Tieu Thuyet Tỉnh Mộng Hồ Biểu Chánh Chương 1-5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

*Tỉnh Mộng*

Chương 1

Dọc theo mé sông từ Tân-An qua Mỹ-Tho, nhà cất liên tiếp, cây trồng giao nhành, người lạ ngồi thuyền đi qua đó ai cũng khen là chỗ dân cư trù mật. Cách ít năm trước, ở chợ Tân-An, do theo quan lộ đi dựa mé sông ấy, vô chừng vài ngàn thước thì thấy có một tòa nhà ngói cũ ba căn hai chái, nền đúc, cửa cuốn, vách gạch, cột gõ. Nhà cất day cửa xuống mé sông, trước cửa kiểng vật đủ thứ: nào là vạn-niên-tùng, nào là bá-trắc-diệp, nào là bùm-sụm, nào là càng-thăng, nào là thủy-tiên, nào là kim-quít. Hai bên đường vô cửa lại có mấy bồn bông lan, bông huệ, vạn-thọ, mồng-gà, đinh lăn, sao-nháy. Bên chái trên có mấy nọc trầu vàng sum-sê, gió thổi lá đòng đưa khoe màu tươi mướt. Phía chái trên có chuồng bồ-câu sơn đỏ, mà vì mưa sa nắng táp làm phai lợt màu son. Ở sau nhà lớn thì có một cái nhà ngói nhỏ ba căn song để chứa đồ và nấu nướng. Còn từ đó ra phía sau nữa thì là một khoảnh vườn lớn gần nửa mẫu, chung-quanh trồng mấy hàng dừa, cây cong-vòng, cây suông đuột, buồng sai, tàu xụ, xem rất u-nhàn. Trong vườn thì xẻ mương nhỏ cái dọc, cái ngang, rồi trên mấy liếp trồng chuối lộn với cau, chuối nhảy con bùm-sùm, cau ngay hàng thẳng rẳng.

Nhà nầy nhà của quan Phủ Phan-hữu-Tiền. Quan Phủ qua đời đã hơn 6 năm rồi, không có con trai, để lại một đứa con gái, năm nay đã 19 tuổi, tên là Phan-yến-Tuyết, mà người ta thường kêu là cô hai Tuyết, ở hủ hỉ với bà Phủ. Quan Phủ Tiền là người gốc-gác ở Bà-rịa nhưng mà lúc ngài còn sanh tiền, ngài giúp việc cho nhà nước có ở nhiều tỉnh và tới chỗ nào ngài cũng ở lâu năm, nên ngài coi mấy chỗ ấy như quê quán của ngài, bởi vậy ít ai biết chắc ngài sinh trưởng tại xứ nào. Lúc ngài già yếu ngài nghĩ nhà không có con trai, có nuôi một đứa cháu kêu bà Phủ bằng dì, cho đi học đã thành thân rồi, không cần phải lao tâm nhọc trí chi nữa, nên ngài xin hồi hưu rồi mua khoảnh vườn nầy cất nhà mà ở đặng an hưởng thanh nhàn.

Từ ngày quan Phủ qua đời, thì bà Phủ vào ra quạnh-quẽ, buồn lòng xót dạ nên không lo dọn dẹp nhà cửa cho lắm. Ngoài ngõ tuy có bắc thêm một cái cầu thang để xuống sông cho dễ, song kiểng vật không ai uốn nhành cắt lá, nên cây lên tự nhiên coi không đẹp như xưa. Trong nhà thì ghế bàn tủ ván đóng cây đã tốt, mà kiểu cũng lanh, song ít hay lau chùi nên coi không còn nước bóng.

Bà Phủ không giàu, mà quan Phủ qua đời rồi, bà tom góp tiền bạc mua được một sở ruộng ở Kỳ-Sơn huê lợi mỗi năm góp được một ngàn giạ, nhập với huê-lợi cây trái trong vườn được vài trăm đồng bạc nữa, thì mẹ con ăn xài không hết.

Tiết tháng chạp, trời chiều mát mẻ, sông nước dẫy đầy. Cô hai Tuyết ăn cơm rồi mới lần bước ra ngoài cầu thang ngồi mà hứng gió. Cô mặc một cái áo bà-ba lục-soạn trắng, mới giặt ủi nên lằn xếp còn ràng-ràng; mặc một cái quần lãnh đen tuy cũ song láng mướt coi cũng như quần mới. Dưới chân có mang một đôi dép quai đen, mà trên quai lại có kết bông màu hường. Cô là một người con gái vóc vừa vừa không lớn mà cũng không nhỏ, không mập lung mà cũng không ốm quá; đã vậy mà cô nhỏ xương nên tướng đi yểu điệu; thuở nay cô thêu thùa may vá, hoặc viết thơ, hoặc đọc sách mà thôi, chớ không nấu nướng, không làm công việc trong nhà, không dan nắng, không dầm mưa, nên nước da cô trắng đỏ mà lại trong bóng. Cô không gỡ đầu nên tóc xấp xải hai bên bàn tang, mà có nhiều sợi gió thổi ngã xuống tới gò má, làm cho cô một lát phải lấy tay mà vuốt lên, lòi cái mặt sáng rỡ, lại thêm đôi bông hột xoàn chiếu ánh sáng mặt trời chiều chớp nhoáng hai bên trái tai. Mỗi lần cô vuốt tóc thì thấy mấy ngón tay cô nhỏ mà lại dài, còn bàn tay dịu nhiễu, cườm tay no tròn, chiếc đồng bánh ú đeo khít-rịt. Cô mặc áo không có bâu, nên bày trọn cái cổ trắng trong, lại có sợi dây chuyền nhỏ vòng theo coi thiệt là đẹp. Cô đứng trên cầu mà ngó bầy cá lòng-tong ăn bọt nước, gió thổi ống quần phất-phơ lòi hai bàn chân ra ngón nhỏ xíu, gót đỏ lòm, trên bàn chân thịt vung líp luôn tới mắt cá.

Thuyền chèo ngang ai thấy cô đứng trên cầu cũng đều dòm ngó, nhưng mà cô không dè cái sắc của cô đến nỗi làm cho người nghiêng tròng, bởi vậy cô đứng chơi tự nhiên, lượm đất nhỏ liệng cá lòng-tong đã thèm, rồi nhổ nước miếng xuống sông cho cá lìm-kìm nổi lên hớp bọt.

Mặt trời lặn mất rồi, cô hai Tuyết mới lần bước trở vô nhà. Cô qua khỏi cửa ngõ thấy một bụi huệ trổ bông bay mùi thơm tho, khoe màu trắng nõn, cô đứng lại cúi mặt xuống rồi cầm một cộng, kề ngang lỗ mũi mà hưởi. Nhánh bông huệ kề gần gò má, mấy ngón tay của cô coi cũng như bông búp, còn nước da mặt của cô coi cũng không kém màu mấy bông đã nở chút nào.

Có một con kiến hôi ở trong nhánh bông bò qua ngang gò má, làm cho cô nhột nên phải lấy tay mà phủi; song cô dịu-dàng quá, nên con kiến không chết, lại leo qua tay cô mà bò. Cô chúm-chím cười bày hai hàm răng trắng trong, rồi nhè nhẹ kề bàn tay gần lá huệ cho con kiến bò đi, chớ cô không nỡ giết.

Cô còn đương xem hoa, bỗng thấy thằng Quới, là đứa ở, quẹt lửa đốt đèn trong nhà. Cô bước vô thấy bà Phủ đương nằm trên ván mà quạt hơi, cô mới hỏi:

- Trời mát quá, sao chiều nay má không ra ngoài mé sông mà chơi, má?

- Từ hồi trưa đến bây giờ sao nó nặng đầu quá. Con đưa ve dầu măng[1] cho má một chút con.

- Cô hai Tuyết lại ghế ăn trầu kiếm ve dầu măng đem đưa cho bà Phủ, rồi ngồi lại một bên, rờ tay rờ trán và hỏi rằng:

- Má có dún mình[2] hay không?

- Không.

- Tại hồi trưa má ra sau vườn coi bầy trẻ bẻ cau nên chói nắng mà nhức đầu đó chớ gì. Trưa nắng má đừng có đi như vậy nữa nghe không má.

- Tại nó nhức đầu thì nó nhức, chớ phải tại đi ra vườn hay sao. Hôm trước anh ba nó biểu con làm cho nó một chục khăn hỉ mũi, con làm đã rồi hay chưa? Nó nói bữa nào đây nó qua đa. Như con làm chưa rồi thì làm riết đi, đặng nó qua đưa cho nó.

- Con làm được 8 cái rồi. Anh đó ảnh làm rộn quá! Có vợ mà sao không biểu vợ nó làm cho mà dùng, để đi mượn người ta.

- Con nói sao vậy? Bởi chị ba con không biết làm, nên thẳng nó mới mượn con chớ.

- Ai biểu ảnh cưới vợ vụng như vậy làm chi.

- Nó vụng mà nó có nhiều tiền, đời nay hễ có tiền thì hơn, chớ cần gì khéo vụng, con.

- Có tiền nhiều mà như vậy ai thèm. Nầy má, anh ba ảnh lịch-sự trai quá chớ, không biết tại sao hồi đó ảnh cưới chị ba chi vậy, coi kỳ quá, má há? Chị mập ú, cặp mắt băng xiên băng nai, mà văn nói nghe cụt ngủn, anh ba ảnh thương sao được không biết.

- Cưới vợ cần gì nhan sắc, con.

- Lúc ảnh nói vợ, con mắc đi học trên nhà trắng, chớ phải con ở nhà con cản; thiếu gì con gái hay sao mà lựa vợ như vậy.

- Con đừng nói tầm bậy, chị ba con nó hay được nó phiền.

- Nầy má, hồi trước ba với má đứng cưới vợ cho ảnh, hay là ảnh lựa một mình ảnh vậy má?

- Hồi đó nó học đã thi lấy bằng cấp, rủi dì với dượng con khuất đi, má với ba con thấy nó côi-cút tội nghiệp mới nuôi nó cho nó học đặng thành thân với người ta. Chừng nó ra trường rồi ba con mới lo cho nó vô làm thông-ngôn Tòa, rồi đổi xuống Mỹ-tho.

- Hồi đó con còn nhỏ quá nên không biết.

- Ừ, hồi đó con mới được tám chín tuổi.

- Con nhớ ảnh đi học hễ bãi trường ảnh về thì ảnh đem hình về cho con, con thương ảnh lắm. Hồi đó mình ở trên Biên-Hòa, phải hay không má?

- Ừ.

- Ảnh làm thông ngôn ở Mỹ -Tho rồi ảnh mới đụng[3] chỉ đó phải hay không.

- Ừ. Nó làm việc có thời, quan yêu dân chuộng, mà nó lại khá trai, thầy Cai Tường ở Bến Tranh thấy nó thẩy thương, thẩy mời nó vô nhà chơi đôi ba lần rồi thẩy tính gả con cho nó. Nó thấy thẩy giàu có lớn, huê-lợi đến gần 20 ngàn giạ, mà có một mình chị ba con đó mà thôi, chớ không có con trai, nó muốn ưng ngặc chị ba con có hèn đứa[4] một chút nên nó dục-dặc trót hơn một năm không chịu đi nói. Sau má nghe má rầy nó, má nói người ta giàu lớn, về nhà đó cũng như chuột rớt hũ gạo, ở không ăn đến già cũng không hết của, dại gì mà không chịu; nó nghe nói phải nó mới chịu đi nói, rồi ba con với má đứng cưới cho nó đa. Nó nghe lời má bây giờ phải sung sướng tấm thân hay không? Cưới vợ có ít tháng thì thầy Cai biểu xin thôi về ở với thẩy. Thẩy góa vợ nên thẩy giao chìa khóa tủ sắt cho vợ chồng nó cầm. Nó về Bến-Tranh làm làng chơi ít năm rồi làm Hội-đồng địa-hạt. Cha vợ làm Cai-tổng, chàng rể làm Hội-đồng, nhà có ghe hầu, có xe ngựa, có xe hơi, sang trọng biết chừng nào.

- Lúc nọ con nghe ảnh nói với má, ảnh tính tranh cử Hội-đồng quản-hạt, rồi sao êm, không nghe nói tới chuyện đó nữa vậy má?

- Nó muốn làm Hội-đồng quản-hạt lắm, song thầy Cai thẩy cản, thẩy nói rằng tranh cử phải tốn một đôi muôn đồng bạc, mà làm có 4 năm rồi mãn khóa không ích lợi gì. Thẩy mới tính với nó hễ thẩy xin hưu trí rồi thì nó ra làm thế cho thẩy; cỡ Cai-tổng bây giờ không ai giành lại nó, bởi vì nó giỏi chữ Tây, mà lại giàu lớn, trong tổng có ai mà theo kịp nó. Hôm trước nó qua nó nói thầy Cai sửa-soạn xin hưu trí chắc trong ít tháng nữa đây nó lên Cai-tổng rồi.

- Hứ! Chị giàu thì giàu chớ trong bụng ảnh có vui sướng gì đâu, má.

- Sao vậy?

- Vậy chớ hôm trước thằng Quới đi qua bển nó về nó nói chuyện lại má không nghe hay sao?

- Nói chuyện gì?

- Nó nói chị ba hỗn-hào lắm, nói với ảnh cũng như nói với đầy tớ, từ sớm mơi đến tối mắng ảnh luôn luôn, hễ ảnh cự lại chỉ nói ảnh là đồ ăn chực. Giàu mà thô-tục quá như vậy, dầu vào đó hốt vàng cũng không ai thèm.

- Thằng Quới nó đồn tầm bậy, sao con không rầy nó, lại tin lời nó nói làm gì. Để sáng mai tao hỏi lại nó rồi nó coi tao.

Cô hai Tuyết thấy mẹ có sắc giận thì cười và nói rằng:

- Con đặt chuyện nói chơi, chớ không phải thằng Quới nói đâu má. Má đừng rầy nó tội nghiệp.

- Ờ, có lẽ con bày đặt, chớ thằng Quới nào mà dám nói láo như vậy.

Cô hai Tuyết vào trong buồng lấy quả may ra, rồi đem đèn để trên ván ngồi mà rút khăn hỉ mũi. Bà Phủ nằm ngó con một hồi rồi nghĩ thầm trong trí rằng: con mình lớn rồi, thế nào cũng phải lo mà gả nó lấy chồng. Cha chả, mà gả nó lấy chồng rồi ai ở với mình. Tuy hai năm nay nó thôi học về ở nhà thì ở không mà chơi, có siêng thì nó rút khăn, thêu giày mà dùng, hoặc nó đọc truyện cho mình nghe, chớ nấu cơm, nấu nước, hoặc dọn dẹp trong nhà có tôi tớ, mình không cho nó làm. Bởi vậy nó ở nhà cũng không lợi ích chi. Song có mẹ con hủ hỉ mới khỏi buồn, nếu nó lấy chồng chắc là mình buồn lắm. Chớ chi có thằng nào chịu cưới rồi về đây ở với mình thì mình khỏi lo. Mà mình có của đủ ăn mà thôi, chớ không phải giàu muôn hộ chi đây mà tính nuôi rể. Nếu mình kiếm mấy đứa mồ-côi nghèo khổ mình gả cho nó thì có lẽ mình ép vợ chồng nó phải ở đây với mình được. Ngặt vì mấy đứa mồ-côi nghèo khổ nếu nó học giỏi thì nó mong kiếm vợ cho thiệt giàu, rồi vợ chồng nó dắt nhau đi làm việc quan húng-hính chơi cho sung-sướng; mình không giàu nó đã không thèm nói con mình, có đâu nó chịu ở theo bên vợ. Hoặc là mấy đứa có học lam nham, nếu mình kêu mà gả thì chắc nó chịu, ngặt con mình văn nói dịu-dàng, đi đứng yểu-điệu, thêu thùa đã giỏi, mà chữ nghĩa cũng thông, không lẽ có con như vầy mà mình đem gả nó cho đứa học dở. Ví dầu mình có gả bướng đi nữa, sợ con mình nó cũng không chịu đâu. Khó, khó lắm! Chớ chi có con ai thiệt nhà giàu lớn mà đi nói nó, thì mình gả phứt cho rảnh. Thà gả cho nhà giàu.

Bà Phủ đương suy nghĩ đến đó, bỗng nghe cô hai Tuyết nói:

- Má nầy, hôm trước con đi Sài-gòn với má con có gặp chị Nhan, chỉ nói chỉ có chồng rồi, chồng chỉ làm thầy-thông gì đó không biết.

- Chị Nhan nào?

- Chị Nhan là bạn học của con. Chị là con thầy Cai-tổng gì ở dưới Cần-Thơ đó không biết. Hồi con còn đi học có một lần má đi thăm, má gặp chỉ rồi má khen chỉ miệng nói có duyên đó, má nhớ hay không?

- Lâu quá má nhớ được đâu.

- Chỉ đen mà lùn bân, chỉ xấu quá, duy được cái lỗ miệng. Hứ! Vậy mà được lấy chồng làm thầy-thông thầy-ký cũng khá quá.

Cô hai Tuyết nói tới đó miệng chúm-chím cười, rồi cúi xuống mà may khăn.

Cách ít ngày có cô ba Hương ở Sài Gòn đi bán hột xoàn, cô quen với bà Phủ Tiền, nên nhân dịp xuống Tân-An cô mới mướn xe vô nhà thăm bà Phủ. Cô nầy tuổi quá 40, lanh lợi bặt thiệp lắm, lại vì cô đi cùng các tỉnh mà bán bông tai, cà-rá, nên cô quen biết nhiều người. Vừa bước vô tới cửa ngõ thì cô kêu om-sòm mà hỏi rằng: "Phải nhà chị Phủ ở đây hay không? Có khách Sài Gòn xuống thăm đây nè".

Bà Phủ ngồi trong nhà nghe hỏi vang-rân ngoài cửa, không biết là ai, nên lật đật chạy ra. Bà thấy cô ba Hương thì bà mừng quá nên hỏi:

- Cha chả! Tôi ở vườn tược quê mùa, khách Sài Gòn nào mà tìm tới đây vậy?

- Ở Sài Gòn người ta đi ăn nem Thủ Đức, đi coi hát cải-lương đã thèm rồi, bây giờ người ta thèm dừa xiêm, thèm chuối phơi khô, nên người ta tìm tới đây xin ăn, chị cho ăn hay không?

Hai người cười với nhau, rồi dắt nhau vô nhà. Cô ba Hương mới hỏi:

- Chị làm giống gì mà mấy tháng nay chị không lên Sài Gòn chơi vậy chị Phủ? Xưa rày chị mạnh giỏi thế nào?

- Tôi không đau mà cũng không mạnh cho lắm. Tôi có tật hễ ít bữa thì nặng đầu một lần, nên ít muốn đi đâu.

- Tại chị ở nhà hoài, trí tù-tún nên chị đau như vậy chớ gì. Phải chị đi chơi như tôi vầy thì chị có đau đâu.

- Cô xuống dưới nầy chơi hay là có chuyện chi?

- Tôi đi Tân-An có việc, tôi nhớ chị quá nên tôi chạy vô đây thăm chị một lát.

- Cám ơn cô quá! Hai đứa nhỏ cô bây giờ làm việc ở đâu?

- Thằng lớn làm thông-ngôn dưới Bạc-Liêu còn thằng nhỏ bây giờ nó bỏ hãng sắt, mới vô sở Trường-Tiền hôm đầu tháng tới nay.

- Hai đứa có con rồi hết há?

- Thằng lớn có hai đứa con, còn thằng nhỏ chưa có.

Cô hai Tuyết nằm trong phòng mà xem truyện, nghe có khách lật đật cắt trầu, bửa cau rồi bưng ra. Cô chào hỏi cô ba Hương rồi vô cửa buồng đứng hối chị chín Hữu, là người ở đi chợ nấu ăn nấu nước riết đặng chế một bình trà ngon mà đãi khách. Cô ba Hương thấy Yến-Tuyết thì ngó trân trân rồi nói với bà Phủ rằng:

- Con cháu năm nay đã trọng đến há? Chị có định gả nó cho chỗ nào chưa vậy chị Phủ?

- Ổng khuất rồi, tôi còn có một mình nó hủ hỉ hôm sớm cho vui, nếu gả chồng thì chắc là buồn lắm, nên tôi chưa muốn gả.

- Con nó đã lớn rồi, mình phải tính đôi bạn cho nó chớ. Nầy chị, chị để tôi kiếm chỗ tôi làm mai cho cháu nhé. Tôi làm mai dễ lắm; tôi không đòi năm bảy cái đầu heo đâu mà sợ. Ở bên Bến-tre có một thầy Cai giàu quá. Hôm trước tôi xuống bán cho vợ chồng thầy một bộ cà-rá một ngàn bảy, tôi ở chơi hai bữa thấy vợ chồng thầy thiệt là người tử tế. Thẩy mới gả đứa con gái lớn lấy chồng, chỗ đó cũng giàu dữ! Thẩy còn thằng con trai năm nay lối 20, 21 tuổi mà chưa có vợ, chị chịu thì tôi làm mai giùm cho cháu.

Cô hai Tuyết đứng trong cửa buồng nghe hai bà nói chuyện tới đó thì mắc cở, nên bỏ qua phòng bên mà nằm. Mà bộ ván chỗ hai bà ngồi nói chuyện thì cách phòng có một tấm vách ván mà thôi, nên ở ngoài nói chuyện gì thì cô nằm trong đều nghe hết. Bà Phủ nghe cô ba Hương nói muốn làm mai con thầy Cai ở bên Bến-Tre cho con mình, mà thầy Cai ấy nhà giàu có lớn, thì bà lấy trầu têm và cười, coi bộ suy nghĩ lắm. Cách một hồi bà mới hỏi:

- Vậy chớ thằng đó học hành có bằng-cấp gì hay không?

- Cha chả! Việc đó tôi không hiểu đa. Mà tôi coi bộ cậu ta là con nhà giàu lớn, chắc là cậu ta học sơ-sài, biết ít chữ rồi về ở nhà, chớ không bằng người ta. Ý! Mà cậu ta mềm mỏng lắm, trình thưa dậm dại chớ không phải dút dát như mấy cậu công-tử bột vậy đâu.

- Theo ý tôi hễ chỗ nào phải thì tôi gả, không cần giàu nghèo, không cần học giỏi dở. Ngặt con nhỏ tôi ý nó chê mấy người học không có bằng-cấp, mà chỗ đó lại xa quá, sợ nó không bằng lòng.

- Nếu chị không chịu chỗ đó để tôi lựa cho chị một chàng rể đúng mực đặng chừng già yếu chị nhờ cậy cho được kìa, chớ thứ đồ bá-vơ, diện bộ hình coi láng bóng, nói lỗ miệng nghe lốp-bốp, mà không nên thân, thì gả làm chi.

Cô ba Hương thăm chơi trót giờ rồi muốn từ đặng trở ra chợ Tân-An đi xe lửa mà về. Bà Phủ cầm quá nên cô phải ở lại dùng một bữa cơm. Cô hai Tuyết mắc cỡ nên không chịu ra ăn cơm, mà chừng khách về cô cũng không ra đưa khách.

Chương 2

Con gái đến 18, 19 tuổi, tuy mắc cỡ không nói ra chớ ai cũng lo thầm tính lén việc tóc tơ trăm năm. Cô hai Tuyết là con nhà quan, sắc đã đẹp mà học cũng nhiều, lại thông hiểu việc đời, thấy xa nghe rộng, bởi vậy nhiều đêm cô nằm trong phòng, canh khuya vắng-vẻ, rồi hoặc trời mưa rỉ-rả, hoặc gió thổi lao-xao, nhìn bóng, ngó đèn, có lúc cô cũng suy nghĩ đến duyên nợ. Tuy vậy mà cô suy nghĩ thì có suy nghĩ, song trong trí cô thường lộn-xộn, cô chẳng hề có tưởng-tượng hình vóc của người chồng là thế nào. Hôm nay cô nằm nghe cô ba Hương trạng cảnh gia-đình của nhà chồng, lại tỏ tánh nết của chú trai sẽ làm người chồng của cô nữa, thì cô lấy làm mắc cỡ, cô tính bít lỗ tai không thèm nghe, mà chẳng hiểu vì cớ nào cô lại cứ lóng tai nghe hoài, bởi vậy hai bà nói chuyện với nhau cô nghe chẳng sót lời nào hết.

Đêm ấy Yến-Tuyết đi ngủ sớm, mà vào phòng cô nằm lăn qua trở lại hoài, nhắm hai con mắt mà không ngủ được. Đồng hồ gõ 10 giờ, bà Phủ và tôi tớ trong nhà đều ngủ hết. Cô ta nằm im-lìm một lát nghe dưới sông có tiếng ghe chèo sạt-sạt. Cô ta mới nhớ tới chuyện cô ba Hương nói hồi sớm mơi. Trong trí cô trạnh cái nhà của thầy Cai-tổng bên Bến-Tre, rồi cô tưởng-tượng luôn hình-dạng của con thầy Cai nữa. Cô thấy một cái nhà ngói lớn mà cũ, cất thấp-thấp, trong nhà tối hù, trên ván đóng bụi, dưới gạch sơn bùn, ở nhà sau treo nia treo thúng cùng vách, ngoài hè rác-rến dơ-dáy, vườn lớn mà cỏ mọc đầy, sân rộng mà bông hoa còi-cọc hết.

Cô lại thấy con trai thầy Cai tóc cúp ma-ní, mặc áo lục-soạn trắng quần lãnh đen, chân mang guốc, ngồi nói chuyện với Hương chức làng rồi ra nhà sau đứng ăn chuối. Cô trạnh cảnh, trạnh người rồi rồi thì trong lòng cô lạnh ngắt, chẳng có ý muốn vào ở cái nhà đó chút nào. Cô mới ước thầm chớ chi cô có một người chồng chẳng cần giàu cũng chẳng cần học siêu-quần xuất chúng làm gì, miễn là có bằng-cấp đủ làm việc nhà nước, quần áo đoan-trang, đứng đi gọn-ghẽ, nói-năng bặt-thiệp, nhà-cửa sạch sẽ, chồng đi làm việc mình ở nhà thêu khăn hoặc đọc truyện mà chờ, chừng chồng về mình nói chuyện vui-vẻ cho chồng nghe, được như vậy thì mình mới vừa lòng đẹp ý. Cô tính tới nghĩ lui rồi nằm mòn mỏi nên ngủ quên hồi nào không hay.

Qua tuần sau bà Phủ thấy Tết đã gần tới nên dắt con đi Sài Gòn đặng mua đồ chút đỉnh về mà ăn Tết. Nhơn dịp ấy mẹ con dắt nhau ghé thăm cô ba Hương. Cô ba Hương tiếp rước rất hậu, rồi nói với bà Phủ rằng: "Tôi thấy cháu tôi thương quá, nên hổm nay tôi về tôi thường tính lựa chỗ xứng đáng mà làm mai. Hôm qua có Đốc-công Dưỡng lại nhà chơi với con tôi; tôi nghe nói ông chưa có vợ, mà tôi nhắm bộ cũng khá, nên tôi tính làm mai giùm cho ông. Té ra tôi mới mở hơi thì ông hỏi vậy chớ nhà chị giàu mà gia-tài được chừng bao nhiêu? Tôi nói chị đủ ăn, chớ không giàu. Ông nghe như vậy ông trề môi nói ông chưa muốn cưới vợ. Chị nghĩ coi, đời nay họ ham của quá, miễn là tiền bạc nhiều thì thôi, họ không cần đức hạnh gì hết". Bà Phủ cười rồi từ mà về cho kịp xe.

Bà Phủ với cô hai Tuyết về đến nhà thì thấy thầy Hội đồng Lê-trường-Xuân nằm ở nhà mà chờ. Lê-trường-Xuân là cháu kêu bà Phủ bằng dì ruột, rể của Cai-tổng bên Bến-Tranh. Bởi anh ta mồ-côi sớm nhờ có quan Phủ nuôi cho đi học rồi sau lại đứng cưới vợ cho nữa, nên từ ngày quan Phủ hồi hưu về ở Tân-An thì anh ta qua lại thăm viếng thường, mà từ ngày quan Phủ khuất rồi, anh ta thấy dì ở có một mình quạnh-quẽ anh ta lại qua thăm thường hơn nữa. Bà Phủ bước vô nhà ngó thấy liền hỏi rằng:

- Ủa! Cháu qua hồi nào mà nằm đó?

- Thưa, tôi qua hồi trưa.

- Cháu đi xe hơi hay là xe ngựa?

- Thưa, tôi đi xe lửa.

Cô hai Tuyết nghe nói đi xe lửa thì cười mà hỏi rằng:

- Xe hơi anh hư rồi hay sao? Hay là tại chị ba không cho phép nên không dám đi xe hơi?

- Em kêu ngạo hoài! Tại anh muốn qua ở chơi vài bữa nên anh đi xe lửa chớ.

- Á! Tại vậy hay sao.

Cô hai Tuyết cười rồi hối thằng Quới ra ngoài xe lấy đồ mới mua trên Sài Gòn đó mà ôm vô nhà. Cô rửa mặt thay áo rồi mới lấy chục khăn hỉ-mũi cô đã làm rồi mà đưa cho Trường-Xuân. Trường-Xuân tuy miệng khen may khéo và cám ơn, song mắt không muốn ngó mấy cái khăn cho lắm. Anh ta ngồi cứ ngó ra ngoài sân hoài, bà Phủ có hỏi việc chi thì trả lời vắn tắt phứt cho rồi, coi bộ buồn không muốn nói chuyện, chớ không phải bải-buôi như xưa nay vậy.

Tối lại ăn cơm rồi bà Phủ ngồi bộ ván bên nây ăn trầu, cô hai Tuyết ngồi ghế giữa mà chơi; còn Trường-Xuân thì nằm bộ ván bên kia mà hút thuốc. Trường-Xuân cứ nằm gát tay qua trán lặng-thinh hoài, hút vừa hết điếu thuốc nầy rồi thì quẹt hộp-quẹt mà đốt qua điếu khác. Bà Phủ xem ý cháu buồn nên kiếm chuyện mà hỏi rằng:

- Cháu qua thăm dì hay là có chuyện chi?

- Dạ, qua thăm chớ có chuyện chi đâu.

- Hôm trước cháu nói thầy Cai muốn tính xin hưu trí đặng để chức lại cho cháu, vậy mà đã vô đơn rồi hay chưa?

- Thưa, vô đơn rồi.

- Thế thì trong ít ngày nữa cháu làm Tổng rồi.

- Thưa, bây giờ tôi hết muốn.

- Ủa, sao vậy?

Trường-Xuân nằm lặng-thinh không trả lời. Bà Phủ ăn trầu đương xỉa thuốc, liền dừng tay lại mà ngó Trường-Xuân, có ý trông coi anh ta nói tại cớ nào mà anh ta hết muốn làm Tổng. Yến-Tuyết ngồi, tay rờ cái đèn mà nghe chuyện, thấy vậy cũng day mặt ngó Trường-Xuân. Cách một hồi Trường-Xuân ngồi dậy, đi lại ghế giữa ngồi ngang mặt Yến-Tuyết, lấy thuốc ra đốt hút nữa, rồi thủng-thẳng mới nói rằng: "Chẳng giấu dì mà làm chi; thiệt gia-đạo của tôi hễ tôi nghĩ tới thì tôi buồn hết sức. Phận tôi mẹ cha khuất sớm, tôi nhờ có dì dượng bao bọc nên tôi học mới được thành thân. Tôi ra làm Thông-ngôn đã được vinh-vang mà lại no ấm. Khi ông gia tôi muốn gả con cho tôi, tôi thấy ông giàu lớn mà lại có một dứa con gái mà thôi, nên thiệt trong bụng tôi mừng lắm. Ngặt có một điều là vợ tôi nó hèn quá, nên tôi dục-dặc không nhất định. Dì với dượng hay việc ấy thì khuyên tôi biểu ưng phứt cho rồi.

Tôi muốn làm cho vui lòng dì với dượng, mà tôi nghĩ thầm trong trí rằng tôi làm Thông-ngôn mỗi tháng lãnh lương có mấy chục đồng bạc, mà phải sắm ăn sắm mặc, phải trả tiền phố tiền bồi, ví dầu tôi có tặn tiện cho lắm đi nữa thì chừng tôi già yếu hồi hưu tôi cũng có dư năm ba ngàn đồng bạc là nhiều. Vả đời nay thiên-hạ ai cũng tranh danh trục lợi, nếu tôi khư-khư trông lãnh lương hoài thì mãn đời rồi mà sợ cũng chưa giàu bằng ai được. Mà nếu tôi tính chặt đầu lột da người ta mà lấy của, thì có lẽ tôi giàu được, song làm những điều ấy không phải dễ gì, may họ bình an thì êm, còn rủi họ kiện thưa thì mình mang khổ. Nay có người giàu có, sự nghiệp kể đến năm mười muôn, họ muốn gả con cho mình, hễ muốn vô đó thì giàu liền, mà sau mình còn có thế làm Hội-đồng, làm Cai-tổng, làm Huyện hàm nữa, thân đã sung sướng mà danh lại rỡ-ràng, dại gì mà không chịu. Bởi tôi nghĩ như vậy nên tôi mới chịu cưới. Khi tôi mới cưới đem về ở ngoài phố của tôi bên Mỹ Tho, thì chúng bạn trước mặt họ khen tôi có phước gặp được vợ giàu, còn sau lưng thì họ xầm-xì với nhau nói rằng vợ tôi xấu-xa, tôi ham của không cần lựa chọn. Tôi nghe thiệt tôi buồn thầm một chút, song tôi nghĩ không lẽ họ ăn cơm nhà theo cười tôi hoài, mà ở đời vợ có đức quí hơn là có sắc, bởi vậy họ nói xa nói gần mặc họ, tôi không thèm kể đến. Mấy tháng ở ngoài chợ thì vợ chồng hòa thuận, tuy vợ tôi quê mùa, song không làm điều chi cực lòng tôi. Đến chừng tôi xin thôi làm việc, về ở theo quê vợ, thì vợ tôi một ngày nó một đổi ý, coi bộ không kiêng-nể tôi; mà có nhiều khi nó lại hỗn hào hết sức. Mới hồi hôm nầy nó la rầy tôi như giặc, mắng chửi tôi xấu hổ không biết chừng nào, tôi giận thưa với ông gia tôi, rồi tôi bỏ tôi đi qua bên nây đặng coi còn ai cho nó mắng nữa".

Trường-Xuân nói tới đó thì nước mắt chảy rưng-rưng, trong cổ nghẹn-ngùng, nên ngừng lại rồi lấy thuốc đốt mà hút. Yến-Tuyết ngồi nghe Trường-Xuân thuật chuyện nhà, thì cặp mắt nhìn trân-trân, chừng nghe nói tới sự vợ hỗn-ẩu thì cô ta buồn mà lại phiền trong lòng, coi bộ cô cũng thương hại giùm thân anh lắm. Bà Phủ nghe nói cũng đau lòng, song không lẽ lặng-thinh nên bà hỏi Trường-Xuân rằng:

- Việc nhà của cháu như vậy mà sao mấy năm nay cháu không nói cho dì hay, mà cũng không nói cho ai biết hết.

- Ấy là vì cháu nghĩ việc vợ chồng là việc riêng của cháu, dầu nói cho dì nghe thì dì buồn chớ không ích gì.

- Dì thấy vợ chồng họ già khú mà họ cũng còn xích-mích với nhau thay, huống chi vợ chồng cháu còn nhỏ, tự nhiên có lúc phải trâu đen trâu trắng, sao cho khỏi được. Cháu chẳng nên buồn làm chi. Cháu muốn ở chơi thì vài bữa rồi về. Dì biết vợ chồng hễ giận thì rầy với nhau như vậy, chớ sao lại không thương. Hễ cháu đi ít bữa rồi cháu về đây có nó mừng húm đa.

- Thưa dì, tôi giận quá, muốn để phức nó cho rảnh.

- Để đâu? Để trong buồng! Cháu đừng có nói lếu như vậy. Cưới được một con vợ dễ dúng gì hay sao? Vợ chồng ăn ở với nhau gần 10 năm rồi còn để bỏ nỗi gì? Tuy nó có hỗn chút đỉnh, song thầy Cai thẩy tử tế quá, cháu đừng nói lếu thẩy hay được thẩy buồn.

- Dì cũng biết, có phải tôi thấy giàu mà tôi mê nó đâu, nó giàu thây kệ nó. Hễ có rầy với nhau thì nó cứ nói tôi ăn chực cơm của nó hoài. Cha chả! Tôi như vầy làm không đủ cơm mà ăn hay sao nên theo ăn chực của nó.

- Ối! Đàn bà hễ giận cùng thì nói bậy nói bạ hơi nào cháu phiền.

- Thiệt ông gia tôi ông hiền- từ nhân đức lắm tôi thương ổng quá. Đã vậy mà ổng tính hễ ông hưu-trí được rồi thì ổng lo cho tôi lên thế chức Cai-tổng cho ông, bởi vậy cho nên tôi dùn thẳng, không nỡ bỏ mà đi ... Hồi hôm tôi giận quá tôi muốn đi cho xa, hoặc lên Nam-Vang, hoặc ra Hà-Nội kiếm việc tôi làm đặng coi con vợ tôi nó làm sao.

Bà Phủ nghe nói thì cười ngất rồi khuyên rằng: "Cháu mồ-côi mồ-cút, tuy là bây giờ cháu chưa có của riêng, song thầy Cai thầy đã già rồi, trong năm ba năm nữa thầy chết, chớ không lẽ thầy lột da mà sống hoài. Hễ thầy nhắm mắt rồi thì bạc tiền ruộng đất về tay cháu hưởng trọn hết. Đã vậy mà chức Cai-tổng cháu gần nắm trong tay rồi. Cháu phải nhịn nhục một chút mà hưởng phú quí vinh hoa, chớ đừng có giận cùng rồi làm bậy không nên đâu. Cháu phải nghe lời dì. Có muốn chơi thì ở chơi ít bữa rồi về. Để bữa nào dì khỏe trong mình, dì sẽ qua mà dức bẩn con".

Trường-Xuân đứng dậy đi lại ván mà nằm, không nói chi nữa hết. Bà Phủ thấy vậy mới kêu thằng Quới biểu coi đóng cửa, rồi biểu Yến-Tuyết lấy truyện "Tái sanh duyên" đọc cho bà nghe. Đến 10 giờ rưởi bà Phủ nằm ngủ quên mà Trường-Xuân cũng ngủ khò, Yến-Tuyết thấy vậy mới vặn đèn lu-lu rồi vào phòng mà nghỉ.

Theo thế thường hễ con một thì cha mẹ tưng-tiu, muốn đòi vật chi cũng được, muốn làm việc chi cũng cho, tập quen tánh nết sai khiến người ta, rồi lần lần sanh thêm ý tứ cao-ngạo, hoặc hỗn-hào, làm cho những kẻ đồng bực không ai yêu được, mà những kẻ dưới cũng không ai chịu nổi. Yến-Tuyết sanh trong nhà quan, từ nhỏ cho đến lớn ở trong nhà thì tôi-tớ đều thưa dạ, đi ra đường thì thiên-hạ đều kiên vì. Đã vậy mà vợ chồng ông Phủ có một mình cô mà thôi, bởi vậy cưng cô như cưng trứng mỏng, khi cô còn thơ-ấu, hễ nghe cô khóc thì vợ chồng chạy lăng-xăng, đến chừng cô lớn khôn, hễ thấy cô buồn thì vợ chồng lo chộn-rộn, chẳng có việc chi cô muốn mà không làm, chẳng có vật nào cô đòi mà không sắm. Cô được tưng trọng như vậy, nhưng mà cô không nhân cái tình cảnh ấy mà sanh lòng cao-ngạo, hoặc tập thói hỗn-hào. Những tôi trai tớ gái trong nhà đứa nào nhỏ hơn thì cô kêu bằng em nghe ngọt- ngào, còn người nào lớn tuổi hơn cô thì cô kêu bằng anh bằng chị, chớ chẳng hề cô chịu làm mặt chủ nhà mà xưng mầy xưng tao. Có đứa nào làm quấy mà cô rầy, nghe cũng vui lòng; có việc chi bất bình mà cô giận, coi càng đẹp-đẽ. Gà bươi giàn hành hay là chó ăn vụng bột, cô ngó thấy thì cô biểu đuổi nó đi mà thôi, chớ cô không cho đánh đập. Tánh cô hòa-huỡn mà lại mềm-mỏng như vậy, nên tôi tớ trong nhà thương cô mà lại sợ cô, còn chòm-xóm từ già chí trẻ chẳng ai mà chẳng kính trọng.

Yến-Tuyết ở với người dưng thì được lòng mọi người, còn ở với cha mẹ lại trọn đạo làm con nữa. Khi quan Phủ còn sanh tiền, cô thấy cha mẹ tưng-tiu chừng nào cô càng kính trọng thương yêu chừng nấy, cô chẳng hề nói một tiếng nào, hay là làm một việc chi cho cha mẹ buồn lòng cực trí. Từ ngày quan Phủ qua đời rồi, trong vài năm đầu hễ có đi học về ngó lên bàn thờ thì giọt châu lã chã, tấc dạ ngậm-ngùi; lần lần một ngày một nguôi-ngoai, nên cô không khóc nữa, song hễ đêm nào cô nằm mà nhớ cha, thì bâng-khuâng trong lòng cô ngủ không được. Tình thương cha mẹ của cô bây giờ dời hết về cho bà Phủ, bởi vậy cô mới thôi học để về mà phụng-dưỡng săn-sóc mẹ già. Ngoại trừ bà Phủ thì cô còn biết thương ai nữa. Đã biết trong lúc cô học tại nhà trắng, cô thấy có ít trò tánh hiền nết tốt, nên có kết làm chị em, mà từ ngày cô thôi học cho đến nay đã ba năm rồi, cô ít hay gặp mặt, nên tình muốn lợt lạt, nghĩa gần phai, bởi vậy cô không để ý cho lắm. Anh cô là Lê-trường-Xuân tuy gần gũi cô hơn mười năm nay, song từ ngày cô có trí khôn, cô thấy người háo danh háo lợi, miễn là ngồi trên đứng trước, miễn là áo tốt bạc nhiều thì thôi, ai chê cười mặc ai, thì cô đem dạ khinh thầm, bởi vậy tình anh em thì cô thương, nhưng mà lòng thương ấy lại có pha lộn ý ghét.

Yến-Tuyết nghe Trường-Xuân thuật việc nhà với bà Phủ, ban đầu cô ta ngồi tự nhiên không động lòng chút nào hết; lần lần cô nghe Trường-Xuân nói tới vợ hỗn-hào mắng chởi thì cô ta có giận thầm, giận chị sao không biết nói thanh-tao, rồi lại giận anh sao không ra oai trừng-trị. Đến chừng cô thấy Trường-Xuân nghẹn-ngùng lụy ứa, phiền vợ than thân, chừng ấy cô nghĩ Trường-Xuân ở trong gia đình chắc là khổ não lắm, bởi vậy cô mới buồn xo tôi nghiệp giùm cho phận người có đủ sức mà thong-thả với đời, song vì chữ lợi-danh nên phải chịu ngậm cay nuốt đắng.

Yến-Tuyết đêm ấy nằm trăn-trở hoài ngủ không được, trong trí cứ tưởng-tượng cái cảnh gia-đình của Trường-Xuân, thấy cô hai Hảo là vợ Trường-Xuân da đen, miệng rộng, đầu tóc chềm-bệp, ngón tay chù-vù, từ sớm mai cho tới tối cứ trợn mắt châu mày, nói với chồng thì câu-mâu, nói với tôi tớ thì quạu-cọ, rồi lại thấy Trường-Xuân ra vào than thở, đứng ngồi buồn xo, mặc áo tốt mà không được vui, ngồi xe hơi mà không biết khỏe. Cô là người hay lạt lòng, thuở nay hễ thấy ai bị hoạn-nạn thì cô thương xót, bởi vậy cô suy nghĩ một hồi thì cô thương thân anh Trường-Xuân vô cùng, mà rồi cô ghét hai Hảo, có chồng sao không biết trọng chồng, tiền bạc quí báu gì, sao lại ỷ tiền bạc mà khinh bỉ chồng, làm cho chồng mang sầu đeo thảm.

Qua bữa sau bà Phủ thấy Trường-Xuân cũng còn buồn, nên ăn cơm rồi bà biểu ở nhà mà chơi, để bà qua Bến-Tranh đặng nói phải trái với thầy Cai Tường và dức bẩn cháu dâu đặng cho vợ chồng đừng xích-mích nữa. Bà Phủ đi rồi, Yến-Tuyết đem đồ ra để trên ván ngồi thêu, rồi kiếm chuyện nói cho Trường-Xuân giải buồn. Ban đầu hai người nói chuyện dông dài, lần lần Yến-Tuyết mới hỏi phăng đến việc gia-đạo, Trường-Xuân nằm trên ván bên kia mà nói với, chừng nghe hỏi tới việc nhà mới lại ghế ngồi gần Yến-Tuyết, rồi to nhỏ thuật hết tánh tình của vợ cho Yến-Tuyết nghe. Anh ta nói gần trót giờ, Yến-Tuyết bỏ thêu ngồi chăm-chỉ mà nghe. Anh ta kể hết các sự quấy của vợ rồi mới nói rằng: "Bây giờ anh nghĩ lại anh ăn-năn vô cùng".

"Vì anh ham giàu sang nên gần mười năm nay anh chẳng vui-sướng chút nào hết. Em không rõ, chớ chị ba em nó còn một cái quấy lớn lắm. Qua cưới nó về ở được 3 năm rồi qua mới hay nết nó không được tốt, khi trước nó có tư tình với thằng biện của ông gia anh. Tại có như vậy nên ông sợ xấu, mới cậy mối mà gả cho anh đó".

Yến-Tuyết nghe nói tới chuyện đó thì chưng-hửng, không biết nói sao cho được; cô ta liền cắm kim vừa thêu vừa hỏi rằng: "Sao hồi anh hay anh không để bỏ phứt cho rồi?".

Trường-Xuân ngồi lặng-thinh một hồi rồi thở ra mà đáp rằng: "Thiệt ban đầu anh cũng có tính đi xin để, song cách vài ngày sau anh suy đi nghĩ lại việc đã lỡ rồi bây giờ để bỏ thì càng mang tiếng. Đã vậy mà nó giàu có lớn, mình bỏ nó thì cũng uổng, nên anh mới tính đánh liều miễn mình hưởng gia-tài nó được thì thôi. Anh tưởng nó là đứa có tì-tích, chắc sao nó cũng kiêng-nể mình, nào dè nó đã hư mà lại còn lên giọng lấn thế ... thiệt nếu mà anh biết trước như vầy, thì hồi nhỏ anh không thèm ham giàu đâu, để anh lựa một cô nào mảnh-mai, thanh-nhã, khôn-khéo như em đây vậy anh cưới, rồi chồng làm việc, vợ coi nhà, hủng-hỉnh với nhau cho vui, miễn là đủ ăn, đủ mặc thì thôi không cần gì giàu có."

Trường-Xuân nói tới đó thì liếc mắt thấy Yến-Tuyết chúm-chím cười. Anh ta bắt mùi nên nói thêm rằng: "Anh chắc người nào mà kết nghĩa với em thì thiệt là có phước lắm. Được một người vợ nước da trắng trong, chơn tay dịu-nhiễu, cặp mắt như thu-thủy, chân mày tợ xuân-sơn, môi đỏ như son, má nún trái quít, ngồi coi đã đẹp, mà đứng coi cũng xinh, nói có duyên, cười có nết, được vợ như vậy không phải là có phước lắm hay sao?" Yến-Tuyết nghe nói thì ngó Trường-Xuân vừa cười vừa nói rằng: "Anh quỉ nà! Nói nhiều chuyện hông!"

Từ đó tới chiều Trường-Xuân cứ theo diễu cợt Yến-Tuyết hoài, kiếm lời chọc cho cô ta tức cười, rồi lại kiếm chuyện nói cho cô ta động lòng nữa. Đến chiều xe lửa Mỹ-tho qua rồi mà không thấy bà Phủ về. Yến-Tuyết nghi chắc thầy Cai cầm ở lại ăn cơm rồi tối cho xe hơi đưa về; chẳng dè chờ đến tám giờ tối mà cũng chưa thấy về, Yến-Tuyết sợ Trường-Xuân đói bụng mới biểu dọn cơm ăn. Cơm dọn lên bàn, Yến-Tuyết mời Trường-Xuân ăn trước, ngoài miệng thì nói rằng mình không đói, nhưng mà trong bụng nghĩ thầm mình là phận gái ngồi ăn chung một mâm như vậy coi không được, nên tính để Trường-Xuân ăn rồi mình sẽ ăn sau, Trường-Xuân cứ theo nài Yến-Tuyết phải ăn thì anh ta mới chịu ăn, cực chẳng đã Yến-Tuyết phải vâng lời.

Ngồi ăn cơm Trường-Xuân nói nói cười cười, bộ vui-vẻ lắm, cứ theo ngó Yến-Tuyết rồi khen tay cầm đũa coi đẹp, khen miệng mỉm cười có duyên, làm cho Yến-Tuyết mắc cỡ nên ăn không được. Ăn cơm rồi chừng ăn đồ tráng miệng, Trường-Xuân đợi Yến-Tuyết thò tay bẻ một trái chuối, anh ta mới kề tay vô mà bẻ đặng đụng tay Yến-Tuyết. Yến-Tuyết mắc cở quá, nên bẻ riết cho được một trái rồi đứng dậy đi qua ván ngồi mà ăn, chớ không nói chi hết.

Trường-Xuân nói chuyện nầy rồi bắt qua chuyện khác không dứt. Trời khuya lần lần, tôi tớ trong nhà đóng cửa ngủ hết, trước sông vắng-vẻ ngoài vườn im-lìm; Yến-Tuyết đứng dựa cửa sổ mà dòm ra thì chỉ nghe gió giông thổi cây lá lào-xào và thấy bóng trăng rọi cỏ hoa rực rỡ. Đồng hồ đã gõ 10 giờ. Yến-Tuyết day mặt ngó đồng hồ rồi nói rằng: "Đã 10 giờ rồi, chắc là má ở bển chơi sáng mai mới về. Anh ba buồn ngủ hay chưa? Thôi, để tôi đi ngủ đặng cho anh ngủ".

Trường-Xuân men men đi lại cửa sổ là chỗ Yến-Tuyết đứng đó, vừa đi vừa nói nho nhỏ rằng: "Em thức nói chuyện chơi mà. Anh buồn quá ngủ không đặng. Nói chuyện với em mấy đêm qua cũng không biết buồn ngủ". Yến-Tuyết thấy Trường-Xuân lại gần thì tính trở lại ván mà ngồi, nhường cửa sổ cho Trường-Xuân đứng. Trường-Xuân đã có ý muốn lại đứng gần Yến-Tuyết, nên thấy Yến-Tuyết bỏ đi thì thất-vọng, mới dòm ra ngoài sân mà nói rằng: "Ý! Ai đi vô cửa kia kìa! Ai đó?"

Yến-Tuyết nghe nói tưởng là bà Phủ về nên lật-đật chạy lại vừa ngó vừa hỏi: "Ai đi đâu?" Trường-Xuân đứng khít một bên, làm bộ dòm ra ngoài rồi nói: "Ối! Cái tàu dừa gió thổi đưa qua đưa lại anh tưởng là người ta đi vô cửa chớ! Nầy em coi trăng tỏ trời thanh, ngó ra ngoài thấy cảnh đẹp-đẽ quá há? Cảnh xem thú vị, nếu đứng xem một hồi lâu ai cũng phải động tình. Từ nhỏ cho tới bây giờ có khi nào em xem trăng trong gió mát, hoặc em nằm đêm vắng canh khuya, rồi em bâng-khuâng trong dạ, khoan-khoái trong lòng, dường như thương như nhớ ai vậy hay không em?" Yến-Tuyết đứng lặng-thinh không trả lời. Trường-Xuân chúm-chím cười rồi dùng những lời ngọt-dịu, kiếm những chuyện nguyệt-hoa mà khêu tình Yến-Tuyết.

Yến-Tuyết là gái mới lớn, tuy thuở nay đọc truyện Tàu thấy những tích Bá-Ngọc-Sương ở có tình với La-Côn, Phụng-Kiều ở có nghĩa với Lý-Đáng, Mạnh-Lệ-Quân trọn đạo cùng Hoàng-phủ-Thiếu-Hoa, thì muốn làm như Bá-ngọc-Sương, như Phụng-Kiều, như Mạnh-Lệ-Quân, song cô ta chưa gặp ai là La-Côn, ai là Lý-Đáng, ai là Hoàng-phủ-Thiếu-hoa, bởi vậy khối ái-tình còn phong kín trong lòng, chưa có dịp mà phát hiện ra ngoài được. Trọn một ngày nay cô ở một mình trong nhà với Trường-Xuân, tuy là anh của cô, song cũng là một người trai, hình vóc dong-dảy, tướng-mạo đoan-trang, lại có học nên văn nói lanh-lợi, đối-đáp bặc-thiệp; mà từ hồi chiều cho đến bây giờ lại nói với cô những lời dịu-ngọt, những chuyện nguyệt-hoa nữa, bởi vậy cho nên cô lững-đững lờ-đờ, trong lòng bâng-khuâng, trong trí bối-rối, dường như nửa say nửa tỉnh. Cô đứng dựa cửa sổ mà nghe Trường-Xuân nói, ngoài sân vắng-vẻ gió mát trăng trong, bên tai rập-rình tiếng kèn giọng quyển, bởi vậy cô đã tính đi ngủ mà không đi, đã tính lánh xa Trường-Xuân mà không lánh khỏi, cứ đứng đó trân trân đến đỗi Trường-Xuân vịn vai cô, cô cũng không hay, Trường-Xuân nắm tay cô, cô cũng xuôi xị.

Trường-Xuân tuy cư-xử trong chốn gia-đình thì coi bộ không thông cho lắm, nhưng mà sang qua cái đường ong-bướm thì thiệt là lanh, dòm thấy Yến-Tuyết như vậy thì không kể chi là nghĩa anh em, quyết lập thế làm cho phỉ tình sắc dục. Than ôi! Từ xưa đến nay bọn nam-nhi hoặc thừa cơ-hội may mắn, hoặc dùng ngôn ngữ lanh-lợi mà làm điều nhơ danh phạm nghĩa, kể biết bao nhiêu. Mà đoàn phụ-nữ hoặc chưa thông thế thái nhơn tình, hoặc không biết giữ lòng son tiết trắng để cho hư thân mất giá, kể số cũng chẳng ít! Người không học sa vào đó, mà người có học cũng sa vào đó, người nghèo hèn không tránh khỏi, mà người giàu sang cũng không tránh khỏi, nghĩ coi có đáng buồn cho xã-hôi phong-tục, có đáng tiếc cho gia-đình danh dự hay chăng?

Trường-Xuân tuy là người có học, song bấy lâu nay anh ta đành đem cái danh dự của nam-nhi mà đổi lấy chút sang giàu, người phẩm giá như thế thì tự nhiên tánh tình như thế, nghĩ chẳng lạ gì. Thương thay cô Yến-Tuyết phận gái đào-thơ liễu-yếu, bấy lâu nay tiết trắng như giá, lòng trong như gương, chưa biết thói nguyệt-hoa, chưa quen lời ong-bướm, thình-lình gặp cái cảnh say-mê thuở nay chưa từng nghe, bởi vậy cho nên cô dã-dượi bồi-hồi, rồi quên hết những câu giáo-dục gia-đình, để cho kẻ thất-phu nó làm nhơ nhuốc nữ-lưu danh tiết, nghĩ thiệt đáng buồn lắm!

Chuong 3

Trời gần sáng, gà lối xóm gáy vang bên tai; trên nhành chim dáo-dác đứng rỉa lông, ngoài sông ghe lạc-sạc chèo đi chợ. Dưới bếp chị chín Hữu nấu nước, khua lộp-cộp; trước sân con chó vàng chụp rượt con mèo chạy nghe rần-rật. Yến-Tuyết giật mình thức dậy, nhè nhẹ bước ra ngoài, dòm thấy đèn còn chong lu-lu, Trường-Xuân thì nằm trên ván day mặt vô vách mà ngủ. Cô ta vừa ngó thấy Trường-Xuân, sực nhớ tới những việc hồi hôm thì cô ta mắc cỡ, nên lật-đật trở vào phòng. Cô khóa chặt cửa phòng rồi leo lên giường mà nằm lại. Cô suy tới nghĩ lui, nhớ tới việc đã làm quấy thì cô lấy làm hổ-thẹn, bởi vậy cô lấy mền đắp bít mặt mà khóc. Cô khóc một hồi rồi cô tức giận, không hiểu vì ai khiến nên gương trong hóa đục, tiết trắng hóa bùn, từ này còn mặt mũi nào mà dám ngó chị em, còn trinh tiết gì mà dám mong hoa chúc. Cô giận rồi lại khóc, khóc rồi lại giận, cứ nằm lăn lộn trên giường hoài.

Trời sáng lần lần; ánh sáng chen kẹt cửa sổ vào phòng lờ-mờ. Yến-Tuyết đầu xoả tóc, ngồi dậy đi lại cửa sổ đứng chống tay mà dòm ra ngoài vườn trầu. Cô đứng ngó một hồi, lòng lạnh ngắt như đồng, mặt ướt mem nước mắt. Cô nghe thằng Quới hè-hụi xách nước đem tưới trầu, cô hổ-thẹn không dám cho nó thấy mặt, nên lật-đật đóng cửa sổ lại rồi leo lên giường mà nằm nữa. Nghe đồng hồ ở ngoài gõ bảy giờ, rồi lại nghe tiếng giày của Trường-Xuân thì tức tối cũng như ai vác cây mà đập vào ngực, nghe tiếng nói của Trường-Xuân thì xốn-xang như ai cầm dao mà cắt ruột gan. Tuy cô nằm một im-lìm cũng như ngủ, nhưng mà nước mắt chảy dầm-dề, cô chán ngán cuộc đời, muốn chết phứt đặng vùi lấp kiếp hồng nhan nhơ nhuốc.

Đến 8 giờ cô nghe Trường-Xuân ra đứng dựa cửa sau, kêu chị chín Hữu mà hỏi rằng: "Chị chín, cô hai còn ngủ hay là đi đâu, mà hồi sớm mai đến bây giờ sao vắng tiếng vậy chị?" Chị chín Hữu trả lời nho nhỏ nghe không rõ, rồi Trường-Xuân lần ra ngoài trước đi qua đi lại mà ngâm thơ. Yến-Tuyết nghe tiếng anh ta chừng nào thì càng tủi, càng phiền, càng tức, càng giận chừng nấy. Đúng 10 giờ mới nghe tiếng xe hơi ngừng ngoài cửa.

Trường-Xuân lật-đật chạy ra, ngó thấy bà Phủ về, lại có thầy Cai Tường với vợ mình đi theo nữa, liền trở lộn vô rồi nằm trên ván day mặt vô vách làm bộ ngủ. Bà Phủ vô trước, thầy Cai với cô hai Hảo đi theo sau.

Thầy Cai-tổng Tường tuổi đã 65, mặt dùn da, mắt đeo kiếng, tóc bạc, râu dài đầu bịt khăn đen, mình mặc áo xuyến đen mới, quần nhiễu trắng cũ, chơn mang giày hàm ếch da láng. Còn con gái thầy là vợ Trường-Xuân, tuy con nhà giàu sang, song dung mạo rất tầm thường, người không quen biết thì không dè là con Cai-tổng, bởi vì cô da đen, mũi gãy, răng hô, càm lẹm, tay chơn thô-kịch, đi bộ cứng-còng, đầu đội khăn lục soạn trắng, mình mặc áo cẩm nhung đen, quần hàng bom bay mới, chơn đi giày nhung đỏ thêu cườm, tay xách dù màu xanh cán bạc.

Bà Phủ bước vô ngó thấy Trường-Xuân nằm ngủ thì kêu om-sòm mà nói rằng: "Hội-đồng, thức dậy nào! Có anh Cai với cỏn qua với tao đây nè!"

Trường-Xuân lồm cồm ngồi dậy, làm bộ như ngủ, nên lấy khăn lau cặp con mắt; chừng thấy thầy Cai bước vô thì đứng dậy chào hỏi rồi đi rửa mặt. Vợ Trường-Xuân vừa ngó thấy chồng thì đứng lại mà nói rằng: "Thứ đờn-ông gì mà hễ có gây với vợ thì bỏ nhà mà đi. Tưởng là đi đâu, té ra qua bên dì Phủ, giỏi dữ hông" Trường-Xuân làm bộ không nghe, cứ đứng rửa mặt. Thầy Cai ngồi hút thuốc cũng lặng-thinh, không nói chi hết.

Bà Phủ thấy vắng Yến-Tuyết thì kêu chín Hữu mà hỏi. Chín Hữu đáp rằng: "từ hồi sớm mơi đến bây giờ cô nằm trong phòng hoài không ra". Bà Phủ chạy vô thấy cửa phòng khóa chặt thì vỗ vách mà kêu. Yến-Tuyết đương nằm mà khóc, tóc tai xụ-xộp, mặt mũi ướt-dầm, nghe mẹ kêu thì lật đật ngồi dậy lấy khăn lau mặt rồi mới mở cửa. Vì cửa sổ đóng chặt nên trong phòng lờ mờ. Bà Phủ không thấy mặt con cho rõ, song bà không biết việc gì mà 10 giờ còn nằm êm trong phòng, bởi vậy bà mới hỏi rằng: "Con đau hay sao vậy con?" Yến-Tuyết thấy mặt mẹ thì đã chết điếng trong lòng, lại nghe mẹ hỏi nữa thì cô chịu không được, muốn tỏ hết sự tình cho mẹ nghe, ngặt khách đương ngồi ở ngoài, nói ra bất tiện, nên cô dằn lòng, gục mặt xuống đất mà thưa rằng: "Từ hồi hôm đến bây giờ con nhức đầu quá nên ngồi không được". Bà Phủ liền biểu: "Thôi, con nằm xuống mà nghỉ", rồi bà trở ra hầu chuyện với khách. Bà vừa xây lưng thì thấy cô hai Hảo bước vô phòng đứng hỏi rằng: "Cô hai ể mình hay sao vậy dì?" Bà Phủ đáp rằng: "Ừ, nó nói nó nhức đầu", rồi hai người dắt nhau trở ra.

Bà Phủ mời thầy Cai uống nước rồi dòm thấy ý vợ chồng, cha con bợ ngợ, không ai chịu khởi đầu mà nói việc nhà, bà mới ngó Trường-Xuân mà nói rằng: "Tao qua bển đặng phân phải trái với anh Cai và dức bẩn con ba, té ra theo lời con ba nó nói với tao, thì vợ chồng rầy rà với nhau đó là lỗi tại nơi cháu chớ không phải tại nó. Nó nói cháu không lo việc nhà, bỏ phú cho một mình nó, cháu cứ đánh quần đánh áo rồi khi thì đi Sài Gòn, khi thì đi Mỹ-Tho mà chơi hoài; mà đi tới đâu cháu lại có mèo chuột tới đó. Nó sợ cháu chơi sa đọa mà hư hại việc nhà nên nó dám hỗn hào với cháu đâu. Nầy cháu, nay có mặt anh Cai đây, dì mới nói thiệt cho cháu rõ: phận cháu côi-cút, dì đây cũng như mẹ vậy, dì nói cháu phải nghe. Anh Cai già yếu rồi, sự nghiệp thì lớn lắm, cháu phải hết lòng lo quản xuất việc nhà, chẳng nên chơi bời nữa. May mà cháu có vợ nó biết lo lắng như vầy, chớ nếu cháu đụng đứa thưa thớt, rồi cháu bỏ đi chơi hoài thì có cơm đâu đủ mà ăn. Thôi, vợ chồng đừng có hờn nhau nữa. Cháu đã làm ông nầy ông kia với người ta, nay mai đây cháu lại làm tới Cai-tổng, không phải là nhỏ: chẳng nên để xào-xáo trong nhà, thiên hạ người ta chê cười".

Trường-Xuân đứng dậy thưa rằng: "Thưa trước là thầy sau là dì, vợ tôi nó kiếm chuyện đổ tội cho tôi, chớ thuở nay tôi có chơi bời chi đâu. Tôi đi đâu cũng có chuyện tôi mới đi chớ. Như đi Mỹ-Tho thì nó biểu tôi đi kiện nợ, hoặc đi đóng bách-phần ruộng, tôi đi mới được. Mà hễ đi thì trưa về liền, có giờ nào rảnh mà lo mèo chuột. Còn hai năm nay tôi có đi Sài Gòn lần nào đâu. Việc đó thầy tôi biết lắm, nó nói thêm cho tôi sao được."

Vợ Trường-Xuân ngồi trên ván nghe chồng nói như vậy thì đứng dậy chỉ tay mà nói rằng:

- Mình đừng chối! Tôi nghe họ nói đã rùm tai. Hễ mình bước chân ra khỏi nhà thì mình rà-rà theo mấy con đĩ, còn chối gì nữa. Tôi không thèm nói thì thôi, đừng có chọc miệng tôi.

- Tôi mà có trai gái với ai, thì xin lịnh ông Quan-Đế vặn họng tôi đi. Mình đừng có nói tức quá như vậy.

- Vậy chớ con chó nào lấy con Hương-lễ Chẩn đó?

- Hương-lễ Chẩn nào đâu?

- Thôi, đừng có lẽo-lự. Cái tuồng mặt thấy mà phát ghét.

Hai vợ chồng cãi lẫy với nhau om-sòm, thầy Cai ngồi vuốt râu mà cười, không nói chi hết; còn chín Hữu với thằng Quới thì đứng núp trong cửa buồng mà nghe, rồi ngó nhau bụm miệng mà cười. Bà Phủ dòm thấy mới rầy rằng: "Thằng Quới đứng chi đó, sao không lo đi làm cỏ ngoài vườn đi? Còn con chín thì coi cơm riết rồi dọn ăn, trưa rồi, còn đợi giống gì nữa?" Hai người ở nghe rầy lật đật chạy xuống nhà bếp. Bà Phủ day lại nói với hai vợ chồng Trường-Xuân rằng: "Thôi, hai cháu đừng có rầy rà thiên hạ người ta chê cười. Phàm vợ chồng muốn ở đời với nhau thì vợ nhịn chồng một chút, chồng nhịn vợ một chút mới được. Hai cháu đã làm ông nầy bà kia với người ta, đi ra kẻ bẩm người dạ. Nếu hai cháu không nghe lời dì, thì từ rày sấp lên đừng có biết đến dì nữa."

Thầy Cai Tường mới tiếp mà nói rằng: "Tôi coi tuổi hai đứa nó hạp nhau lắm chớ, không biết tại sao mà nó xung khắc cứ rầy với nhau hoài. Tôi đã dức bẩn hết sức mà cũng không được. Tôi chắc tại tôi cất cái cửa ngõ sái hướng. Để bữa nào tôi mượn họ rước thầy Địa-lý coi, rồi day cửa ngõ lại hướng khác thử coi trong nhà có hết lộn xộn hay không."

Cơm dọn xong rồi bà Phủ mới mời ngồi hết lại ăn. Ngồi ăn cơm bà Phủ nói rằng: "Ở đời nầy tiền bạc phải cho nhiều, mà chức phận cũng phải cho lớn thì người ta mới kiêng vì, chớ tiền nhiều mà làm dân thì người ta khi, còn chức lớn mà không tiền thì không ai sợ. Cháu tiền đã nhiều, mà chắc cũng lớn, giàu sang gồn đủ thì quí biết chừng nào. Dì ước cho cháu được làm Cai-tổng rồi lần lần lên tới Huyện-hàm, mới thiệt đẹp mày nở mặt".

Trường-Xuân nghe nói ngồi chúm-chím cười. Vợ thấy vậy mới chống đũa mà nói rằng: "Dì nói đó phải ngoáy lỗ tai cho lớn mà nghe."

Cơm nước xong rồi, bà Phủ hối Trường-Xuân mặc áo mang giày đặng theo thầy Cai mà về. Trường-Xuân ríu-ríu đi thay đồ, không cãi lẫy chi nữa.

Xe hơi chạy rồi, bà Phủ dòm đồng hồ thì đã 1 giờ rưởi. Chín Hữu đương dọn dẹp dưới bếp, còn thằng Quới thì lột dừa sau vườn. Bà Phủ bước vô buồng rồi lại dở mùng mà hỏi Yến-Tuyết rằng: "Con bớt nhức đầu hay chưa con?" Yến-Tuyết nằm đắp mền day mặt vô vách không trả lời. Bà Phủ hỏi tiếp rằng: "Con có biểu bày trẻ nó dọn cơm cho con ăn hay không? Để má biểu con chín nó dọn cơm bưng vô đây cho con ăn nghe." Yến-Tuyết cứ lặng thinh hoài. Bà Phủ thấy vậy mới vói tay dở cái mền lên rồi rờ mặt Yến-Tuyết té ra gò má mát rượi mà ướt mem, bà không hiểu con đau bịnh gì mà lại khóc, nên bà lo sợ bà mới hỏi nữa rằng: "Trong mình con đau làm sao đó con, con nói cho má biết. Để má biểu thằng Quới đi rước thầy coi mạch cho con nghe."

Yến-Tuyết thấy mẹ ân-cần thì tủi trong lòng, nên lắc đầu rồi khóc rấm-rút. Bà Phủ thấy tình cảnh như vậy càng lo sợ hơn nữa; bà liền ngồi trên giường, một tay bà nắm tay, còn một tay bà rờ ngực Yến-Tuyết rồi to nhỏ hỏi rằng: "Sao đó con? Có việc chi mà con khóc dữ vậy? Con nói thiệt cho má biết, không có sao đâu mà sợ. Má đi khỏi ở nhà có việc gì đó hay sao?" Yến-Tuyết nói tấm tức tấm tưởi rằng: "Má ôi, thân con không còn chi mà kể. Con đã hư rồi xấu hổ lắm, con phải chết, chớ không thế nào sống được."

Bà Phủ nghe nói giựt mình kinh khủng song bà muốn biết rõ đầu đuôi nên bà dằn lòng làm tỉnh mà hỏi rằng: "Sao vậy con? Con nói chuyện gì nghe kỳ dữ vậy? Con làm sao mà con gọi rằng hư? Nín đi con. Con đừng khóc, con nói hết đầu đuôi cho má nghe; con còn một mình má đây, nếu con có làm việc chi quấy mà con giấu má thì má biết sao mà an-ủi con được. Con cứ nói thiệt cho má nghe, ví dầu con có tác-tệ cho lắm đi nữa, má cũng không đánh đập chi đâu mà sợ." Bà Phủ vừa nói vừa đỡ Yến-Tuyết ngồi dậy.

Yến-Tuyết cứ khóc nước mắt tuôn dầm-dề, một tay thì che mặt, một tay thì ôm mền, ngồi dậy rồi nói nho nhỏ rằng: "Má đi khỏi, anh ba ở nhà ảnh cứ theo ve-vãn con hoài; bởi con khờ dại, con không biết giữ mình, con nghe lời ảnh nên bây giờ con đã ô danh xủ tiết rồi, má ôi". Bà Phủ nghe rõ thì chưng hửng, liền buông con ra, rồi ngồi khoanh tay chống đầu gối mà thở ra, giọt lụy tràn-trề, ngực ấm-ách. Bà ngồi lặng thinh một hồi lâu, rồi lau nước mắt đứng dậy đi ra ngoài mà ăn trầu. Yến-Tuyết nằm co trên gường ôm mền mà khóc rấm-rứt.

Bà Phủ nằm ngoài ván gác tay qua trán, một lát bà thở dài một cái. Đến 3 giờ chiều, chị chín Hữu ở dưới bếp sẽ lén đi lên, dòm thấy bà Phủ thức mới thưa rằng: "Bẩm bà, cô hai không ăn cơm, thôi để tôi nấu cháo cho cô ăn". Bà Phủ liền đứng dậy bước vô buồng kêu con mà hỏi rằng: "Con a, con ăn cơm hay không? Như ăn cơm không được, thôi để nó nấu cháo cho con ăn nghe". Yến-Tuyết lắc đầu. Bà Phủ nói tiếp rằng: "Con không ăn cơm thì phải ăn cháo, chớ nhịn đói như vậy không nên. Con chín đi nấu cháo đi; nấu cháo rồi chiên cá bưng lên đây cho nó ăn."

Chín Hữu vâng lời đi riết xuồng bếp. Bà Phủ ngồi trên gường to nhỏ mà khuyên con rằng: "Con khờ dại, con làm như vậy thiệt là quấy lắm. Mà đã lỡ rồi má biết liệu làm sao bây giờ. Má nghĩ má giận thằng đó quá, để bữa nó qua đây rồi má sẽ rầy nó; thôi bây giờ con đừng có khóc-lóc nữa. Con phải ăn uống chơi bời như thường, đừng có làm như vầy họ nghi."

Yến-Tuyết lau nước mắt mà đáp rằng:

- Con mắc-cở quá, còn mặt mũi nào mà thấy tôi-tớ trong nhà, hay là kẻ lân-cận trong xóm nữa được.

- Vậy chớ mấy đứa ở có đứa nào biết hay sao?

- Thưa không. Trong lúc đêm có một mình con với ảnh ở trên nhà trên, cửa đóng hết có ai biết được.

- Tưởng là có đứa ở nào nó biết thì sợ nó đàm-tiếu ra ngoài xấu-hổ, chớ nếu không ai biết thì có sao đâu mà con sợ.

- Con làm quấy rồi con tức-tối nên khóc hoài, mà con lại hổ-thẹn quá, nên từ sớm mai cho đến bây giờ con không dám ló ra ngoài cửa buồng, con không dám cho ai thấy mặt hết.

- Không hại gì đâu. Con đi rửa mặt gỡ đầu, rồi cứ ăn uống chơi-bời như thường, chớ nếu con làm như vậy thì trẻ ở trong nhà nó nghi rồi xấu-hổ lắm đa con, ngồi dậy đi với má. Má nói con đừng có cãi lời. Việc nầy thì có một mình má với con và anh ba con biết mà thôi, chớ người ngoài không ai hay thì có sao đâu mà sợ.

Yến-Tuyết dục-dặc không chịu đi. Bà Phủ nói riết rồi làm giận làm hờn, cực chẳng đã cô ta phải vâng lời đi ra ngoài rửa mặt. Trên bàn rửa mặt có treo một tấm kính vuông. Yến-Tuyết đứng lau mặt dòm thấy hình mình trong tấm kính thì hổ ngươi nên cúi đầu xuống, không dám ngó.

Yến-Tuyết nghe lời mẹ nên ráng ăn một chén cháo, rồi lấy cườm với nhung ra ngoài ván ngồi mà thêu mặt giày. Bà Phủ nằm ngoài mà ngắm con thì thấy đầu tuy không gỡ, áo tuy nhàu-nhè, nhưng mà gương mặt sáng-rỡ, coi ít có con gái ai bì kịp. Yến-Tuyết ngồi thêu mà bộ coi buồn thảm lắm, một lát nước mắt tuôn ra rồi chảy dài theo gò má, cô phải lấy khăn mà lau, có hồi cô lau không kịp nước mắt rớt xuống ướt tấm nhung làm ố đi nên cô phải lấy vạt áo mà chậm.

Bà Phủ thấy con cứ buồn rầu hoài, tối lại tôi-tớ trong nhà ngủ hết, bà mới lấy lời nhỏ-to dịu-ngọt mà khuyên giải con. Hễ bà Phủ nói tới việc ấy thì Yến-Tuyết lấy làm khó chịu nên khóc òa rồi thưa rằng:

- Má biểu con đừng có buồn, mà con nghĩ không buồn sao được. Thân con gái duy có sự trinh tiết là trọng. Nay con đã mất trinh mất tiết rồi thì thân con ra gì nữa đâu. Con tính thà con chết phứt cho yên thân, chớ sống mà nhơ-nhuốc như vầy, sống một ngày thêm xấu một ngày, sống càng thêm hổ-thẹn chớ vui sướng chi mà sống.

- Con đừng nói quấy như vậy. Ba con mất rồi mấy năm nay nhờ có co hủ-hỉ, má mới khỏi buồn. Nếu con không nghe lời má, con cứ sầu não mà mang bịnh, thoảng như có bề nào thì chắc má chết, má sống không được. Con nhỏ dại con không hiểu, ở đời ai cho khỏi lầm lỡ được. Má thấy có nhiều đứa con nhà sang trọng hơn mình nữa, mà nó còn lấy trai có chửa, rồi sau nó cũng có chồng tử-tế quá vậy đó sao. Con mới làm lỡ có một lần mà con biết ăn-năn thì có sao đâu mà sợ. Cô ba Hương cô nói để cô kiếm chỗ làm mai cho con. Thôi, con đừng có buồn, con giả đò như quên lửng sự con làm quấy đó đi, để coi có chỗ nào xứng đáng má gả con lấy chồng rồi êm chớ gì.

- Má nói như vậy con càng buồn nhiều hơn nữa.

- Sao vậy?

- Con đã mất tiết rồi, bây giờ còn mặt mũi nào mà dám lấy chồng. Xin má đừng có tính tới việc đó. Từ hồi sớm mai cho đến bây giờ con muốn tự vận chết cho rồi. Ngặt con thương má quá nên con không dám chết. Con nói thiệt, con nguyện ở như vậy mà nuôi má, ngày nào má trăm tuổi già thì con cạo đầu đi tu, chớ con không chịu ưng ai làm chồng hết.

Bà Phủ nghe nói hẳn như vậy bà lặng thinh, song trong trí bà tính thầm rằng để thủng-thẳng rồi mình sẻ khuyên giải lần lần, chớ bây giờ nó còn đương ảo não, nếu mình ép quá nó cùn trí sợ nó làm bậy càng khổ nữa. Nhờ bà Phủ lanh-lợi biết cách thế khuyên lơn, nên Yến-Tuyết lần lần bớt khóc, ăn uống ra vào như thường, nhưng mà cô chiêm-nghiểm, không vui, không cười, sớm mai không ra trước sân mà nhìn hoa, buổi chiều không xuống cầu thang mà hóng mát như thuở trước vậy nữa, dường như cô thấy hoa tươi cô thẹn, cô thấy nước trong cô buồn.

Chương 4

Trường-Xuân rầy rà với vợ rồi giận bỏ nhà đi; tôi tớ trong nhà xầm-xì với nhau đứa thì nói làm bộ đi vài bữa rồi về, đứa thì nói xấu hổ quá nên sợ đi luôn, té ra mới đi có ít ngày, thầy Cai với cô hai Hảo qua rồi riu-ríu theo mà về. Về nhà rồi thì cũng vui cười như thường, dường như chẳng xích-mích chi hết vậy.

Trường-Xuân về nhà nằm đêm nhớ tới Yến-Tuyết thì trong lòng khoan-khoái vô cùng. Có lúc anh ta ăn-năn, nghĩ rằng nó với mình là anh em mình làm như vậy thì quấy lắm. Mà rồi anh ta lại nghĩ rằng theo luật đời nay rất đổi là anh em chú bác, đồng một họ với nhau mà người ta còn cho phép cưới gả cho nhau đó sao, mình với nó là anh em bạn dì, khác họ với nhau, có can chi mà ngại. Anh ta muốn qua thăm bà Phủ lắm, đặng thấy mặt Yến-Tuyết, ngặt ở bển mới về nếu đi nữa sợ vợ nghi nên không dám.

Tới Tết, Trường-Xuân ngồi xe hơi đi một mình qua mừng tuổi dì. Yến-Tuyết thấy dạng anh ta thì lật đật đi vô buồng rồi khóa cửa lại nằm im-lìm không muốn cho thấy mặt.

Trường-Xuân mặc áo tố lót màu trứng sáo, mang một đôi giày mới tinh, hút thuốc xì-gà phà khói lên nghi ngút, ngồi nói chuyện với bà Phủ một hồi rồi hỏi rằng: "Ngày Tết mà con hai nó đi đâu vắng dì há?" Bà Phủ thấy Trường-Xuân thì đã có ý quở trách sự anh ta loạn-luân phạm nghĩa, song bà nghĩ ngày xuân không lẽ đem chuyện không tốt ra mà nói, đã vậy mà ban ngày tôi-tớ ra vào lộn-xộn, nếu nói ra sợ chúng nó nghe được thì xấu hổ, bởi vậy bà làm lơ giả như không hay biết chuyện chi hết vậy, song bà cũng lặng-thinh không thèm trả lời.

Trường-Xuân trong mình có tịch nên hổ thầm, bởi vậy bụng thì muốn biết coi Yến-Tuyết đi đâu mà miệng không dám hỏi nữa.

Anh ta ngồi chơi hơn một giờ đồng-hồ rồi đứng dậy từ mà về đặng có đi mừng tuổi chỗ khác. Khi ra cửa bà phủ kêu mà nói vói rằng. "Ra ngoài ngày bữa nào cháu rảnh rang thì qua bên dì chơi đặng dì tỏ việc nhà cho cháu nghe". Trường-Xuân dạ rân rồi lên xe hơi mà đi.

Về dọc đường anh ta ngồi suy nghĩ hoài, không hiểu bà phủ biểu qua đặng tỏ việc gì. Hay là dì đã hay sự mình làm quấy nên biểu qua mà ..... chăng? Không lẽ dì hay được, việc ấy âm thầm ..... biết mà học. Yến-Tuyết là con gái tự nhiên nó mắc-cở, có lẽ nào mà nó học hay sao? Chắc là biểu qua đặng nói việc chi khác, chớ không phải việc đó. Còn con nọ ngày Tết mà nó bỏ đi đâu kìa! Mình trông cho có dịp qua thấy mặt nó, té ra qua mà nó đi đâu mất, làm mình buồn quá. Để bữa nào rồi mình kiếm chuyện đi qua nữa.

Đến rằng tháng giêng Trường-Xuân thay áo đổi quần sửa-soạn đi qua thăm bà Phủ. Vợ nói đi sao đi hoài, mới qua thăm hôm Tết rồi còn qua chi nữa,làm cho anh ta thụt ở nhà không dám đi.

Ở bên nây bà Phủ có ý trông Trường-Xuân qua quở trách đặng cho anh ta chừa cái thói xấu ấy đi, rồi sau biểu anh ta kiếm chỗ làm mai đặng bà gả phứt Yến-Tuyết cho rồi, chớ để lâu ngày sợ tiếng thị phi khó chịu. Chẳng dè bà trông hoài đến nửa tháng hai mà cũng chưa thấy.

Từ qua khỏi Tết rồi thì Yến-Tuyết coi bộ bớt buồn, nhưng mà cuối tháng giêng trở về sau trong mình cô ta lại dã-dượi bần-thần, hôi cơm tanh cá, ăn không biết ngon, mà sao lại hay buồn ngủ lắm. Bà Phủ dòm thấy con mặt mày chao-vao, bộ-tịch khác thường , thì trong lòng phát nghi, muốn rước thầy thuốc chẩn mạch thử coi có phải là có thai nghén chi đây hay không, song bà sợ nếu thiệt có thai mà mình để cho thầy thuốc biết, thì ắt người ngoài họ hay hết thảy, rồi còn gì danh-giá nhà mình, bởi vậy bà để im-lìm mà coi chừng, không dám hở môi với ai hết. Đến nửa tháng hai, bà coi thì thiệt quả Yến-Tuyết đã có chửa. Bà buồn rầu hết sức, tuy bà không dám than phiền với con, song hễ bà nằm một mình thì nước mắt chảy dầm-dề, bà lo tới tính lui, không biết làm thế nào mà che đậy đặng cho người ta đừng biết.

Đêm nọ canh khuya vắng-vẻ tôi-tớ ngủ hết, bà mới bước vào phòng kêu con thức dậy rồi bà to nhỏ mà tỏ với con rằng: "Con ôi! Má coi bộ con có nghén rồi đó con! Nếu thiệt quả như vậy thì nhà ta vô phước lắm." Yến-Tuyết nghe mẹ nói mấy lời thì ngã ngửa trên gường nằm chơn tay lạnh-ngắt. Bà Phủ thất kinh, lật-đật kêu chín Hữu rồi hối nhúm lửa bưng vào cho bà hơ. Cách một hồi Yến-Tuyết tỉnh dậy ngó mẹ mà nước mắt tuôn như mưa. Cô chắc lưỡi lắc đầu hai tay ôm mẹ vừa khóc vừa nói rằng: "Thế nầy thì con phải chết mới xong, má ôi!"

Bà Phủ ngồi tay vịn con, tay ôm mặt mà khóc rấm-rút, nghẹn-nghùng nói không được. Bà thấy dạng chín Hữu đi ngang qua cửa buồng, bà lật đật lau nước mắt rồi bước ra nói rằng: "Khuya rồi, thôi con chín đi nghỉ đi con". Bà khép cửa trở vô mới ngồi dựa bên con mà nói rằng: "Nầy con, việc đã lỡ rồi, bây giờ con sầu não cho lắm đi nữa cũng chẳng có ích chi. Má nghĩ nếu việc nầy tiết lậu ra ngoài thiên hạ hay thì xấu-hổ lắm. Con là con ông Phủ, chớ không phải con nhà dân-dã, hễ một người hay được thì cả lục-tỉnh đều hay, rồi chẳng những con mang nhơ mà thôi, mà má đây cũng mang nhục với người nữa. Vậy má tính phải giấu-giếm cho lắm mới được. Thôi, để mai mốt má đi Sài Gòn kiếm mướn một căn phố xấu xấu ở trong đường hẻm rồi đem con lên đó mà ở. Con ở đó ít tháng chờ đến ngày lâm bồn thì vô nhà bảo-sanh mà nằm. Đẻ song rồi thì đem đứa nhỏ cho nhà mồ-côi cho họ nuôi rồi má rước con về. Bây giờ thì má nói với họ rằng má đem con vô nhà trắng đặng con học thêu thêm một năm nữa, làm như vậy con đi ra mới khỏi người ta nghi, mà chừng con về mới khỏi người ta dị-nghị. Má tính kế ấy vẹn toàn lắm, con nghĩ thử coi có được hay không."

Yến-Tuyết lau nước mắt rồi ngó mẹ mà nói rằng: "Thưa má, phận con là con gái không biết giữ tiết hạnh, đã làm cho má buồn rầu gần 2 tháng nay, mà rồi đây con sẽ làm cho cha mẹ phải nhơ-nhuốc với thiên hạ nữa, thiệt con lỗi với cha mẹ nhiều lắm. Vậy nên con tính con phải chết thì má mới khỏi mang tiếng xấu. Con làm quấy thì con phải chịu, xin má đừng có lo lắng cho con làm gì mà nhọc lòng. Thiệt bây giờ con chết, thì con không tiếc thân con chút nào hết. Vậy xin má ở lại dương-trần mà vui hưởng ngày già, để cho cho dứt phứt nợ trần cho rồi đặng con mát tấm thân và má khỏi mang tiếng xấu."

Yến-Tuyết nói dứt lời liền ngồi xuống đất mà lạy mẹ. Bà Phủ lật-đật đỡ đứng dậy, kéo con lên giường rồi mẹ con ôm nhau mà khóc. Trong phòng bóng đèn leo-lét, sau hè gà gáy tấm-te, cảnh đã buồn mà người cũng buồn, thợ trời khéo vẽ một bức tranh rất bi-thảm, tưởng ai trông vào cũng phải đau lòng ủ mặt. Bà Phủ to nhỏ mà khuyên giải con, bà nói rằng nếu Yến-Tuyết mà chết thì bà cũng tự vận mà chết theo, chớ bà không thế nào mà sống ở một mình trên dương-trần cho được. Bà nói quá nên Yến-Tuyết động lòng nên không tính tới việc tự tử nữa, nhưng mà hễ bà nhắc tới chuyện lên Sài Gòn mướn phố giấu cô thì cô cự hẳn, cô không bằng lòng, cô nói rằng ở đời việc gì mình giấu lung chừng nào thiên hạ càng hay nhiều chừng nấy. Bây giờ mình tính đi lánh mặt đặng chờ ngày đẻ xong rồi sẽ về; mình làm như vậy tưởng là che miệng thế gian được, mà có chắc gì thiên hạ không hay. Mà ví dầu không ai biết đi nữa, mình biết việc mình, tự nhiên mình cũng hổ thầm. Chi bằng mình đã làm quấy rồi thì mình cứ chịu quấy ngay đi, đừng giấu-giếm, đừng gạt-gẫm ai hết. Đã biết lúc ban đầu thì thiên-hạ họ chê cười, mà thà là mình bị họ cười trước mặt, chớ không nên để hổ thầm trong lòng. Huống chi mình đã làm quấy thì mình phải chịu phạt, chớ mình làm quấy mà còn muốn làm mặt phải, dường ấy cái quấy của mình lại càng lớn hơn nữa.

Bà Phủ nghe tỏ ý như vậy thì bà lấy làm kỳ, bởi vậy bà mới hỏi gạn lại rằng:

- Bây giờ con tính cứ ở nhà như thường chừng đẻ con ra thì con nuôi, ai cười chê mặc ai hay sao?

- Dạ.

- Ứ hự! Con tính nghe kỳ quá. Thuở nay má chưa từng thấy ai mà tính như con vậy bao giờ.

- Ấy là tại họ hư mà muốn làm mặt nên bởi vậy họ tính giấu-giếm. Chớ phận con đây con đã hư rồi con chịu hư, nên con không thèm giấu ai hết.

- Con nói hơi liều mạng như vậy sao đươc. Con ở nhà thì họ cười con đã đành rồi mà họ cười luôn tới má nữa mới là khổ cho chớ. Con đành lòng để họ cười má rồi cười luôn vong hồn của ba con nữa sao?

Yến-Tuyết nghe nói tới vong-hồn cha thì mủi lòng, nên ngồi khóc tấm-tức tấm-tưởi, làm cho bà Phủ phải kiếm lời mà khuyên giải nữa.

Bà Phủ sợ con thất chí rồi làm bậy, nên bà ngủ chung với con, chớ không để cho con nằm một mình. Qua đêm sau bà lại lo mưu tính kế mà giấu-giếm nữa; bà muốn dắt Yến-Tuyết về Bà-Rịa, rồi đem ra phía Lưới-Rê mà gởi cho bà con, mà bà tỏ ý ra thì Yến-Tuyết cứ khóc hoài, ý muốn ở nhà chớ không chịu đi đâu hết.

Hai mẹ con hễ ban ngày thì ra vô ăn uống như thường, còn ban đêm thì đóng cửa vào trong phòng mà tính việc nhà. Mà ngặc con một ý, mẹ một ý, nên tính hoài mà cũng không nhứt định lẽ nào. Lối nửa tháng hai Trường-Xuân mới nói với vợ để qua thăm dì được. Anh ta thoát ra khỏi nhà thì mừng rỡ vô cùng tính đi riết qua đặng thấy mặt Yến-Tuyết. Anh ta xuống xe đi vô nhà chơn bước khấp-khởi, miệng cười ngỏn-ngoẻn, tưởng là mình lâu qua hễ qua tới thì dì mừng rỡ em vui cười, chẳng dè bước vô nhà thì bà Phủ chào sơ sài rồi ngó chỗ khác mà ăn trầu, không niềm-nỡ như xưa nay vậy, còn Yến-Tuyết thì đi đâu mất, không thấy tăm dạng chi hết. Anh ta kéo ghế mà ngồi, không biết có việc chi mà coi bộ dì buồn dữ vậy, trong lòng lấy làm ái-ngại, song không lẽ ngồi lặng-thinh hoài, nên phải làm gượng mà nói rằng: "Hổm nay dì ở bên nây mạnh giỏi thế nào? Hôm Tết dì dặn cháu có rảnh thì qua dì nói chuyện, mà xưa rày mắc lận-đận hoài đi không được. Không biết dì có việc chi đó vậy dì há?

Bà Phủ không trả lời. Bà kêu thằng Quới sai đi chợ, và biểu chín Hữu coi nấu cơm ăn, rồi bà mới day qua ngó Trường-Xuân mà nói rằng: "Ừ, dì có việc muốn nói với cháu, xưa rày dì có ý trông hoài, mà không thấy cháu qua. Cháu là một đứa khốn-nạn lắm. Cháu đã có học-thức mà lại làm ông nầy ông kia với người ta, sao cháu không biết giữ luân thường; em cháu khờ dại, lẽ thì cháu phải lo gìn giữ giùm danh tiết cho nó mới phải, chớ sao cháu lại đành lòng làm những điều tồi phong bại tục, khiến cho em cháu nó nhơ danh xủ tiết như vậy?"

Trường-Xuân lấy làm hổ-thẹn nên ngồi gục mặt xuống đất mà lặng thinh không biết sao mà trả lời, mà cũng không dám ngó bà Phủ. Bà Phủ thấy vậy mới nói tiếp rằng: "Thôi, việc cháu làm thì cháu phải chịu, bây giờ nó đã có nghén lỡ rồi, vậy cháu tính sao thì cháu tính đi cho xong, chớ để vài tháng nữa bụng nó lớn đây mang xấu hết cả bầy cả lũ".

Bà Phủ nói mà nước mắt rưng-rưng. Trường-Xuân nghe Yến-Tuyết có nghén thì thất kinh, mày mặt tái xanh, mồ-hôi nhỏ giọt, bối-rối trong lòng, không biết nói sao cho được, duy nói nhỏ rằng: "Cháu có dè mà hại đến như vầy đâu". Bà Phủ thấy vậy mới tiếp mà nói rằng: "Dì nghĩ lại dì giận cháu lắm. Tại cháu làm mà hai tháng nay dì khóc hết nước mắt, ăn ngủ không đặng. Còn con nhỏ nó tức tối hổ-thẹn chịu không kham, nay nó đòi thắt họng, mai nó đòi uống thuốc độc, làm cho dì lo sợ không biết chừng nào. Cháu nghĩ coi việc cháu làm nó hại dường nào. Hổm nay dì tính để đi Sài Gòn mướn phố trong hóc trong hẻm mà giấu nó, nuôi đến chừng nào nó đẻ rồi dì sẽ đem nó về, mà nó không chịu, nó quyết ở nhà mà thôi, không thèm giấu-giếm ai hết, ai cười thì nó chịu, bởi vì nó dại nó lầm lỡ thì nó phải mang tiếng quấy. Nếu để nó ở đây thiên-hạ họ hay thì xấu hổ cả và tông-môn, bởi vậy dì mới không bằng lòng; dì sợ nó cùn trí rồi tự-vận lại càng khốn-khổ hơn nữa, nên dì không dám rúng ép".

Trường-Xuân nghe rõ đầu đuôi, ngồi thở ra lặng thinh một hồi rồi hỏi rằng:

- Sao dì chắc nó có nghén.

- Sao lại không chắc.

- Nếu nó không chịu đi Sài Gòn thôi thì đem nó vô trong ruộng hoặc trong vườn mà giấu nó có được hay không?

- Dì cũng có tính như vậy mà nó cũng không chịu.

- Cha chả! Nếu vậy thì khó quá.

- Bởi vậy hổm nay dì rầu biết chừng nào. Nếu nghe lời nó cứ để nó ở trong nhà hoài, trong vài tháng nữa bụng nó lớn đây thì thiên-hạ họ cười chết, dì chịu sao nổi. Mà dì lại còn sợ một nỗi nữa con ba ở bển nó hay được thì còn gì thể-diện của dì.

Trường-Xuân nghe nói tới chuyện vợ hay thì lo sợ quá đỗi, ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng:

- Cha chả! Nếu vợ cháu mà nó nói thì xấu hổ lắm. Mà lúc nầy đã có giấy cho ông gia cháu hưu trí rồi, cháu đương sửa-soạn ra tranh chức Cai-tổng, nếu nó hay nó phá hoang thì khổ cho cháu biết chừng nào.

- Vậy chớ biết làm sao bây giờ? Chớ chi hôm lúc Tết có ai đi nói, dì gả phứt nó thì xong quá.

- Thưa dì, cháu tính như vầy, dì nghĩ thử coi có được hay không?

- Cháu tính sao đó?

- Dì cũng biết, việc gia-đạo của cháu khó lắm. Thuở nay cháu được đẹp mày nở mặt với người ta ấy là nhờ bên vợ. Nay mà cháu được làm Tổng hay là không được thì cũng là nhờ bên vợ nữa. Nếu việc nầy mà lậu ra đến tai con vợ cháu thì dì đã hổ thẹn, mà cái thân cháu đây cũng phải mang khổ. Vậy mình phải lo làm sao mà giấu cho nhẹm việc nầy mới được. Dì mới ước rằng phải có ai đi nói, dì gả phứt con hai cho êm, vậy cháu xin dì cho phép cháu kiếm người nôm nó, cháu kiếm đứa nghèo khổ cháu cho tiền bạc nhiều thì tự nhiên nó chịu liền chớ không khó gì.

- Dì ước là ước hồi nó chưa có nghén kìa, chớ bây giờ nó nghén đã gần 2 tháng rồi ai mà chịu đi cưới. Nếu mình gạt họ rồi chừng họ đi cưới bụng nó thè-lè thì mình làm sao mà nói với họ?

- Thưa dì, việc đó không hại gì. Cháu nói thiệt trước với người ta, hễ họ đành như vậy mình mới cho cưới chớ. Thuở nay con nhà giàu sang nếu rủi ro chửa oan thì họ làm như vậy thiếu gì.

- Cha chả! Mà biết họ chịu hay không?

- Cháu lựa mấy đứa nghèo nàn, cháu cho một đôi ngàn thì nó chịu liền, có khó gì đâu.

- Sợ mấy đứa tầm bậy, con nhỏ nó không ưng.

- Phải ưng đỡ đặng mà che miệng thiên-hạ. Chớ chọn lựa chỗ đương môn đối hộ thì họ có chịu đâu.

- Thôi, cháu đi ra ngoài chợ mà chơi một chút, để dì dọ ý con nhỏ thử coi, rồi cháu trở về đây dì sẽ trả lời cho cháu.

Trường-Xuân nghe lời leo lên xe hơi mà đi. Bà Phủ vô buồng thấy cửa buồng khóa chặt, bà gõ cửa mà kêu. Yến-Tuyết đi lại mở cửa, rồi hỏi mẹ rằng: "Anh khốn-nạn đó còn lân-la tới nhà chi nữa vậy?"

Bà Phủ ngồi trên giường biểu con lại ngồi một bên rồi bà òn-ỷ mà tỏ sự bà muốn kiếm người nghèo cực đặng họ nôm đỡ, trước là danh tiếng của mẹ con vẹn-toàn, sau nữa đường công-danh của Trường-Xuân khỏi lỡ-dở. Yến-Tuyết nghe nói liền hỏi rằng:

- Anh đó ảnh bày như vậy phải không má?

- Ơ ... ừ ... Nó tính như vậy đó, mà má nghĩ tính như vậy thì hay lắm đa con, nếu con bằng lòng thì mẹ con ta khỏi mang tiếng.

- Má tưởng làm như vậy rồi khỏi xấu hay sao?

- Có ai biết đâu mà họ cười. Hễ kiếm được người rồi thì má cho cưới liền.

- Nếu cưới có 6, 7 tháng rồi con đẻ, thì làm sao mà họ không biết con có chửa hoang?

- Thiếu gì cách nói. Mình nói đẻ thiếu tháng cũng được mà.

- Mà ví dầu mình dối người ngoài được đi nữa, còn cái anh đi nôm đó làm sao mà dối ảnh?

- Thì mình đã nói trước cho nó biết rồi, mình có dối trá gì đâu.

- Nếu nói trước ai thèm cưới.

- Má làm sao thì má làm, miễn là có người ta chịu cưới con thì thôi, con đừng lo.

- Con đã thất tiết thất trinh rồi, bây giờ con còn mặt mũi nào mà dám động phòng hoa chúc. Thưa má, xin má để cho con chết phứt cho rồi, chớ lấy chồng như vậy hổ-thẹn, con làm không được.

- Nếu con cãi lời má hoài, thì cũng như con bưng danh-giá của tông-môn mình mà con trút xuống sông vậy.

Bà Phủ nói dứt lời, thì ngồi khóc coi thảm thiết lắm. Yến-Tuyết nghĩ mình làm quấy để mẹ ưu phiền, thì trong lòng đau đớn chịu không được bởi vậy cô cũng khóc òa mà thưa rằng: "Con thấy má ưu phiền chừng nào con càng muốn chết chừng nấy. Thôi xin má đừng có khóc nữa, má tính thế nào con cũng bằng lòng. Ngặt vì thuở nay con vẫn mong đem tấm gương trong mà gởi cho chồng, nay tấm gương của con đã đục rồi, nếu con trao cho chồng thì con hổ lắm. Má tính để má kiếm người nghèo cực mà mướn họ nôm đỡ. Vậy thì con xin má cho họ tiền bạc cho nhiều đặng giao với họ cưới thì cưới mà họ không được ăn nằm với con. Nếu được như vậy thì con mới bằng lòng, bởi vì ý con đã nhứt định không chịu thất thân với ai hết. Con nghĩ người nào mà chịu cưới con là vì có bạc tiền nên họ mới chịu, bởi vậy nếu mình buộc thêm việc ấy họ cũng chẳng kèo nài gì."

Bà Phủ nghe con nói như vậy thì ngồi suy nghĩ một hồi rồi bỏ đi ra ngoài. Cách chừng nửa giờ Trường-Xuân trở lại, bà Phủ mới thuật mấy lời của Yến-Tuyết lại cho Trường-Xuân nghe, Trường-Xuân gật đầu và đáp rằng: "Con hai nó tính như vậy cũng phải. Thôi, việc ấy cháu xin dì đừng lo, để cháu tính trong năm ba bữa cháu sẽ qua cho dì hay".

Trường-Xuân từ giã bà Phủ ra về. Lên xe ngồi anh ta nghĩ bên Bến-Tranh không có ai, nhưng nếu về bển mà kiếm người thì lấy làm bất tiện lắm, chi bằng mình ra ghé chợ Tân-An mà nói thiệt với em mình là thầy giáo Nguyễn-tế-Thế nghe, rồi mình cậy nó tính giùm, dầu tốn hao năm ba ngàn đồng mình cũng chịu, chớ để đổ bể ra đây mình chắc hụt làm Tổng, mà lại sợ hết đi xe hơi nữa được.

Thầy giáo Nguyễn-tế-Thế là anh em với Trường-Xuân, một đàng là con nhà cô, một đàng là con nhà cậu. Thầy đã 25 tuổi mà chưa có vợ, nhà ở gần lối trường học. Trường-Xuân ghé xe trước nhà, thì thầy đi dạy học cũng vừa mới về tới đó. Anh em mừng rỡ nhau rồi Tế-Thế mời Trường-Xuân vô nhà, hối trẻ nấu nước mà đãi khách. Trường-Xuân thấy trời gần tối ý muốn về cho mau, nên cản không cho nấu nước nôi chi hết, vừa ngồi xuống thì kêu Tế-Thế mà nói rằng:

- Nầy em, qua có một việc rối quá, nên ghé cậy em phải giúp qua mới được.

- Việc gì vậy?

- Để qua nói thiệt em nghe. Dì Phủ của qua em biết không?

- Biết.

- Ờ, dĩ có một đứa con gái, là con hai Tuyết, đã khôn-khéo mà đẹp-đẽ lắm.

- Cô đẹp thiệt, mà anh để cho người ta khen chớ anh khen sao phải.

- Để qua nói em nghe. Bởi vì nó đẹp quá nên hôm tháng chạp qua đến chơi, qua thấy nhan sắc của nó qua dằn không được, qua làm bậy trai gái với nó bây giờ lỡ nó có chửa rồi, em.

- Húy! Trời ơi!

- Thiệt khổ lắm! Bữa nay qua đi thăm qua mới hay. Việc nầy chưa ai hay hết. Qua tin em lắm qua mới tỏ thiệt với em.

- Bây giờ anh biểu tôi nôm hay sao anh?

- Không .. Mà ví dầu em nôm, nghĩ cũng không hại gì.

- Trời ôi! Anh khéo nói không! Ai đi làm như vậy cho được anh.

- Nó lịch sự lắm em.

- Ủa! Lịch sự mà làm gì?

- Mà nó có của nữa.

- Có của thì có chớ.

- Mà không phải qua cậy em nôm đâu mà em sợ. Em cũng biết, con gái mà có chửa oan thì xấu hổ lắm. Huống chi hai Tuyết là con quan, nếu thiên-hạ hay thì còn gì danh tiếng. Mà phận nó mang tiếng xấu đã đành, ngặt lúc nầy qua đương tính tranh Cai-tổng, nếu đổ bể thì khổ cho qua lắm. Vậy qua tính kiếm người nghèo-nàn đặng mướn họ nôm đỡ nó, họ đòi năm ba ngàn gì qua cũng chịu hết thảy, miễn là giấu cho nhẹm thì thôi. Em làm ơn kiếm giùm một người cho qua, tốn hao bao nhiêu em đừng ngại. Họ đòi ăn tiền bao nhiêu cũng được, song qua buộc họ hai điều này: điều thứ nhứt là họ cưới mà họ không được ăn nằm với con hai Tuyết; điều thứ nhì là chừng nào con hai Tuyết đẻ xong rồi, bất luận là ngày nào, hễ qua biểu họ thôi thì họ phải thôi liền. Tại ý dì Phủ muốn như vậy, chớ qua không can gì. Em làm ơn giùm cho mau mau, nếu việc thành rồi qua thưởng công em trọng lắm. Mà việc nầy kín lắm, em đừng có nói bậy cho họ hay nghe không em.

Tế-Thế ngồi ngẫm-nghĩ một hồi rồi đáp rằng: "Có lẽ được. Hôm tháng trước tôi đi chơi bên Mỹ-Tho, tôi có gặp một người bạn học hồi trước đi lình-xình ở bển, quần áo lang-thang, coi bộ nghèo-khổ lắm. Tôi hỏi thăm thì anh ta nói anh ta làm việc Trạng-sư. Thôi, để mai nhằm ngày chúa-nhựt tôi đi qua nói giùm thử coi, nếu anh cho tiền nhiều thì chắc anh ta chịu".

Trường-Xuân nghe nói thì mừng hết sức liền móc túi lấy ra một tấm giấy hai chục đồng mà đưa cho Tế-Thế đặng làm phí-lộ mà đi, rồi đứng dậy từ mà về. Tế-Thế đưa ra tới ngoài đường. Trường-Xuân lên xe rồi dặn với rằng: "Em ráng hết lòng mà lo giùm việc đó cho qua nghé. Hễ được thì đánh dây thép cho qua hay ... Mà thôi, để trưa thứ hai tới qua đây mà hỏi thăm thì tiện hơn. Em vô nghỉ, qua về nhé."

Tế-Thế trở vô nhà đi qua đi lại miệng chúm-chím cười hoài.

Chương 5

Lối nửa chiều, mặt trời ngả bóng xiên-xiên gió xô nhành lúc-lắc. Khúc đường dựa theo mé sông cái, ngang châu-thành Mỹ-Tho, từ nhà giấy xe lửa sấp lên, thiên-hạ lại qua dập-dìu. Trước khách-sạn có một gánh mì gõ lắc-cắc, dưới gốc cây chị chè đậu rao hò-hơ, học-trò dắt nhau đi chơi, cười giỡn om-sòm, xe kéo không có ai kêu, ngồi khoanh tay riết.

Ngoài sông thì tàu dắt ghe chạy ngang thổi xúp-lê vang-rân, trong mé thì sống vập vào bực thạch phun bọt-bèo trắng nõn. Trên cầu tàu Lục-tỉnh là chỗ chiều mát thiên-hạ hay ra đó đứng mà hứng gió, có một người trai trạc chừng 25-26 tuổi, đương đứng chống hai cánh chỏ trên lan-can cầu ngó lên mỏm Cù-lao Rồng. Người trai nầy đội một cái nón trắng, song lâu ngày không đánh phấn nên màu coi luốt-luốt; mình mặc một bộ đồ tây xám, song lâu ngày không giặt ủi nên ống quần không có lằn còn tay áo thì đen thui; dưới chơn đi một đôi giày da đen mũi trầy-trụa, còn gót thì mòn hết nửa. Tuy là y-phục không được tinh khiết, cửa tay áo xười, nón ru-băng rách, nhưng mà mặt mày sáng rỡ, da trắng, má bầu, cặp mắt tỏ như gương, hàm răng trắng như ngọc. Anh ta chống tay mà ngó mông, thấy trên đầu cồn thuyền buôn chạy vát củi sóng trương buồm, rồi lại nghe phía sau lưng xe lửa súp-lê rầm-rầm rút chạy. Người đi chơi hễ gặp xe lửa chạy thì thường hay đứng lại mà coi, duy có một mình anh ta đã đứng trên cầu gần đường xe lửa, mà lại đã nghe xe lửa súp-lê vang-rân, song cứ đứng ngó mông qua sông không thèm day mặt lại.

Trời mát lần lần, hàng gáo trồng dựa theo mé sông áng bóng mặt trời nên trên cầu lần lần hết nắng. Cách một hồi có năm sáu học-sanh dắt nhau xuống cầu đứng mà chơi, nói chuyện rồi cãi lẫy om-sòm, mà người trai ấy cũng không nhúc-nhích, dường như xác ở dương-trần còn hồn nương mây bạc, các việc đời .tai. Cách một hồi nữa, lại có ... Tế-Thế men men xuống cầu, bước nhẹ nhẹ, còn mắt (thiếu vài chữ). Chừng Tế-Thế ra nhìn người ấy kỹ lưỡng rồi, miệng cười, chơn bước lại, vỗ vai mà hỏi rằng: "Làm giống gì mà đứng đây?"

Người ấy giựt mình day lại thấy Tế-Thế ăn mặc đoan-trang, giày vàng, áo xám, mắt đeo kiếng che bụi, túi giắt khăn bìa ren, thì đứng nhìn trân trân, làm bộ như không quen biết. Tế-Thế vói nắm tay mà dặc-dặc và nói rằng: "Anh em bạn học với nhau, mà lại mới gặp hôm tháng trước, nay anh quên tôi rồi hay sao?" Người ấy cười mà đáp rằng: "Làm sao mà đến nỗi quên được. Song tôi thấy anh em bạn cũ có nhiều người hay quên tôi, gặp tôi họ hay ngó lơ, nên thà là để anh đưa tay trước rồi tôi mới dám nắm chớ."

Tế-Thế cười rồi xỏ tay vào cánh tay người ấy, cặp dắt đi và nói rằng: "Hôm trước gặp anh mà mắc xe lửa gần chạy, nên không nói chuyện gì được hết. Nay tôi qua bên anh tính ở chơi đến sáng mai mới về, vậy thôi hai anh em mình đi lên nhà hàng uống rượu chơi. Anh em lâu gặp nhau, nay gặp được tôi mừng quá. Đi, đi anh". Tế-Thế kéo riết người ấy đi. Mấy học-sinh thấy một người y- ................. mà niềm nở với một người y- ................ thì lấy làm lạ, nên đứng ngó ................ nhau mà cười ngất.

..................... Kỳ-Tâm, vốn là anh em bạn ......................, người gốc Rạch-Giá, nay làm việc Trạng-sư tại Mỹ-Tho. Hôm qua Tế-Thế hứa với Trường-Xuân sẽ qua Mỹ-Tho kiếm người gỡ rối giùm, ấy là ý muốn cậy người nầy.

Hai người dắt nhau đi ngang qua nhà giấy xe lửa. Tế-Thế mới nói với Kỳ-Tâm rằng: "Để mình kiếm nhà hàng khách-trú mình uống rượu nói chuyện chơi mới thong thả". Hai người đi thẳng xuống vàm, rồi quẹo vô phía cầu quây. Gặp nhà hàng khách-trú, Tế-Thế mời Kỳ-Tâm vào ngồi rồi hỏi rằng:

- Ý anh muốn dùng rượu chi?

- Mấy năm nay tôi không uống rượu gì hết. Vậy anh muốn dùng thứ nào tùy thích, tôi ngồi không nói chuyện chơi cho anh vui cũng được mà.

- Được đâu nà! Anh phải uống chơi với tôi chớ. Uống đồ mạnh quá sợ say, thôi để mình uống bi-công nhé. Bồi lấy 2 ly bi-công. Trời nực quá, bỏ nước đá cho nhiều nhiều nhé.

Bồi đem rượu ra rót hai người hai ly. Tế-Thế mời Kỳ-Tâm uống; Tế-Thế nói nói cười cười, có ý muốn chọc cho Kỳ-Tâm nói chuyện, mà Kỳ-Tâm thì ngồi chiêm-nghiểm, cứ day mặt ra ngoài mé sông, bộ coi dường như lo tính việc gì đó vậy. Tế-Thế nói rằng:

- Anh em học một lớp với mình hồi đó gần 40 người. Từ khi ra trường đến nay tản lạc hết, mỗi người đều đi kiếm việc làm ăn, ít khi gặp nhau như vầy.

- Bây giờ anh làm việc ở đâu?

- Tôi rồi thì xin làm thầy-giáo liền; 4 năm nay ở Tân-An hoài, chớ không đi đâu hết, anh quên hay sao? ... Ờ, phải! Anh thôi trước nên không có thi. Cha chả! Năm đó anh em thi đậu nhiều quá, chớ chi anh ở học ráng vài tháng nữa thì chắc anh cũng đậu. Anh thôi uổng quá! Nầy, mà hồi đó lúc gần thi sao anh lại thôi học như vậy anh?

- Tôi mắc việc nhà không thế học nữa được, nên tôi phải thôi.

- Uổng quá! Anh mắc việc gì ngặt lắm hay sao mà đến nỗi bỏ học như đi vậy?

Kỳ-Tâm nghe hỏi ngồi thở ra không muốn trả lời, Tế-Thế liếc mắt thì thấy bộ anh ta buồn-bực lắm. Kỳ-Tâm ngó ra ngoài đường thấy đờn-bà mang guốc dắt con đi chơi, xe kéo kiếm khách kéo xe đi nghễu-nghến. Cách một hồi mới day vô mà hỏi Tế-Thế rằng:

- Mấy năm nay anh làm thầy giáo khá hay không?

- Anh cũng biết làm thầy giáo mà khá nỗi gì. Tại tôi chưa có vợ nên nhà cửa còn lôi thôi hoài.

- Té ra anh chưa có vợ hay sao?

- Chưa.

- May cho anh lắm a!

- Không có vợ mà may nỗi gì anh?

- Nếu anh cưới vợ, hễ cưới chỗ nghèo thì nó báo anh, còn cưới chỗ giàu thì nó khi anh, bởi vậy không có vợ khỏi ai theo báo đời, mà cũng khỏi ai khinh dể, há không phải là may hay sao?

- Anh nói nghe kỳ cục quá!

- Thiệt chớ! Đời nầy thiên-hạ họ xấu lắm. Anh chưa được giàu sang, mà anh cũng chưa gặp hoạn-nạn, bởi vậy anh chưa hiểu thế-thái nhơn-tình, chớ tôi đã thấy đủ kiểu, đã nếm đủ mùi, nên bây giờ tôi ghét thiên-hạ lắm.

- Anh nói vậy sao phải! Ở đời có kẻ xấu người tốt, chớ mỗi người đều bậy hết hay sao mà anh oán chung hết thiên-hạ. Trong mấy nhà nghèo cũng hiếm người hiền đức, mà trong mấy nhà giàu cũng hiếm gái khôn-ngoan, nếu mình cưới vợ thì mình chọn con nhà biết điều không cần gì giàu nghèo, thì có lẽ mình cũng vui lòng được chớ.

- Hữ! Anh nói chuyện đời xưa hay sao chớ? Đời nầy ai là người biết điều đâu anh chỉ thử coi?

- Bây giờ biết ai đâu mà chỉ. Mà điều thiếu gì người tử-tế, chớ phải hết thảy thiên hạ đều bậy hết hay sao?

- Đó! Coi có quả như vậy hay không, hử? Anh nói thiếu gì người biết điều, thiếu gì người tử-tế, mà biểu chỉ thử coi, anh luýnh-quýnh không biết đâu mà chỉ. Có, có nhiều lắm chớ. Theo con mắt của tôi coi thì không có, mà theo con mắt của thiên hạ, thì thiếu gì người tử-tế biết điều. Anh không biết đâu mà chỉ, vậy thôi anh để tôi chỉ giùm cho. Anh chịu khó anh đi khắp mấy tỉnh từ trong Nam-Kỳ ra cho tới Bắc-Kỳ anh coi thử coi có phải thiên-hạ hễ thấy ai nhà cửa kinh-dinh, y-phục đàng-hoàng tước trọng quyền cao, ruộng nhiều vườn rộng, thì họ cho là tử-tế biết điều, còn thấy ai quần áo lang-thang, cửa nhà xệch-xạc, ăn không no bụng, ngủ không yên thân, thì họ cho là khốn-nạn gian-giảo. Ý của thiên hạ như vậy đó. Anh nói thiếu gì người tử-tế, phải tử-tế là theo như lời thiên hạ họ cho đó hay không?

- Không. Người tử-tế, thì tử-tế, chớ nào phải giàu sang mới tử-tế, còn nghèo-hèn thì bậy-bạ hết thảy đâu.

- Anh nói chuyện đời xưa, hay là anh rút chuyện trong sách anh nói nữa? Anh nói người tử-tế dầu giàu nghèo gì họ cũng cho là tử-tế phải không? Đâu anh thấy ông nào giàu sang mà họ dám kêu là quân ăn cướp, đồ khốn-nạn đâu, anh chỉ thử coi, mà vị tất hết thảy những tay giàu sang đều là bực hiền-nhơn quân-tử hết. Tôi thường thấy, mà có lẽ anh cũng dư biết, thiếu gì người làm những điều hung ác, dùng những chước nhuốc-nhơ mới trở nên giàu sang, mà hễ giàu sang rồi thì thiên-hạ đã quên tội hung ác hoặc thói nhuốc nhơ của họ hết, mà lại còn theo lạy dạ bợ đỡ họ nữa. Đời nầy khốn-nạn lắm! Tôi đã ghét, tôi không muốn nói đến, tại anh hỏi dần-lân làm cho tôi nhớ tới tôi càng thêm giận.

- Tại sao mà anh nói nghe hơi chán đời dữ vậy anh?

- Phải, tôi chán đời lắm.

Kỳ-Tâm nói mấy lời rồi lại day mặt ra ngoài đường. Tế-Thế ngó thấy anh ta có sắc giận nên chúm-chím cười mà hỏi rằng:

- Thế khi anh cực khổ lắm hay sao mà anh giận đời như vậy?

- Không. Tôi bây giờ thong thả lắm chớ. Tôi làm việc Trạng-sư ăn lương mỗi tháng 30 đồng. Tôi ở đậu ăn cơm quán nhà người ta trên Cầu-cống mỗi tháng hết 15 đồng, còn 15 đồng tôi xài chơi, có thiếu thốn chi đâu.

- Vậy mà sao anh còn giận đời?

- Anh muốn biết việc của tôi, vậy để tôi tỏ thiệt cho anh nghe chơi. Hồi nhỏ tôi sung-sướng ít có đứa nào dám bì kịp. Cha mẹ giàu có: nhà ngói có 3 tòa, ruộng có hơn một muôn công. Cha mẹ tôi sanh có một mình tôi, mà huê-lợi mỗi năm góp đến 50 ngàn giạ lúa, bởi vậy tôi muốn tiền bạc bao nhiêu cũng được hết. Lúc tôi đi học trên Sài Gòn trong rương tôi thường có năm bảy chục hoặc một trăm đồng bạc luôn luôn.

- Phải, tôi nhớ: bọn học trò hồi đó có một mình anh xài-phí rộng rãi hơn hết. Anh mặc quần hàng áo lụa luôn luôn. Mà anh đi giày cũng mắc tiền hơn hết nữa.

- Hồi đó tôi sung-sướng lắm, bởi vậy tôi đi học không lo chi hết, chỉ lo học cho giỏi đặng khỏi thua chúng bạn mà thôi. Mà tôi học cũng không phải cầu thầy bà gì, chỉ muốn học đặng mở rộng trí khôn hầu ngày sau cai quản sự nghiệp của cha, cho khỏi mang tiếng nhà giàu u-mê. Tôi đi học đã sung-sướng mà bãi trường về nhà lại còn vui vẻ hơn nữa. Anh nghĩ thử coi, mình là là con ông Cả giàu lớn hơn hết trong tổng, ai mà không kiêng mình. Tôi đi chơi tới đâu, họ niềm nỡ tới đó, tá-điền già trẻ gì hễ tôi kêu thì dạ hết thảy. Không phải tôi có ý khoe với anh, chớ thiệt tôi không phải như họ, ỷ thế mà hiếp đáp người ta; tôi gặp người già cả thì tôi kỉnh họ luôn luôn, tôi thấy ai nghèo nàn thì tôi cho tiền bạc, bởi vậy trong làng họ kiêng tôi mà lại yêu tôi lắm. Lúc tôi được 16, 17 tuổi thì nhà giàu ai có con gái cũng đều muốn gả cho tôi. Ông thân tôi có một người anh em bạn tên là Thái-sanh-Tài, làm Phó-tổng cựu, nhà giàu góp mỗi năm lối 20 ngàn giạ. Ổng muốn làm sui với ông thân tôi, mà tôi không chịu, tôi xin để tôi học xong rồi tôi sẽ cưới vợ. Bữa nọ bãi trường tôi về, đi dưới tàu tôi gặp bà Phó-tổng Tài với con gái bà là cô sáu Nhiễu đi Sài Gòn về. Ông thân tôi muốn đi nói cô nọ cho tôi, mà tình cờ tôi gặp cô như vầy thì tôi có ý mừng thầm, bởi vì có dịp mà tôi mới dọ tánh nết cô được. Tôi bước lại chào bà Phó-tổng thì bà mừng rỡ hỏi thăm lăng-xăng còn cô sáu Nhiễu thấy tôi coi bộ cũng vui nên không bợ-ngợ chi hết. Đến 11 giờ trưa, tàu ở Mỹ-Tho lên tới Cái-Bè, cô Nhiễu dọn bánh thịt ra rồi bà Phó-tổng mời tôi ăn. Bà ép quá nên tôi phải ngồi lại mà ăn với bà và cô sáu Nhiễu.

Kỳ-Tâm nói tới đó thì đèn khí bực cháy sáng lòa. Anh ta hớp một hớp rượu thắm giọng rồi nói tiếp rằng: "Chẳng giấu chi anh, cô sáu Nhiễu thiệt là đẹp. Cô văn nói nhỏ-nhoi, đi đứng đằm-thắm, da trắng tóc dài, môi-son, mày liễu, tay chơn dịu nhiễu, hình vóc thanh tao, bởi vậy tôi đã không chịu cưới vợ gấp, mà thấy cô tôi động tình, nên tôi ngồi dưới tàu cứ suy nghĩ hoài, tính về chuyến đó thưa với cha mẹ đi nói cô, rồi đợi hễ ra trường thì cưới liền. Tháng đó nhằm tháng nước đổ, mà rủi lại gặp chiếc tàu chạy dở, nên mới tới kinh Lấp-Vò thì trời đã tối mò. Tôi biểu dưới tàu nấu cơm dọn cho tôi với bà Phó-tổng và cô sáu Nhiễu ăn. Tàu qua khỏi Long-Xuyên thì đã gần 10 giờ tối rồi. Bà Phó-tổng đi đường bị nắng gió bà mệt nên bà nằm ngủ khò. Tôi thừa dịp ấy mới nói chuyện với cô nọ, ban đầu còn nói chuyện dông dài, lần lần tôi mới tỏ thiệt tình ý của tôi, rồi tôi hỏi cô rằng cha mẹ hai bên đã tính làm sui với nhau như vậy, mà cô có vừa lòng hay chăng. Cô mắc cở nên day mặt khuất bóng đèn, song cô trả lời nhỏ nhỏ rằng: "Nếu anh không chê em là đứa quê hèn, anh quyết giao duyên kết tóc với em, thì em đâu dám phụ lòng anh, ví dầu may rủi thế nào em cũng nguyện đồng sanh đồng tử". Tôi nghe mấy lời ấy tôi cảm xúc trong lòng vô cùng, đến bây giờ nhắc lại mà cái giọng của cô cũng còn như nghe văng-vẳng bên tai."

Kỳ-Tâm châu mày thở ra rồi nói rằng: "Lòng đàn bà đổi dời, không biết sao mà dò được. Tôi nghe lời cô hữu tình như vậy tôi cảm lắm, nên kỳ bãi trường ấy tôi mới nói với ông thân tôi đi lễ hỏi, rồi đợi chừng nào học xong rồi sẽ cưới. Lúc ấy tôi còn phải học tới 2 năm nữa mới thi lấy bằng tốt-nghiệp. Hễ bãi trường tôi về qua thăm thì ông gia bà gia tôi niềm-nở, rồi lúc tựu trường thì cho mỗi lần một trăm đồng bạc; cô sáu Nhiễu lại thêu khăn, may áo, biểu em đem qua cho tôi nữa. Tôi thấy bên vợ tôi ở với tôi có tình như vậy, thì trong bụng tôi mừng lắm, chắc là ngày sau trong gia-đình lấy làm hạnh-phúc lắm. Năm tôi học rút đặng mà thi, thì tôi coi ý cha mẹ tôi không được vui như xưa. Tuy tôi mắc đi học song tôi có nghe rằng mấy năm trước hoặc bị nước lụt, hoặc bị chuột phá, hoặc bị lúa háp, nên ông thân tôi thất mùa luôn luôn. Mà nghe thì nghe như vậy chớ trong bụng tôi chẳng có chút chi lo sợ. Chẳng dè còn vài tháng nữa tới hội thi, tôi tiếp được một bức thơ của ông thân tôi nói rằng mấy năm thất mùa không góp được huê-lợi, mà bạc lúa giùm cho tá-điền ăn cũng không thâu được, nợ mỗi năm chồng lời thêm hoài, bây giờ không thể trả nổi, nên chà xả-trí[1] đã kiện mà phát-mại nhà cửa ruộng vườn hết rồi, và dạy tôi phải về cho mau mà tính việc nhà. Tôi được thơ chẳng khác nào như sét đánh bên tai, rộn trí đau lòng, không thế nào học nữa được; chẳng phải là tôi nghe hết của mà ngã lòng, tôi lo là lo cho cha mẹ tôi thất chí buồn rầu rồi sanh bịnh hoạn mà thôi. Thiệt tôi lo chẳng sai; tôi xin phép về thì nhà cửa đã bị chủ nợ tịch hết rồi, cha mẹ tôi đi ở đậu với một người tá-điền cũ là Bảy Cự, mà cha tôi lại có bịnh nằm mê-man, hễ tỉnh dậy thì khóc. Cha tôi thấy tôi thì khóc tấm-tức tấm-tưởi không nói chi được hết, rồi trong đêm ấy bịnh trở mệt quá nên tắt hơi".

Kỳ-Tâm thuật tới đó thì nhớ cha nên động lòng, hai hàng nước mắt rưng rưng chảy. Tế-Thế làm mặt buồn mà nói rằng: "Nếu vậy thì việc nhà của anh gian-nan quá; hèn chi gần thi mà anh thôi học. Vậy mà từ hồi đó cho đến bây giờ tôi có hay đâu". Kỳ-Tâm lau nước mắt rồi mới nói tiếp rằng: "Hoạn-nạn của tôi còn nhiều nữa, chớ phải bao nhiêu đó mà thôi đâu anh. Ông thân tôi mất bà thân tôi không còn một đồng. Tôi phải đi đến mấy nhà người thân thiết với ông thân tôi mà năn-nỉ lạy-lục họ đặng mượn bạc vay tiền mà chôn cất. Ông Phó-tổng Tài có qua điếu tang, song ông cúng 10 đồng bạc hương khói rồi về liền, đến bữa táng ông không qua mà đưa. Tống táng ông thân tôi xong rồi thì bà thân tôi buồn rầu nên sanh bịnh nữa. Vợ chồng Bảy Cự thuở nay nhờ làm ruộng của cha mẹ tôi mới cất được nhà rường nhà cập, mà nay nó thấy tôi suy-sụp, coi ý vợ chồng nó không biết thương. Tôi thấy nhơn tình như vậy tôi buồn nên đem bà thân tôi lên nhà thương Rạch-Giá mà nằm, không thèm ở trong nhà nó nữa. Bà thân tôi đau gần 8 tháng, tôi quơ đầu nầy tạm đầu kia mà nuôi, nên mắc nợ cùng hết. Đến chừng bà thân tôi từ trần, tôi chôn cất xong rồi, thì trong lưng còn có năm sáu đồng bạc, mà số nợ tôi mắc người ta kể đến tám chín trăm. Tôi bơ-vơ không có nơi nương dựa, mới tìm ông gia tôi đặng dọ thử coi ý ông tính cho tôi làm sao. Chẳng dè tôi đến nhà thì hai ông bà lạt-lẽo lắm, ông chẳng nói chi đến việc hôn-nhơn nữa, mà ông lại nói rằng tại ông thân tôi vụng tính nên mới tan cửa nát nhà, ông thân tôi có mượn của ông hai ngàn đồng bạc, vậy chớ tôi tính làm sao mà trả lại cho ông. Tôi chẳng biết nói sao được, túng thế phải hứa rằng để tôi kiếm phương làm ăn, chừng nào có tiền thì tôi sẽ đem về mà trả. Tôi trở ra chợ xin làm ký-lục phụ trong sở Thương-chánh mà nuôi miệng. Tuy ông gia bà gia tôi không nói tới việc hôn nhơn nữa, nhưng mà tôi nhớ lời cô sáu Nhiễu nói với tôi dưới tàu rằng: "ví dầu may rủi thế nào cô cũng nguyện đồng sanh tử" nên tôi không thối chí, chắc rằng cô không nỡ quên lời. Chẳng dè cách mấy tháng tôi nghe thầy Phó-tổng đã gả cô cho con một ông nhà giàu bên Cần-Thơ. Tuy nghe như vậy, song tôi tưởng ông gả ép, chớ không phải tại cô phụ tôi. Tôi mới gởi cho cô một bức thơ dọ thử ý cô thể nào. Tôi chờ hoài không thấy cô trả lời; cách ít tháng tôi thấy cô đi chợ, tôi có ý muốn giáp mặt đặng coi cô nói làm sao, té ra cô thấy mặt tôi cô ngó rồi làm lơ, dường như thuở nay không quen biết chi hết vậy. Nhơn tình! Nhơn tình khốn-nạn lắm, anh thấy chưa hử? Đời nầy những người như vậy đó thiên-hạ họ tôn trọng, họ khen là tử-tế, là biết điều, còn kẻ suy-sụp như tôi đây đều là quân bá-láp hết. Khốn nạn lắm! Mà chẳng phải bên vợ tôi họ phụ tôi mà thôi, mấy người quen biết theo bợ đỡ tôi hồi trước, chừng họ thấy tôi nghèo họ cũng khinh khi bỉ bạc tôi nữa. Ối! Còn nói chi tới mấy người tôi thiếu nợ! Họ tưởng ông thân tôi bị khánh tận, mà thế nào bà thân tôi cũng chắt-mót giấu tiền bạc được nhiều. Đã vậy mà họ đương tử-tế đó không lẽ họ trở mặt liền cho được, nên họ mới cho tôi vay bạc. Chừng bà thân tôi mất rồi họ theo đòi tôi ngày một; tôi không có tiền mà trả, năn-nỉ hết sức họ cũng không nghe. Có một chủ kiện rồi bắt giam thân tôi hết mấy tháng, té ra tôi cũng không có mà trả. Họ làm hết sức mà đòi không được, túng thế họ mắng nhiếc mà trừ. Hễ thấy mặt tôi người thì mắng tôi là đồ ăn cướp, kẻ thì kêu tôi là quân giựt đồ, tôi ăn cướp ai, tôi giựt đồ ai? Tôi mắc nợ họ tôi không chối, tại tôi không có tiền nên tôi không trả được; đợi chừng nào có rồi tôi sẽ trả chớ. Sao những người có tiền nhiều mà họ lại đem tiền bạc tới quì lạy đặng dưng thêm nữa, còn tôi nghèo không tiền mà trả cho họ, họ làm bức tôi chi dữ vậy? Thiên-hạ ở như vậy, tôi ghét không phải hay sao? Anh đừng có binh. Đời nầy thiên-hạ xấu lắm. Người nào anh khen tử tế đó, thì họ càng bậy bạ nhiều hơn người khác nữa, nói giùm cho anh biết".

Tế-Thế mỉm cười, dòm thấy đồng hồ đã chỉ 7 giờ rưởi, mới đứng dậy mời Kỳ-Tâm đi ăn cơm. Kỳ-Tâm dục-dặc không muốn đi. Tế-Thế nắm tay kéo riết đi trở ra vàm rồi vào nhà hàng lớn mà ăn cơm với nhau.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro