiếm nhiều tiền ư? Nghe chẳng có  lý chút nào vì tôi đã từ bỏ rất nhiều tiền khi quyết định rời Microsoft.

Tôi nhận ra rằng kinh doanh chứng khoán và đầu tư mà tôi đang làm  không thực sự là những việc có ý nghĩa. Tôi không thực sự cảm thấy mình đang  tạo dựng điều gì đó. Nó giống như tôi đang chơi bạc nhưng dường như tỷ lệ cược  cứ chống lại tôi bởi tôi đang đầu tư vào những thứ mà tôi không hiểu. Cuối  cùng, tôi quyết định rút toàn bộ vốn đầu tư khỏi thị trường chứng khoán và cố  gắng xác định xem có thứ gì khác có ý nghĩa hơn để tập trung vào.

Tôi đã kiểm tra mỗi tuần một lần hoặc hai tuần một lần những gì  đang diễn ra tại Zappos, đưa ra lời khuyên (đặc biệt ở mảng công nghệ) khi cần  thiết. Điều này có ích cho những người làm ở Zappos, và họ thật sự đang đạt  được những bước tiến quan trọng với vị thế là một đội ngũ nhỏ.

Alfred và tôi đã giới thiệu Zappos với Michael Moritz ở Sequoia và  giúp đặt lịch hẹn gặp lần đầu. Chúng tôi cảm thấy hài lòng. Nhóm người ở Zappos  rất háo hức, say mê với những gì họ đang làm, họ cũng đạt được những bước tiến  đáng kể. Alfred và tôi đã nói vấn đề của Zappos với Sequoia trong thư giới  thiệu. Chúng tôi đảm bảo với nhóm Zappos rằng cuộc họp sẽ diễn ra trang trọng  hơn bình thường. Với việc đầu tư vào LinkExchange, Sequoia đã biến ba triệu  đô-la đầu tư thành con số hơn 50 triệu đô-la – gấp mười bảy lần số tiền ban đầu  chỉ trong vòng mười bảy tháng. Alfred và tôi được họ tín nhiệm, và trong đầu  chúng tôi, việc đề nghị Sequoia đầu tư vài triệu đô-la cho Zappos dường như trở  nên khả quan.

Chuyện gì đã xảy ra    tiếp theo

Tâm sự của Fred

Thật chẳng thú vị chút    nào. Đó là vào ngày 10 tháng 12 và chúng tôi biết rằng từ giờ đến ngày 15,    chúng tôi phải kiếm được nhiều tiền đầu tư hơn. Tất cả chúng tôi chỉ có năm    ngày để tìm nguồn vốn nếu không Zappos sẽ bị phá sản.

Tôi ở New York, tham    gia vào mọi buổi triển lãm giày để giới thiệu về Zappos và làm quen với nhiều    hãng giày có thương hiệu. Chúng tôi làm mọi việc có thể, về cơ bản là càng    nhanh càng tốt, và chờ đợi cuộc gọi từ Nick để xem liệu Zappos có được cứu    hay không.

Tôi đang ăn tối ở một    nhà hàng thì anh ấy báo tin. Sequoia đã quyết định không đầu tư. Tôi phải ra    ngoài để nhận cuộc gọi và khi ngồi xuống bàn, người phục vụ đã vô tình đánh    đổ nước vào áo tôi. Tôi vẫn mỉm cười. Khi đó trời bắt đầu đổ mưa, mưa như    trút nước.

Sau khi quay trở lại    California, Nick và tôi đã cố gắng gọi điện cho rất nhiều nhà đầu tư để tìm    kiếm nguồn tiền, nhưng chẳng ai muốn đầu tư cho Zappos cả. Vào buổi chiều    ngày 15, tất cả 12 người chúng tôi trong công ty đã tập hợp cùng nhau và làm    một việc rất tự nhiên – đến quán Chevy uống margarita.

Chúng tôi biết chúng    tôi đã cố gắng hết sức và thấy công việc đang được điều hành tốt. Đối với    chúng tôi, không thành công chỉ là do thiếu may mắn thôi. Sau vài tuần rượu,    chúng tôi quay trở lại văn phòng lúc 4 giờ chiều và bắt đầu dọn dẹp bàn làm    việc.

 [/t][/t]         

Alfred và tôi, cả hai đều rất ngạc nhiên khi biết Sequoia không  quan tâm đến việc đầu tư vào Zappos. Chúng tôi đến Sequoia để tìm hiểu xem  chuyện gì đã xảy ra hay có điều gì nhầm lẫn ở đây chăng. Họ nói với chúng tôi  rằng những thành tích của Zappos rất ấn tượng, dù số nhân viên của Zappos rất  ít ỏi và công ty chỉ mới thành lập được vài tháng, nhưng Sequoia không tin rằng  công ty này sẽ trở thành một doanh nghiệp lớn mạnh. Họ muốn thấy công ty tăng  trưởng và phát triển hơn nữa, và họ đề nghị chúng tôi liên lạc lại sau vài  tháng.

Kế hoạch ban đầu của chúng tôi là quỹ Những chú ếch phiêu lưu chỉ  đầu tư khoản nhỏ (khoản đầu tư thiên thần) cho mỗi công ty và sau vài tháng sẽ  chuyển họ sang những quỹ đầu tư mạo hiểm lớn như Sequoia. Vì thế, chúng tôi  đang khó xử với trường hợp của Zappos. Hoặc chúng tôi sẽ đầu tư thêm vào Zappos  bằng tiền của quỹ Những chú ếch phiêu lưu, hoặc sẽ để Zappos phá sản.

Việc để Zappos phá sản phù hợp với chiến lược và triết lý đầu tư  ban đầu của chúng tôi: đầu tư vào nhiều công ty Internet khác nhau với kỳ vọng  rằng 1/3 số công ty có lãi, 1/3 hòa vốn và 1/3 phá sản. Zappos chỉ đơn giản là  rơi vào loại thứ ba.

“Cậu muốn làm gì với Zappos?”, Alfred hỏi tôi. “Chúng ta phải  quyết định trong ngày hôm nay đấy. Họ còn rất ít tiền mặt, chỉ đủ cho vài ngày  tới và Sequoia lại chẳng quan tâm gì đến việc đầu tư cho Zappos cả, ít nhất là  trong vài tháng tới. Họ muốn thấy Zappos phát triển hơn đã.”

“Nếu được như thế thì chắc chắn Sequoia sẽ đầu tư cho họ chứ?”,  tôi hỏi.

“Không chắc”, Alfred trả lời. “Nhưng tớ nghĩ vẫn có khả năng.  Chuyện này thực sự mạo hiểm. Chúng ta có thể đầu tư cho Zappos lượng tiền mặt  đủ cho vài tháng tới, sau đó sẽ liên lạc lại với Sequoia và hy vọng họ sẽ đầu  tư. Nhưng nếu Sequoia không làm thế, chúng ta sẽ lại rơi vào tình huống như  ngày hôm nay, có khi đến lúc đó chúng ta cũng chẳng còn đủ vốn để hỗ trợ cho  Zappos.

Đây thực sự là một tình huống khó xử. Nếu quyết định đầu tư thêm  cho Zappos, chúng tôi sẽ không thể đầu tư vào công ty khác.

“Thực sự là rất mạo hiểm. Giường như chúng ta đang đặt hết trứng  vào chung một rổ vậy”, tôi nói. “Nhưng tớ thích những người ở đó. Họ thực sự  đam mê và quyết tâm, và họ làm việc không phải chỉ để làm giàu nhanh chóng. Họ  thực sự muốn xây dựng cái gì đó lâu dài.”

“Được rồi, nếu cậu nghĩ chúng ta nên đầu tư thêm vào Zappos thì  chúng ta cũng nên dành nhiều thời gian làm việc cùng họ để bảo vệ nguồn vốn đầu  tư”, Alfred nói. “Chúng ta nên đưa họ vào ‘lồng ấp’.”

Là một phần của chiến lược đầu tư, Alfred và tôi đã quyết định  phát triển Lồng ấp những chú ếch phiêu lưu, nơi cung cấp cả không gian và dịch  vụ cho các công ty Internet. Điều đó cũng cho phép chúng tôi có thể làm việc  gắn kết hơn với những công ty chúng tôi đang đầu tư vào.

Chúng tôi nói chuyện với chủ tòa nhà chúng tôi đang sống vì họ vẫn  còn rất nhiều khu vực thương mại cho thuê. Alfred và tôi quyết định sử dụng tất  cả những khu vực còn lại. Kế hoạch của chúng tôi là biến một phần khu vực này  trở thành không gian văn phòng và một phần thành nhà hàng. Bằng cách này, chúng  tôi và các công ty chúng tôi đang nuôi dưỡng sẽ không phải rời khỏi tòa nhà  này. Chúng tôi sẽ có thể làm việc cùng nhau lâu hơn và chăm chỉ hơn.

Tuy nhiên, khu vực để làm “lồng ấp” vẫn đang xây dở.

“Ồ, tớ nghĩ đó là một ý tưởng hay, nhưng khu vực đó vài tháng nữa  mới hoàn thành”, tôi nói. “Những tháng tới sẽ vô cùng khó khăn. Họ sẽ xây dựng  được hoặc phá sản công ty đó.”

“Thế cậu muốn làm gì?”, Alfred hỏi.

Tôi đã nghĩ tới tất cả các lựa chọn.

“Cuối tuần này, tớ sẽ tổ chức sinh nhật, và hai tuần nữa là bữa  tiệc chào năm mới. Hãy để bọn họ chuyển đến căn hộ của tớ ngay sau dịp năm mới.  Chúng ta sẽ biến nó thành một văn phòng cho đến khi khu vực kia hoàn thành.”

“Nghe hay đấy.”

Cú điện thoại

Tâm sự của Fred

Khi chúng tôi đang    dọn dẹp thì nhận được một cú điện thoại bất ngờ từ Tony. Anh ấy quyết định    đầu tư thêm từ ba đến bốn tháng nữa vào Zappos với hai điều kiện: 

“Cậu phải chuyển tới    khu nhà của tôi ở San Francisco, và tôi sẽ tham gia nhiều hơn vào các hoạt    động của công ty”.

Trước đó, tôi chỉ    gửi báo cáo kết quả kinh doanh cho Tony mỗi tuần một lần và mới thấy anh đến    thăm văn phòng một lần cùng Alfred. Chúng tôi cứ luôn bận rộn với những công    việc hàng ngày. Nhưng với cú điện thoại ấy, rõ ràng là anh đã nhìn thấy tiềm    năng của Zappos. 

Những điều kiện đó    thật dễ đáp ứng.

Chúng tôi đóng gói    đồ đạc và chuyển từ Emeryville tới khu nhà anh ấy. Trong 12 tháng sau đó,    Tony sẽ đầu tư bốn tháng một lần. Hãy tưởng tượng rằng cứ hết bốn tháng bạn    lại không biết liệu mình có mất việc hay không. Kết quả sẽ có vào ngày cuối    cùng, khi anh ấy quyết định xem có đáng đầu tư tiếp hay không. Thật may mắn    cho chúng tôi, anh ấy đã làm như vậy. Chúng tôi lại nỗ lực phát triển theo    chu kỳ bốn tháng rồi lại chờ đợi xem có nhận được luồng sinh khí cho bốn    tháng tiếp theo không, và lại tiếp tục nỗ lực.

Cả năm đó, chúng tôi    luôn tất bật ngược xuôi. 

Mối quan hệ của tôi    với Red Bull 

Tâm sự của Tony

Trong suốt cuộc đời,    tôi có rất nhiều bạn bè. Tôi thích tới quán bar cùng với một số người. Tôi    thích đi xem phim cùng với một số người. Tôi thích làm việc cùng với một số    người. Tôi thích đi dạo cùng với một số người. Và tôi thích viết bài luận,    bàn về những giới từ không được dùng ở cuối câu cùng với một số người khác. 

Một trong những mối    quan hệ lâu dài nhất tôi duy trì được trong đời là tình bạn với Red Bull.    Chúng tôi vừa cùng nhau kỷ niệm ngày tình bạn tròn 10 tuổi. Chúng tôi đã gặp    nhau trong một hộp đêm ở trung tâm thành phố San Francisco (một người bạn đã    giới thiệu chúng tôi với nhau) và đã nhảy suốt đêm. Theo thời gian, mối quan    hệ của chúng tôi mở rộng ra ngoài hộp đêm và đa dạng hơn. Tôi nghĩ lý do    khiến Red Bull trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời mình là do    tính linh hoạt và khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh.

Red Bull là người đồng    hành trung thành với tôi, bất kể ở đâu và làm gì, kể cả khi đi uống rượu ở    quán bar, xem phim, làm việc ở văn phòng hay đi leo núi. Thực ra, tôi cũng    đang nhấm nháp một lon Red Bull trong khi viết đoạn này và ngồi cạnh những    người bạn viết cứ luôn thắc mắc tại sao tôi lại viết về mối quan hệ với Red    Bull.

Tôi nghĩ là thật khó    có thể tìm được một người bạn đồng hành luôn hỗ trợ bạn trong mọi tình huống.    Nếu bạn có thể tìm được một nguời đồng hành với mình trong những bữa ăn sáng,    tối, có thể giúp bạn qua được cơn buồn ngủ sau bữa trưa tại văn phòng cũng    như đoạn cuối trong cuộc chạy đua, và có thể giúp bạn sảng khoái mà không cần    tới rượu, thì thực sự bạn đã tìm thấy được một thứ tuyệt vời.

Với tôi, đó là mối    quan hệ đáng được duy trì.

 [/t][/t]         

TONY HSIEH

**************************************

 Kỳ 1:  Trang trại giun đất

Kỳ 2:  Lớn lên

Kỳ 3:  Trường đại học

Kỳ 4:  Khởi nghiệp

Kỳ 5:  Phát triển nhanh chóng

Kỳ 6:  Những cuộc phiêu lưu mới 

Kỳ 7:  Bài Poker

*************************************

>> Kỳ tới: Sự kết nối:

 Khi nhóm chúng tôi phát triển, tôi nhận ra rằng xây dựng được  tình bạn và thắt chặt các mối quan hệ trong vương quốc của mình mang lại cảm  giác ổn định và háo hức về tương lai cho tất cả chúng tôi...

những người bạn không biết và không tin tưởng là những ý tưởng ngu  xuẩn.

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #10 on: November 01, 2011, 01:45:38 PM »

Tỷ phú bán giày - Kỳ  9: Sự kết nối

[/t]         

TTO - Ngày sinh nhật  của tôi sắp đến, và tôi muốn bữa tiệc sinh nhật lần này không giống bữa tiệc  nào tôi từng tổ chức trước đây. Tôi quyết định chuẩn bị một bữa tiệc thật chu  đáo.

Vài tháng trước đó, tôi đã liên lạc lại với một số bạn bè thời phổ  thông và cả đại học, một nhóm nòng cốt khoảng mười lăm thành viên. Chúng tôi tụ  tập và đi chơi cùng nhau vài lần một tuần. Ban đầu, tôi không có mục tiêu hay kế  hoạch gì cả. Chỉ bởi nhiều người trong số chúng tôi đang sống cùng một tòa nhà  nên thường xuyên ngẫu hứng tụ tập mọi người.

Thỉnh thoảng, chúng tôi tụ tập ở nhà của một ai đó hoặc có lúc lại  cùng nhau đến các hộp đêm và la hét ầm ĩ. Dần dần, chúng tôi xây dựng được cộng  đồng của riêng mình, và tòa nhà của chúng tôi trở thành tụ điểm không chỉ của  chúng tôi mà còn của bạn bè của chúng tôi. Mặc dù không ý thức được, nhưng  chúng tôi đã tạo ra và phát triển một nhóm riêng, và trung tâm của những cuộc  hội họp chính là nơi tôi đang sống.

Khi nhóm chúng tôi phát triển, tôi nhận ra rằng xây dựng được tình  bạn và thắt chặt các mối quan hệ trong vương quốc của mình mang lại cảm giác ổn  định và háo hức về tương lai cho tất cả chúng tôi. Mối liên kết này khiến chúng  tôi hạnh phúc hơn, và chúng tôi nhận ra rằng đó chính là điều mà chúng tôi đã  có trong những năm tháng đại học. Nó là thứ mà, giống như nhiều người, chúng  tôi đã đánh mất sau khi tốt nghiệp đại học, và chúng tôi đã không nhận ra rằng  mình cần nó đến mức nào cho đến khi tình cờ tự tạo dựng lại mối liên kết ấy.

Tôi luôn nhắc nhở bản thân không bao giờ được đánh mất giá trị của  nhóm, nơi mọi người thực sự hiểu và quan tâm lẫn nhau. Với tôi, sự liên kết –  bao gồm số lượng và chiều sâu của các mối quan hệ – là yếu tố quan trọng khiến  tôi hạnh phúc, và tôi luôn biết ơn nhóm của tôi. Mục đích của bữa tiệc sinh  nhật sắp tới không thực sự tập trung vào tôi. Đó chỉ là cái cớ. Bữa tiệc tôi đã  chuẩn bị từ những tháng vừa rồi sẽ là một món quà dành tặng cho cả nhóm.

Kể từ sau khi bán LinkExchange, tôi đã cam kết sẽ sống với triết  lý rằng với tôi, trải nghiệm quan trọng hơn vật chất. Mọi người cho rằng tôi  nên ra ngoài và mua một chiếc xe đắt tiền, nhưng tôi bằng lòng với chiếc Acura  Integra của mình.

Tôi sống trên tầng mười bảy, trong một căn hộ rộng 130 m2. Vài  tháng trước, tôi phát hiện ra rằng căn phòng rộng 325 m2 trên tầng tám đang rao  bán. Đó là phòng 810.

Tôi không muốn di chuyển, nhưng khi nhìn thấy thiết kế phòng 810,  tôi biết mình phải mua được căn phòng đó để làm chỗ tụ tập mới cho nhóm chúng  tôi. Ở đó có một phòng ngủ nhỏ, còn lại là khoảng không gian mở rộng gần 300  m2. Đó là nơi lý tưởng để tiệc tùng.

Tôi đã mua phòng 810, không phải vì muốn có thêm tài sản hay coi  đó là một vụ đầu tư bất động sản. Tôi đã mua nó để có thể thiết kế những bữa  tiệc và các buổi tụ tập cho nhóm chúng tôi. Có được căn hộ đó sẽ giúp chúng tôi  có nhiều trải nghiệm hơn.

Sau khi mua được căn phòng 810 trong một vụ đấu giá khốc liệt với  hai người khác, tôi bắt đầu biến đổi nó theo mơ ước của tôi. Suốt những năm  tháng đại học, xem chương trình Friends (Những người bạn) với những người bạn  cùng phòng là một việc diễn ra hàng tuần. Tôi nhớ những nhân vật trong chương  trình đó hình như luôn tụ tập tại một quán cà phê có tên Central Perk. Tôi muốn  810 sẽ trở thành phiên bản Central Perk của riêng chúng tôi. Chúng tôi cần phải  nghĩ ra một cái tên thật hay cho 810 thay vì chỉ gọi nó là 810.

Tôi đã hình dung ra cảnh tượng bạn bè tôi tụ tập uống sâm-panh vào  mỗi chủ nhật ở 810. Tôi đã mường tượng cảnh 810 trở thành nơi trở về sau những  chầu vui chơi, nhậu nhẹt ở các câu lạc bộ hay quán bar. Và tôi cũng đã tưởng  tượng sẽ biến 810 thành hộp đêm của riêng chúng tôi. Bữa tiệc chính thức đầu  tiên ở 810 sẽ là vào thứ bảy, ngày 11 tháng 12 năm 1999. Đêm đó, tôi sẽ bước  sang tuổi 26. Sinh nhật tôi sẽ là cái cớ hoàn hảo để tổ chức bữa tiệc khai  trương phòng 810.

Tôi đã dự trữ hàng đống Red Bull. 

Tôi mất mấy tuần để chuẩn bị bữa tiệc sinh nhật. Trước đó, nhóm  chúng tôi đã tham dự vài bữa tiệc khiêu vũ. Tôi nhớ lại bữa tiệc khiêu vũ đầu  tiên tôi tham gia. Khi đó, tôi thực sự không biết tiệc khiêu vũ là gì. Tất cả  những gì tôi biết là họ chơi rất nhiều loại nhạc điện tử. Tôi từng đến các câu  lạc bộ, nơi mọi người cũng chơi loại nhạc đó và tôi cảm thấy khó chịu và không  thể hiểu nổi tại sao những phòng lớn ở tất cả các câu lạc bộ đều chơi kiểu nhạc  đó. Chẳng lời nào có thể miêu tả nổi thứ âm nhạc đó, cứ như thể chỉ có một nhịp  lặp đi lặp lại liên hồi không ngớt. Tôi không hiểu nổi sức hấp dẫn của nhạc  điện tử. 

Tôi không có hứng thú với bữa tiệc khiêu vũ vì sợ phải nghe đúng  loại nhạc đó. Nhưng mọi người trong nhóm đều muốn đi nên tôi cũng đi theo.

Chúng tôi lái xe đến một nhà kho để không cực rộng, nằm ở nơi đồng  không mông quạnh. Có đến hàng trăm chiếc xe hơi đang đỗ ở đó. Từ lúc đứng xếp  hàng bên ngoài, chúng tôi đã nghe thấy tiếng nhạc techno thình thình. Tôi nghĩ  thầm trong bụng rằng không biết chúng tôi còn ở đây bao lâu và rằng chắc chắn  tôi thích những nơi chơi loại nhạc mà mình biết hơn. Sau 20 phút đứng xếp hàng,  cuối cùng chúng tôi cũng được vào trong.

Những gì diễn ra sau đó đã khiến tôi hoàn toàn thay đổi quan điểm.

Hàng chùm tia laze xanh chiếu khắp cái nhà kho có kích thước bằng  đến mười sân bóng. Các máy tạo sương đem lại cảm giác siêu thực như trong mơ.  Mọi người di chuyển theo nhịp nhạc. Các lon Red Bull vương vãi khắp nơi. Bóng  đèn cực tím làm cho những hình vẽ huỳnh quang trên tường và trần nhà rực sáng  như những cái cây ngoài hành tinh.

Nhưng không phải chỉ có những hình vẽ, những bóng đèn cực tím,  những máy tạo sương hay vẻ đồ sộ của nhà kho. Có cái gì đó trong khung cảnh và  khoảnh khắc này gợi lên những cảm xúc mà tôi chưa từng biết đến. Tôi không biết  chính xác đó là gì và tại sao tôi lại có cảm giác ấy.

Tôi cố phân tích điểm khác biệt giữa khung cảnh này với cảnh tượng  ở hộp đêm quen thuộc. Đúng là những hình vẽ và ánh sáng laze đều rất đẹp, đúng  là tôi chưa từng thấy sàn nhảy nào rộng và đông đến thế. Nhưng những điều đó  không thể giải thích được cảm giác choáng ngợp khiến tôi không nói nên lời. Vốn  được coi là người lý trí và lô-gic nhất nhóm, tôi thực sự ngạc nhiên khi khi  thấy mình bị cuốn theo cảm giác duy linh — không theo ý nghĩa tôn giáo, mà là  cảm giác kết nối sâu sắc với tất cả những người có mặt ở đó và với cả vũ trụ.

Khi đó, tôi cảm giác như không còn sự phán xét nào. Lướt khắp căn  phòng, tôi thấy mỗi người đều là những cá nhân đáng trân trọng, chỉ vì họ là  chính họ và đang nhảy múa theo âm nhạc.

Cố gắng phân tích chi tiết hơn, tôi nhận thấy rằng cách nhảy ở đây  khác với cách nhảy tôi vẫn thấy trong các hộp đêm. Ở đây, không có cảm giác tự  ý thức hay cảm giác nhảy vì có người đang nhìn mình; ở các hộp đêm, người ta có  cảm giác như đang thể hiện. Ở các hộp đêm, người ta thường nhảy theo đôi. Ở  đây, dường như tất cả mọi người đều theo một hướng. Mọi người đối diện với DJ,  người này đứng trên sân khấu cao, như đang truyền năng lượng của mình xuống đám  đông. Tôi có cảm giác như mọi người đều đang tôn thờ DJ.

Cả căn phòng trông như một bộ tộc hàng nghìn người và DJ chính là  tộc trưởng. Dường như mọi người không nhảy theo nhạc mà chính âm nhạc đang  chuyển động trong cơ thể mỗi người. Nhịp nhạc điện tử đều đều là nhịp tim chung  của cả đám đông. Dường như ý thức về cá nhân đã biến mất, thay vào đó là ý thức  thống nhất của cả nhóm. Cảm giác này giống như khi bạn nhìn một đàn chim như  một thực thể duy nhất chứ không phải là tập hợp từng cánh chim riêng lẻ. Tất cả  mọi người ở đây đều có chung một mục đích. Chúng tôi đang đóng góp vào một trải  nghiệm tập thể.

Mười năm sau, tôi mới biết được rằng khoa học về hạnh phúc đã  khẳng định, sự đồng điệu về thân thể với những người khác và sự tham gia vào  cái gì đó lớn hơn chính bản thân mình (từ đó tạm thời mất đi ý thức về bản  thân) kết hợp với nhau sẽ tạo ra niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Bữa tiệc khiêu vũ  của thời hiện đại cũng tương tự như những trải nghiệm mà con người đã biết đến  hơn mười nghìn năm nay.

Trong thời điểm đó, tôi tưởng như mình vừa trải qua lễ hiển linh.  Cảm giác ấy tràn ngập khắp con người tôi. Trong một khoảnh khắc, tôi đột nhiên  hiểu ra ý nghĩa của nhạc techno. Không thể nghe nó theo kiểu nghe nhạc trên  radio. Tôi phải để nó lan tỏa khắp người, với lối tư duy hoàn toàn mới mẻ.  Dường như ai đó đã trao cho tôi phiến đá Rosetta của nhạc techno và không từ  ngữ nào giúp tôi hiểu được nó. Tôi phải tự mình khám phá.

Và trong khoảnh khắc đó, tôi đã hiểu. Tôi đã thức tỉnh. Tôi đã  biến đổi.

Sau bao nhiêu năm, cuối cùng tôi đã hiểu âm nhạc là gì.

TONY HSIEH

Kỳ cuối: Tầm nhìn

 Logged

"Sự đời ngẫm nghĩ nghĩ mà ghê.

Sống gửi rồi ra lại thác về

Khôn dại cùng chung ba tấc đất

Giàu sang chưa chín một nồi kê…”

 cauhaihue

Moderator

Hero Member

Posts: 2633

Em đâu phải là trời, mà đòi chi được nấy

Re: Giới thiệu sách hay - Tỷ phú bán giày

« Reply #11 on: November 07, 2011, 01:18:11 PM »

Tỷ phú bán giày - Kỳ cuối: Tầm  nhìn

[/t]     

TTO - Sau đó, nhóm chúng tôi đã đến rất nhiều bữa tiệc  khiêu vũ. Có những buổi quy mô lớn với hàng nghìn người, lại có buổi chỉ có khoảng  50 người tham dự. Tôi đã biết thêm nhiều điều về cộng đồng và văn hóa này. 

Ví dụ, PLUR là chữ viết tắt của  “Peace (hòa thuận), Love (yêu thương), Unity (đoàn kết), Respect (tôn trọng)”,  đó là cách ứng xử mà mọi người nên ghi nhớ và áp dụng trong các bữa tiệc cũng  như trong cuộc sống. 

Trong những bữa tiệc này, việc  tiếp xúc và bắt chuyện với người lạ là hoàn toàn bình thường, và là một phần  văn hóa. Ở quán bar hay hộp đêm, thường chỉ có các chàng trai mới làm như thế  để tán tỉnh các cô gái; còn ở những buổi tiệc khiêu vũ, mọi người rất thích làm  quen với nhau mà không vì động cơ gì.

Đối với tôi, tinh thần PLUR và  nét văn hóa của bữa tiệc khiêu vũ không chỉ ở tầm của một bữa tiệc. Đó thật sự  như một triết lý về sự cởi mở gặp gỡ mọi người, cho dù bề ngoài hay gia cảnh họ  ra sao. Tương tác với bất kì ai ở bất cứ nơi đâu đều là cơ hội để thu nhận thêm  những cách nhìn mới. Về bản chất, tất cả chúng ta đều là con người. Nhưng điều  đó dễ dàng bị lãng quên trong một thế giới do đồng tiền, quyền lực và địa vị xã  hội điều chỉnh. Văn hóa của những buổi tiệc khiêu vũ chính là lời nhắc nhở rằng  thế giới có thể tốt đẹp hơn nếu mọi người biết trân trọng nhân tính trong mỗi  con người.

Tôi đã biết cách bắt chuyện thoải  mái với những người hoàn toàn xa lạ, không cần quan tâm tôi đang ở đâu hay họ  là ai. Tôi còn viết lại cách tôi áp dụng chiến lược này vào kinh doanh trong  cuốn sách The Trump Card: Playing to Win in Work and Life (Tạm dịch: Quân bài  chủ trong cuộc sống và công việc) của Ivanka Trump.

Trích đoạn của tôi trong cuốn sách của Ivanka Trump

Cá nhân tôi rất    không ưa những sự kiện của giới kinh doanh. Gần như mọi người tham dự những    sự kiện đó đều cố tìm người để trao đổi danh thiếp, với hy vọng tìm được đối    tác làm ăn. Tôi thường cố tránh những sự kiện kiểu này và hiếm khi mang theo    danh thiếp.

Tôi thích xây    dựng những mối quan hệ và làm quen với mọi người mà không để ý đến địa vị của    họ trong giới kinh doanh, hay thậm chí họ còn không làm nghề đó. Tôi tin rằng    mỗi người đều có điều gì đó thú vị và cần phải khám phá xem điều thú vị đó là    gì. Tôi nhận ra rằng làm quen với những người không làm kinh doanh thú vị hơn    nhiều vì họ có cách nhìn và suy nghĩ hoàn toàn khác, và vì những mối quan hệ    này thường chân thật hơn.

Tôi nhận thấy một    điều rất thú vị: nếu bạn thực sự quan tâm tới ai đó vì muốn làm bạn chứ không    phải để lợi dụng, sau này sẽ luôn có những điều có lợi cho công việc và chính    bản thân bạn.

Tôi không hiểu    tại sao lại như thế, nhưng dường như lợi ích của những mối quan hệ cá nhân    thường xuất hiện khoảng hai đến ba năm sau khi bạn làm quen. Đó thường là    điều bạn không thể dự đoán khi mới bắt đầu mối quan hệ. Chẳng hạn, có thể    hàng xóm của chị gái của một người bạn vừa trở thành phó tổng giám đốc của    một công ty mà bạn đang cố tiếp cận, hoặc có thể bạn chơi tennis của một    người bạn gặp cách đây hai năm rất phù hợp với vị trí bạn đăng tuyển từ sáu    tháng nay.

Zappos đã hoạt    động được hơn mười năm. Chúng tôi đã đi từ con số 0 năm 1999 đến tổng doanh    thu 1 tỷ đô-la năm 2008. Nhìn lại những bước ngoặt đáng nhớ trong lịch sử    công ty, có vẻ như tất cả đều là may mắn. Chúng tôi không đoán trước được    những sự việc đã diễn ra, nhưng chúng là kết quả của những mối quan hệ mà    chúng tôi đã xây dựng từ vài ba năm trước.

Vì vậy, tôi    khuyên bạn nên từ bỏ cách tạo dựng quan hệ trong truyền thống trong giới kinh    doanh. Hãy thử kết thêm bạn bè và thắt chặt các mối quan hệ. Chính tình bạn    cũng là một phần thưởng. Càng có nhiều bạn, sau này bạn sẽ càng thu được    nhiều lợi ích cho công việc và cá nhân mình. Bạn không biết chính xác lợi ích    mình thu được là gì nhưng chúng sẽ xuất hiện thần kỳ sau vài năm.

 [/t][/t]         

Tôi muốn bữa tiệc sinh nhật lần  thứ 26 cũng có không khí mà tôi đã trải qua ở buổi tiệc khiêu vũ. Vì vậy, trước  đó vài tuần, tôi đã cố hết sức để biến nó thành một đêm không thể quên. Tôi vào  một trang bán hàng trực tuyến và đặt mua máy tạo sương, đèn màu, máy chỉnh  sáng, đèn laze, bóng dùng cho sàn nhảy, đèn cực tím, các miếng trang trí huỳnh  quang và cả giàn treo đèn. Tôi muốn tạo gia không gian nhà kho thu nhỏ.

Khoảng 100 người đến dự sinh nhật  tôi. Tôi đã đặt ở thang máy các bảng chỉ dẫn có ghi “810” kèm với mũi tên chỉ  hướng lên nơi tổ chức tiệc. Em họ một người trong nhóm nhìn vào bảng chỉ dẫn và  hỏi: “BIO là gì?” Chúng tôi cười phá lên. Đó chính là cái tên chúng tôi tìm  kiếm lâu nay. Từ đó, chúng tôi quyết định gọi nơi tổ chức tiệc là “Câu lạc bộ  BIO”.

Bữa tiệc sinh nhật diễn ra khá  suôn sẻ. Bài học quan trọng nhất mà tôi thu được là không nên đưa nho vào thực  đơn vì sáng hôm sau, sàn bếp đầy nho rụng và bị dẫm nát bét, trông như tôi có  cả một ruộng nho trong Câu lạc bộ BIO. Tôi phải ghi nhớ để gạch thứ quả này ra  khỏi thực đơn tiệc năm mới.

Tiếng lành đồn xa, hàng trăm  người đến dự tiệc năm mói ở Câu lạc bộ BIO. Họ xếp hàng dài từ thang máy lên  đến lối vào căn hộ. Đến 3 giờ sáng, mọi người đã về gần hết, chỉ còn khoảng 30  người. Tôi liền quyết định bẻ ngoặt miệng máy tạo sương để phủ sương ngập căn  phòng.

Đột nhiên, đèn nháy liên tục,  chuông báo động rít lên. Mất một lúc tôi mới nhận ra âm thanh phát ra từ đâu và  chuyện gì đang diễn ra: sương ra quá dày đã kích hoạt báo động không chỉ của  căn hộ này mà của cả tòa nhà. Lúc đó là 3 giờ sáng, chuông báo cháy kêu khắp  tòa nhà. Một giọng nói tự động hướng dẫn mọi người sơ tán khỏi tòa nhà ngay lập  tức.

Tôi lập tức tắt máy tạo sương và  mở hết cửa sổ. Sương tan hết sau vài phút. Nhưng đã quá muộn. Tôi nghe thấy  tiếng còi hú, ngó ra ngoài cửa sổ và thấy hai chiếc xe cứu hỏa đang tiếp cận  tòa nhà.

Vài phút sau, ba người lính cứu  hỏa xuất hiện ở cửa. Tôi giải thích mọi chuyện và chỉ cho họ xem máy tạo sương  và đèn laze. Khi đã nhận ra rằng thực ra tòa nhà không bị cháy, họ cười phá  lên, gửi lời chúc mừng năm mới rồi rời đi. Tôi sung sướng vì không bị bắt.

Tôi thở phào và tựa vào cửa sổ,  nhìn theo những người lính cứu hỏa đang quay lại xe. Đèn xe cứu hỏa vẫn còn  nhấp nháy.

Bỗng nhiên tôi nghe thấy một  giọng phụ nữ: “Đáng kinh ngạc nhỉ? Anh đã làm ra mọi chuyện đấy.”

Tôi nhìn xem đó là ai, nhưng  không nhận ra. Cô có mái tóc vàng và mắt xanh, cũng đang tựa cửa nhìn theo đèn  xe cứu hỏa nhấp nháy phía dưới.

“Vâng, họ khá dễ chịu. Tôi cứ lo  là họ sẽ nổi điên với tôi, nhất là lại vào dịp năm mới.” Tôi nói.

“Ý tôi không phải thế. Tôi nói  việc kia cơ.” Cô nói và quay lại, chỉ vào những người vẫn còn dự tiệc. “Anh có  thể làm tất cả những gì anh muốn, và anh đã tạo ra một trải nghiệm mà mọi người  sẽ nhớ mãi.”

“Tôi thì không nghĩ là những  người sống ở khu này sẽ tươi cười với tôi nếu biết vì sao mà họ phải sơ tán  giữa đêm.” Tôi nói. “Chắc họ cũng sẽ nhớ mãi đêm nay.”

Cô cười. “Đừng lo. Đó chỉ là tai  nạn thôi. Anh có thể đổ lỗi cho Y2K hay cái gì đấy. Ngày mai chắc các báo sẽ  giật tít: Máy tạo sương hỏng gây tai họa!”

Tôi mỉm cười với cô. “Cô có tin  là vài ngày nữa cả khu này sẽ biến thành văn phòng không?”

Cô nhìn sâu vào mắt tôi. Tôi vẫn  nghe thấy tiếng nhạc nhưng dường như cả thế giới đã biến mất. Tôi không biết cô  gái này là ai, nhưng vũ trụ đã tình cờ đem chúng tôi đến bên nhau trong một  khoảnh khắc duy nhất mà tôi sẽ ghi nhớ suốt đời.

“Hình dung, sáng tạo, và hãy tin  vào vũ trụ của riêng anh, vũ trụ sẽ hình thành quanh anh.” Cô dịu dàng nói.  “Giống như những gì anh đã làm tối nay.”

Cô nghiêng người, thì thầm vào  tai tôi: “Chúc mừng năm mới.”

Cô đứng thẳng lên rồi bỏ đi,  không thêm một lời

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hoa#van