TLBB p15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

THIỂU LẬP NHẠN MÔN TUYỆT BÍCH VÔ DƯ TỰ

Nhạn Môn vách đá chênh vênh,

Ngẩn ngơ ngơ ngẩn, một mình ngẩn ngơ.

Còn đâu hàng chữ năm xưa,

Biết đâu thân thế, biết đâu giống giòng.

*

* *

   Đ ơn Chính nghe tiếng rống dường như muốn điếc cả tai, đầu óc mê mẩn, chân lảo đảo đứng không vững. Quần hùng bất giác cùng lùi lại mấy bước, Đơn Tiểu Sơn đứng gần bên lập tức xông lên giơ đao đâm tới.

Chỉ thấy mũi đao còn cách ngực Kiều Phong chừng một thước mà ông không hề có ý tránh né, bọn Ngô trưởng lão, Bạch Thế Kính của Cái Bang ai nấy nhắm mắt không nỡ nhìn.

Đột nhiên từ trên không nghe vụt một tiếng, một người đã nhảy xuống tư thế cực kỳ nhanh nhẹn, khéo làm sao đụng ngay vào sống đao của Đơn Tiểu Sơn. Đơn Tiểu Sơn chịu không nổi luồng lực đạo mạnh mẽ đó, cánh tay chùng xuống. Trong tiếng kêu la kinh hoàng của quần hùng, trên không trung lại có một người nữa nhảy xuống nhưng đầu đi trước, chân đi sau, cũng thật là nhanh, nghe bình một tiếng vang dậy, thiên linh cái đụng vào thiên linh cái, trúng ngay Đơn Tiểu Sơn, đầu cả hai liền vỡ nát.

Mọi người nhìn thấy rõ ràng trước sau cả hai người đều là người đứng trên mái ngói canh chừng Kiều Phong đào tẩu nhưng đã bị ai bắt, dùng như ám khí ném xuống. Trong sảnh lập tức đại loạn, tiếng người xôn xao rầm rĩ. Ngay lúc ấy từ trên một góc mái nhà tung xuống một sợi dây thừng, thế mãnh liệt tạt ngang đầu mọi người, ai nấy vội vung binh khí lên đỡ. Chiếc thừng liền vòng trở lại, cuốn luôn vào hông Kiều Phong kéo vụt lên.

Khi đó ba vết thương của Kiều Phong máu chảy như suối, tay trái ôm A Châu không còn chút lực khí nào, vừa bị dây thừng cuốn lấy, A Châu lập tức tuột ra. Mọi người thấy kẻ đứng trên mái nhà đầu bên kia của dây thừng là một đại hán cao to mặc quần áo đen, mặt bịt khăn đen chỉ lộ đôi mắt.

Đại hán kia giơ tay trái kẹp Kiều Phong vào nách, sợi dây lại tung ra cuốn ngay vào cây cột cờ bên ngoài Tụ Hiền Trang. Quần hùng lớn tiếng kêu la, lập tức cương tiêu, tụ tiễn, phi đao, thiết chùy, phi hoàng thạch, súy thủ tiễn các loại ám khí đều nhắm vào đại hán kia và Kiều Phong ném tới. Người áo đen nắm lấy sợi dây thừng nhẹ nhàng bay ra, hạ xuống đỉnh cột cờ. Băng băng, chát chát, cách cách liên tiếp, mấy chục món ám khí đều bắn vào cột cờ. Lại thấy chiếc dây từng tung ra, quấn lấy một cây to cách xa bảy tám trượng, rồi đại hán đó cắp Kiều Phong đu ra, chỉ nháy mắt đã vượt qua cái cây, cách cột cờ đến hơn mười trượng mới rơi xuống. Y lại quăng chiếc dây lần nữa quấn vào một cái cây ở xa xa, cứ thế vài lần đã biến mất một cách vô hình vô ảnh.

Kiều Phong bị thương tuy nặng nhưng thần trí vẫn tỉnh táo, đại hán kia dùng dây thừng cứu được ông, nhất cử nhất động ông đều nhìn thấy rõ ràng nên hết sức cảm kích cái ơn cứu mạng, nghĩ thầm: “Quăng chiếc dây thừng chuẩn xác như thế ta cũng làm được, thế nhưng dùng dây làm binh khí, múa lên đánh dạt cả mấy chục người, chiêu nhuyễn tiên Thiên Nữ Tán Hoa đó, ta chưa thể nào sử dụng đến mức như vậy được”.

Người áo đen để Kiều Phong lên lưng ngựa, hai người cưỡi chung một con chạy thẳng về hướng bắc vừa chạy vừa lấy kim sang đồ lên ba nơi vết thương. Kiều Phong bị mất máu quá nhiều nên thật yếu đuối, mấy lần tưởng như muốn ngất đi nhưng cố hít một hơi dài, nội tức lưu chuyển tinh thần lại phấn chấn trở lại. Người áo đen giục ngựa chạy thẳng về hướng tây bắc, đường càng đi càng hiểm trở đến sau cùng không còn đường lối nào nữa, con ngựa chỉ khấp khểnh trèo qua những khu loạn thạch.

Lại đi thêm hơn nửa giờ nữa, ngựa không còn đi được, đại hán nọ bèn bồng ngang Kiều Phong lên, xuống ngựa trèo lên một ngọn núi. Kiều Phong thân thể nặng nề vậy mà người áo đen bồng ông ta không một chút phí sức, tuy ở nơi cực kỳ cheo leo mà vẫn chạy nhảy như bay. Về sau đến những bức vách đá dựng đứng không có chỗ để chân, đại hán ném giây thừng quấn vào cây bên kia vực mà nhảy qua. Người đó qua tám cái khe núi, rồi mới xuống một cái vực sâu, đứng dưới nhìn lên không thấy trời xanh lúc đó mới dừng chân để Kiều Phong xuống.

Kiều Phong cố gượng đứng lên nói:

- Đại ân không thể dùng lời mà cảm tạ được, chỉ cầu xin ân huynh cho Kiều Phong này được thấy chân diện của Lô sơn .

Đôi mắt sáng quắc của đại hán kia quét qua mặt ông mấy lượt, một lát sau mới nói:

- Trong sơn động có lương khô đủ dùng trong nửa tháng, ngươi ở đó dưỡng thương, địch nhân không thể nào tới được.

Kiều Phong vâng lời, nghĩ thầm: “Nghe giọng người này xem chừng tuổi không còn trẻ nữa”. Người áo đen lại nhìn ông đánh giá một hồi, bỗng nhiên vung tay phải lên nghe bốp một cái đánh Kiều Phong một bạt tai. Y ra tay cực nhanh, Kiều Phong lại không nghĩ rằng y sẽ đả thương mình, hơn nữa chưởng đó đánh ra thật cao minh, thành thử không sao tránh được. Chưởng thứ hai của đại hán lại đánh ra, tuy chỉ cách nhau bằng thời gian một ánh chớp nhưng Kiều Phong đã có chuẩn bị rồi nên làm sao đánh trúng ông được? Thế nhưng ông ta là ân nhân cứu mạng nên Kiều Phong không có ý đối địch, lại cũng không có hơi sức để tránh né, nên lập tức giơ tay trái lên để lên một bên má chĩa ngón tay trỏ vào lòng bàn tay y.

Ngón tay đó chỉ đúng vào huyệt Lao Cung trong lòng bàn tay đại hán, nếu chưởng đó đánh xuống, tay chưa chạm vào mặt Kiều Phong thì huyệt đạo đã bị ngón tay đâm trúng rồi. Bàn tay người nọ còn cách má Kiều Phong chừng độ một thước lập tức biến chiêu thật lẹ lật lại tát trái, Kiều Phong cũng nhanh nhẹn đưa ngón tay hướng vào huyệt Tam Gian trên lưng bàn tay y.

Đại hán cười một tràng dài, tay phải giựt lại, tay trái liền chém tới. Ngón tay bên trái Kiều Phong lập tức ngóc lên chỉ thẳng vào huyệt Hậu Khoát ở cạnh bàn tay. Người áo đen nâng nhẹ tay lên nhưng vẫn tiếp tục đánh tới không suy giảm, Kiều Phong lại di động ngón tay hướng vào huyệt Tiền Cốc. Chỉ trong khoảnh khắc, song chưởng của người kia phi vũ thay đổi đến hơn một chục chiêu thức nhưng Kiều Phong chỉ thủ mà không công, dùng ngón tay chỉ đúng vào những huyệt ở tay y đánh tới.

Đại hán lần đầu xuất kỳ bất ý tát được ông một cái nhưng sau đó không làm sao đánh thêm được nữa. Hai người kẻ đánh hờ, người hư tiếp quả thật thượng thừa võ công đời nay. Đại hán sử dụng được khoảng hai chục chiêu rồi thấy Kiều Phong tuy đã trọng thương nhưng vẫn biến chiêu cực kỳ thần tốc, nhận huyệt thật chuẩn xác, y bèn nhảy lùi về sau nói:

- Ngươi quả là ngu không ai bằng, đáng lẽ ta chẳng nên cứu ngươi làm chi.

Kiều Phong đáp:

- Xin kính cẩn nghe lời giáo huấn của ân công.

Người kia mắng:

- Đồ con lừa thối tha, luyện đến mức võ công vô địch thiên hạ, sao lại chỉ vì một con bé đầu đường xó chợ mà đành bỏ mạng? Cô ta với ngươi vô thân vô cố, chẳng ân chẳng nghĩa, cũng chẳng phải là giai nhân nghiêng nước nghiêng thành, chỉ là một đứa đầy tớ hạ lưu chứ có là gì đâu. Trên đời này sao lại có đứa ngu đến thế?

Kiều Phong thở dài một tiếng nói:

- Ân công dạy như vậy phải lắm. Kiều Phong này lấy tấm thân hữu dụng để làm chuyện vô ích, quả là sai lầm. Chỉ vì nhất thời bực tức, tính dã man hung dữ nổi lên nên không nghĩ ngợi gần xa.

Đại hán kia nói:

- Ha ha! Thì ra là tính dã man hung dữ nổi lên.

Ông ta ngẩng đầu nhìn trời cất tiếng cười một tràng dài. Kiều Phong thấy trong tiếng cười kia chứ đầy đau thương phẫn uất, không khỏi ngạc nhiên. Nào ngờ đại hán đứng phắt dậy, nhảy vụt ra xa, thân hình nhún một cái đã khuất sau một tảng đá lớn. Kiều Phong kêu lên:

- Ân công! Ân công!

Người kia nhảy nhót liên tiếp, vòng qua một eo núi đã đi thật xa. Kiều Phong chạy theo nhưng chỉ được một bước đã thấy người choáng váng muốn ngã, vội đưa tay vịn vào sơn bích.

Ông cố gắng định thần, quay lại quả nhiên sau vách đá có một sơn động. Ông men theo bức tường, chầm chậm đi vào trong hang, thấy dưới đất để đầy thịt chín, gạo rang, táo khô, đậu phộng, cá muối toàn là lương khô, nhưng hay hơn cả là lại có cả một vò rượu lớn. Ông mở nắp ra, mùi rượu xông lên mũi, vội thò tay vào vốc một vốc ra uống vào miệng thật là ngon, quả là loại mỹ tửu thượng đẳng. Kiều Phong trong lòng cảm kích: “Sao vị ân công này chu đáo đến thế, biết ta hay uống, lại dự bị sẵn cả rượu nơi đây. Sơn đạo khó đi là vậy, mang được bình rượu lớn thế này, quả là nhiều công lao!”.

Thuốc của đại hán nọ bôi lên vết thương cho ông thật là công hiệu, lúc này đã cầm máu rồi, chỉ mấy giờ sau cơn đau đã giảm. Ông thân thể tráng kiện, nội công thâm hậu, vết thương chỉ ở ngoài da thịt, tuy nặng thật đấy nhưng chỉ qua bảy tám ngày, đường cắt đã liền da đến non nửa. Trong bảy tám ngày đó, trong đầu ông chỉ nghĩ đến hai việc: “Kẻ thù hại ta là ai? Vị ân nhân cứu ta là ai?”. Cả hai người võ công đều cực kỳ ghê gớm, xem chừng chẳng kém gì mình, trong võ lâm những người thân thủ như thế đếm được trên đầu ngón tay, người nào ông cũng nghĩ tới rồi nhưng nghĩ qua nghĩ lại xem ra không ai giống cả. Kẻ thù chẳng thể nào đoán được thì cũng đành, thế nhưng vị ân nhân này trao đổi với mình đến hơn hai chục chiêu mà cũng không thể nào đoán được gia số môn phái vì chiêu nào thức nấy cũng đều thật là bình thường nhưng trong cái giản phác không hoa mỹ kia chứa đựng một võ công cực kỳ cao siêu, chẳng khác gì mình ở Tụ Hiền Trang sử dụng Thái Tổ trường quyền, trong chiêu thức không hề tiết lộ lai lịch.

Cái vò rượu đó chỉ mới hai ngày Kiều Phong đã uống sạch không còn một giọt, cố đợi đến ngày thứ hai mươi, thấy vết thương mười phần đã khỏi bảy tám, cơn thèm rượu không sao nhịn nổi nghĩ bụng đã có đủ sức nhảy qua khe núi vượt sơn cốc được rồi nên ra khỏi sơn động cất bước trở lại chốn giang hồ.

Ông nghĩ bụng: “A Châu rơi vào tay bọn chúng, nếu chết thì cũng đã chết rồi, còn như sống được thì cũng chẳng cần mình đến lo liệu cho cô ta. Việc trước mắt quan trong nhất là làm sao tra xét cho rõ ta là hạng người nào. Cha mẹ thấy ba người cùng một ngày đã chết cả, thân thế ta càng mơ hồ thêm, đành phải ra ngoài Nhạn Môn Quan xem di văn trên vách đá viết những gì”.

Tính toán xong ông đi về hướng tây bắc, đến thị trấn liền ghé vào uống hai chục bát rượu cho bõ thèm. Chỉ được ba ngày, mấy lạng bạc vụn đã biến thành rượu uống hết sạch.

Thời đó Đại Tống cai trị Trung Thổ, chia thiên hạ ra thành mười lăm lộ, đặt kinh đô ở Đại Lương phủ Khai Phong là Đông Kinh, Lạc Dương ở Hà Nam là Tây Kinh, Tống Châu là Nam Kinh, Đại Danh là Bắc Kinh tổng cộng tứ kinh. Khi đó Kiều Phong đang ở Nhữ Châu, thuộc lộ Kinh Tây, hôm đó đến Lương Huyện tiền bạc hết nhẵn, tối hôm đó bèn lẻn vào huyện đường, ẵm tại công khố vài trăm lượng bạc. Trên đường đi ăn uống phủ phê, gà vịt cá mú, cao lương mỹ tửu đều toàn là tiền của các quan nhà Đại Tống cung phụng cả. Chẳng bao lâu đã đến Đại Châu thuộc lộ Hà Đông.

Nhạn Môn Quan nằm cách ba chục dặm ở phía bắc Đại Châu, trên đường Nhạn Môn. Năm xưa hành hiệp giang hồ, Kiều Phong đã từng đến đây rồi, nhưng hồi đó đang có việc gấp chỉ lật đật đi ngang, chẳng để ý đến. Khi đến Đại Châu thì đã gần trưa, ghé vào thành ăn một bữa cơm, uống hơn chục bát rượu rồi mới ra khỏi thành đi về hướng bắc.

Ông cước trình nhanh nhẹn, ba mươi dặm đi chưa tới nửa giờ. Lên núi rồi thấy đá tảng dựng đứng hai bên, đường ở giữa quanh co gập ghềnh, quả là một nơi cực kỳ hiểm trở nghĩ thầm: “Chim nhạn di cư xuống phương nam rồi trở về phương bắc, làm sao bay qua ngọn núi nổi nên phải bay giữa hai khe núi thành thử mới gọi là Nhạn Môn. Hôm nay ta từ phương nam đi lên, nếu như thạch bích còn hàng chữ ghi rõ ta là người Khất Đan thì Kiều mỗ một khi ra khỏi ải Nhạn Môn này rồi, vĩnh viễn thành người tái bắc, không bao giờ quay lại nữa, thật kém xa giống chim kia, mỗi năm một lần nam lai bắc vãng, tự do tự tại”. Nghĩ đến đó trong lòng không khỏi xót xa.

Nhạn Môn Quan là trọng trấn của nhà Đại Tống ở phương bắc, suốt cõi Sơn Tây hơn bốn chục cửa ải không nơi nào kiên cố hùng vĩ bằng, chỉ ra khỏi cửa này vài mươi dặm là thuộc đất Liêu Quốc rồi. Dưới cửa ải có đặt binh lính thủ ngự, Kiều Phong nghĩ bụng nếu mình theo cửa quan mà đi ra, thể nào cũng bị binh lính tra hỏi nên đi theo ngọn núi cao phía tây mà đi vòng qua.

Lên đến tuyệt đính rồi, ông đưa mắt nhìn chung quanh thấy toàn núi là núi, Ngũ Đài cao vọt lên ở phía đông, phía tây là một dãy Ninh Võ, Chính Dương, Thạch Cổ ở phương nam còn phía bắc thì là Sóc Châu, Mã Ấp. Quả thật là:

Chập chùng núi tiếp chân trời

Mênh mang giá buốt, bùi ngùi ruột gan.

Trường pha tuấn phản

Mang nhiên vô tế

Hàn lâm mạc mạc

Cảnh tượng tiêu tác

Kiều Phong nhớ đến năm xưa qua Nhạn Môn Quan đã từng nghe đồng bạn nói rằng, đại tướng Lý Mục nước Triệu thời Chiến Quốc, đại tướng Chất Đô đời Hán đều từng trấn thủ Nhạn Môn Quan kháng cự với quân Hung Nô xâm nhập. Nếu như quả thực mình cũng là giống Hung Nô, hậu duệ giống Khất Đan thì hóa ra những kẻ cả nghìn năm qua tiến đánh Trung Quốc cũng đều là tổ tiên mình cả.

Ông đưa mắt nhìn về hướng bắc nghĩ thầm: “Ngày đó Uông bang chủ, cùng bọn Triệu Tiền Tôn ở bên ngoài Nhạn Môn Quan phục kích bọn võ sĩ Khất Đan hẳn là sẽ chọn một sườn núi thật thuận lợi chỉ trong khoảng mươi dặm đổ lại. Hình thế tốt thì phải ở phía tây bắc cạnh núi kia. Mười phần thì đến tám chín bọn họ mai phục ở chỗ này”.

Nghĩ thế ông liền chạy xuống dưới đi đến bên cạnh núi, trong lòng đột nhiên không hiểu sao dậy lên một nỗi bi phẫn, thấy bên núi đó có một khối đá lớn, Trí Quang đại sư bảo là quần hùng Trung Nguyên nằm ẩn sau nham thạch này ném ám khí tẩm độc ra bên ngoài, xem chừng chính là chỗ này.

Bên ngoài sơn đạo chừng vài bước là vực sâu, mây mù che phủ không nhìn thấy đáy. Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu lời của Trí Quang đại sư không sai, khi mẹ ta bị họ giết chết rồi, cha ta ở nơi đây nhảy xuống sơn cốc tự tận. Ông ta nhảy vào vực rồi, không nhẫn tâm để ta phải chết chung nên mới vứt ta trở lên, rơi trên mình Uông bang chủ. Ông ấy ... ông ấy viết gì trên thạch bích nhỉ?”.

Ông quay đầu lại nhìn về phía vách đá ở bên trái, thấy đó là một bức tường trời sinh nhẵn thín như gương, nhưng chính giữa một khoảng lớn đầy vết đục, vết búa thật đã rõ ràng có người nào đó cố ý xóa hết những hàng chữ lưu lại rồi.

Kiều Phong đứng ngẩn ngơ trước bức tường đá, đột nhiên nộ hỏa xông lên, chỉ muốn vung đao, giơ chưởng loạn sát một phen. Ông đột nhiên nghĩ lại: “Khi ta rời Cái Bang đã từng bẻ gãy thanh đao của Đơn Chính mà thề rằng: Ta là người Hán cũng vậy, mà là người Khất Đan cũng vậy, quyết không bao giờ hại mạng người Hán đâu. Thế nhưng nơi Tụ Hiền Trang, ta đã ra tay giết bao nhiêu là người? Đến lúc này ta lại muốn giết người nữa có phải là đã vi phạm vào lời thề hay sao? Ôi, sự đến nước ấy, ta không phạm người người sẽ phạm ta, không lẽ bó tay chịu chết, để cho người ta xẻ thịt lóc xương ư, thế thì còn gì là phong độ của nam tử trượng phu nữa?”

Ông nghìn dặm chạy tới cốt để tra xét cho rõ ràng thân thế mình thế nhưng nào có kết quả gì đâu. Trong lòng càng lúc càng thêm bực bội, lớn tiếng gầm lên:

- Ta không phải người Hán, ta không phải người Hán! Ta là Hồ Lỗ Khất Đan, ta là Hồ Lỗ Khất Đan!

Kiều Phong giơ tay lên, đánh liên hồi lên vách đá. Chỉ nghe bốn bề sơn cốc vang dội, từng tiếng từng tiếng vọng về:

- ... không phải người Hán! Không phải người Hán ... Hồ Lỗ Khất Đan, Hồ Lỗ Khất Đan!

Đá vụn trên vách đá bay tứ tung, Kiều Phong trong lòng bao nhiêu uất ức, thịnh nộ không có chỗ phát tiết, cứ hết chưởng này đến chưởng khác đánh tới, tưởng chừng như muốn đem bao nhiêu oan khuất của một tháng qua trút lên thạch bích mãi đến khi bàn tay tươm máu, từng vết dấu tay in vào tảng đá ông vẫn chưa ngừng.

Ngay khi đang đánh, bỗng từ đằng sau giọng một thiếu nữ nhỏ nhẹ cất lên:

- Kiều đại gia, ông còn đánh nữa, chắc ngọn núi này cũng sẽ đổ mất thôi.

Kiều Phong ngạc nhiên, quay đầu nhìn lại, thấy một thiếu nữ mặc áo dài màu hồng đứng tựa vào một cây hoa bên cạnh sườn núi, khóe miệng mỉm cười, chính là A Châu.

Hôm trước ông ra tay cứu nàng chẳng qua chỉ vì cái phẫn khích nhất thời chứ đối với cô tiểu a đầu này đâu có để bụng làm chi, đến sau ngay cả chuyện sinh tử tồn vong của nàng cũng không còn rỗi hơi mà nhớ đến. Ngờ đâu nàng lại xuất hiện ở nơi này, Kiều Phong vừa kinh dị, vừa hoan hỉ mỉm cười tiến đến nói:

- A Châu, cô xem khỏe mạnh nhiều rồi!

Có điều ông đang cơn cuồng nộ, bỗng chuyển sang vui mừng, nụ cười trên môi xem ra có chiều gượng gạo. A Châu nói:

- Kiều đại gia, ông khỏe chứ?

Nàng chăm chú nhìn Kiều Phong một hồi, đột nhiên sà tới ôm chầm lấy ông, khóc nức nở:

- Kiều đại gia, thiếp ... thiếp ở đây chờ đại gia đã năm ngày năm đêm, chỉ sợ ông không đến. Ông ... ông quả nhiên đến rồi, nhờ trời phù hộ nên ông vẫn khỏe mạnh bình thường.

Câu đó nàng nghẹn ngào nói ra tiếng được tiếng mất nhưng giọng đầy vẻ trìu mến thiết tha, Kiều Phong nghe qua biết ngay là nàng hết sức lo lắng cho mình, trong bụng bồi hồi hỏi lại:

- Sao cô lại đợi ta ở đây đến năm ngày năm đêm? Cô ... cô làm sao biết được là ta sẽ đến đây?

A Châu chậm rãi ngửng đầu lên, chợt nghĩ đến mình đang gục vào lòng một người đàn ông, mặt ửng hồng, lùi lại hai bước, nghĩ đến việc mình không dằn nổi lòng ôm chầm lấy chàng, mặt càng đỏ như gấc chín, đột nhiên quay phắt đi chạy núp vào đằng sau gốc cây. Kiều Phong gọi vói theo:

- Này, A Châu, cô làm sao thế?

A Châu không trả lời, chỉ thấy tim đập thình thịch, một lúc lâu sau mới từ sau gốc cây bước ra nhưng vẻ mặt vẫn còn bẽn lẽn, ấp úng không nói nên lời. Kiều Phong thấy nàng thần tình kỳ lạ nói:

- A Châu, nàng có chuyện gì khó ăn khó nói, cứ việc cho ta nghe nào. Chúng ta là hai kẻ hoạn nạn chi giao, đồng sinh cộng tử, có gì còn phải dè chừng nữa đâu?

Mặt A Châu lại đỏ bừng nhỏ nhẹ nói:

- Không có gì cả.

Kiều Phong nhẹ nhàng để tay lên vai cô, xoay nàng cho mặt quay về hướng mặt trời thấy nàng sắc mặt tuy vẫn tiều tụy nhưng trong cái xanh xao có ẩn sắc hồng, không còn vẻ xám xịt thuở bị trọng thương lúc trước, lại giơ tay cầm mạch nàng. Bàn tay A Châu vừa chạm vào tay ông, lập tức nàng giật nảy người, Kiều Phong vội hỏi:

- Gì thế? Cô chưa khỏe hẳn hay sao?

A Châu lại càng thẹn thùng, vội đáp:

- Không đâu, không ... không có gì hết.

Kiều Phong giơ tay bắt mạch thấy mạch nhảy bình thường, đều đặn có sức bèn khen:

- Tiết Thần Y diệu thủ hồi xuân, quả thật danh bất hư truyền.

A Châu nói:

- Cũng nhờ ông bạn tốt Bạch Thế Kính trưởng lão của đại gia bằng lòng truyền cho ông ta bảy chiêu Triền Ti Cầm Nã Thủ, Tiết Thần Y mới chịu trị bệnh cho thiếp. Vả lại quan trọng hơn, bọn họ cũng muốn tra vấn xem tung tích vị tiên sinh áo đen kia ở đâu, nếu như thiếp chết đi bọn họ không còn biết hỏi ai được nữa. Thương thế của thiếp mới hơi đỡ một chút, ngày nào cũng có bảy tám người đến hỏi: “Gã ác tặc Kiều Phong với cô liên hệ thế nào?” “Y chạy đi đâu?” “Người áo đen cứu y là ai?” Những chuyện đó thiếp nào có rành nhưng khi thiếp nói thật là không biết thì bọn họ lại bảo là nói láo, nói sẽ không cho ăn cho uống, dùng cực hình tra khảo để cho thiếp sợ. Thành thử thiếp phải bịa ra một chuyện cho họ nghe, chuyện tiên sinh áo đen hoang đường hơn cả, hôm nay thì bảo là ông ta từ núi Côn Lôn đến, ngày mai lại bảo là học nghề ở biển Đông, nói năng nhăng cuội cho họ nghe thật là thú vị.

Nàng nói tới đây, nghĩ lại những ngày qua thuận mồm phét lác, bịp bợm được rất nhiều anh hùng hào kiệt đã thành danh, trong lòng vẫn còn khoái trá khiến cho gương mặt bừng lên như hoa vừa hé nụ. Kiều Phong mỉm cười nói:

- Thế bọn chúng có tin không?

A Châu đáp:

- Có người thì tin, có kẻ lại không tin, phần lớn bán tín bán nghi. Thiếp đoán chừng chẳng một ai biết lai lịch của tiên sinh áo đen nên không người nào nói được là thiếp sai ở chỗ nào nên càng lúc câu truyện càng ly kỳ quái đản khiến cho bọn họ không biết đường nào mà mò, ai nấy sợ mất vía.

Kiều Phong thở dài:

- Vị tiên sinh áo đen đó lai lịch thế nào, quả thực ta cũng không biết. E rằng nghe cô ba điều bốn chuyện đến ta cũng nửa tin nửa ngờ.

A Châu lạ lùng hỏi:

- Đại gia cũng không biết ông ta là ai ư? Thế sao ông ta lại cam tâm mạo hiểm xông vào đầm rồng hang hổ cứu ông ra? Ồ, những đại hiệp cứu người trong lúc nguy nan, ai mà chẳng vậy.

Kiều Phong thở dài nói:

- Ta thật chẳng biết đi kiếm ai mà báo thù, cũng lại chẳng biết đi kiếm ai mà trả ơn, cũng chẳng biết mình là người Hán, hay là người Hồ, không biết những việc mình làm là đúng hay sai. Kiều Phong hỡi Kiều Phong, ngươi quả thật không đáng làm người!

A Châu thấy ông thần sắc chán chường, đau khổ liền đưa tay ra nắm lấy tay ông, an ủi:

- Kiều đại gia, sao ông phải tự mình làm khổ mình làm gì? Mọi việc rồi cũng có lúc rõ ràng đâu ra đấy. Chỉ cần đại gia nhìn lại không thẹn với lòng mình, hành sự hợp với lẽ trời đất thế là đủ rồi.

Kiều Phong nói:

- Thế nhưng ta tự thẹn với mình, thế mới thật đau lòng. Hôm đó nơi rừng hạnh, ta đã từng búng gãy thanh đao thề rằng sẽ không giết một người Hán nào, ngờ đâu ... ngờ đâu ...

A Châu đáp:

- Nơi Tụ Hiền Trang bọn họ không phân trắng đen, phải trái, vây đánh ông, nếu không trả đòn không lẽ để yên cho họ chặt mình ra thành mười bảy, mười tám miếng hay sao? Trên đời này làm gì có chuyện như thế được?

Kiều Phong đáp:

- Cô nói vậy cũng có lý lắm.

Ông vốn dĩ là một hảo hán tính tình sảng khoái, ít để tâm chuyện gì trong nhất thời đau lòng cảm thán nhưng chỉ một lúc đã gác sang một bên nói:

- Trí Quang đại sư và Triệu Tiền Tôn đều nói rằng trên vách đá này có viết chữ, nhưng không biết kẻ nào đã đục mất rồi.

A Châu đáp:

- Đúng thế! Thiếp cũng đoán là đại gia sẽ ra ngoài Nhạn Môn Quan để xem những hàng chữ còn lưu lại trên thạch bích này nên sau khi thoát hiểm rồi liền đến nơi đây chờ ông đó.

Kiều Phong hỏi:

- Làm sao cô thoát hiểm được? Cũng do Bạch trưởng lão cứu ra ư?

A Châu mỉm cười:

- Cái đó không phải vậy. Ông còn nhớ thiếp giả trang thành nhà sư chùa Thiếu Lâm chứ gì? Đến sư huynh đệ của y còn không nhận ra.

Kiều Phong nói:

- Quả là như thế! Cái trò tinh nghịch của cô quả là tài thật.

A Châu nói:

- Hôm đó khi thương thế của thiếp đã đỡ nhiều, Tiết Thần Y bảo là không cần phải chữa thêm nữa, chỉ cần ghỉ ngơi bảy tám ngày là sẽ hồi phục. Câu chuyện mà thiếp bịa ra càng lúc càng nhiều sơ hở, lại cũng chán như cơm nếp nát, nhất là lo lắng không biết đại gia giờ này ra sao nên đến chiều tối hôm đó thiếp bèn cải trang thành một người.

Kiều Phong hỏi:

- Lại cải trang? Thành ai thế?

A Châu đáp:

- Thiếp giả thành Tiết Thần Y.

Kiều Phong hơi giật mình hỏi:

- Cô hóa trang thành Tiết Thần Y thì làm thế nào cho được?

A Châu đáp:

- Ông ta ngày nào chẳng lại gặp thiếp, nói cũng nhiều, thần thái mô dạng ông ta thiếp quen lắm rồi, lại thường chỉ có một mình ông ta đến mà thôi. Đêm hôm đó thiếp giả vờ ngất đi, ông ta vội vàng bắt mạch, thiếp liền lật tay lại nắm đúng ngay mạch môn khiến lão không còn cục cựa gì được, đành để cho thiếp làm gì thì làm.

Kiều Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm: “Lão Tiết Thần Y kia chỉ lo trị bệnh có biết đâu con nhãi này đánh lừa”. A Châu tiếp:

- Thiếp điểm huyệt lão ta, lột sạch áo giày. Phép điểm huyệt của thiếp chưa được cao minh, sợ ông ta tự mình xung khai huyệt đạo, nên xé chiếc chăn ra trói luôn chân lão ta, đặt lên trên giường đắp mền lại, nếu ai ở ngoài cửa sổ nhìn vào chỉ tưởng thiếp đang chùm chăn nằm ngủ, không nghi ngờ gì. Thiếp mặc áo đi giầy, đóng khăn của ông ta rồi, trên mặt làm thêm mấy nếp nhăn, trông đã hao hao giống đến bảy phần mười chỉ còn thiếu một chòm râu.

Kiều Phong kêu lên:

- Ồ, bộ râu của Tiết Thần Y hoa râm nửa đen nửa trắng, không dễ gì mà giả được.

A Châu nói:

- Râu giả thì khó mà giống, chi bằng dùng râu thật.

Kiều Phong lạ lùng:

- Râu thật?

A Châu đáp:

- Đúng vậy, dùng râu thật. Thiếp lấy trong hộp thuốc của ông ta ra một con dao nhỏ, cạo sạch chòm râu của ông ta, từng sợi từng sợi gắn lên mặt mình, hình dáng màu sắc không có chỗ nào không giống. Tiết Thần Y chắc tức đến chết được nhưng còn làm gì được nữa đây? Ông ta trị thương cho thiếp nào phải là do bản tâm đâu, thiếp có cạo râu ông ta thì cũng không thể nói lấy oán báo ơn được. Huống chi sau khi ông ta cạo sạch râu rồi trông trẻ ra đến hơn chục tuổi, mặt mày trông anh tuấn lắm.

Nói đến đây hai người cùng phá lên cười. A Châu tiếp tục:

- Thiếp giả làm Tiết Thần Y, khệnh khạng ra khỏi Tụ Hiền Trang chẳng một ai dám hỏi han gì. Thiếp sai người chuẩn bị ngựa, lấy tiền bạc rồi ra đi. Rời trang ba chục dặm, thiếp nhổ râu đi, thành ngay một người trai trẻ. Bọn kia chắc phải sáng sớm hôm sau mới phát giác được. Thế nhưng trên đường thiếp liên tiếp cải trang, bọn họ có đuổi theo cũng không tìm ra được.

Kiều Phong vỗ tay reo lên:

- Hay thật, hay thật!

Đột nhiên ông nhớ lại khi ở Bồ Đề Viện nơi chùa Thiếu Lâm thoáng nhìn thấy trong tấm gương đồng hình ảnh sau lưng của mình, lúc đó ông bỗng sững sờ, xem chừng có điều gì khúc mắc, bây giờ lại nghe nàng nói chuyện cải trang thoát hiểm, cái tâm trạng bất an ấy lại nổi lên, còn mạnh hơn cả hôm ở trong chùa. Kiều Phong trầm ngâm rồi nói:

- Cô quay người lại để ta xem nào.

A Châu không hiểu ông muốn gì nhưng cũng nghe lời xoay lưng lại. Kiều Phong chăm chú nhìn, cởi chiếc áo ngoài khoác lên trên người cô gái. A Châu bẽn lẽn, đôi mắt đầy vẻ ôn nhu quay lại đắm đuối nhìn ông, nói:

- Thiếp không lạnh.

Kiều Phong nhìn nàng khoác chiếc ngoại y của mình, trong đầu một ánh sáng lóe lên, lật bàn tay nắm chặt lấy cổ tay cô gái, hậm hực nói:

- Thì ra là mi! Mi do ai sai khiến, mau nói cho ta nghe.

A Châu hoảng hốt, run rẩy nói:

- Kiều đại gia, có chuyện gì thế?

Kiều Phong nói:

- Ngươi đã từng giả làm ta, mạo xưng ta, có phải vậy không?

Thì ra khi đó ông chợt hiểu ra, khi ở Vô Tích đến cứu anh em Cái Bang, trên đường thoáng thấy bóng sau lưng một người, lúc đó không để ý, đến khi nhìn thấy trong tấm gương đồng nơi Bồ Đề Viện cái bóng sau lưng của mình, lúc đó mới thấy người này hình dáng sau lưng trông y hệt mình không sai một mảy, cái dạ canh cánh bất an từ đó mà nảy sinh, có điều mơ mơ hồ hồ không hiểu từ đâu mà ra.

Hôm đó ông chạy tới cứu quần hùng Cái Bang, tới nơi thì mọi người đã thoát hiểm, ai cũng bảo mới đây đã gặp ông rồi. Tuy ông nhất định chối nhưng chẳng một ai tin. Lúc ấy ông chẳng hiểu ra sao, nghĩ bụng trừ phi có người nào đó giả dạng mình ra thì không còn một lẽ nào khác. Thế nhưng muốn giả mạo mình, những người ngày ngày thường gặp như bọn Bạch Thế Kính, Ngô trưởng lão chẳng lẽ lại không nhận ra, việc đó thật không dễ gì! Lúc này nhìn thấy sau lưng A Châu khoác chiếc áo của mình, trước sau càng thêm rõ rệt, lập tức hiểu ra ngay. Mặc dù lúc này A Châu không độn bông, thân hình nhỏ bé ẻo lả của nàng khác hẳn tấm thân cao to của ông, nhưng nếu muốn giả làm mình mà có thể đánh lừa được cả bọn Cái Bang, thiên hạ ngoài cô ta ra thì còn ai vào đây nữa?

A Châu không một chút kinh hoàng cười lên khanh khách nói:

- Thôi được, để thiếp cung khai vậy.

Rồi nàng kể lại chuyện cải trang thình ông, đem thuốc giải đến cứu  quần hào Cái Bang như thế nào. Kiều Phong bỏ tay nàng ra gay gắt hỏi:

- Cô giả làm ta đi cứu người là có dụng ý gì?

A Châu hết sức kinh ngạc đáp:

- Thiếp chỉ đùa cho vui. Đại gia cứu thiếp và A Bích từ tay người Tây  Hạ, chúng tôi đều rất lấy làm cảm kích. Thiếp cũng tưởng bọn ăn mày đối  xử tệ bạc với ông như thế, nếu giả làm ông đến đưa thuốc giải độc khiến  cho họ trong lòng hổ thẹn, cũng là việc hay.

Nàng thở dài một tiếng, nói tiếp:

- Có ngờ đâu ở Tụ Hiền Trang, họ lại đối xử với ông tàn nhẫn đến  vậy, không còn nhớ chút gì tới ân nghĩa ngày xưa.

Vẻ mặt Kiều Phong càng lúc càng sầm xuống, nghiến răng hỏi:

- Vậy sao cô lại mạo xưng tôi đến giết cha mẹ tôi? Tại sao lại lẻn  vào chùa Thiếu Lâm giết cả sư phụ tôi?

A Châu giật nảy người, kêu lên:

- Làm gì có chuyện đó được? Ai bảo thiếp giết cha mẹ của đại gia?  Giết sư phụ của đại gia?

Kiều Phong đáp:

- Sư phụ tôi bị người ta đả thương, ông ta vừa thấy mặt tôi, liền bảo là  tôi hạ độc thủ, không phải cô thì là ai?

Ông nói tới đây, tay phải hơi giơ lên, mặt đầy sát khí, chỉ nghe nàng  nói một câu không thuận tai thì chưởng sẽ đập xuống ngay, dẫu có mười A  Châu cũng khó mà sống sót. A Châu thấy mặt ông đằng đằng, đôi mắt như  muốn tóe lửa, trong bụng hết sức khiếp sợ, hốt hoảng lùi lại hai bước.  Nàng chỉ cần lùi thêm hai bước nữa sẽ rơi tòm ngày xuống vực sâu vạn  trượng. Kiều Phong nghiêm giọng quát:

- Đứng đó, không được động đậy.

A Châu sợ đến mức nước mắt nhỏ ròng ròng, run run nói:

- Thiếp không ... thiếp không giết cha mẹ đại gia, cũng chẳng ...  chẳng giết sư phụ đại gia. Sư phụ ông tài nghệ ... ghê gớm như thế, làm  sao thiếp giết ông ta được?

Hai câu cuối cùng của nàng quả là có lý, Kiều Phong nghe rồi bỗng  chột dạ, lập tức hiểu ngay ra mình đã trách lầm nàng, tay trái đưa vụt ra  nhanh như ánh chớp, nắm lấy đầu vai nàng, kéo cô gái qua phía vách đá,  để nàng khỏi sẩy chân rơi xuống vực nói:

- Quả đúng thế, sư phụ ta không phải do cô giết.

Sư phụ ông Huyền Khổ đại sư là sư huynh đệ với Huyền Từ, Huyền  Tịch, Huyền Nạn các vị cao tăng, võ công tài nghệ đã đạt đến mức đệ  nhất cao thủ đời nay. Ông qua đời đâu phải do trúng độc, cũng chẳng phải  do binh khí ám khí đả thương mà là do chưởng lực cực kỳ lợi hại đánh nát  tạng phủ. A Châu tuổi còn nhỏ làm sao có được nội lực thâm hậu đến như  thế? Nếu quả như nội lực nàng có thể đánh chết được Huyền Khổ đại sư  thì Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ nhất định không thể nào làm  cho nàng thập tử nhất sinh được.

A Châu đang khóc cũng bật cười, đấm nhẹ vào ngực ông nói:

- Đại gia làm thiếp sợ muốn chết, người gì nói năng chẳng đâu vào  đâu. Nếu quả thiếp có tài nghệ giết được sư phụ của ông, sao ở Tụ Hiền  Trang không giúp một tay giết sạch bọn khốn kiếp kia?

Kiều Phong thấy nàng hờn dỗi, trong lòng nao nao, nói:

- Độ này ta thần thái bất định, nói năng lăng nhăng, xin cô nương  đừng trách.

A Châu cười đáp:

- Ai mà lại trách đại gia? Nếu thiếp giận ông, đời nào thiếp còn nói  chuyện với ông nữa.

Nàng bỗng trở lại nghiêm trang, nhỏ nhẹ nói:

- Kiều đại gia, dù ông đối với thiếp thế nào chăng nữa, một đời này,  thiếp sẽ không bao giờ giận ông đâu.

Kiều Phong lắc đầu, thản nhiên nói:

- Mặc dầu ta cứu mạng cô thật nhưng cô cũng đừng để tâm làm gì.

Ông nhíu mày, ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên hỏi:

- A Châu, cái thuật hóa trang dị dung kia, ai dạy cho cô đó? Sư phụ  cô có còn ai là đệ tử nữa không?

A Châu lắc đầu:

- Chẳng ai dạy cả. Thiếp từ nhỏ đã thích ăn mặc giả làm người này  người khác cho vui, càng lâu càng thêm giống chứ làm gì có sư phụ nào?  Không lẽ trò chơi mà cũng phải tầm sư học đạo hay sao?

Kiều Phong thở hắt ra, nói:

- Thế thì quả là lạ thật, trên đời này không lẽ lại có người giống hệt  như ta để đến nỗi sư phụ ta cũng còn nhầm hay sao?

A Châu nói:

- Nếu đã có cái đầu mối đó thì cũng dễ. Mình chỉ cần đi tìm kẻ kia,  tra khảo bức bách hỏi cho ra lẽ là xong.

Kiều Phong đáp:

- Phải lắm, có điều trời đất mênh mông, muốn tìm được người này  quả thực gian nan lắm thay. Có lẽ y cũng có tài như cô, hóa trang thành  người khác thật giống.

Ông bước lại gần vách núi, xem kỹ những vết búa đục, muốn tìm xem  những chữ khắc trên thạch bích vốn là những gì thế nhưng nhìn đi nhìn lại  một chữ cũng không nhận ra bèn nói:

- Ta phải đi tìm Trí Quang đại sư, hỏi ông ta cho ra lẽ những chữ viết  trên vách đá này là những chữ gì? Không tra xét cho xong thì không ăn  không ngủ được.

A Châu nói:

- Chỉ sợ ông ta không chịu nói.

Kiều Phong nói:

- Có lẽ ông ta không chịu nói đâu nhưng mình không bức bách thì  cũng van nài cho bằng được chứ ta nhất định không bỏ cuộc.

A Châu trầm ngâm nói:

- Trí Quang đại sư xem ra tính tình cứng cỏi không sợ chết, dẫu có  bức bách van xin xem ra cũng chẳng đến đâu, chi bằng ...

Kiều Phong gật đầu:

- Cô nương nói phải lắm, chi bằng mình đi hỏi Triệu Tiền Tôn thì  hơn. Úy, nhưng gã Triệu Tiền Tôn này cũng thà chết thì thôi, đối phó với  y ta nghĩ ra một cách.

Ông nói tới đây, quay sang nhìn xuống vực thẳm nói:

- Ta định xuống dưới này xem.

A Châu giật nảy người, nhìn vào miệng vực thấy giăng mắc đầy vân  vụ, vội lùi xa thêm hai bước sợ nhỡ vô ý trượt chân ngã xuống, nói:

- Đừng! Đừng! Muôn lần, vạn lần không nên xuống dưới đó. Xuống  đó có gì để coi đâu?

Kiều Phong đáp:

- Ta đích thực là người Hán hay là người Khất Đan, chuyện đó cứ vấn  vương quanh quẩn mãi trong đầu, thành thử muốn xuống dưới đó tra xét  cho minh bạch, xem cái xác của người Khất Đan đó ra sao.

A Châu nói:

- Người đó rơi xuống vực đã ba chục năm, cùng lắm cũng chỉ còn vài  mảnh xương trắng, có gì để mà xem?

Kiều Phong đáp:

- Ta chính muốn xuống xem nắm xương tàn của y. Ta nghĩ rằng nếu  quả đó là người cha thân sinh ra ta, thì cũng nên xuống đem lên tẫn liệm,  an táng cho tử tế.

A Châu thảng thốt rú lên:

- Không thể như vậy! Không thể như vậy! Đại gia nhân từ hiệp nghĩa,  sao lại là hậu duệ của người Khất Đan tàn bạo ác độc được?

Kiều Phong nói:

- Cô ở nơi đậy đợi ta một ngày một đêm, ngày mai giờ này nếu ta  chưa lên thì khỏi phải chờ nữa.

A Châu hốt hoảng, khóc òa lên kêu:

- Kiều đại gia, ông đừng xuống.

Kiều Phong tính tình thật cứng cỏi, không động lòng chút nào, mỉm  cười nói:

- Ở Tụ Hiền Trang bao nhiêu anh hùng hảo hán còn giết ta chưa  được, chẳng lẽ ta lại bỏ mạng nơi cái sơn cốc này hay sao?

A Châu quýnh quáng không biết thế nào mới ngăn ông ta được, đành  nói:

- Không chừng dưới đó có rắn độc, trùng độc, hay quái vật hung ác  đó.

Kiều Phong cười ha hả vỗ vỗ lên vai cô ta nói:

- Nếu như có quái vật thì tốt quá. Ta sẽ bắt nó lên để cho cô chơi.

Ông xem xét chung quanh bốn bề cốc khẩu tính kiếm chỗ mỏm đá nào  có thể đặt chân trèo xuống. Ngay lúc đó, bỗng nghe phía đông bắc có  văng vẳng vó ngựa phi về hướng nam, nghe âm thanh phải đến hai chục  con. Kiều Phong vội vàng rảo bước đi vòng qua sườn núi, nhìn vọng về  phía có tiếng chân ngựa. Ông đứng ở trên cao thấy tất cả hơn hai chục kỵ  sĩ đều áo vàng giáp vàng đều là quan binh nhà Đại Tống, xếp thành một  dãy đi theo sơn đạo ở sườn núi bên dưới.

Kiều Phong xem rõ tình hình rồi, không coi bọn đó vào đâu, có điều  nơi ông và A Châu đang đứng lại là đường độc đạo hiểm yếu từ ngoài  biên tái quay về, năm xưa quần hùng Trung Nguyên chọn làm nơi phục  kích võ sĩ Khất Đan chính là vì thế. Ông nghĩ bụng nơi đây là biên phòng  hiểm địa, quan quân nhà Tống thấy có người ở đây thể nào cũng tra hỏi,  chi bằng tránh đi là hơn để khỏi phiền toái.

Kiều Phong quay lại chỗ cũ, kéo A Châu ẩn đằng sau tảng đá nói:

- Quan binh nhà Đại Tống đó!

Chẳng bao lâu, hơn hai chục kỵ binh chạy lên núi. Kiều Phong náu sau  sơn thạch thấy người đi đầu là một quân quan, không khỏi cảm thán:  “Năm xưa bọn Uông bang chủ, Trí Quang đại sư, Triệu Tiền Tôn chờ  người hẳn là mai phục đằng sau những tảng đá này nên mới thấy bọn võ sĩ  Khất Đan cưỡi ngựa chạy ngang sơn lãnh. Hôm nay đá núi vẫn còn trơ trơ,  còn các võ sĩ Tống Liêu hai bên năm nào, hầu hết đã thành xương trắng  cả rồi”.

Ông còn đang xuất  thần, bỗng nghe có tiếng hai đứa trẻ khóc, Kiều  Phong giật mình kinh hãi tưởng như rơi vào cõi mộng: “Sao lại có tiếng trẻ  con?”. Tiếp theo lại nghe thấy tiếng đàn bà kêu rú lên.

Ông thò đầu ra nhìn thấy bọn quan binh nhà Tống trên mỗi con ngựa  người nào cũng bắt được một phụ nữ, đàn bà trẻ con đó ăn mặc theo lối du  mục Khất Đan. Mấy gã quan binh Đại Tống lại đưa tay sờ mó nắn bóp  thân thể họ trông thật thô bỉ, khả ố, người nào chống cự lại lập tức bị bọn  quan binh quát mắng đánh đập. Kiều Phong thấy vậy lấy làm lạ, không  hiểu nguyên do, chỉ thấy cả bọn vượt ngang qua khối nham thạch đi thẳng  về phía Nhạn Môn Quan.

A Châu hỏi:

- Kiều đại gia, bọn họ làm gì thế?

Kiều Phong lắc đầu nghĩ thầm: “Quan quân thủ ngự biên ải sao lại  ngang ngược đến thế?”. A Châu liền nói:

- Bọn quan binh này thật chẳng khác gì đạo tặc.

Kế đó lại có thêm một đoàn khoảng ba chục quân quan, dẫn theo một  đàn bò cừu đến vài trăm con, bắt thêm hơn chục phụ nữ Khất Đan nữa.  Lại nghe một tên quân quan nói:

- Lần này “gặt hái” chẳng được bao nhiêu, chẳng biết đại soái có nổi  giận không nữa?

Một tên quan quân khác nói:

- Bò cừu của bọn Liêu cẩu tuy không lấy được nhiều nhưng trong  đám đàn bà có mấy đứa mặt mày không đến nỗi tệ, đem về giúp vui cho  đại soái thì ngài sẽ bớt giận ngay.

Gã thứ nhất lại nói:

- Ba chục đàn bà thật chẳng tới phần chúng mình, ngày mai ráng chịu  khó thêm đi cướp thêm ít nữa đem về.

Một tên binh sĩ cười nói:

- Liêu cẩu nghe tin chắc chạy hết sạch rồi, muốn đi gặt phải chờ vài  ba tháng.

Kiều Phong nghe tới đây lửa giận xông lên, nghĩ bụng hành vi của đám  quan quân này xem ra còn kém xa bọn đạo tặc hạng bét trên giang hồ.  Ngay lúc đó, một hài nhi đang nằm trong lòng một người đàn bà Khất Đan  đột nhiên khóc ré lên. Người đàn bà giơ tay gạt một tên quan binh Đại  Tống, quay lại nhìn đứa con đang khóc. Gã quan quân nổi giận, cầm đứa  trẻ vứt xuống đất, sau đó giục ngựa chạy tới, vó ngựa liền giày lên đứa  bé, lập tức lòi ruột vỡ bụng ngay. Người đàn bà Khất Đan sợ đến chết  trân, không khóc nổi thành tiếng. Bọn quan binh cất tiếng cười sằng sặc,  vẫn tiếp tục rầm rập chạy qua.

Trong đời Kiều Phong đã từng chứng kiến nhiều cảnh tàn bạo hung ác  nhưng cái cảnh công nhiên tàn  sát trẻ con làm vui, đây là lần đầu mới  thấy. Ông cực kỳ phẫn nộ nhưng cố nén giận không để phát tác, muốn  xem bọn chúng còn giở trò gì rồi mới tính sau.

Đoàn quan quân đó qua rồi, lại có thêm một đoàn hơn chục tên quan  binh hùng hổ đi tới. Những tên lính Đại Tống ngồi trên lưng ngựa, giơ cao  trường mâu, đầu ngọn giáo nào cũng có xiên một chiếc đầu người máu me  bê bết, sau lưng ngựa lại dắt một sợi dây dài, buộc năm người đàn ông  Khất Đan. Kiều Phong nhìn trang phục những người bị trói đều chỉ là  những dân chúng chăn nuôi tầm thường, hai người tuổi đã cao, tóc bạc da  mồi, còn ba người kia thì chỉ là những đứa trẻ chừng mười lăm mười sáu  tuổi. Ông trong bụng bồi hồi, bọn quan binh Đại Tống này đi qua cướp  bóc, những kẻ tráng niên trong dân du mục Khất Đan đều chạy thoát, chỉ  bắt được toàn đàn bà con trẻ và người già yếu mà thôi.

Chỉ nghe một tên quan quân cười nói:

- Chặt được mười bốn cái thủ cấp, bắt sống được năm con chó Liêu,  công lao nói nhiều chẳng nhiều nhưng ít cũng chẳng ít, quan thăng một  cấp, một trăm lượng bạc thưởng thì là cái chắc rồi.

Lại một người khác nói:

- Lão Cao, phía tây cách đây năm mươi dặm có một thị trấn Khất  Đan, ngươi có dám đến đó mà “gặt lúa” không?

Gã họ Cao kia liền đáp:

- Có đếch gì mà không dám? Ngươi khinh ta ‘lính mới” hay sao? Ông  mới đến đang cần lập chút công lao đây.

Bọn chúng còn đang nói chuyện thì đoàn người đã đi đến gần bên tảng  đá. Một ông già Khất Đan trông thấy xác đứa trẻ nằm dưới đất, đột nhiên  kêu toáng lên, xông tới ôm lấy nó, hôn hít không ngừng, giọng đầy vẻ bi  thương. Kiều Phong tuy không hiểu tiếng Khất Đan nhưng nhìn điệu bộ  cũng biết đứa bé bị ngựa đạp chết kia hẳn là thân nhân của ông lão. Gã  tiểu tốt cầm dây buộc ông già đưa tay giựt liên hồi, kéo ông ta đi. Ông già  Khất Đan tức giận như điên như cuồng, nhảy xổ vào y. Tên lính kinh hãi, vung đao chém xuống người ông ta, ông già Khất Đan cố sức giựt một cái,  kéo y ngã từ trên lưng ngựa xuống đất rồi há mồm ngoạm luôn vào cổ.

Ngay lúc đó một tên quan binh Đại Tống từ trên ngựa vung đao chém  phập vào lưng ông lão, tiếp theo cúi xuống cầm cổ ông già lôi ra, tên lính  ngã dưới đất mới vùng dậy được. Tên lính đó tức quá lại vung đao chém  liên tiếp mấy nhát vào người ông già, ông già chỉ dãy dụa được mấy cái  rồi ngã lăn ra. Bọn quan binh đứa cầm giáo, đứa dùng đao lập tức vây  quanh.

Ông lão Khất Đan đột nhiên đứng phắt dậy quay về hướng bắc, cởi  phanh áo trên người ra, ưỡn ngực, cất tiếng hú lên, thanh âm thê lương, bi  thảm chẳng khác gì tiếng tru của chó sói. Cả bọn quan quân ai nấy tỏ vẻ  lo sợ.

Kiều Phong trong lòng thảng thốt, chợt thấy dường như ông lão Khất  Đan kia với mình có điều tâm linh tương thông, tiếng hú lên khi sắp chết  nghe như tiếng sói tru kia chính mình cũng đã từng làm. Khi ở tại Tụ Hiền  Trang bị liên tiếp trúng đao thương, tới lúc Đơn Chính dùng đao đâm tới,  biết mình sắp chết, trong lòng bi phẫn không sao nhịn được, ông đã rống  lên như mãnh thú.

Bây giờ nghe thấy mấy tiếng tru, trong lòng bỗng nổi lên một tâm tình  thân cận, không còn nghĩ ngợi gì thêm, từ đằng sau tảng đá nhảy vọt ra,  vươn tay chộp từng đứa quan binh Đại Tống ném xuống vực. Kiều Phong  càng đánh càng hăng, ngay cả những con ngựa chúng cỡi cũng mỗi con  một chưởng đẩy luôn xuống thâm cốc, tiếng ngựa hí người kêu nổi lên  rầm rĩ rồi ngừng bặt.

A Châu và bốn người Khất Đan kia thấy ông thần uy như vậy, ai nấy  đứng há hốc mồm. Kiều Phong giết sạch hơn chục tên quan binh rồi, cất  tiếng hú lên chấn động cả sơn cốc. Ông thấy ông lão Khất Đan kia vẫn  còn đứng sững như trời trồng, trong bụng kính trọng là một hảo hán, chạy  đến trước mặt thấy ông ta hướng về phương bắc ngực phanh ra nhưng đã  tắt thở chết rồi. Kiều Phong nhìn vào ngực ông già, bỗng hoảng hốt kêu  lên một tiếng, lùi lại một bước, thân hình lảo đảo tưởng chừng muốn ngã.

A Châu kinh hãi kêu lên:

- Kiều đại gia, ông ... ông ... ông sao thế?

Chỉ nghe soẹt soẹt mấy tiếng, Kiều Phong đã xé toạc áo mình ra, để lộ  bộ ngực đầy lông đen. A Châu nhìn vào thấy trên ngực ông hoa văn xâm  hình đầu một con chó sói xanh lè, há miệng nhe nanh, hình dáng thật là  hung dữ. Nàng nhìn lại ông già Khất Đan, thấy ngực ông ta cũng có hình  đầu một con chó sói, hình dáng thần thái giống hệt như của Kiều Phong.  Cả bốn người Khất Đan kia cũng kêu lên xí xố.

Kiều Phong từ thuở mới lên ba có chút hiểu biết đã thấy trên ngực  mình có hình đầu con thanh lang, nhưng vì từ bé đã có nên không coi là  chuyện lạ. Đến khi lớn lên mới hỏi cha mẹ, vợ chồng Kiều Tam Hòe bảo  là hình xâm đẹp quá, khen ngợi một chập nhưng không nói tại sao lại có.  Về thời Bắc Tống, xâm hình trên người là chuyện hết sức bình thường4 có  người từ đầu chí chân. Nhà Đại Tống thừa kế giang sơn của họ Sài nhà  Hậu Chu5. Khai quốc hoàng đế nhà Hậu Chu là Quách Uy, nơi cổ có xâm  hình một con chim sẻ, vì thế người đời thường gọi là Quách Tước Nhi.  Thời kỳ đó xâm mình cũng là một tập quán, anh em Cái Bang mười người  đến chín có thích hoa văn nên chẳng một ai nghi ngờ gì Kiều Phong cả.  Thế nhưng khi đó nhìn thấy ông già Khất Đan bị giết trên ngực có hình  đầu chó sói xanh, giống y hệt như mình, không khỏi cực kỳ kinh ngạc.

Bốn người Khất Đan kia vây quanh ông, miệng xí xố, tay chỉ vào ngực  ông. Kiều Phong không hiểu họ nói gì, còn đang ngơ ngẩn, ông già Khất  Đan đột nhiên cởi áo mình ra, để lộ bộ ngực, trên đó cũng có xâm hình  đầu chó sói. Ba gã thiếu niên cũng cởi áo, đứa nào cũng có xâm hình  thanh lang.

Chỉ trong một thoáng, Kiều Phong biết đích xác rằng mình quả thực là  người Khất Đan. Hình đầu chó sói kia chắc hẳn là ký hiệu của bộ tộc, xem  ra từ bé ai ai cũng đã xâm rồi. Ông trước nay thống hận thù ghét người  Khất Đan, cho rằng họ tàn ác đê tiện, không biết tín nghĩa, thích giết  người Hán, không chuyện ác nào không làm bây giờ lại thấy mình chính là giống người không bằng cầm thú kia nên lòng quả thực đau khổ khôn  cùng.

Ông đứng chết sững một hồi, đột nhiên kêu rú lên một tiếng, chạy như  bay vào phía núi hoang. A Châu gọi vói:

- Kiều đại gia, Kiều đại gia !

Rồi lật đật đuổi theo. Nàng đuổi đến hơn mười dặm mới thấy ông ngồi  ôm đầu dưới một gốc cây, mặt mày xanh xao, trên trán nổi những sợi gân  xanh cuồn cuộn. A Châu bước lại gần bên ngồi xuống bên cạnh ông.

Kiều Phong rút người lại nhích qua nói:

- Ta là giống Hồ Lỗ Khất Đan không bằng con heo con chó, từ nay  trở đi cô đừng gặp ta làm gì.

A Châu cũng như bao nhiêu người Hán khác vốn dĩ thống hận người  Khất Đan tận xương tủy, nhưng trong lòng nàng Kiều Phong thật quả  không khác gì một thiên thần. Chẳng nói ông chỉ là người Khất Đan mà  dù có là ma quỉ mãnh thú, nàng cũng không muốn bỏ ông mà đi, nghĩ  bụng: “Chàng lúc này trong lòng thật đau đớn, ta càng phải khuyên giải an  ủi nhiều hơn”. Nàng bèn nhỏ nhẹ:

- Người Hán cũng có người xấu người tốt, người Khất Đan dĩ nhiên  cũng có kẻ hay người dở. Kiều đại gia, ông đừng để chuyện này trong  lòng làm chi. Tính mạng của A Châu do ông cứu, ông là người Hán cũng  vậy, mà là người Khất Đan cũng thế đối với thiếp thật chẳng khác gì.

Kiều Phong lạnh lùng đáp:

- Ta không cần cô phải thương hại, trong bụng cô chẳng coi ta vào  đâu, không phải giả vờ nói lấy lòng vài câu làm gì. Ta cứu mạng cô nào  có phải do bản tâm đâu, chẳng qua chỉ nhất thời sính cường hiếu thắng.  Chuyện đó thôi từ nay bỏ qua hết, cô mau mau đi đi.

A Châu trong lòng hoang mang nghĩ thầm: “Chàng biết mình là người  Khất Đan Hồ Lỗ, không chừng quay trở lại sa mạc miền bắc, từ nay không  bước vào Trung Thổ nữa”. Nàng không biết tính sao, lật đật đứng lên nói:

- Kiều đại gia, nếu chàng bỏ thiếp mà đi, thiếp sẽ nhảy xuống sơn  cốc tự tận. A Châu này biết rồi, chàng là anh hùng hảo hán Khất Đan nên không coi đứa a hoàn hạ tiện người Hán vào đâu, chi bằng thiếp đi tìm cái  chết cho xong.

Kiều Phong nghe nàng nói cực kỳ thành khẩn, ông vẫn nghĩ mình nếu  là Hồ Lỗ thì bao nhiêu người Hán trong thiên hạ đều xa lánh như rắn rết,  có ngờ đâu A Châu đối với mình không khác chút nào, trong lòng cảm  động, tự nhiên đưa tay ra nắm lấy tay nàng dịu dàng nói:

- A Châu, em là a hoàn của Mộ Dung công tử chứ nào có phải là đầy  tớ của ta, ta ... ta nào có dám coi thường em đâu?

A Châu đáp:

- Thiếp cũng chẳng cần chàng thương hại, trong bụng chàng chẳng  coi em vào đâu, đừng phải giả vờ nói lấy lòng vài câu làm gì.

Nàng nhái lại mấy câu Kiều Phong vừa nói, ngữ âm thanh điệu giống  hệt nhưng trong ánh mắt đầy vẻ nghịch ngợm tinh ranh. Kiều Phong cười  ha hả, ông đang thất vọng đến cùng cực, gặp được một cô gái thông minh  lanh lợi pha trò an ủi như thế này, bao nhiêu phiền não lập tức tiêu tan. A  Châu đột nhiên nghiêm mặt nói:

- Kiều đại gia, thiếp phục thị Mộ Dung công tử nào có phải là bán  thân cho người ta đâu. Chỉ vì thiếp từ bé không cha không mẹ, lưu lạc ở  bên ngoài, một hôm nọ bị người ta hiếp đáp, gặp Mộ Dung lão gia cứu  thiếp đem về. Thiếp cô khổ không nơi nương tựa nên đành làm đứa a hoàn  trong nhà ông ta. Kỳ thực Mộ Dung công tử cũng không coi thiếp như một  đứa đầy tớ, y còn mua mấy đứa nô tì phục thị thiếp nữa kìa. A Bích muội  tử cũng thế, chỉ nhân vì cha cô ta đưa nàng đến nhà Mộ Dung lão gia ở  Yến Tử Ổ để tị nạn mà thôi. Năm xưa, Mộ Dung lão gia và phu nhân có  nói rằng, ngày nào thiếp và A Bích muốn rời khỏi Yến Tử Ổ, gia đình họ  Mộ Dung sẽ vui vẻ để bọn thiếp đi ...

Nàng nói đến đây, khuôn mặt bẽn lẽn. Thì ra khi đó Mộ Dung phu  nhân nói rằng: "Ngày nào A Châu, A Bích hai cô về nhà chồng, toàn thể  gia trang nhà Mộ Dung sẽ ăn cưới, đem kiệu hoa rong cờ đánh trống đưa  ra khỏi cửa, không khác gì gả con gái cho người ta". Nàng ngừng lại một  chút rồi nói với Kiều Phong:

- Từ nay trở đi thiếp sẽ hầu hạ chàng, làm một người tì nữ, Mộ Dung  công tử không trách cứ gì đâu.

Kiều Phong hai tay xua liên tiếp nói:

- Không! Không được! Ta là một gã người Hồ man di, làm gì mà có a  hoàn? Cô từng sống ở gia đình phú quí đất Giang Nam đã quen, theo ta  kham khổ đơn bạc, có gì là vui đâu? Cô thử xem ta một gã hán tử thô dã  thế này, có đáng để cô phục thị hay không?

A Châu thản nhiên cười đáp:

- Thế thì thôi, cứ coi như thiếp là một đứa nô tì đại gia cướp được, khi  nào vui thì ban cho một nụ cười, khi chẳng vui thì đem ra đánh đập sỉ  mắng, thế có được không?

Kiều Phong mỉm cười:

- Ta mà đấm một cái e rằng cô chết mất còn gì?

A Châu nói:

- Dĩ nhiên chàng chỉ đánh nhè nhẹ thôi, đừng ra tay quá nặng là  được.

Kiều Phong cười ha hả nói:

- Đánh nhè nhẹ thì thà không đánh còn hơn. Thế nhưng ta không  muốn có ai làm nô bộc cả.

A Châu đáp:

- Chàng là đại anh hùng Khất Đan, đi bắt vài cô gái người Hán về  làm đầy tớ có gì mà không được? Chàng xem mấy quan binh Đại Tống  đó, họ đi bắt bao nhiêu là người Khất Đan thì sao?

Kiều Phong lặng thinh không nói, A Châu thấy ông ta đôi lông mày  nhíu tít lại, ánh mắt cực kỳ u uẩn lại lo rằng mình nói hớ khiến ông không vui. Mợt hồi sau, Kiều Phong mới chậm rãi nói:

- Ta trước nay chỉ tưởng người Khất Đan hung ác tàn bạo, sát hại  người Hán thế nhưng hôm nay chính mắt thấy quan binh Đại Tống cũng  tàn nhẫn giết hại những kẻ già cả yếu đuối, đàn bà trẻ con người Khất  Đan, ta ... ta ... A Châu ơi, ta là người Khất Đan nhưng từ nay về sau, chẳng còn thấy là người Khất Đan thì đáng hổ thẹn mà cũng chẳng nghĩ  rằng làm người Đại Tống mới vinh quang.

A Châu nghe ông nói thế, biết ông đã cởi được cái uất ức trong lòng,  thật là hoan hỉ nói:

- Thì thiếp đã nói người Hồ cũng có kẻ tốt người xấu, mà người Hán  thì cũng có kẻ hay người dở. Người Hồ không giảo hoạt như người Hán có  khi kẻ xấu còn ít hơn là khác.

Kiều Phong nhìn vào vực sâu bên cạnh nhớ lại chuyện năm xưa nói:

- A Châu, cha mẹ ta bị người Hán sát hại, không thể không trả mối  thù này.

A Châu gật đầu, trong bụng có điều hoang mang sợ hãi. Nàng biết rằng  mấy câu đơn giản “thù này không thể không trả” thực ra bao hàm biết bao  trận ác đấu, bao nhiêu máu chảy, bao nhiêu mạng người. Kiều Phong chỉ  xuống thâm cốc nói:

- Năm xưa mẹ ta bị bọn họ sát hại, cha ta đau khổ đến không còn  muốn sống nên đã nhảy xuống vực cạnh khối đá kia. Trong khi đang ở  lưng chừng, vì không muốn ta phải theo ông mà chết, nên đã ném ta trở  lên nên Kiều Phong này mới có đến ngày hôm nay. A Châu nàng ơi! Như  thế cha ta yêu ta biết là dường nào, có phải vậy chăng?

A Châu nước mắt rưng rưng:

- Chàng nói đúng lắm.

Kiều Phong tiếp:

- Mối huyết hải thâm cừu của cha mẹ ta, không lẽ không báo? Ta  trước kia không biết nên nhận địch làm bạn, quả thực thật là bất hiếu, nếu  như hôm nay không đi tìm giết hung thủ sát hại cha mẹ ta, Kiều mỗ còn  mặt mũi nào sống trong trời đất nữa? Cái kẻ “đàn anh đứng đầu” mà họ  nói đến là ai thế? Bức thư viết cho Uông bang chủ có thự danh của y  nhưng nhà sư Trí Quang đã xé ra nuốt mất rồi. Gã “đàn anh đứng đầu”  này hẳn còn sống, nếu không bọn họ đâu cần phải dấu diếm làm chi?

Ông tự hỏi rồi tự trả lời, suy nghĩ thật lâu, biết rằng A Châu không thể  giúp mình trả mối đại cừu nhưng có được một người ở bên cạnh mình nghe  mình nói cũng đã giảm được bao nhiêu phiền não. Ông lại tiếp:

- Gã “đàn anh đứng đầu” kia nếu đã tất lãnh được hào kiệt Trung  Nguyên thì hẳn phải là một nhân vật võ công cao cường, danh vọng vang  dậy. Theo lời lẽ trong thư, giao tình với Uông bang chủ hẳn không phải  thường, gọi Uông bang chủ là anh, xem chừng tuổi phải ít hơn Uông bang  chủ còn so với ta ắt lớn hơn nhiều. Một nhân vật như thế xem ra tìm được  không khó, ôi, xem phong thư kia thì chỉ có nhà sư Trí Quang, Từ trưởng  lão và Mã phu nhân của Cái Bang cùng Thiết Diện Phán Quan Đơn  Chính. Còn gã Triệu Tiền Tôn kia cũng biết y là ai. Triệu Tiền Tôn đã nói  cho sư muội y là Đàm bà, chắc là Đàm bà cũng không dấu ông chồng đâu.  Trí Quang hòa thượng và Triệu Tiền Tôn cũng là đồng lõa trong việc giết  hại cha mẹ ta, đương nhiên là ta phải giết, còn cái thằng mả mẹ "đàn anh  đứng đầu" kia, hừ, ta ... ta phải giết cả nhà nó, từ già chí trẻ, đến con gà  con chó cũng chẳng tha.

A Châu thấy lạnh cả người, đã toan nói: “Chàng giết một mình gã "đàn  anh đứng đầu" cũng đủ rồi, tha cho gia đình người ta”. Thế nhưng nàng  thấy Kiều Phong thần uy lẫm lẫm không dám cãi lại câu nói vừa ra đến  cửa miệng, lại nhịn không dám hở môi.

Kiều Phong lại tiếp:

- Nhà sư Trí Quang vân du bồn bể, Triệu Tiền Tôn cũng phiêu bạt  giang hồ đi kiếm hai người này quả không phải dễ. Gã Thiết Diện Phán  Quan Đơn Chính kia tuy không tham dự trận chiến giết hại cha mẹ ta  nhưng ta đã giết hai đứa con của lão rồi, đứa con út cũng vì ta mà chết,  thôi không đi tìm y làm gì nữa. A Châu, vậy chúng mình đi kiếm Từ  trưởng lão của Cái Bang.

A Châu nghe hai chữ “chúng mình”, không khỏi mở cờ trong bụng, có  nghĩa là ông đã bằng lòng cho mình đi cùng. Nàng lặng lẽ nở một nụ cười,  nghĩ thầm: “Dù phải đi đến chân trời góc biển, thiếp cũng nguyện theo  chàng”.Hai người lập tức xuôi nam, từ sơn lĩnh vòng qua Nhạn Môn Quan đến một tòa tiểu thị trấn, tìm một căn khách điếm. A Châu không đợi Kiều Phong mở lời đã bảo điếm tiểu nhị dọn hai mươi cân rượu. Gã tửu bảo thấy hai người vợ chồng không ra vợ chồng, anh em chẳng phải anh em đã kỳ lạ, lại nghe sai dọn hai mươi cân rượu, càng thêm ngạc nhiên, ngơ ngẩn đứng nhìn hai người, không đi lấy rượu, cũng chẳng đáp lời.

Kiều Phong trừng mắt nhìn y, không giận mà có uy, gã tiểu nhị hoảng hồn vội lật đật quay đi, miệng lẩm bẩm:

- Hai mươi cân rượu? Chắc để tắm hay sao?

A Châu cười nói:

- Kiều đại gia, chúng mình đi tìm Từ trưởng lão, xem chừng chỉ chừng hai ngày là người ta sẽ phát giác ngay. Trên đường gặp đâu đánh đó, gặp ai giết nấy, tuy cũng vui thật nhưng e Từ trưởng lão nghe hơi gió đã chạy cong đuôi, thì làm sao kiếm ông ta được.

Kiều Phong cười ha hả nói:

- Nàng đừng có đưa ta lên, trên đường ví như gặp ai đánh nấy, kẻ địch càng lúc càng đông, chúng mình rồi thể nào cũng bỏ mạng ...

A Châu nói:

- Nói đến hung hiểm thì cũng không đến nỗi nào, có điều bọn chúng nghe hơi gió đã cụp đuôi chạy hết thì thật là hỏng việc.

Kiều Phong nói:

- Thế theo cô thì mình phải làm cách nào? Chúng mình ban ngày ở trong khách điếm, ban đêm ra đi có được chăng?

A Châu mỉm cười nói:

- Muốn bọn họ không nhận ra mình thì thật dễ. Chỉ có điều Kiều đại hiệp danh mãn thiên hạ, không biết có chịu hóa trang hay không?

Nói đi nói lại, nàng cũng đi đến “dị dung cải trang”. Kiều Phong cười nói:

- Ta không phải người Hán, quần áo người Hán đây vốn đã không muốn mặc nữa rồi. Thế nhưng nếu mặc quần áo Khất Đan thì ở Trung Nguyên đi lại thật bất tiện. A Châu, nàng thử nghĩ ta nên mặc thế nào cho phải?

A Châu đáp:

- Đại gia thân thể cao to, đi đâu cũng khiến người ta chú ý, tốt nhất là cải trang thành một giang hồ hào sĩ hình mạo tầm thường, trên người không có điểm gì đặc biệt. Những người như thế trên đường mỗi ngày người ta gặp cả trăm, chẳng ai thèm để ý đến ông là ai đâu.

Kiều Phong vỗ đùi nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Uống rượu xong nàng giúp ta cải trang là xong.

Ông uống hết hai mươi cân rượu rồi, A Châu liền ra tay ngay. Bột mì, hồ dán, a dao đủ các loại nhồi nặn, bao nhiêu điểm khác người của Kiều Phong đều biến mất. A Châu lại thêm cho ông ta một bộ ria mép khiến Kiều Phong soi gương cũng còn không nhận ra mình là ai. Sau đó A Châu cũng tự cải trang thành một hán tử trung niên.

A Châu cười nói:

- Hình dáng bên ngoài của ông đã thay đổi rồi, thế nhưng khi nói năng, hay uống rượu người ta nhận ra ngay.

Kiều Phong gật đầu:

- Ừ, thế thì nói ít đi, uống cũng bớt.

Thành ra trên đường xuôi nam, Kiều Phong quả thật ít khi mở miệng, mỗi bữa ăn cũng chỉ uống hai ba cân, hết sức giữ ý. Hôm đó đến Tam Giáp Trấn ở Tấn Nam, hai người ghé vào một cái quán mì, bỗng nghe ngoài cửa có hai gã ăn mày nói chuyện với nhau. Một gã nói:

- Từ trưởng lão chết thật thảm thiết, trước ngực sau lưng, gân cốt đều đứt hết chắc là gã ác tặc Kiều Phong hạ độc thủ.

Kiều Phong kinh hoảng nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi sao?”. Ông liền đưa mắt cho A Châu. Lại nghe một gã ăn mày nói:

- Ngày mai tại Vệ Huy Hà Nam phát tang, trưởng lão trong bang, cùng các anh em đều đến tế viếng, để bàn tính làm cách nào bắt được Kiều Phong.

Kế đó gã ăn mày liền nói mấy câu ám ngữ, Kiều Phong nghe qua hiểu ngay, y nói là Kiều Phong thanh thế rất lợi hại nên không thể nói năng lung tung để thủ hạ của y nghe được.

Kiều Phong và A Châu ăn mì xong liền rời Tam Giáp Trấn, đi ra ngoài thành. Kiều Phong nói:

- Chúng mình nên đi Vệ Huy xem sao, không chừng kiếm được chút đầu dây mối nhợ.

A Châu đáp:

- Đúng đó, Vệ Huy thì phải nên đi. Kiều đại gia, những người đến phúng điếu Từ trưởng lão đa số là cựu bộ thuộc của đại gia cho nên cử chỉ ngôn ngữ chớ có để lộ chân tướng.

Kiều Phong gật đầu:

- Ta biết rồi.

Hai người liền quay sang hướng đông, đi về phía Vệ Huy.

Đến ngày thứ ba đã đến Vệ Huy, trong thành đầu đường xó chợ đâu đâu cũng toàn là đệ tử Cái Bang. Kẻ thì vào tửu lâu ngồi bàn ăn uống nhồm nhoàm, đứa thì nơi đường hẻm mổ heo giết chó, có người vòi vĩnh cướp giựt ngay ở ngoài đường. Kiều Phong trong lòng đau xót, thấy đại bang vẫn được coi là số một trên giang hồ nay chẳng còn qui củ gì, không thể nào bì với năm xưa khi mình còn chấp chưởng bang chủ kỷ luật nghiêm minh, khí tượng hưng vượng, mới chẳng bao lâu đã bị người đời coi rẻ. Vẫn biết Cái Bang với ông nay đã thành địch chứ không còn bạn bè gì nữa, thế nhưng bao nhiêu tâm huyết của mình bỏ ra chỉ một ngày tan ra mây khói, lòng ông không khỏi ngậm ngùi.

Bỗng nghe mấy đệ tử Cái Bang nói với nhau mấy câu mật hiệu, ông biết được linh vị của Từ trưởng lão để tại một khu vườn hoang nơi phía tây thành. Kiều Phong và A Châu mua ít nhang đèn, vàng mã và cái đầu heo đi theo người ta đến nơi đó, khấu đầu trước bài vị Từ trưởng lão.

Chỉ thấy trên linh bài của Từ trưởng lão bôi đầy máu tươi, đó là tập tục của Cái Bang ý nói người chết bị ám hại, người trong bang phải lo việc trả thù rửa hận. Trong nhà quàn ai nấy ngoạc mồm thống mạ Kiều Phong, có ai ngờ đâu ông đang ở ngay bên cạnh. Kiều Phong thấy chung quanh toàn là những nhân vật thủ não của Cái Bang, e ngại có người nhìn ra mình nên không dám lần khân, lập tức sóng vai A Châu đi ra, nghĩ thầm: “Từ trưởng lão chết rồi thì trên đời này biết được "đàn anh đứng đầu" lại bớt đi một người nữa”.

Bỗng thấy nơi đầu hẻm tít đằng xa có bóng người thoáng một cái, đó là một người đàn bà thân thể cao to. Kiều Phong tinh mắt nhận ra ngay đó là Đàm bà, nghĩ bụng: “Hay quá, chắc là mụ ta đi điếu tang Từ trưởng lão đây, mình đang muốn đi tìm”. Lại thấy thêm một bóng người vụt qua nữa, khinh công cực kỳ cao siêu, chính là Triệu Tiền Tôn. Kiều Phong ngạc nhiên: “Hai người này thập thò lén lút không biết có cái trò gì đây?”.

Ông biết rằng hai người vốn dĩ là sư huynh muội, tình ái dây dưa đến nay chưa dứt, nghĩ thầm: “Hai người đều sáu bảy mươi tuổi rồi, không lẽ lại còn tư tình, giăng dện với nhau hay sao?”. Ông bản tính vốn không hay xen vào chuyện riêng của người khác, nhưng Triệu Tiền Tôn biết được "đàn anh đứng đầu" là ai, Đàm công, Đàm bà chắc cũng biết, nếu như bắt thóp được chuyện gì thì có thể thừa cơ ép buộc hai người thổ lộ, nên ghé tai A Châu nói:

- Nàng ở khách điếm chờ ta.

A Châu gật đầu, Kiều Phong lập tức đuổi theo hướng Triệu Tiền Tôn vừa chạy. Triệu Tiền Tôn chọn toàn những nơi ẩn khuất mà đi, hết náu dưới góc tường phía đông lại lẻn trên mái nhà phía tây, cử chỉ hết sức ngụy bí đi ra phía cửa đông. Kiều Phong theo xa xa, trước sau không để y phát giác, thấy y chạy đến bờ sông, khom người chui vào khoang một chiếc thuyền gỗ lớn. Kiều Phong đề khí chạy tới, nhún nhẩy mấy cái đã đến bên thuyền, nhẹ nhàng nhảy xuống mui, ghé sát tai vào thuyền lắng nghe.

Trong khoang thuyền, Đàm bà thở dài một tiếng nói:

- Sư ca, hai người mình tuổi tác cũng đã cao rồi, những chuyện ngày xưa có hối cũng đã muộn, nhắc lại có ích gì đâu?

Triệu Tiền Tôn nói:

- Cuộc đời ta coi như bỏ đi rồi, có hối cũng đâu còn kịp. Ta hẹn nàng ra đây cũng chẳng có chuyện gì, Tiểu Quyên, chỉ mong được nghe nàng hát lại mấy câu ngày xưa nàng vẫn thường hát mà thôi.

Đàm bà nói:

- Ôi, sư ca quả thực si mê nực cười. Thằng chả đó tới Vệ Huy thấy sư ca đã không lấy gì làm vui, y tính lại đa nghi, sư ca không nên chàng màng tiểu muội là hơn.

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Sợ gì cơ chứ? Mình sư huynh muội quang minh lỗi lạc, nói chút chuyện xưa, có gì mà không được?

Đàm bà thở dài một tiếng, nhỏ nhẹ nói:

- Mấy khúc hát năm xưa, mấy khúc hát năm xưa ...

Triệu Tiền Tôn thấy bà ta đã động lòng, lại càng năn nỉ, nói:

- Tiểu Quyên, hôm nay hai đúa mình gặp nhau, không biết sau này tới chừng nào mới lại trùng phùng, e rằng mạng ta cũng chẳng được bao lâu, nàng dẫu có muốn hát lại cho ta nghe ta cũng chẳng có cái phúc mà đến nghe được nữa.

Đàm bà nói:

- Sư ca chớ có nói thế. Nếu như quả anh muốn nghe, thì tiểu muội sẽ hát nho nhỏ một khúc cho sư ca nghe.

Triệu Tiền Tôn vui mừng nói:

- Hay quá, đa tạ sư muội. Tiểu Quyên, cảm ơn nàng.

Đàm bà liền khoan thai hát:

Năm nao chàng ghé thăm nhau,

Thiếp đang giặt lụa bên cầu dưới khe ...

Mới hát được hai câu, nghe có tiếng lách cách, khoang thuyền mở tung, một đại hán xông vào. Kiều Phong cải trang rồi nên Đàm bà và Triệu Tiền Tôn không nhận ra. Hai người đang hoảng hốt, thấy không phải là Đàm công nên cũng yên tâm, quát hỏi:

- Ai đó?

Kiều Phong lạnh lùng nhìn hai người, nói:

- Một gã khinh bạc vô hạnh, dụ dỗ đàn bà có chồng, một người dâm đãng vô sỉ, trốn chồng đi gặp tình lang ...

Ông chưa nói dứt lời, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn cùng ra tay, chia hai bên đánh tới. Kiều Phong thân hình hơi nghiêng qua, lật một cái đã nắm ngay được cổ tay Đàm bà, kế tiếp cùi chỏ thúc ra, hậu phát tiên chí, tấn công vào sườn bên trái Triệu Tiền Tôn.

Triệu Tiền Tôn và Đàm bà đều là những cao thủ hạng nhất trong võ lâm, những tưởng chỉ ra một chiêu đã khống chế được kẻ địch, đâu có ngờ rằng con người hình mạo thật bình thường kia võ công lại cao siêu đến như thế, vừa ra tay đã đổi thủ thành công. Trong khoang thuyền chật hẹp, không thể thi triển tài nghệ, thế nhưng Kiều Phong đánh xa cũng hay, đánh gần cũng giỏi, sử dụng toàn cầm nã thủ và đòn nhập nội mà thôi, trong khu vực chưa đầy một trượng của khoang thuyền vẫn cực kỳ linh động. Đấu đến hiệp thứ bảy, hông Triệu Tiền Tôn bị trúng một chỉ, Đàm bà kinh hãi ra tay chậm lại, bị ngay một chưởng vào lưng, sụm ngay xuống.

Kiều Phong lạnh lùng nói:

- Xin hai vị ở đây nghỉ ngơi, trong khu vườn hoang trong thành Vệ Huy đang có rất nhiều anh hùng hảo hán đến viếng linh vị Từ trưởng lão, ta đi mời họ tới để họ bình phẩm xem đúng hay sai.

Triệu Tiền Tôn và Đàm bà hoảng hốt, cố gắng vận khí nhưng huyệt đạo đã bị phong rồi, đến đầu ngón tay cũng không cử động được. Hai người tuổi tác đã cao, vốn không có ý niệm tình dục gì, hẹn nhau ở đây, chẳng qua để kể lể tình xưa nghĩa cũ chứ có chuyện gì ra ngoài vòng lễ giáo đâu. Thế nhưng lúc đó đang thời Bắc Tống, lễ pháp ai ai cũng coi rất nặng, anh hùng hảo hán giang hồ phạm vào nữ sắc ắt bị người đời cười chê. Một nam một nữ lén lút gặp gỡ nơi thuyền này, nào có ai tin rằng hai người chỉ gặp nhau để hát cho nhau nghe vài câu? Nói với nhau vài câu chuyện tầm phào? Nếu ai ai cũng biết đến thì còn làm người sao được? Ngay cả Đàm công cũng chẳng còn mặt mũi nào.

Đàm bà vội nói:

- Vị anh hùng kia, chúng tôi có làm gì đắc tội với các hạ đâu, nếu có thể dung tình một chút, ta ... ta ắt có đền đáp.

Kiều Phong nói:

- Đền đáp thì không cần. Ta chỉ hỏi một câu, các ngươi cũng chỉ đáp lại ba chữ. Nếu như nói thực, tại hạ lập tức giải khai huyệt đạo cho hai người ngay, phủi tay đi thẳng. Chuyện ngày hôm nay nhất định không một ai nhắc đến nữa.

Đàm bà nói:

- Nếu như lão thân biết được thì nguyện sẽ phụng cáo ngay.

Kiều Phong hỏi:

- Có người từng viết thư cho Uông bang chủ của Cái Bang, nói về chuyện Kiều Phong, người viết thư đó người khác gọi là "đàn anh đứng đầu", kẻ đó là ai?

Đàm bà còn ngần ngừ chưa trả lời, Triệu Tiền Tôn lớn tiếng nói:

- Tiểu Quyên, không được nói, nghìn lần vạn lần không thể nói.

Kiều Phong trừng mắt nhìn y, hỏi lại:

- Ngươi thà chịu thân bại danh liệt nhưng không chịu nói hay sao?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Lão tử thà chết thì thôi. Vị "đàn anh đứng đầu" này có ơn với ta, ta nhất quyết không thể nói tên ra được.

Kiều Phong hỏi thêm:

- Thế dẫu cho Tiểu Quyên thân bại danh liệt, ngươi cũng không cần, phải không?

Triệu Tiền Tôn đáp:

- Nếu Đàm công biết chuyện hôm nay, ta lập tức tự vẫn trước mặt y, lấy cái chết tạ tội, thế là xong.

Kiều Phong quay sang Đàm bà:

- Người đó chưa chắc đã có ơn gì với bà, vậy bà nói ra đi, tất cả sẽ bình yên vô sự, bảo toàn được danh dự cho cả Đàm công Đàm bà, cũng bảo tồn cả tính mệnh cho sư ca của bà nữa.

Đàm bà nghe thấy ông ta đem tính mạng Triệu Tiền Tôn ra uy hiếp, không khỏi rùng mình nói:

- Được, thôi để ta nói cho người nghe, người đó là ...

Triệu Tiền Tôn vội kêu lên:

- Tiểu Quyên, nàng chớ có nói ra, nhất định không thể nói ra. Ta van xin nàng, van xin nàng! Gã này chắc là thủ hạ của Kiều Phong, nàng mà nói ra, tính mạng của vị "đàn anh đứng đầu" kia thể nào cũng nguy hiểm.

Kiều Phong đáp:

- Ta chính là Kiều Phong, các ngươi không nói ra hậu hoạn sẽ không biết đâu mà lường.

Triệu Tiền Tôn giật mình:

- Thảo nào công phu của ngươi ghê gớm thế. Tiểu Quyên ơi, trong đời ta chưa từng cầu xin nàng việc gì, đây là việc duy nhất ta xin nàng, dẫu thế nào chăng nữa mong nàng bằng lòng cho ta.

Đàm bà nghĩ đến ông ta mấy chục năm qua thương yêu ái mộ, tình sâu nghĩa nặng, mình phụ ông ta đã nhiều, tấm lòng mong mỏi được lấy nhau xưa nay chưa từng thổ lộ, vậy mà lần này vì muốn che dấu cho ân nhân, thà chết thì thôi, không thể nào làm hỏng cái nghĩa cử của sư ca được nên đáp:

- Kiều bang chủ, việc ngày hôm nay, làm điều thiện cũng tùy ông, mà làm điều ác cũng tùy ông. Hai sư huynh muội chúng tôi tự vấn lương tâm không điều gì đáng hổ thẹn, có đất trời chứng giám. Việc các hạ muốn biết, xin tha thứ lão thân không thể cáo tri được.

Mấy câu nói của bà ta nghe ra có vẻ khách khí, nhưng lời như chém đinh chặt sắt, nhất định cách nào cũng không thể nói ra.

Triệu Tiền Tôn vui mừng nói:

- Tiểu Quyên, đa tạ nàng, đa tạ nàng.

Kiều Phong biết rằng có bức bách thêm cũng không ích lợi gì, hừ một tiếng, rút chiếc trâm ngọc trên đầu Đàm bà, nhảy ra khỏi khoang thuyền chạy trở về hướng thành Vệ Huy để tìm nơi ở của Đàm công. Ông hóa trang nên không ai nhận ra, Đàm công, Đàm bà ngụ tại Như Quy khách điếm, hỏi là biết ngay.

Vào đến khách điếm thấy Đàm Công chắp tay sau lưng ở trong phòng đi qua đi lại xem ra cực kỳ bồn chồn. Kiều Phong đưa tay ra, lòng bàn tay là chiếc ngọc thoa của Đàm bà.

Từ lúc thấy Triệu Tiền Tôn đi theo như hình với bóng đến Vệ Huy, Đàm công trong dạ chẳng an, đến lúc này lại thấy vợ mình đi đâu lâu quá đang lo, không hiểu bà ta đang ở chỗ nào, bây giờ thấy cây trâm của Đàm bà, vừa mừng vừa lo bèn hỏi:

- Các hạ là ai? Có phải chuyết kinh nhờ các hạ đến đây chăng? Không biết có điều chi dạy bảo?

Nói rồi đưa tay cầm chiếc trâm ngọc. Kiều Phong để ông ta lấy chiếc thoa rồi mới nói:

- Tôn phu nhân bị người ta bắt giữ, nguy tại khoảnh khắc.

Đàm công cực kỳ kinh hoảng nói:

- Chuyết kinh võ công cũng khá, sao lại dễ dàng bị người ta bắt giữ được?

Kiều Phong đáp:

- Ấy là Kiều Phong.

Đàm công nghe thấy tên “Kiều Phong” không còn nghi ngờ gì nữa, lại càng băn khoăn lo lắng vội hỏi:

- Kiều Phong ư? Ôi chao, nếu quả là y thì phiền quá, nội nhân ta ... ta đang ở chỗ nào?

Kiều Phong đáp:

- Các hạ muốn tôn phu nhân sống cũng thật dễ dàng, mà muốn bà ta chết thì cũng không khó.

Đàm công tính tình trầm ổn, trong bụng tuy lo nhưng vẻ mặt vẫn bình thản như không hỏi lại:

- Xin được thỉnh giáo.

Kiều Phong nói:

- Kiều Phong có một việc muốn hỏi Đàm công, nếu như ông cứ sự thực mà nói lập tức thả tôn phu nhân ra, không để tổn hại một sợi tóc, còn như các hạ không chịu nói thì chỉ còn nước xử tử bà ta đem thi thể tôn phu nhân với thi thể Triệu Tiền Tôn chôn chung hai người một huyệt.

Đàm công nghe câu cuối cùng làm sao còn nhịn được nữa, rống lên một tiếng, vung chưởng đánh vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong nghiêng người hơi lùi lại một chút, chưởng đó liền không đánh trúng. Đàm công hoảng hốt, nghĩ thầm chưởng của mình nhanh như ánh chớp, cực kỳ ghê gớm, y chỉ nhẹ nhàng tránh được dễ dàng, lập tức chưởng bên phải đánh xéo qua đồng thời tả chưởng tạt ngang.

Kiều Phong thấy trong phòng chật hẹp không dễ gì tránh né được, liền gồng tay phải lên chịu đòn. Nghe bịch một tiếng, chưởng đó đánh trúng tay ông, Kiều Phong không nhúc nhích, tay liền vươn qua giữ chặt đầu vai ông ta đè ông ta xuống.

Đàm công lập tức cảm thấy vai mình như phải vác một tảng đá nghìn cân vội vàng vận kình phản kháng nhưng đầu vai như đụng phải một ngọn núi, xương sống kêu lách cách liên hồi tưởng chừng muốn gãy, chỉ còn nước khuỵu đầu gối chứ không làm gì khác hơn được. Ông hết sức vùng lên nhất định không chịu khuất phục, nhưng không cách nào hít thêm một hơi, hai đầu gối bải hoải, đành phải gục xuống. Việc quì xuống nào phải ý ông ta đâu có điều đầu gối, khớp xương không còn hơi sức, bị áp lực nặng nề từ trên ấn xuống không khuất tất thì không xong.

Kiều Phong có ý định làm nhụt ngạo khí của ông ta nên tuy đã bị buộc lòng quì xuống rồi nhưng sức đè xuống không thôi, tới lúc lưng cong như cánh cung, trán chạm đất. Đàm công mặt mày đỏ ké, cố vùng vẫy, đem hết sức lực bung người lên. Đột nhiên Kiều Phong buông tay ra, sức nặng nghìn cân trên vai Đàm công biến mất, ông ta xuất kỳ bất ý, thu thế không kịp, lập tức nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, nghe bình một tiếng đầu đã đụng vào xà nhà khiến cây gỗ gãy ra làm đôi.

Đàm công từ trên không rơi xuống, Kiều Phong không để ông ta chạm đất, vươn tay phải ra, chộp ngay ngực. Cánh tay Kiều Phong thật dài, Đàm công người nhỏ thó, dù cố đấm đá cũng không sao đụng được vào đối phương, huống chi ông ta hai chân bông bênh lơ lửng, dẫu võ công cao siêu bậc nào cũng không sử dụng được, trong cơn nguy cấp chợt hiểu ra kêu lên:

- Thì ra ngươi chính là Kiều Phong.

Kiều Phong đáp:

- Dĩ nhiên là ta rồi!

Đàm công giận dữ nói:

- Ngươi ... ngươi ... con mẹ ngươi chứ, mắc mớ gì lại dính dáng cả thằng khốn kiếp Triệu Tiền Tôn?

Ông ta giận nhất là câu đem Đàm bà giết rồi sẽ đem chôn chung với xác Triệu Tiền Tôn. Kiều Phong nói:

- Mụ vợ ngươi muốn dính dáng đến y thì có liên can gì đến ta đâu? Ngươi có muốn biết Đàm bà lúc này đang ở đâu không? Có muốn biết bà ta đang ỷ eo tình thoại, hát xướng tình ca với ai không?

Đàm công nghe nói thế, đoán chừng vợ mình đang cùng với Triệu Tiền Tôn tại một nơi, không thể không làm cho ra đầu ra đũa liền nói:

- Mụ ta ở đâu? Xin ông dẫn ta đến.

Kiều Phong cười khẩy:

- Thế ngươi làm gì cho ta chưa? Tại sao ta lại phải dẫn ngươi đi chứ?

Đàm công nhớ lại câu nói của ông hồi nãy bèn hỏi:

- Ông bảo có chuyện muốn hỏi ta, thế là chuyện gì?

Kiều Phong đáp:

- Hôm trước ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích Từ trưởng lão có mang lại một lá thư, viết gửi bang chủ tiền nhiệm Cái Bang Uông Kiếm Thông, lá thư đó do ai viết thế?

Đàm công chân tay run rẩy, lúc này y bị Kiều Phong xách lên, thân thể lơ lửng, đối phương chỉ cần nhả nội lực lập tức giết chết y ngay. Thế nhưng bản tính y trời sinh lì lợm, bèn nói:

- Người đó có thù giết cha ngươi, ta nhất quyết không thể tiết lộ tính danh, nếu không ngươi thể nào cũng kiếm để báo thù, thế có phải là ta hại mạng ông ấy hay sao?

Kiều Phong nói:

- Nếu ngươi không nói thì ta lấy mạng mi trước.

Đàm công cười ha hả nói:

- Ngươi coi Đàm mỗ là hạng người nào? Bộ ta tham sống sợ chết, bán rẻ bạn bè hay sao?

Kiều Phong nghe ông ta cố gắng bảo toàn nghĩa khí, trong bụng kính phục, nếu phải chuyện khác ông nhất quyết không truy bức làm gì, thế nhưng thù giết cha mẹ đâu phải tầm thường bèn nói:

- Nhà ngươi không coi mạng mình vào đâu, đến tính mạng vợ cũng chẳng đoái hoài hay sao? Đàm công Đàm bà thanh danh trôi theo dòng nước, tất cả mọi người cười chê không lẽ không sợ?

Trong võ lâm thanh danh là quan trọng nhất, tiếng tăm nặng hơn thân thể, ấy là sự thường tình của giang hồ hảo hán. Đàm công nghe mấy câu đó bèn nói:

- Đàm mỗ ngồi không nghiêng ngả, đứng chẳng vẹo xiêu, bình sinh chưa từng làm chuyện không hay không phải với bạn bè, làm gì có chuyện “thanh danh trôi theo dòng nước, tất cả mọi người cười chê ” được?

Kiều Phong thản nhiên nói:

- Thế nhưng Đàm bà chưa hẳn đã “ngồi không nghiêng ngả, đứng chẳng vẹo xiêu”, còn Triệu Tiền Tôn chắc gì “chưa từng làm chuyện không hay không phải với bạn bè”.

Đàm công mặt liền đỏ ké, tiếp theo đổi thành xanh lè, trừng mày trợn mắt hầm hầm nhìn ông. Kiều Phong buông tay, vứt ông ta xuống đất, quay mình chạy đi. Đàm công không nói một lời lẽo đẽo chạy theo, hai người một trước một sau chạy ra khỏi thành Vệ Huy. Trên đường không ít giang hồ hào khách nhận ra Đàm công, ai nấy cung kính nhường đường cúi chào. Đàm công chỉ ậm ừ một tiếng rồi chạy vụt qua. Chẳng mấy chốc hai người đã đến bên chiếc thuyền gỗ.

Kiều Phong tung mình nhảy lên đầu thuyền, chỉ vào bên trong nói:

- Tự mình ông đến xem cho rõ.

Đàm công liền lên thuyền, nhìn vào trong khoang, thấy vợ mình và Triệu Tiền Tôn tựa vào nhau, nép ở một góc, giận không sao nhịn nổi, phát chưởng nhắm ngay đầu Triệu Tiền Tôn đánh tới, nghe bùng một tiếng. Triệu Tiền Tôn không động đậy, không trả đòn, cũng không né tránh.

Bàn tay Đàm công đụng vào đầu y rồi, thấy có điều không xong, vội vàng đưa tay sờ vào mặt vợ, thấy lạnh ngắt, thì ra Đàm bà đã chết từ bao giờ. Đàm công run bắn người nhưng chưa thoái chí, liền đưa tay thăm mũi bà ta nhưng cũng có còn chút hơi thở nào đâu? Ông ta ngơ ngẩn, đưa tay sờ trán Triệu Tiền Tôn thấy cũng lạnh như băng, bi phẫn khôn tả, hầm hầm nhìn Kiều Phong, mắt như muốn tóe lửa.

Kiều Phong thấy đột nhiên cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn đều chết, cũng thật lạ lùng vô cùng. Khi ông rời thuyền để vào thành chỉ điểm huyệt hai người, sao hai cao thủ lại chết một cách thật bất ngờ như thế?

Ông nhắc Triệu Tiền Tôn lên, xem qua không thấy trên người có vết thương nào cả, cũng không có vết máu, liền nắm ngay áo trên ngực y nghe soẹt một tiếng, cởi tung ra thấy một vết bầm thật lớn, hiển nhiên đã bị chưởng lực thật mạnh. Lạ lùng nhất là vết tay kẻ dùng trọng thủ giống hệt bàn tay ông.

Đàm công ôm Đàm bà lên, xoay lưng lại, cởi áo bà ta ra xem vết thương trên ngực thấy cũng y hệt Triệu Tiền Tôn. Ông ta muốn khóc nhưng không lấy đâu ra nước mắt, nghiến răng nói với Kiều Phong:

- Ngươi mặt người dạ thú, độc ác đến thế sao.

Kiều Phong trong lòng kinh ngạc, không biết phải nói sao chỉ nghĩ: “Không biết ai đã dùng trọng thủ đánh chết Đàm bà và Triệu Tiền Tôn? Kẻ hạ thủ công lực thâm hậu, không phải tầm thường, không lẽ cũng chính là kẻ đối đầu với mình hay sao? Thế nhưng làm sao y lại biết hai người này đang ở trên thuyền?”.

Đàm công đau lòng vì người vợ yêu chết thảm, vận kình vào hai cánh tay hết sức xông vào Kiều Phong. Kiều Phong tránh qua một bên chỉ nghe một tiếng lách cách thật lớn, chưởng lực của Đàm công đã đánh sạt một bên khoang. Kiều Phong liền vươn tay chộp lấy đầu vai ông ta nói:

- Đàm công, phu nhân của ông không phải do ta giết, ông tin hay không nào?

Đàm công hỏi lại:

- Không phải ngươi thì còn ai bây giờ?

Kiều Phong nói:

- Trong lúc này mạng ông ở trong tay ta, Kiều mỗ nếu như muốn giết thật dễ như trở bàn tay, ta nói láo ông làm gì?

Đàm công nói:

- Ngươi chỉ vì muốn tra xét cho rõ kẻ giết cha ngươi là ai, Đàm mỗ tuy võ công không bằng ngươi thật nhưng đâu có để ngươi coi như thằng ngu?

Kiều Phong nói:

- Được rồi, ông nói tên kẻ thù giết cha cho ta nghe, ta sẽ đảm nhận trọng trách báo thù kẻ giết vợ cho ông.

Đàm công cười sặc sụa, cố sức vận kình ba lần muốn thoát khỏi bàn tay đối phương, thế nhưng bàn tay Kiều Phong chỉ nhẹ nhàng đè xuống tùy theo kình mà biến hóa, sức giãy giụa của Đàm công tuy mạnh thật nhưng đối phương cũng theo đó mà mạnh theo, trước sau vẫn không cách nào ra được. Đàm công đã quyết chí, bèn thè lưỡi để giữa hai hàm răng, cắn mạnh một cái cho đứt đầu lưỡi, mồm ngậm đầy máu phun thẳng vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong vội vàng tránh qua một bên, Đàm công liều xông tới, giơ chân hất cái xác của Triệu Tiền Tôn qua một bên, hai tay ôm xác Đàm bà, đầu ngoẹo xuống, tắt thở chết ngay.

Kiều Phong thấy cái thảm trạng đó, trong lòng bồi hồi không khỏi có chút xót xa. Vợ chồng họ Đàm và Triệu Tiền Tôn tuy không phải chính tay ông giết, nhưng cũng vì ông mà chết. Nếu muốn hủy diệt thi thể, vết tích ông chỉ cầm dậm chân một cái, đạp vỡ đáy thuyền, chiếc thuyền sẽ chìm xuống đáy sông nhưng nghĩ lại: “Nếu ta dấu ba cái xác này đi chẳng hóa ra có tật giật mình hay sao?”.

Ông đi ra khỏi khoang thuyền trở lên bờ định tìm xem có dấu chân hay manh mối gì chăng, nhưng không thấy gì cả.

Ông rảo bước chạy về khách điếm, A Châu vẫn đứng ngoài cửa trông chờ, thấy ông bình yên trở lại mừng rỡ ra mặt, nhưng thần tình bất định, biết ngay đuổi theo Triệu Tiền Tôn và Đàm bà chẳng được tích sự gì, hạ giọng hỏi nhỏ:

- Thế nào rồi?

Kiều Phong đáp:

- Chết hết!

A Châu hơi kinh ngạc nói:

- Cả Đàm bà lẫn Triệu Tiền Tôn?

Kiều Phong đáp:

- Luôn cả Đàm công nữa, cả thảy ba người.

A Châu lại tưởng do tay ông giết, trong bụng tuy không yên nhưng không tiện buông lời trách cứ, bèn nói:

- Triệu Tiền Tôn có nhúng tay vào việc làm chết cha đại gia, có giết cũng ... cũng không đến nỗi gì.

Kiều Phong lắc đầu:

- Không phải ta giết đâu.

A Châu thở ra nói:

- Nếu không phải ông giết thì tốt lắm. Thiếp vẫn nghĩ rằng Đàm công, Đàm bà chưa từng làm gì đắc tội với đại gia có tha cũng được, thế nhưng ai giết thế?

Kiều Phong lắc đầu:

- Ta cũng không biết.

Ông bấm ngón tay tính toán rồi nói:

- Biết được tên của chính phạm cự ác kia bây giờ chỉ còn có ba người. Mình làm gì phải làm cho nhanh, đừng để kẻ kịch ra tay trước, việc gì mình cũng vào thế hạ phong.

A Châu đáp:

- Đúng thế, Mã phu nhân hận ông tận xương tủy, dù có cách nào cũng không chịu nói ra đâu. Huống chi dồn ép một quả phụ đâu phải là hành vi của một đại trượng phu. Còn chùa của Trí Quang hòa thượng ở tận Giang Nam, thôi mình đi tới Thái An đất Sơn Đông tìm nhà họ Đơn vậy.

Ánh mắt Kiều Phong tỏa ra một vẻ thương xót nói:

- A Châu, mấy hôm nay nàng quả là cực khổ.

A Châu lớn tiếng gọi:

- Chủ quán đâu, mau tính tiền.

Kiều Phong ngạc nhiên nói:

- Sáng mai tính tiền cũng chưa vội.

A Châu đáp:

- Không nên, tối nay đi luôn suốt đêm, đừng để cho kẻ địch lần nào cũng nhanh chân một bước.

Kiều Phong trong lòng cảm kích, gật đầu. Trời tối hai người ra khỏi thành Vệ Huy, trên đường đã nghe người ta đồn xôn xao về chuyện tên ác ma Kiều Phong hạ độc thủ, giết chết vợ chồng Đàm công và Triệu Tiền Tôn. Những người đó khi nói chuyện, mắt lấm lét nhìn quanh, chỉ sợ Kiều Phong bất thần xuất hiện, có biết đâu ông ta ở ngay bên cạnh, nếu như muốn ra tay thì y làm gì mà trốn tránh nổi.

Hai người trên đường thay đổi ngựa, ngày đêm liên tục chạy thẳng về hướng đông. Đi khoảng hai ngày đường, tuy A Châu chẳng hề thở ra một chữ “mệt” nào nhưng mắt nhắm mắt mở ngồi trên yên, suýt ngã mấy lần. Kiều Phong thấy nàng không còn chịu nổi nữa, nên bỏ ngựa đi xe. Hai người ngồi trên xe ngủ được ba bốn giờ, thấy đã đủ lại bỏ xe đi ngựa, hết sức chạy. Cứ thế không ngừng, A Châu vui vẻ nói:

- Lần này nhất định “tên đại ác” kia không thể nhanh hơn mình được.

Cả nàng lẫn Kiều Phong đều không biết kẻ địch là ai, mỗi khi nhắc đến người đó đành gọi là “tên đại ác”. Thế nhưng trong bụng Kiều Phong vẫn canh cánh lo, thấy "tên đại ác" này lần nào cũng nhanh hơn mình một bước, võ công y cũng không kém gì mình, cơ trí mưu lược lại còn hơn xa, huống chi tới giờ phút này mình vẫn như ở trong mây, chưa nhìn ra đường hướng gì còn mình làm gì kẻ địch đều biết rõ. Trong đời ông, chưa bao giờ gặp một đối thủ lợi hại như vậy. Có điều kẻ địch càng mạnh, ông vẫn hào khí ngất trời không chút hãi sợ gì cả.

Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính ở ngoài thành phía đông của Thái An, Sơn Đông, nơi đây ai cũng biết cả. Kiều Phong và A Châu đến Thái An thì trời đã về chiều, hỏi kỹ nhà họ Đơn rồi lập tức băng ngang thành đi tới. Ra khỏi cửa đông chừng một dặm bỗng thấy khói bốc mịt trời, xem ra có chỗ nào đang cháy rồi có tiếng thanh la đánh vang dậy, văng vẳng có tiếng người kêu:

- Xách nước mau lên! Xách nước mau lên! Mau cứu hỏa!

Kiều Phong cũng không để ý, tiếp tục giục ngựa chạy càng lúc càng gần đám cháy. Chỉ nghe tiếng người la lối:

- Cứu hỏa mau, cứu hỏa mau, Thiết Diện Đơn gia đó!

Kiều Phong và A Châu hoảng hốt, cùng ghìm cương lại, đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm: “Không lẽ "tên đại ác" lại đi trước một bước?”. A Châu an ủi:

- Đơn Chính võ công cao cường, dẫu nhà có cháy cũng không đến nỗi chết ở trong đó.

Kiều Phong lắc đầu. Từ khi ông giết chết Đơn thị nhị hổ, kết oán với nhà họ Đơn cực kỳ sâu xa, lần này đến Thái An, tuy không có ý giết người nhưng biết chắc Đơn Chính và con cháu nhất định không bỏ qua, thể nào cũng một phen đại chiến. Ngờ đâu chưa đến được trang viện, đối phương đã bị hỏa tai, trong lòng không khỏi cảm thấy bùi ngùi.

Càng gần Đơn gia trang càng thấy nóng hắt vào mặt, ánh lửa bốc lên lem lém, quả là một đám cháy to. Khi đó dân chúng quanh vùng đã cùng chạy tới chữa lửa, kẻ thì tạt nước, người thì đổ cát. Cũng may chung quanh Đơn gia trang đều có hào sâu nên dân chúng lân cận không bị cháy lây.

Kiều Phong và A Châu chạy đến bên hỏa trường liền xuống ngựa đứng xem. Bỗng nghe một hán tử than thở:

- Đơn lão gia là người tử tế, ở đây cứu tế chẩn bần, mấy chục năm nay tích biết bao công đức, thế mà nhà cháy đã đành, toàn gia hơn ba chục người không một ai chạy được?

Một người khác đáp:

- Chắc là kẻ thù phóng hỏa, đóng chặt cửa không cho ai chạy ra. Nếu không phải thế, đến đứa trẻ lên năm trong nhà họ Đơn cũng biết võ, lẽ nào lại không chạy được?

Người lúc trước bèn nói:

- Nghe nói Đơn đại gia, Đơn nhị gia, Đơn ngũ gia ở Hà Nam bị một tên ác tặc là Kiều Phong giết hại, lần này đến đốt nhà, chẳng phải tên đại ác đó thì còn đứa nào?

A Châu và Kiều Phong khi nói chuyện nhắc tới kẻ đối đầu đã gán cho y cái tên "tên đại ác" lúc này lại nghe những người nhà quê cũng gọi mình là "tên đại ác" nên không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Người tuổi trẻ hơn nói:

- Lẽ dĩ nhiên là Kiều Phong rồi.

Y nói đến đây chuyển sang thì thầm:

- Hẳn là y đưa một đám thủ hạ xông vào trang viện, giết sạch cả nhà họ Đơn không chừa con gà con chó. Ôi, trời xanh quả là không có mắt.

Người lớn tuổi hơn nói:

- Tên Kiều Phong kia tác ác đa đoan, mai sau thể nào chết thảm gấp trăm lần các vị đại gia nhà họ Đơn.

A Châu nghe bọn họ rủa Kiều Phong, trong bụng tức lắm, giơ tay vỗ vào cổ ngựa một cái, con ngựa giật mình, chân trái phóng ra, đá ngay vào mông gã kia. Gã đó kêu lên một tiếng, ngã sấp xuống. A Châu nói:

- Ngươi mồm miệng nói láo lếu gì thế?

Gã đó bị ngựa đá trúng, nghĩ đến thủ hạ "tên đại ác" kia hẳn là đông lắm, sợ đến mất vía không dám hó hé gì vội vàng lỉnh mất. Kiều Phong mỉm cười nhưng đầu mày cuối mắt có vài phần buồn bã, cùng A Châu chạy đến bên đám cháy. Họ nghe thấy mọi người xì xào bàn tán cùng một giọng, đều nói nhà họ Đơn già trẻ lớn bé hơn ba chục người không ai thoát chết. Kiều Phong ngửi thấy mùi xác người bị thiêu khét lẹt từ trong đám lửa bốc ra biết là những lời đó không sai, cả nhà Đơn Chính chết cháy cả.

A Châu khẽ nói:

- "Tên đại ác" này quả là độc địa, giết cha con Đơn Chính thì đã đành, sao lại phải giết toàn gia? Việc gì mà đốt luôn cả trang viện?

Kiều Phong hừ một tiếng nói:

- Cái đó gọi là nhổ cỏ nhổ tận rễ. Nếu là ta thì ta cũng đốt cả nhà.

A Châu kinh hãi hỏi lại:

- Sao thế?

Kiều Phong đáp:

- Tối hôm đó ở trong rừng hạnh, Đơn Chính có nói mấy câu, chắc nàng cũng có nghe. Ông ta nói: “Trong nhà tôi còn giữ mấy phong thư của vị "đàn anh đứng đầu", đem ra so nét chữ quả đúng thật”.

A Châu thở dài:

- Đúng đó, y đã tính nếu giết Đơn Chính vẫn e ngại đại gia vào trong Đơn gia trang kiếm ra được mấy phong thư đó thì có thể biết được tính danh của người này. Một bó lửa đốt cháy rụi Đơn gia trang thì chẳng thư tín nào còn lưu lại được nữa.

Khi đó người đến chữa lửa mỗi lúc một đông nhưng hỏa thế đang lớn, từng thùng từng thùng nước dội vào, chỉ khoảnh khắc đã thành hơi nước bốc đi đâu có dập tắt được. Từng đợt lửa và hơi nóng bốc ra thổi dạt mọi người lùi lại. Đám đông một mặt thở than, một mặt chửi rủa Kiều Phong, dân nhà quê ăn nói thô tục thật là khó nghe.

A Châu sợ Kiều Phong nghe những lời nhục mạ vô lý đó, cơn thịnh nộ nổi lên lại mở một trường sát giới thì thật là thê thảm cho đám dân đen nên len lén nhìn ông, thấy mặt ông cực kỳ quái dị, dường như thương tâm mà cũng dường như ăn năn nhưng xem chừng thương xót nhiều hơn, tưởng chừng biết rằng đám dân quê ngu dốt không đáng giết. Chỉ nghe ông thở dài một tiếng, thản nhiên nói:

- Thôi mình đi Thiên Thai Sơn.

Ông đề cập đến núi Thiên Thai âu cũng là chuyện chẳng đừng. Trí Quang đại sư tuy năm xưa có tham gia chiến dịch giết hại cha mẹ ông nhưng về sau đại phát tâm nguyện đi đến những vùng đất xa lạ lấy các loại vỏ cây đem về làm thuốc chữa trị cho dân chúng hai vùng Chiết Mân Lưỡng Quảng bị chướng khí sốt rét, cứu sống vô số người, chính ông vì thế mà nhiễm trọng bệnh khi khỏi rồi võ công mất sạch. Hành động tế thế cứu nhân đó trên giang hồ ai ai cũng kính phục, nhắc đến Trí Quang đại sư đều gọi là “Vạn Gia Sinh Phật”, Kiều Phong không vì bất đắc dĩ thì không bao giờ đến gây chuyện với ông ta.

Hai người rời Thái An tìm đường đi xuống phía nam. Lần này Kiều Phong không cố gắng chạy thục mạng, nghĩ thầm nếu như mình cứ nhẩn nha mà đi, không chừng lại bảo tồn được tính mạng Trí Quang đại sư, còn như hết sức chạy cho nhanh, khi đến núi Thiên Thai lại chỉ thấy xác ông nằm đó mà thôi, cả cái miếu ông đang trụ trì có khi cũng bị đốt thành tro rồi. Huống chí Trí Quang ngao du vô định, vân du bốn biển chắc gì đang ở tại Thiên Thai Sơn.

Núi Thiên Thai ở Triết Đông, hai người từ Thái An xuôi nam, lần này đi thong thả, chẳng khác gì du sơn ngoạn thủy, vừa đi vừa đàm luận những chuyện lạ trên giang hồ, nếu trong bụng không khắc khoải thì quả là một chuyến du hành kỳ thú.

Hôm đó đi đến Trấn Giang, hai người lên chùa Kim Sơn thưởng lãm phong cảnh. Kiều Phong nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy mãi về hướng đông, bỗng chợt nghĩ ra một việc nói:

- Không chừng gã "đàn anh đứng đầu" và "tên đại ác" là một.

A Châu đập tay nói:

- Đúng rồi, vậy mà sao mình không nghĩ tới chuyện đó nhỉ?

Kiều Phong nói:

- Cũng có thể đây là hai người nhưng nhất định họ phải có liên hệ với nhau thật mật thiết, nếu không "tên đại ác" không thể nào dùng thiên phương bách kế để che đậy thân phận cho tên "đàn anh đứng đầu". Thế nhưng đến những người như Uông bang chủ cũng còn đi theo thì tên "đàn anh đứng đầu" kia phải là một nhân vật ghê gớm lắm, cả "tên đại ác" cũng phải như vậy. Trên đời này làm gì có được hai cao nhân mà ta lại không biết được một? Cứ như thế mà suy ra, hai người này phần lớn cũng là một người mà thôi. Chỉ cần giết được "tên đại ác" là coi như ta đã trả xong mối thù giết cha giết mẹ rồi.

A Châu gật đầu khen phải, nói tiếp:

- Kiều đại gia, đêm hôm đó nơi rừng hạnh người ta kể lại chuyện ngày xưa, chỉ sợ ... chỉ sợ ...

Nàng nói tới đây, giọng hơi run run. Kiều Phong tiếp lời:

- Chỉ sợ "tên đại ác" cũng có mặt trong khu rừng hạnh chứ gì?

A Châu run run đáp:

- Đúng vậy. Hôm ở khu rừng hạnh Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính nói là trong nhà ông ta có giữ mấy lá thư của "đàn anh đứng đầu" thành ra toàn gia mới bị đốt cháy rụi ... Ôi, thiếp nghĩ lại chuyện này sao ớn quá.

Nàng hơi run, nép vào một bên Kiều Phong. Kiều Phong nói:

- Người này tâm tính độc ác, trên đời khó gặp. Triệu Tiền Tôn thà chịu thân bại danh liệt, không chịu thổ lộ chân tướng của y, Đơn Chính cũng giao hảo với y, vậy mà y vẫn đang tâm hạ độc thủ cả hai người. Đêm đó nơi rừng hạnh, làm gì có nhân vật nào lợi hại đến thế?

Ông suy nghĩ một chút nói tiếp:

- Còn một chuyện nữa mà ta nghĩ cũng thấy lạ.

A Châu hỏi:

- Chuyện gì thế?

Kiều Phong nhìn chiếc thuyền buồm trên sông nói:

- "Tên đại ác" thông minh mưu trí chỗ nào cũng hơn ta một bực, nói đến võ công, xem ra cũng chẳng kém gì ta. Nếu y muốn lấy mạng ta, e rằng cũng không lấy gì là khó. Thế sao y lại còn sợ ta biết được kẻ thù là ai?

A Châu nói:

- Kiều đại gia, ông cũng đừng có quá khiêm tốn. "Tên đại ác" kia tuy võ công cao siêu thật, nhưng thực ra sợ ông đòi mạng. Thiếp đoán rằng mấy ngày nay y trong lòng nơm nớp, sợ đại gia biết được y là ai đến báo thù. Nếu không y việc gì phải giết ông bà Kiều lão, rồi đến Huyền Khổ đại sư, Triệu Tiền Tôn, Đàm bà và toàn gia Thiết Diện Phán Quan nữa.

Kiều Phong gật đầu nói:

- Có lẽ là như thế.

Ông quay sang mỉm cười nhìn nàng nói:

- Thế nhưng nếu y không dám đến hại ta, cũng chẳng dám đến gần nàng nữa, nàng đừng sợ.

Một lát sau ông thở dài:

- Gã này tính toán quả là ghê gớm. Kiều mỗ thật uổng xưng mình là anh hùng, bị người ta đùa dỡn ngay trên đầu mà chẳng làm gì được ai!

Sau khi qua khỏi Trường Giang, chẳng mấy chốc đã vượt sông Tiền Đường, đến huyện Thiên đài. Kiều Phong và A Châu nghỉ lại một đêm ở khách điếm. Sáng hôm sau vừa trở dậy, đang định hỏi thăm đường lên núi Thiên Thai thì người chưởng quĩ lật đật tiến vào nói:

- Kiều đại gia, có một vị sư phụ ở Chỉ Quán thiền tự trên núi Thiên Thai xin được bái kiến.

Kiều Phong kinh hãi vì khi ông thuê phòng đã thuận miệng nói mình họ Quan, bèn hỏi lại:

- Sao ngươi lại gọi ta Kiều đại gia là sao?

Gã chưởng quĩ đáp:

- Sư phụ chùa Chỉ Quán tả hình dáng Kiều đại gia không sai chút nào.

Kiều Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau đều cảm thấy hơi khác lạ, hai người vốn đã hóa trang, không hoàn toàn giống như khi ở Thái An Sơn Đông vậy mà khi tới Thiên Thai đã bị người ta nhận ra ngay. Kiều Phong nói:

- Thôi được, mời ông ta vào đây.

Chưởng quĩ quay mình đi ra, chẳng bao lâu đưa vào một nhà sư lùn mập tuổi chừng ba mươi. Nhà sư đó chắp tay chào Kiều Phong nói:

- Gia sư thượng Trí hạ Quang sai tiểu tăng là Phác Giả đến mời Kiều đại gia và Nguyễn cô nương đến viếng tệ tự.

Kiều Phong thấy đến A Châu họ Nguyễn y cũng biết lại càng ngạc nhiên hỏi lại:

- Không hiểu tại sao sư phụ lại biết được họ của tại hạ?

Nhà sư Phác Giả đáp:

- Gia sư có dặn rằng ở tại khách điếm Khuynh Cái huyện Thiên Thai có một vị Kiều anh hùng và một vị Nguyễn cô nương nên sai tiểu tăng đến đón lên núi. Đây là Kiều đại gia, không biết Nguyễn cô nương đang ở đâu?

A Châu cải trang thành một người đàn ông trung niên nên hòa thượng Phác Giả không nhìn ra lại tưởng Nguyễn cô nương không có ở đây. Kiều Phong lại hỏi:

- Tối hôm qua chúng tôi mới đến đây, làm sao tôn sư lại biết được? Không lẽ tôn sư có tài tiên tri hay sao?

Phác Giả chưa kịp đáp gã chưởng quĩ đã xen vào:

- Lão thần tăng ở Chỉ Quán thiền tự thần thông quảng đại, chỉ bấm ngón tay là biết được Kiều đại gia sắp đến. Chẳng nói gì việc một hai ngày sau mà đến năm trăm nữa việc gì lão nhân gia cũng mười phần biết được sáu bảy.

Kiều Phong biết là Trí Quang đại sư tiếng tăm rất vang dội, dân chúng ngu dốt coi ông như thần thánh nên không muốn nhiều lời nói:

- Thôi để Nguyễn cô nương đi sau cũng được, xin ông đưa hai người chúng tôi lên bái kiến tôn sư trước.

Nhà sư Phác Giả nói:

- Vâng!

Kiều Phong đang toan trả tiền ăn ở gã chưởng quĩ liền nói:

- Đại gia là khách của lão thần tăng ở Chỉ Quán thiền tự đến ở đây, chúng tôi thật là vinh hạnh, vài đồng tiền thuê phòng ăn cơm quả tình không dám nhận.

Kiều Phong nói:

- Như vậy thì xin cám ơn.

Ông nghĩ thầm: “Trí Quang thiền sư thi ân bố đức cho dân chúng, cái mối thù ông ta làm hại cha mẹ mình ta không tính toán tới, chỉ mong ông ta thổ lộ "đàn anh đứng đầu" và "tên đại ác" là ai cũng đủ cho ta mãn nguyện rồi”. Ông lập tức cùng Phác Giả ra khỏi huyện thành đi về hướng núi Thiên Thai.

Núi Thiên Thai phong cảnh thanh u nhưng đường lên núi cheo leo hiểm trở hơi khó đi. Tương truyền Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hán lạc vào núi này gặp tiên đủ biết phong cảnh phải đẹp đẽ là chừng nào, đường lên núi cong queo như rắn bò thật khó mà nhận ra được. Kiều Phong theo sau nhà sư Phác Giả thấy y cước lực thật cứng cỏi nhưng rõ ràng không phải là người biết võ công, nhưng không phải vì thế mà ông không dè chừng, nghĩ thầm: “Đối phương đã biết ta lẽ nào mình lại không phòng bị hơn nữa? Trí Quang thiền sư tuy là bậc cao tăng hữu đức thật, nhưng những người khác có chắc đâu bụng dạ cũng như ông ta”.

Ngờ đâu đường đến chùa Chỉ Quán đều bình an không có chuyện gì xảy ra. Các tự viện trong núi Thiên Thai có chùa Quốc Thanh thiên hạ đều biết tiếng, cao tăng đời Tùy Trí Khải đại sư đã từng tu tại đây phát triển Thiên Thai Tông trở thành một trọng địa của Phật môn suốt mấy trăm năm qua. Tuy nhiên trong võ lâm thì chùa Chỉ Quán lại lừng danh hơn. Kiều Phong vừa thấy hóa ra đây chỉ là một cái miếu nhỏ thật tầm thường, bên ngoài tường vách loang lở, nếu không có nhà sư Phác Giả đưa tới, Kiều Phong và A Châu chắc không thể nào tin nổi đây là ngôi chùa Chỉ Quán tiếng tăm lừng lẫy.

Phác Giả hòa thượng đẩy cửa miếu lớn tiếng nói:

- Sư phụ, Kiều đại gia đã đến rồi đây.

Có tiếng Trí Quang đại sư vọng ra:

- Quí khách từ xa đến mà lão nạp không kịp nghênh tiếp.

Nói xong bước ra ngoài cửa, chắp tay hành lễ.

Kiều Phong trước khi gặp lại Trí Quang vẫn canh cánh lo sợ "tên đại ác" sẽ giết ông ta chặn trước, đến bây giờ thấy mặt mới yên tâm, lập tức cùng A Châu xóa bỏ hóa trang để lộ bộ mặt thật ra tương kiến. Kiều Phong vái một cái thật sâu nói:

- Làm rộn việc thanh tu của đại sư, trong lòng không an chút nào.

Trí Quang nói:

- Thiện tai, thiện tai! Kiều thí chủ, ông vốn là họ Tiêu, tự mình đã biết hay chưa?

Kiều Phong thân hình run rẩy, tuy ông biết mình giòng giống Khất Đan nhưng phụ thân họ gì đến lúc này vẫn mù tịt, bây giờ mới nghe Trí Quang đại sư bảo mình họ Tiêu, tự nhiên lưng đổ mồ hôi lạnh, biết rằng thân thế chân tướng mình từ từ lộ ra, lập tức khom lưng nói:

- Tiểu khả bất hiếu, chính là đến đây để mong đại sư chỉ điểm.

Trí Quang gật đầu nói:

- Mời hai vị ngồi.

Ba người ngồi xuống ghế rồi, Phác Giả liền đem trà lên, nhìn thấy hai người tướng mạo biến cải, A Châu lại thành một người đàn bà nên hết sức ngạc nhiên nhưng vì có sư phụ ngồi đó nên không dám lên tiếng hỏi. Trí Quang nói tiếp:

- Tại thạch bích ngoài Nhạn Môn Quan lệnh tôn lưu lại tự tích, tự xưng họ Tiêu, tên là Viễn Sơn. Trong di văn gọi ông là Phong nhi nên bọn ta giữ nguyên tên đó, chỉ vì gửi Kiều Tam Hòe nuôi dưỡng nên theo họ của y.

Kiều Phong nước mắt ròng ròng, đứng bật dậy nói:

- Tại hạ cho đến tận hôm nay mới biết tên họ thực của phụ thân đều do ân đức của đại sư, vậy xin nhận một lạy này của tại hạ.

Nói xong ông liền phục xuống lạy. A Châu cũng đứng lên. Trí Quang chắp tay đáp lễ nói:

- Hai chữ ân đức nào có xứng đáng.

Quốc tính nước Liêu là Gia Luật, còn hoàng hậu từ xưa đến nay vẫn là họ Tiêu. Họ Tiêu đời đời là họ của hoàng hậu nên công khanh đầy triều, ở nước Liêu rất là quyền thế. Có khi Liêu chúa còn nhỏ tuổi, Tiêu thái hậu chấp chính, Tiêu gia uy thế càng thêm lừng lẫy. Kiều Phong đột nhiên biết mình thuộc dòng một họ lớn của Khất Đan nên trong lòng ngổn ngang trăm mối, đứng xuất thần một hồi, quay sang nói với A Châu:

- Từ nay trở đi ta là Tiêu Phong không còn là Kiều Phong nữa.

A Châu đáp:

- Đúng thế, Tiêu đại gia.

Trí Quang nói:

- Tiêu đại hiệp, tự tích còn lưu lại trên vách đá ngoài Nhạn Môn Quan, chắc là ông đã thấy qua rồi?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Chưa đâu. Tại hạ ra ngoài quan ngoại, vết chữ trên vách đá đã bị ai đó đục mất, không còn chút ngấn tích nào.

Trí Quang thở dài nói:

- Mọi việc đều đã qua, đến tự tích trên vách đá cũng đã đục mất, mấy chục mạng người làm sao có thể cứu sống lại được?

Ông từ tay áo lấy ra một tấm vải cũ cực lớn nói:

- Tiêu thí chủ, đây là bức tự tích tô trên vách đá.

Tiêu Phong trong lòng bồi hồi, cầm lấy mảnh vải, mở ra hóa ra mảnh vải này là do rất nhiều mảnh quần áo rách khâu lại với nhau, chữ nào chữ nấy đều là vết trống ở giữa thành hình chữ trắng, nét bút quái lạ tuy hình dáng trông cũng giống chữ Hán nhưng không đọc được nên biết là chữ Khất Đan. Tuy nhiên nét bút hùng kiện, tưởng như dao đục búa chém, nghe Trí Quang đại sư hôm đó nói rằng, đây là do phụ thân mình khi sắp chết dùng dao khắc thành, nên mắt bỗng mờ đi, nước mắt lã chã rơi xuống, từng giọt từng giọt rơi trên mảnh vải nói:

- Mong được đại sư dịch giải.

Trí Quang đại sư nói:

- Năm xưa bọn ta tô được rồi mới đem nhờ người ở trong Nhạn Môn Quan biết chữ Khất Đan giải thích cho, hỏi mấy người thì ai ai cũng bảo cùng một ý xem ra không phải là sai. Tiêu thí chủ, hàng chữ này nói là: “Phong nhi vừa tròn một năm, ta đưa vợ con đi ăn tiệc ở bên bà ngoại, trên đường đột nhiên gặp phải bọn ăn cướp Nam Triều ...”

Tiêu Phong nghe đến đây trong lòng xót xa, Trí Quang tiếp tục kể:

- ... chỉ chớp mắt, vợ ta bị cướp giết chết nên cũng không muốn sống làm gì. Thụ nghiệp ân sư của ta là người Hán, ta đã từng thề trước mặt sư phụ không giết Hán nhân, ngờ đâu hôm nay giết một lượt hơn mười người, vừa thẹn vừa đau lòng, chết đi còn mặt mũi nào nhìn thấy ân sư được nữa. Tiêu Viễn Sơn tuyệt bút”.

Tiêu Phong nghe Trí Quang dịch xong, cung kính gập mảnh vải tô chữ lại nói:

- Đây là di trạch của tiên nhân Tiêu mỗ, mong đại sư ban cho.

Trí Quang nói:

- Xin nguyện phụng tặng.

Tiêu Phong đầu óc hỗn loạn, nghĩ đến cái đau lòng của phụ thân năm xưa, mới biết việc ông nhảy xuống vực tự tận chẳng phải chỉ vì đau lòng vợ bị giết mà thôi, mà còn là vì đã không vẹn lời thề, giết quá nhiều người Hán nên phải thẹn với sư môn.

Trí Quang chậm rãi thở dài một tiếng nói:

- Lúc đầu bọn ta vẫn tưởng lệnh tôn thống lãnh võ sĩ Khất Đan đến chùa Thiếu Lâm để đoạt kinh văn, đến khi đọc được di văn trên thạch bích này rồi mới biết là một chuyện lầm lẫn, hết sức sai quấy. Lệnh tôn đã quyết chí tự tận không lẽ nào khi sắp chết còn viết lời giả dối đánh lừa người ta. Nếu như ông ta toan đến chùa Thiếu Lâm đoạt kinh, lẽ nào lại mang theo một người vợ không biết chút võ công nào, bế thêm một đứa trẻ vừa đầy năm? Về sau chúng ta tra cứu cái tin đoạt kinh chùa Thiếu Lâm kia, thì ra từ miệng một kẻ nói láo, kẻ đó chủ tâm đùa rỡn "đàn anh đứng đầu" để cho ông ta phải nghìn dặm bôn ba để cho người ta cười một chuyến.

Tiêu Phong nói:

- Ôi, hóa ra chỉ là để đùa cợt mà thôi, gã ăn gian nói dối kia sao lại làm thế?

Trí Quang nói:

- "Đàn anh đứng đầu" tra xét rõ ràng rồi, trong bụng giận lắm nhưng tên nói láo kia đã trốn mất biệt, từ đó đến nay không thấy bóng dáng đâu nữa. Đến nay cũng đã ba mươi năm rồi, chắc y không còn sống trên đời này nữa.

Tiêu Phong nói:

- Đa tạ đại sư đã cho biết mọi việc tiền nhân hậu quả, khiến cho Tiêu Phong được trở lại thành một con người mới. Tiêu mỗ chỉ còn muốn hỏi thêm một việc.

Trí Quang đại sư hỏi:

- Tiêu thí chủ muốn hỏi chuyện gì?

Tiêu Phong hỏi:

- Cái vị "đàn anh đứng đầu" kia là ai thế?

Trí Quang nói:

- Lão nạp nghe nói Tiêu thí chủ chỉ vì muốn tra xét chuyện này mà đã giết chết Từ trưởng lão của Cái Bang, Đàm công, Đàm bà, Triệu Tiền Tôn bốn người, lại giết thêm cả nhà Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính, đốt Đơn gia trang thành bình địa nên biết rằng sớm muộn gì cũng sẽ đến đây. Xin thí chủ chờ một chút, lão nạp sẽ đưa cho thí chủ coi một vật.

Nói xong ông đứng lên. Tiêu Phong đang định nói rõ Từ trưởng lão và những người kia mình không hề giết thì Trí Quang đã đi thẳng vào hậu đường không quay đầu lại. Một lát sau, nhà sư Phác Giả đi vào nhà khách nói:

- Sư phụ mời hai vị vào thiền phòng nói chuyện.

Tiêu Phong và A Châu đi theo y qua một con đường mòn hai bên trồng trúc xanh um, đến trước một căn nhà nhỏ. Phác Giả hòa thượng đẩy cửa ra nói:

- Xin mời!

Tiêu Phong và A Châu liền tiến vào. Trí Quang đại sư ngồi xếp bằng trên một chiếc bồ đoàn, nhìn Tiêu Phong mỉm cười, đưa ngón tay viết lên trên đất mấy hàng chữ. Căn nhà nhỏ này lâu nay không quét dọn nên bụi đóng thật dày thấy ông viết trên đó như sau:

Vạn vật đều là một,

Chúng sinh cũng ngang nhau.

Thánh hiền hay loài vật,

Cùng một khác gì đâu?

Dẫu Hán hay Hồ Lỗ,

Như thật mà như không.

Ân oán và vinh nhục,

Với cát bụi một dòng.

Viết xong ông nở một nụ cười rồi chậm rãi nhắm mắt lại. Tiêu Phong nhìn tám hàng chữ dưới đất, ngơ ngẩn xuất thần nghĩ bụng: “Dưới mắt nhà Phật, người nhân người ác cũng vậy thôi, đến súc sinh ngạ quỉ, vua chúa quan tướng cũng đều không có gì phân biệt. Ta có là người Hán hay là người Khất Đan, chẳng cần phải bàn làm gì. Thế nhưng ta có phải người tu hành đâu, làm sao có thể tiêu sái như vậy được?". Ông bèn nói:

- Đại sư, vậy cái gã "đàn anh đứng đầu" đó là ai? Xin đại sư cho biết.

Ông hỏi luôn mấy câu, Trí Quang đại cư chỉ mỉm cười không trả lời. Tiêu Phong định thần nhìn kỹ, không khỏi giật mình, thấy mặt ông tuy nở một nụ cười nhưng cứng đơ không cử động. Tiêu Phong gọi giật lên hai lần “Trí Quang đại sư” nhưng ông vẫn không động tĩnh gì, vội đưa tay lên thăm mũi thì ra đã ngừng thở viên tịch từ bao giờ. Ông buồn bã không còn biết nói sao, quì xuống lạy mấy lạy, quay sang ngoắc A Châu:

- Thôi mình đi!

Hai người len lén đi ra khỏi chùa Chỉ Quán, lòng buồn rười rượi quay về huyện thành Thiên Thai.

THIÊN LÝ MANG MANG NHƯỢC MỘNG

Ruổi rong muôn dặm đường xa,

Cứ đi mà chẳng biết là đi đâu.

Kẻ thù như thể bóng câu,

Chạy theo chỉ thấy một màu khói sương.

*

* *

Đi được độ mươi dặm, Tiêu Phong mới nói:

- A Châu, ta thật hoàn toàn không có ý làm hại Trí Quang đại sư, sao ông ta ... ông ta ... lại phải khổ đến vậy?

A Châu đáp:

- Vị cao tăng đó đã nhìn thấu mọi việc trên đời, đại triệt đại ngộ đâu có còn phân biệt đâu là sống đâu là chết.

Tiêu Phong nói:

- Nàng thử nghĩ xem làm sao ông ta lại biết chúng mình tìm đường lên chùa Chỉ Quán?

A Châu đáp:

- Thiếp cho rằng ... thiếp cho rằng đây cũng là một việc chính "tên đại ác" kia làm.

Tiêu Phong nói:

- Ta cũng đoán thế, "tên đại ác" kia đã đến cho Trí Quang đại sư hay, bảo là ta đi tìm ông báo thù. Trí Quang đại sư nghĩ là không sao thoát khỏi độc thủ của ta nên sau khi nói chuyện xong liền uống thuốc độc tự tận.

Hai người nhìn nhau một hồi không ai nói thêm câu nào. A Châu bỗng nói:

- Tiêu đại gia, thiếp không biết trước sau, có mấy câu muốn nói, xin đại gia đừng trách cứ.

Tiêu Phong đáp:

- Sao tự nhiên nàng lại khách sáo đến vậy? Ta đương nhiên không trách gì nàng đâu.

A Châu nói:

- Thiếp nghĩ Trí Quang đại sư viết mấy câu trên đất, quả thực hết sức hữu lý. Đúng vậy:

Dẫu Hán hay Hồ Lỗ,

Như thật mà như không.

Ân oán và vinh nhục,

Với cát bụi một dòng.

Đại gia là người Hán thì cũng tốt, mà là người Khất Đan thì cũng vậy, có gì khác đâu? Sống chết nơi đầu đao mũi kiếm ở chốn giang hồ, thiếp nghĩ chắc đại gia cũng chán rồi, chi bằng ra ngoài Nhạn Môn Quan săn bắn, chăn nuôi, bao nhiêu ân oán vinh nhục của Trung Nguyên từ nay không còn ngó ngàng tới nữa.

Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:

- Quả thật cái nghề sinh nhai bằng đầu đao mũi kiếm ta chán lắm rồi. Ra nơi thảo nguyên ngoài biên tái cưỡi ngựa, thả ưng, xua chó đuổi thỏ, từ nay không còn băn khoăn gì nữa thì quả là thoải mái biết bao. A Châu, ta ra ngoài biên tái rồi nàng có còn đến thăm ta nữa không?

A Châu thẹn thùng, cúi đầu nói nhỏ:

- Thì thiếp đã chẳng nói đến “chăn nuôi” đấy ư? Đại gia cưỡi ngựa đi săn, thiếp cũng thả bò chăn cừu.

Nàng nói đến đây bèn cúi gầm mặt xuống. Tiêu Phong tuy là một hán tử thô hào nhưng cái ẩn ý trong mấy câu nói của cô gái cũng đã minh bạch, nàng rõ ràng muốn cùng mình suốt đời sống với nhau ngoài biên tái, không quay về Trung Nguyên nữa.

Tiêu Phong lúc đầu cứu nàng chẳng qua chỉ vì khí khái nhất thời, đến khi nàng tìm đường theo mình ra ngoài Nhạn Môn Quan, rồi qua Vệ Huy, Thái An, Thiên Thai bao nhiêu sóng gió, đường sá xa xôi, ngày đêm kề cận thấy nàng thật là ôn nhu thân thiết, lúc này nghe nàng nói thẳng tấm lòng mình, không khỏi bồi hồi, giơ hai bàn tay thô kệch nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của nàng nói:

- A Châu, em đối với ta thật tốt, chẳng vì ta là giống giòng đê tiện Khất Đan mà bỏ rơi ư?

A Châu đáp:

- Người Hán cũng là người mà Khất Đan cũng là người, làm gì còn có chuyện quí tiện? Thiếp ... thiếp thích người Khất Đan, đó là chân tâm thành ý, không có gì ép uổng cả.

Nàng nói đến những câu sau cùng tiếng chỉ thoảng nhẹ như muỗi kêu dường như không nghe thấy. Tiêu Phong mừng quá, đột nhiên giơ tay chộp ngay lưng nàng, tung nàng lên trên không, đợi khi nàng rơi xuống mới nhẹ nhàng đỡ lấy, để xuống đất, cười tủm tỉm nhìn nàng, lớn tiếng nói:

- A Châu, nàng từ nay theo ta cưỡi ngựa săn bắn, thả cừu chăn bò, sẽ không hối hận chứ?

A Châu nghiêm mặt nói:

- Dẫu có theo đại gia giết người cướp của, đốt nhà ăn trộm thiếp cũng không bao giờ hối hận. Dù phải chịu bao nhiêu khổ sở, trăm cay nghìn đắng, thiếp vẫn vui vẻ theo cùng.

Tiêu Phong dõng dạc nói:

- Tiêu mỗ được như thế này, chẳng nói gì trở lại làm bang chủ Cái Bang, dẫu có bảo ta làm hoàng đế nhà Đại Tống ta cũng chẳng thèm. A Châu, thôi mình đi Tín Dương tìm Mã phu nhân, bà ta chịu nói cũng được, mà không chịu nói cũng đành, đây là người sau cùng mình đi kiếm. Ta chỉ hỏi một câu sau đó hai đứa mình ra ngoài ải bắc săn bắn chăn nuôi.

A Châu nói:

- Tiêu đại gia ...

Tiêu Phong ngắt ngang:

- Từ nay trở đi, nàng không được gọi ta là đại gia, nhị gia gì nữa. Nàng gọi ta là đại ca.

A Châu mặt đỏ bừng nói nhỏ:

- Thiếp đâu có xứng?

Tiêu Phong nói:

- Nàng có chịu gọi không thì bảo?

A Châu mỉm cười:

- Nghìn lần vạn lần chịu, đâu có dám cãi lời.

Tiêu Phong cười nói:

- Vậy nàng gọi thử ta xem nào!

A Châu nói thật nhỏ:

- Đại ... đại ca!

Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Thế mới được! Từ nay về sau Tiêu mỗ không còn một thân một mình, bị người ta khinh bỉ là giống Hồ Lỗ hèn hạ, trên đời này ít ra cũng có một người ... cũng có một người ...

Ông không biết phải nói sao. A Châu tiếp lời:

- ... cũng có một người kính trọng chàng, bội phục chàng, thương yêu chàng, nguyện ý mãi mãi, đời đời kiếp kiếp, ở bên cạnh chàng chia xẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no.

Nàng nói những câu đó cực kỳ thành khẩn. Tiêu Phong cất tiếng cười vang động cả bốn bề sơn cốc, nghĩ đến A Châu nói sẽ cùng mình “chia xẻ đắng cay gian khổ, ấm lạnh đói no” đủ biết nàng hiểu rằng rồi đây sẽ có rất nhiều chông gai nhưng thản nhiên cam chịu không hề hối hận. Ông trong lòng cảm kích tuy mặt ngoài cười cợt nhưng hai dòng lệ chẩy ròng ròng trên má.

Tiền nhiệm phó bang chủ Cái Bang Mã Đại Nguyên ở tại Tín Dương, tỉnh Hà Nam. Tiêu Phong cùng A Châu từ núi Thiên Thai ở Giang Nam đi đến Tín Dương, đường xa nghìn dặm không phải chỉ một ngày là đến được. Hai người từ khi ở núi Thiên Thai ướm lòng với nhau, tình ý dạt dào, nên thả lỏng dây cương để vừa đi vừa thưởng ngoạn những cảnh đẹp làm say sưa lòng người. A Châu vốn dĩ không thích uống rượu nhưng để trợ hứng cho Tiêu Phong nên cũng cố uống hầu tiếp một vài chung khiến má đỏ hồng lại càng thêm xinh đẹp.

Tiêu Phong vốn dĩ bụng đầy phẫn khích nhưng được A Châu nói cười ríu rít, chuyện trò thật duyên dáng nên bao nhiêu phiền não cũng giảm đến quá nửa. Chuyến đi từ Giang Nam ngược lên trung châu, so với lần đi từ Nhạn Môn Quan hối hả chạy qua Sơn Đông tâm tình thật khác hẳn. Tiêu Phong cũng có khi hồi tưởng, chặng đường mấy nghìn dặm này thật quả mơ mơ hồ hồ, lúc đầu là những cơn ác mộng nhưng đến sau lại là một cơn mộng đẹp đến nỗi nếu không có nàng A Châu kiều diễm ở bên mình thì ắt đã nghi rằng chỉ là một giấc mơ.

Hôm đó đi đến Quang Châu, chỉ còn chừng hai ngày đường là đến Tín Dương. A Châu nói:

- Đại ca thử nghĩ xem mình đến hỏi Mã phu nhân thế nào cho tiện?

Hôm đó ở trong khu rừng hạnh và nơi Tụ Hiền Trang, Mã phu nhân thần thái ngôn ngữ thù hằn Tiêu Phong ra mặt, Tiêu Phong tuy không lấy gì làm vui nhưng sau nghĩ lại bà ta chồng chết, lại cho rằng mình giết hại, có oán hận mình thì cũng là chuyện bình thường, nếu không thù hận ấy mới là không hợp lý.

Ông lại nghĩ bà ta là một người đàn bà góa không biết võ công, nếu như uy hiếp bức bách thì quả là mất cái thân phận hào hiệp của mình nên không nghĩ tới việc dùng bạo lực tra hỏi, nay nghe A Châu hỏi thế nên trù trừ không trả lời, ngẩn người ra một hồi rồi đáp:

- Ta nghĩ mình chỉ nên thẳng thắn cầu xin, mong bà ta hiểu rõ sự tình khỏi đổ tiếng oan cho ta giết chồng. A Châu, hay là nàng đến hỏi bà ta đi, được chăng? Nàng mồm miệng lanh lợi, vả lại chỗ đàn bà với nhau. Chỉ sợ một khi Mã phu nhân thấy mặt ta, bụng đầy oán hận là sẽ giở trò ngay.

A Châu tủm tỉm cười:

- Thiếp đã có kế đây nhưng sợ đại ca cho là không hay thôi.

Tiêu Phong vội hỏi:

- Kế gì thế?

A Châu nói:

- Đại ca là đại anh hùng, đại trượng phu không thể bức cung bà ta được, chi bằng để thiếp đến đánh lừa bà ta, được chăng?

Tiêu Phong vui mừng nói:

- Nếu như dụ được bà ta thổ lộ chân tướng thì còn gì hơn. A Châu, chắc nàng cũng biết ta ngày đêm canh cánh, mơ tưởng chuyện được chính tay đâm chết kẻ đại cừu để trả mối thù giết cha. Ta là người Khất Đan, "tên đại ác" kia giúp Kiều mỗ lộ được cái bản lai diện mục của mình, khiến cho ta biết được tổ tông mình là ai, ta phải cảm ơn mới phải. Thế nhưng tại sao y lại giết dưỡng phụ dưỡng mẫu của ta? Giết ân sư của ta? Ép ta phải giết hại bằng hữu, mang cái tiếng ác, biến thành kẻ thù của anh hùng thiên hạ? Nếu ta không băm vằm y ra, thì làm sao yên tâm để cùng nàng ở ngoài biên tái cưỡi ngựa săn thú, chăn bò thả cừu?

Ông càng nói càng lên giọng. Mấy hôm nay tuy thần thái ông không còn u uất như trước, nhưng tấm lòng thù hận "tên đại ác" không vì thế mà giảm được chút nào. A Châu nói:

- "Tên đại ác" kia hại đại ca âm độc như thế, thiếp chỉ mong được chém y mấy nhát cho đại ca hả dạ. Mình bắt được y rồi sẽ tổ chức một anh hùng đại yến, mời tất cả anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, trước tất cả mọi người nói rõ nỗi oan khuất để thanh danh của đại ca được hồi phục.

Tiêu Phong thở dài:

- Cũng chẳng cần phải thế. Ta ở Tụ Hiền Trang giết quá nhiều người, kết oán thù với anh hùng thiên hạ cực sâu xa, cũng chẳng phải cầu ai tha thứ cho mình. Tiêu Phong chỉ mong kết liễu được chuyện này để trong tâm hồn được bình an, sau đó được cùng nàng rong ruổi bên ngoài biên tái, hai đứa mình suốt đời làm bạn với hổ lang bò cừu, không bao giờ gặp lại anh hùng hảo hán Trung Nguyên nữa.

A Châu vui mừng nói:

- Nếu được thế thì quả là tạ trời tạ đất, cầu còn chưa xong.

Nàng mỉm cười nói:

- Đại ca, thiếp định giả làm một người đến đánh lừa để cho Mã phu nhân nói tính danh của "tên đại ác" ra.

Tiêu Phong vỗ đùi kêu lên:

- Đúng đó, đúng đó! Ta không nghĩ ra cách này, thuật cải trang của nàng dùng vào việc này thì trên đời có một không hai. Thế nàng định giả làm ai?

A Châu đáp:

- Cái đó phải hỏi đại ca. Khi Mã phó bang chủ còn tại thế, trong Cái Bang giao thiệp với ai thân thiết nhất thiếp sẽ giả làm người đó, Mã phu nhân tưởng là bạn thân của trượng phu, chắc sẽ không dấu đâu.

Kiều Phong nói:

- Ồ, những người trong Cái Bang thân thiết với Mã Đại Nguyên huynh đệ thì có Vương đà chủ, Toàn Quan Thanh, Trần trưởng lão. Ngoài ra Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính cũng có giao tình rất hậu.

A Châu hừm một tiếng, nghiêng đầu hồi tưởng lại hình mạo thần thái những người đó. Tiêu Phong lại tiếp:

- Mã huynh đệ là người điềm đạm nghiêm cẩn, không phải như ta thích rượu ham vui, ồn ào náo nhiệt. Thành thử bình thời y ít khi cùng ta uống rượu cười đùa. Toàn Quan Thanh, Bạch Thế Kính là những người giống tính y nên thường gặp nhau nghiên cứu võ công.

A Châu nói:

- Vương đà chủ là ai, thiếp không được biết. Trần trưởng lão thì trong cái túi gai chứa toàn rắn rết, thiếp mới thấy đã nổi da gà muốn ói, có giả trang cũng không giống được. Toàn Quan Thanh người cao quá giả làm y phải mất rất nhiều thì giờ, nếu như ở trong nhà Mã phu nhân một hồi lâu để thủng thẳng hỏi cho ra e rằng sẽ bị lộ chân tướng. Chi bằng để thiếp giả là Bạch trưởng lão. Ông ta có nói chuyện với thiếp mấy lần ở Tụ Hiền Trang, học làm ông ta dễ hơn cả.

Kiều Phong mỉm cười:

- Bạch trưởng lão đối với nàng thật tốt, hết lời cầu khẩn Tiết Thần Y trị thương. Nếu như cô lại giả làm ông ta để đi đánh lừa người khác có phải là sai quấy hay không?

A Châu cười nói:

- Thiếp giả Bạch trưởng lão để làm chuyện tốt chứ nào có làm chuyện xấu hại đến thanh danh của ông ta, như thế có sao đâu?

A Châu liền ở trong khách điếm hóa trang ngay. Kiều Phong được A Châu cải trang thành một tên đệ tử Cái Bang năm túi tùy tòng của Bạch Thế Kính, lại dặn ông ta nói càng ít càng tốt, phòng Mã phu nhân là người tinh tế nhìn ra chỗ sơ hở. Tiêu Phong thấy A Châu hóa trang thành Bạch trưởng lão rồi, mặt lạnh như băng, không giận dữ nhưng vẫn có uy, đúng là một vị Chấp Pháp trưởng lão mà mấy vạn đệ tử Cái Bang Nam Bắc ai ai cũng vừa sợ hãi vừa kính trọng, không chỉ hình dáng bên ngoài mà cả lời ăn tiếng nói, thần thái cử chỉ giống hệt Bạch Thế Kính khiến Tiêu Phong giao thiệp thân cận với ông ta cả chục năm mà cũng không nhìn ra chỗ nào không phải. Hai người đến Tín Dương rồi, trên đường mỗi khi gặp anh em trong Cái Bang đều dùng ám ngữ nói chuyện tra hỏi tình hình các nhân vật đầu não trong bang, sau đó thông tri là Bạch trưởng lão đã đến Tín Dương để Mã phu nhân biết tin để bà ta có sẵn ấn tượng trong lòng ngõ hầu A Châu cải trang có gì sai sẩy bà ta cũng không hay biết.

Nhà Mã Đại Nguyên ở ngoại ô phía tây, cách thành Tín Dương chừng ba mươi dặm. Tiêu Phong hỏi thăm đường đi từ các anh em Cái Bang tại địa phương rồi cùng A Châu đến nhà họ Mã. Hai người cố ý đi thong thả để diên trì thời khắc mãi xế chiều mới tới nơi vì e trời sáng mọi việc rõ ràng khiến cải trang dễ bị bại lộ, khi trời tối mọi thứ đều mờ mờ ảo ảo đễ dàng mập mờ đánh lận con đen.

Hai người đến trước nhà họ Mã, chỉ thấy một con rạch nhỏ lượn quanh ba gian nhà ngói, bên cạnh là hai cây thùy dương còn đằng trước là một mảnh đất trống, giống như sân phơi thóc của nhà nông nhưng bốn bên đều có hào sâu. Tiêu Phong biết rõ võ công gia số của Mã Đại Nguyên, biết rằng những hào sâu này là để y luyện công, nhưng nay hai bên âm dương đôi ngả, trong lòng không khỏi se lại. Ông đang toan tiến lên gọi cửa, đột nhiên nghe kẹt một tiếng cửa đã mở toang, một người đàn bà mặc áo sô trắng bước ra, chính là Mã phu nhân.

Mã phu nhân liếc Tiêu Phong một cái, khom lưng hành lễ với A Châu nói:

- Bạch trưởng lão quang lâm hàn xá, quả thực không sao ngờ nổi, xin mời vào dùng trà.

A Châu nói:

- Tại hạ có một việc quan trọng cần thương lượng với đệ muội nên chưa được mời đã đến quấy quả, xin được thứ tội.

Mã phu nhân toàn thân một màu sô gai trắng toát vẻ mặt như cười mà không phải cười, khóe miệng dường như có điều u uẩn. Khi đó mặt trời đã ngả về phía sau núi, phủ lên khuôn mặt nàng một màu vàng vọt. Tiêu Phong lần này gặp lại tâm thần không khích động như hai lần trước thấy nàng độ chừng ba mươi lăm ba mươi sáu, tuy khóe mắt đầu mày đã mờ mờ vết nhăn, mặt không nhồi phấn nhưng nước da trắng nõn không kém A Châu chút nào.

Hai người theo Mã phu nhân vào trong nhà, thấy sảnh đường xem chừng hơi nhỏ, giữa để một cái bàn, chung quanh là bốn chiếc ghế nên chẳng còn trống bao nhiêu. Một bà vú già đem trà lên, Mã phu nhân hỏi đến Tiêu Phong, A Châu thuận mồm bịa ra một cái tên. Mã phu nhân hỏi:

- Bạch trưởng lão đại giá quang lâm, không biết có điều chi dạy bảo?

A Châu đáp:

- Từ trưởng lão qua đời ở Vệ Huy, chắc đệ muội cũng đã nghe rồi.

Mã phu nhân đột nhiên ngẩng đầu lên, ánh mắt lộ vẻ khác lạ nói:

- Dĩ nhiên là tiện thiếp đã biết.

A Châu lại tiếp:

- Bọn ta ai cũng nghi là Kiều Phong hạ độc thủ, sau đó Đàm công, Đàm bà và Triệu Tiền Tôn ba vị tiền bối cũng bị người ta giết bên ngoài thành Vệ Huy, rồi đến Thiết Diện Phán Quan Đơn gia ở Thái An, Sơn Đông bị cháy rụi. Mới đây không lâu, ta đi Giang Nam tra xét một tên đệ tử bảy túi trong bang vi phạm bang qui, trên đường nghe tin Trí Quang lão hòa thượng của chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai cũng đột ngột viên tịch.

Mã phu nhân run lẩy bẩy, mặt biến sắc nói:

- Chuyện ... chuyện đó cũng do Kiều Phong làm hay sao?

A Châu nói:

- Ta đích thân lên chùa Chỉ Quán tìm hiểu tuy không có kết quả gì, nhưng mười phần thì đến tám chín là do Kiều Phong làm, xem ra bước kế tiếp y sẽ đến gây chuyện với đệ muội nên vội vàng đến đây, khuyên đệ muội lánh đi nơi khác một năm sáu tháng để khỏi bị gã họ Kiều làm hại.

Mã phu nhân rưng rưng nước mắt, buồn bã nói:

- Từ khi Mã đại gia bất hạnh bị nạn tới nay, tiện thiếp sống nơi trần thế cũng là kiếp sống thừa, họ Kiều kia muốn hại thì thực cầu còn chưa được, việc gì phải đi đâu tị họa làm chi?

A Châu nói:

- Sao đệ muội lại nói thế? Đại cừu của Mã huynh đệ chưa rửa được, hung thủ còn chưa bắt được thì đệ muội còn phải gánh vác trọng trách trên vai. À, linh vị của Mã huynh đệ ở đâu để ta đến vái lạy một cái.

Mã phu nhân đáp:

- Không dám.

Thế nhưng nàng vẫn dẫn hai người đi vào hậu đường. A Châu lạy trước, Tiêu Phong cũng cung kính đứng trước linh vị khấu đầu, trong bụng khấn thầm: “Mã đại ca chết đi có linh thiêng thì hôm nay cảm ứng vào phu nhân nói ra tính danh chân hung thủ, để ta thay thế đại ca báo thù rửa oan”.

Mã phu nhân quì ờ bên cạnh linh vị hoàn lễ, nước mắt ròng ròng trên má. Tiêu Phong lạy xong rồi, đứng lên thấy trong linh đường có treo mấy bức đối trướng, trong đó có cả của Từ trưởng lão, Bạch trưởng lão nhưng đôi câu đối của mình gửi tới không thấy đâu. Những vuông vải trắng trong linh đường đã tích bụi bặm lại càng làm tăng thêm vẻ thê lương, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mã phu nhân không con không cái, suốt ngày chỉ có một mụ vú già làm bạn, ngày tháng cô khổ tịch mịch thật không biết nói sao cho hết”.

Lại nghe A Châu buông lời khuyên nhủ nào là “Đệ muội bảo trọng thân thể, mối thù của Mã huynh đệ là oán thù của chung mọi người. Nếu như nàng có điều gì khó khăn, cứ nói thẳng cho ta nghe, ta sẽ sẵn lòng lo liệu tất cả” nghe thật ra vẻ đàn anh kẻ cả. Tiêu Phong trong bụng khen thầm: “Cô ả này thật là đâu ra đấy, bang chủ Cái Bang đã bị trục xuất, phó bang chủ đã qua đời, Từ trưởng lão bị người ta sát hại, Truyền Công trưởng lão bị ta giết rồi, bây giờ Bạch trưởng lão là người địa vị tối cao. Cô nàng nói rặt giọng điệu bang chủ quả thật xứng với thân phận vai trò”.

Mã phu nhân cảm ơn nhưng giọng lưỡi cực kỳ lạnh nhạt. Tiêu Phong hơi lo, thấy nàng ta không còn tha thiết, thần tình như kẻ mất hồn, chắc là từ khi trượng phu qua đời sống không còn lạc thú chi nữa, e rằng sẽ tự tận tuẫn phu, người đàn bà này tính khí cương cường chuyện gì cũng có thể làm được.

Mã phu nhân đưa hai người trở lại phòng khách, chẳng bao lâu bà vú đã dọn cơm ra, trên bàn có bốn món đồ chay gồm cải xanh, cải củ, đậu phụ, dưa leo và ba bát cơm khói bốc nghi ngút nhưng không có rượu. A Châu liếc nhìn Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay không có rượu cho chàng uống”. Tiêu Phong thản nhiên như không, bưng bát cơm lên ăn.

Mã phu nhân nói:

- Từ khi tiên phu qua đời, kẻ vị vong này ăn toàn đồ chay, chỗ hẻo lánh không có rượu thịt, khoản đãi hai vị đạm bạc quá.

A Châu thở dài:

- Mã huynh đệ chết rồi không thể sống lại được, đệ muội cũng đừng quá làm khổ mình như thế.

Tiêu Phong thấy Mã phu nhân đối với người chồng quá cố quả thật có tình có nghĩa, trong lòng nổi lên một nỗi niềm kính trọng. Ăn cơm tối xong, Mã phu nhân nói:

- Bạch trưởng lão từ xa đến, tiểu nữ đáng lý phải giữ khách lại, có điều phận đàn bà góa không tiện chút nào, không biết trưởng lão muốn dặn dò điều gì?

Trong lời ăn tiếng nói có chiều muốn đuổi khách đi. A Châu nói:

- Ta chuyến này đi Tín Dương cốt là để khuyên phu nhân rời nhà đi tránh họa chỗ khác, không biết đệ muội có điều gì phải tính toán hay không?

Mã phu nhân thở dài một tiếng nói:

- Gã Kiều Phong kia giết Mã đại gia, y có đến đây làm hại tiện thiếp thì cũng là đi theo chồng xuống suối vàng. Tiểu nữ tuy chân yếu tay mềm, chẳng dấu Bạch trưởng lão làm chi, chết thiếp đã không sợ thì còn sợ cái gì nữa.

A Châu nói:

- Nếu đã nói thế, đệ muội không bằng lòng rời nhà đi tị nạn nơi khác hay sao?

Mã phu nhân đáp:

- Đa tạ hậu ý của Bạch trưởng lão. Tiểu nữ thật không đành rời nơi cố cư của Mã đại gia.

A Châu nói:

- Ta vốn dĩ muốn ở gần đây ít ngày để bảo hộ cho đệ muội. Vẫn biết là Bạch mỗ không phải là địch thủ của Kiều Phong nhưng trong lúc gấp gáp cũng đỡ được một tay. Ngờ đâu trên đường đi ta lại nghe được một tin tức cơ mật thật là trọng đại.

Mã phu nhân đáp:

- Ồ, thế thì việc phải lớn lao lắm.

Đàn bà vốn dĩ hiếu kỳ, nghe nói đến một việc cơ mật trọng đại, dù cho việc chẳng liên quan gì đến mình, miệng không hỏi nhưng vẻ mặt vẫn có ý thích nghe. Ngờ đâu Mã phu nhân vẫn thản nhiên như không, tưởng chừng có nói ra cũng thế mà không nói thì cũng chẳng hề chi, chồng đã chết rồi thì trên đời này không còn điều gì khiến nàng động tâm được nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người đời vẫn bảo rằng đàn bà góa gan ruột héo hon, lạnh như tro bếp, nếu nói về Mã phu nhân thì thật là thích đáng”.

A Châu quay sang vẫy tay cho Tiêu Phong nói:

- Ngươi ra ngoài chờ, ta có mấy lời cơ mật nói với Mã phu nhân.

Tiêu Phong gật đầu, đi ra ngoài nhà, thầm khen A Châu thông minh, biết là nếu muốn người khác thổ lộ chuyện cơ mật cho mình thì phải nói chuyện bí mật của mình trước. Thành thử A Châu giả vờ nói chuyện cơ mật chính là làm cho Mã phu nhân tin tưởng, ngay cả kẻ tâm phúc của mình cũng không được nghe hẳn là chuyện này phải thật kín đáo.

Ông đi ra ngoài cửa, bên ngoài trời tối vắng lặng không một tiếng động, chỉ văng vẳng tiếng loảng xoảng từ dưới bếp vọng lên, chính là bà vú đang rửa bát, bèn đi vòng qua góc tường, nép vào ngoài cửa sổ phòng khách, nín thở lắng tai nghe. Dù cho Mã phu nhân không nói tên tuổi của người đó chỉ cần thổ lộ một chút đầu mối thì ông cũng có thể lần ra còn hơn hiện nay mù mờ không biết đâu mà mò. Huống chi vị Bạch trưởng lão này từ nghìn dặm xa xôi đến đây cảnh cáo đã là làm ơn cho bà ta rồi, khi sắp ra đi lại cho biết một chuyện đại sự cơ mật, một thủ lãnh của bản bang không lẽ Mã phu nhân lại dám dấu diếm hay sao?

Một lúc lâu sau mới nghe thấy Mã phu nhân thở dàn một tiếng, u uẩn nói:

- Ông ... ông còn đến làm gì nữa đây?

Tiêu Phong sợ việc vỡ lở làm hỏng đại sự thành thử không dám thò đầu ra nhìn xem trong phòng khách tình hình thế nào, trong bụng hơi lạ lùng: “Câu hỏi này của bà ta có dụng ý gì?’. Chỉ nghe A Châu nói:

- Ta quả có nghe tin đó, Kiều Phong có bụng muốn hại phu nhân nên tới báo tin.

Mã phu nhân nói:

- Hừ, đa tạ hảo ý của Bạch trưởng lão.

A Châu hạ giọng nói:

- Đệ muội, từ khi Mã huynh đệ bất hạnh qua đời, có mấy trưởng lão trong bang nhớ đến công lao của y nên muốn mời phu nhân xuất sơn, đảm nhiệm vai trò trưởng lão.

Tiêu Phong nghe nàng nói cực kỳ trịnh trọng không khỏi tức cười, nhưng trong bụng cũng phải khen thầm nàng tính kế thật cao, Mã phu nhân nếu bằng lòng, Bạch trưởng lão lập tức sẽ thành cấp trên của bà ta, có điều muốn hỏi thì không thể nào cự tuyệt được. Ví thử không bằng lòng làm trưởng lão trong bang nhưng thấy Cái Bang coi trọng mình như thế, Mã phu nhân ắt thể nào cũng hả lòng hả dạ.

Chỉ nghe Mã phu nhân đáp:

- Tiện thiếp có tài cán đức độ gì mà có thể đảm nhiệm chức trưởng lão trong Cái Bang? Đến đệ tử Cái Bang thiếp còn chưa đáng, huống chi địa vị trưởng lão cực cao, thật cách xa hàng muôn ngàn dặm.

A Châu đáp:

- Ta và bọn Ngô trưởng lão hết lòng tiến cử, ai nấy đều bảo rằng nếu có Mã phu nhân cùng đứng ra lo liệu thì việc bắt giữ hạ sát Kiều Phong thật dễ hơn nhiều. Ta lại còn có một tin tức thật trọng đại liên quan đến việc Mã huynh đệ bị giết.

Mã phu nhân hỏi lại:

- Thật vậy ư?

Giọng nói bà ta xem ra có vẻ thờ ơ. A Châu nói:

- Hôm đó nơi thành Vệ Huy điếu tang Từ trưởng lão, ta gặp Triệu Tiền Tôn, y có tiết lộ cho ta hay, nói y biết ai là chân hung thủ sát hại Mã huynh đệ.

Đột nhiên nghe choang một tiếng, một chiếc chén trà rơi xuống vỡ tan. Mã phu nhân hoảng hốt kêu lên một tiếng rồi lắp bắp nói:

- Ông ... ông đùa rỡn cái gì thế?

Thanh âm nghe cực kỳ phẫn nộ, nhưng cũng có mấy phần kinh hoàng. A Châu đáp:

- Chuyện đó là chuyện đàng hoàng, ta làm sao đám nói đùa? Gã Triệu Tiền Tôn kia chính miệng nói cho ta nghe, y biết rõ hung thủ giết Mã Đại Nguyên huynh đệ. Y bảo nhất định không phải Kiều Phong, cũng chẳng phải Cô Tô Mộ Dung, y biết chắc chắn người đó là ai rồi.

Mã phu nhân run run hỏi:

- Làm sao y biết được? Làm sao y biết được? Ông chỉ nói nhăng nói cuội, có khác gì ban ngày ban mặt thấy ma?

A Châu đáp:

- Đúng vậy mà, phu nhân khỏi phải nóng ruột ta sẽ từ từ cho bà hay. Gã Triệu Tiền Tôn kia nói: “Năm ngoái vào tháng tám ...”.

Nàng ta nói chưa hết câu, Mã phu nhân đã kêu lên một tiếng ngất xỉu ngay tại chỗ. A Châu vội gọi:

- Đệ muội, đệ muội!

Nàng lấy tay day day nơi nhân trung ở môi trên, Mã phu nhân từ từ tỉnh lại, u oán nói:

- Sao ông ... sao ông lại dọa tôi?

A Châu đáp:

- Ta nào có dọa đệ muội làm gì. Gã Triệu Tiền Tôn kia quả có nói với ta, tiếc thay y chết mất rồi, nếu không ta đã gọi y tới đây đối chất. Y nói năm ngoái ngày Trung Thu giữa tháng tám, Đàm công, Đàm bà cùng hung thủ làm hại Mã huynh đệ, cùng ở nhà "đàn anh đứng đầu" ...

Mã phu nhân hừ một tiếng, hỏi lại:

- Y quả thực nói vậy ư?

A Châu đáp:

- Đúng thế. Ta lại hỏi hung thủ đó là kẻ nào, y bảo là tên người đó không tiện nói ra. Ta đi hỏi Đàm công thì y cũng hầm hầm nhìn ta không nói gì cả. Đàm bà bảo: “Quả đúng như thế, chính bà ta nói với Triệu Tiền Tôn”. Ta cũng không trách Đàm công đã nổi cáu, chắc là giận vợ mình chuyện gì cũng nói cho Triệu Tiền Tôn nghe. Thế nhưng Triệu Tiền Tôn lại không chịu nói tên kẻ hung thủ cũng chỉ vì sợ liên lụy đến người tình cũ là Đàm bà.

Mã phu nhân hỏi:

- Hừm, thế thì đã sao?

A Châu nói:

- Triệu Tiền Tôn bảo là, tất cả ai ai cũng nghi Kiều Phong và Mộ Dung Phục giết chết Mã huynh đệ, còn hung thủ đích thực thì lại nhởn nhơ ngoài vòng, tiêu dao tự tại, Mã huynh đệ ở dưới suối vàng biết được ắt sẽ muôn đời không giải được nỗi oan.

Mã phu nhân nói:

- Đúng vậy, tiếc thay gã Triệu Tiền Tôn kia lại chết rồi, thế Đàm công, Đàm bà đã nói cho trưởng lão hay chưa?

A Châu đáp:

- Chưa nói mới chết chứ! Đến nước này chỉ còn cách đi hỏi "đàn anh đứng đầu" thôi.

Mã phu nhân đáp:

- Phải lắm, thế trưởng lão đi hỏi cho ra.

A Châu nói:

- Nói ra thì cũng thật tức cười, "đàn anh đứng đầu" kia là ai, nhà ở đâu, ta nào có biết.

Mã phu nhân nói:

- Ồ, hóa ra ông nói gần nói xa, vòng vo tam quốc chẳng qua chỉ để hỏi tên người "đàn anh đứng đầu".

A Châu đáp:

- Nếu bất tiện đệ muội cũng không cần phải cho ta hay làm gì, tự mình tìm cách hỏi cho minh bạch rồi cả bọn sẽ đi tìm chân hung thủ thanh toán món nợ này.

Tiêu Phong biết A Châu cố làm ra vẻ bất cần để Mã phu nhân khỏi nghi nhưng trong bụng thật là sốt ruột. Chỉ nghe Mã phu nhân lãnh đạm nói:

- Tên của "đàn anh đứng đầu" dấu ai thì dấu để Kiều Phong khỏi đi kiếm ông ta báo thù giết cha giết mẹ, còn như Bạch trưởng lão là người phe ta, tiện thiếp dấu làm gì? Người đó chính là ...

Nói đến câu “Người đó chính là ...” bà ta hạ giọng không nói tiếp nữa. Tiêu Phong hết sức lắng tai dường như chính tiếng tim mình đập cũng còn nghe, nhưng vẫn không thấy Mã phu nhân nói tên của "đàn anh đứng đầu" là ai, một lát sau mới nghe bà ta thở dài:

- Trăng trên trời tròn là dường ấy, sáng là dường ấy.

Tiêu Phong biết rõ trên không lúc này mây đen che phủ, làm gì có trăng nhưng cũng ngửng đầu nhìn lên, nghĩ thầm: “Hôm nay mới mồng hai, dẫu có trăng thì cũng đâu có tròn, bà ta nói thế là ý nghĩa gì?”. Lại nghe A Châu nói:

- Đến ngày rằm thì trăng thể nào chẳng tròn, chẳng sáng vằng vặc, ôi, tiếc thay Mã huynh đệ chẳng bao giờ còn được thấy trăng tròn nữa.

Mã phu nhân hỏi thêm:

- Bánh trung thu ông thích ăn bánh mặn hay bánh ngọt?

Tiêu Phong lại càng kỳ lạ, nghĩ thầm: “Mã phu nhân từ khi chồng chết tâm thần dường như bất thường”. A Châu đáp:

- Bọn chúng ta là dân ăn mày lẽ đâu lại còn đòi bánh mặn bánh ngọt? Cốt sao tìm ra chân hung thủ để báo thù cho Mã huynh đệ, nói gì bánh trung thu mà dẫu có sơn trân hải vị, ăn vào cũng có còn mùi mẽ gì nữa.

Mã phu nhân lặng yên không nói, một lúc lâu sau mới lạnh lùng đáp:

- Bạch trưởng lão hết lòng hết sức cốt sao tìm cho ra hung thủ để báo thù rửa hận cho người anh em Đại Nguyên, khiến cho tiểu nữ cực kỳ cảm kích.

A Châu đáp:

- Đó là bổn phận của chúng ta. Mấy vạn bang chúng Cái Bang có người nào không nghĩ đến mối thù này?

Mã phu nhân nói:

- Vị "đàn anh đứng đầu" kia địa vị cao sang, thanh thế cực lớn, mở miệng ra là có thể điều động vài vạn người. Ông ta lại hay bênh vực bạn bè, ông đến hỏi hung thủ là ai, chắc không chịu nói ra đâu.

Tiêu Phong mừng rỡ nghĩ thầm: “Nói gì thì nói, chuyến này mình cũng không đến nỗi công toi. Mã phu nhân dù không nói tên tuổi y ra, chỉ dựa vào một câu “địa vị cao sang, thanh thế cực lớn, mở miệng ra là có thể điều động vài vạn người”, ta cũng có thể đoán ra được là ai rồi. Trong võ lâm liệu có mấy ai được như thế?”.

Ông còn đang cố nặn óc xem người đó là ai đã nghe A Châu nói tiếp:

- Trong võ lâm, chỉ một lời có thể điều động được hàng vạn người, trước đây thì chỉ có bang chủ Cái Bang. Ồ, đệ tử Thiếu Lâm cũng khắp thiên hạ, một lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng điều động được hàng vạn người ...

Mã phu nhân ngắt lời:

- Thôi ông chớ có suy đoán sằng, để tôi cho thêm một đầu mối, người đó phải đi về phía tây nam mới kiếm thấy.

A Châu trầm ngâm nói:

- Phía tây nam ư? Phía tây nam làm gì có người nào được thế? Xem ra không có ai cả.

Mã phu nhân thò ngón tay, nghe soẹt một tiếng đã đâm thủng giấy dán trên cửa sổ, ngay sát trên đầu Tiêu Phong, lại nghe bà ta nói tiếp:

- Tiểu nữ không biết võ công nhưng Bạch trưởng lão chắc đã biết rồi, trong thiên hạ ai là người công phu này giỏi hơn cả?

A Châu đáp:

- Hừm, điểm huyệt công phu ư? Phái Thiếu Lâm có Kim Cương Chỉ, họ Trịnh ở Thương Châu tỉnh Hà Bắc có Đoạt Phách Chỉ là những ngón lợi hại hơn cả.

Tiêu Phong dường như muốn kêu lên: “Sai rồi, không phải! Công phu điểm huyệt trong thiên hạ thì họ Đoàn Đại Lý là số một, huống chi bà ta đã bảo ở phía tây nam cơ mà”. Quả nhiên nghe Mã phu nhân nói:

- Bạch trưởng lão kiến thức quảng bác, sao chuyện có thế mà không nghĩ ra? Hay là vì đường xa mỏi mệt, đầu óc mụ đi mất rồi đến nỗi môn Nhất Dương Chỉ lừng lẫy như thế mà không nhớ đến?

Trong ngôn ngữ xem ra có phần mỉa mai. A Châu đáp:

- Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn thì ta phải biết chứ, có điều họ ở Đại Lý xưng hoàng xưng đế, đã lâu nay không lai vãng với võ lâm Trung Thổ. Nếu bảo vị "đàn anh đứng đầu" kia có liên hệ với họ Đoàn xem chừng tin tức có gì sai sót.

Mã phu nhân nói:

- Họ Đoàn tuy ở ngôi chúa tể nước Đại Lý nhưng Đoàn gia đâu phải chỉ có một người, kẻ không làm vua vẫn thường lai vãng Trung Nguyên. Vị "đàn anh đứng đầu" chính là em ruột của đương kim hoàng đế, họ Đoàn tên Chính Thuần, được phong tước Trấn Nam Vương đó.

Tiêu Phong nghe Mã phu nhân nói đến ba chữ “Đoàn Chính Thuần” lập tức toàn thân chấn động, mấy tháng nay muôn dặm ruổi rong, hết lòng hết dạ tìm kiếm bây giờ mới biết được cái tên này. Lại nghe A Châu nói tiếp:

- Vị Đoàn vương gia kia quyền vị cao sang, sao lại tham dự vào chuyện ân oán giang hồ làm gì?

Mã phu nhân đáp:

- Chuyện ân oán giang hồ tầm thường thì không nói gì, Đoàn vương gia dĩ nhiên không dính dáng gì đến, nhưng nếu có liên quan đến chuyện sống chết mất còn, quốc vận thịnh suy của nước Đại Lý, ông nghĩ xem họ có tham gia hay không?

A Châu đáp:

- Thì đương nhiên là họ phải nhúng tay vào.

Mã phu nhân nói:

- Thiếp nghe Từ trưởng lão nói rằng: “Đại Tống là bức tường che cho Đại Lý ở phía bắc, Khất Đan một khi diệt xong Đại Tống rồi, thể nào cũng tính tới việc thôn tính Đại Lý. Thành thử Đại Lý và Đại Tống hai bên như răng với môi, Đại Lý không thể nào để cho Đại Tống mất về tay nước Liêu”.

A Châu đáp:

- Quả đúng như thế không sai chút nào.

Mã phu nhân nói:

- Từ trưởng lão nói rằng, năm xưa vị vương gia đó đang làm khách ở tổng đà Cái Bang, uống rượu luận kiếm với Uông bang chủ, bỗng nghe tin võ sĩ Khất Đan đang dốc tới đoạt kinh của chùa Thiếu Lâm, Đoàn vương gia nghĩa bất dung từ liền thống lãnh mọi người ra ngoài Nhạn Môn Quan chặn chúng lại, việc tuy nói là vì Đại Tống nhưng thực ra cũng vì Đại Lý.

Nghe nói vị vương gia này khi đó tuổi còn trẻ lắm nhưng võ công cao cường, đối với ai cũng cực kỳ nhân nghĩa. Ông ta ở Đại Lý chỉ dưới một người, ở trên muôn người, coi tiền bạc như rơm rác, chẳng đợi bằng hữu ngỏ lời, vài nghìn vài trăm lượng liền đưa ngay. Trưởng lão thử nghĩ xem người như thế không đứng đầu quần hùng Trung Nguyên thì còn ai? Một mai khi ông ta lên ngôi hoàng đế Đại Lý, thân phận cao quí dường ấy, người khác chỉ toàn xuất thân thảo mãng làm sao ra lệnh cho ông ta được?

A Châu nói:

- Thì ra "đàn anh đứng đầu" lại là Trấn Nam Vương nước Đại Lý, hóa ra bao nhiêu người chết chỉ để bảo vệ cho ông ta.

Mã phu nhân đáp:

- Bạch trưởng lão, chuyện cơ mật đó ông chớ có nói với ai, Đoàn vương gia và bản bang giao tình chẳng phải tầm thường, nếu như tiết lộ phong thanh thì họa không sao lường được. Tuy họ Đoàn Đại Lý uy chấn một cõi, cực kỳ lợi hại nhưng gã Kiều Phong kia quyết tâm báo thù, ẩn nhẫn chờ tám năm mười năm, Đoàn Chính Thuần cũng không dễ đối phó được đâu.

A Châu đáp:

- Đệ muội nói phải lắm, ta quyết giữ kín như bưng, không tiết lộ với ai.

Mã phu nhân nói:

- Bạch trưởng lão, tốt hơn hết ông lập một lời thề để tiện thiếp được yên tâm.

A Châu nói:

- Được, việc Đoàn công tử là "đàn anh đứng đầu" nếu như Bạch Thế Kính nói ra cho ai nghe thì sẽ phải chịu thảm họa muôn vạn nhát dao, thân bại danh liệt, mọi người cười chê.

Lời thề của nàng nghe ra thật nặng nhưng lại nói trớ ra, mở miệng toàn là đổ lên đầu Bạch Thế Kính, nếu có gì thì muôn vạn nhát dao cũng là Bạch Thế Kính, thân bại danh liệt cũng là Bạch Thế Kính, còn nàng có liên quan gì đâu. Mã phu nhân nghe thề độc như thất rất lấy làm hởi lòng hởi dạ nói:

- Thế thì được lắm.

A Châu nói:

- Vậy thì ta phải đi Đại Lý bái kiến Trấn Nam Vương, dò hỏi nghe ngóng xem Tết Trung Thu năm ngoái, ở phủ của ông ta có những khách nào là sẽ tra xét ra hung thủ giết hại Mã huynh đệ. Thế nhưng lúc này thì ta vẫn cho là Kiều Phong. Triệu Tiền Tôn, Đàm công, Đàm bà ba người dở dở ương ương nói ra chắc gì đã tin được.

Mã phu nhân đáp:

- Việc tra xét cho ra hung thủ hoàn toàn trông cậy vào Bạch trưởng lão.

A Châu đáp:

- Mã huynh đệ với ta có khác gì anh em ruột, ta thể nào cũng hết lòng hết dạ.

Mã phu nhân buồn bã nói:

- Bạch trưởng lão tình nghĩa thâm trọng như thế, vong phu ở dưới suối vàng nếu biết được hẳn là cũng cảm kích tấm lòng.

A Châu đáp:

- Đệ muội cố gắng giữ gìn, tại hạ xin cáo từ.

Nói xong bèn chia tay đi ra, Mã phu nhân nói:

- Tiểu nữ phận đàn bà đang cư tang, đêm khuya không tiện tiễn xa, xin Bạch trưởng lão thứ tội.

A Châu ra đến ngoài cửa đã thấy Tiêu Phong đợi ở xa xa, hai người nhìn nhau không nói một lời thẳng đường mà đi. Vầng trăng non chiếu xiên xiên lên con đường cũ trở về Tín Dương. Hai người sóng vai nhau, đi đến hơn bốn chục dặm Tiêu Phong mới thở ra một hơi nói:

- A Châu, đa tạ nàng.

A Châu nở một nụ cười, không nói. Tuy mặt nàng bây giờ đang hóa trang thành Bạch Thế Kính nên đầy vết nhăn nhưng từ trong khóe mắt, Tiêu Phong vẫn nhận ra nàng có vẻ lo âu liền hỏi:

- Hôm nay việc lớn đã thành, sao nàng vẫn còn không vui?

A Châu đáp:

- Thiếp nghĩ đến họ Đoàn người nhiều thế mạnh, đại ca một thân một mình đến tầm cừu quả thực muôn phần hung hiểm.

Tiêu Phong đáp:

- Ồ, thì ra nàng lo lắng cho ta. Nàng cứ yên tâm, ta ở trong tối, y ở ngoài sáng, ba năm năm năm báo thù chưa được thì như Mã phu nhân nói đó, tám năm mười năm cũng phải xong. Thể nào cũng có ngày ta chặt Đoàn Chính Thuần ra thành mười bảy mười tám miếng vứt cho chó gặm.

Ông nói đến đây không khỏi nghiến răng, trên mặt lộ ra đầy vẻ oán hờn. A Châu nói:

- Đại ca phải hết sức cẩn thận mới được.

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó dĩ nhiên rồi. Ta có mất mạng thì cũng là chuyện nhỏ nhưng mối huyết thù của cha mẹ không trả được, có chết cũng không nhắm mắt.

Ông chậm rãi đưa tay ra nắm lấy tay nàng nói:

- Nếu ta chết về tay Đoàn công tử thì ai đưa nàng ra ngoài Nhạn Môn Quan chăn cừu thả bò đây?

A Châu đáp:

- Ôi, sao thiếp vẫn sợ lắm, dường như trong chuyện này có điều gì không ổn. Con mụ Mã phu nhân kia ... mụ ta ... ra vẻ băng thanh ngọc khiết nhưng sao thiếp gặp thấy tự nhiên vừa kinh sợ, vừa chán ghét.

Tiêu Phong cười nói:

- Người đàn bà đó rất là tinh minh tài giỏi, nàng sợ bà ta nhìn ra chân tướng cải trang nên trong lòng khiếp sợ đấy thôi.

Hai người về đến khách điếm trong thành Tín Dương, Tiêu Phong lập tức gọi mười cân rượu, uống một phen cho thỏa dạ, trong bụng tính toán làm cách nào để báo thù, nghĩ đến họ Đoàn Đại Lý, tự nhiên nhớ lại người em mới kết nghĩa kim lan Đoàn Dự không khỏi chột dạ, cầm chén rượu mà ngơ ngẩn xuất thần, vẻ mặt liền biến đổi.

A Châu lại tưởng ông phát giác ra chuyện gì, nhìn quanh bốn phía không thấy gì lạ, hạ giọng hỏi nhỏ:

- Đại ca, có chuyện gì thế?

Tiêu Phong giật mình nói:

- Không ... không có gì cả.

Ông nâng chén lên uống một hơi cạn sạch nhưng rượu vừa đến cổ họng bỗng dưng sặc một cái ho sù sụ, bao nhiêu rượu phun ra ướt cả bâu áo. Tửu lượng của ông hiếm ai sánh kịp, nội công lại thâm hậu nay sặc rượu phải ọc ra là điều chưa từng có. A Châu kinh hãi thầm nhưng không tiện hỏi.

Nàng có biết đâu Tiêu Phong đang uống rượu bỗng chợt nhớ đến hôm trước nơi thành Vô Tích cùng Đoàn Dự uống thi, đối phương sử dụng khí công thượng thừa Lục Mạch Thần Kiếm, đem bao nhiêu rượu chảy dồn ra đầu ngón tay hết cả. Thần công nội lực như thế, Tiêu Phong biết mình không thể bì kịp. Đoàn Dự rõ ràng không biết võ công, nội công đã ghê gớm đến thế rồi, kẻ đại đối đầu kia là nhân vật thủ não của họ Đoàn Đại Lý, nếu so với Đoàn Dự chắc hẳn phải ghê gớm gấp mười, mối thù cha mẹ kia làm sao trả được?

Ông có biết đâu Đoàn Dự gặp may mà được thần công, có cái duyên ngẫu nhiên hút nội lực người khác, chỉ riêng nội lực thì chàng ta đã hơn cha không biết bao nhiêu lần, còn công phu Lục Mạch Thần Kiếm, trên đời ngoài Đoàn Dự ra không một người thứ hai nào có thể sử dụng được tất cả. A Châu và Tiêu Phong đều quen biết Đoàn Dự rất thân nhưng họ Đoàn là quốc tính nước Đại Lý, chẳng khác gì họ Triệu bên Đại Tống, họ Lý bên Tây Hạ, họ Gia Luật bên nước Liêu, trong nước có đến hàng nghìn hàng vạn, Đoàn Dự trước nay chưa đề cập mình là vương tử nước Đại Lý, A Châu và Tiêu Phong có ngờ đâu anh chàng lại là con vua cháu chúa.

A Châu tuy không rõ trong bụng Tiêu Phong nghĩ gì nhưng cũng đoán được chắc hẳn ông ta vì việc trả thù mà lo nghĩ liền nói:

- Đại ca, việc báo thù nào phải chỉ một ngày một buổi. Chúng mình tính toán rồi hãy hành động, dẫu cho địch đông mà ta ít, không thắng được bằng sức không lẽ không biết dùng trí hay sao?

Tiêu Phong trong bụng thấy vui, nghĩ đến A Châu lanh lợi khôn ngoan, quả là một tay phù trợ rất đắc lực, lập tức rót ngay một chén khác uống một hơi cạn sạch rồi nói:

- Mối thù cha mẹ, không đội trời chung. Để báo mối thù này việc gì phải để ý tới qui củ đạo nghĩa giang hồ, thủ đoạn ác độc cách mấy cũng chẳng chừa. Đúng thế, không thắng được bằng sức thì chúng mình dùng trí.

A Châu lại tiếp:

- Đại ca, ngoại trừ mối thù thân sinh phụ mẫu, lại còn món nợ máu của cha nuôi mẹ nuôi đại ca là ông bà Kiều lão, món nợ máu của sư phụ đại ca là Huyền Khổ đại sư.

Tiêu Phong vỗ lên bàn một cái, lớn tiếng nói:

- Phải đó, oán thù trùng trùng, nào chỉ có một mối đâu?

A Châu nói:

- Khi đại ca học nghệ nơi Huyền Khổ đại sư, tuổi hẳn còn nhỏ nên học chưa hết những nội công tinh diệu của phái Thiếu Lâm, nếu không thì dù Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn Đại Lý có lợi hại thế nào chăng nữa cũng chưa chắc đã hơn được Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ. Thiếp từng nghe Mộ Dung lão gia bàn luận võ công thiên hạ, nói là võ công lợi hại nhất của họ Đoàn Đại Lý là Nhất Dương Chỉ và cái gì đó tên là Lục Mạch Thần Kiếm.

Tiêu Phong nhíu mày đáp:

- Đúng vậy, Mộ Dung tiên sinh là một kỳ nhân trong võ lâm, đã nói gì ra hẳn phải rất có cơ sở. Ta vừa rồi lo âu, không phải vì Nhất Dương Chỉ mà là vì Lục Mạch Thần Kiếm.

A Châu nói:

- Hôm đó Mộ Dung lão gia và công tử bàn luận võ công thiên hạ, thiếp ở bên cạnh pha trà, nghe được mấy câu. Mộ Dung lão gia nói: “Bảy mươi hai môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, môn nào cũng có chỗ tinh diệu, muốn khắc địch chế thắng thì một tuyệt kỹ cũng đủ đâu cần phải tới bảy mươi hai môn”.

Tiêu Phong gật đầu:

- Mộ Dung tiền bối luận thật đúng.

A Châu nói tiếp:

- Khi đó Mộ Dung công tử mới nói: “Đúng thế, mợ Vương và biểu muội cứ khoe khoang mình biết nhiều võ công thiên hạ, tuy có rộng thật nhưng không tinh thì có dùng được việc gì đâu?”. Mộ Dung lão gia nói: “Nói đến chữ tinh, đâu phải dễ dàng? Thực ra tuyệt học chân chính của phái Thiếu Lâm thì chỉ có một bộ Dịch Cân Kinh, luyện xong bộ kinh này thì dù võ công tầm thường cách mấy vào tới tay mình cũng biến được cái tồi tệ thành ra thần kỳ”.

Căn cơ vốn sẵn, nội lực lại hùng cường thì dù chiêu số tầm thường cũng có uy lực cực kỳ to lớn, điểm đó Tiêu Phong đã biết từ lâu nên hôm trước ở Tụ Hiền Trang một mình đấu với quần hùng, ông chỉ dùng một pho Thái Tổ trường quyền hội chiến với hảo hán thiên hạ khiến cho dù cao nhân hạng nhất cũng đều thúc thủ bái phục. Lúc này ông nghe A Châu nhắc lại lời Mộ Dung tiên sinh, không khỏi hứng chí uống luôn hai chén nữa nói:

- Quả là hiểu được bụng ta! Quả là hiểu được bụng ta! Tiếc thay Mộ Dung tiên sinh đã qua đời rồi, nếu không thể nào Tiêu Phong cũng sẽ tới trang để gặp vị kỳ nhân trong thiên hạ này.

A Châu tủm tỉm cười:

- Mộ Dung lão gia khi còn tại thế trước sau không tiếp khách bên ngoài, nhưng đại ca phải là một biệt lệ.

Tiêu Phong ngẩng lên mỉm cười, ông biết câu “đại ca phải là một biệt lệ” có hàm ý là: “Chàng là người yêu của thiếp, Mộ Dung tiên sinh phải coi chàng khác người thường”. A Châu bắt gặp ánh mắt của Tiêu Phong, thẹn thùng cúi đầu, tuy bẽn lẽn nhưng trong lòng ngầm sung sướng.

Tiêu Phong lại uống thêm một chén nữa hỏi:

- Khi Mộ Dung lão gia qua đời, tuổi cũng chưa già lắm, phải không?

A Châu đáp:

- Khoảng chừng trên dưới năm mươi, chưa thể gọi là già.

Tiêu Phong nói:

- Ồ, ông ta nội công thâm hậu, tuổi năm mươi chính là thời kỳ võ công tuyệt đỉnh, không hiểu tại sao đột nhiên qua đời?

A Châu lắc đầu nói:

- Lão gia bị bệnh gì đó mà mất, chúng tôi không ai biết cả. Ông ta chết rất nhanh, buổi sáng sinh bệnh, đến chiều đã thấy công tử khóc rống lên, đi ra thông tri cho mọi người là lão gia dã từ trần.

Tiêu Phong nói:

- Ồ, không biết bị cấp chứng gì, thật tiếc, thật tiếc! Tiếc thay Tiết Thần Y không ở gần bên, nếu không bằng giá nào cũng phải mời ông ta đến cứu mạng cho Mộ Dung tiên sinh.

Ông ta và Mộ Dung công tử tuy chưa từng biết nhau, chỉ nghe người khác nói về ngôn ngữ cử chỉ của hai cha con, không khỏi thầm khâm phục, nay lại có thêm A Châu có uyên nguyên nên càng cảm thấy thân thiết.

A Châu lại tiếp:

- Hôm đó Mộ Dung lão gia bàn về Dịch Cân Kinh với công tử. Ông ta nói: “Bộ Dịch Cân Kinh của Đạt Ma lão tổ ta chưa từng thấy, thế nhưng cứ như đạo lý võ học mà suy, phái Thiếu Lâm sở dĩ được nổi tiếng cũng chính từ pho Dịch Cân Kinh ấy mà ra. Bảy mươi hai tuyệt kỹ không dám nói là không lợi hại, thế nhưng bảo nhờ vào đó mà lãnh tụ quần luân, đứng đầu võ học thiên hạ thì quả là chưa xứng”. Lão gia lại răn dạy công tử là đừng ỷ vào võ học tổ truyền mà coi thường đệ tử Thiếu Lâm, trong chùa đã có quyển kinh ấy thì ắt có tăng nhân thiên tư dĩnh ngộ hiểu thông được.

Tiêu Phong gật đầu khen phải, nghĩ thầm: “Họ Cô Tô Mộ Dung danh mãn thiên hạ, vậy mà không cuồng vọng tự đại, quả là khó thay”. A Châu nói:

- Lão gia lại bảo rằng, bình sinh ông không võ học nào trong thiên hạ không ngó qua, chỉ chưa được biết Lục Mạch Thần Kiếm Phổ của họ Đoàn Đại Lý và Dịch Cân Kinh của phái Thiếu Lâm, quả là đáng tiếc lúc cuối cuộc đời. Đại ca, nếu như Mộ Dung lão gia đã đặt hai môn võ công này ngang nhau, cứ thế mà suy, muốn đối phó với Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn thì phải có Dịch Cân Kinh của chùa Thiếu Lâm trong tay. Nếu như ta ăn trộm được Dịch Cân Kinh từ Bồ Đề Viện của chùa Thiếu Lâm sau đó bỏ ra vài năm luyện tập thì dẫu có Lục Mạch Thần Kiếm hay Thất Mạch Quỉ Đao gì ta cũng chẳng coi vào đâu.

Nàng nói đến đây, trên mặt hiện ra một nụ cười kỳ bí. Tiêu Phong nhảy dựng lên, cười nói:

- Tiểu quỉ đầu, hóa ra nàng ... nàng ...

A Châu cười nói:

- Đại ca, thiếp ăn trộm được bộ kinh đó đem ra, vốn định trao cho công tử, để cho công tử xem rồi sẽ đốt trước mồ lão gia để cho thỏa tâm nguyện người quá cố. Hiện nay đương nhiên là đưa cho đại ca rồi.

Nói xong từ trong bọc lấy ra một chiếc bao vải dầu, để vào tay Tiêu Phong. Tối hôm đó chính Tiêu Phong thấy nàng hóa trang thành nhà sư Chỉ Thanh, ăn trộm cuốn kinh từ trong tấm gương đồng của Bồ Đề Viện , đâu có ngờ đó chính là Thiếu Lâm bí cập Dịch Cân Kinh. A Châu bị quần hào bắt được ở Tụ Hiền Trang, mọi người nghĩ nàng là phận nữ nhi nên không tra xét trên người cô ta, thành thử các cao tăng chùa Thiếu Lâm như Huyền Tịch, Huyền Nạn dù có nằm mơ cũng không biết được là cuốn kinh bản tự bị mất đang ở trong tay nàng.

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Nàng chịu mạo hiểm, mười phần chết chín mới lấy được cuốn kinh này từ trong chùa Thiếu Lâm ra, bản ý để cho Mộ Dung công tử, ta làm sao lại chiếm lấy làm của mình được?

A Châu đáp:

- Đại ca nói thế là không phải rồi.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Sao nàng lại bảo là ta không đúng?

A Châu đáp:

- Bộ kinh này là do tự ý thiếp đi ăn trộm về, nào có phải phụng mệnh công tử mà làm đâu. Thiếp thích cho ai thì cho người đó. Huống chi sau khi đại ca coi rồi, mình lại đưa cho công tử cũng chưa muộn kia mà. Mối thù cha mẹ, không đội trời chung. Để trả được mối thù này dù phải dùng thủ đoạn ác độc, hèn hạ xấu xa cách mấy cũng chẳng chừa, huống chi chỉ là mượn một bộ kinh coi, có gì đâu mà phải dùng dằng dúng dắng?

Mấy câu nói đó khiến Tiêu Phong cảm thấy như được cảnh tỉnh, quay sang nàng vái một vái thật sâu nói:

- Hiền muội trách cứ thật đúng, việc đại sự đâu có nề gì tiểu tiết.

A Châu dẩu môi cười:

- Đại ca vốn dĩ là đệ tử Thiếu Lâm, dùng võ công phái Thiếu Lâm để rửa thù cho ân sư Huyền Khổ chính là hợp tình hợp lý, có gì là không phải đâu nào?

Tiêu Phong luôn mồm khen phải, trong lòng hết sức cảm kích, lại thêm vui sướng, liền cầm chiếc bao giấy dầu mở ra xem, chỉ thấy một cuốn sách mỏng giấy đã vàng, ngoài bìa viết những chữ loằng ngoằng kỳ lạ. Ông kêu thầm: “Không xong rồi!”. Mở trang đầu ra xem, thấy trong đó viết đầy những chữ, nhưng những chữ đó xiên xiên xẹo xẹo, chữ thì hình tròn, chữ thì hình móc, đến nửa chữ cũng không đọc được.

A Châu kêu lên “Ôi chao!” một tiếng nói:

- Thì ra viết bằng chữ Phạn, thật không may. Thiếp vốn dĩ định thiêu bản văn này trước mồ lão gia nên không định tâm xem trước, thành ra lấy được kinh văn, tới nay chưa hề mở ra xem. Ôi, thảo nào mấy ông thầy chùa thấy võ công bí cập bị trộm mà cũng chẳng lấy gì làm tiếc, hóa ra chẳng ông nào đọc được kinh thư...

Nói xong nàng thở dài một tiếng, cực kỳ thất vọng. Tiêu Phong an ủi:

- Việc đời đắc thất, cũng chẳng nên quá để tâm.

Ông bỏ quyển Dịch Cân Kinh trở vào trong bao, gói kỹ lại trả cho A Châu. A Châu nói:

- Đại ca cứ giữ lấy thì đã sao? Không lẽ mình còn phân biệt của ta của người nữa hay sao?

Tiêu Phong mỉm cười, bỏ chiếc bao vào trong túi. Ông lại rót một bát rượu toan uống, đột nhiên ngoài cửa có tiếng chân người, ai đó kêu rống lên. Tiêu Phong hơi cảm thấy kỳ quái, vội bước ra cửa, thấy trên đường có một đại hán người đầy những máu, hai tay cầm hai chiếc búa, chém trên chém dưới múa lung tung.

SONG MÂU XÁN XÁN NHƯ TINH

Bảo anh phải bỏ ngai vàng,

Để anh chết đuối mắt nàng cũng cam.

Nhìn nhau dạ những mang mang,

Long lanh thăm thẳm như ngàn ánh sao.

*

* *

Đại hán đó râu ria xồm xoàm, thần thái uy mãnh nhưng đôi mắt ngây dại hành động như điên cuồng, rõ ràng là một người mất trí. Tiêu Phong thấy đôi đại phủ trong tay y dường như đúc bằng thép ròng, cực kỳ nặng nề, khi múa ra, đóng mở công thủ đúng phép tắc, môn hộ tinh nghiêm xem ra có vẻ phong phạm một bậc danh gia.

Các nhân vật võ lâm Trung Nguyên Tiêu Phong quen biết rất nhiều nhưng không biết người này là ai, nghĩ thầm: “Phép đánh búa của gã này khá lắm, sao ta lại không hề nghe đến một người nào như thế này?”.

Đôi búa của người kia càng lúc càng nhanh, mồm thì không ngớt kêu la:

- Mau mau, mau đi bẩm báo chúa công, kẻ địch đã kiếm tới rồi.

Y đứng chặn ngay giữa đường, đôi bản phủ sáng choang tạt ngang chém dọc, người đi đường ai nấy tránh dạt ra chứ dại gì mà đến gần? Tiêu Phong thấy y ra vẻ hoảng hốt, hết đường búa nọ tới đường búa kia xem chừng đã hết hơi sức nhưng vẫn cố ráng chịu đựng, mồm thì kêu:

- Các anh em mau mau lui ra đừng lo gì cho ta, chạy đi bẩm báo chúa công mới là cần.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này trung nghĩa cố gắng bảo vệ cho chủ, quả là một hảo hán nhưng tinh lực tổn hao như thế hẳn là đã bị nội thương thật nặng”. Ông bèn đi tới trước mặt người kia nói:

- Lão huynh nghỉ một chút uống chén rượu được chăng?

Đại hán kia hầm hầm trợn mắt nhìn ông, đột nhiên kêu lớn:

- Tên đại ác, chớ có mong hại chủ nhân ta.

Y vung búa lên xông tới chém xuống đầu Tiêu Phong. Người chung quanh thấy tình hình hung hiểm ai nấy kinh hoảng kêu toáng cả lên. Tiêu Phong nghe thấy ba chữ "tên đại ác" cũng chột dạ: “Ta và A Châu đang đi tìm "tên đại ác" để báo thù, kẻ đối đầu hán tử này hóa ra cũng là "tên đại ác". Tuy miệng y gọi thế thực nhưng chắc gì đã là kẻ mình đang tìm, thôi thì cứ cứu y đã rồi tính sau. Ông nghĩ thế bèn lòn tới sát người y giơ tay điểm vào huyệt ở mạng sườn.

Ngờ đâu hán tử nọ thần trí tuy đã hôn mê nhưng võ công không mất, chiếc búa bên phải bèn xoay đầu lại, cán búa đâm luôn vào bụng dưới Tiêu Phong. Chiêu đó cực kỳ tinh xảo linh động, giá như Tiêu Phong võ công không phải cao cường gấp bội y thì thể nào cũng bị trúng đòn, lập tức tay trái vươn ra, chộp luôn cán búa để đoạt lấy. Đại hán kia vốn dĩ đã gân cốt mỏi nhừ nên làm sao có thể chịu nổi? Y toàn thân chấn động, lập tức ngã nhào vào người Tiêu Phong. Thế nhưng y không màng sống chết, muốn cả hai đồng qui ư tận.

Tay phải Tiêu Phong lại tung ra, ôm chặt lấy gã này, hơi dụng kình khiến y không sao cục cựa được. Những người rỗi hơi đứng ngoài coi thấy Tiêu Phong đã chế phục được tên điên đều reo hò ầm ỹ. Kiều Phong vừa ôm vừa kéo gã đại hán vào trong đại đường của khách điếm, ấn y ngồi xuống nói:

- Lão huynh uống vài chén rượu rồi tính sau.

Nói xong ông gọi tửu bảo đem rượu đến. Đại hán nọ chăm chăm nhìn ông một hồi lâu mới hỏi:

- Ngươi ... ngươi là người tốt hay là người xấu?

Kiều Phong ngạc nhiên không biết phải trả lời thế nào. A Châu cười nói:

- Ông ta dĩ nhiên là người tốt, ta cũng là người tốt. Chúng mình là bạn với nhau, cùng đi đánh "tên đại ác".

Đại hán kia giương mắt nhìn nàng một hồi, lại quay sang nhìn Tiêu Phong một hồi dường như tin tưởng, dường như không tin, một lúc sau mới nói:

- Tên ... tên đại ác ư?

A Châu nhắc lại:

- Chúng mình là bạn với nhau, cùng đi đánh "tên đại ác".

Người kia bỗng đứng bật dậy kêu ầm lên:

- Không! Không! "Tên đại ác" ghê gớm lắm, mau mau đi bẩm với chúa công, nói chúa công tìm đường tránh đi. Ta ra chặn "tên đại ác" lại, còn ngươi đi báo tin.

Y vừa nói vừa cầm đôi búa xông ra. Tiêu Phong giơ tay đè lên vai giữ y lại nói:

- Này lão huynh, "tên đại ác" đã đến đâu, chúa công của ngươi là ai? Ông ta ở nơi nào?

Đại hán kêu lên:

- "Tên đại ác" mau lại đây đấu với lão tử ba trăm hiệp xem cho biết, chớ có hại đến chúa công ta.

Tiêu Phong nhìn A Châu không biết phải làm thế nào, A Châu đột nhiên la to:

- Chết rồi hỏng mất, chúng mình mau đi báo tin cho chúa công. Chúa công đang ở đâu? Chúa công đi hướng nào, chớ để cho "tên đại ác" biết.

Người điên liền hùa theo:

- Phải, phải, ngươi mau mau đi báo tin. Chúa công đến Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ, ngươi ... ngươi mau đi Phương Trúc Lâm ở Tiểu Kính Hồ bẩm báo chúa công, đi đi, đi đi!

Y giục luôn mồm ra chiều gấp gáp lắm. Tiêu Phong và A Châu còn chưa biết tính sao, bỗng nghe tên tửu bảo nói:

- Đi Tiểu Kính Hồ ư? Đường không phải gần đâu.

Tiêu Phong thấy Tiểu Kính Hồ quả đúng là một địa danh vội hỏi:

- Ở chỗ nào? Cách đây bao xa?

Gã tửu bảo nói:

- Ví như hỏi người khác thì chưa chắc đã biết. May mà hỏi tiểu nhân, thật đúng ngay chóc. Tiểu nhân chính ở ngay bên cạnh Tiểu Kính Hồ. Trên đời này thật khó mà có gì khéo hơn, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh.

Tiêu Phong nghe y nói lung tung chẳng vào chính đề liền giơ tay vỗ bàn một cái, quát:

- Nói mau! Nói mau!

Gã tửu bảo vốn định vòi vài đồng mới nói, bị Tiêu Phong nạt một cái, không dám lèo nhèo gì thêm vội đáp:

- Gớm sao vị gia đài này tính nóng thế, hì hì, nếu không phải hỏi đúng ngay tiểu nhân, dù có nôn nóng cách mấy cũng đâu có được, đúng không nào?

Y định nói bông phèng mấy câu nhưng liếc thấy Tiêu Phong có vẻ chẳng hiền gì liền tiếp:

- Tiểu Kính Hồ ở phía tây bắc, trước hết đi về hướng tây, đi được chừng bảy dặm rưỡi thì thấy có chừng mươi cây liễu, mỗi hàng bốn cây, cả thảy bốn hàng, một hàng là bốn, hai hàng là tám, ba hàng mười hai, bốn hàng mười sáu, cả thảy mười sáu cây liễu lớn thì đi lên hướng bắc. Đi thêm chừng chín dặm rưỡi nữa, thấy một chiếc cầu bằng đá xanh thì chớ có qua, qua cầu đó là hỏng đấy. Nói không qua cầu nhưng lại phải qua, mà không qua là cái cầu bằng đá xanh bên trái, mà phải qua chiếc cầu gỗ nhỏ ở bên phải. Qua chiếc cầu nhỏ rồi thì một đường rẽ qua hướng tây, một đường đi lên hướng bắc, phải đi con đường hướng tây theo con đường mòn thì mới đúng. Đi như thế tổng cộng hai mươi mốt dặm rưỡi thì gặp một cái hồ mặt nước sáng như gương, đó chính là Tiểu Kính Hồ. Đi đến đó, ai cũng bảo là chừng bốn mươi dặm, thực ra chỉ có ba mươi tám dặm rưỡi, bốn mươi dặm là không đúng đâu.

Tiêu Phong cố nhịn ngồi nghe gã tửu bảo nói cho xong. A Châu nói:

- Gớm vị đại ca này nói năng rành mạch quá. Một dặm đường thì một đồng tiền, đáng lẽ cho anh bốn mươi đồng, nhưng cho thế thì sai bét, chi bằng đừng cho, nhưng lại đáng cho. Tám lần một là tám, hai tám mười sáu, ba tám hăm tư, bốn tám ba mươi hai, năm tám bốn mươi, bốn mươi dặm đường trừ đi một dặm rưỡi thế là ba mươi tám đồng rưỡi.

Nàng đếm ba mươi chín đồng tiền, đồng tiền sau cùng cầm khía lên lưỡi búa một vết, bẻ cắc một tiếng đồng tiền đã gãy ra làm đôi, đưa cho gã tửu bảo ba mươi tám đồng rưỡi. Tiêu Phong thật tức cười, nghĩ thầm: “Cô bé này nhân cơ hội lại quấy phá một phen”. Đại hán kia mắt vẫn nhìn trừng trừng, luôn mồm giục:

- Mau đi báo tin, chậm là không kịp đâu, "tên đại ác" ghê gớm lắm đó.

Tiêu Phong hỏi lại:

- Thế chủ nhân ngươi là ai?

Đại hán kia lẩm bẩm:

- Chúa công ta ... chúa công ta ... ở đâu không thể cho người ngoài biết được. Thôi ngươi đừng đi nữa là hơn.

Tiêu Phong quát lên:

- Ngươi họ gì?

Gã kia thuận mồm đáp:

- Ta họ Cổ, ối trời, ta không phải họ Cổ.

Tiêu Phong trong bụng nghi ngờ: “Không lẽ tên này tính giở trò gì, cố ý dẫn dụ mình đến Tiểu Kính Hồ chăng? Cái gì mà họ Cổ rồi lại không họ Cổ?” Ông chợt nghĩ lại: “Ví thử như kẻ địch sai y đến dụ ta tới đó thì cầu còn chưa được, ta đang muốn đi kiếm y đây. Tiểu Kính Hồ dù có phải đầm rồng hang hổ chăng nữa thì Tiêu mỗ há sợ gì?”. Tiêu Phong quay sang A Châu:

- Chúng mình đến Tiểu Kính Hồ xem thế nào, có động tĩnh gì không, nếu như chủ nhân của vị huynh đài này có ở đó thì mình thể nào cũng tìm ra.

Gã tửu bảo liền xen vào:

- Tiểu Kính Hồ bốn bề hoang dã, chẳng có gì để xem cả. Hai vị nếu như muốn du sơn ngoạn thủy, ngắm phong cảnh thì nên đi đến các đình đài lâu các của những nhà giàu ở đây, có thế mới mở rộng tầm con mắt ...

Tiêu Phong xua tay bảo y đừng lèm bèm nữa, nói với đại hán kia:

- Lão huynh mệt lắm rồi, ở đây nghỉ ngơi, ta thay mặt đi bẩm báo với lệnh chủ nhân nói là "tên đại ác" sẽ tới ngay đó.

Người kia mừng rỡ:

- Đa tạ! Đa tạ! Cổ mỗ cảm kích không đâu kể xiết. Để ta đi chặn "tên đại ác" lại, không cho y qua.

Nói xong liền đứng dậy, giơ tay định nhắc đôi búa lên nhưng lực khí không còn gì nữa, hai tay ê ẩm, lăm lăm cầm cán búa rồi mà không sao nhắc lên nổi. Tiêu Phong nói:

- Lão huynh cứ thư thả.

Ông trả tiền ăn tiền ở xong liền cùng A Châu rảo bước đi ra, đúng lời dặn của tên tửu bảo theo đại lộ về hướng tây chừng bảy tám dặm, quả nhiên thấy ở bên đường có bốn hàng mỗi hàng bốn cây, cả thảy bốn hàng mười sáu cây dương liễu. A Châu cười nói:

- Tên tửu bảo đó tuy lắm mồm thật nhưng lắm mồm đúng cách, thế này thì không thể nào sai được, phải không nào? Ồ, cái gì đây?

Nàng đưa tay chỉ một cây liễu, dưới gốc cây có một người nhà nông ngồi tựa nơi đó, chân thò xuống cái rãnh bùn bên cạnh. Cảnh đó cũng chỉ là một chuyện thông thường ở nhà quê, nhưng người nông phu đó một bên mặt máu me, vai lại vác một cây thục đồng côn sáng loáng, xem ra không phải là nhẹ.

Tiêu Phong đi đến trước mặt người nhà quê đó, thấy y thở hổn hển, hiển nhiên đã bị nội thương khá nặng. Tiêu Phong liền mở lời:

- Này vị đại ca kia, bọn ta được người sử búa nhắn đi đến Tiểu Kính Hồ chuyển lời, xin hỏi đi Tiểu Kính Hồ là lối nào?

Người nhà nông ngẩng lên hỏi lại:

- Thế ông bạn sử búa còn sống hay chết rồi?

Tiêu Phong đáp:

- Y chỉ bị tiêu hao khí lực nhưng không đến nỗi nào.

Người nông phu thở phào:

- Tạ trời tạ đất. Xin hai vị đi về hướng bắc, cái ơn đưa tin quyết chẳng dám quên.

Tiêu Phong nghe y nói năng kiểu cách quyết không phải hạng nhà quê tầm thường bèn hỏi:

- Lão huynh tôn tính là gì? Có phải là bạn của người sử búa chăng?

Người nông phu đáp:

- Tiện tính Phó. Xin các hạ mau mau đến Tiểu Kính Hồ, "tên đại ác" đã vượt qua rồi, nói ra thật là hổ thẹn, tại hạ không ngăn nổi y.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này bị thương nặng không phải giả vờ, nếu quả y là do kẻ đối đầu mướn để dụ ta vào rọ thì tiền bỏ ra chắc không phải là ít”. Ông bèn nói:

- Phó đại ca, lão huynh bị thương không phải nhẹ, "tên đại ác" dùng binh khí gì đả thương ngươi thế?

Hán tử kia đáp:

- Y dùng gậy sắt.

Tiêu Phong thấy ngực y máu tươi chảy ra không ngớt, vội vạch áo ra xem, thấy trên ngực có một lỗ hổng, tuy chỉ nhỏ bằng ngón tay nhưng sâu hoắm. Tiêu Phong giơ tay liên tiếp điểm vào mấy đại huyệt chung quanh, giúp y ngừng chảy máu, bớt đau. A Châu xé áo y ra, băng bó vết thương lại. Hán tử họ Phó nói:

- Đại ân của hai vị, Phó mỗ không thể lấy lời mà cảm tạ được, chỉ xin hai vị mau đến Tiểu Kính Hồ, báo tin cho bề trên của chúng tôi.

Tiêu Phong hỏi:

- Thế bề trên của ông tên là gì, tướng mạo ra sao?

Người kia đáp:

- Các hạ đến bên bờ Tiểu Kính Hồ, sẽ thấy bên phía tây có một khu rừng trúc, cây trúc hình vuông, giữa rừng có mấy gian nhà tre, xin đến bên ngoài nhà gọi to mấy tiếng: “Thiên hạ đệ nhất đại ác nhân đã đến rồi, mau mau tránh đi” như thế là được, tốt hơn hết là đừng vào trong nhà. Tên của tệ thượng, sau này Phó mỗ sẽ xin phụng cáo.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Cái gì mà thiên hạ đệ nhất ác nhân? Không lẽ đó là người đứng đầu trong Tứ Đại Ác Nhân Đoàn Diên Khánh hay sao? Nghe gioọng lưỡi người này y không muốn nói nhiều, mình cũng chẳng nên hỏi thêm nữa”. Thế nhưng đến giờ phút này, ông không còn cái bụng úy kỵ nữa, nghĩ bụng: “Nếu quả là kẻ địch dụ ta vào tròng thì mỗi câu mỗi chữ phải cho hợp tình hợp lý, có đâu lại để cho ta nổi lòng nghi ngờ. Người này ấp á ấp úng, không dám nói thực, không phải là có ý xấu được”. Ông bèn nói:

- Được rồi, xin nghe theo lời dặn dò của các hạ.

Đại hán kia cố gượng đứng lên quì xuống cảm ơn. Tiêu Phong nói:

- Hai chúng ta mới gặp mà như quen đã lâu, Phó huynh chẳng cần phải đa lễ.

Ông giơ tay đỡ người kia dậy, một tay đưa lên xoa mặt một cái, bỏ hết những món hóa trang lấy bộ mặt thật của mình để tương kiến, nói:

- Tại lạ là Tiêu Phong người Khất Đan, sau này sẽ gặp lại.

Ông không đợi hán tử trả lời, nắm tay A Châu rảo bước đi ngay. A Châu hỏi:

- Thế mình không cần cải trang nữa hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Chẳng hiểu vì đâu, ta bỗng dưng cảm mến hán tử thô hào kia, nên có bụng muốn làm quen với y, thành thử không muốn dùng khuôn mặt giả để đối xử với người ta.

A Châu nói:

- Được lắm, để thiếp trở lại quần áo đàn bà.

Nàng đi đến bên dòng nước, vã nước lên rửa mặt, cởi mũ ra, để lộ mái tóc mềm óng như tơ, thoát bỏ áo bào rộng thùng thình, bên trong là y phục phụ nữ. Hai người đi một mạch chín dặm rưỡi, nhìn xa xa thấy nổi lên một chiếc cầu xây bằng đá xanh. Đến gần thêm chút nữa đã thấy giữa cầu một thư sinh nằm phục nơi đó. Người này trải một tờ giấy ngay trên cầu, đang dùng ngay đá lát cầu làm nghiên mài một vũng mực lớn. Thư sinh trong tay cầm bút, đang viết chữ lên trên tờ giấy. Tiêu Phong và A Châu đều lạ lùng, có ai ngờ trên một chiếc cầu ở nơi hoang dã thế này lại có một người giở nghiên bút giấy mực ra viết chữ?

Đến gần thêm chút nữa mới hay không phải y đang viết mà là đang vẽ cảnh vật chung quanh, chiếc cầu nhỏ với làn nước khe, cây cổ thụ cùng xa xa là núi biếc đều có cả. Y nằm phục trên cầu, mặt không quay về phía Tiêu Phong và A Châu, nhưng lạ lùng hơn cả cảnh trong tranh đều quay về phía hai người, có điều mỗi nét bút đều là vẽ ngược, từ hướng bên kia vẽ lại.

Về thư họa Tiêu Phong không biết gì, còn A Châu đã ở trong nhà Mộ Dung công tử lâu năm, các loại tinh phẩm bút mực xem đã nhiều, thấy thư sinh dùng phép “đảo họa” tuy không đạt đến mức đan thanh diệu bút, nhưng vẽ ngược mà được như thế quả thực khó khăn, đang toan tiến lên hỏi y mấy câu thì Tiêu Phong đã giựt nhè nhẹ chéo áo nàng, lắc đầu, đi qua phía chiếc cầu gỗ phía bên phải.

Người nho sinh bỗng nói:

- Hai vị trông thấy tại hạ vẽ ngược, sao không ghé mắt qua một chút? Không lẽ cái công phu nhỏ mọn của tại hạ làm bẩn mắt hai vị hay sao?

A Châu đáp:

- Khổng phu tử chiếu không ngay không ngồi, thịt không sạch sẽ không ăn. Chính nhân quân tử lẽ nào đi xem vẽ ngược bao giờ?

Người kia cười ha hả, cuộn tờ giấy lại nói:

- Lời cô nương quả hữu lý, xin mời qua cầu.

Tiêu Phong đã đoán được dụng ý của y dùng giấy trải trên cầu để cho người khác chú ý, trước là kéo dài thời gian, sau là lấy hư làm thực, cố ý dụ người ta đi qua chiếc cầu đá bèn nói:

- Bọn chúng tôi muốn đến Tiểu Kính Hồ, đi lên thạch kiều chẳng hóa ra đi sai đường ư?

Thư sinh đáp:

- Nếu đi qua cầu đá chẳng qua là đi đường vòng, xa thêm năm sáu chục dặm rồi cũng đến nơi, hai vị cứ lên thạch kiều chẳng sao cả.

Tiêu Phong đáp:

- Chẳng có chuyện gì, cớ sao lại phải đi thêm năm sáu chục dặm?

Thư sinh kia cười nói:

- Dục tốc tắc bất đạt , không lẽ hai vị không biết câu đó ư?

A Châu cũng biết người này cố tình kéo dài thời gian nên không muốn lôi thôi với y nữa, lập tức bước lên chiếc cầu gỗ, Tiêu Phong cũng đi theo. Hai người đi đến giữa đường, đột nhiên dưới chân tụt hẫng, nghe lách cách mấy tiếng, ván cầu gãy đôi, thân hình rơi tõm xuống sông. Tiêu Phong vươn tay trái ôm lưng A Châu, chân phải điểm vào ván cầu một cái mượn sức nhảy vọt tới trước, qua luôn bờ bên kia, tiện tay đánh ngược lại một chưởng để phòng kẻ địch tấn công lén.

Thư sinh kia cười hà hà nói:

- Công phu giỏi lắm giỏi lắm! Hai vị vội vã đến Tiểu Kính Hồ chẳng hay có chuyện gì?

Tiêu Phong nghe trong giọng cười của y có vẻ kinh hoàng, nghĩ thầm: “Gã này mặt mày sáng sủa vậy mà lại cùng phe với "tên đại ác"”. Ông không lý gì tới y cứ tiếp tục cùng A Châu đi thẳng. Đi được mấy trượng nghe thấy có tiếng chân người phía sau, quay đầu nhìn lại chính là thư sinh đó đang đuổi theo. Tiêu Phong quay đầu, mặt đanh lại hỏi sẵng:

- Các hạ muốn dạy bảo chuyện gì?

Thư sinh đáp:

- Tại hạ cũng định đi đến Tiểu Kính Hồ, thành thử đi cùng đường với hai vị.

Tiêu Phong đáp:

- Nếu quả thế thì hay lắm.

Ông giơ tay vòng qua eo A Châu, đề khí đưa nàng đi vèo vèo, lướt đi không một tiếng động, bụi không bay lên. Thư sinh nọ cắm đầu cằm cổ chạy theo nhưng mỗi lúc cách hai người một xa. Tiêu Phong thấy y võ công bình thường không coi vào đâu cứ tiếp tục chạy tới, tuy kéo theo cả A Châu nhưng vẫn nhanh hơn người kia nhiều, chỉ khoảng một bữa cơm đã bỏ xa không còn thấy bóng dáng y đâu nữa.

Qua khỏi cây cầu gỗ đường càng lúc càng hẹp, có lúc cỏ mọc đến ngang lưng thật khó mà phân biệt, nếu như không được tên tửu bảo chỉ đường rành mạch rõ ràng thì không thể nào tìm ra. Lại chạy thêm chừng nửa giờ nữa thì thấy một hồ nước trong. Tiêu Phong chậm lại đi đến bên cạnh thấy nước hồ trong xanh như ngọc, mặt lặng như gương quả không hổ cái tên Tiểu Kính Hồ.

Ông đang định đi tìm khu rừng trúc vuông, bỗng nghe bên trong bụi hoa bên cạnh có tiếng cười khẩy, đồng thời một viên sỏi bắn ra. Tiêu Phong theo hướng viên sỏi nhìn theo thấy bên bờ hồ có một ông câu, đầu đội nón lá đang ngồi đó. Cần câu của y đã móc được một con cá xanh biếc, viên sỏi bắn ra, không lệch không xéo, trúng ngay sợi dây câu, nghe bựt một tiếng dây câu đứt đôi, con cá rơi tõm xuống hồ.

Tiêu Phong hơi kinh ngạc: “Thủ kình người này thật là cổ quái. Dây câu mềm mại không dễ gì cắt đứt. Nếu như y dùng phi đao hay tụ tiễn để cắt đứng thì không nói làm gì. Chỉ một viên sỏi tròn mà có thể cắt được dây câu, thủ pháp âm nhu sử dụng ám khí của người này ở Trung Thổ không ai có được”.

Người bắn viên sỏi đó xem chừng võ công không cao nhưng đầy vẻ tà khí, thủ pháp rõ ràng là của bàng môn tả đạo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc y là đệ tử hay thuộc hạ của "tên đại ác", nghe tiếng cười dường như là một cô gái còn nhỏ tuổi”.

Dây câu của ngư nhân bị viên sỏi cắt đứt, y kinh hoảng lớn tiếng nói:

- Ai đùa cợt với Chử mỗ đó, xin ra mặt coi nào!

Có tiếng sột soạt, bụi hoa rẽ ra, một cô gái bước ra, quần áo toàn thân màu tím, chỉ chừng mười lăm mười sáu tuổi, so với A Châu còn nhỏ hơn vài tuổi, đôi mắt đen lay láy, vẻ mặt đầy vẻ tinh nghịch. Nàng ta chợt nhìn thấy A Châu, không để ý đến người câu cá nữa, lon ton chạy đến trước mặt nàng, nắm tay cười nói:

- Sao chị đẹp thế, em thích chị ghê!

Giọng cô gái nghe hơi đơ đớ, phát âm không chính xác lắm dường như người nước ngoài học tiếng Trung Thổ. A Châu thấy cô gái hoạt bát ngây thơ, cười nói:

- Em rồi sau cũng xinh lắm, chị cũng thích em.

A Châu đã từng ở Cô Tô lâu, bây giờ dùng giọng quan thoại trung châu thật là dịu dàng, lại thật chuẩn xác. Ông câu đang tính nổi sùng, bỗng thấy chỉ là một thiếu nữ hoạt bát dễ thương, bao nhiêu tức tối đều tiêu giảm nói:

- Cô bé con này sao nghịch quá! Công phu đánh đứt dây câu quả là giỏi thật.

Thiếu nữ nói:

- Câu cá có gì là thích đâu? Chán chết đi được. Nếu ông thích ăn cá, lấy cái cần câu đâm cá có phải tiện hơn không?

Nói rồi cầm chiếc cần trong tay ông câu, thuận tay đâm xuống nước một cái rồi rút lên, đầu cần câu đã có một con cá trắng bị đâm trúng bụng, khi nhắc lên vẫn còn uốn éo dãy dục, máu từ vết thương nhỏ ròng ròng, màu đỏ loang trên nước biếc, trông vừa đẹp đẽ nhưng có lẫn chút tàn nhẫn bên trong.

Tiêu Phong thấy cô gái chỉ tiện tay đâm một cái, tay phải hơi nghiêng đi một chút vạch thành một hình cung nhỏ, rồi lại từ bên phải phất xuống dưới, thủ pháp xem ra xảo diệu, tư thế dễ coi nhưng dùng để đối địch, công thủ xem ra hơi chậm một tí, không sao đoán được cô ta ở môn phái nào.

Cô gái cứ nhắc tay lên lại đâm xuống liên tiếp, xiên trúng sáu con cá bạc làm thành một chuỗi, sau đó rung một cái hất cả sáu con xuống dưới hồ. Người thợ câu vẻ mặt không vui nói:

- Ngươi tuổi còn nhỏ sao hành sự tàn ác như vậy. Nếu ngươi muốn bắt cá thì không nói làm gì, đâm chết cá không ăn, vô cớ sát sinh thì đâu còn đạo lý gì nữa?

Cô gái vỗ tay reo lên:

- Ta thích vô cớ sát sinh thì ông làm gì được ta nào?

Hai tay dùng sức bẻ một cái định bẻ gãy chiếc cần của ông câu, ngờ đâu chiếc cần đó cực kỳ chắc chắn, cô gái không sao bẻ gãy được. Ông câu cười khẩy nói:

- Ngươi tưởng có thể bẻ gãy được cần của ta sao, đâu có dễ như thế được.

Cô gái chỉ về phía sau lưng ông câu nói:

- Ai đến thế kia?

Người thợ câu quay đầu lại nhìn, không thấy ai cả, biết là mắc hỡm vội vàng chuyển mình nhưng đã chậm mất một bước, thấy chiếc cần của ông ta đã bay vụt ra ngoài mấy trượng, nghe tõm một tiếng đã cắm xuống giữa hồ rồi biến mất không còn tăm tích gì nữa. Ông câu giận lắm, quát lên:

- Con nhãi mất dạy ở đâu tới đây?

Y giơ tay chộp vào vai cô gái, thiếu nữ vừa cười vừa kêu lên:

- Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Rồi chạy ra núp sau lưng Tiêu Phong. Ông câu lòn qua đuổi bắt, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Chỉ trong nháy mắt, Tiêu Phong đã thấy trong tay cô gái có thêm một vật gì đó, dường như là một vuông vải trong suốt, tựa như có tựa như không, không biết đó là cái gì. Ông câu xông tới, không biết tại sao bỗng trượt chân một cái, ngã lăn ra đất, thân hình cuộn lại thành một cục. Tiêu Phong bấy giờ nhìn rõ, vật mà cô gái cầm trong tay là một cái lưới đan bằng tơ cực mỏng manh. Sợi tơ chỉ nhỏ như sợi tóc, lại trong suốt nhưng chắc chắn dị thường, đụng vào vật gì liền rút lại, ông câu bị mắc trong cái lưới càng hết sức dãy dụa, chiếc lưới càng thắt lại chặt thêm, chỉ trong giây lát đã bị bó tròn như khúc giò không sao động đậy được nữa.

Ông thợ câu càng lớn tiếng chửi mắng:

- Con nhãi kia, ngươi giở trò ma trò quỉ gì, dùng yêu pháp tà thuật để bắt ta.

Tiêu Phong trong bụng kinh ngạc, biết cô gái này không dùng yêu pháp tà thuật gì, nhưng chiếc lưới cá kia quả có vẻ yêu tà thật. Ông thợ câu vẫn luôn mồm chửi bới, thiếu nữ cười nói:

- Ông mà còn chửi nữa là ta đánh vào đít ông đó.

Ông câu giật mình vội vàng nín bặt nhưng mặt tím lại. Ngay lúc đó bên phía tây hồ có tiếng người nói:

- Chử huynh đệ, có chuyện gì thế?

Từ con đường nhỏ bên cạnh hồ một người rảo bước đi ra. Tiêu Phong nhìn thấy người kia gương mặt hình chữ quốc, khoảng chừng ngoài bốn mươi nhưng chưa đến năm mươi, hình mạo uy võ nhưng áo thùng thình, xem chừng có vẻ tiêu sái.

Người kia đến gần, thấy ông câu bị trói chặt cực kỳ kinh ngạc hỏi:

- Sao thế?

Ông câu đáp:

- Tiểu cô nương đây sử dụng yêu pháp ...

Người tung niên quay sang nhìn A Châu. Cô gái kia cười nói:

- Đâu phải chị đó, tôi cơ mà!

Người đàn ông kêu lên một tiếng, cúi xuống nhắc tấm thân to lớn của người thợ câu lên, giơ tay cởi chiếc lưới cá. Ngờ đâu cái lưới làm bằng chất gì thật quái lạ, ông ta càng dùng sức gỡ ra thì lại càng thắt chặt lại, làm cách nào cũng không cởi ra được. Cô gái đó cười nói:

- Chỉ cần y nói ba lần: “Tôi phục cô nương lắm rồi!” thì ta sẽ thả y ra.

Người trung niên nói:

- Ngươi đắc tội với Chử huynh đệ của ta, coi chừng xảy ra chuyện không hay đó.

Cô gái lại cười:

- Có thật không? Tôi đang muốn có chuyện gì không hay đây, kết quả càng tệ hại thì càng thích.

Người kia vươn tay trái ra, nắm lấy đầu vai cô gái. Thiếu nữ rụt người lại, lách qua né tránh, ngờ đâu cô ta tuy nhanh, người trung niên lại còn nhanh hơn, tay đè xuống một cái đã nắm ngay được cô ta. Thiếu nữ hất ra nhưng tả chưởng của người kia vẫn dính chặt lấy vai khiến cô gái kêu oai oái:

- Bỏ tay ra!

Cô ta vung tay lên định đánh nhưng quyền chỉ ra được chừng một thước cánh tay đã không còn hơi sức xuội ngay xuống. Thiếu nữ kinh hãi kêu lên:

- Ông giở yêu pháp tà thuật gì đó? Mau buông tôi ra!

Người đàn ông mỉm cười:

- Vậy cô nói ba lần: “Tôi phục tiên sinh lắm rồi!” sau đó mở cái lưới cho người anh em của ta thì ta sẽ thả cô ra.

Cô gái giận dữ nói:

- Ông đắc tội với cô nương thì chẳng hay ho gì đâu nhé.

Người trung niên mỉm cười:

- Kết quả càng tệ hại thì càng thích.

Thiếu nữ lại hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được, chỉ thấy toàn thân ê ẩm, đến chân cũng không có hơi sức bèn cười nói:

- Thật rõ ê mặt, chỉ giỏi tài nhái giọng người ta. Thôi được rồi, để tôi nói: “Tôi phục tiên sinh rồi, tôi phục tiên sinh rồi, tôi phục tiên sinh rồi!”.

Nàng ta nói chữ “tiên” nghe lơ lớ thành “thử sinh” nghe tưởng chừng như định nói: “Tôi phục súc sinh rồi!”. Thế nhưng người trung niên kia không phát giác, buông tay ra khỏi đầu vai cô gái nói:

- Mau mở lưới ra nào!

Cô gái cười:

- Cái này dễ ợt hà!

Nàng ta đi tới bên cạnh ông câu, cúi xuống cởi lưới đang quấn chặt lấy ông ta, tay áo trái hơi nhắc lên, một ánh chớp lấp lánh màu xanh biếc bắn ngay vào người đàn ông trung niên. A Châu kinh hoảng kêu lên một tiếng, thấy thủ pháp bắn ám khí của cô ta cực kỳ độc địa, hai người lại quá gần nhau, xem ra thể nào cũng trúng. Thế nhưng Tiêu Phong chỉ mỉm cười, người đàn ông trung niên này vừa ra tay đã chế ngự ngay được cô gái khiến nàng ta không còn cục cựa nổi hiển nhiên nội lực thâm hậu, võ công cao cường, mũi ám khí nhỏ bé đó làm sao đả thương ông ta được. Quả nhiên người kia phất tay áo bào một cái, một luồng nội lực tung ra, đánh giạt chùm kim lả tả rơi xuống vũng bùn bên cạnh hồ.

Ông ta vừa nhìn thấy màu những cây kim kia biết ngay có tẩm thuốc độc thật là ghê gớm, thuộc loại kiến huyết phong hầu, chảy máu là chết ngay, mình với cô ta mới gặp lần đầu, không thù không oán lẽ nào vừa ra tay lại hạ độc thủ? Ông ta cực kỳ bực tức, định tâm cho con nhãi này một bài học, tay áo bên phải liền vung ra, trong tụ lực có kèm theo chưởng lực nghe vù một tiếng, hất cô gái tung lên, nghe tõm một cái đã rơi ngay xuống dưới hồ. Tiếp theo đó ông nhún chân nhảy vọt vào một chiếc thuyền nhỏ ở dưới gốc cây liễu, cầm giầm chèo mấy cái đã đến chỗ cô gái bị rơi xuống, đợi cô ta vừa trồi lên sẽ nắm tóc kéo lên thuyền.

Cô gái chỉ kêu được một tiếng “Ôi chao”, rơi xuống hồ rồi không còn thấy tăm hơi gì nữa. Thông thường nếu như ai bị chết đuối thường bao giờ cũng trồi lên hụp xuống mấy lần, uống nước no rồi lúc đó mới chìm hẳn không trồi lên nữa. Thế nhưng cô gái này chẳng khác gì một cục đá, rơi xuống rồi chìm mất tăm không nổi lên. Đợi một hồi sau vẫn không thấy cô ta nổi lên mặt nước.

Người đàn ông trung niên kia càng đợi càng nóng ruột, ông ta vốn không có ý định đả thương cô ta, thấy cô ta tuổi nhỏ mà hành sự độc ác nên muốn răn dạy một phen, nếu khiến cô ta chết đuối quả thực không nhẫn tâm. Người thợ câu kia bơi lội rất giỏi có thể nhảy xuống hồ cứu người nhưng lại đang bị mắc trong lưới không cách nào thoát ra được. Tiêu Phong và A Châu cả hai đều không thông thủy tính nên cũng không biết làm cách nào. Chỉ nghe người trung niên kêu to:

- A Tinh, A Tinh, mau ra đây!

Từ trong khu rừng trúc xa xa có tiếng đàn bà truyền ra:

- Chuyện gì vậy? Thiếp chẳng ra đâu.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người đàn bà này thanh âm kiều mị nhưng lại có ba phần ngang ngạnh, cùng với A Châu và cô gái mới rơi xuống hồ đúng là một bộ ba thế chân vạc”.

Người trung niên lại kêu lên:

- Có người chết đuối, mau ra cứu người ta!

Người đàn bà lại vói ra:

- Thế có phải là chàng chết đuối không?

Người đàn ông gắt lên:

- Đừng có đùa, nếu ta chết đuối sao lại còn nói được? Mau ra cứu người đi nào!

Người đàn bà lại nói:

- Nếu như chàng chết đuối thì thiếp ra cứu, còn như người khác thì mặc xác người ta, cứ để thế cho vui.

Người trung niên nói:

- Thế nàng có ra không thì bảo?

Ông ta hầm hầm dậm chân ở đầu thuyền, hết sức nóng nảy. Người đàn bà lại nói:

- Nếu là đàn ông thì thiếp mới cứu, còn như đàn bà thì có một trăm người chết đuối, thiếp cũng chỉ vỗ tay reo hò, không cứu đâu.

Giọng nói mỗi lúc một gần, chẳng mấy chốc đã ra đến bờ hồ. Tiêu Phong và A Châu nhìn bà ta, thấy tuổi chừng ba mươi lăm, ba mươi sáu, mặc một bộ đồ bơi màu xanh nhạt bó sát người, lộ rõ chiếc eo thon, dung nhan tú lệ, khóe miệng trông như mủm mỉm cười, đôi mắt to đen sáng lóng lánh như ánh sao, khóe thu ba đưa đẩy cực kỳ linh hoạt, tưởng chừng chỉ một đôi mắt đã nói được muôn ngàn lời. Tiêu Phong nghe thanh âm giọng điệu của bà ta tưởng nhiều lắm cũng chỉ hăm mốt hăm hai, hóa ra lại là một thiếu phụ không còn trẻ lắm. Bộ quần áo bơi của nàng ăn vận chỉnh tề, chắc là vừa nghe người đàn ông gọi cứu người tuy miệng trêu ông ta, nhưng lập tức nhanh nhẹn mặc quần áo ngay.

Người đàn ông trung niên thấy bà ta đi ra hết sức vui mừng, kêu lên:

- A Tinh, mau lên, ta lỡ tay để cô ta rơi xuống hồ, sao không thấy nổi lên nữa.

Người đàn bà xinh đẹp kia nói:

- Để thiếp hỏi cho rõ ràng, có đàn ông thì mới cứu, còn như đàn bà xin chàng khỏi mở lời làm chi.

Tiêu Phong và A Châu đều cảm thấy lạ lùng, nghĩ thầm: “Đàn bà con gái không nhảy xuống nước cứu đàn ông con trai, để khỏi xảy ra chuyện quơ quào lôi kéo dưới nước làm mất thân phận, ấy là chuyện thường. Sao lại có chuyện ngược đời, chỉ cứu đàn ông, không cứu đàn bà là sao?”.

Người trung niên dậm chân, bực bội nói:

- Thôi, chỉ là một con bé con mười bốn mười lăm, nàng đừng có nghĩ nhằng.

Người đàn bà xinh đẹp kia đáp:

- Hứ, tiểu cô nương thì sao? Hạng như chàng, bé con mười bốn mười lăm, bà già bảy tám chục cũng đều chẳng ...

Nàng ta định nói “cũng đều chẳng tha” nhưng chợt nhìn thấy Tiêu Phong và A Châu nên bẽn lẽn, vội vàng giơ tay lên bịt miệng mình lại, nín chữ “tha” lại không thốt ra, nhưng ánh mắt đầy vẻ tinh quái.

Người đàn ông trung niên đứng trên thuyền vái dài một cái nói:

- A Tinh, xin nàng mau cứu cô ta lên, nàng nói gì ta cũng bằng lòng cả.

Người đàn bà đáp:

- Cò thật là chuyện gì cũng bằng lòng không?

Người đàn ông vội đáp:

- Thật thế. Ôi, cô bé con này sao chưa nổi lên, không lẽ chết thật ...

Người đàn bà nói:

- Nếu thế thiếp bảo chàng mãi mãi ở lại nơi đây, chàng có bằng lòng không?

Người trung niên vẻ mặt sượng sùng nói:

- Cái đó ... cái đó ...

Người đàn bà nói:

- Chàng chỉ nói mà đâu có làm, đầu môi chót lưỡi đánh lừa người khác, để cho thiếp được vui lòng trong chốc lát, cho qua chuyện. Có thế mà chàng cũng không chịu.

Nói tới đây, đôi mắt rưng rưng, phụng phịu, pha chút nghẹn ngào. Tiêu Phong và A Châu đưa mắt nhìn nhau, hơi lạ lùng, hai người này tuổi tác đâu còn nhỏ nhít gì nhưng nói năng hành động thật chẳng khác gì đôi thanh niên nam nữ đang độ say mê, kiểu cách xem ra không phải vợ chồng thế mà người đàn bà kia trước mặt người ngoài nói năng cũng chẳng cần giữ gìn gì cả, trong lúc người kia chết sống nơi đầu tơ kẽ tóc vẫn tỉnh bơ không có gì gọi là gấp gáp.

Người trung niên thở dài một tiếng, chèo thuyền quay lại đáp:

- Thôi được, chẳng cần cứu nữa. Cô bé con này dùng ám khí độc địa bắn lén ta, có chết cũng đáng, thôi mình đi về.

Người đàn bà xinh đẹp kia chưng hửng:

- Sao lại không cứu nữa? Thiếp nhất định phải cứu. Cô ta dùng ám khí bắn chàng ư? Thế thì hay lắm, thế nhưng sao chàng không chết? Đáng tiếc thật! Đáng tiếc thật!

Bà ta cười khúc khích, nhún mình một cái lao luôn xuống hồ. Bà ta bơi thật giỏi, chỉ nghe tõm một tiếng nhỏ nước không thấy văng lên, đã chuồi luôn xuống dưới nước. Tiếp đó nghe thấy tiếng bì bõm, mặt hồ rẽ ra, người đàn bà xinh đẹp kia thò đầu lên hai tay nâng cô gái áo tím. Người đàn ông trung niên mừng rỡ vội vàng chéo chiếc thuyền lại đón.

Ông ta bơi đến gần người đàn bà liền giơ tay đón lấy cô gái áo tím, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền dường như đã tắt thở rồi, sắc mặt không khỏi lo âu. Người đàn bà xinh đẹp kia quát lên:

- Không được đụng vào cô ta, ông là người hiếu sắc quá đỗi, không thể nào tin nổi.

Người đàn ông tức tối đáp:

- Chỉ nói bậy bạ, trong đời ta đã bao giờ hiếu sắc đâu.

Người đàn bà cười khúc khích, nâng luôn cô gái nhảy vọt vào thuyền:

- Phải rồi, phải rồi! Chàng có bao giờ hiếu sắc đâu, chỉ thích hạng người xấu như ma lem, như Chung vô Diệm thôi, ối chao ...

Bà ta vừa sờ vào ngực cô gái thấy tim đã ngừng đập, mũi không còn thở nữa nhưng bụng vẫn xẹp lép hiển nhiên chưa uống nhiều nước. Người đàm bà vốn tinh thông thủy tính, vẫn liệu rằng bấy nhiêu lâu chưa thể chết người được, có ngờ đâu cô gái thân thể ẻo lả nên tắt thở rồi, trên mặt không khỏi lộ vẻ ăn năn, vội vàng ôm cô gái nhảy lên bờ kêu rối rít:

- Mau lên, mau lên, mình phải tìm cách cứu cô ta mới được.

Bà ta bồng cô gái chạy như bay về phía rừng trúc. Người trung niên cũng cúi xuống ôm gã thợ câu, quay sang Tiêu Phong:

- Huynh đài tôn tính đại danh là gì? Giá lâm nơi đây không hiểu có việc gì không?

Tiêu Phong thấy ông ta khí độ ung dung, thấy cô gái kia thảm tử nhưng vẫn trấn tĩnh, trong lòng ngầm bội phục nói:

- Tại hạ là người Khất Đan, tên Tiêu Phong nhận lời ủy thác của hai vị bằng hữu, đến đây báo một cái tin.

Tên của Tiêu Phong trên giang hồ vốn dĩ không ai không biết nhưng từ khi ông biết họ thật của mình rồi nên bây giờ tự xưng Tiêu Phong, lại kèm theo mấy tiếng người Khất Đan, nói trắng lai lịch của mình ra. Người trung niên kia nghe tên đó chỉ nghĩ là một nhận vật gặp gỡ giữa giữa đàng, nghe thấy ba tiếng “người Khất Đan” cũng không lạ lùng gì, bèn hỏi:

- Người nhắn gửi Tiêu huynh là vị bằng hữu nào thế? Không biết báo tin chuyện gì?

Tiêu Phong đáp:

- Một người sử dụng đôi búa, một người sử dụng đồng côn, tự xưng là họ Phó, cả hai người đều bị thương ...

Người trung niên kia hoảng hốt hỏi lại:

- Hai người đó thương thế ra sao? Hiện nay họ đang ở đâu? Tiêu huynh, hai người đó là bạn tri giao của huynh đệ, xin chỉ điểm cho, ta ... ta ... phải đi cứu ngay mới được.

Người thợ câu nói:

- Cho thuộc hạ theo với.

Tiêu Phong thấy hai người trọng nghĩa, trong bụng kính phục liền nói:

- Hai người đó thương thế tuy nặng thật nhưng chưa đến nỗi nguy đến tính mạng, đang ở thị trấn gần bên ...

Người trung niên vái một cái thật sâu nói:

- Đa tạ! Đa tạ!

Ông ta không nói nữa, tay xách ông câu lên, chạy về phía con đường Tiêu Phong mới tới lúc nãy. Ngay khi đó, có tiếng của người đàn bà từ trong rừng trúc vọng ra:

- Lại đây mau! Mau lên! Ông xem ... xem cái gì đây này.

Giọng nói ra chiều hết sức gấp gáp. Người trung niên liền dừng bước, còn đang do dự bỗng thấy một người chạy như bay từ con đường đi tới, miệng kêu:

- Chúa công, có người đến sinh sự chăng?

Chính là gã thư sinh vẽ ngược trên cầu đá. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ta lại tưởng y ngăn trở ta không cho đến báo tin, hóa ra y cùng phe với hai người sử dụng bản phủ và đồng côn. Người mà bọn họ gọi là “chúa công” chắc là người này”.

Khi đó thư sinh kia đã thấy Tiêu Phong và A Châu đứng cạnh người trung niên, không khỏi ngạc nhiên, đến lúc tới gần lại thấy người thợ câu bị trói chặt, vừa kinh hãi vừa tức tối, hỏi:

- Sao ... sao thế?

Lại nghe thấy từ trong rừng trúc tiếng người đàn bà kia càng thêm hoảng hốt:

- Sao ông còn chưa đến, ối trời, thiếp ... thiếp ...

Người trung niên liền đáp:

- Để ta đến xem nào.

Ông ta xách cả người thợ câu rảo bước đi về phía rừng trúc. Ông ta vừa mới cử động đã thấy công lực phi phàm, bước đi nhẹ nhàng mà lại hết sức nhanh nhẹn. Tiêu Phong đưa tay đỡ ngang hông A Châu cũng thản nhiên đi ngang với ông ta. Người trung niên kia liếc mắt nhìn ra vẻ khâm phục.

Chỉ trong khoảnh khắc đã đến bên rừng trúc, quả nhiên những cây trúc đó thân đều hình vuông, đi thêm chừng vài trượng đã thấy ba gian nhà nhỏ cũng làm bằng tre, cấu trúc hết sức tinh mỹ. Người đàn bà nghe thấy tiếng chân người vội kêu lên:

- Chàng ... chàng mau lại đây mà xem, cái gì thế này?

Trong tay cầm một sợi dây chuyền bằng vàng. Tiêu Phong nhìn thấy sợi dây chuyền đó chỉ là một món đồ trang sức tầm thường của phụ nữ, không có gì đặc biệt, hôm trước A Châu bị thương Tiêu Phong thò tay vào túi nàng lấy thương dược, cũng thấy nàng có một sợi dây tương tự như thế này. Ngờ đâu người trung niên kia cầm chiếc dây chuyền coi qua coi lại lập tức biến sắc, run run hỏi:

- Ở ... ở đâu ra thế này?

Người đàn bà đáp:

- Tháo ra ở cổ nó đó, thiếp đã từng vẽ ký hiệu trên vai trái chúng nó, chàng ... chàng tự mình coi xem ...

Người đàn ông vội vàng tiến vào trong phòng, A Châu cũng lướt tới chạy theo so với người đàn bà còn nhanh hơn một bước. Tiêu Phong cũng theo sát bên hai người đàn bà vào nội đường thấy đây là phòng ngủ của phụ nữ, trần thiết tinh nhã. Tiêu Phong không có thì giờ đâu mà coi kỹ đã thấy cô gái áo tím kia nằm trên giường không động đậy, xem ra đã chết rồi.

Người đàn ông trung niên vén tay áo cô gái lên, xem kỹ đầu vai cô ta. Ông ta vừa coi lập tức bỏ ngay xuống. Tiêu Phong đứng ở sau lưng ông ta nhưng không nhìn ra có ký hiệu gì nhưng thấy lưng người đàn ông run lên bần bật đủ biết tâm thần bị chấn động mãnh liệt.

Người đàn bà nắm áo người đàn ông khóc nức nở:

- Chính là con gái ông rồi, vậy mà ông chính tay giết nó, ông đã không nuôi nó thì thôi lại còn đang tâm giết nó ... ông ... ông thật là người cha lòng lang dạ sói ...

Tiêu Phong lạ lùng: “Cái gì thế này? Cô gái này là con gái ông ta sao? À, đúng rồi, chắc là cô gái này sinh ra chưa bao lâu đã đem gửi người khác nuôi, chiếc dây chuyền và ký hiệu gì đó trên đầu vai là do cha mẹ cô ta để lại cho dễ nhận”. Đột nhiên A Châu nước mắt đầm đìa, thân hình lảo đảo, ngã xuống giường. Tiêu Phong kinh hãi, vội đưa tay ra đỡ, vừa cúi xuống thấy mi mắt cô gái nằm trên giường hơi rung rung. Đôi mắt cô ta nhắm nghiền nhưng con ngươi chuyển động, tuy qua lần da mi mắt nhưng vẫn còn nhận ra được. Tiêu Phong quan tâm đến A Châu hỏi ngay:

- Sao thế?

A Châu đứng thẳng dậy, giơ tay chùi nước mắt, cố gượng cười:

- Thiếp thấy cô này ... không may chết oan, trong lòng đau xót.

Tiêu Phong đưa tay ra cầm mạch cô gái, người đàn bà lại khóc òa lên:

- Mạch đã ngừng rồi, không còn thở nữa, làm sao cứu sống lại được?

Tiêu Phong hơi vận nội lực, đẩy vào cổ tay cô gái rồi lập tức buông lỏng, thấy từ bên trong cơ thể cô ta có sức bật ra, hiển nhiên cô gái đang vận nội kình kháng ngự. Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Một cô bé cứng đầu như thế này, quả thực trên đời ít thấy.

Người đàn bà giận dữ nói:

- Ngươi là hạng người gì, có mau cút ra không? Con ta đã chết rồi lại còn ở đây nói bậy nói bạ.

Tiêu Phong cười đáp:

- Con gái bà chết rồi nếu tôi cứu sống lại được thì sao đây?

Ông đưa tay điểm luôn vào huyệt đạo nơi eo cô gái. Chỉ đó điểm trúng huyệt Kinh Môn ở ngang hông, là nơi đầu mối của gân cốt con người, Tiêu Phong lại dùng nội lực truyền vào khiến cho ngứa ngáy chịu không nổi. Cô gái làm sao chống cự lại được nên từ trên giường nhảy vọt lên, cười khanh khách, giơ tay vịn vào vai Tiêu Phong.

Thiếu nữ đó chết đi sống lại, người trong phòng ai nấy vừa mừng rỡ, vừa ngạc nhiên. Người trung niên kia cười nói:

- Hóa ra ngươi dọa ta ...

Người đàn bà đang khóc cũng bật cười, kêu lên:

- Đứa con khốn khổ của ta ơi!

Bà ta giang hai tay, bước tới ôm chầm lấy cô gái. Ngờ đâu Tiêu Phong tát trái một cái, đánh văng cô gái ra, tiếp theo liền vươn tay nắm ngay cổ tay trái thiếu nữ, cười nhạt nói:

- Mới tí tuổi đầu đã độc ác thế!

Người đàn bà kêu lên:

- Sao ông lại đánh con tôi?

Nếu không nể nang vì Tiêu Phong vừa mới “cứu sống” con gái chắc bà ta đã xông lên động thủ rồi. Tiêu Phong nắm được rồi, liền mở bàn tay cô ta ra nói:

- Xem này!

Mọi người mới thấy trong kẽ tay cô gái có kẹp một mũi kim nhỏ sáng bóng xanh biếc, thoáng nhìn đã biết ngay là tẩm chất kịch độc. Cô ta giả vờ giơ tay ra vịn vào vai Tiêu Phong nhưng chính là định dùng chiếc kim này đâm vào ông, cũng may ông nhanh tay lẹ mắt không bị trúng kế nhưng phải nói là thật hung hiểm vạn phần.

Thiếu nữ bị cái tát khiến mặt sưng vù, dĩ nhiên Tiêu Phong không dùng toàn lực chứ không thì đã vỡ đầu nát óc. Tay cô ta đã bị nắm chặt có muốn dấu chiếc kim cũng không kịp, nửa người bên trái ê ẩm không còn hơi sức, đột nhiên xệch mồm khóa òa lên:

- Ngươi hiếp đáp ta, ngươi hiếp đáp ta!

Người trung niên kia bèn dỗ:

- Thôi nín đi! Đừng khóc nữa! Chỉ bị đánh nhẹ thế có sao đâu? Ngươi hơi một tí đã dùng ám khí kịch độc giết người, dạy bảo cho là phải lắm.

Cô gái vẫn khóc:

- Cái Bích Lân Châm này có gì là ghê gớm đâu. Tôi còn nhiều loại ám khí khác chưa dùng đến.

Tiêu Phong lạnh lùng nói:

- Sao ngươi không dùng Vô Hình Phấn, Tiêu Dao Tán, Cực Lạc Thích, Xuyên Tâm Đinh?

Cô gái lập tức nín bặt, mặt lộ vẻ kinh ngạc, run run hỏi:

- Làm sao ... sao ông biết?

Tiêu Phong nói:

- Ta biết cả sư phụ ngươi là Tinh Tú Lão Quái nên biết rõ những loại ám khí độc địa của ngươi nữa.

Lời đó vừa nói ra, mọi người ai nấy giật mình. Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu là một cao thủ tà phái trong võ lâm, ai nghe tiếng cũng phải cau mày, là kẻ vô ác bất tác, giết người như ngóe, Hóa Công Đại Pháp của y chuyên sử dụng để tiêu hủy công lực người khác, là đại kỵ trong võ học. Có điều y võ công cực kỳ cao cường, tuy không ai làm gì được, nhưng cũng may ông ta rất ít đi lại Trung Nguyên nên không đến nỗi trở thành đại họa.

Người đàn ông trung niên vẻ mặt vừa thương xót, lại vừa quan tâm, ôn tồn hỏi:

- A Tử, sao con lại bái Tinh Tú Lão Quái làm thầy?

Cô gái giương đôi mắt tròn to đen láy nhìn trừng trừng vào người trung niên như dò hỏi:

- Sao ông lại biết được tên của tôi?

Người trung niên thở dài một tiếng nói:

- Bọn ta vừa nói chuyện với nhau bộ con không nghe gì sao?

Thiếu nữ lắc đầu, nhoẻn một nụ cười đáp:

- Tôi giả chết, tim ngừng đập, nín hơi thở, tai mắt đều đóng chặt, không nhìn thấy, không nghe thấy gì cả.

Tiêu Phong bỏ tay cô gái ra nói:

- Hừ, đó là Qui Tức Công của Tinh Tú Lão Quái.

A Tử lườm Tiêu Phong nói:

- Hứ, cái gì ông cũng biết cả.

Nói rồi cô nàng le lưỡi nhăn mặt trêu ông ta. Người đàn bà chăm chú ngắm nghía A Tử, mặt mày rạng rỡ, xem ra vui sướng không đâu cho hết. Người đàn ông trung niên cũng mỉm cười:

- Sao con lại giả chết? Làm ta sợ hết hồn.

A Tử cực kỳ đắc ý nói:

- Ai bảo ông hất tôi xuống hồ? Ông chẳng tử tế gì cả.

Người trung niên nhìn Tiêu Phong, vẻ mặt ngượng nghịu, gượng cười nói:

- Ngang ngạnh thật!

Tiêu Phong biết hai cha con mới gặp lại, ắt hẳn có nhiều chuyện không muốn cho người ngoài nghe, kéo áo A Châu đi ra ngoài rừng trúc, thấy nàng hai mắt đỏ hoe, thân hình run rẩy bèn hỏi:

- A Châu, nàng không khỏe ư?

Ông giơ tay bắt mạch thấy nhảy thật nhanh đủ biết tâm thần đang chấn động mãnh liệt. A Châu lắc đầu nói:

- Không sao cả.

Rồi lập tức tiếp ngay:

- Đại ca, xin chàng ra ngoài trước, thiếp ... thiếp muốn đi giải.

Tiêu Phong gật đầu đi ra xa.

Tiêu Phong ra đến bờ hồ, đợi một hồi lâu vẫn không thấy A Châu từ trong rừng trúc đi ra, bỗng nghe thấy tiếng chân rộn rịp, có ba người rảo bước đi tới, trong lòng chợt động: “Không lẽ "tên đại ác" đến hay sao?”. Nhìn thấy ba người đó đi men theo đường nhỏ bên bờ hồ, trong đó hai người trên lưng có cõng ai đó, còn một người lùn nhỏ chạy nhanh như bay, tưởng chừng như chân không chạm đất. Y chạy một hồi rồi đứng lại chờ hai đồng bọn còn ở sau. Hai người kia bước chân ổn trọng hiển nhiên võ công cũng vào loại khá. Ba người đến gần, Tiêu Phong nhìn rõ hai người được cõng trên lưng chính là gã điên sử búa và đại hán họ Phó ông gặp trên đường. Người bé nhỏ kia kêu to:

- Chúa công, chúa công, "tên đại ác" đến rồi đó, bọn mình phải chạy cho mau.

Người trung niên kia một tay dắt người đàn bà, một tay cầm A Tử từ trong rừng trúc đi ra. Cả hai người trên mặt có dấu nước mắt, còn A Tử thì cười hì hì, mặt nhởn nhơ như không có chuyện gì xảy ra. Kế đó A Châu cũng đi ra đến bên cạnh Tiêu Phong. Người đàn ông bỏ tay hai người đàn bà ra bước đến bên cạnh hai người bị thương, giơ tay thăm mạch , thấy không có gì nguy hiểm đến tính mạng trên mặt lộ vẻ vui mừng nói:

- Ba vị thật là gian khổ, hai huynh đệ Cổ Phó không có gì đáng ngại, ta cũng yên lòng.

Ba người khom mình hành lễ, thần thái cực kỳ cung kính. Tiêu Phong toát mồ hôi nghĩ thầm: “Ba người này võ công khí độ không phải tầm thường, nếu không phải ở địa vị tôn quí độc bá nhất phương thì cũng phải là thủ lãnh một môn phái nào đó, sao đối với người trung niên này lại cung kính đến như vậy, không biết y lai lịch thế nào đây?”.

Hán tử thấp bé nói:

- Khải bẩm chúa công, thần hạ đã bố trí nghi trận bên cạnh Thanh Thạch Kiều để ngăn trở "tên đại ác". Chỉ sợ y sẽ nhìn ra cơ quan ngay, xin chúa công lập tức khởi giá ngay mới kịp.

Người trung niên kia đáp:

- Nhà ta chẳng may sinh ra một đứa ác nghịch như thế, nếu như gặp y nơi đây dẫu có muốn tránh cũng không tránh được, thôi đành cùng y một phen sống mái cho xong.

Một đại hán mày rậm mắt to nói:

- Việc trừ ác ngự địch, bọn thần tử sẽ chia nhau ra đảm trách, xin chúa công lấy chuyện xã tắc làm trọng, sớm trở về Đại Lý để hoàng thượng khỏi khắc khoải.

Một người thân hình tầm thước nói:

- Bẩm chúa công, việc hôm nay không thể đem cái dũng nhất thời mà đối phó. Ví như chúa công chỉ sẩy tay một tí, bọn chúng tôi còn mặt mũi nào trở về Đại Lý khấu kiến hoàng thượng? Đành phải cùng nhau tự vẫn thôi.

Tiêu Phong nghe đến trong trong lòng bàng hoàng: “Cái gì mà thần tử với chẳng hoàng thượng, rồi lại quay về Đại Lý? Không lẽ người này là Đoàn gia nước Đại Lý chăng?”. Tim ông đập thình thình, nghĩ bụng: “Biết đâu lưới trời lồng lộng, tên tặc tử Đoàn Chính Thuần hôm nay lại rơi vào tay ta chăng?”.

Ông trong lòng nghi ngờ bỗng nghe đằng xa có người rống lên, rồi có tiếng rổn rảng như kim loại chạm nhau vọng đến:

- Con rùa họ Đoàn kia, ngươi chạy không thoát đâu, mau ngoan ngoãn giơ tay chịu trói. Lão tử nể mặt con ngươi, không chừng sẽ tha mạng cho ngươi đó.

Có tiếng một người đàn bà tiếp theo:

- Việc tha hay không tha y đâu đến lượt Nhạc lão tam quyết định, chẳng lẽ lão đại không biết đứng ra phát lạc hay sao?

Lại có một giọng lạnh lẽo nói:

- Tên tiểu tử họ Đoàn nếu như biết phải quấy thì thể nào cũng đỡ hơn là không biết điều.

Y cố gằng nói từ xa vọng tới nhưng hiển nhiên trung khí bất túc, dường như bị thương chưa khỏi. Tiêu Phong nghe bọn kia mở miệng ra là gọi “tên họ Đoàn” lại càng nghi thêm, đột nhiên ở đâu một bàn tay nhỏ nhắn đưa ra nắm lấy tay ông. Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Châu đứng bên cạnh mình, thấy nàng mặt trắng bệch, bàn tay nàng lạnh ngắt đầy mồ hôi nên hỏi nhỏ:

- Nàng sao thế?

A Châu run rẩy đáp:

- Thiếp sợ lắm.

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Ở bên cạnh đại ca mà còn sợ nữa sao?

Ông nhếch mép về phía người đàn ông trung niên, thì thầm vào tai A Châu:

- Gã kia hình như là họ Đoàn Đại Lý.

A Châu môi mấp máy nhưng không nói gì.

Người đàn ông trung niên kia chính là hoàng thái đệ nước Đại Lý Đoàn Chính Thuần. Thời niên thiếu ông du lịch Trung Nguyên, phong lưu trăng gió đến đâu cũng để lại ái tình. Thời đó những người phú quí ai mà chẳng năm thê bảy thiếp, Đoàn Chính Thuần là một hoàng tử cao sang, có đèo bòng cũng là chuyện bình thường. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ thế gia võ lâm, tuy đã xưng đế nơi Đại Lý nhưng ăn uống thức ngủ vẫn tuân theo tổ huấn không quên nguồn gốc hào kiệt Trung Nguyên.

Nguyên phối phu nhân của Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng là con gái một đại tù trưởng người Bãi Di ở Vân Nam nên họ Đoàn mới kết thân cốt để liên kết thế lực bảo vệ ngôi vị hoàng đế. Thời đó người Hán ở Vân Nam không nhiều, nếu không được người Bãi Di ủng hộ thì ngôi vua của họ Đoàn không sao vững được.

Người Bãi Di vốn dĩ một vợ một chồng, Đao Bạch Phượng từ nhỏ vốn được tôn quí nên nhất định không cho Đoàn Chính Thuần lấy vợ lẽ, cũng chỉ vì chuyện ông đi đến đâu cũng vin cành bẻ lá mà tức mình xuất gia thành một đạo cô. Đoàn Chính Thuần với mẹ của Mộc Uyển Thanh là Tần Hồng Miên, vợ của Chung Vạn Cừu là Cam Bảo Bảo hay mẹ của A Tử là Nguyễn Tinh Trúc mỗi người đều có một thiên tình sử.

Lần này Đoàn Chính Thuần phụng mệnh hoàng huynh, tới chùa Thân Giới ở châu Lục Lương tra xét xem Huyền Bi đại sư bị người ta giết như thế nào. Ông thấy có rất nhiều điểm đáng ngờ, chưa chắc đã là Cô Tô Mộ Dung ra tay, nhưng đợi ở đó đến hơn nửa tháng vẫn không thấy cao tăng nào của chùa Thiếu Lâm đến cả nên cùng Tam Công Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch và tứ đại hộ vệ đến Trung Nguyên điều tra xem thực hư thế nào, nhân tiện đến thăm Nguyễn Tinh Trúc đang ẩn cư ở Tiểu Kính Hồ. Từ đó đến nay hai người quả là vầy duyên cá nước sung sướng khác gì thần tiên.

Đoàn Chính Thuần cùng người tình cũ ôn lại tình nồng thì Tam Công Tứ Vệ đi theo hộ giá chia ra khắp bốn bên che chở, có ai ngờ đâu kẻ đại đối đầu lại tìm được đến nơi. Đoàn Diên Khánh võ công lợi hại nên Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui trước sau bị thương. Chu Đan Thần lại tưởng lầm Tiêu Phong là địch, ở trên cầu đá xanh ngăn lại không xong. Chử Vạn Lý thì lại bi Nhu Ti Võng của A Tử trói lại, Tư Mã Phạm Hoa, Tư Đồ Hoa Hách Cấn, Tư Không Ba Thiên Thạch ba người cứu được Cổ, Phó xong liền quay về chung sức chống trả cường địch.

Chu Đan Thần vẫn cố gắng tìm cách cởi cho Chử Vạn Lý ra khỏi chiếc lưới nhưng chiếc lưới này dao cắt không đứt, tay mở không xong, mồ hôi đầm đìa mà vẫn không làm gì được. Đoàn Chính Thuần quay sang nói với A Tử:

- Ngươi mau thả Chử thúc thúc ra, đại địch sắp tới rối không được nghịch ngợm nữa.

A Tử cười đáp:

- Thế ba thưởng con cái gì đây?

Đoàn Chính Thuần nhíu mày:

- Ngươi không vâng lời, ta bảo mẹ ngươi đánh vào lòng bàn tay. Ngươi mạo phạm Chử thúc thúc, sao chưa mau mau tạ tội đi?

A Tử đáp:

- Ba vứt con xuống hồ làm con phải giả chết một hồi lâu, sao ba không tạ tội với con? Con cũng nói má đánh vào tay ba đó!

Bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch thấy Trấn Nam Vương bỗng nhiên lại có thêm một cô con gái ngang ngược cứng đầu, đối với phụ thân chẳng có phép tắc gì cả ai nấy đều dè chừng nghĩ thầm: “Cô nương này tuy không phải đích xuất nhưng dẫu sao cũng là thiên kim của Trấn Nam Vương, nếu như có xúc phạm đến mình, cũng không thể nào coi là thực mà đành nhịn vậy thôi. Chử huynh đệ bị cô ta trói như thế khó mà chịu nổi”.

Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp:

- Ngươi không nghe lời ba, để xem ta có còn thương ngươi nữa không?

A Tử cong cớn nói:

- Ba trước nay có thương gì con đâu, nếu không đâu có bỏ bê con mười mấy năm chẳng nhìn nhõi gì?

Đoàn Chính Thuần không biết phải nói sao, chỉ lặng lẽ thở dài. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Cục cưng A Tử ơi, má có cái này hay lắm, con mau mau cởi trói cho Chử thúc thúc đi nào!

A Tử chìa tay ra nói:

- Má đưa con coi trước để con xem có thật là hay không đã.

Tiêu Phong trong bụng kính phục Chử Vạn Lý là một hảo hán, đứng ngoài thấy cô bé con này ngang ngược hỗn láo đã bực trong lòng, nghĩ thầm: “Ngươi là gia thần của y nên không nổi cáu được chứ ta có gì mà phải nể nang”. Ông cúi xuống, nhắc Chử Vạn Lý lên nói:

- Chử huynh, xem chừng dây tơ này gặp nước là sẽ bung ra, để ta nhúng Chử huynh xem thế nào.

A Tử giận quá kêu lên:

- Cái thứ đồ trời đánh kia sao cứ xía vào chuyện người ta.

Thế nhưng nàng ta đã bị Tiêu Phong cho một bạt tai nên cũng hơi sợ không dám đưa tay ra ngăn cản. Tiêu Phong xách Chử Vạn Lý lên đi xuống bên cạnh hồ, nhúng y xuống nước. Quả nhiên cái lưới bằng tơ mềm kia liền nhũn ra, ông giơ tay cởi Chử Vạn Lý nói khẽ:

- Đa tạ Tiêu huynh đã giúp đỡ.

Tiêu Phong mỉm cười:

- Con nhãi cứng đầu này thật khó dạy, ta đã cho nó một cái tát để Chử huynh hả tức rồi.

Chử Vạn Lý lắc đầu, thật là rầu rĩ. Tiêu Phong cuộn chiếc lưới lại, lạ thay thành một cục chỉ to bằng nắm tay. A Tử chạy tới giơ tay ra:

- Trả lại cho ta!

Tiêu Phong giơ tay lên làm như định đánh, A Tử sợ quá vội thụt lùi mấy bước. Tiêu Phong chỉ dọa cô ta thôi, tiện tay bỏ luôn chiếc lưới vào túi. Ông đoán chừng người trung niên kia hẳn là kẻ đại đối đầu của mình, A Tử là con gái y, chiếc Nhu Ti Võng này là một món lợi hại không nên trả lại cho cô ta.

A Tử chạy đến giựt chéo áo Đoàn Chính Thuần kêu lên:

- Ba nè, y lấy chiếc lưới của con, y lấy chiếc lưới của con!

Đoàn Chính Thuần thấy Tiêu Phong thái độ khác thường, chắc chỉ muốn trừng trị A Tử một phen, chứ võ công như vậy lẽ nào lại tham một món đồ chơi của trẻ con.

Đột nhiên Ba Thiên Thạch lớn tiếng nói:

- Vân huynh đến đó có phải không? Công phu người khác càng luyện càng giỏi, sao Vân huynh lại càng luyện càng thụt lùi? Xuống ngay đi!

Nói xong liền múa chưởng nhắm cái cây đánh tới, lách cách mấy tiếng một cành cây bị đánh gãy rơi xuống, dồng thời một người cũng rơi theo. Người đó vừa gầy vừa cao, chính là Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Hôm ở Tụ Hiền Trang y bị Tiêu Phong đánh cho một chưởng trọng thương, tưởng đâu mất mạng, dưỡng thương đã đỡ nhưng công phu chưa bằng được lúc trước. Trước đây ở Đại Lý y cùng Ba Thiên Thạch thi tài khinh công, hai người hơn kém không bao nhiêu, nhưng hôm nay Ba Thiên Thạch chỉ nghe tiếng bước chân y lên xuống đã biết khinh công của y so với trước kém nhiều.

Vân Trung Hạc thấy Tiêu Phong, trong lòng kinh hãi, xoay lưng toan chạy thì từ con đường mòn bên cạnh hồ đã thấy ba người đi tới. Người phía bên trái đầu bù tóc rối, áo quần cũn cỡn, chính là Hung Thần Ác Sát Nam Hải Ngạc Thần, còn bên phải là một người đàn bà tay ôm một đứa trẻ, chính là Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Người ở giữa mặc áo bào xanh, hai tay hai cây trượng sắt nhỏ, mặt trông như quỉ nhập tràng, chính là người đứng đầu trong Tứ Ác, tên gọi Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh.

Đoàn Diên Khánh ít khi lộ diện ở Trung Nguyên, nên Tiêu Phong không biết được kẻ gọi là Thiên Hạ Đệ Nhất Ác Nhân này, nhưng bọn Đoàn Chính Thuần đã từng nếm qua thủ đoạn của y khi ở Đại Lý, biết rằng Diệp Nhị Nương, Nhạc Lão Tam tuy lợi hại thật nhưng đối phó không khó, còn Đoàn Diên Khánh mới thật không sao lường nổi.

Y kiêm cả sở trường hai phái chính tà, Nhất Dương Chỉ của họ Đoàn tinh thông đã đành, lại luyện thêm công phu tà phái, chính tà ngang ngửa, đến những cao thủ như Hoàng Mi Tăng còn không địch lại y, Đoàn Chính Thuần biết mình không thể là đối thủ.

Phạm Hoa lớn tiếng nói:

- Bẩm chúa công, tên Đoàn Diên Khánh này bụng dạ không tốt lành gì, chúa công nên vì xã tắc làm trọng, mau mau đi mới các cao tăng của chùa Thiên Long đến mới được.

Chùa Thiên Long ở mãi tận Đại Lý, làm sao mời đến cho kịp? Trước mắt quân thần Đại Lý gặp hung hiểm không biết sống chết thế nào, câu nói đó chẳng qua xin Đoàn Chính Thuần mau mau bỏ chạy về Đại Lý, đồng thời hư trương thanh thế, để Đoàn Diên Khánh tưởng là các cao tăng chùa Thiên Long ở gần đâu đây, đâm lòng úy kỵ. Đoàn Diên Khánh là dòng đích của họ Đoàn Đại Lý, ắt phải biết các sư sãi chùa Thiên Long lợi hại bậc nào.

Đoàn Chính Thuần biết rằng tình thế cực kỳ hung hiểm nhưng trong tất cả mọi người ở Đại Lý thì ông võ công cao hơn cả, nếu bỏ anh em chạy lấy một mình thì còn mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ? Huống chi tình nhân và con gái cũng đang ở cạnh đây, ai lại để mất mặt đến thế? Ông mỉm cười nói:

- Chuyện trong nhà của họ Đoàn Đại Lý lại phải đem nhau đến đất nhà Đại Tống mà giải quyết hay sao, ha ha, thật là nực cười!

Diệp Nhị Nương cười nói:

- Đoàn Chính Thuần, mỗi lần ta gặp ngươi lại thấy ngươi ở bên cạnh một vài ả xinh tươi đẹp đẽ. Ngươi thật là diễm phúc.

Đoàn Chính Thuần nhếch mép:

- Diệp Nhị Nương, nàng cũng xinh tươi đẹp đẽ đấy chứ!

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ:

- Con rùa kia sao hưởng phúc lắm thế mà đẻ được thằng con không chịu bái ta làm thầy, thật quả không biết làm cha. Để lão tử cắt mẹ ngươi cho rồi.

Y lấy chiếc ngạc chủy tiễn bên người ra, xông vào Đoàn Chính Thuần. Tiêu Phong thấy Diệp Nhị Nương gọi người kia là Đoàn Chính Thuần mà y không phủ nhận, quả nhiên mình liệu không sai, quay sang nói nhỏ với A Châu:

- Đúng là y rồi!

A Châu run run hỏi:

- Đại ca định ... định thừa cơ người ta đang nguy, hai mặt giáp công chăng?

Tiêu Phong tâm tình khích động, vừa phẫn nộ vừa vui mừng, giọng lạnh như băng:

- Mối thù cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi, lại thêm ta bị hàm oan, ôi, thật là huyết hải thâm cừu, ôi, còn nói gì nhân nghĩa đạo đức, qui củ giang hồ nữa?

Mấy câu đó tuy chỉ khe khẽ nhưng đầy oán độc, tưởng như chém đinh chặt sắt không bằng. Phạm Hoa thấy Nam Hải Ngạc Thần xông tới, nói nhỏ:

- Hoa đại ca, Chu hiền đệ hiệp lực tấn công gã mãng phu này. Đánh cho mạnh cho gấp, kết thúc càng nhanh càng tốt, để bẻ nanh bẻ vuốt y trước, sau đó tất cả dùng toàn lực đối phó với kẻ thù chính.

Hoa Hách Cấn và Chu Đan Thần đáp lời bước ra. Hai người biết rằng lấy hai địch một thật mất thân phận, một mình Hoa Hách Cấn cũng không kém gì Nam Hải Ngạc Thần, cần gì phải nhờ ai giúp nhưng nghe Phạm Hoa nói thế thật có lý. Đoàn Diên Khánh quả thực quá ư lợi hại, lấy một đánh một không ai có thể là đối thủ của y, chỉ có cách tất cả ùa lên một lượt mới có cơ sống sót. Hoa Hách Cấn lập tức cầm cương sản, Chu Đan Thần múa thiết bút, chia ra hai bên tả hữu Nam Hải Ngạc Thần đánh vào.

Phạm Hoa lại tiếp:

- Ba huynh đệ đến đối phó với người bạn cũ, ta và Chử huynh đệ đối phó với con mụ kia.

Ba Thiên Thạch đáp lời tiến ra, xông vào Vân Trung Hạc, Phạm Hoa và Chử Vạn Lý cùng nhảy ra theo. Võ khí Chử Vạn Lý cầm vốn là chiếc cần câu bằng sắt nhưng đã bị A Tử ném xuống sông rồi, lúc này cầm cây đồng côn của Phó Tư Qui hầm hè xông lên.

Phạm Hoa lao thẳng vào Diệp Nhị Nương, Diệp Nhị Nương toét miệng cười, thấy thân pháp của họ Phạm biết là kình địch, không dám coi thường, liền ném huỵch đứa trẻ trong tay xuống đất, lúc quay lại trong tay đã cầm một thanh đao vừa mỏng vừa rộng, không biết vốn dấu ở chỗ nào.

Chử Vạn Lý la ó rầm rĩ, xông vào Đoàn Diên Khánh. Phạm Hoa kinh hãi kêu lên:

- Chử huynh đệ, Chử huynh đệ, qua bên này!

Chử Vạn Lý dường như không nghe thấy, giơ cây đồng côn lên, hết sức quật ngang. Đoàn Diên Khánh cười nhạt, không coi vào đâu, thiết trượng bên trái điểm vào mặt y. Thế trượng đó nhẹ nhàng như không, nhưng thời khắc bộ vị không sai một mảy, so với cây gậy đồng của Chử Vạn Lý đánh tới còn nhanh hơn, hậu phát tiên chí, ra chiêu thật là lợi hại. Thế đó lấy công làm thủ, chỉ một chiêu đã phản khách vi chủ, Chử Vạn Lý không thể không tránh né.

Ngờ đâu thế trượng đánh ra Chử Vạn Lý làm như không trông thấy, kình lực trên tay càng tăng thêm, đồng côn vẫn tiếp tục vụt ngang lưng địch thủ. Đoàn Diên Khánh kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ gã này điên sao?”. Y không thể cùng Chử Vạn Lý lưỡng bại câu thương, dù một trượng có đánh chết y ngay tại chỗ thì lưng mình trúng một côn, thể nào cũng bị thương, hữu trượng vội vàng điểm xuống đất, tung mình vọt lên tránh được.

Chử Vạn Lý liền dựng cây đồng côn lên đâm luôn vào bụng dưới Đoàn Diên Khánh. Cây gậy đồng của Phó Tư Qui nặng nề, vừa dài vừa to, sử dụng món binh khí này xem có ổn định hay không mà biết công phu đến đâu. Võ công của Chử Vạn Lý lấy nhẹ nhàng linh hoạt làm sở trường, sử dụng đồng côn không thuận tay, huống chi lại đánh liều đánh lĩnh, chiêu nào cũng nhắm thẳng vào chỗ yếu hại của Đoàn Diên Khánh, việc sống chết của chính mình chẳng để vào đâu. Người đời thường bảo: “Một người đánh chí mạng thì vạn người không đương nổi”, Đoàn Diên Khánh võ công cao cường thật nhưng gặp kẻ đánh thí mạng như người điên thế này cũng phải liên tiếp thối lui.

Chỉ thấy trên đám cỏ xanh bên cạnh Tiểu Kính Hồ, trong chốc lát đã lấm tấm đầy máu tươi. Thì ra Đoàn Diên Khánh tuy phải lùi thật nhưng vẫn liên tiếp ra chiêu, trượng nào cũng trúng vào người Chử Vạn Lý, đâm thành một lỗ thủng. Thế nhưng Chử Vạn Lý dường như không biết đau, cây gậy đồng trong tay càng lúc càng nhanh.

Đoàn Chính Thuần kêu lên:

- Chử huynh đệ lùi xuống, để ta lên đấu với tên ác đồ.

Ông đưa tay cầm một thanh kiếm trong tay Nguyễn Tinh Trúc, xông lên toan hai người đánh một mình Đoàn Diên Khánh. Chử Vạn Lý kêu lên:

- Chúa công lui ra đi!

Đoàn Chính Thuần nào có nghe, giơ kiếm lên đâm vào Đoàn Diên Khánh. Cây trượng bên phải của Đoàn Diên Khánh chống xuống đất, cây gậy bên trái gạt đồng côn của Chử Vạn Lý, tiếp đó theo khe hở đâm vào giữa hai lông mày Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần nghiêng qua lùi một bước.

Chử Vạn Lý rống lên một tiếng như con mãnh thú bị thương, đột nhiên chuyển thế đánh, hai tay cầm một đầu gậy vung lên thật nhanh, thành một vòng tròn màu vàng, chẳng khác gì một cái mâm thật lớn, từ từ nhích gần tới nơi Đoàn Diên Khánh đang đứng. Lối đánh này chẳng còn gì là võ thuật chiêu số nữa.

Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đan Thần cùng lớn tiếng kêu lên:

- Chử huynh đệ, Chử đại ca mau lùi xuống nghỉ một chút.

Chử Vạn Lý kêu rống lên hầm hè, nhảy vụt vào, giơ côn đánh loạn vào Đoàn Diên Khánh. Lúc này Phạm Hoa cả bọn lẫn Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần thấy y hành động quái đản cũng đều bãi đấu, chăm chú xem ra làm sao. Chu Đan Thần kêu lên:

- Chử đại ca, mua lui xuống!

Y xông lên toan ôm lấy Chử Vạn Lý nhưng bị y thúc lại một cùi chỏ, trúng ngay mặt, lập tức tím mặt vều môi. Gặp một đối thủ như thế quả thật ngoài sở nguyện của Đoàn Diên Khánh, lúc này y và Chử Vạn Lý hai bên đã sách giải hơn ba mươi chiêu, đã đâm trùng đối phương hơn chục lỗ thủng, nhưng Chử Vạn Lý vẫn hò hét xông vào. Đoàn Diên Khánh và người đứng xem ai nấy kinh khiếp, thấy việc này quả thật khác thường. Chu Đan Thần biết rằng đấu thêm nữa thể nào Chử Vạn Lý cũng táng mạng, nước mắt nhỏ ròng ròng, lại muốn xông lên giúp đỡ, vừa mới dợm chân thì đã nghe vụt một tiếng, Chử Vạn Lý đã hết sức bình sinh phóng cây đồng côn vào kẻ địch. Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh điểm ra, khéo làm sao trúng ngay giữa thân cây côn, hất nhẹ một cái, cây gậy đã bay về phía sau. Cây côn chưa rơi tới đất, mười ngón tay Chử Vạn Lý đã xòe ra nhắm thẳng vào Đoàn Diên Khánh chộp tới.

Đoàn Diên Khánh cười nhạt, nhắm giữa ngực y đâm ra một trượng. Đoàn Chính Thuần, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Chu Đan Thần bốn người cùng kinh hoảng kêu lên, xông vào giúp đỡ. Thế nhưng cây gậy của Đoàn Diên Khánh đâm ra thật nhanh, nghe soẹt một tiếng đã xuyên qua ngực Chử Vạn Lý, từ trước qua sau. Trượng bên phải đâm qua thì cây gậy bên trái đã điểm xuống đất, thân hình đã tà tà bay xa hơn một trượng ra ngoài.

Vết thương trước ngực, sau lưng của Chử Vạn Lý máu tươi vọt ra, y vẫn còn định đuổi theo Đoàn Diên Khánh nhưng chỉ được một bước thì đã không còn hơi sức, quay đầu lại, nói với Đoàn Chính Thuần:

- Chúa công, Chử Vạn Lý thà chết không chịu nhục, đem cả đời báo đáp Đoàn gia Đại Lý.

Đoàn Chính Thuần quì gối phải, nước mắt lã chã:

- Chử huynh đệ, lỗi ở ta nuôi con không biết dạy, đắc tội với huynh đệ, Chính Thuần này thật hổ thẹn xiết bao.

Chử Vạn Lý quay sang gượng nở một nụ cười với Chu Đan Thần:

- Hảo huynh đệ, người anh này đành đi trước. Ngươi ... ngươi ...

Mới nói được hai chữ “ngươi” đột nhiên ngừng lại, thì ra đã tắt thở chết rồi, thân hình vẫn còn sừng sững chưa chịu ngã xuống. Mọi người nghe y trước khi chết nói đến “thà chết không chịu nhục”, biết rằng Chử Vạn Lý bất kể sống chết tấn công Đoàn Diên Khánh, chỉ vì bị cái nhục A Tử trói vào trong lưới, vốn đã mang tử chí rồi. Người trong võ lâm ai ai cũng biết:

Ta giỏi có người còn giỏi nữa,

Núi cao ắt có núi cao hơn.

Võ công nếu như thua kém người không phải là một kỳ sỉ đại nhục, khổ luyện mười năm, ngày sau cũng có lúc báo được mối thù. Thế nhưng Chử Vạn Lý là gia thần của họ Đoàn, A Tử lại là con gái Đoàn Chính Thuần, mối nhục này mãi mãi không sao rửa được, thôi đành chết ở chiến trận còn hơn. Chu Đan Thần khóc òa lên, Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành tuy bị thương nặng chưa khỏi nhưng cũng muốn đứng lên một phen tử chiến với Đoàn Diên Khánh.

Đột nhiên có một giọng trong vắt nổi lên:

- Người này võ công tệ quá, bỏ mạng chẳng đâu vào đâu, đúng là đồ ngốc.

Người nói chính là A Tử. Bọn Đoàn Chính Thuần đang đau lòng, nghe cô ta nói một câu khinh bạc châm chọc, ai nấy giận đến điên người. Bọn Phạm Hoa hầm hầm nhìn cô gái, có điều lại là con gái chúa công nên không tiện nổi khùng. Đoàn Chính Thuần tức khí xông lên, vung tay nhắm ngay mặt cô ta tát một cái.

Nguyễn Tinh Trúc giơ tay gạt ra, giận dỗi nói:

- Mười mấy năm nay bỏ cho người ta chẳng ngó ngàng gì tới, sống chết chẳng biết ra sao, đến bây giờ mới trùng phùng, lại nhẫn tâm đánh nó hay sao?

Đoàn Chính Thuần vốn dĩ cũng ăn năn vì đã đối với Nguyễn Tinh Trúc chưa hết lòng, thêm nữa trước nay đối với nàng vẫn chiều chuộng hết mực, lại không muốn tranh chấp trước mặt người ngoài, chưởng kia vừa sắp đến tay Nguyễn Tinh Trúc đã rụt ngay lại, hầm hầm nói với A Tử:

- Chử thúc thúc vì ngươi mà chết, ngươi có biết hay không?

A Tử nhếch mép đáp:

- Người ta gọi cha là chúa công thì con cũng là tiểu chủ nhân của họ rồi. Có chết một vài đứa đầy tớ thì có đáng gì đâu?

Vẻ mặt cô ta tỏ ra cực kỳ rẻ rúng. Vào thời đó vua tôi phân chia thật nghiêm, đến nỗi “vua muốn bầy tôi phải chết thì không thể không chết”. Bọn Chử Vạn Lý ở triều đình Đại Lý là phận thần tử, đối với Đoàn gia cực kỳ kính trọng. Thế nhưng họ Đoàn xuất phát từ võ lâm Trung Nguyên, trước sau vẫn giữ qui củ giang hồ, Hoa Hách Cấn, Chử Vạn Lý ... tuy là bầy tôi nhưng Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần vẫn coi họ như anh em.

Đoàn Chính Thuần từ thuở thanh xuân vẫn thường qua lại giang hồ Trung Nguyên, Chử Vạn Lý theo ông vào sinh ra tử, trải qua không biết bao nhiêu phong ba gian hiểm, nào có phải là một kẻ đầy tớ tầm thường? Câu đó của A Tử bọn Phạm Hoa nghe thật không vui chút nào. Nếu không phải ở trong triều đình, miếu đường, Bảo Định Đế đối với bọn họ vẫn thường dùng tiếng “huynh đệ” mà gọi, huống chi Đoàn Chính Thuần lại chưa lên ngôi cửu ngũ, còn A Tử chẳng qua là một đứa con riêng, danh phận chưa đâu vào đâu?

Đoàn Chính Thuần vừa đau lòng về cái chết của Chử Vạn Lý , lại có đứa con như thế thật xấu hổ với anh em, giơ trường kiếm lên thản nhiên bước tới, chỉ vào Đoàn Diên Khánh nói:

- Nếu như ngươi muốn giết thì cứ việc ra đây lấy mạng ta. Họ Đoàn lấy “nhân nghĩa” trị nước, nếu giết người vô tội để được nước thì có được cũng chẳng bao lâu.

Tiêu Phong trong bụng cười khẩy: “Ngươi miệng nói sao thật dễ nghe, đến nước này còn giở trò ngụy quân tử”. Đoàn Diên Khánh điểm cây gậy sắt đã đến bên cạnh Đoàn Chính Thuần nói:

- Ngươi muốn một đánh một với ta, không phải nhờ đến người ngoài, có đúng vậy chăng?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Đúng vậy! Ngươi định giết ta xong sẽ đến Đại Lý giết Hoàng huynh ta, xem vận khí có được như ý nguyện hay không? Bộ thuộc gia nhân của ta không liên quan gì đến chuyện của hai người mình.

Ông biết Đoàn Diên Khánh võ công quá cao siêu, hôm nay chắc mình không khỏi chết, chỉ mong y đừng làm khó Nguyễn Tinh Trúc, A Tử cùng bọn Phạm Hoa. Đoàn Diên Khánh đáp:

- Người nhà ngươi thì giết, còn bộ thuộc ngươi thì tha. Năm xưa phụ hoàng vì lòng nhân không giết hai anh em ngươi nên mới có cái họa soán nghịch hôm nay.

Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: “Ta Đoàn Chính Thuần phải đường đường mà chết, đâu để cho người đàm tiếu”. Ông quay sang thi thể Chử Vạn Lý, chắp tay nói:

- Chử huynh đệ, Đoàn Chính Thuần hôm nay cùng huynh đệ sóng vai kháng địch.

Ông quay lại nói với Phạm Hoa:

- Phạm tư mã, khi ta chết rồi chôn ta ngang với Chử huynh đệ, không phân biệt kẻ chúa người tôi.

Đoàn Diên Khánh cười khẩy:

- Ha ha, giả nhân giả nghĩa, đến nước này còn cố thu phục nhân tâm, tưởng rằng người ta sẽ ra sức chịu chết cho ngươi sao?

Đoàn Chính Thuần không trả lời, tay trái thành kiếm quyết, trường kiếm tay phải đâm ra chiêu Kỳ Lợi Đoạn Kim chính là chiêu khởi thủ trong Đoàn gia kiếm. Đoàn Diên Khánh biết rõ biến hóa bên trong nên thản nhiên trả lại một trượng. Hai người vừa ra tay đều cùng sử dụng võ công tổ truyền của nhà họ Đoàn, Đoàn Diên Khánh lấy trượng thay kiếm, định bụng sẽ dùng Đoàn gia kiếm để giết Đoàn Chính Thuần.

Y cùng Đoàn Chính Thuần đối địch không phải vì có thù oán riêng tư mà vì tranh đoạt ngôi vua nước Đại Lý, trước mắt có cả Tam Công trong triều, nếu như y dùng công phu tà phái giết Đoàn Chính Thuần, quần thần nước Đại Lý ắt sẽ không phục. Còn như dùng bản môn công phu Đoàn gia kiếm để thắng, thật là danh chính ngôn thuận, không ai dị nghị được. Anh em họ Đoàn tranh ngôi vua không liên quan gì đến quần thần, sau này lên ngôi báu ắt sẽ lợi hơn nhiều.

Đoàn Chính Thuần thấy y dùng thiết trượng sử dụng công phu bản môn trong bụng yên tâm, liền ngưng thần nín thở, kiếm chiêu ổn thỏa, bước chân trầm tĩnh, đường kiếm nhẹ nhàng khinh khoái, chiêu nào tung ra đều công thủ đúng phép tắc.

Đoàn Diên Khánh dùng thiết trượng sử dụng Đoàn gia kiếm pháp khi đóng khi mở, đoan ngưng tự trọng, tuy chiêu số cực kỳ khinh linh phiêu dật nhưng vẫn không để mất khí tượng đế vương.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Hôm nay mình quả là dịp may khó gặp, ta vẫn lo lắng không biết Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm của họ Đoàn thế nào, may sao Đoàn Chính Thuần lại có cường địch kéo đến, đối thủ lại chính cùng nhà với y, hai tuyệt kỹ của họ Đoàn đến cỡ nào chỉ chốc lát ta sẽ biết ngay”.

Xem đến sau hai mươi chiêu, cây gậy sắt trong tay Đoàn Diên Khánh dường như càng lúc càng nặng, sử dụng so với lúc đầu có vẻ chậm chạp hơn, mỗi khi kiếm của Đoàn Chính Thuần đụng phải, hai món binh khí văng ra càng lúc càng xa. Tiêu Phong ngầm gật gù, nghĩ bụng: “Công phu chân thực đã ra rồi đây, chỉ dùng một cây gậy sắt nhẹ nhàng mảnh khảnh mà chẳng khác gì thiền trượng sáu bảy chục cân, công lực quả thực phi phàm”. Người võ công cao cường đều có thể “cử trọng nhược khinh”, dùng binh khí nặng như không có gì, nhưng đến mức “cử khinh nhược trọng” thì công lực phải hơn một mức nữa. Tuy nhiên “tưởng như nặng” mà không phải nặng thật nghĩa là uy mãnh như một món binh khí nặng nề nhưng lại có cái khéo léo linh hoạt của binh khí nhẹ. Trước mắt thấy Đoàn Diên Khánh sử dụng một thiết bổng nhỏ bé mà chẳng khác gì cương trượng, càng lúc lại càng nặng thêm không biết đến thế nào mới dứt, Tiêu Phong phải khen thầm y nội lực thật kinh người.

Đoàn Chính Thuần ra sức tiếp chiêu, thấy mỗi lúc thiết trượng của kẻ địch càng nặng thêm, ép xuống khiến ông phải ngộp thở. Võ công họ Đoàn đối với nội kình hết sức quan trọng, hơi thở không thông là một dấu hiệu thua sút rồi. Thế nhưng Đoàn Chính Thuần không chút gì kinh hoàng, vốn dĩ biết mình không thể nào thắng được, nghĩ thầm cuộc đời hưởng phúc đã nhiều, hôm nay dẫu phải bỏ mạng bên hồ Tiểu Kính, cũng không uổng một kiếp người. Huống chi lại có Nguyễn Tinh Trúc đứng bên cạnh nhìn mình ánh mắt đầy vẻ tình tứ, có chết cũng là một con quỉ phong lưu.

Ông bình sinh đến đâu cũng để lại những mối tình, đối với Nguyễn Tinh Trúc càng thêm quyến luyến, tuy chẳng phải coi nặng hơn nguyên phối Đao Bạch Phượng hay những người đàn bà khác, thế nhưng tính ông dù ở bên cạnh bất cứ ai cũng đối đãi hết lòng hết dạ, dù có phải chết vì người tình cũng chẳng từ nan, còn khi chia tay vui vầy duyên mới rồi thì lại là chuyện khác.

Đoàn Diên Khánh nội lực truyền vào thiết trượng mỗi lúc một nặng, hai bên trao đổi đến hơn sáu mươi chiêu, đường kiếm họ Đoàn đã thi triển hết rồi, thấy đầu mũi Đoàn Chính Thuần đã lấm tấm mấy giọt mồ hôi nhưng hơi thở vẫn dài và đều, nghĩ thầm: “Ta nghe gã này là tên hiếu sắc, lắm vợ nhiều hầu, vậy mà nội lực được dai dẳng như thế, không thể nào mình để thua y được”. Lúc này nội lực trên thiết bổng đã phát huy đến cực độ, đánh ra tiếng gió vù vù. Mỗi lần Đoàn Chính Thuần đỡ được một kiếm lại lảo đảo, đến chiêu thứ hai lại lảo đảo lần nữa.

Hai người sử dụng kiếm chiêu đều đã thuộc lòng từ khi mười ba mười bốn tuổi, mà bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch mấy chục năm qua coi cũng đã quen, thành ra cuộc đấu kiếm này không phải tỉ thí chiêu số, mà là giao đấu nội lực. Bọn Phạm Hoa coi đến lúc này biết rằng Đoàn Chính Thuần chịu không nổi, đưa mắt cho nhau, tay cầm binh khí toan cùng xông lên tương trợ.

Đột nhiên một thiếu nữ cười khúc khích nói:

- Thật là tức cười, họ Đoàn Đại Lý tự xưng anh hùng hào kiệt, vậy mà cả bọn toan xông lên lấy đông đánh ít, chẳng hóa ra thành bọn vô sỉ tiểu nhân hay sao?

Mọi người ai nấy ngạc nhiên, thấy rõ ràng mấy lời đó từ miệng A Tử phát ra, không ai hiểu nổi. Người đang gặp nguy chính là cha cô ta, chẳng lẽ không biết hay sao mà còn buông lời biếm nhẽ?

Nguyễn Tinh Trúc giận dữ nói:

- A Tử ngươi biết cái gì? Cha ngươi là Trấn Nam Vương nước Đại Lý, còn kẻ động thủ với cha ngươi là đứa phản nghịch của họ Đoàn. Những bằng hữu đây đều là thần tử nước Đại Lý, trừ bạo thảo nghịch là trách nhiệm của mọi người.

Bà ta tuy thông thạo bơi lội nhưng võ công chỉ bình thường, thấy tình lang gặp phải nguy cơ không nóng ruột sao được, nên liền kêu lên:

- Tất cả sánh vai tiến lên, đối phó với hung đồ phản nghịch còn nói gì đến qui củ giang hồ?

A Tử cười nói:

- Mẹ ơi, sao mẹ nói nghe tức cười làm vậy, chỉ toàn là gượng gạo chẳng có đạo lý gì hết. Cha con nếu là anh hùng hảo hán thì mới nhận làm cha, còn như là vô sỉ chi đồ, đánh nhau cần đến người tiếp sức, con nhận thứ cha đó làm chi?

Mấy câu đó từng tiếng rõ ràng truyền vào tai mọi người. Phạm Hoa và bọn Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn ai nấy bần thần, cảm thấy xông lên tương trợ thì cũng bất ổn, mà đứng yên chẳng ra tay cũng không xong.

Đoàn Chính Thuần tuy là kẻ gió trăng nhưng bốn chữ “anh hùng hảo hán” không phải là không thích. Ông vẫn thường tự chế nhạo mình: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan, nhưng dẫu không qua được cửa ải mỹ nhân cũng đâu phải là không anh hùng. Hạng Bá Vương có Ngu Cơ, Hán Cao Tổ có Thích phu nhân, Lý Thế Dân có Võ Tắc Thiên đó thì sao?”. Thành thử việc hèn hạ tệ hại, nhút nhát khiếp nhược ông quyết không làm. Ông tuy đang trong lúc chiến đấu kịch liệt nhưng nghe A Tử nói thế, lập tức lớn tiếng nói:

- Sinh tử thắng bại có gì là quan trọng đâu? Bất cứ ai tiến lên tương trợ, là coi Đoàn Chính Thuần này chẳng ra gì.

Ông mở miệng nói ra khiến nội lực không còn tinh thuần nữa nhưng Đoàn Diên Khánh không thừa cơ tiến lên bức bách, ngược lại lui về một bước, hai cây trượng chống dưới đất, đợi ông nói xong mới tiếp tục đánh nữa. Bọn Phạm Hoa ai nấy thầm kinh hãi, thấy Đoàn Diên Khánh ra vẻ phong độ nhàn nhã, không thèm chiếm phần hơn, chẳng qua biết mình thắng thế nên không sợ gì cả.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười nói:

- Tiến chiêu đi!

Tay áo ông phất một cái, trường kiếm theo tụ phong cũng đâm ra. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- A Tử, con xem cha con kiếm pháp lợi hại nhường bao, nếu như quả ông ta muốn lấy mạng con quỉ nhập tràng kia thì thừa sức. Có điều cha con thân phận vương gia, nên mới giao cho bộ thuộc đâu cần phải tự mình ra tay làm gì.

A Tử đáp:

- Cha con muốn thanh toán y cũng chưa chắc gì được. Con e rằng mẹ miệng lim dạ sứa, mồm thì ra vẻ ta đây mà bụng thì lo ngay ngáy.

Mấy câu đó quả đúng tâm sự mẫu thân, Nguyễn Tinh Trúc hầm hầm lườm con nghĩ thầm: “Con nhãi này thực chẳng biết nông sâu, nói năng thật vô ý vô tứ”. Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần đâm ra liên tiếp ba chiêu thật nhanh, thiết bổng của Đoàn Diên Khánh nội lực càng mạnh, ép cho kiếm bên địch phải lùi lại. Chiêu thứ tư của Đoàn Chính Thuần Kim Mã Đằng Không bay vòng ngang qua, gậy sắt trong tay Đoàn Diên Khánh liền ra chiêu Bích Kê Báo Hiểu, chọc luôn vào, bổng kiếm tương giao, lập tức dính chặt lấy nhau.

Đoàn Diên Khánh cổ họng kêu lên ục ục, cây gậy bên phải chống trên mặt đất điểm mạnh một cái, thân hình bay vụt lên không nhưng đầu gậy bên trái vẫn không rời mũi kiếm của Đoàn Chính Thuần.

Chỉ trong giây lát, một người hai chân vẫn bám trên mặt đất, vững chãi như một ngọn núi con không hề động đậy, còn người kia ở trên không đong đưa như cành liễu trước gió, dật dờ vô định. Người đứng chung quanh ai nấy “A” lên một tiếng, biết rằng hai người đã vào giai đoạn khẩn cấp tỉ đấu nội lực, Đoàn Chính Thuần đứng ở dưới đất hai chân có chỗ tựa để mượn lực, như thế có lợi hơn, thế nhưng Đoàn Diên Khánh từ trên cao đánh xuống, tất cả trọng lượng toàn thân ép xuống đầu kiếm đối phương, cũng khiến gia tăng sức mạnh.

Chỉ trong giây lát, trường kiếm từ từ cong lại dần dần biến thành hình cánh cung, thế nhưng thiết bổng mảnh khảnh kia vẫn thẳng băng như mũi tên. Tiêu Phong thấy trường kiếm trong tay Đoàn Chính Thuần càng lúc càng cong lại, cong thêm chút nữa e rằng sẽ gãy làm hai, nghĩ thầm: “Hai người trước sau sao vẫn chưa sử dụng môn tối cao thâm Lục Mạch Thần Kiếm? Không lẽ Đoàn Chính Thuần biết rằng công phu của mình không bằng đối phương nên không dám phô cái vụng về của mình ra? Xem cách y vận dụng nội lực, bao nhiêu tiềm lực đã hết rồi chẳng còn bản lãnh nào chưa dùng đến”.

Đoàn Chính Thuần thấy trường kiếm trong tay lúc nào cũng có thể gãy đôi, vội hít một hơi dài, tay phải điểm ra, chính là công phu Nhất Dương Chỉ. Công phu của ông còn chưa bằng được anh là Đoàn Chính Minh, không thể nào xa quá ba thước. Bổng kiếm tương giao, hai món binh khí cộng lại phải đến tám thước, chỉ đó không thể nào đả thương được đối phương, chỉ lực không phải để đối phó với Đoàn Diên Khánh, mà là đâm vào cây gậy sắt của y.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Người này xem chừng không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, có lẽ chưa bằng được nghĩa đệ ta. Chỉ này chẳng qua là một môn công phu điểm huyệt cao minh, có gì lạ đâu?”. Thế nhưng chỉ lực của ông đụng vào, cây gậy của Đoàn Diên Khánh liền rung lên, kiếm của Đoàn Chính Thuần liền duỗi thẳng ra được một chút. Ông liên tiếp tung ra ba chỉ, trường kiếm duỗi ra được ba lần, tạm thời trở lại nguyên trạng. A Tử lại liến thoắng nói:

- Mẹ ơi, mẹ xem cha con đã sử chỉ lại sử kiếm, vậy mà chỉ mới ngang tay được với cây gậy tẻo teo của người ta thôi. Nếu như đối phương lấy cây gậy bên kia tấn công tới, chẳng lẽ cha con có đến ba cánh tay mà đỡ hay sao? Đến nước đó chỉ còn cách giơ chân đá ra, tuy khó coi thực còn hơn để cho người ta đâm cho chết ngoẻo.

Nguyễn Tinh Trúc đã thấy chuyện đó, trong bụng đang lo, con gái kế bên lại nói toàn những lời xúi quẩy khó nghe, bà ta chưa kịp trả lời đã thấy cây gậy tay phải của Đoàn Diên Khánh vung lên, nghe vù một tiếng, đâm luôn vào ngón tay trỏ bên tay trái của Đoàn Chính Thuần.

Thủ pháp và nội lực của Đoàn Diên Khánh so với Nhất Dương Chỉ có khác gì đâu, có điều lấy bổng thay ngón tay, đã dài lại xa. Đoàn Chính Thuần không tránh, chỉ lực và bổng lực đụng nhau, thấy cánh tay ê ẩm, ông vội rụt tay về, đang định vận nội kình điểm ra lần thứ hai, ngờ đâu cây gậy trước mặt chuyển động, Đoàn Diên Khánh đã tiếp tục đâm vào lần nữa. Đoàn Chính Thuần kinh hoảng: “Y điều vận nội lực nhanh đến thế, ý đến đâu sức tới đó, công phu Nhất Dương Chỉ ghê gớm đến thế sao? So với ta cao thâm hơn nhiều”. Vội vàng đâm ngón tay ra nhưng đã chậm mất một chút, thân hình lảo đảo.

Đoàn Diên Khánh đấu với ông một hồi, e rằng đêm dài lắm mộng, để lâu sinh chuyện, nếu như tất cả quần thần bộ thuộc cùng xông lên, thể nào cũng hao phí hơi sức, nên vận bỗng như gió cuốn, trong khoảnh khắc điểm ra chín lần. Đoàn Chính Thuần hết sức chống đỡ, đến lần thứ chín, chân khí không còn liên tục nghe soẹt một tiếng, đầu gậy đã đâm vào vai. Ông thân hình lắc lư, nghe cắc một tiếng, trường kiếm bên tay phải gãy ra làm đôi.

Từ trong cổ họng Đoàn Diên Khánh phát ra một tiếng quái dị, thiết trượng bên tay phải đâm luôn vào sọ đối phương. Thế bổng đó quyết lấy tính mạng Đoàn Chính Thuần nên y ra tay sử dụng toàn lực phát tiếng vù vù.

Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn cả cùng nhảy tới, chia ra hai bên tấn công Đoàn Diên Khánh. Tam công Đại Lý thấy tình thế hung hiểm vạn phần, muốn cứu Đoàn Chính Thuần không sao kịp nữa chỉ còn cách đánh vào những nơi yếu hại của Đoàn Diên Khánh, ép cho y phải quay về tự cứu mà thôi. Đoàn Diên Khánh cũng đã liệu được chuyện đó rồi, thiết trượng bên trái thò xuống đất đỡ thân mình, trượng bên tay phải vận đủ sức lực tạt ngang ra, chấn động một cái, đánh giạt cả ba món binh khí, sau đó quay lại đâm vào đầu Đoàn Chính Thuần.

Nguyễn Tinh Trúc kêu lên thất thanh, vội vàng nhào đến, xem ra tình lang chết ngay tại chỗ, nàng cũng chẳng muốn sống làm gì. Thiết trượng của Đoàn Diên Khánh chỉ còn cách huyệt Bách Hội trên đầu Đoàn Chính Thuần chừng ba tấc, đột nhiên thân hình Đoàn Chính Thuần bay tạt qua một bên, thành ra bổng đó điểm vào chỗ không. Khi đó Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch đã ép cho Đoàn Diên Khánh phải thu bổng trở về. Ba Thiên Thạch ra tay thật nhanh nhẹn, lật tay một cái nắm ngay được cổ tay Nguyễn Tinh Trúc để cho bà ta khỏi uổng mạng chết dưới tay Đoàn Diên Khánh. Mọi người quay sang nhìn Đoàn Chính Thuần.

Bổng của Đoàn Diên Khánh không điểm trúng đối phương, thấy một đại hán thò tay nắm ót Đoàn Chính Thuần, chỉ trong đường tơ kẽ tóc đã nhẹ nhàng kéo ông ta ra. Công phu đó quả thật không ai ngờ nổi, Đoàn Diên Khánh tuy võ công cao cường, nhưng cũng biết khó mà làm được. Bắp thịt trên mặt ông ta cứng đờ, tuy hết sức kinh ngạc nhưng vẫn thản nhiên như không, chỉ nghe hừ một tiếng bằng giọng mũi.

Người ra tay cứu Đoàn Chính Thuần chính là Tiêu Phong. Trong khi hai người họ Đoàn kịch đấu, ông đứng bên ngoài chăm chăm quan sát, đến khi thấy Đoàn Chính Thuần sắp bị đối phương giết chết, bổng của Đoàn Diên Khánh đánh xuống rồi thì mối huyết hải thâm cừu của mình không còn sao báo được nữa. Trong mấy ngày qua, ông đã tự nguyện không biết bao nhiêu lần, lập không biết bao nhiều lời thề, dù thế nào chăng nữa cũng nhất quyết phải trả cho bằng được mối thù này. Bây giờ kẻ thù ở ngay trước mắt, lẽ nào lại để y chết về tay kẻ khác? Thành thử ông tung mình nhảy tới, lôi Đoàn Chính Thuần ra ngoài.

Đoàn Diên Khánh tính toán linh mẫn, không đợi Tiêu Phong bỏ Đoàn Chính Thuần xuống, thiết bổng bên phải múa lên như giá táp mưa sa, hết gậy này đến gậy khác, liên tiếp điểm vào những chỗ yếu hại trên người Đoàn Chính Thuần. Y nhất quyết trừ khử kẻ chặn đường lên ngôi vua của mình, rồi sau đối phó Tiêu Phong cách nào thì để hạ hồi phân giải.

Tiêu Phong cầm Đoàn Chính Thuần né bên đông, luồn bên tây, theo những khe hở giữa hai đường gậy mà tránh được cả. Đoàn Diên Khánh liên tiếp sử dụng hai mươi bảy chiêu, vậy mà vẫn không đụng được vào chéo áo của Đoàn Chính Thuần. Y trong lòng thảng thốt, biết mình không phải là địch thủ của Tiêu Phong, hú lên một tiếng quái dị, đột nhiên bay vụt ra ngoài mấy trượng hỏi:

- Các hạ là ai? Sao lại xen vào việc này?

Tiêu Phong chưa kịp trả lời, Vân Trung Hạc kêu lên:

- Lão đại, y chính là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang Kiều Phong, tên đồ đệ Truy Hồn Trượng Đàm Thanh của đại ca chết dưới tay tên ác đồ này đó.

Lời đó nói ra, không chỉ Đoàn Diên Khánh chấn động mà cả họ Đoàn Đại Lý cũng rùng mình. Tên tuổi Kiều Phong vang lừng thiên hạ, Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, trong võ lâm còn ai không biết. Có điều khi ông thông báo tên tuổi với Đoàn Chính Thuần và Phó Tư Qui đều tự xưng là “Tiêu Phong người Khất Đan”, nên không ai biết ông chính là Kiều Phong danh tiếng lừng lẫy. Đến bây giờ nghe Vân Trung Hạc nói thế, ai nấy đều nghĩ thầm: “Thì ra là y, võ công hiệp nghĩa, quả nhiên danh bất hư truyền”.

Đoàn Diên Khánh đã nghe Vân Trung Hạc kể lại đầu đuôi, tên đệ tử đắc ý của mình là Đàm Thanh ở Tụ Hiền Trang toan hại người không xong, ngược lại bị Kiều Phong giết chết, bây giờ nghe nói kẻ đứng trước mặt kia là kẻ giết học trò mình, trong bụng hết sức phẫn nộ nhưng cũng e dè, liền giơ thiết trượng ra viết lên trên nền đá xanh:

Các hạ có thù gì với ta? Đã giết học trò ta nay lại đến đây làm hỏng đại sự.

Chỉ nghe tiếng rào rào không dứt tưởng chừng như viết trên cát, hai mươi chữ chữ nào cũng hằn sâu vào đá. Môn phúc ngữ của y phải kết hợp với nội công thượng thừa có thể làm người ta hồn phách mê mẩn, thần trí hỗn loạn, là một môn tà thuật cực kỳ lợi hại. Có điều môn công phu này thuần do tâm lực khắc chế đối phương, nếu địch nhân nội lực thắng mình, thì lại bị dội ngược lại. Y biết Đàm Thanh chết cách nào, lại xem thân thủ Tiêu Phong cứu Đoàn Chính Thuần, nên không dám dùng thuật nói bằng bụng đối phó với Tiêu Phong.

Tiêu Phong đợi y viết xong, không nói một lời, tiến lên lấy gót chân di di mấy cái, lập tức xóa sạch những chữ trên nền đá. Người viết dùng thiết bổng viết trên đá xanh đã khó lắm rồi, nhưng người dùng gót chân xóa sạch tự tích thì môn công phu đó, so với nội lực tụ tại đầu gậy càng khó gấp bội. Hai người một viết một xóa, phiến đá xanh lót đường ở ven hồ thật chẳng khác gì một bãi cát nơi bờ biển.

Đoàn Diên Khánh thấy đối phương xóa hết chữ của mình, biết rằng ông ta một là trổ tài cho biết, hai là minh thị không thù oán, chuyện cũ bỏ qua, nếu không truy cứu thì hai bên ngừng tay. Đoàn Diên Khánh biết mình không phải đối thủ, chi bằng tránh voi chẳng xấu mặt nào khỏi bị cái bất lợi trước mắt, nên thiết trượng bên phải gạch một đường từ trên xuống dưới, móc lên một cái, biểu thị “một nét sổ toẹt” xóa hết mọi chuyện, sau đó điểm đầu gậy một cái, bay ngược về sau, xoay mình lặng lẽ đi mất.

Nam Hải Ngạc Thần trợn tròn đôi mắt, chăm chăm nhìn Tiêu Phong, trong bụng không phục, chửi:

- Con mẹ nó, thằng chó đẻ này có cái quái gì đâu ...

Y nói chưa dứt câu, đột nhiên thân hình bay tung lên, rơi tõm ra giữa ao, nghe tùm một tiếng, nước văng tung tóe, đã chìm lỉm trong Tiểu Kính Hồ. Tiêu Phong giận nhất ai chửi ông là “đồ chó đẻ”, tay trái vẫn nhắc Đoàn Chính Thuần, tiến đến tay phải cầm Nam Hải Ngạc Thần lẳng một cái xuống dưới nước. Ông ra tay nhanh không thể tả, khiến cho Nam Hải Ngạc Thần không sao kháng cự được.

Nam Hải Ngạc Thần sống lâu nơi biển nam, đã tự xưng là “ngạc thần” nên bơi lội rất giỏi, hai chân búng vào đáy hồ một cái đã vọt lên khỏi nước kêu lên:

- Ngươi làm cách nào thế?

Y mới nói một câu, thân hình lại chìm xuống dưới đáy hồ, lại hết sức nhảy lên khỏi mặt nước, gào lớn:

- Ngươi ám toán lão tử.

Y vừa nói xong lại chìm nghỉm. Đến lần thứ ba y nhảy lên:

- Lão tử không để yên cho ngươi đâu.

Y tính tình cực kỳ nóng nảy, không đợi đến lúc lên được bờ, cứ nhảy chồm lên lại chửi Tiêu Phong một câu, rồi lại chìm xuống. A Tử cười nói:

- Mọi người xem kìa, gã này ở dưới nước trồi lên hụp xuống, có khác gì một con rùa không?

Vừa lúc đó Nam Hải Ngạc Thần nhảy lên khỏi mặt nước nghe thấy cô ta nói thế, liền chửi:

- Có ngươi mới là một con rùa ...

A Tử vung tay ra, nghe soẹt một tiếng, đã ném ra một mũi phi chùy. Khi món ám khí đó bay tới nơi, Nam Hải Ngạc Thần lại chìm mất tăm rồi.

Nam Hải Ngạc Thần bơi tới bên bờ hồ, người ướt như chuột lột bò lên nhưng không sợ hãi chút nào, hùng hục đi đến trước Tiêu Phong, nghiêng đầu nhìn ông ta nói:

- Ngươi vứt ta xuống hồ, dùng thủ pháp gì thế? Công phu đó lão tử chưa biết.

Diệp Nhị Nương đứng xa xa cách bảy tám trượng kêu lên:

- Lão tam đi thôi, đừng ở đây giở xấu ra nữa.

Nam Hải Ngạc Thần giận dữ đáp:

- Ta bị người ta ném xuống hồ, đến người ta dùng thủ pháp gì cũng chưa biết, chẳng phải là kỳ sỉ đại nhục hay sao? Ta phải hỏi cho minh bạch chứ.

A Tử nghiêm nghị nói:

- Hay lắm, để cô nương nói cho ngươi nghe. Công phu đó của ông ta tên là “Trịch Qui Công”.

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Ồ, hóa ra gọi là Trịch Qui Công, ta biết được tên công phu đó rồi, sẽ đi kiếm người dạy, khổ luyện một phen, để sau này không bị bẽ mặt nữa.

Nói xong lục tục chạy đi, lúc đó Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã xa rồi.

TÁI THƯỢNG NGƯU DƯƠNG KHÔNG HỨA ƯỚC

Tưởng đâu nên vợ nên chồng,

Đôi ta rong ruổi một vùng thảo nguyên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Để ai ôm hận nhân duyên một đời.

*

* *

Tiêu Phong nhẹ nhàng vứt Đoàn Chính Thuần xuống đất, lùi lại mấy bước. Nguyễn Tinh Trúc vái một cái thật sâu nói:

- Kiều bang chủ, ông trước đã cứu con gái tôi, bây giờ lại cứu... cứu anh ấy... thật không biết sao mới tạ ơn được.

Phạm Hoa, Chu Đan Thần cả bọn cũng lại cám ơn. Tiêu Phong lạnh lùng đáp:

- Tiêu Phong cứu y chỉ là vì lòng riêng, các vị không phải cám ơn làm gì. Đoàn vương gia, ta hỏi ông một câu, ông hãy trả lời cho thực. Năm xưa ông có làm một việc sai lầm thật đáng hổ thẹn, có phải thế không? Tuy việc đó không hẳn do bản tâm ông muốn thế, nhưng ông đã làm một đứa trẻ thơ cả đời khốn khổ, đến cha mẹ mình là ai cũng không biết, có đúng thế không?

Chuyện ngoài Nhạn Môn Quan khiến cho cả cha lẫn mẹ đều chết thảm, ông càng nghĩ càng đau lòng nên không muốn nói trắng ra trước mặt người ngoài.

Đoàn Chính Thuần mặt đỏ bừng, rồi lập tức tái nhợt, nói nhỏ:

- Quả đúng thế, việc này vẫn khiến Đoàn mỗ lúc nào cũng áy náy, mỗi khi nghĩ đến, trong lòng không yên. Thế nhưng sai quấy đã phạm rồi, không sao lấy lại được nữa. May mà trời thương hôm nay cho ta được gặp

lại đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ, có điều... có điều... ôi, ta thật là không phải.

Tiêu Phong gay gắt nói:

- Nếu ngươi biết là “sai quấy đã phạm, làm khổ người khác”, sao đến giờ phút này vẫn điều một điều hai tiếp tục làm chuyện ác?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu, hạ giọng nói nhỏ:

- Đoàn mỗ làm điều không ngay thẳng, đức hạnh khiếm khuyết, những việc sai quấy trong đời kể cũng đã nhiều, nghĩ lại càng thêm hổ thẹn.

Tiêu Phong từ khi nghe Mã phu nhân ở Tín Dương nói ra tên Đoàn Chính Thuần, ngày đêm suy tính, nghĩ bụng gặp được tên này thể nào cũng lột da lóc thịt, để cho y phải chịu trăm cay nghìn đắng lúc đó mới lấy mạng y. Thế nhưng đến khi thấy ông ta đãi bạn bè nhân nghĩa, với kẻ địch hiên ngang, không có vẻ gì là kẻ đê tiện gian tà chuyên làm chuyện xấu, trong bụng không khỏi ngờ vực nghĩ thầm: “Y giết cha mẹ ta ở ngoài Nhạn Môn Quan là do hiểu lầm, chuyện nhầm lẫn đó ai cũng có thể phạm phải. Thế nhưng y giết vợ chồng cha mẹ nuôi ta là Kiều Tam Hòe, lại làm hại ân sư Huyền Khổ đại sư, là những việc ác không thể nào tha thứ được, không lẽ bên trong còn có cái gì bí ẩn mà mình không biết hay chăng?".

Ông xưa nay hành sự không bao giờ cẩu thả, thành ra phải hỏi thẳng đối phương, để chính ông ta nói ra lúc đó mới quyết đoán. Đến khi thấy Đoàn Chính Thuần mặt mày ngượng nghịu, đầy vẻ hối tiếc, tự nhận mình đã làm việc sai lầm, trong lòng áy náy không yên, lại nói hôm nay gặp lại đứa trẻ mồ côi năm trước, còn “làm điều không ngay thẳng, đức hạnh

khiếm khuyết” chẳng phải nhắc đến việc giết vợ chồng Kiều Tam Hòe và

Huyền Khổ đại sư thì còn gì nữa?

Ông thấy đã hai năm rõ mười, khuôn mặt sầm xuống như phủ một làn

sương mỏng, hừ một tiếng. Nguyễn Tinh Trúc bỗng nói:

- Anh ấy... anh ấy xưa nay vẫn thế, ta... ta cũng chẳng... trách cứ gì đâu.

Tiêu Phong quay sang nhìn bà ta, thấy nàng mỉm cười, đôi mắt nhìn Đoàn Chính Thuần đầy vẻ tình tứ, trong lòng bỗng nổi cơn lôi đình, cười mũi một tiếng nói:

- Được, thì ra y xưa nay vẫn thế.

Ông quay lại nói với Đoàn Chính Thuần:

- Canh ba đêm nay, ta đợi ông ở nơi cầu đá, có chuyện muốn nói với các hạ.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Thể nào ta cũng đến. Đại ân không thể tạ bằng lời, có điều tôn giá mệt nhọc từ xa đến, sao không vào tiểu xá uống dăm chén rượu?

Tiêu Phong hỏi lại:

- Thương thế các hạ ra sao? Có cần tĩnh dưỡng vài hôm không?

Việc Đoàn Chính Thuần mời vào uống rượu, Tiêu Phong nghe mà như bỏ ngoài tai. Đoàn Chính Thuần cảm thấy hơi lạ lùng nói:

- Đa tạ Tiêu huynh quan hoài, vết thương nhẹ đó chẳng có gì đáng ngại.

Tiêu Phong gật đầu nói:

- Thế thì được rồi. A Châu, thôi mình đi.

Ông đi được mấy bước, quay đầu lại nói với Đoàn Chính Thuần:

- Những hảo bằng hữu thủ hạ của ông không cần đem theo.

Ông thấy bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn đều là những hảo hán son sắt

một lòng, nếu như cùng đi với Đoàn Chính Thuần đến cầu đá xanh, ắt sẽ

đều chết dưới tay mình, quả thật đáng tiếc.

Đoàn Chính Thuần thấy người này hành sự, ăn nói có vẻ khác thường, cái thói đa tình hoa nguyệt của mình đến hoàng huynh biết được cũng chỉ mỉm cười, sao y lại nghiêm nghị trách mắng trước mặt mọi người, không phải quá đáng hay sao? Thế nhưng y có cái ơn cứu mạng, bèn nói:

- Mọi việc nhất nhất theo lời dặn dò của tôn huynh.

Tiêu Phong cầm tay A Châu, không theo con đường mòn cũ quay về. Hai người tìm đến một nhà nông, mua gạo nấu cơm ăn, lại mua thêm hai con gà luộc ăn cho no nhưng tiếc rằng không có rượu nên cũng mất hứng. Ông thấy A Châu dường như có tâm sự gì, từ đầu chí cuối không nói năng bèn hỏi:

- Ta tìm ra được kẻ đại thù, nàng phải vui với ta chứ!

A Châu mỉm cười nói:

- Đúng thế, thiếp vui lắm.

Tiêu Phong thấy nàng nở nụ cười thật là gượng gạo nói:

- Tối nay giết y xong, chúng mình lập tức đi về phương bắc, ra ngoài Nhạn Môn Quan cưỡi ngựa săn thú, thả bò chăn cừu, không quay lại quan nội một bước nào nữa. Ôi, A Châu, ta trước khi gặp Đoàn Chính Thuần, đã từng lập lời thề sẽ giết cả nhà y không chừa con gà con chó. Thế nhưng gặp người này rồi thấy đầy nghĩa khí, nghĩ rằng ai làm nấy chịu, không cần phải đi tìm người nhà y làm gì.

A Châu đáp:

- Chàng nghĩ được nhân từ như thế ắt tích thêm âm đức, thể nào sau này cũng được hưởng phúc lâu dài.

Tiêu Phong cười rộ lên đáp:

- Hai bàn tay ta giết không biết bao nhiêu người rồi, còn âm đức hậu phúc gì nữa?

Ông thấy đôi lông mày xinh đẹp của A Châu nhíu lại, bèn hỏi:

- A Châu, sao nàng lại không vui? Nàng không muốn ta giết người nữa ư?

A Châu đáp:

- Không phải thiếp không vui nhưng chẳng hiểu tại sao bụng thiếp đau quá.

Tiêu Phong giơ tay bắt mạch nàng, quả nhiên mạch nhảy không đều, có vẻ gấp gáp bèn dịu giọng nói:

- Đường đi gian khổ coi chừng nàng nhiễm phong hàn. Để ta bảo bà lão nấu cho nàng một bát cháo gừng uống.

Bát cháo gừng nấu chưa xong A Châu người đã run như cầy sấy, lập cập nói:

- Thiếp lạnh quá! Lạnh quá!

Tiêu Phong hết sức lo lắng, vội cởi áo ngoài đắp lên người nàng. A Châu nói:

- Đại ca, tối nay chàng báo được thù rồi là làm tròn đại tâm nguyện. Thiếp cũng muốn đi theo chàng, mong rằng bệnh đỡ được một chút.

Tiêu Phong gạt đi:

- Không cần, không cần! Nàng cứ ở đây nghỉ ngơi, ngủ một giấc lúc tỉnh dậy thì ta đã đem thủ cấp Đoàn Chính Thuần về rồi.

A Châu thở dài nói:

- Thiếp thật đau lòng xiết bao! Đại ca, thật chẳng biết cách nào!

Thiếp chắc không đi theo chàng được đâu! Thiếp chỉ mong được ở bên

chàng, mãi mãi ở bên chàng, chẳng bao giờ muốn cùng chàng phân ly ...

chàng ... chàng ... một thân một mình cô đơn tịch mịch, thiếp không được

cùng chàng ở bên nhau.

Tiêu Phong nghe nàng nói thật thiết tha, trong lòng cảm động, nắm lấy

tay A Châu nói:

- Hai đứa mình chỉ xa nhau một chốc, có gì là quan trọng đâu? A Châu, nàng đối với ta thật tốt, ân tình nàng ta biết báo đáp thế nào đây?

A Châu đáp:

- Chẳng phải chia tay một lúc đâu, thiếp biết là mình sẽ xa nhau rất lâu, lâu thật là lâu. Đại ca, thiếp xa chàng rồi, chàng một thân một mình, thiếp cũng cô khổ lênh đênh. Tốt hơn hết chàng đưa thiếp ra ngoài Nhạn Môn Quan ngay bây giờ, hai đứa mình chăn bò thả cừu. Oán thù với Đoàn Chính Thuần, một năm nữa hãy báo có được không? Để thiếp được ở cùng chàng một năm thôi.

Tiêu Phong vỗ nhẹ lên mái tóc mềm mại của nàng nói:

- May quá mới kiếm được y, tối nay báo được thù rồi, đôi ta không quay lại Trung Nguyên nữa. Đoàn Chính Thuần võ công kém ta xa, y lại không biết sử dụng Lục Mạch Thần Kiếm, qua một năm nữa thì mình lại phải tới tận Đại Lý. Ở đó họ Đoàn hảo thủ rất đông, gặp phải người tinh thông Lục Mạch Thần Kiếm, đại ca này phần lớn là thua. Chẳng phải ta không nghe lời nàng nhưng việc này quả có nhiều chỗ khó khăn.

A Châu gật đầu, nói nhỏ:

- Đúng thế, thiếp chẳng thể nào xin chàng một năm nữa đến Đại Lý tìm y báo thù. Chàng một thân một mình vào trong hang cọp, thật không thể được.

Tiêu Phong cười ha hả giơ chiếc bát cơm lên làm như uống một ngụm, tính vốn quen uống rượu từng bát rồi, lúc này tuy không có gì, nhưng cứ giả vờ thế cũng đỡ thèm, nói:

- Ví như Tiêu Phong này chỉ có một thân một mình, dù Đoàn gia Đại Lý là đầm rồng hang hổ thì cũng cứ vào, sinh tử nguy nan có coi vào đâu. Thế nhưng bây giờ bên cạnh lại có thêm tiểu A Châu, ta muốn lo liệu cho nàng thì tính mạng bây giờ quí lắm.

A Châu nằm gục vào trong lòng ông, bờ vai rung rung, Tiêu Phong nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, trong lòng thấy bình thản ấm áp nghĩ bụng:

“Được người vợ như thế này còn mong gì hơn nữa?”. Bỗng chợt ông thả hồn qua ngoài biên tái, nghĩ đến chỉ một tháng nữa thôi mình sẽ cùng A

Châu hai người cưỡi ngựa ruổi rong trên thảo nguyên ải bắc, chăn cừu săn thú, không còn nghĩ đến chuyện đề phòng kẻ địch đến tấn công, từ nay không buồn không lo, tiêu dao khoái hoạt biết bao! Có điều hôm trước nơi Tụ Hiền Trang, người áo đen kia cứu mạng mình chưa báo đáp được, không khỏi khắc khoải trong lòng, thế nhưng đại anh hùng thi ân nào cần báo, thôi cuộc đời này cũng đành thiếu ông ta một món ân tình.

Trời tối dần, A Châu nằm gục trong lòng ông đã ngủ thiếp từ lúc nào. Tiêu Phong lấy ra ba đồng bạc đưa cho nhà nông, bảo họ dọn cho một gian phòng, sau đó bồng A Châu đặt lên giường, đắp chăn cho nàng, buông màn xuống rồi ngồi ngoài nhà người nông gia nhắm mắt dưỡng thần, chẳng mấy chốc cũng ngủ nốt.

Ông ngủ một mạch hơn hai giờ, tỉnh dậy mở cửa bước ra thấy vầng trăng non đã lên quá ngọn cây, phía tây bắc mây đen đang kéo đến, xem chừng đêm nay sẽ có mưa dông.

Tiêu Phong khoác trường bào đi về phía chiếc cầu đá xanh. Đi được chừng năm dặm đến bên bờ sông, tuy bóng trăng vẫn chiếu xuống dòng nước, nhưng nửa bầu trời phía tây đã đầy mây đen, thỉnh thoảng lại có một tia chớp sáng lòe tỏ cả bốn bề nhưng vừa qua đi, trời lại tối đen như mực. Xa xa nơi gò đống mấy đám ma trơi lung linh, chập chờn trên những ngọn cỏ. Tiêu Phong đi càng lúc càng nhanh, chẳng bao lâu đã đến chiếc cầu đá, nhắm sao Bắc Đẩu thấy xem chừng mới chỉ độ canh hai nghĩ bụng: “Vì lo báo cho xong mối thù thành thử mình hơi nóng ruột nên đã đến sớm một canh”. Trong đời ông ước hẹn đem sinh tử ra đánh cuộc không biết bao lần, đối phương thanh thế võ công hơn Đoàn Chính Thuần cũng đã nhiều, thế nhưng sao đêm nay tâm thần hết sức hồi hộp, thiếu hẳn cái hào khí nhất quyết một phen tử chiến, trước nay chưa hề như thế bao giờ.

Ông đứng bên cầu, nhìn xuống dòng sông nước lững lờ trôi nghĩ thầm:

"Đúng rồi, trước kia ta một thân một mình, đến đâu thì đến, đi đâu thì đi,

không có gì phải khắc khoải, đêm nay mình có thêm một A Châu. Ôi, quả

đúng là nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản”. Nghĩ đến đây, trong lòng

dậy lên một nỗi ấm áp, mỉm cười, nghĩ tiếp: ”Giá như A Châu đứng cạnh

mình nơi đây thì thật còn thích thú hơn nhiều”.

Ông biết Đoàn Chính Thuần võ công so với mình còn kém xa, cuộc hẹn hôm nay chẳng phải lo gì đến chuyện thắng bại, thấy thời khắc ước hội cũng còn lâu nên ngồi xuống gốc cây bên cạnh cầu đá ngưng thần thổ nạp, dần dần linh đài thấy đã trống không, trừ hết mọi tạp niệm. Bỗng dưng một tia chớp sáng lòa, rồi một tiếng sấm ầm ầm nổi lên, một ánh sét từ trên không đánh xuống. Tiêu Phong mở to mắt, tự hỏi: "Trong chớp mắt là mưa kéo đến rồi, không biết đã đến canh ba chưa?".

Ngay lúc đó, từ con đường nhỏ đi qua Tiểu Kính Hồ một người chậm rãi đi tới, áo rộng, đai lỏng chính là Đoàn Chính Thuần. Ông ta đi đến trước mặt Tiêu Phong, vái một cái thật sâu nói:

- Kiều bang chủ vời đến, không biết có chuyện chi dạy bảo?

Tiêu Phong hơi nghiêng đầu liếc xéo ông ta, cơn giận từ trong lòng bùng lên nói:

- Đoàn vương gia, dụng ý ta hẹn ông đến đây không lẽ ông chưa biết hay sao?

Đoàn Chính Thuần thở dài một tiếng nói:

- Có phải ông muốn nói đến chuyện ngoài Nhạn Môn Quan năm xưa, ta nghe lời kẻ gian để cho y xúi bẩy, làm mất mạng lệnh đường, khiến cho lệnh tôn phải tự tận, thật là một lỗi lầm hết sức lớn.

Tiêu Phong lạnh lùng nói:

- Thế sao ông lại còn làm hại vợ chồng nghĩa phụ ta là Kiều Tam Hòe, làm hại ân sư ta là Huyền Khổ đại sư?

Đoàn Chính Thuần chậm rãi lắc đầu, buồn bã nói:

- Ta chỉ mong che dấu được chuyện này, ngờ đâu càng lúc càng lún sâu vào tội ác, không sao rút ra được nữa.

Tiêu Phong nói:

- Hừ, ngươi quả là một hán tử thẳng thắn, ngươi tự xử lấy mình hay phải để ta động thủ?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Nếu không được Kiều bang chủ ra tay cứu trợ thì trưa hôm nay Đoàn Chính Thuần này đã táng mạng bên cạnh hồ Tiểu Kính rồi, được sống thêm nửa ngày đều là do các hạ ban cho. Kiều bang chủ muốn lấy mạng tại hạ thì cứ việc ra tay.

Khi đó tiếng sấm ầm ầm vang trời, từng giọt mưa to bằng hạt đậu lộp bộp rơi xuống. Tiêu Phong nghe y nói đầy hào khí, không khỏi động lòng. Ông vốn dĩ thích kết giao anh hùng hảo hán, từ khi gặp Đoàn Chính Thuần thấy y phong độ hiên ngang, không khỏi nẩy bụng cảm mến, nếu chỉ là một việc tầm thường, dù phải hết sức nhục nhã, cũng chỉ uống với nhau vài mươi chén rượu cười khì bỏ qua. Thế nhưng mối thù cha mẹ không đội trời chung, dễ gì bỏ qua cho được? Ông giơ chưởng lên nói:

- Là phận con cái, đại thù của cha mẹ sư trưởng không thể không báo. Ông giết cha tôi, mẹ tôi, cha nuôi tôi, mẹ nuôi tôi thêm thụ nghiệp ân sư của tôi, cả thảy năm người, vậy tôi đánh ông năm chưởng. Ông chịu đựng năm chưởng rồi, chết hay sống, bao nhiêu thù oán đều xóa sạch.

Đoàn Chính Thuần cười gượng:

- Một mạng người chỉ đổi lấy một chưởng, báo ứng với Đoàn mỗ thế là nhẹ quá rồi, hết sức cảm kích thịnh tình đó.

Tiêu Phong thầm nghĩ: “Họ Đoàn Đại Lý võ công trác tuyệt thật, nhưng e rằng chưa chắc đã chịu nổi một chưởng của Tiêu mỗ”. Ông bèn nói:

- Vậy thì xem đây!

Tay trái cuộn một vòng, tay phải nghe vù một tiếng đánh ra. Đột nhiên một ánh chớp sáng lòa, trên trời một tiếng sét ỳ ầm vang động, tiếng sấm tưởng như phụ họa với thế chưởng Tiêu Phong đánh ra, uy mãnh quả thực trời long đất lở, bình một tiếng, trúng giữa ngực Đoàn Chính Thuần. Chỉ thấy ông ta đứng không vững, đổ gục ngay xuống, nghe bịch một tiếng đã ngã sập trên lan can chiếc cầu đá xanh, nằm bẹp xuống không động đậy gì nữa. Tiêu Phong ngạc nhiên: “Sao y không giơ chưởng lên chống đỡ? Không lẽ tệ đến thế ư?”. Ông tung mình nhảy tới, cầm ngay cổ áo nhắc lên, trong bụng chột dạ, tai ù đi, mưa hắt vào mặt nhưng không biết gì chỉ kịp nghĩ: “Sao y nhẹ bỗng như thế này?”. Trưa hôm đó khi ra tay cứu Đoàn Chính Thuần đã cầm y nhắc lên khá lâu. Người võ công cao cường, trọng lượng trong tay dù chỉ sai biệt một cân, tám lượng thì cũng đã phát giác ngay. Thế nhưng lúc này Tiêu Phong thấy thân thể Đoàn Chính Thuần nhẹ hẫng đi hàng mấy chục cân, trong lòng nổi lên một mối kinh hoàng không đâu kể xiết, mồ hôi lạnh toát đầm đìa.

Vừa lúc đó một lằn chớp nữa lóe lên. Tiêu Phong giơ tay lên nắm vào mặt Đoàn Chính Thuần, thấy bốc ra một nắm nhão nhoẹt, xoa một cái lập tức rã ra, trong ánh chớp nhìn rõ ràng, thất thanh kêu lên:

- A Châu, A Châu, thì ra là em!

Tiêu Phong thấy chân tay bủn rủn không còn chút khí lực nào, nhịn không nổi khuỵu ngay xuống, ôm chặt lấy hai chân A Châu. Ông biết rằng vừa rồi chưởng thế của mình sử dụng toàn lực, dù kẻ võ công hạng nhất nếu không giơ chưởng ra chống đỡ, cũng chịu không nổi, huống chi là nàng A Châu ẻo lả mong manh? Chưởng đó đánh nàng đứt hết gân cốt, ngũ tạng nát nhừ, dẫu có Tiết Thần Y ở ngay bên cũng chưa chắc cứu nổi.

A Châu nằm dựa vào thành cầu, từ từ xụm xuống gục trong lòng Tiêu

Phong, thều thào nói:

- Đại ca, thiếp ... thiếp thật chẳng phải với chàng, chàng có giận em không?

Tiêu Phong gào lên:

- Ta không giận em đâu, ta chỉ giận ta thôi, ta chỉ hận ta thôi.

Nói xong giơ chưởng lên đánh mạnh xuống đầu mình. Bàn tay A Châu nhấp nhổm như muốn ngăn không cho ông tự đánh mình, nhưng không giơ lên nổi nữa, nói:

- Đại ca phải bằng lòng làm cho em một chuyện, vĩnh viễn không bao giờ được hủy mình.

Tiêu Phong gầm lên:

- Sao nàng lại thế? Sao lại làm thế? Sao thế?

A Châu nói nhỏ:

- Đại ca, chàng cởi áo ra xem đầu vai bên trái em đi.

Tiêu Phong cùng nàng rong ruổi muôn dặm quan san, đi cùng đi, ngủ cùng ngủ nhưng vẫn giữ lễ, bây giờ nghe A Châu bảo mình cởi áo nàng ra, không khỏi sững sờ. A Châu nói:

- Thiếp vốn đã thuộc về chàng rồi, em... em... thân này là của chàng. Chàng coi... coi đầu vai em thì sẽ rõ.

Tiêu Phong mắt nhòa lệ, nghe nàng nói không có vẻ gì mê loạn, trong

muôn một vẫn còn chút hi vọng mong manh, vội vàng tay trái đỡ lưng A

Châu vận chân khí cuồn cuộn trút vào thân thể nàng, may ra có thể chữa

khỏi điều lầm lẫn, tay phải từ từ cởi áo cô gái ra, để lộ vai trái. Trên trời

lại một lằn chớp loằng ngoằng vụt ngang, mắt Tiêu Phong hoa lên, thấy bờ vai nàng da trắng như tuyết có xâm một chữ “Đoàn” đỏ như máu. Tiêu Phong vừa kinh ngạc, vừa thương tâm, không dám nhìn lâu, vội vàng khép áo che lên đầu vai A Châu, nhè nhẹ ôm nàng vào lòng hỏi:

- Trên vai nàng có một chữ Đoàn là ý nghĩa gì thế?

A Châu đáp:

- Khi cha mẹ em đưa em cho người khác nuôi khắc lên vai để... để sau này còn nhận ra.

Tiêu Phong run rẩy nói:

- Chữ Đoàn đó, chữ Đoàn đó...

A Châu đáp:

- Ngày hôm nay, hai người phát hiện trên vai A Tử có một ký hiệu, biết ngay đó là con gái của họ. Chàng... chàng... có thấy cái ký hiệu đó không?

Tiêu Phong đáp:

- Không, ta không tiện xem.

A Châu nói:

- Trên vai... trên vai cô ta cũng có xâm một chữ Đoàn chẳng khác gì em.

Tiêu Phong chợt hiểu ra, run run hỏi:

- Em... em cũng là con họ đấy ư?

A Châu đáp:

- Em vốn dĩ không biết, sau khi nhìn thấy đầu vai A Tử rồi mới hay. Cô ta lại còn một sợi dây chuyền vàng giống y như sợi dây chuyền em có, trên đó có khắc mười hai chữ. Của cô ta là:

Hồ biên trúc,

Doanh doanh lục.

Báo bình an,

Đa hỉ lạc.

Trúc bên hồ,

Xanh xanh biếc,

Báo bình an,

Nhiều hạnh phúc.

Còn trên cái dây chuyền của em thì có mấy câu sau:

Thiên thượng tinh,

Lượng tinh tinh,

Vĩnh xán lạn,

Trường an ninh.

Sao trên trời,

Sáng lấp lánh.

Vĩnh chiếu tỏa,

Mãi an ninh.

Em... em... trước nay có hiểu ý tứ gì đâu, chỉ tưởng đọc cho thuận miệng có ngờ đâu là tên của mẹ em. Mẹ em chính là bà... Nguyễn... Tinh Trúc. Đôi dây chuyền này là của cha em tặng cho mẹ em, sau khi sinh ra hai chị em mới đeo cho mỗi đứa một cái nơi cổ.

Tiêu Phong nói:

- Bây giờ ta hiểu rồi, phải tìm cách chữa trị ngay cho nàng mới được, chuyện này để nói sau không muộn gì.

A Châu vội nói:

- Không, không đâu! Em muốn nói rõ cho chàng nghe, sợ để thêm chút nữa e không kịp. Đại ca, chàng nghe thiếp nói cho hết đã.

Tiêu Phong không muốn làm trái ý nàng, đành nói:

- Được rồi, ta nghe nàng nói xong nhưng nàng cũng đừng phí sức nhiều quá.

A Châu gượng nở một nụ cười nói:

- Đại ca, chàng thật tốt, chuyện gì cũng nghĩ đến em, thương em, chiều em biết bao.

Tiêu Phong nói:

- Từ nay trở đi, ta còn thương em gấp trăm lần, ngàn lần hơn nữa.

A Châu mỉm cười:

- Thế này đủ rồi, em cũng chẳng thích chàng đối với em quá tốt. Em rồi cứ nằm ườn ra thì ai lo việc nhà. Đại ca, em... em núp ở sau căn nhà tre, nghe lén cha em, mẹ em và A Tử muội muội nói chuyện. Hóa ra cha em đã có vợ rồi, cha em mẹ em không phải vợ chồng chính thức, năm trước sinh ra em, năm sau sinh thêm em gái em. Sau đó cha em muốn trở về Đại Lý, mẹ em không chịu cho cha em đi, hai bên cãi nhau một trận, mẹ em còn đánh cha em, cha em cũng chịu vậy không đánh lại. Về sau... về sau... không còn cách nào khác, hai người phải chia tay. Bên nhà ông ngoại em gia giáo lắm, nếu như biết được chuyện này, thể nào cũng giết mẹ em ngay. Mẹ em đâu dám đem hai đứa em về nhà, đành chia ra đem cho người ta, nhưng vẫn mong sau này còn nhận ra được nên trên đầu vai hai chị em xâm một chữ Đoàn. Người nuôi nấng em chỉ biết mẹ em họ Nguyễn, thực ra, thực ra... em họ Đoàn...

Tiêu Phong càng thêm thương xót, nói nhỏ:

- Em thật đáng thương quá!

Trên trời sấm chớp vẫn đùng đùng, hết tiếng sét này đến tiếng sét khác, đột nhiên một cây to bên cạnh bờ sông bị sét đánh trúng, nghe lách cách liền ngã xuống. Hai người chẳng để ý tới bên ngoài, tuy đang lúc đất trời biến đổi nhưng không hề hay biết.

A Châu lại tiếp:

- Người làm hại cha mẹ chàng lại chính là cha em, ôi, sao trời già cay nghiệt quá để cho đôi ta phải đau đớn dường này, vậy mà... vậy mà kẻ tra vấn để Mã phu nhân chính miệng nói ra tên cha em lại chính là em. Nếu như em không giả làm Bạch Thế Kính để đánh lừa bà ta thì bà ta nhất quyết không nói tên cha em ra. Người đời thường bảo trong cái mờ mờ u u minh minh kia cũng có sẵn ý trời, trước nay em nào có tin. Thế nhưng... thế nhưng... chàng thử xem liệu có hay không?

Tiêu Phong ngẩng đầu lên, mây đen che phủ không còn chút ánh trăng nào, một tia chớp vụt qua chiếu sáng bốn bề tưởng như ông trời vừa mở

mắt. Ông cúi đầu xuống, trong lòng hoang mang, hỏi lại:

- Em có chắc Đoàn Chính Thuần là cha em không? Không sai đấy chứ?

A Châu đáp:

- Không thể nào sai được. Thiếp thấy cha mẹ em ôm A Tử muội tử khóc nức nở, kể lại chuyện bỏ rơi hai chị em như thế nào. Cha mẹ em đều nói rằng, nhất quyết bằng giá nào cũng phải tìm cho được em mới thôi. Hai người có ngờ đâu đứa con của hai người nằm phục ngay bên cửa sổ. Đại ca ơi, hồi nãy em giả vờ bị bệnh là để cải trang thành chàng đến nói với cha em, bỏ cái hẹn ở cầu đá đêm nay đi, bao nhiêu chuyện cũ bỏ hết rồi, sau đó lại cải trang thành cha em, đến gặp chàng... để cho chàng... để cho chàng...

Nói đến đây hơi thở chỉ còn thoi thóp. Chưởng tâm Tiêu Phong càng gia tăng nội kình để mong A Châu không thoát lực, nhỏ lệ nói:

- Sao em không nói cho ta biết? Nếu ta biết ông ta là cha em...

Những lời tiếp theo ông không nói tiếp được, cũng không biết rằng, nếu quả biết được rằng Đoàn Chính Thuần là cha người mình yêu thương nhất đời thì phải làm sao.

A Châu nói:

- Em suy đi tính lại, suy nghĩ thật lâu. Đại ca, thiếp vẫn mong được ở bên chàng thêm ít nữa nhưng làm sao được? Liệu em có dám cầu chàng đừng báo thù cho năm vị thân nhân chăng? Nếu như thiếp hồ đồ nói ra mà chàng khứng chịu, có phải... thì đời chàng nào còn ra gì.

Tiếng của nàng càng nói càng nhỏ dần, tiếng sấm vẫn ỳ ầm không dứt, nhưng Tiêu Phong nghe thấy mỗi lời của A Châu còn kinh hồn động phách hơn tiếng sấm nhiều. Ông vò đầu mình nói:

- Sao em không bảo cha em bỏ đi, đừng giữ ước hội này! Hoặc giả cha em là anh hùng hảo hán, không chịu thất hứa thì em có thể giả làm ta, đính ước một lần khác, tại một nơi thật xa, vào một ngày thật xa gặp lại. Em việc gì... việc gì phải khổ như thế này?

A Châu đáp:

- Em muốn chàng biết rằng, một người lỡ tay làm chết một người khác có thể hoàn toàn chẳng do bản tâm. Chàng có bao giờ nghĩ đến chuyện hại em đâu, thế nhưng lại chính chàng đánh em một chưởng. Cha em làm chết cha mẹ chàng, cũng chỉ vì vô ý mà gây ra chuyện cực sai lầm.

Tiêu Phong một mực đăm đăm nhìn nàng, mấy lần ánh chớp lóe lên, thấy đôi mắt nàng nhu tình vô hạn. Tiêu Phong trong lòng rung động, biết A Châu đối với mình thâm tình biết là chừng nào, hơn hẳn những gì ông hằng nghĩ đến, cũng hiểu rõ một điều: “Đoàn Chính Thuần tuy là cha thân sinh ra nàng nhưng đối với nàng nào có cái ơn dưỡng dục, nhưng chỉ vì muốn mình hiểu được rằng sai lầm chỉ vì vô tâm đáng được tha, nên phải chịu hi sinh tính mạng”. Ông run run nói:

- A Châu ơi, có phải nàng còn nguyên nhân khác nữa chứ nào phải chỉ để cứu phụ thân, cũng không phải chỉ để cho ta biết rằng có những lỗi lầm chỉ vì vô ý, mà nàng chỉ vì ta đấy thôi, vì ta đấy thôi!

Ông ôm A Châu lên đứng dậy. A Châu nở một nụ cười, thấy Tiêu Phong hiểu được thâm ý mình trong lòng hoan hỉ. Nàng biết tính mạng mình đã đến lúc lâm chung, tuy không mong tình lang hiểu được nỗi niềm sâu thẳm trong tim mình nhưng rồi chàng cũng biết...

Tiêu Phong nói:

- Em hoàn toàn chỉ vì anh, A Châu, có phải không em?

A Châu nhỏ nhẹ:

- Đúng thế.

Tiêu Phong gào lên:

- Vì sao thế? Vì sao thế?

A Châu đáp:

- Họ Đoàn Đại Lý có Lục Mạch Thần Kiếm, nếu chàng giết Trấn Nam Vương của họ, họ đâu có để yên? Đại ca ơi, chữ trên bộ Dịch Cân Kinh mình có đọc được đâu...

Tiêu Phong chợt hiểu, một giòng lệ nóng trào ra, ròng ròng nhỏ xuống. A Châu nói:

- Thiếp xin chàng một điều, đại ca có bằng lòng không?

Tiêu Phong đáp:

- Nói gì một điều, dẫu có trăm điều, nghìn điều ta cũng bằng lòng.

A Châu nói:

- Thiếp chỉ có một đứa em gái, hai đứa từ nhỏ đã không được ở gần nhau, xin chàng trông nom cho nó, thiếp chỉ lo nó đi chẳng đi vào đường ngay nẻo chánh.

Tiêu Phong gượng cười:

- Đợi khi nào nàng khỏi rồi, mình sẽ đi kiếm để hai chị em được đoàn tụ với nhau.

A Châu mơ màng nói:

- Đợi em khỏi... ôi, đại ca, mình sẽ cùng nhau ra ngoài quan ngoại cưỡi ngựa đi săn, thả bò chăn cừu, chàng thử nghĩ liệu em gái thiếp có chịu đi theo không?

Tiêu Phong đáp:

- Dĩ nhiên là cô ta đi chứ, chị ruột và anh rể bảo đi không lẽ không đi?

Đột nhiên có tiếng cười khúc khích, từ dưới vòm cầu đá xanh một người bước ra, kêu lên:

- Sao không biết mắc cở? Cái gì mà chị ruột, anh rể là sao? Ta không đi đâu.

Người đó thân hình mảnh mai, mặc một chiếc áo tơi chính là A Tử. Tiêu Phong lỡ tay đánh A Châu một chưởng rồi, hết tâm hết ý lo cho nàng chứ với công phu của ông, làm gì không biết có người đang nằm phục ở dưới nước nhưng vì một mặt sấm chớp đùng đùng, mưa to gió lớn, thứ nữa tâm thần đại loạn, đến khi A Tử hiện thân lúc đó mới phát giác, không khỏi kinh ngạc kêu lên:

- A Tử, cô mau mau lại đây gặp chị cô.

A Tử dẩu môi nói:

- Ta náu dưới vòm cầu, cốt để xem ông đánh với cha ta cho vui, ai ngờ ông lại đánh trúng chị ta. Hai người tỉ tỉ tê tê chưa xong, ta đâu có muốn nghe, đàm tình thuyết ái việc gì phải lôi cả ta vào?

Nói xong đủng đỉnh đi tới. A Châu nói:

- Hảo muội muội, từ nay trở đi, Tiêu đại ca lo cho em, em... em cũng lo cho anh ấy...

A Tử cười khanh khách nói:

- Cái tên man tử thô lỗ khó coi kia, ta chẳng thèm đâu.

A Châu đang nằm trong lòng Tiêu Phong bỗng run rẩy, đầu ngoẹo xuống, mái tóc xổ tung ra phủ lên vai ông rồi không còn động đậy gì nữa.

Tiêu Phong vô cùng kinh hãi, kêu to:

- A Châu, A Châu!

Ông vội giơ tay bắt mạch thì không còn nhảy nữa rồi, trái tim ông tưởng chừng cũng đứng lại, vội giơ tay thăm mũi thấy nàng không còn thở nữa. Ông gào lên:

- A Châu, A Châu!

Thế nhưng cho dù có gọi đến nghìn lần vạn lần, A Châu không còn thể nào đáp lời được nữa. Tiêu Phong vội vàng đem chân lực trút vào người nàng nhưng A Châu vẫn không hề cử động. A Tử thấy A Châu tắt thở, hết sức kinh hãi, không còn dỡn hớt được nữa, hoảng hốt rú lên:

- Ngươi đánh chết chị ta rồi, ngươi ... ngươi đánh chết chị ta rồi!

Tiêu Phong đáp:

- Đúng đó, chính ta đánh chết chị cô, cô báo thù cho chị cô đi. Mau mau, giết ta cho xong!

Ông bỏ A Châu xuống, ưỡn ngực ra gào lên:

- Ngươi mau giết ta đi!

Ông chỉ mong A Tử rút dao ra đâm vào ngực mình, mọi việc như thế là xong, giải thoát khỏi niềm đau vô cùng vô tận. A Tử thấy Tiêu Phong

nghiến răng nghiến lợi trông thật man dã ghê rợn, không khỏi sợ hãi, lùi

lại mấy bước kêu lên:

- Ngươi... ngươi chớ có giết ta.

Tiêu Phong cũng tiến lên theo, tay đưa lên ngực, nghe soẹt một tiếng đã xé rách áo banh ngực ra, để lộ da thịt nói:

- Ngươi có độc châm, độc thích, độc chùy... mau mau đâm chết ta đi.

Dưới ánh chớp, A Tử thấy trên ngực ông ta xâm hình đầu một con chó sói xanh lè, răng nhe ra, hình mạo hung ác, lại càng khiếp vía, đột nhiên kêu rú lên quay mình chạy thục mạng. Tiêu Phong đứng chết sững trên cầu, hết sức thương tâm, lại thêm vô cùng hối hận, giơ chưởng lên bình một tiếng đã đánh vào lan can cầu, đá vỡ bay tung tóe. Ông đánh hết chưởng này đến chưởng khác, muốn khóc nhưng không sao khóc được, bỗng nghe lạch cạch, phiến đá lan can rơi tòm xuống sông. Một ánh chớp lại bùng lên, chiếu lên mặt A Châu, nỗi thâm tình quan thiết của nàng vẫn còn vương trên khóe miệng.

Tiêu Phong lại kêu rống lên:

- A Châu!

Ông ôm xác người tình lên chạy như bay vào trong đồng không mông

quạnh. Sấm chớp vẫn đùng đùng, mưa như trút nước, lúc thì chạy lên trên

triền núi, lúc lại chạy xuống vực sâu, chẳng biết mình đang ở nơi đâu, đầu óc hỗn loạn trống rỗng không còn biết gì nữa. Sấm chớp thưa dần nhưng mưa vẫn không ngớt. Phương đông trời đã hửng đỏ, bầu trời cũng sáng dần. Tiêu Phong đã chạy như điên trong hai giờ liền nhưng không hề mỏi mệt, chỉ muốn hành hạ thân xác mình, lại mong chết phứt cho rồi để mãi mãi ở bên cạnh A Châu. Ông rú lên từng chập, cuồng bôn loạn tẩu, không hiểu sao lại quay trở về chiếc cầu đá xanh.

Ông lẩm bẩm:

- Ta đi kiếm Đoàn Chính Thuần, bảo Đoàn Chính Thuần giết ta đi báo thù cho con gái.

Nghĩ thế bèn rảo bước chạy về phía Tiểu Kính Hồ. Chẳng bao lâu Tiêu Phong đã đến bên bờ hồ, kêu lớn:

- Đoàn Chính Thuần, ta giết chết con ngươi, ngươi ra giết ta đi, ta không đánh trả đâu, mau ra đây, ra giết ta đi!

Ông ôm ngang A Châu, đứng trước khu rừng trúc, đợi một hồi trong rừng vẫn lặng như tờ, không thấy một ai. Tiêu Phong tiến vào khu rừng, đi đến trước căn nhà tre, giơ chân đá bung cửa, đi vào phòng la to:

- Đoàn Chính Thuần, ngươi mau ra giết ta đi!

Trong nhà trống không chẳng thấy một ai. Ông đi lùng tìm khắp nhà ngang, nhà sau không thấy Đoàn Chính Thuần hay những người bộ thuộc,

đến cả người chủ là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử cũng không thấy đâu.

Trong nhà dụng cụ trần thiết vẫn y nguyên, tưởng như mọi người lật đật

bỏ đi không kịp mang theo gì cả. Ông nghĩ thầm: “Đúng rồi, A Tử chạy về báo tin, nói là ta muốn giết cha cô ta báo thù. Đoàn Chính Thuần chắc không chịu bỏ đi nhưng Nguyễn Tinh Trúc và những bộ thuộc của y ép y phải cao bay xa chạy. Ha ha, ta đâu có muốn đến giết ngươi, mà muốn ngươi giết ta đấy chứ”.

Ông lại gọi to mấy tiếng:

- Đoàn Chính Thuần, Đoàn Chính Thuần!

Thanh âm truyền ra xa nhưng chỉ thấy tiếng gió thổi vào cành trúc nghe xào xạc, tuyệt nhiên không có tiếng người. Chung quanh Tiểu Kính Hồ cũng như trong khu rừng không còn một ai, Tiêu Phong tưởng chừng trời đất này chỉ còn một mình ông. Từ lúc A Châu tắt thở đến giờ, ông chưa để nàng xuống, không biết bao lần dùng chân khí tống vào trong người nàng, chỉ mong biết đâu trời thương, cũng may như hôm trước nàng bị Huyền Từ phương trượng đánh trúng, chỉ bị thương nặng mà không chết. Thế nhưng lần trước Đại Kim Cương Chưởng của Huyền Từ đánh vào chiếc gương đồng trong tay Tiêu Phong, A Châu chẳng qua chỉ bị chấn động, còn lần này chưởng của Tiêu Phong đánh thẳng vào giữa ngực, làm sao còn sống cho nổi? Dù cho ông đưa bao nhiêu nội lực truyền vào, A Châu vẫn không thể nào động đậy. Ông ôm A Châu, ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngồi trước nhà, từ sáng sớm đến tới tận trưa, rồi từ trưa ngồi cho tới tối. Lúc này sau cơn mưa trời trong vắt, ánh tà dương nhàn nhạt chiếu lên người Tiêu Phong và A Châu.

Khi ở Tụ Hiền Trang ông bị quần hùng vây đánh, mặc dù mọi người phản ông, tình thế hết sức nguy ngập, nhưng không chút nào nao núng, bây giờ chính mình lỡ tay làm nên một chuyện không thể nào sửa chữa được, càng thấy cô đơn, thật không còn muốn sống trên đời nữa. “A Châu chết thay cho cha nàng rồi, ta không thể nào đi kiếm y báo thù được nữa. Ta còn gì nữa để làm đây? Đại nghiệp của Cái Bang, hùng tâm tráng chí năm nào ta cũng chẳng còn phải nghĩ đến. Ta là người Khất Đan, có hùng tâm đại nghiệp gì đâu?”.

Ông đi ra nhà sau, thấy góc tường có để một cái cuốc, trồng hoa nghĩ thầm: “Thôi ta ở đây mãi mãi với A Châu chăng?’. Tay trái ôm A Châu,

không muốn rời nàng chút nào, tay phải cầm chiếc cuốc đi ra ngoài rừng

trúc, đào một cái hố rồi, đào thêm cái nữa, hai đống đất vun lại thành một, nghĩ bụng: “Cha mẹ nàng quay lại thể nào cũng đào lên xem thế nào. Ta phải làm mộ bia mới được”. Ông chặt một khúc tre, chẻ ra làm hai, xuống nhà bếp lấy dao đẽo cho thẳng đem qua bên sương phòng phía tây. Tiêu Phong thấy trên bàn có để bút nghiên giấy mực, bèn để A Châu nằm ngang trên gối, chấm mực cầm bút lên tại một thanh tre viết:

Khất Đan mãng phu Tiêu Phong chi mộ

Ông lại cầm thanh tre kia lên, trầm ngâm tự hỏi: “Mình phải viết gì đây? Tiêu môn Đoàn phu nhân chi mộ ư? Tuy nàng với ta có ước định phu thê nhưng chưa thành hôn, đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, gọi nàng là “phu nhân” không khỏi khinh mạn hay sao?”.

Trong bụng không sao quyết định được, ngửng đầu suy nghĩ một hồi, mắt nhìn vào mấy hàng chữ tại một bức bút thiếp trên tường, thuận mắt đọc xuống:

Hàm tu ỷ túy bất thành ca, tiêm thủ yểm hương la.

Ôi hoa ánh chúc, thâu truyền thâm ý, tửu tứ nhập hoành ba.

Khán chu thành bích tâm mê loạn, phiên mạch mạch, liễm song nga.

Tương kiến thời hi cách biệt đa.

Hựu xuân tận, nại sầu hà?

Tay thon che mặt, lụa thơm hơi.

Chếnh choáng đê mê, luống cạn lời.

Miên man tựa ngọc, đèn thêm rạng,

Dặt dìu chén cạn, sóng đùa khơi.

Say men ngơ ngẩn, xanh thành đỏ,

Đắm sắc chau mày, biếng lả lơi.

Gặp nhau một chốc, xa đằng đẵng,

Chớ để xuân tàn, hãy tận vui.

Ông không được học nhiều, chữ nghĩa chẳng bao nhiêu nhưng bài từ này không mấy khó nên cũng hiểu được đây là một bài thơ tả tình yêu trai gái, đại khái nói chuyện uống rượu xướng ca, gặp nhau chẳng bao nhiêu mà xa nhau thì thật nhiều nên trong lòng buồn bã. Ông bâng khuâng nhìn bức thiếp, cũng chẳng có lòng dạ nào nghĩ bài từ nói cái gì, chỉ thuận miệng đọc hết thấy bên dưới viết hai hàng chữ:

Thư thiếu niên du phó Trúc muội bổ bích.

Tinh mâu trúc yêu tương bạn, bất tri thiên địa tuế nguyệt dã.

Đại Lý Đoàn nhị túy hậu cuồng đồ.

Tiêu Phong lẩm bẩm:

- Y quả là khoái hoạt.

Đoàn nhị nước Đại Lý, ồ, thì ra đây là của Đoàn Chính Thuần viết tặng tình nhân Nguyễn Tinh Trúc. Chuyện gió trăng của cha mẹ A Châu, sao dám ngang nhiên treo ở đây, không biết xấu hay sao? À, đúng rồi, căn phòng này thuộc hạ Đoàn Chính Thuần không được vào. Ông không để ý đến bức thiếp đó nữa, nghĩ thầm: “Mộ bia của A Châu ta viết gì đây?”. Ông tự biết tài nghệ chữ nghĩa của mình quá ư nông cạn, càng nghĩ càng tắc tị nên đành viết bốn chữ “A Châu chi mộ”. Tiêu Phong bỏ bút xuống, đứng lên, định đem trúc bài cắm trước mộ, chôn cất cho A Châu xong xuôi rồi sẽ tự sát. Ông quay lại ôm xác A Châu, mắt lại liếc lên bức viết trên tường một lần nữa, đột nhiên nhảy dựng lên kêu “Ối chao”, lớn tiếng nói:

- Không đúng! Không đúng! Chuyện này xem ra không đúng!

Ông bước tới gần hơn, xem lại mấy hàng chữ trên bức thiếp, thấy nét bút tròn trịa đầy đặn, tuấn nhã tiêu sái. Ông tưởng như có tiếng từ đâu oang oang vọng tới:

- Phong thư kia, phong thư "đàn anh đứng đầu" viết gửi Uông bang chủ chữ viết đâu có giống thế này, hoàn toàn không giống.

*

* *

Ông chỉ võ vẽ biết dăm chữ, đúng ra không thể biện nhận bút tích, thế

nhưng bức thiếp này nét chữ rắn rỏi vuông vắn, cách quãng đều đặn, còn

bức thư kia chữ xéo xéo xiên xiên, nét chữ gầy guộc, chỉ thoáng qua cũng

biết ngay là do con nhà võ trên giang hồ chấp bút.

Hai bên sai biệt quá xa, ai cũng phải nhìn ra được. Ông trợn tròn đôi mắt, chăm chăm dán vào bức thiếp tưởng như muốn tìm trong những hàng chữ kia cái đại bí mật, đại âm mưu ở đằng sau. Đầu óc ông quay cuồng, trước mắt chỉ thấy lá thư trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích đêm hôm đó, phong thư mà "đàn anh đứng đầu" đã viết cho Uông bang chủ.

Lá thư đó Trí Quang đại sư đã xé khúc đuôi, nơi có thự danh nuốt mất rồi khiến không còn làm sao biết được ai là người viết, thế nhưng nét chữ

trên tờ thư, đã in sâu vào đầu óc ông thật rõ ràng. Người viết lá thư đó, với kẻ xưng là “Đại Lý Đoàn nhị” trên bức thiếp này không thể cùng là

một người, điều đó thật chắc chắn không còn ngờ gì nữa.

Hay là phong thư đó "đàn anh đứng đầu" nhờ ai viết giùm? Ông chỉ suy nghĩ một chút thấy không hợp lý. Thư pháp Đoàn Chính Thuần đẹp như thế này thể nào chẳng tự mình viết thư, bàn luận chuyện lớn như vậy gửi cho Uông bang chủ lẽ nào lại nhờ người viết thay? Còn viết một bài từ phong lưu lãng mạn cho tình nhân cũng không thể nào bảo ai làm giùm

cho được.

Ông càng nghĩ càng nghi nan, luôn luôn tự hỏi: “Hay là "đàn anh đứng

đầu" không phải Đoàn Chính Thuần? Hoặc giả bức thiếp này không phải

Đoàn Chính Thuần viết? Không thể được! Không thể được! Nếu chẳng

phải Đoàn Chính Thuần thì còn ai là Đại Lý Đoàn nhị viết một bài từ đầy

vẻ gió trăng treo ở đây? Không lẽ Mã phu nhân nói láo? Sao lại thế được,

bà ta có quen biết gì với Đoàn Chính Thuần đâu, người nơi trời bắc, kẻ ở

cõi nam, một kẻ là sương phụ của thảo mãng thất phu, một người là vương công quí tộc, làm gì có thù oán mà cố ý nói điều giả dối đánh lừa mình”.

Từ lúc ông biết được "đàn anh đứng đầu" là Đoàn Chính Thuần rồi, bao nhiêu nỗi nghi vấn đều hết sạch, ngày đêm chỉ nghĩ đến chuyện báo thù, bây giờ nhìn thấy bức thiếp này, bao nhiêu ngờ vực lại cuồn cuộn nổi lên: “Nếu phong thư kia không phải Đoàn Chính Thuần viết thì "đàn anhđứng đầu" không phải là y. Nếu không phải là y, vậy thì là ai? Vì cớ gì Mã phu nhân lại nói láo đánh lừa mình, bên trong còn có âm mưu ngụy kế gì nữa? Ta đánh chết A Châu, vốn là ngộ sát, A Châu chịu chết vì ta cũng là cam tâm tình nguyện. Như thế, nỗi oan của nàng không được giãi bày, nay lại thêm một tầng oan nghiệt nữa. Tại sao ta không nhìn thấy bức thiếp này từ trước? Chỉ vì bức thiếp này treo trong sương phòng, làm sao ta thấy được? Nếu như ta không bao giờ thấy, chết theo A Châu thì thế là xong, vì sao không sớm, không muộn ngay trước khi chết lại trông thấy?”.

Ánh tịch dương khuất sau dãy núi, những tia nắng cuối cùng từ từ rời khỏi bàn chân ông, bỗng nghe thấy nơi có hai người từ bờ hồ Tiểu Kính đi về khu rừng trúc. Hai người đó còn rất xa, ông ngưng thần nghe ngóng, nhận ra đó là hai người đàn bà, nghĩ thầm: “Chắc hẳn là A Tử và mẹ cô ta đến đây. Ôi, ta phải hỏi Đoàn phu nhân cho rõ ràng, bức thiếp này có phải Đoàn Chính Thuần viết không? Bà ta thể nào cũng hận ta làm chết A Châu, muốn giết ta, ta... ta...”. Ông vốn có ý định sẽ không chống trả

nhưng lại nghĩ ngay: “Nếu quả A Châu chết oan, kẻ giết cha ta, mẹ ta là

người khác thì tên đại ác này lại nợ thêm một món huyết cừu, thêm một

mạng người nữa. A Châu chẳng phải là y giết chết thì còn ai? Ta không

báo thù này lẽ nào lại đành chịu chết?”.

Chỉ thấy hai người đàn bà kia đi thẳng vào khu rừng trúc càng lúc càng gần. Thêm một lúc nữa, tiếng nói chuyện cũng đã nghe thấy, một người nói:

- Phải cẩn thận, con tiện nhân này võ công tuy không cao nhưng lắm mưu nhiều kế.

Lại tiếng đàn bà còn trẻ nói:

- Mụ ta chỉ có một mình, mẹ con mình thể nào cũng thanh toán cho xong.

Người đàn bà lớn tuổi hơn nói:

- Đừng nói nữa, vừa gặp nó là hạ sát thủ ngay, không chần chờ gì cả.

Cô gái đáp:

- Thế lỡ cha con biết được...

Người đàn bà lớn tuổi hừ một tiếng:

- Ngươi còn nghĩ đến cha ngươi sao?

Tiếp đó không nghe thấy tiếng nói chuyện nữa chỉ nghe hai người rón rén đi vào, một người đi về hướng cửa chính, còn một người thì lẻn ra sau nhà hẳn là định tiền hậu giáp công.

Tiêu Phong hơi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Nghe giọng thì hai người này không phải Nguyễn Tinh Trúc và A Tử nhưng cũng là hai mẹ con đến đây giết người đàn bà ở một mình, ồ, chắc là định giết Nguyễn Tinh Trúc nhưng cha cô gái lại không tán thành việc này”. Ý tưởng đó chạy vụt qua

đầu ông nhưng chẳng để ý tới nữa lại đứng ngơ ngẩn xuất thần.

Một lát sau, nghe kẹt một tiếng, ai đó đã đẩy cửa tiến vào. Tiêu Phong

không thèm ngẩng lên, thấy một đôi bàn chân nhỏ nhắn, đi giày đen đến

trước mặt ông, còn cách độ bốn thước thì ngừng lại. Kế đó cửa sổ bên

hông mở ra, một người khác nhảy vào, đứng bên cạnh ông, nghe tiếng

cũng biết là võ công không cao cường gì.

Tiêu Phong vẫn không nhúc nhích, hai tay ôm A Châu, cúi đầu suy nghĩ: “Thế thì "đàn anh đứng đầu" có phải là Đoàn Chính Thuần không? Trong ngôn ngữ của Trí Quang đại sư có điểm gì quái lạ? Từ trưởng lão có ngụy kế gì chăng? Lời của Mã phu nhân có điểm gì sơ hở?”. Trong đầu ông những mối suy tư dâng trào như sóng biển, tâm thần loạn chuyển, rối như tơ vò.

Chỉ nghe người đàn bà trẻ hơn nói:

- Ồ, mi là ai? Con tiện nhân họ Nguyễn đâu rồi?

Giọng nói đã lạnh lẽo, giọng điệu lại vô lễ cùng cực. Tiêu Phong chẳng thèm để ý, tiếp tục suy nghĩ về những điều hồ nghi. Người đàn bà lớn tuổi hơn hỏi:

- Tôn giá và con tiện tì họ Nguyễn kia liên hệ thế nào? Người con gái này là ai? Mau nói cho ta nghe.

Tiêu Phong vẫn không ngẩng lên, người đàn bà nhỏ tuổi liền sẵng giọng:

- Ngươi điếc hay câm hả? Sao không trả lời?

Giọng nói cô ta đầy vẻ tức tối. Tiêu Phong vẫn mặc kệ, vẫn ngồi sừng

sững như tượng đá. Cô gái nhỏ tuổi dậm chân, trường kiếm trong tay rung

một cái, mũi kiếm phát tiếng u u, đâm xéo vào huyệt Thái Dương của

Tiêu Phong, chỉ còn cách vài tấc, quát lên:

- Ngươi còn giả điếc, để ta cho ngươi nếm mùi cho biết.

Tiêu Phong không quan tâm gì đến nguy hiểm xảy ra bên ngoài, vẫn tiếp tục suy nghĩ về những vấn đề chưa có câu trả lời kia. Cô gái vung tay

đâm trường kiếm ra sát vào cổ ông chỉ cách độ một tấc. Tiêu Phong nghe

được đường đi của bạch kiếm, vẫn làm như không biết không tránh né.

Hai người đàn bà cực kỳ kinh ngạc, người trẻ hơn lại nói:

- Mẹ ơi, không lẽ người này bị khùng? Cô gái y ôm trên tay dường như chết rồi.

Người đàn bà đáp:

- Chắc y giả vờ ngây ngô đó. Ở trong nhà con tiện nhân này có cái gì tốt lành đâu. Chém cho y một dao đã rồi tra khảo sau.

Bà ta chưa dứt lời, đao trong tay đã nhắm ngay đầu vai Tiêu Phong chém xuống. Tiêu Phong đợi cho lưỡi đao còn cách mình chừng nửa thước, tay phải phóng vụt tới hai ngón tay kẹp luôn vào sống đao, thanh đao liền bị giữ ngay lại không chém xuống được nữa. Ngón tay ông búng ra, cán đao liền đập ngay vào yếu huyệt trên vai người đàn bà, lập tức bà ta không còn cử động gì được nữa, lại thuận tay rung một cái, nội lực truyền vào cắc một tiếng, thanh cương đao đã gãy ra làm hai. Ông tiện tay vứt luôn xuống đất, trước sau vẫn không ngẩng lên xem bà ta là ai. Cô gái thấy mẹ bị chế ngự, kinh hoảng nhảy ngược về sau, vụt vụt liên tiếp, bảy mũi đoản tiễn liên châu bắn vào Tiêu Phong. Tiêu Phong cầm thanh đao gãy gạt cả ra, tay lại vung lên, mảnh đao gãy phóng tới nghe bịch một tiếng, cán đao đập vào hông cô ta. Cô gái kia kêu lên một tiếng, huyệt đạo đã bị trúng rồi, người cũng lại đứng sừng sững như trời trồng.

Người đàn bà kinh hoảng hỏi:

- Con có sao không?

Cô gái đáp:

- Hông con đau lắm nhưng không bị thương. Mẹ ơi, con bị điểm huyệt Kinh Môn.

Người đàn bà đáp:

- Còn ta thì bị điểm huyệt Trung Phủ. Người... người này võ công cao cường quá.

Cô gái nói:

- Mẹ, người này là ai thế? Sao y không đứng lên mà đã chế ngự được mẹ con mình, xem chừng y có tà thuật.

Người đàn bà không dám nổi nóng nữa, đổi giọng dịu dàng quay sang nói với Tiêu Phong:

- Mẹ con chúng tôi và tôn giá không thù không oán, vừa rồi ra tay ngang ngược, đắc tội với ngài, quả thật chúng tôi có lỗi. Mong ngài khoan hồng đại lượng, giơ cao đánh sẽ cho.

Cô gái lập tức rối rít:

- Không, không đâu! Mình thua thì chịu thua, việc gì phải van xin ai?

Ngươi có giỏi thì một đao giết cô nương đi, ta chẳng cần đâu.

Tiêu Phong loáng thoáng nghe hai mẹ con nói, biết được người mẹ xin tha, còn cô con gái thật là ngang tàng nhưng nói những gì thì ông không

để vào tai. Lúc này trong nhà đã tối, một hồi nữa thì bóng đêm đã hoàn

toàn bao phủ. Tiêu Phong trước sau vẫn bồng A Châu ngồi tại đó không

cử động. Bình thời đầu óc ông cực kỳ linh hoạt, mỗi khi gặp chuện nghi

nan, quyết đoán hết sức nhanh nhẹn nếu như việc không rõ ràng lập tức

gác qua một bên, tạm thời không nghĩ tới chứ không do dự trì nghi. Thế

nhưng hôm nay lỡ tay đánh chết A Châu, trong lòng đau xót, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, hoang mang rối loạn không còn hồn vía, chẳng khác gì người mất trí.

Người đàn bà nói nhỏ:

- Con thử vận khí tới huyệt Hoàn Khiêu xem sao, không chừng có thể đả thông kinh mạch giải được huyệt đạo bị đóng đó.

Cô gái đáp:

- Con đã làm rồi, chẳng thấy ăn thua...

Người đàn bà đột nhiên nói:

- Này, có người đến đó.

Chỉ nghe thấy tiếng chân loạt soạt, ai đó đã đẩy cửa vào, cũng lại là một người đàn bà nữa. Người kia dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh mấy tiếng, châm vào bùi nhùi đốt chiếc đèn dầu lên, quay lại đột nhiên thấy Tiêu Phong, A Châu và hai người đàn bà kia, không khỏi kinh ngạc “A” lên một tiếng chân tay bủn rủn, đồ đánh lửa rơi xuống nghe loảng xoảng.

Người đàn bà tới trước cũng hốt hoảng kêu lên:

- Nguyễn Tinh Trúc, thì ra là ngươi!

Người vừa mới vào chính là Nguyễn Tinh Trúc. Bà ta quay đầu lại thấy đó là một thiếu phụ trung niên, bên cạnh lại có một thiếu nữ mặc toàn đồ đen, cả hai đều khá đẹp, cô gái lại càng xinh xắn nhưng chưa từng gặp bao giờ. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Đúng đó, ta họ Nguyễn, hai vị là ai?

Người đàn bà trung niên không trả lời, mặt hầm hầm đầy vẻ tức tối. Nguyễn Tinh Trúc quay lại nói với Tiêu Phong:

- Kiều bang chủ, ông đánh chết con gái tôi rồi, lại còn tới đây làm chi? Tội nghiệp... tội nghiệp cho con ta!

Tới đây bà ta khóc òa lên, xông đến bên cạnh xác A Châu. Tiêu Phong vẫn ngồi ngẩn ngơ nơi đó, một lúc lâu sau mới nói:

- Đoàn phu nhân, ta tội nghiệt thâm trọng, xin bà lấy dao ra giết ta đi.

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Ta có đâm chết ông cũng đâu có cứu đứa con khốn khổ của ta sống lại được. Kiều bang chủ, ông bảo ta và cha của A Châu đã làm một chuyện sai lầm rất đáng hổ thẹn, khiến cho đứa trẻ phải một đời lênh đênh, đến cha mẹ ruột là ai cũng không biết. Ông nói thế cũng đúng, có điều... để cho hả nỗi tức, có giết thì giết Đoàn vương gia, không thì giết tôi cũng được chứ lẽ nào lại giết A Châu?

Giờ phút này đầu óc Tiêu Phong thật là chậm chạp, phải mất một lúc mới thấy bàng hoàng, hỏi lại:

- Chuyện gì mà lại sai lầm rất đáng hổ thẹn?

Nguyễn Tinh Trúc khóc đáp:

- Ông biết hai năm rõ mười rồi còn hỏi ta làm chi? A Châu... A Châu và A Tử đều là con tôi, tôi không dám về nhà, nên phải đem cho người ta.

Tiêu Phong run rẩy nói:

- Hôm qua ta hỏi Đoàn Chính Thuần, có phải đã làm một chuyện sai lầm đáng hổ thẹn, chính ông ta đã nhận như thế. Chuyện xấu hổ đó chỉ là

việc đem A Châu... và A Tử cho người khác ư?

Nguyễn Tinh Trúc hầm hầm đáp:

- Chuyện đau lòng như thế ông thấy còn chưa đủ hay sao? Ông nghĩ ta là thứ đàn bà hư đốn đến mực nào mà chỉ chuyên làm chuyện xấu xa?

Tiêu Phong nói:

- Đoàn Chính Thuần hôm qua còn nói là “May trời còn thương, hôm nay cho ta gặp lại được... được đứa trẻ năm xưa không cha không mẹ”. Y nói hôm nay may được gặp lại đứa trẻ không cha mẹ là nói về A Tử, không phải nói... không phải nói về ta hay sao?

Nguyễn Tinh Trúc giận dữ đáp:

- Anh ấy nói về ngươi làm gì? Ngươi đâu có phải là đứa trẻ anh ấy bỏ rơi cho người ta nuôi đâu? Ngươi ... ngươi nói năng láo lếu gì thế? Ta đâu có sinh ra cái loại súc sinh như ngươi?

Bà ta hận Tiêu Phong cực độ, nhưng lại sợ võ công ông ta ghê gớm nên không dám ra tay chỉ chửi cho sướng miệng. Tiêu Phong nói:

- Thế ta hỏi hỏi y tại sao đến giờ phút này vẫn điều một điều hai tiếp tục làm chuyện ác y lại thừa nhận đức hạnh khiếm khuyết, làm điều không ngay thẳng?

Khuôn mặt đầy nước mắt của Nguyễn Tinh Trúc bỗng dưng ửng đỏ nói:

- Anh ta sinh tính phong lưu, trước nay vẫn thế. Anh ấy yêu một người rồi yêu hai người, rồi ba, rồi bốn người, hết người này đến người khác, thì... thì việc gì đến ngươi mà ngươi phải rỗi hơi xen vào?

Tiêu Phong lẩm bẩm:

- Sai rồi! Sai rồi! Sai bét rồi!

Ông lặng người đi một hồi, đột nhiên giơ tay ra, bốp bốp bốp bốp, đánh mình thật mạnh bốn cái tát. Nguyễn Tinh Trúc hoảng hồn, nhảy bật lên, lùi lại hai bước, thấy Tiêu Phong vẫn hết sức tự đánh vào mình, chưởng nào chưởng nấy cực mạnh mẽ, chỉ giây lát mặt mày đã sưng vù. Lại nghe một tiếng “Ồ” nữa, thêm một người đã bước vào kêu lên:

- Mẹ đã lấy được bức thiếp...

Chính là A Tử. Nàng chưa nói dứt câu, bỗng thấy trong nhà có người, lại thấy Tiêu Phong tay trái ôm xác A Châu, tay phải liên tiếp đánh vào mình, không khỏi kinh ngạc đến sững sờ.

Mặt Tiêu Phong sưng lên rồi vỡ ra, lập tức mặt mày tay chân đầy những máu là máu, văng tung tóe, vãi cả lên tường, lên bàn, lên ghế... chỗ nào cũng lấm tấm đỏ tươi, cả thân thể A Châu lẫn bức thiếp trên vách, cũng đầy những điểm hồng. Nguyễn Tinh Trúc không nỡ nhìn khung cảnh ghê rợn đó, hay tay bưng mặt nhưng tai vẫn nghe những tiếng bốp bốp ròn tan, nhịn không nổi kêu lên:

- Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa!

A Tử kêu ré lên:

- Chao ôi! Ngươi làm hỏng chữ cha ta viết rồi, ta bắt đền đó!

Cô ta nhảy lên bàn gỡ bức thiếp treo trên tường xuống. Thì ra hai mẹ con cô ta quay trở lại chỉ cốt để đem bức bút thiếp đi. Tiêu Phong ngạc nhiên, ngừng tay không đánh tiếp, hỏi lại:

- Thế thì “Đại Lý Đoàn nhị” quả thực là Đoàn Chính Thuần đấy sao?

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Ngoài anh ta ra thì còn ai vào đây nữa?

Bà ta nhắc đến Đoàn Chính Thuần, khuôn mặt lộ vẻ thâm tình lại thêm vài phần hãnh diện. Mấy câu đó đã giải hết những nghi vấn trong đầu Tiêu Phong: bức thiếp này quả đúng là do tay Đoàn Chính Thuần viết, phong thư gửi Uông bang chủ kia không phải là y, "đàn anh đứng đầu" hiển nhiên không phải Đoàn Chính Thuần. Trong đầu ông liền nổi lên một ý niệm: “Mã phu nhân đổ tiếng oan cho Đoàn Chính Thuần, bên trong hẳn có ẩn tình thật ghê gớm. Nếu ta cởi được mối thắt này thì sẽ cạn ao bèo đến đất, mọi việc lộ ra ngay”. Ông nghĩ như thế lập tức không còn ý định tự tận, mới đây tự hành hạ mình, tuy máu me đầy mặt nhưng hối hận bi thương trong lòng cũng có chỗ phát tiết, bèn ôm xác A Châu đứng lên.

A Tử lại thấy hai mảnh trúc bài ông viết để trên bàn, cười nói:

- Thảo nào bên ngoài có hai cái hố, ta đang ngạc nhiên không hiểu vì sao, thì ra ngươi định đồng tử hợp táng với chị ta, chậc chậc, quả thực đa tình quá lắm!

Tiêu Phong nói:

- Ta trúng phải độc kế của gian nhân làm chết A Châu, bây giờ muốn đi tìm kẻ gian đó để báo thù cho A Châu đã, sau đó sẽ theo nàng xuống suối vàng.

A Tử hỏi:

- Kẻ gian đó là ai thế?

Tiêu Phong nói:

- Giờ phút này ta chưa có manh mối chi cả, còn phải đi tìm.

Nói xong ôm A Châu, mạnh dạn đi ra. A Tử cười nói:

- Thế ngươi ôm xác chị ta đi tìm kẻ gian ư?

Tiêu Phong ngơ ngẩn, chưa biết tính sao, nghĩ đến chuyện ôm xác A Châu đi hàng nghìn dặm, đường xa diệu vợi, quả có điều không ổn, nhưng thực không nỡ lòng nào mà rời xa nàng. Ông bần thần nhìn mặt A Châu, nước mắt pha lẫn máu mê trên mặt nhỏ xuống, thành những giọt nước hồng, rơi trên khuôn mặt trắng bệch của A Châu, quả đúng là huyết lệ đầm đìa.

Nguyễn Tinh Trúc thấy tình trạng thương tâm của ông, bao nhiêu lòng thù ghét đều tiêu giải, nói:

- Kiều bang chủ, việc đã lỡ rồi, không còn cách gì cứu chữa được, ông... ông...

Bà ta vốn dĩ định khuyên Tiêu Phong bớt bi thương, nhưng chính mình cũng nhịn không nổi khóc òa lên, nức nở:

- Cũng tại ta mà ra, cũng tại ta chẳng ra gì... con ta ngoan ngoãn thế sao lại đem cho người khác?

Thiếu nữ bị Tiêu Phong điểm huyệt đứng kia bỗng xen vào:

- Đương nhiên là tại bà không ra gì! Vợ chồng người ta đang vui vầy, sao bà lại đến phá hại gia cang, chia uyên rẽ thúy?

Nguyễn Tinh Trúc ngẩng đầu lên, hỏi thiếu nữ kia:

- Sao cô nương lại nói thế? Cô là ai?

Thiếu nữ đáp:

- Bà là hồ ly tinh, làm mẹ tôi khốn khổ, làm cả tôi... làm cả tôi...

A Tử vung tay toan xông tới tát vào mặt cô gái, cô gái kia không cử động được, trước mắt thấy không thể nào tránh né. Nguyễn Tinh Trúc giơ tay lên gạt tay con ra nói:

- A Tử, không được làm càn.

Bà ta quay sang nhìn người đàn bà trung niên dò hỏi, lại nhìn cương đao trong tay bà ta, dưới đất một thanh đao gãy, lập tức hiểu ra nói:

- Phải rồi, bà sử dụng song đao, bà... bà... là Tu La Đao Tần... Tần Hồng Miên... Tần tỉ tỉ.

Người đàn bà đó chính là một trong những tình nhân của Đoàn Chính

Thuần Tu La Đao Tần Hồng Miên, còn cô gái áo đen kia là con gái bà ta

Mộc Uyển Thanh. Tần Hồng Miên không trách Đoàn Chính Thuần bẻ lá

vin cành, đến đâu cũng ong kia bướm nọ, lại thù ghét những đàn bà khác

hồ mị yêu dâm, chiếm đoạt tình lang của bà ta, thành thử khi được sư muội Cam Bảo Bảo cho hay tin rồi, liền cùng con gái Mộc Uyển Thanh đi

hành thích vợ Đoàn Chính Thuần là Đao Bạch Phượng và một người tình

nhân khác, kết quả chẳng thành công. Đến lúc nghe Đoàn Chính Thuần

còn một người yêu khác là Nguyễn Tinh Trúc, ẩn cư nơi Phương Trúc Lâm bên cạnh Tiểu Kính Hồ nên lại cùng con gái đến tìm để giết.

Tần Hồng Miên thấy Nguyễn Tinh Trúc nhận ra mình, quát lên:

- Đúng đó, ta là Tần Hồng Miên, ai cho con tiện nhân kia gọi ta là tỉ tỉ?

Nguyễn Tinh Trúc chưa đoán ra Tần Hồng Miên đến đây có chuyện gì, lại sợ kẻ tình địch này gặp lại Đoàn Chính Thuần rồi “bén duyên tình cũ” nên cười nói:

- Phải rồi, ta nói sai, ngươi so với ta còn ít tuổi hơn nhiều, mặt mày xinh đẹp như thế, thảo nào Đoàn lang mê mẩn. Ngươi là muội tử của ta, không phải tỉ tỉ. Tần gia muội tử, Đoàn lang ngày nào cũng nhớ nhung ngươi, ghi lòng tạc dạ, ta thật thèm cái phúc phận của muội tử.

Tần Hồng Miên nghe thấy Nguyễn Tinh Trúc khen mình tuổi trẻ, xinh xắn, trong bụng lửa giận cũng đã bớt được ba phần, đến khi nghe Đoàn

Chính Thuần ngày ngày thương nhớ mình, nộ khí lại giảm thêm ba thành

nữa, bèn nói:

- Ai thèm nghe ngươi nói ngọt nói nhạt cốt để cho ta mát lòng mát dạ.

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Vị cô nương này, có phải là lệnh ái thiên kim chăng? Chậc chậc chậc, sao mà đẹp thế, không lẽ Tần gia muội tử sinh được...

Tiêu Phong thấy hai người đàn bà lải nhải chuyện phong lưu hoa nguyệt, không muốn nghe thêm, ông vốn là người cưa đứt đục suốt, chuyện đau lòng, nát ruột đã qua, lập tức nghĩ ngay đến việc làm sao giải quyết được chuyện lớn.

Ông ôm thi thể A Châu lên đi đến cái huyệt đã đào sẵn bỏ xuống, hai bàn tay to lớn liền cào đất, từ từ rắc lên mình nàng, chỉ chừa mặt không đổ xuống. Hai mắt ông chăm chăm nhìn xác A Châu, chỉ còn vài nắm đất nữa là từ nay không bao giờ còn thấy nàng được nữa. Tai ông mơ mơ hồ hồ còn nghe nàng ước định ra ngoài biên tái cưỡi ngựa săn thú, thả cừu chăn bò làm bạn với mình. Chưa đầy một ngày trước hai người còn nói với nhau, khi thì thâm tình, khi thì cười cợt, lúc chuyện đứng đắn, lúc chuyện lăng nhăng nhưng từ nay sẽ không bao giờ còn được nghe nữa. Giấc mơ cùng nhau chăn bò, thả cừu ở ngoài quan ngoại nay trở thành một trường huyễn mộng. Tiêu Phong quì bên cạnh huyệt một hồi lâu, không nỡ lòng nào đổ đất xuống mặt A Châu. Đột nhiên ông đứng bật dậy hú lên một tiếng dài, không nhìn A Châu nữa hai tay cùng đẩy, bao nhiêu đất ở bên cạnh huyệt phủ xuống lấp lên rồi quay phắt lại đi vào sương phòng. Đã thấy Nguyễn Tinh Trúc và Tần Hồng Miên hai người chị chị em em nói năng ríu rít. Nguyễn Tinh Trúc tuy vừa mới phải cảnh đau lòng nhưng miệng vẫn trơn như mỡ bốc Tần Hồng Miên khiến bà ta hết sức vui lòng, bao nhiêu thù hằn đều tiêu giải. Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Kiều bang chủ, vị muội muội này đắc tội, chẳng qua chỉ là vô tâm, xin ông giải huyệt cho hai người.

Nguyễn Tinh Trúc là mẹ A Châu, lời bà ta nói Tiêu Phong cũng đã có mấy phần chiều theo, huống chi ông vốn đã có ý tha cho họ rồi nên lập

tức đến gần, giơ tay vỗ lên vai Tần Hồng Miên và Mộc Uyển Thanh một

cái. Hai người chỉ thấy một luồng nhiệt khí từ đầu vai chạy thẳng xuống

huyệt đạo, tứ chi lập tức cử động bình thường. Hai mẹ con đưa mắt nhìn

nhau, thấy công lực Tiêu Phong thâm hậu dường ấy, trong lòng không

khỏi bội phục.

Tiêu Phong quay sang A Tử nói:

- A Tử muội tử, bức thiếp của cha cô cho ta coi một chút được không?

A Tử đáp:

- Tôi không thích ông gọi tôi là muội tử nọ, muội tử kia.

Miệng thì nói thế nhưng không dám cưỡng lại, vội vàng đưa cuộn thiếp cho ông ta. Tiêu Phong mở ra, xem kỹ những chữ Đoàn Chính Thuần viết mấy lượt. Nguyễn Tinh Trúc mặt đỏ bừng, sượng sùng nói:

- Cái bức thiếp này có gì đâu mà coi kỹ thế?

Tiêu Phong hỏi lại:

- Đoàn vương gia bây giờ đang ở đâu?

Nguyễn Tinh Trúc mặt liền biến sắc, lùi lại hai bước, ấp úng nói:

- Đừng... đừng... ngươi đừng đi kiếm anh ấy nữa.

Tiêu Phong nói:

- Tôi không kiếm ông ta để gây chuyện mà chỉ muốn hỏi vài chuyện thôi.

Nguyễn Tinh Trúc nào dám tin, nói:

- Ngươi đã lỡ tay đánh chết A Châu rồi, đừng đi kiếm anh ấy làm gì nữa.

Tiêu Phong liệu rằng bà ta chẳng thể nào nói ra đâu, cũng không hỏi thêm, cuộn bức thiếp lại trao trả A Tử nói:

- A Châu đã có di ngôn nhờ ta trông nom cho em nàng. Đoàn phu nhân, nếu sau này A Tử gặp chuyện khó khăn, nếu như Tiêu Phong có thể làm được thì cứ nói cho biết nhất quyết không chối từ.

Nguyễn Tinh Trúc mừng quá, nghĩ bụng: “A Tử có được một người đại

bản lãnh như thế làm chỗ dựa, một đời ắt phùng hung hóa cát, ngộ nạn

thành tường”. Bà ta liền đáp:

- Thế thì xin đa tạ. A Tử, mau mau tạ ơn Kiều đại ca đi.

Bà ta đổi ngay “Kiều bang chủ” thành ‘Kiều đại ca” để cho A Tử và ông ta thêm phần gần gũi. Thế nhưng A Tử chỉ bĩu môi, mặt nhơn nhơn nói:

- Con có việc gì khó khăn mà cần y giúp đỡ? Con đã có sư phụ vô địch thiên hạ rồi, lại còn bao nhiêu sư ca, sợ gì ai hiếp đáp? Y là thứ tượng đất qua sông, ốc không mang nổi mình ốc, chuyện mình còn chưa đâu vào đâu, nói gì giúp con? Hứ, càng có y càng thêm hỏng chuyện thì có?

Cô ta mồm năm miệng mười, nói đâu ra đấy, Nguyễn Tinh Trúc mấy lần đưa mắt ngăn lại nhưng A Tử làm như không trông thấy. Nguyễn Tinh

Trúc dậm chân nói:

- Hừm, thứ trẻ con, nói năng tầm xàm chẳng biết trên dưới gì cả, Kiều bang chủ, xin ông nghĩ đến A Châu, đừng để bụng làm gì!

Tiêu Phong đáp:

- Tại hạ họ Tiêu, không phải họ Kiều.

A Tử chen vào:

- Mẹ thấy chưa, người này đến họ gì cũng còn chưa tỏ tường, quả đúng là đần độn...

Nguyễn Tinh Trúc quát lớn:

- A Tử!

Tiêu Phong chắp tay chào nói:

- Thôi xin từ biệt.

Ông quay sang nói với Mộc Uyển Thanh:

- Đoàn cô nương, thứ ám khí độc địa, đừng dùng vô ích, nếu gặp phải đối thủ võ công cao cường hơn cô, e rằng chỉ có hại.

Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời, A Tử lại láu táu:

- Tỉ tỉ, đừng nghe y nói bậy nói bạ, ám khí này cùng lắm không trúng đối phương, làm gì có hại được?

Tiêu Phong không thèm chấp, xoay mình đi ra, chân vừa bước vào ngạch cửa, tay áo bào bên phải phất một cái, kình phong kêu vút một tiếng, bảy mũi đoản tiễn Mộc Uyển Thanh mới rồi ném vào ông còn nằm dưới đất cùng bay vụt lên, thế nhanh như chớp bắn thẳng vào A Tử. A Tử chỉ lêu được một tiếng ”Ối trời!” nhưng nào tránh kịp? Bảy mũi tên theo đỉnh đầu, cạnh cổ, ngang mình bay sượt qua, nghe lịch bịch cùng cắm cả

vào bức tường phía sau lút đến tận chuôi. Nguyễn Tinh Trúc vội vàng chạy tới ôm lấy A Tử, kinh hoảng kêu lên:

- Tần gia muội tử, mau đem thuốc giải ra đây.

Tần Hồng Miên cũng rối rít:

- Bị thương ở đâu? Bị thương ở đâu?

Mộc Uyển Thanh vội lấy giải dược từ trong túi ra, đến xem vết thương của A Tử. Một lát sau, A Tử mới hơi hoàn hồn nói:

- Không... không trúng con.

Bốn người đàn bà lúc ấy mới cùng nhìn lên bảy mũi đoản tiễn trên tường, ai nấy kinh hãi mặt mày tái mét. Thì ra Tiêu Phong nghĩ đến di ngôn của A Châu nhờ ông chiếu cố cho A Tử nhưng nghe nàng ta nói “Con đã có sư phụ vô địch thiên hạ rồi, lại còn bao nhiêu sư ca, sợ gì ai hiếp đáp?” nên mới dùng tụ phong bắn tên dọa cho A Tử một phen, để nàng biết được trời cao đất dày, khỏi coi trời bằng vung, khinh thường anh hùng hảo hán trong thiên hạ, sau này sẽ gặp chuyện không may.

Ông ta ra khỏi khu rừng trúc, đến bên bờ hồ, tìm một cây to cành lá xum xuê bên cạnh đường, nhảy lên trên đó. Ông muốn kiếm ra Đoàn Chính Thuần để hỏi cho rõ ràng, vì cớ gì Mã phu nhân cố ý hại ông ta, nhưng vì Nguyễn Tinh Trúc không cho biết ông ta đang ở đâu, nên đành phải tự mình ngấm ngầm theo dõi. Chẳng mấy chốc đã thấy bốn người đi ra, hai mẹ con Tần Hồng Miên đi trước, hai mẹ con Nguyễn Tinh Trúc đi sau xem ra vẻ Nguyễn Tinh Trúc tiễn khách về.

Bốn người đi đến cạnh bờ hồ, Tần Hồng Miên nói:

- Nguyễn tỉ tỉ, hai người mình mới gặp mà như quen đã lâu, bao nhiêu hiềm khích cũ bỏ qua hết, khiến cho ta bớt đi được một mối hận lòng. Bây giờ tiểu muội muốn đi kiếm con tiện tì họ Khang, tỉ tỉ có biết nó ở đâu không?

Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại:

- Muội tử đi kiếm mụ ta để làm chi?

Tần Hồng Miên hậm hực đáp:

- Tiểu muội với Đoàn lang đang sống vui vầy bên nhau, chỉ tại con tiện tì hồ ly tinh đó giở trò...

Nguyễn Tinh Trúc ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Con tiện nhân... Khang... Khang Mẫn đó, ôi, thật không biết nó ở đâu. Muội tử nếu tìm thấy y thì chém luôn cho nó thêm vài đao giùm ta.

Tần Hồng Miên đáp:

- Còn phải nói! Chỉ có điều không dễ gì kiếm thấy nó. Thôi được, xin từ biệt, sẽ gặp lại sau. Ôi, nếu tỉ tỉ gặp Đoàn lang...

Nguyễn Tinh Trúc chột dạ, hỏi:

- Thì sao?

Tần Hồng Miên đáp:

- Tỉ tỉ tát cho y hai cái rõ mạnh, một cái là để cho em, một cái là cho con gái em.

Nguyễn Tinh Trúc bật cười nói:

- Ta làm sao mà kiếm cho ra cái gã chết tiệt lòng lang dạ sói ấy được? Nếu muội tử gặp được y, cũng đánh giùm ta hai cái, một cái là thay ta, còn một cái là cho A Tử. Chưa, bợp tai không đủ, phải cho y thêm hai

cái đá nữa. Sinh con ra chẳng ngó ngàng gì đến, để cho mẹ con chúng

mình cô khổ lênh đênh...

Nói đến đây lại sụt sùi. Tần Hồng Miên an ủi:

- Thôi tỉ tỉ đừng đau lòng nữa. Để hai mẹ con em giết được con tiện tì họ Khang rồi sẽ quay lại làm bạn với chị.

Tiêu Phong ngồi trên cây, bao nhiêu chuyện hai người đàn bà nói với nhau đều nghe rõ ràng, nghĩ thầm Đoàn Chính Thuần võ công không phải

dở, đối với bạn bè cũng có nhân có nghĩa, có điều đam mê nữ sắc không

phải là kẻ anh hùng. Chỉ thấy Tần Hồng Miên dắt tay Mộc Uyển Thanh

hành lễ từ biệt mẹ con Nguyễn Tinh Trúc rồi ra đi, Nguyễn Tinh Trúc

cũng cầm tay A Tử trở về khu rừng trúc.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nguyễn Tinh Trúc chắc hẳn đi kiếm Đoàn Chính Thuần, nhưng không muốn cho Tần Hồng Miên đi theo, lúc đầu bà ta bảo là trở lại lấy bức thiếp, Đoàn Chính Thuần chắc đợi ở đâu đó không xa. Ta phải ở đây rình xem sao”.

Bỗng thấy trong lùm cây có tiếng động nhỏ, hai bóng người màu đen rón rén đi ra, chính là mẹ con Tần Hồng Miên đi rồi bây giờ quay trở lại. Nghe thấy Tần Hồng Miên hạ giọng:

- Uyển nhi, sao con sơ xuất đến thế, để mắc lừa người ta một cách dễ

dàng? Dưới gầm giường trong ngọa thất Nguyễn gia tỉ tỉ có một đôi giày

đàn ông, đầu mũi giày có thêu hai chữ bằng vàng, chân trái có một chữ

Sơn, chân phải có một chữ Hà, chính là giày của cha con. Đôi giày còn

mới, gót giày dính bùn chưa khô, chỉ thế cũng biết ngay là cha con ở gần

đâu đó.

Mộc Uyển Thanh nói:

- À, hóa ra cái bà họ Nguyễn đó nói dối mẹ con mình.

Tần Hồng Miên nói:

- Đúng thế, làm sao bà ta dám để cho mình gặp cái anh chàng phụ bạc kia?

Mộc Uyển Thanh cãi lại:

- Cha con đâu có lang tâm, mẹ ơi, mẹ chẳng cần phải kiếm ông ấy làm gì.

Tần Hồng Miên lặng thinh không nói, một hồi sau mới đáp:

- Ta chỉ muốn thấy ông ấy nhưng lại chẳng mong ông ấy gặp ta làm gì. Qua bao nhiêu năm tháng, ông ấy cũng đã già, mà mẹ cũng già rồi còn gì.

Mấy câu đó nghe giọng thật bình thường nhưng bên trong chứa chất đầy vẻ ân tình. Mộc Uyển Thanh đáp:

- Vậy cũng được!

Trong thanh âm đầy vẻ thê lương. Từ khi nàng chia tay cùng Đoàn Dự đến nay, cái lòng nhung nhớ càng ngày càng nhiều nhưng biết rằng không đi đến đâu nên trước mặt mẹ không dám hở ra chút tâm sự gì. Tần Hồng Miên nói:

- Mẹ con mình rình ở đây, chẳng mấy chốc cha con thể nào cũng sẽ đến.

Nói xong vạch đám cỏ cao ẩn thân vào trong đó, Mộc Uyển Thanh cũng bắt chước nấp ở đằng sau gốc cây. Dưới ánh trăng sao, Tiêu Phong thấy khuôn mặt trắng trẻo của Tần Hồng Miên ẩn sắc hồng, hiển nhiên cực kỳ xúc động, nghĩ thầm: “Tình quả là lụy con người, mới ra nông nỗi đó”. Ông chợt nghĩ đến A Châu, trong lòng không khỏi dâng lên một nỗi xót xa. Chẳng bao lâu, trên đường truyền lại tiếng chân người đi nhanh, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Người này không phải Đoàn Chính Thuần, có lẽ là bộ thuộc của ông ta”. Quả nhiên khi người đó đến gần, nhận ra chính là người vẽ ở trên cầu Chu Đan Thần. Nguyễn Tinh Trúc nghe thấy tiếng chân nhưng không phân biệt được, lại tưởng là Đoàn Chính Thuần nên gọi:

- Đoàn lang, Đoàn lang!

Bà rảo bước chạy ra đón, A Tử lẽo đẽo theo sau mẹ. Chu Đan Thần cúi rạp xuống nói:

- Chúa công sai thuộc hạ đến bẩm báo là người hiện có việc gấp, hôm nay không thể trở về được.

Nguyễn Tinh Trúc ngạc nhiên hỏi lại:

- Chuyện gấp gì thế? Bao giờ mới quay về?

Chu Đan Thần đáp:

- Việc này có liên quan đến nhà Cô Tô Mộ Dung, dường như đã tìm ra tung tích Mộ Dung công tử. Chúa công vạn lý bắc hành cũng cốt để đi tìm người này. Chúa công có dặn: khi nào đại sự xong xuôi, sẽ quay về bên Tiểu Kính Hồ đoàn tụ, xin phu nhân chẳng phải trông chờ.

Nguyễn Tinh Trúc nước mắt rưng rưng, nghẹn ngào nói:

- Anh ấy lúc nào cũng bảo tức khắc quay lại ngay nhưng lần nào cũng ba năm, năm năm vẫn chưa thấy đâu. Anh ta có dễ gì tới, lại...

Chu Đan Thần hết sức bi phẫn vì việc A Tử làm cho Chử Vạn Lý uất lên mà chết nên khi truyền lại lời của Đoàn Chính Thuần rồi không muốn ở lâu, chỉ hơi khom lưng, quay đầu đi ngay, từ đầu chí cuối không nhìn A Tử đến một lần.

Nguyễn Tinh Trúc đợi y đi xa rồi, nói nhỏ với A Tử:

- Khinh công của con hơn mẹ xa, mau mau theo dõi y, trên đường để lại ký hiệu cho mẹ, ta đi sau.

A Tử lại dẩu môi cười nói:

- Mẹ bảo con đi theo dõi cha thì có gì thưởng cho con nào?

Nguyễn Tinh Trúc đáp:

- Cái gì của mẹ cũng là của con hết, còn gì đâu mà thưởng?

A Tử nói:

- Được rồi, con sẽ viết một chữ “Đoàn” nơi góc tường, rồi vẽ một mũi tên thế là mẹ biết.

Nguyễn Tinh Trúc ôm vai con vui mừng nói:

- Con gái ngoan lắm!

A Tử cười đáp:

- Mẹ mê trai!

Cô ta nhỏm dậy, chạy đuổi theo Chu Đan Thần. Nguyễn Tinh Trúc đứng bên bờ hồ một chốc, lúc đó mới theo đường mòn mà đi. Bà ta đi đã xa, mẹ con Tần Hồng Miên bấy giờ mới hiện thân, giơ tay ra hiệu cho nhau, rón rén đuổi theo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “A Tử đã để lại ký hiệu trên đường, kiếm được Đoàn Chính Thuần thật dễ quá”. Ông đi được mấy bước, thấy ánh trăng soi bóng mình dưới hồ, cô đơn thê lương, trong lòng chua xót, lại muốn quay lại rừng trúc đến nơi mồ A Châu ngồi một lát. Thế nhưng ông chợt nghĩ lại, hào khí bốc lên, tung ra một chưởng, kình phong phóng xuống mặt hồ làm nước tung tóe khắp nơi, bóng dưới nước lập tức tan thành muôn mảnh. Ông hú lên một tiếng rồi rảo bước đuổi theo. Mấy ngày liền như thế, ngày đi đêm nghỉ, uống rượu nhiều mà ăn chẳng bao nhiêu, đến thị trấn nào cũng thấy dưới góc tường có một chữ “Đoàn” A Tử để lại và một mũi tên chỉ hướng. Cũng có khi Nguyễn Tinh Trúc tìm thấy trước xóa đi nhưng vết vẫn còn nhìn ra được. Con đường đi về hướng bắc, trời lạnh dần, hôm đó ra khỏi cửa không lâu chợt trời đổ một trận tuyết lớn. Tiêu Phong đi đến trưa, ngồi lại một quán rượu uống đến mười hai, mười ba bát, chưa đã thèm thì quán đã hết rồi. Ông cụt hứng lập tức bỏ đi một lúc sau đến một thành phố lớn, tới gần hơn liền sửng sốt, thì ra đó chính là Tín Dương. Trên đường ông chỉ lo đi tìm ký hiệu A Tử để lại, lại thêm tâm sự ngổn ngang, cảnh vật chung quanh không để ý gì đến, thành thử quay lại Tín Dương cũng không hay. Ông muốn kiếm Đoàn Chính Thuần quả thực dễ như trở bàn tay, chỉ cần nhanh hơn một chút một bữa nửa ngày thì đã vượt lên trên rồi. Thế nhưng từ khi A Châu chết đi, đầu óc bỗng thấy trống không, chẳng biết làm sao cho hết ngày giờ, trong lòng chỉ nghĩ: “Đuổi kịp Đoàn Chính Thuần để làm gì? Tìm được hung thủ đích thực, trả xong mối thù, rồi sẽ ra sao? Một mình ta trở ra ngoài Nhạn Môn Quan, giữa cơn gió cát săn thú chăn bò, để làm gì?”. Thành thử ông không tính chuyện đuổi cho nhanh. Vào trong thành Tín Dương, thấy dưới chân tường có một chữ “Đoàn” viết bằng than, mũi tên bên cạnh chỉ về hướng tây. Trong đầu ông lại dâng lên một nỗi chua cay, nghĩ đến hôm nào mình cùng A Châu sánh vai đi cùng, đến phía tây thành Tín Dương tìm nhà Mã phu nhân để hỏi thăm tin tức, hôm nay nghĩ lại có ngờ đâu mỗi một bước lại là đưa A Châu tiến đến đến gần cõi âm thêm một bước. Đi được sáu bảy dặm, gió bấc thổi mạnh, tuyết rơi xuống càng nhiều. Lần theo ký hiệu A Tử để lại đi về hướng tây, dấu hiệu nào cũng mới tinh viết chưa lâu, có khi là vỏ cây bị bóc ra viết lên trên đó, trên vết dao nhựa cây còn chưa kịp đóng cứng, ký hiệu chỉ đến chính là nhà Mã Đại Nguyên. Tiêu Phong thật lạ lùng, nghĩ thầm: “Không lẽ Đoàn Chính Thuần biết được Mã phu nhân hãm hại y nên đến tìm bà ta thanh toán? Đúng rồi, A Châu khi sắp chết nơi cầu đá xanh nói chuyện với ta đã từng nhắc đến Mã phu nhân, hẳn là A Tử nghe được, nên đã kể lại cho cha nghe. Thế nhưng mình chỉ nói là Mã phu nhân, làm sao biết được phu nhân họ Mã là người nào?”. Trên đường đi lòng ông uất ức nên cũng như người mất hồn, bây giờ gặp chuyện lạ lùng, lập tức tinh thần phấn chấn, hồi phục được nỗi cảnh giác khi giao phong với kình địch. Thấy bên đường có một chiếc miếu hoang, lập tức tiến vào, đóng cửa lại, nằm lăn ra ngủ ba giờ liền, đến canh hai mới ra khỏi miếu đi về phía nhà Mã phu nhân. Khi đến gần ông ẩn thân sau gốc cây, quan sát kỹ chung quanh, chỉ một chốc đã nhếch mép mỉm cười, thấy nơi mái nhà phía đông bắc có hai người nằm phục đó, nhìn hình dáng thì là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử. Kế đó lại thấy mẹ con Tần Hồng Miên nằm nơi góc nhà phía đông nam. Lúc đó đại tuyết chưa dứt, bốn người đàn bà ai nấy đều phủ một làn tuyết trắng. Sương phòng phía đông chiếu ra ánh sáng màu vàng nhạt nhưng tĩnh mịch không một tiếng động. Tiêu Phong bẻ một cành cây ném xuống, rơi chạm đất nghe cạch một tiếng nhỏ. Cả bốn người liền nhìn về phía có tiếng động, Tiêu Phong lập tức nhẹ nhàng nhảy xuống, đã tới bên cửa sổ phòng phía đông. Trời lạnh ngắt, đất đông thành đá, cửa sổ nhà họ Mã có song gỗ bên ngoài, Tiêu Phong đợi đến lúc có gió bấc vù vù thổi vào cửa sổ liền nhẹ nhàng đẩy ra một chưởng, lách cách một tiếng nhỏ, chưởng lực hòa lẫn gió lập tức đánh gãy chấn song, cả giấy dán bên trong cũng rách toạc một đường. Tần Hồng Miên nà Nguyễn Tinh Trúc tuy ở gần nhưng chưởng phong và gió bấc cùng một lượt nên không phát giác, đến như người ở trong phòng cũng không biết được. Tiêu Phong ghé mắt qua khe giấy nhìn vào bên trong vừa thoạt trông đã đờ cả người, tưởng chừng không tin nổi mắt mình nữa.

Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần áo ngắn, mũ con, ngồi xếp bằng trên giường, tay cầm chén rượu, cười hề hề nhìn một người đàn bà ngồi ở trường kỷ bên cạnh. Người đàn bà đó mặc áo toàn một màu trắng, trên mặt thoa một lớp phấn mỏng, đầu mày cuối mắt đầy vẻ xuân tình, khóe thu ba long lanh tưởng như sắp nhỏ lệ , trông như cười mà không phải cười, tựa như giận mà không phải giận, liếc xéo Đoàn Chính Thuần, chính là sương phụ Mã Đại Nguyên Mã phu nhân.

Chúc Bạn Mấn Vân Hữu Cựu Minh

Ngọn đèn mờ tỏ câu ân ái,

Tình xưa gợi lại chuyện oan gia.

*

* *

Tình cảnh trong nhà lúc đó nếu như Tiêu Phong không chính mắt chứng kiến, thì dù có ai kể lại cho ông, ông cũng sẽ cho là chuyện hoang đường, đặt điều bịa chuyện. Sau lần đầu tiên nơi rừng hạnh bên ngoài thành Vô Tích, ông gặp bà ta thêm hai lần nữa, lúc nào cũng thấy Mã phu nhân mặt lạnh như băng, tỏ ra một người không ai có thể mạo phạm được, đến nụ cười cũng chưa lộ ra lần nào, có ngờ đâu lại biến thành như thế này. Kỳ quái hơn nữa, bà ta đã từng dùng lời hãm hại Đoàn Chính Thuần, ắt hai người phải có thâm thù đại hận, thế nhưng trông tình cảnh trong căn nhà nhỏ, rượu chuốc hương nồng, tình ý triền miên, bốn mắt đưa tình đầy vẻ yêu thương, hai người có gì gọi là ghét bỏ nhau đâu? Trên bàn là một bình hoa lớn cắm đầy hồng mai, dưới giường ắt hẳn lò than đang đỏ, khuy cài cổ Mã phu nhân bung ra, để lộ làn da trắng ngần, hở cả một bên chiếc yếm bằng gấm đỏ. Bên cạnh giường đốt hai cây nến trắng, ánh lửa bập bùng chiếu lên khuôn mặt ửng hồng. Bên ngoài gió vẫn mạnh, tuyết vẫn đổ nhưng trong nhà thực là ấm áp tình xuân. Chỉ nghe Đoàn Chính Thuần nói:

- Lại đây, lại đây nào! Uống thêm với ta một chén nữa cho đủ cặp đủ đôi.

Mã phu nhân hứ một tiếng, phụng phịu nói:

- Cái gì mà đủ đôi đủ cặp? Thiếp một thân một mình ở đây, cô đơn lạnh lẽo, sáng đợi chiều trông, đêm mong ngày nhớ, lúc nào cũng mơ tưởng đến kẻ oan gia, còn chàng... chàng... thì đã quên bẵng đi rồi, có bao giờ nghĩ đến chuyện thăm hỏi một câu nào đâu?

Nói đến đây, mắt nàng rưng rưng tưởng chừng sa lệ. Tiêu Phong nghĩ thầm: Nghe giọng điệu bà ta thật chẳng khác gì Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, không lẽ... không lẽ... cũng đã dan díu với Đoàn Chính Thuần từ lâu rồi?.

Đoàn Chính Thuần dịu giọng đáp:

- Ta ở Đại Lý, có ngày nào không khắc khoải nhớ nhung Tiểu Khang của ta đâu? Chỉ hận không chắp cánh mà bay tới để được ôm nàng vào lòng, say đắm thương yêu nàng một lát. Đến khi nghe tin nàng cùng Mã phó bang chủ thành hôn, ta ba ngày ba đêm không ăn không ngủ. Nàng đã có chỗ trao thân gửi phận, nếu ta vẫn còn đến thăm chẳng hóa ra làm lụy đến nàng hay sao? Mã phó bang chủ là một anh hùng hảo hán rất có thân phận trong Cái Bang, nếu ta đến chàng màng tằng tịu với nàng thì thật coi y chẳng ra gì, ta... ta... chẳng hóa thành kẻ tiểu nhân đê tiện ư?

Mã phu nhân nói:

- Nào có ai đòi chàng phải đến để vui vầy với thiếp? Thiếp chỉ khắc khoải không biết chàng có bình yên không? Trong lòng có sảng khoái không? Chuyện lớn chuyện nhỏ có xuôi chèo mát mái không? Chỉ mong chàng yên lành là thiếp mãn nguyện rồi, trên đời cũng còn được đôi điều đáng sống. Chàng ở nơi Đại Lý xa xăm, thiếp muốn nghe ngóng tin chàng thật khó khăn biết mấy. Thiếp thân tại Tín Dương, nhưng trái tim này có giờ nào, khắc nào không ở bên chàng đâu?

Nàng ta càng nói càng nhỏ dần, giọng vẫn thật là tự nhiên không có vẻ gì muốn mê hoặc ai, Tiêu Phong nghe dường như trong nũng nịu có chiều hờn mát, tuy nhẹ nhàng nhưng lại xem như trách móc, nghe vào tai khiến phải mềm lòng làm cho người ta hồn vía đi đâu mất. Bình sinh Tiêu Phong đã từng gặp biết bao nhiêu người nhưng không ngờ trên đời này lại có người đàn bà quyến rũ đến như thế khiến ông tuy ngạc nhiên thật nhưng mặt cũng phải đỏ lên. Ông đã gặp hai người tình nhân của Đoàn Chính Thuần, Tần Hồng Miên thẳng thắn bộc trực, Nguyễn Tinh Trúc xinh đẹp yêu kiều còn Mã phu nhân đây mềm mỏng đến cùng cực, ngọt ngào cũng cùng cực nhưng lại có mấy phần tình tứ. Đoàn Chính Thuần mặt tươi như hoa, giơ tay cầm nàng kéo lại, để lên lòng. Mã phu nhân ứ hự một tiếng, nửa chịu nửa không, giơ tay giả vờ đẩy ra. Tiêu Phong chau mày, không muốn nhìn hai người giở trò sàm sỡ, bỗng nghe bên cạnh có tiếng chân người đạp lên tuyết, nghe bép một tiếng. Ông kêu thầm: Không xong, hai mụ này thể nào cũng nổi cơn ghen làm hỏng hết chuyện lớn của ta. Thân hình ông vụt như gió lẻn ngay ra sau bốn người bọn Tần Hồng Miên, giơ tay điểm huyệt cả bọn. Bốn người đó chưa kịp biết ai ra tay thì đã cứng đơ nhưng lần này Tiêu Phong điểm luôn cả huyệt câm để cho họ muốn nói cũng không được. Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe tình lang cùng người đàn bà ở bên cạnh nói chuyện gió trăng, lửa giận bừng bừng, cơn ghen kéo đến nhưng chỉ chịu khổ giữa trời tuyết mà không thể làm gì hơn. Tiêu Phong lại ghé mắt vào khe cửa nhìn thấy Mã phu nhân đã ngồi bên cạnh Đoàn Chính Thuần, đầu tựa vào vai ông ta, người gục xuống mềm nhũn tưởng như chẳng còn xương cốt, mớ tóc dài đen nhánh che xõa hết một nửa mặt Đoàn Chính Thuần. Đôi mắt bà ta lim dim hé mở nói:

- Chồng thiếp bị người ta giết hại, chàng thể nào chẳng nghe tin, vậy mà sao không lại hỏi thăm nhau một chút? Trượng phu thiếp không còn,

chàng có còn phải ngại ngùng gì nữa đâu?

Giọng nói nửa như trách cứ nửa như nhõng nhẽo. Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Thế ta chẳng đến thì là gì? Ta vừa được tin, lập tức đi ngay, bất kể đêm ngày, ngựa không ngừng vó từ Đại Lý tới đây, chỉ sợ chậm mất một bước.

Mã phu nhân hỏi lại:

- Sao lại sợ chậm mất một bước?

Đoàn Chính Thuần mỉm cười:

- Sợ là sợ nàng không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc, đi lấy người khác mất rồi thì Đại Lý Đoàn nhị này bôn ba rong ruổi có phải công toi, mười năm nhớ nhung của ta trôi theo dòng nước.

Mã phu nhân hứ một tiếng nói:

- ối chào, nói gì chẳng nói lại vu cho người ta không chịu nổi cảnh phòng không gối chiếc đi lấy người khác? Chàng nghĩ tới thiếp hồi nào mà bảo là mười năm nhung nhớ, không sợ rụt lưỡi hay sao?

Đoàn Chính Thuần hai tay kéo lại, ôm nàng ta càng chặt thêm, cười nói:

- Nếu như ta không nhớ nàng thì sao lại từ Đại Lý lặn lội tới đây?

Mã phu nhân mỉm cười:

- Thôi được, cứ cho là chàng nhớ thiếp đi. Đoàn lang, thế từ nay chàng định sắp xếp cho thiếp thế nào?

Nói đến đây bà ta vòng hai tay vít cổ Đoàn Chính Thuần, đưa má mình vào mặt ông ta, liên tiếp cọ nhè nhẹ, mớ tóc dài bập bềnh như sóng nước. Đoàn Chính Thuần nói:

- Kim triêu hữu tửu kim triêu túy1 ! Chuyện tương lai nói tới làm gì? Thôi lại đây để ta ôm nàng xem mười năm qua có nhẹ đi tí nào không? Hay lại nặng hơn?

Nói xong giơ tay ôm lấy Mã phu nhân. Mã phu nhân nói:

- Thế chàng nhất định không chịu mang thiếp về Đại Lý hay sao?

Đoàn Chính Thuần hơi nhíu mày nói:

- Đại Lý có gì vui đâu? Vừa nóng vừa ẩm, lam sơn chướng khí, nàng đến đó thủy thổ không hợp, lại sinh bệnh mất thôi.

Mã phu nhân thở dài một tiếng, nói nhỏ:

- Ôi, chẳng qua chàng đến chỉ để dỗ dành thiếp cốt vui chơi qua đường đấy thôi.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Sao lại là vui chơi qua đường? Ta lập tức sẽ làm nàng vui vầy thực sự cho mà xem.

Mã phu nhân hơi vùng ra một cái, đứng xuống đất, rót một chén rượu nói:

- Đoàn lang, uống thêm chén nữa.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Ta không uống nữa đâu, say lắm rồi.

Mã phu nhân tay trái đưa ra vuốt ve má người tình nói:

- Không, thiếp không chịu đâu, thiếp muốn chàng uống cho thật say mèm.

Đoàn Chính Thuần cười hỏi lại:

- Say mèm ư? Say mèm thì còn gì thú vị?

Vừa nói ông vừa đưa tay cầm chén rượu uống một hơi cạn sạch. Tiêu Phong nghe hai người nói toàn chuyện gió trăng không còn chịu nổi nữa, thấy Đoàn Chính Thuần uống rượu, cơn thèm nổi lên, nuốt nước bọt một cái. Chỉ thấy Đoàn Chính Thuần há miệng ngáp dài, trông có vẻ mệt mỏi. Mã phu nhân cười tình nói:

- Đoàn lang, để thiếp kể chuyện cho chàng nghe, có chịu không?

Tiêu Phong nghe thế liền phấn chấn, nghĩ thầm: Bà ta kể chuyện xưa, không chừng có đầu mối gì đây. Đoàn Chính Thuần nói:

- Đừng nói vội, lại đây, để ta cởi xống áo cho nàng, nằm bên gối kể ta nghe.

Mã phu nhân lườm ông ta một cái nói:

- Chàng biết không, Đoàn lang, hồi còn nhỏ nhà thiếp nghèo lắm, chỉ mong được may quần áo mới nhưng cha thiếp nào có đâu mà mua. Đêm ngày thiếp chỉ nghĩ giá mình được như tỉ tỉ nhà họ Giang bên cạnh, năm nào cũng có áo hoa, giày hoa mới thì chắc là sướng lắm.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Hồi nàng còn nhỏ chắc là dễ thương lắm, một cô bé con thật kháu khỉnh, dẫu có mặc áo rách chăng nữa thì cũng vẫn đẹp như thường.

Mã phu nhân đáp:

- Không đâu, thiếp chỉ thích mặc quần áo mới thôi.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Nàng mặc quần áo tang trắng toát thế này, ôi, lại càng đẹp thêm

mấy phần, quần áo hoa có gì là đẹp đâu?

Mã phu nhân nhếch mép cười, vừa dịu dàng vừa nhỏ nhẹ đáp:

- Hồi thiếp còn nhỏ, cả đêm cả ngày chỉ nghĩ đến quần áo mới đến thành bệnh.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Cho đến năm mười bảy tuổi phải không?

ánh mắt Mã phu nhân sáng lên, cười khúc khích:

- Đoàn lang, từ hồi đó thiếp trở thành bệnh tương tư chàng. Cái bệnh đó chưa dứt nọc, cho tới nay vẫn chưa hết, chẳng biết kiếp này cái bệnh thương nhớ Đoàn lang có bớt được chút nào không?

Đoàn Chính Thuần nghe thế trong lòng bồi hồi rung động, giơ tay định nắm lấy nàng, nhưng vì uống rượu nhiều quá, chân tay bải hoải, giơ cánh tay lên rồi lại phải bỏ xuống, cười nói:

- Nàng ép ta uống nhiều quá, bây giờ muốn ... muốn ... ha ha, Tiểu Khang ơi! Thế mấy năm sau nàng mới được mặc áo hoa đi giày mới?

Mã phu nhân đáp:

- Chàng từ nhỏ đại phú đại quí, đâu có biết cái khổ của con nhà nghèo. Hồi đó, giá như thiếp có được đôi giày mới thì sung sướng biết mấy. Năm thiếp lên bảy, cha thiếp bảo rằng đến tháng chạp sẽ đem ba con cừu, mười bốn con gà nhà đang nuôi đem ra chợ bán sắm tết, lúc đó sẽ mua thêm một vuông vải hoa đem về may áo mới cho thiếp. Cha thiếp nói thế từ tháng tám, ngày ngày thiếp trông ngóng, chăm chỉ chăn cừu, nuôi gà...

Tiêu Phong nghe thấy chăn cừu chợt chạnh lòng, nhịn không nổi mắt đỏ hoe. Mã phu nhân kể tiếp:

- Chờ mãi mới đến tháng chạp, ngày nào thiếp cũng giục cha thiếp đi bán cừu, bán gà. Cha thiếp chỉ bảo Đừng có nóng ruột, đến khi năm cùng tháng tận, giá cừu giá gà nó mới được cao. Được mấy ngày, trời bỗng đổ tuyết lớn, liên tiếp mấy ngày mấy đêm liền. Chập tối hôm đó, đột nhiên có mấy tiếng lạch cạch, thì ra chuồng cừu bị tuyết làm sập mất rồi. Cũng may mấy con vật không bị chết, cha thiếp mới dắt cừu vào cho ở bên cạnh nói là sẽ sớm đem mấy con cừu ra chợ bán. Ngờ đâu ngay đêm hôm đó bỗng nghe sài lang tru, cừu kêu nhốn nháo cả lên. Cha thiếp nói: Chết rồi, chó sói đến rồi cầm chiếc giáo xông ra. Thế nhưng ba con cừu bị chó sói tha đi mất rồi, bầy gà hơn chục con cũng bị ăn thịt mất hơn một nửa. Cha thiếp kêu toáng lên, chạy vội ra rượt theo chúng định giành trở lại. Cha thiếp đuổi vào trong núi rồi, bụng thiếp lo lắm, không biết cha thiếp có lấy lại được mấy con cừu không. Đợi mãi đợi mãi mới thấy cha thiếp khập khiễng đi về. Cha thiếp bảo rằng tuyết ở triền núi trơn quá nên bị trượt chân, bị thương ở đùi, cái giáo cũng rơi xuống vực mất dĩ nhiên không đoạt lại được mấy con cừu. Thiếp quả là thất vọng, ngồi bệt ngay xuống tuyết khóc òa lên. Bấy lâu nay thiếp phải đi chăn cừu, chỉ mong được mặc quần áo mới, nào ngờ đến lúc cuối lại chẳng có gì. Thiếp vừa khóc vừa gào, luôn mồm giục: Cha ơi! Mau đi đòi mấy con cừu lại, con muốn có áo mới, con muốn có áo mới!.

Tiêu Phong nghe đến đây, lòng chùng xuống: Người đàn bà này trời sinh bạc bẽo, cha mụ ta ngã bị thương, mụ chẳng lo gì đến vết thương của cha, chỉ nhớ đến áo mới của mình, huống chi trời tối đuổi theo đàn sói đói, thật là nguy hiểm xiết bao? Lúc đó tuy còn nhỏ chưa hiểu sự đời nhưng cũng không phải chút nào. Lại nghe bà ta kể tiếp: - Cha thiếp mới bảo: Thôi bé ạ, từ mai trở đi mình lại nuôi mấy con cừu khác, sang năm bán đi, thể nào cũng có áo hoa cho con. Thiếp lại càng khóc to hơn nữa, nhưng đành chịu, còn biết làm sao? Chưa đầy nửa tháng sau đã đến Tết, chị họ Giang nhà hàng xóm mặc một chiếc áo bông thêu hoa đỏ nhụy vàng, mặc một chiếc quần xanh lục thêu hoa vàng. Thiếp trông thấy mà mê mẩn, tức đến bỏ cả ăn uống. Cha thiếp luôn luôn dỗ dành, thiếp nhất định không nhìn nhõi gì đến ông ta. Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Nếu lúc đó mà ta biết được, nhất định sẽ gửi đến cho nàng một chục, hai chục cái áo mới.

Nói tới đây ông ta vươn vai một cái, ánh nến lung linh chiếu lên khuôn mặt ngà ngà say đầy sắc dục. Mã phu nhân nói:

- Có một chục, có hai chục cái thì lại chẳng còn thèm thuồng nữa. Tối hôm ba mươi Tết, thiếp nằm trên giường trằn trọc, lăn qua lộn lại không ngủ được, len lén trở dậy, mò qua bên nhà Giang bá bá. Người lớn khi đó còn canh giao thừa chưa đi ngủ, ánh nến chiếu sáng trưng, thiếp thấy chị nhà họ Giang đang nằm ngủ trên giường, quần áo mới đắp trên bụng, ánh lửa bập bùng lại càng đẹp đẽ. Thiếp đứng nhìn ngẩn ngơ một hồi lâu rồi len lén vào trong phòng, cầm bộ quần áo mới.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Ăn trộm áo mới à? Chao ôi, ta tưởng Tiểu Khang chỉ ăn trộm đàn ông, ngờ đâu lại biết cả ăn trộm quần áo nữa.

ánh mắt Mã phu nhân long lanh, thản nhiên mỉm cười nói:

- Thiếp nào có ăn trộm quần áo đâu! Thiếp lấy chiếc kéo trong giỏ may để trên bàn, cắt vụn chiếc áo mới ra, lại cắt chiếc quần thành từng mảnh, không còn cách gì vá lại được. Thiếp cắt vụn bộ quần áo rồi, trong lòng hết sức vui sướng, sợ còn sướng gấp mấy lần chính mình có quần áo mới.

Đoàn Chính Thuần trước nay vẻ mặt vẫn tươi cười, nghe tới đây, khuôn mặt dần dần biến đổi, xem chừng không vui, nói:

- Tiểu Khang, thôi đừng kể chuyện nữa, mình đi ngủ thôi.

Mã phu nhân đáp:

- Không, dễ gì mà được gặp lại chàng mấy hôm, từ nay về sau, chỉ sợ không còn bao giờ gặp lại nhau, thiếp chỉ muốn nói chuyện với chàng càng nhiều càng tốt. Đoàn lang, chàng có biết tại sao thiếp lại muốn kể chuyện cho chàng nghe hay không? Để cho chàng biết rõ tính khí thiếp, từ bé đã vậy rồi, thích cái gì là ngày đêm mơ tưởng có cho bằng được, ví như người khác may mắn mà có thì bằng giá nào thiếp cũng phải hủy nó đi. Hồi còn bé thì cách làm cũng ngờ nghệch vụng về, đến khi lớn lên rồi thì cũng phải khôn ngoan hơn, cách thức cũng phải khéo léo hơn.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói:

- Thôi đừng nói nữa. Những chuyện ghê gớm ấy nàng để ta nghe vào tai mất cả hứng đi thì đừng trách ta đấy nhé.

Mã phu nhân mỉm cười đứng lên, từ từ cởi chiếc dải trắng buộc tóc trên đầu, mới tóc dài xõa xuống tận eo, mềm mại đen nhánh. Nàng cầm một chiếc lược bằng gỗ dương vàng, chậm rãi chải mớ tóc dài, đột nhiên quay lại mỉm cười, vẻ mặt thật là kiều mị nói:

- Đoàn lang, chàng lại đây bồng thiếp đi.

Thanh âm cực kỳ lơi lả. Tiêu Phong tuy trong lòng ghét bỏ người đàn bà này nhưng dưới ánh nến nhìn thấy khóe thu ba long lanh, nghe nàng nói chàng lại đây bồng thiếp đi cũng thấy rung động trong lòng. Đoàn Chính Thuần cười hì hì, vịn vào thành giường, toan đứng lên lại bế nàng ta, nhưng vì uống rượu quá nhiều, không nhỏm dậy nổi chỉ nói:

- Gớm chỉ mới uống có sáu bảy chén rượu mà sao say đến thế này.

Tiểu Khang, nàng quả là hoa dung nguyệt mạo nên hôm nay ta vừa gặp đã say chẳng khác gì uống đủ ba cân liệt tửu, ha ha. Tiêu Phong nghe thấy thế, kinh hoảng nghĩ thầm: Chỉ mới uống sáu bảy chén, làm sao say được? Đoàn Chính Thuần nội lực đâu phải tầm thường, dẫu không biết uống rượu chăng nữa cũng không đến nỗi thế, hẳn có chuyện gì khác lạ. Chỉ nghe Mã phu nhân cười khúc khích, nũng nịu nói:

- Đoàn lang, chàng lại đây nào, thiếp không có chút hơi sức nào cả, chàng... chàng... lại đây ôm thiếp đi.

Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm ở bên ngoài song cửa nghe Mã phu nhân õng ẹo đưa tình, câu nào câu nấy lọt vào tai, lửa ghen bốc lên, tưởng chừng muốn vỡ cả lồng ngực nhưng đâu có giơ tay bịt tai được. Đoàn Chính Thuần tay trái tựa vào thành giường, cố gắng đứng dậy, nhưng người cứ cứng đờ, đầu gối mềm nhũn, lại ngồi phịch xuống cười

nói:

- Ta cũng chẳng có chút hơi sức nào, thật là lạ quá. Ta vừa mới gặp nàng đã như chuột gặp mèo, toàn thân mềm nhũn ra ngay.

Mã phu nhân cười nhỏ nhẹ:

- Thiếp không tin đâu, chỉ mới uống có một chút mà đã giả vờ say để nựng người ta. Chàng không vận khí thúc đẩy nội lực được hay sao?

Đoàn Chính Thuần điều vận nội tức, toan đưa chân khí lên nhưng đan điền sao trống rỗng, tưởng chừng không còn gì cả, làm cách nào cũng không được. Ông liên tiếp đề khí ba lần, ngờ đâu công lực tu tập mấy chục năm không còn thấy tăm hơi đâu cả, không biết đi mất từ bao giờ. Bấy giờ Đoàn Chính Thuần mới thấy hoảng biết rằng có điều không hay xảy ra nhưng từng qua lại giang hồ đã lâu, kinh lịch cũng nhiều, trên mặt vẫn thản nhiên như không cười nói:

- Chỉ vận được nội kình sử dụng Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm thôi, thật say tới mức chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được nữa rồi.

Tiêu Phong nghĩ thầm: Gã này tuy tham hoa hiếu sắc nhưng không phải là kẻ hồ đồ. Y biết được đang lâm vào nguy cơ nên nói rằng chỉ còn giết người chứ không còn ôm người. Thực ra Nhất Dương Chỉ thì y biết nhưng Lục Mạch Thần Kiếm có biết đâu, chẳng qua chỉ là hư trương thanh thế để dọa người. Nếu y không còn nội lực thì làm sao sử dụng Nhất Dương Chỉ được?. Mã phu nhân người mềm xèo nói:

- Chao ôi, sao thiếp nhức đầu thế này, Đoàn lang, hay là... hay là trong rượu, chàng có bỏ cái gì vào không đấy?

Đoàn Chính Thuần vốn đã nghi nàng ta bỏ thuốc vào trong rượu, nghe nói thế, bao nhiêu ngờ vực tan biến hết, vẫy vẫy tay, nói:

- Tiểu Khang, nàng lại đây, ta có chuyện muốn nói với nàng.

Mã phu nhân dường như muốn đi lại bên cạnh ông ta nhưng không đứng lên nổi, gục xuống bàn, mặt ửng hồng, thở hổn hển, nũng nịu nói:

- Đoàn lang, thiếp một bước cũng đi không nổi, chắc chàng sợ thiếp không chiều chuộng nên bỏ xuân dược vào rượu chứ gì? Chàng thật chẳng có đàng hoàng gì cả.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu, giơ tay làm hiệu, lấy tay chấm vào rượu viết lên bàn: Mình trúng độc kế của địch, cố gắng trấn tĩnh rồi nói:

- Bây giờ nội lực của ta lại vận được rồi, mấy chén rượu độc kia làm sao làm ta mê man cho nổi.

Mã phu nhân cũng viết lên bàn: Thật hay không?. Đoàn Chính Thuần lại viết: Chớ có lộ vẻ kém thế. Ông ta lớn tiếng nói:

- Tiểu Khang, nàng có kẻ nào đối đầu mà dám đến đây giở độc kế với ta?

Tiêu Phong ở ngoài cửa sổ thấy ông ta viết mấy chữ Chớ có lộ vẻ kém thế biết là không ổn, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần là kẻ tinh minh ghê gớm thế mà lại chết về tay con đàn bà. Thuốc độc này rõ ràng là do Mã phu nhân bỏ vào, mụ ta nghe ngươi nói chỉ còn giết người được chứ không còn ôm người được sợ ngươi võ công vẫn còn nên giả vờ chính mình cũng trúng độc để xem hư thực, sao lại dễ dàng mắc mưu đến thế?. Mã phu nhân lộ vẻ lo lắng lại viết trên bàn: Nội lực mất hết là thực hay giả? nhưng mồm vẫn nói:

- Đoàn lang, nếu có đứa gian tặc chó chết nào muốn đến hại chúng mình thì thật hay lắm. Hiện giờ không có chuyện gì làm tóm cổ chúng làm vui thì đúng điệu. Chàng cứ việc ngồi đó xem chúng giở trò gì.

Đoàn Chính Thuần viết: Chỉ mong thuốc sớm rã, kẻ địch đến chậm thôi. Ông ta nói:

- Đúng thế, nếu có đứa nào đến phá quấy mình thì thật cầu còn chưa đủ. Tiểu Khang, nàng có muốn xem thuật lăng không điểm huyệt của ta không nào?

Mã phu nhân cười nói:

- Thiếp từ trước tới nay chưa từng được xem bao giờ, nếu như nội lực chàng chưa mất thì sử dụng Nhất Dương Chỉ đục thủng một cái lỗ trên giấy dán cửa sổ coi nào, có được không?

Đoàn Chính Thuần hơi chau mày, nháy nhó liên tiếp, có ý nói: Ta hoàn toàn không còn chút nội lực nào nữa, làm sao có thể lăng không điểm huyệt được? Ta chỉ để dọa địch nhân đấy thôi, sao nàng không hiểu ý ta?. Thế nhưng Mã phu nhân vẫn luôn mồm thúc giục nói:

- Mau động thủ đi nào, chàng chỉ cần đục một cái lỗ nhỏ trên cửa là dọa cho kẻ địch chạy mất nếu không thì hỡi ôi, đừng để cho chúng nhìn thấy điểm yếu của mình.

Đoàn Chính Thuần lại càng run nghĩ thầm: "Nàng ta xưa nay thông minh lanh lợi lắm, sao bây giờ lại cố giả vờ như ngờ nghệch là sao?". Ông còn đang suy nghị lại nghe Mã phu nhân dịu dàng nói:

- Đoàn lang, chàng trúng phải độc dược cực mạnh Thập Hương Mê Hồn Tán thì dẫu võ công có bằng trời cũng mất hết nội lực. Nếu quả chàng vẫn còn lăng không điểm huyệt đục được một cái lỗ nơi cửa sổ thì thật kỳ diệu quá sức.

Đoàn Chính Thuần thất kinh kêu lên:

- Ta... ta trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán đấy sao? Nàng làm sao... làm sao lại biết?

Mã phu nhân nũng nịu cười nói:

- Khi thiếp rót rượu cho chàng, hì hì, thật là vô ý để sẩy tay bỏ luôn một bao thuốc vào bình rượu. Chao ôi, thiếp vừa gặp lại chàng là thần hồn điên đảo, chân tay quýnh quáng, Đoàn lang ơi, chàng đừng giận thiếp nhé!

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:

- ồ, thì ra là vậy đó! Thế thì có hề hấn gì đâu!

Bây giờ ông đã rõ ràng, biết mình đã bị Mã phu nhân chế ngự, nếu nổi nóng chửi rủa thì sẽ không ích lợi gì nên đành giả vờ như không quan tâm, hết sức trấn tĩnh tâm thần, tìm cách ứng phó với thế cục cực kỳ nguy hiểm, nghĩ thầm: Nàng đối với ta một tấm thâm tình, chắc không nỡ nào hại tính mạng, cùng lắm là bắt mình phải đồng ý vĩnh viễn không trở về nhà nữa, chung sống tại đây, hoặc giả ép mình đem nàng về Đại Lý, danh chính ngôn thuận thành vợ thành chồng. Đó chẳng qua cũng bởi tấm lòng si mê mình, ra tay tuy hơi quá đáng nhưng cũng không phải do ý xấu mà ra. Ông nghĩ như thế mới thấy khoan tâm. Quả nhiên nghe thấy Mã phu nhân hỏi lại:

- Đoàn lang, chàng có bằng lòng thành vợ thành chồng cho lâu dài với thiếp không?

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Gớm nàng tính toán quả là lợi hại, thôi được rồi, ta chịu thua đó! Sáng mai nàng cùng ta lên đường trở về Đại Lý, ta cưới nàng làm trắc phi Trấn Nam Vương.

Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe thế, cơn ghen nổi lên, cùng nghĩ: Con tiện nhân này có gì tốt lành đâu? Chàng không nghe lời ta, lại nghe lời nó là sao?. Mã phu nhân thở dài một tiếng nói:

- Đoàn lang ơi, mới vừa rồi thiếp đã hỏi chàng, sau này coi thiếp ra sao, chàng lại bảo đất Đại Lý ẩm thấp nhiều chướng khí, thiếp đến đó chỉ tổ sinh bệnh, đến bây giờ bị ép nên phải bằng lòng, chứ có phải là do bản tâm đâu!

Đoàn Chính Thuần cũng thở hắt ra nói:

- Tiểu Khang, để ta nói cho nàng nghe, ta là hoàng thái đệ của nước Đại Lý. Anh ta không có con trai, sau khi vương huynh thiên thu vạn tải rồi thì ngôi vua sẽ truyền lại cho ta. Ta ở Trung Nguyên chẳng qua chỉ là một kẻ võ phu thế nhưng khi về Đại Lý thì không thể nào muốn làm gì thì làm, nàng nghĩ có phải không?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng thế, thì đã làm sao?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Chuyện này bên trong quả có nhiều điều khó nói nhưng nàng với ta thiết tha như vậy, đến nỗi phải giở thủ đoạn hạ độc nên ta cũng phải hồi tâm chuyển ý. Ngày ngày có một người xinh đẹp như nàng bầu bạn cận kề không lẽ ta không nghĩ đến. Ta đã bằng lòng đưa nàng về Đại Lý thì quyết không thể nào hối hận đâu.

Mã phu nhân A lên một tiếng nhỏ nói:

- Chàng nói vậy cũng phải. Mai sau chàng lên làm vua rồi có phong thiếp làm hoàng hậu không?

Đoàn Chính Thuần trù trừ đáp:

- Ta vốn có nguyên phối rồi, hoàng hậu thì không thể được...

Mã phu nhân đáp:

- Thật vậy, thiếp là một người đàn bà góa xúi quẩy, sao có thể làm hoàng hậu nương nương? Như thế chẳng khiến hàng nghìn hàng vạn dân Đại Lý cười đến trẹo quai hàm ư?

Nàng ta lại cầm chiếc lược lên, chậm rãi chải đầu, cười nói:

- Đoàn lang, mới đây thiếp kể lại chuyện cũ cho chàng nghe, chàng có hiểu ý thiếp hay chăng?

Đoàn Chính Thuần toát mồ hôi trán, chảy ròng ròng cố trấn nhiếp tinh thần nhưng công lực khổ luyện mấy chục năm qua không biết biến đi đâu mất thật có khác gì người đang chết đuối, hai tay quơ loạn lên nhưng đến một cọng cỏ cũng không vớ được. Mã phu nhân hỏi lại:

- Đoàn lang, người chàng nóng lắm, có phải không? Thôi để thiếp lau mồ hôi cho.

Từ trong túi lấy ra một chiếc khăn tay trắng tinh đến trước mặt ông ta nhẹ nhàng lau những giọt mồ hôi trên trán, dịu dàng nói:

- Đoàn lang, chàng phải giữ gìn sức khỏe, uống rượu rồi dễ trúng gió máy khiến cho người khó chịu, không khỏi khiến thiếp đâm lo sao?

Tiêu Phong ở bên ngoài cửa sổ cũng như Đoàn Chính Thuần ở trong nhà, hai người nghe thấy thế không khỏi rợn tóc gáy. Đoàn Chính Thuần cố gượng nở một nụ cười nói:

- Hôm đó người nàng hương hãn đầm đìa, ta cũng từng lau mồ hôi cho, chiếc khăn đó hơn chục năm nay vẫn còn giữ đây.

Mã phu nhân vẻ mặt thẹn thùng, nói nhỏ:

- Thật không biết xấu, chuyện cũ từ đời nào vậy mà vẫn còn nhắc lại? Chàng lấy ra cho thiếp xem nào?

Đoàn Chính Thuần nói là hơn chục năm qua vẫn mang theo chiếc khăn trong người, tưởng không có gì làm thực, nhưng ngờ đâu quả có tại trong túi. Ông ta có cái tài được lòng đàn bà cũng có nguyên nhân, phụ nữ nào đã từng có với ông một phen duyên nghiệt cũng đều tưởng ông thực lòng yêu mình nhưng chỉ vì số kiếp long đong nên không thể nào ăn đời ở kiếp với nhau được. Ông toan lấy chiếc khăn trong bọc ra để cho Mã phu nhân nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, ngờ đâu ngón tay chỉ hơi động đậy, bàn tay hoàn toàn tê dại, độc tính của Thập Hương Mê Hồn Tán này thật là ghê gớm, không còn chút hơi sức nào. Mã phu nhân nói:

- Chàng lấy ra cho thiếp coi đi! ứ hự, chàng lại đánh lừa thiếp rồi.

Đoàn Chính Thuần cười đau khổ:

- Ha ha, say quá mất thôi đến nỗi tay chẳng còn cử động được, nàng lấy giùm ta đi vậy.

Mã phu nhân nói:

- Thiếp chả mắc lỡm chàng đâu. Chàng định lừa cho thiếp đến gần, dùng Nhất Dương Chỉ giết thiếp chứ gì.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười đáp:

- Nàng là một tuyệt thế giai nhân xinh tươi nhường ấy, dẫu ta có là một hung đồ thập ác bất xá thì cũng chẳng nỡ dùng móng tay gạch lên khuôn mặt nàng một đường.

Mã phu nhân cười nói:

- Thật thế chăng? Đoàn lang, thế nhưng thiếp vẫn chưa yên bụng, thôi để thiếp lấy dây trói hai tay chàng lại, sau đó... sau đó, mới dùng sợi tơ mềm buộc luôn cả trái tim.

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Thì nàng đã chẳng buộc trái tim ta rồi đấy ư, nếu không ta đâu có ngoan ngoãn mò tới tận đây?

Mã phu nhân cười rộ lên một tiếng nói:

- Chàng vốn tử tế đến thế, thảo nào khiến cho thiếp phải mắc cái bệnh tương tư không sao chữa lành cho được.

Nói xong mở cái ngăn kéo bên cạnh giường lấy ra một cuộn dây gân bò. Đoàn Chính Thuần trong lòng càng thêm kinh hãi: Thì ra mụ ta đã chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, ta từ đầu chí cuối cứ như ở trong đám mây mù, Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, hôm nay ngươi táng mạng nơi đây, còn oán trách gì ai được nữa?. Mã phu nhân nói:

- Thiếp trói chân tay chàng trước, Đoàn lang, lòng thiếp thật yêu thương chàng không đâu kể xiết, chàng có giận thiếp không?

Đoàn Chính Thuần biết tính Mã phu nhân rồi, tuy là đàn bà nhưng so với đàn ông bình thường còn cứng rắn hơn, dù cho rủa xả chửi mắng mụ cũng không nổi giận, van xin năn nỉ mụ cũng chẳng hồi tâm, trước mắt chỉ còn một cách kéo dài thời giờ, may ra có cơ hội chuyển nguy thành an, thoát được khốn cảnh này nên cười nói:

- Ta vừa thấy cặp mắt long lanh của nàng, bao nhiêu giận hờn tan biến cả. Tiểu Khang, nàng lại đây, cho ta ngửi xem đóa hoa nhài trên tóc nàng có thơm không nào?

Hơn mười năm trước cũng một câu nói này mà Đoàn Chính Thuần đã cùng Mã phu nhân tạo nên một mối nghiệt duyên, bây giờ đề cập chuyện cũ, Mã phu nhân liền ngả đầu tựa vào lòng ông, thật là tình tứ dáng điệu đầy vẻ nhu mì bẽn lẽn. Bà ta giơ tay vuốt ve khuôn mặt Đoàn Chính Thuần, ỏn ẻn nói:

- Đoàn lang, Đoàn lang, tối hôm đó thiếp trao thân cho chàng, thiếp có hỏi rằng, sau này nếu như chàng lòng nọ dạ kia thì sẽ ra sao?

Đoàn Chính Thuần thấy mắt nổ đom đóm, trán từng giọt mồ hôi bằng hạt đậu nhỏ tong tỏng. Mã phu nhân tiếp:

- Hảo lang quân vô lương tâm kia ơi, lang quân yêu quí kia ơi, chàng đã thề nguyền sao sớm quên làm vậy?

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:

- Ta bảo sẽ để cho nàng cắn từng miếng thịt trên người ta.

Cái câu ước hẹn kia vốn dĩ chỉ là một câu bỡn cợt, trai gái hợp hoan tán tỉnh nhau nhưng bây giờ Đoàn Chính Thuần nhắc đến mà toàn thân nổi gai ốc. Mã phu nhân cười tình nói:

- Những gì chàng nói với thiếp, qua bao nhiêu năm vẫn không quên, Đoàn lang của thiếp quả là có lòng. Đoàn lang, thiếp định trói tay chàng lại, để cùng chàng chơi một trò mới, chẳng biết chàng có chịu hay không? Chàng bằng lòng thì thiếp mới trói, nếu chằng không khứng chịu thì thôi. Thiếp xưa nay đối với chàng thiên y bách thuận, làm gì cũng chỉ mong chàng được toại ý thôi.

Đoàn Chính Thuần biết rằng nếu mình không chịu cho mụ ta trói thì thể nào cô ả cũng còn những trò cổ quái khác nên đành gượng cười:

- Nàng muốn trói thì cứ trói đi. Ta dẫu phải chết dưới khóm mẫu đơn thì thành quỉ cũng phong lưu chán2 . Được chết dưới bàn tay của nàng thật là khoái hoạt biết bao nhiêu.

Tiêu Phong ở bên ngoài của sổ nghe ông ta nói vậy phải bội phục định lực quả hơn người, trong lúc nguy cơ như thế vẫn còn nói chơi được thì quả là tài. Chỉ thấy Mã phu nhân bẻ quặt hai tay Đoàn Chính Thuần ra sau, dùng gân bò trói cho thật chặt, thắt bảy tám cái nút, không nói gì lúc này ông ta võ công mất hết rồi, mà dẫu nội lực còn nguyên thì cũng không dễ gì trong chốc lát mà vùng ra được. Mã phu nhân lại cười tình nói:

- Thiếp ghét nhất là hai cái chân chàng, mỗi lần ra đi là chẳng còn thấy bóng thấy hình đâu nữa.

Bà ta nói xong giơ tay véo lên đùi ông ta một cái. Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Thế nhưng năm xưa ta gặp được nàng cũng là nhờ đôi chân này mang ta tới. Đôi chân này tội tuy lớn thật, công cũng không nhỏ.

Mã phu nhân nói:

- Được rồi, để thiếp trói nó lại đã.

Nói xong bà ta lại lấy một sợi dây gân bò trói nốt hai chân Đoàn Chính Thuần. Bà ta lấy một chiếc kéo, chậm rãi cắt mấy lớp áo trên vai phải ông ta, để lộ làn da trắng trẻo. Đoàn Chính Thuần tuổi tuy không còn trẻ nhưng cả đời vinh hoa phú quí sống trong nhung lụa, lại thêm nội công thâm hậu, thịt trên vai vừa nhẵn nhụi vừa săn chắc. Mã phu nhân giơ tay vuốt ve đầu vai ông, hé chiếc miệng anh đào hôn nhè nhẹ lên má, từ từ lần xuống cổ, xuống vai, cổ họng rên lên ư ử thật thắm thiết không sao kể xiết. Đột nhiên Đoàn Chính Thuần kêu Oái lên một tiếng, thanh âm phá vỡ màn đêm tĩnh mịch. Mã phu nhân ngửng đầu lên, miệng đầy máu, đã cắn một miếng trên vai ông ta. Mã phu nhân nhả miếng thịt xuống đất, nũng nịu:

- Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, thiếp yêu chàng hết mình nên mới cắn chàng đó. Đoàn lang, chính miệng chàng nói ra, nếu chàng thay lòng sẽ cho thiếp cắn từng miếng, từng miếng thịt.

Đoàn Chính Thuần cười ha hả nói:

- Đúng đó, Tiểu Khang, ta đã nói ra lẽ nào lại không tính? Ta cũng đã có lúc nghĩ rằng sau này chết thế nào cho xứng đáng? ở trên giường ốm rồi chết ư? Thế thì tầm thường quá. Tại chiến trường bảo vệ đất nước mà chết ư? Cũng tốt đấy nhưng có điều anh dũng mà chẳng phong lưu, mỹ trung bất túc, không thích hợp với con người của Đoàn Chính Thuần lúc bình thời. Tiểu Khang, hôm nay nàng nghĩ ra được cách này quả là cao minh, Đoàn Chính Thuần chết vì chiếc miệng anh đào của đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ, dưới những chiếc răng xinh xắn như ngọc trai kia, quả đúng là hợp với tâm nguyện của ta. Nàng thử nghĩ xem, nếu Đoàn Chính Thuần này chẳng cùng nàng trải qua một đoạn ái tình khắc cốt tương tư, nếu là một người đàn ông khác, dẫu cho nàng đầy nhà châu báu nàng cũng đâu thèm cắn y lấy một miếng đâu? Tiểu Khang, nàng nghĩ có phải không nào?

Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc vốn đã sợ mất hết hồn vía, biết Đoàn lang mệnh trong khoảnh khắc, thấy Tiêu Phong vẫn đứng bên cạnh cửa sổ quan sát động tĩnh, tuyệt nhiên không ra tay cứu giúp, trong bụng chửi thầm ông không biết bao nhiêu mà kể. Tiêu Phong vẫn chưa biết rõ chân ý của Mã phu nhân ra sao, chẳng hiểu mụ ta quả có ý giết Đoàn Chính Thuần, hay chỉ dọa già dọa non, thêm một trò phong lưu mới rồi mới tha cho để từ rày ông ta không còn thay lòng đổi dạ. Nếu như chỉ là chốn phòng the hai người đùa cợt với nhau, mình lại lỗ mãng xông vào cứu, có phải mất đi cái cơ hội bằng vàng thám thính tin tức, nên đành nén lòng yên lặng xem biến chuyển. Mã phu nhân cười nói:

- Đúng thế, dẫu là thiên tử Đại Tống, hoàng đế Khất Đan có giết thiếp thì dễ chứ đừng hòng để cho thiếp phải cắn một cái. Đoàn lang, thiếp vốn dĩ định bụng cắn chàng từ từ cho tới chết, muốn cắn chàng muôn ngàn lần, nhưng lại ngại bộ thuộc chàng đến cứu. Thế thì thôi đành, thiếp cắm con dao nhỏ này vào nơi tim chàng, đâm vào nửa tấc để chàng không chết, nếu như có ai tới cứu, thiếp chỉ nhấn vào cán dao một cái, thế là chàng không còn phải đau đớn gì nữa.

Nói tới đây mụ ta lấy ra một thanh chủy thủ sáng choang, cắt y phục trên ngực Đoàn Chính Thuần , để mũi dao đúng ngay tâm khẩu, bàn tay thon nhè nhẹ ấn xuống, cắm con dao vào ngực, quả nhiên chỉ nhấn vào một chút rồi thôi. Lần này Đoàn Chính Thuần không hự lấy một tiếng, thấy nơi ngực máu chảy ra bèn nói:

- Tiểu Khang, mười ngón tay nàng bây giờ so với thời mười bảy tuổi còn trắng trẻo nhẵn nhụi hơn nhiều.

Khi Mã phu nhân cầm dao đâm vào ngực Đoàn Chính Thuần, mắt Tiêu Phong đăm đăm nhìn không chớp, nếu thấy dùng lực quá mạnh, nguy cho tính mạng Đoàn Chính Thuần thì sẽ lập tức tung ra một chưởng đánh dạt bà ta ra, đến khi thấy chỉ nhè nhẹ ấn vào nên không lo lắng nữa. Mã phu nhân nói:

- Năm thiếp mười bảy tuổi, ngày ngày giặt dũ nấu cơm, chân tay dĩ nhiên sần sùi. Mấy năm nay không phải làm việc nặng, da dẻ cũng mịn màng hơn. Đoàn lang, miếng thứ hai thiếp cắn vào đâu cho phải? Chàng bảo cắn chỗ nào thiếp sẽ cắn chỗ đó, lúc nào thiếp cũng bảo sao nghe vậy.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Tiểu Khang, nàng cắn chết ta rồi, hồn ta sẽ luôn luôn quấn quít bên nàng.

Mã phu nhân hỏi:

- Để làm gì?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Hễ vợ mà mưu sát chồng thì chồng chết đi hồn vất vưởng không tan, lúc nào cũng loanh quanh luẩn quẩn gần bên để phòng có người đàn ông nào khác đến vui vầy.

Câu đó Đoàn Chính Thuần vốn định dọa nàng ta một chuyến cho mụ khỏi quá ác độc, ngờ đâu Mã phu nhân nghe xong, mặt liền biến sắc, không hẹn mà quay lại nhìn phía sau lưng. Đoàn Chính Thuần thừa cơ nói:

- ồ, sau lưng nàng có ai thế kia?

Mã phu nhân hoảng hốt nói:

- Sau lưng thiếp nào có ai? Chỉ nói lăng nhăng!

Đoàn Chính Thuần nói:

- Ôi, đó là một người đàn ông, há miệng cười với nàng, y đang ôm cổ họng, dường như đau đớn lắm. Người đó là ai thế, quần áo rách rưới, không ngớt chảy nước mắt...

Mã phu nhân vội vàng quay lại, nào thấy ai, run run nói:

- Ngươi nói láo, ngươi... nói láo!

Đoàn Chính Thuần lúc đầu thuận miệng nói nhăng, nhưng thấy nàng ta kinh hoảng dị thường, trong bụng khởi nghi, thoáng một cái, lập tức nghĩ ra cái chết của Mã Đại Nguyên bên trong hẳn có điều gì khác lạ. Ông ta biết Mã Đại Nguyên chết vì môn Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ nên cố ý nói người đó cổ họng đau đớn lắm, chảy nước mắt, y phục tang thương, quả nhiên Mã phu nhân lập tức khiếp đảm. Đoàn Chính Thuần cũng đoán ra được vài ba phần, nói tiếp:

- A, kỳ quái nhỉ, sao người đó chớp mắt lại biến đâu mất rồi, y là ai thế?

Vẻ mặt Mã phu nhân hết sức kinh khủng nhưng chỉ giây lát đã trấn tĩnh như thường, nói:

- Đoàn lang, hôm nay đã đến nước này, chàng còn dọa thiếp để làm gì? Hay là chàng không rủa xả thiếp vài câu thì không yên? Hai đứa mình vui vầy xong rồi bây giờ thiếp sẽ tống tiễn chàng đi một cách thật là sảng khoái.

Nàng ta nói xong đi tới một bước, giơ tay định cầm cán dao chủy thủ đâm vào. Đoàn Chính Thuần thấy không còn cách nào kéo dài thêm được nữa, hai mắt trừng trừng nhìn vào sau lưng Mã phu nhân, kêu toáng lên:

- Mã Đại Nguyên, Mã Đại Nguyên, mau giết mụ vợ ngươi đi!

Mã phu nhân thấy khuôn mặt ông ta lộ vẻ sợ hãi lạ thường, lại gào lên Mã Đại Nguyên, toàn thân không khỏi run rẩy, quay đầu lại nhìn. Đoàn Chính Thuần hết sức dùng đầu húc một cái, trúng ngay cằm Mã phu nhân khiến bà ta ngã lăn ra đất, ngất đi. Cái húc đó Đoàn Chính Thuần hoàn toàn không phải là dùng nội lực, Mã phu nhân tuy hôn mê thật nhưng chỉ một chút đã tỉnh lại ngay, suýt soa đứng lên, vỗ vỗ cằm, cười nói:

- Đoàn lang, sao chàng lại nựng thiếp mạnh tay thế, đụng thiếp chỗ này đau ơi là đau. Chàng đặt điều dọa thiếp, thiếp không mắc hỡm chàng đâu!

Đoàn Chính Thuần húc đã dùng hết bao nhiêu nội lực tích tụ được từ nãy đến giờ, trong bụng thở dài, nghĩ thầm: Bỏ mạng thế này còn gì đâu để nói nữa. Ông chợt nghĩ ra hỏi lại:

- Tiểu Khang, bây giờ nàng giết ta chứ gì? Thế nhưng nếu người trong Cái Bang đến hỏi tội mưu sát thân phu thì ai là người giúp đỡ nàng đây?

Mã phu nhân cười khúc khích nói:

- Ai bảo là thiếp mưu sát thân phu? Chàng nào có phải là chồng thiếp đâu. Nếu như chàng thực sự là chồng thiếp, thiếp yêu thương chiều chuộng chàng còn chưa đủ, lẽ đâu lại ra tay hại chàng? Thiếp giết chàng rồi cao bay xa chạy, lẽ đâu lại ở đây, thần tử nước Đại Lý của chàng có đi tìm thì làm sao thiếp đối phó nổi?

Nàng ta thở dài sườn sượt nói tiếp:

- Đoàn lang, thiếp thật thương chàng, nhớ chàng không biết bao nhiêu cho kể chỉ mong được lúc nào cũng ôm chàng, hôn hít, nựng nịu chàng thôi. Thế nhưng bởi vì thiếp không có được chàng nên không ăn thì đạp đổ, đó là cái tính trời sinh của thiếp chứ biết làm sao hơn?

Đoàn Chính Thuần nói:

- ồ, thì ra là thế, thảo nào hôm trước nàng cố ý đánh lừa cô gái kia, muốn mượn tay Kiều Phong giết ta, chẳng qua là vậy.

Mã phu nhân nói:

- Đúng vậy, Kiều Phong thật là đồ vô dụng, lại không giết được chàng, để chàng chạy mất.

Tiêu Phong trong bụng không ngừng tự hỏi: A Châu giả làm Bạch Thế Kính, thuật hóa trang như thần, đến ta cũng còn nhìn không ra, Mã phu nhân và Bạch Thế Kính có thân thiết gì đâu, sao lại nhìn ra được nhỉ?.

Lại nghe Mã phu nhân nói tiếp:

- Đoàn lang, thiếp muốn cắn chàng thêm một miếng nữa.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười:

- Nàng cứ lại cắn ta đi, ta thật sung sướng biết là dường nào.

Tiêu Phong thấy không còn có thể diên trì thêm được nữa, đưa bàn tay ra, để ngay vào chỗ vách đất sau lưng Đoàn Chính Thuần, ám vận kình lực, bức tường vốn dĩ chẳng chắc chắn gì, quả đấm liền từ từ đi vào, thủng thành lỗ không nghe một tiếng, bàn tay đặt lên lưng Đoàn Chính Thuần. Ngay lúc đó, Mã phu nhân đã cắn được một cái trên vai Đoàn Chính Thuần, ông ta kêu rú lên, vùng vẫy, đột nhiên thấy hai tay đã tự do. Thì ra dây trói nơi cổ tay đã bị Tiêu Phong dùng ngón tay cấu đứt, đồng thời một luồng kình lực cực kỳ hồn hậu tràn vào mọi nơi kinh mạch. Đoàn Chính Thuần còn đang ngạc nhiên nhưng biết ngay bên ngoài có

cường viện, khí tùy ý chuyển, luống nội lực từ sau lưng liền dẫn ngay vào cánh tay, truyền tới ngón tay nghe suỵt một tiếng nhỏ, thần công Nhất Dương Chỉ đã tung ra. Mã phu nhân bị trúng chỉ ngay mạng sườn, chỉ rú

lên được một tiếng lập tức gục ngay xuống giường. Tiêu Phong thấy Đoàn Chính Thuần đã chế ngự được Mã phu nhân rồi, lập tức rút tay về. Đoàn Chính Thuần đang toan mở lời tạ ơn, bỗng thấy cửa mở tung ra, một người chạy vào. Chỉ nghe người kia nói:

- Tiểu Khang, nàng đối với y tình xưa nghĩa cũ vẫn còn, phải không nào? Sao phí mất bao nhiêu công phu đến giờ này vẫn chưa thanh toán xong xuôi?

Tiêu Phong từ bên ngoài nhìn vào thấy gã kia, đờ người ra, vừa kinh hoàng, vừa tức tối, chỉ trong chớp mắt bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều giải quyết được cả. Hôm đó tại khu rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Mã phu nhân lấy ra chiếc quạt mình thường dùng, vu cho ông lẻn vào nhà họ Mã ăn trộm thư bị rơi lại, cái quạt đó ở đâu ra? ắt phải có ai đó ăn trộm của mình, người đó phải là kẻ thật là thân cận, thế nhưng kẻ đó là ai? Cái bí mật mình là người Khất Đan, đấu kín đã bao nhiêu năm qua, sao lại đột nhiên bị tiết lộ? A Châu cải trang thành Bạch Thế Kính, vốn dĩ không sai một mảy, Mã phu nhân làm sao lại nhìn ra được? Thì ra, kẻ vừa vào phòng chính là Chấp Pháp trưởng lão Bạch Thế Kính của Cái Bang. Mã phu nhân kinh hãi ấp úng:

- Y... y... võ công chưa mất, điểm... điểm huyệt ta rồi.

Bạch Thế Kính nhảy vọt tới, chộp hay tay Đoàn Chính Thuần, lách cách mấy tiếng đã vặn sái cổ tay ông ta. Đoàn Chính Thuần không còn sức nào kháng cự, nội lực Tiêu Phong truyền vào người chỉ giữ được một tí, vừa rụt tay về lại trở lại là một phế nhân. Tiêu Phong trông thấy Bạch Thế Kính, trong nhất thời bao nhiêu ý nghĩ dâng trào không còn nghĩ gì tới chuyện ra tay giúp đỡ Đoàn Chính Thuần, lại cũng không ngờ tới việc Bạch Thế Kính ra tay là hạ độc thủ ngay, đến lúc biết được thì hai cổ tay Đoàn Chính Thuần đã gãy lìa. Ông nghĩ bụng: Gã này phong lưu hiếu sắc, hôm nay để cho y nếm chút đau khổ cũng tốt, vì nghĩ đến A Châu nên ta sẽ cứu mạng y sau cũng được. Bạch Thế Kính nói:

- Họ Đoàn kia, ngươi kể cũng khá đấy, uống phải Thập Hương Mê Hồn Tán mà vẫn còn được mấy phần công phu.

Đoàn Chính Thuần không biết người ở bên ngoài giúp mình là ai, nhưng biết phải là một nhân vật có bản lãnh thật ghê gớm, tuy trước mắt có thêm một cường địch nhưng có đại viện sau lưng, trong bụng cũng không lo lắng lắm. Ông nghe giọng điệu của Bạch Thế Kính quả là không biết mình có người ám trợ bèn hỏi lại:

- Tôn giá có phải là trưởng lão trong Cái Bang chăng? Tại hạ và tôn giá không hề quen biết, sao lại hạ độc thủ là sao?

Bạch Thế Kính bước tới cạnh Mã phu nhân, đưa tay xoa bóp mấy cái dưới mạng sườn nhưng công phu điểm huyệt của họ Đoàn cực kỳ thần diệu, Bạch Thế Kính tuy võ công không phải là kém nhưng không cách nào giải huyệt được, chau mày hỏi:

- Nàng thấy sao?

Giọng điệu cực kỳ lo lắng. Mã phu nhân đáp:

- Thiếp chỉ thấy tay chân ê ẩm, không cử động được. Thế Kính, chàng ra tay thanh toán y đi, chúng mình chạy cho rồi. Trong căn nhà này... trong căn nhà này, thiếp không muốn ở đây nữa.

Đoàn Chính Thuần đột nhiên cất tiếng cười vang nói:

- Tiểu Khang, nàng... nàng... sao không tiến bộ chút nào cả? Ha ha! Ha ha!

Mã phu nhân mỉm cười nói:

- Đoàn lang, chàng cao hứng nhỉ, chết đến nơi rồi mà vẫn còn cười một cách vui sướng quá.

Bạch Thế Kính bực tức nói:

- Sao ngươi vẫn còn gọi y Đoàn lang là sao? Đồ lăng loàn!

Y vung tay tát trái Mã phu nhân một cái thật mạnh. Khuôn mặt trắng trẻo của mụ ta lập tức sưng vù, đau đến chảy nước mắt. Đoàn Chính Thuần quát lên:

- Ngừng tay, sao ngươi lại đánh nàng?

Bạch Thế Kính cười khẩy:

- Thứ ngươi làm gì được ta? Thị thuộc về ta, ta thích đánh là đánh, muốn chửi là chửi.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Một mỹ nhân như hoa tựa ngọc như thế vậy mà ngươi nỡ đánh hay sao? Dẫu có thuộc về ngươi chăng nữa ngươi cũng phải ngọt nhạt cho nàng vui lòng, để nàng sung sướng chứ!

Mã phu nhân lườm Bạch Thế Kính nói:

- Người ta đối với ta như thế, còn ngươi đãi ta như thế nào? Ai lại nóng thế.

Dáng điệu ngữ âm vẫn đầy vẻ lẳng lơ. Bạch Thế Kính lại chửi:

- Đồ đĩ thõa, để xem ta có trị được ngươi không? Họ Đoàn kia, ta đếch có thèm nghe lời ngươi. Ngươi giỏi tài nịnh gái, sao còn để đến nông nỗi này? Thôi, ngày này sang năm là ngày giỗ đầu của ngươi đấy nhé.

Nói xong hung hăng tiến tới, giơ tay định ấn cán dao chủy thủ vào ngực ông ta. Bàn tay Tiêu Phong đã lòn qua lỗ hổng trên tường thò vào, chỉ cần Bạch Thế Kính tiến thêm nửa bước là chưởng phong phát ra ngay. Ngay lúc đó, đột nhiên cánh cửa bị một cơn gió giật thổi tới, nghe vù một tiếng, hai ngọn nến lập tức bị kình phong thổi tắt ngúm, trong phòng lập tức tối đen. Mã phu nhân kinh hãi kêu lên một tiếng, Bạch Thế Kính biết là có kẻ địch tới nơi, lúc này không còn thì giờ lại giết Đoàn Chính Thuần mà phải nghinh địch trước đã, bèn quát lên:

- Kẻ nào đó?

Y giơ song chưởng lên bảo vệ trước ngực rồi quay người đi ra. Kình phong đánh tắt hai ngọn nến rõ ràng là do một người võ công cực kỳ cao cường phát ra, nhưng sau khi nến tắt rồi vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần, Mã phu nhân và Tiêu Phong bốn người ngưng thần, lờ mờ trong nhà thấy đã thêm một người nữa. Mã phu nhân là người đầu tiên không giữ nổi kêu rú lên:

- Có người kìa!

Chỉ thấy người đó chắn ngay cửa, hay tay bỏ xuôi, mặt mũi ra sao không nhìn rõ, chỉ đứng sừng sững không động đậy gì cả. Bạch Thế Kính quát hỏi:

- Ai đó?

Y tiến lên một bước, người kia vẫn lặng thinh không cử động. Bạch Thế Kính lại quát:

- Nếu không trả lời, tại hạ sẽ không nể nang gì nữa.

Từ khi thấy người lạ đánh tắt hai ngọn nến, Bạch Thế Kính biết y võ công cực kỳ cao cường, không dám hấp tấp ra tay. Người kia vẫn bất động, trong đêm tối mò y trông tựa như ma quỉ. Mã phu nhân lại rít lên:

- Chàng đốt đèn lên nào! Thiếp sợ lắm!

Bạch Thế Kính quát lại:

- Con đĩ ngựa kia, đừng có lắm mồm.

Y nói thế là vì chỉ quay sang thắp đèn, lập tức đưa lưng cho địch nhân, thành thử vẫn hai tay giữ thế trên ngực chờ kẻ địch ra tay trước. Ngờ đâu người kia trước sau vẫn đứng yên, hai người cứ thế nhìn nhau một lúc, khoảng thời gian uống một chén trà. Tiêu Phong dĩ nhiên không lên tiếng rồi, cả Đoàn Chính Thuần cũng lặng thinh. Bốn bề tĩnh như tờ, đến nỗi bông tuyết rơi chạm đất cũng còn nghe thấy. Bạch Thế Kính sau cùng nhịn không nổi kêu lên:

- Các hạ nếu không trả lời, ta đành phải đắc tội.

Y ngừng lại một chút, thấy đối phương vẫn không cục cựa, thò tay vào túi lấy ra một chiếc dùi thép, tung mình nhảy tới, trong bóng đêm chỉ thấy một ánh sáng lấp loáng, chiếc dùi đã đâm vào ngực người kia. Người đó nghiêng qua tránh được, Bạch Thế Kính thấy có một luồng gió ép tới, mấy ngón tay y đã chộp vào cổ họng Bạch Thế Kính. Chiêu đó ra tay thật nhanh, cương chùy của y chưa thu về kịp, mấy ngón tay của địch đã chạm vào yết hầu rồi khiến y hồn bất phụ thể, vội nhảy vọt về sau tránh được, run run hỏi:

- Ngươi... ngươi...

Y sợ hãi thực sự không phải vì võ công đối phương cao cường mà là vì chiêu số sử dụng chính là Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ. Công phu đó là tuyệt kỹ gia truyền của Mã Đại Nguyên, ngoại trừ con cháu nhà họ Mã không ai biết, chỉ vì Bạch Thế Kính giao thiệp với Mã Đại Nguyên đã lâu nên biết rõ võ công gia số của y. Lưng Bạch Thế Kính toát mồ hôi lạnh, chăm chăm nhìn kẻ kia, chỉ thấy y thân hình thật cao, chẳng khác gì Mã Đại Nguyên, nhưng vì bóng tối nên không rõ mặt. Người kia vẫn lạnh lùng như ma như quỉ không nói không rằng, Bạch Thế Kính thấy cổ mình hơi ngâm ngẩm đau, chắc hẳn bị móng tay y quệt phải. Y cố gắng định thần hỏi:

- Tôn giá có phải họ Mã không?

Người kia vẫn như bị điếc không nghe gì. Bạch Thế Kính quát:

- Con đĩ ngựa, mau thắp đèn cầy lên.

Mã phu nhân nói:

- Thiếp không cử động được, chàng lại đốt đèn đi.

Thế nhưng Bạch Thế Kính đâu có dám muốn làm gì thì làm để bị người ta thừa cơ tấn công. Y lại nghĩ Người này võ công rõ ràng cao hơn ta, nếu y muốn cứu Đoàn Chính Thuần đâu cần phải đợi ai tới giúp, sao chỉ tấn công một chiêu rồi thôi không truy kích nữa?. Lại một hồi lâu tất cả đều yên lặng, Bạch Thế Kính đột nhiên nhìn ra một điểm quái lạ của kẻ kia, trong phòng tuy ai nấy không nói năng cử động nhưng tiếng hô hấp vẫn còn, Mã phu nhân cũng thở, Đoàn Chính Thuần cũng thở, chính mình cũng thở nhưng người đối diện lại không thở chút nào. Bạch Thế Kính nín hơi, nghiêng ngó nghe ngóng, với nội lực và công phu tu tập của y, có thể nghe được tiếng hô hấp của từng người trong phòng nhưng người trước mặt quả không thở gì cả. Một lúc thật lâu sau, người kia vẫn không thở, nếu là người sống thì làm sao có thể không hô hấp? Bạch Thế Kính có thể nghe thấy cả tiếng tim mình đập, bịch, bịch, bịch... mỗi lúc một rõ, lồng ngực rung động cực mạnh, trái tim tưởng như muốn nhảy ra ngoài, càng không nhẫn nại nổi, quát lên một tiếng, xông vào, chiếc dùi liên tiếp vung lên đâm vào mặt người kia. Người kia khoát tay trái gạt Bạch Thế Kính ra ngoài, tay phải chộp thẳng vào yết hầu y. Bạch Thế Kính đã đề phòng đối phương sử dụng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, liền hụp đầu xuống, lòn dưới nách mà chui ra. Người kia không đuổi theo, vẫn đứng trơ trơ ở ngạch cửa. Bạch Thế Kính liền giơ dùi lên đâm vào đùi bên trái, y liền vọt lên tránh được. Mã phu nhân thấy người kia thân hình cứng đơ, lúc nhảy lên đầu gối không co lại gì cả, buột miệng rú lên:

- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!

Chỉ nghe bình một tiếng, gã kia nặng nề rơi bịch xuống. Bạch Thế Kính trong bụng cũng hoảng vía: Người này nếu như là cao thủ võ học, lẽ nào nhảy lên rơi xuống lại vụng về đến thế? Không lẽ trên đời có quỉ nhập tràng thực hay sao?. Bạch Thế Kính hơi chần chừ nhưng lại xông lên, vụt vụt vụt, chiếc dùi đâm luôn ba nhát vào hạ bàn. Người kia quả nhiên đầu gối không gập lại được, cứ cứng ngắc mà tưng lên tưng xuống tránh né, xem ra đến bước một bước cũng không được. Bạch Thế Kính đâm bên trái, y nhảy qua bên phải đâm bên phải, y lại tránh qua bên trái. Bạch Thế Kính phát giác được nhược điểm của đối phương rồi, trong lòng bớt sợ nhưng càng lâu càng thấy đây không phải là người còn sống. Lại đâm thêm mấy nhát nữa, đối phương thân pháp tuy vụng về thật nhưng chùy pháp của mình dù có tinh diệu bao nhiêu vẫn không trúng được y. Bất ngờ y thấy sau ót mình lạnh ngắt, một bàn tay băng giá sờ vào cổ. Bạch Thế Kính hết sức kinh hãi, vung chùy hết sức đâm ngược trở lại nghe soẹt một tiếng nhỏ đã đâm vào khoảng trống không, bàn tay to lớn của kẻ kia đã chộp được gáy y rồi. Toàn thân Bạch Thế Kính liền mềm nhũn không còn cử động được nữa, chỉ còn nước thở hồng hộc. Mã phu nhân kêu lớn:

- Thế Kính, Thế Kính, chàng sao rồi?

Bạch Thế Kính nào còn đâu hơi sức mà trả lời, chỉ thấy nội lực toàn thân theo bàn tay to lớn của người kia đang nắm nơi cổ mà tuôn ra. Lại một bàn tay to lớn lạnh ngắt sờ vào mặt y, bàn tay đó quả không phải tay người, không có một chút hơi ấm nào. Bạch Thế Kính nhịn không nổi kêu lên:

- Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!

Tiếng kêu của y thật là thê thảm đáng sợ. Bàn tay từ trên trán vuốt xuôi xuống, mò đến đôi mắt, hai ngón tay sờ sờ vào mí mắt. Bạch Thế Kính sợ đến tưởng chừng có thể ngất đi, đối phương chỉ cần nhấn mạnh một cái thì đôi mắt y đã bị móc ra ngoài. Thế nhưng bàn tay lạnh ngắt đó lại sờ xuống dưới mò đúng mũi y, rồi xuống dần đến miệng y, từng chút từng chút lần xuống dưới, sau cùng ngừng lại nơi yết hầu. Hai bàn tay lạnh ngắt kia nắm vào cổ họng y, từ từ xiết lại. Bạch Thế Kính kinh hãi không biết bao nhiêu mà kể, kêu lên:

- Đại Nguyên huynh đệ, tha mạng cho ta! Tha mạng cho ta!

Mã phu nhân rít lên:

- Ngươi... ngươi nói gì thế?

Bạch Thế Kính lại kêu:

- Đại Nguyên huynh đệ, tất cả đều do chủ ý của con đĩ ngựa này, nó bắt ta phải làm, chứ ta... chứ ta có liên can gì đâu.

Mã phu nhân giận dữ nói:

- Chủ ý của ta thì đã sao nào? Mã Đại Nguyên, khi còn sống ngươi là đồ bị thịt, chết rồi còn tác yêu tác quái gì? Bà chẳng sợ gì ngươi đâu.

Bạch Thế Kính thấy khi mình buông lời đổ tội cho người đàn bà thì cổ họng có nới ra một tí nhưng vừa ngậm miệng thì bàn tay lạnh như băng lại từ từ bóp vào, trong bụng hoảng loạn, nghe thấy Mã phu nhân gọi y là Mã Đại Nguyên thì nghĩ ngay con quái vật này là quỉ nhập tràng hiện về liền kêu lớn:

- Đại Nguyên huynh đệ tha mạng cho ta! Vợ ngươi coi trộm di lệnh của Uông bang chủ, mấy bận khuyên ngươi tiết lộ bí mật thân thế của Kiều Phong, ngươi nhất định không chịu... mụ ta... mụ ta mới có ý hại ngươi...

*

* *

Tiêu Phong choáng váng, ông tuy không tin thế gian này có quỉ thần, đoán rằng người kia hẳn là một võ học danh gia, cố ý trang thần lộng quỉ để cho Mã phu nhân và Bạch Thế Kính hoảng hốt, thừa cơ bức vấn hai người khai ra. Quả nhiên Bạch Thế Kính bụng dạ rối ren đành thú nhận, cứ như lời y thì Mã Đại Nguyên bị hai người giết hại mà Mã phu nhân chính là kẻ chủ mưu. Mã phu nhân sở dĩ mưu sát thân phu chính là vì muốn tiết lộ thân thế mình mà Mã Đại Nguyên không chịu. Tại sao bà ta lại hận mình đến thế? Vì cớ gì không lật đổ mình không xong? Nếu như mụ muốn trượng phu lên làm bang chủ thì sao lại giết ông chồng?. Mã phu nhân rít lên:

- Mã Đại Nguyên, ngươi cứ giết ta đi, ta chán cái thứ vô dụng như ngươi lắm rồi, đồ chết nhát, chẳng làm được chuyện gì cho ra hồn!

Chỉ nghe thấy tiếng lách cách nho nhỏ, chỗ sụn nơi cổ họng Bạch Thế Kính đã bị bóp một miếng. Bạch Thế Kính hết sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được khỏi tay của người kia, tiếp theo lại tiếng lách cách nữa, hầu quản đã nát ngướu. Y gào lên mấy tiếng nhưng miệng không hút khí vào phổi được, hai tay quơ múa rồi tắt thở. Người kia giết chết Bạch Thế Kính rồi, xoay người ra khỏi cửa lập tức không còn thấy hình bóng đâu. Tiêu Phong chợt động tâm nghĩ thầm: Người này là ai nhỉ? Mình phải đuổi theo tìm hiểu cho minh bạch. Ông lập tức phóng mình ra cửa trước, dưới bóng tuyết trắng chiếu sáng, thấy một bóng người mờ mờ đi về hướng đông bắc nếu không phải nhãn lực cực tốt thì thực không thể nào thấy được. Tiêu Phong nghĩ thầm: Người này thân pháp nhanh thật. Ông cúi xuống vỗ lên vai A Tử đang nằm dưới chân, nội lực truyền vào, giải huyệt cho cô ta, nghĩ thầm: Mã phu nhân không biết võ công, tiểu cô nương này cứu cha cô ta cũng thừa sức. Ông không kịp giải huyệt cho bọn Nguyễn Tinh Trúc, vội vàng rảo bước, đuổi theo người kia. Ông ra sức chạy thật nhanh đến khi chỉ còn cách y chừng hơn chục trượng mới nhìn rõ. Người ấy quả đúng là một võ học cao thủ, khi đó không còn cứng đơ chân mà nhảy, bước đi nhanh nhẹn nhẹ nhàng chẳng khác gì lướt trên mặt tuyết. Khinh công của Tiêu Phong vốn từ chùa Thiếu Lâm, lại được Uông bang chủ của Cái Bang dạy đỗ thuần thuộc dương cương, khi ra sức chạy rồi, mỗi lần nhảy xa cả trượng, thân hình vọt lên không trung, lại tung mình tới, tư thức tuy không tiêu sái tuấn nhã nhưng đường dài thật là hiệu quả. Đuổi theo một hồi chỉ còn cách người kia chừng một trượng. Ông đuổi theo chừng tàn một nửa nén nhang, cước bộ người đằng trước đột nhiên tăng vọt lên, chẳng khác gì cánh buồm no gió, xuôi dòng lướt đi, chốc lát đã bỏ cách Tiêu Phong một quãng xa. Tiêu Phong trong bụng kinh hãi thầm: Người này quả là tài ba thật, trong võ lâm phải cao thủ số một số hai, nếu không thế thì làm sao chỉ cất tay là giết được Bạch Thế

Kính. Ông bẩm tính trời sinh là một kỳ tài võ học, thụ nghiệp ân sư và Uông bang chủ dĩ nhiên võ học cao lắm rồi, nhưng Tiêu Phong lại thanh xuất ư lam, hơn xa cả hai sư phụ, dù chiêu nào thật bình thường vào tay ông sử dụng, cũng phát sinh uy lực thật ghê gớm. Những người biết ông thấy vậy đều bảo là do thiên phú mà có, không thể do truyền thụ hay khổ luyện mà được. Chính Tiêu Phong cũng không hiểu do đâu, chỉ thấy chiêu nào học là biết ngay, biết là tinh tường, đến khi lâm địch là biến hóa một cách xảo diệu. Thế nhưng ngoài võ học ra, các ngành khác như học hành, nghệ thuật ông đều bình bình không có gì đặc sắc hơn người. Ông bình sinh ít gặp địch thủ, nhiều cường địch nội lực so với ông thâm hậu hơn, chiêu số so với ông biến hóa hơn, nhưng khi đụng nhau, mỗi khi đến khi khẩn yếu quan đầu, chỉ một chiêu nửa thức thất bại dưới tay Tiêu Phong. Thế nhưng tuy thua mà vẫn tâm phục khẩu phục, biết mình không phải là địch thủ nên trước nay chưa có ai đi kiếm ông để rửa hờn. Đến bây giờ Tiêu Phong gặp một địch thủ khinh công cao cường như thế, hùng tâm trỗi dậy, gia tăng cước bộ, chạy vọt lên. Hai người một trước một sau chạy vùn vụt về hướng đông bắc nhưng Tiêu Phong thủy chung vẫn không sao đuổi kịp mà người kia cũng không thể nào chạy thoát. Một giờ, rồi hai giờ sau, hai người đã chạy trên một trăm dặm nhưng khoảng cách hai bên vẫn như cũ. Lại thêm hơn nửa giờ nữa, trời bắt đầu tang tảng sáng, cơn mưa tuyết cũng đã dứt, Tiêu Phong nhìn thấy xa xa nơi triền núi có một tòa thị trấn, nhà cửa san sát như bát úp, lại nghe gà gáy te te hết chỗ nọ đến chỗ kia, cơn thèm rượu nổi lên bèn kêu:

- Vị huynh đài ở trước mặt ơi, ta mời ngươi uống hai chục bát rượu, rồi lại chạy thi, được chăng?

Người kia không trả lời, lại càng chạy nhanh hơn. Tiêu Phong cười nói:

- Ngươi ra tay hạ thủ tên gian đồ Bạch Thế Kính, quả thực anh hùng làm sao, Tiêu Phong xin chịu thua khinh công không bằng được. Hai người mình đi mua rượu uống chứ không tỉ thí nữa, được không?

Ông một mặt nói, chân vẫn chạy không chậm lại chút nào. Người kia đột nhiên ngừng lại nói:

- Kiều Phong uy chấn giang hồ, quả nhiên danh bất hư truyền. Ngươi mồm nói mà vẫn vận dụng được chân khí như thường, thực là anh hùng, thực là hào kiệt.

Tiêu Phong nghe giọng ông ta mơ hồ không rõ, nhưng nghe có vẻ già nua, tuổi tác xem ra lớn hơn mình nhiều bèn nói:

- Tiền bối quá khen. Vãn bối vói cao, định kết giao bằng hữu với tiền bối, không biết có chê bỏ không?

Người kia thở dài:

- Già rồi, không còn được việc gì nữa. Ngươi đừng đuổi theo nữa, chỉ thêm một giờ là ta thua ngươi rồi.

Nói xong chậm rãi đi thẳng. Tiêu Phong định vọt lên nói chuyện thêm nhưng chỉ mới một bước nghĩ bụng Y bảo ta đừng đuổi theo nữa. Ông lại nghĩ đến mình bị quần hào Trung Nguyên coi chẳng vào đâu, e rằng người này cũng khinh thị thù ghét người Khất Đan, lập tức dừng bước, mắt nhìn theo bóng y dần dần mất hút vào sau khu rừng cây, trong bụng cảm thán: Người này khinh công thật cao, nội lực lại dài, tiếc thay không được thấy mặt y. Ông lại nghĩ: Tiếng nói của y mơ hồ, hiển nhiên cố ý trầm giọng xuống để cho ta khỏi nhận được khẩu âm. Đến cả tiếng nói y còn không muốn mình nhận ra, huống chi là nhìn mặt?. Ông bần thần một lúc rồi mới đi vào thị trấn, đến một tửu điếm nhỏ mua rượu ngồi uống, cứ uống một hai bát lại vỗ bàn chắc lưỡi:

- Hảo nam nhi! Hảo hán tử, ôi, tiếc thật, tiếc thật!

Ông ta nói hảo nam nhi, hảo hán tử là khen ngợi người kia võ công cao cường, giết Bạch Thế Kính mười phần ổn thỏa, còn luôn mồm tiếc thật là than thở mình không được cùng y kết giao. Ông xưa nay yêu bạn bè như tính mạng, lần này bị đuổi ra khỏi Cái Bang, kết thâm cừu với quần hào Trung Nguyên, bao nhiêu bạn bè trước đây nay mất sạch, trong bụng mười phần u uất, buồn phiền, hôm nay vô tình gặp một người võ công không kém gì mình, nhưng vô duyên không làm quen được, đành uống rượu tiêu sầu. Thế nhưng bao nhiêu nghi vấn tích kết trong lòng nay đã giải quyết, trong lòng cũng có phần nhẹ nhõm. Uống đến hơn hai chục bát cũng đã ngà ngà liền đi ra, nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần không biết ra sao? Bọn Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên bị ta điểm huyệt, mình phải quay lại giải cứu mới được. Nghĩ vậy ông liền rảo bước chạy trở về. Khi trở về ông không thi triển toàn lực nên chậm hơn nhiều, đến nhà họ Mã thì đã quá ngọ. Trên bãi tuyết bên ngoài nhà không còn một ai, bọn Nguyễn Tinh Trúc đều không còn nữa, chắc là A Tử đã bồng họ vào trong nhà. Ông đẩy cửa bước vào, thấy xác Bạch Thế Kính còn nằm bên cạnh cửa, Đoàn Chính Thuần không thấy đâu, bên cạnh giường một người đàn bà nằm phục đó, người đầy những máu, chính là Mã phu nhân. Bà ta nghe thấy tiếng chân người vội quay đầu ra, thều thào nói:

- Thôi làm ơn làm phước, mau lên, ngươi mau giết ta cho rồi!

Tiêu Phong thấy bà ta mặt xám xịt, chỉ qua một đêm mà dường như già đi đến hai ba chục tuổi, trông thật xấu xí bèn hỏi:

- Đoàn Chính Thuần đâu?

Mã phu nhân đáp:

- Cứu y đi rồi, con... con ác nhân đó! A!

Đột nhiên mụ ta kêu thét lên, thanh âm sắc nhọn như đâm vào tai. Tiêu Phong không ngờ đến, giật mình nhảy nhổm lên, lùi lại một bước hỏi:

- Bà sao thế?

Mã phu nhân hổn hển:

- Ngươi... ngươi là Kiều ...bang chủ?

Tiêu Phong gượng cười:

- Ta không còn là bang chủ Cái Bang từ lâu rồi. Không lẽ bà không biết hay sao?

Mã phu nhân nói:

- Đúng rồi, ông là Kiều bang chủ. Kiều bang chủ, xin ông làm ơn làm phước, mau giết ta đi.

Tiêu Phong chau mày nói:

- Ta không định giết bà. Bà mưu sát thân phu, trong Cái Bang sẽ có người đến lo liệu chuyện này.

Mã phu nhân van nài:

- Ta... ta chịu không nổi nữa rồi, con nhãi khốn kiếp đó thủ đoạn độc ác quá, ta... ta ra ma rồi cũng không tha cho nó đâu. Ngươi... ngươi xem... người ta thì biết.

Bà ta nằm phục ở nơi khuất nẻo tối tăm, Tiêu Phong nhìn không rõ, nghe nói thế bèn đi ra mở cửa sổ để cho ánh nắng chiếu vào trong nhà, vừa liếc mắt nhìn xuống, không khỏi rùng mình. Chỉ thấy Mã phu nhân, đầu vai, cánh tay, ngực, đùi chỗ nào cũng bị ai đó dùng dao rạch, trên vết thương đầy kiến bu vào. Tiêu Phong nhìn những chỗ bị thương biết ngay tứ chi và những khớp xương trên người, các đường gân đều bị cắt đứt cả rồi, không còn cử động gì được, không phải như điểm huyệt mà bảo là giải huyệt xong lại cử động bình thường, còn cân mạch đứt hết rồi thì không có cách nào chữa từ nay thành một người tàn phế. Thế nhưng tại sao trên vết thương lại đầy những kiến thế kia? Mã phu nhân thều thào nói:

- Con nhãi khốn kiếp cắt đứt gân cốt tay chân ta rồi lại lấy dao rạch đầy người, đem... đem nước đường... nước đường bôi lên, bảo là để dụ cho kiến bu khắp người ta, cho ta đau đớn, khốn khổ vài ngày, để ta sống không được, chết... không xong.

Tiêu Phong biết rằng chỉ cần nhìn thấy vết thương của bà ta một lần nữa là sẽ buồn mửa ngay. Tuy ông không phải là người yếu lòng nhưng sát nhân phóng hỏa, làm gì phải làm cho xong, còn dùng phương cách ác độc hành hạ kẻ địch thì không làm được, thở dài một tiếng, quay xuống bếp xách lên một thùng nước to, dội lên người bà ta để cho khỏi bị cái khổ bầy kiến vây quanh cắn xé. Mã phu nhân nói:

- Cảm ơn ngươi, ngươi quả là có lòng tốt. Ta không sống được nữa rồi, ngươi làm ơn làm phúc, một đao giết ta cho xong.

Tiêu Phong hỏi:

- Thế ai... ai rạch trên người bà đó?

Mã phu nhân nghiến răng hậm hực nói:

- Là con nhãi khốn kiếp chứ còn ai, nó tuổi còn nhỏ, chỉ chừng mười lăm mười sáu, mà sao bụng dạ tàn ác đến thế...

Tiêu Phong thất kinh kêu lên:

- Là A Tử ư?

Mã phu nhân đáp:

- Chứ còn ai, ta nghe con giặc cái kia gọi nó, bảo nó giết ta đi cho xong. Thế nhưng cái con nhãi khốn kiếp A Tử lại muốn hành hạ ta chầm chậm để báo thù cho phụ thân, để cho mẫu thân hả giận, bắt ta chịu muôn vàn khổ sở...

Tiêu Phong nghĩ thầm: Ta chỉ sợ Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nổi cơn ghen, ra tay liền giết Mã phu nhân ngay, bà ta chết rồi ta không còn ai để hỏi. Ngờ đâu con tiểu a đầu A Tử lại tàn nhẫn độc ác đến thế. Ông chau mày nói:

- Đoàn Chính Thuần trước kia có tình ý với bà, tuy bà muốn giết ông ta nhưng không lẽ thấy con gái tàn ác như thế lại không ngăn cản hay sao?

Mã phu nhân đáp:

- Khi đó y còn hôn mê bất tỉnh, nhân sự bất tri, cũng bởi... cũng bởi Thập Hương Mê Hồn Tán mà ra.

Tiêu Phong gật đầu đáp:

- Thì ra là thế. Ông ta là một hảo hán trái phải trắng đen minh bạch, lẽ nào dung túng cho con gái làm chuyện ngang ngược như thế bao giờ? Ôi, thế còn mấy người đàn bà kia thì sao?

Mã phu nhân rên rỉ:

- Đừng hỏi nữa, đừng hỏi nữa, mau giết ta đi.

Tiêu Phong hừ một tiếng nói:

- Nếu bà không trả lời ta cho đàng hoàng, ta sẽ lại lấy mật bôi lên vết thương, phủi tay bỏ đi, để bà sống chết sao mặc kệ.

Mã phu nhân đáp:

- Bọn đàn ông các ngươi... đứa nào cũng lang tâm ác độc...

Tiêu Phong nói:

- Thế thủ đoạn của bà mưu hại Mã đại ca không ác độc hay sao?

Mã phu nhân lạ lùng:

- Ngươi... ngươi làm sao mà biết? Ai nói cho ngươi nghe vậy?

Tiêu Phong lạnh lùng đáp:

- Ta hỏi bà chứ không phải bà hỏi ta. Bà cầu xin ta chứ không phải ta cầu xin bà. Nói mau!

Mã phu nhân nói:

- Thôi được, để ta nói hết cho ngươi nghe. Con tiểu tiện nhân A Tử trừng trị ta, mẹ nó luôn mồm quát mắng bảo thôi nhưng con nhãi khốn kiếp đó chỉ cười hì hì không nghe. Mẹ nó bị người ta điểm trúng huyệt đạo, có muốn cử động cũng không được. Chẳng bao lâu, có năm sáu thủ hạ của Đoàn Chính Thuần tới nơi, A Tử mới ôm cha nó, mẹ nó và mẹ con Tần Hồng Miên từng người một ra khỏi nhà, nhưng không cho ai vào để họ khỏi nhìn thấy ta. Thủ hạ của Đoàn Chính Thuần có mang theo ngựa cưỡi, nên đón bọn chúng đi mất.

Tiêu Phong gật đầu, nghĩ bụng: Đoàn Chính Thuần do bộ thuộc đưa đi rồi, Nguyễn Tinh Trúc ba người tuy huyệt đạo bị đóng nhưng chỉ sau vài giờ sẽ tự động giải khai, những người đó mình không cần để ý tới làm gì. Mã phu nhân nói:

- Ta nói hết cho ngươi nghe rồi, ngươi ... ngươi mau mau giết ta đi.

Tiêu Phong nói:

- Bà nói hết rồi, có thật thế không? Muốn chết ư? Cũng chẳng dễ! Muốn sống ư? Cũng khó lắm. Bà vì cớ gì mà lại giết Mã đại ca?

Mã phu nhân mắt lộ hung quang, hậm hực nói:

- Ngươi không hỏi không được hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Đúng thế, không hỏi không được. Ta là một người đàn ông lòng dạ cứng cỏi, không có chuyện thương hại bà đâu.

Mã phu nhân hứ một tiếng nói:

- Ngươi đương nhiên là lòng dạ cứng cỏi rồi, chẳng nói tưởng ta không biết hay sao? Hôm nay ta thành nông nỗi này, cũng đều ở ngươi mà ra. Ngươi ngạo mạn tự đại, là đồ chó má không coi ai vào đâu. Thứ Khất Đan Hồ Lỗ không bằng con chó con heo, ngươi chết xuống mười tám tầng địa ngục, ngày ngày ác quỉ hành hạ ngươi. Dùng mật bôi vào vết thương ta thì có gì mà không dám? Ngươi là đồ chó đẻ, là quân đê tiện... Mụ ta càng chửi càng độc địa, hiển nhiên trong lòng tích súc oán hận đã lâu, không phát tiết không xong, càng chửi càng tuôn ra những lời bẩn thỉu của quân đầu đường xó chợ, có lớp có lang không sao tưởng nổi. Tiêu Phong từ nhỏ đã lăn lộn với bọn Cái Bang, những lời thô tục nghe đã quen tai, mỗi khi uống rượu vào cũng thường cùng bọn ăn mày văng tục văng rác, nhưng bây giờ quả thực không ngờ Mã phu nhân vốn dĩ hết sức tư văn, thanh nhã, lại biết chửi một cách độc địa tàn ác đến thế, toàn những lời trước nay ông chưa từng nghe thấy bao giờ. Ông chẳng nói chẳng rằng, đợi cho bà ta chửi cho sướng miệng, mặt vốn tái mét, chửi bới một hồi càng lúc càng hăng thành đỏ gay, ánh mắt đầy vẻ hả hê. Bà ta chửi thêm một chập nữa, tiếng nói nhỏ dần, sau cùng nói:

- Thằng cẩu tặc Kiều Phong kia, ngươi hại ta đến nước này, để sau này xem quả báo thế nào.

Tiêu Phong bình tĩnh nói:

- Chửi xong chưa?

Mã phu nhân đáp:

- Tạm thời không chửi nữa, để ta nghỉ một chút rồi chửi tiếp. Ngươi là thứ chó đẻ không cha không mẹ, bà còn tí hơi nào là bà còn chửi, chửi không bao giờ thôi.

Tiêu Phong nói:

- Được rồi, bà cứ chửi đi. Lần đầu tiên ta gặp bà là ở nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, lúc đó Mã đại ca đã bị giết rồi, còn trước đó ta không hề biết bà là ai, sao lại bảo là ta hại bà cho nên mới có ngày nay?

Mã phu nhân căm tức đáp:

- Há, ngươi bảo nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích lần đầu tiên gặp ta, chính là câu đó, phải lắm, chính là thế đó. Ngươi tự cao tự đại, ngạo mạn cho rằng mình là người võ công số một trên đời, con mẹ ngươi chứ!

Tiếp theo bà ta lại luôn mồm chửi bới một thôi một hồi không ngừng. Tiêu Phong để cho bà ta tha hồ rủa xả, đến khi không còn hơi sức mới hỏi:

- Chửi đủ chưa?

Mã phu nhân hậm hực đáp:

- Ta không bao giờ đủ cả, ngươi... ngươi là đồ có mắt như mù, dù cho ngươi có là hoàng đế, cũng chẳng đâu vào với đâu nữa là.

Tiêu Phong đáp:

- Đúng thế, dẫu ta có là hoàng đế thì cũng có vào đâu? Ta trước nay có bao giờ cho rằng mình thiên hạ vô địch, mới rồi... mới rồi người kia, võ công cũng còn hơn ta nhiều.

Mã phu nhân chẳng cần biết ông đang nói tới ai, chỉ vẫn xoen xoét chửi bới thêm một chập nữa mới nói:

- Ngươi bảo là ngoài thành Vô Tích là lần đầu thấy mặt ta, hứ, còn hội trăm hoa trong thành Lạc Dương ngươi cũng chưa gặp ta hay sao?

Tiêu Phong ngạc nhiên, Bách Hoa hội trong thành Lạc Dương đã hai năm trước rồi, ông cùng các anh em Cái Bang cùng phó hội, đố quyền uống rượu, một bữa say sưa thoải mái nhưng nào có nhớ đã từng gặp bà ta

lần nào đâu, liền hỏi:

- Lần đó Mã đại ca cũng đến nhưng có đem bà đến gặp ta bao giờ đâu?

Mã phu nhân chửi liền:

- Ngươi là cái thá gì? Chẳng qua chỉ là đầu đảng của bọn ăn mày ăn nhặt chứ có chó gì đâu? Hôm đó trong ngày hội trăm hoa, ta đứng bên cạnh bụi thược dược vàng, bao nhiêu anh hùng hảo hán, có ai không ngơ ngẩn nhìn ta? Có ai nhìn ta mà không hồn vía lên mây? Chỉ có mình ngươi tự cho là anh hùng hảo hán không tham nữ sắc, đến nhìn thẳng cũng chẳng thèm ngó ngàng đến ta. Nếu quả như ngươi không thấy ta thì không nói gì, ta cũng chẳng trách. Ngươi rõ ràng trông thấy, vậy mà thị nhi bất kiến, chỉ đảo mắt qua chẳng thèm ngừng lại chút nào, xem ta có khác gì với bọn con gái ngoài đường? Đồ đạo đức giả, thứ quân vô sỉ mặt dầy không biết thẹn.

Tiêu Phong mới hơi hiểu ra bèn nói:

- Thì ra thế, ta nhớ ra rồi, hôm đó ở bên cạnh khóm thược dược, hình như có vài phụ nữ, lúc đó ta chỉ lo việc uống rượu, hơi đâu mà đi xem mẫu đơn thược dược, đàn ông đàn bà làm gì? Giá thử như bậc nữ lưu anh hiệp tiền bối, ta đương nhiên chạy lại bái kiến. Còn bà là bậc chị dâu, ta không nhìn bà, cũng có gì gọi là đại thất lễ? Cớ sao bà lại hậm hực thù hận về chuyện đó?

Mã phu nhân hầm hầm nhìn ông nói:

- Thế ngươi có mắt không tròng à? Bao nhiêu anh hùng hảo hán vang danh thiên hạ ai cũng nhìn ta từ đầu đến chân ngắm nghía một hồi, bao nhiêu người đức cao vọng trọng, dù không dám nhìn thẳng vào mặt ta, cũng chờ khi người khác không để ý, liếc trộm ta vài cái. Chỉ mình ngươi... hừ, hơn một nghìn đàn ông trong hội trăm hoa, chỉ có mình ngươi từ đầu chí cuối không thèm nhìn ta. Ngươi là đại đầu não của Cái Bang, là anh hùng hảo hán thiên hạ nghe danh. Trong hội Bách Hoa thành Lạc Dương, đàn ông dĩ nhiên ngươi đứng đầu, còn trong đàn bà thì ta là số một, ngươi lại không thèm nhìn ta vài cái thì ta còn cho là mình đẹp được nữa hay không? Hơn nghìn đàn ông kia vì ta mê mẩn tâm thần thì ta cũng có còn hả lòng hả dạ được không?

Tiêu Phong thở dài một tiếng nói:

- Ta từ nhỏ không thích lẵng nhẵng tán tỉnh đàn bà con gái, tuổi càng lớn càng ít nhìn nữ nhân chứ nào có phải chỉ mình bà đâu. Có người đẹp gấp trăm lần bà, ta lúc đầu cũng không để ý, mãi đến sau này, thì đã chậm mất rồi...

Mã phu nhân rít lên:

- Cái gì? Có con đàn bà đẹp gấp trăm lần ta? Ai thế? Ai thế?

Tiêu Phong đáp:

- Là con gái Đoàn Chính Thuần, chị của A Tử.

Mã phu nhân nhổ toẹt một bãi nước bọt nói:

- Tưởng gì, thứ đàn bà đê tiện nói đến cho bẩn mồm...

Bà ta chưa dứt câu, Tiêu Phong liền nắm ngay tóc nhắc lên giáng xuống sàn một cái thật mạnh nói:

- Ngươi còn nói nửa câu bất kính đối với nàng, hừ, ta sẽ cho ngươi biết tay ta.

Mã phu nhân bị ông lẳng một cái tưởng chừng muốn ngất đi, xương cốt toàn thân kêu lục cục, đột nhiên cất tiếng cười vang nói:

- Hóa ra... hóa ra Kiều đại anh hùng của chúng ta, Kiều đại bang chủ, cũng đã bị con nhỏ đó chài rồi, ha ha, ha ha, tức cười đến chết được. Ngươi mất chức bang chủ Cái Bang liền tính ngay chuyện cưới công chúa Đại Lý làm phò mã. Kiều bang chủ, vậy mà ta tưởng đàn bà nào ngươi cũng không thèm nhìn chứ.

Kiều Phong hai gối nhũn xuống ngồi phịch xuống ghế, chậm rãi nói:

- Ta chỉ mong được nhìn nàng một lần nữa, có điều... có điều... không còn làm sao gặp lại được.

Mã phu nhân cười khẩy nói:

- Sao thế? Ngươi muốn lấy nó, bằng một thân võ công như ngươi mà không lẽ không giành được nó hay sao?

Tiêu Phong lắc đầu không đáp, một hồi lâu sau mới nói:

- Dù có tài cán bằng trời, cũng không giành nàng lại được nữa.

Mã phu nhân mừng lắm, hỏi gặng:

- Sao thế ? Ha ha! Ha ha!

Tiêu Phong nói nhỏ:

- Nàng chết rồi!

Mã phu nhân im bặt, trong lòng hơi hối hận, cảm thấy gã Kiều bang chủ ngạo mạn, tự cao tự đại này có ba phần đáng thương nhưng lập tức đổi thành vui mừng, khuôn mặt càng lúc càng thích chí. Tiêu Phong thấy khuôn mặt rạng rỡ của bà ta liền hiểu ngay, mình càng đau lòng mụ càng sung sướng liền đứng dậy nói:

- Ngươi mưu sát thân phu, chết cũng đáng lắm, còn gì để nói hay không?

Mã phu nhân nghe ông ta định giết mình, đột nhiên sợ hãi, van nài:

- Ngươi... ngươi tha cho ta, đừng giết ta.

Tiêu Phong đáp:

- Được, ta cũng chẳng cần ra tay.

Ông xoay người đi ra. Mã phu nhân thấy ông ta không quay đầu nhìn lại, trong lòng phẫn nộ, lớn tiếng chửi:

- Kiều Phong, đồ chó má, năm xưa ta hận ngươi không thèm nhìn ta lấy một lần, nên mới xúi Mã Đại Nguyên khui gốc tích của ngươi ra. Mã Đại Nguyên nhất định không chịu, ta mới bảo Bạch Thế Kính giết Mã Đại Nguyên. Ngươi... ngươi hôm nay cũng không vì ta xiêu lòng chút nào cả.

Tiêu Phong quay đầu lại, lạnh lùng đáp:

- Ngươi mưu sát thân phu cũng chỉ vì ta không chịu nhìn ngươi ư? Hừ, ngươi bịa ra một chuyện lấy bàn tay che mặt trời như thế, ai mà tin cho được.

Mã phu nhân nói:

- Ta sống chết chỉ trong khoảnh khắc, dối gạt ngươi làm gì nữa? Ngươi coi thường ta, ta còn cách gì khác nữa đâu? Chỉ vì trong lòng ta hận ngươi mà thôi. Không nói gì lũ ăn mày xem ngươi như thần như thánh, khắp thiên hạ còn ai dám động đến ngươi? Thế nhưng trời cao có mắt, xui khiến cho ta hôm đó thấy được di thư của Uông bang chủ trong cái rương sắt của Mã Đại Nguyên. Muốn xem trộm lá thư bên trong mà không làm tổn thương đếu dấu si khằn bên ngoài, rồi lại bỏ trở vào như cũ thật đâu có khó gì? Ta xem lá thư biết được sự tình, ngươi xem trong lòng có sướng không? Ha ha, thật đúng là cơ hội bằng vàng để ta trút nỗi căm hờn, ta phải cho ngươi thân bại danh liệt, không còn ra vẻ ta đây, anh hùng hảo hán gì nữa. Ta mới xúi Mã Đại Nguyên trước mặt mọi người tố cáo ra, để cho ai cũng biết ngươi là giống Khất Đan Hồ Lỗ, không cho ngươi làm bang chủ Cái Bang nữa, khiến ngươi không còn đất sống ở Trung Nguyên, đến mạng cũng khó mà còn giữ được.

Tiêu Phong thấy mụ ta không còn động đậy được nữa, chẳng còn cách gì có thể hại người nhưng những lời ác độc từng câu lọt vào tai, không khỏi lạnh người, hừ một tiếng nói:

- Mã đại ca không nghe lời ngươi nên ngươi giết y chứ gì?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng thế, y đã không những không nghe lời lão nương, ngược lại còn hung hăng chửi ta một trận, bảo là từ nay không cho ra khỏi cửa, nếu như tiết lộ một tiếng thì sẽ băm vằm bà ra. Y trước nay đối với gái này đòi gì được nấy, có bao giờ dám hăng tiết vịt như thế đâu? Ta vốn nào có coi y ra chó gì, vậy mà y dám hỗn với ta như thế thì lão nương phải cho y biết tay. Hơn một tháng sau Bạch Thế Kính đến chơi, hôm đó mười bốn tháng tám, y đến ở lại qua ngày Trung Thu. Y liếc ta một cái, lại một cái nữa, hừ hừ, thằng cha già dê. Ta thả cho thằng chả mấy bận khiến lão dê xồm mê tít. Ta mới bảo cha già dê giết tên vô tích sự Mã Đại Nguyên, y không chịu, ta dọa sẽ kêu lên là y cưỡng gian ta. Lão tặc đó ở bên ngoài lúc nào cũng ra vẻ thiết diện vô tư, thế mà với lão nương, có còn chuyện xấu xa bẩn thỉu nào mà không làm? Ta mới bảo y: Chàng giết Mã Đại Nguyên rồi, tiện thiếp từ nay thuộc về chàng. Nếu không chịu thì chàng chỉ một chưởng đánh tiện thiếp chết tươi là xong. Y đời nào lại bỏ ta được chỉ đành giết Mã Đại Nguyên.

Tiêu Phong thở hắt ra, nói:

- Bạch Thế Kính là một hán tử đanh thép như thế, vậy mà bị hại về tay ngươi. Ngươi... ngươi cũng cho Mã huynh đệ uống Thập Hương Mê Hồn Tán, sau đó mới bảo Bạch Thế Kính bóp nát yết hầu y, giả làm Cô Tô Mộ Dung dùng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ giết y chứ gì?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng thế, ha ha, có gì mà không phải? Có điều Cô Tô Mộ Dung gì gì đó, ta làm sao mà biết, đó là thằng cha già dịch nghĩ ra.

Tiêu Phong gật đầu, Mã phu nhân nói tiếp:

- Ta bảo cha già dê đứng ra tiết lộ thân thế bí mật của ngươi. Ôi, cha già dịch đó vậy mà vẫn còn giữ nghĩa khí, bị ta ép quá, rút dao ra toan tự tận. Được rồi, ta đành tha cho y, đi kiếm thằng cha chết dở sống dở Toàn Quan Thanh. Bà chỉ cho nó ngủ với bà ba đêm là bảo gì nghe nấy, hung hăng vỗ ngực nhận lo liệu mọi việc nhất định thành công. Lão nương tính toán nếu chỉ một mình thằng cha Toàn Quan Thanh thì không lật đổ được ngươi nên mới đi mời Từ trưởng lão ra mặt. Về sau thế nào thì ngươi biết rồi, ta chẳng cần phải nói nữa!

Cái màn bí mật của nghi vấn cuối cùng trong lòng Tiêu Phong thế là đã được vén lên, vì cớ gì mà Toàn Quan Thanh chủ mưu phản mình trong khi Bạch Thế Kính lại bị loạn đảng bắt giữ, bèn hỏi:

- Cái quạt của ta là do Bạch Thế Kính ăn trộm phải không?

Mã phu nhân đáp:

- Không phải thế. Cha già dê nói là bằng giá nào y cũng không làm điều gì không phải với ngươi. Đó là Toàn Quan Thanh dụ được Trần trưởng lão xiêu lòng, đợi ngươi rời khỏi nhà bèn vào phòng ăn cắp đem ra.

Tiêu Phong nói:

- Đoàn cô nương giả làm Bạch Thế Kính, mặc dù không sai một mảy nhưng cũng vì thế mà ngươi nhìn ra sơ hở phải không?

Mã phu nhân lạ lùng hỏi lại:

- Con bé đó là con gái Đoàn Chính Thuần đấy à? Là người trong mộng của ngươi đấy ư? Nó có đẹp thật không?

Tiêu Phong không đáp, ngửng đầu nhìn về phía chân trời xa xa. Mã phu nhân nói:

- Con... con bé đó làm ta sợ đến mất vía, còn nói gì rằm tháng tám, chính là ngày giỗ Mã Đại Nguyên. Thế nhưng về sau ta nói mấy câu hoa nguyệt, nói trăng trên trời vừa tròn vừa sáng, hôm đó cha già dê đáp lại là Cái bánh dầy ở trên người nàng kia, còn tròn hơn trắng hơn trăng trên trời. Ta hỏi con bé đó bánh Trung Thu thích bánh dẻo hay bánh nướng, hôm đó cha già dịch nói là: "Cái bánh dầy trên người nàng, dĩ nhiên là vừa dẻo vừa ngọt hơn mật rồi". Đoàn cô nương trả lời chẳng đâu ra đâu nên lập tức ta nhìn thấy chỗ sơ hở ngay.

Tiêu Phong lập tức hiểu ra tại sao hôm đó Mã phu nhân đột nhiên nói qua chuyện trăng tròn và bánh Trung Thu, thì ra tối hôm mười bốn tháng tám năm ngoái, mụ ta và Bạch Thế Kính thông gian, hai người ăn nói những chuyện nhảm nhí. Mã phu nhân cười sằng sặc nói:

- Kiều Phong, ngươi giả trang thật tệ hết sức, ta vừa biết con nhãi đó là đồ giả mạo, nghĩ lại hình dáng ăn nói của nhà ngươi, hì hì, có gì mà không biết là Kiều Phong? Ta đang muốn giết Đoàn Chính Thuần, mượn luôn tay ngươi làm việc đó.

Tiêu Phong nghiến răng nghiến lợi nói:

- Đoàn cô nương vì nhà ngươi mà chết, món nợ đó ta sẽ tính vào ngươi.

Mã phu nhân đáp:

- Thì chính nó đến đánh lừa ta trước chứ nào có phải ta đến đánh lừa nó đâu, ta bất quá chỉ tương kế tựu kế mà thôi. Nếu như nó chẳng đi tìm ta, đợi đến khi Bạch Thế Kính lên làm bang chủ Cái Bang rồi, ta sẽ có cách khiến cho Cái Bang và họ Đoàn Đại Lý gây thù chuốc oán, gã Đoàn Chính Thuần kia, hừ, sớm muộn rồi cũng không thoát khỏi tay ta.

Tiêu Phong nói:

- Ngươi quả là ác độc! Chồng mình cũng giết, đàn ông đã từng tư tình với ngươi, ngươi cũng giết; cả người không đến nhìn dung mạo ngươi, ngươi cũng muốn giết nữa.

Mã phu nhân đáp:

- Đàn bà đẹp trước mắt, không nhìn thì nhìn gì? Chẳng lẽ ta không đẹp hay sao? Trên đời này chỉ có ngươi là kẻ vờ vịt, là đồ ngụy quân tử.

Mụ ta nói đến điều mình đắc ý hai má đỏ hồng, hết sức phấn chấn, nhưng thể lực càng lúc càng suy, nói được một câu lại thở hổn hển. Tiêu Phong đáp:

- Câu cuối cùng ta hỏi ngươi đây, cái gã "đàn anh đứng đầu" viết thư cho Uông bang chủ là người nào thế? Ngươi đã đọc lá thư đó rồi, hẳn phải biết ai là người thự danh.

Mã phu nhân cười khẩy đáp:

- Ha ha, ha ha, Kiều Phong ơi là Kiều Phong, cuối cùng thì ngươi phải năn nỉ ta hay là ta phải năn nỉ ngươi? Mã Đại Nguyên chết rồi, Từ trưởng lão chết rồi, Triệu Tiền Tôn chết rồi, Thiết Diện Phán Quan Đơn Chính chết rồi, Đàm công, Đàm bà chết rồi, Trí Quang đại sư núi Thiên Thai cũng chết rồi. Trên đời này bây giờ chỉ còn mình ta và chính "đàn anh đứng đầu" là biết được y là ai thôi.

Tim Tiêu Phong càng đập nhanh hơn, nói:

- Đúng thế, sau cùng Kiều Phong phải cầu khẩn bà, xin phu nhân cho tôi biết tên người đó.

Mã phu nhân đáp:

- Mạng ta chỉ còn trong khoảnh khắc, ngươi có cái gì đền đáp ta không?

Tiêu Phong đáp:

- Nếu sức Kiều mỗ có thể làm được, phu nhân sai bảo chuyện gì cũng nhất quyết tuân hành.

Mã phu nhân mỉm cười đáp:

- Ta còn mong gì nữa? Kiều Phong, ta hận ngươi không đến chăm chú nhìn ta, để đến nỗi gây ra thành bao nhiêu tai họa, ngươi muốn ta cho ngươi biết tên của "đàn anh đứng đầu" cũng không khó khăn gì, chỉ cần ôm ta vào trong lòng, đăm đăm nhìn ta một lúc thật lâu thôi.

Tiêu Phong nhăn tít lông mày lại thực tình không muốn chút nào, thế nhưng quả đúng là trên đời chỉ một mình mụ ta là biết được cái đại bí mật này thôi, mối huyết hải thâm cừu của mình, chỉ toàn nhờ vào nơi miệng bà ta nói ra mấy tiếng, không nói chuyện bà ta bảo mình làm cực kỳ khó khăn, mà dẫu có chuyện cực kỳ xấu xa bỉ ổi, thì cũng phải miễn cưỡng mà làm. Bà ta mạng chỉ còn như mành treo chuông, lúc nào cũng có thể tắt thở, uy hiếp bức bách, lấy lợi mà dụ tất cả đều vô ích. Ông nghĩ thầm: Nếu như ta câu chấp không chịu, một khi bà ta thở hắt ra rồi thì người giết cha giết mẹ ta là ai, từ nay không bao giờ biết được nữa. Ta ôm bà ta nhìn một lát thì đã sao?.

Ông bèn nói:

- Được rồi, ta bằng lòng.

Ông khom người bồng bà ta vào lòng, đôi mắt đăm đăm nhìn vào mặt Mã phu nhân. Lúc đó mặt bà ta đầy vết máu, lại dính tèm lem đất cát bụi bậm, qua một đêm chịu bao nhiêu dày vò đọa đày, dung sắc tiều tụy thật là khó coi. Tiêu Phong ôm bà ta cực kỳ miễn cưỡng, nhìn thấy thần tình như vậy, không khỏi cau mặt lại. Mã phu nhân giận dữ nói:

- Cái gì? Ngươi chán ghét không muốn nhìn ta, phải chăng?

Tiêu Phong đành trả lời cho xuôi:

- Không đâu!

Mấy tiếng đó ông quả không thực lòng, bình thời dù gặp chuyện nguy nan thế nào chăng nữa, cũng không bao giờ ông nói một đằng nghĩ một nẻo nhưng lúc này không còn biết cách nào hơn. Mã phu nhân dịu dàng nói:

- Nếu quả thực chàng không chán ghét thiếp, sao chàng không hôn thiếp một cái đi.

Tiêu Phong nghiêm mặt đáp:

- Không thể nào được. Bà là vợ của Mã đại ca, Tiêu Phong này lấy nghĩa khí làm trọng, có lẽ nào lại giở trò sàm sỡ với vợ góa của anh em bằng hữu bao giờ.

Mã phu nhân nũng nịu nói:

- Chàng bảo chàng giữ nghĩa khí với anh em, thế sao lại ôm thiếp trong lòng...

Ngay lúc đó, bên ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích nói:

- Kiều Phong, ngươi quả là đồ mặt đầy! Giết chết chị ta rồi, lại đến bồng bế tình nhân của cha ta hôn hít mèo mỡ, không biết xấu hay sao?

Chính là tiếng của A Tử. Tiêu Phong tự thấy mình không có điều gì đáng thẹn, bất chấp lời nói lăng nhăng của đứa trẻ vô tri, chẳng thèm để ý nói với Mã phu nhân:

- Bà nói mau, nói cho ta biết "đàn anh đứng đầu" là ai đó?

Mã phu nhân hờn dỗi nói:

- Thiếp bảo chàng nhìn mặt thiếp, chàng lại quay đầu đi là sao?

Thanh âm đầy vẻ kiều mị. A Tử đi vào cười nói:

- Sao đến giờ này ngươi chưa chết? Hình dáng ngươi xấu như ma, có đàn ông nào dám nhìn ngươi nữa?

Mã phu nhân hốt hoảng:

- Cái gì? Ngươi... ngươi bảo ta xấu như ma ư? Gương đâu? Gương đâu? Đưa ta chiếc gương!

Giọng nói cực kỳ kinh hoàng, Tiêu Phong vội giục:

- Nói mau lên, nói mau lên, nói rồi ta sẽ đưa gương cho bà.

A Tử tiện tay cầm chiếc gương dồng sáng choang trên bàn, đưa ra trước mặt Mã phu nhân cười nói:

- Tự ngươi nhìn xem có đẹp hay không thì biết?

Mã phu nhân nhìn vào trong gương, chỉ thấy một khuôn mặt máu me bụi bặm, đầy vẻ hoảng hốt, hung tàn, ác độc, oán hờn, thống khổ, giận dữ, bao nhiêu vẻ xấu xa đều hiện lên trên mi trên mắt, trên môi trên mũi còn đâu là vẻ xinh tươi, e ấp của một tuyệt sắc giai nhân ai gặp cũng đem lòng trìu mến? Bà ta trợn ngược đôi mắt, mở trừng trừng không sao nhắm lại được nữa. Mã phu nhân một đời tự hào về vẻ đẹp của mình, ngờ đâu đến lúc sắp lìa trần lại thấy trong bóng gương một hình ảnh xấu xa đến thế. Tiêu Phong nói:

- A Tử, bỏ kính xuống, đừng chọc tức bà ta nữa.

A Tử cười khanh khách nói:

- Ta muốn cho mụ ta thấy tướng mạo mụ xấu xí đến chừng nào.

Tiêu Phong đáp:

- Ngươi chọc giận bà ấy chết mất thì thật hỡi ôi.

Ông thấy Mã phu nhân không còn cử động, tiếng thở cũng không còn nghe, vội vàng đưa tay thăm mũi hóa ra tắt thở rồi. Tiêu Phong kinh hãi kêu lên:

- Chao ôi! Không xong, mụ ta chết rồi!

Giọng ông hoảng hốt tưởng như đại họa đang đổ xuống. A Tử bĩu môi nói:

- Bộ ngươi thích y thị thật hay sao? Thứ đàn bà như thế chết đi có gì mà phải la lối om sòm.

Tiêu Phong dậm chân đáp:

- Hừ, thứ trẻ con biết gì? Ta cần phải hỏi mụ một chuyện, trên đời này chỉ có một mình mụ biết mà thôi. Nếu ngươi không đến phá bĩnh thì mụ ta đã nói ra rồi.

A Tử kêu lên:

- Trời ơi, hóa ra ta sai quấy ư? Ta làm hỏng việc của ông rồi, phải không?

Tiêu Phong thở dài, nghĩ bụng người chết không thể nào sống lại, có nổi nóng cũng chẳng đi đến đâu, cái con bé A Tử này hoang tàng thành tính, đến cha mẹ cô ta cũng còn chẳng quản chế nổi, huống chi là người ngoài? Ông nể tình A Châu, chuyện gì cũng phải bỏ qua, đành để xác Mã phu nhân xuống giường nói:

- Thôi mình đi!

Ông tra xét bốn bề, trong nhà không còn ai khác, bà lão bộc đã chạy đâu không biết, bèn lấy đồ đánh lửa ra xuống nhà chứa củi châm vào, chỉ chốc lát đã bốc lên ngùn ngụt. Hai người đứng ở bên ngoài thấy lửa từ trong cửa sổ bén ra, Tiêu Phong nói:

- Sao ngươi không về với cha với mẹ mà còn đi đâu?

A Tử đáp:

- Không, không! Ta không về với gia gia , má má đâu. Bọn thủ hạ của ông ấy mỗi khi gặp ta người nào cũng trợn mắt, nghiến răng, hầm hầm giận dữ. Ta xúi cha ta giết chúng đi, gia gia tệ quá chẳng nghe gì cả.

Tiêu Phong nghĩ thầm: Ngươi làm chết Chử Vạn Lý là huynh đệ chí giao, người ta dĩ nhiên phải hận ngươi. Đoàn Chính Thuần lẽ nào vì ngươi mà giết đám bầy tôi trung nghĩa được? Chính ngươi mới tệ, lại nói cha ngươi tệ, đúng là giọng lưỡi trẻ con nói năng tầm bậy tầm bạ. Ông bèn đáp:

- Thôi vậy thì ta đi đây!

Nói xong quay mình đi về hướng bắc. A Tử gọi:

- Này, này! Hượm đã! Chờ ta với!

Tiêu Phong ngừng bước, quay lại hỏi:

- Ngươi đi đâu? Có đi về với sư phụ không?

A Tử đáp:

- Không đâu. Bây giờ ta không về với sư phụ đâu, ta không dám.

Tiêu Phong lạ lùng:

- Vì cớ gì mà không dám? Lại gây ra chuyện gì rồi?

A Tử đáp:

- Không phải gây chuyện mà là ta lấy một cuốn sách của sư phụ, bây giờ quay về thể nào ông ấy cũng đòi lại. Để đến khi nào ta luyện xong đã, bấy giờ sư phụ có lấy cũng không sao.

Tiêu Phong nói:

- Sách luyện võ công phải không? Nếu là của sư phụ ngươi, ngươi xin ông ta cho đọc một chút, thể nào ông ta chẳng bằng lòng. Hơn nữa nếu ngươi tự luyện sẽ có nhiều chỗ không hiểu rõ, có sư phụ ở bên cạnh chỉ điểm có phải hơn không?

A Tử nhếch môi nói:

- Sư phụ ta bảo không cho là không cho, có năn nỉ cũng bằng thừa.

Tiêu Phong quả thật không ưa nổi cô gái ngược ngạo quen nết này, lại nghĩ sư phụ cô ta Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu ác danh nổi tiếng, chẳng nên dây dưa với hạng người đó bèn nói:

- Được rồi, ngươi muốn làm gì thì làm, ta không can thiệp vào việc của ngươi.

A Tử hỏi:

- Thế ông đi đâu?

Tiêu Phong nhìn căn nhà họ Mã lửa bốc đùng đùng, thở dài một tiếng nói:

- Ta vốn dĩ định đi báo thù, thế nhưng không biết kẻ thù là ai. Đời này kiếp này, mối thù đó đành không trả được.

A Tử kêu lên:

- Ta hiểu rồi, vốn dĩ chỉ Mã phu nhân biết được thôi, tiếc rằng ta chọc tức bà ta chết mất tiêu nên từ nay ông không còn biết được kẻ thù là người nào. Thích thật, thích thật! Kiều bang chủ uy danh lừng lẫy, vậy mà ta làm cho bó chân bó cẳng không làm gì được.

Kiều Phong lườm cô ta, thấy khuôn mặt đầy vẻ hạnh tai lạc họa , vui sướng thích thú, dưới ánh lửa bập bùng chiếu vào, mặt nàng rạng rỡ chẳng khác gì một trái táo vừa chín tới, trông thật dễ thương, có ai ngờ đâu dưới khuôn mặt ngây thơ kia lại ẩn tàng ác ý vô cùng vô tận. Lửa giận bốc lên, ông định tiện tay giáng cho cô ta một cái tát đích đáng nhưng chợt nghĩ lại, trước khi từ trần, A Châu đã từng cầu khẩn mình nhờ chăm sóc cho đứa em gái duy nhất trên đời, bụng bảo dạ: A Châu cả đời chỉ xin mình một chuyện lẽ nào mình lại không theo? Tiểu cô nương này dẫu có là kẻ đại gian đại ác, ta cũng hết sức đưa nàng về đường ngay nẻo chính, huống chi nàng chỉ là một đứa bé con không hiểu chuyện đời, ngang ngược láo lếu!. A Tử mặt câng câng hỏi lại:

- Thì sao? Ông định đánh chết tôi hả? Sao không đánh đi? Chị tôi bị ông đánh chết rồi, giết nốt tôi đi có gì mà không được?

Mấy câu đó chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm vào tim Tiêu Phong, trong lòng chua xót, không biết phải trả lời ra sao, đành quay mặt sấn bước theo con đường tuyết mà đi thẳng. A Tử cười nói:

- Này, chậm lại, ông đi đâu thế?

Tiêu Phong đáp:

- Trung Nguyên không còn là chỗ ta có thể sinh sống được, mối thù giết cha giết mẹ ta không thể báo. Ta định đi ra ngoài biên tái từ nay không quay lại nữa.

A Tử nghiêng nghiêng đầu nói:

- Thế ông đi đường nào?

Tiêu Phong đáp:

- Ta ra Nhạn Môn Quan trước.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì hay lắm, ta cũng định đi Tấn Dương, chính là cùng đường với ông.

Tiêu Phong nói:

- Ngươi đi Tấn Dương để làm gì? Đường sá xa xôi, bé con một thân một mình không nên đi.

A Tử cười đáp:

- Hứ, sợ cái gì đường sá xa xôi? Ta đi từ biển Tinh Tú đến đây còn được, không phải xa hơn à? Ta có ông đi cùng, sao lại bảo là một thân một mình?

Tiêu Phong lắc đầu:

- Ta không đi cùng với ngươi đâu.

A Tử hỏi:

- Sao thế?

Tiêu Phong đáp:

- Ta là đàn ông, còn ngươi là một cô gái tuổi trẻ, đi lại ngủ nghê thật là bất tiện.

A Tử đáp:

- Nói gì tức cười quá vậy? Ta không thấy bất tiện thì thôi, can chi ông lại thấy bất tiện? Ông cùng tỉ tỉ ta, chẳng phải là một nam một nữ ngày đi đêm ngủ, chung đường chung sá đấy sao?

Tiêu Phong trầm giọng đáp:

- Ta cùng chị cô có ước định hôn nhân, không phải chuyện thường.

A Tử vỗ tay cười nói:

- Trời ơi là trời, thế mà ta nhìn không ra, cứ tưởng chị ta giữ gìn qui củ lắm, có ngờ đâu ông cũng chẳng khác gì gia gia, còn tỉ tỉ cũng chẳng khác gì má má, chưa làm lễ cưới, đã ăn ở với nhau rồi.

Tiêu Phong giận dữ quát lên:

- Chỉ nói láo! Chị ngươi cho đến chết vẫn còn là một cô nương băng thanh ngọc khiết, ta đối với nàng nghiêm thủ lễ pháp, một niềm kính trọng.

A Tử thở hắt ra:

- Ông la lối quát mắng có ích gì đâu? Chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi. Thôi mình đi chứ?

Tiêu Phong nghe nói chị tôi dẫu sao cũng bị ông đánh chết rồi, lòng lại chùng xuống dỗ dành:

- Thôi ngươi về Tiểu Kính Hồ với mẹ đi, không chừng kiếm ra chỗ nào tĩnh mịch, luyện thành côn phu trong cuốn sách, sau đó trở về với sư phụ. Đi Tấn Dương chơi có gì thích thú đâu?

A Tử nghiêm mặt đáp:

- Tôi có phải đi chơi đâu, có chuyện quan trọng phải làm đấy chứ!

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Ta không dẫn ngươi đi.

Nói xong ông rảo bước đi thẳng, A Tử thi triển khinh công, lót tót chạy theo, kêu lên:

- Đợi em với! Đợi em với!

Tiêu Phong không ngó ngàng gì tới nàng, cứ lầm lũi mà đi. Một hồi lâu, gió bấc đột nhiên trở mạnh, tuyết lại rơi nữa. Tiêu Phong xông pha gió tuyết rảo bước đi tiếp, nghĩ đến từ nay oán thù chìm sâu đáy biển, đại cừu không còn báo được nữa, trong lòng u uất nhưng chẳng biết làm cách nào trút bầu tâm sự, mối hận lòng đành chịu biết sao hơn.  

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro