CHƯƠNG MỘT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Trở lại câu chuyện chính.

Câu chuyện xảy ra vào lúc giao thời giữa mùa xuân và mùa hạ, thời kỳ giặc Nhật, bên Tây Hồ, Hàng Châu, nơi được mệnh danh là thiên đường chốn nhân gian.

Sóng nước mênh mông hòa cùng nắng

Sắc núi mơ màng họa cùng mưa Tây Hồ,

Tây Thi cùng sánh bước

Son phấn nhạt nhòa vẫn đẹp tựa mơ

Tây Thi quá đẹp, với vẻ đẹp chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, ai dám sánh với nàng đây? Tây Hồ! Tô Đông Pha đã nói với chúng ta bằng thơ rằng, duy chỉ có Tây Hồ vẫn đẹp đến rung động lòng người giống như nàng Tây Thi vậy.

Liệu có quá lãng mạn không? Không hề, đó là sự thực, có núi sông làm chứng. Núi là núi xanh, lúc tươi vui, lúc mưa bụi phủ mờ, xuân về cảnh sắc như hoa lan, thu đi vẫn đẹp như tranh vẽ. Nước là dòng nước mềm mại, gió nhẹ gợn sóng, chứa đầy ánh trăng mơ mộng và khi mặt trời le lói hiên lên dường như còn chưa tỉnh giấc. Non non nước nước, gió nhẹ mơn man, cảnh sắc gợi tình đó đã là nguồn cảm hứng của bao áng thơ văn. Kể sao cho xiết, sách chất đầy nhà, nhiều tới độ nếu chất thành đống sẽ giống như ngọn Cô Sơn với mùi mực thơm nồng và sắc màu rực rỡ. Khi thưởng thức, ngâm nga những áng thơ luôn gợi đầy tương tư lưu luyến, cứ như là đã dùng hết mỹ từ, ôm trọn tình phong nguyệt.

Vào những năm 40 của thế kỷ trước, thành phố Hàng Châu chưa chắc rộng bằng một phần năm hiện nay, nhưng Tây Hồ, linh hồn của thành phố này vẫn như thế, không nhỏ tí nào, những thắng cảnh ven hồ và bên hồ cũng không ít đi so với trước là bao nhiêu, như đê Tô, đê Bạch, cầu Đoạn, cầu Tây Linh, cầu Cẩm Đới, cầu Ngọc Đới, cầu Tỏa Lan, Tam Đàn Ấn Nguyệt, Bình Hồ Thu Nguyệt, Nguyễn Công Đôn, đình Hồ Tâm, mộ Tô Tiểu Tiểu ở đầu cầu Tây Linh, liễu reo oanh hót bên cửa Thanh Pha, chùa Tiền Vương, cùng với các thắng cảnh trên Cô Sơn như Tây Linh Ấn xã, mộ Thu Cẩm, đình Phóng Hạc, Lầu Ngoại Lầu, Thiên Ngoại Thiên… hòa với Bạch Vân, đình Mẫu Đơn, chùa Tịnh Thông, chùa Báo Ân, động Quan Âm ở phía Nam, hay tháp Bảo Thích, đình Song Linh, miếu Nhạc, động Song Linh, động Thi Hà bên bờ Bắc. Tóm lại, những cái chúng ta thường gọi như nhất sơn tam nguyệt, nhị đê tam tháp, tam trúc lục kiều, cửu khê thập bát động lúc đó đều có cả, bọn Nhật tới đây cũng không làm dân chúng sợ đến nỗi chạy mất dép.

Tại thành phố Hàng Châu, bọn Nhật đã thả không biết bao nhiêu bom đạn, nghe nói ở sông Tiền Đường vẫn thường vớt được những quả bom chưa phát nổ của quân Nhật ném xuống, ngay cả nhãn mác trên quả bom cũng vẫn còn. Những quả bom giống như xác chết từ trên trời rơi xuống, chưa phát nổ mà đã làm cho dân chúng sợ hết hồn, huống hồ là khi chúng phát nổ. Tiếng bom nổ vang động đất trời, sức công phá của nó long trời lở đất, số người và thú nuôi bị thương vong không sao kể xiết, làm cho người và vật ở thành Hàng Châu sợ hãi bỏ chạy. Những thắng cảnh ở trong và ngoài Tây Hồ nếu như có thể chạy được thì chúng cũng đã bỏ chạy mất rồi. Tiếc rằng chúng không biết chạy, đành phó mặc cho số phận mà thôi. Số phận của Tây Hồ quả là rất may mắn, hàng trăm chiếc máy bay trút xuống không biết bao bom đạn xuống, những Tây Hồ giống như được thần linh phù hộ, vẫn bình yên vô sự, ai cũng thấy kỳ lạ. Những danh lam di tích xung quanh cũng như được hưởng lộc của Tây Hồ, thoát khỏi đại nạn, duy chỉ có miếu Nhạc, có lẽ ở quá xa, ân phúc không tới được nên bị thiệt hại đôi chút.

Từ miếu Nhạc đi về phía tháp Bảo Thích, nay là đường Bắc Sơn, khi đó mọc lên rất nhiều tòa ngang dãy dọc, tất nhiên đều thuộc những gia đình giàu có và quyền thế. Thông tin của những người giàu có và quyền thế thường nhanh nhạy hơn đám dân thường. Trước khi bọn Nhật ném bom thành phố, họ đã kịp bỏ chạy. Sau khi cơ quan của giặc Nhật được mở, thành phố bình yên trở lại, những người giàu có và quyền thế lại quay trở về. Nếu chủ không trở về thì ít ra cũng có tôi tớ trở về, giúp chủ trông nom gia nghiệp, tránh cảnh người bỏ đi để nhà hoang phế, bị chính quyền giặc Nhật mới dựng lên chiếm đóng. Trong đó có một Đại Viện Lạc, lưng dựa vào núi, mắt hướng ra hồ, chủ nhân là họ Cầu, từng là ông chủ chuyên kinh doanh dịch vụ lầu xanh cao cấp, bản thân ông ta không trở về mà cử người làm về nhưng muộn mất vài tuần liền bị Hội Duy Trì rất thanh thế của giặc Nhật lúc đó chiếm mất, không trả lại. Sau này, trước khi chính quyền Uông ngụy của giặc Nhật được dựng lên, Tổng đội tiễu phỉ Hoa Đông của giặc Nhật mới được thành lập tiếp quản khu vực này. Một số tòa nhà trong viện đều được sử dụng vào mục đích mới, như tòa nhà chính ba tầng làm nhà khách cho sĩ quan Bộ Tư lệnh kiêm nơi vui chơi giải trí, phục vụ cho những thú vui xác thịt. Một dãy nhà trệt hình chữ U trong vườn trúc phía sau là khu “văn phòng” của nhà khách. Còn hai ngôi nhà kiểu Tây xây đối nhau ở phía sau nữa, ngôi nhà phía Tây trở thành tư dinh của viên quan Tư lệnh ngụy đầu tiên, Tiền Hổ Dực (người dân gọi là Tiền đuôi chó) ngôi bên phía Đông là khu nhà ở của những thân tín và vệ sĩ của hắn. Vào một đêm mùa hè năm 1940, tất cả những người ở trong hai ngôi nhà phía Đông và phía Tây đều bị ám sát (theo tin đồn thì do con cháu người nhà họ Cầu thực hiện, nhưng hung thủ cho đến nay vẫn chưa bị đưa về quy án, nên rất khó để khẳng định điều này), viên Tư lệnh quân ngụy mới lên thay là Trương Nhất Đỉnh đã dần dần đuổi hết thân tín và vệ sĩ của Tiền Hổ Dực đi.

Thế là cả hai ngôi nhà nhà lại không có người ở.

Cứ ngỡ, nhà đẹp thế sẽ rất nhanh đón được chủ nhân mới đến ở. Thế nhưng mãi vẫn không có người đến ở hay sử dụng vào mục đích khác. Nguyên nhân suy cho cùng là người được vào ở chê nơi này từng xảy ra thảm họa giết người, không dám ở; còn người dám ở thì lại không đến lượt. Cứ như vậy, hai ngôi nhà vẫn trống vắng, mãi gần một năm sau, lúc giao thời giữa mùa xuân và mùa hạ, vào một đêm khuya trăng sáng đàng khô, bỗng nhiên có hai quân binh đến ở trong hai ngôi nhà này.

* * *
Hai nhóm người đến ở, nhóm đến trước ở Đông lầu (ngôi nhà phía Đông), nhóm này khá đông, dễ đến đầy một xe tải. Khi xuống xe họ đứng đầy trước sân nhà. Đêm tối khó mà đếm chính xác có bao nhiêu người, ước chừng khoảng hơn mười. Trong số họ đa số là binh sĩ trẻ, người mang súng, người khiêng lỉnh kỉnh thiết bị máy móc gì đó. Dẫn đầu là một người lùn hơi mập, thắt lưng dắt súng ngắn và dao găm. Hắn là Tham mưu Sở Đặc vụ thuộc Bộ Tư lệnh Tổng đội, họ Trương, còn tên không rõ. Chắc chắn các binh sĩ trước khi đến đây đã được giao nhiệm vụ, xuống xe, đợi Tham mưu Trương mở, hắn vẫy tay, số khiêng vác đồ lỉnh kỉnh những thiết bị máy móc chen đến trước cửa, nối đuôi nhau vào trong nhà. Số còn lại mang súng đứng yên tại chỗ, chờ đến khi Tham mưu Trương từ trong nhà đi ra mới theo hắn rời khỏi Đông lầu và biến vào đêm tối.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, những người đến Tây lầu cũng tới: Đó là nhóm thứ hai. Nhóm có năm người, ba nam và hai nữ, đều là bộ hạ cũ của Tiền Hổ Dực, quan quân ngụy cả. Trong đó tên quan cao nhất là Ngô Chí Quốc, từng là Đại đội trưởng Đại đội Tiễu phỉ số Một (đóng ở Thường Châu) thuộc Tổng đội quân ngụy, phụ trách tuần tra và tấn công lực lượng chống Nhật chống ngụy hoạt động mạnh mẽ ở xung quanh Thái Hồ. Hồi đầu năm, ở Hồ Châu từng một lần ra quân đã quét gọn nhóm “Mãnh hổ” chống Nhật hoạt động rầm rộ ở đó, được viên Tư lệnh mới lên thay Tiền Hổ Dực là Trương Nhất Đỉnh trọng dụng, không lâu sau thăng liền hai cấp, đường đường làm Trưởng Ban tham mưu quân sự, cai quản công việc tác chiến và huấn luyện quân sự của toàn khu (vai trò của tham mưu). Tiền đồ phía trước, quan chức mới như hắn đang hừng hực như lửa đuốc, hết sức vênh váo, đường công danh quả là khôn lường. Sau đó là nhân vật thứ hai, Trưởng Ban cơ yếu quân sự, nắm cơ mật nòng cốt của toàn quân, Kim Sinh Hỏa, kế tiếp nữa là Lý Ninh Ngọc, nữ, Tổ trưởng tổ dịch điện Ban quân cơ. Nhân vật thứ tư là Bạch Tiểu Niên, nhưng cũng có thể nói đó là nhân vật thứ nhất, hắn là quan tháp tùng của Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh, thuộc dạng dưới một người, trên cả trăm người, chức quan không cao, chỉ là Phó tiểu đoàn trưởng, nhưng quyền hạn thì có thể vô biên. Cố Tiểu Mộng, nữ, là nhân viên của Lý Ninh Ngọc, trẻ trung, xinh đẹp, dáng mảnh mai, sắc đẹp diễm lệ, dù có đi trong đêm thì vẫn khiến người ta phải ngước nhìn.

Cả năm người đi trên một chiếc xe địa hình hai cầu do Nhật sản xuất, được bóng đêm yểm trợ, giống như một âm mưu lặng lẽ tiến vào Cầu trang (trang viên nhà họ Cầu) tĩnh mịch, đi qua tiền viện đến hậu viện và cuối cùng biến mất vào trong Tây lầu vốn đã lâu không có bóng người, khiến cho ngôi nhà trống từng nhuốm trong bể máu càng trở nên hãi hùng đáng sợ hơn, giống như con dao giết người lại rơi vào tay kẻ từng giết người.

Âm mưu ấy cứ như là âm mưu trong âm mưu, ngay cả bản thân kẻ chủ mưu cũng không biết rõ hình dạng và nội dung của nó. Trước khi đến đây họ đều đã lên giường đi ngủ, trước tiên là Thư ký Bạch bị cú điện thoại bất thường của Tư lệnh Trương đánh thức, sau đó Thư ký Bạch tuân lệnh kéo bốn người là Kim Sinh Hỏa, Lý Ninh Ngọc, Cố Tiểu Mộng và Ngô Chí Quốc ra khỏi giấc ngủ. Sau khi cả năm được triệu tập khẩn cấp, vội vàng lên xe, sau đó tới đây như mộng du. Còn đến đây để làm gì thì không ai biết, kể cả Thư ký Bạch. Người đưa họ tới đây là Trưởng Sở đặc vụ, Vương Điền Hương, sau khi thu xếp ổn thỏa cho tất cả, trước lúc rời đi có tiết lộ đôi điều: Khổ luyện để làm việc lớn.

Vương Điền Hương nói: “Tư lệnh Trương bảo tôi chuyển lời, sẽ có một nhiệm vụ hết sức đặt biệt giao cho mọi người, mấy ngày tới có thể sẽ không được ngủ yên giấc. Vì vậy buổi tối nay mọi người nhất định phải tranh thủ thời gian, ngủ một giấc thật ngon lành, sáng sớm ngày mai Tư lệnh sẽ tới thăm mọi người”.

Xem ra, đêm nay với Vương Điền Hương quả là một đêm phấn chấn nhưng cũng thật bận rộn. Sắp xếp ổn thỏa mọi cho người ở đây chỉ là một phần rất nhỏ trong một đống công việc có liên quan, còn có biết bao công việc quan trọng khác cần hắn giải quyết. Vì vậy, nói xong hắn vội vã đi ngay, dáng vẻ của hắn khiến mọi người vừa thấy hứng thú vừa khó hiểu.

Cố Tiểu Mộng nhìn dáng vẻ vừa thần bí vừa vội vàng của Vương Điền Hương, trong lòng không lấy gì làm lạ, liền nhếch cánh mũi xinh xinh, miệng lẩm bẩm:

“Hừm, cái lão khốn họ Vương này, tôi thấy hắn càng ngày càng không biết mình mang họ gì nữa đây.”

Tuy nói không to nhưng tính chất câu nói lại hết sức nghiêm trọng, khiến mọi người một phen sợ rụt cổ.

Vương Điền Hương nắm giữ vị trí quan trọng: Trưởng sở Đặc vụ, không ai dám ngạo mạn với hắn, khinh nhờn hắn để chuốc tội vào thân. Thậm chí Tư lệnh Trương cũng đối xử với hắn một kiểu khác. Sở Đặc vụ là một cơ quan đặc biệt, giống như một kiểu quái thai, có hai đầu tối sáng, thân tâm cách biệt, có phần giống như thân ở trại Tào mà tâm bên nhà Hán. Thân là phần sáng, chịu sự quản lý của Tư lệnh Trương, nhưng trong bóng tối, Tư lệnh Trương lại chịu sự điều tra soi xét của cơ quan này. Mỗi tháng, Vương Điền Hương đều phải nộp một bản báo cáo công việc lên cơ quan Đặc vụ cao hơn của Nhật Bản có trụ sở ở Thượng Hải, trình bày các hoạt động và ngôn luận của quan quân trọng yếu thuộc khu, trong đó có cả tư lệnh. Trong bối cảnh này, hắn có vẻ dương dương tự đắc và có chút ngay cả họ tên mình cũng không biết, âu cũng là điều khó tránh khỏi.

Đối với loại người này, ai dám nói xằng nói bậy? Trước mặt thì tuyệt đối không dám, nhưng sau lưng có to nhỏ gì thì cũng phải cẩn thận, đừng để cho người thứ ba biết, biết rồi tố cáo lên thì chỉ có nước trở thành người câm. Cho nên, Cố Tiểu Mộng phát ngôn bừa bãi như vậy, những người nghe được không mấy hưởng ứng. Mọi người đều làm như không nghe thấy và tản đi.

Tản đi rồi lại tụ tập.

Tất cả tụ tập tại phòng của Ngô Chí Quốc dò hỏi lẫn nhau: Tư lệnh kéo mọi người dậy giữa đêm hôm khuya khoắt, rốt cuộc là sao?

Tưởng rằng sẽ có người biết, nhưng hỏi hết một lượt chẳng ai biết gì. Không biết thì chỉ còn đoán mò: Khả năng thế này, khả năng thế kia, khả năng là đông, khả năng là tây v.v… rất nhiều khả năng, thật phức tạp, cuối cùng chất thành đống, bình quân mỗi người cũng phải đưa ra trên hai khả năng. Nhiều thực ra là ít, thậm chí là không. Tóm lại, đoán già đoán non, lắm thầy nhiều ma, chẳng rút ra được kết quả gì. Nhưng dường như họ không bỏ qua, mà vẫn tiếp tục suy đoán. Duy chỉ có Ngô Chí Quốc, ban ngày đi thị sát quân lính cấp dưới, tối dự chiêu đãi, cơm no rượu say chỉ còn muốn đi ngủ sớm.

“Ngủ thôi, ngủ thôi.” Anh đề nghị mọi người giải tán, “Có gì hay ho đâu. Trừ khi các cậu là con giun trong bụng Tư lệnh, nếu không nói gì cũng uổng công vô ích thôi”. Nói xong một hồi, lại quay sang hỏi mọi người một câu chẳng liên quan: “Các cậu có biết chỗ tôi đang ở là gì không? Là phòng ngủ của Tiền Hổ Dực khi còn sống, hắn đã chết trên chiếc giường này đấy!”.

Cố Tiểu Mộng đang ngồi ở mép giường nghe thấy vậy thốt lên “Ôi chao” rồi đứng bật dậy.

Ngô Chí Quốc cười nói: “Cô sợ cái gì hở Tiểu Mộng, nếu cứ sợ như cô, đêm tôi làm sao ngủ được chứ? Tôi vẫn ngủ như thường, ma sợ người chứ cô sợ gì mà sợ? Nếu hắn còn sống thì mới sợ chứ, nghe nói hắn rất háo sắc đấy”.

Cố Tiểu Mộng nhếch mũi lên nói: “Trưởng ban, anh nói cái gì vậy?”.

Trưởng phòng Kim chêm vào: “Trưởng ban đang khen cô đấy, ý bảo cô xinh đẹp ấy mà”.

Ngô Chí Quốc thấy Tiểu Mộng định tiếp lời liền xua tay hỏi: “Cô có biết Tư lệnh Tiền bị ai giết không? Chính là người của trang viên này đấy”. Nói có vẻ rất thần bí, tất nhiên là muốn giải thích rồi, “Nơi này trước đây là kho vàng của một tên trùm thổ phỉ, khi hắn còn sống, của cải mà hắn cướp được nghe nói đều cất giấu trong phòng này, rộng hơn một chút thì là trong cả khu trang viên này. Chính vì thế mà vẫn còn của cải vàng bạc chưa được đào lên hết, trang viên này đã thay mấy đời chủ rồi, người nào cũng muốn đến đây để tìm vàng bạc, trong đó có cả Tư lệnh Tiền. Thế nhưng họ đều không tìm thấy. Có biết không, đến nay vẫn chưa tìm thấy đấy”.

Chuyện này mọi người đều đã từng nghe nói. Ngô Chí Quốc đứng dậy cười lớn: “Ngủ thôi, về đi ngủ đi, có gì hay ho đâu. Nếu như mọi người đoán mò mà ra được kết quả gì, điều đó có nghĩa mọi người có thể tìm ra nơi cất giấu của cải của hắn đấy. Khà khà, ngủ thôi, bây giờ là mấy giờ rồi, còn đoán gì mà đoán, ngày mai Tư lệnh đến sẽ biết hết”.

Mọi người ai về phòng nấy, lúc này đã hơn một giờ sáng.

* * *
Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, màn sương bao phủ trên mặt nước Tây Hồ vẫn chưa tan hết, chiếc xe con màu đen của Tư lệnh Trương đã đơn độc lăn bánh bên bờ Tây Hồ.

Quê của Tư lệnh Trương ở huyện Hấp, tỉnh An Huy, dưới chân Hoàng Sơn. Từ nhỏ hắn đã thông minh hơn người, mười tám tuổi tham gia thi Hương, đỗ đứng đầu tỉnh. Tuổi nhỏ mà có chí, trở thành tú tài. Điều ấy khiến cho chí hướng của hắn trở nên to lớn cao xa hơn. Nhưng cách mạng Tân Hợi bùng nổ đã làm xáo trộn bước đi mà hắn hằng mong ước, bao nhiêu năm rồi vẫn không toại nguyện, không như ý muốn. Chí lớn trong lòng luôn bị trà trộn trong mớ tầm thường, khiến hắn đi qua bao nơi đều cảm thấy sự thê lương của nhân thế, sự rủi ro của số phận. Mãi cho đến khi quân Nhật coi Uông Tinh Vệ như bảo bối đón vào thành Nam Kinh, khi ấy hắn đã đi được nửa đời người, đầu đã hai thứ tóc thì tiền đồ mới bắt đầu sáng sủa, trở thành cánh tay thứ hai của Tiền Hổ Dực: Phó Tư lệnh. Thế nhưng gọi là tiền đồ gì chứ, một năm trước khi hắn về quê đưa tang mẹ, bị người ở quê hắt phân vào mặt trước bàn dân thiên hạ, trong cơn tức giận, hắn giật súng trong tay của tên lính công vụ, nhằm về phía người dân quê hắn nổ súng. Người dân ấy không chết, chỉ bị một vết thương ngoài da ở đùi, nhưng con tim của chính hắn đã chết. Hắn biết rằng, từ nay về sau sẽ không còn đường về quê nữa, từ đó hắn càng có quyết tâm đi tới cùng con đường đã định. Cho nên, khi người tiền nhiệm Tiền Hổ Dực bị ám sát thảm khốc ngay trong nhà, những lời đồn đại khắp nơi đã làm khiếp đảm bao nhiêu đồng nghiệp của hắn, khiến họ không dám kế nhiệm. Hắn ngang nhiên nhảy vào kế nhiệm, thể hiện rõ dũng khí và cam đảm hơn người. Đã gần một năm trôi qua, hắn không hề hối hận vì sự lựa chọn của mình, vì hắn không còn sự lựa chọn nào khác. Giờ nghĩ lại tất cả những gì xảy ra đêm hôm qua và tất cả những gì sắp xảy ra trong Cầu trang, hắn cũng có cảm giác không còn sự lựa chọn nào khác.

Chiếc xe con màu đen xuôi theo con đường men quanh bờ hồ. Sau mấy tiếng còi xe, chiếc xe dừng lại bên ngoài cánh cổng tường cao cửa rộng của Cầu trang, có lính canh bồng súng đứng gác. Lính canh mở cửa cho xe vào, lúc đó mới bảy giờ rưỡi sáng ‐ là thời điểm đầu tiên trong ngày. Vào bên trong, trước mặt là một dãy kiến trúc cổ gạch xanh ngói thâm, cửa chính là cánh cửa sắt rất đẹp nhưng không thực dụng, không cao, mà cũng chẳng có chăng thép gai chống đột nhập, dường như ai cũng có thể nhảy qua bất kỳ lúc nào. Đây từng là nơi người nhà họ Cầu mở lầu xanh. Giờ thì treo tấm biển là nhà khách sĩ quan, thực tế thì cũng có đôi chút của kiểu “treo đầu dê bán thịt chó”.

Chiếc xe từ từ đi qua khoảng đất trống trước nhà khách sĩ quan, sau đó rẽ phải, đi thẳng về phía hậu viện. Xuyên qua rừng trúc và con đường rừng âm u nhỏ hẹp là đến hậu viện. Đi vào con đường rừng âm u, Tư lệnh Trương từ trên xe đã nhìn thấy hai ngôi nhà phía Đông và phía Tây, đợi xe đi vòng qua hòn non bộ cỏ dại um tùm và giàn đậu tía, hắn đã nhìn thấy Vương Điền Hương cung kính đứng chờ ở trước tòa nhà phía Tây.

Vừa xong, Vương Điền Hương nhận được thông báo của lính gác, liền cung kính đứng chờ sẵn ở đó. Phía sau hắn là một tên lính gác bên hông treo khẩu Pạchoọc đứng trang nghiêm. Phía sau tên lính canh là tấm biển gỗ rõ ràng là mới được dựng lên, trên đó viết: “Khu cấm quân sự, không phận sự miễn vào”. Tất cả những thứ này đều do Vương Điền Hương sắp đặt lúc đêm. Điều kỳ lạ là lái xe của Tư lệnh Trương cũng bị coi là người không phận sự, khi anh ta định đi vào trong nhà với Tư lệnh Trương, lính canh liền chặn lại nói:

“Xin lỗi, làm ơn đứng đợi ở ngoài vạch trắng.” Lái xe sững người, nhìn xuống đất, rõ ràng là có một vạch trắng mới kẻ cong queo, bao quanh ngôi nhà, giống như bùa quẻ của những người mê tín dùng để xua đuổi tà ma tai họa.

Do lúc đêm ngủ muộn, thêm nữa cũng không ngờ Tư lệnh lại đến sớm như vậy, thành ra cả năm người đều dậy muộn. Cố Tiểu Mộng thậm chí còn đang nằm trên giường khi Tư lệnh vào nhà. Tư lệnh đến thăm mọi người sớm như vậy khiến tất cả đều có cảm giác được sủng ái đến lo sợ, vừa trang nghiêm vừa cấp bách báo hiệu một nhiệm vụ lớn sẽ từ trên trời giáng xuống. Sau đó, khi bọn họ bước ra bên ngoài, nhìn thấy cảnh lính canh đứng nghiêm trang và vành đai trắng, cảm giác này càng tăng lên gấp bội. Họ đi ra ngoài để ăn sáng, nhà ăn nằm trong nhà khách tiền viện. Vương Điền Hương giống như chủ nhà, tận tình dẫn mọi người đi. Tuy ban đêm không ngủ ngon giấc, nhưng tinh thần Vương Điền Hương vẫn rất tốt, trên mặt vẫn ánh lên thần sắc phấn khởi, giống như tiếp đãi những khách quý từ phương xa đến. Điều này cũng làm tăng thêm cảm giác trang nghiêm và được sủng ái của mọi người, bởi vì bình thường Vương Điền Hương không làm như vậy.

Đợi mọi người tản đi, từ Đông lầu đối diện có hai người đi tới, mặc thường phục, tay xách hòm công cụ do Tham mưu Trương béo dẫn đầu, quan sát kỹ lưỡng hết lượt trong ngoài, trên dưới tòa nhà, hai người họ còn kiểm tra đường dây gì đó. Tư lệnh Trương đã ăn sáng xong, lúc này chẳng có việc gì, liền cùng với họ quan sát một lượt trong ngoài ngôi nhà.

* * *
Đây là một ngôi nhà kiểu Tây điển hình, hai tầng rưỡi, nửa tầng trên là tum, đã bị bịt kín. Tầng hai có bốn phòng, một phòng khóa chặt, còn ba phòng để ở. Có thể nhận ra, phòng Kim Sinh Hỏa là phòng ở cuối hành lang. Đó là một phòng nhỏ, chỉ rộng chừng bảy, tám mét vuông, nhưng lại kê một chiếc giường đôi, trông rất chật chội, đối diện là nhà tắm và nhà vệ sinh. Bên cạnh là phòng của Cố Tiểu Mộng và Lý Ninh Ngọc, kê hai chiếc giường đơn, một đôi ghế mây và một chiếc bàn làm việc, quả là một gian phòng khách tiêu chuẩn. Nghe nói chỗ này trước đây là văn phòng của Tiền Hổ Dực. Giá phơi bút kê bên ngoài bệ cửa sổ đến nay vẫn còn, vẫn có thể phơi những đồ vật nhỏ. Đối diện với phòng này cũng là một gian phòng khách, hiện đang khóa chặt. Qua đó là cầu thang, đi chút nữa là một phòng lớn kéo từ Đông sang Tây, hiện Ngô Chí Quốc đang ở. Phòng này rất sang trọng, phía trước có một sân thượng, phía sau là một sân phơi lớn với một dãy cột đá và một giàn nho (phía dưới là nhà để xe). Mấy năm trước, khi Tiền Hổ Dực nhậm chức, Tư lệnh Trương từng đưa hắn đến đây để xem qua, khi ấy ngôi nhà này này rất bừa bãi, nền nhà bị cạy lên chất thành đống, đồ dùng trong nhà thứ lớn thì vứt lỏng chỏng, thứ nhỏ thì vương tứ tung, tường và trần nhà loang lổ, trông thật thảm hại. Thế nhưng, hắn đã bị vẻ sang trọng hào hoa của ngôi nhà lôi cuốn, sàn nhà bằng gỗ pơmu đen, đồ dùng toàn bằng gỗ pơmu đỏ, giường đồng dát vàng, ghế sôfa kiểu tây, sập quý phi, đèn chùm pha lê, gạch nền tráng men v.v… Tất cả đều là những thứ quý giá nghìn vàng cũng khó mua nổi. Sau đó Tiền Hổ Dực cho sửa lại tất cả, hắn tới thăm lần nữa, quả là thật đẹp, còn hơn cả căn phòng của tướng quân trong khu nhà khách ở phía trước. Chính căn phòng này từng một thời mê hoặc hắn, sau khi Tiền Hổ Dực chết, những người thân cận đều khuyên hắn tới đó ở, làm hắn cũng lung lay. Nhưng đắn đo mãi, hắn vẫn không chịu đến ở. Mấy tháng trước, sai nhân của hắn đã chuyển những đồ đạc quý có thể chuyển đi được của hai ngôi nhà này đến nhà khách phía trước, một số được giấu kín, một số được đưa vào kê trong phòng của tướng quân, các phòng đẩy sang cho nhà khách, cải tạo thành gian hàng, dùng để kinh doanh.

Tư lệnh Trương sở dĩ muốn cải tạo hai ngôi nhà này là vì, một là bỏ không cũng tiếc, hai là hắn không muốn nhìn thấy những thứ xấu xấu bẩn bẩn bên cạnh nhà khách. Không giống như Tiền Hổ Dực, Tư lệnh Trương là người có học thức, không thể chấp nhận kiểu như thế này. Hắn đắn đo chính là vì sợ “mọc” ra một người thứ hai như hắn, nhìn thấy khó chịu sẽ tấu lên cấp trên, cướp mất cái ghế của hắn. San bằng tất cả thì lại sợ đắc tội với các nhân vật tai to mặt lớn “tham ăn” nào đó trong Hoàng quân[1], lên Nam Kinh kể tội hắn, như vậy chức vụ và cái mạng hắn cũng chẳng còn. Đem ra so sánh thì chức Tư lệnh ngụy quân chỉ là bù nhìn như hắn mệt hơn nhiều so với thời Tiền Hổ Dực trước đây, nguyên do là thế lực của hắn còn mỏng. Đây thực ra là cái đuôi của con đường hắn đang đi, đi tới đâu, cái đuôi kéo theo tới đó‐ một cái đuôi nặng nề giống như lịch sử, khiến hắn mệt mỏi. Nhìn lại, công danh bổng lộc hiện nay, hắn lại không nỡ bỏ, không nỡ bỏ công danh bổng lộc thì phải chấp nhận mệt mỏi, phàm những thứ mà hắn không thể nhận được thì cũng nhắm mắt mà nhận, phàm là những gì ảnh hưởng đến hắn hiện nay, thì hắn sẽ cố gắng hết sức để hóa giải, lôi kéo và giải quyết ổn thỏa. Hắn cải tạo hai ngôi nhà phía sau, ban đầu là muốn chuyển những thứ ô uế vô cùng từ phía trước về phía sau, muốn che tai mắt thiên hạ, đồng thời lại không phải phá dỡ, tránh tai tiếng và những lời xầm xì to nhỏ của thiên hạ, đúng là vẹn cả đôi đường.

[1] Hoàng quân: Chỉ quân đội Nhật Hoàng.

Có thể nói ý định là rất hay, nhưng lại không thực hiện được. Phải biết rằng, các kỹ nữ ở phía trước (tiền viện) đều bị vụ giết người thảm khốc làm cho kinh sợ. Sau khi vụ án xảy ra rất nhiều kỹ nữ đã tới hiện trường để xem. Số ít những người mới tới, tuy nói không tận mắt nhìn thấy nhưng người này kể, người kia thuật lại cũng nghe không biết bao nhiêu lần rồi. Người chứng kiến sợ hãi, người nghe càng thấy sợ hơn. Nỗi sợ cứ lan truyền nhanh chóng, đến những người sau vẫn bàn tán. Thì không nói nữa, nhưng cũng vẫn lưu giữ trong thâm tâm, lúc ẩn lúc hiện, đến nỗi ban ngày cũng không ai dám lai vãng đến gần khu hậu viện. Sự việc xảy ra ngay bên cạnh họ, thời gian chưa lâu, tất cả vẫn như diễn ra trước mắt, âm hồn của người chết vẫn vật vờ trong rừng trúc, cứ cho rằng anh bảo họ đến đây làm việc, lúc có khách hay vắng khách thì cũng đều phải trải qua những đêm dài đằng đẵng với các linh hồn, việc này chẳng khác gì muốn họ phải chết. Tấm thân của các kỹ nữ thật nhơ nhuốc, có thể để cho người ta vui đùa, danh dự có thể cũng không cần, nhưng mạng sống thì luôn cần, không thể đùa được.

Không đến!

Quyết không đến!

Thà bị đuổi cũng không đến!

Cứ như vậy, nhà đã cải tạo xong, nhưng người thì không thể cải tạo được, hơn nữa chỉ trong thời gian ngắn, xem ra không thể cải tạo được. Trừ khi giải tán nhóm người này, thay người mới vào. Việc này nói thì dễ, nhưng thực ra còn khó hơn cả chiêu binh mãi mã. Binh mã không chiêu được có thể bắt, bắt rồi cũng không phạm pháp, đường đường chính chính. Nhưng đám kỹ nữ có làm được như vậy không, không thể bắt được họ. Bắt ép người lương thiện thành kỹ nữ, trong dân gian hay chính quyền thì đây cũng là một tội lớn chẳng chơi. Thôi vậy, để mặc cho nhà trống. Hay nói cách khác, thà đắc tội với tiền chứ không thể đắc tội với người. Thế là hết, tính toán như ý, vẹn toàn cả đôi đường của Trương Tư lệnh trở nên tan nát, tốn một đống tiền oan, khiến hắn hận đến nỗi không thể nhổ cả móng hai ngôi nhà đó bỏ đi.

Tối qua, sau khi biết được sự việc trong lúc tìm nơi ở cho nhóm người này, hắn liền nghĩ ngay đến nơi đây, tự đắc ý vì cuối cùng đã sử dụng đến chúng. Xem ra bây giờ hắn càng thấy việc sắp xếp của hắn quả là không tồi, thật đáng hả dạ. Hai ngôi nhà, hai nhóm người, mỗi nhóm ở một bên, tự lập căn cứ, đôi bên lúc gần lúc xa, có thể nhốt có thể thả, tuyệt vời. Chỉ điều nghĩ mãi chưa ra, Sở trưởng Vương tại sao lại sắp xếp để họ ở như vậy. Hắn vốn nghĩ trên tầng có bốn phòng, có thể cho mỗi người ở một phòng, không biết tại sao lại khóa chặt một phòng, để Cố Tiểu Mộng và Lý Ninh Ngọc phải ở chung một phòng.

Thư ký Bạch ở tầng dưới.

Tầng dưới ngoài phòng khách, nhà bếp và nhà ăn ra, thực sự chỉ có ba phòng, một to hai nhỏ. Hiện Thư ký Bạch và lính gác mỗi người ở một phòng nhỏ, phòng to được bố trí làm phòng họp. Bước vào phòng này, nhìn cách bố trí của phòng họp, tư lệnh Trương mới nghĩ ra mình hôm nay đến đây là để họp với mọi người, tất nhiên là phải cần đến một phòng họp. Nhưng phòng khách bên ngoài vốn cũng rất rộng, xếp một vòng ghế mây, còn có tràng kỷ nữa, hoàn toàn có thể dùng làm phòng họp, hà tất phải bố trí thế này? Tư lệnh Trương không thể hiểu Vương Điền Hương đang nghĩ gì nữa. Hắn đi một vòng quanh chiếc bàn hội nghị có phần hơi dài, bất ngờ phát hiện bàn hội nghị do hai chiếc bàn ăn ghép lại, rồi phủ khăn trải bàn lên, trông cũng giống như thật. Từ sự chu đáo, tinh tế và tỉ mỉ, Tư lệnh Trương tin rằng Vương Điền Hương rất chú trọng tính hợp lý trong bài trí, bỗng dưng trong lòng trào dâng một ấn tượng tốt về Vương Điền Hương. Đây cũng chính là thái độ thông thường của hắn đối với Vương Điền Hương, cố giữ tình cảm tốt với Vương Điền Hương, không để xảy ra bất đồng gì.

Cuối cùng, Tư lệnh Trương ngồi xuống trước bàn, rút từ bao công văn ra một số công văn để đọc, chuẩn bị những vấn đề sẽ đưa ra trong cuộc họp. Nghĩ đến việc hắn sẽ đưa vấn đề gì ra cuộc họp với mọi người, mặt hắn lộ rõ nụ cười mỉa mai, trong sự mỉa mai lại như ẩn chứa sự nham hiểm đáng sợ.

* * *
Mấy người ăn xong đã về cả, cuộc họp bắt đầu. Cuộc họp do Vương Điền Hương chủ trì, Tư lệnh Trương diễn giải, trước tiên Tư lệnh Trương thao thao giảng giải tuyên truyền một lượt về sự gian nguy, tính cấp bách của công việc tiễu phỉ trừ gian của toàn đội hiện nay. Hắn nhấn giọng, hiện nay hoạt động bí mật chống Nhật phản ngụy xuất hiện xu hướng mới, đó là hoạt động du kích bí mật của Đảng Cộng sản diễn ra thường xuyên hơn so với hoạt động kháng chiến công khai của Quốc dân Đảng, đồng thời cũng sôi động hơn và khó đối phó hơn.

Lúc này là thời điểm cuối xuân đầu hạ năm 1941, xảy ra khi mà tiếng súng và mùi tanh của máu trong biến cố Hoản Nam hồi đầu năm còn chưa hoàn toàn tan biến. Anh em đấu đá nhau, Nhật ‐ ngụy cười mừng trong nhà. Biến cố Hoản Nam đã làm một đội quân chống Nhật hùng hậu với chín nghìn người, chỉ trong vòng mấy ngày đã trở thành mấy nghìn vong hồn và hơn hai nghìn binh lính tản mạn. Chính những tướng sĩ may mắn thoát khỏi vòng vây ấy, để thoát khỏi sự truy kích bí mật của quân đội Quốc dân đảng và sự truy quét công khai của bọn Nhật, đã lần lượt xâm nhập vào Giang Tô và Chiết Giang, hai vùng do quân Nhật chiếm lĩnh, một số gia nhập tổ chức bí mật ở địa phương, có người tự lập trận địa riêng của mình, dùng phương thức du kích đánh lẻ, tích cực triển khai các hoạt động bí mật chống Nhật phản ngụy. Cho nên, đúng như Tư lệnh Trương đã nói: Hiện giờ hoạt động du kích bí mật của Đảng Cộng sản gia tăng ở khắp mọi nơi.

Từ cách nói của Tư lệnh Trương, mọi người cảm nhận rất rõ tâm trạng hôm nay của Tư lệnh Trương khá hơn mọi khi, tuy không phải là chuyện gì vui vẻ (là chuyện đau đầu), nhưng trên mặt luôn lộ vẻ tươi cười, giọng nói sang sảng, đầy sức mạnh. Lúc này, hắn nói với mọi người một cách đầy thân thiện:

“Mọi người đều biết đấy, chiều qua Nam Kinh gửi cho chúng ta một bức điện mật, bức điện nói gì? Một thủ lĩnh Đảng Cộng sản mang mã số K đã xuất phát từ Tây An, hai ngày tới sẽ đến Hàng Châu của chúng ta. Hắn đến làm gì? Mọi người cũng đã biết, hắn đến để âm mưu xúi giục tạo phản. Việc xúi giục tạo phản chúng ta cũng đã thấy nhiều rồi, cho nên cũng không lấy gì làm lạ. Nhưng lần này thanh thế mạnh mẽ, bố trí kỹ càng, hậu họa nghiêm trọng, chúng ta phải hết sức chú ý. Mật điện từ Nam Kinh khẳng định với chúng ta, tên K đích thị là đặc sứ của Chu Ân Lai, hắn sẽ đại diện cho Chu Ân Lai bí mật triệu tập hội nghị lãnh đạo các tổ chức Đảng ở Chiết Giang tại nhà khách Văn Hiên Các ở núi Phượng Hoàng vào lúc 11 giờ đêm ngày 29 tháng này, tức bốn ngày sau, để bố trí hành động liên hợp. Mọi người thử nghĩ xem, một khi cuộc họp này diễn ra thành công, các hoạt động liên hợp hình thành, kết quả sẽ thế nào? Không chừng chỉ trong một nhoáng trứng gà biến thành đạn sắt, các binh sĩ mắt mù tai điếc tản mạn khắp nơi bỗng chốc trở thành đội quân lớn có sự chỉ huy thống nhất, quấy rối quy mô nhỏ trở thành đối đầu quân sự. Như vậy chắc chắn sẽ gây khó khăn chưa từng có cho công tác tiễu phỉ, cho nên chúng ta nên ăn mừng vì đã phát hiện ra sớm.”

Ngừng một lát, quan sát mọi người khắp một lượt, Tư lệnh Trưởng nói tiếp: “Tục ngữ có câu, điều tốt song hành, ngày hôm qua là ngày tốt lành của tôi, tất nhiên cũng là ngày tốt của các vị ngồi đây. Buổi chiều nhận điện từ Nam Kinh, một chữ cũng đáng giá ngàn vàng. Đến tối…”, hắn chỉ sang Vương Điền Hương, nói tiếp: “Sở trưởng Vương lại gửi đến cho tôi một món quà. Quà gì nào? Chính là đây”. Nói rồi hắn lấy ra cuốn từ điển dày cộm, bẩn thỉu, cứ như là nhặt từ vũng bùn lầy ra, đưa cho mọi người xem, “Đây là cái gì? Là một cuốn Đại từ điển Trung Hoa phiên bản mới, có thể trong nhà các vị cũng đã có. Có thể mọi người sẽ nghĩ, quà gì cái thứ này? Đúng thế, lúc ấy tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng Sở trưởng Vương nói với tôi đây không phải là một cuốn từ điển bình thường, trong đó có chứa bí mật, vì thế một tên Cộng sản xui xẻo trước lúc bị bắt đã cố tình vứt nó ra ngoài cửa sổ, hòng hủy chứng cứ”.

Tư lệnh Trương quay lại hỏi Vương Điền Hương: “Sở trưởng Vương, có đúng vậy không?”.

Vương Điền Hương gật đầu nói đúng, rồi giải thích: “Tên Cộng sản đảng ở trong khu tập thể giáo viên trường Trung học Thanh Xuân, một phòng trên tầng hai, có cửa sổ phía sau, tôi sợ hắn nhảy qua cửa sổ bỏ chạy, trước khi lên tầng bắt hắn đã bố trí người đứng ngoài cửa sổ. Kết quả là hắn không bỏ chạy, mà đúng hơn là không kịp chạy, chỉ vội vứt thứ này qua cửa sổ, thế là người của tôi nhặt được. Có điều, tên Cộng sản này ngay cả mạng sống cũng không cần, nhưng lại muốn vứt thứ này đi, không để chúng ta có được nó, tôi nghĩ ở đây phải có nguyên do gì đó”.

Tư lệnh Trương tiếp lời: “Đúng thế, tôi cũng nghĩ như vậy, trong này nhất định có nguyên do nào đó, cái hắn muốn vứt đi không phải là cuốn tự điển, mà là thứ quái quỷ gì đó nằm trong cuốn tự điển này. Cho nên, tôi đã lật xem tỉ mỉ. Nhưng lật giở từ đầu tới cuối, tìm ong cả đầu mà không tìm thấy một điều gì, trong đó chẳng có chữ nào thừa cả, cũng không thấy có gì bất thường. Sau đó, tôi ra ngoài đi dạo, trước đi khi đã tiện tay đặt cốc trà đang cầm trên tay xuống, chính tôi cũng không biết mình đã đặt chiếc cốc lên cuốn tự điển. Khi tôi quay về giở cuốn tự điển ra xem, bất ngờ đã xuất hiện, tôi nhìn thấy trên trang bìa phía trong cuốn tự điển có xuất hiện vết chữ lờ mờ, đều là chữ số Arập, một đám tròn, giống như vết đóng con dấu lên trên.

Lấy tay sờ vào chỗ đó thấy nóng hổi. Tôi hiểu ra rằng đó là do vừa nãy tôi đặt cốc trà lên trên, điều này có nghĩa là bí mật đã bị khám phá, tôi liền nghĩ nội dung mờ ám chính là ở trong trang bìa cuốn từ điển này, có lẽ chỉ cần hơ nóng thêm chút nữa, mọi thứ sẽ hiện ra rõ hơn. Nghĩ vậy, tôi đã lấy túi nước nóng đặt lên đó, sau đó thì… các vị xem, nó thành ra như thế này đây”.

Tư lệnh Trương giơ cuốn tự điển lên. Lật trang bìa cho mọi người xem.

Mọi người nhìn thấy trên trang bìa phía trong màu ố vàng đầy chữ số Arập, giống như bức điện báo, từng nhóm một, con số viết dầy đặc, nhưng vẫn đủ để nhận rõ từng nhóm:

120 3210 009 2117 477 1461……

741 8816 187 5661 273 4215……

Cứ như thế có tới mười mấy hàng

Tư lệnh Trương chỉ vào những nhóm con số, hỏi mọi người: “Đây là cái gì?”.

Sau đó lại tự trả lời: “Thực ra các vị cần phải biết hơn tôi, đây là một công văn mã hóa. Hay nói cách khác đây là một bức điện mã hóa, tại sao lại phải mã hóa? Bởi vì trong đó có thông tin quan trọng. Cộng sản sợ nó lọt vào tay chúng ta, rất sợ, đến nỗi chết cũng không sợ, mà chỉ sợ chúng ta có được nó. Điều này nói lên điều gì?

Chứng tỏ rằng thông tin trong đó phải vô cùng quan trọng đối với chúng ta, là thứ chúng ta đang tìm kiếm, các vị nói xem có đúng vậy không?”. Tư lệnh Trương nhìn khắp mọi người, rồi lại tự trả lời: “Đúng vậy. Vậy bây giờ chắc các vị đã hiểu ra, tại sao nửa đêm tôi lại kéo các vị dậy, tập trung đến đây, chính là muốn mọi người hãy giải mã bức điện mật này”.

Mọi người đều có chút ngỡ ngàng, Cố Tiểu Mộng còn lẩm bẩm câu gì đó.

Tư lệnh Trương như không nhìn thấy, không nghe thấy, tiếp tục chìm trong suy nghĩ của mình, hắn “à” lên một tiếng, nói: “Đúng là trời đã giúp ta”. Hắn đứng dậy cất bước, vừa đi vừa nói: “Sau đây, tôi muốn mọi người giúp tôi, ông trời đã giúp tôi hiện hình bức điện, nhưng thế vẫn chưa được, chưa đủ, tôi còn muốn hiện thần, hiện ý, muốn tìm ra lời giải ẩn sâu trong đó. Tôi cho rằng, nó nhất định có liên quan đến hoạt động của tên K. Nếu đúng như vậy…”. Nói đến đây, hắn ngừng lại đi về chỗ của mình, bất ngờ hăm dọa với khẩu khí hùng hổ: “Đây là việc hết sức quan trọng, chúng ta phải dịch được những mã khóa này!”.

Có thể là do trải qua quá nhiều lận đận, tính nết của Tư lệnh Trương cũng bất thường, hỉ nộ vô cớ thất thường, thêm nữa là nhiều năm lộng quyền, đạo đức và hành động cũng trở thành thói quen khó sửa, không thiếu phần cay độc. Chính vì lẽ đó, hắn luôn có đủ uy phong trước mặt cấp dưới, khi hắn đổi giọng, ngay cả ánh mắt của mọi người cũng phải tĩnh lại. Nhưng hôm nay tâm trạng của hắn khá hơn, không muốn thể hiện uy phong. Hắn nhìn vẻ ngoan ngoãn yên lặng của cấp dưới, cười cười rồi ngồi xuống, nói một cách hết sức dịu dàng:

“Tục ngữ có câu, nuôi binh nghìn ngày, dùng binh một giờ, bây giờ là lúc tôi cần tới mọi người hơn lúc nào hết. Tuy mọi người không phải là những người chuyên dịch điện mã của kẻ địch, lại thiếu hiểu biết về công việc dịch điện mật quân Cộng sản, nhưng tôi tin, mọi người sẽ không làm tôi thất vọng. Tại sao? Thứ nhất là tôi dự đoán bức điện mật này không quá khó, nếu khó thì Cộng sản không cần phải cố vứt bỏ nó, kiểu gì thì cũng không thể dịch được, vậy thì cần gì phải vứt đi. Thứ hai là các vị mỗi người đều có sở trường riêng: Như Trưởng ban Ngô, nắm rõ tình hình địch như lòng bàn tay, có thể nói là bản đồ sống về tình hình địch; Trưởng phòng Kim và Trưởng phòng Lý đều chuyên về cơ yếu, giải mã biết bao bức điện; còn Tham mưu Cố, trẻ trung, đầu óc nhanh nhạy, nhiều mưu mẹo, dám nói dám nghĩ. Tục ngữ có câu ba người thợ thuộc da bằng một Gia Cát Lượng, các vị bốn người hợp lại, tôi dám chắc vượt xa các chuyên gia giải mã điện mật. Tóm lại, tôi hết sức tin tưởng vào mọi người. Nói thật, Tướng quân Matsui rất coi trọng công việc giải mã bức điện mật này, tôi vừa báo cáo, ông ấy đã vội nói sẽ cử chuyên gia giúp tôi giải mã bức điện mật này. Hiện giờ họ đã xuất phát, có thể chiều nay sẽ đến. Tất nhiên rồi, tôi hy vọng người của tôi có thể tự giải mã được, chính là các vị đấy. Đây chính là cơ hội tốt nhất để các vị tỏ rõ sự trung thành với tôi, cũng là cơ hội ngàn vàng để tôi tỏ rõ lòng trung thành với Tướng quân Matsui, hy vọng các vị ở đây vứt bỏ tất cả, tập trung toàn bộ sức lực, nhanh chóng giải mã xong bức điện mật này. Thành bại luận anh hùng, tôi chân thành mong muốn các vị đều trở thành anh hùng, thể hiện uy phong của quân ta, cũng là mở đường cho tiền đồ tươi đẹp của mình”.

Những câu nói của Tư lệnh Trương làm mọi người như bị tung hỏa mù. Trước tiên là lai lịch kỳ lạ của bức điện, sau đó là tụ hợp bốn người họ lại để giải mã bức điện báo cũng khiến mọi người cảm thấy thật kỳ quái. Nếu như nói là khó thì họ đều không phải là những nhân viên chuyên giải mã điện mật của địch, bình thường thứ họ giải mã đều là điện báo của chính quân mình, chỉ là nhân viên dịch điện báo thôi, dựa vào gì mà tin tưởng họ? Còn nếu nói là dễ, vậy thì dựa vào cái gì để bảo họ lập công lĩnh thưởng, hơn nữa lại huy động ồ ạt như vậy? Ngoài ra, cách nói năng của Tư lệnh hôm nay cũng rất khác thường, vừa trang nghiêm vừa dịu dàng, vừa nhẹ nhàng vừa gay gắt, có thực có hư, thần bí khó lường. Cứ như Tư lệnh Trương đã biến thành người khác, còn những thứ mà Tư lệnh đã nói, lại cứ như là không thực sự cần nói. Ý tại ngôn ngoại, cứ như còn có ý tứ sâu xa nào đó ngoài lời nói. Bọn họ cho rằng, Tư lệnh nhất định còn tiếp tục nói và ở phần sau này sẽ giải đáp những thắc mắc còn vướng trong họ.

Nhưng Tư lệnh đã không nói tiếp, hay chính xác hơn lời nói tiếp của hắn là từ biệt: Đi nhé. Hắn dặn dò Thư ký Bạch và Sở trưởng Vương phải chăm lo sinh hoạt và an toàn của mọi người, liền sau đó chắp tay chào rồi bước lên xe đi, khiến cho cả bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố có cảm giác lạc lõng, lạc lõng đến nỗi hoảng sợ một cách lạ lùng khó hiểu. Nửa tiếng sau, khi họ đã dễ dàng giải mã xong bức điện mật, nỗi hoảng sợ khó hiểu ban nãy, lúc này giống như bị lột da thịt, cảm giác như máu chảy đầm đìa, bản chất man rợ, khiến họ sợ cứng người.

* * *
Đúng như Tư lệnh nói, bức điện mật không khó giải mã, thậm chí có thể nói là quá dễ, dễ đến nỗi không thể gọi là điện mật, chỉ cần biết chữ là đã có thể giải mã.

Thực ra đây chẳng qua chỉ là một trò chơi chữ của Tư lệnh Trương trong lúc cao hứng chờ cấp trên đến để đùa với mọi người mà thôi. Cái gọi là giải mã, chẳng qua chỉ là căn cứ theo số trang, số hàng, số thứ tự theo chỉ dẫn để nhặt chữ trong tự điển ra mà thôi như: Trang thứ mấy, hàng thứ mấy, chữ thứ mấy. Cứ như vậy, giải mã được chữ đầu tiên, tiếp đến chữ thứ hai, thứ ba… cuối cùng toàn văn như sau:

Mật điện này là giả

Ổ giặc Cộng là thật

Muốn không ai biết đến

Mình cũng phải làm ngơ

Nơi số một toàn quân

Há dễ chứa gian tế

Bốn người Ngô Kim Lý Cố

Các ngươi ai là phỉ

Điện mật mã này tôi cần dịch

Tố cáo thú tội đều hoan nghênh

Qua thôn trang này không nhà trọ

Bỏ lỡ thời cơ chớ tiếc than.

Có lẽ chỉ có một gã tú tài quá cỡ, trong lúc cao hứng mới có hứng thú như vậy: Dĩ thi thảo phạt. Nhưng là một gã tú tài, văn thơ gì mà dở quá vậy. Có thể là do nhiều năm chinh chiến đã làm lỡ mất khả năng lĩnh hội văn thơ của hắn, thích bộc bạch suy nghĩ trong lòng, mục đích rõ ràng, thuộc loại mạnh mẽ. Xét từ góc độ này, đây rõ ràng là tác phẩm không thể chê trách gì, đừng nói là bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố, ngay cả người ngoài cuộc như Thư ký Bạch cũng nhận thấy ý tứ sắc lạnh đến ghê người của “áng thơ”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro