Tình hình kinh tế thương mại Việt Nam 2007-5/2011 (huycrt)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Số khách quốc tế đến Việt Nam(nghìn người)

2007: 4229,3

2008: 4235,8

2009: 3772,4 giảm 10,9% sv 2008

2010: > 5000 tăng 34,8% sv 2009

5 tháng đầu năm 2011 2,5 triệu lượt khách, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước.

Trong nhóm 10 thị trường có khách đến Việt Nam đông nhất

Trung Quốc vẫn đứng thứ nhất v(tăng 74,5%), Hàn Quốc (37,7%), Nhật Bản (24%), Mỹ(7%), Đài Loan (Trung Quốc) (23,7%)...

"Điểm mặt" các mặt hàng xuất khẩu

Bộ Công Thương cho biết, tính đến hết tháng 11, đã có 14 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD. So với cùng kỳ năm ngoái, số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã tăng thêm 2 mặt hàng là hạt điều, dây điện và dây cáp điện.

Hiện nay, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đứng đầu thế giới như hạt điều, hạt tiêu đen; đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê; đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu cao su thiên nhiên, hải sản; đứng thứ 7 thế giới về hàng giày dép và thứ 10 thế giới về hàng dệt may.

Kim ngạch XK của dệt may vượt trên 11 tỷ USD

Với kết quả xuất khẩu toàn ngành 9 tháng đạt 8,1 tỷ USD, riêng Vinatex đạt 1,5 tỷ USD, Vitas dự báo ngành dệt may dự kiến đạt 11 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu trong năm nay, vượt 500 triệu USD so với kế hoạch đề ra.

Tháng 11 là tháng thứ 5 liên tiếp xuất khẩu dệt may vượt mức 1 tỷ USD. Vượt qua một số khó khăn mang đặc thù của ngành dệt may như lao động, nguồn điện, sự tăng giá của chi phí đầu vào... xuất khẩu dệt may vẫn giữ vị trí hàng đầu trong xuất khẩu của cả nước.

Hiện các doanh nghiệp dệt may đang tiếp tục đẩy nhanh sản xuất và giao hàng cho khách theo những đơn hàng cuối năm. Với tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng trong mấy tháng qua, dự kiến kim ngạch xuất khẩu cả năm đối với mặt hàng này sẽ trên 11 tỷ USD, tăng 21,3% so với năm 2009, vượt kế hoạch 5,1% (tương đương với hơn 500 triệu USD).

Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 4,94 tỷ USD

Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), mặc dù liên tiếp gặp phải những khó khăn từ đầu năm tới nay nhưng ngành thuỷ sản Việt Nam vẫn "kiên cường" vượt qua và chinh phục nhiều thị trường mới trên thế giới. Dự kiến năm nay, ngành thủy sản sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 4,8 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2009 và về đích sớm.

Đứng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản phải kể đến con tôm. 11 tháng, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt hơn 1,68 tỷ USD. Theo ước tính, năm nay Việt Nam sẽ xuất khẩu được khoảng trên 200 ngàn tấn tôm, đạt kim ngạch 1,8 tỷ USD – con số được coi là kỷ lục xuất khẩu của ngành thủy sản trong những năm qua.

Đứng thứ 2 phải kể đến cá tra, Theo VASEP, hiện nay, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu khoảng 650.000 tấn cá tra. Trong khoảng 5 năm tới (2011 -2015), lượng xuất đạt khoảng 800 nghìn tấn/năm. Cùng với tôm và cá tra, năm nay giá trị xuất khẩu cá ngừ, nhuyễn thể và giáp xác khác cũng tăng trưởng khá.

Xuất khẩu gạo đạt kim ngạch 3,23 tỷ USD

Theo số liệu sơ bộ của Trung tâm Tin học và Thống kê (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy, năm 2010 đạt kỷ lục cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu. Ước xuất khẩu tháng 12 đạt 500 ngàn tấn, thu về 245 triệu USD.

Lượng gạo xuất khẩu cả năm 2010 ước đạt 6,88 triệu tấn, với kim ngạch 3,23 tỉ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 15,4% về lượng và tới 21,2% về giá trị. Giá gạo xuất khẩu tiếp tục tăng nhẹ so với tháng trước, giá gạo bình quân 11 tháng đạt 468 USD/tấn tăng 5,02% so với năm trước.

Năm nay, thị trường Inđônêxia tăng tiêu thụ gạo của Việt Nam đột biến, gấp 24 lần về khối lượng và 30 lần về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái đưa thị trường này trở thành thị trường lớn thứ 3 của Việt Nam.

Hiệp hội Lương thực (VFA) cho biết, tính đến ngày 3/12, Việt Nam đã giao 6,334 triệu tấn gạo xuất khẩu theo các hợp đồng đã ký, đạt trị giá 2,705 tỷ USD. Trong 11 tháng, cả nước đã xuất khẩu được 6,26 triệu tấn gạo, đạt giá trị FOB 2,67 tỷ USD, tăng 9,94% về số lượng, 15,63% về giá trị so với cùng kỳ năm 2009; giá xuất khẩu bình quân đạt hơn 426 USD/tấn.

Xuất khẩu cao su đạt 2,32 tỷ USD

Bộ NN&PTNT cho biết, ước xuất khẩu cao su tháng 12 đạt 90 ngàn tấn, kim ngạch đạt 325 triệu USD, đưa lượng cao su xuất khẩu cả năm 2010 lên 773 ngàn tấn, kim ngạch đạt 2,32 tỷ USD, chỉ tăng 5,7% về lượng nhưng kim ngạch tăng tới 89,1%.

Giá cao su tăng liên tục và nhu cầu cũng không ngừng tăng do sản xuất công nghiệp các nước hồi phục, nguồn dự trữ của các nước này cũng xuống thấp.

Theo ông Trần Ngọc Thuận, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cao su, Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Cao su việt Nam cho biết, Việt Nam hiện đang đứng thứ 5 thế giới về diện tích trồng cao su và thứ 4 thế giới về sản lượng xuất khẩu cao su tự nhiên. Sản lượng cao su của Việt Nam được xuất khẩu ra 39 nước trên thế giới, trong đó Trung Quốc chiếm 60%.

Năm 2010 là năm kỉ lục đối với ngành cao su trong nước vì giá bán cao su liên tục tăng, có lúc trên 4.000 USD/tấn. Theo Bộ Công thương, sản lượng cao su thiên nhiên của nước ta tăng nhanh qua các năm, từ 220.000 tấn năm 1996 lên đến 550.000 tấn năm 2007. Năm 2009, sản lượng cao su xuất khẩu đạt gần 732.000 tấn, sản phẩm cao su đạt 175 triệu USD.

Trong 6 tháng đầu năm 2010, kim ngạch xuất khẩu cao su thiên nhiên đạt hơn 650 triệu USD, dự tính sản lượng cả năm đạt 750.000 tấn. Cao su được xem là cây đa mục tiêu, cây trồng chương trình tái tạo rừng, xóa đói giảm nghèo, hiện đại hóa vùng nông thôn và đang được mở rộng diện tích trồng tại các vùng phi truyền thống là Duyên hải miền Trung và Tây Bắc.

Mục tiêu của ngành cao su Việt Nam đến năm 2015 là nâng diện tích trồng lên 800.000 ha và đạt sản lượng 1,2 triệu tấn vào năm 2020.

Xuất khẩu cà phê đạt 1,67 tỷ USD

Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (Vicofa) cho biết, 9 tháng đầu năm 2010, lượng cà phê xuất khẩu cả nước đạt khoảng 884 ngàn tấn, trị giá hơn 1,2 tỷ USD. Dự kiến ba tháng cuối năm 2010, cả nước xuất khẩu thêm khoảng 200 nghìn đến 250 nghìn tấn cà-phê. Vicofa dự kiến xuất khẩu cà phê Việt Nam trong năm nay đạt khoảng 1,7 tỷ USD.

Hiện nguồn cung cà phê thế giới đang thiếu hụt khiến giá cà phê tiếp tục giữ xu hướng tăng. Điều này đã khuyến khích người dân mạnh dạn vay vốn ngân hàng, tập trung đầu tư, chăm sóc, thâm canh cây cà phê. Các vùng trọng điểm trồng cây cà phê đều có khả năng cho năng suất cao, khoảng từ 3 tấn cà phê nhân/ha trở lên.

Bộ NN&PTNT cho biết, khối lượng xuất khẩu năm 2010 chỉ đạt 1,1 triệu tấn và giá trị là 1,67 tỷ USD giảm xấp xỉ 5% về lượng và 3,7% về giá trị so với năm ngoái. Giá xuất khẩu trung bình xấp xỉ bằng năm 2009.

Năm nay, có sự thay đổi lớn về vị trí của các thị trường tiêu thụ lớn, thị trường tiêu thụ đứng đầu của năm 2009 là Bỉ có sự sụt giảm mạnh chỉ bằng 1/3 năm ngoái, tụt xuống vị trí thứ 6. Hoa Kỳ và Đức là hai thị trường tiêu thụ hàng đầu có sự tăng trưởng khá, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu than đá tăng về giá trị

Tháng 9/2010 lượng than xuất khẩu của cả nước đạt 1,28 triệu tấn, trị giá 116,4 triệu USD (giảm 9,7% về lượng và giảm 13,1% về trị giá so với tháng 8/2010); đưa tổng lượng than xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2010 lên 14,55 triệu tấn, trị giá 1,16 tỷ USD (giảm 17,7% về lượng nhưng tăng 26,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2009).

Trung Quốc vẫn là thị trường chủ đạo của xuất khẩu than Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2010, đạt 10,47 triệu tấn, trị giá 670,7 triệu USD (chiếm 72% về lượng và chiếm 57,7% về trị giá); thị trường Nhật Bản đứng thứ 2 với 1,37 triệu tấn, đạt 183,1 triệu USD (chiếm 9,4% về lượng và chiếm 15,8% về trị giá); đứng thứ 3 là thị trường Hàn Quốc với 1,43 triệu tấn, đạt 110,8 triệu USD (chiếm 9,8% về lượng và chiếm 9,5% về trị giá).

Tính riêng tháng 9/2010, xuất khẩu than sang 3 thị trường tăng trưởng mạnh so với tháng 8 là: Lào (tăng 202% về lượngvà tăng 204% về kim ngạch); Ấn Độ (tăng 258% về lượng và tăng 177,4% về kim ngạch); Thái Lan (tăng 70,4% về lượng và tăng 40,7% về kim ngạch). Ngược lại, hai thị trường giảm mạnh so với tháng 8/2010 là: Đài Loan (giảm 39% về lượng và giảm 36,4% về kim ngạch); Nhật Bản (giảm 26,1% về lượng và giảm 19,7% về kim ngạch).

XK điều 4 năm liền dẫn đầu thế giới

Bộ NN&PTNT cho biết, ước tháng 12, xuất khẩu đạt 20 ngàn tấn với kim ngạch 120 triệu USD. Lượng điều xuất khẩu cả năm 2010 ước đạt 196 ngàn tấn, kim ngạch 1,14 tỷ USD, tăng 10,8% về lượng và 34,8% về giá trị so với cùng kỳ. Giá xuất khẩu bình quân 11 tháng đạt 5.737 USD/tấn tăng 21,5 % so với cùng kỳ năm 2009.

Tăng trưởng xuất khẩu cũng được thấy ở hầu hết các thị trường tiêu thụ. Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí đầu bảng về tiêu thụ điều của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 32,6% về giá trị. Hiệp hội Điều Việt Nam cho biết, bước sang năm 2011 mục tiêu xuất khẩu được ngành đặt ra là thu về kim ngạch 1,5 tỷ USD, tăng khoảng 32% về giá trị so với năm 2010.

10 tháng đầu năm XK dầu thô đạt gần 4 tỷ USD

Lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng 10 là 525 nghìn tấn, giảm 4,8%, kim ngạch xuất khẩu đạt 342 triệu USD, tăng 1% so với tháng 9/2010. Tính đến hết tháng 10/2010, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 6,55 triệu tấn, giảm 45,4% và kim ngạch đạt gần 4 tỷ USD, giảm 25,6% so với cùng kỳ năm 2009.

Dầu thô của nước ta trong 10 tháng/2010 chủ yếu được xuất khẩu sang Ôxtrâylia với 2,39 triệu tấn, giảm 21,7%; sang Singapore: 992 nghìn tấn, giảm 50,4%; sang Malaysia: 894nghìn tấn, giảm 46,8%; sang Hàn Quốc: 667 nghìn tấn, giảm 20,5%;...

XK giày dép các loại đạt hơn 4 tỷ USD

Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam (Lefaso), đơn hàng xuất khẩu da giày Việt Nam trong năm nay tăng khoảng 16% so với năm ngoái. Đến thời điểm hiện tại, phần lớn doanh nghiệp xuất khẩu đã có đủ đơn hàng cho cả năm.

Ông Nguyễn Đức Thuấn, Chủ tịch Hiệp hội da giày Việt Nam cho biết, năm 2010, tình hình đơn hàng rất thuận lợi, cả về khách hàng đến số lượng đơn hàng. Khả năng hoàn thành mục tiêu hơn 5 tỷ USD xuất khẩu là hoàn toàn có thể.

Kim ngạch xuất khẩu da giày trong tháng 10 đạt 417 triệu USD, tăng 4% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2010, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 24,7% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, thị trường EU đạt gần 1,77 tỷ USD, tăng 13,3% và chiếm 43,7% xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,13 tỷ USD, tăng 33,2%; sang Mêxicô đạt 155 triệu USD, tăng 38%; sang Nhật Bản đạt 141 triệu USD, tăng 44%...

Gỗ và sản phẩm gỗ vượt 3,4 tỷ USD

Bộ NN&PTNT cho biết,ước kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tháng 12 đạt 330 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu của cả năm 2010 đạt 3,4 tỷ USD, tăng so với cùng kỳ là 31,2%. Ba thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, chiếm 66,3% tỷ trọng, đều tăng trưởng khá, trong đó, Trung Quốc gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2009.

Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietforest) cho biết, đến cuối tháng 11/2010, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đạt 3,037 tỷ USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước và vượt mức kế hoạch năm 2010.

Ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch Vietforest cho biết trong năm 2010, các thị trường xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đều có mức phục hồi đáng kể so với năm 2009. Riêng xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Mỹ tăng trưởng tới 15%, ở EU con số này là khoảng 8%.

Hiện xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào thị trường Mỹ vẫn rất mạnh, bất chấp khủng hoảng tài chính toàn cầu. Năm 2009, Mỹ nhập khẩu của Việt Nam 1 tỷ USD, năm 2010 đã đạt 1,1 tỷ USD và trở thành thị trường xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất của nước ta.

EU là thị trường xuất khẩu gỗ lớn thứ 2 với kim ngạch xuất khẩu trong 2 năm gần đây đều đạt trên 750 triệu USD/năm. Năm 2010 đã đạt 504 triệu USD.

Tương tự, thị trường xuất khẩu gỗ vào Nhật trong tháng 6/2010 bị giảm đến 13% nhưng từ tháng 7 đến nay tăng mạnh, đặc biệt mặt hàng dăm gỗ tăng hơn 100%, các mặt hàng nội thất khác cũng đồng loạt tăng và chỉ trong 3 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ vào Nhật tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước, hiện đã đạt 319 triệu USD. Ông Quyền cho biết hiện thị trường Nhật chiếm 20% trong tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam.

Theo Bộ Công thương đánh giá, năm 2010 giá nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng đã góp phần vào sự tăng trưởng xuất khẩu. Giá hạt điều tăng 21,1%, chè tăng 11,3%, hạt tiêu tăng 39,7%, gạo tăng 4,8%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 83,6%, than đá tăng 53,3%, dầu thô tăng 33,9%, cao su tăng 81,1%.

Ngoài 10 mặt hàng trên, còn có các mặt hàng: máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, máy vi tính và linh kiện, đá quý kim loại quý và sản phẩm, dây điện và dây cáp điện cũng nằm trong số 14 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu vượt ngưỡng 1 tỷ USD.

TỔNG QUAN KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2010

Tăng trưởng kinh tế

Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hình 1 cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP theo các quý trong năm 2010. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III tăng lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Uớc tính GDP cả năm 2010 có thể tăng 6,7%, cao hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là một thành công. Với kết quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm  2010 ước đạt 1.160 USD.

Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt. Công nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009 và năm 2010 ước tăng 14% so với năm 2009. So với khu vực công nghiệp thì khu vực dịch vụ cũng có sự phục hồi sau khủng hoảng kinh tế thế giới những ở mức độ thấp hơn. Tốc độ tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm là 7,24% và triển vọng tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cả năm 2010 có thể đạt 7,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, năm 2010 gặp nhiều khó khăn: đầu năm hạn hán nghiêm trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm mưa lũ lớn kéo dài ở miền Trung và Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất vụ mùa, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do thực hiện nhiều chính sách và giải pháp hỗ trợ hộ nông dân và các doanh nghiệp về vốn, vật tư, tiêu thụ kịp thời, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng đầu năm đã tăng 2,89% so với cùng kỳ năm 2009, và ước cả năm 2010 tăng khoảng 2,8%.

Đầu tư

Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ đồng, tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng 22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy động tích cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11, cả nước thu hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn FDI đăng ký có thấp hơn nhiều so với năm 2009 nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký lại cao hơn nhiều. Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm 2010. Điều này cũng cho thấy sự cam kết lâu dài các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam.

Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy – tiêu dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác lại cho thấy những hạn chế trong hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2010, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 41% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 6,7%. Chỉ số ICOR đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Hệ số ICOR của doanh nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân chỉ có 3-4, trong khi đó ICOR của khu vực kinh tế nhà nước và từ đầu tư của nhà nước tới 9-101 . Bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước mắt cũng như lâu dài.

Lạm phát và giá cả

Năm 2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương đối thấp, trừ hai tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những tháng Tết. Tuy nhiên, lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI tăng bắt đầu xu hướng tăng cao. Đến hết tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 9,58% và mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm dưới 8% mà Quốc hội đề ra sẽ không thực hiện được.

Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa dịch vụ đều tăng cao, cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung lại càng làm tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng… Thứ hai, giá của một số mặt hàng nhập khẩu của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu làm tăng chi phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá làm đồng tiền nội tệ mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng lên đẩy mặt bằng giá nhiều hàng hóa tăng theo. Bên cạnh đó những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam những năm trước vẫn còn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho các DNNN và tập đoàn cùng với thiếu sự thẩm định và giám sát thận trọng cũng góp phần kích hoạt cho lạm phát trở lại. Sự điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước và sự gia tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại ở những tháng cuối năm 2010 sẽ tiếp tục gây sức ép làm tăng lạm phát không chỉ những tháng cuối năm mà có thể cả trong năm 2011.

Tỷ giá

Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD

Hình 3 cho thấy về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng. Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mô đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.

Thu chi ngân sách

Năm 2010, tình hình kinh tế trong nước chuyển biến tích cực đã tạo điều kiện để tăng thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước năm 2010 ước đạt 520.100 tỷ đồng, vượt 12,7% so với dự toán, tăng 17,6% so với năm 2009, và đạt tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước là 26,7%. Mặc dù tỷ trọng thu nội địa có tăng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn (khoảng 60%). Việc chấp hành kỷ luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn. Số nợ thuế chờ xử lý (chiếm hơn 20% tổng số nợ thuế) tăng khá nhiều. Đây là dư địa quan trọng để tăng thu ngân sách và giữ kỷ cương luật pháp về ngân sách nhà nước. Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán và tăng 9% so với thực hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2010 ước khoảng 117.100 tỷ đồng, bằng khoảng 5,95% GDP, giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi ngân sách vẫn còn cao (chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều năm) và là một trong những nhân tố góp phần làm gia tăng lạm phát. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho ngân sách.

Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại

Năm 2010, xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế của những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU… vẫn phục hồi chậm chạp. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt khoảng 70,8 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm 2009. Xuất khẩu tăng là do sự đóng góp lớn của những mặt hàng công nghiệp chế biến cộng với sự phục hồi của kinh tế thế giới làm cho xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản được lợi về giá. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu đã bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, dệt may, da giầy… Hơn nữa, các mặt hàng công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.

Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 82,6 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm 2009. Nguyên nhân chính của sự gia tăng nhập khẩu là do kinh tế có sự phục hồi làm gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất (chiếm khoảng 80% cơ cấu nhập khẩu). Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều tăng, nhưng do tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu năm 2010 giảm xuống chỉ còn khoảng 11,8 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết. Song mức nhập siêu vẫn còn cao cho thấy việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm.

Cán cân thanh toán

Nếu như năm 2009, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỷ USD, thì năm 2010 đã có sự cải thiện đáng kể. Phần thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai năm 2010 trên thực tế có thể được bù đắp hoàn toàn bởi thặng dư trong cán cân tài khoản vốn. Tuy nhiên, dự báo cán cân thanh toán năm 2010 vẫn thâm hụt khoảng trên 2 tỷ USD do phần “lỗi và sai sót” trong cán cân tài khoản vốn gây ra. Thực tế, tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại hối và việc giá vàng liên tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ đô la và vàng. Như vậy, việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân sang các loại tài sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai sót” và thâm hụt trong cán cân thanh toán trong năm 2010. Bên cạnh đó, mặc dù cán cân thanh toán được cải thiện trong năm 2010, lượng dự trữ ngoại hối vẫn không tăng một mặt do Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường để giữ ổn định tỷ giá, mặt khác có một lượng ngoại tệ lớn đang lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng.

Nợ công

Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 42,2% GDP và tổng nợ công đã vượt quá 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn ở mức rủi ro thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa tính đến nợ của các doanh nghiệp nhà nước không được chính phủ bảo lãnh. Hơn nữa, vấn đề ở đây không chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nếu năm 2001, nợ công đầu người là 144 USD thì đến năm 2010 lên tới 600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 18%. Nợ công tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra những lo ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công một cách chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#huycrt