tieng anh theo dong lih su

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:00 CH

Cạnh tranh bằng giá

Nguyễn Vạn Phú

Dân trong ngành quản trị kinh doanh nói riêng và kinh tế nói chung có những từ ngữ

đặc biệt, có thể gây khó hiểu do người "ngoại đạo". Ví dụ, từ "rent-seeking" nghe qua

tưởng đâu là tìm kiếm tiền thuê nhà! "Rent-seeking" có thể hiểu nôm na là "chạy

chọt", tức là lợi dụng quan hệ, tìm cách vận động hành lang để doanh nghiệp mình

hưởng lợi, doanh nghiệp đối thủ bị thua thiệt. Khi phê phán chính sách khuyến khích

các vụ kiện bán phá giá của Mỹ, một nghiên cứu kết luận: "By increasing the total

benefits accruing to industries filing successful petitions, the law subsidizes

rent-seeking". Subsidize ở đây là khuyến khích.

Một từ khác cũng dễ gây hiểu nhầm - free rider, là người ngồi không hưởng lợi. Trong ví dụ về kiện bán phá giá nói

trên, giả thử có chín công ty chung sức hợp tác, gánh chịu chi phí để thúc đẩy vụ kiện, một công ty không chịu làm gì

cả. Nếu vụ kiện có kết quả, cả 10 được hưởng lợi và công ty thứ 10 chính là một free rider. Chỉ có thể loại trừ vấn

nạn "ăn theo" này bằng luật pháp - "By awarding these subsidies only to those firms that actively support the petition,

it mitigates the free rider problem traditionally associated with collective actions". Mitigate là giảm bớt, giảm nhẹ còn

collective actions là các vụ kiện tập thể.

Tuần này chúng ta hãy tập trung vào một khái niệm - giá - để đọc một số bài báo kinh tế liên quan. Trong bài báo

mang tựa đề "Match me if you can" trên tờ Financial Times, tác giả Tim Harford cho rằng: "Price transparency is a

double-edged sword". Chắc các bạn còn nhớ bộ phim Catch me if you can của Steven Spielberg do Tom Hanks và

Leonardo DiCaprio đóng. Tựa đề là một cách nhại tên bộ phim, mang nghĩa "Có giỏi thử giảm giá theo tôi". Vì sao tác

giả cho rằng công khai giá cả là con dao hai lưỡi? Lưỡi thứ nhất: "If customers can easily compare lots of prices, then

they will seek out the best deal". Nhờ Internet, chuyện tìm ra nơi chào giá tốt nhất là rất dễ dàng, nhờ thế cạnh tranh

bằng giá rất dễ thu hút khách hàng. Nhưng lưỡi dao thứ hai: "But if customers can easily compare lots of prices, so

can competitors, and if they quickly cut prices in response, they will also win back customers very quickly". Vì thế, tác

giả kết luận: "Companies will realise that cutting prices to win market share is a mug's game". A mug's game là

chuyện vô vọng.

Tờ The Economist cũng vừa có một bài báo giải thích vì sao các hãng hàng không giá rẻ có thể chào giá vé rẻ như cho

không. Tựa đề bài báo: "Low-cost airlines - Fare game" cũng là một cách chơi chữ. Người ta thường dùng từ fair game

để diễn đạt ý kẻ bị săn đuổi (Everyone is fair game); ở đây fare game là cạnh tranh bằng giá vé nhưng vẫn có hàm ý

ai cũng bị ảnh hưởng vì trò giảm giá của các hãng này. Trong ngành hàng không có các từ short-haul, medium-haul

và long-haul để chỉ các loại tuyến bay: ngắn, trung và dài. Các hãng hàng không giá rẻ thường chỉ bay các tuyến ngắn

nhưng nay "Budget airlines take on long-haul routes". Take on là "to fight or compete against someone". Tuy nhiên,

cạnh tranh bằng giá ở phân khúc thị trường này là điều không dễ và người ta tiên đoán "The best that low-cost airlines

can hope for on an all-economy long-haul service is a slender 20% price advantage over the established carriers".

Như vậy so với các hãng hàng không truyền thống, giá vé các hãng giá rẻ có giảm cũng chỉ tối đa đến mức 20% mà

thôi.

Tờ New York Times cũng có bài về giá nhưng ở đây là "congestion pricing", được bài báo giải thích: "The concept of

charging higher fees to consumers for a good or a service at times of heavy use". Loại định giá theo thời điểm, nhiều

khách - giá cao, vắng khách - giá rẻ như vậy đã được sử dụng trong các ngành như khách sạn, điện thoại đường dài,

hàng không... Bài báo nói về chuyện áp dụng "congestion pricing" vào quản lý đô thị để giảm nạn kẹt xe. "Congestion

pricing in theory encourages people to car-pool, or to drive at different times of the day, or to take the train or bus".

Ở California, chẳng hạn, nếu chú ý ta sẽ thấy trên xa lộ có một làn đường ưu tiên nằm trong cùng, dành riêng cho

"car-pool", tức là những người đi chung xe, vì giảm lượng xe lưu thông nên được ưu tiên. Tờ New York Times nhận

xét: "While London and Stockholm have successfully enacted plans that levy fees on drivers who want to enter

traffic-clogged city streets, the United States has been slow to apply the concept on the roads". Levy fees là đánh phí;

traffic-clogged city streets là đường phố đông nghẹt xe. Hiện nay ở Mỹ, việc tính phí giao thông như kiểu Singapore,

Stockholm chỉ mới được thí điểm như ở San Diego, "on an eight-mile stretch of Interstate 15, high-occupancy toll, or

H.O.T., lanes can be used by individual motorists willing to pay fees that vary throughout the day, depending on

traffic conditions". Nên ghi nhớ từ viết tắt mới này để khỏi nhầm vì H.O.T. chính là lệ phí giao thông trên đường nhiều

người sử dụng.

1

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:00 CH

Kỳ vọng quá lớn?

Nguyễn Vạn Phú

Tuần rồi tờ Asia Times có bài về Việt Nam với nhan đề: "Vietnam has second thoughts

about WTO". Second thought là "thinking again about a choice previously made" nên

có thể dịch nôm na là "hối tiếc", "ân hận" như trong câu "He had second thoughts

about his purchase" - biết vậy khoan mua món đó đã.

Ấy là vì tác giả chủ quan suy diễn khi có tin đồn Việt Nam sẽ kiểm soát dòng vốn đầu tư gián tiếp. Kể ra cũng lạ, trước

và sau khi Việt Nam vào WTO, dư luận trong và ngoài nước rất hăm hở, kỳ vọng vào sự "cất cánh" của nền kinh tế

Việt Nam. Nay một phần kỳ vọng này chuyển vào thị trường chứng khoán, dư luận lại tỏ ra lo lắng cho sự phát triển

đột biến này.

Trở lại bài báo của Asia Times, tác giả lý giải: "The market euphoria has local financial authorities in a funk". Euphoria

là sự hưng phấn còn to have someone in a funk là tình trạng ngược lại - a nervous depression. Hai lý do chính:

"That's partly because huge capital inflows have limited the central bank's monetary-policy options to manage

inflation and is also starting to put severe strains on its local-currency peg". Câu này ý nói tiền đổ vào quá nhiều làm

Ngân hàng Nhà nước không có nhiều lựa chọn khi muốn kiểm soát lạm phát bằng các chính sách tiền tệ và cũng làm

cho việc gắn kết tiền đồng với các ngoại tệ hao tổn nguồn lực nhiều hơn.

Trong khi đó, tạp chí Time cũng có một bài dài về thị trường chứng khoán Việt Nam ở dạng phóng sự, theo chân

những người chơi cổ phiếu chưa niêm yết. Để diễn tả sự sôi động của thị trường phi chính thức, tác giả viết: "Think of

it as an amorphous eBay for speculators, an ad hoc gray market that sprouted spontaneously from the pent-up desire

among the Vietnamese to cash in on the country's economic boom". eBay là trang web chuyên về bán đấu giá lớn

nhất thế giới - ở đây là một eBay vô định hình; pent-up desire là sự khao khát bị dồn nén. Nên chú ý đến cụm từ cash

in on the country's economic boom chính là kỳ vọng tận dụng cơ hội "kiếm chác" nói ở trên.

Nhận xét về tình hình này, một nhà kinh tế của Ngân hàng Thế giới ở Hà Nội phải thốt lên: "It's the Wild West". Nửa

cuối thế kỷ thứ 19, dân Mỹ háo hức đổ về miền Tây để tìm cơ hội làm giàu, cụm từ "miền Tây hoang dã" từ đó được

dùng để chỉ tình trạng tranh nhau làm giàu trong sự hỗn loạn, tranh tối tranh sáng.

Rủi ro ở thị trường này, như tác giả nhận xét, "not just because of the potential for fraud and theft". Nó còn bởi

"unlisted companies were under no obligation to disclose financial information, so investors had few ways to gauge

company performance or whether an investment was sound". Under no obligation to disclose là không có nghĩa vụ

phải tiết lộ còn sound ở cuối câu là đúng đắn.

Buồn cười nhất là nhận xét của một chuyên gia đầu tư nước ngoài: "Basically, the way stocks are researched is 'My

grandfather's uncle's cousin's wife works at this company and says it's a good buy'". Đừng cố gắng dịch cho chính

xác cụm từ "my grandfather's uncle's cousin's wife" làm gì cho mệt, chỉ cần hiểu đó là người bà con xa lắc xa lơ, bắn

súng đại bác ba ngày chưa tới, bảo cổ phiếu ấy mua được đấy.

Thật ra ở thị trường chứng khoán nước ngoài, theo tường thuật của báo giới quốc tế, cũng bị tác động bởi những điều

tưởng chừng phi lý. Tờ International Herald Tribune tiết lộ: "Greenspan, in retirement, upsets the markets" - và cho

rằng đợt giảm giá chứng khoán khắp thế giới trong tuần qua là do phát biểu của Alan Greenspan, cựu Thống đốc Cục

Dự trữ Liên bang Mỹ. Trong các buổi trò chuyện thân mật (intimate conversations) với ông này mà các nhà đầu tư

phải trả 150.000 đô la để tham dự, Greenspan chỉ cần thốt lên từ "suy thoái" là thị trường chao đảo ngay. "First on 3

phải trả 150.000 đô la để tham dự, Greenspan chỉ cần thốt lên từ "suy thoái" là thị trường chao đảo ngay. "First on

Monday and then again Thursday, Greenspan upset stock markets merely by uttering the word "recession" and saying

that one might but probably would not occur by the end of this year".

Có thể phần sau của câu trích trên làm chúng ta lúng túng: might occur nhưng probably would not occur là sao?

Nguyên văn câu nói của Greenspan là "By the end of the year, there is a possibility, but not a probability, of the U.S.

moving into a recession". Cả hai từ possibility lẫn probability đều có nghĩa có khả năng xảy ra nhưng possibility là nói

về cảm giác mơ hồ đến từ trực giác còn probability nói đến thông tin dựa vào dữ liệu chính xác.

Mọi người khá ngạc nhiên vì "For a man who had worked assiduously to keep markets calm while he ran the Fed, why

was Greenspan now using an incendiary word-bomb?". Work assiduously cũng như work hard; còn an incendiary

word-bomb (quả bom lời nói kích động) ở đây chính là từ "recession" nói trên. Thật ra, như sự khác biệt giữa hai từ

possibility và probability đã cho thấy, Greenspan chỉ "caution that the United States appeared to be at the end of a

long expansion and that such times usually brought with them the seeds of a recession" - tức là sự phát triển kinh tế

theo chu kỳ, hết thịnh đến suy mà thôi.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

4

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:00 CH

Tiếng Anh ở Trung Quốc

Nguyễn Vạn Phú

Để chuẩn bị cho Olympic 2008 tại Bắc Kinh, chính quyền Trung Quốc đang có chiến

dịch dọn dẹp các bảng biểu viết bằng tiếng Anh "bồi" - từng là nguồn cảm hứng cho

nhiều bài viết chọc quê cũng như tán thưởng. Loại tiếng Anh "thiếu chuẩn" này rất đa

dạng, như nhận xét của tờ Wall Street Journal - They range from the offensive

("Deformed Man," outside toilets for the handicapped) to the sublime (on park lawns,

"Show Mercy to the Slender Grass").

Trước khi nói vào chuyện chính, xin nhắc sơ qua xu hướng dùng uyển ngữ ở Anh, Mỹ. Trong tiếng Anh có một thể loại

nói khéo - gọi là euphemism - được dùng để tránh gây đụng chạm; ví dụ để nói đến những người khuyết tật, các từ

được dùng biến đổi từ chỗ nói thẳng thừng đến chỗ ngày càng khéo: crippled - handicapped - disabled -

differently-abled. Vì thế tấm biển ghi ngoài toilet dành riêng cho người khuyết tật mà ghi "Deformed Man" như câu

trích ở trên thì thiệt là chướng tai.

Tuy nhiên, euphemism bị giới chính khách và giới quảng cáo lạm dụng nên đôi lúc cũng buồn cười không kém tiếng

Anh bồi. Thay vì miêu tả một người có chiều cao khiêm tốn bằng từ short đơn giản, người ta phát minh ra từ

"height-challenged" ("chiều cao khiêm tốn" cũng là một cách nói khéo trong tiếng Việt!); người mù được gọi là

"visually-impaired"; xe đã qua sử dụng là "pre-owned vehicles"; nghề thu gom rác biến thành "sanitation engineer"...

Trong chiến tranh, đôi lúc thường dân bị thương vong, thay vì nói thẳng, người ta thích dùng từ "collateral damage" -

từng được dùng làm tựa đề một phim do Arnold Schwarzenegger thủ vai chính. Nếu chú ý, chúng ta sẽ thấy người Mỹ

dùng các từ khác nhau để miêu tả trục trặc sức khỏe tâm thần của người lính sau các cuộc chiến: Shell shock (Thế

chiến I) đ Battle fatigue (Thế chiến II) đ Operational exhaustion (Cuộc chiến Triều Tiên) đ Post-traumatic stress

disorder (Cuộc chiến ở Việt Nam). Từ được dùng ngày càng tinh vi hơn.

Trở lại đề tài chính, tiếng Anh ở Trung Quốc có nhiều lúc "quái đản" đến nỗi nhiều trang web được lập nên chỉ để sưu

tầm các bảng hiệu, bảng thông báo loại này. Ví dụ tấm bảng cảnh báo người đi đường coi chừng dễ té vì đường trơn đã

ghi: "Slip carefully" (Hãy trượt té một cách cẩn thận!). Các sai sót cũng đa dạng: sai từ (câu ghi trên thùng hàng: "Do

not open with sharp instruction"); sai chính tả (phòng vệ sinh công cộng "Pubic Toilet"); Sai vì diễn đạt ("Please don't

throw rubbish away")...

Có lẽ chúng ta cũng đã có dịp thưởng thức tiếng Anh Trung Quốc khi mua loại đĩa DVD phim nói tiếng Anh, có phụ đề

tiếng Anh nhưng hoàn toàn không dính líu gì đến lời đối thoại đang diễn ra vì loại phụ đề này được dịch lại từ tiếng

Hoa. Ví dụ lúc phim Mr. & Mrs. Smith mới ra, bản DVD lậu có những câu phụ đề như: "Jane, stop the car!" bị biến

thành "Jean, parking, Jean!"; khi nhân vật chính tự giới thiệu: "I was an art history major", phụ đề ghi: "I make a

history for elephant time"; còn lúc hai người xưng tên rất bình thường "I'm Jane" và "I'm John" đã bị phụ đề chuyển

hóa thành "I call Chien", "I call John"... Thiệt hết biết.

Vì lẽ đó, tờ Wall Street Journal cho biết: "For the next eight months, 10 teams of linguistic monitors will patrol the

city's parks, museums, subway stations and other public places searching for gaffes to fix". Gaffe là các câu hớ hênh

như đã trích. Ví dụ bảng hiệu trước bệnh viện, trước ghi rất "bình dân": "Hospital for Anus and Intestine Disease" đã

được sửa thành "Hospital of Proctology". Coi chừng! Vì ở Việt Nam cũng có tình hình dùng tiếng Anh đầy sai sót tương

tự, hy vọng có dịp sẽ đề cập sâu hơn. Cách làm của chính quyền Bắc Kinh cũng rất hay: kêu gọi mọi người phát hiện

và chỉnh sửa qua một trang web rất thành công, thu hút sự tham gia của rất nhiều người. Chỉ có những người sưu

tầm các câu Chinglish này là buồn. "[They] lament the loss of a source of amusement".

5

Kiểm tra trình độ hiểu "uyển ngữ"

Hãy kiểm tra xem trình độ hiểu nghĩa đen của các uyển ngữ được dùng trong

tiếng Anh bằng cách chọn từ ở cột bên trái phù hợp nghĩa của cụm từ bên phải.

Đây là tiếng Anh thiệt trên văn bản chính thức đàng hoàng, chứ không phải

"tiếng Anh ở Trung Quốc".

1. Sufferer from fictitious disorder syndrome A. Stolen goods

2. Sub-optimal B. Bribe

3. Temporarily displaced inventory C. Liar

4. Negative gain in test scores D. Failed

5. Normal gratitude E. Lower test scores

Đáp án: 1. C; 2.D; 3.A; 4.E; 5.B

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

6

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:00 CH

MBA là gì?

Nguyễn Vạn Phú

Nhiều người học MBA thích nói đùa MBA là Married But Available. Có lẽ do đa phần học viên

MBA đã ra đời làm việc nhiều năm, đã lập gia đình nhưng còn ham vui nên tự cho mình "vẫn

còn son". Cũng có người muốn giải thích, married ở đây là đã gắn bó với một cơ quan, doanh

nghiệp rồi nhưng vẫn sẵn sàng đầu quân nơi khác nên tự giới thiệu là vẫn còn available! Là

nói đùa vậy thôi; MBA - Master of Business Administration (Thạc sĩ quản trị kinh doanh) có

nhiều loại.

Xét theo phương thức học, nhiều trường đại học khắp thế giới chủ yếu nhắm đến người học "tại chức" theo đúng

nghĩa vừa đi làm, vừa học. Nhưng từ dùng của họ nghe rất kêu như executive (dành cho người đang quản lý doanh

nghiệp), hoặc modular part-time (học theo học phần).

Xét theo ngành học, thì bản thân các ngành được gọi bằng một từ khá lạ: concentration (hay focus). Ví dụ

International Management Concentration tức là ngành chuẩn bị cho học viên vào làm tại các công ty đa quốc gia.

Chương trình học như thế gồm hai phần gọi là core curriculum (phần chính) và phần chuyên ngành (electives) hay

course options.

Hiện có ba xu hướng chính trong đào tạo MBA. Một là rút ngắn thời gian, học chính quy thì khoảng một năm thay vì

hai năm như trước, hai là chương trình đa dạng đáp ứng nhiều loại học viên với nhiều nhu cầu khác nhau; ba là sự

quốc tế hóa chương trình để thu hút thêm nhiều học viên - được gọi là intakes. Vì vậy nhiều trường khuyên:

"Programs differ enormously in what they offer, the type of experience they provide, their cost, accessibility, duration

etc - so careful research will be needed in order to make the right choice". Cost thì dễ hiểu rồi, còn accessibility trong

trường hợp này là địa điểm học có thích hợp không, giờ học có phù hợp không.

Tài liệu hướng dẫn chọn trường có những thủ thuật thú vị. Ví dụ, người ta viết: "You can compare the number of

places available on a program - as identified in the entries in the database - with the actual number that entered the

program last year". Một bên là con số "chỉ tiêu tuyển" và một bên là con số thực tuyển. "If the actual is less than the

number of places made available it may indicate that the demand for the program was not as high as had been hoped

by the School". Dĩ nhiên nếu số sau thấp hơn số trước chứng tỏ nhu cầu vào học trường đó không cao lắm. Họ cũng

khuyên nên chọn trường có "established program" - tức là có bề dày kinh nghiệm, tổ chức chương trình đã lâu.

Một yếu tố quan trọng nữa là vị thứ xếp hạng của một chương trình - gọi là rankings. Người ta cảnh báo: "The

information on rankings must be used with some caution". Vì xếp hạng có nhiều cách, theo nhiều tiêu chí, và nhiều

đối tượng nên chúng chỉ có giá trị tham khảo. Nhiều trường quảng cáo cho việc họ được một tổ chức có uy tín nào đó

công nhận - gọi là accreditation. Tuy nhiên từ này cũng mang nhiều nghĩa tùy theo mỗi nơi. Có khi nó chỉ đơn thuần

có nghĩa chính quyền cấp phép cho trường hoạt động; hay một trường đại học bảo trợ cho một viện nào đó đào tạo

MBA. Nếu nói rõ được các tổ chức độc lập như AACSB (ở Mỹ và các nơi khác) hay AMBA (Anh và châu Âu) công nhận

thì chương trình đó có uy tín. AACSB là The International Association for Management Education còn AMBA là

Association of MBAs - thường chỉ công nhận chương trình chứ không phải công nhận trường. Lưu ý nữa là nếu trường

nói họ là hội viên các tổ chức này không có nghĩa chương trình của họ đã được accredited.

Nếu bạn nghĩ, sao dạo này đi đâu cũng nghe quảng cáo chương trình MBA mới, bạn không phải là người duy nhất.

Hãy nghe một nhà giáo than: "Many people believe that too many educational institutions are offering too many MBA

programs, and too many would be managers are lapping them up in an effort to get themselves on the fast track".

Lap là vòng đua, lapping up ở câu trên là nhảy vào vòng đua nhưng chạy tắt (fast track). Trong bài này, để chỉ sự ra

đời hàng loạt chương trình MBA, tác giả dùng hết từ proliferation, đến plethora.

7

đời hàng loạt chương trình MBA, tác giả dùng hết từ proliferation, đến plethora.

Ông này ví von: "The so-called fast track will simply become a main highway, clogged up with people going slow in

the right hand lane". Vì đơn giản một điều: "If everyone has an MBA, then what's the point?".

Đúng là "An MBA does not guarantee you career success, because it does not guarantee you can perform. It may give

you the potential to perform, but it says no more about you than that". Bằng MBA không bảo đảm cho bạn thành

công trong sự nghiệp vì nó không bảo đảm bạn sẽ làm việc tốt. Câu sau ý nói đến người xét tuyển nhân sự khi nhìn

bạn có bằng MBA, họ có thể nghĩ bạn có tiềm năng nhưng ngoài ra không cung cấp thêm thông tin gì về bản thân

bạn. MBA phải kèm với track record (kinh nghiệm thực tiễn) mới được tin dùng.

Còn nếu bạn vẫn thất nghiệp sau khi nhận bằng MBA, cứ tự an ủi nó là Married But Available.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

8

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:00 CH

Bỏ học vẫn nhận được bằng tiến sĩ

Nguyễn Vạn Phú

Tin Bill Gates, Chủ tịch hãng Microsoft sẽ nhận bằng tiến sĩ danh dự của Harvard được nhiều

báo đưa và vì tin thuộc dạng đơn giản nên các báo này viết theo kiểu "thêm muối thêm mắm"

rất đáng nghiên cứu về mặt tiếng Anh.

Bản tin CNET News viết: "Some of us do the whole four years. For others, a college degree

just isn't a ticket they need to punch before setting out to build an empire and change the

world". Ý của câu này tỏ vẻ ghen tỵ vì có người phải học đủ bốn năm trong khi những người

khác đâu cần lấy bằng đại học mà vẫn xây dựng được một đại công ty, làm thay đổi cả thế giới. Số là: "Gates dropped

out of Harvard in 1975 (his junior year) to concentrate on developing Microsoft, the company he founded with Paul

Allen". Đang học mà bỏ giữa chừng gọi là drop out, người học hành dang dở gọi là một dropout. Sinh viên mới vào

năm nhất là freshman, năm hai: sophomore; năm ba: junior và năm tư: senior. Cách gọi này cũng áp dụng cho học

sinh trung học ở Mỹ (từ lớp 9 đến lớp 12).

Ngay cả Tổng giám đốc hãng Apple, Steve Jobs cũng bỏ học giữa chừng. Ông nói: "I dropped out of Reed College

after the first 6 months, but then stayed around as a drop-in for another 18 months or so before I really quit". Câu

này có thêm từ "drop in", tức là đã bỏ học nhưng vẫn đi học dạng "dự khán", "dự thính", không lấy điểm. Dạng đi học

này được miêu tả bằng từ audit, nghe rất dễ nhầm với nghĩa "kiểm toán".

Nay Harvard thông báo Bill Gates sẽ là "the principal speaker at this year's commencement ceremony on June 7". Lễ

tốt nghiệp chính là commencement ceremony bởi người ta xem tốt nghiệp đại học như bước khởi đầu chứ không phải

là sự kết thúc. Còn lễ khai giảng nhận sinh viên mới là matriculation ceremony. Chú ý câu này: "The Daily

Pennsylvanian reports that Penn's matriculation rate skyrocketed this year to 66%, a record". Mỗi học sinh Mỹ thường

nộp đơn dự tuyển vào nhiều trường đại học. Sau khi được nhận, học sinh cân nhắc chọn trường để ghi danh vì thế

matriculation rate skyrocketed this year to 66% tức là trường này chấp nhận 100 em thì có 66 em cuối cùng thật sự

ghi danh theo học, đây là một tỷ lệ cao kỷ lục.

Trở lại chuyện Bill Gates, "like all commencement speakers [he] will receive an honorary degree from the institution".

Các trường đại học ở nhiều nước có lệ cấp bằng danh dự cho những nhân vật nổi tiếng, thường là bằng tiến sĩ, mang ý

nghĩa tượng trưng cho dù người nhận có thể chưa học giờ nào. Bởi thế, đa số người nhận bằng sau đó không ai thèm

ghi trước tên mình từ "tiến sĩ" cho oai. Về lý thuyết, người nhận bằng có thể ghi cụm từ Dr. h.c. hay Hon. D. sau tên

mình (h.c. viết tắt cụm từ Latinh: honoris causa - tức là honorary. Ở đây có lẽ cũng nên biết bằng tiến sĩ danh dự

ngành luật gọi là Doctor of Law, trong khi bằng tiến sĩ luật chính hiệu gọi là Doctor of Juridical Science; tương tự có

hai từ phân biệt dành cho ngành giáo dục: Doctor of Pedagogy và Doctor of Education...

Cựu sinh viên của một trường gọi là alumni (số nhiều) cho nên báo mới viết: "Gates is a semi-alum that Harvard can

be proud of" vì "the university still considers Gates "a member of the Harvard College Class of 1977", and this spring

that class will celebrate its 30th reunion". Tên khóa học lấy năm tốt nghiệp làm mốc nên khi nói Class of 1977 tức là

khóa tốt nghiệp năm 1977 chứ không phải nhập học vào năm 1977.

Một tờ khác viết: "It's not like he needs it to beef up his resume, but the world's richest college dropout is finally

getting his degree". Cụm từ to beef up là tăng cường, ở đây là làm đẹp lý lịch. Cấu trúc it's not like... but cũng là cách

diễn đạt thường thấy khi muốn nói, nói vậy không hẳn là... "It's not like we are ashamed, but we just can't stand that

sort of behavior".

Đáng tiếc là một số trường đại học trên mạng dùng bằng tiến sĩ danh dự để mua bán rất kỳ cục. Ví dụ trường

9

Đáng tiếc là một số trường đại học trên mạng dùng bằng tiến sĩ danh dự để mua bán rất kỳ cục. Ví dụ trường

"University of Berkley Online" (cái tên nghe gần giống tên trường Berkeley nổi tiếng ở California) quảng cáo "An

honorary doctorate is entirely legitimate and the title conferred may be used like any other" và chào mời "For a small

"support honorarium" (donation) you may participate in our Honorary Doctorate Program". Cái hay là trường này sợ

người đọc không hiểu tiếng Latinh nên sau từ honorarium (tiền thù lao) phải chú thích ngay là donation! Phần dưới

trang web "bán bằng" này (berkley-u.edu/hon_deg.html) ghi rõ giá cả và loại bằng, ai mua cứ chọn, trả bằng thẻ tín

dụng và bằng sẽ gửi về tận nhà.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

10

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:01 CH

Những câu thường nói

Nguyễn Vạn Phú

Tờ BusinessWeek số ra tuần này mở đầu một bài với câu: "Give it up for NBC Universal and

News Corp., because in late March the two old-media titans made the biggest splash for a

nonexistent product since the iPhone". Khoan chú ý đến phần sau của câu này (ý nói hai gã

khổng lồ trong làng truyền thông kiểu cũ làm rùm beng về một sản phẩm chưa hề tồn tại

chẳng kém gì vụ rùm beng về chiếc điện thoại iPhone mới đây). Phần đầu câu có cụm từ "give

it up for" có nghĩa là... hoan hô, rất đáng chú ý.

Những câu thường nói như "Xin cho một tràng pháo tay, chào đón..." nên ghi ra để khi cần có sẵn mà dùng. Ngoài

cụm từ trên, người ta cũng có thể nói: "Give a big hand to"- Let's give a big hand to our guest speaker tonight, Mr.

XZY. Để thay đổi không khí cũng có thể nói: "Let's put our hands together for...". Còn để giới thiệu một diễn giả,

người ta thường nói: "Please join me in welcoming..."; "Please help me welcome...". Còn muốn cho hoành tráng, có

thể bắt chước mấy MC chuyên nghiệp: "H - e - r - e 's Johnny!"; "Ladies and Gentlemen, I present to you (ngưng một

chút) MS. CATHERINE STONE".

*

* *

Đầu tuần này có ngày Cá tháng Tư (April Fool's Day), nhân đó nhiều báo đăng lại các vụ nói dối nổi tiếng nhân ngày

1-4 hàng năm. Một vụ điển hình: "In 1957, a BBC television show announced that thanks to a mild winter and the

virtual elimination of the spaghetti weevil, Swiss farmers were enjoying a bumper spaghetti crop. Footage of Swiss

farmers pulling strands of spaghetti from trees prompted a barrage of calls from people wanting to know how to grow

their own spaghetti at home". Trong các câu này, chú ý các cụm từ thường dùng như "a bumper crop" (một vụ mùa

bội thu); "a barrage of calls" (hàng loạt các cú điện thoại). Còn footage là các đoạn phim.

BBC vừa có bài báo điểm lại truyền thống Cá tháng Tư, cho biết vụ spaghetti mọc trên cây này được nhiều người xếp

hạng nhất: "The hoax repeatedly tops lists of April Fool's gags, which typically include the one about moving

Stonehenge to the base of Mount Fuji in Japan, plans to make the whole M25 run clockwise and anti-clockwise on

alternate days, the internet being shut down for cleaning for 24 hours, whistling carrots, left-handed hamburgers and

Big Ben going digital". Như thế người ta đã từng nói đùa về việc dời di tích Stonehenge sang chân núi Phú Sĩ, kế hoạch

cho xe cộ trên xa lộ M25 chạy theo chiều kim đồng hồ ngày chẵn và ngược chiều kim đồng hồ vào ngày lẻ, tạm

ngưng Internet trong 24 tiếng để dọn dẹp, loại cà rốt khi nấu phát ra tiếng huýt sáo, bánh mì kẹp thịt dành cho người

thuận tay trái và đồng hồ Big Ben chuyển sang kỹ thuật số.

*

* *

Trong đợt sụt giá chứng khoán ở thị trường nhiều nước vừa rồi, người ta thường đỗ lỗi cho thị trường cho vay mua

nhà ở Mỹ với những tít báo như: "Mortgage market trouble generates stock sell-off". Vay tiền để mua nhà là chuyện

thường thấy; bên cạnh đó, có người thế chấp nhà (chưa trả hết nợ) để vay thêm một khoản tiền nữa gọi là second

mortgage. Vì thế mới có chuyện: "The number of borrowers who fell behind on payments hit a 3 1/2-year high, driven

by an increase in delinquencies among high-risk, or subprime, borrowers". Fall behind on payments là cách nói khéo

chuyện đến hạn mà không trả được nợ; còn các vụ chây ỳ như thế gọi là delinquencies. Ở đây, dân tài chính Mỹ có

một từ mới "subprime borrowers" - chỉ những người có tiền sử "vay không trả", tức thuộc loại tín dụng xấu. Ngược lại

những "subprime lenders" là dân cho vay liều lĩnh, sẵn sàng cấp tín dụng xấu để tính lãi suất cao.

Chẳng lạ gì, "the delinquency rate for subprime borrowers rose to 13.33 percent in the fourth quarter from 12.56

percent a year earlier". Ở đây chú ý đến cách so sánh "cùng kỳ năm trước" - tức là so quí 4 năm này với quí 4 năm

trước nhưng họ chỉ dùng gọn cụm từ "from... a year earlier".

11

Sau khi đọc đoạn trên đây, chúng ta có thể kết luận không thể dịch ngắn gọn các câu loại này khi nền kinh tế Việt

Nam chưa có khái niệm tương đương. Lấy ví dụ câu này: "Subprime loans account for only about 14 percent of the

total number of outstanding mortgages", chỉ có thể tạm dịch là "Các khoản vay đầy rủi ro chỉ chiếm chừng 14% tổng

số dư nợ vay tiền mua nhà" nhưng cũng không làm rõ hết ý của các từ "subprime loans" hay "mortgages". Đó là chưa

kể thị trường địa ốc ở Mỹ có những từ như ARM (adjustable rate mortgage - lãi suất thả nổi) hay FRM (fixed rate

mortgage - lãi suất cố định)... Ngay cả hiểu subprime theo nghĩa quá xấu cũng không chính xác vì "subprime

borrowers bet on rising home prices, which allowed them to build equity quickly and refinance their loans or sell if

they needed to". Những người này thuộc loại "liều lĩnh", tiên đoán giá nhà sẽ tăng, như thế dù có vay ngoài khả năng

trả hàng tháng cũng không sợ. Nếu cần thì bán nhà hay "đảo nợ bằng một khoản vay khác" - "refinance their loans".

Rủi thay lãi suất chưa giảm, giá nhà lại không còn tăng!

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

12

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:01 CH

Đồng đô la Mỹ đi về đâu?

Nguyễn Vạn Phú

Tạp chí Atlantic vừa có một bài bình luận về tương lai đồng đô la Mỹ rất đơn giản, được viết với

giọng văn khá dí dỏm. Tác giả viết về một chuyện tưởng chừng ai cũng biết để bắt đầu lập

luận của mình: "There is a difference - known as seigniorage - between what dollar bills cost

to manufacture and what those same dollar bills can buy once they're in circulation". Thì đúng

rồi, chi phí in một tờ 100 đô la Mỹ, chẳng hạn và những gì tờ giấy bạc này mua được là quá

khác biệt (đấy chính là nghĩa của từ seigniorage). Nhưng nghĩ kỹ lại, căn bản của vấn đề là

chỗ đó: "The dollar's popularity has moved real resources from the rest of the world to the

United States". Vì ai cũng thích đô la (dù nó chỉ là tờ giấy) nên Mỹ mới có thể phát hành tiền

để mua hàng hóa, dịch vụ (real resources) về tiêu xài.

Điều có lẽ ít ai biết, rằng "Altogether some $750 billion in paper money and coins is in circulation today, and most of

that is reckoned to be held abroad". Nhiều nguồn tài liệu cho rằng đến hai phần ba khoản tiền mặt 750 tỉ đô la đang

lưu hành này nằm bên ngoài nước Mỹ!

Ngay chính EU cũng cạnh tranh, muốn thiên hạ xài tiền euro theo kiểu này: "The European Union clearly wants a

share of the international seigniorage business for its currency, and it has issued 500-euro notes (worth around $660

each) to secure its competitive advantage in the sector". Các bạn có đồng ý, rằng sau khi đọc định nghĩa từ

seigniorage nói ở đầu bài và các câu kế tiếp, chúng ta hiểu được ý tác giả muốn nói gì khi dùng cụm từ "a share of the

international seigniorage business for its currency" nhưng chắc là không thể nào dịch được cho trọn ý.

Tuy nhiên, sức mạnh của đồng đô la không chỉ ở chỗ đó. Tác giả đưa chúng ta đến một thực tế khác: "The United

States, to draw an admittedly imperfect analogy with households, is adding to its overdraft each year, to the tune of

more than 6 percent of its income". To draw an analogy là so sánh, còn phần chêm vào admittedly imperfect là phải

thừa nhận [sự so sánh đó] còn quá khập khiễng. Overdraft nay đã khá quen thuộc với từ tiếng Việt tương đương -

thấu chi; to the tune of ở đây cũng giống như to the extent of. Vì sao dân Mỹ vay tiền quá thể như vậy mà vẫn vay

được, không hề gặp khủng hoảng như những nước nợ nước ngoài khác ở châu Mỹ Latinh khi đồng tiền mất giá thê

thảm? Tác giả giải thích: "Should the dollar collapse, the domestic-currency burden of U.S. foreign debts will hardly

change, because the United States has borrowed in dollars, not in its creditor's currencies". Đó là vì nước Mỹ vay

bằng tiền đô la nên nếu đồng đô la sụp đổ, người cho vay sẽ chết trước, được tác giả diễn đạt rất thẳng thừng: "If the

dollar does crash, the foreign creditors will get screwed first".

Sức mạnh của đồng đô la còn ở chỗ này nữa: "America's net debt is barely rising in relation to national income,

despite the massive borrowing". Câu này có nghĩa dù thu nhập quốc dân của Mỹ tăng, nợ vay nước ngoài vượt trên

6% thu nhập này, thế nhưng nợ ròng của Mỹ lại hầu như không tăng theo đúng tỷ lệ tăng thu nhập. Vì sao lạ thế?

"One reason is that while America pays a very low rate of interest on its debts, which are mostly in the form of

Treasury securities, it receives a very high rate of return on its foreign assets, which mostly represent ownership

stakes in foreign companies". Nước Mỹ vay nợ chủ yếu thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, lãi suất rất

thấp. Ngược lại, các khoản đầu tư, mua cổ phần các công ty nước ngoài lại có mức lợi nhuận cao. "This return offsets

some of the borrowing" - offset ở đây là bù qua, sớt lại. Đến đây, chắc chúng ta đã "thông" được vì sao đồng đô la

mấy năm rồi cứ liên tục mất giá. Giá càng giảm thì nợ giảm theo trong khi tài sản lại tăng giá (tác giả giải thích thêm:

selling America's foreign assets would now yield more dollars). Và tác giả kết luận: "Call this the alchemy of finance:

The United States has found a way to borrow that adds almost nothing to its debts". The alchemy of finance có thể

tạm dịch là "thuật giả kim trong tài chính" - tức một cách biến không thành có trong tài chính.

Dĩ nhiên, giới tài chính thế giới không phải không hiểu điều này. Cho nên tác giả mới nhận xét: "All kinds of economic

forces are nibbling at the dollar's reserve-currency status". Nib ở đây là chọc ngoáy, là tấn công vào trạng thái đồng

đô la đang được nhiều nước cất giữ làm ngoại tệ dự trữ. Một trong những kịch bản mà tác giả tiên đoán: "If the

13

đô la đang được nhiều nước cất giữ làm ngoại tệ dự trữ. Một trong những kịch bản mà tác giả tiên đoán: "If the

People's Bank dumps its dollars, and the dollar collapses, America itself might not become insolvent - but it would

have a serious inflation problem to deal with, its interest rates would have to rise, and a lot of overindebted American

families might go bust". Ở đây có hai từ gần giống nhau là become insolvent, cũng giống go bust, hay từ chúng ta đã

quen thuộc: bankrupt.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

14

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:01 CH

Tiếng Anh thời toàn cầu hóa

Nguyễn Vạn Phú

Nói người Pháp chuyển sang dùng tiếng Anh cũng "hoang đường" như nói nước Pháp tháo

tháp Eiffel ra bán sắt vụn. Thế nhưng chuyện đó đang xảy ra ở các trường đại học Pháp, đặc

biệt là các trường doanh thương. Tờ International Herald Tribune viết: "Bienvenue, or make

that welcome, to the shifting universe of academia, where English is becoming as

commonplace as creeping ivy and mortarboards". Dùng "bienvenue" rồi chuyển ngay sang

"welcome" là có ý chọc rằng thế giới học thuật đã thay đổi; creeping ivy, giàn cây thường xuân

leo tường; mortarboard, mũ vuông của giáo sư và sinh viên ngày lễ là những hình ảnh đặc

trưng cho thế giới đại học.

Tờ này cho biết: "At the Lille School of Management in France, English stopped being considered a foreign language

in 1999, and now half of the post-graduate programs are taught in English to accommodate a rising number of

international students". Câu này có từ accommodate mà chúng ta thường quen với nghĩa cung cấp chỗ ở; trong câu

này được dùng với nghĩa phục vụ.

Giáo dục là một trong những lĩnh vực vẫn còn áp dụng hai giá ở nhiều nơi, người trong nước, trong tiểu bang giá rẻ -

nước ngoài, giá cao. "At Essec and the Lille School of Management in France, for example, the tuition for a two-year

master's degree in business administration is €19,800, or more than $26,000, for European Union citizens and

€34,000 for non-EU citizens". Vì thế các trường này mới chuyển sang dạy bằng tiếng Anh để thu hút sinh viên quốc tế

và thu tiền nhiều hơn. Họ trả lời phỏng vấn rất khéo: "The French market for local students is not unlimited". Hai lần

phủ định cũng bằng câu xác định nhưng dùng not unlimited nghe vẫn "ngoại giao" hơn theo nghĩa "chúng tôi không

phải là không chú ý đến thị trường trong nước nhưng...".

Vì thế sinh viên kinh tế trường hàng đầu của Pháp École Normale Supérieure đã phản đối, cho rằng "it is unacceptable

for a native French professor to teach standard courses to French-speaking students in the adopted tongue of

English". Nhân đây, có lẽ cũng nên nhắc lại các từ first language, native language, mother tongue thường được dùng

với nghĩa tiếng mẹ đẻ; còn tiếng nước ngoài khi dùng ở nước không sử dụng thứ tiếng đó một cách chính thức thì có

từ foreign language, ở nước nó được dùng chính thức có từ second language (ví dụ tiếng Anh ở Việt Nam được xem là

foreign language nhưng ở Ấn Độ, nó là second language).

Hiện tượng dùng tiếng Anh làm "language of instruction" ở đại học cũng đang diễn ra ở nhiều nước khác, kể cả ở Hàn

Quốc, Nhật Bản. Chúng ta thử đọc nhận xét này: "Santiago Iíiguez, dean of the Instituto de Empresa, argues that the

trend is a natural consequence of globalization, with English functioning as Latin did in the 13th century as the lingua

franca most used by universities". Lingua franca là ngôn ngữ chung được sử dụng rộng rãi, không nhất thiết là tiếng

Anh - ví dụ: tiếng Hy Lạp và Latinh một thời là lingua franca của châu Âu hoặc tiếng Pháp là lingua franca cho giới

ngoại giao trong những thế kỷ trước.

Trong việc học tiếng Anh, có một yếu tố ít ai để ý. Theo tờ IHT, thì "the entertainment industry has given an unlikely

advantage to smaller countries like Portugal or Greece where most original English-language films and television

shows appear in subtitled form - unlike Italy, France and Spain, which have a dubbing tradition". Như vậy nước nào

thích nhập phim tiếng Anh có phụ đề (subtitled) sẽ thuận lợi hơn nước lồng tiếng (dubbing). Và đấy là kết luận của nơi

chuyên tổ chức các kỳ thi kiểm tra trình độ tiếng Anh - Cambridge ESO.

Tiếng Anh phổ biến trong thế giới kinh doanh đến nỗi sau tám năm làm Thủ tướng Đức, ông Gerhard Schrôeder bây

giờ lại đi học tiếng Anh với mức học phí không thể ngờ nổi. "With courses at Park House starting at £1,240, or

$2,450, per week for tuition and board, it is easy to see how English language training contributes more than £1.3

15

$2,450, per week for tuition and board, it is easy to see how English language training contributes more than £1.3

billion per year to the British economy alone".

Với doanh thu lớn như thế, người ta nghĩ ra đủ phương pháp dạy tiếng Anh để cạnh tranh nhau, từ phương pháp học

thuộc lòng (rote memorization) xưa cũ đến kỹ thuật "suggestopedia" mới toanh. Đây là từ kết hợp giữa "suggestion"

và "pedagogy", thầy giáo hát thì thầm, học viên đọc theo thật to những kịch bản dựng lại các tình huống đời thường.

Thật ra, phương pháp nào cũng tốt, miễn sao giúp người học tự vượt qua mình là chính như nhận xét của Gena

Netten, thuộc tổ chức khảo thí ETS: "If shouting English helps people to learn, then it is a good idea," Netten said,

referring to Crazy English, a method developed in China to help students overcome shyness. "Teaching often needs to

break down internal learning barriers". Câu này có nhắc đến phương pháp Crazy English của anh chàng người Trung

Quốc Li Yang nghĩ ra. Hiện nay có khoảng 20 triệu người đang theo học tiếng Anh bằng phương pháp này - hét thật

lớn những câu tiếng Anh và nếu đứng trên mái nhà lại càng tốt.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

16

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:01 CH

Đưa tin về chứng khoán

Nguyễn Vạn Phú

Quan sát cách các tờ báo chuyên về kinh tế như BusinessWeek hay The Economist viết

về chứng khoán có thể có ích cho giới báo chí Việt Nam đang tập làm quen với lĩnh vực

này. Khi đọc tít "A Positive Prognosis for Pharmaceuticals" trên tờ BusinessWeek, người

ta dễ nghĩ nhầm là báo nhận định chủ quan: prognosis là từ thường dùng trong y tế,

có nghĩa là tiên lượng, ở đây là hậu vận [lạc quan] cho các công ty dược phẩm. Thật ra,

ngay sau đó, bài báo nói liền: S&P says the group's stock-price momentum-and solid

fundamentals-add up to a healthy future. Như vậy nhận định ở trên là của S&P

(Standard & Poor's) - một hãng phân tích, đánh giá chứng khoán chứ không phải của phóng viên. Còn hậu vận tốt là

vì giá cổ phiếu của các công ty dược phẩm đang trên đà gia tăng (stock-price momentum) và các thông số cơ bản rất

tốt (solid fundamentals). Sau đó, bài báo phải trích tiếp các con số cụ thể của S&P để minh họa cho hai nhận định này.

Phân tích của báo cũng dùng nhiều từ chuyên môn để người trong cuộc có thể hiểu ngay: "EPS of many companies

should also get a boost from common share buyback programs". EPS là earnings per share (thu nhập của mỗi cổ

phiếu); khi công ty bỏ tiền mua lại cổ phiếu trên thị trường đem về hủy (cancel) hay làm cổ phiếu ngân quỹ (treasury

share), tổng số cổ phiếu sẽ giảm nên EPS sẽ tăng. Khi phân tích cổ phiếu của cả một ngành như thế, thông thường

người ta dựa vào các con số thống kê tổng quát. [S&P] sees longer-term prospects being enhanced by demographic

growth in the elderly (which account for about 33% of industry sales). Như vậy đến 33% doanh số của ngành dược

đến từ người già, và vì số người già đang tăng nên triển vọng làm ăn của ngành này cũng tăng theo!

Cái khó cho người viết báo là mặc dù viết về chứng khoán nhưng cũng phải rành về ngành dược để viết cho chính

xác. Ví dụ: "[S&P] favors companies with rich generic pipelines, especially those with first-to-file generics with the

potential for 180 days of marketing exclusivity, and competence in litigating complex patent issues". Theo lời khuyên

của chuyên gia chứng khoán, nên chọn mua cổ phiếu công ty nào có sẵn trong tay nhiều dược phẩm loại "tương tự" -

tức là loại đã hết bản quyền hay loại mà bản quyền đang bị tranh chấp. Trong trường hợp sau, công ty dược khác có

quyền đăng ký sản xuất và được hưởng độc quyền tiếp thị thuốc trong vòng 180 ngày. Và dĩ nhiên họ phải sẵn sàng

để ra tranh tụng trước tòa. Mấy chuyện này nhà đầu tư ngành dược rất rành nên tiếng Anh chỉ cần viết ngắn gọn như

thế.

Lúc phân tích vào một công ty cụ thể, người viết phải tìm hiểu và nhìn tổng thể hoạt động của công ty chứ không chỉ

chăm chăm vào giá cổ phiếu của nó. Ví dụ BusinessWeek có bài dài về Wal-Mart với tựa đề: "Wal-Mart's Midlife Crisis"

- midlife crisis là cụm từ thường dùng để miêu tả chuyện khủng hoảng lứa tuổi trung niên, lúc con người ý thức mình

đã đi hết nửa đời người và chưa thấy mình làm được gì ra trò, ra trống. Ở đây tác giả dùng cụm từ này để nói

Wal-Mart, sau nhiều năm dài thành công nay tốc độ phát triển đã chựng lại ở tuổi 45 và phải đối diện nhiều vấn đề

mới.

Một lần nữa, người viết lại phải rành về quản trị kinh doanh, ví dụ câu: "The issue with apparel is long lead times".

Lead time là một khái niệm trong quản trị, là thời gian từ lúc đặt hàng đến lúc giao hàng - càng dài, càng dở. Hoặc

câu: "In 2006, its U.S. division eked out a 1.9% gain in same-store sales - its worst performance ever - and this year

has begun no better" có cụm từ same-store sales cũng là từ chuyên ngành quản trị, có nghĩa doanh số ở một cửa

hàng cụ thể so với cùng kỳ năm ngoái.

Đến khi đi vào phân tích giá cổ phiếu, tác giả viết: "Wall Street does not share Scott's bullishness, to put it mildly". H.

Lee Scott là Tổng giám đốc Wal-Mart, vì vẫn lạc quan, cứ đòi bành trướng chuỗi siêu thị của mình nên mới có từ

bullishness; to put it mildly là nói một cách nhẹ nhàng, đi kèm với từ share (chia sẻ sự lạc quan ấy). Chắc nói nặng lời

thì phải dùng từ phản đối hay chê trách chăng? Như thường lệ, đưa ra một nhận định như thế phải có bằng chứng:

"Wal-Mart shares are trading well below their 2004 high and have dropped 30% in total since Scott was named CEO

in 2000, even as the Morgan Stanley retail index has risen 180%". Các bằng chứng gồm: giá cổ phiếu Wal-Mart hiện

thấp hơn mức 2004 nhiều, lại giảm 30% từ lúc Scott lên làm tổng giám đốc trong khi chỉ số chứng khoán ngành bán

lẻ của Morgan Stanley tăng 180%. Đưa dẫn chứng cụ thể như thế thì Scott sẽ không kiện tụng hay chê trách gì

17

BusinessWeek được. Có lẽ chúng ta cũng nên học theo cách này, giảm bớt việc nói về chỉ số P/E chung chung mà nên

lập ra các chỉ số chứng khoán cho các ngành cụ thể mới dễ so sánh.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

18

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:01 CH

Đủ loại xì-căng-đan

Nguyễn Vạn Phú

Tuần rồi có mấy vụ xì-căng-đan đáng lưu ý. Đầu tiên là vụ ở hãng Siemens mà có

báo rút tít rất cô đọng: "Siemens loses its CEO, gains an SEC probe". Tổng giám đốc

Klaus Kleinfeld từ chức nên xem như "mất" CEO, còn "được" ở đây là được SEC (Ủy

ban Giao dịch chứng khoán Mỹ) "sờ gáy" (probe). Vụ việc thật ra bắt đầu từ lâu:

"Siemens trouble started in November 2006 as reports began to emerge that the

company used a $265 million network of "black accounts" for bribery around the

world". "Black account" là một cách nói chỉ các tài khoản mật (quỹ đen) dùng để hối

lộ nhằm giúp tập đoàn này trúng thầu các công trình lớn. Một từ khác thường dùng là "slush fund" - tiền bôi trơn.

Sau đó, "The company went into "spin control" in December, in an attempt to save its sullied reputation". Spin

control là một từ của ngành PR, mang nghĩa thanh minh, biện minh, giải thích khác đi cho một sự kiện trước đó.

Như Edward Kennedy từng phát biểu: "Frequently events matter less than... spin control - who in which campaign

can explain why something doesn't mean what it seems". Spin control hàm ý xấu còn dân PR dùng từ trung dung

hơn - message management.

Mặc dù sau đó Siemens đã có nhiều biện pháp như thuê công ty luật độc lập điều tra... tổng giám đốc phải quyết

định ra đi: "Siemens Chief Executive Klaus Kleinfeld said Wednesday that he will leave the company when his

contract expires in September". Trước đó, chủ tịch hội đồng quản trị cũng từ chức: "His exit follows the resignation

last week of Siemens Chairman Heinrich von Pierer". Ở đây, cần lưu ý là cả hai ông này đều khẳng định không biết

gì về chuyện hối lộ cả và cho đến nay không bị cáo buộc liên quan đến xì-căng-đan này. Điều đáng nói là quí này

Siemens đang ăn nên làm ra: "On Wednesday, it reported that its latest quarterly profits had risen 36% from a

year earlier to 1.26 billion euros". Vì thế trong một thông báo chính thức, "Siemens has warned that the ongoing

investigations could lead to what it called "substantial uncertainties", but added that, to date, the scandal had not

affected its bottom line". Chú ý từ bottom line - trong báo cáo kết quả kinh doanh, là dòng cuối cùng chỉ mức lời

(lỗ) nên bottom line thường được dùng với ý "net profit". Nó cũng thường được dùng theo nghĩa "điều cốt yếu" -

"The bottom line, however, is that he has escaped".

Trước đó, tại hãng Apple danh tiếng không kém nổi lên chuyện gian dối cổ phiếu: "The investigation into the

practice of backdating stock options at Apple resulted in the U.S. Securities and Exchange Commission filing

charges against one former Apple executive while reaching a settlement with another". Stock option là quyền mua

cổ phiếu, thường được dùng để thưởng cho nhân viên, lãnh đạo công ty. Khi thưởng, giá cổ phiếu được ấn định, có

thể là theo giá thị trường ngày thưởng (exercise price hay strike price); người được thưởng phải giữ cổ phiếu trong

một thời gian nào đó, vừa phải nỗ lực hết lòng vì công ty để giá cổ phiếu tăng, vừa không thể bỏ đi công ty khác

nên thường được mệnh danh là "golden handcuffs". Đến ngày được bán, phần đông bán với giá cao gấp nhiều lần

nên nhiều người trở thành triệu phú. Chuyện backdating là ghi ngày thưởng lùi lại để người được thưởng hưởng giá

thấp hơn. Thật ra, chuyện này được xem là hợp lệ nếu thông báo công khai cho cổ đông và thị trường. Còn mấy

ông giám đốc im im xem ngày nào giá cổ phiếu thấp nhất để ghi thưởng cho mình mà không báo cho ai biết là

phạm pháp. Chính Apple thừa nhận: "The company has acknowledged irregularities in some of the stock option

grants it issued between 1997 and 2001". Vụ việc xảy ra đã lâu mà SEC, đại diện cho nhà đầu tư, vẫn khởi kiện

như thường.

Một vụ khác cũng gây bất ngờ không kém là giám đốc tuyển sinh trường đại học danh tiếng MIT (Massachusetts

Institute of Technology) thú nhận bà đã nói dối về bằng cấp và quyết định từ chức. "Marilee Jones, the dean of

admissions at the Massachusetts Institute of Technology, admitted that she had fabricated her own educational

credentials and resigned after nearly three decades at MIT". Bà này chưa học đầy một năm đại học mà dám khai đã

có bằng đại học và bằng thạc sĩ. Điều "bi kịch" là năm ngoái bà đi diễn thuyết khắp nơi để quảng bá cho cuốn sách

hướng dẫn tuyển sinh đại học: "Less Stress, More Success: A New Approach to Guiding Your Teen Through College

Admissions and Beyond". Sách viết: "Holding integrity is sometimes very hard to do because the temptation may

be to cheat or cut corners". Integrity là sự liêm chính, còn cut corners là đi ngang, về tắt. Hình như bà cũng tiên

đoán hậu vận của mình khi viết: "But just remember that 'what goes around comes around,' meaning that life has

a funny way of giving back what you put out". Đúng là "gieo gió thì gặt bão". Một giáo sư nhận xét: "She's really

been a leader in the profession. Very creative. Obviously, too creative". Phần đầu khen thật vì bà này làm việc rất

19

been a leader in the profession. Very creative. Obviously, too creative". Phần đầu khen thật vì bà này làm việc rất

sáng tạo nhưng phần sau khi dùng từ "too creative" là hàm ý "biến không thành có".

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

20

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:02 CH

Ngôn ngữ chính khách

Nguyễn Vạn Phú

Mấy tuần rồi từ "slam dunk" có tần số xuất hiện nhiều nhất trên báo chí tiếng Anh. Trong môn

bóng rổ, thỉnh thoảng có màn biểu diễn ngoạn mục khi cầu thủ cầm bóng, nhảy lên cao, đập

mạnh trái bóng vào rổ, tay cầm vòng lưới và đung đưa người cả mấy giây trong tiếng vỗ tay cổ

vũ của khán giả. Động tác này gọi là slam dunk. Nghĩa bóng của nó như thế có nghĩa là không

trật đi đâu cả, là một cú thành công ăn chắc.

Từ này xuất hiện nhiều là bởi cựu Giám đốc CIA của Mỹ. Ngày trước,"CIA Director George J.

Tenet assured President George W. Bush in December 2002 that the existence of Iraqi WMD was a slam dunk case".

Lúc đó, theo diễn giải của mọi người, ý Tenet muốn nói bằng chứng về loại vũ khí giết người hàng loạt (weapons of

mass destruction) của Iraq là không thể chối cãi được. Sau này các quan chức Mỹ cứ lấy câu nói "slam dunk" của ông

này ra để biện minh, đấy trùm tình báo của chúng tôi nói chắc ăn thế thì phải tin thôi. Nay Tenet viết hồi ký, "In his

new book, George Tenet says, among other things, he didn't mean what everyone thought he meant when he said

the evidence for Iraqi WMD was a slam dunk".

Phải nói ngôn ngữ, văn phong các bài báo chính trị là khá khó vì dùng nhiều dạng "điển cố". Ví dụ, cũng vụ trên, đến

câu này, các bạn có đoán được vì sao có tên diễn viên điện ảnh Tom Cruise ở đây không - "Tenet explains that he

never Tom Cruise'd the couch". Anh chàng Tom Cruise trong một lần trả lời phỏng vấn trên chương trình của Oprah

Winfrey đã nhảy dựng lên chiếc ghế bành như một gã điên khi diễn tả tình yêu với cô vợ mới. Từ đó, từ Tom Cruise đôi

lúc được dùng như động từ để chỉ hành động phấn kích tương tự. Một từ khác cũng đã trở thành tiếng lóng - jumping

the couch - một vụ làm xấu mặt giữa bàn dân thiên hạ.

Hay một ví dụ khác, tựa "GOP hopefuls face off" buộc chúng ta phải biết từ GOP là Grand Old Party, một cách gọi

đảng Cộng hòa, hopefuls là những ứng cử viên triển vọng và face off là bắt đầu cuộc đua tranh. Đấy là một bài báo

miêu tả cuộc tranh luận của 10 ứng cử viên sáng giá của đảng Cộng hòa trong cuộc đua vào Nhà trắng sang năm.

Tuy nhiên, "This was an opening sparring session, featuring a few light jabs but no hard hooks". Người viết đã dùng

những từ trong môn quyền Anh để cho bài viết thêm màu sắc như spar (múa may chứ chưa đánh thật); light jab (cú

đánh thẳng nhẹ); hard hook (cú đấm móc thẳng cánh).

Trong cuộc bầu cử giữa kỳ tại Philippines vào ngày 14-5 tuần sau, tờ The Economist ghi nhận: "Both the government

coalition and the opposition have filled their slates with the offspring of statesmen, the leaders of unsuccessful but

attention-grabbing military coups, film stars - and the occasional career politician". Slates ở đây là danh sách ứng cử

viên, còn lý do đề cử toàn những người nổi tiếng là vì người dân Philippines phải "memorise the names of up to 18

candidates for various positions... and enter these by hands on a blank ballot-paper". Kể ra trao cho cử tri lá phiếu

chưa điền tên rồi bắt người dân phải điền tay một danh sách dài là chuyện hiếm thấy.

Tờ The Economist nổi tiếng thích chơi chữ và với những bài báo chính trị, họ càng chơi chữ hết mức. Ví dụ, khi viết về

người có khả năng kế nhiệm Tony Blair làm thủ tướng Anh là Bộ trưởng Tài chính Gordon Brown, tờ này chạy tít: "Will

Brown have Balls?" kèm hình minh họa hai chính khách đang thụt bida. Mới đọc qua dễ hiểu tít theo nghĩa liệu ông

Brown có đủ cam đảm không bởi balls, ngoài nghĩa trái banh thông thường còn có nghĩa courage. Thế nhưng đọc vào

bài mới thấy một nhân vật tên Ed Balls có khả năng được ông Brown chọn làm phó cho mình! Vì thế tít này mang

nghĩa "Liệu ông Brown có chọn ông Balls?".

Với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm tới, có lẽ chúng ta sẽ đọc nhiều tít như thế này: "Telecom leaders open wallets

for Clinton". Clinton ở đây không phải là Bill Clinton mà là Hillary Rodham Clinton. Phụ nữ Mỹ lập gia đình xong

thường lấy họ của chồng vì thế trước đây có nhiều lời đồn đoán bà Clinton có thể sẽ đổi họ cho khỏi bị nhầm lẫn. Thật

21

thường lấy họ của chồng vì thế trước đây có nhiều lời đồn đoán bà Clinton có thể sẽ đổi họ cho khỏi bị nhầm lẫn. Thật

ra, động thái mới nhất của bà là bỏ chữ lót Rodham: "Her presidential campaign press releases and campaign website

refer to her as Hillary Clinton, making no mention of her maiden name Rodham".

Tít trên đi liền với câu giải thích: "Clinton's fundraising machine is working its magic among employees of the nation's

biggest telecommunications companies, despite her support for an industry-unfriendly legislative initiative". To work

magic là đạt kết quả tốt, thành công còn legislative initiative là dịch sát là sáng kiến lập pháp, tức là nỗ lực đưa ra một

dự thảo luật. Ở đây mặc dù bà Clinton ủng hộ một dự thảo luật bất lợi cho ngành viễn thông, nhân viên các tập đoàn

viễn thông lớn vẫn đang quyên tiền ủng hộ cho chiến dịch tranh cử của bà nhiều nhất.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

22

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:02 CH

Chơi ô chữ

Nguyễn Vạn Phú

Giải ô chữ (crossword puzzle) là một trò chơi phổ biến, thế mà tuần trước cũng trở

thành tin vì cựu Tổng thống Bill Clinton đồng ý soạn giúp tờ New York Times các câu

gợi ý nhân dịp tờ báo này ra số đặc biệt. "Puzzler-in-Chief: Bill Clinton Provides Clues

for NYT Crossword", tít một bài báo chơi chữ "Puzzler-in-Chief" là nhại từ

"Commander-in-Chief" vì Tổng thống Mỹ đồng thời là tổng tư lệnh lực lượng quân đội

Mỹ.

Vì ô chữ tiếng Anh hơi khác ô chữ tiếng Việt nên trước tiên chúng ta hãy làm quen với một số từ dùng trong ô chữ

tiếng Anh. "A crossword is a word puzzle that normally takes the form of a square grid of black and white squares". Ô

chữ tiếng Anh thường không soạn theo các hình đa dạng như ô chữ tiếng Việt mà chỉ là các ô vuông màu trắng (để

điền từ) và ô đen (để tách từ). The goal is to fill the white squares with letters, forming words or phrases, by solving

clues which lead to the answers". Như vậy, công việc của người chơi là dùng câu gợi ý (clue) để tìm từ điền vào ô cho

đúng. "The clues are then referred to by these numbers and a direction, for example, "4-Across" or "20-Down". Thấy

4-Across, ta sẽ tìm ô ghi số 4, ngang; còn 20-Down là ô ghi số 20, dọc. At the end of the clue the total number of

letters is sometimes given, depending on the style of puzzle and country of publication". Trong ô chữ thường có các

con số để hướng dẫn cho người chơi biết một clue dùng cho ô nào và cuối các clue thường có thêm con số cho biết từ

cần tìm có bao nhiêu mẫu tự.

Đọc các clue và tìm cách giải cũng là một cách học tiếng Anh, nhất là với các straight clues hay quick clues - tức là loại

gợi ý trực tiếp. Ví dụ: traveled on horseback = rode; family members = aunts. Ở đây chỉ cần chú ý câu trả lời phải

đúng theo yêu cầu của gợi ý (về tense - rode chứ không phải ride; về number - aunts chứ không phải aunt). Với clue

Washington bigwig: Abbr., câu trả lời là Sen vì người ta yêu cầu viết tắt senator (dĩ nhiên bigwig ở Washington, tức là

các VIPs có nhiều loại lắm nhưng phải chọn từ sao cho phù hợp với số ô và đúng cho cả ngang lẫn dọc).

Nhưng ô chữ tiếng Anh phần lớn không dành cho người mới học tiếng Anh vì các clue thường dùng cách chơi chữ chứ

không dễ theo kiểu định nghĩa ở trên. Ví dụ với câu gợi ý: Grateful các bạn có đoán lời giải là gì không? Thậm chí khi

đọc kết quả là từ ashes, cũng cần phải giải thích, grateful không phải là hàm ơn, biết ơn mà là a grate (lò sưởi) full of

[ashes]. Các ô chữ của người Anh còn khó hơn, như với gợi ý: "Cat's tongue", lời giải là Persian vì nó vừa là một loại

mèo vừa là một thứ tiếng (tongue). Một ví dụ khác: "Returned beer fit for a king" có lời giải là regal vì returned beer

là lager (tên một loại bia) viết ngược lại và regal còn có nghĩa vương giả.

Trở lại ô chữ Bill Clinton soạn cho tờ NYT, "Famed Times' puzzle chief, Wil Shortz, warns in an intro, "The clues in this

puzzle are a little more playful and involve more wordplay than in a typical crossword". Wil Shortz là biên tập viên nổi

tiếng chuyên đứng trang ô chữ cho tờ NYT cảnh giác người chơi là ô chữ lần này chơi chữ nhiều hơn thường lệ. Thông

thường người ta soạn sẵn ô chữ có lời giải rồi mới nghĩ ra các clue và lần này cũng vậy: "Jim Schachter, deputy editor

of the magazine, said that Clinton was given the grid with the letters and asked to provide clues for the words". Và ở

đây, các bản tin của Mỹ nhấn mạnh sự dí dỏm trong suy nghĩ của Clinton, như với từ "cent", ông nghĩ ra lời nhắc:

"What you might get for your thoughts". Với từ "arbs" (tức là từ viết tắt arbitrageurs - người chuyên tìm chênh lệch

giá trên thị trường chứng khoán để mua bán kiếm lời), Clinton "định nghĩa": "They're almost a food group on Wall St."

Một từ gồm bốn ô bắt đầu bằng chữ C với lời gợi ý: "Ageless diva" chắc chắn là Cher...

Thế nhưng báo Anh nhân dịp này lại chê ô chữ của Mỹ: "The Americans never got used to the kind of cryptic

crossword so popular in England" - cryptic là khó, nhiều ẩn ý, tức muốn nói đến các loại chơi chữ nêu trên. Tờ

Guardian viết: "British compilers would certainly turn their noses up at clues such as "Modernize" (Remodel) and "Fall

month" (OCT)". Turn their noses up ở đây là coi thường - mà nếu soạn theo kiểu modernize là remodel hay fall month

là oct(ober) thì dễ quá. Và dù có khen ô chữ của Clinton có nhiều câu khá hơn, báo cũng viết như thế này: "It's one

of their more cryptic ones, appearing in the Sunday edition of the paper, which makes it a little more interesting than

23

of their more cryptic ones, appearing in the Sunday edition of the paper, which makes it a little more interesting than

the average American crossword".

Nhân đây, chúng ta hãy thử giải một số câu gợi ý loại dễ của Clinton:

- A party I don't attend (3 ô); - Religious post (4 ô); - 1997 sci-fi spoof, in brief (3 ô); Air or fish again (6 ô).

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

24

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:02 CH

Tiếng Anh ở Malaysia

Nguyễn Vạn Phú

Thật là một ngạc nhiên đầy thú vị khi tình cờ đọc trên tờ Star (ấn bản online) của Malaysia

một bài báo vào tuần trước kể chuyện sử dụng tiếng Anh ở Malaysia. Tác giả bài báo bắt đầu:

"Cut the cackle and get on with your work!" Ever heard your teacher call for quiet and

concentration in this way? - Dùng cụm từ "cut the cackle" (đừng có mà quang quác thế), tác

giả hỏi xem độc giả có nghe thầy cô giáo biểu học sinh im lặng làm bài theo kiểu này chưa để

rồi tự trả lời luôn: "The truth is, formal or informal use of idiomatic expression is rarely heard

in the Malaysian classroom today". Đây là một nhận xét cũng có thể xem là đúng ở Việt Nam

vì người nói hay viết tiếng Anh thường ít dùng đặc ngữ mà cứ "tuồn tuột" dùng loại tiếng Anh

càng gần tiếng Việt chừng nào tốt chừng đó. Và ngược lại, vì tâm lý này nên người học tiếng

Anh thấy văn người Anh, người Mỹ viết sao mà rắc rối khó hiểu hơn tiếng Anh của người Việt

viết!

Ví dụ nói nhân vật nào đó từ chức, chúng ta quen dùng từ resign hơn là step down; tin làm mọi người sững sờ thì

dùng surprised chứ ít khi viết taken aback... Và vì thế đọc tin có tít phụ "The odd man out", chúng ta sẽ lúng túng

không biết tít muốn nói cái gì. Tác giả đã tóm tắt tình hình ở Malaysia bằng câu: "Schoolroom English today is more

literal than literary, more lean and mean than meaningfully luxuriant". Vì thế tác giả ca ngợi việc tập dùng đặc ngữ -

cách người Anh thường nói - để tiếng Anh hay hơn, có màu sắc hơn: "Idiomatic use of language evokes emotion,

imagination and creativity. Stripped of it, the English language becomes largely pedestrian". Pedestrian thường dùng

theo nghĩa khách bộ hành nhưng ở đây nó mang nghĩa "buồn tẻ".

Sau đó, tác giả minh họa bằng một loạt các đặc ngữ bắt đầu bằng từ "cut" đơn giản, cái hay là mọi câu nối với nhau

và đều có nghĩa. "You can, of course, appear elegant in well-cut branded wear, but you might still be cut down to size

by critics despite all the external finery" - well-cut branded wear là quần áo hàng hiệu cắt may khéo; cut down to size

là kéo về thực tế (to make someone less important or less proud). "You will, however, always cut a dash with the way

you speak, and no one can rob you of that! For example, when you use choice expressions, people immediately

recognise you as a cut above the average person". Hai câu này có hai đặc ngữ cut a dash - gây ấn tượng tốt và a cut

above the average person - không phải loại người tầm thường.

Tác giả "biểu diễn" tiếp: "While some people think they can cut corners and secure a job with their impressive grades

and good looks, their efforts will actually cut little ice with discerning employers". Trong khi "cut corners" là đi ngang,

về tắt thì "cut little ice with" hay "cut no ice with" là không thuyết phục được ai, không làm ai thay đổi ý định. Tác giả

khuyên: "Most employers are able to assess if you will cut the mustard or not during the interview. In their eyes, you

cut a fine or sorry figure by your ability or inability to communicate in an engaging and coherent manner. You will be

cut to the quick when you learn that an academically less brilliant candidate got the job". Ba câu là ba đặc ngữ có từ

"cut", gồm not cut the mustard (thường dùng ở dạng phủ định) - không thỏa đáng, không xứng đáng; cut a fine or

sorry figure - (thường dùng cut a fine figure) - đẹp mẽ, xấu mẽ (ở đây tác giả dùng theo nghĩa tạo ấn tượng tốt hay

xấu); cut to the quick - bối rối, khó chịu.

Bài báo còn khá dài với những đặc ngữ cut khác như "cut your teeth" - học những điều sơ đẳng; "cut out" - phù hợp;

"cut into" - bắt đầu; "cut-off jeans" - quần jean ống cắt ngắn... Tuy nhiên, có lẽ thấy như thế đã đủ, tác giả viết:

"Well, I could go on... but to cut a long story short, isn't it intriguing and refreshing to learn that a simple three-letter

word can so cleverly cleave to other units of language and reinvent itself?" - ngay trong câu này cũng có cụm từ "to

cut a long story short" - nói tóm lại. Và, như chúng ta cũng đoán ra, câu kết luận "Let's just cut the crap and start

doing things right. You don't want to continue to cut off your nose to spite your face, do you?" có thêm hai idiomatic

expressions, một rất phổ biến và một ít thấy dùng: "cut the crap" (thôi, không dông dài nữa, không ba hoa nữa) và

"cut off your nose to spite your face" đại khái hiểu theo nghĩa đừng ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt!

25

Sau khi nghe giới thiệu một loạt nghĩa của từ cut đơn giản như thế, chúng ta hãy thử đọc một số bài báo xem thử nó

được sử dụng ra sao. Tờ Washington Post có bài mang tựa đề: "Six Barbershops That Make the Cut". Make the cut

trong thể thao có nghĩa là lọt vào vòng trong, ở đây là đạt yêu cầu, thuộc loại tốt. Và đúng là loại văn meaningfully

luxuriant như thế được dùng nhiều trong tiếng Anh hiện đại, không chú ý sẽ không hiểu hết vì cứ tưởng "cut" là "cắt"

có gì đâu phải học cho kỹ.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

26

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:02 CH

Chứng khoán và mê tín

Nguyễn Vạn Phú

Trong một bài viết về thị trường chứng khoán Trung Quốc, tờ Wall Street Journal nhìn từ góc

độ ít người để ý: sự mê tín của nhà đầu tư. "When a friend whispered several stock tips to Yan

Caigen last year, the investor snapped up 30,000 shares in one of them, a cement company.

The reason: the stock's auspicious ticker code, 600881, which contains a double-eight". Như

vậy, anh chàng Yan Caigen chộp mua ngay cổ phiếu của công ty xi măng này chỉ vì mã cổ

phiếu có hai số 8. Chính vì người Hoa thích số 8, nên tít bài báo mới viết: Chinese crunching

numbers are glad to see 8s. Crunching numbers ở đây mang nghĩa tính toán [đầu tư], còn số

8 được xem là may mắn vì "the pronunciation of number eight - ba in both Mandarin and

Cantonese - sounds similar to words for wealth or fortune". Ngược lại, "investors get nervous

when they see the numeral 4 since its pronunciation si can mean death". Số 8 đọc gần như

"phát" trong phát tài và số 4 như "tử"! Cho đến nay chưa thấy dân Việt Nam chơi chứng khoán theo kiểu chọn số đẹp

như vậy!

Chưa hết, theo tác giả bài báo, nhà đầu tư ở Trung Quốc hiện đang mua bán chứng khoán dựa vào những điều mê tín

khác mà tác giả gọi một cách nhẹ nhàng là "unusual trading theories". Ví dụ, "They often make do with folksy trading

tips such as those now circulating among investors advising people to wear red clothes, which are representative of a

hot market, and to eat beef to sustain the bull run, while avoiding references to dad, since the word in Chinese is a

homonym for drop".

Trong câu trên chú ý cụm từ "make do" có nghĩa là "xoay xở tạm" (To manage to get along with the means available -

She had to make do on less income); còn folksy là dân gian, truyền miệng. Những lời khuyên kiểu này gồm nên mặc

áo quần màu đỏ, tượng trưng cho thị trường đang nóng, ăn thịt bò để duy trì hướng đi lên của thị trường. Đấy là bởi

trong tiếng Anh thị trường lạc quan là bull market; thị trường đang đi xuống là bear market. Nhà đầu tư cũng tránh từ

"đa" (với nghĩa là bố) vì nó đồng âm với một từ mang nghĩa "rớt xuống" (điệt).

Trong tình hình thị trường đang nóng, mê tín như anh chàng Yan Caigen nói trên hóa ra lại đúng: "Indeed, shares in

Jilin Yatai (Group) Co., the cement company he bought, promptly tripled, earning him about $50,000".

Đến phần khái quát hóa tình hình, bài báo viết: "Investors' zeal to base decisions in numerology also helps explain

why Beijing has been unable to temper enthusiasm in the stock market through conventional measures, like credit

tightening last week". Ở đây numerology là môn đoán ý nghĩa các con số như kiểu chơi số đề; và một khi thị trường bị

chi phối bởi những yếu tố bất thường như thế thì không thể dùng các biện pháp truyền thống như thắt chặt tín dụng

để kiểm soát. Vì thế, "Economists worry a burst could sap the spending power of China's nascent consumer class and

reverberate through global commodity and stock markets". Sap the spending power ở đây là làm suy yếu sức mua và

reverberate là tác động lan truyền.

Điều lạ là yếu tố mê tín và coi trọng các con số cũng xảy ra ở các hoạt động chính thức. Ví dụ: "Consider the kickoff

time for next year's Beijing Olympic Games: 8 p.m. on 8-8-2008" - kickoff time là giờ khai mạc. Phải công nhận tác

giả bài viết đã cất công lục lọi những chi tiết về con số rất thuyết phục. "Bank of China Ltd. puts its trading rooms on

the eighth floor of its buildings. China's tallest skyscraper, the Jin Mao Tower, is 88 floors high".

Chưa hết - "China scales its banking calendar and interest rates to numbers in unique ways. Interest is calculated

according to a year with only 360 days, and interest-rate changes are made by margins of 0.18 and 0.27 percentage

points, numbers that all can be divided by 9". Như vậy năm tính lãi suất ở Trung Quốc chỉ có 360 ngày, còn các mức

lãi suất được ấn định theo biên độ 0,18 và 0,27 điểm phần trăm vì các con số này đều chia hết cho 9 trong khi tập

27

lãi suất được ấn định theo biên độ 0,18 và 0,27 điểm phần trăm vì các con số này đều chia hết cho 9 trong khi tập

quán quốc tế là dùng biên độ 0,25 điểm phần trăm.

Tình hình phổ biến đến nỗi tác giả cho rằng: "Today in China, letting numbers guide the way through geomancy,

basing architectural decisions on feng shui principles and otherwise employing ancient traditions is standard practice".

Geomancy là thuật phong thủy, là một từ tiếng Anh nhưng sau này người ta thích dùng từ feng shui cho sát với tiếng

Hoa hơn.

Ngoài "ý nghĩa" của các con số chúng ta đã đề cập, có lẽ cũng nên biết những con số còn lại: "The number two

usually suggests germination and harmony" - vì thế trong đám cưới người ta thường dùng cặp như biểu tượng song hỉ.

"Six, pronounced as 'Liu', conveys indirectly its homophony's meaning - Do everything smoothly". Homophony là sự

đồng âm, còn từ đồng âm là homonym. Nhìn chung, người Hoa xem số chẵn "tốt" (auspicious) hơn số lẻ. Ví dụ: "For

odd numbers, seven implies anger and abandon, but nine, sometimes means longevity and eternality". Như vậy ngoại

lệ là số 9, được xem là trường cửu.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

28

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:02 CH

Thi đánh vần

Nguyễn Vạn Phú

Tuần rồi, kỳ thi đánh vần nổi tiếng ở Mỹ đã tìm ra nhà vô địch, em Evan O'Dorney: "The

home-schooled eighth-grader easily aced "serrefine" - a noun describing small forceps - to

become the last youngster standing at the 80th annual bee". Vì sao tên kỳ thi đánh vần này là

spelling bee thì không ai rõ, mặc dù từ bee (con ong) còn có nghĩa một cuộc tụ tập đông

người. Đáng chú ý em học sinh lớp 8 này thuộc loại home-schooled, tức là học ở nhà chứ

không đến trường lớp chính quy. Đây là kỳ thi cho các em học sinh lứa tuổi phổ thông cơ sở

nhưng đối với chúng ta thì toàn là từ khó - ví dụ từ serrefine (một loại kẹp y khoa nhỏ) tìm ở

các cuốn từ điển thông thường không thấy.

Đọc những dòng miêu tả vòng chung kết, hầu như chúng ta không thể nhận ra từ nào và

chính những tờ báo đưa tin cũng phải mở ngoặc chú thích nghĩa của những từ này. Ví dụ, đây là câu nhắc những từ

các em ở vòng chung kết bị loại vì không đánh vần được chúng: "Joseph faltered on "aniseikonia" (a visual defect),

while Prateek missed "oberek" (a Polish folk dance) and Isabel was out on "cyanophycean" (a kind of algae)". Có lẽ

chúng ta chỉ cần học các từ falter (ấp úng), miss (đánh vần sót) và out on (bị loại vì).

Đây là kỳ thi đầy kịch tính, cũng có tuyên bố trước khi thi như câu của em này: Samir, who last week likened the

prospect of not winning to Dan Marino not winning the Super Bowl, had the audience gasping in disbelief when he

misspelled clevis. Dan Marino là một cầu thủ bóng chày nổi tiếng nhưng chưa bao giờ đoạt giải Super Bowl là giải vô

địch quốc gia môn bóng chày ở Mỹ. Cấu trúc câu had the audience gasping in disbelief là đã làm cho khán giả há hốc

không tin nổi (ở đây là vì từ clevis tương đối dễ). Samir đã thi đến lần thứ năm và được nhiều người tiên đoán sẽ vô

địch vì thế mới có câu này: Like Hall of Fame quarterback Marino, Samir will go down as one of the greatest at his

craft never to win the big prize. Hall of Fame quarterback là anh chàng tiền vệ từng được đưa vào tòa nhà vinh danh

những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời; còn go down ở đây là đi vào lịch sử.

Lọt vào chung kết là Evan và Nate Gartke, một học sinh từ Canada được miêu tả như sau: "Until then, Nate had been

quite the showman, waving celebrity-like to the audience after each word and basking in the cheers from a row that

waved red-and-white maple leaf flags". Chú ý cách diễn đạt rất nhẹ nhàng waving celebrity-like (vẫy tay như dân nổi

tiếng), hay rất idiomatic - basking in the cheers (đắm mình trong tiếng cổ vũ).

Evan thắng nhưng không khoái lắm. Em nói: "My favorite things to do were math and music... and the spelling is just

a bunch of memorization". Chú ý môn toán trong tiếng Anh của người Anh là maths còn của người Mỹ là math. Phần

thưởng không phải là nhỏ: "Evan, who tied for 14th last year, won $35,000 cash, plus a $5,000 scholarship, a $2,500

savings bond and a set of reference works". Như vậy năm ngoái em này cũng thi và đứng thứ 14 đồng hạng.

Có một vài bài tường thuật theo dạng chuyện bên lề như câu của phóng viên hãng tin AP: "At one point a cameraman

said to the spellers, "Everybody laugh," as he lined up a particular shot, and much of the competition was spent idly

waiting for long commercial breaks to end". Hóa ra đây là lần thứ nhì, kỳ thi này được đài ABC trực tiếp vào "giờ

vàng" (prime time), nên mới có chuyện nhà đài bắt các em thí sinh diễn kịch. To line up a particular shot ở đây là lấy

một góc quay, còn spent idly waiting... là phải ngồi không, chờ hết giờ quảng cáo.

Và cũng vì thi đấu có truyền hình trực tiếp, các hãng cá cược đã nhảy vào làm ăn. "If it's a competition, and it's on

TV, people want to bet on it," says Mike Staley, spokesman for Sportsbook.com, an Internet site that handicapped the

finalists for the Scripps National Spelling Bee. Trong câu này có từ handicap rất lạ. Bình thường nó có nghĩa là khuyết

tật nhưng trong cá cược nó có nghĩa "chấp", tức là xếp hạng các thí sinh trong vòng chung kết để người chơi đặt cược.

Ví dụ: "He's at 5-2 to win" có nghĩa là cược 2 ăn 5 nếu em này vô địch.

29

Ví dụ: "He's at 5-2 to win" có nghĩa là cược 2 ăn 5 nếu em này vô địch.

Mấy hãng cá cược Internet này không chừa một thứ gì, ví dụ gần đây nhất là vòng chung kết Hoa hậu Hoàn vũ: "In

fact, some of them are still stinging from the upset win by Miss Japan in the Miss Universe contest". Lần ấy họ thua

đau (stinging) vì Hoa hậu Nhật Bản đăng quang trong bất ngờ. "I think she was 22-1. Only Miss Ukraine had better

odds" - câu này có nghĩa dân cá cược nghĩ cô Riyo Mori rất ít cơ may nên mới "chấp" đặt 1 ăn 22. Từ odds ở câu này

cũng là một từ trong cá cược, có nghĩa là tỷ lệ đặt cược - had better odds không phải là có cơ may cao hơn mà là có

tỷ lệ cược lớn hơn - tức là được dự đoán khó lòng đoạt vương miện.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

30

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:03 CH

iPhone và chứng khoán

Nguyễn Vạn Phú

Thế là gần nửa năm sau khi lần đầu tiên được giới thiệu, chiếc iPhone của Apple sắp được bán

ra thị trường, ngày ấn định là 29-6 sắp tới. Tờ BusinessWeek nhân đó nhận xét: "Few stocks

trade on emotion the way Apple Inc. does". Mua bán chứng khoán mà dựa vào yếu tố tâm lý

gọi là trade on emotion. Sở dĩ tờ báo này nhận xét như vậy vì "Now, with the launch of the

hugely hyped iPhone in a few weeks, momentum investors are driving Apple shares to

unexplored territory". Được quảng cáo rùm beng, được mọi người bán tán sôi nổi gọi là

"hugely hyped". Ăn theo trào lưu thời thượng iPhone này, nhà đầu tư đang đẩy giá cổ phiếu

của Apple lên cao, ở mức tác giả gọi là "unexplored territory", tức là mức giá trước đây chưa từng có. Chú ý từ

momentum investors, là những nhà đầu tư theo trường phái mua cổ phiếu nào 3-12 tháng gần nhất đem lại lợi nhuận

cao và bán ra loại thua lỗ trong cùng thời gian đó. Hiện nay, giá cổ phiếu Apple ở mức 122 đô la, tăng gấp đôi trong

vòng một năm qua. "Apple's market cap recently topped $100 billion for the first time". Từ market capitalization

thường được viết gọn, nói gọi thành market cap - tổng giá trị vốn hóa.

Tuy vậy, tờ BusinessWeek lại nhận định: "If Apple can expand so-called smartphones from a luxury carried by

corporate road warriors into an everyday tool for the masses - combining the functions of a BlackBerry and an iPod -

Apple could soon see a new growth tear". Trong câu này, tác giả đã dùng hai hình ảnh rất ấn tượng "corporate road

warriors" - những doanh nhân phải di chuyển nhiều và "growth tear" - tăng trưởng mạnh đến nỗi chiếc áo cũ quá

chật, rách tung. Nếu Apple làm được điều đó, dự báo giá cổ phiếu của nó sẽ lên mức trên 160 đô la.

Nhận định này không phải là cảm tính vì ngay sau đó, bài báo trích lời các chuyên gia tính toán cụ thể: "JMP

Securities... used conservative price-earnings ratio projections for 2008 to calculate that the Mac business, with

revenues of $11.7 billion and net margins of 11%, would be worth $42.70 on its own". Phân tích này cũng dùng hệ

số P/E nhưng có thêm từ conservative, ý nói hệ số P/E mà áp dụng cho các công ty công nghệ thông tin thì dè dặt

quá. Ở đây, người ta dùng từ net margin với nghĩa biên lợi nhuận thuần, tức là lấy lợi nhuận thuần chia cho doanh thu

thuần (còn gọi là net profit margin hay net profit ratio). Apple có nhiều mảng kinh doanh, tính riêng mảng máy Mac,

giá cổ phiếu ở mức 42,7 đô la. Cộng hết các mảng, gồm iPod, nhạc số... kể cả tiền mặt có sẵn, giá cổ phiếu Apple đâu

chừng 114,78 đô la, chưa tính iPhone.

Nhận định khả năng người tiêu dùng bình thường chịu mua iPhone, bài báo viết: "Apple is trying to use its design and

software expertise to win consumers who mostly buy Plain Jane phone models from entrenched players". Câu này có

một cụm từ khá lạ "Plain Jane phone models" - những kiểu máy điện thoại đơn giản; còn entrenched players chính là

các hãng sản xuất điện thoại cựu trào, đã ổn định.

Tờ BusinessWeek chuyên về kinh tế nên phân tích theo hướng giá cổ phiếu, còn rất nhiều bài báo khác nhắc đến sự

hăm hở của dân mê máy móc, chờ ngày sử dụng thử iPhone. Thật ra, mọi chuyện nằm trong chiến dịch tiếp thị rất

tinh vi của Apple như vụ này: "Last week, during an appearance at a technology industry conference in Southern

California, Mr. Jobs teased the audience by briefly pulling an iPhone out of his jeans pocket and immediately slipping it

back out of sight". Steve Jobs là Tổng giám đốc Apple, trêu ngươi bằng cách lấp ló chiếc iPhone cho báo chí đưa tin.

Một hãng đối thủ nhận xét: "It's very media-centric. It will hit one sweet spot, but not necessarily all of the sweet

spots - we hope". Media-centric ở đây không dính dáng gì đến báo chí mà là đặc điểm của iPhone, theo nhận xét của

hãng này, quá chú trọng đến chuyện xem hình, video, nghe nhạc... Cho nên sweet spot (nghĩa nguyên thủy là điểm

đánh hiệu quả nhất trên chiếc vợt) là thu hút người tiêu dùng nhờ một đặc tính nào đó, chứ không phải tất cả.

Vì thế, một nhà bình luận thị trường của hãng Dow Jones mới phán: "Time to short Apple?" - diễn nghĩa dài dòng là

31

Vì thế, một nhà bình luận thị trường của hãng Dow Jones mới phán: "Time to short Apple?" - diễn nghĩa dài dòng là

"Liệu đã đến lúc bán khống cổ phiếu Apple?" (tức ông này đặt câu hỏi có nên vay cổ phiếu Apple bán ra, đợi đến lúc

nó giảm giá vì iPhone không thành công như mong đợi thì mua vào để hưởng chênh lệch). Ông này tiên đoán: "The

phone is hugely successful for a couple of quarters until the fashion goes stale. By then, the functionality will be

duplicated by others and Apple will be treading water". Goes stale là hết mốt, còn treading water là dẫm chân tại chỗ.

Giả thử chiếc iPhone ra đời mà có trục trặt kỹ thuật thì ông này khuyên: "If a production catastrophe does occur, call

your broker". Call your broker là cách nói khéo về chuyện phải bán ngay cổ phiếu Apple. Nói gì thì nói, một số nơi ở

Việt Nam đã chào mời đặt mua iPhone với giá 1.000 đô la Mỹ!

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

32

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:03 CH

Nghề nào cũng có jargon!

Nguyễn Vạn Phú

Nói đến một bài báo, hầu như 99% người bình thường sẽ dùng từ "article" trong khi dân làm

báo sẽ dùng từ "story". Đấy chỉ là một trong những "jargon" (từ trong nghề) của nghề báo. Ví

dụ, dòng ghi tên tác giả được gọi là "byline", câu dẫn vào bài là "lead", một đoạn trong bài báo

là "graph" và đoạn mở đầu bài, giới thiệu nội dung chính của bài báo là "nutgraph". Ở đây nên

phân biệt, câu nằm ngay dưới tít (headline hay head) co chữ nhỏ hơn tít nhưng lớn hơn co

chữ trong bài, làm rõ hơn nội dung của tít gọi là "deck", ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng bởi

tiếng Pháp nên có thể độc giả thường nghe từ sa-pô (chapeau) hơn.

Có lẽ với từ "quote" (câu trích dẫn) thì không có gì khác với tiếng Anh thông thường nhưng từ "pull quote" (câu trích

được in riêng, chữ to để thu hút sự chú ý của người đọc) là một jargon. Và cuối bài, đôi lúc người ta ghi thêm địa chỉ

liên lạc của người viết, gọi là "tagline". Câu "xem tiếp trang..." được dân trong nghề gọi là "jump line", còn câu rao

quảng cáo cho một bài "không thể bỏ qua" ở trang khác gọi là "teaser".

Chú thích cho ảnh hay minh họa thông thường là "caption" nhưng dân trong nghề lại thích dùng từ "cutline" hơn. Tên

của tờ báo được gọi là "flag", cho nên tờ báo chính trong một cơ quan báo chí có nhiều ấn phẩm là flagship

publication. Thông thường ở trang trong có một ô ghi tên các nhân vật chính của tờ báo kèm theo các thông tin quan

trọng khác gọi là "masthead".

Những từ nói trên dù sao cũng là jargon nên người bình thường gặp chúng phải tra cứu để hiểu nghĩa. Khó hơn là các

từ thông thường nhưng được dân làm báo dùng theo nghĩa khác. Ví dụ, tờ The Economist thường dùng cách đăng một

bài dài, đầy đủ chi tiết ở trang trong nhưng trước đó thường tóm tắt nội dung rồi bày tỏ ý kiến của tờ báo về vấn đề

đó ở những trang đầu - cái này họ gọi là "leader". Tờ báo nổi tiếng này cũng có một cách làm không giống ai - các bài

không bao giờ ghi byline, tờ báo không ghi tên tổng biên tập và ông này chỉ được xuất hiện danh chính ngôn thuận

trong bài báo chia tay với độc giả khi hết làm cho The Economist. Họ quan niệm tổng thể nội dung tờ báo quan trọng

hơn từng cá nhân người viết. Dĩ nhiên khi mời những nhân vật nổi tiếng như Tony Blair viết thì báo phải ghi tên tác

giả.

Ở đây xin mở ngoặc nói thêm một chút về chức danh tổng biên tập và từ editor. Các báo Việt Nam khi dịch sang tiếng

Anh thích dùng từ editor-in-chief trong khi báo Anh, báo Mỹ ngày nay thường dùng đơn giản là editor. Đôi lúc họ cũng

dùng editor-in-chief nhưng đó là tờ báo có nhiều ấn bản, mỗi ấn bản có một editor phụ trách. Biên tập viên là copy

editor (tiếng Anh của người Anh dùng sub-editor); trưởng ban thời sự là news editor, thư ký tòa soạn là managing

editor, các cộng tác viên thân thiết, là người nổi tiếng được gọi là editor-at-large...

Một số ví dụ khác, với đa số mọi người "art" là nghệ thuật nhưng khi dùng trong hoạt động của một tòa soạn nó mang

nghĩa mọi thứ minh họa như ảnh, bản đồ, biểu đồ, tranh biếm. Nghĩa thông thường của beat là đánh nhưng với phóng

viên, đó là lĩnh vực được phân công phụ trách (như education beat); copy là sao chép nhưng với tòa soạn, chúng là

toàn bộ bài vở cho tờ báo; dummy là người ngu ngốc nhưng với dân trình bày báo, nó là bản vẽ phác thảo hình thù tờ

báo sẽ dàn trang mà nhiều người đã quen với từ tiếng Pháp - ma-két (maquette).

Trong nghề báo, phóng viên ghét nhất là khi bài của mình được xếp vào loại filler - tức là tin bài không hay ho gì,

đăng cũng được, không đăng cũng chẳng chết ai, chủ yếu dùng để trám vào chỗ trống. Ngược lại khi săn được tin

chưa báo nào biết, họ đã giành được một scoop. Trên trang báo, bên cạnh bài chính, có những thông tin bổ sung

thường nhìn ở góc độ khác gọi là sidebar. Với sự phổ biến rộng các trang blog, một từ mới xuất hiện để chỉ các "nhà

báo nhân dân" - tức người viết báo không chuyên, sử dụng blog để đăng tải bài viết của mình: "citizen journalist".

33

Cuối cùng xin giới thiệu các từ nói về các loại báo. Nếu xét về khổ báo, có từ broadsheet để chỉ báo khổ lớn; báo khổ

vừa (như nhiều tờ báo ngày ở nước ta hiện nay) "bị" gọi là tabloid. Dùng từ "bị" vì từ tabloid hàm ý xấu, chỉ loại báo

chuyên đăng chuyện giật gân, câu khách. Vì thế một số tờ khổ vừa đã phải quảng bá: "broadsheet quality in a tabloid

format"! Hiện nay dân Anh đã phát minh một từ để tránh hàm ý xấu của tabloid bằng cách gọi báo khổ vừa là

compact newspaper. Về nội dung, các tờ báo tuần như Time, Newsweek vừa là newspaper, vừa có hình thức như một

magazine nên được xếp vào loại newsmagazine.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

34

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:03 CH

Chuyện bằng cấp

Nguyễn Vạn Phú

Dạo gần đây thấy nhiều trường dạy tiếng Anh đăng quảng cáo hình ảnh học sinh

trường mình nhận bằng của Cambridge rất hoành tráng. Người viết không có ý chê

trách gì chuyện này nhưng thiết nghĩ quảng cáo cũng phải nói cho chính xác kẻo phụ

huynh hiểu nhầm.

Cambridge có các kỳ thi gọi chung là ESOL Examinations (viết tắt cụm từ English for Speakers of Other Languages),

trong đó có các kỳ thi cho học sinh nhỏ tuổi (7-12 tuổi) gồm Starters, Movers và Flyers. Điểm đặc biệt là em nào đi

thi cũng đều được nhận giấy chứng nhận hết, cho dù không làm được gì cả! Cambridge nói rất rõ: "There is no pass

or fail". Cho nên nếu quảng cáo thi đỗ kỳ thi Starters, Movers hay Flyers là không chính xác. Đơn giản là "Every child

who attempts all three components will receive an Award showing a number of shields (Cambridge crests) up to five

for each component". Component ở đây là các kỹ năng được kiểm tra gồm: đọc-viết, nghe và nói. Shield giống như

ngôi sao thưởng cho thí sinh. Em nào yếu lắm cũng được một sao: "The minimum Award for children who have

attempted all three components is an Award with one shield for each component". Cho nên phụ huynh muốn biết con

mình thi có kết quả tốt hay không, phải xem giấy chứng nhận có bao nhiêu sao: "For example, a child may obtain

three shields for Reading and Writing, four shields for Listening and five shields for Speaking".

Đây là cách làm rất hay để các em còn nhỏ tuổi không bị áp lực bởi chuyện đậu, rớt, không bị mặc cảm thấy bạn

mình lên nhận "bằng" còn mình thì không. Ngay cả các kỳ thi của học sinh lớn như SAT, điểm tối thiểu cũng là con số

dương (SAT là 200; TOEFL kiểu cũ là 310 điểm).

Sau các kỳ thi nói trên, còn nhiều kỳ thi mà mức độ khó cao hơn nhiều, lần lượt là KET (Key English Test - tương

đương với Flyers), PET (Preliminary English Test), FCE (First Certificate in English), CAE (Certificate in Advanced

English) và CPE (Certificate of Proficiency in English).

Một số trường khác quảng cáo rằng họ dạy theo chương trình quốc tế, học sinh sau khi tốt nghiệp có bằng quốc tế!

Đúng là có bằng tú tài quốc tế, gọi là International Baccalaureate (IB) nhưng ở ngay chính các trường quốc tế thứ

thiệt không phải học sinh nào cũng theo học chương trình này và không phải trường nào cũng được tổ chức dạy theo

chương trình IB mà phải được IB Organisation ở Geneva công nhận. Theo hệ thống Mỹ có chương trình AP (Advanced

Placement), ở Anh có chương trình A-Levels. Chúng gần giống như các lớp chuyên ở Việt Nam, tức là yêu cầu cao, thi

khó nhưng đổi lại học sinh có nhiều cơ hội được các đại học danh tiếng nhận và được chuyển đổi chương trình đã học

thành tín chỉ đại học.

Nhân đây cũng xin giới thiệu một số từ trong lĩnh vực giáo dục thường gây nhầm lẫn. Ví dụ, cấp hai ở Mỹ gọi là Middle

School (Junior High) gồm ba lớp 6, 7, 8. Cấp ba gọi là High School (Senior High) có đến bốn lớp, từ 9-12. Ngược lại, ở

Úc, cấp ba chỉ có hai lớp là 11 và 12; trong khi cấp 2 là từ lớp 7-10. Phức tạp nhất là ở Anh, nếu nghe một em học

Sixth Form rất dễ hiểu nhầm em này học lớp 6! Cấp 3 ở Anh thường gồm năm lớp (từ 12-16 tuổi), sau đó các em có

thể ra trường. Em nào muốn có thể học thêm hai năm cuối trung học (tức lớp 12 và lớp 13) gọi chung là Sixth Form,

tức là các em theo học chương trình A-Levels nói ở trên. Cho nên nếu một em giới thiệu mình là học sinh lớp 13 (!) và

cho biết từ tiếng Anh là Sixth Form thì đừng vội nghĩ em này nói sai.

Các từ certificate, diploma cũng thường được dùng mà không chú ý nghĩa chính xác của chúng. Ví dụ, ở Úc, học một,

hai năm ở các trường dạy nghề (TAFE - Technical And Further Education) được cấp (theo thứ tự) certificate, diploma

hay associate degree. Tốt nghiệp đại học được cấp bằng Bachelor Degree. Có trường tổ chức các khóa chuyên sâu,

kiểu như chương trình đào tạo kỹ sư tài năng của Việt Nam, gọi là Honours (thường phải làm khóa luận khi tốt nghiệp).

35

Nhưng các bằng đầu tiên của hệ cao học cũng gọi là certificate, diploma (chính xác là Graduate Certificate hay

Graduate Diploma) nên dễ nhầm. Ví dụ, một giáo viên tiếng Anh, qua Úc học một năm để lấy diploma thì cái này cao

hơn bằng cử nhân và thấp hơn bằng thạc sĩ.

Cuối cùng, gần đây ở TPHCM nảy ra vấn đề thế nào là một trường quốc tế. Lãnh đạo ngành giáo dục phân loại và giải

thích dựa vào tiêu chí nhà đầu tư (trong nước hay nước ngoài) là chưa chính xác. Cách xác định thường dùng nhất là

xem trường đó có được một tổ chức các trường quốc tế nào chứng nhận chưa (accreditation), có tham gia hay làm

thành viên của một tổ chức nào như thế chưa. Các tổ chức phổ biến nhất gồm Council of International School (CIS),

European Council of International Schools (ECIS), East Asia Regional Council of Overseas Schools (EARCOS), Western

Association of Schools and Colleges (WASC). Tên trường có từ International hay không, nhà đầu tư là nước ngoài hay

trong nước không quan trọng bằng tiêu chí được accredited bởi một tổ chức có uy tín.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

36

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:03 CH

Lương bổng giám đốc

Nguyễn Vạn Phú

Chuyện lương thưởng của giới giám đốc bao giờ cũng thu hút sự chú ý của chúng ta có lẽ vì

những con số cao vòi vọi. Tuy nhiên trước hết nên xem lại một số từ thường gây nhầm lẫn. Từ

compensation thường dùng với nghĩa lương thưởng nói chung nhưng hay bị hiểu nhầm là chỉ

có nghĩa tiền bồi thường. Ví dụ khi quảng cáo tìm người, người ta thường viết: "Attractive

compensation package" - tức là mức lương thưởng hấp dẫn. Hoặc khi dùng cụm từ

"Compensation policy and salary structure", phòng nhân sự của một công ty hay cơ quan

muốn giải thích "chính sách lương thưởng và cơ cấu tiền lương".

Đi vào chi tiết, cũng nên phân biệt salary là tiền lương cố định, tính theo năm, trả hàng tháng hay nửa tháng còn

wage là tiền lương tính theo ngày hay tuần. Các món phụ cấp nói chung là fringe benefits như xe công (company

car), tiền ăn trưa (lunch allowances), bảo hiểm (insurance), bảo hiểm nha khoa (dental plan)...

Hiện nay, chuyện trả lương cho giới giám đốc ở Mỹ và châu Âu đang gây bất bình trong công luận vì mức lương giới

này hưởng quá cao. "The CEO of a Standard & Poor's 500 company made on average $14.78 million in total

compensation in 2006". Tổng lương thưởng bình quân một năm mà lên đến 14,78 triệu đô la thì cao thiệt. Nên nhớ:

"The President of the United States earns $400,000 a year; the vice president's annual salary is $186,300".

Nhưng dư luận phản đối là do mức lương cao này lại không gắn với hiệu suất làm việc. "Problems with executive

compensation came to a head in 2006 with large severance packages given to departing CEOs who performed

poorly". Trong câu này có cụm từ severance packages là những thỏa thuận phụ cấp thôi việc. Thường khi mời một

người về làm CEO một công ty lớn, HĐQT phải ký hợp đồng trong đó có những điều khoản hậu hĩnh nếu phải chấm

dứt công việc trước thời hạn - cái này gọi là golden handshake. Phân biệt từ này với golden hello là tiền thưởng ngay

cho người được tuyển dụng, thường là được dụ dỗ từ công ty đối thủ về đầu quân. Ngoài ra, còn có từ golden

parachute (nghe như kiểu dùng từ "hạ cánh an toàn" ở nước ta) - cũng giống như golden handshake.

Có nhiều ông CEO nhận lương bình thường hay thậm chí chỉ nhận 1 đô la tiền lương tượng trưng nhưng đổi lại được

nhận stock options - tức là quyền mua cổ phiếu với mức giá đã ấn định trước. Ai cũng nghĩ với quyền mua cổ phiếu

như vậy, các ông giám đốc sẽ nỗ lực hết lòng để giá cổ phiếu công ty tăng và ông ta cũng hưởng lợi theo. Thế nhưng

cách chi trả lương này kéo theo các xì-căng-đan ghi lùi ngày hưởng quyền mua cổ phiếu đang âm ỉ trong giới doanh

nhân Mỹ. Executive PayWatch nhận xét: "The stock options backdating scandal reveals a flawed compensation system

in which CEOs can take what they want from their companies and their shareholders with impunity".

Dưới áp lực của công luận, Sở Giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ quy định công ty niêm yết phải công khai tiền lương

thưởng trả cho giám đốc và các con số công bố càng làm mọi người giật mình. "Top of the heap so far is Ken Lewis,

boss of Bank of America, with total pay in 2006 valued at $114.4m". Cứ đi làm một ngày được trả chừng nửa triệu đô

la thì thiệt là quá khỏe.

Ở trên chúng ta đã biết từ fringe benefits nhưng văn báo chí thường thích dùng từ perks hơn. "The new rules require

the disclosure of all perks worth $10,000 or more, whereas the old rules allowed firms to keep quiet about anything

worth less than $50,000". Một loại perk bị lạm dụng nhiều nhất là máy bay riêng của công ty. "No company wants a

repeat of the battering suffered by Tyson Foods after revelations that "friends and family" of Donald Tyson, a former

boss, made undisclosed use of the corporate jet-valued at over $1m-without his even being on board". Như vậy sếp

cũ của hãng Tyson Foods dùng máy bay riêng của công ty chở bạn bè và người thân đi chơi (có lúc không có ông này

đi cùng), các chuyến bay trị giá trên 1 triệu đô la, làm sao cổ đông của công ty này không bực cho được.

37

Sở Giao dịch chứng khoán New York có một quy định rất hay: ủy ban tiền lương của HĐQT của các công ty muốn

niêm yết phải gồm toàn các ủy viên độc lập để khỏi bị tác động hay khỏi làm theo cách có qua có lại. Dù sao chuyện

tiền lương cho giới giám đốc là chuyện dài khó có kết thúc sớm. Tờ Economist viết: "Even being tough on new chief

executives is not proving easy, however. Private equity is on the prowl, offering packages with incentives that a public

company can find hard to match amid all the denunciation of fat cats". Trong câu cuối, người viết so sánh hai loại hình

"private equity" là các quỹ đầu tư tư nhân và "public company" là các công ty niêm yết. Vì là quỹ tư nhân nên họ

không có nghĩa vụ công khai tiền lương của giới giám đốc và đủ sức để đưa ra những lời mời chào hấp dẫn. Và bên

kia, là công ty niêm yết nên khó lòng cạnh tranh nhất là trong bối cảnh đang bị lên án trả lương cho giám đốc thành

các "fat cats".

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

38

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:03 CH

Toàn cầu hóa và iPod

Nguyễn Vạn Phú

Ai làm ra chiếc iPod? Thật ra trả lời câu hỏi xem chừng quá dễ này lại không đơn giản.

Tờ New York Times dựa vào đề tài này để viết một bài dài về thực tế câu chuyện toàn

cầu hóa. Đầu tiên, tờ báo nhắc khéo: "Here's a hint: It is not Apple" và giải thích liền:

"The company outsources the entire manufacture of the device to a number of Asian

enterprises, among them Asustek, Inventec Appliances and Foxconn". Outsource là

một từ rất thông dụng trong những năm gần đây, đến nỗi nhiều người dùng nguyên

văn tiếng Anh sau khi giải thích một lần ở đầu bài viết (gia công, chuyển một số công

đoạn sản xuất hay khâu dịch vụ ra nước ngoài). Ở đây Apple outsource toàn bộ việc sản xuất cho các công ty nước

ngoài, chủ yếu ở châu Á.

Thế nhưng các công ty này cũng chỉ làm động tác lắp ráp chiếc iPod - "But this list of companies isn't a satisfactory

answer either: They only do final assembly" - nên họ cũng không phải là nhà sản xuất chính chiếc máy nghe nhạc nổi

tiếng có đến 451 linh kiện này. Tờ New York Times đã sử dụng nghiên cứu của trường Đại học University of California

để kết luận: "Their study offers a fascinating illustration of the complexity of the global economy, and how difficult it is

to understand that complexity by using only conventional trade statistics". Quan trọng là phần sau: không thể hiểu

được tính phức tạp của nền kinh tế toàn cầu nếu chỉ sử dụng số liệu thống kê thương mại truyền thống.

Chiếc iPod video dung lượng 30 GB có giá 299 đô la, trong đó "The most expensive component was the hard drive,

which was manufactured by Toshiba and costs about $73". Như vậy ổ cứng 30 GB này do Toshiba sản xuất, là đắt

nhất; các linh kiện chính khác gồm màn hình (20 đô la), con chip video (8 đô la), con chip điều khiển (5 đô la). Có lẽ

ít người biết rằng "the final assembly, done in China, cost only about $4 a unit". Điều đáng ngạc nhiên là khi tính toán

cán cân thương mại Mỹ-Trung, trị giá chiếc iPod xuất từ Trung Quốc đi ngược vào Mỹ được tính lên đến 150 đô la, góp

phần đáng kể vào thâm hụt mậu dịch giữa Mỹ với Trung Quốc.

Theo logic thông thường, "$73 of the cost of the iPod would be attributed to Japan since Toshiba is a Japanese

company". Nhưng khổ nỗi trong thời đại sản xuất toàn cầu hóa ngày nay, "Toshiba may be a Japanese company, but

it makes most of its hard drives in the Philippines and China". Tương tự hai con chip video và chip điều khiển mới đầu

tưởng phải tính cho Mỹ vì do các công ty Mỹ cung cấp nhưng thực tế họ sản xuất chúng tại Đài Loan! Các nhà nghiên

cứu vò đầu bứt tai mà than rằng: "How can one distribute the costs of the iPod components across the countries

where they are manufactured in a meaningful way?". Distribute ở đây là phân bổ.

Thật ra, ngày nay việc tính toán số liệu thống kê thương mại dựa vào cái gọi là "giá trị gia tăng" ở mỗi công đoạn sản

xuất bằng cách xác định giá trị đầu vào và giá trị đầu ra của mỗi công đoạn. Khi đó, "The difference between the cost

of the inputs and the value of the outputs is the "value added" at that step, which can then be attributed to the

country where that value was added".

Theo tính toán của các tác giả, "The $73 Toshiba hard drive in the iPod contains about $54 in parts and labor. So the

value that Toshiba added to the hard drive was $19 plus its own direct labor costs". Như vậy nếu trừ đi 54 đô la đầu

vào (là linh kiện và công lao động của khâu trước) thì Toshiba chỉ tạo ra giá trị gia tăng 19 đô la, được tính cho Nhật

Bản.

Những tưởng kết quả tính toán sẽ cho thấy người hưởng lợi nhiều nhất từ iPod là các công ty nằm khắp toàn cầu có

tham gia vào các công đoạn sản xuất nhưng, bất ngờ thay, "The researchers estimated that $163 of the iPods $299

retail value in the United States was captured by American companies and workers, breaking it down to $75 for

distribution and retail costs, $80 to Apple, and $8 to various domestic component makers". Ngoài phần tính cho khâu

39

distribution and retail costs, $80 to Apple, and $8 to various domestic component makers". Ngoài phần tính cho khâu

phân phối, bán lẻ, Apple vẫn là công ty hưởng giá trị gia tăng cao nhất - đến 80 đô la vì "The bulk of the iPods value is

in the conception and design of the iPod. That is why Apple gets $80 for each of these video iPods it sells, which is by

far the largest piece of value added in the entire supply chain". Apple hầu như không đụng tay vào khâu sản xuất nào

nhưng vẫn hưởng phần bánh lớn nhất nhờ công nghĩ ra và thiết kế chiếc iPod. Và đó chính là "bí mật" của quá trình

toàn cầu hóa ngày nay.

Tác giả bài báo kết luận: "Ultimately, there is no simple answer to who makes the iPod or where it is made". iPod

không phải là sản phẩm duy nhất, hàng loạt sản phẩm khác, như chiếc iPhone vừa mới ra mắt hay ngay cả món đồ

chơi của con bạn cũng phải tuân theo quy luật: "The real value of the iPod doesn't lie in its parts or even in putting

those parts together". Vấn đề ở chỗ làm sao nghĩ ra cách "kết nối" 451 linh kiện sản xuất khắp nơi với giá rẻ để thành

một sản phẩm bán với giá cao hơn. Cho nên "[Apple] may not make the iPod, but they created it. In the end, that's

what really matters".

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

40

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:05 CH

Tương lai quảng cáo

Nguyễn Vạn Phú

Quảng cáo ngày nay xuất hiện ở rất nhiều hình thức - dạng mới nhất: branded

entertainment. "There is a buzz in the ad world over a new concept called branded

entertainment. In a nutshell it means an advertisement that poses as stand-alone

programming". Buzz ở câu đầu có nghĩa lời đồn, lời bàn tán còn in a nutshell ở câu sau

là nói ngắn gọn. Theo cách giải thích này thì branded entertainment là quảng cáo

nhưng nấp đằng sau một chương trình độc lập - ví dụ một bộ phim nhiều tập về gia

đình một anh chàng lái xe tải chở bia Tiger với nhiều tình tiết chung quanh nghề của

anh này. Cái này khác với lối quảng cáo sản phẩm bên trong bộ phim, điển hình là loại phim James Bond với đủ loại

sản phẩm ăn theo, gọi là product placement. Vì thế mới có nhận xét: "This [branded entertainment] essentially takes

product placement to a new level".

Xin nói thêm về bộ phim James Bond "Die Another Day" được mệnh danh là "a giant advert". Từ quảng cáo

advertisement thường được viết tắt là ad (tiếng Mỹ) hay advert (tiếng Anh). Theo BBC, "Twenty companies will see

their products on the big screen, having paid between them $70m for the privilege". Privilege ở đây là quyền quảng

cáo sản phẩm lồng trong phim này, với giá không phải rẻ: 20 công ty trả tổng cộng 70 triệu đô la. Bộ phim này đạt kỷ

lục quảng cáo kiểu product placement nên được giới marketing gọi đùa là "Buy Another Day". Giới phê bình thì chê:

"But critics say some of the authentic Bond characteristics have been sacrificed on the altar of advertising". Chú ý

cách dùng từ theo kiểu liên tưởng mà khi dịch sang tiếng Việt thường bị đánh mất: sacrifice là hy sinh theo nghĩa tế

thần cho nên mới có từ altar (bệ thờ, án thờ).

Nhân nói chuyện quảng cáo, xin nhắc lại hai từ thường bị dùng sai: trademark (nhãn hiệu) và brand name (thương

hiệu) - cho dù đôi lúc chúng được dùng thay cho nhau, trademark nhắm đến khía cạnh pháp lý, như chuyện đăng ký,

chuyện bảo vệ... còn brand name là nói đến khía cạnh quan hệ với khách hàng, như chuyện xây dựng, củng cố, phát

triển... và quảng cáo!

Tuy nhiên, trong bài viết "The Future of Advertising Is Here", tạp chí Inc.com cho rằng: "It's becoming increasingly

possible to target "smart ads" specifically to people who want them. And best of all, you can do this for a fraction of

the price of mass-market". Như vậy, quảng cáo của tương lai là quảng cáo thông minh nhắm đến những đối tượng

khách hàng cụ thể với chi phí bằng một phần nhỏ của loại quảng cáo đại trà. Các dạng quảng cáo của Google là một

ví dụ.

Mới tuần trước, CNN Money đăng bài "Google Web Search Is A Game-Changer In Advertising Field" để phân tích xu

hướng quảng cáo mới trong đó Google đang đóng vai trò tiên phong. Game-changer là người thay đổi diện mạo, thay

đổi cách chơi... Sau khi mô tả một trường hợp điển hình khi một doanh nghiệp nhỏ chuyển sang quảng cáo trên

Google và thành công, CNN Money viết: "The scenario is repeating itself again and again as businesses large and small

move their ads from print, TV and radio to the Internet". Scenario trong câu này là câu chuyện tương tự như thế và

print là báo in nói chung.

Một dạng quảng cáo khác nữa là giả vờ làm dân nghiệp dư đưa thông tin lên các blog. "Corporate megaliths like Nike

and the beverage giant Diageo have gotten in on the game as well, the former with a grainy online clip of Brazilian

soccer star Ronaldinho performing a series of literally unbelievable feats with a soccer ball, the latter with a parody

music video, released straight to YouTube". Corporate megaliths là các doanh nghiệp khổng lồ, các "đại gia"; như Nike

tung lên mạng đoạn băng chất lượng xấu cảnh Ronaldinho làm xiếc với quả bóng còn hãng Diageo đưa lên YouTube

một clip ca nhạc hát nhái để quảng cáo cho loại rượu vodka Smirnoff của họ. Dân trên mạng ngây thơ tải về và gửi

cho nhau, đâu ngờ đấy là quảng cáo!

41

Ít ai ngờ có lần "Sony Ericsson dispatched 60 actors to tourist attractions to pose as sightseers and ask people to take

their picture with a new camera phone before going on to extol its virtues-all without disclosing their connection to

the company". Quảng cáo theo lối truyền miệng như thế không biết có hiệu quả đến đâu nhưng Sony Ericsson bị cáo

buộc là "misleading the consumers".

Vì thế, xu hướng chung của quảng cáo là stealth advertising, tức là quảng cáo mà không nói đấy là quảng cáo. Người

ta thường nói "advertising relies on its ability to take certain liberties with the truth" - to take liberty with là không

màng đến, không chú ý đến. Cho nên khi người xem không biết đấy là quảng cáo, họ càng dễ bị tác động bởi nội

dung chào mời. Từng đã có quy định "an infomercial is required to announce itself as a paid advertisement at its

beginning, its end, and each time the viewer is exhorted to buy anything". Infomercial là cách kết hợp giữa

information với commercial (quảng cáo theo kiểu tự giới thiệu trên ti vi), cũng như advertorial là cộng advertisement

với editorial (hình thức tương tự trên báo in). Với các hình thức mới, quảng cáo đang len vào cuộc sống mà có thể

chúng ta không nhận ra.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

42

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:06 CH

Mâu thuẫn

Nguyễn Vạn Phú

Tuần này chúng ta tạm thời quên tiếng Anh thời sự để quay về những câu chuyện tiếng

Anh thú vị. Trên Internet có khá nhiều trang sưu tầm các câu chuyện, những nhận xét

dí dỏm về tiếng Anh rất bổ ích cho người học tiếng Anh. Xin giới thiệu một bài viết vừa

đọc được, trong đó tác giả so sánh các cụm thành ngữ tiếng Anh rất quen thuộc nhưng

trái ngược nhau. Tác giả nhận xét: "We regard these words of wisdom with reverence,

but some of these sayings look specious when weighed against each other". Trong câu

này có từ specious mang nghĩa mới nghe qua thấy hay nhưng đọc kỹ thấy không ổn

như kiểu paradoxical.

Ví dụ, chúng ta thường nghe một "cổ nhân" nhận xét "Knowledge is power" nhưng ngay sau đó lại thấy một nhà "hiền

triết" khác phán "Ignorance is bliss". Ở đây nên phân biệt hai từ "ignorant" và "stupid" - một bên đơn giản là không

biết còn bên kia là dốt. "He was ignorant of the hidden dangers" vì thiếu thông tin chẳng hạn. Còn tiếp nhận thông

tin rồi mà vẫn không chịu hiểu thì chắc chắn là "stupid" rồi. Có một câu tổng kết hay: "Nothing in all the world is

more dangerous than sincere ignorance and conscientious stupidity". Conscientious là thorough. Nói "Ignorance is

bliss" nhiều lúc cũng đúng vì không biết gì thì không lo lắng, không băn khoăn nên trở thành "vô ưu".

Một cặp thành ngữ chỏi nhau khác: "Action speaks louder than words" và "The pen is mightier than the sword". Hai

câu này dường như đại diện cho hai tính cách, một bên chọn hành động và một bên chọn thuyết phục, thuyết giảng.

Nói đúng ra, các cặp thành ngữ này bổ sung cho nhau chứ không hẳn là đối chọi nhau nhưng ở đây chúng ta chỉ

nghiên cứu chúng về mặt tiếng Anh.

Rất nhiều thành ngữ tiếng Anh có ý nghĩa giống thành ngữ tiếng Việt, chỉ khác nhau ở cách diễn đạt và hình ảnh

chuyển tải. Ví dụ, chúng ta nói: "Đừng trông mặt mà bắt hình dong" - người Anh nói: "Don't judge a book by its

cover" (cover ở đây là cái bìa sách). Nhưng đối lại người Anh có câu: "Clothes make the man" và người Việt cũng nói:

"Người sang nhờ lụa".

Giả thử bạn muốn làm giàu nhanh chóng bằng cách chơi chứng khoán. Một ông khuyên: "Look before you leap" và

bạn nghe lời, chưa dám chơi để nghe ngóng, tìm hiểu thị trường trước đã. Bỗng bạn gặp một ông khác, bảo: "He who

hesitates is lost". Bạn thấy cũng đúng vì đã bỏ qua nhiều cơ hội nên vội vàng mua cổ phiếu của một ngân hàng. Ông

thứ ba tư vấn nên mua trái phiếu chính phủ cho chắc ăn vì, theo ông, "Better safe than sorry". Ông thứ tư bĩu môi:

"Nothing ventured, nothing gained". (Venture là chấp nhận rủi ro để đạt được điều gì đó - câu này cũng giống "Không

vào hang hùm làm sao bắt được cọp").

Loại thành ngữ khuyên răn trái ngược này khá nhiều. Ví dụ sự trái ngược giữa hai trường phái "đông tay vỗ nên kêu"

và "nhiều thầy thối ma" được diễn đạt bởi các cặp: "Many hands make light work" - "Too many cooks spoil the

broth"; "The more, the merrier" - "Two's company; three's a crowd"; "Two heads are better than one" - "If you want

something done right, do it yourself". Trong các cặp này có từ company, ở đây có nghĩa là bạn đồng hành.

Có những cặp mới nghe qua tưởng mâu thuẫn nhưng thật ra chúng giống nhau hoàn toàn: "Great minds think alike" -

"Fools seldom differ" vì "trí lớn" gặp nhau thì "trí nhỏ" cũng gặp nhau chứ sao. Có những cặp chỉ đối chọi nhau vì từ

dùng nhưng nghĩa thì không liên quan: "Money talks" - "Talk is cheap" (câu trước mang nghĩa mạnh vì gạo bạo vì

tiền; còn câu sau là nói không ăn thua gì, tranh cãi chẳng đi tới đâu - chứ không phải lời nói không mất tiền mua).

43

Có lẽ chúng ta cũng nên trang bị một số cặp thành ngữ trái ngược kiểu này để "tùy nghi ứng biến". Ví dụ với người

bạn ít nói, mình khen: "A silent man is a wise one"; với người nói nhiều, mình tán thưởng: "A man without words is a

man without thoughts". Gặp người yên phận, mình tán đồng: "What will be, will be"; nhưng gặp người nhiều tham

vọng, vẫn có thể khuyến khích: "Life is what you make it". Cứ nghĩ đây là luyện tập ngôn ngữ chứ không phải chuyện

ba phải. Hoặc có lúc phải dùng chúng để tự vệ. Giả thử cô bạn gái đi công tác dài ngày, ông bạn chọc: "Out of sight,

out of mind" (coi chừng, xa mặt cách lòng), bạn hãy đáp lại: "Absence makes the heart grow fonder". Fond ở đây là

affectionate.

Cuối cùng, hãy cùng tìm hiểu một cặp thành ngữ trái ngược khá lạ, liên quan đến ngựa: "Beware of Greeks bearing

gifts" và "Don't look a gift horse in the mouth". Thành ngữ sau có nghĩa đừng xét nét khi nhận được quà hay một

quyền lợi nào đó (được voi đòi tiên). Người ta thường nhìn vào miệng con ngựa xem hàm răng để định tuổi nó, cho

nên có ai tặng ngựa thì đừng nhìn vào miệng nó, dễ bị phật ý. Câu trước là cảnh giác với những ai mang quà tới tặng,

câu này xuất phát từ câu chuyện con ngựa thành Troy.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

44

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:06 CH

Harry Potter và chuyện tiếng Anh

Nguyễn Vân Cầm

Nếu để ý, các bạn sẽ thấy báo chí khi giới thiệu tập truyện Harry Potter mới nhất đều không dịch tựa đề mà để nguyên tiếng Anh "Harry

Potter and the Deadly Hallows". Ấy là vì người viết đã rút kinh nghiệm. Khi tập năm "Harry Potter and the Order of Phoenix" ra mắt, nhiều

người dịch thành "Harry Potter và Mệnh lệnh Phượng hoàng" và... bị sai. Order là lệnh, là huân chương... nhưng còn có nghĩa là hội. Vì

thế sau này tựa sách được dịch chính xác thành "Harry Potter và Hội Phượng hoàng".

Trở lại tập truyện vừa mới được giới thiệu ầm ĩ, ngay chính tác giả cũng thừa nhận tựa sách rất khó dịch nếu chưa đọc hết sách nên đã

đồng ý đặt thêm một tựa "Harry Potter and the Relics of Death". Relics là di vật, thánh tích nên tựa đề tiếng Việt có thể sẽ là "Harry Potter

và tử thần tích", ý nói về các thánh tích của tử thần. Tựa sách ở Nhật Bản lại là "Harry Potter and the Secret Treasure of Death".

Hallow trong tựa nguyên gốc thường dùng như động từ, có nghĩa "to make holy". Nhưng trong sách nó là danh từ chỉ ba vật gồm "Elder

Wand" (chiếc đũa thần), "Resurrection Stone" (viên đá hồi sinh) và "Invisibility Cloak" (áo khoác tàng hình) - the three legendary objects

that conquer death. Tựa sách với ý nghĩa như thế thì khó dịch thật.

Một tập sách khác "Harry Potter and the Philosopher's Stone" khi in ở Mỹ được chuyển thành "Harry Potter and the Sorcerer's Stone".

Philosopher's stone là viên đá biến kim loại bình thường thành vàng, dùng trong thuật giả kim nhưng trong truyện nó là viên đá làm cho

con người bất tử nên biên tập viên bản tiếng Mỹ đổi lại để độc giả người Mỹ khỏi hiểu nhầm. Quyết định biên tập "dịch từ tiếng Anh sang

tiếng Mỹ" của cuốn này bị nhiều người Mỹ chê trách. Một người viết: "I like to think that our society would not collapse if our children

started calling their mothers Mum instead of Mom. And I would hate to think that today's children would be frightened away from an

otherwise thrilling book by reading that the hero is wearing a jumper instead of a sweater". Chú ý người viết minh họa bằng hai cặp từ tiếng

Mỹ và tiếng Anh (Mom - Mum; sweater - jumper).

"Dịch từ tiếng Anh sang tiếng Mỹ" bao gồm những công đoạn: "The first are spelling differences: gray for grey, color for colour, flavor for

flavour, pajamas for pyjamas, recognize for recognise and the like". Cái này những người học tiếng Anh đều biết nhưng đôi lúc trong cùng

một văn bản, dùng lẫn lộn cả hai loại chính tả. "The second are differences in common words or phrases: pitch turns to field, fortnight to two

weeks, post to mail, boot of car to trunk of car, lorry to truck". Đa phần văn bản chúng ta tiếp cận thường xuyên là tiếng Mỹ cho nên dù đôi

lúc cố ý dùng tiếng Anh nhưng chúng ta vẫn dùng truck (xe tải) chứ ít khi dùng lorry. Thử tưởng tượng bây giờ các nhà xuất bản Mỹ phải

"dịch" như thế đối với các tác phẩm kinh điển của Charles Dickens hay Shakespeare mới thấy họ phê bình đúng. Ví dụ không lẽ biến tựa

sách quen thuộc "A Christmas Carol" thành "A Christmas Song" hay "The Merchant of Venice" thành "The Salesman of Venice"!

Sách của bà J. K. Rowling khó dịch vì nhiều lẽ, trong đó lý do chính là bà sáng tạo ra nhiều từ mới và tên nhân vật đều có ý nghĩa riêng

của nó. Những yếu tố này khi dịch thường bị mất đi. Ví dụ, tên nhân vật Tom Marvolo Riddle nếu sắp xếp lại sẽ biến thành "I am Lord

Voldemort" (cảnh trong cuốn Harry Potter and the Chamber of Secrets khi Tom Riddle tiết lộ thân phận cho Harry) và bản thân từ riddle

cũng có nghĩa là câu đố - vì thế bản tiếng Pháp tên nhân vật này được dịch thành Tom Elvis Jedusor để khi sắp xếp mới thành "Je suis

Voldemort". Chỗ này tiếng Việt chịu nên người dịch phải dùng chú thích.

Vì người dịch không được trao bản tiếng Anh trước lúc sách chính thức phát hành nên phải mất mấy tháng sau bản dịch các thứ tiếng

mới xuất hiện. Từ đó mới có những câu chuyện "khó tin nhưng có thật". Bản dịch lậu tiếng Tây Ban Nha cuốn Harry Potter và Hội Phượng

hoàng vì dịch vội nên người dịch bí chỗ nào bèn xin lỗi chỗ đó. Bản tin BBC cho biết: On one page the translator warns: "Here comes

something that I'm unable to translate, sorry". Một chỗ khác: "You gave him 'the old one-two' (I'm sorry, I didn't understand what that

meant)". Như thế cũng khá trung thực rồi. Ở Trung Quốc, thậm chí có sách giả với tựa đề: "Harry Potter and Leopard-Walk-Up-to-Dragon"

cũng khét tiếng một thời.

Có một trang web cất công so sánh các bản dịch tiếng Hoa, tiếng Nhật và tiếng Việt về nhiều khía cạnh, trong đó có phần nêu một số lỗi

của các bản dịch. Ví dụ, tên một cuốn sách "Magical Draughts and Potions" trong ấn bản tiếng Mỹ đã chuyển thành "Drafts" nên bị dịch

sai thành "Đề cương phép lạ và độc dược" trong khi draught hay draft ở đây mang nghĩa thức uống, liều thuốc.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

45

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:06 CH

Thị trường là chiến trường!

Nguyễn Vạn Phú

Mấy tuần qua, chứng khoán thế giới đảo chiều liên tục và ngay cả người bình thường nếu đọc

các bản tin chứng khoán của các hãng thông tấn cũng thấy được sự sôi động của thị trường,

thậm chí mang mùi "khói lửa". Xin chú ý các cụm từ liên tưởng đến chiến tranh mà người viết

sử dụng: "The bruised US stock market slid further Friday as investors retrenched amid fears

of a housing slump and a potential credit crunch that led to a massive rout a day earlier".

Danh từ trench là chiến hào, động từ là lui về chiến hào. Retrench có nghĩa riêng là giảm bớt,

cắt bớt [lượng mua bán] nhưng ở đây vẫn tạo hình ảnh các nhà đầu tư lui về cố thủ, không

tấn công nữa. Thêm vào đó, từ bruised (thâm mình, tím mẩy) cho thấy trước đó thị trường đã

bị bầm dập. Các từ khác cũng mang theo chúng nhiều hình ảnh sống động: slid further (sụt

thêm), housing slump (thị trường địa ốc đóng băng), credit crunch (thắt chặt tín dụng),

massive rout (tháo chạy tán loạn).

Dường như hào hứng với cách dùng từ như thế, tác giả bản tin của hãng AFP viết tiếp: "Wall Street was still licking its

wounds from Thursday's massacre amid concerns over rising borrowing costs". Massacre là vụ thảm sát, ở đây dùng

theo nghĩa hôm thứ Năm, thị trường đã gây đổ máu cho nhiều nhà đầu tư; vì thế Wall Street mới ngồi "chăm sóc"

thương tích theo kiểu của các bầy thú.

Tổng kết thiệt hại, bản tin viết: "The latest losses closed a horrific week for US and global markets as investors

scurried to dump riskier assets". Hai động từ scurry (vội vàng, nhốn nháo) và dump (bán tống bán tháo) cũng đầy

hình ảnh. Dĩ nhiên, trong một bản tin về chứng khoán, không thể không dùng các từ chuyên ngành. Ví dụ assets (tài

sản) phải hiểu là đủ loại chứng khoán, như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, các quyền mua bán... Hay trong câu

trích nhận định của Bộ trưởng Tài chính Mỹ: "US Treasury Secretary Henry Paulson said Friday the turmoil on

financial markets is the result of "risk being repriced" which can be painful for some but is "healthy" in the long run",

có khái niệm "định giá lại rủi ro" - "risk being repriced". Trong câu này có thành ngữ "in the long run" có nghĩa về lâu

về dài.

Bản tin còn thích dùng các từ miêu tả tâm trạng nhà đầu tư rất gợi hình. Khi nói đến mức sụt điểm của chỉ số Dow

Jones Industrial Average, tác giả dùng cụm từ "a stomach-churning 300-plus point decline" - mức sụt trên 300 điểm

làm thót ruột hay hình ảnh các nhà đầu tư đang hoang mang, chân tay bủn rủn được diễn tả bằng cụm từ weak-kneed

investors. Ngay cả các câu trích cũng dùng từ rất kêu, không biết người viết ghi nguyên văn hay "chế biến" lại: "There

is little doubt that this week's tumultuous events officially sound the death knell for cheap money", said Douglas

Porter at BMO Capital Markets. Cụm từ sound the dead knell là rung hồi chuông báo tử, ở đây là cho loại tiền giá rẻ,

tức là chi phí đồng vốn thấp.

Đấy là bản tin cách đây hai tuần. Đến cuối tuần trước, khi sự ảm đạm của thị trường kéo dài, các bản tin dùng từ càng

bi quan hơn. BusinessWeek viết: "There was plenty of bad news to go around". Bình thường go around là có đủ cho

mọi người - She believes there's plenty of hope to go around. Cách dùng từ theo lối mỉa mai là khá thông dụng trong

tiếng Anh, làm cho câu trên có nghĩa: Nhìn đâu cũng thấy tin xấu. Lý do chính cho đợt sụt giảm giá chứng khoán ở

Mỹ, kéo theo sự sụt giảm ở các thị trường khác là do hậu quả của sự đổ vỡ thị trường cho vay mua nhà trả góp ở Mỹ:

"Volatility in the major indexes escalated over the past week as investors haven't seen reassuring signs that the

subprime credit mess has run its course". Trong một bài trước, chúng ta đã làm quen với từ subprime credit (tín dụng

chất lượng xấu - chỉ các hãng liều lĩnh cho những người có tiền sử "chạy nợ" mua nhà trả góp). Vụ này lình xình đã

mấy tháng nay vẫn chưa xong nên mới có chuyện has [not] run its course.

Tiên đoán tình hình thị trường trong thời gian tới, BusinessWeek cho rằng: "Earnings season will be winding down,

and even though profits have come in ahead of expectations, the market is focused more on subprime worries".

Thông thường vào thời điểm các công ty niêm yết công bố lợi nhuận hàng quí, giá cổ phiếu sẽ tăng giảm mạnh -

47

Thông thường vào thời điểm các công ty niêm yết công bố lợi nhuận hàng quí, giá cổ phiếu sẽ tăng giảm mạnh -

những thời điểm còn lại giá sẽ bị tác động bởi các yếu tố khác. Cho nên câu trên mang ý giá cả thị trường trong thời

gian sắp tới không còn bị chi phối bởi báo cáo tài chính nữa mà vẫn tập trung vào hậu quả của vụ cho vay theo kiểu

"subprime".

Và, ở đây, lối văn hình ảnh vẫn không thiếu: "The biggest worry out there is whether or not there are more shoes to

drop, so to speak". Có lẽ chúng ta đã từng nghe thành ngữ "to wait for the other shoe to drop" mang nghĩa chờ đợi

tin xấu xảy ra. Câu trên không dùng the other shoe mà là more shoes to drop, ý nói để coi thử còn thêm những tin

nào xấu nữa không. Vì thế người viết phải thêm vào cụm từ so to speak vì đã chế biến một thành ngữ thông dụng.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

48

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:06 CH

Lại chuyện khủng hoảng

Nguyễn Vạn Phú

Tuần trước chúng ta đã quan sát sự ngổn ngang của thị trường chứng khoán, tưởng đâu là

chuyện chóng qua. Không ngờ tuần này tình hình ngày càng có vẻ trầm trọng. Một tít báo

chạy dòng chữ: Et tu, Paribas? Chắc chúng ta đã quen với câu nói nổi tiếng sau cùng của

Julius Caesar - Et tu, Brute? (You too, Brutus), tỏ ý bất ngờ và thất vọng khi thấy viên cận

thần của mình cũng theo phe muốn sát hại vị hoàng đế nổi tiếng của La Mã này. Nay báo chạy

tít như thế vì: "The first jolt came from French bank BNP Paribas, which said early in the day

that it was freezing three investment funds once worth a combined $2.17 billion because of

losses related to U.S. housing loans". Như vậy hậu quả cho vay mua nhà bất kể uy tín tín

dụng ở Mỹ đã lan sang Pháp khi ngân hàng lớn nhất nước này tuyên bố đóng cửa ba quỹ đầu

tư lớn.

Ảnh hưởng dây chuyền kiểu này có thể tóm tắt: (1) hedge funds borrowed increasing amounts of money in recent

years to boost returns amid placid markets; (2) subprime credit problems; (3) hedge funds were in the red and

selling off assets; (4) stock market scrambled to sell holdings and cut their borrowings.

Trong những câu trên có một số từ đáng chú ý, như placid market là thị trường trầm lắng; holdings là những khoản

đầu tư của các quỹ. Xoay quanh các khâu trong dây chuyền này là vô số câu chuyện mà báo chí tài chính nước ngoài

đang khai thác. Ví dụ khi đại diện Ngân hàng BNP Paribas giải thích lý do tạm ngưng hoạt động của ba quỹ đầu tư, ông

ta nói: "The market for the assets has just disappeared", said Alain Papiasse, head of BNP Paribas's

asset-management-services division. "Since the start of this week, there are no prices for instruments that carry,

directly or indirectly, some types of U.S. assets". Chúng ta sẽ thấy nếu ai nấy đều thi nhau bán ra, chắc chắn thị

trường sẽ ngưng trệ vì không ai dám mua vào. Từ instrument ở câu thứ nhì là công cụ đầu tư, tức là các dạng tài sản

mua bán trên thị trường chứng khoán.

Chúng ta hãy quan sát tờ Wall Street Journal cụ thể hóa bóng ma khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay bằng một

minh họa. Many market-neutral funds have been wagering on high-quality stocks, and betting against stocks that look

expensive. Market-neutral funds là các quỹ hoạt động theo kiểu thị trường lên hay xuống gì họ cũng có lãi. Khi họ

mua vào loại chứng khoán chất lượng cao, giữ đấy để đợi giá lên - gọi là long position. Còn khi họ vay chứng khoán

theo họ giá đang quá cao, bán đi lấy tiền, đợi giá giảm mới mua vào lại - gọi là short position. Trong câu này, người

viết dùng các từ mang nghĩa cá cược như wager, bet against. Vì dùng chiến thuật chắc ăn như thế, các quỹ tha hồ đi

vay tiền ngân hàng để cược cho cao, hòng lời cho nhiều. Nhưng bất ngờ xảy ra vụ subprime credit mà chúng ta đã đề

cập ở số trước, các ngân hàng buộc các quỹ phải đóng thêm tiền thế chân.

Thế là: "The funds sold some of their holdings of high-quality stocks to raise the cash, and closed out "short" trades,

or bets against companies, by buying back shares of companies seen as expensive". Bán cổ phiếu giá tốt khi giá chưa

lên như kỳ vọng và phải mua vào cổ phiếu xấu khi giá của chúng vẫn chưa giảm như mong đợi (mà câu trên diễn giải

bằng cụm từ "closed out short trades"), các quỹ chỉ còn biết chịu lỗ, mà lỗ nặng.

Nắm được chiến thuật này, chúng ta sẽ hiểu người viết muốn nói gì khi thêm: "Others sold positions simply to become

more conservative, in a rocky market". Đấy là những quỹ thận trọng, long position hay short position gì đều bán hết.

Mức lỗ nhiều lúc cao khủng khiếp - The Equity Opportunities fund lost more than 11% between July 1 and 27. Nên

nhớ quỹ này là của tập đoàn Goldman Sachs nổi tiếng. Và thế là thị trường tài chính và chứng khoán thế giới chao

đảo trong nhiều tuần liền.

49

Điều nguy hiểm là thị trường không có ai tài trợ đổ tiền vào để mua chứng khoán thì sẽ dẫn đến tình trạng mà tờ New

York Times miêu tả: With the worth of those securities now being questioned, some who financed the securities want

their money out, a fact that has created the 21st-century equivalent of a run on a bank. Run on a bank (hay bank

run) là cảnh mọi người hoảng hốt đến ngân hàng rút tiền về - làm ngân hàng sụp đổ (ở đây là rút tiền ra khỏi thị

trường chứng khoán).

Vì thế, mới có chuyện: "In total on Friday, the Fed injected $38 billion into the banking system, liquidity aimed

exclusively at the credit market's Achilles' heel, mortgage-backed securities". Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) ra tay

trước và sau đó: "Overnight, central banks in Europe, Japan and Australia, joined the Fed by adding liquidity to their

respective banking systems to try to alleviate any credit crunch". Hãy đợi xem động thái bơm tiền để nâng tính thanh

khoản của thị trường như thế này sẽ có tác dụng tới đâu trong tuần này.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

50

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:06 CH

Báo cũng viết sai

Nguyễn Vạn Phú

Báo chí tiếng Anh đôi lúc cũng bị độc giả "hỏi thăm sức khỏe" vì sử dụng tiếng Anh

không chuẩn xác. Câu này được tờ Chicago Tribune diễn đạt thành: "More often than

you might expect, readers hold the newspaper's feet to the fire about how we handle,

and sometimes mangle, the English language". Cụm từ "hold someone's feet to the

fire" là gây áp lực cho ai đó, còn mangle là phá hỏng, kiểu như ta thường nói "làm mất

sự trong sáng" của tiếng Anh.

Số là tuần trước tờ báo này chạy một trang quảng cáo, có câu: "Education is priceless. But what if it was free?".

Nhiều độc giả gọi điện bảo phải dùng were mới đúng ngữ pháp!

Lạ một điều người Anh, người Mỹ hay sai những chỗ người nước ngoài học tiếng Anh ít sai. Ví dụ, đối với họ, rất dễ

nhầm giữa it's và its; affect và effect... Bài báo trên tờ Chicago Tribune dẫn chứng: "People say disinterested when

they really mean uninterested and confuse bemused with amused". Cái này những ai học tiếng Anh kha khá rồi thì

đều biết disinterest là khách quan, vô tư còn uninterested là không quan tâm; bemused là sửng sốt còn amused là

buồn cười, lấy làm thú vị.

Tuy nhiên tờ báo này cho rằng ngôn ngữ luôn luôn biến đổi nên quy luật ngữ pháp phải linh hoạt theo. Ví dụ trước

đây, học sinh được dạy không bao giờ kết thúc một câu bằng một giới từ. Nay có nhiều câu viết theo lối đúng ngữ

pháp như thế trông gượng gạo không chịu nổi. "He is a tough candidate to run against" nghe bình thường, còn đổi lại

"He is a tough candidate against whom to run" nghe rất chỏi tai. Người ta hay kể chuyện tiếu lâm rằng các nhà ngữ

pháp "dạy": "Preposition is something you should never end a sentence with". Đích thị đây là một câu kết thúc bằng

giới từ. Một giai thoại kể lại Winston Churchill viết thư trong đó có câu kết thúc bằng giới từ. Khi được khuyên nên sửa

lại cho đúng, vị Thủ tướng nước Anh nổi tiếng trong thời Thế chiến II nói: That's the sort of pedantry up with which I

will not put. Ông này chê cười thói thông thái dỏm (pedantry) bằng một câu rất đúng ngữ pháp!

Cuối cùng tác giả bài báo trích một câu vừa đăng trên số báo trước do một phóng viên viết: "Many folks will even tell

you about a guy they know who knows a girl who worked with some dude who was killed by a flying Asian carp, but

don't listen to them; that story is bogus". Đây là một câu dùng nhiều mệnh đề phụ, về mặt ngữ pháp là rất rối rắm

nhưng lại rất hay và chính xác để diễn đạt một câu chuyện đồn từ người này sang người khác.

Trong lúc đó, tờ China Daily lại có một bài nhận xét rằng tiếng Anh đang tấn công, tràn ngập tiếng Hoa, nhất là trong

lĩnh vực công nghệ. Thật ra đây là một khảo sát: "A dozen abbreviations including GDP, NBA, IT, MP3, QQ, DVD and

CEO are among the 5,000 most-frequently used words in the Chinese-language media last year, according to a report

on the 2006 Language Situation in China, which was released yesterday in Beijing". Như vậy báo chí tiếng Hoa cũng

xài những từ tiếng Anh viết tắt thoải mái như CEO, GDP... Đến nỗi có một đôi sinh con, đòi đặt tên con là @. Hãy

nghe tờ báo này giải thích - rõ hơn nhiều bài báo tiếng Anh khác: "While the "@" is obviously familiar to Chinese

e-mail users, they often use the English word "at" to pronounce it - which with a drawn out "T" sounds something like

ai ta, or love him". Như vậy người Trung Quốc không có từ tương đương như a vòng hay a còng mà phát âm ký hiệu

@ thành at như người Anh nhưng kéo dài âm T nghe thành "ái tử".

Ở Philippines, nơi tiếng Anh được xem là ngôn ngữ chính thức bên cạnh tiếng Tagalog, người ta lại than phiền sách

giáo khoa được viết quá cẩu thả, bằng một thứ tiếng Anh "dưới chuẩn". Ví dụ: "We grow our hogs in our own farms

so you're sure to get meat that is grown" hay "He seemed to be waiting for someone, not a blood relation, much less

a bad blood". Tờ International Herald Tribune sau khi trích một số câu như vậy bèn nhận xét: "Such phrases, lifted

from government-approved textbooks used in Filipino public schools, are reinforcing fears that crucial language skills

51

from government-approved textbooks used in Filipino public schools, are reinforcing fears that crucial language skills

are degenerating in a country that has long prided itself on having some of the world's best English speakers".

Một nhà giáo, bức xúc trước tình hình này, đã mua nguyên một trang quảng cáo, liệt kê các lỗi tiếng Anh trong sách

giáo khoa. Và để thu hút sự chú ý của mọi người, ông này đặt tít cho quảng cáo bằng một câu tiếng Anh theo kiểu

Phi: "Learnings for make benefit glorious nation of Philippines". Thật ra đã mấy năm nay, các hiệp hội doanh nghiệp

nước ngoài ở Philippines nhận xét sự sút giảm kỹ năng tiếng Anh chuẩn của người Phi đang làm nhân lực nước này

mất tính cạnh tranh.

Cuối cùng, nếu bạn có iPod và muốn học thêm tiếng Anh, hãy tận dụng các Podcast của BBC chuyên dạy tiếng Anh:

"The BBC says the weekly programs, "How to ...," "Grammar Challenge" and "Talk About English," come in bite-size

formats and show students how to tackle tricky aspects of the English language, and are now available for

downloading on demand". Đây là các chương trình ghi âm sẵn, chỉ việc vào www.bbcworldservice.com/podcasts để tải

về và chuyển vào iPod để nghe.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

52

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:07 CH

Tiếng Anh trên mạng

Đôi lúc chúng ta gặp những câu tiếng Anh mà cho dù người đọc có giỏi tiếng Anh đi

mấy chăng nữa cũng vò đầu bứt tai vì không hiểu gì cả. Tờ Wall Street Journal minh

họa hiện tượng này bằng một sa-pô khó hiểu: "Leetspeak Is Hot Button With Gamers,

Scholars; One Campus Isn't LOL". Đấy là câu mở đầu cho một bài báo về hiện tượng

tiếng Anh bị biến tướng bởi cư dân trên mạng, trong đó "leetspeak" là biến thể của

"elite speak" - ngôn ngữ thời thượng của giới này; còn LOL hay lawl là viết tắt cụm từ

"laughing out loud" thường dùng để diễn đạt sự thú vị.

Vấn đề nằm ở chỗ loại ngôn ngữ này hiện lan rộng trong giới trẻ, không còn hạn chế

trong các cộng đồng chơi game trực tuyến hay những người thích chat nữa. Chúng tấn công vào các loại tin nhắn và

nhảy sang ngôn ngữ nói, làm đau đầu các nhà ngôn ngữ và các bậc phụ huynh. Ví dụ từ "the" thoạt đầu bị biến thành

"teh" vì gõ sai chính tả nhưng hiện nay mang nghĩa "very" khi dùng trước tính từ, ví dụ "tehcool" - rất tuyệt.

Chẳng có sách "ngữ pháp" nào dạy giới trẻ loại ngôn ngữ này nhưng nó được tiếp thu một cách nhanh chóng. Ví dụ,

đối với họ, "u" là "you", "r" là "are", "2" là "too"... Phổ biến nhất là các cụm từ viết tắt: "ttyl" thay cho "talk to you

later", "bbl" thay cho "be back later", "cu" thay cho "see you". Một từ khá thông dụng trong giới chơi game và đã lan

ra ngôn ngữ thường ngày là "pwned" - đánh bại đối thủ một cách dễ dàng. Câu "pwned like a noob" nếu dịch sang

tiếng Anh bình thường là "destroyed with the quickness and ease with which one would destroy a new player". Các

con số cũng được dùng rất bí hiểm, ví dụ 10q là "thank you", 10x là "thanks", 2L8 là "too late" và 404 là "I haven't a

clue".

Wall Street Journal dùng cụm từ "One Campus isn't LOL" ở đầu bài là vì: "Lake Superior State University this year

included "pwn" on its annual list of banned words and phrases". Trong khi đó một số nhà ngôn ngữ học khác cho rằng

hiện tượng này là bình thường, thời gian sẽ sàng lọc và cuối cùng chỉ có một số từ tồn tại trong ngôn ngữ chính thức.

Tờ này đưa ra ví dụ: "Some of those words, like SOS, the popular call for help, have survived from their telegraph-era

origins". Một xu thế khác là khi leetspeak trở nên quá phổ biến, đến bố mẹ cũng dùng thì giới trẻ không thèm dùng

nữa. "But leetspeak's growing appeal, and use among the un-cool, could undermine it. Now moms are saying, "LOL,"

so that takes away from it".

*

* *

Một khó khăn khác cho người đọc sách báo tiếng Anh là việc sử dụng các từ lóng ngày càng nhiều, nhất là trong các

bài về chính trị. Lấy ví dụ câu này trên tờ Chicago Tribune: If a spin doctor's reputation is only as good as his or her

last victory, Rove's rep slipped into meltdown with the collapse of Bush's Social Security reforms, immigration

reforms, the "thumpin'" that Democrats gave Bush in last year's midterm elections and, of course, the deepening

mess in Iraq.

Karl Rove, Phó chánh văn phòng Nhà trắng, cố vấn chính trị cao cấp của Tổng thống Bush vừa tuyên bố từ chức. Thế

là khi đưa tin này, hầu như báo nào cũng dùng kèm với từ spin doctor, một tiếng lóng mang nghĩa - A representative

for a person, especially a politician, who publicizes favorable interpretations of that person's words or actions. Từ rep

cũng là cách viết "bình dân" từ reputation và "thumpin'" cần giải thích kỹ hơn một chút. Năm ngoái khi Đảng Dân chủ

Mỹ thắng thế trong kỳ bầu cử Quốc hội giữa nhiệm kỳ của Bush, ông này họp báo và tuyên bố: "It's a thumping" -

một cú xiểng liểng (ông Bush lại phát âm gọn thành thumpin'). Ngay cuộc họp báo phóng viên tờ New York Times hỏi

đi hỏi lại có phải ông Bush dùng từ này không. Và ngay sau đó nhiều báo bình luận về cách dùng từ "thô thiển" như

thế: "Thumpin'" might be a word he'd use regarding a loss by his favorite football team while he chokes down a dry

pretzel. But it's hardly fitting coming from the President after members of his own party had just drowned in the

floodwaters of his incompetence.

Khi tờ Slate dùng từ Zoo Plane trong một bài báo tuần trước, các bạn có biết nó là gì không - đó là: "An airplane

53

Khi tờ Slate dùng từ Zoo Plane trong một bài báo tuần trước, các bạn có biết nó là gì không - đó là: "An airplane

carrying journalists accompanying a traveling politician". Hay khi một tờ báo ở Canada chê trách chính khách nước

này dùng toàn bafflegab, ý tờ này muốn nói đến "confusing or unintelligible speech, doublespeak".

Xin liệt kê một số từ thường gặp trên báo chí Anh, Mỹ: Turkey Farm (một cơ quan công quyền dùng toàn con ông

cháu cha); Velcroid (người dựa hơi chính khách); Doubledome (một trí thức bị ảo tưởng); Flush-Bottom (người đóng

góp nhiều tiền cho các chiến dịch tranh cử); Politainer (chính khách xuất thân là diễn viên, nghệ sĩ biểu diễn).

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

54

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:07 CH

Trúng số độc đắc

Nguyễn Vạn Phú

Chuyện trúng số độc đắc luôn thu hút sự chú ý của mọi người, các báo đăng tin "hoành tráng"

nhưng thường tô đậm khía cạnh "nói vậy chứ không phải vậy" - có lẽ để những người không

may mắn đỡ tủi thân chăng. Ví dụ, tít "$330M Jackpot Split Not Quite as Mega" nhắc đến khá

nhiều chuyện: Vụ giải độc đắc 330 triệu đô la vào cuối tuần trước ở Mỹ có đến bốn người trúng

nên mới có từ "jackpot split"; đây là giải Mega Million, một trong hai loại xổ số lớn nhất nước

Mỹ (giải kia là Powerball), nhưng ý định của người viết tin là chứng minh, tính ra nó cũng

chẳng mega gì lắm.

Đầu tiên là cách nhận tiền trúng số. "A one-quarter share of the jackpot is $82.5 million. If the winner elects a

lump-sum payment, which financial analysts suggest, they're down to $48.6 million after taxes". Một giải xổ số

thường quảng cáo kỳ này lô độc đắc lên đến 100 triệu đô la nhưng đó là nếu người trúng giải chọn cách nhận một

khoản tiền hàng năm trong vòng vài ba chục năm. Còn nếu chọn cách nhận một lần (lump-sum payment) thì số tiền

thật nhận chỉ còn trên dưới một nửa. Cái này là do tác động của lãi suất kép (compound interest), ví dụ, hàng năm

nhận 25.000 đô la trong vòng 40 năm, nếu tính nhẩm, tổng số tiền lên đến 1 triệu đô la. Còn dùng lãi suất chiết khấu

8%/năm thì giá trị hiện tại của 1 triệu đô la này thật ra chỉ vào khoảng 300.000 đô la mà thôi. Ở câu trên có cụm từ

"which financial analysts suggest" là vì cách nhận one-time payment thay vì annuity payment theo các nhà phân tích

tài chính có lợi hơn nhiều. Bài báo giải thích: "Many winners choose to take the lump-sum payment, since they

believe they can get a better rate of return on their investment elsewhere".

Sau đó, tác giả bài báo thử tính xem với gần 50 triệu đô la, các triệu phú may mắn này sẽ làm được gì. "Forget those

dreams of living in the Beverly Hills mansion William Randolph Hearst built for his mistress. It's listed at $165 million".

Ông trùm báo chí Mỹ Hearst mua một căn nhà trên đồi Beverly nổi tiếng với giá 120.000 đô la vào năm 1947; bây giờ

tòa nhà này có giá đắt nhất nước Mỹ - 165 triệu đô la.

"But suppose our winners just want to live a modest millionaire's life in an apartment on New York's Fifth Avenue.

Sadly, this address, too, is out of their league". Giả thử người trúng số muốn mua một căn hộ trên đại lộ số 5 nổi

tiếng ở New York cũng không mua nổi. Thành ngữ "out of their league" có nghĩa "không với tới". Ấy là vì giá nhà ở

đây có căn dưới 50 triệu đô la nhưng người mua phải có trong tài khoản ít nhất gấp đôi số tiền đó. Các căn hộ sang

trọng ở New York có phương thức mua bán khác lạ. Cả tòa nhà được tổ chức như một hợp tác xã, người mua tham gia

làm thành viên và được quyền sở hữu căn hộ với điều kiện trả tiền mặt, nguyên một lần.

Tác giả khuyên: "They might just swing the purchase price of a private Gulf Stream jet (if it's used - the new ones list

for $54 million), but there would be nothing left for airport fees and a pilot". Động từ swing ở câu này là manage

(xoay xở). Như vậy giá một chiếc phản lực tư nhân mới là 54 triệu nhưng còn tiền xăng nhớt, lệ phí sân bay, thuê phi

công nữa. Cuối cùng, người viết đề nghị: "So here's a suggestion for our depressed winners: Shoot even higher into

space". Câu này được dùng theo nghĩa đen - "The current price for a trip aboard the shuttle is $35 million, spacewalk

included!".

Đó là bài báo viết theo kiểu nói đùa. Thế nhưng đã có những nghiên cứu nghiêm túc cho thấy trúng số độc đắc chưa

hẳn đã là chuyện hạnh phúc. Giáo sư tâm lý học Steve Danish nhận xét: "The dream you have about winning may be

better than the actuality of winning. There have been families that have just been torn apart by this process". Ông liệt

kê hàng loạt vụ trong đó người trúng số độc đắc sau đó gặp nhiều chuyện bất hạnh, gia đình tan vỡ vì chuyện tiền

bạc. Số liệu thống kê cũng cho thấy: "Seventy percent of those who become suddenly wealthy squander it within a

few short years, according to the National Endowment for Financial Education". Động từ squander là phung phí, tiêu

hoang. Điều có thể thấy ngay là sau ngày trúng số, người may mắn ấy sẽ đột nhiên thấy số lượng bạn bè, bà con

tăng lên đột ngột. "I think it'd be scary to be that person. Because you've got all your friends and family coming out

of the woodwork and wanting a little piece of that lottery themselves". Thành ngữ come out of the woodwork là ở đâu

55

of the woodwork and wanting a little piece of that lottery themselves". Thành ngữ come out of the woodwork là ở đâu

ra không biết. Ví dụ, sau khi có tin giải thưởng kỳ này lên đến 330 triệu đô la, có người nói: "If I know them, I'm

going to hit them up for a loan". To hit them up ở đây là đến hỏi vay tiền.

Trong khi đó, các công ty xổ số lại bàn đến mốc trúng thưởng mới: "Could half a billion dollars become the new

benchmark for lottery winnings?". Benchmark ở đây là mức chuẩn. Một lottery toàn cầu hàng tháng "could mint up to

100 brand-new millionaires worldwide every drawing". Mint vừa dùng theo nghĩa sản sinh vừa gợi nhớ đến nghĩa đúc

tiền.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

56

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:07 CH

Rắc rối tiếng Anh ngân hàng

Nguyễn Vạn Phú

Cách khoảng mươi ngày, một ngân hàng gửi đi một thông cáo báo chí về chuyện phát

hành chứng chỉ tiền gửi nhưng hầu như không thấy báo nào đưa tin. Ấy có lẽ là vì

ngân hàng này sử dụng tiếng Anh (phải mấy ngày sau mới có bản dịch tiếng Việt) và là

loại tiếng Anh chuyên ngành khó hiểu đối với người ngoài ngành.

Thông tin chính của bản thông báo nằm ở câu: "The issue, which will help expand and develop Vietnam's local

long-term debt market, marks the debut [of] long-term negotiable certificates of deposit to be issued in Vietnamese

dong". Có lẽ người sử dụng các dịch vụ của ngân hàng hiện đã quen với công cụ "chứng chỉ tiền gửi" (certificate of

deposit hay được gọi tắt là CD) - cũng là một cách gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn cụ thể. Negotiable trong câu này là

một từ dễ gây hiểu nhầm vì nghĩa thường dùng của nó là "có thể thương lượng". Thật ra, negotiable đối với các CD có

nghĩa sau khi mua về có thể bán lại, hay nói cho văn vẻ là có thể giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ít nhất, người

mua có thể đem tới ngân hàng để bán lại trước khi đáo hạn, mà tiếng Việt thường gọi là chiết khấu.

Bản thông báo giải thích: "The coupon resets every six months and will pay at a specified spread over a benchmark

rate set by the bank". Đây chính là câu gây khó khăn nhiều nhất vì nó chứa nhiều từ khó. Chúng ta thường quen với

từ interest rate (lãi suất) trong khi đối với trái phiếu, từ thường dùng là coupon. Ngày trước, tờ trái phiếu có kèm các

coupon ghi rõ số tiền trả cho trái chủ và vì trái phiếu thường dài hạn nên một tờ trái phiếu có in kèm nhiều coupon để

mỗi sáu tháng, chẳng hạn, trái chủ cắt và đi lãnh lãi. Thật ra với các CD, dùng interest rate cũng được.

Spread cũng là một từ hay vì nó được dùng trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ giá mua vàng là 13 triệu/lượng - giá bán là

13,2 triệu/lượng thì spread ở đây là 0,2 triệu. Khác biệt giữa giá mua, giá bán ngoại tệ cũng là spread. Còn spread

trong câu trên ý nói lãi suất sẽ được thả nổi và sẽ bằng mức lãi suất liên ngân hàng (bản dịch tiếng Việt) cộng thêm

một mức nào đó do ngân hàng ấn định sáu tháng một lần. Từ "benchmark rate" dùng trong câu này là lãi suất tham

chiếu (còn gọi là reference rate), lãi suất liên ngân hàng thường được gọi là inter-bank rate.

Trước đó, bản thông báo cho biết: "The inaugural issue was a VND400bn (US$22m) floating rate issue with a tenor of

two years and one day". Để cho văn vẻ, người viết sử dụng khá nhiều từ để chỉ lần phát hành đầu tiên (inaugural

issue, maiden issue, debut...). Kỳ hạn của chứng chỉ tiền gửi hay trái phiếu thường được gọi là term, hay tenor. Còn

kỳ hạn hai năm cộng một ngày là vì lý do cho dễ tính (tròn hai năm).

Câu khó tiêu hóa nhất trong thông báo này là: "The CD can be sold back to XXX Hanoi branch on each coupon

payment date after a certain holding period at the benchmark one-year government bond rate plus a certain spread

but the issue when bought back cannot be less than the coupon rate for the previous fixing period".

Xin đối chiếu với bản dịch của ngân hàng này mấy ngày sau: "Chứng chỉ tiền gửi này có thể chiết khấu tại XXX Hà Nội

trong mỗi kỳ trả lãi sau một thời hạn nhất định, với lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn một năm cộng với một chênh

lệch lãi suất nhất định, nhưng không quá lãi suất ấn định của kỳ lãi trước".

Phần sau của bản dịch này có vấn đề vì tiếng Anh là "cannot be less than" tức là không thấp hơn trong khi tiếng Việt

là "không quá" tức là phải thấp hơn. Không biết bản nào chính xác đây?

57

Ở trên là nói chuyện tiếng Anh. Bây giờ xin nói sơ qua nội dung. Bản dịch dùng cụm từ lãi suất liên ngân hàng (tiếng

Anh: benchmark rate) có thể gây hiểu nhầm. Vì lãi suất liên ngân hàng là loại lãi suất các ngân hàng áp dụng cho

nhau như khi cho vay qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ hay trạng thái ngoại hối. Còn ở đây, thực chất người ta muốn

nói đến lãi suất huy động tiền gửi bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh; mức cộng thêm là 10 điểm

(0,1%). Và sau khi kiểm chứng lại thì ở phần chiết khấu, đúng là sau khi giữ chứng chỉ tiền gửi một năm, người mua

có thể bán lại cho ngân hàng này, khi đó lãi suất bằng lãi suất trái phiếu chính phủ loại một năm cộng 1 điểm phần

trăm. Mức này không thấp hơn mức lãi suất đã được ấn định cho kỳ sáu tháng trước đó.

Nhân đây xin giới thiệu thêm một số từ liên quan đến "certificate of deposit". Ở Mỹ có loại "jumbo CD" tức là các

chứng chỉ trị giá lớn, mức tối thiểu cũng phải chừng 100.000 đô la. Callable CD là loại chứng chỉ mà ngân hàng phát

hành có thể mua lại, nhằm phòng hờ trường hợp lãi suất trên thị trường thay đổi mạnh.

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

58

:: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh :: 20/09/2007 3:07 CH

iPhone và MBA

Nguyễn Vạn Phú

Chuyện hãng Apple quyết định giảm giá bán điện thoại iPhone đến 33% sau chưa đầy hai

tháng đã trở thành một bài học về quản trị kinh doanh, được bàn tán sôi nổi trong các trường

đào tạo MBA.

Trong quản trị kinh doanh, định giá sản phẩm một cách linh hoạt, dựa vào nhiều yếu tố gọi là

dynamic pricing. Tờ New York Times nhận xét: "There were wrinkles created by all the

dynamic pricing". Wrinkle ở đây không phải là nếp nhăn mà là tác động xấu. Đầu tiên:

"Customers who paid $599 when the iPhone came out two months ago saw their status drop from early adopter to,

well, sucker". Đối với các sản phẩm công nghệ, có mấy loại khách hàng: Innovators (2,5% - toàn là dân trong nghề,

chuyên thử sản phẩm), Early Adopters (13,5% - những người ham thích đồ chơi kỹ thuật), Early Majority (34% - đa

số khách hàng biết thích ứng theo xu hướng), Late Majority (34% - đa số khách hàng loại kỹ tính) và Laggards (16%

- những người chậm chân). Vì dưới hạng Early Adopters không phải là "sucker" (kẻ bị lợi dụng, bị lừa) nên bài báo

phải ngưng giữa câu và thêm từ "well" (theo nghĩa, biết nói sao nhỉ).

Thứ đến, "You could speculate that Apple slashed the price on the iPhone to gain additional leverage in peddling songs

and episodes of "Heroes". Bài báo lập luận, giảm giá iPhone tức là Apple hy vọng có thêm lợi thế để bán nhạc hay

phim qua iTunes nhưng sản phẩm chính của Apple là máy móc chứ không phải là nội dung. Bài báo cho biết: "ITunes,

for all its ubiquity, is not a big profit center". Ubiquity là sự có mặt khắp nơi (vì iTunes bán nhạc qua mạng); và cụm

từ for all its... mang nghĩa "cho dù... đi nữa". Cũng trong kinh doanh, người ta thường phân biệt profit center với cost

center: từ trước là bộ phận làm ra tiền, từ sau là nơi chỉ chuyên tiêu tiền.

Thực tế là khách hàng lỡ mua iPhone với giá đắt đùng đùng nổi giận ("I guess I paid an extra $200 for the privilege of

waiting in line for a few hours"), giá cổ phiếu Apple giảm mạnh (Its shares closed at $136.76, down $7.40, on news

of the price cut). Steve Jobs, ông chủ Apple đã nhanh chóng chữa sai bằng cách tặng phiếu mua hàng trị giá 100 đô

la cho khách hàng cũ.

Ngược lại với những lời chê bai chiến lược kinh doanh của Apple, nhiều nhà quản trị nhận xét: "Fundamentally, the

iPhone price cut was a shrewd business move". Shrewd ở đây là khôn khéo, tinh ranh. "Retail analysts have found

that prior to the dramatic drop in price roughly 9,000 iPhone units were sold per day, whereas now the cut has hit

stores it is estimated that Apple now sells 27,000 units per day". Tăng số lượng hàng bán ra gấp ba lần là phần

thưởng đáng giá cho quyết định giảm giá liều lĩnh và sau đó một tuần Apple tuyên bố đã bán được 1 triệu chiếc

iPhone, "almost three weeks ahead of schedule".

Điều này đúng với nhận định của nhiều nhà phân tích thị trường trước đó: "I surmise Apple had intended an iPhone

price cut before Christmas, but saw slowing sales numbers and decided that taking action sooner would spur more

holiday sales". Từ surmise là phỏng đoán còn spur là thúc đẩy. Một người khác nhận xét: "I don't think Apple is

sacrificing as much on its profit margins as Wall Street at first feared". Như chúng ta đã biết trước đó, một chiếc

iPhone có giá thành chỉ khoảng 250 đô la; bán với giá 399 đô la thì profit margin vẫn còn rất lớn. Còn nữa: "Jobs

hinted last week that economies of scale and falling component prices had helped bring down the cost of

manufacturing the iPhone". Economies of scale là từ rất thường gặp trong quản trị: đại khái là sản xuất số lượng càng

nhiều thì giá thành mỗi đơn vị sản xuất càng giảm. Từ economies of scope có nghĩa tương tự nhưng để chỉ việc can

thiệp vào bên cầu chứ không phải bên cung. Đôi lúc người ta chỉ dùng scale là đủ: If Apple sold more than it hoped,

then it would achieve scale faster and would be able to drop prices sooner.

Thực ra, nếu đặt việc giảm giá iPhone vào bối cảnh giới thiệu các dòng máy nghe nhạc iPod mới như iPod Touch,

59

Thực ra, nếu đặt việc giảm giá iPhone vào bối cảnh giới thiệu các dòng máy nghe nhạc iPod mới như iPod Touch,

chúng ta sẽ thấy Steve Jobs làm đúng bài bản quản trị kinh doanh. "At $399 for a 16GB iPod Touch, sales of the 8GB

iPhone would have been cannibalized if the iPhone had remained $200 more expensive". Cannibalize bình thường là

tháo để lấy phụ tùng, là làm thịt một cái máy nào đó nhưng ở đây là bị bóp chết. iPod Touch giống y iPhone trừ mỗi

một chuyện là không có chức năng điện thoại.

Nói gì thì nói, các nhà quản trị của các hãng điện thoại lớn khác đang vò đầu bứt tai vì các tay lãnh đạo Apple: "They

are doing their best to suck out all the oxygen in the room from the other guys before the holidays". Dân mua bán kỳ

vọng vào mùa mua sắm cuối năm, nay bị Apple hút hết khách thì lấy gì để sống? Có lẽ chính vì vậy nghề quản trị

kinh doanh là nghề mà trường lớp chỉ dạy được cách bắt chước chứ không dạy cách sáng tạo. Và cũng vì thế, chính tờ

New York Times kết luận: "So any MBA would add all this up and say that the rational strategy would be to lower the

price as quickly as component economics allows in order to maximize market share".

Go to source: :: Thời báo kinh tế Sài Gòn - Tuần báo của giới kinh doanh ::

Printed from EverNote-A Single Place For All Your Notes. www.evernote.com

60

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro