tieu luan

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lời mở đầu

‘’41.200 doanh nghiệp giải thể, tạm đóng cửa từ đầu năm”- đó là con số mới được Văn phòng chính phủ thông báo trong tháng 10 vừa qua. Một con số khiến người đọc phải sửng sốt. chỉ trong 2 năm gần đây số doanh nghiệp dừng hoạt động bằng một nửa số doanh nghiệp dừng “cuộc chơi” trong 20 năm vừa qua. Câu hỏi đặt ra lớn nhất ở đây không chỉ là nền kinh tế đang khó khăn đến mức nào? Mà còn số lao động của những doanh nghiệp này họ sẽ làm công việc ở đâu? Họ sẽ có những thu nhập nào để nuôi sống cuộc sống của mình và gia đình?  Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao là mối lo của đảng và nhà nước ta trong vấn đề đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế.

Ngày 1.1.2009, tại Việt nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có hiệu lực nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp- đó là bảo hiểm thất nghiệp. Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung.

      BHTN ở Việt Nam  ra đời  gắn với giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền kinh tế Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp.Sau gần 3 năm thực hiện, Bảo hiểm thất nghiệp đã mang lại những thành công nhất định, cũng như tác dụng tích cực về mặt kinh tế xã hội.

Phần1: cơ sở lý luận về Bảo hiểm xã hội

I. Khái niệm

Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội.

II.Hệ thống ILO:

Chế độ Bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hóa chính sách bảo hiểm xã hội, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động.Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và nước đống góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.

Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Gionevo, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:

1.chăm sóc y tế

2.trợ cấp ốm đau

3. trợ cấp thất nghiệp

4.trợ cấp tuổi già

5.trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

6.trợ cấp gia đình

7.trợ cấp sinh đẻ

8.trợ cấp khi tàn phế

9.trợ cấp cho người còn sống(trợ cấp mất người nuôi dưỡng)

9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH.tùy điều kiện kinh tế-xác hội mà mỗi nước tham gia công ước gionevo thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ.trong đó ít nhât phải có một trong 5 chế độ 3,4,5,8,9

III.hệ thống chế độ bảo hiểm xã hội ở việt nam

Sau ngày 1.1.2009 ViệtNamchính thức có 6 chế độ bảo hiểm xã hội. Mỗi chế độ Bảo hiểm xã hội khi xây dựng đều căn cứ vào một loạt những cơ sở như: học sinh; kinh tế - xã hội; điều kiện và môi trường lao động xã hội...

1. Chế độ trợ cấp ốm đau: Chế độ này đã giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Việc thiết kế chế độ này như hiện hành đã tránh được những hiện tượng lạm dụng và bình quân hoá trong khi xét trợ cấp. Đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng Bảo hiểm xã hội, đồng thời có tính đến yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia Bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số vấn đề cần được phải tiếp tục nghiên cứu xem xét như: không quy định thời gian dự bị trước khi hưởng Bảo hiểm xã hội; thời hạn hưởng tối da chưa rõ; thủ tục, danh mục các bệnh dài hạn quy định đã lâu, cần phải bổ xung một số bệnh mới...

2.Chế độ trợ cấp thai sản: Thiết kế chế độ này như hiện nay đã giúp lao động nữ có được khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Hơn nữa, việc quy định thời hạn nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiện và môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau. Qua thực tiễn, chế độ này còn mộp số điểm cần phải khắc phục như: còn đan xen giữa chính sách Bảo hiểm xã hội với chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình; thời gian dự bị trước khi được hưởng cũng chưa có...

3.Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: Thực tiễn triển khai chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Đồng thời chế độ này còn quy định rõ trách nhiệm của nười sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này dựa trên cơ sở tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là hợp lý. Tuy vậy cần phải xác định rõ hơn tai nạn lao động xảy ra trên đường đi từ nhà tới nơi làm việc và ngược lại, danh mục bệnh nghề nghiệp cần phải bổ xung vì có một số loại bệnh mới phát sinh nhưng chưa được xếp vào loại bệnh nghề nghiệp...

4.Chế dộ hưu trí: Đây là chế độ nhằm các một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập không được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. Nội dung chế độ này đã khắc phục được những hạn chế trước đây như: Việc quy đổi thời gian công tác; bóc tách được phần lớn các chế độ ưu đãi xã hội ra khỏi chế độ hưu trí... vì thế đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng giữa đóng và hưởng Bảo hiểm xã hội; giữa các nhóm lao động khác nhau. Tuy vậy, chế độ này vẫn còn nhiều điểm nổi cộm cần khắc phục như: tuổi đời về hưu giữa các ngành, các nhóm lao động; những người hưởng trợ cấp một lần đưa vào chế độ là chưa hợp lý, vì những người này vừa chưa đủ tuổi, vừa không đủ tích luỹ cần thiết để hưởng trợ cấp. Đây chỉ là sự trả lại một phần số tiền cho người lao động khi họ không còn quan hệ lao động nữa, do quỹ Bảo hiểm xã hội đảm nhận.

5.Chế độ tử tuất: Một trong những chế độ Bảo hiểm xã hội mang tính nhân đạo nhất đó là chế độ tử tuất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết: khi xây dựng chế độ này, đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia Bảo hiểm xã hội và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết. Đặc biệt là có tính đến yếu tố kế thừa đối với thân nhân của người chết. Song, việc quy định đối tượng được hưởng bao gồm cả bố mẹ bên vợ, bên chồng là chưa hợp lý. Vì bố mẹ bên vợ, bên chồng còn có thân nhân của cả hai bên chịu trách nhiệm. Điều này cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để thống nhất quy định...

6.Chế độ trợ cấp thất nghiệp: là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp và ổn định.

II. BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

Trên thế giới có lẽ  từ “ Thất nghiệp” đã không còn xa lạ với bất cứ quốc gia nào, dù là quốc gia phát triển, đang phát triển hay kém phát triển. Để đảm bảo chi tiêu trước cảnh thất nghiệp là một thách thức đối với người lao động. Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của riêng người lao động mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô. Do đó, Bảo hiểm thất nghiệp đã ra đời. Lần đầu tiên xuất hiện  vào thế kỉ XIX tại Đức , Italia, Thụy Sĩ và lan rộng ra Pháp ,Anh, Hà Lan,Mỹ …cho tới nay bảo hiểm thất nghiệp đã trở thành một phần không thể thiếu trong hệ thống An sinh xã hội của nhiều nước trong đó có Việt Nam.

     Hiện nay, tại các nước phát triển bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện rộng rãi với những bộ luật quy định khá toàn vẹn và chặt chẽ. Mỗi nước đều có quy định riêng và thực hiện đựa trên những nguyên tắc của mình. Hệ thống bảo hiểm được thực hiện rộng khắp cả nước ,quản lý linh hoạt và nhiều loại hình bảo hiểm đáp ứng nhu cầu của con người.

Dưới đây là mô hình bảo hiểm thất nghiệp tại đức:

Ra đời:Bảo hiểm thất nghiệp được bắt đầu thực hiện tại Đức vào năm 1919 và chính thức hóa bằng một bộ luật vào năm 1927, là một cấu thành trong hệ thống BHXH của Đức bao gồm bảo hiểm hưu trí, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm chăm sóc. Bảo hiểm thất nghiệp là một chương trình BHXH bắt buộc dựa trên sự đóng góp tài chính của người lao động và chủ sử dụng lao động. Năm 2003, tỷ lệ đóng góp bảo hiểm thất nghiệp là 6,5% lương trong đó người lao động đóng 50%, chử sử dụng lao động đóng 50%..

STT

Tiêu chí

 Bảo hiểm thất nghiệp tại Đức

1

Đối tượng hưởng BHTN

-

là người bị thất nghiệp tạm thời< 65 tuổi

-

-đã đăng ký tại cơ quan việc làm địa phương

-

đủ điều kiện về thời gian làm việc và đóng bảo hiểm.

-

Chứng tỏ được bản thân có nỗ lực tìm việc

2

Điều kiện hưởng BHTN

-

Có hợp đồng lao động > 12 tháng trong một giai đoạn xem xét (3 năm cuối trước khi đăng ký thất nghiệp) trừ trường hợp đặc biệt và đã đóng bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc.

-

Do đặc thù công việc làm dưới 1 năm cần 6 tháng làm việc + đã đóng BHTN bắt buộc.

3

Mức hưởng chế độ BHTN

( thu nhập từ BHTN không phải nộp thuế)

-

60% lương thực tế sau khi đã trừ đi các khoản đóng góp bắt buộc (thuế thu nhập, đóng góp BHXH, BHYT).

-

TH có ít nhất một trẻ phụ thuộc là 67%lương

-

Được đóng BHYT trong quỹ y tế công,  và quỹ hưu trí  bắt buộc trong thời gian TN

4

Thời gian hưởng Chế độ

-

Không có thời gian chờ áp dụng trước khi nhận phúc lợi cho người thất nghiệp.

-

TG hưởng phụ thuộc vào thời gian làm việc có đóng bảo hiểm trước đó và tuổi người LĐ.

5

Giai đoạn không đủ tiêu chuẩn hưởng và mất quyền hưởng

-

Bị tước quyền hưởng chế độ trong vòng 12 tuần nếu bị chấm dứt hợp đồng do lỗi vi phạm hợp đồng hoặc sai phạm trong công viêc.

-

Thời hạn đình chỉ quyền hưởng chế độ tương tự cũng được áp dụng nếu người thất nghiệp từ chối nhận công việc được đề nghị bởi cơ quan việc làm hoặc từ chối tham gia các chương trình đào tạo.

-

Nếu người thất nghiệp đã từng bị tước quyền hưởng chế độ trong 12 tuần và đã nhận thông báo bằng văn bản về vấn đề này thì quyền hưởng chế độ sẽ vĩnh viễn bị tước nếu đối tượng vi phạm một vấn đề tương tự.

6

Sự đình chỉ chi trả chế độ

-          Bị ngừng chi trong thời gian người thất nghiệp nhận tiền trợ cấp từ các chế độ BHXH khác như chế độ ốm đau, lương hưu.

Phần 2: chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở ViệtNam

I. Đối tượng áp dụng

    Bảo hiểm thất nghiệp áp dụng bắt buộc đối với người lao động quy định tại khoản 3 và người sử dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật BHXH, cụ thể :

     1. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo khoản 3 Điều 2 Luật BHXH là công dân ViệtNamgiao kết các loại hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động, cụ thể:

         a) Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng;

         b) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

         c) Hợp đồng làm việc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng;

         d) Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, kể cả những người được tuyển dụng vào làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của nhà nước trước ngày Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp nhà nước.

     2. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là người sử dụng lao động quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật BHXH là người sử dụng lao động có sử dụng từ mười (10) lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cụ thể:

         a. Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân.

         b. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp thuộc tổ chức chính trị, đơn vị sự nghiệp thuộc tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội khác.

         c. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư.

         d. Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.

         đ. Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.

         e. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

II. điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp:

     TheoNghị định 127/2008/NĐ-CPngày 12/12/2008 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp quy định cụ thể:

         1. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

         2. Đã đăng ký với cơ quan lao động khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

         3. Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động theo quy định tại khoản 2 nêu trên.

III.Trợ cấp thất nghiệp:

         1. Trợ cấp thất nghiệplà khoản tiền hàng tháng được trả cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi bị thất nghiệp có đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định hoặc người được uỷ quyền theo quy định.

         2. Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

         3. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian làm việc có đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động và tổng thời gian được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng. 

IV. Hỗ trợ học nghề:

         1. Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ học nghề cho người lao động đang hưởng trî cÊpthất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện thông qua các cơ sở dạy nghề.   

         2. Mức hỗ trợ học nghề cho người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề.

         3. Thời gian được hỗ trợ học nghề không quá 6 tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng.

V. Hỗ trợ tìm việc làm:

         1. Việc tổ chức thực hiện hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động được hưởng trî cÊpthất nghiệp do cơ quan lao động thực hiện thông qua các trung tâm giới thiệu việc làm.

         2. Thời gian được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng và không quá tổng thời gian mà người lao động đó được hưởng trợ cấp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.

VI. Bảo hiểm y tế:

         1. Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp được hưởng chế độ bảo hiểm y tế.

         2. Tổ chức Bảo hiểm xã hộ iđóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.

VII. Thời điểm hưởng bảo hiểm thất nghiệp

         Người lao động khi có đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định về điều kiện được hưởng BHTN được hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp tính từ ngày thứ 16 kể từ ngày đăng ký theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị định 127/2008/NĐ-CP.

Ở nước ta, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đã đạt được những thành tựu đáng mừng: kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, lạm phát được đẩy lùi và được kiểm soát tích cực. Nhưng tình trạng thất nghiệp đã trở thành một vấn đề xã hội bức xúc. Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến vấn đề này. Bên cạnh các biện pháp tình thế đối với lao động mất việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước còn dành một khoản tiền lớn từ ngân sách để cho vay hỗ trợ việc làm với lãi suất ưu đãi, cùng với các nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất khác, hàng năm đã giải quyết được trên một triệu người có việc làm mới. Đồng thời Đảng và Nhà nước có chủ trương xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho phù hợp với nền kinh tế thị trường.

 phần 3: ưu nhược điểm của bảo hiểm thất nghiệp

nhược điểm:

Thiếu công bằng giữa các đối tượng tham gia BHTN:Luật BHXH quy định, các đơn vị thuộc đối tượng tham gia BHTN phải có từ 10 NLĐ trở lên. Điều này chưa thể hiện sự công bằng trong chính sách đối với đơn vị có chín NLĐ và những NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp (DN) nhỏ (dễ mất việc hơn các DN vừa và lớn). Mặt khác, đây là điều kiện nảy sinh hiện tượng lách luật, trốn đóng BHTN của các đơn vị (khai giảm NLĐ), gây ra việc đánh giá tỷ lệ tham gia BHTN không chính xác. Vì thế, cần quy định tất cả các đơn vị, cá nhân có thuê mướn NLĐ làm việc thường xuyên đều được tham gia BHTN.

Cào bằng mức hưởng: Luật BHXH quy định điều kiện giới hạn khoảng thời gian đóng BHTN rộng, nhưng mức hưởng trợ cấp lại hẹp. NLĐ đóng vào quỹ BHTN đủ 12 tháng đến 36 tháng đều được hưởng ba tháng trợ cấp. Quy định này làm cho NLĐ sau một năm làm việc, tìm cách nghỉ việc tạm thời, đăng ký thất nghiệp để hưởng trợ cấp. Do vậy, cần sửa đổi thời gian đóng và thời gian hưởng. Ví dụ, đóng đủ 12 tháng khi mất việc được hưởng ba tháng trợ cấp thì đóng đủ 24 tháng được hưởng bốn tháng, đóng đủ 36 tháng được hưởng năm tháng…

Cần xử lý trách nhiệm cụ thể: Hiện nay chưa có quy định rõ trách nhiệm và mức bồi thường đối với các cơ quan, đơn vị không thực hiện đúng các chế độ BHTN. Chẳng hạn DN nợ BHXH nên việc chốt sổ BHXH cho NLĐ không được thực hiện hoặc không kịp thời dẫn đến quá thời hạn được hưởng trợ cấp. Do đó, phải quy định cụ thể việc xử lý vi phạm của các bên liên quan.

Quy trình thực hiện chi trả trợ cấp BHTN còn quá lòng vòng và phức tạp: Vì vậy, nên tập trung một đầu mối tiếp nhận hồ sơ đăng ký thất nghiệp, ban hành quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp và tiến hành chi trả trợ cấp thất nghiệp ngay tại TTGTVL. Hàng tháng nơi này tập hợp kinh phí chi trả, quyết toán tài chính với ngành BHXH, thì NLĐ không phải đi lòng vòng. Tuy nhiên, nhược điểm là năng lực và nhân lực hiện nay của hệ thống này còn non yếu. Chẳng hạn, tỉnh Đồng Nai mới chỉ có bốn điểm tiếp nhận hồ sơ đăng ký thất nghiệp, NLĐ đi lại khai báo (chưa tìm được việc làm và nhận tiền trợ cấp của tháng thứ hai) sẽ khó khăn. Nếu mở rộng mạng lưới này trên khắp địa bàn toàn tỉnh sẽ phải xây dựng một đội ngũ viên chức mới cồng kềnh, tốn kém.

Phương án khác là tập trung đầu mối tiếp nhận, ban hành quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp, chi trả trợ cấp thất nghiệp cho cơ quan BHXH. Với cách này, NLĐ chỉ một lần đến cơ quan BHXH đăng ký thất nghiệp và lần thứ hai đến nhận tiền trợ cấp, đồng thời nhận luôn thẻ BHYT và giấy giới thiệu đến TTGTVL đăng ký học nghề, tư vấn tìm việc làm mới. Từ lần hưởng trợ cấp tháng thứ hai trở đi, NLĐ được nhận tại BHXH cấp huyện hoặc tại xã, phường nơi họ đang sinh sống. Cơ quan BHXH là đơn vị trực tiếp thu nên việc xác nhận quá trình đóng BHTN và ban hành quyết định hưởng trợ cấp sẽ thuận lợi hơn (tương tự như quyết định hưởng chế độ hưu trí, chế độ BHXH một lần). Ngành BHXH hiện đang có một hệ thống chi trả lương hưu tại huyện và cấp xã, hệ thống chi trả này đã đi vào nền nếp, các cán bộ chi trả có kinh nghiệm nhiều năm nên rất thuận tiện.

1.Nguyên nhân của vướng mắc gặp phải

      1.1.Ý thức của người lao động cũng như người sử dụng lao động chưa cao:

    Trước hết  tâm lý của người lao động là không muốn bỏ tiền ra đóng góp bất kỳ khoản gì, không muốn tham gia vì ngại những thủ tục phiền hà...

 Hiện tượng còn rất nhiều doanh nghiệp cũng như người lao động không chịu đóng bảo hiểm thất nghiệp là do họ rất băn khoăn về 3 câu hỏi:

Thứ 1 : Khi thất nghiệp sẽ phải đến đâu để nhận tiền trợ cấp.

Thứ 2 : Thủ tục đăng kí khá phiền hà.

Thứ 3 : Nhiều lao động còn tỏ ra chủ quan khi nhận định  rằng những gì họ nhận được từ bảo hiểm thất nghiệp là quá phiền phúc và từ đó có tâm lý là thà tranh thủ đi kiếm việc khác tốt hơn.

      Đó là người lao động còn người sử dụng lao động thì ta thấy rằng

trong điều kiện cạnh tranh rất gay gắt, trong điều kiện hội nhập mà nước ta hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì bất kỳ một sự gia tăng chi phí đầu vào nào dù là nhỏ cũng sẽ gây ảnh hướng sống còn đến hoạt động, sự sống của doanh nghiệp. Vì th

ế xảy ra hiện tượng chây ỳ trong việc đóng bảo hiểm thất nghiệp ở các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

1.2.

Các cơ quan h

ữu quan đùn đẩy trách nhiệm cho nhau

     Quy định của Luật về Bảo hiểm thất nghiệp nêu: trong vòng 7 ngày kể từ ngày mất việc, chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động phải đăng ký thất nghiệp; 15 ngày sau đó, người lao động phải nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Như vậy chỉ trong vòng 22 ngày người lao động phải hoàn tất hồ sơ, nếu không sẽ bị từ chối hưởng trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên, nhiều người lao động cho hay nơi họ làm việc cố tình gây khó khăn trong việc chốt sổ bảo hiểm xã hội.việc chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người thất nghiệp đã gặp nhiều vướng mắc. Nhiều người dù đã đăng ký từ sớm nhưng chưa được chốt sổ là do các doanh nghiệp làm thủ tục chốt sổ không đúng quy trình, nhầm lẫn thông tin của họ. Hồ sơ được gửi lên, Bảo hiểm xã hội rà soát thấy sai phải gửi trở lại để doanh nghiệp làm lại. Việc này sẽ khiến nhiều người lao động thất nghiệp không thể nhận được trợ cấp đúng hạn.

         Cơ quan chức năng lúng túng thừa nhận có nhiều vướng mắc phát sinh từ thực tế mà họ chưa lường hết được. Đơn cử, trong trường hợp doanh nghiệp nợ bảo hiểm thất nghiệp từ 3 tháng trở lên thì người lao động không được chốt sổ bảo hiểm xã hội, và như vậy sẽ không được nhận trợ cấp thất nghiệp. Lỗi ở đây là của chủ doanh nghiệp, nhưng thiệt hại lại thuộc về người lao động. Và cơ quan chức năng thì chưa biết xử lý ra sao.

        Tương tự, ở doanh nghiệp có chủ bỏ trốn cũng không biết phải giải quyết quyền lợi cho người lao động ra sao. Nếu doanh nghiệp không hợp tác trong việc chốt sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động đúng hạn thì cơ quan chức năng cũng chưa biết phải áp dụng biện pháp hữu hiệu nào.

 1.3.

Tính đa dạng của thị trường lao động nảy sinh các trường hợp khó giải  quyết:

Một trong những nguyên nhân gây ra thất nghiệp còn do những người lao động làm những công việc mang tính chất mùa chất mùa vụ, những làng nghề truyền thống. Tiền lương của họ cũng phụ thuộc vào sản lượng đặt hàng cũng như thời vụ trong năm do đó việc tính toán tiền lương chính xác để tính phí bảo hiẻm cũng không thể rõ ràng được. Đó là chưa kể, mức độ luân chuyển, di dời lao động ở nhiều công ty  phải đến 50% mỗi năm khiến việc theo dõi, chốt sổ bảo hiểm rất phức tạp. 

2. Những giải pháp để gỡ các vướng mắc hiện nay

Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong thị trường lao động. Thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp trở lại làm việc. Đồng thời, nó cũng hỗ trợ một khoản tiền đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ trong thời gian mất việc.

Bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình bảo hiểm tiến bộ không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ người lao động khi mất việc làm mà còn có giá trị ổn định kinh tế - xã hội đối với xã hội, đất nước. V

ì vậy, để chính sách BHTN thực sự phát huy vai trò, thu hút đông đảo người lao động cũng như chủ sử dụng lao động tham gia, trong thời gian tới, cần có những giải pháp gỡ những vướng mắc như sau :

Một là

, tăng cường tuyên truyền chính sách về BHTN đến tận chủ sử dụng lao động và người lao động thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo, tọa đàm, phổ biến chính sách ở các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các khu công nghiệp nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động cũng như bản thân người lao động về chính sách BHTN, quy trình thủ tục tham gia, các chế độ thụ hưởng BHTN như hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, bảo hiểm y tế…   

Hai là

, đẩy mạnh sự phối hợp giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và ngành Bảo hiểm xã hội nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện như ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, xác định đối tượng đóng BHTN, xác định rõ những người có việc làm thôi hưởng trợ cấp thất nghiệp. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngành và liên ngành, kiên quyết xử lý những doanh nghiệp cố tình trây ỳ, trốn đóng BHTN hoặc những trường hợp doanh nghiệp, người lao động có hiện tượng gian lận trong thụ hưởng chế độ BHTN.

Ba là

, cần phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động cùng với sự phối hợp của các cấp, các ngành trong việc tuyên truyền chính sách về BHTN cũng như giám sát việc thực hiện BHTN.

Bốn là

, về phía người lao động cần chủ động tìm hiểu nắm được chính sách BHTN, tích cực tham gia các cuộc hội thảo, tạo đàm hoặc phổ biến chính sách về BHTN để yêu cầu về quyền lợi tham gia BHTN khi ký kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động,

biết được quy trình, thủ tục khi thụ hưởng chế độ BHTN.

3. Định hướng phát triển BHTN trong thời gian tới:

Bảo hiểm thất nghiệp là một loại hình bảo hiểm tiến bộ không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ người lao động khi mất việc làm mà còn có giá trị ổn định kinh tế - xã hội đối với xã hội, đất nước. Trên thế giới, bảo hiểm thất nghiệp phát triển khi kinh tế thị trường phát triển. Khi đó, thị trường lao động phát triển mạnh thì khả năng rủi ro thất nghiệp lớn. Bảo hiểm thất nghiệp chỉ có ý nghĩa trợ cấp cho người lao động mang tính ngắn hạn. Đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp tương đối hẹp, là những người đã có việc làm, có quan hệ lao động (có hợp đồng lao động với người sử dụng lao động) và đóng bảo hiểm thất nghiệp thì khi mất việc làm sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Thị trường lao động ở Việt Nam hiện mới hình thành và còn trong giai đoạn phát triển thấp nên nếu áp dụng bảo hiểm thất nghiệp mà không có tính khả thi thì sẽ làm mất đi ý nghĩa xã hội của loại hình bảo hiểm này.         

Trong trường hợp xảy ra thất nghiệp hàng loạt do biến động về chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, thiên tai…thì cần phải có thêm giá đỡ của Nhà nước vì lúc đó quỹ bảo hiểm thất nghiệp sẽ không kham nổi. Không chỉ có nhà nư

ớc

bản thân chi phí đầu vào của các doanh nghiệp hiện nay cũng tăng do giá hàng hoá trên thị trường đã hình thành một mặt bằng giá cao. Trong khi đó, trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập thì cần phải có giải pháp giảm chi phí đầu vào nên nhiều doanh nghiệp vẫn lo ngại nếu áp dụng chính sách bảo hiểm thất nghiệp, đây là bài toán của bảo hiểm thất nghiệp mà hiện chưa có bài giải nào thấu đáo. Vì thế, các cơ quan h

ữu quan nên đặc biệt chú trọng vào mảng đào tạo nghề và giới thiệu việc làm mới cho người thất nghiệp hơn là tính toán đến số tiền đóng và hưởng.

         Đối với các nước phát triển, hệ thống bảo hiểm thất nghiệp được coi là một công cụ hấp thụ sốc tự động cho nền kinh tế. Nghĩa là khi kinh tế phát triển mạnh và tỷ lệ thất nghiệp giảm, dòng tiền chảy vào quỹ cao hơn dòng tiền chi trả ra, cho nên sẽ làm giảm bớt tổng cầu. Ngược lại khi kinh tế suy thoái, người thất nghiệp được nhận tiền từ quỹ vừa giảm bớt khó khăn cho họ, vừa ngăn không để tổng cầu giảm quá nhanh.

          Điểm đặc biệt của cơ chế này so với các gói kích thích tài chính là nó đã được luật hoá và vận hành không cần cơ quan lập pháp cho phép nữa, do vậy nó có tính tự động và rất kịp thời. Để tăng cường hiệu lực của cơ chế hấp thụ sốc tự động này, đã có đề xuất thay đổi mức đóng góp vào quỹ và mức chi trả từ quỹ tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế. Ví dụ khi kinh tế tăng trưởng nóng, phí bảo hiểm tự động được nâng lên, vừa giúp số tiền trong quỹ tăng lên nhanh hơn, vừa giảm bớt nhu cầu thuê nhân công của các doanh nghiệp và hạ nhiệt nền kinh tế. Khi kinh tế suy thoái, số tiền chi trả từ quỹ cho người thất nghiệp được tăng lên, kích thích tổng cầu mạnh hơn. Thêm vào đó, thời gian được hưởng bảo hiểm thất nghiệp có thể được kéo dài ra trong giai đoạn suy thoái, vì lúc này khả năng tìm việc mới sẽ khó hơn bình thường.

      Vì vậy, để BHTN thật sự mang ý nghĩa xã hội của nó, và làm công cụ đắc lực cho nền kinh tế. Đảng và Nhà nước cần chú trọng vào đào tạo nghề , tập trung nâng cao cả về cơ sở vật chất và chất lượng cho các trung tâm, cơ sở dạy nghề. Bên cạnh đó, cần có sự hợp tác và đóng góp của nhiều thành phần kinh tế: các doanh nghiệp hay tổ chức chính phủ, các doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, hợp tác xã nông nghiệp, v.v. Các tổ chức này có bổn phận tham gia đóng góp vào các quỹ, thu gom tiền đóng vào quỹ thất nghiệp của lao động và nộp và báo cáo cho các quỹ bảo hiểm thất nghiệp của chính phủ trung ương và địa phương. Các báo cáo chính xác sẽ giúp người bị mất việc được hưởng tiền thất nghiệp xứng đáng với sức lao động và sự đóng góp của họ và giúp tránh việc trả tiền thất nghiệp sai sót và lạm dụng BHTN của các thành phần không đóng góp khác.

 Nhân thức được tầm ảnh hưởng của thất nghiệp trong kinh tế xã hội thí các hệ thống bảo hiểm thất nghiệp đã được ra đời và đã có tác dụng nhằm:

  - Giúp ổn định thu nhập đời sống cho những người thất nghiệp không tự nguyện, đáp ứng cho họ những chi tiêu ccàn thiết mà kong gây ra tình trạng nợ nần

- Giúp những người thất nghiệp sớm có cơ ội tìm được việc làm, những người có kĩ năng sẽ tìm đựơc công việc pù hợp thay vì phải làm những công việc khác với mức lương không tương xứng

- Giúp ổn định nền kinh tế,

góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá thể và kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả - tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa cung và cầu trong thị trường lao động.

 - Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro