II: Mối Liên Hệ (Chương 14)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng



 Chương 14 


Cô kể lại câu chuyện về một người đàn ông bị ám ảnh nặng nề, danh tính bị tước đoạt, cuộc đời bị hủy hoại. Một người đã mô tả kẻ thù vô hình luôn truy đuổi hành hạ ông ta là Chúa, còn bản thân mình là Job. 


Rõ ràng người đàn ông khốn khổ đã ít nhiều mất trí, hai chữ "kỳ lạ" vẫn chưa đủ mạnh mẽ để mô tả đúng tình cảnh của ông ta. Cho dù chỉ có một phần là thật thì câu chuyện của ông ta thực sự xúc động, khiến người nghe khó có thể cầm lòng. Một cuộc đời bị hủy hoại hoàn toàn và một tội ác không rõ mục đích.


Rồi Sachs cũng chiếm được hoàn toàn sự chú ý của Rhyme khi cô nói, "Jorgensen cam đoan rằng kẻ đứng đằng sau tất cả chuyện này đã luôn bám theo ông ta kể từ khi ông mua cuốn sách này hai năm trước. Dường như hắn biết rõ mọi thứ ông ta làm." 


"Biết mọi thứ", Rhyme lặp lại, nhìn vào tấm bảng ghi bằng chứng. "Cũng chính là điều bọn anh vừa trao đổi với nhau vài phút trước. Hắn có được mọi thông tin cần thiết về các nạn nhân cũng như những người sẽ trở thành kẻ thế thân cho hắn." Anh thuật lại cho cô những gì họ đã biết được.


Cô đưa cuốn sách cho Mel Cooper và nói với anh ta Jorgensen tin bên trong cuốn sách có gắn một thiết bị định vị. 


"Thiết bị định vị?", Rhyme giễu cợt. "Ông ta đã xem quá nhiều phim của Oliver Stone* (Một đạo diễn phim nổi tiếng người Mỹ)... Được thôi, cứ tìm đi nếu em muốn. Nhưng đừng sao nhãng những manh mối thực sự."


Sachs gọi cho cảnh sát ở những nơi xảy ra các vụ việc trong đó Jorgensen bị biến thành nạn nhân, nhưng việc này đã không đem lại kết quả nào hữu ích. Đúng là đã có hành vi giả mạo danh tính, không còn nghi ngờ gì nữa. "Nhưng", một anh chàng cớm ở Florida hỏi lại, "cô có biết có bao nhiêu vụ kiểu này đang diễn ra không ? Chúng tôi tìm thấy một địa chỉ của bọn giả mạo nhưng khi đến nơi để tiến hành khám xét thì chẳng còn gì nữa. Bọn chúng đã khuân đi mọi thứ mua bằng tài khoản của nạn nhân và tếch đi Texas hay Montana". 


Phần lớn bọn họ đã nghe nói tới Jorgensen ("đúng là ông ta đã viết rất nhiều thư") và tỏ ra thông cảm. Nhưng không ai có đầu mối dẫn tới một cá nhân hay một băng nhóm nào cụ thể có khả năng đứng sau những tội ác đó và họ không có đủ thời gian để điều tra những vụ việc này như họ mong muốn. "Dù có thêm một trăm nhân viên nữa chúng tôi vẫn không thể đạt được bất cứ tiến triển nào."


Sau khi đã gác máy, Sachs cho mọi người biết vì Năm Hai Hai biết địa chỉ của Jorgensen, cô đã yêu cầu anh chàng thường trực của khu nhà báo cho cô biết ngay lập tức nếu có ai đó gọi điện hay đến hỏi về ông ta. Nếu anh chàng này chấp nhận làm thế, Sachs sẽ lờ đi, không đả động gì về khu nhà cho thuê này với cơ quan quản lý nhà đất thành phố. 


"Làm tốt lắm", Rhyme nói, "em đã biết trước có vi phạm gì sao?".


"Không hề, cho tới khi anh chàng kia đồng ý. Ồ, nhanh gần bằng tốc độ ánh sáng." Sachs đi tới bên các bằng chứng Pulaski đã mang về từ ngôi nhà gần SoHo, cúi xuống xem xét. 


"Có ý tưởng nào không, Amelia?", Sellitto hỏi.


Cô đứng nhìn chăm chằm vào chiếc bảng, các đầu ngón tay áp chặt vào nhau trong khi cố gắng tìm ra điều gì đó có ý nghĩa từ tập hợp bằng chứng rời rạc này. 


"Hắn đã lấy được những thứ này từ đâu?", cô giơ lên chiếc túi chứa chân dung Myra Weinburg in từ máy tính – một khuôn mặt dịu dàng tươi vui, đôi mắt cô gái nhìn thẳng vào ống kính. "Chúng ta cần tìm cho ra."


Một điểm đáng giá. Rhyme chưa hề nghĩ tới nguồn gốc của bức ảnh mà chỉ đơn giản cho rằng Năm Hai Hai đã tải nó xuống từ một trang web nào đó. Anh đã quan tâm nhiều hơn tới tờ giấy in ảnh như một nguồn dấu vết. 


Trong bức ảnh, Myra Weinburg đang đứng bên một thân cây nở đầy hoa, mỉm cười nhìn thẳng vào ống kính. Cô cầm trong tay một thứ đồ uống màu hồng đựng trong một ly thủy tinh loại chuyên đựng rượt martini.


Rhyme nhận ra Pulaski cũng đang nhìn chằm chằm vào bức ảnh, đôi mắt cậu ta lại có vẻ bất an. 


Cô ấy trông hơi giống Jenny.


Rhyme nhận thấy những đường viền ảnh rất đặc biệt, cùng những vệt có vẻ như nét một số chữ cái ở phía phải, kéo dài ra ngoài khuôn ảnh. "Chắc chắn hắn đã lấy bức ảnh trên mạng. Để có vẻ như DeLeon Willians đã tìm kiếm nạn nhân." 


Sellitto nói, "Biết đâu chúng ta có thể lần ra dấu về của hắn qua địa chỉ mà hắn đã tải bức ảnh. Làm thế nào để biết hắn tìm thấy bức ảnh ở đâu?".


"Thử tìm theo tên cô gái trên Google xem", Rhyme gợi ý. 


Cooper thử làm theo và có được một tá kết quả, một số trong đó dẫn đến một Myra Weinburg khác. Những câu trả lời liên quan tới nạn nhân đều là trang web của các tổ chức chuyên nghiệp. Song không có bức ảnh nào của cô gái giống với bức hình Năm Hai Hai đã in ra.


Sachs nói, "Tôi có ý này. Để tôi gọi cho chuyên gia máy tính của mình". 


"Ai thế, anh chàng ở Bộ phận Tội phạm tin học à?", Sellitto hỏi.


"Không, một người giỏi hơn anh ta." 


Cô nhấc điện thoại lên bấm số. "Chào, Pammy. Em đang ở đâu thế?... Tốt. Chị có việc cần nhờ em đây. Hãy lên mạng để chat qua webcam đi. Chúng ta sẽ trao đổi phần tiếng qua điện thoại."


Sachs quay sang Cooper. "Anh bật webcam của mình lên được chứ, Mel." 


Anh chàng chuyên gia pháp ý gõ lên bàn phím và một khoảnh khắc sau trên màn hình xuất hiện hình ảnh căn phòng của Pam tại nhà bố mẹ nuôi cô bé tại Brooklyn. Khi cô bé ngồi xuống, một khuôn mặt xinh đẹp tuổi vị thành niên xuất hiện. Hình ảnh hơi biến dạng do các thấu kính góc rộng.


"Chào Pam." 


"Xin chào, ông Cooper", một giọng nói du dương vang lên qua loa ngoài của điện thoại.


"Nhường chỗ cho tôi nào", Sachs nói và thế chỗ Cooper trước bàn phím. "Bé con, bọn chị vừa tìm thấy một bức ảnh và nghĩ nó được tải về từ Internet. Em có thể xem qua và nói cho bọn chị nếu em biết nó được tải về từ đâu không?" 


"Tất nhiên rồi"


Sachs giơ tờ giấy in ảnh lên trước webcam. 


"Lóa quá. Chị lấy nó ra khỏi túi nilon được không?"


Cô xỏ tay vào một đôi găng cao su, rồi thận trọng lấy bức ảnh ra, giơ lên lần nữa. 


"Rõ hơn rồi đấy. Chắc chắn nó được tải từ OurWorld."


"Đó là cái gì vậy?" 


"Chị biết đấy, một mạng xã hội. Kiểu như Facebook hay MySpace. Một mạng mới đang rất nổi. Ai cũng truy cập vào đó."


"Anh có biết về nó không, Rhyme?", Sachs hỏi. Anh gật đầu. Cũng thật lạ, gần đây anh rất hay nghĩ về chủ đề này. Anh đã đọc một bài trên Thời báo New York về các mạng liên kết và thế giới không gian ảo như Cuộc đời thứ hai. Anh rất ngạc nhiên khi biết con người đang ngày càng dành ít thời gian cho thế giới thực và nhiều thời gian trong thế giới ảo hơn, từ avatar đến mạng xã hội, rồi làm việc từ xa qua Internet. Có vẻ như đám trẻ ngày nay đang dành ít thời gian ra ngoài hơn bất cứ thời kỳ nào của lịch sử nước Mỹ. Trớ true thay, nhờ vào một chế độ luyện tập cho phép cải thiện thể trạng, cũng như sự thay đổi về thái độ của anh, bản thân Rhyme ngày càng bớt chìm đắm vào thế giới ảo và đánh bạo ra ngoài nhiều hơn. Ranh giới ngăn cách giữa người lành lặn và tàn tật đang mờ dần.

Lúc này Sachs hỏi Pam, "Em có chắc bức ảnh này được tải từ trang đó không?". 


"Đúng mà. Bọn họ có kiểu viền ảnh đặc biệt đó. Nếu chị nhìn thật gần, nó không chỉ là một đường viền; nó được ghép lại từ những hình quả cầu nhỏ xíu, giống như Trái Đất, xếp lặp đi lặp lại."


Rhyme nheo mắt. Phải, khung viền của bức ảnh đúng như cô bé mô tả. Rồi anh nhớ ra từng đọc thấy OurWorld trong bài báo nọ. "Chào Pam, mạng đó có nhiều thành viên lắm đúng không?" 


"Ồ, xin chào ông Rhyme. Đúng thế. Khoảng ba mươi hay bốn mươi triệu người. Cô gái đó thuộc 'lãnh địa' nào?"


"Lãnh địa?", Sachs hỏi. 


"Đó là cách họ gọi trang cá nhân. 'Lãnh địa' của bạn. Cô ấy là ai vậy?"


"Chị rất tiếc, cô ấy vừa bị giết hôm nay", Sachs nói bằng giọng đều đều. "Đây chính là vụ điều tra mà chị đã nói với em đấy." 


Rhyme sẽ không đời nào đề cập đến vụ án mạng với một đứa trẻ vị thành niên. Nhưng đây là cuộc gọi của Sachs và cô biết rõ những gì có thể chia sẻ, cái gì không.


"Ôi, em xin lỗi" Pam có vẻ đồng cảm nhưng không hề sốc hay hốt hoảng trước sự thật phũ phàng. 


Rhyme hỏi, "Pam, liệu có người nào đó có thể truy cập và xâm nhập vào lãnh địa của người khác không?".


"Thế này nhé, đáng ra cần đăng nhập. Nhưng nếu không muốn đăng bài hay lập lãnh địa riêng cho mình, ông vẫn có thể xâm nhập vào để nhìn ngó một chút." 


"Vậy theo cháu người đã in bức ảnh này ra biết rõ về máy tính."


"Đúng thế, cháu đoán là anh ta phải biết. Có điều không phải anh ta in bức ảnh ra." 


"Gì cơ?"


"Ông không thể in hay tải về bất cứ thứ gì. Thậm chí ngay cả khi dùng lệnh in hình ảnh trên màn hình. Có một cơ chế lọc trong hệ thống để ngăn chặn những kẻ xâm nhập trái phép. Ông không thể bẻ khóa được. Nó cũng giống như biện pháp được dùng để bảo vệ các cuốn sách điện tử có bản quyền trên mạng." 


"Vậy làm cách nào hắn có được bức ảnh?", Rhyme hỏi.


Pam bật cười. "Ồ, chắc là anh ta làm theo cách tất cả bọn cháu làm ở trường nếu muốn có ảnh của một anh chàng dễ thương hay một người có phong cách lạ lùng kỳ quái nào đó. Bọn cháu chỉ việc dùng máy ảnh kỹ thuật số chụp lại màn hình thôi. Ai cũng làm thế mà." 


"Hẳn rồi", Rhyme vừa nói vừa lắc đầu. "Thế mà tôi chưa từng nghĩ đến."


"Ồ, đừng lo, ông Rhyme", cô bé nói. "Không hiếm khi người ta bỏ quên mất câu trả lời hiển nhiên nhất đâu." 


Sachs liếc nhìn Rhyme, lúc này đang mỉm cười trướ lời an ủi của cô bé. "Okay, Pam. Cảm ơn nhiều. Tôi sẽ gặp cháu sau."


"Bye!" 


"Hãy bổ sung vào bức chân dung anh bạn của chúng ta."


Sachs cầm lấy chiếc bút và bước tới bên tấm bảng trắng. 



Mô tả đặc điểm ĐTBA 522


- Nam giới.


- Có thể hút thuốc hay sống/làm việc với người hút thuốc, hoặc ở gần nguồn gây ra tàn thuốc. 


- Có con hoặc sống/làm việc gần nơi có trẻ con hay nơi có nguồn đồ chơi.


- Quan tâm tới tác phẩm nghệ thuật, tiền xu cổ  


- Nhiều khả năng da trắng hoặc sáng màu.


- Vóc người trung bình. 


- Khỏe – có khả năng siết cổ nạn nhân.


- Có cơ hội tiếp cận thiết bị ngụy trang giọng nói. 


- Nhiều khả năng biết rõ về máy tính, mạng xã hội OurWorld. Còn các trang mạng xã hội khác?


- Lấy chiến lợi phẩm từ nạn nhân. Một kẻ tàn bạo biến thái? 


- Một phần nơi ở/nơi làm việc thường xuyên trong tình trạng thiếu ánh sáng, ẩm thấp.


Bằng chứng không sắp đặt trước: 


- Vết bụi đất.


- Vết bìa các tông cũ. 


- Tóc búp bê, sợi BASF B35 nylon 6.


- Tàn thuốc lá hiệu từ thuốc lá điếu Tareyton. 


- Mảnh thuốc lá cũ, không phải Tareyton, nhưng không rõ loại.


- Vết nấm mốc Stachybotrys Chartarum.  




Rhyme đang xem xét lại các chi tiết thì nghe thấy Mel Cooper phá lên cười. "Ái chà chà." 


"Gì thế?"


"Chuyện này thú vị đây." 


"Nói cụ thể đi. Tôi không cần sự thú vị. Tôi cần thực tế."


"Dù gì đi nữa vẫn rất thú vị." Cooper đang chiếu chùm sáng mạnh vào phần gáy đã bị cắt tung ra trên cuốn sách của Robert Jorgensen. 


"Anh cho rằng ông bác sĩ này đã hóa rồ khi nói về thiết bị định vị đúng không? Được thôi, thử đoán xem. Oliver Stone có thể làm được một bộ phim về chuyện này đấy. Có thứ gì đó được cài vào cuốn sách. Chính xác là vào phần gáy sách."


"Thật sao?", Sachs nói, lắc đầu. "Tôi đã nghĩ ông ấy hơi lẩn thẩn." 


"Để tôi xem nào", Rhyme nói, sự tò mò bắt đầu bị đánh thức, trong khi tâm trạng ngờ vực nhất thời được xếp sang một bên.


Cooper đưa một chiếc camera nhỏ có độ phân giải cao lại bàn thí nghiệm, chiếu một chùm tia hồng ngoại vào cuốn sách. Phía dưới lớp dán gáy hiện lên một vật hình chữ nhật nhỏ xíu, trên bề mặt có những vạch ngang dọc. 


"Lấy nó ra", Rhyme nói.


Cooper thận trọng tách gáy sách và lấy ra một mảnh dài chừng một inch* (Đơn vị đo chiều dài của Anh, 1 inch = 2.54 centimet) làm bằng giấy có phủ chất dẻo, trên bề mặt có những đường vạch nhỏ chạy giống như trên một bản vi mạch máy tính. Trên đó cũng có một dãy số cùng tên nhà sản xuất DMS, Inc. 


Sellitto hỏi, "Cái chết tiệt gì thế này? Có đúng là một thiết bị định vị không?".


"Tôi không hiểu cách thức hoạt động của nó. Không thấy pin hay bất cứ nguồn cung cấp năng lượng nào", Cooper nói. 


"Mel, hãy tìm công ty này."


Một cuộc tìm kiếm nhanh trong danh mục các công ty cho biết đó là công ty Data Management Systems, có trụ sở ở ngoại ô Boston. Anh ta đọc to lên một đoạn mô tả về công ty này, trong đó có bộ phận chuyên sản xuất những thiết bị tí hon như thứ họ vừa tìm thấy, những con chíp RFID, nhận dạng bằng tín hiệu ở tần số radio. 


"Tôi đã nghe nói về chúng", Pulaski nói. "Trên CNN."


"À, nguồn thông tin tuyệt vời cho khoa học hình sự", Rhyme nói với giọng mỉa mai chua chát. 


"Không, đó là trong CSI * (Viết tắt của Crime Scene Investigation (Đội Điều tra Hiện trường) là series phim truyền hình trinh thám, tâm lý tội phạm Mỹ) ", Sellitto nói, khiến Ron Pulaski bật cười rồi vội vàng im bặt.


Sachs hỏi, "Vậy thứ thiết bị này có tác dụng gì?". 


"Một điều khá là thú vị đấy."


"Lại một lần nữa, thú vị." 


"Về nguyên tắc, đây là một con chíp đã được lập trình để có thể hoạt động được nhờ vào một máy quét tín hiệu radio. Không cần đến pin, ăng ten của chúng thu nhận sóng radio và nguồn sóng này cung cấp đủ năng lượng để chúng hoạt động."


Sachs nói, "Jorgensen nói cần phá hủy ăng ten để vô hiệu hóa chúng và có thể phá hủy một số loại thiết bị kiểu này bằng lò vi sóng. Nhưng thứ đó...", cô chỉ về phía con chíp họ vừa phát hiện ra, "ông ta không thể phá hủy được. Hay ít nhất ý ông ta là vậy". 


Cooper nói tiếp, "Chúng được sử dụng để kiểm soát hàng hóa tại các cơ sở sản xuất và bán lẻ. Trong vài năm tới, mọi sản phẩm bán ra tại Mỹ sẽ được gắp chíp RFID. Hiện tại, một số tập đoàn bán lẻ đã đưa ra yêu cầu này trước khi họ nhập về một dòng sản phẩm nào đó".


Sachs bật cười. "Đúng là điều Jorgensen đã nói với tôi. Có thể ông ta không đến mức ngớ ngẩn như tôi nghĩ." 


"Mọi sản phẩm?", Rhyme hỏi.


"Phải. Như thế các cửa hàng sẽ biết số hàng đó ở đâu trong kho, họ đang có trong tay bao nhiêu hàng, thứ gì bán chạy hơn những thứ khác, khi nào cần bổ sung hàng lên kệ bán, khi nào cần nhập hàng. Chúng cũng được dùng trong việc kiểm soát hành lý ở các hãng hàng không, nhờ vậy họ luôn biết rõ hành lý của các vị đang ở đâu mà không cần phải trực tiếp quét mã vạch kiểm tra. Và cả trong thẻ tín dụng, bằng lái xe, thẻ nhân viên. Người ta gọi chúng là những chiếc 'thẻ thông minh'." 


"Jorgensen muốn nhìn tận mắt thẻ cảnh sát của tôi. Ông ta đã kiểm tra nó rất kỹ lưỡng. Có thể ông ta muốn biết nó có thuộc loại thẻ này không."


"Chúng có mặt ở khắp mọi nơi", Cooper tiếp tục. "Trong những chiếc thẻ chiết khấu các vị sử dụng tại các cửa hàng tạp hóa, trong thẻ khách hàng quen thuộc của các hãng hàng không, cũng như các thẻ thông minh dùng thanh toán phí cầu đường." 


Sachs hất hàm về phía bảng ghi các bằng chứng. "Thử nghĩ về điều đó xem, Rhyme. Jorgensen nói rằng kẻ mà ông ta gọi là Chúa biết mọi thứ về cuộc sống của ông ta. Đủ để đánh cắp được danh tính, mua đủ thứ dưới tên ông ta, thực hiện các khoản vay, lấy thẻ tín dụng, cũng như tìm ra nơi ông ta ẩn náu."


Rhyme cảm nhận được sự hưng phấn, đầy kích thích khi tiến lên phía trước trong cuộc săn lùng. "Năm Hai Hai biết đủ rõ về các nạn nhân của hắn để tiếp cận họ, vượt qua sự cảnh giác của họ. Hắn biết đủ rõ về những kẻ hắn chọn làm vật thế thân để sắp đặt trước những bằng chứng tương tự như những thứ họ có ở nhà." 


"Và", Sellitto nói thêm, "hắn biết chính xác họ ở đâu vào thời điểm hắn gây án. Vì thế họ không thể có được bằng chứng ngoại phạm".


Sachs chăm chú nhìn thiết bị định vị nhỏ bé. "Jorgensen nói cuộc đời ông ta bắt đầu tan nát kể từ khi ông ta có cuốn sách này." 


"Ông ta đã mua nó ở đâu vậy? Có hóa đơn hay nhãn giá không, Mel?"


"Không gì hết. Nếu có chắc ông ta đã cắt đi mất rồi." 


"Hãy gọi cho Jorgensen. Đưa ông ta đến đây."


Sachs lấy điện thoại di động ra và gọi tới khu nhà cho thuê nơi cô vừa gặp người bác sĩ. Cô cau mày. "Đi rồi sao?", cô hỏi anh chàng thường trực. 


Có vẻ không được ổn lắm, Rhyme thầm đoán.


"Ông ta đã chuyển đi", cô nói sau khi ngắt liên lạc. "Nhưng em biết ông ta đi đâu." Cô lấy ra một mảnh giấy, thực hiện một cuộc gọi khác. Tuy nhiên sau vài câu trao đổi ngắn, cô ngắt liên lạc, thở dài thất vọng. Jorgensen không hề có mặt tại khách sạn đó, thậm chí ông ta cũng không hề gọi điện tới để đặt phòng. 


"Em có số di động không?"


"Ông ấy không có điện thoại di động. Không tin tưởng chúng. Nhưng ông ấy biết số của em. Nếu chúng ta gặp may ông ấy sẽ gọi." Sachs đi tới gần con chip nhỏ xíu. "Mel. Cắt dây dẫn đi. Chính là ăng ten đấy." 


"Cái gì ?"


"Jorgensen nói một khi chúng ta cầm cuốn sách, cũng có nghĩa chúng ta đã bị theo dõi. Cắt nó đi." 


Cooper nhún vai liếc nhìn về phía Rhyme, anh thầm nghĩ ý kiến của Sachs thật ngớ ngẩn. Nhưng Amelia Sachs không phải là người dễ dàng sợ bóng sợ gió. "Cứ làm thế đi. Chỉ cần ghi thêm một dòng ghi chú trên tấm thẻ mô tả bằng chứng: 'Bằng chứng đã được vô hiệu hóa'."


Một cách diễn đạt thường được dang cho các loại bom và súng. 


Sau đó Rhyme không còn quan tâm tới RFID nữa. Anh ngước mắt lên. "Được rồi. Cho tới khi chúng ta có được tin tức từ ông ta, hãy cùng nghiên cứu tiếp vụ này đã... Tiếp tục nào, mọi người. Hăng hái lên. Tôi cần vài ý tưởng ở đây ! Chúng ta có một tên tội phạm có thể tiếp cận được tất cả những thông tin cá nhân của người khác. Bằng cách nào? Hắn biết về mọi thứ mà những kẻ thế thân thường mua. Dây câu, dao làm bếp, kem cạo râu, phân bón cỏ, bao cao su, băng dính, dây thừng, bia. Đã có bốn nạn nhân và bốn người bị vu oan – ít nhất là vậy. Hắn không thể theo dõi tất cả mọi người ở khắp mọi nơi cùng một lúc, hắn cũng không hề đột nhập vào nơi ở của họ."


"Có thể hắn là nhân viên tại một trong những cửa hàng đại hạ giá", Cooper đề xuất. 


"Nhưng DeLeon mua một vài thứ trong số những đồ vật được lựa chọn làm bằng chứng tại cửa hàng Home Depot. Tại đó, anh không thêt mua được bao cao su hay đồ ăn vặt."


"Có thể Năm Hai Hai làm việc cho một công ty thẻ tín dụng thì sao?", Pulaski gợi ý. "Hắn có thể biết được những gì người ta mua bằng thẻ tín dụng." 


"Không tồi, Rookie... Nhưng cũng có những lúc các nạn nhân buộc phải thanh toán bằng tiền mặt."


Thật ngạc nhiên, Thom chính là người đưa ra được một câu trả lời. Anh ta moi chùm chìa khóa của mình ra. "Tôi nghe thấy Mel vừa nhắc đến những chiếc thẻ giảm giá" Anh ta chìa ra mấy chiếc thẻ nhựa nhỏ gắn vào dây móc chìa khóa. Một dùng cho A&P* (Tên một hệ thống siêu thị và cửa hàng bán lẻ thực phẩm tại Mỹ) , một cho Food Emporium (Tên một hệ thống siêu thị và cửa hàng bán lẻ thực phẩm tại Mỹ). "Tôi quẹt thẻ và hưởng một khoản khấu trừ. Cho dù tôi trả tiền mặt, cửa hàng vẫn biết tôi mua những gì." 


"Tuyệt lắm", Rhyme nói. "Nhưng từ đó chúng ta sẽ đi tới đâu? Chúng ta vẫn đang lần tìm theo hàng tá những nơi các nạn nhân và những người bị đổ tội thường hay mua hàng."


"A." 


Rhyme nhìn Sachs, lúc này đang chăm chú nhìn vào tấm bảng danh sách bằng chứng và hơi mỉm cười. "Em nghĩ em tìm ra rồi."


"Cái gì?", Rhyme hỏi, hy vọng nghe được một lập luận thông minh dựa trên nguyên tắc khoa học hình sự và áp dụng được trên thực tế. 


"Giày", cô nói gọn lỏn. "Câu trả lời chính là những chiếc giày."   



[Hết chương 14]


---


Chương 15: Tôi nhận được hơn hai mươi triệu câu trả lời cho 'khai thác dữ lệu'."




Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro