tiet 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

(Tiết 3)

c) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản

- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

(Nội dung trước tiên là quá trình giác ngộ tư tưởng cách mạng vô sản và tìm ra con đường cứu nước của cách mạng Việt Nam. Trọng tâm để giải quyết vấn đề: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản).

Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan và trên vùng quê giàu truyền thống cách mạng, từ thuở nhỏ, anh đã sớm tham gia phong trào chống Pháp, sớm có chí hướng đánh đuổi giặc Pháp, giải phóng dân tộc. Thế nhưng, Nguyễn Tất Thành không đi theo con đường của những người đi trước. Và từ sự thất bại của phong trào yêu nước đấu tranh chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng đã chứng minh rằng con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và lập trường chính trị tư sản đã bế tắc trước sự tồn vong của lịch sử dân tộc. Vì các con đường cứu nước ở thời kỳ này đã không đáp ứng được nhu cầu bức thiết và cơ bản của nhân dân, của dân tộc. Cho nên, Nguyễn Tất Thành mặc dù “khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của người nào…. Anh thấy rõ và quyết định con đường nên đi”.

Như vậy, ngay từ sớm, Nguyễn Tất Thành đã nhận ra những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời về lập trường giai cấp trong việc xác định mục tiêu, đối tượng, nhiệm vụ cách mạng; về phương thức, phương pháp đấu tranh; về nhận thức “bạn – thù” của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam. Đây chính là những bài học, những cơ sở lịch sử đầu tiên để trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc có sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam.

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. “Trong hành trang của những người Việt Nam yêu nước lúc bấy giờ, đều có một điểm chung, đó là lòng yêu nước sâu sắc, nhưng ở Nguyễn Tất Thành, tình cảm yêu nước của Người gắn liền với lòng thương yêu nhân dân vô hạn. Do đó, mục tiêu nhất quán, xuyên suốt trong cuộc ra đi của Nguyễn Tất Thành là phải tìm con đường để vừa giành được độc lập cho Tổ quốc, vừa mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa Nguyễn Tất Thành với các nhà yêu nước đương thời, đã dẫn đến những hệ quả khác nhau trong tư duy, trong hoạt động thực tiễn và cả trong việc lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu sâu sắc các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Người đề cao những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tư sản tiêu biểu, nhưng Người cũng nhận thức rõ và phê phán bản chất không triệt để của các cuộc cách mạng tư sản, chỉ ra những hạn chế mà cách mạng Việt Nam cần phải tránh. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định một cách dứt khoát rằng: Con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.

Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm, tìm hiểu, khảo sát cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 – cuộc cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo thắng lợi, sau đó, đã tổ chức ra chính phủ công, nông, binh; phát ruộng đất cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành thế giới đại đồng. Liên hệ giữa Cách mạng Nga năm 1917 với yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”.

Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được đăng trên báo Nhân đạo (L’ Humanité). Sau này Người kể lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng tối mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.

 Nguyễn Ái Quốc tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; lời giải đáp về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới – mối quan hệ giữa yếu tố sức mạnh dân tộc với sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế. Người nhận thức được rằng: “Không có một sức mạnh thống nhất của cả nước, không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài, công cuộc vận động giải phóng khó mà thành công được”.

Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở Tua, với tư cách là đảng viên Đảng Xã hội Pháp, với danh nghĩa là đại biểu Đông Dương và các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản – Quốc tế thứ ba, tán thành chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiên này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

(?) Vậy theo các đồng chí, vì sao Nguyễn Ái Quốc xác định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”?

Cuộc gặp gỡ của Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Mác - Lênin vào những năm 20 của thế kỷ XX là sự kiện đánh dấu việc Nguyễn Ái Quốc giác ngộ lập trường, quan điểm vô sản và quyết định lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Để tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, về chính trị và về tổ chức. Sự chuẩn bị đó đã được tiến hành thường xuyên, liên tục, xen kẽ, có sự tác động tạo điều kiện thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.

* Chuẩn bị tiền đề về tư tưởng

Chuẩn bị về tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị gì?

Chuẩn bị tiền đề về tư tưởng là công việc đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thành lập Đảng. Chuẩn bị về tư tưởng ở đây không phải là vấn đề tư tưởng chung chung, mà đó là tư tưởng chính trị, là chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là về vấn đề “cách mạng”. Nguyễn Ái Quốc đã từng bước giúp cho nhân dân ta thấy được cách mạng là sự nghiệp lớn và khó, không phải một vài người là làm nổi, không phải dăm ba người làm xong; muốn làm được phải có sức mạnh của đông đảo quần chúng, phải có Đảng cách mạng. Đây là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng thành công. Nguyễn Ái Quốc đã đặt vấn đề cho mọi người dân Việt Nam yêu nước suy ngẫm: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”; và Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh”. Người chỉ ra nhiệm vụ của đảng cách mệnh là: “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy, Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.

Như vậy, theo Nguyễn Ái Quốc, để đoàn kết và lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tư cách là bộ tham mưu của cách mạng, chịu trách nhiệm vận động và tổ chức dân chúng trong nước, giữ mối liên hệ trong phong trào cách mạng trên thế giới. Để tập hợp được những người cùng chí hướng vào Đảng, để Đảng cách mạng thống nhất cao về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, phải vũ trang cho Đảng một chủ nghĩa, nhưng theo chủ nghĩa nào cho đúng, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Đảng cách mạng được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin mà Nguyễn Ái Quốc chỉ ra là Đảng cộng sản, Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Chính trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vai trò và sự cần thiết phải có một Đảng cách mạng, để lãnh đạo cách mạng Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc đã tích cực xúc tiến mọi mặt, chuẩn bị một cách công phu, thận trọng hết sức sáng tạo cho sự ra đời của Đảng cộng sản ở nước thuộc địa nửa phong kiến.

Để tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin từng bước thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống học thuyết về sự phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển trí tuệ của loài người. Do đó, để tiếp thu và nắm vững được nó đòi hỏi phải có một trình độ nhất định. Chính vì vậy, việc truyền bá để cho chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập và trở thành hệ tư tưởng dẫn đường cho hành động cách mạng của quần chúng nhân dân lao động, thì đây là một vấn đề hết sức khó khăn và đặc biệt quan trọng.

Vậy thì Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư tưởng như thế nào?

Từ thực tiễn hoạt động cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và qua thực tế trải nghiệm của bản thân, Nguyễn Ái Quốc rút ra có hai cách truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong quần chúng nhân dân lao động.

Thứ nhất, dịch và phổ biến trong nhân dân những tác phẩm kinh điển về chủ nghĩa cộng sản, đồng thời viết những tác phẩm triết học chống lại các học thuyết phi mácxít, qua đó bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa cộng sản.

Thứ hai, từng bước truyền bá trong quần chúng nhân dân lao động những tư tưởng cách mạng trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một trình độ nào đó mới dịch và phổ biến tác phẩm kinh điển của những nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản. Đây là phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với hoàn cảnh các nước thuộc địa, trình độ dân trí thấp. Nguyễn Ái Quốc đã sáng tạo ra phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin hết sức độc đáo vào các nước thuộc địa, mà điển hình là ở Đông Dương và Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, với những nội dung chủ yếu là vấn đề “cách mệnh”, cách mệnh là gì?, đối tượng cách mệnh, lực lượng cách mệnh, phương pháp cách mệnh; những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mệnh,… vấn đề Đảng cách mệnh, vai trò, nhiệm vụ của Đảng cách mệnh và yếu tố bảo đảm cho cách mệnh vững mạnh.

Như vậy, để chuyển tải được những nội dung cơ bản trên, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng phương pháp truyền bá sáng tạo và rất khoa học. Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam theo một quá trình phù hợp với trình độ nhận thức của quần chúng, giúp quần chúng và những người yêu nước từng bước thức tỉnh rồi đi đến lựa chọn và hành động. Thức tỉnh là giai đoạn tất yếu trong hoạt động tư duy và hành động của con người.

Nguyễn Ái Quốc làm như vậy là xuất phát từ kinh nghiệm của chính bản thân Người. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là do học thuyết đó đã giải đáp được những đòi hỏi cấp bách của dân tộc mình: giải phóng dân tộc khỏi ách đế quốc thực dân, tức là cái mà nhân dân ta đang khao khát và đang cần được vũ trang.

Mặt khác, Người đã vận dụng sáng tạo lời chỉ dẫn của Lênin đối với những người cách mạng phương Đông là phải diễn giải, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản bằng ngôn ngữ dễ hiểu nhất. Lênin chỉ ra: “Nhiệm vụ đề ra trước mắt các đồng chí là tiếp tục quan tâm làm sao cho việc tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản được tiến hành trong mỗi nước, và tuyên truyền sao cho nhân dân có thể hiểu được…. Nhiệm vụ là phải thức tỉnh tính tích cực cách mạng của quần chúng lao động, dù trình độ của họ như thế nào, để làm cho họ hoạt động độc lập và tổ chức nhau lại; phải đem học thuyết cộng sản chân chính dành cho những người cộng sản ở các nước tiên tiến hơn, dịch ra tiếng nói của mỗi dân tộc”.

Quá trình chuẩn bị tư tưởng được thực hiện theo từng giai đoạn, ta có thể tóm tắt cơ bản như sau: Thời kỳ đầu, lúc này Nguyễn Ái Quốc ở Paris, với nội dung cơ bản là xác định kẻ thù (đối tượng trực tiếp cách mạng Việt Nam cần đánh đổ). Người chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến. Xác định đúng và trúng kẻ thù là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong xác định chiến lược và sách lược của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nó quyết định tới những quyết sách đúng đắn trong việc sắp xếp lực lượng cách mạng trong từng giai đoạn, và những bước tiếp theo.

Phương tiện truyền tải là báo chí cách mạng. Bài Đông Dương đăng trên Tạp chí cộng sản số 14 (4-1921) và số 15 (5-1921), là mốc mở đầu cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Trong bài viết đó, lần dầu tiên Nguyễn Ái Quốc đã trình bày những điều kiện thuận lợi của châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng cho việc truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này, các đồng chí có thể tìm hiểu thêm ở Tài liệu Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, nđd, Tr. 28.

Vào ngày 26-6-1921, Nguyễn Ái Quốc và một số chiến sĩ cách mạng ở các nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Paris để đoàn kết lực lượng cách mạng chống đế quốc, thông qua tổ chức đó truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Báo Người cùng khổ là cơ quan ngôn luận của Hội. 50% ấn phẩm mỗi kỳ phát hành đều được gửi tới thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập, chủ nhiệm kiêm chủ bút. Những bài báo Người viết đều tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phản ánh nguyện vọng giành độc lập tự do cho nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa.

Ngoài báo chí, Nguyễn Ái Quốc còn sử dụng những hình thức khác như diễn thuyết, viết kịch để truyền bá tư tưởng cách mạng của mình. Khi Khải Định sang Pháp, Người viết vở kịch Con Rồng Tre nhằm đả kích tên vua bù nhìn. Vở kịch được công diễn ở Paris vào chiều Chủ nhật ngày 11-6-1922, đã tác động mạnh đến đồng bào Việt kiều sống ở Pháp, hướng họ nghĩ về đất nước, thôi thúc họ hành động cách mạng. Dưới ngòi bút châm biếm của Nguyễn Ái Quốc, Vua bù nhìn Khải Định đại diện cho bọn phong kiến tay sai ngu dốt, đê hèn, ra sức tâng bốc “công ơn khai hóa” của nước Pháp, là những bộ mặt phản dân hại nước đáng khinh bỉ, đã hiện rõ trước mặt công chúng.

Thông qua báo chí, kịch,…. Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị bước đầu về mặt tư tưởng cho sự vùng dậy của dân tộc ta trong tương lai, hướng đúng vào hai kẻ thù chính của dân tộc là đế quốc và phong kiến tay sai, đối tượng của cách mạng giải phóng dân tộc bị đánh đổ.

Có thể nói việc Nguyễn Ái Quốc xác định đúng kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam là gồm cả đế quốc và phong kiến, là điều hoàn toàn mới và hết sức đúng đắn mà chưa có nhà yêu nước nào trước đó làm được. Nhờ đó, đã giúp nhân dân ta thức tỉnh, cùng đoàn kết đứng lên cùng hành động cách mạng.

Giai đoạn Nguyễn Ái Quốc ở Mátxcơva là thời kỳ kế tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam. Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc tập trung viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp và những bài viết về Lênin, về nước Nga Xôviết, về Trung Quốc, về An Nam như: tình cảnh nông dân An Nam; Lênin và các dân tộc phương Đông; Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa, đăng trên các báo, tạp chí nhằm định hướng cuộc vùng dậy tương lai của dân tộc theo Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và đề cập đến những vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam; về Đảng cộng sản, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đoàn kết quốc tế.

Giai đoạn Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu và Xiêm là thời kỳ thuận lợi, Người đã khai thác tối đa yếu tố địa – chính trị để đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã dịch các tác phẩm kinh điển của các nhà hoạt động cách mạng như: Nhân loại tiến hóa sử; Chủ nghĩa cộng sản A.B.C; Tuyên ngôn của Đảng cộng sản; Balê công xã. Thông qua các tác phẩm tiếp tục chỉ rõ con đường cách mạng của nhân dân ta phải đi theo là con đường cách mạng vô sản. Điều hết sức sáng tạo là ngoài những phương tiện truyền bá thường dùng như sách báo, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng thêm một “phương tiện” truyền mới: phương tiện truyền sống. Đó là đào tạo những người yêu nước trẻ tuổi, rồi đưa về nước tuyên truyền, tổ chức vận động quần chúng làm cách mạng. Việc sử dụng phương tiện truyền sống là hết sức sáng tạo, phù hợp với các điều kiện lịch sử lúc đó. Bởi vì đây là phương tiện đặc thù trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến, nơi mà mọi quyền tự do, dân chủ của con người đều bị cấm đoán. Nguyễn Ái Quốc đã biết sử dụng thanh niên trí thức yêu nước là lực lượng chủ yếu, đây là sự nhìn nhận mới đúng xu thế phát triển của lịch sử. Người hoàn toàn tin cậy vào lớp trẻ, đó là lớp người quyết định tương lai đất nước, đặc biệt là lớp thanh niên trí thức. Do đó, Người đã giáo dục, huấn luyện họ, gửi đi đào tạo thêm ở trường Đại học Phương Đông, Trường Quân sự Hoàng Phố, hay rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị bằng phong trào “vô sản hóa” (năm 1928) nhằm xây dựng những cán bộ chủ chốt cho cách mạng Việt Nam.

Nhờ sự truyền bá sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc mà chủ nghĩa Mác - Lênin học thuyết khoa học cách mạng nhất của nhân loại, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân – đã từng bước thâm nhập vào xã hội Việt Nam, đấu tranh với các trào lưu phi vô sản khác như: tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản… giác ngộ lập trường cứu nước, giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, theo con đường cách mạng vô sản.

* Chuẩn bị tiền đề chính trị

Cùng với việc chuẩn bị tiền đề tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến chuẩn bị tiền đề chính trị. Đây là một trong những nội dung quan trọng, là điều kiện để hình thành Đảng cộng sản. Thực chất của việc chuẩn bị về chính trị là xác định đúng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc. Đây là một vấn đề quan trọng mà các nhà yêu nước Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đều đã sai lầm và đi vào thất bại.

Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ của thực dân phong kiến. Người viết: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc… xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”.

Quan điểm này trở thành định hướng có ý nghĩa phổ biến trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Với chủ đích rõ ràng, Nguyễn Ái Quốc đã hướng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta tới Quốc tế cộng sản, tới Cách mạng Tháng Mười Nga.

Nguyễn Ái Quốc từng bước cung cấp cho nhân dân ta những thông tin, giúp nhân dân ta hiểu biết về một tổ chức quốc tế kiên quyết bênh vực quyền lợi của các dân tộc thuộc địa, đó là Quốc tế cộng sản, đứng đầu là V.I. Lênin. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp ở chương Nô lệ thức tỉnh, Nguyễn Ái Quốc đã đưa vào những văn kiện quan trọng đối với cách mạng thuộc địa như: Tuyên ngôn của Ban chấp hành Đệ tam quốc tế, phần liên quan đến nhân dân các thuộc địa. Hiệu triệu của Quốc tế nông dân gửi nông dân các thuộc địa; tổ chức công đoàn ở thuộc địa. Mục đích là làm nhân dân ta hiểu rằng, trên thế giới lúc đó có những tổ chức đáng quan tâm đến vận mệnh của nhân dân thuộc địa, thông cảm với đời sống cùng cực của họ và kêu gọi họ tổ chức lại theo những tổ chức thích hợp, để hoàn thành sự nghiệp giải phóng của mình. Để cho cuộc đấu tranh đầy gian khổ, khó khăn đi tới thắng lợi thì không có con đường nào khác là phải: đoàn kết nhau lại, xiết chặt hàng ngũ dưới lá cờ Quốc tế cộng sản, đây là lá cờ duy nhất để giải phóng những người bị áp bức…. Như vậy, Bản án chế độ thực dân Pháp dù chưa phải là một cương lĩnh chính trị nhưng nó không đơn thuần chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp, mà nó còn chỉ rõ kẻ thù của cách mạng thuộc địa, chỉ rõ phương pháp đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức thực dân là phải đoàn kết nhau lại, đoàn kết trong nước và đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa nhân dân các nước thuộc địa với nhau và với nhân dân tiến bộ của các nước chính quốc. Vì vậy, nó không chỉ là bản cáo trạng đơn thuần mà còn chỉ ra cách thức thực hiện bản án đó, đặt viên đá tảng đầu tiên cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa, cho con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nên khi tác phẩm này được đưa về nước, nó đã hướng tư duy của một thế hệ yêu nước Việt Nam về một con đường cách mạng tiến tiến nhất, khoa học nhất.

Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1927. Các bài giảng của Người ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp lại thành tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản năm 1927. Tác phẩm Đường cách mệnh đã phác thảo đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam với những nội dung cơ bản:

Thứ nhất, Đường cách mệnh chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.

Thứ hai, về lực lượng cách mạng, Đường cách mệnh chỉ ra lực lượng cách mạng là quần chúng nhân dân lao động: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” do đó phải đoàn kết toàn dân “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “công nông là người chủ cách mệnh”, “là gốc cách mệnh”; “còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh, của công nông thôi”. Người chủ trương tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh chống quân xâm lược giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Thứ ba, về vai trò lãnh đạo của Đảng: Nguyễn Ái Quốc khẳng định tính tất yếu phải có Đảng cộng sản để bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng thành công. Người phân tích: “Kinh nghiệm thế giới và trong nước chứng tỏ rằng: những cuộc đấu tranh “tự phát” của nhân dân, thường không có mục đích rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, tổ chức chắc chắn. Vì vậy mà lực lượng rời rạc, nơi này lên thì nơi khác xẹp. Kết quả là thất bại.

Muốn thắng lợi, thì cách mạng phải có một Đảng lãnh đạo”.

Người chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ, “cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ… cách mệnh phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu…. Cách mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân…. Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh”. Đảng cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Đảng phải vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Trong bối cảnh lịch sử những năm 20 của thế kỷ XX có nhiều trào lưu tư tưởng khác nhau trên thế giới, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Thứ tư, về vấn đề đoàn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Người cho rằng: Cách mạng Việt Nam phải thực hiện đoàn kết và liên minh với các lực lượng quốc tế: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Tuy nhiên, để phát huy cao độ yếu tố nội lực “Đem sức ta để tự giải phóng cho ta” tránh tư tưởng trông chờ ỷ lại, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.

Thứ năm, về phương pháp cách mạng. Thấm nhuần phương pháp cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong các bài viết và tác phẩm của mình, từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện quan điểm cách mạng bạo lực trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam. Đồng thời, Người còn chỉ ra sai lầm của các phương pháp cách mạng như: cải lương hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tự cường. Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cách mạng phải có “mưu chước”, có như thế mới bảo đảm thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.

Thông qua Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng một hệ thống quan điểm, luận điểm khoa học và cách mạng về đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Tác phẩm Đường cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chỉ ra phương hướng phát triển đi tới thắng lợi của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô sản, trực tiếp chuẩn bị về chính trị tư tưởng cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy, Đường cách mệnh có giá trị về lý luận và thực tiễn to lớn không chỉ cho cách mạng Việt Nam mà còn có giá trị đối với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa. Tác phẩm Đường cách mệnh góp phần quyết định giải quyết thành công về lý luận cuộc khủng hoảng đường lối cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.

Tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc trở thành nền tảng tư tưởng chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, được truyền bá vào Việt Nam. Để đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xuất bản báo Thanh niên – cơ quan ngôn luận của Hội và là tờ báo đầu tiên của cách mạng Việt Nam theo khuynh hướng vô sản; báo Công nông, báo Lính cách mệnh, báo Tiền phong. Các tờ báo này được bí mật phát hành về Việt Nam, đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, thức tỉnh quần chúng, giác ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam phát triển theo con đường cách mạng vô sản và góp phần đấu tranh chống lại quan điểm tư sản, tiểu tư sản sai trái trong phong trào yêu nước Việt Nam. Năm 1928, Hội thực hiện phong trào “Vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng của Việt Nam. Sự truyền bá đó đã thúc đẩy phong trào công nhân phát triển từ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển từ lập trường quốc gia sang lập trường cộng sản, đặt nền móng cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.

* Chuẩn bị tiền đề về tổ chức

Cùng với việc chuẩn bị về tư tưởng và chính trị, Nguyễn Ái Quốc tập trung vào một công việc quan trọng là chuẩn bị tiền đề về tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Quá trình chuẩn bị về tổ chức là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam và thành lập một tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam – Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) với tư cách làm nhiệm vụ quốc tế cộng sản. Quảng Châu là trung tâm cách mạng của Chính phủ Tôn Dật Tiên, lúc đó không khí cách mạng đang sôi sục, và đây cũng là địa bàn gần Việt Nam nên có nhiều nhà yêu nước và cách mạng Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đang bí mật hoạt động. Tại đây, Người gặp gỡ những người Việt Nam yêu nước trong tổ chức yêu nước đầu tiên của người Việt Nam ở Trung Quốc là Tâm tâm xã, trong đó có những thanh niên như Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ,…. Sau khi gặp gỡ, tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước, Người đã sớm có sự thẩm định, chọn lựa để đi đến mở một lớp huấn luyện để bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, về đường lối cách mạng mà Người đã xác định buổi đầu, về phương pháp tổ chức và vận động quần chúng, qua đó tìm hiểu sâu sát về những người được giới thiệu. Sau lớp huấn luyện đầu tiên, những thanh niên tích cực và đã thử thách qua công tác được Nguyễn Ái Quốc chọn ra 9 người tích cực nhất (gồm Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Quang Đạt, Lâm Đức Thụ, Lê Duy Điếm, Lưu Quốc Long, Vương Thúc Oánh, Trương Vân Lĩnh) để thành lập một nhóm bí mật – Cộng sản đoàn vào tháng 2-1925, làm hạt nhân cho tổ chức rộng lớn sau đó. Những người này có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng cộng sản; và 2 người được phái về nước, 3 người ở tiền tuyến (trong quan đội của Tôn Dật Tiên), 1 người đang đi công tác quân sự (cho Quốc dân Đảng).

Trên cơ sở những tiền đề đã được chuẩn bị, tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây là một tổ chức rộng lớn, tập hợp các thanh niên yêu nước trong và ngoài nước. Hội đã công bố chương trình và Điều lệ, nêu rõ mục đích: làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập chính phủ nhân dân, áp dụng những nguyên tắc “tân kinh tế chính sách”; mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân; tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới. Về hệ thống tổ chức của Hội được tổ chức theo 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ, chi bộ.

Nếu đem so sánh tôn chỉ, mục đích và chương trình của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với những chính đảng cùng thời với nó như: Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng, chúng ta thấy tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có những quan điểm cách mạng rõ ràng, đúng đắn, tạo tiền đề cho việc thành lập Đảng sau này. Biểu hiện trên bốn vấn đề sau:

Thứ nhất, cuộc cách mạng Việt Nam bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau, liên tục không đứt đoạn: cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới.

Thứ hai, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập chính phủ công – nông – binh và chính phủ đó sẽ áp dụng chính sách kinh tế mới để phát triển đất nước, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Thứ ba, đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới.

Thứ tư, xây dựng tổ chức của Hội, trên cả lý thuyết và thực tiễn là sự hiện thực hóa của nguyên tắc dân chủ tập trung trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Bởi cấu trúc của Hội là một hệ thống gồm 5 cấp, quyền tối cao là Hội nghị toàn quốc của Hội. Đặt vấn đề cho tổ chức và nguyên tắc hoạt động của Đảng cộng sản sau này.

Qua những vấn đề trên chúng ta thấy rằng, vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX mà đặt ra và giải quyết được những vấn đề trên là điều quan trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức để quy tụ được những người yêu nước tiên tiến nhất lúc bấy giờ vào tổ chức cách mạng mà Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là đại diện. Đóng vai trò hết sức quan trọng về mặt này là các lớp huấn luyện chính trị do Hội mở và Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, giảng dạy.

Trong thời gian từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở được 3 lớp với 75 học viên. Chương trình huấn luyện là những bài giảng được tập hợp trong cuốn Đường cách mệnh. Sau khi học xong, ngoài cán bộ được cử về nước hoạt động, Nguyễn Ái Quốc còn chọn một số đưa vào học Trường quân sự Hoàng Phố, một số được gửi sang học ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản.

Việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên – một tổ chức quá độ, vừa tầm thích hợp để chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Xuất phát từ điều kiện lịch sử nước ta, là xã hội thuộc địa nửa phong kiến với hơn 90% là nông dân, giai cấp công nhân chỉ chiếm 2% dân số, tuyệt đại đa số mù chữ, ít học, chưa hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản nên Nguyễn Ái Quốc đã thành lập một tổ chức tiền thân, để qua đó, huấn luyện cán bộ, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Vì Người hiểu sâu sắc rằng chỉ khi nào chủ nghĩa Mác - Lênin được kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì mới xây dựng nên Đảng cộng sản. Trong Báo cáo gửi Quốc tế cộng sản (18-2-1930), Nguyễn Ái Quốc viết: “Hội An Nam thanh niên cách mạng do chúng tôi tổ chức từ năm 1925. Có thể nói rằng, nó là quả trứng, mà từ đó, nở ra con chim non cộng sản”; trong Báo cáo gửi Quốc tế cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam (5-3-1930), Nguyễn Ái Quốc viết: “Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội được thành lập ở Quảng Châu. Hội rất tích cực tổ chức các lớp huấn luyện, đưa thanh niên từ An Nam sang học rồi sau khi huấn luyện cẩn thận lại gửi họ về nước…. Trong tư tưởng của những người đứng ra tổ chức thì Hội này sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn và tương lai đã chứng minh điều đó”.

Như vậy, quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là quá trình chuẩn bị công phu về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc. Nhìn lại quá trình chuẩn bị các điều kiện cho việc thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam, cho thấy:

Thứ nhất, quá trình Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam bắt đầu bằng việc phê phán tội ác của thực dân Pháp, làm rõ kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam cần phải đánh đuổi; thức tỉnh tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc và truyền thống đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta. Đây là bước đi mở đường, có ý nghĩa quyết định sự thành công của các bước tiếp theo.

Thứ hai, qua Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam không phải với tư cách là một hệ thống hoàn bị gồm triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, mà đã có sự lựa chọn, bổ sung “nội địa hóa” cho phù hợp với thực tiễn xã hội, con người Việt Nam. Bởi vì từ đặc thù lịch sử xã hội Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc trong khi khẳng định giá trị phổ biến những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và chế độ cộng sản có thể áp dụng vào cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, thì đồng thời, Người cũng cho rằng: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời kỳ mình không thể có được”. Vì vậy, cần phải bổ sung học thuyết Mác bằng truyền thống lịch sử, văn hóa của các dân tộc cụ thể.

Thứ ba, trong quá trình truyền bá tư tưởng cách mạng vào Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp chặt chẽ, biện chứng giữa lý luận Mác - Lênin với tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc – về chiến lược, sách lược cách mạng, lực lượng cách mạng, về Đảng cộng sản và phương pháp cách mạng….

Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng một cách linh hoạt và chủ động các hình thức để truyền bá lý luận Mác - Lênin vào Việt Nam. Như, thông qua các ấn phẩm (sách, báo), do Người viết, qua kịch, qua diễn thuyết trên các diễn đàn hội nghị, qua những con người cụ thể được người đào tạo, qua các tổ chức mà người trực tiếp hoặc tham gia sáng lập. Trong đó, việc xuất bản cuốn sách Đường cách mệnh – phương hướng cơ bản về chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam và việc Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam, là sự trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, chính trị để thành lập chính đảng cộng sản ở Việt Nam.

Thứ năm, Nguyễn Ái Quốc không chỉ truyền bá lý luận Mác - Lênin vào công nhân mà cơ bản hơn là truyền bá vào các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản yêu nước. Sau khi các tầng lớp này được huấn luyện, giác ngộ thì đưa họ vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để thực hiện “vô sản hóa”. Nhờ đó, làm cho bộ phận thanh niên này nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân; thực hiện truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cách mạng Hồ Chí Minh, gầy dựng tổ chức cách mạng. Đồng thời, qua đó, đã thực hiện “trí tuệ hóa” những người vô sản Việt Nam. Cách làm này của Nguyễn Ái Quốc đã khắc phục được những hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam lúc bấy giờ - số lượng ít, trình độ thấp, nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam, thúc đẩy phong trào công nhân phát triển từ tự phát lên tự giác, giác ngộ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, chuẩn bị cho sự ra đời của một đảng cách mạng.

Thứ sáu, việc truyền bá cùng đồng thời chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã tạo cơ sở giai cấp và dân tộc vững chắc cho sự ra đời, phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam.

Thứ bảy, việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường cách mạng Nguyễn Ái Quốc vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong thập kỷ 20 của thế kỷ XX là động lực thúc đẩy phong trào công nhân chuyển từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước Việt Nam chuyển từ lập trường quốc gia sang lập trường cộng sản.

Thứ tám, việc Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên – một tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam, mang tính chất là một tổ chức quá độ là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Hội đã góp phần chuẩn bị đầy đủ các tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự kết hợp đầy đủ nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản là một tất yếu khách quan.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro