TIỀN TỆ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TIỀN TỆ

1. Lịch sử phát triển của hình thỏi giá trị và bản chất của tiền tệ

a. Lịch sử phát triển của hình thái giá trị

Hàng hoá là sự thống nhất giữa hai thuộc tớnh giỏ trị sử dụng và giỏ trị của hàng húa. Về mặt giỏ trị sử dụng, tức hỡnh thỏi tự nhiên của hàng hoá, ta có thể nhận biết trực tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hỡnh thỏi xó hội của hàng hoá không thể cảm nhận trực tiếp được mà chỉ bộc lộ ra trong quá trình trao đổi, thông qua các hình thái biểu hiện của nó. Lịch sử ra đời của tiền tệ chính là lịch sử phát triển các hỡnh thỏi giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn đến hình thái đầy đủ nhất là tiền tệ

- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị là hình thái phôi thai của giỏ trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác.

Hình thái vật ngang giá cú ba đặc điểm a) giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị; b) lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng; c) lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội. Hình thái giá trị tương đối và hình thái vật ngang giá là hai mặt liên quan với nhau, không tách rời nhau, đồng thời là hai cực đối lập của một phương trỡnh giỏ trị. Trong hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định.

- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng xuất hiện khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hỡnh thỏi đầy đủ hay mở rộng

- Hình thái chung của giá trị. Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xó hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp không cũn thớch hợp và gây trở ngại cho trao đổi; người ta phải đi con đường vũng, mang hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, thì hình thỏi chung của giá trị xuất hiện

- Hình thái tiền tệ. Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xá hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng, tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, đũi hỏi khỏch quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biển thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị

Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quý là vàng, bạc, và cuối cựng là vàng. Sở dĩ vàng đóng vai trũ tiền tệ là do những ưu điểm của nó như thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng lượng giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá được phân thành hai cực, một bên là các hàng hoá thông thường; một bên là hàng hoá (vàng) đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng hoá đó cú một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.

b. Bản chất của tiền tệ

Vậy tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá chung cho tất cả hàng đem trao đổi; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.

2. Các chức năng của tiền tệ

Bản chất của tiền tệ thể hiện qua các chức năng (5 chức năng, C.Mác)

a. Tiền tệ dùng để làm thước đo giá trị

Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng hoá. Muốn làm được điều này thì bản thân tiền tệ phải có giá trị; nên tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng nào đó một cách tưởng tượng. Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá đó cú một tỷ lệ nhất định trên thực tế mà cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xó hội cần thiết hao phớ để sản xuất ra hàng hoá. Giá trị hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá đó; giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố giá trị hàng hoá; ảnh hưởng của quan hệ cung-cầu hàng hoá; cạnh tranh; giá trị của tiền quy định.

Để làm chức năng thước đo giá trị thỡ bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường; xuất hiện đơn vị đo lường tiền tệ- đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ với những tên gọi khác nhau ở mỗi nước. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến "chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế nào; ví dụ, một USD vẫn bằng 10 xen.

b. Tiền tệ dùng để làm phương tiện lưu thông. Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong quá trỡnh trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng hoá. Công thức lưu thông hàng hoá H - T - H, tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá đó làm cho hành vi bỏn và hành vi mua cú thể tách rời nhau cả về thời gian và khụng gian. Sự không nhất trớ giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của khủng hoảng kinh tế.

Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nộn. Dần dần nú được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trỡnh lưu thông, tiền đúc bị hao mũn dần và mất một phần giá trị của nó nhưng vẫn được xã hội chấp nhận như khi đủ giá trị.

Như vậy, giá trị thực của tiền tỏch rời giỏ trị danh nghĩa của nú bởi vỡ tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trũ chốc lỏt. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mỡnh cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tỡnh hỡnh đó, khi đúc tiền nhà nước tỡm cỏch giảm bớt kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy và bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị được công nhận trong phạm vi lónh thổ (quốc gia, khối, thị trường) nhất định.

c. Tiền tệ dùng để làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đưa vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vỡ tiền thể hiện cho của cải xó hội dưới hỡnh thỏi giỏ trị, nờn cất trữ tiền là cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có giá trị, tức là tiền vàng. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hoá nhiều thỡ tiền cất trữ được đưa vào lưu thông; ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá lại ít thỡ một phần tiền vàng rỳt khỏi lưu thông đi vào cất trữ.

d. Tiền tệ dùng để làm phương tiện thanh toán tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua hàng v.v. Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến trỡnh độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hỡnh thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vỡ là mua bỏn chịu nờn đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rói, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên. Trong quá trỡnh thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, ngày càng xuất hiện nhiều hơn các hỡnh thức thanh toỏn mới khụng cần tiền mặt (tiền vàng, tiền giấy v.v) mà sử dụng hỡnh thức ký sổ, sộc, chuyển khoản, thẻ điện tử v.v.

đ. Tiền tệ dùng để làm tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thỡ tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Tiền thế giới cũng thực hiện các chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán.

Trong giai đoạn đầu sự hỡnh thành quan hệ kinh tế quốc tế, đồng tiền đóng vai trũ là tiền thế giới phải là tiền thật (vàng, bạc). Sau này, song song với chế độ thanh toán bằng tiền thật, tiền giấy được bảo lónh bằng vàng, gọi là tiền giấy bản vị, cũng được dùng làm phương tiện thanh toán quốc tế. Dần dần do sự phát triển của quan hệ kinh tế-chính trị thế giới, chế độ tiền giấy bản vị vàng bị xoá bỏ nên một số đồng tiền quốc gia mạnh được công nhận là phương tiện thanh toán, trao đổi quốc tế, mặc dù phạm vi và mức độ thông dụng có khác nhau. Nền kinh tế của một nước càng phát triển, đặc biệt trong quan hệ kinh tế đối ngoại khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia đó càng cao. Những đồng tiền được sử dụng làm phương tiện thanh toán quốc tế ở phạm vi và mức độ thông dụng nhất định gọi là những đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Việc chuyển đổi tiền của nước này ra tiền của nước khác được tiến hành theo tỷ giá hối đoái. Đó là giá trị một đồng tiền của nước này được tính bằng đồng tiền của nước khác.

Năm chức năng của tiền trong nền kinh tế hàng hoá quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển các chức năng của tiền phản ánh sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro