Tieu Thuyet Mẹ Ghẻ Con Ghẻ Hồ Biểu Chánh 8-12

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phần thứ nhì

1 - NGHỀ PHÁ SẢN

(8)

Ở đất Càng Long, có nhiều nhà giàu lớn, đứng bộ đến năm bảy trăm mẫu ruộng, mỗi năm thâu góp số huê lợi đến 30. 000 thùng lúa.

Ông Bồi bái Phan Văn Tồn chưa được cái danh nhà giàu song hồi trước ở trong làng. Mỹ Huê ông cũng là một " người có cơm tiền một vị điền chủ bực trung, bởi vậy ông mới được cử làm Hương chức, ăn trên ngồi trứơc dân chúng.

Sở dĩ ông được cái địa vị ấy, trứơc hết ông nhờ ơn tổ phụ để lại cho ông một tòa nhà ngói cất trên gần một mẫu thổ trạch, với 12 mẫu ruộng lúa nằm ngay trước nhà. Gia sản ấy có cước trong hộ, nhà là nhà thờ, đặng phụng tự ông bà cha mẹ. Vì ông là con một, khi còn nhỏ cha mẹ cưng, không cho ông đi học xa, rồi lúc gần cưới vợ, cha mẹ lại mua để cho ông đứng hộ riêng 13 mẫu ruộng trong kênh Suối Cạn nữa. thành thử khi ông 21 tuổi, cha mẹ cưới Thị Tánh là con gái của Hương chánh Quảng ở Láng Thê, cho ông có đôi bạn với người ta thì ông đã ra mặt một tiểu điền chủ trong làng.

Vì vợ chồng ông chậm con, nên năm ông được 26 tuổi cha mẹ ông tiếp nhau về âm cảnh, mà chưa thấy mặt chút cháu nội nào để nựng nịu cho phỉ tình.

Đến năm ông được 32 tuổi, làm làng đã lên chức Hương Giáo, Thị Tánh mới sinh cho ông đứa con gái đấu lòng đặt tên là Phan Thị Mỹ, rồi 2 năm sau sanh thêm đứa con trai nữa, đặt tên là Phan Văn Quí.

Phan Văn Quí này là cậu học trò giỏi của thầy Nhứt Vĩnh, vì gia thế bắt buộc phải thôi học mà ở làm bồi cho quan Kinh Lý La-Co như đã nói trong đoạn trước.

Thị Tánh, vợ của Phan Văn Tồn, vốn con nhà có ăn, mà lại biết cung kính cha mẹ, chiều chuộng bên chồng, quen thói cần kiệm, giỏi bề nội trợ. Mặc dầu trong vùng Càng Long, đàn bà ham tứ sắc, đàn ông mê đá gà, đi đến nhà nào cũng thấy những sòng bạc, cũng nghe những chuyện ăn thua, thế mà thị Tánh lại bịt mắt bít tai,không thèm ngó, không muốn nghe, cứ chăm chú lo làm ăn, mùa nước lo cấy cày, mùa khô lo trồng đậu, trồng cải, trồng thuốc, trồng dưa để bán.

Nhờ công lao và cần kiệm của Thị Tánh mà khi cha mẹ của Tồn mất rồi, thì trong nhà có dư được năm bảy ngàn. Kế thị Tánh được lãnh phần ăn bên cha mẹ hàng bữa, thành ra có trên bạc muôn.

Vì Tồn làm hương chức, hay đi đám tiệc, phải đánh bài đá gà chút đỉnh với người ta, Thị Tánh sợ chồng mê sa đỏ đen mà sạt nghiệp, nên thừa dịp có người thua khiếm phải bán 25 mẫu ruộng mà trả nợ, Thị Tánh mới xúi chồng đứng mua, nhờ vậy mà Phan Văn Tồn ra mặt "người có cơm tiền" chánh thức.

Bực kỳ lão trong làng ai thấy bề thế của vợ chồng Phan Văn Tồn phát đạt như vậy, thì cũng đoán chắc sẽ còn làm giàu thêm nữa. Mà có người hoặc muốn khoe tài tiên tri, hoặc thấy người ta làm ăn khá thì đố kỵ, lại nói rằng vợ chồng còn nhỏ mà phát đạt sớm quá, sợ không bền vững.

Không hiểu tại lời nguyền rủa ấy hay là tại mạng số dĩ nhiên, mà khi Phan Văn Tồn mới được 37 tuổi thì vợ phát bịnh có mấy ngày rồi mất làm cho lời tiên tri không sai, mà lời nguyền rủa cũng có hiệu quả.

Thị Tánh chết để lại cho chồng hai đứa con thơ là Mỹ mới 5 tuổi và bé Quí mới 3 tuổi.

Trót 16 năm đường, Tồn nhờ người vợ hiền lương cần kiệm, quản suốt gia đình, trong lo nuôi con, ngoài lo ruộng rẫy, thình lình giữa đường gẫy gánh, bởi vậy anh ta hết sức thương tiếc, thấy con rất đau lòng, nhớ vợ càng thêm tủi.

Tuy có nhà cửa đàng hoàng, có tới 50 mẫu ruộng, lại không thiếu nợ nần chi hết, song anh ta cũng chán nản, cho rằng cảnh đời đã hư hỏng hạnh phúc đã tiêu tan. Anh hết muốn vui chơi nữa, cứ lục đục ở nhà thay thế cho vợ hiền mà săn sóc hai đứa con nhỏ, coi cho bạn bè trông đậu trông dưa, đến mùa gặt thì đi thâu góp lúa ruộng. Anh em hương chức có gà hay đánh bài, thì viện lẽ con thơ mất mẹ, việc nhà bê bối phải coi trong coi ngoài, nên không nói đi đâu được.

Trong làng ai cũg biết gia đạo của Tồn xẩn bẩn ở nhà, không ai dám phiền trách hay chê cười. Nếu Tồn cứ nhớ công lao cực nhọc của vợ, cứ thương thân phận côi cút của con, cứ thay cho vợ làm ruộng rẫy nuôi con thơ thì cái vui hủ hỉ với con thì có lẽ cũng thỏa lấp được cái buồn vĩnh biệt vợ.

Ngặt Tồn thất ngẫu, mới 37 tuổi, dục vọng còng đầy đủ, khí lực còn dồi dào, ham tấn thủ hơn an nhàn, thích hoạt động hơn trầm tịnh. An mạng thuận thời để tu thân tề gia được chừng một năm rồi rồi sự ham vui chơi lần lần phát lại mà làm nguôi lòng về nghĩa nặng của vợ mình và tình nồng của con.

Ban đầu Tồn dắt hai con đi chơi đặng giải buồn, có khi đi ra chợ mua đồ, có bữa đến mấy nhà ở gần mà nói chuyện. Chỗ Tồn đem con tới chơi thường hơn hết là quán của vợi chồng Ba Thới, ở tại ngã ba đường vô giồng.

Vợ Ba Thới gốc ở Láng Thê, cũng như Thi Tánh là vợ của Tồn. Hai người sanh trưởng chung một xóm, lại có chồng về ở chung trong làng Mỹ Huê bởi vậy thuở nay thân thiết với nhau như chị em cật ruột. Vợ Ba Thới chỉ có một đứa con gái, đặt tên Hường, nhỏ hơn Quí một tuổi.

Vì tình đồng hương thân thiện ấy nên bữa nào Tồn có dắt con Mỹ với bé Quí vô chơi thì vợ Ba Thới niềm nở vui mừng, lấy bánh cho hai đứa nhỏ ăn, để Quí chơi với Hường bắt chí gỡ đầu cho Mỹ. Vợ Ba Thới muốn thử lòng Tồn, nên có khi hỏi Tồn đã có tính kiếm nơi mà chấp to nối tóc hay chưa. Tồn lắc đầu nói mình đã có con trai con gái đủ rồi, không cần có thêm mà phải cưới vợ nữa. Anh ta thường quyết ở góa mà nuôi con, đặng tránh cảnh mẹ ghẻ con riêng thuờng làm rối rấm trong gia đạo.

Nhưng có bữa Tồn than phận đàn ông nuôi con nhỏ thật là khó về sự may vá áo quần cho sắp nhỏ khỏi rách rưới.

Vợ Ba Thới nói trong nhà có chú Tiền, mà chú mắc lo cơm nước, giờ rãnh chú còn phải làm cỏ chung qunh nhà. Nếu bắt chú săn sóc hai đứa nhỏ nữa, thì chú làm sao cho xiết. Phần đơn chiếc, mà sẵn có tiền thì phải mướn người giúp đỡ trong nhà; nên mướn một người đàn bà trọng tuổi, biết đi chợ nấu ăn, đặng lo cơm nước hằng ngày và vá quần áo cho sấp nhỏ, để chú Tiền quét tước trong nhà và làma cỏ, trồng rau, cuốc giồng, xách nước. Còn hai đứa nhỏ thì phải mứơn một người theo chời bời và gìn giữ chúng nó luôn luôn, ban ngày dắt chúng nó đi chơi, chiều tắm rửa cho nó sạch sẽ, tối giũ mùng trải chiếu cho chúng nó ngủ. Giữ em chẳng cần phải mướn người lớn chỉ kiếm một đứa 14 hoặc 15 tuổi cho rẽ tiền công. Mà con Mỹ là con gái, thì không nên mướn con trai giữ phải mướn một đứa con gái sạch sẽ hiền lành, đặng tập cho hai đứa quen tánh nết ôn hòa biết ăn nói độ lượng.

Thuở nay Tồn không lưu tâm đến việc trong nhà khi cha mẹ còn thì cha mẹ cầm quyền, chứng cha mẹ khuất, thì có vợ lo lắng sắp đặt mọi việc. Thình lình vợ mất, một mình phải gánh vác mọi việc trong việc ngoài phải lo từ nhà cửa đến con thơ, từ cơm nước đến ruộng rẫy, bời vậy trót cả năm phải nhọc lòng mệt mỏi không biết phải làm cách nào cho nhẹ bớt gánh nặng gia đình. Nay được vơ Ba Thới vỉ tình thân ái với bạn xưa nên chỉ nẻo dẫn đường. Tồn nghĩ nhà có tiền dẫu mướn thêm người lo cơm nước và giữ hai con cũng không tốn hao bao nhiêu, nên tiến cậy vợ Ba Thới ra công kiếm người mà mướn giúp, tiền công mắc rẽ không cần, miễn là được người chắc chắn thật thà, biết trung tính với chủ nhà, biết thương yêu hai đứa nhỏ.

Nội tháng sau, vơ Ba Thới kiếm mướn giùm cho Tồn đủ hai người, mướn con Tốt 15 tuổi, là con trùm Sóc, ở giữ em, và mướn thím Bài, một quá phụ ở kinh Đùng Đình, lãnh phần vá may và bếp núc.

ConTốt tuy con nhà nghèo, song gòn gàng sạch sẽ, dễ thương, cách ăn nói dịu dàng, biết chiều chuộng hai đứa nhỏ. Còn thím Bài tuy quá 50, song sức vẫn còn đầy đủ, biết may vá giỏi nấu ăn, lại có tính siêng năng bặt thiệp.

Hai người ở được vài bữa, Tồn dòm xem cửa chỉ và ý tứ thì rất vừa lòng, nhứt là nhận thấy Mỹ với Quí chịu đi chơi với con Tốt, để cho chàng được rãnh rang, thì chàng lấy làm vui, nên vô cám ơn vợ chồng Ba Thới lựa giùm người đúng đắn.

Con người hễ bận việc thì phải buồn lo nên than thở, mà rãnh rang thì sanh chứng ham vui chơi. Tồn có người lo cơm nước, lại có người lãnh giữ con, thì thân được an, trí được khoẻ, sớm mơi chỉ coi chú Tiền làm vườn một lát rồi vô nhà ăn cơm. Nằm hoài cũng buồn, nên ăn cơm rồi xách dù đi dạo xóm.

Thật ban đầu thì vô quán nằm nói chuyện chơi với Ba Thới đặng giải khuấy. Mà nói khào hoài rồi cũng nhàm, lại phải gặp Ba Thới có việc phải đi qua Cù lao Dài ít bữa, Tồn mới men men đi ra phía ngoài chợ.

Chợ Càng Long là cái ổ bài tứ sắc, Tồn là tay bài có danh cao, lại có gan kỳ, bởi vậy vừa gặp mặt thì người ta chụp mà rủ ren mời thỉnh. Thật Tồn sợ, vậy ban đầu chàng từ chối nói mắc lo việc nhà, mắc bận sắp con, nên ngồi coi chúng bạn đánh với nhau trong giây lát đặng giải buồn vậy thôi. Ngặt coi đánh bài nhiều lần, tự nhiên gắp phải hoàn cảnh ép buộc đẩy xô, khó mà kháng cự được. Có bữa một tay bài đương ăn thua, thình lình mắc bận việc, nên cậy Tồn cầm đỡ giùm hắn ít bàn. Bữa khác muốn gầy sòng mà thiếu một tay, người ta năn nỉ quá, xin đánh nhỏ, chừng năm xu hoặc một cắc một lện cũng được, chơi vài giờ mà giải buồn vậy thôi, Tồn không lẽ từ hoài, mà thật cũng bị con sâu bài cứ rọ rạy nơi hai bàn tay, nên phải ngồi sòng với chúng bạn.

Bài bạc có cái áp lực lôi cuốn người ta hay say mê, hễ vướng vào thì khó dứt mà đi cho được, bởi vậy khi ráp sòng thì tính chơi giây lát đặng cầu vui, mà cuộc chơi nó có cù nhây cho đến chiều tối, chừng nào co chuyện trắc trở, như đán bà bị con khóc nhèo nhẹo, như đàn ông vợ kêu on sòm, hay là có người phải bịnh, cần chạy thuốc rước thầy, hoặc có người bài xấu thua nhiều, rồi đỗ quạu gây gỗ chừng đó mới sên mà về được.

Bài bạc lại có thói yêu mị, nó lôi cuốn, nó cám dỗ rất hay: mới bắt đầu chơi, thường nó cho mình ăn đặng mình vui lòng; mấy sòng sau có khi nó cũng để cho mình thua, nhưng bữa nào có thua thì thua chút đỉnh, thua không quá số ăn trong mấy sòng trước, nên mình không chán nản đến nỗi phải cáo từ, không lo sợ đền nỗi phải giải nghệ.

Tồn chẳng khỏi bị cái áp lực đấy đẩy đưa, chẳng khỏi bị thói yêu mị đó ám ảnh, bởi vậy ban đầu tính đánh bài đặng cầu vui, năm bảy bữa ngồi một sòng, lại đánh 5 xu hoặc một cắc hoặc một lện mà thôi. Tại chú Tiền siêng năng, tại thím Bài trung tính, nhứt là tại hai đứa nhỏ chiếu mến con Tốt, nên việc nhà an ổn. Tồn mới rãnh tay khoẻ trí mà ngồi sòng thường thường, có khi đánh luôn cả ngày tối sáng đêm, bỏ phú con Mỹ với thằng Quí cho thiếm Bài với con Tốt lo cho ăn và dỗ ngủ.

Bịnh bài bạc đã nhiễm sâu rồi, bây giờ dầu không ai mời thỉnh rũ ren, thì cũng đi tìm kiếm mà chơi. Bữa nào thiếu tay thì nằm nhà buồn hiu, trong người bần thần dã dượi. Đến chừng mãn tang vợ rồi, hai đứa con đã trông tuổi, chẳng cần phải trông nom săn sóc nữa, thì Tồn luôn tuồng, không ngồi sòng tứ sắc nữa thì đeo theo mấy trường gà. Tứ sắc thì đánh 5 cắc một lện trở lên, chớ không đánh nhỏ, còn đá gà thì mỗi độ đứng sổ tới hai ba trăm, lại thêm phóng bắt ở ngoài là khác. Khi trước có vợ khuyên dứt nên tồn chơi có chừng. Bây giờ một mình tự chủ, trong nhà có sẵn tiền bạc, lại không ai ngăn cản, bởi vậy Tồn chơi tự do, chơi thả cửa. Đến mùa gà thì Tồn chơi mê mết, ban ngày đá gà, ban đêm đánh me. Bữa nào không có cái hốt me thì đánh phé, đánh ỏ, hoặc đáng già dách tuy chơi chấm chút, song không chừa thứ nào hết.

Trong lúc ấy ở ấp Trường Định, có một cô tên là Ba Mùi, mới 25 tuổi mà chồng chết không để lại cho cô chú con nào, lại để cho cô một cái nhà lá vách ván với ít ngàn đồng bạc vốn. Cô Ba Mùi tuy nhỏ tuổi, về nhan sắc sắc thì cô cũng như các thiếu phụ khác ở trong vùng, chớ không có vẽ gì đẹp đặc biệt, song cô có khiếu thông minh, có trí lanh lẹ, nên cô có nghề đánh tứ sắc thật cao, ngối sòng 10 lần cô thua chừng vài lần, mà có thua thì cũng thua nhẹ. Hồi chồng cô còn sanh tiền thấy cô có tài đặc biệt như vậy thì để cho cô thong thả mà chơi bài, thành ra cô là tay tứ sắc nhà nghề, ai rũ cũng không chạy, ai không rũ thì cũng kiếm tay mà đánh.

Nay chồng cô Ba Mùi mất rồi, ở một mình trong nhà quạnh hiu, ra vào thấy bàn thờ chồng áo não, bởi vậy cúng tuần ba nhật cho chồng rồi cô thả ra ngồi ở Truờng An kiếm bài mà chơi cho giải khuây.

Chánh lúc ấy Phan Văn Tồn ở làng Mỹ Huê đã mướn được con Tốt giữ em và thím Bài trông nom mọi việc trong nhà, anh thả đi chơi khi ra chợ Càng Long, khi đạo xe máy vô mấy ấp. Nhiều bữa gặp người ta rủ, Tồn ngồi sòng với cô Ba Mùi. Hai đàng gặp nhau ít lần rồi chòm xóm bày chuyện cắp đôi, nói rằng một người goá vợ, một người goá chồng, hai đàng nên chấp nối đăng lập lại gia đình mới mà hưởng hạnh phúc.

Cô Ba Mùi giận người bày việc quấy, cô nói chồng mất chưa khô núm mồ mà cải giá nỗi gì. Huống hồ ông Hương giáo Tồn lớn hơn cô tới mười mấy tuổi muốn cho cô lấy chồng già đặng chịu quá bụa một lần nữa hay sao.

Bị cắp đôi Hương Tồng cũng không vui lòng, việc lẽ rằng vợ mất có để lại hai đứa con, có gái có trai đủ rồi còn muốn gì nữa mà ham chấp nối. Ở goá nuôi con cho trọn niềm chung thủy, bày cưới vợ khác rồi gây cái họa mẹ ghẻ con ghẻ, phải cực trí nhọc lòng.

Hai người nói nghe đúng đắn hết cả hai, nhưng mà qua mùa mưa gà thay lông, các trường gà đều đóng cửa, mọi người ham đỏ đen thì chỉ còn chui vào mấy sòng bài tứ sắc để giải khuây đỡ chút đỉnh.

Ba Mùi với Hương Tồn bây giờ có dịp gặp nhau hằng ngày, gặp riết thành thói quen, nên bữa nào Tồn bét đi ngã khác mà chơi, thì trong lòng không được vui như ngồi sòng với Ba Mùi.

Lửa ái tình đã ngún rồi, hễ hai người gặp nhau thì Tồn tỏ ý thân thiết mà nói chuyện với Ba Mùi, còn cô nọ cũng vui vẻ mà đàm đạo, nhiều khi dùng lời giễu cợt để cười chơi, nhứt là hay liếc mắt hữu tình mà khêu gợi.

Có bữa Tồn tới nhà Ba Mùi mà rủ đánh bài, rồi hai người dắt nhau ra ấp 8 đặng kiếm thêm tay ngồi sòng cho đủ.

Có bữa Ba Mùi đi chợ sớm, đến Mỹ Huê ghé thăm Hương Tồn. Thấy Mỹ với Quí xẩn bẩn ở bên cha thì cô kêu lại nựng nịu hỏi thăm, hỏi mỗi đứa được bao nhiêu tuổi, khen Mỹ nhu mì dễ thương, khen Quí chẫm hẫm dạn dĩ.

Tồn mời Mùi ở đánh bài chơi một bữa. Mùi dụ dự không muốn chấp lời. Tồn nài ép rồi sai chú Tiền làm vườn đi ra chợ mời cô năm với cô Sáu Trừ vô lập tứ đặng đủ tay gây sòng một bữa cho vui. Vì không mấy khi Hương Tồn mời, hai người kia vị tình đi liền. Sòng bài kéo dài tới nữa chiều, Ba Mùi đủ vốn, cô viện lẽ bỏ nhà ban đêm không được, nên cô xin sên sòng đặng cô về cho khỏi tối.

Có sòng bài đó nên ngoài chợ Càng Long đồn rùm cô sắp ụp[1] với ông Hương Tồn, vì hai đàng đã bắt đầu tới lui, mà tình ý coi có mòi thân thiện với nhau lắm.

(9)

Một buổi sớm mai, ăn cơm rồi, Hương Tồn đạo xe máy đi vô giồng chơi. Vợ Ba Thới đương đứng trước cửa thấy Tồn tới ngã ba, muốn quẹo vô Suối Cạn, thì kêu mà hỏi: "Anh đi đâu mà bửa nào cũng vô giồng hoài vậy? Mời anh ghé chơi một chút. Có cha con Hường ở đây nè".

Tồn xuống xe dắt đi vô quán. Vợ chồng Ba Thới niềm nở mời ngồi, chế bình trà mới mà đãi khách. Vợ Ba Thới hỏi thăm Mỹ với Quí, nói sao lâu rồi không thấy con Tốt dắt hai đứa nhỏ vô chơi với con Hường.

Tồn nói đường xe qua lại thường quá, không dám cho con Tốt dắt sắp nhỏ đi chơi xa, dặn nó để chơi lẩn quẩn trong sân cho khỏi lo rủi ro.

Nói chuyện nắng mưa, ấm lạnh, một hồi rồi vợ Ba Thới vừa cười vừa hỏi Tồn: " người ta nói anh sắp cưới cô Ba Mùi trong Trường Định, phải thiệt vậy không anh hai?"

Tồn chưng hửng hỏi lại:

- Ai bày chuyện nói kỳ cục như vậy?

- Ngoài chợ người ta đồn rùm, ai cũng nói như vậy hết thảy.

- Chắc hôm nọ thấy cô Ba Mùi ra ghé thăm tôi, rồi ở đánh bài chơi một ngày, nên họ đặt chuyện chớ gì.

- Mà có lẽ anh đã có tính, nên họ mới đặt chuyện được chớ,

- Tôi có nói với ai tôi sẽ cưới cô Ba Mùi đâu?

- Anh không nói, mà hai người có ý muốn phối hiệp, người ta ghé mắt tự nhiên người ta hiểu.

- Oái! Họ muốn nói giống gì tự ý họ. Mà dẫu tôi có cưới cô Ba Mùi lại hại gì hay sao mà nói.

- Hai đàng góa hết, ráp với nhau là phải, chớ có hại gì. Lại cô ở với chồng trước không có con, cái đó lại càng tiện cho anh nữa. Ngặt một điều, người ta nói cô là tay bài tứ sắc nhà nghề, cô giỏi có cái nghề đó, chớ ruộng rẫy, vá may, nấu nướng, cô không biết tới.

- Ờ đất này giỏi nghề đó cũng đủ nuôi sống

- Tôi sợ phá sản chớ.

- Hứ! Mấy tháng nay tôi có đánh bài với cô nhiều sòng; bài của cô cao thiệt, nên ít khi thua. Mà đánh bài cao như vậy, dầu có thua cũng mát ruột.

Ba Thới nói: " Mấy tháng nay tôi thấy anh đi chơi thường quá, nhứt là đi vô trong giồng. Ăn hay thua mà anh đi hành ngày vậy?"

Tồn cười, vừa đứng dậy vừa nói: " Ở nhà buồn quá nên thả đi chơi. Đánh tứ sắc một hai cắc, khi ăn khi thua có sao đâu mà sợ"

Tồn từ biệt vợ chồng Ba Thới rồi cưỡi xe đi vô giồng.

Tuy nói lơ là vậy, song lời thiên hạ đồn đó không phải là vô cớ, bởi vì cách vài tháng sau thiệt quả Hương Tồn cưới cô Ba Mùi, rước cô về ở chung một nhà. Đám cưới thân mật, chớ không làm rình rang, không nhóm họ, không mâm trầu, không lễ vật chi hết. Tồn đưa cho Ba Mùi ít trăm đồng bạc đặng may quần áo mới, nấu vài mâm cơm cúng chồng trước. Đến bữa cúng, ngoài Mỹ Huê Hương Tồn mời vài ông bạn cỡi xe máy đi với ông ta vô Trường Định ăn uống một bữa, rồi kêu xe ngựa rước Ba Mùi về Mỹ Huê. Buổi chiều Tồn làm vịt gà cúng vợ trước cho Ba Mùi lạy ra mắt, rồi mời ít người trong xóm lại ăn nhậu đặng chứng kiến.

Hương Tồn cưới vợ âm thầm, nhưng cũng đủ cho thiên hạ từ làng trong ra làng ngoài hay biết Tồn với Mùi phối hợp đủ lễ, đủ phép, có đám cưới hẳn hoi, bởi vậy không ai khen chê hay dị nghị chi hết.

Duy có vợ chồng Ba Thới nghe tin ấy thì than với nhau rằng Tồn nhờ Thị Tánh siêng năng kiệm ước, nên gây ra được một sự nghiệp tuy không to tác song cũng đủ cho gia đình sống thoe hạng trưởng giả mãn đời. Nay cưới Thị Mùi mới thanh sanh là một tay bài cao, rồi sợ đây vợ chồng sẽ say mê bài bạc mà sạt nghiệp, hư nhà, uổng công phu của Thị Tánh tiện tặn trót 16 năm, tính làm ra của mà để lại cho con, sợ e con không được hưởng nhờ, vì sẽ bị tay người khác phá tiêu hết.

Vợ chồng Ba Thới đóng không lầm. Tồn rước Thị Mùi về nhà, trong mấy ngày đầu thì vợ chồng đầm ấm, xẩn bẩn ở nhà. Mùi vui chơi làm quen với hai đứa con của chồng, còn Tồn thì coi cho chú Tiền làm cỏ trong vườn, chỉ chỗ cuốc vồng trồng khoai, gieo đậu.

Nhưng thú vui gia đình êm ấm thơi thới, không phải là sở thích của cặp vợ chồng, cả hai đều ưa cái vui khác, muốn cái vui phải pha lộn mừng với lo, may với rủi, ăn với thua, đặng gây cảm xúc từng hồi, muốn đỏ đen cho có đủ thú vị. Tồn hiểu ý vợ nên ra chợ rũ tay bài về nhà cho vợ đánh, mình ngồi coi chơi. Mà ngồi coi ít bữa rồi cũng nhàm, Tồn mới để vợ đánh trong nhà, anh ta vô giồng kiếm gây sòng khác.

Ba Mùi chơi được năm sáu sòng rồi có người mắc bận việc nhà nên không vô chơi được, làm cho thiếu tay, chị ta mới mò ra chợ kiếm mà chơi, thành thử bữa nào cũng vậy chồng đi một nơi vợ đi một ngã, tối mò mới mò về, có khi ở chơi luôn ban đêm cho tới sáng.

Qua mùa khô, mấy chuồng gà mở lại, thì ông Hương Tồn mê miết luôn tuồng, bỏ nhà cửa, quên con thơ, nhà thì bỏ phú cho chú Tiền với thím Bài làm sao thì làm, còn con thì giao cho con Tốt cho ăn giỗ ngủ không thèm ngó ngàng tới.

Chồng cứ ta bà, Ba Mùi có vui gì mà ở nhà, bởi vậy mạnh ai nấy đi, không ai trách ai hết.

Tuy vậy mà ăn ở nhau được vài ba năm thì Ba Mùi cũng sanh cho Tồn một đứa con trai đặt tên Sen, nhưng than ít sữa nên kiếm mướn vú nuôi mà kỳ thiệt là sợ cho con bú rồi mặc con đeo theo, ngồi sòng không được.

Chừng thằng Quí là con của vợ trước được chín mười tuổi, mà tối ngày nó cứ lo đi bắt dế, hoặc thả rểu ở ngoài bờ. Có người hỏi ông Hương Tồn sao con quá tuổi rồi sao chưa chịu đem nó ra trường cho nó học. Tồn nhớ lại rồi mới dắt Quí ra trường Càng Long, nói với ông đốc học Vĩnh ghi tên vào sổ cho nó học.

Con đi học, Tồn cũng không thèm để ý tới, phú cho thầy giáo làm sao được thầy làm, miễn là mỗi buổi thấy con ôm sách ra đi hoặc trưa chiều tan học trở về thì Tồn an bụng hài lòng, tưởng là đạo làm cha đã vuông tròn, mà con có thỏ thẻ xin tiền ăn bánh ăn hàng hay mua vở mua viết, thì cho ít cắc bạc lại than đời nay có con đi học tốn hao lung quá.

Ba Mùi về ở nhà chồng trong mấy năm đầu, tuy không có tình gian díu với hai đứa con riêng của chồng song hai đứa chỏ khờ khạo thiệt thà nên chị ta không có cớ chi mà oán ghét, chừng chị ta sanh được thằng Sen, thì sự ganh gỗ bắt đầu nhen nhúm trong trí. Thấy Tồn bồng Sen mà nựng nịu thì chị ta hớn hở vui cười, còn bữa nào Tồn rãnh nên vuốt ve Mỹ hay Quí, hoặc kêu hai đứa đó nói chuyện đặng giải buồn, thì chị ta chù ụ, trợn mắt châu mày, dường như muốn chồng dành để tất cả tình thương yêu cho Sen, không được chia sớt cho Quí và Mỹ.

Ba Mùi thiếu học, không thông tâm lý, cũng không biết đạo làm mẹ ghẻ đối với con chồng. Khi bước vào nhà chồng đã có sẵn hai đứa con thơ ngây, chúng nó mồ côi mẹ nên khao khát tình thương yêu ôm ấp. Nếu mình thay thế làm mẹ chúng nó, dan díu mến yêu, chăm nom săn sóc, gây chút cảm tình rồi ép buộc chúng nó gọi là má cũng được, chẳng cần gọi là dì. Nếu sau có sanh thêm thằng Sen nữa, thì mình có được ba đứa con chớ có hại gì đâu. Đã không biết có con đường êm ấm như vậy mà đi, lại còn để ganh gỗ phát sanh trong đầu óc nó hấp dẫn lần lần mà biến tình mẹ con ra phe cừu địch, gây buồn cho người lớn, gieo khổ cho trẻ con.

Mỹ với Quí mỗi ngảy một thêm lớn khôn, tự nhiên chúng nhận thấy bà mẹ ghẻ đã không yêu mà còn ghét chúng nó nữa, bởi vậy chúng nó tự dang xa ra, cho khỏi nghe những tiếng cay đắng hay nặng nề, hoặc khỏi thấy hầm hừ hay chừ hự.

Ba Mùi không thèm nói tới thằng Quí, mà hễ nói tới thì la rầy, còn con Mỹ đã lớn rồi, thì ép buộc nó phải vô bếp phụ với thím Bài rữa chén quét nhà, nói rằng tập cho nó biết nữ công mà kỳ thiệt là đày đọa cho thân nó cực khổ.

Trót hơn 10 năm trường hai chị em Mỹ và Quí sống trong một cảnh đời lạnh lẽo, sợ sệt, buồn cực, tiêu hiêu, có cha mà cha cứ mê sa bài bạc ít có dịp gần con, có mẹ ghẻ chánh là người thù nghịch. Các tình thương yêu dồn dập trong lòng chỉ hướng về hai chị em mà thôi, chớ không phát triển ra chỗ nào khác được. Mà chị em thương nhau thì lấy ý tứ mà tỏ với nhau, hay là dùng cặp mắt mà truyền tin vậy thôi, chớ không dám hở môi hở miệng.

Không được biểu lộ những yêu, không được thưởng thức thú vui vầy, hai trẻ phải dấu kỹ nỗi lòng ưu phiền rồi để trí chăm chú về phận sự kho khuây lãng.

Mỹ thì tập nấu ăn vá áo cho rành rẽ rồi được 15 hay 16 tuổi thì trong nhà khỏi mướn thím Bài ở nữa, Ba Mùi giao hết mọi việc cho Mỹ lãnh lo.

Còn Quí nhờ học tập chuyên cần, nên trở thành học trò nhứt trong làng Càng Long, được ông đốc học thương yêu, đi thi bằng sơ học được đậu cao, mà đi thi vào trường lớn cũng đậu luôn nữa.

Rất tiếc thay trong lúc hai trẻ sống với đau lòng buồn trí như vậy, ông Tồn làm làng đã lên tới Bồi bái Tồn, mà ông không tìm hiểu nỗi lòng của hai con. Còn Ba Mùi hễ thấy thằng Sen càng thêm lớn, thị chị ta càng thấy ghét Quí với Mỹ, không đổi ý chút nào hết.

Mà muốn nói cho đúng thì chị phải nói Bồi bái Tồn không có thì giờ mà tìm hiểu nỗi khổ của hai con, còn Ba Mùi không dè đối đãi với trẻ như vậy sẽ bị người ta chê cười mẹ ghẻ khắc bạc nên sợ mà cải hóa.

Tồn mắc đá gà đánh bạc, có rãnh đâu mà dòm ngó việc trong nhà. Còn Mùi mắc tứ sắc câu tôm, nào có ai chê cười mà sợ.

Bài bạc có hai vợ chồng, không làm việc gì sanh lợi, mỗi năm thua thiếu một mớ, qua mùa gặt góp lại ruộng phải đong cho người ta một phần lớn mà trừ nợ. Thâm thủng mỗi năm một ít, nhưng nhiều năm hóa ra nhiều, rồi số nhiều ấy còn đẻ thêm tiền lời, thành thử đến khi Quí thi đậu vào trừơng trung học, người ta nói cha có nhiều đất ruộng, con phải đóng tiền cơm tiền học chớ không cho hưởng học bổng, thi Bồi bái Tồn đang lặn hụp trong nợ nần liệu không thể đóng tiền nổi cho Quí học thêm 4 năm nữa, bởi vậy Quí phải dằn lòng ở bồi cho quan Kinh Lý La-Co mà nuôi thân.

(10)

Từ bữa Quí về nhà từ biệt cha mẹ, chị em đăng sáng ngày sau đi theo quan Kinh Lý La-Co lên Sài Gòn tiếp ở bồi với ông, thì Bồi bái Tồn xúc động cực điểm. Con ra đi ông đứng ngoài ngó theo, nước mắt chảy ròng ròng chớ không dặn dò con được một tiếng.

Quí ra lộ bị vướng rào che khuất dạng, ông Bồi lau nước mắt rồi đi thẳng vào trong buồn nằm thiêm thiếp mà tưởng nhớ tới con. Đến ngày nay ông mới nhận thấy tội lỗi của ông, lỗi đạo làm chồng, lỗi đạo làm cha, lỗi với người chết, lỗi với kẻ sống. Nhưng biết lỗi thì đã trễ, mọi việc đều hư hỏng, thì có khóc mà chịu, chớ làm sao mà sửa chữa bây giờ.

Đến chiều cơm dọn ra rồi thằng Sen vô dở mùng kêu cha ra ăn cơm. Ông Tồn nói không đói, ông biểu nó ra ăn với má nó đi. Bà Mùi phải vào mời một lần nữa, cực chẳng đã ông phải ráng ra ăn nữa chén rồi buôn đũa đi uống nước. Ông bước ra lộ đứng ngó mông, ngó cái gò mã trong sở đất hương hỏa nằm ngang nhà, trong gò ấy có mồ của cha mẹ và mồ của vợ trước là má của con Mỹ với thằng Quí nữa. Từ hồi chiều ông buồn rầu đau đớn bây giờ thấy mồ mã vợ, ông thêm hổ thẹn vô cùng. Ông ngồi trên lề đường gục mặt nghiên tai, ông tư tưởng người xưa, rồi dường như ông nghe hỏi: " Tôi chịu cực nhọc, tôi ráng cần kiệm mua thêm ruộng đất để cho mình có đủ huê lợi mà nuôi con ăn học, đến nỗi nó phải đi ở đợ mà nuôi sống?"

Ông Tồn khóc thầm. Ông muốn chết phức cho xong, chết đặng dứt phiền não, chết đăng cuống cữu tuyền tìm cha mẹ và tìm vợ hiền mà chịu lỗi.

Ông khóc một hồi rồi tính kiếm người quen với vợ trước mà đàm đạo, trút bầu cay đắng cho nhẹ bốt nỗi lòng. Ông nhớ vợ Ba Thới là chị em thân thiết với vợ ông hồi trước. Từ năm trước chồng chị ta chết có lẽ cũng buồn như ông bây giờ vậy đi vô thăm chị ta đặng than thở việc nhà cho đỡ đôi chút.

Trời tối đã lâu rồi. Nhưng nhờ mặt trăng đã lên cao nên dọi xuống đường sáng lòa. Ông Tồn chậm rãi đi vô ngã ba Suối Cạn. Thấy trong quán dì Ba Thới cửa chưa đóng, đèn còn sáng trưng, ông mới ghé vào.

Con Hường đương nằm trên quán nói chuyện chơi với mẹ, nó nghe động đất, thì ngóc đầu ngó ra, nó thấy ông Bồi bái Tồn thì lật đật kêu mà nói: " má, có ông Bồi bái vô kìa má".

Dì Ba Thới lòm còm ngồi dậy hỏi: " Có việc gì hay không mà anh vô tối giữ vậy?"

Ông Bồi bái nói: " Tôi thấy trăng sáng nên thả đi chơi một chút, chớ có việc chi đâu"

Dì Ba Thới mời ông ngồi, biểu con đi nấu nước đặng chế trà uống. Ông Bối bước lại cái võng mà nằm. Dì ba nói: " Hồi chiều cháu Quí có vô từ giả mẹ con tôi đạng sớm mai nó lên Sài Gòn với qua Kinh Lý. Tôi cầm ở lại cơm chơi đến gần tối nó mới về. Con Hường tính khuya nó ra cho sớm đăng đón mà đưa cháu Quí lên xe". Ông Bồi nằm êm không nói chi hết.

Dì Ba nói tiếp: " Tội nghiệp quá. Nó đi nó gượng làm vui chớ tôi dòm sắc mật nó biết nó buồn. Mới 16, 17 tuổi mà phải bỏ nhà, bỏ cha bỏ chị, đi lập thân. Mà lập thân lại ở bồi cho Tây, chớ không phải làm nghề gì sang trọng, thì vui làm sao được"

Ông Bồi cũng vẫn lặng thinh.

Dì Ba nói nữa: " Tôi có hỏi nó vậy chớ đi theo quan Kinh Lý như vậy nó tính chừng nào về hay không. Nó nói nó đã kiên quyết bước chưn vào đường đời đặng lội lặn mà lập thân; trời khiến nó đi bao lâu, đi tới đâu tùy ý trời định, nó không biết trước được. Nó nói như vậy, sợ nó không trở về đây. Nó có nói với anh chừng nào nó về hay không?"

Ông Bồi đáp cụt ngủn: " Không"

Dì Ba biết ông đương buồn về gia đạo nên dì không dám nói chuyện Quí nữa.

Hường bưng ra một cái tách với bình trà để trên bàn. Dì Ba bước lại trán tách rót trà rồi mời ông Bồi dậy uống một chút trà nóng ấm bụng.

Bây giờ ông Bồi mới chịu ngồi dậy rồi mạnh mẽ đi lại cái bàn bưng tách trà nóng rót uống một hơi. Hường ngồi trên ghế để dựa tủ kiến đựng bánh mà bán, có ý lóng nghe hai người nói chuyện về Quí đi Sài Gòn. Té ra dì Ba trở mái hỏi:

- Mùa này lúa miệt Càng Long mình đây nghe nói trúng dữ lắm phải hôn anh?

- Trúng.

- Lúa trúng còn vái cho cao giá đặng đỡ khổ cho con nhà làm ruộng, nhứt là mấy ông điền chủ nhỏ.

- Đỡ cho ai, chớ mấy người thiếu hụt đã lấy tiền trước của chành hồi tháng 7 tháng 8 bây giờ phải đong lúa chành theo giá rẽ mạt, bởi vậy có hưởng được giá cao đâu.

- Tại mình lấy tiền trước thì phải chịu, chớ biết làm sao. Năm nay anh có lấy tiền trước của chành hay không?

- Làm sao mà khỏi được. Tôi lấy của Duy Xương 200 tạ, của Kỳ Tường 200 tạ nữa, tới mùa phải cân cho 2 chành hết một ngàn 200 thùng rồi.

- Ruộng của anh cho mướn bao nhiêu lúa?

- Một ngàn 600 thùng.

- Vậy thì còn 400 thùng, làm sao mà đủ trong năm tới.

- Xài mới khỉ họ! Còn mấy mối nợ khác nữa, 400 thùng lúa đó bán không đủ tiền lời, có dư đâu mà tính xài.

- Trời ơi! Vậy rồi làm sao?

- Tới đâu hay tới đó chớ biết làm sao.

- Nguy quá, vậy mà anh không lo, cứ thả đi chơi hoài.

- Nằm nhà nhớ nợ nần không chịu nỗi, nên tôi phải đi cho khuây lãng, chớ có phải tôi mê sa bài bạc đâu dì.

- Anh đi thét càng đỗ nợ thêm nũa chớ.

- Tôi nghĩ lại, nguy đây lỗi tại mẹ thằng Quí hết thảy.

- Chỉ mất đã 13, 14 năm rồi, chỉ có làm hư hại đâu mà anh đổ thừa cho chỉ!

- Thì tại nó chết nó bỏ tôi, nó làm tôi buồn rầu, đi chơi ta bà bậy bạ, nên gia đạo mới rối, nghiệp mới hư đây.

- Thiệt đang làm ăn xẩn xẫn, mua ruộng đất, ra làm làng, ai cũng đoán vợ chồng anh sẽ làm giàu lớn. Thình lình chỉ bỏ anh mà đi theo ông bà, nên mới hư hại. Chớ nếu chỉ sống cho tới bây giờ tôi chắc ruộng đất của anh đã lên tới cả trăm mẫu, con Mỹ đã gã lấy chồng, thằng Quí được học thêm nữa, có đâu phải ra thân ở đợ cho Tây đặng nhờ mãnh áo chén cơm.

- Thôi đừng có nhắc tới thằng Quí nữa, dì ơi! Ừ hồi chiều tới giờ tôi muốn chết phứt cho rồi.

- Anh chết gia đạo của anh càng nguy thêm nữa. Anh phải sống mà lo sắp đặt lại cho yên ổn cho thảnh thơi chớ.

- Sắp đặt cách nào đâu dì nói cho tôi nghe thử coi?

- Tém dẹp cho gọn ghẻ, trả dứt nợ nần còn lại bao nhiêu thì liệu cơm gắp mắm, mỗi năm cứ ngó số thâu mà định xuất, gói ghém cho chặt chịa, làm như vậy thì được chớ gì. Anh mới 50 tuổi, chưa gìa gì lắm, anh còn đủ ngày giờ mà sắp đặt việc nhà lại đặng hưởng thảnh thơi sung sướng với người ta. Kìa ông cả Đồng ổn có một mẫu ruộng với một mẫu trên giồng, mà ổng khéo lo nên ruộng đủ lúa ăn, giồng có huê lợi, đủ đi chợ, quanh năm ổng thong thả vô cùng. Anh có tới hai ba mẫu giồng lại thêm gần 50 mẫu ruộng lẽ thì anh phải dư dả, phải ra mặt " người có cơm tiền", tại sao mà anh phải thiếu hụt đến mang nợ mang nần? Anh phải suy xét lại tại duyên có nào mà làm cho việc nhà anh phải suy sụp. Hễ tìm ra mối hại anh phải dẹp phứt nó đi, thì tự nhiên anh hưng vượng lại có gì đâu.

Ông Bồi Tồn bỏ đi lại võng nằm nữa, nằm nín khe. Dì Ba Thới nói chuyện thì ông ừ hử vần chừng, ông không muốn nói ông cũng không muốn nghe. Cả một hồi, ông đứng dậy từ giả mẹ con dì Ba Thới mà về.

Mẹ con Ba Mùi đã ngủ rồi, duy con Mỹ còn ngồi vá áo để cửa mở coi cha có về thì vô.

Ông Bồi về nhà, không dám ngó con; ông đóng cửa lại rồi xâm xâm đi lại cái giường của thằng Quí ngủ hồi trưa mà nằm.

Con Mỹ vá áo rồi, thấy cha nằm im lìm, trông cha đã an giấc nên nó dẹp đèn đi ngủ.

Ông Bồi Tồn có ngủ được đâu. Ông nằm lim dim trong trí cứ nhớ hình dáng Quí hồi chiều, bên tai cứ nghe những lời của dì Ba Thới nói hồi nãy.

Thình lình giữa đêm khuya vắng vẽ, có một chiếc thuyền đi dưới rạch phía sau vườn, chéo bỏ mái nghe rột rạt, rồi lại có người lại cất tiếng lên mà hát:

Mẹ còn gót đỏ như son.

Từ khi mẹ mất, gót con mới đẫm bùn.

Câu hát ác liệt quá! Ông Bồi đương buồn tủi, nó còn gợi mạch sầu, làm cho nước mắt ông tuôn ra dầm dề.

Đến khuya ông thấy con Mỹ thức dậy sớm rữa mặt thay đồ, rồi trời hừng sáng nó mở cửa nhè nhẹ mà đi. Ông thường nhớ bữa mặt trời mọc một lát rồi Mỹ mới đi chợ. Bữa nay nó đi sớm, chắc là nó ra chợ đặng đưa em nó lên xe. Ông Bồi muốn đi, ông đã ngồi dậy, mà rồi ông nghĩ gặp con nữa ông phải nói chuyện gì; thấy mặt con ông càng thêm tủi nhục, càng thêm thẹn thùa, chớ không có ích chi hết. Nghĩ như vậy rồi ông nằm lại, gác tay qua trán, nước mắt vẫn chảy hoài.

Chừng Mỹ đi chợ về, mẹ con Ba Mùi mới thức dậy. Bây giờ ông Bồi mới đi rữa mặt rồi đi luôn ra sau vườn coi chú Tiền làm cỏ. Ngồi lại ăn cơm, Ba Mùi thấy ông sắc mặt dầu dầu, không muốn nói chuyện, không ngó vợ con, chị ta biết chồng buồn vì sự Quí đi, nên chị ta không dám nhắc tới. Ăn cơm xong rồi ông Bồi kiếm chỗ mà nằm nữa, không tính đạo xe đi chơi như thường bữa. Ba Mùi thấy vậy chị ta cũng không dám đi.

Mấy bữa sau ông Bồi cũng lục đục ở nhà hoài, không muốn đi đâu hết. Nhịn bài tới năm sáu bữa Ba Mùi chịu không nỗi nữa, nên ăn cơm rồi chị ta làm gan lấy dù mà đi. Ông Bồi ngó thấy, nhưng ông không nói gì hết.

Bữa sau, lối nữa buổi sớm mai, có ông Hương sư Bền ở Mỹ Trường ghé nhà thăm ông Bồi bái Tồn. Hai ông nói chuyện mùa màng, hỏi thăm ấm lạnh, rồi Hương sư Bền mới hỏi qua việc nhà của Bồi bái Tồn. Ông hỏi ông Bồi được mấy người con, người nào được bao nhiêu tuổi. Ông Bồi tỏ thiệt người vợ trong đã mất có để lại cho ông con Mỹ là gái đầu lòng năm nay được 19 tuổi, với đứa con trai mới 17 tuổi. Ông chấp nối với người sau đó sanh thêm một trai đã được 9 tuổi.

Ông Hương sư Nhiều mới nói ngay ra rằng thầy giáo Lễ, dạy tại trừong Giồng Ké, cậy ông đến muốn tỏ ý cầu thân hỏi thăm tuổi của Mỹ và xin định ngày cho xuống coi mắt.

Ông Bồi suy nghĩ rồi khiêm nhượng nói Mỹ còn khờ khạo, phần thì mồ côi mẹ sớm quá nên thiếu bề dạy dỗ, bởi vậy sợ lấy chồng sợ làm dâu không kham.

Ông Hương sư nói Giáo Đỗ mới 22 tuổi vốn là con út của thầy Bang biện Sung ở trên Vũng Liêm. Cha đã mất mấy năm nay rồi, bây giờ còn mẹ già ở giữ nhà thờ, bà là một người hiền đức nên làm dâu không khó gì. Huống chi giáo Lễ đi dạy học hễ cưới vợ thì dắt vợ theo đặng lo cơm nước, có để vợ ở nhà đâu mà sợ vợ làm dâu.

Hai ông bàn cãi một hồi rồi thỏa thuận bửa sớm mơi chúa nhật sắp tới đây ông Hương sư sẽ đem mẹ con thầy giáo Lễ xuống coi con Mỹ, xuống coi một chút rồi về, khỏi đãi cơm nước chi hết.

Ông Hường sư Bền về rồi, chừng vợ chồng ông Bồi ngồi ăn cơm với hai con. Ba Mùi mới hỏi khách Mỹ Trường đến tính việc chi mà nói lâu dữ vậy. Ông Bồi cho hay Giáo Lễ dạy trừơng giồng Ké, cậy ông Hường sư Bền làm mai xin cưới con Mỹ, hẹn chúa nhựt này giắt mẹ con giáo Lễ xuống coi mắt con Mỹ. Ông dặn vợ phải sắp đặt đặng bữa đó tiếp khách cho đàng hoàng và dặn con phải bận áo quần sạch sẽ đặng ra chào khách.

Ba Mùi nghe nói chồng coi con Mỹ thì than: " Cha chả ông gã con Mỹ thì cụt tay, còn ai lo cơm nước, ai coi sóc trong nhà nữa?"

Ông Bồi Bái nỗi giận nên trợn mắt nói lớn: "Tính bắt nó làm mọi mãn đời hay sao? Con gái hễ tới tuổi người ta muốn cưới nếu mình coi phải chỗ thì gã cho nó có đôi bạn mà làm ăn. Nếu mình tham công tiếc việc không chịu gả, để nó lỡ thời rồi vác bán chi ai được?"

Vợ chồng ở với nhau hơn 10 năm, ông Bồi mới nồ nạt lần thứ nhứt. Nhưng mà Ba Mùi không nao núng: chị ta xụ mặt mà đáp liền: " Tôi nói chuyện mà nghe chớ con ông, muốn gã chừng nào, gả cho ai ông gã. Tôi đâu dám cản trở".

Ông Bồi nghe ba tiếng "con của ông", thì ông châu mày trong lòng phiền lắm, nhưng nếu nói ra thì có chuyện sẽ rắc rối, mà không có chỗ hay, bởi vậy ông liếc mắc ngó con Mỹ rồi ăn riết cho mau hết chén cơm đặng đứng dậy mà đi cho khuây lãng.

Tuy Ba Mùi cự nự, song gần tới chúa nhựt chị ta cũng biểu chú Tiền dọn dẹp, lau chùi trong nhà, quét hốt ngoài sân, đâu đó đều sạch sẽ. Chị ta cũng lo sắp đạt trầu nước, coi sữa soạn cho Mỹ, nên bữa Hương sư Bền dắt mẹ con thầy giáo Lễ đến nhà thì Mỹ bưng trầu bưng nước ra mời khách đàng hoàng, không lầm lỗi chỗ nào cho người ta có thể chê được.

Chừng khách về, ông Bồi đưa ra tới cửa ngõ thì ông Hương sư đứng lại nói nhõ với ông Bồi: "Để thầy giáo về tính lại với bà Bang coi sao rồi tôi sẽ trả lời".

Ông Bồi gật đầu. Ba người khách lên xe ngựa mà về.

Ông Bồi đi chậm rãi về nhà, ông thầm nghĩ thầy giáo Lễ tướng mạo nhu mì, con bà Bang biện, nói chuyện hòa nhã; nếu người ta xin cho bước tới thì mình gã cũng được. Ngặt hễ chịu gả thì phải sắm đồ đạc cho con, phải lo làm đám cưới, tốn hao đến một hai ngàn coi mới được. Tiền ở đâu?. . .

11)

Chồng đến coi con Mỹ làm cho ông Bồi Tồn phải bối rối mấy bữa rày. Ông bỏ dẹp hết cuộc bài bạc và đá gà; ông cũng tạm quên đi việc Quí theo ở bồi cho quan Kinh Lý; ông chú ý về sự gã con Mỹ cho thầy giáo Lễ đặng cho nó khoẻ tấm thân.

Gã con lấy chồng thế nào cũng phải tốn một hai ngàn. Chớ làm xập xệ coi sao được. Mình mắc nợ thì mình biết, chớ thiên hạ ai cũng biết mình là một vị điền chủ, một người có cơm tiền. Vậy mình phải may thêm quần áo, sắm mùng mền cho con. Dầu mình có đòi áo đòi nữ trang, đòi tiền đồng đi nữa, mình cũng phải sắm thêm cho con chút đỉnh vàng, đặng nó đeo về nhà chồng cho đỡ thẹn, với chị em bên chồng. Nội việc sửa soạn cho con đã thấy tốn cả ngàn rồi. Mà mấy năm nay con Mỹ cực khổ hết sức, ngày lấy chồng mình tốn với nó một ngàn không đáng hay sao? Đáng lắm. Dầu nó không có công lao gì trong nhà này, khi nó lấy chồng, mình là cha mình cũng phải lo, phải cho nó tiền không được phép tiếc với con.

Còn làm đám cưới, mình là điền chủ, lại làm tới chức Bồi bái trong làng, thế nào gã con mình cũng phải nhóm họ, phải mời hương chức Mỹ Huê Mỹ trường, An Trường là những người mình thù tạc thuở nay: nếu không mời đủ chắc người ta phiền trách. Mời đủ thì phải mua một con bò với vài con heo. Mặc dầu được thiệp mời đám cưới thì khách thường đi là rượu, bạc tiền, lại hễ đánh bài hốt me thì chủ nhà lấy tiền xâu nữa, nhưng mà cũng phải dự phòng một ngàn mới đủ mua bò, heo, đồ nấu bánh trái, rượu trà.

Ây vậy dẫu tiện ăn, làm gọn ghẽ thế nào, cũng phải có hai ngàn đồng mới đủ.

Làm sao mà có? Lúc cho mướn ruộng mùa này, mình phải bạc trước của hai chành, mình phải cân lúa cho họ mà trừ, còn dư có ba bốn trăn thùng, đủ ăn tết là may, dầu lúa có giá mình bán cũng không được một số tiền lớn.

Ngày đó ông Bồi cứ đi ra đi vô mà tính hoài, tính coi phải làm cách nào cho có tiền. Mắc nợ đã sáu bảy ngàn rồi, bây giờ vay nữa ai dám cho thêm. Mà dầu họ cho vay thêm, rồi mình lấy chi mà trả. Số vay thêm lớn thì số tiền lời cũng thêm nhiều. Số lúa cho mướn ruộng không tới hai ngàn thùng, theo giá lúa hiện thời bàn hết bán hết cũng chưa đũ tiền trả lời, có đâu trả vốn cho được.

Đến trưa ông nằm vác tay qua trán mà tính nữa. Ông sực nhớ mấy lời của dì Ba Thới nói đêm nọ, ông mỉm cười châu mày. Dì Ba Thới khuyên nên tém dẹp cho gọn ghẽ, nên trả dứt nợ nần, rối còn lại bao nhiêu thì liệu cơm gắp mắm cho khỏi cực lòng nhọc trí. Tám dẹp bằng cách nào? Chỉ có cách bán ruộng mà trả dứt nợ. Mười hai mẫu ruộng không thể bán được. Có bán thì hoặc bán 13 mẫu của cha mẹ cho đứng hộ hồi trước, hoặc bán 25 mẫu của má con Mỹ dàng dụm có tiền mà mua sau.

Cha chả, mà bán 13 mẫu của cha mẹ mua cho thì uổng vì ruộng tốt, còn bán 25 mẫu của vợ xúi mua thì tủi hổ với người khuất mặt quá, làm sao mà bán cho đành.

Tuy ông Bồi tiếc sự nghiệp nên viện nhiều lẽ mà bác lời khuyên của dì Ba Thới, song mấy ngày sau ông suy nghĩ tới xét lui thì chỉ có cách bán ruộng mới giải nguy.

Một buổi sáng sớm ông cởi xe máy vô giồng thăm vợ chồng Sáu Thị đã có mướn ruộng mặt của ông làm 3 năm mới mãn hạn, mùa rồi đã quen biết nhau nên dễ nói chuyện, ông ướm thử coi Sáu Thị muốn mua ruộng của ông hay không. Sáu Thị hỏi phần ruộng nào, bán giá bao nhiêu. Ông nói trong hai phần, một phần 13 mẫu ở Mỹ Huê và một phần 25 mẫu ở Mỹ Trường, muốn mua phần nào cũng được, nhưng phần nào cũng tính mỗi mẫu 600 đồng ông mới bán. Sáu thị chê mắc, tỏ ý muốn mua sở 25 mẫu cho gần đất của anh ta, nhưng nói nếu tính giá 400 đồng mỗi mẫu thì mới dám mua, chớ giá cao hơn nữa thì không mua nỗi. Ông Bồi nói lúa cao giá, tự nhiên đất phải bắt giá lên cao. Ông khuyên hãy suy nghĩ lại, nếu không chịu mua theo gía ông định thì ông sẽ bán cho bà Chánh Bái vì bà cũng đương kiếm ruộng mà mua.

Ông Bồi biết thế nào sáu Thị cũng phải trả thêm, nên ông về nhà tính nằm chờ, vì bán ruộng đất chớ không phải bán cá tôm mà vội lắm.

Cách mấy bữa Sáu Thị ra trả 450 đồng một mẫu. . ông bồi không chịu cứ đòi 600.

Ông Hương sư Bền nhơn dịp ra chơi ghé thăm ông Bồi. Ông nói mẹ con thầy giáo Lễ đi coi con Mỹ, thì mẹ con đều ưng bụng lắm nhưng đợi ít bữa kiếm thầy coi tuổi rồi sẽ nhứt định.

Cái tin ấy thúc dục ông Bồi phải quyết bán ruộng, không nên tiếc. Ông tính nếu bán với giá 450 đồng thì sở nhỏ được có 5. 850, không đủ trả nợ, còn sở lớn được 11. 250 đồng, trả nợ rồi còn dư được ít ngàn. Ông mới quyết bán sở lớn, đặng có dư tiền mà lo gã con lấy chồng. Nhưng ông cũng phải ráng nài thêm đặng bán cho được cao gía, cao nhiều mới khỏi tiếc.

Chờ hết mấy ngày mà không thấy Sáu Thị ra trả thêm, ông phải mò vô mà nói dối, sỡ ruộng 25 mẫu có bà chủ Tư trả 13 ngàn rồi, nếu không ông sẽ bán cho bà chủ Tư, Sáu Thị mới làm giàu nên phải mua ruộng, nghe như vậy sợ người ta giành, nên ráng trả lên tới 12. 300 đồng thành mỗi mẫu hơn 550 đồng, bởi vậy ông Bồi chịu bán. Hai đàng hẹn ngày rồi đi với nhau ra làng làm giấy tờ và chồng tiền bạc.

Ông Bồi nghĩ sở ruộng này hồi trước ông mua có 8000. hưởng huê lợi 10 năm, bây giờ ông bán 13. 200 đồng, thì lời 5. 200 đồng quá sướng, không có hại mà tiếc. Ông trả nợ nần dứt hết rồi, còn dư đến 5 ngàn, hết lo không tiền mà làm đám cưới cho tử tế.

Ông Bồi bán ruộng mà trả nợ, ông giấu kín không cho ai biết, nhứt là ông không nói cho vợ con trong nhà hay. Nhưng vì phải ra làng làm giấy tờ, tự nhiên xóm làng đều hay biết, làm sao mà giấu cho nhẹm.

Ba Mùi thấy chồng tuy không thèm đi đánh bài và đá gà nữa, song chị ta đi mấy lần, chồng chẳng chẳng hề ngăn cản hay rầy rà. Chị ta được trớn nên trở lại thói quen. Bây giờ bữa nào ăn cơm sớm mơi rồi cũng che dù mà đi, khi đi ra chợ, khi đi vô giồng.

Ông Bồi mắc buồn về việc nợ, bởi vậy Ba Mùi đi hay về ông không thèm hỏi tới, dường như ông ngán con người đã gieo cái buồn với cái lo cho ông ngày nay. Tuy không nói ra, song thấy mặt vợ thì ông lạnh ngắt trong lòng, vì vợ mà con ông phải đi ở bồi, ruộng ông phải về tay người khác.

Nay ông đã tém dẹp nợ nần xong rồi, ông quyết chủ tâm lo cho con, lo tổ chức đời sống mới cho thân ông được yên, trí ông được khỏe, vợ ông muốn bà ta tự ý, ông không ngăn cản làm chi.

Ba Mùi đánh bài ít bữa rồi tự nhiên hay việc ông Bồi bàn 25 mẫu đất trong Mỹ Trường cho Sáu Thị, bán khá giá quá, bán được tới 13. 200 đồng. Ông trả dứt nợ nần rồi, bây giờ ông thảnh thơi lắm.

Tối lại Ba Mùi thỏ thẻ với chồng:

- Người ta nói ông bán sở ruộng Mỹ Trường rồi phải hôn?

- Bán rồi.

- Sao lại bán?

- Mắc nợ lấp đầu, phải bán mà trả nợ chớ sao.

- Bán rồi còn đủ huê lợi đâu mà xây xài?

- Không đủ thì nhịn đói, chớ để ruộng mà con trai tôi phài đi ở đợ con gái tôi phải cực khổ lang thang thì để ruộng làm gì.

Ba Mùi khôn ngoan, nghe hơi hám thì biết ông chồng bắt đầu hối hận về cuộc vợ chồng; nếu mình kiếm lời mà chữa lỗi, sợ e sanh sự cãi vả rồi rầy rà; chi bằng ẩn núp cho qua luồng giông gió rồi sẽ yên tịnh lại. Chị ta lặng thinh bỏ đi ngủ đặng chấm dứt câu chuyện cho êm.

Cách chừng nữa tháng, ông hương sư Bến ghé nhà thăm ông Bồi bái Tồn lần nữa. Ông Bồi bây giờ có sẵn bạc tiền, ông muốn gã con phứt cho rồi. Ông cho Hương sư gạ chuyện làm mai ra nói đặng ông ừ mà chịu gả. Té ra ông hương sư cứ kiếm chuyện khác mà nói dông dài, hỏi ông Bồi lúc này có chọi gà hay không, tiếc ông Bồi bán sở ruộng Mỹ Trường uổng quá.

Ông Bồi bực trí nên phải hỏi thầy giáo Lễ xuống coi con Mỹ bộ thầy chê hay sao mà đã gần hai tháng rồi mà không thấy nói gì hết.

Hương sư Bền dụ dự một chút rồi mới đáp:

- Không. Thầy giáo chịu lắm, chớ có chê đâu. Ngặt coi tuổi không được; thầy coi mạng số họ nói hai tuổi sung khắc, không thể ở đời đời với nhau được, bởi vậy hai mẹ con thầy giáo mới dội, không dám bước tới.

- Sao không cho tôi hay trước, để bữa hổm có Ông Cả dưới Dừa Đỏ xin phép cho vợ chồng ổng lên coi mắt, tôi sợ mích lòng anh em tôi từ.

- Thầy giáo Lễ mới trả lời với tôi hai bữa rày đây. Sẵn dịp đi chợ tôi cho ông hay liền. Tôi biết ngoài này cõ lẽ ông trông tôi. Thôi, không được tuổi thì chẳng nên gã bướng. Tôi sợ sau vợ chồng cắn đắng làm buồn cho đôi bên, nên tôi không dám đốc vô.

Ông Bồi thất vọng, ông lửng lơ, không muốn nói chuyện nữa.

Chừng ông Hương sư về rồi, ông Bồi suy nghĩ ông phát nghi mẹ con Giáo Lễ muốn cưới con Mỹ là tại nghe mình có ruộng đất nhiều. Bây giờ hay mình mắc nợ nên họ thối lui. Đó là do thường tình của thiên hạ nên sanh nghi mà thôi, chớ không có bằng cớ chắc chắn. Trong ít ngày lại nghe thầy giáo Lễ đã nói con gái Sáu thị trong giồng rồi, cũng ông Hương sư Bền làm mai. Bây giờ có đủ bằng cớ chắc chắn, mẹ con giáo Lễ ham giàu, bởi vì vợ chồng Sáu Thị chỉ có một đứa con đó mà thôi, con đó cũng đồng một tuổi với con Mỹ, mà vợ chồng Sáu Thị đã đứng bộ tới 80 mẫu ruộng, lại còn đương kiếm thêm nữa.

Ông Bồi bái Tồn đương buồn rầu về việc nhà, bây giờ ông còn ghét thế thái nhơn tình hơn nữa, bởi vậy ông chán nản cực điểm, không còn biết vui vẻ với ai hết nữa. Ông ngó cảnh đời, ông chỉ thấy dơ dáy, tối tăm thấp hèn gian xảo. Người vợ là quả báo, sắp con là nợ trần, con người phải sống mà chuộc quả báo và trả nợ trần, chớ đừng tưởng sống để hưởng hạnh phúc gia đình, hạnh phúc ấy là hạnh phúc ảo mộng mà thôi, không bao giờ có thiệt.

Đến nước này còn ngại gì nữa mà không dám nhìn ngay vào khoảng đời ông vừa mới đi qua. Ông ăn ở với người vợ trước là Thị Tánh trót 16 năm, ông không biết hạnh phúc là cái gì, nhưng mà ông phải công nhận ông rất thong thả, khoẻ khoắn. Ông cũng chấm dứt bài bạc, đá gà như người ta, mà dầu ăn dầu thua ông cũng khỏi lo, vì mọi việc trong nhà đều có người vợ thế lo cho ông, năm nào rủi ông có thua năm ba trăm, thì nhờ sụ cần kiệm khéo khôn của vợ nên có tiền châm vô khỏi thiếu hụt, khỏi mắc nợ. Vợ thâu góp lúa ruộng dành dụm thế nào ông không biết tới, mà ông làm làng vúa vắc vui chơi cũng mua thêm được 25 mẫu ruộng. Tuy ông cũng ham chơi như ai, nhưng về nhà ông thấy người vợ cần kiệm chắt mót từ đồng, ông không nỡ buông tay, ông thấy hai con thỏ thẻ dễ thương ông không đành luông tuồng bỏ nhà bỏ cửa.

Ngày vợ ông chết, ông không mắc nợ, mà trong nhà lại có vốn được vài ngàn. Chớ chi ông ở một mình mà nuôi con, đừng thèm cưới Thị Mùi thì dầu ông không biết cần kiệm như vợ trước mỗi năm ông có mướn 50 mẫu ruộng nhà để lấy huê lợi mà nuôi con, thì con Mỹ đâu đến nỗi cực khổ lang thang, thằng Quí đâu đến nỗi không có tiền ăn học đến phải ra thân ở đợ.

Tại cưới Thị Mùi nên mới sinh họa, mới chơi bời luông tuồng mà đổ nợ nên phải bán sở ruộng của người vợ trước phí mồ hôi, hơi mệt, mới tạo ra được mà để lại cho chồng con.

Bây giờ mới nhận thấy:

Làm người chớ tưởng nên người dễ

Hưởng nghiệp đừng quên lập nghiệp gay.

(12)

Ông Bồi bái Tồn ở trong nhà thấy con ông buồn tủi, thấy vợ ông ưu phiền, ra ngoài đường gặp bạn làm làng, ông nghi người ta chê ông hèn hạ, có con không cho học, để cho ở đợ đặng ủi áo đánh giầy cho người ta, thấy mấy điền chủ ông sợ người ta cười ông sa mê vợ nhỏ nên suy sụp đến bán ruộng bán đất.

Ông buồn rầu mà cứ ôm ấp trong lòng, không than thở với ai được, thành thử ông chán nản, hết ham muốn hết biết vui. Ông vướng một chứng bịnh trầm trệ mà ngầm ngầm, là bịnh tâm thần bịnh trí não.

Chớ chi ông có một người vợ hiền lành sáng suốt, hoặc có một người bạn thành thật thương yêu, biết tâm bịnh của ông bình tĩnh, làm cho tinh thần của ông phục hưng, thì có lẽ lần lần nguôi ngoai ông hết bịnh mà vui sống với đời như thiên hạ.

Ông mới quá 50 tuổi, sức khỏe chưa giảm suy, ruộng còn 25 mẫu, huê lợi mỗi năm có thể giúp cho nhà ông không dư dả, song cũng ấm no. Nếu ông biết sửa cảng đời của ông lại, bỏ dẹp cái quá vãng vì lầm lạc nên sanh buồn, rồi ông xây dụng cái tương lại khác hẳn, cái tương lai thiếu rực rỡ mà đầy ấm êm, thì khoảng đời sau chót của ông sẽ được vui vẻ thảnh thơi hơn muôn ngàn người khác.

Ngặt cô Ba Mùi dốt nát ngu muội, giỏi nghề đánh bài tứ sắc, chớ không biết tâm lý, không hiểu đạo làm người vợ hiền. Cô biết xô đẩy cho chồng hư nhà sạt nghiệp, chớ không biết chồng mang tâm bịnh, mà dầu có biết đi chăng nữa cô cũng chẳng biết làm sao mà cứu chữa.

Còn anh em quen biết ở trong làng trong xóm, thì ai cũng mắc tứ sắc hoặc mắc đá gà, họ lo cho phận họ còn không kham, họ có cần gì phải lo Bồi Tồn hay lo cho người nào khác. Ai giỏi mặc ai, miễn gà của họ ăn độ thì họ vui mừng. Ai suy sụp thì mặc ai, miễn họ có tiền mà ngồi sòng thì họ thỏa mãn.

Chỉ có Dì Ba Thới là người hay lưu tâm dòm ngó đạo nhà ông Bồi, mà mỗi lần ông ghé thăm thì dì cứ phiền trách ông, phiền ông không ngó ngàng đến hai con, trách ông để cho Ba Mùi rũ quến mà mê sa bài bạc. Người đó có thể chữa tâm bịnh cho ông được, ngặt cứ theo phiền trách ông hoài, mà phiền trách nhằm lý, bởi vậy ông vừa hổ thẹn, vừa kiên nể nên ông không dám đến mà phân trần nỗi lòng đau khổ của ông.

Chớ chi ông Bồi Tồn ở một mình trong cù lao giữa biển cả, không gặp người, không nói chuyện, thì có lẽ ông vùi lấp được nỗi lòng vào cảng trời nước mênh mông. Ngặt ông ở giữa xóm giữa làng, chung quanh ông ai cũng vui chơi, nhiều người nghèo khổ hơn ông mà họ vẫn tươi cười, có người thua khiếm nặng hơn ông nữa mà họ cũng không nao núng.

Chung chạ với đám người giàu cũng ăn chơi, nghèo cũng ăn chơi, tốt cũng vui cười, xấu cũng vui cười, lâu ngày chày tháng rồi không khí cũng cảm nhiễm, thời gian kéo lôi, lần lần ông không thèm kể quấy phải làm chi, ông chập chủm làm theo người ta, trở vào lối cũ mà tìm thú xưa, ban đầu ông còn bợ ngợ ngại ngùng, riết rồi ông bước mạnh tiến sâu, ngày nào ông cũng đi chơi như hồi trước.

Ba Mùi không dè chồng mượn vui chơi mà chôn lấp nỗi buồn, thấy chồng trở lại lối cũ đường xưa thì chị ta mừng thầm, mừng vợ chồng đồng bịnh đồng thuyền cho khỏi ai trách ai mà làm xào xáo gia đạo.

Sẵn có năm ngàn đồng bạc trả nợ còn dư, ông mua hàng mướn cho con Mỹ vài quần sắm cho nó được một đôi bông tai với một chiếc vàng chạm, còn bao nhiêu ông cất riêng để dành xuất phát trong nhà và bỏ túi đi chơi, không cho Ba Mùi biết tới.

Mãn mùa gà rồi, ông kiểm điểm tiền bạc lại, thì vừa ăn xài vừa đi chơi, ông chỉ hao có 300, mà số lúa ruộng mùa rồi ông còn nguyên tám trăm thùng ông gởi ngoài ông chành ông chưa bán. Cứ theo cái đà đó ông tiếp tục chơi đặng giải buồn, thì không hại gì mà phải lo ngại. Chỉ có nhiều đêm ông nằm êm, ông nhớ tới con Mỹ chưa có chồng, với thằng Quí đi đã hơn một năm rồi mà nó bặt tin, không gởi thơ từ cho biết nó ở đâu.

Nhờ có đánh bài với đá gà mà ông Bồi Tồn quên hối hận về sự phối hiệp với Ba Mùi, và cũng nguôi được sự bán ruộng mà trả nợ. Còn số phận của Mỹ với Quí, là di tích của người vợ hiền hồi xưa, hễ ông nhớ tới thì ông bát ngát trong lòng, ông khó chịu hết sức.

Trót mấy năm sau đó, ông muốn gỡ luôn hai mối sầu đó cho nhẹ bớt nỗi lòng, ông vùi thân vào chốn đỏ đen, tính cậy bài bạc với gà chữa cái tâm bịnh nó cứ theo cắn rứt ruột gan ông mãi. Ông chơi quá độ tự nhiên phải thâm thủng thua hết số bạc để dành trong nhà rồi ông tức giận nên vai mượn thêm để theo gỡ số thua. Chẳng dè sòng này sang sòng khác, bạc trước hụ bạc sau, bán ruộng được năm năm rồi bây giờ ông mắc nợ khác, số vốn đà lên tới bốn ngàn nữa, huê lợi ruộng không đủ mà trả tiền lời.

Ông Bồi Tồn ngó lại sau lưng ông thấy buồn hiu, còn ngó tới trước mặt ông thấy tối tăm mù mịt. Ông không chán nản như năm trước,bây giờ sức ông đã yếu nên ông bắt lo sợ,như người đi lạc trong chốn núi non,tình cờ gặp một hố sâu thăm thẳm cản ngang trước mặt,bước tới nữa thì phải chết,thối lui thì không có đường. Vì lo sợ quá nên ông bịnh.

Bịnh của ông Bồi Tồn lần này không phải là bịnh tinh thần như lần trước, ông bịnh từ đầu óc cho tới ruột gan, rồi buồn nỗi con, sợ nghèo cực, phụ thêm vô mà vật ông ngã quị, làm cho ông khi nóng khi lạnh,l úc mê lúc tỉnh.

Ba Mùi lo sợ lăng xăng, rước thầy hốt thuốc, ép ông ráng ăn cơm cháo sao cho mau mạnh, xin ông ráng sống với vợ yếu con thơ. Thiệt Ba Mùi tận tuỵ nuôi chồng, nhưng vì hoặc mạng số của bịnh nhân đã gần cùng, hoặc lương y không giỏi, định chứng không nhằm, nên thuốc càng uống bịnh càng thêm trầm trọng.

Dì Ba Thới nghe ông Bồi bái Tồn đau nặng dì lật đật ra mà thăm. Ông Bồi Tồn nhướng mắt thấy dì Ba là bạn thân của vợ ông ngày trước,thì ông đưa tay ngoắc lại gần,rồi dường như ông muốn dặn dò việc chi, nhưng ông mệt mỏi quá nói không được, ông cứ lắc đầu chảy nước mắt.

Đêm đó ông Bồi Tồn làm xung rồi tắt hơi trên tay con Mỹ, nó ngồi trên giường ôm cha mà khóc kể, nghe rất thảm thiết đau thương.

Ông Bồi Tồn chết trong nhà không có tới một trăm đồng bạc. Ba Mùi phải chạy đi quơ mượn, lại nhờ làng xóm tiếp giúp và điếu bái, nên đám ma của ông cũng được ấm cúng, ông cũng được nằm một bên với người vợ trước, phía dưới chưn mồ cha mẹ mà yên giấc ngàn thu.

Chôn cất ông Bồi xong rồi, Ba Mùi biết chồng có vay bạc của bà Chủ Tư trong ấp 8, mỗi năm cứ nhập lời thay giấy, nên không biết chắc số là bao nhiêu. Chị ta làm lơ giả như không biết.

Đến ngày đến thàng bà Chủ Tư ra mà đòi. Bà nói rõ theo giấy nợ thì số vốn là 4 ngàn với tiền lời 8 trăm nữa, cộng hết là bốn ngàn tám.

Ba Mùi than ông Bồi mất ông để lại không tới một trăm đồng bạc, bây giờ biết lấy chi mà trả nợ cho ông.

Bà Chủ Tư phải vào đơn tại Toà Hộ mà kiện rồi thi hành phát mãi sở ruộng 13 mẫu của ông Bồi đứng bộ tại Mỹ Huê, vì sở 12 là ruộng hương hoả, còn nhà là nhà thờ bà thi hành không được.

Nhờ vậy mà nẹ con Ba Mùi với con Mỹ còn nhà mà ở, còn 12 mẫu ruộng cho mướn lấy huê lợi mà đánh bài.

Từ đây Ba Mùi ăn chơi tuy không dám liều lĩnh như trước kia, song chị ta cũng được sống với cảnh đời thảnh thơi, việc cơm nước có con Mỹ gồm lo, việc nặng nhẹ trong nhà có chú Tiền bao hết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro