Tín Tâm Minh - Sách về Cái không

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

OSHO
Tín Tâm Minh Sách về Cái không

HSIN HSIN MING The Book of Nothing

Mục lục
Lời giới thiệu
Chương 1 Đạo lớn không khó
Chương 2 Đạo là hoàn hảo
Chương 3 Dừng nói và nghĩ
Chương 4 Trở về cội nguồn
Chương 5 Thống nhất của cái trống rỗng
Chương 6 Cố gắng tới vô mục đích
Chương 7 Mọi mơ đều phải dừng
Chương 8 Sống trong niền tin đúng
Chương 9 Không hai
Chương 10 Không hôm qua, không ngày mai, không hôm nay
Bài thơ Tín Tâm
Về Osho

*************************************************

Lời giới thiệu

Trước khi nghe Osho, tôi đã hiểu Thiền chỉ là
tuyển tập những câu đố khó hiểu, những tình huống
không thể có, và vài câu chuyện cười. Ở đâu đó tôi đã
nghĩ nó phải ẩn giấu ý nghĩa nào đó, nhưng chẳng ai
dường như có thể giải được những câu đố đó. Nhưng
thế rồi, bởi một loạt “tình cờ” may mắn tạo nên lịch sử
đời tôi, tôi đã tới gặp và nghe Osho.
Osho không nói về Thiền, Người là Thiền sư - vì
Người là bậc thầy của tất cả các loại tôn giáo mà
Người nói tới, là bậc thầy của tinh hoa của chúng. Bất
kì điều gì Người nói, Người đều nói từ kinh nghiệm
trực tiếp riêng của mình về chính hiện tượng, và theo
ngôn ngữ rõ ràng và đơn giản đến mức câu đố lập tức
được giải quyết, nhưng không bí ẩn nào bị phá huỷ cả.
Trong những bài nói này, Osho mở rộng và minh
hoạ cho Bài thơ về Tín Tâm của thiền sư Tăng Xán -
làm chói ngời chúng lên dưới ánh sáng kinh nghiệm
của chúng ta trong thế giới này, cho nên chúng trở
thành có ý nghĩa với chúng ta bây giờ. Là bậc thầy của
im lặng và bậc thầy của lời nói, Osho hành động như
cây cầu giữa cái trống rỗng vô trí của Tăng Xán và con
khỉ huyên thuyên bên trong chúng ta.
Những lời này của Tăng Xán trong tiếng Trung
Quốc được gọi là “Lời khắc vào trái tim chân lí.”
Chúng là những lời duy nhất mà Tăng Xán đã thốt ra,
và chúng rất mạnh mẽ. Osho nói về chúng:

Những lời này là như nguyên tử, chúng tràn
đầy năng lượng. Bất kì khi nào một người đã
chứng ngộ nói điều gì đó, lời này là hạt mầm
và trong hàng triệu năm lời này sẽ vẫn còn là
hạt mầm và sẽ tìm tới trái tim.
Nếu bạn sẵn sàng, sẵn sàng để trở thành
mảnh đất, thế thì những lời này, những lời cực
kì mạnh mẽ này của Tăng Xán - chúng vẫn
sống động, chúng là hạt mầm - chúng sẽ đi
vào trong trái tim bạn nếu bạn cho phép và
bạn sẽ khác hoàn toàn qua chúng.

Nhưng trái tim chúng ta đã trở nên đóng lại với
những lời của vô hạn: Thượng đế, chứng ngộ, tình yêu,
điều thiêng liêng - tất cả đã đã bị dùng sai đến mức
chúng đã trở thành vô nghĩa và ngớ ngẩn. Osho cụ thể
hoá ý nghĩa lời của Tăng Xán trong bản thân mình,
trong bản thể Người, và chuẩn bị cho chúng ta tự chấp
nhận những kinh nghiệm này.
Với những bài nói này Người dẫn chúng ta qua mê
cung của tâm trí phức tạp của mình tới điểm mà từ đó,
nếu mắt chúng ta trong trẻo, chúng ta có thể thấy được
thực tại. Từ lí trí Người đưa chúng ta tới bến bờ của vô
lí trí, tới điểm mà, nếu tai chúng ta hài hoà, chúng ta có
thể nghe thấy âm thanh của im lặng. Với cách thiền
Người phát minh ra, Osho tạo ra những tình huống cho
chúng ta trong đó có năng lượng và cơ hội để giải toả

đi tất cả những cái che mờ tầm nhìn của chúng ta và
vướng víu tai chúng ta - quá khứ của chúng ta, kìm nén
của chúng ta và tâm trí chúng ta.
Osho đã nói về tất cả những bậc thầy đã chứng ngộ
đã từng sống trên thế gian này, không trong bất kì nỗ
lực nào để làm chúng ta tin vào qui tắc nào đó hay
thuyết phục chúng ta về ý tưởng nào đó, mà để chỉ ra
cho chúng ta một số con đường khác nhau tiếp cận tới
thực tại đa diện và mâu thuẫn. Người không quan tâm
tới những lí thuyết và triết lí và những ‘giáo’, về những
điều này, Người nói, đấy là cái chen vào giữa chúng ta
và thực tại. Bao giờ Người cũng nhấn mạnh rằng để
biết thực tại, Thượng đế, chứng ngộ, niết bàn, hay bất
kì cái gì bạn thích gọi nó, chúng ta phải tìm ra con
đường tiếp cận riêng của mình.
Trong khi nói về Tăng Xán, hay Jesus, hay Phật,
tập trung của Osho vẫn là vào chúng ta, từng cá nhân
người tìm kiếm, và trưởng thành của chúng ta hướng
tới việc hiểu của riêng mình về chính mình. Người nói:
Bạn là con đường, và bạn là mục tiêu, và
không có khoảng cách giữa bạn và mục
tiêu. Bạn là người tìm kiếm và bạn là cái
được tìm kiếm; không có khoảng cách
giữa người tìm kiếm và cái được tìm. Bạn
là người tôn thờ và bạn là cái được tôn
thờ. Bạn là đệ tử và bạn là thầy. Bạn là
phương tiện và bạn là mục đích. Đây là
Đạo Lớn.

Ma Yoga Pratima

*************************************************

Chương #1 Đạo lớn không khó...

Đạo Lớn không khó cho những người không ưa
thích.
Khi yêu và ghét cả hai đều vắng bóng, mọi sự trở
thành rõ ràng và không dối trá.
Tạo phân biệt nhỏ nhất, đất trời phân chia.
Nếu ông muốn thấy chân lí đừng giữ ý kiến ủng hộ
hay chống đối.
Tranh đấu cho điều người ta thích và điều người ta
không thích là bệnh của tâm trí.

Chúng ta sẽ đi vào thế giới đẹp của vô trí của thiền
sư. Tăng Xán*

[Tên của Tăng Xán trong tiếng Trung Quốc là Jianzhi Sengcan
僧璨(?-606) (theo bản dịch của Wade-Giles: Chien-chih Sengts'an;
tiếng Nhật là Kanchi Sosan. Bài thơ của Tăng Xán có tên là
Tín Tâm Minh - Xinxin Ming (信心銘) (theo bản dịch của Wade-
Giles: Hsin Hsin Ming; trong tiếng Nhật Bản là Shinjinmei (hay
Shinjin không có Mei))]

là vị tổ thứ ba của Thiền tông. Người ta
chẳng biết gì nhiều về ông ấy - điều này thì cũng như
là nó phải vậy thôi, bởi vì sách vở lịch sử chỉ mang
tính bạo hành. Lịch sử không ghi lại im lặng - nó
không thể ghi được điều đó. Tất cả mọi sách vở đều về
rối loạn. Bất kì khi nào một ai đó trở nên thực sự im
lặng, người đó biến mất khỏi mọi sách vở, người ấy
không còn là một phần của cái điên khùng của chúng
ta nữa. Cho nên sự việc này là như nó đáng phải thế.
Tăng Xán vẫn còn là sư lang thang trong cả đời.
Ông ấy chưa bao giờ ở lại bất kì đâu; ông ấy bao giờ
cũng dời chỗ, đi, di chuyển. Ông ấy là dòng sông; ông
ấy không phải là cái ao, tù đọng. Ông ấy là chuyển
động thường hằng. Đó là ý nghĩa của người lang thang
của Phật: không chỉ lang thang trong thế giới bên ngoài
mà cả trong thế giới bên trong, họ cũng vô gia cư - bởi
vì bất kì khi nào bạn làm nhà, bạn đều trở nên gắn bó
với nó. Họ phải vẫn không bắt rễ; không nhà cho họ
ngoại trừ toàn bộ vũ trụ này.
Thậm chí khi Tăng Xán đã được thừa nhận là
chứng ngộ, ông ấy vẫn tiếp tục cách ăn xin cũ của
mình. Và chẳng có gì đặc biệt về ông ấy cả. Ông ấy là
một người bình thường, con người của Đạo.

Một điều tôi muốn nói, và bạn phải ghi nhớ điều
đó: Thiền là lai ghép. Và cũng như hoa đẹp hơn có thể
được sinh ra từ lai ghép, và trẻ con đẹp hơn có thể
được sinh ra từ lai phối, cùng điều đó cũng xảy ra với
Thiền.
Thiền là lai ghép giữa tư tưởng của Phật và tư
tưởng của Lão Tử. Đó là cuộc hội ngộ lớn, lớn nhất đã
từng xảy ra. Đó là lí do tại sao Thiền đẹp hơn tư tưởng
của Phật và đẹp hơn tư tưởng của Lão Tử. Đó là việc
nở hoa hiếm hoi của những đỉnh cao nhất và là hội ngộ
của những đỉnh cao nhất đó. Thiền không phải là Phật
giáo, không phải là Đạo giáo, nhưng nó đem cả hai bên
trong mình.
Ấn Độ có chút ít quá nghiêm chỉnh về tôn giáo -
quá khứ dài, gánh nặng lâu dài đè lên tâm trí của Ấn
Độ, và tôn giáo đã trở thành nghiêm chỉnh. Lão Tử vẫn
còn là trò cười - Lão Tử nổi tiếng là ông già ngu. Ông
ấy không nghiêm chỉnh chút nào; bạn không thể tìm
được người không nghiêm chỉnh hơn thế.
Thế rồi tư tưởng của Phật và tư tưởng của Lão Tử
gặp nhau, Ấn Độ và Trung quốc gặp nhau, và Thiền
được sinh ra. Và Tăng Xán này ở ngay gần cội nguồn
nguyên thuỷ khi Thiền mới từ bụng mẹ sinh ra. Ông ấy
mang điều nền tảng.
Tiểu sử của ông ấy không liên quan chút nào, bởi
vì bất kì khi nào một người trở nên chứng ngộ, người
ấy đều không có tiểu sử. Người ấy không còn hình
dạng nữa, cho nên khi nào người ấy sinh ra, khi nào
người ấy chết đi, đều là những sự kiện không liên
quan. Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta chưa
bao giờ bận tâm về tiểu sử, về các sự kiện lịch sử. Nỗi
ám ảnh đó chưa bao giờ tồn tại ở đây. Nỗi ám ảnh đó
bây giờ đã tới từ phương Tây; thế thì mọi người trở
nên quan tâm nhiều tới những điều không liên quan.
Khi nào Tăng Xán được sinh ra, điều ấy có tạo ra khác
biệt gì đâu - năm này hay năm nọ? Khi nào ông ấy
chết, điều đó quan trọng gì?
Tăng Xán là quan trọng, không phải việc vào thế
giới này và vào thân thể, không phải ở chỗ khởi hành
của ông ấy. Việc tới và việc đi là không liên quan.
Điều liên quan duy nhất là trong bản thể.
Và đây là những lời Tăng Xán đã thốt ra. Nhớ lấy,
chúng không phải là lời, bởi vì chúng bắt nguồn từ tâm
trí đã vượt ra ngoài lời. Chúng không phải là suy xét,
chúng là kinh nghiệm đích thực. Bất kì cái gì ông ấy
nói, ông ấy đều biết.
Ông ấy không phải là con người của tri thức, ông
ấy là con người trí huệ. Ông ấy đã xuyên thấu vào bí
ẩn, và bất kì cái gì ông ấy đem tới cũng đều rất quan
trọng. Nó có thể làm biến đổi bạn hoàn toàn, toàn bộ.
Nếu bạn lắng nghe ông ấy, chính việc lắng nghe có thể
trở thành biến đổi, bởi vì bất kì cái gì ông ấy nói cũng
đều là vàng ròng.
Nhưng thế thì đấy lại là khó khăn nữa, bởi vì
khoảng cách rất, rất lớn giữa bạn và ông ấy: bạn là tâm
trí còn ông ấy là vô trí. Cho dù ông ấy có dùng lời, ông
ấy nói điều gì đó trong im lặng; còn bạn, cho dù bạn im
lặng, bạn vẫn cứ huyên thuyên bên trong.
Chuyện đã xảy ra:

Có một vụ án buộc tội Mulla Nasruddin tại toà.
Toà án không thể chứng minh được nhiều. Anh ta bị
buộc tội đa thê, có nhiều vợ. Mọi người đều biết về
điều đó, nhưng không ai có thể chứng minh được điều
đó.
Luật sư nói với Nasruddin, “Anh im đi, có thế thôi.
Nếu anh thốt ra chỉ một lời, anh sẽ bị bắt. Cho nên anh
đơn giản yên tĩnh và tôi sẽ lo sự vụ cho.”
Mulla Nasruddin im lặng - sâu bên dưới sôi sùng
sục, rối loạn, muốn bùng ra nhiều lần, nhưng bằng cách
nào đó anh ta vẫn xoay xở và kiểm soát bản thân mình.
Bên ngoài anh ta trông có vẻ giống vị phật, bên trong
thì là người điên. Toà án không thể tìm thấy bất kì điều
gì chống lại anh ta. Quan toà, mặc dầu ông ta biết rằng
người này có nhiều vợ trong thành phố, nhưng không
có bằng chứng, ông ta có thể làm được gì? Cho nên
quan toà phải thả anh ta ra.
Ông ta nói, “Mulla Nasruddin, anh được thả. Bây
giờ anh có thể về nhà.”
Mulla Nasruddin nhìn một cách phân vân và nói,
“Ê - thưa quí ông ấy, nhà nào?” Anh ta có nhiều nhà
bởi vì anh ta có nhiều vợ trong thành phố.
Chỉ một lời từ bạn cũng đủ phơi bầy toàn bộ tâm
trí bên trong; chỉ một lời và toàn bộ con người bạn bị
lộ ra. Thậm chí chẳng cần tới một lời; chỉ một cử chỉ
và tâm trí huyên thuyên của bạn sẽ có đó. Cho dù bạn
im lặng, im lặng của bạn sẽ không tiết lộ cái gì khác
hơn là con khỉ huyên thuyên bên trong.
Khi Tăng Xán nói, ông ấy nói một cách toàn bộ
trên bình diện khác. Ông ấy không quan tâm tới việc
nói; ông ấy không quan tâm tới việc ảnh hưởng tới bất
kì ai; ông ấy không cố gắng thuyết phục bạn về lí
thuyết hay triết lí hay một ‘giáo’ nào đó. Không, khi
ông ấy nói, im lặng của ông ấy nở hoa. Khi ông ấy nói,
ông ấy đang nói về cái ông ấy nhận biết và muốn chia
sẻ với bạn. Điều đó không phải để thuyết phục bạn,
nhớ lấy - đấy chỉ là để chia sẻ với bạn. Và nếu bạn có
thể hiểu chỉ một lời của ông ấy, bạn sẽ cảm thấy im
lặng cực kì đang thoát ra từ bên trong bạn.
Nghe ở đây... Chúng ta sẽ nói về Tăng Xán và lời
của ông ấy. Nếu bạn lắng nghe một cách chăm chú,
bỗng nhiên bạn sẽ cảm thấy việc bay ra của im lặng
bên trong bạn. Những lời này mang tính nguyên tử,
chúng tràn đầy năng lượng. Bất kì khi nào một người
đã chứng ngộ nói điều gì đó, lời này là hạt mầm và
trong hàng triệu năm lời này sẽ vẫn còn là hạt mầm và
sẽ tìm tới trái tim.
Nếu bạn sẵn sàng, sẵn sàng để trở thành mảnh đất,
thế thì những lời này, những lời cực kì mạnh mẽ này
của Tăng Xán - chúng vẫn sống động, chúng là hạt
mầm - chúng sẽ đi vào trong trái tim bạn nếu bạn cho
phép và bạn sẽ khác hoàn toàn qua chúng.
Đừng lắng nghe chúng từ tâm trí, bởi vì ý nghĩa
của chúng không phải là của tâm trí; tâm trí hoàn toàn
bất lực để hiểu chúng. Chúng không tới từ tâm trí,
chúng không thể được hiểu bằng tâm trí. Chúng tới từ
vô trí. Chúng có thể được hiểu chỉ bởi trạng thái vô trí.

Cho nên khi lắng nghe ở đây đừng cố gắng diễn
giải. Đừng lắng nghe lời mà nghe lỗ hổng giữa các
dòng, không nghe điều ông ấy nói mà nghe điều ông ấy
ngụ ý - ý nghĩa. Để ý nghĩa đó thoang thoảng quanh
bạn giống như hương thơm. Một cách im lặng nó sẽ đi
vào bạn; bạn sẽ trở nên được thụ thai. Nhưng chớ diễn
giải. Đừng nói, “Ông ấy ngụ ý điều này hay điều nọ,”
bởi vì diễn giải đó sẽ là của bạn.
Một lần chuyện đã xảy ra:
Mulla Nasruddin trở về nhà, say khướt cò bợ, vào
những giờ rạng sáng. Khi anh ta đi qua khu nghĩa địa
anh ta nhìn vào tấm biển báo. Trên đó có viết những
dòng chữ lớn, chữ hoa: Rung chuông báo người trông
nom - và đó là điều anh ta làm.
Tất nhiên, sáng sớm thế thì người trông nom bị
quấy rầy. Ông ta bước ra, càu nhàu, giận dữ, và khi
ông ta nhìn vào Nasruddin, say bí tỉ, ông ta càng trở
nên giận dữ hơn.
Ông ta hỏi, “Sao? Sao anh lại rung chuông? Sao
anh lại rung chuông tôi? Có vấn đề gì? Anh muốn gì?”
Nasruddin nhìn ông ta đến một phút, im lặng, rồi
nhìn vào tấm biển và nói, “Tôi muốn biết, sao tự ông
không thể rung cái chuông quái quỉ này?”
Tấm biển viết là: rung chuông báo người trông
nom. Bây giờ diễn giải nó thế nào? Điều đó tuỳ thuộc
vào bạn.
Đừng diễn giải - lắng nghe thôi. Và khi bạn diễn
giải, bạn không thể lắng nghe được, bởi vì tâm trí
không thể làm hai điều đối lập đồng thời. Nếu bạn bắt
đầu nghĩ, việc nghe dừng lại. Lắng nghe như bạn nghe
nhạc - phẩm chất khác của việc lắng nghe bởi vì bạn
không diễn giải. Không có ý nghĩa trong âm thanh.
Đây cũng là âm nhạc. Tăng Xán này là nhạc sĩ,
không phải triết gia. Tăng Xán này không nói ra lời,
ông ấy đang nói nhiều hơn - nhiều hơn lời. Chúng có ý
nghĩa nhưng chúng không có nghĩa nào. Chúng giống
như âm thanh âm nhạc.
Bạn đi và ngồi gần thác nước. Bạn lắng nghe nó,
nhưng bạn có diễn giải thác nước nói gì không? Nó
chẳng nói gì cả... mà nó vẫn nói đấy. Nó nói nhiều,
nhiều điều không thể được nói ra.
Bạn làm gì khi ở gần thác nước? Bạn lắng nghe,
bạn trở nên im lặng và yên tĩnh, bạn hấp thu. Bạn cho
phép thác nước đi sâu hơn và sâu hơn vào bên trong
bạn. Thế thì mọi thứ trở thành yên tĩnh và im lặng bên
trong. Bạn trở thành ngôi đền - cái chưa biết đi vào qua
thác nước.
Bạn làm gì khi bạn lắng nghe tiếng chim hót, hay
tiếng gió xào xạc qua cây cối, hay tiếng lá khô bị gió
cuốn đi? Bạn làm gì? Bạn đơn giản lắng nghe.
Tăng Xán này không phải là triết gia, ông ấy
không phải là nhà thượng đế học, ông ấy không phải là
tu sĩ. Ông ấy không muốn bán bất kì ý tưởng nào cho
bạn, ông ấy không quan tâm tới tư tưởng. Ông ấy
không có đó để thuyết phục bạn, ông ấy đơn giản nở
hoa. Ông ấy là thác nước, hay ông ấy là làn gió thổi
qua cây cối, hay ông ấy chỉ là tiếng hót của chim chóc
- không nghĩa gì nhưng lại rất nhiều ý nghĩa. Bạn phải

hấp thu ý nghĩa đó, chỉ thế thì bạn mới sẽ có khả năng
hiểu được.
Cho nên lắng nghe, nhưng đừng nghĩ. Và thế thì
nhiều điều có thể xảy ra bên trong bạn, bởi vì tôi bảo
bạn: con người này - Tăng Xán này, người mà người ta
chẳng biết gì nhiều về ông ấy cả - ông ấy là con người
của quyền năng, người đã đi tới hiểu biết. Và khi ông
ấy nói điều gì đó, ông ấy mang cái gì đó của cái chưa
biết cho thế giới của cái đã biết. Với ông ấy điều thiêng
liêng đi vào, tia sáng chiếu vào bóng tối của tâm trí
bạn.
Trước khi chúng ta đi vào lời ông ấy, nhớ ý nghĩa
của lời này, chứ không phải là nghĩa; âm nhạc, giai
điệu, chứ không phải nghĩa; âm thanh của tâm trí vô
âm của ông ấy, trái tim ông ấy, không phải là suy nghĩ
của ông ấy. Bạn phải lắng nghe bản thể ông ấy, thác
nước.
Làm sao lắng nghe đây? Chỉ phải im lặng thôi.
Đừng đem tâm trí bạn vào. Đừng bắt đầu nghĩ, “Ông
ấy đang nói gì nhỉ?” Chỉ lắng nghe mà không quyết
định cách này cách nọ, không nói liệu ông ấy phải hay
trái, liệu bạn bị thuyết phục hay không. Ông ấy không
bận tâm về việc thuyết phục bạn, bạn cũng không cần
phải bận tâm về điều đó. Bạn đơn giản lắng nghe và
sung sướng. Những người như vậy, như Tăng Xán, đều
đem tới vui vẻ, họ là hiện tượng tự nhiên.
Một tảng đá đẹp - bạn làm gì với nó? Bạn vui
sướng với nó. Bạn chạm, bạn đi quanh nó, bạn cảm
thấy nó, rêu trên nó. Bạn làm gì với đám mây bay
ngang trời? Bạn nhảy múa trên đất, bạn nhìn vào
chúng, hay bạn chỉ yên tĩnh và nằm dài trên đất và nhìn
vào chúng và để chúng bồng bềnh. Và chúng tràn đầy
bạn. Không chỉ bầu trời bên ngoài - dần dần, bạn càng
trở nên im lặng hơn, chúng lại càng tràn ngập bầu trời
bên trong của bạn nữa. Bỗng nhiên bạn không có đó,
chỉ đám mây là bay đi, bay lại. Phân chia bị vứt bỏ,
biên giới không còn đó nữa. Bạn trở thành bầu trời và
bầu trời trở thành bạn.
Coi Tăng Xán như hiện tượng tự nhiên đi. Ông ấy
không phải là người. Ông ấy là Thượng đế, ông ấy là
Đạo, ông ấy là vị phật.
Trước khi chúng ta cố gắng đi vào trong ý nghĩa
của ông ấy, đôi điều cần phải được hiểu. Chúng sẽ cho
bạn cú đẩy.
Tâm trí là bệnh tật. Đây là chân lí cơ bản mà
phương Đông đã phát hiện ra. Phương Tây nói tâm trí
có thể trở nên ốm yếu, có thể thành mạnh khoẻ. Tâm lí
học phương Tây phụ thuộc vào điều này: tâm trí có thể
mạnh khoẻ hay ốm yếu. Nhưng phương Đông nói tâm
trí nhiều nhất cũng chỉ là bệnh tật, nó không thể khoẻ
mạnh được. Không nhà tâm thần nào có ích cả; nhiều
nhất bạn có thể làm nó ốm yếu thông thường.
Cho nên có hai kiểu ốm yếu của tâm trí: ốm yếu
thông thường - điều đó có nghĩa là bạn có cùng ốm yếu
như những người khác quanh bạn; hoặc ốm yếu bất
thường - điều đó có nghĩa là bạn là cái gì đó duy nhất.
Bệnh của bạn là không thông thường - ngoại lệ. Bệnh
của bạn mang tính cá nhân, không mang tính đám
đông; đó là khác biệt duy nhất. Ốm thông thường hay

ốm bất thường, nhưng tâm trí không thể mạnh khoẻ
được. Tại sao?
Phương Đông nói chính bản chất của tâm trí là ở
chỗ nó sẽ vẫn còn không mạnh khoẻ. Từ ‘mạnh khoẻ -
healthy’ thật là hay. Nó có cùng gốc như từ ‘toàn thể -
whole’. Mạnh khoẻ, lành lặn, toàn thể, linh thiêng - tất
cả chúng đều có cùng một gốc.
Tâm trí không thể nào mạnh khoẻ được bởi vì nó
chẳng bao giờ có thể là cái toàn thể. Tâm trí bao giờ
cũng bị phân chia; phân chia là cơ sở của nó. Nếu nó
không thể là toàn thể được, làm sao nó có thể khoẻ
mạnh được? Và nếu nó không thể khoẻ mạnh được,
làm sao nó có thể linh thiêng? Tất cả các tâm trí đều
phàm tục. Không có gì giống như tâm trí linh thiêng.
Người linh thiêng sống vô tâm trí bởi vì người ấy sống
không phân chia.
Tâm trí mang tính bệnh tật. Và tên của bệnh tật đó
là gì? Aristotle là tên, hay nếu bạn thực sự muốn làm
cho nó giống như bệnh tật thế thì bạn có thể đặt ra từ:
aristotilitis. Thế thì nó có vẻ hệt như bệnh tật. Tại sao
Aristotle lại là bệnh tật? Bởi vì Aristotle nói, “Hoặc cái
này hoặc cái kia. Chọn đi!” Và chọn lựa là chức năng
của tâm trí; tâm trí không thể vô chọn lựa được.
Chọn lựa và bạn bị mắc bẫy, bởi vì bất kì khi nào
bạn chọn, bạn cũng đều chọn cái gì đó chống lại cái gì
đó khác. Nếu bạn ủng hộ cái gì đó, bạn phải chống lại
cái gì đó, bạn không thể chỉ ủng hộ, bạn không thể chỉ
chống đối. Khi cái ‘ủng hộ’ đi vào, cái ‘chống đối’
cũng theo sau như cái bóng. Khi cái ‘chống đối’ có đó,
cái ‘ủng hộ’ phải có đó - dù là ẩn kín hay không ẩn kín.
Khi bạn chọn, bạn bị phân chia. Thế thì bạn nói,
“Cái này phải, cái kia trái.” Mà cuộc sống là thống
nhất. Sự tồn tại vẫn còn không phân chia, sự tồn tại
vẫn còn trong trạng thái hoà hợp. Nó là cái một. Nếu
bạn nói, “Cái này đẹp và cái kia xấu,” tâm trí đã đi vào,
bởi vì cuộc sống là cả hai điều này. Và đẹp trở thành
xấu, và xấu trở thành đẹp. Không có biên giới, không
có phân ngăn ở đó. Cuộc sống cứ tuôn chảy từ cái nọ
sang cái kia.
Tâm trí có ngăn cố định. Tính cố định là bản chất
của tâm trí và tính linh động là bản chất của cuộc sống.
Đó là lí do tại sao tâm trí lại là sự ám ảnh; nó bao giờ
cũng cố định, nó có cái cứng rắn về nó. Còn cuộc sống
thì không cứng rắn; nó linh động, linh hoạt, cứ chuyển
sang phía đối diện.
Cái gì đó đang sống động khoảnh khắc này,
khoảnh khắc tiếp nó chết rồi. Ai đó trẻ trung khoảnh
khắc này, khoảnh khắc tiếp người ấy đã trở thành già
lão. Đôi mắt có thời đẹp thế, bây giờ chúng không còn
đó nữa - chỉ là tàn tích. Khuôn mặt có thời tựa hoa
hồng thế kia, bây giờ chẳng còn gì ở đó - thậm chí
không còn cái bóng của quá khứ. Đẹp trở thành xấu,
cuộc sống trở thành cái chết, và cái chết cứ lấy sự sinh
thành mới.
Phải làm gì với cuộc sống đây? Bạn không thể
chọn lựa được. Nếu bạn muốn hiện hữu với cuộc sống,
với cái toàn thể, bạn phải vô chọn lựa.
Tâm trí là chọn lựa. Aristotle đã lấy nó làm cơ sở
cho logic và triết học của ông ấy. Bạn không thể nào
tìm ra được một người xa Tăng Xán hơn là Aristotle,

bởi vì Tăng Xán nói, “Không cái này cũng chẳng cái
nọ - không chọn lựa.” Tăng Xán nói, “Vô chọn lựa.”
Tăng Xán nói, “Không phân biệt!” Khoảnh khắc bạn
tạo ra phân biệt, khoảnh khắc việc chọn lựa đi vào, bạn
đã bị phân chia, phân mảnh; bạn đã trở thành ốm yếu,
bạn không là cái toàn thể.
Nhớ lấy, nếu bạn hỏi người Ki tô giáo, người đó
không thực sự thuộc về Jesus, đó người về cơ bản
thuộc về Aristotle... Ki tô giáo dựa trên Aristotle nhiều
hơn là dựa vào Christ. Jesus giống Tăng Xán nhiều
hơn. Ông ấy nói, “Không phán xét. Ông không phán
xét!” Ông ấy nói, “Không chọn lựa gì. Đừng nói, ‘Cái
này tốt và cái kia xấu!’ Đấy không phải là mối quan
tâm của ông. Để cái toàn thể quyết định. Ông không là
người phán xét.” Nhưng Ki tô giáo không thực hướng
theo Jesus. Những người sáng lập Ki tô giáo mang
nhiều tính Aristotle hơn là tính Christ.
Bạn không thể làm ra nhà thờ từ Tăng Xán hay
Jesus được. Làm sao bạn có thể làm ra được nhà thờ
nếu bạn vẫn còn vô chọn lựa? Nhà thờ là để ủng hộ cái
gì đó và chống lại cái gì đó; nó phải dành cho Thượng
đế và chống lại Quỉ. Mà trong cuộc sống Thượng đế và
Quỉ đâu phải là hai, họ là một. Quỉ là khuôn mặt này
và Thượng đế là khuôn mặt khác của cùng một năng
lượng - họ không phải là hai.
Đôi khi ngài tới như Quỉ và đôi khi ngài tới như
Thượng đế. Và nếu bạn có thể đi sâu và nhìn, bạn sẽ
thấy họ là một. Đôi khi ngài tới như kẻ trộm và đôi khi
ngài tới như người đức hạnh. Đôi khi bạn sẽ thấy ngài
ở chỗ kính trọng và đôi khi bạn sẽ thấy ngài cùng với
những người không được kính trọng mà còn bị kết án.
Ngài di chuyển, ngài là sự di chuyển. Và không bến bờ
nào là quá xa mà ngài không đạt tới được, không ai ở
bên ngoài ngài - ngài di chuyển trong mọi người.
Jesus không phân biệt gì, nhưng Ki tô giáo lại phân
biệt bởi vì tôn giáo phải như vậy - tôn giáo phải trở
thành đạo đức.Và một khi tôn giáo trở thành đạo đức
thì nó không còn là tôn giáo nữa. Tôn giáo là sự táo
bạo vĩ đại nhất có thể có. Phải thật là dũng cảm mới là
vô chọn lựa, bởi vì tâm trí nói, “Chọn đi!” Tâm trí nói,
“Phải nói điều gì đó! Cái này sai, cái kia tốt. Cái này
đẹp, cái này xấu. Mình yêu cái này, mình ghét cái kia.”
Tâm trí nói, “Chọn đi!” Tâm trí có sức quyến dũ để
phân chia. Một khi bạn phân chia, tâm trí thấy thoải
mái. Nếu bạn không phân chia, nếu bạn nói, “Mình
không định nói điều gì. Mình không định phán xét,”
tâm trí cảm thấy dường như nó đang trên giường chết.
Aristotle nói A là A và không thể là không A - các
cái đối lập không thể nào gặp nhau. Tăng Xán nói
không có đối lập - chúng đã gặp gỡ, chúng bao giờ
cũng gặp gỡ. Đây là một trong những chân lí nền tảng
nhất cần phải được hiểu, rằng cái cái đối lập là không
đối lập. Chính bạn là người nói chúng đối lập, bằng
không thì chúng không đối lập. Nhìn một cách khẳng
định và bạn sẽ cảm thấy chúng là cùng một năng
lượng.
Bạn yêu một người... Một người đàn bà tới tôi và
cô ấy nói, ‘Trong mười năm tôi đã lấy một người và
chúng tôi chưa bao giờ cãi nhau. Thế mà bây giờ bỗng
nhiên, điều gì đã xảy ra? Anh ấy đã bỏ tôi.”

Bây giờ, cô ấy nghĩ rằng nếu họ không bao giờ cãi
nhau thì điều đó chứng tỏ họ trong tình yêu sâu sắc.
Điều này là ngu xuẩn - nhưng đây là tính chất
Aristotle; người phụ nữ này hoàn toàn logic.
Cô ấy nói, “Trong mười năm chúng tôi đã lấy
nhau. Chúng tôi chưa bao giờ cãi nhau, chúng tôi chưa
hề giận nhau.” Cô ấy đang nói, “Chúng tôi đã trong
tình yêu sâu sắc đến mức chúng tôi chưa hề lục đục về
bất kì cái gì. Thậm chí không có đến một khoảnh khắc
xung đột. Thế mà bây giờ, điều gì đã xảy ra? Bỗng
nhiên anh ấy đã bỏ tôi! Anh ấy có phát điên không?
Tình yêu của chúng tôi sâu sắc thế.” Cô ấy sai.
Nếu tình yêu sâu sắc thế thì nhất định phải có cãi
nhau nào đó. Đôi khi các bạn sẽ lục đục nhau. Và việc
lục đục này không phá vỡ tình yêu, nó làm giầu thêm
tình yêu. Nếu tình yêu có đó, nó sẽ được làm giầu bởi
sự lục đục; nếu tình yêu không có đó, thế thì bạn ra đi,
bạn li thân. Mười năm là quãng thời gian dài - thậm chí
hai mươi bốn giờ cũng là quá dài để thường xuyên
trong một trạng thái của tâm trí, bởi vì tâm trí di
chuyển sang cái đối lập.
Bạn yêu một người; đôi khi bạn cảm thấy giận.
Thực sự, bạn cảm thấy giận chỉ bởi vì bạn yêu. Đôi khi
bạn ghét! Đôi khi bạn muốn hi sinh thân mình cho
người yêu, và đôi khi bạn muốn giết chết người yêu.
Và cả hai đều là bạn.
Nếu bạn chưa hề cãi nhau trong suốt mười năm,
điều đó có nghĩa là không có tình yêu chút nào. Nó có
nghĩa là đấy không phải là thân thiết. Và bạn sợ hãi
đến mức bất kì giận dữ, bất kì xung đột, bất kì điều gì
nhỏ nhặt cũng có thể phá vỡ toàn bộ vấn đề. Bạn sợ hãi
đến mức bạn chưa hề cãi nhau. Bạn chưa hề tin rằng
tình yêu có thể đi sâu hơn việc cãi nhau, rằng cãi nhau
sẽ là tạm thời và sau cãi nhau các bạn sẽ rơi vào vòng
tay nhau sâu sắc hơn. Không, bạn chưa bao giờ tin vào
điều đó. Đó là lí do tại sao bạn lại xoay xở để không có
lục đục. Và không có gì đáng ngạc nhiên là người đàn
ông đó đã bỏ đi. Tôi nói, “Tôi ngạc nhiên là anh ta vẫn
còn ở lại với bạn trong suốt mười năm. Sao vậy?”
Một người đàn ông tới tôi và anh ta nói, “Cái gì đó
bị sai với đứa con của tôi. Tôi đã biết nó hai mươi năm
nay - nó bao giờ cũng nghe lời. Một đứa trẻ tốt thế,
thầy không thể tìm thấy ở đâu. Nó bao giờ cũng nghe
lời, nó chưa bao giờ chống lại tôi. Thế mà bây giờ
bỗng nhiên nó lại trở thành hippie. Bây giờ bỗng nhiên
nó không chịu nghe lời. Nó nhìn vào tôi cứ như tôi
không là bố nó chút nào. Nó nhìn vào tôi cứ như tôi là
người xa lạ. Và trong hai mươi năm trời nó lại vâng lời
thế. Điều gì đã xảy ra cho đứa con của tôi?”
Chẳng có gì xảy ra cả. Đây là điều phải được trông
đợi thấy, bởi vì nếu đứa con thực sự yêu bố thì nó cũng
không vâng lời nữa. Còn ai khác mà nó phải không
vâng lời? Nếu một đứa con thực sự yêu bố nó và tin
cậy vào bố nó, thì đôi khi nó cũng ra đi - bởi vì nó biết
mối quan hệ là sâu sắc đến mức dù không vâng lời,
mối quan hệ đó cũng không thể bị phá vỡ. Thay vì thế,
ngược lại, mối quan hệ còn được làm giầu thêm. Cái
đối lập làm giầu thêm.
Thực sự, cái đối lập không phải là đối lập. Nó chỉ
là nhịp điệu, nhịp điệu của cùng một vật; bạn vâng lời
và thế rồi bạn không vâng lời - nó là nhịp điệu. Ngoài

ra, chỉ cứ vâng lời, vâng lời, mọi thứ trở thành đơn
điệu và chết. Đơn điệu là bản chất của cái chết, bởi vì
cái đối lập không có đó.
Cuộc sống là sống động. Cái đối lập có đó, nhịp
điệu có đó. Bạn đi, bạn về; bạn ra đi, bạn về lại; bạn
không vâng lời, thế rồi bạn cũng vâng lời; bạn yêu và
bạn ghét. Đây là cuộc sống, nhưng không phải là logic.
Logic nói nếu bạn yêu, bạn không thể ghét. Nếu bạn
yêu, làm sao bạn có thể giận được? Nếu bạn yêu theo
cách này thế thì bạn yêu theo cách đơn điệu, theo cùng
rãnh. Nhưng thế thì bạn sẽ trở thành căng thẳng, thế thì
không thể nào thảnh thơi được.
Logic tin vào các hiện tượng tuyến tính: bạn đi
theo một đường thẳng. Cuộc sống tin vào vòng tròn:
cùng đường đó đi lên, đi xuống, trở thành vòng tròn.
Bạn phải đã thấy vòng tròn âm và dương Trung
quốc. Đấy là cách cuộc sống hiện hữu: các cái đối lập
gặp gỡ. Vòng tròn âm và dương đó là nửa trắng, nửa
đen. Trong phần trắng có một chấm đen, và trong phần
đen có một chấm trắng. Phần trắng đi vào trong phần
đen, và phần đen đi vào trong phần trắng - nó là một
vòng tròn. Đàn bà đi vào trong đàn ông, đàn ông đi vào
trong đàn bà... đây là cuộc sống. Và nếu bạn quan sát
chăm chú, bạn sẽ thấy nó ở bên trong bạn.
Đàn ông không phải là đàn ông cả hai mươi bốn
giờ một ngày, không thể được - đôi khi anh ta là đàn
bà. Đàn bà không phải là đàn bà hai mươi bốn giờ một
ngày - đôi khi cô ta cũng là đàn ông nữa. Họ đi vào cái
đối lập. Khi đàn bà giận lên, cô ấy không còn là đàn bà
nữa; cô ấy trở thành hung hăng hơn bất kì đàn ông nào
và cô ấy còn nguy hiểm hơn bất kì đàn ông nào, bởi vì
tính đàn ông của cô ấy là thuần khiết và chưa bao giờ
được sử dụng. Cho nên bất kì khi nào cô ấy dùng nó,
nó có tính sắc bén mà không người đàn ông nào có thể
đua tranh nổi. Nó giống như đất vẫn còn chưa được
dùng trong nhiều, nhiều năm; thế rồi bạn gieo hạt - và
một vụ mùa bội thu!
Đàn bà đôi khi trở thành đàn ông, nhưng khi cô ấy
trở thành đàn ông thế thì không đàn ông nào có thể đua
tranh nổi. Thế thì cô ấy rất nguy hiểm; thế thì tốt hơn
cả cho đàn ông là chịu phục tùng. Và đó là điều mà tất
cả các đàn ông đều làm - họ trở thành phục tùng, họ
qui phục. Bởi vì ngay lập tức đàn ông phải trở thành
đàn bà, nếu không thì sẽ có rắc rối. Nếu đàn bà đã trở
thành đàn ông, nếu cô ấy đã thay đổi vai trò, thì ngay
lập tức đàn ông trở thành đàn bà. Bây giờ mọi thứ
được thiết lập lại. Lần nữa vòng tròn lại đầy đặn.
Và bất kì khi nào đàn ông trở thành phục tùng và
qui phục, thì sự qui phục đó có tính thuần khiết mà
không đàn bà nào có thể đua tranh nổi - bởi vì thông
thường thì anh ta không bao giờ trong tư thế đó, trong
trò chơi đó. Thông thường anh ta đứng dậy và tranh
đấu. Thông thường anh ta là ý chí, không khuất phục.
Nhưng bất kì khi nào anh ta qui phục, nó có cái hồn
nhiên mà không đàn bà nào có thể đua tranh nổi. Nhìn
vào đàn ông đang yêu mà xem - anh ta trở thành hệt
như đứa trẻ.
Nhưng đây là cách thức cuộc sống chuyển vận. Và
nếu bạn hiểu nó thế thì bạn không lo nghĩ gì cả. Thế thì
bạn biết: người yêu ra đi, người ấy sẽ trở lại; người
được yêu đang giận, cô ấy sẽ yêu. Thế thì bạn có kiên

nhẫn. Với Aristotle bạn không thể có bất kì kiên nhẫn
nào được, bởi vì nếu người yêu đã ra đi, anh ta ra đi
trên cuộc hành trình tuyến tính - không quay lại, đó
không phải là đường tròn. Nhưng ở phương Đông
chúng ta tin vào đường tròn; ở phương Tây họ tin vào
đường thẳng.
Tâm trí phương Tây là tuyến tính, tâm trí phương
Đông là tuần hoàn. Cho nên ở phương Đông người yêu
có thể chờ đợi. Anh ta biết rằng người phụ nữ đó,
người đã bỏ anh ta bây giờ sẽ quay lại. Cô ấy đã trên
đường, cô ấy phải đã hối hận, cô ấy phải đã ăn năn, cô
ấy phải quay lại; chẳng chóng thì chầy cô ấy sẽ gõ cửa.
Chỉ đợi... bởi vì cái đối lập bao giờ cũng có đó.
Và bất kì khi nào người đàn bà quay lại sau giận
dữ, thế thì tình yêu lại tươi mát. Bây giờ nó không lặp
lại. Lỗ hổng giận dữ đã phá huỷ quá khứ. Bây giờ cô
ấy lại là cô gái trẻ, cô gái trinh. Lần nữa cô ấy lại rơi
vào tình yêu - mọi thứ trở thành tươi mát.
Nếu bạn hiểu điều này, thế thì bạn không chống lại
điều gì. Bạn biết thậm chí giận dữ cũng đẹp, thậm chí
cãi nhau đây đó cũng đem lại thanh điệu cho cuộc
sống. Và mọi thứ đều giúp cho sự giầu có. Thế thì bạn
chấp nhận, thế thì sâu trong sự chấp nhận bạn kiên
nhẫn, thế thì không có nôn nóng và không vội vã. Thế
thì bạn có thể chờ đợi và cầu nguyện và hi vọng và mơ
mộng.
Ngược lại, nếu cuộc sống là tuyến tính, như
Aristotle nghĩ hay - như suy nghĩ phương Tây đã di
chuyển từ Aristotle tới Bertrand Russell - như Bertrand
Russel nghĩ, thế thì cuộc sống có nhiều nôn nóng.
Không ai định quay lại cả; thế thì bạn bao giờ cũng run
rẩy, sợ hãi, và thế thì bạn trở thành kìm nén. Thế thì
bạn có thể sống cùng một người đàn bà trong mười
năm hay mười kiếp, nhưng việc ở cùng đó vẫn là với
người lạ. Bạn đang kiểm soát bản thân mình, cô ấy
đang kiểm soát bản thân cô ấy, và không có gặp gỡ.
Cuộc sống là không logic. Logic chỉ là một phần - tất
nhiên, rất dứt khoát, được phân loại, phân ngăn, phân
chia - nhưng cuộc sống là hỗn độn. Nhưng làm gì đây?
Nó là như vậy. Nó không bị phân ngăn, không dứt
khoát, bị phân chia - nó là hỗn loạn. Nhưng logic là
chết và cuộc sống là sống, cho nên câu hỏi là liệu chọn
sự nhất quán hay chọn cuộc sống.
Nếu bạn quá thiên về nhất quán, bạn sẽ trở thành
chết, và càng ngày càng chết hơn, bởi vì nhất quán chỉ
có thể nếu bạn vứt bỏ hoàn toàn cái đối lập. Thế thì
bạn yêu và bạn chỉ yêu và chỉ yêu và không bao giờ
giận, không bao giờ ghét, không bao giờ lục đục. Bạn
vâng lời, chỉ vâng lời - không bao giờ bất phục, không
bao giờ nổi loạn, không bao giờ ra đi. Nhưng thế thì
mọi thứ trở thành cũ rích, thế thì mối quan hệ trở thành
độc hại - thế thì nó giết chết.
Tăng Xán này không ủng hộ logic, ông ấy ủng hộ
cuộc sống. Bây giờ cố gắng hiểu ý nghĩa của lời ông ấy
đi.
Tăng Xán nói:

Đạo Lớn không khó
cho người không ưa thích.
Khi yêu và ghét cả hai đều vắng bóng,
mọi sự trở thành rõ ràng và không dối trá.

Tạo một phân biệt nhỏ nhất,
thế là đất trời phân chia.
Nếu muốn thấy chân lí
đừng giữ ý ủng hộ hay chống đối.
Tranh đấu cho điều người ta thích
và điều người ta không thích
là bệnh của tâm trí.

Cũng giống như Trang Tử: “Dễ dàng là phải.” Đạo
Lớn không khó. Nếu nó có vẻ khó, chính là bạn người
làm cho nó khó. Đạo Lớn là dễ dàng.
Làm sao nó có thể khó được? Thậm chí cây cối
cũng theo nó, dòng sông cũng theo nó, tảng đá cũng
theo nó. Làm sao nó có thể khó được? Thậm chí chim
bay trong nó và cá bơi trong nó. Làm sao nó có thể khó
được? Con người làm cho nó khó, tâm trí làm cho nó
khó - và thủ đoạn làm cho bất kì cái gì dễ dàng thành
khó khăn là chọn lựa, là tạo ra phân biệt.
Yêu là dễ dàng, ghét là dễ dàng, nhưng bạn chọn.
Bạn nói, “Mình sẽ chỉ yêu, mình sẽ không ghét.” Bây
giờ mọi thứ trở thành khó khăn. Bây giờ thậm chí bạn
không thể nào yêu được! Hít vào là dễ dàng, thở ra là
dễ dàng. Bạn chọn. Bạn nói, “Mình sẽ chỉ hít vào,
mình sẽ không thở ra.” Bây giờ mọi thứ trở thành khó
khăn.
Tâm trí có thể nói, “Sao lại thở ra? Thở là cuộc
sống. Số học đơn giản: cứ hít vào, đừng thở ra và mình
sẽ trở nên ngày càng sống động hơn. Ngày càng nhiều
cuộc sống sẽ được tích luỹ. Mình sẽ trở thành kho báu
lớn của cuộc sống. Chỉ hít vào, đừng thở ra bởi vì thở
ra là chết.”
Nhớ lấy, điều đầu tiên đứa trẻ phải làm khi nó
được sinh ra là hít vào. Và điều cuối cùng khi một
người chết đi sẽ là thở ra. Cuộc sống bắt đầu với hít
vào và cái chết bắt đầu với thở ra. Mỗi khoảnh khắc
khi bạn hít vào bạn được tái sinh; mỗi khoảnh khắc khi
bạn thở ra bạn chết, bởi vì thở là cuộc sống. Đó là lí do
tại sao người Hindu đã gọi nó là prana: prana có nghĩa
là cuộc sống. Thở là cuộc sống.
Logic đơn giản, số học đơn giản, không có nhiều
rắc rối, bạn có thể làm nó thành dễ hiểu: hít vào ngày
càng nhiều và không thở ra, thế thì bạn sẽ không bao
giờ chết. Nếu bạn thở ra thì bạn sẽ phải chết. Và nếu
bạn làm điều đó quá nhiều thì bạn sẽ chết sớm! Số học
- đơn giản, dễ dàng... có vẻ dễ dàng. Cho nên nhà logic
giả thiết phải làm gì? Nhà logic sẽ hít vào, không bao
giờ thở ra.
Yêu là thở ra, ghét là hít vào.
Cho nên phải làm gì? Cuộc sống là dễ dàng nếu
bạn không quyết định, bởi vì thế thì bạn biết hít vào và
thở ra không phải là hai điều đối lập; chúng là hai phần
của một quá trình. Và hai phần đó là những phần hữu
cơ, bạn không thể phân chia chúng. Và nếu bạn không
thở ra thì sao...? Logic là sai. Bạn sẽ không sống, bạn
sẽ đơn giản chết, chết ngay lập tức.
Bạn cứ thử mà xem - chỉ hít vào và không thở ra.
Bạn sẽ hiểu, bạn sẽ trở thành rất, rất căng thẳng. Toàn
bộ con người đều muốn thở ra bởi vì đây sắp sửa là cái
chết. Nếu bạn chọn, bạn sẽ trong khó khăn. Nếu bạn
không chọn, mọi thứ đều dễ dàng. Dễ dàng là phải.

Nếu con người đang trong khó khăn, đấy là vì quá
nhiều thầy giáo đã đầu độc tâm trí người ấy, người đã
dạy anh ta: “Chọn cái này! Đừng làm cái này, làm cái
kia!” Cái làm và không làm của họ đã giết chết bạn. Và
họ có vẻ logic. Nếu bạn tranh luận với họ, họ sẽ thắng
trong lập luận. Logic sẽ giúp họ: “Trông đây! Nó đơn
giản thế! Tại sao lại thở ra nếu nó là cái chết?”
Và điều này đã xảy ra không chỉ với việc thở... hay
thậm chí với việc thở. Có những trường phái yoga nói
rằng cuộc sống của bạn được đếm qua việc thở; cuộc
sống của bạn được đếm không qua năm mà qua việc
thở - cho nên thở chậm thôi. Nếu bạn thở mười hai lần
một phút bạn sẽ chết sớm; thở sáu lần, hay ba lần thôi,
thế thì bạn sẽ sống lâu.
Chẳng ai thành công, nhưng mọi người cứ cố gắng:
thở chậm thôi. Tại sao? - bởi vì nếu bạn thở chậm hơi
thở sẽ đi ra ít hơn, cho nên ít cái chết sẽ xảy ra cho
bạn, hay, bạn sẽ có khả năng sống lâu hơn. Điều duy
nhất xảy ra sẽ là niềm say mê cuộc sống sẽ bị mất. Nó
sẽ không dài, nhưng nó có thể có vẻ dài.
Người ta nói rằng người có gia đình sống lâu hơn
người vô dục, cho nên ai đó hỏi Nasruddin, “Điều ấy
có đúng không, Nasruddin?”
Nasruddin nói, “Có vẻ là như thế đấy. Người có
gia đình không sống lâu, nhưng có vẻ như là người ấy
đã sống lâu.” Bởi vì khi có nhiều rắc rối thời gian
dường như lâu hơn, khi không có rắc rối gì thời gian
dường như ngắn hơn.
Cái gọi là những người yoga, người cứ thở ngày
càng ít và chậm hơn, họ chỉ làm chậm tiến trình sống.
Họ ít sống động, có thế thôi. Họ sẽ không sống lâu
hơn, nhưng sống ít hơn. Họ không sống một cách tràn
đầy; cây nến của họ không cháy hoàn hảo. Say mê,
nhiệt tình, điệu vũ bị mất. Họ kéo lê bản thân mình, có
thế thôi.
Và điều này đã xảy ra với dục, bởi vì với dục mọi
người nghĩ cái chết đi vào. Và họ cũng phải, bởi vì
năng lượng dục cho sinh thành sự sống - cho nên càng
nhiều năng lượng dục đi ra, càng nhiều cuộc sống đi ra.
Logic, hoàn toàn Aristotle, nhưng ngu xuẩn. Và bạn
không thể nào tìm ra kẻ ngu nào vĩ đại hơn nhà logic.
Điều logic là năng lượng sống bắt nguồn từ dục - đứa
trẻ được sinh ra bởi vì dục, dục là nguồn gốc cuộc sống
- cho nên giữ nó lại. Đừng cho phép nó đi ra, nếu
không bạn sẽ chết. Cho nên toàn thế giới đã trở nên sợ
hãi.
Nhưng điều này cũng vậy, cũng giống như giữ hít
vào, thế thì toàn bộ con người muốn tống nó ra. Cho
nên cái gọi là brahmacharis, người vô dục, người cứ
cố giữ năng lượng dục lại, giữ tinh dịch lại, toàn bộ
thân thể lại muốn tống ra. Toàn bộ cuộc sống của họ
trở thành dâm dục - tâm trí họ trở thành dâm dục, họ
mơ về dục, họ nghĩ về dục. Dục trở thành nỗi ám ảnh
của họ bởi vì họ cố gắng làm điều gì đó, tất nhiên
logic, nhưng không đúng cho cuộc sống. Và họ không
sống lâu, họ chết sớm.
Đây là một phát kiến mới, một nghiên cứu mới:
rằng một người sống lâu hơn nếu người ấy kéo dài
cuộc sống tình yêu của mình nhiều nhất có thể được.
Nếu một người có thể làm tình ở độ tuổi tám mươi thì
người ấy sẽ sống lâu hơn. Tại sao? Bởi vì bạn càng thở

ra nhiều, bạn càng hít vào nhiều. Cho nên đích xác...
nếu bạn muốn sống nhiều hơn, thở ra nhiều hơn để bạn
tạo ra chân không bên trong và việc thở đi vào nhiều
hơn. Bạn không nghĩ về thở vào. Bạn đơn giản thở ra
nhiều nhất có thể được và toàn bộ con người bạn sẽ hít
vào. Yêu nhiều vào - đó là việc thở ra - và thân thể bạn
sẽ thu thập năng lượng từ toàn bộ vũ trụ. Bạn tạo ra
chân không và năng lượng tới.
Điều này cũng giống như trong mọi tiến trình của
cuộc sống. Bạn ăn, nhưng thế thì bạn trở thành kẻ keo
kiệt, bạn trở nên bị táo bón. Logic là phải: đừng thở ra.
Táo bón là việc chọn hít vào và chống lại thở ra. Gần
như mọi người văn minh đều bị táo bón; bạn có thể đo
được văn minh qua táo bón. Quốc gia càng bị táo bón
thì càng văn minh, bởi vì càng logic hơn. Tại sao lại
thở ra? Chỉ cứ hít vào thôi. Thức ăn là năng lượng. Sao
lại tống nó ra? Bạn có thể không nhận biết nhưng điều
này là việc thu nhận logic vô ý thức và thuộc kiểu
Aristotle.
Nhưng cuộc sống là cân bằng giữa cho ra và đưa
vào. Bạn chỉ là bước chuyển. Chia sẻ, cho đi, và càng
nhiều thứ sẽ được trao cho bạn. Là kẻ keo kiệt, không
cho, lại càng ít thứ được trao cho bạn bởi vì bạn không
cần nó.
Nhớ lấy, và quan sát các quá trình sống của mình.
Nếu bạn thực sự quan tâm tới chứng ngộ, hiểu biết tối
thượng, nhớ cho đi để nhiều thứ khác được trao cho
bạn, dù bất kì cái gì. Thở ra, thở ra nhiều vào. Đó là
điều chia sẻ có nghĩa là gì, việc cho có nghĩa là gì.
Món quà là việc trao năng lượng của bạn, cho nên
nhiều thứ được trao cho bạn. Nhưng tâm trí nói... nó có
logic riêng của nó, và Tăng Xán gọi logic đó là bệnh
tật.

Đạo Lớn không khó
Bạn làm cho nó khó, bạn là khó khăn. Đạo Lớn là
dễ dàng...
... cho người không ưa thích.
Đừng ưa thích - cho phép cuộc sống di chuyển.
Bạn không nói với cuộc sống, “Đi lối này, đi lên phía
bắc, hay đi xuống phía nam.” Bạn không nói điều này -
bạn đơn giản chảy theo cuộc sống. Bạn không tranh
đấu chống lại dòng chảy, bạn trở thành một với dòng
chảy... cho người không ưa thích.
Đạo Lớn là dễ dàng... cho người không ưa thích.
Và bạn có ưa thích - về mọi thứ! Với mọi thứ bạn đều
mang tâm trí mình vào. Bạn nói, “Mình thích, mình
không thích. Mình ưa cái này, mình không ưa cái kia.”
Khi yêu và ghét cả hai đều vắng bóng...
Khi bạn không ưa thích... khi tất cả các thái độ
‘ủng hộ’ và ‘chống đối’ đều vắng bóng, cả yêu và ghét
đều vắng bóng, bạn không có ý thích cái gì đó mà cũng
không có ý không thích cái gì đó, bạn đơn giản cho
phép mọi thứ xảy ra.
... mọi sự trở thành rõ ràng và không dối trá.
Tạo phân biệt nhỏ nhất,

thế là đất trời phân chia.

Nhưng tâm trí bạn sẽ nói, “Mình sẽ trở thành con
vật nếu mình không ưa thích. Nếu mình không chọn
lựa thế thì có gì khác biệt giữa mình và cái cây?” Sẽ có
khác biệt đấy, khác biệt lớn, nhưng không phải là cái
khác biệt mà tâm trí đem vào - khác biệt tới qua nhận
biết. Cây là vô chọn lựa, vô ý thức, bạn sẽ vô chọn lựa,
có ý thức. Đó là điều nhận biết vô chọn lựa nghĩa là gì
và đó là phân biệt lớn nhất: bạn sẽ nhận biết rằng bạn
không chọn lựa.
Và nhận biết này cho an bình sâu lắng... bạn trở
thành vị Phật, bạn trở thành một Tăng Xán, một Trang
Tử. Cây không thể trở thành Trang Tử được. Trang Tử
giống như cây, mà còn hơn nữa. Ông ấy giống như cây
khi có liên quan tới chọn lựa, ông ấy hoàn toàn không
giống cây khi có liên quan tới nhận biết. Ông ấy là
nhận biết tràn đầy đến mức ông ấy không chọn lựa.
Khi yêu và ghét cả hai đều vắng bóng... Yêu và
ghét cả hai đều đem lại mầu sắc cho mắt bạn và thế thì
bạn không thể nào thấy một cách rõ ràng. Nếu bạn yêu
một người, bạn bắt đầu thấy những cái không có đó.
Không phụ nữ nào lại đẹp như bạn nghĩ khi bạn yêu cô
ấy, bởi vì bạn phóng chiếu. Bạn có một cô gái mơ
trong tâm trí và cô gái mơ đó được phóng chiếu ra.
Bằng cách nào đó cô gái thực chỉ vận hành như màn
ảnh.
Đó là lí do tại sao mọi tình yêu đều đi tới điểm thất
vọng chẳng chóng thì chầy, bởi vì làm sao cô gái này
lại cứ đóng vai trò màn ảnh mãi được? Cô ấy là con
người thực; cô ây sẽ khẳng định, cô ấy sẽ nói, “Tôi
không phải là màn ảnh!” Cô ấy có thể còn khớp với
phóng chiếu của bạn được bao lâu? Chẳng chóng thì
chầy bạn sẽ cảm thấy chúng không khớp. Ban đầu cô
ấy nhường, bạn đầu bạn nhường. Bạn là cái màn ảnh
phóng chiếu cho cô ấy, cô ấy là màn ảnh phóng chiếu
cho bạn.
Vợ của Mulla Nasrussin nói với anh ta - Tôi nghe
quá nhàm về điều đó - cô ấy nói, “Anh không yêu em
nhiều như anh đã yêu em trước đây, khi anh còn tán
tỉnh em.”
Mulla Nasruddin nói, “Em yêu ơi, đừng chú ý
nhiều tới những điều đó - chúng chỉ là chiến dịch tuyên
truyền thôi. Anh quên điều em nói, em quên điều anh
nói. Bây giờ chúng ta là người thực đi.”
Không ai có thể đóng vai màn ảnh cho bạn mãi
mãi được bởi vì điều đó là không thoải mái. Làm sao ai
đó lại có thể điều chỉnh theo mơ mộng của bạn được?
Người đó có thực tại riêng của mình, và thực tại đó
khẳng định.
Nếu bạn yêu một người, bạn phóng chiếu mọi thứ
không có đó. Nếu bạn ghét một người, bạn cũng phóng
chiếu mọi thứ không có đó. Trong yêu người kia trở
thành thượng đế, trong ghét người kia trở thành quỉ -
và người kia thì chẳng là thượng đế cũng chẳng là quỉ.
Người kia đơn giản là bản thân người ấy. Những quỉ và
thượng đế này là phóng chiếu. Nếu bạn yêu, bạn không
thể thấy được một cách rõ ràng. Nếu bạn ghét, bạn
không thể thấy được một cách rõ ràng.

Khi không có việc thích, không có việc không
thích, mắt bạn trong trẻo, bạn có sáng tỏ. Thế thì bạn
thấy người khác như người ấy hiện thế. Và khi bạn có
sáng tỏ của tâm thức, toàn bộ sự tồn tại hiển lộ thực tại
của nó cho bạn. Thực tại đó là Thượng đế, thực tại đó
là chân lí.
Điều đó có nghĩa gì? Một người như Tăng Xán sẽ
không yêu sao? Tình yêu của ông ấy sẽ có phẩm chất
hoàn toàn khác; nó sẽ không giống như tình yêu của
bạn. Ông ấy sẽ yêu, nhưng tình yêu của ông ấy sẽ
không mang tính chọn lựa. Ông ấy sẽ yêu, nhưng tình
yêu của ông ấy sẽ không phải là phóng chiếu. Ông ấy
sẽ yêu, nhưng tình yêu của ông ấy không phải là tình
yêu cho mơ ước của riêng ông ấy. Ông ấy sẽ yêu cái
thật. Tình yêu hướng tới cái thật đó là từ bi.
Ông ấy sẽ không phóng chiếu cách này cách khác.
Ông ấy sẽ không thấy thượng đế hay quỉ trong bạn.
Ông ấy đơn giản thấy bạn và ông ấy sẽ chia sẻ bởi vì
ông ấy có đủ - và ông ấy càng chia sẻ nó lại càng lớn
lên. Ông ấy sẽ chia sẻ niềm cực lạc của mình với bạn.
Khi bạn yêu, bạn phóng chiếu. Bạn yêu không phải
để cho - bạn yêu để lấy, bạn yêu để khai thác. Khi bạn
yêu một người, bạn bắt đầu cố gắng ước định người đó
theo bạn, theo ý tưởng của bạn. Mọi ông chồng đều
làm điều đó, mọi bà vợ đều làm điều đó, mọi người
bạn. Họ cứ cố gắng thay đổi người khác, cái thực, và
cái thực thì lại không thể nào bị thay đổi được - bạn sẽ
chỉ chuốc lấy thất vọng.
Cái thực không thể nào bị thay đổi, chỉ mơ mộng
của bạn sẽ tan nát và thế thì bạn cảm thấy tổn thương.
Bạn không lắng nghe thực tại. Không ai ở đây để
hoàn thành mơ ước của bạn cả. Mọi người ở đây để
hoàn thành định mệnh của riêng mình, thực tại của
riêng mình.
Một người như Tăng Xán yêu, nhưng tình yêu của
ông ấy không phải là khai thác. Ông ấy yêu bởi vì ông
ấy có quá nhiều, ông ấy đang tràn đầy. Ông ấy không
tạo ra mơ mộng quanh bất kì ai. Ông ấy chia sẻ với bất
kì ai tới trên con đường của ông ấy. Việc chia sẻ của
ông ấy là vô điều kiện, và ông ấy không trông đợi điều
gì từ bạn cả. Nếu tình yêu mà trông đợi thế thì sẽ có
thất vọng. Nếu tình yêu mà trông đợi thế thì sẽ không
mãn nguyện. Nếu tình yêu mà trông đợi thì sẽ có khổ
sở và điên khùng.
“Không,” Tăng Xán nói, “không yêu cũng chẳng
ghét. Ông đơn giản nhìn vào thực tại của người khác.”
Đây là tình yêu của Phật: thấy thực tại của người khác,
thấy người khác như người ấy hiện thế, chỉ thấy thực
tại - không phóng chiếu, không mơ mộng, không tạo ra
hình ảnh, không cố gắng ấn định người khác theo hình
ảnh của bạn.

Khi yêu và ghét cả hai đều vắng bóng
mọi sự trở thành rõ ràng và không dối trá.

Tâm trí phải yêu và ghét, và tâm trí phải cứ tiếp tục
tranh đấu giữa hai điều này. Nếu bạn không yêu và
không ghét, bạn đi ra ngoài tâm trí. Thế thì tâm trí ở
đâu? Bên trong bạn, khi mà chọn lựa biến mất thì tâm
trí biến mất. Thậm chí nếu bạn nói, “Mình muốn im

lặng,” bạn cũng sẽ chẳng bao giờ im lặng được bởi vì
bạn có sự ưa thích. Đây là vấn đề.
Mọi người tới tôi và họ nói, “Tôi muốn im lặng, tôi
không muốn những căng thẳng này thêm nữa.” Tôi
cảm thấy tiếc cho họ - tiếc bởi vì điều họ nói ra là ngu
xuẩn. Nếu bạn không muốn căng thẳng thêm nữa, bạn
sẽ tạo ra căng thẳng mới, bởi vì cái không muốn này
lại đang tạo ra căng thẳng mới. Và nếu bạn muốn im
lặng quá nhiều, nếu bạn theo nó quá nhiều, bản thân
cái im lặng của bạn sẽ trở thành căng thẳng. Bây giờ
bạn sẽ bị rối loạn nhiều hơn vì điều đó.
Im lặng là gì? Đó là hiểu biết sâu sắc - hiểu biết về
hiện tượng là nếu bạn ưa thích, bạn sẽ căng thẳng.
Thậm chí bạn ưa thích im lặng, bạn cũng vẫn bị căng
thẳng.
Hiểu, cảm thấy điều đó đi - bất kì khi nào bạn ưa
thích, bạn trở nên căng thẳng; bất kì khi nào bạn không
ưa thích, không có căng thẳng, bạn được thảnh thơi. Và
khi bạn thảnh thơi, mắt bạn sáng tỏ; chúng không bị u
ám bởi mây và mơ mộng. Không ý nghĩ nào di chuyển
trong tâm trí; bạn có thể nhìn thấu. Và khi bạn có thể
thấy chân lí, điều đó giải thoát. Chân lí giải thoát.

Tạo phân biệt nhỏ nhất,
thế là đất trời phân chia.
Một phân biệt nhỏ nhất, một chọn lựa nhỏ nhất, và
bạn bị phân chia. Thế thì bạn có địa ngục và cõi trời,
và giữa hai nơi này bạn sẽ bị vò nát.
Nếu muốn thấy chân lí
đừng giữ ý kiến ủng hộ hay chống đối.

Di chuyển không ý kiến. Di chuyển trần trụi,
không quần áo, không ý kiến về chân lí, bởi vì chân lí
ghét mọi ý kiến. Vứt bỏ mọi triết lí, lí thuyết, học
thuyết, kinh sách đi! Vứt bỏ tất cả rác rưởi đi! Bạn cứ
im lặng, không chọn lựa, mắt bạn chỉ sẵn sàng thấy cái
đang đó, không theo bất kì hi vọng nào để thấy một số
mong ước của bạn được hoàn thành. Đừng mang mong
ước nào. Người ta nói con đường địa ngục đầy những
ham muốn - ham muốn tốt, hi vọng, mơ ước, cầu vồng,
lí tưởng. Con đường của cõi trời hoàn toàn trống rỗng.
Vứt mọi gánh nặng đi! Bạn càng muốn lên cao hơn
bạn lại càng phải bớt gánh nặng đi. Nếu bạn lên
Himalayas bạn phải làm nhẹ gánh mình hoàn toàn.
Cuối cùng, khi bạn đạt tới Gourishankar, đỉnh Everest,
bạn phải vứt bỏ mọi thứ. Bạn phải đi hoàn toàn trần
trụi, bởi vì bạn càng lên cao hơn, bạn càng cần ít trọng
lượng hơn. Và ý kiến là trọng lượng đè lên bạn. Chúng
không có cánh, chúng giống như cái chặn giấy. Vô ý
kiến, không ưa thích gì... Nếu ông muốn thấy chân lí
đừng giữ ý kiến ủng hộ hay chống đối.
Đừng là kẻ hữu thần mà cũng đừng là kẻ vô thần
nếu bạn thực sự muốn biết chân lí là gì. Đừng nói, “Có
Thượng đế”; đừng nói, “Không có Thượng đế,” bởi vì
bất kì điều gì bạn nói đều sẽ trở thành ham muốn sâu
sắc. Và bạn sẽ phóng chiếu bất kì cái gì có đó đang ẩn
trong ham muốn này.
Nếu bạn muốn thấy Thượng đế như Krishna với
cây sáo trên môi, một ngày nào đó bạn sẽ thấy ông ấy -

không phải bởi vì Krishna có đó, chỉ bởi vì bạn đã có
hạt mầm của ham muốn mà bạn phóng chiếu lên màn
ảnh của thế giới. Nếu bạn muốn thấy Jesus bị đóng
đinh, bạn sẽ thấy.
Bất kì cái gì bạn muốn đều sẽ được phóng chiếu,
nhưng đấy chỉ là thế giới mơ - bạn không tới gần chân
lí hơn. Trở thành vô hạt mầm bên trong đi: không ý
kiến, không ý nghĩ ủng hộ hay chống đối, không triết
lí. Bạn đơn giản tới xem cái đang hiện hữu. Bạn không
mang bất kì tâm trí nào. Bạn đi với vô trí.
Nếu muốn thấy chân lí
đừng giữ ý kiến ủng hộ hay chống đối.
Tranh đấu cho điều người ta thích
và điều người ta không thích
là bệnh của tâm trí.

Đây là bệnh của tâm trí: điều người ta thích và điều
người ta không thích, ủng hộ và chống đối. Tại sao tâm
trí lại bị phân chia? Tại sao bạn không thể là một? Bạn
sẽ ham muốn, bạn ước ao là một, nhưng bạn cứ tưới
thêm phân chia, ưa thích; thích và không thích.
Mới hôm nọ một phụ nữ tới và cô ấy nói, “Xin ban
phúc cho tôi, tôi muốn được phúc lành của thầy.”
Nhưng tôi thấy cô ấy đang bị rắc rối, lo nghĩ, cho
nên tôi hỏi, “Có chuyện gì vậy?”
Cô ấy nói, “Nhưng tôi đã được một thầy khác điểm
đạo.”
Một tranh chấp - cô ấy muốn phúc lành của tôi
nhưng tâm trí lại nói rằng tôi không phải là thầy của cô
ấy. Cô ấy có một thầy khác, cho nên phải là gì? Tôi
bảo cô ấy bỏ cả hai. Sẽ dễ dàng hơn nếu tôi nói với cô
ấy, “Bỏ thầy cũ đi. Chọn tôi.” Điều ấy sẽ dễ dàng hơn,
bởi vì thế thì tâm trí không thể cứ vận hành được,
nhưng rắc rối vẫn sẽ còn như cũ. Tên của bệnh này sẽ
thay đổi, nhưng bệnh vẫn còn như cũ. Lần nữa, ở đâu
đó khác, cùng hoài nghi ấy sẽ nẩy sinh, cùng sự vẩn
vơ.
Nhưng nếu tôi nói, “Bỏ cả hai”... bởi vì đấy là cách
duy nhất để đạt tới thầy, khi bạn không có bất kì ưa
thích nào, cách này hay cách nọ. Bạn đơn giản đi tới
trống rỗng. Bạn đơn giản đi tới không ý kiến nào. Bạn
đơn giản đi tới vắng lặng, nhạy cảm. Chỉ thế thì bạn
mới tới thầy! Không có cách nào khác. Và nếu thầy sắp
thành cánh cửa tới chân lí, điều này sẽ là như vậy, bởi
vì đây là sự chuẩn bị, đây là việc điểm đạo.
Thầy là để giúp bạn trở thành vô ý kiến, vô trí. Nếu
bản thân thầy trở thành chọn lựa của bạn thế thì ông ấy
sẽ là rào chắn. Thế thì bạn lại đã chọn rồi, tâm trí lại đã
được dùng. Và bạn càng dùng tâm trí, nó lại càng được
làm mạnh thêm, nó lại càng trở nên mạnh hơn. Đừng
dùng nó.
Khó đấy, bởi vì bạn sẽ nói, “Điều gì sẽ xảy ra cho
tình yêu của tôi? Điều gì sẽ xảy ra cho bà con họ hàng
của tôi? Điều gì sẽ xảy ra cho niềm tin của tôi? Điều gì
sẽ xảy ra cho tôn giáo của tôi, cho nhà thờ và đền
chùa?” Chúng đều là gánh nặng của bạn. Thoát ra khỏi
chúng đi, và để chúng thoát ra khỏi bạn. Chúng đang
giữ bạn ở đây, bắt rễ, còn chân lí lại muốn bạn được
giải thoát. Được giải thoát bạn sẽ đạt tới, với đôi cánh
bạn sẽ đạt tới, vô trọng lượng bạn sẽ đạt tới.

Tăng Xán nói:
Tranh đấu cho điều người ta thích
và điều người ta không thích
là bệnh của tâm trí.
Làm sao vượt qua nó? Có cách nào vượt qua nó
không? Không, không có cách nào cả. Người ta đơn
giản phải hiểu nó. Người ta đơn giản phải nhìn vào cái
giả dối của nó. Người ta chỉ phải nhắm mắt lại và nhìn
vào cuộc sống của riêng mình - quan sát nó - và bạn sẽ
cảm thấy chân lí của Tăng Xán. Và khi bạn cảm thấy
chân lí, bệnh tật bị vứt bỏ. Không có thuốc nào cho nó,
bởi vì nếu thuốc được trao cho bạn, bạn sẽ bắt đầu
thích thuốc. Thế thì bệnh sẽ bị quên đi nhưng thuốc lại
được thích, và thế thì thuốc trở thành bệnh.
Không, Tăng Xán không định trao cho bạn bất kì
thuốc nào, bất kì phương pháp nào. Ông ấy không định
gợi ý cho bạn điều phải làm. Ông ấy đơn giản cứ nhấn
mạnh đi nhấn mạnh lại, cả nghìn lẻ một lần, rằng bạn
hiểu cách bạn đã tạo ra toàn bộ cái đống lộn xộn này
quanh mình, cách bạn đang trong khổ sở như vậy.
Không ai khác đã tạo ra nó; nó là bệnh về ưa thích của
tâm trí bạn, bệnh về chọn lựa.
Đừng chọn lựa. Chấp nhận cuộc sống như nó hiện
thế trong tính toàn bộ của nó. Bạn phải nhìn vào cái
toàn bộ: sống và chết cùng nhau, yêu và ghét cùng
nhau, hạnh phúc/ bất hạnh cùng nhau, đau khổ/cực lạc
cùng nhau. Nếu bạn nhìn vào chúng cùng nhau, thế thì
cái gì có đó để mà chọn lựa? Nếu bạn thấy chúng là
một, thế thì chọn lựa có thể đi vào từ đâu? Nếu bạn
thấy đau khổ chẳng là gì ngoài cực lạc, cực lạc chẳng
là gì ngoài đau khổ; nếu bạn có thể thấy hạnh phúc
không là gì ngoài bất hạnh; yêu không là gì ngoài ghét,
ghét không là gì ngoài yêu - thế thì chọn lựa ở đâu?
làm sao chọn? Thế thì chọn lựa bị vứt bỏ.
Bạn không vứt bỏ nó. Nếu bạn vứt bỏ nó, điều đó
sẽ trở thành việc chọn lựa - đây là nghịch lí. Bạn không
được giả thiết vứt bỏ nó, bởi vì nếu bạn vứt bỏ nó thì
điều đó có nghĩa là bạn đã chọn lựa ủng hộ và chống
đối. Bây giờ việc chọn lựa của bạn là về cái toàn bộ.
Bạn ủng hộ cái toàn thể và chống lại phân chia, nhưng
bệnh tật đã đi vào. Điều đó là tinh tế.
Bạn đơn giản hiểu biết, và chính hiểu biết trở thành
vứt bỏ. Bạn chưa bao giờ vứt bỏ nó. Bạn đơn giản
cười... và bạn hỏi xin một chén trà.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #2 Đạo là hoàn hảo

Khi ý nghĩa sâu sắc của sự việc không được hiểu
thì an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng ích
lợi gì.
Đạo là hoàn hảo như không gian bao la nơi không
gì thiếu và không gì thừa.
Quả vậy, chính do việc chọn lựa của chúng ta để
chấp nhận hay bác bỏ mà chúng ta không thấy bản
chất đúng của mọi sự việc.
Sống không dính líu với sự việc bên ngoài, không
dính líu tới cảm giác bên trong về trống rỗng.
Chân thành không có hoạt động cố gắng trong cái
một của mọi sự, và cái nhìn sai lầm sẽ tự nó biến mất.
Khi cố gắng dừng hoạt động để đạt tới tính thụ
động, thì chính nỗ lực làm ông tràn đầy với hoạt động.
Chừng nào ông còn ở cực đoan này hay cực đoan
khác thì ông sẽ chẳng bao giờ biết tới cái một.
Những người không sống theo Đạo duy nhất thì
thất bại cả trong hoạt động và thụ động, khẳng định và
phủ định.

Cần một vài điều trước khi chúng ta đi vào lời kinh
này của Tăng Xán. Tại phương Tây, mới vài năm trước
đây, có một nhà thôi miên người Pháp, Emile Coué;
ông ấy ngẫu nhiên khám phá ra một trong những luật
cơ bản nhất của tâm trí con người. Ông ấy gọi nó là
“luật hiệu quả ngược” - đó là một trong những lời kinh
cổ nhất trong tư tưởng của Đạo giáo và Thiền. Tăng
Xán đang nói về luật này. Cố gắng hiểu luật này, thế
thì lời của ông ấy sẽ đơn giản để hiểu.
Chẳng hạn, nếu bạn không cảm thấy buồn ngủ bạn
sẽ làm gì? Bạn sẽ cố gắng để vào giấc ngủ - bạn sẽ nỗ
lực, bạn sẽ làm điều này điều nọ, nhưng bất kì cái gì
bạn làm cũng chỉ đem tới kết quả ngược lại; chính cái
bạn cần thì không tới. Chỉ cái đối lập mới xảy ra, bởi vì
bất kì hoạt động nào, bất kì nỗ lực nào, cũng đều chống
lại việc ngủ.
Ngủ là sự thảnh thơi. Bạn không thể đem nó lại,
bạn không thể làm bất kì điều gì cho nó xảy ra. Bạn
không thể ép buộc nó, bạn không thể gò ép nó - nó
không phải là một phần của ý chí bạn chút nào. Nó đi
vào trong vô ý thức, và ý chí của bạn chỉ là một mảnh
của ý thức.
Khi bạn đi vào trong vô ý thức, hướng tới chiều
sâu, thì mảnh vốn là ý thức, mảnh vốn là ý chí, bị bỏ
lại trên bề mặt. Bạn không thể đem bề mặt của mình
xuống chiều sâu, bạn không thể đem chu vi của mình
vào trung tâm. Cho nên khi bạn nỗ lực đi vào giấc ngủ,
đó là điều tự phá hoại. Bạn đang làm điều gì đó mà sẽ
trở thành chính cái đối lập - bạn sẽ trở nên tỉnh nhiều
hơn. Cách duy nhất để đi vào giấc ngủ là không làm gì

cả. Nếu nó không tới, thì nó không tới. Đợi đấy... đừng
làm gì cả! Bằng không bạn đang đẩy nó ra xa thêm và
khoảng cách sẽ được tạo ra. Cứ đợi trên gối, tắt đèn đi,
nhắm mắt lại, thảnh thơi và chờ đợi. Bất kì khi nào nó
tới, thì nó tới. Bạn không thể đem nó lại bằng bất kì
hành động nào theo ý chí của mình - ý chí sẽ chống lại
vô thức.
Và điều này xảy ra trong nhiều sự việc trong cuộc
sống: chỉ cái đối lập tới từ nó. Nếu bạn muốn im lặng,
bạn sẽ làm gì? Bởi vì im lặng cũng giống hệt như giấc
ngủ. Bạn không thể ép buộc nó. Bạn có thể cho phép
nó xảy ra, nó là sự buông bỏ, nhưng không có cách nào
để làm cho nó làm việc. Bạn sẽ làm gì nếu bạn muốn
im lặng? Nếu bạn làm bất kì cái gì thì bạn sẽ lại ít im
lặng hơn bao giờ hết.
Nếu bạn muốn tĩnh lặng, bạn sẽ làm gì? - bởi vì
tĩnh lặng có nghĩa là không làm. Bạn đơn giản nổi lên,
bạn đơn giản thảnh thơi! Và khi tôi nói đơn giản thảnh
thơi, tôi ngụ ý đơn giản. Không phương pháp nào cần
dùng tới cho việc thảnh thơi, bởi vì phương pháp lại có
nghĩa là bạn đang làm điều gì đó.
Có một cuốn sách; tựa đề của nó là Bạn phải thảnh
thơi! Và ‘phải’ thì chống lại thảnh thơi; cái ‘phải’
không nên được đưa vào, nếu không thì bạn sẽ trở
thành căng thẳng hơn.
Luật này đã được Emile Coué phát minh ra, và ông
ấy nói, “Để cho mọi sự xảy ra, đừng ép buộc chúng.”
Có những điều có thể bị ép buộc - tất cả những cái đó
đều thuộc về ý thức, tâm trí có thể bị ép buộc. Nhưng
có những điều không thể bị ép buộc. Tất cả những cái
đó thuộc về vô thức, thuộc về chiều sâu của bạn, không
thể bị ép buộc.
Điều đó xảy ra nhiều lần: bạn đang cố gắng nhớ lại
một cái tên hay một khuôn mặt và nó lại không tới,
nhưng bạn vẫn cảm thấy nó chỉ ngay trên đầu lưỡi
mình. Cảm giác này sâu sắc đến mức bạn cảm thấy nó
sắp ra và bạn cố gắng đem nó ra. Và bạn càng cố gắng
nó lại càng không tới. Bạn trở nên hoài nghi liệu cảm
giác đó có đúng hay không. Nhưng bạn cảm thấy - toàn
bộ con người bạn nói nó có đó, chỉ ngay trên đầu lưỡi
bạn. Nhưng sao nó lại không tới nếu nó đang trên đầu
lưỡi bạn? Nó sẽ không tới. Bạn cứ làm bất kì cái gì bạn
muốn làm đi, nó sẽ không ra đâu.
Thế rồi bạn thất vọng, thế rồi bạn cảm thấy vô
vọng, thế rồi bạn vứt bỏ toàn bộ ý định này. Bạn ra
vườn, bạn bắt đầu làm việc trong vườn, hay bạn bắt
đầu đọc báo, hay bạn bật radio và nghe nhạc - và bỗng
nhiên nó bật ra. Điều gì đã xảy ra?
Nó thuộc về vô ý thức, nó ở sâu trong bạn. Và bạn
càng cố gắng bạn càng trở thành chật hẹp; và bạn càng
cố gắng, vô thức càng bị quấy rối. Nó trở thành hỗn
loạn, thế thì mọi sự trở thành bất ổn. Nó đã có đó chỉ
trên đầu lưỡi, nhưng bởi vì bạn quá tích cực đem nó
ra... bạn đã dùng ý chí, và ý chí không thể đem bất kì
cái gì từ chiều sâu của bạn ra được. Chỉ việc buông
xuôi mới đem nó ra, chỉ khi bạn buông bỏ.
Cho nên khi bạn đi vào công viên hay ra vườn, bắt
đầu đọc báo, đào hố dưới đất, nghe nhạc, bạn quên mất
về toàn bộ ý định... thì bỗng nhiên nó có đó. Đây là
luật hiệu quả ngược. Với vô thức, nhớ lấy, ý chí là

không có tác dụng - không chỉ không tác dụng, nó
cũng còn nguy hiểm nữa, có hại nữa.
Lão Tử, Trang Tử, Bồ đề đạt ma, Tăng Xán - họ là
bậc thầy về luật hiệu quả ngược này. Và đây là sự khác
biệt giữa Yoga và Thiền. Yoga làm mọi nỗ lực còn
Thiền lại không nỗ lực, và Thiền đúng hơn bất kì Yoga
nào. Nhưng Yoga lại hấp dẫn, bởi vì chừng nào bạn
còn liên quan tới làm thì đều dễ dàng - dù vất vả đến
đâu, nhưng làm là dễ dàng.
Không làm mới khó. Nếu ai đó nói, “Đừng làm gì
cả,” bạn lúng túng. Bạn lại hỏi, “Phải làm gì?” Nếu ai
đó nói, “Đừng làm gì cả,” đó là điều khó nhất cho bạn.
Nó không nên như vậy nếu bạn hiểu.
Không làm không đòi hỏi phẩm chất nào cả. Làm
có thể đòi hỏi phẩm chất, làm có thể đòi hỏi công phu.
Không làm không đòi hỏi công phu. Đó là lí do tại sao
Thiền nói chứng ngộ có thể xảy ra trong một khoảnh
khắc - bởi vì đấy không phải là vấn đề về cách đem nó
lại, đấy là vấn đề về cách cho phép nó. Nó cũng hệt
như ngủ: bạn thảnh thơi và nó có đó, bạn thảnh thơi và
nó bật ra. Nó đang vật lộn trong tim bạn để đi ra. Bạn
không cho phép nó bởi vì bạn có quá nhiều hoạt động
trên bề mặt.
Bạn đã bao giờ để ý tới sự kiện là gần như chín
mươi phần trăm trẻ con đều được sinh ra ban đêm,
không trong ban ngày không? Tại sao? Đáng ra là phải
năm mươi - năm mươi chứ. Tại sao chúng lại chọn ban
đêm nhiều hơn? Và chín mươi phần trăm! Bởi vì người
mẹ vô ý thức, trong sự buông bỏ. Cô ấy đang ngủ và
đứa trẻ có thể ra một cách dễ dàng.
Nếu cô ấy nhận biết, cô ấy sẽ nỗ lực và luật hiệu
quả ngược sẽ có đó. Khi người mẹ tỉnh cô ấy sẽ làm
mọi nỗ lực để cô ấy vượt ra ngoài nỗi đau và sự việc
kết thúc, đứa trẻ được sinh ra. Và mọi nỗ lực đều là rào
chắn; cô ấy dựng lên cản trở. Cô ấy càng cố, bước
chuyển càng hẹp lại, và đứa trẻ không thể ra được.
Trong các xã hội nguyên thuỷ, người mẹ không
đau khi họ sinh con, không đau chút nào. Và đây là
phép màu. Khi lần đầu tiên y học phương Tây khám
phá ra điều này- rằng có những xã hội nguyên thuỷ nơi
người mẹ không đau chút nào - họ không thể tin vào
điều đó được. Làm sao điều ấy lại có thể được?
Thế rồi nhiều thực nghiệm đã được tiến hành,
nhiều dự án nghiên cứu, và người ta đã phát hiện ra
rằng đấy là vì họ vô ý thức. Họ sống như con vật
hoang; không có tranh đấu, không ép buộc. Họ không
bó buộc gì, họ đơn giản nổi lên. Họ nguyên thuỷ, họ
không có tâm trí rất ý thức. Càng văn minh ý chí bạn
càng được huấn luyện, và vô thức của bạn đi càng xa
hơn, sâu hơn, và có lỗ hổng.
Nếu có điều gì đó phải làm, dù khó đến đâu, bạn
vẫn có thể tìm ra cách thức, cách thực hiện nó. Bạn có
thể học kĩ thuật; có các chuyên gia, bạn có thể được
huấn luyện. Nhưng trong Thiền không ai có thể được
huấn luyện cả. Trong Thượng đế không có chuyên gia
và không có người có thẩm quyền - không thể thế
được, bởi vì đấy không phải là vấn đề cách thức, đấy là
vấn đề thảnh thơi trong con người bạn, không làm gì
cả. Điều vĩ đại nhất sẽ xảy ra cho bạn chỉ khi bạn
không có đó. Và nếu bạn đang làm điều gì đó, bạn nhất
định là có đó.

Giấc ngủ tới khi bạn không có đó. Chứng ngộ cũng
đi theo cùng qui tắc - nó tới khi bạn không có đó.
Nhưng khi bạn đang làm, làm sao bạn sẽ vắng mặt
đồng thời được? Nếu bạn đang làm điều gì đó, bạn sẽ
có đó. Hành động nuôi dưỡng cho bản ngã. Khi bạn
không làm gì cả, bản ngã không thể nào được nuôi
dưỡng. Nó đơn giản biến mất, nó chết, nó không có đó.
Và khi bản ngã không có đó, ánh sáng giáng xuống.
Cho nên bất kì điều gì bạn làm một cách có ý chí
đều sẽ là rào chắn. Trong việc thiền của tôi ở đây, làm
chúng, nhưng đừng theo cách có ý chí. Đừng ép buộc
chúng; thay vì thế, để cho chúng xảy ra. Nổi trong
chúng, bỏ bản thân mình trong chúng. Bị hấp thu,
nhưng không có ý chí. Đừng thao túng, bởi vì khi bạn
thao túng, bạn bị phân chia, bạn trở thành hai: người
thao tác và cái bị thao tác. Một khi bạn là hai, thiên
đường và địa ngục lập tức được tạo ra; thế thì có
khoảng cách bao la giữa bạn và chân lí. Đừng thao
túng, cho phép mọi sự xảy ra.
Nếu bạn đang tập Thiền Kundalini, cho phép việc
rung động - đừng làm điều đó! Đứng im lặng, cảm thấy
nó tới, và khi thân thể bạn bắt đầu chút ít rung rinh,
giúp nó, nhưng đừng làm nó! Tận hưởng nó, cảm thấy
phúc lạc về nó, cho phép nó, đón nhận nó, chào mừng
nó, nhưng không bắt ép nó.
Nếu bạn ép buộc, nó sẽ trở thành bài tập, bài tập
thể dục. Thế thì việc rung động sẽ có đó, nhưng chỉ
trên bề mặt. Nó sẽ không thấm vào bạn. Bạn sẽ vẫn
còn cứng nhắc, tựa hòn đá, tảng đá bên trong. Bạn sẽ
vẫn còn là người thao tác, người làm, và thân thể sẽ chỉ
tuân theo. Thân thể không là vấn đề, bạn mới là vấn
đề.
Khi tôi nói rung động, tôi ngụ ý cái cứng nhắc của
bạn, con người tựa tảng đá của bạn nên rung động tới
chính nền tảng, để cho nó trở thành chất lỏng, linh
động, tan chảy, luồng chảy. Và khi con người tựa tảng
đá trở thành linh động, thân thể bạn sẽ theo sau. Thế
thì không có người rung động, chỉ có việc rung; thế thì
không ai làm nó, nó đơn giản xảy ra. Thế thì người làm
không có.
Tận hưởng nó, nhưng đừng ép buộc nó. Và nhớ,
bất kì khi nào bạn ép buộc điều gì, bạn không thể tận
hưởng nó được. Chúng là đảo ngược lại, chúng là đối
lập; chúng chưa bao giờ gặp gỡ. Nếu bạn ép buộc một
điều, bạn không thể tận hưởng nó, nếu bạn tận hưởng
nó, bạn không thể ép buộc nó.
Chẳng hạn, bạn có thể ép buộc tình yêu của mình.
Bạn có thể làm nó theo sách hướng dẫn, nhưng thế thì
bạn sẽ không tận hưởng nó. Nếu bạn tận hưởng nó, bạn
sẽ phải vứt tất cả sách hướng dẫn đi; tất cả Kinsey và
các thầy và Johnson, bạn phải ném tất cả họ đi. Bạn
phải quên hoàn toàn về tất cả những điều bạn đã học về
tình yêu. Ngay chỗ ban đầu bạn sẽ lúng túng, bởi vì
không có hướng dẫn, không bản đồ. Làm sao bắt đầu?
Chỉ đợi thôi... và để cho năng lượng bên trong của
bạn chuyển động, và theo năng lượng đó dù nó đưa đến
bất kì đâu. Có thể mất chút thời gian, nhưng khi tình
yêu tới, nó xảy tới bất thình lình cho bạn. Bạn không
còn đó nữa. Tình yêu có đó nhưng không có người
yêu. Tình yêu xảy ra như năng lượng, nhưng nó không

có bản ngã bên trong. Thế thì nó mênh mông, thế thì
nó là giải thoát lớn lao. Và thế thì tình yêu trở thành
niềm cực lạc, và bạn biết điều gì đó mà đã từng được
biết tới cho những người đã đi tới điều thiêng liêng.
Bạn biết một mảnh của nó, một giọt nước của đại
dương. Bạn biết một tia sáng - và thế rồi mùi vị tới với
bạn.
Thiền, Thượng đế, chứng ngộ, niết bàn, tất cả
chúng đều đi vào trong bản thể qua tình yêu, bởi vì qua
tình yêu một thoáng nhìn được đạt tới. Và khi thoáng
nhìn đó có đó, các linh hồn bạo dạn lên đường phiêu
lưu để tìm tới cội nguồn mà từ đó thoáng nhìn này tới.
Qua tình yêu, Thượng đế được khám phá ra. Đó là lí
do tại sao Jesus cứ nói mãi... bất kì khi nào ai đó hỏi,
“Thượng đế là gì?” ông ấy đều nói, “Thượng đế là tình
yêu,” bởi vì qua tình yêu thoáng nhìn đầu tiên tới.
Nhưng tiến trình này là một: bạn không thể gò ép
tình yêu được. Nếu bạn gò ép, toàn bộ cái đẹp bị mất,
toàn bộ mọi sự trở thành máy móc. Bạn trải qua toàn
bộ các nghi lễ, nhưng chẳng cái gì xảy ra cả. Không có
niềm cực lạc - nó là cái gì đó được làm và được kết
thúc. Nó chưa bao giờ đạt tới trung tâm của bạn, nó
chưa bao giờ làm rung chuyển nền tảng của bạn, nó
chưa bao giờ trở thành điệu vũ bên trong. Nó không
làm thổn thức bản thể bạn, nó chỉ là hành động ở ngoại
vi.
Nhớ lấy, yêu không thể bị gò ép, và thiền không
bao giờ có thể bị gò ép.
Vứt mọi tri thức đi, bởi vì tri thức chỉ cần khi bạn
phải làm điều gì đó. Khi bạn không phải làm điều gì,
cần gì tri thức? Bạn không cần tri thức nào cả. Bạn chỉ
cần có cái cảm, cái khéo - làm sao để vứt bỏ, làm sao
để không hiện hữu. Và khi tôi nói ‘làm sao’ tôi không
ngụ ý kĩ thuật, khi tôi nói ‘làm sao’ tôi không ngụ ý
rằng bạn phải biết kĩ thuật. Bạn chỉ đơn giản tìm nó
thôi.
Tôi sẽ gợi ý hai điều có ích. Một là ngủ: cố gắng
tìm ra cách thức giấc ngủ xảy ra, cách thức bạn rơi vào
trong giấc ngủ. Bạn có thể có nghi lễ nhưng nghi lễ đó
không tạo ra giấc ngủ, nó có ích. Mọi người đều có
nghi lễ. Trẻ nhỏ có cử chỉ riêng của nó, nó có thể mút
ngón tay. Điều đó không cho bạn giấc ngủ, nhưng nó
có ích cho đứa trẻ kia - nó đã tìm ra nghi lễ của riêng
mình. Nếu bạn theo đứa trẻ đó, bạn sẽ không rơi vào
trong giấc ngủ.
Và điều tương tự cũng là trường hợp cho mọi kĩ
thuật thiền - mọi người đều tìm ra nghi lễ riêng của
mình. Nó có ích bởi vì nó cho bạn bầu không khí. Bạn
tắt đèn, bạn thắp hương trong phòng, bạn có kiểu gối
nào đó, cao mức nào đó, mềm mức nào đó. Bạn có
kiểu chăn nào đó, bạn có tư thế nào đó. Tất cả những
điều này đều có ích, nhưng điều này không phải là
nguyên nhân cho nó. Nếu ai đó khác theo nó, điều này
có thể trở thành cản trở. Người ta phải tìm ra nghi lễ
riêng của mình.
Nghi lễ đơn giản giúp cho bạn được thoải mái và
chờ đợi. Và khi bạn thoải mái và chờ đợi, sự việc xảy
ra. Cũng giống như ngủ, Thượng đế tới với bạn, giống
như Thượng đế, tình yêu tới với bạn. Bạn không thể gò
ép nó, bạn không thể bắt buộc nó.

Và toàn bộ cuộc sống của bạn đã trở thành vấn đề
bởi vì bạn đã học quá nhiều cách làm mọi việc. Bạn đã
trở thành rất hiệu quả trong mọi thứ máy móc bởi vì
chúng có thể được làm, nhưng bạn đã trở thành hoàn
toàn không hiệu quả trong những điều mang tính
người, bởi vì chúng không thể được học và chúng
không thể được làm một cách kĩ thuật; bạn không thể
trở thành chuyên gia hiệu quả trong chúng.
Bất kì khi nào có một việc máy móc để làm, đều có
thể có chỗ huấn luyện cho nó, nhưng tâm thức không
thể được huấn luyện. Và bạn cứ theo các guru, này nọ,
để tìm kĩ thuật nào đó, mật chú nào đó, để cho bạn trở
nên được chứng ngộ ... Không có mật chú nào có thể
làm cho bạn chứng ngộ được.
Đây là mật chú: Tăng Xán nói rằng bạn sẽ phải trở
nên hiểu biết hơn - ít ý chí đi, nhiều buông bỏ hơn; ít
nỗ lực đi, nhiều vô nỗ lực hơn; ít làm từ ý thức đi, bơi
nhiều trong vô thức hơn.
Bây giờ cố gắng hiểu lời kinh:
Khi ý nghĩa sâu sắc của sự việc không được hiểu
sự an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng ích
lợi gì.

Nếu bạn hiểu, sẽ có an bình. Nếu bạn không hiểu,
sẽ có rối loạn, căng thẳng và khổ sở. Bất kì khi nào ai
đó đang khổ sở, điều đó chứng tỏ người ấy còn chưa
hiểu sự việc, ý nghĩa sâu sắc hơn của sự việc.
Và bạn cứ đi buộc tội người khác rằng vì họ mà
bạn khổ sở. Không ai ở đây khổ sở vì người khác cả.
Bạn khổ sở vì không hiểu biết của bạn hay hiểu lầm
của bạn.
Chẳng hạn, ai đó tới tôi - một người chồng, một
người bố của năm đứa trẻ - và anh ta nói rằng anh ta rất
bị rối loạn bởi vì vợ cứ cãi cọ, cứ cố gắng lấn lướt anh
ta và con cái thì không nghe lời anh ta... “Mẹ đã trở
nên quá ảnh hưởng và con cái toàn nghe lời mẹ, chúng
nó không nghe lời tôi. Tôi chẳng là ai cả và tôi đang
khổ quá. Thầy làm điều gì đó cho tôi đi. Qua ân huệ
của thầy mà vợ tôi có thể hiểu biết thêm chút ít chăng.”
Tôi nói, “Điều đó không thể được. Qua ân huệ của
tôi hay qua ân huệ của bất kì ai, người khác không thể
được làm hiểu biết hơn. Bạn mới có thể được làm cho
hiểu biết hơn. Và khi bạn yêu cầu sự hiểu biết của
người khác, bạn làm lỡ toàn bộ vấn đề. Tại sao vợ lại
có vẻ chi phối thế? Cô ấy có vẻ chi phối bởi vì bạn
cũng tranh giành để chi phối. Nếu bạn không tranh
giành để chi phối, cô ấy sẽ không có vẻ chi phối. Đấy
là tranh giành, bởi vì các bạn theo cùng mục tiêu. Và
điều gì sai nếu trẻ con theo mẹ? Nhưng bạn lại muốn
trẻ con theo bạn - do đó mới có tranh giành.”
Cố hiểu đi! Mọi người đều cố gắng chi phối. Đó là
bản chất của bản ngã: làm mọi nỗ lực để chi phối
người khác. Dù người khác là chồng, là vợ, con cái hay
bạn bè thì cũng chẳng khác biệt gì - nhưng chi phối,
tìm mọi cách thức và phương tiện để chi phối.
Và nếu mọi người đều cố gắng chi phối và bạn
cũng cố gắng chi phối, thì sẽ có tranh giành. Tranh
giành không phải bởi vì người khác đang cố chi phối,

tranh giành bởi vì bạn không cố gắng để hiểu cách thức
bản ngã vận hành.
Vứt điều đó đi! Người khác không thể thay đổi
được, còn bạn sẽ phí cuộc đời mình không cần thiết để
cố gắng thay đổi người khác. Đó là vấn đề của họ. Họ
sẽ đau khổ nếu họ không hiểu biết, tại sao bạn phải đau
khổ? Bạn đơn giản hiểu rằng mọi người đều đang cố
gắng chi phối: “Mình vứt bỏ nó, mình sẽ không cố
gắng chi phối”... tranh giành của bạn tan biến. Và một
điều rất đẹp xảy ra.
Nếu bạn không cố gắng chi phối, vợ bạn sẽ bắt đầu
cảm thấy ngu xuẩn, và dần dần cô ấy bắt đầu thấy
mình ngốc nghếch - bởi vì người khác không có đó để
mà tranh đấu. Khi bạn tranh đấu, bạn làm mạnh thêm
bản ngã của người khác, và điều này là cái vòng luẩn
quẩn.
Khi bạn không tranh đấu thế thì người khác cảm
thấy họ tranh đấu một mình, trong chân không: tranh
đấu với gió hay tranh đấu với ma, nhưng không tranh
đấu với người nào cả. Và thế thì bạn trao cơ hội cho
người khác cũng thấy, cũng hiểu biết. Thế thì vợ không
thể đổ trách nhiệm lên bạn được, cô ấy phải mang trách
nhiệm của riêng mình.
Cùng điều đó cũng là vấn đề cho mọi người bởi vì
bản chất con người vận hành tương tự nhau, ít nhiều;
khác biệt chỉ ở mức độ. Nếu bạn cố gắng hiểu, bạn trở
thành người bỏ nửa chừng. Không phải là bạn bỏ xã
hội, không phải là bạn trở thành hippie và ra đi lập hội
đoàn - điều đó không phải là vấn đề. Về mặt tâm lí bạn
không còn trên con đường bản ngã này, chi phối, hùng
hổ, bạo hành, giận dữ. Bạn không còn là một phần của
nó. Thế thì khoảng cách được tạo ra, sự tách biệt. Bây
giờ bạn có thể nhìn vào mọi điều và bạn có thể cười...
con người ngu xuẩn làm sao. Và bạn có thể cười... bạn
đã từng lố bịch làm sao.
Người ta kể về Rinzai rằng khi ông ấy tỉnh dậy
buổi sáng ông ấy sẽ cười to đến mức cả thiền viện -
năm trăm sannyasin ở đó - đều nghe thấy. Đến tối khi
ông ấy đi ngủ, ông ấy lại cười to lần nữa.
Nhiều người hỏi tại sao, nhưng ông ấy chỉ đơn giản
cười và ông ấy sẽ không trả lời. Khi ông ấy sắp chết ai
đó hỏi, “Có một điều: xin thầy nói cho chúng tôi tại
sao thầy lại cười hàng ngày, sáng và tối, cả đời thầy?
Chẳng ai biết, và bất kì khi nào chúng tôi hỏi thì thầy
lại cười nữa. Đây là bí ẩn duy nhất. Xin thầy tiết lộ
điều đó trước khi thầy rời khỏi thân thể.”
Rinzai nói, “Ta cười bởi vì cái ngu xuẩn của thiên
hạ. Buổi sáng ta cười bởi vì bây giờ lần nữa ta lại đi
vào thế giới này và mọi người quanh ta đều ngu cả.
Còn buổi tối ta cười rằng một ngày đã qua hay thế!”
Bạn sẽ cười, bạn sẽ không trong khổ sở. Toàn bộ
sự việc xung quanh lố bịch thế, nhưng bạn lại không
thể thấy được nó bởi vì bạn là một phần của nó. Bạn
tham dự quá nhiều trong nó, bạn không thể thấy được
nó. Cái lố bịch không thể nào được biết tới trừ phi bạn
có khoảng cách, sự tách biệt.
Tăng Xán nói:

Khi ý nghĩa sâu sắc của sự việc không được hiểu

an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng ích lợi
gì.

Và bạn chẳng thu được gì, bạn chẳng đạt tới đâu,
bạn đơn giản bị rối loạn. Bạn đã đạt tới đâu? Bạn đã
thu được gì bởi lo âu, căng thẳng, rối loạn? Bạn là cái
gì? Bạn đi đâu? Chẳng thu được gì... thậm chí nếu có
thu được cái gì đó... thì cũng có thể dường như là qua
con người bị rối loạn của bạn mà thu được cái gì đó.
Bạn chẳng thu được cái gì cả. Ngược lại, bạn mất. Bạn
mất những khoảnh khắc quí giá có thể trở thành phúc
lạc, thời gian quí giá, năng lượng, cuộc sống, trong đó
bạn có thể đã nở hoa. Và bạn lại không thể nở hoa.
Nhưng bạn bao giờ cũng nghĩ - đây là quan điểm
dốt nát - bạn bao giờ cũng nghĩ, “Toàn thế giới sai, và
nếu mình có thể thay đổi mọi người thế thì mình sẽ
hạnh phúc.” Bạn sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc cả, bạn
không thể hạnh phúc được - đây là cơ sở cho bất hạnh.
Một khi bạn hiểu ra rằng vấn đề cho bạn không phải là
bạn thay đổi cả thế giới, điều duy nhất mà bạn có thể
làm là thay đổi bản thân mình.
Bayazid, nhà huyền môn Sufi, đã viết trong tiểu sử
của mình, “Khi tôi còn trẻ tôi đã nghĩ và tôi đã nói với
Thượng đế, và trong tất cả những lời cầu nguyện của
tôi thì đây là điều cơ sở: ‘Xin cho con năng lượng để
cho con có thể thay đổi toàn thế giới.’ Mọi người đều
nhìn sai về tôi. Tôi là nhà cách mạng và tôi muốn thay
đổi bộ mặt của trái đất.
Khi tôi trở nên chín chắn hơn chút ít tôi bắt đầu
cầu nguyện: ‘Điều này dường như quá nhiều. Cuộc
sống đang tuột khỏi tay con - gần như nửa đời con đã
trôi qua mà con chẳng thay đổi được lấy một người, và
toàn thế giới thì quá nhiều.’ Cho nên tôi nói với
Thượng đế, ‘Gia đình con là đủ. Để con thay đổi gia
đình con.’
“Và khi tôi trở nên già,” Bayazid nói, “Tôi hiểu
rằng ngay cả gia đình cũng là quá nhiều, và tôi là ai mà
thay đổi họ? Thế rồi tôi nhận ra rằng nếu tôi có thể
thay đổi bản thân mình thì thế cũng sẽ đủ, còn quá đủ.
Tôi đã cầu nguyện Thượng đế, ‘Bây giờ con mới đi tới
đúng điểm. Ít nhất cho phép con làm điều này: con
muốn thay đổi bản thân mình.’
“Thượng đế đáp, ‘Bây giờ không còn thời gian
nữa. Điều này con đáng phải hỏi ngay từ đầu kia. Thế
thì mới có khả năng.’”
Điều này, mọi người đều hỏi lúc cuối cùng. Người
hỏi lúc ban đầu, người ấy đã hiểu bản chất của mọi sự
việc. Người ấy hiểu rằng thậm chí thay đổi bản thân
mình cũng không phải là điều dễ dàng. Bạn là toàn bộ
thế giới bên trong mình; bạn mang toàn bộ thế giới. Tất
cả những cái tồn tại, đều tồn tại bên trong bạn. Bạn là
toàn bộ vũ trụ này, không phải là điều nhỏ đâu - nếu sự
thay đổi này có thể xảy ra thì bạn đã đạt tới. Nếu
không:
Khi ý nghĩa sâu sắc của sự việc không được hiểu
an bình bản chất của tâm trí bị rối loạn chẳng ích lợi
gì.
Đạo là hoàn hảo như không gian bao la
nơi không gì thiếu và không gì thừa.
Quả vậy, chính do việc chọn lựa của chúng ta
để chấp nhận hay bác bỏ

mà chúng ta không thấy bản chất đúng của mọi sự
việc.
Đạo là hoàn hảo như không gian bao la nơi không
gì thiếu và không gì thừa...

Mọi sự đều như nó đáng phải thế; bạn chỉ phải lắng
đọng vào trong nó, bạn chỉ không bị quấy rối. Mọi sự
đều như nó đáng phải thế... chẳng cái gì thiếu và chẳng
cái gì thừa.
Bạn có thể nghĩ được một vũ trụ tốt hơn thế này
không? Nếu bạn trí huệ, bạn không thể; nếu bạn ngu
đần bạn có thể đấy. Chẳng cái gì có thể tốt hơn thế này,
như nó hiện thế. Vấn đề duy nhất là bạn không lắng
đọng trong nó. Lắng đọng trong nó đi và con đường là
hoàn hảo, giống như không gian bao la, và chẳng cái gì
thiếu chẳng cái gì thừa. Mọi sự đều cân bằng. Chỉ bạn
mới là vấn đề; thế giới không phải là vấn đề chút nào.
Đây là khác biệt giữa tâm trí chính trị và tâm trí
tôn giáo, và các bạn tất cả đều mang tâm trí chính trị.
Tâm trí chính trị nghĩ, “Mình hoàn toàn tốt, mọi thứ
khác đều sai cả.” Cho nên người ta bắt đầu thay đổi thế
giới - một Lenin, một Gandhi, một Hitler, một Mao.
Tâm trí chính trị nghĩ, “Mọi sự đều sai. Nếu mọi sự
được giải quyết thế thì nó sẽ đẹp.”
Tâm trí tôn giáo nghĩ, “Chỉ mình là chưa ổn. Ngoài
ra, mọi sự đều hoàn hảo như nó có thể.”
Hoàn hảo là con đường tựa như không gian bao la:
chẳng cái gì thiếu và chẳng cái gì thừa. Mọi sự đều như
nó đáng phải thế, hoàn toàn cân bằng. Chỉ bạn là vẩn
vơ, chỉ bạn không biết phải đi đâu, chỉ bạn là bị phân
chia. Nghĩ xem: nếu con người biến mất khỏi trái đất,
thế giới sẽ hoàn toàn hoàn hảo, tuyệt đối đẹp - sẽ
không có vấn đề gì.
Vấn đề tới với con người, bởi vì cách thức con
người nhìn vào mọi thứ có thể đi sai - bởi vì con người
có ý thức, và ý thức đó tạo ra rắc rối. Bởi vì bạn có thể
có ý thức, nên bạn có thể phân chia mọi thứ. Bởi vì bạn
có thể có ý thức nên bạn có thể nói, “Cái này phải và
cái kia trái.” Bởi vì bạn có thể có ý thức nên bạn có thể
nói, “Cái này xấu và cái kia đẹp.”
Việc có ý thức này là không đủ. Nếu nó trở nên
nhiều hơn, nếu nó trở thành vòng tròn, ý thức hoàn
chỉnh, thế thì lần nữa mọi sự lại được giải quyết.
Nietzsche đã nói - và ông ấy tỏ ra có nhiều sáng
suốt - ông ấy đã nói rằng con người là cây cầu, con
người không phải là một sinh linh. Con người là cây
cầu, cái gì đó để vượt ra ngoài. Bạn không thể làm nhà
trên cầu được. Đó là điều Jesus nói: “Đi qua nó. Đừng
làm nhà trên nó, nó chỉ là cây cầu.” Câu của Nietzsche
là: “Con người chỉ là cây cầu giữa hai điều vĩnh hằng,
điều vĩnh hằng của tự nhiên và điều vĩnh hằng của
Thượng đế.”
Mọi sự đều tốt trong tự nhiên, mọi sự đều tốt trong
Thượng đế. Con người là cây cầu, con người ở giữa,
nửa tự nhiên, nửa Thượng đế - đó là điều rắc rối. Bị
phân chia, quá khứ thuộc về tự nhiên, tương lai thuộc
về Thượng đế. Căng thẳng, giống như sợi dây bắt
ngang giữa hai điều vĩnh hằng, khi thì chuyển về tự

nhiên, khi thì chuyển về Thượng đế, khi thì cách này,
khi thì cách nọ; run rẩy và vẩn vơ thường xuyên,
không lắng đọng.
Trở nên lắng đọng, và cả hai cách sẽ có tác dụng.
Trang Tử thiên về được lắng đọng lại vào tự nhiên.
Nếu bạn lắng đọng vào tự nhiên, bạn trở thành giống
thần, bạn trở thành thần. Phật thiên về việc đi lên trước
và trở thành Thượng đế, thế thì bạn sẽ được lắng đọng.
Hoặc là đi ngược lại hoặc là đi tới tận cùng, nhưng
đừng dừng ở trên cầu.
Và đây là điều cần phải hiểu - một trong những
điều rất có ý nghĩa, một trong những điều nền tảng - là
dù bạn đi lùi hay đi tiến, bạn cũng đạt tới cùng mục
đích. Vấn đề không phải là lùi lại hay tiến lên, vấn đề
là không ở trên cầu.
Lão Tử, Trang Tử, họ nói rơi lại vào tự nhiên, vào
Đạo. Shankara, Phật, Jesus, họ nói đi lên trước, đi qua
cầu, đạt tới điều thiêng liêng. Điều này có vẻ rất nghịch
lí, nhưng không phải thế - bởi vì cả hai bờ đều là một,
bởi vì cây cầu này là vòng tròn.
Dù bạn đi ngược hay đi xuôi, bạn cũng đều đạt tới
cùng mục đích, cùng điểm thoải mái, dù bạn chọn lối
nào. Nếu bạn cảm thấy rằng buông bỏ là không thể
được với bạn, thế thì theo Patanjali - nỗ lực, ý chí, cố
gắng, tìm kiếm - thế thì bạn sẽ tiến lên trước. Nếu bạn
cảm thấy rằng bạn có thể hiểu luật hiệu quả ngược,
không chỉ hiểu mà còn để cho nó xảy ra bên trong bạn,
thế thì theo Tăng Xán, Trang Tử: đi lùi lại. Nhưng
đừng đứng nguyên tại chỗ của mình; trên cầu bạn sẽ bị
phân chia. Bạn không thể thoải mái ở đó được, bạn
không thể làm nhà tại đó được. Cây cầu không phải là
chỗ để làm nhà. Nó không phải là mục đích, nó chỉ là
cái gì đó để đi qua.
Nietzsche nói con người là cái gì đó cần được siêu
việt lên, con người không là sự hiện hữu. Con vật có sự
hiện hữu, Thượng đế có sự hiện hữu, con người còn
chưa hiện hữu. Con người chỉ là sự chuyển tiếp, một
giai đoạn chuyển đổi, việc chuyển từ hoàn hảo này
sang hoàn hảo khác. Ở giữa, con người bị phân chia.
Tăng Xán nói lùi lại, và nếu bạn hỏi tôi thì tôi sẽ
nói Tăng Xán là dễ dàng hơn Patanjali. Cùng một điều
sẽ xảy ra ở cuối. Nhiều nỗ lực sẽ đưa bạn tới vô nỗ lực,
không nỗ lực cũng đưa bạn tới vô nỗ lực - bởi vì nỗ lực
không bao giờ có thể là mục đích, nỗ lực chỉ có thể là
phương tiện. Bạn không thể cứ nỗ lực mãi mãi và mãi
mãi được. Bạn nỗ lực để đạt tới trạng thái vô nỗ lực.
Với Patanjali, nỗ lực là con đường, vô nỗ lực là
mục đích; nỗ lực là phương tiện, vô nỗ lực là mục đích.
Với Tăng Xán vô nỗ lực là phương tiện, vô nỗ lực là
mục đích. Với Tăng Xán bước đầu tiên là bước cuối
cùng; với Tăng Xán không có phân biệt giữa phương
tiện và mục đích. Nhưng với Patanjali thì có - bạn phải
thực hiện nhiều bước.
Cho nên với Patanjali chứng ngộ sẽ là dần dần.
Với Tăng Xán chứng ngộ có thể là tức khắc, trong
chính khoảnh khắc này - nó có thể là bất thần. Nếu bạn
có thể hiểu Tăng Xán thế thì không có gì đẹp hơn điều
đó. Nhưng nếu bạn không thể hiểu được, thế thì
Patanjali là con đường duy nhất.

Đạo là hoàn hảo như không gian bao la

nơi không gì thiếu và không gì thừa.
Quả vậy, chính do việc chọn lựa của chúng ta
để chấp nhận hay bác bỏ
mà chúng ta không thấy bản chất đúng của mọi sự
việc.

Bởi vì chúng ta chấp nhận hay bác bỏ, đó là lí do
tại sao chúng ta không thể thấy bản chất thực. Thế thì
bạn đem ý tưởng của mình, ý kiến, định kiến vào, và
thế thì bạn tô mầu mọi thứ. Ngoài ra mọi thứ đều hoàn
hảo. Bạn chỉ phải nhìn. Thuần khiết. Cái nhìn không ý
tưởng nào, cái nhìn không bác bỏ gì. Chấp nhận. Cái
nhìn thuần khiết, dường như mắt bạn không có tâm trí
đằng sau chúng, dường như mắt bạn chỉ là tấm gương:
chúng không nói, “Đẹp. Xấu.” Tấm gương đơn giản
phản chiếu bất kì ai tới trước nó - nó không phán xét.
Nếu mắt bạn không có tâm trí đằng sau, chúng chỉ
là tấm gương. Chúng đơn giản nhìn. Chúng không nói,
“Cái này tốt và cái kia xấu” - chúng không kết án,
chúng không ca ngợi. Thế thì mọi thứ rõ ràng như nó
có thể vậy, chẳng có gì phải làm cả. Sự sáng tỏ này,
đôi mắt này không ý kiến và định kiến - và bạn đã trở
nên chứng ngộ.
Thế thì không có vấn đề gì phải giải quyết cả. Thế
thì cuộc sống không còn là câu đố nữa. Nó là bí ẩn để
được sống, tận hưởng, điệu vũ để được múa. Thế thì
bạn không trong xung đột với nó, thế thì bạn không
làm bất kì cái gì ở đây. Thế thì bạn đơn giản hưởng
thú, thế thì bạn phúc lạc.
Đây là điều thiên đường nghĩa là gì: nơi bạn không
bị trông đợi phải làm gì cả, nơi bạn không cố gắng
kiếm phúc lạc - nơi phúc lạc là tự nhiên, nơi nó mưa
rào lên bạn. Điều này có thể xảy ra ở đây và bây giờ.
Nó đã xảy ra cho Tăng Xán, nó đã xảy ra cho tôi, nó có
thể xảy ra cho bạn. Nếu nó có thể xảy ra cho một
người, nó có thể xảy ra cho tất cả mọi người.
Sống không dính líu với sự việc bên ngoài,
không dính líu tới cảm giác bên trong về trống
rỗng.
Chân thành không có hoạt động cố gắng
trong cái một của mọi sự,
và cái nhìn sai lầm sẽ tự nó biến mất.

Đừng phân chia bên ngoài với bên trong. Tăng Xán
nói, “Đừng nói, ‘Tôi quan tâm tới cái bên ngoài.’” Có
hai kiểu người, và cả hai đều khổ sở. C.G. Jung chia
nhân loại thành hai kiểu: một kiểu ông ấy gọi là người
hướng ngoại, kiểu kia ông ấy gọi là người hướng nội.
Người hướng ngoại quan tâm tới cái bên ngoài. Họ là
người tích cực, trần tục - theo đuổi của cải, danh vọng,
địa vị, quyền lực. Họ trở thành chính khách, họ trở
thành nhà cải cách xã hội, họ trở thành người lãnh đạo
lớn, nhà công nghiệp lớn. Họ quan tâm tới các sự vật,
thế giới bên ngoài; họ không quan tâm tới bản thân
mình.
Thế rồi có những người hướng nội. Họ là những
người không tích cực mấy. Nếu họ phải làm điều gì đó
thì họ sẽ làm, ngoài ra họ không nghiêng về làm. Họ sẽ
thích vẫn còn đấy với mắt nhắm. Họ trở thành nhà thơ,
nhà huyền môn, thiền nhân, người trầm tư. Họ không
quan tâm tới thế giới này, họ chỉ quan tâm tới bản thân
mình; họ nhắm mắt lại và họ hướng nội năng lượng

của mình. Nhưng Tăng Xán nói cả hai kiểu người này
đều sai bởi vì họ bị phân chia.
Người hướng ngoại bao giờ cũng cảm thấy rằng ở
bên trong cái gì đó bị thiếu. Người ấy có thể trở thành
người rất quyền lực: sâu bên trong người ấy sẽ cảm
thấy mình bất lực, không quyền hành. Bên ngoài người
ấy có thể tích luỹ nhiều của cải, bên trong người ấy sẽ
cảm thấy nghèo nàn. Người ấy có thể là người thành
công lớn trong thế giới này; sâu bên dưới, nếu bạn hỏi,
người ấy biết người ấy đã là kẻ thất bại. Người ấy
không cân bằng, người ấy đã dồn chú ý quá nhiều ra
bên ngoài. Người ấy đã chuyển vào một cực đoan, và
bất kì khi nào có cực đoan thì có mất cân bằng.
Và người mà đã là nhà thơ, người suy tư, nhà
huyền môn, người bao giờ cũng còn lại bên trong bản
thân mình, bao giờ cũng cảm thấy cái gì đó bị thiếu,
bởi vì người ấy không giầu trong thế giới bên ngoài.
Và thế giới bên ngoài cũng đẹp. Hoa có đó, và những
vì sao, và mặt trời lên phía kia, và dòng sông tuôn chảy
và thác nước reo. Người ấy nghèo nàn bởi vì người ấy
đã chối bỏ toàn bộ vũ trụ; không cần thiết, người ấy đã
sống trong cái hang riêng của mình, nơi người ấy có
thể đã di chuyển và đã biết nhiều bí ẩn, hàng triệu bí ẩn
xung quanh. Người ấy vẫn còn khép kín, nhốt trong
bản thân mình, bị cầm tù. Hai kiểu người này là các
cực đoan.
Tránh các cực đoan. Đừng tạo ra phân biệt giữa
bên ngoài và bên trong, và đừng trở thành một trong
các kiểu người của Jung, hoặc hướng ngoại hoặc
hướng nội.
Tăng Xán nói: Tuôn chảy, cân bằng. Bên ngoài và
bên trong giống như chân phải và chân trái. Tại sao lại
chọn một? Nếu bạn chọn một, tất cả chuyển động đều
dừng lại. Chúng giống như hai mắt: nếu bạn chọn một
thế thì bạn sẽ có thể thấy, nhưng tầm nhìn của bạn
không còn là ba chiều nữa, chiều sâu bị mất. Bạn có
hai tai: bạn có thể dùng một, bạn có thể bị nghiện với ý
tưởng rằng bạn là kiểu người tai trái hay tai phải,
nhưng thế thì bạn mất. Thế thì một nửa thế giới bị khép
lại với bạn.
Bên trong và bên ngoài chỉ là hai mắt, hai tai, hai
chân - tại sao lại chọn? Tại sao không dùng cả hai một
cách vô chọn lựa? Và tại sao phân chia? Bởi vì bạn là
một! Chân trái và chân phải chỉ dường như là hai thôi.
Bạn tuôn chảy bên trong cả hai - cùng năng lượng ấy,
cùng con người ấy. Bạn nhìn qua cả hai mắt. Tại sao
không dùng bên trong và bên ngoài và cho chúng sự
cân bằng? Tại sao lại chuyển về cực đoan?
Nhớ lấy, không chỉ mọi người chuyển về cực đoan
đâu, xã hội cũng chuyển về cực đoan. Phương Đông
vẫn còn hướng nội, do đó mới nghèo khó. Ai chịu
trách nhiệm cho điều đó? Hàng triệu người đang chết
hàng ngày. Và những người đang sống, họ cũng không
sống đâu - họ một nửa chết đói. Ai chịu trách nhiệm
cho điều này? - người hướng nội, nhà huyền môn, nhà
thơ, người cứ nói quá nhiều về bên trong và người lên
án bên ngoài, người nói, “Bên ngoài không dành cho
chúng ta”; người nói, “Bên ngoài là sai”; người nói,
“Thế giới bên ngoài là cái gì đó phải lên án. Sống ở thế
giới bên trong.” Họ nâng bên trong lên cao hơn bên
ngoài, và cân bằng bị mất.

Phương Đông đã tạo ra người hướng nội, nhưng
cái đẹp bên ngoài bị mất. Bạn thấy bẩn thỉu ở khắp nơi
phương Đông. Tôi biết thật là khó khăn lắm cho người
phương Tây tới sống trong cái bẩn thỉu của Ấn Độ. Nó
bẩn thật - ai chịu trách nhiệm? Tại sao lại nhiều bẩn
thỉu thế? Tại sao lại nhiều bệnh tật thế? Tại sao lại
nhiều ốm yếu, chết đói thế? - bởi vì bên ngoài đã bị
lãng quên.
Chúng ta đã quan tâm tới việc làm thuần khiết bên
trong, cho nên: “Tại sao phải bận tâm về cái bẩn thỉu
bên ngoài? Cứ để nó thế. Nó là vật chất, chẳng đáng lo
nghĩ tới. Chúng ta quan tâm tới sự thuần khiết bên
trong. Tại sao phải bận tâm về thân thể? Tại sao phải
bận tâm về người khác?”
Kết quả là ở chỗ phương Đông là một loại mất cân
bằng. Và phương Tây lại là một loại khác: họ là người
hướng ngoại. Họ đã tạo ra nhiều của cải mà chưa từng
được tạo ra trước đây, nhiều sạch sẽ bên ngoài. Quần
áo tốt hơn - vua cũng phải ghen tị - thức ăn tốt hơn,
điều kiện vệ sinh hơn, môi trường bao quanh đẹp, mọi
thứ, nhưng hướng ngoại. Và con người bên trong lại
nghèo nàn, con người bên trong trống rỗng.
Cho nên phương Đông cứ thuyết giảng cho
phương Tây về con người bên trong. Các guru phương
Đông cứ thuyết giảng cho phương Tây về cách thiền,
và các guru phương Tây cứ giảng dạy cho phương
Đông về cách là kĩ sư tốt hơn, cách là thợ điện tốt hơn,
cách là người lập qui hoạch thành phố tốt hơn, cách tạo
ra nhiều của cải hơn, cách tăng tiến về công nghệ, cách
nâng tiêu chuẩn sống. Cho nên nếu bạn phải học về
thuốc thì bạn phải sang phương Tây; nếu bạn phải học
về thiền thì bạn phải tới phương Đông.
Nhưng cả hai đều là cực đoan và cả hai đều nguy
hiểm. Cực đoan bao giờ cũng nguy hiểm. Và nguy
hiểm là ở chỗ bánh xe có thể quay, và phương Đông có
thể trở thành duy vật còn phương Tây có thể trở thành
duy tâm. Có mọi khả năng rằng điều này sắp xảy ra,
bởi vì bây giờ phương Đông đang chuyển thành cộng
sản - đó là cực đoan của chủ nghĩa duy vật - còn
phương Tây đang trở thành duy tâm quá nhiều. Mối
nguy hiểm có đó: bánh xe có thể quay, bởi vì bạn đã
chán ngán với thế giới bên ngoài nên bạn muốn chuyển
vào bên trong, bạn cần cuộc hành trình bên trong.
Bạn có thể cứ theo cuộc hành trình bên trong. Nhìn
kẻ hippie; họ là tương lai của phương Tây. Họ đang
chống lại công nghệ - cùng kiểu, kiểu người hướng nội
đã tàn phá toàn bộ phương Đông, kiểu người đã gây
thảm hoạ cho phương Đông. Họ chống lại công nghệ,
họ chống lại sạch sẽ bên ngoài. Bạn không thể tìm
được người nào bẩn hơn người hippie đâu; họ sẽ không
tắm, họ sẽ không thay quần áo. Họ nói đấy là những
thứ bên ngoài - họ đang theo cuộc hành trình bên
trong. Họ quan tâm tới thiền, nhưng họ không quan
tâm tới vệ sinh. Không... cùng cái ngu xuẩn ấy, cùng
cái cực đoan ấy, cùng cái đối lập ấy. Nó hấp dẫn, bởi vì
khi bạn đã sống trên một cực đoan thì tâm trí nói, “Bây
giờ chuyển sang bên kia đi bởi vì bên này không thoả
mãn. Cực đoan này đã sai, cho nên chuyển sang cái đối
lập.” Nhưng nhớ, dễ dàng chuyển từ cực đoan này sang
cực đoan kia, nhưng cực đoan không bao giờ thoả mãn
cả. Nhìn phương Đông mà xem, cực đoan bên trong đã

không là sự thoả mãn, nó đã là một thất bại. Vấn đề
không phải là bên ngoài hay bên trong, vấn đề là ở sự
cân bằng. Cân bằng thì thành công, mất cân bằng thì
thất bại.
Và bên ngoài và bên trong không phải là hai. Bên
ngoài kết thúc ở đâu và bên trong bắt đầu ở đâu? Bạn
có thể đánh dấu, bạn có thể tạo ra biên giới được
không? Bạn có thể nói, “Đây là chỗ bên ngoài kết thúc
và chỗ bên trong bắt đầu được không?” Tại đâu?
Chúng không phân chia. Những phân chia đó là của
tâm trí. Bên trong và bên ngoài là một: bên ngoài chỉ là
bên trong kéo dài, bên trong chỉ là bên ngoài thấm vào.
Chúng là một - hai tay, hai chân, hai mắt của một con
người.
Liệu bên ngoài có ở ngoài Thượng đế không? Nó
không thể thế, bởi vì chẳng cái gì có thể ở bên ngoài
Thượng đế được cả, không cái gì có thể ở bên ngoài
ngài. Cái toàn thể phải bao gồm cái bên ngoài và cái
toàn thể phải bao gồm cái bên trong. Với cái toàn thể
thì không có gì giống bên ngoài và không có gì giống
bên trong cả. Đây là điều Tăng Xán nói. Ông ấy nói:
Sống không dính líu với sự việc bên ngoài,
không dính líu tới cảm giác bên trong về trống
rỗng.
Chân thành không có hoạt động cố gắng
trong cái một của mọi sự,
và cái nhìn sai lầm sẽ tự nó biến mất.

Mọi người tới tôi - và tâm trí tinh ranh thế - họ tới
tôi và họ nói, “Chúng tôi muốn nhận tính chất sannyas
nhưng chúng tôi muốn sannyas bên trong, không bên
ngoài. Chúng tôi sẽ không thay quần áo.” Và họ nói,
“Tại sao lại bên ngoài? Để nó chỉ là cái bên trong!” Họ
không biết điều họ đang nói. Cái bên trong bắt đầu từ
chỗ nào?
Khi bạn ăn thức ăn bạn chẳng hề nói, “Để nó là cái
bên trong.” Khi bạn khát và bạn uống nước, bạn không
hề nói, “Để nó là cái bên trong. Cơn khát này là bên
trong, cho nên sao phải lấy nước từ bên ngoài?” Nhưng
nước kết thúc ở đâu và cơn khát bắt đầu từ đâu? Bởi vì
nếu bạn uống nước thì cơn khát biến mất, cho nên điều
đó có nghĩa là sự gặp gỡ - đâu đó nước bên ngoài gặp
gỡ cơn khát bên trong. Nếu không thì làm sao nó có
thể biến mất được?
Bạn cảm thấy đói và bạn ăn thức ăn. Thức ăn là
bên ngoài, cái đói là bên trong; với cái đói bên trong tại
sao lại lấy thức ăn bên ngoài? Tại sao lại ngu xuẩn thế?
Phải lấy cái gì bên trong chứ. Nhưng không có thức ăn
bên trong. Cái đói là bên trong, thức ăn là bên ngoài,
nhưng đâu đó thức ăn đi vào. Nó thay đổi lãnh thổ: nó
trở thành máu của bạn, nó trở thành xương bạn. Nó trở
thành chính chất liệu làm nên tâm trí bạn, nó trở thành
suy nghĩ của bạn.
Thức ăn trở thành suy nghĩ của bạn. Và nếu thức
ăn trở thành suy nghĩ của bạn, nhớ lấy, thức ăn cũng sẽ
trở thành vô ý nghĩ của bạn. Thức ăn trở thành tâm trí
bạn, thức ăn trở thành việc thiền của bạn. Không có
tâm trí bạn có thể thiền được không? Không có tâm trí
thì làm sao bạn trở thành vô trí được? Không có suy
nghĩ làm sao bạn vứt bỏ suy nghĩ được? Tâm trí là thức
ăn rất tinh tế, vô trí là thức ăn tinh tế nhất - nhưng
không có phân chia.

Cho nên khi bạn muốn nhận tính chất sannyas, thì
thậm chí mầu sắc cũng siêu việt lên trên lãnh thổ. Nó
bắt đầu từ bên ngoài và dần dần thấm vào sâu hơn. Nó
tô mầu cho chính con người bạn; thậm chí việc mặc
quần áo cũng chạm vào linh hồn bạn. Nó phải như vậy,
bởi vì bên ngoài và bên trong không phải là hai, chúng
là một. Một cử chỉ đơn giản - nó có vẻ bên ngoài, nó đi
vào trong chính con người, và nó đi tới từ đó. Nhớ lấy,
đừng chơi trò láu cá và đừng phân chia sự tồn tại. Nó
là không phân chia.
Khi bạn yêu một người bạn sẽ muốn ôm ghì thân
thể ấy. Bạn sẽ không nói, “Anh yêu em, nhưng anh yêu
em ở bên trong thôi.” Có một cô gái béo ở đây, béo
lắm. Cô ấy bảo tôi, “Con chỉ có mỗi một người bạn trai
mà anh ấy cũng nói, ‘Anh chỉ yêu linh hồn em, không
yêu thân thể em.’”
Cô ấy cảm thấy bị tổn thương lắm, bởi vì khi bạn
nói với một người, “Anh chỉ yêu linh hồn em, không
yêu thân thể em,” thì điều đó có nghĩa gì? Khi bạn yêu
một người, bạn yêu một cách toàn bộ, bạn không thể
tạo ra phân biệt. Đây là mánh khoé tinh ranh. Cậu con
trai đó thực sự không yêu cô gái này, anh ta đang chơi
trò láu cá. Anh ta muốn nói, “Tôi không yêu,” nhưng
anh ta không thể nói điều đó.
Nếu bạn không muốn nhận tính chất sannyas, chớ
nhận nó! Nhưng đừng chơi trò láu cá, đừng tinh ranh,
đừng cố tỏ ra láu cá. Đừng nói, “Đây là bên ngoài và
tôi muốn cái gì đó bên trong.”
Trong sự tồn tại, cái bên ngoài gặp gỡ cái bên
trong, cái bên trong gặp gỡ cái bên ngoài; chúng là hai
cánh của con người. Và không con chim nào có thể bay
được chỉ với một cánh, và không người nào có thể
trưởng thành với một cánh - bạn cần cả hai. Thế giới
này cần Thượng đế cũng nhiều như Thượng đế cần thế
giới này. Thế giới này không thể tồn tại mà không có
Thượng đế; Thượng đế cũng không thể tồn tại mà
không có thế giới này.
Tôi yêu một giáo sĩ - tên ông ấy là Baal Shem, nhà
huyền môn Do Thái, một trong một vài người Do Thái
đã chứng ngộ. Ông ấy hay nói trong mọi lời cầu
nguyện, “Xin nhớ, nhiều như con cần tới ngài, ngài
cũng cần tới con. Không có Baal Shem này thì ngài sẽ
ở đâu?” Ông ấy hay nói với Thượng đế, “Con cần ngài,
ngài cũng cần con. Không có Baal Shem này thì ngài
sẽ ở đâu? Ai sẽ cầu nguyện?”
Nhớ điều đó. Ông ấy biết điều gì đó, ông ấy là
phải. Cái bên trong cần tới cái bên ngoài, bởi vì cái bên
ngoài không là gì ngoài cái bên trong được kéo dài ra.
Cái bên ngoài cần cái bên trong, bởi vì cái bên trong
không là gì ngoài trung tâm của của ngoại vi.
Liệu có thể có trung tâm mà không có ngoại vi
không? Liệu có thể có ngoại vi mà không có trung tâm
không? Điều đó là không thể được. Làm sao bạn có
trung tâm mà không có chu vi? Nếu bạn có trung tâm,
nếu bạn gọi nó là trung tâm, thì chính khoảnh khắc đó
chu vi tới. Làm sao bạn có thể có chu vi nếu không có
trung tâm? Nó có thể vô hình nhưng nó có đó, nếu
không thì chu vi không thể có đó được. Thế thì, nếu
bạn nhìn đúng và sâu sắc, chu vi không là gì ngoài
trung tâm được kéo dài, và trung tâm cũng không là gì

ngoài chu vi trong hạt mầm, cô đặc, tập trung, về bản
chất.
Sống không dính líu với sự việc bên ngoài,
không dính líu tới cảm giác bên trong về trống
rỗng.
Chân thành không có hoạt động cố gắng
trong cái một của mọi sự,
và cái nhìn sai lầm sẽ tự nó biến mất.
Khi ông cố gắng dừng hoạt động để đạt tới tính thụ
động,
chính nỗ lực của ông làm ông tràn đầy với hoạt
động.
Đây là luật hiệu quả ngược...
Khi ông cố gắng dừng hoạt động để đạt tới tính thụ
động,
thì chính nỗ lực của ông làm ông tràn đầy với hoạt
động.
Chừng nào ông còn ở cực đoan này hay cực đoan
khác
ông sẽ chẳng bao giờ biết tới cái một.
Những người không sống theo Đạo duy nhất
thất bại cả trong hoạt động và thụ động, khẳng
định và phủ định.

Đừng cố gắng thụ động, bởi vì nỗ lực thuộc về
hoạt động. Không ai có thể cố thành thụ động được.
Thế thì phải làm gì? Tích cực hoàn toàn, và thế thì thụ
động tới. Nó theo sau như cái bóng, nó phải tới. Suy
nghĩ thật hoàn hảo và thế thì vô suy nghĩ tới. Bạn
không thể vứt bỏ suy nghĩ. Không cái gì có thể bị vứt
bỏ mà lại không đầy đủ, chỉ cái hoàn hảo mới có thể bị
vứt bỏ. Trong thực tế, cái hoàn hảo vứt bỏ chính nó
một cách tự động.
Tích cực vào - bản thân việc tích cực tạo ra tình
huống mà trong đó thụ động xảy ra. Nếu bạn đã tích
cực cả ngày, tích cực toàn bộ cho bất kì việc gì bạn
làm đi... Đào hố trong vườn hay làm việc trong xưởng
máy hay trong cửa hiệu hay dạy học trong trường, dù
bất kì việc gì bạn làm, làm nó một cách toàn bộ, và khi
buổi tối tới và mặt trời lặn, bạn sẽ được sự thụ động
choàng xuống. Thụ động đó là đẹp, nó là đẹp cũng như
hoạt động vậy. Không có gì để chọn cả! Cả hai đều đẹp
và cả hai đều cần.
Đừng cố gắng thụ động. Làm sao bạn có thể cố
gắng thụ động được? Bạn có thể ngồi giống như Phật,
nhưng cái thụ động đó sẽ chỉ sâu như lớp da thôi. Sâu
bên dưới bạn sẽ trong rối loạn, bạn sẽ sôi sùng sục, núi
lửa - bạn có thể bùng nổ vào bất kì lúc nào. Bạn có thể
bắt buộc thân thể ngồi im lặng - làm sao bạn bắt buộc
bản thể mình được? Bản thể cứ tiếp diễn, tiếp diễn mãi.
Đó là lí do tại sao bạn không thể nào dừng suy nghĩ.
Mọi người ngồi trong tư thế ngồi thiền zazen hết năm
nọ đến năm kia, hai mươi năm, hai mươi nhăm năm,
ngồi sáu giờ, liên tục chỉ cố gắng để làm cho tâm trí im
lặng, mà nó cứ làm việc hoài, làm việc mãi, làm việc
nữa.
Do đó nhấn mạnh của tôi là vào thiền tích cực. Đó
là sự cân bằng. Trước hết tích cực toàn bộ đến mức cái
thụ động theo sau một cách tự động. Khi bạn đã tích
cực và toàn bộ năng lượng đã chuyển hết, bạn sẽ giống

như sự nghỉ ngơi. Nếu bạn còn chưa tích cực làm sao
nghỉ ngơi theo sau được?
Logic sẽ nói điều gì đó hoàn toàn khác. Logic sẽ
nói, “Thực hành nghỉ ngơi cả ngày đi, đến đêm bạn có
thể nghỉ tốt.”
Mulla Nasruddin tới bác sĩ. Ho rũ rượi, anh ta bước
vào. Bác sĩ nói, “Vẫn còn ho à? Nhưng dường như khá
hơn đấy.”
Nasruddin nói, “Nó phải thế, bởi vì cả đêm tôi đã
thực hành nó.”
Nếu cả ngày bạn thực hành nghỉ, đừng trông đợi
ngủ nghê gì nữa vào ban đêm. Thực hành nghỉ ngơi sẽ
không đem đến nhiều nghỉ ngơi hơn; thực hành nghỉ
ngơi sẽ đem tới hoạt động. Thế thì nằm trên giường
mình bạn sẽ nghĩ, và đi từ mặt này sang mặt khác. Bạn
sẽ thực hiện bài luyện tập cả đêm. Và nếu bạn bắt buộc
thân thể mình, thế thì tâm trí sẽ phải thế vào, thế thì
tâm trí sẽ cứ trong ác mộng.
Không, người trí huệ cân bằng, và người đó biết
cuộc sống tự nó cân bằng. Nếu bạn làm việc - nhưng
làm toàn bộ, để không gì còn lại, toàn bộ năng lượng
đã tận hưởng hoạt động - thế thì nghỉ ngơi là tự động,
thế thì nghỉ ngơi theo sau. Và khi bạn tận hưởng nghỉ
ngơi thế thì hoạt động theo sau, bởi vì khi bạn nghỉ
ngơi bạn thu lại năng lượng, bạn trở nên được khoẻ lại.
Thế thì toàn bộ thân thể được tràn đầy, tràn ngập với
năng lượng. Bây giờ lần nữa bạn phải chia sẻ nó, và
trong hoạt động bạn phải cho nó ra. Lần nữa bạn sẽ lại
được tràn đầy.
Cũng giống như các đám mây: chúng phải mưa
xuống, lần nữa chúng sẽ được tràn đầy - đại dương có
đó để làm tràn đầy chúng. Chúng phải mưa xuống, lần
nữa chúng sẽ được làm tràn đầy. Dòng sông phải trút
mình vào đại dương, nó sẽ được tràn đầy lần nữa. Nó
càng trút xuống thì nó sẽ càng được tràn đầy.
Tăng Xán nói: Tích cực toàn bộ, thế thì ông sẽ có
khả năng thụ động hoàn toàn. Thế thì cả hai cực đoan
gặp gỡ và cân bằng tinh tế được đạt tới. Cân bằng tinh
tế đó là samyaktva, cân bằng tinh tế đó là thanh bình.
Cân bằng tinh tế đó là an bình cao nhất có thể có, cực
đỉnh, thượng đỉnh, tột đỉnh, bởi vì khi hai điều cân
bằng - bên ngoài và bên trong, tích cực và thụ động -
bỗng nhiên bạn siêu việt lên trên cả hai. Khi cả hai
chúng cân bằng bạn không còn là cái này, cái kia nữa.
Bỗng nhiên bạn là lực thứ ba - người nhìn, nhân chứng.
Nhưng bạn không thể cố gắng cho nó.
Khi ông cố gắng dừng hoạt động để đạt tới tính thụ
động,
thì chính nỗ lực của ông làm ông tràn đầy với hoạt
động.
Chừng nào ông còn ở cực đoan này hay cực đoan khác
ông sẽ chẳng bao giờ biết tới cái một.

Siêu việt lên trên các cực đoan đi! Đừng là người
trần tục và cũng đừng là cái gọi là người tâm linh.
Đừng là kẻ hữu thần, đừng là kẻ vô thần. Đừng điên
khùng vì của cải bên ngoài và đừng bị ám ảnh với
thanh bình bên trong. Cân bằng đi... cân bằng nên là
khẩu hiệu.

Những người không sống theo Đạo duy nhất
thất bại cả trong tích cực và thụ động, khẳng định
và phủ định.

Và đây là kết quả: những người chọn các cực đoan,
họ cả hai đều thất bại, bởi vì nếu bạn cứ tích cực và
tích cực và tích cực mãi, mà không thụ động nào được
phép, bạn phục hồi bản thân mình từ đâu được? Bạn sẽ
trở thành cái vỏ trống rỗng, bất lực, nghèo nàn.
Điều đó đã xảy ra cho cái gọi là những người thành
công trên thế giới này: chính khách, tổng tống, thủ
tướng: vào lúc họ đạt được thì họ đã mất mọi thứ. Họ
không còn đó nữa. Thành công có đó, nhưng trong việc
mặc cả họ đã bán bản thân mình, họ không còn có đó
nữa. Và cũng điều ấy đã xảy ra cho những người chọn
cái bên trong, người hướng nội: vào lúc họ đạt tới bên
trong, họ thấy chỉ toàn rối loạn khắp xung quanh.
Nếu bạn chọn cực đoan, bạn sẽ thất bại trong cả
hai đằng. Nếu bạn không chọn lựa, bạn sẽ thành công
trong cả hai đằng. Cân bằng thành công, cực đoan thất
bại. Cân bằng này Phật gọi là trung đạo, majjhim
nikaya, theo Khổng Tử, ‘phương tiện vàng’.
Chỉ ở giữa. Đây là kĩ năng và nghệ thuật lớn nhất,
chỉ ở giữa, không chọn lựa, không chuyển sang trái,
không chuyển sang phải. Đừng là cực hữu và cũng
đừng là cực tả - chỉ ở chính giữa.
Nếu bạn ở chính giữa bạn siêu việt trên thế giới
này. Thế thì bạn không còn là đàn ông nữa, không còn
là đàn bà nữa. Đó là điều Jesus nói. Thế thì bạn không
còn là người duy vật, không còn là người duy tâm. Thế
thì bạn không sống nữa, bạn không chết nữa.
Không thế này, chẳng thế nọ - cây cầu đã được
vượt qua. Bạn đã đạt tới mục đích. Và mục đích không
ở đâu đó trong tương lai, nó là ở đây giữa hai cực
đoan. Không ghét không yêu...
Bao giờ nhớ, bất kì khi nào bạn thấy hai cực đoan,
đừng chọn lựa. Chỉ cố gắng tìm ra sự cân bằng ở giữa.
Điều đó sẽ khó khăn lúc đầu, chỉ bởi vì thói quen cũ.
Chuyện đã xảy ra:
Mulla Nasruddin bị ốm và anh ta được đưa vào
bệnh viện. Chỉ sau vài phút ai đó gõ cửa và một người
đàn bà nhỏ bé nhanh nhẹn bước vào.
Cô ấy nói, “Tôi là bác sĩ của anh. Cởi quần áo ra,
tôi phải kiểm tra anh.”
Mulla hỏi, “Bác sĩ muốn nói cởi toàn bộ ư?”
Bác sĩ nói, “Đúng, đó là điều tôi muốn nói.”
Thế là anh ta cởi quần áo ra. Người phụ nữ này
kiểm tra, khám bệnh cho anh ta. Thế rồi cô ta nói,
“Bây giờ anh có thể vào giường. Anh còn câu hỏi nào
nữa không?”
Mulla Nasruddin nói, “Mỗi một câu thôi: sao bác sĩ
lại phải bận tâm gõ cửa?”
Người đàn bà nói, “Chỉ là thói quen cũ.”
Thậm chí trong cử chỉ của bạn, thói quen cũ vẫn
còn dai dẳng. Thói quen dễ tuân theo bởi vì bạn không
cần nhận biết - chúng cứ theo cách của chúng. Nhận
biết là khó, bởi vì nó chưa bao giờ là thói quen cho
bạn.

Bạn chọn lựa dễ dàng, bạn lên án, ca ngợi dễ dàng,
bạn bác bỏ, chấp nhận dễ dàng. Bạn nói, “Cái này phải,
cái kia trái,” thật dễ dàng, bởi vì điều này đã trở thành
thói quen: trong hàng triệu kiếp, bạn bao giờ cũng chọn
lựa. Đây chỉ là hiện tượng tựa người máy.
Không nhận biết, khoảnh khắc bạn thấy cái gì đó,
bạn đã quyết định và đánh giá. Hoa có đó: bạn nhìn và
bạn nói, “Đẹp,” hay “Không đẹp.” Lập tức phán xét
tới; với cảm nhận, phán xét tới. Thế thì bạn sẽ chẳng
bao giờ có thể vẫn còn ở giữa được.
Ai đó tới gặp Trang Tử và ông ta nói về một người
trong thành và nói, “Nó là tội nhân, người rất xấu, kẻ
cắp,” và lên án người này theo nhiều, nhiều cách.
Trang Tử lắng nghe và nói, “Nhưng anh ta thổi sáo
tuyệt vời.”
Thế rồi người khác tới, và người thứ nhất vẫn còn
ngồi đó, và người kia nói, “Người này trong thành phố
thực sự là người thổi sáo cừ.”
Trang Tử nói, “Nhưng anh ta là kẻ cắp.”
Cả hai người đều có mặt, cho nên họ nói, “Ông
ngụ ý gì?”
Trang Tử nói, “Chỉ là việc cân bằng. Và ta là ai mà
phán xử? - anh ta là kẻ cắp, anh ta là người thổi sáo
hay. Với ta không có bác bỏ, không có chấp nhận. Với
ta không có chọn lựa. Anh ta là bất kì cái gì anh ta là.
Ta là ai mà phán xử hay chọn cực đoan này hay cực
đoan kia? Với ta, anh ta không tốt cũng chẳng xấu.
Anh ta là bản thân anh ta và đó là việc của anh ta. Ta
là ai ở đây để nói điều gì? Ta phải nói điều gì đó chỉ để
làm cân bằng cho cả hai ông thôi.”
Khó mà không chọn lựa, nhưng cố lên. Và trong
mọi thứ... Khi bạn cảm thấy ghét, cố chuyển vào giữa.
Khi bạn cảm thấy yêu, cố chuyển vào giữa. Dù bạn
cảm thấy bất kì cái gì, cố chuyển vào giữa. Và bạn sẽ
ngạc nhiên là có một điểm ở giữa bất kì hai cực đoan
nào, nơi cả hai đều dừng tồn tại - khi bạn không cảm
thấy ghét mà cũng không cảm thấy yêu. Đây là điều
Phật gọi là upeksha, dửng dưng. Dửng dưng không
phải là từ đúng.
Upeksha có nghĩa là điểm giữa, như vậy từ đó bạn
không thế này cũng chẳng thế nọ. Bạn không thể nói,
“tôi yêu,” bạn không thể nói, “tôi ghét.” Bạn đơn giản
không thể nói điều gì, bạn đơn giản ở giữa. Bạn không
bị đồng nhất. Siêu việt xảy ra, và siêu việt là việc nở
hoa. Đó là chín chắn cần được đạt tới, đó là mục đích.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #3 Dừng nói và nghĩ

Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại
của chúng;
khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ lỡ
thực tại của chúng.
Ông càng nói và nghĩ nhiều về nó, thì ông càng
vẩn vơ lạc lối xa khỏi chân lí.
Dừng nói và nghĩ, và không có gì mà ông sẽ không
có khả năng biết.

Thực tại bao giờ cũng có đó, chờ đợi ở ngay gần
trái tim bạn, gần mắt bạn, gần tay bạn. Bạn có thể
chạm vào nó, bạn có thể cảm thấy nó, bạn có thể sống
nó - nhưng bạn không thể nghĩ về nó. Thấy là có thể,
cảm là có thể, chạm là có thể, nhưng nghĩ là không thể.
Cố hiểu bản chất của suy nghĩ đi. Suy nghĩ bao giờ
cũng là về, không bao giờ trực tiếp. Bạn có thể thấy
thực tại đó nhưng bạn sẽ phải nghĩ về nó, và về là cái
bẫy, bởi vì bất kì khi nào bạn ‘nghĩ về’ thì bạn lại
chuyển ra xa. ‘Về’ có nghĩa gián tiếp. ‘Về’ có nghĩa
bạn sẽ không thấy hoa này ở đây và bây giờ, bạn sẽ
nghĩ về nó, và cái ‘về’ sẽ trở thành rào chắn. Qua cái
‘về’ đó bạn sẽ không bao giờ đạt tới hoa này.
Thấy là trực tiếp, chạm là trực tiếp, nghĩ là gián
tiếp. Đó là lí do tại sao việc nghĩ lại làm lỡ. Người yêu
có thể biết thực tại, thậm chí vũ công có thể biết nó, ca
sĩ có thể cảm thấy nó, nhưng nhà tư tưởng thì cứ làm lỡ
nó.
Tôi đã từng nghe về một triết gia Do Thái. Ông ta
là một nông dân bình thường nhưng rất triết lí. Tên ông
ta là Yossel. Ông ta sẽ nghĩ về mọi thứ, như các triết
gia đều thế cả. Rất khó cho ông ta làm điều gì bởi vì
suy nghĩ sẽ chiếm hết thời gian của ông ta, và đến lúc
ông ta sẵn sàng thì cơ hội lại mất.
Có lần ông ta đi ra chợ, sang làng bên cạnh, để bán
lúa mì. Ông ta bảo với vợ, “Ngay khi anh bán xong lúa
mì, lập tức anh sẽ gửi cho em một bức điện tín.”

Ông ta bán xong lúa mì được lãi rất nhiều cho nên
ông ta viết một bức điện tín, đến bưu điện, điền vào
mẫu - và thế rồi bắt đầu nghĩ về nó.
Ông ta viết: “Lúa mì đã bán được lãi lắm. Sẽ về
ngày mai. Yêu em và hôn em, Yossel.”
Thế rồi ông ta bắt đầu nghĩ và ông ta đã nghĩ thế
này, “Vợ mình sẽ cho rằng mình điên mất. Sao lại phải
‘được lãi lắm’? Chẳng lẽ mình đi bán lỗ hay sao?” Thế
là ông ta gạch đi từ ‘được lãi lắm’. Thế rồi ông ta trở
nên bận tâm hơn, bởi vì nếu ông ta có thể bỏ lỡ và viết
nhầm một từ thì ông ta có thể đã phạm phải lỗi khác
nữa. Cho nên ông ta nhìn lại, bắt đầu nghĩ về từng từ.
Thế rồi ông ta nói, “Sao lại ‘sẽ về ngày mai’? Mình
định về tháng sau chắc? Hay năm sau? Vợ mình biết
thừa rằng mình sẽ về ngay khi lúa mì bán xong.” Thế
là ông ta lại xoá đi từ ‘sẽ về ngày mai’.
Thế rồi ông ta nghĩ, “Vợ mình đã biết rằng mình đi
bán lúa mì, vậy sao phải viết, ‘lúa mì đã bán’?” Ông ta
xoá nốt chữ đó nữa.
Và thế rồi ông ta bắt đầu cười. Ông ta nói, “Mình
đang viết cho vợ mình cơ mà. Sao mình lại phải viết
‘yêu em và hôn em’? Mình có viết cho vợ ai khác đâu?
Và đấy có phải là ngày sinh nhật của cô ấy hay ngày
Yom Kippur hay cái gì đâu?” Ông ta xoá nốt chữ đó.
Bây giờ chỉ còn lại mỗi tên ông ấy: Yossel. Ông ấy
tự nói với mình, “Yossel, mình điên chắc? Vợ mình đã
biết tên mình rồi.” Thế là ông ta xé bức điện tín đi,
sung sướng rằng ông ta đã tiết kiệm nhiều tiền và sự
ngu xuẩn.
Nhưng đây là cách thức điều đó xảy ra: nếu bạn cứ
nghĩ ‘về’, bạn bỏ lỡ toàn bộ cuộc sống - mọi thứ đều bị
xoá dần đi. Đến cuối bạn cũng bị xoá nốt: không chỉ
lời bị xoá đi, bạn đến cuối cũng bị xoá nốt. Suy nghĩ
trở thành giống như làn khói; mọi thứ đi vào trong nó
và mọi thứ kết thúc. Và hành động trở thành không thể
được - thậm chí việc gửi một bức điện tín cũng không
thể được. Hành động trở thành không thể được bởi vì
hành động là trực tiếp còn suy nghĩ là gián tiếp. Chúng
chưa bao giờ gặp nhau.
Đây là vấn đề trong thế giới này: người nghĩ, họ
không bao giờ hành động; còn người không nghĩ, họ
cứ hành động. Thế giới này trong khổ sở. Người ngu,
họ cứ hành động bởi vì họ chẳng bao giờ nghĩ, họ nhẩy
vào mọi việc. Những người như Hitler và Napoleon và
Mao, họ cứ làm mọi thứ, còn người khôn ngoan, cái
gọi là các nhà tư tưởng - Aristotle, hay Kant, hay
Hegel - họ cứ nghĩ, họ chẳng bao giờ làm gì cả.
Vấn đề cho người đang tìm kiếm là cách thức dừng
cái vòng luẩn quẩn của suy nghĩ, nhưng nhận biết. Bởi
vì người ngu cũng không nghĩ, nhưng họ không nhận
biết. Nhận biết: năng lượng chuyển vào trong suy nghĩ
nên trở thành nhận biết. Ý thức đi vào cái vòng luẩn
quẩn với suy nghĩ nên được giữ lại, làm thuần khiết.
Suy nghĩ nên dừng lại, vòng xoáy của ý thức nên dừng
lại, nhưng không phải là ý thức. Ý thức nên ngày càng
kết tinh lại. Và hành động nên có đó, hành động không
nên dừng.
Nhận biết cộng với hành động, và bạn sẽ đạt tới
thực tại ngay lập tức. Và không chỉ bạn - bạn sẽ tạo ra
tình huống trong đó người khác cũng có thể đạt tới

thực tại. Bạn sẽ trở thành nơi chốn, bầu không khí bao
quanh mà mọi sự sẽ bắt đầu xảy ra. Đó là điều đã xảy
ra với một Phật, với một Tăng Xán, với một Trang Tử.
Nhớ lấy: hành động là tốt, suy nghĩ là cái vòng
luẩn quẩn; nó chẳng bao giờ dẫn đến đâu cả. Cho nên
suy nghĩ phải dừng nhưng hành động không dừng. Có
những người cứ nghĩ mãi: hành động sẽ dừng. Đó là
cách điều đó xảy ra khi một người từ bỏ cuộc sống, đi
vào rừng sâu hay Himalaya. Người ấy từ bỏ thế giới
này nơi hành động là cần thiết. Người ấy đang từ bỏ
bản thân thực tại, bởi vì thông qua hành động mà bạn
đi tới tiếp xúc với thực tại. Thấy là hành động, đi là
hành động, nhẩy múa là hành động, vẽ là hành động.
Bất kì cái gì bạn làm, bạn đều đi tới tiếp xúc với thực
tại. Bạn phải trở nên ngày càng nhậy cảm hơn trong
việc làm của mình. Làm không phải là từ bỏ.
Hành động nên là toàn bộ ở đó, bởi vì đó là bước
chuyển để bạn đi vào trong thực tại và thực tại đi vào
trong bạn. Cố hiểu, bởi vì đây là điều rất cơ bản - cơ
bản với tôi: từ bỏ suy nghĩ, không từ bỏ hành động.
Có những người cứ suy nghĩ mãi, và có những
người cứ từ bỏ hành động. Nhưng trên Himalaya họ sẽ
làm gì? Thế thì không đi vào trong hành động, toàn bộ
năng lượng sẽ đi vào trong suy nghĩ. Họ sẽ trở thành
các triết gia lớn. Nhưng triết học là mảnh đất của kẻ
ngu: bạn sống trong từ ngữ, không trong thực tại. Tình
yêu biến mất, chỉ từ ‘tình yêu’ là còn lại. Thượng đế
biến mất - bởi vì ngài có đó trên cánh đồng, trong bãi
chợ, trên thế giới này - nhưng từ ‘Thượng đế’ còn lại.
Hành động biến mất, chỉ khái niệm là được mang theo.
Đầu bạn trở thành toàn bộ con người bạn.
Tránh điều này ra. Đừng bao giờ từ bỏ hành động,
chỉ từ bỏ suy nghĩ. Nhưng nếu bạn từ bỏ suy nghĩ có
khả năng bạn có thể trở thành vô ý thức - hay bạn có
thể trở thành kẻ ngu. Bạn có thể bắt đầu làm bất kì điều
gì, bất kì cái gì, bởi vì bây giờ bạn không biết phải làm
gì, và bạn không nghĩ. Bạn có thể phát rồ. Suy nghĩ
cần vứt bỏ, nhưng đừng trở nên vô nhận biết hơn, vô ý
thức hơn. Bạn phải trở nên ý thức nhiều hơn.
Đây là toàn bộ nghệ thuật thiền: cách đi sâu vào
trong hành động, cách từ bỏ suy nghĩ, và cách chuyển
năng lượng mà trước đây đã đi vào trong suy nghĩ, nay
đi vào trong nhận biết.
Việc này sẽ rất là tinh tế và tinh vi, bởi vì nếu bạn
lỡ một bước, bạn sẽ rơi vào dốt nát vô hạn.
Dễ dàng vứt bỏ suy nghĩ, nhưng thế thì bạn lại đi
ngủ. Hàng ngày trong giấc ngủ sâu điều đó xảy ra: bạn
từ bỏ, suy nghĩ dừng lại - nhưng thế thì bạn không còn
đó nữa, ý thức bị loại bỏ. Ý thức của bạn đã trở nên
quá gắn bó, quá liên kết với suy nghĩ, cho nên bất kì
khi nào suy nghĩ dừng lại, bạn rơi vào cơn mê.
Và đây là vấn đề. Người ta phải từ bỏ suy nghĩ và
không rơi vào cơn mê, bởi vì cơn mê sẽ không đưa bạn
tới thực tại. Nếu bạn rơi vào vô thức bạn không đi vào
trong thực tại, bạn đơn giản ngủ say: ý thức đã hoà vào
trong vô ý thức. Chính điều ngược lại mới phải đạt tới:
vô thức hoà vào trong ý thức. Nếu ý thức rơi vào vô
thức, bạn rơi vào trong cơn mê, còn nếu vô thức rơi
vào trong ý thức và trở thành bản thân ý thức, bạn trở
nên chứng ngộ, bạn trở thành vị Phật, một Tăng Xán.

Và rất dễ để giúp cho ý thức rơi vào trong vô thức,
bởi vì nó là một mảnh rất nhỏ. Một phần mười con
người bạn là ý thức, chín phần mười con người bạn là
vô thức. Chỉ một mảnh nhỏ mới trở thành ý thức, và
mảnh đó nữa cũng thường xuyên vẩn vơ. Bất kì
khoảnh khắc nào nó cũng có thể đổ xuống, điều đó rất
dễ dàng.
Đó là cách nó xảy ra trong sự say: bạn uống rượu,
ý thức rơi vào trong vô thức. Do đó, có sự hấp dẫn của
rượu trong tất cả các thời đại, tất cả các hoàn cảnh và
tất cả các nước. Và đây là điều xảy ra khi bạn dùng ma
tuý: ý thức rơi vào trong vô ý thức.
Điều đó là đẹp bởi vì suy nghĩ dừng lại. Ngủ là đẹp
và bạn có nhiều, nhiều mơ. Và nếu bạn là tay mơ giỏi
thế thì ma tuý sẽ cho bạn những mơ đẹp - không tưởng,
đậm mầu sắc hơn bất kì mơ nào có thể có, chói sáng
hơn. Bạn đi vào trong thiên đường, vào vùng đất mơ,
nhưng bạn không đi vào trong thực tại.
LSD, cần sa, ma tuý hay bất kì thuốc nào, chỉ cho
bạn giấc ngủ ngon, và trong giấc ngủ ngon đó bạn mơ.
Những mơ đó đầy mầu sắc, và cuộc sống bạn nghèo
nàn thế và cuộc sống bạn khổ sở đến mức bạn thậm chí
muốn sống với mơ hơn là sống trong cuộc đời khổ sở
này. Cuộc sống này tựa như cơn ác mộng. Cho dù ma
tuý chỉ cho bạn mơ chói sáng, đầy mầu sắc, ba chiều,
thì sao không lấy nó? - bởi vì cái gì có đó trong cuộc
sống này? Bởi vì cuộc sống là đống lộn xộn thế nên
bạn chọn mơ.
Ma tuý, rượu cồn, hay các loại chất gây say khác,
chúng bao giờ cũng được người tôn giáo dùng, nhưng
qua chúng bạn chưa bao giờ đi vào trong thực tại cả.
Qua chúng bạn rơi vào trong trạng thái đờ đẫn, vào
trong cơn mê, và trong cơn mê đó bạn có thể có những
mơ.
Và nếu bạn đã nghĩ quá nhiều về Thượng đế, bạn
có thể thấy Thượng đế, bởi vì bạn có thể phóng chiếu
mơ riêng của mình. Mơ có thể được hướng dẫn và chỉ
dẫn. Nếu bạn đã nghĩ quá nhiều về Christ, thế thì trong
khi dưới ảnh hưởng của ma túy, Christ sẽ xuất hiện cho
bạn. Đây là tâm trí riêng của bạn đang chơi trò láu cá.
Nếu bạn gắn bó quá nhiều với Krishna thế thì ngài sẽ
đứng đó với cây sáo trên môi, ca hát và nhẩy múa. Nếu
người Hindu, người sùng kính Krishna, dùng LSD,
người đó sẽ thấy Krishna, và người Ki tô giáo sẽ thấy
Jesus, Phật tử sẽ thấy Phật - nhưng những điều này đều
là phóng chiếu của tâm trí.
Thực tại là khổ sở, nhưng đừng khao khát mơ, bởi
vì nếu bạn khao khát theo mơ thế thì chỉ có một cách:
làm sao giúp cho ý thức trở thành vô ý thức lần nữa.
Một phần nhỏ đã thoát ra khỏi vô thức, và đó là cái đẹp
của con người; khổ sở và cực lạc có cả hai, nhưng đó
là cái đẹp của con người - rằng con người đã trở thành
một hòn đảo trong vô thức bao la. Hòn đảo này phải
phát triển ngày càng cao hơn để cho nó trở thành lục
địa. Qua ma tuý nó sẽ lại đi ngầm dưới nước, bạn sẽ lại
sống cuộc sống của con vật hay cây cối - đẹp trong bản
thân chúng nhưng không xứng với bạn, bởi vì bạn đang
làm mất đi nhiều thế. Và bạn có thể đạt tới thực tại;
hòn đảo đó có thể trở thành lục địa.
Nhưng không chỉ ma tuý - còn có những phương
tiện tinh vi khác cũng giúp cho ý thức trở thành vô ý

thức. Qua âm nhạc điều đó có thể được thực hiện, qua
tụng niệm điều đó có thể được thực hiện. Nếu bạn cứ
lặp lại một câu mật chú liên tục, bạn sẽ rơi vào giấc
ngủ, bởi vì bất kì cái gì đơn điệu đều đưa tới cơn mê.
Chúng là những phương tiện tinh vi, không giống
ma tuý trên bề mặt. Trong mọi chùa chiền, đền đài, nhà
thờ, việc đó vẫn tiếp diễn - mà chùa chiền và nhà thờ
thì chống lại ma tuý, và họ không biết họ đang làm gì.
Họ cũng dùng ma tuý tinh vi, không thô thiển như LSD
hay cần sa nhưng cũng vẫn là ma tuý - bởi vì khi bạn
tụng một từ nào đó liên tục, nó đem lại cho bạn giấc
ngủ, nó không thể trao cho bạn bất kì cái gì khác. Bạn
thảnh thơi. Chính việc tụng niệm đem lại cho bạn cái
chán sâu sắc. Cùng từ ấy - Ram, Ram, Ram - bạn cứ
tiếp diễn, tiếp diễn mãi... Bạn sẽ làm gì? Bởi vì tâm trí
vẫn còn tỉnh táo, chỉ nếu cái gì đó mới đang xảy ra, thế
thì tâm trí mới tỉnh táo. Nếu không có cái gì mới xảy
ra, chỉ Ram, Ram, Ram, tụng niệm, và bạn biết rằng nó
sẽ xảy ra lặp đi lặp lại, vô hạn, tâm trí bắt đầu cảm thấy
buồn ngủ.
Mọi người mẹ đều biết điều này: bất kì khi nào đứa
trẻ không muốn ngủ, cô ấy sẽ lặp lại một điệp khúc, rất
đơn giản, hai hay ba từ, và cô ấy sẽ lặp lại mãi, bài ru
con. Nó trở thành mật chú và đứa trẻ đi vào giấc ngủ.
Và tâm trí cũng vậy - dù bạn là đứa trẻ hay người già
cũng chẳng có gì khác biệt - tâm trí đi vào giấc ngủ
qua bài hát ru, nhưng tiến trình thì là một.
Suy nghĩ phải bị dừng lại, nhưng không bằng cách
trở thành vô thức. Suy nghĩ phải bị dừng lại bằng việc
trở nên ý thức hơn, tỉnh táo hơn, nhận biết hơn, để cho
năng lượng vốn đi vào trong suy nghĩ nay đi vào trong
tâm thức, và việc chứng kiến nẩy sinh trong bạn. Cho
nên nhớ lấy, suy nghĩ phải bị dừng lại không qua tụng
niệm, mà qua trở thành nhân chứng cho tiến trình suy
nghĩ - nhìn vào nó, quan sát nó, người quan sát trên
đồi, nhìn, thấy...
Nếu bạn thấy sâu và xuyên thấu vào lời, chúng bắt
đầu biến mất. Lỗ hổng tới, một khoảng hở. Mây biến
mất và người ta thấy bầu trời xanh. Bạn tỉnh táo, nhạy
cảm, không trong cơn mê. Nhiều vô thức hơn đã bị rút
vào trong tâm thức; ngọn lửa của bạn lớn hơn, sống
động hơn, và bạn có thể thấy nhiều hơn, bạn có thể
động chạm nhiều hơn, bạn có thể nếm trải nhiều hơn.
Và hành động của bạn mang phẩm chất mới, phẩm
chất của điều thiêng liêng.
Bất kì khi nào vị phật chạm tới bạn, cái chạm đó
khác. Bạn cũng chạm, đôi khi bạn cũng cảm thấy khác
biệt. Bạn chạm vào một người chỉ một cách tình cờ, và
thế thì bạn không đi qua bàn tay. Thế thì bàn tay là
chết, đóng kín; bạn đơn giản nói lời chào với bàn tay
chết. Bạn có thể cảm thấy nó, rằng bàn tay này đã đưa
ra nhưng mà vẫn chưa được đưa ra. Nó mang tính
ngoại giao. Bàn tay không sống động, không ấm áp,
không gặp gỡ và hội nhập với bạn. Đôi khi, trong tình
yêu bàn tay được trao, nó là sự hội nhập, năng lượng
tuôn chảy qua nó, nó là lối mở. Qua bàn tay mà bản thể
tới gặp bạn. Nó ấm áp, nó sống động, nó tin cậy bạn.
Khi vị phật chạm vào bạn, điều đó khác biệt hoàn
toàn, phẩm chất đã thay đổi - bởi vì bất kì khi nào tâm
thức là toàn bộ, tuyệt đối, mọi hành động đều trở thành
toàn bộ. Khi ông ấy chạm, ông ấy trở thành cái chạm
toàn bộ, và bạn sẽ cảm thấy rằng bạn được sáng lên

qua cái chạm của ông ấy - năng lượng đã chuyển vào
trong bạn. Nếu bạn không sẵn sàng, thậm chí bạn có
thể bị giật. Nếu bạn sẵn sàng thế thì bạn sẽ vui sướng,
bạn sẽ sung sướng trong nó.
Khi vị phật nhìn vào bạn, ông ấy trở thành chỉ là
đôi mắt; ngoài ra không thể có được, bởi vì ông ấy
không bị phân chia bên trong. Khi bạn nhìn, bạn nhìn
và bạn làm nhiều điều khác nữa. Suy nghĩ tiếp diễn,
bạn tiếp diễn, bị phân chia. Mắt bạn không toàn bộ.
Khi vị phật nhìn bạn, mắt ông ấy là toàn bộ. Chúng
sẽ giống như mặt trời thiêu đốt. Chúng sẽ thấm nhuần
bạn, chúng sẽ tạo ra lỗ hổng bên trong con người bạn,
chúng sẽ đi thẳng vào tim bạn. Bạn sẽ không bao giờ là
như cũ nữa - nếu bạn cho phép nó. Ngược lại, bạn có
thể vẫn còn đóng kín và ông ấy không thấm nhuần vào
bạn được. Thậm chí ông ấy chạm, thì ông ấy cũng
chạm vào xác chết - bạn có thể vẫn còn khép kín.
Bất kì khi nào tâm thức có đó, và hành động, tâm
thức và hành động trở thành cái toàn bộ.
Bây giờ cố theo những lời này, chúng rất hay.
Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại
của chúng;
khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ lỡ
thực tại của chúng.

Phủ nhận thực tại của mọi điều... Đã từng có các
triết gia người phủ nhận thực tại của mọi vật. Nhìn
xem, chúng ta có thể làm cùng điều này theo hai cách...
Có một câu chuyện hay. Ngày xưa chuyện đã xảy
ra:
Akbar, vị hoàng đế Moghul vĩ đại, vẽ một đường
thẳng trên tường, và ông ta bảo với những người trí
huệ của mình không được chạm vào nó nhưng làm cho
nó nhỏ hơn. Họ đều phân vân và họ nghĩ, “Điều ấy
không thể được!”
Thế rồi một trong những người trí huệ của ông ấy,
Birbal, vẽ một đường thẳng khác gần nó, một đường
lớn hơn, mà không chạm vào đường thứ nhất. Khi
đường lớn hơn này được vẽ ra, đường thứ nhất trở
thành nhỏ hơn.
Nếu bạn vẽ một đường nhỏ thế thì đường thứ nhất
sẽ trở thành lớn hơn, cho nên có hai cách. Hoặc là bạn
làm cho con người bạn lớn hơn - thế thì thế giới trở
thành nhỏ hơn, nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa... một khoảnh
khắc tới khi con người bạn trở thành toàn bộ, thành
Brahman, thế giới biến mất, thế thì không còn thế giới
nữa. Thế rồi còn có một cách khác, và cách khác này
chỉ là một thủ đoạn: bạn cứ nói thế giới này là ảo
tưởng, maya, nó không có đó. Bạn cứ phủ nhận thực
tại của thế giới này và cứ tự thuyết phục bản thân mình
rằng nó không có, nó không hiện hữu, nó không thật,
nó là thứ mơ. Cho nên bạn tự thuyết phục mình thế
giới này là mơ: bạn cảm thấy rằng bây giờ bạn là thật
nhưng việc cảm đó là không đúng. Đấy là lừa dối.
Triết học bao giờ cũng làm điều này: nó cứ nói thế
giới là không thực. Tới những người theo Veda mà
xem: điều đó đã xảy ra khác cho Shankara. Shankara
đã hiểu bản thể mình, ông ấy trở thành vô hạn; thế thì

thế giới này biến mất bởi vì không thể có hai cái vô
hạn. Nếu bạn trở thành vô hạn, thế giới này biến mất.
Nó bị hấp thu, bởi vì hai cái vô hạn là không thể được,
chỉ một cái vô hạn mới có thể thôi.
Shankara trở thành vô hạn, thành Brahman, cái
tuyệt đối; thế thì ông ấy có thể nói thế giới này là ảo
tưởng, và ông ấy đúng. Nhưng điều này không phải là
phát biểu triết lí, đó là cảm giác tôn giáo. Ông ấy cảm
thấy điều đó, rằng thế giới này không có. Nhưng thế
rồi các tín đồ lại lấy bài thơ ấy và họ đã tụng nó từ
nghìn năm nay. Họ nói thế giới là ảo tưởng, nó là
maya, nó không có đó, nó chỉ có vẻ thế thôi.
Bạn có thể đi tới niềm tin qua triết lí rằng, vâng...
bạn có thể cứ xoá nó đi, bạn có thể tự thuyết phục
mình rằng nó không có đó, bạn có thể cố gắng tìm ra
bằng chứng và luận cứ rằng đó là ảo tưởng. Và nếu bạn
có thể thuyết phục tâm trí mình rằng nó là ảo tưởng,
bạn sẽ có một cảm giác, cảm giác sai lầm, rằng bạn đã
trở thành Brahman.
Bạn phải trở thành Brahman, thế thì thế giới trở
thành ảo tưởng, không cách nào khác. Làm sao bạn sẽ
trở thành Brahman nếu thế giới này trở thành ảo
tưởng? Và nó không thể trở thành ảo tưởng được bởi vì
đấy chỉ là quan niệm; bạn nghĩ.
Những người theo Veda cứ nói mãi thế giới này là
ảo tưởng, nhưng nhìn họ mà xem. Ném một hòn đá vào
họ và họ sẽ giận dữ, họ sẽ bắt đầu đánh lại bạn. Thế
giới này không phải là ảo tưởng; chỉ họ mới có khái
niệm, triết lí. Và triết gia có thể rất tinh ranh.
Chuyện có lần đã xảy ra:
Một tín đồ của Nagarjuna... Nagarjuna có thời đã
là một trong những nhà huyền môn Ấn Độ vĩ đại nhất
đã từng được sinh ra. Ông ấy đã hiểu bản thể vô hạn
của mình - thế giới đã tan biến. Thế rồi tín đồ tới, và
tín đồ thì bao giờ cũng là các bản sao, nhất định là như
vậy trừ phi bản thân họ cố gắng hiểu thấu thực tại và
không lấy lời thầy làm sự tin cậy.
Lời của thầy đơn giản gây cảm hứng, khêu gợi,
giúp đỡ, nhưng nó không nên bị tin cậy vào, nếu không
thì nó sẽ trở thành triết lí. Bạn phải hiểu nó. Và khi bạn
hiểu, chỉ thế thì bạn mới có thể nói, “Vâng, thầy đúng.”
Làm sao bạn có thể nói điều đó trước được? Nhưng
cũng dễ gật đầu một cách triết lí: “Vâng.”
Các tín đồ tới và một trong các tín đồ - người này
là một triết gia lớn, một người rất thích tranh cãi - ông
ta đã chứng minh theo nhiều cách rằng thế giới là
không thực.
Vua của nước đó triệu ông ta tới, bởi vì tên tuổi
của ông ấy đồn tới tận triều đình, và vua nói, “Thật thế
à, ngươi nghĩ rằng thế giới này không thật sao? Nghĩ
hai lần đi, bởi vì ta là người nguy hiểm. Và ta không
phải là con người của lời nói, ta là con người của hành
động. Ta sẽ làm điều gì đó mà sẽ chứng tỏ rằng thế
giới này không phải là không thực. Cho nên nghĩ hai
lần đi.”
Người này nói, “Không có vấn đề nghĩ hai lần.
Thần đã nghĩ cả triệu lần và thần có đủ mọi bằng
chứng rằng thế giới này là không thật.”
Nhưng ngay cả triết gia này cũng không biết về
điều nhà vua định làm. Ông ta có một con voi điên.

Cho nên con voi điên được đem tới sân điện, và triết
gia này cũng bị tống vào trong sân điện đó. Ông ta bắt
đầu la hét và bỏ chạy, với con voi điên đuổi theo sau.
Con voi điên túm lấy ông ấy. Vào khoảnh khắc đó ông
ta bắt đầu nói với nhà vua, “Xin cứu thần! Con voi này
là thật. Thần xin rút lại phát biểu của mình!”
Ông ta được cứu thoát. Lần nữa nhà vua lại triệu
ông ta, khi ông ta định thần lại - bởi vì ông ta run rẩy
và vã mồ hôi, thâm tím khắp mình mẩy và chảy máu
nhiều chỗ. Vua nói, “Bây giờ ông nghĩ gì?”
Ông ta đáp, “Thế giới là không thật.”
Vua nói, “Ông ngụ ý gì? Vào khoảnh khắc con voi
sắp sửa giết chết ông, thì ông nói rằng thế giới là thực.
Bây giờ ông lại thay đổi sao?”
Triết gia này đáp, “Con voi, con người, sự khẳng
định, tất cả đều không thật. Con voi, cái điên khùng
của con voi, con người bệ hạ đang thấy trước bệ hạ,
người đã khẳng định rằng thế giới là thật - tất cả đều
không thật.”
Vua nói, “Thế thì ta sẽ cho con voi điên đó tới
nữa.”
Và triết gia này nói, “Thế thì cùng điều ấy sẽ xảy
ra lần nữa: thần sẽ nói nó là thực. Nhưng lần nữa, thần
có thể làm được gì?”
Triết lí có thể rất tinh ranh. Bạn có thể cứ chơi trò
láu cá với bản thân mình và bạn có thể tự thuyết phục
mình rằng thế giới này là không thực. Nhưng cần gì
phải chứng minh và thuyết phục? Nhu cầu tới bởi vì
bạn không biết. Khi bạn biết, chẳng còn vấn đề thuyết
phục, chứng minh, tranh cãi. Triết lí là sự thay thế cho
tri thức. Nếu bạn biết, thế thì không cần triết lí. Nếu
bạn không biết, thế thì có nhu cầu, bởi vì tri thức thu
được qua triết lí có vẻ giống như tri thức thật.
Vấn đề không phải là chứng minh rằng thế giới
này không thật. Lời kinh này nói: Phủ nhận thực tại
của mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng... và thực tại
của chúng là Thượng đế, thực tại của chúng là chân lí.
Cây có đó: nếu bạn phủ nhận thực tại của cây, bạn đã
phủ nhận điều thiêng liêng bên trong nó, chân lí bên
trong nó. Cây chỉ là một sự kiện; sự kiện chỉ là cái vỏ
che chân lí. Chim là một sự kiện khác, nhưng chân lí là
một. Đôi khi chân lí dường như là con chim, đôi khi
như cây, đôi khi như tảng đá, đôi khi như con người.
Đây là tất cả các hình dạng.
Sự kiện là hình dạng, nhưng trong mọi sự kiện, nếu
bạn đi sâu hơn, lại là chân lí. Nếu bạn phủ nhận tất cả
hình dạng, bạn đã phủ nhận cái vô hình bên trong. Nếu
bạn nói cái không là thực, thế thì làm sao điều thiêng
liêng có thể thực, làm sao Thượng đế có thể thực? Nếu
bạn nói thế giới này là ảo tưởng, thế thì làm sao người
sáng tạo ra thế giới ảo tưởng lại có thể là thực? Và làm
sao Thượng đế thực lại có thể tạo ra thế giới không
thực? Điều đó là không thể được, bởi vì thực tại tới từ
thực tại; cái không thực tới từ cái không thực. Một
Thượng đế thực không thể nào tạo ra được một thế giới
không thực. Và nếu thế giới này là không thực, thì
đấng sáng tạo cũng là không thực. Nếu bạn phủ nhận
tiện nghi, thế thì bạn phủ nhận chân lí.
Lời kinh của Tăng Xán nói: Phủ nhận thực tại của
mọi điều là bỏ lỡ thực tại của chúng... và thực tại đó là

chân lí... khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ
lỡ thực tại của chúng.

Nếu bạn nói rằng mọi vật là hiện hữu nhưng chúng
là trống rỗng, thì thế nữa cũng là một quan điểm triết
học - có tốt hơn chút ít so với quan điểm đầu. Quan
điểm đầu nói toàn bộ thế giới là không thật, nó là
không hiện hữu, nó là không tồn tại; nó chỉ là trong
tâm trí bạn, nó không ở đâu khác cả; nó là sự phóng
chiếu tâm trí, nó là một ý nghĩ, nó giống như một mơ.
Triết lí kia, có tốt hơn chút ít, nói mọi sự đều hiện
hữu, nhưng chúng trống rỗng. Chúng không mang bất
kì cái ta nào bên trong chúng, chúng không phải là
thực chất. Chúng là chết, trống rỗng bên trong. Chúng
không là gì ngoài các hợp thành; không cái ta nào có
đấy. Cây có đấy, nhưng chỉ như một hợp thành; cây
không có cái ta, không atman. Nếu bạn rút các hợp
thành ra thế thì sẽ không có cái gì còn lại. Nó cũng
giống hệt như cái máy: nếu bạn tháo các bộ phận của
máy ra, chẳng còn lại gì nữa.
Điều đó nữa cũng không đúng, bởi vì cây tồn tại
không như một hợp thành mà như một bản thể. Thậm
chí tảng đá cũng có bản thể riêng của nó; khi bạn trở
nên nhạy cảm và tỉnh táo, bạn sẽ thấy rằng thậm chí
tảng đá cũng có tâm trạng của nó. Đôi khi nó hạnh
phúc và thế thì bạn có thể cảm thấy cái hạnh phúc của
tảng đá đó; đôi khi nó bất hạnh và thế thì bạn có thể
cảm thấy cái bất hạnh của tảng đá; và đôi khi nó hát và
bạn có thể nghe thấy bài ca đó.
Nhưng bạn cần nhiều nhạy cảm đấy, bởi vì ngay
bây giờ bạn không thể nghe thấy bài ca của vị phật -
làm sao bạn có thể nghe thấy bài ca của tảng đá? Bạn
điếc và mù, bạn không nhạy cảm và đờ đẫn.
Bạn không ý thức. Ý thức của bạn là mảnh nhỏ đến
mức nó bị cạn kiệt trong công việc hàng ngày, trong
thường lệ hàng ngày. Bạn chỉ đủ ý thức để tới văn
phòng và về nhà mà không xảy ra tai nạn nào trên
đường; bạn chỉ ý thức được đến thế thôi. Nhưng bạn
không thể cảm thấy tảng đá được, bạn không thể cảm
thấy cây cối được.
Bây giờ các nhà khoa học đang phát hiện ra rằng
cây có nhiều nhạy cảm tới mức bạn không thể hình
dung nổi. Cây đón chào mọi người nếu họ thân thiện,
và chúng trở thành đóng kín nếu họ thù địch. Nếu
người làm vườn tới, cứ cắt và tỉa, thì cây trở nên đóng.
Thậm chí trước khi người làm vườn tới... người đó đi
vào khu đất và cả vườn đã đóng lại, bởi vì kẻ thù đang
tới.
Một nhà khoa học, người đang làm việc rất sâu
sắc, trở nên tỉnh táo rằng không chỉ hành động; cây cối
trở nên nhận biết thậm chí cả ý nghĩ của bạn. Người đó
đang làm một thực nghiệm trên cây: cái cây này được
nối dây với một dụng cụ tinh vi để chắc chắn điều đã
xảy ra bên trong nó. Và người đó nghĩ, “Nếu vào
khoảnh khắc này mình bỗng nhiên chặt cây này ra làm
đôi, thì điều gì sẽ xảy ra?” và chiếc kim của dụng cụ đó
bắt đầu rung động nhanh - cái cây đã nhận được ý nghĩ
đó.
Thế rồi người đó thử nhiều thí nghiệm. Người đó
không chặt cây, người đó không làm hại nó - mới chỉ
là ý tưởng! Và bất kì khi nào ý tưởng này có đó, thì

chiếc kim sẽ chỉ ra rằng cây rất lo lắng và giận dữ. Và
không chỉ điều này: nếu bạn chặt một cây, thì cây bên
cạnh cũng biểu lộ buồn bã, lo lắng, giận dữ, lo âu. Bây
giờ có những dụng cụ có thể chỉ ra điều đang xảy ra
bên trong cây cối, và chẳng chóng thì chầy sẽ có các
dụng cụ chỉ ra điều đang xảy ra bên trong tảng đá.
Mọi thứ đều sống động, không cái gì trống rỗng cả.
Mọi thứ đều tràn đầy với tâm thức, các kiểu tâm thức
khác nhau - đó là lí do tại sao bạn không thể hiểu thấu
chúng. Điều đó khó bởi vì ngôn ngữ của tâm thức khác
nhau. Cây có một kiểu tâm thức khác, đá có một kiểu
khác. Khó trao đổi với chúng bởi vì ngôn ngữ khác
biệt, nhưng nếu bạn trở nên tỉnh táo hơn, nhận biết
hơn, và bạn không bị tràn ngập với các ý nghĩ trong
tâm trí, thế thì bạn thậm chí có thể tiếp cận tới tảng đá.
Chẳng cái gì trống rỗng cả, mọi thứ đều có cái ta của
riêng nó.
Người Hindu bao giờ cũng nhận biết rằng mọi thứ
đều có thần bên trong. Đó là lí do tại sao họ có thể tôn
thờ dòng sông, họ có thể tôn thờ cây cối, bởi vì họ nói
thần cây này, thần sông, thần đá... mọi thứ trên thế giới
đều tràn đầy với Thượng đế, chẳng cái gì trống rỗng
cả.
Một khi bạn nói rằng mọi thứ là trống rỗng, bạn bỏ
lỡ thực tại của chúng. Nhưng tại sao các triết gia lại cứ
cố chứng minh rằng mọi sự không hiện hữu, hay mọi
thứ là trống rỗng? Họ đang cố gắng làm điều đó, bởi vì
nếu người ta có thể chứng minh rằng mọi sự là trống
rỗng, thế thì bạn là tràn đầy - tương đối, bạn sẽ trở
thành đầy hơn. Với cái trống rỗng bao quanh tất cả,
bạn trở thành tràn đầy.
Nhưng đây là cách thức sai lầm. Trở thành tràn
đầy đi! Thủ đoạn liên quan này chẳng ích gì. Khi bạn
trở nên tràn đầy với tình yêu, nhận biết, thiền, thế thì
bạn sẽ không thấy rằng thế giới là trống rỗng. Trong
thực tế, bởi vì bạn trống rỗng, nên mọi thứ mới có vẻ
trống rỗng. Bởi vì bạn nhìn với con mắt trống rỗng,
nên mọi thứ trở thành trống rỗng - bạn đem bản thân
mình vào mọi thứ.
Nếu bạn không có tình yêu, thế thì bạn sẽ thấy rằng
không có tình yêu trên thế giới. Nếu bạn có trái tim đập
rộn ràng với tình yêu, bạn sẽ cảm thấy nhịp đập ở mọi
nơi, khắp xung quanh - trong cơn gió thoảng qua cây
cối, trong dòng sông tuôn chảy ra đại dương. Bạn sẽ
cảm thấy tình yêu ở mọi nơi! Bạn sẽ có khả năng cảm
thấy nó. Bạn có thể cảm thấy chỉ cái mà bạn có, không
cái gì khác có thể được cảm thấy cả.
Triết lí là một thủ đoạn để cảm thấy ‘có liên quan’.
Và tất cả chúng ta đều trở thành nạn nhân của điều này,
bởi vì tất cả chúng ta đều là chuyên gia trong thủ đoạn
đó. Đó là lí do tại sao nếu ai đó nói rằng hàng xóm bạn
là người ác và vô đạo đức, bạn lập tức tin ngay vào
điều đó - bởi vì nếu người đó là độc ác và vô đạo đức
bỗng nhiên bạn thành đạo đức và thánh thiện. Nếu ai
đó nói hàng xóm bạn là người rất đạo đức, thánh thiện,
hiền nhân, bạn không thể nào tin được điều đó. Bạn
nói: “Đưa ra bằng chứng đi! Anh có bằng chứng gì
nào? Dựa trên nền tảng nào mà anh nói điều đó? Tôi
biết anh ta rõ lắm, anh ta là hàng xóm tôi. Anh ta
chẳng có gì giống thế cả.” Tại sao?
Bất kì khi nào ai đó nói điều gì đó chống lại ai đó,
bạn tin điều đó ngay lập tức, bạn chẳng bao giờ hỏi về

nó. Đó là lí do tại sao chuyện tầm phào lại cứ tiếp diễn
nhiều thế. Nhưng bất kì khi nào ai đó nói điều gì đó
ủng hộ ai đó, bạn lập tức đề phòng. Tại sao? Bởi vì nếu
người ấy tốt thế, thì bỗng nhiên bạn thành xấu. Nếu có
hiền nhân thế thì bạn là ai? Bạn là kẻ ngu xuẩn. Và nếu
có thánh nhân, bạn là tội nhân. Bạn không thể ý thức
tới thủ đoạn này, nhưng đây là cách trò láu cá cứ diễn
ra.
Có hai cách: hoặc là bạn trở thành thánh hoặc là
bạn chứng minh rằng mọi người đều là kẻ có tội. Triết
lí cứ làm mãi cái thủ đoạn ấy. Bất kì cái gì bạn muốn
là, bạn đều phủ nhận thế giới. Nhưng điều đó chẳng ích
lợi gì. Bạn chẳng lừa dối được ai ngoài chính mình.
Lời kinh này của Tăng Xán nói:
Phủ nhận thực tại của mọi điều là bỏ lỡ thực tại
của chúng;
khẳng định cái trống rỗng của mọi điều là bỏ lỡ
thực tại của chúng.
Ông càng nói và nghĩ nhiều về nó,
ông càng vẩn vơ lạc lối xa khỏi chân lí.

Suy nghĩ là vẩn vơ ra xa, đi lạc lối. Bất kì khi nào
bạn nghĩ về bất kì cái gì, ngay lập tức bạn đã bắt đầu đi
lạc lối. Tôi đang ở đây, bạn có thể ở cùng với tôi -
nhưng nếu bạn bắt đầu nghĩ về tôi, bạn đang trên hành
trình đi xa mãi, đi mãi, và bạn càng suy nghĩ, bạn lại
càng đi xa hơn. Suy nghĩ là con đường thoát khỏi thực
tại; nó cho bạn hướng dẫn bên trong, nó làm cho bạn
một con đường trong tâm trí và bạn đi trên nó.
Người suy nghĩ chẳng bao giờ ở đây và bây giờ,
người ấy chưa bao giờ trong hiện tại cả, người ấy bao
giờ cũng ở đâu đó khác. Thiền nhân bao giờ cũng ở
đây và bây giờ, người ấy không ở đâu khác cả. Đó là lí
do tại sao suy nghĩ là rào chắn duy nhất trong thiền.
Bạn phải trở nên nhận biết, và dần dần, bạn càng trở
nên nhận biết hơn, bạn lại càng dừng việc hợp tác với
suy nghĩ.
Tôi đem một bông hồng tới cho bạn và bạn bắt đầu
nghĩ. Lập tức tâm trí nói, “Đẹp thật! Mình chưa bao
giờ thấy hoa hồng đẹp thế!” Hay, “Mình đã thấy vài
bông hồng khác cũng giống thế này,” và bạn cứ tiếp
diễn. Và thế thì tâm trí của bạn có thể nêu ra câu hỏi,
“Đẹp là gì?” Chẳng ai biết, chẳng ai đi tới kết luận gì.
Một trong những triết gia vĩ đại người Anh của thế
kỉ này, G.E. Moore, đã viết một cuốn sách, Principa
Ethica, một trong những nỗ lực logic nhất để định
nghĩa tốt là gì. Và sau hai hay ba trăm trang lập luận
logic chặt chẽ, ông ấy nói rằng khó mà định nghĩa tốt
là gì. Đến cuối ông ấy nói nó là không thể định nghĩa
nổi - nhưng sau hai hay ba trăm trang lập luận!
Một trong những tâm trí sành sỏi nhất cứ cố gắng
và cố gắng mãi, hết cách này đến cách khác; hết cửa
này đến cửa khác, ông ấy gõ đủ, và ông ấy đi tới kết
luận rằng tốt là không định nghĩa được - tại sao? Ông
ấy nói nó là một phẩm chất đơn giản, cũng giống như
mầu vàng vậy. Làm sao bạn định nghĩa được mầu
vàng? Bạn sẽ nói gì nếu ai đó hỏi, “Mầu vàng là gì?”
Bạn sẽ nói, “Mầu vàng là mầu vàng.” Bạn sẽ định
nghĩa nó như thế nào?

Bông hồng là bông hồng là bông hồng. Làm sao
bạn định nghĩa nó được? Nếu bạn nói nó đẹp, bạn có
biết đẹp là gì không? Đã ai định nghĩa nó chưa?
Không, họ nói đẹp là không thể định nghĩa được. Nếu
bạn so sánh nó với bông hồng khác... bạn có biết rằng
mọi thứ đều không so sánh được không? Làm sao bạn
có thể so sánh nó với bông hồng khác? Bông hồng này
chỉ là bông hồng này, nó không phải là bông hồng
khác. Tại sao bạn lại đem bông hồng khác vào?
Và khi bạn đem bông hồng khác vào, tâm trí bạn bị
lộn xộn; thế thì bạn có nhiều thứ trong tâm trí và chúng
sẽ trở thành rào chắn, và bông hồng này sẽ không thể
nào tiếp cận tới bạn được. Và đây mới là cái gì đó thật
- nó có thể đã thấm nhuần vào bạn, hương thơm của nó
có thể đã thấm nhuần vào bạn. Bông hồng này đã sẵn
sàng hạ gục trái tim bạn, nhưng bạn bắt đầu nghĩ về nó.
Và vào lúc bạn quay trở lại, bông hồng này sẽ không
còn đây nữa, bởi vì bông hồng sẽ không chờ đợi - nó
sẽ bị tàn phai đi. Nó có thông điệp, nó đem điều gì đó
của cái chưa biết. Nhưng cái chưa biết đó là tinh tế, nó
không thể tiếp tục mãi mãi được.
Nó đem điều gì đó từ cõi bên kia - mọi bông hồng
đều đem điều đó. Mọi sáng nó tới, gõ cửa nhà bạn,
nhưng bạn là người suy nghĩ vĩ đại. Một cái gì đó của
cái chưa biết, của điều thiêng liêng, một cái gì đó bên
ngoài thời gian thấm vào trong thời gian qua bông
hồng. Nhưng nếu bạn nghĩ, bạn lỡ, bởi vì trong suy
nghĩ bạn đi lạc lối, bạn đã đi ra xa.
Triết gia nghĩ về bông hồng. Nhà thơ cảm về bông
hồng. Và nếu bạn phải quyết định, quyết định bao giờ
cũng thiên về nhà thơ đi. Người ấy chạm vào thực tại
tốt hơn là triết gia. Và nhà huyền môn, người ấy không
nghĩ cũng chẳng cảm - người ấy đơn giản vẫn còn
trong sự hiện diện của bông hồng. Bởi vì việc cảm
cũng đi ra xa - không xa như suy nghĩ, nhưng việc cảm
cũng là đi xa, bởi vì việc cảm cũng là hoạt động tinh tế.
Nhà huyền môn đơn giản vẫn còn trong sự hiện
diện của bông hồng: không hoạt động, không nghĩ,
không cảm, không trái tim không cái đầu. Người ấy
đơn giản có đó với bông hồng. Điều này, người Hindu
gọi là satsang: hiện hữu với chân lí. Từ satsang có
nghĩa là ở trong sự hiện diện của chân lí.
Bông hồng có đó - bạn đang cùng với nó. Đừng tạo
ra bất kì hoạt động nào, dù tinh tế hay thô thiển. Nghĩ
là hoạt động rất thô thiển, cảm là hoạt động tinh tế -
nhưng bạn biết cảm có thể đổi thành nghĩ, nghĩ có thể
đổi thành cảm. Chúng là chuyển đổi được, chúng
không rất xa nhau cho lắm. Cảm là nghĩ theo một cách,
có thể là hạt mầm, hay chỉ mới nhú ra, còn nghĩ là cây,
nhưng tiến trình này không khác. Trái tim và cái đầu là
không rất xa nhau lắm. Suy nghĩ bắt đầu trong trái tim
và ngay lập tức, trước khi bạn trở nên nhận biết, chúng
đã đạt tới cái đầu.
Chỉ hiện hữu với... thế thì mọi thứ được lộ ra, thế
thì tất cả các cánh cửa đều mở. Không có câu hỏi,
không có câu trả lời. Bạn đơn giản trở thành một với
thực tại. Nghĩ - và bạn tách rời. Cảm - không tách rời
đến thế nhưng vẫn tách rời, được nối lại với nhau
nhưng vẫn tách rời.
Đừng nghĩ đừng cảm, chỉ hiện hữu, và bỗng nhiên
bạn không có đó và thế giới này không có đó. Cái Một,

Brahman, được lộ ra. Bạn và thế giới, cả hai đã trở
thành một. Cái Một, cái vô hạn, có đó, cái vô hình có
đó - và đó là chân lí.
Chân lí không phải là kết luận triết lí, nó là kinh
nghiệm tồn tại. Nó không nghĩ cũng không cảm, nó là
sự tồn tại - với toàn bộ bản thể mình, bạn đang cùng
với nó.
Khi một giọt nước rơi vào trong đại dương, dù nó
rơi với cái đầu hay với trái tim, nó đều rơi một cách
toàn bộ - tim, đầu, mọi thứ; tốt, xấu, mọi thứ; thánh
nhân, tội nhân, mọi thứ - nó rơi một cách hoàn toàn!
Cả thánh nhân không biết được tới điều thiêng
liêng, bởi vì họ quá tốt và cái tốt của họ trở thành rào
chắn, lẫn tội nhân cũng không biết, bởi vì họ nghĩ họ
quá xấu và cái quá xấu của họ trở thành rào chắn.
Người không là thánh nhân cũng chẳng tội nhân,
không thế này chẳng thế nọ, người không chọn cái gì,
người không tuyên bố điều gì, rằng “Tôi là thế này hay
thế nọ,” người đơn giản vẫn còn trong sự hiện diện,
người đó mới có thể biết tới điều thiêng liêng.
Và bạn không cần lên Himalaya đâu, bởi vì bạn có
thể vẫn còn ở với núi đá và sự việc sẽ xảy ra: bạn
không cần đến đền chùa! Bạn có thể vẫn còn ở với cây
cối và sự việc sẽ xảy ra. Bạn thậm chí không cần đi tới
cây cối: bạn có thể vẫn còn ở lại với bản thân mình và
sự việc sẽ xảy ra - bởi vì nó ở mọi nơi. Mọi nguyên tử
đều rung động với nó, mọi nguyên tử đều mở hội nó.
Mọi thứ đều không là gì ngoài nó.
Ông càng nói và nghĩ nhiều về nó,
ông càng vẩn vơ lạc lối xa khỏi chân lí.
Dừng nói và nghĩ,
và không có gì mà ông sẽ không có khả năng biết.

Vô suy nghĩ là cánh cửa. Vô lời là cổng. Vô trí là
đường.
Làm sao đạt tới điều này? Bạn sẽ làm gì để đạt tới
điều này? Chỉ lắng nghe nó sẽ chẳng ích gì, bởi vì tâm
trí khôn lỏi thế. Tâm trí sẽ bắt đầu nghĩ về điều này,
điều Tăng Xán đang nói; tâm trí sẽ bắt đầu nghĩ và
xoay các lí thuyết quanh nó. Tâm trí sẽ nói, “Đúng,
điều ấy dường như phải.” Nhưng tâm trí sẽ nói, “Điều
ấy dường như phải,” và bạn đã đi lạc lối. Tâm trí sẽ
nói, “Không, điều ấy dường như khó, không thể được.
Làm sao mình có thể dừng việc suy nghĩ được?” và
bạn đã lạc lối.
Nghe tâm trí và bạn chưa bao giờ ở gần chân lí.
Nghe tâm trí và bạn bao giờ cũng trên cuộc hành trình.
Tôi đã nghe về một phụ nữ, người vốn là một triết
gia, một nhà tư tưởng, đã viết nhiều cuốn sách, rất nổi
tiếng. Và thế rồi cô ấy bỗng nhiên tuyên bố với bạn bè
mình rằng cô ấy sắp lấy chồng.
Người ta chưa bao giờ nghe tin đồn nào về chuyện
tình của cô ấy cả, bởi vì người suy nghĩ có bao giờ yêu
đâu. Chẳng ai nghĩ rằng cô ây sắp lấy chồng, cho nên
họ ngạc nhiên.
Họ nói, “Người đàn ông này là ai?”
Thế là cô ấy nói ra cái tên - họ thậm chí lại còn
ngạc nhiên hơn. Họ nói, “Chị thấy gì ở người đàn ông
ấy?”

Một người đàn ông rất bình thường... và người đàn
bà này lại rất nổi tiếng. Cô ấy là giáo sư đại học, đã
viết nhiều sách, tên tuổi cô ấy nổi tiếng khắp nước.
“Lấy người đàn ông này sao? Tại sao, chị thấy gì ở
người ấy?”
Cô ấy nói, “Một điều tốt - anh ấy là nhân viên bán
hàng lưu động. Anh ấy sẽ không bao giờ ở đây, anh ấy
bao giờ cũng du hành.” Các nhà tư tưởng bao giờ cũng
lấy nhân viên bán hàng lưu động. “Anh ấy sẽ không
bao giờ ở đây và tôi sẽ tự do suy nghĩ và làm việc của
tôi.”
Việc lấy chồng với tâm trí ấy là lấy một người bán
hàng, một người bán hàng lưu động, người bao giờ
cũng trên cuộc hành trình. Và bởi vì tâm trí này vốn
bao giờ cũng trên cuộc hành trình mà bạn chẳng bao
giờ có thể trong tiếp xúc với cái thực. Bạn ăn nhưng
bạn bỏ lỡ việc ăn. Vị ngon, hương vị, mùi vị - bạn bỏ
lỡ nó. Bạn đơn giản cứ tống mọi thứ vào bên trong.
Điều đó là xấu! Nhưng sao bạn lại bỏ lỡ? Bởi vì tâm trí
cứ nghĩ mãi; bạn đang nghĩ cả nghìn lẻ một thứ trong
khi ăn.
Rinzai nói, “Khi ta ăn, ta chỉ ăn, còn khi ta ngủ, ta
chỉ ngủ.”
Ai đó nói, “Nhưng chẳng có gì đặc biệt trong đó
cả, mọi người đều làm điều đó.”
Rinzai cười to và nói, “Nếu mọi người đều làm
điều đó, thì mọi người là phật rồi, thế thì mọi người đã
chứng ngộ.”
Khi ăn, đơn giản ăn. Là nó. Khi bước đi, đơn giản
bước, ở đó. Đừng đi lên trước, đừng nhẩy đây đó. Tâm
trí bao giờ cũng đi lên trước hay tụt lại sau. Bạn vẫn
còn với khoảnh khắc này.
Ban đầu sẽ rất khó để vẫn còn với khoảnh khắc
này. Và đôi khi khoảnh khắc này có thể không rất hạnh
phúc. Bạn giận dữ, thế thì tâm trí bắt đầu nghĩ tới ăn
năn hay cố gắng để làm điều gì đó sao cho việc giận dữ
không bao giờ xảy ra lần nữa. Đôi khi bạn buồn bã;
bạn bật radio hay tivi, bạn bắt đầu đọc sách, bởi vì bạn
không thích buồn. Bạn muốn làm tâm trí vui. Và bởi vì
khoảnh khắc khổ nhiều hơn là khoảnh khắc hạnh phúc,
nên điều đó trở thành thói quen thường xuyên. Và khi
nó thành cố định, thậm chí hạnh phúc tới mà bạn lại
không ở nhà, bạn đang ở đâu đó.
Làm điều này thành vấn đề: bất kì khi nào - buồn
bã, giận dữ, bất kì cái gì; thất vọng, bất hạnh - ở cùng
nó. Và bạn bỗng nhiên sẽ trở nên ngạc nhiên rằng nếu
bạn vẫn ở cùng với cái buồn, cái buồn biến thành điều
đẹp đẽ, cái buồn trở thành chiều sâu. Nếu bạn vẫn ở
cùng với giận dữ, không nghĩ ngợi lung tung, chỉ ở
cùng nó, giận dữ được biến đổi - nó trở thành khoan
dung. Nếu bạn vẫn còn dục, dục mang phẩm chất khác
- nó trở thành tình yêu.
Nếu bạn bắt đầu sống với khoảnh khắc này, bạn sẽ
thấy việc ‘ở cùng với’ của bạn là phép mầu, nó có phép
thần thông của nó. Hạnh phúc sẽ trở thành sâu sắc hơn.
Thông thường hạnh phúc của bạn chỉ ở trên bề mặt:
sâu bên dưới bạn mang cả triệu thứ; nó chỉ ở trên bề
mặt thôi. Nếu bạn vẫn còn ở cùng với nó, nó sẽ trở
thành sâu sắc hơn, sâu sắc hơn nữa, sâu sắc nữa. Nếu

bạn bắt đầu sống cùng với, mọi thứ được biến đổi bởi
vì bạn đem phẩm chất mới của sự hiện hữu, của nhận
biết, của chứng kiến. Đừng tranh đấu với nỗi buồn và
đừng khao khát hạnh phúc, bởi vì đó là việc đi xa, lạc
lối.
Bạn đã từng quan sát chưa? - nếu bạn đi nghỉ ở
Himalaya hay ở Thuỵ sĩ, bạn lập kế hoạch để tới đó
trong nhiều tháng, và khoảnh khắc bạn tới, tâm trí bạn
đã lập kế hoạch khi nào thì ra đi, làm sao về nhà. Xem
đấy! Hàng tháng bạn lập kế hoạch cách tới và khi bạn
tới - hay thậm chí trước khi bạn tới, chỉ mới trên đường
- tâm trí bạn đã bắt đầu quay lại: đi về thế nào? Mọi
việc tới của bạn chỉ là bắt đầu của việc ra đi. Và bạn
chưa bao giờ ở đó bởi vì bạn không thể ở đó được. Lần
nữa, trở về nhà bạn sẽ lại bắt đầu nghĩ. Trở về nhà bạn
sẽ bắt đầu nghĩ về điều gì đã xảy ra ở Himalaya, những
kinh nghiệm đẹp sao mà bạn đã trải qua - và bạn chưa
hề ở đó. Cứ dường như là bạn đã đọc về chúng, cứ
dường như là ai đó khác đã kể cho bạn. Bạn nhìn vào
kí ức dường như kí ức vận hành theo cách của nó; nó
chụp ảnh và trở thành quyển an bum. Trở về nhà bạn
sẽ mở an bum ra và xem, và bạn sẽ nói với bạn bè,
“Đẹp đấy!” Và bạn sẽ bắt đầu lập kế hoạch - lần nữa
sang năm bạn lại lên Himalaya.
Tâm trí chưa bao giờ ở nơi bạn đang hiện hữu:
nhận biết bao giờ cũng có đó nơi bạn hiện hữu. Vứt bỏ
tâm trí ngày càng nhiều đi, và để ý, và trở thành ngày
càng nhận biết và tỉnh táo hơn. Đem bản thân mình về
với khoảnh khắc này.
Khó khăn ở lúc ban đầu. Tâm trí, bởi vì thói quen
cũ, sẽ đi xa mãi. Đem nó lại đi. Không cần phải tranh
đấu! Đơn giản gọi nó lại: “Lại đây.” Lần nữa nó sẽ đi...
trong vài giây nó sẽ không có đó. Gọi nó lại lần nữa.
Và dần dần, khi bạn bắt đầu tận hưởng khoảnh
khắc này - cái vĩnh cửu bây giờ, thời gian duy nhất có
đó, sự tồn tại duy nhất có đó, cuộc sống duy nhất có đó
- khi bạn bắt đầu tận hưởng nó, tâm trí sẽ tới nó ngày
càng nhiều hơn; nó sẽ đi ngày càng nhiều hơn.
Thế thì điểm rẽ xảy ra. Bỗng nhiên bạn lại ở đây, ở
nhà, và thực tại được lộ ra. Thực tại này bao giờ cũng
có đó, chỉ bạn là không có đó. Không phải là chân lí
phải được đi tìm, chính bạn mới là người phải được
đưa về nhà.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #4 Trở về cội nguồn

Trở về cội nguồn là tìm ra ý nghĩa, nhưng theo
đuổi hình tướng bỏ lỡ cội nguồn.
Vào khoảnh khắc chứng ngộ bên trong có việc
vượt ra ngoài hình tướng và trống rỗng.
Những thay đổi dường như xuất hiện trong thế giới
trống rỗng chúng ta gọi là thực chỉ bởi vì dốt nát của
mình.
Đừng tìm kiếm chân lí; chỉ dừng việc ôm giữ ý
kiến.
Đừng trong trạng thái nhị nguyên; cẩn thận tránh
việc theo đuổi như vậy.
Nếu có dấu vết của điều này điều nọ, cái phải và
cái trái, bản chất tâm trí sẽ bị mất trong lẫn lộn.
Mặc dầu tất cả các nhị nguyên đều tới từ cái Một,
đừng bị gắn bó ngay cả với cái Một này.
Khi tâm trí tồn tại không bị xáo động trong Đạo,
chẳng cái gì trong thế giới này có thể làm mất lòng, và
khi một điều không còn làm mất lòng nữa, nó dừng tồn
tại theo cách cũ.
Khi không có các ý nghĩ phân biệt nẩy sinh, tâm trí
cũ dừng tồn tại.

Bản chất của tâm thức là hệt như tấm gương. Tấm
gương không có chọn lựa gì về phần nó. Bất kì cái gì
tới trước nó cũng đều được phản xạ, cái tốt cái tồi, cái
đẹp cái xấu - bất kì cái gì. Tấm gương không ưa thích,
nó không phán xét, nó không kết án. Bản chất của tâm
thức, tại cội nguồn, là tựa tấm gương.
Một đứa trẻ được sinh ra, nó phản xạ bất kì cái gì
tới trước nó. Nó không nói điều gì, nó không diễn giải.
Khoảnh khắc việc diễn giải đi vào, tấm gương đã mất
tính chất tựa tấm gương. Bây giờ nó không còn thuần
khiết nữa. Bây giờ nó tràn đầy với ý kiến, rối loạn,
nhiều mảnh, bị phân chia, chia chẻ. Nó đã trở thành
tinh thần phân liệt.
Khi tâm thức bị phân chia, không tựa tấm gương,
nó trở thành tâm trí. Tâm trí là tấm gương bị vỡ.
Tại gốc rễ, tâm trí là tâm thức. Nếu bạn dừng việc
tạo ra phân biệt, nếu bạn dừng việc tạo ra phân chia nhị
nguyên - chọn cái này chống cái kia, thích cái này,
không thích cái kia - nếu bạn vứt bỏ những phân chia
này, tâm trí lại trở thành tấm gương, tâm thức thuần
khiết.
Cho nên toàn bộ nỗ lực của người tìm kiếm là làm
sao vứt bỏ các ý kiến, triết lí, ưa thích, phán xét, chọn
lựa. Và điều này không nên trở thành sự chọn lựa trong
chính nó - đó là vấn đề.
Cho nên cố hiểu vấn đề cơ bản này, nếu không thì
bạn có thể làm điều này thành chọn lựa: “Mình sẽ
không chọn, mình sẽ vẫn còn vô chọn lựa. Bây giờ
chọn lựa không phải cho mình, bây giờ mình ủng hộ
nhận biết vô chọn lựa.” Điều này lại lần nữa trở thành

cùng một thứ - bạn đã chọn lựa. Bây giờ bạn chống lại
việc chọn lựa để ủng hộ vô chọn lựa. Bạn đã lỡ. Không
ai có thể ủng hộ vô chọn lựa, bởi vì ‘ủng hộ’ là chọn
lựa. Cho nên phải làm gì? Đơn giản hiểu biết là cần
thiết, chẳng cần làm gì cả. Điều tối thượng được đạt tới
không qua nỗ lực mà qua hiểu biết.
Vô nỗ lực sẽ dẫn bạn hướng tới điều đó, bởi vì nỗ
lực bao giờ cũng sẽ là từ tâm trí nhị nguyên. Thế thì
bạn không thích thế giới và bạn thích Thượng đế; thế
thì tù túng không phải là ưa thích của bạn, tự do mới là
ưa thích của bạn; thế thì bạn tìm kiếm moksha, giải
thoát tối thượng. Nhưng lần nữa tâm trí lại đi vào, và
tâm trí cứ đi vào mãi. Và bạn không thể làm được gì cả
- bạn đơn giản phải tỉnh táo với toàn bộ tình huống.
Nếu bạn tỉnh táo, trong loé sáng bất thần, tâm trí
sụp đổ. Bỗng nhiên bạn là một với tâm thức tựa tấm
gương; bạn đã rơi vào cơ sở của mình, vào gốc rễ của
mình. Và khi bạn đã rơi sâu vào bên trong gốc rễ, toàn
bộ sự tồn tại rơi vào gốc rễ.
Sự tồn tại xuất hiện cho bạn như bạn hiện thế. Đây
là một trong những luật nền tảng. Bất kì cái gì bạn thấy
cũng đều phụ thuộc vào nơi bạn thấy. Nếu bạn là tâm
trí, bị phân chia, thế thì toàn bộ cuộc sống cũng bị phân
chia. Sự tồn tại đạt tới bản thể bạn. Nếu bạn có tâm trí,
chia chẻ, thế thì toàn bộ thế giới sẽ được thấy cũng
chia chẻ, thế thì ngày chống lại đêm. Chúng không
phải vậy, bởi vì ngày chuyển thành đêm, đêm chuyển
thành ngày - chúng tạo thành vòng tròn đầy đủ. Chúng
không chống đối, chúng là phần bù. Không có đêm
cũng không thể có ngày, và không có ngày không thể
tồn tại đêm nào cả. Cho nên chúng không thể đối lập;
sâu bên dưới chúng là một.
Sống và chết dường như đối lập bởi vì bạn bị phân
chia. Nếu không thì sống trở thành chết, chết trở thành
sống: bạn được sinh ra, và chính cái ngày đó bạn đã bắt
đầu chết, và khoảnh khắc bạn chết, cuộc sống mới đã
đi vào hiện hữu. Nó là một vòng tròn, vòng tròn âm và
dương của người Trung quốc.
Vòng tròn đó phải được nhớ đi nhớ lại. Nó là một
trong những biểu tượng cơ sở nhất đã từng được phát
minh ra. Không biểu tượng nào khác có thể được so
sánh với nó - chữ thập, chữ thập ngoặc, aum - không,
không cái nào sánh được với âm và dương Trung quốc,
bởi vì âm và dương hàm chứa toàn bộ tính đối lập của
sự tồn tại: đêm tối và ngày sáng, sống và chết, yêu và
ghét.
Tất cả các đối lập đều đi cùng nhau trong sự tồn
tại. Bên trong, bạn bị phân chia; bên ngoài, bạn bị phân
chia. Khi bạn rơi về cội nguồn của mình và bạn trở
thành một, toàn bộ sự tồn tại bỗng nhiên rơi vào hàng
và trở thành một. Khi bạn là một, Brahman xuất hiện,
điều tối thượng xuất hiện, bởi vì với cái một chỉ cái
một mới xuất hiện; với hai, cái hai xuất hiện; với
nhiều, cái nhiều xuất hiện. Và bạn là nhiều, bạn là đám
đông - thậm chí không phải hai. Bạn có nhiều, nhiều
cái ta bên trong mình.
Gurdjieff hay nói rằng bạn là ngôi nhà mà không ai
biết ai là chủ cả. Nhiều người có đó, mọi người đều là
khách - nhưng bởi vì không ai biết ai là chủ cả, cho nên
mọi người đều nghĩ mình là chủ. Cho nên bất kì ai trở

nên mạnh mẽ trong bất kì khoảnh khắc nào đều đóng
vai người chủ cả.
Khi giận trở nên mạnh mẽ, giận trở thành chủ. Khi
yêu trở nên mạnh mẽ, yêu trở thành chủ. Khi ghen trở
nên mạnh mẽ, ghen trở thành chủ. Nhưng đấy là tranh
đấu thường xuyên, bởi vì nhiều người là khách và mọi
người đều muốn là chủ, chủ nhân ngôi nhà này. Và
không ai biết ai là chủ nhân cả. Hoặc là chủ nhân đã
lên đường trong cuộc hành trình dài và còn chưa trở
về, hoặc là chủ nhân đang ngủ say.
Cái ta của bạn đang ngủ say. Do đó mới có sự khẩn
khoản của mọi Jesus, mọi Krishna, mọi Phật. “Thức
dậy đi!” Jesus cứ dùng mãi từ ‘thức tỉnh’ nhiều, nhiều
lần. “Thức tỉnh, quan sát, tỉnh táo,” Phật cứ nói mãi,
“Trở nên ý thức hơn.”
Ý nghĩa là một: rằng nếu bạn trở nên nhận biết,
người chủ sẽ xuất hiện. Và khoảnh khắc - và đây là cái
đẹp của nó - người chủ xuất hiện, khách biến mất.
Khoảnh khắc người chủ đi vào hiện hữu, người hầu
đơn giản vào hàng và họ trở thành người hầu. Họ
không tuyên bố rằng họ là chủ nữa.
Cho nên vấn đề thực không phải là tranh đấu với
giận, ghen, ghét. Vấn đề thực là đem người chủ lại,
làm cho người ấy nhận biết. Một khi người ấy nhận
biết mọi thứ được đặt đúng chỗ. Nhưng nhận biết này
chỉ có thể có nếu bạn rơi vào cội nguồn.
Tâm trí nhất định vẫn còn bị phân chia. Chính bản
chất của tâm trí là như vậy, nó không thể trở thành cái
một được. Cố gắng hiểu bản chất của tâm trí, thế thì
những lời kinh này của Tăng Xán sẽ trở nên rõ ràng,
trong suốt.
Bản chất của tâm trí là nhìn vào mọi thứ theo cách
phải có cái đối lập tâm trí mới thấy được. Không có cái
đối lập, tâm trí không thể nào hiểu nổi. Nếu tôi nói,
“Ánh sáng là gì?” thì tâm trí sẽ hiểu thế nào? Lập tức
bóng tối phải được đưa vào.
Nếu bạn tra từ điển - từ điển là cái vòng luẩn quẩn
- nếu bạn tìm ánh sáng là gì, từ điển nói: cái không
phải là bóng tối. Để làm mất hiệu lực ánh sáng, bóng
tối phải được đưa vào. Vô nghĩa làm sao! Và khi bạn
định nghĩa bóng tối, bạn sẽ bị ngạc nhiên - thế thì ánh
sáng phải được đưa vào. Bóng tối là gì? - thế thì từ
điển nói: cái không phải là ánh sáng.
Bạn chẳng định nghĩa gì cả, bởi vì cả hai vẫn còn
không thể nào được định nghĩa. Và từ một điều không
định nghĩa được, làm sao bạn có thể định nghĩa điều
kia mà cũng không được định nghĩa? Toàn bộ trò chơi
từ điển là ở chỗ bạn chưa bao giờ nhìn vào toàn bộ sự
việc.
Nếu bạn hỏi nhà ngôn ngữ, “Tâm trí là gì?” họ nói,
“Không phải vật chất,” và, “Vật chất là gì?” họ nói,
“Không phải tâm trí.” Chẳng cái nào được định nghĩa
cả. Làm sao một từ chưa được định nghĩa lại có thể
định nghĩa cho cái gì đó được? Nếu tôi hỏi bạn sống ở
đâu, bạn nói, “Tôi là hàng xóm của A.” Và nếu tôi hỏi
bạn, A sống ở đâu bạn nói, “Anh ta là hàng xóm của
tôi.” Làm sao tôi tìm được chỗ bạn sống? Bởi vì A
không được xác định mà bạn cũng chẳng được xác

định; A gần B và B gần A. Nhưng điều này là cách mọi
sự cứ diễn ra.
Tâm trí không thể nào hiểu được điều gì trừ phi cái
đối lập được đưa vào, bởi vì qua tương phản mà tâm trí
mới có khả năng thấy. Sống không thể nào được hiểu
nếu không có chết, và hạnh phúc là không thể nào cảm
thấy được nếu không có bất hạnh. Làm sao bạn cảm
thấy mạnh khoẻ nếu bạn chưa bao giờ biết tới ốm yếu?
Bạn có thể mạnh khoẻ nhưng bạn không thể cảm thấy
nó. Việc mạnh khoẻ là có thể có mà không ốm yếu,
nhưng tâm trí không thể nào kiểm tra được nó, tâm trí
không thể nào biết tới nó: bạn phải ốm đã.
Với tâm trí, để là thánh nhân người ta cần phải là
tội nhân trước hết, và để mạnh khoẻ, bạn phải ốm yếu,
và để yêu, bạn phải ghét. Nếu bạn yêu và không có
ghét, bạn sẽ không có khả năng nào biết được, tâm trí
bạn sẽ chẳng có cách nào phát hiện ra nó. Và không ai
khác sẽ có khả năng biết nó.
Đó là vấn đề với vị Phật hay một Jesus. Phật tràn
đầy tình yêu, nhưng chúng ta không thể nào phát hiện
ra tình yêu của ông ấy - ông ấy không có bối cảnh
tương phản, không ghét. Chúng ta chưa bao giờ thấy
cái ghét trong mắt ông ấy, và chúng ta chưa bao giờ
thấy cái giận trong mắt ông ấy. Làm sao chúng ta có
thể biết được ông ấy yêu? Tình yêu của ông ấy trở
thành không thể nào hiểu nổi.
Với tâm trí, bất kì cái gì cũng có thể hiểu được nếu
cái đối lập được đưa vào. Nhưng khoảnh khắc bạn đem
cái đối lập vào, bạn đã bóp méo sự tồn tại, bởi vì trong
sự tồn tại không có cái gì giống như ‘đối lập’ cả.
Tâm trí đi qua cái đối lập còn sự tồn tại là nhất thể.
Sự tồn tại là advaita, sự tồn tại là bất nhị - không có
vấn đề gì. Đâu là biên giới của ngày, khi nào ngày
dừng lại, dừng hiện hữu, và đêm bắt đầu? Liệu có lỗ
hổng giữa hai điều này không? Chỉ nếu có lỗ hổng thì
biên giới mới có thể có. Nhưng không có biên giới!
Ngày đơn giản tan vào đêm, nó hội nhập vào đêm, và
đêm lại hội nhập vào ngày. Cuộc sống là một, sự tồn
tại là một - tâm trí là nhị nguyên.
Cho nên nếu bạn chọn, bạn sẽ chẳng bao giờ đi tới
ngọn nguồn. Thế thì bạn sẽ níu bám lấy sống và bạn sẽ
sợ chết. Thế thì bạn sẽ níu bám lấy yêu và bạn sẽ sợ
ghét. Thế thì bạn sẽ níu bám lấy cái tốt và bạn sẽ sợ cái
xấu. Thế thì bạn sẽ níu bám lấy Thượng đế và bạn sẽ
sợ Quỉ.
Cuộc sống là một. Thượng đế, Quỉ - là một. Không
có phân chia Thượng đế chấm dứt ở đâu và Quỉ bắt
đầu ở đâu; không thể có điều đó được. Trong cuộc
sống, Ram và Ravan là một, nhưng với tâm trí thì họ là
kẻ thù, họ đang tranh đấu. Với tâm trí mọi thứ đều là
xung đột, đó là cuộc chiến.
Và nếu bạn chọn, thế thì bạn vẫn còn là một phần
của trò chơi này. Và cách không chọn lựa là toàn bộ
nghệ thuật của tôn giáo: làm sao loại bỏ để vào vô
chọn lựa.
Nhưng nhớ, đừng chọn vô chọn lựa! Nếu không thì
khi lắng nghe tôi hay Tăng Xán hay Krishnamurti, bạn
sẽ trở nên bị bỏ bùa bởi từ ‘vô chọn lựa’. Tâm trí bạn
sẽ nói, “Điều này rất tốt. Thế thì cực lạc là có thể và
nhiều phúc lạc sẽ xảy ra cho mình nếu mình trở thành

vô chọn lựa. Thế thì cánh cửa của những bí ẩn của
cuộc sống sẽ được mở ra.” Tâm trí cảm thấy tham lam.
Tâm trí nói, “Tốt thôi, như vậy mình sẽ chọn cái vô
chọn lựa.” Cánh cửa bị đóng lại. Chỉ cái nhãn là thay
đổi, nhưng bạn đã rơi xuống thành nạn nhân của thủ
đoạn cũ.
Bây giờ hiểu những lời kinh này đi. Chúng là một
số trong những lời kinh hay nhất đã từng được con
người trên trái đất này thốt ra.
Trở về cội nguồn là tìm ra ý nghĩa,
nhưng theo đuổi hình tướng lại bỏ lỡ cội nguồn

Trở về cội nguồn là tìm ra ý nghĩa... Đâu là mục
đích của toàn bộ vở kịch này của sự tồn tại? Đâu là ý
nghĩa của tất cả cây cối đang mọc này, và của con
người, con vật, chim chóc? Đâu là ý nghĩa của đất này
và trời này? Đâu là ý nghĩa của cái toàn thể này? Bạn
sẽ tìm thấy ý nghĩa ở đâu?
Với tâm trí, ý nghĩa phải là ở cái đích - nơi mà sự
tồn tại này đang đi tới phải là ý nghĩa, nơi đến. Với tâm
trí, ý nghĩa phải là ở đâu đó tại nơi đến, nơi chúng ta
đang đi.
Và lời kinh này của Tăng Xán nói: Trở về cội
nguồn là tìm ra ý nghĩa... không phải trong tương lai,
không trong ham muốn và nơi đến, không ở đâu khác
cả, mà là ở cội nguồn. Không trong chỗ cuối mà trong
chỗ bắt đầu.
Cố hiểu đi. Nhiều điều cần phải hiểu. Trước hết,
nếu có bất kì ý nghĩa nào, nó phải ở trong hạt mầm - có
thể ẩn kín, không thấy được, nhưng nó phải trong hạt
mầm, bởi vì không cái gì có thể tới mà lại không trong
hạt mầm. Không cái gì có thể tới từ cái trống rỗng cả.
Ngay cả nếu như có một nơi tới, nó cũng phải ẩn
trong hạt mầm, giống như là hoa ẩn trong hạt mầm -
hoa là ý nghĩa của cây cối. Khi cây nở hoa, nó cực lạc,
khi nó đâm hoa, nó ca hát và nhẩy múa. Nó đã đạt tới,
nó hạnh phúc, nó vui sướng, nó không thiếu thứ gì nữa.
Hoa chỉ vui sướng, điệu vũ của cây là “Mình đã đạt
tới!”
Nhưng những hoa đó phải đã có ở đâu đó trong hạt
mầm rồi, nếu không thì làm sao chúng xảy ra được?
Cái kết thúc phải có trong cái bắt đầu, omega phải ẩn
trong alpha. Jesus nói, “Ta là cái bắt đầu và là cái kết
thúc. Ta là alpha và omega.”
Cái bắt đầu là cái kết thúc, bởi vì cái kết thúc
không thể lộ ra ngay bây giờ nhưng nó phải có đó rồi.
Và khi nó ở trong hạt mầm, bạn không cần phải đợi
cho tương lai tới, để hoa xảy ra. Bạn có thể thấm vào
cái bắt đầu ngay bây giờ, bởi vì nó là ở đây. Nhớ lấy,
hạt mầm không phải là quá khứ. Hạt mầm bao giờ
cũng ở đây và bây giờ trong hiện tại, bởi vì toàn bộ quá
khứ là trong hiện tại.
Tất nhiên, toàn bộ tương lai cũng trong hiện tại,
nhưng tương lai còn chưa xảy ra và quá khứ đã xảy ra
rồi, cái bắt đầu đã xảy ra rồi. Hiểu thấu cái bắt đầu, đi
về cội nguồn và thấy cội nguồn, và ý nghĩa sẽ được lộ
ra.
Và bạn đang mang hạt mầm ngay bây giờ bên
trong mình - hạt mầm của mọi ý nghĩa, của mọi khả
năng, của mọi cánh cửa có thể mở ra và mọi bí ẩn có

thể xảy ra. Bạn mang hạt mầm đó! Nhưng nếu bạn chờ
đợi tương lai thế thì nó có thể không bao giờ tới, bởi vì
tương lai là vô hạn và chờ đợi sẽ làm mất cuộc sống,
thời gian và năng lượng.
Và nếu chờ đợi trở thành thói quen, hoa có thể nở
và bạn có thể không có khả năng thấy. Bởi vì bạn đã
trở nên quen với việc nhìn vào tương lai, nên mắt bạn
đã trở nên cố định. Chúng không thể nhìn vào cái gần
và cận kề, chúng bao giờ cũng có thể nhìn cái xa và xa
xăm.
Nếu trong nhiều kiếp bạn đã từng nhìn vào tương
lai để tìm ý nghĩa, và hoa nở, thì bạn sẽ không có khả
năng thấy nó - bởi vì việc thấy không phụ thuộc vào
hoa, việc thấy phụ thuộc vào con mắt xuyên thấu của
bạn. Và bạn không có con mắt xuyên thấu, nếu không
thì cái bắt đầu bao giờ cũng có đó, hạt mầm bao giờ
cũng có đó. Bạn có thể đã nhìn vào nó.
Nếu bạn nhìn vào tương lai và chờ đợi ý nghĩa
được lộ ra ở đâu đó, thế thì chẳng chóng thì chầy bạn
sẽ cảm thấy cuộc sống là vô nghĩa. Đó là điều đang
xảy ra ở phương Tây bởi vì việc triết lí liên tục vẫn
nghĩ rằng đâu đó trong tương lai mới là mục đích.
Có vẻ ngớ ngẩn mà nghĩ rằng mục đích là ở lúc
ban đầu. Nó có vẻ mâu thuẫn, bởi vì làm sao mục đích
lại có thể có ở lúc bắt đầu được? Cho nên tâm trí nói
mục đích phải ở đâu đó phía trước, bởi vì tâm trí sống
qua ham muốn, chuyển qua ham muốn. Động cơ phải
có đó trong tương lai. Và bây giờ, trong hai nghìn năm
liên tục suy nghĩ dưới dạng tương lai, tâm trí phương
Tây nghĩ rằng không có ý nghĩa bởi vì tương lai không
tới.
Tương lai chẳng bao giờ tới cả! Nó không thể tới
bởi chính bản chất của nó; nó bao giờ cũng còn không
tới. Nó đang tới nhưng nó không bao giờ tới. Nó cũng
giống hệt như ngày mai chẳng bao giờ tới cả. Bất kì
khi nào nó tới thì bao giờ cũng là hôm nay, bất kì khi
nào nó tới thì bao giờ cũng là hiện tại.
Tương lai không bao giờ tới, không thể tới được.
Chính bản chất của nó là giống như hi vọng, mơ ước -
ảo tưởng. Nó có vẻ dường như đang tới, cũng giống
như đường chân trời vậy; chẳng bao giờ đạt tới nó. Thế
thì, chờ đợi và chờ đợi, bạn cảm thấy vô nghĩa. Toàn
bộ cách suy nghĩ phương Tây ngày nay cảm thấy cuộc
sống là vô nghĩa, ngớ ngẩn. Và nếu bạn cảm thấy cuộc
sống là vô nghĩa, ngớ ngẩn, thế thì tự tử là con đường
duy nhất để thoát ra khỏi nó.
Một trong những nhà tư tưởng phương Tây vĩ đại
của thế kỉ này, Marcel, đã viết rằng tự tử là vấn đề duy
nhất. Nếu bạn thấy rằng cuộc sống là vô nghĩa, thế thì
cái gì còn lại nữa? Thế thì tại sao cứ kéo lê mãi ra? Tại
sao lại cứ sống?
Nếu không có ý nghĩa và bạn cứ theo lối mòn...
hàng ngày bạn dậy, đi làm, lĩnh chút ít tiền, ngủ trong
đêm, mơ, rồi lại sáng... bánh xe cứ quay mà bạn chẳng
đạt tới đâu cả. Đến cuối cùng thì là cái chết, vậy sao
phải đợi? Sao không tự tử quách đi cho rồi? Sao không
phá huỷ cái điều vô nghĩa này đi? Và sao lại lo nghĩ
thế và nặng gánh thế và trong nhiều lo lắng và đau khổ
thế vì một cái gì đó vô nghĩa? Đó là kết luận logic.

Nếu bạn nhìn vào tương lai, bạn sẽ đi tới hiểu ra
rằng không có ý nghĩa. Nhưng nếu bạn thực sự muốn
điều có nghĩa, thế thì cách thức là nhìn vào hạt mầm -
và hạt mầm là ở đây và bây giờ. Nhưng tâm trí thích
nhìn vào tương lai; điều đó dễ hơn. Việc nhìn vào hạt
mầm là khó khăn. Đó là toàn bộ sadhana, đó là toàn bộ
nỗ lực gian khó: nhìn vào hạt mầm. Bởi vì nếu bạn
muốn nhìn vào hạt mầm, bạn sẽ cần phẩm chất tầm
nhìn khác. Bạn sẽ cần con mắt thứ ba, bởi vì đôi mắt
thông thường này chỉ có thể nhìn vào lớp vỏ. Nhưng
cái vô hình ẩn đằng sau, cái bí mật - thì đôi mắt này
không thể nào đi vào sâu thế được.
Một phẩm chất khác của đôi mắt cần phải có để có
thể hiểu thấu và nhìn đúng ngay bây giờ vào trong điều
mà hạt mầm đang mang. Nếu bạn nhìn bên ngoài, bạn
không thể hiểu thấu được, bởi vì mắt bạn sẽ gặp thân
thể, lớp vỏ của hạt mầm. Nếu bạn thực sự muốn nhìn
vào trong hạt mầm, nhìn vào bên trong, bởi vì thế thì
lớp vỏ không còn là vấn đề nữa - bên trong bạn cũng là
hạt mầm.
Bạn thuộc vào sự tồn tại này, bạn đã bắt nguồn từ
nó. Sự tồn tại này có bản kế hoạch toàn bộ trong bạn,
sự tồn tại này đang cố gắng hoàn thành định mệnh nào
đó qua bạn. Nhìn vào bên trong đi, bởi vì thế thì lớp vỏ
không còn là vấn đề nữa. Bạn không cần phải thấm qua
lớp vỏ, bạn đã trong nó rồi. Đây là điều thiền là gì:
nhìn vào bên trong hạt mầm, bên trong bản thân người
ta. Tại đó, ý nghĩa nở hoa, nó nở hoa ngay lập tức. Nó
bao giờ cũng đã ở đó rồi - nó chỉ cần sự chú ý của bạn.
Bạn đã lãng quên nó, bạn đã dửng dưng với nó. Bạn đã
tham dự, bận bịu, vào các thứ khác - và bạn đã đứng
quay lưng lại bản thân mình.
Và ý nghĩa thì chờ đợi, và mục đích của toàn bộ
cuộc sống vẫn còn bị ẩn kín, và phúc lành cùng ân huệ
vẫn chỉ cứ chờ đợi và chờ đợi bạn quay lại.
Từ của Ki tô giáo ‘cải đạo’ có nghĩa là quay lại.
Điều đó không có nghĩa làm người Hindu thành người
Ki tô giáo hay người Mô ha mét giáo thành người Ki tô
giáo - nó có nghĩa là làm cho tâm thức quay vào bên
trong.
Trở về cội nguồn là tìm ra ý nghĩa,
nhưng theo đuổi hình tướng lại bỏ lỡ cội nguồn.

Bên ngoài có đó chỉ là hình tướng. Bạn không thể
biết được bên ngoài là gì, bởi vì qua các giác quan bạn
chỉ có thể động chạm tới hình tướng. Tôi không thể
thấy được bạn. Tôi chỉ có thể thấy thân thể bạn - thậm
chí cũng chẳng được toàn thể thân thể bạn, mà chỉ bề
ngoài, chỉ bề ngoài của làn da là thấy được. Tôi không
thấy liệu bạn có đó hay không. Có thể bạn chỉ là cái
máy tự động, người máy - ai mà biết được?
Người máy thì có thể đấy; hiện tại, nhiều hơn cả là
như vậy. Người máy có thể được chế tạo. Và nếu
người máy có đó, bạn không thể đánh giá được từ vẻ
bên ngoài, bởi vì người ấy sẽ nháy mắt, người ấy thậm
chí sẽ trả lời, “Chào!” người ấy sẽ nói, “Chào, anh
khoẻ không?” Làm sao bạn biết rằng người ấy không
phải là người máy? Trên bề mặt người ấy giống hệt bất
kì người nào, không khác biệt.

Người ấy nói, và người ấy sẽ nói một cách thông
minh - đôi khi thậm chí còn thông minh hơn bạn bởi vì
người ấy được nạp sẵn đầy đủ. Thông tin của người ấy
là chính xác; người ấy biết nhiều, người ấy có thể biết
nhiều hơn bạn. Người ta nói chỉ một chiếc máy tính
nhỏ cũng có thể biết nhiều bằng lượng tri thức mà năm
trăm nhà khoa học có thể biết được trong năm trăm
kiếp sống. Người máy có thể mang một máy tính bên
trong, tất nhiên, chạy bằng pin. Bạn hỏi và người đó trả
lời, và câu trả lời của người đó không thể sai như câu
trả lời của bạn được. Và người ấy sẽ không bao giờ là
người ngu cả, người ấy bao giờ cũng là người khôn.
Làm sao đánh giá người ở bên trong? Bạn không
thể thấm vào được. Bạn chỉ có thể đi lòng vòng, vòng
quanh. Bạn có thể động chạm tới bề mặt.
Chỉ trong bản thân mình bạn mới có thể đi vào bên
trong. Chỉ ở đó bạn mới có thể chắc chắn về tâm thức -
không ở đâu khác cả. Toàn bộ thế giới này có thể chỉ là
mơ. Ai mà biết được? Tôi có thể mơ bạn đang ngồi đây
và tôi đang nói với bạn. Bạn có thể mơ rằng bạn đang
ngồi đây và lắng nghe tôi. Bạn có tiêu chuẩn gì để
chứng minh rằng đây không phải là mơ không? Không
có cách nào cả.
Mãi cho tới giờ chẳng ai có khả năng chứng minh
được đây không phải là mơ, bởi vì trong mơ mọi việc
cũng dường như thực thế - thậm chí còn thực hơn khi
bạn tỉnh, bởi vì trong khi tỉnh đôi khi hoài nghi còn đi
vào trong tâm trí liệu đấy có phải là thực hay không.
Nhưng trong mơ thì hoài nghi chẳng bao giờ đi vào
tâm trí cả; trong mơ bạn bao giờ cũng coi mọi việc
dường như chúng là thực.
Người ta nói về Trang Tử:
Một hôm, vào buổi sáng, ông ấy bắt đầu kêu và
khóc. Đệ tử ông ấy tụ tập lại và họ nói, “Thưa thầy,
thầy làm gì vậy? Có chuyện gì với thầy vậy?”
Trang Tử nói, “Ta đang khó xử đây. Đêm qua ta đã
mơ ta biến thành bướm.”
Các đệ tử nói, “Nhưng có gì mà phải kêu khóc và
buồn phiền về điều đó đâu? Mọi người đều mơ nhiều
điều! Chẳng có gì sai với việc trở thành bướm trong
mơ cả.”
Trang Tử nói, “Đấy không phải là vấn đề. Bây giờ
ta lo nghĩ, bây giờ hoài nghi đã nẩy sinh và ta không
biết làm sao để đi đến kết luận. Trong đêm Trang Tử
đã mơ rằng mình trở thành bướm. Bây giờ hoài nghi đã
tới: có thể là bây giờ bướm đang mơ rằng mình đã trở
thành Trang Tử.”
Và ai mà quyết định, và bằng cách nào? Nếu trong
mơ Trang Tử có thể biến thành bướm, thế thì sao
không có cách kia - bướm đậu trên hoa có thể đang mơ
rằng nó đã thành vị Phật.
Không có vấn đề gì, việc này là đơn giản. Trang
Tử đã nêu ra một vấn đề hay và cơ bản: làm sao bạn có
thể chắc chắn về cái bên ngoài, rằng đấy không phải là
mơ? Đã có nhiều triết lí cố gắng chứng minh rằng toàn
bộ thế giới này là mơ. Không ai tin vào những triết lí
này cả, nhưng chẳng ai có khả năng bác bẻ chúng.
Berkeley, ở phương Tây, đã chứng minh rằng toàn
bộ sự tồn tại này là mơ. Không ai tin ông ấy cả, thậm

chí bản thân ông ấy cũng không thực sự tin vào nó, bởi
vì toàn bộ cuộc đời ông ấy chỉ ra rằng ông ấy không tin
nó là mơ. Nếu bạn xúc phạm ông ấy, ông ấy sẽ giận.
Nếu bạn ném đá vào ông ấy, ông ấy cố gắng tránh né.
Nếu bạn đâm ông ấy, ông ấy sẽ chạy tới bác sĩ bởi vì
máu chảy ra từ ông ấy.
Đây là cách thức tiến sĩ Johnson thử bác bẻ lí
thuyết của Berkeley.
Họ là bạn bè, và một hôm đi dạo Berkeley nói,
“Bây giờ tôi đã chứng minh điều đó, rằng toàn bộ cuộc
sống là mơ, và tôi cảm thấy rằng không ai có thể chứng
minh nó sai được.”
Và đúng, ông ấy cũng phải. Cho tới giờ chẳng ai
có thể bác bẻ được nó - không thể nào bác bẻ được!
Làm sao mà bác bẻ nó được?
Tiến sĩ Johnson cúi xuống, nhặt một hòn đá và
ném vào chân của Berkeley. Ông ta la lên. Tiến sĩ
Johnson nói, “Hòn đá này là thực.”
Berkeley cười to và ông ấy nói, “Điều đó không
thể bác bẻ được triết lí của tôi, bởi vì tiếng kêu của tôi
có thể chỉ là mơ mà ông đã mơ. Máu này chảy ra từ
chân tôi - làm sao ông có thể chứng minh đây là thực
và không phải là mơ?”
Bởi vì trong mơ cũng thế, nếu bạn bị đâm thì máu
sẽ chảy ra. Và trong mơ bạn cũng đã hét lên bao nhiêu
lần. Trong mơ cũng thế, khi có ác mộng, bạn vã mồ hôi
và bạn run lập cập và tim bạn đập thình thình, và thậm
chí mơ qua rồi bạn vẫn phải mất vài phút mới định
thần được. Bạn biết mơ qua rồi, bạn đã tỉnh dậy, và
bạn biết nó là mơ, nhưng tim vẫn đập thình thình và
nỗi sợ vẫn còn kéo dài, mồ hôi trên trán vẫn rịn ra.
Điều đó có thể xảy ra trong mơ, không có cách nào
để bác bỏ nó. Bên ngoài, nhiều nhất chúng ta có thể nói
là có các hình tướng. Sự việc trong bản thân nó không
thể nào được biết theo cách đó.
Chỉ có một thực tại mà bạn có thể hoàn toàn chắc
chắn về nó, và đó là thực tại bên trong. Bạn có thể đi
vào bên trong. Bạn có thể chắc chắn cho chính mình,
không gì khác hơn. Nhưng một khi bạn hiểu thấu sự
chắc chắn này rằng bạn hiện hữu...
Nhớ lấy, thậm chí trong mơ, bạn cũng hiện hữu.
Bạn có thể đã trở thành bướm, nhưng bạn hiện hữu.
Thậm chí để mơ tồn tại thì ít nhất bạn cũng cần có.
Mọi thứ có thể là mơ nhưng bạn thì không, bởi vì
không có bạn thậm chí mơ cũng không thể tồn tại
được. Tâm thức là cần thậm chí để mơ.
Bạn có thể chứng minh mọi thứ đều là mơ, nhưng
bạn không thể chứng minh rằng người mơ là mơ - bởi
vì người mơ phải là thực, nếu không thì mơ không thể
tồn tại được. Chỉ một điều là chắc chắn và đó là bạn.
Chỉ một điều là tuyệt đối chắc chắn và đó là thực tại
bên trong của bạn. Việc chuyển đổi có nghĩa là chuyển
từ một thế giới không chắc chắn, thế giới các hình
tướng, sang thế giới của thực tại này.
Và một khi bạn biết rằng cái chắc chắn bên trong
và bạn là nền tảng, một khi bạn biết rằng bạn hiện hữu,
thế thì từ cái chắc chắn đó tầm nhìn thay đổi, phẩm
chất thay đổi. Thế thì bạn nhìn vào thế giới bên ngoài

này và một thế giới khác được lộ ra - thế giới đó là
Thượng đế.
Khi bạn được bắt rễ trong một thực tại nào đó,
tuyệt đối chắc chắn, thế thì cái nhìn của bạn có phẩm
chất khác: thế thì có tin cậy. Bây giờ bạn có thể nhìn...
và toàn bộ thế giới này thay đổi. Thế thì không có các
hình tướng nữa mà chỉ có thực tại, cái mà thực sự là
thực.
Cái gì là cái mà thực sự là thực? Nó không phải là
những hình dạng này. Hình dạng thay đổi, nhưng cái đi
qua hình dạng lại không đổi.
Bạn đã là đứa trẻ, thế rồi bạn đã là thanh niên, thế
rồi bạn trở nên già cả - hình dạng đã liên tục thay đổi.
Mọi khoảnh khắc thân thể bạn đều thay đổi, hình dạng
thay đổi; nhưng nếu bạn nhìn vào trong, bạn vẫn còn
như cũ.
Bạn đã là một tế bào nguyên tử, nhỏ bé trong bụng
mẹ bạn, thậm chí không thấy được bằng mắt trần; thế
rồi là một đứa trẻ; thế rồi một thanh niên tràn đầy với
nhiều mơ ước, ham muốn; và thế rồi, thất vọng, chán
nản, một người thất bại, một người già. Nhưng nếu bạn
nhìn vào bên trong, mọi thứ vẫn còn như cũ. Tâm thức
không hề thay đổi.
Nếu bạn nhìn vào trong mình, bạn sẽ ngạc nhiên:
bạn không thể cảm thấy bạn bao nhiêu tuổi, bởi vì
không có tuổi cho tâm thức. Nếu bạn nhắm mắt lại, bạn
không thể nói được bạn hai mươi hay bốn mươi hay
sáu mươi, bởi vì tuổi tác thuộc vào thân thể, thuộc vào
cái vỏ. Thực tại của bạn là vô tuổi; nó chưa bao giờ
được sinh ra và nó sẽ không chết đi.
Một khi bạn được định tâm trong cái vĩnh hằng
này, cái không thay đổi, tuyệt đối không chuyển động,
thế thì phẩm chất của bạn thay đổi. Thế thì bạn có thể
nhìn, thế thì bạn đã trở thành tấm gương. Trong tấm
gương đó thực tại được soi gương. Nhưng trước hết
bạn phải trở thành tấm gương. Bạn đang dậy sóng, run
rẩy nhiều tới mức bạn không thể soi gương được cái gì
- bạn bóp méo. Tâm trí bóp méo thực tại còn tâm thức
để lộ nó ra.
Trở về cội nguồn là tìm ra ý nghĩa,
nhưng theo đuổi hình tướng lại bỏ lỡ cội nguồn.

Nếu bạn cứ theo đuổi các hình tướng, bạn sẽ bỏ lỡ
cội nguồn, bởi vì hình tướng là bên ngoài. Đôi khi bạn
chạy theo của cải, đôi khi bạn chạy theo đàn bà hay
đàn ông, đôi khi bạn chạy theo danh vọng và quyền
lực... và bạn cứ theo đuổi các hình tướng. Và toàn bộ
thời gian này bạn bỏ lỡ bản thân mình, và toàn bộ thời
gian này bạn sống trong mơ.
Nếu bạn bỏ lỡ cội nguồn, bạn bỏ lỡ tất cả. Bạn có
thể đạt tới nhiều điều trong thế giới bên ngoài, nhưng
đến cuối cùng bạn sẽ thấy mình chẳng đạt được cái gì
cả. Bạn đã bỏ lỡ cái một, cái mang mọi ý nghĩa.
Chết đi, bạn có thể chết là một người rất giầu có,
nhưng bạn sẽ chết như một người nghèo khó bên trong,
một kẻ ăn xin. Chết đi, bạn có thể rất có quyền lực, bạn
có thể là tổng thống vĩ đại của một nước, hay thủ
tướng, nhưng sâu bên dưới bạn sẽ biết rằng bạn bất
lực. Cái chết sẽ chứng tỏ rằng quyền lực của bạn chỉ là
hình tướng; quyền lực của bạn là vô quyền lực, bất lực
trước cái chết. Chỉ cái gì có quyền lực mới vượt ra

ngoài cái chết - tất cả những cái khác đều bất lực. Bạn
có thể tin vào nó một chốc, nhưng cái chết sẽ đem chân
lí tới cho bạn.
Bao giờ cũng nhớ rằng cái chết đang tới, và cái
chết là tiêu chuẩn: bất kì cái gì mà cái chết bác bỏ, đều
bị bác bỏ, bất kì cái gì cái chết chấp nhận, đều được
chấp nhận. Bất kì cái gì có thể vượt ra ngoài cái chết,
bất kì cái gì mạnh hơn cái chết, đều là thực tại. Cái
thực không thể chết được; cái không thực chết cả nghìn
lẻ một cái chết.
Vào khoảnh khắc chứng ngộ bên trong
thì có việc vượt ra ngoài hình tướng và trống rỗng.

Chỉ khi chứng ngộ xảy ra, khi bạn được tràn đầy
với ánh sáng bên trong... ánh sáng này có đó nhưng
bạn đang ném nó ra ngoài. Nó đi cùng ham muốn của
bạn. Ham muốn là sự hội tụ, ánh sáng cứ đi ra.
Nếu bạn quá nghiện của cải, toàn bộ con người bạn
hội tụ vào của cải; thế thì bạn chỉ thấy tiền bạc, không
cái gì khác. Thậm chí bạn gặp một người, bạn cũng
không thấy người đó, bạn chỉ thấy tiền thôi. Nếu người
đó nghèo, đơn giản chẳng có dấu vết nào còn lại trong
tâm trí bạn; nếu người đó giầu, thế thì dấu vết còn lại.
Nếu người ấy rất, rất giầu thế thì bạn nhớ người ấy, thế
thì kí ức được hình thành.
Nếu bạn theo đuổi quyền lực và bạn gặp một
Hitler, hay một Stalin, một Mao, thế thì bạn đang gặp
một con người, nhưng người đó là phụ. Quyền lực...
Khi Nixon không còn là tổng thống thêm nữa, bạn sẽ
không thể thấy được ông ấy; ông ấy có thể đi ngang
qua bạn nhưng ông ấy không còn là người nữa.
Bạn thấy bất kì cái gì bạn ham muốn. Ham muốn
của bạn là tầm nhìn của bạn, và ánh sáng của bạn bao
giờ cũng hội tụ vào ham muốn của bạn. Khi ánh sáng
này biến đổi, được chuyển đổi, đi vào bên trong, có toả
sáng. Thế thì bạn được tràn ngập với ánh sáng. Bạn trở
thành ngôi nhà có đèn, bạn không còn tối bên trong
nữa.
Vào khoảnh khắc chứng ngộ bên trong, có việc
vượt ra ngoài hình tướng và trống rỗng: và bỗng nhiên
bạn vượt ra ngoài hình tướng và trống rỗng. Thế thì
không có gì chỉ là hình tướng và không có gì là trống
rỗng - mọi thứ đều tràn đầy với điều thiêng liêng. Mọi
thứ đều tràn đầy, tràn ngập với điều thiêng liêng - mọi
cây cối, mọi dòng sông, mọi đại dương - đều tràn ngập
với điều thiêng liêng. Thế thì Thượng đế ở mọi nơi.
Bạn có thể gọi nó là chân lí, hay bất kì cái gì bạn thích
gọi, nhưng cái thực thì ở mọi nơi.
Khi bạn là thực, thế giới này là thực; khi bạn đang
sống trong ham muốn không thực, bạn tạo ra thế giới
hình tướng. Bất kì cái gì bạn đang là cũng đều là thế
giới của bạn. Và có nhiều thế giới như có ngần ấy
người bởi vì mọi người đều sống trong thế giới của
riêng mình, mọi người đều tạo ra thế giới riêng của
mình quanh mình. Đó là phóng chiếu và sáng tạo của
bạn.
Những thay đổi dường như xuất hiện trong thế giới
trống rỗng
chúng ta gọi là thực chỉ bởi vì dốt nát của mình.

Những thay đổi dường như xuất hiện trong thế giới
trống rỗng chúng ta gọi là thực chỉ bởi vì dốt nát của
mình. Bạn nói ai đó là già; bạn gọi cái già này là thực
bởi vì bạn không biết cái gì là thực. Nếu không thì
chẳng ai là trẻ và chẳng ai là già và chẳng ai là trẻ con.
Cái bên trong là vô tuổi, chỉ hình dạng bên ngoài thay
đổi.
Quần áo tôi cũ. Bạn sẽ gọi tôi là già bởi vì quần áo
tôi cũ sao? Quần áo tôi mới, mác mới, mới lấy từ thợ
may. Bạn sẽ gọi tôi là trẻ bởi vì quần áo tôi mới sao?
Thân thể chẳng là gì ngoài quần áo. Bạn gọi ai đó là
già, và ai đó trẻ, và ai đó là trẻ con bởi vì thân thể sao?
Bởi vì hình dạng thay đổi liên tục sao? Những người
đã hiểu biết, họ đều nói thực tại là bất động, không
chuyển động, nó không thể di chuyển. Quần áo cứ thay
đổi mãi.
Ramakrishna chết. Ngay trước khi chết, khi bác sĩ
nói, “Bây giờ ông ấy không thể sống được,” vợ của
Ramakrishna, Sharda, bắt đầu khóc. Và có những lời
cuối cùng của Ramakrishna: ông ấy nói, “Đừng khóc,
bởi vì tôi sẽ không chết đâu. Điều các bác sĩ đang nói
chỉ áp dụng cho quần áo thôi.”
Ông ấy chết vì ung thư, và Ramakrishna đã nói,
“Như tôi biết thì không có ung thư trong tôi. Ung thư
chỉ bị cho quần áo. Cho nên nhớ lấy, khi bác sĩ nói
rằng tôi chết, đừng tin họ, tin tôi - tôi sẽ sống.”
Và Sharda là quả phụ duy nhất ở Ấn Độ, trong
toàn bộ lịch sử Ấn Độ, người không bao giờ trở thành
goá bụa - bởi vì quả phụ Ấn Độ, khi chồng họ chết,
đều phải thay đổi cách sống, phong cách sống của họ.
Họ không thể dùng quần áo mầu được, bởi vì mầu sắc
đã biến mất khỏi cuộc sống họ. Họ không thể dùng đồ
trang sức, bởi vì dành cho ai?
Nhưng Sharda vẫn tiếp tục như cũ như khi
Ramakrishna vẫn còn sống. Và mọi người nghĩ rằng bà
ấy đã phát rồ, và họ sẽ tới và nói, “Bây giờ vứt đồ
trang sức đi, nhất là những cái vòng này. Đập chúng
đi! Bà là bà goá.”
Và bà ấy sẽ cười to và nói, “Tôi phải tin vào các vị
hay tin vào Ramakrishna đây? Bởi vì ông ấy đã nói,
‘Chỉ quần áo mới chết đi, không phải tôi.’ Và tôi đã lấy
ông ấy, chứ không phải là quần áo ông ấy. Tôi nên
nghe các vị hay tôi nên nghe Ramakrishna?”
Bà ấy đã nghe Ramakrishna và bà ấy vẫn còn có
chồng cho tới lúc cuối cùng. Và bà ấy đã sống trong
niềm cực lạc thế, bởi vì việc lắng nghe này đã làm biến
đổi bà ấy. Bà ấy đã trở nên nhận biết về một sự kiện -
rằng thân thể không phải là thực.
Bà ấy tiếp tục cách sống cũ của mình. Điều đó có
vẻ gàn, bởi vì trong thế giới này của những người điên
nơi mà quần áo được coi là thực, thì ai đó hành xử theo
cách mâu thuẫn thế nhất định bị coi là gàn.
Bà ấy vẫn chuẩn bị giường vào mọi đêm và bà ấy
sẽ tới buồng của Ramakrishan và nói,
“Paramahansadev, này, bây giờ đi ngủ đi chứ” - và
chẳng có ai cả! Và bà ấy sẽ chuẩn bị thức ăn, ca hát,
hạnh phúc như bà ấy đã từng làm. Thế rồi bà ấy sẽ đi
và gọi Ramakrishna, “Này, Paramahansadev, cơm đã
xong rồi đấy.”

Bà ấy phải đã biết điều gì đó. Và điều này không
chỉ cho một ngày mà cho nhiều năm. Chỉ một thông
điệp đơn giản này của Ramakrishna, “Chỉ quần áo là sẽ
chết, không phải tôi,” đã biến đổi bà ấy thành người
phụ nữ linh thiêng. Bà ấy đã trở thành, theo quyền
riêng của mình, người chứng ngộ.
Những thay đổi dường như xuất hiện trong thế giới
trống rỗng
chúng ta gọi là thực chỉ bởi vì dốt nát của mình.
Đừng tìm kiếm chân lí;
chỉ dừng việc ôm giữ ý kiến.
Đây là câu mật chú beeja, một thông điệp rất, rất
sâu sắc:
Đừng tìm kiếm chân lí;
chỉ dừng việc ôm giữ ý kiến.

Làm sao bạn có thể tìm kiếm được chân lí? Bạn là
không thật! Làm sao bạn cứ đi tìm điều thiêng liêng?
Làm sao bạn có thể tìm kiếm được chân lí? Làm sao
bạn có thể tìm kiếm được? Bạn sẽ làm gì? Nhiều nhất
thì tâm trí bạn sẽ chơi trò láu cá. Nhiều nhất thì bạn sẽ
phóng chiếu chân lí, bạn sẽ tưởng tượng ra chân lí, bạn
sẽ mơ chân lí. Đó là lí do tại sao người Hindu thấy
Krishna khi họ đạt tới chân lí, và người Ki tô giáo thấy
Jesus khi họ đạt tới chân lí.
Nhưng chân lí chẳng là người Hindu cũng không
người Ki tô giáo, chân lí không là Krishna cũng không
là Christ. Đây là các hình dạng, quần áo! Và nếu quần
áo vẫn tới, điều đó chỉ ra rằng bạn còn tràn đầy với các
ý kiến - Ki tô giáo, Hindu giáo - và bạn đang phóng
chiếu.
Tăng Xán nói, “Đừng tìm kiếm chân lí...”
Bạn không thể tìm kiếm được. Làm sao bạn có thể
tìm được? Bạn không sẵn sàng, bởi vì tâm trí có đó. Ai
sẽ tìm kiếm? Tất cả việc tìm kiếm đều thuộc vào tâm
trí, mọi việc tìm kiếm đều bắt nguồn từ tâm trí. Tâm
thức chưa bao giờ tìm, chưa bao giờ kiếm; tâm thức
đơn giản hiện hữu. Nó là bản thể, nó không phải là
ham muốn.
Tìm kiếm là ham muốn. Bạn tìm kiếm trong thế
giới của cải, quyền lực, danh vọng, và bạn thất bại.
Bây giờ bạn tìm kiếm Thượng đế và chân lí, nhưng bạn
vẫn còn như cũ. Chẳng cái gì thay đổi cả, chỉ từ ngữ
thay đổi. Trước kia nó là ‘quyền lực’, bây giờ nó là
‘Thượng đế’ - nhưng bạn vẫn còn là người tìm kiếm
cũ.
Chân lí không thể được tìm kiếm. Ngược lại, khi
tất cả mọi việc tìm kiếm đều dừng lại thì chân lí gõ cửa
nhà bạn, khi người tìm kiếm không còn nữa thì chân lí
tới bạn. Khi bạn chấm dứt tất cả các ham muốn, khi
bạn không có động cơ nào để đi đâu cả, bỗng nhiên
bạn thấy mình được sáng tỏ. Bỗng nhiên bạn thấy bạn
chính là ngôi đền mà mình tìm kiếm. Bỗng nhiên bạn
nhận ra mình là Krishna, mình là Jesus. Không linh ảnh
nào tới với bạn cả - bạn là ngọn nguồn của tất cả, bạn
là chính thực tại.
Đừng tìm kiếm chân lí;
chỉ dừng việc ôm giữ ý kiến.

Đừng ôm giữ ý kiến nào - Ki tô giáo, Hindu giáo,
Mô ha mét giáo, Jaina giáo - đừng ôm giữ ý kiến nào.
Đừng mang kinh sách, nếu không bạn có thể trở thành
con người của tri thức nhưng bạn sẽ không bao giờ là
người trí huệ cả. Bạn có thể trở nên tràn đầy với nhiều
tri thức và thông tin, nhưng mọi thứ sẽ là vay mượn và
chết. Ý kiến không phải là chân lí, không thể là chân lí
được. Ý kiến là từ tâm trí còn chân lí lại không từ tâm
trí - chân lí xảy ra khi tâm trí không còn đó nữa. Ý kiến
là cái đã biết, chân lí là cái chưa biết. Khi cái biết dừng
lại, cái chưa biết tới với bạn. Khi không có cái biết bao
quanh, cái chưa biết có đấy.
Với tâm trí bạn không thể đạt tới. Đó là điều duy
nhất cần phải bị từ bỏ: tâm trí, ý kiến, Ki tô giáo,
Hindu giáo, Gita, Kinh Thánh, Koran. Bạn không thể
mang được tri thức, bởi vì tri thức thuộc về tâm trí,
không thuộc về tâm thức.
Nhìn vào khác biệt đi. Tôi đã bảo bạn tâm thức
giống như tấm gương: bất kì cái gì tới trước nó, nó đều
phản xạ mà không có định kiến gì. Tâm trí sẽ không
nói, “Người phụ nữ này đẹp, mình muốn phản xạ cô
ấy. Còn người phụ nữ này mình không thích; mình
không định phản xạ cô ấy, cô ấy xấu.” Không, gương
không có ý kiến gì. Gương đơn giản phản xạ - đấy là
bản tính của nó.
Nhưng thế rồi lại có phim ảnh. Nó cũng là gương
nhưng nó chỉ soi gương một lần, thế rồi nó bám lấy sự
phản xạ này. Phim ảnh được che kín sau máy ảnh cũng
là gương, nhưng chỉ một lần thôi. Tâm trí giống như
phim ảnh vậy: nó phản xạ, thế rồi nó bám lấy việc
phản xạ này; thế thì nó mang thông tin chết; thế thì nó
bao giờ cũng mang cùng một thông tin.
Tấm gương phản xạ rồi nó lại trống rỗng... lần nữa
nó lại sẵn sàng để đón nhận. Tấm gương bao giờ cũng
tươi tắn để đón nhận bởi vì nó không bao giờ níu bám.
Tấm gương không có ý kiến gì. Tâm trí có ý kiến, ý
kiến và ý kiến, và qua bức tường ý kiến dầy đặc này
mà bạn sẽ chẳng bao giờ có khả năng đạt tới chân lí.
Chân lí có đó. Nó không phải là lí thuyết, nó là
thực tại - nó phải được kinh nghiệm. Bạn không thể
nghĩ về nó, bạn không thể triết lí về nó. Bạn càng triết
lí nhiều, bạn càng lỡ nhiều. Tội nhân có thể đôi khi có
thoáng nhìn, nhưng tiến sĩ triết học thì chẳng bao giờ.
Tăng Xán nói:
Đừng tìm kiếm chân lí;
chỉ dừng việc ôm giữ ý kiến.
Đừng còn trong trạng thái nhị nguyên;
cẩn thận tránh việc theo đuổi như vậy.
Nếu có dấu vết của điều này điều nọ,
cái phải và cái trái,
thì bản chất tâm trí sẽ bị mất trong lẫn lộn.

Thật khó... Bạn thậm chí có thể hiểu việc vứt bỏ
thông tin, nhưng sâu hơn, sâu hơn thông tin thông
thường, là ý thức về cái tốt và cái xấu. Bạn có thể nghĩ,
“Cũng được, mình không còn là người Ki tô giáo,
không còn là người Hindu giáo.” Nhưng đạo đức, cái
tốt và cái xấu ư...? Bạn có cho rằng đạo đức không
phải là người Ki tô giáo và người Hindu giáo không?

Đạo đức là nhân văn; thậm chí người vô thần cũng
vẫn còn là người đạo đức. Người ấy không thuộc vào
bất kì tôn giáo nào nhưng người ấy cũng nghĩ dưới
dạng tốt và xấu - và đây là một trong những vấn đề sâu
sắc nhất mà người tìm kiếm phải giải quyết. Người tìm
kiếm đích thực phải vứt bỏ tất cả mọi khái niệm, tốt và
xấu.
Tôi đã từng nghe:
Vài người du hành trong một chiếc thuyền nhỏ.
Bỗng nhiên đại dương nổi cơn điên dại và dường như
là bây giờ con thuyền sắp chìm vào bất kì lúc nào. Mọi
người đều quì xuống và bắt đầu cầu nguyện.
Trên thuyền có một vị thánh nổi tiếng, và cũng có
một kẻ tội lỗi nổi tiếng. Tội nhân này cũng quì xuống
và nói, “Lạy Trời! Xin cứu chúng con!”
Thánh nhân lại gần anh ta và nói, “Đừng có nói to
thế. Nếu ngài mà biết về anh, rằng anh cũng ở đây, thế
thì chẳng ai trong chúng ta được cứu cả. Thế thì tất cả
chúng ta sẽ chết đuối. Đừng nói to thế!”
Nhưng liệu thánh nhân còn có thể là thánh nhân
không nếu ông ấy có thể thấy tội nhân trong ai đó?
Thánh nhân có thể là thánh nhân đích thực, chân thực
nếu ông ấy nghĩ rằng người khác là tội nhân không?
Ông ấy có thể là nhà đạo đức lớn, nhưng ông ấy níu
bám lấy cái tốt và vẫn còn kết án người khác.
Người tôn giáo không kết án; người đó đơn giản
chấp nhận. Người tôn giáo khiêm tốn đến mức làm sao
người ấy lại có thể nói được, “Ta là thánh nhân và các
anh là tội nhân sao?" Người tôn giáo đơn giản vứt bỏ
tất cả các phân loại về tốt và xấu.
Tăng Xán nói:
Đừng còn trong trạng thái nhị nguyên;
cẩn thận tránh việc theo đuổi như vậy.
Nếu có dấu vết của điều này điều nọ,
cái phải và cái trái,
thì bản chất tâm trí sẽ bị mất trong lẫn lộn.

Và nghĩ mà xem, bạn biết điều đó qua kinh nghiệm
nữa... Nếu bạn nghĩ quá nhiều về việc tốt, bạn sẽ làm
gì? - cái xấu sẽ vẫn còn đấy, bạn sẽ kìm nén nó. Trên
bề mặt bạn sẽ trở nên lịch sự; sâu bên dưới sẽ có hỗn
loạn. Trên bề mặt bạn sẽ là thánh nhân; ẩn sâu bên
trong sẽ là tội nhân.
Và cùng điều ấy cũng xảy ra cho tội nhân: trên bề
mặt người ấy là tội nhân sâu bên trong người ấy lại
khao khát sự thánh thiện. Người ấy cũng nghĩ, “Điều
này là xấu, mình định vứt bỏ nó đi.” Người ấy cũng cố
gắng để phô trương rằng mình không phải là tội nhân.
Cả hai vẫn còn phân chia. Sự khác nhau không
phải ở chỗ phân chia, sự khác nhau chỉ ở điều gì trên
bề mặt và điều gì ẩn kín.
Thánh nhân mơ về tội lỗi; ông ta mơ về mọi điều
xấu mà ông ta đã kìm nén. Một hiện tượng lạ là nếu
bạn nhìn vào các mơ đó của thánh nhân, bạn bao giờ
cũng tìm thấy họ như tội nhân, và nếu bạn nhìn vào mơ
của tội nhân bạn bao giờ cũng thấy họ như thánh nhân.

Tội nhân bao giờ cũng mơ là thánh nhân và thánh
nhân bao giờ cũng mơ trở thành tội nhân, bởi vì cái bị
kìm nén trở lại trong mơ, vô thức để lộ nó ra trong mơ
- nhưng phân chia vẫn còn, và nếu bạn bị phân chia thì
bạn không thể nào rơi được về cội nguồn.
Điều ấy cũng giống như thế này: có một cái cây,
một cây lớn với hàng triệu cành. Các cành đều bị phân
chia. Nếu bạn bám vào cành làm sao bạn có thể đi về
gốc được? Bạn càng đi sâu hơn thì sẽ càng ít cành hơn
có đó; bạn càng đi thấp hơn, tính nhiều cành càng biến
đi và bạn đi tới một thân không phân chia - tất cả mọi
cành đều trong nó, nhưng bản thân nó không bị phân
chia. Mọi thứ đều bắt nguồn từ nó, cái nhiều bắt nguồn
từ cái một, nhưng cái một vẫn còn là một. Và bạn phải
rơi về cái một đó. Và đó là gốc rễ, ngọn nguồn.
Mặc dầu tất cả các nhị nguyên đều tới từ cái Một,
đừng bị gắn bó ngay cả với cái Một này.

... Mặc dầu tất cả các nhị nguyên đều tới từ cái
Một, đừng bị gắn bó ngay cả với cái Một này... Đừng
làm điều này thành lí thuyết và bị gắn bó vào nó và bắt
đầu tranh đấu nếu ai đó nói, “Không!” Đây là cách
thức điều đó đã xảy ra ở Ấn Độ.
Có một trong các trường phái bất nhị, Shankara và
trường phái của ông ấy. Ông ấy cứ tranh cãi và tranh
đấu và tạo ra bằng chứng và triết lí rằng chỉ cái một là
tồn tại, cái bất nhị. Nếu ai đó nói cái nhị nguyên tồn tại
ông ấy sẵn sàng tranh luận. Và người nhị nguyên cứ
nói mãi, “Làm sao cái một có thể tồn tại được? Cái một
không thể tồn tại, bởi vì cái khác là cần tới để cho cái
một tồn tại.”
Bạn có thể tạo ra số học từ một chữ số được
không? Mười chữ số thì không cần nhưng hai thì phải
cần. Einstein đã làm việc về điều đó và ông ấy đã cố
gắng để dùng chỉ hai chữ số trong số học, một và hai:
một, hai, thế rồi đến mười, mười một, mười hai, thế rồi
đến hai mươi. Nó cứ tiếp diễn theo cách này, nhưng nó
sẽ có tác dụng; không cần đến chín hay mười chữ số -
nhưng bạn không thể làm việc với chỉ một chữ số.
Những người nhị nguyên nói rằng sự tồn tại là
không thể có được với một; thậm chí dòng sông cũng
cần tới hai bờ để mà chảy. Đàn ông và đàn bà là cần tới
để cho sinh thành ra trẻ con; sống và chết là hai bờ cho
cuộc sống tuôn chảy ở giữa. Một sẽ đơn điệu thế - làm
sao cuộc sống có thể bắt nguồn từ cái một? Họ cứ nói
“hai”. Và những người nói “một”, bất nhị, họ cứ tranh
đấu với những người nhị nguyên.
Tăng Xán nói nếu bạn đã thực sự hiểu rằng mọi
thứ đều bắt nguồn từ cái một, thế thì đừng níu bám
ngay cả vào điều này, bởi vì việc níu bám chỉ ra rằng
bạn ủng hộ cái gì đó và chống lại cái gì đó. Nếu bạn
nói, “Tôi là người bất nhị,” bạn đã làm mất vấn đề -
bởi vì nếu chỉ có một, làm sao bạn có thể là người nhị
nguyên hay bất nhị? Và bạn ngụ ý gì bởi bất nhị? Nếu
không có nhị nguyên, bạn ngụ ý gì bởi bất nhị? Giữ im
lặng thôi!
Một người thực sự bất nhị không thể khẳng định.
Người ấy không thể nói, “Tôi tin vào điều này,” bởi vì
niềm tin bao giờ cũng kéo theo cái đối lập. Nếu tôi nói,
“Tôi tin vào điều này,” thế thì điều được suy ra rằng tôi
không tin vào điều đó. Thế thì cái hai được tạo ra.

Tăng Xán nói - ông ấy thực sự là người bất nhị -
ông ấy nói:
Mặc dầu tất cả các nhị nguyên đều tới từ cái Một,
đừng bị gắn bó ngay cả với cái Một này.
Khi tâm trí tồn tại không bị xáo động trong Đạo,
chẳng cái gì trong thế giới này có thể làm mất
lòng,
và khi một điều không còn làm mất lòng nữa,
nó dừng tồn tại theo cách cũ.
Điều này rất hay, nhớ lấy nó.
Khi tâm trí tồn tại không bị xáo động trong Đạo,
chẳng cái gì trong thế giới này có thể làm mất
lòng,
và khi một điều không còn làm mất lòng nữa,
nó dừng tồn tại theo cách cũ.

Ai đó xúc phạm bạn. Nếu bạn thực sự tồn tại
không bị rối loạn, bạn không thể bị xúc phạm; người
ấy có thể cố gắng, nhưng bạn không thể bị xúc phạm.
Người ấy có thể làm mọi thứ để xúc phạm, nhưng bạn
sẽ không nhận sự xúc phạm ấy. Và chừng nào mà bạn
không nhận nó thì người ấy thất bại.
Chuyện đã xảy ra:
Một nhà phân tâm định đi dạo buổi sáng với bạn
mình. Một người vốn là bệnh nhân của nhà phân tâm
này, một người khùng, chạy tới và đâm sầm vào lưng
nhà phân tâm. Nhà phân tâm loạng choạng, ngã phịch
xuống đất và người kia chạy mất. Ông này thu hết sức
mình và lại bắt đầu việc đi dạo.
Người bạn lấy làm ngạc nhiên. Người đó nói, “Anh
không làm cái gì sao? Phải làm cái gì đi chứ, đấy là
việc phải làm! Người này là người điên!”
Nhà phân tâm nói, “Đây là vấn đề của anh ta.”
Ông ta phải, bởi vì: “Cái đâm này là vấn đề của
anh ta, không phải của tôi. Sao tôi lại bị rối loạn?” Ông
ấy phải, bởi vì nếu ai đó giận dữ thì đấy là việc của
người ấy; nếu người ấy xúc phạm thì đấy là vấn đề của
người ấy. Nếu bạn bị rối loạn, thì bạn bị rối loạn.
Nhưng ngay lập tức bạn bị rối loạn - điều đó có nghĩa
là giận dữ và xúc phạm của người ấy chỉ là một cái cớ.
Bạn đã sôi sùng sục bên trong rồi, chỉ đợi cái cớ nào đó
để bùng ra thôi.
Tăng Xán nói: Khi tâm trí tồn tại không bị rối
loạn... và khi bạn rơi về cội nguồn thì đấy là không bị
rối loạn... trong Đạo, chẳng cái gì trong thế giới này
có thể làm mất lòng, và khi một điều không còn làm
mất lòng nữa, nó dừng tồn tại theo cách cũ...Và phẩm
chất thay đổi theo thái độ. Nếu ai đó xúc phạm bạn,
điều đó có vẻ giống như xúc phạm bởi vì bạn nhận lấy
xúc phạm. Nếu bạn không nhận lấy xúc phạm, điều đó
sẽ không giống như xúc phạm. Làm sao nó có thể
giống như xúc phạm nếu bạn không bị xúc phạm?

Ai đó giận dữ - bạn cảm thấy điều đó như sự giận
dữ bởi vì bạn nhận lấy việc bị rối loạn. Nếu bạn không
bị rối loạn, bạn không thể cảm thấy nó là giận dữ.
Phẩm chất thay đổi bởi vì cách diễn giải của bạn thay
đổi, bởi vì bạn khác đi. Ai đó ghét bạn - bạn cảm thấy

điều đó như việc ghét bỏ, bởi vì bạn bị rối loạn. Nếu
bạn không bị rối loạn và ai đó ghét bạn, bạn có gọi
điều đó là ghét không? Làm sao bạn có thể gọi điều đó
là ghét được? Cái tên cũ chẳng có tác dụng; tâm trí cũ
không có đó.
Bạn thậm chí cảm thấy từ bi, bạn có thể cảm thấy
thương hại. Bạn có thể cảm thấy, “Điều gì đã xảy ra
cho con người này nhỉ? Anh ta khổ sở làm sao, mà
chẳng cần thiết, và chẳng kết quả gì!” Bạn thậm chí có
thể giúp đỡ cho người này thoát ra khỏi điều đó, bởi vì
khi ai đó giận dữ, người ấy đang đầu độc chính thân
thể mình, đầu độc con người mình - anh ta ốm yếu.
Bạn sẽ giúp cho anh ta thoát ra khỏi điều đó. Nếu ai đó
bị ung thư, bạn không bắt đầu tranh đấu với anh ta.
Bạn giúp đỡ anh ta, bạn phục vụ anh ta, bạn đưa anh ta
tới bệnh viện.
Với vị phật - với một người như Tăng Xán - khi
bạn giận dữ, tâm trí bạn bị ung thư; từ bi là cần thiết,
bạn cần nhiều giúp đỡ. Và nếu thế giới này trở nên
được chứng ngộ thêm chút ít, bất kì khi nào bất kì ai
giận dữ, cả gia đình, bạn bè, tất cả họ sẽ đưa người này
vào bệnh viện. Người ấy cần đưa đi bệnh viện... Thật
là ngu xuẩn mà đi tranh đấu với người ấy và giận
người ấy. Điều đó hoàn toàn ngu xuẩn và ngớ ngẩn bởi
vì người ấy đã ốm yếu, còn tất cả các bạn thì chống lại
người ấy - làm sao bạn sẽ giúp đỡ được?
Với ốm yếu thể chất, chúng ta có từ bi, với ốm yếu
tinh thần, chúng ta lại không có từ bi - bởi vì nếu ai đó
ốm thể chất chúng ta không coi đó như việc xúc phạm
mình. Khi ai đó ốm yếu về tinh thần, chúng ta coi
người đó là ốm yếu về tinh thần bởi vì chúng ta. Bởi vì
chúng ta cũng ốm yếu, do đó mới có thái độ này.
Một khi bạn không bị rối loạn thì mọi thứ thay đổi,
bởi vì thái độ của bạn thay đổi. Bạn khác, toàn bộ thế
giới cũng khác - nó dừng tồn tại theo cách cũ.

Khi không có các ý nghĩ phân biệt nẩy sinh,
tâm trí cũ dừng tồn tại.
Phân biệt - cái này tốt, cái kia xấu, cái này tôi
thích, cái kia tôi không thích - phân biệt này là rất cơ
bản của tâm trí. Nếu phân biệt này biến mất, tâm trí rơi
vào trong vực thẳm. Bạn sẽ đạt tới cội nguồn của mình.
Và cội nguồn đó mang tất cả mọi ý nghĩa, tất cả mọi
cực lạc, tất cả mọi ân huệ.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #5 Thống nhất của cái trống rỗng

Khi đối thể suy nghĩ tan biến, chủ thể suy nghĩ tan
biến, như khi tâm trí tan biến, đối thể tan biến.
Sự vật là đối thể bởi vì chủ thể; tâm trí là như vậy
bởi vì sự vật.
Hiểu tính tương đối của hai điều này và thực tại cơ
bản: thống nhất của cái trống rỗng.
Trong cái trống rỗng này cái hai đó là không thể
phân biệt được và mỗi cái đều chứa trong nó toàn bộ
thế giới.
Nếu ông không phân biệt giữa thô thiển và tinh tế
thì ông sẽ không bị quyến dũ tới định kiến và ý kiến.

Thế giới có đó bởi vì bạn - bạn tạo ra nó, bạn là
người sáng tạo. Mọi sinh linh đều tạo ra một thế giới
quanh mình, điều đó tuỳ thuộc vào tâm trí sinh linh đó.
Tâm trí có thể là ảo tưởng, nhưng nó là sáng tạo - nó
tạo ra mơ. Và tuỳ ở bạn mà tạo ra địa ngục hay thiên
đường.
Nếu bạn định rời bỏ thế giới này, bạn sẽ không có
khả năng rời bỏ nó. Dù bạn đi đâu, bạn đều sẽ tạo ra
cùng thế giới ấy nữa bởi vì thế giới này thường xuyên
bắt nguồn từ bạn, cũng như lá bắt nguồn từ cây.
Các bạn không sống trong cùng một thế giới - các
bạn không thể sống được, bởi vì các bạn không có tâm
trí tương tự. Ngay bên cạnh bạn, ai đó có thể đang sống
trong thiên đường, còn bạn có thể đang sống trong địa
ngục - và bạn cảm thấy rằng bạn đang sống trong cùng
thế giới sao? Làm sao bạn có thể sống trong cùng một
thế giới khi các tâm trí khác nhau?
Cho nên điều đầu tiên cần phải hiểu là ở chỗ bạn
không thể rời bỏ thế giới này chừng nào tâm trí chưa
biến mất. Chúng có quan hệ với nhau, chúng phụ thuộc
lẫn nhau, chúng tạo ra cái vòng luẩn quẩn. Nếu tâm trí
có đó... Và tâm trí bao giờ cũng là tâm trí đặc biệt. Khi
tâm trí không còn là tâm trí đặc biệt nữa, khi nó trở
thành Tâm trí với chữ T hoa, nó không còn là tâm trí
nữa, nó đã trở thành tâm thức. Một tâm trí bao giờ
cũng là tâm trí đặc biệt và nó mang vầng hào quang
đặc biệt quanh nó - đó là thế giới của bạn.
Tâm trí tạo ra thế giới này và thế rồi thế giới lại tạo
ra tâm trí, giúp đỡ cho tâm trí vẫn còn như cũ. Đây là
cái vòng luẩn quẩn. Nhưng ngọn nguồn là trong tâm

trí; thế giới chỉ là sản phẩm phụ. Tâm trí là chủ chốt;
thế giới chỉ là cái bóng của nó. Và bạn không thể phá
huỷ được cái bóng, nhưng mọi người đều cố gắng phá
huỷ nó.
Nếu người vợ này không thích hợp với bạn, bạn
nghĩ người vợ khác sẽ thích hợp. Bạn đang cố gắng để
thay đổi thế giới này, còn bạn thì vẫn như cũ. Bạn sẽ
chỉ biến người vợ tiếp thành bản sao y hệt của người
vợ cũ. Bạn sẽ lại sáng tạo nữa, bởi vì người vợ này chỉ
là màn ảnh.
Và bạn sẽ ngạc nhiên: những người đã cưới nhiều
lần, kinh nghiệm của họ thực sự kì lạ. Một người đã
cưới mười lần thì đều nhận ra sự kiện rằng, “Sao điều
ấy cứ xảy ra thế? - trong thế giới rộng rãi và lớn lao thế
mà mình bao giờ cũng cứ vơ phải cùng kiểu phụ nữ thế
này? Thậm chí do ngẫu nhiên điều ấy cũng dường như
không thể được! Cứ lặp đi lặp lại mãi!”
Vấn đề không phải là phụ nữ, vấn đề là tâm trí.
Tâm trí bị hấp dẫn vào cùng kiểu phụ nữ, lại tạo ra
cùng mối quan hệ, lại tìm cùng cái đống lộn xộn và
cùng địa ngục.
Và cùng điều đó xảy ra trong mọi thứ bạn làm. Bạn
có cho rằng bạn sẽ sống hạnh phúc trong cung điện
không? Bạn lầm. Ai định sống trong cung điện đó?
Bạn sẽ sống ở đó. Nếu bạn không hạnh phúc trong cái
lều của mình, bạn sẽ không hạnh phúc trong cung điện
của mình. Ai sẽ sống trong cung điện? Cung điện
không tồn tại bên ngoài bạn.
Nếu bạn có thể sống một cách hạnh phúc trong lều,
bạn có thể sống hạnh phúc trong cung điện, bởi vì bạn
tạo ra thế giới quanh mình. Nếu không, khi cái lều dằn
vặt bạn thì cung điện sẽ dằn vặt bạn - thậm chí còn
nhiều hơn thế bởi vì nó là một thứ lớn hơn. Nó sẽ là
địa ngục, vẫn như cũ - được trang trí nhiều hơn, nhưng
một địa ngục có trang trí không phải là thiên đường.
Và thậm chí nếu bị ném một cách bắt buộc vào thiên
đường bạn sẽ cố gắng để tìm lối ra, hay bạn sẽ tạo ra
địa ngục của mình ở đó.
Tôi đã nghe nói về một người, một doanh nhân
lớn, nhà chế tạo trang phục. Ông ấy chết. Bằng cách
nào đó, bởi nhầm lẫn kĩ thuật nào đó, ông ấy được vào
thiên đường. Ông ấy gặp bạn đối tác cũ của mình ở đó.
Người bạn cũ này rất buồn khi ông ta còn trên trái đất.
Cho nên doanh nhân nói, “Điều đó có nghĩa gì? Anh
đang trên thiên đường, mà lại bất hạnh thế?”
Người bạn đối tác nói, “Ở đây cũng được, nhưng
cá nhân tôi thì tôi thích Miami hơn.”
Và người kia cũng đi tới cùng kết luận đó trong vài
ngày. Họ lại trở thành đối tác ở đó, và họ muốn bắt đầu
hãng kinh doanh để chế tạo trang phục.
Cùng điều ấy lại sắp xảy ra dù bạn đi đâu, bởi vì
bạn là thế giới này. Bạn tạo ra thế giới quanh mình, thế
rồi thế giới đó lại giúp cho tâm trí mà đã tạo ra nó. Con
giúp bố, con giúp mẹ, cái bóng của bạn giúp cho điều
bản chất - thế thì tâm trí được làm mạnh thêm nữa, thế
thì lần nữa bạn tạo ra cùng thế giới theo cùng hướng.
Từ đâu mà sự biến đổi này bắt đầu? Làm sao thay đổi?
Nếu bạn nhìn, cái nhìn đầu tiên sẽ nói phải thay đổi
thế giới này, bởi vì nó rõ ràng thế quanh bạn. Thay đổi

nó đi! Và đó là điều bạn đã làm trong nhiều kiếp: liên
tục thay đổi thế giới, thay đổi cái này và cái nọ, đổi
nhà, thân thể, vợ, chồng, bạn bè - thay đổi, nhưng
không bao giờ nhìn vào sự kiện là bạn vẫn còn như cũ,
cho nên làm sao bạn có thể thay đổi được thế giới?
Đó là lí do tại sao một truyền thống sai lầm về từ
bỏ đã đi vào tồn tại trên khắp thế giới. Trốn nhà và vào
tu viện. Trốn nhà và lên Himalaya. Trốn khỏi thế giới
này! Bạn có thể dễ dàng đi lên Himalaya, nhưng làm
sao bạn thoát khỏi bản thân mình? Bạn sẽ tạo ra cùng
thế giới ở đó - cùng thế giới. Nó có thể là thế giới thu
nhỏ, nó có thể không bao la đến thế, nhưng bạn sẽ làm
như cũ. Bạn vẫn như cũ - làm sao bạn có thể làm bất kì
cái gì khác được?
Hiểu sâu sắc hơn để lộ ra điều này: thay đổi tâm
trí, thế thì thế giới thay đổi. Thế thì dù bạn ở đâu, thế
giới khác cũng lộ ra. Bạn đi sâu hơn, và thế thì bạn
hiểu rằng nếu bạn muốn hiện hữu thực sự mà không có
thế giới bao quanh bạn... Bởi vì dù thế giới này có đẹp
đến đâu, chẳng chóng thì chầy nó cũng sẽ trở thành
nhàm chán và bạn sẽ chán ngấy. Cho dù đấy có là thiên
đường thì bạn cũng sẽ bắt đầu khao khát địa ngục, bởi
vì tâm trí cần thay đổi. Nó không thể sống trong vĩnh
hằng, nó không thể sống trong không đổi, bởi vì tâm trí
khao khát hiếu kì mới nào đó, cảm giác mới nào đó,
kích động mới nào đó. Không thể nào làm cho tâm trí
dừng lại và còn lại với thời gian.
Đó là lí do tại sao tâm trí không thể nào sống ở
đây, bây giờ, bởi vì bây giờ không phải là một phần
của thời gian. Bây giờ chưa bao giờ thay đổi, nó là
vĩnh hằng. Bạn không thể nói nó là không đổi được,
rằng nó không phải là thường hằng, rằng nó là vĩnh
hằng. Nó đơn giản như nó hiện thế. Chẳng cái gì xảy ra
ở đấy cả. Nó là trống rỗng.
Phật đã gọi nó là shunyata - trống rỗng tuyệt đối.
Không cái gì xảy ra ở đó, không ai tới, không ai đi.
Không có ai cả, bởi vì nếu ai đó có đấy thế thì cái này
hay cái khác sẽ xảy ra.
Tâm trí không thể nào sống trong vĩnh hằng bây
giờ. Tâm trí muốn sự thay đổi và cứ hi vọng, và cứ hi
vọng chống lại mọi hi vọng. Toàn bộ tình huống là vô
vọng, nhưng tâm trí thì cứ hi vọng.
Tôi đã từng nghe:
Mulla Nasruddin thất nghiệp đã nhiều, nhiều năm,
bởi vì anh ta muốn là nghệ sĩ mà anh ta lại không có
tài. Nhưng ngày nào cũng vậy, theo một cách tôn giáo,
anh ta đều tới văn phòng tìm việc. Tràn trề hi vọng,
anh ta sẽ gõ cửa, đi vào văn phòng và hỏi, “Có việc gì
không? Có việc nào cho tôi ở đâu đó không?”
Và nhân viên văn phòng bao giờ cũng nói cùng
một điều, “Tôi không thể làm được gì, chẳng cái gì có
thể cả.”
Ngày qua ngày, tuần qua tuần, thế rồi năm qua
năm và việc gõ cửa của Mulla đã trở thành thường lệ.
Dù bất kì mùa nào, khí hậu nào, tốt hay xấu, nhưng
một điều chắc chắn cho nhân viên văn phòng này - đó
là Mulla sẽ tới. Và anh ta sẽ hỏi một cách tràn trề hi
vọng, và người này sẽ lại nói cùng một điều:
“Nasruddin, tôi chẳng thể làm được gì, chẳng cái gì có
thể cả.”

Thế rồi một hôm tiếng gõ cửa khác đi, có chút ít
buồn bã. Và khi Mulla bước vào, thậm chí nhân viên
văn phòng này cũng phải ngạc nhiên: “Sao anh ta lại
buồn thế?”
Mulla nói, “Anh nghe đây, trong hai tuần đừng tìm
chỗ cho tôi ở đâu cả bởi vì tôi sắp đi nghỉ.”
Đây là cách tâm trí vận hành - cứ hi vọng mãi,
không chỉ nhiều năm, mà cả nhiều kiếp! Bạn gõ lên
cùng cánh cửa với cùng câu hỏi và ham muốn, và bao
giờ cũng là câu trả lời không. Bạn được gì qua tâm trí
ngoài những cái không ấy?
Cái có chưa bao giờ tới theo cách đó, nó không thể
tới được. Tâm trí là nỗ lực vô ích. Nó như sa mạc vậy,
chẳng cái gì mọc lên từ nó cả, chẳng cái gì có thể
trưởng thành được. Nhưng nó cứ hi vọng mãi. Thậm
chí sa mạc cũng mơ, và mơ về mảnh vườn đẹp, về
dòng sông cuộn chảy, về các con suối và thác nước.
Thậm chí sa mạc cũng mơ... và đó là mơ của tâm trí.
Người ta phải tỉnh táo. Không cần phải phí thêm
bất kì thời gian nào nữa - không cần phải gõ cửa văn
phòng tìm việc. Bạn đã sống đủ với tâm trí rồi. Bạn
chẳng đạt được cái gì qua nó cả. Chẳng phải bây giờ
chính là lúc để tỉnh táo và nhận biết sao?
Tất nhiên bạn đã thu thập nhiều khổ sở và nhiều
địa ngục - nếu bạn có thể gọi chúng là thành tựu thì
cũng được - khổ sở, thất vọng. Và dù bạn có đi đâu với
tâm trí thì điều gì đó vẫn cứ sai, bởi vì tâm trí là cái
máy về việc sai. Nhìn xem, cái gì đó sai đấy.
Con trai của Mulla Nasruddin vào trường học. Cô
giáo đang nói về địa lí và cô ấy nói và giải thích về
hình dạng trái đất và đủ mọi thứ. Và thế rồi cô ấy hỏi
con trai của Mulla Nasruddin, “Hình dạng trái đất là
gì?”
Nó im lặng, cho nên để gợi mở câu trả lời cho nó
cô ấy nói, “Nó có phẳng không?”
Thằng bé nói, “Không ạ.”
Cô ấy trở nên hi vọng hơn; cô ấy nói, “Thế thì nó
là hình cầu, hình tròn chăng?”
Con trai Nasruddin nói, “Không.”
Thế là cô ấy ngạc nhiên. Cô ấy nói, “Các khả năng
chỉ có hai thôi: hoặc là nó phẳng hoặc nó hình cầu, thế
mà con lại nói không cho cả hai. Vậy ý con là gì?”
Thằng bé nói, “Bố con bảo nó bị cong ạ.”
Với tâm trí mọi thứ đều bị cong; không phải bởi vì
mọi thứ bị cong đâu - cái cách tâm trí nhìn, bất kì cái gì
thấm qua trung gian tâm trí đều trở thành bị cong cả.
Cũng như bạn đặt một vật thẳng vào trong nước, một
cái que, và bỗng nhiên bạn thấy qua trung gian nước đã
làm điều gì đó; nó không còn thẳng nữa. Bạn lôi nó ra
khỏi nước, nó lại thẳng... cho nó vào trong nước... Và
bạn biết rằng cái que vẫn còn thẳng ngay cả trong
nước, nhưng mắt bạn vẫn nói rằng nó không thẳng. Cả
trăm lần bạn có thể kéo nó ra rồi lại đưa nó vào. Thậm
chí nếu bạn biết rõ rằng cái que vẫn còn thẳng, thì cái
trung gian kia sẽ lại cho bạn thông tin sai lầm rằng nó
không còn thẳng nữa.

Bạn đã biết nhiều, nhiều lần rằng khổ sở do tâm trí
tạo ra, nhưng lần nữa bạn lại trở thành nạn nhân. Tâm
trí tạo ra khổ sở; nó không thể tạo ra bất kì cái gì khác
bởi vì nó không thể gặp được thực tại. Nó chỉ có thể
mơ mộng - đó là khả năng duy nhất cho tâm trí. Nó chỉ
có thể mơ mộng. Và mơ mộng không thể được thoả
mãn, bởi vì bất kì khi nào chúng đi ngược lại thực tại
chúng đều bị tan vỡ.
Bạn sống trong nhà kính: bạn không thể đối diện
với thực tại. Bất kì khi nào thực tại tới, ngôi nhà của
bạn cũng tan vỡ, và nhiều ngôi nhà mà bạn sống đã tan
vỡ rồi. Bạn mang tàn tích của chúng trong tâm trí, cái
khổ đau kết quả, và điều đó làm cho bạn rất chua chát,
rất cay đắng.
Nếm bất kì ai và bạn sẽ nếm vị cay đắng. Và đó
cũng là kinh nghiệm của người khác về bạn nữa: mọi
người đều nếm vị cay đắng. Lại gần hơn và mọi thứ
thành cay đắng; còn ở xa, mọi thứ có vẻ đẹp. Lại gần
hơn, mọi thứ thành cay đắng - bởi vì khi bạn lại gần,
thì tâm trí thấm vào lẫn nhau và mọi thứ bị làm cong
đi, thế thì chẳng có gì thẳng cả.
Điều này phải được hiểu bằng kinh nghiệm của
bạn, không phải bằng lí thuyết từ tôi hay Tăng Xán.
Tăng Xán chẳng ích gì, mà tôi cũng chẳng ích gì. Nó
phải trở thành hiện tượng được bạn kinh nghiệm lấy.
Được kinh nghiệm, nó trở thành chân lí - và thế thì
nhiều thứ bắt đầu thay đổi, thế thì bạn vứt bỏ tâm trí.
Và khi tâm trí bị vứt bỏ mọi thế giới đều biến mất.
Khi tâm trí bị vứt bỏ, các đối thể biến mất; thế thì
chúng không còn là đối thể nữa. Thế thì bạn không biết
bạn kết thúc ở đâu và mọi vật bắt đầu ở đâu. Thế thì
không có biên giới - biên giới biến mất.
Ban đầu bạn cảm thấy dường như mọi thứ đã mờ
đi, nhưng dần dần bạn lắng vào trong hiện tượng mới
này, mà chính là vô trí. Thế thì có các vì sao đó, nhưng
chúng là một phần của bạn, không còn là đối thể nữa.
Có hoa và cây đấy, nhưng chúng nở hoa trong bạn,
không còn ở bên ngoài. Thế thì bạn sống với cái toàn
bộ.
Rào chắn đã tan vỡ - rào chắn là tâm trí bạn. Thế
thì lần đầu tiên không có thế giới, bởi vì ‘thế giới’ có
nghĩa là cái toàn bộ của các đối thể. Lần đầu tiên có vũ
trụ, và vũ trụ có nghĩa là cái một. Nhớ từ ‘một’. Điều
này bạn gọi là vũ trụ sao?... sai. Đừng gọi nó là vũ trụ:
với bạn nó là đa vũ trụ - nhiều thế giới, không còn là
một thế giới. Nó chưa là một.
Nhưng khi tâm trí bị vứt bỏ, thế giới biến mất.
Không có các đối thể. Các biên giới quyện lẫn nhau và
trộn vào nhau. Cây trở thành đá, đá trở thành mặt trời,
mặt trời trở thành sao, sao trở thành người đàn bà mà
bạn yêu, và mọi thứ gặp gỡ và hoà quyện vào nhau. Và
bạn không có đó, tách biệt. Bạn ở trong nó đập rộn
ràng tại chính trái tim, thổn thức. Thế thì đấy là vũ trụ.
Tâm trí bị loại bỏ, các đối thể biến mất - ngọn
nguồn mơ mộng đã biến mất. Bạn đã làm gì vậy? Bạn
đã cố gắng để có được mơ mộng tốt hơn, tất nhiên
chẳng kết quả gì. Nhưng toàn bộ nỗ lực của tâm trí là
để có được mơ mộng tốt hơn. Đừng nghĩ rằng tâm trí
có thể cho bạn mơ mộng tốt hơn - mơ chỉ là mơ mà
thôi. Cho dù có tốt hơn, mơ sẽ không phải là một điều

thoả mãn, nó không thể cho bạn sự mãn nguyện sâu
sắc. Mơ chỉ là mơ thôi!
Nếu bạn cảm thấy khát bạn cần nước thực, không
phải là nước mơ mộng. Nếu bạn đói bạn cần bánh mì
thật, không phải là bánh mì mơ. Trong vài khoảnh
khắc bạn có thể có khả năng tự lừa dối mình, nhưng
được bao lâu?
Mọi đêm điều đó xảy ra: bạn đói, tâm trí tạo ra một
mơ - bạn đang ăn, bạn đang ăn những của ngon vật lạ.
Trong vài phút điều đó là được, thậm chí trong vài giờ
điều đó là được, nhưng được bao lâu? Bạn có thể cứ ở
trong mơ mãi mãi được không?
Điều đó giúp ích cho giấc ngủ, bạn không bị quấy
rối. Nếu không thì cái đói sẽ quấy rầy bạn, bạn sẽ phải
thức dậy và đi ra tủ lạnh. Điều đó có ích: bạn có thể cứ
ngủ, cảm thấy rằng bạn đang ăn; không cần phải đi đâu
cả. Nhưng đến sáng bạn sẽ biết rằng tâm trí lừa mình.
Toàn bộ cuộc đời bạn cũng tựa như mơ vậy, và bạn
đang thay thế các đối thể mơ cho thực tại. Cho nên mọi
ngày mọi thứ cứ bị tan vỡ, mọi ngày bạn đều bị choáng
trong thực tại, bởi vì thực tại cứ va hết chỗ nọ tới chỗ
kia. Bạn không thể tránh được nó! Mơ là thứ rất mong
manh; thực tại cứ va vào và làm tan vỡ nó.
Và điều đó là tốt, đó là điều tốt của bạn, rằng thực
tại làm tan vỡ mơ của bạn, làm tan nát chúng thành
từng mảnh. Nhưng bạn lại bắt đầu thu thập các mảnh
vỡ đó và tạo ra các mơ khác. Vứt nó đi! Bạn làm thế là
đủ rồi. Chẳng cái gì đạt được cả. Bây giờ đừng thêm
nó nữa!
Một khi bạn hiểu ra rằng việc mơ mộng cần phải bị
chấm dứt thì thế giới các đối thể biến mất. Thế giới
này thì vẫn có đó, nhưng không là các đối thể. Thế thì
mọi thứ trở thành sống động, mọi thứ trở thành chủ
quan.
Đó là ý nghĩa của người tôn giáo, người nói rằng
mọi thứ đều là Thượng đế. Họ đang nói gì vậy?
Thượng đế chỉ là biểu dụ. Không có ai ngồi đâu đó trên
trời, điều khiển, quản lí, sắp đặt. Thượng đế chỉ là biểu
dụ - biểu dụ rằng mọi thứ trên thế giới này không
giống đồ vật, chúng là người. Sâu bên trong tính chủ
quan có đó. Mọi thứ đều sống động và đập rộn ràng.
Và cái đập rộn ràng đó không phải là tiến trình bị phân
mảnh, cái đập rộn ràng này là cái đập toàn thể.
Tất nhiên bạn cảm thấy nhịp đập của trái tim gần
trái tim, tại trái tim. Nhưng bạn cho rằng nó chỉ trong
trái tim thôi sao? Thế thì bạn sai - toàn bộ thân thể
cũng đang đập rộn ràng. Trái tim chỉ là chỉ dẫn, toàn
thể đang đập rộn ràng. Đó là lí do tại sao khi tim dừng
lại thì thân thể chết. Không phải thực sự trái tim đã đập
rộn ràng, chính toàn thân thể đã đập rộn ràng qua trái
tim; trái tim chỉ là một chỉ báo.
Bạn đang đập rộn ràng, nhưng cái toàn thể lại đập
rộn ràng qua bạn - bạn chỉ là một chỉ báo, trái tim. Vũ
trụ đập rộn ràng và đập qua bạn. Bạn không hiện hữu,
vũ trụ hiện hữu.
Và vũ trụ không phải là toàn bộ các đối thể, nó là
tính chủ quan. Nó tồn tại như người. Nó sống động, có
ý thức. Nó không phải là cách bố trí máy móc, nó là sự
thống nhất hữu cơ.

Bây giờ cố hiểu những lời này của Tăng Xán:
Khi đối thể suy nghĩ tan biến, chủ thể suy nghĩ tan
biến,
như khi tâm trí tan biến, đối thể tan biến.
Sự vật là đối thể bởi vì chủ thể;
tâm trí là như vậy bởi vì sự vật.

Mọi thứ có đó quanh bạn bởi vì bạn. Bạn hấp dẫn
chúng. Nếu bạn cảm thấy địa ngục quanh mình, đấy
chính là bạn đã hấp dẫn nó tới. Đừng giận nó và đừng
bắt đầu tranh đấu với nó; điều đó vô ích. Bạn đã hấp
dẫn, bạn đã mời mọc - bạn đã làm điều đó! Và bây giờ
ham muốn của bạn được thoả mãn: bất kì cái gì bạn
cần đều ở xung quanh bạn. Và thế thì bạn bắt đầu tranh
đấu và trở nên giận dữ. Bạn đã thành công!
Bao giờ cũng nhớ rằng bất kì cái gì đang xảy ra
xung quanh bạn đều có gốc rễ trong tâm trí. Tâm trí
bao giờ cũng là nguyên nhân. Nó là cái máy chiếu, và
bên ngoài chỉ có các màn ảnh - bạn phóng chiếu bản
thân mình. Nếu bạn cảm thấy nó xấu, thế thì đổi tâm trí
đi. Nếu bạn cảm thấy bất kì cái gì tới từ tâm trí đều là
địa ngục và ác mộng, thế thì vứt bỏ tâm trí đi. Làm
việc với tâm trí, đừng làm việc với màn ảnh; đừng cứ
tô vẽ nó và thay đổi nó. Làm việc với tâm trí.
Nhưng có một vấn đề, bởi vì bạn nghĩ bạn là tâm
trí. Cho nên làm sao bạn có thể vứt bỏ nó được? Cho
nên bạn cảm thấy bạn có thể vứt bỏ mọi thứ, thay đổi
mọi thứ, vẽ lại, trang trí lại, bố trí lại, nhưng làm sao
bạn có thể vứt bỏ bản thân mình được. Đó là gốc rễ của
mọi rắc rối.
Bạn không phải là tâm trí, bạn ở bên ngoài tâm trí.
Bạn đã trở nên bị đồng nhất, điều đó đúng, nhưng bạn
không phải là tâm trí.
Và đây là mục đích của thiền: cho bạn những
thoáng nhìn nhỏ rằng bạn không phải là tâm trí. Thậm
chí chỉ vài khoảnh khắc tâm trí dừng lại... bạn vẫn có
đó! Ngược lại, bạn lại còn nhiều hơn, tràn ngập với bản
thể. Khi tâm trí dừng lại dường như là luồng chảy vẫn
liên tục làn cạn kiệt bạn đã dừng lại. Bỗng nhiên bạn
được tràn ngập với năng lượng. Bạn cảm thấy nhiều
hơn!
Nếu thậm chí chỉ một khoảnh khắc bạn trở nên
nhận biết rằng tâm trí không có đó nhưng có ‘đây,’ thì
bạn đã đạt tới cốt lõi sâu xa của chân lí. Thế thì sẽ dễ
dàng vứt bỏ tâm trí. Bạn không phải là tâm trí, nếu
không thì làm sao bạn có thể vứt bỏ bản thân mình
được? Sự đồng nhất cần phải bị loại bỏ trước nhất, thế
thì tâm trí có thể bị loại bỏ.
Toàn bộ phương pháp của Gurdjieff là làm sao để
đạt được không đồng nhất. Khi một ham muốn tới lần
sau, nhìn vào nó. Nói bên trong với bản thân mình,
“Thôi được, mình sẽ quan sát tâm trí này đi tới đâu.”
Và bạn sẽ cảm thấy một khoảng cách... bạn đang nhìn
vào nó. Ai là người nhìn này, khán giả này?... Và ham
muốn di chuyển và tạo ra mơ.
Đôi khi bạn có thể quên, đôi khi bạn có thể trở
thành một với ham muốn. Kéo mình ra lần nữa, nhìn
vào ham muốn này lần nữa: ham muốn này đang di
chuyển theo ý riêng của nó. Cứ dường như là mây đã
đi vào, một ý nghĩ đã tới trong bầu trời của bản thể

bạn. Chỉ nhìn vào nó, quan sát nó. Và nhớ, nếu bạn có
thể không đồng nhất thậm chí với một mảnh của điều
thứ hai - ham muốn có đó và bạn có đây, và có một
khoảng cách - bỗng nhiên có sự bừng sáng, ánh sáng
đã xảy ra cho bạn.
Bây giờ bạn biết rằng tâm trí làm việc theo cách
riêng của nó, nó là cái máy. Bạn có thể vứt bỏ nó! Bạn
có thể không dùng nó, bạn có thể dùng nó; bạn là
người chủ. Bây giờ kẻ nô lệ, cái máy được đặt vào chỗ
của nó; nó không còn là người chủ nữa. Thế thì vứt bỏ
là có thể. Khi bạn khác với nó, chỉ thế thì vứt bỏ mới là
có thể được.
Thiền, chứng kiến, ngồi im lặng và nhìn vào tâm
trí, sẽ có ích nhiều lắm. Đừng áp đặt, đơn giản ngồi và
nhìn. Đừng làm nhiều, chỉ quan sát như người xem
chim bay trên trời. Nằm xuống đất và ngắm nghía,
không làm gì cả, dửng dưng. Thực sự đừng bận tâm
chúng đi đâu, chúng đi theo ý riêng của chúng.
Nhớ lấy, ý nghĩ cũng giống như chim: chúng đi
theo ý của chúng. Và đôi khi việc xảy ra là những
người quanh bạn, ý nghĩ của họ len vào bầu trời của
bạn, ý nghĩ của bạn đi vào bầu trời của họ. Đó là lí do
tại sao đôi khi bạn cảm thấy rằng với người nào đó
bỗng nhiên bạn trở nên buồn; với người khác bỗng
nhiên bạn cảm thấy nổi lên năng lượng và niềm hạnh
phúc cùng vui sướng. Chỉ nhìn vào ai đó, ở gần người
ấy, cái gì đó làm thay đổi tâm trạng bạn.
Điều đó xảy ra thậm chí cả với nơi chốn. Bạn đi
vào trong nhà và bỗng nhiên u sầu lắng xuống bạn.
Bạn vào một ngôi nhà khác, và bỗng nhiên bạn cảm
thấy nhẹ nhàng, dường như đôi cánh đã tới với bạn,
bạn có thể bay, bạn vô trọng lượng. Bạn đi vào một
đám đông và bạn không còn là bản thân mình nữa, cái
gì đó đã thay đổi. Bạn đi vào đám đông khác, lại cái gì
đó đã thay đổi.
Đây là cơ sở của satsang: ở cùng với thầy, người
không có ý nghĩ. Chỉ ở cùng với thầy, đôi khi cái vô
suy nghĩ của thầy, cái vô trí của thầy, sẽ gõ cửa bạn.
Trong khoảnh khắc nào đó... nó không thể bị thao tác,
người ta phải đợi, người ta chỉ phải cầu nguyện và chờ
đợi và quan sát. Điều đó không thể bị bắt buộc bởi vì
nó không phải là ý nghĩ. Ý nghĩ là một vật, nó có thể bị
ném vào bạn. Vô ý nghĩ không phải là một vật, nó
không thể bị ném ra.
Ý nghĩ có chuyển động và lực đẩy của riêng nó.
Bất kì khi nào bạn ở gần một người có quá nhiều ý
nghĩ, người đó sẽ trút đầy bạn bằng ý nghĩ của người
đó. Chỉ ở gần thôi, người đó sẽ cứ rót tâm trí của mình
lên bạn - dù người ấy có nói hay không, đấy không
phải là vấn đề. Liên tục, các ý nghĩ, tựa như tia lửa, toé
từ đầu người ấy ra khắp xung quanh - bạn bắt giữ
chúng.
Và đôi khi bạn thậm chí còn nhận biết rằng đây
không phải là ý nghĩ của bạn. Nhưng khi nó tới bạn trở
nên bị tràn đầy với nó, bạn trở nên bị đồng nhất thậm
chí với cái đó. Đây không phải là giận dữ của bạn, ai
đó khác đã giận dữ còn bạn cảm thấy cái gì đó bên
trong mình. Ai đó đáng ghét và cái ghét huých vào
bạn. Mọi thứ đều bị lây nhiễm, còn tâm trí là bệnh tật
truyền nhiễm nhất trên thế giới. Không bệnh cúm nào

có thể vượt được nó, nó cứ lây lan cho mọi người tất cả
xung quanh.
Nếu bạn có thể thấy, bạn có thể thấy các tia lửa toé
ra từ đầu người ta. Chúng có mầu sắc khác nhau. Đấy
là lí do tại sao nhiều nhà huyền môn lại trở nên nhận
biết về hào quang thế, bởi vì nếu một người u sầu tới,
người đó đem theo hào quang u sầu. Bạn có thể thấy
nó nếu mắt bạn trong trẻo. Bạn có thể thấy khi một
người hạnh phúc tới quanh bạn. Thậm chí nếu bạn
chưa thấy người đó - người đó còn đang tới ở phía sau
bạn, bạn còn chưa thấy người đó - nhưng bỗng nhiên
bạn cảm thấy cái gì đó hạnh phúc đang xảy ra xung
quanh.
Ý nghĩ không phải của riêng bạn, chúng không
phải là bạn. Khi bạn chết, ý nghĩ của bạn rải ra khắp
xung quanh. Điều đó vẫn xảy ra, và lần sau khi bạn tới
gần người sắp chết, quan sát xem - đấy là một kinh
nghiệm tự bản thân nó. Khi một người sắp chết, ngồi
và quan sát điều xảy ra cho tâm trí mình. Bạn sẽ ngạc
nhiên; những ý nghĩ chưa bao giờ có đó, những ý nghĩ
bạn không quen thuộc, những ý nghĩ chưa biết, bỗng
nhiên bật ra trong bạn - bụp ra! Người này sắp chết và
người ấy đang ném ra ý nghĩ của mình khắp xung
quanh, giống như cây chết tung ra các hạt của nó. Nó
đang trong hoảng sợ; trước khi cây chết nó phải ném ra
các hạt mầm để cho cây khác mọc lên.
Đừng bao giờ tới gần người sắp chết nếu bạn
không nhận biết, bởi vì thế thì người chết sẽ ảnh hưởng
tới bạn. Về cơ bản, đừng bao giờ ở gần người mà bạn
cảm thấy u sầu, buồn bã, chừng nào bạn còn chưa nhận
biết. Nếu bạn nhận biết thế thì không có vấn đề gì. Thế
thì cái u sầu tới rồi đi qua; bạn chưa hề bị đồng nhất
với nó. Bạn đã bao giờ cảm thấy chưa?... vào nhà thờ,
mọi người cầu nguyện - bạn lập tức cảm thấy khác.
Nhiều cầu nguyện thế, cho dù không rất thực, chỉ là
cầu nguyện chủ nhật, nhưng họ vẫn làm điều đó, cho
dù vài khoảnh khắc cánh cửa sổ mở ra - chúng cũng
khác. Một ngọn lửa bắt vào bạn, bỗng nhiên bạn cảm
thấy những thay đổi bên trong mình.
Nhận biết đi! Và thế thì thấy cách các ý nghĩ đi vào
trong tâm trí, cách bạn bị đồng nhất và trở thành một
với chúng. Và chúng di chuyển nhanh thế, tốc độ lớn
thế, bởi vì chẳng có gì nhanh hơn ý nghĩ. Không thể
nào tạo ra bất kì cái gì tốc độ cao hơn ý nghĩ. Nó
không mất thời gian nào để đạt tới bất kì đâu. Nó nhẩy
từ cái vô hạn này sang cái vô hạn khác, không gian
không tồn tại với nó.
Ý nghĩ có đó, di chuyển với tốc độ nhanh. Bởi tốc
độ nhanh này mà bạn không thể nào thấy được hai ý
nghĩ tách biệt. Ngồi đấy, nhắm mắt lại, làm chậm lại
mọi tiến trình của thân thể. Việc thở chậm lại, nhịp tim
đập chậm lại, áp huyết chậm lại. Bạn làm chậm lại mọi
điều, bạn thảnh thơi, bởi vì nếu mọi thứ chậm lại, ý
nghĩ cũng phải chậm lại, bởi vì đó là một toàn thể cô
đọng. Khi mọi thứ chậm lại, ý nghĩ phải bị chậm lại.
Đó là lí do tại sao trong giấc ngủ say ý nghĩ dừng
lại; bởi vì mọi thứ chậm thế và ý nghĩ là một thứ có tốc
độ đến mức có sự phá vỡ - tiến trình này không thể tiếp
tục được. Con người này chậm thế còn ý nghĩ lại có tốc
độ thế; chúng không thể cùng nhau được. Ý nghĩ biến
mất. Trong giấc ngủ say, chỉ vài giờ, nhiều nhất là hai

giờ trong đêm, ý nghĩ dừng lại, bởi vì bạn hoàn toàn
thảnh thơi.
Thảnh thơi và quan sát: khi tiến trình suy nghĩ
chậm lại, bạn sẽ có khả năng thấy lỗ hổng. Giữa hai ý
nghĩ có một khoảng hở - trong khoảng hở đó là tâm
thức. Giữa hai đám mây có một khoảng hở - trong
khoảng hở đó là bầu trời xanh.
Làm chậm tiến trình suy nghĩ và nhìn vào các
khoảng hở, và chú ý tới khoảng hở nhiều hơn là đám
mây. Dịch chuyển chú ý, thay đổi động thái. Đừng
nhìn vào hình dáng, nhìn vào bối cảnh.
Nếu tôi đặt một chiếc bảng đen, một chiếc bảng
đen lớn với kích cỡ của cả bức tường ở đây, và đánh
dấu nó bằng một điểm trắng rồi hỏi bạn thấy gì, thì
chín mươi chín phần trăm khả năng là bạn sẽ không
thấy bảng đen, bạn sẽ thấy chấm trắng thôi - bởi vì
chúng ta thấy hình dáng, không thấy bối cảnh.
Cái bảng đen lớn thế, nhưng nếu tôi hỏi bạn, “Bạn
thấy gì ở đó?” thì bạn sẽ nói, “Tôi thấy một chấm trắng
nhỏ.” Cái bảng lớn thế lại không được thấy mà chỉ thấy
một chấm trắng nhỏ, gần như không thấy được thôi ư?
Sao vậy? Bởi vì đây là hình mẫu cố định của tâm trí:
nhìn vào hình dáng, không nhìn vào bối cảnh; nhìn vào
đám mây, không nhìn vào bầu trời; nhìn vào ý nghĩ,
không nhìn vào tâm thức.
Động thái này phải được thay đổi. Chú ý nhiều vào
bối cảnh và ít chú hơn tới hình dáng. Bạn sẽ gần với
thực tại hơn. Trong thiền điều này phải được làm liên
tục. Tâm trí, bởi vì thói quen cũ, sẽ nhìn vào hình
dáng. Bạn chỉ dịch chuyển lại... nhìn vào bối cảnh.
Bạn ở đây, tôi ở đây. Chúng ta có thể nhìn vào
nhau theo hai cách. Tôi có thể nhìn vào bối cảnh; trong
bối cảnh có cây cối, thực vật, mầu xanh, bầu trời - vũ
trụ bao la là bối cảnh của bạn. Hay tôi có thể nhìn vào
bạn, bạn là hình dáng. Nhưng tâm trí bao giờ cũng nhìn
vào hình dáng.
Đó là lí do tại sao điều đó xảy ra nếu bạn tới gặp
một người như Tăng Xán, Jesus hay Phật, bạn cảm
thấy rằng mắt họ không nhìn vào bạn. Bạn chỉ là hình
dáng và họ đang nhìn vào bối cảnh. Động thái của họ
khác. Bạn có thể cảm thấy rằng mắt họ lạnh lùng bởi vì
họ không chú ý tới bạn. Bạn chỉ là một đám mây.
Những người như Phật, khi họ nhìn, bạn có đó,
nhưng chỉ như một phần nhỏ của bối cảnh. Và bối cảnh
mới bao la, còn bạn chỉ là một chấm nhỏ. Nhưng bạn
lại muốn ai đó nhìn vào bạn, tại chấm nhỏ đó, dường
như bạn là vũ trụ này, dường như không có gì tồn tại
bên ngoài bạn.
Tình yêu của chư phật sẽ có vẻ lạnh lẽo. Bạn cần
tình yêu nóng bỏng, đôi mắt nhìn vào bạn và quên hết
cái toàn thể: điều đó là không thể có với vị Phật. Bạn
có chỗ của mình, nhưng bạn vẫn là một chấm nhỏ. Dù
đẹp đến đâu thì bạn cũng chỉ là một phần của bối cảnh
bao la - toàn bộ sự chú ý không thể chỉ dồn lên mỗi
bạn.
Đó là lí do tại sao bản ngã lại cảm thấy rất bị tổn
thương khi ở gần vị Phật, bởi vì bản ngã muốn được
chú ý toàn bộ: “Nhìn tôi đây này, tôi là trung tâm của
thế giới.” Nhưng bạn không là trung tâm thế giới. Thực
sự, không có trung tâm trên thế giới, bởi vì trung tâm

là có thể chỉ nếu thế giới bị giới hạn. Nếu nó là một
đường tròn hữu hạn thế thì trung tâm là có thể - và nó
thì lại là đường tròn vô hạn.
Thật ngớ ngẩn mà nghĩ về trung tâm. Không có
trung tâm trên thế giới này; thế giới tồn tại mà không
có bất kì trung tâm nào. Và đó là điều đẹp đẽ. Đó là lí
do tại sao mọi người đều có thể nghĩ, “Ta là trung
tâm.” Nếu có một trung tâm thế thì điều đó là không
thể được.
Đó là lí do tại sao người Mô ha mét giáo và người
Ki tô giáo và người Do Thái giáo sẽ không cho phép
các khẳng định của người Hindu rằng “Ta là Thượng
đế - Aham Brahmasmi.” Họ nói, “Đây là dị giáo. Các
ông ấy đang nói gì vậy? Duy nhất Thượng đế là trung
tâm; không ai khác là trung tâm cả.” Nhưng người
Hindu có thể khẳng định một cách vui đùa rằng “Ta là
Thượng đế,” bởi vì họ nói không có trung tâm, hay mọi
người đều là trung tâm.
Nhưng khi bạn yêu cầu rằng toàn bộ sự chú ý nên
dồn vào bạn, thì đây là tâm trí, thói quen cũ của tâm trí,
không nhìn vào bối cảnh, chỉ nhìn vào hình dáng.
Trong thiền bạn phải dịch chuyển từ hình dáng
sang bối cảnh, từ vì sao sang bầu trời. Dịch chuyển này
càng xảy ra nhiều, bạn càng cảm thấy nhiều hơn rằng
bạn không phải là tâm trí, bạn càng cảm thấy nhiều
hơn rằng nó có thể bị vứt bỏ đi dễ dàng.
Điều đó cũng tựa như việc vứt bỏ trang phục. Bạn
đã may nó quá chật đến mức cảm thấy nó như lớp da -
nó không phải vậy. Nó giống như bộ trang phục; bạn
có thể vứt bỏ nó đi một cách dễ dàng. Nhưng người ta
phải hiểu rằng người ta là bối cảnh, không phải là hình
dáng. Và khi tâm trí này bị vứt bỏ, Tăng Xán nói, thế
thì thế giới khách quan đơn giản tan biến mất.
Ông ấy ngụ ý điều gì? Ông ấy có ngụ ý rằng nếu
bạn ở sâu trong thiền, nếu bạn đã đạt tới mục đích vô
trí, thế thì những cây này sẽ biến mất, tan biến đi
chăng? Thế thì ngôi nhà này sẽ không còn ở đây nữa
sao? Thế thì bạn sẽ không ngồi ở đây nữa sao? Nếu tôi
đã đạt tới, thì cái ghế tôi đang ngồi sẽ tan biến đi
chăng?
Không, các đối thể biến mất như các đối thể;
không phải cái ghế này, không phải cái cây kia - chúng
vẫn còn, nhưng chúng không còn bị giới hạn nữa. Bây
giờ chúng không có biên giới. Thế thì cái ghế này gặp
gỡ với mặt trời và với bầu trời, thế thì hình dáng và bối
cảnh đã trở thành một. Không có hình dáng tách biệt
khỏi bối cảnh, căn cước của chúng đã mất đi. Và chúng
không còn là đối thể nữa, bởi vì bạn không còn là chủ
thể ở đó nữa.
Krishnamurti cứ nói mãi về điều gì đó rất hay: rằng
trong thiền sâu người quan sát trở thành cái được quan
sát. Điều này là đúng, nhưng bạn sẽ cảm thấy rằng điều
này có vẻ ngớ ngẩn. Nếu bạn đang nhìn vào hoa, liệu
Krishnamurti có ngụ ý rằng bạn trở thành hoa không?
Thế thì làm sao bạn sẽ về lại được? Và ai đó có thể
ngắt bạn và bạn sẽ gặp rắc rối.
“Người quan sát trở thành cái được quan sát” -
điều đó liệu có nghĩa là bạn trở thành hoa không?
Không... nhưng theo một nghĩa nào đó thì vẫn có. Bạn
không trở thành hoa theo nghĩa rằng bạn có thể bị ngắt

ra và ai đó có thể mang bạn và bạn không còn là người
nữa. Không, không theo nghĩa đó. Nhưng khi không có
tâm trí, không có biên giới cho bạn phân tách bạn với
hoa, không có biên giới cho hoa phân tách nó với bạn.
Bạn mà có cả hai yếu tố này thì trở thành khối chủ
quan, bạn hội nhập và gặp gỡ. Bạn vẫn còn là bạn, hoa
vẫn còn là hoa, không ai có thể lầm lẫn đi ngắt bạn,
nhưng vẫn có hội nhập.
Điều đó xảy ra trong cuộc sống của bạn, đôi khi
chỉ trong vài khoảnh khắc khi bạn yêu người nào đó.
Điều đó nữa cũng hiếm hoi, bởi vì tâm trí con người
chưa bao giờ rời bỏ người đó, ngay cả trong tình yêu.
Nó cứ tạo ra cái vô nghĩa của riêng nó, tạo ra thế giới
của riêng nó. Và người yêu không còn được phép có sự
gần gũi đến mức người đó đạt tới bối cảnh. Hình dáng,
bản ngã, bao giờ cũng đứng ở giữa. Nhưng vài lần điều
đó cũng xảy ra.
Tất nhiên, nó phải xảy ra mặc dù có bạn. Nó tự
nhiên đến mức cho dù bạn có làm tất cả mọi thu xếp,
đôi khi thực tại vẫn bột phát trong bạn. Mặc cho mọi
thu xếp của bạn, mặc cho tất cả mơ mộng của bạn, đôi
khi nó vẫn thấm vào bạn, đôi khi bạn vẫn không đề
phòng. Đôi khi bạn quên mất, hay bạn quá bận tâm vào
điều gì đó đến mức một cánh cửa sổ mở ra và bạn
không nhìn vào cánh cửa sổ đó và thực tại đi vào.
Một vài khoảnh khắc, trong tình yêu, điều này xảy
ra; khi người quan sát đã trở thành cái được quan sát.
Đây là việc thiền đẹp: nếu bạn yêu một người thế thì
ngồi với người đó và nhìn vào mắt nhau - không nghĩ
điều gì, không nghĩ người đó là ai, không tạo ra tiến
trình suy nghĩ, chỉ nhìn vào mắt nhau.
Có thể có một vài thoáng nhìn khi người quan sát
sẽ trở thành cái được quan sát, khi bạn sẽ bị mất đi và
bạn sẽ không biết bạn là ai - liệu bạn đã trở thành
người được yêu hay người được yêu đã trở thành bạn.
Đôi mắt là cánh cửa đẹp để đi vào lẫn nhau.
Và tại sao tôi nói chỉ trong tình yêu điều ấy mới là
có thể? - bởi vì chỉ trong tình yêu bạn mới không đề
phòng. Bạn thảnh thơi, bạn không sợ người khác, bạn
có thể mong manh, bạn có thể đảm đương điều đó.
Ngoài ra bạn bao giờ cũng đề phòng bởi vì bạn không
biết người khác sẽ làm gì, bạn không biết liệu người ấy
có làm tổn thương bạn hay không. Và nếu bạn không
đề phòng, tổn thương có thể vào rất sâu.
Trong tình yêu bạn có thể nhìn vào mắt nhau. Sẽ
có những thoáng nhìn nào đó khi mà bối cảnh và hình
dáng tan biến vào lẫn nhau. Bạn sẽ bị rung động tới
chính nền tảng của mình. Bỗng nhiên bạn sẽ có thoáng
nhìn: bạn không hiện hữu, vậy mà bạn vẫn hiện hữu.
Sâu ở đâu đó có gặp gỡ.
Điều này đã xảy ra cho thiền nhân thực sự với bản
thân vũ trụ - không phải là người đó trở thành cây cối,
thế nhưng người đó vẫn trở thành cây cối. Khi người
đó ở cùng cây cối, các biên giới không có đó. Và khi
người đó trở nên đồng điệu với mảnh đất vô biên
cương này, thế thì người đó đi mà không có biên giới.
Đây chính là ý nghĩa của lời Tăng Xán. Khi tâm trí
biến mất, đối thể tan biến. Khi đối thể tan biến, bạn tan
biến, bản ngã tan biến. Chúng có quan hệ với nhau.
Hiểu tính tương đối của hai điều này
và thực tại cơ bản:

thống nhất của cái trống rỗng.

Hiểu tính tương đối của hai điều này và thực tại cơ
bản: thống nhất của cái trống rỗng. Bạn tồn tại bởi vì
các đối thể bao quanh bạn. Biên giới của bạn tồn tại
bởi vì biên giới của các vật khác bao quanh bạn. Khi
biên giới của chúng mất đi, biên giới của bạn mất đi -
bạn có quan hệ lẫn nhau, bạn là cùng nhau.
Tâm trí bạn và các đối thể bên ngoài bạn được nối
với nhau, chúng có một chiếc cầu. Nếu bờ bên này
biến mất chiếc cầu sập đổ. Và với chiếc cầu sập đổ, bờ
bên kia cũng biến mất, bởi vì không có khả năng nào
cho một bờ tồn tại mà lại không có bờ bên kia. Đây là
ý nghĩa của tính quan hệ.
Và thế thì có thống nhất - thống nhất của cái trống
rỗng. Bạn trống rỗng và hoa trống rỗng, bởi vì không
có biên giới cho hoa, thế thì làm sao có thể có trung
tâm được? Đây là một trong những hiểu biết sâu sắc
nhất của Phật, và chỉ Phật tử mới khẳng định điều này
một cách đẹp đẽ như vậy. Họ nói không có atma,
không có cái ta.
Và điều này đã bị hiểu lầm rất nhiều, bởi vì người
Hindu nói rằng toàn bộ tôn giáo của họ là dựa trên
atma, cái ta, cái ta tối thượng. Còn Phật lại nói, “Khi
không có biên giới, làm sao cái ta tồn tại được?” Khi
không có biên giới và tâm trí đã trở nên im lặng toàn
bộ, làm sao cái ‘tôi’ có thể tồn tại được? Bởi vì cái
‘tôi’ là ồn ào. Làm sao bạn có thể nói, “tôi đây” khi cái
toàn thể hiện hữu? Khi hình dáng và bối cảnh đã trở
thành một, làm sao bạn có thể nói “tôi đây”?
Đây là trống rỗng của Phật, anatta. Từ này thật là
hay - ‘anatta’, vô ngã. Bạn không còn nữa vậy mà bạn
vẫn còn. Thực sự, lần đầu tiên bạn hiện hữu như cái
toàn thể, nhưng không như một cá nhân, không như cái
được xác định, đánh dấu, được bao bọc. Bạn hiện hữu
như cái toàn thể, nhưng bạn lại không hiện hữu như
một cá thể, như sự tách biệt đã được đánh dấu, được
định nghĩa. Bạn không còn là hòn đảo nữa, bạn là sự
mở rộng bao la của cái trống rỗng.
Và điều tương tự cũng xảy ra cho hoa, và điều
tương tự cũng xảy ra cho cây cối, và điều tương tự
cũng xảy ra cho chim chóc và cho con vật, và điều
tương tự cũng xảy ra cho đất đá, vì sao và mặt trời. Khi
cái ta của bạn tan biến đi, cái ta cũng biến mất khỏi
mọi nơi, bởi vì đó là sự phản xạ của cái ta của bạn, đó
là cái ta của bạn vang vọng qua vũ trụ, đó là cái điên
khùng của bạn được phản xạ lại. Bây giờ nó không còn
đó nữa.
Tăng Xán đang nói rằng khi có trống rỗng thì có
thống nhất. Nếu bạn hiện hữu, làm sao có thể có bất kì
thống nhất nào được? Chính sự tách biệt bản thể của
bạn tạo ra sự không thống nhất này.
Người Mô ha mét giáo nói rằng họ yêu người
Hindu giáo, họ là anh em; người Ki tô giáo nói họ yêu
người Do Thái giáo, họ là anh em. Mọi người đều là
anh em, nhưng làm sao bạn có thể là anh em khi bạn là
người Ki tô giáo? Làm sao bạn có thể là anh em khi
bạn là người Hindu giáo? Sự phân ranh giới của bạn,
biên giới của bạn, mang tính thù nghịch trong đó.
Nhiều nhất bạn có thể tha thứ cho người khác, nhưng
bạn không thể là một với người khác. Và chỉ nói ‘anh

em’ thì cũng chẳng ích gì, bởi vì không ai có thể tranh
đấu nguy hiểm như các anh em.
Việc nói rằng tôi là người Hindu tức là tôi đang
làm cho bản thân mình tách rời khỏi cái toàn thể. Việc
nói rằng tôi mạnh mẽ tức là tôi đang làm cho bản thân
mình tách rời khỏi vũ trụ. Việc nói rằng tôi phi thường
tức là tôi đang làm cho bản thân mình tách rời khỏi vũ
trụ. Đây là điều Trang Tử nói: Là người thường. Điều
đó nghĩa là đừng tách bạch theo bất kì cách nào, đừng
tạo ra các định nghĩa rạch ròi về bản thân mình. Sống
với các biên giới linh động, cái bao giờ cũng sẵn sàng
hội ngộ và tan chảy.
Hiểu tính tương đối của hai điều này
và thực tại cơ bản:
thống nhất của cái trống rỗng.
Trong cái trống rỗng này cái hai đó là không thể
phân biệt được...

Chúng không thể được phân biệt ra, chúng không
thể được cảm thấy như là tách biệt - tách khỏi cái khác.
Chúng tách biệt đấy, nhưng tách biệt này là hoàn toàn
khác. Bạn có thể phân biệt, nhưng tách biệt này không
phải là do bản ngã.
Cũng giống hệt như một con sóng trong đại dương:
bạn có thể phân biệt... sóng là sóng, không phải là đại
dương - nhưng nó vẫn cứ là đại dương. Sóng không thể
tồn tại mà thiếu đại dương. Đại dương đang dậy sóng
trong nó, đại dương đang đập trong nó. Nó tách biệt về
hình dạng, nhưng nó vẫn không tách biệt về sự tồn tại.
Bạn tách biệt, và bạn vẫn không tách biệt. Đây là
nghịch lí nền tảng nhất mà con người đi tới kinh
nghiệm ra khi người đó kinh nghiệm cái vô ngã,
anatta.
... và mỗi cái đều chứa trong nó toàn bộ thế giới.

Không tách biệt, bạn không mất gì cả, bạn thu
được cái toàn thể. Và bạn bao giờ cũng lo sợ mất. Bạn
bao giờ cũng nghĩ, “Nếu mình đánh mất bản thân mình
thế thì mình không còn nữa. Mình sẽ được cái gì?” Bạn
mất, mà bạn thu được cái toàn thể. Và bạn chẳng mất
cái gì ngoài khổ của mình, nỗi lo âu của mình, nỗi khổ
sở. Bạn có gì để mà mất?! Bạn chẳng có gì để mất cả -
chỉ khổ của bạn, tù túng của bạn.
... Và mỗi cái đều chứa trong nó toàn bộ thế giới.
Khi bạn mất, bạn trở thành toàn thể thế giới này: tất cả
đều là của bạn. Bạn là kẻ ăn xin bởi vì chính bản thân
mình; bạn có thể trở thành hoàng đế. Tâm trí là bình
bát ăn xin.
Tôi đã nghe một câu chuyện Sufi. Đấy là một trong
những giáo huấn Sufi cổ nhất.
Một người ăn xin đến cung điện của một hoàng đế.
Hoàng đế đang ở trong vườn cho nên ông ta nghe thấy
tiếng người ăn xin. Người ở ngoài cổng định đem cho
cái gì đó, nhưng người ăn xin này nói, “Tôi có một
điều kiện. Tôi bao giờ cũng nhận từ người chủ, không
bao giờ nhận từ người hầu.”
Hoàng đế nghe thấy. Ông ấy đang đi dạo cho nên
ông ấy tới để gặp người ăn xin này, bởi vì người ăn xin
không có điều kiện gì. Nếu bạn là kẻ ăn xin làm sao
bạn có thể có điều kiện được? “Anh ta hình như là một

kẻ ăn xin hiếm hoi.” Thế là ông ấy tới gặp - và anh ta
quả là một kẻ ăn xin hiếm hoi thực. Nhà vua chưa bao
giờ thấy một người giống như hoàng đế như vậy trước
đây; anh ta là cái không. Con người này có niềm vinh
quanh nào đó bao quanh anh ta, vẻ duyên dáng. Trang
phục của anh ta rách tả tơi, gần như trần, nhưng bình
bát ăn xin thì lại rất, rất quí báu.
Hoàng đế nói, “Sao có điều kiện?”
Người ăn xin nói, “Bởi vì người hầu bản thân họ
đã là kẻ ăn xin và tôi không muốn bất lịch sự với bất kì
ai. Chỉ người chủ mới có thể cho. Làm sao người hầu
có thể cho được? Cho nên nếu ông đã sẵn sàng, ông có
thể cho và tôi sẽ chấp nhận điều đó. Nhưng thế nữa thì
tôi vẫn còn một điều kiện, và đó là: bình bát ăn xin của
tôi phải được trút đầy.
Bình bát ăn xin nhỏ thế! Hoàng đế bắt đầu cười to.
Ông ta nói, “Ngươi dường như điên rồi. Ngươi nghĩ ta
không thể trút đầy được bình bát ăn xin của ngươi
sao?” Và thế rồi ông ta ra lệnh cho quan thượng thư
đem đá quí tới, vô song, duy nhất, và trút chúng vào
bình bát ăn xin.
Nhưng họ gặp khó khăn, bởi vì họ càng trút vào
bình bát ăn xin, đá quí rơi tọt vào đó và thậm chí chúng
chẳng tạo nên tiếng động nào, chúng đơn giản biến
mất. Và bình bát ăn xin vẫn còn trống rỗng.
Thế là hoàng đế lâm vào tình thế khó khăn, toàn bộ
bản ngã ông ta bị lâm nguy. Ông ta, một hoàng đế vĩ
đại người cai quản cả trái đất, lại không thể nào trút
đầy được một bình bát ăn xin! Ông ta ra lệnh, “Đem
mọi thứ lại đây, nhưng bình bát ăn xin này phải được
trút đầy.”
Các kho báu của ông ta... trong nhiều ngày các kho
báu của ông ta đều bị trống rỗng, nhưng bình bát vẫn
còn trống rỗng. Chẳng còn lại cái gì nữa. Hoàng đế đã
trở thành kẻ ăn xin, tất cả đều mất. Hoàng đế sụp
xuống dưới chân người ăn xin và nói, “Bây giờ ta cũng
là một kẻ ăn xin và ta chỉ cầu xin một điều. Nói cho ta
biết bí mật của cái bình bát này, nó dường như là ma
thuật!”
Người ăn xin nói, “Chẳng có gì cả... nó được làm
bằng tâm trí con người, chẳng có gì ma thuật cả.”
Mọi tâm trí con người đều chỉ là cái bình bát này:
bạn cứ trút vào nó, nó vẫn còn trống rỗng. Bạn ném cả
thế giới, các thế giới cùng nhau, và chúng đơn giản
biến mất chẳng tạo nên âm thanh nào. Bạn cứ cho và
nó bao giờ cũng ăn xin.
Cho tình yêu, và bình bát ăn xin có đó, tình yêu
của bạn biến mất. Cho toàn bộ cuộc sống của bạn, và
bình bát ăn xin có đó, nhìn vào bạn với con mắt phàn
nàn, “Bạn chẳng cho gì cả. Tôi vẫn trống rỗng.” Và
bằng chứng duy nhất rằng bạn có thể cho là nếu bình
bát ăn xin đầy - mà nó thì chẳng bao giờ đầy cả. Tất
nhiên, logic là rõ ràng: bạn vẫn chưa cho.
Bạn đã đạt tới nhiều, nhiều điều - tất cả chúng đã
biến mất trong bình bát ăn xin này. Tâm trí là quá trình
tự tử. Trước khi tâm trí biến mất, bạn sẽ vẫn còn là kẻ
ăn xin. Bất kì cái gì mà bạn có thể thu được đều sẽ là
phù phiếm; bạn sẽ vẫn còn trống rỗng.

Và nếu bạn làm tan biến tâm trí này, qua cái trống
rỗng lần đầu tiên bạn trở thành được tràn đầy. Bạn
không còn nữa, nhưng bạn đã trở thành cái toàn thể.
Nếu bạn còn đó, bạn sẽ vẫn còn là kẻ ăn xin. Nếu bạn
không còn đó, bạn trở thành hoàng đế.
Đó là lí do tại sao ở Ấn Độ chúng ta đã gọi người
ăn xin là swami. ‘Swami’ có nghĩa là bậc thầy, hoàng
đế. Bạn không thể tìm ra từ nào hay hơn cho
sannyasin. Khi tôi đang nghĩ đến tên nào cần cho, để
trao cho sannyasin mới, tôi không thể nào cải tiến hơn
được nó. Swami dường như là tốt nhất. Nó có nghĩa là
người đã ném bản thân mình đi một cách toàn bộ đến
mức người đó không còn nữa; người đó đã trở thành
toàn bộ thế giới, bậc thầy của tất cả. Ngoài ra thì thậm
chí hoàng đế cũng vẫn còn là kẻ ăn xin: họ cứ ham
muốn, đòi hỏi và khổ sở.
Nếu ông không phân biệt giữa thô thiển và tinh tế
ông sẽ không bị quyến dũ tới định kiến và ý kiến.

Nếu bạn không phân biệt giữa thô thiển và tinh tế,
tốt và tồi, đẹp và xấu, cái này và cái nọ - nếu bạn
không phân biệt, nếu bạn không phân chia, bạn đơn
giản chấp nhận cái toàn thể như nó hiện thế. Bạn
không đưa tâm trí mình vào trong nó, bạn không trở
thành quan toà. Bạn đơn giản nói, “Nó là vậy.”
Gai có đó, bạn nói, “Nó là vậy”; hoa hồng có đó,
bạn nói, “Nó là vậy”; thánh nhân có đó, bạn nói, “Nó
là vậy”; tội nhân có đó, bạn nói, “Nó là vậy”. Và cái
toàn thể biết; không ai khác có thể biết tại sao tội nhân
lại tồn tại. Phải có lí do nào đó, nhưng đó là bí ẩn cho
cái toàn thể, không phải cho bạn bận tâm tới.
Cái toàn thể cho việc sinh thành ra thánh nhân và
tội nhân, gai và hoa hồng - chỉ cái toàn thể mới biết tại
sao. Bạn đơn giản rơi vào trong cái toàn thể và bạn
không tạo ra bất kì phân biệt nào. Bạn cũng sẽ biết tại
sao, nhưng chỉ khi bạn trở thành cái toàn thể.
Bí ẩn này được giải quyết khi bạn đã trở thành bản
thân bí ẩn đó. Bạn không thể giải quyết nó mà vẫn còn
là bản thân mình. Nếu bạn vẫn còn là bản thân mình,
bạn sẽ thành triết gia lớn. Bạn sẽ có nhiều câu trả lời và
mà chẳng câu nào trả lời cả; bạn sẽ có nhiều lí thuyết
nhưng không có chân lí. Nhưng nếu bạn trở thành bản
thân bí ẩn ấy, bạn sẽ biết. Nhưng tri thức đó lại tinh tế
đến mức nó không thể rút lại thành lời được. Tri thức
đó ngược đời đến mức nó phủ nhận mọi ngôn ngữ. Tri
thức đó mâu thuẫn thế - bởi vì các cái đối lập mất đi
biên giới, chúng trở thành một - không lời nào có thể
nói về nó.
Hình dáng ngụ ý lời còn bối cảnh ngụ ý im lặng.
Trong tri thức đó, hình dáng và bối cảnh đã trở thành
một, im lặng và lời nói đã trở thành một. Làm sao bạn
có thể nói được nó? Nhưng vẫn cứ phải nói ra, bởi vì
có nhiều người còn đang khát khao về nó. Thậm chí
nghe thấy nó, có thể là trái tim ai đó bắt đầu cuộc hành
trình. Đó là lí do tại sao Tăng Xán đang nói những điều
này.
Tăng Xán biết chúng không thể được nói ra, bởi vì
bất kì khi nào bạn nói nó, bạn đều phải tạo ra phân
biệt. Bất kì khi nào bạn nói điều gì đó, bạn phải chọn
lời. Bất kì khi nào bạn phải nói điều gì đó, bạn ưa thích
cái này hơn cái kia và tâm trí len vào.

Nhưng không ai đã cố gắng được hơn Tăng Xán.
Ông ấy là vô song. Bạn không thể nào tìm được người
nào khác mà đặt được cái im lặng đó vào trong lời nói
hay đến vậy. Thậm chí đến Phật cũng cảm thấy ghen tị.
Tăng Xán này thực sự là bậc thầy - bậc thầy của im
lặng và bậc thầy của lời nói. Ông ấy đã đặt cái gì đó
vào trong thế giới này, cái mà không thuộc vào thế giới
này. Ông ấy đã làm thấm nhuần vào lời nói cái im lặng
sâu sắc của kinh nghiệm của ông ấy.
Lắng nghe lời ông ấy - không chỉ lắng nghe, hấp
thu. Để cho chúng tan chảy vào trong trái tim bạn.
Đừng ghi nhớ chúng. Để chúng đi vào trong máu bạn
và trở thành máu xương bạn. Hấp thu, ăn chúng, tiêu
hoá chúng, và quên chúng. Và chúng có sức mạnh cực
kì lớn lao để biến đổi.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #6 Cố gắng tới vô mục đích

Sống trong Đạo Lớn không dễ cũng không khó,
nhưng những người với quan điểm giới hạn thì sợ hãi
và do dự: họ càng vội vã nhanh hơn, họ càng đi chậm
hơn, và việc níu bám không thể bị giới hạn; thậm chí bị
gắn bó với ý tưởng về chứng ngộ cũng là đi lạc lối.
Để cho mọi thứ theo đường riêng của chúng và sẽ
không có việc tới lẫn việc đi.
Tuân theo bản tính của mọi thứ (bản tính riêng của
ông), và ông sẽ bước đi một cách tự do và không rối
loạn.
Khi ý nghĩ ở trong tù túng thì chân lí bị che khuất,
vì mọi thứ u ám và không rõ ràng, và việc thực hành
đánh giá nặng nề chỉ đem lại phiền phức và chán ngắt.
Ích lợi gì có thể đưa ra được từ phân biệt và tách
biệt?
Nếu ông muốn đi theo con đường Đạo duy nhất,
đừng không thích ngay cả thế giới của giác quan và ý
tưởng.
Quả thực, chấp nhận chúng một cách đầy đủ là
đồng nhất với chứng ngộ thực sự.
Người trí huệ cố gắng theo vô nỗ lực nhưng kẻ ngu
xuẩn lại tự xiềng xích mình.
Có một pháp, chân lí, luật, không nhiều; phân biệt
nảy sinh từ nhu cầu níu bám của người dốt nát.
Tìm kiếm tâm trí với tâm trí phân biệt là sai lầm
lớn nhất trong các sai lầm.

Có nhiều điều hay trong lời kinh này. Và đối với
người tìm kiếm, chúng không chỉ hay mà còn là nền
tảng và bản chất nữa - bởi vì Tăng Xán không phải là
nhà thơ, ông ấy là nhà tiên tri. Bất kì điều gì ông ấy nói
cũng đều mang tính thơ ca của cái vô hạn, nhưng đấy
không phải là vấn đề. Bất kì khi nào một người đã
chứng ngộ nói, bất kì điều gì người ấy nói đều mang
tính thơ ca, và hay. Ngay cách người ấy hiện hữu, bất
kì điều gì bắt nguồn từ âm vang của người đó, đều
mang theo hương thơm của người đó. Nhưng đó không
phải là vấn đề. Đừng bị lạc vào trong thơ ca, bởi vì thơ
ca thuộc vào hình dạng mà chân lí thì vô hình.

Cách thức Tăng Xán nói về mọi thứ đều hay và thi
vị, nhưng nhớ, chớ bị lạc vào chất thơ của ông ấy. Chớ
bị lạc trong chất thơ của Upanishad, của Gita, của
những lời của Jesus. Trong bản thân nó hình dạng là
đẹp nhưng đấy không phải là vấn đề. Đi vào trong điều
là nội dung, không phải là bình chứa.
Với người tìm kiếm, nội dung mới là bản chất, và
hiểu nội dung là trở thành nó - bởi vì không có chân lí
bên ngoài hiểu biết. Trong thực tế, bản thân hiểu biết là
chân lí. Nói rằng qua hiểu biết bạn sẽ đạt tới chân lí là
sai, bởi vì không có chân lí ngoài hiểu biết.
Hiểu biết là chính chân lí. Bạn hiểu... bạn đã trở
thành chân lí. Chân lí không ở nơi nào đó chờ đợi bạn
để xảy ra; chính là qua hiểu biết của bạn mà nó sẽ được
lộ ra - lộ ra bên trong bạn.
Những lời hướng dẫn này của Tăng Xán là để dành
cho người tìm kiếm, và mọi từ đều rất, rất có ý nghĩa.
Sống trong Đạo Lớn không dễ cũng không khó...

Bất kì khi nào có mục tiêu, điều đó đều có thể là dễ
hay khó. Điều đó tuỳ thuộc vào nơi bạn hiện hữu,
khoảng cách bao xa giữa bạn và mục tiêu, liệu đó là
đường cái hay bạn phải du hành dọc theo đường mòn
trên đồi. Nó có phải là con đường được vạch bản đồ,
được đánh dấu hay bạn phải tìm ra con đường của
riêng mình?
Nếu có mục tiêu thì điều đó sẽ hoặc dễ hoặc khó.
Điều đó còn tuỳ... liệu bạn đã đi trên con đường đó
trước đây hay không. Con đường đã được biết rồi sao?
- điều đó sẽ dễ dàng. Nếu con đường còn chưa được
biết tới, sẽ khó khăn. Bạn có phải là người thạo du
hành không? Điều kiện thể chất của bạn, điều kiện tinh
thần của bạn, sẽ làm cho nó hoặc dễ hoặc khó.
Nhưng chân lí không phải là mục tiêu chút nào,
cho nên làm sao nó có thể là dễ hay khó?
Có những người nói chân lí là rất, rất khó. Họ đang
nói điều gì đó hoàn toàn dốt nát. Có trường phái đối
lập nói, “Chân lí là dễ dàng - chẳng có vấn đề gì cả.
Chỉ phải hiểu và nó sẽ dễ dàng.” Họ cũng đang nói
điều gì đó không đúng. Và cả hai điều này đều có thể
được hiểu bởi tâm trí. Khó? - tâm trí có thể tìm ra kĩ
thuật và cách thức và phương tiện, và điều đó có thể
được làm thành dễ dàng.
Ba nghìn năm trước đây việc du hành là khó khăn.
Bây giờ điều đó gần như dễ dàng như mọi thứ khác:
bạn đơn giản ngồi vào trong máy bay và chẳng làm gì
cả, chỉ nghỉ ngơi. Và trước lúc bạn uống xong chén trà,
bạn đã tới nơi. Nếu mục tiêu là khó khăn, nó có thể
được làm thành dễ dàng.
Đó là điều Maharishi Mahesh Yogi cứ thuyết giảng
ở phương Tây: rằng ông ấy đã tìm ra kĩ thuật với tốc
độ phản lực. Nếu mục tiêu là khó khăn thế thì, tất
nhiên, nếu bạn du hành bằng xe bò kéo thì sẽ rất, rất
khó khăn, còn nếu bạn du hành bằng máy bay phản lực
thì sẽ dễ dàng.
Nhưng có mục tiêu không? Đó là điểm then chốt
của vấn đề. Nếu nó là mục tiêu ở đâu đó, xa xa, thế thì
có khả năng tạo ra cách thức, phương tiện, phương
thức dễ dàng. Nhưng nó có phải là mục tiêu không?

Tăng Xán nói nó không phải là mục tiêu, vậy làm
sao nó có thể dễ hay khó được? Và nếu nó không phải
là mục tiêu, làm sao có thể có cách thức cho nó? Và
nếu nó không phải là mục tiêu, làm sao có thể có
phương pháp và kĩ thuật để đạt tới nó? Không thể
được! Ông ấy nói nó không dễ không khó, bởi vì nó
không phải là mục tiêu chút nào.
Sống trong Đạo Lớn không dễ cũng không khó...

Thế thì Đạo Lớn này là gì vậy? Đạo Lớn này là
bản tính của bạn - bạn đã là nó rồi! Đó là lí do tại sao
nó không phải là mục tiêu. Nó không định là cái gì đó
trong tương lai. Không cần thời gian cho nó xảy ra.
Bạn bao giờ cũng đã ở trong nó rồi, nó đã là đấy rồi.
Bạn là mục tiêu, bạn tồn tại trong mục tiêu. Bạn không
thể tồn tại bên ngoài nó được, không có khả năng nào
để đi ra ngoài nó. Dù bạn có lang thang nhiều đến đâu
đi chăng nữa bạn cũng không thể nào đi ra khỏi nó
được. Dù bạn đi tới đâu bạn cũng đem theo Đạo bên
trong mình. Nó là bản tính bẩm sinh của bạn. Nó
không thể thiếu được, bạn không thể gạt nó sang bên
và quên mất nó. Bạn đã ở đó rồi bởi vì ở đây tức là ‘ở
kia’. Bạn không cần nhìn vào tương lai: bạn đơn giản ở
đây và bạn thấy nó.
Tìm kiếm và bạn sẽ lỡ. Đừng tìm, chỉ hiện hữu, và
nó có đó. Và bạn sẽ cười bởi vì nó bao giờ cũng có đó
rồi - chỉ bởi vì việc tìm kiếm của mình mà bạn mới làm
lỡ nó. Chỉ bởi vì bạn đã quá vội vàng nên bạn không
thể nhìn vào bên trong.
Sống trong Đạo Lớn không dễ cũng không khó,
nhưng những người với quan điểm giới hạn thì sợ
hãi và do dự:
họ càng vội vã nhanh hơn, họ càng đi chậm hơn,
và việc níu bám không thể bị giới hạn;
thậm chí bị gắn bó với ý tưởng về chứng ngộ cũng
là đi lạc lối.
Để cho mọi thứ theo đường riêng của chúng
và sẽ không có việc tới lẫn việc đi.

Bạn là Đạo và bạn là mục tiêu, và không có
khoảng cách giữa bạn và mục tiêu. Bạn là người tìm
kiếm và bạn là cái được tìm kiếm; không có khoảng
cách giữa người tìm kiếm và cái được tìm kiếm. Bạn là
người tôn thờ và bạn là cái được tôn thờ. Bạn là đệ tử
và bạn là thầy. Bạn là phương tiện và bạn là mục đích:
đây là Đạo Lớn.
Điều đó bao giờ cũng có sẵn cho bạn. Chính
khoảnh khắc này bạn đang trong nó. Thức tỉnh, và bạn
đang trong nó. Ngủ, bạn vẫn còn trong nó, nhưng bởi
vì bạn ngủ nên bạn không thể thấy nó được. Và thế thì
bạn bắt đầu tìm kiếm.
Bạn giống như người say đang tìm nhà riêng của
mình, hỏi điều gì đó ở ngay trước mắt bạn. Nhưng mắt
lại không trong trẻo - chúng đầy những ý kiến, phân
biệt, chúng đầy những lời nói và lí thuyết. Đó là lí do
tại sao cái nhìn của bạn bị mờ, nếu không thì bất kì cái
gì bạn tìm cũng đang ở ngay trước bạn.
Người Hindu có phương pháp nhìn vào chỏm mũi:
chỉ ngồi im lặng và nhìn vào chỏm mũi và không làm
gì cả. Mọi người cười, bởi vì ngu xuẩn làm sao! Điều
gì sẽ xảy ra từ nó? Nhưng ý nghĩa bị lỡ rồi. Người

Hindu đang nói nó ở ngay trước bạn thôi, ngay trước
chỏm mũi vậy. Im lặng và nhìn vào chỏm mũi và đừng
dính líu tới bất kì suy nghĩ nào... và bỗng nhiên nó có
đó - giống như chỏm mũi vậy, bao giờ cũng ở trước
bạn.
Và đây là cái hay của chỏm mũi: dù bạn có đi đâu,
nó bao giờ cũng đi trước bạn. Bạn đi đúng, nó có đó;
bạn đi sai, nó có đó. Là tội nhân, nó ở phía trước; là
thánh nhân, nó ở phía trước. Bất kì điều gì bạn làm -
trồng cây chuối, trong tư thế shirshasan - nó đều có đó
ngay trước bạn. Ngủ, nó có đó; thức, nó có đó.
Đây là ý nghĩa của việc nhìn vào chỏm mũi, bởi vì
dù bạn làm bất kì cái gì, bạn cũng không thể nào để nó
ở bất kì chỗ nào khác hơn phía trước này. Khoảnh khắc
bạn di chuyển, nó đã di chuyển rồi. Chỉ nhìn vào chỏm
mũi bạn sẽ hiểu rằng chân lí là ở ngay trước bạn. Dù
bạn tới đâu, nó cũng tới cùng bạn; dù bạn đi đâu nó
cũng đi cùng bạn. Bạn không thể lỡ nó, cho nên không
có vấn đề về việc tìm nó. Phải hiểu rằng bạn đã không
bỏ lỡ nó... Nhưng nhìn xem: thông thường bạn chẳng
bao giờ nhìn vào chỏm mũi, bởi vì bạn đang nhìn vào
các thứ khác, bạn đang quan tâm tới các thứ khác. Bạn
chưa bao giờ nhìn vào chỏm mũi cả.
Người Hindu có một lí thuyết hay khác. Họ nói khi
một người bắt đầu nhìn vào chỏm mũi, thì cái chết ở
gần; trong vòng sáu tháng người ấy sẽ chết. Khi một
người bắt đầu nhìn vào nó mà không cố gắng để thấy
nó - dù người ấy đang làm gì thì người ấy cũng cứ thấy
chỏm mũi mình - trong vòng sáu tháng người ấy sẽ
chết.
Điều này có cái gì đó trong nó. Bởi vì bạn trở nên
nhận biết về chỏm mũi chỉ khi tất cả các ham muốn
của bạn, tất cả các đối thể của ham muốn, đều đã trở
thành vô ích. Bạn không còn năng lượng để đi vào ham
muốn nữa, cái chết đang tới gần. Bạn vô năng lượng
đến thế, mọi sinh lực đã tàn tạ. Bạn không thể đưa mắt
nhìn, bạn không thể chạy theo các ham muốn và mục
tiêu... cuộc sống đang tàn tạ. Trong khoảnh khắc cuối
này chẳng cái gì còn lại ngoại trừ việc nhìn vào chỏm
mũi. Đây là một ý nghĩa.
Ý nghĩa khác, và lớn lao hơn, là: bất kì khi nào một
người có thể nhìn vào chỏm mũi mình, người ấy sẽ làm
chết đi thế giới giới này. Một sinh thành mới, bởi vì
người ấy đã nhìn vào phía trước bản thân mình với sự
sáng tỏ. Thế giới này biến mất, cuộc sống này biến
mất. Người ấy là chết khi có liên quan tới tuổi già của
người ấy. Người ấy là một sinh linh mới, đó là tái sinh.
Bây giờ không có việc tới và việc đi nữa.
Người ấy đã đạt tới - chỉ bởi việc nhìn vào chỏm
mũi thôi sao? Vâng, bởi vì toàn bộ câu hỏi là: làm sao
nhìn vào phía trước chứ không phải sang hai bên. Bởi
vì chân lí là ở phía trước bạn, nó không thể khác được.
Nó không dễ cũng chẳng khó.
Vấn đề không phải là ở nỗ lực, cho nên làm sao nó
có thể dễ hay khó được? Đấy là vấn đề về thức tỉnh,
không phải vấn đề về nỗ lực. Đấy không phải là vấn đề
về làm điều gì đó. Làm, bạn sẽ mất nó, bởi vì bạn sẽ
trở nên bị thu hút trong việc làm. Nếu bạn làm điều gì
đó, nó sẽ dễ dàng hay khó khăn.

Đấy là vấn đề về vô làm. Làm sao vô làm có thể dễ
dàng hay khó khăn? Vô làm hoàn toàn vượt ra ngoài
thế giới của việc làm. Nó chỉ là hiện hữu! Làm sao
hiện hữu lại có thể khó hay dễ? Hiện hữu đơn giản có
đấy. Đó là Đạo Lớn. Toàn bộ nỗ lực là để đi tới hiểu ra
và thấy chỏm mũi, chỉ nhìn với đôi mắt trong trẻo ra
phía trước bạn.
... nhưng những người với quan điểm giới hạn thì sợ
hãi và do dự:
họ càng vội vã nhanh hơn, họ càng đi chậm hơn,

Điều đó có vẻ mâu thuẫn nhưng nó đang xảy ra
cho mọi người. Đây là điều đã xảy ra cho bạn. Bạn
càng đi nhanh hơn, bạn lại càng chậm hơn. Sao vậy?
Bởi vì bạn đi mà không thấy phía trước, và mục tiêu
đang đó! Bạn càng di chuyển nhanh hơn, bạn càng đi
lạc lối nhanh hơn.
Nếu ai đó nhìn vào tốc độ của bạn thì bạn là nhanh,
nhưng nếu ai đó nhìn vào điều bạn đang bỏ lỡ, thì bạn
là người chậm. Bạn càng đi nhanh, bạn lại càng là
người chậm. Đừng đi đâu cả! Chỉ ở đây - và ngay lập
tức bạn đạt tới. Không khoảng cách nào phải du hành
qua và không thời gian nào phải được siêu việt lên. Chỉ
cần ở đây! Làm cho bây giờ và ở đây trở thành câu mật
chú của bạn, và bạn chẳng cần cái gì khác cả. Ở đây và
bây giờ. Đừng đi đâu cả, dù nhanh hay chậm.
Chuyện đã xảy ra:
Một cậu nhỏ tới trường rất, rất muộn. Nó bao giờ
cũng tới trường muộn. Cô giáo giận lắm và cô ấy nói,
“Lại muộn nữa à? Lần nữa con đi muộn mà thậm chí
còn muộn hơn cả hôm qua nữa! Cô đã bảo đi bảo lại
con rồi. Con chẳng chịu nghe lời!”
Đứa trẻ nói, “Nhưng khó lắm. Trời mưa bên ngoài
cô thấy đấy, và đường thì toàn bùn trơn đến nỗi con mà
bước một bước tới trường thì con bị trượt lại hai bước.
Đường trơn đến nỗi con càng cố đi nhanh hơn, thì con
càng tới chậm hơn. Thực tế con phải đi theo chiều
ngược lại: một bước đi lên và hai bước lùi lại.”
Cô giáo nói, “Con cũng láu cá đấy, như thế thì làm
sao con tới được?”
Đứa trẻ này nói, “Con chỉ bắt đầu bước về nhà
thôi, đấy là cách thức.”
Bạn cũng đang trên con đường trơn tuột nơi bạn đi
càng nhanh, tốc độ lại càng chậm - bởi vì bạn đang đi
xa ra. Nếu ai đó nhìn vào mục tiêu, thế thì bạn đang đi
lạc lối. Tốc độ của bạn là nguy hiểm, nó chống lại mục
tiêu, bởi vì chẳng cần gì tới tốc độ cả. Bạn chỉ đơn giản
dừng lại và nhìn.
Mọi người tới tôi và họ nói, “Khi nào thì chúng tôi
sẽ chứng ngộ? Khi nào?” Nếu tôi nói, “Bây giờ,” họ
không thể tin được tôi. Và tôi bảo bạn, bây giờ đấy.
Nếu bạn bỏ lỡ cái bây giờ này, thì có cái bây giờ khác -
nhưng bao giờ cũng là bây giờ. Không có thời gian
khác.
Bất kì khi nào điều đó xảy ra, nó sẽ xảy ra trong
bây giờ, và bất kì khi nào nó xảy ra thì nó sẽ xảy ra tại
đây. Tại đây và bây giờ không phải là hai từ, cũng
giống như thời gian và không gian không phải là hai
từ. Einstein đã dùng một từ mới: ‘không thời gian’.

Ông ấy tạo ra một từ từ hai từ này, ‘không thời gian’,
bởi vì ông ấy đã thấy một cách khoa học rằng thời gian
không là gì ngoài chiều thứ tư của không gian, cho nên
không cần dùng hai từ này.
Và tại đây và bây giờ cũng không phải là hai từ.
Hàng nghìn năm trước Einstein, các nhà huyền môn
như Tăng Xán đã biết tới điều đó. Nó chính là ‘bây giờ
ở đây’. Hai từ này được nối lại với nhau, chúng là một,
bởi vì bây giờ chẳng có gì ngoại trừ một chiều của tại
đây - chiều thứ tư. ‘Bây giờ ở đây’ là một từ.
Và bất kì khi nào điều đó xảy ra, nó sẽ xảy ra tại
bây giờ ở đây. Nó chỉ có thể xảy ra bây giờ, không cần
phải chờ đợi! Nhưng bạn do dự và sợ hãi - điều đó tạo
ra vấn đề.
Ý nghĩa của sợ hãi là gì? Đâu là tình huống bên
trong khi bạn sợ hãi? - bạn muốn nó, và bạn không
muốn nó nữa. Đây là tình huống của tâm trí sợ hãi:
người ấy muốn đi và người ấy không muốn đi bởi vì
người ấy sợ. Người ấy muốn đi nhưng người ấy lại
không chắc chắn, do dự.
Jesus bao giờ cũng dùng từ ‘sợ’, nhiều lần, ngược
với đức tin. Ông ấy chưa bao giờ dùng từ ‘không tin’,
‘không tin cậy’ để ngược với đức tin. Ông ấy nói
những người không sợ hãi, họ trở thành có đức tin, bởi
vì đức tin là sự kiên quyết. Đức tin là quyết định, quyết
định toàn bộ. Bạn đi toàn bộ vào trong nó, đó là sự tin
cậy, không có gì bị giữ lại cả, vô điều kiện. Nó không
thể bị lấy lại. Nếu bạn đã đi một cách toàn bộ, ai sẽ lấy
nó lại?
Niềm tin là tuyệt đối. Nếu bạn đi vào trong nó, thì
bạn đi vào trong nó. Bạn không thể đi ra khỏi nó - ai sẽ
đi ra khỏi nó? Không ai đứng sau, người có thể kéo
bạn lại. Đấy là cú nhẩy vào trong vực thẳm, và Jesus
hoàn toàn phải khi coi nỗi sợ là phản nghĩa với đức tin.
Chưa từng có ai đã làm điều đó. Nhưng ông ấy hoàn
toàn phải, bởi vì ông ấy không bận tâm với ngôn ngữ
bên ngoài, ông ấy bận tâm tới ngôn ngữ của bản thể
bên trong.
Chính nỗi sợ không cho phép bạn đi vào trong đức
tin. Đó không phải là sự không tin, nhớ lấy; không phải
là sự không tin cản trở bạn đi vào đức tin, đó là nỗi sợ.
Tất nhiên bạn có thể hợp lí hoá sự không tin của
mình, nỗi sợ của mình. Bạn che giấu nó trong lời nói
và bạn nói, “Tôi ngần ngại, tôi hoài nghi. Làm sao tôi
có thể đi được chừng nào mà tôi còn chưa được hoàn
toàn thuyết phục?” Nhưng nhìn sâu vào bên trong bản
thân mình và bạn sẽ tìm thấy nỗi sợ.
Sợ hãi có nghĩa là một nửa bạn muốn đi và và nửa
kia không muốn đi. Một nửa bị quyến rũ bởi cái chưa
biết, đã nghe thấy tiếng gọi, sự khêu gợi; còn một nửa
thì sợ điều chưa biết, níu bám lấy cái đã biết. Bởi vì cái
đã biết thì đã được biết tới rồi, không có nỗi sợ trong
nó.
Bạn làm điều gì đó; điều gì đó ấy trở thành cái đã
biết. Bây giờ nếu bạn muốn đi vào một việc mới, đi
vào một mẫu hình mới của cuộc sống, các thói quen
mới, phong cách mới, thì một nửa của bạn níu bám lấy
cái đã biết, nói, “Đừng đi! Ai mà biết được, có thể lại
còn tồi tệ hơn thế này. Và một khi mình đã đi thì

không thể nào quay lại được.” Cho nên nửa này nói,
“Phải níu bám!”
Nửa này thuộc về quá khứ, bởi vì quá khứ đã được
biết, là kí ức. Và nửa kia bao giờ cũng bị kích động,
cảm thấy tiếng gọi để đi vào con đường chưa biết, con
đường chưa được vẽ bản đồ - bởi vì một cái gì đó mới
sẽ trở thành hoàn cảnh.
Đây là nỗi sợ. Bạn bị phân chia. Nỗi sợ phân chia
bạn, và nếu bạn bị phân chia thì có do dự. Bạn bước
lên một bước tới cái chưa biết, bước kia vẫn còn trong
quá khứ, trong nấm mồ của quá khứ. Và thế rồi bạn bị
mắc kẹt, bởi vì không ai có thể đi với một bước, với
một chân, một bàn chân - không ai có thể đi được. Bạn
phải tung cả hai cánh vào trong nó, cả hai phần của bạn
vào trong nó. Chỉ thế thì bạn mới có thể chuyển động
được.
Do dự, và bạn bị mắc kẹt - và mọi người đều bị
mắc kẹt cả. Đó là vấn đề, đó là nỗi lo âu. Bị mắc kẹt,
và bạn không thể di chuyển được, còn cuộc sống thì cứ
tuôn chảy, và bạn trở thành tựa như tảng đá, bị nghẹn
lại, tù nhân của quá khứ.
... nhưng những người với quan điểm giới hạn thì sợ
hãi và do dự:
họ càng vội vã nhanh hơn, họ càng đi chậm hơn...

Thế thì toàn bộ cuộc sống của họ bị mâu thuẫn. Họ
làm điều gì đó với tay này và ngay lập tức họ hoàn tác
điều đó bằng tay kia - do dự. Một mặt bạn yêu một
người, mặt khác bạn gieo hạt mầm ghét. Và bạn chưa
bao giờ thấy điều mình đang làm.
Mới đêm hôm qua tôi vừa nói với ai đó về một tu
viện kín ở Bokhara. Gurdjieff đã sống trong tu viện đó
trong ít nhất sáu năm. Ông ấy đã học nhiều kĩ thuật từ
trường phái Sufi này. Một trong những kĩ thuật của họ
vẫn còn được dùng trong tu viện đó.
Kĩ thuật này rất hay. Bất kì khi nào một người vào
tu viện, trở thành đệ tử, người ấy đều được trao cho
một tấm biển, một dấu hiệu. Trên một mặt có viết:
“Tôi là người tiêu cực, xin đừng coi tôi là nghiêm
chỉnh” - nếu tôi nói điều gì đó sai, tôi không thực sự
nói điều đó với bạn. Bởi vì tôi tiêu cực, và tôi tràn đầy
với căm ghét, giận dữ, thất vọng. Và nếu tôi có làm
điều gì đó, đó là vì sự tiêu cực của tôi, không phải bởi
vì bạn sai.
Trên mặt kia của tấm biển này có viết: “Tôi là
người tích cực, tôi đang yêu thương, quí mến, xin đừng
coi tôi là nghiêm chỉnh” - nếu tôi nói bạn đẹp, tôi
không nói gì về bạn đâu - tôi cảm thấy vui vẻ phấn
khởi thôi.
Và bất kì khi nào một người cảm thấy rằng tâm
trạng thay đổi thì người ấy thay đổi tấm biển của mình,
người ấy lật mặt phải lên, dù người ấy đang là gì. Và
nhiều điều xảy ra qua nó, bởi vì không ai coi người ấy
là nghiêm chỉnh cả. Mọi người cười bởi vì anh ta tiêu
cực.
Nếu ai đó cảm thấy buồn nôn và mửa ra, cũng
được! Người ấy không nôn lên bạn, người ấy không
ném điều gì lên bạn cả. Người ấy đang ném cái gì đó,
cái gì đó đang quấy rầy người ấy. Và chỉ khi sự phân
chia này dừng lại và đệ tử tới thầy và nói, “Con không

là cả hai. Bây giờ con không tiêu cực không tích cực,
mọi thứ đã lắng xuống và cả hai cánh con đã trở thành
một, bây giờ con là một,” chỉ thế thì tấm biển mới
được tháo bỏ đi.
Khoảnh khắc tấm biển được tháo bỏ đi là khoảnh
khắc của chứng ngộ. Thế thì bạn là cái toàn thể. Ngoài
ra, bạn bao giờ cũng tự mâu thuẫn với mình và thế rồi
bạn cảm thấy khổ và khổ và bạn nghĩ, “Điều gì xảy ra
cho mình thế này?” Chẳng điều gì xảy ra cho bạn cả!
Với tay này bạn làm điều gì đó tốt, với tay kia bạn lập
tức làm điều gì đó xấu - ngay lập tức, để phá huỷ phía
bên kia mà đã tiến lên trước, bởi vì bạn do dự, bạn bị
chia rẽ.
Một phần của bạn níu bám lấy các thói quen cũ,
phần khác lại muốn đi vào trong cái chưa biết. Một
phần muốn níu bám lấy thế giới, phần khác lại muốn
trở thành con chim và bay vào trong bầu trời chưa biết
của điều thiêng liêng, của chính tính thiêng liêng của
sự tồn tại. Thế thì bạn bị mắc kẹt.
Cố thấy điều này đi. Điều đó khó bởi vì bạn chưa
bao giờ thử để thấy nó, nếu không thì nó chẳng khó
chút nào. Nó không khó cũng chẳng dễ. Chỉ nhìn vào
điều bạn đang làm với bản thân mình và với người
khác.
Bất kì điều gì bạn làm nửa vời đều sẽ đem bạn tới
khổ. Bị mắc kẹt, bạn sẽ rơi, rơi mãi vào trong địa ngục.
Địa ngục là nơi mọi người bị mắc kẹt, còn thiên đường
là nơi mọi người di chuyển, không bị đông cứng. Địa
ngục là nơi không có tự do, thiên đường là tự do.
Người Hindu đã gọi trạng thái tối thượng là
moksha, tự do hoàn toàn. Không ai bị mắc kẹt ở đâu
cả; trôi nổi như dòng sông tự do, như con chim tung
cánh, bầu trời vô hạn tất cả bao quanh, không bị buộc
vào cái gì.
... nhưng những người với quan điểm giới hạn thì sợ
hãi và do dự:
họ càng vội vã nhanh hơn, họ càng đi chậm hơn,
và việc níu bám không thể bị giới hạn...

Và nhớ lấy, bất kì khi nào bạn níu bám, việc níu
bám như vậy là vấn đề; cái gì bạn níu bám không thành
vấn đề. Cho nên Tăng Xán nói “níu bám là không bị
giới hạn” - không bị giới hạn vào thế giới này, vào thân
thể này, vào các giác quan, việc hưởng thú. Bạn có thể
níu bám vào chứng ngộ, bạn có thể níu bám vào
Thượng đế. Bạn có thể níu bám vào tình yêu, bạn có
thể níu bám vào thiền và cầu nguyện. Và, với việc níu
bám, bạn lại bị mắc kẹt.
Đừng níu bám vào bất kì cái gì, vẫn còn tự do và
chuyển động. Càng chuyển động nhiều, bạn càng gần
với bản thân mình. Khi bạn hoàn toàn chuyển động,
không bị mắc kẹt vào đâu trong năng lượng của mình,
chân lí gõ cửa. Nó bao giờ cũng đang gõ cửa, nhưng
bạn bị mắc kẹt và bạn không thể nào nghe thấy nó. Nó
chỉ ở ngay trước bạn, tại chính chỏm mũi bạn.
... thậm chí bị gắn bó với ý tưởng về chứng ngộ cũng là
đi lạc lối.

Thế thì điều đó trở thành vấn đề. Nếu bạn trở nên
quá gắn bó, rằng, “Mình đã đạt tới chứng ngộ,” thế thì
điều này sẽ trở thành vấn đề của bạn. Chứng ngộ chẳng
bao giờ được đạt tới cả, nó xảy ra. Nó không phải là
việc đạt tới, và tâm trí thành đạt không bao giờ đạt tới
nó.
Bạn có thể cố gắng để đạt được quyền lực trong
thế giới này, thế rồi bạn bắt đầu cố gắng đạt tới quyền
lực trong thế giới kia. Trước hết bạn muốn đạt tới của
cải trong thế giới này, thế rồi bạn cố gắng đạt tới của
cải trong thế giới kia - nhưng bạn vẫn còn như cũ, và
tâm trí cùng sự vận hành và toàn bộ sơ đồ vẫn như cũ.
Đạt tới đi! Vươn tới đi! - đây là vị kỉ. Tâm trí thành đạt
là bản ngã.
Và người đạt tới là người không cố gắng để thành
đạt, người đơn giản hạnh phúc ở bất kì nơi đâu mình
đang hiện hữu, người đơn giản phúc lạc với bất kì cái
gì mình đang là. Người đó không có mục tiêu. Người
đó không đi đâu cả. Người đó di chuyển, nhưng di
chuyển của người đó không phải là theo mục tiêu.
Người đó di chuyển theo năng lượng của mình, không
vì mục tiêu - việc di chuyển của người đó là không có
động cơ.
Tất nhiên, người đó đạt tới mục tiêu - đó lại là
chuyện khác, và là vấn đề bên cạnh. Dòng sông đi từ
Himalaya; nó không đi ra biển cả, nó không biết biển
cả, nơi nó hiện hữu, nó không bận tâm về biển cả.
Chính bài ca của chuyển động trong Himalaya tuyệt
diệu thế, băng qua thung lũng, qua đỉnh núi, qua rừng
cây, thế rồi đổ oà xuống đồng bằng, tới mọi người...
chính chuyển động là điều tuyệt diệu! Và mọi khoảnh
khắc chuyển động đều tuyệt diệu, bởi vì nó là sống.
Dòng sông thậm chí không biết có mục tiêu hay có
biển cả; điều đó không phải là mối bận tâm. Và nếu
dòng sông trở thành quá bận tâm, thế thì nó sẽ chỉ là
một mớ lộn xộn như bạn. Thế thì nó sẽ dừng lại ở bất
kì đâu và hỏi nơi đi: “Đâu là con đường đúng?” Và nó
sẽ sợ hãi dù là đi lên hướng bắc, hướng nam, hướng
đông hay hướng tây - đi đâu đây?
Và nhớ lấy, đại dương ở mọi nơi. Dù bạn có lên
bắc hay sang đông hay sang tây cũng chẳng khác biệt
gì. Đại dương ở mọi nơi, khắp xung quanh đều là đại
dương. Nó bao giờ cũng ở phía trước bạn; dù bạn đi
đâu, chẳng khác biệt gì.
Đừng hỏi về con đường, hỏi về cách đi nhiều hơn.
Đừng hỏi về mục tiêu, nó không ở đâu đó cố định cả.
Bất kì nơi đâu bạn đi tới, đi trong nhẩy múa. Bạn sẽ tới
đại dương - điều đó xảy ra. Nó xảy ra cho dòng sông
nhỏ, nó xảy ra cho dòng sông lớn, tất cả chúng đều đạt
tới. Dòng suối nhỏ - bạn không thể quan niệm nổi làm
sao dòng suối nhỏ này sẽ đạt tới đại dương, nhưng nó
sẽ đạt tới.
Không có vấn đề về nhỏ hay lớn. Sự tồn tại là ân
huệ vô hạn cho mọi người; nhỏ hay lớn không thành
vấn đề. Cây nhỏ nở hoa, cây lớn nở hoa. Việc nở hoa
mới là vấn đề! Và khi cây nhỏ nở hoa nó cũng chẳng
kém hạnh phúc hơn khi cây lớn nở hoa; hạnh phúc đích
xác như nhau. Hạnh phúc không phải là vấn đề về kích
cỡ, nó không phải là vấn đề về số lượng. Nó là phẩm

chất của con người bạn. Dòng sông nhỏ nhẩy múa và
đạt tới, dòng sông lớn cũng nhẩy múa và đạt tới.
Tất cả các bạn đều giống như các dòng sông, tất cả
các bạn đều sẽ đạt tới đại dương. Nhưng đừng làm cho
nó thành mục tiêu; nếu không thì bạn càng đi nhanh,
bạn càng di chuyển chậm hơn.
Và bạn càng muốn đạt tới nhiều hơn, bạn lại càng
bị mắc kẹt nhiều hơn, bởi vì bạn càng trở nên sợ hãi
hơn. Nỗi sợ việc bỏ lỡ mục tiêu giữ bạn lại, nỗi sợ
không đạt tới làm què quặt bạn, nỗi sợ đi sai làm tê liệt
bạn. Nếu không có mục tiêu, không có nỗi sợ.
Nhớ lấy, nỗi sợ là hướng mục tiêu. Nếu bạn không
đi đâu cả, thì nỗi sợ là gì? Bạn không thể lỡ được, bạn
không thể nào bị thất bại, cho nên nỗi sợ là gì? Nỗi sợ
có nghĩa là khả năng bị thất bại. Từ đâu mà khả năng
bị thất bại này đi vào? Nó đi vào từ việc hướng đích -
bạn bao giờ cũng tìm kiếm mục tiêu.
Mọi người tới tôi và họ nói, “Chúng tôi đã thiền ba
tháng rồi. Chẳng có gì xảy ra cả.” Chẳng cái gì sắp xảy
ra đâu, bởi vì bạn đang chờ đợi nó. Bạn không thể chờ
đợi ngay cả việc xảy ra, bởi vì thậm chí việc chờ đợi
cũng trở thành nỗ lực bên trong. Bạn đang nhìn...
Bạn thảnh thơi! Khi bạn không có đó, nó xảy ra.
Nó sẽ không bao giờ xảy ra cho bạn; nó sẽ xảy ra chỉ
khi con thuyền là trống rỗng, khi ngôi nhà là trống
rỗng. Khi bạn nhẩy múa nhưng không có người múa,
khi bạn quan sát nhưng không có người quan sát, khi
bạn yêu và không có người yêu, nó xảy ra! Khi bạn
bước và không có người bước bên trong, nó xảy ra.
Đừng chờ đợi, đừng nỗ lực gì, đừng tạo ra mục
tiêu, nếu không thì thậm chí chứng ngộ cũng sẽ trở
thành tù túng. Nó đã trở thành như vậy cho nhiều,
nhiều người ở phương Đông. Hàng triệu người đã nhận
tính chất sannyas - họ trở thành các khất sĩ bhikkhus,
các sannyasin Hindu - họ đi vào trong các tu viện, và
họ bị mắc kẹt ở đó.
Họ tới tôi và họ cũng giống hệt như bất kì ai khác
trên thế giới này. Ai đó bị mắc kẹt trong chợ, họ bị
mắc kẹt trong tu viện; đó là khác biệt duy nhất. Ai đó
thất bại trong chợ, họ thất bại trong tu viện. Nhưng họ
chưa bao giờ nhìn... tại sao mình thất bại? Bạn tạo ra
thất bại cho chính mình: nếu bạn đang tìm kiếm mục
tiêu, bạn sẽ là kẻ thất bại.
Trong điều tối thượng, tâm trí hướng đích là một
cản trở, cản trở lớn nhất. Bạn đơn giản hiện hữu! Điều
tối thượng sẽ tới! Để điều đó là vấn đề và quyết định
của điều tối thượng, không phải là của bạn. Để nó cho
ngài, ngài biết nhiều hơn. Để nó là vấn đề của Thượng
đế, để cho ngài lo nghĩ về nó. Bạn không lo nghĩ - bạn
đơn giản tận hưởng cuộc sống khi nó di chuyển, khi nó
kéo dài. Bạn nhẩy múa và ca hát và cực lạc, và để
Thượng đế lo nghĩ. Sao bạn lo nghĩ?
Bạn đơn giản không lo nghĩ. Và đừng là người
thành đạt, bởi vì là người thành đạt là tạo ra căng thẳng
lớn nhất có thể xảy ra cho tâm trí con người. Thế thì
bạn không thể nhìn vào ở đây bây giờ, thế thì bạn đang
nhìn ra xa xa, xa xôi, vào tương lai; có mục tiêu, điều
không tưởng, thành phố vàng son, Shambala - ở đó. Và
bạn phải đạt tới, cho nên bạn chạy. Bạn đi đâu? Bạn

chạy từ đâu? Bạn chạy vì cái gì? Shambala là ở đây
bây giờ, điều không tưởng đã xảy ra.
Jesus nói với các đệ tử của mình, “Các ông đang
đợi ai? Ta ở đây cơ mà!” Thậm chí đệ tử của ông ấy
cũng hỏi, “Khi nào thì chúa cứu thế tới? Khi nào?” -
bởi vì người Do Thái đã chờ đợi từ hàng thế kỉ việc tới
của chúa cứu thế và khi ông ấy tới, họ lại không sẵn
sàng đón nhận ông ấy. Họ vẫn còn chờ đợi. Và Jesus
đã tới và họ vẫn còn chờ đợi. Và thậm chí khi Jesus
không có đó, nhiều Jesus khác đã có đó, và họ bao giờ
cũng tới.
Thượng đế bao giờ cũng là đầy tràn. Đôi khi đó là
một Mohammed, đôi khi đó là một Jesus, đôi khi đó là
một Phật, đôi khi đó là một Tăng Xán, một Trang Tử.
Ngài đang tràn ngập, ngài đang rơi xuống liên tục, ngài
không thể làm bất kì điều gì về nó được! Ngài không
phải là kẻ keo kiệt.
Nhưng người Ki tô giáo nói ngài chỉ có một con
trai duy nhất. Ngài bất lực chăng? Ngài đã bị bất lực
sau khi Jesus được sinh ra sao? Điều này dường như là
ngớ ngẩn - ‘đứa con duy nhất’. Điều đó là không thể
được, nếu không thì Thượng đế của bạn không phải là
Thượng đế - chẳng đáng gì.
Người Mô ha mét giáo nói chỉ có duy nhất một nhà
tiên tri. Mohammed là người cuối cùng, nhà tiên tri
cuối cùng. Tại sao lại cuối cùng? Thượng đế của bạn
chết sao? Ngài không thể nào gửi bất kì thông điệp nào
tốt hơn sao? Ngài không thể cải tiến tốt hơn sao? Ngài
không còn là đấng sáng tạo nữa sao? - bởi vì tính sáng
tạo bao giờ cũng có nghĩa là tự siêu việt lên, bao giờ
cũng là siêu việt.
Hoạ sĩ cứ vẽ và bao giờ cũng siêu việt lên trên bản
thân mình.
Ai đó hỏi Van Gogh, “Bức vẽ nào của ông là đẹp
nhất?”
Ông ấy nói, “Cái mà tôi đang vẽ bây giờ.”
Vài ngày sau đó người này lại hỏi. Van Gogh nói,
“Tôi đã bảo anh rồi. Cái này!” và ông ấy đang vẽ bức
vẽ khác. “Cái mà tôi đang vẽ bây giờ là cái đẹp nhất.”
Thượng đế là việc tràn ngập, tràn ngập vô hạn. Khi
Mohammed tới, thì Mohammed là tốt nhất; khi Phật
tới, thì Phật là tốt nhất. Thực sự, ngài chưa bao giờ tạo
ra bất kì cái gì cũ. Ngài bao giờ cũng tạo ra cái tốt
nhất, vô song.
Nhưng mọi người cứ chờ đợi hoài. Họ bỏ lỡ sứ giả
ngay cửa ra vào bởi vì mắt họ không có đó, mắt họ
đang nhắm tới nơi không tưởng, đâu đó khác. Họ
không có đó, họ không ở nhà. Thượng đế tới với bạn
nhiều lần, và trở về nhiều lần bởi vì bạn không có đó.
Bạn chưa bao giờ ở bất kì nơi nào bạn đang ở. Còn
ngài gõ cửa ở đó, nhưng bạn lại không có đó.
Để điều đó là việc lo nghĩ của ngài, đừng lo nghĩ -
bạn đơn giản vẫn còn không lo nghĩ. Và đây là hai tình
huống: hoặc là bạn lo nghĩ hoặc là bạn cực lạc, và cả
hai không thể cùng tồn tại được. Nếu bạn cực lạc, bạn
cực lạc một cách điên khùng. Nếu bạn lo nghĩ, bạn lo
nghĩ một cách điên khùng. Có hai kiểu người điên:

bệnh điên bắt nguồn từ lo nghĩ và bệnh điên bắt nguồn
từ bản thể, tràn ngập bản thể.
Chọn lựa là của bạn. Hoặc bạn sẽ là người điên lo
nghĩ, nằm trên giường nhà tâm thần nào đó, hoặc bạn
có thể thành người điên về Thượng đế, như Thánh
Francis hay Tăng Xán. Thế thì toàn bộ cuộc sống của
bạn trở thành điệu vũ, niềm cực lạc vô hạn, niềm phúc
lạc cứ tiếp diễn mãi, và cứ tăng lên, tăng lên, cứ tăng
mãi... không có kết thúc cho nó. Nó bắt đầu, nó không
bao giờ kết thúc.
Để cho mọi thứ theo đường riêng của chúng
và sẽ không có việc tới lẫn việc đi.

Ân huệ vô hạn có đó; không tới, không đi. Im lặng
vô hạn; không tới, không đi. Nhưng để mọi thứ theo
cách riêng của chúng - bạn không bước vào con đường
đó, bạn không cố gắng thay đổi cái gì.
Điều này là rất khó cho tâm trí hiểu, bởi vì tâm trí
thích thay đổi: nếu bạn là tội nhân, làm sao trở thành
thánh nhân; nếu bạn xấu làm sao trở thành đẹp; nếu
bạn tồi làm sao trở thành tốt.
Tâm trí cứ thay đổi, cố gắng thay đổi, và tâm trí
kêu gọi bởi vì dường như là, “Đúng đấy, mình có thể
tốt hơn, cho nên thử thay đổi.” Và thế rồi bạn không
thể nào làm tốt hơn được, thế rồi bạn bị mắc kẹt - bởi
vì bạn đã tốt hơn rồi! Điều duy nhất là làm sao dừng
việc lo nghĩ lại và làm sao bắt đầu sống. Là người sống
đi, chỉ để mọi thứ hiện hữu theo cách riêng của chúng.
Chấp nhận! Bạn là ai mà lo nghĩ? Bạn được sinh ra
- không ai hỏi bạn liệu bạn có muốn được sinh ra hay
không. Nếu không thì bạn sẽ bị mắc kẹt ở đó, bởi vì
bạn không thể nào quyết định được điều gì. Bạn do dự.
Nếu mà bạn được hỏi, nếu như Thượng đế có đó
để hỏi bạn - ngài không bao giờ phạm phải sai lầm đó
bởi vì ngài biết rằng bạn sẽ bị mắc kẹt ở đó, vĩnh viễn -
bạn sẽ không có khả năng quyết định liệu nên được
sinh ra hay không. Ngài đột nhiên ném bạn vào mà
không hỏi sự chấp nhận của bạn, nếu không thì bạn đã
không có đó rồi. Và nếu ngài hỏi về cái chết của bạn,
bạn sẽ lại bị mắc kẹt. Ngài chưa bao giờ hỏi, ngài đơn
giản đem bạn đi. Ngài biết bạn rõ lắm: bạn không thể
quyết định được.
Nếu ngài tới và hỏi, “Khi nào con muốn chết?” liệu
bạn có khả năng quyết định được không? Sáng thứ bảy
chăng? Hay chủ nhật? Không! Chỉ có bẩy ngày, và bạn
sẽ không có khả năng quyết định. Ngài phải tới mà
không hỏi bạn.
Khi cuộc sống xảy ra không có bạn - sinh xảy ra,
tử xảy ra, yêu xảy ra không có bạn - thế thì tại sao bạn
phải lo nghĩ? Dù bất kì ai là ngọn nguồn, nếu ngài có
thể cho bạn việc sinh, nếu ngài có thể cho bạn việc tử,
nếu ngài có thể tạo ra và không tạo ra, thế thì cứ để tất
cả mọi lo nghĩ là của ngài. Bạn tận hưởng, trong khi
bạn hiện hữu. Và nếu bạn có thể tận hưởng trong khi
bạn hiện hữu, bỗng nhiên bạn biết: đây là cội nguồn.
Bạn đã chạm tới cuộc sống vô hạn.
Jesus nói, “Ta ở đây để dạy các ông về cuộc sống
thừa thãi, giầu có vô hạn.” Và cách thức là để mọi thứ
hiện hữu. Bạn không đi vào trong nó, bạn không đi vào
theo cách của riêng bạn. Để cho Đạo của bạn tuôn

chảy, để cho bản tính của bạn di chuyển... dù bất kì
đâu nó đi tới?

Tuân theo bản tính của mọi thứ (bản tính riêng của
ông),
và ông sẽ bước đi một cách tự do và không rối
loạn.
Khi ý nghĩ là trong tù túng, chân lí bị che khuất,
vì mọi thứ u ám và không rõ ràng,
và việc thực hành đánh giá nặng nề
chỉ đem lại phiền phức và chán ngắt.
ích lợi gì có thể đưa ra được từ phân biệt và tách
biệt?

Khi bạn tràn đầy với ý nghĩ, tâm trí bị mờ đi, cái
nhìn của bạn không rõ ràng. Nhưng phải làm gì? Ý
nghĩ có đó. Để chúng đấy. Bạn không bận tâm! Để
chúng đấy - bạn không dính líu với chúng. Chúng di
chuyển theo ý riêng của chúng, cứ để chúng di chuyển.
Sao bạn phải dính líu vào và quấy rối chúng? Chúng
tuôn chảy như dòng suối - để cho chúng tuôn chảy.
Bạn ngồi trên bờ và nghỉ ngơi.
Bạn nói với ý nghĩ của mình, “Thôi được, nếu mây
trong bầu trời, cây cối và dòng sông trên đất, thế thì tại
sao lại không có ý nghĩ trong tâm trí?” Chấp nhận
chúng đi! Được thôi! Nếu bạn chấp nhận và nói được,
bạn sẽ cảm thấy thay đổi bất thần, bởi vì năng lượng
của bạn là cần cho chúng di chuyển.
Và nếu bạn không bận tâm, dần dần năng lượng
này tự nó rút lui. Chúng trở nên ngày càng ít đi. Thế
rồi một khoảnh khắc tới khi ý nghĩ chỉ tới khi chúng
được cần tới. Ý nghĩ không phải là gánh nặng. Ý nghĩ
không cần thiết mới là gánh nặng, chúng tạo ra cái
nhìn mờ ảo của bạn. Cái mờ ảo tới bởi ý nghĩ không
cần thiết.
Khi bạn muốn di chuyển, bạn dùng chân mình, khi
bạn muốn nghĩ bạn dùng ý nghĩ của mình, khi bạn
muốn trao đổi, bạn dùng tâm trí mình. Nhưng khi bạn
đang ngồi dưới gốc cây, sao cứ rung đùi? Bạn sẽ có vẻ
điên khùng. Nhưng tâm trí cứ di chuyển.
Tâm trí là một chức năng, và chức năng thì có ích
vào đúng lúc. Khi nó được cần tới thì tâm trí bắt đầu
vận hành. Tôi đang nói với bạn: tâm trí đang vận hành,
nếu không làm sao tôi có thể nói với bạn được? Tăng
Xán nói điều gì đó, làm sao ông ấy có thể nói điều đó
nếu không có tâm trí? Nhưng khoảnh khắc tôi dừng
nói, chức năng này bị tắt đi, thế thì không có tâm trí -
cũng như không có chân, bởi vì khi chúng không di
chuyển thì chúng không có đó.
Khi bạn cảm thấy đói, bạn ăn. Khi bạn muốn trao
đổi, bạn dùng ý nghĩ. Khi không đói bạn không ăn nữa.
Nhưng có những người cứ ăn kẹo cao su, có người cứ
hút thuốc; cho nên kẹo cao su và thuốc lá, chúng chỉ là
những thứ thay thế cho thức ăn. Họ thích ăn liên tục,
nhưng điều đó là không thể được bởi vì thân thể sẽ
không dung thứ điều đó, cho nên họ phải làm điều gì
đó với cái mồm. Họ sẽ nhai kẹo cao su hay họ nhai
trầu, nhai thuốc lá, hay làm điều gì đó. Hay, nếu họ
không thể làm cái gì...
Chẳng hạn, trong quá khứ đàn bà trên khắp thế giới
chưa bao giờ được phép làm những điều xuẩn ngốc mà
đàn ông được phép làm. Họ không được phép hút

thuốc lá, họ không được phép nhai kẹo cao su hay
những thứ như thế. Chúng là không tốt và không duyên
dáng. Cho nên họ đã làm gì? Họ bắt đầu nói. Đó là lí
do tại sao con gái nói nhiều hơn, bởi vì vật thay thế là
cần thiết. Cái mồm phải tiếp tục: họ bắt đầu nói.
Bạn không thể nào tìm thấy hai người phụ nữ ngồi
đấy mà không nói với nhau - trừ phi họ là phụ nữ Anh,
người không phải là phụ nữ chút nào. Quá nhiều điều
bị kìm nén trong họ, họ đã trở thành giống như người
mất hồn. Nếu không thì đàn bà huyên thuyên, giống
như chim trên cây, chúng huyên thuyên. Mới hôm nọ
có vài phụ nữ làm việc ở đây trong vườn. Cả ngày họ
huyên thuyên - cả ngày! Điều đó không thể có mục
đích bởi vì chẳng có gì cả... nhưng họ cứ huyên
thuyên. Chỉ cái mồm muốn ăn liên tục.
Bạn thấy mọi người ngồi trong rạp hát. Họ sẽ cứ
rung đùi. Tại sao họ lại ngồi đó? Họ nên đi ra ngoài và
bước chứ! Họ đang làm cả hai. Họ không thể ngồi im
lặng được. Và điều này là điều đang xảy ra cho tâm trí
bạn.
Tâm trí trong bản thân nó là tốt. Mọi thứ đều tốt
trong bản thân nó, trong vị trí của nó. Thế thì mọi thứ
đều vừa vặn. Chiếc giầy vừa khít khi mọi thứ vào đúng
chỗ của nó. Khi tâm trí được cần tới, dùng nó; khi nó
không cần tới nữa, đẩy nó sang bên. Bạn vẫn còn là
người chủ và mọi thứ đều là một chức năng.
Nhưng tâm trí đã chiếm quyền. Bất kì điều gì bạn
làm, nó cứ tiếp diễn mãi - dường như bạn không thể tắt
chiếc máy thu thanh đi được, cái nút bị vỡ. Nó vẫn cứ
bật mãi. Bạn đang ngủ và chiếc máy thu thanh cứ nói
mãi. Bạn đang nghỉ, bạn đang ăn, bạn đang làm tình,
và chiếc máy thu thanh cứ nói mãi. Và bạn phải chịu
đựng nó liên tục. Dần dần, bạn trở nên quên mất sự
kiện là chiếc máy thu thanh đang bật; bạn đơn giản
không nghe.
Đó là điều đã xảy ra cho tâm trí bạn. Nó cứ tiếp
diễn mãi; bạn không biết nút tắt nó ở đâu cả. Cho nên
bạn không nghe, bạn đơn giản chịu đựng nó, quên lãng
nó. Bạn coi nó là điều dĩ nhiên, dường như nó sẽ là
như vậy.
Điều này không phải như vậy, nếu không thì vị
Phật không thể xảy ra được. Và khi tôi nói điều này,
tôi nói nó qua kinh nghiệm của riêng mình: nó không
phải là như vậy. Cái nút có thể được thay thế. Đó là tất
cả những gì mà các cách thiền làm. Chúng không dẫn
bạn tới chứng ngộ, chúng đơn giản thay thế cái nút
không có đó, hay bị vỡ, hay bị kẹt, hay nó vẫn có đó
nhưng bạn không biết cách dùng nó.
Cách thiền là kĩ thuật, và kĩ thuật có thể có ích chỉ
với chức năng nào đó, không phải là bản thể bạn. Cho
nên không cách thiền nào dẫn bạn trực tiếp tới bản thể
mình, nó đơn giản sửa chữa chức năng của bạn. Chiếc
giầy vừa khít và bạn được chứng ngộ.
Trang Tử nói đúng: “Giầy khít, quên chân.” Khi
mọi chức năng vừa khít, thân thể bị quên lãng; khi mọi
chức năng vừa khít, thế giới của hình dáng này không
còn nữa. Bạn đã chứng ngộ! Bỗng nhiên mọi thứ đều
bừng sáng như nó vốn thế.
Nếu ông muốn đi theo con đường Đạo duy nhất

thì đừng không thích ngay cả thế giới của giác
quan và ý tưởng.
Điều này thật hay! Ông ấy nói, đừng không thích
ngay cả thế giới của giác quan và ý tưởng.

Có hai kiểu người. Một kiểu người cứ tranh đấu
với giác quan: làm sao giết chết thân thể, làm sao
không tận hưởng qua thân thể, không rơi vào tình yêu,
không ăn của ngon. Họ tranh đấu với các giác quan của
mình, họ trở thành các nhà khổ hạnh lớn. Về cơ bản họ
là kẻ tự bạo, họ tận hưởng việc tự làm què quặt mình.
Nhưng xã hội kính trọng họ, và kính trọng trở thành
cám dỗ.
Họ được coi là những người vĩ đại bởi vì họ không
quan tâm tới các giác quan. Và họ không thể là vĩ đại
được, bởi vì các giác quan là cánh cửa để gặp cái vô
hạn bao quanh bạn. Các giác quan là những cánh cửa;
từ những cánh cửa này cái vô hạn đi vào bạn và bạn đi
vào cái vô hạn.
Họ đóng lại những cánh cửa của mình. Thế thì nhà
họ, thân thể họ, trở thành nhà tù, và họ khổ. Và họ
càng khổ, họ lại càng được kính trọng và tôn thờ bởi vì
mọi người nghĩ họ đã làm điều gì đó huyền bí, họ đã
vượt ra ngoài thân thể.
Không cần phải vượt ra ngoài thân thể. Điều duy
nhất là: thân thể nên vận hành cho phải, cho hoàn hảo.
Điều đó là nghệ thuật, nó không phải là khổ hạnh. Nó
không phải là khổ hạnh; bạn không tranh đấu với nó,
bạn đơn giản hiểu nó. Và thân thể trí huệ thế, trí huệ
hơn tâm trí bạn, nhớ lấy, bởi vì thân thể đã tồn tại lâu
hơn tâm trí. Tâm trí là kẻ mới tới, chỉ là đứa trẻ.
Thân thể rất cổ đại, rất, rất cổ đại. Bởi vì bạn đã di
chuyển có thời như tảng đá; thân thể đã có đó, tâm trí
còn ngủ say. Thế rồi bạn trở thành cây; thân thể đã có
đó, với tất cả mầu lục và hoa của nó. Tâm trí vẫn còn
trong giấc ngủ say, không ngủ như trong đất đá nhưng
vẫn là ngủ. Bạn trở thành con vật, con hổ, thân thể đã
sống động thế với năng lượng, nhưng tâm trí còn chưa
vận hành. Bạn đã trở thành con chim, bạn trở thành
con người... Thân thể đã vận hành trong hàng triệu
năm.
Thân thể đã tích luỹ nhiều trí huệ, thân thể rất trí
huệ. Cho nên nếu bạn ăn quá nhiều, thân thể nói,
“Dừng lại!” Tâm trí không trí huệ được đến thế. Tâm
trí nói, “Hương vị này ngon lắm - ăn thêm chút nữa.”
Và nếu bạn nghe lời tâm trí, thế thì tâm trí trở nên phá
hoại thân thể, theo cách này hay cách khác. Nếu bạn
nghe tâm trí, ban đầu nó sẽ nói, “Ăn nữa đi,” bởi vì
tâm trí ngu xuẩn, trẻ con. Nó không biết nó đang nói
gì. Nó là kẻ mới tới, nó không có học. Nó không trí
huệ, nó là kẻ ngu xuẩn. Lắng nghe thân thể đi. Khi
thân thể nói, “Đói rồi,” thì ăn. Khi thân thể nói, “Dừng
lại,” thì dừng.
Nếu bạn nghe theo tâm trí, cũng dường như là đứa
trẻ nhỏ đang dẫn ông già đi - họ cả hai sẽ ngã xuống
mương. Và nếu bạn lắng nghe tâm trí thế thì ban đầu
bạn sẽ dính líu quá nhiều vào các giác quan, và thế rồi
bạn sẽ phát chán ngán. Và mọi giác quan sẽ mang đến
cho bạn khổ sở, và mọi giác quan sẽ đem đến cho bạn
nhiều lo âu, xung đột, đau đớn.
Nếu bạn ăn quá nhiều, sẽ có đau bụng và sẽ nôn
mửa, và cả thân thể bị rối loạn. Thế thì tâm trí nói, “Ăn

là xấu, cho nên phải nhịn ăn” Và nhịn ăn cũng nguy
hiểm. Nếu bạn lắng nghe thân thể mình, nó sẽ không
bao giờ ăn quá mức, nó sẽ không bao giờ ăn thiếu mức
- nó sẽ đơn giản tuân theo Đạo.
Một vài nhà khoa học đã làm việc trên vấn đề này
và họ đã phát hiện ra một hiện tượng rất hay: trẻ nhỏ,
chúng ăn bất kì khi nào chúng cảm thấy đói, chúng ngủ
bất kì khi nào chúng cảm thấy giấc ngủ tới - chúng
lắng nghe thân thể mình. Nhưng bố mẹ, họ quấy rối
chúng, họ cứ ép buộc: bây giờ là giờ ăn tối, hay giờ ăn
trưa, hay thế này thế nọ, hay giờ đi ngủ - làm đi! Họ
không cho phép thân thể mình.
Cho nên một người thực nghiệm đã thử bỏ trẻ con
theo ý chúng. Người đó làm việc với hai mươi nhăm
đứa trẻ. Chúng không bị bắt buộc khi nào phải đi ngủ,
chúng không bị bắt buộc khi nào phải dậy. Chúng
không bị bắt buộc chút nào trong sáu tháng. Và một
hiểu biết rất sâu sắc đã tới.
Chúng ngủ ngon. Chúng có ít mơ hơn, không ác
mộng, bởi vì ác mộng tới thông qua bố mẹ, người bắt
buộc chúng. Chúng ăn ngon, nhưng không bao giờ quá
nhiều - không bao giờ ít hơn cần thiết, không bao giờ
nhiều hơn cần thiết. Chúng hưởng thú việc ăn và đôi
khi chúng sẽ không ăn chút nào. Khi thân thể không
cảm thấy cần ăn, chúng sẽ không ăn, và chúng không
bao giờ bị ốm bởi vì ăn.
Và một điều nữa không ai đã từng hoài nghi lại
đưa tới hiểu biết, và đó là điều huyền bí. Chỉ Tăng Xán
mới có thể hiểu, hay Lão Tử hay Trang Tử, bởi vì họ là
những bậc thầy về Đạo. Đây là một khám phá như vậy!
Họ đã đi tới hiểu ra rằng nếu đứa trẻ ốm, thế thì nó sẽ
không ăn những thức ăn đặc biệt. Thế rồi họ cố gắng
hiểu tại sao nó lại không ăn những thức ăn đó. Các
thức ăn này được phân tích ra và người ta tìm thấy
rằng với bệnh đó, những thức ăn này là nguy hiểm.
Làm sao đứa trẻ quyết định được? Chỉ là thân thể.
Và khi đứa trẻ lớn lên, bất kì thứ gì cần cho sự phát
triển của nó thì nó sẽ ăn nhiều thứ ấy. Thế rồi họ phân
tích và họ thấy rằng những chất đó là có ích. Và thức
ăn này sẽ thay đổi, bởi vì nhu cầu đã thay đổi. Hôm
nay đứa trẻ ăn cái gì đó và cũng đứa trẻ đó ngày hôm
sau sẽ không ăn cái đó. Và các nhà khoa học cảm thấy
rằng có trí huệ thân thể.
Nếu bạn cho phép thân thể có tiếng nói của nó, bạn
đang đi trên con đường phải đấy, Đạo Lớn đấy. Và
điều này cũng không chỉ với thức ăn thôi, điều này
cũng là như vậy với toàn bộ cuộc sống. Dục của bạn đi
sai bởi vì tâm trí, dạ dầy bạn đi sai bởi vì tâm trí bạn.
Bạn can thiệp vào thân thể. Đừng can thiệp! Ngay cả
nếu bạn có thể làm điều đó trong ba tháng, thì cũng
đừng can thiệp. Và bỗng nhiên bạn sẽ trở nên lành
mạnh thế, và mạnh khoẻ sẽ giáng xuống bạn. Mọi thứ
đều cảm thấy tốt, đôi giầy vừa vặn. Nhưng tâm trí lại là
vấn đề.
Tâm trí có chức năng riêng của nó; tức là, cách lập
quan hệ với người khác, cách đi vào trong thế giới này
nơi có biết bao người đang sống, cách lái xe, cách tuân
theo các qui tắc và luật lệ giao thông, cách không tạo
ra nguy hiểm cho người khác hay cho chính mình, cách
nhìn lên trước và lập kế hoạch. Tâm trí giống như

chiếc rada, nó nhìn lên trước - nơi tới, cách tới - nhưng
cơ sở vẫn còn là thân thể.
Những người đang chống lại thân thể và làm què
quặt các giác quan của mình sẽ bỏ lỡ chứng ngộ của
mình trong thời kì lâu hơn những người biết lắng nghe
giác quan mình và tuân theo lời khuyên của chúng.
Nếu bạn lắng nghe các giác quan, bạn trở thành
đơn giản. Tất nhiên, không ai định kính trọng bạn bởi
vì họ sẽ nói, “Người này là người theo giác quan.” Và
người theo giác quan lại còn sống động hơn là người
không theo giác quan. Nhưng không ai quan tâm tới
cuộc sống; mọi người chỉ quan tâm tới cái đã chết để
được tôn thờ.
Đừng yêu cầu kính trọng từ mọi người, nếu không
bạn sẽ đi lạc lối. Và một khoảnh khắc tới khi mọi
người có thể kính trọng bạn, nhưng bạn lại không thể
kính trọng bản thân mình bởi vì bạn hoàn toàn lạc lối.
Chẳng cái gì vừa vặn cả, mọi thứ đều đi sai.
Lắng nghe thân thể - bởi vì bạn ở đây để tận hưởng
khoảnh khắc này, khoảnh khắc được trao cho bạn,
khoảnh khắc ân huệ này, điều tuyệt vời này mà đã xảy
ra cho bạn. Bạn sống động, có ý thức, và một thế giới
bao la biết bao!
Con người là điều kì diệu trên hành tinh nhỏ bé
này - rất, rất nhỏ bé, tí hon! Mặt trời còn lớn gấp sáu
mươi nghìn lần trái đất, và mặt trời này cũng chỉ là loại
xoàng thôi. Có những mặt trời gấp hàng triệu lần thế
này, và có hàng triệu mặt trời và hàng triệu thế giới và
vũ trụ. Và mãi cho tới nay dường như là, với khoa học
hiện tại, cuộc sống và ý thức mới xảy ra chỉ trên trái
đất này. Trái đất này được ân huệ.
Bạn không biết bạn đã đạt được cái gì. Nếu bạn
cảm thấy điều bạn đã đạt được, bạn sẽ đơn giản biết ơn
và bạn sẽ không đòi hỏi gì thêm nữa. Bạn có thể đã
từng là tảng đá và bạn có thể đã không làm điều gì về
nó cả. Bạn đang là con người - và bạn đau khổ, và bạn
lo nghĩ, và bạn đang bỏ lỡ toàn bộ vấn đề. Tận hưởng
khoảnh khắc này đi bởi vì điều này có thể không tới
nữa.
Đó là điều người Hindu ngụ ý: họ nói bạn có thể
trở thành tảng đá lần nữa. Nếu bạn không tận hưởng và
không trưởng thành trong nó, bạn sẽ sa ngã. Bạn có thể
trở thành con vật lần nữa. Đây là ý nghĩa: bao giờ cũng
nhớ rằng cực đỉnh này của tâm thức là đỉnh cao thế -
nếu bạn không tận hưởng và trở thành tích hợp vào
trong nó, bạn sẽ sa ngã.
Gurdjieff hay nói rằng bạn vẫn còn chưa có linh
hồn; cuộc sống chỉ là cơ hội để đạt tới nó, để trở thành
linh hồn. Đừng bỏ phí hoài thời gian và năng lượng,
bởi vì nếu bạn chết đi mà còn chưa kết tinh lại, bạn
đơn giản biến mất. Và ai mà biết được khi nào cơ hội
này sẽ xảy ra lần nữa - hay không xảy ra? Chẳng ai có
thể biết được, không người nào có thể nói điều gì về nó
cả.
Nhiều nhất chỉ có thể nói là: khoảnh khắc này, cơ
hội này đang có đó cho bạn. Nếu bạn tận hưởng nó, nó
sẽ trở nên kết tinh lại hơn nữa - nếu bạn cảm thấy cực
lạc về nó và biết ơn. Nhớ lấy, biết ơn và không cần gì
thêm nữa. Tất cả những cái bạn có là quá nhiều rồi, nó

là quá nhiều không thể biết ơn và cám ơn hết được.
Đừng đòi hỏi thêm nữa từ sự tồn tại. Bạn đơn giản cứ
tận hưởng cái đã được trao cho bạn. Và bạn càng tận
hưởng nhiều thì lại càng nhiều điều được trao cho bạn.
Jesus nói một câu rất nghịch lí: “Nếu ông có nhiều,
thì lại càng nhiều thứ sẽ được trao cho ông, và nếu ông
không có gì, thì thậm chí cái mà ông có cũng sẽ bị lấy
đi khỏi ông.” Dường như có vẻ rất chống cộng. Dường
như là ngớ ngẩn. Cái kiểu toán học gì thế này? “Nếu
ông có nhiều, thì lại càng nhiều thứ sẽ được trao cho
ông, và nếu ông không có gì, thì thậm chí cái mà ông
có cũng sẽ bị lấy đi khỏi ông.” Dường như là ủng hộ
người giầu và chống lại người nghèo.
Điều đó chẳng liên quan gì tới kinh tế thông
thường - đó là kinh tế tối thượng của cuộc sống. Chỉ
những người có mới được thêm, bởi vì bạn càng tận
hưởng nó nhiều thì nó càng phát triển thêm. Cuộc sống
phát triển qua tận hưởng. Niềm vui là lời kinh.
Vui sướng, biết ơn, với bất kì cái gì bạn có đi. Bất
kì cái gì! Cực lạc về nó, và nhiều thứ mở ra. Và nhiều
thứ rơi xuống bạn, bạn trở nên có khả năng được cho
thêm nhiều phúc lạc. Người không biết ơn sẽ đánh mất
bất kì cái gì mình đang có. Người biết ơn thì toàn bộ sự
tồn tại giúp cho người đó trưởng thành thêm, bởi vì
người ấy xứng đáng và người ấy đang hiểu cái mà
người ấy đã nhận được.
Yêu nhiều hơn, và nhiều tình yêu hơn sẽ tới với
bạn. An bình hơn, và nhiều an bình nữa sẽ tới với bạn.
Cho nhiều hơn, và bạn sẽ có nhiều hơn để cho. Chia sẻ,
và bản thể bạn tăng lên.
Nhưng bạn chưa bao giờ cho cả, bạn chưa bao giờ
yêu, bạn chưa bao giờ chia sẻ. Trong thực tế, bạn thậm
chí còn không biết rằng bạn đã nhận được cái gì. Bạn
đơn giản chờ đợi rằng điều gì đó sắp xảy ra ở đâu đó.
Nó đã xảy ra rồi đấy! Chỉ nhìn vào nó thôi - bạn mang
kho báu đó. Và bạn chưa bao giờ cho bởi vì bạn không
biết nó đã xảy ra cho bạn, và bạn không biết rằng việc
cho sẽ trở thành sự trưởng thành.
Chuyện xảy ra trong cộng đồng Do Thái: một
thánh nhân sắp chết. Ông ấy là một người nghèo,
nhưng rất, rất giầu có, giầu trong bản thể ông ấy, giầu
trong niềm cực lạc của ông ấy. Ông ấy là nhà huyền
môn.
Và cả cộng đồng đều quan tâm. Mọi kiểu bác sĩ
đều được mời tới nhưng chẳng làm được gì cả, và cái
chết đang tới ngày một gần vào mọi khoảnh khắc. Thế
rồi cả cộng đồng tụ tập lại để làm điều cuối cùng - để
cầu nguyện. Nhưng dường như là thậm chí điều đó
cũng không tác dụng.
Cho nên giáo sĩ nói, “Bây giờ chúng ta chỉ làm một
việc thôi, và Thượng đế sẽ chẳng ích gì chừng nào mà
chúng ta chưa làm điều đó. Chúng ta nên chia sẻ cuộc
sống của mình. Cho nên các vị nên cho đi vài ngày, vài
năm trong cuộc sống của các vị cho thánh nhân sắp
chết này.” Thế là mọi người đều xung phong, mọi
người yêu mến ông ấy.
Một người nói, “Năm năm,” người khác nói, “Một
năm.” Ai đó nói, “Một tháng.” Ai đó khác lại nói,
“Một ngày.” Một kẻ keo kiệt nói, “Một phút.” Nhưng
thậm chí điều đó - thậm chí điều đó, nghĩ xem, chớ

cười - thậm chí một phút cuộc đời cũng không phải là
điều nhỏ đâu, không phải là thứ nhỏ đâu. Khi bạn sắp
chết, bạn sẽ bỏ lỡ thậm chí đến một phút đó.
Thế rồi Mulla Nasruddin, người cũng có đó, xung
phong. Anh ta không phải là người Do Thái nhưng anh
ta cũng yêu nhà huyền môn đó. Và anh ta nói, “Hai
mươi năm!”
Không ai có thể tin được vào điều đó. Một người
Do Thái ngồi ngay sau, kéo chân anh ta và nói, “Anh
làm gì thế, Nasruddin? Anh có phát rồ không đấy?
Những hai mươi năm! Anh ngụ ý gì? Quá nhiều! Anh
có điên không đấy? Mà anh thậm chí không phải là
người Do Thái!”
Nasruddin nói, “Từ cuộc sống của vợ tôi!”
Không ai sẵn sàng chia sẻ điều gì cả. Và chừng nào
bạn còn chưa chia sẻ, bạn sẽ không nhận được thêm,
bởi vì bạn không trở nên có khả năng về điều đó. Bạn
không xứng với điều đó. Đòi hỏi, và bạn sẽ mất; cho đi
và bạn sẽ được.
Cuộc sống này, như nó hiện thế, đã là quá nhiều
rồi. Cực lạc về nó đi, về những việc nhỏ. Thậm chí
thức ăn cũng nên trở thành thứ thiêng liêng. Thậm chí
cái bắt tay cũng nên trở thành lời cầu nguyện, nó nên là
việc cho. Thậm chí ở cùng với mọi người cũng nên trở
thành phúc lạc sâu sắc - bởi vì điều đã xảy ra cho bạn
thì đã không xảy ra ở bất kì đâu khác. Tăng Xán nói:
Nếu ông muốn đi theo con đường Đạo duy nhất
đừng không thích ngay cả thế giới của giác quan
và ý tưởng.

Đừng không thích thế giới của giác quan, và đừng
không thích thế giới của ý tưởng, bởi vì chúng nữa
cũng đẹp theo quyền riêng của chúng. Nếu bạn không
bị mắc vào chúng, cái gì sai với ý tưởng? Nó cũng đẹp
như hoa vậy. Tâm trí là tốt nếu nó ở đúng chỗ của nó.
Gurdjieff có một giáo huấn - và rất liên quan tới
con người hiện đại - rằng tất cả các trung tâm của
chúng ta đều bị hoà lẫn nhau. Cái thuần khiết bị mất;
mọi thứ xen vào mọi thứ khác. Và ông ấy cũng phải.
Khi bạn làm tình, tâm trí không có đó, nhưng tâm trí
cứ vận hành. Thực tế, bạn làm tình qua tâm trí, không
qua trung tâm dục.
Dục không xấu, dục là đẹp theo quyền riêng của nó
- việc nở hoa, chia sẻ sâu sắc, gặp gỡ sâu sắc của hai
người. Nhưng tâm trí cứ xen vào. Thế thì nó là xấu, bởi
vì tâm trí này là việc gây nhiễu loạn. Thế thì trung tâm
dục sẽ lấy cách trả thù của riêng nó. Bạn đang nghiên
cứu Gita, Koran, Kinh Thánh, và dục cứ đi vào trong
tâm trí, bạn cứ nghĩ về dục. Nó phải là như vậy, bởi vì
bạn đã làm nhiễu loạn trung tâm dục, cho nên khi nào
việc trả thù được tiến hành?
Nhìn các biển quảng cáo mà xem. Nếu bạn phải
bán cái gì đó, trước hết bạn phải làm cho nó thành
khêu gợi về dục. Dù cho bạn bán xe hơi - bạn phải đặt
một phụ nữ khoả thân cùng với nó; hay thuốc đánh
răng - bạn phải tìm ra một phụ nữ khoả thân. Mọi thứ!
Dường như là thuốc đánh răng không phải là thứ thật,

thứ thật là người đàn bà khoả thân, là dục. Bạn bán xà
phòng, và bạn phải thêm vào một thân hình trần đẹp.
Tôi đã từng nghe:
Một người mẫu Italia, một phụ nữ, người đã làm
việc trong nhiều năm như một người mẫu cho quảng
cáo xà phòng, có lần bà ta được hỏi, khi bà ta đã già và
chẳng còn ai quan tâm tới, “Kiểu xà phòng nào bà thực
sự dùng?”
Bà ấy nói, “Không kiểu nào cả, bởi vì mọi thứ xà
phòng đều phá hoại sự mềm mại của làn da. Tôi đơn
giản dùng khăn ướt lau thân thể, đó là lí do tại sao nó
lại đẹp thế! Nhưng tôi phải giúp để quảng cáo mọi kiểu
xà phòng, và họ đem bán.”
Khi Mulla Nasruddin được một trăm tuổi tôi đã hỏi
anh ta, “Nasruddin, bí mật sống lâu của anh là gì?”
Anh ta nói, “Đợi đã! Trong vòng bẩy ngày mọi sự
sẽ được giải quyết, thế rồi tôi có thể nói.”
Tôi hỏi, “Vấn đề gì vậy? Phải giải quyết cái gì?”
Anh ta nói, “Nhiều công ti theo đuổi tôi, cho nên
luật sư của tôi đang giải quyết mọi việc - vitamin nào
có ích, thức ăn nào. Ngay bây giờ tôi không biết,
nhưng nó sẽ được giải quyết trong vòng một tuần và
thế rồi mọi người sẽ biết.”
Ý tưởng là đẹp trong bản thân chúng, chẳng có gì
sai cả. Mọi thứ đều tốt nếu nó ở đúng chỗ của nó, mọi
thứ đều trở thành sai nếu nó bị đặt vào sai chỗ - thế thì
nó không bao giờ vừa.
Và đó là vấn đề cho bạn: mọi thứ đều sai. Khi bạn
làm tình, tâm trí đi vào. Khi bạn thiền, dục đi vào. Khi
bạn ăn, tâm trí đi vào. Khi bạn đi ngủ, thức ăn đi vào.
Mọi trung tâm đều hoà lẫn, trong hỗn loạn.
Để cho mọi trung tâm được thuần khiết, và để cho
mọi trung tâm vận hành theo quyền riêng của nó, trong
thời gian riêng của nó. Nó có thời gian riêng của nó và
tâm trạng của nó và mùa vụ của nó: đừng cho phép nó
đi vào các trung tâm khác.
Và bắt đầu từ tâm trí bởi vì đó là kẻ gây rối lớn, kẻ
gây tiếng ồn lớn, và nó đi vào trong lãnh thổ của mọi
người, và nó muốn chi phối mọi thứ. Vứt bỏ chi phối
đó đi. Mọi giác quan nên thuần khiết và được tận
hưởng theo quyền riêng của chúng. Không cần tâm trí
phải đi vào.
Thế thì khi bạn tận hưởng tâm trí, không trung tâm
nào can thiệp vào. Thế thì nó sẽ không phải là vấn đề,
bởi vì tất cả các trung tâm khác đều hồn nhiên. Tâm trí
bạn tinh ranh - còn bạn nghe đứa tinh ranh, và bạn
không bao giờ nghe các giác quan hồn nhiên. Tâm trí
láu cá, tính toán. Tất cả các giác quan khác đều chỉ là
hồn nhiên và chúng không thể tranh đấu được với tâm
trí bởi vì tâm trí là chính khách lớn, và những giác
quan kia là những người đơn giản. Dục là đơn giản còn
tâm trí cứ kết án. Trung tâm dục không thể nào làm
được gì khác hơn điều này, rằng năng lượng đi vào các
kênh sai.
Tận hưởng mọi giác quan theo quyền riêng của nó,
và khi bạn đang tận hưởng nó, trở thành nó đi - do vậy
không năng lượng nào bị bỏ lại để đi sang đâu đó khác,

toàn bộ năng lượng đi vào trong nó. Không có tâm trí
tại thời điểm đó, không có thân thể tại thời điểm đó;
bạn trở thành năng lượng dục. Khi bạn đói, trở thành
cơn đói, và ăn cứ như là mọi tế bào thân thể bạn đều
đói và hấp thu thức ăn, và để cho nó tận hưởng.
Và khi bạn muốn nghĩ, thế thì ngồi dưới gốc cây,
nhắm mắt lại - tận hưởng các ý nghĩ. Chẳng có gì sai
với ý nghĩ cả. Tận hưởng chúng như việc nở hoa, việc
nở hoa đẹp, bài thơ lớn theo quyền riêng của nó. Thế
thì sáng tỏ tới, thế thì nước của bạn không vẩn đục, thế
thì bùn lắng đọng và bạn có thể thấy qua mọi thứ.
Nếu ông muốn đi theo con đường Đạo duy nhất
đừng không thích ngay cả thế giới của giác quan
và ý tưởng.
Quả thực, chấp nhận chúng một cách đầy đủ là
đồng nhất với chứng ngộ thực sự.

Nếu bạn có thể chấp nhận đầy đủ bất kì cái gì bạn
đang là, thì đây là chứng ngộ. Đừng nghĩ rằng khi bạn
trở nên chứng ngộ, bạn sẽ thấy ánh sáng và linh ảnh -
tất cả những điều này là vô nghĩa! Điều đó xảy ra trên
con đường, nhưng nó chỉ là một phần của tâm trí,
không cái gì của điều tối thượng cả. Tất cả những ánh
sáng và kinh nghiệm của bạn đều đến qua tâm trí.
Năng lượng đi vào trong thân thể; các giác quan
tinh tế ẩn kín ở đó. Chúng trở nên tích cực và bạn cảm
thấy nhiều thứ. Chẳng có gì sai trong chúng cả, tận
hưởng đi, nhưng đừng nghĩ rằng đó là chứng ngộ.
Chứng ngộ chỉ xảy ra trong khoảnh khắc không có
phàn nàn trong bạn, khi mà bạn không đi đâu cả,
không ham muốn, không đánh giá. Bạn đơn giản tồn
tại và với chấp thuận toàn bộ. Khoảnh khắc này có
chứng ngộ.
Chứng ngộ là điều rất thông thường. Nó không là
gì phi thường cả, nó không là gì đặc biệt cả - bởi vì đặc
biệt là việc tìm kiếm của bản ngã. Nó chỉ bình thường!
Không có yêu cầu, không khao khát về cái gì, không
níu bám. Đơn giản, bạn hiện hữu, và bạn hạnh phúc -
hạnh phúc không nguyên nhân nào.
Nhớ lấy điều này. Đây là khác biệt giữa hạnh phúc
và phúc lạc. Hạnh phúc của bạn có nguyên nhân. Đôi
khi một người bạn tới và bạn hạnh phúc. Bạn sẽ hạnh
phúc được bao lâu với người bạn đó? Một vài khoảnh
khắc - và thế rồi bạn sẽ hạnh phúc khi người đó ra đi.
Đây là kiểu hạnh phúc gì vậy? Nó có nguyên nhân, và
nguyên nhân biến mất. Chẳng chóng thì chầy bạn trở
nên chán ngán và nó biến mất. Phúc lạc là hạnh phúc
không nguyên nhân. Đơn giản như bạn đang hiện hữu,
bạn hạnh phúc. Không có gì để nói về tại sao bạn lại
hạnh phúc.
Nhìn vào toàn bộ sự việc đi. Bạn chưa bao giờ nghĩ
tại sao bạn khổ cả - bạn đơn giản khổ. Bất kì khi nào
bạn hạnh phúc, bạn bắt đầu nhìn, “Sao mình hạnh
phúc?” Khổ dường như là tự nhiên; hạnh phúc dường
như là cái gì đó không tự nhiên đôi khi mới xảy ra.
Khổ là trạng thái của bạn còn hạnh phúc là khao khát
của bạn.
Người đã chứng ngộ đơn giản hạnh phúc, cũng
như bạn đơn giản khổ. Đơn giản hạnh phúc! và chẳng
bao giờ khổ cả. Thậm chí đôi khi chiếc giầy bó chân,

người ấy đơn giản sửa nó lại cho vừa. Điều đó không
phải là khổ, nó đơn giản là cái đau thể chất - không
thoải mái, nhưng không phải là khổ. Người ấy đơn
giản so lại chân cho đúng - người ấy đổi giầy, hay
người ấy đi chân đất.
Không thoải mái có thể xảy ra cho người chứng
ngộ, nhưng không bao giờ khổ cả - bởi vì làm sao khổ
có thể xảy ra được? Khi không có nguyên nhân cho
phúc lạc của người đó, thì khổ là không thể có được.
Không nguyên nhân, bạn không thể phá huỷ nó. Không
nguyên nhân, làm sao bạn có thể lấy nó đi được?
Không nguyên nhân, không có cái đối lập nó. Đây là
ananda.
Người Hindu có một từ, ‘ananda’: phúc lạp cực kì,
phúc lạc không nguyên nhân, không bởi lí do nào cả và
không lí nào cả. Đó là lí do tại sao bất kì khi nào ai đó
phúc lạc thì thế giới sẽ coi người đó là điên. Họ sẽ hỏi,
“Sao anh lại phúc lạc thế? Sao anh lại cười?” cứ dường
như cười là tội lỗi. Và nếu bạn nói, “Tôi chỉ cười thôi.
Việc tốt lành đến mức phải cười.” Họ không tài nào
hiểu được. Với cái cười của họ nữa, căng thẳng cũng
cần phải có - và đây là cơ sở cho mọi chuyện cười.
Tại sao bạn lại cười khi một câu chuyện cười được
kể ra? Điều gì xảy ra trong bạn? Chuyện cười đó đã
làm gì? Nó tạo ra gay cấn. Câu chuyện cứ diễn ra, và
bạn trở nên ngày một gay cấn bên trong hơn, và bạn
không thể nào hình dung ra được điều gì sắp xảy ra.
Thế rồi bỗng nhiên có một lối rẽ ngoặt, và sự việc xảy
ra đến mức bạn chẳng bao giờ ngờ rằng nó sẽ xảy ra.
Nếu bạn có thể dự liệu, điều đó có nghĩa là nếu bạn
biết chuyện cười này rồi, sẽ không có tiếng cười nữa.
Bạn đơn giản kể lại, còn câu chuyện cười thì thành tẻ
nhạt, bởi vì gay cấn không được tạo ra. Khi bạn không
biết tới câu chuyện cười này, gay cấn được tạo ra; bạn
chờ đợi, bạn trở nên chăm chú - điều gì sẽ xảy ra đây?
Và thế rồi toàn bộ câu chuyện ngoặt đi theo cách mà
bạn không thể ngờ được. Gay cấn được xì ra, bạn cười.
Cái cười đó là do gay cấn bị xì ra.
Tại sao dục cho bạn thích thế? - bởi vì nó là sự
căng thẳng. Bạn ăn, bạn thở, năng lượng được tạo ra,
và cuộc sống bao giờ cũng cho bạn nhiều hơn là bạn
cần. Cuộc sống là thừa thãi, cuộc sống là xa hoa, hoàn
toàn xa xỉ. Nó chẳng bận tâm gì tới nhu cầu của bạn cả,
nó bao giờ cũng cho bạn nhiều hơn bạn cần.
Năng lượng phụ đó tích luỹ trong thân thể bạn - đó
là điều năng lượng dục là gì. Khi nó tích luỹ, bạn thấy
căng thẳng trong thân thể. Bây giờ căng thẳng đó phát
sinh và thế thì bạn phải xả nó ra. Khi căng thẳng được
xả ra bạn cảm thấy sung sướng, thảnh thơi; bạn có thể
đi ngủ.
Nhưng cái mẹo là ở sự căng thẳng. Cho nên nếu
bạn làm tình quá nhiều và căng thẳng không được tạo
ra, thì mọi thứ thành tẻ nhạt - chuyện cười thành tẻ
nhạt, không có sung sướng. Nếu bạn làm tình quá
nhiều, bạn sẽ chán ngán với nó, bởi vì nó phụ thuộc
không chỉ vào tình yêu, nó phụ thuộc vào căng thẳng
có sẵn.
Nếu bạn làm tình hàng ngày, năng lượng không
tràn ngập. Thế thì sau khi làm tình, thay vì sung sướng

bạn sẽ khổ sở, thất vọng. Cực thích không thể xảy ra
bởi vì cực thích cần nhiều năng lượng hơn là thân thể
cần. Nó tràn ngập, cho nên toàn bộ thân thể rung động
cùng nó.
Nhớ lấy, trong xã hội kìm nén mọi người tận
hưởng dục nhiều hơn, bởi vì thậm chí gặp gỡ với vợ
của riêng mình cũng là điều khó thế. Gần như là không
thể nào gặp gỡ với vợ người khác - có biết bao nhiêu
rào chắn phải vượt qua để gặp gỡ vợ của riêng mình!
Ở Ấn Độ bạn không thể nào nhìn vợ mình lúc ban
ngày. Một gia đình lớn thế, hàng trăm người sống với
nhau, ngủ với nhau. Đôi khi thậm chí với vợ mình, bạn
cũng phải thu xếp để làm tình. Điều đó là hay, hay theo
một cách nào đó, bởi vì căng thẳng cao đến độ có một
cực đỉnh, và thế rồi có thung lũng của thảnh thơi.
Ở phương Tây dục đã trở thành hoàn toàn tẻ nhạt.
Bây giờ chẳng ai tận hưởng dục ở phương Tây - có quá
nhiều về nó. Trước khi tích tụ lại thì bạn đã ném đi
năng lượng. Trong toàn bộ cuộc sống của bạn đây là
cách thức hạnh phúc xảy ra: tạo ra căng thẳng, thế rồi
thư thái nó.
Phúc lạc không phải như vậy. Nó không nguyên
nhân. Nó không phải là căng thẳng và xì ra, nó không
liên quan tới căng thẳng và thư thái chút nào - đơn giản
là hạnh phúc tới khi bạn cảm thấy vui vẻ với sự tồn tại,
khi bạn cảm thấy bạn chấp nhận. Khi bạn cảm thấy
rằng bạn chấp nhận, bạn bỗng nhiên cảm thấy toàn bộ
sự tồn tại chấp nhận bạn. Thế thì bạn có thể ban phúc
cho cái toàn thể, và cái toàn thể ban phúc cho bạn.
Điều đó không nguyên nhân. Nó không thể nào bị lấy
đi được. Bạn không thể làm cho tôi khổ được. Bạn có
thể, nhiều nhất, làm cho tôi không thoải mái, có thế
thôi.
Không tồn tại cái đối lập với phúc lạc, ananda. Nó
tuyệt đối không nguyên nhân. Đó là lí do tại sao nó có
thể là vĩnh hằng. Bởi vì một điều có nguyên nhân thì
không thể nào vĩnh hằng được - khi nguyên nhân biến
mất thì hiệu quả sẽ biến mất.
Quả thực, việc chấp nhận chúng một cách đầy đủ
là đồng nhất với việc chứng ngộ thực sự.
Người trí huệ cố gắng theo vô nỗ lực
nhưng kẻ ngu xuẩn lại tự xiềng xích mình.

Tất cả mọi mục tiêu của bạn đều trở thành xiềng
xích bạn, chúng trở thành cầm tù, bạn bị nhốt trong
chúng. Và thế thì bạn đau khổ, và thế thì bạn hỏi,
“Làm sao được tự do?” Thoát ra khỏi các mục tiêu và
bạn sẽ được tự do! Chẳng có gì khác hơn phải làm cả.
Đừng tạo ra mục tiêu, thế thì không có cầm tù.
Có một pháp, chân lí, luật, không nhiều;
phân biệt nẩy sinh từ nhu cầu níu bám của người
dốt nát.
Tìm kiếm tâm trí với tâm trí phân biệt
là sai lầm lớn nhất trong các sai lầm.

Bạn đang làm gì khi bạn tạo ra mục tiêu? Ai tạo ra
mục tiêu? Tâm trí tạo ra nó, và thế rồi tâm trí tìm kiếm
cách để đạt tới nó. Thế rồi tâm trí phát minh ra các kĩ
thuật, phương pháp, cách thức. Và thế rồi bạn tuân
theo những cách thức và phương pháp đó. Bạn đang

làm gì? Bạn đang tuân theo tâm trí, bạn đang đi vòng
tròn.
Mục tiêu do tâm trí tạo ra, phương tiện do tâm trí
tạo ra, và tâm trí dẫn bạn đi. Làm sao bạn đạt tới vô trí
bằng tâm trí được?
Và tâm trí là căng thẳng, bởi vì tâm trí không thể
nào được thảnh thơi. Nó phụ thuộc vào các phía đối
lập. Nó nhất định cứ đi vào các cực đoan. Nó có thể kết
án, nó có thể ca ngợi, nhưng nó không thể nào chấp
nhận một cách toàn bộ. Và toàn bộ mới là mục tiêu -
nó chỉ có thể tới qua chấp nhận.
Tâm trí không thể nào chấp nhận được; nó có thể
phủ nhận. Và khi nó phủ nhận, nó cảm thấy rất thoải
mái, bởi vì bản ngã: bạn là người phủ nhận. Khi nó
chấp nhận, bản ngã cảm thấy rất tồi tệ - bởi vì khi
không có phủ nhận, không tranh đấu, không xung đột,
không đi đâu cả, bạn sẽ làm gì? Dường như chỉ ở đây
và bây giờ là vô dụng. Tại đâu đó khác phúc lạc đang
xảy ra, và bạn đang làm gì ở đây?
Tôi đã từng nghe:
Có lần hai kẻ vô công rồi nghề đang nghỉ dưới gốc
cây. Khung cảnh thật an bình và đẹp đẽ. Một con suối
đang sủi tăm ngay bên cạnh và làm gió mát thổi qua.
Một trong hai kẻ vô công rồi nghề nói với kẻ kia,
“Ngay khoảnh khắc này, nếu một thằng cha có năm
mươi nghìn đô la, thì tớ cũng chẳng đổi chỗ cho nó.”
Kẻ kia nói, “Và nếu nó một trăm nghìn đô la, thì
sao?”
Kẻ này nói, “Thế cũng không đổi.”
Kẻ kia vẫn cứ nói, “Thế giả sử nó có một triệu đô
la?”
Thế là kẻ thứ nhất trở nên kích động. Anh ta ngồi
dậy và nói, “Bây giờ thì khác. Anh nói chuyện thực
đấy chứ!”
Đây là cách tâm trí diễn ra: tưởng tượng, mơ mộng
- và mơ trở thành chuyện thực. Chẳng có ai ở đó,
nhưng bây giờ kích động có đấy.
Nghĩ điều gì đó và ngay lập tức bạn bị kích động.
Thậm chí đến bức tranh phụ nữ khoả thân mà bạn cũng
kích động; do đó mới có nhiều tranh ảnh khiêu dâm
đến thế trên thế giới. Nó chỉ là tranh ảnh mà thôi -
đường nét và mầu sắc trên giấy, chẳng gì khác cả.
Không có ai, và bạn biết điều đó rõ lắm, nhưng bạn sẽ
dấu bức tranh này với người khác, và khi bạn một
mình thì bạn sẽ suy nghĩ về nó. Bạn đang làm gì? -
chuyện thực.
Tâm trí chỉ là sự tưởng tượng, nhưng bạn lại bị
kích động. Và một khi bạn bị kích động, thì tâm trí đã
bán cho bạn cái gì đó rồi. Và thế thì bạn sẽ vẫn còn
khổ sở, bởi vì tâm trí có thể bán ý tưởng này nhưng
không bao giờ có thể cung cấp chất liệu. Đó là vấn đề:
nó không có chất liệu để cung cấp. Nó có thể bán cho
bạn ý tưởng - một nhân viên bán hàng giỏi, nhưng
chẳng có cái gì để cung cấp cả. Và vào lúc bạn tới và
bạn hỏi, thì anh ta sẽ cung cấp cho bạn cái gì đó khác.
Tôi đã từng nghe:
Một người bán hàng quay trở về với ông chủ mình
và nói, “Tôi gặp khó khăn. Mảnh đất kia tôi đã bán,

bây giờ nó là vấn đề. Người này cứ gọi điện cho tôi
mãi, bởi vì cả mảnh đất đó bị phủ dưới gần hai mét
nước. Và anh ta nói, “Ông đưa cho cái kiểu đất gì thế
này? Làm sao nhà có thể dựng đứng lên được?” Vậy
tôi phải làm gì đây? Tôi có phải trả lại anh ta tiền và
cắt bỏ toàn bộ vấn đề đi không?”
Ông chủ nói, “Anh là cái kiểu nhân viên bán hàng
quái gì thế này? Đem hai xuồng máy tới và bán chúng
cho người ấy!”
Người bán hàng phải đi bán mọi thứ. Nếu thứ này
không có tác dụng, thế thì phải bán thứ gì đó khác. Và
nếu người này bị kích động lần đầu tiên, thì sao lại
không cho lần tiếp? Bạn chỉ cần các thủ đoạn.
Tâm trí cứ bán cho bạn ý tưởng về tương lai. Nó
không thể cung cấp cho bạn bởi vì tương lai chẳng bao
giờ tới cả. Và bất kì khi nào nó tới thì đấy bao giờ cũng
là hiện tại. Việc cung cấp là hiện tại, còn người bán
hàng lại nói về tương lai. Việc cung cấp là ở đây, còn
tâm trí lại nghĩ dưới dạng hi vọng, mơ mộng, tưởng
tượng.
Chấp nhận thực tại như bạn đang thế và thế giới
đang thế đi. Đừng cố gắng thay đổi điều gì - và có
chứng ngộ. Và thế thì mọi thứ đều thay đổi, bởi vì bây
giờ bạn không còn như cũ nữa. Nếu bạn thay đổi điều
gì đó, chẳng có gì thay đổi cả. Nếu bạn chấp nhận, mọi
thứ được biến đổi. Nó trở thành sáng chói lên với ánh
sáng chưa biết. Bỗng nhiên bạn nghe thấy âm nhạc mà
bạn chưa hề được nghe trước đây, cái đẹp lộ ra mà
trước đó vẫn còn bị dấu kín. Cánh cửa mở ra, bóng tối
biến mất, mặt trời đã lên.
Nhưng điều đó xảy ra chỉ khi bạn thoải mái với
bản thân mình. Đấy là việc xảy ra, nó không phải là kết
quả của nỗ lực của bạn. Và đừng cảm thấy bất hạnh,
bởi vì nếu nó không phải là kết quả thế thì bạn có thể
làm được gì? Cảm thấy hạnh phúc bởi vì vấn đề không
phải ở nỗ lực của bạn. Bạn có thể đạt tới nó ngay chính
khoảnh khắc này. Không cần phải trì hoãn nó.
Hiểu biết là chấp nhận. Chấp nhận là chứng ngộ.
Phật tử - và Tăng Xán này là một Phật tử, một tín đồ
của Phật - có một từ đặc biệt cho việc chấp nhận. Họ
gọi nó là tathata. Điều đó có nghĩa là không phàn nàn,
điều đó có nghĩa là không kết án, điều đó có nghĩa là
không ca ngợi. Điều đó có nghĩa đơn giản ‘như mọi vật
hiện thế, như chúng đang vậy’; cách thức như vậy -
phản ánh như thế.
Và người ta sống trong phản ánh như thế. Bất kì
cái gì xảy ra, người ta đều sẵn sàng để cho nó xảy ra.
Dù cuộc sống có đi đến đâu, người ta cũng đi với nó.
Bất kì cái gì xảy ra cũng đều tốt. Bạn không tạo ra
xung đột, bạn sống cùng với nó. Bạn nổi lên, bạn
không bơi - và bạn không bao giờ bơi ngược dòng. Bạn
đơn giản nổi với dòng nước, và dần dần bạn không biết
ai là ai nữa, cái gì là cái gì, ai là dòng nước và ai là
người đã trở thành một phần của dòng nước. Bạn trở
thành dòng nước. Đây là chứng ngộ.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #7 Mọi mơ đều phải dừng

Yên ổn và bất ổn đều bắt nguồn từ ảo tưởng; với
chứng ngộ không có thích và không thích.
Mọi nhị nguyên đều bắt nguồn từ suy diễn dốt nát.
Chúng giống như các mơ hay hoa trong không khí:
người ngu cố gắng nắm bắt chúng...
Được và mất, phải và trái: những suy nghĩ như vậy
cuối cùng phải bị bỏ đi ngay lập tức.
Nếu con mắt chưa bao giờ ngủ, mọi mơ tự nhiên sẽ
dừng lại.
Nếu tâm trí không tạo ra phân biệt, mười nghìn
thứ như chúng hiện hữu, chỉ là một bản chất.
Hiểu bí ẩn này của bản chất một là thoát ra khỏi
mọi dính líu. Khi mọi thứ đều được thấy một cách bình
đẳng, cái ta bản chất vô thời gian được đạt tới.
Không việc so sánh hay tương tự nào là có được
trong trạng thái vô nguyên nhân, vô quan hệ này.

Tâm trí chỉ có một khả năng và đó là mơ mộng. Và
mơ mộng này tiếp tục thậm chí trong khi bạn đang
thức. Đó là lí do mà Tăng Xán hay Jesus sẽ không tin
rằng bạn đã từng thức, bởi vì mơ có một tính chất: rằng
nó có thể xảy ra chỉ trong ngủ.
Hai điều cần được hiểu trước hết: tâm trí là ngọn
nguồn của mọi mơ mộng, nhưng mơ mộng chỉ có thể
xảy ra trong giấc ngủ. Và nếu bạn đang mơ hai mươi
bốn tiếng một ngày, một điều là tuyệt đối chắc chắn:
rằng bạn đang ngủ say. Cứ nhắm mắt lại bất kì lúc nào
và mơ có đó; nó liên tục như dòng suối ngầm. Thậm
chí trong khi bạn đang bận rộn, với tất cả chủ tâm bên
ngoài, bạn dường như tỉnh thức nhưng sâu bên dưới
dòng suối mơ vẫn diễn ra mãi.
Vào bất kì lúc nào, nhắm mắt lại và nó có đó. Nó
không bị gián đoạn bởi bận bịu của bạn. Bạn bước đi
trên phố, bạn lái xe, bạn làm việc trong xưởng máy,
trong văn phòng - nó vẫn tiếp tục. Bạn đi ngủ, thế thì
bạn có thể cảm thấy nó nhiều hơn bởi vì, không bận
bịu, toàn bộ chú ý dồn vào tâm trí.
Nó cũng giống như sao trên trời vậy. Ban ngày bạn
không thể thấy sao trên trời. Chúng vẫn ở đấy, bởi vì
chúng có thể đi đâu được? Nhưng bởi vì ánh sáng của
mặt trời nên bạn không thể thấy được chúng. Nếu bạn
chui vào giếng sâu, khoảng sáu mươi mét xuống đất,
thì từ đó bạn có thể thấy sao trên trời ngay cả ban ngày.
Chúng vẫn đấy, nhưng bởi vì có quá nhiều ánh sáng
nên bạn không thể thấy được chúng. Bóng tối là cần
cho chúng để được lộ ra.

Cùng điều đó xảy ra với mơ: mơ vẫn có đó cả
trong ngày nữa, nhưng bóng tối là cần thiết để cho bạn
có thể thấy chúng. Điều đó cũng giống như khi bạn tới
rạp chiếu bóng: nếu cửa mở phim có thể tiếp tục,
nhưng bạn không thể thấy được. Đóng cửa lại, làm cho
phòng tối đi, và bạn có thể thấy.
Mơ là sự liên tục của bạn, và chừng nào sự liên tục
này còn chưa bị phá vỡ, bạn không thể biết chân lí là
gì. Vấn đề không phải là chân lí ở rất xa hay rất gần,
vấn đề là liệu tâm trí có đang trong mơ hay không.
Cho nên vấn đề cơ bản không phải là cách thức tìm
kiếm chân lí; bạn không thể tìm kiếm được với tâm trí
mơ, bởi vì bất kì cái gì tới trước bạn, mơ của bạn sẽ áp
đặt lên nó. Mơ của bạn sẽ được phóng chiếu lên nó,
bạn sẽ diễn giải nó. Bạn sẽ không có khả năng thấy
được như nó hiện thế. Bạn sẽ thấy theo mơ của bạn,
bạn sẽ bóp méo nó. Chân lí có đó, bởi vì chỉ chân lí
mới có thể hiện hữu. Phi chân lí không thể hiện hữu.
Cho nên một điều nữa cần tới trước khi chúng ta đi
vào lời kinh này: Shankara đã chia thực tại ra thành ba
phân loại, và cũng tốt là nên hiểu các phân loại đó. Một
phân loại là phân loại của chân lí: cái đang hiện hữu.
Trong thực tế chẳng cái gì khác là có thể cả, chỉ chân lí
hiện hữu và chỉ chân lí mới có thể hiện hữu.
Phân loại thứ hai là phân loại của phi chân lí, cái
không thể hiện hữu. Không có khả năng nào cho sự
hiện hữu của nó, bởi vì làm sao cái phi chân lí có thể
hiện hữu được? Để hiện hữu, chân lí là cần thiết. Cho
nên phi chân lí là không hiện hữu, chân lí là hiện hữu.
Thế rồi Shankara tìm ra phân loại thứ ba mà ông ấy gọi
là mơ, dáng vẻ, ảo tưởng, maya: cái dường như hiện
hữu nhưng lại không hiện hữu.
Cho nên có ba phân loại. Chân lí, cái hiện hữu.
Nếu mắt bạn trong trẻo, không u ám, nếu tâm trí không
mơ, thế thì chỉ có một phân loại, chân lí. Nhưng nếu
tâm trí bạn đang mơ thế thì hai phân loại kia đi vào sự
tồn tại. Mơ hiện hữu, theo một nghĩa nào đó, bởi vì bạn
mơ nó; và nó không hiện hữu, theo một nghĩa khác,
bởi vì nó không tương ứng với thực tại nào. Bạn mơ
trong đêm rằng bạn đã trở thành vua; đến sáng bạn
thấy mình chỉ là người ăn xin. Mơ là sai, nhưng mơ
hiện hữu, cho nên nó có phẩm chất của chân lí về nó
bởi vì nó đã xảy ra. Và trong những khoảnh khắc đó
khi nó xảy ra, bạn tin hoàn toàn vào chân lí của nó, nếu
không thì nó sẽ chấm dứt ngay lập tức.
Nếu bạn trở nên nhận biết rằng, “Mình đang mơ và
điều này là sai,” mơ bị tan vỡ, bạn đã thức tỉnh. Mơ tồn
tại chỉ trong vài giờ; nó có phẩm chất của chân lí, rằng
nó đã tồn tại. Nhưng nó không đúng bởi vì vào buổi
sáng bạn thấy nó không hiện hữu. Nó chỉ là ý nghĩ, con
sóng trong không trung, hoa trên bầu trời - dường như
là đúng nhưng lại không đúng.
Chân lí là hiện hữu, phi chân lí là không hiện hữu,
và ở giữa hai điều này là thế giới của mơ - nó mang
tính chất của cả hai. Và tâm trí là ngọn nguồn của mơ,
cho nên tâm trí là ảo tưởng. Tâm trí là ngọn nguồn của
tất cả maya.
Bạn có thể nghĩ rằng nếu bạn bỏ lại thế giới này và
đi lên Himalaya bạn sẽ đạt tới chân lí. Bạn sai - bởi vì
ngôi nhà của bạn không phải là maya, vợ bạn không

phải là maya, con bạn, không... tâm trí bạn mới là
maya. Và làm sao bạn có thể bỏ lại tâm trí ở đây mà đi
lên Himalaya được? Tâm trí ở bên trong bạn. Nếu bạn
có thể vứt bỏ nó, bạn có thể vứt bỏ nó ở bất kì đâu.
Nếu bạn không thể vứt bỏ nó, bạn không thể vứt nó dù
bạn có lên Himalaya hay không.
Vợ, con, nhà, thế giới, được gọi là maya, ảo tưởng,
theo nghĩa thứ hai - bởi vì vợ tồn tại, cô ấy có sự hiện
hữu. Cô ấy là Brahman theo quyền riêng của mình, cô
ấy là chân lí - không phải như người vợ, mà như một
linh hồn.
Tâm trí bạn diễn giải cô ấy như người vợ: “Cô ấy
là vợ mình.” Thế thì mơ được tạo ra. Cô ấy có đó, hoàn
toàn thật, bạn có đây, hoàn toàn thật - và giữa hai
người mơ xuất hiện. Bạn gọi cô ấy là vợ bạn, cô ấy gọi
bạn là chồng cô ấy. Bây giờ mơ tồn tại giữa hai người,
và mơ bao giờ cũng trở thành ác mộng. Cho nên tất cả
các mối quan hệ chung cuộc đều trở thành ác mộng,
bởi vì bạn không thể nào chấp nhận được ảo tưởng rất
lâu. Ảo tưởng là tạm thời, chẳng chóng thì chầy nó
phải biến mất. Nó không thể vĩnh hằng, nó không thể
thường hằng.
Bạn yêu một người đàn bà, mơ được tạo ra - nhưng
bạn có thể mơ được bao lâu? Vào lúc tuần trăng mật
kết thúc thì mơ cũng qua rồi - thậm chí trước cả lúc đó.
Thế thì bạn sẽ làm gì? Thế thì bạn sẽ giả vờ, bởi vì bây
giờ bạn là nô lệ cho những hứa hẹn riêng của mình.
Bạn sẽ giả vờ rằng bạn vẫn còn yêu, bạn sẽ giả vờ
rằng, “Em vẫn còn đẹp lắm,” bạn sẽ giả vờ rằng,
“Không có người như em.” Nhưng bây giờ mọi điều
đều là giả vờ. Và khi bạn giả vờ và mơ tan vỡ, mà bạn
vẫn mang mơ đó, nó trở thành gánh nặng, ác mộng. Đó
là lí do tại sao bạn sống trong khổ sở thế.
Khổ sở chẳng là gì ngoài mơ đã tan vỡ, cầu vồng
tan vỡ, ảo tưởng, dáng vẻ tan vỡ. Và bạn đã đầu tư quá
nhiều vào chúng đến mức bạn không thể nào nhìn vào
chân lí: rằng ngay từ chính lúc ban đầu chúng đã là
mơ.
Thay vì nhìn vào chân lí, bạn sẽ đổ trách nhiệm lên
người khác. Bạn sẽ nói, “Người vợ này đã lừa mình.
Cô ta không tốt như cô ta có vẻ thế. Cô ta lừa mình, cô
ta đã không để lộ thực tại của cô ấy ra.” Và bạn sẽ
không thấy rằng đấy không phải là vấn đề chút nào.
Bạn đã tạo ra mơ quanh cô ấy, và bởi vì mơ đó mà bạn
không thể thấy được thực tại. Cô ấy cũng đang tạo ra
mơ quanh bạn.
Cho nên bất kì khi nào hai người yêu nhau thì
không chỉ có hai người, có bốn: một là người yêu,
người kia là người được yêu, và giữa hai người này,
còn có người được yêu do tâm trí của người yêu tạo ra,
và người yêu do tâm trí của người được yêu tạo ra. Hai
người này là người mơ, và hai người này cứ đi cùng
các bạn.
Chẳng chóng thì chầy, khi mơ bị tan vỡ, các bạn là
hai chứ không phải bốn. Bất kì khi nào các bạn là hai
sẽ có khó khăn. Thế thì bạn sẽ muốn đổ trách nhiệm
lên người kia, “Đấy là vì người kia.” Bạn lại bỏ lỡ vấn
đề lần nữa. Điều đó có nghĩa là bạn sẽ tạo ra cùng mơ
quanh người đàn bà khác bởi vì bạn sẽ nghĩ, “Người

đàn bà này sẽ không lừa dối mình, và bây giờ mình
tinh tường hơn.”
Nhưng tâm trí chẳng bao giờ tinh tường cả. Bản
chất của tâm trí là ngu xuẩn, cho nên tâm trí không bao
giờ có thể tinh tường. Nó có thể tinh ranh, tinh ranh
theo cái ngu xuẩn của nó, nhưng nó không bao giờ có
thể là trí huệ. Điều đó không phải là bản chất của nó,
bởi vì trí huệ xảy ra chỉ khi mơ ra đi. Cho nên nếu mơ
là thực tại cơ bản của tâm trí, thế thì nó chẳng bao giờ
có thể là trí huệ được.
Vị Phật là trí huệ bởi vì bây giờ không có tâm trí.
Một Tăng Xán là trí huệ bởi vì bây giờ ông ấy sống
trong vô trí, bây giờ tất cả mọi mơ đều đã chấm dứt.
Ông ấy nhìn vào mọi thứ như nó hiện thế. Bạn chưa hề
nhìn vào mọi thứ như nó hiện thế; bạn trộn lẫn với ảo
tưởng của mình. Và bạn sợ nhìn thẳng thế bởi vì bạn
biết, một cách vô ý thức, sâu bên dưới ở đâu đó bạn
biết, rằng mọi sự không như là bạn nhìn vào chúng.
Nhưng bạn nghĩ nếu bạn nhìn vào thực tại của mọi
vật thì sẽ quá nhiều, quá nặng nề - bạn có thể không có
khả năng chịu đựng nó. Bạn trộn lẫn nó với mơ chỉ để
làm cho nó chút ít dịu ngọt hơn. Bạn nghĩ nó đắng hơn
nên bạn phải bọc nó bằng đường. Bạn bao bọc một
người trong mơ và bạn cảm thấy người này trở thành
ngọt ngào sao? Không, bạn đơn giản đang lừa dối
mình, không ai khác cả. Do đó mới nhiều khổ sở thế.
Chính là từ mơ của bạn mà khổ sở mới xảy ra, và
người ta phải nhận biết về hiện tượng này. Đừng đổ
trách nhiệm lên người khác, nếu không thì bạn sẽ tạo ra
mơ khác: thấy rằng chính bạn là người đang phóng
chiếu. Nhưng cũng khó để nhìn điều đó.
Trong rạp hát, trong rạp chiếu bóng, bạn nhìn lên
màn ảnh, bạn chưa hề nhìn lại sau lưng - máy chiếu ở
đằng sau. Phim không phải là thực tại đang có đó trên
màn ảnh; trên màn ảnh chỉ là phóng chiếu của hình
bóng và ánh sáng. Phim tồn tại ngay đằng sau, nhưng
bạn chưa hề nhìn vào đó. Và máy chiếu có đó.
Tâm trí bạn ở sau lưng của toàn bộ vấn đề, và tâm
trí là máy chiếu. Nhưng bạn bao giờ cũng nhìn vào
người khác bởi vì người khác là màn ảnh.
Khi bạn đang yêu, người kia là hoa, không có so
sánh. Khi bạn ghét, cũng người đó dường như là xấu
nhất, và bạn chưa hề trở nên nhận biết về cách thức
cùng người đó có thể là xấu nhất và cùng người đó có
thể là đẹp nhất.
Khi bạn trong yêu, cùng người đó là hoa, bông
hồng, vườn hồng không gai. Khi bạn không ưa, khi bạn
ghét, hoa biến mất, chỉ có gai, không còn vườn nữa -
cái xấu nhất, bẩn thỉu nhất... bạn sẽ thậm chí không
thèm nhìn. Và bạn chưa hề trở nên nhận biết về điều
bạn đang làm. Làm sao hoa hồng lại biến mất chóng
thế, chỉ trong một phút? Thậm chí chẳng cần tới lỗ
hổng một phút. Khoảnh khắc này bạn đang trong yêu
và khoảnh khắc tiếp bạn trong ghét; cùng người ấy,
cùng màn ảnh ấy, và toàn bộ câu chuyện thay đổi.
Quan sát và bạn sẽ có khả năng thấy rằng người
này không phải là vấn đề: bạn đang phóng chiếu điều
gì đó. Khi bạn phóng chiếu yêu, người này có vẻ đáng
yêu, khi bạn phóng chiếu ghét, người này có vẻ xấu.

Người ấy không có; bạn còn chưa thấy con người thật
chút nào. Bạn không thể thấy được thực tại qua con
mắt của tâm trí.
Nếu bạn thực sự muốn biết chân lí là gì, thì kinh
sách chẳng ích gì. Đi lên Himalaya cũng chẳng ích gì.
Chỉ một điều có thể có ích: bắt đầu nhìn vào mọi vật
mà không có tâm trí. Nhìn hoa và đừng cho phép tâm
trí nói điều gì. Chỉ nhìn vào nó. Điều đó khó bởi vì thói
quen diễn giải cũ. Bạn cứ diễn giải, và việc diễn giải
làm khác đi. Diễn giải tuỳ thuộc theo tâm trí.
Mulla Nasruddin ra toà xin li dị. Anh ta nói với
quan toà, “Bây giờ điều đó không thể được. Hàng ngày
tôi về nhà và tôi thấy vợ tôi đang che giấu người đàn
ông này hay người khác trong kho.”
Thậm chí đến quan toà cũng choáng váng và ông ta
nói, “Hàng ngày sao?”
Nasruddin nói, “Hàng ngày! Mà không phải là
cùng một người đâu - mỗi ngày lại một người mới.”
Chỉ để an ủi Nasruddin quan toà nói, “Thế thì anh
phải rất đau lòng. Anh về nhà mệt mỏi và anh nghĩ vợ
phải đang chờ đợi anh, để đón nhận và yêu. Và anh về
nhà và anh lại thấy một người mới đang ẩn nấp trong
kho hàng ngày. Thế thì tồi tệ quá.”
Nasruddin nói, “Vâng, tôi cảm thấy rất đau lòng -
bởi vì tôi chưa bao giờ có buồng nào để treo quần áo.”
Cách thức bạn diễn giải mọi thứ phụ thuộc vào tâm
trí bạn.
Thế rồi Nasruddin bỏ vợ và chạy trốn. Anh ta bị
bắt, lại bị đưa ra toà. Quan toàn nói, “Anh là kẻ bỏ trốn
và anh phải bị trừng phạt.”
Nasruddin nói, “Đợi một chút! Trước khi ông
quyết định thì ông phải thấy vợ tôi đã. Nếu ông thấy vợ
tôi thì ông sẽ không bao giờ nói rằng tôi là kẻ bỏ trốn.
Ông sẽ đơn giản nói, ‘Nasruddin, anh là kẻ hèn nhát!’
Và điều đó thì tôi chấp nhận, tôi không phải là kẻ bỏ
trốn, đơn giản chỉ là kẻ hèn nhát thôi. Nhưng trước hết
nhìn vào vợ tôi đã.”
Cách bạn nhìn vào mọi thứ phụ thuộc vào bạn,
không vào mọi thứ. Chừng nào mà bạn còn chưa đi tới
điểm vứt bỏ tâm trí diễn giải và nhìn trực tiếp, nhìn
ngay lập tức, thì tâm trí vẫn là kẻ trung gian của bạn.
Nó đem tới cho bạn những thứ bị bóp méo, nó đem tới
cho bạn những thứ bị trộn lẫn với diễn giải. Chúng
không thuần nhất.
Cho nên cách duy nhất để đạt tới chân lí là: làm
sao học trở thành trực tiếp trong cái nhìn của bạn, làm
sao vứt bỏ trợ giúp của tâm trí. Môi giới này của tâm
trí là vấn đề, bởi vì tâm trí chỉ có thể tạo ra mơ. Nhưng
tâm trí có thể tạo ra mơ đẹp, và bạn có thể trở nên bị
kích động đến thế. Qua kích động của bạn mà mơ bắt
đầu trông có vẻ như thực tại.
Nếu bạn quá kích động thế thì bạn bị ngây ngất,
thế thì bạn không trong giác quan của mình. Thế thì bất
kì điều gì bạn thấy cũng chỉ là phóng chiếu của bạn.
Và có nhiều thế giới như tâm trí, bởi vì mọi tâm trí đều
sống trong thế giới riêng của nó. Bạn có thể cười vào
cái ngu xuẩn của người khác, nhưng chừng nào bạn

còn chưa bắt đầu cười vào cái ngu xuẩn của riêng
mình, bạn sẽ không thể nào có khả năng trở thành con
người của Đạo, con người của tự nhiên, con người của
chân lí. Vậy phải làm gì?
Cố gắng từ những điều nhỏ nhặt để đừng mang
tâm trí vào. Bạn nhìn hoa - đơn giản nhìn thôi. Bạn
không nói, “Đẹp thế! Xấu thế!” Bạn không nói điều gì.
Đừng đem lời vào, đừng lời hoá. Đơn giản nhìn. Tâm
trí sẽ cảm thấy không thoải mái, không dễ chịu. Tâm
trí sẽ thích nói điều gì đó. Bạn đơn giản nói với tâm trí,
“Im đi! Để mình thấy. Mình sẽ chỉ nhìn thôi.”
Ban đầu điều đó sẽ khó khăn, nhưng bắt đầu từ
những điều mà trong đó bạn không bị quá dính líu. Sẽ
khó để nhìn vào vợ bạn mà không đem lời vào. Bạn
tham dự quá nhiều, quá gắn bó về mặt xúc động. Giận
hay yêu, nhưng dính líu quá nhiều.
Nhìn mọi thứ trung tính - tảng đá, hoa, cây cối, mặt
trời lên, chim đang bay, mây đang di chuyển trên bầu
trời. Nhìn vào những thứ bạn không dính líu nhiều tới
chúng, những thứ bạn có thể vẫn còn cách biệt, những
thứ bạn vẫn còn có thể dửng dưng. Bắt đầu từ những
thứ trung lập và chỉ thế rồi mới chuyển sang những
tình huống mang nặng xúc động.
Mọi người bắt đầu từ các tình huống nặng nề; họ
thất bại, bởi vì điều đó gần như là không thể được.
Hoặc là bạn yêu vợ bạn hoặc bạn ghét, không có cái gì
ở giữa. Nếu bạn yêu, bạn phát điên, nếu bạn ghét, bạn
phát điên - và với cả hai cách này lời sẽ vào. Gần như
không thể nào không cho phép lời vào được, khó lắm,
bởi vì biết bao nhiêu thực hành trong việc nói điều gì
đó liên tục.
Một hôm tôi đến nhà Mulla Nasruddin vào buổi
sáng. Họ uống trà khi tôi tới. Người vợ nói, “Anh yêu,
đêm qua khi anh ngủ, anh nói nhiều điều xấu về em.”
Nasruddin nhìn tôi và nói, “Ai nói anh ngủ? Anh
không thể nói mọi điều trong khi thức, đó là lí do tại
sao anh lại giả vờ ngủ.”
Thậm chí trong khi ngủ, hay khi thức, khi bạn quá
dính líu về tình cảm, khó mà gạt tâm trí sang bên được.
Nó sẽ đi vào. Cho nên nhìn vào những tình huống
không nặng nề trước hết đã. Khi bạn có cảm giác rằng,
đúng, bạn có thể nhìn vào những điều nào đó mà tâm
trí không bước vào, thế rồi thử với những mối quan hệ
nặng nề.
Nhưng dần dần người ta trở nên hiệu quả. Điều đó
cũng giống như bơi: lúc đầu bạn cảm thấy sợ và lúc
đầu bạn không thể tin được làm sao mình sẽ sống sót.
Và bạn đã làm việc với tâm trí lâu đến mức bạn không
thể nào nghĩ được rằng không có tâm trí bạn vẫn có thể
tồn tại dù chỉ một khoảnh khắc. Nhưng cứ thử xem!
Và bạn càng gạt tâm trí sang bên, ánh sáng càng
xảy ra cho bạn, bởi vì khi không có mơ, cánh cửa mở
ra, cửa sổ mở ra, và bầu trời đạt tới bạn, và mặt trời
mọc và nó đi tới chính trái tim, ánh sáng đạt tới bạn.
Bạn trở thành ngày càng tràn ngập với chân lí khi bạn
ngày càng ít chất đầy với mơ.
Và nếu trong khi bạn thức mà mơ chấm dứt, dần
dần khi bạn ngủ mơ cũng chấm dứt ở đó nữa, bởi vì nó

chỉ có thể tồn tại như một vòng tròn liên tục. Nếu nó bị
bẻ gẫy ở đâu đó, dần dần cả ngôi nhà sẽ biến mất. Bạn
rút ra một viên gạch và toàn bộ ngôi nhà đã trên đường
hướng tới trở thành đống đổ nát.
Nếu trong ngày bạn có thể nhìn vào mọi thứ mà
không mơ, thế thì ban đêm các mơ sẽ ít dần đi, bởi vì
đêm của bạn không là gì khác hơn phản xạ của ban
ngày, sự liên tục của cùng một điều. Khi ngày khác đi
thì đêm cũng khác đi. Khi bạn thức tỉnh - và bởi ‘thức
tỉnh’ được ngụ ý khi bạn không mơ, không phải là bạn
ngồi đó với đôi mắt mở...
Jesus cứ nói mãi với các đệ tử của mình, “Thức
dậy đi!” Họ có luôn luôn ngủ, liên tục ngủ, trước ông
ấy không? Bởi vì ngày nào ông ấy cũng nói, “Thức dậy
đi!” Phật dạy các đệ tử hàng ngày, “Thức tỉnh!” Tại
sao? Họ vẫn mở mắt, vẫn tỉnh táo như bạn, nhưng Phật
và Jesus cứ nói mãi, “Thức tỉnh!” Họ ngụ ý, “Đừng
mơ, ở đây đi. Đừng đi đâu khác cả.” Trong kí ức, trong
quá khứ, bạn mơ; trong tương lai, trong tưởng tượng,
và bạn mơ. Ở đây và bây giờ đi - chỉ thế thì mới không
có mơ.
Trong hiện tại không có mơ. Trong hiện tại không
có tâm trí. Trong hiện tại bạn có đó và chân lí có đó.
Và thế thì không có lỗ hổng giữa bạn và chân lí - bởi vì
cả hai đều đúng và không có biên giới. Bạn tan trong
chân lí và chân lí tan trong bạn. Bạn trở thành
Brahman, Brahman trở thành bạn. Mơ là tạo ra một
hàng rào quanh bạn, rất vô hình nhưng tinh tế, mạnh
mẽ.
Bây giờ, cố đi vào lời kinh này.
Yên ổn và bất ổn đều bắt nguồn từ ảo tưởng;
với chứng ngộ không có việc thích và không thích.

Tại sao bạn thích và tại sao bạn không thích? Việc
đó xảy ra thế nào mà bạn lại thích điều nào đó và bạn
không thích điều nào đó? Làm sao phân chia này lại
xảy ra?
Bạn đã bao giờ hiểu thấu cơ chế thích và không
thích này chưa? Cũng đáng để hiểu thấu nó. Bạn nói,
“Mình thích người này và mình không thích người
kia.” Sao vậy? Và bỗng nhiên một hôm bạn không
thích người này và bạn bắt đầu thích người kia? Tại
sao? Cơ chế này là gì? Sao bạn lại thích một người?
Bạn thích một người nếu người đó cho phép bạn
làm mạnh thêm bản ngã của bạn. Nếu người đó trở
thành màn ảnh và giúp cho bạn mơ, bạn thích người
đó. Bạn thích một người nếu người ấy điều chỉnh theo
mơ của bạn. Bạn không thích một người nếu người ấy
không thích ứng với mơ của bạn, nếu người ấy không
cho phép bạn mơ. Thay vì thế, ngược lại, người ấy
quấy rối. Người ấy không khớp, người ấy không đóng
vai trò màn ảnh. Người ấy không thụ động, người ấy
trở thành tích cực - bạn không thích. Bạn thích màn
ảnh thụ động, để cho bất kì cái gì bạn mơ thì người kia
đơn giản giúp thêm cho nó.
Ouspensky, một đại đệ tử của Gurdjieff, đã đề tặng
cuốn sách Đi tìm điều huyền bí của mình cho thầy
mình với dòng chữ: “Tặng người đã phá huỷ mọi mơ
của tôi.” Nhưng bạn sẽ không thích người phá huỷ tất
cả các mơ của bạn. Ngay cả Ouspensky cũng phải rời
bỏ Gurdjieff, và trong những năm cuối đời ông ta

chẳng bao giờ lại thăm thầy nữa. Ông ta bắt đầu làm
việc theo ý mình. Đến cuối cùng ông ấy chết như một
kẻ thù của Gurdjieff.
Ngay cả một người tỉnh táo như Ouspensky, người
có thể cảm thấy rằng con người này phá huỷ các mơ,
cũng phải bỏ đi. Bạn có thể cảm thấy, nhưng khi ai đó
thực sự cứ phá huỷ mãi thì bạn cảm thấy rằng con
người này là kẻ thù.
Thầy thực sự bao giờ cũng có vẻ giống như kẻ thù,
và điều này là tiêu chuẩn. Thầy giả bao giờ cũng giúp
cho bạn mơ; ông ta sẽ không bao giờ quấy rối mơ của
bạn. Thay vì thế, ngược lại, ông ấy sẽ cho bạn an ủi,
yên lòng. Ông ấy sẽ vỗ về bạn, xoa dịu bạn. Giáo huấn
của ông ấy sẽ chỉ giống như bài hát ru hay. Ông ấy sẽ
hát quanh bạn để cho bạn có thể ngủ ngon, có thế thôi.
Nhưng thầy thực sự thì nguy hiểm. Tới gần thầy là
rất nguy hiểm. Bạn đang đi tới nguy cơ của riêng mình,
bởi vì thầy không thể cho phép bạn mơ và thầy không
thể giúp mơ của bạn được, bởi vì thế thì toàn bộ mục
đích sẽ mất.
Thầy sẽ phá huỷ. Và các mơ lại rất gần gũi với trái
tim bạn. Bạn nghĩ các mơ của bạn là trái tim bạn, và
khi mơ bị phá huỷ thì bạn cảm thấy bạn bị phá huỷ. Cứ
như là ai đó đang giết bạn. Người Hindu đã nhận biết
về điều này, cho nên họ nói thầy thực giống như cái
chết.
Khi bạn đi tới thầy, bạn đang đi tới cái chết. Bạn sẽ
phải chết, chỉ bởi vì chừng nào bạn chưa chết, bạn
không thể nào được tái sinh. Khi các mơ của bạn bị
phá huỷ, chân lí đi vào sự tồn tại, chân lí trở nên hiển
lộ.
Bạn thích một người bởi vì người đó giúp đỡ cho
bản ngã của bạn. Bạn thích một cô gái bởi vì cô ấy nói
bạn là người hoàn hảo.
Có lần tôi nghe lỏm hai thanh niên yêu nhau. Họ
ngồi gần biển và một đợt sóng lớn lan tới. Và cậu con
trai nói, “Lăn nữa đi, sóng đẹp ơi. Lăn nữa đi, lớn hơn,
lớn nữa và lớn nữa.” Và chúng trở thành ngày một lớn
mãi.
Và cô gái nói, “Tuyệt diệu! Biển tuân lệnh anh.”
Bạn sẽ thích người này. Và nếu ai đó giúp cho bản
ngã bạn, thì bạn sẵn sàng giúp cho bản ngã người ấy để
đáp lại.
Bạn thích một người khi mọi thứ ăn khớp. Đấy là
sự thu xếp lẫn nhau. Khoảnh khắc người này bắt đầu
theo ý mình, hay cái gì đó không khớp, hay người này
cứng rắn, hay người này đã bắt đầu chi phối, hay người
này bắt đầu sở hữu, hay người này bắt đầu động chạm
tới bản ngã bạn...
Và đó là điều sẽ xảy ra, bởi vì người đó thích bạn
không phải bởi vì bản ngã bạn được làm mạnh thêm -
người đó thích bạn bởi vì bản ngã của người đó được
làm mạnh thêm. Người đó thích bạn bởi vì cái ta riêng
của người đó, cái bản ngã, còn bạn thích bởi vì cái ta
của bạn được làm mạnh thêm. Mục đích của các bạn là
khác. Cho nên kiểu thu xếp này không thể tiếp diễn
mãi được. Và mục đích của các bạn không chỉ khác

biệt, chúng còn đối kháng, bởi vì chỉ một người mới có
thể là thầy và cả hai đều cố gắng là thầy.
Ban đầu họ sẽ rất dịu dàng bởi vì lãnh thổ còn
chưa được biết tới. Dần dần, khi mọi thứ được cố định
lại, họ sẽ trở thành ngày càng cứng rắn hơn, sở hữu
hơn, chi phối hơn, càng ngày càng hung hăng hơn với
người kia. Và thế thì bạn bắt đầu không thích. Bạn ghét
người bằng mọi cách lôi bạn từ trên cao xuống. Bạn
yêu người làm cho bạn cao lên.
Bản ngã liên tục khổ sở từ phức cảm tự ti. Bởi vì
điều này mà người đàn ông sẽ yêu người đàn bà này,
người đàn bà kia, hàng nghìn đàn bà. Anh ta có thể trở
thành Don Juan, bởi vì mọi lần, chỉ lúc bắt đầu, người
đàn bà đó có ích. Đó là mưu kế, mưu kế đàn bà. Chỉ
lúc bắt đầu, người đàn bà có ích cho bạn. Nhưng lúc cô
ấy cảm thấy bây giờ bạn không thể thoát được, bạn bị
tóm gọn, thì cô ấy bắt đầu chi phối bạn.
Bạn sẽ muốn chinh phục nhiều phụ nữ, nhưng chỉ
lúc ban đầu. Bạn thấy đấy, mọi chuyện tình đều đẹp
lúc ban đầu. Rất khó khăn, hiếm hoi mới tìm ra chuyện
tình đẹp đến cuối. Và nếu bạn có thể tìm được cái gì
đó, thế thì bạn biết chuyện này đã thực sự là chuyện
tình.
Cái cuối cùng sẽ chứng minh nó, không phải cái
bắt đầu, bởi vì lúc đầu mọi chuyện tình đều đẹp, nhưng
chỉ lúc bắt đầu - bởi vì cả hai đều ngoại giao, cả hai
đều phô ra khuôn mặt đẹp của mình cho người kia,
quyến rũ, chỉ là phần chào bán. Nhưng khi hàng hoá
được bán xong thì các khuôn mặt thay đổi, thế thì cái
thực tới, thế thì bản ngã hung hăng bắt đầu làm việc.
Đó là điều thực mà xảy ra ở cuối.
Điều thực bao giờ cũng tới ở cuối, không bao giờ ở
đầu, bởi vì lúc đầu cả hai đều cố gắng lại gần và gần
hơn nữa. Một khi tới gần rồi, khi mọi thứ được cho
không, thế thì cái thực mới bùng ra.
Tại sao bạn thích một người? Tại sao bạn thích
một vật? Gạt người sang bên đã - sao bạn thích một
vật? Thậm chí vật dụng cũng giúp cho bản ngã bạn.
Nếu hàng xóm của bạn mua chiếc xe lớn hơn, bạn phải
mua chiếc xe lớn hơn nữa, bởi vì vấn đề không phải là
ở chiếc xe. Chiếc nhỏ hơn có thể thuận tiện hơn, thích
hợp hơn cho giao thông hiện đại; ít rắc rối hơn với
chiếc xe nhỏ hơn. Chiếc xe lớn hơn thì rắc rối hơn, đắt
hơn, bạn thậm chí không thể mua nổi nó - nhưng nếu
nhà hàng xóm đã mua chiếc xe lớn thì bạn phải mua
chiếc xe lớn. Bạn thích nó. Tại sao bạn thích nó? Tất
cả việc thích của bạn đều bắt nguồn từ bản ngã: xe lớn
hơn có danh tiếng hơn.
Chuyện đã xảy ra:
Có lần ông chủ của Mulla Nasruddin yêu cầu anh
ta vào văn phòng ông ấy và ông ta giận lắm. Ông ta
cho anh ta ngồi lên thảm và nói, “Nasruddin, thế này
thì quá lắm! Tôi hiểu rằng đêm qua sau bữa tiệc văn
phòng, anh đã đáp chiếc xe cút kít và đi nó trên phố
chính của thành phố. Anh không hiểu rằng theo cách
đó thì danh tiếng của công ti sẽ bị mất sao?”
Nasruddin nói, “Tôi chẳng để ý dù chỉ một ý nghĩ
tới điều đó, bởi vì ông đang đứng trên chiếc xe cút kít
đó. Chúng ta cả hai đều say, cho nên tôi nghĩ chẳng có

vấn đề danh tiếng gì cả - thậm chí ông chủ cũng có đó
trên chiếc xe cút kít - cho nên tôi mới đi một vòng phố
chính. Mọi người đều hạnh phúc, và mọi người đều
thích lắm.”
Danh tiếng - bạn quên đi danh tiếng chỉ khi bạn
ngây ngất, thế thì bạn làm những điều ngu xuẩn.
Nhưng cũng hay để hiểu điều này. Danh tiếng phải là
điều gì đó như rượu, bởi vì chỉ khi bạn đang ngây ngất
thì bạn mới quên điều đó. Nếu không thì bạn bao giờ
cũng đi tìm danh tiếng, kính trọng, tôn kính.
Bạn thích một vật bởi vì nó đem lại danh tiếng.
Bạn thích ngôi nhà bởi vì nó đem lại cho bạn danh
tiếng. Nó có thể không thuận tiện, có thể không thoải
mái. Nhìn đồ đạc hiện đại mà xem - chẳng thoải mái
chút nào, nhưng ai thích đồ đạc cũ trong nhà? Đồ đạc
hiện đại còn hơn, không thoải mái hơn đồ đạc cũ,
nhưng nó hiện đại. Nó đem lại danh tiếng. Bất kì cái gì
đem lại danh tiếng đều là rượu cả, nó cho bạn sự say
sưa. Bạn cảm thấy mình mạnh mẽ.
Nhưng tại sao có khao khát về quyền lực? Và nhớ
lấy, nếu bạn khao khát quyền lực thế thì bạn sẽ không
bao giờ đạt tới chân lí. Đôi khi bạn cũng gõ cửa
Thượng đế để xin quyền lực - nhưng thế thì bạn gõ sai
cửa. Chỉ những người đã trở thành hoàn toàn nhận biết
rằng quyền lực, việc tìm kiếm quyền lực, là điên
khùng, nó là cơn điên, mới có thể đạt tới cánh cửa đó.
Bạn thích và không thích theo bản ngã. Nếu không
có bản ngã, cái thích hay không thích sẽ ở đâu? Chúng
đơn giản biến mất. Bạn sẽ không có tâm trí phân chia
bao giờ cũng thích hay không thích và tạo ra các
phương án. Khi bạn thấy thoải mái với bản thân mình...
và bản ngã thì chẳng bao giờ thoải mái với bản thân
mình cả. Đó là rối loạn thường xuyên, bởi vì bản ngã
phải nhìn khắp xung quanh và có hàng triệu người.
Ai đó khác mua chiếc xe lớn hơn, thế thì phải làm
gì? Ai đó đi và tìm được người vợ đẹp hơn, thế thì phải
làm gì? Ai đó khoẻ mạnh hơn bạn, thế thì phải làm gì?
Ai đó có đôi mắt đẹp hơn bạn, thế thì phải làm gì? Ai
đó thông minh hơn, tinh ranh hơn, có nhiều tiền hơn...
Và hàng triệu người tất cả bao quanh bạn, và bạn đang
trong cạnh tranh với mọi người. Bạn sẽ phát điên! Điều
này là không thể được. Bạn không bao giờ có thể đi tới
khoảnh khắc mà bạn có thể cảm thấy hài lòng. Làm sao
khoảnh khắc đó là có thể? Ngay cả đến hoàng đế...
Tôi đã từng nghe, có lần chuyện xảy ra:
Alexander đang cố gắng để với tới bức tranh treo
trên tường. Bức tranh bị treo lệch cho nên ông ta muốn
chỉnh lại nó, nhưng ông ấy không thể với tới nó bởi vì
Alexander là người nhỏ, chỉ khoảng hơn mét sáu. Cận
vệ của ông ấy cao gần hai mét; anh ta lập tức với tới
bức ảnh và chỉnh lại nó. Nhưng Alexander bị chạm tự
ái, rất tự ái.
Viên cận vệ nói, “Tâu bệ hạ, bất kì khi nào bệ hạ
muốn làm những việc như vậy, xin bảo thần. Thần lớn
hơn bệ hạ.”
Alexander nói, “Lớn hơn ư? Không! Cao hơn...
nhưng lớn hơn sao? Không!”

Và bất kì khi nào Alexander thấy một người cao
hơn mình - và ông ta phải thấy bởi vì nhiều lính cao
hơn ông ta - ông ta sẽ cảm thấy rất khó chịu.
Bạn có thể có cả thế giới, nhưng một người ăn xin
có thể cao hơn bạn và thế thì toàn bộ thế giới này bị
mất, bạn là cái không. Bạn có thể trở thành hoàng đế,
nhưng một kẻ ăn xin có thể hát hay hơn bạn. Bạn
không thể sở hữu tất cả mọi thứ. Bất kì cái gì bạn sở
hữu đều sẽ không đem lại cho bạn sự mãn nguyện.
Tâm trí, bản ngã, bao giờ cũng sẽ cảm thấy không
được đáp ứng.
Thích và không thích là bởi vì bản ngã, còn bản
ngã lại khổ nhiều. Khi không có bản ngã thì không có
vấn đề thích hay không thích. Bạn đi vào trong thế giới
này giống như làn gió. Bạn không chọn rằng, “Mình
định lên bắc,” bạn không có bất kì việc thích, không
thích nào. Dù tự nhiên có đưa bạn tới đâu, bạn cũng
trong buông bỏ. Nếu tự nhiên thổi về hướng bắc, thì
gió thổi về hướng bắc. Nếu tự nhiên thay đổi và bắt
đầu thổi về hướng nam, thì gió sẽ thổi về hướng nam.
Nó không có sự chọn lựa riêng của mình.
Con người của Đạo không có chọn lựa về phần
mình. Dù dòng sông đưa người đó tới đâu, người ấy
cũng đi với nó. Người ấy chưa bao giờ đi ngược lại
dòng sông, người ấy chưa bao giờ đấu tranh với nó.
Người ấy không có chọn lựa, người ấy không có cái
thích hay không thích. Bạn thậm chí có thể cảm thấy
rằng người ấy có cái thích và cái không thích bởi vì
bạn không thể hiểu được. Bạn có thể cảm thấy rằng
đám mây này đang đi về phía bắc: bạn có thể diễn giải
rằng đám mây này đang bay về hướng bắc bởi vì nó có
sự chọn lựa, nó đã chọn đi về hướng bắc. Nhưng bạn
sai; đám mây không có chọn lựa. Nó nhất định không
đi đâu cả, nó không có định mệnh. Nó đơn giản bay đi
bởi vì toàn thể tự nhiên đang đi theo hướng đó. Nó đã
không chọn điều đó. Việc chọn lựa vẫn còn lại với cái
toàn thể; việc thích, không thích, vẫn còn lại với cái
toàn thể - đấy không phải là việc của nó chút nào. Nó
không lo nghĩ. Và dù ở bất kì đâu thì đám mây cũng
đạt tới mục tiêu. Không có mục tiêu tiền định; bất kì
nơi đâu nó đạt tới đều là mục tiêu. Thế thì có sự mãn
nguyện dù bạn ở bất kì đâu.
Nhưng tâm trí sẽ cứ diễn giải theo luật riêng của
nó. Nếu bạn tới vị Phật, bạn sẽ cảm thấy rằng ông ấy
cũng thích và không thích và bạn sẽ sai, bởi vì bạn sẽ
diễn giải ông ấy theo tâm trí bạn. Đôi khi ông ấy sẽ đi
lên bắc và bạn sẽ nói rằng ông ấy phải đã chọn lựa, nếu
không thì tại sao? Tại sao lại đi lên bắc? Đôi khi ông
ấy sẽ chú ý tới một người nhiều hơn bạn; bạn sẽ nghĩ
ông ấy phải đã chọn lựa: “Tại sao? Nếu không thì tại
sao ông ấy lại không chú ý như thế với mình?” Và tôi
bảo bạn: ông ấy đã không chọn lựa, đấy chính là cái
toàn thể quyết định. Ông ấy không còn là nhân tố quyết
định nữa, ông ấy chỉ là đám mây.
Nếu ông ấy chú ý nhiều tới một người, điều đó đơn
giản có nghĩa là sự chú ý ấy đi theo cách đó như một
đám mây. Người đó có thể đang cần nhiều hơn, người
đó có thể trống rỗng hơn và hấp dẫn sự chú ý hơn.
Cũng hệt như nếu bạn đào một cái hố trong đất, cái hố
sẽ kéo nước chảy về nó, bởi vì nước chảy xuống. Nếu
người đó thiền nhiều hơn, Phật sẽ chú ý nhiều hơn -
nhưng nhớ lấy, ông ấy không chú ý tới điều đó, điều đó

đã bị hấp dẫn. Đấy là hiện tượng tự nhiên đơn giản.
Đấy không phải là chọn lựa của ông ấy hay thích và
không thích.
Phật đã trao một thông điệp im lặng cho
Mahakashyapa. Ông ấy đã trao một bông hoa, và thế
rồi ai đó hỏi, “Nhưng tại sao lại cho Mahakashyapa?
Sao không trao cho người khác?” Bởi vì còn có những
người khác nữa và một số là các đệ tử đáng kính.
Sariputra có đó, và ông ấy là một trong những đại đệ tử
vĩ đại nhất, rất nổi tiếng khắp cả nước. Theo quyền
riêng của ông ấy thì ông ấy là một bậc thầy. Khi ông ấy
tới buông xuôi theo Phật ông ấy có năm trăm đệ tử đi
cùng mình. Tất cả họ đều buông xuôi theo Phật bởi vì
thầy họ đã buông xuôi. Và ông ấy là một học giả rất
nổi tiếng. Sao lại không Sariputra?
Sao lại không Ananda, người đã sống trong bốn
mươi năm hệt như cái bóng, phục vụ Phật theo đủ mọi
cách như người phục vụ, và là anh của Phật, thuộc
cùng vào hoàng gia? Tại sao lại không Ananda? Tại
sao lại không Modgalayan, một học giả vĩ đại khác
cùng hàng nghìn người kính trọng ông ấy?
Và tại sao lại với Mahakashyapa người chẳng được
ai biết gì tới cả, người là một thực thể vô danh? Chưa
từng ai nghĩ về ông ta cả mà cũng chẳng ai biết gì
ngoài sự kiện này - rằng Phật một sáng tới với bông
hoa và đứng im lặng, ngồi im lặng nhìn vào bông hoa
đó và không nói. Mọi người trở nên bồn chồn và bất ổn
bởi vì họ đã tới để nghe thuyết pháp. Và thế rồi
Mahakashyapa cười phá lên và Phật gọi ông ta lại và
trao cho ông ta bông hoa và nói với hội chúng, “Tất cả
những gì có thể được nói ra ta đã trao cho các ông, còn
cái mà không thể được nói ra, ta trao cho nó cho
Mahakashyapa.”
Đây là sự kiện duy nhất mà người ta biết về
Mahakashyapa. Trước đó ông ấy là không ai cả, sau đó
chẳng có điều gì nói về ông ấy nữa. Sao lại
Mahakashyapa?
Đấy không phải là chọn lựa, bởi vì nếu đấy là chọn
lựa thế thì Sariputra sẽ đáng phải được điều đó. Đấy
không phải là việc thích, bởi vì nếu đấy là vấn đề thích
thế thì Ananda đáng phải được nó. Phật đã nói không
có cách nào khác. Mahakashyapa là người duy nhất có
thể nhận được nó, ông ấy là người duy nhất, người đã
im lặng và là người đã hiểu.
Phật tương truyền rằng đã nói, “Cho dù ông ấy có
không cười đi chăng nữa thì ta vẫn sẽ đi tới ông ấy và
trao nó cho ông ấy, bởi vì ông ấy là người trống vắng
duy nhất, trống rỗng, ở đây trong toàn thể hội chúng.
Có những học giả vĩ đại nhưng họ lại bị chất đầy bởi
học thức của mình. Ananda có đó, nhưng ông ấy còn
đầy với quá nhiều thương mến và gắn bó với ta.
Mahakashyapa này đơn giản trống rỗng - ngôi nhà
trống rỗng, ông ấy đã biến mất.”
Ông ấy hấp dẫn mây. Nhưng nhìn thái độ của các
đệ tử mà xem; họ phải đã nghĩ rằng phải có cái gì đó.
“Sao Phật lại gắn bó nhiều với Mahakashyapa đến thế?
Sao thầy đã không trao cái mà không thể được trao
bằng lời cho chúng tôi? Sao thầy làm cho
Mahakashyapa thành người vĩ đại nhất?”
Nhưng nhớ lấy, con người của Đạo, người của
chứng ngộ, đơn giản nổi như đám mây. Người ấy

không có việc thích, không có việc không thích, bởi vì
tất cả những điều đó thuộc vào tâm trí mơ, thuộc vào
bản ngã mơ.
Yên ổn và bất ổn đều bắt nguồn từ ảo tưởng;
với chứng ngộ không có việc thích và không thích.
Mọi nhị nguyên đều bắt nguồn từ suy diễn dốt nát.
Chúng giống như các mơ hay hoa trong không khí:
người ngu cố gắng nắm bắt chúng...
Được và mất, phải và trái:
suy nghĩ như vậy cuối cùng phải bị bỏ đi ngay lập tức.

Cụm từ ‘ngay lập tức’ cần phải được ghi nhớ. Để
nó được hiểu thấu sâu sắc, bởi vì mọi thứ đều có thể
được làm theo hai cách: dần dần, hay ngay lập tức.
Nếu bạn làm chúng dần dần, bạn sẽ không bao giờ có
khả năng làm chúng, bởi vì nếu bạn làm chúng dần
dần, chúng cứ lần lữa.
Chẳng hạn, bạn giận dữ và bạn lo nghĩ về giận dữ
của mình. Nó đã trở thành thói quen cũ và bạn nói,
“Dần dần, từ từ, mình sẽ bỏ nó.” Làm sao bạn có thể
bỏ nó dần dần và từ từ được? Bởi vì trong khi bạn thực
hành, và bạn càng thực hành nó thì nó lại càng trở nên
ăn sâu hơn. Bạn nói cần có thời gian. Vậy bạn sẽ làm
gì?
Nhiều nhất thì bạn có thể làm cho nó thành tinh
luyện hơn và trau dồi hơn. Không ai có thể có khả
năng biết được về giận dữ của bạn, bạn có thể che giấu
nó. Nhưng bạn sẽ làm gì với thời gian? Nếu bạn đã
hiểu rằng điều đó là sai, thế thì tại sao nói cứ từ từ? Tại
sao không ngay lập tức? Nếu bạn đã hiểu rằng điều gì
đó là sai, thì sao phải cần thời gian? Và nếu bạn còn
chưa hiểu, thế thì không có hiểu biết thì làm sao bạn sẽ
làm nó dần dần? Và trong khi đó thì giận dữ sẽ tới và
bạn sẽ lại càng thêm quen thuộc với nó.
Nhiều nhất bạn có thể thay đổi, nhưng một cơn
giận dữ được thay đổi sẽ không phải là không giận dữ,
nó sẽ vẫn còn là giận dữ. Bạn có thể sửa đổi theo cách
tinh vi - nó sẽ vẫn có đấy. Nó thậm chí còn có thể bắt
đầu trở thành ngay cái đối lập, nhưng nó sẽ vẫn có đấy.
Không ai có thể có khả năng phát hiện ra nó nhưng bạn
thì bao giờ cũng biết nó có đó.
Không, hiểu biết bao giờ cũng là ngay lập tức.
Hoặc là bạn hiểu hoặc là bạn không hiểu. Nếu bạn
không hiểu thế thì làm sao bạn có thể bỏ được thứ gì?
Nếu bạn hiểu thế thì tại sao phải dần dần? Nếu bạn
hiểu, thì ngay bây giờ, lập tức bạn bỏ nó.
Có lần một người tới Phật với bó hoa trong tay.
Phật nhìn vào hoa và ông ấy nói, “Vứt nó đi!”
Thế là người này vứt bó hoa trong tay trái đi.
Người đó nghĩ, “Có thể đem hoa bằng tay trái tới cho
Phật là sai” - vì tay trái vẫn bị coi là trái. Tay phải là
phải còn tay trái là trái, và bạn không đem tặng bằng
tay trái. Thế là người đó vứt chúng đi, cảm thấy mặc
cảm.
Phật cười to và nói, “Vứt nó đi!” Thế là người đó
phải vứt cả bó hoa trên tay phải đi nữa, nhưng người
đó phân vân.
Và khi cả hai tay đã trống rỗng rồi thì Phật lại cười
to và nói, “Vứt nó đi!” Bây chẳng còn gì mà vứt nữa.
Thế là người ấy nhìn đây đó - phải làm gì đây?

Ananda nói, “Phật không hề ngụ ý vứt hoa. Người
đem hoa tới phải bị vứt đi. Với việc vứt hoa đi chẳng
cái gì sẽ xảy ra cả. Tại sao không vứt bỏ bản thân
mình?”
Người này đã hiểu ra và vứt bỏ mình dưới chân
Phật. Người ấy không bao giờ quay lại cung điện của
mình nữa.
Tể tướng của người này tới và ông ấy nói, “Bệ hạ
làm gì thế này? Cho dù bệ hạ có muốn từ bỏ, thì để
chút thời gian để cho mọi việc được giải quyết. Xin bệ
hạ quay về. Hoàng hậu, hoàng tử, công chúa và toàn bộ
vương quốc cùng mọi công việc - xin cho chúng thần
chút thời gian. Cho dù bệ hạ có quyết định từ bỏ, sao
lại phải vội vàng thế?”
Người này nói, “Khi người ta hiểu ra thì điều đó
bao giờ cũng là ngay lập tức. Nếu người ta không hiểu,
bao giờ cũng trì hoãn.”
Chỉ người dốt nát mới trì hoãn, và người dốt nát
dùng mẹo rất cừ bằng việc trì hoãn. Thế thì bạn cảm
thấy bạn đã hiểu, nhưng làm sao bạn có thể làm điều
đó ngay lập tức được? Bạn sẽ làm điều đó dần dần -
đây là cái mẹo để không hề làm điều đó. Đây là cái
mẹo: “Mình sẽ làm nó ngày mai.”
Nhìn đấy: khi bạn giận bạn làm điều đó ngay lập
tức, nhưng nếu bạn cảm thấy yêu bạn trì hoãn nó. Nếu
bạn muốn trao món quà cho ai đó, bạn trì hoãn, nhưng
nếu bạn muốn giận bạn làm điều đó ngay lập tức - bởi
vì bạn biết rõ rằng nếu bạn trì hoãn, mọi sự sẽ không
bao giờ được thực hiện. Trì hoãn là cái mẹo. Cho nên
sâu bên dưới bạn biết bây giờ không cần phải làm nó,
và trên bề mặt thì bạn có thể cứ tin, “Mình đang làm nó
đây.” Vậy là bạn tự lừa dối mình.
Tăng Xán nói:
...những suy nghĩ như vậy cuối cùng phải bị bỏ đi
ngay lập tức.

Đừng để thời gian! Nếu điều gì đó sai, thấy qua nó,
và vứt nó đi. Thực sự không cần phải vứt bỏ nó. Nếu
bạn có thể thấy qua nó, và bạn cảm thấy rằng nó sai, nó
sẽ tự động bị vứt bỏ. Bạn sẽ không có khả năng mang
nó.
Bạn mang nó bởi vì bạn không được thuyết phục
rằng nó sai. Nếu bạn không được thuyết phục thì tốt
hơn cả nói, “Tôi không được thuyết phục rằng nó sai,
đó là lí do tại sao tôi vẫn mang nó.” Ít nhất bạn cũng
trung thực, và trung thực là tốt. Đừng không trung
thực.
Mọi người tới tôi, họ nói, “Vâng, tôi biết rằng
tham lam là xấu, nhưng phải dần dần...” Nhưng làm
sao có ai đã vứt bỏ tham lam dần dần được? Trong khi
đó thì nó cứ bắt rễ ngày càng sâu hơn vào trong bạn.
Và sao lại nói tham lam là xấu nếu bạn không thể vứt
bỏ nó ngay lập tức, ngay bây giờ? Nói, “Tôi không
cảm thấy điều đó là xấu, tôi cảm thấy nó là tốt. Khi tôi
cảm thấy nó là sai, tôi sẽ vứt bỏ nó.” Ít nhất bạn cũng
trung thực và chân thành, và người chân thành sẽ đạt
tới hiểu biết. Người không chân thành có thể chẳng
bao giờ đạt tới hiểu biết.
Tất cả các bạn đều nói giận là xấu - thế thì tại sao
cứ mang nó? Ai buộc bạn mang nó? Tri thức là biến

đổi. Nếu bạn thực sự biết rằng giận là xấu, thế thì bạn
sẽ không mang nó dù một khoảnh khắc. Ngay lập tức
bạn vứt bỏ nó. Điều đó là bất thần, nó xảy ra không có
thời gian, thậm chí không mất một khoảnh khắc.
Nhưng bạn tinh ranh: bạn nghĩ rằng biết, mà bạn thì
không biết. Bạn muốn tin rằng bạn biết và bạn muốn
tin rằng bạn đang cố gắng, dần dần, để thay đổi bản
thân mình. Bạn sẽ chẳng bao giờ được biến đổi.
Biến đổi không bao giờ dần dần, nó bao giờ cũng
ngay lập tức.
Có một câu chuyện Jaina:
Một người về nhà mệt mỏi sau cả ngày làm việc.
Vợ anh ta tắm cho anh ta - đây là câu chuyện cổ, bây
giờ chẳng vợ nào tắm cho chồng cả. Vợ anh ta tắm cho
anh ta, và khi dội nước vào người anh ta và làm mát
đôi chân mỏi dừ của anh ta, cô ấy kể chuyện và cô ấy
nói , “Anh của em đã trở thành tín đồ của Mahavira, và
anh ấy đang nghĩ tới việc từ bỏ thế giới.”
Người này cười to và nói, “Nghĩ ư? - thế thì anh ấy
sẽ chẳng bao giờ từ bỏ thế giới cả!”
Người vợ cảm thấy bị chạm lòng, bởi vì đấy là một
vấn đề lớn cho ông anh cô ấy. Cô ấy nói, “Anh ngụ ý
gì? Và em chưa hề thấy anh tới Mahavira hay tới Phật
hay tới bất kì ai, và anh nghĩ là anh hiểu sao? Anh ấy là
một học giả lớn và anh ấy hiểu điều Mahavira nói. Rồi
anh ấy thiền, anh ấy tôn thờ, và anh ấy là một người
tôn giáo. Thế còn anh thì sao? Em chẳng thấy chút tôn
giáo nào trong anh cả. Em chưa bao giờ thấy anh cầu
nguyện hay thiền. Mà anh lại bạo gan và dám nói điều
như vậy - rằng anh ấy sẽ chẳng bao giờ từ bỏ sao?”
Người này đứng dậy - anh ta trần như nhộng, đang
tắm mà - bước ra khỏi buồng tắm, đi ra phố. Cô vợ kêu
lên, “Anh có rồ không đấy? Anh làm gì vậy?”
Anh ta nói, “Anh đã từ bỏ.”
Anh ta không bao giờ quay lại nữa. Con người này
- anh ta đã hiểu. Anh ta chưa bao giờ chuẩn bị cho nó;
thậm chí không ai biết về anh ta, rằng anh ta là một
người tôn giáo, nhưng phẩm chất này... Anh ta tới
Mahavira, anh ta buông xuôi bản thân mình, anh ta trở
thành một fakir trần trụi.
Người vợ tới, kêu khóc. Thậm chí cả anh vợ cũng
tới để thuyết phục anh ta rằng, “Không gì phải vội.
Nhìn tôi đây này. Tôi đã nghĩ hai mươi năm nay. Còn
chú là kẻ điên - đây có phải là cách để từ bỏ không?”
Người này nói, “Tôi chẳng bận tâm, liệu có cách
nào khác không? Trong hai mươi năm anh đã liên tục
nghĩ, trong hai mươi kiếp anh sẽ tiếp tục nghĩ. Và bất
kì khi nào anh từ bỏ thì anh cũng sẽ từ bỏ theo cách
này, bởi vì đây là cách duy nhất - ngay lập tức.”
Bạn thấy sự việc một cách rõ ràng và nó xảy ra.
Vấn đề là ở tính rõ ràng. Cái nhìn ngay lập tức vào
trong bản chất của mọi vật, thế thì không có vấn đề về
việc thay đổi đâu đó trong tương lai. Không ai thay đổi
trong tương lai cả - biến đổi bao giờ cũng ở đây và bây
giờ. Khoảnh khắc này là khoảnh khắc duy nhất mà
điều gì đó có thể xảy ra. Không có khoảnh khắc khác.
Nếu con mắt này chưa bao giờ ngủ,
thì mọi mơ tự nhiên sẽ dừng lại.

Nếu tâm trí không tạo ra sự phân biệt,

thì mười nghìn thứ như chúng hiện hữu, chỉ là một
bản chất.

Nếu con mắt này chưa bao giờ ngủ... Đôi mắt này
sẽ phải ngủ bởi vì chúng là một phần của thân thể, và
thân thể không phải là năng lượng vĩnh hằng. Nó là cái
hợp thành, nó không phải là một lực sơ cấp. Nhiều thứ
tổ hợp vào nó. Nó là một thiết bị máy móc, cái máy
sinh học. Nó phụ thuộc vào việc nạp năng lượng liên
tục: thức ăn, nước, không khí. Năng lượng được tạo ra,
nhiên liệu được tạo ra và thân thể chạy - nó là cái máy.
Mắt bạn sẽ mệt mỏi bởi vì mọi máy móc đều mòn mỏi
cả.
Bạn có thể ngạc nhiên mà biết rằng có một phát
minh rất vĩ đại trong những năm gần đây rằng máy
móc phải nghỉ ngơi. Máy! Bạn chắc chưa bao giờ nghĩ
tới điều đó. Sao lại máy? Chúng đâu cần nghỉ. Bạn lái
xe trong hai mươi giờ, ba mươi giờ; chiếc xe cần nghỉ.
Bạn sẽ phân vân. Tại sao? Xe không phải là tâm trí, xe
không phải là tâm thức. Sao lại nghỉ? Nếu mọi thứ đều
vận hành ổn thoả thế thì bạn có thể cứ lái xe mãi, chỉ
cần đổ thêm nhiên liệu vào xe.
Bạn sai đấy. Bây giờ có những phương pháp để
đánh giá xem khi nào thì xe mệt. Và chiếc xe mệt bởi
vì mọi máy móc nhất định sẽ bị mệt mỏi. Nếu bạn để
chiếc xe trong ga ra vài giờ, những thiết bị này sẽ chỉ
ra khi nào chiếc xe sẵn sàng chuyển động lại.
Mọi máy móc đều cần nghỉ ngơi. Không chỉ thân
thể bạn - mọi máy móc đều cần nghỉ, thế thì nó phục
hồi lại. Chỉ tâm thức là không cần nghỉ, bởi vì nó
không phải là máy. Nó không cần nhiên liệu. Nó là
năng lượng vĩnh viễn, nó là năng lượng vĩnh hằng, nó
là năng lượng không nguyên nhân. Nó có đó, bao giờ
cũng có đó.
Đó là điều Tăng Xán dùng trong chỉ một lời: “Nếu
con mắt này chưa bao giờ ngủ...” Nếu không thì ông ấy
sẽ nói, “nếu đôi mắt này.” Đấy là con mắt thứ ba mà
ông ấy đang nói tới. Ngay cả khi thân thể bạn ngủ, bạn
có quan sát không? - quan sát một chút, bạn sẽ có khả
năng biết - cái gì đó trong bạn vẫn thức tỉnh. Thậm chí
khi bạn ngủ say, một cái gì đó, bạn có thể không biết
đích xác rõ ràng nó là gì, nhưng một điểm ở đâu đó
bên trong bạn vẫn là nhân chứng.
Đó là lí do tại sao vào buổi sáng bạn có thể nói,
“Đêm qua là một giấc ngủ ngon.” Nếu bạn thực sự
ngủ, ai mà biết được? Làm sao bạn biết được, bởi vì
bạn đã ngủ say? Ai quan sát điều đó để nói vào buổi
sáng rằng nó là say và ngon và không mơ? Thỉnh
thoảng bạn nói nó bị rối loạn, “Chỉ toàn mơ là mơ và
mình không thể nào ngủ ngon.” Ai biết? - ai đó vẫn
liên tục quan sát.
Đây là con mắt thứ ba, bao giờ cũng mở - thậm chí
không một nháy mắt nào, nó không bao giờ nháy mắt.
Nó không có tròng mắt, nó chưa bao giờ nhắm. Con
mắt thứ ba này chỉ là một điều tượng trưng. “Con mắt
thứ ba’ có nghĩa là trong bạn có cái nhìn vĩnh hằng,
tỉnh táo vĩnh hằng, nhân chứng vĩnh hằng, người
không hề ngủ. Và bởi vì nó không bao giờ ngủ, nên nó
không bao giờ mơ, bởi vì mơ là một phần của ngủ. Con
mắt thứ ba đó có thể thấy chân lí, bởi vì không có ngủ
và mơ.

Bạn phải tìm và kiếm điểm đó ở bên trong mình
điểm không bao giờ ngủ cả. Đây là toàn bộ việc tìm
kiếm, toàn bộ nỗ lực của người tìm kiếm. Chân lí
không ở đâu đó bên ngoài. Toàn bộ vấn đề là làm sao
tìm điểm đó ở bên trong bạn, điểm không bao giờ ngủ,
điểm chưa bao giờ vô thức, điểm bao giờ cũng tỉnh táo,
nhận biết. Đó là tia sáng của Thượng đế bên trong bạn.
Và một khi bạn tìm kiếm nó, tia sáng của sự quan
sát thường xuyên, thì từ tia sáng đó bạn có thể du hành
về chính cội nguồn. Cội nguồn đó là Thượng đế. Nếu
bạn có thể bắt giữ được một tia sáng, bạn có thể đạt tới
mặt trời, tới chính cội nguồn. Bạn chỉ phải du hành -
điều đó trở thành cách thức và con đường của bạn.
Tìm thấy nhân chứng bên trong, bạn đã tìm thấy
con đường. Bây giờ trở nên ngày một nhận biết nhiều,
nhiều và nhiều hơn nữa. Cho phép tất cả năng lượng
của bạn chuyển vào trong nhận biết đó. Và bạn càng
trở nên nhận biết hơn, thì lại càng ít mơ hơn... ít dần
đi... ít đi.
Và một khoảnh khắc tới... bỗng nhiên bạn chỉ là
nhân chứng đó, tâm trí đã biến mất. Toàn bộ năng
lượng của tâm trí đã tan biến vào trong con mắt thứ ba
này. Hai mắt đã biến mất, bây giờ bạn chỉ là nhân
chứng. Bản thân việc chứng kiến này là điểm mà từ đó
thế giới biến mất và điều thiêng liêng lộ ra.
Nếu con mắt này chưa bao giờ ngủ,
thì mọi mơ tự nhiên sẽ dừng lại.
Nếu tâm trí không tạo ra sự phân biệt,
thì mười nghìn thứ như chúng hiện hữu, chỉ là một
bản chất.

Và khi bạn là một... Nhớ lấy, ngay bây giờ bạn
đang có hai mắt; thậm chí cái nhìn của bạn cũng là nhị
nguyên. Jesus nói với các đệ tử của mình, “Nếu các
ông trở thành một mắt thì mọi thứ sẽ được đặt đúng
chỗ.”
Trong thân thể mọi thứ đều hai: hai mắt, hai tai, hai
tay, hai chân, hai thận - mọi thứ đều hai bởi vì thân thể
theo chủ nghĩa nhị nguyên. Chỉ một thứ trong bạn tồn
tại như một, và đó là con mắt chứng kiến. Cái đó
không phải là một phần của thân thể bởi vì trong thân
thể bao giờ cũng có hai. Mọi thứ đều hai, bị phân chia.
Thân thể tồn tại như một cực giữa hai điều.
Thậm chí tâm trí bạn cũng là hai: bạn có não trái
và não phải, và chúng bị phân chia. Nếu cây cầu giữa
chúng bị gẫy, và đôi khi điều đó xảy ra, thế thì nhân
cách chia chẻ xảy ra. Ai đó bị ngã từ tầu hoả và cây
cầu nối não trái và phải bị gẫy - và đấy là một cây cầu
rất tinh tế. Thế thì người này trở thành hai, thế thì
người này không còn là một nữa. Thế thì đôi khi người
này là A hay đôi khi người này là B, hay đôi khi người
này là cả hai. Và bạn không thể nào hiểu được người
này đang làm gì, điều gì đang xảy ra. Người ấy bị chia
chẻ.
Người thuận tay phải phát triển não trái; người
thuận tay trái phát triển não phải. Cho nên nếu người
thuận tay trái bị buộc phải làm mọi việc bằng tay phải
thì người đó sẽ bị rắc rối không cần thiết, bởi vì não
trái của người đó không được phát triển chút nào. Cho
nên người đó sẽ viết... Bạn cố gắng. Một số trong các
bạn phải là thuận tay trái bởi vì mười phần trăm mọi
người là thuận tay trái, dù họ có biết hay không.

Bởi vì sự chi phối của những người thuận tay phải
trên thế giới này, bởi vì họ chiếm chín mươi phần trăm,
nên nhiều đứa trẻ bị buộc phải liên tục viết bằng tay
phải. Chúng khổ sở không cần thiết; chúng sẽ vẫn còn
khờ dại trong toàn bộ các kiếp sống của mình chỉ bởi
vì chúng bị bắt buộc. Chúng không thể nào cạnh tranh
nổi với những người thuận tay phải. Bộ não trái của
chúng không vận hành tốt, và nếu chúng làm việc bằng
nó thì chúng sẽ gặp khó khăn.
Nếu bạn là người thuận tay phải, thử viết bằng tay
trái mà xem. Bạn sẽ viết giống như đứa trẻ nhỏ. Tại
sao? Bởi vì phần đó cũng giống hệt đứa trẻ nhỏ, nó
không được phát triển.
Thậm chí đến não cũng bị phân chia, mọi thứ đều
bị phân chia trong thân thể. Điều duy nhất mà là một là
con mắt thứ ba - việc chứng kiến. Nó là một. Nếu bạn
muốn là một ở trong mình, tìm cái điểm đó của tâm
thức chứng kiến. Khi bước đi, quan sát. Khi ăn, quan
sát. Khi sắp ngủ, rơi vào giấc ngủ trong khi quan sát
điều đang xảy ra.
Chẳng chóng thì chầy, rồi một ngày nào đó bạn
bỗng nhiên hiểu ra rằng thân thể đã rơi vào giấc ngủ
nhưng bạn vẫn quan sát. Thân thể đang đi vào giấc
ngủ, dần dần, và dần dần, gần như chết, còn bạn vẫn
quan sát. Thế rồi bạn sẽ thấy mơ tâm trí bị vứt bỏ, rơi
rụng đi, biến mất. Bạn vẫn quan sát - và bỗng nhiên
bạn bừng sáng. Bạn đã đạt tới việc chứng kiến.
Với việc chứng kiến mơ biến mất, và với mơ biến
mất, tất cả các ảo tưởng, maya cũng biến theo. Và thế
thì bạn thấy rằng mọi thứ đều thuộc về một bản chất.
Cây cối có thể khác, về hình dạng, nhưng cái vô hình
bên trong chúng là một. Tảng đá là một với cây cối,
cây cối là một với vì sao, vì sao là một với bạn. Mọi
thứ đều được nối với nhau.
Ngay bây giờ bạn chỉ thấy hình dạng, bởi vì với
tâm trí thì chỉ thấy được hình dạng mà thôi. Với vô trí
mới có thể thấy cái vô hình. Khi bạn thấy cái vô hình,
thế thì toàn bộ thế giới này chỉ tựa như một đại dương,
và tất cả mọi hình dạng đều chỉ là sóng. Trong tất cả
các con sóng đại dương đều đang dậy sóng - cái một.
Ngay bây giờ mọi thứ là nhiều. Không phải mọi
thứ là nhiều đâu, đấy chỉ vì bạn bị phân chia bên trong.
Đó là lí do tại sao mọi thứ đều có vẻ là nhiều. Điều đó
cũng hệt như việc bạn làm vỡ gương - nhiều mảnh.
Thế thì mỗi mảnh sẽ phản chiếu và bạn sẽ thấy nhiều
khuôn mặt. Bạn đang đứng đó, bạn là một, nhưng tấm
gương bị vỡ - bạn thấy nhiều khuôn mặt.
Tôi đã nghe một câu chuyện cổ:
Nhà vua làm một cung điện. Cả cung điện làm
bằng những tấm gương nhỏ, hàng triệu tấm gương.
Bạn đi vào cung điện đó và bạn thấy bản thân mình
được phản xạ theo cả triệu cách, cả triệu khuôn mặt tất
cả đều bao quanh bạn. Bạn là một, nhưng gương lại là
nhiều.
Có lần chuyện xảy ra một con chó đi vào trong
cung điện này và gặp nhiều khó khăn bởi vì nó nhìn và
nó trở nên hoảng sợ. Nó bắt đầu sủa, thế là cả triệu con
chó tất cả xung quanh cũng bắt đầu sủa. Nó nghĩ, “Bây
giờ thì hết thoát được rồi. Và vấn đề không phải là một
kẻ thù - hàng triệu con chó, và tất cả đều nguy hiểm!”

Nó nhẩy vào chúng, nó bắt đầu đánh nhau với chúng.
Nó phá tan bức tường và chết.
Đây là điều đã xảy ra cho bạn, đây là điều đang
xảy ra cho mọi người. Chân lí là một, nhưng tâm trí có
nhiều mảnh. Mọi thứ trở nên bị phân chia và thế thì
bạn trở nên sợ hãi - kẻ thù khắp mọi nơi. Thế thì bạn
sủa, thế thì bạn bắt đầu tranh đấu, bạn trở nên hung
hăng, bạn bắt đầu cố gắng đề phòng cho mình - một
cách không cần thiết, bởi vì không ai tấn công bạn cả.
Bạn trở thành người mang chứng hoang tưởng. Và thế
rồi bạn phá tan vào bản thể mình bởi ảo tưởng của
mình và bạn chết.
Bạn sống trong khổ sở, bạn chết trong khổ sở. Trở
thành một ở bên trong và bỗng nhiên mọi thứ bên
ngoài trở thành một. Như bạn hiện hữu, vũ trụ cũng
vậy - bạn bị phân chia, vũ trụ bị phân chia; bạn không
phân chia, vũ trụ không phân chia.
...mười nghìn thứ như chúng hiện hữu, chỉ là một
bản chất.
Hiểu bí ẩn này của bản chất cái một
là thoát ra khỏi mọi dính líu.
Khi mọi thứ đều được thấy một cách bình đẳng,
thì cái ta bản chất vô thời gian được đạt tới.
Không việc so sánh hay tương tự nào là có được
trong trạng thái vô nguyên nhân, vô quan hệ này.

Đó là lí do tại sao chẳng có thể nói được gì về sự
bừng sáng tối thượng này - bởi vì nó là một còn lời thì
lại tồn tại trong nhị nguyên. Bạn có thể nói điều gì đó,
nhưng bất kì cái gì bạn nói đều sẽ không phải là điều
đúng, bởi vì nó ở một mức độ khác, một chiều hướng
khác.
Lễ Nô en tới gần, và một ông trùm, một người rất
giầu có, hỏi con mình, “Com muốn quà gì nhân ngày lễ
Nô en, một món quà cho con?”
Đứa con nói, “Một em bé.”
Ông trùm nói, “Nhưng bố không có đủ thời gian để
làm điều đó. Chỉ còn lại hai tuần nữa thôi.”
Thế là đứa con nói, “Có vấn đề gì với điều đó đâu?
Bố không thể thêm người vào công việc đó được hay
sao?”
Bởi vì nó bao giờ cũng lắng nghe - nếu việc nào đó
cần phải được hoàn thành thế thì phải đưa thêm nhiều
người vào làm. “Vậy tại sao, có gì rắc rối nào? Bố
không thể thêm người vào công việc đó được hay
sao?” Và thật khó mà nói cho đứa trẻ rằng điều nó nói
là sai - nó hoàn toàn logic.
Đây là tình huống đó. Bạn biết về thế giới của cái
nhiều. Đứa trẻ biết về thế giới công việc quanh ngôi
nhà, mọi ngày điều đó xảy ra. Người bố giầu có bao
giờ cũng đưa thêm nhiều người vào công việc và kết
thúc mọi sự trong vài khoảnh khắc. Nó biết ngôn ngữ
đó, nhưng nó không biết điều bí ẩn của cách thức cuộc
sống đi vào trong thế giới này. “Thêm nhiều người nữa
vào việc này đi!” Nó logic và khó mà làm cho nó hiểu
được trừ phi nó lớn lên, lớn lên trong hiểu biết.
Bạn biết ngôn ngữ của nhị nguyên, ngôn ngữ của
thế giới này. Không thể nào nói cho bạn bất kì điều gì

về cái một tinh tuý này được. Bất kì điều gì được nói ra
cũng sẽ bị hiểu sai, hiểu lầm - trừ phi bạn trưởng thành.
Đây là toàn bộ vấn đề.
Nhiều lần mọi người tới tôi và họ hỏi các câu hỏi.
Câu hỏi của họ có liên quan nhưng tôi không thể nào
trả lời được, bởi vì câu trả lời chỉ có thể có khi bạn
trưởng thành. Và họ nghĩ, “Mình hỏi và câu trả lời phải
có đó rồi, có sẵn rồi.” Họ nghĩ, “Nếu mình có thể hỏi
được và nói rõ ràng câu hỏi thì thế là đủ - bây giờ thầy
đưa ra câu trả lời đi!”
Nhưng có những câu trả lời có thể đưa ra cho bạn
chỉ khi bạn trưởng thành. Và đây là vấn đề: khi bạn
trưởng thành lại chẳng cần trao chúng cho bạn nữa,
bạn đơn giản hiểu. Khi đứa trẻ này lớn lên, liệu có cần
chúng ta phải bảo nó rằng nó ngu xuẩn không? Nó sẽ
cười, nó sẽ nói, “Vâng, con đã hiểu. Vấn đề không phải
là thêm người vào công việc này. Đấy không phải là
công việc chút nào.”
Khi bạn trưởng thành bạn sẽ hiểu, nhưng bạn hỏi
khi bạn còn giống như trẻ con. Và bạn nghĩ rằng câu
hỏi của bạn là phải, nên câu trả lời phải được đưa ra.
Không chân lí nào có thể được nói cho bạn cả và tất cả
những điều nói ra được thì bao giờ cũng chỉ là gần đó,
xấp xỉ. Và nhớ lấy, không có cái gì như chân lí xấp xỉ
cả. Hoặc nó là chân lí hoặc nó là phi chân lí. Cho nên
bất kì điều gì được nói ra cũng đều là vô nghĩa. Khi
bạn biết, bạn sẽ cười. Nhưng không có cách nào khác,
không cái gì khác có thể được làm.
Cho nên tất cả những lời của Tăng Xán hay Phật
hay của bất kì ai cũng chỉ để lôi cuốn bạn hướng tới sự
trưởng thành. Điều họ nói không quan trọng lắm. Nếu
bạn trở nên quan tâm và bắt đầu trưởng thành và đi vào
trong một chiều hướng mà bạn không biết gì cả, đó
mới là vấn đề.
Hiểu bí ẩn này của bản chất cái một
là thoát ra khỏi mọi dính líu.
Khi mọi thứ đều được thấy một cách bình đẳng,
thì cái ta bản chất vô thời gian được đạt tới.
Không việc so sánh hay tương tự nào là có được
trong trạng thái vô nguyên nhân, vô quan hệ này.

Không có nguyên nhân cho điều tối thượng, bởi vì
nguyên nhân sẽ tới từ đâu? Điều tối thượng là cái toàn
thể. Điều tối thượng là không có quan hệ, bởi vì nó sẽ
có quan hệ với ai? Nó một mình thôi.
Vậy thì phải làm gì? Nói thế nào? Nếu điều gì đó
là có quan hệ, thì điều gì đó có thể được nói về nó
được; nếu điều gì đó là có nguyên nhân, thế thì điều gì
đó có thể được nói về nó, bởi vì ít nhất cái hai đã bước
vào. Ngôn ngữ trở thành có thể nếu cái hai có đó. Nếu
chỉ cái một là có đó, mọi ngôn ngữ đều trở thành hoàn
toàn ngớ ngẩn.
Phải nói gì về cái Một không nguyên nhân này?
Chỉ một điều có thể được làm và đó là: tìm ra bên
trong bạn điều gì đó không nguyên nhân. Tìm điều gì
đó bên trong bạn mà là một, và bạn đang trên con
đường đúng.
Bạn không bận tâm về triết lí, bạn không đi mãi
vào trong biện luận kiểu này kiểu nọ. Có hàng triệu
cách biện luận và mọi biện luận đều trở thành vướng

mắc, và mọi triết lí đều trở thành tù túng mới. Bạn
không bận tâm về triết lí, học thuyết, kinh sách.
Bạn đơn giản làm một điều và đó là: tìm ra cái gì
đó không nguyên nhân ở bên trong bạn, và tìm ra cái gì
đó là cái một bên trong bạn - và cái đó là như nhau, bởi
vì chỉ cái Một mới là không nguyên nhân.
Và một khi bạn có một thoáng nhìn nhỏ bên trong
mình về cái không nguyên nhân, về cái Một, bạn đã
tìm thấy lối mòn. Bây giờ mục tiêu không ở xa nữa. Và
bây giờ bạn không cần làm điều gì cả. Bây giờ, giống
như lực hấp dẫn, mục tiêu này sẽ kéo bạn; bây giờ,
giống như từ lực, bạn sẽ bị kéo về nó. Bây giờ bạn đã
đi vào khu vực mà từ trường có thể ảnh hưởng tới. Bạn
chỉ cần làm một điều - đi vào nó. Thế thì trung tâm này
sẽ kéo bạn, thế thì không cần nỗ lực nào khác.
Toàn bộ nỗ lực là làm sao đi vào tiếp xúc với sinh
lực của riêng bạn. Sự tiếp xúc này đã bị mất và tan vỡ.
Bạn chỉ ở gần, nhưng việc ở gần cũng là một khoảng
cách. Một chút đổi hướng, chỉ nhìn lại, và mọi sự bắt
đầu thay đổi.
Khi chúng thay đổi bạn sẽ cười: “Sao điều ấy lại
vất vả thế?” Nhưng nếu chúng không xảy ra thì đó là
khó khăn. Tại sao những người như Tăng Xán cứ nói
mãi ngay bây giờ, ngay lập tức, tức khắc điều đó có thể
xảy ra? Cố tìm ra một điều không nguyên nhân bên
trong bạn đi. Bạn sẽ làm điều đó thế nào? Thử với tôi -
tìm ra một điều mà vẫn còn không thay đổi ở bên trong
bạn.
Buổi sáng bạn dậy, cả ngày bạn làm việc - hàng
triệu mối bận tâm, hội họp, quan hệ. Mọi thứ đều thay
đổi, nhiều tâm trạng tới rồi đi; đôi khi bạn cảm thấy
giận dữ, đôi khi bạn cảm thấy hạnh phúc, đôi khi bạn
cảm thấy buồn rầu và đôi khi rất vui sướng, và đôi khi
tiêu cực và đôi khi tích cực.
Mọi thứ đều thay đổi - giống như thời tiết, mọi thứ
thay đổi. Ban ngày bạn thức, ban đêm bạn phải đi ngủ.
Ban ngày bạn nghĩ, ban đêm bạn mơ. Mọi thứ cứ diễn
ra như một luồng. Tra một điều trong toàn thể cái
luồng này mà vẫn còn như cũ... đó là việc chứng kiến.
Ban đêm bạn chứng kiến các mơ; mơ thay đổi
nhưng nhân chứng, việc chứng kiến vẫn còn như cũ.
Ban ngày bạn chứng kiến các tâm trạng: buồn bã, giận
dữ, hạnh phúc. Tâm trạng thay đổi nhưng việc chứng
kiến vẫn còn như cũ. Mạnh khoẻ, bạn chứng kiến
mạnh khoẻ; không mạnh khoẻ, bạn chứng kiến ốm yếu.
Giầu có, bạn chứng kiến sung túc; nghèo khó, bạn
chứng kiến nghèo nàn. Một điều vẫn còn liên tục như
cũ và đó là chứng kiến. Và mọi thứ khác đều có
nguyên nhân. Việc chứng kiến này là không nguyên
nhân.
Ai đó nói điều gì đó, ca ngợi bạn, bạn cảm thấy
hạnh phúc - đấy là có nguyên nhân. Một người bạn tới
gặp bạn và bạn cảm thấy hạnh phúc - đấy là có nguyên
nhân. Ai đó nói điều gì đó, xúc phạm bạn, bạn cảm
thấy bất hạnh - đấy là có nguyên nhân. Thời tiết không
tốt, bạn cảm thấy buồn bã và thất vọng - đấy là có
nguyên nhân. Thời tiết nắng ráo, bạn cảm thấy tốt lành,
rung động, chuyển động, tích cực - đấy là có nguyên
nhân. Nếu trong ngày bạn không ăn, trong đêm bạn mơ
rằng bạn đang ăn thức ăn ngon - đấy là có nguyên
nhân.

Nhìn vào mọi thứ đang xảy ra cho bạn đi. Chúng
có nguyên nhân không? Nếu chúng có nguyên nhân,
đừng bận tâm nhiều về chúng; chúng thuộc về thế giới
của ảo tưởng. Bạn đang tìm kiếm cái không nguyên
nhân. Việc chứng kiến, bạn sẽ thấy, là điều không
nguyên nhân duy nhất. Nó không nguyên nhân, không
ai tạo ra nó.
Đó là lí do tại sao chư phật nói duy nhất thầy mới
có thể chỉ cho bạn con đường. Thầy không thể gây ra
bất kì biến đổi nào, bởi vì toàn bộ sự việc là tìm kiếm
cái không nguyên nhân, cho nên làm sao thầy lại có thể
gây ra điều đó được? Không ai gây ra nó cả. Thầy đơn
giản chỉ cho bạn con đường - bạn phải đi trên nó.
Không vị phật nào có thể biến đổi được bạn. Nếu
vị phật có thể biến đổi bạn thì đó cũng sẽ là một phần
của thế giới ảo tưởng, bởi vì lần nữa bạn lại có nguyên
nhân. Nếu bạn tới tôi và bạn cảm thấy hạnh phúc, thì
cảm giác đó là có nguyên nhân. Nếu bạn đi xa tôi và
bạn cảm thấy bất hạnh, thì cảm giác đó là có nguyên
nhân.
Nhìn đi: hạnh phúc, bất hạnh, buồn bã, vui sướng,
chúng tới và đi, chúng là thời tiết quanh bạn. Việc
chứng kiến vẫn còn ở chính trung tâm, không nguyên
nhân, cái một. Tìm cái đó bên trong mình và thế thì
mọi thứ trở thành rõ ràng. Khi bạn rõ ràng bên trong,
mọi thứ đều trong suốt. Chân lí ở mọi nơi quanh bạn,
bạn chỉ phải trở thành cái một.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #8 Sống trong niền tin đúng

Coi chuyển động là tĩnh tại và tĩnh tại trong
chuyển động, và cả hai trạng thái của chuyển động và
trạng thái của nghỉ ngơi đều biến mất.
Khi những cái nhị nguyên đó dừng tồn tại, bản
thân cái một không thể tồn tại.
Với cái chung cuộc tối thượng này thì không luật
hay mô tả nào áp dụng được.
Với tâm trí thống nhất theo Đạo tất cả mọi cố gắng
tự định tâm đều dừng.
Hoài nghi và do dự tan biến và sống trong niềm tin
đúng là điều có thể.
Chỉ với một cú chúng ta thoát khỏi tù túng; không
cái gì níu bám chúng ta và chúng ta không ôm giữ cái
gì.
Tất cả là trống rỗng, rõ ràng, tự chói sáng, không
dùng tới sức mạnh của tâm trí.
Tại đây ý nghĩ, cảm giác, tri thức và tưởng tượng
đều không có giá trị.

Coi chuyển động là tĩnh tại
và tĩnh tại trong chuyển động,
và cả hai trạng thái của chuyển động
và trạng thái của nghỉ ngơi đều biến mất.

Đây là một trong những điều bản chất nhất. Cố
hiểu thật sâu sắc nhất. Tâm trí có thể thấy chỉ một cực,
còn thực tại là hai cực, hai cực đối lập nhau. Tâm trí có
thể thấy một cực đoan; trong cực đoan này thì cực
đoan kia bị che kín, nhưng tâm trí không thể hiểu thấu
được nó. Và chừng nào bạn còn chưa thấy cả hai cái
đối lập cùng nhau, bạn sẽ không bao giờ có khả năng
thấy điều đang hiện hữu, và bất kì cái gì bạn thấy cũng
sẽ sai, bởi vì nó sẽ là một nửa.
Nhớ lấy, chân lí chỉ có thể là cái toàn thể. Nếu nó
là một nửa, nó thậm chí còn nguy hiểm hơn là nói dối,
bởi vì một nửa chân lí mang ý nghĩa của việc đúng và

nó lại không đúng. Bạn bị nó lừa dối. Biết chân lí là
biết cái toàn thể trong mọi thứ.
Chẳng hạn, bạn thấy chuyển động, cái gì đó đang
chuyển động - nhưng liệu chuyển động có thể có
không nếu thiếu cái gì đó ẩn bên trong mà không
chuyển động? Chuyển động là không thể có nếu thiếu
một cái gì đó không chuyển động bên trong nó.
Bánh xe chuyển động, nhưng trung tâm của bánh
xe này vẫn còn không chuyển động; nó di chuyển trên
cái trung tâm không chuyển đó. Nếu bạn chỉ thấy bánh
xe bạn mới thấy được một nửa, và một nửa là rất nguy
hiểm. Và nếu, trong tâm trí bạn, bạn làm một nửa
thành cái toàn thể, thế thì bạn đã rơi vào trong thế giới
ảo tưởng của khái niệm.
Bạn yêu một người; bạn chưa bao giờ thấy rằng
ghét đang ẩn kín bên trong tình yêu của bạn. Nó có đó;
dù bạn thích nó hay không thì cũng chẳng thành vấn
đề. Bất kì khi nào bạn yêu, ghét đều hiện diện ở đó -
cực đối lập - bởi vì yêu không thể tồn tại mà không có
ghét. Việc yêu của bạn không thành vấn đề. Nó là vậy.
Yêu không thể tồn tại mà không có ghét. Bạn yêu
người này và bạn ghét cũng người đó, nhưng tâm trí
chỉ có thể thấy một. Khi tâm trí thấy yêu, nó dừng thấy
ghét; khi ghét tới, khi tâm trí bám vào ghét, nó dừng
thấy yêu. Và nếu bạn muốn vượt ra ngoài tâm trí, bạn
phải thấy đồng thời cả hai - cả hai cực đoan, cả hai cái
đối lập.
Điều đó cũng giống hệt như con lắc đồng hồ. Con
lắc đi sang phải; tất cả những điều thấy được là ở chỗ
con lắc đang đi sang phải. Nhưng có một cái gì đó bên
trong không thấy được, và đó là cái mà trong khi con
lắc đang chuyển sang phải thì nó thu được đà để đi
sang trái. Điều đó không thật là trực quan, nhưng bạn
sẽ thấy ngay thôi.
Một khi đạt tới cực điểm con lắc bắt đầu đi sang
cực đối lập, nó đi sang trái. Và nó đi sang trái tới cùng
mức độ như nó đã đi sang phải. Trong khi di chuyển
sang trái, lần nữa bạn có thể bị lừa. Bạn sẽ thấy nó
đang di chuyển sang trái, nhưng sâu bên trong nó đang
thu thập năng lượng để đi sang phải.
Trong khi bạn yêu, bạn thu thập năng lượng để
ghét; trong khi bạn ghét, bạn đang thu thập năng lượng
để yêu. Trong khi bạn sống bạn đang thu thập năng
lượng để chết, và khi bạn chết bạn sẽ thu thập năng
lượng để được tái sinh.
Nếu bạn chỉ thấy cuộc sống thì bạn sẽ bị lỡ. Thấy
cái chết ẩn kín ở mọi nơi trong cuộc sống đi! Và nếu
bạn có thể thấy rằng cái chết đang ẩn nấp trong cuộc
sống, thế thì bạn có thể thấy điều ngược lại nữa: rằng
trong cái chết cuộc sống lại được ẩn kín. Thế thì cả hai
cực biến mất. Khi bạn thấy chúng trong sự cùng nhau
của chúng, một cách đồng thời, với điều đó tâm trí bạn
biến mất. Tại sao? - bởi vì tâm trí chỉ có thể là bộ phận,
nó không bao giờ có thể là toàn thể.
Bạn sẽ làm gì nếu bạn thấy ghét ẩn trong yêu? Nếu
bạn thấy yêu ẩn trong ghét, thế thì bạn sẽ chọn cái gì?
Chọn lựa sẽ trở thành không thể được, bởi vì nếu bạn
thấy, “Mình chọn yêu,” bạn cũng thấy bạn đang chọn
ghét. Và làm sao một người yêu lại có thể chọn ghét
được?

Bạn có thể chọn bởi vì ghét không rõ ràng cho bạn.
Bạn đã chọn yêu, và thế thì bạn nghĩ bởi điều ngẫu
nhiên nào đó ghét đã xảy ra. Nhưng khoảnh khắc bạn
chọn yêu, bạn đã chọn ghét rồi. Khoảnh khắc bạn níu
bám lấy sống, bạn đang níu bám lấy chết. Không ai
muốn chết - thế thì đừng níu bám lấy sống, bởi vì sống
đang đưa tới chết.
Cuộc sống tồn tại trong các cực còn tâm trí tồn tại
trong một phần của một cực; đó là lí do tại sao tâm trí
sai. Và tâm trí cố gắng làm cho một phần thành toàn
thể. Tâm trí nói, “Mình yêu người đàn ông này hay
người đàn bà này và mình đơn giản yêu thôi. Làm sao
mình có thể ghét người đàn bà này được? Khi mình
yêu, thì mình yêu; ghét là không thể có được.”
Tâm trí có vẻ logic nhưng nó sai. Nếu bạn yêu,
ghét là có thể đấy; ghét là có thể chỉ nếu bạn yêu. Bạn
không thể ghét một người mà không yêu người đó; bạn
không thể làm ra kẻ thù mà không làm người ấy trước
hết là bạn của bạn. Chúng đi cùng nhau, chúng chỉ là
hai mặt của một đồng tiền. Bạn nhìn vào một mặt, mặt
kia bị ẩn kín đằng sau - nhưng cái kia có đó, bao giờ
cũng chờ đợi. Và bạn càng đi sang bên trái nhiều hơn,
thì bạn càng sẵn sàng đi sang bên phải nhiều hơn.
Điều gì sẽ xảy ra nếu tâm trí có thể thấy cả hai
điều cùng nhau? Tâm trí không có khả năng đó, bởi vì
thế thì toàn bộ vấn đề trở thành ngớ ngẩn thế, phi logic
thế. Tâm trí có thể sống chỉ trong một khuôn khổ logic,
rõ ràng, cái đối lập bị phủ nhận. Bạn nói, “Đây là bạn
tôi và kia là kẻ thù tôi.” Bạn không bao giờ nói, “Đây
là bạn tôi và là kẻ thù tôi.” Nếu bạn nói điều đó thì mọi
sự thành phi logic. Và nếu bạn cho phép điều phi logic
đi vào, chúng làm tan nát tâm trí hoàn toàn - tâm trí bị
vứt bỏ.
Khi bạn nhìn vào cái ngớ ngẩn của cuộc sống, vào
cách cuộc sống đi qua những mâu thuẫn, cách thức
cuộc sống sống qua các phía đối lập, bạn phải vứt bỏ
tâm trí. Tâm trí cần những đường biên rõ ràng mà cuộc
sống thì lại không. Bạn không thể tìm ra bất kì cái gì
ngớ ngẩn hơn cuộc sống, hơn sự tồn tại. ‘Ngớ ngẩn’ là
từ dành cho nó, nếu bạn nhìn vào cả hai cực cùng
nhau.
Bạn gặp gỡ - bạn gặp gỡ chỉ để ra đi. Bạn thích
một người - bạn thích một người chỉ để không thích.
Bạn hạnh phúc - bạn hạnh phúc chỉ để gieo hạt mầm
bất hạnh. Bạn có thể quan niệm được tình huống nào
ngớ ngẩn hơn thế không? Nếu bạn muốn hạnh phúc,
bạn đã muốn bất hạnh rồi; bây giờ bạn sẽ trong khổ sở
liên tục.
Phải làm gì? Chẳng còn lại gì để tâm trí làm cả.
Tâm trí đơn giản biến mất. Và khi tâm trí biến mất,
cuộc sống không có vẻ ngớ ngẩn nữa, thế thì cuộc sống
trở thành điều bí ẩn.
Điều này phải được hiểu, bởi vì cuộc sống có vẻ
ngớ ngẩn vì tính quá logic của tâm trí; cuộc sống
hoang dại bởi vì bạn đã sống trong khu vườn nhân tạo
quá lâu rồi. Bạn đi vào trong rừng rậm và nó có vẻ
hoang dại, nhưng nó có vẻ hoang dại bởi vì so sánh.
Một khi bạn hiểu rằng cuộc sống là như vậy, cuộc sống
là sao cho cái đối lập bao giờ cũng tham dự vào...
Yêu một người và ghét sẽ tới. Làm bạn và kẻ thù
được sinh ra. Hạnh phúc và đâu đó, từ cửa sau, bất

hạnh đang đi vào. Vui thích khoảnh khắc này và lập
tức bạn sẽ kêu khóc. Cười, và ngay sau cái cười là
nước mắt, đang đợi để trào ra. Thế thì phải làm gì?
Chẳng có gì còn lại để làm cả. Đây là cách thức mọi sự
hiện hữu.
Và Tăng Xán nói
Coi chuyển động là tĩnh tại ...

Đó là điều ông ấy đang nói. Ông ấy đang nói khi
bạn thấy điều gì đó chuyển động, nhớ lấy, một cái gì
đó bên trong là tĩnh tại. Và tất cả mọi chuyển động đều
sẽ dẫn tới tĩnh tại. Nó sẽ đi đâu? Bạn chạy, bạn bước,
bạn di chuyển. Bạn đang đi đâu? - chỉ nghỉ ở đâu đó,
chỉ ngồi ở đâu đó. Bạn đang chạy chỉ để nghỉ ở đâu đó.
Cho nên việc chạy đạt tới nghỉ ngơi, chuyển tới trạng
thái tĩnh tại.
Và tĩnh tại đó đã có đấy rồi. Bạn chạy và thấy - cái
gì đó bên trong bạn không chạy, nó không thể chạy
được. Tâm thức bạn vẫn còn tĩnh tại. Bạn có thể đi
khắp thế giới; cái gì đó bên trong bạn không bao giờ di
chuyển, không thể di chuyển - và tất cả chuyển động
đều phụ thuộc vào cái trung tâm bất di bất dịch ấy. Bạn
tham dự vào mọi loại tình huống, xúc động, nhưng cái
gì đó trong bạn vẫn còn không động tới, không dính líu
tới. Và toàn thể cuộc sống dính líu thành có thể bởi vì
cái yếu tố không dính líu đó.
Bạn yêu một người, bạn yêu nhiều hết sức mình,
nhưng sâu bên dưới một cái gì đó vẫn còn cách biệt,
tách rời. Nó phải là như vậy, nếu không thì bạn sẽ bị
mất. Một cái gì đó vẫn còn tách biệt thậm chí cả trong
gắn bó. Và gắn bó càng lớn, thì cái cảm giác về điểm
tách biệt đó bên trong bạn sẽ càng lớn, bởi vì không có
cái đối lập thì chẳng cái gì có thể tồn tại cả. Mọi thứ
tồn tại theo cách thức đối lập.
Coi chuyển động là tĩnh tại
và tĩnh tại trong chuyển động...

Và khi bạn thấy điều gì đó tĩnh tại, đừng bị lừa - nó
là tĩnh tại nhưng một cái gì đó đã chuyển động. Bây
giờ các nhà khoa học nói rằng mọi thứ đều chuyển
động, thậm chí cả bức tường tĩnh tại này, tảng đá này.
Chúng đang chuyển động nhanh đến mức, các nguyên
tử của chúng đang chuyển động nhanh đến mức bạn
không thể thấy sự chuyển động đó. Đó là lí do tại sao
chúng có vẻ tĩnh tại.
Chuyển động này là nhanh thế, cùng tốc độ như tia
sáng chuyển động. Tia sáng chuyển động ba trăm
nghìn ki lô mét một giây. Đây là chuyển động của
nguyên tử. Nó di chuyển theo đường tròn. Nó đi nhanh
điên khùng, nó có vẻ tĩnh.
Chẳng cái gì tĩnh tại cả và chẳng cái gì lại hoàn
toàn chuyển động cả. Mọi thứ đều là cả hai - cái gì đó
chuyển động, cái gì đó tĩnh tại - và tĩnh tại vẫn còn là
cơ sở cho tất cả mọi chuyển động. Khi bạn thấy điều gì
đó tĩnh tại, đừng bị lừa; nhìn vào bên trong và ở đâu đó
bạn sẽ thấy chuyển động đã xảy ra. Khi bạn thấy điều
gì đó chuyển động, tìm cái tĩnh tại đi. Bạn bao giờ
cũng sẽ thấy nó ở đó, điều đó là hoàn toàn chắc chắn,
bởi vì một cực đoan không thể tồn tại một mình.

Nếu tôi đưa cho bạn một chiếc gậy và bảo bạn rằng
chiếc gậy này chỉ có một đầu, không có đầu kia, bạn sẽ
nói điều đó là không thể được. Nếu nó có đầu này thế
thì đầu kia phải có đó, có thể bị che kín, nhưng không
thể nào chiếc gậy chỉ có một đầu được. Đầu kia phải có
đó; nếu có cái bắt đầu, cái kết thúc phải có đó.
Đây là điều Phật nói mãi, “Nếu ông được sinh ra,
cái chết phải có đó. Mọi thứ có sinh đều có diệt." Bởi
vì một đầu là sự bắt đầu, thế thì đầu kia ở đâu, đầu kia
của chiếc gậy? Nó phải có đó. Mọi thứ sinh ra đều phải
chết đi, mọi thứ được làm ra sẽ tan ra, mọi thứ được
gắn lại sẽ rời ra, mọi gặp gỡ đều là việc ra đi, mọi việc
tới đều ra việc đi.
Nhìn vào cả hai đồng thời và ngay lập tức tâm trí
biến mất. Bạn có thể hơi bị choáng, bởi vì tâm trí đã
sống với phân ranh giới logic, sáng tỏ logic. Khi tất cả
mọi sự phân biệt đều biến mất, thậm chí cả cái đối lập
bị che giấu trong mọi vật, tâm trí cảm thấy choáng.
Cho phép cái choáng đó, để cho nó xảy ra đi.
Chẳng bao lâu cái choáng đó sẽ tan đi và bạn sẽ lắng
đọng vào trong trí huệ mới, hiểu biết mới, cái nhìn mới
về thực tại.
Cái nhìn mới này về thực tại là cái toàn thể, và với
cái toàn thể này bạn là cái trống rỗng. Không có ý kiến
gì về nó; bây giờ bạn biết mọi ý kiến đều là sai.
Ai đó hỏi Mahavira, “Có Thượng đế không?”
Và Mahavira nói, “Có, không. Có và không cả
hai.”
Người này phân vân. Người đó nói, “Tôi không
theo được. Hoặc là thầy nói có hoặc là thầy nói không,
nhưng đừng nói mọi thứ cùng nhau.”
Mahavira nói, “Chỉ có ba quan điểm. Nếu ông
muốn nghe cái toàn thể, tôi có bẩy quan điểm về mọi
thứ.”
Và Mahavira có thật! Trước hết ông ấy nói có -
một quan điểm - không phải là chân lí, một khía cạnh.
Thế rồi ông ấy nói không - không phải chân lí, một
khía cạnh khác. Thế rồi ông ấy nói cả hai có và không -
khía cạnh thứ ba. Thế rồi ông ấy nói có và không,
nhưng không cả hai - khía cạnh thứ tư. Thế rồi ông ấy
nói có cộng với cả hai có và không - khía cạnh thứ
năm. Không có cả hai có và không - khía cạnh thứ sáu.
Không có và không có cả hai - khía cạnh thứ bẩy.
Ông ấy nói bẩy là các khía cạnh và thế thì sự việc
là cái toàn thể. Và ông ấy cũng phải, nhưng tâm trí cảm
thấy choáng. Nhưng đấy là vấn đề của bạn, không phải
vấn đề của ông ấy. Ông ấy cũng phải, bởi vì ông ấy nói
bất kì khi nào bạn nói có, đấy mới là một nửa. Theo
một nghĩa nào đó sự việc hiện hữu, nhưng theo một
nghĩa nào đó thì nó đã trên con đường thành không tồn
tại rồi.
Bạn nói, “Đứa trẻ này, nó sống hay chết?” Nó đang
sống, đúng. Nhưng Mahavira nói nó đã trên con đường
chết. Nó sẽ chết và cái chết là chắc chắn, cho nên để
cho điều đó được hàm ý tới trong phát biểu này; nếu
không thì phát biểu này sẽ chỉ là một nửa và không
đúng.

Cho nên Mahavira nói, “Đúng, theo một nghĩa nào
đó thì đứa trẻ này đang sống - và không, theo một
nghĩa nào đó, bởi vì đứa trẻ này đang sắp chết” - mà
cũng không chỉ sắp chết đâu, trong thực tế nó đã chết
rồi bởi vì nó sống. Cái chết bị ẩn ở đó, đó là một phần
của đứa bé. Và đó là lí do tại sao ông ấy lại nói tốt hơn
cả là nên nói điều thứ ba: đứa bé là cả hai.
Nhưng làm sao một đứa trẻ lại có thể vừa chết vừa
sống cả hai được? - bởi vì cái chết phủ định cuộc sống,
cuộc sống phủ định cái chết. Đó là lí do tại sao
Mahavira nói để có quan điểm thứ tư: nó không phải là
cả hai. Đây là cách ông ấy nói ra, và đến lúc ông ấy kết
thúc phát biểu bẩy phần của mình, bạn thậm chí còn
phân vân hơn là trước khi hỏi ông ấy. Nhưng đấy là
vấn đề của bạn. Ông ấy nói vứt bỏ tâm trí đi, bởi vì
tâm trí không thể nào nhìn vào cái toàn thể được, nó
chỉ có thể nhìn vào các khía cạnh.
Bạn đã bao giờ quan sát chưa? Nếu tôi đưa cho bạn
một hòn đá cuội nhỏ, bạn có thể thấy được toàn bộ hòn
đá nhỏ này không? Bất kì khi nào bạn nhìn bạn chỉ
thấy một mặt, mặt khác bị ẩn kín. Nếu bạn nhìn vào
mặt khác thế thì phần thứ nhất lại bị ẩn kín. Thậm chí
với một hòn đá nhỏ thế, bạn có thể đặt trên lòng bàn
tay mình, bạn cũng không thể nào thấy được cái toàn
thể.
Tâm trí không thể thấy được bất kì cái toàn thể
nào. Tôi đang nhìn vào bạn nhưng lưng bạn bị che kín.
Bạn đang nhìn vào tôi; bạn thấy mặt tôi nhưng không
thấy lưng tôi. Và bạn chưa bao giờ thấy cái toàn thể
của tôi, bởi vì khi bạn thấy lưng tôi thì bạn sẽ không
thấy mặt tôi.
Không có khả năng nào cho tâm trí thấy bất kì cái
gì toàn thể. Nó chỉ có thể thấy một nửa, nửa kia được
suy ra. Đó là suy diễn, được cho là dĩ nhiên phải có đó,
bởi vì làm sao có thể có mặt mà không có lưng? Cho
nên chúng ta suy diễn ra rằng lưng có thể có đó, phải
có đó.
Nhưng nếu bạn có thể nhìn vào cả hai điều cùng
nhau, thì choáng nhất định phải xảy ra. Nếu bạn có thể
chấp nhận điều đó và đi qua nó, thế thì sáng tỏ tới, thế
thì tất cả các đám mây đều biến mất. Trong cách nhẩy
múa đạo Hồi toàn bộ vấn đề là làm cho tâm trí choáng.
Có nhiều cách. Mahavira đã dùng một phương tiện rất
logic: logic bẩy nhánh. Điều đó cũng hệt như cách
nhẩy múa của đạo Hồi, nó làm cho bạn choáng.
Những người rất trí thức, với họ thì phương pháp
của Mahavira là rất hay. Nó đem lại sự choáng và mọi
thứ trở thành nháo nhào, và bạn không thể thực sự nói
về điều gì - bạn phải trở nên im lặng. Bất kì điều gì bạn
nói ra cũng đều ngớ ngẩn và bạn phải ngay lập tức phủ
nhận nó. Và vào lúc bạn đã nói ra mọi điều thì chẳng
cái gì được nói ra cả, bởi vì mọi phát biểu đều mâu
thuẫn với phát biểu khác.
Logic bẩy nhánh này của Mahavira cũng giống hệt
cách nhẩy múa Mô ha mét giáo của tâm trí, nó làm cho
bạn choáng. Cách nhẩy múa Mô ha mét giáo là phương
pháp thể chất để làm cho tâm trí choáng còn logic này
là phương pháp tinh thần để làm cho tâm trí choáng.
Nếu bạn nhẩy múa nhanh, di chuyển nhanh, quay
tròn nhanh, bạn bỗng nhiên cảm thấy choáng váng,
buồn nôn, cứ dường như tâm trí biến mất. Nếu bạn tiếp

tục, trong vài ngày choáng sẽ có đó và thế rồi nó lắng
đọng. Khoảnh khắc choáng qua đi, bạn sẽ thấy tâm trí
cũng qua đi, bởi vì không có ai để cảm thấy choáng cả.
Và thế thì sáng tỏ tới. Thế thì bạn nhìn vào mọi thứ mà
không có tâm trí. Không tâm trí, cái toàn thể lộ ra - và
với cái toàn thể, là biến đổi.
Khi những cái nhị nguyên đó dừng tồn tại, thì bản
thân cái một không thể tồn tại.

Và nhớ lấy, khi chúng ta dùng từ ‘cái một’, điều đó
nữa cũng là một phần của nhị nguyên. Nếu không có
nhị nguyên làm sao có thể có cái một? Đó là lí do tại
sao người Hindu không bao giờ dùng ‘cái một’. Nếu
bạn hỏi Shankara, “Bản tính của sự tồn tại là gì?” thì
ông ấy nói, “Bất nhị, advaita, không hai.”
Ông ấy sẽ không bao giờ nói một, bởi vì làm sao
bạn có thể nói một được? Nếu chỉ có một, làm sao bạn
có thể nói một? Một cần hai mới có nghĩa. Nếu không
có khả năng nào về cái hai, về số hai, thế thì ích gì mà
nói rằng nó là một? Shankara nói, “Nhiều nhất, ta có
thể nói không hai, nhưng ta không thể nói một cách
khẳng định về một. Ta có thể nói điều không phải là
thực tại: nó không là hai. Ta không thể nói nó là gì, bởi
vì ý nghĩa, lời nói, tất cả đều trở thành vô dụng.”
Khi những cái nhị nguyên đó dừng tồn tại...

Khi bạn không thể thấy được yêu bên ngoài ghét,
bạn sẽ cho yêu ý nghĩa gì? Từ điển không thể do Tăng
Xán viết ra được. Nếu ai đó bảo tôi viết ra cuốn từ
điển, tôi không thể làm điều đó được. Điều đó là không
thể được, bởi vì tôi sẽ cho tình yêu ý nghĩa gì? Từ điển
chỉ có thể có được nếu yêu và ghét là khác nhau, không
chỉ khác nhau mà còn đối lập nhau. Cho nên bạn có thể
viết: yêu là không ghét. Khi bạn phải định nghĩa ghét,
bạn có thể nói: không yêu.
Nhưng Tăng Xán sẽ làm gì? Nếu bạn hỏi ông ấy:
“Yêu là gì?” làm sao ông ấy định nghĩa được yêu?- bởi
vì yêu là ghét nữa. Làm sao ông ấy sẽ định nghĩa được
cuộc sống? - bởi vì sống là chết nữa. Làm sao ông ấy
định nghĩa được trẻ con? - bởi vì trẻ con là người già
nữa. Làm sao ông ấy định nghĩa được cái đẹp?- bởi vì
cái đẹp là cái xấu nữa. Các biên giới biến mất, thế thì
bạn không thể định nghĩa được điều gì bởi vì định
nghĩa cần tới biên giới, và định nghĩa phụ thuộc vào
cái đối lập; tất cả các định nghĩa đều phụ thuộc vào cái
đối lập.
Nếu chúng ta nói đàn ông là gì, chúng ta có thể
nói: không phải là đàn bà - và điều đó được định nghĩa.
Nhưng nếu bạn nhìn vào Tăng Xán và hiểu ông ấy, thì
mọi đàn ông đều là đàn bà, mọi đàn bà đều là đàn ông.
Đây là cách thức sự việc hiện hữu. Bây giờ các nhà
tâm lí đã phát hiện ra sự kiện đó nữa: rằng đàn ông và
đàn bà là lưỡng dục. Mọi đàn ông đều có đàn bà ẩn bên
trong, và mọi đàn bà đều có đàn ông ẩn bên trong cô ấy
- họ có đấy. Không đàn bà nào đơn giản là đàn bà,
không thể được. Trong sự tồn tại này chẳng cái gì có
thể hiện hữu mà không có cái đối lập. Và không đàn
ông nào có thể hiện hữu mà không có đàn bà, người
đàn bà có đấy.
Bạn được sinh ra từ hai bố mẹ; một người là đàn
ông, một người là đàn bà. Bạn mang cả hai người này

bên trong, nửa nọ nửa kia. Điều này phải là như vậy,
không có cách nào khác để được sinh ra. Bạn không
chỉ được sinh ra từ đàn bà, nếu không thì bạn đã chỉ là
đàn bà. Bạn không chỉ được sinh ra từ người bố, nếu
không thì bạn đã chỉ là đàn ông. Bạn được sinh ra từ
nhị nguyên, đàn ông và đàn bà. Họ cả hai đều đóng
góp, bạn là cả hai.
Điều đó tạo nên rắc rối, bởi vì khi tâm trí nghĩ về
đàn bà, nó bao giờ cũng nghĩ dưới dạng nữ tính.
Nhưng thế thì bạn không biết đấy thôi: nếu đàn bà trở
nên dữ, cô ấy còn dữ hơn bất kì đàn ông nào; nếu cô ấy
giận, không đàn ông nào tranh được với cô ấy; nếu cô
ấy ghét, không đàn ông nào có thể ghét như cô ấy.
Tại sao? - bởi vì người đàn bà của cô ấy mệt mỏi,
trên bề mặt, và người đàn ông của cô ấy bao giờ cũng
nghỉ ngơi và tràn đầy năng lượng hơn. Cho nên bất kì
khi nào cô ấy giận, cô ấy còn giận hơn bởi vì người
đàn ông này bắt đầu hoạt động, và người đàn ông đó
đang nghỉ ngơi. Và bất kì khi nào đàn ông buông xuôi
hay trở nên rất đáng yêu, anh ta còn nữ tính hơn bất kì
đàn bà nào, bởi vì thế thì người đàn bà, mà bao giờ
cũng nghỉ ngơi ấy và đang ẩn kín đằng sau ấy, và bao
giờ cũng tươi tắn và trẻ trung ấy, lại tới.
Nhìn các thần của người Hindu mà xem. Họ có
đúng điều đó, họ đã hiểu nhị nguyên rất rõ. Bạn phải
đã thấy các bức tranh về Kali, Mẹ. Bà ấy là một người
đàn bà rất dữ với vòng xương sọ đeo quanh cổ, cái đầu
máu me trong một tay, và nhiều tay khác mang vũ khí
để giết hại. Bà ấy là vợ của Shiva, và Shiva đang nằm
dài còn bà ấy thì đứng trên ngực ông ấy.
Khi lần đầu tiên người phương Tây bắt đầu nghĩ về
biểu tượng này, họ phân vân: “Tại sao? Và sao các ông
ấy lại gọi người phụ nữ này là ‘mẹ’? Bà ấy trông như
cái chết!” Nhưng người Hindu nói rằng người mẹ cũng
có cái chết trong mình, bởi vì người mẹ cho việc sinh,
thế thì ai sẽ cho bạn cái chết, cái đối lập? Người mẹ
cho bạn việc sinh, thế thì bà ấy sẽ cho bạn cả cái chết
nữa. Điều này phải là như vậy.
Kali, Mẹ, vừa là nguy hiểm, huỷ diệt và sáng tạo.
Bà ấy là mẹ, lực sáng tạo, và bà ấy cũng là cái chết, lực
huỷ diệt. Bà ấy yêu Shiva nhưng bà ấy đứng trên ngực
ông ấy dường như sẵn sàng giết chết.
Nhưng đây là bản chất của cuộc sống. Tình yêu
giết chết, sinh trở thành tử, cái đẹp biến mất, cái xấu đi
vào. Mọi thứ mờ đi trong cái đối lập, tan chảy vào
trong cái đối lập. Tất cả logic đều có vẻ vô ích và tâm
trí bị choáng.
Khi những cái nhị nguyên đó dừng tồn tại...

Và khi bạn thấy qua tất cả chúng, thì chúng đơn
giản dừng tồn tại - bởi vì yêu là ghét. Từ đúng sẽ là
‘yêu ghét’ - một từ, không phải hai từ. Điều đúng sẽ là
‘sống chết’ - một từ, không phải hai từ. Từ đúng sẽ là
‘đàn ông đàn bà’, ‘đàn bà đàn ông’ - không phải hai từ,
một từ, cùng nhau.
Nhưng thế thì cái một cũng biến mất, dừng tồn tại.
Thế thì phỏng có ích gì mà nói rằng cuộc sống là một?
Hai biến mất; trong thức tỉnh một cũng biến mất.
Đó là lí do tại sao Tăng Xán và tất cả các tín đồ
của Phật cứ nhấn mạnh rằng khi bạn nhận ra chân lí, nó

không một cũng chẳng hai, nó là cái trống rỗng. Bây
giờ bạn có thể hiểu tại sao họ nói shunyata, trống rỗng.
Mọi thứ biến mất, bởi vì khi hai biến mất, một biến
mất - thế thì cái gì còn lại? Chẳng cái gì còn lại, hay,
chỉ cái không là còn lại. Cái không này là đỉnh cao tối
thượng của chứng ngộ, khi bạn thấy mọi trống rỗng,
khi mọi sự trở thành trống rỗng.
Với cái chung cuộc tối thượng này thì không luật
hay mô tả nào áp dụng được.
Với tâm trí thống nhất theo Đạo thì tất cả mọi cố
gắng tự định tâm đều dừng.

Bạn sẽ cố gắng đạt tới cái gì trong cái trống rỗng
này? Đâu là mục đích và ai là người tìm kiếm và ai là
cái được tìm kiếm? Không có mục tiêu cần đạt tới,
không có người có thể đạt tới. Và tất cả cố gắng đều
dừng lại.
Đây là an bình của Phật, im lặng toàn bộ - bởi vì
không có gì phải đạt tới cả, không có ai đạt tới, không
đâu để đi, không ai đi. Mọi thứ đều trống rỗng. Bỗng
nhiên toàn bộ cố gắng biến mất. Bạn không đi đâu cả.
Bạn bắt đầu cười, bạn bắt đầu tận hưởng cái trống rỗng
này. Thế thì không có rào chắn nào cho tận hưởng của
bạn, thế thì phúc lạc cứ đổ lên bạn.
Nếu sự tồn tại được cảm nhận như cái trống rỗng,
thế thì không ai có thể quấy rầy phúc lạc của bạn được
bởi vì không có ai quấy rối nó. Nó là bạn - bởi vì cái
nhị nguyên của bạn mà bạn mới bị quấy rối. Bạn yêu,
và thế rồi ghét tới và ghét quấy rối. Bạn muốn đẹp, và
thế rồi cái xấu đi vào và thế rồi cái xấu quấy rối. Bạn
muốn sống động mãi mãi và mãi mãi, và thế rồi cái
chết gõ cửa và cái chết quấy rối.
Nếu bạn có thể thấy cái đối lập bị che kín ấy, bỗng
nhiên bạn không đòi hỏi điều gì nữa, bạn không tìm
kiếm điều gì nữa, bởi vì bạn biết với bất kì cái gì bạn
xin, cái đối lập sẽ tới. Nếu bạn thỉnh cầu danh vọng,
kính trọng, xúc phạm sẽ tới từ mọi nơi; nếu bạn tìm
hoa, gai sẽ rơi vào bạn; nếu bạn muốn được nổi tiếng,
bạn sẽ bị quên lãng; nếu bạn muốn đạt tới ngai vàng,
bạn sẽ bị tống khứ đi hoàn toàn.
Bất kì cái gì bạn thỉnh cầu, cái đối lập sẽ được trao
cho bạn. Thế thì ý nghĩa của việc cầu xin là gì, thế thì
tại sao phải cầu xin cái gì? Các ham muốn sẽ được
hoàn thành, nhưng vào lúc mà chúng được hoàn thành,
bạn sẽ ngạc nhiên - cái đối lập đã tới trong tay bạn.
Bạn sẽ đạt tới các mục tiêu, nhưng vào lúc đạt tới mục
tiêu bạn sẽ kêu khóc, bởi vì cái đối lập bị che kín trong
mục tiêu đó. Bạn sẽ đạt tới bất kì nơi nào bạn muốn đạt
tới, nhưng chính việc đạt tới đó sẽ trở thành thất vọng.
Tất cả những cố gắng tự định tâm đều dừng lại khi
cái trống rỗng này được thấy là trống rỗng. Cái gì có
đó để mà cố gắng? Tâm trí thành đạt rơi mất, biến mất
trong cát bụi.
Hoài nghi và do dự tan biến
và sống trong niềm tin đúng là điều có thể.

Đây là khác biệt. Những lời này của Tăng Xán
được viết trong ‘Tín thư’ bằng tiếng Trung quốc. Rất
khó cho người Ki tô giáo, Mô ha mét giáo, Hindu giáo

hiểu được đây là kiểu niềm tin đúng nào. Cố hiểu đi;
đó là hiểu biết sâu sắc nhất về niềm tin.
Thông thường điều vẫn được thuyết giảng trong
nhà thờ, chùa chiền, đền đài - điều mà người Ki tô
giáo, người Mô ha mét giáo, người Hindu giáo nói tới -
không phải là niềm tin, mà là đức tin: đức tin vào
Thượng đế! Nhưng làm sao bạn có thể tin được? Bởi vì
mọi đức tin đều mang hoài nghi riêng của nó. Đó là lí
do tại sao bạn cứ khăng khăng rằng, “Tôi tuyệt đối tin
tưởng!”
Khi bạn nói, “Tôi tuyệt đối tin tưởng,” thực sự bạn
đang nói gì vậy? Tại sao lại có cái ‘tuyệt đối’ này. Tại
sao lại có nhấn mạnh này? Nó chứng tỏ rằng hoài nghi
đang ẩn kín đâu đó, và bạn đang che giấu nó bằng từ
‘tuyệt đối’, bằng từ ‘toàn bộ’ - bằng sự nhấn mạnh này.
Bạn đang định lừa dối ai vậy? Bạn đang lừa dối bản
thân mình đấy. Nhấn mạnh chỉ ra rằng cái đối lập đang
ẩn kín đâu đó.
Khi bạn nói với ai đó, “Anh yêu em và duy nhất
em thôi,” thì hoài nghi đang bị che giấu. Tại sao lại
‘duy nhất em’? Tại sao bạn nói điều đó? Tại sao bạn
muốn nhấn mạnh điều đó? Khả năng yêu ai đó khác bị
che giấu ở đó, cho nên bạn nhấn mạnh cái khả năng đó.
Nếu bạn không che giấu nó, vấn đề có thể trở thành rõ
ràng, nó có thể xảy tới, nó có thể trồi lên bề mặt. Thế
thì phải làm gì? Chỉ làm mọi sự thu xếp để che giấu nó.
Tại sao bạn nói, “Tôi là người tin tưởng đúng”?
Liệu cũng có thể có người tin tưởng không đúng sao?
Đức tin đúng này là gì vậy? Đức tin đúng có nghĩa là
bạn đã che giấu cái hoài nghi đó toàn bộ đến mức
không ai có khả năng biết được, nhưng bạn biết nó rõ
lắm. Và đó là lí do tại sao những người tin lại không
thích nghe những điều đi ngược lại với đức tin của họ.
Họ trở thành điếc bởi vì họ bao giờ cũng sợ hãi. Bạn sợ
người khác, sợ điều người đó sắp nói; bạn sợ người ấy
có thể chạm tới hoài nghi bị giấu kín và hoài nghi đó
có thể trồi ra.
Cho nên người tôn giáo thông thường sẽ không
thích nghe kẻ vô thần. Họ sẽ nói, “Không, người ấy có
thể phá huỷ đức tin.” Nhưng đức tin có thể bị phá huỷ
được không? Và nếu đức tin có thể bị phá huỷ, thế thì
có đáng để níu bám không? Nếu đức tin cũng có thể bị
phá huỷ, thế thì đây là kiểu đức tin gì vậy? Nhưng nó
có thể bị phá huỷ bởi vì hoài nghi có đó, hoài nghi đã
xói mòn nó rồi.
Điều này xảy ra hàng ngày. Kẻ tin trở thành kẻ
không tin, kẻ không tin trở thành kẻ tin - họ thay đổi,
dễ dàng chuyển đổi. Tại sao? Bởi vì người kia bị ẩn
kín. Đức tin đem theo hoài nghi; như yêu đem theo
ghét, sống đem theo chết, đức tin đem theo hoài nghi.
Thế thì niềm tin là gì?
Tăng Xán đã thực sự hiểu niềm tin là gì. Niềm tin
xảy ra chỉ khi nhị nguyên đã rơi rụng đi; đấy không
phải là đức tin chống lại hoài nghi. Khi đức tin và hoài
nghi cả hai đều đã biến mất, thế thì một cái gì đó xảy
ra, cái vốn là niềm tin, cái vốn là tin cậy. Bạn không tin
cậy vào Thượng đế, bởi vì không có nhị nguyên, bạn
và Thượng đế. Không phải là bạn tin cậy, bởi vì bạn
không có đó - bởi vì nếu bạn có đó thế thì người khác
sẽ có đó. Mọi thứ trống rỗng, và tin cậy nở hoa; cái
trống rỗng trở thành chính việc nở hoa của tin cậy.

Từ Phật giáo shraddha - niềm tin, tin cậy - là rất,
rất khác. Ý nghĩa là hoàn toàn khác với ý nghĩa mà từ
‘đức tin’ chuyển tải. Không có ai để tin, không ai để
được tin vào; tất cả mọi nhị nguyên đều rơi rụng hết...
thế thì tin cậy... Thế thì bạn có thể làm gì? Bạn không
thể hoài nghi, bạn không thể tin tưởng - bạn có thể làm
gì? Bạn đơn giản tin cậy và tuôn chảy trong luồng
chảy. Bạn di chuyển theo cuộc sống, bạn nghỉ ngơi với
cuộc sống.
Nếu cuộc sống đem tới việc sinh, bạn tin cậy vào
việc sinh - bạn không khao khát. Nếu cuộc sống đem
tới cái chết, bạn tin cậy vào cái chết - bạn không nói
rằng điều này là không tốt. Nếu cuộc sống đem tới hoa,
được; nếu cuộc sống đem tới gai, cũng được. Nếu cuộc
sống cho, điều đó tốt; nếu cuộc sống lấy đi, điều đó
cũng tốt.
Đây là sự tin cậy: không làm việc chọn lựa của
riêng bạn, để lại mọi thứ cho cuộc sống, bất kì cái gì...
Không ham muốn, không đưa ra yêu cầu. Đơn giản đi
tới bất kì nơi đâu cuộc sống dẫn tới, bởi vì khoảnh
khắc bạn yêu cầu, bây giờ bạn biết cái đối lập sẽ là kết
quả. Cho nên bạn không hỏi, “Xin cho chúng tôi cuộc
sống vĩnh hằng,” bởi vì bạn biết bạn sẽ được cái chết
vĩnh hằng.
Bạn đã bao giờ quan sát rằng trên toàn thế giới này
chỉ người Ki tô giáo mới cầu nguyện về cuộc sống
vĩnh hằng không? Chỉ người Ki tô giáo mới cầu
nguyện, “Xin Thượng đế cho chúng con cuộc sống
vĩnh hằng,” và chỉ người Ki tô giáo mới có địa ngục
vĩnh viễn! Phải có cái đối lập. Không tôn giáo nào
khác lại có địa ngục vĩnh viễn cả. Họ có địa ngục,
nhưng địa ngục tạm thời thôi; bạn ở đó vài ngày, vài
tháng, vài năm, và thế rồi bạn được siêu việt lên, bởi vì
không trừng phạt nào có thể là vĩnh viễn cả. Làm sao
nó có thể thế được?
Khi mọi vui vẻ đều tạm thời, làm sao trừng phạt có
thể là vĩnh viễn được? Khi phần thưởng là tạm thời,
làm sao trừng phạt có thể là vĩnh viễn? Khi bạn không
bao giờ có được cái gì vĩnh viễn trong cuộc sống, làm
sao bạn có thể bị trừng phạt vĩnh viễn vì nó được?
Dường như là bất công.
Nhưng người Ki tô giáo yêu cầu, cầu nguyện cuộc
sống vĩnh viễn. Thế thì bạn phải làm cân bằng: địa
ngục vĩnh viễn. Một khi bạn phạm tội và bị tống vào
địa ngục bạn sẽ không bao giờ có khả năng thoát ra
khỏi nó. Mãi mãi và mãi mãi bạn sẽ ở đó. Điều này
phải là như vậy, bởi vì bạn đã yêu cầu cuộc sống vĩnh
viễn.
Tin cậy của Phật tử có nghĩa là hiểu biết sâu sắc về
sự kiện rằng bất kì cái gì bạn yêu cầu đều sẽ đi sai. Cố
hiểu điều đó đi. Tôi sẽ nhắc lại: bất kì cái gì bạn ham
muốn sẽ đi sai.
Hiểu điều này, ham muốn biến mất. Khi ham muốn
biến mất, có tin cậy! Tin cậy có nghĩa là đi với cuộc
sống mà không có bất kì trông đợi, ham muốn, yêu cầu
gì của riêng bạn. Không đòi hỏi, không phàn nàn. Bất
kì cái gì xảy ra, chấp nhận nó.
Và nhớ, đây không phải là cái gì đó bạn làm. Nếu
bạn làm nó, thế thì có bác bỏ. Nếu bạn nói, “Vâng, tôi
chấp nhận,” bạn đã bác bỏ. Bạn nói, “Bất kì cái gì xảy
ra tôi sẽ chấp nhận” - có bác bỏ sâu sắc đằng sau nó.

Bạn không thực sự chấp nhận. Bạn đang chấp nhận chỉ
bởi vì bạn cảm thấy bất lực, bởi vì không thể làm được
gì, cho nên phải làm gì? - chấp nhận. Nhưng chấp nhận
đó có phiền muộn sâu sắc trong nó, sự bác bỏ. Nếu như
có khả năng bác bỏ, bạn đã chọn việc bác bỏ. Thế thì
đấy không phải là tin cậy.
Việc thấy thực tại một cách đơn giản, rằng cái đối
lập được bao hàm ở mọi nơi, Tăng Xán nói tin cậy xảy
ra. Không phải là bạn nói, “Tôi chấp nhận”; không
phải là trong mọi bất lực mà bạn chấp nhận đâu. Đơn
giản bản chất của cuộc sống là cái đối lập cũng được
bao hàm. Việc nhìn vào sự kiện, chân lí, sâu bên trong
bạn, sẽ cho bạn tin cậy. Nhìn vào sự kiện này, niềm tin
xảy ra.
Nếu tôi thấy rằng tôi được sinh ra, thế thì sự kiện
có đấy rằng tôi sẽ chết. Đây là một sự kiện đơn giản.
Tôi không chấp nhận nó bởi vì không có bác bỏ; tôi
đơn giản tin cậy. Khi tôi đã tin vào việc sinh ra, cuộc
sống đã cho tôi việc sinh, và tôi đã tin cậy, thì cuộc
sống sẽ cho tôi cái chết, và tôi tin cậy. Nếu sinh đã đẹp
như vậy, thì sao chết lại không đẹp? Và bạn là ai mà
quyết định? Nếu cái sinh đã cho bạn nhiều thế, sao cái
chết lại không cho thế?
Cái chưa biết bao giờ cũng có đó. Tin cậy có nghĩa
là đi vào trong cái chưa biết, không đưa ra đòi hỏi gì.
Thế thì bạn không thể khổ sở được, thế thì phúc lạc cứ
mưa rào lên bạn. Làm sao bạn có thể khổ sở nếu bạn
không đòi hỏi? Ai có thể làm cho bạn khổ sở nếu bạn
không yêu cầu? Cuộc sống dường như khổ sở bởi vì
bất kì cái gì bạn yêu cầu, cuộc sống dường như chỉ
hướng tới cái đối lập. Cuộc sống sẽ trở thành phúc lạc
nếu bạn không yêu cầu; bất kì cái gì xảy ra đều đẹp đẽ.
Bất kì cái gì xảy ra đều đẹp đẽ - bạn đơn giản đi cùng
nó.
Trang Tử nói đúng: “Thoải mái là phải,” và “Giầy
vừa quên chân.” Và khi bạn vừa vặn sâu sắc với cuộc
sống, hoài nghi, không tin tưởng đều biến mất. Vừa
vặn này của chiếc giầy là tin cậy. Niềm tin nảy sinh mà
không phải là đức tin. Niềm tin nảy sinh không cần bất
kì Thượng đế nào để mà được tin vào.
Đó là lí do tại sao Phật tử không nói về Thượng đế.
Phật giáo thực sự đạt tới cốt lõi sâu xa nhất của tôn
giáo, và người như Tăng Xán là hiếm. Hiểu biết của họ
là hoàn hảo, toàn bộ. Cái toàn thể đã đi vào trong hiểu
biết của họ. Họ không cần Thượng đế bởi vì họ nói,
“Tại sao cần Thượng đế? Sự tồn tại không đủ sao? Tại
sao phải nhân cách hoá nó? Và bất kì điều gì bạn làm
thì sẽ chỉ giống như bạn - nó sẽ là sự phóng chiếu. Cho
nên tất cả các Thượng đế đều là phóng chiếu.”
Người Hindu làm ra Thượng đế: nhìn Thượng đế
này mà xem, nó chỉ là phóng chiếu của sinh lí học
Hindu - cái mũi, đôi mắt, chiều cao, mọi thứ. Nhìn
Thượng đế của người Nhật, nhìn Thượng đế của người
da đen, và bạn có thể thấy rằng đây chỉ là phóng chiếu
của tâm trí riêng của chúng ta. Nếu như ngựa mà có
Thượng đế của chúng thì Thượng đế đó không thể là
người được, họ sẽ phải là ngựa. Bạn có thể nghĩ được
ngựa có Thượng đế như con người không? Không thể
được! Ngựa sẽ có ngựa làm Thượng đế của chúng. Nếu
cây cối có Thượng đế của chúng thì Thượng đế đó sẽ
là cây cối.

Thượng đế của bạn là gì? Phóng chiếu của bạn. Và
tại sao bạn phóng chiếu? Bởi vì bạn muốn được phóng
chiếu. Không có Thượng đế bạn cảm thấy cô đơn, đơn
độc, trống rỗng; bạn muốn ai đó giúp bạn. Với yêu cầu
giúp đỡ này, bạn đang tạo ra khổ sở cho bản thân mình.
Bây giờ cái đối lập sẽ xảy ra. Mọi khoảnh khắc bạn sẽ
cảm thấy Thượng đế không lắng nghe, và bạn đang cầu
nguyện và khóc lóc còn ông ấy thì không lắng nghe.
Và mọi khoảnh khắc bạn sẽ cảm thấy bạn đã làm mọi
điều và bạn chẳng được trao cho cái xứng đáng với
bạn.
Các thánh nhân, cái gọi là thánh nhân, bao giờ
cũng có những điều phàn nàn bởi vì họ đã từ bỏ thế
giới mà phúc lạc vẫn không xảy ra. Họ vô dục, nhưng
ấy vậy mà hoa lại không rơi vào họ. Và họ đã làm điều
này điều nọ, họ có một danh sách dài dằng dặc, và họ
đã làm nhiều điều, ấy vậy mà Thượng đế cứ ở xa xôi
mãi thế. Họ không tin cậy, họ vẫn đang làm cuộc tranh
đấu với cuộc sống. Họ không cho phép cuộc sống xảy
ra theo cách riêng của nó. Họ có ý tưởng riêng của
mình để ép buộc lên cuộc sống - đó là không tin cậy.
Không tin cậy có nghĩa là bạn có ý tưởng nào đó
để ép buộc. Bạn nghĩ bản thân mình là khôn ngoan hơn
bản thân cuộc sống. Đó là không tin cậy, đó là không
tin tưởng. Bạn muốn áp đặt bản thân mình. Bạn cứ vào
nhà thờ, giáo đường, và xem mọi người cầu nguyện
Thượng đế. Họ đang nói gì vậy? Họ đang đưa ra lời
khuyên. Họ đang nói, “Đừng làm điều này, điều này
sai. Con tôi đang ốm, làm cho nó mạnh khoẻ lên.”
Ngay chỗ đầu tiên, nếu bạn thực sự tin cậy, thế thì
Ngài làm cho con bạn ốm đấy - vậy tin cậy vào điều đó
đi! Tại sao lại cứ đi phàn nàn và cầu nguyện? Bạn cho
là bạn có thể cải tiến Ngài được chăng? Mọi lời cầu
nguyện đều có nghĩa là cầu Thượng đế rằng “Xin đừng
làm hai với hai thành bốn. Dù bất kì cái gì xảy ra, bất
kì cái gì tự nhiên, đừng để cho nó xảy ra.” Bạn có ý
tưởng nào đó để gợi ý, bạn có lời khuyên nào đó - đây
không phải là tin cậy.
Tin cậy nghĩa là: “Tôi không là ai cả và tôi đi tới
bất kì chỗ nào mà cuộc sống dẫn tôi tới, bất kì đâu - đi
vào trong cái chưa biết, trong bóng tối, cái chết hay
cuộc sống. Dù nó dẫn tới đâu, tôi đều sẵn sàng. Tôi bao
giờ cũng sẵn sàng và tôi vừa khớp.” Nhưng khi nào
bạn có thể vừa khớp? Bạn có thể vừa khớp chỉ khi nhị
nguyên dừng lại; khi bạn có thể thấy, và chính việc
thấy đó trở thành việc dừng lại - dừng ham muốn, yêu
cầu.
Với tâm trí thống nhất theo Đạo thì tất cả mọi cố
gắng tự định tâm đều dừng.
Hoài nghi và do dự tan biến và sống trong niềm tin
đúng là điều có thể.
Chỉ với một cú chúng ta thoát khỏi tù túng...

Chỉ với một cú chúng ta thoát khỏi tù túng. Đó
không phải là việc dần dần. Không phải là dần dần mà
bạn đạt tới chân lí đâu, vấn đề không phải là ở mức độ.
Bằng một cú thôi, khi bạn thấy chân lí, trong một
khoảnh khắc bạn thoát khỏi mọi tù túng.
Vấn đề không phải là nỗ lực, bởi vì bất kì điều gì
bạn làm, bạn sẽ làm với tâm trí, mà tâm trí là nguyên
nhân cho tất cả mọi khổ sở. Và bất kì điều gì bạn làm
với tâm trí đều sẽ làm mạnh thêm cho tâm trí. Bất kì

điều gì bạn làm với tâm trí đều sẽ là sự cố gắng. Và bất
kì điều gì bạn làm với tâm trí thì tâm trí cũng sẽ là việc
chọn lựa từ hai cực đối lập. Bạn sẽ dính líu vào nhiều
hơn.
Cho nên vấn đề không phải là làm gì, vấn đề là
cách nhìn. Vấn đề không phải là thay đổi tính cách của
bạn, vấn đề không phải là trở nên tốt hơn, trở nên
thánh thiện hơn, ít tội lỗi hơn - không, đấy không phải
là vấn đề. Vấn đề là: cách nhìn không có tâm trí, cách
nhìn không có chọn lựa. Vấn đề không liên quan tới
việc làm và hành động, vấn đề liên quan tới phẩm chất
của nhận biết.
Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta đã
nhấn mạnh vào thiền, và ở phương Tây người ta đã
nhấn mạnh vào đạo đức. Khi lần đầu tiên Upanishad
được dịch sang tiếng phương Tây thì các học giả rất
phân vân, bởi vì họ không có gì giống như Mười điều
răn dạy trong Upanishad - “Đừng làm điều này, làm
điều nọ” - chẳng có gì ở đó cả. Họ đã phân vân. Làm
sao Upanishad này lại là kinh sách tôn giáo? Bởi vì tôn
giáo có nghĩa là đạo đức, tôn giáo có nghĩa, “Đừng làm
điều này và làm điều kia,” nó là việc làm. Và
Upanishad không nói về điều phải làm, chúng chỉ nói
về cách hiện hữu, cái hiện hữu.
Làm sao để tỉnh táo hơn và nhận biết hơn, đó là
vấn đề duy nhất - làm sao để nhận biết tới mức bạn có
thể thấu suốt, và các phía đối lập trở thành một và các
nhị nguyên dừng lại. Trong hiểu thấu sâu sắc về nhận
biết, tội nhân biến mất, thánh nhân cũng biến mất, bởi
vì họ cả hai đều thuộc về nhị nguyên. Thượng đế chết
và Quỉ cũng chết, bởi vì họ cũng thuộc vào nhị nguyên
- tâm trí đã tạo ra họ.
Và Ki tô giáo vẫn còn trong rối loạn sâu sắc, bởi vì
làm sao thu xếp được cho cả Quỉ và Thượng đế? Đây
thực sự là vấn đề. Ngay chỗ đầu tiên, làm sao Quỉ này
lại tới? Nếu bạn nói Thượng đế tạo ra Quỉ thế thì trách
nhiệm đổ về bản thân Thượng đế. Và điều gì sẽ xảy ra
ở chỗ cuối? Ai sẽ thắng? Nếu bạn nói Thượng đế sẽ
thắng, cuối cùng, thế thì tại sao toàn bộ cái vô nghĩa
này cứ diễn ra trên đường, trên phố? Nếu Thượng đế
cuối cùng sẽ thắng, thì tại sao lại không bây giờ?
Và nếu bạn nói có thể không có chiến thắng cuối
cùng, không thắng lợi, thì xung đột sẽ tiếp tục, thế thì
Quỉ trở thành mạnh như Thượng đế. Và ai mà biết
được? - nó có thể thắng ở lúc cuối. Và nếu nó thắng thế
thì điều gì sẽ xảy ra cho tất cả các vị thánh của bạn?
Thế thì tội nhân sẽ hạnh phúc còn thánh nhân sẽ bị
tống vào địa ngục. Nhưng toàn bộ vấn đề lại nảy sinh
bởi vì tâm trí nhị nguyên.
Tâm trí không thể thấy rằng Thượng đế và Quỉ là
một. Họ là một đấy! Quỉ chỉ là phía đối lập: cực đoan
kia, cái ghét, cái chết. Cho nên bạn nói Thượng đế là
tình yêu còn Quỉ là căm ghét, Thượng đế là từ bi còn
Quỉ là bạo hành, và Thượng đế là ánh sáng còn Quỉ là
bóng tối. Ngu xuẩn làm sao! - bởi vì bóng tối và ánh
sáng là hai khía cạnh của một năng lượng. Tốt và xấu,
phải và trái, đạo đức và vô đạo đức, cả hai đều là hai
cực của một hiện tượng. Và một hiện tượng đó là sự
tồn tại.

Tăng Xán sẽ không gọi nó là Thượng đế, bởi vì
nếu bạn gọi nó là Thượng đế, bạn phủ nhận Quỉ - nó là
Thượng đế cộng với Quỉ. Sự tồn tại là cả đêm và ngày,
cả buổi sáng và buổi tối, hạnh phúc, bất hạnh - tất cả.
Nó là sự cùng nhau. Và khi bạn thấy điều này, thì thiên
đường và địa ngục cả hai đều cùng nhau, thế thì chọn
lựa ở đâu? Và đâu là vấn đề về việc chọn cái gì hay đòi
hỏi cái gì?
Mọi yêu cầu đều dừng lại. Niềm tin nẩy sinh. Tin
cậy xảy ra trong cái trống rỗng của chân lí - nơi nhị
nguyên dừng lại, nơi bạn thậm chí không thể nói rằng
người ta là hiện tượng chưa biết nở hoa, chính là tin
cậy. Một cái gì đó nở bung mà là cái đẹp nhất, quí giá
nhất, và đó là hoa của tin cậy.
Chỉ với một cú chúng ta thoát khỏi tù túng; không
cái gì níu bám chúng ta và chúng ta không ôm giữ cái
gì.
Tất cả là trống rỗng, rõ ràng, tự chói sáng, không
dùng tới sức mạnh của tâm trí.
Tại đây ý nghĩ, cảm giác, tri thức và tưởng tượng
đều không có giá trị.

Thế thì người ta sống, chỉ sống. Người ta thở, chỉ
thở. Không tưởng tượng, không ý nghĩ, không tâm trí -
chúng tất cả đều không có giá trị. Bạn tin cậy vào sự
tồn tại, và khi bạn tin cậy vào sự tồn tại, thì sự tồn tại
tin cậy vào bạn. Gặp gỡ với tin cậy này là phúc lạc tối
thượng, cực lạc, samadhi.
Cho nên phải làm gì về nó? Vấn đề không phải là
làm, chẳng cái gì có thể được làm cả. Bạn phải thấy,
bạn phải quan sát cuộc sống; trở thành người quan sát,
nhìn vào mọi thứ. Lần sau bạn cảm thấy tình yêu, đừng
có bị nó lừa. Yêu, nhưng nhìn vào bên trong - có ghét
chờ đợi. Và quan sát. Và bỗng nhiên sẽ có chói sáng.
Bạn sẽ có khả năng thấy yêu này không phải là cái gì
ngoài bước đầu tiên của ghét.
Thế thì cái gì có đó để mà chọn lựa? Thế thì tại sao
lại hỏi, “Xin Thượng đế cho chúng con nhiều tình yêu
nữa?" - bởi vì nhiều ghét sẽ tới. Cho nên bạn sẽ làm gì?
Bạn sẽ nổi lên trong yêu và bạn sẽ biết ghét đang tới.
Bạn không níu bám vào yêu... bởi vì níu bám có nghĩa
là bạn đang tranh đấu chống lại ghét. Và bạn biết, như
đêm tới sau ngày, sau yêu thì ghét sẽ tới. Thế thì điều
gì sẽ xảy ra? Bạn sẽ không níu bám lấy yêu mà cũng sẽ
không ghét cái ghét.
Và khi bạn đang trong cân bằng như vậy, trong
thanh bình như vậy, nơi bạn không yêu cầu yêu, nơi
bạn không muốn xa khỏi ghét, nơi bạn không níu bám
lấy bất kì cái gì, và không cái gì níu bám lấy bạn, bỗng
nhiên bạn không yêu cũng chẳng ghét - bỗng nhiên,
trong một cú, nhị nguyên bị tan vỡ. Từ bất kì đâu...
Gurdjieff hay nói với đệ tử của mình, “Tìm ra đặc
trưng chính của ông đi.” Điều đó là tốt. Tìm ra đặc
trưng chính của bạn là gì - sợ? ghét? yêu? tham? dục?
Đâu là đặc trưng chính của bạn? Chỉ quan sát và thấy,
và làm việc trên đặc trưng chính đó, và cố gắng để thấy
các phía đối lập cùng nhau.
Nếu nó là yêu, thế thì thấy yêu và ghét cùng nhau
đi. Nếu bạn có thể thấy, chúng phủ định lẫn nhau.
Bỗng nhiên bạn trống rỗng - không có yêu lẫn ghét.
Chúng có thể là một vào mỗi lúc. Cả hai cùng nhau,

chúng phủ định lẫn nhau. Bỗng nhiên cả hai chúng
không có đó - chỉ bạn là bị bỏ lại một mình, trong cái
đơn độc toàn bộ của mình. Không cái gì có đó, không
dấu vết của bất kì cái gì. Đây là cái trống rỗng,
shunyata mà Tăng Xán đang nói tới.
Và nếu bạn có thể thấy điều này trong một nhị
nguyên, thì bạn có thể thấy nó trong tất cả - đó không
phải là vấn đề lớn. Một khi bạn đã thấy nó trong một
nhị nguyên, yêu-ghét, thì bạn đã thấy nó trong tất cả.
Cùng điều đó là ở mọi nơi. Phẩm chất khác biệt hoàn
toàn của bản thể sẽ đi vào sự tồn tại.
Tin cậy đi. Nó không phải là cái gì đó để tin vào,
một học thuyết, nó chẳng liên can gì tới bất kì Thượng
đế nào, bất kì Christ nào, Krishna, Mohammed, bất kì
Koran, Kinh thánh, Gita. Không, nó có cái gì đó liên
quan tới nhận biết của bạn. Đầy tỉnh táo, thấy xuyên
thấu, bạn trở nên tự do - và ngay một cú.
Chỉ với một cú chúng ta thoát khỏi tù túng; không
cái gì níu bám chúng ta và chúng ta không ôm giữ cái
gì.
Tất cả là trống rỗng, rõ ràng, tự chói sáng, không
dùng tới sức mạnh của tâm trí.
Tại đây ý nghĩ, cảm giác, tri thức và tưởng tượng
đều không có giá trị.

Đừng nghĩ về nó, thử thấy nó trong cuộc sống đi.
Điều đó sẽ đau đớn, bởi vì khi bạn đang cảm thấy yêu
bạn không muốn nghĩ về ghét chút nào. Bạn thực sự sợ
rằng nếu bạn nghĩ về ghét, thế thì toàn bộ cực lạc của
tình yêu sẽ biến mất. Khi bạn đang sống động bạn
không muốn nghĩ về cái chết chút nào, bởi vì bạn sợ
rằng nếu bạn nghĩ quá nhiều về cái chết thế thì bạn sẽ
không có khả năng tận hưởng cuộc sống.
Nhưng theo một cách nào đó nỗi sợ của bạn là
phải. Nếu bạn thực sự trở nên nhận biết về cái chết,
bạn sẽ không có khả năng tận hưởng cuộc sống theo
cách mà bạn đang tận hưởng nó. Nó không nhiều khoái
trá. Nó không phải thế - nó chỉ là khổ sở. Bạn sẽ không
có khả năng tận hưởng nó theo cách này. Và cách này
thì không phải là khoái trá chút nào, nhớ lấy.
Nếu bạn nghĩ về ghét trong khi làm tình, bạn sẽ
không có khả năng tận hưởng nó theo cách mà bạn đã
tận hưởng nó. Nhưng nó có thực là sự tận hưởng hay
chỉ là ám ảnh? Bạn đã bao giờ thực sự tận hưởng tình
yêu chưa? Nếu bạn đã tận hưởng nó thế thì bạn sẽ nở
hoa, thế thì bạn sẽ có hương thơm khác - và nó không
có đó. Thế thì bạn sẽ có chói sáng khác của bản thể, và
nó không có đó. Bạn trống rỗng, nghèo nàn, sâu bên
trong - đen tối, không ngọn lửa. Cho nên tình yêu này
và cuộc sống này và mọi thứ đã từng là kiểu tận hưởng
gì vậy? Không, bạn đã bị lừa dối.
Tình yêu của bạn không là gì ngoài sự say sưa,
chất ma tuý: trong vài khoảnh khắc bạn ngã vào trong
nó và quên mất. Thế rồi ghét tới và thế rồi bạn khổ sở.
Và lần nữa, bởi vì bạn khổ sở, nên bạn tìm tình yêu, và
tình yêu của bạn chẳng là gì ngoài lại rơi vào trong
giấc ngủ say. Đây đã từng là hình mẫu của bạn. Tất cả
những điều bạn gọi là hạnh phúc thì chẳng là gì ngoài
việc rơi vào trong giấc ngủ. Bất kì đâu bạn cảm thấy
giấc ngủ ngon, bạn đều thấy nó như hạnh phúc.

Con người hạnh phúc là gì trong tâm trí bạn?
Người ấy là người không bị gây rắc rối bởi mọi vật. Đó
là lí do tại sao lại có nhiều hấp dẫn đến thế trong rượu,
trong ma tuý, bởi vì thế thì lo nghĩ bị quên lãng. Tình
yêu của bạn là gì? Nó dường như là tiến trình sinh học
có sẵn cho việc làm bản thân bạn nghiện ma tuý. Và nó
là hoá chất; một số hoá chất của thân thể được tiết ra,
cho nên cân bằng hoá chất bị thay đổi. Nó không khác
gì lắm với thuốc phiện hay LSD, bởi vì điều cơ bản là
thay đổi hoá chất trong thân thể.
Tình yêu làm thay đổi; nhịn ăn cũng làm thay đổi,
các hoá chất của thân thể mất đi hình mẫu cũ. Trong
hình mẫu mới đó, trong vài khoảnh khắc bạn cảm thấy
phấn chấn. Căm ghét lại tới, thế giới lại đi vào, và lo
nghĩ, và bạn lại trong bánh xe. Điều này bạn đã làm
nhiều, nhiều kiếp rồi.
Bây giờ thử điều gì đó mà Tăng Xán đang nói, và
đây là điều mà tất cả chư phật đã nói. Nhìn trong khi
bạn đang yêu, trong khi bạn đang làm tình - đừng sợ -
nhìn cách nó đang biến thành ghét. Trong khi bạn đang
sống, nhìn vào cách nó đang đi vào cái chết - mỗi hơi
thở và bạn lại đi vào trong cái chết. Mọi khoảnh khắc
thời gian trượt qua, và cái chết lại tới gần hơn, gần hơn
nữa. Nhìn vào cách tuổi thanh xuân của mình đang trở
thành tuổi già. Nhìn vào cái đối lập đi!
Dũng cảm là cần thiết, bởi vì hình mẫu cũ sẽ
không có ích gì; nó sẽ bị phá huỷ bởi nó. Nhưng một
khi bạn có thể thấy ghét trong yêu, bạn sẽ đạt tới thanh
bình mà vượt ra ngoài cả hai. Nếu bạn có thể thấy cuộc
sống và cái chết cả hai cùng nhau, bạn siêu việt lên rồi.
Trong một cú bạn siêu việt lên. Trong một cú bạn thoát
ra ngoài tù túng, lần đầu tiên bạn là linh hồn tự do -
bạn là bản thân tự do. Đó là lí do tại sao chúng ta gọi
trạng thái tối thượng này là moksha, tự do.
Không có gì phải làm cả. Bạn phải trở nên nhiều
nhận biết trong việc làm của mình, trở nên nhiều ý
thức hơn. Đó là việc thiền duy nhất: trở nên tỉnh táo
hơn. Trong một khoảnh khắc nhận biết sắc bén, nhận
biết này trở thành vũ khí, và trong chỉ một cú tất cả
mọi tù túng đều bị phá vỡ.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #9 Không hai

Trong thế giới này của phản ánh như thế không có
cái ta lẫn cái khác hơn cái ta.
Việc đi trực tiếp vào sự hài hoà với thực tại này
đơn giản chỉ là nói khi hoài nghi nảy sinh, “Không
hai.”
Trong cái “không hai” này không có gì tách biệt,
không có gì bị loại trừ.
Dù khi nào và ở đâu cũng không thành vấn đề,
chứng ngộ có nghĩa là đi vào chân lí này.
Và chân lí này vượt ra ngoài sự mở rộng hay giảm
bớt về thời gian hay không gian; trong nó chỉ một ý
nghĩ cũng là mười nghìn năm.

Trước hết, cố hiểu từ ‘phản ánh như thế’. Phật tuỳ
thuộc vào từ này rất nhiều. Theo ngôn ngữ riêng của
Phật thì nó là tathata, phản ánh như thế. Toàn bộ thiền
Phật giáo bao gồm việc sống trong từ này, sống với từ
này sâu sắc đến mức thế giới biến mất và bạn trở thành
việc phản ánh như thế.
Chẳng hạn, bạn ốm. Thái độ của phản ánh như thế
là: chấp nhận nó và tự nói với mình, “Đấy là con
đường của thân thể,” hay “Mọi việc là vậy.” Đừng tạo
ra tranh đấu, đừng bắt đầu vật lộn. Bạn đau đầu - chấp
nhận nó, như thế là bản tính của mọi vật. Bỗng nhiên
có thay đổi, bởi vì khi thái độ này đi vào, thì thay đổi
đi theo như một cái bóng. Nếu bạn có thể chấp nhận
đau đầu, thế thì đau đầu biến mất.
Bạn cứ thử điều đó đi. Nếu bạn chấp nhận căn
bệnh nó bắt đầu biến mất. Tại sao nó lại xảy ra? Nó
xảy ra bởi vì bất kì khi nào bạn tranh đấu, năng lượng
của bạn bị phân chia: một nửa năng lượng đi vào trong
bệnh, cái đau đầu, còn một nửa năng lượng thì tranh
đấu với cái đau đầu - kẽ nứt, lỗ hổng và tranh đấu.
Thực sự, tranh đấu này là sự đau đầu sâu sắc hơn.
Một khi bạn chấp nhận, một khi bạn không phàn
nàn, một khi bạn không tranh đấu, năng lượng đã trở
thành một ở bên trong. Kẽ nứt được bắc cầu qua. Và
như vậy nhiều năng lượng được thoát ra bởi vì bây giờ
không có xung đột - việc thoát năng lượng ra bản thân
nó trở thành lực chữa lành. Chữa lành không tới từ bên
ngoài. Tất cả những điều mà thuốc thang có thể làm là
để giúp cho thân thể đem lực chữa lành của riêng nó
vào hành động. Tất cả những điều mà bác sĩ có thể làm

chỉ là giúp cho bạn tìm ra năng lực chữa lành của riêng
bạn. Mạnh khoẻ không thể bị ép buộc từ bên ngoài, nó
là nở hoa năng lượng của bạn.
Từ ‘phản ánh như thế’ có thể có tác dụng sâu sắc
tới bệnh thể chất, tới bệnh tinh thần và cuối cùng tới
bệnh tâm linh - đây là một phương pháp bí mật - tất cả
chúng đều tan biến. Nhưng bắt đầu từ thân thể đã, bởi
vì đó là tầng thấp nhất. Nếu bạn thành công ở đó, thế
thì có thể thử các mức cao hơn. Nếu bạn thất bại ở đó,
thế thì sẽ khó cho bạn đi lên cao hơn.
Cái gì đó sai trong thân thể: thảnh thơi và chấp
nhận nó, và đơn giản nói bên trong - không chỉ bằng
lời mà cảm thấy nó sâu sắc - rằng như thế là bản chất
của mọi vật. Thân thể là sự hợp thành, biết bao nhiêu
thứ được tổ hợp vào trong nó. Thân thể được sinh ra,
nó nghiêng về cái chết. Và nó là cái máy, và phức tạp;
có mọi khả năng cái gì đó này khác đi sai.
Chấp nhận điều đó, và đừng bị đồng nhất. Khi bạn
chấp nhận bạn vẫn còn ở trên, bạn vẫn còn vượt ra
ngoài. Khi bạn tranh đấu, bạn ở cùng mức độ. Chấp
nhận là siêu việt lên. Khi bạn chấp nhận, bạn ở trên
núi, thân thể bị bỏ lại đằng sau. Bạn nói, “Vâng, như
thế là tự nhiên. Mọi thứ sinh ra đều sẽ phải chết. Và
nếu mọi thứ sinh ra đều phải chết thì đôi khi chúng
cũng ốm chứ. Chẳng có gì phải lo nghĩ quá nhiều cả.” -
dường như là nó không xảy ra cho bạn, chỉ xảy ra
trong thế giới các đồ vật.
Đây là cái đẹp: rằng khi bạn không tranh đấu, bạn
siêu việt lên. Bạn không còn ở cùng mức nữa. Và siêu
việt này trở thành lực chữa lành. Bỗng nhiên thân thể
bắt đầu thay đổi. Và cũng điều đó xảy ra cho những lo
nghĩ tinh thần, căng thẳng, lo âu, tủi nhục. Bạn lo nghĩ
về điều gì đó. Lo nghĩ là gì vậy? Bạn không thể chấp
nhận được sự kiện, đó là lo nghĩ. Bạn muốn nó theo
cách nào đó khác với cách nó đang xảy ra. Bạn lo nghĩ
bởi vì bạn có ý tưởng nào đó áp đặt vào tự nhiên.
Chẳng hạn, bạn đang già đi. Bạn lo nghĩ. Bạn
muốn vẫn còn trẻ mãi - đây là nỗi lo. Bạn yêu vợ, bạn
phụ thuộc vào cô ấy và cô ấy lại đang nghĩ tới việc bỏ
đi, hay đi với người đàn ông khác, và bạn lo âu - lo âu
bởi vì điều gì sẽ xảy ra cho bạn? Bạn phụ thuộc vào cô
ấy quá nhiều, bạn cảm thấy quá nhiều an ninh với cô
ấy. Khi cô ấy bỏ đi sẽ không có an ninh. Cô ấy không
chỉ là vợ của bạn, cô ấy cũng đã là người mẹ, chỗ trú
ẩn; bạn không thể tới và ẩn trốn toàn thế giới. Bạn có
thể dựa vào cô ấy, cô ấy sẽ có đó. Thậm chí nếu toàn
thế giới chống lại bạn, cô ấy sẽ không chống lại bạn,
cô ấy là niềm an ủi. Bây giờ cô ấy bỏ đi, điều gì sẽ xảy
ra cho bạn? Bỗng nhiên bạn hoảng sợ, lo nghĩ.
Bạn đang nói gì? Bạn đang nói gì bởi lo nghĩ của
mình? Bạn đang nói bạn không thể chấp nhận việc xảy
ra này, điều này phải không như vậy. Bạn trông đợi nó
phải khác đi, phải ngược lại: bạn muốn người vợ này là
của bạn mãi mãi, thế mà bây giờ cô ấy lại bỏ đi. Nhưng
bạn có thể làm được gì?
Khi tình yêu biến mất bạn có thể làm được gì?
Không có cách nào cả; bạn không thể bắt ép được tình
yêu, bạn không thể bắt ép người vợ này ở lại với bạn.
Vâng, bạn có thể bắt ép - đó là điều mọi người vẫn
đang làm - bạn có thể bắt ép. Cái thân thể chết sẽ có

đó, nhưng linh hồn sống đã bỏ đi rồi. Thế thì điều đó
sẽ là căng thẳng trong bạn.
Chống lại tự nhiên, chẳng thể làm được cái gì cả.
Tình yêu là việc nở hoa, bây giờ hoa đã tàn phai. Làn
gió đã thổi tới trong nhà bạn, bây giờ nó đã đi sang nhà
khác. Như thế là cách thức của mọi vật, chúng cứ đi và
thay đổi.
Thế giới của mọi vật là luồng chảy, chẳng có gì
thường hằng ở đó cả. Đừng trông đợi! Nếu bạn trông
đợi thường hằng trong thế giới này, nơi mọi vật đều vô
thường, bạn sẽ tạo ra lo nghĩ. Bạn sẽ muốn tình yêu
này là vĩnh viễn. Chẳng cái gì có thể vĩnh viễn trong
thế giới này cả - tất cả những cái thuộc vào thế giới
này đều là tạm thời. Đây là bản chất của mọi vật, phản
ánh đúng như vậy, tathata.
Cho nên bây giờ bạn biết tình yêu đã biến mất. Nó
đem cho bạn nỗi buồn - cũng được, chấp nhận nỗi
buồn. Bạn cảm thấy run rẩy - chấp nhận run rẩy, đừng
kìm nén nó. Bạn cảm thấy muốn kêu gào, khóc lóc.
Chấp nhận nó! Đừng bắt buộc nó, đừng làm ra vẻ,
đừng giả vờ rằng bạn không lo nghĩ, bởi vì điều đó
chẳng ích gì. Nếu bạn lo nghĩ thì bạn lo nghĩ rồi; nếu
vợ bỏ đi thì cô ấy bỏ đi rồi; nếu tình yêu không còn
nữa thì nó không còn nữa rồi. Bạn không thể tranh đấu
với sự kiện, bạn phải chấp nhận nó.
Và nếu bạn chấp nhận nó dần dần, thế thì bạn sẽ
liên tục trong đau đớn và khổ sở. Nếu bạn chấp nhận
nó mà không phàn nàn gì, không trong bất lực nhưng
trong hiểu biết, nó trở thành phản ánh như thế. Thế thì
bạn không còn lo nghĩ, thế thì không có vấn đề gì - bởi
vì vấn đề nảy sinh không phải vì sự kiện đó, mà bởi vì
bạn không thể chấp nhận nó theo cách nó đã xảy ra.
Bạn muốn nó phải theo bạn.
Nhớ lấy, cuộc sống không định theo bạn đâu, bạn
phải theo cuộc sống chứ - miễn cưỡng, hạnh phúc, đó
là lựa chọn của bạn. Nếu bạn theo một cách miễn
cưỡng, bạn sẽ khổ thôi. Nếu bạn theo một cách sung
sướng, bạn trở thành vị phật, cuộc sống của bạn trở
thành cực lạc.
Phật cũng phải chết - mọi sự không thay đổi -
nhưng ông ấy chết theo cách khác. Ông ấy chết một
cách hạnh phúc thế, cứ như là không có cái chết. Ông
ấy đơn giản biến mất, bởi vì ông ấy nói cái được sinh
ra thì sẽ chết đi. Sinh kéo theo tử, cho nên điều đó là
được, chẳng cái gì có thể làm được về nó cả.
Bạn có thể khổ sở và chết: thế thì bạn làm lỡ vấn
đề, cái đẹp mà chết có thể trao cho bạn, ân huệ xảy ra
trong khoảnh khắc cuối, chói sáng xảy ra khi thân thể
và linh hồn ra đi. Bạn sẽ bỏ lỡ cái đó bởi vì bạn lo nghĩ
quá nhiều, và bạn níu bám lấy quá khứ và với thân thể
quá nhiều đến mức mắt nhắm lại. Bạn không thể thấy
điều đang xảy ra bởi vì bạn không thể chấp nhận nó
được, cho nên bạn nhắm mắt lại, bạn đóng toàn thể con
người mình lại. Bạn chết. Bạn sẽ chết nhiều lần, và bạn
sẽ cứ bỏ lỡ vấn đề về nó.
Cái chết là đẹp nếu bạn có thể chấp nhận, nếu bạn
có thể mở cánh cửa bằng trái tim đón chào, đón tiếp
nồng hậu: “Vâng, bởi vì nếu tôi được sinh ra thì tôi sẽ
chết. Cho nên cái ngày đó đã tới, vòng tròn trở thành
hoàn chỉnh.” Bạn đón nhận cái chết như khách, người

khách được đón chào, và phẩm chất của hiện tượng
này thay đổi ngay lập tức.
Bỗng nhiên bạn bất tử: thân thể sắp chết, bạn
không chết. Bạn có thể thấy bây giờ: chỉ quần áo là bị
vứt bỏ, không phải bạn; chỉ lớp che phủ, bình chứa,
không phải là nội dung. Tâm thức vẫn còn trong chói
sáng của nó - nhiều thế bởi vì trong cuộc sống nhiều
thứ đã che phủ lên nó, trong cái chết nó trần trụi. Và
khi tâm thức ở trong sự trần trụi toàn bộ thì nó có sự
rực rỡ của riêng nó; nó là cái đẹp nhất trên thế giới.
Nhưng để có điều đó bạn phải hấp thu thái độ về
phản ánh như thế. Khi tôi nói hấp thu, tôi ngụ ý là hấp
thu - không chỉ ý nghĩ tinh thần, không chỉ triết lí của
việc phản ánh như thế, mà toàn bộ cách sống của bạn
đều trở thành phản ánh như thế. Bạn thậm chí không
nghĩ về nó, điều đó đơn giản trở thành tự nhiên.
Bạn ăn trong phản ánh như thế, bạn ngủ trong phản
ánh như thế, bạn thở trong phản ánh như thế, bạn yêu
trong phản ánh như thế, bạn khóc trong phản ánh như
thế. Điều đó trở thành chính phong cách của bạn; bạn
không cần bận tâm về nó, bạn không cần nghĩ về nó,
nó là cách thức bạn đang hiện hữu. Đó là điều tôi ngụ ý
qua từ ‘hấp thu’. Bạn hấp thu nó, bạn tiêu hoá nó, nó
chảy trong máu bạn, nó đi sâu vào trong xương bạn, nó
đạt tới chính nhịp đập của trái tim bạn. Bạn chấp nhận.
Nhớ lấy, từ ‘chấp nhận’ không hay lắm đâu. Nó
mang gánh nặng - bởi vì bạn, không phải bởi vì từ này
- bởi vì bạn chấp nhận chỉ khi bạn cảm thấy bất lực.
Bạn chấp nhận một cách miễn cưỡng, bạn chấp nhận
một cách nửa vời. Bạn chấp nhận chỉ khi bạn không
thể làm được gì nữa, nhưng sâu bên dưới bạn vẫn ao
ước; bạn sẽ hạnh phúc nếu điều đó đã không thế. Bạn
chấp nhận giống như kẻ ăn xin, không giống như nhà
vua - và khác biệt là lớn lao.
Nếu người vợ bỏ đi hay người chồng bỏ đi, cuối
cùng bạn đi tới chấp nhận điều đó. Còn có thể làm
được gì nữa nào? Bạn kêu khóc và nhiều đêm bạn
nghiền ngẫm và lo nghĩ, và nhiều cơn ác mộng quay
quanh bạn và khổ sở... và thế rồi làm gì? Thời gian
chữa lành, không phải là hiểu biết. Thời gian - và nhớ
lấy, thời gian là cần thiết chỉ bởi vì bạn không hiểu
biết, nếu không thì việc chữa lành tức khắc xảy ra.
Thời gian là cần thiết bởi vì bạn không hiểu biết.
Cho nên dần dần - sáu tháng, tám tháng, một năm -
mọi sự trở nên mờ đi, trong kí ức chúng mất dần, bị
bao phủ bởi nhiều bụi bặm. Và lỗ hổng tới từ một năm;
dần dần bạn quên đi.
Nhưng đôi khi vết thương vẫn còn đau. Đôi khi
một phụ nữ đi ngang qua trên đường và bỗng nhiên
bạn nhớ lại. Đôi điều tương tự, cách cô ấy bước đi, và
người vợ được nhớ tới - và vết thương. Thế rồi bạn yêu
ai đó, thế thì thêm nhiều bụi bặm phủ lên, thế thì bạn
nhớ ít đi. Nhưng thậm chí với người đàn bà mới, đôi
khi cách cô ấy nhìn... và vợ bạn. Cách cô ấy hát trong
nhà tắm... và kí ức. Và vết thương có đó, vẫn xanh rờn.
Nó gây đau đớn bởi vì bạn mang quá khứ. Bạn
mang mọi thứ, đó là lí do tại sao bạn nặng gánh thế.
Bạn mang mọi thứ! Bạn là đứa trẻ; đứa trẻ vẫn có đó,
bạn đang mang nó. Bạn là thanh niên; người thanh niên
ấy vẫn có đó với tất cả những vết thương của mình, với

kinh nghiệm, cái ngu xuẩn - anh ta vẫn có đó. Bạn
mang toàn bộ quá khứ của mình, hết tầng nọ tới tầng
kia, mọi thứ đều có đó. Đó là lí do tại sao bạn đôi khi
đi lùi.
Nếu cái gì đó xảy ra và bạn cảm thấy bất lực, bạn
bắt đầu khóc như trẻ con. Bạn đã đi lùi theo thời gian,
đứa trẻ đã nắm quyền. Đứa trẻ còn hiệu quả trong việc
khóc hơn bạn, cho nên đứa trẻ tới và nắm quyền, bạn
bắt đầu kêu khóc. Bạn thậm chí còn có thể bắt đầu giãy
đành đạch như đứa trẻ đang trong cơn thịnh nộ - nhưng
mọi thứ đều có đó.
Tại sao mang nhiều gánh nặng thế? Bởi vì bạn
chưa bao giờ thực sự chấp nhận điều gì cả. Nghe đây:
nếu bạn chấp nhận bất kì điều gì, nó đơn giản chẳng
bao giờ trở thành gánh nặng cả; thế thì bạn không
mang vết thương. Bạn chấp nhận hiện tượng đó; không
có gì phải mang từ nó cả, bạn ở ngoài nó. Qua chấp
nhận bạn ở ngoài nó. Qua chấp nhận nửa vời, bạn
mang nó.
Nhớ lấy một điều: bất kì cái gì không hoàn chỉnh
đều được tâm trí mang theo mãi mãi; bất kì cái gì hoàn
chỉnh, đều bị vứt bỏ. Bởi vì tâm trí có khuynh hướng
mang những cái không hoàn chỉnh chỉ trong hi vọng
rằng ngày nào đó có thể có cơ hội để hoàn chỉnh
chúng. Bạn vẫn cứ chờ đợi vợ quay lại, hay chồng
quay lại, hay bạn vẫn đợi những ngày đã qua đi. Bạn
vẫn chưa siêu việt lên trên quá khứ.
Và bởi vì quá khứ quá nặng gánh nên bạn không
thể sống trong hiện tại được. Hiện tại của bạn là đống
lộn xộn bởi vì quá khứ, còn tương lai của bạn cũng sắp
sửa là như vậy, bởi vì quá khứ sẽ trở thành ngày một
nặng nề hơn. Mọi ngày nó đều trở nên nặng nề hơn và
nặng nề hơn nữa.
Khi bạn thực sự chấp nhận, trong thái độ phản ánh
như thế mà không có miễn cưỡng, bạn không bất lực.
Bạn đơn giản hiểu rằng đây là bản chất của mọi việc.
Chẳng hạn, nếu tôi muốn đi ra khỏi phòng này, tôi sẽ
đi ra qua cửa, không đi qua tường, bởi vì đi qua tường
sẽ chỉ làm đập đầu tôi vào nó; điều đó đơn giản là xuẩn
ngốc. Đây là bản chất của tường, để che kín, cho nên
bạn không thể cố gắng đi qua nó được! Đây là bản chất
của cửa, rằng bạn đi qua nó; bởi vì cửa là trống rỗng,
bạn có thể bước qua nó.
Khi vị Phật chấp nhận, ông ấy chấp nhận mọi thứ
như tường và cửa. Ông ấy bước qua cửa; ông ấy nói đó
là con đường duy nhất. Trước hết bạn cố gắng đi qua
tường, rồi bạn tự làm mình bị thương theo cả triệu
cách. Và khi bạn không thể ra được - bị vò xé, thất bại,
thất vọng, thiệt hại - thế thì bạn mới bò ra hướng cửa.
Bạn có thể đã đi qua cửa ngay chỗ đầu tiên đấy chứ.
Sao bạn lại cứ thử và bắt đầu tranh đấu với tường?
Nếu bạn có thể nhìn vào mọi thứ với sự sáng tỏ,
bạn đơn giản không làm những điều giống thế này - cố
gắng làm ra cửa ở bức tường. Nếu tình yêu biến mất,
thì nó đã mất rồi! Bây giờ có bức tường: đừng cố gắng
đi qua nó. Bây giờ cửa không còn ở đó nữa; trái tim
không còn ở đấy nữa, trái tim đã mở ra với ai đó khác.
Và bạn không một mình ở đây; còn có những người
khác nữa.

Cánh cửa này không còn cho bạn nữa, nó đã trở
thành bức tường. Đừng cố gắng, và đừng đâm đầu vào
nó. Bạn sẽ bị thương một cách không cần thiết. Và dù
có bị thương, bị thất bại thậm chí thế cánh cửa này vẫn
sẽ không là điều đẹp đẽ để đi qua.
Bạn đơn giản nhìn mọi sự. Nếu cái gì đó là tự
nhiên, đừng cố gắng ép buộc bất kì điều gì không tự
nhiên lên nó. Chọn cánh cửa - đi ra từ đó. Mọi ngày
bạn đang làm những điều ngu xuẩn đi qua tường. Thế
thì bạn trở nên căng thẳng, và thế thì bạn cảm thấy lẫn
lộn liên tục. Phiền não trở thành chính cuộc sống của
bạn, cốt lõi của nó - và thế rồi bạn tìm tới thiền.
Nhưng ngay chỗ đầu tiên tại sao? Tại sao không
nhìn vào các sự kiện như chúng hiện thế? Tại sao bạn
không thể nhìn vào các sự kiện được? - bởi vì ham
muốn của bạn quá nhiều ở đó. Bạn cứ hi vọng chống
lại tất cả hi vọng. Đó là lí do tại sao bạn lại lâm vào
cảnh ngộ bất lực đến thế.
Nhìn xem: bất kì khi nào có tình huống, đừng ham
muốn điều gì, bởi vì ham muốn sẽ dẫn bạn đi lạc lối.
Đừng ước ao và đừng tưởng tượng. Đơn giản nhìn vào
sự kiện đó với tâm thức toàn bộ có sẵn của mình và
bỗng nhiên cánh cửa mở ra và bạn chưa bao giờ đi qua
tường, bạn đi qua cửa, không bị xây xước. Thế thì bạn
vẫn còn không nặng gánh.
Nhớ lấy, phản ánh như thế là hiểu biết, không phải
là định mệnh bất lực. Cho nên đó là khác biệt. Có
những người tin vào định mệnh, số mệnh. Họ nói,
“Thầy nói gì vậy? Thượng đế đã muốn điều đó theo
cách như vậy. Đứa con trẻ của con đã chết, cho nên
đấy là ý muốn của Thượng đế và đây là định mệnh của
con. Nó đã được viết ra, nó sẽ xảy ra.” Nhưng sâu bên
dưới có bác bỏ. Đây chỉ là những thủ đoạn để trau
chuốt cho bác bỏ. Bạn có biết Thượng đế không? Bạn
có biết số mệnh không? Bạn có biết nó được viết ra
không? Không, đây là việc hợp lí hoá, cách thức bạn tự
an ủi mình.
Thái độ của phản ánh như thế không phải là thái độ
của người theo thuyết định mệnh. Nó không đem
Thượng đế, hay định mệnh, hay số mệnh vào - không
có gì. Nó nói: đơn giản nhìn vào mọi sự việc. Đơn giản
nhìn vào sự kiện của mọi việc, hiểu biết, và có một
cánh cửa, bao giờ cũng có một cánh cửa. Bạn siêu việt
lên.
Phản ánh như thế có nghĩa là chấp nhận với trái
tim toàn bộ, đón chào, không trong bất lực.
Trong thế giới này của phản ánh như thế
không có cái ta lẫn cái khác hơn cái ta.

Và một khi bạn hội nhập - bạn được hội nhập vào
trong phản ánh như thế, trong tathata, trong hiểu biết -
không có ai là bạn và không có ai là khác bạn, không
cái ta, không cái khác cái ta. Trong phản ánh như thế,
trong hiểu biết sâu sắc về bản chất của mọi sự, các biên
giới biến mất.
Mulla Nasruddin bị ốm. Bác sĩ đến khám anh ta và
nói, “Tốt rồi, Nasruddin, rất tốt. Anh đã đỡ đấy, anh
đang khá lên, mọi thứ đều gần được cả. Chỉ còn lại mỗi
một điều: thận di động của anh còn chưa ổn. Nhưng tôi
không lo nghĩ chút nào về nó.”

Nasruddin ngó bác sĩ và nói, “Bác sĩ cho là nếu
thận di động của bác sĩ không ổn thì tôi sẽ lo nghĩ về
nó sao?”
Tâm trí bao giờ cũng phân chia: người khác và
mình. Và khoảnh khắc mà bạn phân chia mình và
người khác, thì người khác trở thành kẻ thù, người
khác không thể là bạn được. Đây là một điều cơ bản
cần phải được hiểu sâu sắc, bạn cần hiểu thấu vào
trong nó: người khác không thể là bạn bè được, người
khác là kẻ thù. Trong chính việc là ‘người khác’, người
đó là kẻ thù của bạn. Một số người thù địch hơn, một
số ít hơn, nhưng người khác vẫn còn là kẻ thù.
Ai là bạn? - người ít tính kẻ thù nhất, thực sự,
không gì khác cả. Bạn là người ít thù địch nhất với bạn
và kẻ thù là người ít thân thiện nhất với bạn, nhưng họ
đứng sắp hàng. Bạn đứng ở gần hơn, kẻ thù đứng xa
hơn, nhưng tất cả họ đều là kẻ thù. Người khác không
thể là bạn được. Điều đó là không thể được, bởi vì với
người khác nhất định có cạnh tranh, ghen tị, vật lộn.
Bạn đang tranh đấu với cả bạn bè nữa - tất nhiên,
tranh đấu theo cách bạn bè thôi. Bạn đang cạnh tranh
với bạn bè nữa, bởi vì tham vọng của bạn cũng là tham
vọng của họ. Bạn muốn đạt tới danh vọng, quyền lực;
họ cũng muốn đạt tới danh vọng và quyền lực. Bạn
muốn có vương quốc lớn bao quanh mình, họ cũng
muốn thế. Bạn đang tranh đấu vì cùng một điều, và chỉ
ít người mới có nó.
Không thể nào có bạn trong thế giới này. Phật có
bạn, bạn có kẻ thù. Phật không thể có kẻ thù được, bạn
không thể có bạn bè được. Tại sao Phật lại có bạn? -
bởi vì người khác đã biến mất; bây giờ không có ai là
người khác hơn ông ấy.
Và khi ‘người khác’ này biến mất thì ‘tôi’ cũng
phải biến mất, bởi vì họ là hai cực của cùng một hiện
tượng. Tại đây bên trong tồn tại bản ngã, bên ngoài tồn
tại người khác - hai cực của một hiện tượng. Nếu một
cực biến mất, nếu ‘bạn’ biến mất, thì ‘tôi’ cũng biến
theo với nó; nếu ‘tôi’ biến mất, thì ‘bạn’ cũng biến
mất.
Bạn không thể làm cho người khác biến mất được,
bạn chỉ có thể làm cho bản thân mình biến mất thôi.
Nếu bạn biến mất thì không có người khác; khi cái ta
bị vứt bỏ thì không có cái người. Đó là cách thức duy
nhất.
Nhưng chúng ta cố gắng, chúng ta cố gắng chỉ điều
đối lập - chúng ta cố gắng giết chết cái ‘bạn’. Cái ‘bạn’
không thể bị giết chết được, cái ‘bạn’ không thể bị sở
hữu, bị chi phối. Cái ‘bạn’ sẽ vẫn còn là sự nổi dậy, bởi
vì cái ‘bạn’ là trong nỗ lực để giết chết bạn. Các bạn cả
hai đều đang tranh đấu cho cùng một bản ngã - người
ấy vì bản ngã người ấy, bạn vì bản ngã của mình.
Toàn bộ nền chính trị của thế giới này là làm sao
giết chết cái ‘bạn’ để cho chỉ cái ‘tôi’ là còn lại và mọi
thứ được an bình. Bởi vì khi không có ai khác, bạn một
mình có đó, thì mọi sự sẽ an bình. Nhưng điều này
không bao giờ xảy ra và sẽ chẳng bao giờ xảy ra cả.
Làm sao bạn có thể giết chết người khác được? Làm
sao bạn có thể phá huỷ được người khác? Người khác
là bao la, toàn bộ vũ trụ này là người khác.

Tôn giáo làm việc theo một chiều hướng khác: nó
cố gắng vứt bỏ cái tôi. Và một khi cái tôi bị vứt bỏ thì
không có người khác, người khác biến mất. Đó là lí do
tại sao bạn lại níu bám lấy lời phàn nàn và ác cảm của
mình - bởi vì chúng giúp cho cái tôi có đấy. Nếu giầy
bó chân quá, thế thì cái tôi có thể tồn tại dễ dàng hơn.
Nếu đôi giầy không bó, chân bị quên mất; thế thì cái
tôi biến mất.
Mọi người níu bám lấy bệnh tật của mình, họ níu
bám lấy lời phàn nàn của mình, họ níu bám lấy tất cả
những gì bó chặt. Và họ cứ nói rằng “Đây là những vết
thương và chúng tôi muốn chúng được chữa lành.”
Nhưng sâu bên dưới họ cứ tạo ra các vết thương, bởi vì
nếu tất cả các vết thương đều được chữa lành thì họ sẽ
không có đó.
Quan sát mọi người: họ bám lấy cái ốm yếu của
mình. Họ nói về nó cứ như nó là cái gì đó đáng nói tới.
Mọi người nói về cái ốm yếu, về tâm trạng tiêu cực của
mình, còn nhiều hơn bất kì cái gì khác. Lắng nghe họ,
và bạn sẽ thấy rằng họ đang thích thú việc nói về nó.
Mọi tối tôi đều phải lắng nghe, trong nhiều năm tôi
đã từng lắng nghe. Nhìn vào khuôn mặt họ - họ đang
thích điều đó! Họ là kẻ tử vì đạo... ốm yếu của họ, giận
dữ của họ, hận thù của họ, vấn đề này nọ của họ, tham
lam của họ, tham vọng. Và chỉ nhìn thôi, toàn bộ vấn
đề đơn giản là điên khùng - bởi vì họ đang yêu cầu loại
bỏ những điều đó, nhưng nhìn vào khuôn mặt họ mà
xem, họ đang thích thú điều đó đấy. Và nếu chúng thực
sự mất đi, thế thì họ sẽ hưởng thú cái gì đây? Nếu tất
cả những cái ốm yếu của họ biến mất và họ hoàn toàn
là toàn thể và mạnh khoẻ, thì sẽ chẳng có gì cho họ nói
cả!
Mọi người tới các nhà tâm thần và thế rồi họ cứ
nói mãi về điều đó, rằng họ đã đến khám nhà tâm thần
này nọ, họ đã tới bậc thầy này nọ. Thực sự, họ thích
thú nói rằng “Tất cả mọi người đều phải bó tay trước
tôi. Tôi vẫn thế, chẳng ai có thể thay đổi được tôi cả.”
Họ thích điều này, cứ dường như là họ thành công bởi
vì họ đang chứng tỏ mọi nhà tâm thần đều thất bại. Tất
cả các ‘con đường’ đều thất bại.
Tôi đã nghe nói về một người bị chứng nghi bệnh,
cứ liên tục nói về bệnh của mình. Và chẳng ai tin anh
ta cả, bởi vì anh ta đã được kiểm tra và khám xét theo
mọi cách có thể mà chẳng có gì sai cả. Nhưng ngày
nào anh ta cũng đến bác sĩ - anh ta đang trong khó
khăn nghiêm trọng.
Thế rồi dần dần vị bác sĩ này nhận ra rằng “Bất kì
điều gì anh ta nghe thấy - nếu trên ti vi có một quảng
cáo về thuốc nào đó và nói về bệnh nào đó - thì ngay
lập tức bệnh đó xảy ra cho anh ta. Nếu anh ta đọc về
bất kì bệnh gì trong một tạp chí, thì ngay lập tức, ngày
hôm sau, anh ta đã có đó tại văn phòng của bác sĩ - ốm,
ốm hoàn toàn. Và anh ta bắt chước mọi triệu chứng.”
Thế là có lần bác sĩ nói với anh ta, “Đừng có làm
phiền tôi quá nhiều, bởi vì tôi đã đọc cùng tờ tạp chí
mà anh đọc và tôi đã nghe cùng chương trình ti vi anh
đã nghe. Mà mới chỉ hôm trước thôi anh đã ở đây với
bệnh đó.”
Người này nói, “Bác sĩ nghĩ sao? Bác sĩ có phải là
bác sĩ duy nhất trong thành phố không?”

Anh ta thôi đến vị bác sĩ này, nhưng anh ta không
thể chấm dứt cái điên khùng của mình về bệnh tật.
Thế rồi anh ta chết, vì mọi người đều phải chết.
Trước khi chết anh ta bảo vợ viết vài lời lên tảng đá
cẩm thạch đặt trên mồ anh ta. Chúng vẫn được viết ở
đó. Trong chữ to tướng trên tấm bia mộ có dòng chữ:
“Bây giờ ông đã tin rằng tôi đúng chưa?”
Mọi người cảm thấy hạnh phúc thế về khổ sở của
mình. Tôi đôi khi cũng cảm thấy rằng nếu tất cả khổ sở
của họ biến mất, thì không biết họ sẽ làm gì? Họ sẽ
nhàn rỗi đến mức họ đơn giản tự tử. Và đây đã là quan
sát của tôi: bạn giúp cho họ thoát ra khỏi khổ sở này,
ngày hôm sau họ lại hiện diện đó với cái gì đó khác.
Bạn giúp họ thoát ra khỏi cái đó, họ lại sẵn sàng...
dường như có níu bám sâu sắc vào khổ sở. Họ thu
được cái gì đó từ nó, đấy là đầu tư - và nó đang trả giá.
Đầu tư là gì? Đầu tư là ở chỗ khi chiếc giầy không
vừa, bạn cảm thấy nhiều hơn là bạn hiện thế. Khi giầy
vừa hoàn toàn, bạn đơn giản thảnh thơi. Nếu giầy vừa
hoàn toàn, thì không chỉ chân bị quên mất, cái tôi cũng
biến mất. Không thể có bất kì cái tôi nào với tâm thức
phúc lạc - không thể được!
Chỉ với tâm trí khổ sở thì cái tôi mới có thể tồn tại;
cái tôi chẳng là gì ngoài tổ hợp của tất cả những khổ sở
của bạn. Cho nên nếu bạn thực sự sẵn sàng vứt bỏ cái
tôi, chỉ thế thì khổ sở của bạn mới biến mất. Bằng
không bạn sẽ tạo ra những khổ sở mới. Không ai có thể
giúp bạn được, bởi vì bạn đang trên con đường tự huỷ
diệt, tự chuốc lấy thất bại.
Cho nên lần sau, bất kì khi nào bạn tới tôi với bất
kì vấn đề gì, trước hết tự hỏi bên trong mình liệu bạn
có muốn nó được giải quyết hay không, bởi vì, nhận
biết đi - tôi có thể trao nó. Bạn có thực quan tâm tới
việc giải quyết nó hay chỉ nói về nó thôi? Bạn cảm
thấy thoải mái khi nói về nó.
Đi vào nội tâm và hỏi, và bạn sẽ cảm thấy: tất cả
mọi khổ sở của bạn tồn tại bởi vì bạn hỗ trợ cho chúng.
Không có hỗ trợ của bạn, chẳng cái gì có thể tồn tại cả.
Bởi vì bạn trao cho nó năng lượng, thế thì nó tồn tại;
nếu bạn không trao cho nó năng lượng, nó không thể
tồn tại được. Và ai đang ép buộc bạn phải trao cho nó
năng lượng? Thậm chí khi bạn buồn, cũng cần có năng
lượng, bởi vì không năng lượng bạn không thể buồn
được.
Để làm cho hiện tượng buồn xảy ra, bạn phải trao
năng lượng. Đó là lí do tại sao sau buồn bạn cảm thấy
tiêu tán thế, mòn mỏi thế. Điều gì đã xảy ra? - bởi vì
trong chán nản bạn không làm gì cả, bạn đơn giản
buồn. Cho nên tại sao bạn lại cảm thấy tiêu tán và mòn
mỏi thế? Bạn đáng phải thoát ra khỏi nỗi buồn mà vẫn
tràn đầy năng lượng chứ - nhưng không.
Nhớ lấy, tất cả những xúc động tiêu cực đều cần
năng lượng, chúng làm mòn mỏi bạn. Và tất cả những
xúc động tích cực và thái độ tích cực đều là máy phát
năng lượng; chúng tạo ra nhiều năng lượng hơn, chúng
không bao giờ làm mòn mỏi bạn.
Nếu bạn hạnh phúc, bỗng nhiên toàn bộ thế giới
tuôn chảy năng lượng về bạn, toàn bộ thế giới cười với
bạn. Và mọi người đều đúng theo tục ngữ của họ nếu

họ nói: “Khi bạn cười, cả thế giới cười với bạn. Khi
bạn khóc, bạn khóc một mình.” Điều đó đúng, điều đó
hoàn toàn đúng.
Khi bạn tích cực toàn bộ sự tồn tại cho bạn thêm
nữa, bởi vì khi bạn hạnh phúc, toàn bộ sự tồn tại hạnh
phúc với bạn. Bạn không nặng gánh, bạn là hoa; bạn
không là tảng đá, bạn là con chim. Toàn bộ sự tồn tại
cảm thấy hạnh phúc về bạn.
Khi bạn giống như tảng đá, ngồi chết lặng với nỗi
buồn, nuôi dưỡng nỗi buồn của mình, chẳng ai ở cùng
với bạn cả. Không ai có thể cùng bạn được. Đơn giản
một lỗ hổng xảy đến giữa bạn và cuộc sống. Thế thì bất
kì cái gì bạn đang làm, bạn cũng phải phụ thuộc vào
nguồn năng lượng của mình. Nó sẽ bị tiêu tán đi; bạn
đang làm phí hoài năng lượng của mình, bạn đang bị
cạn kiệt bởi chính cái vô nghĩa của mình.
Nhưng một điều có đấy: rằng khi bạn buồn và tiêu
cực, bạn sẽ cảm thấy bản ngã nhiều hơn. Khi bạn hạnh
phúc, phúc lạc, cực lạc, bạn sẽ không cảm thấy bản
ngã. Khi bạn hạnh phúc và cực lạc, không có cái tôi, và
người khác biến mất. Bạn được bắc cầu với sự tồn tại,
không phải là phần bị vỡ rời; bạn được gắn lại.
Khi bạn buồn, giận, tham, khi chỉ đi vào bên trong
mình và tận hưởng vết thương của mình và nhìn đi
nhìn lại chúng, chơi đùa với những vết thương của
mình, cố gắng làm kẻ chịu đoạ đầy, có lỗ hổng giữa
bạn và sự tồn tại. Bạn bị bỏ lại một mình, và ở đó bạn
sẽ cảm thấy cái tôi. Và khi bạn cảm thấy cái tôi, toàn
bộ sự tồn tại trở thành thù địch với bạn. Không phải là
nó trở thành thù địch với bạn với vì cái tôi của bạn đâu
- nó có vẻ thù địch thôi. Và nếu bạn thấy rằng mọi
người đều là kẻ thù, bạn sẽ hành xử theo cách mà mọi
người đều phải là kẻ thù.
Trong thế giới này của phản ánh như thế
không có cái ta lẫn cái khác hơn cái ta.

Khi bạn chấp nhận tự nhiên và tan biến vào trong
nó, bạn đi cùng nó. Bạn không có bước nào của riêng
mình, bạn không có bất kì điệu vũ nào của riêng mình,
bạn không có thậm chí tới một bài ca nhỏ để hát của
riêng mình - bài ca của cái toàn thể là bài ca của bạn,
điệu vũ của cái toàn thể là điệu vũ của bạn. Bạn không
là phần ngoài nữa.
Bạn không cảm thấy rằng “Mình hiện hữu”; bạn
đơn giản cảm thấy, “Cái toàn thể hiện hữu. Mình chỉ là
một con sóng, đến rồi đi, tới rồi mất, hiện hữu rồi
không hiện hữu. Mình tới và đi, cái toàn thể còn lại. Và
mình tồn tại bởi vì cái toàn thể, cái toàn thể tồn tại qua
mình.”
Đôi khi nó mang hình dạng, đôi khi nó trở thành
vô hình dạng; cả hai đều đẹp. Đôi khi nó nẩy sinh
trong thân thể, đôi khi nó biến mất khỏi thân thể. Nó
phải như vậy, bởi vì cuộc sống là nhịp điệu. Đôi khi
bạn phải ở trong hình dạng, thế rồi bạn phải nghỉ ngơi
khỏi hình dạng. Đôi khi bạn phải hoạt động và di
chuyển, một con sóng, và đôi khi bạn đi vào chiều sâu
của biển cả và nghỉ ngơi, không chuyển động. Cuộc
sống là nhịp điệu.
Cái chết không phải là kẻ thù. Nó chỉ là thay đổi
nhịp điệu, chuyển sang nhịp điệu khác. Chẳng mấy

chốc bạn sẽ được sinh ra - lại sống động, trẻ trung hơn,
tươi tắn hơn. Cái chết là cần thiết. Bạn không chết đi
trong cái chết; chỉ tất cả bụi bặm đã bám quanh bạn
phải bị gột sạch đi. Đó là cách duy nhất để được làm
trẻ lại. Không chỉ Jesus được phục sinh, mọi thứ đều
được phục sinh trong sự tồn tại.
Ngay bây giờ đây cây hạnh ngoài kia đã trút bỏ tất
cả các lá úa, bây giờ lá mới đã thay thế chúng. Đây là
cách thức! Nếu cây cứ níu bám lấy lá cũ thế thì nó sẽ
không bao giờ mới, và thế thì nó sẽ thành mục nát. Tại
sao lại tạo ra xung đột? Cái cũ mất đi chỉ để cái mới
tới. Nó nhường chỗ, nó tạo ra không gian, chỗ đứng,
cho cái mới tới. Và cái mới bao giờ cũng sẽ tới và cái
cũ bao giờ cũng sẽ đi.
Bạn không chết. Chỉ lá cũ rụng xuống, chỉ tạo ra
chỗ cho lá mới. Tại đây bạn chết đi, tại kia bạn được
sinh ra; tại đây bạn biến mất, tại kia bạn xuất hiện. Từ
hình dạng sang vô hình dạng, từ vô hình dạng sang
hình dạng; từ thân thể sang vô thân thể, từ vô thân thể
sang thân thể; chuyển động, nghỉ ngơi, nghỉ ngơi,
chuyển động - đây là nhịp điệu. Nếu bạn nhìn vào nhịp
điệu thì bạn không lo nghĩ về cái gì cả. Bạn tin cậy.
Trong thế giới này của phản ánh như thế ... trong
thế giới của tin cậy...
không có cái ta lẫn cái khác hơn cái ta.

Thế thì bạn không có đó, cũng chẳng có người nào
khác ở đó cả. Cả hai đã biến mất, cả hai đã trở thành
nhịp điệu của cái một. Cái Một đó tồn tại, cái Một đó
là thực tại, là chân lí.
Việc đi trực tiếp vào sự hài hoà với thực tại này
đơn giản chỉ là nói khi hoài nghi nảy sinh, “Không
hai.”

Đây là một trong những câu mật chú cổ nhất. Bất
kì khi nào hoài nghi nẩy sinh, bất kì khi nào bạn cảm
thấy bị phân chia, bất kì khi nào bạn thấy rằng nhị
nguyên đang tới trong con người, đơn giản nói bên
trong: “Không hai” - nhưng nói điều đó với nhận biết,
không lặp lại nó theo cách máy móc.
Đây là vấn đề với mọi mật chú; thực sự, đây là vấn
đề với mọi sự. Bạn có thể làm nó một cách máy móc,
thế thì bạn bỏ lỡ vấn đề; bạn làm mọi thứ và bạn vẫn
lỡ. Hay bạn có thể làm nó với tràn đầy nhận biết, thông
minh, hiểu biết, và thế thì sự việc xảy ra.
Bất kì khi nào bạn cảm thấy yêu nảy sinh, nói,
“Không hai.” Nếu không thì ghét đang đợi ở kia -
chúng là một. Khi bạn cảm thấy ghét nảy sinh, nói,
“Không hai.” Bất kì khi nào bạn cảm thấy việc níu bám
với sự sống, nói, “Không hai.” Bất kì khi nào bạn cảm
thấy sợ chết, nói, “Không hai, chỉ một hiện hữu.”
Và việc nói này phải là hiểu biết của bạn; nó phải
tràn đầy với thông minh, thấm nhuần sáng tỏ. Và bỗng
nhiên bạn sẽ cảm thấy thảnh thơi bên trong. Khoảnh
khắc bạn nói, “Không hai” - nếu bạn đang nói nó một
cách có hiểu biết, không lặp lại theo cách máy móc -
bạn bỗng nhiên cảm thấy chói sáng.
Ai đó đã xúc phạm bạn và bạn cảm thấy bị xúc
phạm. Đơn giản nhớ và nói, “Không hai.” Bởi vì người
xúc phạm và người bị xúc phạm là một. Cho nên tại
sao phải lo nghĩ? Người kia không làm điều gì với bạn

cả, người ấy đã làm với chính mình - bởi vì chỉ cái một
tồn tại.
Chuyện đã xảy ra:
Vào năm 1857 có cuộc nổi dậy ở Ấn Độ chống lại
nước Anh. Một đêm một sannyasin vừa đi qua phố,
nhưng người ấy không nhận biết rằng đó là trại lính.
Cho nên người ấy bị bắt. Và người ấy đã giữ im lặng
trong ba mươi năm. Khi cảnh sát bắt người ấy và người
Anh hỏi người ấy, “Tại sao anh lại đi ở đây? Đây là
khu vực cấm. Không có giấy phép anh không được
vào,” người ấy đơn giản đứng đấy bởi vì người ấy
không thể nói được. Trong ba mươi năm người ấy đã
không nói, vậy phải làm gì? Và người ấy đã không
viết, người ấy đã không dùng bất kì cách trao đổi nào.
Họ nghĩ rằng người ấy định đánh lừa, và người ấy
không phải là người trông ngu xuẩn, người ấy rất thông
minh. Phẩm chất ấy của mắt người ấy, cách thức người
ấy đứng... người ấy là một người đẹp. Người ấy không
phải là kẻ ngu hay thằng ngốc.
Cho nên họ bảo người ấy, “Anh nói với chúng ta,
bằng không thì chúng ta sẽ bắn anh.” Nhưng người ấy
vẫn đứng như cũ. Thế là họ nghĩ, “Người này phải là
tên gián điệp và tới dò la; anh ta đang cố gắng tìm cái
gì đó trong trại, đó là lí do tại sao anh ta im lặng.”
Thế là họ nói, “Anh nói đi, nếu không chúng ta sẽ
giết anh.”
Nhưng người ấy đứng đấy, thế là họ giết anh ta.
Người ấy đã có lời nguyền ba mươi năm trước đây
rằng chỉ một lần người ấy nói trong đời mình. Cho nên
khi người ấy bị giết, và người lính Anh với lưỡi lê giết
chết người ấy, khi lưỡi lê đâm vào tim người ấy, người
ấy chỉ thốt ra một lời. Đấy là cơ sở, chính cơ sở của
hiểu biết và trí huệ phương Đông; đó là một lời của
Upanishad. Người ấy nói, “Tattvamasi” - cái đó là
ngươi - và chết!
Bạn cũng là cái đó: cái Một. Kẻ giết và người bị
giết là một, cho nên tại sao phải lo nghĩ? Cho nên tại
sao phải lấy quan điểm? Tại sao không hợp nhất vào
người khác? Bởi vì người khác cũng là mình, và người
khác và mình cũng là cái đó. Chỉ cái một tồn tại.
Không ai có thể hiểu được điều người ấy nói bởi vì
người ấy thốt ra lời này trong tiếng Phạn: tattvamasi.
Nhưng phẩm chất của người chết này cao đến mức
ngay cả kẻ giết, kẻ sát hại, cũng trở nên nhận biết rằng
họ đã làm điều gì đó sai. Bởi vì họ chưa bao giờ thấy
một gián điệp chết theo cách như vậy. Gián điệp thì chỉ
là gián điệp thôi! Và phúc lạc và năng lượng được
thoát ra khi người này chết mới mênh mông làm sao.
Mọi người đều cảm thấy nó ở trong trại, cứ như là bất
ngờ có tia sét đánh.
Ba mươi năm im lặng... và thế rồi nếu bạn nói ra
một lời thì nó phải là như vậy. Biết bao nhiêu năng
lượng, cái im lặng của ba mươi năm trong một lời đó,
‘tattvamasi’, điều đó trở thành nguyên tử, nó nổ!
Mọi người trong trại, ngay cả những người đang
ngủ trong lều, họ cũng cảm thấy rằng cái gì đó đã xảy
ra. Nhưng bây giờ thì quá trễ rồi.
Thế rồi họ đi tìm một học giả brahmin để tìm ra
người ấy đã nói gì. Tại đó họ mới thấy rằng người đó

đã nói điều tối thượng: Cái đó là ngươi, tattvamasi, chỉ
cái một hiện hữu.
Bất kì khi nào bạn đối diện với lẫn lộn, với hoài
nghi, với phân chia, xung đột, bất kì khi nào bạn chỉ đi
vào chọn lựa điều gì đó, nhớ lấy, không hai. Làm cho
nó thành mật chú sâu sắc, vang vọng bên trong con
người bạn liên tục. Nhưng nhớ, nó phải được làm với
hiểu biết, nhận biết, ý thức. Nếu không thì bạn có thể
cứ nói, “Không hai, không hai, không hai,” và bạn cứ
làm hai. Và chúng trở thành hai sự vật tách biệt, chúng
không bao giờ gặp nhau.
Đây là điều tôi ngụ ý khi tôi nói máy móc. Máy
móc nghĩa là: ở một tầng bạn cứ nói những điều đẹp đẽ
và ở tầng khác bạn cứ làm những điều xấu xa. Trên
một tầng bạn nói mọi người là thiêng liêng và trên tầng
khác bạn vẫn còn là cái tôi, bản ngã, tranh đấu, bạo
hành, hùng hổ.
Và hùng hổ không chỉ trong chiến tranh: không
phải là khi bạn giết người thế thì đấy mới là hùng hổ.
Hùng hổ tinh vi thế, trong cử chỉ của bạn nó có đó. Bạn
nhìn, và nếu bạn bị phân chia giữa ta và người, cái nhìn
của bạn là bạo hành.
Tôi đã nghe có lần chuyện xảy ra:
Một tù nhân được đưa tới viên cai tù của một nhà
tù, và tù nhân đó là một người lí tưởng. Trong năm
năm đã không có điều tiếng gì về anh ta cả, và giới coi
tù bây giờ nghĩ tới việc trả tự do cho anh ta. Anh ta đã
là kẻ giết người và anh ta đã ở tù cả đời, nhưng trong
năm năm anh ta đã là một tù nhân gương mẫu, một
điển hình, và mỗi năm anh ta lại được thưởng vì là tù
nhân tốt nhất. Nhưng bỗng nhiên anh ta nhẩy vào
người bạn giam và đánh anh ta rất dữ, cho nên anh ta
bị gọi lên.
Thậm chí viên cai tù cũng phải ngạc nhiên. Ông ta
nói, “Có chuyện gì vậy? Bởi vì trong năm năm chúng
tôi đã quan sát anh - trong đời mình tôi chưa bao giờ
thấy một tù nhân tốt bụng, im lặng, cư xử đúng mực
như anh, và chúng tôi đã nghĩ tới việc trả tự do cho
anh. Thế mà bỗng nhiên có chuyện gì vậy? Tại sao anh
lại nhẩy xổ vào người bạn giam? Tại sao anh lại bắt
đầu đánh người ấy?”
Người này đứng đó, đầu cúi gầm, rất xấu hổ. Thế
rồi anh ta nói, “Chuyện đã xảy ra bởi vì người bạn
giam đã xé mất tờ lịch, mà đó là lượt tôi.”
Họ có một cái lịch trong phòng giam và xé lịch là
điều duy nhất mà họ có thể làm, hành động duy nhất
mà họ được phép làm. Cho nên họ đã phân chia việc
đó: mỗi ngày một người xé một tờ lịch, ngày sau đến
lượt người kia. Và người này nói, “Hôm nay đến lượt
tôi, mà anh ta lại xé mất tờ lịch.”
Nếu bạn bạo hành, thậm chí điều này cũng có thể
trở thành vấn đề. Và anh ta đánh người bạn giam mạnh
đến mức anh ta sẽ giết chết người này, chỉ bằng tay
trần, và vấn đề thì rất đơn giản. Nhưng bạn không hiểu
nếu bạn thực sự nghĩ nó là điều đơn giản - nó không
phải vậy. Sống trong phòng giam năm năm, không làm
gì cả, người ta tích luỹ nhiều hung hăng đến mức thậm
chí sự việc cỏn con này cũng có thể trở thành quá lớn.

Và điều này đang xảy ra cho tất cả các bạn. Bất kì
khi nào bạn nhẩy lên bạn mình, vợ mình, chồng mình,
bất kì khi nào bạn giận dữ - bạn đã bao giờ nghĩ về nó
chưa? - rằng vấn đề thì thực sự là việc cỏn con thế, chỉ
là xé tờ lịch thôi. Từ mọi phần, cái giận dữ và hung
hăng tích luỹ của bạn vọt ra.
Bất kì khi nào nó xảy ra, lặp lại, không theo cách
máy móc mà có ý thức, “Không hai,” và bạn sẽ cảm
thấy thảnh thơi bất thần sâu sắc bên trong trái tim. Nói
“Không hai” và không có chọn lựa gì, không có gì để
chọn, thích và không thích. Thế thì mọi sự đều ổn thoả,
và bạn có thể ban phúc cho mọi thứ. Thế thì dù cuộc
sống có dẫn bạn tới đâu, bạn cũng đi. Bạn tin cậy vào
cuộc sống.
Nếu bạn nói “Hai,” thế thì bạn không tin cậy rồi.
Tin cậy là có thể chỉ nếu tôi và cái toàn thể là một, còn
thì ngoài ra làm sao tin cậy là có thể được? Tin cậy
không phải là quan điểm trí tuệ, thái độ. Nó là sự đáp
ứng toàn bộ cho cái cảm giác rằng chỉ cái một mới tồn
tại, không hai. Làm điều này thành mật chú của mình
đi, học điều này từ Tăng Xán.
Cứ lần nào bạn cảm thấy hoài nghi tới, lẫn lộn,
phân chia, xung đột, lặp lại nó rất im lặng và sâu sắc.
Trước hết trở nên có ý thức về xung đột, thế rồi lặp lại
một cách im lặng, “Không hai,” và xem điều xảy ra.
Xung đột biến mất! Cho dù chỉ một khoảnh khắc nó
biến đi, đấy cũng là hiện tượng lớn lao rồi, bạn đã thoải
mái. Bỗng nhiên không có kẻ thù trên thế giới này,
bỗng nhiên mọi sự là một. Nó là một gia đình, và cái
toàn thể là phúc lạc với bạn.
Trong cái “không hai” này không có gì tách biệt,
không có gì bị loại trừ.
Dù khi nào và ở đâu cũng không thành vấn đề,
chứng ngộ có nghĩa là đi vào chân lí này.

Chân lí của không hai... chứng ngộ có nghĩa là đi
vào chân lí của không hai này. Bạn cứ nếm trải nó hết
khả năng bạn đi, cứ cảm nhận nó nhiều nhất có thể
được đi. Hai mươi bốn giờ một ngày đều có các cơ hội,
các cơ hội và cơ hội, vô hạn cơ hội. Không nên bỏ lỡ
chúng.
Tại mọi cơ hội, bất kì khi nào bạn cảm thấy căng
thẳng nào đó bên trong, nói “không hai” và thảnh thơi
toàn bộ thân thể. Và nhìn vào bên trong vào điều đang
xảy ra khi bạn nói “không hai”. Không câu mật chú
nào có thể sâu sắc được như thế này. Nhưng điều này
không giống như việc lẩm nhẩm aum, Ram. Điều này
không giống khi bạn lẩm nhẩm Ram-Ram-Ram,
không.
Bất kì khi nào có cơ hội phân chia, bất kì khi nào
bạn cảm thấy bây giờ bạn sẽ bị phân chia, bây giờ bạn
đang trên bờ vực của chọn lựa, chọn cái này ngược lại
cái kia, thích cái này ngược lại cái kia, bất kì khi nào
bạn cảm thấy cơ hội đang tới và căng thẳng phát sinh,
bất kì khi nào bạn cảm thấy việc dựng nên căng thẳng,
đột nhiên nói “không hai” - và căng thẳng này sẽ dịu
đi, và năng lượng này sẽ bị hấp thu trở lại. Năng lượng
được hấp thu lại đó trở thành phúc lạc.
Có hai cách người ta có thể làm việc với năng
lượng bên trong này. Một là: bất kì khi nào căng thẳng
phát sinh, làm giảm nhẹ nó. Đó là cách dục vận hành.

Nó là biện pháp an toàn, bởi vì năng lượng có thể tích
luỹ nhiều đến mức bạn có thể đơn giản bùng nổ, bạn có
thể chết vì nó. Cho nên chỉ để an toàn, tự nhiên đã làm
ra cách thu xếp tự động trong thân thể: bất kì khi nào
năng lượng quá nhiều, bạn bắt đầu cảm thấy dục.
Điều gì xảy ra? Có một trung tâm mà người Hindu
đã từng gọi là con mắt thứ ba. Bất kì khi nào năng
lượng đạt tới con mắt thứ ba, bất kì khi nào nó quá
nhiều và bạn tràn đầy với nó, nó đụng vào con mắt thứ
ba. Bạn bắt đầu cảm thấy cái gì đó cần phải làm. Con
mắt thứ ba này người Hindu đã gọi là agya chakra,
trung tâm của mệnh lệnh, của việc ra lệnh, văn phòng
mà từ đó thân thể nhận được mệnh lệnh.
Bất kì khi nào năng lượng tràn ngập lên trung tâm
con mắt thứ ba, ngay lập tức thân thể cảm thấy phải
làm điều gì đó. Nếu bạn không làm điều gì, bạn sẽ cảm
thấy bị nghẹt thở. Bạn sẽ cảm thấy dường như bạn
đang trong đường hầm và bạn muốn thoát ra khỏi nó,
bạn sẽ cảm thấy bị co hẹp lại. Một cái gì đó phải được
làm ngay lập tức.
Tự nhiên đã tạo ra một tiến trình có sẵn: ngay lập
tức trung tâm con mắt thứ ba đụng vào trung tâm dục,
chúng được nối lại, và bạn bắt đầu cảm thấy dục. Cảm
giác về dục chỉ là một cách sắp xếp để làm thoát bớt
năng lượng. Bạn làm tình, năng lượng được tống ra,
bạn cảm thấy được thảnh thơi, giảm nhẹ. Đây là một
cách dùng năng lượng của bạn - bạn cảm thấy hạnh
phúc qua việc giảm nhẹ.
Còn có một cách khác để dùng năng lượng. Đó là:
bất kì khi nào năng lượng trở thành quá nhiều, đừng
làm giảm bớt nó mà đơn giản nói, “Không hai. Mình là
một với vũ trụ này. Làm giảm nhẹ nó đi đâu? Làm tình
với ai? Ném nó đi đâu? Không có đâu để ném nó đi cả,
mình là một với vũ trụ này.” Bất kì khi nào năng lượng
được cảm thấy quá nhiều, đơn giản nói, “Không hai,”
và vẫn còn thảnh thơi.
Nếu bạn không ném nó đi từ con mắt thứ ba, nó bắt
đầu dâng lên cao hơn con mắt thứ ba. Và thế thì có
trung tâm cuối cùng, trung tâm thứ bẩy trong đầu, cái
mà người Hindu đã gọi là sahasrar: hoa sen một nghìn
cánh. Khi năng lượng đạt tới sahasrar, có phúc lạc, khi
năng lượng đạt tới trung tâm dục, có hạnh phúc.
Hạnh phúc có thể chỉ là tạm thời bởi vì việc giảm
nhẹ chỉ có thể là tạm thời. Làm giảm nhẹ, chấm dứt -
bạn không thể cứ giảm nhẹ mãi được. Căng thẳng được
làm nhẹ đi, thế thì năng lượng mất đi. Nhưng phúc lạc
có thể là vĩnh hằng, bởi vì năng lượng không bị giảm
nhẹ đi mà được hấp thu lại. Nhưng trung tâm giảm nhẹ
là dục, trung tâm đầu tiên, còn trung tâm hấp thu năng
lượng là trung tâm thứ bẩy, trung tâm cuối cùng.
Và nhớ lấy, cả hai đều là hai đầu của một hiện
tượng năng lượng: một đầu là dục, đầu kia là sahasrar.
Từ một đầu năng lượng đơn giản được làm giảm nhẹ;
bạn cảm thấy thoải mái bởi vì bây giờ năng lượng
không có đó để làm gì cả - bạn đi ngủ. Đó là lí do tại
sao dục lại giúp cho giấc ngủ, và mọi người dùng nó
như thuốc an thần, như viên thuốc ngủ.
Nếu bạn chuyển vào cực kia nơi năng lượng được
hấp thu - bởi vì không có ai khác để ném nó đi đâu cả,
bạn là cái toàn thể - thế thì hoa sen một nghìn cánh mở

ra. ‘Một nghìn’ chỉ là để nói rằng nó là vô hạn cánh;
hoa sen vô hạn cánh mở ra, và nó cứ mở ra và mở ra và
mở ra mãi. Không có kết thúc cho nó, bởi vì năng
lượng cứ di chuyển trong nó, được hấp thu lại. Thế thì
có phúc lạc, và phúc lạc có thể là vĩnh hằng.
Người ta phải đạt tới siêu tâm thức từ dục. Hoa sen
một nghìn cánh này là trung tâm của siêu tâm thức.
Cho nên bất kì khi nào bạn cảm thấy dục, nói, “Không
hai.” Hiểu biết, ý thức, tỉnh táo, nói, “Không hai,” và
nghỉ ngơi. Đừng trở nên bồn chồn và kích động. Nghỉ
ngơi và nói, “Không hai.”
Và bỗng nhiên bạn sẽ cảm thấy rằng cái gì đó đang
xảy ra trong đầu: năng lượng vẫn thường rơi xuống
đang di chuyển lên cao. Và một khi nó chạm tới trung
tâm thứ bẩy thì nó được biến đổi, được hấp thu. Thế thì
bạn trở thành ngày càng nhiều năng lượng hơn, và
năng lượng là sung sướng, năng lượng là cực lạc. Thế
thì không cần phải làm giảm nhẹ nó, bởi vì bây giờ bạn
là bản thân đại dương, vô hạn. Bạn có thể hấp thu cái
vô hạn, bạn có thể hấp thu cái toàn thể, và vẫn có
không gian bỏ lại.
Thân thể này là hạn hẹp. Tâm thức bạn không chật
hẹp, tâm thức bạn bao la như bầu trời. Trong thân thể
này bạn không thể mang được nhiều, thân thể này chỉ
là chiếc cốc nhỏ; một chút ít năng lượng thêm nữa và
cái cốc sẽ tràn. Dục của bạn là sự tràn trề của chiếc
cốc, thân thể hạn hẹp này.
Nhưng khi sahasrar mở ra, hoa sen một nghìn
cánh trong đầu bạn, và nó cứ mở ra và mở ra và mở ra
mãi, không có kết thúc cho nó. Nếu cái toàn thể được
rót vào bạn, thì vẫn còn không gian vô hạn bỏ lại.
Người ta nói rằng vị Phật còn lớn hơn vũ trụ: điều này
có ý nghĩa của nó. Thân thể ông ấy không lớn hơn vũ
trụ, tất nhiên, hiển nhiên, nhưng vị Phật lại lớn hơn vũ
trụ bởi vì bông sen này đã mở ra. Bây giờ vũ trụ này là
cái không; hàng triệu vũ trụ có thể rơi vào trong nó và
bị hấp thu lại. Nó có thể cứ lớn mãi.
Nó là hoàn hảo và nó vẫn cứ lớn mãi. Đây là điều
ngược đời: bởi vì chúng ta nghĩ cái hoàn hảo không thể
phát triển được. Cái hoàn hảo cũng phát triển; nó lớn
lên thành hoàn hảo hơn và hoàn hảo hơn và hoàn hảo
hơn nữa. Nó cứ lớn lên bởi vì nó là vô hạn.
Đây là cái trống rỗng mà Phật đang nói tới,
shunyata. Khi bạn là trống rỗng thì cái toàn thể rơi vào
trong bạn và cái vô hạn vẫn còn lại. Nhiều không gian
có đó, nhiều vũ trụ có thể tới trong bạn và rơi vào trong
bạn.
Trong cái “không hai” này không có gì tách biệt,
không có gì bị loại trừ.
Dù khi nào và ở đâu cũng không thành vấn đề,
chứng ngộ có nghĩa là đi vào chân lí này.
Và chân lí này vượt ra ngoài sự mở rộng
hay giảm bớt về thời gian hay không gian...

... chân lí này vượt ra ngoài sự mở rộng hay giảm
bớt về thời gian hay không gian... Với chân lí này, thời
gian và không gian không tồn tại. Nó đã vượt ra ngoài.
Nó không bị bao bọc bởi bất kì cái gì bây giờ - thời
gian hay không gian. Nó còn lớn hơn không gian, lớn
hơn thời gian.

... trong nó chỉ một ý nghĩ cũng là mười nghìn
năm.
Đây chỉ là cách nói rằng trong nó một khoảnh khắc
cũng là vĩnh hằng. Vị phật không sống trong thời gian,
không sống trong không gian. Thân thể ông ấy di
chuyển, chúng ta có thể thấy thân thể ông ấy, nhưng
thân thể không phải là vị phật. Vị phật là tâm thức mà
chúng ta không thể thấy được. Thân thể ông ấy được
sinh ra và chết đi; tâm thức ông ấy không bao giờ sinh
ra, không bao giờ chết đi. Nhưng chúng ta không thể
thấy tâm thức đó, và tâm thức đó là vị phật.
Tâm thức chứng ngộ này là chính gốc rễ của toàn
bộ sự tồn tại của chúng ta - và không chỉ là gốc rễ, mà
còn là việc nở hoa của nó nữa. Thời gian và không
gian cả hai đều tồn tại trong tâm thức này, và tâm thức
này không tồn tại trong thời gian và không gian. Bạn
không thể nói tâm thức này ở đâu được - ở đâu là
không liên quan. Nó ở mọi nơi! Thay vì thế, hay ngược
lại, tốt hơn cả là nói rằng mọi nơi đều ở trong nó.
Chúng ta không thể nói vào khoảnh khắc nào của
thời gian thì tâm thức chứng ngộ này tồn tại. Không,
điều đó là không thể nói được. Chúng ta chỉ có thể nói
rằng tất cả thời gian đều tồn tại trong tâm thức này.
Tâm thức này là lớn hơn, và nó phải là như vậy. Tại
sao nó phải như vậy?
Bạn nhìn lên bầu trời: bầu trời thật bao la. Nhưng
người nhìn, nhân chứng, còn lớn hơn, nếu không thì
làm sao bạn có thể nhìn vào bầu trời được? Nhận biết
của bạn phải bao la hơn bầu trời, nếu không làm sao
bạn có thể nhìn vào nó được? Người thấy phải lớn hơn
cái thấy... đó là cách duy nhất.
Bạn có thể quan sát thời gian, bạn có thể nói, “Đây
là buổi sáng và bây giờ đây là buổi chiều và bây giờ
đây là buổi tối. Và một phút đã qua và một năm đã qua
và một thời đại đã qua.” Người quan sát này, tâm thức
này, phải lớn hơn thời gian, nếu không thì làm sao nó
có thể quan sát được? Người quan sát phải lớn hơn cái
được quan sát. Bạn có thể thấy không gian, bạn có thể
thấy thời gian - thế thì người thấy này bên trong bạn
còn lớn hơn cả hai.
Một khi chứng ngộ xảy ra, mọi thứ đều trong bạn.
Tất cả các vì sao đều di chuyển trong bạn, các thế giới
nảy sinh ra từ bạn và tan biến trong bạn - bởi vì bạn là
cái toàn thể.
Đủ cho hôm nay chứ?

*************************************************

Chương #10 Không hôm qua, không ngày mai, không hôm nay

Trống rỗng ở đây, trống rỗng ở kia, nhưng vũ trụ
vô hạn bao giờ cũng đứng trước mắt ông.
Lớn vô hạn và nhỏ vô hạn; không khác biệt, vì các
định nghĩa đã tan biến và không biên giới nào thấy
được.
Cho nên điều đó cũng đúng với hiện hữu và không
hiện hữu.
Đừng phí thời gian trong hoài nghi và biện luận
mà chẳng liên quan gì với điều này.
Một điều, mọi điều: di chuyển trong và quyện lẫn
nhau, không phân biệt.
Sống trong hiểu biết này là hiện hữu không lo âu
về không hoàn hảo.
Sống trong niềm tin này là con đường đi tới bất
nhị, bởi vì cái bất nhị là một với tâm trí tin cậy.
Lời!
Đạo vượt ra ngoài ngôn ngữ, vì trong nó không có
hôm qua, không có ngày mai, không có hôm nay.

Con người bị lạc bởi vì lời, kí hiệu, ngôn ngữ. Bạn
không lạc trong thực tại, bạn lạc trong mơ ngôn ngữ -
bởi vì thực tại này bao giờ cũng có đó ngay trước bạn,
nhưng bạn không phải bao giờ cũng ở đó ngay trước
thực tại. Bạn ở đâu đó khác, bao giờ cũng ở đâu đó
khác, bởi vì bạn là tâm trí và tâm trí có nghĩa là cái gì
đó đi lạc lối.
Tâm trí có nghĩa là bây giờ bạn không nhìn vào cái
đang hiện hữu, bạn đang nghĩ về nó. Cái ‘về’ là vấn đề,
cái ‘về’ là cách thức bỏ lỡ thực tại. Triết lí là cách bỏ
lỡ thực tại. Khoảnh khắc bạn nghĩ về nó, cái đích sẽ
không bao giờ được đạt tới.
Suy nghĩ là gì? Nó là việc thay thế. Nếu bạn biết
yêu, bạn chẳng bao giờ nghĩ về nó cả. Không cần nghĩ
về nó. Nếu bạn không biết yêu, bạn nghĩ về nó - thực
sự, bạn không nghĩ về bất kì cái gì khác. Làm sao bạn
có thể biết yêu qua suy nghĩ? - bởi vì nó là kinh

nghiệm tồn tại. Nó không phải là lí thuyết, nó không
phải là nghiên cứu. Để biết nó, bạn phải là nó.
Tại sao tâm trí nghĩ về mọi vật mà không được
kinh nghiệm? - bởi vì đây là việc thay thế; toàn bộ bản
thể cảm thấy cần, cho nên phải làm gì? Chỉ nghĩ về nó
bạn cảm thấy một chút ít dễ dàng, dường như cái gì đó
đang xảy ra, dường như bạn đang kinh nghiệm. Nó xảy
ra trong mơ, nó xảy ra trong khi bạn thức - bởi vì tâm
trí vẫn còn như cũ dù bạn ngủ hay thức.
Mọi mơ đều là cái thay thế và mọi suy nghĩ cũng
vậy, bởi vì suy nghĩ là mơ trong khi thức, mơ là suy
nghĩ trong khi ngủ. Chúng không khác nhau về chất,
chúng là cùng một tiến trình. Nếu bạn có thể hiểu mơ,
bạn sẽ có khả năng hiểu suy nghĩ.
Mơ là nguyên thuỷ hơn, do đó đơn giản hơn. Suy
nghĩ là phức tạp hơn, tiến hoá hơn, do đó khó hiểu thấu
cuối cùng hơn. Và bất kì khi nào bạn muốn hiểu thấu
một vật, thì tốt hơn cả là hiểu thấu từ dạng đơn giản
nhất của nó.
Nếu bạn không ăn ngày hôm trước, trong đêm bạn
sẽ có mơ về thức ăn: bạn được vua mời tiệc, bạn ăn
những thức ăn ngon. Nếu bạn thèm khát dục, bạn sẽ có
mơ dục. Nếu bạn thèm khát quyền lực hay danh vọng,
bạn sẽ có mơ thay thế cho nó: rằng bạn đã trở thành
một Alexander hay một Napoleon hay một Hitler, bạn
chi phối toàn thế giới.
Mơ bao giờ cũng về cái đang thiếu trong khi bạn
thức; cái mà bạn đã bỏ lỡ trong ngày, nó tới trong mơ.
Nếu bạn không bỏ lỡ điều gì trong ngày, mơ sẽ biến
mất. Người hoàn toàn bằng lòng sẽ không mơ. Đó là lí
do tại sao chư phật không bao giờ mơ. Họ không thể
mơ cho dù họ muốn, bởi vì mọi thứ đều hoàn chỉnh và
kết thúc, chẳng còn lại gì treo trên tâm trí.
Mơ lơ lửng: cái gì đó không hoàn chỉnh cứ cố để là
hoàn chỉnh. Và ham muốn là để cho bạn không bao giờ
có thể hoàn chỉnh chúng. Chúng cứ lớn lên và trở
thành to hơn, to hơn nữa. Bất kì điều gì bạn làm, bao
giờ cũng thiếu một cái gì đó. Ai sẽ hoàn thành lỗ hổng
đó? Mơ hoàn thành lỗ hổng đó.
Bạn nhịn ăn, lỗ hổng đó được tạo ra trong bạn.
Thật là không thoải mái mà mang lỗ hổng đó, cho nên
trong đêm, trong mơ, bạn ăn. Tâm trí đã lừa dối bạn,
việc ăn này không phải là thực. Nó không thể nào trở
thành máu trong bạn được; bạn không thể lĩnh hội mơ,
bạn không thể sống trên nó. Cho nên cái gì sắp phải
làm? Một điều: nó có thể trợ giúp cho giấc ngủ ngon,
nó là thứ hỗ trợ cho việc ngủ.
Nếu không có mơ và bạn còn những ham muốn
chưa hoàn chỉnh, bạn sẽ tuyệt đối không thể nào ngủ
được, nhiều lần giấc ngủ sẽ bị phá vỡ. Bạn đói, làm sao
bạn có thể ngủ được? Nhưng mơ cho bạn một giải
pháp giả: rằng bạn đã ăn, ăn thức ăn ngon, bây giờ thì
đi ngủ.
Và bạn tin vào nó, bởi vì không có cách nào để biết
liệu điều này là đúng hay sai. Và bạn ngủ say thế, vô ý
thức thế, làm sao bạn có thể biết liệu nó là đúng hay
sai? Bởi vì chân lí về mọi thứ có thể được biết tới chỉ
qua nhận biết, còn bạn lại không nhận biết. Và thế rồi,
hơn nữa, mơ lại đẹp, nó hoàn thành một nhu cầu sâu

sắc. Cho nên tại sao lại bận tâm về nó? Tại sao cố tìm
ra liệu nó đúng hay không?
Bất kì khi nào bạn hạnh phúc, bạn chẳng bao giờ
tìm ra liệu điều này là đúng hay không. Bạn thích nó là
đúng, đấy là hoàn thành ước muốn. Và thật nguy hiểm
mà cố gắng nghĩ về nó - nó có thể chứng tỏ là không
đúng, thế thì làm gì? Cho nên tốt hơn cả là không mở
mắt ra. Mơ đẹp, giấc ngủ ngon. Tại sao không nghỉ
ngơi?
Trong đêm nếu bạn cảm thấy thôi thúc phải đi ra
nhà vệ sinh, ngay lập tức có mơ: bạn đang trong nhà vệ
sinh. Đây là cách mơ bảo vệ giấc ngủ, nếu không bạn
sẽ phải đi ra nhà vệ sinh. Bụng đầy nước và nó trở
thành khó chịu; bạn sẽ phải đi ra nhà vệ sinh.
Nhưng mơ bảo vệ, mơ nói, “Đây, đây là nhà vệ
sinh, mình đã xả ra rồi. Bây giờ ngủ tiếp.” Bụng vẫn
còn đầy, sự không thoải mái vẫn còn đầy, nhưng mơ
đem cho lớp phủ thoải mái, nó làm cho việc dung thứ
dễ hơn. Trong thực tế, tình huống vẫn còn như cũ,
nhưng mơ cho bạn ảo tưởng sai rằng thực tại đã thay
đổi.
Cho nên ý nghĩa sâu sắc của việc mơ là gì? Ý
nghĩa sâu sắc là ở chỗ thực tại như vậy thì khắc nghiệt
thế, bạn không thể nào dung thứ nó được. Thực tại là
như vậy, trần trụi, là quá nhiều, bạn không sẵn sàng
chịu đựng nó. Mơ lấp vào lỗ hổng này; nó cho bạn một
thực tại mà bạn có thể dung thứ được. Thực tại được
tâm trí trao cho bạn theo cách bạn có thể điều chỉnh nó.
Bạn càng trưởng thành hơn, mơ càng ít đi, bởi vì
sẽ không có vấn đề được điều chỉnh. Bạn càng trưởng
thành hơn, mơ càng ít đi. Nếu bạn trưởng thành hoàn
chỉnh trong nhận biết, mơ dừng lại bởi vì, nhận biết
hoàn hảo, bạn không muốn thay đổi thực tại. Bạn đơn
giản trở thành một với nó. Bạn không tranh đấu với nó
bởi vì nhận biết hoàn hảo, bạn đi tới nhận ra rằng cái
thực không thể thay đổi được. Tất cả những điều có thể
được thay đổi là thái độ của bạn, tâm trí bạn - cái thực
sẽ vẫn còn như cũ.
Bạn không thể thay đổi thực tại, bạn chỉ có thể
thay đổi tiến trình sai của tâm trí. Thông thường chúng
ta đang cố gắng thay đổi thực tại để cho thực tại điều
chỉnh theo chúng ta. Người tôn giáo là người đã vứt bỏ
nỗ lực ngu xuẩn đó. Bây giờ người ấy không cố gắng
thay đổi thực tại cho khớp với mình nữa bởi vì điều đó
là vô nghĩa. Cái toàn thể không thể khớp với cái bộ
phận, và cái toàn thể không thể tuân theo cái bộ phận
theo bất kì cách nào; cái bộ phận phải tuân theo cái
toàn thể.
Tay tôi phải tuân theo thân thể hữu cơ của tôi, toàn
bộ thân thể tôi; thân thể tôi không thể tuân theo cái tay,
điều đó là không thể được. Bộ phận là vụn vặt, nguyên
tử. Bạn là ai trước thực tại bao la này? Bạn định điều
chỉnh thực tại này thế nào theo bạn?
Đây là bản ngã, cái nói, “Cứ cố gắng vào - ngày
này hay ngày khác thực tại sẽ phải điều chỉnh theo ta.”
Thế thì bạn trở nên bị nặng gánh với lo âu, bởi vì điều
này không chắc xảy ra. Điều này không thể nào xảy ra
được trong chính bản chất của mọi sự vật: một giọt
nước cố gắng thay đổi đại dương, một giọt nước cố
gắng ảnh hưởng tới đại dương theo ý tưởng của mình!

Tâm trí của bạn là gì? Thậm chí không bằng lấy
một giọt trong đại dương bao la này! Và bạn đang cố
gắng cái gì? - bạn đang cố gắng làm cho thực tại tuân
theo bạn. Chân lí phải trở thành cái bóng của bạn. Đây
là ngu xuẩn của mọi phàm nhân, tất cả những ai nghĩ
mình là người duy vật.
Thế thì người tôn giáo là gì, tâm trí tôn giáo là gì?
Người tôn giáo là người đi tới hiểu ra rằng điều này
hoàn toàn không thể được, bạn đang đụng phải bức
tường không thể được. Cánh cửa không thể có ở đó
được - bạn sẽ chỉ bị thương, bạn sẽ chỉ phiền não, bạn
sẽ chỉ cảm thấy thất vọng, bạn sẽ chỉ trở nên thất bại.
Chẳng cái gì khác là có thể cả. Điều đó xảy ra cho mọi
bản ngã ở chỗ chung cuộc. Bản ngã đau khổ, bản ngã
bao giờ cũng bị đóng đinh - bị đóng đinh bởi vì cái ngu
xuẩn của riêng nó.
Khi hiểu biết bừng lên, khi bạn có thể nhìn và thấy
sự kiện rằng bạn chỉ là một bộ phận, một phần nhỏ bé
vô hạn của vũ trụ bao la vô hạn, bạn đơn giản không cố
gắng ngu xuẩn nữa. Bạn chấm dứt việc làm ngu xuẩn
xung quanh. Hơn nữa, ngược lại, bạn bắt đầu cuộc
hành trình mới: bạn cố gắng điều chỉnh bản thân mình
theo thực tại. Khi bạn bắt đầu cố gắng điều chỉnh bản
thân mình theo thực tại, việc mơ dừng lại dần dần - bởi
vì điều này là có thể được, đây là khả năng duy nhất có
thể xảy ra, và nó xảy ra. Khi nó xảy ra, việc mơ dừng
lại.
Khi bạn cố gắng thay đổi thực tại theo bạn, bạn sẽ
trở thành nhà tư tưởng, bởi vì bạn sẽ phải phát minh ra
các phương tiện và cách thức, mưu mẹo, để buộc thực
tại điều chỉnh theo bạn. Bạn có thể trở thành nhà khoa
học lớn, bạn có thể trở thành nhà toán học lớn, triết gia
lớn, nhưng bạn sẽ trong lo âu và phiền não.
Bạn sẽ không trở thành một Meera nhẩy múa hay
vị Phật im lặng hay một Tăng Xán cực lạc, không, bởi
vì toàn bộ cách tiếp cận của họ là đối lập hẳn lại. Họ
điều chỉnh theo vũ trụ, họ trở thành một với nó, họ
tuôn chảy với nó, họ trở thành chỉ là cái bóng trong nó.
Họ không tranh đấu, họ không có bất kì xung đột hay
biện luận nào với sự tồn tại. Họ đơn giản nói có với tất
cả những cái đang hiện hữu. Họ không phải là người
nói-không, họ là người nói-có.
Đó là ý nghĩa của việc mang tính tôn giáo: là người
nói-có. Vấn đề không phải là liệu bạn có tin vào
Thượng đế hay không. Phật chưa bao giờ tin vào bất kì
Thượng đế nào, nhưng ông ấy là người tôn giáo bởi vì
ông ấy là người nói-có. Bạn nói có với ai, không thành
vấn đề: bạn nói có - điều đó làm thay đổi toàn bộ vấn
đề.
Dù bạn nói điều đó với một thượng đế có bốn đầu
hay bốn trăm đầu, có hai tay hay một nghìn tay, dù bạn
nói điều đó với thượng đế của người Hindu, người Ki
tô giáo hay người Mô ha mét giáo, dù bạn nói điều đó
với tự nhiên hay với định mệnh, số mệnh, cũng chẳng
khác biệt gì. Bạn nêu điều đó với ai, đấy không phải là
vấn đề. Nếu bạn nói có, cái có toàn bộ về phần bạn,
bạn trở thành mang tính tôn giáo.
Nếu bạn nói không, điều đó có nghĩa là bạn sẽ tiếp
tục vật lộn. Bạn sẽ tranh đấu với dòng chảy, bạn sẽ đi
ngược dòng. Bạn nghĩ rằng bạn khôn ngoan hơn Đạo,
bạn nghĩ bạn lớn lao hơn sự tồn tại. Thế thì tất nhiên,

một cách tự nhiên, hiển nhiên, bạn sẽ thất vọng bởi vì
đấy không phải là cảnh ngộ.
Khoảnh khắc bạn nói có, cuộc sống của bạn bắt
đầu nở hoa theo chiều hướng mới. Chiều hướng của cái
có là chiều hướng của tôn giáo. Chiều hướng của cái
không là chiều hướng của chính trị, khoa học và mọi
thứ khác.
Nhà huyền môn là người tuôn chảy với dòng sông,
người ấy không thúc đẩy nó. Người ấy thậm chí còn
không bơi trong nó, bởi vì bơi cũng là tranh đấu -
người ấy đơn giản nổi. Người ấy không có mục tiêu để
đạt tới, bởi vì làm sao bạn có thể xác định được mục
tiêu? Bạn là ai? Làm sao bạn có thể ấn định mục tiêu?
Khi bạn buông bỏ trong dòng sông, dòng sông di
chuyển; bạn di chuyển theo nó. Mục tiêu của dòng
sông là mục tiêu của bạn. Bạn thậm chí không bận tâm
nó ở đâu nữa - bất kì nó ở đâu. Bạn đã biết được một bí
mật lớn về việc nói có. Trong thực tế, bây giờ dù bạn ở
bất kì đâu, bạn cũng đều ở mục tiêu, bởi vì có là mục
tiêu. Bạn đạt tới đâu không thành vấn đề; dù bạn ở đâu,
bạn nói có và đó là mục tiêu.
Và nếu bạn nghiện với cái không, thì dù bạn ở bất
kì đâu, nó cũng sẽ là cuộc hành trình, nó sẽ không bao
giờ là mục tiêu cả. Dù bạn đạt tới đâu, cái không của
bạn sẽ đạt tới bạn. Cho dù bạn có lên thiên đường, cái
không sẽ đạt tới bạn. Bạn sẽ bỏ nó ở đâu?
Nếu bạn gặp lực tối thượng như bạn hiện hữu ngay
lúc này, bạn sẽ nói không, bởi vì bạn được huấn luyện
trong nó. Bỗng nhiên, làm sao bạn có thể nói có được?
Thậm chí nếu bạn bắt gặp Thượng đế thì bạn sẽ nói
không. Bạn sẽ tìm thấy nhiều lầm lỗi, bởi vì với tâm trí
nói-không, chẳng cái gì hoàn hảo cả - không cái gì có
thể hoàn hảo được. Còn với tâm trí nói-có thì không
cái gì là không hoàn hảo cả. Thậm chí cái không hoàn
hảo cũng có sự hoàn hảo riêng của nó đối với tâm trí
nói-có.
Điều đó có vẻ mâu thuẫn: người ấy sẽ nói, “Cái
không hoàn hảo đẹp làm sao! Cái không hoàn hảo mới
hoàn hảo làm sao!” Thậm chí trong hỗn loạn vẫn có
hài hoà cho người đó. Và thậm chí trong vật chất,
người nói có cũng thấm nhuần sâu sắc và tìm thấy điều
thiêng liêng. Thế thì mọi tảng đá đều tràn đầy điều
thiêng liêng, nó ở mọi nơi.
Người có thể nói có sẽ thấy mình ở mọi nơi; và
người chỉ có thể nói không sẽ không thấy mình ở đâu
cả. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn, điều đó không tuỳ thuộc
vào ngài.
Một hiểu biết đem lại biến đổi là: đừng tranh đấu
với cái toàn thể. Toàn bộ nỗ lực đó là ngớ ngẩn. Và cái
toàn thể sẽ không đau khổ vì điều đó, bởi vì cái toàn
thể không tranh đấu với bạn. Cho dù đối với bạn
dường như là cái toàn thể đang đánh lại bạn và cố gắng
nghiền nát bạn và thắng, thì bạn vẫn sai. Nếu bạn tranh
đấu chống lại nó, tranh đấu của bạn được phản xạ. Cái
toàn thể không tranh đấu với bạn, nó thậm chí không
nghĩ về bạn tranh đấu. Chính là tâm trí riêng của bạn
được phản xạ, và cái toàn thể vang vọng. Bất kì cái gì
bạn làm cũng đều bị phản xạ, nó là tấm gương.
Nếu bạn đi vào với tâm trạng tranh đấu, bạn sẽ
thấy rằng cái toàn thể quanh bạn đang cố gắng nghiền

nát bạn. Thử bơi ngược dòng mà xem: toàn bộ dòng
sông dường như buộc bạn trôi xuôi, dường như toàn bộ
dòng sông tồn tại đó chỉ để làm cho bạn thất bại.
Nhưng dòng sông có đó có phải chỉ để làm bạn thất bại
không? Dòng sông có thể không biết gì về bạn cả. Và
khi bạn đã không có đó, thế nữa nó đã chảy theo cùng
cách. Và khi bạn sẽ không có đó, nó vẫn tiếp tục chảy
theo cùng cách. Nó không chảy theo cách đó bởi vì
bạn. Và nếu bạn cảm thấy nó chống lại bạn, thì đấy là
vì bạn - bạn đang cố gắng đi ngược dòng.
Có lần chuyện xảy ra:
Vợ của Mulla Nasruddin ngã xuống sông đang lúc
lụt. Hàng xóm chạy tới anh ta và họ nói, “Vợ anh bị
ngã xuống sông, và sông thì đang lụt và chảy nhanh
lắm. Lại mau!”
Nasruddin chạy ra sông, nhẩy xuống sông - bắt đầu
bơi ngược dòng. Mọi người vây xung quanh, đứng đó
và quan sát, họ nói, “Anh làm gì vậy, Nasruddin?”
Nasruddin nói, “Tôi biết vợ tôi rõ lắm - cô ấy bao
giờ cũng cố gắng đi ngược dòng. Cô ấy không thể đi
xuôi dòng được, điều đó là không thể được. Các anh có
thể biết dòng sông, còn tôi thì biết vợ mình. Cho nên
đừng có cố gắng...”
Có những người bao giờ cũng đi ngược dòng, họ
có ở mọi nơi. Và bởi vì nỗ lực riêng của họ mà họ cảm
thấy dòng sông đang nghiền nát mình, họ tranh đấu, cố
gắng làm dòng sông thất bại và giành thắng lợi.
Cái toàn thể không chống lại bạn, không thể thế
được - cái toàn thể là mẹ bạn. Bạn tới từ cái toàn thể,
bạn sẽ tan biến vào trong cái toàn thể. Làm sao cái toàn
thể có thể chống lại bạn được? Nó đơn giản yêu bạn.
Dù bạn có đi ngược dòng hay xuôi dòng, cũng chẳng
có gì khác biệt với cái toàn thể - nhưng chỉ bởi vì yêu
thương mà cái toàn thể không thể trôi ngược dòng.
Và nhớ lấy, nếu nó trôi ngược dòng, bạn sẽ bắt đầu
chống lại nó - bởi vì đấy không phải là vấn đề. Tâm trí
nói-không của bạn mới là vấn đề, bởi vì bản ngã thu
thập sức mạnh qua cái không. Bạn càng nói không
nhiều, bản ngã càng cảm thấy mạnh hơn; bạn càng nói
có nhiều, bản ngã càng bị vứt bỏ đi. Đó là lí do tại sao
rất khó nói có với mọi điều, thậm chí những điều thông
thường.
Đứa trẻ muốn chơi ngoài đường và nói hỏi bố nó,
“Con ra chơi bên ngoài được chứ?” “Không!” Vấn đề
gì về điều đó đây? Tại sao cái không lại tới dễ dàng
thế? Tại sao cái có lại khó thế? - bởi vì khi bạn tranh
đấu, bạn cảm thấy mình hiện hữu. Nếu không thì mọi
thứ đều vừa vặn tuyệt vời thế, bạn không thể cảm thấy
mình hiện hữu.
Nếu bạn nói có, bạn không có đó. Khi cái có thực
sự được nói ra, bạn vắng bóng. Làm sao bạn có thể
cảm thấy được? Bạn có thể cảm thấy chỉ cái chống lại,
và thế thì bạn cảm thấy mạnh mẽ. Cái không cho bạn
sức mạnh. Và làm sao cái không có thể cho bạn sức
mạnh được? Bởi vì, nói không, bạn bị cắt rời khỏi cội
nguồn của tất cả mọi sức mạnh. Nó là một cảm giác sai
lầm, nó là bệnh tật, nó là ốm yếu. Nói có, và biến đổi
bắt đầu xảy ra.

Thông thường bạn nói không chỉ trừ phi bạn phải
nói có. Bất kì khi nào bạn nói có, bạn không cảm thấy
thích lắm - cứ như là bị thất bại, cứ như là bất lực. Bất
kì khi nào bạn nói không, bạn cảm thấy thích: bạn
thắng lợi, bạn đã đặt ai đó vào chỗ của mình, bạn đã
nói không, bạn mạnh mẽ hơn. Cái không là bạo hành,
cái không là hùng hổ. Cái có mang tính cầu nguyện,
cái có là lời cầu nguyện.
Không cần đi tới nhà thờ và chùa chiền và đền đài
đâu - cuộc sống là ngôi đền đủ lớn rồi. Bạn đơn giản
bắt đầu nói có, và ở mọi nơi bạn sẽ cảm thấy lời cầu
nguyện bởi vì ở mọi nơi bản ngã sẽ vắng bóng. Và khi
bản ngã không có đó, cái toàn thể bỗng nhiên tuôn
chảy trong bạn. Bạn không bị đóng kín, bạn cởi mở.
Thế thì làn gió mới từ cái toàn thể tràn tới, đợt năng
lượng mới đi vào bạn. Thế thì bạn được đổi mới từ
khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia.
Cho nên điều đầu tiên: tâm trí thay thế bằng việc
nghĩ và việc mơ, nhưng nó không bao giờ có thể trở
thành cái thực được. Nó vẫn còn là bắt chước. Nó có
thể có vẻ như cái thực nhưng lại không phải - nó không
thể thế được. Làm sao một biểu tượng, một biểu tượng
ngôn ngữ lại có thể là thực được?
Bạn đói và tôi cứ nói mãi về bánh mì. Bạn khát và
tôi cứ nói mãi về nước - không chỉ nói, mà tôi còn cho
bạn công thức khoa học nhất về nó. Hay tôi cho bạn
định nghĩa rõ ràng, hay tôi bảo bạn, “Đừng lo nghĩ,
nước có nghĩa là H2O. Bạn chỉ cần lặp lại H2O, H2O...
làm nó thành mật chú, thiền siêu việt, TM: H2O, H2O,
H2O, và mọi thứ sẽ xảy ra cho bạn; cơn khát sẽ qua đi
bởi vì công thức này.”
H2O có thể là công thức, nhưng cơn khát của bạn
sẽ không lắng nghe nó. Đây là điều đang xảy ra trên
khắp thế giới này. Cứ lẩm nhẩm mật chú aum, aum,
aum: aum cũng là công thức, giống hệt H2O. Bởi vì
người Hindu đã phát minh ra ba âm đó - A, U, M -
chúng là âm thanh gốc rễ, cho nên aum hàm chứa tất cả
các âm thanh có thể. Vậy cần gì đến các mật chú khác?
Bạn đơn giản lặp lại aum, aum, và toàn bộ phạm vi âm
thanh được lặp lại, cái gốc. Cho nên nếu bạn có gốc rễ,
thì cứ lẩm nhẩm nó, chẳng mấy chốc hoa sẽ theo sau.
Cả H2O lẫn aum lẫn bất kì cái gì giống thế đều sẽ
chẳng có ích nhiều, bởi vì ai sẽ lặp lại nó? - tâm trí sẽ
lặp lại nó. Và thực tại có đó bao quanh bạn; không cần
phải lặp lại về nó, thậm chí không cần phải nghĩ về nó.
Bạn chỉ nhìn, bạn chỉ mở mắt mình ra và thấy; nó ở
mọi nơi! Cách bạn bỏ lỡ nó mới là phép màu. Khi bạn
đạt tới nó, nó không là phép màu.
Nhớ lấy, tôi chưa bao giờ nói rằng Phật là phép
màu hay Tăng Xán là phép màu - bạn mới là phép màu
đấy! Bởi vì bất kì cái gì họ đã đạt tới đều là những điều
đơn giản đến thế mà mọi người đáng đều phải đạt tới
được. Bí ẩn gì có đó để mà nói? Vị Phật đã thấy thực
tại, và thực tại ở ngay trước bạn. Tại sao gọi là đạt tới
một hiện tượng lớn như thế, một sự kiện lớn như thế?
Chẳng có gì cả! Nó là đơn giản!
Thực tại đang ngay trước bạn cũng như trước vị
Phật hay trước con trâu. Phép màu là bạn - làm sao bạn
bỏ lỡ nó, và làm sao bạn cứ bỏ lỡ nó hoài. Thực sự,
bạn phải đã phát minh ra kĩ thuật mà, và hoàn hảo đến
mức mà, trong nhiều kiếp sống bạn cứ làm lỡ hoài. Và
thực tại không thể làm gì được, nó chỉ ở ngay trước

bạn và bạn cứ làm lỡ mãi. Thủ thuật là gì? Làm sao
bạn đạt tới nó? Làm sao bạn làm ảo thuật này?
Ảo thuật là ‘về’. Lời ‘về’ này chính là ảo thuật.
Hoa có đó, bạn bắt đầu nghĩ về hoa - hoa không còn đó
nữa, tâm trí bị phân tán bởi lời. Thế thì phim tới quanh
bạn, giữa bạn và hoa. Thế thì mọi thứ thành tối tăm và
lộn xộn, thế thì lời trở thành quan trọng hơn cái thực,
thế thì biểu tượng trở thành quan trọng hơn cái được
biểu tượng hoá.
Allah là gì? - một lời. Brahman là gì? - một lời.
Thượng đế là gì? - một lời. Và người Hindu và người
Ki tô giáo và người Mô ha mét giáo cứ tranh đấu về
lời, mà chẳng ai bận tâm rằng tất cả ba lời này đều biểu
tượng hoá cho cùng một đối thể. Biểu tượng trở thành
quan trọng hơn.
Nếu bạn nói điều gì đó chống lại Allah, thế thì
người Mô ha mét giáo lập tức sẽ sẵn sàng đánh nhau và
giết chết bạn hay bị giết chết. Nhưng người Hindu sẽ
cứ cười bởi vì điều được nói chống lại Allah, điều đó
là tốt. Nhưng nói cùng điều đó mà chống lại Brahman,
thế thì người đó sẽ tuốt gươm ra, bây giờ điều đó
không thể nào tha thứ được. Ngu xuẩn làm sao! Bởi vì
Allah, hay Brahman, hay Thượng đế - có ba nghìn
ngôn ngữ, cho nên có ba nghìn từ nói về Thượng đế.
Cái được biểu tượng hoá kém quan trọng hơn cái
biểu tượng. Bông hồng không quan trọng, từ ‘bông
hồng’ mới quan trọng.
Và con người đã trở thành nghiện lời thế, say sưa
với lời thế, đến mức lời có thể tạo ra phản ứng. Ai đó
nói ‘chanh’, và mồm bạn đầy nước dãi. Đây là việc
nghiện lời. Thậm chí chanh có thể cũng không hiệu
quả được đến thế: quả chanh có thể nằm đó trên bàn và
mồm bạn có thể không có nước dãi. Nhưng ai đó nói
‘chanh’, và mồm bắt đầu đầy nước dãi. Lời đã trở
thành quan trọng hơn cái thực - đây là mẹo - và chừng
nào mà bạn chưa vứt bỏ việc nghiện lời này thì bạn sẽ
chẳng bao giờ có thể gặp gỡ được thực tại. Không có
rào chắn khác.
Hoàn toàn không có ngôn ngữ đi và bỗng nhiên nó
có đó - nó bao giờ cũng có đó rồi. Bỗng nhiên mắt bạn
trong trẻo; bạn đạt tới sáng tỏ và mọi thứ trở nên chói
sáng. Toàn bộ nỗ lực của tất cả các cách thiền chỉ là để
làm sao vứt bỏ ngôn ngữ đi. Vứt bỏ xã hội chẳng ích
gì, bởi vì về cơ bản xã hội không là gì ngoài ngôn ngữ.
Đó là lí do tại sao xã hội loài vật không tồn tại, bởi
vì không có ngôn ngữ. Nghĩ mà xem: nếu bạn không
thể nói được, nếu bạn không có ngôn ngữ, làm sao xã
hội tồn tại được? Không thể được! Ai sẽ là vợ bạn? Ai
sẽ là chồng bạn? Ai sẽ là mẹ bạn và ai sẽ là bố bạn?
Không biên giới nào là có thể có nếu thiếu ngôn
ngữ. Đó là lí do tại sao với con vật thì xã hội không tồn
tại. Và nếu xã hội tồn tại, chẳng hạn với loài kiến và
ong, thế thì bạn có thể nghi ngờ rằng ngôn ngữ phải có
đó. Và bây giờ các nhà khoa học đã làm rõ về điều đó
rằng ong có ngôn ngữ - một ngôn ngữ rất nhỏ chừng
bốn từ, nhưng chúng có ngôn ngữ. Kiến phải có ngôn
ngữ bởi vì xã hội của chúng cũng tổ chức thế, nó
không thể tồn tại mà không có ngôn ngữ được.
Xã hội tồn tại bởi vì ngôn ngữ. Khoảnh khắc bạn
vứt bỏ ngôn ngữ đi, xã hội biến mất. Không cần phải đi

lên Himalaya, bởi vì nếu bạn mang ngôn ngữ của mình
thì bạn có thể một mình bên ngoài, nhưng bên trong xã
hội sẽ vẫn có đó. Bạn sẽ nói với bạn bè, làm tình với
vợ mình hay vợ người khác, mua, bán. Bạn sẽ tiếp tục
bất kì cái gì bạn đang làm ở đây.
Chỉ có một Himalaya, và đó là trạng thái của tâm
thức bên trong nơi ngôn ngữ không tồn tại. Và đây là
điều có thể - bởi vì ngôn ngữ là việc huấn luyện, nó
không phải là bản tính của bạn. Bạn được sinh ra
không có ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã được trao cho bạn,
bạn đã không mang nó do bản chất của mình. Nó là
không tự nhiên, nó là sản phẩm phụ của xã hội.
Hạnh phúc đi, bởi vì có khả năng thoát ra khỏi
ngôn ngữ. Nếu bạn đã mang nó từ chính lúc sinh ra,
thế thì sẽ không có cách nào để thoát ra khỏi nó.
Nhưng thế thì sẽ không có nhu cầu, bởi vì thế thì nó sẽ
là một phần của Đạo. Nó không phải là một phần của
Đạo, nó do con người tạo ra. Nó là thứ tiện dụng, nó có
mục đích; xã hội không thể nào tồn tại mà không có
ngôn ngữ.
Cá nhân không nhất thiết là một phần của xã hội
trong cả hai mươi bốn giờ một ngày. Thậm chí trong
vài phút, nếu bạn trở thành không là phần nào của xã
hội, bỗng nhiên bạn hội nhập với cái toàn thể và trở
thành một phần của Đạo. Và bạn nên mềm dẻo. Khi
bạn cần đi vào trong xã hội, bạn nên dùng ngôn ngữ;
khi bạn không cần đi vào trong xã hội, bạn nên vứt bỏ
ngôn ngữ. Ngôn ngữ nên được dùng như một chức
năng, như một cái máy. Bạn không nên bị ám ảnh bởi
nó, đó là toàn bộ vấn đề.
Ngay cả Tăng Xán cũng dùng ngôn ngữ. Tôi đang
dùng ngôn ngữ bởi vì tôi muốn truyền đạt điều gì đó
tới bạn. Nhưng khi bạn không có đó, thế thì đơn giản là
tôi không trong ngôn ngữ. Khi tôi phải nói thì tôi dùng
ngôn ngữ; khi bạn không có đó, tôi không có ngôn
ngữ, thế thì bên trong không lời nào chuyển động cả.
Khi tôi trao đổi, tôi trở thành một phần của xã hội. Khi
tôi không trao đổi, tôi trở thành một phần của Đạo, một
phần của vũ trụ, một phần của tự nhiên, của Thượng đế
- bất kì cái tên nào bạn muốn cho nó, bạn đều có thể
cho.
Với Thượng đế, im lặng là trao đổi; với con người,
ngôn ngữ là trao đổi. Nếu bạn muốn trao đổi với
Thượng đế, im lặng đi; nếu bạn muốn trao đổi với con
người, thì nói, đừng im lặng.
Nếu bạn ngồi với người bạn nào đó một cách im
lặng, bạn sẽ cảm thấy lúng túng, vụng về và người bạn
này cũng sẽ cảm thấy lúng túng. Người ấy sẽ nghĩ điều
gì đó đã đi sai, người ấy sẽ hỏi, “Có vấn đề gì vậy? Sao
anh không nói? Anh có buồn hay có điều gì đó, chán
nản hay cái gì đó không? Có điều gì sai chăng?” Nếu
chồng ngồi im lặng, vợ bỗng nhiên bắt đầu gây
chuyện: “Sao anh im lặng? Sao anh không nói với
em?” Nếu vợ bỗng nhiên im lặng, có rắc rối.
Tại sao lại có nhu cầu này để nói với ai đó? Bởi vì
nếu bạn không nói, điều đó có nghĩa là bạn một mình,
bạn không chấp nhận rằng ai đó đang đấy. Khi bạn
không nói, người kia không thể tồn tại vì bạn, bạn một
mình. Người kia trở nên nhận biết rằng bạn dửng dưng
với người đó. Cho nên mọi người cứ nói. Khi họ không
muốn nói, chẳng cái gì để trao đổi, chẳng cái gì để nói,

họ nói về thời tiết, về điều gì đó, bất kì cái gì cũng
được, nhưng nói, bởi vì không nói thì người kia có thể
cảm thấy bị tổn thương. Và điều này là bất lịch sự, phải
im lặng với ai đó. Nhưng với Thượng đế, điều đối lập
mới là hoàn cảnh: với tự nhiên, nếu bạn nói, bạn sẽ lỡ.
Việc nói với tự nhiên có nghĩa là bạn dửng dưng
với thực tại đang ở ngay trước bạn. Chỉ im lặng là cần
ở đó. Bạn mang im lặng vào trong thế giới khi bạn
được sinh ra. Ngôn ngữ được trao cho bạn; nó là món
quà, sự huấn luyện của xã hội. Nó hữu dụng, nó là một
phương tiện, một kĩ xảo; nhưng bạn đem cái im lặng
vào trong thế giới với bạn. Đạt tới cái im lặng đó lần
nữa đi, có thế thôi - lần nữa lại là đứa trẻ. Toàn bộ vấn
đề tới từ điều này, bạn có thể kết luận về nó; tất cả chư
phật đều tới từ kết luận này: rằng bạn phải trở thành
một phần của tự nhiên lần nữa.
Điều đó không nhất thiết có nghĩa là chống lại xã
hội; điều đó chỉ có nghĩa là vượt ra ngoài xã hội, không
chống lại xã hội. Khi bạn được sinh ra... khoảnh khắc
đầu tiên của việc sinh thành của bạn phải trở thành
khoảnh khắc cuối cùng của cuộc sống của bạn. Cái
chết của bạn phải giống như việc sinh ra lần nữa, bạn
phải là đứa trẻ lần nữa, được tái sinh.
Jesus nói, “Chừng nào ông còn chưa được tái sinh
ông không thể nào vào vương quốc của Thượng đế của
ta. Giống như trẻ nhỏ.” Ông ấy ngụ ý gì? - ông ấy ngụ
ý chỉ tự nhiên. Tất cả những điều mà xã hội trao cho
bạn đều tốt, nhưng đừng bị giới hạn trong nó, nếu
không nó sẽ trở thành tù túng. Là cái vô hạn đi. Xã hội
không thể là vô hạn được; nó phải là đường hầm chật
hẹp, nó phải như thế, bởi bản chất của nó.
Và điều thứ hai cần phải nhớ trước khi chúng ta đi
vào lời kinh này: nếu bạn im lặng, thế thì bạn không
hiện hữu, bởi vì chỉ rối loạn mới có thể được cảm thấy.
Bạn đã bao giờ cảm thấy cái im lặng chưa? Ai sẽ cảm
thấy nó? - bởi vì nếu bạn cảm thấy, thế thì chút ít rối
loạn đang có đó.
Chuyện đã xảy ra:
Một trong các đệ tử của Bồ đề đạt ma tới ông ấy,
và Bồ đề đạt ma đã bảo người ấy, “Trở nên hoàn toàn
trống rỗng và im lặng đi, chỉ thế rồi tới ta.”
Đệ tử này làm việc nhiều năm: thế rồi người ấy trở
nên trống rỗng, im lặng. Thế rồi người ấy tới Bồ đề đạt
ma và nói, “Bây giờ, thưa thầy, con đã tới, và thầy đã
bảo con, ‘Im lặng và trống rỗng.’ Bây giờ con đã trở
thành im lặng và trống rỗng.”
Bồ đề đạt ma nói với người ấy, “Đi đi và vứt cái
trống rỗng và im lặng đó đi nữa.”
Bởi vì nếu bạn có thể cảm thấy nó, thế thì nó
không phải là toàn bộ, phân chia vẫn tồn tại. Người
cảm thấy vẫn còn chưa im lặng. Im lặng có thể đang ở
giữa chừng, bao quanh, nhưng người cảm vẫn không
im lặng, nếu không thì ai sẽ cảm thấy?
Khi bạn thực sự im lặng, bạn thậm chí không im
lặng, bởi vì im lặng chỉ là cái đối lập của ồn ào. Khi
không có ồn ào, làm sao im lặng có thể có đó được?
Khi ồn ào biến mất, cái đối lập cũng biến mất. Thế thì
bạn thậm chí không thể nào nói được, “Tôi đang im
lặng.” Nói, và bạn lỡ. Đó là lí do tại sao Upanishad
nói: Người nói, ‘ta đã biết,’ là không biết. Socrates nói

rằng khi người ta trở nên trí huệ, người ấy chỉ biết cái
dốt nát mà không cái gì khác.
Khi bạn trở nên im lặng, bạn không biết cái gì là
cái gì. Mọi thứ đều trộn lẫn vào mọi thứ khác, bởi vì
bạn không có đó. Bạn chỉ là một phần của ồn ào; cái
tôi là thứ ồn ào nhất trên thế giới này. Không máy bay
phản lực nào có thể tạo ra nhiều tiếng ồn như cái tôi
tạo ra! Nó là kẻ quấy rối lớn nhất trên thế giới này, và
mọi thứ khác chỉ là sản phẩm phụ của nó. Cái tôi tạo ra
hiện tượng ồn ào nhất.
Khi bạn im lặng bạn không hiện hữu. Ai sẽ cảm
thấy? Khi bạn trống rỗng, bạn không thể cảm thấy ‘tôi
là trống rỗng”; bằng không bạn vẫn còn có đó để cảm
và ngôi nhà vẫn còn đầy, nó không trống rỗng. Khi bạn
thực trống rỗng, bạn trống rỗng bản thân mình. Khi
tiếng ồn dừng lại, bạn cũng dừng lại. Thế thì thực tại ở
ngay trước bạn, nó là tất cả xung quanh. Nó là bên
trong, bên ngoài, nó là mọi nơi, bởi vì chỉ thực tại mới
có thể hiện hữu.
Với tôi, mọi mơ biến mất, bởi vì với tôi tất cả ham
muốn biến mất. Nếu không có ham muốn, làm sao có
thể có ham muốn không đầy đủ mà cần phải được hoàn
thành bởi mơ? Chỉ cái trống rỗng mới có thể hoàn hảo.
Đây là nghĩa của Tăng Xán.
Bây giờ cố đi vào lời kinh này:
Trống rỗng ở đây, trống rỗng ở kia,
nhưng vũ trụ vô hạn bao giờ cũng đứng trước mắt
ông...
Lớn vô hạn và nhỏ vô hạn;
không khác biệt,
vì các định nghĩa đã tan biến
và không biên giới nào thấy được.
Cho nên điều đó cũng đúng với hiện hữu và không
hiện hữu.
Đừng phí thời gian trong hoài nghi và biện luận
mà chẳng liên quan gì với điều này.

“Trống rỗng ở đây” có nghĩa là trống rỗng bên
trong; “trống rỗng ở kia” có nghĩa là trống rỗng bên
ngoài. Và có thể có hai trống rỗng không? Điều đó là
không thể được. Hai trống rỗng là không thể có, bởi vì
làm sao bạn phân ranh giới giữa cái nọ và cái kia
được? Hai trống rỗng bởi chính bản chất của chúng sẽ
trở thành một. Bên trong và bên ngoài là phân chia của
tâm trí; khi tâm trí biến mất, phân chia này biến mất.
Trống rỗng ở đây, trống rỗng ở kia... Thực sự, nói
ở đây và ở kia cũng không tốt, không hoàn toàn đúng.
Nhưng đó là vấn đề; trong lời nói chẳng cái gì có thể
nêu chính xác đúng được, chúng bóp méo đi. Tăng Xán
biết, bởi vì bây giờ không thể nào có ở đây và ở kia
được. Chúng là những đường phân ranh cũ. Bên trong
và bên ngoài đều là những ranh giới cũ, bây giờ và khi
đó là những ranh giới cũ, và không ngôn ngữ thì chúng
biến mất.
Chuyện đã xảy ra:
Một người tới Bokuju và nói với ông ấy, “Tôi đang
vội và tôi sẽ không thể ở lại lâu với ông. Chỉ đi qua
đường này, tôi nghĩ cũng tốt để tới và nghe dù chỉ một
lời. Tôi không cần nhiều. Thầy nói một lời để chỉ ra
chân lí và tôi sẽ mang nó trong tim mình.”

Bokuju nói, “Đừng bắt buộc ta, bởi vì thậm chí
một lời cũng đủ cho chân lí biến mất. Và dù ông có vội
hay không, tôi cũng không thể nào nói được gì cả. Nhớ
điều này: rằng ông đã hỏi Bokuju và ông ta nói, ‘Tôi
không thể nói được điều gì.’ Chỉ cần nhớ điều này.”
Người này nói, “Điều này cũng chẳng nhiều nhặn
gì mấy và cũng chẳng giúp gì cho tôi cả. Thầy nói chút
xíu, chỉ một lời thôi - tôi không hỏi nhiều.”
Bokuju nói, “Thậm chí đến một lời cũng đủ để phá
huỷ cái toàn thể. Ông nhìn vào tôi và nhớ tôi bên trong
ông.”
Nhưng người này không thể nào nhìn được bởi vì
điều đó khó khăn - bạn không biết cách nhìn - nếu
không thì đã không có nhu cầu để tới Bokuju.
Bạn không thể nhìn ra phía trước. Chỏm mũi bạn
là cái khó nhìn vào nhất. Nhìn sang bên thì được; bạn
sang trái và bạn sang phải, nhưng chẳng bao giờ ở giữa
cả. Cho nên có người điên cực hữu và người điên cực
tả, nhưng bạn không thể nào tìm ra được người giữa,
người không điên. Đi sang bất kì cực đoan nào và bạn
cũng phát điên, vẫn còn ở giữa và bạn trở nên được
chứng ngộ - nhưng không ai còn ở giữa. Tại chỗ giữa
bạn gặp thực tại.
Lời nhất định nói được một nửa thôi, một lời
không thể nói đầy đủ sự việc. Nếu bạn nói, “Có
Thượng đế ,” thế thì bạn phủ nhận, “Không có Thượng
đế” - và ngài là cả hai. Nếu bạn nói, “Có sống,” bạn
phủ nhận chết - mà sống là chết nữa. Nếu bạn nói điều
gì đó, nó sẽ chỉ được một nửa, và một nửa chân lí còn
nguy hiểm hơn là nói dối toàn bộ. Bởi vì tính một nửa
đó mà nó mang hương thơm của chân lí và bạn có thể
bị nó lừa dối.
Tất cả các giáo phái đều dựa trên chân lí một nửa;
đó là lí do tại sao chúng nguy hiểm. Tất cả các giáo
đoàn đều nguy hiểm bởi vì chúng dựa trên chân lí một
nửa. Và ngoài ra thì không thể có được, bởi vì giáo
đoàn, tín ngưỡng, giáo phái cần phải dựa trên lời. Phật
giáo không dựa vào Phật, nó dựa vào điều Phật đã nói.
Và điều Phật đã nói là một nửa, bởi vì cái toàn thể
không thể nào được nói ra. Không cái gì có thể được
làm về nó cả.
Hoặc bạn cố gắng nói cái toàn thể, thế thì chẳng
điều gì được nói ra cả. Nếu bạn nói, “Sống là cả sống
và chết,” bạn đang nói gì vậy? Nếu bạn nói, “Thượng
đế là cả hai Quỉ và Thượng đế,” bạn đang nói gì vậy?
Bạn đang nói điều ngược đời, bạn không nói rõ ràng,
và mọi người sẽ nghĩ bạn điên. Làm sao Thượng đế có
thể là cả tốt và xấu được? Và làm sao sống lại có thể là
cả chết và sống được? Chết phải đối lập với sống chứ.
Trống rỗng ở đây, trống rỗng ở kia,
nhưng vũ trụ vô hạn bao giờ cũng đứng trước mắt
ông...
Lớn vô hạn và nhỏ vô hạn;
không khác biệt...

Bởi vì nếu cái gì đó là lớn vô hạn và cái gì đó là
nhỏ vô hạn, không thể có bất kì sự khác biệt gì do vấn
đề về cái vô hạn. Nếu bạn đi xuống, phân chia, phân
tích, bạn sẽ đạt tới cái nhỏ vô hạn. Khoa học đã đạt tới
cái nhỏ vô hạn, điện tử. Bây giờ mọi thứ đã biến mất,
chẳng cái gì thấy được cả. Điện tử không thấy được,

không ai có thể thấy nó cả. Thế thì tại sao họ lại nói
điện tử hiện hữu?
Vật lí đã thành gần như là siêu hình, và những phát
biểu vật lí, những phát biểu của các nhà vật lí, có vẻ
gần như triết lí, huyền môn, bởi vì họ nói, “Chúng ta
không thể thấy được điện tử, chúng ta chỉ có thể quan
sát được hậu quả. Chúng ta có thể thấy hậu quả nhưng
không thấy nguyên nhân, Chúng ta suy luận rằng điện
tử phải có đó, bởi vì, nếu điện mà không có đó, làm
sao những hậu quả này có thể có đó được?”
Đây là điều các nhà huyền môn bao giờ cũng nói.
Họ nói, “Chúng ta không thể thấy Thượng đế được
nhưng chúng ta có thể thấy sáng tạo này. Và Thượng
đế là nguyên nhân còn sáng tạo này là hậu quả. Chúng
ta không thể nào thấy được Thượng đế nhưng chúng ta
thấy sáng tạo - ngài phải có đó, nếu không làm sao
sáng tạo này là có thể được?”
Nếu bạn nghe tiếng nói của tôi và bạn không thể
thấy tôi, bạn sẽ phải suy luận rằng tôi phải ở đâu đó,
nếu không làm sao bạn có thể nghe thấy tiếng của tôi
được? Hậu quả là thấy được nhưng nguyên nhân không
thấy được. Khoa học đã đạt tới cái nhỏ vô hạn, và cái
nhỏ đó đã biến mất hoàn toàn - bởi vì nó đã thành nhỏ
thế, nhỏ thế, nhỏ mãi, tinh vi đến mức bây giờ bạn
không thể nắm bắt được nó.
Tôn giáo đạt tới cái lớn vô hạn. Nó trở thành lớn
thế, lớn thế bao la đến mức bạn không thể nào thấy
được biên giới của nó. Nó trở thành bao la đến mức
bạn không thể nắm bắt được nó, bạn không thể níu
bám lấy nó, bạn không thể định ranh giới nó. Cái nhỏ
vô hạn không thể nào thấy được, nó trở thành không
thể trông thấy được; còn cái lớn vô hạn cũng không thể
nào thấy được, nó trở thành không thể trông thấy được.
Thế rồi Tăng Xán nói một điều hay: cả hai chúng
đều là một bởi vì cả hai là vô hạn. Và cái vô hạn, dù
nhỏ hay lớn cũng không có gì khác biệt, chúng là một.
Lớn vô hạn và nhỏ vô hạn;
không khác biệt,
vì các định nghĩa đã tan biến
và không biên giới nào thấy được.
Cho nên điều đó cũng đúng với hiện hữu và không
hiện hữu.

Khi bạn là trống rỗng toàn bộ, không bản ngã,
không ai ở bên trong ngôi nhà, bạn hiện hữu hay không
hiện hữu? Bạn hiện hữu hay bạn không hiện hữu?
Chẳng điều gì có thể được nói ra cả.
Mọi người hay hỏi đi hỏi lại Phật, “Điều gì xảy ra
khi người ta trở thành vị phật? Người đó hiện hữu hay
người đó không hiện hữu? Linh hồn tồn tại hay không?
Điều gì sẽ xảy ra khi Phật rời khỏi thân thể? Ông ấy sẽ
ở đâu? Ông ấy sẽ ở đâu đó hay không đâu cả?”
Còn Phật nói, “Những câu hỏi này, các ông đừng
hỏi. Các ông đơn giản trở thành vị phật và thấy, bởi vì
bất kì điều gì ta nói cũng sẽ sai.” Và ông ấy bao giờ
cũng tránh cám dỗ trả lời những câu hỏi như vậy.
Đừng phí thời gian trong hoài nghi và biện luận
mà chẳng liên quan gì với điều này.

Thực tại không phụ thuộc vào biện luận của bạn.
Dù bạn chứng minh theo cách này hay cách khác, cũng
chẳng liên quan - thực tại có đó. Nó đã có đó trước bạn
rồi, nó sẽ có đó sau bạn. Nó không phụ thuộc vào tâm
trí bạn; ngược lại, tâm trí bạn phụ thuộc vào nó. Nó
không cần bất kì chứng minh hay bác bỏ nào. Nó tồn
tại theo cách của nó. Bạn không thể chứng minh nó,
bạn không thể bác bỏ nó.
Nhưng mọi người cứ biện luận liệu Thượng đế tồn
tại hay không. Cả nghìn cuốn sách đã được xuất bản
hàng năm về liệu Thượng đế tồn tại hay không. Tất cả
đều ngu xuẩn! Những người nói có và chứng minh, và
những người nói không và chứng minh, cả hai đều
trong cùng con thuyền - con thuyền của chứng minh,
biện luận, logic.
Và nếu có Thượng đế, ngài phải cười to. Ngài có
cần biện luận của bạn không? Bạn đang nói gì vậy?
Bạn đang nói rằng nếu ngài có đó, thế thì sự hiện hữu
của ngài phụ thuộc vào liệu bạn có chứng minh được
ngài hay không. Dù bất kì điều gì bạn làm - chứng
minh hay bác bỏ - nhưng bạn có cho rằng sự hiện hữu
của ngài phụ thuộc vào biện luận của bạn không?
Sự tồn tại có đó chẳng cần biện luận của bất kì ai.
Không nhân chứng nào được gọi ra, và chẳng có toà án
nào để mà quyết định. Làm sao bạn có thể phán xét
được? Và ai là quan toà? Và biện luận thì cứ tiếp tục
mãi; hàng triệu năm người ta đã tranh luận theo cách
này cách nọ. Kẻ vô thần có đó và họ cứ tiếp diễn mãi
mà chẳng ai có thể thuyết phục được họ; kẻ hữu thần
có đó và họ cứ tiếp diễn mãi mà chẳng ai có thể làm
cho họ hoài nghi được. Hữu thần và vô thần cả hai đều
tranh cãi và không biện luận nào chứng minh được là
điều cuối cùng, vấn đề vẫn còn như cũ.
Tăng Xán nói tất cả mọi biện luận đều không liên
quan: hữu thần, vô thần cả hai không liên quan; ủng
hộ, chống đối cả hai không liên quan. Bạn đang làm
điều ngu xuẩn, bởi vì thực tại có đó, nó không cần bất
kì bằng chứng nào. Nó đã có đó rồi, nó bao giờ cũng
có đó, nó bao giờ cũng sẽ có đó.
Chân lí có nghĩa là ‘cái đang đó’. Biện minh, bạn
đơn giản làm phí hoài năng lượng và thời gian của
mình. Thay vì thế, tận hưởng nó. Thay vì thế, hội nhập
vào trong nó. Thay vì thế, sung sướng trong nó. Thay
vì thế, sống nó! Và nếu bạn sống, bạn bắt đầu mang
hương vị của thực tại quanh mình. Nếu bạn sống nó và
bạn sung sướng trong nó, cái gì đó của cái bao la, cái
gì đó của cái vô hạn, bắt đầu được bầy tỏ bởi sự tồn tại
hữu hạn của bạn. Dần dần các biên giới của bạn cũng
tan biến đi, dần dần bạn mất đi. Giọt nước rơi vào
trong đại dương và trở thành đại dương.
Đừng phí thời gian vào biện bác. Triết gia là những
kẻ ngu, và là kẻ ngu nguy hiểm hơn những người ngu
thường, bởi vì người ngu thường đơn giản ngu xuẩn
còn triết gia nghĩ họ trí tuệ. Và họ cứ thế mãi! Tôi nhìn
vào một Hegel hay một Kant - toàn bộ cuộc sống của
họ cứ đi biện luận và họ chưa bao giờ đạt tới đâu cả.
Chuyện đã xảy ra:
Một cô gái cầu hôn với Immanual Kant, cô ấy
muốn lấy ông ấy. Ông ấy nói, “Vâng, tôi sẽ nghĩ về
điều đó.”

Một nhà tư tưởng, một nhà tư tưởng lớn và một
nhà logic lớn, làm sao ông ấy có thể tiến bước được?
Thậm chí nếu đấy là tình yêu thì ông ấy cũng phải nghĩ
về nó trước hết. Và người ta nói rằng ông ấy đã nghĩ và
nghĩ và nghĩ mãi. Thế rồi ông ấy thu thập tất cả mọi
biện luận ủng hộ và chống đối - bởi vì có những người
đang chống lại tình yêu, có những người đang ủng hộ
tình yêu, có những người chống lại hôn nhân, những
người ủng hộ hôn nhân, và họ đều tranh cãi. Cho nên
ông ấy tích luỹ lại tất cả dữ liệu về hôn nhân, tình yêu,
ủng hộ, chống đối. Người ta nói rằng ông ấy đã tích
luỹ ba trăm biện luận ủng hộ và chống đối hôn nhân.
Ông ấy trở nên rất lẫn lộn. Phải làm gì? Quyết định thế
nào?
Thế rồi ông ấy thử và thử, và thế rồi ông ấy đã có
thể tìm ra một biện luận nghiêng về hôn nhân. Và biện
luận đó là thế này: rằng nếu có một khả năng, hai
phương án có vẻ ngang nhau, thế thì bao giờ cũng chọn
phương án sẽ cho bạn nhiều kinh nghiệm hơn. Hôn
nhân hay không hôn nhân - nếu tất cả các biện luận đều
ngang nhau - thế thì không hôn nhân ông ấy đã biết rồi,
bởi vì ông ấy là người vô dục. Thế thì tốt hơn cả là đi
vào hôn nhân, bởi vì ít nhất đấy cũng là điều gì đó mới.
Khi tất cả các biện luận bằng nhau, thế thì làm sao
quyết định được? Cho nên cứ đi và biết về hôn nhân
bằng kinh nghiệm.
Thế là ông ấy đi và tới gõ cửa nhà cô ấy ấy. Người
bố ra mở cửa và Immanuel Kant nói, “Tôi đã quyết
định. Con gái của bác đâu ạ?”
Người bố nói, “Chậm quá rồi - nó là mẹ của ba đứa
trẻ rồi.”
Bởi vì hai mươi năm đã trôi qua và phụ nữ không
ngu xuẩn đến mức chờ đợi lâu thế. Họ bao giờ cũng
khôn ngoan hơn, khôn ngoan hơn theo một cách bản
năng. Đó là lí do tại sao phụ nữ lại không là các triết
gia lớn. Họ không ngu xuẩn đến thế, họ bản năng hơn,
trực giác hơn, gần tự nhiên hơn, quan tâm nhiều tới
việc sống hơn là biện minh.
Đó là lí do tại sao với đàn ông, đàn bà bao giờ
cũng dường như quan tâm tới những điều nhỏ bé,
không quan tâm tới những vấn đề lớn, những điều rất
nhỏ bé: trang phục, trang điểm. Nhưng nhìn đấy - họ
quan tâm tới những điều nhỏ bé bởi vì cuộc sống bao
gồm những điều nhỏ bé. Những vấn đề lớn lao chỉ ở
trong tâm trí, không trong cuộc sống. Dù bạn có quyết
định Thượng đế tồn tại hay không cũng chẳng khác
biệt gì. Bạn phải ăn hai lần một ngày, bạn phải mặc ấm
khi trời quá lạnh và bạn phải vào bóng râm khi trời quá
nóng - dù bạn có quyết định Thượng đế tồn tại hay
không, cũng chẳng khác biệt gì. Cuộc sống bao gồm
những điều nhỏ bé. Và nếu cuộc sống bao gồm những
điều nhỏ bé thế thì điều nhỏ bé lại không nhỏ bé - bởi
vì cuộc sống bao gồm chúng, chúng là quan trọng.
Đừng phí thời gian trong hoài nghi và biện luận
mà chẳng liên quan gì với điều này.
Một điều, mọi điều:
di chuyển trong và quyện lẫn nhau, không phân
biệt.
Sống trong hiểu biết này
là hiện hữu không lo âu về không hoàn hảo.
Sống trong niềm tin này là con đường đi tới bất
nhị,

bởi vì cái bất nhị là một với tâm trí tin cậy.
Những lời rất rất có ý nghĩa, và còn ý nghĩa hơn
nữa nếu bạn có thể nhìn ra ngoài lời đó.
Một điều, mọi điều:
di chuyển trong và quyện lẫn nhau...

Cuộc sống là một đơn vị hữu cơ. Chẳng cái gì bị
phân chia, mọi thứ đều là một. Nếu bạn nghĩ, nó bị
phân chia, phân chia là do tâm trí áp đặt. Nếu không thì
mọi thứ đều trộn lẫn nhau, quyện vào nhau, hợp nhất
vào cái khác. Điều đó xảy ra vào mọi lúc. Bạn không
thấy điều đó bởi vì bạn đã trở thành hoàn toàn mù
quáng với lời.
Bạn ăn quả; quả trở thành máu bạn. Cây đã trộn
lẫn vào trong bạn, biên giới bị mất đi. Và quả này có
thể đã ở trong máu của nhiều người trước đó, nhiều
con vật, nhiều cây cối, nhiều tảng đá. Năng lượng này,
mà là quả đó, bao giờ cũng đã từng ở đó trong sự tồn
tại - tan chảy, hội nhập, nổi lên, đi từ cái này sang cái
khác, đi qua mọi biên giới.
Quan sát bất kì hiện tượng nào. Quả trên cây, nó
đang làm gì? Các nhà khoa học nói rằng quả đang làm
phép màu. Nó đang biến đổi đất, nó đang biến đổi ánh
mặt trời, nó đang biến đổi nước. Nó là phép màu, bởi
vì bạn không thể ăn đất, bạn không thể ăn tia sáng mặt
trời một cách trực tiếp. Quả này, quả táo, đang làm
phép màu. Nó biến đổi mọi thứ và làm điều đó để cho
bạn có thể hấp thu nó và nó trở thành máu bạn.
Và năng lượng này đã di chuyển bởi vì nó bao giờ
cũng có đó. Toàn bộ năng lượng này vẫn còn như cũ,
bởi vì không có đâu khác để đi, cho nên năng lượng
này không thể nào kém đi hay nhiều hơn. Không gì
được thêm vào cho vũ trụ, và không gì có thể bị xoá bỏ
đi. Bạn sẽ đem nó đi đâu? Cái toàn bộ vẫn còn như cũ.
Mới ngày nào quả này mới chỉ là trong đất, bạn
không thể ăn được nó. Quả này đã trong mặt trời,
vitamin D đã trong mặt trời. Bây giờ quả đã hấp thu
nó, bây giờ đất đã biến đổi - phép màu đã xảy ra: bùn
nhão đã biến đổi thành quả ngon.
Và bạn ăn nó, nó trở thành máu bạn. Máu bạn đang
khuấy tung liên tục, nó tạo ra tinh dịch. Bây giờ tinh
dịch được sinh ra, nó trở thành đứa trẻ nhỏ. Bây giờ
quả này, quả táo này, đã đi vào trong đứa trẻ. Các biên
giới ở đâu? Cây đi vào trong bạn, mặt trời đi vào trong
cây, đại dương đi vào trong cây, bạn đi vào trong đứa
trẻ và điều này cứ diễn ra mãi...
Mọi thứ đều đang chuyển động. Hơi thở đang bên
trong bạn sẽ ở trong tôi chút ít sau. Và hơi thở là cuộc
sống, cho nên cuộc sống của bạn và cuộc sống của tôi
không thể nào khác nhau được, bởi vì cũng hơi thở ấy
bạn thở, thì tôi cũng thở. Tôi thở ra, bạn hít vào; bạn
thở ra, tôi hít vào.
Trái tim bạn và trái tim tôi không thể rất khác nhau
được. Chúng đang thở và đập với cùng đại dương của
sức sống đang bao quanh. Tôi gọi đây là hơi thở tôi,
nhưng vào lúc tôi gọi nó, thì nó không còn là của tôi
nữa - nó đã di chuyển, nó đã đổi nhà, bây giờ nó là hơi
thở của ai đó khác. Điều bạn gọi là cuộc sống của bạn

thì không phải là của bạn. Nó không của ai cả, hay nó
là của mọi người.
Khi ai đó nhìn vào thực tại, thế thì người đó thấy
rằng cái toàn thể là một đơn vị hữu cơ. Mặt trời đang
làm việc cho bạn, đại dương đang làm việc cho bạn,
các vì sao đang làm việc cho bạn. Mọi người quanh
khắp thế giới đang làm việc cho bạn và bạn đang làm
việc cho họ. Bạn sẽ chết đi và dòi bọ sẽ ăn thân xác
bạn, bạn sẽ trở thành thức ăn cho chúng.
Bạn đang sẵn sàng, chín muồi để chết, để trở thành
thức ăn cho ai đó khác. Và điều này phải là như vậy -
bởi vì bạn đã làm bao nhiêu thứ thành thức ăn của
mình, cuối cùng bạn phải trở thành thức ăn của chúng.
Mọi thứ đều là thức ăn cho ai đó khác. Nó là một dây
chuyền... và bạn muốn níu bám lấy cuộc sống. Và quả
táo, nó cũng muốn níu bám lấy cuộc sống; và lúa mì,
lúa mì cũng muốn còn là bản thân nó. Thế thì cuộc
sống sẽ dừng lại.
Cuộc sống sống qua cái chết. Bạn chết ở đây, ai đó
trở nên sống ở kia; tôi thở ra, ai đó hít vào. Cũng giống
như việc thở ra theo nhịp điệu, việc thở là cuộc sống và
cái chết. Sống là hít vào, chết là thở ra.
Khi bạn chín muồi, bạn sẽ rụng xuống đất. Thế thì
dòi bọ sẽ ăn bạn và chim mồi sẽ tới và chúng sẽ tận
hưởng bạn. Bạn đã hưởng nhiều thức ăn rồi, bây giờ
đến lượt bạn sẽ được loài khác tận hưởng. Mọi thứ đều
tan chảy, gặp gỡ, hội nhập. Cho nên tại sao phải lo
nghĩ? Điều này sẽ xảy ra, điều này đã xảy ra rồi. Chỉ
cái toàn bộ là sống, các cá thể là giả tạo. Chỉ cái tối
thượng sống - tất cả những cái khác chỉ là những con
sóng trong nó, chúng tới rồi chúng đi.
Khi người ta thấy thực tại chỉ ngay trước mũi,
bỗng nhiên không có vấn đề gì, không lo âu, bởi vì cái
toàn thể cứ sống dù bạn sống hay không. Thế thì cái
chết của bạn không phải là vấn đề, thế thì cuộc sống
của bạn cũng không phải là vấn đề. Bạn sẽ sống trong
cái toàn thể trong nhiều, nhiều triệu cách.
Đôi khi bạn sẽ là quả cây... đó là ý nghĩa của khái
niệm Hindu về hàng triệu yonic. Đôi khi bạn trong con
vật và đôi khi bạn trong sâu bọ và đôi khi bạn là cái
cây và đôi khi bạn là tảng đá - và cuộc sống cứ tiếp
diễn.
Cho nên bạn là không ai cả, theo một nghĩa nào đó,
và bạn là mọi người theo nghĩa khác. Bạn là cái trống
rỗng theo nghĩa này và bạn tràn đầy theo nghĩa khác.
Bạn không hiện hữu theo nghĩa này và bạn là tất cả
theo nghĩa khác - bởi vì bạn không tách rời.
Tách rời đem lại lo âu. Nếu bạn lo âu, trong phiền
não, điều đó có nghĩa là bạn đang nghĩ mình tách biệt -
bạn đang tạo ra vấn đề một cách không cần thiết cho
chính mình. Không cần thế, bởi vì cái toàn thể vẫn cứ
sống; cái toàn thể không bao giờ chết, nó không thể
chết được. Chỉ bộ phận mới chết đi, nhưng cái chết đó
cũng không thực là chết, nó là tái sinh. Tại đây bạn
chết đi, tại kia bạn sinh ra.
Một điều, mọi điều:
di chuyển trong và quyện lẫn nhau, không phân
biệt.
Sống trong hiểu biết này

là hiện hữu không lo âu về không hoàn hảo.

Thế thì tại sao phải lo nghĩ về hoàn hảo? Điều đó
nữa cũng là mục tiêu bản ngã. Điều này cần được hiểu
rất sâu sắc, bởi vì ngay cả người tôn giáo cũng cố gắng
hoàn hảo. Nhưng bạn là ai để mà hoàn hảo? Chỉ cái
toàn thể mới có thể là hoàn hảo, bạn chẳng bao giờ có
thể hoàn hảo cả. Làm sao bạn có thể hoàn hảo được?
Ngay cả Phật cũng phải ốm, ông ấy cũng phải chết.
Bạn không thể nào hoàn hảo được! Chính mục tiêu của
hoàn hảo là trò bản ngã. Cái toàn thể đã hoàn hảo rồi,
bạn không cần phải lo nghĩ về nó - và trong cái toàn
thể thì bạn cũng hoàn hảo.
Hai từ cần được hiểu: một là hoàn hảo, từ kia là cái
toàn thể. Người tôn giáo thực sự quan tâm tới cái toàn
thể, không bao giờ quan tâm tới cái hoàn hảo, còn
người giả tôn giáo thì quan tâm tới cái hoàn hảo, không
bao giờ quan tâm tới cái toàn thể.
Cái toàn thể có nghĩa là, “Tôi không hiện hữu, cái
toàn thể hiện hữu.” Và nó là hoàn hảo, bởi vì làm sao
nó có thể khác được? Không có so sánh, không có ai
khác cả. Nhưng nếu bạn đang nghĩ dưới dạng hoàn
hảo, đạo đức, lí tưởng, tính cách, bạn phải thành hoàn
hảo, thế thì bạn sẽ phát điên.
Tất cả mọi người hoàn hảo đều phát điên - đó là
điểm cuối cùng của họ, cái tối thượng của họ - bởi vì
như một đơn vị tách biệt, bạn sẽ vẫn còn không hoàn
hảo, bạn không thể nào hoàn hảo được. Làm sao bạn
có thể hoàn hảo được? - bởi vì năng lượng của bạn tới
từ cái toàn thể, nó đi tới cái toàn thể; bạn không hiện
hữu. Con sóng phải vẫn còn là con sóng, nó không thể
trở thành đại dương được. Và nếu nó cố gắng quá vất
vả, nó sẽ phát điên.
Đó là lí do tại sao trong thế giới của tôn giáo bạn
thấy nhiều người bản ngã thế, bởi vì họ đang cố gắng
là hoàn hảo về mọi thứ. Họ cứ nhấn mạnh vào hoàn
hảo. Họ không thể thảnh thơi được, họ bao giờ cũng
căng thẳng. Và bao giờ một cái gì đó cũng sẽ sai, và họ
phải làm cho nó đúng - và họ bao giờ cũng sẽ vẫn còn
trong lo âu. Vào nhà thương điên mà xem, và tại đó
bạn sẽ thấy chín mươi phần trăm là những người theo
hoàn hảo.
Con người của hiểu biết vẫn còn thảnh thơi. Điều
đó không có nghĩa là người ấy không quan tâm.
Không, người ấy quan tâm nhưng người ấy hiểu những
giới hạn. Người ấy quan tâm, nhưng người ấy biết rằng
mình chỉ là bộ phận. Người ấy chưa hề nghĩ bản thân
mình là cái toàn thể, cho nên người ấy chưa bao giờ lo
nghĩ.
Người ấy tận hưởng bất kì cái gì người ấy đang
làm, biết rõ rằng nó vẫn còn không hoàn hảo, nó không
thể là hoàn hảo được. Nhưng người ấy tận hưởng việc
làm nó, và bởi việc tận hưởng nó, bất kì cái gì hoàn
hảo cũng đều có thể xảy ra mà không tạo ra lo nghĩ gì
trong người ấy. Người ấy yêu nó, biết rõ rằng nó sẽ
không là điều tuyệt đối. Nó không thể thế; một cái gì
đó sẽ còn lại không hoàn hảo, đấy là bản chất của mọi
sự.
Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta bao giờ
cũng tin - và tin vào điều rất thực - rằng bất kì khi nào
ai đó trở thành hoàn hảo thì người ấy sẽ không sinh ra

nữa, người ấy biến mất khỏi thế giới này. Người ấy
phải thế, bởi vì trong thế giới này chỉ cái không hoàn
bảo mới có thể. Người ấy không còn khớp với đây nữa,
người ấy không còn được cần tới nữa, người ấy tan
biến trong cái toàn thể.
Ngay cả vị Phật tới khoảnh khắc chót của cuộc
sống mình cũng vẫn còn không hoàn hảo, nhưng không
lo nghĩ về nó. Đó là lí do tại sao Phật tử có hai thuật
ngữ cho niết bàn. Việc chứng ngộ tối thượng họ gọi là
mahaparinirvana - đại bát niết bàn, còn việc chứng
ngộ họ gọi là nirvana - niết bàn. ‘Niết bàn’ có nghĩa là
vị Phật đang trong thân thể. Ông ấy đã đạt tới bừng
sáng, ông ấy đã trở thành người biết, nhưng ông ấy vẫn
trong thân thể, thân thể của cái không hoàn hảo. Ông
ấy vẫn trong thế giới này của các bộ phận không hoàn
hảo. Đây là niết bàn, chứng ngộ.
Thế rồi khi ông ấy rời khỏi thân thể, khi ông ấy
đơn giản biến mất trong cái trống rỗng tối thượng, đó
là mahaparinirvana - đại bát niết bàn, đó là đại chứng
ngộ. Bây giờ cái không hoàn hảo biến mất, bây giờ
không có cá thể, bây giờ ông ấy là cái toàn thể. Chỉ cái
toàn thể mới có thể hoàn hảo. Bây giờ Phật có thể hoàn
hảo, bởi vì bây giờ ông ấy đã tan biến vào trong cái
toàn thể, ông ấy là đại dương.
Cho nên nhớ điều này cho rõ, bởi vì tất cả mọi chủ
nghĩa hoàn hảo đều là nỗ lực bản ngã, bạn phát điên
theo mọi thứ. Cố làm điều đó tốt nhất mà bạn có thể
làm được, nhưng đừng phát cuồng về nó; làm tốt nhất
mà bạn có thể làm được và chấp nhận giới hạn đó. Giới
hạn này sẽ có đó, ngay cả về tính cách của bạn, đạo
đức, mọi thứ!
Thậm chí thánh nhân cũng phải để ra chút ít không
gian cho tội nhân, bởi vì tội nhân sẽ đi đâu? Cho nên
có thể, chín mươi chín phần trăm là thánh nhân, nhưng
một phần trăm của tội nhân sẽ có đó. Và điều ngược lại
xảy ra: bạn có thể trở thành tội nhân chín mươi chín
phần trăm nhưng một phần trăm của thánh nhân sẽ vẫn
có đó. Nó phải là như vậy, bởi vì bạn sẽ bỏ phần kia đi
đâu? Bạn có thể bắt ép nó tới chính cực điểm, nhưng
một phần trăm của cái kia sẽ vẫn còn ở đó. Và nếu bạn
phát điên về nó, thì cũng chẳng ích gì.
Con người của hiểu biết chấp nhận các giới hạn.
Người ấy chấp nhận các khả năng, cái mà có thể.
Người ấy biết cái không thể được, người ấy không bao
giờ thử cái không thể được. Người ấy thảnh thơi và tận
hưởng cái có thể. Và người ấy càng tận hưởng thì cái
hoàn hảo càng tới với cuộc sống người ấy. Nhưng
không còn lo nghĩ nữa, đấy là biết ơn - và đây là khác
biệt.
Nếu bạn tới với một người thực sự tôn giáo, bạn sẽ
cảm thấy ân huệ xung quanh người đó, vô nỗ lực.
Người ấy chẳng làm gì cho bản thân mình, người ấy
đơn giản thảnh thơi trong điều tối thượng, và bạn cảm
thấy cái vô nỗ lực bao quanh người ấy.
Nếu bạn tới một người là người theo thuyết hoàn
hảo, người giả tôn giáo, thế thì mọi điều bạn thấy sẽ là
nhân tạo, sẽ không có ân huệ. Mọi thứ đều rõ ràng, mọi
chuyển động đều có tính toán, tinh ranh. Mọi thứ người
ấy làm đều là theo kỉ luật, không tự phát. Người ấy
sống trong luật lệ; luật lệ riêng của người ấy trở thành
sự cầm tù người ấy. Người ấy không thể cười, người
ấy không thể là đứa trẻ, người ấy không thể là hoa. Dù

người ấy là gì, người ấy cũng đưa nhiều nỗ lực vào
trong nó đến mức mọi thứ đều trở thành căng thẳng và
đi sai. Nó không phải là sự tuôn chảy tự phát.
Và điều này nên là tiêu chuẩn - nếu bạn đi tới thầy
thì đây nên là tiêu chuẩn - rằng thầy là luồng chảy tự
phát. Chỉ thế thì thầy mới có thể giúp bạn trở thành
luồng chảy tự phát về phần bạn. Nếu thầy là người theo
thuyết hoàn chỉnh bó buộc, ông ấy sẽ làm què quặt
bạn, ông ấy sẽ giết chết bạn hoàn toàn. Ông ấy sẽ chặt
bạn ra theo nhiều cách, và vào lúc ông ấy cho là bạn
hoàn chỉnh, bạn chết.
Chỉ cái gì chết mới có thể hoàn hảo. Cái còn sống
nhất định vẫn còn không hoàn hảo, nhớ lấy lấy điều
này.
Sống trong hiểu biết này
là hiện hữu không lo âu về không hoàn hảo.
Người ta đơn giản sống! Người ta sống toàn bộ,
người ta sống toàn thể, và không bận tâm về hậu quả,
điều xảy ra.
Sống trong niềm tin này...

Và đây là niềm tin cho Tăng Xán, và đây là niềm
tin cho tôi nữa. Đây là tin cậy.
Người theo thuyết hoàn hảo không bao giờ tin cậy
bởi vì người ấy bao giờ cũng tìm lầm lỗi. Người ấy
chưa hề tin cậy vào cái gì. Thậm chí nếu bạn tặng cho
người ấy bông hồng, người ấy cũng ngay lập tức thấy
cái không hoàn hảo. Người ấy sẽ không nhìn vào bông
hồng, người ấy sẽ nhìn vào cái không hoàn hảo. Con
mắt người ấy là con mắt của logic, không phải của tình
yêu. Người ấy bao giờ cũng nghi ngờ; người ấy không
thể nào tin cậy vào bất kì ai, bởi vì người ấy không thể
tin cậy vào bản thân mình.
Tới cái gọi là các thánh nhân mà xem - họ không
thể tin cậy vào bản thân mình được. Họ sợ, bởi vì bất
kì cái gì họ đã ép buộc đều bị ép buộc, nó không tự
nhiên, và họ biết nếu họ thảnh thơi thế thì mọi sự sẽ đi
sai. Nếu một phụ nữ đẹp tới một thánh nhân, bạn có
thể thấy rằng ông ấy trở nên bồn chồn, bất ổn. Điều đó
có thể không trên bề mặt, nhưng nếu bạn quan sát sâu
sắc thì bạn có thể cảm thấy nó, bởi vì ông ấy đã áp đặt
brachmacharya, vô dục, và người phụ nữ kia là nguy
hiểm. Ông ấy không thể nào cho phép người phụ nữ
này được ở đó lâu, bởi vì thế thì sự không tin cậy của
ông ấy về bản thân mình sẽ lộ ra.
Người không tin cậy vào năng lượng sống của
riêng mình thì không thể tin cậy vào ai được. Người ấy
là kẻ thù của con người, kẻ đầu độc. Và kẻ đầu độc thì
rất tính toán - họ phải như vậy, bởi vì họ phải biện
minh và bảo vệ bản thân mình, và họ phải phụ thuộc
vào tâm trí của riêng mình.
Và những kẻ đầu độc này đã làm hại nhiều lắm,
làm tổn thương toàn thể nhân loại đến mức mà không
thể nào nghĩ được làm sao nhân loại lại có thể thoát ra
được điều đó. Họ đã đầu độc mọi thứ: “Cái này xấu,
cái kia xấu, cái này là tội lỗi, cái kia là sai quấy.” Và
họ đã tạo ra đống lộn xộn quanh bạn đến mức bất kì cái
gì bạn làm thì bạn cũng sẽ cảm thấy mặc cảm. Nếu bạn
không làm, bạn sẽ cảm thấy mặc cảm bởi vì tự nhiên.

Nếu bạn yêu, bạn đã sa ngã; nếu bạn không yêu,
bạn cứ có cảm giác thôi thúc sâu sắc để yêu. Nó tới từ
tự nhiên, chẳng có gì sai trong đó cả. Nó cũng tự nhiên
như là đói hay khát vậy, và cũng đẹp như đói và khát.
Nhưng thánh nhân của bạn muốn bạn chỉ là người chất
dẻo - không đói, không khát, không yêu - thế thì bạn
mới hoàn hảo.
Nếu toàn bộ cái máy này được làm bằng chất dẻo
thế thì sẽ dễ dàng. Và các nhà khoa học đang nghĩ theo
hướng này, để làm toàn bộ máy móc chất dẻo. Thế thì
bạn chẳng cần thức ăn gì, bạn không cần tình yêu gì,
bạn không cần thứ gì cả. Bạn trở thành cái máy, bạn là
người máy. Đôi khi, khi cái gì đó đi sai, bạn có thể
được gửi tới xưởng. Và hàng ngày bạn có thể đi tới
trạm tiếp liệu, và họ có thể đổ ít xăng vào bạn và mọi
sự đều ổn thoả. Thế thì bạn sẽ là người theo thuyết
hoàn hảo, thế thì bạn sẽ là hoàn hảo.
Nhưng cuộc sống như nó đang đấy, cuộc sống là
tinh tế; nó không phải là chất dẻo, nó rất tinh tế. Bạn
không có dây dợ, bạn có thần kinh. Và sự cân bằng bao
giờ cũng di động. Không cái gì chắc chắn cả, và mọi
sự cứ tan chảy và hội nhập vào cái khác. Đó là lí do tại
sao bạn sống động.
Con người của hiểu biết không bận tâm, người ấy
không lo âu về cái không hoàn hảo. Người ấy không
nghĩ dưới dạng hoàn hảo chút nào; người ấy chỉ sống
các khoảnh khắc toàn thể nhất có thể được, toàn bộ
nhất có thể được. Và người ấy càng sống toàn bộ hơn,
người ấy càng trở nên có khả năng sống nó hơn.
Một ngày sẽ tới... người ấy đơn giản sống mà
không bó buộc ý tưởng gì, không nghĩ về bất kì khái
niệm nào, không tạo ra bất kì luật lệ và qui tắc nào về
cuộc sống mình. Người ấy đơn giản sống và tận hưởng
và vui sướng.
Sống trong niềm tin này là con đường đi tới bất
nhị...
và đây là đức tin
...bởi vì cái bất nhị là một với tâm trí tin cậy.

Và sâu bên trong, nếu bạn có tâm trí tin cậy, cái bất
nhị sẽ ở ngay trước bạn. Sâu bên dưới nếu bạn có hoài
nghi, thế thì lí thuyết, suy nghĩ, lời, triết lí, học thuyết
sẽ có đó, và bạn sẽ hoàn toàn mù loà. Bạn sẽ không có
khả năng thấy cái gần, bạn sẽ có khả năng chỉ nghĩ về
cái ở xa. Bên trong mà tin cậy, thì bên ngoài là thực
tại; bên trong mà tin cậy, thì bên ngoài là chân lí. Tin
cậy và chân lí gặp gỡ - và không có gặp gỡ nào khác...
...bởi vì cái bất nhị là một với tâm trí tin cậy.
Lời!
Đạo vượt ra ngoài ngôn ngữ, vì trong nó không có
hôm qua, không có ngày mai, không có hôm nay.
Điều cuối cùng: Tăng Xán đang nói rằng ngôn ngữ
là có thể nếu thời gian hiện hữu, ngôn ngữ là cùng
động thái như thời gian. Đó là lí do tại sao ngôn ngữ lại
có ba thời: quá khứ, hiện tại, tương lai - cũng giống
như thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai. Ngôn ngữ là
thời gian, bị phân chia thành cùng phân loại như thời
gian. Còn cuộc sống thì vượt ra ngoài. Cuộc sống

không là quá khứ. Quá khứ ở đâu? Bạn không thể nào
tìm ra nó ở đâu cả.
Tôi đã từng nghe rằng có lần chuyện xảy ra:
Một người tới thăm một viện bảo tàng lớn. Người
này rất giầu, cho nên người ta dành cho ông ta người
thuyết minh giỏi nhất. Người này nhìn vào một cái đầu
và ông ta hỏi, “Đây là ai vậy?”
Người thuyết minh thực sự không biết, cho nên
anh ta nói, “Đấy là cái đầu của Napoleon.”
Thế rồi đến một cái đầu nhỏ; và lần nữa người này
lại hỏi. Và người thuyết minh lại bị kích động bởi
người giầu này, và sợ đến mức anh ta hoàn toàn lẫn lộn
bên trong và anh ta nói, “Đây cũng là đầu của
Napoleon.”
Cho nên người giầu nói, “Anh ngụ ý gì vậy? Hai
đầu sao?”
Thế là người thuyết minh bị khó xử, và câu trả lời
nào đó phải được đưa ra chứ. Cho nên anh ta nói,
“Vâng, đây là cái đầu thời trẻ con của ông ấy còn kia là
cái đầu lúc về già.”
Nếu quá khứ tồn tại, thế thì cái đầu trẻ con sẽ có
đó, thế thì nhiều cái đầu sẽ có đó; khi bạn chết bạn sẽ
bỏ lại hàng triệu cái đầu đằng sau. Nhưng bạn bỏ lại
chỉ mỗi cái đầu thôi, không hàng triệu đầu. Quá khứ
biến mất; quá khứ không ở đâu cả, chỉ trong kí ức.
Tương lai ở đâu? Tương lai không ở đâu cả, chỉ trong
tưởng tượng. Quá khứ là cái không phải là bây giờ và
tương lai là cái chưa có. Đó là lí do tại sao các nhà
huyền môn bao giờ cũng nói: Chỉ hiện tại là có. Nhưng
Tăng Xán còn đi thêm lên một bước và ông ấy nói:
...không có hôm qua, không có ngày mai, không có
hôm nay.
Thậm chí không có cả hiện tại nữa. Ông ấy ngụ ý
gì? - bởi vì ông ấy là đúng, tuyệt đối đúng. Nếu không
có quá khứ và không tương lai, thế thì làm sao hiện tại
có thể tồn tại được? Bởi vì hiện tại tồn tại chỉ giữa quá
khứ và tương lai.
Hiện tại là gì? - bước chuyển. Từ quá khứ bạn
chuyển tới tương lai; trong việc chuyển đó, chỉ trong
một khoảnh khắc, là hiện tại. Hiện tại là gì? - Nó chỉ là
bước chuyển từ quá khứ sang tương lai, nó là cánh cửa
từ buồng này sang buồng khác. Nhưng nếu cả buồng
này không tồn tại, buồng kia cũng không tồn tại, thế thì
làm sao cánh cửa có thể tồn tại được? Nó là cây cầu
giữa quá khứ và tương lai. Và nếu cả hai bờ đều không
có, làm sao cây cầu có thể tồn tại được?
Tăng Xán là phải. Tăng Xán nói: Không quá khứ
không tương lai không hiện tại. Ông ấy đang nói không
có thời gian. Và toàn bộ ngôn ngữ phụ thuộc vào thời
gian, quá khứ, tương lai, hiện tại. Ngôn ngữ là sáng tạo
của tâm trí, thời gian cũng là sáng tạo của tâm trí.
Khi bạn vứt bỏ ngôn ngữ, thời gian biến mất. Khi
bạn vứt bỏ suy nghĩ, không có quá khứ, không hiện tại,
không tương lai. Bạn đi ra ngoài thời gian, không có
thời gian. Khi không có thời gian, có vĩnh hằng. Khi
không có thời gian, bạn đã đi vào trong thế giới của
điều vĩnh hằng.

Chân lí là vĩnh hằng. Và tất cả những điều bạn đã
thu được đều là phản ánh tạm thời của chân lí.
Nó cũng giống như trăng lên trên trời, đó là đêm
trăng tròn, và bạn nhìn sâu vào trong hồ và mặt trăng
có đó. Mặt trăng này là tất cả những cái mà bạn có -
mặt trăng ở trong hồ.
Tâm trí soi gương; tất cả chân lí mà bạn có đều
được soi gương qua tâm trí, chúng là sự phản xạ.
Tăng Xán đang nói gì? Tăng Xán đang nói: Quên
hồ này đi! bởi vì đây là tấm gương. Nhìn ra ngoài, chỉ
thế thì bạn mới có khả năng thấy trăng thực - và nó có
đấy.
Nhưng bạn lại quá đồng nhất với cái hồ, với tâm trí
soi gương. Vứt bỏ tâm trí đi và bỗng nhiên mọi thứ mà
bạn bỏ lỡ lại khớp, mọi thứ mà bạn đã tìm kiếm lại xảy
ra, mọi thứ mà bạn bao giờ cũng mơ ước và ham muốn
lại có đấy. Mọi thứ được hoàn thành.
Toàn bộ thông điệp này là làm sao vứt bỏ tâm trí,
ngôn ngữ và thời gian.
Đủ cho hôm nay.

*************************************************

##Bài thơ Tín Tâm

Tổ sư Tăng Xán

TÍN TÂM MINH
Tăng Xán
Trúc Thiên dịch
Đạo lớn chẳng gì khó
cốt đừng chọn lựa thôi
quí hồ không thương ghét
thì tự nhiên sáng ngời
Sai lạc nửa đường tơ
đất trời liền phân cách
chớ nghĩ chuyện ngược xuôi
thì hiện liền trước mắt
Đem thuận nghịch chỏi nhau
đó chính là tâm bịnh
chẳng nắm được mối huyền
hoài công lo niệm tịnh
Tròn đầy tợ thái hư
không thiếu cũng không dư
bởi mảng lo giữ nó
nên chẳng được như như
Ngoài chớ đuổi duyên trần
trong đừng ghì không nhẫn
cứ một mực bình tâm
thì tự nhiên dứt tận
Ngăn động mà cầu tịnh
hết ngăn lại động thêm
càng trệ ở hai bên
thà rõ đâu là mối
Đầu mối chẳng rõ thông
hai đầu luống uổng công
đuổi có liền mất có
theo không lại phụ không
Nói nhiều thêm lo quẩn
loanh quanh mãi chẳng xong
dứt lời dứt lo quẩn
đâu đâu chẳng suốt thông
Trở về nguồn nắm mối
dõi theo ngọn mất tông
phút giây soi ngược lại
trước mắt vượt cảnh không
Cảnh không trò thiên diễn
thảy đều do vọng kiến
cứ gì phải cầu chơn
chỉ cần dứt sở kiến
Hai bên đừng ghé mắt
cẩn thận chớ đuổi tầm
phải trái vừa vướng mắc
lộn xộn là mất tâm
Hai do một mà có
một rồi cũng buông bỏ
một tâm ví chẳng sanh
muôn pháp tội gì đó
Vô cữu vô pháp
bất sanh bất tâm
năng tùy cảnh diệt
cảnh trục năng trầm
Tâm là tâm của cảnh
cảnh là cảnh của tâm
ví biết hai đằng dứt
rốt cùng chỉ một không
Một không, hai mà một
bao gồm hết muôn sai
chẳng thấy trong thấy đục
lấy gì mà lệch sai
Đạo lớn thể khoan dung
không dễ mà chẳng khó
kẻ tiểu kiến lừng khừng
gấp theo và chậm bỏ
Chấp giữ là nghiêng lệch
dấn tâm vào nẻo tà
cứ tự nhiên buông hết
bổn thể chẳng lại qua
Thuận tánh là hiệp đạo
tiêu dao dứt phiền não
càng nghĩ càng trói thêm
lẽ đạo chìm mê ảo
Mê ảo nhọc tinh thần
tính gì việc sơ thân
muốn thẳng đường nhứt thặng
đừng chán ghét sáu trần
Lục trần bất ác
hoàn đồng chánh giác
trí giả vô vi
ngu nhơn tự phược
Pháp pháp chẳng khác
do ái trước sanh lầm
há chẳng là quấy lắm
sai tâm đi bắt tâm
Mê sanh động sanh yên
ngộ hết thương hết ghét
nhứt thiết việc hai bên
đều do vọng châm chước
Mơ mộng hão không hoa
khéo nhọc lòng đuổi bắt
chuyện thua được thị phi
một lần buông bỏ quách
Mắt ví không mê ngủ
mộng mộng đều tự trừ
tâm tâm ví chẳng khác
thì muôn pháp nhứt như
Nhứt như vốn thể huyền
bằn bặt không mảy duyên
cần quán chung như vậy
muôn pháp về tự nhiên
Đừng hỏi vì sao cả
thì hết chuyện sai ngoa
ngăn động chưa là tịnh
động ngăn khác tịnh xa
Cái hai đà chẳng được
cái một lấy chi mà...
Rốt ráo đến cùng cực
chẳng còn mảy qui tắc
Bình đẳng hiệp đạo tâm
im bặt niềm tạo tác
niềm nghi hoặc lắng dứt
lòng tin hòa lẽ trực
mảy bụi cũng chẳng lưu
lấy gì mà kí ức
bổn thể vốn hư minh
tự nhiên nào nhọc sức
Trí nào suy lượng được
thức nào cân nhắc ra
cảnh chơn như pháp giới
không người cũng không ta
Cần nhứt hãy tương ưng
cùng lẽ đạo bất nhị
bất nhị mà hoà đồng
không gì chẳng bao dong
Mười phương hàng trí giả
chung về nhập một tông
Tông này vốn tự tại
khoảnh khắc là vạn niên
dầu có không không có
mười phương trước mắt liền
Cực nhỏ là cực lớn
đồng nhau, bặt cảnh duyên
Cực lớn là cực nhỏ
đồng nhau, chẳng giới biên
Cái có là cái không
cái không là cái có
Ví chửa được vậy chăng
quyết đừng nên nấn ná
Một tức là tất cả
tất cả tức là một
Quí hồ được vậy thôi
lo gì chẳng xong tất
Tín Tâm chẳng phải hai
chẳng phải hai Tâm Tín
Lời nói làm đạo dứt
chẳng kim cổ vị lai.

END

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro