tiếng đàn môi sau bờ rào đá_đỗ bích thủy

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỖ BÍCH THÚY

Truyện ngắn

GIÓ LÙA QUA CỬA

Đỗ Bích Thúy

Có tiếng nổ uỳnh uỳnh như tiếng công nông, tiếng bánh xe lộc cộc trên đá dăm lao vào ngõ, gạt cánh cổng gỗ đánh xoẹt. Thằng mất dạy nào đấy, có biết nhà ai đây không mà láo lếu thế hở? Thằng nào? Bà có ra mà lôi cổ nó vào đây tôi dạy cho một bài không? Con cái nhà ai thế không biết?". "Bố? Con đây chứ thằng nào. Bố lại đang uống rượu à, may quá, con về đúng lúc. Đang thèm rượu muốn chết đây bố ạ". "Mày... là mày đấy à? Rước cái của nợ ấy ở đâu về thế, hay lại trộm cắp của ai, hở? Tao là lao không để yên đâu nhé! Ngồi xuống, lấy thêm cái chén. Mẹ mày vừa lĩnh lương hưu, chi hẳn cái đùi với cả đĩa dồi, cứ nhắc mãi không thấy cái mặt giặc (là mày ấy) đâu cả: Rõ thiêng. Ăn đi, rồi nói tao nghe, mày lấy cái của nợ ấy ở đâu ra?". "Bố cứ hay đùa, lấy đâu ra? Nửa năm mửa mật của con đấy chứ lấy ở đâu. Bố có biết của độc là cái gì không? Là cái mà cả Hà Nội chỉ có vài tay thợ biết sửa nó như thế nào, thay thế phụ tùng ở đâu, là cái mà chỉ nhìn đã biết cái thằng người ngồi trên nó là loại gì, là...". "Là loại đầu trộm đuôi cướp, loại thích chít khăn tang lao như điên lúc nửa đêm ấy hả. Gì thì gì, con tao hay không phải con tao, hễ cứ ngồi trên cái của nợ ấy trông đã không đứng đắn, không tử tế, đã là loại thích chơi lười làm, loại không coi thiên hạ ra gì, loại...". "Thôi nào, bố! Bố cho con ăn vài miếng đã, kẻo lại phụ lòng mẹ. Ăn xong rồi con với bố nói chuyện cái xe. Con mời bố một chén. Mẹ mua rượu nhà ai mà thơm thế, mai con xuôi, mẹ kiếm cho con vài lít nhá. Tuần sau thằng Bờm tròn sáu tháng, đám bạn con thế nào cũng đến, cho chúng nó chết tại trận".

Xong bữa, bố không còn nhớ gì đến cái xe nữa, bố ngủ mất rồi. Bố bao giờ cũng thế, uống vào là ngủ, là không biết trời đất gì nữa. Mẹ bảo đấy là cái nết của bố. Chồng người ta uống vào là đánh đập, chửi bới vợ con,

chồng mẹ chỉ có đánh đẫy một giấc, xong, không ò ê gì. Sống ở đất rượu mà như bố, đàn ông chỉ có một. Làng có bao nhiêu ông chồng thì bố là tấm gương của bấy nhiêu ông. Ngẫm ra, mẹ là người đáng được tự hào nhất ở làng. Anh cả làm ra nhiều tiền, mua một cái nhà to tướng, sau cơn sốt đất này dưới Hà Nội, anh có cả tỷ bạc trong tay. Trong cái nhà bốn tầng to thù lù ấy, anh trang bị cho chị dâu cả với thằng cháu đích tôn của ông bà đến tận răng mọi thứ đồ dùng hiện đại, bóng loáng, gõ vào đâu cũng kêu coong coong. Bà hãi nhất là phải xuống đấy, thôi thì chúng mày thỉnh thoảng đưa cháu về cho tao hít hà một tí, đừng bắt tao phải xuống ở trong cái nhà ấy. Tao phát bệnh ra mất.

Anh thứ chưa lấy vợ, ở một mình trong căn hộ bé như cái lỗ mũi tít trên tầng năm một khu chung cư. Mắt cận bảy tám đi ốp, nói nửa câu sách vở nửa câu, cứ như tung hoả mù trước mặt người ta. Mấy ông đồ Nho còn sót lại trong làng, hễ thấy anh thứ về là chèo kéo đến nhà đàm đạo chữ nghĩa bằng được.

Cậu út có cái thú mua bán, đổi chác xe máy, mỗi lần về làng lại cưỡi một cái xe mới. Thôi thì đủ kiểu, nhưng nhất thiết là cái nào cũng phải nổ thật to. Như hôm nay đây, cái xe to như xe bò nghênh ngang giữa làng, hàng xóm được một mẻ nghe chó sủa điếc lai. Mẹ chẳng ưa gì cái xe kềnh càng, đúng như bố bảo, ngồi trên cái xe ấy, người tử tế mấy cũng thành ra không tử tế. Nhưng nó lại bảo mẹ, vụ khoai tây này, cả làng gom lại, bán được giá đi nữa thì cũng chỉ bằng nửa cái xe ấy thôi. Nghe ù cả tai. Nhiều tiền thế thì biết nói gì nữa. Nhưng thiếu gì cách để khoe tiền, tại sao lại phải mua một cái xe như thế mà đi. Thanh niên bây giờ lạ thật, mất liền mua cái không tử tế vào mình thì chỉ có chúng nó. Thật không thể hiếu nổi.

Đêm, khuya hẳn rồi mà nó còn dong ra ngõ, đánh thức bọn trẻ con hàng xóm dậy, chất chúng ngồi chồng lên nhau kín cái xe, phi thẳng ra bờ

sông. "Chúng mày có đứa nào biết chị Thơm, con ông Vạn lái đò không?". "Biết chứ sao không. Chị Thơm ngày nào chẳng mang ngô sang chợ huyện từ sớm tinh mơ". "Nhưng chị Thơm không phải là con ông Vạn nữa rồi". "Sao lại không phải là con ông Vạn nữa? Chúng mày chỉ huyên thiên". "Thật mà. Chị Thơm thành con ông Tỉnh từ lâu rồi, bây giờ sang ở hẳn bên huyện bán thịt rồi. Con dâu ông Tỉnh chẳng ở đấy thì ở đâu". "Con dâu à, thế thì phải nói rõ là chị ấy đi làm dâu nhà người ta chứ". "Anh út ơi, ông Q. bảo lẽ ra ông ấy hỏi chị Thơm cho anh mà, phải không? Anh mà lấy chị Thơm, chở lợn cho chị ấy bằng cái xe này thì sướng phải biết, nhỉ . Chồng chị Thơm ngày nào chẳng chở lợn bên này về mổ, nhưng chỉ chở bằng xe Min thôi".

Dòng sông chảy dưới ánh trăng giữa tháng sóng sánh vàng. Con đò của ông Vạn lấp ló ánh đèn. Sau cái đận chở đầy người quá bị lật, xã không cho chèo đò nữa, ông Vạn chuyển sang nghề đánh cá. Con gái đi lấy chồng, nhà bỏ không, ông gần như xuống thuyền ở hẳn, đêm cũng ngủ dưới thuyền. Không chở người thì ông chở lợn, những con lợn béo nung núc, cậu con rể gom từ khắp các làng bên này sông, mang sang chợ hóa kiếp. Sáng nào qua sông nó cũng dúi cho ông gói lòng còn nóng hôi hổi trong lá chuối, kiếm chai rượu nữa là ông say sưa cả ngày. Hôm nào hứng lên thì giăng lưới, quăng chài. Ông bảo ông là người sướng, sướng nhất làng. "Cậu về đấy à, xuống làm với tôi choóc rượu. Này, ngày xưa tôi mà gả con Thơm cho cậu thì giờ sao nhỉ, cậu lại lôi nó xuống tít Hà Nội ấy, coi như tôi mất con còn gì. Nó hận tôi lắm, cái đận ấy Nhưng đâu phải tại tôi, đúng không cậu? Có duyên số cả đấy cậu ạ, các cụ nhà mình nói cấm có sai. Hồi cậu đi, con Thơm đòi nhảy sông tự tử. Con nhà lái đò mà nhảy sông tự tử thì chết thế quái nào được. Nó quẫn quá quên mất đấy mà. Cứ tưởng không lấy được nhau thì chết, thế mà cuối cùng có đứa nào chết đâu. Anh bây giờ ăn nên làm ra lắm hử, là tôi nghe nói thế. Cũng mừng.

Con Thơm nhà này...". Ông già nói một thôi một hồi chợt chững lại, nâng chén dốc thẳng vào miệng đánh ực. "Thơm thế nào, bác? Sao bác không nói tiếp? Cô ấy khổ ạ? Vì cái gì? Kìa... bác...". "Vì cái gì à? Chả vì cái gì, cũng chả khổ. Chồng mổ lợn, vợ bán, tiền nong rủng rẻng, có gì mà khổ... Nhưng mà... vẫn chưa có con. Chồng nhận tại chồng, vợ tranh tại vợ, không đứa nào chịu đi khám xem thực hư thế nào. Sốt cả ruột. Thôi, uống đi. Uống đi nào, mấy khi cậu về...".

Theo hai anh "bỏ làng", xuôi Hà Nội, đánh vật với cái mác ngoại tỉnh, học đủ thứ cốt để không thất nghiệp, cốt để mở mày mở mặt cho thiên hạ biết tay, cốt để bố mẹ không phải làm gì lúc tuổi già mà vẫn đủ ăn đủ tiêu, trong nhà lúc nào cũng có dăm trăm bạc phòng khi hiếu hỉ không phải lo chạy quanh như nhà người la. Lúc chưa có cứ tưởng chỉ cần như thế là đủ, là mãn nguyện, nhưng có rồi lại thấy còn thiếu bao nhiêu thứ. Thế là cứ lao đầu vào mọi chỗ, không bỏ qua một cơ hội nào. Không phải là tham lam, dứt khoát không phải là tham lam. Mà đã là một cái gì đó như thói quen, như ngồi lên một cái xe là phải lao đi, quen rồi, dừng lại không chịu được. Nhưng cũng không ngờ đến lúc lao đi mãi rồi, đến lúc không coi cái gì ra gì nữa, không còn sợ ai nữa, không còn phải lo thiếu thốn bất cứ thứ gì nữa, thì cũng là lúc thấy chính mình thừa ra. Có ai như mình không, hai ông anh mình có như mình không, không biết nữa. Cái thằng đàn ông mà cũng có lúc buồn viển vông, mơ hồ như đàn bà thì thật chẳng ra gì. Biết thế, nên cố giấu. Chỉ có mẹ là nhận ra. Lúc nào đột nhiên về nhà, dù là nửa đêm, mẹ cũng không hỏi tại sao lại về, tại sao lại đêm hôm mò mẫm thế. Sự im lặng của mẹ thật vô cùng dễ chịu. Trên đời này có hai người làm nó luôn cảm thấy dễ chịu khi ở bên cạnh, đó là mẹ và thằng con trai nửa tuổi. Cái thằng bé khôn sớm đến lạ lùng. Nửa đêm, nghe tiếng xe nổ ình ình của bố là thế nào cũng dứt vú mẹ chồm dậy mở to mắt trong màn nhìn ra, miệng cười toe toét. Hai người, một hiểu tất cả

và một không hiểu gì cả đã làm thằng đàn ông gần ba chục buổi đầu cân bằng những lúc chống chếnh nhất, những lúc đã nghĩ đến một lối thoát nhẹ nhàng... Nếu không có hai con người ấy thì không biết đã ra sao rồi. Hầu như không ngày nào ăn được hai bữa cơm ở nhà. Khuya khoắt lắm mới xong việc để về. Vợ như ô-sin, dỗ con ngủ rồi gà gật ngay cạnh cửa, chờ tiếng xe về để mở cổng, để đẩy giúp vào trong nhà. Tự dưng khó chịu kinh khủng, nhìn thấy mâm cơm đậy lồng bàn không thể không cáu um lên. "Đã bảo ăn thì cứ ăn, phần làm gì. Về được thì người ta khắc về đúng bữa, sao lại cứ phải chờ?". "Ăn một mình em không nuốt được". "Trời ạ, nhàn cư sinh đỏng đảnh đấy à? Hay tại xem phim Hàn Quốc nhiều quá mà sinh hội chứng lãng mạn...". "Ô kìa, sao tự dưng chỉ có chuyện ấy mà anh cũng cáu với em? Anh...". Khóc. Dấm dứt. Nức nở. Sụt sịt. "Trời ôi, nhà cửa thế này thì tôi về làm gì, cô có biết cả ngày ngoài kia tôi mệt mỏi thế nào không? Có im ngay đi không. Tôi đã vung tay trước mặt cô bao giờ chưa, thử xem cả xóm này có thằng chồng nào tử tế hơn tôi không? Tại sao cô không biết làm cái gì đó để mỗi lúc về nhà tôi không thấy tức ngực khó thở thế này? Tôi có bắt cô làm gì nặng nhọc đâu, có bắt cô phải tằn tiện chắt bóp đâu, mà sao có mỗi cái việc ấy cũng không làm được!". "Nhưng việc ấy cụ thể là việc gì, anh phải bảo thì em mới biết chứ...". "Nếu biết là việc gì thì tôi tự làm cho xong. Tôi là chồng chứ không phải là vợ. Trời sinh ra đàn bà các cô để làm vợ, thế thì cô phải biết là mình cần làm gì trong gia đình chứ...". "Em phát điên lên mất thôi anh ơi, em xin...". "Không phải chờ cô. Tôi đã điên rồi đây này...".

Cố ghìm để không to tiếng mà thằng cu con đã ngủ vẫn nhổm dậy trong màn, đầu ngọ ngoạy, miệng ô a không rõ muốn nói cái gì. Tự dưng chùng người xuống: Rệu rã như một cỗ máy đã hết thời hạn sử dụng. Hình như mình cần một sự bảo trì bảo dưỡng nào đấy, nếu không thì chỉ ngay ngày mai thôi sẽ rữa nát ra. Khốn khổ, sự rữa nát bên ngoài còn nhìn thấy

được, có khi chỉ thay một cái sơ mi mới là đủ phục hồi. Nhưng sự rữa nát bên trong thì thật kinh khủng. Không nhìn thấy, chỉ cảm thấy. Máu chảy chậm rù rì trong huyết quản, thở mà như không thở, mọi ý nghĩ chìm nghỉm trong một cái vũng lầy đặc sền sệt. Cũng có thể nó chưa đến nỗi rữa nát, cũng có thể nó mới chỉ là dấu hiệu cho một căn bệnh tâm thần nào đó. Sợ, rồi lại không sợ. Lại sợ. Căn nhà thành ra trống huếch trống hoác, thành ra lạnh lẽo, xa lạ từ bao giờ thế không biết. Ôm riết lấy con. Thằng bé theo thói quen rúc vào ngực bố tìm bầu sữa. Cọ mớ râu lởm chởm vào má nó. Thật không thể hình dung được, cái thằng người râu ria cóc cáy như mình mà cũng đã từng bé tí thơm tho, ấm mềm thế này. Con người mà cứ được bé mãi thì sung sướng quá. Nào, ngủ đi con. Ngủ đi. Đêm nay con ngủ với bố nhé. Ngủ đi là hết đói thôi con ạ. Ngày xưa bố cũng thế đấy. Lúc nào đói không chịu nổi nữa thì đi ngủ. Rúc đầu vào đống rơm mà ngủ. Thế mà giờ lắm người lại phải ngủ để quên no đi đấy con ạ. No quá cũng khó chịu không kém gì đói quá, có khi còn khó chịu hơn.

Sáng, mở mắt ra, vợ đã lấy kem đánh răng vào bàn chải, khăn mặt ngâm trong nước nóng, bày sẵn trên bàn ăn ba món để thích chọn thứ nào thì chọn. Xong bằng ấy việc thì ngồi vào một góc, lặng lẽ chờ, mặt như lá chuối hơ lửa, đợi chồng ăn xong để lấy tăm, lấy nước, rồi vào phòng chuẩn bị quần áo, giày, tất. Vậy mà mỗi buổi sáng phải khoác vào người mớ quần áo thơm tho phẳng phiu lại thấy mất tự tin đến nỗi ra khỏi nhà là phải ghé ngay vào một quán nước chè nào đó vệ đường, đứng lên ngồi xuống cho nó nhàu nhĩ đi một tí. ấy vậy mà không sao mở miệng nói được một câu, đại loại như, thằng tôi sao thì cứ để vậy, rơm rác quen rồi, đừng có cố gột rửa tôi như thế. Khốn khổ, đến mấy cái thứ mặc trên người cũng biết làm thế nào để hành mình, vợ chả tội tình gì thì biết trút cục khó chịu vào đâu?

Cơ quan đông nghìn nghịt. Con gái trẻ lượn ra lượn vào như bươm bướm. Không hiểu sao cơ quan này lại lấy lắm con gái thế không biết. Sểnh ra một cái là thấy thì thụt lôi trong ngăn kéo ra nào son nào phấn, hí húi bôi quệt, cứ như không có son phấn thì thành ngợm cả. Hầu như không ngày nào thống kê được mình đã làm những việc gì từ sáng, đã gặp những ai, đã nói những câu dài ngắn thế nào. Chỉ biết đến tối mịt, có khi gần nửa đêm vẫn đang ở một chỗ nào đó hoàn toàn không phải của mình. Đã thành một cỗ máy rồi, đã không làm chủ được mình nữa rồi, đã phải vận hành hết công suất rồi. Không ngày nào không ước ao sóng điện thoại tự dưng mất tiệt đi, đừng có rung bần bật trong túi quần nữa. Điện thoại đã đổi đến lần thứ mười mấy, đã là loại bé tí như đồ chơi trẻ con rồi, mà cái sự rung của nó trong túi quần vẫn không giảm bớt khó chịu đi tí nào. Mỗi lần thấy buồn buồn ở hông là một lần giật thồn thột, lại muốn ngừng cả thở. Càng ngày càng mất lịch sự, càng vắn tắt, càng tiết kiệm công nói công nghe.

Cái cục bực bội không lúc nào chịu rời đi cho, hễ cứ về đến nhà là nó lại cồm cộm lên, ứ đến cổ. Vợ ti tỉ khóc. Tối nào cũng ti tỉ khóc. Mà cái giống, khóc thì khóc cho thoả, khóc thoải mái một lần cho hết cơn đi còn dễ chịu. Đằng này lại cứ giấu giấu giếm giếm, mím môi mím lợi, lại cứ chạy ra chạy vào toa lét, mặt mũi thì đỏ tía cả lên. Người ta làm gì mình đâu mà phải khóc. Nhà cao cửa rộng không thiếu thứ gì, lại ở vị trí mà bao nhiêu người nhiều tiền thừa của bây giờ muốn có. Hoa ư, cây cảnh ư, chim chóc ư, chó mèo õng ẹo ư... đủ hết. Vậy mà lại rũ người ra như bông hoa héo là làm sao? "Cả ngày chỉ có mỗi việc trông con, dạy con, cô mà để thằng bé ảnh hưởng đến thần kinh thì liệu hồn. Hay tại tôi hay cáu gắt, tôi không biết ngọt ngào như trong phim, trong tiểu thuyết hở?". "Anh... sao anh không cố hiểu em, không cố thông cảm với em?". "Trời ôi, tôi tối mắt tối mũi ngoài đường từ sáng sớm đến đêm khuya thế này,

rúc về nhà được mấy tiếng đồng hồ mà lại còn phải làm cái công việc hiểu cô hay sao? Cô làm vợ kiểu gì thế? Vợ gì mà không biết thương chồng, xót chồng hở? Mà cô thì có gì khó hiểu đâu cơ chứ. Cái đầu cô lúc nào cũng sạch sẽ thơm tho thế kia thì đựng được thứ gì trong ấy? Tôi đã không yêu cầu cô phải lo nghĩ việc lớn việc bé gì, cô chỉ có mỗi một trọng trách là ngồi đấy, trông con, đợi tôi về rồi mở cổng. Hay là ngày mai tôi thuê người chuyên mở cổng, đóng cổng thay cô nữa? Này, cô thật là có vấn đề mất rồi...". "Nhưng... em thực ra là cái gì trong nhà này anh có khái niệm được không? Có không?". Và lần này thì khóc to, khóc thật sự, khóc không giấu giếm nữa. Khóc đến nghẹn thở, mặt mũi đỏ tía, tóc xù cả ra. Mở toang tất cả cửa kính cửa chớp, cho gió lùa vào khắp nhà, bật tất cả quạt lên nữa. Sao vẫn nặng nề bức bối thế này. Cô ơi, tôi quỳ xuống lạy cô đây này. Cô làm gì tôi thì làm ngay đi, giết tôi cũng được, nhưng đừng bắt tôi phải làm cái mà tôi không biết nó là cái gì. Cô cũng không biết nó là cái gì cơ mà...".

***

Mấy bà mẹ chạy khắp làng ời ời gọi trẻ con về đi ngủ, đã có người dóng dả như hát hay: "Đâu có cái loại người nào lại thế chứ, nửa đêm nửa hôm rồi còn tha con người ta đi, đúng là cái đồ dở hơi, rửng mỡ". Ô hay, mình làm gì mà để người ta chửi thế. Về thôi nào, chúng mày lên xe hết đi, bám cho chắc vào. Bây giờ mong cái xe nổ bé tiếng đi một tí thì nó lại kêu to hơn, như trêu tức, giữa đêm thanh vắng. Bầy chó lại được một mẻ sủa inh ỏi.

Bên cánh cổng đang mở sẵn, mẹ đứng nép vào một bên, chờ cái xe to như xe bò phi vào sân rồi cài then. Nó đã mua cái xe này chỉ vì muốn có tiếng nổ thật to, có lúc còn tháo cả ống xả ra. Phố xá càng đông người càng thấy mình cô quạnh, mình thừa ra, nên cứ phải có cái gì thật náo động mới yên tâm được. Vậy mà giờ này, vấp phải sự lặng lẽ của mẹ lại muốn

ngay lập tức vứt quách cái xe đi... "Mẹ à, con nhớ thằng Bờm quá. Có khi con không ngủ nhà nữa đâu, con về với nó đây". Mẹ lại ra mở cổng, với tay xoa nhẹ lên vai, nắm nắm mấy cái. Mắt mẹ ầng ậng nước trong bóng tối lờ mờ dưới tán cây hồng xiêm mười mấy năm tuổi... Giờ mới thấy, đôi mắt thằng Bờm mỗi lúc mở to trong màn nhìn ra, giống mắt mẹ vô cùng.

Trăng vẫn đổ ánh sáng rời rợi xuống dòng sông vàng. Tiếng ông Vạn hát

ồi ồi vọng vào làng. Đúng là ông Vạn sướng. Sướng thật.

GIÓ KHÔNG NGỪNG THỔI

Đỗ Bích Thúy

Với cảm quan tinh tế và ngôn ngữ nhuần nhị, Đỗ Bích Thúy dường như đã soi rõ mọi ngõ ngách đời sống tình cảm của những con người vùng cao, lật lên những lớp vẻ đẹp sâu đằm trong tâm hồn họ. "Gió không ngừng thổi"- tiếp nối mạch đề tài sở trường của chị - là một truyện ngắn giản dị và sâu sắc.

Thào Mí Chà ở Lũng Pục là một thằng trai đẹp, trán cao, vuông, lông mày rậm, mắt sáng, hai hàm răng rất trắng và miệng cười làm chết người, bọn con gái ở Lũng Pục rất nhiều đứa thích nó, nhưng nó là một con ngựa chỉ thích ăn cỏ trong vườn hàng xóm. Cái thằng hư thế không biết, nó không giống bố nó là ông Thào Mí Sùng một tí nào. Mấy hôm nay người Lũng Pục xôn xao ca lên vì chuyện thằng Chà tự dưng mất tích. Nhà ông Sùng như có đám, cả Lũng Pục cũng như có đám theo. Người Lũng Pục xưa nay vẫn thế, mấy chục nóc nhà sống với nhau như anh em ruột thịt, một con bò cày nhà ai bị ngã núi thì cả bản xúm lại góp mỗi người một ít tiền cho nhà ấy mua ngay một con bò mới, huống hổ lần này lại là chuyện mất ích của thằng con trai duy nhất nhà ông Sùng. Bọn thanh niên bổ đi tìm, sang Pải Lủng, sang Cao Mã Pờ, sang Khâu Bủng, chỗ nào có nhiều con gái đẹp là tìm đến, ba ngày sau thì đưa được thằng Chà say khướt về.

- Tìm thấy nó ở đâu thế? Người già nhao nhao, mắt vằn lên vì tức giận.

- Ây dà, nó uống rượu ở nhà một đứa gái góa bên Cao Mã Pờ...

- Cái gì? Uống rượu ở nhà một đứa gái góa à? Trời đất ơi, gầu Mông ơi là gầu Mông, sao lại chui vào váy một đứa gái góa thế hở?

Thế này thì không được rồi, không được rồi. Mỗi người một câu thi nhau trút xuống đầu thằng Chá. Trong khi bố nó, ông Sùng như già đi hàng chục tuổi, ngồi gục một góc bên cạnh chai rượu ngô đã cạn, mẹ nó nằm như một tấm váy ướt trong buồng. Đứa chị thì mặt tái xanh, cầm khăn lau mặt cho thằng em vẫn đang say sưa ngủ, bọt mép sùi cả ra.

*

Năm mười tám tuổi ông Sùng đã lấy bà Kía, ở với nhau bảy năm mới đẻ được một đứa con gái, là cái Sèn. Nhưng cái Sèn đã lớn mà mãi không có em, mẹ chồng bà Kía đã đi khắp cả vùng Quản Bạ, Yên Minh, lên cả Đồng Văn, Mèo Vạc, mang về đủ thứ thuốc mà con dâu cứ như con bò đực, không đẻ nữa. Trước lúc chết, bà gọi con dâu vào buồng:

- Phải có một đứa con trai, con dâu à, nếu không thì sau này... bà già khóc nấc lên, hai giọt nước mắt hiếm hoi lăn ra từ hai hốc mắt trũng sâu. Bằng mọi cách phải có một đứa con trai, phải giữ được đất của họ Thào ở Lũng Pục, phải có người thờ cúng tổ tiên, nhớ chưa.

Bà Kía nước mắt ròng ròng không mở miệng nói được câu nào, chết lặng nhìn mẹ chồng ra đi. Bà Kía gần như được mua về nhà chồng. Bố mẹ chết sớm, Kía ở với chú thím, chú thím nghèo, đông con, từ sáng sớm đến đêm khuya chỉ biết hùng hục làm lo đổ đầy ngô xay vào chõ mèn mèn cho lũ con gần chục đứa đang tuổi ăn tuổi lớn, thế nên Kía không được dạy dệt vải, thêu thùa, khâu vá, Kía chỉ giỏi cầm cái cày đi sau con bò và bỏ hạt ngô xuống hốc đá mà thôi. Bố mẹ chồng đã phải bỏ ra hai trăm đồng bạc trắng để lấy được Kía về làm dâu. Ngày đầu tiên về nhà chồng, mẹ chồng dẫn Kía xuống bếp. Ở bếp có con ma bếp, ma bếp cai quản việc sinh đẻ của đàn bà và phu hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Vì thế không được dẫm chân lên bếp lò, không được gõ vào thành bếp, lúc nào muốn nhấc chảo cám lợn ra phải cho một hòn đá vào giữa... tất cả những điều đó bà mẹ chồng dặn kỹ như dặn một đứa con gái sắp đi lấy chồng chứ không phải

với một đứa con dâu mới về. Ở nhà chồng Kía được thương yêu, được đùm bọc, được chăm sóc khi ốm đau, ngày Kía đẻ con Sèn bố mẹ chồng làm một cái lễ cúng ma buồng to lắm, to như cúng cho một thằng cháu trai. Con Sèn lớn nhanh, rất ngoan nhưng dù thế nào nó vẫn không phải là con trai. Bố chồng, rồi mẹ chồng đã lần lượt đi theo ông bà tổ tiên, mà Kía vẫn còn một món nợ chưa trả được.

Ngày ngày Kía hùng hục giành làm hết việc, lúc nào cũng dựng sẵn một thùng rượu ngô ở góc nhà và vài tảng thịt khô trên gác bếp để chồng gọi bạn đến chơi. Kía sợ chồng buồn, chồng buồn thì Kía càng có lỗi quá. Kía cũng buồn, buồn lắm, vừa buồn vừa thương bố mẹ chồng chết chưa nhắm được mắt, thương chồng sắp đến tuổi ông mà chưa được làm bố một thằng con trai, nhưng cái buồn giấu tận đáy lòng không làm phai mờ đi nhan sắc của người đàn bà miền núi một con, cặp má đỏ hồng, da căng mịn, mái tóc rất dày và hai cánh tay khỏe mạnh, Kía vẫn làm chồng mệt lử sau mỗi đêm uống rượu với thịt bò khô.

Mẹ chồng chết đã nửa năm, một đêm, Kía cầm lấy tay chồng, khẽ khàng:

- Mình tìm cho bố nó một người vợ nữa nhé? Chồng Kía ngồi bật dậy:

- Cái gì, vừa nói cái gì thế?

- Mình tìm thêm cho bố nó một người vợ nữa. Phải đẻ một đứa con trai bố nó à, mình đã hứa với tổ tiên rồi, bằng mọi giá phải có một đứa con trai để sau này còn có người thờ cúng, có người giữ đất.

Chồng đưa tay bịt mồm Kía, Kía gạt ra, nói tiếp, rất nhanh:

- Nghe mình, mình sẽ tìm một đứa gái tốt, một đứa gái biết đẻ mình sẽ coi nó như em gái mình, mình sẽ bảo nó cách làm vợ...

Chồng Kía nắm chặt lấy hai vai vợ, lắc mạnh:

- Nghe đây này, có chết tôi cũng không lấy ai nữa, có chết ngay bây giờ tôi cũng không cho bất cứ người nào bước chân vào nhà này, nhớ chưa. Kía nghẹn giọng: .

- Mình đã hứa với bà nội con Sèn rồi... biết làm thế nào?

- Làm thế nào thì mặc kệ, tôi không biết.

- Nhưng... mình đã đưa nó về đây rồi.

- Cái gì? Đưa ai về đây?

- Là đứa gái con nhà Lừ bên Cao Mã Pờ. Mình mang nó về đây rồi, nó

đang ngủ với con Sèn đấy.

- Ái chà, vợ mình đã coi mình như con lợn con dê rồi đây, định mang mình đi lấy giống hở. Đâu nó đâu, xem cái mặt dày thế nào mà dám bước chân vào nhà này.

Kía không kịp níu áo thì chồng Kía đã sồng xộc bước ra ngoài, xông thẳng đến trước cửa buồng con gái. Nhưng cũng lúc ấy, cánh cửa phía trước kèn kẹt mở ra, rồi tiếng bước chân dẫm lên đống đỗ tương phơi dở ngoài hiên lạo xạo vội vã... Người mà Kía định đưa về làm vợ hai cho chồng đã nghe thấy hai vợ chồng nói chuyện với nhau, bỏ đi mất rồi.

Chồng Kía ra bếp ngồi, vớ lấy cái điếu cày rít sòng sọc, một lúc sau lại lấy thêm chai rượu, rót uống một mình cho đến sáng.

Từ đấy, Kía không dám nhắc đến chuyện tìm vợ mới cho chồng nữa. Mà không lấy thêm vợ nữa cho chồng thì lấy đâu ra con trai cho họ Thào cơ chứ. Mỗi lần đưa con đi hàng mấy cây số ra suối tắm giặt Kía lại đằm mình trong nước suối, chỉ mong nó làm cho mình xấu xí đi, khô héo đi. Tại sao một người đàn bà không đẻ được nữa lại cứ nở ra như một bông hoa chuối đỏ rực, căng mọng thế này? Nhưng nước suối, cả những mớ lá cây úa vàng cháy trong lòng nó cũng không làm Kía khô héo đi. Giá mà chồng Kía bớt yêu vợ đi một tí thì có khi đã khác.

Một buổi chiều, đã muộn rồi nhưng Kía vẫn cố nán lại trên nương để bẻ nốt chỗ ngô. Năm nay ngô được mùa, bắp nào cũng to, dày hạt, cầm nặng trình trịch, năm nào cũng được thế này thì người Mông không bao giờ lo đói. Đang lúi húi bẻ ngô thì một người đàn ông xuất hiện ngay trước mặt Kía. Là Vàng Chỉn Tờ trên Khâu Bủng. Kía biết người này, người này có họ xa với nhà chồng. Vàng Chỉn Tờ nhìn Kía cười cười:

- Muộn rồi sao chưa về hở chị dâu?

- Cũng đang định về đây. Lâu lâu không thấy chú đến chơi, ông bà trên ấy có khỏe không?

- Khỏe, khỏe lắm. Em cũng khỏe, chị có tin không?

- Chú nói gì thế, khó hiểu quá.

Tờ sán lại gần, nhìn Kía cười cười nuốt nước bọt ừng ực. Kía lùi lại, nhìn quanh. Trời đang sẫm dần, cả một dải nương ngô đã vắng ngắt. Tờ vẫn cười:

- Thấy bảo anh Sìn dạo này không khỏe, muốn có con trai mà mãi chưa

được.

- Từ từ rồi khắc có, đi đâu mà vội.

Kía lúng búng mấy câu nhưng Tờ đã sấn đến, đè nghiến Kía xuống đất. Kía gào thét, giãy dụa, Tờ cười hềnh hệch, nước dãi rớt ra thành dòng:

- Để em cho một đứa con trai, chị dâu à, nghe em, em cho một đứa con trai, khỏi phải lo lấy vợ mới cho chồng.

Trời tối đen, nương ngô rất rậm và cao, tiếng gào thét của Kía bị át đi bởi tiếng gió từ trong thung lũng đang phả ra ào ạt... Mãi cho đến khi có tiếng trẻ con thét lên bên cạnh, tiếng gậy đập lẹt đẹt ngay bên trên Kía. Là cái Sèn, bố đi đám cưới để Sèn ở nhà một mình, sợ quá nó đã mò lên nương ngô tìm mẹ.

Nếu không có Sèn ở bên cạnh đêm ấy thì có lẽ Kía đã không về nhà, đã ra bờ vực và nhảy xuống. Chỉ có một nơi nào đó sâu thẳm, tối đen mới có thể xoa dịu nỗi tủi nhục mỗi lúc một dâng lên trong lòng Kía. Nhưng con Sèn còn bé quá, không thể nào để nó lại được.

Sau hôm ấy Kía bị ốm, hằng tháng liền không dậy được, cũng không ăn nổi thứ gì. Cứ cầm lấy bát cháo thì cái mặt đầy dãi rớt của thằng Tờ lại hiện lên, cơn buồn nôn lại ào đến. Sùng đã đưa thầy Sa man về nhà, nhưng thầy Sa man cũng chịu, và không cần phải dầm mình dưới suối nữa thì Kía cũng đã khô héo đi như một quả đậu giống để trên gác bếp Nhưng trong lúc mê lúc tỉnh, điều kinh hoàng nhất mà Kía cảm thấy lại là một sự sống đang hình thành trong bụng mình. Đúng vậy, đó là điều kinh hoàng nhất mà Kía phải đối mặt. Cái sự sống rất bé nhỏ ấy, đúng là nó, đang cựa quậy, dần thành hình hài trong bụng Kía. Ôi trời ôi, nếu mà nó mang cái mặt giống như cái mặt đầy rớt rãi và đôi mắt đục ngầu thì sao? Nếu mà nó giống hệt như thế thì sao? Hàng ngày Kía sẽ phải nhìn thấy nó, đối diện với nó, ôm ấp nó, trời ôi, thế thì có tội lớn quá, thế thì có chết khô bảy lần có chết ướt mười lần cũng không gột rửa hết.

Thế mà không để ý đến nỗi sợ hãi vô ngần của Kía, đứa bé cứ lớn dần lên trong bụng. Phải bỏ nó đi thôi, không thể để nó ra đời được. Nó là ma quỷ, nó là rắn rết, nó là hổ báo, lợn rừng, nó không phải người, nó không được ra đời, không thể để nó ra đời rồi mang họ Thào được. Đêm khuya, trời rét căm căm, Kía mò mẫm ra vườn cải, phía sau chuồng dê, Kía lấy một cái khăn to, quấn chặt lấy bụng rồi bám lấy dóng chuồng dê nhảy chồm chồm, nhảy đến mệt lử mồ hôi vã ra đầm đìa. Nhưng đứa bé, dai dẳng như một sợi mây, dứt khoát không rời khỏi Kía. Đã thế tao sẽ nhịn ăn, nhịn ăn cho mày chết đói. Kía lẩm bẩm. Nhưng chồng Kía không để cho Kía nhịn, nếu Kía không ăn thì Sùng cũng không thể ăn được, nếu Kía chết thì chồng Kía cũng chết theo. Con Sèn ngồi một góc ôm bát mèn

mèn còn đầy nguyên, nghe bố nói với mẹ mà nước mắt ròng ròng. Khốn khổ quá, vậy là Kía đành phải để đứa bé lớn lên trong bụng mình.

Một đêm tối trời, mưa rả rích, Kía lên cơn đau bụng. Đứa bé sắp ra rồi, chồng Kía vẫn ngồi khoanh chân bên bếp uống rượu với thịt bò khô, hai gò má tái xanh, tóc rối bù. Ở trong buồng Kía không dám gọi chồng. Một nỗi sợ hãi cộng với tủi nhục, cộng với đau đớn tột cùng làm Kía không cất nổi tiếng gọi. Kía bám lấy mấy mép giường, nghiến răng, cong mình lên và rồi đứa bé trôi tuột ra khỏi bụng mẹ. Nó khóc váng lên. Trong lúc lơ mơ Kía chỉ nhận thấy ánh mắt lấp lánh của con Sèn bên ánh đèn dầu, còn chồng Kía đang ôm đứa bé, nhìn chăm chăm vào mặt nó.

Đó là một thằng bé trai có khuôn mặt sáng như ánh trăng. Kía nhìn con chim bé tí như quả ớt chỉ thiên của nó mà tối tăm mặt mày. Vậy là nỗi sợ hãi lớn nhất của Kía đã hiển hiện ngay trước mặt. Thằng bé sẽ là người đàn ông nối dõi của dòng họ Thào ở Lũng Pục. Chồng Kía vừa đào lỗ chôn nắm nhau của nó ở chân cột nhà chính vừa nói:

- Chỉ tại mày mà tí nữa tao mất vợ, phải ăn cho khỏe, lớn cho nhanh để thay tao làm trụ cột cái nhà này, đừng có để cho bố mẹ mày phải khổ vì mày nghe chưa.

Thằng bé như nghe được lời Sùng nói, tiếp tục khóc váng lên. Tiếng khóc của nó làm chấn động cả Lũng Pục, ánh đuốc lập loè từ mấy chục nóc nhà tỏa ra, người Lũng Pục ùa đến xem mặt thằng bé. Mừng quá, mừng cho nhà Sùng quá, người tốt như thế mà không có con trai nối dõi thì ông trời thật là không phải.

Cứ thế, thằng Chá lớn lên nhanh như thổi. Năm nó một tuổi, tròn trùng trục như một cái cối xay. Trong lễ mừng tuổi nó, Sùng đưa cho nó một cục sắt để sau này rèn dao đi nương. Như mọi đứa bé trai khác, thằng Chá

đã được bố nó giao cho trọng trách làm chủ gia đình, và phải trở thành một thằng trai giỏi giang, thạo việc.

*

Đã lâu rồi, Sùng không làm cái việc của một người chồng với vợ. Thằng Chá đã lớn rồi, nó thôi không còn bú mẹ nữa, nhiều đêm nằm giữa một bên con, một bên chồng Kía thao thức không ngủ được. Cái mùi mồ hôi rất thân thuộc ở ngay bên cạnh, Kía chỉ mong được vùi mặt vào đấy mà hít hà cho thoả, nhưng Sùng luôn luôn ngủ rất nhanh và rất say. Sùng đã quên vợ rồi sao? Hay tại Kía bây giờ không còn được như trước nữa? Suốt thời gian mang thằng Chá trong bụng, sinh nó xong, Kía đã như một cái cây bị phơi khô, có phải vì thế mà Sùng không còn muốn gần gũi vợ nữa? Nhưng sâu thẳm nhất, sau mỗi lần trằn trọc vật vã, là một nỗi sợ hãi khôn tả. Nỗi sợ hãi nằm sẵn trong lòng Kía, thỉnh thoảng lại trỗi dậy.

Kía nằm nhích lại gần, xoay người khe khẽ, vòng tay ôm lấy cổ chồng. Sùng chưa ngủ, bằng chứng là hơi thở của Sùng dồn dập, lồng ngực Sùng dưới cánh tay Kía phập phồng. Kía phả một hơi thở thật nóng vào mặt Sùng, nhưng Sùng chỉ quay lại ôm lấy Kía, vỗ vỗ vào vai như dỗ trẻ con ngủ rồi thôi. Nằm trong vòng tay chồng một lúc lâu, tự dưng Kía thấy tủi thân quá, Kía chuồi ra, quay lại ôm lấy con, lặng lẽ khóc. Sau lưng Kía, Sùng thở dài thườn thượt. Tất cả những vồ vập, hồ hởi của Sùng trước đây giờ đã không còn bóng dáng. Chẳng lẽ... chẳng lẽ điều Kía lo sợ nhất, Sùng đã biết chuyện xảy ra trong nương ngô, lại là sự thật? Nghĩ đến đấy Kía bủn rủn chân tay. Không thể như thế này mãi được, Kía phải hỏi cho ra nhẽ, hoặc là Sùng cứ đuổi mẹ con Kía đi, hoặc là Sùng phải chửi rủa, phải đánh đập, chứ Sùng đừng như một cục đá thế này. Kía quay phắt lại, lay chồng:

- Bố nó ngủ chưa?

- Ngủ rồi. Có chuyện gì à?

- Ừ, có chuyện. Bố nó à...

- Gì thế?

- Có phải bố nó... bố nó... biết...

- Ầy dà, có chuyện gì mà ấp úng mãi thế, nói tuột ra xem nào.

Trong bóng tối Kía bấu chặt mấy ngón tay vào tấm chăn. Kía đang run bắn lên. Nếu như Sùng chưa biết thì sao? Có thể Sùng chưa biết lắm chứ, nếu không thì làm sao khi Kía sinh một đứa con không phải con đẻ của Sùng, Sùng lại yêu thương nó, nâng niu nó đến thế, mỗi khi thằng bé nghịch dại, người mắng nó, cầm roi vụt vào mông nó không phải Sùng mà là Kía. Nghĩ đến đấy, ý định hỏi cho rõ lại trôi tuột đi trong đầu Kía.

*

Thế là thằng Chá cứ lớn lên trong nỗi sợ hãi sâu thẳm của mẹ nó. Nó không hề biết điều đó, chỉ biết rằng nó được nuông chiều, và vì nó là thằng con trai nối dõi dòng họ nên vai trò của nó rất quan trọng, mỗi khi nó ốm đau thì cả họ cuống lên lo lắng, gà vịt lũ lượt theo nhau đến kêu inh tai dưới bếp. Nó chẳng biết làm gì hết. Việc nhà bố nó, mẹ nó, chị nó làm tất, nó chỉ việc mặc quần áo đẹp, cắp cây sáo vào nách và ngồi trên lưng con ngựa tía rong ruổi hết chợ này đến chợ khác. Và vì nó có một cái mặt rất đẹp, lại thổi sáo hay như dứt ruột người ta ra nên ở đâu đám con gái cũng vây quanh nó, đứa nào được nó liếc cho một cái thì mất ngủ mấy đêm liền.

Trước Tết, nó bảo sang Cao Mã Pờ chơi với mấy thằng bạn trai. Mẹ nó bảo:

- Tết đến nơi rồi, nhà nào cũng lắm việc, mày chơi với ai. Không đi đâu hết, mấy hôm nữa còn cùng bố mày sửa nhà.

Nó cãi:

- Đã hẹn chúng nó rồi, không đi không được.

Bà Kía nhìn thằng con trai câng mặt cãi lại, tức lộn ruột, định cho nó một cái tát thì ông Sùng ngăn lại:

- Để nó đi cũng được, sửa nhà có một tí thôi, bố với chị Sèn làm một lúc là xong. Ông Sùng quay sang Sèn:

- Sèn à, cho nó đi, nhỉ?

Sèn gật đầu. Vậy là thằng Chá nhảy tót ra cửa, chỉ một loáng tiếng lục lạc

đeo trên bờm ngựa đã xa tít.

Nó đi chơi đến sáng mùng một tết mới về đến nhà, mặt gầy xọp đi, quần áo xộc xệch, đầu tóc rối bù, chân đi đất. Không thấy nó dắt ngựa theo, bà Kía hỏi, nó thản nhiên:

- Chơi bạc, gán cho chúng nó rồi.

Nói xong, chui lên gác ngô ngủ một mạch ba ngày liền. Nó không biết con ngựa ấy đối với bố nó quan trọng thế nào. Đấy là con ngựa mà người bạn thân nhất của ông Sùng đã để lại tặng ông trước khi chết. Một con ngựa tía đẹp hiếm thấy ở vùng núi đá này, chân dài, bụng thon, ức nở, bờm dài và lúc nào cũng mượt óng. Ông Sùng đã chăm bẵm con ngựa suốt mấy năm trời, cho đến khi thằng Chá lớn thì ông đã nhường cho nó. Con ngựa chỉ làm đẹp cho nó thôi, nhìn nó cưỡi trên lưng ngựa, cả hai lao như bay trên triền núi chênh vênh, đứa gái nào cũng mê tít. Vậy mà chỉ vì thua bạc, hết tiền, nó gán luôn con ngựa cho người ta.

Bà Kía leo lên gác gọi thằng Chá dậy, nó dúi đầu vào trong đống ngô dứt khoát không ra. Nó đã thức liền mấy đêm liền, giờ phải ngủ, không ngủ thì chết mất. Bà Kía cầm chân cố lôi nhưng nó cứ ì ra, đành hậm hực xuống nhà. Đúng lúc ấy thì ông Sùng đã đội mũ nồi, lấy thêm con dao

nhọn còn nguyên trong bao da, cả cái đèn pin nữa, đi ra cửa. Bà Kía giật mình:

- Ông đi đâu đấy, đang Tết mà.

- Có một tí việc, tôi phải đi.

- Nhưng việc gì chứ?

- Ừm, đàn bà biết gì mà hỏi.

Ông Sùng đi hết đêm, đến sáng hôm sau thì về đến nhà, dắt theo con ngựa tía. Thằng Chá vẫn còn ngủ như chết trên gác ngô, bà Kía định leo lên lôi nó dậy nữa thì ông Sùng bảo:

- Kệ nó, để cho nó ngủ.

- Phải cho nó một trận mới được. Tức quá đi thôi, ai lại để bố già thế này phải đi chuộc ngựa cơ chứ.

- Thôi mà, đằng nào cũng lấy được ngựa về rồi.

- Phải đấy, làm sao ông lấy được ngựa? Mang tiền đi chuộc à?

- Làm gì có tiền. Có mỗi cái này thôi.

Ông Sùng chìa con dao nhọn ra. Bà Kía rùng mình:

- Ông... làm gì chúng nó?

- Chẳng làm gì cả, chỉ giơ cái này ra là chúng nó khắc phải trả. Nhưng chỉ dọa được một lần thôi, lần sau thì chắc chúng mang con ngựa đi bán luôn chứ không chờ mình đâu.

Thằng Chá nằm trong đống ngô nghe hết câu chuyện. Nó không dám dậy, biết ăn nói với bố thế nào, con ngựa quý thế mà loáng một cái nó gán luôn cho mấy thằng bên Cao Mã Pờ, như nó là bố thì có khi chặt chân thằng con trai rồi.

*

Bà Kía ốm. Thầy Sa man đến gọi hồn về, gọi mãi không được, thầy Sa man bảo:

- Chắc là phải để bà ấy theo tổ tiên thôi.

Thêm chuyện thằng Chá sang Cao Mã Pờ ăn ngủ ở nhà một đứa gái góa nữa, bà Kía càng không thể dậy được.

Ông Sùng ngồi bên cạnh vợ, tay nắm chặt tay vợ, râu tóc đã bạc trắng sau mấy đêm liền không ngủ. Ông hỏi rất khẽ:

- Có mệt lắm không? Bà Kía hơi lắc đầu:

- Không mệt đâu, chỉ buồn ngủ thôi.

- Không được ngủ đâu, bà vợ à, không được ngủ đâu. Phải cố thức, nhé. Bà Kía chớp mắt thay cho cái gật đầu. Bà cũng biết, mình không được ngủ, nếu mà ngủ thì sẽ không dậy nữa. Nghe giọng chồng như sắp khóc bà thấy thương chồng quá. Bà biết mình sắp đi theo tổ tiên rồi. Trước lúc đi nhất định bà sẽ nói sự thật cho ông Sùng biết. Phải nói cho ông ấy biết thì bà mới nhắm mắt được, sang bên kia mới dám nhìn mặt bố mẹ chồng. Nhất định bà sẽ nói.

- Đừng ngủ, bà vợ nhé. Không được ngủ đâu. Bà có dặn gì tôi, con Sèn với thằng Chá không?

Bà Kía nghe chồng hỏi, nhưng không trả lời, nắm nắm lấy mấy ngón tay khô khốc của chồng. Bên ngoài tiếng con Sèn rấm rứt khóc vọng vào. Đêm đã khuya lắm, bà Kía vẫn chưa ngủ, không phải bà cố thức mà vì bà tiếc, bà không muốn ngủ chẳng ở được với chồng với con bao lâu nữa mà ngủ thì tiếc quá. Bà chỉ nhắm mắt nằm đấy thôi. Thằng Chá mấy hôm nay lại đi chơi rồi, không biết bao giờ mới về. Nhà chỉ có con Sèn với ông Sùng đi ra đi vào. Ông Sùng vén chăn lại cho vợ rồi bước ra ngoài. Con Sèn vẫn ngồi bên bếp tẽ ngô.

- Không ngủ à Sèn, để mai làm cũng được mà. Sèn không trả lời, hỏi lại bố:

- Mẹ ngủ hay thức thế bố?

- Ngủ rồi. Thức mãi thì cũng phải ngủ chứ.

Ông Sùng lấy điếu cày, cho một cục thuốc lào to tướng vào nõ điếu, châm lửa hút liền mấy hơi, phả khói mù mịt:

- Sèn à, có chuyện này bố phải nói mới được. Giọng Sèn chợt thảng thốt:

- Chuyện gì thế bố?

- Chuyện này... lâu lắm rồi, cũ lắm rồi, bố định không bao giờ nói cho con biết, nhưng giờ... mẹ sắp bỏ bố con mình để đi theo ông bà rồi, bố phải nói thôi...

- Bố à, có chuyện gì mà bố phải giấu lâu thế. Có chuyện gì mà con không biết?

- Sèn à, sau này, lúc con đi ấy chồng rồi, không biết bố như thế nào... ông Sùng thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa tối đen, ngoài đó từng đợt gió rét mướt đang thổi mấy cái vỏ ngô trên sân đá lạt sạt. Sèn nhìn ông hoang mang.

- Sèn à, thằng Chá ấy, thằng Chá em con ấy, nó không phải là con đẻ của bố. Con biết không? Nó không phải là con đẻ của bố đâu, thật đấy. Giờ mẹ sắp đi rồi, bố định hỏi xem mẹ có muốn cho nó đi nhận bố đẻ không. Cả con nữa, con có muốn thế không? Con là con gái lớn, bố để con quyết định đấy. Có nên hỏi mẹ con không hở Sèn?

Mọi dồn nén của bao nhiêu năm đã phút chốc vỡ vụn ra làm Sèn bải hoải, rụng rời. Mười bảy năm nay lúc nào Sèn cũng nơm nớp lo một ngày bố biết sự thật, bố sẽ giết chết mẹ, giết chết thằng Chá mất. Cũng chỉ vì thế mà Sèn không dám đi lấy chồng. Sèn sợ mình đi lấy chồng rồi thì không

còn ai bênh mẹ, bênh em. Thằng Chá ấy, cho dù nó mất nết, cho dù nó là một thằng trai hư hỏng thì nó cũng là em của Sèn, là ruột thịt của Sèn. Mỗi khi thằng Chá làm sai việc gì Sèn lại nhăm nhăm bênh nó. Sèn chỉ sợ bố hắt hủi nó thì mẹ lại tủi thân. Cái buổi chiều ngoài nướng ngô năm nào ám ảnh Sèn cho đến giờ, Sèn không tin vào người đàn ông nào hết ngoài bố Sèn ra, nhưng ngay cả bố, Sèn cũng không dám nghĩ rằng bố chịu đựng được. Sèn gục đầu vào vai bố khóc nức lên:

- Bố à, bố ơi.

Sèn chỉ kêu được thế. Bố Sèn đang bấu chặt mấy ngón tay gầy guộc vào vai Sèn, như thể Sèn là chỗ nương tựa cuối cùng trước khi bố như một con ngựa dũng mãnh ngã xuống vực sâu.

Trong lúc ấy, ở trong buồng, bà Kìa lặng lẽ kéo chăn lên ngang mặt, nhắm chặt mắt và thở thật chậm. Gió vẫn đang rít lên bên ngoài, những mảnh vỏ ngô bị cuốn lên, đập cả vào tường nhà lẹt xẹt...

Hết

CON DÊ BỐN MẮT

Đỗ Bích Thúy

Hôm nay nhà Thèn Kháy Chỉ ở Chín Chải cưới vợ cho con trai. Ai chà, cưới đứa đầu tiên có khác, mổ hẳn hai con bò, mâm bát linh đình từ ba ngày trước, người ra người vào nườm nượp.

Buổi sáng, Thèn Kháy Chỉ giao cho thằng con đang học lớp bảy trường nội trú huyện mang giấy bút ra ngồi đằng sau cái bàn gỗ kê ngoài cổng, còn thằng em nó thì cầm một cái túi trước là túi đựng cám con cò mua về nuôi lợn cưới đứng bên cạnh, miệng túi mở sẵn ra. Thế là thành lệ rồi. Trước, đi đám cưới, người làng có gì thì mang nấy, chục con gà con nhốt trong lồng làm giống cũng được, một cái chảo cũng được, thậm chí nhà nghèo quá thì vót cho mấy cái cặp bếp, mấy cái muôi, thìa gỗ. Bây giờ thì theo nhau, đi mừng đám cưới bằng tiền. Nhiều ít, giàu nghèo gì cũng đưa tiền hết.

Thằng Chính nhận tiền, đếm, vừa ghi vào giấy vừa nói to: Ông Dùng ở Chín Chải: năm nghìn; bà Phường ở Sính Lủng: mười nghìn... Ghi xong, đưa tiền cho thằng em, thằng em bỏ luôn vào túi cám con cò. Hai anh em chúng nó ngồi đếm đếm ghi ghi được một lúc thì mặt trời lên cao, nắng rọi xuống bỏng cả mặt. Người thì mỗi lúc một đông, thỉnh thoảng thằng Chính dừng lại, vặn vẹo cổ tay cho đỡ mỏi. Anh Dí ở Chín Chải: Hai... hai... hai trăm nghìn đồng. Thằng Chính lắp bắp rồi hô to. Đám người đứng sau chờ đến lượt ồ lên, rồi một người, hai người mở miệng: "Ai chà, con nhà giàu mà". "Phải rồi, hai trăm nghìn chứ hơn nữa cũng chẳng là gì đâu". "Nhưng làm thế chẳng phải đập vào mặt bằng này người già hay sao?". "Ừm, khoe đấy. Giàu mà không lấy được vợ thì giàu làm gì?". Thằng Dí, phải, đúng là thằng Dí con nhà Dấn ở xóm dưới, nghe đến đấy,

tức quá lườm người nói một cái rồi nghênh ngang đi vào trong nhà. Người vừa nói là Chảo A Chai người Xà Tủng Chứ.

Thằng Dí ấy, đúng là con nhà giàu. Từ bé đến lớn mỗi bữa nó ăn một bát thịt đầy, cơm chỉ dính mấy hạt dưới đáy bát. Bố nó, Thèn Văn Dấn bảo, tao khổ mãi rồi, giờ phải để chúng mày sướng. Cứ ăn đi, ăn được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Nhưng không biết tại sao, ăn nhiều thế nhưng thằng Dí vẫn không lớn được. Mười sáu tuổi mà chỉ bằng đứa mười ba, chân tay, mặt mũi trắng như cỏ mọc trong nhà.

Thèn Văn Dấn, một buổi sáng ngồi ăn thịt chó dưới phố huyện thấy mấy thằng trai phóng xe máy vèo vèo, phụt khói vào mặt mình, bèn đặt chén rượu đánh cộp xuống bàn, đưa tay lên mồm chùi chùi, lẩm bẩm: "Phải rồi, phải rồi". Nói xong, đứng dậy trả tiền rồi lên ngựa đi một mạch về Chín Chải. Lại từ Chín Chải ôm một bọc tiền quay xuống phố huyện. Năm nay thảo quả được mùa, mấy cọc tiền cao lừng lững xếp đầy trong tủ lấy đi chục triệu chỉ vơi một ít. Dấn lững thững cưỡi ngựa đến thẳng hàng xe máy, chỉ vào một chiếc màu đỏ. Ai chà, đúng là nhà giàu đi mua dê, cái xe giá sáu triệu đồng, Dấn trả luôn, không nói một câu. Chủ hàng xe máy cười tít mắt, sai thằng con: "Đi đổ đầy bình xăng rồi đưa bác về tận nhà, nghe chưa". Thế là Dấn buộc ngựa vào cái cọc sắt trước cửa hàng xe máy, leo lên sau xe, phóng về Chín Chải. Đấy là cái xe máy đầu tiên xuất hiện ở Chín Chải.

Dân Chín Chải vứt cày vứt bừa nháo nhào chạy đến xem cái xe mới còn bóng lừ. Mấy ông già đưa tay sờ, miệng xuýt xoa. Dấn nói to: "Cái xe này mình mua cho con trai đấy, đứa gái nào muốn làm vợ nó thì ngồi ở chỗ này". Nói xong, đưa tay vỗ vỗ lên yên xe, cười kha kha.

Thế là từ đấy, phiên chợ nào thằng Dí cũng dắt xe từ gầm sàn ra, nổ máy ầm ĩ rồi phóng vèo vèo ra đường nhựa. Nó bé người quá, ngồi trên yên xe mà đầu còn thấp hơn cái gương. Nhưng đằng sau nó lúc nào cũng có một

đứa gái, mỗi phiên một đứa, đứa nào cũng mặt đỏ nhừ, cười tít mắt. Qua sáu phiên chợ thì vợ chồng Dấn phải đi tìm bà mối, nhờ hỏi vợ cho con trai.

Bà mối đến nhà Thào Chá Cáy. Hai vợ chồng Cáy đang ngồi tẽ ngô giống. Thấy bà mối vào, lẳng lặng đứng dậy, không nói không rằng. Bà mối ậm ừ lấy giọng:

- Ông Cáy bà Cáy à, nhà ông Dấn túng bấn quá không biết nhờ vả đâu, nay nhờ tôi đến nói với ông chia cho ít thóc giống.

Ông Cáy:

- Thóc thì có đấy nhưng không được tốt lắm, gieo nó xuống còn phải mất công chăm bón nhiều, không dám chia cho nhà ấy đâu. Bà mối:

- Hạt giống chưa tốt nhưng có mảnh đất tốt, có tấm lòng rộng rãi thì không sợ gì mất mùa ông ạ.

Bà Cáy:

- Không dám đâu, không dám đâu. Nhờ bà về nói hộ, núi ấy cao quá, nhà này không trèo được.

Bà mối cầm chén nước, uống ực:

- Thế là ông bà chê rồi, tôi về vậy. Nhưng... tại sao chứ, chê thằng Dí bé quá hay là...

Bà Cáy đứng dậy, đi ra góc nhà, vớ con dao dài, ngồi xuống thái dọc mùng xoèn xoẹt. Ông Cáy hút mấy điếu thuốc lào, thấy bà mối vẫn chưa chịu đứng dậy, bèn chép miệng:

- Nói cũng khó, không nói cũng khó. Thế này, tháng trước con Kía nhà này bị ốm, tôi phải đi mời ông then về, ông then bảo nó phải lấy một thằng trai dắt theo con dê trắng...

- Dê trắng thì khó gì - Bà mối hấp tấp - Mấy con cũng được, dễ thôi mà...

- Không phải dê trắng bình thường, phải là dê trắng có bốn con mắt kia.

- Ầy, làm gì có dê bốn mắt?

- Là hai con mắt giả mọc bên trên này này, màu đen. Ông Cáy đưa ngón tay trỏ to tướng chỉ lên trên lông mày. Bà mối gật gật đầu, uống thêm ngụm nước rồi ra về.

Chuyện nhà Cáy từ chối bà mối không gả con gái đã ngay lập tức ầm ĩ lên ở Chín Chải. Thằng Dí thì phát ốm, cái xe máy đỏ chót dựng ở đầu hồi, gà nhảy lên cục tác, phân vãi đầy trên yên cũng mặc kệ. Tìm đâu ra dê bốn mắt bây giờ? Vợ chồng Thèn Văn Dấn nhìn thằng con trai cả ốm lăn lóc cũng lừ đừ theo. Nếu mà có con dê ấy thì bao nhiêu tiền cũng mua, không tiếc gì. Chỉ cần nó khỏi ốm, nó tươi tươi cái mặt lên, nó lại phóng xe vù vù là được. Nhưng thằng Dí mỗi lúc một rũ ra như tàu chuối héo. Trong khi đó thì con dê bốn mắt lại đang được buộc ở cổng nhà Cáy. Con dê ấy của thằng Chảo A Chay người Xà Tủng Chứ. Chảo A Chay biết Kía từ lâu, mê lắm, phiên chợ nào cũng lẽo đẽo dắt ngựa theo sau, nhưng từ khi Kía ngồi sau cái xe đỏ chót của Dí, mặt đỏ dừ, mắt nhắm tít thì Chay chịu, không sao đuổi kịp. Giờ thì... hà hà, Chay biết chuyện nhà Cáy, dắt ngay con dê trong chuồng nhà mình ra, múc gần hết nước trong bể đá tắm cho nó trắng tinh ra. Riêng hai con mắt giả thì lấy than tô thêm cho đen óng. Xong, Chay dắt con dê nghênh ngang trên đường núi, xuống Chín Chải. Không cần bà mối, không cần bố mẹ, bố mẹ Chay chết hết rồi, Chay ở với chú thím từ lâu, thế là Chay tự đi hỏi vợ. Nhưng Chay không được đón ở nhà Kía. Bố mẹ Kía đồng ý, nhưng Kía thì cầm một con dao nhọn hoắt, sáng loáng, ngồi lì trong buồng, nói vọng ra:

- Bố mẹ mà cho thằng ấy vào nhà là con đâm dao vào bụng, chết luôn. Mẹ Kía run bần bật, bố Kía thì quát:

- Mày đâm tao trước rồi muốn làm gì thì làm.

Nói xong, xô cửa xông vào. Nhưng Kía đang vén áo lên, chĩa mũi dao thẳng vào bụng:

- Bố vào là con đâm ngay. Ông Cáy sợ quá, lại quay ra.

Kía không thích Chay. Đúng là Kía không thích Chay. Ngồi trong buồng từ sáng đến tối, không ăn không uống mấy ngày liền, Kía chỉ nhìn ra lỗ cửa mà nghĩ đến Dí thôi. Không phải vì Dí có cái xe máy đâu. Kía tự biết mình, không phải Kía thích Dí vì Dí có cái xe máy, hay lúc nào trong cạp quần cũng có một cục tiền dày cộp, mà vì cái gì cũng không biết nữa. Cái mặt Dí trắng quá, chân tay cũng trắng, người già bảo loại ấy không biết làm, chỉ biết ăn. Mặc kệ, Kía vẫn thích thì làm thế nào. Dí có một cái đài thu băng bé tí, phiên chợ nào Kía cũng hát cho Dí thu vào đấy, Dí bảo, đêm về không nghe được Kía hát thì Dí không ngủ được. Kía hát: Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo anh về/Em đưa anh đến con đường rẽ, con đường rẽ thụt sâu/Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo em quay lại/Anh buông tay em, tay như rụng/Như lá tre, lá gỗ lả tả rụng/Anh bỏ tay em, tay như rơi/Như lá tre, lá gỗ lả tả rơi...

Dí đã cầm tay Kía rồi, làm sao Kía buông ra được nữa.

Một đêm, Kía đợi bố mẹ ngủ rồi lẻn dậy, tìm đến nhà Dí. Dí đang nằm bẹp trong buồng, nghe tiếng rít lên lanh lảnh, ngay lập tức như chẳng ốm đau gì nữa, vùng ngay dậy. Là tiếng gọi của Kía đấy, không lẫn đi đâu được, chỉ có Kía mới biết nhét hai ngón tay vào mồm mà rít lên như vậy. Dưới ánh trăng lờ mờ, hai đứa nắm chặt tay nhau. Kía khóc ròng ròng, Kía đã mệt quá rồi, Dí cũng hết cả sức, cứ thế này thì chết mất. Kía hỏi:

- Nhà tìm được dê chưa?

- Chưa, bố mẹ nhờ khắp nơi rồi, vẫn chưa tìm thấy.

- Thế mà lại có một con buộc ở cửa nhà mình. Dí thảng thốt:

- Của ai? Của ai thế? Ai đã đến hỏi Kía làm vợ thế? Bố mẹ Kía nhận lời rồi à?

Kía lắc đầu:

- Bố mẹ mà nhận lời thì Kía chết luôn.

- Không được đâu. Chờ mình, bố mẹ mình thế nào cũng tìm được.

- Nhưng mình sợ lắm.

- Sợ gì?

- Sợ tìm không thấy, lại đi thích người khác.

- Không, Dí chỉ thích Kía thôi. Kía có chờ Dí không?

- Có chứ.

- Kía ơi, con dê ấy... của ai?

- Của thằng A Chai ở Xà Tủng Chứ.

Thế là Kía khỏi ốm. Biết Kía thật bụng thương mình, chờ mình thì gì mà không khỏi ốm. Thế nên hôm đám cưới nhà Thèn Kháy Chỉ Dí mới đi được chứ. Và Dí đã gặp thằng Chay, cái thằng có con dê bốn mắt. Chẳng biết thế nào nhà chủ lại xếp cho Dí và Chay ngồi một mâm, một mâm toàn thanh niên. Uống rượu, ngà ngà say, Chay xích lại gần Dí:

- Đã tìm được dê chưa?

- Hỏi làm gì. Dí xẵng giọng. Chay cười hề hề:

- Không tìm được đâu, đi hết dãy Hoàng Liên cũng không có con thứ hai

đâu. Hỏi vợ khác đi thôi.

- Còn lâu nhé. Cứ chờ đấy.

- Mình nói thật đấy mà, không lấy được nó đâu. Nhường cho mình là hay nhất.

Dí chồm dậy, định tát Chay, nhưng Chay tóm được, vặn cho một cái, Dí kêu oai oái.

Trên đường về, Dí đi trước, đứng đợi Chay dưới gốc một cây dẻ, chìa ra trước mặt Chay một cục tiền dày cộp:

- Bán cho tao. Chay thủng thẳng:

- Bán gì?

- Con dê, con dê bốn mắt của mày.

- Không bán đâu.

- Chê ít à?

- Không chê, cũng không bán. Phải để hỏi vợ chứ.

- Nhưng nó không thích mày.

- Lâu lâu khắc thích. Chờ mày lâu quá nó khắc phải thích tao.

Chay nghênh ngang bỏ đi, mặc Dí đứng nghệt dưới gốc cây dẻ. Mùa hè qua, mùa thu qua, mùa đông năm nay đến sớm, cây cỏ chết khô, rau trong vườn các nhà cũng không còn xanh được nữa. Mùa này là mùa gia súc dễ ốm vì đói, mà đã ốm thì rất dễ chết vì bệnh tật. Đàn dê nhà Chay đã phải bán gần hết cho mấy quán thắng cố vì chú thím sợ chúng chết. Chỉ còn mỗi con dê trắng của Chay. Chay dắt con dê trắng đi tìm cỏ. Phải ăn cỏ khô lâu ngày, lông nó đã dựng cả lên, cái bụng chửa sắp đẻ mà cũng hóp lại. Gió từ dưới sâu thốc hun hút, sương mù giăng giăng khắp nơi, con dê vẫn cặm cụi nhặt từng lá cỏ còn sót lại. Sờ bụng con dê thấy đã căng căng, Chay định về thì Dí đến.

- Bây giờ mình mua thì có bán không?

Chay nhìn Dí cười khẩy:

- Đợi nó đẻ con rồi tao bán cho, chịu khó nuôi hai ba năm là được con dê to thôi mà.

Dí bặm môi, nhìn Chay chằm chằm.

- Sao thế, lại định đánh nhau à? Đồ trẻ con, trẻ con mà cũng đòi lấy vợ. Năm nay mày mười hai, hay mười ba. Hở ?!

Chay cúi xuống, vuốt vuốt lưng con dê, cười ha ha.

Con dê đang đứng chênh vênh trên mép vực, chẳng để ý gì, vẫn cặm cụi nhặt cỏ. Nó sắp đẻ rồi, nếu không đủ ăn thì nguy cơ sẽ không đẻ được. Đột ngột, tiếng cười của Chay tắt lịm. Dí đã xông đến như một con trâu điên nhưng không phải xông vào Chay mà là xông vào con dê, Dí đẩy mạnh, con dê chới với rồi lăn tòm xuống vực.

Chay ngồi khóc hu hu ở mép vực. Còn Dí lững thững quay về. Dí không nói cho Chay biết, Dí vừa đến nhà Kía. Lâu lâu không thấy Kía đến chỗ hẹn, thấy nhớ quá, Dí phải đi tìm. Nhà Kía hôm nay có khách, khách không ở Chín Chải cũng không ở Xà Tủng Chứ. Có một con ngựa tía cao to lừng lững, lông óng mượt buộc ở gốc cây lê, phải là một người trai rất cao lớn, bắp chân, bắp tay cuồn cuộn mới cưỡi nổi con ngựa ấy. Không biết người ấy có mang đến con dê bốn mắt nào không nhưng tận mắt Dí đã thấy Kía mặt đỏ nhừ, mắt cười tít với người ta. Có con dê hay không có con dê này thì cũng thế thôi.

Nhưng Chay thì không biết, nên vẫn ngồi khóc trên mép vực.

TIẾNG ĐÀN MÔI SAU BỜ RÀO ĐÁ

Đỗ Bích Thúy

Dựng xong căn lều trên mảnh nương mới được người bạn nhường cho, ông Chúng mang mấy chiếc nồi bé sang, cả gạo, muối, dầu thắp, cả một con trong đàn chó canh nhà. Lúc bà hỏi ông, định đi luôn không về hay sao mà mang lắm thứ thế, ông bảo phải qua sông, lại cũng xa nữa, nên thỉnh thoảng ông phải ở lại. Thực ra chính ông cũng biết đó chỉ là cái cớ, chứ nếu ông đi vắng thường xuyên thì nhà ông như thiếu tường đất, mưa không biết lấy gì che, gió không biết lấy gì chống. Chưa kể gần đây thỉnh thoảng lại có nhà trong bản bị mất trộm dê lợn, có nhà đã mất cả bò. Thế mà cánh cổng gỗ vào nhà đã có từ đời ông bà, chưa một lần thay, cài then thì cũng chỉ để đánh lừa mắt thôi, người khoẻ xô nhẹ là bật ra ngay rồi. Chẳng phải ông không biết lo việc nhà, chẳng phải ông bỏ đi để hàng ngày được rượu thịt một mình. Lúc này ông thấy trong nhà mình khó ở quá, giống như trời sắp dông mà mấy ngày liền không mưa được. Nhìn dáng con May ngồi thái dọc mùng trắng cho lợn mới thấy thời gian trôi đi nhanh quá, thằng Trài cũng cao hơn con dao quắm dựng góc nhà rồi. Chỉ phải lo cho hai đứa con một vài năm nữa thôi, đến lúc chúng như cánh chim rời tổ thì với ông sống hay chết, no hay đói, giàu hay nghèo cũng chẳng cần phải nghĩ đến nữa. Cả bà chắc cũng nghĩ như ông thôi... Ông Chúng sang nương, mấy ngày đầu nhà vắng quá, bữa cơm nào cũng mang thừa bát đũa. Đến tối May sang ngủ chung với mẹ già. Thường thì cứ phải đến lúc May chập chờn ngủ rồi mẹ già mới vào. Hôm nào mẹ cũng phải đi một vòng xem lại cửa cổng, dập hết than trong bếp lò, mang chó ra buộc gần chuồng ngựa. Lúc mẹ già vào, May ôm lấy mẹ thật chặt. Người May nóng gần bằng cái bếp lò, mẹ già bảo thế.

Đêm nay May đi ngủ muộn, phần vì nhà đã vắng càng vắng - thằng Trài mang ngựa đi lấy giống, mẹ già đi xem bệnh cho trẻ con nhà Chứ - phần vì ngoài kia, sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi mãi. Tiếng đàn ấy may gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi sau lưng, May đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ lại dám theo về tận nhà người ta nữa. Đã mấy lần May đứng dậy, ngập ngừng định đi ra cửa mà chân cứ run lên lại ngồi xuống. Chiếc khăn thêu được vài đường đã nhầm, kim lại đâm vào ngón tay mấy lần. Sau rồi May cũng giữ được chân mình mặc kệ tiếng đàn môi ấy, dội lửa vào gộc củi rồi vào buồng. Tiếng đàn còn quanh quẩn bên ngoài mãi mới chịu đi. Tiếng bước chân ngựa cũng ngập ngừng. Đi ngựa là người ở xa đến rồi. Đi xa mà đứng lâu như thế dưới sương có khi lại ốm.

May nằm mãi cũng chẳng ngủ được. Trên gác nhà, con mèo mẹ tha đàn con đi đi lại lại suốt, lục sục trong đống ngô bắp. Nhà không có đủ người, gió lùa từ đầu hồi này tới đầu hồi kia, nghe mỏi cả tai. Nhằm mắt rồi mở mắt, May cố không nhìn vào cái hòm gỗ to lù lù góc buồng. Trong cái hòm ấy mẹ già cất một bộ váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu vồng, mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng thì mẹ cho mang theo. Vậy mà mới đêm hôm qua, lúc gần sáng May thức giấc lại thấy mẹ già mở hòm lấy bộ váy áo ấy ra. Mẹ già định mặc váy áo đẹp đến thế đi đâu? Hết mùa cưới rồi, họ hàng chắc cũng không còn ai cưới vợ cưới chồng cho con nữa. Mẹ già đi đâu? Hay là mẹ già định đi hội chợ 27 tới đây? Nếu thế thì... thì sao hở May? Có phải vì bố bỏ sang nương không? Hay vì bố biết mẹ già định đi hội chợ tháng 3 năm nay mà bố đi? Lâu lâu không nghĩ đến chuyện bố mang gạo muối sang bên kia sông Nho Quế, bây giờ nghĩ lại mới thấy có điều gì đó không bình thường, không giống như việc đàn ông các nhà khác làm lều trên nương canh dê bò, canh khỉ trên rừng về phá. Càng nghĩ

càng thấy khó tìm lối ra, càng khó ngủ. Tự dưng May lo lo, không rõ mình lo gì, nhưng như có ai đốt lửa trong bụng. Ngoài hè, giọt sương đọng trên mái tranh rơi xuống bể nước đá cạn khô càng lúc càng to, nghe giống tiếng mưa lác đác.

Năm nay trời rét đậm hơn mọi năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ rét lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi vẫn rét. Ra giêng hoa đào hoa lê mới đua nhau nở, ai cũng bảo năm nay Tết mùng năm tháng năm sẽ mất vui. Nhưng Tết mùng năm còn lâu mới tới, trời thay đổi tính nết thì con người khổ, khổ vì gieo hạt ngô lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá chồi lên. Đất càng ngày càng khô đi. ở những nương đá mới xếp đất xẹp dí xuống, đợi hạt giống đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được. Nhưng lo thì cứ lo vậy thôi, hội 27 vẫn chẳng kém vui hơn mọi năm đâu.Có tiếng chó đầu nhà rên ư ử, đuôi quẫy đập vào tường đất lạch phạch. Ông Chúng về. Mẹ già mới về trước một lúc lập cập ra mở cửa, xuýt xoa:

- Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn ra, sương tan cho đỡ lạnh.- ừ... - Tiếng ông khàn khàn - Cũng định thế. Nhưng có mấy người trên Xíu cái xuống sớm, bảo cho đi nhờ thuyền sang bên này, tiện thể về luôn. ở nhà có việc gì không?- Vẫn thế thôi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp gãy. Hôm nào ông về lâu lâu thì sửa nhé.

- Được rồi, cứ để đấy, tí nữa tôi sửa luôn.ở nhà này thứ gì cũng cũ, cũng già. Cả cái chuồng ngựa cũng thế. Ngày xưa bố ông Chúng dựng bằng gỗ lim từ lúc con trai út chưa ra đời. Mấy chục năm rồi, không nhớ đã có bao nhiêu đời ngựa, bây giờ mới hỏng cần phải sửa là bền quá còn gì.Trời sáng hẳn, ông Chúng đi một vòng quanh nhà, xem kỹ chỗ chồng ngựa chuồng dê rồi mang dao, cưa ra sửa luôn. Bà ra theo ông, xem có cần gì thì giúp. Vừa làm ông Chúng vừa bảo vợ:

- Mẹ già này, năm nay xuân muộn, người đi chợ 27 đông lắm, nấu được ít rượu ngô đem bán thì tốt quá.

- Không phải nấu cũng còn đầy kia kìa. Trước Tết nhà Sùng nhờ nấu mấy nồi cho nó lấy con dâu mới, sau họ hàng giúp nhiều quá lại không dùng đến.

- Thế thì bà mang ngựa thồ đi bán nhé.

Giọng nói của ông có gì khang khác, bà cảm thấy thế. Rượu nhà mình tự nấu, để bao lâu cũng được, càng để lâu uống càng ngon. Mà từ giờ đến Tết năm sau còn có bao nhiêu dịp cần đến rượu, sao ông lại giục bà đi bán. Bà nhìn mãi sang ông nhưng ông vẫn cắm cúi làm, như không để ý, như chỉ vô tình nói ra chuyện đi chợ bán rượu. Ai cũng biết mang rượu đi chợ 27 để người bán người mua uống cùng với nhau. Uống cho say rồi người mua không nhớ trả tiền cũng được, mà nhớ nhưng trong túi chỉ còn vài đồng không đủ mua túi muối, mang ra trả cũng được. Chợ ngày 27 nhưng từ 21, 22 đã lác đác có người, có rượu. Cả năm cúi mặt ngoài nương, cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi mới có lúc thảnh thơi. Không bị trẻ con quấn chân nên ở chợ mọi người tha hồ chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông quên dao, quên nỏ, đàn bà quên chảo cám, quên cái đũa cả, chẳng ai chê cười.

Giữa ông Chúng với vợ đúng là có bao nhiêu thứ khó nói ra thành câu thành tiếng. Tất cả cũng chỉ tại một người mới đến, rồi lại đi trước Tết. Đi luôn thì thôi, đằng này còn hẹn ra xuân sẽ quay lại. Nếu đúng lời hẹn thì người ấy cũng sắp quay lại rồi.

Trước Tết một tháng, đúng hôm mẹ già với May làm bánh khảo thì nhà có khách. Khách ấy là mẹ Hoa. Lúc May ra mở cổng, May nhận ra mẹ Hoa ngay, nhưng mẹ Hoa cứ đứng nhìn May mãi, nhìn không chớp mắt. May không nghĩ mình lớn đến mức khó nhận ra thế. Ngay lúc ấy May đã quay lưng đi như chạy vào nhà ngay, mặc kệ mẹ Hoa kéo lê cái túi to đùng trên đất đi sau. Người May tự dưng nóng bừng lên, hai đầu gối run bần bật. Có cái gì đó như một cơn gió lạ đã ùa đến, rồi sẽ hất tung mọi

thứ trong nhà lên, sẽ chẳng có thứ gì được ở yên chỗ của mình nữa. Sao tự dưng mẹ Hoa lại về, sao không đi luôn. Chị em May đã sắp quên chuyện cũ đi, giờ lại phải nhớ hay sao?

Mẹ Hoa đi vào trong nhà, cúi đầu chào bố đang ngồi bên bàn uống nước. Bố May nhìn ra:- à... lại về nhà đấy!- Vâng... mẹ Hoa lí nhí, đầu cúi thấp hơn nữa, tay mân mê hai cái quai túi đặt trước mặt.

- Về làm gì? Bố hỏi mà như không hỏi

- Em... em về chơi thôi. Xem mọi người thế nào.

- Thế nào à? Chẳng thế nào hết. Người lớn thì già đi, trẻ con thì lớn lên... Bố nói như không có người đứng nghe ngay trước mặt. Bố gọi May, gọi

thằng Trài. Chỉ mình thằng Trài vào, còn May đứng đầu hồi, như không nghe tiếng bố.

Mẹ già đi ra, bảo mang củi ướt ngoài chuồng ngựa vào cho mẹ gác lên bếp lò, ghé vào tai May nói như mắng:

- Không được thế con gái à. Mẹ Hoa chứ có phải người lạ gặp ngoài đường đâu. Lâu quá nó mới về nhà, nhưng con gái vẫn không quên đâu, phải thế không?

May quay lại trả lời mẹ già:

- Con còn nhờ hơn cả mẹ, mẹ già ạ. Nhớ hết. Nhớ cả con bò bị người ta dắt đi...- ầy, chuyện cũ đừng nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ, cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa nước suối đục, nhưng không đục mãi được. Con người cũng thế...Mặc kệ mẹ già nói gì thì nói, May cũng không tự bắt mình quên được. May chạy ra chạy vào, hùng hục mang tất cả số củi ướt ngoài chuồng ngựa vào chất cao gần chạm gác bếp ở sau lò. Một thanh củi rơi cả vào chảo cám đang sôi sùng sục. Mặc kệ. Mồ hôi túa ra trên mặt May, áo vay bê bết đất. Chuyến cuối cùng, thằng Trài đứng chặn ở cửa, nhìn chị từ trên xuống:

- Chị là đứa trẻ con bốn, năm tuổi à?

May mím môi. Thằng Trài người thì to thật đấy nhưng ý nghĩ thì bé, bây giờ đã dám nói cái giọng ấy với chị nó rồi cơ đấy. May giằng tay em ra, mang số củi ướt vào phía sau bếp lò, cầm lấy thanh củi trong chảo cám quấy tung cả lên.

Mẹ già về làm vợ ông Chúng đã hơn hai chục năm. Ngày ấy cả vùng này biết tiếng cô Mao đẹp người nết cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa nhanh vừa đẹp như cô. Cả vùng cũng chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng, đủ gạo, rượu như bố mẹ Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà Chúng. Trước ngày cưới, cả đêm tiếng chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn môi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô cửa bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt sương ập xuống mảnh sân, vườn, nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua thấy rõ. Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống như mũi tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến. Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe tiếng đàn Môi dành cho riêng mình nữa.

Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi ba năm, chờ mãi mà vợ chống Mao vẫn chưa có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy tìm thuốc sau thấykhông làm được gì đành thôi. Bố chồng, mẹ chồng nối nhau đi, thương con dâu như con gái nên không đành mở miệng bảo con trai đi tìm vợ mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người đàn ông trẻ nhất là Chúng.

Còn lại hai vợ chồng, bao nhiêu lần Mao nói với Chúng, hay là Chúng để Mao về nhà mẹ đẻ, cho Chúng đi lấy vợ mới, nhưng Chúng không nghe. Chúng phải giữ lấy Mao như giữ cánh cửa trong nhà mình. Chúng biết mình chẳng tìm được ở đâu một người thay được chỗ của Mao. Mỗi lần

có việc phải ra khỏi nhà Chúng cũng đều cố gắng nhanh nhanh cho xong việc để còn về. Chúng sợ Mao ở một mình lại buồn, sợ Mao đắp nửa chăn, nằm nửa giường lạnh không ngủ được.

Năm ấy, người ta mở đường lên Thượng Sơn, cả bản nhà nào cũng phải có một người ra khuân đất đá. Ngày nào Mao cũng dậy sớm đồ xôi, nướng gà cho Chúng ăn no, còn gói để Chúng mang theo ăn trưa luôn. Nhưng càng ngày con đường càng xa, làm xong không kịp về nhà, Chúng phải mang gạo đi, đến công trường góp nấu cơm chung với người ta. Vài ba hôm Chúng mới tranh thủ về được một lần. Lần nào cũng động viên Mao chịu khó ở một mình ít ngày nữa, đường sắp xong rồi.

Nhưng cũng phải hết mùa khô thì con đường nối mấy xã với nhau mới hoàn thành. Căn nhà rộng vắng bóng Chúng lâu quá nên chỗ nào cũng lành lạnh, ngày Chúng về Mao đang ốm, đã mấy hôm liền không ăn uống gì.

Nhưng Chúng không về một mình. Đi theo Chúng còn có một người cùng trong đội dân công. Người ấy là một cô gái trẻ, trẻ hơn Mao mấy tuổi, người miền xuôi.

Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của mẹ chồng trước kia. Căn buồng thường xuyên được Mao quét dọn, nhưng thiếu người ở nên cứ như cái nhà hoang. Lúc Mao mang cái hòm riêng từ ngày về nhà chồng ra thì Chúng đứng ở cửa buồng, đưa tay ra như muốn giữ Mao lại. Mao nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng không chịu được ánh mắt Mao phải quay mặt để Mao bước ra. Đêm hôm ấy Chúng ngồi gọt chuôi dao bên bếp lò, muộn lắm mà không đi ngủ. Mao dọn dẹp nhà cửa xong cũng không đi ngủ mà mang bó mùng trắng ra thái. Hai người không ai nói gì, chỉ nghe tiếng dao thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng dậy, đổ dọc mùng vào chảo cám, cúi xuống đẩy mấy gộc củi vào sâu trong bếp, lúc ấy Chúng mới kéo áo Mao, bảo Mao ngồi xuống cạnh mình.

Nhưng hai người ngồi cạnh nhau rồi mà Chúng vẫn cứ gọt mãi, gọt mãi cái chuôi dao, gọt cả vào ngón tay, máu gứa ra. Đưa ngón tay bị đứt lên miệng, Chúnh không biết bắt đầu như thế nào. Mao vẫn nhìn chằm chằm vào bếp lửa, ánh lửa hắt lên mặt Mao đỏ hồng, tự dưng Chúng thấy sờ sợ Mao, thà Mao cứ nói gì thật to với Chúng còn hơn.

Từ hôm ấy nhà có ba người. Ba người ngủ ở ba cái giường, ba góc nhà. Ba người không mấy lúc nói chuyện với nhau, Mao dưới bếp, Hoa trên nhà, Chúng ngoài vườn, chỉ bữa cơm mới ngồi gần nhau. Đêm nào cũng nghe thấy tiếng kọt kẹt từ ba cái giường. Dậy sớm hay dậy muộn thì cả ba người đều quầng hai mắt. Sống thế thì khổ quá, rồi đến lúc ốm cả thì sao? Một đêm, Chúng ngồi dậy, đi đến cửa buồng bên phải, cửa buồng cài chặt bên trong, Chúng đứng một lúc lâu, khe khẽ ho, nhưng cửa vẫn đóng kín cũng không nghe thấy tiếng người trong buồng thức dậy. Lúc ấy, buồng bên trái tự dưng có tiếng khóc. Tiếng khóc của người đang úp mặt xuống gối. Cửa buồng bên ấy lại không cài, chỉ khép hờ. Trời lạnh mà mồ hôi vã ra đầm đìa trên mặt Chúng...

Sau khi con bé May ra đời, Hoa ở lại chứ không bỏ đi như Chúng nói với Mao. Nhưng đúng là Hoa không quen làm nương, không biết trỉa đậu, vun đậu, nhóm cái bếp lò cũng không nổi. May được hơn hai tháng tuổi thì mẹ Hoa để May ở nhà với mẹ già rồi xuống phố huyện mở sạp hàng bán giày vải, thỉnh thoảng mới về.

May bé như con mèo con. Từ sáng đến tối khuya, lúc nào cũng nằm trong địu trên lưng mẹ già. Không biết bao nhiêu lần May ngậm hai bầu ngực mẹ già, nhay đến bật máu vì thèm sữa. May lên hai tuổi, còn chưa trèo qua được bậu cửa thì mẹ Hoa đẻ thêm thằng Trài. Thằng Trài lại ngồi trong địu, thay chỗ của May, lại nhay bầu vú chưa bao giờ có sữa của mẹ già.

Mẹ Hoa ngày càng ít về, mỗi lần về cũng chỉ một lúc, không kịp ăn cơm

lại đi. Lần nào về cũng mang cho hai chị em May cả túi kẹo màu to tướng, cả giày dép áo quần. Nhưng lần nào cũng vậy, chị em May lại mang kẹo ra đổ vào máng ngựa, quần áo cũng không mặc đến, mặc váy áo mẹ già dệt quen rồi. Quần áo mẹ Hoa mang về cứ để mãi trong hòm...

Năm May lên mười một tuổi, em Trài lên chín thì mẹ Hoa về nhà lần cuối cùng rồi đi hẳn. Lần ấy mẹ Hoa ăn cơm rồi ngủ lại một đêm với ba mẹ con. Bố May đi săn không về, chị em May đi ngủ sớm, sáng hôm sau thức dậy đã không thấy mẹ Hoa đâu. Mẹ già cũng chỉ bảo là mẹ Hoa đi sớm lắm, khắc tự dậy mở cửa rồi đi. Cũng đêm ấy, con bò cày bị mất trộm, ai đó đã tháo thanh cài cửa chuồng, dắt bò đi. Nhà chỉ có một con bò cày, mất bò thì người phải làm thay bò thôi. Gần trưa hôm ấy ông Chúng mới đi săn về, May ôm lấy chân bố, kể chuyện mẹ Hoa về, chuyện mất trộm bò. Không thấy bố và mẹ già nói gì với nhau về chuyện ấy. Mấy đêm liền bố May không ngủ, ngồi uống rượu khan ngoài hè, xung quanh là đàn chó con lớn con bé nằm chồng lên nhau.

Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố mẹ May phải mang cuốc đi cuốc đất thay bò. Bàn tay mẹ già đã chai càng thêm chai thêm, vết chai dày cộp như miếng cháy trong nồi cám. Đêm nào mẹ già cũng lấy hai bàn tay đầy vết chai ấy xoa lưng cho hai chị em May dễ ngủ.

Mẹ Hoa đã đi suốt bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng, ai cũng nghĩ là mẹ Hoa không bao giờ về nữa. Mấy lần ông Chúng xuống huyện cũng không thấy Hoa ngồi bán hàng ở đó. Bằng ấy ngày tháng, đủ cho bọn trẻ con sắp thành người lớn cả rồi, Hoa còn trở lại. Chẳng lẽ giống như người đi mãi mà không tới được nơi cần đến, không còn sức nữa nên quay về tìm chỗ nghỉ chân?

Mẹ Hoa về làm cái gia đình đang yên ổn như tổ chim trên cao lộn tung cả lên. Hoa đã nói những gì ông Chúng chẳng nhớ hết, vì ông không muốn nghe thì nói gì cũng thế thôi, chỉ đến khi mẹ Hoa ngỏ ý đưa con bé May

với thằng Trài về xuôi thăm họ hàng, ăn Tết, thì ông đã quát lên. Nhà ông không phải vườn ổi hoang, ai thích đến hái thì cứ hái như trẻ chăn bò.

Nói với ông khó quá thì mẹ Hoa tìm mẹ già. Sau một đêm, thức dậy ông thấy hai mắt mẹ già trũng xuống, tay bưng chậu cám run như phải cảm. Ông cứ chờ xem bà có nói gì với mình không nhưng bà im lặng mãi, cắm cúi làm, không buồn ngẩng mặt lên.

Mẹ già thì tránh mắt ông, ông lại tránh mắt mẹ Hoa. Mẹ Hoa vẫn đẹp như bông lê đang độ nở rộ ngày trời ấm. Mẹ Hoa chỉ kém mẹ già mấy tuổi mà trông như con gái của mẹ già. Có lúc mẹ Hoa nhìn ông, nhìn muốn cháy cả mặt. Lúc mẹ Hoa vén quần rửa chân, để lộ hai bắp chân tròn hơn cả bắp chân con May, thì ông xua tất cả những ý nghĩ lạ sắp đến trong đầu mình đi. Mẹ Hoa lại vào ngủ trong buồng trái, không cần ai bảo. Từ ngày mẹ Hoa đi, ông ngủ một mình ở đấy. Bà Mao lấy cớ đã ngủ quen bên kia với bọn trẻ con, dứt khoát không chuyển đồ sang lại nữa.

Ông lại ngồi uống rượu khan. Lưng áo ông lạnh buốt. Sau lưng ông là cửa buồng trái khép hờ, trước mặt là ngọn đèn cạn dầu, ngọn lửa cháy đã có mùi khét của bấc.

Mẹ Hoa không sao nói chuyện được với May. May tránh mặt mẹ đẻ. May bảo với bố, mẹ Hoa chỉ như con thú hoang ở đâu lạc vào nhà mình thôi, lúc nào không muốn ở nữa thì đuổi đi. May biết, lúc nào phía sau, bên cạnh mình cũng có ánh mắt mẹ Hoa nhìn mình. Thằng Trài khác May, nó đã chịu nói chuyện với mẹ Hoa. May đâm ra ghét cả Trài, hai chị em cũng không nói chuyện với nhau nốt. Lúc nào May cũng chỉ thấy hai bàn tay khô như hai cành mua cong queo, đầy vết chai dầy như miếng cháy trong chảo cám của mẹ già trước mắt mình.

Mãi đến lúc mẹ Hoa xách túi đi May mới nhìn thẳng vào mẹ một lần, lần

đầu tiên từ hôm mẹ về. Và May đã giật mình, đã tự dưng thấy đau buốt

trong ngực. Hai mắt mẹ Hoa - đôi mắt mà mẹ già vẫn bảo là thứ để người khác nhìn vào nhận ra May - đôi mắt ấy đỏ như chảy máu, mí mắt sưng to, hai gò má mẹ Hoa trắng nhợt. Nhưng May vẫn không nói với mẹ Hoa một lời nào, miệng May như có ai khâu chặt lại.

May đã quay mặt đi, tránh ánh mắt mẹ Hoa, May không đủ sức nhìn lâu hơn. Mẹ Hoa đã đi, một lúc đã không thấy đâu giữa những triền ngô xơ xác vừa qua vụ thu hoạch. May vùng chạy ra khỏi nhà, chạy về phía con suối nằm rất sâu trong rừng. Mẹ già đang giặt ở đấy, váy áo ướt đã phơi đầy trên những tảng đá lớn trên bờ suối. May chạy xuống, ngã dúi vào mẹ già, khóc oà lên:

- Đi... đi rồi, mẹ già ơi! Mẹ Hoa ấy...

Mẹ già ôm lấy vai May. Nước suối lạnh buốt đập vào gờ đá, bắn ướt chân váy hai mẹ con. Mẹ già khe khẽ thở dài...

May gặp người ấy rồi. Có một tối ngồi trong nhà, nghe tiếng đàn môi gọi mãi, giục mãi. May đã liều bước chân ra cổng. Người ấy ở Thượng Sơn xuống, còn trẻ lắm, hơn May một, hai tuổi là cùng, nhưng May chỉ đứng cao đến vai người ấy. Dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ May không nhìn được rõ mặt, nhưng cảm thấy rất rõ ánh mắt như có lửa của người ấy nhìn mình như thế nào. Đêm đầu tiên May chỉ dám đứng một lúc, run quá, chạy vội vào nhà, May sợ mình đứng thêm nữa thì ngã mất. Dần dần đỡ sợ hơn, May đứng thêm một lúc, có hôm sương rơi ướt vành khăn mới vào nhà. Giờ thì May đã nhận lời đi hội chợ hai bảy với người ấy.

Ngày mai Chử đợi May ở ngã ba, từ ngã ba đến chợ còn một đoạn nữa, đến nơi chắc trời cũng tối rồi. Cả đêm May không sao ngủ được. Đã cố tình đi ngủ muộn mà đến lúc vào giường, nằm mãi vẫn chưa thấy gà gáy. May nói dối mẹ già là ngày mai cái Ly rủ May sang nhà nó làm bánh, mẹ

già không nói gì, chỉ dặn đến nhà người khác phải nhớ chào hỏi người già, không được đi ngủ trước người già như ở nhà mình.

Trời mờ sáng May đã dắt ngựa ra. Con ngựa đen như hiểu ý May, ngoan ngoãn để May đặt yên lên lưng.

May run quá, chỉ sợ gặp người quen trong bản, người ta lại kể với bố mẹ thì thế nào cũng bị mắng vì tội nói dối. Nhưng sợ thì cũng cứ đi, có người đi cùng mình còn sợ cái gì. Không ngờ ở chợ ấy May gặp đến 3, 4 đứa bạn gái cùng bản, đứa nào cũng đi với một anh con trai lạ. Nhìn thấy nhau, không đứa nào nói gì, cứ làm như không quen, quay mặt đi mới tủm tỉm cười. Đêm xuống, có một thanh niên đốt đống lửa to ở giữa bãi còn, ai có cái gì mang theo thì bỏ ra ăn chung. May và bạn May cũng buộc ngựa một góc rồi ra đấy ngồi cùng. Xung quanh đống lửa càng lúc càng đông người, toàn con trai con gái trẻ. Giờ thì không thấy ai xấu hổ nữa. Má đám con gái đỏ rực nhưng là vì ánh lửa. Ai cũng như mình thì việc gì phải xấu hổ.

Sáng hôm sau, đúng ngày 27 tháng 3, mặt trời mãi mới nhô lên sau cánh rừng đỏ rực. Chử kéo tay May ra phía người ta ngồi thành hàng dài, rượu đựng trong can to để trước mặt. Nhưng ngồi uống rượu lâu cả buổi thì chỉ có người già thôi, bọn thanh niên ghé qua một tí rồi tìm chỗ khác, ít bị người ta nhìn thấy mà ngồi.

Vừa ngồi xuống một hàng rượu, chưa kịp nói gì với người bán thì đột nhiên May kéo Chử đứng bật dậy:

Đi! Đi chỗ khác. Nhanh lên.

Vừa nói May vừa kéo Chử đi như chạy, xa chỗ bán rượu càng nhanh càng tốt. May vừa nhìn thấy, May không nhìn nhầm, nhất định May không nhầm, người mặc váy áo màu như cầu vồng ấy là mẹ già. Mẹ già đang ngồi sau quẩy tấu gùi rượu, mặt đỏ rực. Còn người ngồi phía bên kia quẩy

tấu có phải là bạn cũ của mẹ già? Là người thề không bao giờ chơi đàn môi nữa từ ngày mẹ già đi làm dâu, có phải người ấy không?

May kéo Chử đi, còn Chử nhìn May, nhìn mãi không nói được câu gì. Nhà Chử chỉ có hai bố con. Mẹ Chử chết bệnh từ khi đứa con trai đang bám bậu cửa tập đi. Lên sáu tuổi, Chử đã được bố dạy thổi kèn, lên mười tuổi Chử đã theo bố lên nương. Biết chuyện, bạn May có đứa đùa, bảo May về nhà ấy làm dâu thì sướng, vì Chử thổi kèn còn hay hơn cả bố, vì May không phải chiều mẹ chồng...

Muộn lắm May mới về tới nhà. Mẹ già đang ngồi hong tay trước cửa bếp lò mới bén lửa, giục May lấy nước ấm đi rửa chân tay. Mẹ già đã mặc bộ váy áo ở nhà nhưng lại quên thay thay khăn. May ngồi xuống bên cạnh. Mẹ già bảo bố đưa mẹ Hoa xuống phố huyện chưa về, mẹ Hoa mới lên chiều hôm qua. Mẹ Hoa lại lên. Chuyện ấy có đáng nghĩ đến không? Sao mẹ già chẳng nói gì thêm? May ngập ngừng:

- Mẹ già định... định thế nào?

- Thế con gái bảo mẹ phải làm gì? Mẹ già quay sang nhìn May rồi lại quay đi, cằm tì lên hai đầu gối, tay cầm thanh củi dụi mãi vào bếp lò đang cháy to dần, một lúc lâu mới tiếp:

- Con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cục đá kê chân cột nhà chồng thôi. ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá kê cột thế thôi...Nghe mẹ già nói May ứa nước mắt ra. Vậy là hai mươi năm nay mẹ già vẫn nghĩ đến chỉ là cục đá, mẹ già không nhận chị em May hay sao? Mẹ già định trả chị em May cho mẹ Hoa như người ta mượn ngựa rồi trả ngựa hay sao? Trả xong rồi thì mẹ già làm gì nữa? Chẳng lẽ bằng ấy tuổi rồi còn định sang nhà khác tiếp tục làm cục đá kê cột? May kéo ghế ngồi xích lại gần mẹ già hơn một tí, không biết nói gì cho phải, bụng dạ đau thắt như có ai cầm dao sắc mà cứa.

Khuya rồi vẫn không thấy bố về. Bây giờ đường tốt rồi, người ta đi về chỉ mất chưa hết nửa ngày, vậy mà bố đi lâu thế? Chẳng ai bảo ai nhưng hai mẹ con đều có ý chờ, chờ đến tàn gộc củi mới đi ngủ. Nhưng vừa nằm một lúc, chập chờn ngủ thì May nghe có tiếng đàn môi cất lên. Tiếng đàn ở ngay ngoài cổng gỗ chứ không gọi ở đầu nhà như lần trước. May định mặc kệ, vừa mới chào nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ gọi mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm nay cũng có gì khang khác, dài hơn trầm hơn, ngập ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ đá vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao nhiêu lần mà lần nào May cũng hồi hộp, tim đập thình thịch. Đột nhiên mẹ già khẽ khàng ra khỏi chăn, chắc lúc đi ngủ mẹ quên chưa buộc con chó ra ngoài chuồng ngựa rồi. Đợi mẹ mở cửa, May cũng tung chăn ra. Ra bảo Chử về đi thôi. Về nghỉ mai còn đi làm chứ.

May đi như chạy ra sân, đầu va cả vào dây phơi treo đậu tương định ra rồi vào luôn để mẹ già không biết. Nhưng vừa đi qua sân bất chợt May sững lại. Ngay trước mặt May, cách chỉ hai bước chân là mẹ già. Mẹ già quay lưng lại phía May, đầu cúi xuống, tấm khăn tuột trên vai, tay mẹ già đang nắm chặt thanh gỗ gài hai cánh cổng...

May bíu lấy gốc cây lê, cố thở thật khẽ. ánh trăng cuối tuần mờ quá. Gió lạnh từ trong khe núi ào ra, mấy chiếc lá lê già còn sót lại rụng nốt, quệt vào bờ rào đá lạt sạt...

SAU NHỮNG MÙA TRĂNG

Đỗ Bích Thúy

Không hẹn trước mà lần nào trở về tôi cũng gặp trúng mùa trăng. Mùa trăng có ý nghĩa với người miền núi nhiều lắm. Thường thì người ở trên nương cứ thấy khói bếp dưới bản bay lên là bảo nhau về, nhưng vào mùa trăng thì ai cũng cố nán lại. Thêm một gùi, hai gùi cũng cố, vì người già bảo hạt lúa, bắp ngô cuối ngày bao giờ cũng mẩy hơn, chắc hơn buổi sáng. Thế nên nhiều hôm về đến nhà thì trẻ con đã ngồi chờ cơm gà gật bên bếp.

Đã mấy lần trăng lên rồi trăng tàn tôi không về. Mấy mùa trăng là mấy lần mẹ mang mẹt thuốc ra phơi, rồi lại mang vào cất đi. Ngày tiễn tôi đi, cha tôi bùi ngùi: "Mày đi thì tốt cho cái thân mày chứ ở đây mãi cũng như tao, như anh mày thôi, tóc bạc, mỏi chân, cũng chỉ có chín bậc cầu thang với cái ngưỡng cửa. Cố mà học lấy cái khôn vào đầu nhưng phải nhớ giữ cái lưng cho thẳng, giữ cái đầu không cúi xuống... Lìn à". Lúc ấy, nhìn vào mắt cha, tôi đã định không đi, nhưng cha đẩy tôi lên xe. Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cha. Vào đời, chưa kịp học lấy cái khôn vào đầu cho "mắt sáng ra, cho miệng rộng ra" để mang về khoe với cha chì cha đã ra đi, sau cái chết đột ngột của anh Lân tôi. Từ đó, mỗi khi nhớ về căn nhà rộng thênh thang của mình, tôi không hình dung nổi nó ra sao khi thiếu vắng bàn tay sắp đặt kỹ lưỡng của cha.

Về đến con suối đầu bản tôi gần như vấp phải một người đang ngồi trên phiến đá rộng như mặt bàn. Một chàng trai còn rất trẻ, hai bắp vai vồng lên dưới lớp áo tà phủ còn thơm mùi lá nhuộm. "Làm gì mà ngồi ở đây một mình thế?". "Ngồi chơi trăng lên thôi". "A, lại thổi khèn gọi con gái nhà ai phải không?". Chàng trai cuối đầu ngượng nghịu. Tôi ngồi xuống

cạnh anh ta, để nguyên cả giày sục xuống suối. Nước suối ấm, chầm chậm uốn quanh bãi lanh mọc cao hơn đầu người. Vì thế về bản phải lội hai lần trên cùng một con suối. Ngày nhỏ, anh em tôi với lũ bạn cứ nằm xoài ra, để nước cuốn trôi từ trên xuống dưới bãi lanh, đập nước mỏi chân vài lần là biết bơi.

Một tốp con gái đi nương về lội ào qua mặt tôi, phảng phất mùi của lá dẻ khô, mùi nương đồi, mùi cỏ cháy, buông lời chòng ghẹo. "Hôm nay lại có thêm một người nữa à. Anh gì ơi, đến Vần Chải tìm ai đấy?". "Chắc là tìm đứa con gái đẹp nhất rồi". "Thế thì không có đâu. Con gái Vần Chải ai cũng đẹp như nhau mà". Tiếng cười rộ lên, khuất sau bãi lanh rồi vẫn nghe tiếng cười, cả tiếng hát cất lên: "... Dêu hẩn lầu tẩu lốc, bản nuông bàu mi lóc. Lóc hẩn lầu tẩu lải, bản nuông bàu mi vai..." (Bản em không có nắng, lấy trời râm làm cảnh đẹp. Bản em không mưa phùn, thì chàng ơi hãy về)... Tiếng hát bay lên, dội vào vách núi cao ngất, xao động cả đêm đang xuống. Tôi đi qua bãi lanh, cảm giác hơi ấm của đám con gái vừa đi qua vẫn còn phảng phất.

Đến đoạn suối thứ hai, định lội ào qua rồi về nhà mình luôn thì tôi bắt gặp một người đang dầm mình dưới chỗ nước sâu. Trên bờ, một gùi củi cao ngất dựng cạnh bụi cây. Tôi ngồi thụp xuống sợ bất chợt người con gái quay lại nhìn thấy mình thì khó xử quá. Trăng đã bắt đầu lên phía sau ngọn Tạ Đú làm cả đoạn suối sáng bừng lên. Người con gái có đôi bờ vai rất tròn, cái cổ cao mà trắng như đá núi vỡ. Tôi nghe rõ cả tiếng khoả nước... Đang định đứng dậy, quay lại chỗ ban nãy, chờ cho cô gái đi trước rồi mới về. Thì cô gái đã đứng lên. Tôi cứng đờ như thằng ăn trộm bị bắt quả tang. Cô gái ú ớ không thành tiếng một lúc rồi kêu lên: "Ôi, chú Lìn. Chú Lìn phải không? Làm chị hết cả hồn. Chú về sao không báo trước cho mẹ mừng?". Tôi líu ríu: "Chị dâu! Sao đi nương về muộn thế, lại còn đi một mình!". "ừ. Cố một tí cho xong để mai còn sang nương

khác". "Đưa gùi em mang cho." "Thôi, chú không gùi được đâu. Lâu lâu không gùi cái gì thì đau vai lắm.". Chị cúi xuống xốc gùi củi lên vai. Gùi củi cồng kềnh lại nặng nên cả người chị phải lao về đằng trước. Đi sau, tôi nhận ra hơi nóng từ cơ thể chị làm cho váy áo ướt như có sương mù bay lên. ở miền núi, con gái phải tập gùi từ lúc 8, 9 tuổi. Gùi mãi, đủ thứ trên lưng, già rồi vẫn gùi nên bao giờ lưng cũng còng sớm hơn lưng đàn ông. Chị dâu tôi còn phải gùi nhiều hơn người khác, gùi thay cả mẹ, thay cả tôi. Chẳng biết đến bao giờ mới thôi không phải gùi nữa. Từ sáng sớm đến tối mịt, cái lưng chỉ thẳng ra mỗi lúc ngủ.Hai chị em mải miết đi, phía sau tiếng khèn lá đã cất lên.

Nhà tôi có ba anh em, anh cả, tôi và em gái út. Tôi với anh giống nhau y hệt. Ngày nhỏ, nghe hàng xóm hay đùa bảo mẹ tôi phải lấy nhọ nồi bôi lên mặt một đứa để còn biết đâu là anh, đâu là em. Hai đứa đã cãi nhau mà cãi không xong là đánh nhau. Vì chẳng đứa nào chịu nhận mình là người phải đánh dấu. Lớn lên tí nữa thì tôi lại cao vượt lên. Mười tám tuổi anh Lân mới chỉ đứng đến tai tôi. Ngày anh cưới vợ, tôi đã biết cầm dao chọc tiết con lợn gần một tạ, anh em thôi không còn cãi cọ nữa. Nhưng tôi đi chưa đầy năm thì anh bị lợn rừng húc chết trong một đêm lên nương canh ngô. Cha tôi đau buồn suốt mấy tháng trời vì chưa kịp có cháu nội. Không riêng gì cha mà cả họ đều trông chờ vào anh Lân. Nhưng chị dâu lúc ấy còn đứng thấp hơn cái khung cửa vài gang tay, một tay tôi cũng đủ sức nhấc bổng chị lên. Không biết có phải vì thế mà anh chị chưa kịp có con hay không?

Tôi bước lên cây cầu thang quen thuộc, kịp nhận ra sự thiếu vắng bóng đàn ông ngay trong ngôi nhà của mình. Một bậc cầu thang bị vỡ ra một miếng từ bao giờ chưa có ai thay, cái cặp tre cời bếp cháy nham nhở gần đến tay cầm vẫn cố dùng, cần giã gạo long ra, để chỏng chơ... ở nhà thì thế, còn khi trong họ, ngoài bản có việc gì lớn nhà mình không có đàn

ông, đàn bà có đến cũng chỉ được ở dưới bếp, trưởng họ có nói gì không thuận tai cũng phải nghe theo. Lâu nay mẹ tôi đau yếu thế, chắc chị dâu cũng chẳng bao giờ mặc váy áo đẹp đi đâu.Mẹ sờ nắn khắp người tôi, bắt tôi ngửa hai bàn tay xem vết chai còn hay mất, nhìn tôi chăm chăm suốt bữa ăn. Dường như mẹ vẫn chưa hết ngỡ ngàng vì sự trở về đột ngột của tôi. Tôi đã xa ngôi nhà của mình quá lâu, lâu đến nỗi quên cả chỗ ngồi của mình trên tấm phản lớn nhất bên bếp.

Chị dâu mở tủ, lấy gói chè gói kỹ trong mấy lần giấy ra pha. Chị biết tôi nghiện chè, mà phải thứ chè nhà tự sao lấy. Thỉnh thoảng có người xuôi, tôi lại nhận được chè chị gửi. Chè ở đây mọc hoang. Dưới thấp người ta còn chặt đi để lấy chỗ trồng thứ khác chứ trên cao, tít trên đỉnh núi mặc kệ, muốn lớn đến đâu thì lớn. Mùa xuân nhà nào có người hay uống chè lại mang gùi lên lấy về mà sao. Đi hai lần là đủ chè uống cả năm, uống đến mùa xuân năm sau.

Mí quấn lấy tôi một lúc lại bỏ sang ôm cổ chị dâu đòi đi ngủ. Ngày chị về nhà tôi Mí mới được hơn 2 tuổi vẫn chưa rời vú mẹ, nó quấn quýt với chị cho đến giờ. Cả nhà chỉ mỗi mình Mí dứt khoát không gọi chị dâu mà gọi chị gái, mẹ nói thế nào cũng không nghe.

Tôi bảo với mẹ rằng lần này tôi về để đón mẹ xuống ở với tôi, lần sau thì đón cả chị dâu, cả em Mí, tôi muốn mọi người ở bên mình, muốn mọi người hết khổ. Mẹ nắm chặt đôi tay trên đầu gối: "Đấy là những gì mày học được từ khi ra khỏi nhà phải không Lìn? Mắt mày sáng ra bằng nào tao chưa thấy, chỉ thấy mày quên hết lời cha mày dặn thôi, quên cả lời hứa khi nào tinh như con cắt lúc rời tổ mày sẽ về, sẽ lấy vợ, có nhiều con trai. Mày nói ở quê khổ quá à? Khổ mà tao vẫn sống đến giờ, khổ mà trẻ con vẫn lớn được! Không có ai chết vì khổ được đâu, chỉ có chết vì trong bụng đựng toàn điều xấu thôi...".

Tôi muốn bảo mẹ rằng ý tôi không phải như mẹ nghĩ, nhưng không mở miệng được. Mẹ không cần tôi cho mẹ cuộc sống khác, mẹ cần một đứa con trai để ngày mưa gió có người dọi nhà, có người chèn cửa. Chị dâu khẽ khàng lên tiếng: "Chuyện ấy để mai hẵng nói, chú Lìn đi nghỉ kẻo mệt". Chị đã trải chiếu, mang chăn ra chỗ ngủ cho tôi từ lúc nào. Mệt, đau nhừ, mỏi rã rời mà không sao ngủ được.

Đã gần giữa thu, trời bắt đầu lạnh, những cơn gió hun hút luồn qua vách nứa. ánh trăng sáng trắng lọt qua ô cửa nhỏ, hắt cả một quầng sáng vào trong nhà. Cả bản tôi nằm gọn trong một thung lũng, bốn phía là rừng, qua rừng đến nương ngô, nương lúa, qua nương lại đến rừng rồi đến bản khác? Bản ở dưới thung lũng nên ngập trong ánh trăng. Ban đêm, những nếp nhà sàn lô nhô lẫn vào rừng cây trông không rõ đâu là nhà, đâu là những tán cây rậm rì, cao vút. Giữa mùa, trăng cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau. Đêm trời càng gió, trăng càng sáng thì hôm sau càng nắng to.Hồi còn ở nhà, mùa trăng nào tôi cũng bám áo anh Lân tìm đến nhà nào có con gái đẹp thổi sáo suốt đêm. Anh Lân thổi khèn lá tài lắm, phiên chợ nào cũng có con gái quấn theo mãi, tối không về được. Thế mà về bản, đứng ở đầu hồi nhà người ta có khi ba đêm liền cũng không thấy ai ra. Ba đêm không được thì bảy đêm, bảy đêm cũng không được là hỏng rồi, sang nhà khác thôi. Lần anh đến nhà chị dâu tôi bây giờ cũng hết đêm thứ bảy mà không được gì đã định bỏ. Cả ngày hôm sau anh bỏ cơm, gắt om xòm. Đến đêm thứ tám lại mang mũ nồi giấu dưới gối, đi. Đêm thứ chín, trăng lên muộn lắm, tôi đã thiu thiu ngủ lại thấy anh dậy mặc áo. Anh bảo: "Thôi đêm nay mày đừng theo tao nữa, muộn rồi. Tao đi, có khi ngủ luôn ngoài rừng không về". Gần sáng thì anh về, lật chăn ra, bắt tôi dậy để anh cho xem chiếc khăn tay màu xanh thêu mấy bông hoa trắng lấm tấm. ít lâu sau, anh cưới vợ... Đêm khuya, bản đã yên ắng lắm, nghe rõ cả tiếng nước đập vào ghềnh đá

rào rào ngoài sông, tiếng trâu thở phì phì đuổi muỗi, tiếng chim lợn rít lên cuối rừng... và càng rõ hơn tiếng khèn lá từ ngoài suối vọng vào. Tiếng khèn lúc gần lúc xa, lúc như tiếng gió dài lê thê, lúc ào ào như nước lũ, lúc cao vun vút, rộn rã như cánh chim buổi sớm... Tiếng khèn như thế nói được nhiều điều lắm, đủ để cô gái nào đó hiểu rằng chàng trai sẵn sàng làm tất cả vì cô, đổi tất cả những gì mình có để lấy ánh mắt của cô, bán tất cả để mua nụ cười của cô. Chàng trai ấy sợ đôi chân cô dẫm phải đá sắc lên nương, sợ gai cào tay cô, làm rách vành khăn của cô lúc vào rừng. Chàng trai ấy nhìn cô cười để vui, nhìn cô khóc để buồn... Không biết chàng trai có đôi tay nổi bắp cuồn cuộn ấy gọi ai.

Đột nhiên có tiếng cọt kẹt của sàn nhà. Chị dâu từ trong buồng rón rén bước ra, vừa đi vừa vấn lại mái tóc dài đến eo lưng. Tự dưng tôi run bần bật, một cảm giác đau buốt nhói lên phía ngực. Tôi nhắm nghiền mắt. Hẫng hụt, như người rơi xuống đáy sông sâu hun hút...

Kéo chăn lên ngang mặt, chỉ hở hai con mắt tôi cố nén để không vùng dậy. Nhưng chị dâu chỉ đi ra bếp thổi lửa, mang lanh ra quấn. ánh lửa bập bùng hắt lên gương mặt tròn của chị. Hình như đến giờ tôi mới thực sự hiểu ra vì sao ngày xưa anh Lân có thể thổi khèn lá tới đêm thứ chín. Đôi gò má căng, đỏ rừng rực, khuy áo bên trên bật ra trễ nải, để lộ ba ngấn cổ cao trắng ngần, khuôn ngực phập phồng nhè nhẹ... Tiếng khèn mỗi lúc một réo rắt, đôi tay chị quấn lanh nhanh hơn, cuống quýt mà ánh mắt thẫn thờ. Được một lúc, chị đứng dậy với thúng ngô trên gác xuống tẽ... Tiếng gà rừng tít thăm thẳm xa đã eo óc gáy. Răng cắn chặt môi tê dại. Lát sau tôi thiếp đi mãi đến lúc nghe tiếng cối xay ngô rền rĩ dưới gầm sàn mới tỉnh dậy. Chị dâu đã trở lại vẻ hoạt bát, thậm chí tôi không dám tin chắc có tiếng khèn đêm qua, nếu như cuộn lanh không rối tung nằm đó... Chị mang ấm nước nóng ra pha cho tôi rửa mặt: "Đêm qua ngủ có phải co chân không chú Lìn?". Tôi hấp tấp: "Đặt mình xuống là ngủ luôn chị dâu

à. Lâu quá mới ngủ được một giấc ngon như thế". Chị dâu cười. Tôi thấy đầu óc váng vất.Trời còn chưa sáng rõ chị dâu đã xay ngô xong. Mẹ tôi bảo: "Năm nay nhà mình làm cốm được đấy con dâu?". "Vâng, có chú Lìn về mà!". ở quê tôi, mùa cốm là mùa hội. Sáng mười bốn âm lịch, mặt trời còn chưa lên đã mang đòn gánh lên nương lúa cao nhất "tan" lúa về. Buổi chiều, đàn ông xuống gầm sàn tìm chỗ đắp bếp đất, đàn bà nhóm lửa nướng thóc non. Đêm xuống trăng lên thì con trai con gái trong bản kéo nhau tới giã cho từng nhà. Giã cốm thâu đêm, hết cốm thì cho rơm vào giã, giã để còn được ngắm nhau, được nói lời hay với nhau mà không sợ ai nghe mất. Thế nên sáng hôm sau về nhà có ai hỏi đêm qua giã được mấy mẻ cốm, cốm năm nay có ngon hơn năm trước không cũng chẳng biết. Mấy năm rồi, đến mùa cốm chị dâu chỉ mang một cum sang gửi hàng xóm lấy cốm cho cái Mí ăn chứ nhà không làm.Chị dâu đi đến trưa mới về, bốn cum thóc nếp còn xanh mọng nặng trĩu hai đầu đòn gánh. Mẹ kêu lên: "ấy da, lấy về nhiều thế con dâu? Định cho thằng Lìn ăn cốm thay cơm thay thịt hay sao?". "Để chú Lìn khỏi quên mùi núi rừng thôi mẹ à".Chập tối, hai chị em đắp bếp, nướng thóc, xếp sẵn một lượt vào cối dài thì đám thanh niên tới, chia ra mỗi bên hai, ba đứa con trai con gái xen nhau. Đứa con gái có cái lúm đồng tiền cất tiếng hát, hát xong, bọn con trai nhấc chày lên, lúc con trai giã xuống, bên kia con gái nhấc lên. Vừa giã vừa chòng ghẹo nhau, thỉnh thoảng lại rúc rích cười. Một đứa con gái nói to, át cả tiếng chày thụm thụp: "Chị Lân à, làm sao con gái có chồng rồi mà cứ đẹp mãi, ngày càng đẹp thế". "Em nói ai?". "Còn ai nữa. Bao nhiêu đứa muốn hỏi chị đun nước lá gì gội đầu mà tóc đen thế, nhiều thế, đun củi gì mà má hồng thế đấy!". "Chỉ nói lung tung thôi. Chị già rồi mà". "Không già tí nào đâu chị ơi. Cứ đẹp mãi thế lại khối người Vần Chải khổ thôi". "Bậy quá. Không được đùa thế đâu". Mặc kệ, tiếng cười vẫn cứ lanh lảnh. Chị dâu bối rối, sảy mẹt cốm vãi cả ra ngoài. Bốn cum thóc, chỉ một loáng, trăng lên đến ngọn cây dẻ cao nhất cuối

rừng thì đám thanh niên giã xong, lại lũ lượt kéo nhau sang nhà khác. Còn một mình chị dâu lúi húi dọn dẹp. Chị khe khẽ hát. Bất chợt tiếng khèn lá đêm trước lại dội lên, chị luống cuống bê thúng cốm đi như chạy lên cầu thang, suýt vấp ngã. Chị cài chặt then cửa, lao vào buồng, tôi còn nghe tiếng thở dồn dập rất lâu.

Mẹ tôi ra khỏi buồng, đến trước bàn thờ cha tôi. Tôi chỉ nghe được tiếng thở dài nén rất nặng trong lồng ngực mỏng manh của mẹ. Sau khi làm hai đám ma, trong nhà tôi hầu như không còn gì. Bò, dê, gà, lợn mổ để thầy mo cúng làm lễ hết, ngô lúa cũng hết. Cha tôi mất tháng trước thì tháng sau trời nắng to, nắng ghê gớm, nắng từ lúc mặt trời chưa lên hẳn đến lúc mặt trời sắp lặn. Nắng từ ngày này sang ngày khác, già bản tụ tập tất cả bô lão trong làng lập dần cầu khấn mà trời vẫn không cho một giọt mưa. Trên nương, ngô vừa ra bắp bằng chuôi dao đã khô quắt lại, lúa ngả sang màu trắng, bông phất phơ như lau. Rừng già lách tách tiếng vỏ cây vỡ nứt. Rồi cháy, cháy khủng khiếp, cháy ba ngày ba đêm, thiêu trụi mấy cánh rừng, đến sáng thứ tư thì thôi. Đứng dưới bản nhìn lên chỉ còn thấy một màu đen của cây cháy. Đột ngột, kinh hoàng quá, không ai còn khóc được.

Nương sắn chưa đầy năm cũng nằm trong vùng cháy. Chị dâu mang dao, mang gùi đi từ sáng sớm đến trưa mới về, gùi một gùi sắn đã chín, củ nào cũng chỉ như ngón chân cái. Mí hớn hở ăn, rồi say, nôn ra máu. Nó ốm, tóc rụng trơ cả da đầu, nằm ẹp như một con mèo con, chỉ còn thấy hai hốc mắt. Mẹ cũng kiệt sức, ngồi bó gối bên giường Mí mấy đêm liền, đến lúc chị dâu đỡ mẹ nằm xuống, đôi chân vẫn co như đang ngồi. Ban đêm, lúc mọi người ngủ, chị dâu đốt đuốc ra suối lật từng viên đá lên tìm cua. Sáng sớm, lúc mọi người chưa dậy, chị đã mang ống bương qua hai quả núi đi lấy nước... Những ngày tháng ấy nếu không có chị dâu không biết điều gì sẽ xảy ra. Còn tôi, khi về được bản, nương lúa mới trỉa đã bắt đầu lên

xanh, phủ dần màu đen của tro than. Như một sự trả nợ, vụ ấy trời cho

được mùa, lúa ngô mang về không còn chỗ để.

Chú tôi đến chơi, bảo là "để xem bao giờ thằng Lìn mới chịu lấy vợ". Chú thím cố mãi cũng chỉ toàn con gái. Tưởng có mỗi chuyện ấy thôi nhưng đến lúc ăn cơm xong, đợi chị dâu mang bát đi rửa chú mới nói: "Chị à, con dâu ngày càng đẹp ra đấy, khéo mà giữ kẻo mang tiếng họ Bàn". "Chú nói gì? Nó đi đâu mà phải giữ. Đi từ nhà lên nương, từ nương về nhà, mặt chỉ biết cúi xuống nhìn lối đi...". "Chị không biết rồi...". "Biết cái gì?". "Người già mà ngủ say được thế sao chị dâu? Ngủ say quá nên không nghe đêm trăng nào cũng có đứa đến gần nhà thổi khèn lá! Đứa ấy gọi ai? Gọi cái Mí chín, mười tuổi à? Con gái có chồng, cái bụng mà không nghĩ lung tung thì má không như hoa dào thế đâu".

Tiếng nước xối ào ào rồi lặng yên. Mẹ liếc nhìn chú, lại nhìn ra cửa. Chị dâu khệ nệ bưng chồng bát vào, nước bắn lên váy ướt lem nhem, dính vào đôi bắp chân tròn. Con gái miền núi có đôi bắp chân đẹp là nhớ quấn xà cạp lúc đi làm, lúc ra khỏi cửa, chỉ đệm mới tháo ra. Chú tôi vê điếu thuốc lào phả khói mù mịt, ngồi thêm lúc nữa rồi lẳng lặng ra về. Chị dâu rút nắm đuốc trên gác bếp châm lửa, đưa chú xuống cầu thang. Ngày trước, chú là người phản đối việc anh trai tôi đòi cưới chị. Chú chê chị bé, chê con gái mà ngực lép, lông mày rậm là không biết làm dâu, là có lúc cãi bố mẹ chồng. Sau này, khi anh tôi rồi cha tôi mất, chính chú lại là người thương chị dâu nhất, chuyện gì cũng nói như với con gái. Thế mà bây giờ...

Chú Phin về rồi, mẹ bảo tôi: "Mày mới về, nghe chú nói, biết thế, đừng nghĩ xấu cho nó". "Mẹ nghĩ thế nào?". "Tao làm dâu họ Bàn, nó cũng là dâu họ Bàn, chết đi làm ma họ Bàn. Muốn gì cũng không được đâu".

Chị dâu ngồi vào khung cửi. Chị bảo cố dệt để còn kịp đi phiên chợ tới. Tôi bảo để tôi thức cùng cho chị đỡ buồn, chị bảo đàn ông chỉ thức đêm

ngoài sông, trên rừng, không ai thức cạnh khung cửi. Nghe tiếng lạch xạch, lúc gấp gáp, lúc trễ nải tôi không sao ngủ được.

Tiếng khèn lá vẫn réo rắt từng đêm, từng đêm. Đêm nào chị dâu cũng ngồi bên khung cửi, đống lanh trắng chất đầy hai quẩy tấu không hết. Từng đêm, từng đêm ấy, tôi nằm cứng đơ như khúc gỗ, nghiến mỏi hàm răng nhìn chị hai lần, ba lần đứng lên mang dây lanh ra buộc cửa, buộc thêm, thêm mãi, thành một đống rối tung to xù. Không biết có phải tại ánh trăng hắt từ bên ngoài vào hay không mà tôi thấy mặt chị đã không còn hồng, mà tái xanh, cặp mắt như mắt người say rượu. Đêm thứ tư, đêm thứ năm... đến đêm thứ bảy thì tôi vùng dậy, lao như một con thú ra cửa, giằng tay chị ra khỏi mớ dây lanh bùng nhùng. Chị giằng co với tôi, sợi lanh thô cứng cửa vào tay chị bật máu...

Tôi không nhớ mình đã nói gì để thằng con trai còn rất trẻ, tóc ướt sũng sương đêm ấy lủi thủi bỏ đi. Lúc trở về nhà, chị dâu đang đứng ở chân cầu thang, mắt nhìn chằm chằm vào bàn tay đang nắm chặt của tôi. Tôi đi qua chị không nói một lời nào, run lên vì hơi nóng rừng rực đang toát ra từ đôi cánh tay trần phơi dưới ánh trăng, từ đôi mắt thăm thẳm của chị. Chú Phin ốm, bảo tôi lên canh nương thay chú vài hôm. Tôi mang dao quắm, đèn pin đi. Nương ở xa nên chắc sẽ ở lại luôn đến hôm nào chú khỏi mới về. Buổi chiều, chị dâu lên, mang theo cá nướng với thịt dê. Chị cắm cúi dọn nồi niêu, chăn màn, không nói câu nào. Mãi đến lúc chị định về, tôi cũng mới mở miệng được: "Chị dâu à, em bảo thằng Sìn đem khèn lá đi nơi khác mà thổi. Nhìn vào mắt nó em không chịu được...". Chị dâu run run: "Chị không nghĩ đến thằng Sìn bao giờ đâu, chú đừng lo". "Thế thì chị dâu nghĩ đến ai? Ai hở chị dâu? Người ấy có ở Vần Chải không?". "Chú đừng hỏi nữa, chị xin...". Chị dâu khóc. Tiếng khóc bật ra như thác lũ thượng nguồn không gì ngăn được. Khóc như để trôi đi những bức bối

trong lòng. Nước mắt chảy ròng ròng trên gương mặt bợt bạt, rớt xuống

ướt ngực áo...

Cuối mùa trăng, tôi lại đi. Mẹ vẫn không một lời ngăn cản, mẹ mặc tôi. Tiễn tôi đi chỉ có chị dâu với em Mí. Đến chỗ con suối chảy qua chị dừng lại, cúi nhặt một viên sỏi đưa cho tôi: "Chú mang đi để khỏi quên đường về Vần Chải". Tôi cố nhìn chị, mắt chị rưng rưng, lấp lánh ánh trăng mờ xa cuối rừng chưa kịp lặn. Chị quay đi. Gió sớm từ trong khe núi lùa ra thông thốc làm váy chị, váy em Mí xòe ra.

Tôi mím môi bước đi. Bãi lanh còn đẫm sương đêm quệt vào mặt lạnh buốt. Ra đến đoạn suối bên ngoài lại nhìn thấy ngay trước mặt, trên phiến đá rộng, một người đang gục đầu lên hai cánh tay vòng trên đầu gối. Xung quanh, lá rừng bị xé tung tơi tả. Sìn! Đúng là Sìn. Ngẩng đầu lên nhận ra tôi hình như nó định đứng dậy, định chạy đi, nghĩ sao lại ngồi yên. Đầu tóc, quần áo Sìn ướt sũng, râu mọc tua tủa trên gương mặt tím tái...

Tôi đi qua Sìn. Hòn sỏi trong tay bỏng rát. Trăng cuối mùa vẫn chưa kịp lặn nhưng đã lẫn vào chân trời đang sáng dần lên...

NGẢI ĐẮNG Ở TRÊN NÚI

Đỗ Bích Thúy

Mẹ và thằng Sinh đón tôi ở ngã ba, nơi chân dốc dẫn lên ngôi nhà sàn. Ngôi nhà nằm chênh vênh trên cao kia. Già nua cũ kỹ và nhỏ nhoi. Khi nào nhớ về mẹ, tôi cũng hình dung thấy ngôi nhà với chín bậc cầu thang, nơi chân tôi run rẩy, chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông bão trở về.

Mắt tôi tự dưng mờ đi. Tôi luýnh quýnh: "ềm! ềm vẫn khoẻ đấy ư?Trời ôi, con lo biết chừng nào là lo!". "Biết tao khoẻ thì còn lâu mày mới về, phải không Din?". "Kìa... con xin ềm. ềm đừng nói với con thế. Con vừa về tới nơi... ềm có thương con...". Mẹ tôi ngoảnh mặt đi, lặng thinh. Tiếng thở dài nhè nhẹ mà hun hút như cơn gió quặn lồng ngực tôi.Thằng Sinh ôm cổ, dí cái mũi ươn ướt vào má tôi: "Bác ơi, bà bây giờ lẩm cẩm rồi. "Hư nào!". "Thật... Bố cháu bảo thế mà".

Nhà tôi chỉ có hai chị em, tôi với em Dân. Cha tôi hy sinh khi tôi mới mười tuổi, mẹ tôi ở vậy nuôi mẹ chồng, cả đàn em chồng lít nhít với hai chị em tôi. Rồi bà tôi mất, các cô các chú lấy vợ lấy chồng, tôi đi xa, em Dân lấy vợ sớm rồi cũng đi nốt, bỗng chốc mà mẹ gần như chỉ có một mình. May mà em Dân lấy vợ quê, từ ngày có thằng Sinh mẹ tôi cũng khuây khỏa.

Mẹ đi trước, tay dắt thằng Sinh chậm chạp leo dốc. Tôi thảng thốt, chẳng lẽ lưng mẹ đã còng thật rồi ư? Dấu vết thời gian chính là nó, đã hiện diện khắc nghiệt trên dáng vóc mẹ không nấn ná, không gượng nhẹ. Đôi chân cũng không còn chiều theo ý mẹ và con đường như dài hơn, dốc hơn, khấp khểnh hơn. Ngày xưa, cũng trên con đường cheo leo dốc này, tôi đặt em Dân lên tấm lá cọ rồi kéo sầm sập chạy xuống, vừa chạy vừa la hét.

Có lần cả hai chị em ngã dúi dụi, mặt vục vào đất cát, không khóc thành tiếng. ấy thế mà bà nội biết, không cho mẹ đánh đứa nào. Về sau em Dân bảo: "Lúc ấy em thương mẹ quá. Đến cả cái quyền dạy con cũng bị cấm đoán". ý em trách bà nội. Bà nội tôi có tiếng khắc nghiệt với con dâu ở Tả Choóng bây giờ. ấy thế mà rồi bà cũng chỉ ở với con dâu cả cho đến cuối đời chứ không chịu đi với đứa con trai, con gái nào.

Em dâu đi nương về, ngả vội gánh thóc nếp xuống cầu thang: "Chị Din đã về rồi này! Ôi, tí nữa thì em dâu không nhận ra đấy. Ngày càng đẹp gái như bông hoa thì khổ trai bản thôi". Em dâu cười, cái lúm đồng tiền xoáy sâu trên má. Em dâu kém tôi bốn tuổi. Ngày em về làm dâu, nhà tôi có bao nhiêu trai bản uống rượu say không về được. Người Tả Choóng bảo nhờ em Dân có cái chữ hơn người nên ông Dìn mới chịu gả con gái cho mà chỉ lấy ba mươi, chứ người như thế phải lấy cả trăm mới xứng. Trăm đồng bạc trắng, trăm cân gà, trăm cân lợn, trăm lít rượu ngô, không phải nhà giàu mấy đời thì chịu thôi, làm đến chết cũng không trả hết nợ. Ngày có em dâu tôi khấp khởi mừng, ít ra cũng an tâm phần nào khi đi xa. Hình như em sinh ra để làm dâu nhà tôi. Em giống mẹ tôi từ nết ăn ở trở đi. Có em, mẹ có thêm một đứa con gái. Một đứa con gái mà mẹ mong mỏi chứ không như tôi. Tôi không nghe được mẹ muốn gì. Tôi vùng vẫy và tôi ra đi. Có những lúc mệt mỏi rã rời vì cuộc mưu sinh nơi xứ người tôi chỉ thèm được vùi mặt vào ngực mẹ mà khóc cho thoả thuê. Nhưng rồi vẫn cứ xa mẹ, xa hơn và lâu hơn.

Gánh thóc nếp có tới bốn cum vậy mà em dâu chỉ xốc nhẹ một cái đã vắt trên vai, bước thoăn thoắt lên cầu thang, để lại chín vết chân ướt vững chãi, đều đặn. Cầm lấy cum thóc, em dẻo tay lật ngửa, xoè nó ra như bông hoa trên sàn phơi đầu hồi. Cạnh đó có tới mấy chục cum đều đặn và đã xếp sẵn từ bao giờ. "Năm nay được nhiều thóc nếp không em?". "Nhiều. Được mùa mà. Đủ đồ xôi cho chị Din cưới chồng đấy. Mà... có

về quê lấy chồng không, chị Din?". "Bây giờ không ai muốn lấy người hai sáu tuổi đâu em ơi. ế mất rồi". "Cây cao khắc có người khoẻ trèo chị Din à'.

Tôi cất đồ đạc, cầm lấy đòn sóc theo em dâu lên nương mang nốt số thóc đã "tan" về. Em dâu bước đi nhanh thoăn thoắt, mặc những cành gai chìa ra quệt vào đôi bắp chân tròn vo. "Năm nay nhà nào cũng bỏ nương xuống dưới kia làm ruộng nước rồi. Cả lúa nếp cũng cấy dưới ấy, nhiều giống mới bây giờ mang đập như thóc tẻ được, không phải vò. Nhưng bà nội thằng Sinh bảo vẫn phải gieo một ít thóc cũ để còn đồ xôi, làm bánh rằm, với lại để phần đợi chị Din...".

Nương lúa đã đổ rạp xuống ở phần "tan" xong. Mai kia khô rồi chỉ cần châm lửa đốt là sạch sẽ, trỉa luôn được vụ mới. Chiều chậm chạp đổ xuống từng vạt núi vàng sậm, cả những cánh rừng sồi, rừng dẻ mướt óng phía xa. Gió trườn trên những triền núi; từng cơn, từng cơn, cuốn theo mùi khói bếp từ những căn nhà bàng bạc, thấp thoáng phía bản người Phù Lá.

Một thằng bé, mặt mũi lọ lem lùa đàn dê đông nghìn nghịt từ đỉnh núi chạy xuống. Ngang qua chỗ tôi nó khựng lại, đôi mắt hiền lành giương lên tò mò. Tôi mỉm cười thân thiện: "Em, tên là gì?". "...". "Nhà em ở ngay bên suối phải không?". Tôi hỏi vậy bởi lúc lội qua con suối đầu làng đã thấy một ngôi nhà trông giống trại chăn dê, từng dãy chuồng kế tiếp nhau san sát. Nhưng thằng bé không nói gì ngoài những âm thanh u ơ rụt rè. Đột nhiên nó chìa cho tôi một mớ cỏ tím ngăn ngắt, lè lưỡi trêu chọc rồi quay đi, roi vung lên vun vút. Em dâu khe khẽ: "Thằng Câm đấy. Có khi chị không nhớ. Ngày chị còn ở nhà nó vẫn mang cá lên bán cho mẹ. Nay thì ở mỗi nhà một vài ngày. Gần hai mươi tuổi rồi mà không lớn thêm được là mấy... Nó đưa cho chị cái gì thế? Ngải đắng à? Đi xa thế thảo nào về muộn...". Lúc này tôi mới nhận ra một mùi hương quen

thuộc xộc lên. Chính cái thứ hương cay cay, ngòn ngọt, nhằng nhặng đắng đã theo riết tôi, đã níu tôi với cả quãng đời thơ ấu bình yên. Có vậy mà từ lúc nào bước chân về bản tôi nghĩ mãi không ra mình thấy thiếu thứ gì mà cứ chông chênh, trống trải. Nắm rau ngải thằng Câm mang về đã bắt đầu héo và nóng sực.

Mãi tới lúc lên đèn em Dân mới về, thồ theo một can dầu sau xe. Trông em già và đen đi nhiều. Cứ tưởng làm cán bộ xã thì nhàn rỗi... Mâm cơm có canh măng giang nấu với thịt ếch, thịt gà rang lá chanh và ngải đắng xào mẻ. Nhìn đĩa rau ngải tôi thèm mà không dám gắp, sợ hết. Để rồi đến cuối bữa vẫn còn nguyên. Em dâu ngạc nhiên: "Sao chị bảo thích rau ngải lắm?". "ừ...nhưng...". "Nhưng lâu rồi, lâu quá rồi không ăn cái đắng như thế nên quên, phải không?". Mẹ tôi, vẫn cái giọng dằn dỗi.

Tôi lặng im. Dân nén thở dài. Trên mâm gỗ, đĩa rau ngải cứ nhoà dần, nhoà dần đi... Tôi nghe quặn lên từ trong tiềm thức tiếng thác lũ thượng nguồn ào ạt, tiếng vỏ cây rừng mùa khô vỡ ra lách tách, tiếng con nai tác mẹ ngẩn ngơ, thăm thẳm và cả những cơn gió mùa dài lê thê hun hút trên mái nhà. Năm ấy... Trời làm đất đai cạn kiệt, tôi theo mẹ đem ống bương đi qua hai quả núi, cách Tả Choóng nửa ngày trời mới lấy được thứ nước đầy rêu trong một cái vũng nhỏ. Rét căm căm, sương muối trút xuống từng tảng, sáng ra thấy cây cối đầy lá úa, dây bí ngoài vườn chưa kịp ra quả đã khô quắt queo, mẹ gieo hạt cải cả tháng chưa thấy mọc. Không có hai thứ ấy, người quê tôi không còn bất cứ thứ rau gì cho mùa đông. Một ngày, hai ngày, rồi cả tháng, bữa nào cũng chỉ có sắn nạo ăn với muối. Em Dân khóc ngằn ngặt, rồi bà, rồi mẹ cũng ứa nước mắt. Chiều hôm ấy mẹ ra vườn quơ lấy một nắm ngải đắng, bà bảo: "Đừng liều thế, mẹ Din". Mẹ tôi ngập ngừng: "Con dê ăn được chắc mình cũng ăn được ềm à!". Không có rau, miệng ai cũng phồng rộp cả lên. Nhưng ngải đắng xưa nay

người ta chỉ lấy về khi trong nhà có người ốm, đem nướng trên phiến đá nung rồi để gối đầu chứ chưa ai ăn bao giờ.

Mẹ đem luộc rồi xào mẻ. Mẻ chua, muối mặn, vậy mà ngải vẫn nhằng nhặng đắng. Tôi còn cố nuốt được vài ngọn chứ em Dân thì nhè ngay ra, lại khóc. ấy thế nhưng tỉnh người ra thật, dần dần vài bữa rồi quen, ruột gan đỡ xót đi. Bà gắp một bát đem sang hàng xóm. Thế rồi cả bản theo nhau hái về ăn thay rau. Người ta càng hái thì ngải càng đâm nhiều ngọn, mặc cho những đợt gió mùa tới tấp ùa về, quất ràn rạt trên mặt đất. Trên nương, trong vườn, cả dưới gầm sàn chỗ cái ang nước khô vênh, chỗ nào cũng thấy ngải, như một sự bù đắp cho sự khắc nghiệt của đất trời...

Sinh đã ngủ khoèo, trật cả cái bụng tròn phinh phính ra phía bếp lửa. Mẹ tôi mang mảnh lưới đan dở ra làm tiếp, em dâu vừa đun cám vừa vò thóc nếp. Dân ngồi rít thuốc lào. Trên bếp, nồi cám bắt đầu sôi lục bục mẹ mới cất tiếng: "Dân à! Nói gì với chị mày thì nói đi chứ. Mong nó về lắm mà!". Em dâu nhẩn nha: "Đi làm cán bộ nói mãi cho người ngoài nghe được mà nói với chị gái thì khó thế à". Dân ngọ ngoạy, lúng búng: "Chị Din về lâu lâu được thì mai em mới nói. Để chị nghỉ đã...". "Chị không về lâu được đâu. Một hai ngày lại đi thôi. Còn bao nhiêu việc dưới kia...". Dân vốn thế. Người ngoài chả nể ai về nhà lại sợ chị. Từ bé tới giờ khi nào tôi cũng đầy quyền uy. Đâu muốn thế. Chả gì, cha tôi là trưởng họ, được mỗi đứa con trai...

Dân diễn đạt một cách vất vả, thỉnh thoảng lại liếc mẹ, nhưng mẹ không tỏ thái độ gì. Ra em đang mâu thuẫn với mẹ, giữa cái mới và cái cũ. Xã đang đốc thúc các làng, các bản thực hiện quy ước nếp sống văn hoá, phải thay đổi cách ăn ở sinh hoạt, cả một số phong tục bị xem là lạc hậu... nhưng Dân, một trong những người cần gương mẫu thì vấp phải mẹ, như vấp vào ngưỡng cửa nhà mình. Khó xử, nan giải là phải. Chẳng biết mấy ngày ở nhà tôi có giúp được gì không.

Mẹ giục đi ngủ, mở hòm ra lấy bộ váy từ ngày tôi chưa đi. "Còn biết cách mặc không?". "Dạ... nhưng tóc ngắn thế này làm sao mà vấn được khăn đây ềm?" Mẹ tôi thở dài: "Mày lớn quá, tao không giữ nổi mày thật rồi. Núi rừng cao thế cũng không ngăn được bàn chân mày. Sau này tao chết đi rồi mày có trở lại Tả Choóng không? Mày lấy người thế nào làm chồng hả Din? Sao mày không đưa nó về để tao xem tay, xem mặt? Mày sợ nó khinh mày, khinh quê mày, phải không? Đời tao có khi không biết đến chén rượu của con rể lớn bé thế nào...".

Giờ thì tôi khóc nức lên. Lâu rồi không khóc được như thế. Tôi biết nói gì với mẹ khi tôi đã ra đi vì khát vọng của mình, đã giãy giụa ra khỏi những mịt mùng heo hút, đã sợ bị "định giá" như mẹ, như em dâu... thì còn có thể thanh minh, giãi bày gì cho vừa lòng mẹ? Tôi ghì xiết lấy tấm thân bé nhỏ và lạnh của mẹ. Đâu hết rồi mẹ ơi những ấm nồng, đầy đặn ăm ắp sức sống? Đâu rồi bầu ngực tròn căng của người vợ goá? Đâu rồi mái tóc đầy những mùi thơm của lúa, mùi cay nồng của ngải đắng, mùi mặn mòi của cỏ tranh bị đốt cháy?...

Đêm thanh vắng, tiếng nước chảy trong máng vầu róc rách. Không biết từ ngày tôi đi đã mấy lần em Dân phải thay máng rồi. Bất chợt tiếng tắc kè bật lên khắc khoải. Tôi rưng rưng nhớ cha. Ngày cha tôi còn sống ông đã từng bắt tắc kè về nuôi. Chỉ cần thả vài con tắc kè non lên mái nhà hôm trời mưa là nó ở lại luôn, thôi không đi nữa. Có lúc đàn tắc kè sinh sôi đến gần chục con, dạn người, lơ láo bò qua bò lại trên bậu cửa. Hôm nào chúng kêu tiếng lẻ là trời nắng, tiếng chẵn là trời mưa, cha tôi cứ theo đó mà cắt đặt việc nhà. Chiến tranh biên giới nổ ra, cả nhà bồng bế nhau đi sơ tán, chỉ cha tôi ở lại cùng dân quân du kích xã mà ông phụ trách. Cho đến khi tạm ngưng tiếng súng thì chúng tôi trở về. Cha tôi đã hy sinh. Căn nhà cũ tan hoang, mốc thếch, đàn tắc kè bỏ đi từ bao giờ. Bà nội ứa nước mắt bảo chúng đi theo cha tôi. Đêm nay... tắc kè cũng kêu. Không biết

trong số chúng có con nào là hậu duệ của đàn tắc kè nhà tôi? Đếm mãi mà không nghe rõ tiếng chẵn hay lẻ. Mẹ tôi than mấy năm gần đây mưa nắng thất thường, mùa vụ cũng lúc được lúc mất.

"Din ơi, mày vẫn thức đấy chứ?". "Vâng! ềm bảo gì con?". "Mai mày nói với thằng Dân, bảo nó không muốn ở nhà thì xuống xã mà ở". "ấy chết! Sao ềm nói thế? ý em Dân không dám như vậy đâu". Mẹ nghèn nghẹn: "Hơn sáu mươi năm nay tao như con suối chảy xuôi. Sắp ra đến sông lớn rồi, sắp theo cha chúng mày rồi, giờ nó bắt rẽ ngang, bắt chảy ngược... Nó... thằng Dân ấy...". "Nhưng con thấy có gì rối rắm lắm đâu mà ềm...". "Hừ! Không à! Mày cũng giống nó thôi, Din à. Bao nhiêu năm nay người ở trên sàn nhà, trâu, ngựa, ngan, ngỗng ở dưới gầm sàn, tự dưng em mày đòi mang trâu ra ngoài vườn, con trâu mẹ ốm lên ốm xuống, cho uống bao nhiêu muối không khỏi. Ngỗng đang ở yên thế tự nhiên lại lùa ra, sáng nào cũng phải đi tìm, con ngủ chỗ này, con ngủ chỗ khác... Cả mày, cả nó đều tập ngồi, tập đi ở trên sàn nhà mới lớn được chừng ấy, bây giờ còn mang bộ bàn ghế về. Nó bảo hay có khách nên phải lịch sự. Lịch sự là cái gì? Khách nào cũng mặc quần áo đẹp, đi cả giày lên nhà. Ngồi uống nước thì quay lưng vào bàn thờ ông bà, thấy trẻ con thì vỗ má, xoa đầu... Thế mà lúc tao mở miệng ra thì nó bảo để rồi phá cái nhà này đi, làm nhà ngói mà ở. Tao ốm, bảo mổ dê, gọi thầy mo về đuổi con ma đi, nó lắc đầu quầy quậy, đưa cho một nắm thuốc xanh xanh đỏ đỏ... Bây giờ khôn rồi, cái gì cũng muốn theo người xuôi. Tao không cần. Tao không có đứa con nào như thế. Tao chết ở đây". Lồng ngực mong manh của mẹ căng lên, những nhịp đập hối hả, ngắt quãng. Mẹ khóc không có nước mắt. Tuổi già đã mang đi những giọt đau đớn cuối cùng của đời người.

Hồi lâu, mẹ cựa mình len ra khỏi đôi tay tôi, mẹ vén lại chăn. Tôi choàng dậy: " ềm đi đâu khuya khoắt thế?". "Ngủ đi. Tao đi xem con nghé mới

đẻ. Dặn mẹ Sinh nhớ xúc trấu khô mà ủ chắc lại quên rồi". Lúc chiều ông Tào ở mãi Ngàm Đăng Vài sang đòi đặt tiền trước để con nghé lớn tí nữa thì bắt đi. Trâu trắng không dùng cày được, người ta kiêng. Nhưng bán đi thì tiếc, lại thương con trâu mẹ. Thế nên ông kia nói mãi mà mẹ vẫn chưa chịu cầm tiền.

Tôi không sao ngủ được. Càng đêm càng lạnh. Thời tiết ở đây vốn thế, ban ngày nắng đến mấy, có khô rang cả mái nhà dày hàng gang tay thì đêm vẫn lạnh. Quanh năm không khi nào phải cất chăn. Tấm chăn tôi đang kéo lên đến cằm nặng trình trịch, toả ra một thứ mùi của ký ức. Ngày chuẩn bị về làm dâu, mẹ tôi mười sáu tuổi, mẹ tôi đã dệt cả tháng trời mới xong tấm chăn, còn chưa kể những khăn và váy áo. Mẹ kể đêm đầu tiên, rét lắm, nhưng mẹ dứt khoát không chịu đắp chung chăn với cha, để rồi cha phải bỏ ra bếp ngồi hút thuốc lào đến sáng. Mẹ về làm dâu là về không, hầu như chẳng có gì vì ông ngoại mất sớm, mẹ ở với chú thím. Thế nên chỉ như thân con mèo nem nép bên bếp nhà chồng, từ sáng đến tối không biết ngẩng mặt lên, đến bữa không dám ăn no, đến năm mười tám tuổi mà bé quắt hơn cả lúc lấy chồng. Chị cả tôi ra đời chưa đầy tháng thì mất vì viêm phổi, mãi hơn chục năm sau mới có tôi...

Ở vùng núi bao giờ mùa đông cũng đến sớm. Khi những chiếc lá đào, lá mận đầu tiên rụng xuống thì dòng suối bắt đầu cạn, nước chảy dưới phần ngầm của lớp đá cuội trắng trơ. Gió từ trong khe núi ùa ra, mang theo hơi lạnh đến ghê người của đá và lá cây lúa. Thân ngải đắng bắt đầu khô lại, rễ bám chặt lấy lớp đất chai cứng và ngả sang màu nâu đen vì sương muối. Nhiều ngày, nhiều tuần, có khi cả tháng trời không có nắng, giữa tuần trăng đêm cũng chỉ lờ mờ. Đây là quãng thời gian ít việc nhất trong năm. Đám con gái chỉ quanh quẩn ở nhà xe lanh đôi gò má bắt lửa đỏ au. Ngoài nương chỉ còn trồng tam giác mạch. Hạt tam giác mạch ăn không ngon như hạt ngô, hạt lúa nhưng hoa tam giác mạch thì đẹp. Trời càng rét

thì sắc biếc sắc hồng càng rực rỡ. Cả dải núi, nương nhà này nối với nương nhà kia cứ bừng lên như một màu tam giác mạch ngợp trời. Cả nương tam giác mạch có khi chỉ được lưng quẩy tấu hạt nhưng nhà ai cũng trồng. Dễ lắm. Đợi cây ngô thu hoạch xong, trời bắt đầu rét thì quãi tam giác mạch xuống. Cỏ không mọc nổi nhưng tam giác mạch thì nảy mầm lên xanh mướt, thế nên chả ai chịu để đất không.

Cho đến khi ngựa đập móng lộp cộp đầu hồi, hoa lê bật bông trắng như tuyết thì xuân sang. Các ông bố đeo bao dao ra khỏi nhà tìm trong bản, ngoài bản, ai có lợn to thì chung mổ ăn Tết. Xuân sang đấy nhưng trời còn rét mãi tới tháng ba tháng tư, trẻ con đuổi bò xuống thung lũng vẫn chưa chịu bỏ bùi nhùi rơm ở nhà, mặt đứa nào cũng nứt toác cả ra. Chỉ có đất bắt đầu tơi mềm, bò dê được ăn cỏ tươi và nước thì bắt đầu chảy đầy máng vầu trở lại. Sau Tết Nguyên đán có khi hội bản này nối sang bản kia cả tháng trời. Chợ nào cũng đông nghìn nghịt, toàn con trai con gái mặc đẹp, đeo đầy vòng bạc, mua sắm thì ít mà ngắm nhau thì nhiều. Ngày xưa, cha tôi cũng nhìn thấy mẹ tôi vấn đầu trong một phiên chợ như vậy.

Trở vào, mẹ không đi nằm mà ra bếp ngồi, cơi lò cho cháy lên, lại mang lưới ra đan. ánh lửa chập chờn hắt lên mẹ, lên mái tóc bạc, lên gương mặt đã kín vết nhăn như thực, như hư. Một nỗi sợ từ đâu ùa vào tôi. Hình ảnh chiếc áo quan mở nắp mà thằng Sinh với lũ bạn nhảy ra nhảy vào đùa nghịch hiện lên mồn một. Mẹ tôi đã chuẩn bị cho sự ra đi lâu nhất, mãi mãi như thế từ cách đây năm, sáu năm. Ba con dê đổi lấy một khúc gỗ dẻ rất lớn mà em Dân dùng trâu kéo về...

Tôi ra ngồi với mẹ. Lát sau gà gáy eo óc thì em dâu cũng dậy kiễng chân với mẹt muối sấy trên gác bếp xuống lật trở cho đều. Sắp tới rằm tháng bảy ăn to lắm. Nhà nào nghèo mấy thì trẻ con cũng phải có bộ quần áo mới, trong nhà có ít nhất hai thứ bánh gù, bánh chuối và chõ xôi đỏ hoặc tím. Ngày nhỏ, tôi đã từng bắt em Dân theo chúng bạn sang tận Khuổi

Nậm tụ tập đánh khăng đánh cù, lúc đói bụng thì chạy vào bất cứ nhà nào cũng được ăn bánh đầy bụng. Tháng bảy hay mưa nhưng cứ mười bốn, mười rằm là tạnh ráo. Đàn ông đi uống rượu nhà bạn bè có khi say mấy ngày liền không về.

Em dâu nhắc: "Rằm tháng bảy năm nay thế nào chị Din cũng phải về đấy nhé. Hai cái rằm rồi, làm bao nhiêu bánh ăn mãi không hết. Làm ít bà bảo sợ chị Din về, nhỡ có bạn đi cùng thì không đủ, thế là cứ cố nhiều bột, nhiều chuối... ấy da...". Tôi nhìn mẹ. Muốn hỏi có phải ềm chỉ làm mặt giận vậy thôi chứ lúc nào cũng thương con gái nhất, nhưng mẹ dường như chẳng để ý gì.

Chưa tỏ mặt người, em Dân đã đi, bảo phải lên họp ở trên huyện. Dân nhìn tôi, hình như muốn nói gì nhưng ngần ngừ rồi thôi, xách cặp đi, tiếng xe Min nổ phành phạch xa dần. Gương mặt buồn buồn của đứa em trai mới lớn ngày nào còn tranh với chị từng củ sắn nướng cứ dằn vặt tôi. Nghe đâu người ta còn muốn cất nhắc Dân lên huyện nhưng em không muốn đi. Dân khác tôi, gắn chặt với nơi mình sinh ra, không sao rời đi được dù có nhiều cơ hội cho bản thân vươn lên. Tôi vừa thương vừa biết ơn Dân, em gánh cả phần trách nhiệm của tôi đối với mẹ, hẳn cha tôi dưới kia cũng mừng.

Sinh dậy, chả rửa mặt gì, lôi tôi xuống cầu thang: "Mình đi tìm ngỗng về không thì bà lại mắng bố Sinh". "Tìm ở đâu kia?". "Sinh biết mà. Đi nhanh nào". Sinh kéo tôi chạy một mạch tới suối, chỗ cái cối nước đang thì thụp giã. Cả bầy ngỗng đang ngủ ở đấy thật, co một chân, húc đầu vào cánh, bị đánh thức chúng nhốn nháo ầm ĩ. Bản tôi, nhà nào cũng nuôi ngỗng thay cho chó canh nhà. Chỉ cần hai con ngỗng là cứ việc mở toang cửa ngõ đi làm cả ngày.

Hai bác cháu lùa ngỗng về tới nhà thì mẹ tôi đã đứng ở chân cầu thang, có ý chờ. "Ai bảo không mặc áo mà chạy đi sớm thế hở Sinh?". Thằng bé

tảng lờ, liến láu: "Cháu với bác Din đi tìm ngỗng về. Chúng nó ngoan lắm éme à. Chỉ cần làm một cái nhà be bé ngoài máng nước cho chúng nó là xong. éme ơi... - nó ngập ngừng - éme đừng mắng bố cháu, đừng giận bố cháu nữa, tội nghiệp lắm. éme nhé! éme gật đầu đi. Gật như Sinh đây này". Thằng bé làm động tác gật đầu mấy cái. Mẹ tôi nhìn thằng bé, mắt hấp háy như có ánh cười. Thằng Sinh giống em Dân tôi y hệt, từ nước da ngăm ngăm, đôi mắt một mí đến hai mớ tóc hơi quăn kết chặt vào nhau. Nó thực sự là hiện thân của Dân hai chục năm về trước... hình như thằng Sinh đang cố gắng làm cái việc mà bố nó loay hoay mãi không biết xử trí thế nào. Và mẹ tôi thì tin cậy nó. Có lẽ vì thằng bé còn đang trong vòng tay bà, nối bà với những đứa con dang đôi cánh bay cao và bay xa.

Dưới chân cầu thang, nơi mẹ tôi và thằng Sinh đang đứng. Có một phiến đá rất lớn. Phiến đá màu xanh, bốn năm người đứng lên vẫn đủ chỗ. Cha tôi đã kéo nó từ dưới chân suối lên sau một cơn lũ lớn. Chính trên phiến đá này tôi đã gặp cha lần cuối cùng, nghe ông dặn dò rồi tôi khóc ròng ròng, mãi mới buông vạt áo ông ra. Sau này, không biết đã bao nhiêu lần tôi đứng vào chỗ của cha hồi đó, mặt hướng lên phía Tây Côn Lĩnh cao vời vợi, sương mù phủ trắng, mà cảm thấy như một sự ấm áp, một nguồn sinh lực nào đó, để có thể đi những bước vững vàng ngoài kia.

Mặt trời lên. Đỏ như một quầng lửa. Báo hiệu một ngày rất nắng. Cứ nắng như thế thì chỉ ba ngày là thóc nếp khô, yên tâm xếp lên gác bếp. Năm nào cũng vậy, sau mùa thu hoạch bao giờ trên cái gác chạy dài từ đầu nhà đến cuối nhà cũng đầy chật lúa ngô. Ngô túm thành từng túm treo lủng lẳng, lúa xếp bên trên. Được mùa, có khi lúa năm ngoái chưa ăn hết thì lúa năm nay đã về, cứ thế xếp lên. Mẹ tôi kể ngày xưa, nhà ông bà nội còn có những cum thóc tuổi nhiều hơn chú út.

Có tiếng leng keng, lịch kịch, thì ra thằng Câm đang lùa dê lên núi. Nó dừng ở ngõ nhà tôi, chờ em dâu tôi lùa dê ra. Tôi bảo: "Để chị đi cùng

nó". "Làm gì cơ chứ. Mình nó vẫn chăn mà. Với lại, xa lắm cơ chị Din ạ". "Xa mấy chị cũng tới được. Chị muốn tìm ngải đắng...". "Thì bảo nó lấy cho. Việc gì phải đi cho mệt ra". "Không. Chị muốn tự hái về". Mẹ lẩm bẩm: "Ngày xưa... ngải bò vào đến gầm sàn, dỗ mãi không ăn. Làm sao giờ lại thèm khát đến thế hở!".

Câm hớn hở ra mặt. Cặp mắt anh ánh đàn ông lấp lánh trên gương mặt thoắt buồn, thoắt vui. Chắc đi mãi một mình nó cũng buồn. Chúng tôi đi ngược về phía mặt trời. Mặt trời đang ở phía sau dãy núi kia, mới chỉ thấy những tia nắng hình nan quạt hắt lên. Con đường đầy những vết chân dê càng lúc càng dốc, những con bọ gậy bò lổm ngổm trên đám lá vàng ướt sũng sương đêm. Càng lên cao rừng càng âm u. ở những cánh rừng như thế này trời tối khi nào đám trẻ mải chơi không kịp biết. Trên đầu, tán cây ken dày khít, ong bay vù vù. Vất vả lắm tôi mới theo kịp Câm. Đàn dê không cần đuổi cũng đã chạy trước, sục vào những bụi cây gai mịt mùng.

Và đây, tôi đang đứng trên đỉnh của một trong những ngọn đồi hùng vĩ nhất Tây Côn Lĩnh. Gió lồng lộng thổi như muốn cuốn tôi bay lên cao... Và kia, oà ra trước tôi, xanh rợp, tím ngắt, bàng bạc trắng, dập dềnh như những con sóng là cả triền núi mơn mởn ngải đắng vừa thức dậy từ sương mù. Tôi lao vô tri vào đấy, úp mặt lên nó, một trạng thái nửa mê nửa tỉnh, tựa hồ quay về những năm tháng rất xa. Những năm tháng mà có lúc tưởng như nó chỉ còn phảng phất trong cuộc sống cuồn cuộn chảy, dữ dội vật lộn hôm nay. Tôi gặp cha tôi ở đây. Ông vẫn cường tráng, vâm vấp, tôi rúc vào ông như một con gấu non...

Tôi đã trở về nơi tôi sinh ra. Nơi mặt trời lên muộn nhất và đi ngủ sớm nhất.

Tôi đã trở về trên núi cao.

ĐÊM CÁ NỔI

Đỗ Bích Thúy

Tôi sinh ra ở núi rừng. Tôi ăn học ở thành phố. Núi rừng là tuổi thơ tôi. Thành phố là tuổi thanh xuân của tôi. Núi rừng ở sau lưng. Thành phố đang ở trước mặt. Tôi đang đi từ phía trước mặt về phía sau lưng. Đi về dòng Lô, dòng sông quê tôi... Nửa đêm. Tôi giật mình choàng tỉnh mới biết mình mơ. Tôi cảm thấy có ai đó đang mơn man những ngón tay mềm trên mặt mình. Ra là ánh trăng. Trăng cuối tháng lên muộn, mới đang chỉ lấp ló trên đỉnh Thúng Khiếu, lọt những tia sáng ngả xanh qua vách nứa. Gió vẫn rít lên khe khẽ, trăng càng sáng thì trời càng thêm lạnh. Mùi thuốc nam còn tươi bà tôi đem phơi sương bay vào dễ chịu...

Giữa sàn, bếp lửa vẫn còn ấm sực nhờ hai gộc củi lớn chụm vào nhau đang ngun ngút cháy không thành ngọn. Trong gia đình người Tày lửa không bao giờ được tắt. Khi nào bếp không có lửa ắt là điềm gở. Người già chọn con dâu, chỉ cần nhìn cách chụm củi, cách vun bếp là đủ biết có khéo, có đảm hay không.

Có ánh đèn pin loang loáng, cha tôi lục sục trở dậy. "Po khó ngủ hở Po?" "Không. Tao đi ra sông." "Làm gì cơ?" "Còn làm gì nữa. Đang mùa cá chép đẻ mà." "A, Po đi lấy trứng về thả." "Mày còn nhớ à. Tưởng cơm thịt Hà Nội làm mày quên rồi chứ. Con ơi! Mày là người của núi rừng..." Cha nói như dằn dỗi. Ông lẳng lặng đưa cho tôi cây đèn pin khác, cây đèn có đai sẵn, đeo vừa lên trán. Ông với bao dao trên vách, cầm thêm chiếc xô nhựa phăm phăm ra cửa...

Sông quê tôi đây. Những lần nhắm mắt nhắm mũi đạp xe qua cầu trên sông Tô Lịch tôi lại thảng thốt nhớ đến quay quắt dòng Lô quê mình. Ngày nhỏ, không biết đã bao lần tôi đẩy chị Lả ra chỗ sâu, mặc chị uống

mấy hớp nước rồi mới lôi vào. Vậy mà chị vẫn không tài nào bơi được. Cũng tại chị tôi nhát quá, cầm con chuồn ngô, vạch áo lên cả chục lần mà cứ dấm dứ mãi không dám để nó cắn...

Dòng sông lọt giữa hai bên là trùng trùng dãy núi vắt đầy mây trắng xuyên qua đất Vị Xuyên. Quanh năm bóng núi cao vời vợi hắt xuống làm dòng sông dường như càng thêm sâu thăm thẳm. Đêm nay, trăng núi hạ tuần nhuộm cho cả lòng sông ánh u tịch, trầm mặc. Gió lạnh chạy đuổi nhau ào ào, hun hút trên mặt sông u u huyền bí. Sóng nước dềnh lên ì oạp do con nước vấp phải ghềnh đá rải rác giữa dòng. Năm nào cũng vậy, cứ vào độ này - quãng tháng chạp ra giêng - là mùa cá chép nổi lên tìm chỗ đẻ trứng. Cá chép là thứ cá vừa khôn vừa dại, quanh năm kiếm ăn dưới đáy sâu, hiếm khi quăng chài, câu hay đánh dậm, đánh đó mà tóm được chúng. Ấy vậy mà cũng chỉ nó mới đem cái sự sinh nở duy trì nòi giống đầy thiêng liêng ngoi lên trên mặt nước mà khoe với thiên hạ. Người bản tôi ít ăn cá chép. Người già bảo rằng cá chép là loài chúa tể, quyết định sự tồn vong của loài cá sông, đem nó lên đĩa là một hành động phạm thượng. Thế nên khi đánh bắt được cá chép người ta có thể vì tiền mà đem bán chứ ít khi ăn. Cũng vì thế mà khúc sông này hình như nhiều cá chép hơn cả, chúng không bị săn lùng ráo riết cho mấy quán ăn bình dân dưới phố huyện. Hàng năm, cả bản ra sông vớt trứng cá đem về thả trong ao. Cuối năm, dịp ông Táo lên chầu trời là vừa kịp có cá chép bằng bàn tay phục vụ cho người tỉnh, người huyện mang ra sông phóng sinh.

Hai cha con tôi tắt đèn, ngồi nấp sau bụi lau sậy um tùm. Dưới chỗ chúng tôi ngồi chỉ chừng một tầm với thôi, đàn cá chép đang bắt đầu tụ tập quanh đám rễ cây buông xuống nước mềm mại, ấm áp. Độ nửa giờ sau, khi vầng trăng tròn nhô lên tới ngọn cây trám giữa thôn Nùng thì bắt đầu có tiếng lóc tóc lách tách. Cha tôi thì thầm: "Bắt đầu rồi đây." Dần dần, tiếng lóc tóc lách tách lớn lên, âm thanh vội vã gấp gáp hơn, rồi rõ ra

thành tiếng quẫy đạp ùm ũm. Tôi nín thở dõi theo ánh đèn pin đã che khuất hai phần ba bằng ngón tay trỏ của cha tôi, không tin nổi vào mắt mình. Bầy cá dễ có đến cả trăm con lúc nhúc chen vào giữa đám rễ cây, bên ngoài, những con khác nối đuôi nhau lượn thành vòng tròn. Bất chợt cha tôi vung dao, miệng lầm bầm: "Mất dạy không nào!" Thì ra có mấy gã bống, cá chuối đang tìm cách len vào, mồm há ra đón lõng những dòng trứng vừa tuôn ra chưa kịp quấn vào đám rễ cây. Sau cái vung tay của cha tôi, lũ cá chuối, bống kia biến mất. Bầy cá chép vẫn mê mải quấn quýt bên nhau.

Tôi để cha ngồi lại một mình rồi xuôi xuống mé dưới. Không riêng gì cha con tôi mà người trong bản xuống lấy trứng cá cũng đông lắm. Bụi cây nào cũng thấy có tiếng nói chuyện rì rầm. Bản tôi bám dọc theo nửa bờ bên này, phần ruộng nương tương đối bằng phẳng chạy vào chân núi độ nửa cây số. Bên kia sông là nương ngô, sắn của người Dao ở Lùng Áng. Họ làm nhà chênh vênh giữa lưng chừng núi. Thời điểm này thu hoạch nương rẫy xong rồi họ thường vào rừng sâu kiếm mật ong...

Bản tôi ở dưới thấp, trong thung lũng. Mà thung lũng thì như cái lòng chảo, hứng lấy mùn trên núi, mưa lũ đưa về nên đất đai màu mỡ, trồng cấy thứ gì cũng lên như thổi. Rừng chẻ ra muôn khe suối lớn nhỏ chảy ngoằn ngoèo qua bản làng, ra sông. Mùa cạn, trẻ con kéo nhau ra úp mặt xuống lòng suối tập bơi. Nhưng cũng chính những khe nước nhỏ này lại là những cánh cửa mở ra đón nước lũ tràn vào bản bạo liệt và hung dữ mỗi mùa mưa.

Ở rừng, mùa mưa thường đến sớm. Trên này mùa mưa chán chê rồi mà dưới xuôi có khi vẫn còn khô hạn. Trước mùa mưa, cua bò lổm ngổm từ suối lên, sáng ra thấy cua bậu kín cả chân cầu thang. Ấy là lúc ngô lúa, đậu lạc ngoài đồng phải mau mau mang về. Biết vậy mà hầu như năm nào cũng có những thửa ruộng chưa kịp thu hoạch vì con lũ tràn về nhanh

quá. Thời điểm ấy những cơn mưa như trút nước nối tiếp nhau kéo dài lê thê. Một ngày... hai ngày... một tuần... rồi hai tuần... nước đỏ ngầu nhấn chìm các con suối. Nước tràn vào đồng thấp, nước leo lên đồng cao, nuốt chửng cả những gò đồi trồng đỗ đen, đỗ xanh lá đã ngả vàng. Nước dâng mãi, dâng mãi ngập đến ba bậc cầu thang thì dừng lại. Trẻ con cởi truồng ôm chậu đập bì bùm sang nhà nhau chơi, hò hét í ới. Người lớn quây quanh bếp lửa, chất thêm củi, đun nước pha chè bồm, luộc một nồi sắn thơm lừng... Đàn ông rít thuốc lào, đàn bà mang cum thóc nếp ra vò, tính xem vụ hè này có cần bán lợn mua phân vi sinh không.

Cái lũ dữ dằn thế, làm tơ tướp, gẫy dập cả vườn tược cây cối, nhưng ở chán rồi cũng phải đi và để lại cả cánh đồng đầy ứ phù sa vàng mỡ. Sau mùa lũ, sang thu, người ta không phải bỏ công cày bừa, cứ chọc lỗ thả hạt thóc, hạt ngô xuống phù sa là an tâm rồi...

Chân tôi đang đạp trên lớp cỏ mượt như nhung. Bờ sông không có lối bởi vì một trăm người đi là một trăm lối đâm ngang đâm dọc, ai muốn đi lối nào thì cứ đạp lên cỏ, lên lau sậy mà đi. Tôi lần xuống bến đò. Đây là cầu nối giữa Lùng Áng, Phú Linh, Linh Hồ sang đất Đạo Đức, Vị Xuyên. Lên tỉnh hay về Hà Nội thì cũng phải sang đây. Trong căn lều bên bến có một người đang cúi đầu vào bếp thổi phù phù. Tôi nhận ra Huyên. Ngày xưa tôi và Huyên cùng học ở trường huyện, lớn lên tôi được đi xa, còn Huyên phải bỏ học vì nhà neo người, cha Huyên lái đò mấy năm rồi nhưng hay đau ốm.

Huyên rót cho tôi bát nước chè rồi bóc sắn vùi vào bếp. Gương mặt tròn trịa trắng ngần kín đáo dưới tấm khăn lanh đen đang được ánh lửa hắt lên hồng rực. Huyên hỏi tôi, hỏi mà như cười giễu: "Páo ơi, người Hà Nội còn biết chèo đò qua thác Pắng không đấy?" "Có chứ. Quên thì không lấy được vợ đâu Huyên à." "A lúi! Páo vẫn nhớ lời dặn của người già cơ à. Này... học xong thì về bắc được cây cầu sang Phú Linh đấy nhỉ." "Ừ.

Được... nhưng không bắc đâu. Để Huyên còn chèo đò nữa chứ, vắng Huyên thì buồn lắm." Huyên cười thành tiếng. Tiếng cười trong vắt vỡ ra giữa đôi hàm răng đều như hàng ngô nếp đầu mùa trắng bóng. "Huyên ơi, hát phươn đi cho Páo nghe với. Lâu quá không được nghe rồi, nhớ lắm?" "Thôi mà. Mặt trời chưa mọc không hát được đâu..."

Bên kia sông có tiếng í ới gọi đò. Tôi chỉ nhìn thấy lờ mờ đám người gồng gánh gì đó hình như rất nặng. "Người Phú Linh, Linh Hồ đi đâu sớm thế hở Huyên?" "Đi bán cam đấy. Trời sáng là có ô-tô đón ở đường quốc lộ rồi. Năm nay được mùa bán mãi không thấy hết. Đám cưới nào cũng làm to lắm." "Huyên ơi, bao giờ thì Huyên..." "Ôi! Không ai thèm chặn đường đâu Páo à. Xấu quá mà." "Không phải, tại Huyên đòi nhiều bạc trắng quá thôi..." Huyên lắc đầu quầy quậy, nhanh tay tát nước trong thuyền, tháo dây neo rồi nhẹ nhàng quay mũi. Hai tà áo dài mềm mại bị gió hất tung lên...

"Thằng Páo đâu rồi? Páo ơi!" Cha tôi gọi. "Nhanh tay lên nào, sáng tới nơi rồi." Tôi chạy tới giúp cha nâng mớ rễ cây, cỏ rác đã đầy ứ những trứng là trứng. Những dải trứng trơn nhẫy, quấn chặt lấy đám rễ cây, đến nỗi chỉ túm riêng đám rễ ấy thôi mà xách về có khi cũng không rơi ra được. Nhưng cha tôi bảo mang trứng về không khéo để nó xóc sẽ không nở thành con được. Trong xô có hai con chép cỡ bàn tay đang ngáp khan, cha bảo tôi đỡ chúng ra. "Con Mực vồ được lúc nãy đấy. Mất nết quá." Con chó Mực đang nằm ẹp bên gốc cây, chừng như biết lỗi, đầu và hai chân trước ướt sũng. Cha tôi mang hai con cá ra chỗ dòng nước xiết thả chúng xuống.

Có tiếng gì như tiếng gà gáy, lại như không phải. Nghe lúc gần lúc xa, eo óc. Tách te! Tách te? "Tiếng con tắc kè đấy phải không cha?" "Tắc kè đâu ra. Tiếng gà đấy chứ. Tai mắt ra làm sao vậy." Tiếng gà thật. Mà không đâu xa, nó cất lên ngay sau lưng cha con tôi, từ trong khu rừng mả.

Tiếng gáy nghe cô độc, day dứt, tôi thấy lành lạnh sống lưng. Có tiếng gà nghĩa là có người mới được đưa về đây. Theo phong tục người Tày, mỗi dòng họ trong bản đều có một khu rừng riêng dành cho người chết, bọn trẻ trâu chúng tôi gọi là rừng mả. Trong đó rậm rạp âm u, toàn những thân cổ thụ mấy người ôm, không ai dám bén mảng tới, kể cả lũ trẻ bạo gan, liều lĩnh nhất. Khi có người chết, trong nhà mồ bao giờ cũng có đủ những thứ tối thiểu cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày - nồi niêu, gạo, muối... còn thêm cả một con gà trống cho có bạn. Chả hiểu sao con gà cứ ở mãi trong đó, một mình, đêm nào cũng eo óc gáy sớm hơn gà nhà. Đi qua khu rừng để về theo đường bến đò, chẳng ai bảo ai cả cha con tôi đều đi dấn bước lên. Đây là khu rừng mả của nhà ông ké Huy, con cháu có khi đông nhất nhì trong bản...

Vừa ra tới đường mòn cha con tôi đã vấp ngay phải một anh đang đứng nghếch chân lên chiếc Simson đỏ. Nhìn chằm chằm vào chiếc xô nhựa cha tôi đang xách, anh ta nháy mắt: "Này bác, bán cho một nửa được không?" "Không bán đâu. Thích nuôi thì cho thôi, lấy cái gì đựng đi. Mà nhớ thả riêng cho lớn lớn một tí đã nhé." "Ầy? - Anh kia cười - tôi làm gì có ao mà nuôi, ở dưới xuôi lên sau mà. Nước ăn còn chả đủ nói gì nuôi cá. Mua về cho con lợn nái mới đẻ thôi." Cha tôi vo tròn chiếc túi anh ta vừa đưa, ném phịch xuống lối đi: "Thế thì không cho được." Nói rồi ông phăm phăm bỏ đi mặc anh kia đứng nghệt ra.

Đi tắt qua cánh đồng về nhà cho nhanh, chân tôi giẫm lên những gốc rạ mới cắt ướt sũng sương muối. Nhà nào ủ một đống rơm giữa ruộng còn ngọn khói bốc lên, thi thoảng cơn gió ào tới lại làm cả đống tro than đỏ rực lên. Hình như những hạt phù sa đã nhuộm những gốc rạ cho nó mầu vàng xuộm. Chưa ở đâu tôi bắt gặp cái mầu vàng ấy...

Đất trời đang ở cái khoảnh khắc giao hòa giữa ngày và đêm. Sau lưng tôi, phía ngoài bãi ngô là một dải sương mù trắng đục rất lớn, trời lạnh quá

hơi nước từ sông cũng chỉ dâng lên được chừng ấy. Đám gà nhà trong xóm bây giờ mới thi nhau gáy, đập cánh phành phạch... Còn xuôi về mé dưới, giữa cái đu đưa chín mọng của vườn cam, cái tí tách bật chồi xanh mướt của nương chè là quầng sáng hắt lên từ nghĩa trang liệt sĩ. Như thể đã lâu lắm rồi... cái thời đêm đêm từng đoàn xe quân sự phải bật đèn gầm khi tới đất Vị Xuyên... Và kìa, từ phía bến đò vẳng lên tiếng hát phươn trong vắt mà thanh, nhẹ như sợi chỉ căng ra giữa cái rét cắt da cắt thịt. Có lẽ Huyên đã chở hết đám khách Phú Linh mang cam sang bên này.

"Là ới!... Hẩn lầu khảng lưởng thếp hẩu ma. Ngọn cần phả bàu đệp. Hẩn lầu khảng lưởng thếp hẩu bản. Bản muông bàu mi dêu... ới a... vai hẩn làu tẩu láu. Khít thải thử nuông tam... Khuyên hẩu làu khảy vả. Suông nhăng mi nuông chắp..."

(Ngày hôm nay trời không mưa sao anh lại cầm ô vào làng. Ngày hôm nay trời không nắng sao anh lại cầm ô lên bản... Nếu anh thương em thì đưa áo em khâu đường chỉ tuột... Anh nhé, đừng phụ công em. Đi xa phải nhớ về...).

Tôi định chạy trở lại phía sông nhưng mặt trời đã lên mà vầng trăng vẫn còn thấp thoáng phía chân trời...

NGOÀI CỬA TRỜI CHƯA SÁNG

Đỗ Bích Thúy

1.

Lạc đường. Con Mốc vẫn cắm đầu chạy. Cho đến khi sắp khuỵu xuống thì trước mặt nó hiện ra một khe nước. Từ phía dưới, sâu thăm thẳm, vẳng lên tiếng nước réo ùng ục. Mốc phi thẳng vào tầng tầng lớp lớp giang già phủ kín mặt khe, bỏ lại sau lưng lũ chó ăn thịt gầm gừ kéo đuôi lượt thượt tức tối.

Mốc chìm dần giữa tán giang dày khít và rơi xuống một vụng nước. Nước trong văn vắt, lặng mà sâu. Nó đang nằm trên đỉnh một ngọn tháp. Chỗ này có lẽ đã cách xa Pụ Dín lắm. Không mấy khi theo chị Pao đi lấy chuối rừng về cho lợn mà gặp nhiều chuối vàng to chừng này. Chuối rừng mọc khắp các khe suối, lẫn với giang, cây dong và ngõa, đến mùa thi nhau nở hoa đỏ ối cả vùng. Nhưng chỉ nhiều chuối đen chứ chuối vàng ít lắm, người các bản lên chặt về chăn lợn hết, cây bé cũng hết.

Đêm qua, lúc thoát khỏi mấy bàn tay sắp chọc dao vào cổ mình, Mốc đã phi một mạch không kịp nhận ra hướng về nhà, lâu lắm mới dừng lại để đạp cái rọ mõm ra. Rồi tối trời, lại mệt quá, nó dúi đầu vào một bụi lau mà ngủ. Sáng nay, cứ nhằm đường hẹp đường rậm mà chạy. Đường rậm thường không có người đi, mà thiếu hơi người thì lũ chó ăn thịt kia còn tha hồ tìm.

Mốc uống no nước rồi bò lên bờ, nằm vắt qua một tảng đá đầy rêu. Xung quanh tối thẫm, không có tí ánh mặt trời nào. Mốc nhúng cái chân đang còn chảy máu ròng ròng xuống nước...

Lúc ấy, Pao cũng đang ngược dốc tìm đường về Pụ Dín.

*

**

Từ Pụ Dín nhìn qua mấy quả núi cũng thấy khói nương Pụ Cháng. Mùa thu hoạch, gió mạnh một tí là có mùi cơm mới bay sang. Vậy mà muốn đến thăm nhau là phải đi từ lúc mặt trời chưa mọc đến khi mặt trời sắp lặn, trẻ con không đứa nào đi nổi. Pụ Cháng ở thấp hơn, gần đường ôtô, đi về chợ huyện chỉ mất nửa ngày. Gần huyện nên trẻ con Pụ Cháng cũng khôn sớm hơn trẻ con Pụ Dín, nhiều đứa bé tí đã biết nhận mặt đồng tiền lúc theo mẹ bán bán mua mua ở chợ.

Xa thế nhưng cũng gần, hai bản có nhiều nhà là anh em họ hàng với nhau. Trước kia Pụ Cháng toàn người họ Giàng, họ Thào; Pụ Dín chỉ có họ Lù, họ Ly, sau này đi sang nhau lấy dâu nhiều mới thành họ hàng anh em. Lẽ ra là họ hàng anh em phải hay đến thăm nhau thì bây giờ lại không thế. Người già muốn đến nhưng yếu chân yếu mắt không đi được. Người trẻ thứ gì cũng khỏe lại không muốn đi. Tại cái đầu ít nghĩ đến nhau thì tự dưng chân cũng mỏi theo thôi mà. Người Pụ Dín nói thế.

Ấy dà, nói thì không vừa lòng nhau, không nói thì bảo khinh nhau, bảo không có mồm. Biết thế nào cho phải. Người Pụ Cháng lại nói thế.

Mặc kệ thôi. Gió vẫn cứ mang hương cơm mới về Pụ Cháng, lại mang mùi rượu hoẵng lên Pụ Dín. Trời mưa thì nước mới vẫn chảy từ trên cao xuống thấp, trời cạn thì chỗ nào cũng khô như nhau. Trời đất chẳng làm gì để bản này ghét bản kia, mà người già đêm nào cũng nói đi nói lại ghét nhau là tự mở cửa cho ma đói vào bụng mình. Từ ngày Pụ Dín, Pụ Cháng gom lại chưa đầy chục nóc nhà đã thân nhau như mấy đốt ngón tay, cứ năm nào có người cãi nhau là năm ấy mất mùa. Bây giờ không phải một, hai người mà cả bản ghét nhau thì cái gì đến đây?

Tai vẫn nghe, miệng không cãi, nhưng bụng thì nghĩ khác rồi.

Người trẻ không còn muốn sang đi hội với nhau nữa. Mọi thứ cứ khác dần đi, bắt đầu từ ngày Pụ Cháng có điện về.

Pụ Cháng nằm ngay cạnh đường lên huyện lị. Lúc người ta kéo điện qua tiện đường lắp cho Pụ Cháng một trạm hạ thế. Vậy là bỗng chốc cả Pụ Cháng, nhà lớn nhà bé, nhà giàu nhà nghèo, chỗ nào cũng sáng như ban ngày. Từ Pụ Dín nhìn xuống thấy như mặt trời không lặn ở Pụ Cháng, còn ở Pụ Cháng từ ngày không còn thắp đèn dầu nữa, nhìn lên lại thấy Pụ Dín tối hơn ngày trước. Có lần gặp nhau ở chợ, bọn con trai Pụ Cháng còn bảo: "Dạo này Pụ Dín đi ngủ sớm thế. Chẳng thấy ánh lửa gì cả". Không biết chúng nó nói thật bụng hay cố tình trêu tức, nhưng đám con trai Pụ Dín đã giận tái mặt: "à thì chúng mày khinh bọn tao đấy. Mới sáng hơn một tí đã học khinh người ở đâu về rồi".

Vậy là cãi nhau. Lúc đầu chỉ nói nặng lời hơn bình thường, nhưng sau cứ nóng mặt dần lên, không giữ được nữa là mở miệng to ra, suýt nữa còn đánh nhau. May mà bọn con gái gọi về.

Sau lần cãi nhau giữa đám thanh niên ấy, hai bản xa nhau hẳn ra. Không ai bảo ai nhưng tất cả đều nhận thấy thế. Người Pụ Dín đi chợ huyện không qua Pụ Cháng nữa mà đi vòng, qua hai quả núi nữa mới xuống đến đường cái. Mất gần một tháng, bọn con trai con gái Pụ Dín mới dọn xong đường riêng cho mình. Thấy thế, thanh niên Pụ Cháng đi săn cũng không đi về phía Pụ Dín. Nhưng dần dần, từ ngày có điện về người Pụ Cháng cũng ít lên núi. Pụ Cháng đã tự mở một cái chợ bé, có máy xay xát, có thêm cả một cái quán phở nữa, lúc nào cũng ồn ào. Bây giờ, xe ôtô qua lại, dù lên huyện hay về tỉnh cũng muốn dừng lại Pụ Cháng một lúc. Pụ Cháng ở ngay sau cổng trời một, quanh năm gió lồng lộng, nhìn xuống phía dưới là thung lũng toàn sa mộc mọc hoang, đều tăm tắp. Dưới chân sa mộc toàn hoa cúc đỏ. Dín dần thành nếp, Pụ Cháng thành chỗ nghỉ quen chân của người qua lại.

Pụ Cháng, Pụ Dín ngày càng không giống nhau, càng xa nhau. Cho đến khi ngay trung tâm chợ Pụ Cháng có một người đàn ông râu rậm mang theo vợ từ xuôi lên, mở một quán thịt chó, thì hai bản không còn nối lại với nhau được nữa.

Bao đời nay, người Pụ Cháng, Pụ Dín nuôi chó giữ nhà, giữ nương, coi nó như bạn. Chó lớn lên cùng với người. Có con chó giữ cửa, người lớn đi làm cứ để trẻ con ở nhà, không phải lo gì. Đến mùa bẻ ngô, nhổ sắn, mang con chó lên nương làm nhà cho nó ở, rồi người cứ về nhà mà ngủ. Trẻ con có khi bị đánh vì hư, nhưng con chó thì một câu chửi cũng không phải nghe. Cứ ở với người mãi, chó bố chó mẹ già ốm, lông rụng, nằm một chỗ, thì chó con đã kịp lớn lên cả đàn. Cần tiền đến đâu cũng chỉ bán con gà con lợn, không ai bán chó đi lấy tiền bao giờ.

Vậy mà bây giờ Pụ Cháng lại để người lạ đến giết chó như giết gà thế thì Pụ Dín không chịu được rồi. Cậy giàu, cậy thừa tiền thừa của không cần chó canh nương nữa đấy mà. Nhưng không cần thì thôi chứ, sao lại đem giết thịt con chó bao nhiêu năm bầu bạn với mình? Tệ quá. ác quá. Người Pụ Dín giận lắm. Giận mà không biết làm gì quay ra lo giữ đàn chó trong bản, không cho đi chơi xa, nhỡ lao xuống Pụ Cháng lại không có đường về.

*

**

Đã mấy đêm rồi, đang dở giấc, nghe tiếng móng chân con Mốc cào cào vào cánh cửa gỗ Pao lại bật dậy, rút then cho nó vào nhà. Đấy là lúc gần sáng, tiếng chó bị giết thịt dưới Pụ Cháng bắt đầu vọng lên, nghe rõ lắm. Đưa con Mốc vào, cho nó nằm ngay dưới chân giường mình, rồi Pao cũng thức luôn đến sáng. Con Mốc run lên từng chập. Đi săn gặp thú dữ, đêm mưa sấm sét ầm ầm, cây to đổ gãy khắp nơi chưa bao giờ, chưa cái

gì làm nó biết sợ. Chỉ đến bây giờ, nghe tiếng chó tru lên từng đêm mới thấy con Mốc run bần bật thế này. Sợ hay là uất ức cũng không rõ nữa, nhưng cứ soi đèn pin vào mặt nó là thấy hai con mắt mở chừng chừng, đỏ như hai hòn than.

Hôm nào vào phiên chợ, xe qua lại nhiều. Hôm ấy lão chủ quán giết nhiều chó. Nghe tiếng kêu cũng biết loại chó nào bị giết. Pụ Dín, Pụ Cháng xưa nay chỉ có mấy loại thôi, ai mà không nhận ra được. Chó vàng chân đen, đuôi cong kêu như tiếng xé vải; chó đen, tai cụp, đuôi quét đất kêu tiếng dài mà dữ; chó khoang trắng khoang đen kêu như tiếng trẻ con khóc mẹ... Những tiếng kêu từ trong cổ, không há miệng ra được, nghe càng sợ, dội đi dội lại Pụ Dín mãi.

Nhà Pao nuôi chó khoang từ đời ông bà, trước cả ông bà nữa. ở Pụ Dín, nhà nào nuôi loại chó gì thì cứ nuôi mãi. Chó con chui ra, con nào của nhà mình thì lấy, con nào của nhà khác thì đợi đến lúc nó biết ăn cơm là mang đến tận nhà trả. Nhà khác cũng thế. Chó khoang hiền lại chăm, thức suốt đêm đi hết nương này qua nương khác được. Họ Ly ở Pụ Dín ít người nên chó khoang ở Pụ Dín cũng ít. Như nhà Pao đây, có mỗi con Mốc. Thỉnh thoảng có nhà mang chó con đến cho nhưng chỉ nuôi được vài ngày là chết dù Pao có nhá cơm cho nó ăn từng bữa. Nhà ít người, Pao có mỗi con Mốc làm bạn, đi đâu cũng chó nó theo. Con Mốc cao lừng lững, tai dài dựng đứng, mùa khô nghe tiếng chân nó chạy trên suối cạn như tiếng vó ngựa. Bố Pao già yếu rồi, việc canh nương vụ nào cũng phần con Mốc.

Hồi đầu mùa đông năm Pao lên hai tuổi, mẹ đẻ một lúc hai em, một trai một gái, nhưng không em nào sống được vì yếu quá. Mẹ ra nhiều máu, lại buồn quá cũng ốm luôn từ đấy, không còn làm được việc gì nặng nữa. Nhà không có con trai nên bố Pao là con cả cũng dần dần thành con thứ. Càng ngày bố càng cố ý để mấy em trai lo hết việc trong họ. Bố buồn.

Nhưng buồn bao nhiêu cũng để trong bụng thôi, không nói ra vì sợ mẹ

biết lại càng ốm thêm.

Việc nhà dồn hết vào đôi tay bố, lo đủ miệng ăn đã khó còn phải kiếm thuốc, gọi thầy mo cho mẹ nữa, nên nhà nghèo càng nghèo thêm. Năm Pao lên tám tuổi thì người già trong họ bắt đầu đến nhà Pao nói chuyện với bố. Đến buổi tối, lúc cả nhà ăn cơm xong rồi, ngồi bên bếp uống nước chè. Hôm nào các ông chú đến thì mẹ Pao cũng chỉ pha nước chè mới rồi lui vào buồng, để bố Pao ngồi tiếp chuyện. Lúc đầu còn nói xa nói gần, sau thì các ông chú nói thẳng ra là cả họ nóng bụng quá rồi, muốn bố Pao có con trai để lo việc họ sau này. Chú Dín cũng có con trai, nhưng chú người yếu, da xanh, làm việc gì cũng chỉ được một nửa đã thõng tay đứng thở, ngày nào cũng ho vài trận. Lấy vợ vào cũng không hơn gì. Vợ chú Dín to gấp đôi chú, làm việc gì cũng một nhoáng đã xong. Mọi việc trong nhà dồn lên tay thím hết, kể cả việc dạy con. Nhưng xưa nay, việc dạy con trai thành người lớn có bao giờ lại là việc của mẹ, con trai thì phải theo bố chứ. Hai đứa nhà chú Dín, tám chín tuổi đẽo con quay gỗ chưa nổi, bao giờ mới biết tra cán con dao? Bao giờ mới làm việc đàn ông trong nhà được, nói gì đến việc họ việc làng. Bố Pao không như chú Dín, việc gì cũng thạo cũng giỏi, ngày còn thanh niên cả Pụ Dín không ai dám so tài. Cả họ trông chờ vào bố Pao. Từ hồi hai em Pao mất mọi người lại đợi mẹ Pao mang bụng, nhưng đợi mãi, đợi mãi không thấy, chỉ thấy mẹ Pao người càng ngày càng mỏng đi, bé lại. Thế mà bố Pao thì nhanh già quá, gần bốn mươi mà tóc đã bạc rồi. Bà thím bảo, người nào buồn nhiều, khổ nhiều thì mau già, nhưng sống lâu. Bố Pao nói, sống lâu mà cứ buồn mãi, khổ mãi không sướng bằng chết sớm. Những câu chuyện nói qua nói lại thế mẹ Pao nghe hết. Nghe rồi thở dài.

Ngày xưa, ông nội, ông ngoại Pao chơi thân với nhau từ lúc còn rủ nhau mang con quay gỗ lim ngâm bùn dưới vũng trâu đầm ba tháng đi đấu ở

bản khác, cách Pụ Dín mấy cái nương sắn. Lớn lên, hai người lấy vợ cùng một năm, làm bố trẻ con chỉ trước nhau vài ngày. Hứa với nhau trước nên lúc mẹ Pao vừa tròn tuổi mười hai là ông ngoại cho về làm dâu họ Ly rồi. Mẹ Pao là con út, về làm dâu cả, nhưng nhà bên này không có con gái nên ông bà thương chiều như con gái ruột, việc nặng không bắt làm. Mẹ Pao cũng lo việc nhà chồng như nhà mình, coi bố mẹ chồng như bố mẹ mình. Về làm dâu lúc còn bé quá, mấy năm liền con dâu toàn ngủ chung với mẹ chồng. Sau này mẹ mới kể với Pao, ông bà nội đòi lấy dâu sớm thế là để giữ phần, sợ một vài năm sau lớn thành con gái rồi lại nhìn thấy người con trai khác chứ không phải bố Pao. Đến lúc ấy cố ép hai người lấy nhau cũng khổ.

Hồi mới cưới về, bố Pao cũng chăm cho mẹ Pao như chăm em gái út, đi rừng gặp hoa gì cũng hái về cho, bắt cả một con sóc con về buộc chân nuôi trong nhà, con sóc ở mãi rồi cũng quen, bỏ dây ra cũng không đi nữa. Mẹ Pao kể, hồi bà nội bắt đầu đuổi con dâu sang buồng riêng với chồng, đêm nào con sóc cũng chen vào nằm giữa hai người, thỉnh thoảng cào cào cho mỗi người một cái.

Vì mẹ Pao làm dâu mà không giống con dâu, bao nhiêu năm họ Ly coi mẹ con Pao như con gái trong họ rồi, thế nên bây giờ bàn chuyện kiếm vợ mới cho bố Pao các ông chú mới không dám nói thẳng ra, cứ vòng quanh xa gần mãi, mặc dù bản này đàn ông lấy vợ hai nhiều lắm, vợ cả không đẻ được con trai là lấy thêm vợ hai thôi, rồi muốn ở chung cũng được mà thích tách ra ở riêng thì ở, không ai ngăn. Dâu nào cũng là dâu, cháu nào cũng là cháu, cứ mang họ nhà chồng là được đối xử như nhau hết.

Đêm nào cũng thế, mẹ dựa lưng vào vách, ôm Pao trong lòng, không cố tình nghe nhưng câu chuyện của đàn ông bên ngoài cứ vẳng vào buồng. Các ông chú nói:

- Mày là cái nóc của họ Ly, bây giờ chân cột cha mục mà cái nóc muốn mục trước, thế có được không? Con vợ mày ốm, nó không đẻ được nữa, thì thôi, ép cũng không ra. Vậy thì mày phải nghĩ xa xa qua cái ngưỡng cửa một tý có ai trách mày không?

Bố nói:

- Không nói nhiều nữa, không nói nữa. Nhé! Các ông chú à, cháu đứng chỗ thấp, chỗ cao cũng như nhau cả thôi, không xếp lại nữa. Việc làng việc họ cần đến đâu, cháu làm được thì làm, không làm ngay được thì để sau này anh em thằng Sình thằng Sính làm. Cây nhà mình đang héo, lòng dạ nào đi tìm cây khác...

Mẹ thở dài, tóc mẹ xõa xuống mặt Pao.

*

**

Buồng riêng của Pao có một lỗ cửa nhìn ra đầu hồi bên phải, phía mặt trời lặn, cứ mở miếng gỗ che lỗ cửa ấy ra thì căn buồng này là chỗ tối muộn nhất trong nhà. Mặt trời lặn đến đâu thì cái ô nắng vuông vuông lại nhích dần lên tường đến đấy, nhưng ô nắng chỉ lên đến chỗ Pao treo cái túi thêu là dừng lại rồi tắt dần. Mùa đông, sợ gió vào, Pao cắt một mảnh áo mưa trắng, lấy que gài vào lỗ cửa để không bị tối. Có mỗi cái lỗ cửa ấy thôi, để lúc nào không có việc là Pao lại ngồi trong giường nhìn ra. Nhìn ra mà người ở ngoài không biết. Vẫn là con đường trâu kéo gỗ về đào thành rãnh sâu ấy, vẫn cái gốc cây người đi chợ về hay buộc ngựa ấy nhắm mắt vào cũng thấy rõ từng cái mấu xù xì của nó... Quen mắt thế cứ tưởng nhìn mãi cũng chán, nhưng mỗi ngày lại nhìn thấy những cái mới. Chiều hôm trước, Pao cũng ngồi thế này, nhìn qua lỗ cửa thấy trong những người đi chợ về có một người đội một cái chảo lớn trên đầu cắm cúi leo dốc. Sắp tết tháng bảy rồi, mua chảo về đồ bánh đây mà. Cái chảo to che kín người

ấy từ vai trở lên, chỉ nhìn thấy tấm lưng vuông như cái bàn uống nước nhà mình, thấy đôi chân bám chắc như con tắc kè trên tường, Pao nhìn theo, nhìn mãi cái bao dao người ấy đeo bên hông. Cái bao dao chạm bạc hình hoa cúc. Hoa cúc đỏ dày cánh, mọc đầy dưới những gốc sa mộc già, Pao đánh về trồng trong vườn bao nhiêu lần không có lần nào cây sống được. Chạm được bông hoa ấy trên bao dao gỗ phải là người khéo tay lắm, Pao vẫn nghĩ ở Pụ Dín chỉ có bố Pao làm được.

Ở Pụ Dín, con gái tầm tuổi Pao lấy chồng gần hết rồi, Pao cũng có nhiều người hỏi nhưng chưa nhận lời ai. Bố nóng ruột, nhìn Pao mỗi mùa ngô lại cao hơn cái vạch bố khắc trên khung cửa một đoạn, chỉ vòng bạc đeo ở cổ tay phải tháo ra từ lâu rồi, thế mà Pao cứ lùi lũi đi làm, đi chợ, về chợ một mình, chập tối đã đóng cửa, thả chó ra. Cũng từ khi Pao cao vượt cái vạch trên khung cửa, hai bố con ít nói chuyện với nhau. Bao nhiêu chuyện Pao cần hỏi lại không hỏi được bố, bao nhiêu chuyện bố muốn bàn với Pao lại không bàn được, vậy là quanh ra quanh vào chỉ có con gà, con lợn, nương ngô, nương lúa làm chuyện nối hai bố con.

Pao chín tuổi thì mẹ mất. Vừa qua mùa gặt, ngô lúa thu về chất đầy nhà đầy sân. Ngày nắng các em con nhà chú kéo sang phơi hộ, dọn hộ. Nhà ít người mà thu về nhiều thế, bố Pao đã tính đến tết tha hồ bán đi mua sắm. Nhưng chưa kịp ăn bữa cơm gạo mới nào thì mẹ đột ngột ốm nặng. Một ngày, hai ngày, người cứ lả dần đi, cánh tay không nhấc nổi nữa. Rồi mẹ đi hẳn trong một buổi chiều. Bố đi cắt thuốc dưới Pụ Cháng chưa về, Pao vừa đuổi gà không cho vào bới thóc vừa chạy vào quanh quẩn bên mẹ. Lúc mẹ dặn Pao, Pao cũng chẳng chú ý nghe, câu được câu mất. Chỉ nhớ láng máng mẹ bảo nếu có người lạ đến ở nhà mình, thì Pao phải nghe lời bố hơn, nghe cả lời người ấy nữa. Một lúc sau thì bố Pao đi người không, xô cổng chạy vào. Thầy lang ở Pụ Cháng bảo tự mẹ Pao muốn ốm thế,

mà người ốm đã muốn ốm thêm thì không thuốc nào chữa được. Nhưng bố Pao biết được thế thì đã muộn quá rồi.

Hôm ấy, mặt trời bám mãi trên dãy Hoàng Liên không chịu lặn. Nắng chiều vàng hơn cả ngô lúa đang tãi đầy ngoài sân, nắng lọt qua khe cửa chiếu lên mặt mẹ. Nhìn mẹ ngủ, hai mắt nhắm nghiền, vành khăn tuột ra khỏi đầu Pao không biết rằng mẹ không bao giờ thức dậy nữa. Trên núi, đột nhiên có tiếng gà rừng gáy tiếng gáy chậm, quấn vào nhau.

Sau ngày mẹ mất, các ông chú thôi không đến tận nhà nói chuyện con trai với bố Pao nữa. Ai cũng biết mẹ Pao không tự dưng ốm nặng thế. Mẹ đã đợi đến lúc Pao bắt đầu biết lo việc nhà, đợi đến mùa các ông mối bà mối hay đến đánh tiếng, đợi đến khi ngô lúa đầy nhà, lợn gà đầy chuồng mới ốm. Nhưng mẹ không đợi đến lúc bố hết thương mẹ, đến lúc Pao thành con gái lớn nhiều người để ý, rồi mẹ hẵng đi. Hai bố con Pao thay nhau khóc trước bàn thờ mẹ...

Pao lớn lên, ít bạn bè. Sáng sớm đi làm với bố, tối về nhà đóng cửa sớm. Bọn con trai con gái rủ nhau ra bãi cỏ chơi trăng đông lắm, đi qua nhà í ới gọi Pao, Pao mặc kệ. Pao sợ ánh mắt bọn con trai cứ dán vào lưng vào gáy Pao mỗi lúc Pao ngang qua chúng nó, Pao không thích bọn con gái bị con trai chòng ghẹo còn quay lại buông lời đưa đón, Pao muốn tìm một người như bố mình, vợ không đẻ con trai cũng không bỏ đi lấy người khác. Người ấy còn phải ở rể nhà Pao nữa, bố Pao già quá rồi, Pao không nỡ bỏ đi lấy chồng. Người như thế thì tìm đâu ra. Bố bảo Pao đang nghĩ dại. ở với bố mãi, đến lúc bố theo mẹ đi nốt thì thành gái già rồi. Gái già giống cây mía tím ra hoa, cho cũng không ai thèm lấy. Lại còn đòi người ở rể. Thằng đàn ông đến nhà vợ ở rể giống con chó cụt đuôi ra đường không dám nhìn ai.

Pao cứ ngồi bó gối trong buồng nhìn qua ô cửa. Chếch sang bên trái là bãi cỏ mà bọn thanh niên đang hát hò chòng ghẹo nhau. Trăng đầu tháng lên

sớm, bọn con trai đi chơi vẫn phải giắt đèn pin vào cạp quần. Ngoài ấy chỉ toàn những đứa chưa yêu ai, chưa nhắm ai làm vợ làm chồng chứ yêu rồi lại không ra đấy. Bọn thanh niên nô nhau đến lúc trăng lặn là kéo nhau về, ngang qua nhà Pao còn ném đá vào trêu chó. ánh đèn pin như đom đóm bò về các ngả, các đèn tắt hết là cả bản bắt đầu ngủ.

Cả Pụ Dín lẫn hết vào rừng cây, núi cao, tối đen. Bấy giờ mới thấy cái vầng sáng dưới Pụ Cháng hắt lên trời rõ lắm. Bốn phía trời tối đen như nhau nên một mình Pụ Cháng đã sáng càng sáng hơn. Không nghe thấy tiếng người, chỉ thỉnh thoảng có tiếng còi, tiếng xe ô-tô dừng rồi đi. Không biết cứ sáng suốt đêm thế thì người ta ngủ vào lúc nào nhỉ. ở Pụ Dín, chỉ mùa đông các nhà mới để bếp lửa qua đêm, chỉ khi nào nhà có người chết mới để đèn. Vậy mà Pụ Cháng thì sáng suốt đêm, nửa đêm cái vầng sáng thu hẹp một tý rồi về sáng lại mở rộng ra. Sáng như thế chắc người ta cũng quên cả lúc mặt trời mọc. Từ ngày hai bản tránh mặt nhau Pao cũng như mọi người ở Pụ Dín, không xuống Pụ Cháng lần nào. Không biết điện sáng như thế thì Pụ Cháng có gì khác ngày xưa, hồi Pao còn được bố cho đi theo tìm mua ngựa ấy không? Bọn thanh niên Pụ Dín nghe lời người già, bảo không cãi nhau nữa thì không cãi nhau nữa, bảo đừng đánh nhau cũng không đánh nhau, không ưa thì tránh mặt đi thôi. Vậy mà vẫn có đứa biết chuyện Pụ Cháng có nhiều người giàu lên, rồi thì thầm kể cho bạn bè nghe. Còn bảo Pụ Cháng nhiều thứ lạ lắm, chưa nhìn thấy bao giờ Pao cũng muốn xuống xem Pụ Cháng một lần. Hình như bố biết, bố bảo: "Bọn trẻ Pụ Cháng bây giờ thành cây không có gốc hết rồi. Ban đêm thức chơi đến khuya, ban ngày thì ngủ, ruộng nương bỏ không, lại còn theo nhau về huyện, về tỉnh, bảo là đi buôn dễ kiếm tiền hơn. Vài năm nữa, người già chết hết là bùa dán cửa cũng bị chúng nó xé đi thôi".

Pao không dám nói gì. Không biết bố nghe ai kể mà biết rõ thế. Bố còn bảo mười đứa con gái Pụ Cháng bây giờ thì bảy, tám đứa bỏ khăn vấn rồi,

lại không mặc váy nữa mà quay sang mặc quần như đàn ông. Ôi trời, thế

còn gọi là con gái làm sao được nữa!

Một buổi chiều, Pụ Dín có hai người khách lạ. Khách là đàn ông, tìm vào nhà trưởng bản, bảo muốn lên Pụ Dín để hỏi mua chó. Trưởng bản nói:

- Pụ Dín không có chó để bán. Hỏi mua chó ở Pụ Dín cũng giống như hỏi mua người đấy. Mà người thì có mua bán được không?

Người khách trẻ giải thích:

- Ở làng cháu bây giờ trộm cắp nhiều quá, ban ngày cũng mất trộm gà, lợn; người lớn thì bận đi làm chỉ có trẻ con ở nhà không trông được. Nghe nói chó khoang, chó vàng... ở Pụ Dín khôn lắm mới định lên nhờ mọi người giúp cho một ít.

Già bản nghe nói thế xuôi xuôi trong bụng mới gọi mấy trưởng họ đến, bảo mỗi họ giúp khách một con, rồi còn nói với khách:

- Cứ mang về đi, cần nữa thì lại lên, giúp nhau thì Pụ Dín không tiếc đâu. Nhớ cho chúng nó ăn uống như mình nhé. Không tốt với nó là nó bỏ mình đấy.

Khách mừng quá, vừa cảm ơn vừa mang tiền ra biếu lại mỗi nhà một ít. Khách cứ dúi vào tay, chối cũng không được. Khách mang chó đi rồi, mọi người giở tiền ra đếm mới thấy nhiều quá. Trời ạ, có một con chó mà lấy lại bao nhiêu tiền, có khi bán hai, ba quẩy tấu ngô cũng không được bằng ấy. Ngại quá.

Khách quay lại nhiều lần nữa. Mỗi lần quay lại còn mang theo bao nhiêu quà cho tất cả các nhà, người già được thuốc lào, trẻ con được kẹo. Khách thành người quen với Pụ Dín lúc nào không biết. Bây giờ, không cần nhắc, mọi người tự khắc thay nhau dắt chó đến cho. Dắt chó đến, nhận tiền biếu lại, quen dần không ai thấy ngại nữa. Khách vẫn nói với người nào còn ngại cầm tiền:

- Không phải mua bán đâu, anh em bạn bè lúc nào cần tiền thì giúp nhau thôi. Ngày tết, nhà nào cũng có bánh mà vẫn mang cho nhau, có ai từ chối đâu. Cầm một ít tiền cho chúng cháu đỡ ngại. Nhé!

Khách nói thật bụng thế ai mà từ chối được. Pụ Dín nuôi nhiều chó lắm, cho đi một ít cũng không thấm vào đâu. Mà bao nhiêu lần khách mang chó đi theo không thấy con nào bỏ nhà mới trốn về, chắc ở bản của khách mọi người cũng đối xử tốt với chúng nó. Thế thì yên tâm rồi.

Nhà Pao mới nhận về ba con chó khoang ông Dín mang sang cho. Lúc

đưa cái quẩy tấu đựng mấy con chó cho Pao, ông Dín hỏi khẽ:

- Pao à, mày với thằng Khiêm còn chơi với nhau không đấy? Bảo nó mang chó sang đây hộ mà nó không nghe...

- Ôi bác này, sao lại hỏi thế?

Pao quay mặt đi, xấu hổ quá. Lâu lâu rồi Pao không gặp Khiêm, quên mặt

Khiêm rồi.

Khiêm là con trai lớn nhà bác Dín. Khiêm hiền lắm, cả bọn dám chặn đường ghẹo Pao thì lúc nào Khiêm cũng đứng phía sau, chỉ nhìn thôi, mặt đã đỏ như say rượu. Thế mà Khiêm càng đứng sau thì Pao càng hay đưa mắt qua vai đứa khác để nhìn. Lúc đầu Pao chỉ định trêu cho Khiêm sợ thôi, nhưng hai ba lần trêu như thế rồi tự dưng Pao cứ bị ánh mắt Khiêm đi theo, cả trong lúc ngủ cũng không trốn được. Mới chỉ có thế thôi. Pao cũng không muốn nghĩ đến Khiêm nhiều hơn, Khiêm là con trai một, cả họ lại trông vào, Pao sợ mình đi vào lối đi của mẹ. Nghĩ đến Khiêm không được như bố mình còn sợ hơn nữa. Chỉ có cái bao dao chạm hình bông cúc đỏ cứ lách cách bên hông Khiêm là làm Pao không dứt hẳn ra được.

Nhà Pao không có nhiều chó nên chưa bao giờ mang chó cho khách cả. Vậy mà lần nào khách lên Pụ Dín cũng đến thăm bố Pao, cho quà. Bố Pao ngại lắm, mang tam thất ra cho lại, khách không nhận:

- Chúng cháu mang ơn cả Pụ Dín này, bác cho chúng cháu được như người cùng bản, đừng làm khách với nhau. Quà có một ít thôi, tấm lòng mới quý.

Lần này ông Dín mang chó con tới cho rồi, con nào cũng đẹp, nuôi tới mùa thu ngô cũng kịp lớn. Ăn cơm tối xong, bố nói với Pao:

- Con gái à, bố định mang con Mốc cho khách... Pao giật mình:

- Không. Không được đâu bố! Con Mốc ở nhà mình bao nhiêu năm rồi, thân với con như chị em, cho cái gì thì cho chứ con Mốc thì không được đâu.

Nghe bố nói nhé. Khách nó tốt với mình bao lâu nay, mình từ chối nhận quà không được, mình cho quà nó không nhận. Ở bản nó, chỉ cần chó canh nhà thôi. Mình cho nó mang con Mốc đi cũng là làm một việc giúp người khó khăn, là việc tốt mà. Bao giờ đàn chó Pụ Dín đẻ nhiều con ở bản nó, nó khắc mang chó về trả mình. Coi như mượn lâu lâu thôi. Nó bảo bố thế mà.

Pao im lặng, không nói gì với bố nữa. Nhưng từ hôm ấy đêm nào Pao cũng cho con Mốc vào buồng với mình từ sớm. Bố cũng không nhắc đến chuyện ấy thêm lần nào. Bố vẫn chiều Pao mà.

Mùa đông đến rồi. Năm nay làm mùa xong sớm Pao kịp đi lấy củi về chất đầy quanh nhà. Bằng ấy củi tha hồ đun, đến tết luộc bánh cũng không lo củi nữa.

Năm nay bố yếu đi nhiều, đến bữa chỉ ăn cố được hai lưng cơm, có hôm chỉ uống vài chén rượu, gắp mấy gắp rau là đứng lên. Pao vừa lo vừa buồn, đêm nào cũng mất ngủ vì tiếng ho cứ nén lại trong ngực bố bên kia vách vọng sang. Gần đây, Pao ép bố vào buồng mà ngủ, không ngủ ngoài nhà nữa. Pao biết bố không muốn ngủ trong buồng vì cứ vào buồng là nhớ đến mẹ, khó ngủ. Nhưng ở ngoài gió quá...

Trời mùa đông tối nhanh, ăn cơm xong đã như nửa đêm rồi. Sương mù vây quanh, chui cả vào trong nhà, ngấm qua bờ tường đất, bong cả mấy tờ báo Pao dán tường ra. Cả bản, nhà nào cũng đóng kín cửa từ sớm, sương mù lại dày, thế nên từ nhà này không sao nhìn thấy nhà kia, nếu không nghe tiếng trẻ con khóc quấy mẹ có khi lại tưởng có mỗi nhà mình bị dìm trong sương mù. Trời càng mù mịt thì cái quầng sáng dưới Pụ Cháng trông càng lạ mắt. Pao cứ nghĩ Pụ Cháng giống như các quẩy tấu đựng hết sao trên trời vào đấy. Dưới Pụ Cháng mùa đông này chắc cũng ít rét đi nhiều, con gái Pụ Cháng thế nào má cũng hồng như quả lê chín...

Bố bị ngã. Chân run rồi, bước vào cái bàn đạp ngựa cũng trượt, vậy là ngã thôi. Chỗ nào cũng đau, đau lưng, đau bả vai, đau khuỷu tay, Pao lo quá khóc suốt cả đêm. Hai hôm sau thì người khách trẻ đến, một mình, bảo nghe nói bố Pao ngã, mang cho mấy thứ thuốc chỗ nào bó được thì bó, không bó được thì bôi. Khách còn ở lại nhà Pao, đêm thức đấm lưng cho bố. Khách ở hai, ba ngày, ở một tuần liền. Bữa cơm nào Pao cũng mổ gà, kiếm thêm chai rượu cho bố đổ vào bình rượu tắc kè, nhà có thêm một người thấy đông hẳn lên. Thuốc của khách tốt quá, bố đi lại được rồi, cố giữ khách ở lại chơi thêm vài hôm. Khách thấy bố nhiệt tình quá cũng không từ chối được. Thấy Pao cầm dao lên rừng khách cũng đi theo, bảo vác chuối hộ. Hai bắp chân Pao, váy ướt quấn vào, cứ bỏng rát lên, đi trước Pao chỉ muốn chạy, suýt ngã mấy lần. Pao không biết tại sao mình

cứ run bắn lên, không làm được việc gì từ đầu đến cuối khi có ánh mắt ấy nhìn theo mình.

Rồi khách cũng chào bố, xin phép đi. Pao dắt con Mốc ra, đưa cái dây xích bằng bạc cho khách. Cả đêm trước Pao không ngủ, ngồi xoa đầu con Mốc rì rầm tới sáng. Pao bảo nó, mày phải đi trả ơn cho tao với bố thôi, khổ hay sướng thì cũng phải nghe lời người ta.

Khách cảm động quá, không nói được câu gì, dùng dằng mãi không muốn đi. Con Mốc mọi lần nghe lời Pao là thế, lần này cứ giằng xích ra đòi ở lại. Con Mốc không ưa khách ngay từ lần đầu tiên đến nhà, khách muốn xoa đầu nó cũng không được. Pao mắng con Mốc, mắng nó mà nước mắt cứ chảy ra, con Mốc cũng khóc. Lúc khách kéo con Mốc đi, Pao chạy vào buồng để không phải nhìn theo, nhưng một lúc lại ghé mắt qua lỗ cửa. Ngoài kia con Mốc vừa đi vừa tru lên từng đợt, nó khóc vì phải xa Pao.

Khách đi rồi mà bố còn nhắc mãi, còn kể lại cho Pao biết người ấy mồ côi sớm, ở với ông chú. Chú thì tốt nhưng thím ác lắm, lúc người ấy còn bé suốt ngày bị đánh tím cả mông. Người tốt mà cũng chịu khổ thế, ông trời không công bằng, tự dưng Pao thấy thương thương. Nhớ cái chạm tay lúc đưa dây xích con Mốc cho người ấy mà nóng bừng cả mặt.

Pao quyết định trốn bố xuống Pụ Cháng theo mấy đứa bạn. Thì phải trốn chứ nói thật ra làm sao bố cho đi. Pao chỉ muốn xem Pụ Cháng ban đêm có cái gì mà ở Pụ Dín nhìn thấy sáng thế. Mấy đứa bạn nghe ai kể mà cứ nói chắc chắn rằng dưới Pụ Cháng bán nhiều thứ lắm, ở chợ huyện cũng không có, lại rẻ nữa, mang một quẩy tấu lúa nếp đi bán là mua được bao nhiêu thứ rồi. Thế thì cứ đi thử một lần cho biết, chúng nó cũng tò mò như Pao vậy. Sợ gì, biết nhưng không bắt chước người ta là được.

Pao gói bộ váy áo đẹp vào khăn, để dưới đáy quẩy tấu, đổ lúa nếp lên trên. Sáng sớm, chưa nhìn rõ đường mấy đứa bạn đã ném đất gọi cửa. Pao nói với bố là Pao đi đám cưới ở Pụ Lấu.

Pụ Cháng đông người quá. Bây giờ nhà ai cũng kéo ra gần đường để mở quán bán hàng. Pao bán được lúa nếp ngay, cầm xấp tiền đi sắm đồ. Gương, lược, chỉ mầu, chục bát ăn cơm, cả một cái xoong bé để dành nấu cháo cho bố, mua cho bố cái mũ nồi, một bọc thuốc lào, cái bật lửa... Cứ mua rồi về nhà khắc có cách nói dối bố. Mua hết tiền được gần đầy một cái quẩy tấu, đến trước hàng đèn pin còn mua nốt bằng mấy tờ tiền lẻ được hai cái liền.

Trời tối lúc nào Pao không biết, lúc đứa bạn kéo áo chỉ cho Pao xem cái bóng điện chói cả mắt người ta treo trên cao, Pao mới biết là mặt trời lặn lâu rồi. Pao cứ dán mắt vào mấy cái bóng điện, chân bước theo đứa bạn đi từ đầu chợ đến cuối chợ, thấy chỗ nào cũng sáng như ban ngày, người làm cứ làm, người chơi cứ chơi, người ăn cứ ăn. Không biết như thế thì người ta ngủ vào lúc nào.

Bọn Pao đi ngang qua một cái quán, trong quán đông người lắm, sợ người ta trêu, Pao xốc quẩy tấu đi cho nhanh. Chợt Pao giật mình đứng lại vì nghe tiếng nói quen quá ở ngay chỗ bể nước đang xối ào ào:

- Đêm nay thế nào cũng có xe qua, làm sẵn một con bây giờ nhỉ. Con to nhất nhé. Con này xịn nhất từ trước tới giờ đấy.

Cái gì thế? Người khách. Đúng là người khách trẻ vừa mới ở nhà Pao về hai, ba hôm nay. Người ấy đang cùng mấy người nữa đè ngửa một con chó ra tìm cách buộc chân. Con chó khỏe quá, giãy mạnh như con bò cày. Pao nhìn thấy sợi xích bạc lủng lẳng: "Mốc! Mốc ơi!" Pao chạy bổ đến chỗ đám người kia, tụt dây đeo, quăng mạnh cái quẩy tấu dựng bao nhiêu

thứ vào người khách trẻ đang há miệng ra nhìn. Con Mốc vùng ra, lao qua rãnh nước...

Mặt trời lên cao Pao mới tỉnh, đêm qua Pao đã ngủ gục dưới một gốc sa mộc già, dưới chân Pao, hoa cúc đỏ bị đè suốt đêm đang vươn dậy. Một chiếc giày của Pao đã rơi đâu mất, Pao ném nốt chiếc kia xuống vực.

Dãy Hoàng Liên trước mặt, nhìn thì gần mà đi thì xa, còn Pụ Cháng muốn trốn cho nhanh lại cứ ở sau lưng mãi. Trong đầu Pao thấp thoáng cái ô cửa bằng hai bàn tay trong buồng mình.

NGƯỠNG CỬA CAO

Đỗ Bích Thúy

Gió thốc vào người cô ở chỗ khúc ngoặt như trò đùa của trẻ con. Đi qua khúc ngoặt, sang mé núi bên này, cô không còn phải quay nhìn lại phía sau với hàng đống ý nghĩ lộn xộn trong đầu. Chiều đang dềnh lên, nhanh như nồi cơm sôi không kịp mở vung. Nhà thấp tối trước, nhà cao tối sau, càng gần trời càng tối muộn. Nhà của cô ở trên cùng, có mấy viên ngói mới chèn vào lớp ngói cũ ở đầu hồi bên phải như một miếng vá khéo.

Sính đứng như chôn chân ở cửa, hai cánh cửa mở toang, ép vào bờ tường. Hai bàn tay Sính xoắn vào nhau, mắt Sính loang loáng ướt.

Sính vẫn còn nhớ từng lời cô nói với Sính đêm ấy... "Ngày mai em về xuôi. Nếu ông trời giữ em ở lại thì em với anh có cố đến gần nhau cũng chỉ như người say lội ngược đầu nguồn tìm sông thôi. Còn nếu ông trời thả em đi thì chân em tự khắc biết đường mà đi. Anh đừng tìm em. Chờ một tuần trăng mà không thấy em lên là em lạc sang đường khác rồi... Anh khóc đấy à? Đàn ông mà dễ khóc thế thì không làm được việc gì lớn đâu...".

Sương đi rồi, Sính cứ ôm cái cột nhà, đập đập đầu mình vào đấy. Sính ngu dại quá. Sính không biết nói với cô ấy được câu nào như ý nghĩ trong đầu Sính. Có khi nói cô cũng không nghe, nhưng ít ra cũng gửi theo cô được cái gì nằng nặng. Còn bây giờ, Sương đi rồi. Biết đâu trong đầu Sương không có cái mặt Sính, không có lời thương lời buồn Sính nói. Thế thì có cái gì dẫn cô quay về với Sính được? Leo dốc thì khó chứ xuống dốc dễ lắm. Chỉ một lúc thôi, trong mắt Sính đã không có bóng cô rồi...

Bà cô ngồi ở bậu cửa, cắm cúi nhặt đỗ tương giống, không biết có phải tại mắt kém không mà cứ nhặt lẫn hết cả. Hồi lâu, bà cô nói với Sính mà không ngẩng mặt lên nhìn:

- Trong bụng con Sương giữ được chén rượu ngày cưới thì nó còn nhớ mày, không giữ được thì nó quên đường về. Núi rừng này không đẻ ra nó thì không bắt được hồn nó ở lại. Một mùa cưới nữa không thấy nó về là tao cưới vợ mới cho mày.

- Bà cô... - Sính nghẹn giọng - bà cô già rồi, lẩm cẩm rồi. Lời hay không nói toàn nói lời xấu. Có phải tại bụng bà cô hay nghĩ xấu không? Có phải vì thế mới không lấy chồng không?

- Mày...

Bà cô chống tay vào đầu gối, khó nhọc đứng dậy. Giũ giũ đám vỏ đậu tương dính đầy trên váy, miệng lập cập nói không ra câu. Giận thằng cháu quá. Có lớn mà không có khôn. Mắt to thế kia mà chỉ nhìn thấy hạt đậu dưới chân váy bà. Con Sương có bùa hay sao mà khiến thằng Sính không còn là thằng Sính nữa.

Sính thấy bà cô giận thì bỏ đi. Sính đang buồn quá nên lỡ miệng nói bậy mấy câu, bà cô giận là phải lắm. Nhưng bà cô không hiểu cho Sính. Sính nhớ vợ quá mà. Cái giường nằm một nửa, nửa kia có gối mà không có người, gió chạy rầm rập trên mặt chiếu hoa.

Đêm nào Sính cũng phải úp cái gối của vợ vào mặt mới ngủ được. Nhưng chỉ được hai ba đêm thì cả hai cái gối cưới đều chỉ có mùi thuốc lào, không còn biết được cái nào vợ Sính vẫn gối nữa. Không còn cái gối của vợ thì Sính chuyển vào nằm nửa giường bên trong. Vợ Sính có thói quen lúc nào cũng nằm sát vào vách, Sính cứ kéo vợ nằm lui ra ngoài một lúc thì cô lại dịch vào, giường rộng mấy cũng dịch vào, kéo cả Sính theo.

Nhiều hôm hai vợ chồng chỉ nằm hết có nửa giường. Sính nằm vào chỗ

của vợ, cảm thấy cánh tay mềm mềm của vợ vẫn đặt ở chỗ này.

Trong nhà, chỗ nào cũng có dấu tay Sương. Từ cái vung nồi đến bộ ấm chén uống chè. Trong bụng Sính lúc nào cũng như có người đổ rượu mạnh vào, rồi thả thêm một que diêm đang cháy nữa. Chỉ có rượu bị đốt cháy mới bỏng thế. Không biết vợ mình đang ở đâu, có ai làm gì xấu cho vợ mình không? Được một nửa tuần trăng rồi. Bắt đầu mùa mưa nên không thấy trăng mọc, chỉ nhìn vết vạch trên cột nhà mà biết thôi. Mưa mãi, bà cô sốt ruột vì củi đun sắp hết, còn Sính lại mong mưa nữa. Mưa thì trăng không đến, Sính còn chờ đợi hơn được.

Trong bản có người ác miệng bảo tại Sính không mất đồng bạc trắng nào nên không buộc được chân vợ. Ngày Sính cưới Sương, nhà gái không có ai, chỉ có mấy cô giáo ở điểm trong, điểm ngoài đến dự. Đấy cũng là đám cưới đầu tiên ở Sủng Tráng cô dâu không mặc váy cưới, cũng không có lễ đón dâu, cả bản đến hết, cả những người quên không mời cũng đến. Đến vì Sương. Sương là người nhà của cả Sủng Tráng mà.

Việc Sính lấy được Sương giống như người thợ săn giỏi bắt được con thú quý, không ai ngạc nhiên. Nhà Sính nghèo, lại chỉ có hai cô cháu, mọi việc cho đám cưới cả làng mỗi người một tay lo hết. Bỏ công bỏ việc, cả Sảng Pả say hai ngày liền. Ai cũng muốn giữ Sương ở lại mãi với Sủng Tráng mà không nghĩ ra cách. Nay Sương làm dâu Sủng Tráng thì ở lại là phải quá rồi, không phải lo gì nữa.

Vậy mà Sương cũng đi. Đã uống chén rượu vợ chồng, không đón dâu nhưng ông chú họ xa cũng đã quay con gà ba vòng trên đầu Sương, thế là Sương được ma nhà chồng giữ hồn cho rồi. Sao Sương không biết nghĩ trước nghĩ sau?

Hôm nào cũng thế, Sính để đến đêm khuya, sắp sang ngày hôm sau rồi mới cầm dao khắc thêm một vạch lên cột nhà. Sính muốn một ngày dài thêm nữa ra, nhưng càng muốn thế thì ngày càng ngắn lại. Sính càng làm nhiều việc để bớt nóng bụng đi thì lửa trong bụng càng cháy mạnh. Một vạch, hai vạch, ba vạch... mấy ngày đầu Sính còn đếm, sau không đếm nữa, các vạch khác cũng xít lại gần nhau hơn...

Sính không biết, rằng lúc này, Sương đang ở một nơi mà ngựa đi mỏi chân không tới. Cũng như Sính vẫn không biết trong đầu Sương nghĩ gì, không biết vì sao Sương xinh đẹp thế lại chịu lấy Sính, người đàn ông cuối cùng của một dòng họ nghèo, không có một đồng bạc trắng chôn dưới cột nhà.

*

Sương cũng không ngủ được. Trả trước cho chủ nhà trọ năm nghìn, Sương gần như bò qua một dãy người để tìm chỗ nằm sát tường, cố dỗ cho giấc ngủ đến. Sương phải ngủ, để không còn nhớ tí gì của thị trấn này. Chiều nay, lúc ăn cơm ở bếp tập thể của phòng, ông trưởng phòng bảo Sương:

- Cố ở thêm vài năm nữa rồi tôi đặc cách cho về vùng thấp. Giỏi như cô lại có thâm niên vùng cao, dăm ba loại ưu tiên nữa là bố trí được chỗ làm ngay thôi.

Nếu là Sương của mấy năm trước thì thế nào gã trưởng phòng cũng đã nhận được một cái muôi múc canh dính đầy mỡ vào mặt rồi. Chưa có một ngày trọn vẹn ở điểm trường nhưng trí tuệ nghèo nàn cũng đủ cho gã hình dung được những cùng cực mà những cô gái còn trẻ như Sương phải đối mặt. Sao có thể tưng tửng như thế?

Bên ngoài bức tường là quán bán phở. Sương hình dung tấm lưng to bè bè nhớp nháp mồ hôi của bà chủ quán tựa đúng vào phần tường ngang

mặt cô, rùng mình. Nghe tiếng rao bánh mì, Sương nhỏm dậy. Những đứa trẻ của cô coi bánh mì, dù chỉ là thứ bánh cứng quèo, bé như lưỡi mèo, xin xỉn đen, dính cả cát bẩn, bán ở thị trấn là một món quà đặc biệt. Và bao giờ những đứa trẻ gái cũng để dành được một mẩu, giấu trong cạp váy, đến tận hôm sau vẫn tóp tép trong giờ học. Chiều nay Sương quên không mua. Nhưng đang định bò qua mấy người nằm ngoài thì đã nghe tiếng bà chủ quát lên xe xé:

- Có biến ngay đi không, thằng kia! Không thấy bà mày đang còn bán hàng đây à? Đi ngay, không bà cho mày khúc xương bây giờ...

Sương lại nằm xuống. Cô ném chiếc gối mây dinh dính hàng trăm thứ mồ hôi xuống cuối giường, gối đầu lên cánh tay. Bên cạnh Sương, một bà già đang càu nhàu nói mê, mùi trầu cay nồng phả thẳng vào mặt cô. Còn người ngoài, người ngoài nữa... thì thi nhau ngáy. Tiếng ngáy lẫn với tiếng quạt trần cũ kèn kẹt làm cho căn phòng đã chật càng chật thêm. Sương cảm thấy mình đang hít vào trong ngực từng thìa, từng thìa một, thứ không khí hỗn tạp sền sệt. Nằm được một lúc cô lại bò dậy, khe khẽ gập đầu gối lại, bó người lại hơn chút nữa để bà già được nằm thoải mái. ánh điện ngoài quán phở hắt qua khung cửa sổ giăng đầy mạng nhện. Nhìn những người phụ nữ đang ngủ trong mọi tư thế, giống nhau ở gương mặt mệt mỏi, bất giác Sương thấy thương họ. Ngày mai Sương sẽ ngồi cùng xe với họ đến ngã ba, Sương rẽ trái còn họ đi tiếp, có khi vài hôm sau Sương lại xuống huyện mua hàng của họ.

Bà già cựa quậy, hé đôi mắt kèm nhèm nhìn Sương, giật giật quần cô:

- Nằm xuống. Cố ngủ đi một tí mà lấy sức con ạ. Ngày mai xe nhiều hàng, chật lắm đấy. Khéo rồi lại say.

- Vâng, bà cứ mặc con...

Bà già chép miệng, quờ tay lên đầu giường vớ lấy cái nón úp lên mặt. Chiếc nón cũng cũ kỹ già nua như chủ của nó. Đã nhiều lần Sương dừng chân ở bến xe này và ngủ ở cái nhà trọ này, cùng với những người phụ nữ quanh năm xuôi ngược, nhưng chưa lần nào cô để ý đến họ. Cô vẫn nghĩ rằng, trên cõi đời rộng lớn này, mỗi người đã có một quỹ đạo, không ai đi lẫn của ai. Đi xa hay gần, vòng rộng hay hẹp, đều đã được ấn định trước. Và cô cứ đi, theo ý mình, đúng hơn là theo linh cảm lờ mờ của mình. Đã như vậy hơn hai mươi năm trời. Không ngờ có lúc cô lại nhận ra cuộc đời không đơn giản thế, mà thật ra điều đó thật oái oăm, lại ở trong một cái nhà trọ, giống như một cái nồi hầm thế này. Con người, dù tốt dù chưa tốt, dù đẹp hay không đẹp, dù còn trẻ hay đã qua tuổi trẻ, sớm hay muộn thế nào cũng có lúc dừng lại, hoặc là đưa người khác đi chung đường với mình, hoặc tự mình đi vào đường của người ta. Đi mãi, đi đến lúc chết. Như cô...

Vậy mà cô đã bỏ đi. Cô đã bỏ người ấy mà đi. Trong cái buổi chiều thành phố oi bức, đầy mây đen, bụi xộc qua rèm cửa vào căn phòng mà cô đã từng chăm bẵm, ủ ấm. Cô phải thú nhận với mình rằng, thực lòng cô không muốn lại bỏ đi lần nữa.

Sương đưa tay lên đầu, lần ra sau gáy gỡ cái cặp tóc ra. Mớ tóc dày và dài mắc vào chiếc vòng đeo tay bị kéo cắt dở, gỡ mãi mới ra. Chiếc vòng này Sính đã dúi vào tay cô khi cô nhìn Sính lần đầu tiên, tin cậy trong nỗi sợ hãi mơ hồ. Chiếc vòng của bà nội Sính để lại cho bà cô, bà cô cho Sính để Sính tặng lại cô. Chiếc vòng như một thứ đồng hồ đo tình cảm của cô. Khi nào cô vui chiếc vòng sáng lên, trong đêm tối cũng thấy nó lấp lánh. Khi nào cô buồn chiếc vòng xám xịt, nặng trĩu. Khi cô nói điều ấy với Sính, Sính bảo cô trẻ con, nghĩ ra đủ thứ mà người lớn không nghĩ được. Dù sao thì cô cũng tin, những khi không biết mình buồn hay vui cô lại nhìn xuống cổ tay. Hôm qua, có người đã giằng lấy nó, vết hằn còn tím

bầm cổ tay cô. Không giật ra được thì chộp lấy cái kéo cắt vải định cắt

đứt. "Để tôi ném nó vào bếp lửa. Bùa ngải rừng rú chứ vàng bạc gì!".

Cô đã bắt đầu công việc của mình trong một căn nhà lợp cỏ gianh, tường đắp đất cao vút tận mái nhà, chỉ có một lỗ cửa thấp để ra vào, ai cao một tí là phải cúi mới chui qua được. Mười ba đứa trẻ, lớn nhất mười bốn, bé nhất lên bảy. Có hai dãy bàn ghế, mỗi bên hai bộ. Bàn ghế là mấy tấm ván bắc ngang những cọc gỗ đóng thẳng xuống nền đất. Cô bặm môi bước vào lớp. Không sợ gì hết. Mình không sợ cuộc sống này. Mình đã từng chả sợ gì cả cơ mà. Người đến trước cô đã bỏ đi, chỉ vì tìm đến nơi khác có nước chảy đầy trong máng vầu.

Mười ba cặp mắt đổ dồn vào cô. Cô vận dụng sự mẫn cảm để tìm một niềm hy vọng hay cái gì đó tương tự lấp lánh trong những đôi mắt kia, nhưng không hề thấy.

- Chúng ta bắt đầu nhé. Các em đã học được những gì rồi, cho cô xem vở

nào.

Cô dịu dàng. Khi cô còn bé, bao giờ cô cũng mơ ước được nghe những lời dịu dàng. Bọn trẻ nhìn nhau, không nhúc nhích. Cô bước lại gần, lật cuốn vở đầu tiên, cuốn thứ hai, cuốn thứ ba... Không có một chữ nào.

- Sao lại thế này?

- Xé hết rồi!

- Cho vào bếp cháy rồi...

- Thầy không giữ được, giữ chữ làm gì?

- Hôm nay bố mẹ bắt đi mới đi đấy.

- Cô giáo dạy nhanh đi cho tao còn về chăn bò...

Dường như bọn trẻ đang trút giận lên đầu cô. Cô đi như chạy ra ngoài. Cái gì đó như là sự đổ vỡ đã xảy ra, không có âm thanh, không có hình thù.

Ngày thứ hai, cô mặc chiếc áo đẹp nhất và bước vào lớp. Hôm nay sương muối đã ập xuống, chỉ qua một đêm trở dậy đã thấy cỏ ngoài sân cháy táp. Bọn trẻ còn mười đứa, chúng ngồi dồn vào hai cái bàn. Cô thắp đèn và đóng cửa lớp lại. Ngoài cửa gió rít ù ù như muốn lật tung mái tranh lên, những bờ tường hình như lung lay muốn ụp xuống. Bọn trẻ cho tay vào mồm, chốc chốc lại đổi chỗ, đứa ngồi ngoài vào trong, đứa ngồi trong ra ngoài. Bất chợt đứa bé gái ngồi ngoài ngã xoài ra đất. Trên mình nó chỉ có một cái áo len cũ, rách hai ống tay, không có váy mà quấn bằng một tấm khăn, chân đi đất. Cô ôm chặt đứa bé, miệng lắp bắp thúc bọn trẻ sang bếp của cô ôm đống củi sang, mang đèn lại và đổ dầu vào...

Lửa bập bùng cháy ở cuối lớp. Được một lúc thì Xía, tên đứa học trò gái, tỉnh lại, định chuồi ra khỏi tay cô. Cô giữ chặt lấy nó. Con bé cất giọng khàn khàn:

- Người em toàn mùi bò, mùi dê, bẩn quần áo đẹp của cô giáo. Thấy cô không nói gì nó cựa quậy rồi giật giật cổ áo cô:

- Cô ơi, em hết lạnh rồi...

Những giọt nước nóng bỏng rơi xuống mặt nó. Bọn trẻ xích lại gần cô. Những cánh tay nhem nhuốc đầy vết gai cào níu lấy cô... Lửa reo phần phật.

Ngày hôm sau Xía mang đến một con gà trống. Để nó gọi cô giáo dậy. Con bé bảo vậy.

Từng đêm, cô nằm co đầu gối lên tận cằm và trở mình thật ít để chống lại cái rét từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong. Gió hoang vu vẫn quấn lấy ngôi nhà của cô như muốn nhấc bổng nó lên và ném đi đâu đó. Những

con đom đóm từ trên mái tranh dẫn nhau bò xuống vách đất chỗ cô nằm, đếm không xuể. Chưa bao giờ cô nhìn thấy đom đóm giữa mùa đông như thế này. Con nào cũng vừa to vừa sáng, lại không bay mà bò lồm ngồm trên vách.

Bọn trẻ thỉnh thoảng lại hỏi bao giờ thì cô đi. Dường như chúng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để cô chia tay chúng. Mùa đông qua, mùa xuân tới. Nước chảy về đầy trong các giếng đá, các cô gái mang chăn màn, váy áo ra giặt. Rồi mùa hè sang, lá ngô xanh nhức mắt. Cô vẫn ở trên đỉnh cao Thượng Phùng, chưa lần nào xuống núi. Cô cảm thấy dưới kia, qua Xín Cái một đoạn thôi là cô sẽ gặp lại ngay những gì mà cô không muốn nhớ đến. Cánh cửa bị gió giật ra, toang hoang chăn gối, toang hoang gương mặt khiếp hãi tái ngắt, mắt mở to trừng trừng của mẹ, bên cạnh là người đàn ông đang ngủ vùi...

Hai mươi ba tổi cô nhận lời làm vợ Sính. Cơn lũ quét đột ngột tràn về lúc mờ sáng đã cuốn đi non nửa Thượng Phùng. ở cái nơi đã tưởng là cao nhất này mà vẫn còn có thứ khác cao hơn, từ trên trời đổ xuống, đã cuốn đi của cô hai đứa trẻ. Có lẽ chúng đã trôi xuống dòng Nho Quế bé như sợi chỉ dưới chân Mã Pì Lèng. Sính bợt bạt sau cơn lũ. Bối rối nhìn cô như có lỗi. Anh đã chỉ mang về trả cho cô được bốn đứa. Hai chỗ trống trong lớp học của cô anh ngồi thế vào đó. Cái bóng cao lớn của anh in trên tường lớp trong ánh nắng cuối ngày hắt xiên qua đầu hồi.

Lão trưởng phòng giáo dục huyện nhếch mép hôm cô về huyện họp tổng kết. "Nhà cái thằng ấy có bao nhiêu con dê? Ông bà nó chắc để lại nhiều bạc trắng lắm nhỉ. Ai cũng như cô thì ngành giáo dục được nhờ to. Ha... ha...".

Lão thù cô. Người ta bảo thế. Vì lẽ ra cô đã có thể nhận một chân thủ thư nhàn tênh ở ngay huyện nếu cô chịu nghe lời lão. Nhưng cô đã không làm thế. Cô đi một điểm trường xa tít tắp.

Cả bản đã mừng cho Sính, trừ bà cô. Bản này chưa có dòng họ nào lấy dâu người Kinh, còn dòng họ nhà bà chỉ còn mình thằng Sính là con trai, nhỡ có chuyện gì xấu thì không làm lại được. Cũng vì thế mà cả ngày, Sương lên lớp thì thôi, cứ về nhà là có bà cô theo sát, bảo phải làm thế này, không được làm thế kia. Nhưng dù có dạy từng tí một như dạy cho đứa gái mới lớn, dạy từ ngày này qua ngày khác, thì Sương vẫn là con dâu người Kinh. Xe lanh thì rối, dệt lanh thì lỗi, đồ xôi lúc nào cũng cho muối... bà cô biết, không phải cháu dâu vụng tay vụng chân, chỉ tại lúc làm cứ để đầu óc ngoài sân ngoài cửa, dạy nữa cũng thế thôi. Buồn lắm nhưng không mở miệng nói được. Bà cô nghĩ đành phải đợi đến lúc có cháu thì dạy cháu thay cho mẹ nó thôi. Nhưng chờ mãi, chờ mãi vẫn chưa thấy cháu dâu có gì khác. Không dám nghĩ gì xa xôi, sợ ý nghĩ dại đến lại trốn không được.

Trời sắp sáng rồi thì phải. Cái quán phở đóng cửa một lúc đã mở lại rồi. Nhưng không còn nghe thấy tiếng mấy con chó tranh nhau gặm xương gầm gừ nữa. ở cái bến xe này, người ta thức đêm ngủ ngày. Có hôm ba giờ chiều Sương đến vẫn chưa thấy nhà trọ mở cửa. Chỉ đến khi xe xuôi lên, xe ngược xuống, đổ ra toàn người là người thì người ta mới ngủ dậy. Và sáng hôm sau, bao giờ các xe rời bến hết lại bắt đầu ngủ.

Vậy là mình không chợp mắt được tí nào. Sương nghĩ. Có những thứ người ta muốn nhớ lại không nhớ được, lại có những thứ muốn quên lại không quên được. Nếu như Sương không dừng chân trước cổng nhà Luân hôm qua, lúc trời đã nhập nhoạng tối, thì bây giờ không phải cố quên.

Sau khi Sương đi, Luân lên tận phòng giáo dục huyện để hỏi thăm xem

Sương được phân công về đâu. Gã trưởng phòng đã bảo Luân:

- Người yêu của chú trúng bùa trai bản rồi, bây giờ có đưa được người về

thì hồn cũng ở lại. Chú đừng dại mà mò lên, chúng nó xẻo tai đấy.

Luân nhìn bốn phía rừng núi vời vợi thâm u và lủi thủi quay về. Sương luôn khiến Luân không hiểu nổi. Ngay cả việc Sương bỏ đi, Luân cũng tưởng Sương chỉ dọa vậy...

Và Sương biết được điều này đúng vào lúc mà Sính đang cố gắng làm tất cả để hai người gần nhau hơn.

Sính là một trai bản mà không phiên chợ nào không có vài ánh mắt nhìn theo muốn cháy lưng áo. Nhưng từ khi có Sương lên dạy học ở bản, Sính chỉ dừng ánh mắt ở ô cửa lớp học vừa thấp vừa bé. Cô giáo Sương hơn Sính hai tuổi. Mặc kệ, hơn hai chứ hơn mười tuổi cũng thế thôi. Sau này, nhiều lần Sương định nói với Sính, tại vì Sính đã lấp chỗ trống của hai đứa học trò trong lớp mà Sương đồng ý cho Sính lấp cả chỗ trống trong lòng mình. Nhưng Sương đã không nói. Nói Sính cũng không hiểu, mà nếu Sính hiểu được thì khổ cho Sính. Đêm đầu tiên của hai vợ chồng. Sương nằm ép vào trong tường. Sính rón rén nằm xuống phần giường của mình. Sính không nghĩ ra được cái gì có đầu có cuối, cái khoảng chiếu hoa ở giữa giường cứ rộng ra, rộng ra mãi. Sính nhích vào một tí cho khoảng chiếu hẹp lại thì Sương càng dính sát vào tường. Lâu lắm, gần sáng rồi, ánh sao trên trời lọt qua miếng ngói vỡ soi mờ mờ vào buồng. Sính he hé mắt nhìn sang thấy Sương đang ngủ, lặng lẽ cởi khuy áo. Nhưng Sính cũng thấy mặt Sương ướt đẫm... Sính ngồi dậy, xích lại gần Sương, kéo lại hai vạt áo Sương đã gỡ ra ngang bả vai trắng ngần. Sính cài lại khuy áo, đỡ hai vai cho Sương nằm xuống.

- Cô giáo ngủ đi. Tôi không làm gì cô giáo đâu. Đừng khóc nhé. Không muốn làm vợ tôi sao cô giáo lại nhận vòng bạc, lại uống chén rượu thề? Ngày mai cô giáo trả lại vòng bạc cho bà cô rồi đi cũng được, cô giáo à.

Nghe Sính nói thế, như một thứ phản xạ, Sương nhỏm dậy vít cổ Sính xuống. Mặt Sính đầy râu và tóc, nhòe nhoẹt nước, không biết thực ra cô hay Sính đã khóc...

Ngày nào cũng vậy, Sính dậy sớm gánh nước đổ đầy hai chum lớn nhóm sẵn bếp cho Sương dậy nấu cơm kịp ăn trước khi học sinh gọi cửa. Buổi trưa Sương về cũng có cơm nấu sẵn rồi. Buổi chiều Sính hay tạt qua lớp học xem có cái bàn cái ghế long chân nào thì đóng lại. Nhưng Sính càng cố gắng Sương càng lặng lẽ... Những đêm dài lê thê trong căn buồng càng lúc càng lạnh lẽo làm Sính khổ sở.

Thực ra thì mình chờ đợi gì ở Sính chính Sương cũng không biết. Mọi thứ trở nên mù mờ kể từ khi cô bước chân vào căn nhà rộng thênh, tối tăm toàn mùi khói quanh năm này. Hình ảnh Luân vẫn trở lại. Cố xóa đi cũng không được. Cả cái căn phòng toang hoang kia nữa cũng trở lại. Mỗi lúc hai thứ đó trở lại cô thấy mình đã quyết định đúng, quay sang cười với Sính, quàng tay lên vòng cổ cứng cáp của Sính. Nhưng sáng ra, nhìn núi cao ngất trời như một sự bủa vây, như một sự cầm tù, mọi thứ hoang dại hẳn đi trong mắt cô. Ngay cả luống cải xanh ngắt, cao ngồng mọc trên những luống đất rắc đen sẫm tro bếp cô cũng cảm thấy nó không phải là thứ rau dành cho cô. Lấy gương ra soi, tự dưng trên mặt cô có những nốt tàn nhang bé li ti. Hết rửa nước lạnh đến rửa nước nóng, chà sát tấm khăn trên mặt cho hai gò má đỏ dừ mà những nốt tàn nhang vẫn không mất đi. Và bọn trẻ của cô, vẫn dè sẻn từng mẩu bánh mì giấu trong cạp váy...

Gã trưởng phòng hói đầu vẫn tranh thủ nhuộm tóc mỗi khi về tỉnh công tác không lần nào gặp Sương mà không xóc xiểm cô một câu. Một nỗi sợ hãi mơ hồ luôn luôn đeo bám trong cô, không rõ ra là cái gì. Chỉ biết cô rất sợ và hoang mang nữa. Và khi Mẫn, cô bạn cùng nhận công tác một ngày với Sương nói rằng Luân đã lặn lội mấy trăm cây số lên tìm cô lần nữa, đang chờ cô ở dưới tỉnh, thì Sương không thể ngồi yên được nữa.

Trong một quán cà phê mới mở, bàn ghế còn mới, vắng hoe, Sương im lặng nhìn Luân. Luân không khác mấy so với khi họ chia tay nhau, chỉ có gò má khi xưa hóp lại thì nay phồng ra. Vẫn một tư thế ngồi co ro như

ngày nào, dù Luân có đường bệ hơn thì vẫn không lẫn vào đâu được. Sương chênh chao trên chiếc ghế bọc da, ù tai trước những lời hối hả gấp gáp của Luân. Dường như Luân sợ không kịp nói hết trước khi cô đột ngột đứng dậy và bỏ đi.

Sương rùng mình khi Luân ngồi xích lại, cầm lấy tay cô. Bàn tay Luân mềm nhũn, ngược hẳn lại với những ngón gầy guộc xanh xao của cô. Chỉ có Luân nói:

- Mẹ bảo mẹ sẽ tha thứ hết cho em, miễn là em chịu theo anh về. Em phải biết chẳng có thằng đàn ông điên rồ nào trên đời này chịu đi mấy trăm cây số như anh để tìm em... Mẹ bảo mẹ sẽ để lại tất cả cho hai đứa mình sau khi mẹ đi. Tất cả, em nghe rõ không? Tất cả. Nghĩa là... Mà, em đeo cái thứ quỷ quái gì thế này. Bùa ngải chúng nó ám vào em đây... nên em mới ở lại trên ấy suốt mấy năm trời phải không? Đồ mọi rợ, để anh vứt nó đi.

Và Luân chộp lấy cái kéo to tướng vừa mua ở chợ ra, xọc vào chiếc vòng bạc trên tay Sương. Sương giằng ra, cái kéo để lại một vết máu dài trên cổ tay cô.

*

Sính ốm. ốm vì không làm gì. Đàn ông một ngày không làm việc đã ốm, đằng này hai ba ngày liền Sính không làm nổi việc gì, chân vấp vào lưỡi cày, dao chặt vào tay, đau bên ngoài, buồn bên trong, vậy là ốm thôi.

Có người đến thăm Sính, mang cho Sính cả một túi đường trắng. Đàn ông có vợ rồi mà còn có một cô gái đến thăm lại không phải họ hàng gì thì lạ lắm. Lạ nên nhiều người để ý. Để ý rồi xì xào. Người con gái ấy lại đến đúng vào lúc người trong bản đi làm về. Đàn ông vác bừa đi trước, đàn bà dắt bò theo sau, ngang qua nhà Sính lúc ấy trông thấy. Đang nằm trong buồng, thấy một cô gái vén màn cửa bước vào, Sính chồm dậy:

- Sương, Sương à? Em về rồi à?

- Sương đâu mà Sương, nhìn kỹ xem nào...

À, thì ra là Vi. Lâu lắm rồi không gặp nhưng Sính vẫn nhận ra Vi qua tiếng nói. Con gái Thượng Phùng không ai nói tiếng giống Vi. Chưa thấy người đã thấy miệng. Con gái mà như thế việc gì cũng dám làm, nhưng lúc nào cũng làm vội vàng, không nghĩ sâu nghĩ kỹ.

- Nhớ vợ mà cũng ốm được, Lạ thật đấy. Vợ có phải cổ chân cổ tay mình

đâu mà mới vắng một tí đã ốm thế nhỉ?

- Vi về bao giờ thế? - Sính chặn ngang lời Vi - Sính đau đầu quá. Vi nói to như thế mấy câu nữa là Sính vỡ đầu ra mất.

- Em mới về, đến thăm anh trước cả thăm ông thăm bà đấy. Về phục vụ ở

xã vài hôm rồi đi thôi.

- Vi đã thành văn công thật rồi đấy à! Bố mẹ mừng lắm nhỉ. Lấy chồng giỏi giang nữa là nhất Vi rồi.

- Thôi đừng dạy nữa. Bố mẹ dạy nhiều lắm rồi anh Sính à. Anh cũng biết tại sao Vi đi xa mà...

Làm sao mình biết được. Sính định nói thế rồi thôi. Vì đúng là Sính biết tại sao Vi bỏ Thượng Phùng mà đi theo đoàn văn công hồi ấy. Sính đã từ chối quả còn Vi làm dành riêng cho Sính. Quả còn ấy Vi thức ba đêm liền mới làm xong. Người như Vi chỉ làm thế được một lần, bị từ chối là bỏ đi ngay. Vi đi mấy năm trời mới về, đẹp hơn ngày xưa. Hai cánh tay Vi để trần, không còn vết sẹo nào nữa, trắng như có ai đổ ánh trăng lên. Sính đưa mắt tránh hai cánh tay Vi, hình như Vi biết, càng cố tình để Sính nhìn thấy.

Vi ngồi lên mép giường Sính. Sính đã nằm xuống lại ngồi dậy:

- Vi ra ngoài nhà uống nước.

Vi ấn vai Sính nằm xuống. Cánh tay Vi như vô tình áp vào má Sính.

- Nước uống lúc nào chẳng được.

- Nhưng bà cô về bây giờ...

- Sợ gì bà cô.

Vi còn ngồi xích lại tí nữa:

- Em biết chuyện vợ chồng anh Sính rồi. Vợ chồng như thế thà đừng lấy nhau còn hơn. Vi nói thật nhé, để con chó đi săn thì nó là con chó, bắt nó đi cày không được bò cũng mất cả chó. Cái ngưỡng cửa nhà anh với con gái Thượng Phùng thì thấp nhưng với nó thì cao, cao hơn cả mặt, nó bỏ đi là phải...

- Vi dạy tôi đấy à?

- Anh đừng giấu ý nghĩ của mình vào hai lỗ tai, xấu mặt đàn ông. Bây giờ Vi về đây này, anh Sính có dám bảo Vi ở lại không? Nói một câu đi, Vi bỏ hết.

- Đừng nói nữa. Thằng Sính chết từ chân đến cổ rồi, còn hai con mắt thôi.

- Còn mấy sợi tóc cũng được.

Vi nói nhanh rồi giật chăn ra, đổ xuống người Sính. Người Vi nóng rừng rực như bếp lò lúc được lửa. Sính vùng vẫy như người bị dìm trong hũ rượu, nếu có chết chìm cũng không ai trách. Chân tay Sính bắt đầu run bắn lên, mồ hôi vã ra, những ngón tay Sính bấu xuống chiếu hoa. Sính đang nằm ở phần chiếu của Sương còn Vi lại vắt ngang người Sính, người Vi mềm mại, bò trên Sính như một con mèo. Vi lần tìm hai bàn tay Sính, nắm lấy nó. Sính đã để yên vì không còn đủ sức gỡ ra. Bất chợt Sính chồm dậy, hất Vi ngã sang một bên. Chiếc vòng. Không có chiếc vòng, cánh tay Vi trơn như một con rắn...

Sính loạng choạng bước ra cửa, mở toang hai cánh gỗ, ép hẳn vào tường.

Chiều đang dềnh lên, nhanh như nồi cơm sôi chưa kịp mở vung. Gió thốc vào người cô ở chỗ khúc ngoặt như trò đùa của trẻ con...

BỘ XÀ TÍCH BẠC

Đỗ Bích Thúy

Ông ngồi xuống cạnh nấm đất, lại một năm nữa đã qua, ngôi mộ không khác gì mấy, rừng già đã chở che cho Nhi, đến cả gió mưa dường như cũng nhẹ nhàng hơn dưới tán lá dày. Bụi bạch yến đang độ nở hoa, những chùm hoa trắng muốt toả hơng thơm ngát. Ông thắp cho Nhi mấy nén hương, ngọn khói quẩn quanh vấn viét, Nhi đang về với ông đây mà. Ông lấy trong túi áo ngực ra bộ xà tích bạc, bộ xà tích có một con dao, một cái nhíp tỉa lông mày và một cái tăm, tất cả đều nhỏ xíu, bới đất ở nấm mộ lên, vùi bộ xà tích xuống. Nghĩ thế nào, một lát sau lại bới lên. Đã bao nhiêu lần vùi xuống rồi bới lên không thể nhớ được nữa. Quá khứ là một cái gì đó không sao vùi lấp bởi thời gian được, thậm chí, đôi khi cò trỗi dậy, sống động hơn cả hiẹn tại với những lo toan cơm áo. Phải chăng, vì vậy mà ông không muốn chia tay với bộ xà tích, ông còn muốn giữ nó ở bên mình để rồi ngày mai, ngày kia, khi cuộc sống lại đặt ra cho ông một thử thách nào đó ông lại có nơi để víu lấy, để vượt qua...

Nguyên dừng xe, ghé vào một chiếclán. Chiếc lán nhỏ lợp lá cọ, thưng bốn bề bằng nứa bổ, kiểu quán hàng không người bán này có chuối treo tren cao, cam, mía bày dưới bàn, tỉnh thoảng có cả bánh gù, bánh tẻ, ngô nướng... Bộ đội hành quân qua thích ăn gì thì ăn, trong túi có tiền thì để lại vài đồng, không có thì thôi. Nhưng cái quán này hơi khác, bên trong có một cái giường, đúng hơn chỉ là một chỗ nằm, cũng được làm bằng nứa, bốn cọc gỗ chôn xuống nền đất, một chiếc bàn gỗ nhỏ để phía trong cửa sổ, cửa sổ vẫn ở vị trí chống lên. Nguyên đã ghé vào vài nơi, nhưng ở đâycó cái gì đó hơi khác, không hẳn vì nó có dấu hiệu có người ở, mà là cái gì đó rất khó diễn tả. Dưới nền đất ẩm đầy vỏ hạt dẻ, vỏ ủa sa nhân vết cày sới của dúi, cột kèo cũng đã bị mọt đục đến mục ruỗng cả, chỉ cần

xô nhẹ một cái chắc sẽ đổ sập/ Nguyên đi đi lại trong mấy mét vuông sực mùi ẩm mốc. Và đúng như linh cảm của Nguyên, đầu giường, trên cây cột vầu già có một cái hốc nhỏ, khoét tròn. Nguyên thò tay vào, chạm phải một sợi dây xích. Đó là một bộ xà tích bạc. Trong bộ xà tích có một con dao, ở chuôi dao chạm một bông cúc nhỏ tí. Đó là bộ xà tích mà Nguyên đã thức hai đêm liền để đánh cho xong, trước khi lên đường. Nguyên bàng hoàng. Không thể như thế được, không thể có một điều gì đó như là giác mơ xảy ra với anh ngay giữa rừng thế này được. Nguyên mang bộ xà tích ra ngoài trời nhìn thật kỹ, nhất là bông cúc, bông cúc này do chính tay Nguyên chạm, có một cánh hơi bị gãy khúc, là do Nguyên thức liền hai đêm, mỏi mắt quá, tay làm không chính xác được nữa. Nguyên nhìn quanh, không có ai, không hề có một tiếng động nào gần đó. Nhìn alị quán thì mới thấy chẳng có gì bán, mấy sợi dây thừng chắc là để treo chuối vẫn lòng thòng bên trên cửa sổ. Nguyên gọi toáng lên:

- Có ai không? Có ai ở đây không?

Không có một ai đáp lại, chỉ có tiếng vọng từ rừng sâu và núi cao, chỉcó tiếng ọng từ những chòm lá cao rậm rì ken chặt. Nguyên vấp phải một mô đất. Một mô đất dài đắp cao chừng nửa mét. mưa đã xói lở một góc, những cây sa nhân mọc dày, xanh mướt dưới chân. Là cái gì đây? Nguyên rùng mình. Gì đây, chẳng lẽ... Không phải như thế chứ, Nguyên mới đnag trên đường lên Điện Biên thôi mà, trận đánh còn chưa bắt đầu, khẩu pháo ba bảy ly còn sau xe kia. Nguyên dùng tay cào nấm đất lên cào mãi, cào mãi, chỉ có những con dế nâu sẫm làm tổ nháo nhác chỵ ra. Ai đã nằm lại đây dưới đất sâu cùng những con dế ngày đêm oán thán? Là ai?

Trời đã tối, đến giờ lên đường rồi, những chiếc xe của đồng đội phía sau đã bắt đầu nổ máy. Nguyên cũng lên xe, ngần ngừ một lúc rồi quyết định đút bộ xà tích vào túi áo.

Ông nội Nguyên xưa là một người thợ bạc nổi tiếng cả một vùng, nhưng đến đời bố Nguyên, đời Nguyên thì không sống nổi nhờ nghề, phải đi ở cho nhà giầu. Nguyên sinh ra trong chuồng ngựa, lúc mẹ Nguyên mang cháo ngô vào cho con ngựa cái mới đẻ ăn. Ông Sềnh, ông chủ của cả gia đình Nguyên rất biết dùng người, không để cho bố mẹ Nguyên, cả Nguyên nữa đói ăn, thiéu mặc, nhưng cũng không một khắc nào được ngơi tay. Mẹ Nguyên, muốn vá cái áo cho chồng cho con cũng phải để đến nửa đêm, khi nồi rượu cuối cùng đã xong. Dù vậy, chưa bao giờ Nguyên nghĩ đến việc bỏ ông chủ, kiếm sống nơi khác, bố mẹ Nguyên cũng vậy. Nguyên lớn lên có được sứ vóc hoan người d đỏ như màu lông của ngựa tía, vượt núi nhanh như gió và làm việc không biết mệt mỏi.

Nhưng dù thế nào thì Nguyên vẫn chỉ là thằng trai đi ở cho nhà giàu. Phiên chợ nào, ngày hội nào Nguyên cũng chỉ là thằng dắt ngựa cho mấy thằng con nhà Sềnh. Lúc chúng nó vào hội uống rượu, trêu gái thì Nguyên dắt ngựa đi ăn, rồi chải lông cho mượt óng, mấy thằng uống rượu say khướt thì Nguyên lại vác từng thằng đặt lên lưng ngựa, dắt chúng về. Nguyên mới lớn, mới chỉ biết đến mỗi bữa ba bát mèn mén, một nồi rau cải, căng bụng lại hùng hục làm.Chỉ cần thế thôi. Không bao giờ Nguyên thấy được một tienég thở dài nuốt ngược của mẹ, cũng không bao giờ biết có một ánh mắt cha nhìn phía sau mà xuội chân xuội tay không thiết làm gì.

Nhưng có ột ánh mắt khác, dù chỉ nhìn qua khe cửa thôi, thì Nguyên lại biết. Đấy là ánh mắt của con gái út nhà Sềnh. Con Nhi. Con Nhi mười lăm, kém Nguyên ba tuổi . Con Nhi giống mẹ, lúc nào cũng rụt rè, sợ sệt, trong khi lẽ ra nó chẳng có gì phải sợ. Con Nhi da trắng hồng, mắt một mí đen nhức, môi thì đỏ mọng như chọc kim vào một cái là tứa máu ra ồ ạt. Không hiểu sao cứ nghĩ đến con Nhi là Nguyên lại nghĩ đến cái kim khâu của mẹ. Khi Nguyên cảm thấy nong nóng sau gáy thì đấy là lúc con Nhi

đang nhìn Nguyên qua lỗ cửa sổ trong căm buồng tối om của nó. Thế nào Nguyên cũng quay lại, mặc dù chả thấy gì ngoài lỗ cửa nhỉnh hơn bàn tay, đen ngòm, nhưng thế nào Nguyên cũng quay lại. Con Nhi ít đi chơi, thỉnh thoảng lắm, vào mùa xuân, sau tết, nó mới đi hội bên Tả Vài. Nguyên cũng đi, vẫn là thằng dắt ngựa, nhưng là dát ngựa cho Nhi. Hai đứa khong nói gì vói nhau, chỉ thỉnh thoảng nhìn nhau thôi, nhưng mỗi lần đi trước ngoái lại nhì Nhi thì hai chân Nguyên lại không muốn theo ý mình nữa chỉ chực khuỵu xuống.

Rồi cũng đến lúc Nguyên cầm được tay Nhi, thì cũng là lúc Nguyên chuẩn bị trốn nhà Sềnh ra rưng theo Việt Minh. Nhi hỏi:

- Việt Minh là ai?

- Là những người sẽ đánh đuổi hết thằng tây mũi dài đi.

- Nó có súng mà.

- Việt Minh cũng có súng.

- Súng kíp săn thú ấy à?

- Không, súng to chứ. Nguyên nói bừa, mặc dù thâm tâm cũng không dám chắc Việt Minh có súng to, và to chừng nào.

Nhi đưa cho Nguyên hai đồng bạc có hình bà đầm.

- Cầm lấy, lúc nào cần thì có cái mà dùng.

Nguyên nắm chặt ba đồng bạc hoa xoè. Chưa bao giờ Nguyên, thậm chí là bố mẹ Nguyên được sở hữu đến ba đồng bac thế này. Và hai đêm liền, Nguyên thức trắng, đánh ba đồng bạc gthành một bỗ xà tích. Trong căn buồng tối, chỉ cách một lớp vách gỗ và một lớp đất trình tường, Nhi hình như không ngủ, thỉnh thoảng lại ho khẽ, Nguyên cũng ho lại trả lời.

Đêm thứ ba, Nguyên gõ khẽ vào vách đất Nhi rón rén láh cửa chi ra, trên

đầu không có khăn, mái tóc dài đổ xuống hai vai Nhi trông rất khác.

- Nguyên đi đấy à?

- ừ

- Bao giờ về?

- Lâu không?

- Chức là không lâu đâu. Một, hai mùa hội xuân thôi mà.

- Thật không?

- Thật chứ. Việt Minh có nhiều khẩu súng to, rất to, thế này này, đuổi thằng Tây khó gì.

- Cẩn thận nhé.

- ừ, cẩn thận để còn về với Nhi chứ. Nhi đợi được không?

- Sao lại hỏi thế? Không tin à?

- Tin chứ. Hỏi để biết chắc thôi. Có cái này cho Nhi này.

- Gì thế?

- Cái này, nhưng không được dùng đi hội đâu nhé, đợi Nguyên về mới

được dùng, cho mình Nguyên ngắm thôi.

- Ai dà, Nguyên lấy đau ra bạc để đánh xà tích thế?

- Mẹ cho đấy, mẹ cho để đánh xà tích cho vợ.

- Nói dối, mẹ làm gì có.

- Có chứ. Nhi à, ở nhà để ý đến mẹ Nguyên một tý nhé. Khoẻ không sao, chỉ lo lúc ốm đau thôi.

- Biết rồi.

- Thế thì Nguyên đi đây.

- Chờ một tí đã.

- Gì nữa.

- Không gì cả, muốn đứng gần Nguyên một lúc nữa thôi.

- Nói hay thế. Thật bụng không đấy?

- Thật mà. Nguyên à...

Nhi khóc. Nguyên cuống lên không biết để chân để tay vào đâu, ôm lây Nhi. Chỉ ôm thế, hít lấy hít để mùi thơm từ mái tóc đen nhức, một lúc rồi buông ra, quay đầu chạy thật nhanh vào đêm tối mịt mùng.

Nguyên theo Việt Minh, được đi học chữ, được sang Trung Quốc học lái xe. Suốt một năm trời, ăn một cái tết bên nước bạn, học xong được mang một chiếc xe Mônôtôva, kéo theo khẩu pháo cao xạ ba bỷ ly về nước. Nguyên đã khác quá rồi, gặp bao nhiêu người học được bao nhiêu thứ, vậy mà không lúc nào Nguyên không nghĩ đến Nhi, đến những giọt nước mắt nóng bỏng ngấm vào vai áo Nguyên đêm nào. Có người về gần vùng ấy là Nguyên lại viết thư. Bao giờ gửi thư Nguyên cũng dặn: "Nhi không biết đọc đâu, đọc hộ cho Nhi nghe nhé". Hàng chục ngày lái chiếc xe có khẩu pháo dài, nặng như đá phía sau lúc nào Nguyên cũng ước, giá mà Nhi nhìn thấy khẩu pháo này, Nhi sẽ biết là ngày trước Nguyên không nói dối. Việt Minh có nhiều khẩu pháo to thế này thì sẽ đuôi được thằng Tây chẳng khó gì. Đường về qua cửa khẩu Lạng Sơn, qua Thái Nguyên qua Yên Bái, Sơn La, rồi mới lên Điện Biên, Nguyên đã gặp rất nhiều cái qáun nhỏ nằm lúp xúp ven đường không người bán, thỉnh thoảng cũng ghé vào, chỉ hi vọng hỏi được thông tin về Nhi.

Đại đội xe kéo pháo của Nguyên được giao nhiệm vụ bảo vệ đèo Lũng Lô, một con đèo trọng yếu của chiến dịch. Nguyên đã không làm được gì nhiều, không được đặt dù chỉ một quả đạn vào ổ, đó là việc của các pháo thủ, nhưng Nguyên rất tự hào vì chính Nguyên đã mang về được một khẩu cao xạ ba bảy ly, loại pháo lần đầu tiên xuất hiện trong đội ngũ của quân đội Việt Nam. Nguyên đã viết thư cho Nhi thế này:

Nguyên đã mang được một khẩu pháo về, một khẩu pháo của Liên Xô, nó rất to, to lắm, Nhi không nghĩ tới được đâu. Nó có thể bắn từ rất xa, từ dưới mặt đất chĩa lên trời, nhằm vào máy bay (máy bay ấy, Nhi biết không) pùm một phát, máy bay nổ tung, cháy đùng đùng. Nhi à, hết chiến dịch Nguyên sẽ dẫn Nhi đi xem một khẩu pháo như thế, thèm gì súng kíp, súng kíp chỉ bắn nổi mấy con cầy hương thôi. Nhi nhớ đợi Nguyên về, rồi một ngày đeo bộ xà tích cho Nguyên xem, không được để thằng trai nào nắm tay ở hội xuân đâu nhé. Sắp hết thằng Tây đến nơi rồi, Nguyên cũng sắp về rồi.

Nhưng hết chiến dịch, quân ta đã chiến thắng giòn dã mà vẫn chưa về được. Nguyên bị thương, xe Nguyên trúng một quả đạn, bốc cháy, Nguyên bị bỏng nặng hỏng một mắt, nằm ở trạm quân y tiền phương một thời gian rồi chuyển về tuyến sau. ở đấy Nguyên gặp một người, một người mà trong những lúc đau đớn nhất cả về thể xác lẫn tinh thần, Nguyên đều được người ấy chăm sóc, sự chăm sóc dịu dàng và ân cần như mẹ đối với Nguyên, và còn như Nhi đối với Nguyên.

Nguyên không thể về ngay được, Nguyên nợ người ta, Nguyên cảm thấy day dứt nếu cứ thế mà ra viện. nhưng Nguyên cũng không làm gì được, hình bóng Nhi không lúc nào rời khỏi suy nghĩ của . Cuối cùng, cô y tá ấy bảo:

- Anh về đi, nếu không thấy cô ấy, hoặc cô ấy không còn chờ anh nữa thì quay lại đây với em.

Nguyên mừng quýnh, vội vã xách ba lô về quê.

- Cha con không còn nữa rồi. Ông ấy chờ mãi mà không thấy con về, sao chiến thắng lau rồi mà mãi bây giờ con mới về hở Nguyên?

Mẹ Nguyên nắm chặt lấy cánh tay anh, nước mắt ròng ròng. Mẹ tưởng anh đã ngã xuống rồi, ở đâu đó, trên đồi A1 hay ngay trước cửa hầm Đờ

cát, mẹ tưởng anh không thể về với mẹ được nữa. Cha Nguyên mất vì một lần gùi thuốc phiện của lão Sềnh sang Sảng Pả bÞ cướp giữa đường. Cái chết đột ngột của chồng làm mẹ Nguyên như cái cây bị đốn ngang chừng, đổ gục, chết không chết được mà sống cũng khôg ra sống, từng ngày, từng ngày một chỉ còn một điểm tựa duy nhất là hy vọng Nguyên trở về.

Giờ thì Nguyên đã về đây. Chính quyền cách mạng đã giải phóng tất cả những kẻ hầu người hạ trong nhà lão Sềnh, cả nhà lão đã khăn gói ra đi, bốn năm căn nhà rộng thênh thang được chia cho người làm, cả đất đai ruộng nương, trâu bò đe ngựa cũng chia đều. Phải khó khăn lắm Nguyên mới mở miệng được, hỏi mẹ về Nhi.

- Nó đi tìm con mà, hai đứa không thấy nhau sao?

- Làm sao lại phải đi tìm con, con bảo Nhi chờ ở nhà cơ mà.

- Ấy, khổ quá nên phải trốn nhà đi thôi.

- Ai làm gì Nhi, ai dám làm gì Nhi hở mẹ?

- Bố mẹ nó chứ ai. Nó gửi mẹ cái này, bảo khi nào con về thì đưa.

Mẹ đưa cho Nguyên một gói nhỏ. Nguyên mở ra, trong lớp vải chàm là một nắm tóc. Cái đêm chia tay với Nhi dưới gốc cây lê nở hoa trắng muốt lại hiện về...

Sau khi Nguyên đi, một tháng, hai tháng, mười tháng, một năm, không hề có tin tức gì về, Nhi mỗi ngày một phổng phao xinh đẹp. bà Mẩy dạo này hay ốm, có cái cục gì đó chồi lên ở bụng, rất đau, ăn không được, ngủ cũng không được, gày xọp đi. Thỉnh thoảng nửa đêm lại thấy Nhi xuống nhà ngang, lần đến giường bà, đưa cho một cục gì mềm mềm bằng đầu ngón tay út. Bà nhấm nháp một tý là đỡ đau ngay. Sau này bà Mẩy mới biết đó là thuóc phiện, nhà Sềnh nhiều bạc trắng là nhờ thứ này đây.

Mùa xuân năm ấy, chính là mùa xuân Nguyên được ăn tết ở nước bạn, nhớ nhà buồn thiu suốt mấy ngày tết, bố me Nhi đón bà mối đến nhà. Không ai nói câu nào với Nhi, chỉ đến khi bà mối về bố mới gọi lên, bảo hai tháng nữa thì gả chồng. Mười sáu tuổi là lấy chồng được rồi, ba trăm đồng bạc trắng thách cưới mà nhà trai không kêu ca gì, bảo cho thêm một trăm nữa là bốn. Nó nhiều bạc trắng thế không gả thì gả cho ai. Nhi bảo, nếu cứ bắt Nhi lấy chồng thì nhà trai chỉ được một xác người không thở, không nói, không nhìn nữa thôi.

- Thật không? Bố Nhi hỏi.

- Thật. Nhi nói như dao sắc chém cột.

- Thế thì phải nhốt mày lại. Nuôi mày lớn chừng ấy thì phải được gả

chồng cho mày chứ, mày chết thi phí công, phí thóc của tao à.

Bố Nhi nhốt Nhi lại thật, cho người canh gác ngày đêm nữa. Nhi nghĩ, nếu chết thì cũng không giữ được mình cho Nguyên, khi Nguyên về biết Nhi đã chết thì Nguyên sống thế nào. Không chết, nhất định không chết.

Bị nhốt ba ngày Nhi bảo bố.

- Lấy chồng cũng được. Nhưng phải cho con một trăm đồng bạc.

- Mày theo chồng về nhà nó, bên ấy thiếu gì bạc trắng mà phải mang ở

nhà đi.

- Mình phải có tiền chứ, mai kia muốn đi chợ mua sám cũng phải xin tiền chồng à, nó không cho thì làm thế nào, nó khinh thì làm thế nào?

Bố Nhi miễn cưỡng đồng ý. Vậy là chỉ còn có ba trăm đồng, tính ra thì nuôi Nhi bằng ấy năm vẫn không bị lỗ.

Ngày mai theo chồng về nhà, đêm nay Nhi lại lò dò xuóng nhà ngang Nhi đưa cho bà Mẩy năm mươi đồng bạc, bảo bà cất đi, lúc nào cần thì có cái mà dùng.

Đúng đêm đầu tiên về nhà chồng, thằng chồng chưa kịp vào buồng thì

Nhi trốn mất.

Nhi đã đi tìm Nguyên, chỗ nào đang đánh thằng Tây thì Nhi đến. Đi đến chùn chân, hỏi đến mỏi miệng vẫn không tìm ra anh Bàn Văn Nguyên.

Vậy thì Nguyên đã gặp Nhi rồi. Nguyên đã nhìn thấy một mảnh vải thêu chỉ đỏ vương trên vác nứa, lúc ấy Nguyên chỉ cảm thấy có gì rất quen thuộc, nhưng giờ thì Nguyên biết, đó là mảnh khăn vấn đầu của Nhi. Nhi đã ở lại giữa rừng, dựng quán bán hàng ven đường bộ đội hành quân, hy vọng gặp được Nguyên. Nhưng Nguyên đến muộn. Nhi nằm đó nhưng không kịp nắm tay Nguyên lần nữa, bộ xà tích bạc chưa được đeo trên cạp váy lần nào còn giấu được trong hốc cột...

Rừng rậm đang cất lên khúc hát muôn thuở về sự hoang dã vĩnh cửu, chỉ có con người là không chờ đợi được nhau. Tất cả ùa về trong Nguyên, dòng sông sâu rất trong, núi rất cao và hai đêm dài Nguyên còng lưng đánh xà tích bvạc. Năm tháng qua đi, căm lán nhỏ đã đổ sập vì mưa gió, chỉ có Nhi là vẫn còn đây, năm nào Nguyên cũng trở lại thamư Nhi, bộ xà tích bạc vẫn còn lấp lánh sáng trong đêm, bộ xà tích này Nhi chưa dùng lần nào, chỉ đợi đến khi Nguyên về, sẽ cùng Nguyên sang Sảng Pả đi hội xuân trước mùa cưới.

CẠNH BẾP CÓ CÁI MUÔI GỖ

Đỗ Bích Thúy

Từ đây về nhà còn phải đi bộ một quãng xa nữa, còn sớm, tôi ghé vào một quán thắng cố. Chợ sang chiều sắp tan, quán vắng tanh. Chủ quán vừa chùi hai tay đầy mỡ vào vạt áo vừa hỏi, mặt không ngẩng lên:

- Đến ăn muộn thế?

- Ừ, xe tỉnh vừa lên mà. Cho mình xin một bát nhé.

- Cũng chỉ còn một hai bát là hết. Đang định mang về cho trẻ con. Uống rượu không?

- Một ít thôi...

Ngoắng muôi quẹt một cái dưới đáy chảo vét lên vừa xương thịt vừa nước váng mỡ, đổ vào bát, rồi mặc kệ tôi xì xụp ăn uống, chủ quán xếp đồ vào quẩy tấu. Tôi ăn được nửa bát thắng cố, uống hết nửa bát rượu, đột ngột chủ quán hỏi:

- Này, về đâu thế?

- Ở đây thôi...

- Ở phố huyện?

- Ừ.

- Không nói thật với nhau rồi. Người Thài Phìn Tủng phải không?

Tôi giật mình, suýt gạt đổ bát thắng cố, căng mắt ra nhìn chằm chằm, một lúc lâu vẫn chẳng thấy nét nào quen ở người đàn ông râu rậm trước mặt.

- Sao biết? Mình nhìn không thấy quen mà.

- Không quen đâu - Chủ quán mặt vẫn lạnh như ngâm nước - Biết biết một tý thôi. Lâu quá rồi, không thấy lại nhau một lần, cũng phải nghĩ mãi mới ra đấy.

Người phụ nữ địu đứa bé sau lưng vẫn lúi húi dọn dẹp từ nãy, nhễ nhại mồ hôi bước ra ngoài, cắt ngang:

- Tôi đi lấy ít muối. Dọn nhanh lên, tan chợ rồi đấy. Tôi bỏ dở bát thắng cố, lấy tiền ra trả. Nấn ná thêm:

- Vợ à?

- Ừ. Nó mới đẻ, con trai đấy - Chủ quán trả lời, không giấu giếm sự phấn khởi, hỏi thêm - Có ngựa về không?

- Đi bộ thôi.

- Thế thì... đi nhanh nhanh, không lại ngủ giữa đường.

Ra khỏi quán, đi một đoạn, ngoái lại tôi vẫn thấy người đàn ông còn đứng nhìn theo. Không quen. Dứt khoát không quen tý nào. Tại sao người ấy lại nhận ra mình? Tôi điểm mặt đàn ông ở Thài Phìn Tủng, từng cái mặt, dáng người lướt qua, chẳng thấy có ai giống thế. Ánh mắt kỳ quặc của chủ quán cứ bám theo mãi như con vắt đói.

Mặt trời xuống nhanh. Hết đường nhựa, vào đường đất ngoằn ngoèo bám trên triền dốc là thấy ngay cái lạnh ùa tới. Gió dưới vực sâu hun hút thốc lên. Đúng là phải đi nhanh cho nóng người lên, cũng để không bị muộn quá lại không nhìn thấy lối đi. Đàn ông từ chợ về, uống rượu say ngủ ngay giữa đường. Một quãng lại có một ông - mũ nồi văng ra bên cạnh, há miệng ngáy hừ hừ, ngựa ngang qua quệt cả đuôi vào mặt.

Từ đây không nhìn thấy bản tôi. Phải đi mười một khúc đường vòng như trước mặt mới về tới. Vừa đi vừa đếm ngược, đến vòng cua cuối cùng mới thấy được nhà trưởng bản nằm chon von trên cao lẫn trong sương mờ

mờ, xam xám. Mặt trời tắt là sương xuống, nhanh như chạy ra từ ống thổi. Sương che kín hết những đỉnh núi cao, nhìn không thấy từng mỏm tai mèo nhọn hoắt...

Khắp vùng cực bắc này, nhìn phía nào cũng chỉ thấy núi. Núi đá cao ngang mây trời, nhiều như sao trên dòng sông Ngân Hà, ngửa mặt đếm mỏi miệng, mỏi cổ không xuể. Người già trong bản nói, đàn ông sinh ra từ núi, còn đàn bà sinh ra từ suối. Suối ít hơn núi nên đàn bà ít hơn đàn ông. Các bản khác con gái lớn lên lo muộn chồng, riêng bản tôi, con trai mới lo muộn vợ. Mười bảy mười tám tuổi chưa lấy được vợ là muộn rồi. Đứa con trai nào nhà nghèo, không đủ bạc trắng mang vợ về là phải đi ở rể. Thằng đàn ông ở rể khổ hơn đứa đàn bà đi làm dâu nhiều. Trong nhà không dám nói to, ra đường không dám ngẩng mặt nhìn hàng xóm. Thế mà vẫn vô số đàn ông bản tôi phải đi làm rể.

Tôi gặp Mai đang gùi một gùi đất ngược lên núi. Lâu quá rồi mới nhìn thấy nhau. Xưa, hồi còn học ở Trường Dân tộc nội trú huyện, Mai là bông hoa sắp nở rực rỡ nhất trường. Đang học dở thì bố mất, mẹ gọi Mai về lo việc nhà cùng mẹ. Vậy là bỏ học. Giờ thì ở đây, lấy chồng, đẻ liền ba đứa con bị xã phạt tính ra mất mấy quẩy tấu ngô vì vượt kế hoạch. Nhà Mai có ba mảnh nương nằm trên ba sườn núi quay mặt vào nhau, nhà ở dưới thung lũng, mặt còn lại là đường cái, thỉnh thoảng có xe ô-tô chạy qua, hai đứa con Mai lại líu ríu cõng nhau chạy ra xem, ngã sấp ngửa. Các em Mai đã đi lấy chồng hết, nhà chỉ có một đàn ông là chồng Mai, con rể cả. Hai vợ chồng ngày lên rừng, tối về hầm ngô nấu rượu, phiên chợ Lũng Phìn cho ngựa thồ ra bán, bỗng rượu để nuôi lợn.

Nhà tôi cách nhà Mai một đoạn, tắt qua đường ô-tô, đi vừa mỏi chân thì tới.

Tôi rời khỏi nhà năm mười sáu tuổi. Trước ngày tôi đi, ông nội dắt ra gốc cây lê bảo: Nhìn lên đằng trước kia, ngọn núi nhọn nhất là ngọn núi sinh

ra những đứa như mày. Lúc mày chui ra khỏi bụng mẹ, Mặt trời đang mọc, đến đúng đỉnh núi ấy. Ngọn núi đẻ ra những đứa khó bảo, lớn lên thích làm theo ý mình. Thì thôi, cho mày đi. Nhưng đi đâu thì đi, khi nào đau chân, khi nào không thấy con đường thẳng, con đường sáng thì phải nhớ lối mà quay về...

Ngọn núi ấy, mỏm nhọn của nó không đủ chỗ cho một con chim lớn đứng chân. Cái mỏm nhọn hoắt, bé như đầu sừng một con sơn dương oai vệ vươn lên, khoe khoang sự dũng mãnh.

Có một huyền thoại. Thuở mảnh đất này mới chỉ có rất ít người Mông sinh sống, có lần trời làm đại hạn, chỉ có cái nóng và cái khát ngự trị. Một con rồng ở trên cao, vén mây nhìn xuống, thấy cảnh người Mông thiếu nước vô cùng cực khổ đã móc một con mắt của mình ném xuống. Con mắt rồng đậu trên một đỉnh núi nhọn hoắt và tạo thành dòng nước mát vô ngần. Nhưng vùng lân cận có một bọn muốn chuyển dòng nước về chỗ chúng, không được chúng đã trồng ngay chỗ dòng nước chảy ra một loài cây độc, lá cây rụng xuống, ai uống phải dòng nước ấy sẽ ngộ độc mà chết. Hai anh em nhà nọ đi nương về gặp dòng nước ngọt uống lấy uống để và đã chết ngay đầu nguồn nước. Họ chết đi hóa thành đôi chim muôn sắc, ngày đêm quanh quẩn bên nguồn nước, nhặt sạch lá độc mỗi khi chúng rụng.

Nhưng rồi, năm này qua năm khác, trời vẫn làm hạn hán. Có lẽ con rồng đã già, đã chết, và con mắt của nó dưới trần gian cũng không còn sức lực để tạo ra dòng nước nữa. Tôi và Mai lớn lên trong nỗi khát khao một nguồn nước tràn đầy, trong vắt, tắm được trong nó, bơi được trong nó và hai bà mẹ không phải suốt ngày trời mới giặt xong một quẩy tấu quần áo cho cả nhà.

Bảy tuổi tôi đã theo cha đi vòng quanh cái thung lũng nhỏ mà cả nhà tôi

để dành từng vốc tro bếp bón đất, mang đất sét đi trét vào từng hố đá đợi

nước trời... Thỉnh thoảng, không còn tý nước nào để dùng, tôi gùi thùng qua hai khe núi sang nhà Mai. Mẹ Mai lại chia cho một ít nước để dành trong bể đá đầu hồi.

Nghỉ đông năm ấy, chúng tôi từ trường nội trú về nhà. Có người đến hỏi xin Mai làm dâu. Chiều hôm trước, đuổi bò qua thung lũng gặp tôi Mai bảo:

- Tao sắp lấy chồng rồi, bỏ học thôi...

- Không tiếc à?

- Tiếc chứ, nhưng nhà không có người làm, phải lấy nó về mang bò lên nương...

Mai dắt bò quay đi một đoạn, ngoái lại, mắt ầng ậng nước ngập ngừng:

- Chứ à, sao không bảo bố mẹ sang nhà tao? Năm ấy cả tôi và Mai đều vừa tuổi mười bốn.

Không có một dòng suối nào chảy qua bản tôi. Nước chảy ngầm dưới đá, người già bảo thế. Thế nên đàn bà Thài Phìn Tủng có ở trong nhà hay đi ra khỏi nhà chỉ nhìn trên mái tranh có khói bếp bay lên hay không mới biết. Đàn bà Thài Phìn Tủng nói ít làm nhiều, không mấy khi buồn cũng không có mấy khi vui. Cúi mặt từ mờ sáng đến đêm khuya. Cái lưng cong mãi.

Tôi đứng ở sân nhà Mai, nhìn thấy rõ ngọn núi nhọn nhất trên dãy núi chắn ngang chia Thài Phìn Tủng thành hai nửa. Ngọn núi nhọn, từ chân lên đến đỉnh mọc kín tam giác mạch. Mây giăng lưng chừng, hoa tam giác mạch nở rộ, cuối mùa hoa ngả sang mầu hồng sẫm, lẫn vào mây mờ. Cây tam giác mạch chịu rét giỏi, mùa này chỉ mình nó mọc được. Mảnh nương ấy mẹ đẻ mới chia cho vợ chồng Mai.

- Trong nhà còn ngô không Mai?

- Còn ít thôi. Vụ này trồng ngô giống mới nhưng lại trồng trên nương, cây ngô ra bắp ít lắm. Người đủ ăn thì bò ngựa nhịn. Bò ngựa ăn thì người thiếu.

- Thế thì làm thế nào, xin cứu đói nữa à?

Im lặng. Mai tiến đến gần cái quẩy tấu để ở góc nương, trong ấy đang phát ra tiếng trẻ con khóc. Đứa út của Mai đấy, mới bốn tháng, trông nó bé như cái phích nước. Mai quay người, vạch áo nhét vú vào miệng con. Đứa bé nín bặt, chỉ còn tiếng mút chóp chép.

Có tiếng người lao xao dưới đường mòn. Người bản đi chợ Lũng Phìn về, có người đi mấy ngày mới về. Chồng Mai cũng thế. Mai bảo đi từ ba hôm trước.

- Sao phiên chợ mà Mai không đi cùng chồng? Say rượu thì ai dắt ngựa?

- Nó đi bộ thôi mà.

- Đi bộ thì cũng phải có vợ có chồng chứ?

Mai lại im lặng, thở dài. Lâu lắm mới khẽ khàng:

- Nó đi làm ăn rồi, xa lắm. Chắc Tết cũng không về. Đứa út này đã được

đặt tên đâu. Nó muốn con trai, đẻ nữa thì không có gì nộp phạt...

Từ ngày chồng đi, Mai không xuống chợ Lũng Phìn ngày nào. Sắp Tết rồi, trên gác bếp đã thấy chuối khô phơi đầy một giàn. Mai bảo năm nay thêm trẻ con nhưng bớt người lớn, chắc cũng chỉ làm ít bánh thôi. Trên nóc bếp lò, cạnh chảo cám đang sôi sùng sục, có một cái muôi gỗ. Cái muôi bọn trẻ con rửa bát bữa trưa quên để lại. Cái muôi bằng gỗ pơ mu là tôi làm cho Mai. Ngày bé, lúc nào Mai cũng ước có một cái muôi thật to. Tôi chỉ thấy buồn cười, ước gì không ước lại đi ước cái muôi. Mãi đến lúc Mai bảo sắp lấy chồng tôi mới làm cho Mai, nhớ ánh mắt có gì như oán trách, như thấy Mai ngã mà không đỡ dậy, con dao sắc cứa một nhát

vào ngón tay trỏ. Vết sẹo vẫn còn đây. Từ ngày bố mất, nhà không có đàn ông, cái muôi gỗ cũ mòn vẹt một góc cứ phải dùng mãi...

Đứa bé vẫn nằm trong quẩy tấu, đặt cạnh bếp, không khóc, còn hé hai con mắt ra nhìn tôi chằm chằm. Mẹ nó ra ngoài nhổ một gốc rau cải, chuẩn bị làm cơm tối. Hai đứa chị hí húi tẽ ngô. Thấy tôi nhìn cái mũ nồi treo trên tường đất, đứa lớn bảo:

- Của bố đấy. Đi ban đêm mà, quên cả mũ.

- Có biết bố đi đâu không?

- Biết.

- Đi đâu?

- Người bản đi chợ huyện về, bảo gặp ở đấy. Mai mắng con:

- Trẻ con biết gì, đừng nói linh tinh.

Mai quay mặt ra cửa, dụi mặt vào tay áo. Tôi chợt nhớ ra cái quán thắng cố...

- Mai à, có đi chợ huyện sắm Tết không?

- Có gì cần mua đâu mà đi - Tiếng Mai nghèn nghẹn, ngập ngừng - Chứ

à, về đi thôi. Sắp tối rồi đấy, về không em gái lại tìm. Mai lại sang chơi...

- Ừ mình về...

Tôi định hỏi, Mai không biết thật hay là Mai nói dối bạn. Mai sợ bạn thương hại Mai. Tôi còn định kể lại chuyện ăn thắng cố ở chợ huyện trước khi về Thài Phìn Tủng, nhưng nhìn cái mặt cúi gằm, tóc xù ra ngoài vành khăn lại không mở miệng được.

Phải cúi người mới không chạm đầu vào khung cửa. Khói quẩn trong nhà không có lối ra. Ngoài trời, dưới chân núi, chặn chân nương tam giác

mạch, hoa lê đang bật bông trắng. Hoa lê càng trắng thì trời càng lạnh. Trời chiều mùa đông u ám, không rõ trời, không rõ đất. Mây trên cao tràn xuống, tam giác mạch chỉ còn thấy mờ mờ, hòa lẫn trong sương. Núi cũng đã không còn nhìn rõ nữa... Tôi ngoái nhìn vào bếp, nói nhanh, chẳng biết mẹ con Mai có nghe rõ không:

- Hôm khác mình sang làm cho mấy mẹ con cái muôi mới dùng Tết...

TRONG ĐÁM ĐÔNG CÓ MỘT ÁNH MẮT

Đỗ Bích Thúy

Lâu rồi, dễ đến hàng năm trời nàng không có mặt trong một đám đông nào. Suốt thời kì mang thai, sinh con, cho đến khi con bé đã được sáu tháng, nàng không đi đâu đến nơi đông người. Nàng cảm thấy không được tự nhiên cho lắm với một cái bụng to. Khi mang thai, nàng hay ốm, luôn luôn mệt mỏi vì mất ngủ, không mặc được thứ gì đèm đẹp một tí. Khi mới sinh con, mẹ chồng nàng bắt nàng kiêng khem đủ thứ, ba tháng mới được ra khỏi phòng, tai vẫn nút bông và đầu thì bịt khăn. Trong gương, nàng xanh xao và mỏng như một tờ giấy, trái ngược hẳn với cô gái mập mạp trước đây. Nhưng giờ thì con bé đã được sáu tháng, đã biết giơ tay về phía mẹ mỗi khi nàng đến gần.

Hôm nay cơ quan có một cuộc họp lớn, nhiều khách mời quan trọng. Sếp bảo nàng và hai cô nữa đón khách ở cổng. Nàng trang điểm nhẹ, phớt vài nhát chổi hồng hồng lên má, và mặc bộ juyp ngắn trên đầu gối màu nâu tây. Nàng xoay nhẹ trước gương. Chồng nàng vẫn ngủ vùi trong chăn, đêm trước anh thức đến gần sáng trước máy tính. Dạo này chồng nàng hay thức khuya. Cuộc sống của hai người từ khi có con bé không thay đổi mấy, ngoại trừ việc nàng hay để nó nằm vào giữa, ngăn đôi cái giường, và anh thì luôn nằm ẹp vào trong vì sợ đè vào con. Mọi chuyện còn lại vẫn bình thường. Nhưng một lần gần đây, nàng mở email của chồng, thấy có một địa chỉ lạ, địa chỉ ấy chiếm hai phần ba số thư ở trong box. Nàng ngần ngừ một lúc rồi quyết định tắt máy. Nàng có thói quen tôn trọng chồng, ngay cả tin nhắn trong điện thoại của anh nàng cũng không bao giờ đọc. Nhưng sau đó, tất cả những đêm chồng nàng ngồi lì trước máy nàng đều không ngủ được. Dòng địa chỉ trong box luôn luôn hiện lên trước mắt nàng. Một cái tên con gái, không có dấu nhưng nàng vẫn đọc

được, đó là một cái tên con gái. Là ai? Ai mà gửi nhiều đến thế, có chuyện gì không nói được thành lời mà lại phải gửi mail? Hộp thư yahoo ấy chính nàng đã lập cho chồng, lấy ngày sinh của nàng làm password, chồng nàng biết rõ như vậy, tại sao họ vẫn liên lạc với nhau qua hộp thư ấy? Là vì anh tin nàng không bao giờ mở, hay thực sự trong mỗi mail ấy chẳng có gì đáng giấu diếm? Chồng nàng làm ở một cơ quan thiết kế xây dựng nên thường xuyên phải sử dụng đến máy tính, nhưng hàng đêm anh ấy ngồi trong phòng làm việc để check mail hay làm việc thật sự thì nàng không biết. Có lần nàng đã pha một cốc sữa, định mang vào phòng anh đột ngột mà không gõ cửa, để xem thực ra thì anh đang làm gì, nhưng nàng đã cầm cốc sữa nóng và đứng mãi ở cửa mà không dám vào. Vì nàng cảm thấy xấu hổ, thấy có lỗi với chồng vì không tin tưởng anh, hay vì nàng sợ phải đối diện với một sự thật khủng khiếp nào đó phía sau cánh cửa kia, cũng không biết nữa. Lần thứ hai, nàng lại mang một cốc sữa. Nàng bưng cốc sữa nóng bỏng , bốc hơi nghi ngút, thơm ngậy từ trong bếp ra bằng đôi tay lẩy bẩy. Việc gì phải run lên thế này, không việc gì phải run lên thế này, nàng lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại. Nàng không gõ cửa mà chỉ đẩy thật khẽ, tay nắm trơn nhẵn không hề phát ra tiếng động. Chồng nàng đang ở kia, trên chiếc ghế xoay màu ghi, nhưng anh đang gục xuống bàn, ngáy khe khẽ. Vẻ như anh đã thiếp đi vì quá mệt mỏi, bàn tay phải vẫn còn đặt trên con chuột máy tính. Màn hình đang ở chế độ chờ, những quả tim màu đỏ nối v?i nhau như một con rắn bò ngoằn ngoèo, chốc chốc lại tách rời ra, nhảy loạn xạ. Nàng đứng tần ngần sau lưng chồng rồi khẽ đặt cốc sữa xuống bàn, lấy một quyển sách đậy lên trên rồi rón rén bước ra. Đêm ấy, nàng vẫn không ngủ được. Con bé úp mặt và ngực nàng nhưng thỉnh thoảng lại quơ tay ra sau tìm ba nó. Nàng phải để một cái gối vào đó. Nàng yêu chồng, yêu con, yêu gia đình nhỏ bé của mình, tình yêu ấy bình dị và kín đáo như con người nàng, nên đám đồng nghiệp ở cơ quan mỗi khi rỗi việc ngồi tán gẫu vẫn bảo, có lẽ

nếu chồng nàng có bồ, nàng cũng chẳng đau khổ mấy, cũng chẳng lồng lên mà ăn tươi nuốt sống kẻ ấy như người ta. Nàng nghe và chỉ cười. Nàng chưa bao giờ đặt mình trong tình huống ấy để mà biết rằng mình sẽ phản ứng như thế nào.

Hôm qua, đứa bạn phải đứng đón khách cùng nàng hôm nay đã rủ nàng đi mua cái gì đó mà mặc. Và nàng đã mua được bộ juyp này đây, quả thực là nó rất hợp với nàng. Sinh con xong nàng đẹp hẳn lên, da dẻ mịn màng và cơ thể thì mềm mại, vòng eo hơi nở một chút nhưng vẫn tròn trịa lắm. Nàng ngắm mình trong gương và thở dài khi tiếng ngáy của chồng bất chợt to hơn bình thường. Con bé đã dậy, nằm trong chăn thò cổ ra, đôi mắt hấp háy nhìn nàng và miệng thì tủm tỉm cười, cánh tay ba nó vòng qua làm thành một cái cũi, con bé không thể bò ra ngoài mà lăn xuống sàn nhà được. Hôm nào cũng thế, nàng đi làm thì con đã dậy, còn bố thì vẫn ngủ, tay ôm chặt lấy con. Nàng chui vào giường, thò mặt vào và thơm con, con bé cố rút hai cánh tay trong chăn ra và ôm lấy mặt nàng. Nàng bảo: "Ngoan nhé, mẹ đi làm đây". Con bé méo miệng chực khóc, nàng phải cù vào gáy nó cho nó cười lên, đưa cho nó một cái thiếp mời màu đỏ. Con bé của nàng rất dễ chơi, cái gì màu sắc sặc sỡ mà vò vún được là nó thích.

Cái thiếp mời này, cô dâu và chú rể của nó đã cưới tuần trước. Hôm ấy, cả nhà nàng đi dự. Con bé thích lắm nhảy chồm chồm trên xe suốt chặng đường từ nhà đến khách sạn. Nhưng đến nơi, vừa ngồi vào mâm thì nó dở chứng buồn ngủ, lè nhè khóc và rúc vào ngực nàng thè lưỡi tìm bầu sữa. Không lẽ vạch áo giữa bàn dân thiên hạ, nàng đành bế con đứng dậy, tìm vào một góc vắng, cho nó ăn. Con bé ăn xong, ngủ tít thì tiệc cũng đã gần tàn, nàng đi ngang chỗ chồng ngồi, hích vào anh một cái ra hiệu rồi bế con ra cửa chính. Nhưng chồng nàng có vẻ chẳng hiểu cái hích của nàng là gì, vẫn điềm nhiên ăn uống, cười nói. Nàng đứng ngoài sảnh, nhìn vào

qua cửa kính thấy rõ là anh uống tới ba cốc bia. Không biết anh đã nhiễm thói hư tật xấu từ bao giờ, trước kia, giỏi lắm anh chỉ uống nửa cốc là cùng. Anh hay đi nhà hàng nên quen rồi chăng? Chỉ có hay nhậu nhẹt mới uống với cái kiểu rất sành điệu thế kia. Chết thôi, thế mà hôm nào anh về muộn nàng cũng xót đứt cả ruột vì thương chồng vất vả. Hoá ra anh đi nhậu, nhà hàng, rồi quán bar, anh đi với những ai có trời mới biết. Và ngẫu nhiên, dòng địa chỉ trong box lại hiện lên mồn một. Nàng nhìn con, nó đang ngủ say, miệng vẫn tóp tép, hai má hồng căng như muốn nứt ra, nó vẫn rất khoái được ngủ trong tư thế bế ẵm, đi rong thế này. Hai mắt nàng bắt đầu nóng lên, áo nàng xộc xệch vì vừa vén lên cho con bú, một bên ngực áo ướt sũng vì sữa chảy, nàng thấy mình nhếch nhác ghê gớm, thế mà còn phải ôm con đứng chầu chực ở cửa như ăn xin thế này. Nàng nhìn vào trong, hi vọng anh cảm thấy ánh mắt của nàng mà quay ra, nhưng không hề, anh vẫn cắm cúi ăn. Kì lạ, làm như bị bỏ đói mấy ngày không bằng. Đồ tồi, đồ tham ăn tục uống! Nàng cáu tiết rủa thầm rồi rút điện thoại di động gọi tắc xi.

Hai giờ chiều, anh xô mạnh cửa lao vào nhà như một gã điên. "Em làm sao thế, để anh tìm khắp nơi thiếu nước đào cả thành phố lên, chỉ sợ hai mẹ con ngã chỗ nào...." Anh gào to, vừa gào vừa nới cà vạt. Nàng mặt nặng như chì "Anh đi cả giày vào nhà rồi đấy". "Em... chồng nàng tức tối, nghẹn cả giọng - em thật quá quắt. Không dưng lại bỏ anh ở lại, tí tởn ôm con về trước". "Anh bảo ai tí tởn?" . "Là em đấy, chính là em đấy. Em chán ngồi xe máy, thèm ô tô rồi chứ gì. Anh biết, anh kém cỏi, chẳng biết làm ra cả núi tiền như người ta, mà em thì...". Thôi đi, anh học thói xiên xẹo từ bao giờ thế" ." Nhưng... tại sao... tại sao em bỏ anh ở lại mà không nói câu nào?". "Anh đi mà hỏi cái máy tính của anh ấy" - nàng buột miệng sẵng giọng, chồng nàng trợn mắt, nhìn nàng kinh ngạc.

Hôm sau, hôm sau nữa hai vợ chồng vẫn mặt nặng mày nhẹ với nhau. Mọi lần anh vẫn làm lành trước nhưng lần này nàng chờ mãi vẫn chẳng thấy anh đả động gì. Trừ những lúc nựng con, còn lại thấy anh là lại thấy bộ mặt lầm lì, nặng như đeo đá. Một hôm, nàng quyết định đến cơ quan anh trong giờ làm việc, chỉ để xem anh có ở đó không, hay đúng như nàng dự đoán, lại nhậu nhẹt ở đâu. Anh đang trong phòng làm việc, trước máy tính, áo khoác vắt sau thành ghế, sơ mi trắng, cà vạt ghi Hàn Quốc. Lúc nào anh ta cũng tươm tất sạch sẽ từ đầu đến chân, chả ai bảo đã có vợ, không nhờ mình thì nhờ ai, tối nào mình cũng phải chọn sẵn cho anh ta từ cái cà vạt, là phẳng phiu, thắt sẵn, treo cùng với áo sơ mi, ấy thế mà lúc mình được nhìn thấy anh ta thì chỉ có quần đùi với áo may ô. Thật bất công. Anh ta diện đẹp, đến cơ quan và lại làm bạn với máy tính thế kia, lưng sắp gù rồi, mắt thì cận lồi ra đến nơi, lại check mail cho Đỗ Lệ Hiền chăng? Cô gái ngồi ở chiếc bàn gần cửa, nãy giờ mải nghe nhạc hay gì đó bằng hai chiếc tai nghe nhỏ xíu nút vào lỗ tai, giờ mới nhận thấy nàng đang thập thò. "Chị cần gặp ai?" Nàng bối rối: "Không, tôi nhầm phòng, xin lỗi". Và thế là nàng ra về, trong lòng đầy ứ lên một cảm giác rất khó chịu.

Khi nàng đi xuống cầu thang khu chung cư, vào nhà xe lấy xe, mấy bà hàng xóm béo mập đi tập thể dục về mồ hôi mồ kê đầm đìa nhìn theo nàng thèm thuồng, một bà hỏi: "Làm thế nào mà nhanh gọn người lại thế hở cô?" Nàng cười, không nói gì. Mấy ánh mắt đàn ông ngồi bên ấm trà sớm cũng đuổi theo nàng. Vậy mà, chồng nàng lại không nhìn thấy nàng thế này. Cái địa chỉ trong box lại hiện lên, dolehien, Đỗ Lệ Hiền là ai? Là ai thế mà hôm nào cũng check mail cho chồng nàng? Cô ta bao nhiêu tuổi, làm nghề gì? Xinh đẹp khéo léo hay xấu xí vụng về, chắc là không thể xấu xí vụng về, vì chồng nàng không thích loại người ấy. Mỗi khi nàng vội vã làm đổ một vật gì đó anh cũng càu nhàu không thôi kia mà.

Cô ta ăn mặc có đẹp không? Nàng kể từ khi có con cũng luộm thuộm tuỳ tiện hơn thật, đi làm còn đỡ chứ ở nhà thôi thì tiện gì mặc nấy, thoáng mát, thoải mái là được.

Khách khứa nườm nượp suốt buổi sáng, họp xong, một số khách được mời đi nhà hàng. Nàng cũng không thể vắng mặt trong bữa tiệc đó, vì nàng là kế toán, phải chịu trách nhiệm chi tiêu. Nàng rất sợ những buổi tiệc tùng thế này, mệt mỏi kinh khủng mà có khi tan tiệc về nhà lại phải ăn thêm mì tôm. Cả chủ cả khách có ba mươi người, nàng hầu như không ăn, chạy qua chạy lại xem còn thiếu gì, cần bổ sung gì thì gọi phục vụ. Trong lúc chạy đi chạy lại đó, có tiếng sếp gọi. "Đây là anh Hải, Phó giám đốc mới của Công ty X, anh ấy muốn mời cô một ly". " Em cảm ơn, nhưng xin lỗi anh, em hiện không được uống rượu". "Sao thế? Sợ về chồng phát hiện ra à?". "Dạ,... không phải thế, tại vì em...", nàng định nói tại vì nàng còn đang cho con bú, phải kiêng rượu tuyệt đối, nhưng ánh mắt Hải đã ra lệnh cho nàng. Nàng cầm ly rượu màu hồng nâng lên, chạm vào ly của Hải. Lại vẫn ánh mắt ấy làm bàn tay nàng run lên. Nàng tự bảo mình, này, bình tĩnh lại đi chứ, gái có chồng, một con rồi, sợ gì ai? Nhưng cũng lúc ấy, lại một giọng nói khác bảo, này, Đỗ Lệ Hiền là ai? Đỗ Lệ Hiền cũng chả khác gì anh chàng Hải này đâu nhé. Và nàng uống hết nửa ly rượu. Rượu nhẹ, vị ngọt, chỉ làm nàng hồng đôi má. ánh mắt Hải còn chạy theo nàng, đi đến đâu, ngoái lại bàn tiệc nàng cũng gặp ánh mắt ấy. ánh mắt làm bỏng lưng nàng.

Buổi chiều, nàng về nhà trong trạng thái chếnh choáng, không hiểu do dư vị của ly rượu màu hồng hay vì cái gì khác, nàng phải chạy xe thật chậm vì sợ ngã hoặc đâm sầm vào ai đó trên đường. Có cái gì đó như là sự đắc thắng ẩn hiện trong tâm trí nàng. Bộ juyp nâu tây vẫn còn phẳng phiu lắm và cặp má nàng thì hồng hào hơn cả buổi sáng. Về đến khu chung cư, nàng cảm thấy có rất nhiều ánh mắt trong những ô cửa buông rèm đang

nhìn xuống. Hôm nay quả thực là trông nàng rất khác, chính vì thế mọi người trong chung cư mới nhìn nàng, và có khi lại còn bàn tán nữa. Nghĩ đến việc mọi người đang xoi mói bàn tán về mình, và có thể cả về chồng mình nữa, nàng rất khó chịu, đi nhanh qua sân, lên cầu thang cũng nhanh.

Nàng vào nhà, đóng cửa, tháo giày cao gót và cởi ngay bộ juyp ra, mặc bộ đồ ngủ nhàu nhĩ vào người, thật thoải mái, thật dễ chịu. Nàng chuẩn bị sang nhà trẻ tư đón con và ra chợ xép mua thức ăn luôn. Đi ra cửa, nàng liếc vào gương, lại là nàng đây rồi, tuy má vẫn còn hồng nhưng quần áo thì đã trả lại cho nàng cái vẻ ngày thường.

Trong lúc đóng cửa, nàng nhìn thấy tấm thẻ internet rơi trên sàn, có lẽ là chồng nàng mới mua thẻ, tấm cũ đã hết rồi chăng? Cầm tấm thẻ trên tay, nàng ngần ngừ rồi bước vào phòng làm việc của chồng, mở máy tính, nhấn nút modem, vào mạng, mở mail... đúng lúc đó thì chuông điện thoại reo, chồng nàng đã đi làm mà quên điện thoại di động ở nhà, nàng mở máy. "A lô, xin lỗi chị, tôi muốn gặp anh Kiên". "Dạ, nhà tôi đi làm chưa về, quên điện thoại ở nhà anh ạ, anh có nhắn gì không?". " Thế ạ! Phiền chị nhắn anh tôi là Hiến ở Sài Gòn vừa ra, lúc nào anh về thì gọi cho tôi". " Anh vừa nói anh tên gì ạ? ". "Dạ, Hiến chị ạ". "Có phải Đỗ...." " Vâng, Đỗ Lê Hiến, ra anh đã nói chuyện với chị, vợ chồng anh chị tuyệt thật đấy..."

Nàng muốn hét lên, hét thật to, muốn ôm lấy cổ chồng và giúi anh xuống ghế nệm, chỉ một tí nữa thôi, tí nữa thôi thì nàng đã uống cả ly rượu chứ không phải một nửa, và con bé tối nay mà quấy vì không được bú thì anh cứ liệu với nàng.

Nàng cầm làn và đi ra cửa, nhảy hai bước một xuống cầu thang.

VẾT CHÂN NGỰA TRÊN ĐƯỜNG MÒN

Đỗ Bích Thúy

Tôi đứng lại giữa lưng chừng núi, đúng ở chỗ con đường mảnh như sợi chỉ bị ngựa dẫm vỡ mất một miếng chừng non bước chân. Sau lưng, chỉ hơi dựa vào là vách núi đang nhuốm màu cỏ úa. Trước mặt là khoảng không mênh mông. Dưới chân là nương ngô, hết nương ngô là vực sâu hun hút. Ngô đã vào mùa thu hoạch từ lâu nhưng vẫn chưa được thu về. Cây nào cũng bị bẻ ngọn, phơi những bắp dày hạt nần nẫn. Tranh thủ trời vẫn còn vài ngày hanh khô người ta để ngô ngoài nương cho khô kiệt, đến lúc bẻ về nhà thì từng mảnh áo ngoài của nó đã mỏng tang, nhẹ bỗng.

Dưới chân nương ngô dài hun hút kia, tinh mắt lắm mới nhìn thấy vài mái nhà bàng bạc nhỏ xíu nép dưới những tán lê già. Mỗi khi đứng ở đây nhìn xuống Sủng Thài tôi lại có cái cảm giác của lần đầu tiên đến đó. Không giống ai cả, tôi lăn xuống Sủng Thài. Chính là vì cái vết chân ngựa này đây, cái vết chân ngựa làm cho con đường nhỏ ngoằn ngoèo bám lấy lưng chừng núi bị vỡ ra một miếng.

Hôm ấy, vừa cầm quyết định trong tay, tôi nhằm con đường dốc đỏ trước mặt leo lên. Đang loay hoay không biết tìm đường đi thế nào thì một người đàn ông gùi cái chảo lớn sau lưng vượt qua. Tôi gọi với: "Bác gì ơi, cho cháu hỏi một tí" Người đàn ông quay lại: "Cô giáo phải không?" - "Sao bác biết?" - "Chẳng cô giáo thì có ai lên đây làm gì. Đi đâu thế?" - "Cháu lên Sủng Thài, bác cho cháu hỏi đường" - "ừm, về luôn đi thôi" - " Sao lại thế ạ?" - "Bao nhiêu người lên rồi lại về, làm khổ trẻ con, học một tí lại bỏ, học thêm tí nữa lại bỏ, có đứa học được mấy chữ, đi lấy chồng, đẻ hai đứa con rồi mới có thầy giáo lên dạy tiếp" - "Nhưng cháu ở lại, không bỏ đi đâu cả" - "ầy dà, ở lâu lâu mới biết được". Nhấm nhẳng một

hồi rồi tôi cũng theo được người đàn ông ấy qua mấy con dốc dài dằng dặc. Trời đã tối, nhìn không rõ nữa. Người đàn ông bảo tôi đưa ba lô cho ông ta, rồi nhìn vào cái chảo mà theo. Cái chảo mới, trắng nhờ nhờ, tôi cứ theo đấy mà bước. Lên dốc, xuống dốc, lại lên, lại xuống... Đến chỗ này, chính chỗ này đây, đúng lúc cái chảo quay ngang, tôi vừa nghe tiếng người đàn ông bảo cẩn thận thì huỵch! Chân tôi đã dẫm đúng vào vết chân ngựa. Tối tăm mặt mày, đau, tức, ù tai, tôi lăn lông lốc, lâu tới mức, vừa lăn vừa nghĩ, không biết bao giờ mới dừng lại được. Cho đến khi đâm sầm vào một bụi lau ở chân nương ngô, rúc đầu vào đấy, chân huơ huơ bên ngoài. Nằm im một lúc, không biết mình còn sống hay không đây, tôi phải cắn vào môi một cái, đau nhói. Đâu đó xa lắm, tít trên cao, người đàn ông gọi ồi ồi: "Cô giáo ơi, ở đâu thế?" Tiếng gọi ấy khó tả lắm, vừa lo lắng, vừa hoảng sợ, vừa thương, da diết đến thắt cả ruột. Suốt quãng đường dài đi cùng nhau chưa lúc nào tôi nghe thấy ông ấy gọi bằng cái giọng lạ như vậy. Tiếng gọi như sắp khóc: "Còn nói được không cô giáo ơi, trôi đi tận đâu rồi?". Về sau này tôi thỉnh thoảng lại nghĩ, nếu như một ngày nào đó cận kề với cái chết không vì bệnh tật, tuổi tác, mà nghe thấy tiếng gọi ấy có lẽ tôi không thể bỏ mà đi được. Tiếng gọi đã khản đi. Tôi vẫn nằm im trong bụi, gọi với ra. "Cháu ở dưới này, tít dưới này cơ". Nói xong thì khóc, khóc oà. Không biết khóc vì cái gì, vì sợ, vì tủi thân hay cảm động, hay tất cả những cái đó cộng lại. Cho đến lúc ông ấy tụt xuống, lôi ra khỏi bụi lau, tôi vẫn chưa thôi khóc.

Từ chỗ ngã xuống đến Sủng Thài chỉ còn một quãng ngắn. Người đàn ông chỉ cho tôi cái chuồng bò đầu tiên, bảo lẽ ra thì tôi phải lăn vào đấy. Già làng Sủng Thài nhìn tôi, chân đi đất, mặt mũi xây xước, áo rách lỗ chỗ, tủm tỉm cười. "Chịu được một lần ngã như thế là chịu được rừng núi đấy con gái ạ. Phải ngã một lần thì mới biết núi cao thế nào chứ nhỉ..."

Từ đấy tôi ở lại Sủng Thài, không hề về xuôi lần nào, có đi xa nhất thì cũng chỉ là xuống huyện lĩnh lương, ra chợ mua vài thứ đồ dùng. Đã tưởng tất cả những buồn vui đã lùi xa và có thể sống mãi ở dưới chân những ngọn núi cao hàng ngàn mét so với mặt nước biển này. Ngay cả khi đã cầm quyết định chuyển trường về gần huyện lị tôi vẫn cứ nghĩ rằng mình khó có thể rời khỏi nó. Nhưng giờ thì đứng ở đây, chỗ con đường bị vỡ ra một miếng này, nếu bước qua thì sẽ không trở lại nữa, đúng là nếu bước qua nó thì sẽ không bao giờ trở lại nữa... lại thấy chỉ có một bước chân thôi mà chẳng dễ dàng gì.

*

**

Hàng tháng trời tôi không sao mở được lớp. Già làng bảo, cứ ở chơi đi, chán thì về, trẻ con ở đây không thích học chữ nữa đâu. Nhưng tôi không về, có về cũng chẳng biết đi đâu. Huy đã lên một điểm trường cách huyện lị ba mươi cây số về phía tây, giáp biên giới. Huy nhắn nhe, cố lấy vài năm rồi tìm cách về gần nhau. Có Huy ở bên cạnh suốt mấy năm học sư phạm tôi đã nhận ra một điều, con người ta khó có thể sống đơn độc được. Những ngày dài đằng đẵng ở Sủng Thài tôi nhớ Huy vô cùng, nhớ gương mặt lúc nào cũng rầu rĩ của Huy, nhớ hai bàn tay gầy, trắng xanh, nhớ cả màu áo sơ mi xanh đậm. Lúc nào Huy cũng mặc áo tối màu, trông Huy càng gầy guộc. Khi ở gần Huy tôi không tưởng tượng được sự xa cách lại làm tôi nhớ Huy đến thế. Nhớ chứ không hẳn là cần, giả sử hai đứa dạy cùng một điểm có khi tôi lại chẳng cần đến Huy.

Sủng Thài không cho trẻ con đi học còn vì một lẽ, sau vụ thu hoạch chưa được một tháng, cả bản đã hầu như không còn đủ ngô để dành đến vụ sau. Ngô giống mới cho hai ba bắp một cây, bắp nào cũng to, nhiều hạt. Nhưng thu ngô về mừng chưa được bao nhiêu đã phải chứng kiến từng bắp từng bắp một bị mọt ăn sạch sành sanh. Con mọt đen đen, to hơn con

kiến, ở đâu kéo về không ai biết, chui lên gác bếp, khói hun ngày hun đêm cũng không sợ, cắn một lỗ xuyên qua mấy lớp áo vào bên trong bắp ngô, ăn bằng sạch. Nửa tháng sau vụ thu hoạch hầu hết các nhà ở Sủng Thài đã không còn ngô ăn. Già làng sống hơn tám mươi năm ở mảnh đất này chưa bao giờ thấy con mọt về nhiều đến thế. Lúc trước, mọt chỉ thỉnh thoảng ăn vài quả đậu để làm giống chứ chưa động đến bắp ngô nào.

Tết đến cũng như không, cả làng yên ắng như đang ngủ, cả trẻ con cũng không dám chạy chơi. Tôi không sao về được, không hiểu vì sao không thể bỏ đi được. Huy lên với tôi trước khi về tết, xẻ lại một nửa tiền tết phòng mới cho, lẳng lặng ra về. Tôi chạy theo, giúi mớ tiền vào túi cóc ba lô, nhìn Huy xuống dốc nhanh đến chóng mặt.

Chỉ tại cái ngô giống mới thôi, hạt nó mềm quá nên con mọt thích ăn. Ngô răng ngựa người Sủng Thài vẫn trồng trong hốc đá bao nhiêu năm nay có bị con gì ăn bao giờ. Thu ngô về, bóc một hai lớp vỏ, buộc túm mười, mười lăm bắp làm một, xiên qua cây sào, gác lên gác bếp. Cứ để thế một năm, hai năm, bồ hóng bám đen sì sì, lúc cần lấy xuống tẽ vẫn vàng ươm, cắn không vỡ. Người Sủng Thài bảo vậy.

Cả Sủng Thài buồn như có đám ma trong làng.

Qua tết, sang xuân, hoa lê bật bông trắng muốt khắp rẻo đất dưới chân núi, đất trên nương cũng mềm ra. Lại gùi phân bò trộn với tro bếp lên nương, bỏ vào hốc đá, vùi hạt ngô xuống. Lần này trồng ngô giống cũ, vượt qua mấy ngọn núi sang bên Sủng Trái vay giống để trồng. Chỉ có hai nhà ở Sủng Thài tiếp tục trồng ngô giống mới, đấy là nhà trưởng bản và nhà bố Sài. Bố Sài là người đàn ông đã đưa tôi từ huyện lên Sủng Thài.

Già bản bảo tôi: Mày còn trẻ người lắm cô giáo ạ, cái chữ thì biết nhiều chứ biết gì cây ngô mà nói chuyện gieo trồng. Đợi được thì cứ ở đấy mà đợi, bao giờ no cái bụng mới yên tâm học chữ. ấy là khi tôi đến, bảo ông

khuyên bà con tiếp tục trồng ngô giống mới, chỉ cần thay đổi cách bảo quản là không lo gì nữa.

Phải một vụ ngô nữa tôi mới mở được lớp học. Trưởng bản chung với ông Sài đắp một cái lò nung chum vại. Ngô thu về, phơi khô, tẽ sạch, cho vào chum, bịt kín, con mọt chỉ biết bám bên ngoài mà khóc. Ngô giống mới năm ấy lại được mùa hơn năm trước, người lớn trẻ con hai nhà này bận tíu tít. Sủng Thài được một phen đứng nhìn, xuýt xoa không nghe lời cô Phương góp ý. Vậy là mở được lớp. Vì cô giáo nó không chỉ biết chữ, còn biết cả trồng ngô nữa.

Lớp của tôi đứa bé nhất lên bốn, đứa lớn nhất mười bốn, cố học một năm rồi lấy vợ. Đứa lớn nhất ấy là thằng Sài, con bố Sài chết vợ. ở Sủng Thài hàng tháng trời tôi mới biết bố Sài chết vợ. Vợ ông chết lúc đang đau đẻ đứa thứ ba. "Thầy mo đuổi mãi con ma không chịu đi, cứ đứng đầu giường. Sang ngày thứ hai thì chịu, bảo đành phải để con ma mang cả người lớn lẫn đứa trẻ trong bụng đi. Bố không lấy vợ mới vì sợ mẹ kế không thương được con mình" . Sài kể. Sài còn một đứa em gái đã mười hai, bao giờ Sài mang vợ về thì em gái mới bắt đầu dệt váy áo đợi người đến đón đi.

*

**

Sài đưa tôi đi đường tắt xuống huyện lị, mang theo một con ngựa để lúc về nó gùi sách vở. Ngang qua bể nước, Sài dừng lại tìm cách múc nước cho ngựa uống. Tôi cũng tranh thủ lấy khăn ra rửa mặt. Sài ngồi bệt xuống phiến đá đám đàn bà vẫn dùng để vò váy. Nhìn tôi, bảo:

- Cô giáo à... Sài định nói gì rồi ngập ngừng, nói một mình - đẹp thế nhỉ.

- Cái gì đẹp?

- Chân. Cái chân cô giáo ấy, đẹp như không phải chân. Cô giáo cho tao xem một tí.

- Lại nói tao rồi, phải xưng em chứ.

- ừ. Cho xem một tí.

Tôi nhìn thẳng vào mặt Sài, nó quay đi, lúng túng, khép lại hai vạt áo tà pủ, giấu diếm bộ ngực lép kẹp. Mười bốn tuổi nhưng lao động nhiều, chậm lớn, trông Sài chỉ bằng đứa em út của Huy là cùng. Tôi đứng dậy:

- Đi thôi kẻo muộn.

Tôi đi trước, Sài tụt lại đằng sau. Xuống huyện, lấy sách vở xong, tôi và Sài ghé qua chợ huyện. Sài mua một cái gương giấu vào cạp quần. Tôi nhìn thấy, hỏi:

- Mua cho vợ sắp cưới à?

- ừ. Nó nhận thì thành vợ.

Lớp học của tôi lủng cà lủng củng, học thì ít, cãi cọ, khóc lóc, cười cợt thì nhiều. Không thể nào dung hoà được mười bảy đứa lớn bé. Tôi chia ra, một a và một bê. Một a từ tám tuổi trở xuống, một bê từ chín tuổi trở lên. Vẫn không ổn. Lại chia một a là con gái, một bê là con trai. Nhưng cứ giờ một bê học là lại có một đứa con gái ở một a chạy đến, ghé mắt qua cửa sổ, bọn trẻ trong một bê láo nháo cả lên. Cuối cùng, lại dồn chúng về làm một.

Già bản bảo:

- Thương cô giáo thì cho chúng nó đi học thôi, biết mấy cái chữ cũng không làm bò đẻ nhiều con hơn được.

Đã sắp đến kì nghỉ đông, chỉ còn vài buổi nữa là phải thi học kì. Huy lên thăm tôi. Dạo này trông Huy đã khá hơn. Béo và trắng.

- Bên ấy mấy thầy ăn chung bếp với một cô y tá ở trạm xá xã, cô ấy nuôi

được gà, trồng được rau nên cũng đỡ. Huy nói không được tự nhiên lắm.

- Vui nhỉ.

- Vui gì. Góp gạo thổi cơm chung thôi mà.

- Có chung thứ gì khác nữa không? Huy im lặng. Dỗi, ra về.

Tôi không ngủ được. Sự đến rồi đi của Huy làm tôi không ngủ được. Huy định nói gì đó với tôi mà không cất được thành lời. Có gì mà khó nói thế. Biết Huy vẫn rụt rè nhưng với tôi thì chẳng có lý gì mà không nói thẳng ra. Tôi xách xô ra suối, lấy nước về sáng mai rửa mặt, nấu mì tôm.

Sáng hôm sau, mở nắp cái xô nhựa đựng nước ngoài sân, cái ca chạm đánh cạch. Nước đã đóng băng thành một lớp mỏng, phải dùng chuôi dao đập mạnh một cái mới vỡ ra. Trời trở rét nhanh đến thế chứ. Có lẽ bên Huy còn lạnh sớm hơn. Sương mù mịt phủ kín hai phần ba lớp học, chỉ nhìn thấy phần dưới nền, trông không ra hình thù gì. Kiểu này phải đẩy nhanh mấy bài tới rồi cho thi sớm thôi.

Lớp vắng hoe. Lèo tèo có bốn đứa ngồi bốn góc. Đứa nào cũng kẹp chặt hai tay vào giữa đùi. Tôi phải quay về, cầm sang cây đèn dầu, đóng kín cửa lớp lại cho đỡ gió.

- Hôm nay vắng quá nhỉ. Có em nào biết vì sao các bạn nghỉ nhiều thế

không? - Tôi hỏi.

Không đứa nào trả lời, chỉ có tiếng xuýt xoa khe khẽ. Hỏi thêm lần nữa, bốn cái đầu vẫn cúi gằm, im như thóc. Tôi tiến đến gần May, đứa trò gái lớn nhất lớp, ngồi dưới cùng:

- May, có nghe cô hỏi không?

- Có. May lí nhí, hai tay nắm chặt vạt áo.

- Em có biết vì sao các bạn nghỉ học không?

- Biết.

- Sao không trả lời cô?

- Không biết.

- ô hay, biết rồi lại không biết, là sao?

- Biết nhưng không nói được.

- Này, có gì mà khó khăn thế em, cứ nói cô nghe xem nào.

May lúc lắc cái đầu rối bù. Tôi chạnh lòng. Bao nhiêu lần định gọi con bé lên, chải cho nó mớ tóc mà quên. Nhìn mới nhớ. Mẹ con bé còn bận với bốn đứa em của nó, chắc chưa chải cho nó bao giờ.

Thà, đứa trò bé nhất quay xuống:

- Tại cô giáo xấu. Bố mẹ bảo cô giáo xấu nên không cho đi học nữa. Bốn

đứa này cũng chỉ học hôm nay nữa thôi...

- Phải đấy. Học nốt hôm nay rồi để cô giáo về huyện thôi - đứa thứ ba lên tiếng.

- Không được nói thế. Cô giáo không làm chuyện xấu thế đâu mà... - Đứa thứ tư hét lên. Vừa hét vừa nhảy lên đứng trên ghế. Đó là thằng Sài - Tối hôm qua tao ngủ với bố từ lúc tắt đèn, làm sao bố đi gặp cô giáo ngoài guồng nước được. Có đứa nói xấu cô giáo rồi, không được tin thế!

Ba đứa còn lại cúi gằm, im lặng. Chúng đang bối rối quá, không biết tin ai nữa, ngay cả cô giáo - người mà chúng vẫn nghĩ làm gì, nghĩ gì đều đúng, thì giờ không biết có tin được nữa không. Tôi choáng váng như bị ai tát thật mạnh vào mặt, rát bỏng hai bên má, một cơn đau thắt dội ngược lên. Ba đứa học trò len lén ra khỏi lớp, ra đến sân là chạy thục mạng. Chỉ còn tôi và Sài. Sài vẫn đứng trên ghế, nước mắt ròng ròng, hai tay túm lấy cạp quần. Cái quần của thằng Sài, bố nó mua cho ở chợ huyện hồi đầu

năm học, chỉ để dành đến lớp mới mặc, nhưng cũng đã đứt cúc, hỏng khoá, nó phải túm lại bằng một sợi dây lạt. Tôi cũng đã định sẽ khâu lại cho nó, nhưng chưa kịp làm. Sài hỏi trong nước mắt:

- Cô giáo nói thật đi, cô có làm chuyện ấy không?

Tôi không nhìn được vào mắt Sài. Biết trả lời nó thế nào đây. Tối hôm qua, đúng là tối hôm qua tôi đã đi ra suối, xách theo cái xô lấy nước. Nhưng múc nước xong, buồn quá nên không muốn về ngay, hình bóng Huy xuống dốc rất nhanh choán đầy tâm trí. Tôi lang thang ra chỗ cái guồng để khô, mốc trắng. Lúc ấy, một người đàn ông đi từ rừng xuống, là bố Sài. Bố Sài xách một túm gà rừng chừng ba bốn con gì đó, gỡ dây, đưa cho tôi một con, bảo: "Cô giáo cầm lấy về mổ thịt". Tôi không từ chối, nhận lấy con gà. Định quay về luôn thì bố Sài níu lại, hỏi chuyện thằng Sài ở lớp, rồi xoay sang chuyện trời đất năm nay rét sớm, cô giáo đã có đủ củi đun mùa đông chưa, mai cho thằng Sài mang đến vài cái gộc cây, ủ cho ấm. Bố Sài còn muốn nói gì nữa nhưng tôi bảo phải về soạn bài. Chỉ có thế mà hoá thành một cuộc hẹn hò bên cạnh cái guồng nước. Con gái Sủng Thài đến tuổi lấy chồng chỉ ở trong nhà dệt váy áo, đợi người đến leo cột nhà, chui qua cửa sổ vào buồng, ưng ai thì theo người ấy. Vậy mà tôi thì dám hẹn hò với một người đàn ông của làng, người ấy lại đã từng có vợ, thế thì thật không ra gì. Không xứng làm cô giáo của trẻ con nữa rồi.

Sài không đợi câu trả lời của tôi, xách quần chạy ra khỏi lớp.

Không thể như thế được, tôi phải giải thích với làng. Tôi vứt vội cặp sách vào phòng, xỏ đôi dép rọ, qua suối. Nước suối đang bốc hơi mù mịt, rất ấm. Tôi vào nhà đầu tiên. Nhà ông Lìn, bố chồng của chị gái con bé Mai. Ông Lìn cũng có hai đứa con đang theo học lớp của tôi. Bà Lìn đẻ nhiều, ngoài năm mươi vẫn còn một cái bụng to tướng nữa, qua tết sẽ đẻ. Mấy con ngỗng thấy người rít lên kiu kíu. Trên nhà, có mấy cái mặt ghé ra ô

cửa, ngay lập tức có tiếng chân chạy rầm rập trên sàn, bồm bộp xuống cầu thang, rồi loáng cái đã có một cành lá xanh gài vào then cổng gỗ. Cánh cổng khép kín lại ngay trước mặt tôi. Tôi không kịp nhận ra ai vừa gài cành lá xanh, ông Lìn, bà Lìn, hay đứa con dâu cũng đang chửa vượt mặt. Tôi đành phải quay đi. Nhưng điều bất ngờ nhất là tất cả các nhà trong làng, trừ nhà Sài và nhà trưởng bản, khi tôi đến đều có một cành lá xanh chìa ra, gài trên then cổng gỗ.

Tôi vào nhà trưởng bản. Trưởng bản đang ngồi bên bếp chuốt một mảnh sừng trâu làm chuôi dao. Trưởng bản vẫn cắm cúi làm, không ngẩng lên:

- Vào ngồi đi.

Tôi ngồi xuống. Nhìn cái mặt lành lạnh của trưởng bản chẳng biết bắt đầu như thế nào. Trưởng bản hay đi ra ngoài, suy nghĩ cũng thông thoáng hơn người trong làng, nhưng còn trẻ, nói gì cũng phải nhìn lên nhìn xuống chán chê.

- Trẻ con bỏ học hết rồi trưởng bản ạ - tôi bắt đầu.

- Có biết tại sao chúng nó bỏ không?

- Tôi định đi hỏi người lớn nhưng không nhà nào cho vào, nghe trẻ con nói thì bực mình thật.

- Chúng nó nói đúng không?

- Không đúng. Làm sao mà đúng được.

- Thế ra cả làng nói oan cho cô giáo à.

- Không phải thế. Người làng mới chỉ nhìn thấy thôi chứ không hiểu bản chất trưởng bản ạ.

- ừm, nhìn thấy thế nào thì bảo thế ấy...

- Trưởng bản cũng không tin tôi rồi, buồn thật đấy.

Tôi phải bặm môi lại, cầm cái cặp cố đập thật mạnh cho mấy cục than đỏ đầu gộc củi rơi xuống, nước mắt chỉ trực trào ra.

- Ai bảo mình không tin cô giáo nào - trưởng bản vẫn thủng thẳng - Mình tin cô giáo một nửa, tin làng một nửa.

- Tôi có người yêu rồi, trưởng bản cũng biết mà. Bao giờ chuyển công tác ra huyện tôi sẽ cưới.

- Nhưng còn cái người chết vợ ấy thì sao?

- Chả sao hết. ông ấy chỉ là phụ huynh học sinh của tôi thôi.

- Cô giáo ghét nó à?

- Không ghét. Có gì mà ghét ông ấy.

- Thế thì dễ rồi.

- Dễ thế nào?

- Cô giáo chịu về nhà Sài không?

- Sao lại về đấy?

- ầy, về làm mẹ nó ấy mà. Về đấy là xong chuyện rồi, chả ai nói gì nữa. Bố Sài mới bốn mươi tuổi thôi. Đàn ông bốn mươi còn như cây sồi trên núi cao...

Tôi đi như chạy ra khỏi nhà trưởng bản. Lòng dạ ngổn ngang trăm mối. ông Sài ấy, sống lùi lũi như cái bóng, một mình nuôi con, râu ria lúc nào cũng bờm xờm, mặt buồn rười rượi. Mỗi lần tôi đến xem bọn trẻ học hành thế nào, ngồi tranh thủ khâu cho chúng cái áo, cái quần rách lại lùi lũi xách dao ra rừng. Thỉnh thoảng thằng Sài mang đến một con gà, một miếng thịt dúi, vài củ măng, khúc củi, chẳng nói chẳng rằng. Đêm qua, lúc đưa con gà cho tôi bố Sài cũng không nhìn, nhưng lúc tôi quay lưng bước đi, lại cứ cảm thấy có ánh mắt nhìn theo mình.

Tôi có thể bỏ quách mọi thứ đấy, xách va li về huyện, chẳng ai trách cứ gì được. Nhưng nỗi xót xa vì sự ngờ vực ẩn hiện trong ánh mắt của mấy đứa trẻ làm tôi không chịu nổi. Nếu tôi bỏ về, không biết chúng còn ám ảnh đến bao giờ.

Tôi sống trong tâm trạng bất ổn suốt một tuần lễ. Đương nhiên là lớp học đóng cửa. Trời ngày càng lạnh, sáng ra những hạt sương rớt xuống từ mái tranh đã đóng băng trong đêm, nối thành từng chuỗi dài. Ngày rất ngắn, tuyệt nhiên không có nắng, nhưng với tôi lại dài lê thê. Vẫn chưa có nhà nào chịu mở cửa cho tôi vào. Tôi nằm yên trong chăn, nhìn đồng hồ đã tám rưỡi, tầm này lẽ ra lớp học đã bắt đầu được nửa tiếng. Chân tay mình mẩy rã rời vì nằm nhiều, lại chẳng ăn uống gì. Tôi sợ mình sẽ chết nếu cứ nằm như thế, nên quyết định dậy, đi lấy nước về đun mì tôm.

Mở cửa, tôi gần như vấp phải một đứa bé đang ngồi gục đầu ở cửa. Là

May. Tôi nhận ngay ra mái tóc rối bù của nó. Cái đầu rối ngẩng lên:

- Cô giáo.

- May, sao lại ngồi đây.

- Chờ cô giáo, từ tối hôm qua. May sợ cô giáo ốm, nằm luôn không dậy nữa. Như thế thì... Mắt con bé ầng ậng nước. Tôi lôi con bé vào.

- Vào đây với cô đã nào.

Tôi rót cho nó một cốc nước. Nước trong phích nhưng đã nguội ngắt. May cầm cốc nước định uống, nghĩ thế nào lại đặt xuống bàn. Hai bàn chân không dép nứt toác, mốc meo, dị dọ vào nhau dưới nền đất. Hồi lâu, con bé ngẩng lên, nhìn tôi một thoáng rồi quay đi rất nhanh.

- Cô giáo, có về huyện không, có bỏ Sủng Thài không?

- Các em có muốn cô về huyện không?

- Không. Không muốn đâu - Con bé trả lời vội vã - Cô giáo đừng đi. Cô giáo đi thì May cũng bỏ Sủng Thài thôi.

- Tại sao thế?

- Tại... cô giáo à, May đã nói với người lớn chuyện cô giáo đứng ở cạnh cái guồng.

Tôi sững sờ. Chẳng có cớ gì để con bé này rình mò, rồi xuyên tạc, nói xấu tôi cả. May thở dốc, tiếp:

- Em đã nói với người lớn.

- Để cô hỏi đã nhé. Em nhìn thấy gì?

- Thấy cô với ông Sài. Ông Sài đưa cho cô con gà.

- Gì nữa?

- Không gì nữa.

- Vậy em nói với người lớn thế nào?

- Nói... cô nắm tay ông Sài. Cô ơi, tại vì May giận cô, May không tốt, May nói sai cho cô rồi. Tại thằng Sài thích cô, nó bảo phải có một người như cô nó mới chịu lấy làm vợ. Nó còn mua gương bảo để dành tặng cô nữa. Thằng Sài ấy, từ lúc mới đẻ ra bố nó đã bảo với bố May là lớn lên cho hai đứa làm vợ chồng. Sang năm là May lấy chồng được, thằng Sài cũng thế, đã làm lễ cấp sắc rồi mà.

Con bé nói một thôi một hồi. Tôi định thanh minh:

- Nhưng cô...

- Cô không thích nó, cô chỉ thương anh em nó thôi, cô sắp bằng tuổi mẹ nó rồi mà. May sai rồi, May nói xấu cô với người lớn, làng mà biết được May sẽ bị ném xuống sông.

Con bé khóc nức nở. Vậy ra nỗi sợ hãi bị ném xuống sông đã lấn át tất cả những tình cảm trái ngược trong nó. Tôi ôm May vào lòng, nó dúi cái đầu bù xù vào ngực tôi. Con bé vẫn chưa thôi nói:

- Cô có bỏ về huyện không? Về huyện xa lắm, bỏ về là không quay lại

được đâu...

Vậy là tôi trở lại lớp học, lại đông đủ không thiếu một đứa, thậm chí còn thừa ra vì lắm đứa cõng cả em đến lớp. Trong làng không ai đả động đến chuyện vừa xảy ra nữa. Người làng không quen nói lời xin lỗi, chỉ biểu hiện bằng cách tối tối thắp đuốc qua suối đến chơi với cô giáo, mang cho quả bí, mớ rau, mấy con gà con...

*

**

Gió vẫn thổi thông thốc, từng đụn sương lớn nặng trĩu bị đẩy đi, trôi trong khoảng không như một dòng sông sâu hun hút. Phòng giáo dục gọi tôi xuống, đưa quyết định điều động về một xã gần huyện. Lâu rồi tôi không gặp Huy, tuần trước về huyện gặp Hạnh, đứa bạn thân nhất dạy cách tôi nửa ngày đi bộ. Hạnh bảo: "Huy bỏ dạy rồi, về huyện mở quầy bán thuốc tây. Lạ không?". Không. Không có gì lạ cả. Chỉ lạ là, tôi chẳng cảm thấy gì hết, không buồn, cũng không đau đớn như trước đây vẫn tưởng.

Một buổi tối, bố Sài đến, lại mang tới một con gà rừng nữa. Ngồi mãi, không nói chuyện gì, tôi phải gợi:

- Trong nhà còn nhiều ngô, nhiều thóc không bác Sài?

- Nhiều. Có mấy con lợn to mổ được rồi, cả đàn dê nữa.

- Thế thì ăn tết vui rồi, bác nhỉ.

- ừm, tết mà. Trẻ con thích lắm đấy. Cô giáo à...

- Gì thế bác?

- Còn ở Sủng Thài lâu không?

- Lâu chứ. Mới được mấy năm thôi mà.

- Có ở hẳn được không?

- ở làm sao được. Sủng Thài không có chỗ cho người Kinh đâu.

- Muốn ở thì được thôi mà.

- Thật thế à?

- Thật. Muốn thì được thôi.

Tấm lưng vâm váp như một con gấu đi ra cửa, mang theo cả hơi ấm hoang dã ra khỏi căn bếp tin hin, tự dưng tôi thấy hiu quạnh vô cùng.

Giờ đứng đây, nhìn xuống Sủng Thài nằm tít dưới sâu kia, lại nhớ đến lúc lăn lông lốc như một quả bí từ trên này xuống, lại nhớ tiếng gọi thao thiết đến thắt ruột thắt gan.

ĐÁ CUỘI ĐỎ

Đỗ Bích Thúy

Truyện ngắn của Tác giả thấm được cái "hồn của núi" để sáng tác nhỏ này tựa như một câu chuyện dân gian vùng cao đẫm không khí sương giá. Lâu nay thường gặp những truyện ngắn viết đề tài miền núi theo lối "miền xuôi" hoặc "giả miền núi". Hy vọng với khả năng quan sát, cảm nhận tinh tế của mình, cây bút mới Đỗ Bích Thuý sẽ tạo được sự chú ý của nhiều bạn đọc sau truyện ngắn này.

Mẹ tôi xếp gạo, muối vào gùi, bảo: "Mang lên cho thằng Dìn". Dìn là em trai tôi, năm nay mười sáu rồi nên cho nó đi thay một vụ ong trên Phạ Lấu. ở Tả Choóng nhà nào cũng nuôi ong. Cứ đến vụ ong là cả bản vắng ngắt vắng ngơ, còn toàn đàn bà với trẻ con, đàn ông lên rừng canh ong hết.

Trời tối hẳn tôi mới tới chỗ Dìn. ở rừng, mặt trời lặn là sương xuống, đè nặng trình trịch trên tán cây. Dìn dựng lều dưới gốc cây sồi già ngoài bìa rừng, ong xếp thành dãy ngoài chỗ trống. Sương phủ xuống rất nhanh, chỉ một lúc đã không nhìn thấy tổ ong đâu. Sương tạt cả vào lều. Ngoài mái lều che tạm bằng lá cọ sương rơi xuống thành giọt.

Dìn vừa chất lửa to đốt cơm lam vừa kể: "Đêm qua có con gì vào ngủ cùng mà em không biết, sáng nay thấy còn một túm lông dính ở cổ". "Mày ngủ có quay mặt vào lửa không?". "Lúc đầu thì có, sau mỏi quá lại quay ra ngoài. Nhưng làm sao cơ?". "Lúc ngủ phải quay mặt vào lửa thì mới không lo ma dại bắt đi". "Thật thế à?" - giọng Dìn đã bắt đầu run. "Chứ còn gì! Ma dại muốn bắt ai thì phải đi vào mồm người ấy mới xuống bụng lôi ruột ra được. Thế mà lúc ngủ ai cũng mơ được ăn được uống, thế là há mồm ra. Há mồm thì ma có cửa để vào rồi. Nếu mày quay

mặt vào lửa, nhỡ có há mồm ma dại cũng không dám đi qua lửa để vào". Dìn run thật sự: "Thế thì hôm qua ma dại đến tìm em rồi. Chắc tại em không mở mồm nên nó chưa vào đấy thôi". Nhìn quanh quất ra ngoài bóng đêm mịt mùng, Dìn hầu như im lặng cho đến lúc đi ngủ. Biết tôi hay doạ mà không lần nào nó nghĩ ra.

Rừng đêm hoang vu. Đầu tháng, trăng chỉ nhú lên mờ mờ chốc lát rồi lặn mất. Lẫn trong tiếng gió là tiếng nước trườn êm ái trên đá cuội. Mỗi bản có một con suối riêng, suối nào mang nước về bản ấy. Người già bảo ngày xưa, lúc con người sống chung với nhau một nơi thì nguồn nước không phải chia năm sẻ bảy ra thế. Nhưng sau này anh em, con cháu đông quá phải chia ra, dắt díu nhau chuyển nhà chuyển bản, có khi xa nhau cả ngày đường. Xa lâu quá thì quen cũng thành lạ, cái gì cũng muốn giành lấy cho mình, kể cả nguồn nước. Thế là suối Phạ Lấu về Tả Choóng, suối Nậm Thào về Nậm Thào, suối Sán Thúng về Tả Chải... chỉ còn chung nhau mỗi cái đầu nguồn...

Đá đỏ làm cho nước như có màu đỏ. Lá rừng rụng xuống cũng ra màu đỏ. Một đứa bé gái đầu tóc ướt sũng; hai cánh mũi đỏ lự phập phồng, tay xách ống bương to tướng lò dò đi tới. "Này, lấy nước làm gì sớm thế?". "Cháu lấy cho mẹ". "Mẹ cháu là ai?". "Bác không biết đâu". "Biết đấy. Ai ở Tả Choóng bác cũng biết mà". "Mẹ cháu không ở Tả Choóng. Mẹ cháu ở trên đỉnh Tả Khâu". "Sao lại ở tận trên ấy?". Tiếng đứa bé bất chợt lạc đi, nghe xa xôi như tiếng gió: "Mẹ cháu nằm trên ấy còn rét, chưa ai phải lo lên nương, xuống đồng nên hội nào cũng đông. Đám con trai chưa vợ thằng nào cũng cắp sáo vào nách, mặt đỏ bừng bừng từ sáng sớm đến tối mịt, lân la chỗ này chỗ kia, bắt quen con gái người ta. Bãi Tả Díu rộng thế, toàn người là người, va vào nhau là quen, đưa sáo lên môi, cười bằng mắt là thân rồi. Năm ấy, mới mười chín tuổi, tôi cũng đã được đứng sau một cái ô đỏ với cô gái đẹp nhất hội, hát hay nhất hội. Cô gái ấy

đã thành vợ tôi nếu như sau đấy vài hôm, bàn tay hai đứa còn chưa nguội hơi ấm của nhau, tôi không gặp Lử trên đường dắt ngựa thồ mật ong xuống huyện. Lử rút dao khỏi bao, đặt lên cổ con ngựa của tôi, ngọng líu: "Mộ tra mùa o nứa mà cú khô lái đựa e gá ta là vợ đô. Đồ á rác" (Một trăm mùa ong nữa mày cũng không lấy được em gái tao làm vợ đâu. Đồ áo rách). Mười năm trước, lúc cả tôi và Lử còn chưa thuộc hết lối lên rừng, tôi đã từng xui Lử đút con ong bò vẽ vào mồm mà mút. Nhà Lử giàu nhất Tả Choóng, bạc chôn đầy dưới mấy chục cái cột nhà. Cậy thế, Lử coi khinh đám bạn cùng lứa, có cái gì cũng chơi một mình. Chơi một mình nên mới không biết ong bò vẽ mà đốt thì người lớn cũng lăn ra ốm mấy ngày liền. Vừa đút con ong vào mồm, Lử đã trợn ngược mắt lên, lăn đùng ra, chỉ một lúc đã đầy một mồm lưỡi. Tôi chỉ khoái được một lúc rồi sợ. Sợ quá, bỏ trốn lên lều canh nương mấy ngày liền. Lử đã ngọng càng ngọng thêm. Từ ấy, cứ anh em tôi ngang qua là Lử xuỵt chó, thế là lại đánh nhau.

Vậy mà tôi còn muốn lấy em gái Lử làm vợ mình. Làm thế thì không được rồi. Nhìn mặt nhau còn nhổ nước bọt thì làm sao gọi anh em với thằng Lử được. Năm sau Mây lấy chồng. Nhà chồng Mây ở Tả Khâu. Ngày Mây mặc váy áo đẹp leo dốc lên Tả Khâu, tôi cũng ngược dòng Phạ Lấu, đến nơi Mây vẫn ngồi cho nước mắt chảy ròng ròng theo dòng nước. Nước đã trôi đi rồi, cả nước mắt của Mây cũng thế. Nhưng hình bóng Mây vẫn còn, vết chân Mây còn in trên vạt cỏ tím, sợi chỉ màu trên dây lưng Mây còn mắc ở bụi cây gai...

Đứa bé gái vén váy cúi xuống dòng nước múc đầy một ống bương, ngẩng lên nói thêm: "Trời lạnh quá, cháu rắc đầy hạt cỏ mà không thấy mọc. Phải có nước ở đầu nguồn Phạ Lấu này. ở Tả Khâu cũng có nước, nhưng Êèm Mí bảo nước Tả Khâu không như nước Phạ Lấu, Êèm Mí lại không

phải người Tả Khâu...". Đứa bé lệch người mang ống bương nước quay

đi. Tôi định bảo nó để lại bác mang giúp mà không sao nói được.

***

Ngày xưa, nhà thằng Lử chẳng bao giờ có người đi ong, nhưng mùa ong nào ống mật cũng chất đầy góc nhà. Mật đòi nợ, mật ăn vạ, mật mua rẻ... bố Lử cứ để tất cả đấy, đến khi cả phiên chợ không còn ai bán mật ong nữa mới cho ngựa thồ xuống. Đã giàu lại càng giàu, bao nhiêu người nghèo lại nghèo đi. Bao nhiêu năm trời nước dòng Phạ Lấu cạn khô. Muốn có nước ăn người lớn trẻ con phải đi cả ngày, ra tận sông mới gùi về được. Năm ấy bất chợt lũ về. Lũ như bầy hổ đói tranh ăn, dâng cuồn cuộn, qua một đêm đến sáng đã không thấy làng bản đâu, chỉ loáng thoáng nhấp nhô những mái nhà rũ rượi dưới mưa. Ông Lù, bố Lử, ngồi nhìn trâu bò vừa bắt nợ về lóp ngóp bơi đi tứ phía không làm gì được, tức quá, mang con dao sáng loáng ra đầu hồi, đứng giữa trời mưa mà chửi. Ông chửi trời, chửi đất, chửi rừng núi, suối sông. Ông càng chửi trời càng mưa lớn. Sau lũ, người nghèo nhìn đồng thấp đồng cao phủ dày một lớp phù sa đỏ, giẫm lên mềm như đống trấu ủ mà mừng. Mùa tới thế nào cũng đủ nuôi cả nhà rồi. Hết mưa, người ta mừng thì ông Lù ốm. Ôậm ba ngày, bảy ngày không dậy được, cả tháng không dậy được. Vợ con đi gọi thầy mo về. Thầy mo bảo phải chuyển chỗ ở, phải quay hướng nhà. Vậy là cả nhà gồng gánh bỏ Tả Choóng mà đi, không nói với ai một lời.

***

Tôi gùi mấy ống mật đầu mùa về bản. Trong gùi có cả viên đá cuội đỏ bầm như máu. Đi được một đoạn chợt thấy gùi trên vai nặng trĩu như có ai đi sau vít xuống. Viên đá cuội đã ngả sang màu nâu, chẳng khác gì cuội cuối dòng.

Sau lưng tôi, tít xa kia, ngửa mặt lên vẫn thấy Tả Khâu còn sương mù phủ trắng vấn vít. Những con chim lớn, sải cánh dài, lao vun vút vượt qua đỉnh núi.

Lần đầu tiên gặp nhau ở hội xuân, Mây bảo: "Nghe tiếng sáo của Sính ai cũng muốn thành con chim bay thật cao, thành mũi tên lao về phía mặt trời". Và tôi đã hứa chỉ thổi sáo cho mình Mây nghe, từ ngày này qua ngày khác. Ngày Mây theo chồng ngược dốc Tả Khâu, tôi đã ném cây sáo vào bếp lửa.

Tôi đi như chạy. Dưới kia, sau lớp giang ken dày, nước nguồn Phạ Lấu vẫn lặng lẽ chảy về Tả Choóng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#minh