Tiểu Thuyết Một Chữ Tình Hồ Biểu Chánh Chương 1->4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHÚA NHỰT, học trò trường Chasseluop Laubat ra đi chơi hết, duy có trò bị phạt với chừng mười lăm trò thấy ngày thi đã cận rồi, muốn học ôn, nên còn ở lại trong trường mà thôi.

Lúc trưa trời mưa dông trót một giờ đồng hồ, me đổ lá đầy sân, cát chỗ khô chỗ ướt. học trò ngủ trưa thức dậy vào lớp học bài cho đến 4 giờ chiều mới ra ngoài hàng tư ngồi chơi. Đầu này năm ba học trò giụm nhau ngồi trò chuyện, đầu nọ vài ba trò dắt nhau đi lại đi qua.

Phạm Quảng Giao tay cầm cuốn sách "Pháp văn bị thể" chơn lần đi lại một góc vắng vẻ, rồi ngồi dở sách ra đọc. Trời tuy đã dứt mưa, song gió thổi ngọn me oằn oại, hễ luồng gió đến thì nước đọng trên cây đổ xuống, rồi lá me cũng lát đát rớt theo. Quảng Giao tính kiếm chỗ vắng học cho dễ, nào dè dở sách ra đọc chưa được mấy hàng mà ngoài sân nước tuôn lá đổ đã mấy lần, làm cho trò ta lãng trí đọc mà không nhớ chi hết.

Quảng Giao để cuốn sách trên gối, tay trái thì đè, còn tay mặt thì chống cằm, ngồi ngó ra ngoài sân, mắt nhìn cảnh vật tiu hiu, trí tưởng tiền trình càng ái ngại. Ngồi hồi lâu, bỗng nghe sau lưng có tiếng giầy động đất, Quảng Giao day lại thấy trò Lê Bác Ái chơn đi nhè nhẹ, miệng cười chúm chím, đương xâm xâm bước tới, ý muốn lén chọc cho giật mình chơi. Bác Ái thấy Quảng Giao day lại, không còn thế chọc ghẹo được, mới cười lớn rồi giựt cuốn sách mà hỏi rằng:

- Học giống gì đây anh?

- Đọc bậy Pháp quốc văn học chơi vậy mà.

- Anh giỏi quá! Trời này mà đọc sách được chớ. Tôi có tánh kỳ, hễ trời mưa tôi buồn, chẳng hề khi nào tôi học được.

- Tôi cũng vậy, nãy giờ đem sách lại ngồi đây chớ có đọc được câu nào đâu.

Bác Ái ngồi kề một bên Quảng Giao, tay lật sách lia lịa, dòm ngó láo liên một hồi để dẹp cuốn sách lại một bên nói với Quảng Giao rằng:

- Bữa nay còn có 4 tuần lễ nữa mới tới ngày thi anh há?

- Ừ.

- Anh nhớ đến ngày thi anh sợ hay không?

- Sợ giống gì?

- Thiệt, học như hai anh em mình đây đi thi thì cũng ít sợ. Ngặt chừng thi có học trò mấy trường khác vào thi chung với mình, bởi vậy tôi còn lo một chút.

- Lo sao? Họ thi phận họ, mình thi phận mình, hễ làm bài đủ số điểm thì đậu, chớ có họ rồi họ bớt điểm mình được hay sao mà lo.

- Không phải! Tôi lo là lo họ giựt thứ nhứt, thứ nhì rồi thì mất danh tiếng tụi Chasseloup mình chớ.

- Thi thì phải rán chớ sao, mà tôi biết tôi giựt thứ nhứt không được đâu.

- Sao vậy?

- Tại cái mạng tôi không có, học thì học chớ không khi nào giành thứ nhứt được đâu.

- Mạng là cái gì? Anh khéo nói thì thôi!

- Vậy chớ anh không thấy sao? Mấy năm học trong lớp có thua ai đâu, mà mấy lần thi có lần nào tôi đứng thứ nhứt đâu nào?

- Tại anh tin tưởng mạng vận quá nên xuôi xả như vậy đa. Phải chi anh sốt sắng, trong trí cứ tính tranh thứ nhứt hoài, thì ắt phải được chớ gì,

- Hứ! Anh nói hơi Tây hoài! Con người ta ai lại không có mạng, vậy chớ kỳ thi năm ngoái anh Hà Tấn Phát học giỏi, ai cũng chắc ảnh đậu đầu, mà ảnh lại rớt đi, còn anh Nguyễn Văn Cảnh ảnh học dở mà lại cà lâm, ai cũng tưởng ảnh rớt, mà sao ảnh lại đậu?

- Ấy là tại may rủi chớ mạng số gì. Anh Phát ảnh rớt là vì lúc đi thi toán rủi ảnh tối tăm mày mặt, làm toán trật hết, nên ảnh mới rớt chứ.

- À! Ảnh giỏi toán sao chừng thi môn ấy ảnh tối tăm mày mặt, làm không được, vậy không phải tại phần số ảnh hay sao?

- Mình học Tây mà nói số mạng nghe kỳ quá!

- Ủa! học Tây là học, chớ cái óc của mình là óc Việt Nam làm sao mà đổi được.

- Anh nói nghe tức quá, nín không được. Học là cái gì? Con người đi học là cố ý muốn mở trí khôn cho rộng đặng biết chỗ nào là chỗ tốt, chỗ nào là xấu, sự nào là sự phải, sự nào là sự quấy, điều nào là điều hay, điều nào là điều dở, rồi chừng thành nhơn ra xung đột với đời, mình khỏi thua sút thiên hạ. Thưở trước ông bà mình học chữ Tàu, sách Tàu thì chuyên dạy lễ nghĩa, đạo đức mà thôi, bởi vậy ông bà mình học rồi trí thâm nhiễm lễ nghĩa, đạo đức đến thay đổi thấy việc chi có lợi thì sợ phi nghĩa nên không dám làm, bị ai hiếp đáp thì sợ thất lễ nên không dám cự, vì vậy, nên mối lợi mới để cho họ giành hết, mới bị người ta hiếp đáp bấy lâu nay đó. Anh nghĩ thử coi, cái óc của người mình như vậy không nên rửa cho sạch rồi sơn màu khác cho nó mới hay sao? Bọn chúng ta đây mau thoát khỏi vòng cựu học rồi chúng ta học theo Pháp quốc giáo dục, Pháp học mở trí khôn mà lại giúp con người có nghị lực, có cam đảm biết tốt biết xấu, biết quấy phải, nghĩa là hễ học thành rồi rồi thì con người có thể cạnh tranh lợi quyền, có thể đối đãi với đồng loại. Hễ học thì phải hành, mình học theo chữ Pháp thì phải rán mà làm như người Pháp, nghĩa là cư xử, đi đứng, làm ăn, tính toán, suy nghĩ, mỗi mỗi đều phải làm cho giống người Pháp mới được, chớ anh học chữ Pháp mà anh cứ làm theo xưa, cứ nói hơi xưa hoài, thì khó coi quá mà.

- Anh nói nghe hay thiệt, mà tôi coi bạn học của mình đây chẳng phải có một mình anh nói như vậy đâu, trong 10 người hết 9 người đã muốn làm theo người Pháp, chớ không muốn làm theo xưa nữa. Phận tôi thì không chịu vậy. Tôi cũng biết cựu học tệ thì tệ, xưa nay người Nam ta cũng vì môn học ấy mà chậm trễ bước văn minh. Nhưng cựu học tệ thì tệ, chớ cũng có chỗ hay, nhứt là phong hóa có thua môn học nào đâu. Anh nói bây giờ mình học theo Tây, mình phải làm theo Tây, vậy chớ làm theo người Nam là bậy lắm sao? Mà anh tính làm theo Tây, vậy chớ anh đã thông thạo cách người Tây cư xử trong gia đình, họ giao thiệp cùng xã hội, họ suy tính lúc hành sự làm sao không, mà anh dám đại ngôn rằng anh làm như họ! Ê! đừng có vậy nà! Anh có giỏi thì anh học cho bằng trí, tài, nghề nghiệp của họ đi, còn cách cư xử thì mình phải theo người Nam mới phải chớ.

- Anh làm theo người Nam anh làm, còn tôi làm theo Tây chớ tôi không chịu cách cư xử của mình đâu.

- Ờ thôi, anh làm được anh làm, tôi sợ anh muốn làm con công, rồi anh thành con ngổng chớ.

Quảng Giao nói mấy lời rồi thò tay lấy cuốn sách, còn Bác Ái nghe nói như vậy liền day lại xô Quảng Giao đụng trong vách tường, rồi cười nói rằng: "Anh kiêu ngạo quá!"

Bác Ái bỏ đi được vài bước rồi trở lại hỏi rằng:

- Này anh, anh tính thi đậu rồi anh xin ra Hà Nội học thêm nữa, hay là ra kiếm việc làm?

- Theo ý tôi thì tôi muốn chừng thi đậu rồi tôi xin vào trường cao đẳng sư phạm ngoài Hà Nội học thêm ba năm nữa đặng sau trở về làm giáo sư ít năm, đợi trộng tuổi tôi sẽ xin thôi, ra lập trường tư dạy học. Nhà tôi tuy không giàu chớ cũng đủ ăn, tôi đi học nữa thì được rồi ngặt vì ông thân tôi đã khuất sớm, chị tôi có chồng phải theo ở bên chồng, còn bà thân tôi thì yếu lắm, nên tôi đi chắc không được. Còn phận anh, anh có tính đi học nữa không?

- Tôi chưa nhứt định. Tôi muốn đi học nữa mà ông thân, bà thân tôi lại không chịu vậy, tính hễ tôi thi đậu thì cưới vợ liền cho tôi, rồi biểu đi thi ký lục.

- Anh là con nhà giàu có, cha mẹ song toàn, anh em lại đông đảo, anh nên đi học nữa, chớ ra làm việc sớm làm gì.

- Tôi cũng nghĩ như vậy đa. Tôi muốn đi Tây quá, mà ngặt bà thân tôi không chịu, lần nào tôi nói tôi cũng bị rầy.

- Này, không cho đi Tây, thôi đi Hà Nội.

- Ý tôi không muốn đi học Hà Nội.

- Sao vậy?

- Như có học thêm nữa, thì học mấy môn bác vật, hóa học hay là học kỹ nghệ cơ xảo chi chi, đặng sau có thể giúp cho nước mình được tiến bộ văn minh, chớ đi học Hà Nội là học đặng làm quan, học như vậy có ích chi đâu mà học.

- Nếu anh có chí như vậy thì tốt lắm ... Tôi buồn cho phận tôi không có tiền nhiều, mà lại mẹ góa con côi không thể làm theo anh nói đó được, chắc là cái mạng tôi không phải làm thầy giáo hay là thông ngôn ký lục rồi.

- Anh cứ nói mạng số hoài! ... Tôi nói đó là cái riêng của tôi cho anh nghe chơi, chớ biết ông bà thân tôi có "khứng" cho tiền đặng tôi đi học nữa hay không. Theo biểu tôi đi coi vợ hoài, kỳ quá!

- Anh năm nay đã 20 tuổi, trộng rồi. Bác biểu đi coi vợ cũng là phải, chớ sao mà gọi rằng kỳ.

- Tôi thấy cách người mình đi cưới vợ tôi ghét quá. Con trai vừa mới lớn lên, nghe nói chỗ nào có con gái, nhắm coi nhà có xứng với nhà mình rồi dắt tới xin coi. Cô gái thay áo đổi quần chạy ra hỏi một tiếng rồi lật đật chạy vô, không thấy chú trai cho rõ coi đen hay là trắng, thấp hay là cao; mà chú trai ngồi ngó thấp thố, cũng không thấy cho rõ cô nọ. Coi rồi đi về. Cha mẹ cậy mai đến nói, hai bên bằng lòng, định ngày làm lễ hỏi. Bên trai cũng vậy mà bên gái cũng vậy, không bên nào chịu dọ coi tánh dâu rể thế nào mà cũng không hỏi coi dâu rể nó có thương nhau hay là không, hễ cha mẹ bằng lòng thì làm sui bướng. Lễ hỏi xong rồi, hễ ít ngày cho chàng rể qua bên vợ làm rể một lần. Làm rể nghĩa là qua dựa góc ván tối ngày rồi về chớ không phải buộc làm rể là cố ý làm cho vợ chồng gặp nhau đặng nói chuyện với nhau cho quen, đặng gây cái ái tình trước, ngõ hầu chừng cưới vợ về chồng đã thương vợ, vợ đã thương chồng, khỏi trâu đen trâu trắng.

- Anh nói kỳ quá! Con gái nó hay mắc cở, anh chưa cưới mà biểu nó ra nói chuyện với anh, nó biết nói chuyện gì?

- Nếu mắc cở thì có thương nhau đâu, còn như thương thì đời nào có mắc cở, nghĩa là không thương thì đừng có ưng, mà làm trai nếu người ta không thương mình thì cưới về làm gì?

- Thương để cưới về thủng thẳng sẽ thương, chớ mới đi nói mà anh biểu phải thương, thương làm sao được?

- Cái tệ là tại đó đa. Đi cưới vợ không cần thương trước, ai cũng nói cưới về rồi thủng thẳng sẽ thương, bởi vậy cho nên thuở nay biết bao nhiêu người cưới vợ về không đặng bao lâu thì đã rời rã, kẻ đến tòa xin để, người thì bỏ vợ trốn chồng, con trai gặp vợ không vừa lòng buồn chí kiếm mèo, con gái gặp chồng không đẹp ý sanh tâm đi ăn vụng. Chớ chi con trai con gái cho biết trước nhau đặng cho nó dọ tánh nết nhau, rồi nếu nó thương yêu trìu mến nhau, nó quyết kết tóc trăm năm với nhau rồi. Chừng ấy sẽ đi nói cưới, thì làm sao mà có cuộc chia bâu rẻ cánh như tôi nói đó.

- Anh nói vậy sao được. Con gái mà cho nó biết trước con trai thì còn gì tiết hạnh. Có thứ con gái hư nó mới hốt tốc, trông gặp trai thì liếc mắt đưa tình, chớ con gái nên nó xẩn bẩn chốn khuê phòng, ngoài tường ong bướm mặc ai, nó giữ trinh như gương trong, như tuyết trắng anh làm sao mà khêu tình nó đặng?

- Dẫu nó đi ngoài đường đi nữa, anh làm sao ghẹo cho nó thương anh?

- Thiếu gì cách.

- Giỏi dữ! Anh gặp người ta đi, anh theo chọc ghẹo người ta sao? Cách đó thô tục quá nà! Con gái nếu anh chọc nó, nó càng ghét anh, chớ đời nào mà nó thương.

- Chọc gái có nhiều cách chọc, chớ phải có một cách thả giọng dê đó hay sao.

- Tôi xin khuyên anh đừng có theo Tây quá như vậy không được đâu. Nước nào có phong tục nước ấy, cái lệ hôn nhơn của mình tốt lắm, anh có giỏi cải lương thì cải lương tài trí, chớ đừng có tính cách cải lương hôn nhơn, không nên đâu anh. Vậy chớ thuở nay ông bà mình cưới hỏi nhau đó, mấy thương yêu nhau trước, mà cũng "phu xướng phụ tùy" ở với nhau đến già đó sao.

- Phải theo cách cưới hỏi xưa nay đó có cặp vợ chồng cũng ở với nhau đến già được vậy, song ở với nhau thì ở, mà không có chi là vui vẻ hết. Có người cưới vợ về ở với nhau lâu ngày chầy tháng có nhiều dịp chồng giúp vợ, hoặc vợ nuôi chồng, rồi kết thành cái nghĩa nặng bỏ nhau không đành, hoặc sanh con rồi dầu vợ chồng có xích mích với nhau cũng bỏ qua, vì thương con nên phải lây lất mà nuôi con. Xét lại thì các đôi vợ chồng ấy ở đời với nhau là vì cái tình nghĩa nó ràng buộc, hoặc vì sắp con nó líu nhíu, nên phải theo nhau, chớ chẳng có tình ái với nhau chút nào hết, tôi không chịu vậy đâu, con trai con gái phải thương nhau trước rồi sẽ cưới, làm như vậy ngày sau mới khỏi ăn năn.

- Chắc hay không?

- Sao lại không chắc.

- Như bác ép anh phải đi coi vợ anh làm sao?

- Ép cái gì? Cha mẹ tôi biểu tôi phải cưới vợ thì được. Mà cưới vợ phải để cho tôi thong thả đặng tôi lựa, chớ ép tôi phải cưới con Xoài, con Mít, tôi không thương nó, mà tôi cũng không biết nó có thương tôi hay không thì tôi dễ chịu đâu?

- Anh lựa là lựa làm sao?

- Tôi không cần giàu nghèo, không cần đen trắng, miễn tôi coi tánh nết ở đời với tôi được, tôi dọ nếu có lòng thương tôi, mà bụng tôi cũng thương nữa, thì tôi đi cưới, chớ nhà giàu muôn hộ, nhan sắc như tiên đi nữa mà tôi không dọ được tánh nết, tôi không biết nó thương tôi hay không, thì tôi không thèm đâu.

- Thiệt vậy sao?

- Thiệt chớ.

Hai trò đàm luận mới bao nhiêu lời kế nghe đồng hồ gõ 5 giờ, rồi trống ngoài cửa đánh inh ỏi nên phải lật đật chạy lạ đứng sấp hàng đặng vô lớp làm bài.

II

QUẢNG GIAO với Bác Ái đều sanh trưởng trong tỉnh Long Xuyên, hai trò đồng một tuổi với nhau, mà đi học cũng một lượt, chừng thi đậu bằng cấp sơ học cũng một năm, rồi vào trường lớn cũng ngồi chung một lớp.

Quảng Giao là con hương chủ Phạm Văn Hiệp ở làng Bình Đức. Trong nhà chẳng có anh em, duy có một người chị, tên là Phạm Thị Quế gả cho Trần Phong Lưu đương làm phó Tổng ở làng Bình Thủy, thuộc tỉnh Cần Thơ, nhà giàu lớn, làm hương chức bảy tám năm rồi mới vinh thăng Phó Tổng. Quảng Giao mới thi đậu vào trường lớn, kế cha mang bịnh tức, cầu thầy chạy thuốc hết sức mà không mạnh, đau sáu bảy tháng rồi từ trần. Tuy Hương chủ Hiệp chết có để lại cho vợ cơn một tòa ngói đẹp, hai mẫu đất thổ cư cho mướn mỗi năm cũng được tám chín chục đồng và 40 mẫu ruộng hạng nhứt, mỗi năm huê lợi cũng được tám chín giạ lúa, bà chủ nhờ đó nên khỏi cực nhọc, nhưng mà Quảng Giao nhớ đến mẹ ở nhà một mình quạnh quẽ, chị thì gia thế lớn, con nhỏ đông, lâu lâu về thăm vài ngày, chớ không về thường, mà về cũng không ở lâu được, thì trong lòng áy náy, trông học cho mau đủ năm thi ra trường về nhà hủ hỉ với mẹ già. Quảng Giao nhỏ tuổi mà tánh hòa hưỡn, dè dặt, nói chuyện hoặc chơi bời với chúng bạn thì muốn làm cho vui lòng người ta luôn luôn, bởi vì thầm nghĩ rằng ở đời mình làm cho người ta buồn chán có ích lợi chi cho mình, thà mình chịu buồn để cho người ta vui, thì mình thấy người ta nhờ mình mà vui, tự nhiên mình càng vui thầm hơn người ta nữa. Đã vậy mà hương chủ Hiệp là một người ái mộ nho học, khi còn nhỏ chưa cho con đến trường học chữ Tây, thì ở nhà có dạy sơ chữ Tàu, nhứt là chiều chiều ăn cơm rồi thì thường kêu con lại nằm một bên mà thuật truyện này, dẫn tích nọ, cho con nghe, rồi thừa dịp ấy mới giảng dụ cang thường lễ nghĩa. Quảng Giao nhờ có cha ân cần dạy dỗ như vậy, nên học chữ Tây thì học, nhưng mà cử chỉ tánh tình chẳng khác nào học trò nho thuở xưa.

Còn Bác Ái là con Hội đồng Lê Văn Thời ở Làng Long Kiến, vốn nhà cự phú, mỗi năm lúa ruộng góp được tới bốn năm chục ngàn thùng, cha mẹ đã trên năm mươi, nhưng mà sức hãy còn mạnh mẽ. Anh cả là Lê Hữu Tâm mới lên chức Cai Tổng, cất nhà riêng ở trong xóm, mỗi năm huê lợi góp cũng trên mười ngàn thùng. Chị gái tên là Ba Thành thì có chồng về Cù Lao Giêng, tuy chồng có chức có phận nhưng cũng là con nhà giàu lớn. Một đứa em gái tên là Thị Chí, mới được 14 tuổi thì học tại trường Nữ học đường Sài Gòn, còn một đứa em út, là em trai tên thằng Cử, mới 12 tuổi thì hãy còn học lớp nhì tại trường sơ học trong tỉnh. Bác Ái tánh tình cang trực, chơi với anh em bạn học hễ thấy đứa nào quấy, thì nói quấy chứ không khi nào chịu nói lùa, mà gặp đứa nào nghinh ngang chơi bời lấn lướt, thì chống cực hẳn hòi, chớ chẳng hề chịu nhịn nhục. Bởi tánh như vậy nên bạn học ít đứa ưa, song không ưa thì không thân thiết mà thôi, chớ chẳng đứa nào dám khinh thị. Bác Ái lại có tật háo thắng, anh em bạn ai cũng đều ngó thấy, mà cha mẹ hoặc vì lòng thương con, hoặc vì tưởng cái tật của con, là tật tốt, nên chẳng hề la rầy dứt bẩn. Chẳng những Bác Ái háo thắng là học trong lớp ngày đêm thường lo lắng, không chịu để dở hơn chúng bạn mà thôi, thậm chí cái rương cũng muốn cho lớn hơn rương của người, quần áo nón giầy mỗi mỗi đều muốn cho đẹp hơn của các trò hết thảy.

Tánh tình của Bác Ái khác hẳn tánh tình của Quảng Giao, mà cử chỉ của hai trò còn khác nhau nhiều hơn nữa. Quảng Giao nhu mì chậm rãi, chuyện đáng nói mới nói, chỗ phải cười mới cười, với bầu bạn thì ăn nói ôn hòa, với bực trên thì gọi thưa cung kính. Còn Bác Ái thì nóng nảy gọn gàng, đi đứng nói cười, bộ tịch làm như người Tây, chẳng khác một mải. Hai trò nết na, tánh tình tuy khác nhau, tuy ngồi nói chuyện hay cãi lẫy với nhau, tuy cả hai đều ham học nên tranh cao thấp với nhau, nhưng trong lòng vẫn thương yêu trìu mến lẫn nhau, mấy năm ở trong trường lúc giờ chơi chẳng hề rời nhau, mà mấy khi bãi trường lại cũng thường tới lui thăm viếng nhau nữa.

Người ta nói "học tài thi mạng", có khi lời nói ấy cũng thiệt, bởi vì Quảng Giao với Bác Ái học trong lớp thì hơn chúng bạn, mà đến thi ra trường, Bác Ái đậu đầu, còn Quảng Giao lại đậu tới thứ tám.

Khi chủ khảo xướng danh rồi thì Bác Ái mừng rỡ, nhảy nhót, chạy kiếm Quảng Giao nắm tay nói rằng:

- Tôi giữ danh tiếng cho trường Chasseloup Laubat được tôi mừng quá, song anh lọt xuống tới thứ tám, thiệt là ức.

Quảng Giao chúm chím cười rồi đáp:

- Tôi thường nói với anh, tại cái mạng tôi như vậy, tôi chẳng ức chi hết.

Bác Ái cũng cười.

- Anh cứ nói mạng số hoài! Tôi chắc anh không giựt thủ khoa được là vì anh học giỏi mà thiếu đức tin. Chớ chi mấy tháng nay anh cố tâm giựt thứ nhứt, rồi lúc thi anh vững bụng mà quyết đậu hoài, làm như tôi vậy, thì ắc thủ khoa về anh, ai vô mà giành được.

Quảng Giao nghe nói trề môi, rồi dắt nhau đi chơi.

Hai trò thi đậu, ở nhà cha mẹ bà con ai nghe cũng đều mừng. Quảng Giao học giỏi mà không chiếm thủ khoa được, theo thường tình ai cũng buồn, song trò ta chẳng hề vì sự đậu thấp mà ưu phiền, trong trí nghĩ thầm rằng mình thi đậu rồi từ rày rảnh rang mà hủ hỉ với mẹ già, nghĩ như vậy nên hớn hở vui mừng cũng như người đậu thứ nhì vậy.

Còn Bác Ái tánh siêng, trí sáng thi đậu thứ nhứt thiệt là đáng công, chớ không phải nhờ may mắn mà hơn người ta, song trò ta chẳng thừa dịp may, hay là ỷ tài giỏi mà đổi tánh kiêu căng, nghĩ vì biển học thức mênh mông, mình mới lội được một khúc, chưa tới đâu, mà dám tự kiêu tự đắc. Tuy vậy mà Bác Ái được đậu đầu thì trong bụng cũng khấp khởi mừng thầm, mừng là vì mình được đậu cao, có lẽ cha mẹ thấy mình học siêng ắt sẽ bằng lòng cấp tiền qua Pháp quốc học nữa.

Bác Ái về đến nhà, cha mẹ anh em thảy đều khen ngợi, nói rằng phận làm trai đi học mà được như vậy thì cha mẹ mới vinh hiển, anh em mới rỡ ràng. Mà khen thì khen chớ hễ Bác Ái tỏ ý muốn đi qua Pháp học thêm nữa thì cha lặng thinh, hoặc kiếm chuyện khác mà nói, còn mẹ thì lắc đầu, tằng hắng rồi nói rằng: "Đi Tây làm gì? Thi đậu rồi, thôi đi cưới vợ mà làm ăn. Như có muốn đi làm việc quan thì đi, bằng không thì ở nhà coi làm ruộng cũng được. Đi Tây nghe nói đường xá xa xôi quá, dễ gì đó mà đòi đi"

Bác Ái dùng hết lời cắt nghĩa, cách học thức theo đời nay cho cha mẹ nghe nói rằng:

- Buổi này là buổi vạn quốc tranh cường, trí tài khai phát, các nước trong hoàn cầu nước nào cũng mạnh, nhơn quần trong thế giới, dân tộc nào cũng khéo khôn. Nước Việt Nam mình bề tài trí còn lu mờ nên thấp thỏi thua chúng. Nay nếu muốn nước trở nên giàu, dân trở nên khôn, thì bọn thanh niên phải sang Pháp quốc mà học tài nghề, chớ học sơ sài trong xứ, biết nghe nói tiếng Lang sa rồi lo toan cưới vợ làm thầy thì làm sao cho nước Việt Nam thành một nước văn minh được.

Bà Hội Đồng Thời nghe con nói chuyện cao xa, không hiểu chi hết, cười ngất mà đáp rằng:

- Con khéo lo chuyện thiên hạ cho mệt, mình lo phận mình cho đủ cơm ăn thì thôi mà.

Bác Ái thấy mẹ không hiểu ý mình, dầu mình cắt nghĩa cho đến chừng nào đi nữa, mẹ cũng không hiểu được, nên không nói chuyện công ích nữa, tính lấy tư lợi mà giảng dụ hoặc may mẹ có xiêu lòng chăng. Bác Ái mới nói rằng:

- Chẳng phải con muốn lo giùm chuyện thiên hạ làm chi. Con nói đó là việc chung ấy cũng có việc riêng của mình nữa chớ, vì hễ nước Việt Nam được giàu, thì mình cũng được hưởng nhờ, dân Việt Nam được khôn thì mình cũng được vinh hiển, chớ phải con lo chuyện thiên hạ làm chi, để con tỏ một điều này cho mẹ nghe: mẹ biểu con đi cưới vợ rồi đi làm thông ngôn ký lục như người ta. Chẳng phải con dám trái ý mẹ, song con nghĩ đời này thầy thông thầy ký nhiều quá, nếu con làm thì có sang trọng gì đâu, mà lương bổng mỗi tháng có bốn năm chục đồng bạc, làm sao mà đủ nuôi con nuôi vợ. Nếu cha mẹ cho con đi Tây, con học thêm năm bảy năm nửa, chừng con trở về nếu có vốn thì con lập hãng buôn bán hoặc nổi lò công nghệ, mỗi năm huê lợi biết bao nhiêu, còn như không có vốn con xin làm quan, làm quan tòa, hay là quan Bác vật, tùy theo cái tài học của con, như vậy thân con đã được cao sang mà lương bổng lại lớn nữa, xin cha mẹ nghĩ thử coi.

Bà Hội Đồng lắc đầu đáp rằng:

- Con đi Tây rồi cưới vợ đầm còn khó nữa. Thôi con không muốn làm thông ngôn ký lục thì ở nhà làm ruộng. Cha con với mẹ thuở nay làm ăn cực khổ, nhờ trời nên trong nhà cũng dư dã chút đỉnh, sự nghiệp này, rồi sau anh em bây chia với nhau mà ăn cũng đủ, cần gì phải đi Tây mà học đặng lãnh lương cho lớn.

Bác Ái nói rằng:

- Bởi con thấy cha mẹ dư tiền nên con mới dám xin đi học nữa, chớ phải thiếu thốn thì con kiếm thế sinh nhai, chớ đâu dám đèo bòng.

Bác Ái nói đã cạn lời mà mẹ không xiêu lòng thì buồn, nên ngồi lặng thing không muốn nói nữa. Ông Hội Đồng Thời chẳng phải là người sợ vợ, song ông có tánh hay chiều lòng vợ, vợ nói đâu thì nghe theo đó, vợ muốn sao thì phải làm theo vậy, thành ra thuở nay mọi việc trong nhà vợ quản xuất điều đình hết, ông chẳng hề lo lắng đến cho nhọc lòng. Mà bà vợ cũng không thừa tánh chồng như vậy mà lấn lướt, thấy chồng hay vừa ý thường rán làm cho chồng đẹp mày nở mặt. Ông Hội đồng Thời nằm nghe vợ con cãi lẫy với nhau, biết ý con thật là rất cao, song không muốn cãi lòng vợ, nên nói phân hai rằng: "Con nó chưa muốn cưới vợ, mà cũng không muốn đi làm việc quan, thì không nên ép nó làm chi. Còn mẹ nó không chịu cho con đi Tây thì thôi, con nó đâu dám cãi. Thôi, để tôi tính như vầy, mẹ nó nghe thử coi có được hay không. Tôi muốn cho nó đi ra ngoài Hà Nội vào trường Cao Đẳng mà học thêm ít năm nữa, nó học xong rồi nó về thì đã trộng tuổi, chừng ấy cưới vợ cho nó cũng vừa, như muốn cho nó đi làm việc, thì phải để nó đi Hà Nội học thêm đặng sau này nó ở trên người ta ăn lương mới lớn chớ".

Bà Hội đồng nghe chồng nói vậy thì chịu. Còn Bác Ái tuy không dám cãi lời cha, song theo than thỉ xin đi Tây, chớ không chịu đi Hà Nội, nói rằng mấy trường Cao đẳng ngoài Hà Nội là học đặng làm quan chớ không phải học có tài nghề được như người ngoại quốc. Bác Ái quyết chí nếu cha mẹ không cho đi Tây thì mình ở nhà làm ruộng, chớ không chịu đi Hà Nội học, mà cũng không chịu làm thầy thông thầy ký chi hết. Bà Hội đồng thấy con chịu làm ruộng thì bụng mừng thầm, bèn hỏi dọ làng này tổng kia coi ai có con gái đặng đến coi mắt rồi có đi nói vợ cho nó.

Trời muốn trở gió bấc, sớm sương sa ướt lá, buổi chiều ráng đỏ trời. Mùa mưa gần dứt, nước sông đã giựt lần lần. Mùa nắng gần sang, lúa sớm đã chín lai rai, lúa mùa đã trổ lác đác. Đêm nọ canh khuya vắng vẽ, trong nhà tôi tớ đến ngủ hết, duy lối xóm còn một hai nhà thức giã gạo, và dưới sông một lát nghe tiếng hát rả rích của mấy người chèo ghe mà thôi. Bác Ái nằm im lìm trong gường xem nhựt trình, bỗng nghe cha mẹ thức dậy nói chuyện với nhau, tính lựa ngày tốt dắt con xuống Đất Sét mà coi con gái ông Cai Tổng cựu nào đó.

Bác Ái liền buông tờ nhựt trình, bước ra thưa với cha mẹ rằng mình còn thơ ngây chẳng nên lo vợ cho gấp, mà như cưới vợ thì xin để tự ý mình kén chọn, chớ vợ là một người bạn thân, đồng hiển vinh, chia hoạn nạn với mình, nếu lựa chỗ đương môn đối hộ mà cưới theo như thế thường, sợ e vợ chồng không hiệp ý nhau, không trìu mến nhau được, rồi để bỏ thì dở dang, còn như rán mà chịu thì nhọc lòng cực trí mãn đời, còn thêm khổ nữa. Bà Hội Đồng nghe con nói vậy, tuy không được vui lòng, song nghĩ thầm rằng, nếu mình đi cưới vợ bướng cho nó e nó không chịu rồi thì vợ chồng cắn đắng khó lòng, nên mới đình sự ấy không tính tới nữa.

III

BÁC ÁI tuy bị cha mẹ ngăn cản đi Tây không được, phải ép chí ở nhà, nhưng mà ở nhà cũng làm vui vẻ như thường, cũng giữ tánh tình như cũ, chớ không phải như trẻ ngang ngạnh, hễ bó buộc thì để lòng phiền cha mẹ, hay là như đứa cùng trí, hễ thất vọng thì sanh chứng hoang đàng xài phá. Từ ngày anh ta nhứt định ở nhà làm ruộng, thì chẳng chơi bời với ai hết, trừ ra mấy nhà trong vòng bà con anh em thì có tới lui một ít lần, chớ còn người dưng, dầu ở trước cửa hay ở sau vườn, anh ta cũng không chịu bước chơn đến. Anh ta thường xin tiền mẹ rồi gởi lên Sài Gòn mua bốn năm thứ nhựt báo mà xem và gởi qua Tây mua sách, nhứt là mua mấy bộ tiểu thuyết hay để dành mà đọc. Anh ta lại xin phép cha rồi dọn trọn một cái chái nhà phía trên để làm thơ phòng, trong làm phòng ngủ thì để một cái gường sắt mùng nệm gối mền đều tinh khiết. Trên cái đầu gường có một cái tủ cẩm lai, đựng quần áo đầy dẫy, nào là đồ mát may bằng lụa trắng để bận trong nhà, nào là đồ Tây cổ bẻ bằng vải xám, vải vàng để mặc đi bắn chim hoặc đi thăm ruộng, nào là đồ tay cổ bẻ bằng nỉ trắng hoặc nỉ màu để mặc đi chợ hoặc thăm bà con. Dựa chưn gường thì để giày đủ thứ: Đi trong nhà thì giày cườm, giày da láng, dép Nhựt Bổn, dép Bắc Kỳ, đi ra ngoài thì giày thứ trắng để đi nắng, thứ vàng để đi chơi, thứ đen để đi ruộng.

Dựa cửa phòng thì móc nón cũng nhiều thứ: thứ nỉ đội ban đêm, thứ trắng đội che nắng. Trong phòng lại có một cái bàn gõ mặt cẩm thạch, để rửa mặt gội đầu, và cũng để có một cái bàn nhỏ với một cái ghế ngồi, để khi nửa đêm thức dậy chong đèn đọc sách.

Trong phòng ngủ mở cửa bước ra thì gặp thơ phòng. Chính giữa để một cái bàn viết bằng cây giá tị, trên bàn giấy, viết, mực chẳng thiếu món chi. Phía trong có một cái tủ kiếng đựng sách, phía ngoài có một cái kệ chứa nhựt trình, bên tay mặt thì giăng một tấm màn lớn bằng vải bông mà ngăn cho phân biệt để ngồi viết, hoặc đọc sách, khỏi ai ngó thấy, còn bên tay trái, dựa vách tường, thì có một cái ghế dài đặng khi ngồi mệt thì nằm mà đọc nhựt trình cho khỏe. Dựa bên cái ghế dài ấy có sẵn một cái cửa sổ, hễ mở thì ngó ra vườn thấy hàng sa bô chê trồng xen theo mấy hàng cau, trái đơm đầy nhánh là là gần sát đất, dường nhem thèm trẻ nhỏ đặng cho nó rờ rẫm tối ngày chơi, ngó xa xa lại có hai cây sứ trắng, bông trổ giáp mấy đầu nhành mà không có một lá.

Bác Ái muốn cho chỗ thơ phòng vui vẻ nên có gởi lên Sài Gòn mua bốn tấm tranh vẽ dầu, một tấm vẽ mặt trời mọc, một tấm vẽ mặt trời lặn, một tấm vẽ đêm vắng trăng trong, còn một tấm vẽ bờ sông cây cỏ u nhàn thanh tịnh, dưới sông có một người con trai với một nàng mỹ nữ bơi một chiếc thuyền nhỏ dạo chơi, trai liếc gái rất hữu tình, gái nhìn trai coi phỉ chí, Bác Ái dọn chỗ ngủ, chỗ chơi tốn hao rất nhiều, song vợ chồng ông Hội đồng vì cưng con, mà lại thấy con biết nghe lời, nên quyết làm cho vui lòng con, bởi vậy tốn hao bao nhiêu cũng chẳng tiếc.

Bác Ái ở nhà thong thả muốn chơi chỗ nào tự ý, muốn ngủ giờ nào tùy thích, cha mẹ chẳng hề sai biểu chi hết. Tuy vậy mà bởi bổn tánh kỹ càng, sở hành có tuần tự đã quen rồi, nên phân ngày giờ, khi học khi chơi đều có chừng, chớ không phải ở không luông tuồng như mấy cậu con nhà giàu có ở trong làng trong ruộng vậy. Sớm mai hễ đồng hồ 6 giờ thì thức dậy, khi thì ăn cháo, khi thì uống sữa bò, rồi thì biểu bạn chèo ghe lường, bữa thì ngồi xuống bơi một mình đi thăm ruộng. Đúng bữa cơm thì trở về, ăn cơm rồi nói chuyện chơi với em út trong nhà đến đứng bóng mới vào phòng ngủ trưa.

Hai giờ chiều thức dậy thì ngồi tại thơ phòng xem nhựt trình, hoặc đọc sách cho đến 4 giờ rưỡi trời đã dịu nắng, mới thay áo quần rồi đi dọc theo mé rạch Ông Chưởng hóng mát. Tối về ăn cơm rồi thì về thơ phòng đọc sách cho đến 10 giờ khuya mới ngủ. Ngày thường bữa nào cũng làm như vậy, duy có chúa nhựt thì không đi thăm ruộng, lấy súng hai lòng của anh là ông Cai Tổng Tâm rồi mang đi bắn chim, bắn cò chơi.

Tá Điền thấy Bác Ái nhỏ lớn mắc học hành chẳng hề ngó đến ruộng rẫy, nay lại cắc cớ lãnh phần đi coi ruộng, thì ai cũng cười thầm , tưởng rằng Bác Ái làm bộ đặng đi chơi cho giải khuây, chớ có biết cách gieo mạ, cấy lúa, coi gặt, giữ chim ra làm sao mà sai khiến nông phu được. Chẳng dè Bác Ái đến đâu cũng chỉ biểu hẳn hoi, thấy ai trễ thì rầy la nói sao không lo, thấy lúa bỏ ngoài đồng thì sai người gìn giữ bởi vậy cho nên tá điền hết dám dể duôi nữa, ai cũng đều lo làm cho hoàn thành phận sự đặng khỏi tiếng quở rầy. Mà chẳng phải tá điền của ông Hội đồng thấy Bác Ái xem xét kỹ lưỡng nên đem lòng kính sợ mà thôi, thậm chí hương chức trong làng thấy Bác Ái tuy ngôn từ cang trực, tuy cử chỉ tự do, song chẳng khi nào thất lễ với ai, mà nhứt là thấy con gái dầu đẹp cho mấy đi nữa, cũng chẳng hề ghẹo chọc, thì ai ai cũng đều kiêng nể.

Một buổi chiều gió rung cây mát mẻ, song dẫy nước dầy, Bác Ái ở trong phòng đương thay đổi áo quần đặng đi dạo chơi cho tiêu khiển, bỗng nghe phía chái dưới có tiếng con gái nói chuyện với mẹ mình, tiếng nói nghe lảnh lót và dịu dàng, khiến người vô ý cũng phải lắng tai, dầu kẻ đeo sầu cũng phải nguôi dạ. Bác Ái lật đật mặc áo, tính bước ra coi ai mà nói tiếng tốt vậy. Trong thơ phòng vừa mở màn lên thì thấy mẹ đương ngồi tại bộ ván phía chái dưới mà ăn trầu, trước mặt có để một dĩa quít, còn dựa cửa sổ thì có một nàng con gái, chừng 16, 17 tuổi, mặc áo nhiễu tím, quần lãnh đen, cổ đeo cây kiềng vàng chạm với một sợi dây chuyền, tay mặt đeo một chiếc vòng mắt tre, tay trái đeo một chiếc vàng chạm nhá, đương ngồi trên ghế mây, một tay thì để trên bắp vế, còn một tay thì chống trên bàn vuông. Bác Ái vừa gài cổ áo vừa xâm xâm đi lại, nón nỉ thì cập trong nách, cặp mắt thì ngó châm bẩn nàng ấy, thấy nước da đã trắng mà nhờ áo tím dọa thêm, lại nhờ hai trái tai có đeo hột xoàn chiếu nữa, nên gương mặt nhìn sáng rỡ.

Bác Ái đi vừa đến đầu bộ ván chỗ Bà Hội đồng ngồi, thì nàng nọ vừa đứng dậy chắp tay "Thưa anh Tư ..." tiếng nghe ngọt ngào, miệng như hoa nở. Bác Ái bợ ngợ không biết là ai, bà Hội đồng thấy vậy nói rằng: "Con không biết nó hay sao? Con của mợ ba con đó đa"

Bác Ái lại liếc nàng nọ rồi hỏi mẹ rằng:

- Mợ ba nào?

Bà Hội đồng nói tiếp rằng:

- Mợ Hương sư con ở trển chớ mợ ba nào! Con nó lớn rồi nó quên bà con láng riềng hết !

Bác Ái nghe nói chưng hửng, trở lại bộ ghế giữa ngồi rồi nói rằng:

- Té ra là cô Hai đây sao? Lâu gặp quá nên có nhớ đâu.

Nàng nọ nói:

- Em xuống thăm cô dượng hoài, anh mắc đi học nên ít hay gặp.

Bác Ái hỏi:

- Mợ ba trên nhà mạnh em há?

Nàng nọ nói:

- Thưa mạnh ... Má em nghe nói anh thi đậu thì mừng hết sức, xưa rày tính xuống thăm anh, mà mắc nhà đơn chiếc lặn giặng hoài chưa đi được!

Bác Ái thò tay lấy thuốc đốt hút rồi nói rằng:

- Tôi về hổm nay gần hai tháng mà chưa lên thăm mợ ba được, thiệt là lỗi quá.

Nàng sợ Bác Ái tưởng mình nói như vậy là cố ý trách móc, nên liền đáp rằng:

- Anh thi đậu mới về, bà con mừng phải đến thăm anh chớ ở nhà có sao đâu mà anh phải đến thăm.

Nàng nói dứt lời rồi ngó Bác Ái mà cười. Bác Ái bợ ngợ nên nín thinh, nàng mới tiếp mà nói rằng:

- Hôm nọ em thấy anh ngồi ghe đi đâu ngang qua nhà em đó, mà có mang súng nữa vậy?

Bác Ái ngó ngay rồi đáp rằng:

- À phải! Hôm trước tôi có đi bắn qua phía trển một lần.

Bà Hội đồng chen vào nói rằng:

- Con Hai nó đem cho một dĩa quít đường đây, mợ ba mở trồng quít lớn quá, con ăn thử coi ngọt hay không?

Bác Ái đứng dậy lấy một trái lột ăn, rồi khen nước nhiều mà lại ngọt nữa. Ăn quít xong rồi Bác Ái mới thưa mẹ và kiếu nàng nọ đi chơi. Ra khỏi cửa ngõ, đứng ngẫm nghĩ coi phải đi lên hay đi xuống. Không biết vì chiều bữa trước đã dạo chơi phía dưới rồi nên bữa nay không muốn đi xuống nữa, hay là vì nghĩ cô Hai một lát sẽ đi về, nếu đi lên thì ắt sẽ gặp cô, nên đứng ngẫm nghĩ một hồi rồi lại đi lên phía trên. Bác Ái một tay thì cầm điếu thuốc, còn một tay thì đút vô túi quần tây, đi chầm chậm trên bờ, dựa mé rạch ông Chưởng, khi thì đứng coi trẻ nhỏ tắm lội đua, khi thì vác đất liệng chim sâu nhảy nhót trên cành quít.

Bác Ái đi được khúc xa xa, tới một cái cầu ván bắc ngang qua xẻo Ông Thục, bèn đứng trên cầu mà ngó về trong đồng, thấy đồng ruộng mênh mông, lúa có chỗ chín, có chỗ còn đương trổ rồi gió chiều thổi oặt qua ngả lại, xem chẳng khác nào như vừng hồng chiếu mặt biển, sóng dợn thấy canh vàng. Đầu cầu phía bên này có mấy bụi tre gió thổi đưa trèo trẹo dường như ai đưa võng bên tai, còn đầu cầu phía bên kia có một cái nhà lá xiêu vẹo, cửa im lìm chẳng khác chòi hoang miễu bỏ.

Bác Ái nhìn cảnh thú u nhàn, hấp thanh phong mát mẻ, trong lòng thơ thới, ngó vô đồng coi mấy người làm ruộng bươn bả đi về, bỗng nghe có tiếng bước động đất liền day lại thì thấy cô cho quít hồi nãy đã đi gần tới. Cầu lót bằng hai tấm ván xuôi, nếu hai người tránh nhau trên cầu ắt phải đụng nhau, bởi vậy cho nên Bác Ái thấy cô đi gần tới liền đi riết qua đầu cầu bên kia rồi đứng nép bên đường mà tránh.

Cô nọ qua cầu rồi đứng ngay mặt Bác Ái mà nói rằng:

- Anh đi chơi tới trên này sao? Bữa nào có đi phía trên này anh ghé nhà em chơi. Nhà em ở gần đây, đi tới một chút nữa thì tới.

Bác Ái nghe nói thì gật đầu, còn miệng thì chúm chím cười.

Cô nọ nói:

- Thôi anh ở đó chơi. Thưa anh em về. mà anh biết nhà em hay không?

- Biết chớ! Cô về xin thưa giùm tôi kính lời thăm mợ Hương nhé!

Rồi hai người bỏ đi, cô nọ thì đi lên, còn anh ta qua cầu rồi lần lần đi về.

Cô này tên là Trần Xuân Hoa, vốn là con của ông Hương sư Trần Văn Thể, nhà ở cách nhà ông Hội đồng Thời chừng một ngàn thước Tây. Xuân Hoa chẳng có anh em chi hết. Khi mới được bảy tuổi thì cha chết, lúc ấy trong nhà tiền bạc không có dư, duy có 12 mẫu ruộng, mỗi năm nếu ra công mà làm thì té được chừng một ngàn giạ lúa, còn như cho người ta mướn góp có bốn trăm giạ mà thôi. Bà Hương sư là một người đàn bà có hạnh, chồng chết không đành tái giá, cố tâm thủ tiết mà nuôi con, đã vậy mà bà lại giỏi giắn trong việc làm ăn, nên chồng chết để của cải không bao nhiêu, mà trong mười năm bà làm ra của thêm nhiều, bây giờ huê lợi mỗi năm kể đến, bốn năm ngàn giạ lúa, còn nhà thì bà dỡ nhà lá cũ rồi bà cất lại một cái nhà ngói ba căn chái, vách gạch, cửa cuốn coi đẹp đẽ lắm.

Trong làng trong tổng, người có vợ ai cũng đều phân bì trách vợ mình sao không giỏi được nhưa bà Hương sư Thể, còn người góa vợ lạ muốn chấp tơ nối chỉ, tính thầm hễ cưới bà Hương sư này thì chắc mau giàu. Tuy bên tai rền tiếng quyển giọng kèn, ngoài ngõ ong qua bướm lại, nhưng bà Hương sư Thể làm mặt ngơ tai điếc, đêm thì quyết chí dạy con cho nó biết đủ công dung ngôn hạnh, đặng ngày sau xuất giá nó hiểu nghĩa vợ chồng, biết đạo làm dâu, ngày thì gia công coi bạn cho nó siêng lo cày cấy trục bừa, tính làm cho có của để lại cho con, đặng sau nó khỏi nghèo nàn lam lũ.

Xuân Hoa nhờ mẹ chỉ từ chút, dạy từ lời, nên 17 tuổi mà vá may, nấu nướng, bánh trái, thêu thùa, mọi việc trong nhà chẳng hề thua sút ai, lại có nhờ ông Giáo Hạp là cụ giáo làng ở gần nhà, ông dạy giùm nên biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ nữa. Bà Hương sư dạy con thiệt là ân cần, nhưng mà vì bởi bà là một người ở trong chốn thôn quê, dạy con thì chỉ dạy cho nó thông thạo việc gia đình thôi, chớ không dè còn phải tập cho nó quen cách giao tiếp với người ngoài nữa, bởi vậy thuở nay Xuân Hoa chẳng hề có đi đám cưới, đám hỏi, mà cũng chưa từng ngồi nói chuyện với khách lạ. Trong nhà Bà Hương sư lại còn cấm nhặt tôi tớ không được nói đến sự Xuân Hoa lấy chồng, bởi vì bà sợ con gái nghe những lời như vậy, nó mất nết đi. Tại cách giáo dục như vậy, nên Xuân Hoa tới tuổi đó, là tuổi con gái nào thấy trai cũng mắc cở, mà cô ta gặp Bác Ái là một chú trai đẹp đẽ, tuy ở trong xóm mà không quen, song nói cười cười chẳng chút chi bợ ngợ, coi cũng như gặp một người thân hay là gặp một chị em bạn gái vậy.

IV

BỰC thanh niên tân học đã từng xem những chuyện kỳ duyên, đã có đọc nhiều bài xảo ngộ, đến lúc tuổi được vài mươi rồi, thì phần nhiều thấy gái hay động tình, nằm đêm tư tưởng. Có người cũng vì ái tình tràng trề lai láng trong lòng không ngăn được nên đánh quần đánh áo rồi đi tìm hoa đợi nguyệt, sớm trong vườn mận, tối núp cội đào, làm cho có khi phải hại nghĩa dơ danh, lắm lúc phải đeo sầu nuốt thảm.

Lê Bác Ái cũng là một trai thanh niên ham đọc tiểu thuyết, nhứt là ưa đọc tiểu thuyết nói về ái tình, nhưng anh ta có một cái chủ ý khác hơn các bạn đồng song, là anh ta đọc tiểu thuyết thì lựa mấy quyển của đại gia văn chương đặt mà thôi, chớ không chịu xem những truyện gió trăng thô tục.

Có lẽ vì anh ta đọc tiểu thuyết nhiều, nên ái tình của anh ta lần lần đồn dập trong lòng, rồi có đêm nằm một mình vắng vẻ, nghe chim kêu trên cội, nghe dế gáy bên màn, thì bồi hồi dạ ngọc, tư tưởng bạn vàng. Mà có lẽ nhờ anh đọc tiểu thuyết thanh cao , nên ái tính của anh ta dồn dập mặc dầu, song chẳng hề tràn ra đến ngoài rồi đụng đâu vướng đó, như nhiều ái tình của bạn thanh niên khác. Ấy vậy Bác Ái chẳng phải là chẳng có ái tình, nhưng về ái tình anh ta cao sâu nên về nhà ở đã mấy tháng rồi chưa ai thấy mở miệng ghẹo nguyệt trêu hoa một lần nào hết.

Chiều bữa đó, Bác Ái tình cờ gặp Xuân Hoa lại may mắn được chuyện vãn, đã xem thấy rõ ràng môi son má phấn, tướng yểu điệu, dạng ngồi đoan trang, mà lại còn được nghe tiếng nói thanh như hơi đờn, giọng cười êm như nước chảy, nhưng mà anh ta lần bước trở về nhà cũng không để ý đến, trông ra chẳng khác nào như đã gặp mấy cô bần hàn lam lụ ở quanh quất trong làng.

Chiều ăn cơm rồi anh ta cũng vào thơ phòng đọc sách. Anh ta đương đọc quyển tiểu thuyết của Honoré de Balzac đề tựa là EuEugEugeennie Gradet. Đêm ấy anh ta đọc tới đoạn chàng Charles với cô Eugenie dắt nhau ra sau vườn ngồi núp dưới nhánh cây mà hẹn hò vàng đá, thì anh ta trong lòng ngơ ngẩn rồi lại châu mày, mới xếp quyển tiểu thuyết để trên bàn, rồi nằm ngay ghế dài, mắt ngó ngọn đèn mà tư tưởng. Trong nhà ai nấy đều ngủ hết, anh ta nằm suy nghĩ một hồi lâu, nghe tứ bề vắng vẻ im lìm, mới thở dài một cái rồi ngồi dậy đi lại đứng dựa cửa sổ mà ngó ra ngoài vườn. Bóng trăng rọi mấy nhành cây chấp chóa, ngọn gió đưa mùi bông sứ thơm tho. Người đương bận vì tình, mà cảnh lại giục động tình, bởi vậy nên Bác Ái chẳng vui, lật đật khép cửa sổ rồi tắt đèn đi ngủ.

Nằm mắt nhắm trót một giờ mà không ngủ, ban đầu mơ màng thấy nàng Eugenie với chàng Charles đương kề vai dưới cội, thì thầm tâm sự với nhau, rồi nhớ đến cô Xuân Hoa gặp hồi chiều thì lại hồi hợp trong lòng, muốn bỏ qua để tưởng tới chuyện khác mà không bỏ qua được. Anh ta nhớ từ tướng ngồi, bộ đứng cho đến tiếng nói giọng cười, nhớ cô ngồi chỗ nào, nhớ cô hỏi làm sao, mình đáp lại làm sao, nhớ nước da cô trắng, gương mặt cô tròn, nhớ ngón tay cô dài, hàm răng cô khít. Bác Ái tưởng tượng những chuyện hồi chiều thì thấy cũng như đương có trước mặt, nhưng mà nhớ vậy, tưởng như vậy, chớ chẳng hề có ngụ đến cảnh hoa nguyệt chút nào. Lòng ngổn ngang trí lôn xộn, tưởng việc này nhớ chuyện nọ, đến 11 giờ khuya mòn mỏi rồi mới ngủ quên.

Rạng ngày sau Bác Ái thức dậy ăn cháo rồi bơi xuồng đi thăm ruộng như thường. Lên tới vàm xẻo Ông Thục anh ta ngó thấy chiếc cầu chỗ mình đứng chơi rồi gặp cô Xuân Hoa hồi chiều hôm qua, thì trong trí lại bắt gặp cô ta, nên tính bữa nào rảnh sẽ lên thăm mợ Hương sư chơi một lát. Gần tới vàm kinh Chà Và là chỗ đi vô ruộng, anh ta ngó tới trước , thấy nhà bà Hương sư Thể ló nóc đỏ lòm. Anh ta muốn bơi thẳng lên đó, rồi lại nghĩ thầm rằng: "Bây giờ nước ngược bơi lên đó thêm mệt, chi bằng mình vô thăm ruộng rồi bận về nước xuôi mình sẽ lên chơi chẳng muộn gì" Nghĩ như vậy rồi rẽ vô kinh Chà và.

Đến trưa Bác Ái trở về, ra tới vàm kinh anh ta cũng muốn lên thăm bà Hương sư nữa, song mới vừa day xuồng bơi lên được vài gìâm rồi anh ta lại nghĩ thầm rằng: "Mình bận áo quần không được sạch, nếu lên thăm mợ mà y phục như vầy thì khó coi, thôi để bữa khác sẽ thăm không gấp gì lắm". Nghĩ thầm như vậy nên quày xuồng mà về.

Chiều lại Bác Ái cũng tắm gội rồi thay quần áo sạch sẻ đi chơi. Khi trong thơ phòng lấy nón bước ra anh ta tính bữa nay anh đi trở xuống phía dưới, mà chừng ra đến ngõ rồi lại đổi ý nên lần bước đi lên phía trên như hôm qua. Lên tới cầu xẻo Ông Thục anh ta đứng lặng thinh ngó vô đồng, nhưng nếu có ai cố ý coi thì một lát anh ta day mặt ngó lên phía trên một cái, dường như trông chừng coi có ai trên đó đi xuống hay không vậy. Anh ta đứng một hồi rồi thủng thẳng đi lần lên nhà, tới ngay vàm kinh Chà và thì đã thấy nhà ba Hương sư Thể. Anh ta móc đồng hồ vàng trong túi ra coi, thì mới bốn giờ rưỡi, nên men men đi lên hoài, tính thừa dịp này lên thăm mợ Hương sư chơi coi nhà cửa dọn dẹp thế nào mà cha mẹ mình thường hay ngợi khen mợ là người vén khéo.

Bác Ái vừa bước vô sân, ba con chó ở trong nhà chạy ra sủa vang rân. Anh ta đứng lại. Xuân Hoa bước ra cửa la chó rồi chào hỏi và mời vô nhà. Xuân Hoa mời Bác Ái ngồi rồi nói rằng: "Anh Tư ngồi chơi, má tôi mới đi ra sau vườn. Để tôi biểu ra mời má tôi vô".

Xuân Hoa vừa nói vừa cười mặt vui vẻ, bộ gọn gàng lắm. Cô ta kêu đứa ở biểu ra sau vườn mời mẹ, rồi day lại hầu chuyện với Bác Ái, chẳng có một chút chi bợ ngợ hết. Bác Ái ngồi ngó cùng trong nhà coi dọn dẹp thế nào, mà ngó quanh ngó quất rồi thì cũng ngó lại Xuân Hoa hoài. Bà Hương sư bước vô mừng rỡ hỏi thăm lăng xăng rồi biểu Xuân Hoa coi hái quít, hái mận đem cho Bác Ái ăn chơi. Xuân Hoa đi xuống nhà sau một hồi rồi bưng lên một dĩa quít với một dĩa mận để trên bàn, ngay trước mặt Bác Ái vừa cười vừa nói rằng: "Ở đồng ở ruộng chẳng có việc chi quí, vậy mời anh ăn thử ít trái cây trồng trong vườn".

Bà Hương sư lại tiếp mà nói rằng:

- Ăn chơi cháu. Mận của mợ trồng tuy coi không được tốt trái song nước nhiều là lại ngọt hơn mận của người ta lắm.

Lúc Xuân Hoa bưng trái cây lên, Bác Ái ngồi mắt thì ngõ dĩa mận với dĩa quít mà lại thấy luôn hai bàn tay của Xuân Hoa trắng trong, hai cườm tay tròn vình. Anh ta ăn một trái quít và một trái mận rồi kiếu ra về.

Bà Hương sư nói rằng:

- Cháu từ nhỏ tới lớn mắc đi học nên ở theo chợ búa quen rồi, bây giờ ở đồng có lẽ buồn lắm há? Cháu có buồn thì đi lên trên này mà chơi. Mợ vô tình quá, cháu về mấy tháng nay rồi mà mợ chưa đi thăm được.

Bác Ái ra ngoài đường rồi ngó ngoái lộn vô nhà thấy Xuân Hoa còn đứng tại cửa ngó theo.

Đêm ấy Bác Ái nằm thấy Xuân Hoa đứng trước mặt, nghe Xuân Hoa nói bên tai hoài, đọc sách mà không hiểu nghĩa, nhắm mắt mà không hiểu được.

Anh ta nhớ lời bà Hương sư mời ăn mận nói rằng: "Mận của bà tuy coi không được tốt trái song nước nhiều là lại ngọt hơn mận của người ta" thì anh ta nghi cho bà Hương sư có ý muốn nói xa nói gần mà khoe đức hạnh của con, rồi anh ta lại nhớ khi từ giã ra về, Xuân Hoa đứng tại cửa ngó theo thì anh ta lại nghi Xuân Hoa có ý gì với mình đây chớ chẳng không. Tuy Bác Ái nhớ mấy việc ấy thì mừng thầm, nhưng mà anh ta nghi mà thôi, chớ chưa dám chắc bà Hương sư đã sẵn lòng mà Xuân Hoa đã chú ý.

Ông Hội Đồng còn một sở ruộng nữa ở trên làng Kiến An, nếu đi lên đó thì phải ngang nhà Xuân Hoa. Sáng bữa sau Bác Ái không đi thăm ruộng trong kinh Chà và nữa, lại bơi xuồng đi mà đi lên ruộng Kiến An hoài, không vào kinh Chà và nữa. Hễ đi ngang qua nhà bà Hương sư thì anh ta liếc mắt dòm chừng coi có Xuân Hoa đứng trước cửa hay không. Ngày nào ngó thấy Xuân Hoa thì vui vẻ vô cùng, còn ngày nào không ngó thấy thì về nhà ăn không biết ngon, nằm không ngủ được. Có bữa gặp Xuân Hoa ngồi giặt áo, hoặc rửa rau dựa mé sông thì anh ta lật đật chào hỏi, rồi về nhà ngủ không được, cứ nằm trăn trở thao thức hoài. nếu không thấy mặt luôn hai bữa thì chiều anh ta đi chơi ắt đi lên thẳng nhà mà thăm.

Người trong nhà nếu ai có ý cũng đều thấy Bác Ái quyến luyến Xuân Hoa. Đã vậy mà anh ta thường khen ngợi bà Hương sư, lại hễ nói chuyện gì với ai anh ta cũng kiếm thế mà xen bà Hương sư Thể vô hết thảy.

Có lẽ bà Hội đồng hiểu ý con và muốn thử coi nó có tình ý gì với Xuân Hoa hay không, nên đêm nọ bà đương ngồi nói chuyện với chồng con, bà mới nói rằng:

- Mợ Hương sư có một đứa con gái đích đáng quá. Thằng chồng nào gặp vợ như con Xuân Hoa đó thiệt là có phước lắm.

Bà liếc mắt dòm coi thì thấy Bác Ái mắc cở, cúi mặt xuống ghế không nói chi hết, mà bộ suy nghĩ lắm.

Bà liền nói tiếp rằng:

- Ái, con coi Xuân Hoa vừa ý con hay không? Nếu con chịu má đi nói cho.

Bà vừa nói cừa cười. Bác Ái đứng dậy đi vô buồng, vừa đi vừa nói rằng:

- Thủng thẳng vậy chớ. Để con dọ coi ý tứ nó thế nào đã.

Cách ít ngày Bác Ái đi chơi chiều, lên tới ngang vườn chuối cai tuần Bộn may gặp Xuân Hoa ở trên đi xuống. Bác Ái vừa ngó thấy thì trong lòng hồi hộp, ngực nhảy thình thịch, tính thừa chỗ vắng vẻ này tỏ tình dan díu của mình rồi dọ thử coi cô nọ có ý gì với mình chăng. Tính như vậy mà chừng Xuân Hoa đi tới thì nghẹn ngào không nói được.

Xuân Hoa thấy Bác Ái thì chúm chím cười và hỏi rằng:

- Thưa anh Tư đi chơi. Anh đi chơi xa dữ há.

Bác Ái bợ ngợ, hỏi cô nọ đi đâu rồi để cô đi tuốt không tỏ tình dọ ý chi hết.

Xuân Hoa đi khỏi rồi, Bác Ái đứng ngó theo tức giận thầm trong bụng, tức là vì mình chẳng phải đứa quê mùa dốt nát mà sao gặp một cô gái như vậy lại hồi hộp nói không ra lời, còn giận là vì có cơ hội may mắn đặng cho mình tỏ tình riêng của mình với cô ta, nếu mình để cho cô ta đi tuốt rồi thì biết ngày nào mới có dịp tốt như vầy nữa. Anh ta đứng ấm ức một hồi rồi nghĩ rằng cô này cổ đi xuống chắc sau một lát nữa cổ cũng trở về, vậy thì mình thơ thẩn ở đây mà chờ, đặng bận về mình nói. Anh ta đứng chấp tay sau đít ngó mông ra sông, sắp ý lựa lời đặng chờ Xuân Hoa trở lên, anh ta vừa ngó thấy thì trong lòng lại bối rối nữa, quên hết mấy lời đã đã lựa. mấy ý đã tính, nên chừng cô ta đi tới anh ta chẳng nói chi được, duy nói có mấy tiếng nầy mà thôi: "Cô Hai, cô đứng lại tôi nói chuyện nầy một chút".

Xuân Hoa đứng lại rồi cười hỏi rằng:

- Anh nói chuyện chi?

Bác Ái nói:

- Chẳng giấu chi cô, tôi thấy cô tôi thương quá.

Xuân Hoa nói:

- É ! Anh quỉ nà.

Nói rồi Xuân Hoa bỏ đi, cách ít bước lại ngó lại và cười và nói rằng:

- Bữa nào có rảnh lên nhà chơi nghe hôn anh Tư.

Bác Ái đứng trân trân, nửa hổ thẹn nửa thảm sầu, nên lần bước trở về ăn cơm rồi rút vô thơ phòng nằm dàu dàu, không đọc sách mà cũng không nói chuyện với ai hết. mẫy bữa sau anh ta không đi thăm ruộng nữa, mà cũng không đi chơi, cứ nằm trong phòng tay cầm sách hoặc nhựt trình, mà trí thì suy nghĩ mấy lời của Xuân Hoa hoài chớ không đọc được gì hết. Cha mẹ thấy cử chỉ khác thường, sợ con đau nên hỏi thăm, thì Bác Ái dối lời rằng nhức đầu nên đi ruộng không được.

Ngày Bác Ái mới gặp Xuân Hoa một lần đầu rồi về nằm đêm nhớ tới cô ta, thì Bác Ái không dè cuộc hội ngộ thình lình như vậy mà kết thành mối ái tình trong lòng mình được. Ngày qua đêm lại lần lần anh ta cứ nhớ Xuân Hoa hoài, nhứt là ban đêm vắng vẻ, nằm trong phòng một bóng đèn, thì lòng lại thường hoài vọng trí lại hay tương tư, rồi lúc đi ruộng hoặc đi chơi thì ý lại muốn ghé nhà bà Hương sư đặng thấy mặt Xuân Hoa nữa, chừng ấy anh ta mới biết cô Xuân Hoa đã khêu lửa lòng của anh ta rồi. Mà chừng anh ta biết như vậy thì lại càng xốn xang thao thức chịu không được, ngày như đêm, trong trí cứ tưởng nhớ tới Xuân Hoa, cứ trông mong cho gặp Xuân Hoa, có khi lại ước phải chi ai xuôi khiến cho gặp Xuân Hoa vào chốn phòng riêng của mình rồi giao mặt kề vai mà dọ thử tình nhau cũng như chàng Charles với Eugénie trong quyển tiểu thuyết Eugénie Grandet của Honoré de Balzac vậy. Có đêm anh ta suy nghĩ rồi tính tỏ thiệt niềm riêng với cha mẹ đặng xin cha mẹ cậy mai đến nói mà cưới Xuân Hoa. Nhưng mà tính như vậy rồi anh ta lại nghĩ mình thương Xuân Hoa không biết cô ta có tình gì hay không, nên dục dặc không dám hở môi, muốn để dọ coi như ý hiệp tâm đầu rồi sẽ tỏ bày với cha mẹ.

Buổi chiều nọ Bác Ái gặp Xuân Hoa ngang vườn chuối cai tuần Bổn phân tỏ mấy lời, đó là có ý muốn ướm thử lòng Xuân Hoa, chẳng dè Xuân Hoa đối đáp rất vô tình, làm cho anh về thối chí, tưởng cô ta không có tình chi với mình hết. Anh ta quyết lắp vùi tình ái cho thảnh thơi mà chờ khách đồng tâm, nào dè làm quên chừng nào lại càng nhớ thêm chừng ấy, lòng bắt buồn, trí bắt lảng, ngẩn ngơ dã dượi như người thất chí, như kẻ không hồn. Anh ta tính giận Xuân Hoa mà giận không đành, rồi tính thương Xuân Hoa mà thương không đặng. Nỗi niềm đến thế anh ta mới biết dây ái tình đã buộc anh ta vào cô Xuân Hoa chặt rồi, chắc là khó bứt dứt cho được. Anh ta nghĩ như vậy mới tính lập thế khác dọ ý Xuân Hoa nữa. Anh ta nghĩ Xuân Hoa tuổi còn nhỏ mà lại tánh quê mùa, chắc là tại mắc cở nên không chịu tỏ tình dan díu. Vậy thì mình phải giả chước đi xa không ở nhà nữa coi Xuân Hoa hay việc như vậy có tỏ sắc buồn hay không. Nếu cô nghe mình đi mà buồn thì lòng đã trìu mến mình rồi, còn như nghe mà không buồn thì chẳng có ý chi với mình hết.

Bữa nọ Bác Ái gặp Xuân Hoa liền nói rằng:

- Em Hai, em ở nhà mạnh giỏi nghe hôn.

Xuân Hoa mới nghe thì chưng hửng nên hỏi rằng:

- Anh đi đâu?

Bác Ái làm mặt buồn hết sức mà nói rằng:

- Qua đi Bắc Kỳ!

Xuân Hoa ngó ngay mà hỏi nữa rằng:

- Anh đi chi vậy?

Bác Ái nói:

- Ở nhà buồn quá chịu không được, nên tính đi học thêm ít năm.

Xuân Hoa vừa cười vừa nói:

- Từ nhỏ tới lớn anh ở chợ quen rồi nên về ở đồng anh chịu không được. Thôi anh đi mạnh giỏi nhé.

Xuân Hoa nói mấy lời rồi kiếu mà đi chẳng tỏ ý dan díu chi hết.

Bác Ái về nhà nằm nghĩ thầm, chắc là tại Xuân Hoa còn nhỏ nên chưa kết được ái tình, bởi vậy mới xin cha mẹ cho đi Bắc Kỳ chơi ít tháng đặng do coi mấy trường Cao Đẳng ngoài Hà Nội dạy dỗ như thế nào, rồi lựa coi nên học trường nào đặng qua năm tới sẽ xin học. cha mẹ tin như lời, nên cũng vui lòng để cho Bác Ái đi chơi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro