Tiềm năng Khoáng sản biển Việt Nam và vấn đề khai thác sử dụng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tiềm năng Khoáng sản biển Việt Nam và vấn đề khai thác sử dụng

Thứ sáu, 03 Tháng 12 2010 17:01

Tóm tắt. Tài nguyên khoáng sản biển Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Đáng chú ý nhất là tài nguyên dầu khí, các khoáng sản rắn cho đến thời điểm hiện tại phát hiện chủ yếu ở dải ven biển, còn ở các vùng nước sâu, xa bờ chưa có điều kiện điều tra nên chỉ có những tài liệu ban đầu. Khai thác các mỏ đã biết và tiếp tục tìm kiếm các mỏ khoáng sản mới ở vùng ven biển, biển và thềm lục địa luôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam. Vai trò và lợi ích quốc gia thu được từ khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản biển là rất to lớn, nhưng tầm nhìn chiến lược trong việc khai thác và sử dụng nguồn lợi này như thế nào đuợc tác giả bài viết này trình bầy.

MỞ ĐẦU

Lợi thế của một quốc gia biển và một vùng thềm lục địa rộng lớn tiếp nối với hai đồng bằng ven biển (châu thổ sông Hồng và Cửu Long) rộng lớn, đã tạo ra cho Việt Nam những triển vọng và tiềm năng đa dạng về khoáng sản biển, đặc biệt là dầu khí ở thềm lục địa. Việc khai thác dầu khí vừa qua đã đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân với GDP xuất khẩu đứng đầu trong nhiều năm, nên luôn được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn. Cùng với dầu khí, các dạng khoáng sản rắn cũng đã được phát hiện ở vùng ven biển và biển nông ven bờ (0-50m nước), trong đó một số mỏ sa khoáng đã khai thác,...Tiếp tục tìm kiếm các mỏ khoáng sản mới ở vùng ven biển, biển và thềm lục địa luôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam, đặc biệt gần đây là băng cháy.

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xem dầu khí vẫn là ngành ưu tiên phát triển cao trong số 4 ngành kinh tế biển quan trọng đến năm 2020: dầu khí, hàng hải, thủy sản và du lịch. Tuy nhiên, tài nguyên khoáng sản biển nói chung và dầu khí nói riêng thuộc nhóm tài nguyên không tái tạo, dùng bao nhiêu hết bấy nhiêu, nên cần chú ý trong quá trình thực hiện chiến lược biển để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Bài viết này hy vọng trao đổi một quan điểm liên quan đến các vấn đề trên.

I.TIỀM NĂNG KHOÁNG SẢN BIỂN VIỆT NAM

1.1. Khoáng sản rắn

Khoáng sản rắn ở biển Việt Nam phân bố trong trầm tích Đệ tứ, trong các đá gốc ven bờ thềm lục địa và biển sâu. Trong trầm tích Đệ tứ đã phát hiện các tích tụ công nghiệp và một loạt các khoáng vật quặng, phi quặng (sa khoáng), phôtphorit và các biểu hiện của glauconit, pirit, thạch cao, kết hạch sắt – mangan,...

Khoáng sản đới ven biển

-Sa khoáng ven biển của các nguyên tố hiếm quý: Khá phong phú và đa dạng. Một số mỏ sa khoáng có ý nghĩa kinh tế như các mỏ có chứa Inmenit, Rutin,Monazit, Ziacon và các biểu hiện Manhêtit, Caxiterit, Vàng, Crôm, Corindon, Topa, Spiner,...Những mỏ đang khai thác là Quảng Xương, Thanh Hóa (trừ lượng Ti: 80.198 tấn, Zn: 2.298 tấn), mỏ Cẩm Hoà (trữ lượng Ti: 2.500.000 tấn, Zn: 85.995 tấn), mỏ Kẻ Ninh (trữ lượng Ti: 443.475 tấn, Zn: 35.126 tấn), mỏ Kẻ Sung (trữ lượng Ti:3.370.000 tấn, Zn: 100.000 tấn), mỏ Đề Gi (trữ lượng Ti:1.749.599 tấn, Zr:78.978 tấn), mỏ Hàm Tân (Ti: 1.300.000 tấn, Zn:442.198 tấn).

Những tài liệu thống kê cho thấy các mỏ sa khoáng Titan, Ziacon, đất hiểm ven biển Việt Nam,  có 2 mỏ lớn, 7 mỏ trung bình, 6 mỏ nhỏ và hàng chục điểm quặng (dưới 25.000 tấn). Các mỏ sa khoáng chủ yếu là Titan, Ziacon, còn các quặng đất hiếm chưa đạt giá trị công nghiệp của mỏ nên chỉ xem là những quặng đi kèm khi khai thác.

- Cát thủy tinh: Cát thủy tinh là một trong những khoáng sản chính ven biển Việt Nam, phân bố rải rác dọc bờ biển từ Bắc đến Nam.Có mỏ ở ngoài đảo như Vân Hải (Quảng Ninh). Hầu hết các mỏ cỡ lớn tập trung ở ven biển, đoạn từ Cam Ranh đến Bình Châu. Ước chừng có 20 mỏ đã được tìm kiếm, thăm dò với tổng trữ lượng khoáng 584 triệu tấn. Đa số các mỏ là cát thủy tinh. Một số mỏ cát có chất lượng tốt như  Vân Hải, Cam Ranh có chất lượng cao để sản xuất pha lê dụng cụ quang học.

- Các khoáng sản khác ở ven biển: Ngoài quặng Titan cùng kim loại hiếm đi kèm và cát thủy tinh, các khoáng sản kim loại khác chỉ là những biểu hiện Vàng, Thiếc (Sầm Sơn, vùng Nam Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị - Huế, Quảng Nam- Quảng Ngãi, Quy Nhơn- Phú Yên, Bình Thuận – Vũng Tàu). Cần lưu ý tìm kiếm chúng trong các lòng sông cổ.

- Mỏ sắt: Lớn nhất Việt nam là mỏ Thạch Khê nằm ở ven biển Hà Tĩnh có trữ lượng 532 triệu tấn.

- Linmonit và glauconit tồn tại dưới dạng kết vón phân bổ trên diện rộng có chiều dày 0,2- 1,5m ở độ sâu 20 – 30m nước, những vùng tập trung đã được khoanh định, nhưng chưa nghiêncứu sâu và đánh giá tiềm năng.

- Vật liệu xây dựng và san lấp: Phân bố ở vùng nước nông, cửa sông, ven biển, trong đó khá tập trung ở vùng ven bờ nước nông Quảng Ninh - Hải Phòng.

Các biểu hiện khoáng sản vùng quần đảo Trường Sa- Hoàng Sa

-Pyrit; Khoáng vật tự sinh này gặp cả ở 3 vùng biển theo độ sâu (thềm, sườn lục địa và biển sâu) nhưng chủ yếu ở rìa ngoài thềm lục địa tới chân lục địa độ sâu khoảng 200- 2.800m. Phía Nam đảo Trường Sa pirit có hàm lượng khá cao, đạt 5,5- 7,5% vât liệu trầm tích, dải phía Đông quần đảo ở độ sâu 1.000

– 2.000m hàm lượng pirit khoảng 1-5% vật liệu trầm tích.

- Thạch cao: Khoáng vật tự sinh này gặp trong các trầm tích tầng mặt ở rìa quần đảo, thường đi cùng pirit, hàm lượng thay đổi từ 2,9% đến 6,5%.

- Kế hoạch sắt- mangan: Bao quanh quần đảo Trường Sa hàm lượng mangan tăng dần theo độ sâu từ 500m-3.000m (khoảng 1,5%), kết hạch sắt-mangan tập trung chủ yếu ở chân lục địa độ sâu 2.000 – 4.000m.

- Phôtphorit: Ở quần đảo Hoàng sa và Trường sa phôtphorit là loại guano thành tạo từ phân chim ý nghĩa kinh tế không lớn.

1.2.  Tài nguyên dầu khí

Dầu khí là nguồn tài nguyên quan trọng đã được chú ý nghiên cứu rất sớm. Dầu khí tích tụ trong các bể trầm tích: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay- Thổ chu, Tư Chính- Vũng Mây và nhóm bể Trường Sa. Dầu khí đã được phát hiện và khai thác ở các bể Cửu Long Nam Côn Sơn, Malay - thổ Chu, sông Hồng, bể Cửu Long có 5 mỏ đang khai thác là Bạch Hổ, Rông, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen và một số mỏ khác.Bể Cửu Long là bể chứa dầu chủ yếu ở thềm lục địa Việt Nam. Bể Nam Côn Sơn phát hiện cả dầu và khí, có 2 mỏ đang khai thác là Đại Hùng, và mỏ khí Lan Tây- Lan Đỏ, ngoài ra còn mỏ Rồng, Hải Thạch...Bể Malay-Thổ Chu có cả dầu và khí, có các mỏ:Buga, Kekwa-Cái nước, Bunga Rây, Bunga Seroga ở vùng chống lấn Việt Nam – Maylaysia. Bể sông Hông có mỏ khí Tiền Hải và một số phát hiện ở Vịnh Bắc Bộ.

Kết quả phân tích trữ lượng và tiềm năng dầu khí tính đến 31/12/2004 là 4.300 triệu tấn dầu quy đổi, đã phát hiện 1.208,89 triệu tấn dầu quyđổi chiếm 28% tổng tài nguyên dầu khí Việt Nam, trong đó tổng trữ lượng dầu khí có khả năng thương mại là 814,7 triệu tấn dầu qui đổi, chiếm 67% tổng tài nguyên dầu khí đã phát hiện. Trữ lượng phát hiện tính cho các mỏ dầu khí gồm trữ lượng với hệ số thu hồi dầu khí cơ bản và hệ số thu hồi bổ sung do áp dụng công nghệ mới gia tăng thu hồi được tính cho các mỏ đã tuyên bố thương mại, phát triển và đang khai thác được phân bổ như sau: Trữ lượng dầu và condensat khoảng 420 triệu tấn (18 triệu tấn condensat), 394,7tỷ m3 khí trong đó khí đồng hành 69,9 tỷ m3 khí không đồng hành 324,8 tỷ m3 .

1.3. Tài nguyên hidrat metan (băng cháy)

Hàng chục triệu năm nay, các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực đã theo đuổi nghiên cứu một dạng tồn tại của khí metan trong trầm tích ở đáy biển gọi là hidrat metan.

Trong những điều kiện nhất định, các phân tử nước liên kết với nhau (liên kết hidro) để tạo thành những hốc bên trong chứa các phân tử khí, chủ yếu là metan (CH).Tích tụ khí trong các hang hốc này cũng tương tự như trong các mỏ khí thông thường. Ngoài metan là chủ yếu còn có thể chứa hyđrocabon nhẹ khác như etan, propan, butan, nitơ, điôxit cacbon,...Về hình dạng hydrat metan trông như tuyết hay băng nên có mang cái tên là “băng cháy”. Băng cháy hình thành trong điều kiện áp suất cao và nhiệt độ thấp. Ở những vùng biển tích tụ hydrat metan thường ở độ sâu 400-500m (áp suất khoảng 40 atm và nhiệt độ 60C), ở 2 cực độ sâu nhỏ hơn nhưng nhiệt độ lại thấp hơn. Ngoài ra, người ta còn chú ý đến độ muối xem như một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự tích tụ và giữ sự ổn định của hiđrat metan. Người ta nói “hidrat metan” là nguồn nhiên liệu khổng lồ cho tương lai vì tiềm năng tài nguyên này rất lớn. Người ta dự báo trữ lượng hydrat metan khoảng 400 triệu  Tcf (Trillion cubic feet), tức khoảng 11.200 triệu tỷ m3. Trong khi đó trữ lượng khí thiên nhiên được xác minh trên toàn thế giới hiện nay là 150 nghìn tỷ mét khối. Những nghiên cứu gần đây đã khoanh những khu vực có triển vọng về băng cháy là những vùng đáy biển có độ sâu trên 500m nước và 2 cực của trái đất. Nếu khai thác hidrat metan thì đó sẽ là nguồn năng lượng cho thế giới trong tương lai. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nước nào khai thác hidrat metan ở quy mô công nghiệp. Nhưng triển vọng khoảng một vài chục năm tới khai thác công nghiệp không phải là dự báo thiếu cơ sở. WTO đang tính chuyện thành lập một tổ chức tư vấn Quốc tế về hidrat metan (World Methane Hydrates Advi -sỏy Board) để hỗ trợ các nước thành viên khảo sát, tìm kiếm và phân chia quyền khai thác ở các vùng biển quốc tế. Phương pháp khai thác hydrat metan khả dĩ nhất là giảm áp suất để khí giải phóng, tuy nhiên chưa có công nghệ hoàn chỉnh cho việc khai thác.

Ở  Việt nam chưa có công trình nghiên cứu về hidrat metan. Nhưng đây là vấn đề lớn nên Chính phủ hết sức quan tâm và chúng ta hy vọng sự có mặt băng cháy trong vùng biển nước ta.

2. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN BIỂN.

2.1 Khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản rắn.

Hiện nay tốc độ khai thác các mỏ sa khoáng inmenit ven biển rất cao. Hầu như các mỏ lớn đều được khai thác và chế biến, chủ yếu là tuyển Tian và Ziacon sạch để xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu, công nghiệp trong nước chưa sử dụng nhiều. Không ít mỏ khi khai thác và sau khi khai thác xong không chú trọng đến vấn đề môi trường nên gây ra những tác động xấu.

Cát thủy tinh đã được khai thác phục vụ cho sản xuất trong nước nhưng một lượng lớn phục vụ xuất khẩu. Với trữ lượng rất lớn, việc khai thác hiện nay chưa đáng bao nhiêu.

Cát san lấp gần đây một số tỉnh miền Tây Nam bộ đã tiến hành thăm dò và khai thác xuất khẩu. Nhiều nhà khoa học quan tâm và tỏ ra băn khoăn vì sợ chưa tính toán kỹ vì khai thác cát ở vùng biển nước nông có thể làm thiếu hút trầm tích và làm gia tăng nạn sạt lở bờ biển vốn đã nghiêm trọng hiện nay. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đầy đủ về tác động của việc khai thác cát tới môi trường thực sự nghiêm túc.

2.2. Khai thác dầu khí.

Tuy nhiên theo giá dầu trên thị trường thế giới mà hàng năm nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô chiếm 20 – 24% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và 22 – 25% tổng thu ngân sách.

Cho đến cuối năm 2004 đã khai thác 169,94 triệu tấn dầu và 37,64 tỷ m3 khí (lượng khí đưa vào bờ để sử dụng 18,67 mét khối). Các mỏ hiện nay đang khai thác đều năm ở thềm lục địa (200m nước). Khai thác dầu khí có tốc độ tăng trưởng nhanh. Năm 1986 là năm đầu tiên nước ta khai thác dầu trên biển sản lượng 0,4 triệu tấn/ năm tăng lên 20,34 triệu tấn năm vào năm 2004.

Về khai thác khí, ngoài mỏ Tiền Hải được khai thác sớm phục vụ cho công nghiệp địa phương Thái Bình, còn vào thập niên 80 và đầu thập niên 90 do nhu cầu khí trong đất liên chưa có nên khí đồng hành khai thác sử dụng rất ít trên dàn (máy phát điện và gaslipt) còn đốt bỏ để bảo vệ môi trường. Phải đến cuối thập niên 9o Nhà nước mới chú ý đến việc sử dụng khí. Từ 1995 mới xây dựng đường ống dầu khí từ mỏ Bạch Hổ vào đất liền trên 100km với công suất 5,5 triệu mát khối/ ngày. Tiếp theo là xây dựng các đường ống dầu khí từ mỏ  Rạng Đông đến mỏ Bạch Hổ, đường ống dầu khí từ mỏ Lan Tây – Lan Đỏ vào bờ dài 370km với công suất 20 triệu mét khối khí/ ngày. Do thị trường khí chưa phát triển, nên khai thác khí ở bể Malay- thổ Chu xuất sang Malaysia với sản lượng 2,5 tỷ m3/ năm. Gần đây đã hoàn thành đường ống dầu khí ở bể Malaysia-Thổ Chu vào Cà Mau phục vụ cho cụm công nghiệp khí - điện - đạm ở đây.

3. MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ SỬ DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN BIỂN.

Đẩy mạnh điều tra khảo sát, tìm kiếm, thăm dò tài nguyên khoáng sản biển phục vụ cho phát triển đất nước cần có một chiến lược đảm bảo rút ngắn thời gian từ khâu điều tra đến khai thác và đảm bảo sản lượng khai thác tăng trưởng bền vững và phục vụ có hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội.

Nhà nước cần có chiến lược gia tăng giá trị nguồn tài nguyên khoáng sản biển (đặc biệt là dầu khí) không chỉ xuất khẩu thô. Hàng năm xuất khẩu trên 20 triệu tấn dầu thô và nhập về hàng chục triệu tấn xăng dầu là điều bất hợp lý. Tiến độ xây dựng các nhà máy lọc dầu chậm đến mức không hiểu nổi.

Nguồn tài nguyên khí mới sử dụng 50% sản lượng còn phải đốt cũng là điều cần suy nghĩ. Mười năm qua đã cố gắng tạo lập thị trường tiêu thụ khí ở trong nước nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, ta phải đốt khí ở ngoài khơi trong khi đất liền thiếu điện.

Khai thác tài nguyên khoáng sản biển là gnành kinh tế mạo hiểm đòi hỏi vốn lớn và có nhiều rủi ro nên cần có cơ chế thích hợp để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là lĩnh vực khoán sản rắn còn chưa được chú ý như đối với ngành dầu khí.

Để đảm bảo định hướng cho tìm kiếm thăm do khoáng sản biển từ khoáng sản rắn, dầu khí đến băng cháy cần đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản về địa chất biển Việt Nam. Công việc này đã được tiến hành từ nhiều chục năm nay song còn quá chậm chạp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển.

Tài nguyên khoáng sản biển Việt nam phong phú và đa dạng. Nếu được coi trọng và có đầu tư thích đáng thì sẽ là một động lực quan trọng đưa đất nước phát triển, nhất là vào thời kỳ hội nhập. Nhiều khả năng mới mở ra cho sự phát triển của địa chất biển Việt Nam và lúc này cần sớm hoạch định một chiến lược phát triển cho ngành này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tiemnag